Truyện ngắn đăng báo-Lenghiabk05

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Người đứng cửa giữa

22/11/2012

.LÊ HOÀI LƯƠNG

                                ‘‘Lý vô nhị thị’’ - Lời cổ nhân

1.

Bài học đầu tiên là cha gã dạy. Hôm đó trong xóm có chuyện kình cãi, đánh nhau. Gã con nít lên chín lên mười gì đó, bỏ chén cơm chạy ào đi hóng hớt. Đánh nhau thật. Kình cãi giữa ông bảy Lừa, anh bốn Chạng hàng xóm tuy bà con vai cháu nhưng đã xáp tới tính “đập vào mặt mầy”, người ta ôm giữ không đánh được. Bảy Lừa cũng diện nóng như lửa nên người làng thường gọi bảy Lừa, liệu không áp chế nổi thằng cháu đang hung hãn nên lùi vào nhà. Bà Bảy Lừa nghĩ giận, ỷ thế đàn bà ra lu loa xỉ vả thằng cháu cho hả, anh bốn Chạng đang điên, phi vô đá liền một cái, bà bảy Lừa ngã cái ạch, la làng xóm. Bà này đang có bầu, thấy nhiều người xanh mặt lo cái thai.

Về, gã kể chuyện tâng công. Mẹ, chị gã tò mò hỏi tới, gã càng nói hăng. Nhưng chỉ vậy chứ có gì hơn, cũng phải hết. Chợt nhớ chi tiết mấy người xầm xì, gã bật hỏi, không biết đứa con trong bụng bà Bảy Lừa có sao không. Cha gã đập tay xuống bàn, nhỏ xong phận nhỏ, tóc đỏ tóc đen. Gã líu ríu im. Lát sau cha từ tốn, con phải bỏ cái tật nhiều chuyện đó mới nên người được. Ông bà dạy, những người ăn xổi ở thì, vào tai ra miệng còn gì đức đâu. Câu này chắc cha nhắc chung cả nhà. Rồi cha cho một ví dụ khác, rằng, thấy nhà hàng xóm cháy, nếu đủ sức chạy qua xách gàu nước dập lửa hoặc lao vô nhà khiêng giúp đồ đạc thì hãy qua, không làm được thì đừng nhao tới đứng xớ rớ cản đường, vướng chân người.

Bài học tóc đỏ tóc đen và chuyện hiếu kỳ “đứng xớ rớ giữa đường cản chân người”, sau này gã dạy con gã, thấy cũng có hiệu quả.

Nhưng cuộc sống đua tranh với người, gã lại thấy thái độ “đứng cửa giữa” có nhiều cái lợi. Ví như hồi còn sống ở khu tập thể thời bao cấp, căn nhà cho thuê của một chủ cũ trước bảy lăm được trưng dụng trên dưới có chín hộ, phần đông làm nhân viên các cơ quan văn xã, mác phóng viên đài truyền hình tỉnh của gã là đẳng cấp khác. Nhà báo, lại là báo hình, cả xã hội nể, huống chi bà hộ lý bệnh viện, anh thầy giáo cấp một, cô văn thư phòng văn hóa thành phố… Chuyện các hộ xích mích nhau là thường, cãi lộn chửi bới nhau là thường. Mỗi lần chuyện xảy ra, gã xuất hiện như một người có văn hóa cao, người nhiều hiểu biết, giảng hòa, phân xử. Sẵn được nể vì ít nhiều, thêm khéo nói, kiểu, một sự nhịn chín sự lành, ra vô thấy mặt, hết giận rồi thấy khó xử, trong một ngôi nhà, tắt lửa tối đèn với nhau… Tới đây nếu chưa thuyết phục được, gã giở chiêu rằng tôi thấy anh đúng cả, tuy nhiên bà ấy là đàn bà cạn nghĩ, thể nào rồi cũng nói lời phải quấy với anh thôi, mình cao thượng đừng chấp kẻ không biết. Gã cũng tới nhà kia nói nội dung na ná vậy. Chuyện chữ nghĩa vận dụng cách nói của ông bà, khéo biện luận là nghề của gã mà. Nhiều hộ trong nhà tập thể dần coi gã như kẻ bề trên nói lời hay ý đẹp, muốn điều tốt lẽ phải cho mọi người, nể nang gã lắm.

Nhưng đúng là nhất thời vợ dại trong nhà, vợ gã làm hỏng tuốt mọi chuyện. Thị, đàn bà bép xép ngồi lê đôi mách, đâm bị thóc thọc bị gạo sao đó, sinh chuyện với mấy người đàn bà khu nhà. Đầu tiên là cô Hương bán cửa hàng công nghệ phẩm, rồi đến mẹ cô Nhài văn thư. Những người đàn bà lúc đầu có nể mũi gã nên không vuốt mặt thị. Được thế thị làm tới. Nổi máu tam bành, các bà phản ứng, lúc đầu còn nói qua nói lại, sau thị quá quắt các bà hết nhịn, chửi nhau một trận tanh bành, lôi cả gã ra chửi, rằng mày đừng ỷ chồng nhà báo mà lộng hành. Nói leo lẻo trơn tru dạy đời sao không giỏi dạy vợ… Gã về nghe kể lại, tức tốc tới các nhà kia bảo ban, cách gì không biết, lát sau các bà chửi luôn gã là nghe lời vợ. Gã còn cố sắm vai người văn hóa cao một lát rồi mạ lị bọn đàn bà vô học. Họ chắc học không bằng gã nhưng khi ba máu sáu cơn lên, họ cũng tuôn đủ câu đủ cán phủ đầu, gã tháo chạy mất dép về nhà đóng sầm cửa lại, không thèm chấp. Hình ảnh tốt đẹp gã xây dựng bao lâu giờ mất sạch. Trận thảm bại này khiến gã ê chề, đi đi về về cứ lịt lịt mặt né mọi người, tết tung cũng không chủ trò đầu năm gặp mặt, cuối năm tổng kết như mọi khi.

Rồi làm ăn khấm khá, gã sang căn hộ tập thể cho một đồng nghiệp trẻ, mua căn nhà khác sống tách ra khỏi đám đông văn hóa lùn nhiễu sự.

2.

Bài học thứ hai gã học từ cơ quan, từ trưởng phòng thời sự của gã. Sếp giám đốc sắp nghỉ hưu, ba phó sếp đương nhiên tơ tưởng tới ngôi kế vị, chuyện thường xuyên thăm viếng quà cáp nhà sếp là khỏi bàn. Chuyện xu phụ lấy lòng vợ con, cả bồ nhí sếp khỏi bàn. Ba vị phó này còn lấy lòng cấp dưới trực tiếp là các trưởng phó phòng, những người góp một lá phiếu tín nhiệm trong thủ tục thăm dò cho cơ cấu, bổ nhiệm hàng năm. Hình thức dân chủ này được nhiều người nói khi cần, để khẳng định uy tín mình trong cơ quan. Dĩ nhiên người nói là người có phiếu tín nhiệm cao, được bổ nhiệm là hiển nhiên, không được bổ nhiệm là chép miệng, trò hình thức thôi mà, mình không giỏi cửa sau. Còn người không có phiếu tín nhiệm cao, hoặc không nói gì cả hoặc bóng gió rằng bày trò thôi, sắp xếp cả rồi, hơi đâu đi tin ba cái tín nhiệm.

Được các sếp phó Tổng tranh thủ, các vị trưởng phó phòng cơ quan gã có những hành xử khác nhau. Có người im lặng là vàng, giấu mình rất kỹ, kiểu trường kỳ mai phục chờ cơ hội rõ rệt mới xuất đầu lộ diện. Có người tỏ rõ chính kiến, tuy không công kích sếp nào nhưng quý ai thì chơi với người đó, thường uống cà phê với người đó. Có người chưa hẳn đã quý ai nhưng người nào cũng thân, chơi đồng chung đều cho nó lành, thái độ luôn khiêm cung đúng mực. Riêng trưởng phòng thời sự của gã thì khác. Trưởng phòng nói, giám đốc đài thì đương nhiên rồi, vì nghề ta nghề báo nên gọi sếp giám đốc thêm chức danh Tổng biên tập, gọi tắt là sếp Tổng mới sang. 

Với ba sếp phó, trưởng phòng đều gần, đều chơi, và tuy không đâm thọc gì ai, mỗi lần gặp người nào, trưởng phòng cũng đứng cửa giữa kiểu khôn lỏi, không phải nịnh anh chứ công bằng mà nói, anh là người rất tâm huyết với cơ quan, anh là người thực sự vì cái chung, anh là người không quan cách, hòa đồng với anh em, với đặc trưng nghề mình anh là lão làng chứ ai vô… Vậy, chứ không hề nói xấu mấy người kia. Nếu gặp chung ba người thì trưởng phòng không bộc lộ gì, tôn trọng và tự trọng, không lăng xăng giẻ rách.

Tất nhiên các sếp phó cũng không phải tay vừa. Mỗi lần gặp nhau riêng, sếp nào cũng bóng gió khen thuộc cấp, rằng chú được lắm, hợp với cách làm việc của anh, sau này mọi thứ có anh có em… Tất nhiên dù không ai là tay vừa cả nhưng chỉ có một ghế Tổng nên chỉ một trong ba thành sếp Tổng thôi.

Sếp Tổng mới biết mình sẽ lựa chọn ai đề bạt lên trên  thay ghế mình vừa trống, nhưng cũng gọi riêng các trưởng phòng lên làm việc, chú nào sếp cũng thể hiện sự quan tâm dìu dắt như nhau. Và không quên thông tin sắp tới cơ quan sẽ hoàn chỉnh cơ cấu lãnh đạo.

Cũng nhiều hồi hộp, cũng nhiều hao tổn nhưng cuối cùng thì trưởng phòng của gã, người biết cách đứng cửa giữa lên phó Tổng. Gã là phó phòng đương nhiên bất chiến tự nhiên thành, nhẹ nhàng vị trí trưởng phòng. Gã bắt đầu quan tâm tới tư thế, quan tâm tới các mối quan hệ, và nhất là luôn tìm cách thích ứng với nghệ thuật đứng cửa giữa. May quá, đây là chuyện ở cơ quan, không có cô vợ nghiện ngồi lê đôi mách của gã can dự vào.

3.

Những người đàn bà cũng dạy gã không ít. Thuở mười tám đôi mươi gã có cảm tình vài cô. Vài cô kia cũng cảm tình gã. Gã phần quá non nớt không rõ mình thực yêu ai, phần sợ lựa chọn người này sẽ làm tổn thương người kia nên cứ chàng ràng không quyết. Các cô rồi lần lượt lấy chồng. Gã rút kinh nghiệm, nhanh chóng cưới vợ gã bây giờ, sai đâu sửa đó, dù sao, chuyện đàn bà lúc ấy chỉ là non nớt chứ không phải trò bắt cá hai tay sau này.

Công bằng mà nói, tuy lắm điều nhưng nhờ vợ, gã nhanh chóng thích ứng với các hành xử với phụ nữ. Nhờ thị, gã biết đàn bà có yếu huyệt là lỗ tai. Và hãy biết sợ hoặc làm như sợ họ khi lỗi lầm.

Với bồ nhí- cũng cần nói rằng trừ mọi thứ như địa vị xã hội, tiền bạc, gã quan niệm dứt khoát không có bồ nhí là chưa phải người đàn ông thành đạt. Và gã có cùng lúc vài cô. Hẹn hò thì luân phiên, nếu thúc bách lắm cứ lấy chuyện công việc cơ quan bận lút đầu lút cổ mà từ chối. Nếu cô nào nghi ngờ gì thì giở bài công bằng mà nói là, cô đó cũng có cảm tình với anh, nhưng anh đã có em rồi, anh chỉ yêu em thôi, còn chuyện người ta cảm tình hay không là quyền họ chứ làm sao cấm họ được. Cái cửa giữa khôn lỏi này khá hiệu quả và gã chợt nhận thấy, tai sếp với tai đàn bà thật giống nhau.

Cũng có lúc bằng chứng nhỡn tiền, những lời xu phụ thất bại, thì đành đứng nhìn từng người tình bỏ ta đi. Họ bỏ ta, lòng tự ái của họ được chìu nịnh, chỉ còn kẻ đau khổ là ta, gã lập luận, coi như mình thất bại. Trừ chuyện cơ quan và những toan tính thăng tiến, mọi thứ dính tới chuyện tình cảm, quan hệ sống, phải chấp nhận có được có mất. Bài học của cha gã, của những người đàn bà dạy gã luôn đúng, và hàm chứa những rủi ro. Vì nó gắn với chuyện rất nhiêu khê là đạo đức.

4.

Thầy trò gã thăng tiến rất nhanh. Một vị phó giám đốc chuyển cơ quan khác nghe nói vì tự thấy yếu cơ, và gã là nhân vật số một điền vào chỗ trống. Trước đó, sếp phó sư phụ với trứ chiêu đứng cửa giữa khôn ngoan- đã lên Tổng thay người tiền nhiệm nghỉ hưu. Sếp Tổng và gã mới 5 năm đã từ cấp phòng lên lãnh đạo cao nhất đủ cặp. Nhiều người nghĩ bộ đôi trẻ ăn ý này sẽ cứ yên vị vậy đến hết tuổi.

Cũng đâu ai học được chữ ngờ, mới đây, sư phụ Tổng ngã ngựa vì lèm nhèm chuyện tài chính. Cũng lạ, năm này cơn bão đổ bộ vào vùng Miền Trung với cường độ gió cấp 12, cột thu phát sóng cao nghệu gãy cái rụp xuống tòa nhà bốn tầng của Đài, xẻ đôi nó đến tầng hai, hỏng nhiều thiết bị, may không chết người. Một cột thu phát nữa trên núi phía nam thành phố cũng đổ ập. Nơi thường xuyên đón gió bão cấp 12 mà mới cấp ấy các công trình gãy gục không thấy ai bị kỷ luật. Lại thấy Đài phỏng vấn sếp, sếp nói như reo rằng thiệt hại ước tính hơn hai chục tỉ. Thảo nào bọn thối mồm đồn rân câu chuyện năm trước nghe dự báo thời tiết bão vào, địa bàn tỉnh là tâm bão, các cơ quan đoàn thể rộn ràng chỉ đạo phòng chống, nó lại vô chỗ khác cách đến vài trăm cây số, vội vàng cấp tốc đến nơi ấy thì thành vuốt đuôi, nó đã tan, chỉ còn một hiện trường tan hoang. Lần đó chính sếp chửi dự báo thời tiết sai, làm mình cứ tưởng bão thật. Và chính sếp nói lãnh đạo tỉnh cũng mong bão vào.

Ai cũng biết để sắm lại số thiết bị trên, sếp được các công ty Pháp, Hà Lan gì đấy mời qua tham quan nhà máy của họ, và các hợp đồng đã được ký. Nghe rò rỉ thông tin nội bộ là ngoài hai chuyến vi vu trời Tây, mấy hợp đồng mua thiết bị cũng có khoản lại quả cho sếp tới ba chục phần trăm. Lạ là đi mua sắm thiết bị kỹ thuật mà sếp chỉ đi với kế toán chứ không đưa trưởng phòng kỹ thuật đi cùng. Các thiết bị vừa lắp đặt xong, chẳng biết ai tố giác mà Thanh tra tỉnh vào cuộc, cả bộ phận giám định Trung ương về mới tá hỏa ra là thiết bị sếp mua toàn đồ công nghệ đã cũ người ta thải ra. Sếp về vườn chứ không bị truy tố vì nghe nói chung chi tốt.

Gã giờ là Tổng. Giám đốc đài, sếp Tổng. Nghiệm lại thấy sư phụ siêu, gọi giám đốc chỉ là hành chính, bình thường cấp sở, nghe chữ Tổng mới ra nghề nghiệp, mới sang. Mới hơn bốn mươi, một Tổng vào hàng trẻ của cả nước, tương lai còn nhiều phía trước, gã thấy đời mình thế là thành đạt.

Mỗi lần về thăm quê giờ bê tông nông thôn tận xóm, bao giờ gã cũng nhân trên đường công tác, ô tô tận cửa. Cha gã vẫn giữ vẻ bình thản, nhắc gã nên đi thăm hàng xóm, chút trà gói bánh để giữ lối về con à, quan nhất thời dân vạn đại.

5.

Giờ thì cái khoản bồ nhí càng bát ngát. Gã có điều kiện để lo chu toàn nên dù biết tỏng con ruồi đực ruồi cái, các nàng cũng giả vờ như không biết. Cô vợ bản tính vào tai ra miệng đã bốn mươi nhưng cứ thúc ép gã xin đi làm cơ quan nhà nước cho bằng chị bằng em. Với uy tín của mình, gã cũng đưa thị vào hợp đồng ở Đài thành phố. Thị mặc gã bồ bịch, không theo dõi cật vấn như trước, ông ăn chả bà ăn nem, thị cũng đã có một chuyện tình công sở.

Nhưng chính lúc đời đang như dệt gấm thêu hoa thì sức khỏe gã có dấu hiệu trục trặc. Mắt gã thỉnh thoảng nhìn một thành hai. Bắt đầu bằng việc gã va mặt vào cạnh cửa tứa máu. Cứ nghĩ lần đó sơ ý, nhưng rồi việc lặp lại, khoảng trống lòa nhòa chập chờn như tách như nhập, gã cứ đi vào ô trống chính giữa thì thế quái nào lại bộp vô cạnh. Rồi thị mấy lần đưa món đồ cho gã, cũng ngạc nhiên khi chồng xìa tay ra cầm khoảng không. Cô bồ nhí lúc đầu cười như Pháp cứ ngỡ gã sinh chuyện diễn trò bắt bóng, sau ngạc nhiên vì hình như gã không bình thường. Rồi cô kế toán hoảng khi thay vì ký vào phần thay mặt cơ quan, gã tương vào chỗ người bán hàng… Đáng sợ nhất là trên đường, nhiều lần gã cứ chạy xe giữa đường, chứ không chạy theo lề như quy định. Xe đối diện ấn còi inh ỏi gã mới giật mình ép vô lề thì lại là lề trái. May tài xế quan sát từ xa đã hãm tốc độ, thắng kịp.

Mấy thuộc cấp thân tín thi nhau đoán bệnh sếp, người bảo sếp bị ảo giác, kẻ khẳng định đó là chứng loạn thị.

Tay bạn bác sĩ bệnh viện mắt tu nghiệp Hà Lan về, với các thiết bị hiện đại nhất trước sau vẫn khẳng định mắt gã không bệnh gì. Khám đa khoa, các kiểm tra chụp, rọi, chạy vẫn cho kết quả tốt về các bộ phận cơ thể. Thử máu không thấy có vi rút lạ ngoại nhập nào. Nhưng các nhà huyết học giỏi nhất thành phố cũng ngạc nhiên vì máu gã khá loãng và khi chích ra nhanh chóng chuyển sang màu bầm đen.

Không có bệnh gì thì làm sao chữa, các bác sĩ kê cho gã mấy loại thuốc bổ thần kinh, thuốc chống ảo giác. Gã cũng cẩn thận hơn trong đi đứng, ký tá, làm tình. Mọi thứ có vẻ bình thường được một tuần rồi gã sơ xuất khi nghe một vị lãnh đạo tỉnh gọi tới nhà bàn chuyện gửi gắm cháu gái ông ta mới ra trường. Thấy gần, gã xách xe máy ra chạy, giữa chừng, cứ nghĩ hai luồng đèn sáng ngược chiều chạy hai biên là xe máy, gã chạy vào giữa. Ô tô thắng kịp nhưng gã đã đâm vào khá mạnh. Gã bị gãy xương đòn, gãy ba xương sườn, giập lách, và đứt động mạch chân trái. May gần bệnh viện, gã được cấp cứu kịp thời nhưng phải cần tiếp một lượng máu lớn.

Nhiều thuộc cấp lăng xăng tình nguyện, lạ sao, cùng nhóm mà cơ thể gã không chịu tiếp nhận, bao nhiêu máu vào cơ thể gã đã loãng rất nhanh rồi thải ra. Gia đình gã vài người chẳng bõ bèn gì. Cha gã sang hàng xóm cậy nhờ. Những người nông dân vốn trước gã có chút đồng quà tấm bánh cũng có cảm tình, sai con cháu xuống bệnh viện hỗ trợ. Cơ quan thêm mấy cô tạp vụ, lao công hợp đồng cũng tình nguyện đến thử. Lạ sao những người cỗi cằn này lại hợp, cơ thể gã đón nhận một cách vô tư. Gã được cứu sống. Và hồi phục rất nhanh.

Gã đến cơ quan, bao người sau đó tới nhà gửi sếp nhiều của ngon vật lạ để bồi dưỡng. Mấy cô bồ nhí cũng nối máy véo von.

Nhưng mới ba lần bảy hăm mốt ngày, từ phòng giám đốc đi ra xuống cầu thang, gã chủ ý đi giữa mà cách sao vẫn tông bộp vào góc tường. Máu túa đẫm mặt, loãng và bầm đen nhanh chóng. Máu sếp Tổng lại loãng như trước.

Cha gã lên thăm nghe sự tình ông lẩm bẩm, hết thuốc chữa.

Con sâu rượu

08/11/2012

.PHẠM PHÚ QUẢNG

Hắn ngồi trên chiếc ghế mây, không tựa lưng vào thành ghế mà đặt một cánh tay lên bàn rồi gác cái cằm lởm chởm những râu vừa mọc sau một đêm đánh vật với tửu thần. Như thường lệ, quán cà phê Climax nằm trong khuôn viên Cung Văn hóa Hữu nghị không vắng nhưng cũng chẳng quá đông người. Thứ duy nhất hắn cảm nhận được là những nhát búa đang giáng vào đỉnh đầu, vào trán, vào hai thái dương. Có một gã tù nào đó đang miệt mài quai búa. Rất nặng. Có lẽ loại hai chục ký chứ không chừng. Nhắm mắt, hắn thấy gã tù bắp tay cuồn cuộn, đen và bóng nhẫy mồ hôi đang đều đặn vòng quai của cây búa tạ. Đầu hắn nhói lên theo mỗi nhịp búa quai. Cục óc như cái bướu cây xà cừ cứ lắc qua lắc lại, ọc ạch trong vỏ sọ. Lớp màng mỏng bọc dúm óc nhão đang căng như một chiếc bóng bay thổi quá đà. Khẽ rùng mình với cái ý nghĩ chỉ cần sự hỗ trợ của một chiếc gai nhỏ xíu cũng đủ để óc hắn văng tung tóe khắp cả cái nơi hắn đang ngồi. Hắn nghe thấy tiếng tĩnh mạch nằm hai bên thái dương, chỗ gần lỗ tai đang thều thào "Bỏ rượu đi thôi! Bỏ rượu đi th..ô..i..! Ngu lắm! Ngu l..ắ..m!". Hắn toan cãi lại thì giọng cô phục vụ có bím tóc đuôi gà chen ngang vào:

- Xin lỗi anh dùng gì ạ?

Hắn vội nín thinh, ngậm ngay cái miệng đang định cãi lại và gọi một cốc nước chanh đá chua. Là cốc thứ năm trong buổi sáng này. Hắn nghe người ta nói thứ nước buốt lạnh này sẽ làm đầu óc tỉnh táo, vị chua của nó sẽ làm giã nhạt men rượu trong người say. Nhưng sao hắn càng uống càng thấy khát, càng thấy buồn nôn. Cô phục vụ vừa đi khỏi, hắn vểnh tai lắng nghe cái thanh âm thều thào lúc nãy nhưng tuyệt nhiên không thấy. Hắn cố tập trung cũng không thấy. Rồi hắn nghe tiếng "Một, hai, ba, zô!", "Hai, ba, bốn, zô!"... Quái lạ, giữa trưa nắng thế này lũ điên nào lại uống rượu trong quán cà phê. Hắn đưa mắt một vòng tìm kiếm. Bàn bên tay phải là mấy cô dân văn phòng đang chí chóe tám chuyện. Bàn bên tay trái là mấy anh râu tóc rũ rượi, áo quần rách rưới, chẳng ai nói với ai câu gì, mắt lờ đờ ngắm nhìn mặt trời chói chang mà cứ như đang thưởng nguyệt giữa đêm Thu canh tàn. Chắc là dân bôi vẽ, không họa sĩ thì cũng kiến trúc sư. Đằng xa hơn nữa là một anh đầu trọc gầy giơ xương, hoa văn vẽ kín khắp cả ngực, cả gáy, cả tay, cả chân, cổ đeo một sợi dây thừng tết bằng vàng tây to như ngón chân cái. Cỡ này lỡ có chán ghét cõi đời mà đi trầm mình tự vẫn cũng không cần phải buộc thêm đá. Ngồi trong nhà, nhưng anh đầu trọc vẫn đeo kính đen và đang cãi nhau kịch liệt với cái điện thoại cũng màu vàng chóe. Không ai uống bia, chẳng ai uống rượu! Vậy thì cái thanh âm kia từ đâu mà có? Còn cái tiếng thều thào kia trốn đi đâu mất rồi? Hắn nhíu mày suy nghĩ. Thì ra tiếng "zô", tiếng "hò", là của ngày hôm qua. Hôm qua hắn đã nhét đầy hai tai, đầy óc hắn. Chắc chúng nó không tìm được đường ra, chúng nó phải ở lại vì một lẽ đầu óc hắn ngóc ngách lắm, tăm tối lắm. Cố gắng xua đi tiếng xe cộ, tiếng nhạc, tiếng người..., hắn lắng nghe thêm lần nữa. Tiếng thều thào lúc nãy quả thật đã trốn đâu mất tiêu. Như vậy có khi lại hay. Lúc nãy nóng máu thì vậy, bây giờ nghĩ lại hắn thấy cũng chẳng biết cãi như thế nào. Chẳng lẽ lại hét váng lên là "Không, tao không ngu, hắn không ngu. Không bao giờ ngu! Ngu làm sao mà tốt nghiệp được một trường khó nhằn như trường Đại học Xây dựng? Ngu làm sao có thể chia năm đồng cho ba người mà ai cũng thấy cầm một đồng là quá nhiều? Và chí ít hắn cũng đã nhét vào trong đầu hàng trăm cuốn sách... Không, hắn không thể nào là ngu được!".

Nhưng mà vậy thì ai ngu? Ừ nhỉ, ai mới là ngu nhỉ? Rõ ràng phải có kẻ ngu. Không ngu sao lại cứ nốc cái thứ nước cay xè, bỏng rát cả cuống họng ấy vào làm gì? Đã bao giờ uống đến ly thứ ba mà vẫn còn thấy ngon chưa? Không ngu sao biết mệt, biết độc hại, biết bệnh tật mà vẫn uống? Nhất định là con ma men, là con sâu rượu. Nhất định là nó rồi. Hắn mừng quá, hệt như Quýt tìm thấy Cam vậy. Bất giác hắn mỉm cười. Mặt hắn giãn ra. Mà phải thế chứ, phải có kẻ ngu chứ hắn không thể nào ngu được. Hắn nhìn vào cánh cửa kính. Hắn thấy nhờ nhờ một khuôn mặt bủng beo, xanh rớt, cặp mắt híp tịt, mí mắt dày như miếng bì lợn, tròng mắt lừ đừ hệt mắt cá chết. Giật mình, hắn quay đầu lại phía sau. Không thấy ai. Hắn đưa tay dụi mắt rồi ghé sát hơn. Đích thị là hắn, cái mũi to thế kia lẫn vào đâu được. Trời ơi, hắn không nhận ra hắn nữa!

Gã tù vẫn quai búa, đều đặn và dai dẳng. Vỗ mạnh tay vào đầu, hắn vươn vai hít một hơi thật sâu, hy vọng sẽ thấy khá hơn. Hắn thở ra bằng miệng, cũng thật dài, thật sâu, như muốn đuổi hết hơi rượu còn trong bụng, trong cuống họng. Hơi thở vừa dứt, hắn bỗng thấy choáng váng, mắt tối xầm, khắp người hắn như có hàng vạn cái kim đang ngọ ngoạy. Chỗ nào cũng đau. Hắn thấy cồn cào trong bụng, hắn thấy buồn nôn. Từ sáng tới giờ hắn đã nôn không biết bao nhiêu là lần rồi. Người ta say rượu có thể nôn ngay. Nôn rồi lại uống được ngay. Còn hắn, hắn chẳng cần nôn cũng uống được và uống được rất nhiều. Càng uống càng hăng, rồi thì tận ngày hôm sau hắn mới nôn. Hắn say nguội. Hôm nay cũng vậy, buổi sáng sau khi nhắm mắt nuốt bát phở gà xong, hắn làm luôn ba cốc trà đá rồi vào vệ sinh nôn thốc nôn tháo. Nào phở, nào gà của buổi sáng, nào cơm, nào rau, nào thịt của ngày hôm qua trộn lẫn với trà, với rượu, ào ào tuôn ra từ cái nơi mà người ta vẫn bảo cần phải giữ vệ sinh nhất. Rồi từ lúc đó đến giờ, hắn nôn không biết bao nhiêu lần mà kể. Càng về sau thì trong cái hỗn hợp độc đáo đó, phần cái càng ít đi, nhường cho phần nước. Hắn phải uống thêm nước để có cái mà nôn. Hắn ọe đến buốt cả họng. Hắn cảm giác từng miếng da trong cuống họng như bong ra, bị cào ra, ruột quặn như đứt thành từng khúc. Tưởng như không còn gì để mà chui ra nữa thì hắn vẫn buồn nôn.

Cốc nước chanh đã nằm trên bàn từ bao giờ. Hắn với cốc nước và tu một hơi hết nhẵn rồi tìm đường vào nhà vệ sinh. Hắn thấy nhà cửa, bàn ghế chạy vòng tròn như đèn kéo quân xung quanh hắn. Mặt đất nghiêng ngả, chao đảo. Hắn cứ nhìn hàng gạch dưới chân mà bước. Nhà quay thì hắn quay theo nhà, đất nghiêng thì hắn nghiêng theo đất. Khoảng cách từ bàn hắn ngồi tới nhà vệ sinh chỉ chừng ba chục bước chân mà hắn thấy như cả cây số. Bụng hắn thì đau lắm rồi, cần giải quyết lắm rồi. Ngồi trong nhà vệ sinh, hắn chợt nhớ tới những người bị bệnh hiểm nghèo. Hắn nghe nói nếu "Miệng nôn, trôn tháo, tay bắt chuồn chuồn" là sắp đi. Hắn giơ hai bàn tay, duỗi các ngón tay ra rồi nắm lại. Vẫn bình thường, vẫn chưa bắt chuồn chuồn. Thế nghĩa là chưa chết được. Mà biết đâu chết có khi lại hơn thế này. Tự nhiên hắn thoáng nghĩ đến cái chết. Hắn nghĩ nếu chết hắn sẽ chọn cách chết nào?

Hắn sẽ mua một nghìn bông hồng để quanh giường rồi đóng kín cửa, tắt quạt thông gió rồi ngủ một giấc sang tận thế giới bên kia. Không được, thế mùi mẫn quá, ướt quá, giống sách quá.

Hắn sẽ trèo lên một tòa nhà thật cao rồi gieo mình xuống. Không được, thế người hắn sẽ méo mó lắm, sẽ gãy nát một vài thứ, sẽ vỡ toang hoác một vài thứ, sẽ văng tung tóe một vài thứ. Như vậy xấu lắm.

Hắn sẽ kiếm một đoạn dây thừng. Nhưng sẽ treo vào đâu nhỉ? Ở quê còn sân vườn, còn cây mà treo. Hay chí ít cũng còn xà nhà mà treo. Ở thành phố, nơi mà tấc đất còn hơn cả tấc vàng và nhà toàn bằng bê tông thì chẳng biết phải treo vào đâu? Chẳng lẽ lại treo vào móc mắc màn? Nhỡ nó tụt ra, chẳng chết mà lại gãy cái tay, cái chân thì khổ, thì nhục. Vả lại nghe ông Mario Puzo nói mấy người bị thắt cổ chết đều vãi hết cả ra. Tiểu, trung, đại tiện đều có cả. Thế thối lắm, bẩn lắm.

Hắn sẽ buông mình xuống biển, phía sau đuôi con tàu nào đó ở thật xa đất liền. Giống như Jack London sắp đặt cho Martin Eden vậy. Chết như vậy vừa sạch sẽ mà cũng chẳng ai biết. Nhưng cũng không được, hôm qua hắn vừa hứa với con gái hắn chủ nhật này sẽ cùng đi xem "Kỷ băng hà". Hắn vẫn phải sống!

Quay trở lại bàn, gọi thêm cốc nước chanh đá chua. Hắn quyết tâm phải bỏ rượu! Hắn phải tìm cho ra con ma men, phải tìm cho ra con sâu rượu. Phải cho nó một trận, phải ném nó ra ngoài đường, phải nhận chìm nó xuống dưới nước, phải giết nó đi. Vì mày mà ông mệt mỏi, vì mày mà ông bủng beo, vì mày mà ông nên nông nỗi này.

Hắn nhắm mắt lại, hắn đi tìm. Hắn thấy trước một cái miệng hang đen ngòm, có một con vật giống con sâu róm khổng lồ, nhưng gầy gò hơn với những sợi lông dài màu xanh. Nó có một đôi mắt đờ đẫn nhưng lập lòe như ma trơi. Nó không có miệng mà có cái vòi như con đỉa thở ra toàn mùi men rượu. Nó không bò mà nó đi, đi bằng hai chân khẳng khiu, nghiêng ngả. Hai sợi râu ôm lấy một vật giống như cái hồ lô. Thì ra con ma men là như vậy, con sâu rượu là như vậy. Hắn lờ đờ nhìn con ma men. Con ma men dốc cạn cái hồ lô vào cái vòi rồi lờ đờ nhìn lại hắn. Hắn hét lên:

- Mày tránh xa tao ra, mày cút khỏi tao ngay. Sao mày hư hỏng, mày say sưa nhiều thế? Sao mày bệ rạc thế? Mày là đồ bỏ đi. Mày ngu lắm. Rượu có gì ngon, có gì hay đâu mà uống? Toàn cồn và nước lã thôi, toàn chất độc hại thôi, nốc vào làm gì? Khôn hồn biến đi cho khuất mắt tao, đừng để tao nhìn thấy nữa. Còn để tao thấy mày một lần nữa, còn làm khổ tao nữa thì tao sẽ bẻ cổ mày, tao cắt vòi mày...

Con ma men thoáng giật mình, nó giỏng tai lên nghe. Lông nó chuyển dần từ màu xanh sang màu đỏ. Nó khua cái vòi lên hít một hơi rất sâu rồi phì hơi ra cũng rất dài. Toàn mùi rượu. Nó hét lên:

- Mày tưởng tao thích uống lắm à? Mày tưởng tao không biết tao bệ rạc à? Mày tưởng tao thích cái hình dáng tao thế này lắm à? Mày tưởng tao không biết rượu là độc, là hại à? Tất cả là do mày, mày ban cho tao cả đấy. Mày tạo ra tao, mày nuôi dưỡng tao. Mày không muốn nhìn thấy tao thì dễ tao muốn nhìn thấy mày à? Tao xấu thì mày đẹp lắm à? Mày về soi lại gương đi. Tao sẽ về nhà tao, mày không muốn gặp tao thì đừng gọi tao ra nữa. Chào mày!

Nói xong con ma men xiêu vẹo bước đi về phía cửa hang, ném chiếc hồ lô vào trong hang. Vẫn với ánh mắt lờ đờ nhưng có phần đắc ý, nó quay đầu lại nhìn hắn thêm một lần rồi khuất hẳn trong hang.

Hắn cũng thoáng giật mình. Hắn nhìn con ma men khuất bóng sau cửa hang đen ngòm mà ngờ ngợ có chút gì quen thuộc. Đúng rồi, cái mũi của nó! Cái mũi to thế kia lẫn vào đâu được! Hắn vén áo lên xoa bụng, một cái bụng to quá cỡ so với tạng người như hắn. Chính giữa cái bụng là một cái lỗ rốn hun hút, đen ngòm. Tận sâu trong bụng hắn nhói đau, đau như những chiếc lông sâu róm vừa mới cọ vào trong đó.

Lốc rừng

26/10/2012

.NGUYỄN ĐỨC THIỆN

Đám tang Tư “người rừng” không có mấy người. Chỉ có một ông thầy chùa là người lạ, còn tất cả là mấy anh em bên đồn biên phòng Tân Hòa. Đủ số cho việc đào huyệt, lấp đất và trồng lên đó một bụi cỏ làm dấu. Rồi ngôi mộ này cũng như thân phận lão thôi. Sẽ chẳng có một ai thăm viếng và nhang khói.

*

*     *

Lão ở đây từ hồi nào đến giờ, không ai biết, chỉ biết gọi lão là Tư và kèm theo hai chữ “người rừng”. Giữa cánh rừng già có một cái chòi nằm gác lên hai thân gỗ lớn. Có một đường xuống suối. Có một đường khác vào rừng. Từ ngày có bội đội biên phòng về đóng quân con đường mòn mới được nới rộng ra chút ít, còn trước kia, nó chỉ vừa bước chân cho một người đi.

Khi lớn lên, lão mới biết lão đang ở với ông bà già nuôi. Ông già nuôi lão biểu rằng: trong một lần đi giao hàng ngoài bến sông, lúc trở về thấy một thằng nhóc đặt trên cỏ, trần truồng không mảnh vải che. Thế là lão được ông già rước về. Người ngợm lão lúc đó đã sần lên những nốt muỗi chích, kiến cắn và vắt đeo. Thế mà lão vẫn cứ sống. Lão sống giống như một thứ cây tầm gởi. Mấy thằng con ông già nuôi lão rất ghét lão. Nhất là thằng Út. Nó cho rằng vì lão bú hết sữa mẹ nó nên nó èo uột, còn lão cứ phì ra, lớn hùi hụi. Trong nhà chỉ có con chị gái là có vẻ thương lão.

Lão không có người thân nào hết. Thân xác lão to lớn, kềnh càng, vậy mà cũng chẳng vợ con gì. Người ta kháo nhau rằng, lão không còn bộ tam sự nữa. Lão ở rừng lâu, làm nghề cưa cây vào loại thành thạo. Vậy mà ngu. Có một lần cây lão cưa tựa vào một cây khác không chịu đổ theo ý muốn. Lão điên lên vác búa chém lung tung. Một cây nhỏ uốn cong như cây cung, bị lão chém một nhát bật tung lên, quất ngay vào giữa háng lão. Lão bất tỉnh mấy ngày. Lão không chết, nhưng lão mất luôn cái thứ dùng để truyền giống nòi. Lão không buồn. Lão biểu: Cần gì. Cái giống con hoang không truyền càng tốt.

Chiến tranh kết thúc. Rừng đóng cửa. Tất cả các toán thợ rừng giải nghệ. Lão rút về rừng bên Việt, gác chòi sống. Hình như lão không có hứng thú di chuyển nên lão ở riết chỗ này khiến cái gì cũng kèm theo tên lão. Suối “Tư người rừng”. Phân khu Tư “người rừng”. Trảng Tư “người rừng”.

Lão sống bằng những thứ rừng có. Chỉ có gạo, phải nhờ anh em đồn biên phòng Tân Hòa giúp. Đôi ba lần cánh cắt gỗ lậu kêu lão nhập cuộc. Lão lắc đầu từ chối. Làm giàu lão không ham. Sống một mình giàu có mà làm gì. Không vợ, không con, chẳng phải lo. Làm đến đâu, ăn đến đó, chết là hết. Cần quái gì.

Sau này, khi bộ đội biên phòng lên đóng quân, cánh chiến sĩ biên phòng lâu lâu tuần tra lại ghé lão, uống hớp nước, tán ba câu chuyện và nhắc lão cảnh giác đề phòng những chuyện bất trắc. Lão không biết rằng lão giống như hơi người trong nhà hoang vậy. Có lão ở đó tức rừng có chủ. Lão làm cái việc giữ đất biên cương một cách vô tình như vậy đó. Nổi tiếng thợ rừng một thời, nên cánh thợ rừng lau nhau cắt gỗ lậu cũng kính nể lão, không dám qua mặt lão, ít nhất là ở khu rừng lão ở.

Lão chết, người ta mới có dịp bàn nhiều về lão. Chuyện của lão giống như chuyện hoang đường vậy.

Cánh rừng mà ngày nhỏ Tư  ở với gia đình lão thợ rừng có hai mắt trố lồi ra ngoài và mụ vợ đồ sộ nằm rất sâu trong rừng già bên đất Miên. Họ vào sâu như vậy nhằm tránh càng xa cuộc chiến tranh càng tốt. Ở đó chỉ có một con suối mùa nắng nước trong veo róc rách chảy. Mùa lũ nước cuồn cuộn, đục ngầu. Có một con đường duy nhất từ nơi khai thác ra bãi tập kết gỗ. Con đường này do chính những sơn tràng tạo ra. Ban đầu nó chỉ là một lối mòn nhỏ. Những chiếc xe cù cây được những người thợ tháo rời ra, mang vào tận đây mới ráp lại.

Những chiếc xe cù cây ấy có công mở rộng con đường ra bằng những chiếc bánh xe lăn hoài ngày này sang ngày khác, tháng này sang tháng khác. Mỗi chiếc xe cù là hai con trâu kéo. Những con trâu con nào con nấy nung núc thịt. Chúng nó được chăm sóc rất kỹ, vì nó là phương tiện duy nhất đưa gỗ ra ngoài. Thợ sơn tràng không ở nơi nào cố định. Khai thác hết khu này lại chuyển đi đến nơi khác. Rong ruổi trong rừng, họ tạo ra xã hội riêng của họ với những sinh hoạt đơn giản. Ăn, ngủ, lên rừng, cưa, chặt, về, ăn rồi lại ngủ. Chiến cuộc, thời sự họ chẳng có thời gian để mà màng tới.

Họ không phải đối mặt với chiến tranh nhưng lại phải đối mặt với những khắc nghiệt của rừng. Trước hết là cái nắng. Ai cũng nghĩ rằng trong rừng sẽ mát mẻ khi ngoài trời có cái nắng gắt gao. Nhưng không phải như vậy. Nắng xứ rừng đất Miên khác rất nhiều so nắng ở những miền rừng khác. Nắng hừng hực như có lửa. Gió bốc những luồng không khí khô và nóng táp xuống đất. Mặt đất khô đi rất nhanh. Lúc đó, không chỉ có không khí nóng mà bất cứ cái gì trong rừng cũng nóng lên. Lá cây héo queo. Thân cây nóng rực. Ngồi đâu cũng thấy nóng.

Cái nóng kéo dài từ lúc mặt trời mới mọc, đến tận nửa khuya vẫn còn nóng. Những ngày ấy, những người thợ rừng thức rất khuya. Tập thể những con người sống tách biệt chẳng có việc gì làm vào những đêm nóng nực ấy. Họ nhậu, kể chuyện tiếu lâm và hát những bài hát không đầu không cuối. Đến lúc cơn buồn ngủ kéo sập mí mắt xuống mới lăn ra ngủ.

Lúc ấy cũng là lúc những giọt sương rớt lộp bộp xuống mái lán, thấm ướt những ngọn cỏ và sũng ướt lá cây. Những người thợ rừng co quắp nằm ngủ. Dưới lưng họ, cái nóng từ đất bốc lên, hầm hập, khó chịu. Giấc ngủ của người thợ rừng vì thế mà cứ chập chờn. Sáng sau ai cũng phờ phạc. Một ngày vật lộn với những khối cây, mồ hôi tuôn ra như tắm. Bao nhiêu nước mang theo cũng không đủ. Cuối ngày, người nào, người nấy khô kiệt và mệt mỏi.

Nắng là vậy, còn mưa. Những trận mưa theo mùa dai dẳng đổ sập xuống rừng bất cứ lúc nào. Cũng có lúc thì trời kéo vần kéo vũ, sấm chớp nhì nhằng cả giờ đồng hồ rồi mưa mới trút xuống. Nhưng cũng có lúc chẳng cần báo trước, bỗng nhiên trời tối thui lại và sau đó nước đổ xuống. Những hạt mưa giống như những viên đá quất xuống rừng. Cây cối ngả nghiêng, lá cây bị xé nát te tua.

Trong rừng chỉ còn một thứ âm thanh rào rào. Nước trườn theo những thân cây, đổ tràn xuống mặt đất. Mặt đất mùa nắng bị xắt khô lại thì lúc này nước ngấm xuống biến mặt đất thành một thứ bùn sình nhão nhoẹt. Con suối mùa nắng xinh xắn, dịu dàng và trong trẻo là thế, bây giờ bỗng trở nên hằn học.

Con suối không còn giữ được mình nữa. Nó đã cuốn hết tất cả những gì gặp trên đường đổ ra sông. Không chỉ lá cây, không chỉ sình lầy, không chỉ xác súc vật mà chính nó moi móc những gì có thể moi móc được mà cuốn trôi đi. Cơn giận của con suối chính là cơn giận của núi rừng. Không ai có thể cản trở được cơn giận dữ ấy. Chỉ có thời gian. Khi trở về mùa nắng, tự nhiên con suối lại trở nên hiền hoà.

Khi cơn mưa dứt là phải vào khai thác. Không đi không được. Đường vào rừng ướt chèm nhẹp. Không một ai khô ráo. Ướt từ đầu tóc xuống đến chân. Cầm cái gì cũng trơn tuột. Mặc quần áo mà làm thì vướng víu khó chịu. Lột quần áo ra thì vắt cắn. Những con vắt như những mũi tên, búng tanh tách khi nhận ra hơi máu con người. Quần phải bó túm ống. Tay áo cũng phải cột lại. Vậy mà khi rời khỏi nơi khai thác, người nào cũng vài ba vết vắt cắn, chưa cầm được máu. Có cả những con vắt đeo lủng lẳng chưa chịu nhả ra trong khi mình nó đã no mòng máu.

Ngày nắng chém nhát nào trúng nhát đó. Còn trời mưa, nhiều khi muốn chém một nhát phải nhớm nhứ mấy lần mới buông được một búa. Thế vẫn chưa cực bằng khi cù cây ra. Bình thường, chỉ cần ba người có thể néo được cây vào xe cù. Còn khi mưa, năm sáu người bu lại mà vẫn khó. Những cây đòn xeo khi quăng, khi quật, những chiếc chạc quấn được đầu này, đầu kia sút ra. Hì hục, nhiều khi chửi nhau toáng cả rừng mới cù được một cây. Xe cù đi , người phải đi theo. Nhiều khi trâu cũng bất lực trước con đường lầy lội. Lúc đó con người lại phải ra tay. Khi đưa được cây gỗ về bãi, mình mẩy ai cũng bê bết bùn.

Nhưng còn có chuyện khác kinh khủng hơn chuyện nắng và mưa ở rừng. Đó là chuyện mà cho đến hết cuộc đời mình, quên đi thôi, nhớ lại Tư vẫn cứ phải kinh hoàng.

Hôm đó vẫn là thằng Út và Tư  ở nhà. Khi cả nhà đi hết, bỗng nhiên có một con mễn con chạy xộc đến. Nó chui tọt vào trong lán và rúc vào thật sâu trong gầm sàn. Hai con mắt nó nhìn ra ngoài lơ láo. Ngay cả khi Tư  và thằng Út ngó vào, nó cũng không hề sợ hãi. Hai mắt nó vẻ như van nài điều gì. Thằng Út kêu:

- Mày lấy cái dây cho tao, mày.

- Chi vậy? - Tư  hỏi lại

- Bắt nó chớ chi.

Tư  chạy ra ngoài. Lát sau quay lại, trên tay nó là một sơi dây mũi trâu. Nó đưa cho thằng Út. Thằng Út rúc vào gầm sàn. Con mễn lúc này mới hoảng hốt bung ra. Nó thúc vào bụng thằng Út một cái làm nó bật té ngửa văng ra ngoài. Còn con mễn thì dông tuốt. Thằng Út tức tối, phóng giò đuổi theo. Nhưng đôi chân thoăn thoắt của con mễn đã bỏ xa thằng Út và lẩn ngay vào rừng.

Chắc con mễn chạy đụng phải ổ chó tróc nào nên tiếng những con chó tru lên nghe như ngàn tiếng rên thảm thiết. Nhưng đâu có phải chỉ có tiếng chó ở đây, mà hình như tất cả các bầy chó tróc suốt một dải rừng già này cùng tru lên. Khi gần, khi xa, khi văng vẳng khi sát bên tai. Thằng Út và Tư bỗng kinh hoàng nghe rần rần bước chân chạy thục mạng của những con chó tróc.

Thoắt một cái, bầy mấy chục con ào qua ngay trước mặt. Hai thằng đã từng nghe bầy chó tróc đánh gục cả con bò rừng, rồi chỉ trong vòng nửa tiếng đồng hồ, con bò chỉ còn lại bộ xương. Những con chó lông xám, có hai cái tai nhọn hoắt dựng lên, cái mõm nhọn như mõm cáo và hai chân nhỏ như chân cheo ấy là lũ tạp ăn.

Chúng không mấy khi đi riêng lẻ. Ở đâu là ở nguyên bầy. Bị tấn công là cả bầy xúm lại giải vây. Tất cả mọi con mồi đều là của chung. Lâu lâu chúng sát phạt nhau một trận. Đó là vào mùa động đực. Cái giống chó cái bao giờ cũng ít hơn lũ chó đực. Nên mùa nào chúng cũng có một trận hỗn chiến. Sau trận hỗn chiến, ngay cả con chiến thắng cũng bấy bá thân xác. Nó phải nghỉ ngơi cho dịu cơn đau rồi mới bắt đầu nhâm nhi thắng lợi bằng cách lại gần con cái và i ỉ rên.

Con cái làm như thương nó lắm, liếm láp những vết thương cho nó rồi vểnh đuôi lên, thưởng cho nó một cuộc ái ân trọn vẹn. Nhưng hôm nay nhất định không phải là cuộc sát phạt vì con cái. Cả bọn hướng về một phía chạy thục mạng. Con nào con nấy cong đuôi lên, hùng hục sải những bước dài về phía trước, bất kể trước mặt có gì. Bụi gai, hốc cây, bờ cỏ… chúng bương qua hết. Chúng vừa chạy vừa tru lên những tiếng man dại. 

Thấy bầy chó tróc, Tư và thằng Út vội vã leo lên cây sộp trước lán. Khi bầy chó chạy đã xa, những tiếng tru đã hút vào sâu trong rừng, hai thằng mới lò dò tụt xuống. Đầu óc non trẻ của hai đứa không thể hiểu được chuyện gì đang xảy ra.

Cũng lúc đó trên bãi khai thác khi một cây sao cỡ hai người ôm vừa được hạ xuống thì lão thợ rừng bỗng ngừng tay, dỏng tai lên nghe ngóng. Ở đây cũng nghe tiếng chó tróc hú. Một bầy ong ở đâu bỗng ào đến như cơn lốc. Chúng đeo lên một cành cây, con nọ cắn đuôi con kia thành một chiếc nong lớn nhung nhúc, cựa quậy. Nhưng những con bám vào cành cây phía trên không chịu đựng được sức nặng của cả bầy, chúng lại túa bay đi. Cả bầy ong làm thành một đám mây đen kịt cả một khoảng trời. Sau bầy ong là đến bầy chim. Chúng vừa bay loạn xạ, vừa cất những tiếng kêu khắc khoải. Lão thợ rừng la lên:

- Nghỉ, về bay ơi!

Cả bọn ngạc nhiên. Trời đang đẹp thế này sao lại nghỉ. Có người hỏi lão. Lão phát bẳn:

- Tao biểu nghỉ là nghỉ, hỏi chi nhiều.

Nói xong lão tháo cây cưa ra, vác lên vai, tong tả bỏ bãi khai thác ra về. Những người trong toán cũng vội vã dọn đồ về theo.

Lão về trong lúc Tư và thằng Út đang ngồi sát lại nhau. Trước mặt chúng là hai con trăn đang quấn vào nhau trong một trận đấu vào hồi quyết liệt. Hình như con nào cũng muốn dùng sức mạnh của mình vặn xoắn để giết chết kẻ thù. Hai cái đầu được giấu kín trong thân mình, chỉ thấy những khúc thịt vằn vện xoắn lấy nhau, không rời. Hai con làm thành một đống lu lù ngay trước mặt hai thằng nhỏ. Rồi bỗng vút một cái hai con trăn rời nhau và quăng mình treo vắt vẻo trên hai cành cây. Đầu trăn trên cây còn cái đuôi thì uốn éo ngay sát mặt đất. Rồi từ hai cây này, hai con trăn quăng mình sang cây khác và biến mất giữa ngút ngàn rừng xanh.

Hai thằng gần giống như hai con trăn. Chúng vòng tay ôm lấy nhau như để bảo vệ cho nhau. Thấy những người lớn đã về, chúng mừng hết lớn. Hai thằng tranh nhau kể chuyện bầy chó, chuyện con mễn và bây giờ là chuyện hai con trăn. Giọng chúng còn run, nghe cả tiếng những chiếc răng của chúng va vào nhau lập cập. Lão thợ rừng kêu hai thằng:

- Bay sang lán của anh em. Kêu tất cả tập trung lại đây nghe tao biểu.

Hai đứa nhớn nhác không dám nhúc nhích. Lão thợ rừng nổi đoá:

- Bay có đi không thì biểu?

Hai đứa thấy lão trợn mắt vội vàng dắt nhau chạy đi.

Lán bên, anh em đã về cả. Cho đến lúc này họ vẫn không biết vì sao lão thợ rừng lại bỏ dở cuộc khai thác hôm nay. Người cằn nhằn, người văng tục chửi thề. Bảy người này kết với gia đình lão thành một nhóm. Chỉ có lão là người từ Việt Nam qua làm sơn tràng. Còn lại tất cả đều là người theo gia đình lưu lạc sang xứ Miên này sinh sống.

Người thì cho rằng sang xứ Miên có thể dễ kiếm sống hơn. Người thì chạy trốn khỏi mảnh đất chiến tranh liên miên. Rừng là thứ dễ đục khoét nhất nên mới hình thành những cánh thợ như họ. Ai cũng đã có một gia đình. Gia đình họ sống ven con đường từ Tây Ninh sang Công- pông- chàm. Ở đấy họ có vợ, có con và có một chút gia sản là những mảnh nương chỉ có thể trồng trọt vào mùa mưa.

Người già, người trẻ của gia đình tất cả nhờ vào những ngày lặn lội của họ trong rừng xanh núi thẳm. Nên họ phải nghe lời lão thợ rừng để từ lão thợ rừng kiếm chút ít kinh nghiệm còn tính chuyện nay mai tách đi làm riêng chỗ khác. Lão thợ rừng không giấu giếm chuyện gì. Có gì lão cũng nói hết. Ai hỏi cũng nói. Lão biết lão không thể chui rúc trong rừng suốt cuộc đời được. Mà rừng thì bao nhiêu hiểm nguy. Lão không muốn ai bị sơ xẩy trong lúc sống chui, sống nhủi trong rừng.

Họ tụ về lán của lão thợ rừng. Sao hôm nay lão có vẻ trịnh trọng thế. Lão mang đầy đủ quần áo trên người. Lão ngồi trên một khúc cây. Bên cạnh lão là hai thằng con trai, đứa con gái và Tư Rỗ. Như thế biết ngay rằng lão đang muốn nói chuyện với những người thợ rừng. Lão không nói mà lão kể. Chuyện của lão giống y như một chuyện cổ tích. 

Rằng ngày xưa, con người ta sống chung với muông thú. Hồi đó có những con chim to như con bò và có những con bò nhỏ như con chó. Ban đầu loài người và muông thú sống với nhau hòa thuận lắm. Không ai xâm phạm ai. Nhưng trời sinh ra muôn loài. Có loài ăn thịt, có loài ăn cỏ. Chỉ có loài người là biết ăn cả thịt và cỏ.

Vì thế lâu lâu con người lại lén trời giết thịt một vài con thịt cho bữa ăn của mình. Muông thú giận lắm, mới kiện lên trời. Trời mới phán rằng, trong các loài vật thì loài người là giống gần với trời nhất, nên tất cả mọi loài vật sinh ra là để cho con người dùng. Thật bất công. Loài vật bèn tìm cách sống làm sao cho giống loài người. Chỉ thương cho mấy giống vật ăn cỏ. Nhưng lại thỏa mãn cho giống ăn thịt.

Chúng cũng làm như loài người. Cáo thì ăn thịt gà. Sói thì ăn thịt thỏ, lúc đói ăn thịt cả nhau. Cọp ăn thịt bất cứ con gì ngang qua mũi nó. Sư tử khi cần cũng có thể giết cả hổ làm đồ ăn. Tất nhiên, con người cũng là thứ đồ ăn sang trọng cho lũ thú ăn thịt. Đến cả chó cũng có thể vật cổ con người xuống, cắn đứt cuống họng rồi nhai nghiến ngấu cả xương.

Loài người bị tấn công nhiều nhất. Vì loài người lúc đó chưa biết dùng đến những thứ vũ khí tự vệ. Mà răng thì không bén như răng hổ, vuốt không sắc như sư tử, và cánh tay thì không thể bằng đôi chân của những con thú mạnh mẽ, to lớn. Con người mới kiện lên trời. Trời thương con cháu mình mới họp tất cả muông thú và loài người lại, dạy cho con người làm cung nỏ, gươm giáo để phòng thân. Trời còn ban cho loài người được sống ở những cánh đồng mênh mông trù phú.

Còn loài thú thì trời bắt phải sống ở trong rừng sâu, không được phép đến xứ sở loài người. Chuyện tưởng như thế là xong. Đâu dè, giống người là giống khôn ngoan. Về dưới đồng bằng rồi vẫn cứ thèm thịt muông thú. Những thứ như cung nỏ, gươm giáo mà trời dạy cách làm để tự vệ, thì loài người biến nó thành thứ vũ khí săn bắt muông thú. Loài người lại vào rừng. Họ đi cả đoàn và xem việc săn bắt muông thú là một trò chơi thú vị. Không biết cơ man là thú bị diệt làm mồi cho bữa ăn của con người.

Loài thú giận quá, bèn lại kiện lên trời. Trời không những không bênh loài thú mà còn phán rằng: Ta đã nói, loài người được phép dùng tất cả những gì mà ta tạo ra dưới gầm trời này. Loài thú ngậm ngùi ra về. Chúng chạy trốn thực sâu vào trong rừng để tránh những cuộc săn bắn của loài người. Nhưng chúng càng chạy sâu thì loài người càng lấn tới. Họ phá rừng cho dễ tìm con mồi. Những nơi họ phá ra, họ biến thành đồng ruộng hết để con thú không thể về mà săn họ.

Uất ức vô cùng, nhưng loài thú không có cách nào để đòi lại những vùng đất đã mất. Một hôm, ba chúa tể của rừng là hổ, sư tử và voi ngồi lại với nhau. Những loài thú khác chầu chực để chờ đợi phán quyết của ba vị chúa sơn lâm này. Ba vị chúa tranh cãi rất lâu mà không tìm ra cách để chống lại loài người. Voi giận dữ rống lên. Hổ và sư tử cũng gầm lên. Loài thú ngỡ đó là hiệu lệnh tấn con người, thế là chúng lồng lên xông thẳng xuống những cánh đồng của loài người.  

Loài người khôn ngoan biết thế nào cũng đến lúc đó nên đã rào dậu kỹ càng, vũ khí sẵn sàng. Loài thú bất lực, không còn cách nào khác, quay lại cãi lộn và xông vào nhau mà cắn xé. No say máu và thịt, chúng lại kéo nhau về rừng, chờ thời. Càng chờ thời con người càng khôn ngoan hơn. Mọi giận dữ của muông thú cuối cùng vẫn chỉ là trút lên đầu nhau. Lâu lâu lại có một cuộc giận dữ như thế. Người ta gọi những cơn giận của thú rừng là động rừng.

Kể xong câu chuyện đó, lão thợ rừng mới nói:

- Sắp động rừng đó. Từ hôm qua tao đã ngờ ngợ. Mũi tao thấy có những mùi tanh rất lạ quanh đâu đó. Nhưng tao chưa dám chắc, sáng nay thì rõ lắm rồi. Từ giờ đến chiều, bay phải làm một cái cũi lớn. Không được có một khe hở nào hết.  Hễ động tất cả chui vào đó. Chèn cho kỹ, nếu không sẽ thành mồi cho chúng nó ăn thịt, nghe chưa? 

Không một lời bàn cãi. Cả bọn vào cuộc. Chốc lát sau, họ đã chất ngay giữa nơi đang ở một đống gỗ. Cây nào cũng bằng bắp vế. Những cuộn dây mây cũng sắp thành đống. Họ đào những cái lỗ thực sâu để chôn những cây cột cái. Những cây gỗ được kè lại và cột lại với nhau bằng những sợi mây dẻo quánh. Một cái cũi có thể nhốt bốn con trâu cồ và hơn chục mạng người chóng vánh hoàn thành. Đêm tối mới là lúc đáng sợ. Một ngọn lửa le lói là có thể thành mục tiêu cho những cuộc ném bom của máy bay Mỹ. Mà không có lửa thì chẳng thể xua được thú rừng. Họ phải cắt thêm những cành cây trung quân phủ lên trên, để có phải đốt lửa cũng không lọt ánh sáng ra ngoài.

Đến chiều công việc tạm xong. Bữa cơm chiều diễn ra trong một không khí phập phồng lo sợ. Cơm xong, lão thợ rừng kêu vợ con lại. Gương mặt căng thẳng của lão khiến vợ con không dám hó hé một lời. Mụ vợ thường ngày chao chát nói không ngớt miệng, hôm nay cũng nín khe. Thằng Út nép vào lưng cha. Cô con gái nép vào lưng mẹ. Cả bọn chờ xem lão thợ rừng sẽ nói gì. Trong tay lão là một con rựa sắc như nước. Hình như ngay từ lúc này lão đã cầm trong tay thứ vũ khí có thể tự bảo vệ mình. Lão nói:

- Bay phải biết nếu tao không xích mích với thằng cảnh sát ở quê thì tao không lên rừng làm gì. Con mẹ chúng mày biết nghe lời tao thì tụi bay chẳng phải lòi ra ở chốn rừng xanh núi đỏ này. Bấy lâu nay, tao đã kiếm được khá tiền. Tao đã biểu dưới nhà xây được một căn nhà nhỏ. Tao không còn muốn ở rừng nữa. Ngán lắm rồi. Tao là tao nói hết thảy mọi đứa. Nhưng tao có lời riêng với thằng Tư . Nếu bay muốn thì theo tao về dưới, sống với tao. Bằng không tao gởi bay lại cho anh em.

Tư nghe mà buồn. Đã có lúc Tư chặc lưỡi: đã là phận con hoang thì ở hoang cho rồi. Nhưng nghĩ lại, nếu không có vợ chồng lão thợ rừng thì đâu có nó hôm nay. Lúc này nó không thể rời xa gia đình lão thợ rừng được. Lão thợ rừng vẫn tiếp:

- Chỉ có người giận người chớ đất đâu có giận ai. Chuyện tao với thằng cảnh sát để đó tao lo. Vì tụi bay tao chấp nó. Vả lại, nó cũng đã hết thời rồi. Già ngắc không học hành gì. Thượng sĩ già miết, nghỉ rồi. Mà nó nghỉ rồi có gì đáng sợ nó nữa đâu. Mà nếu cần tao cho nó một dao, tao ở tù. Bay có vốn liếng nuôi sống nhau được rồi. Nhưng tao biết, thù nên cởi chớ không nên buộc. Chắc nó cũng chẳng còn thù tao chuyện ngày đó nữa đâu.

Là lão nhắc đến chuyện ngày xưa ở Phú Khương lão có bén tiếng với một cô gái. Nhưng cô gái lại theo thằng cảnh sát. Lão điên lên xách dao kiếm thằng cảnh sát, chém một nhát rồi trốn biệt lên rừng. Ngày về cưới vợ, thằng cảnh sát cho người bao vây, tính bắt lão trả thù. Nhưng lão lại tìm nó trước. Nó vừa về đến nhà, đã thấy lão lù lù ngồi giữa nhà. Vợ con nó ngồi tím mặt trong một góc. Vừa thấy mặt nó, lão vung dao chém mạnh. Một góc bàn đá bay mất. Lão dơ dao chỉ mặt thằng cảnh sát:

- Tao về cưới vợ. Cưới xong tao đi liền. Mày đừng dở trò. Tao mà có làm sao, bọn thợ rừng bạn tao về cắt đầu này cho chó gặm, nghe chưa…

Thực hiện đúng lời nói ấy, cưới vợ xong, lão mang vợ lên rừng ở.

Hôn nay, lão nói bằng một giọng hiền lành chưa từng có. Từ xưa đến giờ, chưa bao giờ lão nói nhiều như hôm nay. Lão nói đến chuyện làm ăn dưới quê. Nhà cạnh bến sông Cẩm Giang. Buôn trên bờ, bán dưới bến chắc không đến nỗi chết đói đâu mà sợ. Giọng lão đều đều như nói vào khoảng không chớ chẳng nói với ai. Hai mắt vốn dĩ lồi ra thì hôm nay, nó được khép bớt lại. Cả nhà nghe lão nói, mỗi người theo đuổi một tâm trạng khác nhau.

Chiều ập xuống cũng như mọi khi. Ráng đỏ ở đâu đó làm cho rừng sáng thêm chút nữa rồi kéo sập màn đêm xuống. Đêm nay quả là lạ lùng. Suốt một ngày trời, sau những chuyện kỳ dị, không thêm chuyện gì khác nữa. Nhưng khi đêm xuống, lại thấy những sự khác thường. Những con chim ăn đêm hình như không rời tổ. Tiếng những con mang, con mễn mọi đêm choang choác, đêm nay tịnh không thấy. Con nai cũng không tác như mọi đêm. Gió cũng không có. Lặng im như tờ.

Mọi đêm, giờ này cánh thợ rừng có khi còn lai rai bên bếp lửa và can rượu. Nhưng hôm nay, không ai thiết nghĩ đến rượu chè nữa. Họ đã rút về lán, nằm trằn trọc lắng nghe những biến động của rừng. Tịnh không. Sương buông xuống. Những giọt sương rớt lộp bộp xuống mái lán, tạo ra những âm thanh đều đều buồn tẻ. Thỉnh thoảng có tiếng những con trâu lắc đầu xua muỗi, sừng va cồm cộp vào những cây gỗ kết làm thành cũi ngoài kia.

Từ chiều Tư  đã dắt nó nhốt vào trong đó để lỡ có động rừng thì chỉ cần chạy con người thôi. Mọi người thì rúc vào lán, Tư chui vào chỗ của mình cạnh một gốc cây cổ thụ như mọi khi. Nghĩ đến bầy chó tróc, nghĩ đến con mễn, nghĩ đến hai con trăn, Tư cũng thấy sờ sợ. Nhưng nó không quen ngủ chung với mọi người từ hồi nào đến giờ, nên nó vẫn cứ ra chỗ của nó. Nó gác vào trong bọng cây mấy khúc gỗ, chẻ cây le ken lại thế là có chỗ ngủ qua đêm.

Khó ngủ thực. Những ý nghĩ mông lung cứ néo trong đầu nó. Chuyện về rừng động đối với nó giống như chuyện hoang đường. Làm sao lại có thể cùng một lúc những con thú trong rừng điên lên như vậy được. Những ngày ở rừng, Tư  cũng đã nhiều lần theo mấy ông thợ đi săn. Chỉ thấy thú rừng chạy trốn người ta, có thấy con nào rượt đuổi người ta đâu. Tinh ranh như con rắn, quẫn quá nó mới quay lại phóng bừa vào người, rồi sau đó cũng tìm đường trốn biệt.

Nó chưa thấy hổ, chưa thấy sư tử bao giờ. Mang, mễn, nai… đôi khi cũng thấy, nhưng cũng ở xa xa. Vậy mà khi không nó lại nổi điên lên tấn công nhau hay sao. Còn chuyện trong rừng thú này ăn thú kia là chuyện bình thường có gì đâu mà lạ. Mèo rừng đương nhiên phải bắt chuột rừng. Cú mèo không săn chuột thì săn cái gì. Nó thích cái chuyện lão thợ rừng kể, nhưng nó chẳng hiểu ông kể chuyện đó để làm gì. Cuối cùng chỉ làm cho mọi người hoảng hốt thôi. 

Những người bên lán bên kia cũng trằn trọc không ngủ. Mỗi người hình dung ra một chuyện quái dị khác nhau. Họ tin rằng lão thợ rừng cũng chưa bao giờ thấy động rừng đâu. Nhưng không nghe lão không được. Ít nhất thì lão cũng là người ở rừng đã sạn chai cuộc đời. Lão nói cái gì có thì ắt sẽ có. Nhưng có như thế nào làm sao biết được. Gần sáng, tất cả mới lịm đi trong giấc ngủ.

Giấc ngủ đang nồng thì mọi người bị dựng dậy bởi những tràng súng vang lên. Tiếng súng nổ như tiếng sét đánh ngang tai. Tất cả bật dậy. Những tiếng nói lạ tai vang lên. Duôn! Duôn! Duôn!… Họ vọt ra khỏi lán. Tưởng động rừng. Họ nhao tới cái cũi mới làm xong chiều qua. Nhưng, những tiếng súng vang lên. Một người chúi ngã và quằn quại trong vũng máu. Đó là ông thợ thua tuổi lão thợ rừng nhưng lớn tuổi hơn tất cả. Cùng lúc đó, Tư  nghe tiếng lão thợ rừng hét váng lên, tiếng lão như tiếng sấm gầm:

- Chạy đi, Miên cáp duồn .

Tư Rỗ cũng muốn vọt ra, chạy trốn. Nhưng, nó quay phắt lại, chui tọt vào trong bụng cây cổ thụ. Trong ấy có một cái bọng. Mối đã đục ruỗng thân cây và tạo ra cái bọng đó. Nó chui vào đấy và tỳ hai khuỷu tay, đạp mạnh hai chân leo lên giữa thân cây. Ở đó, có một chỗ có thể gác hai chân lên, bám hai tay và tựa mông vào mà trụ vững được. Ở đó cũng có một cái seọ cây đã mục, rớt mất từ hồi nào, tạo ra một cái lỗ có thể quan sát được bên ngoài.

Vẫn những tiếng súng vang lên. Qua cái lỗ tròn ấy, Tư  thấy lố nhố một bầy người. Áo đen, quần đen và khăn xà nút quấn cổ. Chiếc nón tai bèo cũng đen treo sau lưng. Chúng chạy lăng xăng. Súng trong tay, lâu lâu lại làm cái rẹt. Những viên đạn đuổi theo những người đang chạy trốn. Cũng những viên đạn ấy, níu chân tất cả những người thợ rừng. Họ không dám bước thêm một bước nào nữa.

Lũ người áo đen thúc mũi súng vào lưng từng người đẩy họ ra giữa bãi trống. Một bọn khác đang chui vào lán của lão thợ rừng. Thằng Út bị đạp một cái văng ra ngoài, chúi mũi xuống đất. Tiếp sau là con chị ba. Hai thằng xốc nách hai bên, kè cổ ra. Rồi đến thằng anh hai. Anh ta vừa bị đạp, vừa bị những báng súng thúc vào người. Gần như anh ta phải lăn ra theo những cú đạp của bọn áo đen kia. Mụ vợ lão thợ rừng vẫn là kẻ hung hăng. Chắc mụ biết không thể sống được nữa, nên dù bị đánh đập liên tục, mụ cũng tru tréo lên:

- Tụi bay không phải là người. Tụi bay còn ác hơn xúc vật. Đ. má. Tao làm ma, tao cũng lên vật cổ chúng mày. Chó, heo đẻ ra tụi bay. Quân khốn nạn.

Trong lúc mụ chửi thì tụi kia hố hố cười, chúng có hiểu mụ nói gì đâu. Một thằng giật cánh tay mụ toan trói lại. Nó đâu có biết sức mạnh của mụ. Mụ văng mình một cái, thằng kia bắn vọt ra xa. Tiện thể, mụ tung một cú đạp vào thằng trước mặt. Thằng này tránh không kịp, rú lên một tiếng rồi nằm dãy đành đạch tưởng chết. Mụ túm ngay được một khúc cây. Đòn thứ ba của mụ trúng ngay mạng sườn một thằng. Thằng này cũng gục xuống. Một thằng giương súng lên. Nhưng có một thằng khác gạt khẩu súng sang một bên.

Hắn đến trước mặt mụ đàn bà. Mụ đang trong cơn điên phang xuống hắn một gậy. Nhưng thằng này có nghề. Đầu gậy chưa kịp trúng hắn thì hắn đã đánh bật cây gậy ra khỏi tay mụ. Rồi bằng một động tác gọn gàng, hắn gồng lên quật cả đống thịt đồ sộ của mụ xuống đất. Cả bọn xúm lại đè mụ xuống trói quặt hai tay mụ ra phía sau.

Bọn chúng có đến hơn hai chục thằng. Trong lúc mấy thằng loay hoay với mụ vợ lão thợ rừng thì những tên kia đã trói hết tất cả những người thợ rừng lại. Những tiếng súng đã im. Bây giờ chỉ còn những tiếng cười man dại của đám người áo đen kia. Chúng chưa vội  xử những người đã bị trói. Chúng bày ra mặt đất những gì chúng mang theo. Rượu. Chỉ có rượu.

Tư Rỗ nhìn thấy hết. Bụng nó đang run lên. Hai hàm răng nó đang đánh vào nhau lập cập. Hai chân nó ngoặc vào khe hở trong bọng cây mỗi lúc một tê dại và đau nhói. Nhưng nó không dám kêu, không dám khóc. Không dám làm gì hết. Chỉ sợ một tiếng động phát ra là ngay lập tức số phận nó cũng không khác gì những người dưới kia. Chúng lấy ngay những chiếc chén của những người thợ và đổ rượu ra uống. Một thằng bỗng đứng dậy. Tay nó cầm một con dao. Nó đến từng người.

Việc của nó là lần lượt thọc dao vào những người bị trói. Nhưng nó không giết một ai mà chỉ làm cái việc rọc rách tất cả quần áo của họ và túm những mảnh vải rách ném ra một góc. Tội cho cô chị thứ ba. Cô rúm người lại, hai mắt dại đi khi thấy mình lõa lồ trước một bầy đàn ông. Còn mụ vợ lão thợ rừng thì trợn mắt lên. Mụ không thể chửi được nữa vì miệng đã bị nhét chặt bằng một miếng dẻ cắt ngay từ quần áo mụ.

Phía xa hơn một chút, người thợ rừng bị bắn chết vẫn nằm sõng xoài, không ai ngó ngàng tới. Không thấy lão thợ rừng đâu. Không lẽ sau khi hét thất thanh, lão đã nhanh chân chạy thoát. Hay lão đã bị bắn chết trong lán. Tư Rỗ băn khoăn và cầu mong lão thoát khỏi những bàn tay hung hãn kia. 

Bọn chúng hình như đã say men rượu rồi. Đã có mấy thằng cởi bỏ quần áo. Cơn dục vọng đã lên cao, không chịu nổi nữa, chúng xúm lại bên mụ vợ lão thợ rừng. Vài thằng đè chặt chân tay mụ. Một thằng nhẩy lên người mụ. Bỗng nhiên có tiếng thét vang trời:

- A…a…a...!

Lão thợ rừng bỗng từ đâu đó trong rừng vọt ra. Trong tay lão là con dao bén ngọt. Cả bọn đang cơn hăng máu không kịp trở tay. Lão chém xuống thằng đang phủ lên người vợ lão. Đầu thằng này bị chẻ làm hai như trái dừa bị bổ. Lão nhảy dựng lên, vung dao chém xuống thằng chỉ huy. Nhưng dao không trúng đích. Thằng đứng kế bên lãnh trọn lưỡi dao vào vai. Một cánh tay nó rũ xuống.

Lão phạt ngang một dao nữa. Thêm một thằng dính đòn. Lưỡi phát ngang lưng nó khiến nó rống lên đau đớn. Nhưng tất cả chỉ có thế. Gần một chục thằng xáp lại. Thằng xô, thằng đẩy lão té xấp xuống. Chân tay lão không còn cục cựa được nữa. Thằng chỉ huy gầm lên. Nó vớ ngay được con dao của lão thợ rừng vung lên. Một nhát dao chém ngang mặt lão. Nó chém nhát thứ hai, thứ ba, rồi túi bụi. Lão thợ rừng trong chốc lát chỉ còn là cái xác nát bấy...

Cả bọn thấy máu bắt đầu say. Chúng chạy quanh tìm những thứ có thể thay cho khẩu súng. Thằng cây gậy, thằng lưỡi búa. Thằng cây rựa. Có thằng còn xách cả cây đòn xeo. Chúng bắt đầu một cuộc tàn sát man rợ. Chúng coi những người bị trói kia như những cục thịt. Cứ thế chúng bổ xuống. Ban đầu có có những tiếng la, tiếng hét của những người đang bị hành hạ. Nhưng rồi chẳng còn lấy một tiếng rên la. Khi đã chán chê, chúng lấy dao mổ phanh bụng hai người đàn bà ra, rồi rút quân.

Tư Rỗ đã xỉu đi ngay từ lúc chúng thằng chỉ huy chém nhát dao đầu tiên vào lão thợ rừng. Hai chân ngoắc vào khe hở trong bọng cây khiến nó không rớt xuống được. Nó chỉ tỉnh lại khi bỗng nghe tiếng bầy chó tróc nhí nhách sủa. Nó ghé mắt qua cái lỗ sẹo của cây. Một cảnh tượng còn khủng khiếp hơn đang diễn ra trước mặt Tư Rỗ. Bầy chó tróc đang tận hưởng một bữa thịt người no say.

Tư tưởng mình đã chết, tưởng mình đã xuống đến chín tầng địa ngục, thấy bầy quỷ mặt đen, mặt trắng, đầu trâu mặt ngựa đang hành xác con người. Bất lực, Tư  ghé miệng vào cái lỗ hét lên:

- A….

Tiếng “a” lảnh lói vang đi rất xa, và nó thấy bầy chó tróc tạm ngưng chuyện xâu xé, ngóc cổ lên, dỏng hai cái tai nhọn hoắt nghe ngóng. Bầy quạ nghe tiếng hét cũng hoảng loạn bay ào lên, nhưng rồi không thấy gì là nguy hiểm lại xà xuống bu đen trên những ngọn cây. Tư  hét thêm một tiếng nữa. Tiếng hét này mạnh hơn tiếng hét trước, dài hơn và quyết liệt hơn. Tư  nhìn xuống hy vọng lũ chó chạy đi. Nhưng không, bọn chúng không dễ gì bỏ những miếng mồi ngon trước mặt. Trong khi đó, cả chục con khác hướng theo tiếng mà hồng hộc chạy tới. Chết rồi, bọn người Miên kia có thể không nhận ra chỗ ẩn nấp của Tư chớ bầy chó này, nó đánh hơi giỏi lắm, coi chừng…

Quả nhiên, chẳng khó khăn gì, chúng đã nhận ra cái bọng cây có người. Chúng vây lấy cái cây cổ thụ và lóc chóc sủa. Thêm một lần nữa Tư kinh hoàng. Đã có những con chó đánh hơi thấy nơi Tư  đang ẩn nấp. Chúng ào tới bới móc tìm đường chui vào bọng cây. Hết. Hết thật rồi. Tư  lại hét lên. Thà rằng bị người đập chết còn hơn chết trong nanh sắc của bầy chó này.

- Đoàng, đoàng.

Hai phát súng nổ. Không lẽ bọn chúng quay lại? Không phải, tiếng súng này là của những người thợ săn. Tiếng súng nổ rất to, không đanh và không chết chóc như tiếng súng của đám người Miên kia. Bầy chó dưới gốc cây đã bỏ chạy. Tư  lại nhìn ra. Hai người thợ săn đã từng đến lán của lão thợ rừng nhậu chơi vài lần. Ba người còn lại, Tư nhận ra trong đó có một người cầm đầu cánh thợ rừng ở cách họ chừng non nửa ngày đường. Tư tụt xuống. Nó chỉ còn sức bước vài bước ra khỏi gốc cây. Trời đất quay cuồng và Tư té xấp mặt xuống đất lịm đi. Không biết đã lịm đi bao lâu. Khi tỉnh lại, những người kia vẫn đang ngồi cạnh Tư.

Ông thợ rừng lại bên nó hỏi:

- Con tỉnh hẳn chưa?

Tư  lẳng lặng gật đầu.

- Con tỉnh hẳn đi. Rồi ra nhận xác mọi người, để chú còn chôn họ.

Lỗ huyệt đào ngay trong cái cũi mà cánh thợ đã làm bữa qua để phòng động rừng. Những con trâu đã bị bọn kia dẫn đi. Ông thợ rừng kêu mấy anh em đưa những xác người xuống đấy. Ông nói với Tư:

- Bây giờ con nhớ cho kỹ nghe. Con nhìn về hướng mặt trời lặn. Chú sẽ chôn mọi người lần lượt như thế này. Từ trái qua phải là ba con, má con, anh Hai con, chị Ba con và thằng Tư. Tiếp theo là xếp theo thứ. Ông Hai, cậu Hai, hai cậu Bảy, và cuối cùng là cậu Út. Con nhớ, nay mai có về dưới, kiếm người nhà họ lên đây mà hốt cốt mang về.

Tư  hiểu rằng họ chôn những xác người vào cái cũi kia là để tránh lũ chó rừng thêm một lần nữa bới xác họ lên mà xâu xé. Những người thợ của lão thợ rừng đâu có ngờ rằng họ làm cái cũi này chỉ để bảo vệ được cái xác họ thôi. 

*

*    *

Đám tang Tư “người rừng” diễn ra chóng vánh. Một nấm đất mọc lên giữa rừng xanh mênh mông. Thế là xong một kiếp người. Nấm đất chôn vùi vào dĩ vãng tất cả những chuyện của Tư. Sẽ chẳng ai bàn gì đến chuyện của lão nữa. Rừng vốn tồn tại như vậy. Mọc thêm một cây hay chết đi một cây thì rừng vẫn cứ như vậy.

Ngay sau đó, đồn biên phòng Tân Hoà phải tổ chức một tổ chốt ngay tại cái lán của Tư ”người rừng” ở. Bấy lâu nay Tư người rừng ở đây, có một góc rừng yên tĩnh.

Ba thiên thần

08/10/2012

1.

Hắn bỗng dưng thành người nổi tiếng mà không cần bất kỳ một công nghệ lăng xê nào.    

Danh tính của hắn vang khắp ngõ ngách khu hắn ở. Từ mụ Lại đóng than văng sang nhà bà Lưu nấu rượu, rơi xuống chai lão Nhẽo ma men và bắn đến tai ông thu tiền điện nước. Và thông tin về hắn còn bò loằng ngoằng đến đâu nữa thì hắn chịu, không thể biết. Hễ hắn xuất hiện ở đâu là người ta đón chào bằng cái len lén chỉ trỏ. Nhà hắn mấy bữa nay như có đám.

Vợ hắn rầu rĩ, thịt ăn không có, có thịt treo. Hắn không ngờ mình làm thay đổi cả một thói quen cố hữu của vợ là không bao giờ đeo khẩu trang nhưng bây giờ cứ ra khỏi cửa là bịt kín như Ninja, cứ như thể vợ sợ ra đường người ta chiêm ngưỡng mất cái dung nhan xám sạm. Hai thằng con vốn ngổ ngáo của hắn buồn ra mặt, thui thủi chơi trong sân.

Lũ trẻ hàng xóm đã bị “cấm vận” không được chơi với hai thằng con nhà hắn bởi sợ nhiễm độ “máu lạnh” từ thằng bố nó. Hắn ngồi trong nhà bắn thuốc lào liên tục. Chiếc điếu không kịp nguội. Mùi khói ám quanh nhà. Hắn ngửa cổ lên trần nhà nhìn trơ trơ. Cảm giác lâng lâng khó tả. Thiên hạ ngoài kia sẽ thêu thêu dệt dệt thêm khối chuyện về hắn. “Miệng Giếng Đáy, cáy đồng hoang…”

Vợ hắn đi làm về, tuột giầy, tuột tất, tuột khăn, tuột khẩu trang. Không thèm ngó đến hắn đi vào bếp. Im lặng. Dấu hiệu cho hắn thấy đài phát sóng của nhà hắn bị hỏng hoặc mất sóng. Vợ hắn giống con vịt, kêu suốt ngày không sao nhưng cứ im thít coi như là ốm.

- Mẹ nó không đi chợ à?

Im lặng.

- Mẹ nó không nghe thấy tôi nói gì à?

- Ông đi mà đi. Tôi không đi…

Hắn bực mình thở dài. Tiếng trả lời nặng chịch hắt ra từ cái bụng chứa đầy tức tối. Thà vợ hắn cứ xa xả một trận cho đã mồm xong rồi thôi. Đằng này…

- Mẹ nó đi chợ đi, không bọn trẻ không có cái ăn.

Im lặng. Lại là một chuỗi im lặng. Hình như tiếng nước dội ào ào trên người vợ trôi mất là lời hắn nói hay sao mà vợ không thèm đáp trả. Ngực hắn như bị bóng đè, nặng, tức, mà không kêu lên nổi. Hắn với tay lấy chùm chìa khoá và cái áo vắt ở ghế, đứng dậy phóng xe ra cổng.

Chiều nhập nhoạng tối. Những con bọ trong không khí bay nhốn nháo ngang mặt đâm sầm cả vào mắt hắn. “Của nợ”  Hắn dụi mắt rồi chửi. Bây giờ hễ ra đường là phải đối mặt với nạn bụi, nạn xe, nạn người, cứ hầm hập đổ trên mặt đường đến khốn khổ. Mấy thằng bạn hắn bảo hắn hay “đeo giầy tây đội mũ phớt”, không thèm biết đến ai. Nhưng ra đường mà không trang bị kín thì sớm muộn cũng rỗ phổi mà chết.- Anh Vững! Cho em ra ngã tư cái.

Hắn nhìn đứa vừa gọi tên hắn lắc đầu:

- Anh không chạy đâu. Không có mũ nguy hiểm lắm. “Cớm” mấy hôm nay làm riết, xe ngoài ngã ba bị bắt đầy, có thằng cố tình chạy, đâm vào ông già gây tai nạn.

- Khiếp! Hôm nay anh lại chê tiền kia đấy.

- Không phải. Anh đang có tý việc phải đi. Thế nhé.

Hắn vội vã từ chối khách, phóng vọt đi. Tâm trạng hắn rất hỗn loạn, họng hắn có cục nghẹn chèn ngang rất khó chịu. Hắn tìm ra cách để thổ ra ngoài nhưng không được. Vì thế nó cứ điềm nhiên phình to trương nở, lấn lướt khắp cơ thể khiến thể trạng của hắn buồn bực, mệt mỏi. Hắn cũng chưa biết đi đâu bây giờ nhưng hắn cần khuây khoả để trấn tĩnh. Giá như cuối con đường này có một lối thoát…

2.

Ba ngày trước, trong lúc hắn ngồi đợi khách ở cổng bệnh viện thì có một người đeo kính đen cắt đầu húi cua, dáng phương phi, mặc quần thô nhiều túi và chiếc áo cắt sát nách trông rất cao bồi đến vỗ vào gương xe của hắn hỏi “Ông có chở hàng không?”

“Có” – Hắn đáp.

Anh ta gật đầu nói đợi lát. Một lúc sau, anh ta mang đến cho hắn một chiếc hộp xốp và một địa chỉ kèm theo số điện thoại ghi dưới cùng. Anh ta trả tiền mặt luôn, không hề so đo, mặc cả.

Hắn vui vẻ chằng lại thùng hàng cho chắc chắn và nổ máy, lên đường. Hắn đã hành nghề này hơn chục năm nay. Sớm ra thì hắn chở những thùng hoa quả từ chợ mối đến tất cả các chợ nhỏ có con buôn đặt hàng. Tầm buổi buổi thì nhập cư với đám xe ôm ở cổng bệnh viện. Cái “cần câu cơm” của hắn cũng có hôm ốm dị phải nằm xưởng. Hắn thương nó, vì cuộc sống của gia đình hắn mà nó phải oằn mình cõng những thùng hàng khổng lồ. Nhiều khi hắn nghĩ người cũng chỉ là một thứ hàng hóa nên chở hàng hay chở người giống nhau cả, miễn sao bảo đảm an toàn, đón, trả đúng nơi hẹn là có tiền để tối về đóng thuế cho vợ.   

Và hắn đã cáu bẳn vì tìm cả tiếng đồng hồ vẫn không thấy cái địa chỉ được ghi trên thùng xốp. Hắn chạy ngược chạy xuôi hỏi khắp nơi, chỗ này chỉ chỗ kia, rối rắm như một mớ bòng bong. Hắn bấm số gọi điện thoại liên tục và liên tục nhận được từ phía đầu dây bên kia nhả lại tiếng nghe khô khốc như đấm vào nỗi bực tức của hắn “thuê bao của quý khách hiện đang không liên lạc được…”

Hắn điên tiết chửi tục. Giữa trưa nắng chang chang. Hắn nhận ra mình đang đứng là một con đường nhựa gần nghĩa địa. Một vài ngôi nhà lèo tèo nằm rải rác ven đồi. Có cửa hàng bán tiểu sành xếp chồng cao với đầu rồng được trang trí đỏ, vàng quay ra làm hắn lạnh cả gáy. Bụng đói, miệng khát. Chưa bao giờ hắn rơi vào trường hợp này. Thường thì khi nhận hàng và địa chỉ  rồi hắn làm việc qua điện thoại là ổn ngay.

Chưa bao giờ có địa chỉ chết, chưa bao giờ hắn bị đem ra đùa giỡn và chưa bao giờ có khách hàng gửi mà không cần nhận. Hắn tức tối bởi cảm giác bị coi thường. Nghĩ lại, hắn thấy cái mặt thằng cha cắt tóc húi cua cứ gian gian thế nào? Cái hộp xốp càng trêu ngươi hắn. Hắn nhìn chằm chằm vào thùng hàng và bắt đầu nghi ngờ. Nhìn sơ qua thì nó được dán băng dính rất kỹ lưỡng và bảo đảm. Lẽ nào người nhận cuối cùng là hắn???

Hắn chậm rãi tháo chiếc hộp xuống và liều lĩnh giật tung lớp băng dính ra. Vừa bật nắp, hơi lạnh đã bốc lên mặt hắn ngùn ngụt. Ba chiếc khăn mỏng loang máu cuộn nằm xộc xệch. Sự tò mò khiến hắn không thể chờ đợi lâu hơn. Hắn nín thở mở gói và hắn kinh ngạc, ngã ngửa. Những hài nhi người bằng bắp tay, dưới ánh nắng mặt trời cứ ửng lên tươi hồng.

Hắn vội vàng ngồi dậy, lập cập đậy nắp thùng xốp lại, mắt nhắm nghiền, toàn thân nổi gai ốc. Hắn chợt nhớ đến một hình ảnh ngày bé, mẹ hắn dọn nhà và lôi trong góc ra những con chuột chưa mở mắt. Em trai hắn bạo tay nhón một cái đuôi nối với thân hình đỏ hỏn, nhũn thĩn đang giãy giụa dí dí vào mặt hắn. Hắn sợ chạy quanh nhà. Cuối cùng bật khóc mới thoát thân.

Mồ hôi vã đầm đìa. Hắn bê thốc chiếc hộp lên xe, rồ ga phóng như thể nhanh còn kịp.

Trở lại cổng bệnh viện, hắn cắp nách chiếc hộp chạy lên khoa sản kiếm tìm. Hành lang dài rộng, hun hút những ngõ ngách, phòng khám. Những khuôn mặt bệnh nhân chằng chịt lấy không gian càng khiến khả năng đoán nhận của hắn rối bời. Một vài người nhìn hắn tò mò. Chân hắn đã mỏi rã.

Hắn đã đi tất thảy là cả ba khu A, B, C. Cả ba dãy nhà chót vót mà cuối cùng, cái hắn tìm thấy chính là hơi thở của mình. Hắn ngồi phịch xuống ghế ở hành lang, thở dốc.

Hắn thất thểu ôm chiếc hộp về, người rũ như tàu lá. Tâm trí hắn bấn loạn. Hắn đốt thuốc liên tục để lấy lại bình tĩnh. Hắn đến bãi rác thải. Vứt chiếc hộp xuống. Hắn quay xe chạy thật nhanh. Được một đoạn thì hắn dừng lại nghĩ. Dấu vân tay hắn đã in trên đó, và hắn sẽ được mời lên đồn công an. Nhưng cũng có thể chả ai thèm để ý đến cái thùng xốp giữa vô vàn những thứ rác vứt ngổn ngang nơi bãi rác. Rồi tất cả sẽ được đưa vào máy nghiền nát thành phân hữu cơ. Ôi! Như thế thì những sinh linh bé bỏng sẽ chịu thêm một nỗi đau không kém gì lúc người ta lôi chúng từ dạ con mẹ chúng. Bất giác hắn thấy buốt cả ngực.

Hắn choáng váng đầu óc. Nắng vẫn chõ xuống đỉnh đầu hầm hập. Chiếc hộp vẫn bơ vơ cạnh đống rác thải đang bốc mùi khăn khẳn. Hắn rũ rượi đứng nhìn. Hắn lại nhấc chiếc hộp lên xe. Lần này, hắn nói cụt ngủn.

“Tội nghiệp chúng mày! Tao không đành…”Đám sỏi dưới chân lạo xạo khiến chính hắn cũng giật mình thấy ghê lạnh sống lưng, cứ như thể hắn đang đi vào cõi nào thăm thẳm. Cây dại trên đồi quấn quýt nhau mọc từng chùm xanh um, điểm xuyết bằng những cánh hoa sim tím biếc. Những bụi cây le mọc thẳng, tán vươn dài, sắc lẹm như kiếm. Hắn va phải một tàu, máu đã rớm ở tay. Bây giờ, đang độ giữa hè, ban ngày nắng cháy gay gắt tưởng chừng những chiếc lá cũng muốn phồng lên.

Hắn dùng xẻng lật cạch từng miếng đất khô, cố trấn tĩnh mình nhưng vẫn chưa hết sợ, được vài phút hắn lại ngước mắt dáo dác nhìn quanh sợ ai đó bắt gặp. Mọi việc diễn ra rất khẩn trương và nhanh chóng. Hắn đặt từng đứa trẻ xuống vị trí trí của nó miệng lầm rầm khấn. Khi lấp đất, hắn cố đắp cho có ngọn thay những tấm bia. Xong việc, hắn cúi đầu như một lời sám hối:

“Tao đã tận nghĩa với chúng bay. Mong rằng từ nay về sau không ai oán hận ai. Tao mong chúng bay sớm được siêu thoát”.

Gió hắt lại tiếng người vẳng từ xa. Tiếng gọi liên tục tên một loài chó. Hắn núp mình xuống bụi cây bò thật khẽ để ra khỏi quả đồi. Một ngày không may mắn với sự kiện đáng nhớ. Hắn cảm thấy kiệt sức. Suốt đêm đó, hắn sốt cao và mê sảng. Hắn mơ thấy mắt của từng đứa trẻ rơi ra ngoài, lăn lông lốc xuống chân đồi. Hắn mải miết đuổi theo nhặt lại nhưng càng đuổi nó càng lăn nhanh hơn kéo theo sau là vệt máu tươi in dấu trên cỏ.

Hắn bật dậy, mồ hôi ướt đìa. Hắn vội lao xuống bếp tay gạo tay muối vãi từ sân ra đến cổng miệng lập bập “chuyện lành thì ở, chuyện dữ thì cút xéo ngay, cút xéo ngay”. Ném xong hắn mới nhận ra, bóng đêm vẫn đen ngòm trong khi những lần khác hắn có mơ thường để khi trời sáng mới đuổi vía độc. Vợ con hắn cuống quýt dìu hắn vào nhà và nhét vào miệng hắn hai viên an thần. Hắn ngả mình xuống giường, khắp người nổi gai. Hắn chẳng dám nói với vợ một lời. Nói ra chắc vợ hắn sẽ tá hỏa mượn thầy mượn thợ về giải hạn.

3.         

Khi hắn cảm thấy sức khỏe tạm ổn, ngồi dậy đi lại trong sân thì lắng nghe thấy tiếng xì xào nhà hàng xóm. Qua kẽ lá cây dạ hương hắn nhận ra đám đàn bà túm tụm nói chuyện, mắt liếc liên tục sang phía nhà hắn. Linh cảm có chuyện chẳng lành, hắn vội vã lên đồi. Đến nơi, chao ôi! Một nấm mồ bị đào bới xuống tận cùng. Kiểu đào bới của một loài thú. Hắn ngồi sụp xuống rưng rưng. Sao lại đến nông nỗi này?

Hắn cảm thấy tội lỗi. Chính hắn đã gây nên oan nghiệt này, giá mà lúc đào huyệt hắn đào sâu hơn chút nữa, giá mà...

“Bắt quả tang rồi nhé!”

Hắn giật mình quay lại theo phản xạ tự nhiên. Bằng mắt, đám người sau lưng như muốn chộp lấy hắn, băm hắn làm trăm nghìn mảnh nhỏ. Trong đó có ông tổ trưởng, có đám đàn bà khi nãy và đám trẻ hiếu kỳ. Tất cả đang giáng một bản án xuống đầu hắn.

“Anh nói đi. Dưới đây là cái gì hả?”

Hắn không trả lời ngồi ngây như mất hồn.

“Ai đã thuê anh làm việc này? Anh được bao nhiêu tiền?” – Giọng ông tổ trưởng.

Hắn vẫn im lặng. Trong đầu hắn lúc này hiện lên hình ảnh hàm răng sắc nhọn đang giằng xé đứa bé, nó nhai, nó nuốt, miệng nó be bét máu…

“Ai đã thuê anh làm việc này?” – Ông tổ trưởng lừ mắt hỏi lại.

Hắn nhìn trân trân xuống cái hố dưới đất, giọng khàn đi:

“Không ai thuê tôi cả. Tôi tự làm... ”

“Thế ông bị điên à? Sao tự dưng lại rước ma về ám làng ám nước hả? Sao không mang về sân nhà ông mà chôn lại chôn trên đồi” – Bà Thêu lên tiếng căn vặn.

“Đồi này của nhà bà à?” – Hắn gắt lên trả đũa.

“Anh nói thế không được. Đồi không của nhà ai nhưng anh không được mang ma mãnh về đây làm ảnh hưởng đến cộng đồng.”- Giọng một gã thanh niên.

 “Chẳng có ma mãnh nào sất. Ông đã gặp ma bao giờ chưa? Nó mặt tròn hay dài? Có tóc hay đầu trọc hở? Toàn tuyên truyền nhảm nhí. Có mà ma đầu đen.” – Hắn vặn lại. Gã thanh niên nổi đóa túm lấy cổ áo hắn. Mọi người ùa vào can lôi cả hai ra.

“Tốt nhất là ông phải chuyển đi. Không thể tùy tiện muốn chôn xác ai cũng được. Hôm nay chôn trẻ con, ngày mai ông chôn xác người lớn à?” – Một giọng đàn ông khác chen vào.

“Đúng đấy! Đúng đấy!”

Hắn trừng trừng nhìn khắp thảy bằng tia mắt sọng huyết, chỉ thẳng tay xuống cái huyệt bị đã bị bới móc:

“Đấy! Đã có người moi nó lên rồi đấy! Còn hai xác bên cạnh, ai muốn thì đào nốt thì làm đi.”

Hắn gạt đám đông phăm phăm bỏ đi.

“Đứng lại ông Vững! Đứng lại!”

Hắn chỉ biết thốt lên lời kêu gào uất ức. Hắn không thể nói ra sự thật. Nói ra chắc gì người ta tin. Mọi người đã nhìn hắn với một con mắt khác. Ánh mắt ghê tởm, khinh mạt và rẻ rúng. Hắn bước đi, ảo giác chập chờn trước mặt hình ảnh thân thể bị xé rách nhừ, đôi tay bé tí xíu cố vờn  lấy hắn để cầu cứu. Hắn thấy mình ngộp thở…

4.

Hắn bị triệu tập để họp tổ dân. Cuộc họp thu hút rất nhiều người tham gia. Thậm chí, cả những người không thuộc tổ hắn cũng thập thò ngoài cửa sổ hóng chuyện. Trước khi hắn đi họp, vợ hắn nói dỗi:

“Anh làm sao thì làm. Cả xóm người ta không thèm nhìn mặt mình. Con mình không đứa nào cho chơi… Thế này thì sống làm sao?” – Giọng vợ hắn như sắp nhũn ra.

Hắn không tin vào tai mình. Lẽ nào hắn bị tẩy chay? Xét cho cùng thì hắn nhân đạo hay vô đạo đức? Hắn tự nhủ, mình làm vì cái tâm, mặc những thị phi. Hắn an ủi vợ:

“Mình cứ yên tâm đi. Đâu sẽ có đó. Người ta không nghe tôi chẳng nhẽ mình cũng không tin tôi sao?”

Vợ hắn đáp lại hắn bằng một hơi thở dài. Khi mọi người túm vào chỉ trích bằng lời lẽ thô bạo, hắn ngồi im như tấm bia chịu đạn, không giải thích một lời nào. Chỉ khi ông tổ trưởng đưa ra cho hắn một tờ giấy viết sẵn, hắn mới đọc qua rồi đứng phắt dậy:

“Tôi không ký. Những gì viết trong đó hoàn toàn sai sự thật. Tôi không nhận chôn thuê xác trẻ con. Tin hay không thì vẫn ở mọi người. Tôi đã bị nó lừa… Không còn cách nào khác, tôi mới phải mang về đồi chôn.”

Cả cuộc họp xôn xao.

“Lời nói không ăn khớp với nhau. Bữa trước nói tự làm, không ai thuê. Bữa nay lại nói bị lừa.” – Một người lên tiếng.

“Bây giờ anh có hai sự lựa chọn. Một là ký vào biên bản, hai là chuyển hai cái mộ còn lại đi nơi khác. Anh tính sao thì tính.”- Ông tổ trưởng chốt hạ.

Hắn ngồi phịch xuống ghế chao đảo như người bị sóng đánh. Đến nước này thì hắn chịu thua. Hắn không thể làm tổn hại đến hai cái mộ còn lại. Chúng đã về với đất, được đất đón nhận, không lẽ nào lại đào lên. Hắn ngồi chây ì ra một lúc mắt nhìn chằm chằm vào tờ biên bản. Đầu hắn muốn nứt toác làm hai nửa. Hắn phải lựa chọn. Hắn nhớ ra cuộc họp này rất quan trọng với gia đình hắn. Hắn nhớ tới cái nhìn lo lắng chín mòng trong mắt vợ…

Cuối cùng, hắn buộc lòng kí vào biên bản và cam kết rằng không bao giờ được tái phạm nữa. Hắn ký xong rồi thất thểu ra về.

Đêm mịt mùng giăng kín. Hắn nhìn về phía đồi băn khoăn không biết lũ trẻ đã ngủ chưa? Có còn đau không? Tội nghiệp những hình hài bé bỏng. Cuộc đời người ta diễn ra vài chục năm nhưng lại có những cái chết khi cuộc sống chưa bắt đầu.

Khuya. Hắn bước vào một quán ven đường, tay nhặt bó hương và một ít tiền vàng. Chủ quán nhìn hắn lạ lẫm. Hắn không nhìn lại, bước theo ánh đèn leo lét từ chiếc điện thoại men theo lối đi lên đồi. Đốt hương xong, hắn chắp hai tay lầm rầm khấn vái. Mắt hắn nhìn chằm chằm vào những đốm lửa đỏ đang chầm chậm cháy tụt dần. Dẫu chúng  không cùng một mẹ sinh ra nhưng khi về với đất cùng nhau, chúng sẽ là anh em. Một mai da thịt chúng hoà quyện với mảnh đất cằn cỗi này, những cỏ cây dại sẽ vươn thẳng chồi xanh mà lớn dậy. Hắn sẽ chờ ngày đó. Hắn ngồi xuống hoá tiền vàng. Ánh lửa thổi bùng quầng sáng ấm áp. Tận đáy lòng hắn mong chúng sớm siêu thoát. Những gì hắn có thể làm, hắn đã làm. Hắn thì thầm khe khẽ:

- Hãy tha thứ lỗi lầm cho người lớn, các con nhé…

Chợt mắt hắn mở to kinh ngạc. Hắn ngỡ mình đang mơ. Hai thiên thần chấp chới bay lên. Chúng mỉm cười với hắn. Đôi môi nở hé như cánh hồng. Hắn nhìn quanh quẩn chờ đợi thiên thần thứ ba xuất hiện. Bỗng đám lân tinh lấp lánh quây tròn lấy chân hắn như quấn quýt mừng vui. Hắn chìa tay ra, chúng bay lên đâu lại ở đó trong giây lát rồi bay lên, theo hai thiên thần. Hắn cười giữa đêm tối. Hắn tin những thiên thần đang bay vào cổng thiên đường.

Cá hồ Văn

28/08/2012

Năm mười sáu tuổi, trong chuyến đi dã ngoại cùng các bạn lớp cấp III, tôi tình cờ quen một ông già. Chúng tôi cắm trại trong một rừng bạch đàn mới trồng, mỗi cây chỉ cao hơn chúng tôi độ một cánh tay, cách hồ Văn chừng vài trăm mét. Ngay bữa đầu tới đã nhận thấy ngay mép hồ, bên tay trái của trại, thấp thoáng dáng ông già ấy. Buổi chiều nhìn ra, thấy phía đó loang loang sáng, có đứa còn kêu chói mắt. Mặt trời lặn xuống để lại mảng hồ đỏ rực, lúc bấy giờ mới hay, màu sáng óng ánh ấy là mớ tóc bạc của ông.

Suốt ba ngày, bất kỳ khi nào nhìn ra hồ, cũng thấy ông già ngồi đó. Mớ tóc bạc trắng xóa thả dài sau lưng. Tấm lưng cong gầy cần mẫn, dáng ngồi lặng phắc như tượng. Thi thoảng mới thấy ông già nhấc cần lên. Có lúc được cá, có lúc không.

Hồi ấy, tôi còn sợ ma. Buổi đêm, bọn bạn hù hét xung quanh, tôi cứ vo tròn trong chiếc chăn mỏng, đầu gối lên cuốn sách dày mang theo, nhắm tịt mắt. Mùa thu, đêm trên hồ lạnh, sương xuống ướt đẫm cả lán trại. Đống lửa đốt lên chỉ được một lát lại tắt ngúm. Sương dày đổ thành hạt, rơi lắc rắc như mưa tới lúc tan hết, rồi lại rủ nhau ở đâu quay về, mù mịt, đứa này ngồi cạnh đứa kia tay nắm lấy nhau còn chưa dám chắc, vì không nhìn nổi mặt nhau.

Buổi sáng thứ ba ở trên hồ, bạn bè rủ nhau leo núi, tôi ôm mớ chăn lạnh ho khù khụ, lắc đầu chịu không đi nổi. Đêm thì sương đẫm là thế, mà khi mặt trời lên, cả không gian như một lò hơi, nóng rừng rực và đặc quánh. Cảm giác chỉ chui ra khỏi trại sẽ bị thứ nắng ấy thiêu đốt. Ngồi mãi, tới gần trưa thì vừa mệt vừa đói, đành đi ra ngoài, tới đống củi đêm trước đốt, kiếm cành cây cời ra từ trong đống than những củ khoai lùi từ tối qua. Vừa bóc, vừa ăn vội vàng. Tới lưng lửng bụng mới về trước cửa trại, nhìn xuống hồ, lại gặp ông già bữa trước.

...

Người ta đồn, ở hồ Văn có một loài cá lạ. Loại cá này thường nặng tới chục cân, đen trũi và chắc nịch, lại tinh khôn như người. Nhiều người đi câu đã thử đấu trí với nó, nhưng đều thất bại. Nó rỉa mồi rất giỏi, không một chớp động, không một sủi tăm, khiến những chiếc phao tinh nhạy nhất cũng không bập bềnh chút nào. Ngay cả những tay câu dày dạn kinh nghiệm cũng bị nó rỉa hết sạch mồi mà không hay. Có tay câu lâu năm, quần với nó cả tháng trời, đến nỗi đổ bệnh mà vẫn không bắt được nó. Cá này lạ, thường khi rỉa sạch mồi, mới bắt đầu động tăm, như chọc tức. Cánh thợ câu, thường lúc nào cũng tới hồ với một hộp thức ăn to, nhưng lúc về thì rỗng. Thi thoảng có người nhìn thấy thân mình đen trũi của loài cá ấy khẽ nguẩy lên như trêu ngươi rồi biến mất.

Mấy năm câu ở đây, tôi chưa từng được một lần gặp cá hồ Văn. Sáng sớm, tôi tròng những chiếc cần, một chiếc túi cao su đen có đựng những hộp mồi phía sau chiếc Peugeot rồi đi. Có hôm tối mịt mới về. Cũng có khi đi cả năm bảy ngày trời, hoặc cả tháng. Lúc đi xa, dựng ngay một cái bạt nhỏ tại chỗ câu, đủ che mưa tránh nắng. Xe thì vứt lăn lóc đó, thức ăn chỉ cần nước và bánh mỳ là đủ.

Chiếc Peugeot này của bà xã mang về sau mấy năm đi lao động tại Đức. Hai vợ chồng cố mãi nhưng không có con. Nhà vắng, vợ tôi gợi ý nuôi mèo. Lúc đầu chỉ một hai con, sau những lứa đẻ, số mèo đông dần lên, thành cả bầy đàn ấm cúng, đủ loại, đủ màu, con trắng, con đen, con tam thể. Con nào con nấy đều béo mượt, hai mắt tròn xoe, lúc nào cũng ngơ ngác nhìn hai ông bà chủ như một lũ trẻ. Mùa đông, chúng tôi ngồi trên đi-văng, lũ mèo thi nhau tìm cách trèo vào lòng ông bà chủ, rồi bám lên ngực, chui vào nằm dưới tay đợi những cái vuốt ve âu yếm, nhẹ nhàng. Cũng phần nào đỡ buồn.

Chiều nào, tôi cũng đèo vợ trên chiếc xe Peugeot ra chợ cuối làng mua một ít cá tươi, loại cá thiều vảy lấp lánh bạc hoặc những con rồng rồng vừa lớn, mỗi con chỉ nhỏ bằng một ngón tay. Vợ tôi bao giờ cũng chọn mớ cá tươi còn nhảy, đem về rửa sạch, rồi tự tay làm cá cho lũ mèo ăn. Bao giờ bà ấy cũng bỏ đầu, bỏ đuôi, chỉ giữ lại phần giữa ngon lành nhất. Rồi bà bắt chước tiếng của lũ mèo, kêu “ngheo ngheo ngheo” thật dịu dàng, đợi cho đủ gần chục con tới gần, mới lấy cá tươi bày sẵn ra. Những thân cá không đầu không đuôi, vảy bạc lấp lánh, còn rướm máu tươi. Lũ mèo hấp tấp chui ra từ mọi xó xỉnh, như bầy con nhỏ, tiếng kêu vừa như chành choẹ, vừa líu ríu tranh nhau như lấy lòng chủ. Trong khi lũ mèo ăn, bà ấy nhìn chúng với cặp mắt hiền từ của người mẹ, tràn đầy yêu thương, cho tới khi bọn chúng ăn no, liếm mép và vác những cái bụng khệ nệ nối đuôi nhau trèo lên chiếc đi-văng trong phòng khách.

Lũ mèo được chiều chuộng thường rất lười nhác. Chúng chỉ thích ở gần ông bà chủ, nằm suốt ngày trên đi-văng hoặc cuối giường, và cứ thế béo mẫm, tròn xoe như những cục lông nhiều màu.

Một ngày nọ, hai vợ chồng có việc phải về ăn giỗ ở quê, định ở lại qua đêm mà bà ấy không đồng ý vì lo lũ mèo bị bỏ đói. Chập tối về đến nhà, bật điện lên thì trước mắt chúng tôi là một cảnh tượng hãi hùng. Những con mèo đã biến mất, khắp sân là các vệt máu loang lổ đang dần đen tím lại và những nhúm lông đủ màu vương vãi, dính bê bết. Vợ tôi gào tên từng con một, nhưng không một tiếng “ngheo ngheo” quen thuộc nào đáp lại. Hai vợ chồng cầm đèn pin đi soi khắp sân tới nửa đêm, mới tìm được con mèo lai Xiêm lông trắng, bé xíu mới mang về nuôi được vài tháng đang run cầm cập nằm nấp sau chậu hoa đồng tiền. Tiếng “ngheo ngheo” của nó thảm thiết như tiếng đứa trẻ khóc mẹ. Vừa òa khóc nức nở, vợ tôi vừa ôm con mèo nhỏ trong tay, vỗ về. Nó vẫn không ngừng run rẩy. Khi tiếng kêu yếu ớt của con mèo lịm tắt, thì cơn run truyền sang vợ tôi. Ngày hôm sau, bà ấy không ăn gì, ngồi ôm riết con mèo trong tay trên một góc ghế đi-văng. Cả buổi sáng, tôi xách nước vừa dội vừa cọ mặt sân, vẫn nghe tiếng bà nấc nghẹn từng hồi trong nhà. Mãi tới gần trưa, mảnh sân mới sạch sẽ phần nào, tuy mùi máu tanh vẫn còn vương vất. Tới buổi chiều, không còn thấy con mèo run nữa. Nó đã chết trên tay vợ tôi.

Cả tuần sau khi chết, con mèo vẫn nằm trong tay bà ấy, không có cách chi lấy ra được. Đến khi bà ấy kiệt sức, tôi mới có thể tách những ngón tay với những đầu móng dính máu bầm đen của bà khỏi bộ lông khô xác của nó. Nửa tháng sau, vợ tôi mất sau những cơn động kinh dài, thuốc thang kiểu gì cũng không khỏi.

Tôi bắt đầu đi câu từ dạo đó. Nhiều buổi chiều về, không dám bước chân vào nhà.

Một lần lang thang đi câu cùng vài anh bạn trẻ, vô tình biết hồ Văn. Hồ Văn nằm dưới chân núi, chênh chếch là nghĩa trang của xóm gần đó, xung quanh yên tĩnh, êm tịnh, là không gian lý tưởng cho dân câu chúng tôi.

...

Tôi lấy cuốn sách mang ra cửa trại ngồi đọc. Tàng cây bạch đàn phía trên đầu chỉ đủ một chút bóng râm mát. Chui vào trong trại tránh nắng thì lại thấy oi ả, mồ hôi đổ ra ròng ròng. Ngồi ở cửa trại, hóng gió từ phía hồ thổi về là thích nhất.

Ông già vẫn ngồi lặng phắc như ngày đầu chúng tôi tới. Lắm lúc, tôi có cảm giác như ông đã biến đâu mất, chỉ còn lại bên hồ kia một dư ảnh mà thôi. Cũng có khi, tôi khẽ rùng mình, tưởng tượng, lỡ may ông chết giấc lúc nào rồi mà không ai hay. Hoặc nhất định ông đã chìm vào một thế giới nào khác, không còn nghe thấy những tiếng động, âm thanh, không cảm thấy sức nóng thiêu đốt của mặt trời và bầu không khí oi nồng này nữa.

Cuốn sách được mở ra, vài trang được đọc, rồi lại bị đóng vào. Trí tò mò thôi thúc khiến tôi không thể rời mắt khỏi hình ảnh ông già đang ngồi câu trước mặt. Mái tóc dài bạc trắng vẫn lóa lên dưới ánh mặt trời.

Chợt tôi thấy ông nhúc nhích. Không, đúng ra là bàn tay ông cử động. Bàn tay đang vội vã giật cần câu, rồi cả tấm lưng rướn lên phía trước và đầu ông ngẩng cao. Mớ tóc bạc khẽ bay lên, lóa sáng dưới nắng trời. Chói mắt quá. Tôi ngã nhẹ ra phía trước. Cảm thấy đầu đập xuống đất, choáng khẽ. Định ngẩng lên mà không đủ sức. Định quay người sang trái, quay người sang phải, định cử động,… nhưng thân thể như dán chặt xuống đất, oằn nặng. Lại thấy vòm họng đau nhức. Muốn gào lên, cố gào lên, nhưng không nghe thấy giọng mình. Chỉ cảm thấy những búi gai trong lồng ngực cọ vào thành ngực, vào lồng xương, ran rát, chảy máu. Muốn khạc, muốn nhổ ra, nhưng càng há to họng, càng thấy búi gai rơi sâu xuống, quấn rối, thắt chặt lại thành một mớ bùng nhùng. Nước mắt trào xuống hai thái dương, chảy vào trong lỗ tai, lỗ mũi, ù đặc...

...

Ngồi ở hồ lâu dần thành quen, dân trong xóm, nhiều người buổi chiều chạy thể dục ngang hồ, cũng đứng lại tán gẫu vài câu. Nhiều năm, trở nên thân thiết như bạn bè.

Sau này, có lần được mấy ông bà già trong xóm kể cho nghe chuyện cá hồ Văn. Người ta bảo, khi xưa làm gì có loài cá ấy. Không biết có phải sự trùng hợp, nhưng loài cá ấy chỉ xuất hiện từ sau cái chết của một cô gái trẻ.

Hồ Văn nằm ở chân núi. Vào mùa thu, sương từ núi đổ xuống, nhiều khi phủ lấp mặt hồ. Buổi sáng sớm và lúc chiều muộn, dân trong xóm không dám chạy tập thể dục quanh hồ, vì khi đó rất nguy hiểm. Mới đầu, sương dâng lên như khói, từ phía tây hồ đổ lại. Lớp sương lan dần ra, thành một màn mỏng che phủ mặt hồ. Rồi quện với hơi nước bốc lên, dần dần quánh lại. Có những khi, sương đặc quánh, giơ tay mình lên trước mặt, mắt không đếm được mấy ngón.

Mùa thu năm ấy, mới đầu thu, sương đã về nhiều một cách bất ngờ. Ba ngày liên tục, sương dày đặc, trắng đục bao phủ quanh hồ. Rồi sương tràn vào xóm. Như có ai đó từ trên cao quăng xuống một mẻ lưới đan mau. Người già người trẻ đều ở trong nhà, nói, nhìn sương đục thế này, ắt hẳn thời tiết độc. Cũng có người mê tín, nói, đây là điềm gở. Người ta bảo nhau, tránh ra ngoài, nhất là khu vực hồ.

Đến trưa, mặt trời lên, sương mới từ từ tan. Nhưng không hề vội vã, cứ lừng chừng, tan từng cụm nhỏ, từ giữa hồ, rồi lan ra, điểm kết thúc cuối cùng là phía tây. Mãi tới lúc mặt trời lên đến đỉnh, mới thấy mặt hồ hiện ra. Rồi người ta nghe thấy tiếng hét thất thanh của một đứa nhỏ. Cả xóm đổ về hướng có tiếng kêu, thấy đứa bé nằm giãy giụa la hét, hồn vía đã bay đâu mất, còn tay cứ chỉ về phía mặt hồ.

Lúc này nhìn xuống, mới thấy xác một cô gái trẻ, chỉ độ mười lăm mười sáu, nổi trên mặt hồ phía tây ấy. Người ta quăng xuống một tấm lưới đánh cá thật, để kéo xác cô gái xấu số nọ vào bờ. Nhìn ra, cô gái mặc bộ đồ màu nâu, giống như ni cô trong chùa, đầu đã cạo trọc. Thân mình đã trương, mặt mũi đã biến dạng, nhưng vẫn có thể đoán người này có lẽ cũng đẹp. Chiếc bụng to quá cỡ, khiến người ta không thể không đoán, cô ấy đang mang bầu.

...

Cơn đau đi nhanh như khi nó tới. Tôi ngồi dậy, thấy người bám đầy đất và bụi. Đất dính nhớp nháp hai bên thái dương, theo vệt nước mắt chảy xuống. Thấy buồn buồn trong cổ họng, khạc ra, có chút sạn cát hòa cùng máu tươi. Vội vàng chui lại vào trại, lấy khăn lau hết đất cát trên đầu tóc, mặt mũi, tay chân. Ôm chặt đống chăn trước bụng, rồi nhìn trân trân ra ngoài cửa trại, vừa sợ, vừa mong lũ bạn về thật nhanh.

Vẫn cảm thấy búi gai trong lồng ngực, không xô phía này phía kia, không cào rách nữa, mà rơi xuống, nằm ở chỗ nào đó, như đợi…

...

Xác cô gái không ai tới nhận. Người ta đồn đại đủ thứ, dù chẳng đi tới đâu. Cũng đồng ý với nhau rằng, cần đào cho cô một huyệt mộ đặt bên ngoài nghĩa trang của xóm. Ngôi mộ của người vô tăm tích nhưng lúc nào cũng có khói hương. Dân trong xóm bảo nhau, người chết trẻ linh thiêng lắm. Người ta cũng mong hồn cô ở nơi nào thì về nhập mộ, đừng quanh quẩn lang thang rồi bắt tội người trong xóm. Ba năm sau ngày vớt xác cô gái lên, dân trong xóm mượn một đám thợ tới bốc mộ cho cô gái xấu số. Khi huyệt mộ được đào lên, người ta thấy một con cá lớn nằm ngay cạnh quan tài. Con cá đen trũi, chắc nịch, hai con mắt nhìn những thợ đào huyệt không chớp, như một đứa bé mới sinh. Đám thợ đào huyệt nói chưa bao giờ gặp chuyện tương tự, định cúi xuống bắt con cá lên cho mọi người cùng xem thì con cá chui vào một lạch nước ngầm, biến mất.

...

Hồi nhỏ, trước mặt nhà tôi cũng có một hồ nước như thế này. Chiều nào, lũ trẻ chúng tôi cũng rủ nhau ngụp lặn ở dưới hồ. Nước rất trong và mát. Hơn nữa, hồ lại nằm trong khu tập thể, nên mọi người đều có ý thức giữ gìn. Nhiều thanh niên ở ngoài thị xã cũng về đây bơi.

Nhưng mấy bác lớn tuổi trong khu tập thể không lúc nào không cẩn thận nhắc nhở bọn tôi, dù hồ không sâu lắm nhưng bậc tam cấp lên xuống nhiều rêu, rất dễ ngã. Có đứa bơi giỏi mà trượt chân ngã bất thần, rồi chuột rút, cũng đã có phen phải nhờ người lớn tới cứu. Bọn bé hơn tí xíu thì hay bị dọa là dưới hồ có con Ma Nam. Con Ma Nam rất thích nạt trẻ con, hay làm bọn trẻ hụt chân ngã xuống hồ.

Sau một buổi họp tập thể, bố mẹ chúng tôi quyết định xây thành lan can dài bao quanh hồ. Lúc này, người già trong khu đã nhiều lên, mà lũ trẻ thì chưa tới tuổi thanh niên, phương án ấy được tất cả mọi người ủng hộ. Nhưng không ai ngờ, lan can xây lên lại nhiều vụ ngã xảy ra hơn trước.

Vì lũ trẻ chúng tôi, khi vắng mặt người lớn, thường thích leo lên thành lan can, ngồi đó vắt vẻo trêu đùa nhau. Nhiều khi chỉ ẩy nhẹ, thế nào cũng có đứa rơi tõm xuống.

...

Người trong xóm mỗi khi đi qua hồ vẫn hay hỏi xin tôi ít cá nhỏ nếu tôi câu được. Nhưng chưa bao giờ tôi có cá để cho họ.

Tôi tới hồ Văn để câu cá nhưng không phải để có cá. Tôi chỉ muốn được một lần nhìn thấy loài cá lạ ấy. Ba chiếc cần ngày nào cũng được găm mồi đầy đủ, cắm về ba phía quanh chỗ ngồi. Cá vẫn rỉa mồi và vẫn cắn câu. Tôi có giật, nhưng giật lên, thấy cá nhỏ lại thả về với hồ. Có con đã bị giật lên thả xuống mấy lần. Đừng bảo tôi nói giỡn. Tôi nhận ra thật đấy. Ngồi bao năm trời, cá trong hồ chưa biết hết, nhưng con cá nào mình câu được, thì đều biết. Vết lưỡi câu làm rách mép nó chỗ nào, sạt vẩy nó chỗ nào, con nào háu ăn loại mồi nào, hay đi kiếm mồi giờ nào, thích cắn bên tay trái hay tay phải, sủi tăm to hay tăm nhỏ, mặt nước trên hay mặt nước dưới,…  tôi đều biết hết cả.

Chỉ duy có loài cá ấy, càng mong, thì càng không gặp. Không biết có kịp gặp nữa không?

...

Bậc tam cấp dẫn xuống hồ ngay trước mặt nhà tôi. Khi được phân căn nhà ấy, mẹ tôi rất thích vì gần hồ, những ngày hè thiếu nước, mẹ có thể gánh nước dưới hồ về vệ sinh nhà cửa, giặt giũ chăn chiếu. Nhưng bố tôi thì làu nhàu. Nhất là từ khi lũ thanh niên trong thị xã về ngày một đông. Chúng nó thường vắt quần áo lên lan can, rồi đứng từ trên đó nhảy ùm xuống hồ, làm nước văng tung tóe lên mặt sân ngay trước nhà. Đi qua sân lúc nào cũng lẹp nhẹp. Còn chưa kể tới giữa mùa hè, những ngày mưa bão, nước hồ dâng lên, có hôm tràn cả vào nhà, bố tôi dùng đất sét đắp thành cao mà không ngăn nổi.

Buổi tối, tôi thường ngồi trên gác xép, nhìn qua chiếc cửa sổ tí xíu xuống mặt hồ. Gió từ mặt hồ thổi lên mát rượi, phần nào xua đi cái nóng từ mái tôn gác xép hập xuống lúc cuối ngày. Có những đêm không ngủ được, mở cửa sổ nhìn ra mặt hồ, để thấy những vòng trăng luênh loang tán tròn mãi ra xung quanh và nghe tiếng nước ì oạp vỗ vào thành lan can.

Đêm mùa đông nọ, trùm kín trong chăn, đang lơ mơ ngủ thì nghe những tiếng thì thầm nho nhỏ như ngay dưới chân mình. Tôi tò mò trộm mở cửa sổ, nhìn thấy một ông già ngồi ngay ở thành lan can trước cửa nhà mình. Dưới ánh trăng, mái tóc của ông già bạc lên, rực lóa mắt. Ông ta thì thầm với ai đó tôi không nhìn thấy, nhưng thi thoảng có tiếng kêu “ngheo ngheo” nho nhỏ đáp lại như hưởng ứng. Rồi bỗng thấy một tiếng “Ùm” rất lớn, mớ tóc bạc biến mất ngay trước mặt.

Tôi hét lên kêu cứu rồi lịm đi không biết.

...

Hôm nay là tròn bốn mươi ba ngày liên tục tôi ngồi săn loài cá lạ. Tôi tin thể nào nó cũng tới. Chưa bao giờ tôi ngồi lỳ tại một chỗ lâu tới vậy. Cách đây ba hôm, có một nhóm học sinh mang trại tới dựng phía trên rừng bạch đàn. Tiếng huyên náo của lũ trẻ khiến tôi lo sợ, con cá lạ sẽ không tới. Nhưng hết ngày thứ nhất, dự cảm cho tôi hay, nhất định con cá ấy sẽ về. Và sẽ tới cắn mồi của tôi.

Dự cảm ấy có lẽ xuất phát từ niềm mong mỏi và sự mệt mỏi lâu ngày. Hơn nữa, đêm hôm trước, sương mù xuống, đặc trắng cả vùng hồ. Mấy năm rồi, từ khi tới hồ, mới gặp sương nặng như vậy lần đầu tiên. Tiếng bọn trẻ đùa nhau ở trên kia cũng chìm nghỉm trong sương. Cái bạt nilon của tôi sương đọng õng nước, thi thoảng lại phải lấy đầu cần đẩy cao ở giữa, rồi nghe nước chảy ồ ã xuống từ bốn phía, như giữa mưa. Hai ngày liền, cũng không thấy người trong xóm chạy tập thể dục ngang qua. Buổi đêm ngồi trong bạt, trùm kín chăn, thấy cả mi mắt, cả râu, cả tóc, cả chăn đều đẫm ướt như nhau. Tự dưng nhớ lại câu chuyện kỳ lạ của người con gái áo nâu nọ. Rồi dự cảm rằng loài cá ấy sẽ đến, đúng chỗ bạt của mình, cứ lớn dần, lớn dần mãi.

...

Người ta vớt ông già lên vào lúc trời xâm xẩm sáng. Tóc ông bạc trắng sũng nước, túi áo rét căng phồng, nặng trịch, được cài cẩn thận. Mở ra thấy một con mèo nhỏ, cũng trắng muốt, như một nhúm lông ướt nhẹp, co quắp.

Ông già sống ở cuối khu tập thể, vợ ông mất đã lâu. Hai người không có con. Khi trước, ông vẫn tình nguyện làm bảo vệ cho khu, mỗi tháng các hộ gia đình đóng góp đủ tiền ăn nuôi ông. Nhưng lâu nay ông hay trèo lên cái Peugeot cũ nát, chằng cái túi cao su đen phía sau và đi đâu đó. Có khi cả nửa tháng không về.

Cái chết của ông già làm các bậc phụ huynh trong khu tập thể lo lắng. Sau mấy cuộc họp nữa, mặt hồ được thống nhất lấp đất san bằng, để chia đất cho những công nhân lớp sau của nhà máy. Khi người ta tát cạn nước, phát hiện thấy bên dưới rất nhiều phần mộ hoang. Và cá nhiều vô kể, con nào con nấy to cỡ bắp tay bắp chân. Trẻ con nhà nào cũng mang xô nhựa, chậu nhựa,… hò nhau lặn hụp dưới đáy hồ bắt cá suốt mấy ngày trời.

...

Con cá ấy đã về.

Ngay trước mắt tôi, rõ ràng, dưới làn nước trong vắt, thân hình chắc nịch, đen trũi của nó uốn lượn nhẹ nhàng đến ngạc nhiên. Nó khẽ nhướng hai con mắt trẻ con, tròn đen, nhìn tôi khiêu khích. Tôi biết, nó đã rỉa hết mồi ở cả ba chiếc cần.

Tôi nhìn nó, nó nhìn tôi, bốn con mắt nhìn nhau, vừa xa lạ, ngỡ ngàng, vừa thấy quen thuộc. Tôi đã chờ đợi nó lâu lắm rồi, nghe người ta kể về nó nhiều lắm rồi. Vậy mà thấy nó, không dám vui. Ngỡ ngàng, mà không thấy xa lạ. Chẳng phải bấy lâu nay tôi vẫn mong nó đến hay sao? Tôi nhấc cả ba chiếc cần lên, từ tốn mồi từng chiếc một. Tôi biết, nó vẫn quan sát tôi. Tôi cũng biết, nó sẽ lại rỉa hết sạch mồi của cả ba cần và cho tôi một sự thất bại. Nhưng tôi vẫn làm.

Quả đúng như dự đoán. Nó lại rỉa, chậm rãi, đắc thắng, không sủi tăm, không chao nước. Nhưng chắc chắn là nó đang rỉa, ở một trong ba chiếc cần. Hết chiếc này, sẽ tới chiếc kia. Nó thách tôi một bài xác suất tôi không giải được. Mà nếu chộp tay vào bất kỳ chiếc cần nào, nó cũng sẽ biến mất.

Nên tôi để nó tiếp tục rỉa. Tôi là một ông già không còn sống được bao lâu. Nó là một đứa bé đang lớn lên, tinh khôn và đầy mưu mẹo. Tôi không cần bắt nó để làm gì. Tôi không cần chiến thắng, cho bất kỳ ai, vì bất kỳ lý do gì. Tôi chỉ cần chứng kiến.

Tôi tiếp tục mồi lần thứ ba. Lần này, tôi không mồi đều ba cần. Tôi mồi theo thứ tự ít dần từ phía trái sang phải. Và không mồi cùng một loại. Tôi muốn coi, nó thích thứ gì.

Con cá khẽ nguẩy cái lưng bóng nhẫy đen trũi đẹp đẽ của nó trước mặt tôi. Họ nói đúng. Nó có một thân hình đẹp đẽ. Nhất là hai con mắt. Tròn xoe, đen láy và ngơ ngác. Giấu bên trong một sự tinh khôn tính toán hơn cả trí óc con người.

Nó lặng lẽ rỉa sạch. Không một sủi tăm. Nhưng nó đã cố tình cho tôi những tín hiệu bằng việc dừng lại rất lâu trước thứ mồi nó ưa thích.

Tôi mồi lần thứ tư. Vừa mồi, vừa nghĩ, rốt cuộc thì ta cũng chỉ muốn nhìn thấy chú mày một lần thực sự mà thôi. Ta già rồi và sự kiên nhẫn không còn chiều ta nữa.

Con cá rỉa mồi. Rồi nó ngoác miệng đớp cả lưỡi câu. Một cách cố ý. Tôi biết, nó cố ý. Vì những đụn tăm sủi lên rất to. Phao câu chìm lỉm. Và tiếp tục chìm lỉm. Nó chờ đợi tôi giật lên?

Nhưng tôi không giật. Tôi muốn xem nó định làm trò gì. Tại sao nó lại cố tình ngậm mồi lâu tới thế?

Con cá vẫn tiếp tục đùn tăm. Phao vẫn chìm. Nó vẫn chờ đợi.

Mặt trời bắt đầu lên cao. Nắng ong ong trên đầu. Hồ im ắng khác thường, tới nỗi tôi nghe thấy tiếng bụng mình bắt đầu kêu ọc ạch. “Hệt như một cỗ xe trâu già nua trên đường đá”, tôi thầm nghĩ. Không nghe thấy tiếng lũ trẻ ở lán trại trên kia. Giờ chỉ có tôi, và con cá lạ, đang thăm dò nhau. Và chờ đợi nhau.

...

Người đàn ông vẫn ngồi lặng phắc. Không biết đã bao nhiêu giờ trôi qua như thế. Mấy ngày tôi không thấy ông già đi đâu khỏi chỗ ngồi của mình. Chiếc xe cũ vứt bên cạnh. Tấm bạt nilon màu xanh được chăng sơ sài. Hai đêm rồi sương nặng, tôi không biết ông ấy có đủ ấm không. Rồi ăn uống thế nào. Đêm hôm qua dường như biết sương sẽ xuống dày hơn hôm trước, tụi bạn trong lớp đã xuống xóm dưới mua thức ăn mang lên. Buổi tối đốt đống lửa lùi đầy khoai và sắn. Còn bữa chính thì có cá nướng. Tụi nó bảo là cá hồ Văn, ăn xong đứa nào cũng tấm tắc khen ngọt thịt, ít xương. Mùi cá nướng thơm phức trong đêm gọi đến cả lũ mèo rừng. Không nhìn thấy chúng giữa sương mù dày đặc, nhưng nghe tiếng chúng ngheo ngheo khan đặc từ khắp bốn phía. Lo ngại bị bọn chúng tấn công trong đêm, lớp trưởng có sáng kiến đào hố. Bọn con trai kỳ cụi mang toàn bộ tàn tích của vụ ăn uống đem chôn trong một cái hố tự đào cách lán chừng chục mét, vùi lại bằng lá bạch đàn rụng để khử mùi. Lúc về soi đèn pin và dắt tay nhau đi, thế mà có đứa vẫn ngã vêu cả mồm.

...

Nắng đã hơi dịu xuống đôi chút. Chỉ một lát nữa thôi, sương sẽ xuống rất nhanh, tuy rằng chiều chưa thật về. Tầm ba, bốn giờ gió sẽ ào ạt tràn từ rừng bạch đàn xuống. Và lũ cá sẽ không kiếm mồi nữa.

Tôi quyết định giật.

Cổ tay cứng ngắc. Người chồm lên phía trước như đang cố phanh lại xe lúc xuống dốc. Cần cong oằn. Tôi chỉ sợ chiếc cần sẽ gãy, vì hóa ra con cá rất nặng, không như người ta dự tính. Con cá được nhấc khỏi mặt nước, đen trũi, quẫy trên đầu cần mạnh mẽ. Lưỡi câu càng siết chặt, dây cước càng ngắn lại. Trong tích tắc, tôi thoáng chùng tay, nghĩ “Mình đang làm gì thế này?”. Chỉ cần thế, con cá quẫy một cú tơi bời, giật tung chiếc cần trong tay tôi, phóng xuống hồ.

Máu đỏ loang khắp mặt nước trước mắt tôi.

...

Lũ bạn kịp về trước khi chiều xuống. Đúng hẹn, xe lên đón. Nhìn mặt tôi xây xát, đứa nào cũng hỏi, tôi đã làm gì nên nỗi. Tôi bảo, bị choáng nhẹ vì đói. Bọn nó lấy thức ăn cho tôi, nhưng tôi không nuốt nổi. Vẫn cảm thấy búi gai mắc trong cổ họng, nuốt nước bọt cũng đau. Mấy đứa để tôi ngồi một chỗ, rồi dỡ lán trại, sắp xếp đồ vào balô.

Tôi nhìn xuống phía dưới hồ, thấy ông già đang lúi húi búi lại mớ tóc bạc. Rồi như cùng hẹn, ông chậm chạp tháo chiếc bạt nilon xanh, cuộn tròn lại, cùng với hai chiếc cần và mấy cái hộp nhét vào chiếc túi đen, đặt tất cả lên chiếc xe cũ, đạp pạch pạch từ từ ra khỏi khu hồ.

Mặt trời xuống, để lại trên mặt hồ một hình tròn đỏ ối và lóa mắt phía sau lưng người đàn ông. Cùng với luồng khói ống xả bị bỏ lại đằng sau trắng đục như sương là đàn mèo rừng, vừa đuổi theo, vừa gào lên những tiếng khan đục.

Lửa chợ

30/08/2012

Cái sạp thịt của Nghi chắc chắn lắm. Bỏ trên đấy hằng mấy cái thân heo chưa kịp xẻ hết, rồi đầu, giò, lòng mề các kiểu. Thêm mấy con dao phay nặng trịch, to đùng vậy mà Nghi cứ mặc nhiên chặt phăng phăng chẳng hề hấn gì. Một lần yêu nhau, chồng nghi đùa: “Sao em giống cái sạp…

Lúc còn đi mua - bán, lúc còn chợ Nghi thèm ngủ dữ lắm. Đi từ hồi còn tối trời và trở về cũng chiều sẫm, Nghi chỉ trông tắm rửa cho nhanh để lủi vào giường. Đó cũng là khoảng thời gian Tâm ra quán bù khú với bạn bè. Chồng Nghi, chiều lại mà không làm một xị hay mấy chai là rất đỗi ngác ngơ. Chỉ nhanh nhảu, tươi tắn khi có ai đó réo, kêu. Ấy là dòm vô đôi mắt chứ cái miệng thì cứ thơn thớt, thơn thớt là anh đâu muốn, kẹt ghê, tự vì tụi nó… Cái miệng sao giống con dao chặt thịt của Nghi. Một đôi môi con gái trên khóe miệng rộng rất duyên. Đã duyên lại đẹp thêm khi láng bóng. Là cái miệng của chồng bởi đó bảo sao Nghi không thích ngắm.

Đêm không ngủ được, Nghi nằm trăn trở mãi. Chồng Nghi, đôi hồi tỉnh giấc lầu bầu một chốc rồi lăn vào vợ, đòi yêu, bảo: “Hay thật! Em chả còn giống cái sạp một tị nào”. Có cảm giác một que diêm vừa được bật lóe lên trong lòng Nghi và rồi rất nhanh, lan thành đám lửa. Lửa bùng cháy trong Nghi, luồn sâu vào tận những góc khuất, đi khắp hang cùng ngõ hẻm. Nóng rát. Trách gì Nghi không thể nằm yên và sao có thể không rúm ró, vặn vẹo?

Cũng có khi Nghi trở dậy sắp sanh sửa soạn không khống, cho đến sáng. Cứ lục đục hết nhà trên tới nhà bếp lại xuống nhà cầu. Rồi ra phòng khách thiếp đi từng hồi. Những giấc ngủ ngồi chóng vánh như vậy lại khiến Nghi hay mơ. Và hiếm có lần mơ nào của Nghi lại không thấy lửa. Lửa bùng lên ở chợ. Bắt đầu từ gian hàng vải của chị Sương, liếm qua hàng mỹ phẩm xong sang hàng giày dép. Lửa tràn khắp nơi và nhanh chóng táp tới dãy hàng thịt.

Trong giấc mơ Nghi thấy cả người mình khô rang, dòn rụm và vỡ ra thành từng mảnh nhỏ. Rất nhỏ. Nghi thấy mình tức tưởi khóc. Và cái sạp thiết thân của Nghi vững vàng là vậy chắc chắn là vậy, bỗng bị lửa bủa vây, quăng quật, thiêu rụi và rầm rầm… sập nát. Chồng Nghi ca cẩm:

- Em ám ảnh gì dữ? Dù gì chợ cũng cháy rồi.

- Cái sạp chắc tới vậy.

- Em chắc thì có chứ ở đó mà sạp.

- …?

- Thì đùa chút cho em vui. Lửa cỡ đó…

- Nhưng là gỗ tốt lắm mà.

- Tốt. Có tốt vậy chứ tốt nữa cũng tiêu. Hồi còn chợ, chồng con Nghi mấy khi đụng đũa đến thịt mà tính Nghi lại rất khác người. Họ, nhiều lúc đồ bán không hết ế ẩm thiu ôi thì đem về cho nhà ăn. Nghi đồ tuyển lựa mới để lại thế mà Tâm và mấy đứa nhỏ cứ lắc đầu nguầy nguậy. Có sao nói vậy thi thoảng gặp bộ dồi trường ngon hết cấp số, chồng Nghi mới chịu hấp lên để đãi chiến hữu. Không quên ít rau thơm chuối chát, khế, mấy cái bánh tráng. Mắm nêm phải đặc sánh, dẻo quẹo. Ngon tới mức mút đũa không đã đủ tê rần đôi môi. Mồi tuyệt hảo tới vậy. Uống bia uổng.

Mấy ông bạn Tâm hay suýt xoa và Bàu Đá, mấy khi đó cả lít cưa cũng bắt ngã nhào. Nghi thiêm thiếp ngủ nghe mọi người khen, sướng lắm! Còn thằng út nhà này rất lâu mới đòi mẹ cho ăn mấy miếng sườn cốt lết nướng. Đòi vậy chứ cu cậu gặm chưa rồi hai miếng là ớn bỏ. Mẹ chồng Nghi chép miệng: “Rõ là con nhà thịt. Rõ dân chợ. Chẳng sai!!!”.

Hết ra chợ bán buôn. Hết ngập người trong thịt. Quần áo sạch sẽ tinh tươm. Nghi cứ thấy mình chống chếnh và nỗi lo cơm áo làm sụt hàng mấy cân. Còn chợ, còn sạp, còn thịt là còn cái giỏ đựng tiền để tối đến cơm nước xong, cả nhà quây quần bên nhau đếm - xếp. Mỡ, từ những tờ bạc cũ - mới khiến cho những đôi tay trơn ướt mềm mại. Những bàn tay mau mắn đếm tiền gợi lên bao cảm giác. Cuốn hút, hấp lực đến lạ lùng.Không tất bật, vất vả… Rảnh rang. Việc ít mà những giấc mơ lại nhiều. Những giấc mơ của Nghi. Những giấc mơ toàn lửa. Lửa, làm bỏng cháy chính Nghi và hừng hực thiêu đốt tổ ấm này. Nóng. Nóng quá! Nóng suốt ngày suốt đêm dù đang mùa đông. Thức ăn nóng, đã đành. Nước tắm nóng, đã đành. Mền - nệm nóng, đã đành. Tiền nóng, đã đành nhưng thân nhiệt của mỗi người, từng người, từng người một trong cái nhà này vô cớ cũng nóng lên hầm hập là sao?Nghi nóng nhất. Bỏng rẩy từ trên đầu nóng xuống. Từ trong bụng nóng ra. Rồi Tâm, nhũng chiều ngáp ngắn ngáp dài vì không nhậu vậy mà cứ như uống đến hằng mấy lít rượu đế không bằng.  Bức rức, lục sạo… Đá thúng đụng nia, cáu gắt la lối chửi rủa… Đâu rồi cái miệng xinh, duyên láng bóng cho Nghi ngắm những ngày xưa.Những ngày chợ chưa bị cháy…

Kiếp nhảy

14/09/2012

Hắn, kẻ cứng đầu!

Thầy hỏi:

- Anh xem gì?

- Bản mệnh! – Hắn trả lời cộc lốc, giọng điệu chợ búa.

Thầy lẩm nhẩm khấn khứa những câu không đủ hơi thoát ra khỏi miệng. Không gian trầm lặng của cõi mộng khoanh vùng dăm chục mét khối. Ánh sáng vàng hoe của hai ngọn nến chỉ đủ nhìn rõ mặt người lúc mờ, lúc tỏ. Khói hương mặc nhiên cuộn từng sợi mỏng mảnh, liệng lên hòa cùng hương hoa huệ ngan ngát lan tỏa khắp phòng.

Mùi ẩm mốc của chốn chật chội, thiếu ánh sáng trời, cũng bốc lên khiến hắn ngộ cảm mình đang mặc chiếc áo cũ xức nhiều nước hoa, lâu ngày không giặt. Thời gian chầm chậm trôi về cõi vô định như sợi dây vô hình trói chân tay hắn lại. Bức bối, tù túng, hắn đang định thoát ra ngoài thì đột nhiên thầy đánh bốp hai bàn tay vào nhau, thét lên một tiếng đến rợn gáy. Ba nén hương trước mặt bùng cháy.

Bản tính hắn chai lỳ, nhưng không thích ai thuyết lý dài dòng. Hồi nhỏ đi học, thầy giảng một lúc hắn đã díp mắt lại. Lớn lên hắn chúa ghét những ai cầm giấy đứng trước ống nói. Việc gì phải lắm lời. Sếp của hắn chỉ nói một câu hắn làm cả ngày, thậm chí cả tháng không hết việc. Chém tia nhìn dọc thầy: đàn ông con trai gì không phong ba bão táp, không hòn tên mũi đạn, tướng tá gì ru rú xó nhà, chỉ khác đàn bà là chưa mặc váy. Ngó bộ ngổ ngáo của hắn thầy lên giọng, ngôn ngữ không kém cạnh dân chợ búa: “Anh đến đây đâu có xem mệnh mình? Định soi mói tôi phải không? Tôi chưa từng thấy ai hỗn vậy!”

A! Thầy cao tay quá đấy! Mặt hắn nóng ran, cái cục tự ái trong ngực hắn phình to theo mỗi hơi thở. Hắn định sấn tới túm tóc thầy như đã từng túm tóc mấy con mẹ bán hàng ở chợ lẩn như trạch mỗi khi hắn thu tiền. Nhưng hắn kịp dừng lại khi lời thầy vừa đủ lọt tai hắn: “Ngồi yên đi, đến đây sinh chuyện là hỏng việc, việc là việc của anh”.

Sau mấy câu ấy, bốn bề lại tĩnh lặng. Giờ hắn mới cảm nhận có gì đang rình rập. Ngước lên cái ngai trên điện thờ quàng bởi vuông lụa đỏ như rung rinh một bóng hình người đạo mạo, uy nghi, có quyền phán xét tất cả, không ai xui khiến, hắn chắp tay vái ba vái. Vậy là, hắn cũng biết sợ, sợ cái vô hình.

Thầy bật thêm ngọn đèn bàn, lật giở tập sách từng tờ mỏng tang. Hắn xét nét đảo mắt qua, thấy thế ngồi của thầy rất động: phần vai nghiêng về phía hắn thấp hẳn, khi nhìn tinh lực hai mắt thầy lia theo một đường thẳng chéo, sắc lẻm. Đôi mắt ấy có lẽ nhìn thấu tận cái bí ẩn bên trong của người đời. Thầy nhận dạng về hắn: Mặt trũng, hình thái đứng quá. Các giác quan co sát lại, khép kín. Miệng ngậm chặt. Mũi gãy. Lỗ mũi kéo về hai bên. Mắt nhỏ và sâu. Trên da mặt mọc dày nốt ruồi lớn nhỏ - đấy là đặc điểm mọi người dễ nhận ở hắn ngay từ lần gặp đầu.

Có thằng bạn cùng làng hồi nhỏ từng trêu trọc: Mặt mày như bãi tha ma thời chết đói, mộ chôn lung tung. Gom từ tất cả những dữ kiện ấy, thầy xướng lên một câu như điểm huyệt: “Sau lưng phía phải anh, dưới bả vai chừng hai mươi phân có một nốt ruồi đỏ”. Không chệch một chút nào, hắn nín lặng, giấu đi cái lạnh toát bất chợt, toàn thân. Khi yêu, vợ bây giờ của hắn linh ứng điều gì, đã bắt hắn cởi áo ra kiểm tra, phát hiện nốt ruồi này. “Nốt son sinh quý tử”. Mừng quá, được đà tát nước theo mưa, hắn cũng bắt người tình cởi áo ra rà soát.

Trên người thị chỉ có hai nốt son bằng hai quả nho chín mọng đậu phía trước ngực. Thế là họ im lặng, tự nguyện đi trước hôn nhân vài ba bước. Hắn chưa hết bất ngờ về cú điểm huyệt ấy, thầy lại hạ một đòn hiểm: “Anh là kẻ rắn mặt, bất phục tùng; nếu bị cưỡng ép dễ phản kháng bằng bạo lực, đôi khi bộc lộ tính cách tàn nhẫn”. Thầy nhìn qua thăm dò, sắc diện hắn không đổi, xuống giọng: “Tình cảm thì mạnh mẽ đấy, nhưng ẩn kín, chỉ cởi mở với một vài người đánh thức được thiện tâm”. Rồi vừa cầm bàn tay hắn thầy vừa nói thêm: “Tôi có trong số một vài người đó không?”

Hắn im lặng, nhếch mép, hàng ria rậm rì túm lại rung rung. Không khí trong điện thờ có vẻ dịu xuống.

Bây giờ thì bàn tay hắn đã lại xòe ra trước mặt thầy. Bàn tay lạnh và khô. Đường vân tay biệt dạng, đôi chỗ đứt đoạn hoặc mờ nhạt… Thầy nói nước đôi: “Hình như anh đã đến đây một lần, và lần ấy anh không tĩnh tâm để gặp được tôi”. Hắn tâm phục ngay: Khi vừa gặp, thầy đã đọc được suy nghĩ trong đầu hắn, còn bây giờ, không cần đối diện, thầy cũng biết hắn từng có mặt ở nhà thầy từ mấy hôm trước.

*

*     *

Hôm ấy đúng là hắn chưa muốn gặp thầy. Nhưng đôi chân cứ đưa hắn đến, y như ma đưa lối quỷ dẫn đường vậy. Người đầu tiên trong nhà hắn gặp là vợ hai của thầy. Bà có nhiệm vụ tiếp khách và điều hành mọi công việc ở tầng dưới. Mới gặp lần đầu, không hiểu sao bà đã ngại tiếp xúc với hắn. Tại đôi mắt ti hí hay cái tính lầm lỳ của hắn? Không đoán định được. Hay là… mệnh của hai người xung khắc chăng? Trước đây, bà dắt mối cho thầy hành nghề, lâu ngày, thầy buộc luôn cái mối ấy vào mình. Sống với nhau như vợ chồng, tuy về mặt pháp lý không được công nhận. Tuổi của thầy hơn bà một giáp. Nhưng bù lại, thầy có tiền cho bà quần là, áo lượt, lên xe, xuống ngựa. Không chân lấm tay bùn, với bộ bà ba vải thun đen đang mặc, đã tôn lên nước da trắng mịn và những đường cong quyến rũ. Bà bước vào tuổi hồi xuân tự tin và có chút kiêu hãnh nữaChặp chín mười giờ, trời bất chợt mưa. Người đang đứng ngồi ngoài sân túa cả vào, phòng khách bỗng dưng chật cứng. Mùi mồ hôi, mùi son phấn, mùi rượu bia thuốc lá trộn vào nhau khiến không khí quánh lại, đến ngộp thở. Ngay lập tức bản tính láu cá của hắn được phát huy, hắn lẻn sang phòng bên, ngồi tiếp chuyện với cụ thân sinh ra thầy. Cụ mừng ra mặt. Khách ngày nào cũng túm năm, tụm ba tính đường tiền vận, hậu vận chứ ai muốn ngồi buôn gió vu vơ với ông già cổ tích này.

Trước tiên phải công nhận cụ có bộ râu đẹp. Chòm dưới vồng ra, chảy xuống chấm tận chiếc khuy áo thứ năm cụ đang khoác. Hai ria mép cong vút ôm gọn lấy khẩu môn như hai dấu ngoặc đơn bằng bạc. Tóc cụ trắng như hoa roi, vuốt ngược lên cũng làm thành một dáng cong điệu nghệ. Ngồi chưa nóng chỗ, hắn đã lôi từ trong chiếc túi vải một chai rượu trắng, đặt giữa bàn trà, gật đầu cung kính hỏi: “Cụ dùng được chứ ạ?” Cụ nheo mắt cười, đưa ngón trỏ và ngón cái bàn tay phải lên vê ria mép, vẻ háo hức không hề giấu giếm. Cạch một cái xong, cụ nâng cốc lên nhấp một ngụm rượu, chính là lúc miệng cốc được đưa xuống dưới hàng râu môi trên dày và trắng, uống mà như tưới cho râu. “Ngày xưa tôi đi lính nhảy dù cho Pháp” – sau tiếng khà, cụ chậm rãi bắt chuyện.

Hắn vỗ tay cười kéo theo một tràng khẩu ngữ khích lệ: “Phờ răng xe! Phờ răng xe!...”. Cụ hào hứng tột độ, nói líu ríu: Ngày xưa tôi nhảy dù xuống Kim Phát. Cái đận ấy các anh chưa đẻ đâu. Tôi sợ đến vãi đái ra quần. Những ngọn tháp nhà thờ cao chọc trời có khác gì những mũi đao, mũi mác. Nhảy vào đó có mà toi đời. Nhưng rồi thầy quan ba Pháp nhắc: “Ở dưới đất đã quét vôi: vôi trên mái ngói, trên đường làng, ngoài nghĩa địa, thậm chí trên cả thân cây, tán cây… Cứ thấy có dấu vôi trắng thì nhảy vào” Nói như vậy có nghĩa là: Nếu nhảy ra ngoài vạch vôi sẽ làm mồi cho “bố cu Việt Minh”.

Đêm nằm cứ nghĩ đến những mảng trắng, nghĩ đến Việt Minh không sao nhắm mắt được. Cụ tợp một ngụm rượu nữa như tự thưởng cho mình: “Các anh ạ, nhảy dù khi trông được dù mình mở thì sướng lắm lắm. Sướng như tiên như Phật. Cái quan trọng bậc nhất là trước đó lòng phải rỗng, dẹp tạp niệm mới đạt đến cái vi diệu của nhảy dù. Thầy đấy, (cụ nhắc tới con trai) cũng nhiễm cái máu của tôi: thích nhảy! Năm lên bảy tuổi thầy nhảy từ mình trâu xuống ruộng nước, không may vấp phải chiếc dây thừng vắt qua lưng trâu, ngã xuống chân đường, gãy xương bả vai, tật đến bây giờ”. (Mãi sau này hắn mới biết cái thế ngồi của thầy ở trên điện không phải do cố tình tạo dị dáng mà do dị tật – vì cụ kể đoạn này không được rành rẽ, chắc do hơi men).

Ở đời mỗi con người, có việc làm chỉ xảy ra trong tích tắc mà ám ảnh đến suốt thời gian còn lại. Cụ cởi áo lính về làng khi quân đội Pháp lên tàu Hải Phòng về mẫu quốc. Vì không có nợ máu nên chính quyền cho cụ tại ngoại. Ấy vậy, cụ vẫn giữ đôi giày săng đá, có cắm đinh dưới đế hẳn hoi, đi cộp cộp trên đường làng, vẫn thấy còn oai. Không hết ám ảnh, đêm đêm trong những giấc mơ quá khứ lại hiện về, rõ như sờ thấy được: Những mảng trắng mờ mờ phía thấp, những đường cong của cú nhảy ngoạn mục, đường cong như chiếc ô của những tán dù trắng, dù khoang sặc mùi viễn chinh bung kín một khoảng trời lưa thưa mây bạc.

Có lần ám ảnh đến mức mộng du. Đang đêm cụ mò đi khắp nhà rồi đâm sầm vào chiếc giường quây màn trắng của vợ hai thầy, thế là cụ nhảy luôn vào “vùng trắng”. Sáng sớm, bà hai khen nức nở một câu: Râu cụ trắng hơn da con gái. Thì ra, bà ta cũng là của thiên hạ, của chung chạ, chằng bắt vạ được cụ. Ấy rồi, thành thói quen, cứ mỗi lần cầm lược chải râu, cụ lại vuốt ngược lên tận mắt để chiêm nghiệm cái màu trắng mê hồn.

Thầy rất bực khi mỗi lần nghe cụ nhắc đến “nhảy”. “Nhảy! Lúc nào ông cũng nhảy. Có nhảy xuống lỗ!”. Những khi con trai bẳn hắt, có lần cụ lặng im, cam chịu; có lần cụ cự lại: “Tôi nhảy xuống thân xác người, còn anh, anh nhảy vào hồn vía người. Bản mệnh người ta anh xăm xui, anh chọc ngoáy, anh khen, anh chê, có khi anh chửi; xong anh lấy tiền, còn vận hạn họ ra sao anh đâu cần biết”. Lúc tức lên thì nói thế, chứ cụ thương thầy lắm, nước mắt chảy xuôi mà.

Tật nguyền từ nhỏ, cụ chẳng nâng đỡ được gì bởi cái tội xỏ nhầm giầy Tây của mình, bằng ấy tuổi đầu vẫn chỉ quanh quẩn sau lũy tre làng. Mười năm nay thầy làm ăn phát đạt là do mấy cuốn sách tướng số rót lộc vào. Càng có của ăn của để tiếng nói của thầy càng có trọng lượng. Thật đúng với câu: “Vai đeo túi bạc kè kè, nói ấm nói ớ người nghe ầm ầm”. Cụ còn hãnh diện về con nữa: Học hành không đến nơi đến chốn thế mà ứa kẻ học đến tiến sỹ cũng phải gọi bằng thầy. Con hơn cha, phúc ở đấy chứ đâu nữa.

Ngoài trời mưa vừa dứt thì trong nhà lại mất điện. Phòng rượu lờ mờ. Có tiếng hốt hoảng từ ngoài lọt vào: “Gió to, ngọn tre quật dây điện đứt tứ tung”. Làng quê khổ thế. Điện khí hóa nông thôn chỉ là câu nói cửa miệng. Khách rải rác ra về. Phòng trong cuộc rượu cũng đã đến hồi kết. Sau cái chạm cuối cùng, cụ nâng cốc lên rót rượu vào râu. Lần này rượu tưới râu thật. Rượu làm cả chòm râu dưới ướt lướt thướt. Hắn dùng khăn bông thấm râu cho cụ. Chòm râu trắng, dày, mịn màng đến mướt mát bàn tay hắn.

*

*     *

Hôm nay gặp trực tiếp thầy, hắn có chủ định rõ ràng. Và thầy cũng không cần rào trước đón sau, nói chẻ hoe luôn: “Anh muốn qua tôi để tìm nhân chứng cho hành vi bất lương của một người, người đó lại là người đẻ ra anh mà không một ngày dưỡng dục”. Hắn gật đầu rồi lại lắc đầu quầy quậy. Bố hắn vô lương là rõ rồi, nhiều người cùng thời với ông đều nói vậy, không cần thêm nhân chứng nào nữa. Còn “không một ngày dưỡng dục” – hắn phản đối cực lực, vì điều này không ai hiểu bằng hắn. Hơn hai mươi năm bố con hắn sống bên nhau như hình với bóng, như răng với môi, như không thể thiếu nhau trong cõi trần gian bể khổ.

Hắn không phản kháng gì khi thầy nói mà như chửi bố con nhà hắn. Hắn ngồi im, chỉ cái đầu lắc lư như có vong nhập vào thân xác hắn. Thầy đã nhìn thấy đường Thổ tinh của hắn xuất phát từ cườm tay và bị đường Trí đạo chấm dứt. Cập nhật một thông tin nhanh: Hắn có thể giết người – thầy toát cả mồ hôi.

Xem sang bàn tay phải thầy phán tiếp: “Anh vào đời sớm, không nhờ cậy được hai bên nội ngoại, ít nhiều thành đạt ở tuổi 40 là nhờ vào bàn tay phải này”.

Bố hắn chết sớm để lại cho hắn “cái bóng Trương tuần” chạy đầu làng đến cuối làng ám ảnh dân cư bởi những đòn đánh người tàn ác. Bỏ học từ lớp 4, lặn lội với mưu sinh, không đủ tiêu chuẩn đi bộ đội, hắn đi buôn cá tôm, cua ghẹ từ biển lên, nhiều lần bị thuế vụ tịch thu trắng tay. Hắn căm lắm, quyết chí phục thù. Đi đêm nhiều rồi cũng có ngày gặp ma. Và một lần hắn bắt quả tang thuế vụ đưa hải sản thu được của hắn lên mâm tiêu thụ.

Ăn vụng giỏi, chùi mép cũng giỏi, cánh thuế vụ nhanh chóng thỏa hiệp với hắn bằng cách trưng dụng hắn vào các phi vụ bắt buôn lậu – sách lấy độc trị độc. Không ngờ chỉ sau ba năm hành nghề cả phòng tài chính đều phục sát đất tài xuất quỷ nhập thần của hắn. Hắn đã chộp vụ nào, đứt cước vụ đó. Rồi hắn có tầm có vóc, có tấm có miếng, rạng rỡ với thiên hạ với chức danh cán bộ quản lý chợ, một cái chợ thị trấn to nhất huyện. Thầy bảo: Đấy là anh có quý nhân phù trợ - cứ cho là thế, ý đẹp lời hay ai dễ chối từ.

Rời khỏi chiếu chầu, hắn như quên một điều gì mà nhớ chưa nổi. À thì ra, hắn quên đặt lễ vào đĩa. Đáng lẽ việc này phải làm trước khi thắp hương. Thầy nhìn mấy tờ bạc đỏ nằm cong queo như con tôm nướng trên đĩa, nói như để cho hết nhẽ: “Ông bố nuôi của anh ở dưới Hoàng tuyền đã làm bạn với bà hàng xóm cách nhà anh cái ao về phía Đông Nam”.

Bố đẻ chứ, sao lại là bố nuôi. Thầy có nhầm không đấy. Còn cái bà kia tên là Dự. Bố hắn sao lại có thể lấy bà Dự được. Bà Dự là cái bà đi cắt trộm lúa ngoài đồng vào ngày giáp hạt đói lăn, đói lóc bị bố hắn dùng đòn càn quật đến ngất xỉu. Nhà bà nuôi được con chó gầy giơ xương bố hắn cũng bắt, bảo là để nộp phạt cho làng. Bà ta không dám hé răng nửa câu. Tình nghĩa gì nữa mà đến với nhau. Hiểu điều hắn thắc mắc, thầy nhủ: “Ở thế giới bên kia không có hận thù!”.

*

*     *

Xong mọi thủ tục ở nhà thầy, hắn đẩy xe ra ngõ nổ máy bật đèn, rồ ga vù đi như ma đuổi. Đúng là một cực hình với hắn về cả thể xác lẫn tinh thần. Nhưng ấn tượng như vừa được lột xác. Giờ thì hắn đang đói, đói cồn cào. Lúc ngồi trên điện, mùi thức ăn sực nức từ dưới nhà xông lên làm hắn chợt hiểu trong bụng mình không còn hột cơm nào. Hắn móc túi lấy hai chiếc kẹo cao su cho vào miệng, thì vừa lúc thầy nhìn sang, nhận xét: Miệng ngậm chặt… lỗ mũi kéo về hai bên.

Việc trước mắt: phải cho được miếng gì vào miệng để vỗ về cái bụng. Vượt khỏi lũy tre làng, hắn ghé vào quán thịt chó Đầm Xồm – cầy tơ bảy món. Chưa nhìn thấy bóng dáng người, chỉ phát hiện ánh đèn pha xe máy của hắn chủ quán đã chạy ra, đon đả chào mời: “A đây rồi, may quá! Bác Chộp thiêng ghê! Em vừa nhắc tới bác thì bác hiện”.

Biệt danh Chộp của hắn là do cánh thương lái đặt cho, gọi mãi thành tên, nhiều lúc gọi để mà cảnh tỉnh. Hắn hỏi: “Chuyện gì đấy?”. “Thì bác cứ vào nhà cái đã”.

Chủ quán có biệt danh là Xồm vừa bán thịt chó vừa thầu cái đầm nuôi cá nên gọi ghép là quán Đầm Xồm. Người anh ta thấp béo, râu ria mọc không theo một trật tự nào nên thành xồm xoàm. Đứng gần một lúc đã thấy rờn rợn vì cái mùi hôi linh hồn chó ngấm vào quần áo, tóc tai râu ria và cả da thịt anh ta nữa. Phòng ăn bên trong đèn sáng trưng rọi từng vũng sáng lớn xuống sóng nước đầm, rồi từ đầm phản quang lại làm con người và cảnh vật lấp lóa, huyền ảo. Khoảng mười người ngồi trên hai chiếc chiếu trải trên sàn tre. Trong đó có hai người là phụ nữ. Hắn cáo lui, nói phải về ngay vì nhà có việc. Khách của Xồm là cánh buôn chó sống từ Thanh Hóa ra bằng xe tải rồi đổ cho các mối dọc mấy tỉnh Ninh Bình, Hà Nam, Hà Tây… muốn gặp hắn để làm giá khi qua “cửa khẩu” này – việc đó tính sau.

Hắn đỡ túi thức ăn từ tay Xồm miệng hỏi: “Bao tiền?”. “Thôi bác cứ mang về…”. “Tớ cũng nói thật, còn mấy chục vừa cho con mẹ ăn mày đầu chợ rồi, trả sau.” Hắn coi thầy như con mẹ ăn mày, chỉ khác chỗ ngồi.

Về nhà hắn giục vợ đưa thức ăn lên bàn thờ thắp hương ngay. Vợ ca cẩm: “Đi gì mà kỹ thế. Con chờ cơm không được, đã ăn trước rồi đi”. Thằng con quý tử của vợ chồng hắn đã đi gác chợ đêm. Tiền công hai suất chợ của bố con hắn trong vòng mấy năm đã chồng lên ngôi nhà hai tầng to nhất xóm. Hắn không nói gì, chỉ trợn mắt quát: “Đưa bát xương xuống, cụ còn răng đâu mà xơi!”

Ngày còn sống bố hắn nghiện thịt chó lắm, lúc hấp hối dặn lại các con chỉ một điều: Cứ cúng thịt chó cho bố, dương sao âm vậy; cõi âm lạnh lẽo có lẽ ăn thịt chó lại hợp. Nghĩ mà xót bố, cả đời cụ lận đận chỉ vì miếng ăn. Biết là miếng ăn quá khẩu thành tàn. Nhưng không ăn làm sao mà sống được.

Trên ban thờ đèn đã sáng, hương đã tỏa. Trước bức di ảnh người đàn ông hưởng dương chừng ngũ tuần, những bát thịt chó đủ món đầy tú ụ khuất đi nửa bức chân dung phía dưới. Hắn thành tâm khấn, nào là: Bố sống khôn, chết thiêng về phù hộ cho nhà con tai qua nạn khỏi, dù có trời nghiêng đất sập thì con vẫn là con của bố, công sinh không bằng công dưỡng. Nào là, sao bố nỡ hắt hủi mẹ con để đi lấy bà Dự, mẹ con chẳng có tội tình gì, có chăng là do giặc giã gây nên. Bố ơi, có phải ở dưới âm con người sống với nhau thật là tử tế?... Vợ hắn sốt ruột nói chen vào: “Nhà đi xem thầy bảo sao?” Hắn vái tạ ba cái rồi quay ra trả lời vẻ lo lắng làm lớp da mặt chùng xuống, đen sạm: “Thầy phán cuối năm nhà ta có tang”. Vừa nghe xong, vợ hắn đã òa lên nức nở rồi quỳ sụp dưới chân bàn thờ vái như lạy cụ Trương tuần tha cho con đòn chết.

Thị đã phải chịu khổ quá nhiều từ khi gặp hắn. Vì chửa hoang nên người ta mang ra hội nghị kiểm điểm. Hai ông xã đoàn, xã đội nghi cho nhau đâm mất đoàn kết. Thế là, cái “chân” đoàn viên và “chân” dân quân trực chiến của thị bị treo giò vô thời hạn. Hắn phải ra xã đổi năm cân cá biển lấy tờ giấy kết hôn, coi như một chuyến đi buôn lỗ vốn.

Sau đám cưới chạy, hợp tác xã nông nghiệp cắt cử vợ hắn ra phục vụ trại chăn nuôi lợn, giữa đồng không mông quạnh, biệt lập với dân cư. Tưởng thế là êm mọi chuyện, ai ngờ thuế vụ luôn rình rập quanh trại để bắt buôn lậu. Họ nghi hắn mang hàng về đây cất giấu. Vợ hắn không đêm nào ngủ yên giấc trong khi cái thai trong bụng đang to dần cần tĩnh dưỡng.

Từ ngày ấy thị mắc một chứng bệnh: Trong giấc ngủ thường mơ có ai đó từ trên trời nhảy xuống bụng mình, cười hô hố, nhe cả hàm răng trắng ởn. Từ khi đứa con trai ra đời thì bệnh ấy tự khỏi. Nhưng hơn ba năm sau, khi mẹ chồng thị chết đuối trong vụ đắm đò ngang qua sông Vạc thì những giấc mộng cũ tái hiện, đa dạng hơn, kinh hãi hơn, nhất là những đêm trước ngày giỗ mẹ hắn. Bà thường mặc quần áo trắng đứng ở trên cao thét gào con dâu: Nhanh chân lên con ơi, mẹ thả dù xuống đây này, toàn đồ hộp Tây nhé, sao gió to thế… Và những chiếc dù trắng chỉ lớn bằng chiếc thúng nhòi bung trắng một khoảng trời… Chẳng ai giải thích được hiện tượng này.

Chỉ có mấy cụ trong làng nhắc lại chuyện cũ, có kể: Năm ấy Pháp nhảy dù xuống Kim Phát. Nó quây phụ nữ giữa cánh đồng bằng vải dù và dây dù rồi làm bậy. Các chị em thoát về, không ai có chút bùn đất lấm lưng, coi như không có chuyện gì xảy ra. Sau này, ai lỡ có thai thì chỉ gia đình đó biết và tìm cách giải quyết êm thấm, tránh mang tai mang tiếng. Ông ngoại hắn là lý trưởng, đã gả con gái bị lính dù quây cho anh Trương tuần, người sau này hắn gọi là bố. Đám cưới được cả làng tán dương không phải vì môn đăng hộ đối mà vì bữa tiệc chiêu đãi làng rất to.

Thế nên, việc của hắn bây giờ là phải tìm bằng được người lính dù kia. Và hắn đã xông đất nhà thầy.

*

*     *

 Cả tuần nay, hắn mất hút con mẹ hàng lươn, vợ con không hề hay biết. Trước đây, vắng một vài ngày hắn dặn đi dặn lại vợ hoặc con, công việc nhà, công việc chợ… Lần này tuyệt nhiên không. Thế nên, vợ hắn mới lo. Tháng cuối năm đang xích dần. Cái đại hạn kia không biết ập đến lúc nào. Thị ráo riết theo dõi tin giao thông trên truyền hình từng ngày. Một việc trước đây thị cho là vô bổ. Đợi đến ngày thứ ba thứ tư, chồng vẫn bặt vô âm tín, ruột gan thị như có lửa đốt, đứng ngồi không yên.

Đông chí đã qua, rét đậm theo gió mùa tràn về. Hai chú chó mực một già một trẻ cũng buồn thiu, nằm gác mõm ngoài hiên, có ý chờ túi xương ông chủ mang từ chợ về như hàng ngày ông vẫn có thói quen ấy. Bất chợt, chúng hực lên một tiếng rồi lao thẳng ra ngõ. Tưởng chúng mừng chủ về, ai dè chúng sủa khách đến. Thị bước vội ra cửa với tâm trạng mừng, lo lẫn lộn. Rồi khi nhận ra người đứng trước nhà mình là Đầm Xồm thì chân tay thị bỗng rụng rời. Xồm đi tới đâu chó sủa đấy, như mồi lửa bén đến đâu pháo dây nổ đó.

Lão Đầm Xồm mang họa đến rồi!

Xồm nói to hết cỡ vẫn không át được tiếng chó sủa và tiếng động cơ xe máy: “Chị mặc thêm chiếc áo rét vào, đi với em”. “Đi đâu?”, thị cũng nói như gắt. “Thì cứ lên xe, em vừa đi vừa nói kẻo không kịp”.

Thị mất bình tĩnh đến mức không làm chủ được bản thân, hoảng hốt vơ vội chiếc áo vắt ở đầu giường rồi chồm lên xe máy. Đến nửa tiếng sau, xóm làng mới yên ắng trở lại.

Thì ra Đầm Xồm đưa thị đi viếng đám tang ở xã bên. Người qua đời là cụ thân sinh ra thầy Vạn, cái ông thầy mà chồng thị đã đến bốc quẻ, nổi tiếng cao tay một vùng. Thị chất vấn Xồm: “Mình đi đám này nghĩa là thế nào?” Xồm nhấm nhẳn: “Anh bảo đi!”. Câu trả lời như một mệnh lệnh, thị đã quen những câu nói cửa miệng cộc lốc của chồng và cũng quen không bao giờ dám hỏi lại. Nhưng bây giờ với Xồm thì: “Thế anh chú đâu?”. “Anh điện về phải đón chị đi bằng được, anh chưa xong việc, mà có về cũng không kịp”. Thị mừng ra mặt, đi viếng đám ma mà lại mừng, mừng vì chồng thị không gặp rủi ro trong bằng ấy ngày mất tích.

Cụ ra đi đúng vào tiết đại hàn. Có ai ngờ đại hàn năm ấy lại thành đại hạn với cụ. Sợ cụ chết cóng, con cháu quây kín căn phòng cụ ở rồi đốt than sưởi. Có khác gì tử tù, cụ bức bối, tù túng đến không chịu nổi. Ý tưởng hướng ngoại trong cụ bừng thức. Nhân khi người nhà sơ sểnh, cụ đã mở cửa đi ra. Ngoài thềm gió rét căm căm. Bầu trời xám ngắt như cái vung đúc bằng chì, không có lấy một vẩy mây trắng, một tia nắng vàng, một cánh chim nhỏ. Thất vọng quá khiến đôi chân run rẩy, cụ bước hụt một bước xuống sân. Chỉ còn một chút hào quang lóe sáng trong đầu cụ ở giây phút cuối cùng: Cụ thấy mình nhảy từ trên trời xuống. Nhưng rất tiếc: Lần nhảy này, dù không mở (!) Mọi người túm vào đỡ cụ. Thầy bảo: “Mệnh kịch rồi, cụ đã về với tổ tiên đúng giờ gọi bản mệnh”. Chỉ tiếc một điều, chén rượu đã hâm nóng đặt trên bàn, cụ chưa kịp uống.

Đoàn đến viếng của chị em nhà  Xồm hơn chục người. Họ cắt đặt thị rước vòng hoa đi trước. Người được cử làm đại diện cho đoàn lên thắp hương, khiển lễ cũng là phụ nữ. Bà ta, có vẻ không phải người chân lấm tay bùn, với bộ bà ba vải thun đen đang mặc, chiếc áo dạ bó chặt phía ngoài cũng màu đen đã tôn lên nước da trắng mịn và những đường cong chưa hết quyền quyến rũ. Bà là người dắt mối cho cánh buôn từ Thanh ra. Hôm nay họ đều có mặt với tư cách là bạn làm ăn của bà. Còn bà với tư cách là bạn làm ăn của thầy. Chớ ai nhắc đến cái danh vợ hai của bà trong nhà thầy mà tủi cho linh hồn cụ. Bà có chít khăn tang đâu.

*

*     *

Qua thất thất lai tuần, có một người đàn ông đầu đội khăn trắng đứng như trời trồng trước ngôi mộ, chắc là con cháu cụ ở xa bây giờ mới về được. Hết tuần hương, người ấy quỳ xuống cởi bỏ chiếc khăn tang trên đầu, vắt ngang qua nấm đất. Lại, rút từ trong túi vải ra, đặt trước mộ: một chai rượu trắng, hai chiếc cốc sứ, một bát hương có in hình hai con rồng châu đầu vào một quả cầu lửa và, cuối cùng là một gói nhỏ bọc ni lông, người ấy chậm rãi rót rượu. Hai cốc rượu đầy tràn ra ngoài. Đất dưới chân cốc ngấm rượu bỗng đỏ lịm như tiết. Người ấy từ từ nâng cốc rượu lên quá đầu rồi hạ xuống rất nhanh. Đấy là tế. Sau cái tế đầu tiên, người ấy đổ cốc rượu xuống mộ. Sau cái tế thứ hai, người ấy đổ cốc rượu còn lại vào miệng mình. Rồi cứ thế, hai hàng nước mắt người ấy mặc nhiên tuôn chảy, mặn chát nơi miệng, rân rân nơi huyết quản – rượu đã ngấm vào máu.

Lễ dâng rượu xong, người ấy vốc đất trên mộ, chỗ những giọt nước mắt và rượu vừa ngấm, chôn cái gói nhỏ kia vào bát hương. Cái gói nhỏ! – Đó là mẫu tách chiết ADN mà người ấy đã tách ra từ bộ râu của cụ khi ngồi uống rượu với cụ lần trước. Cái rạp mình cuối cùng trước ngôi mộ chính là lúc người ấy khom lưng xuống rút ba chân nhang còn ấm hơi lửa, cắm vào chiếc bát hương mang theo mình.

Người đàn ông ấy đã đứng dậy, ôm bát hương đi, đầu không ngoái lại. Miệng không ngớt lẩm rẩm một câu như thần chú: “Về nơi tử tế!”.

Mắt đằng gáy

18/09/2012

Chẳng biết nàng đến tự bao giờ và nấp ở xó nào, chỉ biết ô tô của vợ Sửu vừa lăn bánh thì nàng đã vụt ra ôm chầm lấy Sửu. Sự liều lĩnh của nàng làm ngay cả một kẻ si tình như Sửu cũng phải phát bẳn:

- Đồ cuồng! Đợi xe mụ đồng cốt khuất dạng hẳn đi đã, bất quá hơn kém chỉ vài giây mà cũng không kiềm chế được à?

- Sao anh nhát thế…?

- Coi chừng! Mụ ấy có mắt đằng gáy đấy!

Giọng Sửu thì thầm bất lực, đôi mắt thất thần lơ láo ngó quanh. Người mẫn cảm có thể thấy hắn không đùa. Song nàng đang phấn chấn tột độ nên đâu có thấy. Nàng giục:

- Thôi nào, đến lượt chúng mình cũng lên đường!

- Đi đâu bây giờ?

- Xuống biển! Ra Sầm Sơn!

Sửu hét lên phụ họa:

- Xuống biển!

Rồi hắn phởn chí ngâm ư ử:

Con cháu nâng niu đôi oản bụt/Cha ông lừng lẫy bốn phương trời… Nàng gắt:

- Nhanh nhanh lên, kẻo hết ngày bây giờ. Thơ thẩn vớ vẩn mãi, rõ đồ gàn!

Nàng đâu biết câu thơ “đồ gàn” ấy liên quan đến những ý nghĩ tinh nghịch đang làm cho Sửu vô cùng khoái chí: “Trong lúc các bà vợ mải lên rừng cung kính dâng oản nếp, oản khảo lên Thánh Mẫu thượng ngàn cùng Thập nhị Sơn trang thì chính là lúc các đức ông chồng cũng mò xuống biển để say đắm nâng niu đôi phẩm oản của nàng Êva mà nữ thần tình ái đã hào phóng cho không!”.

Nhưng Sửu với nàng không xuống biển. Vì cả hai cùng chợt nhận ra rằng quỹ thời gian chung sống của họ kỳ này quá ít ỏi, vỏn vẹn có ba ngày. Mà họ thì cần gì? Rõ ràng là chỉ cần một “khoảng trời riêng cho hai đứa” để thỏa sức yêu nhau. Vậy thì dạt vào đâu mà chẳng thế? Tội quái gì phải ra tận biển, biển vừa xa lại vừa lắm người, dễ lộ…

Sau hai ngày hú hí chán no, đôi tình nhân bỗng thèm du lịch. Cũng phải thôi, du lịch là thứ dành cho kẻ no xôi, chán chè. Theo gợi ý của bà chủ nhà trọ họ đến thăm chùa Dền, một danh lam thắng cảnh nổi tiếng trong vùng. Núi chùa Dền có hang Mắc Cỡ/ Trai chưa vợ thì nhớ chùa Dền. Chưa đọc hết câu ca bà chủ đã phá ra cười như nắc nẻ, điệu cười nghiêng ngả càng thêm khuyến khích du khách lên đường khám phá…

*

*    *

Từ xa đã thấy chùa Dền với những mái ngói rêu phong và những ngọn tháp nhấp nhô lẫn vào cây, vào đá, vào mây… Đôi tình nhân bị nuốt chửng vào dòng khách thập phương lũ lượt đến lễ chùa. Chả hiểu sao Sửu cứ thấy rờn rợn, gáy cứ nóng ran lên như có cặp mắt ai đang soi mói, rình rập. Nhiều lúc Sửu dừng chân đột ngột rồi ngoảnh phắt lại phía sau. Nào có thấy gì đâu? Rõ là thần hồn nát thần tính! Từ lúc tạm biệt nhau hắn liên tục gọi điện thoại cho vợ, người ta vui vẻ, vô tư lắm! Thì cú điện trả lời lúc sáng nay: “Em đang ở đền Bảo Hà, em vừa hầu bóng cô Chín. Sẽ có nhiều lộc mang về cho anh, một miếng lộc thánh, một gánh lộc trần đó anh ơi! Thôi đang tíu tít lên đây này… bái bai!”. Nhưng chả hiểu sao lúc này điện thoại di động của vợ hắn lại tắt ngóm! Có lẽ vì thế mà hắn thấy rờn rợn chăng? Úi chà, lo quái gì? Chắc là mụ ấy đang say đồng nên không muốn bị quấy rầy thôi. Mà từ Bảo Hà về đây mấy trăm cây số, có bay cũng chả về kịp. Chưa kể nơi đây đông nghịt những người là người, hắn với nàng khác nào hai hạt cát lẫn trong biển cát.

*

*    *

Nàng thành kính dâng hương lễ Phật, nàng cầu xin Đức Phật từ bi phù hộ, nàng cầu xin nhiều thứ lắm, cầu xin cả cho mối tình lãng mạn giữa hai người được mãi mãi bền lâu. Sửu vốn không mê tín nên tuy đứng sóng đôi làm lễ với nàng nhưng hồn thì vơ vẩn tận đâu đâu. Hắn nghĩ tiếc rẻ món tiền đặt mua mâm lễ lúc vào chùa Trình: “Mất toi mấy trăm bạc, lại còn phải cái vạ xách lẵng nhẵng một bọc bánh trái, hoa quả tầm tầm cùng đủ các loại khánh đồng, khánh nhựa lòng thòng tua đỏ. Mụ vợ mình chắc giờ này đang nhảy nhót múa may, hồn say lịm trong đàn ngọt hát hay và nhang khói. Hết hầu giá đồng ông Hoàng Bảy với ông Hoàng Mười sang hầu giá đồng cô Bơ, cô Chín! Lạy các thánh mớ bái, vợ con nó nặng căn lắm, con tình nguyện cho nó ở lại hầu hạ các vị, các vị cứ giữ nó ở lại giúp con, cho con xin chỉ một ngày nữa ở bên nàng!

Đang nghĩ ngợi vẩn vơ thì Sửu bỗng chợt thấy người gai gai mà gáy thì cứ nóng ran. Giật mình quay phắt lại, chả thấy gì ngoài một thằng cha nhỏ thó bận quần áo nhà chùa mà lại để râu ba chòm phơ phất. Thằng cha mỉm cười làm thân với hắn. Nụ cười sao nom quen quá mà nhớ chẳng ra, hàm răng trắng ởn như răng chó sói lấp lánh qua bức rèm râu xanh lưa thưa:

- Em chào Đại gia. Chào anh, chào chị, cho em được theo hầu anh chị, em tình nguyện đưa đường, dẫn anh chị vào cõi thiên thai.

Giọng gã khao khao, khê sít khê nồng như thể cổ họng nghẽn tắc toàn tro vậy. Rồi gã liến thoắng:

- Độc đáo nhất của chùa Dền là bức bích hoạ mô tả cảnh địa ngục âm ty. Bức bích họa

độc nhất vô nhị này xin anh chị chớ bỏ qua, bỏ qua nó thì coi như chưa đi đến chùa Dền!

- Nào thì không bỏ qua!

Cả ba dừng chân ngắm bức bích họa hoành tráng bằng gỗ sơn son thiếp vàng chiếm trọn cả mặt tường đốc của chùa Hạ. Gã răng sói say sưa thuyết minh:

- Đây là cảnh địa ngục âm ty, được Diêm Vương cho phép, ông Mục Liên dẫn mẹ là bà Thanh Đề qua thăm đủ mười tám tầng địa ngục. Đây là những người con bất hiếu phải nhảy qua cầu vồng, có phúc thì qua được còn vô phúc thì lộn cổ xuống dòng sông Nại Hà đầy rắn rết. Đây là những người đong đầy khảo vơi bị quỷ sứ nó vả trôn đấu vào mặt. Đây là những người hay đánh chông, đánh chà để bẫy hại người bị quỷ sứ nó bắt nằm trên chiếc bàn đóng đầy đinh nhọn, nâng lên hạ xuống nhiều lần. Lại những “cha” đồ tể chuyên nghề cắt tiết lợn, bò, trâu bị lũ quỷ đầu trâu mặt ngựa giữ tay, giữ chân và… cắt tiết! Quả báo mà lại.

Nàng sợ hãi co rúm cả người, ôm rít lấy Sửu như muốn được che chở. Cái nhát gan của đàn bà chỉ tổ làm đàn ông thêm tợn. Và Sửu chợt vô cùng cao hứng, tuôn ra một tràng biện hộ:

- Nhưng mà tôi cũng xin bào chữa cho mấy “cha” đồ tể thế này. Nếu chúng ta không ăn thịt trâu, thịt bò, thịt lợn… hỏi rằng các “cha” ấy có giết chúng không? Vậy thì tam tòa địa phủ cũng bất công lắm thay! Tất cả chúng ta đều phải chịu trách nhiệm liên đới! Phải gánh đỡ tội cho mấy “cha” đồ tể. Tôi nói thế có đúng không? Ý kiến các vị thế nào?

Những tràng cười ha hả và những tràng vỗ tay đôm đốp nhiệt liệt hưởng ứng vang dội cả một góc chùa. Gã dẫn đường nham hiểm lại khao khao thuyết minh tiếp:

- Còn đây là tầng đáy địa ngục chuyên giam giữ những kẻ gian phu, dâm phụ: Trai dòm ngó vợ người, gái quyến rũ chồng người làm tan cửa nát nhà người ta… Hình phạt nơi đây tàn khốc nhất: Phạm nhân bị nhốt vào ống đồng, đậy chặt nắp rồi chất củi đốt. Kể ra thì bọn họ cũng đáng giận, song nghĩ lại cũng có chỗ đáng thương. Chỉ vì tham thanh chuộng lạ mà sa vào vòng tội lỗi. Chả hay ông anh có biện hộ gì cho chúng khôn?

Sửu nhăn mặt như nuốt phải mật cá mè. Nàng cũng cụt hứng lôi tuột hắn đi:

- Địa ngục âm ty vớ vẩn quá! Chả có công bằng gì cả. Đánh chông, chà mà phải nằm bàn đinh thì những kẻ gài mìn, đặt bom liều chết phải nằm bàn gì? Mấy bà nhà quê ăn gian có lẻ gạo mà nỡ cho quỷ sứ vả trôn đấu vào mặt người ta, vậy thì những đứa rút ruột công trình gian lận hàng trăm tấn sắt, tấn xi thì vả gì vào mặt? Giết gia súc mà cũng bị quả báo, nom lũ quỷ sứ đầu trâu mặt ngựa vật họ ra cắt tiết thật là ghê rợn! Vậy bè lũ Pôn Pốt cắt cổ người thì liệu cung bậc hình phạt thế nào cho hợp lý? Trai gái hú hí với nhau là chuyện quá vớ vẩn, cũng là lỗi tại ông trời sinh ra họ máu mê như thế. Ngủ với nhau mà cũng bị lôi ra xét xử! Xét với chả xử! Địa ngục của nhà chùa vớ vẩn hết chỗ nói. Thôi ta về đi anh, ngày tối hội tàn đến nơi rồi!

*

*    *

Gã dẫn đường khéo léo chuyển hướng:

- Còn sớm chán anh chị xuống hang Mắc Cỡ cho trọn vẹn chuyến đi. Không xuống hang Mắc Cỡ thì chuyến đi chùa Dền chẳng còn ý vị gì?

- Sao lại gọi là hang Mắc Cỡ?

- Vì lòng hang vòng vo, khúc khuỷu, các khúc ngoặt đột ngột, cắc cớ. Đường xuống hang ẩm ướt, trơn trượt khó đi, cho nên một khi trai gái đưa nhau xuống hang thì tất là phải đụng chạm nhiều, toàn những đụng chạm ngoài ý muốn! Anh con trai dìu bạn tình của mình đi, hai người dò dẫm từng bước, từng bước. Cô gái chợt sẩy chân không thể không ôm chầm lấy bạn tình. Thành thử đi qua hang Mắc Cỡ tình sơ hóa

tình thâm, mà tình thâm rồi thì lúc ra về “chăn gối với nhau”. Mà cảnh trong hang thần tiên lắm anh chị ơi, các nhũ đá long lanh ngũ sắc. Khúc ngoặt này có hàng đàn tiên nữ xiêm áo thướt tha. Khúc ngoặt kia là rồng ấp, rồng leo. Chín con rồng con tranh nhau một viên ngọc. Có đường lên trời mà lại có cả đường xuống âm ty.

- Đi xuống hang Mắc Cỡ đi anh! Nào nhanh lên chú dẫn đường ơi!

Nàng rên lên đầy hứng khởi!

Phải vượt qua nhiều quèn đá cheo leo, cứ thế leo mãi tới tận lưng chừng núi mới đến được cửa hang: Ấy là nơi vòm đá nhô ra nom giống hệt cái miệng nham nhở đầy răng nhọn của một con khủng long! Chui vào hang tức là chui vào họng nó, lòng hang hun hút tối om om! Một cái gì vừa nguyên thuỷ, vừa âm u, lạnh lẽo! Bỗng Sửu cảm thấy như đang sa bẫy, đang bị lừa, đang bị ma đưa lối quỷ dẫn đường. Hừ, cái thằng cha dẫn đường nhỏ thó này có cái gì phảng phất một con quỷ nham hiểm! Hàm răng gã trắng rợn người, nụ cười bí hiểm lấp lánh qua rèm râu thưa, giọng vịt đực khao khao khê sít, khê nồng… Tuy vậy Sửu vẫn buông một câu đùa thật là dí dỏm, ngụ ý khoe khoang đắc chí:

- Chú dẫn đường ạ, trai gái buổi ban đầu mới tơ tưởng xuống hang Mắc Cỡ để mà được “đụng chạm”, chứ như chúng tôi đây thì đã “lên bờ xuống ruộng” chán rồi, mùi mẽo gì những đụng chạm vớ vẩn chốn lòng hang chật hẹp?

Gã dẫn đường lại nở nụ cười trắng ởn, giọng vừa xu phụ lại vừa bỡn cợt, xúi xiểm:- Đúng quá! Một khi anh chị đã “lên bờ xuống ruộng” với nhau rồi thì mọi đụng chạm dưới lòng hang chật chội chẳng còn ý vị gì! Song hang Mắc Cỡ có đường lên trời, lại có cả đường xuống âm phủ. Biết đâu đó chả là cơ hội để thử thách lòng chung thủy của nhau, điều đó chẳng thú vị sao?- Ôi, xuống đi anh! - Nàng kéo tay hắn.Và Sửu dìu nàng xuống hang, dìu nàng đi qua cái miệng nham nhở đầy răng nhọn, dìu nàng chui vào cái họng hun hút tối om của con quái vật dưới sự bảo trợ của tên dẫn đường tinh ranh.Gã xun xoe:- Để em đi trước soi đèn cho anh chị. Anh chị ơi, đây là tượng Cậu - Gã chiếu đèn ló vào một trụ đá mọc sừng sững nơi chiếu nghỉ của lòng hang, cao tầm hai mét nom từa tựa một ông Hoàng với những nếp áo chầu rủ xuống uy nghi.- Anh chị hãy xoa tay vào trái tim Cậu để xin Cậu phù hộ cho đẻ con trai!- Trời ơi! Đúng vậy hả chú em? Ôi, anh ơi, bỗng dưng con nó húc đầu vào thành bụng em đau điếng! - Nàng ấn tay Sửu vào cái bụng lùm lùm của mình - Hình như nó nhắc chúng mình xoa tim Cậu, chắc là nó muốn được làm trai để nối dõi nhà anh đấy!Sửu cười khì:- Nào thì xoa!Sửu đan bàn tay nóng hổi của nàng vào bàn tay mình  để cùng xoa lên ngực đá lạnh lẽo. Gã dẫn đường vẫn liến thoắng:- Anh chị hãy nhìn lên vách đá, chỗ em chiếu đèn ló ấy. Anh chị có thấy cái cối xay bột thần kỳ không? Hai thớt cối khổng lồ xay ra một dòng thác bột trắng tinh chảy không ngừng. Tương truyền cối xay thần đã từng có phen xay ra bột thật, dòng bột nuôi sống người chảy bất tận, hết lại có như niêu cơm Thạch Sanh ăn hết lại đầy! Thần núi đã cứu cả mấy ngàn nghĩa quân khỏi chết đói khi họ bị quân thù bao vây phải lánh vào hang. Và anh chị lại đây mà xem, cái này mới thật là độc nhất vô nhị của hang Mắc Cỡ: Một hũ vàng không nắp đậy để hờ hững ở ven đường. Chả biết thiên thành hay do người xưa khéo tạc, một nửa hũ chìa ra ngoài, còn nửa kia chìm trong vách đá và một dòng vàng mười lấp lánh lượn ngoằn ngoèo trên trần hang rồi rót thẳng vào miệng hũ. Thành hũ đổ mồ hôi, những giọt nước màu vàng lạnh buốt! Anh chị hãy sờ vào miệng hũ đi để xin thần núi ban phát tài lộc. Và đây nữa, anh chị hãy nhìn lên trần hang, thấy chưa? Một con đại bàng hung dữ đang cắp nàng công chúa bay vút về sào huyệt. Đá ở đây thật tuyệt vời! Đôi cánh đại bàng là những sọc đá màu đen, còn những lượn đá ngũ sắc long lanh thì làm nên bộ xiêm y lộng lẫy của nàng công chúa. Còn ở dưới, nơi đèn ló đang hạ thấp, người tình của công chúa đang giương cung bắn đại bàng. Thạch Sanh đấy! Nom giống không nào? Chàng cởi trần đóng khố, ngực nở vồng, bắp chân, bắp tay cuồn cuộn. Chàng thật vô cùng dũng mãnh. Bây giờ cho thằng em được mạn phép phỏng vấn đại ca một câu: “Giả sử bây giờ đại bàng xuất hiện và cắp nghiến bà chị bay đi, thì đại ca có dám chui xuống hang sâu đánh nhau với nó để cứu bà chị không?”- Kìa anh, trả lời đi xem nào? - Giọng nàng nũng nịu một cách rất trẻ con và vô cùng tha thiết.- Sao lại không? Dù lên trời hay xuống âm phủ thì để cứu em, lúc nào anh cũng sẵn sàng!Ngẫu nhiên họ đang đứng ở chiếu nghỉ cuối cùng của hang, nơi đây có đường xuống âm phủ, song lại có đường lên trời. Đường xuống âm phủ là tiếp tục, là đoạn cuối cùng của hang Mắc Cỡ. Còn đường lên trời là một lỗ thông khác của hang với đỉnh núi, một mảnh trời xanh biếc bé nhỏ, xa xăm, tít trên cao, lấp ló qua những bụi si bám đá buông rễ rủ lòng thòng. Vách đá nơi đây dựng đứng cao hàng trăm mét, thắt cổ bồng ở trên, phình to ở giữa và trôn chõ ở đáy. Đây là nơi rộng nhất của lòng hang, có cảm giác đang ở dưới đáy một cái trống thủng khổng lồ. Đột nhiên nàng hỏi hắn một câu vừa ngây thơ vừa hóc búa:- Này anh, giả thử con đại bàng khủng khiếp đó chính là chị ấy biến ra thì sao? Liệu anh còn dám bảo vệ cho em không?- Sao lại không dám. Mà nói cho em biết, anh không muốn nát nhà thôi, chứ anh sợ gì cái con mụ đồng cốt ấy! Em chưa biết kỹ về anh đâu, anh không yếu bóng vía như em tưởng! Hơn nữa, hôm nay anh cao hứng tiết lộ cho em biết thêm một điều bí mật: Nhà anh còn có câu thần chú là bảo bối gia truyền của cụ tổ để lại, truyền mãi đến đời bố anh, bố anh truyền cho tụi anh.- Trời! Thần chú thế nào?- Thần chú này lúc nào cực bí mới dùng, chỉ việc văng tục một câu “bố đ… sợ”, lập tức lấy lại ngay được thế thượng phong, có ngay một sức mạnh vô biên, một sức mạnh bất khả chiến bại. Có thể chiến thắng bất cứ kẻ thù hung hãn nào, có thể vượt qua bất cứ cơn nguy cấp nào.- Có thật thế không?- Chứ lại không thật. Có thể nói đó là câu thần chú bất hủ truyền đời của người Việt.Gã dẫn đường nham hiểm xen vào:- Té ra anh chị không phải vợ chồng! Nhưng em nói thật lòng: Em thấy hai người thật xứng đôi, mà tình sâu nghĩa nặng thì còn gấp mấy vợ chồng.- Sao chú lại nói vậy?- Chị có thai với anh mà không những không có ý định bỏ, lại còn cầu xin Cậu cho đẻ con trai nối dõi cho anh, đủ thấy chị yêu anh đến nhường nào? Nhưng mà này, em không lấy tiền boa của anh chị nữa đâu, chỉ xin đại ca truyền cho em cách sử dụng câu thần chú bất hủ “Bố đ… sợ” ấy. Thú thật là tính em cũng “bát ngát” như đại ca, mà con vợ em thì nó tinh quái lắm, em sợ nó lắm, nên em muốn xin đại ca chút bảo bối phòng thân.- Chú sợ vợ sao còn trăng hoa làm gì?- Đại ca có ở vào hoàn cảnh của thằng em thì mới cảm thông cho nhau được. Hôn nhân thật là một gánh nặng đối với con người. Những nhà đạo đức học cứ ra rả: Nghĩa vụ, bổn phận, trách nhiệm, thiêng liêng! Thiêng liêng cái khỉ gió!Đến lúc này thì tình thân giữa ba người chợt dâng lên đột biến, đến cái mức nảy sinh ra nhu cầu muốn được giãi bày tâm sự. Cả ba dừng chân ở ngay cái “quảng trường” thênh thang, nơi có một đường lên trời, lại có cả một đường xuống âm phủ (và dĩ nhiên một đường lên cửa hang). Đó là một ngã ba định mệnh!Sửu thật thà xổ gan, xổ ruột:- Chú em nói đúng. Anh hết chịu nổi con mụ vợ anh. Nó chỉ hám có mỗi một thứ là tiền. Đã thế nó lại có máu đồng cốt: Ngửi thấy mùi nhang là ngứa ngáy, cứ phải nhảy như choi choi và hét váng như hóa dại! Hết nay đền này lại mai phủ nọ, đến ăn uống nghỉ ngơi nó còn chả thiết, còn nói gì đến chuyện chăm sóc chồng con! Cho nên cực chẳng đã, anh mới phải

Nàng vội nói tranh:

- Tôi thương anh ấy lắm chú ơi! Con người có trái tim “bao la” như anh mà “người ta” nỡ bỏ đức ông chồng chết khô, chết héo vì đơn chiếc! Anh vừa giàu tình cảm, lại vừa giàu nhân nghĩa. Chính lúc tôi đang sắp sửa đâm đầu vào ma túy vì chán đời thì anh xuất hiện. Anh đã lôi tôi ra khỏi vực sâu. Chúng tôi gắn bó với nhau: Trái tim anh khác nào một lâu đài bỏ không, còn tôi là một khách lữ hành đang ngấm mệt… và thế là cả hai cùng sưởi ấm cho nhau!

Gã dẫn đường đã sai lầm khi tô vẽ quá đà sự kinh dị trên đường xuống âm phủ: Nào hang cô hồn, nào bàn thờ vong, nào hầm chứa xương người… Nàng thấy rùng rợn nên sợ hãi, nhất quyết không đi tiếp. Cả ba đành quay ra, sắp đến cửa hang đột nhiên Sửu bức xúc la lên:

- Anh muốn cùng em ở lại hang này. Anh không muốn trở về với con mụ vợ đồng cốt có cả mắt đằng gáy ấy nữa. Chúng mình đóng đô ở cái hang khúc khuỷu, cắc cớ này. Cối xay thần kỳ sẽ nuôi sống chúng mình, chúng mình cũng là những nghĩa quân, những nghĩa quân khởi loạn chống lại luật hôn nhân hà khắc! Thần núi sẽ ủng hộ chúng mình. Đây là nơi con mắt ma quái của mụ phù thủy không lia tới được. Con mụ ấy dẫu tinh quái đến mấy chăng nữa cũng chẳng thể nào ngờ đôi tình nhân khôn ngoan lại khéo tìm ra nơi trú ẩn kín đáo đến thế! Nơi đây ngoài tầm “ra đa” của mụ, mụ chẳng thể nào mà lần mò đến được cái lòng hang khúc khuỷu, cắc cớ mà trời đã dành riêng cho đôi trai gái đang yêu này!

Bỗng dưng tên dẫn đường ngửa cổ cười sằng sặc:

- Nhầm to rồi ông anh đẹp trai, đa tình ơi! Làm sao mà ông anh qua mặt được người đàn bà ấy: Người vợ có con mắt thần mọc đằng gáy của ông anh? Tất tần tật những phi vụ hành lạc tội lỗi của ông anh đều bị màn sóng “ra đa” của con mắt thần ấy bủa vây, chiếu chụp. Và ngay ở trong cái lòng hang mà ông anh cho là nơi trú ẩn kín đáo này thì bà ấy đã chứng kiến từ đầu đến cuối, đã mắt thấy tai nghe và cười mũi vào trò mèo chuột uốn éo của anh chị, mớm cho anh chị không khảo mà xưng hết tội!

Và gã nhảy vọt ra khỏi hang.

Sửu và nàng chưa kịp định thần thì đã thấy gã ngồi trấn ngay trên miệng hang, cái miệng hang nham nhở như miệng khủng long, từ dưới nhìn lên tự dưng cảm thấy bất trắc: Một cái cạm bẫy có thể sập xuống bất cứ lúc nào! Gã dẫn đường móc họng nôn thốc nôn tháo ra một bãi đặc quánh như bùn, rõ ràng toàn tro hóa vàng thật ! Nôn xong lập tức tiếng cười, giọng nói của gã thay đổi hẳn. Gã cất lên một tràng cười the thé ghê rợn, điệu cười đồng cốt quen thuộc, cùng chất giọng “bà la sát” cũng vô cùng quen thuộc với Sửu. Rõ là tiếng cười và giọng nói của vợ hắn:

- Hai tên gian phu, dâm phụ kia. Hãy vành mắt ra mà nhìn cho rõ: Ai đây?

Và gã giật phắt bộ rèm râu phơ phất, trật luôn cả mũ hành giả, xổ tung tóc ra. Trời ơi, vợ Sửu! Đúng là con mụ phù thuỷ ấy rồi! Phen này thì chết không có chỗ chôn rồi!

Vợ Sửu phán:

- Nghe đây! Bà thừa sức xé xác cả hai đứa. Song dù sao thì bà cũng đã có nén nhang đi chùa, nên bà mở lượng khoan hồng, mở đường hiếu sinh! Nhưng cũng chỉ cho phép một đứa được ra khỏi hang, đứa nào cũng được! Hãy nhường cuộc sống cho nhau đi, cũng là một cơ hội để chúng mày thử thách tình yêu. Ha! ha! Hang tình Mắc Cỡ có ngã ba định mệnh! Nơi đây có một đường ảo lên trời, có một đường đau khổ, đọa đầy xuống địa ngục! Còn lại là đường ra khỏi hang, đường thoát hiểm nhẹ nhàng, đường phơi phới đi lên của thế nhân bạc bẽo! Quả là một nơi lý tưởng để cho đôi lứa thử thách tình yêu!

Nàng bíu chặt lấy Sửu, run như cầy sấy. Song Sửu cũng chả hơn gì, gân cốt bủn rủn, rã rời. Hắn co rúm lại như cái bị rách. Nàng thều thào:

- Mau đọc thần chú đi anh.

Sửu gồng hết tàn lực: “Bố đ… sợ!”. Bỗng dưng một luồng chính khí truyền qua huyệt bách hội mà xuống tới toàn thân làm gân cốt hắn kêu răng rắc, cần cổ đột nhiên cứng cỏi vươn cao, cái lưỡi mềm ra ngọ nguậy và khí phách bừng bừng qua cặp mắt long lanh, dữ dằn:

- Chả còn gì để nói nữa! Trong vai tên dẫn đường, mẹ mày đã rõ hết mọi chuyện. Tha thứ cho nhau thì cám ơn nhiều, mà không thì chơi luôn. Lành thì làm gáo, vỡ thì làm muôi. Nói cho mà biết: Tôi với nàng đã thề cùng sống, cùng chết. Khôn hồn thì tránh đường cho chúng ta ra khỏi hang, còn ngăn cản thì hai chọi một chả chột cũng què. Đừng đùa với sức mạnh của đôi trai gái đã thề cùng sống, cùng chết!

Vợ Sửu cười nhạt, rút con mắt mọc ở gáy ra chiếu thẳng vào Sửu. Sửu bỗng “tẹt ga”, đờ ra như tên yêu quái trong “Tây du ký” bị chủ đến thu phục. Ánh sáng chói lòa của con mắt kinh dị đó chiếu vào làm Sửu hiện dần thành một con trâu mộng: Cặp sừng nghênh ngang, đôi mắt đỏ ngầu và rớt dãi lòng thòng!

Tuy vậy Sửu vẫn không quên nàng, dồn hết tàn lực Sửu rên lên:

- Em ơi, mau nắm lấy tay anh một lần cuối khi anh chưa bị biến thành trâu hoàn toàn!

Hai bàn tay hắn quờ quạng tìm tay người yêu. Song nàng đã kịp lùi xa hắn và thét thất thanh:

- Tránh ra, đừng đụng vào ta, đồ trâu điên bẩn thỉu!

Rồi nàng thụp xuống lễ vợ Sửu như tế sao:

- Tha cho em đi, cùng là đàn bà với nhau! Cho em ra khỏi hang đi chị, hãy để tên trâu mộng đa thê này ở lại hang, biết đâu hắn chả lồng lên được mà lao vút qua đường lên trời!

Lúc này Sửu đã biến thành trâu hoàn toàn. Hắn chạy nhong nhong theo bàn tay vẫy vẫy của vợ và nhỏ dần, nhỏ dần tới mức chỉ còn bằng một chú chó cảnh!

Vợ Sửu cất con mắt khủng khiếp đó vào sau gáy, cẩn thận bới tóc che kín rồi gỡ sợi dây chuyền vàng ở cổ ra, nhẹ nhàng xỏ mũi trâu mà kéo vào lòng. Bất giác mụ ôm chầm lấy trâu mà hôn hít như điên, như dại: Tha thứ cho sự mạo phạm của em! Bất đắc dĩ em mới phải ra tay, để giữ anh, em chẳng còn cách nào khác! Buồn lắm SỬU TRÂU yêu dấu của em! Suốt đời em thương nhớ anh, còn anh thì thương nhớ những người tình xa!

Tứ hổ

09/08/2012

Bà Nhàn yên tâm khi nghe thấy tiếng cánh cổng sắt nhà Vang sập đánh r… ầ… m… Sau đó là tiếng con vợ Vang í éo, thơi thơi:

- Nhé! Cháy nhà mới ra mặt chuột! Nhé! Cứ tưởng bà cô thế nọ thế kia, cao giá! Ai dè…

Không có tiếng Vang trả lời. Bà cố ý nghe ngóng, nhưng chỉ thấy tiếng đàn gà túc túc, bới rác dưới chân đống rơm. Thế là đứa nào đã về nhà đứa ấy. Hít một hơi dài để nỗi buồn trong lòng dịu xuống, bà cúi mặt cầm chiếc ghế nhựa ra ngoài giếng cùng Hạ, cô con gái út, rửa đống bát đĩa, dao thớt, xoong nồi nhớt nhát sau buổi thanh minh.

Đã thành lệ, năm nào nhà bà Nhàn thanh minh con cháu cũng tề tựu về tảo mộ cúng ông bà tổ tiên rồi liên hoan. Những năm đầu còn vui vẻ, nhưng sau dần, bốn anh con trai: Chiến, Thắng, Vẻ, Vang, có gia đình riêng, con bồng con bế thì ngày ấy, cứ như ngọn núi lửa ngầm sôi, sẵn sàng phun trào bất cứ lúc nào.

Trong bữa ăn, rượu vào không ai chịu ai, bởi nỗi ấm ức cả năm bị kìm nén, bấy giờ mới được dịp bung ra. Bốn anh, cứ nhè vào phần nhân cách thiếu hụt của nhau mà bới móc, không ít lần sinh ra ẩu đả, làm cho bố mẹ chỉ còn biết kêu trời.

Chiến, con trai cả người thành đạt nhất, phó giám đốc một sở, trắng trẻo, thư sinh, rất nhạy bén với thời cuộc. Anh thường là người đầu tiên mang thông tin về làng (chẳng biết đúng hay sai): “Bây giờ chạy vào trường X phải chín mươi triệu, trường N phải trên trăm triệu. Tôi có thằng bạn chạy chức phó phòng, cái phòng chẳng mầu mè gì cũng mất mười lăm vé”.

Ba cây lộc vừng mọc ở bờ ao, nổi u, nổi cục, thân uốn lượn như những con rồng trên mái đình làng, có từ đời nào không ai biết, đều được anh bứng đi. Cây thứ nhất, Chiến bảo với ông Trác: “Sếp nhị tân gia nhà mới thằng nào cũng phong bì, con phải làm khác. Bố cho con xin cây lộc vừng để mang đến xin sếp tí lộc!”.

Cây lộc vừng thứ hai, Chiến vò đầu bứt tai: “Sếp nhất cứ khen nhà sếp nhị có cây lộc vừng đẹp, làm con khó xử, bố cho con cây nữa nhé”. Cây lộc vừng thứ ba, Chiến đặt vấn đề: “Làm nhà con không xin bố mẹ cái gì, con chỉ xin mỗi cây lộc vừng”.  

Thế là ba cây lộc vừng đều lên thành phố, để lại ba cái hố. Mùa khô đen ngòm hun hút, như ba cái lỗ đào vàng. Mùa mưa réo rít đầy vập nước, như ba cái giếng khơi. Một chiều mùa thu, nhà hàng xóm bán cây lộc vừng được hơn hai chục triệu, tin ấy loang nhanh. Cả nhà nhìn ra, không thấy những dây hoa đỏ rủ xuống mặt ao, không thấy những chú cá cuộn mình đớp cánh hoa rơi, ai cũng tiếc ngẩn, tiếc ngơ.

Hạ vô tình nhẩm tính: “Nhà bà Mùi bán cây lộc vừng ấy, mà được hơn hai chục triệu, ba cây nhà mình ăn đứt cây ấy, bét cũng trên đôi chục một cây…”. Vợ chồng ông Trác thở dài. Vang nghiến răng: “Làm anh mà tham như mõ! Thượng vàng hạ cám, chổi cùn rế rách cái gì cũng vơ! Đúng là cái loại anh… ách!”.

Chiến thăng quan tiến chức rất nhanh, thỉnh thoảng dân làng lại được ông Trác khoe (chẳng biết đúng hay sai): “Thằng Chiến nhà tôi lại lên chức nữa. Tài sản của nó bây giờ phải trên ba tỷ. Tết năm ngoái, cấp dưới đến chúc, tiền phong bì được tám chục triệu”.

Vẻ chẳng ý tứ gì chen ngang: “Giầu thế để làm gì? Bố mẹ đã được anh ấy thí cho đồng nào bao giờ chưa? Năm ngoái, thằng Vang làm nhà lên vay tiền, chỉ thiếu quỳ xuống lạy, mà anh chị ấy sợ em không trả được, không cho vay lấy một cắc”.

Như cống nước thải được khơi thông dòng chảy, bà Nhàn cay đắng: “Nói gì đến các anh, tôi đây này, năm ngoái nằm viện bạn bè của anh Chiến đến thăm, người cho năm chục, người một trăm. Tất cả cũng được mấy triệu, nhưng vợ nó lấy lại hết chỉ cho tôi ba trăm. Chị ấy bảo số tiền ấy để anh Chiến thăm lại khi cha mẹ, vợ con, họ ốm đau”

Thắng, con trai thứ hai là viên chức về hưu. Đen, râu quai nón, lại gù trông như con gấu. Ngày còn trong miền Trung anh coi trại tù, mỗi lần về phép khuân theo bao lớn, bao nhỏ, gạo nếp, đậu xanh, và cả những chiếc điếu cày chạm khắc rồng phượng, gái khỏa thân nhìn như thật. Trai làng thích rỏ dãi. Anh bảo: bọn phạm nó làm.

Thắng vui vẻ phóng khoáng uống rượu như bọn lục lâm thảo khấu, uống bằng bát, bằng tô. Uống xong rút súng ngắn, bắn đoàng đoàng lên ngọn cau già. Cách đây dăm năm, Thắng sơ ý để phạm nhân trốn trại, anh bị kỷ luật xuống quân hàm, điều về quản giáo ở một trại tù miền Bắc, rồi nghỉ hưu non. Từ đó Thắng như con sâu chui vào cái kén, ít nói nhưng cục cằn.

Chuyện trong nhà Thắng đập bàn, định hướng cho các em: “Ông Chiến là con trưởng, cứ theo ông ấy mà làm”. Thực hiện đúng lời nói, Thắng không nghĩ đến ai ngoài vợ con mình. Bữa bà Nhàn ốm nặng, phải đi viện. Thắng lạnh băng: “Với người già, sống là ở miền khổ ải, chết là đến miền cực lạc. Sống chết có số. Viện mới viếc! Vẽ”. Dân làng vây quanh chiếc cáng bà Nhàn, nhìn anh ngỡ ngàng như vừa nhìn thấy người ngoài hành tinh. Bởi chưa ai biết gì về miền cực lạc, họ chỉ hiểu giản đơn: Nói thế nghĩa là mong cho mẹ chết.

Vẻ, con trai thứ ba, nhang nhác giống anh cả, nhưng trắng trẻo hơn. Anh làm đủ nghề: thợ mộc, thợ nề, rồi thợ sửa chữa điện tử, không nghề nào giữ được anh lâu, nên cuộc sống cứ như người đi trên sợi dây, bấp bênh, lơ lửng. Bù lại tính Vẻ tằn tiện, chắt bóp, ngoa ngoắt như gái điếm về già.

Nhà nuôi con chó bỗng mất tăm, Vẻ đi dọc làng chửi, mớ đời, vạn đời thằng trộm chó, nhưng sau thấy nó chết nổi ở bờ ao, đã căng phình và bắt đầu có dòi, vì ăn phải bả chuột. Anh vớt lên cạo lông, moi ruột, thui vàng, mang ra quán Thảo Xồm phố huyện, vẫn bán được chín chục ngàn. Từ bữa ấy cả làng không ai dám ra hàng thịt chó.

Chuyện trách nhiệm với bố mẹ, anh em, Vẻ dễ dãi, “quan tám cũng ừ, quan tư cũng gật”, nhưng gật xong, Vẻ chẳng làm gì. Mỗi khi ông bà Nhàn có việc, anh thường cười hề hề bảo: “Để cho hai quan bác lo chuyện đại gia đình, mình chưa đến lượt, lớ xớ hai bác lại chửi cho”.

Đúng là Vẻ không lớ xớ. Anh như người dưng, có ăn thì đến, bố mẹ hở ra cái gì thì nhặt, họp bàn chuyện đóng góp Vẻ cáo ốm, cho vợ đi thay. Trong nhà, bà Nhàn ác cảm với Vẻ nhất. Lần hàng xóm có đủ bằng chứng Vẻ ăn trộm gà, nói riêng với bà. Bà xấu hổ rít lên cay nghiệt: “Biết nó thế này, khi đẻ ra thà bóp chết cho xong”.

Vang, con trai thứ tư, chẳng giống ai, dân lao động cơ bắp mà tóc để ngang vai, râu ria rậm rạp như người rừng. Vợ chồng cấy một mẫu hai sào ruộng tạm đủ ăn, có dạo hùn vốn cùng ông chú họ mở lò gạch. Bán được vài vạn thì gặp mưa triền miên, lò đổ sụp thành đống bùn nhão, ông chú đòi lại mười lăm triệu tiền góp vốn.

Vang bảo: “Góp đếch đâu mà đòi”. Chú bảo có, cháu nói không, cãi chửi nhau như chém chuối mà thề. Không ai đứng ra giải quyết, thế là chú cháu từ nhau. Mười lăm triệu đủ để chia lìa tình chú cháu.

Vang thích ăn nhậu, không con chó, con lợn nào người trong làng thịt, mà Vang không đụng một phần. Rượu không uống được nhiều, nhưng anh lại uống suốt ngày. Để cổ vũ cho thói ăn nhậu của mình, Vang nêu cao triết lý: “Biết gì đã sống đến mai mà dành củ khoai đến sáng!”.

Ông Trác xếp loại trong “tứ hổ”: “Ở thằng Vang, phần người nhiều hơn cả. Bởi một năm nó còn giúp được bố mẹ vài buổi cày bừa. Lúc ăn nhậu nhớ đến bố mẹ, cũng biếu tô canh, đĩa thịt”.     

Hạ, cô con gái út hai mươi hai tuổi, học trung cấp y, xinh xắn khỏe mạnh, tính tình dịu dàng, sống có hiếu với cha mẹ, ra trường gõ cửa khắp nơi đều không xin được việc. Cậy nhờ anh cả, Chiến cười khùng khục: “Cả xã hội đâu đâu cũng đại học hóa, cô chỉ có cái bằng trung cấp, lại là trung cấp y thừa nhan nhản, thì xin đâu được việc bây giờ. Xem y tế xã có việc gì thì tham gia, mà ăn thóc theo mùa vụ”.

Bà Nhàn thấy không hy vọng an ủi: “Thôi khó khăn thế thì ở nhà làm ruộng, rồi lấy chồng con ạ, làng này đã có mấy đứa con gái, thoát khỏi chân lấm tay bùn?”. Hạ buồn buồn bảo: “Chỉ tiếc mấy năm đi học, biết thế này con chẳng đi nữa…”. “Cái sự học là không cùng, đôi khi cái sự học chẳng để làm gì con ạ”. Ông Trác vừa nói, vừa nhìn con trai cả.

Ông nhớ lại những đêm vợ chồng gánh đất đổ lấn đầm sen hợp tác, để cho đủ sau này mỗi thằng con trai một mảnh đất. Ông nhớ đến cái đêm nào mưa rét cõng Chiến chạy mười cây số lên bệnh viện cấp cứu, khi Chiến lên cơn hen cấp tính. Ông chua chát cười mình, một thời mũi cứ phổng lên hôn hít cái mẩu thừa, tự hào có bốn thằng con trai, tứ hổ, nhiều đinh nhất họ. Hạ nước mắt ráo hoảnh: “Chẳng phải học ở đâu xa, chỉ học ở nhà ta cũng quá đủ”…

Thanh minh năm nay có vẻ yên hàn, bốn cậu con trai ăn uống nói cười hỉ hả, bắt chân bắt tay nhau trước khi ai về nhà nấy chứ không cãi nhau như mổ bò giống mọi năm. Chẳng là nhà bà Nhàn được đền bù mấy sào ruộng làm đường cao tốc được hơn trăm triệu, ông bà cho mỗi đứa cháu dăm triệu còn lại để dưỡng già và lo việc cho cô út nên ai cũng vui vẻ. Bà Nhàn thở ra một tiếng nhẹ nhõm. Biết đâu từ nay trở đi, anh em chúng nó thuận hòa... Bà nghĩ thầm rồi đứng dậy cùng cô Hạ thu dọn bát đĩa…

Có tiếng người chạy thình thịch vào nhà. Mặt tái dại đi vì rượu, loạng choạng đẩy cửa nhà trên bước vào, bật điện sáng trưng, Vẻ ngó nghiêng tìm kiếm một hồi rồi chui vào gầm giường cầm chổi khua khoắng. Bà Nhàn thấy lạ hỏi:

- Làm  gì mà ầm ĩ lên thế, để yên cho thằng Chiến ngủ, chiều nó về.

- Y… y… yên gì mà yên, rõ ràng lúc nãy gói tiền của ông bà cho các cháu con đút ở túi quần, thế mà về đến nhà không thấy đâu nữa, nó chỉ rơi ở bên này! - Lưỡi Vẻ líu lại vì say.

Thấy sự việc có phần nghiêm trọng, hai mẹ con bà Nhàn đứng lên. Họ vào nhà săm soi tìm kiếm cùng Vẻ. Mồ hôi ướt đầm lưng áo ba người. Không thấy. Chỉ thấy rặt những mẩu thuốc, và vỏ bánh kẹo trong gầm giường, gầm tủ. Vẻ khẳng định:

- Thế… thì… thì ai đó nhặt được rồi?

Vẻ gọi bố và anh cả dậy. Nghe Vẻ tường trình, ông Trác khó chịu, nhăn nhó bảo Hạ:

- Con đi gọi tất cả người lớn trẻ con, trưa nay ai có mặt ở nhà ta thì đến ngay. Khổ thân tôi! Không có năm nào thanh minh yên ổn cả!

Hạ đi, không đầy mười lăm phút sau, mọi người đã có mặt đầy đủ. Nghe ông Trác nói vắn tắt sự việc, tất cả nháo lên, ai cũng muốn tự thanh minh cho mình. Thắng đứng trước đám nghi can, đúng chuyên môn của mình, anh nói to:

- Bố cứ để con.

Thắng hắng giọng, kêu gọi mọi hãy người thành thật, tự giác, gạt bỏ lòng tham, rồi anh như vị chỉ huy đứng trước hàng quân:

- Trước hết tôi hỏi các ông. Có ai nhặt được gói tiền ấy không?

Những người đàn ông lắc đầu. Thắng nhìn quanh một vòng:

- Không có ai. Tôi hỏi các bà, có ai nhặt được gói tiền ấy không?

Những người đàn bà lắc đầu. Thắng phẩy tay:

- Không có ai. Các ông các bà đi chỗ khác, bọn trẻ con lại đây.

Bọn trẻ con xô lại, nhao nhao thanh minh:

- Không phải cháu, không phải cháu.

Thắng quát:

- Im, tao hỏi từng đứa một, thằng kia vào đây.

Đứa đầu tiên con nhà Vẻ, nó câng câng. Thắng véo tai, nó kêu oai oái:

- Bác ngu thế, cháu nhặt được thì cháu đưa cho bố cháu chứ.

- Khám!

Thắng lục lọi quần áo nó một hồi, không thấy gì, anh đẩy nó ra, gọi đứa khác. Cứ lần lượt cái điệp khúc véo tai - khám cho đến đứa cuối cùng trong ánh mắt thấp thỏm, lo lắng của bố mẹ chúng. Bọn trẻ con đau đớn mặt đỏ phừng phừng, nước mắt nước mũi giàn giụa, gào khóc như bị xé thịt.

Mọi người quay mặt đi, không dám nhìn lũ trẻ. Ai cũng xót xa nhưng vì muốn chứng minh con mình vô can, đành nghiến răng cam chịu. Tra hỏi từng đứa xong, không tìm được thủ phạm, Thắng bảo:

- Chú xem lại đi, có đúng rơi ở đây không, hay rơi ở chỗ khác?

Vẻ lắc đầu:

- Chỉ ở đây thôi, vì tôi có đi đâu đâu, ngoài từ đây về nhà!

Hạ ấm ức:

- Anh xem kỹ lại đi, biết đâu rơi ở trên đường về thì sao?

Vang từ đầu chẳng nói năng gì, đến cái lắc đầu cũng không, bây giờ anh mới lên tiếng:

- Ông chỉ có nhặt của người khác, chứ làm đếch gì có ai nhặt được của ông bao giờ!

Như bình xăng được châm lửa. Vẻ giận dữ lao đến túm cổ áo Vang:

- Mày bảo ai, hở thằng ăn quỵt?

Vang gạt tay Vẻ ra thách thức:

- Tôi nói ông chứ còn nói ai. May mà tôi không nhặt được, chứ nhặt được, thằng này để uống rượu! Đừng hòng trả.

Không khí từ đầu đã căng như sợi dây đàn, bây giờ đứt phựt. Tiếng khóc của bọn trẻ con chìm nghỉm, trong tiếng cãi vã của người lớn. Chiến ôm Vang, Thắng ôm Vẻ. Chiến nói như quát:

- Thôi tôi can hai chú, đừng như thế dân làng họ cười cho.

Vang nhơn nhơn, vuốt mạnh tóc về sau gáy:

- Cười hở mười cái răng, ông đếch đủ tư cách can tôi. Hôm nay tôi phải nói cho dân làng biết, các người đều là đồ đạo đức giả! Ông ăn ba cây lộc vừng của bố mẹ đến cả hơn trăm triệu! Giàu có bạc tỷ mà có bao giờ ọe cho bố mẹ anh em được một cắc một chinh nào chưa? Quyền huynh thế phụ! Ông cứ khoe khoang giỏi giang, quan hệ rộng mà có đứa em gái cũng không lo nổi! Ông là cái đồ… đồ…

Chiến giơ tay, Vang không kịp đỡ, cái tát làm anh hoa mắt. Như điên dại, Vang đẩy Chiến ngã nhào, lao vào bếp cầm con dao lăm lăm trên tay. Mọi người tái mặt dạt vào góc nhà. Bà Nhàn lao đến ôm lấy chân Vang. Vẻ cầm chiếc đòn gánh, hùng hổ xông vào. Ông Trác quỳ xuống, chắp tay vái lia lịa:

- Bố lạy các con, bố lạy các con.

Không khí chưa có chiều hướng hạ nhiệt. Mùi rượu, mùi mồ hôi, tiếng chửi bới, như trong đám loạn quân.

- Tôi nhặt được số tiền ấy! Tôi nhặt được nó! Hu… hu… Xin trả lại anh Vẻ. Tôi có lỗi, xin mọi người tha lỗi cho tôi. Tôi xin mọi người, tôi xin mọi người… Hu..hu…hu… Ngày trước vì mười lăm triệu mà mất tình chú cháu, bây giờ không lẽ vì năm triệu, mà mất nốt tình anh em. Hu… hu… hu...

Hạ vừa khóc vừa lao vào giữa hai anh trai. Những đôi mắt ngơ ngẩn nhìn nhau, ngạc nhiên, lặng phắc. Vẻ bĩu môi không thèm nhìn gói tiền mà Hạ vừa đưa, hầm hầm giật phắt một cái rồi đút luôn vào túi. Vợ Vẻ đay nghiến, dài giọng:

- Tưởng ai, hóa ra là bà cô.

Như quả bóng bị xì hơi, mọi người lặng lẽ giải tán.

*

*    *

Trút đám xương bị gặm nham nhở ở mâm vào chiếc bát tô, bà Nhàn chống tay đứng dậy tìm hai con chó con bà mua được hơn một tháng để đổ cho nó ăn. Cái lưng vốn dĩ đã ê ẩm giờ bỗng đau như rần khiến bà loạng choạng suýt ngã phải vịn vào thành giếng. Êu… Êu… Êu… Tiếng bà xa dần về phía bụi tre sau nhà. Êu… êu… êu…

Từ trong bụi tre hai con chó con chạy ra quẫy đuôi tíu tít quẩn vào chân bà. Hôm nay no nê có khác… còn chê cả xương nữa đấy! Ăn đi rồi đừng có mà rửng mỡ, lôi tha các thứ của bà đi mà nhay! Bà thầm mắng yêu rồi tiến về cái ổ chúng đã tự bới từ khi nào để đổ bát xương cho chúng ăn dần. Bỗng bà sững người. Trước mắt bà là một gói giấy rách nham nhở do bị chó nhay để lộ ra những đồng tiền xanh đỏ được buộc bằng chiếc nịt vàng mà tối qua chính tay bà đã buộc!

Tỉnh rượu

Gã về đến nhà thì cổng đã khóa. Gọi mấy câu không ai thưa liền trèo, uỵch một tiếng gã rơi vào trong.

- Thôi đi, mất cả giấc ngủ người ta -

Tay

gã bị hất ra.

- Bảo cho nửa đêm tang tình về sáng lại còn ra vẻ…

Gã nói những gì nữa, gã nghe. Nằm mãi vẫn không ngủ, gã rờ xuống bếp… Ối, như ai đánh vào ống đồng, đau điếng. Gã cúi người, thò tay xuống. Ra là cái cặp bếp, vợ nấu cơm, chắc ném gà vứt luôn đây.

Gã đã mò được can rượu. Đem ra sân, chưa ra đến sân đã tu xong ba ực. Gã ngồi xuống cái cối đá. Vẩn vơ. Trăng suông cái gì cũng nhàn nhạt. Ô buồng chuối, gã sực nhớ là chưa có cái gì nhắm. Gã bước nhanh ra, khuỵu xuống. Hình như là chóng mặt do ngồi xuống đứng lên nhanh? Hay rượu không biết. Nghĩ chưa xong thì đến buồng chuối rồi.

Bịch! Bịch!... như là buồng chuối chạy. Không phải hoa mắt, gã đuổi theo. Mày có đứng lại không, ăn hòn gạch vào đầu này. Bóng đen vẫn chạy. Cái vườn rộng quá, khối đen đen cao cao đang nhảy lên tường rồi. Gã vút hòn gạch. Bóng đen rụng xuống chân tường.

- Em lạy anh. Em trót dại. 

- Đêm hôm mày vào đây làm gì? - Gã hỏi một câu rất ngớ ngẩn.

- Em… em… em định xin anh con gà.

Gã đá tên kia một cái, kéo tai đứng dậy, lệch cái cổ ra phơi cái mặt lên. Hóa ra là thằng Trung nghiện. Thằng Trung nín thở cho gã sờ nắn khắp người:

- Sao mày không đến nhà khác mà lại mò vào nhà tao? - Gã lại ngớ ngẩn rồi.

- Em thấy đám cưới biết thế nào anh cũng đi.

- Giỏi nhỉ, đừng hòng, mày tưởng tao say à, vào sân mà xem cái can.

- Em có mắt như mù, anh tha mạng cho em.

- Kiếm việc gì mà làm chứ gà què ăn quẩn cối xay mãi thế này à? - Giọng gã có vẻ dịu lại.

- Em biết làm gì, chẳng ai thuê thằng nghiện nữa.

 Im lặng, hắn đang nghĩ, đúng ra là nghĩ ra rồi nhưng không dám.

- Thôi anh cho em về, sắp sáng rồi, em sợ lắm…

- Không được, vào đây tao nói chuyện.

 Hai người vào sân. Gã rót hai cốc rượu, một đẩy về phía thằng Trung.

- Uống đi, cạn, xong tao nói - Thằng Trung ngập ngừng, đưa cốc lên, lại đặt xuống - Tao bảo mày có uống không!- Gã quát lên. Thằng Trung ngửa cổ rót cả cốc vào, ho sặc sụa.

- Từ mai mày sẽ đi phụ xe trâu cho tao. Ngày giả hai mươi nghìn, cơm về nhà tao.

- Em… Anh để em về hỏi ý kiến bố em đã.

- Ghê nhỉ, hỏi ý kiến. Nói cái Lê nhà tao nó chả nghe được.

- Thôi… nếu mày không nhất trí thì uống hết can rượu này, ít thôi, khoảng ba mươi cốc

Hôm sau không phải mình thằng Trung mà thêm hai thằng nữa. Trông mặt thấy quen quen, hình như trong xóm Lải. Thằng Trung kéo hai thằng kia lên, xếp một hàng ngang, lễ phép:

- Hai thằng này bạn em, nó cũng muốn đi làm. Anh cho nó làm nhớ.

Gã định chối. Quyết định tối hôm qua là hứng. Dạo này xe trâu cũng nhiều, nhà xây có tăng, việc có hơn nhưng vẫn phải chào mời, tranh cướp.  Ấy là chưa kể xã bắt đầu có sáu cái ôtô tải. Bất chấp công trình to nhỏ, ào một cái, gạch, cát xong ngay. Gã vẫn đói, chiều về trông thư thái cầm vô lăng chạc, một trăm hai trăm trong túi. Nhưng tiền trăm như gà đẻ cách nhật, ăn thua gì. Mấy cái mồm chấu vào. Hai mẹ con nó chẳng đáng là bao. Chỉ toàn vào mồm hắn. Rượu uống dè ngày cũng đôi lít. Cái nhắm nữa. Chao ôi, con người làm để đút vào mồm mãi vẫn chửa xong. Dạo này người ta lại kén cá chọn canh. Đấy hôm kia nhà Hoan bảo đổ đất đắp ao. Chồng đến tận chỗ gã đang làm nói năng hợp đồng người lớn. Sáng đánh xe đến nơi, chồng đi vắng, vợ đon đả ra…  "Thế này thì không nên không phải với bác quá. Đúng là nhà em có kế hoạch đắp cái ao nhưng giấy tờ vẫn chưa đâu vào đâu. Vẫn là của mình rồi nhưng đắp, những đứa ngứa mồm lại bảo chiếm đoạt. Thôi thì bác thông cảm… Khi nào đắp dứt khoát vẫn là gọi bác". "Nói lắm quá, toẹt một câu không thuê bác nữa cho xong". Gã chửi, văng tục rồi đùng đùng về. Ra đến bờ rào, gã nghe tiếng thằng chồng "May, mình chợt nhớ ra, thuê cái thằng sâu rượu này thì đến cả tháng cũng chả xong. Mà mấy bình rượu rắn của tôi, chục tay mười mắt cũng bị bốc hơi". Rõ là giấu đầu hở đuôi, hắn định quay lại tế cho một trận. Nhưng nghĩ lại, mình thế hóa ra bằng nó. Gã biết điểm yếu của mình nhưng chả làm thế nào cai được. Đi làm mệt, người đang rã rời, có tí cay cay vào như trâu như voi luôn. Khổ thế! Thôi thì đến mùa mưa việc ít, mình sẽ từ từ cai. Thật là nghiện cái gì khổ cái đấy. Gã khổ, vợ con khổ.

Không biết là do đồng cảm hay do quân tử nhất ngôn mà hắn tuyên bố với ba thằng kia:

- Nhất trí cho cả ba thằng làm cùng. Nhưng với điều kiện rượu và ma túy cấm tuyệt đối. Vẫn ngày hai mươi nghìn, về nhà tao ăn cơm như đã nói tối qua. Tao nói trước, tiền hết tháng mới trả đấy.

                         *

Từ ngày có ba đệ tử, xe trâu của gã xem ra khá lên. Gã chẳng có văn gì mới, vẫn hùng hục hùng hục. Lúc xúc bốn người cùng xúc, lúc xe đi gã và thằng Trung. Còn hai thằng kia ở lại, gã giao việc cẩn thận… "Số cát, sỏi gom lại thành đống, lúc tao về phải xong một nửa. Số gạch vừa đổ, xếp kiêu lên, chủ yêu cầu, có tiền đấy". Trên đường, hắn ngồi trên thành xe, thằng Trung lẽo đẽo theo. Trừ lúc hét trâu ra còn hắn liên mồm. Hắn hỏi thằng Trung:

- Mày tiêm hay là hút.

Thằng Trung cười:

 - Anh đúng là dân ngố. Bây giờ còn ai hút, thơm lừng lên khác nào bảo công an các anh ơi đến bắt bọn em đi.

Gã gật gù theo nhịp xe:

 - Thế à… thế à. Thế một ngày xài hết bao tiền?

- Chẳng biết bao nhiêu cho đủ, có nhiều chơi nhiều, ít chơi ít.

- Ít cũng phải có tối thiểu chứ, như tao uống rượu, ngày cũng phải hai lít, vị chi là hai sáu nghìn.

- Dạ… thì nếu ngày một trăm thì ổn ạ.

 - Trời, một trăm á! - Xe phanh gấp, dừng lại như gặp sự cố. Gã kêu lên - Chết chết… bằng cả xe cả trâu cả cái thân tao làm một ngày à?

 Thằng Trung im lặng, biết là mình nói hớ.

- Thế này năm ngày làm cho tao mới đủ một ngày tiêm à?

- Thì rộng rãi ra là thế, chứ kẹt như bọn em thì vừa một mũi, còn lại tiêm ké với bọn nó. Sống dựa vào nhau cũng có lúc bọn nó phải cứu mình - Thằng Trung nói thật mà cũng như vớt vát.

Gã không nói gì nữa. Hay là cho bọn nghiện này làm nốt buổi đi rồi kiếm lý do đuổi. Thí dụ "Chúng mày làm thế này ăn cháo. Chúng mày để nhà chủ người ta kêu lắm. Nhà người ta mãi không sao, tao một mình không sao, có chúng mày tự nhiên con chó mất tích… vân vân và vân vân những điều gán cho bọn nghiện". Đuổi, bọn này sẽ phải chấp nhận. "Đã mang tiếng nghiện ở đời/ Đi đâu cũng bị mọi người tránh xa". Gã không là ngoại lệ trong mọi người ấy.

Gã thấy lo lo, mường tượng ra cái cảnh quay xe về thì chỉ còn đống cát nhìn đống sỏi. Hai cái xẻng, một cái cào đã bốc hơi theo hai thằng mất dạy. Gã sẽ gầm lên, chỉ mặt thằng Trung: "Lũ chúng mày cho chết bờ chết bụi cũng đáng".

Đúng thật. Gã và thằng Trung quay về thì không thấy hai thằng kia. Gã giật mình nhảy phóc xuống. Thằng Trung sợ, gọi to. Một lát mới thấy hai thằng chạy từ trong một nhà gần đó ra.

- Chúng mày đi đâu? Đang làm bỏ đi đâu?

- Em. Bọn em gom cát, sỏi lên rồi. Bà già nhờ chặt cây xoan đổ.

Gã hất hàm:

- Trung, mày vào kiểm tra xem.

 Thằng Trung chạy vào, chạy ra, hổn hển báo cáo:

 - Đúng anh ạ, nhưng mới chặt được một ít. 

Gã im lặng, vẻ phân vân rồi bảo ba thằng:

- Tất cả vào giúp bà già.

 Thực tình gã không có ý định làm giúp nhưng sợ. Sợ bọn này vào nhà người ta nhanh tay nhanh mắt. Bình thường, đấy là trách nhiệm của toàn xã hội nhưng gã đang là ông chủ. Tốt đẹp tiếng khen chả cần, còn tiếng xấu gã chịu. Vợ gã sẽ sưng mặt lên, không uống rượu mặt cũng bằng cái lệnh, đay hàng nghìn câu trong một tối, trên một cái giường. Lúc ấy, gã chỉ còn nước gọi thằng can ra làm mấy cốc.

Bà già thấy bốn người vào thì xuýt xoa, xuỵt xoạt. Bà bảo con thì cả một đống nhưng năm lần bảy lượt từ sáng hôm qua đến giờ chúng vẫn chưa tới… vì mẹ chưa chết.

Cây xoan đổ ụp đầu hồi, cành đè lên mái trước. Hai thằng đã chặt hết cành, phần gốc còn dở. 

Người chặt người cưa, độ hơn tiếng thì mái bếp như đứng lên, đống xoan xếp lù lù giữa sân. Bà già hết nhìn cái bếp, lại nhìn đống xoan. Bà đi vào buồng, tay nắm nắm, vẻ băn khoăn:

- Nói thì không phải các cháu cho bà xin - Bà đưa năm mươi nghìn.

- Sao lại tiền? Ai bảo tiền? - Gã ngạc nhiên.

- Hai cháu này bảo một trăm. Thôi thì các cháu đừng chê ít.

Gã hiểu ra. Nói với bà già, đùn đẩy một lúc bà mới cầm lại tiền. Gã khoát tay:

 - Tất cả ra bãi - Gã gầm lên, bốn cái tát cho hai thằng. Hai thằng quì xuống, thằng Trung cũng quì, xin gã tha tội.

Buổi tối, hơn tám giờ người xe mới về. Vợ gã đã dọn mâm, hôm nay có thêm đĩa thịt bò xào và rau sống. Khi chia đũa gã bảo:

- Hôm nay thằng Trung làm tốt, hai thằng phạm tội. Tao cảnh cáo lần đầu tiên cũng là cuối cùng. Thôi ăn.

Vợ gã hỏi có chuyện gì, gã đưa ngang cốc rượu, gạt gạt…

- Chuyện làm ăn, mẹ mày chỉ cần biết nấu cơm, chăm hai sào ruộng thôi.

                        *

Gần tháng rồi, gã quên mất ba thằng này nghiện. Chúng đi tiêm chích lúc nào gã không thấy, tối chúng về nhà chúng. Nhưng tiền, bọn này lấy đâu? Chưa nghe thấy vụ trộm cắp nào. Nhưng chắc chắn chúng phải có trò gì kiếm tiền chích. Gã thấy chán cho mình, ngày biêng biêng, tối bừng bừng, tỉnh hẳn thì là lúc ngủ dậy. Chả để ý, hôm nay nhớ ra thì không biết cách nào.

Nghĩ đến rồi qua đi, rượu tiếp rượu, xe quay vòng quay. Cho tới một hôm, một giờ sáng hay hơn gì đấy, con trâu đưa gã về. Gã làm cho nhà trên Thanh Sơn, chủ nhà tiện con chó cúm, mổ. Ngon quá, vào quá, một cốc hai hơi, miếng dồi lưu luyến. Say, áng chừng khuya rồi, gã xin phép về. Ra đến xe thì gục luôn xuống. Ngủ ập luôn, chưa bao giờ gã ngủ sâu đến thế. Có lẽ rượu và thịt chó đang hát ru từ cái nôi dạ dày. Gã mơ, gập ghềnh con đường đá to, ổ gà. Ngôi nhà xây hai tầng, một người đàn bà tóc chải mượt, má hồng, bế đứa bé đứng cửa tươi cười. Có tiếng bước chân chạy theo, cả tiếng nhảy lên xe, rồi nhảy xuống. Xe vẫn trôi, vẫn trôi…

- Ối giời ơi… làng nước ơi cứu chồng tôi với!

Điện sáng trưng chói mắt, tiếng bước chân rầm rập làm gã tỉnh. Vợ gã đang phân bua với mấy người. Thị đi tìm những chỗ gã hay làm. Thị đi dọc bờ kênh, đến cầu lội xuống, nước mắt lã chã.

Gã không chết, chẳng say ngã xuống kênh như ông Đắc, thằng Vi. Làm sao mà chết được gã, gã uống rượu có bảo hiểm. Con trâu của gã là trâu thần, chủ đâu nó đấy. Thì gã uống rượu ra nằm xe, nó vẫn đợi. Chắc là gã ngủ mê đạp chân vào thành xe, nó tưởng bảo đi đi. Nó đưa ông chủ về đến nhà nguyên vẹn.

Gã cười, dang hai tay ra cho mấy người hàng xóm xem: "Thôi bớt bớt rượu đi - Ai đó nói - làm hết cả hồn". Gã định bảo không có rượu thì làm thế chó nào được, nhưng mọi người đã về. Vợ gã cũng đang đánh xe ra chuồng.

Gã vào nhà. Bây giờ lại chả ngủ được nữa. Buồn buồn tê tê, gã ngó gậm tủ, lôi cái can ra. Vợ gã vào giằng lấy. Gã không phản đối, thế mới lạ, gã lạ cho gã. Hình như là sắp có chuyện gì xảy ra.

Sáng hôm sau tưởng gã sẽ om hết cả người, có giở dậy cũng ôm bụng, khòng lưng. Không phải, gã đã dậy, ngửa cổ, súc miệng òng ọc cho ập tất cả vào gốc chuối. Vợ gã hỏi:

- Thế vẫn đi làm à?

- Ừ, nhưng đợi ba thằng kia một tí đã - Gã làu bàu, chửi như bà mẹ chồng mươi mười lăm phút gì đấy rồi ra chuồng, mai trâu.

Gã gìm trâu cho đi chậm, có ý chờ. Chậm chờ vẫn không được, gã đang cong lưng, quắt bụng rồi. Mệt, có lẽ trận thịt chó hôm qua, cả đêm trâu đưa đi du lịch bây giờ mới ngấm. Gã vứt xẻng, đứng thở. Những ngôi nhà mới, những ngôi nhà đang xây, còn rất nhiều mái gianh. Như thế là còn gọi nhiều đến gã. Chúng mày ơi, ôtô chúng mày cũng chẳng vào được đến hè nhà người ta. Tao đếch sợ chúng mày. Gã nói thành tiếng, có ai đâu mà nghe.

Nhưng kìa có người. Một người đang đi lại đây. Chắc lại gọi cát chứ gì? Không phải, người ấy đang trước mặt. Hình như là chú Bình công an huyện về tăng cường.

- Anh hôm nay làm đây à? Em ở trong kia, tiện ra ngó ngoài này một tí.

- Chú là… có phải chú là Bình mới về xã không?

Bình mời thuốc gã. Hai người đứng nói chuyện, rồi ngồi xuống. Gã thấy Bình còn trẻ mà lễ phép, hiểu biết nhiều. Gã sướng khi Bình bảo xe trâu ở làng thì không bao giờ lạc hậu. Chuyện trò lâu lâu, chợt Bình hỏi Trung. Gã nói thật, hôm qua uống rượu, trâu đưa về, không thấy thằng Trung và hai thằng nữa đi làm.

Bình cũng nói thật về Trung, về cái xe. Hóa ra cái xe của gã là chỗ để ma túy. Gã không tin, bờ bụi, khe tường còn có thể, đằng này cái xe chả nhẽ vùi trong đống cát, trong ruột gỗ à? Bình bảo ma túy là bất ngờ nhất, rồi ra xe. Gã đi theo. Bình giật cái khóa hòm phụ tùng, lật đám cờ lê. Đây rồi. Gã trố mắt khi tay Bình lấy ra năm gói giấy. Năm tép.

Mồ hôi gã như mưa trên mặt, ngực, sau lưng. Gã ớ ớ mãi rồi mới nói được:

- Anh… anh không hề. Không hiểu làm sao nó lại ở đây.

Gã thấy đống cát trước mặt quay quay. Chết rồi! Tình ngay lí gian, nhà đá rồi. Gã sẽ bị bắt cùng với chiếc xe tang vật. Họ sẽ điều tra, cuối cùng vụ việc sáng tỏ, nhưng biết là bao lâu. Một tháng, hai tháng, hơn nữa, không đi làm không có tiền, cái nhà xây được một nửa để trong hòm rồi. Tháng ngày ấy, gã sẽ ở tù, cơm thì chắc là có, nhưng rượu? Tù ai cho rượu. Gã chưa đi tù bao giờ nhưng chắc chắn là như thế. Mồ hôi lại giọt giọt rơi. Gã đứng như Từ Hải. Tí nữa là đổ uỳnh xuống, nếu không có lời ghé sát vào tai của Bình:

- Anh hết sức bình tĩnh, cộng tác với chúng tôi. Cứ như thế… như thế nhé…

Bình đi rồi, gã chẳng còn sức đâu mà làm. Xúc được ba nhát, gã phi cái xẻng cắm trên đống cát. Ngồi. Đang vẩn vơ thì thằng Trung đến. Gã định quát thì sực nhớ. Gã hỏi sao đến muộn thế, Trung bảo: "Bố em tự nhiên sốt đùng đùng, chẳng có điện thoại báo anh". Hỏi tiếp: "Hai thằng kia đâu?". Trung đáp: "Em tưởng nó đi rồi, qua nhà không gọi". "Thôi hai thằng ấy đến lúc nào thì làm lúc ấy". Trung nghe câu ấy, nhẹ cả người, ra xúc luôn. Được lưng xe thì hai thằng kia đến. Xúc một lúc đầy xe, gã bảo cả ba thằng đi theo, nhà người ta đổ bê tông. Cứ thế, chục chuyến thì tối mịt. Thằng Trung nhắc nghỉ, gã mới như sực nhớ.

Cơm tối xong thì hơn chín giờ. Gã xua ba thằng về, giục vợ con lên giường ngủ. Vợ tưởng gã hôm nay khỏe, buông màn cười nói. Điện tắt, gã cất tiếng ngáy. Vợ một lúc cũng thở đều đều.

Khuya, áng chừng cả xóm không còn ai thức, gã trở dậy. Nhẹ như con mèo, gã đứng ngoài đầu hồi căng tai. Muỗi đốt, gã gồng chân tay cho gãy vòi.

Có tiếng bước chân rất nhẹ, tiếng thì thào bé hơn cả gió. Gã lẻn ra chuồng trâu. Đêm đen đặc, nhưng những bóng đen còn đặc hơn. Tụ lại, tản ra, khuất dần, như những bóng ma, như chưa hề có chuyện gì xảy ra.

Đêm nào cũng như thế. Gã kiên trì nhưng hết chịu nổi rồi. Rời khỏi giường không có cốc rượu như người mượn. Mãi không thấy Bình đến.

Một tối, gã đánh liều xuống khu ủy ban. Bình ngủ ở một phòng dưới đó. Bình ngạc nhiên khi gã vào. Gã nói thật, bắt thì bắt đi, anh thèm rượu lắm rồi. Chẳng biết Bình nói gì đó, một lát gã về.

Đêm ấy, 9 giờ gã đã bắt vợ con tắt đèn đi ngủ. Lần đầu tiên gã nằm tỉnh táo. Không biết bọn chúng có đến không? Gã trở dậy, nhè nhẹ ra khe cửa, hé mắt; bên ngoài đen đặc một màu. Gã lại vào giường khoanh hai tay lên ngực cho đỡ hồi hộp. Một lúc, có lẽ tim bị đè nên gã thiếp đi. Chợt có tiếng gì loeng queng... Gã tỉnh như sáo, bật dậy. Cánh cửa bật tung. Hự hự, tay vô lăng chạc của gã thoi trúng vào cái mặt - chắc toàn xương vì gã thấy ê hết bàn tay. Mấy bóng đen ào lên. Gã nhảy phóc một cái, đứng thủ thế trên xe. Không có vũ khí gì, gã vớ nắm cát vung lên. Chỉ được mấy giây, những quả đấm cú đá thi nhau giã xuống bụng, mặt gã... Nghìn con đom đóm tóe lóe, gã chỉ biết đến thế và không biết gì nữa.

Khi gã mở mắt ra, những người đầu tiên gã nhìn thấy là ba thằng lạ hoắc, cúi gằm cái mặt sưng húp. Tiếp đến là Bình, Trung. Bình bảo: "Công anh Lung lớn lắm", rồi kéo thằng Trung lại gần, nói: "May có Trung phối hợp...". Trung kể: "Em nghiện... chúng nó bắt em để ma túy trong xe trâu, các anh tha cho em...". Bình xua tay: "Tội thì rõ rồi, nhưng may vẫn còn nhẹ, lại lập công... rồi, công tội tính sau".

                       *

Lung mặt tím lịm, sưng húp. Gã nằm nghển cái cổ một tí lại đổ xuống. Cơ sự làm sao thế này? Chị vợ bảo đêm qua có đứa định ăn trộm trâu. Đánh nhau, may có ba thằng phụ xe cùng đánh, không thì nhà em chết rồi.

Chị vợ không biết gì. Mãi hôm anh Bình mang giấy khen của Tỉnh về chị mới rõ. Thì ra chồng chị phối hợp với công an lập công phá một vụ án ma túy, bắt cả một đường dây. Tưởng trùm ma túy ở đẩu đâu, hóa ra người trong xã.

Chị vợ sung sướng nhìn chồng. Cái mặt chẳng húp hùm hụp nữa.

- Gầy đi đâm đẹp.

- Tại cai rượu suốt cả tháng.

- Đâu mà cai, chỉ cai mỗi ban đêm thôi. Tưởng người ta không theo dõi đấy.

Vợ đang vui, gã đi tìm can rượu. Vợ dang tay:

- Hôm nay nhịn nốt, vợ chồng mình xuống nhà thằng Trung tiễn ba thằng đi cai nghiện.

Ngôi nhà bên rìa làng

Màn đêm nhão ra trong hỗn loạn. Mụ Thìn cầm cây đèn pin đỏ tù mù vừa pha vừa chửi: "Đồ chó! Sao có thể cẩu con vầm của tao đi. Tao già đến độ ni rồi không có tiếng hắn sủa mần răng tao sống nổi?". Trời ơi tức quá! Tức đến nỗi mụ vớ được tên cẩu tặc đó thì mụ sẽ tru lên rồi lao vào để cào cấu hắn cho hả giận. "Hu, hu…" - Mụ khóc lên tức tưởi - " Vầm ơi là vầm, con sống với mệ hơn năm rồi chớ có ít mô. Ác chi mà ác dữ! Răng ăn trên nước mắt của người khác rứa hả trời".

Tiếng mụ Thìn vừa dứt thì đám thanh niên phá lên cười. Chúng không hiểu được giá trị của con vầm đối với mụ. Con vầm là con chó lạc, cũng có thể bị chủ nó xua đi khi nó trướng bụng suốt thời gian dài. Nó đến nhà mụ Thìn trong đêm mưa. Đêm đó mụ Thìn ngồi khóc vì nhớ con thì nó chui vô nhà rên lên ư ử. Mụ cho nó ăn, đắp cho nó cái chăn ấm của mụ. Nó ngủ một giấc ngon lành còn mụ thì ngồi nhìn nó ngủ. Sáng ra, nó nhìn mụ với đôi mắt dò xét nhưng mụ vuốt lên đầu nó nên nó ở lại. Cho nên nó cũng được xem là khách mời chứ không phải là kẻ nhập cư bất hợp pháp. Bán được rổ rau ngót xanh rì với mười ngàn đồng vừa vặn, mụ mua thuốc xổ giun cho nó để rồi nó càng lớn càng đẹp mã. Bây giờ thì…

Mụ lại khóc, tiếng khóc hòa vào tiếng cười của đám trẻ. Nhưng rồi mụ cũng nín bặt vì người ta hô hoán khi phát hiện ra được hai tên cẩu tặc chạy xe vòng quanh làng. Tiếng xe hụ lên như những đêm kinh hoàng của bọn đua xe ở trên phố. Mụ đứng sát vào bờ rào chờ cơ hội để hạ bọn cẩu tặc. Có thể lắm chớ, mụ làm điều đó bởi lòng yêu thương đối với con vầm. Nhưng một tên trong bọn chúng đã tẩu thoát cùng với con vầm của mụ, tên còn lại tìm mấy bụi chuối chuồn vô rồi mất hút trong màn đêm đồng lõa. Đám thanh niên trong làng nổi cáu với nhau vì vụ phục kích không thành công, còn mụ Thìn thì lủi thủi đi vào trong nhà. Nhà mụ chuyển đến đây ở muộn nên nằm thèo lèo ngoài bờ ruộng, ngôi nhà chỉ có mấy tấm tôn loãi xoãi cùng mấy tấm ri chắn lại. Có mấy tổ chức đòi xây nhà tình nghĩa nhưng mụ Thìn khoát tay: "Xây cho mấy đứa trẻ mà nhà cửa toang hoác ấy. Tui tra gần chết rồi xây nhà mần chi".

Mụ Thìn bước vô nhà với niềm thê lương khi mất đi con chó yêu quý. Cái ghế tre mới đỡ mụ ngồi được chút thì tiếng động mạnh ở cái thùng đựng lúa khiến mụ giật thót mình. Từ cái thùng đó bò ra một con người, hắn quỳ dưới chân mụ Thìn. Mụ định rống lên nhưng nhìn khuôn mặt thảm thương của hắn mụ lại không đành lòng. Mụ đưa cây pin gõ côm cốp vào đầu hắn, vừa gõ vừa nói: "Đồ chó! Điện thoại thằng nớ giữ chó lại không tao giết chết". Rồi mụ đưa cây dao dài thườn thượt vào cổ tên cẩu tặc. Hắn run bần bật trước phản ứng dữ dội của mụ già. Hắn đưa tay bấm điện thoại cho tên kia nhưng thuê bao không liên lạc được. Mụ liếc nhìn xuống chân hắn, máu đã chảy đầm đìa do hắn dẫm phải mảnh chai của nhóm phục kích và bị hàng rào thép gai cứa rách tả tơi: "Chết chưa con, đồ chó lạc. Ngồi im tao băng cho không thì chết theo con chó của tao đó. Nhăn mặt chi, đây là rượu cồn đó con. Ăn cướp mà cũng biết đau, ăn cướp mà chực khóc. Sao bọn mi không biết đau với cho những người mất của, mà con vầm không đơn thuần là của cải, nó là con tao. Điện thoại lại cho thằng đó đi, không tao tháo băng ra là chết với chó đấy".

Và hắn điện, hắn bình tĩnh hơn khi nhìn vào mắt mụ như có muối xót ở trong lòng. Mụ chột dạ khi thấy máu hắn loang ra nền xi măng xám xỉn. Cuộc điện thoại tiếp theo cũng không liên lạc được. Mụ dọa báo Công an và hắn quáng quàng lên.

- Mụ ơi! Đừng báo Công an tội cháu. Nếu bị ảnh hưởng, ba cháu đánh chết cháu.

- Ba mi làm chi, tại sao lại ảnh hưởng?

- Dạ làm việc trên tỉnh.

- Tên chi?

- Cháu có nói mụ cũng không biết.

- A, coi thường rứa bây. Tên chi?

- Dạ Bân.

Mụ lại cười lên khô khốc:

- Bân bèo đúng không?

- Dạ, sao mụ biết ba cháu?

- Có ai trên đó mà tao không biết. Đặc biệt là ba mi, một thằng đầy sẹo sau lưng mà mặt thì trơn tru. Hử, trái đất còn tròn hơn cả quả bom bi nữa đó. Con Bân bèo đi cướp của mụ Thìn. Chuyện ngộ quá đó chớ. Ba mi thiếu chi tiền mà để con ăn cướp? Mà tao hỏi câu ni cũng ngộ luôn, câu thừa. Ba mi cũng... thôi được rồi, nằm đó đi. Đừng cử động nhiều máu chảy. Đói bụng rồi chớ, tao đi nấu cháo cho mà ăn. Gạo nhà tao không ngon nhưng người cũng ăn được, chó cũng ăn được thì mi cũng ăn được.

Rồi mụ đi xuống phía bếp vo gạo bắc lên, một lúc cháo sôi mụ múc ra chén, quấy vào đó cái lòng đỏ trứng gà. Mụ bưng ra đến nơi thì không còn thấy hắn mô nữa. Hắn ngã nhào ở mương nước, cũng may mụ tới kịp không là ngày mai hương khói bốc lên ngùn ngụt rồi người khóc thay cho tiếng chó tru. Mụ nghĩ vậy vì cả ba mạ thằng cẩu tặc này đều là tuổi tuất. Hỉ hỉ, mụ cười chanh chua và đưa mắt ba lơn nhìn về phía hắn. Chắc hắn không hiểu những điều đang chảy theo trong tiếng cười của mụ. Hắn còn quá trẻ để hiểu được nụ cười chanh chua và cái nhìn bỡn cợt. Còn mụ thì chưa đủ già để quên đi cái khoảnh khắc mà người ta ban cho mụ nụ cười đó. Chao ôi! Con Bân bèo đây. Nó có thằng con nhìn mặt sáng giá quá!

Mụ vẫn nhìn về phía hắn.

- Ở đó đi con, khi mô liên lạc được với thằng kia tìm ra con vầm cho tao rồi về. Thấy chưa, tưởng dễ thoát. Không có mụ già ni là chết rồi biết không? Năm ni năm tuất, là năm tuổi cả ba mạ mi. Hạn đến cháy tóc đó con.

- Răng mụ biết tuổi của ba mạ cháu?

- Tao là thầy bói, nhìn mặt mi là tao bói ra hết. Cái mặt đó quá sỗ sàng, có nét chi bí ẩn mô. Nhà mi, toàn tuổi tuất. Thôi ăn cháo đi, đừng hỏi nhiều.

Hắn húp bát cháo soàm soạp rồi nhìn mụ Thìn như dò xét. Mụ ni biết ba mạ miềng nên ân cần với miềng. Trước chắc mang ơn ba mạ lắm. Ba mạ ăn ở có đức, con được nhờ mấy bận như ri. Hắn vừa nghĩ vừa hí hửng húp xong bát cháo. Đoạn hắn xin bát nữa nhưng mụ Thìn không cho.

- Chớ ăn thõa đói, ba mạ mi không nói cho nghe à?

-  Dạ, nói chi à?

- À, không chi hết. Thôi nằm lên giường tao mà ngủ. Đêm nay mất con vầm tao ngủ không được. Đừng có tìm cách trốn, vô ích lại thiệt thân, không ai ăn thịt người mô, thịt người tanh tưởi lắm.

- Cháu xin lỗi mụ.

- Ờ, học ba mạ quá hi. Một hai biết lỗi.

- Mụ, răng mụ biết ba mạ cháu?

- Hỏi chi lắm lời, trước tao đi bán bánh mì trên phố, ba mạ mi hay mua giúp, được chưa.

- Đó, cháu biết là mụ mang ơn ba mạ cháu. Nhưng răng mụ biết lưng ba cháu có nhiều sẹo?

- Kỳ thằng, tao nói rồi, cái mặt quá trơn tru thì lưng có sẹo. Điếc à.

- Hì hì, mụ nói như ma ăn hồn í.

- Ừ, ma còn thua tao...

Mụ Thìn cười méo mó rồi nhìn tên cẩu tặc chìm sâu vào giấc ngủ. Mụ nhớ phố một thời mụ bị hất chân và mất hết gia sản. Mụ đem đứa con duy nhất nhưng lại bị bệnh đao về miền quê này. Mụ đạp mọi bất hạnh xuống chân để mà sống. Con người khi mất hết thì cũng còn cái quý hơn đồng đô la và mấy chỉ vàng SJC, đó là nghị lực. Nhưng khi đứa con gái bệnh tật của mụ đi chơi không nhớ đường về làm mụ gầy đi trông thấy. Nó đi hơn một năm rồi, mụ đăng tin lên truyền hình tìm nhưng người bị đao thường giống nhau, ai mà nhận ra được. Có người nói nó lên phố vất vưởng ở ga tàu, ngủ ở gầm cầu. Có người nói chắc nó bị bắt qua Campuchia làm gái. Mụ khóc. Người ta nói ác quá trời. Nói mà không nghe ruột đau chi hết. Cái củ khoai khi bị hà đục còn thâm ruột. Làm người mà còn tệ hơn cả củ khoai.

Hắn thức dậy trong cái nắng ban mai nhưng chân hắn không tài nào nhấc nổi do bị sưng tấy. Hắn nhìn quẩn quanh nhưng không tìm thấy mụ Thìn. Một lúc sau nghe tiếng sột soạt ở trong buồng, hắn cất tiếng gọi. Một đứa con gái miệng mồm nhẫy nước dãi cùng đôi mắt thô lố bước ra với cái bụng to phình phịch. Chắc con bé này có thai. Đoạn con bé đấm vào bụng bùm bụp rồi chà thân vào cột bê tông. Hắn hét toáng lên để ngăn con bé. Con bé nhìn hắn cười cợt rồi đi ra phía ngoài vườn. Hắn cảm thấy rờn rợn vì nghĩ rằng ngôi nhà mụ Thìn đang bị ma ám. Hắn cố nhổm dậy để bò đi nhưng vô hiệu. Hắn lại đổ gục xuống và càng đau đớn hơn. Hắn trợn mắt lên như sợ cơn ngủ kéo tới và rồi con nhỏ trướng bụng quay lại ám hắn. Cái cảm giác đó ghê hơn coi họ bị tử hình. Đời trộm cướp dồn chân hắn vô chỗ ảo ảnh đến thộn người. Mụ Thìn ma mãnh và bạo tính, con bé hình như bị đao. Sợ nhất là cái giếng nhà mụ Thìn, giếng nằm ngay trong nhà như chờ lượm xác! Hắn nghĩ, buồn lên mụ Thìn trục hắn xuống đây thôi thì hết thấy ba mạ. Hắn run run nhưng rồi chợt nhớ ra, hắn bừng tỉnh. Mụ Thìn mang ơn ba mạ hắn.

Mụ Thìn về, trên tay cầm đốt xương bò tươi với mấy trái cà chua chín đỏ.

Tay

bên kia mụ cầm một ít thuốc kháng sinh và lọ nước rửa vết thương. Mụ nhìn tên cẩu tặc và câu đầu tiên mụ không quên nhắc chuyện:

- Điện thằng đó đi, hắn mà thịt con vầm của tao là mi cũng đi tiêu luôn. Thuốc độc tao đã mua về đây, biết chữ không? Hỉ hỉ. Tao có lần đi tù rồi đó, đi lần nữa cũng không răng, ở đây buồn.

- Mụ mà đi tù?

- Ờ, nhìn tao ri chớ đại ca cũng ngán đó. Tao tranh chấp đất đai với người ta. Tao nóng tính không kiềm chế được nên chặt cha đó. Hắn đi viện, tao đi tù rồi lại phải bán hết đất với cái nhà con cua để bồi thường cho hắn. Thằng cha đó độc hơn chó dại. Hắn biết tao nóng nên kích động. Khổ nhục kế đó mi. Hắn trả tao nửa tiền để về quê mua đất làm nhà, số nửa bồi thường cho hắn. Tao mang ơn hắn phải không?

- Khốn nạn quá! Tên chó đó mụ mang ơn chi. Chuyện lâu chưa mụ?

- Mười bảy năm, ngồi yên tao rửa vết thương cho. Chuyện lâu lắm rồi, câu chuyện đó chắc bằng tuổi mi đó. Khi làm sổ đỏ từ đất xí nghiệp giao, hắn đun tiền cho cán bộ địa chính bắn máy lạm vô đất tao, tao không biết nên đã ký liền kề. Tình ngay lý gian, khi hắn làm nhà xây qua đất tao một mét. Điên người vì không cãi được, tao chém, cũng may con vợ bụng chửa nó ra ngáng không thì thắp hương rồi. Mi cũng rứa thôi, trốn là tao phang. Không phải tao coi mạng người như mạng chó, nhưng hiện tại tao thương con vầm hơn mi. Ngồi cho yên, máu lại chảy rồi.

- Dạ, cháu không trốn mô. Có thua con chó một chút cháu cũng được mụ thương. Nhà cháu cũng có tranh chấp đất đai với người ta nhưng chuyện xảy ra như thế nào cháu không rõ. Mà mụ không có chồng con chi hết mụ?

- Chồng… cũng không biết nói răng chừ. Vì chuyện đến ma cũng không tin được. Còn con thì có một đứa con gái bị đao. Mi lấy hắn không, tao tìm về gả cho.

- Mụ cứ hay chọc cháu.

- Sợ chớ chi.

- Dạ không, à mụ nì, cháu thấy…

- Thấy tao dữ lắm phải không?

- Dạ không, mà chuyện mụ nói về chồng mụ đến ma cũng không tin được là răng cháu không hiểu?

- Thì mi làm răng hiểu được.

- Mụ kể cháu nghe đi.

- Để tao đi bắc xương hầm đã, mi có ăn một đống thịt bò cũng không lại máu. Tao hết tiền rồi nên mới mua xương không. Mi điện thằng đó chưa?

- Dạ thuê bao không liên lạc được.

- Tìm không ra con vầm, mi phải nhắn lên truyền hình tìm cho tao. Bán cái điện thoại đi mà trả.

- Mụ, ai tìm chó mà nhắn lên tivi người ta cười.

- Khóc cũng chừng đó, miễn tìm được con vầm cho tao. Hiểu chưa?

- Dạ.

- Mà quên, răng đi ăn trộm chó? Nhà giàu rứa mà không đủ sống à?

- Sao mụ biết nhà cháu giàu?

- Con nít hỏi ngược là răng. Răng đi ăn trộm chó?

- Cháu… bị nghiện rồi mụ à.

- Ma túy?

- Dạ.

- Khổ, sao không bỏ đi.

- Dạ, cháu không có nghị lực.

- Biết nói nghị lực là có nghị lực rồi đó con.

- Có được không mụ?

- Mi coi tao, rách như tàu lá chuối bị bão vẫn sống ngon lành chớ có đi ăn cắp của ai mô. Nghèo chút chớ sống cho ra người. Ác nhân ngồi lên núi tiền khi chết xương mau tàn lắm.

- Dạ.

- Rồi, tao bắc xương hầm rồi. Chừ muốn nghe phải không, tao kể.

- Dạ, mụ kể đi.

- Chuyện lạ lắm. Năm đó tao hơn bốn ba tuổi, tao đi ngang qua bến sông mùa lũ. Tao bị nước cuốn trôi. Chắc độ hai ngày trời sau tao tỉnh dậy, tao thấy mình nằm trong cái chòi ở bến sông. Sực nhớ khi bị lũ cuốn có chiếc đò đuổi theo miết rồi ông lái vớt tao lên đò. Sau tao hỏi bà con nơi đó, mấy người nói ông lái đò đó chết hơn chục năm. Tao lạnh người nhưng không tin vì trên mình tao có chiếc áo của ông. Về sau người nhà xác nhận áo đó đúng của ông nhưng ông chết vì lũ cuốn trôi lâu rồi. Tao khiếp đến lạnh người rồi chạy đi. Rồi sau đó hai tháng tao biết mình có thai. Tao vừa mừng vừa lo, đến khi sinh con ra nó bị đao khiến tao khóc miết. Rồi tao cũng nín luôn để nuôi con, nhưng chừ nó bỏ tao đi hơn năm rồi. Chuyện đó tao chưa kể với ai hết. Tao cũng không tin nổi lấy chi người khác tin. Tao sống dạt ra ngoài bìa làng vì không muốn ảnh hưởng tới làng xóm. Mình có làm được chi cho họ mô, họ cho mình ở không trên đất làng là quý rồi.

- Dạ, chuyện chồng con buồn quá mụ hi. Cháu chán cái cảnh cơm không lành canh không ngọt trong nhà nên mới như ri. Làng rộng quá mụ hi, làng chứa nổi một người như cháu coi như rộng.

- Ờ, ngồi đó mà khen, một chút thấy mi họ bắt giao cho Công an đó con. Ăn trộm mà nói chuyện làng rộng với hẹp.

- Dạ, à mụ, cháu mới thấy…

- Thôi, thấy nước mắt tao chớ chi. Mi đừng nói láo. Chuyện đó tao hết khóc rồi. Để tao đi múc xương hầm cho mà ăn.

Nói rồi mụ Thìn còm người đi xuống bếp. Chuyện vừa rồi của mụ Thìn đúng là ma cũng không tin được. Nhưng đứa con trướng bụng hồi nãy chắc là con của mụ Thìn. Nghĩ đến chuyện mụ Thìn kể ở bến sông, chuyện đứa con gái bị đao của mụ, hắn vừa thương vừa sợ. Rồi hắn đâm lo, ngộ nhỡ cái bụng trướng của con nhỏ hồi nãy là cái bào thai thì trần gian này còn có chuyện khủng khiếp hơn đời chó lạc của hắn. Bao chuyện ngộ nhỡ đang diễn ra trong đầu hắn. Ngộ mụ Thìn báo Công an đến bắt hắn trong nay mai, ngộ mụ Thìn bắt hắn làm rể, ngộ mụ Thìn có thù với ba mạ hắn thì chuyện đau buồn thống thiết dễ xảy ra lắm đây. Nhưng không phải, có ai trút những đồng bạc cuối cùng để mua xương bò hầm cho con kẻ thù ăn không, mụ Thìn lại tỉ mẩn chăm sóc vết thương cho hắn. Sự trả ơn chắc đúng hơn, cái mụ già xấu hoắc ni không đến nỗi chơi đẹp thế. Hắn nghĩ đủ chuyện rồi tủm tỉm cười cho đến khi mụ Thìn bưng bát xương hầm ra.

- Ăn đi.

- Dạ, mụ ơi, lúc hồi cháu thấy một con nhỏ hình như bị bệnh đao trướng bụng về trong nhà.

- Ai, đứa mô về nhà.

- Con bé.

- Hắn mô rồi, con tao bị đao chớ không trướng bụng.

- Dạ, cháu không rõ lắm nhưng nó đi ra phía bụi chuối.

Mụ Thìn lao đi về phía tay hắn chỉ, rồi mụ khựng người đi khi con bé đang nằm trong tư thế chờ sinh con, cái đầu đứa nhỏ đã thò ra hơn một phân. Mụ kêu hắn ra hỗ trợ mụ. Con gái mụ đang nằm sõng xoãi ở bụi chuối mà mắt trợn đứng. Khi lê đến nơi để đáp ứng nhu cầu cần giúp đỡ của mụ Thìn thì chân hắn cũng đã bê bết máu. Cũng vừa lúc hắn đón nhận đứa nhỏ từ tay mụ Thìn. Nhìn mụ khóc mà lòng hắn như muối xát. Lần đầu tiên trong đời hắn nghe đau, nỗi đau của một tên mười bảy tuổi từng trộm cướp và chém chặt người ta không thương tiếc. Về nơi thăm thẳm của con người, hắn nghe đau cùng với sự thù hận, cùng với sự nhơ nhớp, cùng với sự khốn nạn hơn cả đời chó lạc của hắn. Hắn nghe miệng đắng nghét và lòng khô khan, có mấy câu chuyện loang ra như là máu.

Thằng đàn ông nào đã làm chuyện khốn nạn đó?

Nghe nói con bé lang thang ở ga tầu, ngủ ở hầm cầu.

Hơn một năm rồi nó lang thang trên phố...

Củ khoai hà đục còn bị thâm...

Chao ôi!

                          *

Chuyện xảy ra mười năm rồi. Bây giờ hắn ngồi kể cho đứa trẻ mười tuổi kêu thằng con trai hai bảy tuổi như hắn bằng cha, nghe câu chuyện công chúa ngủ trong rừng và mấy câu chuyện cổ tích khác. Lúc hắn cai nghiện thành công cũng là lúc mụ Thìn mất, không hiểu từ đâu mà con vầm chui được về nhà. Rồi con vầm bám theo để bảo vệ con bé bỏ con đi lang thang với những tháng ngày còn lại của một bệnh nhân đao, không biết rồi con nhỏ có vất vưởng ở ga tàu, ngủ ở gầm cầu rồi sinh ra những đứa bé. Hắn nghe lòng xác xơ buồn, rồi hắn bế đứa trẻ hơn một năm tuổi về nhà. Cha mạ hắn mắng té tát. Mới có tí tuổi đầu mà ăn nằm với người ta để họ trả con về. Đồ chó! Hắn lặng im để nuôi đứa bé trong nhà này. Hắn cũng biết rằng chuyện ngày xưa cha hắn thanh toán mụ Thìn bằng khổ nhục kế. Những vết thẹo trên người cha không che lấp nổi một quá khứ hoang tàn. Hắn cũng không hỏi cha vì đã nghe tỏng tông cuối làng đầu phố. Chỉ tại lúc trước hắn không chịu bỏ thời gian để lắng nghe.

                        *

Chiều lại chiều, cha con hắn lại dắt tay nhau đi dạo. Cha hai bảy, con lên mười, cao gần bằng nhau. Mấy người đi ngang qua nói: "Chà, thằng Trung nghiện đậm đà rứa mà từ bỏ được. Lại còn có đứa con trai thiệt là xinh".

Hắn cười không nói. Vì chuyện hắn nói ra đến cả ma cũng không tin được huống chi là người

Lưỡng tính

Vợ hắn đi Đài Loan đã được ba năm. Hôm qua nàng điện rằng nàng sẽ về phép mười lăm ngày thăm con trước khi gia hạn hợp đồng ở bên ấy thêm ba năm nữa… Số tiền mấy chục triệu vợ gửi về cũng chỉ vừa đủ trang trải tiền vay làm thủ tục xuất khẩu lao động và mua một cái xe máy Tàu để hắn hành nghề xe ôm. Chả biết lần này, vợ hắn có mang thêm được đồng nào không? Nếu chỉ có vậy thì vô lý quá...

Hắn run lên khi nhìn thấy vợ bước ra từ cửa nhà ga sân bay. Tuyệt vời! Vợ hắn xinh đẹp và sang trọng đến ngỡ ngàng mà trong mơ hắn cũng không thể tưởng tượng ra. Nàng mặc chiếc áo bó sát người, cổ áo rộng thênh thang lấp ló khuôn ngực cao xẻ rãnh. Trời ơi! Lại còn chiếc váy ôm khít lấy cặp mông nở và cặp đùi đầy đặn. Mái tóc nàng cắt ngắn, khuôn mặt hồng hào, cặp mắt kẻ chì quyến rũ. Hắn cảm động, miệng mấp máy mà chẳng nói được gì. Vợ hắn cũng không nói gì. Nàng đưa cái va li to kệch có bánh xe cho hắn, rồi lục trong xắc lôi ra cái điện thoại di động, bấm píp píp… và nói bằng cái thứ tiếng mà hắn đoán đó là tiếng Tàu. Hắn lẽo đẽo kéo cái va li, đi theo vợ ra đường mà suýt vấp mấy lần vì mải nhìn cái gáy trắng ngần của vợ, lòng tự hỏi: Vợ mình đấy ư?... Rồi tự khẳng định: Đây là vợ mình. Đúng là vợ của mình! Mà sao lại đẹp thế! Thay đổi nhiều đến thế! Tự dưng hắn thấy cái sự thuỷ chung của hắn được bù đắp xứng đáng.

Vợ hắn đi Đài Loan đã được ba năm. Hôm qua nàng điện rằng nàng sẽ về phép mười lăm ngày thăm con trước khi gia hạn hợp đồng ở bên ấy thêm ba năm nữa… Số tiền mấy chục triệu vợ gửi về cũng chỉ vừa đủ trang trải tiền vay làm thủ tục xuất khẩu lao động và mua một cái xe máy Tàu để hắn hành nghề xe ôm. Chả biết lần này, vợ hắn có mang thêm được đồng nào không? Nếu chỉ có vậy thì vô lý quá. Hắn không được làm đàn ông hàng ba năm trời chỉ để đổi lấy mỗi một cái xe Tàu. Hắn phải làm đàn bà cũng từng ấy thời gian chỉ là để mong ngóng một người đàn bà đích thực của đời hắn. Mà bây giờ người ấy đã về. Về rồi lại đi. Sau đó mình sẽ sống thế nào nhỉ? Lại là ba năm nửa đàn ông nửa đàn bà nữa hay sao?

Khi vợ hắn ra đi, hắn đã khóc thầm. Chỉ khóc thầm. Bởi theo hắn, thằng đàn ông mà chảy nước mắt là hèn. Khóc vì thương vợ và khóc cho chính bản thân hắn. Hắn cũng nuôi nhiều tham vọng lắm chứ! Đi bộ đội về, hắn vào làm ở công ty nhà nước. Ngày ngày đi làm về vợ đã ngọt ngào chờ sẵn. Đứa con ra đời, hạnh phúc như được thăng hoa. Hết thời bao cấp, công ty phá sản. Thế là hắn lại trở về đúng cái vạch xuất phát bơ vơ không nghề ngỗng. Theo phong trào chung, nghe người ta, hắn dốc hết vốn liếng xây ao nuôi ba ba xuất khẩu. Được ít hôm thì mấy trăm con ba ba ngửa trắng bụng, nổi lềnh phềnh như quân sĩ của Thủy Tinh đại bại ở trận quyết chiến với Sơn Tinh. Tìm hiểu nguyên nhân, mãi hắn mới biết do vợ hắn hàng ngày giặt quần áo đã hồn nhiên xả nước xà phòng xuống ao. Từ đó, những ngọt ngào dần ít đi, và thay vào là những bẳn gắt thường xuyên trong căn nhà nhỏ của hắn. Hàng ngày vợ hắn kêu khổ và luôn luôn kể về những người đàn ông giàu có mà thị biết, coi đó như những tấm gương sáng cho hắn học tập. Thị bảo hắn không phải là đàn ông. Đàn ông thì phải nuôi được vợ con. Nhiều lúc không thể chịu được nữa, hắn cáu, hắn văng tục, hắn chẳng cần gì cả. Hắn cũng muốn như họ lắm chứ. Nhưng vốn liếng, nghề ngỗng không có, biết làm gì được? Vợ hắn được thể càng gào lên. Thị gán cho cái mặt hắn những danh từ không mấy mĩ miều. Hắn còn thua cả đàn bà. Nhục…

Rồi có phong trào xuất khẩu lao động. Hắn không có ba ba xuất khẩu sang Tàu thì xuất khẩu vợ sang Đài Loan làm Ô-sin. Hy vọng may ra có sự đổi đời. Nhưng chỉ vài ngày sau khi vợ đi thì hắn cảm thấy trống vắng. Đi về chỉ có hai bố con. Tuy không còn phải nghe những lời bẳn gắt chì chiết về cái tư cách đàn ông, nhưng mọi sự lo toan của đàn bà bây giờ thuộc về hắn vì thằng con mới ba tuổi. Làm được đồng nào, hắn dè sẻn mua sữa, mua thức ăn cho con, còn thì tích cóp để dành. Để khi vợ về thì ít ra thị cũng phải nể mặt hắn - cái mặt không đàn ông cũng chẳng đàn bà nhưng cũng không đến nỗi khốn nạn như thị đã từng gán cho nó những cái danh từ không mấy mĩ miều nọ. Hắn chỉ dám hút thuốc lào. Và chỉ khi nào mệt mỏi lắm mới dám uống dăm trăm bạc rượu nhắm với rau luộc. Hắn ép xác như vậy đã ba năm. Bởi ít ăn ít uống mà mặt hắn vêu vao, mắt lỗ đáo, cái mồm thì như rộng ra khoe toàn răng là răng do khuôn mặt teo tóp lại. Ba năm ấy thừa đủ biến hắn thành một người u ám không tuổi.

Nhưng hắn vẫn là đàn ông! Ban ngày thì hắn quên, nhưng hàng đêm bản năng giống má vẫn về hành hạ. Hắn chỉ dám làm thỏa mãn cái bản năng ấy bằng tưởng tượng về đàn bà. Hắn biết đấy là bệnh hoạn. Nhưng không thể làm khác vì sợ và hắn nghĩ dù sao thì cái việc đi xuất khẩu lao động của vợ hắn cũng là cực chẳng đã. Đàn bà phải xa chồng xa con, bơ vơ đất khách quê người chắc cũng chẳng sung sướng gì. Mà thị đi cũng vì kinh tế gia đình, muốn mở mặt mở mày với thiên hạ. Đáng lẽ người ra đi phải là hắn. Nhưng cái xứ sở ấy người ta chỉ cần đàn bà. Còn ở nhà, hắn buộc phải là mẹ của đứa con và làm người đàn bà của chính hắn.

Bây giờ vợ đã về! Và hắn sẽ không còn phải tiếp tục cái trò bệnh hoạn ấy nữa. Hắn thấy mình đã xứng đáng một cách tuyệt đối với người vợ yêu quý của mình. Nghĩ tới đây, hắn có cảm giác nhẹ nhõm.

Lúc hai vợ chồng đã ngồi lên tắc xi để về thành phố thì hắn lại ngỡ ngàng lần nữa bởi cái mùi nước hoa trên người nàng. Nó nồng nồng, ngầy ngậy quyến rũ. Hắn rụt rè ngồi sát người nàng, cảm nhận thấy thân thể mềm mại của vợ. Tự dưng thấy hồi hộp, tim đập dồn, máu bốc lên mặt như lần đầu tiên trong đời được ngồi gần nàng. Nhìn lên thấy người lái xe vẫn chăm chú phía trước, hắn đánh bạo ghé người hôn vào má vợ. Nàng né người tránh cái hôn, nhăn mặt: "Kinh quá!".

Đó là câu đầu tiên vợ hắn nói với hắn bằng tiếng Việt. Nó như một chậu nước lạnh dội xuống ngọn lửa yêu đang ngùn ngụt, làm cho hắn hẫng hụt. Và ngượng! Nhưng chỉ vài giây sau thì hắn lại tự trách mình quá vô ý, trong lúc chờ xe ra sân bay đón vợ, sốt ruột quá; hắn kéo đến ba bốn điếu thuốc lào. Gì mà mồm chả hôi! Nàng nói kinh cũng phải. Thế là từ lúc ấy hắn ngồi dịch ra, không dám thở mạnh, nghệt mặt im lặng với tâm trạng của người có lỗi.

Tối hôm ấy, sau khi đã đánh răng thật kỹ và kiêng hẳn thuốc lào, hắn còn mạnh dạn đầu tư mua hai gói kẹo Sing-gum Đai-bơ-min. Hắn kẽo kẹt nhai kẹo như một huấn luyện viên bóng đá đợi chờ giờ thi đấu. Yên tâm nghĩ rằng vợ sẽ không phải thốt ra cái tiếng: "Kinh quá!" như ở trên xe và với tâm trạng của một chú rể lần đầu động phòng, hắn chắc mẩm sẽ được thỏa mãn những chất chứa trong cả ngàn ngày xa cách.

Vợ hắn nằm ôm đứa con trong màn. Hắn rón rén leo lên giường và phấn chấn khi thấy vợ lồ lộ trong chiếc Itas màu hồng dưới ánh sáng mờ của chiếc đèn ngủ. Thằng con đã ngủ say. Hắn nghiêng người quờ tay sang vợ, khẽ kéo tấm rốp từ phía dưới lên. Bàn tay hắn bắt gặp cái mịn màng mềm mại và mát rượi của cặp đùi đàn bà. Người hắn rân rân, cảm giác tê mê… Bất ngờ bàn tay vợ nắm lấy tay hắn. Hắn sung sướng tưởng rằng đó là cử chỉ âu yếm của vợ dành cho mình. Nhưng không. Cái bàn tay ấy nắm lấy tay hắn, hất nó ra khỏi cái địa chỉ đang thăm dò: "Thôi! Ngủ! Mệt lắm!".

Cái câu tiếng Việt thứ hai dành riêng cho hắn như là một mệnh lệnh. Hắn ngoan ngoãn nằm xuống tự trách mình: Vợ vừa đi cả mấy ngàn cây số về nhà, nàng kêu mệt cũng là phải. Thôi đành vậy! Nàng còn ở nhà hàng nửa tháng trời cơ mà. Vội gì! Hắn nằm im không dám cựa mình sợ vợ mất giấc ngủ. Tự dưng thấy tiếc cái kẹo cao su đã nhai. 

Ngày hôm sau, các quy trình trước khi đi ngủ dành cho bản thân hắn được lặp lại một cách đầy đủ và cẩn thận. Người hắn thơm nức mùi xà phòng gội đầu, miệng hắn thơm mùi Sing-gum Đai-bơ-min, tâm trạng đầy hứng khởi… Hắn đợi cho vợ kết thúc cuộc nói chuyện tiếng Tàu với cái máy điện thoại. Rồi nàng lên giường. Hắn dềnh dàng một tý, cố tình để cho vợ có cảm giác chờ đợi… Phải như vậy mới nồng nàn! Hắn nghĩ thế! Trong màn, vợ hắn nằm phía trong, thằng con nằm giữa. Phần giường phía ngoài dành cho hắn như là một sự cố ý. Hắn hơi sững lại khi mở màn. Nhưng rồi hắn bỏ qua cái phần giường trống ấy, nhổm người bò qua thằng con một cách cẩn thận để nó không thức giấc, rồi bò qua vợ. Hắn nằm kế bên nàng về phía trong. Người hắn rạo rực. Bên cạnh hắn là một cơ thể mềm mại. Hắn hít một hơi thật dài và đặt một nụ hôn lên cổ vợ. Lần này không có cái tiếng: "Kinh quá!" nhưng nàng vẫn né tránh cái hôn. Bàn tay hắn lần tìm. Vợ hắn hất tay hắn ra... Kệ! Hắn cho rằng hôm nay nàng không có lí do để từ chối. Người hắn căng cứng. Hắn trườn lên người vợ. Vợ hắn mím môi đẩy hắn xuống. Hắn lại trườn lên. Lại bị đẩy xuống…Hắn điên lên. Hắn là đàn ông! Hắn là chồng! Không có lí do gì để vợ từ chối chồng! Hắn lại trườn lên. Lần này lại bị đẩy nhưng hắn đã chủ động. Tất cả những cái đẩy của vợ chỉ làm cho hắn bị kích thích hơn. Hắn ghì chặt vợ xuống và hấp tấp lột phăng cái mảnh vải ở phần dưới của nàng. Bộ phận xung kích đã sẵn sàng cho việc đột nhập… Sự hưng phấn đã đến đỉnh điểm. Hắn nghiến răng cố ghìm…Nhưng không thể!…

Người hắn rã rời. Mọi ý chí tiêu tan. Thất vọng đến ê chề! Trong ánh đèn mờ mờ, hắn nhìn thấy trên nét mặt vợ một nụ cười nửa miệng. Hắn đọc được ý nghĩ của vợ qua cái cười đó: Sự ghẻ lạnh, khinh khỉnh, và còn có một cái gì khác nữa mà hắn không thể đọc ra nổi. Không hề có một dấu hiệu nào của sự cảm thông hay thương hại.

Nhạt cả người!

Hắn không phải là đàn ông!

Ra ngoài hiên ngồi hút thuốc lào, hắn thức cho đến sáng.

                            *

Những ngày sau tình hình vẫn không khá hơn. Hắn cảm thấy nhục nhã như một kẻ bại trận. Cái nụ cười nửa miệng trên khuôn mặt đanh lại của vợ ám ảnh hắn. Hắn bơ phờ vì mất ngủ liên tục. Ngày ngày hắn vẫn tiếp tục cái nghiệp xe ôm vì ngày ngày vẫn phải chi tiêu. Mà vợ hắn thì không đả động gì đến chuyện tiền nong. Khi hắn hỏi thì nàng trả lời gọn lỏn: "Không có!". Những lúc ngồi rỗi chờ khách, bọn đồng nghiệp xe ôm trêu: "Ma bắt hồn…" hắn chỉ biết cười gượng.       

Hàng đêm, bằng cách nhai một cái Sing-gum Đai-bơ-min, hắn kiên trì chờ đợi cuộc nói chuyện bằng tiếng Tàu của vợ với cái điện thoại kết thúc. Và hắn tràn trề hy vọng. Hắn vẫn khoẻ, vẫn là đàn ông. Hắn tin chắc như thế! Nhưng các cuộc tấn công đều thất bại thảm hại. Hắn cay đắng khi nhận thấy mình là thằng chả ra gì. Rồi hắn cố tìm căn nguyên của sự tồi tệ đó. Ừ! Dù ngang tàng mạnh mẽ thì đàn ông vẫn cần có sự ve vuốt, mơn trớn. Vậy ra... Hắn lờ mờ nhận thấy đây là một màn kịch mà đạo diễn và diễn viên chính là vợ hắn. Còn hắn chỉ là một con rối. Bởi nó được diễn nguyên vẹn hàng đêm lặp đi lặp lại. Hắn ngán ngẩm nhưng ngại nói ra và nếu có nói thì cũng không biết nói như thế nào.

Đến cái Sing-gum Đai-bơ-min thứ tám thì không thể chịu nổi nữa, hắn rít lên:

- Tôi nói cho cô biết! Cô đừng có giở trò mèo vờn chuột! Tôi không thể chịu nổi cái trò đểu cáng này được nữa...

Nói xong hắn mới biết mình hớ. Cứ tưởng cô ta sẽ đổ tại hắn bất lực, nhưng không! Cô ta bảo với hắn giọng nhẹ bẫng:

- Tôi không muốn. Thế thôi!

Hắn điên lên:

- Cô không muốn cũng phải muốn. Tôi là chồng. Cô là vợ…

- Này, tôi bảo cho anh biết, luật pháp quy định tôi với anh là vợ chồng, nhưng luật pháp không quy định tôi phải ngủ với anh. Tôi làm thế là đã tốt với anh lắm rồi đấy! Nếu anh còn tiếp tục như vậy thì tôi sẽ kiện lên Hội Phụ nữ vì tội anh sử dụng bạo lực trong quan hệ hôn nhân!

Hắn đờ người ra trước lí lẽ cứng cỏi mang đầy màu sắc pháp luật và dư thừa sức mạnh đoàn thể. Nhưng... ơ hay! Vậy vợ chồng là cái gì nhỉ? Hắn đã phải nuôi con, phải ép xác chờ đợi…

- Vậy thì còn đếch gì là chồng vợ. Ly hôn mẹ nó đi cho xong! - Hắn lẩm bẩm.

Không ngờ vợ hắn nghe thấy. Cô ta tưng tửng:

- Ly hôn thì ly hôn! Anh đừng có mà dọa. Anh viết đơn đi, tôi sẽ kí!

Đến nước này thì cũng chả cần! Hắn hùng hục lấy giấy bút ra ngồi viết đơn. Viết xong, hắn kí tên và chìa vào mặt vợ: "Kí đi!". Cô ta giở mặt ngay: "Tôi không kí!".

Hắn không tức vì cái sự giở mặt đó. Mà lại hả hê. Gớm! Cứ tưởng làm mình làm mẩy được mãi. Vậy là cô ta đã sợ! Mình đã thắng! Đúng là phải cứng mới được. Định vào giường, nhưng bụng lại nghĩ: Bây giờ mà vào thì nó lại coi thường. Thôi. Mai hẵng hay. Hắn vứt cái đơn lên bàn rồi ra hiên ngồi hút thuốc lào, chờ trời sáng. Khi thấy phía đông ửng hồng, hắn dong xe đi đón khách về chuyến xe sớm.

Ngày hôm ấy, may mắn hắn gặp được một khách hàng nhờ đi một chuyến xa. Buổi tối mới về đến nhà. Hắn đinh ninh tình hình hôm nay sẽ khác. Nàng đã sợ! Gia đình sẽ trở lại như ngày xưa. Hắn đã tưởng tượng ra cái cảnh vợ hắn thơm tho, chuẩn bị sẵn bữa cơm chiều. Cả nhà sẽ cùng ăn cơm. Trong bữa ăn, hắn sẽ quyết định: Vợ hắn từ nay sẽ ở nhà chăm sóc con cái. Chỉ mình hắn đi làm! Bởi hắn là đàn ông, là trụ cột của gia đình. Dù thu nhập có thấp một tý vẫn còn có vợ có chồng. Phải rồi! Người nước ngoài người ta cũng cần có người chăm sóc con họ. Còn con hắn sao lại phải xa mẹ, không được chăm sóc? Người phụ nữ phải được thiên chức làm vợ, làm mẹ. Hay hớm gì cái trò "lộn ngược": Đàn bà làm kinh tế, đàn ông bế con. Dù như vậy có nghèo tiền, nhưng còn gia đình, còn tình cảm. Thì đấy! Ba năm vừa qua đánh đổi được cái gì. Mọi sự đánh đổi đều là vô nghĩa. Nghĩ tới đây, hắn thấy lòng thanh thản.

Về đến nhà, trời đã chạng vạng. Cửa nhà mở toang, trong nhà tối om. Không thấy ai. Hắn bật đèn lên. Chợt hắn hoảng hốt thấy trong góc nhà thằng con ngồi co ro oặt cổ mắt nhắm nghiền. Bế vội con lên, thấy mặt thằng bé xám lại. Hai mắt nó sưng húp, chắc là do khóc nhiều. Những ngấn nước mắt, nước mũi dọc ngang lẫn bụi đất trên khuôn mặt. Sao thế này? Con ơi. Sao lại thế này? Hay là nó bị ốm! Sờ trán con thấy vẫn mát. Yên tâm thằng bé không bị ốm. Chắc là lả đói! Vội vàng lấy hộp sữa tươi vừa mua theo thói quen mỗi khi đi làm về, hắn đổ từng thìa sữa vào miệng con. Một lát sau con hắn mở mắt, nó khóc nấc lên: "Mẹ…Mẹ…".

Bây giờ thì hắn mới nhớ ra là hắn có vợ và thằng bé có mẹ. Hắn ôm chặt lấy con: "Mẹ đâu?". Thằng bé vẫn vừa khóc vừa nấc: "Mẹ…Mẹ đi…đi rồi!". Hắn khựng lại, như có ai đó vừa giáng vào mặt hắn một quả đấm thôi sơn tối tăm mặt mũi.

- Khốn nạn!

 Hắn gào lên và hắn nghe văng vẳng tiếng vọng lại từ  xa xăm:

- Kh…ốn…ốn…nạ…ạn…ạn…!         

                          *

Độ một tháng sau buổi tối "khốn nạn" ấy, một cái trát của toà án Tỉnh được gửi tới yêu cầu hắn phải lên hầu Tòa về việc vợ hắn từ nước ngoài đã gửi đơn về đòi ly hôn.

Hắn thấy người rỗng ra. Sụp xuống!

Rồi hắn ngẫm nghĩ và nghi ngờ... Hắn bảo một thằng bạn đồng nghiệp xe ôm cũng có vợ làm bên Đài Loan điện sang để tìm hiểu xem. Vài ngày sau vợ tay kia điện về bảo: Cô vợ yêu quý của hắn cặp bồ với một thằng từ ngày mới sang bên ấy, chúng sống với nhau như vợ chồng. Nó về phép là để làm thủ tục ly dị rồi sang kết hôn với thằng ấy. Nhưng lại sợ mang tiếng, nên nó mới bày trò cho hắn điên lên...

Thì ra thế. Cái sự khốn nạn đã được sắp đặt tính toán trước!

Hắn chằng cày không chịu hầu tòa: "Tôi không đồng ý ly hôn thì đã làm gì được!". Khi cái trát thứ  hai đòi, thì hắn buộc phải lên tỉnh để giải quyết. Bởi vì cái giấy này còn bảo nếu hắn không có mặt đúng hạn, tòa sẽ xử ly hôn vắng mặt. Đi thì đi! Phải làm cho ra nhẽ. Dứt khoát hắn không ly hôn! Cái lí do hắn không chịu ly hôn không phải vì hắn còn tiếc nuối. Có gì mà phải tiếc khi nó chẳng còn thèm đếm xỉa gì đến hắn. Nhưng hắn chả vạ gì mà lại đồng ý để cái con vợ hắn ung dung hú hí với thằng nước ngoài.        

Rồi hắn lên hầu tòa. Hắn quyết định không chịu ly hôn. Nhưng Tòa đã đưa ra cái đơn hắn đã viết, đã kí và kết luận: Như vậy là anh chị đã thuận tình ly hôn. Hắn chua chát nghĩ: Khốn nạn! Thì ra nó lừa mình. Trách nào hôm sau mình tìm mãi không thấy cái tờ đơn. Cứ tưởng thằng con đã đem gấp máy bay. Bây giờ thì nó đã bay từ Đài Loan về. Bút sa gà chết, biết sao được!

                           *

Vĩ thanh:          

Hắn ở tù đã được ba năm. Hắn đã từ bỏ được ma tuý cũng chừng ấy thời gian. Nhà tù làm được cái việc mà ở ngoài đã ba bốn lần hắn cố làm mà không nổi. Gần mười năm của một kiếp người lưỡng tính, hơn một ngàn đêm thương nhớ con, suy nghĩ, dằn vặt và sám hối. Hắn ở tù vì sau cái việc vợ bỏ, hắn trở nên chán chường và đã buông thả. Hắn tưởng vậy mới là đàn ông. Và hắn phải chịu hậu quả. Nhưng sự thiệt thòi nhất thuộc về đứa con trai bé bỏng của hắn. Hắn khóc và nói như vậy với tôi. Phải làm lại. Cuộc đời vẫn còn dài đối với hắn và mới chỉ là mở đầu với con hắn. Phải là người bố mạnh mẽ, phải là người mẹ dịu hiền trong mắt của đứa con trai. Tôi hiểu và tin vào những điều ấy. Bởi thấy hắn dẫu đang giàn giụa nước mắt nhưng khuôn mặt đã đầy sinh khí, không còn u ám thảm hại như ngày nào

Biến thể

Nhà cô Ngân Hoa ngự ngay mặt phố, rộng thênh thang, đẹp như một lâu đài. Tôi chợt nghĩ, nếu cái này cũng gọi là cái nhà thì không biết cái cha con tôi đang ở phải gọi là cái gì? Chắc gọi là lều thôi, mà lều cũng không xứng. Cũng giống như người ta gọi cụ Nguyễn Du là nhà thơ, và ông Trường hói cạnh nhà tôi chuyên đi thiến lợn, tự bỏ tiền ra in được tập thơ cũng vênh vênh xưng mình là nhà thơ. Không biết cô Ngân Hoa hưởng cái lộc gì mà to, mà giàu, mà sung sướng hơn cả dân làng tôi..

Thế là mùa xuân đã cạn ngày, những tàng lá xanh non mỡ dần chuyển sang màu xanh thẫm, lác đác rụng một vài lá vàng. Đã nghe đâu đó trong gió man man hơi nóng của gió Lào.

Mùa tình qua.

Những con hươu cái trong chuồng sau một mùa ân ái giờ mãn nguyện nằm bỏm bẻm nhai lại, mặt chúng hênh hếch lên đắc thắng khi cái bụng chửa đã lùm lùm. Những vết cắt trên đầu đàn hươu đực đã liền sẹo chuyển sang màu thâm xỉn, bộ lông vàng óng mượt đang dần chuyển sang màu hung. Hết mùa tình, chúng cũng chẳng còn bức xúc phá chuồng để mà đi tìm bạn như mấy tháng về trước.

Vào độ đó nhà tôi lại chuẩn bị một mâm cơn cúng để làm lễ rửa cưa, kết thúc một mùa nhung.

Năm nay cũng vậy, khi mâm lễ đã được mẹ tôi chuẩn bị xong, cha tôi cài xong khuy cuối cùng của chiếc áo lễ, thau rượu trắng hăng mùi gừng tươi được đưa lên bàn thờ bên cạnh cái cưa nhung và tấm vải điều đã được giặt sạch cất cẩn thận suốt cả mùa nhung cũng được bày lên bàn thờ. Cha chuẩn bị rút hương ra châm lửa thì nhà tôi có khách. Khách là một người đàn bà đài các, dáng thị thành tuy chân bước hơi nhanh và hình như vẫn chưa bỏ được thói mắt la mày lém của người quê đến chốn chưa quen. Buổi lễ cúng rửa cưa tạm thời phải dừng lại. Mẹ và tôi tạm lùi xuống bếp. Cha mặc nguyên cả áo lễ tiếp khách. Tôi và mẹ ngồi chưa dập miếng bã trầu đã nghe cha gọi lên nhà trên có việc. Tôi kính cẩn đứng sau lưng cha như những lúc hành lễ. Cha chỉ vào người đàn bà giới thiệu:

- Đây là cô Ngân Hoa vợ của ông Ngân Lượng, giám đốc nhà máy bia tỉnh ta.

Quay sang tôi cha nói:

- Còn đây là Thiên, con trai tôi, cháu sẽ thay tôi đi cùng cô.

- Nhưng…- Cô Ngân Hoa ngập ngừng.

- Cô đừng lo, tôi theo dõi cả mùa nhung qua, cháu đã thay tôi cầm cưa được rồi cô ạ.

Nói rồi cha đến bên bàn thờ, lấy cái cưa nhung xuống trao cho tôi và nói:

- Con cầm cưa đi theo cô Ngân Hoa.

- Mùa tình đã hết, hươu cả làng này đâu còn cặp nhung nào nữa mà cắt hả cha?

- Làng này không còn nhưng làng khác vẫn còn con ạ. Cô Ngân Hoa đã tin tưởng cha con mình mà lặn lội tìm đến đây thì phải giúp thôi. Vẫn biết đất có thổ công… Ở dưới đó cũng có nhà ông trùm Hậu là mát tay trong việc cắt nhung. Nhưng cô đây muốn giữ kín chuyện này, nên con xuống cắt xong thì về ngay, cũng đừng nói gì nếu thấy những chuyện khác thường.

Tôi đón lấy cây cưa nhung từ tay cha rồi theo cô Ngân Hoa ra xe. Lần đầu tiên, tôi và cây cưa nhung được đi xe ôtô. Cũng đúng thôi, từ bé đến giờ đã mấy khi tôi ra khỏi làng? Và cũng là lần đầu tiên tôi được ngồi trong một cái quán cà phê có mấy cô bán hàng mặc váy ngắn như vậy, ngắn hơn cả con gái làng tôi xắn quần trước khi lội xuống ruộng sâu. Ngắn quá đến nỗi tôi không dám nhìn. Sợ lắm, chị tôi mới chỉ xắn quần quá đầu gối đã bị mẹ chửi là đồ hư thân mất nết rồi. Mẹ mà gặp mấy cô này không biết mẹ sẽ gọi họ là đồ gì đây? Tôi đang miên man suy nghĩ thì cô Ngân Hoa nói:

- Thiên này, trước khi về nhà, cô muốn ngồi lại đây với cháu, ta thống nhất một vài điều. Cháu uống gì? Nước chè xanh à? Ở đây không có. Cháu uống bia hay cà phê cũng được chứ?

-  Thôi cô cho cháu chai nước lọc. Cô muốn dặn điều gì?

- Như cha cháu đã dặn, những gì cháu thấy ngày hôm nay cháu phải thề với cô là sống để trong dạ, chết ngạ bên mồ nghe chưa?

- Nhưng cháu đến nhà cô là để cắt nhung hươu, từ trước đến nay cháu cũng chỉ quen có cắt nhung hươu, còn mọi việc khác cháu không biết làm. Thế cô muốn cháu làm việc gì mà phải bí mật? Chẳng lẽ áp tải hàng quốc cấm? Cháu sợ ở tù lắm, không làm đâu, cô cho cháu về.

- Về là về thế nào, không phải hàng quốc cấm, cháu vẫn cắt nhung. Nhưng cặp nhung này hơi đặc biệt, cháu biết đâu bỏ đó là được rồi, đừng nói với ai, kể cả cha cháu.

- Nếu là nhung thì cháu chẳng sợ gì, cháu hứa. Thôi cô cháu mình đi đi kẻo trời trưa.

Khi chúng tôi sắp ra xe thì có thằng bé bán báo dạo tiến đến, cô Ngân Hoa hững hờ rút một tờ rồi cũng hững hờ như thế, cô giở từng trang báo ra. Bỗng mắt cô mở to hết cỡ khi bắt gặp dòng tít "Nhà máy Bia Tĩnh Hà gây ô nhiễm môi trường trầm trọng". Cô đọc ngấu nghiến hết trang báo rồi ngay tắp lự rút điện thoại ra gọi:

- Anh à? Anh giết em rồi, sao anh để thằng Trẻ Tuổi nó đánh nhà máy bia như thế?... Rồi, em công nhận là có trường hợp lợn nhà ông Hợi đẻ ra một con voi con thật. Đúng, đúng, em tận mắt chứng kiến… trâu nhà ông Sửu đẻ ra con nghé hai đầu cũng là có thật. Hả, anh nói gì? Chuyện đó thì em có nghe, nhưng không thấy, nó không cho xem… nhưng… thiếu chim mới sợ chứ nó đẻ được thằng con trai hai chim thì tốt quá còn gì? Chim cò giờ đang thiếu, có người không thiếu nhưng có chim có cò mà chẳng nên chim nên cò cũng chán chết… Đùng một cái nhà nó có thằng con hai chim, biết đâu mai này cả cái tỉnh này sẽ sản sinh ra một thế hệ đàn ông hai chim thì coi mà đắt hàng, tất cả phải cảm ơn nhà máy bia ấy chứ. Sao, ngay bây giờ a? Nói qua điện thoại không tiện à? Bàn bạc, như mấy lần trước đến rạc cả người chứ gì? Nỡm ạ, em đang rối lòng lên đây này. Không được đâu, em đang có tí việc thật mà…Hôm khác không được à…Lại mới nốc huyết hươu vào chứ gì…nhưng…nhưng…. không… Hứa nhé, anh đã hứa rồi nhé. Nó phải có bài cải chính ngay số báo tới nhé. Rồi em tới liền, nhưng hôm nay anh phải để em về sớm đấy. Nỡm ạ…sâm nhung cho nó nhiều vào rồi… Vẫn chỗ cũ phải không? Thôi, em không dám đến đó đâu, chỗ khác kín đáo hơn tí, con sư tử nhà anh….Rồi, rồi, em đến ngay.

Bỏ điện thoại vào túi xách, lấy hộp phấn ra phên phết lại mặt, kẻ một đường chì mờ lên hai chân mày hình cánh ná, miết lại cái môi son, mim mím dăm lần cho son cắn chắc vào môi như sợ sắp gặp phải kẻ bạc tình làm cho mình bạc phấn, cô Ngân Hoa quay sang tôi nói:

- Bây giờ cô phải đi có chút việc, cháu cứ ngồi đây chờ. Kể cả chuyện này cháu cũng  bí mật giúp cô.

- Nhưng cắt nhung vào buổi chiều không tốt đâu cô ạ.

- Không sao, kể cả ban đêm cũng không sao, cháu cứ ngồi đây chờ cô về đón, đừng đi đâu mà lạc nhé. Này - Cô hất hàm cho cô tiếp viên - Nếu anh này chờ lâu mệt, các em đưa anh vào trong chăm sóc giúp tôi nhé.

Cô khuất lưng, tôi nghĩ: Lạ, nhà đã nuôi hươu mà không biết một tí gì về hươu, trước khi cắt nhung còn hẹn hò với trai. Không những bản thân đi hẹn hò mà còn bảo thợ cắt nhung đi nghỉ. Mùa tình là mùa của vạn vật sinh sôi, của gái trai tình tự, nhưng mọi điều đều có chung cái quy luật của nó. Hươu là linh vật của làng, nên trước khi đến với linh vật đều phải thanh sạch, sáng trong. Thợ bắt đầu, thợ cắt nhung và gia chủ có hươu sắp cắt nhung đều phải trai giới. Điều đó không ai không biết, đến vợ chồng còn phải xa ra huống hồ là hẹn hò. Lạ thật, chẳng lẽ nuôi hươu mà không biết chuyện đó?!

                        *

Tôi hết đứng lại ngồi. Mặt trời lên ngự đỉnh trời rồi tà tà ngả về phía tây, vậy mà cô Ngân Hoa vẫn chưa quay lại. Mãi đến khi phía tây mây đỏ đòng đọc như một chậu máu, hoàng hôn đang tham lam nuốt dần mặt trời thì cô mới tã tượi trở lại. Không biết ăn nhiều son môi có ảnh hưởng gì tới bệnh đường ruột không? Nếu có tôi dám chắc ngay đêm nay người tình của cô Ngân Hoa phải đi mua ngay mấy liều béc-bê-rin phòng tiêu chảy. Bởi trước khi đi cô ấy đã tô cho đôi môi chuối mắn đỏ chót lên thế kia, vậy mà bây giờ nó đã bạc thênh thếch như da trùn chết.

Nhà cô Ngân Hoa ngự ngay mặt phố, rộng thênh thang, đẹp như một lâu đài. Tôi chợt nghĩ, nếu cái này cũng gọi là cái nhà thì không biết cái cha con tôi đang ở phải gọi là cái gì? Chắc gọi là lều thôi, mà lều cũng không xứng. Cũng giống như người ta gọi cụ Nguyễn Du là nhà thơ, và ông Trường hói cạnh nhà tôi chuyên đi thiến lợn, tự bỏ tiền ra in được tập thơ cũng vênh vênh xưng mình là nhà thơ. Không biết cô Ngân Hoa hưởng cái lộc gì mà to, mà giàu, mà sung sướng hơn cả dân làng tôi mấy mươi đời được hưởng lộc trời - nhung hươu được gọi là lộc trời mà.

Tôi ngơ ngẩn nhìn quanh quất không biết nhà cửa như thế này thì chuồng hươu đặt ở đâu? Gọi tôi đến cắt nhung mà chẳng thấy có chuẩn bị gì, bét ra cũng phải có dăm bảy người giữ thì tôi mới cắt nhung được chứ? Đang thắc mắc cành hông thì có một người đàn ông phóng xe máy vào tận nhà. Người lẻo khà lẻo khẻo thế này chẳng lẽ là thợ bắt đầu, lạ thật. Không cả nhìn tôi, anh ta chạy ngay lên lầu, một lúc sau thấy khoác tay cô Ngân Hoa đi xuống. Chết cha, chẳng lẽ con cú này lại là chồng của con thiên nga này sao? Chả trách thiên nga chiều nay tách đàn. Tôi lại thắc mắc cành hông thì cô Ngân Hoa nói:

- Trăm sự nhờ anh, anh cứ dùng loại thuốc tốt nhất gây mê cho nhà em giúp. Và điều quan trọng là anh giữ kín cho việc này. Trăm sự nhờ anh, em sẽ đền đáp xứng đáng.

- Em khỏi lo, đến voi anh gây mê còn ngủ li bì nữa là người. Gây mê xong anh sẽ…sẽ…gây… tê… cho em luôn nhé.

- Nỡm ạ, cứ xong việc đi đã nào.

Vừa nói hai người vừa dắt nhau vào buồng trong. Khoảng mười lăm phút sau, cô Ngân Hoa ra cửa gọi tôi vào. Khi tôi lại gần, cô đặt bàn tay dịu dàng lên vai tôi nói:

- Cháu thật bình tĩnh mà cưa cho tốt nhé, đừng sợ gì cả, cứ cắt như cắt nhung hươu.

- Thế…?

- Không việc gì cả, cô và chú bác sĩ thú y sẽ giữ chặt đầu cho cháu cưa. Với lại ngủ li bì rồi, còn sợ gì nữa.

Chúng tôi đến bên chiếc gường đôi, trên đó có một người đàn ông đang nằm ngủ. Tôi nhìn lên mặt, lên đầu người đàn ông rồi bỗng rụng rời chân tay, trên đầu ông ấy đang đội một cặp nhung trắng hồng với nhánh chính, nhánh con đẹp như vẽ. Trên đời này, kể từ khi nhà máy bia gây ô nhiễm, tôi đã thấy khá nhiều chuyện lạ. Chuyện bò hai đầu, gà bốn chân, lợn voi, chuột chó… đều thấy cả, nhưng người mà mọc nhung như hươu thì quả tôi chưa thấy bao giờ. Nhưng quả thật chẳng còn con đường lùi, tôi bặm môi cưa. Cưa ăn nhung xoèn xoẹt. Từ vết cắt nhểu xuống thau rượu hứng phía dưới một dòng máu đen, tanh, thối, khẳm…như nước thải nhà máy bia. Tôi vẫn nghiến răng cưa, còn cô Ngân Hoa chắc không chịu được mùi xú uế chảy ra từ chồng. Cô nôn khan rồi ôm mặt lao vào nhà vệ sinh.

Người mà mọc nhung như hươu, máu người mà đen, hôi như nước cống, quả tôi chưa thấy bao giờ

Tiểu hổ

Bao nhiêu đêm nó phá giấc ngủ. Mái ngói, sân thượng thiếu gì, cứ nhè mái tôn nhà tôi. Sau cái gừ ngắn là hai tiếng phì phì rồi lăn xả vào nhau cắn xé. Mái tôn bung lên doành doành, rồi tiếng ré nhoằng nhoằng trên mái nhà như sét đánh. Một hai giờ đêm, lựa lúc mình ngon giấc nó mới hành động, cứ thế đến sáng không tài nào chợp mắt.

- Hôm nay thì mày phải đền tội.

Tôi gí đầu dây điện vào lỗ mũi con mèo. Cái mũi như cục cao su giật liên hồi, sống lưng vồng lên, tứ chi co rút, căng ra, tự xé xác bởi bốn cái đinh đóng câu rút trên tấm gỗ lim to bằng cái thớt.

- Nhớ ai đây không? - Tôi chỉ vào vết sẹo như dòng nhạc kẻ trên mặt mình.

Tối hôm ấy nó lịch kịch trong bếp, hẳn là định vét sạch âu mỡ như lần trước. Tôi khép cửa toan bắt sống, thì… phốc một cái, nó đạp vào mặt tôi, phóng vút đi. Vuốt má không thấy gì, ngồi vào mâm cơm vợ con hét toáng lên: "Máu! Máu!". Sờ mặt, bàn tay đỏ như nhúng vào thuốc nhuộm. Về sau cứ thấy nó trên mái nhà là tôi trừng mắt dọa, nó không chạy, ngoái lại thôi miên tôi. Tròng mắt xanh lè phóng ra luồng điện sinh học áp đảo kẻ thù. Người ta kể có lẽ thật, người chết chưa kịp vuốt mắt, chỉ cần con mèo đen nhảy qua, thân ma có thể bật dậy. Thi thôi miên với mèo thì thua là cái chắc. Lần nào tôi cũng chớp mắt trước. Ức quá quẳng ngay cho nó cái chổi. Hôm nay tình yêu làm hắn sơ hở. Mải làm tình trên mái nhà, đuôi thõng xuống. Tôi túm lấy giật mạnh, quay liền mấy vòng đầu đập đôm đốp vào tường rồi mới căng ra xét hỏi.

Tôi đè gáy hắn xuống, cái mặt tròn vo buộc phải ngẩng lên, cằm tì trên thớt.

- Mở mắt ra, mở ra! Giỏi thôi miên nữa đi!

Bao nhiêu đêm nó phá giấc ngủ. Mái ngói, sân thượng thiếu gì, cứ nhè mái tôn nhà tôi. Sau cái gừ ngắn là hai tiếng phì phì rồi lăn xả vào nhau cắn xé. Mái tôn bung lên doành doành, rồi tiếng ré nhoằng nhoằng trên mái nhà như sét đánh. Một hai giờ đêm, lựa lúc mình ngon giấc nó mới hành động, cứ thế đến sáng không tài nào chợp mắt.

- Sướng chưa con, sướng chưa? Sư… ướng!

Mỗi lần hô "sư…ướng!" tay tôi lại gí điện. Con vật giật bắn, giãy giụa, toàn thân run lên bần bật.

- Thôi tha cho nó - Người hàng xóm lặng lẽ đứng sau tôi từ lúc nào, cầu xin.

Cái cười nửa miệng của ông khiến tôi hơi ngượng, càng tỏ ra say máu và thô bạo hơn.

- Thà anh cứ cho nó một nhát dao… - Ông hàng xóm xót xa.

Tôi quệt mồ hôi, thở.

- Làm điếu đã.

Ông chìa bao thuốc moi sẵn mấy điếu. Khói thuốc khiến tôi bình tâm. "Phúc tổ cho mày" - Tôi làu bàu. Thằng nhỏ nhà tôi khiếp vía nép vào góc nhà giờ mới thò đầu ra.

- Đi đi! Chuyện người lớn - Tôi xua.

- Phải. - Ông hàng xóm đồng tình - Không nên để trẻ con chứng kiến cái cảnh này.

Thằng bé nhìn con mèo.

- Bố! Hình như mèo nhà mình!

Đã lâu, bà nhà tôi rước về một con mèo bằng nắm tay, nó kêu suốt đêm y như trẻ con khóc. Nó rúc vào chăn rên hừ hừ, lông bám đầy mồm đầy mũi tôi, làm ho mấy tuần liền. Nó phóng uế nhây nhớt, chua loét, cào bung cả đệm. Tôi nện cho một trận, nó bỏ đi biệt tăm. Đây là mèo hoang, mướp cả, con nào chả vậy. Mà mèo nhà mình thì cũng phải xử. Ông hàng xóm nhìn tôi tra tấn con mèo thì thương, nhưng lại muốn làm

thịt

. Tôi tuyên bố hành hình xong đem chôn, ông giãy nảy:

- Chết thật, phải xem lại vốn văn hóa ẩm thực của anh. Con mướp đến ba ký rưỡi thế này mà định vứt đi thì…

Lần đầu tiên tôi được xem làm mèo. Ông túm đuôi nhấc ngược con mèo, nhúng đầu vào xoong nước gần sôi vừa bắc ra, rồi từ từ cho ngấm ướt toàn thân. Mang ra ngoài, tay trái ông cầm đuôi xoay lật con mèo, tay phải dùng chiếc đũa cả bằng tre gạt xước ngược lông con vật. Đũa ông đi đến đâu, nước sôi tôi rưới đến đó. Ông bảo nước nóng quá cũng không được, lông mèo sẽ chắc lại. Loáng cái, con mèo sạch lông trắng sáng hơn sứ Trung Hoa. Ông ngẩng lên:

- Thui bằng gì bây giờ đây?

- Rơm.

- Cũng được, nhưng chưa thể gọi là sành điệu. Nhà có cái chổi xuể nào hy sinh đem ra đây.

Than chổi xuể rực hồng bắn ra tiếng nổ lách tách cùng tro trắng như phấn áp gần sát da mèo, quạt liên tục. Thịt mèo nở căng, da ngả màu nâu quế thơm phức, càng xa càng thơm, bấy giờ mới xả thịt, róc xương. Thịt cứ để nguyên tấm, khía phía trong, xát bột ngọt, hồ tiêu, riềng ớt giã nhỏ với nước mắm ngon; xong đâu đấy cuộn cả tấm thịt lại, tuyệt đối không được để rách da, bó chặt trong mo cau, cho vào nồi áp suất, giữ ở một trăm mười lăm độ chừng một giờ. Vớt ra chờ nguội xắt khoanh đặt lên đĩa. Những khoanh giò hình bông hoa bốn cánh. Chỗ lõm giữa các cánh đặt một lá chanh vàng ươm, lúc ăn nhai như ăn rau gỏi. Bây giờ tôi mới vỡ lẽ, khi bó giò ông bó luôn bốn ống tre kẹp ngoài, giò vừa chặt, khoanh giò lại hõm vào ở các cạnh. Giò mèo chấm muối tiêu ớt là nhất. Thấy thịt trắng tôi nghĩ ăn như thịt thỏ, nào ngờ đúng như thịt gà, nhưng thơm ngon, chắcthịthơn nhiều. Thằng nhỏ nhà tôi sợ không ăn, dại.

Được vài miếng, ông bạn đặt ly rượu đế xuống, hốt hoảng:

- Ơ… Bộ lòng anh vứt của tôi đâu rồi?

- Chôn chứ còn gì nữa. Tốt nhất là phi tang, vợ tôi mà biết là rách việc lắm.

- Ông giết tôi rồi! Dồi trường (dạ con) gọi nó bằng cụ.

Ai biết, ruột mèo dai đến nỗi chuyên dùng làm dây néo đập lúa, dây ná, dây nỏ, dây khoan thuyền và cát gút (chỉ phẫu thuật) mà luộc lên lại ngon, giòn hơn cả dồi trường. Uổng quá!

- Nghe nói ở biên giới mấy chục ngàn một con mèo phải không ông? - Tôi hỏi.

- Mấy chục ngàn một ký hơi bói không ra. Cả con ấy à? Đừng sờ!

- Thái Bình nhà nào nuôi được con mèo thưởng những bảy mươi ngàn đồng?

- Hình như thế.

Miệng thì nhai

thịt

mèo, mồm chúng tôi phán lợi ích của nó: Nào là giống vật làm cảnh tuyệt vời, nào tính trung bình một con mèo bắt được bao nhiêu chuột một ngày, phân loại mèo, hội chợ mèo… Trong Đại chiến II quân đội Anh huấn luyện những đội biệt động mèo, chúng luồn qua cống rãnh, vọt lên mái nhà, chui vào cửa sổ đưa mật thư. Từ xa, chúng đã đánh hơi thấy mùi quân Đức, chó thua. "Hay, hay!" - Tôi vỗ đùi khoái trá. Câu chuyện xoay sang mèo đen, cao tiểu hổ trị thấp khớp…

Thằng nhỏ tự nhiên hỏi:

- Bố ơi, con phải làm bài văn "Tả con mèo nhà em".

Ông bạn tôi chậc lưỡi hất hàm:

- Thì cứ thấy thế nào tả thế.

- Ấy chết! - Tôi buột miệng rồi nhanh trí gà ngay cho một đoạn:

"Nhà em có một con mèo… mướp. Lông nó mịn như nhung. Mỗi khi em đi học về, nó sà vào lòng như người bạn tâm tình. Em ôm nó vuốt ve và cảm thấy hơi ấm truyền sang mình. Em yêu mèo vì…".

Từ bữa con mướp bị hành hình, cấm con mèo nào dám bén mảng. Được mấy đêm yên giấc thì lại đến nạn chuột. Chuột lúc nhúc, chuột đầy nhà, cắn nát quần áo, mùng mền, gối đệm, đục thủng vách, khoét tủ búp-phê giữa ban ngày. Chập tối nằm xem ti-vi trên giường mà bị nó cắn chảy máu chân. Có con chỉ bằng cái hạt mít, leo thoăn thoắt trên dây phơi khăn mặt. Đặt bẫy không ăn thua. Đánh bả thì chúng chết chui lủi trong xó xỉnh, thối hơn cóc chết. Có keo dính chuột nhưng không thấy chuột dính, chỉ dính người. Ông bạn hàng xóm sang chơi thấy chuột nhặt cơm giữa nền nhà, xua không thèm chạy, ngang nhiên như nhà của chúng.

- Nhà anh nuôi chuột đấy à? - Ông hỏi.

- Đâu có. Cho nó ít cơm nguội kẻo chúng đói đục khoét lung tung, đêm nó làm loạn không ngủ được.

- Anh lầm, giờ tý là giờ của chúng. Mà đã là loài gặm nhấm thì phải gặm phải nhấm, răng mọc dài ra hàng ngày, buộc phải tìm cách mài đi. Dây điện nó cũng chẳng từ.

Ông bàn đến thịt chuột: Những con vật càng giàu đạm chết càng thối. Bột cóc là thuốc trị suy dinh dưỡng trẻ em. Chuột thua gì cóc, thịt ăn lại ngon. Quê ông cỗ cưới dù mổ trâu mổ bò mà trên mâm thiếu đĩa

thịt

chuột thì không thể gọi là cỗ to. Con gì cũng có sinh có tử, nhưng con người đụng đến loài gì là loài ấy tuyệt chủng. Từ con cua con ốc đến rắn rùa ba ba… Tiêu diệt chuột tốt nhất là ăn luôn nó. Cái miệng con người gớm thật. Dạ dày là mồ chôn xác súc vật kia mà.

Ông trổ tài thịt chuột. Đơn giản hơn mèo nhiều. Luộc, ướp lá chanh, ép. Thịt chuột thơm ngọt, khi ăn không bị ám ảnh mặc cảm như ăn

thịt

mèo. Song dù ngon mấy ăn mãi cũng chán, hơn nữa đâu phải loại chuột nào cũng ăn được. Một hôm bắt gặp tôi ngồi tư lự trên sa-lông, ông cười:

- Đã tìm ra phương án tối ưu chưa?

- Tôi vừa đọc một tài liệu nói rằng có thể gây bệnh thương hàn cho chuột chết hàng loạt.

- Liệu nó có lây sang người không? - Ông lại cười nhìn tôi. - Tốt nhất, theo tôi là anh vẫn cứ phải nuôi lấy một con mèo. Chọn được con như con mướp hôm nọ thì yên tâm. Anh đã thấy nó quất đuôi trên mái tôn chưa? Đấy, những con mèo như thế là hay chuột phải biết

Chuột đồng ký sự

Buổi chiều, người đi săn chuột đổ về, tranh thủ làm lông, đem ra chợ bán. Trong xã, có hàng chục điểm bán thịt chuột, song đông nhất là ở chợ Chùa Ba trung tâm xã. Vào mỗi buổi chợ có hàng chục mẹt

thịt

chuột được bày bán. Chuột nhỏ chuột to, chuột đồng chuột cống đều trắng ởn trên mẹt...

Từ "văn hóa

thịtchuột"...

Trong bộ "Nam dược thần hiệu", đại danh y Tuệ Tĩnh vốn đã coi thịt chuột đồng là một thứ thuốc tính vị hơi ấm, ngọt, không độc, có tác dụng giảm đau do bị ngã, được gọi là vị "lão thử". Từ rất lâu rồi, cho đến tận lúc người ta phát hiện ra và tuyên truyền rằng, chuột chính là loài mang mầm bệnh và truyền dịch hạch,

thịt

chuột vẫn là một món ăn khá thông dụng của người nông dân.

Bởi thực ra, dân ta quan niệm, chuột là giống vật ăn thóc gạo, thịt tất không có độc. Vả lại, dù nhỏ hơn, song con chuột cũng là một loài động vật hoang dã giống như con cầy, con cáo... nên ăn thịt nó xem ra cũng chẳng có gì là "ti tiện" lắm. Chẳng qua bây giờ người ta thừa tiền lắm của,

thịt

thà ê hề nên coi thứ này là mạt hạng mà thôi.

Tôi vốn tự tôn dân tộc, được nghe về cái váy "Cái thúng mà thủng hai đầu/ Bên ta thì có bên Tầu thì không" thì khoái lắm. Lại nghĩ, có khi món thịt chuột này dân Việt mình độc tôn chăng? Nhưng tôi đã lầm to. Sơ sơ cũng thấy có vài cường quốc mà dân của họ cũng xơi thịt chuột như ta. Ở Hàn Quốc, người ta ngâm chuột bao tử vào rượu đem bán, ở Trung Quốc thì món này lại càng thịnh hành. Nghe đâu ở Vũ Hán có hẳn phố

thịt

chuột.

Cho đến bây giờ, món thịt chuột lại càng không xa lạ với dân ta. Nhiều tỉnh thuộc đồng bằng sông Cửu Long đã coi món thịt chuột là món ăn "đậm đà bản sắc dân tộc" của mình. Có những loạithịtchuột đã trở thành "thương hiệu uy tín" như chuột cống nhum, chuột đồng Cao Lãnh... Lại có cả một làng chuyên bắt chuột, thu gom chuột trong và ngoài nước để cung cấp cho các nhà hàng là làng Phù Dật (An Giang).

Nghe đâu, mỗi ngày làng này tiêu thụ đến... 5 tấn chuột! Thực đơn thịt chuột cũng vô cùng phong phú, có tới 16 món, từ thịt chuột xôi mỡ, xé phay, khìa nước dừa, kho tàu đến chuột quay lu, xào sả ớt... Và, ấn tượng hơn cả có lẽ là món thịt chuột được đặt một cái tên khá mĩ miều "Trinh nữ kén chồng"! Với thực đơn như thế, e rằng nhiều người trước đây ghét

thịt

chuột, nghe mà đã thấy... phát thèm.

Ngược về phương Bắc, lên tận các vùng rẻo cao, chúng ta cũng bắt gặp món ăn dân dã này, song, nó được chế biến sơ sài hơn một chút, được ướp gia vị, treo gác bếp, hoặc cực kỳ đơn giản là vứt luôn vào nồi cháo ngô nóng ninh nhừ mà húp... Trong tác phẩm "Vợ chồng A Phủ", nhà văn Tô Hoài cũng nói đến món canh cải nấu

thịt

chuột của cặp vợ chồng này.

Trong khu vực châu thổ sông Hồng, hầu như tỉnh nào cũng có một "làng thịt chuột" nhưng có lẽ Hưng Yên là tỉnh có nhiều "làng thịt chuột" hơn cả? Cách thị xã Hưng Yên chừng hơn chục cây số, làng Ché (xã Dị Chế, huyện Tiên Lữ), món thịt chuột đã trở thành đặc sản. Ở đây

thịt

chuột được chế biến thành hàng chục món từ đơn giản đến phức tạp, từ "chém to kho mặn" đến dụng công chế biến khiến hương vị biến hóa đa đoan.

Nào là thịt chuột luộc ép lá chanh, nào là thịt chuột nấu giả cầy, nào là thịt chuột quay... Còn có món ăn từ thịt chuột đã làm nên tên tuổi của làng Ché "danh chấn giang hồ" trong giới ẩm thựcthịtchuột: món phở chuột. Món phở chuột của làng "oai hùng" đến nỗi, một dạo, cứ người Hưng Yên đi đến đâu, người ta lại nhắc ngay đến dân "phở chuột". Ngay dân quanh vùng cũng thường nhắc đến câu "Phở chuột làng Ché, cháo ngóe làng Cuông" (làng Cuông là làng Đa Quang, cùng xã với làng Ché).

Hiện giờ, ở làng Ché, người dân không còn lấy nghề bắt chuột làm một kế sinh nhai, nhưng ở phía bắc tỉnh Hưng Yên, vẫn còn một làng còn coi thịt chuột là một món mang đậm "bản sắc văn hóa dân tộc". Đó là làng Xuân Cầu (xã Nghĩa Trụ, Văn Giang, Hưng Yên). Nhưng trước khi nói đến món

thịt

chuột ở đây, hãy xem họ bắt chuột.

Đến nghề săn chuột

Tìm hiểu kỹ, tôi thấy các "làng nghề"

thịt

chuột ở đồng bằng Bắc Bộ, người đi săn cũng bắt chuột như cách chúng tôi làm thuở nhỏ. Tức là họ cũng "hỏi thăm chú chuột" bằng xem mùn, tìm dấu chân; cũng bịt ngách nhỏ, chặn rọ ngách lớn, rồi không dùng nước thì lại hun khói...

Chỉ có điều, đồ nghề của họ thì chuyên nghiệp hơn nhiều, từ chiếc rọ được đan cẩn thận đến chiếc thuổng sắc lém. Và "vũ khí tối tân" hơn cả là chiếc thùng để nước được chế tạo chỉ để rót nước vào hang chuột, bởi những người này thường phải đi xa, không thể mang theo rơm rạ lỉnh kỉnh, cho nên "binh pháp" thường sử dụng là "thủy công" nhiều hơn "hỏa công". Một số người thì lại có cách bắt chuột khá dị biệt là soi chuột ban đêm rồi dùng súng cao su hoặc súng hơi bắn.

Với anh Nguyễn Văn Duân (xã Toàn Thắng, Kim Động, Hưng Yên) thì có cách khác hẳn, ban đêm, anh vác đèn ra đồng soi, thấy chuột là dùng que đâm. Nếu đâm chết chuột thì chẳng đáng kể gì, "võ công" của anh "thâm hậu" ở chỗ, khi nhìn thấy chuột, anh lao gậy ra, song không phải là chiêu "sát thủ" mà chỉ đâm vào đùi chuột cho chúng không chạy được rồi bắt sống.

Riêng người làng Xuân Cầu lại có cách bắt chuột chuyên nghiệp và "cao minh" hơn cả. Ngoài các "quân trang quân dụng" thường thấy như rọ tre, thuổng, bình nước..., họ còn đem theo một trợ thủ đắc lực là những con chó. Những chú chó này được "đào tạo" chỉ với mục đích bắt chuột nên khá "tinh nhuệ". Nhiều khi, chỉ cần một chú cẩu đứng trước hang chuột mà sủa cũng có thể khiến chuột to chuột nhỏ trong hang run bần bật mà chạy ra. Chú nào gan lỳ lắm đám thợ săn mới phải đào hang, đổ nước... Vọt ra khỏi hang, chuột nào cũng sợ mất mật, ba chân bốn cẳng đào tẩu, nhưng làm sao nhanh được bằng lũ chó săn.

Không chỉ rình giỏi, sủa to, có thể chạy bộ hoặc chỗm chệ ngồi sau xe đạp, xe máy theo chủ đi xa nhà hàng vài chục cây số, các chú chó săn cao thủ còn phải có một thứ "võ công độc môn" mà không chú chó nào khác có là chỉ "bắt sống" chuột mang về nộp cho chủ, chứ không cắn chết "chiến lợi phẩm". Người đi săn tối kị là đánh chuột chết, bởi

thịt

chuột phân hủy nhanh, để một lúc không chế biến là đã bốc mùi không thể nào ăn được.

Muốn có một con chó săn như thế, phải tập cho nó hàng năm trời. Đồng thời, giống chó cũng quan trọng không kém. Thông thường, giống chó Lài, chó Mèo được ưa chuộng nhất, chó răm thì phải là con khôn nhất đàn, còn loại chó Tây, chó béc-giê hình như là "quý tộc" quá, không hợp với việc săn chuột. Một con chó săn được chuột là đã có giá hàng triệu đồng, có chú săn giỏi giá lên đến vài triệu chưa chắc đã mua nổi. Ở Xuân Cầu vẫn còn lưu danh hàng chục con chó thuộc hàng cao thủ võ lâm như thế.

Và "không

thịt

chuột chẳng thành đại tiệc"

Các cụ nhà ta tổng kết về món ngon trong trời đất, ngoài các đặc sản khác, còn có: "Chuột tháng Mười, người tháng Giêng". Theo lý giải thì chuột tháng Mười ăn nhiều lúa gạo, béo nung núc,thịt

thơm ngon, còn người tháng Giêng "là tháng ăn chơi" ắt hẳn mỡ màng, mặc lại đẹp (còn ngon như thế nào thì... chỉ các cụ mới biết!). Vào những ngày tháng mười, cuối thu, khi cánh đồng chiêm trũng trước làng chỉ còn chân rạ, cũng đang độ nông nhàn, chính là lúc người dân Xuân Cầu rủ nhau đi săn chuột nhiều nhất.

Buổi chiều, người đi săn chuột đổ về, tranh thủ làm lông, đem ra chợ bán. Trong xã, có hàng chục điểm bán thịt chuột, song đông nhất là ở chợ Chùa Ba trung tâm xã. Vào mỗi buổi chợ có hàng chục mẹt

thịt

chuột được bày bán. Chuột nhỏ chuột to, chuột đồng chuột cống đều trắng ởn trên mẹt...

Cách làm

thịt

chuột ở đây cũng có khác người, họ "mổ moi". Nghĩa là chỉ cần cứa cổ họng, khoét hậu môn và lôi hết lòng gan chuột ra, sau đó đem luộc hoặc hấp cách thủy. Đợi chuột chín, đem vớt ra, đặt lên mẹt để nguội. Trời cuối thu, se lạnh, nước luộc và mỡ chuột đông lại, bám thành một lớp tuyết trên mặt da, lại điểm xuyết vài cọng lá chanh xanh rờn.

Khi ăn, người ta chặt ngang con chuột. Lúc ấy điểm đặc thù của thịt chuột Xuân Cầu mới lộ rõ: miếng thịt tròn vạnh, đặc sệt, trông "ngứa con mắt bên phải, đỏ con mắt bên trái" mà... nuốt nước bọt. Tuy là thứ thực phẩm đi kiếm được, nhưng giá lại không rẻ chút nào, một cân thịt chuột ngon có giá ngang một cân

thịt

lợn ngon.

Bởi thế, phải là khách quý mới được dân ở đây tiếp đãi bằng món thịt chuột. Nhà thơ Nguyễn Cao - Hội viên Hội VHNT Hưng Yên là "trai tế" làng Xuân Cầu kể, các em vợ ông hiện đã định cư ở Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, mỗi dịp về quê đều sai đứa cháu ra chợ Chùa Ba làm cânthịtchuột, chai rượu Lạc Đạo về anh em thù tạc cho thỏa nỗi nhớ quê.

Người ta vẫn biết rằng, mèo là kẻ thù, là "thiên địch" của loài chuột. Thực ra, uyên nguyên của nó cũng nhiều thú vị. Có một tài liệu cho rằng, chuột là loài vật sản sinh ra chất ngưu hoàng (một tiềm chất khiến cho mắt nhìn trong bóng đêm tốt hơn) nhiều nhất.

Chính vì thế, loài mèo (vốn không tự sản sinh ra chất này) phải bổ sung ngưu hoàng từ nguồn "nguyên liệu" truyền kiếp là họ hàng nhà "cu tí". Trong dân gian, còn truyền hàng chục bài thuốc "y tế học... lỏm" khác từ thịt chuột: nào là chữa lang ben, nào là cắt cơn sởi trẻ em... Thế nên, cũng trong dân gian,

thịt

chuột là thứ thức ăn "thơm ngon mát bổ, không khổ vợ con".

Tuy rằng ngày nay,

thịt

chuột chẳng được trọng vọng như xưa, nhưng nó vẫn như một thứ kỷ niệm "món ngon nhớ lâu" vang bóng một thời ăn sâu vào tiềm thức nhiều người Việt.

Để mỗi độ cuối đông, nhìn những đụn khói dịu dàng bay trong sương chiều nơi cuối bãi, những ai đã từng sống nơi thôn ổ lại dợm lên nỗi nhớ về một món ăn "trân bảo" của thuở trẻ trâu..

Sông có khúc

Nhìn đằng sau Thẩm, ai cũng tưởng đó là một gã đàn ông. Người thẳng đuột, số đo cả ba vòng hầu như là một. Chỉ khi đối mặt, mới nhận ra đó là một thiếu phụ khá rắn rỏi. Gò má cao! Mắt to, thân hình rắn chắc, nam tính nhiều hơn nữ tính.

Tiếng là vậy, nhưng Thẩm lại là người tình cảm. Cũng vì thương người bạn cũ, sau bao năm chinh chiến về làng với cái giấy chứng nhận thương binh 3/4, khi chiến đấu ở thành cổ Quảng Trị nên chị đã nguyện lấy anh. Người yếu oặt vậy thì chỉ trông con lợn con gà ở nhà… Làng vẫn đùa Thẩm là, không biết bồi dưỡng gã chồng thương binh thế nào mà trong sáu năm, oạch ra đúng bốn đứa con, ba gái một trai. Anh chồng thì ai chế cũng chỉ cười tủm tỉm, rồi lảng đi chỗ khác. Cánh đàn ông trêu chọc Thẩm thì chị ta lập tức đáp tắp lự:

- Hãy đợi đấy! Không phải bốn đâu! Còn là 8, là 12 nữa đấy!

Có anh bẻm mép bảo:

- Hôm nào mát trời, cho tớ gửi một đứa nhé!

Cái giọng thổ trầm trầm, cả vú lấp miệng em ngay:

- Đợi gì mát trời, ngay tối nay đi!

Bốp chát đến thế thì liền bà, liền chị gì nữa. Mà ở cái nhà ấy, liền chị thành liền anh mới chống chọi nổi với sáu cái tàu há mồm. Trừ anh chồng, còn năm kẻ còn lại chẳng bao giờ để nồi còn lấy nửa bát cơm nguội…

Có năm làng bị trận lũ bất ngờ, lở núi. Cả tỉnh cứu đói cho nửa huyện chỉ được bữa rau, bữa cháo. Rau má, rau tập tàng ngoài đồng vặt trụi hết cả. Chị Thẩm bán mấy chỉ vàng tích cóp được đi mua bò, thịt bán ở chợ huyện và ở đầu làng. Xem ra cũng kiếm ăn được… Xoay xỏa độ dăm, bảy phiên chợ thì vại gạo trong nhà lưng lửng, độ một tháng thì cứ ăn gần hết, vơi lại được "mẹ Thẩm" đổ đầy. Không những thế, chúng lại còn được hưởng những bữa cơm… có lòng bò xào, canh xương bò nấu với khế chua. Thằng bé út được may bộ quần áo mới. Con gái đầu của chị Thẩm cũng được mua cho chiếc xe đạp ở hiệu cầm đồ để đi học, hoặc có ai bán bò, cầnthịt

ăn thì đạp ra chợ bảo với mẹ…

Đùng một cái, công an vào nhà, mời chị Thẩm lên huyện… Cả nhà lại nháo nhác không hiểu ra sao. Ngay cả chị cũng không biết mình tại sao lại ra nông nỗi này..

Đến khi được hỏi cung, mới ngã ngửa ra là bà lái bò mua phải của ăn trộm. Con bò tuần đầu tháng, chị hí hửng mua rẻ, xả

thịt

bán, lãi đến bốn trăm bạc hơn, hóa ra của một gã lái bò chuyên nghiệp, thuê tiền một nhà tử tế bán cho. Khi bị bắt, hắn khai ra, thế là thành kẻ tiêu thụ của bất chính.

Những lúc gặp chồng con, hàng tháng đem đồ tiếp tế lên, mẹ khóc, con khóc, chồng khóc, vợ khóc…

Hôm chị được ra tù, chị quản giáo tiễn ra tận cửa. Vào tù chỉ có chín tháng, chị Thẩm được cử làm tổ trưởng một tổ phạm nhân, chuyên làm rau sạch. Xốc vác ở nhà đã quen, tính tình lại xởi lởi, mồm mép cũng chẳng kém ai… Cái trại giam, có chị, hoạt bát hẳn lên. Những ả lì lợm, rắn đầu, định làm nữ đầu gấu cũng phải tôn chị làm "tỉ tỉ".

Bà con làng xóm chạy đến hỏi thăm. Ông chồng lại đem một bộn tiền đặt trước mặt. Chị Thẩm hỏi:

- Đi trấn lột ở đâu mà lắm tiền thế! Hay là cái thằng buôn ma túy nào lại nhờ rửa tiền đấy à? Hay là tôi ra tù ông lại thích vào tù?

Ông chồng ốm o, gầy mòn, mặt mày lúc nào cũng nghiêm chỉnh như hồi còn trong quân ngũ nói:

- Từ ngày mình về với tôi đến giờ, có thấy tôi hám tiền không? Đây là tiền đền bù của nhà nước. Cái ruộng phần trăm của mình được huyện giành mở khu chế xuất. Họ đến đo đạc tính tiền rồi trả cho mình đấy!

Mặt chị bỗng sáng lên. Chưa bao giờ chị có món tiền to thế này: gần hai trăm triệu. Miệng lẩm bẩm: "Ruộng lấy mất, nay mai sống bằng gì đây?".

Đẩy tiền về phía chồng chị nói:

- Thôi, anh cất đâu thì lại để vào đó! Đưa cho em, em lại tiêu nhăng tiêu nhít, xé lẻ ra hết mất đó!

Chị nhìn vào đôi mắt chồng, biết là sự lo lắng của anh vẫn chẳng vơi đi chút nào!

Chị Thẩm lôi chồng con ra một khu đất lò gạch cũ, ở ngay bên bờ sông.

- Đấy! Tôi nhận khoán với xã rồi! Họ cho mình khoán 15 năm! Mỗi năm phải nộp cho họ 10 triệu.

Anh chồng cau mặt đáp:

- Cái thứ bỏ không, không ai rước mà ra giá những mười triệu/năm kia ư?

- Thì mình phải làm gấp năm, gấp mười thế thì mới nuôi được nhau chứ!

Anh Thẩm không hiểu sao mà những thùng, những hố thế này lại sinh lợi đến như thế. Chị Thẩm đứng bên chồng bảo:

- Rồi anh xem! Con này mà không dựng nổi lên cơ ngơi này thì đâm đầu mẹ xuống sông mà chết cho rồi!

Anh chồng thở dài rồi bỏ về…

Tối hôm ấy, thấy vợ đi đến tận gà gáy đầu hôm mới về, anh chồng thức đợi vợ, hút thuốc lào vặt, thấy chó trong nhà cắn rộ lên một vài tiếng rồi lại thôi. Một lúc thấy vợ đẩy cửa vào, anh đùa bảo:

- Lại đi trộm bò về

thịt

, mai đi chợ đấy à?

- Thèm vào cái nghề giết bò ấy nữa. Sớm mai ông ra khu đất mới trông thợ cho tôi.

- Trông thợ! Làm gì vậy…

- Làm đường, đào ao mở trang trại!

- Được rồi…

Sáng ra, khu lò gạch bên bờ sông cách làng chừng dăm, bảy trăm mét thật tấp nập. Máy xúc, xe công nông chở đá, chở cát của công trường đi đánh quả ngày chủ nhật nổ máy ầm ĩ. Họ san đường, xúc đất khoét những trũng lò gạch thành ao, đắp to đường dẫn lối vào. Những chiếc lò gạch cũ hoang tàn được húc đổ. Gạch vỡ được chuyển đến, trải trên nền đường, dẫn vào trang trại hoặc đổ trên bờ ao, ngày một cao thêm… Cả tuần, máy xúc ở lỳ lại đó, không chịu về công trường vì việc ở đó không có mà việc ở đây lại sẵn, công cao… Anh Thẩm thấy những cọc tiền của mình vơi dần, đã lo lo, bảo vợ:

- Này, tiền vơi đi một nửa rồi đó…

- Cứ chi đi! Hết rồi lại có!

Chị Thẩm đáp cộc lốc…

Đám bãi cỏ hoang ở ven sông, phía sau lò gạch cũng được máy xúc san phẳng. Đám xe công nông chở đám bùn lá mục được mấy chục dân công nông nhàn chị Thẩm thuê xúc ở cái hủng cửa sông chỗ con lạch nhỏ đổ ra sông con chảy qua làng, đưa về. Lá rải một lượt, khắp một khoảnh bãi chạy từ bờ ghềnh ra tít tận mép sông…

Lượt bùn, lá dày lên tới hàng tấc…

Hôm sau, hơn chục con trâu được thuê cày vỡ ruộng, đảo lớp than bùn với đám đất cát, bừa đi bừa lại, cày rạch luống tra hột… Cứ một hàng ngô xen một hàng đỗ tương. Một hàng song đôi, cách nhau đầy đặn khoảng 40 cm…

Người làng khiếp hãi về cách làm việc mới, mở trang trại của chị Thẩm. Họ bảo:

- Con mẹ này nó làm cái gì cũng như ăn cướp ấy!

Cái khu lò gạch hoang tàn đổ nát đã biến mất, dần dần thành ao, thành vườn, thành ruộng, thành trang trại…

Mấy cọc tiền chỉ còn một xấp mỏng. Anh Thẩm rất lo. Hôm lấy tiền để chi công người làm thuê, chi công thợ, anh Thẩm hết hồn vì không thấy cái sổ nhượng đất lò gạch của UBND xã cấp cho ở đâu cả.

Đang lục tung các ngăn tủ, các đống sổ sách để xem mình có quên lẫn, để ở đâu đó chăng, thì chị Thẩm xồng xộc về, hỏi:

- Tìm giấy nhượng đất phải không, ông xã! Tôi lấy rồi.

- Sao không bảo tôi một tiếng!

- Thì đã bảo rồi mà lỵ!

Một cái Tết "nhịn"

thịt

... heo

Đó là tết năm 1971. Lúc ấy, Hội Văn nghệ Giải phóng Khu 5 phải di chuyển từ Nước Bui về Nước Nghêu (xã Trà Giáp, Trà My, Quảng

Nam) sau khi bị một trận B52 tơi bời khói lửa. Vì vừa di chuyển tới, chúng tôi chỉ mới lo làm nhà, phát rẫy trồng tỉa chứ chưa thu hoạch được gì.

Thức ăn hàng ngày của chúng tôi là thân cây dớn (dương xỉ), thỉnh thoảng mới có được một bữa sắn nhờ đổi từ nóc đồng bào hay xin được ở các cơ quan bạn. Ngày tết càng đến gần, chẳng lẽ lại để anh em chỉ ăn rau lá? Nhà thơ Hải Lê, Bí thư Đảng đoàn, nhà văn Chu Cẩm Phong, Bí thư Chi bộ cơ quan, bàn nhau phải tìm cách đổi gạo và heo cho anh em ăn tết. Nhưng lấy gì mà đổi? Cơ quan cử mấy anh em xuống Lâm Lộ (vùng ranh Quảng Ngãi) mua muối và mì chính. Nhưng chúng tôi cũng mua được rất ít, vì sau tết Mậu Thân, bọn địch ràng ở vùng ranh dữ lắm để ngăn chặn sự giao lưu hàng giữa đồng bào và miền núi. Đã 28 tết mà chúng tôi chỉ mới đổi được chừng 20 lon (sữa bò) gạo. Anh em bàn sẽ dành ăn vào mồng một cho nó có vẻ tết còn các ngày khác thì vẫn sắn với dớn. Còn heo thì không thể đổi được. Năm ấy bà con dân tộc cũng nuôi được ít.

Anh em bàn nhau cử Dương Hương Ly (bút danh của nhà thơ Bùi Minh Quốc) làm “đại sứ” đi các cơ quan thương lượng để “vay” heo. Nhưng các cơ quan bạn cũng chỉ có đủ dùng cho cơ quan mình. Dương Hương Ly về nhà rầu rĩ nói: “Tết này chắc chỉ được ăn

thịt

kể thôi (do anh em kể cho nhau)”.

Trong cơ quan, ai nấy cũng buồn. Nhưng chiều 29 tết, Tiểu ban Điện ảnh có giấy mời một đại diện cơ quan sang họ ăn tết. Đúng ra, trong cơ quan, nếu nhà thơ Hải Lê không đi thì cử nhà văn Chu Cẩm Phong. Nhưng Chu Cẩm Phong bàn: “Đã sang Điện ảnh thì phải có thịt heo. Tôi và anh Linh đi thì phí phạm suất ăn mất uổng lắm. Thằng Quốc nó khoái ănthịtheo, cử nó đi nó ăn cho đã”.

Thế là nhà thơ Dương Hương Ly mặt mày hớn hở, nhường rựa cho họa sĩ Hà Xuân Phong bổ củi để luộc bánh tét sắn, vội đi ngay. Tối ấy, khi trở về, anh vui vẻ nói: “Bên Điện ảnh có nhiều

thịt

heo quá, chả bù bên ta không có gì. Tớ thích quá đánh cho một bụng toàn là mỡ béo ngậy, cành cả hông”.

Tôi cứ ngỡ đêm ấy, Ly sẽ bị tào tháo đuổi. Có ngờ đâu, sáng ra, anh ta hơn hớn dậy bổ củi, mài sắn để làm bánh tét, mặt như hồng hào hơn.

Chiều hôm ấy, chúng tôi được đón khách. Đó là chị Phương Liên, người yêu của Chu Cẩm Phong, một bác sĩ ở Ban Dân y khu.

Đêm hôm ấy, chúng tôi đón giao thừa bằng cách đốt một đống lửa ở giữa nhà, ngồi bên nhau hát những bài hát Nga và những bài hát về miền Bắc yêu quý trong tiếng ghi-ta bập bùng của họa sĩ Giang Nguyên Thái.

Tôi cứ ngỡ gặp lại tuổi trẻ của mình ở giảng đường đại học, cùng đi với người bạn gái dưới hàng sấu bên Hồ Gươm xanh biếc của thủ đô yêu dấu.

Đúng lúc giao thừa, cô Tam “em nuôi” bưng lên đãi khách và anh chị em cơ quan một rổ sắn luộc còn bốc khói với mấy đĩa muối trộn ớt. Mọi người vui vẻ mời nhau. Chị Phương Liên bấy giờ mới rút từ trong gùi của mình ra 1 kg kẹo, 1 kg đường, vui vẻ nói:

- Biết mấy anh không có gì, em mang sẵn thứ này theo. Em để dành suốt mấy tháng nay nhân đi công tác địa phương mua về đấy. Bên Dân y bao giờ cũng giàu hơn bên Văn nghệ phải không?

Được kẹo, đường bất ngờ, chúng tôi hò nhau nấu nước pha trà để vừa ăn kẹo, ăn sắn luộc, uống trà vừa mở đài nghe Chủ tịch Tôn Đức Thắng chúc tết. Rồi chúng tôi lại hát, lại ngâm thơ cho đến khi bình minh rạng lên ở phía chân trời...

Cho đến giờ, mỗi năm tết đến, ngồi bên những món ăn ngon, chúng tôi lại rưng rưng nhớ cái tết nghèo khổ năm ấy. Đã ba mươi sáu năm trôi qua mà hình như chỉ mới đây thôi.

Những đứa con tật nguyền

Với tay lấy chai rượu Bàu Đá dựng ở chân giường, hắn tợp một ngụm rồi ăn ngấu nghiến cơm nguội chan với nước thịt chó. Lúc đói, hắn nghiệm ra chỉ có cơm nguội ăn với

thịt

chó là ngon nhất. Hắn lại tợp một ngụm nữa. Uống để "xối bùn". Hắn thấy lâng lâng. Lúc phê thuốc, hắn trở thành thi sĩ...

Hắn vắt chân chữ ngũ nhìn ra dòng nước đục ngầu nghẹn tắc bởi những chai lọ, bao ni lông trôi nổi phập phều. Nước ói, mọi thứ rác rưởi mà con người thải ra trôi về dưới hói Hạ, duềnh lên bám lấy các chân cột chòi. Cái chòi của hắn như một vọng gác tiền tiêu, giám sát thuyền bè qua lại trước khi xuôi về phố thị. Hai nhánh sông chảy qua làng hắn tạo nên cồn bãi. Làng hắn nằm trong diện "vùng bãi ngang đặc biệt khó khăn". Một cái làng mà có đến những ba cồn, chín xóm. Không ít các loại gỗ mun, gỗ sưa được các đầu nậu cất giấu ở ba cồn trước khi về thị trấn để vượt biển sang Trung Quốc. Thị trấn như một cái dạ dày khổng lồ chứa đủ các loại hàng hóa trong Nam, ngoài Bắc.

Với tay lấy chai rượu Bàu Đá dựng ở chân giường, hắn tợp một ngụm rồi ăn ngấu nghiến cơm nguội chan với nước thịt chó. Lúc đói, hắn nghiệm ra chỉ có cơm nguội ăn với

thịt

chó là ngon nhất. Hắn lại tợp một ngụm nữa. Uống để "xối bùn". Hắn thấy lâng lâng. Lúc phê thuốc, hắn trở thành thi sĩ. Hắn ngật ngà, ngâm nga: "Ta ước sông Nan biến thành dòng sông rượu. Minh Trạch, Hòa Giang thành trang trại nuôi cầy. Minh Thủy, Cồn Ngâm thành nông trường trồng mơ, riềng, sã. Ta hóa thành thơ. Nghĩa địa. Say!". Vâng! Hắn đang say. Hắn đang lơ mơ bay trên chín tầng mây.

Lại một con đò nữa đi qua. Có lẽ đò của người làng Văn Phú lên lấy nước. Ổ! Làm gì người đi lấy nước mà đông đến thế. Có đến những sáu người. 

Từ ngày người ta cố tình đuổi khéo hắn đi ra khỏi cánh đồng Miệu, hắn về đây trở thành ông chủ nghĩa địa. Hắn vùng vẫy giữa một vùng sông nước. Hắn chọn nơi đắc địa này để làm thủ lĩnh một băng trộm. Dù băng trộm không lớn nhưng cả huyện này ai cũng biết tên hắn.

                       *

Hắn vào tù vì tội hiếp dâm một người đàn bà câm. Hồi đó, hắn mới hai mươi lăm. Người đàn bà câm bằng tuổi của mẹ hắn. Trời sập tối. Hắn lượn lờ qua trước cửa nhà bà câm hai vòng. Không một bóng người qua lại. Mới đầu hôm mà bà câm đã khóa cổng. Bà sống lặng lẽ một mình. Bà chẳng biết trò chuyện cùng ai. Hồi trước, bà là một người phụ nữ đẹp nhất xóm. Bà gặp phải chuyện tình duyên trắc trở. Vì câm nên bị oan trái nhưng bà không tài nào thanh minh được. Hôn nhân đổ vỡ, bà đóng chặt luôn cánh cửa cuộc đời. Ban đầu, hắn định bụng vào bắt trộm mấy con gà Tam hoàng về bán cho quán cơm gà ở trên ga. Leo qua bờ tường trước cổng, hắn ung dung đi thẳng về phía nhà bếp. Vừa bước đến góc sân, hắn nghe tiếng dội nước ào ào. Bà câm đang tắm. Qua khe cửa, một vệt ánh sáng điện trong nhà tắm hắt ra vườn ổi. Trong vườn ổi là khu chuồng trại chăn nuôi nối liền với chái bếp. Hắn rón rén đi theo vệt sáng ra phía sau vườn. Vườn ổi có hàng rào xây bao quanh cẩn thận. Đây rồi. Hắn yên chí bật đèn chiếc điện thoại di động, mở chốt cánh cổng làm bằng tấm liếp tre.

Hắn giật mình. Một tàu cau rơi. Vườn cây xao xác gió. Bầy vịt vỗ cánh loạn xạ, có tiếng con ngan đực kêu khào khào, tiếng gà cắn nhau quang quác. Nhấc được tấm phên tre lên, hắn lao thẳng về dãy chuồng. Bỗng khắp vườn cây vang động. Tiếng loảng xoảng, leng keng, loong coong vang lên rộn rã. Hoảng quá, hắn chạy vòng quanh. Nhưng chạy đến đâu tiếng báo động của những lon bia, thùng sắt tây càng chạy theo, cấp tập. Những âm thanh náo nức báo hiệu kẻ trộm đã vào vườn cây. Các sợi dây báo động quấn lấy chân cẳng hắn. Hắn càng giãy tiếng động càng to. Bà câm đã cẩn thận chăng các sợi dây cước từ gốc cây này sang gốc cây khác.

Cửa nhà tắm bật mở. Bà câm trân trối ngó ra vườn ổi. Dưới ánh điện sáng rờ rỡ. nước chảy long tong theo mái tóc dài xuống tấm thân trần trắng toát. Ở cái tuổi bốn nhăm, bà như một bông hồng đang bung cánh ra hết cỡ. Hai bầu ngực căng đầy, đôi vai trần hơi xuôi, tròn lẳn, eo người "thắt đáy lưng ong". Hắn chết lặng đi. Đôi chân giò thon dài của bà câm doãi thẳng trên nền gạch hoa mềm mại. Từ cha sinh mẹ đẻ hắn chưa bao giờ thấy một bức tranh khỏa thân nào đẹp mê hồn đến thế. Nỗi khát khao thèm thuồng chiếm đoạt cồn cào. Hắn xộc về phía nhà tắm.

Bà câm nhưng không điếc. Bà đã nghe tiếng báo động. Bà ú ớ la không thành tiếng. Nhanh như sóc, hắn lao tới, lấy bàn tay bịt chặt mồm bà. Bà vùng vẫy nhưng không tài nào thoát ra khỏi hai cánh tay cứng như sắt thành hai gọng kìm thít lấy lưng bà. Thằng này mặt xoắt lưỡi cày, người nhỏ thó, thấp lùn như cái nấm. Hắn đứng chỉ mới chấm ngang vai bà nhưng không hiểu sao nhanh và khỏe đến thế. Đã có lần hắn nhận cả hai người đàn ông xóm Tây xuống Bàu nước rồi xách lồng gà chạy trốn. Hai người theo dõi hắn suốt đêm nhưng không tài nào chộp được. Họ chỉ còn nước đến báo với Công an xã. Chẳng có tang chứng, vật chứng - Hòa cả làng - Hắn thoát. Bây giờ thì hắn đã nhớ ra là bà câm không thể nào la được. Hắn chụp lấy hai cánh tay bà giang rộng ra giữa nền nhà tắm. Hắn cào, hắn cấu, hắn cắn, mút chùn chụt. Hắn hùng hục như một con trâu điên. Xong việc, hắn hả hê bước ra vườn ổi. Trước lúc đi hắn còn ngoảnh mặt lại nhìn bà, cười ranh mãnh.

Bà câm nằm thở dài thườn thượt. Cuộc vật lộn khiến bà mệt nhoài. Bà đau rát mình mẩy. Bà sực tỉnh khi nghe tiếng gà kêu quang quác. Hắn đang ung dung xách bì gà vịt ra cổng như ở chỗ không người. Bà lồm cồm bò dậy, vớ ngay lấy cái chổi dùng để kì cọ nhà tắm rượt theo. Cái cán chổi của bà làm bằng thanh inốc dài hơn một mét. Hắn vừa mới nhoài người lên bờ tường để bay ra ngoài đường là bà phang tới tấp. Hắn buông tay thả cái bì trở lại rồi ôm đầu chạy. Sáng hôm sau bà câm cầm chiếc chìa khóa xe máy hắn đánh rơi trong nhà tắm đến trình với Ban Công an xã. Bà dắt tay trưởng Công an xã đến chỉ vào nhà hắn. Họ tra chìa khóa vào xe, máy nổ. Đúng. Hắn nhận, nhưng vẫn cứ bù lu bù loa là kẻ nào đó đã ăn trộm của hắn đến vứt ở nhà bà câm để vu oan giá họa. Mấy Công an viên bắt hắn cởi trần ra. Hai cán chổi còn in tím bầm trên lưng, ăn sang cả bả vai. Một cái bướu to bằng trái ổi dưới đầu tóc bờm xờm của hắn. Chẳng cần tra hỏi nhiều, hắn xin khai hết. Hắn vào trại giam bóc lịch mất năm năm vì tội hiếp dâm.

Ra tù, hắn lấy vợ. Vợ hắn là em thằng bạn tù ân xá cùng đợt. Cha mẹ hắn cho ra ở riêng trên mảnh đất trồng rau sau cánh đồng Miệu. Phương châm sống của hắn là tiền. Hắn đã ngửi thấy mùi tiền trên cánh đồng hợp tác. Hai vợ chồng hắn chẳng chịu đi  làm. Hắn tập cho con vợ ban ngày ra đồng quan sát những thửa ruộng tốt để ban đêm ăn trộm. Mùa nào hắn cũng tìm ra những thứ để ăn, để bán. Khi thì mấy bì ngô, một gánh su hào, bắp cải hay vài ba bì ớt. Có khi chúng ra đồng bứt dây lang rồi gánh xuống chợ bán cho người ta nuôi lợn. Vợ chồng hắn còn đến ăn trộm cả ở những đồng đất xa xôi của các xã khác. Hắn luôn mồm nói với vợ con: "Ba năm làm mùa không bằng một đêm ăn trộm. Mình mà chỉ ăn trộm những thứ dưới năm trăm ngàn đồng thôi là không bị truy tố". Trong một đêm mà chưa ăn trộm được thứ gì thì hắn bứt rứt không sao chịu được. Hắn bắt trâu người ta ra buộc ngoài cánh đồng Miệu chờ đêm đến dắt đi lò mổ thì bị phát hiện. Công an bắt giam hắn như bắt cóc bỏ đĩa. Hết đợt này đến đợt khác, xong tù giam lại cho hưởng án treo.   

Từ ngày tụ tập được những thanh niên bất hảo, băng nhóm hắn mở rộng phạm vi hoạt động ra các xã ngoài. Cái khát vọng ăn không ngồi rồi mà có tiền có bạc của hắn không chỉ dừng lại trên đồng ruộng. Hắn đã tổ chức cho đồng bọn ăn trộm những dụng cụ đắt tiền, từ tivi, tủ lạnh đến xe máy. Có khi hắn tháo cả đòn tay, rầm tra (rầm tra là các tấm ván lát trên sàn nhà gỗ miền Trung để tránh lũ) của những ngôi nhà vắng chủ về ngâm dưới ao, chờ gỗ đổi màu thì kéo lên bán rẻ cho các xưởng mộc.

Trong xóm hắn đêm nào cũng có nhà bị mất trộm, đặc biệt là những ngày giáp Tết. Ai mất cái gì cứ đến nhà hắn tìm là có. Công an huyện lấy xóm hắn tổ chức "Hội nghị toàn dân tố giác tội phạm". Nhiều người muốn tố giác lắm nhưng lại sợ bị trả thù. Cả Công an viên trong xóm cũng phải "kiêng nể" hắn. Băng của hắn có bao nhiêu thằng ai mà biết được. Từ nhà ga đến các bãi chợ, bến đò... Hầu hết các quánthịt

chó trong vùng đều do hắn cung cấp. Chúng mà nghỉ trộm, có nhiều kẻ bị sập tiệm. Ban ngày chúng phóng xe đi khắp nơi trinh sát, đêm đến kéo nhau thành từng bầy. Xe máy chúng đục thủng ống pô để tiếng nổ to hơn. Tiếng rú rít của động cơ như tiếng máy bay "thần sấm" Mỹ. Nghe tiếng rú của động cơ, con chó nhà nào vô phúc xông ra sủa là thằng ngồi sau xe tung lên sợi dây phanh tròng lấy cổ, thằng đằng trước kéo hết ga lôi chó đến chỗ vắng vẻ cho vào trong rọ sắt. Cho đến một ngày hắn được Ủy ban nhân dân xã đem sang coi sóc khu nghĩa địa Đồng Xoài bên kia sông. "Nhất cử lưỡng tiện". Lăng mộ không bị trâu bò của làng Cồn Ngâm mài phá mà xã loại bớt được một phần tử ung nhọt, thêm được một tiêu chí xây dựng nông thôn mới. Nhưng họ đã nhầm to. Nơi vắng vẻ này là nơi an toàn nhất. Hắn trang bị kìm cộng lực, súng bắn chó bằng xung điện cho đàn em.

                         *

Hắn vừa đi vừa nghĩ cho đến khi đứng sát con đò cắm bên giếng Vọt. Chiều hè, những sợi nắng vàng lung linh trên bến nước. Chiếc đò được buộc vào gốc cây bứa nằm thẻo lẻo bên bờ sông dập dềnh theo ngọn sóng. Hắn ngó vào trong. "Mới đến đó đã đi đâu mất tiêu rồi. Sao trên đò không thấy một cái thùng phuy nước nào thế nhỉ? Nếu người đến chở nước đi bán thì họ có cả chục thùng phuy" - Hắn nhìn con đò phân vân. "Đây không phải là đò chở nước. Chẳng nhẽ người ta thuê đò này đến đây để tham quan hay sao. Hay người ta đến bốc mộ bảy liệt sĩ trên đồi thông về nghĩa trang của xã".

Hắn nhảy xuống. Đây là một con đò dùng để chở đá sỏi của dân xóm Nam. Hắn thấy chẳng có thứ gì đáng giá ngoại trừ tháo cái máy đẩy Đông Phong. Hắn biết rất rõ con đò này trước đây là của cha con thằng cu Chạt. Từ ngày cu Chạt đi học vắng, bố nó bán đi để mua máy cày làm đất. Hai năm không thi đỗ đại học, Chạt với thằng con trai hắn dùng chiếc đò này chở lũ học sinh bỏ học trộm gà vịt về đây ăn nhậu. Thằng con trai của hắn đã tập hợp được những đứa con mồ côi hay gia đình cha mẹ bất hòa, li dị lại để hắn huấn luyện thành những "anh hùng hảo hớn". Chúng học đòi 108 anh hùng Lương Sơn Bạc cắt máu ăn thề. Hắn sai con trai hắn với thằng Chạt lên xóm Hà ăn trộm một con dê về xẻ

thịt

làm lễ tế trời.

Trầy trật hai năm con hắn cũng thi đỗ trung cấp, thằng cu Chạt đỗ cao đẳng. Rời dòng sông cáu bẩn, tật nguyền, hai đứa vào thành phố. Chúng vẫn không thể nào quên được mùithịtchó nấu với lá sả, lá tắt ở cái chòi nghĩa địa. Chạt trở thành trợ thủ đắc lực của hắn trong xóm trọ sinh viên. Hai đứa chỉ huy đồng bọn ban đêm lấy đồ đạc bạn bè đưa ra ngoài phòng trọ để chuyền đi nơi khác. Đồ ăn trộm chủ yếu là máy vi tính xách tay hay các xe máy chúng lấy được chìa khóa. Có khi hắn đích thân vào thành phố "thăm con" rồi lấy về bán ở làng. Hàng tháng hắn cho Chạt ứng tiền tiêu xài nhưng về hè, về Tết phải lo đi ăn trộm chó để bù lại.

Hè năm ngoái, Chạt và thằng con hắn đi nhập chó trong thành phố. Đến một khu nhà ba tầng, có mấy chậu hoa bài trí rất đẹp trước tiền sảnh, chúng thèm thuồng nhìn những chậu hoa. Có lẽ đây là một khu chung cư hay một cơ quan nào đó trong thành phố. Ánh sáng màu vàng dìu dịu buông xuống từ ngọn đèn cao áp trước cổng càng tôn thêm vẻ đẹp của khu nhà. Thấy một thằng bé khoảng sáu, bảy tuổi đang đứng nói chuyện với một đứa bé gái phía trong cổng sắt, thằng Chạt vỗ vai con trai hắn chỉ vào thằng bé. Nhìn quanh quất chẳng thấy ai, thằng Chạt nhảy xuống  bịt mồm thằng bé bốc lên xe. Đứa con gái la thất thanh. Mấy người trong khu nhà luống cuống trở tay không kịp. Đến khi họ mở được cổng lên xe máy thì không biết bọn chúng chạy hướng nào nữa. Chúng chở thằng bé đến một ngôi nhà hoang trong cánh rừng ở ngoại ô. Nhận được tin báo, Công an thành phố và bố mẹ thằng bé cho người đi tìm khắp nơi.

Suốt đêm thằng bé gào thét khản cổ họng trong căn nhà hoang vắng. Gào thét chán, nó quờ quạng được một que sắt cạy dây đồng buộc cửa phía bên ngoài. Thằng bé chạy đến chợ Ga thì gặp được một bà cụ. Bà đem nó đến Công an thành phố. Đứa bé đã chỉ cho Công an biết nơi bị nhốt. Kế hoạch tống tiền bị thất bại. Đứa bé gái đã nhận được biển số xe máy của thằng Chạt. Chúng bị rượt đuổi phải chạy ra rừng phi lao ngoài biển vùi biển số xuống bãi cát. May mà biển giả. Hắn hú vía. Người ta mà bắt được thì chắc chắn thằng con hắn sẽ bị đánh chết. Hồi đó có tin đồn là bọn xấu bắt cóc trẻ con bán nội tạng cho người nước ngoài. Ít nhất là thầy trò, cha con hắn một lần tránh được trại giam.

…Vượt qua khu nghĩa địa Đồng Xoài, hắn trèo lên rừng thông. Rừng thông trên mười năm tuổi đã khép tán xanh um. Tiếng gió reo vi vút như tiếng sáo. Dàn đồng ca mùa hạ với giai âm êm ái ngọt ngào. Từ ngày hợp tác xã chuyển đổi thành thôn, rừng thông được giao khoán cho cá nhân, không một người nào được phép vào rừng thông hái củi. Một lớp lá thông khô rơi xuống mềm như lụa, như nhung phủ kín lối đi. Hôm nay thế nào hắn cũng có một khoản kha khá thu được từ những "khách du lịch" không vé. Từ nay ai mà đã bước qua nghĩa địa Đồng Xoài là phải cống tiền cho hắn.

Lên đến ngôi mộ chôn chung 7 liệt sĩ, hắn vẫn không thấy sáu người lúc nãy ở đâu. Hay mấy người vào tham quan vực suối Bụt. Vực suối Bụt là một thắng cảnh có một không hai của xã hắn. Vực nằm trên sườn núi. Phía trên có đền thờ Cao Các Mạc Sơn. Con suối Bụt chảy róc rách suốt ngày đêm cung cấp nước cho vực không bao giờ cạn. Ai cũng nói vực này không đáy. Mùa hè, trời nắng chang chang nhưng ngồi trên các dàn đá, nép mình dưới tán cây mát lạnh người. Có khi, có cả những con cá chình nặng hơn chục kí theo dòng suối lóc khỏi mặt nước lên trên khô tìm chỗ phơi mình dưới ánh nắng mặt trời. Hàng năm, về mùa hè học sinh cuối cấp thường chèo đò kéo nhau vào đây để tham quan, nghỉ mát. Từ ngày có một học sinh lớp mười chết đuối  dưới vực không ai đến nữa.

- Dô! Một hai ba dô dô dô! Hai ba… dô dô dô… - Tiếng "dô dô" vang lên uôm uôm trong hang Đá Đứng làm hắn đứng khựng lại. Hắn không lên suối Bụt nữa. Họ đang ở trong hang hòn Đá Đứng. Đến sát cửa hang hắn mới nghe rõ tiếng phụ nữ nói cười ngặt nghẽo. Trong hang có sáu ngọn nến thắp sáng trên mấy hòn đá to. Bóng họ lắt lay, chập chờn trên vách đá như ma quái. Ba cặp tình nhân trần truồng như nhộng đang ôm eo nhau uốn éo theo tiếng nhạc xập xình phát ra từ một băng cát sét. Hắn thích chí lắm. Hắn đã chộp được một pha "nóng hết sảy" cho vào điện thoại di động. Nhìn kĩ, hắn biết chắc chắn là ba người phụ nữ trong xóm hắn. Mấy phụ nữ đang khát tiền, khát cả tình khi chồng con đi vắng.

Thời gian nông nhàn, đàn bà, con gái làng này không có việc làm kéo nhau vào Nam hái cà phê hay làm ôsin cho những gia đình giàu có trong thành phố. Một số người có nhan sắc thì kinh doanh "vốn tự có". Đêm đêm có những bạn tình đến tận nhà rước đi "hát karaoke". Ngày nay việc làm nông khỏe như ru. Cả mùa chỉ tất bật mất khoảng chục ngày. Những người đàn ông lam lũ quê mùa, hết mùa cày bừa gieo vãi là lao vào rú tìm trầm. Sốt rét, bệnh tật làm cho họ đen điu, nhếch nhác. Họ làm sao địch nổi những người đàn ông béo tốt mỡ màng kia. Hắn quay camera cho đến khi điện thoại hết pin.

Trời sẫm tối. Hắn chặn mấy người đàn ông lại trước bến xin tiền. Một người tóc xoăn, da ngăm đen nhe cái hàm răng trắng nhỡn, hô như cái chái bếp lợp bằng mấy tấm phibrô xi măng không đều ra cười hô hố:

- Mày đến trấn lột bọn tao chắc. Đi giữ nghĩa địa mà cũng vênh váo giở trò xin đểu.

Hắn chìa chiếc điện thoại di động ra:

- Này! Đừng khinh thằng này nhé. Các người làm gì trong hang thằng này biết cả. Thu cả vào đây rồi này. Có âm thanh hẳn hoi - Hắn lại cười toe toét.

Người đàn ông nhìn cái thằng nhỏ loắt choắt như con chuột nhắt đang trêu ngươi mình thì không chịu được. Ông ta vung nắm đấm lên nhưng hắn nhanh hơn tránh được. Hắn ra miếng đòn thấp, lao đầu vào giữa bụng ông ta rồi co tay thoi cho một chưởng, trúng bộ hạ. Người đàn ông la lên oai oái. Ông ta bị mất đà ngã sấp xuống trước bến. Người đàn ông to béo thấp lùn thấy thế liền xông lại co chân đá hắn. Hắn lách người ôm lấy chân ông ta giật mạnh. Người đàn ông thứ hai cũng bị ngã nhào. Tức tối, ông ta lồm cồm bò dậy, lao vào thì trúng ngay hai quả song phi giữa mặt. Ông ta hự lên một tiếng rồi ngã gục.

Người đàn bà mập mạp, trắng trẻo nói với người đàn ông có bộ râu quai nón (có lẽ đó là "sếp"):

- Nhà hắn ở cách nhà em hơn trăm mét. Người ta gọi hắn là thằng Chuột. Thằng này khỏe lắm. Thôi thì các anh cho hắn vài ba triệu lấy lại cái điện thoại. Hắn mà tung ra mấy tấm hình này thì thật rắc rối với mấy thằng chồng của bọn em.

- Vài ba triệu bạc mà được à. Cái này bạc tỷ - Được đà, mặt hắn vênh lên.

Cuối cùng hắn cũng đòi cho được hai chục triệu. Mấy ông "sếp" ở thị trấn về làm đường bê tông ở làng hắn muốn "đổi gió", không biết ra đi bước chân nào trước mà bị hắn "ám" xui đến thế. Mấy ông thèm của lạ muốn hưởng chút hương sắc đồng quê. 

Ngày hôm sau về làng, nghe bọn đàn em báo có Công ty trách nhiệm hữu hạn Xuân Sang về làm đường xây dựng nông thôn mới. Hắn phóng xe máy đi một lượt trên các trục đường mới ủi đất xong. Thì ra đây là công ty của mấy gã bị hắn trấn lột hôm trước.

Đến đoạn đường đang thi công, công nhân đã về nhà trọ ăn cơm trưa hết. Hai đống xi măng phủ bạt bên đường. Thấy một thanh niên dáng cao gầy, lẻo khoẻo trông coi vật liệu, hắn hất hàm:

- Này chú em. Cho anh xin mấy bao nhé.

Hắn gọi điện kéo cả bọn đàn em tới. Mỗi đứa ngang nhiên vác một bao. Cậu thanh niên la lớn:

- Sếp ơi! Cướp! Cướp! Cướp…! 

Hắn mắm môi, mắm lợi đến giật phắt chiếc điện thoại rồi xô cậu ta một cái. Cậu thanh niên tội nghiệp lăn đùng ra đường. Hắn giơ cao nắm đấm:

- Báo với sếp mày là ông đến giật nợ đấy.

Gã đàn ông da đen, tóc xoăn phóng xe máy đến. Gã đắng họng đứng như trời trồng khi thấy thằng Chuột hai tay chống nạnh nhìn gã chằm chằm. Gã không dám làm to chuyện. Gã là thằng em rể của giám đốc Công ty trách nhiệm hữu hạn Xuân Sang.

                       *

Một mùa xuân nữa lại đến. Trong mấy năm "mở cửa", cái làng của hắn ngật ngà say. Cuộc sống bình yên đã bị xáo trộn. Cơn lốc của nền kinh tế thị trường tác động sâu sắc đến làng quê bé nhỏ. Nhiều người trong làng giàu có lên nhanh chóng nhờ việc kinh doanh bất động sản. Hàng hóa, ngoại tệ của những gia đình có con em lao động xuất khẩu ở Hàn Quốc, Đài Loan… tấp nập gửi về. Người ta đua nhau mua đất đai trong thị trấn. Sòng bạc, nhà hàng nổi lên như nấm. Có nhà, tầng dưới hát karaoke còn tầng trên tổ chức đánh bạc. Những tệ nạn xã hội cũng đã kịp thời len lỏi đến những vùng nông thôn xa xôi. Nhà thằng Chuột phất lên chóng mặt. Cái chòi canh của nó là tụ điểm cung cấp ma túy cho cả vùng. Con trai hắn và thằng cu Chạt đã đem cái chất chết trắng về bán cho lũ thanh niên choai choai trong làng. Kim tiêm chúng vứt đầy nghĩa địa.

Đêm hai mươi tám Tết, hắn nhận được một cú điện thoại từ số máy con hắn gọi về. Người ta báo, con trai hắn với thằng cu Chạt bị tai nạn. Hai đứa đi xe máy bị phê thuốc. Con hắn đập đầu xuống thanh chắn giữa hai làn xe. Hắn tức tốc bắt tắc xi vào bệnh viện thành phố. Đến sáng hôm sau thì con hắn chết. Bệnh viện cho biết nồng độ ma túy trong máu quá cao. Họ hỏi ý kiến hắn để mổ tử thi. Chị họ của hắn bán

thịt

chó ở trên ga bàn: "Trước sau nó cũng đã chết rồi, mổ xẻ làm gì nữa cho tốn kém. Tôi chỉ tiếc nó chết đi, tôi mất đi những con chó béo".

Tối đến, khi khâm liệm, người ta phát hiện đằng sau lưng con hắn có hai vết tím bầm to bằng hai ống tuýp xe đạp đập vào. Bố thằng Chạt thầm thì: "Có lẽ hai đứa đi ăn trộm, bị người ta đánh".  Hắn mừng rỡ reo lên:

-

Đúng! Phải chụp ảnh lại ngay. Làm gì ngã xe mà sau lưng có vết sẹo nằm ngang. Đây là vết thương bị người ta đánh. Phải làm cho ra vụ này. Thế nào bọn mình cũng kiếm thêm được dăm ba chục triệu bạc

-

Mật đắng

Chà! Con mẹ này múa mép khá đấy - Thông thầm nghĩ, cúi nhìn chén rượu, tìm xem cái ma lực nào trong cái thứ chất lỏng vừa đắng vừa cay, cháy họng này. Chợt nhớ tới gấu con, anh vội vã đến bên ông cậu rì rầm trao đổi. Ông Duy gật gù: "Việc này chỉ có tao lo được, cứ về nhà đã".

Theo thói quen nghề nghiệp, Thông xem lại máy, kiểm tra phim rồi khoác túi lên vai. Ông Duy khoát tay:

- Mày để đồ nghề ở nhà, không người ta lại tưởng phóng viên nhiếp ảnh.

- Cháu muốn chụp gấu thật, ảnh động vật ngộ nghĩnh lắm cậu ạ.

- Không được! Cất đi! Mau lên, muộn bây giờ.

Đúng 9 giờ, hai cậu cháu Thông đã có mặt tại quán: "Lương Sơn Bạc" xem lấy mật gấu, nhân thể làm luôn mấy "xê xê" về dùng.

Đó là khu nhà có mặt tiền rộng đến chục mét chia làm hai gian: bên để khách "giải trí với mật gấu", bên để mua bán, trao đổi hàng.

Một chú gấu ngựa cỡ vài tạ vừa bị gây mê, đặt nằm ngửa trên sàn xe có bánh đẩy ra giữa gian trái. Thân hình đồ sộ của nó tỏa hơi ấm, sực mùi rất đặc trưng. Bộ ngực rộng, cổ dưới, vòng lông trắng gặp nhau tại điểm giữa hơi ngoằng xuống tựa chữ Y làm cho chú thêm oai phong.

Thông chen vào nắm được chân trước của gấu. Anh hình dung: Nếu để lại dấu trên mặt đất, nó phải gần bằng cái bát ăn cơm, nhát vồ ít nhất cũng mất một mảng mông lợn! Giờ đây, tứ chi nó đờ đẫn. Những cái vuốt khoằm khoằm, rắn như thép duỗi ra. Đôi mắt khép hờ, lim dim ngủ. Lục, chủ nhà, hôm nay ăn mặc bảnh bao, tóc chải bóng lộn, quay sang vợ:

- Bật màn hình lên, mình ơi!

Lục lấy một nắm bông quệt vào thứ thuốc mỡ gì đó trăng trắng, bôi lên bụng con vật, đặt ống nghe, di chuyển, siêu âm tìm vị trí túi mật. Trên màn hình, cái túi hình giọt nước to hơn ngón chân cái nhập nhòa, nhập nhòa hiện dần. Lục vén tay áo, cầm ống tiêm lên. Phập! Mũi kim to và sắc cắm ngập vào bụng con vật. Một dòng nước xanh xanh hơi vàng từ từ chảy vào ống xơranh cỡ cổ tay người lớn. Thông rùng mình, ớn lạnh. Ông Duy chăm chăm nhìn dòng mật, tặc lưỡi:

- Mật con này tuyệt quá! Trong xanh như nhựa xoan. Lần này, tôi sẽ lấy hẳn mười "xê xê" về ngâm rượu.

Thắm - vợ Lục - liếc ông Duy, cười hi hí:

- Vâng, hôm nay có cả tay gấu đấy, bác lấy mà dùng. Gớm! Có cái gì hay nhất em là… em cứ ưu tiên cho bác!

Được lời như cởi tấm lòng, một mắt ông Duy nhìn Lục, "mắt kia" ông đảo nhanh sang thân hình quả lê của Thắm:

- Thế mới gọi là tình nghĩa anh em chứ. Tôi có bao giờ để cho cô chú thiệt đâu!

Túi mật đã gần cạn. Lục ngừng tay, rút mũi kim ra. Gấu được đẩy vào cũi để rồi sau vài tháng nữa lại vật ra, hút lần tiếp theo, tiếp theo nữa… Hết con này đến con khác, chủ nhật tuần nào cũng có gấu phải "tế mật".

 Thông đi vào phía trong, xem trang trại. Mới được mấy bước, anh vội đưa tay lên bịt mũi. Một thứ mùi rất lạ xộc lên. Nó vừa hôi vừa hắc, ngai ngái, khai khai… pha tạp làm anh buồn nôn. Kia, bể thức ăn của các lãnh chúa rừng xanh. Cô gái đang pha trộn món ăn cho chúng giải thích:

- Rau, cám công nghiệp, cá, gan lợn và… hơn hai chục loại thuốc nữa chú ạ!

- Thuốc gì mà lắm thế?

- Cháu cũng không biết, ông bà chủ bảo cho vào thì cứ cho vào.

- Thế nếu bọn gấu này ở rừng thì lấy đâu thuốc mà uống?

Cô gái cười:

- Chú đi mà hỏi chúng!

Thông nhớ những thước phim trong "thế giới động vật": Gấu bắt cá tươi, gấu bẻ măng, nhặt hạt dẻ, leo trèo lấy mật ong… những sản phẩm của núi rừng thơm ngon, tinh khiết như thế, đâu lại có cái thứ thức ăn bốc mùi kinh khủng này. Thông khó chịu, định quay ra nhưng những ánh mắt gấu loang loáng làm anh chững lại, bước nhanh vào khoảng đất trống ở giữa, dừng lại… thở. Đã thoáng hơn, đã có thể quan sát. Trừ một vài con đang nằm, tất cả đều nhộn nhạo. Chúng bám tay vào song sắt, dậm chân, lắc mình.

Những bắp

thịt

rùng rùng chuyển động. Thông ngạc nhiên thấy tất cả lũ gấu đều có chung động tác: hoặc lắc lư như con lật đật, hoặc quay tròn như đuổi chiếc đuôi của mình. Anh nhìn những túi thuốc trên nắp mấy cái nồi quân dụng: bột, viên, xanh xanh, trắng trắng, hồng hồng… ở đây, gấu không được leo trèo thì lắc - cũng giống như con người dùng thuốc lắc - cho tiêu mỡ, cho cơ bắp khỏe, và quên đi nỗi nhớ rừng xanh.

Và quan trọng nhất là để cho túi mật chóng đầy phục vụ con người, những kẻ tự xưng là chúa của muôn loài, những kẻ cần phải có sức khỏe để làm chủ trái đất! Những cái đầu gấu bù xù ngơ ngẩn, những đôi mắt đờ đẫn vô hồn, tiếng hồng hộc giận dữ… Rồi chúng ăn, ăn như điên như dại, như không hề biết rằng thủy tổ của mình không bao giờ biết đến những món tạp pí lù, bao nhiêu thứ thuốc như thế.

Thông không dám đứng gần bất cứ con nào, có thể nát mặt như chơi. Đi một vòng, đến cuối trang trại, anh sững lại: Một chú gấu con khoảng vài cân nằm cuộn tròn trong ổ rơm góc chuồng, chai sữa vứt lăn lóc bên cạnh. "Ê, cún con, dậy nào! Rừ… r… ừ…".

Nghe tiếng người lạ, chú ngóc đầu, mở mắt. Thông thích thú ngắm cái mặt tròn ngô nghê, đôi má phị, cái mõm đen chun ngủn. Đặc biệt, mắt nó tròn xoe, lấp lánh như hai hạt huyền, nhìn anh hồn nhiên như một đứa trẻ. Anh mê mẩn vuốt ve khúc lưng mềm mềm, nần nẫnthịt

của nó. Gấu con khoái chí, nằm ệch ra, ôm tay Thông cắn cắn, nhằn nhằn, cái vòng trắng dưới cổ xinh thật là xinh. Một ý nghĩ chợt lóe lên trong đầu, anh rời trang trại, trở ra phòng khách.

Quán "Lương Sơn Bạc" đang đến lúc tưng bừng nhất. Những đĩa

thịt

gấu nghi ngút khói được bê ra. Các quý khách nâng ly rượu pha mật gấu đang chúc tụng nhau. Những khuôn mặt hồng hào, sung mãn, tiếng cười nói râm ran không át nổi tiếng nhạc đệm cho một giọng ca khá hay: "… Một đêm trong rừng vắng, có anh lữ khách nhìn trời xa xăm biết đâu thôn nữ nhìn mình đăm đăm…".

Thời gian gần đây, nghe đồn "Lương Sơn Bạc" nổi danh "quán sạch", các quý bà cũng tấp tểnh theo các ông. Cũng cụng ly, cũng nhắp rượu, khà khà nhấm nháp, mắt lim dim mơ màng… Một tay mày râu có lẽ lần đầu mới đến quán, hết hít ngửi chén rượu hạt mít lại nhai nhai món đồ nhậu rồi ghé tai ông bạn cùng đi:

- Này, có chắc rượu mật gấu không hay mật lợn? Thịt này tôi chả hiểu thịt gì, nửa mùi ngựa, nửa mùi trâu... Lấy đâu ra

thịt

gấu mà chiêu đãi không mất tiền 

lắm thế?

Ông kia cổ đỏ lựng như gà chọi, lườm bạn:

- Im mẹ nó cái mồm đi! Nói thế không sợ mất lòng tốt của người ta à, được nhậu, không mất tiền lại có mật tươi mà dùng. Có ai bắt ông phải đến đây đâu. Lần sau ở nhà mà rúc váy vợ, đừng đi theo tôi nữa!

- Đồ sâu rượu! Rồi cũng sớm chết toi, nốc cho đẫy vào!

Ông Duy rất tinh ý, chẳng cần ngồi gần hai gã nhà quê kia ông cũng biết tỏng hai thằng cha ấy thì thào những gì rồi. Gì thì gì, ông phải xắn tay áo lên, giữ uy tín cho quán và nhất là để lấy lòng cô chủ. Bởi cô Thắm vẫn ngon mắt lắm, mông tròn to, bộ ngực thây lẩy. Mà vợ ông già rồi, nhăn nhúm như bị… Ông đứng dậy, giơ tay ra hiệu cho tắt nhạc rồi nâng cao ly rượu:

- Kính thưa các quý vị! Hôm nay, "Lương Sơn Bạc" kỷ niệm con gấu thứ hai trăm được hút mật, mà lại là mật của "Võ Tòng", khỏe nhất đàn đấy! Mong rằng cái món tửu gấu này thấm vào huyết quản, tăng thêm sức mạnh cho những người đàn ông chúng ta (xin lỗi các quý phu nhân nhé!) làm cho chị em đã yêu lại muốn yêu thêm tí nữa… tí nữa… Các vị khách từng đến đây có thấy thế không nào

-

Không hẹn mà gặp

Xóm núi gồm mươi nóc nhà bình lặng yên ả, nằm sát chân ngọn Mẫu Sơn, dân chưa đủ đầu người phục vụ chạy vặt cho nhu cầu khu du lịch bờ biển sát nách đó. Giặt chăn ga gối đệm, chợ búa đón hải sản tươi sống, phục dịch nhà buồng, nhà bàn, chạy xe ôm đưa đón hàng từ khách sạn này sang nhà nghỉ kia, thường trực hăm bốn trên hăm bốn... Ôi a, trăm thứ việc không tên làm sao kể xiết.

Trong số những cư dân bản địa nhao ra kiếm sống ở khu du lịch biển có Ty. Cái nghèo đẩy Ty ra đó từ rất sớm, khi Ty mới ngoài hai mươi, một nách hai con thơ, quần lúc nào cũng xếch ngược một ống.

Ty vốn tên cúng cơm là Tỵ. Sợ xấu thị bỏ bớt dấu nặng từ hồi dậy thì, biết làm dáng. Nhưng Ty không hiểu các mỹ nhân tuổi Tỵ rất có duyên thầm. Duyên thầm đến nỗi Ty sập bẫy ngay khi chưa học xong lớp tám. Gia đình vội cho làm đám cưới qua quýt với anh thợ xây, chuyên đóng cọc móng, nhà cùng xóm, tên Nang. Qua quýt cũng để Ty mau chóng còn tới hộ sinh xã, cho ra đời đứa con gái đẹp như ngọc nữ. Đứa bé may mắn không bị vứt vào bờ bụi là phúc cho nó.

ở chốn sơn cùng thủy tận, với anh chồng khỏe mạnh hơi đần đù, ngày đêm chỉ biết cắm mặt quai vồ đóng cọc móng thật lực, nếu Ty không khéo  đảm đang, có mà rã họng sớm. Đóng cọc móng tính ba ngàn một đầu cọc tre, gặp lớp đất thổ cư rắn đanh cứ gọi bỏ bố. Ráo mồ hôi hết tiền. Chưa biết chừng phát ho lao, tiền thuốc không đủ cứu, nói gì nuôi vợ con?

Nhưng được cái tiến độ xây dựng khách sạn nhà hàng khu du lịch biển đang leo thang vùn vụt. Nhờ vậy Nang làm không thấu việc. Những ngày ấy hai đứa trẻ một trai một gái nhà Nang -Ty ăn thịt nhờn mép, cười khanh khách, đùa nghịch suốt ngày. Nhưng sau một đận Nang bị sưng gan nặng, thằng bố vai u

thịt

bắp bắt buộc phải bỏ nghề quai vồ, hai đứa con không quen sống kham khổ, cũng giống hệt bố chúng ruồi bâu mép chả buồn đuổi.        

Bấy giờ tất cả gánh nặng đổ lên đầu người đàn bà. Nuôi ba cái miệng ruồi đậu đó, chưa kể thuốc men, Ty quay như chong chóng. Thị bỗng trở thành người khổng lồ dưới cái lốt mảnh mai nhỏ nhắn đến tội nghiệp. Vừa thấy thị cất rượu cho quán cơm bình dân, lại đã thấy thồ sò huyết, dưa hấu cho khách sạn cuối bãi, rồi tranh thủ nhận chở mấy xe cải tiến gạch trong xóm, trước khi bịt khăn nửa mặt quét vôi ve ở hiệu cắt tóc mới mở.

Có người nửa đùa nửa thật bảo:

- Làm đến phát cuồng phát dại thế, chả mấy nỗi tò tí te mày ơi!

Đừng hòng, giời nghiệt ngã chưa cho phép thị được hưởng ân huệ tò tí te đâu. Ngược lại càng bắt thị phải khỏe để gánh tiếp tội nợ. Cứ xem, tuy nhịn miệng nhường chồng con, người ngợm thị vẫn thon thả, bắp

thịt

tròn lẳn, săn cứng tựa củ sắn cái, trông ngon mắt đáo để.

Không thế tha lôi sao nổi tạ tư đến tạ sáu gạo mỗi buổi sáng, bằng cái xe đạp thồ rệu rão, rồi những leo lên dốc, tụt xuống dốc con đường xóm núi gập ghềnh? Chiều đến, nhọ mặt người mới thấy thị đèo hai thùng nước gạo đầy khự, mua gom tại các quán ăn về nuôi đàn lợn hơn chục con ở nhà.

Hai giờ sáng, thị lại mắt nhắm mắt mở ra chợ tạm đón sọt nấm rơm. Chợ tạm ngay chân cầu Rào, nơi người ta đổ về mua cất hàng từ nửa đêm gà gáy. Chưa tỏ mặt người chợ đã tan. Mua mười sáu bán mười tám. Thế này, chỉ ngót giờ đồng hồ sau, riêng khoản nấm thị cầm chắc năm chục tiền lãi trong túi. Giao xong sọt nấm, quay xe về cửa hàng xay xát chở gạo cũng vừa.

Hôm nay những ai gọi gạo nhỉ? Nhất định buổi trưa tranh thủ ghé qua nhà Thắm chọn sách vở cho lũ trẻ vào năm học mới. Chết thôi, sắp mất đứt tiền triệu cho năm học mới. Lấy đâu ra bây giờ. Chả nhẽ không cho thằng cu Đang đến lớp. Nó háo hức chờ đợi cả tháng nay đấy...

- Này, con mẹ Phương đang nhờ tao thuê hộ người đến giặt giũ cho nhà nghỉ Thiên Phương đấy - Noàn, bạn chợ Đêm với Ty mách nước -  Tí về chợ, rẽ vào gặp mụ ấy xem.

Nghe đến công việc thị lập tức tỉnh như sáo. Chờ mua thêm ít khoai tây, thị phóng xe về ngay khu du lịch bãi biển cách cầu Rào gần hai chục cây số.

Sau khi trả khoai, trả nấm, phân phối tạ tư gạo khắp thị xã, thị mới ghé vào nhà nghỉ Thiên Phương, dè dặt hỏi thăm:

- Bà chủ có nhà không, các cô ơi!

Các cô đây là mấy em chân dài, buổi sáng chưa có việc làm, còn ngồi cả dãy rỉa lông rỉa cánh, đón hàng quà đi rong.

Tức thì một người đàn bà phốp pháp, mặt bự son phấn từ gian trong đi ra, hách dịch hỏi:

- Hỏi gì?

Thị biết ngay đấy là bà chủ.

- Thưa bà, người ta mách nhà nghỉ cần người giặt giũ, có phải không ạ?

Thị rụt rè hỏi, vừa kín đáo quan sát cái mặt bự

thịt

, đôi mắt hơi nhỏ, hai cánh mũi khoằm diều hâu phập phồng như đang ngửi thị dò xét.

- A, đúng rồi. Vậy em vào đây. Dựa xe vào gốc cây bên đường kia kìa.

Ty không ngờ cái giọng bà chủ lập tức ngọt ngào dịu dàng. Bà ta còn đưa bàn tay mũm mĩm sực nức nước hoa vuốt lên vai áo Ty.

- Nói nhanh với em nhá, nhà hàng cần người giặt giũ đầu tầm sáng, cuối tầm chiều, cơm một bữa trưa, không giải quyết ngày nghỉ, ngày lễ. Lương triệu ba, nhận được thì nhận em ạ. Khối người muốn làm nhưng tôi cần người thật thà, xốc vác. Làm việc tốt mỗi tháng lương còn được thưởng thêm dăm bảy chục. Nhà lại có máy giặt, không nặng nhọc gì lắm.

-

Đời tài xế

Gã là lái xe. Không ngày nào gã đến cơ quan với bộ mặt tươi tỉnh bởi những chuyện gã cho là dở hơi của sếp ngày hôm trước gây ra vẫn còn âm ỉ trong người. Gã luôn cằn nhằn với con mẹ sề rằng, không biết kiếp trước mình ăn ở thế nào mà kiếp này cả đời phải gắn bó với một lão "dở ông dở thằng" ngày ngày đè đầu cưỡi cổ mình.

Con mẹ sề nhà gã cười khành khạch, bảo gã đừng có tin vào kiếp luân hồi. Bao nhiêu thằng ác như Lý Thông mà con cháu nó như ông hoàng bà chúa đấy thôi. Mới tí tuổi đầu những cậu ấm cô chiêu của các ông ấy sống như người trên giời, còn mình như lũ mọi. Gã trợn mắt lên thét vào mặt mụ vợ:

- Đừng có láo! Người ta đều có số kiếp cả. Mày tưởng người lắm tiền nhiều của mà sướng à?

Mụ vợ gã im thin thít như con ốc thối. Gã gọi vợ dù thân mật hay bực tức chỉ một đại từ nhân xưng duy nhất là mày. Gã cho thế là đơn giản và hiệu quả vì dù sao gã còn hơn ối người, kể cả lão sếp hói ra ngoài thì vênh vang quyền cao chức trọng mà về nhà nem nép như rắn mồng năm. Cặp kè với sếp như đôi tình nhân đã bao năm nên gã hiểu sếp từ chân tơ tới kẽ tóc. Chỉ cần sếp nhíu mày một cái là gã biết phải làm gì. Sếp khoái khẩu món gì gã phục vụ tận tình, cung cấp đầy đủ, còn gã chả chơi. Gã biết trò chim chuột của những thằng thừa mứa mọi thứ, chỉ thiếu một chút tình của người đầu gối tay ấp mới phải tìm chỗ để mà giải quyết.

Người ấy của sếp hiểu và khinh chồng, gã biết thế, nên làm gì có sự ân  tình thực lòng. Sếp hiểu và cay cú. Những lúc chỉ có hai thầy trò chén chú chén anh, nghĩa là khi sếp không có nhu cầu với loại chân dài thì gã phải hầu sếp. Sếp uống mới hăng làm sao. Hết ly này tới ly khác. Mặt sếp đỏ lựng như cổ gà chọi, mắt đục như nước gạo chua và giọng nói thì khê khê nồng nồng như bỗng rượu. Sếp giảng giải cho gã nghe về thế thái nhân tình, về chuyện thằng A. thằng B. định chơi sếp. Nó còn đến nhà khi sếp vắng nhà. Láo! Đột nhiên sếp quát lên đập bàn cái "rầm" và ôm lấy mặt. Đột nhiên sếp ôm chầm lấy gã mà hôn hít, mà sờ soạng khắp người. Gã cảm thấy buồn nôn nhưng cố chịu đựng. Sếp khóc! Tại sao đời tao lại khổ thế hả Nhất? Mày có cách gì giúp tao không? Tiền tao để làm gì? Tao làm cho ai? Tại sao vắng mày là tao thấy bần thần cả người. Con vợ tao nó không thực lòng như mày. Tao thèm được ôm mày vào lòng, được vuốt ve mày mỗi khi gần vợ tao. Tao làm sao thế hả Nhất? Tao có phải người đồng tính không?

Gã thấy ghê ghê khi bàn tay sếp lần mò khắp người gã. Cuộc sống dạy gã nhiều điều song một điều chắc như đinh đóng cột rằng còn khuya gã mới tôn trọng sếp.

Với gã, con mẹ sề là nhất nên đi đâu gã cũng chỉ chăm chắm về nhà. Con mẹ sề không còn cái vẻ mơn mởn như loại gái sếp cần nhưng nó có bộ ngực ấm như chiếc lò sưởi mùa đông. Rúc vào đó gã thấy một cảm giác rất lạ, an bình và hạnh phúc. Vợ gã là người giỏi chịu đựng. Đang vui như Tết gã bỗng cáu lên vì vài lời chen ngang của vợ. Thế là vợ gã lại im thin thít, lỉnh ra chỗ con gái. Ngoài đời gã không quát được ai thì về nhà gã phải giải tỏa bằng cách quát tháo vợ cho giãn cổ họng và nở phổi.

Vợ chồng gã chỉ có mỗi một mụn con gái. Lạy trời nó xinh đẹp hơn người, ít ra là ở cái xóm thợ nghèo này. Người nó thon thả, cao, chân dài như mấy cô trên tivi. Gã thường tự hào nói nếu con gái nhà mình mà mặc những đồ thời trang như các cô người mẫu thì nó chẳng thua kém. Mụ vợ gã trợn mắt lên:

- Ông đừng có mơ! Con nhà này sinh ra không phải đi đú đởn nhá. Con nhà lành không cần đứa nào chăn dắt. Nhà này không thiếu cơm ăn áo mặc mà phải để nó phơi người trước bàn dân thiên hạ nhá!

Vợ gã thật bạo mồm. Gã trợn mắt:

- Này! Nói đã chưa hả? Nó mặt hoa da phấn, nó là con vàng con bạc nhà này thật nhưng có điều kiện thì phải để nó vươn ra với đời. Có ôm nó cả đời được không? Hả?

Thấy gã trợn mắt lên với đôi tròng màu trắng thì mụ vợ gã lại tịt ngòi. Mụ đi vào lẩm bẩm:

- Vươn ra với đời! Có mà gửi trứng cho ác. Không đời nào, nhá!

Gã không nghe thủng câu nói của vợ, chứ không thì... Nhà này không ai dám bày tỏ công khai chính kiến ngoài gã. Gã đã phải xả thân vì gia đình này thì gã cũng phải có đặc quyền gì chứ.

Sếp của gã là người chịu chơi, giao tiếp rộng và làm việc tùy hứng như nghệ sĩ. Nếu sếp rắn như đinh thì gã cũng "chào thân ái và quyết thắng" từ lâu, nhiều lúc gã lẩm bẩm như thế. Trong lòng gã luôn rủa thầm sếp là kẻ vô nhân đạo. Răng gã nghiến kèn kẹt... Làm thằng đầy tớ khổ thế đấy. Thì kia, đang tay ga phơi phới mong mỏi gặp con mẹ sề thì bỗng gã giật mình vì giọng nói trịch thượng:

- Quay lại mau! Anh có thằng bạn bên du lịch nó gọi.

Thế là cái xe quay ngoắt 180 độ đến chỗ ông bạn của sếp. Mất mấy tiếng gà gật, thầy trò gã mới quay được chiếc xe bóng lộn trở lại đường cũ. Người gã lại lâng lâng vì sắp được sà vào lòng con mẹ sề. Sếp cũng ngả người ra sau thiu thiu. Ngoài trời nắng chói chang đang nhảy nhót trên mặt đường nhựa. Hàng cây sáng nay xanh ngăn ngắt tươi mới vì được sương đêm tiếp sức giờ thỉu đi rũ rượi dạt theo chiều thổi của ôtô hai bên đường. Chuông điện thoại của sếp bỗng reo vang. Sếp à ừ một hồi với người đầu dây bên kia. Sếp nhíu mày và hơi gắt: "Tôi biết rồi, không cần nói nhiều". Chắc bà chị lại chỉnh huấn điều gì. Gã vẫn được chứng kiến nhiều cuộc đàm thoại như thế. Người cuối cùng xuống nước là sếp.

- Nhất! Mày cho xe vào chỗ em Hoa cho tao.

Lại cuộc tạt té vô bổ. Lại tuột mất cơ hội được rúc vào đôi bầu vú ấm nóng của con mẹ sề. Lại là những cái ngả ngốn động chạm dù không muốn gã cũng phải chứng kiến. Bực quá đi mất! Không biết đến khi nào mới về đến nhà? Những suy nghĩ cứ quay cuồng trong đầu. Gã nghiến răng trèo trẹo rồi thốt lên hoàn toàn vô thức:

- Chết tiệt!

- Mày vừa nói gì thế?

Gã nghe giọng bè nhè của sếp mà giật thót.

- Vừa có một thằng tóc vàng lướt qua đầu xe. Anh nằm ghế không nhìn thấy.

- Nhưng lần sau không được nói bậy nữa. Lái xe cho tao khác với lái cho mấy thằng nông dân, nghe chưa? Ăn nói cho có văn hóa không người ta lại bảo trò nào thầy ấy.

- Dạ!

Một cú rẽ bất ngờ. Em Hoa là chỗ đi lại của sếp vài năm nay. Gã thấy sếp chỉnh lại trang phục cẩn thận, còn ngả người ra chiếc gương chiếu hậu để sang sửa cái dung nhan khó coi. Gã nhìn sếp quen đến nỗi chẳng bao giờ để ý bộ mặt của sếp ra sao, nhưng gã hay được nghe lời bình phẩm của cánh lái xe thân cận. Họ bảo mặt sếp hãm tài. Họ bảo đáng lẽ gã phải thế chỗ của sếp mới đúng. Gã cười xòa. Tao thì chúng mày tính làm gì.

Giám đốc Hoa bị một phen bất ngờ khi thấy chiếc xe bóng lộn của tổng giám đốc đột ngột xuất hiện. Chị cuống quýt gọi văn phòng. Phải là thứ rượu sếp thích, phải là đồ nhắm gần gũi với thiên nhiên. Kể ra giờ này tìm được mấy bộ chân chó đen không phải dễ. Sếp luôn tự cho mình là người tinh tế và ghét thói trần tục, song rất khoái khẩu với món chân chó đen. Một ông thầy Tàu xem tử vi nói chân chó đen hợp với mạng sếp, có thể ăn quanh năm. Chân chó đen vừa bổ vừa giải được xúi. Hôm ấy gã cũng được một chầu. Vì vậy đi kiểm tra dưới đơn vị, gã hay rỉ tai các sếp bé. Không ít lần gã được món kha khá từ thông tin quý giá ấy. Dần dần sở thích của sếp ai cũng biết, thành ra gã không được khoản phụ thu ấy nữa.

Gã thấy sếp hôm nay không mấy thích thú với món khoái khẩu. Những cái chân chó nằm im lìm cạnh đĩa rau thơm còn nguyên mặc dù Hoa đã mời chào đến mấy lần. Gã đưa tay định với chiếc chân chó bẻ ra bóc từng miếng nhỏ thì sếp đưa tay ngăn lại. Thấy sếp như thế, mọi người không dám tiếng ra tiếng vào. Ai cũng có vẻ thắc mắc về việc sếp tự nhiên không ra nhà hàng bên cạnh mà yêu cầu ngồi tại cơ quan. Đến giờ ăn mà sếp vẫn ngồi với bộ mặt khó đăm đăm. Chính gã cũng thầm ngạc nhiên.

Chờ cho không khí căng hết cỡ, nỗi thấp thỏm hiện rõ trên từng khuôn mặt, sếp đằng hắng vài tiếng rồi cao giọng:

- Hôm nay tôi đến đơn vị ta mà không báo trước là mong muốn sáng tỏ một số điều. Tuần trước tôi nhận được mấy lá đơn đề cập đến nhiều sai phạm của công ty ta. Tôi muốn các đồng chí trực tiếp trả lời một cách trung thực nhất, thẳng thắn nhất. Tất nhiên những gì thuộc về phía tổng công ty thì tôi sẵn sàng nhận lỗi. Các đồng chí đồng ý cả chứ? Đồng chí Hoa cho tôi biết công ty đã xuất bao nhiêu sản phẩm trong quý I? Số sản phẩm bị loại, số còn tồn? Số đơn vị cá nhân quan hệ trực tiếp với công ty ta. Tôi muốn đồng chí Chính cho xem hóa đơn chứng từ và vốn của ta còn tồn đọng ở đâu? Còn bao nhiêu? Tôi muốn đồng chí Tân trình bày về nhân sự và đào tạo cán bộ kế cận. Số cán bộ nhân viên chính thức, số nhân công thời vụ. Tôi muốn đồng chí An.....

Sếp nói một mạch không nghỉ. Ai nấy mặt mũi tái đi và ỉu xìu như bánh đa gặp nước. Chính gã cũng không hiểu sao sếp lại phủ đầu chuyến viếng thăm tưởng sẽ rất thân thiện này bằng những lời lẽ căng thẳng như thế chứ? Mấy khi sếp phải bày tỏ quan điểm đường đột thế này đâu, chớ kể đây là công ty em Hoa của sếp. Chính gã cũng không ngờ

-

Vụng chèo khéo chống

hôn Đông Lý nức tiếng về nghề nuôi lợn. Có năm, bà con cho xuất chuồng tới cả vạn con. Song vài năm trở lại đây, do sức mua giảm, việc làm ăn của bà con cũng khó khăn hơn. Có những lúc, tiềnthịtkhông trang trải được tiền cám bã. Nhiều người muốn thôi nuôi lợn, chuyển sang nghề khác.

Bí thư thôn là người cứng rắn, nhất quyết không chịu để nghề chăn nuôi ở đây mai một. Tạm thời, để ứng phó, ông khuyên bà con nên tranh thủ bán lợn vào dịp cuối năm, khi giá ở thị trường nhỉnh hơn chút ít. Bà con đang nhất nhất chuẩn bị làm theo thì chợt có điện từ xã, báo sắp có lãnh đạo thành phố xuống tham quan, cần phải giữ bằng được số lợn hiện có trong chuồng. Bí thư thôn vội ra lệnh cho mọi người khoan bán lợn, chờ lãnh đạo tham quan trở về hãy hay.

Nửa tháng trôi qua, trên xã chẳng có tin tức gì...

Bí thư thôn nổi giận, nói vung tí mẹt. Hơn nửa tháng trời, bao nhiêu tiền cám bã, đã thế, giá

thịt

lại hạ, tính ra tổn thất tới hơn vạn đồng. Tức thì, vị Bí thư thôn hạ lệnh: "Bán".

Người dân trong thôn vừa thực hiện lệnh Bí thư hôm trước, thì hôm sau, có tin từ xã dội xuống: "Phó chủ tịch thành phố sẽ xuống tham quan trại lợn nay mai". Mới nghe tới vậy, bí thư thôn trợn tròn mắt: Lợn đã bán tới hơn nghìn con, biết lấy ở đâu thay thế vào bây giờ. Lòng dạ bí thư như lửa đốt. Trong cơn rối trí, ông cho gọi một người có nhiều "cao kiến" tên là Lý "đất" tới bàn cách giải quyết.

Nghe bí thư thôn kể lại sự tình, Lý "đất" trầm ngâm suy tính hồi lâu, đoạn ghé tai Bí thư, nói "phải thế, phải thế...". Bí thư mừng lắm.

Khi phó chủ tịch thành phố tới thăm Đông Lý, chuồng trại nhung nhúc những lợn là lợn. Phó chủ tịch vui lắm. Ông gật gù buông lời khen: "Thật xứng danh là một thôn đi đầu trong phong trào chăn nuôi. Sau đợt này, thành phố sẽ có chính sách hỗ trợ...".

Cùng đoàn tùy tùng đứng ngắm đàn lợn hồi lâu, phó chủ tịch bỗng nổi hứng muốn vượt rào, bước vào tận trong chuồng. Bí thư thôn hoảng hồn, vội đưa tay ngăn lại: "Xin phó chủ tịch chớ vào tận trong ấy làm gì...". Phó chủ tịch cười ha hả, tỏ vẻ bình dân: "Anh không biết đấy thôi. Hồi còn làm ở đoàn thanh niên, tôi cũng từng nuôi lợn đấy. Có khi cả ngày tôi chỉ nói chuyện với lợn thôi...".

Nói rồi, ông xắn quần nhảy vào giữa đám lợn. Những người đi theo noi gương thủ trường, cùng ào theo.

Đến lúc ấy thì mọi người mới kinh ngạc nhận ra, lẫn trong đám lợn thật còn có không ít những con... lợn đất. Chúng được bố trí nằm, mgồi trong những tư thế rất sinh động mà nếu không quan sát thật lâu, thật kỹ, hẳn sẽ khó nhận biết...

Chủ tịch xã tức giận, quát lớn: "Cái quái gì thế này". Bí thư thôn lắp bắp, không biết nên giải thích thế nào. Đúng lúc ấy, Lý "đất" nhanh trí nói xen vào: "Là mọi người không biết đấy thôi: Qua thực tế chăn nuôi, chúng tôi nhận thấy, do chạy lên, luồn xuống, vận động nhiều nên lũ lợn bị tiêu hao nhiều năng lượng, vừa tốn thức ăn, vừa hao

thịt

. Do vậy, chúng tôi cho mời người làm những con lợn đất chèn vào đó để lũ lợn sau khi ăn no, chỉ đứng yên một chỗ, không có chỗ chạy nhảy nô giỡn nữa. Nhờ thế, năng suất cao hơn. Không ngờ hôm nay phó chủ tịch vào tận mục sở thị nên bí quyết của chúng tôi bị lộ bem cả".

Nghe Lý "đất" giải thích vậy, mọi người à lên, vui vẻ, cho đó là một sáng kiến hay của người dân Đông Lý. Riêng phó chủ tịch thành phố thì không quên "phê bình" bí thư thôn: "Có kinh nghiệm tốt như vậy mà các đồng chí không chịu phổ biến nhân rộng, chỉ giữ cho riêng mình. Thật là cách suy nghĩ đặc tính tiểu nông"

-

Ngôi nhà gỗ

Ngõ hẻm

Vợ anh không chối, nhưng cũng không nhận đứa con là của lão Linh, cắt tóc ở chợ. Chị chỉ tủm tỉm cười đáp lại. Mấy bà, mấy cô hàng xóm biết tỏng lão cắt tóc ấy bước êm nhẹ như mèo lẻn vào nhà chị, khi chiều đến thấy chiếc khăn mặt màu vàng sũng nước vắt thõng thẹo ở đầu hồi rồi từng giọt hàng giờ không hết, là lời hẹn không thành tiếng.

Dù có một con đường nhỏ lổn nhổn rải gạch vỡ, lượn theo bức tường cao hơn hai mét của lò sát sinh, ai lần đầu đến ngõ hẻm 354 đều phải đạp xe đi loanh quanh hỏi thăm. Nhiều người tới đây hai ba lần, vẫn tần ngần, không biết có đúng nhà mình từng đến chưa. Chẳng có gì lạ, ở bãi rác đầu ô này, người tứ xứ đến gá túp, dựng lều, dần dần là những ngôi nhà nhỏ, mái lợp lá gồi, lá dừa, cỏ gianh, vỏ hộp các tông, giấy dầu, lá chuối khô và các manh chiếu cũ đủ loại. Tường nhà trát bùn trộn rơm vụn, khá hơn thì toócxi. Những túp lều đan chen đảo ngược, ngoảnh xuôi, lối vào xộc thẳng phía trước hoặc đâm thọc phía sau rồi vòng vèo tránh vũng nước, đống rác lưu cữu. Giờ thì khá hơn. Họ bảo nhau dựng nhà, xây tường sao cho tiện đi lại, tiện gọi nhau uống chén nước chè buổi sớm (dân ở đây vẫn còn đậm thói quen khi ở quê), giúp nhau khi trái gió, trở trời, kể cả giật nóng ít tiền, vay bơ gạo, xin nhau chút nước mắm, dúm muối, củ hành.

Do cấu tạo dân cư nên mỗi hoàn cảnh, thân phận của những con người ở đây đa dạng, phong phú và khắc nghiệt, dữ dằn hơn so với vùng quê nghèo của họ. Ở ngõ hẻm này, có một cô gái sống độc thân, mọi người vẫn gọi là Hòa bướu vì ở dưới vai phải lưng cô nổi một cục bướu

thịt

bằng trái bưởi cây mới bói. Không phải là u bã đậu nên không thể hút, cắt. Chính vì vậy, khi mẹ chết lúc đã gần tuổi băm, nhưng cô vẫn không thực hiện mong muốn của bà.

Tủi thân, tủi phận nhưng như mọi người trong ngõ biết rõ hoàn cảnh của mình, cô cũng vơi đi phần nào nỗi đau, khi thấy những người ở ngõ 354 cùng một hoàn cảnh và truân chuyên lắm nỗi.

Cô giáo Tâm đúng lúc nghỉ mất sức một cục thì ông chồng tếch vào Sài Gòn cùng cô học trò cũ, để lại cho cô đứa con gái tật nguyền suốt ngày u ơ, dãi dớt đầy người. Cô nuôi thân, nuôi con bằng rổ vó bò chấm tương gừng, chai rượu cất bằng sắn ở đầu chợ Cao. Khách vừa đưa cay vừa gặm, nhằn những miếng da gân nhão nhuếch vừa chửi đổng ầm ĩ cả góc chợ chiều. Anh Giang ở chếch phía phải nhà cô dăm mét, từng lái xe đi khắp mọi vùng xuôi ngược. Lần nào về, ngoài xấp tiền dúi tay vợ, căn nhà nhỏ xếp đống đủ thứ: măng lưỡi lợn, mộc nhĩ, túi

thịt

dê rừng sấy, mật ong...

Dạo ấy, thời bao cấp tính từng ô phiếu để có cân muối, bìa đậu phụ chua, mớ rau già mua hàng mậu dịch thì gia đình anh Giang thuộc loại khá nhất ngõ, trừ thằng Tĩnh ở đầu ngõ là đầu gấu ở bến xe Ngọc, chuyên ăn chặn lái xe hoặc vừa xin vừa cướp hàng hóa bốc xếp. Chẳng ai mất gì, là “của chùa” cả, nên mấy tay áp tải hàng nhà nước tính luôn vào hao phí vận chuyển.

Nhưng đúng vào lúc anh bị giam vì xe gây tai nạn ở đèo Cù Mông thì vợ trở dạ, đẻ một cậu con trai trắng như... tây, khác hẳn màu da nâu sạm của hai vợ chồng anh. Vợ anh không chối, nhưng cũng không nhận đứa con là của lão Linh, cắt tóc ở chợ. Chị chỉ tủm tỉm cười đáp lại. Mấy bà, mấy cô hàng xóm biết tỏng lão cắt tóc ấy bước êm nhẹ như mèo lẻn vào nhà chị, khi chiều đến thấy chiếc khăn mặt màu vàng sũng nước vắt thõng thẹo ở đầu hồi rồi từng giọt hàng giờ không hết, là lời hẹn không thành tiếng.

Ra tù, Giang làm đủ mọi việc của chân nội trợ, thổi nấu, giặt giũ, chưa kể làm lươn,thịt

gà cho gánh cháo của vợ, nhưng vẫn bị chị dài môi rủa là đồ ăn bám.

Ông Tư lòa ở ngôi nhà lợp lá gồi duy nhất ở cuối ngõ vui mừng chưa được bao lâu, thì anh Sâm, con trai ông đi bộ đội về được dăm tháng, chuẩn bị cưới vợ, trong một lần nhảy xuống giếng cứu người đã bị ngạt và chết theo. Ông Tư sống tuyệt vọng và chỉ tồn tại trên đời bằng nghề phất quạt giấy, nghề ông làm từ thuở nhỏ ở làng Sành quê ông.

Ngõ hẻm ấy với bao nỗi vui buồn lặng lẽ trôi cùng năm tháng. Và một chuyện bất ngờ đến với Hòa. Cũng như chúng ta, có nhiều cái ngẫu nhiên và bất ngờ, vui cũng nhiều mà buồn cũng lắm.

Tối ấy, vừa cất mẹt thuốc lá lên giá gỗ phía đầu giường, phải cố lắm, Hòa mới đóng được chiếc cửa gỗ thông, dù đã cài hai then, vẫn rung bần bật vì những cơn gió sũng nước điên loạn, gào rít, quăng quật.

Cô nằm vật xuống gối vùi luôn vào giấc ngủ sâu. Ngoài trời tiếng gầm rít ù ù từng đợt từng đợt ào qua như muốn cuốn phăng mọi thứ bám trên mặt đất. Tiếng sấm rền rĩ, ì ầm từ phía chân trời xa lắc, rồi sau một chớp lóa sáng là tiếng nổ tung cả không gian trong cơn cuồng loạn của mưa gió tơi bời.

Hòa vẫn ngủ say như chết. Có tiếng động mạnh ở đầu giường rồi một bóng đen chúi xuống, tung cả dây màn. Hòa giật bắn người sực tỉnh, hốt hoảng chồm dậy theo bản năng. Một luồng khí lạnh chạy suốt dọc sống lưng lên thẳng não. “Đừng kêu, bọn thằng Hiển “sứt” định giết tôi” - Bóng đen ướt át đã cất tiếng van vỉ. Hòa run bắn người. Cô muốn kêu lắm, nhưng hàm răng dính vào nhau lập cập. Cả bóng đen và cô im lặng.

Ngoài ngõ có tiếng chân người chạy lép nhép, cả tiếng xộp xoạp của nước bùn bắn vọt theo chân người dồn dập.

Có tiếng gào đứt đoạn trong gió:

- Thằng... Thành nó trốn... vào đây!

Những tiếng chân xộp xoạp dừng trước nhà cô. Một tiếng gọi to, khàn khàn như giọng Hai Xiến đầu giếng:

- Con Hòa dậy chưa! Trộm nó vào nhà mày đấy!

- Kh...ông c...có a...i đ...â...u!

Hòa trả lời yếu ớt.

- Sao cửa mở to thế này?

Cô đáp thành tiếng rành rọt:

- Then cài long đinh, lại gió nữa. Để em ra đóng lại.

Cô bước xuống giường. Bóng đen định níu cô lại, nhưng rồi buông. Cài xong cửa, cô lại bước lên giường. Khi thấy chiếc đùi sũng nước của bóng đen sát đùi mình, cô dịch ra một chút thì vừa chạm thành giường. Có nghĩa là hết chỗ cho khoảng cách giữa cô và bóng đen.

Những tiếng chân chạy lép nhép, xộp xoạp xa dần.

- Thế là được. Tôi ra - Bóng đen nói.

- Chờ ít nhất 2 tiếng nữa - Hòa bất ngờ lên tiếng. Kẻ lạ mặt không hiểu nổi. Riêng Hòa, cô biết hàng xóm của cô có nhiều mẹo lừa kẻ gian vào “bẫy”, bằng giả đuổi theo một hướng, phục một hướng, hoặc coi như giải tán, ai về nhà nấy, nhưng thực ra mỗi người ém ở một địa điểm nhất định mà họ chắc kẻ gian nhất định phải chạy qua.

Đưa mắt đảo quanh căn nhà, bóng đen bật cười khẽ:

- Hay nhỉ. Sống một mình à?

- Một. A, có đói không?

- Đói và cả rét nữa.

- Thay quần áo đi. Bộ quần áo cũ của ông cụ còn tốt lắm. Bánh mì không nhân, chỉ có muối thôi.

- Được.

Bóng đen ngoan ngoãn làm theo lời cô.

Kẻ lạ mặt ngồi bên cô ăn chiếc bánh mì cô ăn không hết hồi chiều. Nghe tiếng nhai, cô biết anh ta ăn khá ngon miệng. Chắc đói. Cô tự nhiên chép miệng.

Mưa giảm, gió cũng chuyển hướng. Còn cô, cô vẫn ở bên kẻ lạ mặt. Cô bật cười khẽ. Ôi chao. Cái giây phút ấy, sợ hãi là thế, kinh hoàng là thế mà từ trong sâu thẳm của cảm giác ấy cứ lâng lâng, nhè nhẹ phủ lên rồi sau đó bám chặt dathịt

cô.

Còn kẻ lạ mặt thì ngạc nhiên, nhất là khi anh ta thấy cô ra chèn lại thanh cửa.

Câu nói không có ai trong nhà là do cô sợ bị giết. Nhưng khi kẻ lạ mặt thấy cô gái chúi người, qua ánh chớp tung tóe hắt vào từ các khe cửa, hắn loáng thoáng thấy cô có khuôn mặt tròn, đôi mắt to sáng. Anh ta cũng thoáng thấy lưng cô vồng lên. Hẳn cô gái này bị gù.

- Chồng đâu? – Kẻ lạ mặt lên tiếng hỏi.

- Chưa.

Anh ta cười không thành tiếng.

- Làm gì mà để bị người ta “săn lùng” như thế? – Cô hỏi.

- Hừ...

- Nhỡ chúng bắt được thì chết.

- Hừ...

- Có vợ con chưa?

- Chưa.

- Bố mẹ?

- Chết cả.

Bỗng nhiên cả hai cùng thở dài.

- Lấy nhau đi - Hắn nói.

- Chỉ đùa.

Hắn dịch người. Đùi ép sát thêm. Dịch ra một chút. Lại dịch ra một chút. Chiếc thành giường cồm cộm ngăn lại. Hết chỗ lùi.

- “Gì” đi!

- Gì?

Cô tự ngả người xuống gối, trống ngực đập thình thịch. Lúc này cô chỉ nghĩ: “Muốn sao cũng phải có đứa con như chị Vượng, cái Hà...”.

*

Hòa “bướu” được đứa con trai, nhưng lại giống mẹ nhiều. Còn “người ấy” biệt tăm. Hỏi thăm chẳng ai biết, kể cả mấy tay anh chị “chênh vòm” (trộm đêm) nổi tiếng ở vùng phía nam thành phố.

Ba năm sau, bố “thằng bé” đột ngột trở về. Thì ra, anh ta từng buôn hàng lậu và “sự cố” đêm mưa có nguyên nhân từ việc tranh mối hàng. Thời gian anh ta và Hòa mất liên lạc chính là thời gian anh ta bị đưa đi trại cải tạo. Điều lạ là tháng nào, Thành cũng nhận được quà tiếp tế với tên người gửi “Vũ Thị Hòa ở ngõ 354”.

Ra trại, Thành về thẳng nhà Hòa. Cô chấp nhận. Cả ngõ chấp nhận. Có chuyện hơi là lạ. Anh Hoàng, cảnh sát khu vực đăng ký hộ khẩu cho Thành rất nhanh. Anh còn liên hệ xin việc cho Thành. Vốn từng học nghề mộc trong trại nên một chủ cơ sở đồ gỗ đã đáp ứng đề nghị này không mấy khó khăn.

Có người bảo chính anh Hoàng đã hỗ trợ cho Hòa tiền để cô có điều kiện thường xuyên gửi quà tiếp tế cho trại viên Thành.

Anh chỉ cười. Chẳng hiểu thế nào cả

Sống ở đời

Trời mưa, kéo theo cái lành lạnh làm Đầm thấy buồn quá. Sáng nay, vợ gã đi chợ từ lúc trời còn tối om sau khi đã nấu xong nồi cơm cho chồng con...

Nói là đi chợ cho sang chứ thật ra là vợ Đầm đi đồng nát, mang xoong, ấm mới đi bán hoặc đổi cho thiên hạ. Công việc này trước đây là của Đầm, nhưng khi nghe đám bạn thích ăn không ngồi rồi chế giễu: "Mày trông trí thức thế mà phải đi làm cái thằng đồng nát, đầu đường, xó chợ ấy à!", thế là Đầm bỏ nghề. Vợ gã phải kế nghiệp chồng để duy trì cái gia đình vốn không mấy bình yên vì Đầm lúc nào cũng dọa bỏ vợ, bỏ nhà đi biệt xứ!

Buồn, thì Đầm chỉ có mỗi cách giải buồn duy nhất là rủ thêm mấy người bạn cùng hội cùng thuyền đến nhà để uống trà, hút thuốc lào vặt và tào lao, phét lác. Sáng nay có vẻ khá hơn, Đầm bớt được mấy ngàn vợ đưa để mua thức ăn, mua hẳn một chai rượu và mấy gói lạc rang ở quán bà Ky về thết bạn.

- Này, hôm qua lại một vụ nổ bom ở Bátđa làm mấy chục người chết! - Bính mập lên tiếng.

- Còn chết nữa, phải tớ là Thủ tướng Irắc thì chỉ trong vòng hai tuần, tớ sẽ dẹp yên ngay - Thọ gù đáp lời.

- Keng! Nào 50% ! - Đầm cụng ly.

Bốn kẻ đang khoác lác thì ngoài ngõ có tiếng còi ôtô. Cửa xe mở, hai vợ chồng dắt hai đứa con đi vào. Đầm chạy ra, chưa kịp nhận ra khách thì người đàn ông đã thốt lên:

- Đầm phải không? Tao - Kiên còi đây mà!

- Á à, dạo này béo quá nhận không ra là phải.

Kiên giới thiệu vợ con với Đầm, Đầm giới thiệu với đám bạn nhậu. Kiên ở tận xã Đoài, là bạn thân hồi học cấp ba của Đầm. Kiên mỉm cười gật đầu chào mọi người, nói nhân tiện nghỉ hè cho các con về quê chơi, tranh thủ ghé thăm Đầm, người ngày xưa đã từng bẻ đôi củ khoai lang luộc cho Kiên ăn lót dạ mỗi sáng đến trường.

Đã gần mười năm nay không gặp lại Đầm, Kiên thấy Đầm già đi nhiều quá. Cả cái ngôi nhà mà vợ chồng Đầm đang ở cũng già nua, tường tróc vữa, mái ngói trên nóc có mấy hòn bị xô lệch, những giọt nước đang thi nhau rỏ tí tách xuống chiếc thau nhôm đặt dưới nền nhà. Đầm sai đứa con lớn đi đánh lại đám cốc chén cáu vàng, pha nước mời vợ chồng Kiên. Sực nhớ ra anh lái xe, Đầm nói:

- Lái xe đâu, sao mày không bảo vào đây uống nước?

- Tao tự lái lấy, cái xe này tao mới mua để mỗi khi về quê cho tiện, còn đi công tác đã có xe cơ quan.

- Mày mua được cả ôtô?

- Cũng phải vay mượn thêm chút ít.

Nghe Kiên nói, tự nhiên sự vồ vập của Đầm biến mất, thay vào đó là sự ngượng ngập về cái nghèo của mình. Suốt nửa tiếng chuyện trò, chỉ độc Kiên hỏi, Đầm trả lời. Kiên bảo Đầm nên sửa chữa lại nhà kẻo mùa mưa bão sắp đến, nếu có thiếu Kiên sẽ giúp đỡ. Đầm phẩy tay bảo chuyện vặt, chẳng qua là Đầm bận quá nên chưa có thời gian sửa!

Đầm mời vợ chồng Kiên ở lại ăn cơm trưa, vừa lúc ấy điện thoại di động của Kiên đổ chuông, công ty có việc gấp, Kiên phải về giải quyết. Thấy gia cảnh Đầm khó khăn, Kiên mời Đầm lên nhà chơi, đến thăm công ty của Kiên. Nếu Đầm ưng thuận, Kiên sẽ bố trí cho Đầm một chân ở phòng hành chính. Đầm xua tay:

- Ồ không không, lên chơi thì được, chứ làm thì không, chả nói giấu gì mày, sắp tới thôn đang cơ cấu tao lên làm trưởng thôn. Vả lại tao đi thì con cái ở nhà ai dạy?

- Thế làm trưởng thôn bây giờ có lương không, hay chỉ được cấp thóc như ngày xưa?

- Có chứ, cũng được mấy trăm ngàn, nhưng cái quan trọng là có cơ hội để thăng tiến trên xã.

- Thế thì chúc mày sớm trở thành chủ tịch xã!

Đầm đã không định lên nhà Kiên chơi, nhưng hôm sau bị bố đẻ đến nhà giáo huấn cho một trận về tội lười biếng, không chịu làm ăn, suốt ngày tụ tập rượu chè nên Đầm uất ức lắm, quyết định lên nhà Kiên mấy hôm cho khuây khỏa.

Nhà Kiên ở ngoại ô, một ngôi nhà được xây theo kiểu kiến trúc Pháp, có vườn, có gara để ôtô. Kiên dẫn Đầm đi các phòng giới thiệu, đến phòng cuối cùng, Kiên bảo:

- Đây là phòng khách, vệ sinh khép kín ở góc kia. Đây là điều khiển tivi, còn đây là điều khiển đầu video, mày nghỉ ngơi một lúc rồi vào tắm rửa đi, trưa nay mày đi ăn cơm khách với tao luôn.

Không biết cách mở máy điều hòa, Đầm bật quạt máy vù vù, lúc sau đi vào phòng tắm. Trông thấy cái bồn tắm trắng tinh, Đầm sờ sờ, nắn nắn, loay hoay một lúc rồi cũng mở được vòi nước. Đầm tắm xong, Kiên vào bảo quần áo cứ để đấy, tối bà xã về đưa vào máy giặt một thể.

- Cái bồn tắm phòng khách, tao vừa lắp, những hơn chục triệu cơ đấy, mày tắm đấy có thoải mái không? - Kiên hỏi.

- Những hơn chục triệu? - Đầm há mồm liên tưởng đến cái giếng nhà mình, vì không có nhà tắm nên chỉ Đầm và con cái còn tắm được ban ngày chứ vợ Đầm mỗi khi tắm phải chờ đến khi trời tối hẳn. Nhiều đêm trăng sáng, vợ Đầm phải xách nước ra vườn chuối tắm.

- Nghe quảng cáo là sản phẩm mới của Nhật, ngâm mình trong nước ấm có khả năng chữa được bệnh đau nửa đầu nên tao mua về dùng thử.

Trưa, Kiên lái xe riêng chở Đầm lên Hồ Tây, vào một quán ở ven hồ, đã có bốn người khách đang đợi Kiên. Bữa ăn có bia Tiger, có tôm luộc, cá hấp,  chim quay, nem cuốn, toàn những món đặc sản mà ở quê chưa một lần Đầm được nếm, nhưng Đầm ăn, Đầm uống nhỏ nhẻ lắm. Giá như bữa ăn là ở quê, không phải với Kiên cùng những vị khách thắt càvạt mà với Bính mập, Tảo hôi nách, Thọ gù thì có lẽ Đầm đã chén đến no say. Gần hai giờ chiều, Kiên đưa Đầm về nhà, dặn Đầm vào phòng khách ngủ, đọc báo hoặc mở tivi, mở băng xem, Kiên đi họp khoảng bốn giờ sẽ về. Trước khi đi, Kiên không quên mở máy điều hòa cho Đầm.

Nằm trong căn phòng có máy điều hòa, Đầm vẫn không tài nào nhắm mắt được. Cứ nghĩ đến cảnh giàu sang, phú quý của Kiên, Đầm lại thở dài. Đầm mở tivi xem, chiếc tivi màn hình 24inh to và nét quá, chả bù cho chiếc tivi Samsung 14inh cũ kỹ ở nhà mà hễ cứ xem được mười lăm, hai mươi phút lại tắt ngóm cả hình lẫn tiếng, khi ấy Đầm lại phải chạy lại vả một cái thật lực vào vỏ, nó mới hiện hình, lên tiếng.

"Đêm qua, một chiếc xe hơi chở thuốc nổ đã nổ tung tại trung tâm thủ đô Bátđa…" - Lại khủng bố, Đầm tắt tivi, ngồi dậy lấy nước lọc tu ừng ực. Đầm mở cửa đi ra ngoài, ngắm nghía ngôi biệt thự của Kiên, chốc chốc tiếng thở dài lại phát ra từ lồng ngực lép kẹp của Đầm.

Đầm đi ra đường, thơ thẩn vài vòng rồi tạt vào cái quán nước cạnh nhà Kiên hỏi xem có điếu hút thuốc lào không? Bà bán quán lắc đầu, mời Đầm vào uống nước. Đầm gọi một ly trà đá, vừa uống vừa nhìn về phía nhà Kiên. Bà bán quán trông thấy Đầm có vẻ nhếch nhách, hỏi:

- Anh đến thông nhà vệ sinh hay làm cỏ cho nhà anh Kiên à?

- Không, cháu ở quê lên.

- Ra là người nhà, nhà anh Kiên giám đốc giàu nhất khu này đấy, nhưng sống cũng tình cảm lắm chứ không vác cái mặt lên như mấy ông cán bộ khác.

Càng nghe bà bán nước kể về sự giàu sang, lòng tốt của Kiên, Đầm càng thấy buồn. Bỗng Đầm đứng phắt dậy, quên cả trả tiền nước làm bà bán quán phải gọi giật lại, Đầm đỏ mặt xin lỗi. Trả tiền xong, Đầm đi về nhà Kiên, xin con trai Kiên tờ giấy, hý hoáy ghi mấy chữ cho Kiên, nói rằng Đầm vừa điện về cho ông anh họ làm phó chủ tịch xã, ông bảo phải về ngay để họp cơ cấu nhân sự trưởng thôn, nếu không phe cánh họ Trần đang lăm le đưa người của họ vào.

Đầm ra bến xe, kịp đi chuyến vét về quê. Ba đứa con đã đi ngủ, đứa lớn đang thái bèo, vợ Đầm cũng vừa đi cân hàng về. Thấy Đầm về, vợ Đầm ngạc nhiên:

- Sao bảo anh lên Hà Nội chơi với anh Kiên mấy ngày mới về cơ mà?

- Thời gian đâu mà chơi mấy ngày - Đầm hầm hầm đi vào trong nhà, thấy cái sọt đựng xong ấm để ngay giữa nhà, Đầm cáu tiết đá đánh xoảng một cái:

- Nhà chứ có phải cái chuồng lợn đâu mà để bừa bãi thế này!

Vợ Đầm chạy vội vào thu dọn, thấy chiếc ấm mới bẹp rúm, vợ Đầm giận lắm nhưng không dám nói ra mồm. Bê cái sọt vào góc buồng, vợ Đầm ra thì thào vào tai con gái. Nó dừng tay thái bèo, đi vào lễ phép:

- Bố ăn gì chưa để con dọn cơm cho bố?

- Không cơm vớicháo

gì hết, để cho tao yên!

Từ đấy vợ con Đầm không một tiếng nói, không một tiếng động nào cốt giữ yên tĩnh để cho Đầm được yên, được ngủ, nhưng mà Đầm lại không tài nào ngủ được. Đầm nghĩ đến cái ôtô con của Kiên có màu nâu thẫm, trị giá bằng mấy chục cái dinh cơ của mình; cái bồn tắm bằng cả cái bếp nhà mình. Đang lan man nghĩ thì Đầm thấy bụng đau đau, Đầm lật đầu giường, xé miếng giấy báo đi ra nhà xí ở góc vườn. Đầm mở cái cửa gỗ mối mọt lom khom bước vào, mùi thối xộc lên làm Đầm váng vất. Rồi Đầm lại nghĩ đến cái bệ vệ sinh ở phòng khách nhà Kiên, nó trắng tinh, thơm tho, có vòi xịt, có giấy mềm để dùng, có xà phòng thơm để rửa tay. Đầm ngồi, dễ có đến mười lăm phút nhưng vẫn không thấy ra, Đầm vo viên miếng giấy báo ném bộp vào cánh cửa.

Quý nhân đến nhà

Chính cái “mác” cán bộ lương thực cộng với hai câu thơ có “khóe thu ba” đã khiến con gái ông hàng thịt, vợ Nò bây giờ, theo không hắn bằng cách dạy cho hắn làm đàn ông sau một bữa

cháo

lòng tiết canh nóng hôi hổi vào lúc ba giờ sáng và ít lâu sau, thị bảo có thai, bắt hắn phải cưới để bảo toàn danh giá cho họ hàng, cho bố mẹ thị.

Đã mấy hôm nay, Lê Xuân Nò lo lắng cho chuyến đi chơi xuân đến rạc cả người nhưng trong lòng thì rất kiêu hãnh với mụ vợ lắm điều. Mụ đã nhiều lần tỏ ra khinh hắn không có bạn, không biết giao tiếp. Người ta giàu vì bạn, sang vì vợ. Cứ theo mụ, mụ đã làm cho hắn sang ra nhiều nhưng nhà hắn chưa giàu có lẽ vì hắn chả có quý nhân nào phù trợ cả, tết nhất chả ai biếu xén được đồng cắc nào. Ngay cả khi bố hắn chết cũng chỉ có một vòng hoa của Hội Bảo thọ xã.

Lần này thì khác, hắn vừa chắp mối được với hội bạn học cũ, cái hội bạn lớp 10B của hắn hiện nhiều đứa đang có chức tước trên tỉnh. Cứ điểm mặt sơ sơ đã thấy toàn những nhân vật có cỡ đáng nể: Thằng Đình là Giám đốc Sở Thủy lợi, cái Tần là Phó giám đốc Sở Giáo dục, cái An là Trưởng phòng Ngoại hối của Ngân hàng Đầu tư, thằng Bộ là Chủ tịch Liên đoàn lao động thị xã... Đứa xoàng nhất là thằng Tình cũng đang chủ nhiệm một lớp năng khiếu của Trường trung học phổ thông có tiếng vào loại bậc nhất của tỉnh.

Hắn được biết cái hội 10B trên tỉnh đã có truyền thống họp mặt đầu năm đâu từ hồi 1996. Người đưa tin và mời hắn là Tuân, bạn cùng lớp, thượng tá quân đội về hưu non giờ đang là một doanh nhân có máu mặt. Nhà Tuân được đặt là bản doanh cho các cuộc gặp định kỳ đầu năm. Theo Tuân nói, bạn cũ đến ăn bánh chưng với nhau. Ai có niềm vui nỗi buồn gì thì bày tỏ để cùng mừng cùng lo trong năm mới. Cứ theo Tuân thì cái hội 10B đã giúp nhau được nhiều việc lắm. Cụ thể là đã giúp Tần xây được nhà ba tầng rưỡi, giúp An kéo được ông chồng hay có tính “dập dìu lá gió cành chim” trở về với tổ ấm, giúp Bộ chuyển công tác từ biên giới về thị xã, v.v... Riêng thầy giáo Tình đã phát hiện ra tám học sinh có năng khiếu là con cái của hội 10B, bồi dưỡng giới thiệu cho các kỳ thi học giỏi, ba cháu đã đoạt giải quốc gia, một cháu được đi thi toán quốc tế, các cháu còn lại đều đỗ điểm cao vào đại học ngon lành.

Lê Xuân Nò đem những thông tin ấy về khoe, vợ hắn bảo: “Bạn anh giỏi thế, anh thử nhờ cải tạo cái thằng Nội nhà mình đi. Tôi không cần nó là giáo sư, tiến sĩ gì mà chỉ cần được lên tỉnh làm việc cho khuất mắt. Nhìn cái mặt ngu đần của nó, tôi sốt tiết lắm rồi!”. Hắn cười khinh mạn nhìn vợ: “Trình độ cô thì chỉ dám ước có thế thôi cũng phải. Còn tôi, tôi sẽ nhờ cậu Tình bồi dưỡng để nó đi thi kỹ sư, bác sĩ”.

Nghe thế, vợ hắn chép miệng đánh choẹt một cái. Lê Xuân Nò rất căm động tác này của mụ vợ. Nhưng rồi hắn không dại gì mà dây vào. Những lúc như thế hắn cứ thầm nhủ: “Một câu nhịn, chín câu lành. Thắng đàn bà thì có vinh quang gì, nó chửi tục dại mặt”. Dằn lòng là vậy nhưng từ thẳm sâu hắn rất căm mụ.

Mụ vợ Lê Xuân Nò cứ luôn ngang phè, cứ có kiểu ăn nói mà theo hắn chỉ thấy ở lũ lưu manh côn đồ. Chỉ cần hắn có lời nói, cử chỉ hơi trái ý mụ là ngọn lửa hận thù ấy lại bùng lên. Mặc dù mụ đến với hắn là tự nguyện, thậm chí còn theo không hắn. Mụ vốn xuất thân trong một gia đình bán thịt lợn. Mụ giống bà mẹ, dáng người cao ráo, da trắng và cặp mắt mà đã ví như “khóe thu ba”. Nò còn làm cả thơ để tặng mụ và dành cho đôi mắt đó hai câu thơ, hai câu thơ có tính quyết định để mụ trao trọn trái tim thiếu nữ cho Lê Xuân Nò. Đến bây giờ thỉnh thoảng mụ lại đem hai câu thơ đó ra giễu hắn và khẳng định Nò “thó” của ai, chứ sau khi lấy nhau, mụ không thấy Nò phát tiết gì về thơ cả.

Những lúc mụ dẩu mỏ, mắt long lên, ném cái nhìn như những chiếc đầu đạn về phía hắn, hắn cắn răng nuốt giận, nuốt cả ý nghĩ: “Tại sao mình lại làm thơ về đôi mắt của con nặc nô này nhỉ?”. Nhưng rồi khi bình tĩnh lại, trong hắn có sự thông cảm với cơn nộ khí của mụ. Vì thế, cứ có cơ hội là mụ giở trò khích bác hắn.

Hôm nay cũng vậy, lúc hắn đang cẩn thận sửa lại cái ca vát Tầu màu đỏ chóe ở cổ cồn áo trắng, mụ dài giọng nói: “Diện vừa thôi, biết có nên cơm

cháo

gì mà hí hửng!”. Hắn cười một cách khinh khi: “Đợi đấy!”. Xoa một ít thuốc nẻ cho da mặt đỡ khô, Nò khe khẽ huýt sáo, dắt xe, nổ máy rồ ga từ sân phóng thẳng ra cái ngõ ống dài hun hút.

Ngoài đường cái, thỉnh thoảng hắn lại nghé mắt nhìn vào gương chiếu hậu, khẽ tủm tỉm. Hắn nhủ thầm: “Mình vận thế này ngồi với đám bạn có chức quyền trên tỉnh cũng chả đến nỗi cóc cáy gì”.

Hắn theo địa chỉ mà Thượng tá Tuân đưa hôm trước tìm đến một phố làng nằm giữa lòng thị xã. Đang định dắt xe vào ngôi nhà có vườn hoa cây cảnh um tùm phía trước, hắn chợt thốt lên một câu tục tĩu: “Mẹ kiếp! Thế đếch nào lại gặp thằng chó chết ở đây!”. Thốt lên như thế và hắn nhanh chóng lùi xe ra xa rồi mới dám nổ máy, phóng đi như một kẻ chạy trốn.

Dọc đường về nhà, hắn chán ngán luôn miệng văng tục chửi đổng một mình. Hắn lo sẽ giải thích với mụ vợ lắm điều thế nào đây? Trước mắt hắn lại hiện ra cái mặt của “thằng chó chết” mà hắn chửi tục lúc nãy. Hắn lẩm bẩm: “Năm nay làm sao nó lại mò về đây cơ chứ? Tại sao mình không hỏi Tuân trước nhỉ?”.

Mặc dù rất rối trí, rất tẽn tò khi sẽ phải đối mặt với mụ vợ ở nhà, hắn vẫn không quên được một mảnh hồi ức màu đen mà bấy lâu nay hắn thấy không đáng nhớ

Làng động

Cái thời toàn ăn dong riềng, sắn lát;

thịt

cá chỉ đến giỗ tết mới có. Chị tôi lấy chồng rồi mà thỉnh thoảng trốn về nhà vét cơm nguội ăn thêm. Sau khá dần, đẻ ba đứa con gái, anh có buồn nhưng chưa hề quát mắng vợ. Đường mở, nhà ra mặt tiền. Đang yên đang lành, tham bát bỏ mâm, chị mở quán karaoke ngay trong nhà mình, nên nỗi mất chồng, mất nhà.

Tôi lớn lên đã thấy đất làng nâu sậm, đồng cỏ bên đầm Cò mênh mông. Cây gạo gai đầu làng già khụ khị bung hoa đỏ cháy trời tháng ba. Sáng sáng, dê từng đàn đeo lục lạc đinh đinh, đang đang... leo qua eo Bát vào thung Dâu ăn cỏ.

Minh họa của Thành Chương

Chiều chiều, khi mặt trời gác núi, thợ sơn tràng ra khỏi cửa rừng, đàn bà trên đồng Cỏ rủ nhau lũ lượt quẩy quang gánh về nhà. Người đi sau, trâu đi trước rồi í ới gọi nhau sà xuống đầm Cò tắm. Làng Sơn Hạ mấy chục năm không có đàn bà chửa hoang, chẳng có chuyện em cãi lại anh, chồng phụ vợ. Một nhà có đám tang là cả làng cùng đến viếng, một đám giỗ tổ là cả họ đến làm cỗ cúng và chia phần... Làng tôi bình an, trong trẻo đến vô cùng. Vậy mà đột nhiên, xới tung, lộn nhào tất cả...

Mạn cuối đường lên eo Bát, người ta đang làm những mét đường nhựa cuối cùng. Một đám đông đứng ngồi lố nhố ở cống Bến Võ. Thì ra là những người làm thuê đang tụ tập tán phét, chờ việc. Ế ẩm quá. Đang lúc nông nhàn, ít việc, họ chầu chực từ sáng sớm đến nửa buổi sáng, không có người đến thuê làm thì tản đi, ai về nhà nấy. Cái giống người đi làm thuê bao nhiêu năm rồi mất tiệt, bây giờ lại có. Đập ải, làm chuồng lợn, lợp lại mái bếp hay khuân vác, phụ xe chở hàng đặc sản lên thị xã... toàn những việc cần lao động chân tay. Một người đàn ông chụp cái nón mê chạy cùn cụt trên đường. Cả đám đàn ông làm thuê láo nháo nhỏm hẳn dậy nhìn, chỉ trỏ và xì xầm tưởng người đến thuê làm. Tôi nhận ra chú Dõng và chào. Chú hổn hển thở cả ra hai lỗ tai, nói:

- Anh về rồi sẽ biết. Cả làng, người ta đang ầm lên. Nó chửa với cái thằng quản lý nhà nghỉ ở đầm Cò. Con Đào nhà này làm tiếp viên ở đó, ham tiền tối mắt lại, mắc bẫy. Tiên sư cái thằng “Sở Khanh” ấy, làm con người ta ễnh bụng lên rồi chạy làng. Vậy mà con Đào giấu. Giờ đang làm “cô vắc”, cho đẻ non trên bệnh viện huyện. Thất đức quá!...

Chú Dõng đấm ngực bình bịch, cứ như tại chú mà nên nông nỗi này. Con dại cái mang. Đứa con hư hỏng có khi tại hoàn cảnh, nhưng lỗi bố mẹ là không giữ gìn, dạy dỗ đến nơi đến chốn. Con gái càng phải dạy, càng phải lo lắng giữ gìn. Thời buổi này thả con gái ra khỏi nhà mà chưa có sự chuẩn bị trước hành trang vào trường đời, rất gay. Cái môi trường mới ở làng đã tấn công vào nhà chú Dõng trước. Con gái chú bị gục ngã đầu tiên chăng?

Toàn những chuyện động làng. Bắt đầu bằng sự kiện người ta làm đường từ thị xã qua làng, men theo bờ đầm Cò đến núi Ngọc, núi Vàng vào hang Dơi... Cùng với đầm Cò, người ta chọn cả hang Dơi làm thành một khu du lịch sinh thái. Đường lớn mở về, người thành thị đổ đến. Ban ngày, người nước ngoài khoác “balô bụi” đi lông nhông ở đường làng, ban đêm họ mắc võng nằm ngủ ngay trên bờ đầm Cò... Làn gió kinh tế thị trường cứ tưởng chỉ tung hoành ở chốn thị thành, nay cũng đã thổi tới làng tôi...

Chị tôi lấy chồng ở cuối làng. Nhà chị mở quán hát karaoke, bây giờ đã sang tên cho anh Bé “lặc”. Bên kia đường, trước đây là cái cửa hàng mậu dịch quốc doanh, chuyên bán tạp hóa, khăn mặt, dầu hỏa, kim chỉ, mắm muối... Nhiều khi hàng hóa hết, chẳng ma nào dòm đến, mấy cô mậu dịch viên suốt ngày ngồi ngáp ngủ với mấy thứ “hàng mẫu không bán”. Bây giờ, thêm quầy bưu điện, nhiều kiốt bán phân bón, ximăng, sắt thép, chiều tối người ta đem rau cỏ,thịtlợn ra bán,... trông có vẻ vừa giống thị tứ vừa giống phố chợ. 

Mải nghĩ, ngẩng lên bỗng thấy anh Bé “lặc” đang chống cây gậy, đứng lù lù trước mặt. Anh Bé “lặc” bị thọt một chân từ nhỏ, đi lại phải chống gậy. Chân lành đỡ toàn thân bước, chân thọt mỗi bước phải khoành ra lặc một cái chạm đất gọi là. Tôi thăm hỏi, nói chuyện với anh Bé “lặc” mà lòng dạ cứ để đâu đâu

Gốc quê

Ngày còn công tác, ông Công ít khi về làng. Bận công việc cũng có. Ngài ngại những lời trầm trồ cũng có. Nếu có về ông cũng chỉ loáng thoáng đây đó một tí rồi lại quanh quẩn bên vợ con. Về nhà là thăm nhà, lo việc nhà. Có lần xã thôn mời ông ra nói chuyện thời sự, chuyện xã hội, ông lắc đầu quầy quậy. Chuyện này đã có các anh chuyên môn trên huyện, trên tỉnh chỉ đạo và triển khai.

Ông không dám múa rìu qua mắt thợ. Ông bị trách là người tận trên trung ương mà không sành hết việc thiên hạ là quan liêu, hoặc giả  là coi thường nơi chôn nhau cắt rốn. Dân làng có uy tín ông, có vẻ vang tự hào về ông mới có những lời mời ấy. Ông nhăn mặt, lắc đầu, ngậm bồ hòn làm ngọt thanh minh rằng nghề của ông là nghề đánh án nên không sâu sắc về những chuyện kia lắm, đành phải có lỗi với bà con vậy chứ đâu dám có những điều như bà con nghĩ... Còn chuyện đánh kẻ xấu, diệt đứa ác thì ông có hàng tệp hồ sơ nhưng kể ra với mọi người liệu có hay ho gì khi làng xóm đang trên ấm dưới êm như thế này!

- Cháu chào cụ ạ!

- Không dám. Ông Đại tá về chơi! Hôm rồi thấy ông Đại tá trên truyền hình cả làng mình ai cũng nức nở!

- Cụ ơi cháu là Công, Công có vợ tên là Mái đây ạ!

- Vưỡn! Vinh dự lắm lắm! Lúc nào rảnh mời ông Đại tá qua nhà tôi chơi xơi nước!

- Dạ, cháu đa tạ cụ! Cụ cứ nói thế cháu ngại lắm ạ!

- Có gì khuất tất đâu mà ngại. Ông không là đại tá thì ai là đại tá ở cái làng này? Tôi thưa vậy không phải ư?

- Dạ... không dám ạ! Xin cụ cứ gọi con là Công cho nó thân tình ạ! Cổ nhân mình đã dạy hết quan hoàn dân mà thưa cụ!

- Hừ hừ... ông đáo để thật!

Ai vênh vác chứ như ông Công thì lúc nào cũng như lúc nào. Mặc sắc phục cũng như không mặc. Ông và một số người như ông có là ít đi nữa thì cũng là gì so với số đông đâu. Làm nhỏ, làm to hay là gì gì cũng chỉ là người của một giai đoạn, của một thời. Bà con mình, quê hương làng xóm mình mới là mãi mãi.

Cũng chính vì thế mà mỗi lần về quê dự lễ tổ, khi anh em họ hàng xúm đến hỏi, ông Công chỉ cười trừ. Có người bảo ông dại. Nhiều chức nhiều quyền thế không biết khoe chỉ có thiệt. Mình là người có thương hiệu hẳn hoi cơ mà. Mặc áo gấm có cân đai đàng hoàng chứ có phải vá chằng vá đụp đâu mà sợ. Cứ  ngang nhiên ban ngày mà bước, việc quái gì cứ phải đi đêm. Ông đâu có đi đêm nhưng phải đi ngày kiểu đó ông không bao giờ muốn!

Ruột

thịt

mỗi người một lời, một ý. Toàn là ý kiến của các bậc bề trên của ông Công cả, nhưng lời lẽ xem ra cũng dè dặt giữ ý trước người làm to. Tịnh không một người lớp dưới dám hỏi ông cho dù về mặt cốt nhục rất gần gũi. Họ nể và họ sợ nên cứ từ xa mà đứng nhìn. Nghĩ vậy ông thấy lo cho chính mình!

Chuyện đối đáp qua lại của anh em nhà ông Công ở sân nhà thờ họ một lần có lễ trọng là thế này. 

- Quần áo Công an đâu chú không mặc lại đi mặc sơ-vin thế này...?

- Em về làng kia mà bác...

- Chính thế. Về làng mình kia mà. Cả họ nhà ta mới có chú làm đến đại tá mà lại là Đại tá Công an hẳn hoi. Chú không mặc thì ai mặc! Người hoạt động trong ngành tình báo phản gián kia mà. Lại cả hình sự nữa. Oách lắm chứ. Công hôm nay đã khác Công ngày xưa nhiều rồi. Chú không muốn thấy thì chúng tôi phải thấy...

- Sao khác được ạ. Công lúc nào cũng là Công. Em lúc nào cũng là em của các bác. Tá úy là ở chỗ làm việc. Nơi này tá úy với ai ạ...

- Thì ít ra chú cũng phải mặc vào cho chúng tôi có chỗ mà tự hào, có chỗ mà nói chuyện chứ... Loanh quanh mãi. Lần sau về là phải diện bộ quần áo cấp tá vào cho cả họ mừng đấy. Lần sau chú về thể nào họ cũng đón cả thợ ảnh với thợ quay camêra về quay nữa. Thiên hạ chơi sang mình cũng phải biết chơi sang.

Thử hỏi cả cái xứ này đã có họ nào có người làm đến Đại tá Công an chưa? Chú nên vì cả họ mình mà làm. Chú phải biết rằng trước khi chú là người của đất nước thì chú đã là người của làng. Cụ thể hơn là người của cái họ này. Chi tiết hơn nữa là người chung cụ nội với tôi...

Ngài Đại tá Công an của làng là thế đấy. Ông chẳng bao giờ chịu phô mình trước dân làng. Với mọi người trong họ cũng như ngoài làng ông lúc nào cũng củ mỉ cù mì như củ khoai, khúc sắn.

Câu cửa miệng quen thuộc dù là ở đâu, nơi làng xóm hay chốn công sở của ông Công bao giờ cũng là "Quan nhất thời dân vạn đại".

Hôm ông Công về nghỉ, cơ quan cho hẳn một chuyến xe con, loại xe Nhật sang trọng, ông chối đây đẩy, mãi sau thủ trưởng cấp trên nói như ra lệnh, ông mới bằng lòng.

Chiếc xe oai vệ đó chỉ đưa được ông đến chỗ đường cái nhựa có lối sỏi nhẵn mịn dẫn về làng là ông nhất quyết đòi xuống.

Cậu lái xe trẻ càu nhàu một cách cung kính:

- Bố làm thế là chết con.

Ông Công thân tình:

- Mày cứ nói đây là nguyện vọng của tao.

- Ai người ta tin con cơ chứ?

- Có gì mà không tin...

Cậu lái xe giãi bày:

- Thôi ạ! Có phải ai cũng như bố đâu. Anh em lại bảo con ngại, con lười, con tìm cách đẩy bố xuống đường. Con là đứa không có trước có sau!

Ông Công cười thành tiếng:

- Mày nói như tao là ngố không bằng.

- Thế thì bố phải nghe con.

- Nhưng đây là theo sự chỉ đạo tự nguyện của chú Công cơ mà.

Cậu lái xe lắc đầu khổ sở:

- Chú Công ơi, chú thông cảm cho cháu. Cháu còn có người to hơn chú chỉ đạo cháu nữa kia. Để chú phải đi bộ hàng mấy cây số từ đây về làng là cháu dễ bị kỷ luật như chơi...

Ông Công mách nước cho cậu lái xe:

- Cháu cứ nói là đường xấu xe không vào được.

- Khổ quá. Cụ không hiểu là loại xe này đi được trong mọi hoàn cảnh à? Cụ mà bỏ xe xuống đi bộ là con cho xe bò theo cụ đấy.

- Chớ chớ...

- Con cứ đấy...

- Thôi thế này vậy. Mày đi cùng chú. Đi bộ thôi. Con mang chiếc xe ra chỗ cái quán có cây muỗm kia kìa, con gửi cho chú. Xe công an người ta không dám đụng vào đâu, đừng ngại.

- Sao phải thế ạ?

- Lệnh đấy. Lý do nói sau. Nhanh lên. Cho hành lí của chú xuống rồi quay về đây mang giúp chú. Hôm nay chú sẽ bảo cô ấy chiêu đãi thằng cháu một bữa

thịt

chóluộc đặc sản của làng ăn ngon quên chết.

Cậu lái xe phải làm theo ý ông Công, tuy trong bụng vẫn ăm ắp nỗi bực dọc, khó chịu. Thậm chí cậu ta còn nghĩ dại về ông là chưa kịp lĩnh sổ hưu chính thức mà đã dở chứng.

"Ai cấm được lính nghĩ về thủ trưởng của mình thế nào. Nghĩ tốt thì được nhờ, nghĩ dở thì phải chịu".

Ông Công đọc được nét bi hài ở cái khuôn mặt trẻ trung ấy. Cho dù cậu ta có cho mình là điên dại đi nữa thì ông vẫn phải làm theo cái ý của mình. Mà cái ý của ông lại trùng với cái lý của làng.

Đất lề quê thói.

Đi đâu thì đi, sống ở đâu thì sống, ông luôn luôn phải dựa vào câu ấy để nuôi mình trong công việc chung cũng như công việc riêng. Trong cơ quan ông có đồng đội. Về với dân ông có lòng người.

Không có gì là thiệt cả khi ta được ở giữa mọi người.

Cậu lái xe đi bộ quay trở lại, ông Công đã rút sẵn điếu thuốc ra khỏi bao vui vẻ nói với người mà ông hay gọi là thằng cháu:

- Mời cu cháu điếu thuốc lá thơm mừng cho chú hạ cánh an toàn về làm lại thảo dân.

- Cháu xin chú...

- Cầm luôn cả bao cho tiện.

- Cháu cám ơn chú.

Nhìn cậu lái xe trẻ hút điếu thuốc một cách ngon lành bên đống đồ đạc sắp phải mang vác ông biết là nó đã nguội cơn bực tức rồi. Đến lúc này ông mới bá vai người lính trẻ, trầm giọng nói:

- Chắc cu cháu bực ông chú lắm thì phải?

- Dạ... không ạ!

- Mày... lại còn giấu...

Cậu lái xe xúc động:

- Lâu rồi con coi cụ như cha con ở nhà.

- Chú biết chứ. Phải xa chúng mày tao nhớ lắm. Nhưng cơ quan của nhà nước đâu phải là cái giường cái ghế của nhà mình mà tìm cách ngơi nghỉ cho đến hết đời. Ai cũng đến lúc phải về. Đến tuổi là phải về. Nên về...

Ngừng lời chốc lát ông Công nói tiếp:

- Ngày chú ra đi là con dân của làng, ngày chú trở về cũng phải là con dân của làng.

Ngưng lời chốc lát ông Công chầm chậm nói tiếp:

- Để chú kể cho cháu nghe câu chuyện này của làng chú...

Mặt ông Công tự nhiên nghiêm trang lại. Giọng ông có vẻ ấm trầm hơn. Tiếng ông như muốn lắng xuống.

Câu chuyện của ông kể có vẻ rất xa xăm mà lại như gần gũi. Gương mặt người lính trẻ công an mang quân hàm trung úy như bị hút vào câu chuyện của ông...

Làng ông ngày xưa có một hôm được lệnh của huyện quan sức là phải chuẩn bị cờ trống đón rước quan Thượng trên tỉnh về thăm quê. Lệnh như vậy là nghiêm và quan trọng lắm.

Chức dịch làng rối rít việc chuẩn bị đón quan.

Cổng chào bằng lá dừa được dựng lên ở phía đường quan về làng.

Trẻ con được huy động ra quét ngõ. Phân lợn, phânchó

bậy bạ đây đó được dọn sạch. Cờ hội giữa sân đình được dựng lên. Cả làng nhộn nhịp như vào đám...

Chỗ cổng chào thì...

- Cho thêm lá dừa vào. Chỗ cổng nhỏ hai bên ấy phải xén tỉa cho cẩn thận...

- Ông ơi... Chỉ quan ông về hay cả quan bà ạ?

- Tao có là quan đâu mà tao biết.

- Cái bà cụ Thĩm thế mà sướng. Quanh năm cúi mặt với ao rau muống mà có con làm đến quan Thượng...

- Bà cụ cũng lạ. Nghe nói quan ngài xin được đón cụ lên tỉnh lên phủ mà cụ bảo tao tương cà mắm muối quen rồi. Mày làm quan chứ mẹ có làm quan đâu mà mẹ đi. Quan nói mẹ vất vả nuôi con giờ đến lúc hưởng lộc. Bà cụ chửi yêu quan: "Cái con mẹ anh, tôi nuôi con làm quan để giúp dân chứ có phải để kiếm lợi từ quan đâu". Mẹ quan thế mới là mẹ chứ...

- Đúng là dại...

- Dại chán ra đấy. Bà cụ khôn thì có. Của nả ăn mãi rồi cũng hết. Mà già rồi thì ăn được bao nhiêu. Phúc đức thì để đến muôn đời cũng chả bao giờ cạn.

Trong đám trẻ dọn phân rơi, phân vãi thì...

- Đám cứt chó này là cứt

chó

của nhà cu Chít nhá. Ông đếch dọn cho mày đâu.

- Không phải. Con Mực nhà tao ốm, bị xích mấy hôm nay rồi. Đây đích thị là đống cứt

chó

của con Vàng nhà ông lý trưởng. Sớm nay nó ị tao nhìn thấy mà...

- Ôi thế thì phải dọn thôi. Chả nhẽ bắt ông ấy ra dọn...

- Ông ấy có dọn khối ra đấy. Bố tao bảo chỉ có dân là phải dọn thôi. Các quan mình là hay yếu bụng mà...

Trong sân Văn Chỉ, mấy anh chàng tuần đinh đang vuốt vuốt lại cái võng đào đã cũ chuyên dùng đi đón quan xưa nay của làng, tán vui...

- Cứ mang cái chõng tre ra buộc thêm cáng vào khiêng ngài có khi lại mát lưng hơn dính thân vào cái võng gai nhiều.

- Chả cần phải nhiêu khê như thế. Cứ mỗi đứa ghé vai cõng ngài một quãng có khi lại đỡ tốn võng, tốn cáng...

- Lèo ồi...

Có tiếng người từ ngoài sân Văn Chỉ đi vào:

- Không phải võng cáng gì cả.

- Chúng con lạy cụ ạ.

- Không dám. Tôi có lời chào các ông Trương, cậu Trương. Chư vị đi làm việc làng đi thôi. Thằng Ba nhà tôi nó về từ tối hôm qua rồi. Hai thầy trò đi xe ngựa xuống chỗ đường cái quan rồi đi tắt về làng.

Bà cụ xua tay như có ý bảo mọi người thôi làm việc này và nói tiếp:

- Gớm đã mệnh hệ gì đâu. Mới nhức đầu sổ mũi tí tẹo mà đã vội xin nghỉ việc nước về hầu mẹ. Lại làm phiền đến làng đến xóm nữa. Chỉ chiều nay cho ăn xong bữa cơm là tôi đuổi nó đi thôi...

Nói rồi bà cụ quay về…

Lát sau ở trên đường cái quan chỗ rẽ về làng có bà quan Thượng vì bận troong nom cửa hàng ở phố, hôm nay giờ mới về thăm mẹ chồng ốm được. Bà đứng đó như chờ. Xe ngựa chỉ chở bà quan đến được đấy.

- Nhỏ...

- Bà dạy gì con ạ.

- Mày đã nhắn tuần đinh ra võng bà về chưa?

- Bẩm bà... con đã nói từ lúc nãy kia ạ.

- Vậy mà chưa thấy. Sao mà lâu thế!

- Có ngay đây ạ..

Hai tay tuần đinh khiêng võng hớt hải từ xa chạy tới.

Họ vừa thở vừa nói...

Bà Thượng chau mày mắng:

- Gì mà chậm như rùa thế?

- Bẩm bà... Bà tha tội...

Bà Thượng vừa ghé đít vào võng thì giật mình bởi một tiếng quen quen từ đâu vang vang:

- Khoan...

- Ơ...

Một người từ đám bụi rậm ven đường đi lên.

Bà Thượng giật mình khi nhìn thấy chồng.

Ông Thượng nhẹ nhàng bảo vợ:

- Mợ xuống võng đi rồi theo tôi đi bộ về làng. Trước nay các cụ làng mình chưa có lệ này bao giờ. Kể cả quan Trạng ở kinh về, vợ chồng cũng phải đi bộ từ ngoài cánh đồng vào. Đất lề quê thói. Ai to hơn cái nơi sinh ra mình được. Mấy anh lý dịch làng này hỏng quá. Đã nói là các cụ truyền dạy rồi mà vẫn tự tiện làm. Các anh không coi ai ra gì à? Ô hay... mấy chú tuần đinh này...

- Bẩm quan...

- Nghe tôi hay là nghe vợ tôi nào. Mình là người làng với nhau cả. Ta cùng đi bộ về thôi mợ. Bà sáng nay còn nhắc con vợ thằng Ba đấy...

Thế là quan ông quan bà bên nhau đi bộ về làng. Lẽo đẽo theo sau là mấy anh lý dịch trong làng mặt cúi gầm lúi húi bước.

...

Ông Công dừng lời nhưng tay vẫn để trên vai người chiến sĩ trẻ:

- Đấy... chuyện có thật của làng chú được nghe ông mình kể lại đấy. Cháu nghĩ xem...

Mặt cậu lái xe rạng ra:

- Thôi bố... Con hiểu rồi. Ta về làng đi. Bố để cái valy kia con xách cho. Bố đeo giúp con cái ba lô cóc này...

Chuyến hưu quan về lại làng của ông Công là vậy đấy.

Nhưng chưa phải đã hết đâu.

Nghe nói mấy ông anh trong họ còn huy động con cháu quần là áo lượt ôm hoa ra tận cổng làng đón nhưng đón hụt. Sau đó mọi người hể hả kéo nhau đến nhà ông Công chơi và "phê" cho ông một trận. Chả là, học tập ông quan Thượng xưa, thầy trò ông Công đã tìm lối tắt qua ruộng để về nhà, phải lúc lâu sau mọi người mới biết chuyện!

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro