truyện ngắn-lenghiabk05

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

ĐƯỜNG ĐẾN CÕI SA-MA-ĐI

Trở lại với ả ư? Không đời nào. Nếu bảo tôi là tiểu nhân, hay thù dai, hay là gì nữa, tôi chịu. Nhưng tôi không thể cao cả với kẻ đã biến tôi thành tàn phế.

Tôi căm ả. Chỉ cần thấy bóng dáng hay nghe giọng ả là tôi muốn rủa. Thứ ác! Tàn kiếp ngươi cũng chẳng với tới cái cõi ấy. Đừng hòng cái lão già ngươi hôn chân trong bức ảnh trên tường nhảy ra giúp được. Sa-ma-đi! Hãy cứ mơ đi. Haha! Tôi mắc cười. Cứ ngồi khoanh chân nhắm mắt đánh vật với mớ ý tưởng lăng xăng rủng roảng trong đầu. Cứ uốn vặn thân thể, gò ép tứ chi vào những tư thế trái tự nhiên.

Hãy cứ mơ. Sa-ma-đi!

Tôi nhớ hôm ả xuất hiện trong tòa nhà khổng lồ nơi người ta giam giữ bọn tôi để chờ ngày hành quyết. Lúc ả dừng lại chỗ tôi, tôi gắng mọi cách để thuyết phục ả rằng tôi, chứ không ai khác, là kẻ xứng đáng được chọn. Bộ dạng. ánh mắt. Lời cầu. Nụ hôn kính cẩn chạm trên bàn tay ả. Phải nói chưa bao giờ tôi hạ mình thống thiết đến vậy. ả nộp tiền chuộc tôi ra. Đám tử tù chung quanh gật gù, bảo số tôi may. Lũ khờ! Tôi thầm bĩu môi. May con khỉ mốc. Tôi có cả thảy chín cuộc đời, bao nhiêu năm lay lất bươn chải, tiêu tan hết bảy hay tám rồi, còn mỗi mạng tôi không muốn bị thiêu sống trong lò ga với hàng trăm kẻ xấu số khác. May rủi do mình. Chẳng phải sự hiểu biết và đáp ứng nhu cầu của đối phương đã quyết định mạng số tôi lần này sao? Tôi vênh váo nhìn lũ bạn buồn bã chúc mừng tôi.

Ngờ đâu, thoát khỏi án tử hình tập thể, tôi lại bị tống vào ngục giam khác.

Chính ả, người đàn bà tôi lầm tưởng là vị cứu tinh, nhốt tôi trong căn nhà hai tầng tráng lệ. Gia đình cai ngục mới gồm có: ả, chồng, con gái, và thằng chó lông vàng lấc cấc. Của đáng tội, cái thằng chó xuẩn ngốc này, cũng như con gái ả - thứ nhãi ranh vắt mũi chưa sạch, tôi không chấp. Còn lão chồng luật sư nghiện rượu, công bằng mà nói, không làm gì đến nổi tôi phải ghét, chưa kể hắn lại thỉnh thoảng thí cho tôi khi hộp cá mòi, khi mấy lát thịt bò tươi, nhưng tôi luôn nhắc mình phải cảnh giác. Đã từng vào tù ra khám, tôi lạ gì. Bọn cai ngục có chung thứ máu. ác. Điên.

Giờ thuật lại tôi vẫn còn ức. Hôm ra khỏi nhà tù khổng lồ ấy, ả chở tôi thẳng đến nơi hành hình. ả bảo rằng tôi phải sửa đổi, rằng đã đến lúc tôi phải trở thành một gã trai đứng đắn. Nghĩa là phải đi giải quyết cái chuyện cần thiết ấy. Vì lợi ích của môi trường, vì tuổi thọ của tôi nữa. “Bao nhiêu năm nhăng nhít cũng đã rồi còn gì!” ả cười nhả nhớt. ả nói lẽ ra tôi phải làm chuyện này mấy năm về trước. Hơi trễ, nhưng còn hơn không. Tôi rụng rời, nghĩ đến cách chạy trốn khi xe dừng lại. “Đừng sợ. Họ có thuốc gây mê,” ả trấn an, như đọc được ý tôi. Xoay sang chuyện khác, ả bảo ả rất phấn khởi vì từ nay có thêm tôi là bạn. ở khắp chốn trên mặt đất này, biết bao phụ nữ đã nghiệm ra chân lý: không chồng không sao nhưng thiếu bạn thì cả là vấn đề, ả nói và thở dài. Mủi lòng cảm thông với vị ân nhân đã đưa mình ra khỏi cõi chết, tôi dẹp ngay ý định bỏ trốn.

ả bỏ tôi lại trong một căn phòng ngợp thứ mùi kinh dị tôi chưa từng ngửi thấy. Có một người đàn ông và người đàn bà mặc áo choàng trắng, đeo kính và găng tay. Họ ríu rít chào đón tôi, và cũng như ả, họ gọi tôi là bạn. Đêm ấy họ tiêm một thứ chất lỏng vào trong tĩnh mạch làm tôi ngủ say như chết. Thế là họ cắt bỏ hai tinh hoàn tôi. Đó là chuyện cần thiết, ả đã báo trước. Nhưng thật bất ngờ và khủng khiếp, họ chặt luôn mười đầu ngón tay tôi.

Sáng hôm sau ả quay lại. ả moi tiền trong ví đưa cho những người tùng xẻo xương thịt tôi. ả còn rối lên cảm ơn họ.

Tôi tức tưởi ngoảnh mặt. Bạn mà vậy, hỏi ai cần kẻ thù nữa?

*

ả đưa tôi về, nhốt trong một cái cũi nhựa cạnh chân cầu thang dẫn xuống tầng dưới, hằng ngày mở khóa rửa vết thương, thay băng. Chỗ thiến không sao, ơn Trời, nhưng mười đầu ngón tay tôi nhiễm trùng sưng tấy. Tôi đau, không thiết ăn uống. ả bưng đến cái chén đựng một đống hạt màu nâu xám tròn đều y như cứt thỏ, bảo tôi ăn. Lần nào tôi cũng hất đổ. Con gái ả và thằng chó chuyên lon ton bám váy ả tò mò ngó tôi, tôi càng nổi sung. Một lần chờ khi ả nhét thuốc vào miệng tôi, tôi cắn nghiến tay ả. ả rú như bị cắt cổ. Con gái ả sợ khóc ầm lên. Thằng chó không hiểu cơ sự cũng hùa theo sủa. Tôi cười khẩy. Một ngón tay rướm máu, thấm gì với mười đầu ngón bị chặt đứt? ả hoảng không dám rớ đến tôi nữa. Thứ hung tợn. Hôm mới gặp tưởng đâu dễ dạy. ả lầm bầm, đòi đem trả tôi về lại Hiệp Hội Mèo Hoang Thành Phố. Cho nó vào hỏa lò với họ hàng bè bạn nó luôn thể. Chồng ả cản. ả giao luôn cho hắn việc chăm sóc vết thương cho tôi. Hắn khôn, đem cá hộp và thịt bò bằm thơm lựng dụ tôi. Tôi không cắn hắn. Được đâu một tuần, hắn thả tôi ra khỏi cũi. Tôi hết nhảy lên nóc tủ lạnh lại chui trốn dưới gầm giường, không cho ai lại gần. Tin sao nổi bọn cai ngục vừa ác vừa điên. Tôi làm gì nên tội mà sửa đổi tôi, cắt xẻo tôi, làm què cụt tôi?

*

Vợ chồng ả cãi nhau.

Chồng ả bảo thiến tôi đã là dã man, nhưng cưa đứt mười đốt ngón tay tôi vì một mảnh đồ gỗ thì quả là vô nhân đạo.

“May đây là Canada, ở châu Âu chắc phải ra hầu tòa.

“Lại đem luật pháp ra hù dọa.Tội danh gì?

“Bạo hành. Gây thương tật cho kẻ yếm thế.

“Đó chỉ là một phẫu thuật nhỏ như thiến hoạn…

“Bác sĩ thú y… lũ bịp. Rút móng mèo nào phải đơn giản như các bà đi cắt sửa móng tay. Chặt phăng mười đốt ngón mà hô là phẫu thuật nhỏ…

Tôi vểnh tai nghe chồng ả giải thích sự khác nhau giữa vuốt mèo và móng tay người. Vuốt mèo dính liền vào xương nên khi cắt bỏ móng, phải cưa bỏ đoạn xương cuối.Tương đương cắt đốt thứ ba ở ngón tay người. Mười cuộc cắt bỏ riêng lẻ!

Hóa ra hắn cũng có chút hiểu biết về giải phẫu sinh lý cơ thể tôi. Tôi muốn bổ sung rằng mười ngón tay của tôi còn sử dụng để đi cùng với hai chân nữa. Hơn nữa, Trời sinh tôi ra là bước đi trên các ngón. Giờ ngón cụt rồi, làm sao tôi có thể đi đứng chạy nhảy bình thường được? Con chó của họ cào trầy cánh cửa, con gái họ vẽ bậy lên tường, sao ả không cắt ngón tay chúng. Thật vô lý và độc ác khi bắt tôi phải trải qua phẫu thuật đau đớn và mang thương tật suốt đời.

“Sợ nó làm hỏng bộ sa-lông thì mua cái cột quấn giấy nhám cho nó mài móng vuốt, hoặc phun nước có hương chua, hoặc cắt bớt móng. Mèo là động vật săn mồi, bản năng tự nhiên của nó là cào cấu, cắn xé, leo trèo, đuổi bắt, rình, vồ…

“Một người nghiện rượu không có tư cách lên lớp về cách đối xử với một con vật. Tôi biết tôi đang làm gì”. ả cao giọng, rồi chuyển sang chuyện ly hôn và quyền nuôi con. Từ hôm mới đến tôi đã nghe hai người cãi nhau chuyện này. ả dùng đứa con để bắt chẹt hắn trong việc phân chia tài sản.

Hắn ngậm tăm. Đến lượt ả nói. Tôi khập khiệng đi xuống tầng hầm, mặc cho vợ chồng ả xâu xé nhau. Hắn giành làm chi đứa con, tôi thấy nó có tình cảm gì với hắn đâu. Nó còn hùa theo mẹ buông ra những lời hỗn hào với bố. Tôi mà là hắn, tôi sẵn sàng chi tiền để cho hai mẹ con ả xéo đi cho khuất mắt. Con ranh con ấy, tôi không ưa chút nào, hễ thấy tôi lên đến nhà trên là xông tới kéo đuôi chọc ghẹo. Thể nào cũng có lúc tôi cắn cụt ngón tay cho nó chừa.

Từ hôm vết thương lành, tôi không còn chế độ ăn uống đặc biệt nữa. ả lại bỏ vào tô cho tôi những hạt nâu xám tròn như cứt thỏ. Vừa cứng vừa khô, vô vị vô mùi. Vậy mà thằng chó không chút sĩ diện cứ lởn vởn canh chừng, chờ tôi chê là vục mặt vào tô nhai rau ráu. Xơi sạch rồi vẫn còn liếm mép thòm thèm. Tôi chỉ biết lắc đầu khinh bỉ. Con người không hiểu tại sao mèo không ưa chó. Ưa sao nổi thứ vô liêm sỉ, tham ăn tục uống, hèn nhát, nịnh bợ, và to mồm.

 Đến bao giờ tôi mới được trở về với thế giới tự do bên ngoài? Hy vọng trốn thoát âm ỉ mỗi ngày trong tôi. Nói thực, tôi chẳng còn ham muốn chuyện trăng hoa. Tôi gần như quên khuấy chuyện mất hai tinh hoàn. Những cuộc giao chiến đêm khuya giành giật các ả mèo dâm đãng đã trở thành kỷ niệm. Hai vết cắt còn rõ trên tai tôi là dấu vết của trận đánh nhau đẫm máu vì một ả mèo tơ ở đâu lạc đến lãnh địa của chúng tôi. Bộ lông vàng óng mượt và mùi hương quyến rủ mê hồn! Tôi không cay cú lắm chuyện bị hoạn vì đời tôi đến giờ cũng đã nếm vị ân ái với hơn một trăm ả mèo đủ loại. Nghe nói ở nơi nào đó trên trái đất, để chứng minh sự trinh trắng trước khi lấy chồng, các bé gái phải chịu đựng một cuộc thiến sống. Âm vật bị cắt bỏ và khâu kín lại, chỉ chừa một lỗ nhỏ như đầu tăm để thải những thứ cặn bã ra ngoài. Tính ra tôi còn may mắn hơn. Cả đời tôi chẳng phải chứng minh trinh tiết gì với ai, rồi khi cắt bỏ tinh hoàn, người ta còn gây mê để tôi bớt đớn đau.

Bây giờ tôi chỉ thèm trở ra bên ngoài để rình bắt chim chuột rắn rết. Tôi nhớ ngay trước hôm bị người ta bắt, tôi xử trảm một lúc bốn con chuột nhắt ở trạm xe buýt. Trong căn nhà này chẳng thấy hơi hướng chuột bọ. Tôi quan sát thức ăn của gia đình cai ngục. Nhiều món nhưng mùi kỳ cục. Được mấy miếng bò bít-tết coi bộ hấp dẫn nhưng họ không cho tôi. Đói lả, tôi bèn mục kích những cây kiểng trong nhà. Tôi nhấm nháp mỗi cây vài ba lá cho đỡ nhớ cỏ cây vô tận bên ngoài. Phát hiện tôi ăn cây, ả kêu trời kêu đất. Mấy cây nha-đam bé xíu mới nhú lên trong chậu bị tôi cắn đứt gục. Cả cây xương rồng loại quý hiếm từ Mexico bị tôi xơi luôn mấy nụ hoa sắp nở. Sát thủ của chim chuột và cây trồng. ả rên rỉ. Chồng ả nhún vai. Bản chất của mèo. Không chấp nhận nó thì tìm con thú khác mà nuôi. Thấy trêu ngươi được ả, tôi hả dạ. Tôi dự tính ngày mai lại tấn công một cây khác. Tiếc là không còn móng vuốt, không thì mỗi ngày tôi sẽ làm hỏng một mảnh đồ gỗ, trước tiên là bộ sô pha trong phòng khách, tôi sẽ cào cho nát tương. Vì nó mà tôi thành kẻ tật nguyền, đi đứng loạng choạng. Tôi sẽ phá cho đến khi ả phải thả tôi ra.

Không ngờ chưa kịp thực hiện ý đồ thì tôi đã ói mửa thảm hại ngày hôm sau. Mửa ra hết những hoa lá cây. ả và thằng chó đi dạo về nhìn thấy. ả đang nhăn mặt phàn nàn tôi, thằng chó nhanh nhẩu dọn luôn một đống tôi vừa ói ra trên sàn nhà. ả quát nó. Chồng ả lại nhún vai. Ăn bất cứ cái gì, và không bao giờ no, đó là bản tính của chó. ả bảo chó của ả thì khác, nó không được phép ăn bậy, ả sẽ huấn luyện nó, sửa đổi nó. Tôi cười thầm. Hãy đợi đấy. Với bọn chó, cái gì chẳng là thức ăn. ả không biết mấy lần nó lẻn xuống nhà dưới bươi thùng cứt của tôi ăn bị tôi rượt chí mạng.

Ăn cây kiểng không xong, đói quá tôi đành phải hạ mình, ăn cái thứ mà tôi chê là giống những viên cứt thỏ. ả đắc thắng. ả nói với người ta rằng ả sẽ dần dần thuần hóa được tôi, đưa tôi vào nền nếp sống như một thành viên trong gia đình ả. Mèo già nên khó hơn, mất thời gian hơn. Ai bảo mèo ngu. Do mình dạy thôi. Nó hiểu hết, như người, ả nói và đưa mắt về phía tôi. Đó, nó nằm lim dim mắt nhắm như vậy nhưng nghe hết, biết hết. Nó thành cáo rồi. ả nói và cười khanh khách.

Những ngày sau đó, gia đình cai ngục tra tấn tôi với một búp chỉ len và mấy con thú nhồi bông màu sắc treo toòng teng trên cái giá gỗ. ả chỉ tôi cách chơi. Con gái ả cũng bày đặt giảng giải. Tôi ngoảnh mặt dửng dưng. Lũ điên! Tôi năm nay tám tuổi, tính theo tuổi người tôi tương đương một người đàn ông bốn năm mươi, ngang ngửa tuổi vợ chồng ả, mà còn bắt chơi mấy thứ cho bọn nít ranh. Có lẽ tức giận tôi nên ả bày ra thêm những trò hành hình khác. Quả những tên cai ngục vừa ác vừa điên. ả biết thứ tôi ớn nhất là nước. Thế mà vài ngày một lần ả bỏ tôi vào trong bồn tắm, phun nước đẫm người tôi rồi chà cái chất lỏng sủi bọt gây bỏng rát khắp cơ thể tôi. Tôi lạy lục rên la, ả làm ngơ. Con gái ả còn làm tài khôn dỗ tôi ráng đừng vùng vẫy để mẹ tắm cho sạch. Tôi ngứa cả tai. Ai sạch bằng tôi. Ngày nào tôi không làm vệ sinh thân thể với nước bọt của mình. Tôi đâu có mùi hôi như người và chó. Tắm xong, ả trùm tôi trong chiếc khăn dày muốn ngộp thở. Con gái ả lấy máy sấy và bàn chải tóc ra chải lông cho tôi. ả bảo con mèo của một người bạn của ả biết sử dụng toa-let y như người. ả nói sắp tới ả sẽ thuê chuyên gia huấn luyện tôi không những dùng được bồn cầu mà còn biết giật nước sau khi ỉa xong nữa. Tôi phải là con mèo đẹp nhất, khôn nhất, thông minh nhất, đặc biệt nhất! Có nghĩa biết làm được nhiều thứ giống như người. Tôi nghe mà hoảng vía. Tưởng tượng phải ngồi tênh hênh trên miệng toa-lét làm cái việc rất kín đáo ấy trước mặt ả là tôi thấy không xong rồi. Chưa tính tới nguy cơ té nhào xuống chậu nước nữa. Con gái ả lại còn đòi mua cái mũ và áo khoác cho tôi rồi cột tôi lại để nó dắt đi xin kẹo trong dịp lễ gì đó. Khùng! Tôi lừ mắt muốn vả cho nó một cái vào mặt.

Ngày qua ngày. Hy vọng trốn thoát biến thành tuyệt vọng. Tôi e rằng mình sẽ chết rục trong nhà tù này. Gia đình cai ngục luôn canh chừng cẩn mật. Chuẩn bị ra khỏi cửa là dòm chừng sợ tôi tẩu thoát. Bọn họ nêu hàng loạt lý do tại sao tôi không được phép ra ngoài. Bị mèo chó hàng xóm hiếp đáp. Bị sói trên đồi ăn thịt. Bị xe cán. Bị người ta thuốc. Bị bắt bán cho phòng thí nghiệm. Bị nhiễm những thứ bệnh hiểm nghèo rồi truyền cho người như là bệnh dại, và hàng lô thứ bệnh như là ký sinh trùng đường ruột, ký sinh trùng máu, ký sinh trùng ngoài da, ký sinh trùng lông tóc móng.

Bực nhất là ả bảo phải giữ tôi trong nhà để góp phần bảo vệ môi trường. Tôi biết ý ả là cứu giúp bọn chim muông hoang dã. ả bảo mèo xâm nhập vào thế giới tự nhiên gây thảm họa sinh thái, mỗi năm giết chết mấy trăm triệu chim ở Bắc Mỹ. Các nhà điểu cầm học đều qui tội mèo gây tuyệt giống bao nhiêu thứ chim quý hiếm, và làm suy giảm nghiệm trọng các loài bò sát. Họ yêu cầu các nhà lập pháp ban hành những đạo luật hạn chế hoạt động ngoài trời của mèo, và hoạn thiến mèo để bớt sinh sản. Tôi bó tay. Thiệt không ngoa chút nào khi con người bị tiếng “ăn cây táo rào cây xoan”. Lũ chim không những ăn hại mà còn gieo rắc những bệnh dịch xuyên lục địa, thế mà họ cứ ra sức bảo vệ. Lẽ ra người ta phải cảm ơn chúng tôi đã diệt bọn chuột phá hoại mùa màng cắn phá nhà cửa quần áo tài sản và gây dịch hạch. Còn lũ chim, nghĩ xem, chúng làm được cái gì? Bọn lười và vô dụng ấy chỉ biết có bốn thứ: ăn, ỉa, gây ồn, và làm tình. Tưởng tượng không có mèo, cả địa cầu sẽ bị phủ bởi cứt chim. Và nếu loài chim biến khỏi mặt đất này, không ai còn phải chịu đựng mỗi sáng nghe những âm thanh léo nhéo điếc tai.

Chó vậy mà sướng. Nó biết nịnh hót nên con người quý hóa, ban cho lắm đặc ân. Như thằng chó này, ả về đến nhà là nó tíu tít chồm lên hôn hít bám lấy ả, rồi ả ra lệnh nó lặp đi lặp lại cái trò cũ rích: Mi-lu, ngồi! Nằm xuống! Lăn một vòng! Thằng chó hổn hển làm theo. Tôi nhìn phát ói. Tôi thì còn lâu mới để ả sai khiến như vậy. Thế nhưng ả khoái thằng chó, dắt nó đi chơi mỗi ngày. Còn tôi phải ngồi rục bên cửa sổ ngó ra lũ chim nghênh ngang nhí nhảy trên sân cỏ chan hòa nắng ấm mà xót cho phận mình.

Ngồi chán bên cửa sổ, tôi lại đi loanh quanh trong nhà. Có một nơi tôi hay ghé vào là gian phòng rộng nhất ở góc trong cùng, đối diện buồng ngủ con gái ả. Lúc đầu thằng chó sinh sự đuổi tôi. Tôi dừng lại, trừng mắt, xù lông. Tôi đoán không sai, nó lúng túng cụp đuôi lùi lại. Đồ hèn nhát. Từ đó nó không dám kiếm chuyện với tôi nữa.

Căn phòng luôn bí ẩn với tôi. Tôi hay vào ngắm nghía sờ mó các thứ đồ lạ lẫm. Một góc phòng là nơi bày biện sách thiền, sách yoga, tượng các ông thần bà thánh, nhang, đèn cầy, chuông Tây Tạng, thảm, chăn, dây đai, khối gỗ, gối ôm, đĩa CD, khăn san, quần áo và nữ trang đủ loại. Những sản phẩm hằng năm ả đi ấn Độ tu nghiệp yoga mua về bán lại kiếm lời. Tôi chỉ thích cái gối mỏng bọc gấm mịn màng ả dùng khi ngồi thiền, thật hoàn hảo, tôi có thể cuộn mình trên đó đánh một giấc ngon lành.

Sáng sớm trước khi đi làm, ả luôn vào phòng thắp nhang và ngồi thiền.Tôi cũng hay rón rén vào ngồi thu lu một góc sau lưng ả.  Vẻ mặt hết sức nghiêm trang, ả ngồi khoanh chân trên chiếc gối bọc gấm tôi hay ngủ trên đó, tay thả hai bên, mắt nhắm, bất động một lúc lâu. Cái gì đang thực sự xảy ra trong đầu ả khoảnh khắc ấy, tôi hay tự hỏi. Kế hoạch ly hôn, người chồng nát rượu, những lời báng bổ yoga của hắn, ả có thể xua đuổi được những ý tưởng tạp nham ồn ào ấy không? Làm sao ả điều khiển tâm trí bớt bận rộn, và đưa nó về trạng thái tĩnh lặng như ả giảng cho người khác? Tôi đoán ả đang mơ đến cõi Sa-ma-đi. Chốn ấy có cái gì mà người ta phải cất công kiếm tìm? Nó tồn tại thật không? Nó ở đâu? Làm sao đi tới? Dường như tôi cũng chìm trong không gian yên tĩnh đến vô tận. Tôi không dám gây bất kỳ một tiếng động, sợ ả cấm cửa lần tới.  Tôi ngồi im quan sát ả và những thứ chung quanh. Bàn thờ trước mặt ả có bức tượng đồng một đàn ông nửa trên là người nửa dưới là rắn, với bốn tay người và bảy đầu rắn. Cạnh đó là tấm ảnh phóng lớn Gu-ru-chi, bậc đạo sư người ấn, tóc bạc chễm chệ trên chiếc ghế bọc nhung đỏ nổi bật những hoa văn cầu kỳ thiếp bạc. Trông chẳng khác vua ngồi trên ngai.Thế nhưng chồng ả gọi lão già là con sư tử phương Đông mà mỗi ngày có những con cừu phương Tây đến cửa hang để nạp mạng. Hắn còn  gọi lão già là ông “Pốp”, Đức Giáo Hoàng của ả. Trong một tấm hình nhỏ hơn treo trên tường, lão già ngồi trên ghế, còn ả trong bộ áo saree màu xanh lá cây quỳ rạp người, trán chạm lên đầu ngón chân cái lão. ả có đến sáu tấm chứng chỉ lọng khung trang trọng treo một hàng dài trên bức tường đối diện. ả là một trong số ít ỏi những người dạy yoga trong thành phố được chứng chỉ của lão già nhiều nhất. Tám cuộc hành trình đến tận đất nước ấn Độ, ăn ở vất vả lại còn chịu đựng bao khổ nhục và mắng nhiếc của Gu-ru-chi.

Mỗi lần nhóm đàn bà đến nhà ả tập luyện yoga, tôi hay tò mò hóng chuyện. Bọn họ thường bàn về mỹ phẩm, thời trang, thực phẩm ăn kiêng, về những thứ như khăn choàng lông dê Pashmina, quần bó Lululemon, vi-ta-min Usana, về các ông chồng tầm thường tệ hại không hiểu đời sống tâm linh là gì. Bọn đàn ông là cần phải giáo dục lại, sửa đổi lại. Tôi nghe ả nói. ả bảo nếu có kiếp sau ả cầu được là một nữ tu sống trong một thiền viện trên núi Himalaya để có thể tĩnh tâm trên con đường đến cõi Sa-ma-đi.

Tôi thấy đám đàn bà ngồi lặng thinh, gật gù.

Không còn gì để nói, bọn họ quay sang tôi, khen tôi đẹp, quý phái và thanh lịch. Giống lai giữa mèo Xiêm và mèo Mỹ trông đĩnh đạc ưu tư như một nhà hiền triết. Ai đó tâng bốc tôi. ả không giấu được vẻ tự hào, khoe tôi biết ngồi im lặng thiền cả tiếng đồng hồ với ả. Rồi đám đàn bà lại đua nhau khoe chó của bọn họ. Rồi ai đó trong bọn họ nói đến một nghiên cứu mới tại trường đại học nổi tiếng ở Mỹ. Lại so sánh chó và mèo. Chó thông minh hơn mèo, vì bộ não của chó phát triển hơn mèo.

*

Một buổi sáng gã luật sư nằm không nhúc nhích trên giường. Mấy vỏ chai lăn lóc bên cạnh. Tôi leo lên ngực hắn, đánh thức hắn như thường lệ. Mắt hắn mở trừng trừng, không chớp. Hắn không nhìn tôi. Hắn không đưa tay vỗ lên đầu tôi. Hắn không mỉm cười và nói lời chào buổi sáng với tôi. Bàn tay tật nguyền của tôi đặt lên môi hắn, sờ soạng khắp mặt hắn. Hắn vẫn không động đậy. Tôi kêu. Tôi khẽ khàng gặm cánh tay hắn, lay hắn. Vô ích.

Lần này ả đi ấn Độ hai tháng. Bảy tuần huấn luyện tại học viện của Gu-ru-ji hy vọng nhận thêm một chứng chỉ mới, sau đó theo một nhóm tín đồ Hindu hành hương đến thánh địa Varanasi. Được dầm mình xuống dòng sông Hằng là điều ả muốn thực hiện từ lâu. Con nước thiêng liêng ấy sẽ tẩy uế mọi tội lỗi của con người. Tôi nhớ chồng ả nhún vai khi nghe ả nói. Hắn bảo đó là con sông sình lầy hôi thối đầy rác, cứt, xác động vật và xác người. Có lẽ nó thiêng liêng thật vì bao nhiêu triệu triệu người nhúng mình xuống đó mà vẫn không bị chết vì độc hại. ả xụ mặt.

Trước khi đi, ả đưa con gái và thằng chó sang gửi nhà mẹ ả. ả làm đơn xin tòa bác quyền nuôi con của chồng ả khi ả vắng mặt, với lý do gã uống rượu có thể gây tai nạn khi đưa đón con đi học. Thêm vào đó, đứa con gái cũng không chịu ở nhà với bố. Còn thằng chó, ả phải đưa đi vì sợ tôi và nó sẽ đánh nhau to.

Tôi đợi hắn một lúc, không động tịnh gì. Tôi lò dò lên nhà trên. Tôi vào phòng yoga ngắm nghía đồ đạc, rồi ngủ trên cái gối ả ngồi thiền. Hết ngủ lại nhảy lên cửa sổ ngó ra ngoài. Chán, tôi lại đi xuống tầng dưới, tạt vào phòng hắn, rờ hắn. Hắn nằm bất động, lạnh ngắt, mắt mở trừng trừng nhưng có vẻ như không thấy tôi.Tôi chờ hắn dậy lấy thức ăn cho tôi.

Đã ba ngày. Chuông điện thoại reng liên tục. Hắn không bắt máy. Nhiều lời nhắn để lại. Tôi nằm lả bao lâu cạnh đôi chân giá ngắt của hắn. Tôi đói. Tôi khát.Từ tối qua tôi đã phải uống nước toa-lét. Chợt có tiếng chìa khóa loay hoay ở nhà trên. Tiếng cửa bật mở. Tôi phóng lên cầu thang ngửi ra mùi quen thuộc của ả, của đứa con gái và thằng chó xu nịnh của ả. Con nhãi ranh vồ vập gọi tên tôi và nhào tới rờ rẫm kéo đuôi tôi hỏi tôi hổm rày ở nhà có là “good boy” không. Tôi cáu tiết nhe răng ra dọa. Thằng chó đã không thèm chào hỏi tôi tử tế lại còn gầm gừ kiếm chuyện. Tôi định cho nó bài học, thì nhanh như cắt nó lao xuống chân cầu thang, xộc mõm ngay vào cái hố xí của tôi. Rõ tởm. Nó có phải là thùng bánh qui đâu. Cái gì với mày cũng là thức ăn.Tôi nhào xuống vả liên hồi vào mặt nó. Chẳng ăn thua, móng vuốt sắc nhọn tôi chẳng còn. Tôi giận dữ cắn vào tai nó. Máu tứa ra. Nó thét ăng ẳng như chết tới nơi. “Mi-lu, đồ ngốc, tránh xa cái thùng cứt của con Kít ngay!” ả đứng trên cầu thang quát thằng chó. Nó vừa la vừa chạy lên nhà. Tôi rượt theo. Chúng tôi đuổi nhau vòng quanh phòng khách. ả chí choé bênh thằng chó, nhiếc mắng tôi là hung tợn. Lừa lúc ả mở cửa cho thằng chó ra ngoài đái, tôi tung người phóng theo ra luôn. Ôi, cái không khí tươi mát và mùi nắng gió thân thuộc! Tôi gần như ngộp thở. Cặp vợ chồng chim cổ đỏ đang mải mê cào bới giun trên sân cỏ, không nhìn thấy tôi. Cái ngực và bụng thằng chồng nó mới béo núc óng ả làm sao. Tưởng tượng bộ đồ lòng của nó mà tôi chảy nước dãi. Tôi muốn phóng tới chộp ngay vào gáy nó. Nhưng tôi đâu có thời gian để làm chuyện đó… Kít. Trở vào nhà ngay. Kít…Lạy Chúa. Nó đi mất rồi. Kít. Kít. Tiếng ả gọi thất thanh đằng sau. Tôi chạy biến vào ngỏ hẽm dẫn lên ngọn đồi. Sa-ma-đi. Haha. Cuối cùng thì tôi đã đến nơi. Mỗi mình. Chỉ tiếc là tôi không thể nhìn thấy vẻ mặt ả ra sao khi ả nhìn thấy thằng chồng ả đã chết.

TRƯỢT

Sau mười năm sống như một con gián nem nép trong nhà, hoang mang đến ngẩn ngơ, tưởng    chừng mình đã gục ngã, tôi lại đột ngột vác ba lô lên cao nguyên trốn hết những công việc không dính gì tới văn chương để tiếp nối cái nghiệp viết của mình. Trong tôi đang có sự thay đổi, những ý nghĩ nên viết về bầu trời sương hay viết về giọt sương đã biến mất, giờ tôi chỉ muốn viết sự thật, thật như hơi thở của núi, của cây, của lá, thật như những suy tư đang kéo trĩu “con gián” tôi xuống từng đêm, từng ngày. Tôi ngộ ra một điều đơn giản: Bản thân của các sự thật quanh ta đã thật đáng để viết, bất kể nó là gì. Trong đề cương nộp cho tổ chức sáng tác tôi chỉ ghi vài ý tưởng chứ cũng chưa biết mình sẽ viết gì trong thời gian ở trại, những trang viết của tôi luôn gắn với những bất ngờ, luôn chờ đợi những bất ngờ. Đài truyền hình địa phương đến đặt vấn đề quay một đoạn tư liệu về tôi để giới thiệu trong chương trình văn nghệ, lưỡng lự một chút nhưng tôi cũng nhận lời và mỉm cười với ý nghĩ người ta đang tốn thời gian cho một con gián. Chính cô đạo diễn người dân tộc Chu Ru đã làm cho tôi phải lang thang nhiều lần trên các triền dốc dựng đứng, mờ ảo huyền hoặc và những lùm dã quỳ lấp lóa vàng nâu. Tôi viết gì đây? Vì sao tôi viết? Chất liệu nào sẽ giúp tôi viết những trang sự thật cân đối và đạo đức? Những câu hỏi ấy cứ bám riết vào tôi. Trong buổi phỏng vấn cuối cùng, tôi có ngồi lại trò chuyện với đạo diễn Srí (tên cô ấy) và tôi bị cuốn đi, háo hức, xúc động. Đêm ấy, giữa khuya, tôi bật dậy như chiếc lò so, người nóng ran với quyết định viết về chính những trải nghiệm có thật của Srí và triền dốc dựng đứng bên kia Nhà sáng tác.

…- Ông chọn đi! Long tu, Hoàng thảo, Tiên hài…? Thanh đạm hay Giáng hương?

- Không, củ lan có tấm hình kèm theo kia.

- Cây lan đen này đang ngủ.

- Thuần hay lai, cô?

- Thuần.

- Tôi lấy.

- Ông nhìn gì thế?

- à… không… Nhẫn đẹp quá! Lâu ngày cô không đánh bóng cặp nhẫn?

- Tôi không biết bằng cách nào

- Đun nước bồ kết cho sôi…

Srí nghe một hơi thở nhẹ từ người đàn ông đang bối rối. Sao ông ta lại nhìn cặp nhẫn? Tay Srí tự dưng mân mê mặt nhẫn trống đính  hạt cây kơ nia đỏ, rồi lại mân  mê nhẫn mái mặt đính hạt cây rừng màu xanh. Cô ra đời vào thời điểm cái lạnh chui vào tận nong tằm của người Chu Ru, cô là kết quả của một chuyện tình buồn có gắn với cái tên mẹ đặt cho là Chiếc Nhẫn này đây. Mẹ đã trốn khỏi nhà Dài trong mùa bắt chồng năm đó. Dòng tộc bị bồi thường một con trâu mộng nên bà lớn tiếng mắng: Đàn ông Chu Ru cả vạn: ở Pró, R’Lơm, Cam Butta, K’Dơn… mầy thích ai thì nói! “Người ấy có… vợ rồi.” Không được! Pô Plây không cho mà. Mẹ trốn khỏi Đơn Dương với một gùi đá lấp lánh, mẹ âm thầm giấu được những khi đi hái dâu trên nương. “Mẹ bán những thứ lấp lánh để nuôi một đứa lấp lánh của, mỗi lần nựng nịu Srí mẹ thường nói vậy. Da chỉ hơi ngăm, tóc duỗi dài thẳng mượt, dáng cao ráo, học hành tới nơi tới chốn. Một thời, người con gái Chu Ru quàng chiếc khăn lụa vàng, đi chiếc SH trên dốc đá trở thành biểu tượng mới của cao nguyên, ai đó đã nói về Srí như thế. Giàng đã cho Srí tất cả, mẹ đã cho Srí tất cả, trừ hạnh phúc.

Chiếc Ford đen trườn lên dốc đá. Srí chồm người theo: “Ông ơi, nó không thích chậu chật”. Nhưng khối đen bo cạnh thật đẹp mắt ấy đã quặc sang phía rừng thông. Srí ngẩn ngơ. Vậy là cặp lan đen của cô đã bị tách đôi. Đau lòng sao đem ra bán? Bán sao còn đau? Srí phẩy tay quay lưng, cô đổ người xuống chiếc ghế xếp. Cả cao nguyên chỉ mình cô có cặp lan quý này, Srí định đưa ra giới thiệu nó để dễ bán những loại lan đại trà, không ngờ chủ nhân chiếc ford đen này mua nó vô điều kiện như vậy làm cô không kịp phản ứng. Mà ông ta là chủ chiếc Ford đen hay chỉ là người làm công? Hay xe thuê? Biển số trắng. Chắc là của ông ta. Mà cũng có thể là thuê. Thời buổi này, không ai dám chắc điều gì. Dám mua một cây lan đang ngủ. Hơi thở nhẹ của người đàn ông này ám ảnh thật, có gì như một làn hơi trên miệng núi lửa đã ngủ. Ông ta là ai? Không phải dân địa phương, nước da sậm nâu tích nắng lẽ nào là người xứ lạnh. Mắt trong veo giữa sương mù. Srí nhấc vội giò lan còn lại đặt sâu vào bên trong. Ông ta là ai? Câu hỏi lại vang lên trong đầu Srí lần nữa. Xe đen. áo da đen. Thích lan đen. Gu này ở đâu ra vậy? Xứ này? Không phải xứ này? Quen? Lạ? Srí đóng cửa quầy sớm, cô định lao về Đài truyền hình, trưa nay cô có chương trình dở dang. Sau thời gian làm phát thanh viên tiếng Chu Ru ở Đài Trung ương, cô được tập huấn, được đưa về quê làm chương trình Văn nghệ dân tộc thiểu số, rồi chung cả chương trình. Nhân vật của cô là một nhà văn biến mất hơn mười năm qua vừa xuất hiện trở lại, đang đến ở Trại sáng tác. Một nhà văn dân tộc thiểu số nhưng trông rất “Kinh”. Srí khẽ cười với cách nghĩ chơi chữ của mình. Thật ra công việc ở Đài truyền hình cũng đã làm cô kiệt sức. Nhưng từ ngày biết mình bị  bệnh thì cô đã ẩn náu trong quầy bán hoa này. Srí tạo thêm công việc để chạy trốn trong công việc, đây là vương quốc nhọc nhằn của mình, cô lao đi lao về để quên đi câu nói của tay bác sĩ:  “Phẫu thuật bảo tồn và sau đó xạ trị hay cắt bỏ tuyến vú là những việc có thể”. Có thể… Srí rụng rời tay chân khi nghe cái từ “có thể” ấy.

Chợt Srí sựng người lại. Một tiếng sạt thật mạnh bên kia chỗ quặt sang phía rừng thông. Srí đứng tim. Có điều gì đó khủng khiếp vừa xảy ra. Ông ta? Ông ta đã bị… Srí hổn hển thở. Cửa quầy đã đóng nhưng Srí không tài nào dắt được xe. Tay chân Srí lập cập run. Đôi môi Srí lập cập run. Cây lan đen xui xẻo?! Srí cố xua cái ý nghĩ nặng nề ấy ra khỏi đầu. Ông ta có sao không? Tiếng sạt mạnh như thế chắc chiếc xe đã lộn đầu xuống đèo. Làm sao đây? Đi chẳng được thì ở. Srí cố dồn sức vào đôi bàn tay run run, đôi đầu gối run run để chống được cửa quầy hoa. Mình đâu có làm gì được. Điện thoại không có. Srí là người duy nhất ở khu này không có điện thoại. Từ ngày mất điện thoại, mỗi lần Srí có ý đi mua chiếc điện thoại mới là anh chồng lại lên tiếng: Mẹ mày làm sao rồi í, thế là thôi, ý định tắt ngấm. Làm sao kêu người đến cứu đây? Mồ hôi lạnh túa ra hai bên thái dương. Tay chân bủn rủn. Đầu Srí nặng trịch, bao nhiêu suy nghĩ trong đầu đông cứng lại. Srí bị dán xuống chiếc ghế xếp, bị lún vào chiếc ghế xếp. Srí cố đứng lên để chồm người ra đoạn được quặt sang phía rừng thông. Gió thông hú ghê quá. Srí lắng nghe động tĩnh, nghiêng đầu, nghiêng tai, chẳng có gì ngoài tiếng thình thịch của trái tim trong lồng ngực mình. Sao thấy ông ta quen quen. Srí cố mường tượng lại khuôn mặt ông ta. Mắt trong veo giữa sương mù. Sao đôi mắt quen quen? Đôi mắt trong veo này Srí đã gặp đâu đó. Nhân vật ở Đài? Nhà văn? Nhà thơ? Chịu, không nhớ nổi. Trại sáng tác này một năm dăm chục đoàn nhà văn nhà thơ làm sao nhớ nổi. Đất nước này sao mà lắm nhà văn nhà thơ thế? Srí phụ trách chương trình văn nghệ nên thường xuyên chọn nhà văn nhà thơ để phỏng vấn, giới thiệu. Chắc không phải, nhà văn không giàu có, không đi xe ford. Quen quen. Nhưng có moi óc cũng không tài nào nhớ nổi người này. Đôi mắt trong veo giữa sương mù. Hơi thở, hình như khung xương sườn hay phổi gì đó có vấn đề, có thể đơn giản là lớn tuổi, hơi thở dài buồn và hiền như làn hơi núi lửa đã già, đã lạnh.

Srí nhấc được cơ thể ra khỏi ghế. Chiếc ghế gập lại bật ngửa. Srí lảo đảo, cố đưa chân tránh chậu lan đen còn lại. Srí vung tay vào khoảng không giữ thăng bằng. Srí thầm trách tính hay ghen của chồng mình, chính vì bị ghen quá sức mà cô không có điện thoại. Biết kêu cứu bằng cách nào đây? Srí vịn một tay vào lùm giáng hương làm gẫy một vòi hoa nâu viền tím. Srí thở gấp. Tim vẫn đang muốn nhảy khỏi lồng ngực. Chắc là máu ông ấy phải ra nhiều lắm? Chắc là bị bắn ra khỏi xe, đập đầu vào gốc thông? Đôi mắt trong veo giữa sương mù đã đập vào gốc thông. Chắc là đau đớn? Hay đã tắt thở. Có nhiều kiến đang bò trên khuôn mặt bất động của ông ấy? Srí rùng mình. Gió thông hú ghê quá. Sương càng lúc càng dày. Chắc là ông ấy đã tắt thở? Câu hỏi ấy vang lên một lần trong đầu Srí, nó cứ vang lên mãi. Srí cố xua nó càng vang lên, vang lên lần nữa, rồi lần nữa. Srí đưa tay bịt tai, ôm đầu, nó càng vang lên rõ hơn nữa. Lẽ nào đôi mắt trong veo giữa sương mù ấy đã chết?! Đôi chân Srí đã lên được tới đỉnh dốc. Srí thấy được đôi chân mình đã tới đỉnh dốc vì nó đã dẫm phải một phiến đá nhọn. Người ở đây mà hồn ở đâu? Hồn mình hay hồn ông ấy? Hồn ông ấy chắc là bay đi rồi. Hồn mình cũng đang muốn bay đi. Hồn mình dường như đã gẫy như vòi hoa giáng hương nâu viền tím. Srí loạng choạng nhưng cũng đã đến chỗ đoạn đường quặt sang phía rừng thông. Một đám dã quỳ gẫy nát. Đường dã quỳ gẫy nát kéo dài xuống dưới lưng đèo. Dấu đất mới bị cày xới. Srí chụm hai tay lại bắt đầu hú. Tiếng hú khản quá. Nghẹn. Srí hắng giọng rồi hú lần nữa, lần nữa. Gió thông hú át. Tiếng hú của Srí lọt thỏm giữa tiếng hú gió thông. Srí bất lực ngã phịch xuống đám dã quỳ gẫy nát. Giàng ơi! Có phải là người ấy không? Có phải là tình yêu tuyệt vọng của mẹ tôi đây không? Có phải là khoảng trống lớn lao trong con người tôi đây không? Đúng là người làm ra những chiếc nhẫn cưới, những chiếc srí tín vật tình yêu. Đúng rồi, đôi mắt trong veo giữa sương mù. Do không nghe được mùi sáp ong và phân trâu nên Srí chưa nhận ra. Ông ấy, vua nhẫn của mình đây mà. Mắt buồn. Hơi thở buồn. Srí chợt hiểu lý do tại sao mùa bắt chồng năm đó mẹ mình bỏ trốn khỏi làng.

Dốc đứng. Độ cao. Nghĩ tới mấy cái tiếng ấy thôi là người Srí đã nổi hết gai ốc. Có một dòng điện lạnh buốt cứ dợn dợn quanh hai thái dương và dọc theo sống lưng. Tay chân cứ như bị rút gân. Những đóa sáng nhờ nhờ lấp lóa trên ngọn thông nhợt nhạt. Sương vốc được cả trên tay. Ông ấy! Đó là một xác nhận trực giác đồng thời cũng là mệnh lệnh đang vang vang trong đầu Srí. Cô nắm tay vào một thân dã quỳ còn lại và đưa chân.

Hai chân Srí líu quíu trượt theo đường gẵy nát của dã quỳ. Sợ. Một nỗi sợ bao trùm lên mọi suy nghĩ, làm tê liệt mọi suy nghĩ. Hu…ú! Vừa chạy vừa hú. Có lẽ hú sẽ đỡ sợ hơn. Srí căng ngực hú hét. Những cây dã quỳ khô quất liên tiếp vào người. Srí ra sức thắng người lại nhưng không được, cơ thể cô đã lao đi mà không cách gì kiểm soát. Cô chết điếng, nước mắt sống tràn ra làm mờ mắt, cũng không cách gì lau được. Nước mắt Srí dầm dề đôi má. Srí mất đà té nhào xuống, lộn vòng, lộn vòng. Nổ đom đóm mắt. Srí thấy mình bay lên lơ lửng. Một vùng sáng ngũ sắc trước mặt. Lung linh. Những đôi cánh ánh sáng nhảy múa. Xứ sở của cái đẹp, của thiên đường chăng? Cô chợt muốn lao vào đó, cô nghĩ nơi đó mình sẽ thanh thản, nhưng cứ lơ lửng, tay chân không cử động được. Cô bị treo ở đó. Srí tự biết căn bệnh ung thư của mình nên nơi này không dung chứa. Cái đẹp đã từ chối cô. Srí chợt mường đến những tế bào xù xì gớm ghiếc đang phình to trong thân xác. Srí cay đắng. Không! Mình không có tội lỗi gì cả! Srí muốn hét lên như vậy nhưng lời của cô đã thành vô thanh trước vùng sáng ngũ sắc lộng lẫy này. Srí thèm một giọt nước mắt lúc này nhưng má cô cứ ráo hoảnh. Tại sao mình không phải là cô gái Chu Ru khỏe mạnh, trong sáng, “lấp lánh” như ao ước của mẹ? Tại sao? Nước mắt sẽ làm mình nhẹ lòng hơn. Nước mắt hóa giải chứ không phải là sự phán xét. Srí ghét sự phán xét. Không… Srí cố gào nhưng không được gì, không có chút âm thanh nào vang lên. Cô kiệt sức dần, xuống thấp dần rồi về nhập lại vào cái xác còng queo trong đám cỏ tranh. Cái xác nhúch nhích. Srí chớp mắt, lồm cồm bò dậy.

Lại trượt. Trượt dài. Tóc bay móc vào cành cây. Da đầu nhói lên. Loáng thoáng trong đầu hình ảnh cái hộp sọ trọc lóc sau khi xạ trị. Lại trượt. Các ý nghĩ biến mất. áo bay móc vào cành cây. Cả da thịt cũng móc vào cành cây. Cả người nhói lên. Vẫn trượt. Không sợ nhưng hai chân không còn làm chủ, bị cuốn, đẩy, va móc vào nhau có lúc chúi nhủi phía trước, lúc ngã nghiêng mất thăng bằng, loạng choạng, những bông dã quỳ khô quệt ngược vào mạnh như cú tát tai, nổ đom đóm nhưng vẫn chạy. Không có gì để bấu víu, những cây dã quỳ lỏng chỏng như bèo, đụng vào là tuôn theo cả gốc cả rễ. Đến gần một góc thông, định vòng tay ôm để thắng lại nhưng nghĩ cây sẽ đập mặt vào, lại né, lại chạy. Không cưỡng được. Không thắng được. Không dám làm điều gì khác thường được. Chỉ nhào theo thứ lực hút ma quỷ nào đó dưới chân đồi. Mấy ngón chân đập vào đá. Chắc là mấy cái móng chân đã tróc gẫy, biết vậy nhưng không dám nhìn. Hình như mấy ngón chân mất cảm giác? Cứ đưa đi, đưa đi về phía trước như hai cây que tự động. Chắc là hai bàn chân đã nát bét. Phải cúi xuống nhìn thử! Không, lỡ đập mặt vào gốc thông thì sao? Nhưng… giá nào cũng phải nhìn thử nó bị bầm dập ra sao… ầm! Ngay lúc Srí vừa cúi xuống chỉ kịp thấy những cọng cỏ tranh thì đã bị một cú trời giáng. Nổ đom đóm. Rạt! Mặt, ngực, bụng chà vào lớp vỏ cứng sần sùi. Một vòng. Hai vòng. Srí tuột tay khỏi cây thông ngã bật ra. Lăn. Lăn tròn. Người rúm lại nhưng vẫn lăn. Móng cỏ tranh đâm cả vào sườn nhói đau, nhức nhối. Hai tay co lại ôm đầu, che mặt. Qua cái hụp cạn, lộn quăng cả người lên. Đổ phịch xuống. Lại lộn quăng lần nữa, tưởng gãy cổ. Lăn tròn. ầm! Không còn biết gì nữa. Không còn biết gì nữa trong bao lâu thì chịu. Khi tỉnh lại chỉ biết là từ nãy giờ mình không còn biết gì nữa. Đây là đâu? Có lẽ hướng đã bị lệch? Không! Hướng đi lên thì nhiều nhưng đi xuống chỉ có một, làm sao mà lệch được. Chắc là không còn đúng vị trí chiếc xe. Nhúc nhích ngón tay. Nhúc nhích khuỷu tay. Đau nhưng vẫn còn cử động. Mở mắt. Gốc thông đen sậm. Gốc thông giống người có hai cái miệng. Chắc là hai vết sẹo trên thân cây. Không. Chắc là một vết mà mình nhìn thành hai. Có lẽ hai cái miệng thật. Mình vừa nghe tiếng rên hư hử, tiếng rên sao như tiếng gọi tên mình, Srí…Sr…i…i…. Cả tiếng thở nhẹ. Đúng là tiếng thở nhẹ đó. Nhưng sao lại phát ra từ cây thông? Hình như phát ra từ người hai miệng. Một miệng rên hư hử. Một miệng thở nhẹ. Cỏ tranh trắng xanh dài dài nhòe nhoẹt sát bên mắt. Tất cả nghiêng chao, dâng lên, hạ xuống. Cố giữ chúng yên để nhìn cho rõ nhưng xanh vẫn chao, trắng vẫn nghiêng. Lại nhắm mắt. Rùng mình. Đầu ê ẩm. Mình mẩy ê ẩm. Tay chân ê ẩm. Xanh vẫn chao. Trắng vẫn nghiêng. Sr…í…í…Srí…Sr…í…í…í… Người hai miệng lại gọi mình. Không. Là cái miệng kia gọi. Một miệng chỉ có tiếng thở nhẹ. Nhẹ và dài. Đúng là tiếng thở đó! Một tiếng thở nhẹ và dài. Tiếng- thở- ra.

Srí đột ngột hú, vừa hú vừa chạy như một thây ma lao trong sương mù. Chiếc váy đã bị rách toạc, một mảnh vải lớn đã móc lại đâu đó, Srí biết về chiếc váy là do thấy lạnh ở hai đùi. Bông quỳ vàng nát vụn dính bết khắp cơ thể. Srí lại mất đà lần nữa. Srí lăn nhanh xuống, đầu óc tối tăm, choáng váng. Tỉnh lại cạnh chiếc xe đen. Mùi sơn. Mùi sắt. Và mùi máu. Srí nhúch nhích bàn tay mình rồi mở mắt từ từ. Bàng hoàng. Rùng mình. Tất cả đã đông cứng trong sương mù. Srí lết người tới vuốt đôi mắt trong veo giữa sương mù. Đôi mắt đã đông cứng. Chậu lan đen ngả cạnh ngực. Srí nghe mùi sáp ong và phân trâu. Srí rút hai chiếc nhẫn từ tay mình rướn người mò mẫm trong sương mù đeo vào ngón tay đầy máu. Máu nhầy nhụa. Srí ráng sức đẩy hai chiếc nhẫn từng chút một cắt qua những nhầy nhụa máu vào sâu trong ngón tay. Rồi tay cô chợt buông xuôi. Đuối. Cô muốn gọi một tiếng ‘Cha ơi” bằng tất cả sức lực còn lại nhưng chỉ thều thào. Cô biết đây chính là cha mình, người đã bỏ làng ra đi, mẹ cũng bỏ làng ra đi trong mùa bắt chồng năm đó, nhưng họ không gặp nhau. Điều gì làm cô chắc chắn như vậy? Cũng không biết nữa. Có lẽ chính là hơi thở ấy. Cô quá đuối sức, máu không biết từ đâu lan khắp người. Ráng khóc. Khóc nấc từng hơi chậm, cô hình dung những giọt nước mắt của mình cũng đông cứng như những giọt thủy tinh, như những giọt máu khô trên má. Trong sương mù, tất cả đều đông cứng, chỉ máu đang lan ra và gió thông là hú mãi. Hú hú hú… hú…huuu…uu…

Srí lại hoàn hồn. Hóa ra cuộc gặp kia chỉ là ảo giác hay mộng mị gì đó. Cơ thể đang bị quật qua quật lại, bị lao đi không kiểm soát được. Sương đục như sữa, có lúc Srí nghĩ nếu sương đông đặc lại có thể giữ được mình. Lại “có thể”, mình sợ cái từ có thể ấy. Rào! Roẹt! Bục! Cơ thể Srí  như món đồ chơi bầm dập trong tay của dốc đá. Trượt! Nghe nhiều nhưng lần đầu tiên cô thốt lên nó trong ý nghĩ rõ ràng về tình trạng của mình. Trượt có nghĩa là trượt mãi không có điểm dừng… Rào! Roẹt! Bục! Cô ân hận vì khởi đầu ý định của mình là cứu người, còn bây giờ nó mang ý nghĩa là cùng chết. Srí chết điếng vì sự nhận biết ấy. Bàn tay phải của Srí chợt chụp lấy bàn tay trái, Srí cố giữ chặt chiếc nhẫn trống và chiếc nhẫn mái, giữ chặt ngón tay đeo nhẫn của mình. Trong lúc còn nghĩ được thì... Cả ý nghĩ của mình cũng đang trượt. Rào! Roẹt! Trượt… Trượt mãi… Trượt mãi… Trượt mãi…

Phần còn lại của buổi nói chuyện giữa tôi và đạo diễn Srí là những tình tiết cô ấy được cứu sống và những bàng hoàng, hoảng hốt, giật mình. Đổi thay nhiều nhưng căn bệnh ung thư vẫn còn trong cơ thể. Cho đến khi tôi viết đến những dòng này, Srí vẫn chưa bị xạ trị, cô ấy sợ nhất là mất mái tóc chứ không sợ một cơn trượt đi vào cõi mộng mị nào đó. Srí cũng nghĩ như tôi: bản thân cuộc sống là phù sinh thì trượt nhanh và đau đớn như Srí chỉ là một bước phù sinh cuối cùng. Tôi định đưa cho Srí xem bản thảo này, chắc cô ấy cũng muốn dừng ở đây mà không muốn viết thêm về những hệ lụy. Vứt bỏ hết những thừa thãi để trượt nhanh hay mang thật nặng để trượt cho nhanh hơn? Tôi đang phân vân như vậy thì nhận được tin Srí đột ngột qua đời vì căn bệnh ung thư, căn bệnh thật ác nghiệt, khi người ta vừa nhận ra mình là bệnh nhân thì cũng là lúc chấm hết mọi chuyện. Tôi lưu truyện này vào máy như một tập tin đã đi vào quên lãng. Đúng hơn là tôi không dám đụng tới. Mãi năm sau, mùa dã quỳ khác đã thay áo mới, tôi quay lại cao nguyên. Mưa. Cơn mưa đã vô hiệu hóa chiếc áo da, hai bàn tay tôi thọc sâu trong túi mà vẫn run lập cập. Chợt tôi nghĩ về Srí. Dưới lòng đất lạnh, chắc mái tóc của Srí đã dài thêm chút nữa, chắc là máu đã khô kiệt và rã mục. Đôi mắt luôn khao khát về cội nguồn của mình chắc giờ đã rữa ra cùng đất đỏ ba dan của cao nguyên. Tôi hình dung trong một mảng đất đỏ nhói nào đó đang hiển hiện đôi mắt của Srí và hai bàn tay cố giữ chặt chiếc nhẫn trống và chiếc nhẫn mái, những tín vật cội nguồn của mình. Tự dưng tôi chóng mặt, đất chao nghiêng và tôi thấy mình đang trượt đi, một con gián huơ huơ cặp râu bất lực đang trượt ngay chính trong cái hốc bé nhỏ. Ngón tay đeo nhẫn của tôi chợt lạnh buốt, đau quặn trong tim, tôi hú một tiếng đến vỡ giọng rồi tiếp tục trượt đi.

CỦ NẦN

Cập nhật lúc 09:43, Chủ Nhật, 22/07/2012 (GMT+7)

Cả cái làng này, ai mà không biết củ nần. Chẳng những biết mà còn mang ơn nó nhiều nữa. Thời chiến tranh, không có nó cứu đói hẳn cả làng này đã đi tong từ lâu. Còn bây giờ, gạo xuất khẩu sáu, bảy triệu tấn hằng năm mà nói chuyện ăn độn củ nần thì nghe hư cấu quá, có chăng là trong truyện cổ tích. 

Ừ, thì cổ tích...

Củ nần còn có tên là nừng, nê hay nâu. Ăn được, nhưng phải biết cách chế biến. Thái mỏng rồi ngâm qua bốn, năm lần nước trong, mỗi lần một ngày để giải hết chất độc. Nếu không, ăn vào thì cổ họng sẽ bỏng rát, ngứa dữ dội, choáng váng, nôn mửa, không chữa chạy kịp thời thì tử vong. Nần khô, ghế với cơm như khoai, như sắn. Giã nhỏ nấu xôi hay nướng trong ống lồ ô cũng ngon như cơm lam nhưng chắc là hương vị “đặc biệt” hơn nhiều.

Nhà có năm miệng ăn mà chỉ hai người làm. Vất vả lắm. Cơm trắng, muối mặn là ngon lắm rồi. Muốn có thêm con tép, con rô thì bố phải lội suối từ tờ mờ sáng hay thả lờ, úp nơm từ đêm trước.

Làng không có cánh đồng lúa nước. Mỗi năm một mùa lúa rẫy, một mùa ngô.  Mùa gặt, bụng bọn trẻ con đứa nào cũng căng cứng dù chỉ là cơm với rau. Cơm không phải độn sắn, khoai nên thành cao lương, đặc sản. Cơm ngon thì tiếng cười nói theo đó cũng tươi giòn. Rương gạo đầy ắp, ngạo nghễ chiếm một góc nhà. Đêm, lũ chuột tha hồ nhảy nhót, chí chít trên đó nghe cũng vui vui.

Công việc đồng áng vừa xong là tới mùa mưa. Mưa dầm dề. Ngày ba bữa đỏ bếp, quanh quẩn mỗi chuyện nấu nướng, vừa xong món này đã bày món kia.

Hết mùa mưa thì gạo cũng hết, cạo rương sồn sột, mẹ mệt lả ngồi thừ.

- Chẳng còn gì để ăn.

Mẹ chổng rá gạo lên trời. Bố, mắt không rời quân cờ, tay giơ lên nắm đấm.

- Đói chả chết. Bao nần còn nguyên cả đấy. Ăn cho sướng mồm vào.

Nước mắt mẹ trào ra. Mẹ đờ đẫn đi về phía bao nần.

Rồi bao nần cũng vơi. Với lũ trẻ thì nần hay cơm cũng thế. Một thứ dẻo dẻo thơm thơm. Một thứ bùi nghẹn. Thứ nào ăn vào cũng no, cũng chạy nhảy chơi đùa được cả thì câu nệ làm gì. Chúng vẫn lớn, trùng trục, đen nháy.

- Về ăn cơm, các con.

Mẹ gọi.

- Mẹ phải nói là ăn màu mới đúng chứ ạ. - Thằng con lớn lý sự.

- Cha mày, văn với vẻ.

Bữa ăn hôm ấy mẹ ngồi đầu nồi. Bà đơm cho chúng từng bát lớn. Ăn cơm nần với rau tập tàng chấm mắm kho quẹt. Một loáng thì nồi trống trơ, bà đưa mắt nhìn chồng cầu cứu. Ông ngán ngẩm.

- Mẹ kiếp, củ nần mà cũng chả có để ăn.

Hôm sau, ông trộn vào nần khô một ít nần sống mới dang qua hai lần nước. Ăn thì hơi ngưa ngứa nhưng chắc chẳng sao. Nồi nần hôm ấy tưởng thiếu hóa ra thừa. Vợ trách chồng :

- Ông ác quá !

- Nhưng không thế, thì làm sao  sống qua ngày giáp hạt ?

Ơn trời, chẳng đứa con nào đau ốm gì. Ông cũng đâu phải là thánh. Ông cũng nhát bỏ xừ. Để giải độc, ông đã nấu một nồi nước vỏ đậu xanh, phòng hờ. Không dùng cho việc giải độc thì uống cũng tốt, cũng mát. Đêm ấy, ông chẳng thể nào ngủ yên, hết rờ trán đứa này đến đứa khác. Lo lo, bần thần. Sáng hôm sau, ông cũng chưa an lòng. Ông dò xét cử chỉ của từng đứa con xem có gì thay đổi. Ông vui mừng khi thấy chúng vẫn nô đùa bằng những trò chơi còn táo tợn hơn trước. Ông nhớ câu “đức năng thắng số”, nhưng không liều thì không thể vượt qua số phận. Thảo nào, người ta gọi ông là lão nông gàn.

***

Bây giờ các con ông đã trưởng thành cả rồi. Chúng ra phố làm ăn, sinh sống. Nghe đâu cũng khá giả. Chúng nài nỉ vợ chồng ông đến chơi, nhưng ông thấy chưa tiện. Ông ngại mình quê mùa. Nhà vắng tanh, hai vợ chồng già thui thủi. Tay làm hàm nhai, chả phải lo nghĩ gì. Lâu lâu, cơm cũng độn củ nần nhưng không còn thường xuyên như trước. Thèm, ông bà làm bánh hay nấu xôi mời khắp xóm cùng ăn. Nhớ đến ngày xưa, bà hàng xóm buồn buồn :

- Ngày ấy, tôi cũng như ông bà, cũng nghèo, cũng ăn củ nần. Nhưng vợ chồng, con cái ông bà còn đầy đủ cả, còn tôi thì ... Có đứa con duy nhất cũng phải theo ông bà ông vải. Buồn thúi ruột.

- Nó bịnh à?

- Không, tại củ nần độc ác này này.

- Nghĩa là…

- Đói quá, nấu ăn bừa.

Hai người đàn bà đưa tay lau nước mắt. Ông ngó sang phía khác. Phải chi ngày ấy, nhà ông có nhiều củ nần khô thì ông đâu bủn xỉn làm gì.

Giờ thì ông mới nghiệm ra một điều là trong gian khó bản thân con người  có một sức mạnh vô hình giúp họ băng qua hoạn nạn. Trong tảo tần, vất vả bản thân con người có một sức chịu đựng dẻo dai vô cùng. Ông trời cũng rất chu đáo, ông cho con người chết đói khó hơn chết khát. Nước thì dễ tìm. Ông cũng không quên khuyên người đời ăn uống đạm bạc thì ít bệnh tật. Vòng bụng càng to thì vòng đời càng ngắn. Đúng quá, hợp với người nghèo quá. Đại dịch gút, béo phì ngày càng trương nở. Giàu cũng chẳng dám ăn gì. Thấy hải sản tươi ngon càng sợ, thịt đỏ càng kinh, ăn vào chân cẳng sưng tấy đau nhức vô cùng. Dùng nhiều tân dược thì mau tiêu tùng ruột, gan. Vậy mà cả cái làng này chẳng ai đau bệnh ấy bao giờ. Không nghi ngờ gì nữa, đích thị là nhờ củ nần. Ông nghĩ, có một loại thần dược nào đó trong loại củ này, chúng nép giữa hai lằn sinh tử ? Ông không chắc lắm. Nhưng ông đinh ninh thế, bởi vì người ông rất khỏe, cả vợ ông nữa và chắc cả làng này nữa. Không khỏe, sao sáu, bảy mươi tuổi vẫn cuốc đất ào ào.

***

Cháu nghỉ hè, vợ chồng ông lên thăm cháu. Con cái, dâu rể ai cũng vui mừng, nhất là các cháu của ông. Ông nhìn chúng đăm đăm. Đứa nào cũng xinh xắn, trắng trẻo nhưng hơi ục ịch, bủng beo, không như các con ông ngày xưa, đen nhẻm, gầy gò nhưng rắn chắc. Ông chưa phân biệt rạch ròi được lý do nào.  Ông nghĩ tới chuyện ăn uống :

- Hôm nay các cháu thích ăn món gì nào?

- Dạ, tùy nhà hàng đó có món gì ngon, ông ạ.

- Ngày nào cũng thế? – Ông trố mắt.

Mẹ chúng cắt ngang:

- Làm gì có đâu cha. Hôm nay là ngày đặc biệt chúng con mời cha mẹ. Còn với các cháu thì sinh nhật hay các ngày lễ lớn mới được đi nhà hàng. Cha làm như ở phố dễ kiếm tiền lắm đấy…

Thôi thì ê hề mỹ vị cao lương, chúng nài nỉ ông gọi món gì ông thích. Món gì ông cũng thích nên chẳng biết thích món gì. Hơn nữa, với ông ăn là để lấy no. Ăn để sống chứ đâu phải sống để ăn. Ngon hơn hay dở hơn một chút đều chấp nhận được, miễn là giá cả hài hòa. Rồi khi tiệc tàn, người hầu bàn hỏi con ông dùng món tráng miệng nào. Nhìn menu thấy tên món chè hay hay, nhắc nhớ về quãng ngày cùng cực, con ông gọi cho mỗi người một ly. Khi ăn, các con ông đều nhìn cha mẹ chúng cười cười. Ông cũng cười.

- Cha ăn món này có ngon không?  – Con ông hỏi.

- Chắc đắt ?

- Bốn chục nghìn một ly đó, cha.

- Bằng sáu, bảy ký lúa cơ à?

- Dạ, nhưng con hỏi cha ăn có ngon không ?

- Ngon, nhưng nó làm sao ấy…Nhai sực sực, quen quen…

Các con ông cười ồ, khoái chí.

- Món “ Cuốc-tuôi” đó cha.

- “ Cuốc-tuôi” là gì, nghe Tây Tây…

- Dạ, là chè củ nần.

Ông buông muỗng, mắt trân trân nhìn ly chè còn quá nửa. Ông nghẹn.

NHỮNG NGƯỜI CÙNG PHỐ

Cập nhật lúc 19:27, Chủ Nhật, 02/10/2011 (GMT+7)

Ông tên Phú nhưng nghèo. Nguồn sống của gia đình năm người ấy trông vào tập vé số và chồng báo ông bán mỗi ngày cùng gánh rau sống của vợ ông nơi chợ xép. Sáng sáng, người lớn đi làm, lũ trẻ đi học, ông lại nhúc nhắc cái chân thương tật đến hàng ăn, quán cà phê chìa tập vé số và chồng báo mới ra.

Mỏng khả năng tiếp thị nhưng ông thừa đức kiên trì; đáp lại những cái xua tay, lắc đầu hoặc lời cộc lốc “không”, ông chỉ cười cười nhằm lấy lòng người đối thoại, vẻ cam chịu. Nói chung ông hiền, trừ khi mất cắp.

Phố ở ngoại ô, vườn rộng nên ông Phú nuôi nhiều gà. Vườn rào kín như mắt lưới nhưng thi thoảng vẫn bị mất trộm gà. Cả mấy con chó của ông cứ to đến tầm mang được bi-đông rượu thì bị thằng mất dạy nào đó câu mất. Thế là ông chửi, chửi giữa trời nhưng ác liệt. Nói dại, nếu thi chửi, ông rinh giải cao là cái chắc. Cứ như lời ông, đứa ăn trộm mạt vận nào bị ông tóm được coi như tiêu đời, chí ít cũng thành phế nhân. Nhưng khổ, kẻ trộm đâu chẳng thấy chỉ có bà con cùng phố lãnh đủ. Mỗi khi ông Phú “mở đài”, “tăng âm”, bọn trẻ trong phố thích lắm. Chúng háo hức xúm lại trước ngõ nhà ông, tròn mắt, dỏng tai đón những lời không thầy cô, sách vở nào dạy. Người lớn thì dồn mắt về phía nhà Đại, có ý chờ anh lên tiếng.

Là tổ trưởng dân phòng, lại chung bờ rào với ông Phú, Đại không thể ngoảnh mặt làm lơ trước cảnh huyên náo. Nhiều lần ông nghe lời anh. Nhưng hôm ông mất chiếc quần jean vừa sắm cho con mặc Tết, khi Đại lên tiếng can ngăn, ông độp luôn: “Cả cái tổ dân phòng của ông cũng phải xét lại. Tháng tháng tôi nộp quỹ an ninh để các ông bảo vệ dân, bảo vệ mà thế này à?!” Không thể hơn thua với người đã bị “bà hỏa” nhập, Đại im.

Người thứ hai nổi tiếng trong phố là Tiến, giám đốc công ty Tiến Thành. Nhưng sự nổi tiếng của ông giám đốc khiến người ta nể phục chứ không đem lại bực dọc như ông bán báo kia. “Được góp phần đem lại nụ cười cho những cảnh đời khốn khó là niềm hạnh phúc của đời tôi”. Đúng như lời Tiến trên ti vi, làm việc thiện như là lẽ sống của anh. Giúp trẻ em lang thang cơ nhỡ, ủng hộ đồng bào bị bão lụt, làm nhà tình nghĩa...đài báo nhiều lần giới thiệu về anh với những việc làm đáng trân trọng như thế. Thấy anh trong chương trình quảng cáo trên ti vi, lũ nhỏ trong phố lại kéo tay người lớn chỉ rồi reo lên: “Chú Tiến kìa!”

Người cùng phố quý Tiến và ngược lại, anh chan hòa với mọi người. Duy có ông Phú cùng những trận võ mồm dành cho kẻ trộm của ông làm Tiến khó chịu. “Phạt cho lão trắng mắt ra” - Có lần Tiến nói với Đại – “Đưa lão lên công an phường, dũa cho tịt mồm đi.” Đại nói như mếu: “Phạt rồi sau đó cứu trợ hay để con lão đói?!” Nếu sắp xếp sự nghèo khó trong phố này, ông Phú sẽ nhận cái số một chẳng ai muốn giành.

Những tiệc vui, bữa nhậu của các nhà trong phố không bao giờ có ông Phú. Ông có nghìn lẻ một lý do để từ chối những lời mời thật bụng. Hôm làm kỵ cơm cho cha, Đại mời, ông vẫn điệp khúc “cảm ơn” rồi “xin lỗi”...Đại bảo vợ để phần một mâm và chờ. Khi ti vi qua chương trình dự báo thời tiết, ông  lò dò về, Đại chạy ra  ngõ túm lấy, lôi vào... Ông ăn dè dặt, chỉ thích cầm ly. Khi nghe Đại trách ông về cái sự hay xa rời bà con cùng phố, ông buông đũa, giọng buồn rầu: “Bà con mời ba, chẳng lẽ mình không mời được một?! Nhưng nhà tôi...như chú biết đấy. Đi hay không đi đều dở...thôi đành chọn một.” Ông ứa nước mắt, lệ nhòe trên gò má nhăn nheo, sạm nắng. Đại ngồi lặng, cổ nghẹn lại.

Kinh khủng hơn nhiều những lần chửi của ông Phú là hôm xe công an rần rần tiến vào hẻm phố. Ba chiếc thắng kít trước ngõ nhà Tiến, năm anh công an vọt xuống, bước vội vào nhà giám đốc công ty Tiến Thành. Lát sau, Tiến đi  ra với hai tay nằm gọn trong còng số tám. Trẻ con, người lớn đổ ra đường đứng sững, há hốc. Tiến thản nhiên cười, trước khi bước lên xe còn đưa hai tay lên cao, không biết để chào hay tạ tội với bà con. “Chắc chắn công an nhầm”- những tiếng xầm xì ấy vẳng theo ba chiếc xe đang lạnh lùng lao ra đường lớn. Không phải chờ lâu, nỗi nghi hoặc của mọi người được giải tỏa khi hai hôm sau các báo đồng loạt đưa những phóng sự điều tra về cách làm ăn của giám đốc công ty Tiến Thành. Theo đó, cái tài của giám đốc Tiến không phải trong kinh doanh mà ở thủ đoạn lừa đảo chiếm đoạt tiền của các ngân hàng. Đã vậy, sao anh ta sẵn lòng làm từ thiện đến thế? Sự từ tâm của Tiến, những lẵng hoa bằng nhựa ấy - một bài báo giải thích - Chẳng qua là hình thức quảng cáo, mua niềm tin của người khác. Sau những bàn tán xôn xao, khu phố lắng lại, nhiều người nhìn nhau lắc đầu, tưởng thế mà không phải thế.

Chuyện giám đốc Tiến bị bắt dường như không khiến ông Phú để tâm; có khác chăng, mấy ngày qua ông bán báo chạy hơn. Chưa tắt nắng chiều, ông đã bán hết báo và vé số, về nhà với vẻ mặt hớn hở. Mấy hôm rồi, Đại để ý thấy ông ngồi trước cửa nhìn ra đường, vẻ tập trung căng thẳng. Cơm tối xong, ông ra quán cà phê Quỳnh ở đầu phố uống nước. Ngồi trong quán nhưng ông luôn ngóng ra đường, vẻ dớn dác,  như đang nóng lòng chờ ai. Mãi đến hôm trực ở tổ dân phòng, Đại mới biết căn nguyên biểu hiện lạ ấy của ông cùng phố.

Lúc đó tầm mười giờ đêm, Đại chuẩn bị đi tuần thì nghe tiếng la thất thanh từ nhà bà Hạnh: “Trộm, bớ bà con, bắt trộm!” Tiếng ông Phú!

Đại lao tới tiếp ứng...Thằng gian ngồi trên xe Dream vẫn nổ máy, chiếc xe đạp nằm chềnh ềnh giữa đường, ông Phú bị một đứa cởi trần, lưng to như tấm phản đè xuống đất. Điện các nhà đồng loạt bật sáng, người đổ ra đường. Thằng trên xe Dream rồ máy, thoát thân. Đứa dưới đất hoảng sợ trước đám người dày đặc, buông đối thủ, phóng vào đường luồng. Nhưng không thoát khỏi tay Đại.

Mấy người dìu ông Phú ngồi dậy. Ông thở hổn hển, hai tay xây xước, rỉ máu. Con gái bà Hạnh chạy lại dựng xe đạp lên, thảng thốt:

- Trời ơi, con để xe trên hiên rồi mà- Cô bé quay qua phía ông Phú - Sao bác thấy bọn hắn vậy, bác Tư?

- Mấy chiều rồi, hai thằng này lượn ra lượn vô thám thính, tôi nghi ngay - Ông Phú chậm rãi-Tôi quyết bắt cho được.

Bà Hạnh lật đật chạy vô nhà lấy bông và ô-xy già nhưng ông Phú khoát tay: “Khỏi!”. Ông phủi đất trên quần áo rồi nhúc nhắc đi về nhà mình để lại sau lưng đám đông hiếu kỳ vẫn còn tụ tập bàn tán.

Vào phố

TTCT - Thanh niên lửng hùng hổ vướng vào gióng gánh chị hàng rong làm các thứ trên hai cái mẹt văng ra. Thanh niên vẫn ngang nhiên đi tiếp. Chị hàng rong tức tối gọi giật:

- Em em! Này, em...

Không thấy thanh niên ngoảnh nhìn. Chị xoắn theo ba bốn bước, một tay cầm đòn gánh, tay kia túm được áo gã thanh niên.

- Mụ nhà quê, thả ra!

Mặt thanh niên nhiều sát khí quá. Chị thả lưng áo hắn. Dăm ba người xúm lại, rồi xúm đen xúm đỏ hơn. Thanh niên lửng xốc sửa vạt áo, lầm lì đi thẳng làm như đã đe dọa được đối phương. Lập tức chị chạy giật theo. Thanh niên xoay hẳn bộ mặt thách thức về phía chị. Chị không sợ, chị quyết không sợ cái ngữ búng ra sữa này:

- Không xin lỗi, không đền, cũng không tử tế được một chút hay sao?

Thanh niên lửng hẳn là cũng sợ đám đông. Được thế, chị chống nạnh lên, quyết liệt tập trung xô đổ cái sự mất dạy, chai lì kia. Thanh niên lửng làm già, gạt mạnh tay đòn gánh:

- Đồ nhà quê mà dám làm nhục ông, hử?

Hắn xông nắm đấm. Chị né được, xoay nhanh cái đòn gánh trong tay như đi một đường quyền. Một số người vỗ tay. Thanh niên lửng bỏ chạy. Rồi tiếng vỗ tay cũng dứt, một mình chị đứng lặng với đống hàng vừa bị tung tóe thành rác bẩn.

***

Chị tên Tuyết nhưng nước da thì ngược lại. Nước da màu đất đỏ cao nguyên khỏe khoắn, đôi mắt tròn như một loại lá nào đó luôn sóng sánh xanh tươi, nhìn vào gương mặt, nước da, đôi mắt ấy, người ta dễ có cảm tình ngay, cũng sẽ muốn mua hàng cho chị. Một gánh hàng quê, khi đôi ba thứ này, khi đôi ba thứ kia, chị đã định bỏ, nhưng vì cảnh khó khăn nên kiên trì theo bám.

Chị trở về góc ở. Nát hàng, buồn, gặp cảnh ngộ như thế càng buồn nhiều hơn. Một lần tránh mưa, chị cũng bị vấp ngã, khoai sắn văng tứ tung, chị nhặt cả mưa. Ai lại không nhặt, không nhặt nó sẽ thành rác bẩn, không nhặt, chị thấy mình rẻ bạc với những gì đã nuôi cả nhà chị.

Rồi chị cặm cụi làm hàng, sửa soạn, sắp xếp. Hai nồi giá chị bán hai hôm là hết. Người ta biết giá đỗ của chị là “giá sạch” cây gầy, rễ nhiều, đích xác là loại đủ ngày đủ tháng, đúng quy trình, đắt gần gấp đôi giá chợ. Nó cũng đáng với công lênh của chị lắm chứ. Hết hoa chuối với giá đỗ, chị chuyển sang vài hôm khoai sắn luộc, đợi hàng xuống tiếp. Hàng sống hàng chín, củ quả đều có hết. Có thứ người ta yêu cầu chị gọt, thái, làm sạch giao tận cổng.

Khi nào chị cũng lui cui, lục cục đến khuya rồi mới ngả lưng. Thường thường đi ngủ, mẹ con chị vẫn nói dăm câu ba điều, hôm nay thấy con vẫn cắm cúi học nên chị lặng lẽ đi nằm.

Chuyện ngoài phố hôm nay chị kể không biết có làm đầu óc nó lộn xộn gì không? Câu chuyện trong những bữa cơm của hai mẹ con thường là nhẹ nhàng, cũng có chuyện nghịch cảnh đau lòng nghe chỗ nọ chỗ kia. Có nhiều chuyện không tin nổi. Chị ngẫm thấy bọn trẻ bây giờ sống với mạng mẹo, biết lắm thứ linh tinh, biết nhiều quá không biết còn đầu óc mà tập trung cho việc học không nữa. May con chị ngoan, giỏi, nó sớm biết những gì cần quan tâm.

Bốn giờ sáng chị ra bến xe đón hàng. Những hôm có hàng, chị vui, nghĩ tới đứa em gái vắt ve đầu đêm cuối buổi, đặt người này, hỏi người kia, thôn này xóm khác, lùng sục gom hàng, có gì mua nấy, chị có gì bán nấy, nhận hàng quê em gái gửi, có hôm thì của chồng gửi. Đi, một tháng chỉ về ít hôm, về là lao vào quét dọn, phơi giặt, nhà cửa nó mới có hơi ấm. Con bé đã giúp bố cơm nước được, chị cũng thanh thản hơn.

Chồng chị muốn sửa, vá víu lại mấy chỗ trong nhà, ngoài sân. Cái sân tráng lớp xi mỏng bị thủng, nứt mấy chỗ, bậc thềm ngày trước làm dối vì ít tiền nên cũng sụt lở, cái gian ngủ của vợ chồng chị nước dột, thấm, tường vằn vện đen đỏ, đập ngay vào mắt mỗi khi mở mắt, thì để vậy cũng không sao, chịu được cả, ướt nó lại khô, tránh nghĩ, bớt nhìn đến nó đi rồi thì qua hết.

Độ vài tháng nay cái vốn buôn thúng bán mẹt của chị mới đẻ lời, chưa đủ để sửa sang, vá víu gì được, góp phòng khi có chuyện về người, lo việc con ăn học. Chuyện nhà cửa hư hại nứt thủng đành tạm quên đi đã.

Một tuần nay chị về thăm nhà. Về dăm ba hôm lo bao việc tất bật nhưng hạnh phúc, rồi lại lèn bao thứ đi, mua gốc, bán ngọn, góp nhặt, tính toán theo cách của chị, chị biết làm cho mấy thứ hàng quê giá trị thêm khi vào phố.

Chồng phàn nàn được đôi đồng bạc nhưng bố con lắm lúc buồn hoe hoắt. Ông bà nói không có sai: đói thì đầu gối phải bò thôi. Khốn khó nên lần hồi, biết là khổ này đẻ ra khổ kia, nhưng công lênh mò mẫm lâu nay, bây giờ mới có thể kiếm được chút tiền ở phố.

Chị biết chồng đang nén vào lòng tất cả mọi sự. Vợ chồng chị còn mặn nồng ân ái. Thương yêu, khát thèm gần gũi hôm sớm làm cho người ta buồn nhớ. Làm thân đàn ông bức bí, bực bõ trước cảnh nhà chia đôi, để vợ ngược xuôi lo lắng. Chị không nề hà chi, chị sợ anh tủi thân, buồn chán. Chị thủ thỉ, tâm tình. Bây giờ nhiều nhà vậy chứ riêng gì mình. Nhiều gia đình đành để nhà cửa hoang phế cả năm đi kiếm sống. Nhà quê mà đất đai không đủ thì phải tìm cách này cách khác bươn chải kiếm sống chứ biết sao.

***

Đi. Chị lại quang gánh, hàng quê vào phố. Những người quen mua mong những thức đồ hàng quê của chị. Người ta khát hàng “sạch” lắm, nên chị không bán những gì không phải hàng quê như chị muốn, không bán những thứ chị không rõ, kể cả những thứ an toàn nhưng không thuộc khả năng nắm đầu mối của chị. Đã có thêm mớ này mớ kia, nhưng vẫn là hàng quê em gái gửi xuống. Giá đỗ thì em gái tự ủ lấy, nó phải được làm bằng nước giếng quê kia. Mỗi bận chỉ nhận được có hai nồi giá vì không có nước giếng đất để nuôi nó, hoa chuối cũng có hôm hiếm, ít.

Có hôm, một nhà mua hết gánh hàng của chị. Họ mua cả nồi giá đỗ, cả hoa chuối đã thái rồi lẫn những bắp còn nguyên. Họ muốn làm món nộm. Hôm đó hết hàng sớm, quang gióng nhẹ tênh trở về, chị vừa nghe khỏe nhẹ, vừa thấy cảm giác nhàn nhạt, thấy vẩn vơ, thừa thãi, cho đến khi lo làm hàng mới.

Cuối tháng rồi. Chị lại khấp khởi trở về nhà. Trên quãng đường trở về nhà, bao giờ chị cũng thấy mọi thứ thật đẹp, lòng chị sáng trong, rạng rỡ ra. Sáng nay đã ra chợ mua và kho cho con trai nồi thức ăn. Nó bận học, còn bảo rằng thức ăn mẹ nấu nó mới ăn được nhiều cơm. Chị thèm ngày thằng anh ra trường và có việc làm đâu vào đó.

Chồng sững người, bối rối khi trông thấy chị, rồi nói:

- Mình về đó à?

- Sao hôm nay trông thấy em, mình có vẻ khác thường vậy?

- Mình thấy vậy à?

Rồi tất cả vẫn vậy. Đêm vợ chồng lâu ngày căng đầy ân ái. Đến chiều hôm sau chị mới nghe rò rỉ câu chuyện cách đây mấy ngày: chồng chị có đem cho ai đó một đứa bé. Chuyện là thế này. Có tiếng trẻ khóc ngoài sân lúc mờ sáng, chồng chị ra, rồi kêu mọi người bảo ai nuôi mang về mà nuôi, không ai nuôi, chồng chị đành bế đi xa hơn, ai muốn nuôi thì cho.

Người đời nghĩ ra đủ đường. Chị cũng thế, chị nghĩ ra những gì sau sự việc.

Chồng không nói gì nhiều. Chị cũng không nói gì nhiều. Xem ra cái dáng vẻ của chồng không như của một người chịu oan, phải làm việc bất đắc dĩ. Cái vẻ bối rối, ánh mắt đăm chiêu, tư lự... mặc dù đã cố làm như không. Người ta bảo “lấy thúng úp voi” là thế đấy.

Chị im lặng. Nuốt cục đau nghẹn cổ, nghẹn lòng. Con chị nó cũng nói người ta bỏ đứa bé trước nhà. Ngần ấy tuổi nó làm sao hiểu được chuyện người lớn!?

Thế mà mọi người ở nhà không ai nói với chị. Mà chuyện như thế nói cũng được gì, biết sớm hay muộn cũng thế thôi. Không biết ngày nào là vui vẻ ngày đó. Nước mắt chị lã chã thâu đêm.

Trời ửng sáng. Chị phải đi rồi. Chị làm mọi việc để quên hết, dặn em gái hãy tiếp tục gom hàng. Mua được hoa chuối càng nhiều càng tốt, hoa chuối để được lâu, bán có lời.

Tối đó chị cho hàng lên xe khách về phố. Trong lòng chị khác lắm. Chị quyết lần này đi sẽ lâu. Chị đã dặn con bé út chừng nghỉ hè mẹ sẽ đón xuống phố. Nước mắt chị dầm dề trên xe đêm. Chị nghĩ khóc cho hết nước mắt đi, cho hết phiền muộn đi, mai sẽ không để cho thằng anh biết chuyện gì. Ngày mai, trước con trai chị quyết sẽ cứng cỏi.

Nhưng chị bơ phờ, nhiều lúc thẫn thờ, thất sắc như mất hồn. Khi thì quên thối tiền, khi quên trả lời người ta. Ai mua hàng cũng hỏi chị hôm nay ốm ư. Chị có bị làm sao không? Một bà cụ hay mua hàng của chị, quen người, biết tính đã lâu nay, thấy chị như vậy đồng cảm mà nói:

- Chị đang có điều khổ tâm lắm. Bình thường tôi thấy chị là người vững vàng, nhưng nay trông chị vậy nghĩa là cái tâm đang động lắm.

- Dạ, con cũng có chút chuyện buồn.

- Đàn bà bản lĩnh giỏi giang không dễ tiều tụy, phạc phờ, nhưng một khi như vậy thì hẳn là có chuyện mất, hoặc sắp mất cái gì đó lớn...

- Dạ, bà thật là thông hiểu.

Chị yếu hẳn, suy nhược, mắt sâu, má tóp, nhưng nằm thuốc thang mấy hôm rồi cũng gượng dậy gióng gánh, lo cơm nước cho con. Ốm o một trận, bây giờ thấy tinh thần đỡ đau đớn, như là đã qua cơn nguy kịch. Chị ngồi bóc vỏ mấy cái hoa chuối, ngoài nó héo nhưng bên trong vẫn nõn nà, cứng đó, mềm mại đó.

Chị mở nồi giá đỗ. Nó tốt quá, gầy quá. Hình như chị hết duyên rồi hay sao mà đi mãi không thấy ai mua. Chắc người ta nhìn thấy những cây giá dài ngoẵng, mỗi lúc một xanh tốt thêm hai cái lá mầm mà lúc mới dỡ nó chỉ bằng hai hạt lúa.

Chị thấy mệt, ngồi xuống một chỗ có thể ngồi. Ngồi rồi mà mặt mày xây xẩm, hoa mắt, chóng mặt, lảo đảo.

“Quê em nhiều chuối rừng lắm, cả chuối nhà nữa, những bắp hoa chuối nho nhỏ nở đẻ ra cả buồng chuối to dài, đến khi không nở đẻ nữa, hái vô thái mỏng làm rau ghém, làm nhút, làm nộm, lành lắm, phụ nữ mới sinh ăn nó nhiều sữa”...

Chị nhớ chị đã nói như thế để khách vui, chị thấy thích nói về hoa chuối. Chị hay cười, hay nói, thường là nói quê em thế này, quê em thế kia, có núi, có ruộng, có nhiều thứ, nhưng không hiểu sao mà vẫn khổ... đại ý thế. Khách của chị có những người ham hiểu biết, tinh tế, hỏi cái này một chút, cái kia một chút, những người như thế tỏ ra quý mến chị.

Đang phải nhắm nghiền mắt ngồi nghỉ trên vỉa hè, chờ qua cơn mệt thì tiếng còi làm chị giật bắn mình. Như đâm vào giữa mắt là điểm tròn của một cái gậy, nó dữ dằn, thẳng cứng chĩa vào mặt chị, và hồi còi nữa toét lên. Cái âm thanh đã mấy lần khiến chị thon thót, bây giờ càng vậy. Người ta đang đuổi chị đi đấy, liệu liệu mau lên, đó đâu phải nơi chị đặt gióng gánh để ngồi ngủ gật. Chị đã đặt gánh lên vai và chầm chậm bước. Đúng rồi, chị mệt quá và đành ngồi xuống nghỉ một chút, nhưng rõ ràng hình ảnh của chị như thế là không nên, không hay một tí nào.

Chị nhẩm bài hát cũ, gọi là bài hát chứ kỳ thực là chị nhặt được mấy câu này ở đâu đó, rồi tự chị ngâm nga lên vì thấy nó có cũng đúng, cũng hay:

Con người ơi con người

thật thà và gian dối

yêu thương và hận thù 

và biết bao trái ngược

thêu thùa nên cuộc đời.

Chị hát lâm râm, khi to khi nhỏ theo những bước đi trên hè phố, những lúc hát nó lên lòng chị quên mất nỗi lo ế hàng. Bận khách, gánh nặng, không buồn rảnh để hát, nhưng chị vẫn nhớ tới nó.

Lâu lắm rồi, nay chị thèm hát nó lên, chị thấy mình ở đó rõ hơn mọi dạo. Bài hát cũ làm chị quên xung quanh, không rõ là đã về gần chỗ trọ, không rõ là chị về tới cửa, mà mớ hàng vẫn chưa hết.

Chị chỉ định nằm xuống một chút cho khỏe nhưng nỗi buồn, sự mệt nhọc đã khiến cho chị không gượng dậy được như chị muốn.

***

Chị nhắm mắt, cảm nhận được bóng người trước cửa. Con đi học về ư? Suy nghĩ đến nhanh hơn việc chị mở mắt và nhận ra ai. Bật ngồi dậy, chị thấy rõ cái mặt và hình dáng của cái con người hơn hai mươi năm cận kề, và giờ đang là sự cơ khổ, chết chóc của chị.

Hai kẻ ngồi như chết, bơ phờ mệt mỏi. Chị mong cho đừng ai thấy cái cảnh này. Nửa năm trời rồi, kể từ hôm áp chị lên phố, đây là lần tiếp theo chồng chị trở lên nơi này.

Con nó cũng sắp nghỉ hè, đang hỏi việc làm thêm. Nó trưởng thành, cứng cỏi chừng nào thì chị thấy như mình đang già yếu đi và đang được nó đưa gậy cho mà chống. Nó vẫn chưa biết vì sao chị bỗng sinh ra thế này. Dù sao chị cũng thương con mà đã cố sống cho nó mạnh.

Chồng ngồi như đúc ra đó, không biết là đang nghĩ gì, còn chị thì miên man, thờ thẫn. Chị đưa mắt ra ngoài cửa, nhìn vào chỗ cành cây vượt tường sà sang bên này, và nở hoa vàng. Mấy ai không thích hoa, nhưng chị không có thời gian mà để ý, chỉ thỉnh thoảng đập mắt vào, thấy lòng dịu nhẹ. Chị nhìn cành cây đung đưa, một góc xanh tươi trong nắng, còn chị lại héo tàn. Chị nhìn xuống cánh tay thấy đường gân loằng ngoằng rất rõ. Bất chợt chồng cầm bàn tay chị.

Người ta đang thấy gì trên da thịt, xương gân của chị? Thấy nó đang khô nhúm? Họ nghe thấy gì trong mạch máu chị? Thấy máu đang đỏ, hay đang tím ứ?

- Tôi không hề phụ mình. Tôi...

Cuối cùng thì chị cũng được nghe một điều gì đó. Không chỉ là lời nói, mà là cái nghĩa trăm năm. Sự tươi tỉnh sống dậy từ sâu thẳm lòng chị.

Xung quanh chị là những đồ vật quen thuộc hiện ra sau ái ân ập đến nhanh như một cơn mưa gió, chị cảm thấy thế, nó rửa xả cho chị những bụi bẩn, mang lại sự xanh mát. Đôi mắt của chị lại xôn xao bao điều, nó ẩn chứa sự nhẹ nhõm, mặn mà, ẩn chứa những ngày sau của chị. Ngày sau không riêng vì chị, mà vì sự sống của nhiều người.

Dốc gió

TTCT - 23 Tết, cả bãi Thịnh Sơn trống hơ trống hoác. Suốt dọc thung lũng chỉ còn lại những mỏm đất nham nhở, lở loét. Con sông Miện đỏ bầm vào mùa mưa giờ biến thành một rẻo nước trong leo lẻo, trôi lờ đờ qua đám sỏi đá lởm chởm.

Đến tận lúc này, Phong cũng không dám tin là chỉ còn lại mình nó ở Thịnh Sơn. Đêm nằm nghe gió lùa thông thốc vào khu lều trại tiêu điều, không tiếng ngáy, không tiếng cãi lộn, chửi thề bỗng dưng nó thấy chờn chợn. Cũng còn may đám thợ thương tình buộc lại cho nó con gà và hơn chục cân gạo để “thằng bé” sống qua được mùa Tết.

Trong đêm, mùi phân gà ở đầu hồi dậy lên khiến nó tin là mình vẫn còn sống sót.

Ở Thịnh Sơn này.

Nơi mà không tháng nào không sập hầm. Không tháng nào không có đám giật áo, dắt dao, vung đao đập búa, sọ người văng như đậu phụ rữa. Không tháng nào cánh đào vàng bên Đông không gây hấn với bên Tây. Đạn nổ rôm rốp. Lựu đạn mù mịt. Xác người chết rục xuống như thân chuối đổ. Rồi cả đống thân xác bầy nhầy máu me ấy bị quăng tất vào rừng. Hôm sau, ai nấy lại lầm lũi dán mặt vào đất. Mà đào. Mà đãi. Ốm cũng phải bò dậy mà làm. Cùng cực vào đến đây rồi, ốm đau bỗng thành thứ xa xỉ.

13 tuổi. Chưa bao giờ nó dám khai báo tuổi thật với bưởng trưởng. Tuổi càng nhỏ, tiền công càng thấp. Nó không bỏ nhà đi làm để phải chịu tiền công ở mức đáy. 13 tuổi, nó gồng mình làm những việc của một thằng trai 18 tuổi. Đào đá, đẩy xe, sàng cát. Nó làm tất. Duy chỉ có chơi gái là nó trốn.

Cả bãi giày vò một đứa con gái. Cảnh ấy nó không chịu đựng nổi. Nó sợ đàn ông. Nó sợ cả đàn bà. Nó thương mẹ.

Không vì mẹ thì nó không bỏ lên bãi vàng này. Người đàn bà đã ngậm khóc giữa lúc đương xoan khi chứng kiến chồng dẫn gái về nhà. Người đàn bà đã ngậm khóc giữa lúc hồi xuân, trong căn nhà lạnh vắng đàn ông, thừa thãi tiếng trẻ khóc nhèo nhẹo vì đói, vì rét.

Một mình, mẹ thồ cả xe hàng tạp hóa cao chất ngất với tả pí lù từ dầu cù là, mì tôm, thuốc kháng sinh đến dầu hỏa... chở vào buôn để bán cho người dân tộc. Vừa bán hàng, người vừa sốt phừng phừng. Tay chân bải hoải. Mình như không phải là mình nữa. Tấm bánh mì mang theo để ăn trưa cứng đanh, kẹp giữa khe hàng. Mẹ cầm bánh mì, không muốn cắn. Cắn rồi chỉ muốn nhổ ra nhưng vẫn cố mà nhai mà nuốt. Không thể bỏ về nửa chừng. Không được phép gục xuống. Không thì gạo đâu cho con, áo đâu cho con?

13 tuổi, nó dõng dạc tuyên bố: “Con đi Thịnh Sơn”.

Mẹ nghe xong, như vừa nghe án tử hình. Vì mẹ biết Thịnh Sơn.

Cơm bữa tối, mẹ quên rút lửa, khét mù. Con xung phong vét toàn bộ cháy đen đáy nồi. Ngồi ăn lặng lẽ. Con ăn mà mẹ đắng họng. Nước mắt dồn nghẹn lại tim. Đau thắt.

“Nhất định con phải đi sao?”

Nó lặng lẽ gật đầu.

Hôm sau chờ mẹ chở xe hàng vào buôn như thường lệ. Nó khoác nải quần áo lên vai. Thẳng hướng Thịnh Sơn.

Thật ra thì mẹ không đi vào buôn. Mẹ không chịu đựng nổi cảnh con bước ra khỏi cổng nhà. Không chịu đựng nổi khi mắt phải nhìn mắt. Lời chia tay phải buột ra. Nên mẹ giả bộ đưa hàng đi bán như mọi hôm. Mẹ biết con sẽ đi hướng nào. Nên mẹ dựng xe đầu dốc này. Để chờ. Chờ trong mòn mỏi. Lòng trĩu nặng dần theo bóng nắng rọi trên thân cây cao su. Mẹ cầu trời lạy Phật nó sẽ đổi ý. Nhưng mẹ hiểu nó. Cái thằng đã quyết gì là làm bằng được.

Chẳng phải đợi lâu, nó đã xuất hiện. Cái trán gồ lên trong nắng. Mẹ muốn lao ra khỏi chỗ nấp. “Con ơi là con”.

Nhưng không hiểu sao mẹ ghìm lại được. Đời mẹ, mẹ ngấm đủ nước mắt rồi. Mẹ không muốn nước mắt mẹ chảy sang cả đời con. Mẹ không muốn sự bi lụy này làm con trở nên yếu đuối và thậm chí là đớn hèn. Một thằng đàn ông đớn hèn là nỗi nhục không thể gột rửa được.

Nhìn bóng con cheo leo trong gió, lòng mẹ cũng muốn tan thành gió.

Phong ơi là Phong!

***

Cơn sốt sầm sầm kéo đến vào giữa trưa. Mắt nó nổi hoa cà hoa cải. Cả người nó run rẩy vì cơn ớn lạnh bất thần chạy dọc sống lưng. Rồi thì đầu óc mụ mị. Nó đổ sập xuống phản.

Gió.

Bỗng nhiên sao gió kéo đến nhiều thế. Gió như cả ngàn mũi kim châm chích vào từng thớ thịt. Gió phừng phừng như bão, muốn cuốn thốc nó đi. Nó bám chặt vào mép phản, lăn lộn quằn quại. Bao nhiêu chăn chiếu nó quấn cả vào người rồi mà gió vẫn len lỏi chui vào từng tế bào, mà cắn mà xé. Người nó co rút lại, buốt cóng. Như một xác ướp đang được đưa vào phòng đông đá. Chân tay nó giật liên hồi.

Trời ơi. Lạnh. Mẹ ơi.

Nó tưởng mình đã sống đủ trăm năm.

Nó tưởng lúc mặt trời lên, tóc trên đầu sẽ trắng xóa.

Nó tưởng huyệt mộ đã mở sẵn ra rồi.

Thung lũng này quá thừa chỗ để vùi thân xác nó.

Nhưng mẹ tìm thì biết tìm ở đâu?

Thật ra thì chẳng hề có huyệt mộ nào. Chỉ có con gà trống nhẫn nại đi đi lại lại trong lều tìm cơm vãi. Trong lúc mải mê, cái mỏ nhọn hoắt của con gà đói ăn mổ trúng vào cổ áo nó. Đánh thức nó khỏi cơn sốt rét hãi hùng.

Đêm ba mươi Tết, nó thắp hương và soạn ra hai bát cơm. Một cho nó. Một cho con gà. Con gà thì đã ngủ vùi trong mảnh cót ép nó quây tạm để tránh gió. Thành thử chỉ bập bùng trong đêm ba cây nhang đỏ lửa, và đôi mắt nó cũng đang đỏ rực lên. Vì nhớ.

Mẹ ơi...

***

Nó ngủ gục bên hai bát cơm nguội lạnh. Sáng mở mắt, thấy cả hai bát cơm đều đã toe toét vết gà mổ. Con gà sau khi đã phởn phơ với “món quà” đầu năm mới, ve vẩy đi lại ngoài sân. Bộ cánh vàng rực ánh lên trong cái nắng hiếm hoi của những ngày xuân xám xịt, tê rét. Còn lại trên sàn nhà mùi phân gà ngai ngái, nồng nồng.

Chưa bao giờ nó thấy yêu mùi phân gà đến thế.

Nó chưa sống đủ trăm năm. Tóc chưa bạc trắng. Và vẫn còn mẹ đang còm cõi ở nhà. Điều ấy khiến nó bật dậy, nhao ra con sông Miện. Không phải bỗng dưng cả mùa Tết nó bám lại Thịnh Sơn. Nó muốn tranh thủ gạn lại những xái quặng mà dân đào vàng bỏ lại. Quên đi thân xác đang rời rã. Quên đi đám rận cắn cấu quanh đám lở loét bên lưng quần. Quên đi sự cô độc cùng quẫn ở xó rừng tan hoang này.

Vàng! Vì vàng, nó bất chấp tất cả. Lọc lại ở dưới bãi thế nào cũng có vụn vàng. Gom lại, thế nào cũng được chút gì đáng giá. Nó sẽ mua được cho mẹ bộ quần áo mới. Lâu lắm rồi nó chưa hề thấy mẹ thay đổi màu quần áo trên người. Chỉ hai bộ cánh nâu và đen. Kiên nhẫn hết ngày này sang tháng khác. Cái vệt nước mắt sạm trên cánh áo mẹ nhức nhối trong tim nó từng ngày. Nó phải có tiền. Thật nhiều tiền. Có tiền, tụi em nó sẽ được những bữa no. Thằng Hưng, con Én không phải tranh nhau muôi cơm vét đáy nồi.

Những ý nghĩ tươi sáng ấy khiến nó trở nên hào hứng. Nó cặm cụi làm đến lúc mắt không còn phân biệt được màu đất trong đáy sàng nữa thì mới chịu đứng dậy. Cả người ê ẩm. Hai tay bợt đi vì ngâm quá lâu trong nước lạnh, nhưng nó vui hơn bao giờ hết. Hôm nay nó đãi được nhiều vụn vàng hơn hẳn những hôm trước. Quả là ông trời còn biết thương kẻ nghèo khó, khốn cùng này

***

Nó tự khò đám vụn vàng thành miếng. Được bảy hoa.

Lòng nó cũng đang nở hoa.

Nó lận bảy phân vàng vào cạp quần rồi cắp con gà trống quay về nhà.

Ông Thủ kim hoàn phố huyện hấp háy mắt nhìn nó, rồi soi soi viên vàng bé xíu lên trước mặt.

“Nhóc con, khá lắm! Cứ về đi. Hai hôm nữa có tiền”.

Hai ngày liền nó ngủ như chưa bao giờ được ngủ. Mẹ nấu nồi cháo hành hoa, thấy con ngủ ngon, không nỡ đánh thức.

Ngày thứ hai nó vẫn còn mệt nên giục mẹ sang ông Thủ lấy tiền.

“Tiền nào?”.

“Tiền bảy phân vàng của thằng Phong gửi ông hôm trước”.

“Vớ vẩn! Nó nói thế mà bà cũng tin à? Vớ vẩn!”.

Mẹ nó lập cập trở về.

Nó lao vào bếp. Rút con dao trên giá. Lao ra ngoài đường như một tia chớp.

Mẹ nó lạnh người. Hối hả chạy theo.

May mà ông Thủ đi đám giỗ không có nhà. Thằng Phong nổi điên, chém tan nát cái cổng gỗ nhà ông Thủ. Đám con trong nhà đóng chặt cửa, không dám ho he.

Cả đêm nó không về. Nó nằm phục trước cửa nhà ông. Lần này nó quyết xin lão già chó má tí tiết. Nó không cần vàng nữa. Máu trong người nó rừng rực như một con thú hoang bị trúng thương.

***

Mẹ đến gọi nó khi mắt nó dại đi vì thiếu ngủ và thù hận.

“Tiền đây con”.

“Tiền nào?”.

“Ông Thủ nhờ mẹ gửi lại con. Ông ấy gửi lời xin lỗi con. Thôi con ạ. Người ta biết lỗi rồi thì thôi. Túng quá nên người ta làm liều. Thôi, về đi con”.

Lời mẹ làm nó mềm lòng.

Nó cun cút về nhà như một con chó săn đã thấm nỗi mệt mỏi và chán chường.

“Tiền đấy, mẹ muốn làm gì thì làm”.

“Ờ, tốt quá rồi” - mẹ cười như mếu.

Cả đời, có bao giờ mẹ cười được đâu.

Mẹ ơi.

Nước mắt nó ứa ra.

***

Nó lại đi.

Nhưng không đi Thịnh Sơn nữa.

***

Ba năm sau, nó tìm được giấy ghi nợ 7 phân vàng nằm trong hộc tủ. Cuối tờ biên nhận có dòng chữ nguệch ngoạc “đã trả đủ”. Nhưng là mãi ba năm sau. Kể từ cái ngày ấy.

Nó lao ra dốc gió.

Gió thốc tháo va vào mặt nó. Ướt nhèm.

Hàng xóm

Ngày đăng:  06/07/2012 10:34:15 SA 

Lão mở cửa, tiếng chìa tra vào ổ the thé như giọng của lão. Sau cùng vẫn là tiếng chốt cửa sắt nghiến ken két, rồi cánh cổng màu xanh ve chai he hé. Nửa đầu lão nghiêng ra, vừa vặn cho Lê nhìn thấy cặp kính trắng và hai đầu chân mày câu lại, gần như chạm vào nhau ở giữa trán. “Này, nhích sang bên đấy một tí chừa ngõ nhà tôi ra vào…” Rồi lão rụt đầu vô, tiếng va chốt cửa, tiếng chìa khóa tra vào ổ, cánh cổng khép lại nhanh như lúc lão mở.

Cơ hội duy nhất để Lê nhìn thấy lão bên trong cánh cổng, là khi cô đưa con đi học mỗi sáng. Qua khe cửa hẹp, lão bắc ghế ngồi trên thềm nhà, hai tay cầm tờ Tuổi Trẻ che gần hết cặp kính, che mất cả đôi chân mày. Không phải Lê tò mò, cô chỉ muốn một lần nhìn thấy gương mặt lão nguyên vẹn xem lão khó ưa đến cỡ nào?

Thử một lần bước ra ngõ ngay lúc lão dắt xe ra đường, Lê sẽ nhìn mặt lão trực diện, rồi cô bảo con mình. “Chào ông đi con!” và cô sẽ cười một cái xã giao, vừa bằng miệng, vừa bằng mắt. Không biết khi đó lão có chào lại không hay lườm cô ra mặt? Giả như lão không cười lại với cô, không biết lão có “ậm ờ“ vài tiếng với thằng con trai của Lê không nhỉ?

Lê treo lại tấm biển văn phòng công ty lên trước cổng, treo để khách hàng biết địa chỉ mới mà tìm đến vì nó bị khuất bên hông chiếc xe tải nhỏ. Ngày hai vợ chồng Lê đi tìm mặt bằng kinh doanh, căn nhà này cô ưng ý vì trong mục rao vặt có ghi: “Hẻm xe tải quay đầu”. Công ty làm dịch vụ nên luôn không tuân thủ giờ giấc ổn định, Lê cần đường sá thông thoáng cho tiện việc chuyển hàng.

Chiếc xe du lịch xuống tải có bề ngang một mét ba, chiều dài hơn ba mét đủ điều kiện được chở hàng trong giờ cao điểm của thành phố, sân nhà không đủ nên buộc lòng phải đậu bên ngoài. Hẻm đủ rộng để hai chiếc xe tải qua lại nên xe nhà Lê đậu suốt cũng không phiền ai.

Buổi tối, Lê cứ để xe ở ngoài, khóa cửa rồi ngủ. Mấy hôm đầu lo lắng, cô bảo chồng mang xe ra gửi ngoài bãi. Mỗi tháng tốn thêm vài trăm nhưng lại được ngủ yên. Sau rồi công việc gấp rút, cố làm cho xong nên Lê quên luôn việc phải đi đăng ký bãi gởi xe.

- Alô. Một… hai... ba…bốn. Alô… một… hai…

Em trai Lê đang thử giọng bằng giàn âm thanh mới mua dùng cho hội nghị ngoài trời. Thi thoảng Lê mới dùng tới cặp loa thùng to như thế cho dịch vụ đi kèm. Mà đã cho thuê thì phải thử trước, nếu không ra đến nơi mà âm thanh, ánh sáng có vấn đề là coi như mất uy tín công ty. Theo hợp đồng thì hội nghị khai mạc lúc bốn giờ chiều, hàng hóa Lê phải chuyển đến nơi trước năm tiếng để chuẩn bị. Lê nghĩ chưa đến giờ nghỉ trưa nên cứ tranh thủ alô mây câu chắc cũng không phiền hà hàng xóm.

Chồng Lê chuyển một số thứ linh tinh ra xe, thằng em cứ chỉnh chỉnh, rồi alô… một… hai…ba… một..hai… Âm thanh to quá nên Lê không nghe được tiếng chìa tra vào ổ khóa và cả tiếng chốt cửa nghiến vào nhau ken két bên trong cánh cổng màu xanh ve chai. Lão mở cửa bước ra.

Lần đầu tiên từ ngày dọn về đây, Lê mới nhìn trực diện lão từ đầu tới chân. Vẫn cái giọng the thé, lần này, hai đầu chân mày của lão gắn chặt vào nhau hơn, lão trễ gọng kính xuống tận cánh mũi, nhướng đôi mắt về phía Lê: “Cô nói với chú ấy, xế chiều hẵn hát hò, giờ đang trưa mà hát karaoke thì bố ai mà chịu nổi?”

Khi Lê còn chưa kịp cười một cái với lão và phân trần rằng cô chỉ thử loa chứ không hát hò gì cả thì lão đã quày quả chui vào cổng nhanh như lúc lão xuất hiện. Lê bỗng thấy khó chịu. Cô nghĩ nếu như hai đầu chân mày lão dãn xa ra một tí, cặp kính râm cứ giữ nguyên trên mắt, mái tóc mọc dày thêm phần trên trán một chút thì có lẽ nhìn mặt lão sẽ thiện cảm hơn.

Rồi Lê ức cái giọng của lão. Lê nhìn cánh cổng im ỉm nhà lão sao mà nó đáng ghét thế. Và cái kiểu nói của lão nữa chứ! Tỉ như khi nãy lão bước qua nhà Lê mà nói đúng hai từ: “ồn quá!”, có lẽ dễ nghe hơn cả cái câu văn vẻ lê thê lết thết đó! Nếu văn phòng này không phải thuê mà là nhà Lê thì có lẽ kết cục đã không như thế, cô sẽ đích thân “ alô” thêm vài tiếng cốt để cho lão ức thêm. 

Rồi Lê sẽ cắt hết các nhánh cây chìa sang ban công nhà mình, tỉa luôn đám hoa vàng rực bên nhà lão bò sang cho hả giận. Mỗi sáng dọn sân cô sẽ phân loại rác nhà mình và hoa lá rụng nhà lão, bao rác nào của nhà, cô sẽ đổ, còn bao nào đựng hoa lá nhà lão cô sẽ đặt trước cánh cổng màu xanh ve chai đáng ghét đó cho lão dọn.

Lê chăm chút vườn hoa tí hon của mình đều đặn vào mỗi buổi sáng lúc đám cây bên ban công nhà lão cũng ướt rượt. Chính xác như thể hai cái đồng hồ sinh học của cô và lão được mặc định cùng giờ. Chỉ khác là cô dùng chiếc bình be bé kiểu Nhật, màu xanh, có hình hai con mắt đang cười được dán hai bên vòi tưới, còn lão thì tưới bằng ống nước lớn. 

Dãy nhà bốn căn, xây đúng một kiểu giống nhau. Thảo nào mấy hôm đầu về ở Lê nghe rõ cả tiếng giật nước trong toilet nhà lão. Khi ấy có thể là lão, có thể là bà vợ hoặc đứa con trai thức sớm, làm vệ sinh rồi đi làm, đi học. Tiếng cửa gỗ đóng mạnh đến nỗi bên phòng Lê nghe rõ mồn một. Hôm nào dậy trễ một tí, Lê cũng phải giật mình, cô nghĩ những lúc vợ lão hay thằng con trai dập cửa to như vậy  không biết lão có nhíu mày, trễ kính và gằn giọng với vợ, với thằng con trai vì đã phá đi sự yên tĩnh của lão không? 

*

*      *

Mười hai giờ bốn mươi lăm phút đêm, chuông điện thoại từ máy cố định dưới văn phòng đổ dồn. Lê khều chồng. “Để em xuống nghe xem ai gọi giờ này, thường thì có việc gì hệ trọng mới điện nửa khuya như vậy…”. Lê rất sợ những cú điện thoại về đêm như thế, thường thì ở quê có việc tang chế mới gọi lên Sài Gòn để báo tin, người lớn tuổi ở quê không dùng điện thoại di động sành như người Sài Gòn, hễ có chuyện cần thì mở sổ danh bạ, bấm số điện thoại bàn gọi cho rẻ,  hoặc tỉ như gia đình anh chị em có chuyện hệ trọng cấp bách cần đến mình họ mới gọi, giả thuyết sau cùng là có khách hàng ngoài nước. 

Lê bật máy, chưa kịp alô thì đầu dây bên kia, một giọng đàn ông gấp gáp: “Trộm nó đang mở cửa xe nhà cô đấy!”. Lê giật thót mình, cô bật đèn ngoài sân, tay chân luýnh quýnh không tra nổi chìa vào ổ khóa. Cả nhà bật dậy khi nghe Lê la lớn: “có trộm”. Thấy đèn bật sáng, đám trộm bỏ đi mất dạng. 

Chồng Lê kiểm tra bên trong xe theo quán tính, vì thật sự trong xe chẳng có món gì đáng giá. Bọn trộm nhìn bên ngoài cứ tưởng chiếc du lịch bảy chỗ ngon lành, chúng đâu biết bên trong thùng xe trống hoác, chỉ dùng để chuyển hàng hóa. Nhưng dù sao đi nữa, Lê vẫn muốn cảm ơn ai đó đã gọi cú điện thoại. 

Cô tiếc là mình không để ý giọng người gọi vì mới nghe nói trộm cô đã hoảng hết cả lên. Không thể là nhà đối diện vì bên đấy có tấm biển rao “bán nhà”, thi thoảng cô mới thấy một người ghé qua mở cửa cho khách xem. Càng không thể là người sống bên phải vì nhà bên đấy không có đàn ông, chỉ có hai mẹ con một gia đình sống cũng rất khép kín.

Chỉ có thể là lão chứ không ai khác.

*

*     *

Lê dọn về xóm này đã hơn nửa năm.

Cánh cổng màu xanh ve chai bên cạnh vẫn luôn đóng kín.

Đám dây leo huynh đệ bên nhà lão đã bò kín hàng rào, leo ra cả mấy thanh sắt nhọn đầu trên cùng cong vểnh hướng ra ngoài, thả đám đọt xanh non nớt thõng xuống, vài cánh hoa vàng nương theo thân dây leo nở cả ra trước sân nhà lão, rũ xuống thật đẹp.

Kể từ ngày bọn trộm chui vào chiếc xe xuống tải nhà Lê, mỗi sáng trước khi đưa con đi học, Lê đều quét đám lá khô và mấy cái xác hoa vàng rụng đầy một góc cạnh hàng rào, cô gom sạch rồi cho tất cả vào cái thùng rác chuyên dụng màu xanh ve chai Lê mới mua sau này, đợi xe lấy rác đến rồi mới mang ra đổ.

Ăn Trộm Vịt

.: EnterPlus.Org :.

Con vịt coi vậy mà gần gũi với bữa ăn của người dân quê miền Nam hơn là con gà. Món gì thịt gà làm được, thì thịt vịt cũng không thua, mà có khi hơn hẳn. Thí dụ món tiết canh, ta chỉ có món tiết canh vịt, chớ chưa hề thấy ai ăn tiết canh gà bao giờ.

Biết sao không? Đàn ông mà ăn tiết canh gà, đêm đêm sẽ xửng cồ gáy, làm phiền lòng vợ, có khi bị bả đạp xuống gầm giường, rồi nói sao xui!

Người Việt mình khiêm nhượng lắm, cứ cái gì nhỏ thì nhận là của mình, còn cái gì to lớn một chút thì cho rằng của nước ngoài: Con Vịt Xiêm (con ngan Thái Lan) to gấp hai con vịt ta. Trái mãng cầu ta lớn bằng nắm tay mà trái mãng cầu xiêm lớn như trái dừa. Trái chuối Tây cũng lớn hơn trái chuối cau của ta.

Mà chưa chắc gì trái chuối lớn đó là chuối Tây, vì ở bên Tây lạnh quá như vậy dễ gì chuối sống nổi, ngay cả nước Tàu kế bên VN như vậy mà cây chuối còn đèo đọt không lên nổi vì lạnh mà.

Hồi xưa vịt đàn toàn là vịt sẻ màu nâu xám, mỗi con nặng chừng hơn ký lô, nhưng bây giờ vịt đàn gọi là vịt Bắc Kinh màu trắng và to như vịt bầu nhưng cổ cao hơn một chút.

Con gà trống thì khác gà mái rất nhiều, nhìn thấy ảnh là biết ngay, từ dáng to lớn đi nghênh ngang, đến đuôi cong vòng, mào đỏ chót, chân có cựa và lông vũ đẹp đẽ, còn vịt thì lại khác, đực cái gì chúng cũng giống nhau quá. Con đực giọng khàn khàn và chỉ có thể nhận ra anh ta là vì ở ngay phao câu có một cái lông cong tròn lên như chữ C. Nếu nhổ nó đi thì chỉ vài ngày sau lại mọc lên cộng lông mới cũng cong y chang như vậy.

Làm thịt vịt chỉ ngán một nỗi là khi mình nhổ lông nó, nhứt là khi mua nhằm con vịt đang ra lông măng, nhổ muốn chết cha luôn.

Muốn làm lông vịt cho dễ, người ta bỏ vô nồi nước sôi chút xà bông bột, nó sẽ làm tan chất dầu nhờn ở lông và da con vịt thì dễ nhổ hơn.

Khi vừa cắt tiết xong, lấy ống đu đủ nhỏ hay ống trúc luồn vô dưới da mà thổi cho con vịt căng lên to như con ngỗng, lấy dây cột cổ lại cho khỏi xì hơi ra, lúc đó làm lông còn dễ hơn nữa.

Trước khi kể chuyện về cách ăn trộm vịt giữa ban ngày, của bọn con nít rắn mắt, tôi xin nói về cái tỉn nước mắm cái đã.

Khoảng đầu thập niên 60 người ta vẫn còn xài cái tỉn làm bằng đất nung để đựng nước mắm, hồi đó bình bằng ny-lon chưa được phổ biến nhiều. Đó là đồ đựng hình quả trám, nặng chình chịch mà sức chứa chưa tới 4 lít.

Khi đổ đầy nước mắm vô rồi thì nhà thùng dùng xi măng mà khằn cái miệng lại. Tuy nhiên nước mắm vẫn rỉ ra hôi rình. Đã thế chung quanh cái tỉn lại dùng lá kè non mà ràng làm quai xách coi rất bê bối.

Khi mình xài hết nước mắm rồi, mấy cái tỉn bị vất lăn lóc ngoài sau hè. Lâu lâu có cái xe đap ràng cần-xé hay ghe đi mua lông vịt thì mua tỉn luôn. Có khi họ không trả bằng tiền mà chỉ đổi cốm ngào đường mà thôi. Họ đạp xe khắp hang cùng ngõ hẻm hoặc bơi xuồng trong các kinh rạch và rao:

-Ai có ve chai, nhôm bể, lu, lông vịt, hột gòn .... đổi cốm hông ???

Khi nước lụt dâng lên ban đêm, thường thì mấy cái tỉn bị trôi theo giòng nước. Cho dù giòng nước chảy khá mạnh, nhưng vì hình thể của cái tỉn tròn tròn, nó cứ trôi lắc lư từ từ, nên người ta có câu "đủng đỉnh như cái chỉnh trôi sông"

để tả con người làm gì cũng chậm chạp, không xốc vác chút nào.

Miền Bắc gọi cái tỉn là cái chĩnh, như trong câu: Chuột sa chĩnh gạo. Trong khi người Nam thì lại nói: Chuột sa hũ nếp.

Sở dĩ tôi phải dài dòng về cái tỉn nước mắm là vì đó là dụng cụ để ăn trộm vịt.

Nếu đàn vịt mà còn đang ăn trên đồng cạn nước thì vô phương bắt nó. Người lạ đến gần thì cả đàn chạy dạt ra xa và kêu cạc cạc ầm lên. Anh chàng chăn vịt vác cái sào tre lại đứng trên bờ ruộng thì làm sao bắt trộm cho được.

Phải đợi bầy vịt ra con kinh đào hoặc sông nhỏ mới ra tay được.

Lên phía trên giòng nước chảy, cột vô cái tỉn đã múc nước gần đầy, chỉ nổi phập phờ, một sợi dây nhợ dài như dây diều. Ngay quai xách lại móc hai lưỡi câu có mồi cua hay cá. Cái tỉn được thả trôi xuống phía bầy vịt.

Anh chàng chăn vịt giữa trưa nắng chang chang, nóng thấy ông bà ông vải nên chui vô bóng mát dưới rặng trâm bầu. Anh nằm dài lấy cái nón lá ngửa ra kê đầu, mắt hấp háy nhìn trời và chân thì gác tréo ngoe, vừa nhịp nhịp vừa hát:

-Sương thu lạnh bao trùm khắp nẻo

Trăng đêm nay dìu dịu cả không gian

Tôi với em đi gánh nước cạnh đình làng

Mùi cỏ dại mơ màng trong đêm vắng .....

Nước giếng trong giữa đồi cát trắng

Bên ánh nguyệt mờ soi đôi bóng giao kề

Dưới trăng khuya tôi với em quảy gánh ra về ......

Anh đang mơ màng cái cảnh đi gánh nước với em, thì hai con vịt của anh ăn nhằm lưỡi câu, nó giằng qua giựt lại làm cái tỉn chao đi và nước tràn vô đầy tỉn. Cái tỉn chìm xuống và với sức nặng đó, nó kéo cổ hai con vịt xuống theo tới dưới đáy sông và neo luôn ở đó.

Trong khi anh chủ của nó thì đang rướn cổ lên để ca một câu mùi tận mạng:

-Ba năm sau, tui trở về quê cũ, gánh nước đêm trăng để tìm lại kẻ chung .....tình .....

Quảy gánh lên vai tôi thờ thẩn một mình ..

Anh nhỏm đầu nhìn đàn vịt, lấy nón lá rách đội lên rồi vác cái sào dài "thờ thẫn" đi theo đàn vịt, vì chúng không khi nào chịu ăn hoài một chỗ, chừng năm mười phút sau nó đã kéo nhau đi xa cả mấy công ruộng, và anh chăn vịt lại lững thững theo sau, không biết rằng có hai con vịt của anh đầu đang cắm xuống, đít nhổng lên trời, chết mà không kêu lên được một hai tiếng cạc cạc từ giã cõi đời.

Trên cánh đồng mênh mông, giọng hát buồn thoảng theo làn gió:

-Hò ơi ! Ai phụ tôi có đất trời chứng giám

Phận tôi nghèo đâu xứng đáng cùng ai

Tưởng cái giếng sâu tôi nối sợi dây dài

Ngờ đâu giếng cạn ..

Hò ơi .. ngờ đâu giếng cạn tôi tiếc hoài sợi dây !!

Chờ anh chăn vịt khuất d�%A 1ng, bọn ăn trộm mới phăng theo sợi dây mà lấy hai con vịt dồn vô bao , thong thả xách về làm thịt để nhậu chơi.

cái Ve

Bọn họ bốn người ngồi đợi bạn đi làm về để ăn cơm sáng. Có lẽ họ cùng đói cả, vì đều yên lặng, đều uể oải chẳng ai chuyện trò với ai. Một người làu nhàu nói một mình:

- Làm gì mà giờ chưa về?

Rồi quay sang hỏi người bên cạnh đương nằm khểnh, vắt chân chữ ngũ, chăm chú dùng móng ngón tay trỏ và ngón tay cái làm nhíp nhổ râu.

- Trường, thằng Việt nó có dặn mày nó không ăn cơm nhà không?

Trường nhăn mặt xuýt xoa, vì đã lơ đãng bấm phải da cằm. Người hỏi thấy vậy nhún vai ngồi im. Một lát, chàng lại cằn nhằn nói một mình:

- Lại lão giáo nữa!

Một hồi chuông giòn giã. Một người thở hổn hển dắt xe đạp đi vào, rồi vừa nhắc xe đặt lên cái giá gỗ, vừa cười nói:

- Xin lỗi các anh. Tôi về hơi muộn vì gặp thằng cha khó chịu quá, nó cứ vật nài đặt xong cho nó cái hòm "ắc qui" để nó đi Đồ Sơn nghỉ mát ngay trưa hôm nay.

- Hừ! ắc qui với chẳng ắc qui! Mười hai rưỡi rồi còn gì? Người ta làm lụng đầu tắt mặt tối, tháng tháng kiếm được mươi mười hai đồng bạc. Đã thế, đến bữa cơm còn chưa được ăn!

- Việt đấy chứ moa thì hết giờ rồi moa cóc lắp nữa, phỏng đã làm gì moa tốt! Tội gì lại chịu đói cào ruột ra để lắp hòm điện cho nó đi nghỉ mát, đi nghỉ mát với gái.

Việt cười xòa:

- Thôi "bạc đồng" cả các anh!... Thì đã giao hẹn cứ đợi đến đúng mười hai giờ là cùng kia mà, sao các anh còn...

Trường ngắt lời Việt, cất tiếng gọi:

- Ve! Có cho người ta ăn không?

- Xong rồi đây!

Một người con gái bưng mâm cơm ra, đặt lên phản. Nàng y phục nửa thôn quê, nửa thành thị: cái quần vải thâm, cái áo dài vải đồng lầm cài kín tà, để chừa lại khuy cổ và khuy vai, cái khăn nhung vấn lẳn vành, mái tóc rẽ hơi lệch như muốn theo kiểu mới, nhưng còn nhút nhát, rụt rè, chưa dám quả quyết.

Nhẩm đếm trong mâm có năm cái bát và năm đôi đũa. San, người thợ nguội ở một xưởng chữa ô tô, hất hàm hỏi:

- Thế nào, Ve, ông giáo bữa sáng nay lại không cùng ăn?

- Mời các bác xơi cơm thôi, hôm nay dễ ông ấy đi ăn cơm khách, vì mãi giờ vẫn chưa thấy về. Với lại ông ấy đã dặn hễ đến bữa mà ông ấy chưa về thì đừng đợi cơm, đừng để phần để phiếc gì hết.

Không nghĩ ngợi, không do dự, năm người ngồi xuống ăn liền. Họ vẫn chẳng ưa gì ông giáo Thanh mà họ cho là không vào cảnh lao động với họ: một người kiêu ngạo, ít nói, vui buồn không để lộ ra ngoài mặt, một người đã nhiều phen phê bình lời bông đùa, cợt nhả của họ bằng sự yên lặng trang nghiêm. Có lần cáu tiết, bọn họ đã bảo bác Cả, mẹ Ve, dọn riêng ra cho ông ta ăn một mình. Nhưng bác Cả vẫn cố tìm lời khôn khéo nói với họ để tránh sự tổn phí thêm mâm thêm bát.

Bọn họ đã theo nghề mà phân biệt giai cấp, nhưng nếu họ biết rõ tình cảnh của Thanh thì họ sẽ thấy cũng chẳng hơn gì tình cảnh họ: dăm bộ bàn ghế nát, một cái bảng đen trong gian nhà lá trống trải, đó là khí cụ để xoay kế sinh nhai. Còn khách hàng: vài ba chục cậu trò nhỏ từ sáu đến mười hai tuổi từ lớp đồng ấu đến lớp sơ đẳng và toàn là con các nhà bình dân buôn bán ở ngoại ô, nghĩa là không sẵn tiền và nhiều khi túng bấn nữa. Vì thế học phí chẳng

ấy gì được trả sòng phẳng luôn luôn, và món tiền thầy giáo kiếm được hàng tháng chẳng mấy khi quá số mười lăm đồng. Trừ tiền thuê lớp học và các khoản chi phí khác, khéo lắm còn hơn chục bạc để ăn tiêu.

- Ve!

- Cái gì nữa thế?

- Lấy thêm cơm, mau!

Trên mâm, đĩa đậu phụ om tương, đĩa rau muống sào tóp mỡ đĩa đu đủ xanh om mắm tôm, đã sạch sẽ như lau. Ai nấy ăn ngốn ngấu, vội vàng, không trò chuyện, không ngừng gắp, không ngừng nhai. Người ta chỉ nghe thấy tiếng hai hàm răng chạm nhau côm cốp, tiếng thìa đũa đụng mâm lách cách và tiếng húp canh sụp soạp.

Ăn no, ai nấy trở nên vui vẻ, và những câu chuyện khôi hài nghịch ngợm, những câu pha trò thô tục, nhạt nhẽo kế tiếp nhau, chen đua nhau không ngớt, dù Ve có đứng gần đấy cũng mặc. Họ đã quen coi Ve là một người để sai khiến, một người nấu cơm cho họ ăn, thế thôi. Còn cái tuổi mười tám của Ve, họ không hề nghĩ đến bao giờ. Thấy Ve bỏ chạy, họ cho là một sự rất thường hoặc để xuống bếp làm lụng, hoặc để đi mua thức gì cần dùng, chứ không một lần nào họ tưởng rằng những lời lỗ mãng, những câu bẩn thỉu của họ đã làm Ve bẽn lẽn xấu hổ và đã đuổi Ve đi.

Là vì Ve xấu số, chẳng có nhan sắc như nhiều cô gái khác, hơn nữa, chẳng có một chút duyên lộ duyên thầm của một cô con gái đến thì. Sự trang sức của Ve,- vì Ve mới bắt đầu chăm chỉ trang sức - càng phô rõ những điểm xấu của Ve ra. Cái mặt kỳ cọ bóng loáng, hai hàm răng xỉa thuốc đen láy, chỉ làm cho cặp môi thêm thâm, thêm cong. Đôi lông mày nhổ tỉa hình bán nguyệt càng thanh bao nhiêu thì hai con mắt lồi càng thô bấy nhiêu, hai con mắt đục và ướt như lúc nào cũng ám khói bếp. Một cái sẹo trắng nằm dài ở mi bên phải khiến thoạt nhìn Ve là người ta để ý đến mắt Ve ngay. Có lẽ Ve cũng biết thế, nên vẫn hết sức chữa cho cái sẹo mờ đi: trước Ve đã bôi nghệ, nhưng thấy màu nghệ vàng khè không giống màu da, nàng lại thôi. Mãi sau nàng mới nghĩ ra được cách dùng màu chì nhạt. Từ đấy trong túi áo lót mình của Ve bao giờ cũng có mẩu bút chì và cái gương tròn nhỏ.

Chính cái sẹo ấy đã đặt tên cho Ve. Thực ra Ve không có tên riêng. Khi Ve ra đời, mẹ Ve chỉ gọi Ve là cái Riêm con, và cái Riêm, chị Ve, đã nghiễm nhiên thành cái Riêm nhớn.

Năm bảy tuổi, Ve đau mắt nặng. Khỏi bệnh, còn lại cái sẹo ở mi bên phải. Từ đó, mẹ nàng khi mắng nàng thường chỉ kêu nàng là cái Ve, rồi chẳng bao lâu ai ai cũng theo thế mà gọi nàng.

- Ve!

- Các bác bảo gì?

Ve đã nhanh nhẹn ở trong nhà chạy ra. Khoát trỏ mâm:

- Bưng đi, Ve!

Rồi trong khi người con gái thu dọn các đĩa bát rếch, chàng cười bảo Trường:

- Mày ạ, ban nãy tao ở nhà máy về gặp con bé chỉ độ mười bảy tuổi đầu thôi. Kháu quá, mà tình quá! Tao nháy nó, nó tủm tỉm.

- ồ thú nhỉ!

San cười phì cả ngụm nước vừa uống:

- Mày tin gì nó! Nó làm như nó đẹp giai lắm, các cô con gái Hà Nội ai cũng phải lòng nó.

- Mày thì đẹp! Hôm nọ ghẹo con hàng chuối nó mắng vào mặt cho, còn không biết thân!

Ve bưng mâm bát, đĩa xuống nhà, trong lòng buồn rầu man mác. Năm nay nàng đã mười tám tuổi rồi, mà chưa một lần nào được ai nháy hay bị ai chòng ghẹo. Nàngkhông hiểu sao người ta lại nháy nhau, lại chòng ghẹo nhau được và làm như thế có ích gì. Nàng chỉ biết khi một người đàn ông, như ông giáo Thanh chẳng hạn, nói với nàng những câu dịu dàng, đứng đắn, khác với những lời cục cằn của mấy bác thợ ăn cơm trọ nhà nàng thì nàng thấy tim nàng đập mạnh và nàng cảm động quá, chỉ muốn ứa nước mắt. Nhưng nàng cũng mới gặp có một ông giáo Thanh đối đãi với nàng như thế. Giá ông ấy có nháy nàng hay chòng ghẹo nàng, thì nàng xin thề với nàng rằng nàng chẳng dám tủm tỉm mà cũng chẳng dám mắng vào mặt ông ấy.

- Ve, mày không đi rửa bát, còn ngồi thừ ra đấy mà nghĩ ngợi gì thế?

Nghe tiếng mẹ cự, Ve thở dài đứng dậy cắp rổ bát đĩa thong thả ra ao.

Mặt trời giữa trưa xiên thẳng ánh sáng xuống làn nước màu xanh vàng. Ve trùm vạt áo sau lên đầu để che mắt cho khỏi nắng và đỡ chói, ngồi cầu ao lấy búi rơm thong thả cọ từng cái bát, cái đĩa. Đàn cá nhỏ xúm xít bơi lại gần đớp những hạt cơm rơi, mặt nước lấm tấm, lấp loáng trông như có những hạt mưa đương dồn dập đổ xuống. Ve lấy tay khỏa mạnh, tức thì bóng nàng tan ra với đàn cá nhép tản mát lan đi. Nàng lò mò cúi xuống nhìn: mặt nước dần dần lắng lại, bóng cái sẹo ở mi mắt lờ mờ thành hình. Ve rửa tay thực kỹ, kéo vạt áo lau cho khô, rồi móc túi lấy ra cái gương con và mẩu bút chì để tô.

Giữa lúc ấy có tiếng gọi:

- Ve! Mày chết gí ở ngoài ấy à?

Ve bỏ vội gương và bút chì vào túi, cắp rổ bát đĩa đứng dậy, trong lòng căm tức nghĩ thầm: "Người nào cũng vậy, động nói với mình là rủa mắng! Khó chịu quá!"

Nàng cau có hỏi mẹ:

- Cái gì mà bu làm ầm lên thế?

- Con giời đánh, mày có sắp sửa đi chợ không, còn dềnh dàng mãi.

- Thì cũng phải rửa xong bát đĩa đã chứ!

- Câm ngay, con đĩ dại! Đây này, cầm hào bạc ra chợ mua cho tao năm bìa đậu với lại hai xu cải, một trinh hành hoa. Bữa sáng còn rau muống, còn cá kho đấy, chiều dọn ra, như thế là tươm rồi.

- Có mua thêm thịt kho cho ông giáo ăn không?

Bác Cả nguýt dài, mắng con:

- Rõ khéo lôi thôi, tao bảo mua thức gì thì cứ mua thức ấy có được không?

Ve bĩu môi đáp lại:

- Thì người ta giả hơn tiền, cũng phải cho người ta ăn tươm tất hơn một tí chứ.

Bác Cả gí ngón tay vào trán con, hai hàm răng rít lại, thì thầm:

- Thổi cơm trọ như mày thì có khi phải bán nhà mà bù. Sáu đồng bạc một tháng, mày tưởng to lắm đấy à?

- Chẳng to lắm thì cũng to hơn phần mọi người khác, họ chỉ giả bu có bốn đồng thôi.

- Nhưng đằng này người ta vừa ăn vừa trọ. Thôi, mày im ngay, đừng làm tao lộn tiết lên nữa, mà tao phang cái chày này vào mặt bây giờ.

Bác Cả đứng im vài giây rồi cười chua chát, nói tiếp:

- Dễ thường con bé này nó phải lòng nhà thày giáo chắc! Chả thế mà hôm nào nó cũng săn sóc riêng đến bữa cơm của thày ta.

Ve vùng vằng bỏ ra đi.

II

Ve đương ngồi ở bếp thái hành để muối dưa, bỗng nghe tiếng guốc lộp cộp sau lưng: nàng biết rằng đó là ông giáo Thanh, vì chỉ có mình nàng với ông giáo ở nhà. Mẹ nàng ra chợ, còn năm người ăn cơm trọ, xong bữa sáng, đã kéo nhau đi cả.

Ve cố thản nhiên chăm chỉ làm việc, như không để ý đến mọi sựxảy ra chung quanh mình.

- Cô Ve!

Không lần nào nghe hai tiếng "cô Ve" mà cô gái xấu xí không nóng bừng mặt. Cách xưng hô ấy, Ve cho chỉ để tặng riêng những người lịch sự, xinh đẹp trong các gia đình cao sang hay giàu có. Còn đối với nàng, đó chỉ có thể là một sự mỉa mai cay độc. Vì thế, buổi đầu Thanh gọi nàng là cô, nàng căm tức tưởng như bị chế nhạo. Nhưng lâu dần nàng cũng quen tai, tuy vẫn còn hơi bẽn lẽn một chút, bẽn lẽn sung sướng.

- Cô Ve!

- Dạ.

Ve từ từ đứng dậy, dáng điệu giữ gìn khoan thai, yểu điệu, nhất là cố ý nhìn thẳng để Thanh chỉ trông thấy một nửa mặt không có cái sẹo dài ở mí mắt.

- Cô Ve làm ơn đun hộ tôi ấm nước sôi nhé?

- Thưa ông, vâng.

- Đây, ấm đây, cô Ve.

Ve đỡ lấy cái ấm đồng ở tay Thanh, ra vại múc nước, bắc lên bếp kiềng nhóm lửa. Rồi nàng lại ra ngồi thái hành, lòng bâng khuâng cảm động: "Người ta có học hành chữ nghĩa vẫn hơn. Ăn nói ôn tồn quá. Chả bù với năm bác kia nhất là bác Trường, với bác San, động nói là gắt, bảo làm việc gì thì như sai đầy tớ vậy. Rõ nhắng quá! Ai là đầy tớ họ mới được chứ?"

Một lát sau, Ve xách ấm nước lên nhà, nói se sẽ:

- Thưa ông, nước sôi được rồi đây ạ.

Thanh đương mải chấm bài học trò ở cái hòm lớn đặt trên giường và dùng làm bàn. Ve phải nhắc một lần nữa, chàng mới nghe thấy và quay lại tươi cười nói:

- Cám ơn cô nhé. Cô để đấy cho tôi.

Ve cúi đầu, thỏ thẻ:

- Thưa thầy, thầy pha nước hay để làm gì?

- Tôi pha nước đấy, cô ạ.

- Thế con đi súc ấm nhé?

- Được, cô để mặc tôi.

Nhưng Ve đã nhanh nhẹn ra bàn nước mở cái giỏ làm bằng tre ghép, màu sơn quang dầu đã mờ sạm và trên đậy nắp vải nâu cũ, rách, để lòi cả bông nhồi ra. Nàng kéo lên một cái ấm Thanh Trì vòi thiếc cáu đầy cặn chè nụ, và mở vung ghé mắt nhòm, lẩm bẩm:

- Gớm! Tệ quá! Uống cạn chẳng để phần người ta lấy một giọt.

Tiếng "người ta" dùng để chỉ ông giáo Thanh mà Ve buột miệng thốt ra, nàng nghe như có chiều thân mật quá. Vì thế nàng đưa mắt liếc trộm xem Thanh có nghe rõ không. Thấy Thanh vẫn cặm cụi chấm bài, nàng mới yên tâm.

- Thưa thầy, con súc ấm tra chè mới nhé?

Thanh vẫn không ngửng lên, đáp:

- Cám ơn cô, thế thì còn nói gì nữa. Nhưng hình như chè hãy còn tốt đấy mà, bỏ sợ phí, cô Ve ạ.

Ve bóp mấy hạt chè bã:

- Thưa thầy, còn tốt đâu! Bã nát nhẽo ra rồi!

Ve dềnh dàng để được ở gần Thanh lâu thêm một lát nữa. Trong lúc nhà vắng đứng nói chuyện với Thanh, nàng coi như một việc thầm kín, vụng trộm, một việc có lỗi. ý nghĩ ấy làm Ve sung sướng, chân tay luống cuống. Nàng tra chè mới rồi rót nước vào ấm.

- Thưa thầy, con để đây, thầy chờ một lát cho ngấm đã rồi hãy uống.

- Được, cám ơn cô, cô cứ để đấy cho tôi. Nhưng này cô Ve, sao cô cứ xưng con với tôi thế? Tôi chỉ hơn cô độ hai, ba tuổi là cùng, cô xưng con với tôi như thế e không tiện.

Ve yên lặng đứng ngây người nhìn Thanh, và ngẫm nghĩ: "Thế nghĩa là gì? Đó là câu đùa bỡn trêu ghẹo, hay là lời đứng đắn tự nhiên?". Nhưng thấy Thanh vẫn cúi đầu chữa bài học trò, Ve liền rón rén lảng xuống bếp. Một lát sau, nàng lại lên nhà, rótchén nước chè nụ đầy bưng đến để bên cạnh ông giáo và lễ phép nói:

- Thưa thầy, nước chè ngấm, vừa uống rồi đấy ạ

Thanh ngửng đầu lên tươi cười đáp.

- Cám ơn cô nhé.

Ve giật mình vì vô tình nàng đã xây về phía Thanh nửa mặt có cái sẹo ở mí mắt. Nàng cúi vội đầu xuống rồi ngoảnh trông nghiêng.

- Ve!

Ve chạy biến vào trong bếp. Tiếng bác Cả réo từ ngoài đường réo vào:

- Ve! Con chết đâm ra đây tao bảo.

Ve sợ hãi bước lại gần, hỏi:

- Cái gì thế, bu?

- Cái gì à? Lại còn cái gì à, con quạ mổ?

Ve ngượng quá, đưa mắt nhìn Thanh, và thầm mong rằng Thanh mải chấm bài, không nghe thấy lời rủa mắng của mẹ.

- Thì tao hãy hỏi mày: mày mua na để làm gì, hử? Tiền đâu mà mua na, hử con ranh kia? Mày ăn bớt tiền chợ để ăn quà, phải không con đĩ?

Trong khi người mẹ nói một thôi một hồi, Ve chỉ đứng lặng, mặt tái đi nhìn quanh mình như để tìm cầu cứu. Bác Cả thét càng to:

- Con nỡm! Sao tao hỏi, mày cứ đứng ỳ thần xác ra như con câm thế kia?

Ve cáu tiết trả lời buông sõng:

- Làm gì có tiền mà mua? Ai mua? Rõ bu chỉ lôi thôi.

Bác Cả đặt phịch cái rổ thức ăn xuống đất, ngón tay trỏ sỉa sói vào mặt con:

- à, lại còn gái đĩ già mồm à? Tao đi qua hàng chị Thẽn, chị ấy bảo mày mua bốn xu hai quả na, rồi gửi chị ấy, chị ấy nhờ tao mang về cho mày đây này, còn cãi nữa thôi, con chết tiệt, con chết băm?

Ve cuống quít cãi liều:

- Ô hay, bu mới hay nhỉ! Có để cho ông giáo ông ấy chấm bài không?

Nghe nói đến mình, Thanh ngửng đầu nhìn: Chàng đã mục kích nhiều lần cái cảnh náo nhiệt giữa hai mẹ con bác Cả, nên những tiếng chửi rủa nhiếc móc tục tằn, chàng coi thường rồi, không lấy làm chướng tai, như buổi mới đến ở trọ nữa.

- Hay sao, mày bảo tao hay sao, con kia? Tao hãy hỏi mày: tiền đâu mày mua na?

Thấy Thanh nhìn mình, Ve vớ ngay lấy chàng như người sắp chết đuối với lấy mảnh ván trôi.

- Ông giáo đấy chứ...

- Ông giáo sao?

- Mua cho ông giáo đấy chứ!

Thanh thoáng hiểu tình cảnh một cô gái đi chợ ăn quà vụng mẹ. Chàng liền nghĩ cách cứu vớt:

- à, cô Ve, tôi nhờ cô mua na cho tôi, cô đã mua chưa?

Ve toan nói: "Đấy bu coi", nhưng nàng cảm động quá, chỉ ứa nước mắt, nghẹn ngào đứng im. Nàng không hiểu sao ông lại bênh vực nàng như thế, và bênh vực nàng như thế, ông ta có định ý gì không. Xưa nay có ai thèm thương hại nàng bao giờ đâu. Nàng ra chợ mất cắp, người ta cười chế nhạo nàng. Nàng bị mẹ mắng chửi, đánh đập, mấy người ăn cơm trọ khúc khích cười lấy làm thích chí như ngồi coi hát chèo. Thậm chí có khi nàng ngã sây sứt cả chân tay, mà những người qua đường cũng vỗ tay reo cười được. Không bao giờ, thực không bao giờ nàng được nếm chút tình trắc ẩn nó an ủi, vỗ về, xoa dịu lòng con người trong những giờ đau đớn.

Ve lại thuộc hạng người nhiều tình cảm. Thực là một tấm lòng yếu đuối, một tâm hồn ủy mị, chứa trong một hình thể cục mịch, một cốt cách thô sơ. Vì thế, Ve càng nhận thấy rõ rệt và cảm thấy thấm thía những sự đối đãi tai ngược và bất công của người đời. Nàng không sao thân mật được, như mẹ nàng, với cái hoàn cảnh nàng đương sống và đã sống gần haichục năm nay, và có lẽ nàng còn sống mãi mãi cho đến khi già, khi chết.

- Thế nào, na của tôi đâu, cô Ve?

Sợ mẹ trông thấy sự cảm động của mình biểu lộ ra bằng hai dòng nước mắt, nàng bỏ chạy xuống bếp. Thanh mỉm cười thầm, cho là nàng ngượng với mình, vì có cái nết thứ tư của "cô con gái bảy nghề". Còn bác Cả thì vẫn chưa hết thét, tuy bác đã biết con bác không có tội.

- Ve! Con bé thế này thì thật. Sao ông giáo hỏi lại bỏ chạy, hử, con đĩ? Đấy, thầy tính nó hư đủ nết như thế, thì tôi không gào không thét làm sao được cơ chứ. Mua có hai quả na cho thầy cũng còn bỏ quên được mới nghe.

Vừa nói, bác Cả vừa cầm hai quả na còn cả lá, gượng nhẹ đặt vào khay nước.

- Thầy xơi ngay được đấy. Na đầu mùa chín tới ngon lắm.

- Cám ơn bà, bà cứ để đấy cho tôi.

- Thôi thầy ở nhà nhé. Tôi lại phải ra chợ. Đã mua bán xong đâu. Tôi chủ định về cho con bé một trận.

Dứt lời bác Cả vừa cười, vừa cắp rổ đứng dậy. Thanh tưởng nên hỏi một câu cho có chuyện, nhân tiện để làm thân với bà chủ nhà:

- à, bác đã được tin bác giai bao giờ về chưa?

- Về gì đây! Có về thì cũng gần Tết. Nghe đâu nhà tôi nó đã lấy vợ lẽ ở mỏ rồi thì phải.

Nói câu ấy, bác Cả không có giọng ghen tuông tức tối, như nói đến một việc thường xảy ra, và xảy ra một cách rất tự nhiên. Thanh toan hỏi một câu nữa, thì bác Cả đã ra khỏi cửa rồi. Chàng lại cúi xuống chấm bài.

Bỗng nghe lách cách động chén, chàng quay ra nhìn thấy Ve, liền mỉm cười nói:

- Na của cô đấy, mời cô cứ tự do xơi đi, bà Cả ra chợ rồi, cô không còn sợ hãi gì nữa.

- Không... tôi... mua...

Ve muốn nói: "Tôi mua biếu thầy", nhưng hổ thẹn, ngập ngừng, không dám nói dứt câu. Thanh tưởng nàng xấu hổ định chữa thẹn mà không tìm được câu ổn thỏa. Chàng đỡ lời:

- Cái đó là sự thường. Ai chả có lúc ăn quà? Vả lại ăn hoa quả tốt lắm, tôi nói ăn hoa quả chín, vì ăn hoa quả xanh rất độc rất dễ sinh bệnh, cô chớ có ăn hoa quả xanh vào.

Ve uất ức về nỗi oan của mình, mà không thể bộc bạch được.

Ban nãy, ra chợ, thấy có mớ na đầu mùa vừa chín tới, nàng nghĩ thầm: "Ông giáo Thanh rất thích na, ta mua cho ông hai quả". Nàng vẫn có cái vốn riêng hơn hai đồng bạc, góp nhặt lâu ngày bằng tiền mừng tuổi Tết, và các khoản ăn bớt tiền chợ cùng là tiền thưởng, tiền thuê vặt vãnh. Nàng bỏ ra bốn xu chọn mua hai quả na to nhất mẹt. Nhưng vừa trả tiền xong thì nàng nhận ngay ra điều này: "Làm thế nào đưa na cho thầy giáo được? Chẳng nhẽ mình biếu thầy ấy! Hay nói mua hộ thầy ấy? Nhưng thầy ấy có nhờ mình mua đâu? Mà nhỡ gặp lúc thầy ấy túng quá không có bốn xu giả lại mình thì thầy ấy ngượng chết."

Đương phân vân nghĩ ngợi thì thoáng thấy bóng mẹ ở đằng xa, nàng vội gửi tạm nhà hàng hai quả na, hẹn chốc nữa ra lấy.

Về nhà làm lụng và trong khi ngồi chờ ấm nước sôi, nàng chợt tìm ra được một cách rất tự nhiên, rất giản dị, là nói với ông giáo Thanh rằng có người gửi biếu. Ông ấy có hỏi ai biếu thì mình nói không biết, thế là xong.

Nàng mừng thầm, thấp thỏm đợi mẹ về chợ để ra lấy na. Chẳng ngờ đã xảy ra lôi thôi.

- Kìa cô xơi na đichứ, chẳng ruồi nó bâu, nó đẻ trứng vào thì rồi nó sẽ nở ở trong ruột ấy.

- Gớm! Thầy chỉ...

Thanh mỉm cười:

- Hay cô muốn biếu ân nhân một nửa đấy?

Ve sung sướng choáng váng cả người, nói rất mau:

- Vâng mời thầy xơi, na ngon lắm, mời thầy xơi.

Ve bưng khay na đặt bên cạnh Thanh, nhắc lại một lần nữa:

- Mời thầy xơi.

- Ai lại thế! Cô ăn đi.

- Không, con cốt mua mời thầy xơi.

Thanh cho đó là một câu nói khéo, hoặc một câu nói để che đậy cái nết xấu hay ăn quà vặt.

- Vâng thì ăn. Nhưng hết bao nhiêu tiền rồi tôi giả cô đấy.

Và chàng nghĩ thầm: "Thế nào cô ả cũng ăn lãi được một, hai xu." Nhưng Ve chạy vụt xuống bếp, nói giọng nũng nịu:

- Không, con chả dám lấy tiền của thầy đâu.

III

Sáng hôm ấy, trước giờ đi dạy học, Thanh nhăn nhó bưng bát cháo nóng lên gần miệng húp một thìa rồi lại đặt bát xuống thở dài và rên se sẽ. Bác Cả cắp rổ ra chợ đứng lại hỏi thăm một câu lấy lệ:

- Thế nào ông giáo, hôm nay ông đỡ sốt rồi chứ?

- Cám ơn bà, tôi đã khá.

Thanh trả lời thế cho xong chuyện, vì biết bác Cả cũng chẳng lưu tâm cũng chẳng săn sóc gì đến mình. Thực ra, bệnh sốt của chàng từ chiều hôm trước đã tăng quá mau.

Chàng bỗng bỏ giở bát cháo, đứng dậy lấy mũ trắng đội. Nhưng đầu gối run lẩy bẩy chỉ chực khuỵu.

Chàng tức tối vứt mũ xuống giường, ngồi suy nghĩ, và rút chiếc đồng hồ vỏ sắt ở túi áo ra xem giờ. Rồi lắc đầu phàn nàn:

- Giời ơi! Khổ thân tôi chưa!

Giữa lúc ấy, Ve xách ấm nước chè nụ từ dưới bếp đi lên để bỏ vào giỏ. Lần đầu tiên, nàng nghe thấy ông giáo kêu khổ, người mà nàng tưởng không phút nào không vui vẻ, sung sướng, lúc làm việc cũng như lúc nhàn rỗi, vì nàng thường liếc mắt ngắm trộm ông giáo và thấy nụ cười luôn luôn nở trên cặp môi tươi, dù khi ông ta cặm cụi ngồi chấm bài học trò, hay gặp ngày nghỉ, ông ta chắp hai tay sau lưng, lững thững đi bách bộ bên rặng ổi bờ ao.

Thương hại, nàng hỏi:

- Thưa, ông mệt lắm?

Thanh quay lại ngơ ngác nhìn. Ve thoáng trông thấy đôi mắt đỏ ngầu, và bộ mặt xanh tái.

- Giời ơi! Thầy sao thế kia?

- Không, tôi có sao đâu.

Thanh với mũ, cắp cặp, cố gượng đi. Nhưng, lần được đến cửa, chàng thấy chóng mặt, phải vội víu lấy cánh cửa để khỏi ngã. Ve kinh hãi chạy lại. Nàng không dám đỡ, chỉ áy náy đứng nhìn.

- Thưa ông, dễ ông không đi dạy học được... Phải nghỉ...

- Không sao...

Thanh lại cố gượng đi. Nhưng lần này chàng ngã khuỵu xuống ngưỡng cửa. Không kịp suy nghĩ, giữ gìn, Ve đưa tay ra nâng Thanh đứng dậy, rồi thong thả dắt chàng lại giường.

- Đấy, thầy coi, thầy... không đi được.

Nghe lời nói cảm động và hơi thở mau, Thanh ngước mắt nhìn, mỉm cười cám ơn.

- Cô cũng ốm đấy à?

- Thưa thầy ... không.

Ve bẽn lẽn cúi đầu. Nàng xấu hổ. Thực ra nàng cũng nhận thấy mặt tai và chân tay nàng nóng rực lên. Lần đầu nàng được nâng đỡ một người đàn ông trẻ tuổi, và người đàn ông ấy lại là ông giáo Thanh, người mà nàng vẫn kính trọng, mến yêu thầm kín. Nàng sung sướng để thân thể Thanh uể oải đè nặng lên cánh tay nàng, và hơi thở hổn hển của Thanh nàng tưởng nhưướt qua gáy và ngực nàng. Tim nàng hồi hộp đập mạnh, miệng, lưỡi nàng khô rát và tiếng nàng run run;

- Ông... ngồi xuống... Con đi... rót nước... ông xơi nhé?

Nàng bưng lại đưa cho Thanh một chén nước trà khói ngát bốc lên. Thanh mỉm cười:

- Cám ơn cô... Không bao giờ tôi sốt nặng như lần này.

- Có lẽ ông bị cảm thử... Hôm qua nóng bức quá... Ông nghỉ thôi.

Thanh nằm vật ra giường vừa thở vừa đáp:

- Không... thể được, cô ạ... Mấy chục học trò... đương đợi.

Suy nghĩ một lát, Thanh lại nói:

- Giá anh Nghĩa anh ấy dạy hộ một buổi...

- Anh Nghĩa nào thế, thầy?... Cô phải anh Nghĩa con ông lang Đạo không?

- Phải đấy.

- Thế thì được rồi, thầy để con đến bảo anh ấy dạy giúp thầy.

Ve toan chạy đi ngay. Thanh gọi giật lại, nói để đợi viết thư đã. Rồi vừa viết chàng vừa nói:

- Cô Ve này, tôi đã bảo cô đừng xưng con với tôi, sao cô không nghe.

Ve đứng im lặng đưa tay lên kéo mái tóc: mấy hôm trước, khăn sổ, nàng soi gương vấn lại. Ngẫu nhiên nàng ngắm thấy mái tóc xõa gần mắt không những làm cho khuôn mặt nàng bớt rộng mà lại loáng thoáng che được cả cái sẹo ở mi bên phải. Từ đó nàng vẫn có ý kéo thấp mái tóc xuống.

- Nếu cô còn xưng con với tôi, thì... từ rầy tôi không dám nhờ cô một việc gì nữa.

Bắt đầu ngay lúc ấy, bệnh Thanh tăng gấp. Rồi trong luôn ba hôm, chàng sốt mê man, chẳng biết gì.

Hôm nay, chàng như thức một giấc ngủ liên miên đầy chiêm bao, đầy mộng mị. Chàng đưa tay lên trán gạt mồ hôi, nghĩ thầm: "Giời ơi! Mình ngủ say quá? Nhớ mới buổi sáng viết thư cho anh Nghĩa dạy học giúp. Thế là mất hai buổi rồi. Chẳng biết học trò có kêu ca gì không?"

Cái buồng hẹp và tối như làm cho Thanh bứt rứt khó thở. Chàng toan đứng dậy chống cánh phên cửa sổ trông ra ao cho sáng, và thoáng hơn một chút. Nhưng vừa sẽ trở mình, chàng thấy gân cốt đau đớn, và đầu nặng như gắn chặt xuống gối. Chàng cố sức ngồi dậy mà không sao nhúc nhích được chân tay: "Chết chửa! bệnh mình nặng đến thế kia à?"

Chàng định thần nhìn kỹ cái hòm ở chân giường, và bát thuốc cạn đặt trên mặt hòm. Thốt nhiên một giấc mộng dần dần nối tiếp hiện ra trong trí nhớ:

"Chàng ốm li bì, nằm thiêm thiếp, chập chờn nửa tỉnh nửa mê. Trong buồng, mọi vật lờ mờ, và dưới sức nặng buổi trưa, không khí nóng như than hồng bên lò sưởi

"Bỗng một cơn gió mát thổi qua. Hương thơm ngào ngạt đầy phòng. Rồi một nàng tiên yểu điệu, nhẹ nhàng bước vào, một nàng tiên với bộ y phục trắng và trong.

"Thanh mỉm cười nghĩ thầm: "Ta chiêm bao rồi. Chứ thời nay làm gì còn tiên". Nhưng kinh dị xiết bao! Nàng tiên đặt tay mát rợi lên trán chàng. Cái cảm giác mát ấy nhắc chàng biết rằng chàng thức. Chàng sợ hãi, kêu ú ớ rồi ngất đi.

"Lúc tỉnh dậy, chàng vẫn thấy nàng tiên đứng bên giường. Nàng thì thầm nói với chàng những lời dịu dàng êm ái rồi đỡ đầu chàng, đưa bát thuốc đến tận miệng cho chàng uống. Từ lúc đó, luôn luôn nàng tiên hiện đến thăm chàng. Có khi nửa đêm nàng cũng đến đưa tay xoa trán chàng, lắng tai nghe ngóng vài phút, rồi khi thấy chàng ngủ yên lại biến đi ngay... Kỳ thực, Thanh vẫn thức, nhưng chàng vờ lim dim cặpmắt làm như ngủ say để được ngắm nghía nàng tiên trong khi nàng bất ý..."

Ôn lại giấc chiêm bao, Thanh tưởng như nằm chiêm bao một lần nữa và muốn liên miên kéo dài mãi những cảm giác êm đềm trong giấc mộng đẹp. Một tiếng động khẽ ở cửa buồng. Có ai rón rén bước lại gần giường. Chàng nằm im chờ đợi. Một bàn tay mát đặt lên trán chàng. Chàng tưởng ngửi thấy hương thơm và se sẽ như nói mê: "Nàng tiên đã đến." Chàng sung sướng ngước mắt nhìn lên, và chỉ thấy Ve đầu tóc rối bù, quần áo lếch thếch. Chàng thở dài, thất vọng, chán nản.

Ve vui mừng hỏi:

- Thưa ông đã tỉnh?

Thanh cáu kỉnh nghĩ thầm; "Ngủ dậy thì tất là phải tỉnh, rõ hỏi lẩn thẩn!?" Nhưng Ve nói tiếp:

- Mấy hôm nay, ông sốt nặng quá, nói mê sảng luôn mồm.

- Mấy hôm nay?

- Vâng, ba hôm nay.

Thanh lo lắng tự nhủ "Ba hôm! Thế mà mình tưởng một nửa buổi". Vơ vẩn chàng nghĩ đến truyện thần tiên: "Mình mộng gặp tiên có khác vì ở tiên giới có lẽ một ngày dài gấp ba ở nhân gian".

Thầy Thanh nằm im, Ve đã bỏ xuống bếp. Một lát nàng bưng bát thuốc đến bên Thanh.

- Thưa ông, thuốc tôi hãm vừa uống, xin mời ông xơi ngay chẳng nguội.

Thanh mỉm cười mỏi mệt và thì thào câu cám ơn. Rồi chàng cố ngồi dậy, nhưng không sao cử động được chân tay. Ve phải cúi nâng đầu chàng lên chàng mới uống được thuốc. Trong lúc sốt sắng trông nom người ốm, Ve chẳng kịp nghĩ đến giữ gìn và hổ thẹn.

Đầu Thanh nóng bừng đặt vào trong cánh tay và cái ngực béo mát của Ve. Cảm giác êm đềm ấy làm cho trí Thanh liên miên nhớ tới giấc mộng ôn lại giở chừng. Và Thanh mơ màng tưởng tượng ra một cách rõ rệt, với những màu, những nét tươi sáng dịu dàng, cái dung nhan kiều diễm, cái dáng điệu tiên nga của người đương âu yếm nâng niu chàng. Mắt chàng như được trông thấy hai bàn tay trắng nõn, mềm mại, nhẹ nhàng đỡ hai bên tay chàng để đặt đầu chàng xuống gối.

- Ve!

Lần thứ hai giấc mộng đứt. Ve lẩm bẩm:

- Làm gì mà gọi ầm lên thế không biết?

- Ve! Con chết tiệt, mày có đi dọn cơm không? Gần tối rồi, còn gì.

Ve thì thầm bảo Thanh:

- Ông nằm nghỉ. Lát nữa tôi bưng cháo vào ông xơi nhé.

Rồi Ve tất cả chạy ra ngoài. Tiếng bác Cả lọt vào tai Thanh:

- Con bé thế thì thôi. Rúc cổ xó nào hết ngày hết buổi.

Tiếng Ve đáp khẽ, Thanh không nghe rõ, nhưng bác Cả vẫn oang oang:

- Rồi hỏi thầy ta xem quê quán thầy ta ở đâu, hay thầy ta có bà con nào ở Hà Nội không để nhắn đến mà đưa thầy ta về. Nhỡ thầy ta chết ra đấy, thì sao?

- Ô hay! Bu nói khẽ chứ!

*

* *

Đêm khuya, Thanh thét lên một tiếng trong giấc chiêm bao dữ dội. Chàng vừa mơ thấy chàng chết. Họ hàng thân thích không ai. Bên giường, nàng tiên đứng khóc, nước mắt rỏ lên mặt chàng. Bỗng bác Cả hung tợn bước vào lớn tiếng thét:

- Khiêng vứt xác thầy ta ra đường kia.

Thanh sợ hãi níu lấy vạt áo nàng tiên và tỉnh dậy.

Bên ngoài, mưa gió, sấm chớp. Trong buồng ai vừa thoáng hiện ra lại vụt biến đi.

Và Thanh sung sướng tưởng tới nàng tiên xinh đẹp.

IV

Trong nhà ai nấy ngủ yên. Một mình Thanh vẫn còn trằn trọc trên giường.

Mỗi lần chàng trở mình, cái dát nứa lại kêu răng rắc giữa khoảng tĩnhmịch đêm trường.

Tiếng muỗi bay ngoài màn, tiếng dế rúc quanh hiên càng làm cho chàng cảm thấy rõ rệt tinh thần tỉnh táo của một người khó ngủ. Chàng lẩm bẩm: "Thôi, phải rồi, vì ban nãy ta uống một cốc chè tầu pha đường!"

ý nghĩ ấy khiến Thanh mơ màng như trông thấy Ve hiện ra, hai tay bưng cốc nước tỏa khói thơm.

Cảm động hãy còn man mác trong lòng chàng. Chàng sẽ cảm động hơn nữa nếu chàng biết vì cốc nước chè tàu ấy mà Ve đã bị mẹ cốp bươu đầu. Buổi chiều ăn cơm xong, chàng ngồi vơ vẩn nói một mình: "Ước gì được một chén chè tầu đường mà uống, thì sung sướng quá!" chẳng ngờ câu ấy đã lọt tai Ve. Nàng cho rằng người mới ốm dậy, ăn uống được những thứ mình thèm thì chóng lại sức lắm. Tức khắc, chẳng cần suy nghĩ, nàng chạy ngay ra hiệu tạp hóa mua hai xu trà liên tâm và một xu đường phèn, rồi về cặm cụi đến nỗi quên cả rửa bát, và vì thế đã bị đòn.

Từ cốc nước trà, Thanh liên miên nghĩ tới những sự chú ý săn sóc của Ve trong hơn tuần lễ chàng đau yếu. Mấy hôm đầu, chàng sốt nặng nên mê man chẳng biết gì, và vẫn tưởng mộng thấy có người con gái ngày đêm chăm nom thuốc thang cho mình.

Thanh càng yên trí rằng đó là một giấc mơ, khi qua mấy ngày mê sảng, chàng tỉnh táo nhận xét được mọi việc xảy ra quanh mình: mộng tàn, và người con gái xinh đẹp kia cũng biến mất.

Chàng có biết đâu rằng từ hôm thấy bệnh chàng đã bớt và chàng đã ngồi dậy được, Ve tị hiềm không dám bạ lúc nào cũng bước chân tới buồng chàng nữa, trừ ra ngày dăm, sáu lần bưng cơm, cháo, thuốc và nước vào. Những lúc ấy, Ve se sẽ đặt khay cơm hay chén nước xuống mặt hòm dùng làm bàn, yên lặng đứng ngắm qua Thanh vài giây, rồi lại rón rén đi ra liền. Họa hoằn lắm nàng mới dám hỏi thăm một câu: "Thưa ông hôm nay ông đã đỡ nhiều chưa?"

Một hôm, Thanh bảo Ve:

- Cô làm ơn hỏi ông lang hộ tôi xem hết bao nhiêu tiền tất cả để tôi giả, rồi thôi cô đừng lấy thuốc cho tôi nữa.

Ve bùi ngùi nhìn Thanh:

- Ông còn yếu lắm nên uống thêm vài chén nữa cho khỏe.

- Tôi chỉ còn hơi mệt thôi, nghỉ vài hôm nữa sẽ khỏi hẳn. Với lại tốn lắm. Tiền đâu!... Dễ tôi uống đến bốn, năm chén rồi đấy nhỉ?

- Vâng, năm chén.

- Đấy, cô coi, năm chén, ít ra cũng hết đồng rưỡi.

Ve cố giữ một tiếng thở dài, lặng lẽ bước ra ngoài, và buồn rầu nghĩ thầm: "Ta có hơn hai đồng bạc, giá làm thế nào giả được tiền thuốc cho thầy ấy! ". Chẳng tìm được cách ổn thỏa, Ve đành đem tiền Thanh giao cho sang trả ông lang Đạo. Và nàng ngao ngán tiếc những ngày ba buổi được bưng thuốc vào buồng.

Về phần Thanh, chàng cũng cảm thấy trơ trọi hơn trước.

Chàng là người từ thuở bé không từng được gần tình âu yếm và hưởng những sự vui thú của tuổi trẻ thơ. Chàng ra đời được một năm thì mẹ chết, cha chàng vào Nam kiếm ăn, nhờ người em gái ở một tỉnh nhỏ nuôi nấng con hộ. Người cô nhiều con, cố nhiên chẳng săn sóc yêu thương đến cháu.

Chín mười năm sau kiếm được một cái vốn dăm trăm cha chàng lại quay ra Bắc làm ăn, và đưa theo ra một người vợ "Sài Gòn", người mẹ kế của Thanh mà Thanh không sao yêu được dù chàng sợ hãi cha đến đâu mặcòng.

Hồi đó, Thanh đương học lớp nhì. Hai năm sau, chàng đậu bằng tiểu học. Muốn tránh xa người mẹ kế ác nghiệt, Thanh xin ra Hà Nội kiếm việc làm và nhân tiện học thêm. Bắt đầu từ tuổi mười bốn, Thanh đã theo đủ các nghề, nghề chạy giấy, bán hàng, phát vé xe ô tô cho tới ngày nay đạt được cái hy vọng to tát nhất trong đời: mở một trường học nhỏ ở vùng ngoại ô Hà Nội.

Đằng đẵng hai mươi năm trời, không một lúc nào chàng được ai yêu mến, thương xót. Chàng ao ước rằng bọn học trò nhỏ sẽ coi chàng như một người anh cả. Nhưng sự chăm chỉ nghiêm ngặt của ông thầy trong giờ học đã cắt đứt tình yêu mến của lũ trẻ thơ.

Lần đầu, Thanh nhớ lại rõ ràng cái đời đã sống, cái đời khô héo, buồn tẻ không một kỷ niệm êm đềm, không một người nào để ý đến một cách hơi thân thiết.

Thốt nhiên, Thanh nghĩ đến Ve, và chàng mỉm cười tự thương thân: "Ngày nay, có mỗi một người lưu ý đến đời mình. Nhưng người ấy lại là cô Ve!". Chàng cho đó là một sự mỉa mai độc địa và chàng tự nhủ thầm: "Ta chỉ đáng được người hèn hạ, xấu xí như Ve săn sóc tới mà thôi!".

ý tưởng ấy vừa thành hình đã bị xóa nhòa ngay. Chàng như nghe có tiếng trong thâm tâm trách nhiếc: "Hèn hạ! Sao lại hèn hạ được? ở đời chỉ có một sự hèn hạ, sự hèn hạ của tâm hồn. Ngoài ra không có cái gì hèn hạ cả. Vả lại, mình thì cao quý với ai?".

Chàng cảm thấy dần dần rằng chàng tự khinh bỉ, tự thương hại chàng. Rồi chàng cố bình tĩnh ôn lại những cử chỉ cảm động của Ve đối với chàng, đối với một người xa cửa xa nhà giữa lúc ốm đau.

Thanh nhớ một đêm tỉnh giấc mơ, chàng thấy Ve đứng ngay bên giường. Nghe tiếng kêu ú ớ, nàng đã vội chạy vào, rồi thấy chàng nằm yên, nàng lại rón rén bước ra. Một đêm có khi đến ba, bốn lượt nàng vào buồng như thế. Và Thanh tuy thức, vẫn vờ ngủ say không biết gì.

Có lần chàng quên bẵng đi và buột miệng hỏi:

- Cái gì thế, cô Ve?

Ve bẽn lẽn, xấu hổ vừa hấp tấp bước ra vừa ấp úng đáp:

- Thưa ông... không

Từ đó, Ve sinh ra sợ hãi, giữ gìn, đến cửa buồng chỉ thò đầu vào nhìn, rồi khi nghe thấy yên lặng lại quay đi.

"Một người tốt như thế, một người mà trong những giấc mộng ta lẫn với nàng tiên xinh đẹp, thì người ấy không thể hèn hạ được".

Chàng băn khoăn nghĩ ngợi. Tiếng gà gáy nửa đêm càng làm cho chàng thêm sốt ruột, thêm khó chịu. Chàng liền ra ngoài màn và chống cái phên cửa sổ lên.

Cùng một luồng gió nhẹ, một luồng ánh trăng vàng lọt vào phòng và chênh chếch in hàng chấn song tre lên chiếu.

Cảnh ấy đã quen mắt Thanh lắm nhưng chàng tưởng được ngắm lần đầu với những cảm giác mới mẻ lạ lùng. Từ dãy cây ổi lấp lánh như bạc, cái ao con, mặt nước thỉnh thoảng khẽ rung động giãn ra như nhách một nụ cười, cho chí cái mái tranh, cái giậu chuồng gà nửa sáng, nửa tối, vũng nước bùn loang loáng tựa tấm gương tròn, mọi vật đều như nhuộm một thi vị thần tiên.

Thanh sung sướng mắt chớp mau tưởng đứng trước một cảnh mộng. Rồi chẳng kịp suy nghĩ rằng mình mới ốm khỏi phải kiêng gặp lạnh, chàng khoác vội cái áo lương mở cửa đi ra vườn sau.

Bên gốc ổiả ngọn xuống mặt nước ao, một cái chõng như ân cần mời mọc. Nhưng vừa ghé ngồi, Thanh giật mình vội đứng dậy: chỗ ấy ai vừa ngồi vì còn âm ấm hơi người.

Thanh thì thầm tự nhủ: "Chắc ai vừa ra đấy, thấy ta nên bỏ chạy. Ai? Lại còn có thể ai được nữa?".

Như đáp lại câu hỏi thầm kín của chàng, vụt hiện in lên nền lá tre lờ mờ, cái bóng đen, cái bóng yểu điệu thướt tha của một tấm thân mềm mại và đều đặn cân đối, Thanh chỉ kịp thốt một tiếng gọi: "Cô Ve!", cái bóng đã chạy biến vào trong nhà.

Thanh trở về phòng nằm mơ mộng cho mãi tới khi trời sáng rõ. Một ý tưởng đã chiếm cả lấy tâm hồn chàng. Chàng lẩm bẩm luôn miệng như người mê: "Nghĩ cho cùng thì Ve chả xấu...".

*

* *

Mấy hôm sau, như sợ vơ vẩn điều gì, Thanh dọn đi ở trọ nơi khác. Nhưng cái bóng đen một đêm trăng sẽ không bao giờ rời chàng, và trong tim chàng sẽ in sâu mãi mãi cái kỷ niệm một sự dịu dàng âu yếm, sự dịu dàng âu yếm độc nhất trong đời chàng.

Thu 1936

Rút từ tập truyện ngắn Cái Ve.

Nxb Đời nay, Hà Nội, 1944.

HAO MỠ

(Truyện ngắn đạt giải A cuộc thi do Nguyệt san "Làng Blog" phát động viết truyện ngắn cho làng)

Khuya lắm rồi mà hắn vẫn lang thang hết nhà này sang nhà nọ. Ở cái làng hắn đang sống, nhà nào cũng có cửa ngõ đàng hoàng, thậm chí cửa đẹp nữa chớ. Ấy vậy mà như đã thành thói quen, chẳng mấy ai đi sang nhà hàng xóm bằng cửa chính. Cứ tắt ngang, tắt ngửa mà vào nhà. Được cái, cả làng ai cũng dễ tánh, chẳng ai trách cứ ai.

Cũng như bao ngôi làng khác, làng của hắn có đủ mọi lớp người. Già có, trẻ có, choai choai cũng lắm. Nhìn vào nhà biết ngay tuổi tác, tánh cách của chủ nhân. Nhà cứ lấp la lấp lánh, chói cả cái con mắt… là nhà của mấy cô cậu học sinh. Nhà của mấy cô sồn sồn thì phong phú về chữ nghĩa, tranh ảnh treo đầy vách, có đủ thứ hoa, đủ thứ bướm, đủ thứ chim và đặc biệt lúc nào cũng chật ních khách khứa. Còn nhà mấy ông già, họ chẳng muốn phô. Nhà họ chỉ rặt chữ là chữ. Cũng chẳng nên trách họ, lớn tuổi rồi họ ít lang thang.

Đêm ấy chẳng hay hắn đã đến bao nhiêu nhà, rồi cuối cùng tấp vào nhà ông Trưởng làng mà khăng khăng đòi đổi tên. Tên tía đặt cho khi sanh ra, mấy ai đòi đổi? Hắn bảo, từ nay đừng ai gọi tui là lão LV nữa, bây giờ phải thay cho hắn cái tên nghe tây tây một chút, nhưng quen thuộc lắm: Blog.

Chắc có nguyên cớ gì hệ trọng lắm lắm hắn mới nằng nặc đòi đổi tên là vậy. Khi mọi người từ nhà của một cô gái trẻ đẹp, mộng mơ kia về mới biết sự thể vì sao hắn một mực đòi đổi tên. Ấy là vì nhà cô ta đang cái en tơ ry "Em yêu anh Blog mất roài".

Hắn đang mơ màng, dưới bếp tiếng con bé vọng lên: Má đừng chiên zậy HAO MỠ lắm. Con bé đánh rơi chiếc mâm nghe cái xoảng. Hắn bất thần bật dậy.

Thì ra hắn đang MƠ HÃO.

Lấy vợ miệt vườn

Ra trường, khi tuổi đã lớn. Tôi về một vùng, nơi mà người ta còn nhìn anh bộ đội Bắc kì với con mắt lạ lẫm, và không ít người kì thị. Cũng chưa lâu lóm gì, mới mấy năm trước oánh nhau quá xá, vầy cũng phải thôi. Thế là bằng mọi cách, tôi giấu biệt tích tính danh của mình. Có như vậy, mới hi vọng tìm được cô vợ người bản xứ để định cư lâu dài. Nội cái việc có ý định tìm vợ người miền Tây, cha tôi đã phản đối hết chịu nỗi. Tôi nghĩ ra mẹo, đưa cha vào chơi mấy tháng ròngg. Hi vọng đi thăm thú, tiếp cận với lối sống Nam bộ, lối sống xứ miệt vườn để ông khoái mà nhất trí với ý định mà ông cho là gàn rỡ của tôi. Chuyện thuyết phục ông già coi như ổn. Còn lại là ở sự nổ lực của bản thân.

Việc trước tiên là luyện lại giọng nói Nam bộ cho chuẩn. Nói là luyện, chớ mấy năm ở lính, tôi đã ngụp lặn trong bưng, trong cứ, nên nói tiếng Nam cũng tàm tạm. Người ta bảo “chém cha không bằng pha giọng”. Biết vậy nhưng để đạt mục đích, để giao tiếp thuận lợi là phải “pha”. Vả lại, cha cũng không phản đối. Thế rồi tôi cũng nói thuần thục không khác mấy người địa phương. Làm vầy không phải là tôi cố tình xạo đâu. Rồi trước sau gì mình cũng khai báo lí lịch mà.

***

Lớp tôi dạy và chủ nhiệm năm ấy là một lớp Sử - Địa. Tôi lại dạy phần Lịch sử Việt Nam hiện đại, thời kì có nhiều bài về cuộc kháng chiến vừa xẩy ra. Mình là người vừa bước ra từ cuộc chiến, vầy mà giờ phải giấu mình. Thiệt là, buồn thấy mụ nội. Mấy đứa sinh viên cứ hỏi:

- Thầy có đi lính không thầy?

- Không, lính quốc gia thì thầy trốn. Còn lính bên Việt cộng – ý quên, bên Giải phóng, thầy cũng không đi. Hồi đó thấy bom đạn ngút ngát vầy, sợ thấy mồ luôn.

Khi cần lấy dẫn chứng để làm cho bài giảng sinh động hơn, tôi lấy chính những trận đánh mình đã tham gia ra kể, nhưng lại bảo là nghe mấy ông giải phóng kể lại.

Lớp ấy có nhỏ Tuyến đã lọt vào tầm ngắm của tôi. Nói cho ngay, trước Tuyến cũng đã có mấy em, tôi ngắm nhưng rồi chẳng “bắn”. Còn Tuyến, em đã mê hoặc tôi bằng cái đẹp, cái hồn nhiên, đằm thắm của con gái miệt vườn. Ngày học chính thức, con gái phải mặc áo dài. Trắng rợp cả sân trường. Vầy mà dù em ở đâu tôi cũng nhận ra. Dáng cao, nước da ngần trắng, tóc mượt dài, cổ ba ngấn...dáng ấy lẫn vào đâu được. Buổi không học chính thức, Tuyến đến trường với áo bà ba đen bó chẽn hông, quần saten cũng đen. Tôi không phải nhà văn nên không tả hết được. Đại để là Tuyến đẹp hết biết luôn. Tuyến như đã hớp hồn tôi.

Chuyện dài dòng lắm. Tóm lại, sau đó Tuyến cũng đã cảm nhận được tình cảm tôi dành cho em. Tôi biết, vì thấy Tuyến đến phòng tôi ngày một dày hơn. Hồi đầu, em còn kè thêm mấy nhỏ bạn. Dần dà, chỉ một mình.

***

Ba má Tuyến đã mất. Tuyến đang ở với người anh thứ hai – Ba Tuyên. Nhà anh Ba làm ruộng. Ruộng vài chục công. Vườn hơn chục mẫu. Năm trúng, ruộng thu về ngót nghét ngàn giạ. Chục mẫu vườn trồng rặt nhãn và chôm chôm. Heo gà trong chuồng, cá mú dưới ao thì bề bề, tính chi hết. Tuyến bảo, ruộng vườn là nội để lại cho anh em Tuyến, anh Ba không muốn sang cho người ta. Chớ nhiều hôm ảnh cứ kêu oải. Mà không ráng mần, thuê mướn, lấy chi nuôi em, nuôi sắp nhỏ học hành. Thấy anh Ba ruộng vườn ràng rịt vầy, cũng thương ảnh.

Tôi biết rành rọt vầy, vì tôi đang tìm hiểu đối tượng. Còn điều quan trọng, cực kì quan trọng là anh của Tuyến trước giải phóng có đi lính hay không, Tuyến không kể. Gặng hỏi, Tuyến cũng không kể. Anh Ba trước nếu có đi lính, là lính bên mình thì khỏi nói. Chắc sẽ êm xui. Nhưng, nếu là lính cộng hoà, thì chuyện tôi xàng xê với Tuyến coi như tiêu. Không có cách nào hơn là phải về tận nhà, tiếp cận ảnh. Khi tình cảm giữa tôi và Tuyến đã đến độ chín, tôi gợi ý:

- Hôm nào rảnh, em dẫn tôi về thăm anh chị và mấy đứa nhỏ, nghen.

Tuyến chần chừ:

- Em sợ ảnh rầy lắm thầy ơi. Ảnh khó lắm.

- Sợ chi? Em cứ thưa với ảnh, thầy chủ nhiệm ghé về thăm, nhậu với ảnh chơi. Ảnh chịu liền à.

Vầy rồi tôi và Tuyến dắt nhau về. Hồi ấy mần chi đã có xe máy. Thôi ráng chở em trên chiếc xe đạp, kể cũng hay. Khi đang yêu, chừng bốn chục cây nhằm nhò gì. Thầy trò về đến đầu ấp, nhỏ Ba – cháu Tuyến nhìn thấy đã mừng húm, xấp xãi chạy về. Nó chói lói gọi tía, gọi má:

- Tía ơi! Má ơi! Cô hai về. Mà ai chở cô Hai về, lạ lắm nghen.

Người ra đón chúng tôi là anh Ba – anh của Tuyến. Chắc cú là vậy. Vì Tuyến nhảy xuống xe, đã nhoẻn miệng cười:

- Anh Ba à! Tui mới về.

***

Khách lạ xuống miệt vườn, không thể không nói đến chuyện nhậu. Trưa đó, tôi, Ba Tuyến, cậu Năm, cậu Chín và mấy ông lối xóm tấp sang, nhậu tơi bời khói lửa luôn. Bao nhiêu năm sống trong cứ, đã tôi luyện cho tôi bản tánh gan lì. Gan lì với địch, gan lì với khổ ải, và cả gan lì với rượu. Quà người thân gửi vô cứ chủ yếu là rượu, ít khô đuối, khô khoai...cũng lai rai, nghiêng ngã được mấy ngày. Oánh xong một trận, về không có rượu nó buồn thê thiết.

Khi rượu đã làm ông ba bừng bừng, tôi bắt đầu ý định của mình:

- Nè, chớ hồi ở lính, anh Ba ở đơn vị nào vậy ta?

Hỏi hù hoạ vậy, chớ biết trúng trật?

- Ủa, sao thầy Hai biết là tui ở lính? Bộ tui giống lính vầy sao?

- Thì nhìn điệu bộ uống vầy, tui đoán chắc cú anh Ba là lính mà.

Ba Tuyên tay cầm li rượu, không uống nhìn tôi chằm chặp:

- Bộ thầy cũng là lính hả? Mà lính bên nào vậy?

Tôi không bất ngờ trước câu hỏi của ảnh. Vì bấy lâu nay tôi đã giấu mình là lính. Trả lời tỉnh queo:

- Đâu có anh Ba. Tôi có đi lính hồi nào đâu. Hồi trước, tôi trốn chui lũi. Khi thì xuống tận miệt Đầm Dơi, Thới Bình. Năm thì sang miệt An Minh, Kiên Hải. Thấy bom đạn rần rần vầy, tui sợ thấy mụ nội luôn.

Tôi xạo hết biết. Được cái, dân miệt vườn tánh thiệt thà, chất phác, nói sao nghe vầy. Tôi nói vầy, ảnh tin vầy. Ba Tuyên bệu bạo cười, không ngần ngại:

- Nói thầy hay, tui là lính cộng hoà. Uống vô tui mới kể. Mà đây là mấy cậu, lối xóm quen biết cả, tui mới kể. Một đời lính, khúc mấy gang tay cũng đã qua. Nói là hận, biết hận ai? Bom đạn qua rồi, quýnh quáng, lụm cụm vầy cũng gần năm mươi rồi. Thời cuộc thay đổi quá trời đất. Thôi zô đi thầy.

Tôi vẫn không buông:

- Hồi ở lính, oánh dữ không anh Ba? Có trận nào hay hay kể nghe chơi. Kể đi anh Ba. Bom đạn qua rồi, anh sống sót, lành lặn vầy là hên quá rồi, giờ kể cho vui mà.

Ba Tuyên châm thêm li mữa, cạch vào li của tôi, rồi ngửa cổ làm cái ực ngọt trớn. Đặt chiếc li xuống, nhăn mặt, ảnh khè một tiếng rõ dài (uống rồi có khè vầy nó mới đã). Rồi cầm cái li cối lắc lắc cho tan mấy cục đá, chậm rãi:

- Oánh dữ không hả? Dữ hay không dữ thì cũng đã thua rồi. Ngày mới giải phóng, nghe người ta xài xễ, chịu hổng thấu. Nhưng riết rồi cũng quen. Mà thôi, để tui kể thầy Hai và mấy cậu nghe trận này. Trận cuối cùng, tưởng tận mạng rồi. Ai dè. Đấy là trận để lại kỉ niệm sâu nhất trong mấy năm lính của tui.

Lại cạch và tiếp li nữa. Trầm tư giây lát, vỗ giò cái đét, ảnh kể:

- Mụ nội chúng nó chớ, oánh chác gì nhát thấy mẹ. Trận ấy mấy cha lính giải phóng oánh quá trời đất. Tụi tui có cả gần đại đội đóng ở đồn Quới Thiện. Cối 80 li, cối cá nhân M79 giã toác cả họng. Cực nhanh bắn văng mạng, vầy mà họ cứ nhào vô, ngăn không đặng. Mà B40 thụt vầy, chịu sao thấu. Bọn tui bỏ đồn chạy như vịt xuống con kinh sau đồn. Báo hại, nước ròng nên sình ngập giò không sao chạy được. Vầy là bị họ lùa lên cũng như lùa vịt. Hổng biết răng mấy chả không bắn nữa. Làm thằng lính mà bị bắt nhục thấy mụ nội.

Kể đến đấy, Ba Tuyên ngưng giây lát. Chắc ảnh chợt buồn cho cái phận lính thất trận. Trầm tư chút xíu, lại tiếp:

- Mà thôi. Cũng nhờ trận ấy, họ tha mạng mà tụi tui sống, lột được bộ áo lính. Chớ mần thêm trận nữa, hông chừng về với tía tui lâu rồi. Mấy năm máu mê xàng xê cống líu với súng đạn, cũng qua. Rồi hoà bình. Dù gì, giờ mình cũng nhớ ơn cứu mạng của mấy chả. Mừng hết lớn...

***

Tưởng đâu xa. Ba Tuyên đang kể về cái trận ở đồn Quới Thiện. Trận ấy đại đội tôi oánh chớ ai. May mà tôi kịp trấn tĩnh, kịp ngăn lại, không tham gia chuyện cùng ảnh. Ấy là đêm giữa tháng tư bảy lăm. Với Ba Tuyên là trận cuối, nhưng với tôi còn mấy trận nữa thì giải phóng. Trận ấy chúng tôi bắt sống đâu 13 tù binh. Tù binh sau khi được lùa từ kinh lên, dẫn về trụ sở ấp Thới Thạnh. Đám tù binh được tập hợp ngồi giữa sân. Cả tiểu đội tôi, súng lăm lăm vây quanh. Chúng tôi đang chờ chính trị viên Năm Thỉnh đến xử lí.

Tôi rút gói bastos ra, nhưng sờ mãi không có hộp quẹt. Thấy vậy, một tay tù binh ngồi hàng đầu đưa tôi chiếc jippo, nói lí nhí:

- Dạ thưa, hộp quẹt đây ông.

Châm thuốc xong, tôi trả lại chiếc jippo, nhưng hắn ta bảo:

- Thôi ông cứ giữ lấy mà dùng. Tui không hút thuốc, không dùng đến.

Cứ sau mỗi trận đánh, tôi cố giữ lại một vật gì đó làm kỉ niệm. Trận thì chiếc thẻ bài. Trận khác là chiếc mở hộp, chiếc hộp quẹt... Chiếc jippo là chiến lợi phẩm trong trận Quới Thiện, mà tôi đã giữ mãi. Nó không đẹp như những chiếc trước tôi lượn được, nhưng là chiếc tự chủ nhân của nó đưa cho tôi. Nó màu vàng. Một góc bị xây xước. Ở cạnh, ai đó đã vạch ba vạch hằn sâu. Chiếc jippo ấy tôi dùng cho mãi đến sau này. Cũng may hôm ấy, tôi mà de chiếc hộp quẹt ra. Lộ chuyện là cái chắc.

***

Chuyện tôi đi lính, giấu mãi rồi cũng lộ. Ấy là đúng dịp kỉ niệm mười năm giải phóng miền Nam, trường tôi tổ chức long trọng lắm. Báo hại, hiệu trưởng giao cho tôi phải đại diện cựu chiến binh phát biểu trong buổi lễ. Xếp giao không thể từ chối. Bài phát biểu của tôi được cả hội trường vỗ tay như pháo. Dĩ nhiên trong tiếng vỗ tay ấy, tôi đủ nhận ra vẫn có không ít tiếng vỗ lấy lệ.

Sau buổi lễ, tối đến cả lớp Tuyến xuống phòng tôi. Chúng mang hoa, mang quà đến chúc mừng. Và dĩ nhiên không thể thiếu bày biện liên hoan. Trong bữa nhậu, học trò trách cứ:

- Thầy có đi lính, vầy mà lâu nay cứ giấu hoài.

Tôi thanh minh cho qua chuyện:

- Thầy không cố tình giấu, nhưng nghĩ cũng chẳng khai làm gì. Chiến tranh qua lâu rồi mà.

Điều quan trọng hơn, chuyện của tôi bị lộ, tình cảm của tôi và Tuyến sẽ rắc rối to. Thế nào Tuyến cũng về kể cho anh Ba. Tôi không ngăn Tuyến. Nghĩ đằng nào cũng lộ rồi. Thôi tới đâu thì tới. Sau lần về nhà Tuyến, như tôi đã kể, tôi còn về nhiều bận nữa. Qua thái độ khi nói chuyện, tôi biết Ba Tuyên chẳng ưa gì lính giải phóng, nếu không muốn nói là anh ta đang hậm hực. Mấy năm sau giải phóng, Ba Tuyên đã có ý định vượt biên mấy lần nhưng không thành. Anh ta khoái tôi khi xuống chơi. Khoái nết nhậu, khoái nết bỗ bã của tôi nên đã tâm sự hết. Chớ biết tôi là lính giải phóng, lại là Bắc kì, chắc đã tống cổ tôi lâu rồi.

Từ hôm lộ chuyện với lớp, với Tuyến tôi thấy buồn. Đêm nằm cứ trăn trở, không biết rồi tình cảm của tôi và Tuyến sẽ ra sao, đi về đâu? Chủ nhật trước Tuyến về. Tối lên ghé phòng tôi. Tuyến buồn ủ ê. Em líu ríu, anh Ba nghe chuyện tôi là lính giải phóng, ảnh quặu quá trời đất. Ảnh quặu tôi là thầy mà ba xạo. Rồi cấm tiệt Tuyến quan hệ với tôi.

***

Nói thiệt, một thằng lính như tôi, oánh đâu thắng đó, vầy mà giờ như thằng thất trận. Kể ra nghe kì thiệt. Một tuần tôi chìm trong rượu, trong khói thuốc. Thằng đàn ông như tôi, nghĩ lãng xẹc. Và rồi từ thuốc lá, tôi đã nghĩ ra cách để vượt qua ải này. Tôi nghĩ đến chiếc jippo. Hi vọng nếu còn nhớ đến chuyện ân oán, Ba tuyến sẽ nghĩ lại. Vầy là tôi gửi Tuyến đưa chiếc bật lửa về cho ảnh. Chắc chắn từ chiếc jippo anh ta nhớ đến trận Quới Thiện. Tôi nói với Tuyến:

- Em đưa giùm chiếc jippo này về cho anh Ba. Biểu với ảnh, thầy Hai nhờ tìm xem ai là chủ nhân của nó, chuyển lại cho người ta, để họ giữ làm kỉ niệm. Thầy giữ cái hộp quẹt từ cái đêm ở sân trụ sở ấp Thới Thạnh. Cứ nói vầy là ảnh nhớ.

Rồi chuyện sau ra sao nữa, chắc các bạn cũng đoán ra, nếu tôi nói, bà xã tôi bây giờ là cô giáo sinh Tuyến xinh đẹp ngày ấy chớ ai.

SAU LỜI THỀ CHẾT

                                                               Bảo Long – Nguyễn Hữu Khai

Ô

ng Bửng chủ tịch Huyện phải để ô tô ở đầu làng, vén cao quần, đủng đỉnh ghé qua nhà. Trời mưa dầm dề cả tuần, hôm nay mới hẩng lên một tý. Nhà vắng teo. Chắc là đi chống úng. Khổ quá! Đã hai năm liền mất mùa rồi năm nay không khéo lại mất nốt. Ông ra giếng kéo nước rửa chân, rồi mở cửa  vào nhà. Qua tấm mành cửa sổ nhìn sang hàng xóm, chợt thấy người đàn bà béo thù lù, ì ạch bước vào nhà bà Dỉn ở bên kia vườn.

Thì ra là con mẹ Phím. Con mẹ này lười lắm, chẳng chịu làm ăn gì cả, chỉ lê la bài bạc, đưa điều đặt chuyện. Người ta bảo nó đẻ xong không giữ mồm giữ miệng ăn cả thịt trâu bạc nên bị sản hậu. Mặt bủng da chì, nay ốm mai đau, tệ quá! Làm gì mà giương cặp mắt lợn luộc nghênh nghênh, ngó ngó? Thấy cửa khóa thế kia  chẳng biết là người ta đi vắng à?

 Mẹ Phím đảo mắt một vòng, nhanh tay rút luôn cái quần vo lại, nhét vào trong bụng,  rồi rẽ rào bước đi. À! Thì ra nó ăn cắp! Ông chủ tịch nóng mắt bước sát cửa sổ định vén mành lên truy hô. Nhưng nghĩ đến cái mồm loa, mép dải của mẹ Phím lại thôi. Ông chắp tay sau đít,  đi đi, lại lại, lẩm bẩm: “Tệ thật! Tệ thật”!

Buổi trưa vừa chợp mắt ông lại phải nghe bà Dỉn há mồm, tóp má, rêu rao:

- Ối Giời ơi! Cái quần tôi vừa mua, mới mặc được một lần mà đứa nào ăn cắp của tôi. Rồi bà  ta la, bà ta xỉa xói, bà ta chửi độc. Mỏi hàm, khô miệng mới thẫn thờ lẩm bẩm:

- Hay là mấy thằng nghiện lấy? Không! Đàn ông lấy trộm quần ấy thì làm gì?  Bán cho ai? Chắc là chỉ có con mẹ Phím thôi... Bà ta tới cạnh vườn. Ờ! Đây này vết rẽ rào,  vết chân đi còn đây! - Trấn tĩnh lại bà ta gọi Phím sang nhà hỏi:

- Cô có rút nhầm cái quần của tôi không nhỉ?

Phím trợn tròn hai mắt:

- Tôi có phơi chung với bà đâu mà rút nhầm!

- Chỉ có cô thôi! Bà Dỉn dậm chân nói như đinh đóng cột.

- Này! Bà đừng vu oan giá họa nhé! Không sợ mang tội với giời à?

- Không!  Tội giời tôi gánh, chỉ cô lấy thôi!

- Tôi mà lấy cái quần của bà thì tôi chết non, chết yểu, chết ngay bây giờ. Bà buộc tội cho tôi! Bà có dám thề với tôi không?

- Được! Tôi thề! Mà cô có dám thề trước Đức Thành Hoàng với tôi không?

- Tôi dám! Sợ gì!

Thế là hai mụ im miệng đem nhau ra đình làng, đốt nhang thề thốt. Mồm ráo hoảnh dám thề chết. Chết ngay tức thì... Ông chủ tịch nhăn mặt,  lắc đầu: - Phát sợ cho bụng dạ đàn bà,  thế mà gan, thế mà ghê! Ghê thật!

Về cơ quan trăm công nghìn việc mà cái chuyện vớ vẩn ấy cứ đeo mãi bên ông. Chủ nhật ông lại về quê ông chợt nghĩ: Con mẹ Phím chắc chết rồi. Chưa chết thì cũng bệnh liệt giường... Nghe nói Thành Hoàng làng mình từ xưa đến giờ thiêng lắm. Đã ai dám ra đó để thề...? Nghĩ mà ghê! Ghê thật! Ngồi trên xe ông cứ bần thần mãi chả nói, chả rằng. Xe rẽ vào cổng làng mới hay.

- Mà đây này! Ai như con mẹ Phím khoác cái thúng trên vai đang nhởn nhơ ra chợ? Ờ! Phải rồi!  Nó ghé sát mặt dòm qua kính xe của ông, lại còn cười nữa. Tệ quá! Vô duyên thật! Ông lại càng bần thần suy nghĩ. Thì ra những truyền thuyết về Thành Hoàng làng mình chỉ là hoang đường.  Ông lại nhớ đến kỳ lễ nhập hạ, vợ ông sắm hương hoa ngũ cúng, rồi mời cả thầy cúng dâng lễ kêu cầu cho ông  được đắc cử khóa nữa và khỏi về hưu kỳ này. Thế mà từ tối tới khuya, quỳ tê cả gối xin đài âm dương lúc thì tiếu, lúc thì sấp, cuối cùng thì hất cả hai đồng tiền ra khỏi đĩa. Giá phải là người dương thì ta thù! Thù suốt đời!... Mất gì mà không cho? “ Một người làm quan cả họ được nhờ”! Mà cả thần thánh nữa chứ! Cái hồi bọn chủ thầu thi công đường huyện nó chở tặng mình ba xe vật tư, mình cũng đã cúng đến nửa xe sửa đình là gì? Thế mà còn nỡ lòng làm khó! Mà theo lý thì chắc chắn mình chưa phải về hưu rồi. Trên tỉnh đã xác nhận mình khai tăng hai tuổi để được nhập ngũ là đúng. Mà chẳng đúng thì trật làm sao được? Tờ giấy khai sinh bản chính vẫn còn, tuy nhàu nát, sứt sẹo nhưng còn nguyên mấy dòng chữ Tây,  lại còn nguyên con triện của Hộ lại.  Ai cãi được?  Còn việc công danh mình chẳng tái nhiệm thì thằng nào  qua mặt mình. Cái huyện này dài dọc theo sông, cán bộ phải cơ cấu theo ba  miền giống như Trung ương chứ!  Chẳng lẽ cán bộ chủ chốt huyện lại tập trung hết ở cuối huyện hay đầu huyện sao? Ngẫm vùng giữa huyện này chả anh nào có máu mặt. Được mấy thằng cậy có bằng nọ, bằng kia chỉ là “ ngựa non háu đá”, “Ăn chưa nên đọi, nói chửa nên lời”. Có ngoi lên được thì rồi cũng bị xỏ mũi... Nghĩ mà tức nghẹn cả cổ. Vợ mình lại còn bảo:

- Tại anh không về lễ! Đức Thành Hoàng  cho là không thành tâm.

- Lễ với lạc, mình mà vác mặt về lễ thì còn ra cái cóc gì! Đã thế  thì khỏi thờ, khỏi lễ!  Ta ra lệnh phá béng cái hậu cung, sửa sang làm thêm một phòng học cho các cháu.

Đêm ấy ông Bửng trằn trọc đến nhức cả đầu. Vừa chợp mắt thì thấy có một ông to lớn,  phương phi mặt đỏ ngầu, mặc áo quan, đội mũ cánh chuồn,  đứng ngay cạnh giường giận dữ, nói:

- Ông mà phá nơi ở của tôi thì tôi bắt con ông!

 Ông Bửng choàng dậy mồ hôi toát ra cả ở gáy

- Ai ấy nhỉ? Chắc là Thành Hoàng! - Ông rợn hết cả người,  rồi trấn tĩnh lại nằm xuống... Chuyện mộng mị thôi mà!... Cũng trong tuần ấy ông nhận được tin như sét đánh, thằng con trai của ông bị chết!. Nó cưỡi bò ở ven đê, ngay đoạn nước xoáy. Đê lở,  cả bò, cả người rớt xuống. Thanh niên làng giăng lưới, thả chài, lặn hụp mãi mới vớt được cháu lên thì đã tắt thở! Ông đau khổ rũ rượi cả người. Lần đầu tiên ông phải chôn đi khúc ruột... Ông nhớ lại giấc mơ mấy hôm trước: Hay là Thành Hoàng đã bắt con ta. Đã thế ta cứ phá!... Ông sai người thảo văn bản rồi ký lệnh phá. Lệnh phát đi,  ông lại thấy chờn! Nghĩ vớ, nghĩ vẩn rồi ông về quê. Về xem địa phương nó thi hành ra sao.

Trời lại mưa, mưa tầm tã, dòng sông đỏ ngầu cuồn cuộn chảy kéo đi những đám bèo, những cây chuối hối hả xuôi dòng. Thương nhớ đứa con ông rã rời chân tay. Ông đứng trên đê, đứng giữa trời mưa, rồi ngồi ngay xuống đó, hai tay bó gối, mắt đăm đăm nhìn xuống sông, mà chẳng nhìn thấy gì...!

Mưa mát thế mà khó ngủ quá, khó chịu quá. Người khi nóng, khi lạnh, khi ghê ghê rét. Vừa thiếp đi một tý thì lại thấy ông Thành Hoàng đùng đùng bước tới. Ông không sợ! Ông ngồi dậy! Vừa nhổm lên thì Thành Hoàng đã bành cổ ra quát:

- Ông mà phá nơi ở của tôi thì tôi bắt nốt đứa con gái của ông! Ông Bửng tức giận vùng lên giậm chân nói:

- Ông ăn ở không có đức! Không công bằng! Lần trước tôi mới nói thôi chứ đã phá nhà ông đâu mà ông đang tâm giết con tôi? Con mẹ Phím rõ ràng nó lấy cắp cái quần của người ta,  thế mà nó thề trước  ông,  nếu phải nó lấy thì nó sẽ chết ộc máu ngay tức khắc. Đến bây giờ nó vẫn sống nhăn ra đó?

Thành Hoàng lắc đầu dịu giọng:

- Ông làm quan mà không rõ việc đời, thằng con ông nó chết là vì bản mệnh của nó chỉ có thế. Người ta ăn cắp có cái quần, lẽ nào tôi xử chết được. Trong khi đó kẻ ăn cắp cái xe máy giá trị gấp trăm lần, ông có dám tử hình nó không? Hay là ông đã bao che sửa  án để rồi dung tha nó. Gây những mầm mống tham nhũng lan tràn!

Ông Bửng vỗ tay lên trán:

- Anh nào nhỉ ???

 Thành Hoàng tiếp lời:

- Cái thằng mà khi đương chức,  đương quyền, nó đã ra lệnh lắp cái giếng bán nguyệt trước cửa đình của tôi đấy. Một di sản văn hóa đã bị tổn thương. Tôi đau lòng như bị lấp đi cặp mắt. Không còn khả năng tạo phúc cho bản địa.

Ông Bửng vỗ hai tay đánh bộp thốt lên:

- À! Tay Cồn,  đã miễn nhiệm về hưu non rồi!

Thành Hoàng lại nhẹ giọng phân trần:

- Ông là chủ tịch cai quản cả một huyện. Còn tôi là Thành Hoàng chỉ cai quản địa cư một làng này thôi. Có quyền gì mà bắt được con ông!?

Thành Hoàng vừa dứt lời thì ông Bửng chợt thấy: Lửa chớp lằng nhằng, rồi xanh xanh, tím tím, lập lập, lòe lòe, binh mã gươm giáo tua tủa kéo đến vây quanh. Ông hốt hoảng lùi lại nhìn về phía sau. Thấy vậy, Thành Hoàng giõng dạc nói:

- Ông đừng ngại! Âm binh của tôi đấy! Họ chẳng làm gì được ông đâu. Ông còn lớn chức hơn tôi mà!

Ông Bửng tự nhủ:

- Ừ nhỉ ! Rồi bước rộng hai chân lấy lại thăng bằng nói:

- Tiện đây tôi hỏi ông: Tuần rằm, mồng một, rồi ngày tết, ngày hội dân làng cúng tế ông linh đình. Ông đã giúp được gì cho họ?

Thành Hoàng thản nhiên đáp:

- Chức Thành Hoàng là trời đất ban cho tôi, chức sao thì lộc vậy. Cũng như ông làm chủ tịch huyện ông đã được gì? Và đã làm lợi gì cho dân? Trên vai ông là cả giang sơn thu hẹp, nó đang mòn mỏi trông đợi  ông ngó ngàng tới: Những con đường lầy lội, những tệ nạn đang lan tràn, những công trình thủy lợi, những căn nhà tập thể đang xuống cấp... Rồi nạn mất mùa nối tiếp nhau... Vì sao? Bấy lâu nay các ông vẫn bảo: Tại trời! Thế nhưng mỗi khi được mùa thì cán bộ của ông lại bới tìm thành tích, lại thưởng, lại mừng, lại sinh lễ nghĩa. Có phải vậy không? Ông nên xem lại và vì trách nhiệm của mình. Khi tròn trách nhiệm thì nhân phẩm của ông sẽ được tôn vinh, cái ghế của ông sẽ đương nhiên “hóa đá”... Với tôi đây từ biệt cõi trần rồi vẫn được giữ một chức tước nhỏ là bởi quá khứ cả cuộc đời tôi đã quên mình vì dân vì nước.

 Thành Hoàng cười vang rồi biến mất trong tiếng rầm rầm núi lở, với cát bụi mịt mù...

Ông Bửng nhoàng dậy ngỡ ngàng, hai tay dụi mắt, bần thần một lúc rồi lặng lẽ đi ra bờ sông dưới ánh trăng muộn. Ông đứng như trời trồng, đăm chiêu suy ngẫm:

-  Khúc đê này tại sao lại sụt lở nhỉ?

Ông trút một hơi thở não nề rồi lững thững về nhà.

Sáng sớm, ông Bửng gọi mẹ Phím sang nhà nhẹ nhàng bảo:

- Này! Chị mang trả cho bà Dỉn cái quần đi!

Mẹ Phím toác mồm phân bua và lại định thề chết, ông Bửng gạt đi:

- Thôi! Khỏi phải thề. Tôi cho chị cái quần mới mua ở chợ huyện đây.

Mẹ Phím kinh ngạc giương mắt nhìn ông Bửng rồi ôm chặt chiếc quần sa tanh, quỳ sụp xuống tạ ơn ông như lạy thánh sống.

Ông Bửng mỉm cười nghĩ đến bà Dỉn sẽ vui mừng khi mẹ Phím tự đem trả quần cho mình. Chắc chắn bà ấy biết chuyện sẽ đến gặp ông để cám ơn. Nhưng đợi mãi chẳng thấy cái điều huyền diệu ấy xảy ra.

Bực quá ông lại gọi mẹ Phím đến quở trách, mẹ Phím cười hì hì:

- Chả dấu gì bác, em bí quá đã đổi cái quần ấy lấy mấy cân gạo cho cháu, ăn hết từ lâu rồi. Vả lại, em đã trót thề... Chả nhẽ giờ lại tự nuốt lời thì Thành Hoàng giận chết! 

Ông Bửng trừng mắt quát:

- Thế thì đem cái quần tôi cho sang đền cho người ta đi!

Mẹ Phím gãi đầu:

- Cái quần của bác tặng là vật kỷ niệm thiêng liêng của đời em. “Một miếng lộc thánh bằng gánh lộc trần”, em phải để diện Tết chứ ! Nói đoạn Phím đứng phắt dậy lẻn nhanh ra khỏi cửa…

Cơn giông ập tới dập cánh cửa đánh sầm. Ông Bửng giật mình,  ngả lưng khềng khàng ra ghế. Trời đổ mưa, mưa lớn quá, nước nhiễu thánh thót xuống nền nhà. Ông sững sờ ngước nhìn những giọt nước luồn từ nóc dột xuống...

Cài then mơ

(truyện ngắn)

KIỀU BÍCH HẬU

Thư, giống như một thiên thần bỗng đáp phải bãi rác. Chẳng hiểu làm sao một người đàn bà ít học, bán vé số dạo và ăn quà như mỏ khoét, với một người đàn ông chỉ biết hút thuốc lào vặt suốt ngày và tính số chơi đề lại có thể sinh ra một đứa con gái đẹp và mơ mộng như một tiểu thư con nhà... Em trai Thư thì cục cằn và lông bông. Nó chỉ cần biết mỗi sáng, xoay đâu ra hơn chục ngàn để lẩn ra hàng net là yên phận, nếu không xoay được thì mới là cực hình. Nó sẽ ở riết trong nhà, bật nhạc chói lói, nhảy giựt cục từ góc nọ sang góc kia. Chán thì lôi rượu của bố ra uống suông... Chẳng ai dám nói một câu. Nhưng cũng có khi, nó lăn ra ngủ như chết rồi. Gọi nó là thằng Lãng cũng đúng.

Thư có giọng hát đẹp. Cô hát dần từ trường lên đến quận, thành phố, rồi trung ương. Có nghĩa là cô trưởng thành qua phong trào, hội diễn văn nghệ quần chúng và các cuộc thi. Cô thi đậu trường cao đẳng nghệ thuật và học thanh nhạc rồi trở thành ca sỹ.

Nhà mình có một ca sỹ, ô hô! - Thằng Lãng ra điều khoái chí tệ - Này bà chị, nhờ bà mà thằng em ra đường vênh vang được lắm. Chứ đâu như ông bà già, thực tình tôi chẳng biết nói sao nếu có ai hỏi ông bà bô mày làm nghề gì...

Thì cứ nói toẹt luôn là mẹ mày bán vé số, bố đánh đề. Lão Thu tức tối bảo thằng con.

Chẳng phải nói thì con cũng đang ở tù trong cái đầu này rồi. Thằng Lãng thở hắt ra, rồi kết thúc cuộc nói chuyện ngắn ngủi bằng cách mở một bản rock nặng.

Cánh cửa sắt gỉ ngoèn rít lên những tiếng tuyệt vọng như sắp long ra hết thảy. Người mẹ về. Bà Thu cắp hộp đựng vé số bên nách, tay xách một túi nilon lổn nhổn những bánh mì lẫn giấy báo.

Bữa trưa này! - Bà lẳng túi bánh mì xuống chiếu trải giữa nhà.

Lão Thu ngồi phịch xuống bên cạnh cái túi nilon. Thằng Lãng còn nhanh hơn, bàn tay lều nghều những gân nổi và những cái móng dài quặp, ố vàng của nó xục luôn vào cái túi nilon, dứt tung quai buộc và lôi ra một cái bánh mì kẹp thịt ngoe ngoét vết tương ớt đỏ.

Nó gặm bánh rào rào, mặc cho vụn bánh mỳ vãi tung toé xuống nền đá hoa.

- Thư, còn cái này là của mày. Ngồi xuống ăn đi - Bà Thu nhắc.

- Để thằng Lãng ăn nốt đi, con không muốn ăn!

- Ăn đi bà chị - Thằng Lãng lầu bầu. Tôi chẳng thấy ai hít không khí mà hát được bao giờ.

Thư bỗng đứng dậy, vào góc nhà lấy ra một cái đĩa. Cô mở cái túi nilon đã rách, lôi nốt cái bánh mỳ kẹp thịt ra, đặt nghiêm ngắn trên đĩa, mang đến để trước mặt thằng Lãng.

- Chị vừa ăn phở lúc mười giờ với anh Cương. Ngang dạ lắm. Lãng ăn đi!

Thằng Lãng ngừng nhai nhìn Thư từ đầu đến chân:

- Tử tế nhỉ. Bà để đấy. Hai chứ mười cái bánh mỳ tôi cũng xực tuốt!

Nhưng ăn xong thì đừng vào hàng Net nữa. Thư dịu dàng nói - em kiếm việc gì mà làm!

- Quên bà đi. Thằng Lãng gắt - Đừng giở giọng đó ra với tôi. Biến đi với cái bánh mì của bà!

Nó vứt toẹt mẩu bánh mì gặm dở xuống sàn, bỏ đi. Thư sững ra một lúc, rồi cô nhẫn nhịn nhặt nốt mẩu bánh mì để vào đĩa.

Thằng mất dạy. Bà Thu thở dài. Rồi bà lại trệu trạo nhai tiếp miếng bánh mỳ. Hồi xưa, khi đẻ thằng Lãng bà mừng rú lên như trúng số độc đắc. Thế là có con giai, yên tâm rồi. Có người nối dõi tổ tông, có chỗ tựa lúc về già. Nào ngờ... Thằng Lãng hồi cấp 1 học khá là thế, đột nhiên lên cấp 2 thì giở quẻ, theo bạn học đòi, nghịch trên tài quỷ sứ. Đến cái bằng Trung học phổ thông còn không lấy nổi. Giờ tuổi nó đã đôi chục, vẫn lằng nhằng bám gấu váy rách tả tơi của bà. Nhiều lúc nghĩ cũng hận, đời chưa bao giờ cho bà cái gì. Nghề ngỗng chẳng đâu vào đâu, đã thế lại đeo thêm hai thằng đực, một già một trẻ níu vai bà ngày một đuội xuống. Được mỗi đứa con gái mặt mày sáng láng, thì lại dính xướng ca vô loài.

Một chuỗi những hiện thực chán chường thi nhau rót vào cái đầu âm âm của bà Thu. Bà mệt mỏi chống gối đứng dậy, chẳng buồn xỉa răng. Bà rót một cốc nước to, uống sạch, rồi chui vào xó nhà nằm còng queo như một con mèo ốm. Mệt! Thôi chẳng nghĩ gì nữa. Càng nghĩ càng quẫn. Đời đóng sập cửa trước mắt bà rồi. Ngày mai bán vé số dạo. Ngày kia lại... Đến lúc chết là hết.

Tiếng con xe Cup 81 ình ịch ngoài cửa vài câu rồi xịt hẳn. Thằng Cương đã đưa con Thư đi hát về. Cửa kẹt mở, bà Thu hé mắt nhìn ra. Con Thư áo dài trắng, tóc xoà xuống lưng như dòng nước đen, mắt lấp lánh. Thằng Cương quần bò, áo body không tay, để lộ hình xăm rồng trên cái bắp tay lỏng lẻo, miệng vênh ngược điếu thuốc. Lúc nào cũng đeo kính đen.

Nó xách theo chai rượu trắng và gói nilon đựng gì nóng nóng.

- Bố dậy nào. Còn sớm chán. Làm tợp rượu với con rể đi!

Lão Thu như chỉ đợi câu đó, lồm cồm bò từ một góc nhà ra, ốm nhách và hôi như con chó lường. Mũi lão phập phồng.

- Chỉ có mày hiểu tao nhất. Lão ề à. Mau mà cưới con Thư để tao có cái gậy chống. Hè, hè...

- Bố này. Thư nhấm nhẳng - Bố bán rẻ con gái chắc?

- Bán bung gì. Lão Thu dốc ngược chén hạt mít, đổ thứ nước cay mê hoặc trôi lẹ như con rắn lửa theo họng. Tao cho không mày đấy. Tối nào nó cũng mang rượu với lòng lợn về cho tao là được. Một mày chứ mười mày tao cũng cho.

- Hôm nay về con 37 bố ạ. Tối qua, con mộng thấy con 73, ngu thế, đánh mỗi con 73, lẽ ra phải đánh ngược cả con 37 trúng to thì có phải bố con mình rượu chè cả tháng không. Xúi thật, bước chân trái ra cửa có khác.

- Anh hứa với em là cai đánh đề, thôi hẳn đánh bạc rồi cơ mà! - Thư dậm chân.

- Anh thôi rồi. Cương cười phô cả lợi - Rượu vào lời ra tán bố cho vui chứ đánh đấm gì đâu! Tiền để dành cưới em!

Thư bồn chồn đi đi lại lại trước cổng nhà hát. Thỉnh thoảng lại nhìn đồng hồ. Quá giờ hẹn những bốn mươi phút mà không thấy Cương đến đón cô. Bạn diễn về hết, phố xá vắng dần... Thư gọi điện về nhà thì bố cô ê a bảo chưa thấy Cương. Thư thấy nghèn nghẹn trong cổ, nhưng nhìn xuống bụng mình cô lại cố nở một nụ cười. Thư xoa nhẹ tay vào bụng dưới. Đứa bé đã ba tháng, nhất định là con gái. Thư thích con gái hơn, vì là con gái nó sẽ ngoan như Thư, hoặc ít ra thì cũng chịu làm việc như mẹ Thư. Con gái sẽ không uống rượu, không đánh đề, cờ bạc, sẽ không quẫn chí chôn vùi đời mình ở hàng Net, sẽ không...

Nụ cười chưa kịp tắt thì luồng hơi dồn lên ngực ép thành tiếng thở dài. Thư cứ nghĩ với tình yêu, sự kiên nhẫn, lòng tốt của cô và cả đứa con nữa sẽ khiến Cương thay đổi. Gã sẽ bỏ rượu, bỏ cờ bạc, chí thú làm ăn như đã hứa.

- Gái ơi, giờ này còn đứng đường sao?

Thư giật mình nhìn ra. Thằng Lãng mặt quắt, xám ngoét cố nhe răng.

- Sao mày qua đây? Thư ngạc nhiên.

- Tôi đói quá! Tôi chở bà đi ăn, bà trả tiền nhé!

Thư miễn cưỡng leo lên chiếc xe đạp cà tàng của thằng em. Cô chun mũi trước mùi mồ hôi chua đặc trôi ra từ lưng nó. Chắc nó chết dí mấy ngày ở hàng Net, không tắm giặt gì.

Hai chị em lóp ngóp về đến nhà. Trên đường đi, Thư thấy vui hơn khi nghĩ về đứa con trong bụng. Cuối tuần này, cô sẽ mua ít vải bông, về xé ra may tã cho nó rẻ. Ngoài siêu thị thì cũng bán tã lót, nhưng đắt. Tranh thủ được lúc nào, cô sẽ cùng mẹ may tã cho em bé. Tay Thư nắn nắn cái phong bì mỏng tiền cát sê mới nhận tối nay. Chịu khó nhận nhiều show, tuy mệt. Tranh thủ kiếm tiền, chứ lúc bụng lùm lùm lên rồi, ai dám mời nữa.

Thư mở phong bì ra, hai tờ giấy bạc loại một trăm ngàn tươi rói. Cô mở khoá tủ, định cất tiền, bỗng cô tái mét.

- Ô hay, cái cốp đựng tiền của con trong tủ đâu rồi? - Thư thều thào.

- Tôi không lấy của bà đâu nhé. - Thằng Lãng cục cằn lên tiếng - Ba ngày nay tôi không ló mặt về.

- Thằng chồng mày lấy. Bà Thu lo lắng. Sáng nay nó mở tủ, tao hỏi: "Sao mày có chìa khoá”, nó bảo là Thư đưa con, để lấy tiền đi mua xe mới. Tao tưởng chúng mày sắm xe thật?

Thư choáng, ngồi phệt xuống sàn, không nói không rằng. Hai tay cô ôm đầu. Cương ơi đấy là chỗ em để dành nuôi con cơ mà!

Cương đẩy cửa bước vào, tay xách chai rượu, tay xách cái túi nilon đựng cái gì đó nóng nóng, bốc hơi. Ông Thu quẹt mũi, lại lồm cồm bò từ góc nhà ra.

- Vui vẻ nào. Cương hô, vứt toạch cái túi lòng lợn xuống sàn.

Thư lao ra, túm tay chồng.

- Tiền em đâu? Anh lấy làm gì? Tiền em dành nuôi con đấy.

- Chừng ấy mà cô tưởng nuôi nổi đứa con? Để tôi nuôi con 68. Tháng này nhất định con 68 sẽ về. Lúc đó cô tha hồ đếm tiền cất đi mà nuôi con, nuôi cả nhà này cũng được.

- Đê tiện! Anh hứa với tôi thế nào trước lúc cưới?

Thư phẫn uất, giang tay chực tát vào cái mặt câng câng của Cương. Nhưng gã kịp gạt tay cô, dúi thêm một cái làm cô ngã vào cạnh bàn, ngất xỉu.

Thằng Lãng vớ được cái ghế đẩu, nó xông bừa vào Cương, phang lên đầu anh rể.

- Thằng chó, mày không biết chị tao mang con mày trong bụng à! Làm người thì khó chứ làm chó thì dễ. Tao sẽ cho mày thành chó què luôn.

Cương né kịp, tóm lấy tay Lãng, hai đứa vật nhau trên sàn. Bà Thu gào thét. Riêng lão Thu, vẫn ngồi co ro như con chó ghẻ trên sàn, bốc miếng dồi lợn bỏ vào mồm. Điên tiết, bà Thu vớ cả túi lòng lợn ném vào người chồng, rồi chạy lại chỗ con gái. Bà nâng nó lên, người nó mềm nhũn, trĩu nặng. Nặng quá sức bà, nặng hơn cả ước mơ nhẹ dạ của nó.

HẾT ĐÓI - Truyện ngắn của Phạm Phát

Anh bạn làm bảo tàng một hôm bảo tôi: Anh từng sống dưới chếđộ cũ, coi thử còn giữđược hiện vật gì hay cho bọn này xin với. Ảnh nói như chơimà tôi thì nghĩ thật. Ước gì có thể gởi cho ảnh cái cặp tre, đồ nghề của người xóm Bãi làng tôi hay là chín hạt gạo cuối cùng trong đời một bà lão cũng ở cái xóm ấy!

Chắc chắn, đó sẽlànhững “hiện vật biết nói” trong gian trưng bày vềcuộc sống bi thảm của dân mình trước cách mạng.

Thuở đó, làng tôi nghèo lắm. Ngoài mấy hộởxóm Trong cónhàngói, xe đạp, màhồiđó chỗtôi gọi là… xe máy, còn ra thìnghèo xơ nghèo xác.

Nghèo mạt rệp làdân xóm Bãi. Người xóm này sống bằng cái nghềmàngày nay nghe lại phát rùng mình: nghề lượm phân người. Phân lượm về, phơi khô, đập vụn, mang đổi khoai, đổi gạo. Cứ mỗi người một đôi quang sọt, mo cơm khoai buộc ở đầu gánh, cái cặp bằng tre trên tay, vừa để gắp phân, vừa làm vũ khí tranh đấu với… loài chó. Người xóm Bãi có câu cửa miệng:

làm cái nghề này chỉ thấy mặt chó, chẳng thấy mặt người

. Thì trời còn tối đất đã đi, tha thẩn đầu cồn cuối bãi, đến nhọ mặt người mới về tới nhà.

Mà cơkhổ, nhàđâu córa nhà. Cứlà lụp xàlụp xụp khắp lượt: mái rạ, phên nan trát cứt trâu, bước vô nhà là hôi rình rình.

Nhưng cái mùi nhàđó chừng nhưlại hợp với cảnh người lớn, mỗi người chỉmỗi cáiáo lành, thường làcáiđã váquàng, điđâu mới xỏtay. Thường ngày, đi làmđi lụng thìvá chồng váchắp. Còn trẻcon íà, lớn tồng ngồng vẫnởtruồng dồng dỗng.

Và cái mùi khốn khổ đó cũng rất hợp với những bữa ăn: giữa chiếc chiếu cũ trải trên nền đất là rổ khoai đặt cạnh nồi canh rau nấu mắm. Để ăn cho mau no, người già nuốt đỡ nghẹn.

Ở đây, gạo mới đúng là hạt ngọc của trời. Ngày thường dễ chi thấy. Phải đợi đến ngày giỗ ngày tết, may ra mới ngửi được hơi cơm. Có được lưng lon gạo, đổ re re vào cái niêu đất bằng trái bưởi. Cơm chín, bới ra hai chén, chập lại vừa được một chén cơm in, cắm đôi đũa đặt lên bàn thờ. Hết tuần hương, bưng chén cơm cúng xuống, xẻ đều cho cả nhà để ai cũng được hưởng lộc.

Nhưng lộc cómấyđời bén tới nhàkhó!

Nghèo khónhất xóm Bãi phải kểđến nhàbà Dện. Tên thực làVện mànói theo giọng Quảng nên nghe ra vậy (chịruột của bàtên làMực, chết lâu rồi). Nhàchỉcóhai bàcháu. Bàthìđã giàlắm, lưng còng riết. Mỗi lần ra đường, hai cánh tay cứ thỏng xuống, ve vẩy, ngón vừa chạm đất, đi mà ngó như bò. Đứa cháu gái nghe nói đã bộn tuổi mà người thấp xịt, ngực bằng thín y chang con trai.

Thường thấy hai bàcháu dắt nhau đi mót. Khắp xóm Bãi này, ngólại chỉ có nhà này là không “đi phân”. Hơi sức đâu mà kham cho nổi cái nghề trời hành này: bà thì đã quá già, cháu lại còn quá bé. Đành đi mót đi máy sống qua ngày. Cứ sáng ra, kéo cái chà gai rấp cổng, hai bà cháu lách người ra. Bà thì nón cời, áo vá, vá kín vải. Cháu thì tay liềm vai bị, mưa nắng chi cũng giơ cái đầu trọc, mình trần thui lũi, bốn mùa chỉ độc cái xà-lỏn ngắn cũn cỡn dính trên người. Vừa ra khỏi cổng, bà đã à ừ nói như người ta đọc kinh:

-Thiên hạai chẳng đi mót, người mót cái này kẻmót cáikhác. May mà Trời Phật còn cho bà cháu mình được mót máy các cái sạch. Chớ còn, con coi…

Như an ủi mình. Nhưdỗdành cháu. Nhưng đứa cháu lại gắt“Cứnói miết chừng nớ!”. Bà la lại: “Thìkệtao!”Rứa làngày đi mót của hai bàcháu bắtđầu. Mùa nào mót nấy. Ai gặt lúa, tới mót lúa. Ai giở khoai, tới mót khoai. Ai tát đìa, tát ao thì mót tôm, mót tép. Ngày không có chi mót thì lần vô xóm Trong, có ai sai làm chi thì làm, kiếm cơm. Là nói vậy, chứ ở cái xứ moi được củ khoai dưới đất lên đã chảy máu mắt thì kiếm được cái đưa vào miệng đâu có dễ. Vậy nên, quanh năm suốt tháng, hai bà cháu cứ đói xanh xương, vàng mắt.

Tới bữa nọ, bọn con nít xóm Trong ýới gọi nhau:

Bà Dện chết, đi coi đi bay ơi

. Tôi cũng chạy theo. Tới nơi, chỉ dám thập thò ngoài hàng rào gai, ghé mắt vào. Trong căn lều tối thui, bà Dện nằm trên chõng, đắp chiếu. Chiếc chiều thảm không phủ kín người, để thòi ra hai bàn chân. Chao ôi, đôi bàn chân người chết ngó bắt kinh: mu bàn chân thì đen nhẻm, gan bàn chân lại vàng ệnh như sáp. Không thấy vắt cơm, quả trứng với ngọn đèn lu lu đặt ở đầu chõng. Chỉ thấy ông Mười Sang, người chuyên đi liệm người chết, đứng chống nạnh nhìn cái chõng. Không hiểu sao đã đi làm cái nghề này, mà ổng lại có cái tên nghe kì vậy. Ổng cứ đứng lắc đầu, dường như chưa biết xoay xở thế nào. Rồi nghe như có tiếng khóc, khóc mà cứ khò khử trong cổ họng như con mèo hen. Nhìn kĩ mới thấy đứa cháu gái đang cuộn mình như con cuốn chiếu, ôm chặt lấy cái chân chõng mà khóc, làm như cái chõng ọp ẹp sắp tha bà nó đi không bằng.

Nghe tiếng khóc, ông Mười thong thả bước tới, cúi sát xuống nói nhỏ “Đừng khóc nữa con, để bà con đi cho nhẹ nhàng”. Rồi ông đứng thẳng người lên, nói như ra lệnh:

-Thôi, nínđi, coi thửcóchi đưa theo cho bàmi không?

Nghe ông Mười nói, đứa cháu nhưsực nhớvội giở chiếu, thò tay vào ngực bà, lần mò hồi lâu mới lôi ra được một cái túi hình vuông bằng nửa bao diêm, khâu bằng vải cũ, có đính hai sợi chỉ. Có lẽ, hồi còn sống, bà hắn vẫn thường đeo cái túi đó trước ngực, như đeo bùa. Hắn nâng cái túi nhỏ xíu đó lên, nói lí nhí:

-Bà cháu dặnđưa cái này cho ông…

Ông Mười cầm cái túi, nắn nhẹ xem thử rồi đưa ra ngoài sáng, cẩn thận khui ra. Chợt ông sững người, đổ mấy hột gạo ra lòng bàn tay, dùng đầu ngón tay gạt nhẹ từng hột, lẩm nhẩm đếm. Một, hai, ba, bốn,…Đếm đén hạt thứ chín, ông rên khẽ một tiếng, ngửa mặt lên trời, lầm rầm gì đó trong miệng không nghe rõ, rồi chậm rãi bước vào. Hai bàn tay từng rửa ráy, gói ghém cho hàng trăm người chết, giờ bỗng run bần bật, thận trọng nhét từng hạt gạo vào miệng bà Dện*.

Xong đâu đấy, ông lùi một bước, phủi tay nhè nhẹ rồi chắp lại trước ngực, vái hai vái, thầm thì khấn như chỉ đủ cho mình bà Dện nghe:

-Nam môa di đà…rứa làtừnay hếtđói rồiđó, bàhỉ!!...

Đồng Nứt

Tác giả: Thu An

Tháng Tám năm ấy trời hạn như chưa bao giờ được hạn. Mấy đám ruộng ngoài Xe Loan đất nứt lọt bàn chân con nít, không cách gì cày nổi. Vụ này vậy là phải bỏ. Má nhìn đám ruộng, rồi vác cuốc ra cố đập xới những góc ruộng còn có chút hơi ẩm trồng lên đó mấy luống khoai lang. Cả tháng trời dây khoai mới bắt đầu phủ lên luống với cái ngọn quăn queo, già chát. Má bảo còn kiếm được ít rau về cho heo ăn chớ để không đám ruộng trông tội quá! Nhưng ruộng cấy mà trở thành những luống khoai nham nhở, lỗ chỗ tôi trông càng tội hơn. Lì lợm, sống dai như mấy đám cỏ chỉ trên bờ ruộng mà giờ cũng trơ trụi, chỉ còn mớ dây vàng úa đan chéo với nhau. Má thở dài lo lắng: Rồi không biết lấy cái chi cho vô miệng đây! Bao nhiêu ngày công đi làm thủy lợi rồi, họ biểu xây hồ, đắp đập, đào mương nhưng chờ mãi không thấy nước. Cả làng vẫn dùng những con mương cũ dẫn nước từ đập Bara nhưng cả tháng nay cái đập cũng khô trơ ra đó. Nước dưới khe Cây dừa chỉ còn lại từng vũng, đủ để trâu uống và bọn trẻ con lấy nón vục xuống xối lên mình trâu chớ tưới tiêu gì được. Thứ nước pha bùn đó đổ lên mình trâu chỉ vài phút sau là đóng từng mảng, rồi cũng nứt ra rớt xuống lả tả. Con Út thấy vậy, mỗi ngày nó thức dậy thiệt sớm dắt trâu ra khe, lúc vũng nước còn đầy và trong hơn một chút để cho trâu uống và tắm ướt cho nó. Bĩnh là con trâu khôn, cứ đúng giờ nó dậy đứng chờ sẵn, dậm chân, gõ sừng vào hàng gióng chuồng cốp cốp.

Hình như từ lúc các giếng trong làng bắt đầu khô thì cả làng đều thức. Trẻ con còn ngủ được, người già thì ngày đêm phe phẩy cái quạt mo cau. Nước để dành cho nấu nướng, ăn uống, cho bọn trẻ con tắm, người lớn có khi 3 ngày chưa được tắm, mỗi ngày chỉ một ca nước để rửa ráy. Chiều nào cũng nghe tiếng thím Ba la thằng Tý: Đã biểu mi đứng im trong thau tắm, đừng vung vẩy, chặp nữa lấy nước đâu mà nấu cám heo. Bữa mô mi tắm xong chỉ còn lại nửa thau nước! Thằng nhỏ cãi: Thì hắn cũng thấm vô người con một ít chớ!

Ban đêm người người xếp hàng chờ tới lượt mình vét nước nơi cái giếng đầu làng. Rồi những cái gàu làm từ mũ sắt của lính Mỹ không vét được nước nữa. Ông nội chằm những cái gàu bằng mo cau. Chiếc gàu nhẹ tênh được cột thêm lõi sắt ngắn hay cục đá nhỏ ở một bên thanh gàu để khi thả xuống giếng dễ dàng nghiêng nhẹ sang một bên lấy nước. Nước múc lên từ gàu mo cau không bị đục và những người sau còn có nước mà lấy. Nhà ai có người khỏe còn sang cả làng Thái Lai, phía gần sông để xin nước về. Mấy giếng nước bên đó còn được cả thước nước. Bỗng dưng cái giếng nước đầu làng đêm đêm thành nơi tụ họp rất vui. Mọi người cứ rỉ rả trò chuyện nhưng chuyện mà tôi khoái nghe nhất là chuyện ma. Cứ ngồi nép sát vào người má mà dỏng tai lên nghe, rồi đêm mắc tiểu lại không dám dậy đi, lay hai đứa em dậy đi cho có bạn. Có bữa trời tối hù, đang đi nghe tiếng con gì nhảy từ đọt chuối xuống, làm cả cây chuối lắc lư trông giống y như bóng người xoã tóc, sợ quá hét lên, không kịp kéo quần đâm đầu mà chạy vô nhà. Bữa sau má không cho ngồi hóng chuyện ma nữa nhưng vẫn cứ lén lút nghe.

Nhưng chuyện má sợ ma còn tức cười hơn. Bữa đó má không chờ lấy nước mà đi ngủ sớm để khi gà gáy canh một dậy đi lấy. Má kêu tôi dậy cùng đi. Nghĩ không có ai giờ đó còn thức nên khi thấy bóng người cứ chập chờn phía trước, mỗi lúc một gần chúng tôi, má đặt đôi thùng xuống, cầm chặt đòn gánh trên tay. Có tiếng gì hự hự giữa khuya nghe thiệt dễ sợ. Cái bóng tới vừa tầm cái đòn gánh là má vừa nói vừa lia mạnh đòn gánh sát mặt đất: Tui chỉ đi gánh nước, là người hay ma thì cũng tránh đường cho tui đi. Tôi muốn đứng cả tim khi nghe tiếng la trời: Tui đây mà thím Tám, thôi chết tui rồi! Má vẫn cầm chặt đòn gánh đến sát người vừa la. Thì ra là ông Hai tri đề ở xóm dưới. Quen với việc đi canh nước vào ruộng cho làng bao nhiêu năm nay, tới giờ đó là ông thức dậy đi quanh ruộng dù chẳng có miếng nước nào để mà trổ (nước). Má vừa cười vừa còn run, xin lỗi: Răng chú không lên tiếng, con sợ ma nên lia đòn gánh thử có chưn không, may là gặp chú. “May cái nổi chi, thím phang chi mạnh rứa, ống quyển tui muốn bể luôn đây”. Sau này mỗi khi ngồi nhớ lại chuyện này tôi cứ nhớ cái cách má cầm chặt đòn gánh mà lia vào chân người ta, sợ run người mà trông hùng dũng y như vai diễn Hớn Minh tôi đã xem trên sân khấu xã.

Mùa hạn người lớn lo thắt ruột thì bọn trẻ con chúng tôi vẫn cứ nhởn nhơ như thường. Buổi sáng cho trâu vào hố núi ăn cây lá vì cỏ ngoài đồng khô trụi cả rồi. Trưa thì rủ nhau lấy cây củi vót nhọn đi ghim bẹ tre khô về chụm. Chiều tối nghe có gió hây hây ngoài đồng là chạy ra lăn mình trên những đám ruộng khô nẻ mà chơi đủ trò của con nít. Mùa hạn mặt trời lặn sau núi Chúa rồi mà không gian vẫn còn sáng. Ráng phủ đầy một lớp ánh sáng màu cam trên cánh đồng khô nẻ trông đẹp một cách… điêu đứng. Má tôi nói tôi cứ thấy những cái đẹp khổ sở như vậy thì sẽ khổ cả đời! Chẳng biết có đúng không nhưng mặc kệ, tôi cứ thích nằm giữa ruộng ngửa mặt lên trời cho đến khi tối hẳn mới trở về…

Sau bao nhiêu năm lăn lộn với cuộc mưu sinh, giờ tôi mới hiểu được những nổi khổ ải, lo sợ của má ngày ấy. Người lớn còn chịu được, chứ bọn trẻ thiếu nước kéo dài thì sẽ ra sao, không khéo sinh bịnh hết. Rồi lo cái đói suốt 3 tháng kế tiếp nữa… Mà thật ra, ở cái vùng trung du heo hút nghèo như quê tôi, mùa hạn hay mùa mưa bão đều khổ như nhau. Trước mặt là sông, là biển, sau lưng là rừng, cứ ngỡ bước một bước là đến nơi có vàng có bạc nhưng quanh năm suốt tháng hầu như không ai đi ra khỏi những mảnh ruộng cằn cỗi của mình. Khắp nơi người ta thay đổi thì quê tôi vẫn cứ như vậy, khốn khổ và thơ mộng. Sau cái năm hạn khủng khiếp đó má tôi cũng đã mời thầy về tìm chỗ đào giếng ngay trong vườn nhà. Nhờ thầy giỏi, tìm đúng long mạch gì đó, đào xuống 7 thước là thấy nước. Nước ngọt và trong veo, không phải nửa đêm sợ ma cũng phải dọ dẫm đi vét nước nữa.

Bây giờ thì ở quê tôi đã có đập, có mương, có nước cho mùa cày cấy. Mùa hạn, mặt đồng Xe Loan cũng không còn kẻ ngang kẻ dọc như năm nào. Nhưng những hình ảnh của mùa hạn năm ấy tôi không bao giờ quên được. Tuổi ấu thơ cứ vô tư đi qua những nhọc nhằn, vất vả, mà cũng đã biết lo lắng gì đâu mà thấy vất vả. Cả làng ai cũng như nhau, có thấy ai sướng đâu mà biết mình khổ. Vẫn có nhiều trò để vui. Ăn bát canh rau má nhổ ven đường đắng ngắt với mấy củ khoai lang mà thấy ngon mới kỳ. Xa quê rồi, có lúc quay quắt nhớ quê, thật lạ là nhớ nhiều nhất vẫn là cái mùa hạn xanh trời trắng đất ấy!

GÁNH KHOAI LANG

Buổi chợ tan, bà lí gánh hai thúng khoai lang về nhà, nét mặt buồn rười rượi.

Thấy tiếng vợ ngoài cổng, ông lí vội chạy ra, nhưng rồi đứng sững lại, tưng hửng, hỏi:

- Thế nào? Ế à?

Bà lí uể oải đi vào, đặt gánh xuống sân, lắc đầu:

- Đã bảo mà, thầy nó gàn dở quá. Năm hết tết đến, còn ai mua của nỡm này làm gì? Chỉ làm tội tôi gánh trật xương vai ra thôi.

Rồi nhìn chồng lặng yên, và nét mặt lo lắng, bà thương hại, nói:

- Hay thầy nó cứ làm như ông chánh hội ấy, ì ra, không tết, không lẽ ông quan ông ấy giết chết hay sao?

Ông lí thở dài:

- Mình còn làm việc với người ta, không xử thế được.

Bà vợ cau mặt:

- Sao lại không được? Thầy nó để ông ấy bắt nạt, được một lần, rồi ông ấy bắt nạt mãi. Cứ thử trây ra xem sao nào. Gặm khố người ta mà trừ à.

Nói xong, bà lí vừa xuống bếp vừa gắt gỏng:

- Làm lí trưởng một làng quèn quèn có hơn trăm suất đinh, mà nay tết, mai tết, lại phải những hai đồng, cũng chẳng dám mở miệng ra mà kêu.

Ông lí bực mình, gắt lại:

- U mày lên huyện mà kêu. Cứ ở nhà nói đổng thì ai chẳng làm được. Lại không biết người ta ra làm quan chỉ cốt có việc nặn khoét thôi à.

Bỗng một lát nghĩ ngợi, ông lí hỏi:

- Thế đồng bạc để mua thịt ngày mai đâu, u mày đưa đây vậy.

Bà lí bĩu môi:

- Dễ nghe nhỉ. Cả nhà ăn tết, chỉ có đồng bạc, thầy nó định lấy đem vào quan hay sao?

- Chứ làm thế nào?

Bà lí nguýt:

- Rồi không có gì sửa mâm cơm cúng hôm mồng một, để ngoài người ta nói cho ấy à?

Ông lí buồn rầu, vuốt mái tóc, hấp háy mắt. Ông nhăn nhó, nhìn gánh khoai lang. Ông lo lắm. Mai đã là ngày quan hẹn lên lễ tết, mà nay chưa có đồng nào. Không thể thế được. Vụ lụt vừa rồi, dân làng đã xơ xác, rạc rầy. Nhà ông tiếng là đủ ăn, nhưng sự thực, bữa nào vợ chồng con cái cũng phải độn khoai lang với gạo đỏ. Bởi vậy, vào lúc khó khăn này, kiếm được đồng tiền để nuôi sống cái thân còn chật vật khốn đốn, huống chi để đem làm giàu cho bọn quan tham.

Nghĩ vơ vẩn một lúc, ông lí gọi vợ, dỗ dành:

- Này u mày cứ đưa tôi đồng bạc, để mai tôi đi sớm, rồi hãy hay.

Bà lí ương ngạnh:

- Nhất định tôi không chịu để cái tết này ông bà ông vải phải nhịn đói. Thầy nó muốn làm gì tôi thì làm.

- U mày khó bảo quá.

- Mà nói thực ra, ông bà ông vải đã chắc gì được hưởng mâm cao cỗ đầy. Đồng bạc này chỉ là để vợ chồng con cái ăn tết với nhau cho sướng mà thôi. Mình làm lụng quanh năm vất vả, được ngày tết để nghỉ ngơi ăn uống vui vẻ, tội gì mà đem tiền mồ hôi nước mắt cho người khác hưởng.

Ông lí phát cáu, nói:

- Nhưng vui sướng chửa thấy đâu. Hãy biết rằng tôi khổ với người ta trước đã.

Bà lí chợt nghĩ được một điều, ôn tồn nói:

- Thầy mày cứ gánh thúng khoai này lên huyện mà tết quan. Khoai mà không là tiền à. Gặp lúc đói kém, nó lại không quý hơn vàng ấy à?

Thấy vợ dịu, ông lí mỉm cười:

- Thì tôi cũng đã nghĩ như thế, món khoai này cũng trị giá đến đồng bạc. Nhưng một gánh khoai không vẫn chưa đủ lệ, phải có thêm đồng nữa, ông ấy mới nhận cho.

Bà lí xung tiết:

- Ăn gì mà ăn lắm thế.

Ông lí trợn mắt:

- Tôi đã bảo u mày cứ hay nói nhảm, thế nào cũng có ngày vạ miệng. Nhà mình là nhà làm việc, mình nên giữ mồm giữ miệng, kẻo đến tai ông ấy ngay đấy.

Bà lí càng tức, nói to:

- Ừ đấy, tôi sợ gì. Ông ấy cứ đem mà giết quách cả nhà này đi. Chứ lại bóc lột người ta tàn nhẫn thế à?

Ông lí lại trợn mắt, vội chạy đến giơ tay để bịt mồm vợ. Bà lí tưởng chồng đánh, bèn bù lu bù loa lên, kêu khóc. Ông lí càng nổi giận, sẵn tay, vả ngay cho vợ một cái thật mạnh. Tức thì, tiếng tru tréo dậy lên ồn ồn.

Nhưng hàng xóm chạy ngay sang, ông lí phân trần lẽ phải của mình. Bà lí cũng già mồm cãi lại để mọi người hiểu. Kết cục, ai nấy đều khuyên bà lí nên để tiền cho ông lên huyện tết quan. Bởi vì nếu không, không những ông lí sẽ bị quan nay hạch sách điều nọ, mai đòi hỏi việc kia, tốn kém dây dưa, rồi ra cũng quá tội. Mà ông chánh hội đã không tết, ông lí cũng lại không tết, quan sẽ đổ cho cả làng là cộng sản, thì dân vừa bị cái ách lụt lội trời trị chưa hồi phục, đã lại bị cái ách quan trị nữa, thì đến đi xiêu cả làng mất.

Bà lí hiểu lẽ, động lòng, mới chịu nhượng bộ chồng.

*

 *

Đứng trước bàn giấy quan, ông lí gãi tai, nhìn đĩa tiền để trên hai thúng khoai chồng lên nhau, khúm núm nói:

- Lạy quan lớn, chúng con gọi là có cây nhà lá vườn, đem đầu đến vi thiềng tết quan lớn.

Ông huyện hình như đã nổi giận. Ông ngắm áo quần và người ngợm ông lí bằng đôi mắt đầy mỉa mai, rồi trỏ tay vào lễ vật, dõng dạc hỏi:

- Thầy đem tết tôi? Thầy thử ngắm xem cái mả khoai lang của nhà thày bày ở giữa buồng giấy này, trông nó có đẹp không đã?

Ông lí sợ hãi, trống ngực thình thình. Quả là cái mả khoai lang đã làm tiêu cả vẻ hùng vĩ của bộ da cọp và hai thanh quất treo trên tường, và làm giảm cả sự choáng lộn của bộ bàn ghế gụ đánh bóng, có những đệm nhung thêu kim tuyến. Rồi như tiếng sét, ông huyện gắt:

- Đồ xỏ lá! Đem về để vợ chồng con cái ăn với nhau! Nhà tao

 không có lợn!

Giật mình, ông lí tái mét mặt, ấp úng nói:

- Lạy quan lớn, quả thực chúng con túng đói, xin quan lớn thương cho.

- Mày kêu mày túng? Mày túng thì ông cách cổ mày đi cho thằng khác làm. Đồ ba que!

Ông lí không thể đáp thế nào được, bèn chỉ lạy van đỡ đòn:

- Lạy quan lớn.

Ông huyện quắc mắt, đập bàn, lại quát:

- Đem ngay đi! Đừng để bẩn công đường! Từ giờ đến trưa, mày không tết được tao, thì tao bỏ tù. Tao bảo trước cho mà biết.

Ông lí run bắn người, nghĩ ngay đến mai là mồng một tết mà mình phải giam trong trại.

Ông bèn khom khom bê hai thúng khoai ra để ở góc hè, bỏ tờ giấy bạc vào túi, rồi ra phía cổng.

Ruột ông rối như mớ bòng bong. Ông đi ra để quan khỏi quở thêm, chứ thực ra cũng chưa định đi đâu.

 Nhưng may quá, ông sực nghĩ đến ông phó Sinh bán hàng cơm ở ngoài phố, là chỗ quen thuộc. Ông lí định đến nói khó với ông ta, may ra ông ta giúp cho chăng.

Đến nhà ông phó Sinh, ông lí kể lể đầu đuôi câu chuyện.

Ông phó Sinh ái ngại, song, lắc đầu, đáp:

- Tôi có thì ông tiêu cũng thế, tôi không tiếc ông đâu, ngặt vì dộ này tôi túng quá.

- Hay nhờ ông vay hộ vậy.

Ông phó nghĩ một lát, rồi lắc đầu:

- Khó lắm, ông ạ. Có mấy chỗ mọi khi lúc túng thiếu tôi vẫn đến giật lửa, thì đều mắc míu cả rồi, nên bây giờ chắc không hi vọng gì.

Ông lí nhăn nhó, nằn nì:

- Ông cứ nói rằng ông hỏi mượn cho tôi vậy.

Ông phó cười:

- Đến tôi buôn bán ngay ở phố này, mà khi vay mượn còn phải đem cái nọ cái kia đến làm tin, nữa là ông.

Ông lí vừa sòng sọc hút thuốc lào, vừa gật gật ra ý mừng rỡ, rồi sau khi thở hết làn khói ở miệng ra, ông nói:

- Vây có mỗi một đồng bạc, làm gì người ta không tin? Chả có tôi làm giấy và có áp triện chứ gì.

Ông phó bật nghĩ ra:

- Ông có đem đồng triện đi đấy à?

Ông lí gật:

- Có đấy.

- Ông ạ, còn có cách này chắc chắn, là ông đem quách triện đi mà cầm. Có tôi nói giúp vào, may người ta cho vay đấy.

Túng phải làm liều, ông phó và ông lí cùng đi. Phúc làm sao, người ta bằng lòng cầm chiếc đồng triện một đồng bạc, lãi ba mươi phân.

*

 *

Có đủ tiền vào tết quan, ông lí thấy được nhẹ nhõm.

Ông đứng chờ ở hiên công đường, nhìn đến hai thúng khoai nặng nề mà thở dài. Chốc nữa, ông lại phải gánh cái món ăn vô duyên ấy về mới rầy rà chứ!

Được lệnh quan gọi vào hầu, ông lí xếp gọn gàng hai tờ giấy bạc lên đĩa, rồi nắn lại khăn, sờ lại khuy áo, và thong thả tiến vào.

Ông đặt đĩa tiền ở góc bàn, sắp bẩm một câu chiếu lệ. Nhưng ông huyện đã vui vẻ, ngọt ngào nói ngay:

- Đấy, các thầy chỉ được nghề nói dối quan là tài. Từ nay không nên thế. Thôi được, có lòng thành, ta cảm ơn.

Nói đoạn, quan phụ mẫu nhanh nhẹn gión món tiền, bỏ túi. Rồi cũng chẳng ngượng miệng tí nào, và làm như động lòng thương người thuộc hạ phải gồng gánh nặng nề, ngài dịu dàng dạy:

- Thế còn hai thúng khoai ban nãy đâu, đem vào đây nhé.

CON VE

Nhất định anh đòi bắt kì được ve để chơi. Chà chà! Khóc dai đâu mà có dai ghê dai gớm thế! Thôi, mồ hôi mồ kê lại chảy ướt đầm cả người rồi. Mà vú vừa tắm cho anh xong đấy. Thực là phí cả công người ta dỗ dành.

Trời này, đố ai nghe tiếng trẻ hờn mà không sốt ruột được. Mà chẳng ai dại như trẻ con. Giá vừa tắm xong, được mát mẻ, anh ngồi ở ghế ngựa để vú kéo quạt hầu, có sung sướng biết bao không? Người lớn ước mong thế mà không được đấy. Vậy mà không, anh đòi nhai nhải ra các gốc cây ngoài đường để tìm ve. Anh khóc để đòi. Anh đánh vú, chửi vú để đòi. Quá quắt lắm! Chỉ tại một con ve phải gió ở đâu bay đến, bậu ngay vào cột giại gần chỗ anh tắm, để anh trông thấy. Giá nó cứ yên lặng, có lẽ anh không biết. Đằng này nó lại ve ve đinh tai lên. Rồi nó vỗ cánh bay đi mất. Bởi thế trưa này, anh tức khắc đòi ra nắng bắt ve. Có khổ người ta không!

Đã ba hôm nay, trời oi bức không thể tả được. Không có một tí gió. Mây trắng chỗ dày chỗ mỏng. Thật như cái nắp lò than. Lá cây lả gục như sắp chết thiêu, chết khát. Ở bãi cỏ cạnh đình – chỗ ấy là chỗ mát nhất làng, vì trông ngay ra đồng – hai ba con trâu, mình nứt nẻ lượt bùn khô, nhắm mắt, phóm phém hàm dưới để nhai lại một cách uể oải. Ve sầu kêu ra rả trong các bụi.

Độ mười lăm phút một, lại có người cởi trần, quần xắn lá toạ, tay cầm chiếc quạt nan, ra đấy hứng gió. Nhưng rồi thất vọng, về ngay.

Ấy thế mà thằng bếp phải dắt anh ra đó. Vì con vú không được việc cho anh rồi. Thằng cha cầm chiếc sào dài đầu có dính tí nhựa mít. Nó để anh đứng chỗ râm, cạnh gốc tre, rồi tay che mắt, mặt ngẩng lên, nhìn trên các thân cây, trong những bụi rậm rạp.

Nhưng chẳng may, động nó thò sào rình con ve nào, là con ve ấy bay mất. Mà mỗi con bay, y như anh lại phụng phịu, rồi oà lên khóc.

- Để tôi bắt cho anh một con. Anh khóc to thì nó bay mất hết.

Thằng bếp doạ anh như thế. Vì nếu anh không nín, ông bà ở nhà nghe tiếng khóc, nó sẽ phải đòn và phải chửi. Mấy ngọn roi mà nó bị oan hai hôm trước, nay nó vẫn còn thấy rát. Nó chỉ sợ phải dỗ anh. Chưa bao giờ nó thấy một đứa bé khó tính và oái oăm như anh. Đã đòi cái gì thì phải biết! Chỉ trừ ông trăng trên trời ông bà không thể lấy được xuống cho anh chơi thì thôi, còn anh muốn gì là phải có ngay tức khắc. Chậm một tí không được. Anh nằm ềnh ngay ra đất, bất cứ chỗ bẩn hay chỗ sạch. Anh làm cho kinh thiên động địa. Ông bà xót xa, thương con khóc lóc, sợ sinh bệnh, nên hết sức chiều chuộng. Làm con một của nhà giàu, sướng thật!

Lúc đó, thằng cu Mến cũng bế em ra bãi cỏ cạnh đình để chơi. Bố nó đi đồng. Mẹ nó đi chợ. Ngay từ sáng, ăn cơm xong, nó phải làm bổn phận bế em, cho đến lúc lặn mặt trời. Hai anh em nó, chỉ có thằng anh mặc quần đùi chéo go. Da chúng nó sẫm như màu đất, vì lúc nào cũng phơi nắng. Nó tha em nó đến bất cứ chỗ nào. Bất cứ chỗ nào, nó cũng đặt em nó xuống đất để chơi với bạn. Nó ấn vào tay em nó mẩu gạch nhỏ, cái nút chai, hoặc cái mo nang. Thế là em nó chơi mãi được. Lâu đáo để. Thằng bé có chán, nó cũng mặc kệ, thế là lại lủi thủi lê đi, tự tìm lấy một vật khác mà chơi, Chứ cấm khóc bao giờ. Có khi chơi đang thích, nó bị anh nó bế thốc dậy, lôi ra chỗ khác. Thằng bé oằn oài kháng cự. Nhưng rút cục không được, thì cũng thôi.

Lần này, thằng Mến vừa bắt được con ve. Nó buộc chân con vật vào cái tóc dài cho em nó ròng. Thỉnh thoảng nó bóp ngực con ve, cho kêu. Nó dạy em nó cách ấy. Mỗi lần trong tay có tiếng lanh lảnh, thằng bé con lại cười khanh khách.

Được thứ đồ chơi hiếm có ấy, thằng Mến ra đình, đặt em nó ngồi phệt xuống thềm, rồi réo gọi một thằng bạn, rủ đi đánh đáo. Nó vừa chọn được hòn sành thật tròn để làm cái.

Anh thoáng trông thấy con ve xanh biếc trong tay em thằng cu Mến.

- Kia kìa, ve kia kìa, bếp bắt cho anh!

- Của nó đấy mà, bắt thế nào được?

- Cứ bắt cơ.

Nói đoạn, anh vùng vẫy chân tay.

Bếp nhìn thằng cu Mến, gọi:

- Cu Mến, lại đây tao bảo.

Thằng Mến bế em nó lại gần.

- Mày biếu anh con ve nhé.

Thằng bé lắc đầu, ngây thơ cười và đáp:

- Không, của em tôi chơi đấy.

- Khối ve trong bụi, mày bắt con khác cho em mày.

- Bác lên mà bắt. Của em tôi, tôi không cho. Tôi bắt mãi mới được đấy.

- Tao cho mày cái sào đã dính nhựa mít rồi.

Thằng Mến lại lắc đầu:

- Chả dại.

Trong khi ấy, anh ngẩn ra nghe cuộc điều đình. Biết là không ăn thua, anh oà lên. Chắc anh tưởng thằng cu Mến cũng sợ anh khóc như bất cứ ai trong nhà anh. Song, nó thản nhiên như thường. Nó nhìn anh. Em nó cũng nhìn anh. Hai anh em nó nhăn răng ra cười. Mặt mũi nhăn nhó và chân tay cả quẫy của anh, đối với anh em nó, là một trò giải trí.

Nhưng chợt ông ra. Hẳn ông đã thấy tiếng anh khóc.

Bếp sợ xanh mắt. Anh được thể, khóc to hơn. Ông cau mặt, hỏi:

- Sao thế?

- Thưa ông, anh đòi con ve của thằng Mến ạ.

Ông chạy lại gần. Ông thấy thằng bế đương cầm con ve kêu lanh lảnh. Ông dỗ nó:

- Mày cho anh. Mày tìm con khác nhé!

Nhưng thằng Mến cười:

- Của cháu mới bắt được cho em cháu chơi.

- Mày nhường anh một tí. Chóng ngoan.

- Không, em cháu khóc.

Ông móc túi, nói:

- Mày bán lại cho tao vậy.

Thằng Mến lại nhìn tay ông, nghĩ một lát, rồi đáp:

- Nhưng cháu chỉ sợ em cháu khóc.

- Mày mua quà dỗ em mày.

- Để cháu hỏi em cháu xem.

Ông giơ đồng kền sáng loé, ngọt ngào nói:

- Đây, tao cho mày những năm xu, đưa ve đây!

Lúc ấy, anh thin thít, yên lặng để nghe. Thằng Mến bảo em:

- Mày đưa anh con ve, để lấy tiền cho u đong gạo nhé.

- Để mà đong gạo.

Ông nhắc lại bốn tiếng ấy. Thằng bế không nói, không rằng. Chẳng biêt nó có hiểu không. Nhưng thằng Mến giật lấy con ve, đưa anh. Anh cười khanh khách, sung sướng lắm.

Thằng bé con ngây mặt nhìn theo. Anh nó dạy anh bóp ngực ve. Con vật ra rả kêu rầm rĩ.

Anh cười tít mắt. Ông, thằng bếp, thằng Mến cũng cười. Duy có thằng em, tay nắm đồng năm xu, nhưng mặt ngây, miệng dúm lại để nhìn con ve.

Song, vừa độ một phút, một phút thôi, anh chán ngay. Anh xoè cả năm ngón tay ra. Con ve được tự do, vỗ cánh bay đi. Hai ba cánh tay vội quờ ra để bắt, nhưng hụt. Anh đắc chí, cười giòn hơn.

Cả từng ấy người nhìn anh.

Chỉ có em thằng Mến là ra ý tiếc. Nó thản nhiên cho anh nó giật ở tay nó đồng năm xu, xoắn chặt vào cạp quần, như thể sợ ông ấy lại. Thằng bé cứ trông theo con ve, trông theo mãi, ngửa cổ lên để trông theo con vật lẩn vào bụi cây đằng xa. Rồi nó mới nhìn anh nó, đôi mắt vẫn ngơ ngác…

Mùa khoai lang

Theo

baocantho.com.vn

- 2 tháng trước

Truyện ngắn: PHẠM TRUNG

Tôi và thằng Cu Rớt là bạn thân của nhau từ hồi lớp một. Khi đó, gia đình tôi vừa chuyển về quê ngoại. So vai vế thằng Cu Rớt gọi tôi bằng anh nhưng nó lớn hơn một tuổi nên tôi thường xưng hô ngược lại. Học xong lớp hai thì Cu Rớt nghỉ. Nó quyết định ở nhà đi mót khoai lang bán lấy tiền về nuôi con Nhãn- em nó. Hay tin nó nghỉ học, cô giáo, tôi và mấy đứa bạn đến nhà động viên nhưng Cu Rớt nhất quyết ở nhà. Bà nội nó chỉ biết chặc lưỡi, nhìn cháu rưng rưng. Bà đánh nó biết bao roi rồi mà nó nào có chịu nghe. Nó nói: “Con sẽ nghỉ học để đi mót khoai nuôi nội và con Nhãn. Khi nào ba mẹ con về con sẽ đi học lại”.

Từ dạo ba thằng Cu Rớt bỏ đi thì mấy người trong xóm đồn rằng ba nó làm cướp ở Sài Gòn, bị công an bắt và chịu án mười mấy năm tù. Chẳng ai biết cụ thể ba thằng Cu Rớt có tội gì hay không, chỉ biết rằng lần cuối cùng người ta thấy ông là lần ông đánh vào mặt mẹ Cu Rớt và chửi: “Đồ con đ. Mầy đi ngay. Mầy muốn quay về đường cũ nữa hả?”. Mẹ nó thì ôm mặt khóc. Và ba thằng Cu Rớt mất tích từ đó. Ba thằng Cu Rớt đi độ tuần thì mẹ nó cũng bỏ đi vào một buổi trưa. Những hàng khoai cuốc dang dở với cái cuốc chổng chơ làm người ta thêm khó hiểu về một gia đình tứ tán, tha phương. Thằng Cu Rớt bơ vơ như chú mèo con mắc mưa lại thêm lạc mẹ. Nó khóc suốt ngày Chủ nhật đến nỗi bà nội nó phải bỏ buổi lễ nhà thờ chạy về dỗ cháu.

***

Miệt cồn quê tôi trải dài ngút ngàn với những giồng đậu phộng, dưa hấu, bắp... Mấy thứ đó người ta thu hoạch gần như rốt ráo chỉ có khoai lang là còn chút dư thừa. Chủ giồng thường lấy khoai lớn cỡ ba bốn củ một kí-lô đem cân cho thương lái, số còn lại thì bỏ mặc ngoài đồng, ai muốn lấy cứ lấy. Người nghèo ở quê tôi lúc đó thường đi mót khoai, nói thế chứ đến đó tha hồ gánh về ăn mệt nghỉ. Cu Rớt và tôi không gánh nổi nên sắm hai cái bị đệm cỡ chục kí-lô. Cứ canh đến gần chiều, lúc người ta vừa thu hoạch khoai xong là nó dẫn tôi qua Cồn Lớn nhặt khoai mang về. Tôi mót khoai về nấu để sáng mai ăn đi học hay để mẹ bằm ra cho bầy heo ăn còn thằng Cu Rớt thì đem bán. Một kí-lô được đâu vài trăm đồng và sức nó làm cả buổi chiều cũng đủ mua vài lon gạo. Nhiều lần chúng tôi bị mấy đứa bên cồn ỷ đông ăn hiếp, rượt chạy thụt mạng, có khi bỏ cả khoai lẫn bị để mà thoát thân. Để bảo vệ tôi, Cu Rớt thường đứng lại chặn đường, chống trả. Mặt nó đầy sẹo vì những vết cào cấu của tụi kia sau mỗi lần như thế. Lần nào nó cũng nói: “Mai mốt lớn lên em hạ hết tụi nó cho coi. Đứa nào bước qua xóm Khâu em cũng xử hết”. Giọng nó ngang tàng, y hệt ba nó-một tay giang hồ gác kiếm về giồng nhưng hoàn cảnh đẩy đưa lại về đường cũ.

u Rớt lớn lên như cây đước, chỉ cần trái rụng cắm phập xuống bùn là mọc được. Nó ít khóc hơn mỗi khi nhớ ba mẹ vì nhiều người nói ba nó là ăn cướp, mẹ nó là gái điếm. Nhớ làm cái gì? Năm mười hai tuổi, thằng Cu Rớt đi giữ vuông tôm thuê cho dì Năm tôi. Dù dì Năm từng thề chẳng họ hàng, qua lại gì với nhà thằng Cu Rớt. Dì kể, hồi đó, nhà dì có cái cát-sét trị giá cỡ mấy chỉ vàng. Vậy mà có người chui lỗ chó vô lấy mất. Khuya. Thức dậy thấy mất của dì tìm khắp xóm nhưng không gặp, tức quá dì tôi uống thuốc rầy tử tự. Mấy anh lính biên phòng đi tuần tra nghe tiếng kêu ú ớ vội tông cửa vào mang dì về đồn cấp cứu. Dì tôi thoát chết nhưng sinh ra thù ba thằng Cu Rớt khi biết ông là hung thủ của vụ trộm này. Ghét cha nhưng vẫn mướn con vì thấy nó tội nghiệp quá. Mỗi tháng, dì tôi trả lương nó đâu được một trăm ngàn đồng, một tuần cho nó về nhà một bữa vào Chủ nhật để đi lễ nhà thờ. Thế nhưng một hôm mới thứ bảy thì nó xuất hiện ở nhà tôi. Vừa bước vào cửa nó đã hỏi:

- Mẹ em về hả anh Minh?

Tôi chưng hửng, trả lời: - “Tao có biết gì đâu. Để tao hỏi mẹ coi”. Mẹ tôi nói không nghe. Nó tiu nghỉu ra về. Tôi chạy theo nó dắt tay ra trường học mua hai ly si-rô đá rồi đưa nó xuống bến đò. Mặt nó buồn thiu, chẳng nói một câu suốt chặng đường dài.

- Em nghe cô Năm nói mẹ em về thăm nội nên em trốn về. Vậy mà hổng gặp được mẹ...

- Chắc dì Năm biết mầy nhớ mẹ nên chọc đó. Thôi, mầy đừng buồn nữa. Mẹ mầy về là đi tìm mầy liền hà - Nghe tôi nói, thằng Cu Rớt khẽ gật đầu.

- Mấy ngày nay anh có gặp nội em không?

- Không. Hôm bữa tao nghe mẹ tao nói nội mầy và con Nhãn đi Sài Gòn tìm mẹ mầy. Chắc mai mốt gì về...

- Vậy hả anh? Khi nào nội về anh cho em biết với hén.

Tôi “ừa”. Thằng Cu Rớt đi. Dáng nó lêu khêu trong gió chiều của miệt biển. Mấy lần nó đòi đi tìm mẹ dù chỉ với một thông tin nhỏ xíu: nhà ngoại nó ở khu Thanh Đa, quận Bình Thạnh. Mấy cô bác trong xóm cản không cho nó đi, nó trốn nhưng tới bến xe miền Tây thì về. Nó sợ gặp “ông già bắt con nít”. Sợ bị mổ bụng, bị lấy nội tạng như lời đồn của mấy chị trong xóm. Sợ quá nó quay về nhưng lòng thì khắc khoải lắm. Lâu lâu nó ra ngồi ở cống vuông tôm khóc hu hu trong đêm tối. Mặc kệ đàn muỗi bu đầy người, nó khóc đến mệt lả thì vô chòi đi ngủ.

***

Thỉnh thoảng, xóm tôi có người đi Sài Gòn về thường đưa cho bà nội thằng Cu Rớt vài trăm ngàn đồng. Tiền đó do mẹ thằng Cu Rớt gởi về nhưng khi bà hỏi “con Phượng đang ở đâu?” thì chẳng ai trả lời được. Mẹ thằng Cu Rớt giấu biệt nơi mình ở, khi nào dò la biết người quen đi Sài Gòn trị bệnh hay mua máy ghe thì tìm đến, gởi chút tiền cho con rồi lại tất tả ra đi.

Thời gian thấm thoát, rồi mẹ thằng Cu Rớt cũng về sau nhiều năm mất tích. Đó là khi ba nó vừa ra tù. Mẹ thằng Cu Rớt về được một lát thì nhà bà nội nó um sùm cả lên.

- Mầy đi ngay. Xưa tao nói đừng có đi, đừng có theo cái nghề đó nữa vậy mà không nghe tao. Khổ cực, tù tội gì tao cũng chịu. Vậy mà mầy cãi tao, bỏ mấy đứa nhỏ nheo nhóc mà đi. Đồ mầy gởi vào trại tao vẫn giữ đủ. Mầy lấy rồi đi cho khuất mắt tao... - Giọng ông Hai Nhứt - ba thằng Cu Rớt đứt quảng, hậm hực. Ông cố gào, cố hét cho hả giận. Mà hả làm sao được khi mẹ thằng Cu Rớt vẫn đứng đó? Không đánh vợ nhưng ông Hai Nhứt đánh thùm thụp vào vách nhà. Đánh đến thủng một lỗ toang hoác mà dường như lòng vẫn chưa nguôi. Ông ngồi bệt xuống đánh ành ạch vào thềm ba.

- Em lạy anh. Lúc đó nghèo quá em không đi thì ở đây cũng chết đói. Mười mấy năm qua em tủi nhục ê chề vẫn cố sống vì anh, vì con... -Mẹ thằng Cu Rớt van nài thảm thiết.

- Mày đừng biện minh nữa. Hãy cút đi cho khuất mắt tao. Không thì tao giết chết...

Mẹ thằng Cu Rớt vẫn đứng đó. Ba thằng Cu Rớt thấy vậy tức quá chạy xuống bếp tìm cái búa bửa củi rồi vòng lên. Ông vừa nhá lên thì bà nội nó từ đâu chạy về. Bà nội nó xô ba nó ra, miệng bảo con dâu: “Thôi đi đi con. Lát nó hết giận rồi về”. Nhưng mẹ thằng Rớt chẳng bao giờ đứng được ở nhà nội nó thêm một lần nào nữa. Bà bỏ đi trước khi thằng Cu Rớt bỏ vuông tôm chạy về tìm mẹ chỉ với cái quần cụt. Mấy lần sau, mẹ thằng Cu Rớt vừa về tới đầu xóm đã bị ba nó đánh bầm giập. Khóc. Bà lại tủi hổ bắt xe ôm lên thị trấn để đón xe đò về Sài Gòn.

***

Ba thằng Cu Rớt cưới vợ-một người đàn bà chết chồng đang sống cùng ba đứa con sàn sàn tuổi. Ông chấp nhận quần quật để kiếm miếng ăn cho tổ ấm mới chứ không bao giờ chấp nhận sống chung với người vợ cũ. Năm đó, thằng Cu Rớt đã hai mươi tuổi, sức nó đã đủ nuôi mình nên không bận tâm chuyện gì dù con Nhãn cương quyết không chịu sống cùng mẹ kế.

Thằng Cu Rớt theo nghề đóng đáy ăn chia với chủ, mười miệng đáy thu hoạch xong nó được chia hai miệng. Người trong xóm tôi hay chọc nó: “Ốm như con nhái mà làm dữ quá”. Nó cười hề hề, nhe hàm răng khểnh trắng tinh. Đúng là thằng Cu Rớt còi nhất trong số những người làm biển quê tôi. Không vai u, bắp thịt nhưng nó kéo miệng đáy ngược nước phà phà như con nít kéo ghe làm bằng bụp dừa nước. Hết mùa đáy sông Cầu nó theo ghe đáy bè rồi đi câu mực cho các chủ ghe ở Vũng Tàu, Cà Mau, Sóc Trăng. Nó nói: “Em làm để có tiền đi tìm mẹ”. Nhưng thằng Cu Rớt chưa bao giờ tìm thấy mẹ. Lâu lâu mẹ nó có về nhưng gặp là ba nó đánh. Vậy là mẹ nó lại đi trước khi nó bắt xe về quê tìm. Có lần, mấy cô bác trong xóm cho bà tá túc trong nhà để đợi nó về nhưng ba thằng Cu Rớt hay được, đòi đốt nhà người ta. Mẹ nó đành đi.

Thằng Cu Rớt vẫn lầm lũi làm. Mỗi năm chỉ có Tết là nó về ở nhà được vài ngày. Khuôn mặt nám đen cộng với thân hình gầy gò không đủ sức thuyết phục là nó đang có cuộc sống tốt. Mấy lần nó về quê, gặp nhau, tôi và nó hay nhậu. Lần nào nó cũng tìm bằng được món khoai lang nấu chấm với mỡ pha muối để nhậu với tôi. Và lần nào nó cũng nói: “Anh Minh à, cái món này mẹ em rất thích. Em nhớ hồi đó...”. Nghe thế là tôi biết nó say.

***

Tôi chuyển nhà nên không gặp Cu Rớt đã lâu. Vừa rồi, tôi về thăm quê thì hay nó đã có vợ. Gặp lại nhau, Cu Rớt mừng lắm. Bây giờ, nó đã có vợ và hai đứa con trai kháu khỉnh. Con Nhãn cũng đã có chồng. Gặp lại nhau, chúng tôi lại nhậu với món khoai lang chấm mỡ pha muối bọt như ngày nào. Nghe tôi khen ngon thằng Cu Rớt bảo khoai này do chính nó trồng. “Em được mấy công đất do mẹ vợ cho, cộng với tiền em dành dụm bấy lâu em cũng mua được gần chục công, anh à. Em không đi cào nữa. Mẹ vợ em nói cứ ở quê mà làm ăn có khó khăn gì bà bảo bọc. Bây giờ kinh tế em đỡ lắm...” - giọng Cu Rớt tự hào. Tôi nghe mà mừng cho nó, chúc nó mau làm giàu. Nhìn ra đám khoai lang trước nhà thằng Cu Rớt xanh mướt lòng tôi thấy vui vui. Hết mùa khoai rồi sẽ tới mùa sắn, mùa đậu phộng... Cứ thế xoay vòng.

Cu Rớt tính với tôi thế này, nếu mẹ nó về nó sẽ đưa bà về đây ở chung với vợ chồng nó. Một chục công đất làm quanh năm không thể giàu nhưng chắc chắn đủ ăn. Nó nuôi mẹ nó được. Nó đã đủ sức bảo vệ mẹ nó rồi. Ba nó có gia đình riêng chắc không làm dữ như xưa nữa. “Nhưng mấy năm nay mẹ em không về đây nữa anh à. Em không biết mẹ em bây giờ sống chết ra sao. Em đợi mẹ ở đây ba năm rồi. Lần nào ăn khoai lang chấm mỡ em cũng nghĩ tới mẹ. Em nhớ hồi đó...” - Cu Rớt thút thít. Nó gục lên gục xuống làm chén đũa trên bàn rơi loạn xạ. “Cái thằng. Hễ say là nước mắt ngắn dài y như là Lưu Bị”-mẹ vợ thằng Cu Rớt đem chén đũa lên thay mắng yêu con rể. Trước nhà, gió biển vẫn thốc từng cơn buốt lạnh, gió lật tung từng hàng khoai như đang cố tìm ký ức vui tươi và buồn bã của những phận người...

LẬP GIOÒNG

Anh em trong trại cơ đứng xúm xít xung quanh chú quyền Ván-cách và hỏi:

- Thế nào? Toa phải phạt nặng thế à?

- Nặng lắm. Nhưng mình có lỗi, thì kêu ca làm gì? Có gì đâu, đêm hôm qua, đằng này đi tuần với thầy quản, vào mé rừng làng Cổ Tích. Lúc tang tảng sáng, có một người đàn bà thu thu cái gì trong bọc, ở đằng kia đi lại. Người ấy thấy thầy quản và tôi, thì vùng té chạy. Thầy quản nghi tình, mới hò đuổi theo, bắt đứng lại để khám. Thì ra con mẹ ấy…

- Khoan, con mẹ ấy mặt mũi có khá không?

- À chà, sộp phải biết! Hai con mắt nó mới lẳng làm sao!

- Thôi được. Con mẹ ấy tại làm sao mà chạy?

- Lúc nó bị bắt, thì tay nó cầm một chai thuốc phiện lậu! Nó van lạy thầy quản xin tha và hứa sẽ biện chè lá.

- Nó khấn bao nhiêu?

- Nó khấn thầy quản một chục và đằng này năm đồng.

- Hoài của! Thế mà thầy quản không nhận! Giá phải tay tớ, thì tội gì, tớ nắm lấy xu tiêu, rồi thả băng.

- Các anh phải biết thầy quản thẳng lắm. Tôi còn trông thấy trong túi nó có mấy cái giấy năm đồng nữa, gói vào một cuộn, mà chính lúc nó giở ra, thầy quản cũng biết, nhưng thầy vẫn nghiêm nét mặt như không.

- Phải! Làm việc quan thế mới được, chứ như anh em mình, chưa thấy tiền đã híp mắt lại, thì còn pháp luật gì! Thế rồi làm sao?

- Nó khấn thế nào thầy quản cũng không nghe, cứ khăng khăng một mực thét trói để giải về trình quan.

- Thế thì làm sao nó lại trốn thoát?

- Đã trói nó đâu. Con mẹ ấy quấn tóc trần, thành ra không có gì để trói. Thầy quản nhìn trước nhìn sau rồi bảo nhỏ tôi:

- Này chú Ván-cách, con mẹ này khôn ngoan lắm, ranh mãnh lắm, thầy trò ta phải coi chừng! Chú mình phải chịu khó vào rừng, tìm cho được cái dây hay cái cây leo nào rõ chắc chắn để trói nó. Vì xem ra nó khoẻ lắm. Giải không lỡ nó chạy trốn mất.

Tôi chạy vào rừng. Còn một mình thầy quản giữ nó. Ác quá, cái rừng ấy lại chỉ có cỏ tranh. Tôi quanh quẩn mãi, chẳng kiếm được một sợi dây nhỏ nào. Quay lại nhìn, tôi vẫn thấy thầy quản trông theo, nét mặt ra ý tức giận. Rồi thầy hỏi:

- Thế nào? Đã có dây chưa, sao lâu thế?

Tôi đáp:

- Thưa thầy rừng tranh, khó kiếm dây quá.

Thầy quản bảo:

- Thế thì sang rừng bên kia, mà tìm vậy chứ? Sao chú ngốc thế? Đi mau lên!

Thực ra, từ thuở cha mẹ đẻ ra, lần này tôi mới phải bữa vất vả là một. Tôi chui chỗ nọ, tôi luồn chỗ kia, lúc thì rúc, lúc thì bò, mãi mãi mới kiếm được dây về. Song, tôi chỉ còn thấy thầy quản đứng trơ khấc một mình ở đó. Thoạt thấy tôi, thầy hầm hầm nét mặt, vừa giơ đồng hồ, vừa gắt:

- Chú không được việc gì cả! Chim gái thì thạo lắm! Chú ngủ ở trong rừng hay sao? Hơn một tiếng đồng hồ mới kiếm được dây. Thôi, con mẹ nó trốn mất rồi!… Chú không nhớ rằng tôi đã bảo con mẹ ấy tai quái, khoẻ mạnh à? Chú để một mình tôi canh nó, nên nó trốn thoát! Được rồi, tôi “lập-bô” cho chú, chú sẽ phải “lập-gioòng”!

- Làm sao đằng ấy không xin thầy quản ngay?

- Sao lại không xin? Nhưng tính thầy quản nghiêm khắc, còn ai lạ? Đến ngay như lúc ấy, tôi mệt quá, xin vào ngồi nghỉ ở túp hàng nước cạnh đấy, mà cũng không được. Thầy bảo:

- Thôi, đã có ai dọn hàng đâu mà vào nghỉ. Chú phải về 

ngay, nếu chú tìm được con mẹ ấy, thì tôi tha cho chú.

Cha mẹ ơi! Biết nó trốn đằng nào mà tìm bây giờ! Thôi đành chịu “lập-gioòng” cho xong chuyện vậy…

Ván-cách nói đến đấy thì vừa đến giờ chịu phạt. Chú phải mặc quần áo chỉnh tề, quấn xà cạp, đeo bao đạn, bồng súng cắm lưỡi lê, đi xung quanh bờ giếng. Cách hình phạt ấy, làng “ắng đê” ta gọi là “lập-gioòng”…

*

*  

*

Nghe câu chuyện chú quyền Ván-cách rồi, ta cũng đã hiểu tại sao chú phải phạt rồi. Vì lỗi chú đi lâu quá, đến nỗi thầy quản đồn một mình không giữ nổi cái con mẹ khôn ngoan mạnh khoẻ kia, để nó sổng mất. Nhưng tưởng thầy quản đồn cũng lực lưỡng nhanh trí lắm đấy chứ. Tại sao lại để cho con đàn bà nó đánh tháo được cả người lẫn tang vật?

Nhà tiểu thuyết chẳng muốn để chỗ thủng ấy vừa chỗ cho độc giả đánh dấu hỏi. Vậy xin kể cái miếng võ đó, rình đánh vào chỗ yếu của thầy quản, và mưu mẹo nó lừa ra sao.

Nguyên thầy quản trông thấy rừng tranh, có lẽ biết là hiếm đây, nhưng cũng cứ sai Ván-cách tìm. Thầy nhìn theo Ván-cách, cứ thấy anh chàng vơ vẩn kiếm quanh ở đó, nên thầy mới bắt phải sang tận rừng bên kia mà kiếm cho được cái dây chắc chắn để trói.

Lúc Ván-cách đi khuất, thầy quản mới quay lại người đàn bà, cau mặt mà gắt:

- Mày mang thuốc phiện lậu, 

phen này ông cho thì ngồi tù.

Con mẹ thấy lòng thầy quản thẳng như lòng súng, rắn như hòn đạn, khấn tiền cũng không thèm, thì không biết làm thế nào được. Nhưng nó cũng cứ lạy van hoài:

- Lạy quan lớn, ngài tha cho con.

- Tha! “Tăng xương”! Coi thì mày chết, con ạ. À, tao biết, mày vẫn còn nhiều đồ quốc cấm giắt ở trong mình…

- Lạy quan lớn, con là đàn bà, làm gì dám mang những thức ấy.

- Mày không đánh lừa nổi ông. Đàn bà mang những vật ấy mới dễ. Giơ hai tay lên, ông khám.

Con mụ sợ hãi, chắp hai tay lạy rối rít. Thầy quản quắc hai con mắt, doạ báng súng vào ngực nó:

- Mày có giơ tay hay không thì mày bảo?

Khốn nạn, con mụ tái mặt. Nó vội giơ phắt hai cánh tay lên trời. Thầy quản khoác súng vào vai, dần dần lần các túi áo.

Túi bên phải: một gói thuốc lào. Thầy chẳng nói gì, quẳng toạch xuống đất.

Túi bên trái: bốn đồng trinh.

- À, con này gớm thật, mày vẫn còn trinh à?

Chẳng biết cho là câu nói ý nhị hay nói hớ, thầy quản liếc mắt cười tủm, rồi lại nắn.

Túi trên: hai hào.

- Hào giả hay thực đây? Tao phải mang về trình quan mới được.

Con mẹ ấy toét mồm ra cười.

Túi trong: cuộn bạc giấy.

- Mày làm gì có nhiều tiền thế này? Hẳn là tiền buôn thuốc phiện lậu. Tang vật này, tao phải mang lấy. Còn đồ quốc cấm, mày giắt ở đâu? À, con này ranh quái quá! Tao phải khám cẩn thận mới được. Còn thứ nào nữa không?

Thầy quản lại bắt con mẹ phải giơ thẳng tay lên, không được cựa. Thầy khám, khám mãi, mãi… Trước thì con mẹ rúc rích cười. Dần dần, thầy quản quăng cả súng ra bên đường để khám cho khỏi vướng, và cũng rúc rích cười. Rồi con mẹ cười ngặt cười nghẹo.

Ấy thế rồi thầy quản, miệng thì ha hả, đầu thì gật gật, tay thì lôi kéo, bắt con mẹ vào trong túp hàng nước, có lẽ để khám cho kĩ hơn.

Đó, nguyên do vì thế nên con mẹ mới trốn thoát. Nhưng xin các ngài giữ kín hộ, đừng nói chuyện với ai!

MỘT TIN BUỒN

Đã đến mười hôm nay, ông Bảo Sơn chỉ làm có hai việc: một là lại chơi nhà mấy ông lang quen, hai là ngồi dựa vào lưng ghế, ghếch cẳng lên mặt bàn, tay nặn cằm, nhổ râu. Ông lo món tiền nhà sắp phải trả. Ông thường lắc đầu, than thở với vợ:

- Hỏng! Ít người chết thì mình sống làm sao?

Thế rồi nhìn các đồ đạc đã sắm sửa về công cuộc làm ăn, ông chỉ thở dài: mấy cỗ xe tang, chiếc đen, chiếc trắng. Những biển, cờ, bát bửu, đòn, kiệu, vòng hoa, phô đủ các màu đỏ, vàng, trắng, tím, càng sặc sỡ, càng choáng lộn bao nhiêu, càng làm ông nóng ruột nóng gan bấy nhiêu.

Nhưng mà vừa nãy ông cuống quýt lên về một tin mừng: cụ Hường ở dốc Hàng Gà sắp chết. Ông vội vàng mặc quần áo, gói ghém vàng, hương, nến, thuê xe lên Hàng Buồm, mặc cả cặn kẽ để mua một cân vừa lê vừa táo vào hạng nhì, rồi đến thẳng nhà người có bệnh nặng.

Ông hồi hộp, thập thò ngoài cửa chừng dăm phút.

Sau khi hỏi thăm cẩn thận hai bên hàng xóm, ông mới đường hoàng bước vào. Ông phá tan nỗi ngơ ngác của người nhà bằng những lối chào lễ phép và dáng điệu trang nghiêm. Ông tỏ ý muốn được tiếp chuyện cụ.

Chẳng quý báu gì sự lo lắng buồn rầu mà phải giữ độc quyền! Vả từ chối tấm lòng tử tế của một người lạ mặt đến hỏi thăm, lại là bất lịch sự. Cho nên người nhà cảm động, đưa ông đến cạnh giường bệnh nhân.

Cửa màn mở ra. Ngọn đèn le lói chiếu một thứ ánh sáng mập mờ vào một cái gần như cái đầu lâu bọc thừa nhiều da quá. Hai hàm răng nhô vẩu dưới bốn chỗ lõm sâu ở má và ở mắt với tấm thân dẹt đét khẳng khiu, cam đoan chắc chắn rằng cụ Hường không khỏi tránh được miệng lỗ.

Ông Bảo Sơn vững tâm, cúi chào người bệnh. Ông khe khẽ đặt gói quả vào khay, rồi ngồi xuống ghế. Cụ Hường đưa mắt lờ đờ, nhìn khách, lại nhìn con.

- Thưa cụ, chúng tôi thấy cụ yếu nặng, vậy lòng thành, chúng tôi có chút quà mọn đem biếu cụ, và nhờ cụ làm ơn giúp cho một việc.

Nói đoạn, ông kiễng chân đi đến gần người con cụ Hường, và ghé vào tai:

- Xin ông bảo gọt lê táo. Người yếu xơi những thức này, tốt lắm.

Rồi quay lại cụ Hường, ông khen:

- Nhà cụ phúc hậu quá!

Cụ Hường nói rời rạc:

- Tôi cảm ơn ông. Tôi khó lòng sống được.

Ông Bảo Sơn nhìn ông cụ Hường, lắc đầu:

- Vâng, thưa cụ yếu lắm. Chúng tôi biết tin cụ yếu, nên vội vàng đến hầu chuyện cụ. Thưa cụ, chúng tôi là chủ hiệu xe và đòn đám ma Bảo Sơn đây ạ.

Cụ Hường nhắc lại:

- Xe và đòn đám ma?

- Vâng, hiệu Bảo Sơn. Chắc cụ cũng biết tiếng.

Cụ Hường gật:

- Vâng.

Ông Bảo Sơn vui vẻ tiếp:

- Thưa cụ, nhà chúng tôi xưa nay có tiếng là làm ăn cẩn thận. Nên hôm nay chúng tôi mới dám đến đây để bẩm với cụ, là nếu chẳng may cụ có mệnh hệ nào, thì cụ cho phép chúng tôi được hầu hạ cụ.

Giữ lúc ấy, có vài tíêng thì thào của mấy người đàn bà đứng gần đó. Nhưng ông Bảo Sơn chẳng muốn để vào tai. Ông lại nói luôn:

- Thưa cụ, hiệu chúng tôi không như những hiệu khác, họ chỉ biết lấy tiền. Vừa tháng trước đây, có một nhà, chẳng biết vô ý thế nào, mà để cho hai con ngựa chạy lồng lên, rơi cả quan tài xuống đất!

- Khốn nạn!

Các bà rú lên những tiếng kinh ngạc. Cụ Hường cũng lắc đầu, cố rặn lấy một nụ cười đau đớn. Ông Bảo Sơn nói tiếp:

- Bởi thế, ta nên vứt hẳn lối kiêng vô ích đi.Trong nhà có ông già bà cả yếu nặng, ta nên nghĩ ngay đến việc đưa rước, mà đi hỏi trước một hiệu nào cẩn thận thì hơn. Vì, thưa cụ với các bà thế này ạ, lúc mà ông già bà cả nằm xuống rồi, thì ta có bao nhiêu việc vội vàng phải làm, nào trình báo, nào sắm sửa lễ vật, vân vân. Lúc ấy, gặp hãng nào mà ta chẳng phải thuê. Có khi bị người ta bắt chẹt là một sự thường.

Cụ Hường nói:

- Phải.

- Thưa cụ, bởi vậy, không muốn để cho các quý khách lầm và hớ, rồi coi cá mè một lứa, nên chúng tôi phải đến hầu chuyện cụ ngay từ bây giờ.

- Vâng.

- Để cụ cho chúng tôi được hầu hạ cụ sau này. Nội các việc trình báo, xin cứ để chúng tôi chu tất hết.

- Ông cho tôi biết ông tính toán thế nào?

Ông Bảo Sơn ghé vào tai người con, hỏi:

- Ông định để cụ ở đâu?

- Nếu chẳng may ông tôi có thế nào, thì chúng tôi để ông tôi ở nghĩa trang hội Hợp Thiện.

Ông Bảo Sơn nghĩ ngợi một lát, rồi hỏi:

- Bẩm cụ cho đi lối ta hay lối tây ạ?

- Lối tây, ông ạ, cho nó giản tiện.

Ông Bảo Sơn lắc đầu, nhìn vào các bà, nói:

- Rước các cụ mà theo lối tây, e không được trọng thể.

Cụ Hường đáp:

- Thôi, cái xe hai ngựa là đủ mà!

Ông Bảo Sơn vội đỡ lời:

- Ồ, tội gì cụ không dùng xe bốn ngựa? Cụ như thế này là thuận cảnh lắm rồi, còn gì? Đi hai ngựa, chúng tôi sợ các ông các bà đây lại ân hận.

- Thì xe bốn ngựa, ông tính bao nhiêu?

- Không hơn bao nhiêu đâu, thưa các bà ạ. Nhưng chúng tôi tưởng các cụ già cả lại đông con cháu, thì không nên chỉ dùng xe không. Nghĩa là rồi còn phải rước ở huyệt về nhà, mới coi được. Nhiều đám, lúc đi thì theo lối tây, nghĩa là chỉ có mấy vòng hoa và cái xe, nhưng bao giờ chúng tôi cũng phải để sẵn năm lá cờ, long đình và dàn nam ở huyệt, để lúc về thì rước.

Một bà nói:

- Như vậy, ông tính bao nhiêu ạ?

- Thưa bà không mấy ạ, độ ngót ba chục. Nhưng thưa các bà, chúng tôi nói thực câu này để các bà xét cho, chứ đám như đám cụ nhà mà đi theo lối tây, tôi e mất cả nghi vệ.

Người con hỏi:

- Theo lối ta thì đi những gì, xin ông cứ cho biết.

- Nếu ông thong thả, mời ông lại đằng nhà chúng tôi mà xem. Bẩm từ đòn đại dư, cho đến cây đèn, thứ nào cũng mới sơn và chạm trổ rất đẹp.

Cụ Hường hỏi:

- Vâng, ông định cho đi những gì?

- Cái đó tuỳ ở cụ, và các ông các bà. Sự sang trọng thì vô giá. Vừa tuần lễ trước, chúng tôi đi một đám mà nguyên một cái nhà táng kết toàn bằng hoa thật cả, đã tốn đến ngót trăm rưởi bạc rồi.

- Cứ thường thường thôi, ông ạ.

- Thế thì năm lá cờ ngũ hành, tám bát bửu, một bộ cà râu, một chiếc phật đình, hai lọng vàng, hai lọng xanh, một bàn độc, minh tinh, tam sự, lợn, bánh, tám chiếc đèn, hai biển, một phường bát âm, một ngọc lộ, bốn dàn nam, một linh xa, một đại dư, một phương du. Bẩm người nhà chúng tôi toàn một lượt áo dài, thắt lưng xanh, khăn trắng, như vậy, phải linh trăm người đấy ạ.

- Có thể nào giản tiện hơn được không, ông?

- Nguyên cái đại dư, thường thường cũng phải bốn mươi hai người khênh, ngọc lộ tám người, còn bao nhiêu đối trướng thì phải lấy thêm bấy nhiêu người nữa.

Cụ Hường lại hỏi:

- Có tốn đến ba bốn chục không, ông?

- Bẩm hơn ạ. Nhưng cụ đừng ngại cái tốn. Hẳn các ông các bà trả nghĩa cụ, cũng không khi nào chịu hà tiện mấy chục đồng bạc để mua lấy tiếng phố xá chê cười.

Cụ Hường nghĩ ngợi một lát, rồi nói:

- Vâng, cái đó tuỳ các con tôi.

- Thưa cụ, đó là chúng tôi tính phác ra mà thôi. Còn tiền nong, thì có thể châm chước được. Miễn là cụ dặn lại các ông các bà một tiếng là đủ.

Cụ Hường gọi:

- Anh cả!

Người con cả ghé tai. Cụ Hường nói:

- Nhớ lấy tên hiệu ông chủ đây.

Ông Bảo Sơn vui vẻ đỡ lời:

- Bẩm hiệu Bảo Sơn, Bảo Sơn ạ.

Đoạn, ông Bảo Sơn đứng dậy, cáo từ. Người con cả tiễn ra đến cửa.

Trước khi từ biệt, ông Bảo Sơn ngậm ngùi, bắt tay chủ nhà thật chặt và thật lâu như thể đôi bạn cố tri. Rồi buông tay ra, ông nói rất thân mật:

- Chúng tôi cảm ơn ngài. Chốc nữa, mời ngài quá bộ đến chơi đằng nhà để xem qua các đồ đạc. Nói đổ xuống sông xuống biển, nếu chẳng may cụ có việc gì, xin ngài cứ tin cậy ở tôi.

- Vâng, ông tôi đã dặn, tôi không dám trái lời.

Rồi thở dài, người con nói tiếp:

- Có lẽ ông tôi khó lòng được ba hôm nữa.

Ông Bảo Sơn an ủi:

- Ngài đừng lo. Nghĩa là tôi nói vậy thôi. Chứ nếu phúc nhà, cụ gặp thầy gặp thuốc mà lại bình phục như thường, thì tôi rất mừng.

*

*  

*

Ông Bảo Sơn hớn hở về nhà, chứa chan hi vọng.

Ông đắc chí, bảo vợ:

- Ở thời buổi chiến tranh, không xuý sẵn như thế là mất món khách.

Thực vậy, lối xuý khách ấy đã nhiều lần làm cho các bạn đồng nghiệp của ông phải ngẩn ngơ về sự ế hàng của họ. Bởi thế, ông cho nó là cái bí quyết trong cách làm ăn, cần phải giữ kín, kẻo người khác bắt chước.

Từ đó, ông phái người thỉnh thoảng lảng vảng qua nhà cụ Hường. Hễ ở đây nổi lên tiếng khóc, thì nhất định ông phải là người đầu tiên, đem gói vàng hương nến hôm nọ chưa dùng, đến để phúng cụ.

Song, tận hôm thứ ba, là ngày ông chắc cụ Hường hết số, mà ông cũng chẳng được tin tức gì mừng hơn. Thế là ông đâm lo. Lo rằng người nhà ông không làm việc đến nơi đến chốn. Hoặc cụ Hường đã ăn xôi ngay từ hôm sau, mà có hãng nào phỗng tay trên mất khách rồi chăng. Nếu vậy, ông mất toi mấy hào lê táo à? Một trăm lần ông tự hỏi, ấy là một trăm lần ông khó trả lời. Càng bực mình, ông Bảo Sơn càng phát cáu. Thân hành đến tận nhà cụ Hường để hỏi han tin tức cho đích xác, ông cho là bất tiện. Vì vậy, ông phải làm một việc tiện hơn, là cả ngày hôm ấy ông hết mắng đầy tớ khờ dại, lại chửi anh đồng nghiệp đểu giả nào ăn hớt khách của ông.

Đến tận chập tối, ông mới thuê xe xuống dốc Hàng Gà, để hai năm rõ mười về câu chuyện đã làm ông bận trí.

Trước hết, ông lượn qua cửa nhà cụ Hường một lượt. Ông thấy trong nhà, kẻ đi người lại như thường, không có vẻ chi là khác cả. Vậy tất là cụ Hường vẫn còn sống. Ông yên tâm. Nhưng rồi đắn đo thế nào, ông lại đâm nghi. Có lẽ người ta đem người ốm về nhà quê để tiện việc ma chay ở nơi quê cha đất tổ rồi chăng? Ông bèn hỏi thăm nhà bên cạnh, thì ông mới lại yên tâm: đám này có chạy lên mây cũng không thể lọt qua tay ông. Vì ông già định chết ở Hà Nội.

Ông chứa chan hi vọng, lại lượn qua nhà cụ Hường thật thong thả, để thám thính cho thật kĩ càng. Quái lạ, ông nghe thấy có tiếng cười vui? Ông cau mặt, nghĩ ngợi mãi, mà chẳng hiểu thế nào cả.

Rồi ông lại phải qua nhà cụ Hường lần thứ ba. Lần này, đến cửa, ông đứng hẳn lại, cố nhìn vào trong rõ lâu. Vẫn những người đi lại. Vẫn những tiếng nói cưòi. Quái nhỉ! Ông đoán mãi không ra là tại làm sao.

Một lát, thấy thằng nhỏ ở trong nhà mở cửa đi ra phố. Ông mừng rỡ, đứng nép hẳn vào một bên tường, giơ tay ra vẫy nó.

Thằng nhỏ dòm vào tận mặt ông, hỏi:

- Ông hỏi ai?

Ông Bảo Sơn ngần ngừ một lúc, rồi khe khẽ.

- Này anh, cụ hôm nay thế nào?

Thằng nhỏ vội vàng chắp tay cho lễ phép:

- Bẩm ông, mời ông vào chơi, cụ con đã đỡ.

Ông choáng người, trợn mắt:

- Đã đỡ?

- Vâng, đỡ nhiều rồi. Nhờ giờ có thể khỏi được ạ.

Ông Bảo Sơn thất vọng. Ông ngoẹo cổ, nhún vai, thở dài, rồi đút hai tay vào túi quần. Ông quay bước:

- Ồ, mẹc! Con khỉ!

TẤM GIẤY MỘT TRĂM

Chọn được hàng vừa ý, bà Chủ bảo gói lại và ra quầy chờ để trả tiền. Nhưng ồ lạ, bà mở ví ra, tìm, tìm mãi. Không biết tấm giấy một trăm vương ở đâu? Bà lại tìm, bỏ riêng từng thứ để ở trong ví ra để tìm. Chiếc mù soa này. Quyển lịch con này. Bảng giờ ô tô ca này. Hộp phấn này. Ống son này. Vân vân. Bà rũ tung chiếc mù soa, giở từng tờ trong quyển lịch. Còn trong ngăn con thì cố nhiên không có rồi. Ngăn ấy, xưa nay bà chỉ đựng toàn hào xu. Vì hào xu cần lấy đến luôn, nên để riêng như thế cho dễ tìm. Vả lại ngăn ấy năng bị mở, bà không muốn để bạc giấy, nhất là giấy to, vì bà vốn kín đáo.

Tìm tòi một chập, bà ngẩn người ra để nghĩ.

Phải, có, bà có mang tiền đi. Mà quên sao được thứ cần thiết nhất ấy, khi bà cần sắm mấy thứ hàng mới để mặc nực. Bà nhớ lắm, bà nhớ kĩ lắm. Vả nếu không để mở két lấy tiền, thì lúc ấy, bà vào buồng giấy ông làm việc làm gì?

Bà nhớ rằng trong tập mười lăm tờ giấy trăm, bà chọn tờ mới nhất. Và thấy bà làm lẻ loi tập giấy lớn, ông có bảo bà là nên mang giấy lẻ. Nhưng bà không nghe, vì ngại nặng. Hay vì tính lơ đễnh, bà lại để nguyên tờ giấy trong két mà không cầm đi như bận nào chăng? Không phải. Bà nhớ đích rằng bà gâp nó làm tám, bỏ dưới cái mù soa. Thì lúc xe qua Bờ Hồ, bà mở ví ra soi gương lại, còn trông thấy nó. Thế nghĩa là bà có mang tiền, chứ không quên ở nhà. Thôi thôi – nghĩ đến đó, bà lại ngẩn người ra – khi gần đến Tràng Tiền, bà có rút khăn ra để thấm mồ hôi và chấm thêm tí phấn, thì muốn chừng trong khi vô ý, bà lôi cả tấm giấy bạc, và đánh rơi ra ngoài mất. Phải, chỉ có thế mới có thể mất được. Chứ từ lúc vào hiệu đến giờ, bà chưa hề mở ví. Lúc nào bà cũng cầm nó ở tay, thì không có lí nào mất bạc ở đây được.

Người bán hàng chờ bà trả tiền. Nhưng bà còn ruột gan nào nữa. Bà đành nói thực:

- Tôi bỏ vương đâu mất tờ giấy trăm. Thôi để lần khác vậy.

Thấy bà là khách quen, người chủ đáp:

- Bà cứ mang hàng về, lúc nào trả cũng được.

Nhưng như mất thần trí, bà lẩm bẩm một mình:

- Đích là thế.

Người chủ nhắc:

- Bà thử tìm lại trong ví xem. Bà mất tiền ở đâu, chứ không phải ở đây.

Bà lại vừa loay hoay tìm lần cuối cùng, vừa nói:

- Thế thì đánh rơi ở xe.

Sau khi lục soát ví một lượt nữa – và cố nhiên cũng vô ích – bà vẩn vơ, lững thững đi ra.

Tấm giấy bạc ấy, đích là nó theo khăn mù soa ra ngoài, chứ không còn cách gì khác nữa. Nhưng nó ra ngoài, rồi nó rơi đi đâu! Rơi xuống đường? Thôi nếu thế thì đành mất. Rơi trong xe? Cũng chẳng có hi vọng gì còn. Mà từng kia cái xe, biết bà đã đi cái nào? Khốn nỗi, phu xe lại chẳng chạy giật lùi cho khách nhận mặt. Sau lưng, người nào không giống người nào.

Bà đứng dừng lại để nghĩ. Phải, còn một hi vọng cỏn con nữa, là bà cố nhớ xem lúc rút mù soa ra là lúc xe đến đâu, thì tới đó mà tìm ở đường, may ra món tiền chưa lọt vào mắt một người tham lam nào chăng. Hình như lúc ấy xe đã khỏi toà Đốc lí. Phải đích rồi, trước cửa nhà Dây thép.

Bà rảo cẳng, mắt chăm chắm nhìn vào chỗ bà nghi đánh rơi tiền. Đến nơi, bà rẽ hẳn ra giữa đường, đi thong thả từng bước, cúi mặt, đưa mắt sáng bên phải, rồi lại bên trái, rồi lại bên phải, rồi lại bên trái. Và khi tới quá toà Đốc lí, bà lại quay trở lại, tìm một lượt nữa, kĩ càng hơn.

Đến khi thấy rằng mặt đường nhựa vẫn nhẵn như chùi, và từ nãy đến giờ, kẻ qua người lại hàng trăm hàng nghìn, bà mới thở dài, chán nản.

Mồ hôi lấm tấm trên mặt và trên lưng áo. Nó chảy thành giọt trên gáy và trong nách bà. Bà đã bực mình, lại bực mình thêm. Song, chẳng còn bụng dạ nào nghĩ đến trang điểm, bà đứng cạnh gốc cây có bóng râm, mắt vẫn chăm chắm vào chỗ mà bà nghi rằng mất của.

Một ngọn gió mát thổi hây hẩy. Bà mắm đôi môi thắm lại để băn khoăn và tiếc tiền.

Một trăm đồng bạc, đối với bà, tuy chẳng vào đâu, nhưng không được tiêu nó mà mất, thì ai không tức. Thà rằng thua một canh hàng nghìn, bà còn được cái thú mở bát. Thà rằng thưởng cho bọn thợ, bà còn được tiếng là nhân từ. Nay vì lơ đễnh bà mất ở giữa đường, không thể tra hỏi vào đâu cho bõ tức được. Một trăm bạc này, chẳng vào đâu thực. Hàng ngày, chồng bà có thể thu hơn ngần ấy lãi. Bà có thể lấy giấu giếm ông cũng nổi vài trăm.

Bà có thể một buổi, vặn chậm đồng hồ ở xưởng lại năm phút, chỉ năm phút thôi, là đủ thu lại xấp xỉ món tiền bị thiệt. Nhưng gì thì gì, bỗng không, mất một trăm đồng bạc, mất biệt tăm, biệt tích, thì dù có là chủ nhà ngân hàng, chủ sở mỏ, mỗi năm lãi hàng vài mươi triệu cũng phải nghĩ ngợi, cố tìm cho ra, nữa là bà, chỉ là vợ ông chủ xưởng dệt. Bà giận mình vô tâm.

Cho nên, đứng ở giữa đường đi lối lại, bà cũng chẳng nhìn thấy ai. Bà thần người, cố nhớ lại một lần nữa từng li từng tí, từ lúc mở két đến lúc biết tiền mất, xem còn có thể gặp một tia hi vọng nào khác chăng.

Bỗng mắt bà long lanh sáng. Bà đã có một ý hay.

Phải. Hay là tờ giấy bạc ấy còn vương trong xe.

Hay là thế chăng?

Chỉ có thế, bà mới có thể lại tìm ra được.

Một tờ giấy gấp làm tám. Nó nhỏ, nó nặng. Vậy nó không thể bay được. Sàn xe lại trải thảm. Vậy nó không thể lọt xuống đường.

Hay tiền còn ở trên xe?

Biết đâu đấy?

Nhưng xe nào? Cái kia? Cái kia? Không thể nhận ra được. Mà nếu gặp người phu xe thực thà hoặc ngu ngốc, thì bà có thể lấy lại số tiền. Chứ mà phải hạng gian giảo, thì thôi đành. Mà hi vọng sự thực thà ở quân phu xe! Đó là sự đại vô lí. Trăm thằng nhà nghèo, thằng nào không có tính ăn cắp. Tự nhiên, suy cách làm việc của chồng, bà càng tin lời xét đoán ấy là chí lí. Phải, ông chủ nọ, ông chủ kia, kiếm tiền dễ như bỡn còn chẳng tí chút thực thà nữa là. Thấy đồng tiền đến thánh cũng híp mắt, nói chi người phàm tục như bọn mình, nói chi bọn nghèo khổ?

Bà thở dài. Bà mong anh phu xe kéo bà ban nãy là hạng người có những ước muốn na ná ông thượng Phạm, ông hường Hà, ông chủ báo Nguyễn. Nghĩa là biết xem báo, và hiếu danh. Biết xem báo, hẳn là anh ta đã thấy bạn đồng nghiệp của anh trong Trung Kỳ, vì thực thà mà được Triều đình ban thưởng ngân tiền. Hiếu danh, hẳn anh ta đến nộp tấm giấy trăm ở sở Cẩm để xin tư phẩm hàm. Bà chỉ sợ anh phu xe ấy lại cao thượng hơn ông thượng Phạm, ông hường Hà, ông chủ báo Nguyễn. Bà chỉ sợ anh ta lại khôn hơn các ông này coi tiền để tiêu hơn tiền để đeo. Song, bà cho là ở đời này, nhất ở nước mình, giết sao cho chết tiệt giống hiếu danh.

Thế là bà đi đến sở Cẩm, với một tấm lòng tin ở sự hiếu danh hơn là sự thực thà của người đời.

Phải, nếu không, bà có thể trình việc mất tiền này để nhờ nhà chức trách tìm hộ.

Chợt bà dừng lại, mắt như nảy ra một tia sáng.

Bà có một điều rất hệ trọng giúp đỡ cho sở Cẩm và sở Mật thám, mà bà quên mãi: đó là số xe.

Từ nãy, bà đâm quẫn trí, nên không nghĩ đến. Bà đã nhớ cả tên hịêu lẫn số xe bà đi. Những chữ ấy, lần này tự nhiên bà đã để ý đến. Chứ mọi khi, ai hơi đâu nhớ những cái lặt vặt ấy. Lúc ấy, ở trên xe, qua Hàng Đào bà thấy đôi xăng đan kiểu mới của một bà gặp ở đường nên bà nhìn xuống chân bà, rồi ngắm mười móng nhộm đỏ như son. Chợt ánh nắng làm loé cái biển đồng số xe bầu dục đóng gần đó, cũng làm bà chói mắt. Thì bỗng bà trông đến số xe. Mọi lần, những con số, bà có nhớ bao giờ đâu. Nhưng số xe này lại trùng với số nhà bà, nên bà không học cũng không quên được.

Vậy thì xe ấy số 56, hiệu L.

Đó, manh mối vụ tìm bạc. Nó là đầu mối chỉ rối. Tìm thấy nó, sự gỡ sợi rất dễ và rất nhanh.

*

*  

*

Anh L.56 đang rảo cẳng kéo xe không đi phố Hàng Gai. Cách kiếm ăn của anh chẳng khác gì cuộc đánh bạc. Nó do sự ăn may. Lúc này anh cũng chỉ dám mong ở sự tình cờ có khách gọi. Cho nên, trừ khi đã kiếm đủ tiền thuế, còn lúc nào anh cũng phải vội vàng. Chân tuy bước ở đây, nhưng tai và mắt anh để tận chỗ đâu đâu kia. Và tuyệt vọng ở hiện tại, anh hi vọng ở tương lai. Nghĩa là, biết đâu, đằng kia, phố kia, có người sắp ra đường cần xe chăng. Cho nên, khi ta thấy anh L.56 còn kéo xe không đi một cách vội vã thế kia, ta có thể đoán rằng anh còn đói khách lắm.

Từ sáng, anh mới làm có ba chuyến, được vẻn vẹn hào rưỡi. Anh mong trời cứ nắng nữa lên, nắng to vào, để, tuy phải vất vả, nhưng dễ kiếm khách.

Hết phố Hàng Gai, anh rẽ sang Hàng Hòm, về Hàng Đàn, rồi ra Hàng Ngang. Thì thình lình có người gọi. Anh sửng sốt, dừng lại, quay cổ nhìn. Song, than ôi, người ta gọi không phải để thuê anh, mà để khám anh.

Bốn thám tử ở bốn phía ập lại. Bà chủ xưởng dệt đến gần anh, nói:

- Đúng xe này, các ông ạ.

Anh xe đương ngơ ngác, chưa hiểu sao. Bỗng một thám tử hỏi:

- Hồi chín giờ sáng, anh kéo bà này lên Tràng Tiền phải không?

- Vâng.

- Sau anh kéo ai nữa?

- Thưa ông, một ông từ Gô-đa về Hàng Bông.

- Anh có nhớ nhà người ấy đấy chứ?

- Vâng.

- Được. Bà này đi xe anh lúc sáng, trong khi mở ví ra lấy khăn mù soa, có đánh rơi tấm giấy bạc một trăm, anh có bắt được không?

Anh ngẩn ngơ nhìn. Bà Chủ tiếp:

- Có bắt được thì anh đưa lại tôi, tôi thưởng cho anh đồng bạc.

Thám tử nối lời:

- Mà không trả, sẽ bị tù tội.

Anh xe sợ hãi, thật thà thưa:

- Tôi chẳng bắt được tiền nong nào cả. Bà thử tìm lại xem. Hay bà lơ đễnh bỏ quên ở đâu. Bà đừng ngờ oan tôi.

Thám tử cười:

- Trăm thằng, thằng nào cũng có một lối nói. Bà ấy có quyền lơ đễnh, nhưng hễ mày lấy thì phải tù.

Bà Chủ dỗ:

- Anh trả tôi, chẳng những được thưởng tiền, mà biết đâu, nhà nước không thưởng mề đay cho anh.

Thám tử lắc đầu:

- Với quân này, không thể ngọt ngào được.

- Mày có lấy không? Không thì, a lê, đi!

- Lạy thầy, con không biết gì cả. Hay cái ông ở phố Hàng Bông bắt được chăng, thì con không biết.

- Không có nói lôi thôi. Hễ tao khám mày không có tiền, thì mày chỉ cho tao nhà người ấy. Không có thì mày về sở.

Anh xe quả quyết đáp:

- Vâng, thầy cứ khám.

Bốn người quây vào anh để nắn soát. Những nơi rất bí mật anh vẫn giấu tiền, đến cai cũng không tìm ra, nhưng thám tử đều lục đến cả.

Bà Chủ đứng chứng kiến cuộc khám xét. Bà hi vọng lắm. Bà hi vòng, vì tin ở sự nhanh nhẹn của các nhà chuyên trách, tin ở số bà không bao giờ gặp sự chẳng may, và nhất là tin ở tính ăn cắp của bọn nghèo.

Thám tử khám hết người, mới lục lọi đến xe.

Thì họ chẳng mất công lâu. Chiếc đệm vừa nhấc lên, tờ giấy trăm gấp tám đã rơi vào trong hòm xe, như để chạy trốn.

Anh xe rú lên một tiếng kinh ngạc. Và bà Chủ cũng reo lên một tiếng vui mừng.

- Cái gì đây?

- Lạy các thầy, con không biết tiền nào. Giá con tham tâm, thì con lấy rồi. Chắc bà ấy đánh rơi, nó mắc vào đấy, chứ con không định bụng lấy.

- Mặc kệ! Đồ ăn cắp! A lê!

Sau câu giản dị ấy, anh xe bị xích tay và giải đi.

THẾ CHO NÓ CHỪA

Thế này thì đến phải chừa thật! Khốn nạn! Giá bảo đã ăn cắp năm lần bảy lượt cho cam! Nó thề với tất cả mọi người rằng vì đói quá, nó mới dám liều. Chứ bản thân nó vẫn lương thiện.

Nhưng ai tin nó?

Người ta không muốn nghe kẻ gian cứ nói dối mãi. Nó đành khóc mà lấy trời làm chứng.

Trời xa. Trời mặc kệ nó.

Vả lại, nó bị bắt quả tang ăn cắp. Theo luật, thế là a lê, vào nhà pha!

- Cứ điệu nó lên bóp, bà ạ. Nó kêu oan thì vả vỡ vỡ miệng nó ra. Để người ta đưa nó vào xăng tan, tẩn cho vài trận thành tàng. Thế cho nó chừa.

- Con cắn cỏ cắn rác lạy các ông các bà, con chừa rồi. Đừng bắt con bỏ bóp. Con sợ lắm! Con chết mất! Biết thế, con chết đói còn hơn chết đòn.

Nó oà lên, khóc rất thảm thiết. Một lúc, nó lăn ra đất, gào lên, lễ la lễ liệt.

Nhưng thế là nó còn non dại, chưa biết gì. Đam người xúm quanh nó lúc ấy toàn là những kẻ thù, chỉ muốn ăn sống nuốt tươi nó.

Hai người cảnh sát xuống xe đạp, rẽ đám người để vào.

Những nét mặt tươi lên. Những mắt long lanh lên. Một vài nụ cười hoan nghênh, tiếp rước hai nhà thừa hành pháp luật.

Nó quay ra. Hi vọng vụt chốc biến mất. Nó suýt ngã. Bất tỉnh.

Bỗng ở trong áo nó rơi ra một tấm bánh. Nó mất kêu oan. Đành mặc người ta túm ngực, lôi xềnh xệch lên sở Cẩm.

Nó nhìn quanh quẩn xem có ai quen không, để mong lấy một sự cứu vớt. Nhưng than ôi, nó sực nhớ ra rằng từ bé, nó chưa biết ai là cha mẹ, anh em cả. Một thân côi cút, bị xã hội đè gí xuống bùn, nó vẫn chỉ lê la đầu đường xó chợ, sống bằng cách tranh cướp chiếc lá bánh, mảnh xương khô với những kẻ cùng cảnh.

Vừa bước qua mấy bậc thềm, nó vào một gian đầy những ông quần áo tây vàng, thắt lưng da ngang mình. Các ông ấy đương ngồi xung quanh một chiếc bàn mộc, cười nói râm ran. Thấy nó vào, các ông nhìn. Từng ấy luồng con mắt rừng rực như muốn thiêu nó ra than.

Nó nóng bừng cả người.

Người cảnh sát dẫn nó, bỏ mũ xuống bàn, thở mạnh một cách khoan khoái, rồi chỉ tay và quát:

- Ngồi vào xó kia, ôn con!

Tức thì, một người khác đi lại chỗ nó, lấy bàn tay khổng lồ úp vào sọ nó, ấn xuống. Mặt nó bị vênh lên.

- Ê! Chà! Ba tuổi ranh đã trộm cắp. Ông cho thì tù!

Những lời doạ nạt thi nhau làm cho nó hoảng.

Dần dần, nó thấy mệt. Mệt quá. Hai mí mắt nặng trĩu. Nó gục mặt vào đầu gối.

Bỗng một chiếc bạt tai thực kêu kéo nó ra khỏi cõi mơ màng. Nó choàng dậy. Thì lại bắt đầu lo sợ. Nó nom ra ngoài đường, ao ước cảnh những người đang kéo xe hoặc bán phở. Nó tưởng tượng được làm con chim kia để bay nhảy một chốc. Thì rồi sau có bị mắc cạm bẫy cũng cam.

Người ta cầm tóc nó, kéo lên. Nó ê ẩm cả một mảng đầu. Lúc nhìn lên, nó thấy một tấm mặt cau có, đen sạm. Nó rùng mình.

Người cảnh sát đến một chiếc bàn con đầy sổ sách, ngoắc ngón tay gọi nó:

- Lại đây, cậu cả!

Nó theo lại, khai tên tuổi. Xong rồi, túi áo, cạp quần nó bị xét kĩ lưỡng. Đoạn người ta dẫn nó xuống nhà giam.

Lúc cánh cửa gỗ đóng lại trước mặt nó, nó còn nghe thấy câu sau cùng:

- Ông cho thì tù!

Chết! Tù thì chết! Biết bao giờ nó lại được tự do? Nó tự trách nó quá dại dột một lúc để làm khổ cả một đời. Ôn lại việc đã qua, nó vẫn không rõ cái sức mạnh nào đã ấn tay nó giơ ra để cướp tấm bánh đó của bà hàng. Nó chỉ còn nhớ là lúc ấy bụng nó réo, mắt nó hoa. Cho nên nó đã làm như một cái máy.

Nó tưởng tượng nếu người ta thả nó ra, thì suốt đời nó sẽ không quên những phút này. Hình ảnh hai người cảnh sát với cái buồng giam cũng đủ bắt nó tránh rất xa những việc phi pháp. Lấy lại được tự do, nó sẽ hiền lành hơn trước nhiều. Và có lẽ nó quy thiện được nhiều bạn nó nữa.

Nghĩ bao nhiêu, nó lại càng thất vọng bấy nhiêu.

Đến hai giờ chiều, người ta ở cửa buồng, xích tay nó, đưa ra toà án. Nó bị dẫn đến trước một ông quan nghiêm khắc.

Ông quan hỏi qua loa, rồi phán:

- Đưa sang đề lao!

Thôi, cõi chết đã đến. Nó bật khóc, khóc rất to mà nó không ngờ. Chân tay nó run lẩy bẩy. Nó ngã khuỵu xuống trước mặt quan dự thẩm:

- Lạy quan lớn. Quan lớn tha cho con! Con chừa rồi. Con thề rằng con không làm bậy nữa. Quan lớn không cần giam con đâu.

Những câu van lơn của nó có kết quả ngay. Quan dự thẩm thét:

- Lôi nó đi!

Người cảnh sát được lệnh, kéo cánh tay nó xềnh xệch ra lối ngoài.

- Ranh con mà bướng thế, không đi. Ông đánh ựa cơm ra bây giờ.

Nó toan để người lính đánh, xem có ựa cơm được không. Vì trong bụng nó, bói cũng chẳng còn một hột có tên gọi quý hoá ấy. Nếu có, thì chẳng đời nào nó đi ăn cắp.

Cổng Hoả Lò mở rộng. Con vật đen sì nuốt trửng thằng bé.

Mai đây, nó sẽ sang Sở mật thám, đo người, chụp ảnh, in tay. Thế là nó bị liệt vào hạng chính thức bất lương. Và bị đòn đánh, tra tấn, rồi vứt lộn xộn với tất cả các thứ rác rưởi của xã hội.

Mấy tiếng trống văng vẳng ở đằng xa. Cậu cai quất chiếc roi xuống sàn, hét:

- Dậy cả đi!

Nó lổm ngổm bò dậy, xếp áo, chiếu, để lên trên ba gạc.

Nó nhìn quanh, ngớ ngẩn. Chẳng bao lâu, nó nhớ lại cảnh mình. Bỗng nó đâm liều. Chẳng liều cũng chẳng làm thế nào được.

Bọn cũ, cậu cai xua ra ngoài sân cho rửa mặt, đi bách bộ. Bọn mới, cậu truyền ở lại trong trại để lau cọ nhà. Cậu phát cho họ hai mươi chiếc chổi buộc bằng những manh chiếu rách quấn lại.

Nó ngoan ngoãn, trước tiên, cầm lấy một chiếc chổi, chui vào tận góc nhà hiểm hóc để quét. Nó có vẻ một đứa bé chăm làm.

Nhưng tự nhiên: Vút! Cái roi mấy quất vào mông nó. Nó giãy nảy, quay lại. Cậu cai nhăn nhở cười:

- Thằng này với ba thằng kia ra nhà xia để dọn.

Nó ức lắm. Nhưng nó phải cố lép, cắm cổ theo lệnh.

Như thế đã xong đâu. Cậu cai rình nó từng tí. Nó biết làm thế nào cho vừa lòng cậu? Cái roi cứ luôn luôn giáng xuống đầu nó vì những lỗi nó không hiểu.

Ngày đầu tiên thực là ngày khổ cực. Đến chiều, cậu cai ra lệnh:

- Im mồm! Ngủ đi!

Tình cờ, nó nằm cạnh một người hơn nó ít tuổi. Nó kết ngay làm anh em. Những câu than thở, những lời xui bẩy, trao đổi, không ngờ nồng mặn ngay:

- Anh bị can án sáu lần rồi, em ạ.

Nó sửng sốt. Nó ngắm lại người nằm cạnh như ngắm một kì quan. Có lẽ nào vào tù nhiều lần thế? Nó như tỉnh một giấc chiêm bao. Thì ra người ta rất có thể phạm tội nhiều lần.

- Thế lần đầu, anh có sợ không?

- Cũng như em bây giờ. Nhưng chỉ vài hôm là quen. Rồi thấy sung sướng.

Ồ quá nhỉ! Nếu vậy, mai, ngày kia, những đứa khác sẽ phải đòn thay nó, mà nó sẽ sung sướng.

- Còn những lần sau?

- Những lần sau vào đây như về nhà. Đến lúc hết hạn phải ra, nhớ họ ra phết.

Những câu nói làm nảy óc tò mò của nó. Nó nghe mà thích chí.

- Anh bị tội gì?

- Toàn ăn trộm.

- Vậy ra anh làm nghề ấy à?

- Ừ. Rồi anh truyền cho em. Anh cũng học được nghề ấy của người bạn ở trong này. Nếu sau này được ra, anh sẽ cho em nhập bọn, rồi em mới giỏi được.

Cứ như vậy, anh em thân mật nhau dần.

Nó chỉ việc lấy tai để nhập tâm những điều cốt yếu:

- Em đừng sợ gì cả. Mình mà có cánh thì đi đâu cũng chả cần. Này, thằng Cam, mấy lần vào đây, đều được làm phó cạo, vác tông đơ đi khắp các trại để húi đầu. Khá đấy. Thằng Tấu có tiền đút lót, lần nào vào đây cũng được làm cai. Nó kiếm chác bọn mình, có tiền để tậu ruộng, tậu nương đấy. Em đừng sợ. Ở tù, tưởng là khổ, chứ khổ đếch gì. Mình khôn, thì vào nhà đá mình học được khối cách kiếm ăn.

Trên tấm linh hồn trong trắng, thằng bạn tha hồ bôi màu. Những nét đậm dần, rõ dần, sẫm dần. Có tài thánh cũng chẳng gột sạch.

Đến hôm ra toà, nhận ba tháng tù, nó chẳng còn bộ mặt buồn thiu nữa. Nó hí hởn đắc chí. Nó có vẻ khinh nhờn pháp luật. Nó cho quan toà là khờ dại, đã gãi đúng vào chỗ ngứa của nó.

Chẳng bao lâu, nó được tha. Trông đời nó có con mắt khác.

Nó lang thang qua sở Cẩm, thăm lại chỗ nó bị giam hôm đầu tiên.

Nó thẹn đỏ mặt. Nó thấy rằng trước nó hèn nhát vô cùng. Làm gì mà phải sợ ai? Cho đến ông sếp nhà pha nó cũng đã coi thường.

Bỗng nó sực nhớ ra rằng từ sáng nó chưa có gì trong bụng. Rảo bước, nó đi thẳng ra chợ. Qua hàng bánh, nó nhận ngay ra cái hồi hơn ba tháng trước, đã túm nó, giải nó lên bóp. Trong óc nó nảy ra một ý: nó phải thử nghề.

Và nó muốn xoáy của bà ta cho bà biết tay.

Nó lượn trước hàng bà cho bà nhận kĩ mặt nó. Nó lại nhìn bà bằng cặp mắt giễu cợt mà nó luyện trong những ngày ở nhà pha. Rồi một loáng nó biến mất.

Vài phút sau, bà hàng la hét, làm rối loạn cả một khu chợ. Tấm bánh bà vẫn bày ở đây. Thằng ranh con ngày trước nó vừa lảng vảng ở đây. Vụt một cái, bây giờ, cả tấm bánh lẫn nó…

Thấy huyên náo, người đội sếp đến.

Bà hàng kể lể sự tình, rồi ca cẩm:

- Tưởng nhà nước bỏ tù nó, thì nó sợ, nó chừa. Chả hoá ra bây giờ nó bợm hơn trước, thầy ạ.

CHUYẾN TÀU NAM

ành khách về Nam Định chuyến tàu thuỷ ấy, đều bị một phen hết hồn: một bà già mới mắc phải bệnh dịch tả.

Tuy lúc ấy đã đến hai giờ sáng, song không ai dám ngủ nữa. Nghe tin dữ dội, họ nhổm cả dậy, ngồi bó giò trên chiếu giải la liệt trên mặt sàn tàu, tỉnh như sáo, hỏi thăm nhau xem hiện nay bệnh nhân thế nào. Nhưng chẳng ai được mắt trông thấy người khốn nạn. vì mại bản đã ra lệnh cho mạch nô khênh bà ấy xuống tầng dưới, ở đằng lái, chỗ ấy vắng người cốt giấu kín chuyện đi.

Song, họ chẳng giấu nổi ai cả. Bởi vậy, người nào cũng lo sợ, nhìn lại xem bà già ngồi cạnh mình lúc chập tối có còn đấy hay không, để được yên lòng. Rồi thần hồn nát thần tính, ai cũng thấy mình như râm rẩm đau bụng. Mấy ngọn đèn dầu treo ở mui đưa đi đưa lại, theo nhịp tàu trành, chiếu ánh sáng đỏ mờ chập chờn vào những bộ mặt xám ngoẹt. Bốn bên trời đen thẳm kinh hồn.

Bỗng một người khách đi qua mình trần, quần xắn lá toạ và quấn lên đến bẹn, một bà hỏi:

- Ai làm sao thế hở chú?

Người khách thản nhiên đáp:

- Pệnh dịch! Một pà già! Cái lày cứ ăn nhảm vào thì chết toi à.

- Bà ấy khỏi chưa, chú?

- Khổi à! Cái lày xống âm phủ thì khổi.

Rồi anh gãi nách, nhăn răng ra cười sằng sặc. Một bà khác chép miệng, hỏi:

- Tội nghiệp, thế không cho người ta thuốc thang gì à?

Người khách giơ hai tay ra, hất hàm nói:

- Pà có thôốc, ti mà cứu ngời ta.

- Thế bây giờ bà ta đâu, hở chú?

- Ở dới kê. Cái ôông chủ không pằng lòng cho ở tây, sợ lây à.

- Bà ấy đi có một mình thôi à?

- Chẳng một mìng thì hai mìng à?

- Bà ấy về bến nào?

- Nàm tỉnh à.

Nói đoạn, anh tiếp:

- Cái lày các ôông pà từng sợ.

Người khách đi, nhưng hành khách còn bàn tán:

- Rồi đến bến, chúng ta không được lên đâu. Người ta tiêm và giữ hành khách ở dưới tàu vài hôm, và cấm tàu chạy bốn mươi ngày.

- Thế à?

Ai nấy có vẻ lo ngại. Một người đàn ông ra dáng lịch duyệt, nói:

- Các ông các bà không biết, chứ bây giờ người ta ngặt lắm. Ai không có vé tiêm, là người ta giữ lại ngay.

- Thế à?

- Phải, tôi đã có lần đi ô tô từ Nam Định sang Hải Phòng. Xe phải đỗ đến bốn năm lượt để lính khám vé tiêm. Ngay như hết hạt Thái Bình, sang hạt Vĩnh Bảo, hai hạt chỉ cách nhau có một con sông, mà bên này cầu một toán lính khám, bên kia cầu một toán lính khám. Xe đến chỗ ấy phải đỗ hai lần luôn, mất thì giờ lắm.

Một người bướng bỉnh, nói:

- Thì cứ đi bừa có được không?

- Giữa đường có cây tre ngáng ngang rồi, ông bảo còn đi đằng nào. Vả nếu cứ đi, thì người ta biên số xe để phạt.

- Thế ngộ không có vé tiêm thì sao hở ông?

- Ồ, thì bà tính, lệnh trên vẫn là tốt, nhưng giữa đường ấy thì ai biết đâu, cho nên chờ lúc vắng, giấm giúi cho họ dăm ba hào thì họ để cho đi như thường.

- Thế à? Người ta có khám Tây không hở ông?

Người kể chuyện ra dáng trịnh trọng, gật đầu, đáp:

- Có chứ.

Một người khác nói:

- Có một lần đi đường, đến một chỗ có lính khám mà tôi không rõ là hạt nào, chúng tôi bị khám ngặt quá, vì có quan bản hạt cũng đứng đấy. Bao nhiêu hành khách phải xuống xe hết, và vào cả trong hàng mà quan ngồi. Những người có vé tiêm không đề ngày, hoặc hơi bẩn một tí, là bị quan giữ lại, hoặc sai lính tát. Bỗng có một cái xe ô tô ở đằng xa chạy vùn vụt lại. Sắp đến cây tre giữa đường, xe bóp còi vang rầm, rồi rít phanh để hãm. Lúc ấy trên xe, tôi nghe thấy có tiếng Tây nói um lên. Chắc là người Tây đang cự sao không mở đường cho người ta đi.

- Mở thế nào được? Phải có phép quan chứ!

- Thấy tiếng còi xe và tiếng quát tháo, chắc quan biết là có Tây, vội vàng chạy ra, đến gần xe. Rồi khi quan tới chỗ cửa kính xe, tôi thấy ngài vừa thò đầu vào trong đã thụt vội ra ngay, mà trong xe, tiếng quát tháo vẫn oang oang. Lập tức ngài bắt tuần nhấc gióng ra cho xe đi.

Mọi người cười ồ.

Cho là câu chuyện mình có thể làm bạn đi đường quên được ông thần Dịch tả trong chốc lát, người ấy lại nói:

- Tôi đã đến một làng có hơn năm mươi người chết dịch. Ghê gớm quá, tôi rợn cả tóc gáy. Đường làng ấy thì ngòng ngoèo và hẹp, mà bẩn hết sức. Bên lối đi ướt át những rãnh bùn đen lầy lên về lũ lợn nó đầm. Thỉnh thoảng, cạnh đường có cái giếng xây tròn bằng cái nia, thì nước vàng lên những váng, mà cạnh giếng thì bùn lầm lên. Chắc bùn ấy rỉ cả xuống nước ăn. Nhà cửa thì lụp xụp, ẩm ướt tối tăm. Nhà nào có người chết dịch, lại phải treo tên ra ngoài ngõ viết trên mảnh liếp quét vôi trắng, to độ bằng quyển vở, chua cả tuổi và ngày chết nữa.

Mọi người thở dài. Người ấy lại tiếp:

- Thì ra xó nào cũng thấy sự chết ở trước mắt.

- Thế người ta không rắc vôi trừ trùng à?

- Có. Người ta lại vẩy vôi nước ra đường, lên cả lá cây. Thành thử đường đi đã hẹp chỉ độ một sải, bị lá chiếm đến nửa lối. Mà lá bị vôi, nó vàng úa và chết héo. Tôi tưởng như thấy cái chết nó quây sát ngay gần mình và vươn tay ra bắt mình. Nghĩa là đằng trước, đằng sau, bên phải, bên trái, chỗ nào cũng những chết là chết.

Ai nấy rùng mình và thấy như luồng gió thêm lạnh.

Cao hứng, người ấy lại nói:

- Mà không gì thảm bằng đám ma người chết dịch. Thôi, đã chết dịch thì họ hàng làng nước không ai dám đi đưa. Có một đám ma, chỉ có bốn người đi đưa. Anh con giai và anh con rể khênh quan tài, chị con gái và chị con dâu vác mai và cuốc đi đào huyệt. Thôi thì ngày hay đêm bất cứ lúc nào cũng có đám ma. Lắm đêm thanh vắng, bỗng thấy lanh lảnh có tiếng khóc và có ngọn đuốc ở ngoài đường, thì ai còn giữ được hồn vía nữa. Từ chập tối, đường sá trong làng vắng tanh, không ai dám đi nữa. Rồi vào lúc khuya, sư vãi trong chùa và các già trong làng cầm hương, nến, thanh la, trống, đi tống quan ôn và cầu bình yên. Ôi giời ôi, tôi đố ai nghe tiếng chũm choẹ mà yên tâm được đấy!

Bỗng tàu rúc còi dài. Một người nhìn ra ngoài trời tối, nói:

- Dễ thường đến Tân Đệ.

Một người khác quả quyết:

- Phải, ai xuống bến Tân Đệ sắp sửa dần đi thì vừa.

Người ta đứng ra mạn tàu, nhìn lên bờ. Đèn trên bến le lói như ma trơi. Tàu rúc còi vài tiếng ngắn nữa, rồi đi quá bến để quành mũi lại ngược dòng nước, mới áp mạn vào chiếc xà lan gần bờ.

Con tàu sình sịch chưa tắt hẳn máy. Những hàng quà bánh và người hàng cơm đứng trên xà lan, đã rao và mời chào inh ỏi.

Nhưng bỗng người ta chạy như vịt, tranh nhau qua cầu để lên bờ, xô nhau suýt ngã cả xuống nước.

- Có người mắc bệnh dịch tả!

Thì lúc ấy, hai người mạch nô đương co sền sệt từ chỗ tối ra cái chiếu, trên có một người nằm. Người khách đi theo chửi rủa và nói:

- Cái lày xôống tây, khôông cho ti Nàm tỉnh à!

Rồi quát tháo:

- Mặc kệ à! Kéo mau nó lên.

Chiếc chiếu theo bốn cánh tay lực lưỡng lê trên sàn tàu rồi đến chỗ cửa bắc cầu. Dưới ánh đèn, người ta trông rõ một người dẹt đen đét, nằm còng queo đen thui thủi, chỉ còn hơi cựa cậy. Nhưng người ta cũng nghe thấy tiếng rền rĩ của người sắp hết hơi:

- Lạy chú, cho tôi về Nam, chứ lên đây thì tôi làm thế nào được.

Người khách giận dữ đáp:

- Mặc kệ à! Về Nam thì ai chịu thệt cho ôông chủ à.

Một người hành khách thấy nỗi bất bình, ra can thiệp:

- Không được phép thế. Người ta xuống Nam kia mà.

- Ấy à! Pết rồi. Nhưng tưa ngời này về Nam thì tầu khôông tược chạy trong pốn mơi hôm, các ôông các pà phải ở dới tầu khôông tược lên pộ, mà tầu phải nôi cơm, thệt cho ôông chủ lắm à!

Rồi người khách cầm chiếc gậy thúc vào cạnh sườn bà già và giục:

- Ti dậy lên pờ mau lên cho tầu chạy.

Nhưng bỗng lính tráng và lí dịch trên bờ xuống.

- Này, ông mại bản, ông không có phép bỏ người ta ở đây.

Người khách tươi cười, nói:

- Lày, các ôông khôông bết, ngời ta già ếu, chứ có pệnh tật gì đâu, ngời ta lấy vé xôống Tân Tệ kê mà, hà hà hà!

Người đàn bà kêu rên:

- Tôi đi Nam Định đấy, bây giờ bỏ tôi ở đây thì tôi khổ.

Người mại bản không còn cãi được, xung tiết, quay ngoắt đi và lẩm bẩm:

- Tỉu nà ma. Cái này ngộ khôông cần.

Con tàu đỗ một lát rồi rúc còi và nhổ neo lừ lừ đi.

Nó đi độ hai mươi phút, bỗng nó tắt máy và áp vào gần bờ. Trên tàu, hành khách đương bàn tán, bỗng im phăng phắc để nhìn theo hai mạch nô chạy ra dáng vội vàng. Hai người này lại đằng lái, dòng chiếc xuồng gỗ xuống nước, rồi chở theo mạn tàu đến gần cửa khoanh giữa.

Lúc ấy, người đàn bà ốm kêu thất thanh, nhưng không ai nghe rõ. Bốn người khoẻ mạnh túm tay bốn góc chiếu, nhấc bổng người ốm lên. Người khốn nạn giãy đành đạch, thò cánh tay khẳng khiu ra, cố víu chặt lấy thành cầu, để giữ lại. Nhưng người mại bản trợn mắt, giơ gậy ra vụt vào tay bà già. Tức thì bà phải rụt ngay lại. Thế là bốn người khênh cái chiếu, quẳng xuống sạp xuồng.

Rồi sáu mái chèo tòng tọc đẩy làn nước. Người mại bản nhìn theo, vẻ mặt lo lắng, đến nỗi điếu thuốc là bào tắt từ bao giờ mà không biết. Đến khi chiếc xuồng lại áp vào mạn tàu, sáu người mạch nô lên rồi, chú ra lệnh cho tàu chạy, chú mới vui vẻ. Chú thổi phừn phựt cái mồi giấy cho lửa bén bùng lên, và châm hút một hơi, khoái chí.

GIÁ AI CHO CHÁU MỘT HÀO

Người lính khố xanh bước lên toa, đứng lại, nhìn xem chỗ ghế nào rộng để ngồi, rồi dắt theo một thằng bé con bé loắt choắt đi đến. Cái xích sắt, một đầu người ấy cầm, một đầu buộc vào cổ tay thằng bé, nó võng xuống và đưa đi đưa lại, kêu xủng xoẻng. Người lính ra dáng mệt nhọc, bỏ nón để lên đầu gối, trật khăn khoàng vào cánh tay, tựa đầu vào thành toa, rồi đưa cả cái xích cho kẻ bị xích cầm. Tội nhân vo gọn dây sắt và thu tất cả vào bụng, rồi phủ vạt áo lên trên cổ tay.

Hành khách yên lặng nhìn, ghê tởm hoặc sợ hãi, như nhìn một kẻ đại gian ác. Người ta còn ghê tởm và sợ hãi hơn nữa, vì thằng đại gian ác này lại bé nhỏ, mới độ mười lăm, mười sáu tuổi là cùng.

Mặt nó già cấc, đen thủi và răn reo, làm cho hai con mắt nó trắng dã và khoằm khoặm như mắt vọ. Những thứ nó mặc, nếu lấy tên sẵn của cổ nhân đặt ra mà gọi là quần và áo, thì không đúng tí nào.

Cái che khoảng trên thì là một mảnh vải to cũ kĩ, vừa rộng vừa ngắn, trước kia không rõ đã dùng để làm gì. Cái che khoảng dưới thì bằng không biết có phải vải hay không, nhưng chắc chắn nó là di tích của một chiếc yếm đầm. Cả hai thứ đều rách bướp, mà chỗ nào rách cũng to, nên phải nút díu lại với nhau, hoặc buộc bằng lạt. Bời 

vậy, người ta có thể đếm trong mình nó từng cái mụn lở, từng cái xương sườn.

Xe lửa chạy được một ga. Bỗng một bà hỏi người lính:

- Thằng bé nó tội gì thế, ông?

- Nó không có tội gì cả, nhưng nó đi ăn mày, nên bị giải về nguyên quán.

Bấy giờ mọi người mới nhìn kẻ không gian ác bằng những con mắt thương hại. Bà ta cau mặt, hỏi:

- Thế các ông không cho nó đi xin để kiếm ăn à?

Người lính mỉm cười, đáp:

- Nào phải tôi không cho nó đi kiếm ăn. Quan trên cắt tôi giải nó đi, thì tôi tuân lệnh, có thế thôi.

Bà hành khách thấy câu nói có lí, thì mỉm cười, rồi ngắm nghía thằng bé:

- Ừ, nó không đui mù què quặt mà cũng đi ăn mày. Chỉ lười quen xác.

Người lính gật đầu, đáp:

- Vâng, vả nó làm cho tỉnh thành phố xá mất cả vẻ đẹp đi, bà ạ.

Mọi người đưa mắt nhìn thân hình thằng bé và những mảnh xơ xác bọc nó, khiến nó cúi đầu, ngượng nghịu.

Rồi người đàn bà khuyên thằng bé:

- Về chỗ quê hương, thì nên kiếm việc mà ăn mà làm, tội gì ăn xin cho nó khổ, hở anh? Mà cái nghề đi ăn xin, nếu không có ai cho, thì dễ sinh ra làm càn, đâm đi ăn cắp, ăn trộm. Rồi làm điều ác quen tay, có ngày thì ăn cướp, giết người, tù tội đấy, anh ạ.

Thằng bé con thở dài, đáp:

- Thưa bà bảo cũng phải, nhưng cháu chả biết được rồi ngày sau cháu thế nào. Cháu bị giải về nguyên quán lần này là lần thứ hai.

- Là lần thứ hai? Sao anh không chịu ở nhà, lại dại dột lần mò đi như thế? Ở chỗ quê hương, có họ hàng làng xóm, thỉnh thoảng người ta thương tình, giúp đỡ, chẳng hơn ra thiên hạ, một thân một mình sao?

- Thưa bà, cháu có muốn đi đâu. Nguyên thầy u cháu chết sớm, để cháu lại cho cậu cháu nuôi, ở trên Lạng Sơn kia.

- Thế quê anh ở đâu?

- Cháu quê ở làng Đồng Hải, về tỉnh Thái Bình. Nhưng từ bé, cháu chưa về làng bao giờ, vì thầy u cháu lên làm ăn trên Lạng đã đến hơn hai mươi năm nay.

- Thế cậu anh làm nghề gì?

- Cậu cháu làm ruộng, nhưng nghèo lắm, mà cũng mới chết mấy tháng nay.

Bà ta chép miệng, thương hại:

- Khốn nạn! Bởi thế anh mới phải lang thang?

- Vâng, thưa bà, thì cậu cháu lúc sống, ruộng làm nhờ, nhà ở nhờ, thì hẳn lúc cậu cháu chết, cháu bị đuổi đi.

- Sao anh không xin ở lại làm với người ta?

- Có, nhưng ông ấy bảo còn bé, chưa biết làm gì.

- Thì xin ở làm thằng nhỏ vậy.

- Thưa bà, cháu có muốn đi ăn mày đâu. Cháu có tính lười biếng đâu. Cháu cũng biết kiếp ăn bám vào người ta thì chả chắc tí nào, vả lại nhục lắm. Nhưng cháu cố xin ông chủ việc gì, ông ta cũng không dùng. Ông ta bảo có đủ người rồi. Cho nên cháu không được ở nhà ấy nữa.

- Sao ở tỉnh Lạng, thiếu gì người, thiếu gì nhà, anh không xin việc mà làm?

- Thưa có, nhưng ai cũng chê cháu gầy gò, yếu đuối. Có người đã nuôi cháu hai hôm, lại cho cháu ra ngay, bảo rằng cháu không biết việc và nhất là vì cháu bơ vơ, không có ai chắc chắn dẫn lại, nên người ta không thể tin được.

Bà hành khách thở dài. Thằng bé nói tiếp:

- Mà giá cháu có quần áo lành lặn, thì còn có người tin, chứ ăn mặc rách rưới thế này, ai cũng nghi là ăn cắp. Cháu lang thang một ngày không có gì ăn, bất đắc dĩ, cháu mới phải ngửa tay đi xin đồng trinh, bát cháo. Một lần, may quá, cháu gặp một người bạn của cậu cháu khi trước. Cháu kể tình cảnh với bác ấy, bác ấy thương tình, hẹn rằng hai hôm nữa là phiên chợ Kỳ Lừa, bác ấy ra tỉnh bán hàng, bác ấy sẽ dắt việc cho mà làm ở nhà quen. Và nếu không được, thì bác ấy cho vay tiền mà làm vốn.

- Ồ, thế sao anh không theo về ngay nhà bác ấy ở làm thằng nhỏ cho bác ấy có tiện không?

Thằng khốn nạn mỉm cười, đáp:

- Thưua bà, bác ấy có sung sướng gì hơn cậu cháu đâu? Nghĩa là bác ấy cũng nghèo khổ như hạng cháu thôi. Tại bác ấy thương cháu, nên mới tính như thế. Mà cái vốn của bác ấy gọi là cho cháu vay, nó độ một vài hào là cùng. Bác ấy xui cháu mua đôi nồi hông mà gánh nước thuê, hoặc sắm cái ấm và mấy cái bát mà đi bán nước vối. Vâng, thưa bà, có vốn thì khối cách kiếm ăn, mà cháu quyết rằng nếu cháu có một hào vốn, một hào vốn thôi, thì cháu có thể no suốt đời được. Thật thế, giá lúc ấy bác ấy cho cháu vay ngay một hào, hay giá ai cho cháu một hào, thì không bao giờ cháu chịu đi ăn mày đến nỗi lần trước phải bị bắt và giải về nguyên quán.

- Thế là vì đi ăn mày, anh mới bị bắt đấy?

- Vâng, chứ cháu có tội gì, mà lần này cũng thế. Lần trước cũng một ông quyền giải cháu đi, từ Lạng Sơn về Thái Bình, mất hai ngày.

Bà ta nghĩ một lát, rồi đáp:

- Ừ, đường đất ấy, đi hai ngày là phải.

Người lính nói thêm:

- Hai ngày thì hấp tấp mệt nhọc quá.

- Các ông đi thế này, nhà nước cho chi tiêu ra làm sao?

Người lính vuốt mái tóc, ngồi thẳng lại, đáp:

- Chúng tôi mỗi ngày được hai hào phụ cấp. Cái chuyến người lính đi đưa thằng này lần trước ấy, thế là bốn ngày, vì còn lượt về, vị chi là tám hào.

Ba ta gật đầu:

- Phải, hai suất hành lí từ Lạng đi Thái và một suất từ Thái về Lạng nữa chứ! Mỗi suất một lượt bao nhiêu tiền, hở ông?

Người lính lắc đầu, đáp:

- Tôi chưa đi đường Lạng Sơn bao giờ, nhưng một người về đến Thái, mất tất cả độ chừng hai đồng trở lại.

Người đàn bà ngạc nhiên, trợn mắt, nói:

- Thế ra những năm sáu đồng kia đấy! À, mà lại còn tiền ăn đường của thằng bé này nữa nhỉ. Thế tất cả là đi, cho là năm đồng tiền tàu, với lại tám hào líinh, với lại, mỗi ngày tiền ăn của nó bao nhiêu hở ông?

- Hào sáu.

Bà ta lẩm bẩm:

- Là đi năm đồng tám, với ba hào hai, tất cả sáu đồng một hào hai.

Thằng bé trố mắt, ngẩn người ra để nghe. Người lính lại tiếp:

- Rồi còn từ tỉnh về huyện, cũng một người lính nữa giải nó chứ.

- Ồ, phải, lại hai hào một ngày nũă.

Thằng bé con nói:

- Từ Thái về huyện hcáu có ô tô, bốn hào một lượt.

- Thế hai vé đi, một vé về, mất đồng hai, với hai hào, với sáu hào, là một đường năm hào sáu. Tất cả là bảy đồng sáu hào tám. Thế đến huyện rồi sao nữa, hở ông?

Người lính đáp:

- Cũng có lính giải nó về làng, giao cho lí trưởng. Nhưng quãng này thì lí trưởng phải cung đốn cơm rượu cho lính.

Thằng bé nói:

- Thưa bà, người ta đưa cháu về làng, giao cho ông lí, nhưng ông lí khai rằng không biết cháu là đứa nào, vì trong sổ làng không có tên cháu.

- Thế thì làm thế nào?

- Nhưng ông lí cũng cứ phải nhận cháu, vì quan bắt thế. Ông ấy nuôi cơm cháu mấy hôm, nghe chừng xót ruột, nên lại đuổi cháu đi. Vì thế, cháu lại phải lang thang lần nữa. Giá bấy giờ ai cấp cho cháu một hào vốn, thì cháu chẳng phải đi đến đâu. Cho nên cháu phải xin ăn hết nơi này đến nơi khác, bị nhục nhã đủ trăm chiều. Rồi được độ một tuần lễ, khi lạc đến một tỉnh mà cháu không biết là tỉnh gì, thì cháu lại bị bắt và bị đuổi về làng cháu như lần trước.

Bà ta ái ngại:

- Rồi ông lí lại không nhận, và phải nuôi báo cô anh, thì ông ấy lại đuổi đi?

Thằng bé thở dài, không đáp. Người lính cau mặt:

- Thực nó làm tốn kém cho nhà nước. Mỗi bận thế này, còn phải mất bao nhiêu giấy má vì nó nữa chứ. Nào bên toà Sứ, nào bên sở Tuần, nào bên sở Cẩm, nào rồi lại về huyện, về làng. Mà khi bắt được nó, vì chờ nhiều chữ kí quá, nên ít ra cũng phải nuôi nó một hôm, rồi mới giải nó đi được.

Người đàn bà nói:

- Thế ra tính tròn thì lần trước nhà nước đã mất tám đồng bạc về nó. Lại còn lần này, rồi biết đâu, còn những lần sau nữa.

Người lính gật đầu, nhìn thằng bé đang nghĩ ngợi, rồi đáp:

- Mà khi bắt được một đứa ăn mày, nhà nước chỉ có phép giải nó về nguyên quán mà thôi.

Bà hành khách lắc đầu, bảo thằng bé:

- Đấy, anh coi, anh nên kiếm việc mà làm, không nên đi ăn mày nữa. Thà rằng anh đến tuổi, mỗi năm đã đóng cho nhà nước hai đồng rưỡi thuế thân, chứ hiện nay, cứ mỗi bận anh bị giải như thế, nhà nước phải tốn về anh bảy tám đồng bạc, mà nhà nước có được lợi lộc gì đâu!

Thằng bé khốn nạn nghe chừng hiểu thấu bài tính và kinh ngạc về món tiền kia, nên nó ngậm ngùi, khâm phục câu khuyên bảo rất phải lẽ của người đàn bà tử tế. Nó đáp:

- Vâng, thưa bà, nhưng giá ai làm phúc cho cháu một hào, một hào thôi, thì đâu đến nỗi cháu phải đi ăn mày, mà nhà nước cũng chẳng phải tốn kém như thế!

ĐƯỢC CHUYẾN KHÁCH

Vì nghĩ đến buổi khách ngày chợ phiên, nên từ trưa đến bây giờ, tự nhiên anh Tiêu như thấy nhẹ nhõm hẳn một nửa người.

Anh ngồi dậy. Nhưng thấy mình mẩy ê ẩm, anh vươn vai, duỗi khục hai tay, rồi nhảy từ trên phản xuống đất. Anh đứng yên một lát cho đỡ chóng mặt, rồi lấy năm đầu ngón tay vuốt lại mái tóc. Nhìn cái điếu, anh định đặt một mồi, hút thử xem còn ho không. Nhưng hình như anh chưa thèm thuốc lắm. Anh biết thế là anh chưa khỏi thực.

Anh Tiêu ra cửa, đứng. Thấy người qua lại đông đúc, anh phấn khởi, quên cả váng vất.

Đã bốn hôm nay, anh nghỉ xe, vì lúc nào anh cũng hầm hập sốt.

Trước kia, mỗi khi bị nóng mình nóng mẩy, anh cho là thường. Anh không hề chịu nằm rên hoặc uống thuốc. Trong nghề anh, anh đã tìm ra được một môn thuốc rất thần hiệu. Lúc nào người anh cũng gây gấy, thì không kì quản đắt rẻ, anh cố kéo lấy một chuyến khách, chạy một mạch rõ nhanh, cho ra mồ hôi. Tự khắc cơn sốt nó rơi ở đường lúc nào không biết.

Nhưng từ đầu năm nay, sức anh chống chọi lại với các bệnh tật có kém đi. Lắm khi anh phải “hàng” trước một cơn nhức đầu, hay một trận đau bụng.

Hơn mười năm cầm càng xe, anh Tiêu cho rằng như thế anh cũng đã là dai sức. Vì mắt anh từng thấy các bạn không chịu được những nỗi nhọc nhằn của nghề. Có người mới làm được vài hôm, đã phải một trận ốm thừa sống thiếu chết. Có người mới kéo xe được độ ba bốn năm, đành xoay nghề khác nhẹ nhõm hơn. Có người không kiếm đủ ăn, phải chịu bó tay thất nghiệp, và đi ăn cắp, ăn trộm. Có người bị những trận đòn ghê gớm của cai mà thành ra què quặt, mang tật suốt đời. Phải, còn nghề nào vất vả cho bằng nghề kéo xe. Thôi thì đang nắng sém mặt sém mày, bỗng nổi trận mưa rào, rồi mưa vừa tạnh, mặt trời đã lại chiếu ngay xuống, nóng như lửa.

Như vậy, lưng đang nhễ nhại mồ hôi, thì bị ngay ướt những nước lạnh. Rồi vụt lại đẫm những mồ hôi. Thế mà anh vẫn phải cắm cổ, gò lưng mà chạy, hai chân đặt lên đường nhựa bỏng như đốt. Song, nào đã hết. Buổi tối, anh còn phải phơi sương, có khi phanh lưng ra, ngủ gật suốt đêm. Một người không khoẻ như anh, mà làm việc thế, lại không được

 ăn đủ ngủ đủ, thì còn gì là đời. Thế mà cứ sống như vậy, anh kéo dài cho được mười năm, kể cũng đã là tay anh hùng.

Nhưng ít lâu nay, sức anh suy kém lắm. Có hôm, anh phải bán lại xe cho người khác trong nửa buổi, để về nhà nằm nghỉ cho qua lúc khó ở trong mình. Và lần này, anh phải nằm bệt mất bốn hôm. Vì anh không thể gượng được với thần sốt ác nghiệt nữa. Mà nào chỉ có một bệnh sốt? Anh còn ho, ho như rút ruột rút gan, ho đến nỗi hàng xóm nghe thấy cũng phải sợ.

Nhưng hôm nay, anh đã nhóc nhách ngồi dậy được. Và khi biết rằng chiều nay có cuộc chợ phiên to trên Bách thú, tự nhiên anh Tiêu thấy nhẹ nhõm hẳn người.

Một tối hôm nay, kiếm bằng ba bốn ngày thường. Vả lại, toàn khách lắm tiền, bước lên xe không thèm mặc cả, cốt để diện với gái, hơn là ra dáng ta có từ tâm. Thì anh bỏ sao được dịp kiếm ăn dễ dãi và không vất vả này. Anh cũng tính bắt đầu từ ngày kia mới lại đi làm cho sức thực khoẻ đã. Nhưng buổi làm tối nay và tối mai, cũng chẳng qua như buổi đi bách bộ trong sân, có gì là khác. Vả, mới có nghị định cấm đi xe đôi, thì hẳn anh không phải kéo nặng nhọc như trước.

Chừng hơn ba giờ, anh rảo bước, đến hiệu xe. Đầu anh vẫn còn hơi váng vất, anh lao đao như người mới ở thuyền lên bộ. Song, anh không nản lòng. Chắc rằng người qua lại tấp nập làm loạn mắt, nên anh thấy thế.

Đi một quãng, anh chóng mặt hơn. Anh đứng lại nghỉ để thở. Rồi lúc lại sức, anh lại thong thả tiến từng bước một. Anh sờ tay lên trán, thấy vẫn mát như thường. Không hề gì. Hẳn mấy hôm nay vì anh nằm gí, nên bây giờ, mới bắt đầu cử động, anh chưa quen đó mà thôi.

Ở Cửa

Nam, các bạn anh đã đứng đông cả. Họ đùa nhau một cách táo tợn, mà anh rợn cả người. Anh cho rằng trong mình không được khoẻ, nên hay sợ, chứ ngày thường, chính anh cũng vẫn đùa bỡn họ như thế. Bỗng có hai người đuổi nhau, rồi người chạy trước quay lại giơ nắm tay, xói vào ngực người chạy sau một cái thực mạnh. Họ vật nhau, cười như nắc nẻ. Anh Tiêu ghê cả thịt, và cũng rạo rực như thấy quả đấm ấy uỵch vào ngực anh vậy.

Anh không dám nhìn các bạn nữa. Anh vào tuột nhà ông cai. Nhưng tiếng cười đùa vẫn inh ỏi bên tai, khiến anh càng muốn quên đi, thế mà cái hình ảnh ấy như còn diễn ở trước mắt. Mà mỗi khi tưởng tượng đến quả phật thủ nó đấm vào ngực, anh lại thấy nao nao như buồn nôn.

*

*  

*

Anh Tiêu cúi xuống, nâng hai càng xe lên. Anh tiến một bước. Sao mà cái xe nặng thế. Mới ốm có bốn hôm, mà sức lực đã khác đi như thế rồi.

Anh không bước nhanh nữa. Vội gì? Chiề nay, ở Bờ Hồ rất sẵn người. Lúc nào chẳng có khách. Dù có đi rẳo bước, bất quá đến trước độ mười lăm phút là cùng. Sớm mười lăm phút hay chậm mười lăm phút thì rồi cũng có khách.

Đi độ hết phố Hàng Bông đệm, anh vẫn thấy choáng váng, rồi tối tăm mặt mũi. Anh phải đứng lại để thở.

Được. Buổi mới, anh cũng cần tập đi. Chốc nữa, anh sẽ không choáng váng và thở nữa. Cái xe sẽ nhẹ nhõm như thường.

Nghỉ một lát, anh lại bước đi. Nhưng chẳng ai thụi nhau ở trước mặt anh, mà bỗng tự nhiên anh cũng nao nao như buồn nôn. Anh ho dồn một trận, cố khạc mà không ra đờm. Rạo rực, anh muốn nằm ngay ra vệ hè để thở một lát. Giá anh nôn được hẳn thì khoan khoái lắm.

Bờ Hồ là cái biển người mà các phố như các ngả sông chảy dồn người lại. Đến nơi ồn ào, tấp nập, anh Tiêu quên cả bệnh tật. Tự nhiên, anh rảo cẳng từ lúc nào mà anh không biết.

Sự làm quá sức khiến anh lại thấy trong người khó chịu. Anh váng vất và rạo rực hơn. Rồi sa sầm lại, suýt ngã khuỵu.

Ba bốn lần, anh muốn thôi đừng tham công tiếc việc nữa. Biết thế, giá cứ nghỉ cho đến ngày thực khoẻ, rồi tha hồ mà làm tiền. Chứ vừa mới hơi khỏi, anh đã gượng dậy, lỡ ốm thêm thì chả bõ. Nhưng trả xe? Cai nào dại mà nhận cho anh. Ai chịu mấy hào thuế ấy? Hẳn anh phải nai lưng ra mà đền sự thiệt hại này.

Mà anh đền? Anh rùng mình khi nghĩ đến tiền đền một buổi xe ngày hội. Hay là anh chịu lỗ vốn ít nhiều, gọi một người bạn nào mà bán lại xe cho người ta buổi tối nay? Nhưng đã mua xe, anh đành phải kéo để kiếm tiền cho khỏi lỗ vốn vậy.

Anh nản chí, càng như bị thần bệnh ám ảnh. Mà buồn quá. Bờ Hồ rầm rập những người thật, nhưng bọn nào đi hai người, họ cũng trèo lên xe điện cả. Anh vẩn vơ, suy nghĩ về cái nghị định nhân đạo của quan đốc lí thành phố mới ban hành. Chẳng lẽ việc quan thương dân lao động, đặt ra lệ khách không được ngồi xe đôi, lại định giá mỗi cuốc ngắn phải trả một hào, lại hoá ra làm lợi cho xe điện phải hạ giá mỗi quãng là hai xu hay sao? Hay là bây giờ vẫn còn sớm? Phải, người sang trọng còn đương ăn cơm. Chốc nữa, có mà vứt đi cũng không hết khách.

Đèn điện đã bật.

Anh Tiêu nhìn trước nhìn sau, và đứng dưới bóng tối để nghỉ. Anh cứ thấy cổ ngứa, lờm lợm. Giá không ai để ý đến anh, mà anh được nôn ra đây, thì hay quá.

Anh thử oẹ. Ngực anh càng rạo rực. Nhưng không sao nôn được.

Đứng đây chán, anh lại đi, anh tin rằng thể nào cũng được vài chuyến khách. Sao bây giờ xe nặng hơn lúc nãy? Anh thở. Thì tự nhiên anh oẹ một tiếng, nhưng không được gì cả.

Nôn khan, anh không lấy làm lạ chút nào. Vì trong bụng anh có gì đâu. Hai hôm nay, mới ban nãy, anh mới ăn được một tí cháo.

Anh lại đi vài bước, mời những khách mà anh gặp. Nhưng chẳng ai trả lời.

Rồi bỗng cơn buồn nôn lại làm anh nao nao trong người. Anh đứng lại, lấy tay vuốt ngực. Tự nhiên, anh đâm ra sợ nôn. Sao vậy? Nào ai biết được.

Nhưng cơn buồn nôn càng bắt anh phải cố nôn. Anh phải đứng cạnh đường, ở chỗ tối. Anh đỡ ngực, há miệng, nhăn mặt và gò lưng xuống để oẹ.

Anh oẹ. Anh cố oẹ. Thì bỗng miệng anh trào ra được đến một bát nước đen đen và long lỏng.

Rồi ngực anh càng rạo rực. Anh chóng mặt như say rượu. Anh oẹ khan vài tiếng nữa, rồi lấy tay quệt nước ở mồm.

Quái, cái gì đặc vậy. Anh ghé ra chỗ sáng, nhìn kĩ. Thì bỗng anh giật nảy mình. Mẹ ơi, máu!

Máu tươi toe toét quanh mồm anh, nghĩ mà ghê cả người.

Rồi một cơn ho nổi lên. Anh gò lưng, nhăn mặt, há mồm, hộc ra được một đống máu tươi nữa. Anh sợ run lên, nhìn bốn bên. Nhưng may quá, không có một người đội sếp nào trông thấy.

Lanh trí khôn, anh vội vàng lại chỗ máy nước, ấn mạnh cho nước toé ra thực nhiều, để nó chảy tràn ra cống, rửa sạch vũng máu đi.

Vừa toàn thò miệng vào vòi nước để súc, bỗng anh nghe thấy tiếng gọi: Xe!

Anh ngẩng lên nhìn. Một cô tân thời, cắp ví ở nách, đi dún dẩy từ đằng xa lại.

Không biết nên kéo hay nên không? Anh đương phân vân. Nhưng vụt anh trông thấy một vài chiếc xe không từ đằng xa chạy lại, tranh nhau cướp lấy khách. Chẳng đắn đo hơn thiệt, tự nhiên anh vội vàng quệt tay, chùi máu mép, với lấy càng xe, cũng cắm cổ chạy. Chiếc xe nhẹ nhảy lên chồm chồm.

May làm sao, anh lại tranh được chuyến khách.

NẠN RÂU

Được, hễ lão còn giở ngón ấy ra, mày cứ làm như mày bằng lòng, rồi tao sửa cho lão một mẻ.

Khuê sợ hãi, hỏi:

- Chết, thầy định sửa thế nào, lỡ rồi việc ra đến cửa công, thì lại một ông quan khác xử, vậy lẽ nào quan họ chẳng bênh nhau.

Bác thông phiên Giốc cười, lắc đầu:

- Không phải tao sửa như mày tưởng, tao sửa lão ta một món tiền tiêu kia mà.

Khuê rú lên:

- Ối! Thế thì con nhục quá.

Bác Giốc quắc mắt:

- Làm gì mà đã tru tréo cái mồm lên thế nào! Mày tưởng tao đê mạt đến nỗi đem hiến vợ con cho người quyền thế để mưu cầu danh lợi riêng cho mình à? Nếu tao có thể xử đê tiện đểu giả thế, thì bây giờ ít ra tao cũng làm đến tuần phủ rồi, chứ lại chịu nghèo xác nghèo xơ thế này à?

Khuê nhìn cha, có ý hỏi. Bác Giốc kéo một hơi, và hãm nước xong, lại nói tiếp:

- Ngày xưa, độ ba mười năm trước, th

i buổi nhốn nháo, ra làm quan dễ lắm kia. Những hạng lính tập, bồi bếp, phu kíp, được lòng ông chủ nào có thế lực một tí, là xuất chính dễ như bỡn. Ngày ấy tao cũng bập bẹ tiếng Tây, mà u mày lại có nhan sắc, người ta cứ dỗ dành tao mãi, nhưng tao không thuận.

Khuê mỉm cười. Bác thông phiên thở dài, vắt tay lên trán, nói giọng chán nản:

- Làm ông quan, phụ mẫu dân, mà mắc phải cái tiếng cho vợ cho con đi làm đĩ với quan trên, thì tao tính còn gì nhục nhã cho bằng.

- Thế thầy định bắt con bằng lòng với ông huyện Văn Giang kia mà!

- Điếc! Tao bảo mày làm như bằng lòng. Làm như! Nghe chưa?

*

*  

*

Nỗi căm hờn của ông huyện Văn Giang từ hôm về làng Rồng làm ông hay gắt gỏng, cáu kỉnh. Vì những cớ không đâu, luôn luôn ông sinh sự với vợ con, luôn luôn ông kiếm chuyện với thuộc hạ. Mà lần nào người ta cũng lấy làm ngạc nhiên, là ông đập bàn, đạp ghế, quát tháo đùng đùng rồi dậm doạ:

- Ông thì lên tỉnh bây giờ chứ lị!

Khẩu hiệu ấy ông hô đã nhiều lần, nhưng không ai để ông thực hành. Bởi vì vợ con ông xin lỗi ngay bằng những câu ngọt ngào, mà nha lại, dân sự tạ tội ngay bằng sự làm giàu thêm cho ông. Ông miễn cưỡng nhận những câu xin lõi suông và những sự tạ tội có lợi. Song, nỗi riêng canh cánh bên lòng. Chẳng chút hành vi, cử chỉ nào hàng ngày của ông là thoát ra ngoài cái ảnh hưởng của ái tình đối với cô Khuê.

Cho đến mãi tận hôm cuối tháng ấy, ông mới có việc lên tỉnh. Ông ngồi vắt chân chéo khoeo trên xe, vuốt bộ râu, nhìn phong cảnh bằng đôi mắt lạc quan. Cả một vùng trời lam lồng lộng, cả một dải nước đỏ mênh mang, cả một con đê xám ngòng ngoèo, cả một làn ruộng xanh mút tít, đẹp thì có đẹp, nhưng ông cho nó chưa có vẻ nên thơ bằng đôi má lúm đồng tiền của thiếu nữ.

Ông huyện rất mãn nguyện, vì ông thấy lần này bác thông phiên đón chào ông vồn vã, và nhất là bác phải đi vắng ngay. Ở nhà duy chỉ còn có một mình cô Khuê hầu hạ ông mà thôi.

 Bởi vậy, ông gọi tên lính hầu, bảo:

- Mày tìm xem thầy Đề trọ chỗ nào, thì đến đấy mà ăn cơm chiều nay. Tao không có việc gì cần đến mày cả. Sáng mai, mày mới phải lại đây, cắp tráp điếu đi hầu tao vào dinh, và báo cả thầy Đề thế, nghe chưa?

Anh lệ được tự do, vội dọn bàn đèn và gảy bã điếu cho chóng, rồi đi nhảy cỡn.

Khuê cũng làm đầy đủ bổn phận như mọi bận. Cô chế nước sôi vào ấm nước chè hạt, làm lơ như không biết mình bị đôi mắt vọ ngắm nghía, và cô chắc thế nào cũng phải trả lời những câu tán tỉnh. Quả nhiên, ông huyện vẫy cô lại gần hỏi:

- Em đã têm sẵn trầu cho tao chưa?

- Bẩm đã ạ.

- Mang lại đây.

Cô Khuê bưng đĩa trầu đầy, đứng ở đầu ghế ngựa, hai tay đưa cho ông huyện. Ông huyện vẫn nằm tiêm thuốc, lấy chân khoèo đạp cái tráp khảm lại gần Khuê, và bảo:

- Bỏ vào ngăn cho tao.

- Xin quan lớn thìa khoá ạ.

Ông huyện ranh mãnh, làm như mình bận bịu, trỏ tay cầm tiêm vào túi áo cộc của mình và nói rất tự nhiên:

- Đấy, lấy mà mở.

Khuê thẹn thò, mỉm cười không nhúc nhích.

Hút xong điếu thuốc, ông huyện ngồi nhổm dậy, móc túi vứt chùm thìa khoá vào ngực Khuê và lườm bằng một cái lườm già cỗi:

- Khéo làm bộ vừa chứ.

Bẽn lẽn, Khuê không đáp, nhưng cô lẳng lặng mở khoá, dựng đứng nắp tráp lên và xếp trầu vào ngăn. Ông huyện chồm lại, cầm một tay cô, gí vào nắp và nói:

- Phải một tay giữ lấy đậy, kẻo cái nắp nó sập xuống, lại phải mở lần nữa. Tráp tao có khoá mỏ neo, trông đây này.

Cô Khuê giằng mãi tay ra mới được, thì vừa lúc ấy cái tráp đậy sập lại. Nhân tiện, ông huyện có ngay cuộc thí nghiệm, bèn nói:

- Đấy, bây giờ tao đố mày mở ra được.

Cô Khuê cười, lấy hai tay cái cố nậy mãi, nhưng vô hiệu. Rồi tự nhiên má cô đỏ ửng lên.

*

*  

*

Bác thông phiên chỉ đi khỏi nhà độ nửa giờ rồi lại về ngay. Mà từ lúc ông huyện đến cho tới chập tối, bác đi vắng luôn. Song lần nào bác cũng chỉ đi độ một lát, nên ông huyện chưa có dịp nào tốt để giở thủ đoạn được. Miệng cá hồ ngậm vào lưỡi câu là nước đã sánh động.

Song, ông cũng là tay đoán tâm lí già dặn. Ông cho rằng cá này chẳng phải là thứ cá cao thượng biết khinh mồi. Ông là quan, có nhiều tiền, hẳn ông thương đến cô nào là không những làm danh giá cho cô ấy, mà còn làm vinh dự cho cha mẹ tổ tiên cô ấy nữa. Bởi vậy ông chắc chắn là bác Giốc sở dĩ vờ đi cho ông được tự do với cô Khuê, vì hẳn bố con đã bàn soạn với nhau chán chê ra rồi. Chứ không lẽ nào, lần trước, bác bắt được ông trong buồng con gái, mà lần này bác lại hớ hênh đặt mỡ cạnh miệng mèo.

Cho nên ông quyết tối nay, thế nào bác Giốc cũng đi nằm sớm, mà cô Khuê cũng lên buồng trước lúc mọi ngày. Hễ đúng như thế là ông chẳng cần giữ gìn cẩn thận như lần trước tắt đèn và sờ soạng lối đi. Ông có thể cứ công nhiên, cả thẻ bài lẫn áo gấm, bắt dân cờ quạt, trống khẩu, dịch loa mà rước ông vào buồng Khuê nằm như ngày họ đón ông về trọng nhậm hạt Văn Giang, chắc bác Giốc vẫn phải giả vờ ngủ say như chết.

Quả nhiên, vừa chập tối, bác thông phiên kêu râm rẩm đau bụng và tìm chăn tìm gối, lên giường nằm im thin thít.

Và mới độ hơn tám giờ, cô Khuê đã lẹp kẹp đôi guốc, bưng thau nước đặt sẵn trên giá và đến gần bàn đèn, thỏ thẻ hoi:

- Bẩm quan lớn có sai gì con nữa không ạ?

Ông huyện lắc đầu:

- Không.

Cô Khuê vừa quay đi, bỗng ông khẽ gọi:

- Này!

Khuê đứng chờ lệnh. Nhưng ông huyện không bảo gì, chỉ dăn deo đôi mắt, nhìn cô rất tình tứ. Rồi một lát ông mới mỉm cười, nói:

- Nhé!

*

*  

*

Ông huyện tiêm vội vàng để hút cho đủ bữa. Tiếng tẩu kêu với tiếng bác thông phiên ngáy lắm lúc hoà với nhau kêu ầm nhà.

Đến độ mười giờ, ông đậy nắp hộp sừng, úp chén xái, xếp dọc tẩu cạnh khay và lấy đồng xu đặt trên miệng chụp đèn.

Ngọn lửa trước đỏ, sau xanh dần, đến nỗi không đủ sáng để chiếu rõ khắp mấy gian nhà rộng nữa.

Ông huyện ngồi dậy, lắng tai nghe bác thông phiên, và mở tráp ra, lấy miếng trầu nhai bỏm bẻm. Đoạn ông đi rửa mặt, rửa tay cho sạch, và mắt luôn luôn nhìn về phía cửa buồng. Tuy ông can đảm, song cũng thấy sự cảm động nó làm trái tim ông đập mạnh.

Rồi lau tay xong, ông không thể kiên tâm được hơn nữa. Ông khe khẽ tiến vào buồng cô Khuê.

Bác thông phiên đã nhìn rõ như vậy. Đợi khi cả tấm thân của ông bị chôn vào trong bóng tối, bác mới từ từ ngồi dậy. Bác đi chân không sang giường ông. Thấy cái tráp mở sẵn, bác nhắc cái ngăn trầu ra xem. Cả ngăn dưới chỉ có giấy má, chứ không có đồng tiền nào.

Bác cau mặt, nghĩ ngợi một lát, rồi đến xó cửa, lấy hòn gạch vẫn để ở đó. Bác bỏ hết giấy má cùng ngăn trầu trong tráp ra, rồi đặt hòn gạch thay vào. Bác cứ để nguyên cái nắp tráp mở và ngồi đợi.

Bỗng một tiếng đằng hắng trong buồng, bác vội vàng ôm tráp đi vào.

Thì cố nhiên là bác bắt được quả tang.

 Ông huyện thấy động, cuống quýt sờ soạng cái quần, nhưng không thấy đâu cả. Hẳn là cô Khuê đã giấu biến đi mất rồi.

Loè một cái, một tia lửa chiếc đèn bấm năm pin soi rõ vào ông từ đầu cho đến chân. Ông lúng túng, đứng co ro. Nhưng một chiếc áo cánh không phản chủ, cũng là phản chủ. Nó không đủ vừa che mình ông vừa che cả những chỗ ông muốn che.

Bác thông phiên sấn lại ôm ông. Trong khi ấy, cô Khuê đỡ lấy tráp. Ông huyện giãy giụa, cau mặt xuống:

- Ơ, cái thằng, láo nào!

Nhưng bác Giốc chẳng nói chẳng rằng. Bác luồn tay ghì lấy đầu ông. Ông không cựa được. Cô Khuê cầm nạm râu ông, đặt vào thành tráp, và rập nắp lại đánh sập. Cái tráp có khoá mỏ neo, không có thìa khoá thì không thể mở được, nên cả bộ râu lê thê đã mắc cả ở trong tráp.

Cùm râu xong, bác Giốc bảo con gái buôn tay ra. Cái tráp nặng nó giật râu ông đau đánh nhói. Ông nhăn nhó không dám kêu. Vì hễ hàm dưới cử động thì nó co ngay râu ông xuống.

Ông vội vàng nâng lấy tráp, và nâng bằng cả hai tay, vì nó nặng quá. Và ông huyện cứ phải tô hô để nâng tráp như thế, cho đến sáng hôm sau, tận lúc thầy Đề chạy đủ hai trăm bạc mới chuộc được cho quan kịp vào dinh cụ Thượng.

BỮA NO… ĐÒN

Và bụi. Và tanh. Và ồn ào. Và hơi người. Và chen chúc…

Chợ họp mỗi lúc một đông.

Thế mà thằng Canh đến bây giờ chưa được một cơ hội tốt nào để thì hành cách kiếm ăn của nó. Người khôn của khó có khác! Được một miếng ăn, thật là vất vả.

Bỏ vốn ra buôn, được ít lợi quá, người ta ca kiết đã đành. Không mất đồng vốn nào, chỉ hòng thu lợi không, thằng Canh cũng nhăn nhó: nó làm nghề ăn cắp.

Nghề ấy mới xấu.

Mặt trời lừng lững lên cao chói lọi. Ánh nắng tung tóe mạnh mẽ, đã làm khô những bãi quết trầu. Bóng râm bụt ngắn dần.

Người ta chen nhau, đẩy nhau, cản nhau. Một tốp người đi. Một tốp người lại. Tranh nhau đi lại, rồi mắc ngẵng ở lối hẹp, ùn lại. Người ta đẩy nhau. Một bà đương chổng mông, mặc cả bìa đậu, bị giúi ngã sấp xuống mẹt hành. Một chuỗi của chẳng ngon bày ra để hiến các ông bà ông vải. Nheo nhéo.

Những người khôn ngoan, làm lơ, tay giữ túi, chân bước đi. Cho được việc. Người tò mò, hiếu sự đứng lại, tủm tỉm cười, hùn cho đám chửi nhau vui hơn. Vòng trong, vòng ngoài, người ta kéo đến xem và nghe. Đông như đám hội.

Thằng Canh vội thất thểu tới. Thế là khán giả, không ai bảo ai, giải tán dần.

Ung dung, nó đứng nhìn người bị nạn, nhởn nhơ chế giễu. Kì thực, trong bụng nó tiếc, vì nỗi nó đến quá muộn mằn.

Rồi nó giả vờ làm người điên hoặc người say. Nó thất tha thất thểu, đi loạng choạng, chân nam đá chân chiêu, đụng người nọ, va người kia. Vô phúc, nó dính vào ai, là luôn thể nó dính cả sự giàu có của người ấy đương bình tĩnh ẩn dật tận dưới đáy túi.

Nhưng người ta ai còn lạ gì nó. Chẳng ai để nó đến gần. Mặt nó, người ta nhẵn lắm rồi. Cả đời, nó mặc chỉ có thế. Cái quần cháo lòng xắn lá toạ, ống cao ống thấp, thì bở tơi, nhưng đầu cồm cộp những đất, bùn và ghét. Cái áo dài vải tây đen, nay chỉ còn giữ được màu nước dưa, thì ở lưng, vai, tay, ngực, bướp ra, mà năm khuy thì về hưu trí bốn. Mỗi chỗ rách là kỉ niệm một trận đòn mê tơi, kết quả của một kì công về sự nghiệp trong đời sinh sống của nó.

Cái áo ấy có hai công dụng. Vừa để che cái thân khẳng khiu, khô đét cho khỏi rõ những mạch máu và bộ xương sườn, vừa để giấu tạm thời các thứ lấy cắp.

Nhưng nó chẳng bưng kín được khí cục của nó hiện cả ở trên đầu, không có gì che đậy. Đầu nó chỉ còn hình cái sọ cắm trên cái cổ dai ngoách, mà luồng gân kheo như kéo nổi lên, mấp mô như thớ chiếc kẹo kéo. Da mặt bọc ít thịt quá, thành ra thừa nhiều, nó nhăn nheo lại, mà những đường nhăn chi chít như vết rạn của men cái lọ cổ. Tóc nó chịu nằm ẹp trên đầu, không dậy được, nhưng những ngọn lúa bị bão, mà chảy cả xuống, quắp vào trán, vào gáy, vào mang tai.

Nhưng cái tướng ăn cắp của nó tốt ở đôi mắt, nhỏ mà dài, có hai con ngươi rất mẫn cán trong việc đi tuần, lúc nào cũng lấm la lấm lét.

Nó là một con ma đói, con quỷ gian. Người ta ghét nó, người ta sợ nó, người ta tởm nó. Người ta lại giới thiệu nó cả với người lạ mặt, mới đến chợ lần đầu. Tên nó, cũng có tiếng như tên hai bậc vĩ nhân Hít Mút.

Chẳng ai thương nó cả. Nó cũng là người như mọi người. Duy chỉ khác mọi người là chẳng may nó bị tạo hóa ruồng bỏ, cho nên đói khát, phải ăn cắp giấm giúi để nuôi thân. Cái ấy cũng khác hẳn với người thường. Họ thừa, họ cũng cứ đường hoàng ăn cắp

Nó cần sống ngày hôm nay, về buổi chợ này. Mà chưa ăn cắp được thứ gì cả.

Mặt trời lên đến đỉnh đầu. Chẳng thừa một mẩu bóng râm nào ra ngoài.

Chợ đã vãn dần.

Đã bớt bụi. Đã bớt tanh. Đã bớt ồn ào. Đã bớt hơi người. Đã bớt chen chúc.

Thì nó liều. Liều chết để sống.

Nó thu vào tay một bọc, méo mồm, nhăn mặt để gãi quai hàm, sai mắt đi do thám. Hàng nồi: đất. Hàng lưỡi cày: sắt. Hàng thợ cạo treo cái gương tư mã trên thân cây: lách tách, tóc. Hàng thợ may, ông phó may máy “pho”: giẻ. Toàn những thứ không tiêu được.

Kìa! Hàng khoai lang. À! Khoai lang luộc! Được lắm!

Nó chòng chọc nhìn: những củ to, béo nung núc, tròn trĩnh, trôi qua họng, xuống dạ dày. Thế là no. Nó không còn ước muốn gì nữa. Nó lại lương thiện ngay.

Chân bước đi, nó nghĩ. Nhưng chỉ nghĩ được cách ăn giản dị ấy. Nó nuốt nước bọt. Nó thèm.

Đến nơi. Nó đứng lại. Chờ. Nhưng chờ gì? Bao giờ chỗ này vắng người? Vắng người thì bà hàng khoai cũng về. Thế là hốc.

Khoai không bóc vỏ, ăn càng khỏi tốn. Cứ thế kia, tọt vào mồm, trôi qua họng, xuống dạ dày. Thế là no.

Nó liếc mắt xuống, nhằm củ khoai to nhất. Bà hàng đương lúi húi cúi gục vào dải yếm, vét tí vôi ăn trầu.

Nhất định nó liều. Nó khuỵu cẳng. Ngã phịch. Một củ khoai ở mẹt biến mất.

Nhưng mà:

- Ối giời ơi! Nó ăn cắp khoai của tôi!

Thằng Canh vùng chạy.

Bà hàng nằm xoài ra, nắm ngay được nó.

Hỏng to! Bỏ trả? Khi nào! Phải tiêu thụ ngay của ăn cắp đi. Nó đưa phắt củ khoai lên mồm, ngoạm một miếng tướng đại.

- Các ông bà bắt thằng Canh hộ tôi! Nó ăn cắp.

Người ta huỳnh huỵch. Tán loạn.

Mặc kệ. Nó nuốt lấy nuốt để. Miếng khoai trôi xuống cổ nó phình ra. Nó lại vội vàng ngoạm miếng nữa, nhai ngấu nghiến.

Bà hàng ôm chặt lấy chân nó. Nó khoẻ hơn, giằng ra được. Người ta xúm lại, tóm ngang lưng nó. Nó không chạy. Nhưng nó vẫn nhai, vẫn nuốt. Rồi biết thế nguy, nó không nhai, trợn mắt lên để nuốt chửng. Rồi lại hấp tấp ngốn luôn miếng nữa.

Chửi. Kêu. Đấm. Đá. Thụi. Bịch. Cẳng chân. Cẳng tay. Như mưa vào đầu. Như mưa vào lưng. Như mưa vào chân nó.

Nó bị đánh túi bụi. Nhưng nó chẳng quan tâm. Không kêu. Mồm vẫn hăng hái làm việc. Mặc cho những chỗ khác bị đến tử hình.

Người ta đến càng đông. Vẫn đánh nó. Cả đòn càn, đòn gánh nữa. Người ta phang cho sướng tay.

Rồi người ta giữ chặt lấy nó. Nhưng nó cố cúi đầu xuống, để cắn cho mau. Người ta giằng ra. Còn những một góc củ nữa.

Người ta móc mồm nó, gang họng nó, quào chảy máu cả má nó. Nó cứ cố ghì, nhất định không nhả.

Nó ngã lăn ra. Mẩu khoai bị nắm chặt, nát bét trong tay nó.

Vẫn chửi. Vẫn kêu. Vẫn đấm. Vẫn thụi. Vẫn bịch. Vẫn cẳng chân. Vẫn cẳng tay. Vẫn đòn càn. Vẫn đòn gánh. Đáng kiếp!

- Cho nó chừa đi!

Người ta ghì chặt lấy nó. Nó oằn oài, cố cựa. Rồi gò miệng vào gần tay, co tay vào gần miệng, nó đưa bật được miếng khoai nát bét, lẫn cả đất cát vào mồm. Phóm phém, nó nhai. Rồi nuốt xong, nó nằm yên lặng nhăn mặt để cho tiêu… Trận đòn càng dữ dội.

Người ta trói nó lại. Nó không cựa được. Mồm nó hết việc làm, mới há hốc ra để ằng ặc.

À, ra nó đau.

Rồi nuốt xong nốt tí khoai lang dính bết ở hàm răng, nó mới ú ớ:

- Lạy các ông các bà, cháu thấy đau lắm rồi!

Thì ra trong khi lăn vào ăn để được bữa no bụng, nó quên rằng đương bị một trận đòn nhừ tử. Không trách được người ta, ăn xong mà lỡ ra mới bị đòn, thì đời nào tiệt được máu ăn cắp.

THẦY CÁU

Dạy học là một nghề khó nhọc. Dạy lớp Đồng ấu lại khó nhọc gấp mười. Trẻ con phần nhiều đãng trí hay quên, có khi tay cầm quản bút, nhưng lại mách thầy là anh nào ăn cắp. Có khi lọ mực móc dây vào ngón tay, nhưng lúc hứng, cứ như thế, đưa cả lên đầu mà gãi! Lại có đứa thò lò mũi xanh. Có đứa mải chơi, đi “mô tô” ra quần lúc nào không biết. Quần áo thì bẩn thỉu, hôi thối, đất cát, mồ hôi bê bết nhễ nhại cáu ghét hàng tầng. Trong lớp thì hơi người tanh nồng lên. Không trách Tây người ta gọi lớp ấy là

Ăng-phăng-tanh

cũng phải.

Trường kiêm bị ngày trước, hồi mới mở rộng, thì không như bây giờ có sáu lớp thông thống đẹp đẽ thế này đâu. Lớp Đồng ấu hãy còn dọn tạm ra Văn miếu hàng huyện.

Văn miếu ở ngay giữa đồng, xa nơi dân ở. Đường đi không có cây cối râm mát. Ngày mưa, ngày nắng, trẻ con bò ra được đến lớp, thật là vất vả. Đi đến lớp ấy, còn ngại một điều nữa, là phải qua một bãi cỏ lớn. Bãi cỏ ấy, lũ chó trong làng vẫn quen mui rủ nhau ra phóng uế. Mà cả đến người cũng vậy, nhiều anh lười, cũng bắt chước chó, ngồi xù xù ngay bên cạnh lối đi.

Cho nên học trò bé, đi vô ý, trời tạnh nắng hẳn hoi, có đứa giẫm phải chỗ cỏ bị ướt ấy, trượt ngã oanh oách.

Mỗi khi có việc ngã như thế xảy ra, thì y như lại rầy rà đến ông giáo. Vì tất thằng bé ấy mếu máo, vào lớp, giơ chỗ vàng vàng ở quần mà nó không là thủ phạm lên, mách thầy. Ông giáo cứ phải khổ vì thỉnh thoảng lại xử những vụ kiện mà bên bị là người vô danh như thế.

Nhưng những đứa biết mách thầy, còn là hạng khá. Vì tất ông giáo cho phép nó về tắm giặt. Lắm đứa sợ thầy đánh, hoặc vô ý không biết, cứ đưa cả vào lớp cho thầy và bạn hưởng chung cái tác phẩm của chú soạn giả ẩn danh. Lúc ấy thì ông giáo lại càng khổ. Ông phải ra công điều tra, để tìm đứa nào đã tải vào lớp cái thứ “tác phẩm không được duyệt” ấy.

Một độ, ông giáo cứ phải mất thì giờ như thế luôn. Cho nên ông ra lệnh, bắt học trò đi qua lại bãi cỏ thì phải có ý tứ. Đứa nào mắt nghênh lên trời, thì phải chết đòn.

Bởi vậy, độ này, cái không khí lớp Đồng ấu trường phủ Nam đã thấy êm đềm, dễ chịu hơn.

*

*  

*

Nhưng một hôm, lúc ấy đã xẩm tối, thằng bé Xứng xin thầy u nó tiền mua xà phòng để gội đầu. U nó mắng:

- Sao ban ngày ban mặt mày không gội? Bây giờ tối rồi, đừng vẽ!

Nó khóc, nói:

- Thầy giáo bắt con gội. Nếu không, mai thầy đánh chết.

- Sao lúc nãy mày không nói?

Nó lại càng khóc già:

- Con quên.

- Làm gì mà thầy giáo bắt gội đầu?

Nó lại hu hu:

- Thầy bắt cả lớp phải gội.

U nó cho là nói dối, quát:

- Mày nói láo.

Nó trợn mắt, đáp:

- Thật đấy, tại ban nãy thầy ngửi đầu.

Rồi nó lại khóc to hơn, và kể lại đầu đuôi cho thầy u nó nghe.

*

*  

*

Buổi học chiều hôm ấy vừa đánh trống dứt hồi, học trò mới vào lớp, còn đang chí choé, đứa tìm quản bút, đứa mách mất sách, ông giáo cũng đang mải xử một vài cái kiện con con, thì bỗng có uế khí đưa thoang thoảng lên mũi. Ông lấy làm khó chịu quá. Ông bèn đứng dậy, đóng cái cửa sổ đằng sau lưng, để ngăn cho gió khỏi đưa hơi ở bãi cỏ vào.

Ông tưởng được yên mũi để làm việc. Nhưng ngờ đâu, cái mùi ấy vẫn lẩn quất ở trong lớp. Ông biết ngay rằng lại đứa nào đem nó vào đây.

Ông giận lắm, lẳng lặng đứng dậy. Ông đi từng bàn, giả vờ khám sách, để rình bắt đích danh thằng vô ý, rồi cho một trận để làm gương. Nhưng ông không thể dò ra. Vì chẳng có chỗ nào là tổ cái hơi nặng nề ấy cả.

Bỗng có dăm ba đứa khạc nhổ, nhìn nhau:

- Gớm! Anh nào…

Rồi một đứa đứng dậy, khoanh tay, mách:

- Bẩm thầy, anh nào…

Sợ học trò trẻ con không biết nói bóng, ông giáo vội gật đầu, vẫy tay cho nó ngồi xuống, và nói:

- Tao biết rồi.

Rồi học trò đứa nọ thì thào với đứa kia, để loan báo cái tin dữ dội của người đã làm rối cuộc trị an trong lớp.

Ông giáo tìm không ra mối, tức lắm. Nhất là mũi ông không thể lúc nào tránh được mà không giao thiệp với cái không khí không được êm đềm. Ông liền công nhiên mở cuộc phỏng vấn. Rồi xong cuộc phỏng vấn không công hiệu, ông định mở cuộc điều tra gắt gao.

Trước hết, ông hỏi:

- Chúng mày có ngửi thấy mùi gì không?

Một vài đứa nhanh nhảu, giơ tay đáp.

- Bẩm thầy mùi thối ạ.

Những đứa hiền lành chậm chạp, thưa:

- Bẩm thầy không ạ.

- Ừ, được. Bây giờ chúng mày xem kĩ lại, nếu chân đứa nào dính bẩn thì tao cho về mà rửa.

Lũ học trò lau nhau cúi đầu, giơ chân, tự khám một lúc. Nhưng chưa thấy đứa nào đứng lên thú tội. Thầy hơi cáu, nói xẵng:

- Thế thì không có đứa nào à? Chúng bay vô ý quá. Bây giờ tao cho phép chúng bay khám lẫn nhau. Đứa nào khám được, tao cho “dix”, đứa nào giẫm phải tao cho “zéro”!

Thấy cách trọng thưởng kẻ có công, đứa nào cũng hết sức mong được tố giác bạn. Nhưng không có kết quả. Ông giáo thì chẳng phút nào được hô hấp cái không khí trong lành. Ông càng phát cáu.

Mặt ông đỏ bao nhiêu, mặt trò học xanh bấy nhiêu. Chúng nó biết rằng đang vào cái tình thế nghiêm trọng, nên len lét, ngồi khoanh tay trên bàn, im phăng phắc.

Rồi sau, ông giáo đứng phắt dậy, mắng:

- Chúng mày như lũ gà mờ. Để tao thân hành đi khám từng đứa. Tao mà bắt được đứa nào thì tao đuổi.

Học trò càng sợ.

Cuộc điều tra của ông làm rất cẩn thận. Ông đi từng bàn, bắt từng đứa đứng dậy. Ông nhìn chân, nhìn tay, ngửi quần, ngửi áo, ngửi đầu thật kĩ lưỡng. Trong khi khám như thế, ông vẫn hỏi dò học trò:

- Chúng mày có thấy gì không?

Chúng đều thưa:

- Bẩm thầy có ạ.

Nhưng vài đứa ở bàn dưới, vẻ mặt sợ cuống, ý chừng muốn đẩy lỗi cho anh em bàn trên, nên trả lời:

- Bẩm không ạ.

Ông giáo nghiêm mặt, nhìn xuống cuối lớp, doạ:

- Rồi chốc nữa đến lượt chúng mày.

Khám xong bàn đầu, ông xuống đến bàn nhì, lại hỏi thử:

- Chúng mày có ngửi thấy gì không?

Ba bàn trên đáp:

- Bẩm có ạ.

Bàn cuối vẫn bướng bỉnh thưa:

- Bẩm không ạ.

Rồi ông khám đến bàn thứ ba, thứ tư, vân vân. Hỏi thì đứa nào cũng kêu là có, tiếng mỗi lúc một nhiều. Ông mới nghi đích là bàn cuối. Ông nhìn xuống, đe trước:

- Không những tao đuổi, tao còn đánh một trận cho chừa vô ý hoặc nói dối đã.

Ông đến bàn cuối cùng. Cả lớp sợ run. Ông thì mừng thầm công việc sắp kết liễu. Ông hỏi một cách chế nhạo:

- Thế nào, chúng mày đã ngửi thấy chưa?

Đứa nào đứa nấy mặt tái mét như gà cắt tiết, cố đánh hơi, và đáp:

- Bẩm thầy, có ạ.

- À, bây giờ chúng mày mới chịu nói thực. Liệu hồn! Chúng mày chớ oán tao là ác!

Rồi ông bắt năm đứa tình nghi đứng ra ngoài bàn, để khám xét từng li từng tí. Nhưng tức quá, khám đến mười phút mà vẫn vô công hiệu. Sắc giận của ông vẫn ngầu ngầu trên mặt. Ông lên ngồi trên ghế, chống tay vào bàn, hầm hầm, diễn thuyết:

- Chúng bay tệ quá! Tao đã dặn đi dặn lại bao nhiêu lần rằng đi qua chỗ bãi cỏ thì phải có ý tứ, mà chúng bay không nghe. Để chốc, tao còn khám một lượt nữa.

Một đứa học trò lớn đứng dậy, nói:

- Hay là thầy cho phép chúng con đi tìm xung quanh lớp xem ạ.

Cho là ý kiến hay, ông gật đầu, phái mấy đứa đi tìm mọi chỗ. Trong khi ông vẫn ngửi thấy mùi khó chịu, thì ở bàn thứ sáu, có đứa nói lớn lên:

- Tôi chẳng thấy mùi gì.

Ông cho là nó vô phép, dám có tư tưởng phản đối. Ông gọi nó lên, bắt quỳ ở cạnh bảng.

Phái bộ điều tra đã trở về. Vẫn không có kết quả. Ông giáo càng cáu. Nhưng không lẽ vì một chuyện bẩn thỉu mà cứ phải mất thì giờ mãi, ông bèn cho học trò mở sách để bắt đầu làm việc.

Vì đang lúc tức, nên giảng bài, ông gắt như mắm tôm.

Thỉnh thoảng, ông lại nhăn mặt, ghé ra cửa sổ để nhổ.

Giảng xong, ông nhìn thằng học trò phải phạt:

- Mày còn quỳ suốt buổi. Mày láo lắm, nghe chưa?

Thằng bé cúi đầu, sợ sệt. Ông nhìn nó một lúc, rồi hỏi cả lớp:

- Chúng mày có dám vô phép như nó không?

Cả lớp đồng thanh:

- Bẩm không ạ.

- Ừ, chúng mày phải…

Học trò tiếp:

- … nghe lời, kính trọng, yêu mến thầy như cha ạ.

Ông giáo gật đầu:

- Hễ hỗn láo thì phải…

- … phạt ạ.

Rồi ông nghiêm khắc nhìn thằng học trò khốn nạn.

Cả lớp im phăng phắc. Bỗng thằng ấy sụt sịt, cúi xuống đất, khạc nhổ ra lớp.

Ông giáo thấy nó xấc, quắc mắt hỏi:

- Mày làm gì?

Nó khoanh chặt tay vào ngực, nức nở, thưa:

- Bẩm thầy, con ngửi thấy rồi ạ.

Cả lớp cười ầm. Ông giáo cũng tủm tỉm về cách nịnh đời của thằng bé mới nứt mắt. Ông bảo:

- Bây giờ mày mới ngửi thấy. Mày đã mỏi gối rồi phải không?

- Bẩm thật ạ.

Rồi nó lại nhổ.

Ông giáo quát:

- Mày còn phải quỳ đến tan học.

Nó quệt nước mắt, nói:

- Bẩm thầy, thầy tha cho con, con ngửi thấy rồi ạ.

- À, làm sao bây giờ mày mới ngửi thấy?

Nó vẫn khoanh chặt tay vào ngực, nhưng lấy khuỷu để trỏ:

- Bẩm thầy, vì con thấy nó bèn bẹt kia ạ.

Nói xong, nó trỏ ngay vào giày ông giáo.

Cả lớp nghển cổ để nhìn. Ông giáo liếc mắt xuống gầm bàn, rồi tự nhiên, giúi hai chân lại sau ghế, và ôn tồn nói:

- Thôi, nhưng mà chốc nữa chúng mày phải gội đầu bằng xà phòng nhé! Thằng Xứng, lên đọc bài…

3-7-1934

Nguồn:

vuontaodan.net

DÌ HẢO

Dì Hảo là con nuôi của bà tôi. Bố đẻ của dì chết đã lâu. Mẹ đẻ dì là bà xã Vận, một người đàn bà bán bánh đúc xay, ngon có tiếng khắp làng Vũ Đại. Tôi biết bà là vì hồi còn bé tôi rất ưa ăn bánh đúc. Có lẽ lúc sinh tôi ra, ông trời đã định sẵn cho tôi một cái kiếp chẳng giàu sang, nên phú sẵn cho tôi cái tính thích những món ăn rẻ tiền của những người nghèo túng. Lúc có tôi thì nhà tôi chẳng còn nghèo. Thế mà tôi cứ thấy ăn cơm gạo đỏ, thổi khô khô, với rau muống luộc chấm tương ngon hơn cơm tám với thịt đông; mà cái bánh đúc xay nấu khéo còn đậm vị gấp nghìn lần cái bún tuy trắng, tuy mềm nhưng nhạt bép. Mỗi sáng, tôi cầm hai xu mẹ phát cho, theo con ở đi ra hàng. Hàng là một cái chợ nhỏ của làng tôi, họp ngay ở mặt đường, mỗi sáng chỉ họp độ một giờ là đã tan. Từ đằng xa tôi đã thấy những người đàn bà váy bạc phếch xúm xít quanh mẹt bánh đúc của bà xã Vận. Bà thái không kịp bán. Tuy vậy mới nhìn thấy tôi bà đã ngừng dao, nhặt bốn tấm bánh gói gọn ghẽ vào lá chuối, tươi cười đưa cho. Không phải bà thấy tôi ngộ nghĩnh đáng yêu. Nhưng bà không thể quên rằng bà còn nợ bà tôi mấy chục bạc. Cháu ngoại của một người chủ nợ kể cũng đáng cho người ta quý trọng. Tôi đưa hai xu, ôm bốn tấm bánh về. Bà bán đúng một trinh một tấm, mua nhiều hay ít cũng thế. Tấm bánh chẳng lấy gì làm to, so với bánh người khác có phần hơi đắt. Nhưng mà ngon hơn. Cái bột xay rất nhuyễn, vôi bỏ vừa, mịn chắc đấy, nhưng không nồng một tí nào, bẻ ra ăn với cá bống kho ráo nước cho đến cong lên, dầm vào một tí tương cua thì thật tuyệt! Về sau, ngọn gió đời đưa đẩy tôi trải qua rất nhiều cảnh huống: vất vả nhiều, nhưng cũng có lúc phong lưu, có lúc tôi có thể thừa cách mà hưởng tất cả các cao lương mĩ vị, nhưng chưa bao giờ tôi gặp một món ăn không thể làm tôi quên được cái hương vị thanh đạm mà vẫn đậm đà của bánh đúc ăn với cá bống dầm tương, nghĩ đến bây giờ mà tôi vẫn còn muốn nuốt nước bọt.

Mà cứ nghĩ đến bánh đúc là phải nghĩ đến bà xã Vận. Chồng bà chết đi để lại cho bà một trai một gái, con chị hơn thằng em ba bốn tuổi. Như thế chị có thể dắt em đi chơi để mẹ kiếm gạo. Nhưng một hôm bà xã nhận thấy rằng thằng cu đã có thể đi chơi một mình; hơn nữa nó có thể tha thẩn ngoài sân với con chó để coi nhà được. Con chị hoá ra thừa. Cũng phải cho nó đi ăn, đi ở với người ta để kiếm manh quần tấm áo. Chả gì cũng bớt miệng ăn. Phần cơm của nó, để em nó ăn thêm; như thế em nó được no thêm một ít nữa. Bà đã để ý nghe ngóng xem nhà nào có cần nuôi đứa ở bế em chăng. Chưa ai buồn hỏi đến, thì một hôm bà lại nghĩ về người chồng đã chết. Khốn nạn! Khi ông đã nằm xuống đấy thì bà chẳng còn một đồng nào. Bà chạy ngược chạy xuôi van lạy hết người nọ đến người kia, mới vay được non chục bạc. Non chục bạc thì chỉ nộp lệ làng, may cho con mỗi đứa một cái áo tang và cho bà một cái mấn, rồi biện miếng trầu, bát nước cho hàng xóm cũng đã không đủ rồi. Thành thừ bà chỉ dám mua cho ông cỗ áo quan có non ba đồng. Rõ nghĩ mà thương! Nó vừa mỏng, vừa mọt, mộng trẽo trà trẽo trẹt, giá chỉ bóp mạnh cũng răng rắc được. Của ấy được mấy nỗi mà nát? Bấm đốt ngón tay đã được sáu năm trời rồi. Cũng phải cố biện bát cơm, bát canh để thay cho ông ấy cái áo mới, chứ để thế thì tội nghiệp. Nhưng làm sao bây giờ?

Bà dẫn Hảo đến cho bà ngoại tôi. Bà ngoại tôi, ngoan đạo như những người vừa biết Chúa, thích nuôi trẻ ngoại đạo, rửa tội rồi nuôi làm con nuôi. Đó cũng là một cách để con cái đức Chúa lời ngày một thêm đông. Bà xã bằng lòng cho con gái bà đi đạo.

Bà tôi còn nhân đức, giả đăn đắt để trừ nợ năm sáu đồng. Thành ra bà xã chỉ còn được lấy có bảy đồng bạc thôi, nhưng hơn chục đồng còn nợ lại, từ đấy bà cứ lần khân mãi, có gặp bà tôi cũng chỉ van lạy khất, chứ không chịu trả. Bà tôi có bực mình cũng chỉ mắng té tát mấy câu, chứ không chửi bới tàn tệ hay bắt bớ, ấy cũng bởi bà tôi là một người đi vay.

Những khi vui chuyện, người thường kể lại với chúng tôi rằng: ngày xưa, khi ông thua bạc bỏ nhà đi, người còn phải trả trăm đồng bạc nợ. Người làm lụng vất vả, chiều hôm ban mai, một nắng hai sương, quanh năm chẳng có phút nghỉ ngơi, mà không bao giờ đủ tiền nộp lãi. Vì thế, hơi bước ra khỏi nhà là lủi trốn, giá có cái áo hơi lành hay nắm gạo ăn cũng sợ người ta bắt mất. Có lần người đong được một hào gạo dúm vào vạt áo và mua cho mẹ tôi – hồi ấy mới lên ba – một nắm xôi, đã cố lẩn lút, mà thế nào cũng bị một chủ nợ tinh mắt trông thấy, con mẹ ấy có tiếng là khe khắt. Bà tôi sụp ngay xuống lạy và khóc xin khất nó. Nó chẳng rằng, chẳng nói, giằng lấy dúm gạo, nắm xôi, đổ vào trong nón rồi ngoắt đi. Chẳng may người phu quét chợ trông thấy thế, nghĩ tức lây, bảo nó rằng:

- Bà có lấy của người ta nắm gạo đã là cùng lắm. Còn xu xôi người ta mua cho con người ta thì phải để cho con người ta chứ? Con người ta chịu đói, khóc có bong bóng mũi ra, từ sáng tới giờ, mà bà bắt của người ta thì nó chết. Bà cũng có con mà bà nỡ đang tâm làm thế à?

Con mẹ kia ngoa ngoắt, tớn môi lên:

- Ai khiến nhà bác chõ mồm vào đấy thế? Ró khéo con tiều! Bác thương nó thì mua cho nó.

Người quét phu chợ bực mình quăng ngay cho bà tôi hai hào:

- Đây này! Tôi cho nhà chị vay bao giờ kiếm được thì trả tôi; chúng nó giàu mà coi đồng xu bằng cái mẹt!

Vì thế người ta đồn rằng người quét phu chợ phải lòng bà tôi. Nhưng bà tôi quả quyết với chúng tôi rằng: Từ hôm cho bà tôi vay tiền, có gặp bà tôi ông ta chỉ lẳng đi như không trông thấy, nhưng chỉ mấy hôm bà tôi cũng cố tìm tiền đem trả cho ông phân minh tử tế; hai người chẳng bao giờ nói với nhau những lời có thể gọi là trai lơ. Vè sau, khi bà tôi sạch nợ, và có chút ít tiền, mà ông tôi vẫn biệt tăm, có nhiều đám muốn hỏi bà tôi làm vợ, toàn những đám danh giá cả nhưng bà tôi từ chối hết. Bà tôi bảo “Nếu tôi không nhất định chờ chồng, làm lụng nuôi con, thì tôi lấy người phu quét chợ ngày xưa rồi”.

Một người đã khổ sở vì tiền, tất phải quý đồng tiền. Nhưng không phải vì thế mà bà tôi nỡ bắt những con nợ của người phải chịu những nỗi khốn nạn mà trước kia người đã phải chịu. Đối với bà xã Vận, người tỏ ra dễ dàng.

Nhưng sự dễ dàng ấy, một phần nữa, cũng do có cô Hảo, người được nhận làm con nuôi.

Mới đầu, dì Hảo khóc lóc đến mười hôm: dù có được ăn no, mặc lành đi chăng nữa, người ta cũng không thể phút chốc mà quên cái lều hôi hám là nơi mình đói rách, khổ sở với em và mẹ. Nhưng rồi dì cũng khuây dần. Dì theo mẹ tôi đi nhà thờ học kinh và “các lễ” cầu cho được rỗi các linh hồn. Dì thấy đi đạo cũng vui. Dần dần người ta dạy cho dì biết có một đức Chúa lời dựng nên trời đất, muôn vật và loài người ta, đức Chúa lời có ba ngôi và ngôi thứ hai ra đời lấy tên là Giê-su; đức Chúa Giê-su chịu đóng đanh trên cây thánh giá để chuộc tội cho thiên hạ… Ai tin những điều ấy thì được rỗi linh hồn, bằng ai chẳng tin, thì phải xuống địa ngục đầy lửa sinh, lửa diêm, có tiếng khóc lóc và nghiến răng. Tiếng khóc lóc và nghiến răng ken két, thì dì không sợ lắm. Hồi còn ở nhà, em dì khóc nhè nhè suốt ngày; những hôm nó nóng đầu, thì đêm ngủ nó nghiến răng ken két; quen đi thì cũng không sợ gì, nhưng dì sợ lửa sinh, lửa diêm nó thiêu đốt người ta đời đời kiếp kiếp. Có là thánh cũng không chịu nổi! Nghe nói đến địa ngục là dì lừ lưỡi ra. Và dì tin. Dì trở nên rất ngoan đạo nữa. Dì với tôi đọc kinh và hát vãn với nhau suốt ngày.

Dì bắt đầu muốn xa lánh hẳn cái lều tối tăm đầy những ma cùng quỷ; thực tình, dì rất ít khi muốn về thăm mẹ ở nhà, và mỗi lần có phải về thăm mẹ, dì thấy hơi rờn rợn khi đến gần cái bàn thờ lúc nào cũng âm u như che đậy bao nhiêu là bí mật. Và đây mới thật là cái buồn não nuột: dì thấy ghê ghê ngay mẹ dì. Bà xã Vận bỗng thành người đồng bóng; những ngày rằm, mồng một, bà thường khăn chầu, áo ngự, đến điện nhà cô đồng Ốc để hầu. Dì dùng những lờì rất khinh bỉ để nhạo báng bà, bà nhạo lại dì, mẹ con dần dần chẳng muốn nhìn mặt nhau làm gì cho thêm bực. Dì nghẹo đầu đi, mặt đỏ bừng, nước mũi chảy ra, lệch xệch vác tôi đi. Thế mà tôi có đòi đứng xuống dì cũng nhất định không chịu đấy!

Sự tận tâm của dì cảm động lòng tôi. Mãi đến lúc tôi đã đi học, dì đã ngồi trên khung cửi, chúng tôi còn quyến luyến nhau. Tôi học bài bên cạnh khung cửi dì. Dì thúc giục tôi. Nghe những bài học lủng củng như “ếch kêu, chó cắn”, – tôi đã học sang vần trắc – dì khen tôi giỏi quá, khó như thế mà nhớ được! Rồi tưởng những tiếng âm vô nghĩa ấy là những câu thần chú gọi cái không của loài người, dì cố nhẩm theo, và lâu dần thuộc lòng tất cả các bài tôi học; có lúc tôi ấp úng dì nhắc cho tôi đọc nữa; lại đến lượt tôi phục dì! Khi bài tôi đã thuộc, tấm vải của dì được ra rồi dì giũ váy mấy cái cho lông vải bay hết, rồi lại ôm tôi vào lòng mà vuốt hai cái trái đào của tôi. Những lúc ấy, tôi thấy êm ái chẳng khác gì nằm trong lòng mẹ.

Dì Hảo ơi! Tôi hãy còn nhớ cái ngày dì bỏ tôi đi lấy chồng. Đó là một buổi chiều có sương bay. Người ta đã đến đón dì vào lúc tờ mờ tối. Cũng chẳng lấy gì làm đông lắm, bên nhà trai đâu lẻ tẻ mươi người. Về đằng nhà gái, bà tôi chỉ có dăm ba người chị em đưa đi, chính tôi cũng chẳng được đi. Mẹ tôi bảo: “Không có cỗ đâu: nhà người ta có trở, chỉ biện cơi trầu, bát nước”. Nhưng nào tôi có đòi đi để được ăn cỗ! Tôi chỉ theo dì Hảo của tôi: từ trước đến nay, có bao giờ dì đi đâu mà để tôi ở nhà? Người ta giữ tôi lại. Tôi tức, khóc oà lên, tôi tức bà tôi, tôi tức thầy tôi, tôi tức cả dì Hảo nữa! Tôi tự hỏi sao dì cứ phải đi lấy chồng? Và ngay bây giờ nữa, dì Hảo hỡi! Có lúc tôi vẫn ân hận vì dì đã đi lấy chồng. Nếu dì cứ ở nhà, nếu dì cứ là một người dì của tôi mãi mãi, thì có lẽ khỏi khổ, ít ra, dì cũng đỡ khổ hơn bây giờ.

Nhưng mà sự thật ấy đã không thể đừng được. Dì Hảo đã đi lấy chồng, mang theo cho người ấy tất cả lòng yêu vẫn để cho tôi. Và người ấy đã nhận tấm lòng yêu ấy, nhận lấy mà chẳng làm gì cho đáng nhận.

Người ấy không yêu dì. Thật mà! Người ấy chẳng yêu dì Hảo đâu. Mà lại còn khinh dì là khác nữa. Hắn khinh dì là đứa con nuôi, còn hắn là con dòng cháu giống. Và tuy rằng nghèo xác, hắn nhất định không làm gì. Hắn lấy vợ để cho vợ nó nuôi. Dì Hảo cũng nghĩ đúng như thế ấy; dì làm mà nuôi hắn. Người vợ đảm đang ấy kiếm mỗi ngày được hai hào, dì ăn có năm xu. Còn một hào thì hắn dùng mà uống rượu. Và dì Hảo sung sướng lắm. Và gia đình vui vẻ lắm. Nhưng sự tai ác của ông trời bắt dì đẻ một đứa con.

Đứa con chết, mà dì thì tê liệt. Mỗi ngày ngồi là một ngày không có hai hào. Người chồng muốn đó là cái lỗi của người vợ vô phúc ấy.

Nhưng mới đầu hắn chỉ nghĩ thế thôi. Là vì nhờ ít tiền dành dụm. người ta vẫn có thể đủ cả cơm lẫn rượu. Nhưng rồi rượu phải bớt đi. Đến cả cơm cũng thế. Đến lúc ấy thì hắn không nhịn được nữa. Hắn chửi bâng quơ. Hắn chửi những nhà giàu, hắn chửi số kiếp hắn, và sau cùng thì chửi vợ. Ô! Hắn chửi nhiều lắm lắm, một bữa đói rượu rồi tình cờ có một bữa rượu say.

Dì Hảo chẳng nói năng gì. Dì nghiến chặt răng để cho khỏi khóc nhưng mà dì cứ khóc. Chao ôi! Dì Hảo khóc. Dì khóc nức nở, khóc nấc lên, khóc như người ta thổ. Dì thổ ra nước mắt. Nhưng đã vội phí nước mắt làm gì nhiều đến thế. Vì dì còn phải khóc hơn thế nhiều, khi hắn chán chửi, bỏ nhà mà đi, bỏ đi bơ vơ, đau ốm, để tìm cơm rượu. Trách làm gì hắn, cái con người bắt buộc phải tàn nhẫn ấy? Hắn phải ăn, phải uống, phải vui thú, đó là đời của hắn. Dì Hảo què liệt không còn những cái ấy để mà cho. Không, dì có trách chi con người tàn nhẫn ấy. Cũng như dì đã không trách bà tôi đã làm ngơ không cấp đỡ cho dì. Bà tôi có còn giàu như trước nữa đâu? Người đã già, đã ốm yếu, và khổ cực thay! Đã nghèo như lúc còn hăm hai. Cái cơ nghiệp người gây dựng thầy tôi buôn bán thua lỗ, chúng tôi học hành tổn phí nhiều, đã tan tác đi theo gió bốn phương. Người chỉ có thể đem đến cho dì Hảo mỗi ngày một xu quà, và rất nhiều nước mắt. Và rất nhiều lời than thở.

Nhưng rồi bệnh dì cũng qua đi. Nó qua như một thằng quái ác chán không muốn hành hạ một kẻ kiên nhẫn quá. Dì Hảo lại đi làm, lại có tiền, lại muốn có chồng để mỗi ngày ăn năm xu và hắn dùng một hào còn lại đi uống rượu. Thì quả nhiên hắn về. Hắn về với một cái quần đen, một cái áo tây vàng, túi xóc xách tiền và một người vợ theo trơ tráo. Thoạt đầu thì người vợ chính ngạc nhiên. Rồi thì tức tối. Sau cùng thì dì nhẫn nại; phải, nhẫn nại là hơn; nếu hắn không về thì cũng thế.

Nhưng mà hắn đã về, hắn lại làm chủ cái lều và ba sào vườn của ông cha để lại. Hắn tưởng có quyền chẳng làm gì mà chỉ uống rượu ăn cơm. Và uống rồi, ăn rồi, nó cười sặc sụa.

Cái con vợ bé ấy trơ tráo lạ. Nó chẳng biết làm gì cả. Nó hát những câu tục tằn. Nó uống rượu tựa đàn ông, hút thuốc tựa đàn ông, búi tóc ngược, mặc quần áo trắng tựa đàn ông. Nó sẽ lôi chồng dì vào đáy sâu địa ngục thôi! Cheo leo thay cho cái linh hồn của chồng dì.

Thế mà chồng dì say mê nó lắm. Chồng dì gọi nó là “mợ mình”, và mua cho những hộp sữa bò sáu hào bảy khi nó ốm hay làm ra vẻ ốm.

Còn dì, dì biết phận dì. Dì cố nhắm mắt để khỏi trông thấy chúng. Dì chẳng hé răng nói nửa lời, nhưng dì khóc ngấm ngầm khi chúng cười vui, dì nhịn quắt ruột khi chúng ăn phung phí. Dì héo hắt đi, dì còm cõi. đúng như một con mèo đói. Nhưng nếu dì còn được như thế mãi!

Một buổi sáng, chừng như chúng nó đã cạn tiền và cạn cả lòng yêu. Dì đoán thế vì luôn hai, ba hôm, dì không thấy chúng uống rượu và cười sặc sụa. Con vợ bé vừa nhổ bọt vừa nói cằn nhằn. Anh đàn ông hõm má vào và lõ mũi ra. Hắn vừa khoặm mắt vừa văng tục. Con kia mặt sưng lên, cứ nói một câu lại choai người lên một cái và vỗ đùi đồm độp. Chúng nó nhảy xổ vào nhau. Rồi đấm đá, cắn cấu với những tiếng gào thét ầm ĩ quá. Chẳng biết làm sao, để mặc chúng, dì bỏ đi làm. Cũng như dì đã mặc những phút mặn nồng của chúng.

Chiều hôm ấy, nhà có vẻ đám ma. Dì không thấy con vợ bé đâu. Cả chồng dì cũng thế. Nhà cửa, đồ đạc thì bừa bộn. Mấy cái nồi đất và đôi lọ xách nước tan ra từng mảnh. Lấy tiền đâu mà sắm sửa lại bây giờ. Trời ơi! Nhưng kia hắn đã về. Hắn về có một mình, một chai rượu trong tay và những tia giận bừng bừng trong mắt. Hắn uống, rồi lại uống, uống lẳng lặng như chưa bao giờ hắn uống. Hắn uống cả chai. Rồi hắn đập chai ra, và chửi. Hắn chửi bâng quơ. Hắn chửi số kiếp hắn. Hắn chửi đàn bà. Hắn chửi con vợ bé. Dì Hảo cắn chặt răng để cho khỏi khóc. Nhưng cứ khóc. Hôm sau hắn ra đi, không biết đi đâu.

CON CHÓ XẤU XÍ

Nó là một con chó xấu xí! Xấu đến nỗi trong nhà chẳng ai buồn đặt cho nó một cái tên. Nó không được là tôtô, kiki, cũng chẳng là quýt, là cún, là gì gì cả. Gọi nó người ta chỉ việc “êu, êu…” như gọi bất cứ một con chó nào là nó đến. Mãi đến lúc nó chết, đôi khi nhắc đến, vợ tôi mới gọi nó bằng cái tên nghe rất đỗi thương yêu: “Con Mực nhà ta… Ngày Tây nhảy dù Việt Bắc, con Mực nhà ta… Ngày con Hiền mới chập chững biết đi, con Mực nhà ta…”

Khốn nạn, cái “con Mực nhà ta” ấy, thực ra từ lúc mua, đến lúc chết, nó phải chịu sự ghét bỏ, hắt hủi của mọi người trong nhà tôi y như đứa trẻ, con một người làm lẽ thứ năm, thứ bảy trong một gia đình giàu có, đông con mà bố mẹ chết rồi phải ở với anh, chị con bà cả vậy.

Ngày ấy con bé đầu lòng của tôi chưa đầy tuổi tôi, vợ tôi cần có một con chó nhép để cho nó “dọn”. Cái trò đàn bà hay tham rẻ, chỉ tính đến chuyện được việc. Nhà tôi mua nó đâu có ba hào chỉ.

Tôi bực mình lắm. Cứ thoáng trông thấy nó, tôi đã lộn ruột lên rồi. “Chó gầy khổ mắt người nuôi!” Ừ thì trong lúc kháng chiến này cũng chẳng nên kén chọn, cầu kì đến những giống chó đồ, chó kiểu làm gì, nhưng đã nuôi cái của giống má trong nhà, ít ra cũng phải sạch mắt thì mới coi được. Đằng này, con chó nhà tôi mua, nom nó thảm hại quá. Nó không còn thể gọi là con chó được nữa. Nó bằng cái nắm đấm thế này, vừa bé, vừa lường, còm dóm như con chuột chù ốm ấy. Nhất là những hôm đang lạnh bỗng dưng trở nắng, con chó nhà tôi ra sân ngồi sưởi thì, giời đất cha mẹ ơi, không còn thể sao khươm được. Bẩn mắt quá!

Nó ngồi gù gù ngoài bóng nắng như anh nghiện thiếu thuốc. Cái mặt gục xuống, rớt rãi chảy ra, hai con mắt ướt nhoèn hai cục nhử trắng nhã. Cái lưng khòm khòm nổi lên từng đốt, từng đốt xương sống.

Cái con chó khốn khổ ấy nó không còn đủ cả lông để che kín thân thể nữa. Lông nó lường ăn rụng từng đám lơ phơ, nham nhở và đỏ bẻm như đám cỏ ấy. Da lưng, da bụng, da cổ trật ra sần sùi, cóc cáy, đến cả cái đuôi cũng không đủ lông. Đuôi nó thun lủn một mẩu xám xịt như đuôi con chuột cống già.

Dưới ánh nắng mùa hanh rát ràn rạt, lớp da răn rúm bọc ngoài cái thân hình gầy gùa, lủng củng những xương của nó, lúc lúc lại thấy rùng lên. Nó khẽ rên ư ử một cách sung sướng và thê thảm…

Tôi bảo nhà tôi đem mà vứt mẹ nó đi, không có cho ai thì cho. Nhà tôi chỉ cười:

- Cho là thế nào? Để tăng gia đấy.

Nhà tôi cũng biết trót mua phải con chó xấu quá, nên mỗi bận tôi kì kèo chỉ cười, nói quấy quá cho xong lần. Còn con chó thì hình như nó cũng biết thân phận nó, biết tôi ghét nó, mỗi lần thấy bóng tôi từ xa, cu cậu đã lui lủi lỉnh đi chỗ khác. Nó cúi gằm mặt xuống, mắt lấm lét nhìn trộm, cái đuôi thun lủn một mẩu thịt cháy thì khẽ ngoáy ngoáy mừng nịnh. Tôi càng ghét.

Cho mãi đến hôm có Đặng ở đoàn kịch của tỉnh đi qua tạt vào thăm, con chó ấy mới được yên thân với số phận Đặng quyết định cho nó và, từ đấy tôi cũng thôi không kì kèo nhà tôi nữa.

Đặng là một tay bợm rượu. Anh em bạn chơi vẫn gọi anh ta là Đặng cồn. Người anh ta lúc nào nom cũng ủ dột. Mặt trắng bự, mắt ướt nhoèn, lưng gù, cặp kính trắng thõng xuống đến cánh mũi. Cái miệng chảy thễu ra lúc nào cũng thấy đánh tóp ta, tóp tép như cóc thèm muỗi. Thường khi cả ngày chẳng thấy anh ta nói một câu, ấy hễ mà ngồi vào mâm rượu là cả người anh ta bỗng tỉnh táo, linh hoạt và cái khuôn mặt bệch bạc, rụng hết lông mày của anh phút chốc rạng rỡ hẳn lên. Lúc ấy sao mà anh ta nói chuyện có duyên đến thế! Anh gọi chó là “hươu thềm”, là “nàng thơ của cụ Lỗ Trí Thâm”. Chó vàng anh gọi là “ka ki”, chó đen anh gọi là “nhung Thượng Hải”. Những con chó thui nhoáng mỡ treo lủng lẳng trước quán hàng anh gọi là “leo coóc” v. v…

Hôm Đặng vào chơi tôi, con chó ấy đang ngồi phơi nắng ở giữa sân. Cũng như mọi bận, vừa thấy động bóng người, cu cậu đã lử khử đứng dậy, cúi đầu lặng lẽ lui lủi xuống bếp. Nhưng mà Đặng đã nhìn thấy nó rồi. Anh ta tiếng rằng hấp him, cặp bà lời nhưng lắm cái lại tinh ra phết.

Vừa thoáng thấy con nhãi nhép ấy, anh ta bỗng reo lên:

- A ha, nhà này vừa sắm được của quý!

Nhà tôi ngồi trong bếp nhìn ra chưa hiểu nhà mình sắm được cái của quý gì, Đặng đã ngồi sà xuống đất, nheo mắt khẽ gọi:

- Êu, chậc, chậc chậc!…

Tiếng gọi nghe thật dịu dàng, âu yếm. Con chó đứng lại lưỡng lự, nghi ngờ. Từ ngày về nhà này có bao giờ nó được nghe cái tiếng gọi thương yêu đến như thế.

- Êu, chậc chậc chậc!…

Con chó sướng quá, ngoáy tít cái đuôi trụi, dặt dẹo trên bốn cái khoeo gầy quay trở lại. Đến gần Đặng, nó nằm rạp xuống, thè lưỡi ra liếm liếm, và khẽ rít lên ư ử.

Đặng cúi xuống nghiêng nghé cặp kính nhìn con chó hồi lâu, anh gật gù, tấm tắc khen:

- Hay! Hay lắm! Sáng kiến của bà Hiền phải không?

Nhà tôi thấy Đặng chú ý đến con chó mình mua một cách đặc biệt như vậy cũng hởi lòng hởi dạ. Nhà tôi cười bảo anh ta:

- Vâng tôi mua đấy anh ạ. Thế mà nhà tôi cứ bảo đem cho…

- Cho là thế nào! - Đặng trợn mắt lên cướp lời. - Chị cứ để đấy cho tôi. Ba tháng nữa tôi giở lại, được vô khối là việc.

Đặng nháy tôi một cái, làm dáng điệu đang thủ một cái chày sau lưng, miệng ngọt ngào gọi “êu, chậc…” rồi thình lình anh trợn mắt, mím môi bổ xuống không khí một cái thật mạnh:

- A lê hấp! Cho một chày, chị biết chửa?

Đặng cười ré lên một hồi ròn khanh khách. Con chó dưới chân Đặng cồn giật thót người, cúp đuôi chạy vút đi. Đặng càng cười đắc ý.

Đi với Đặng cồn còn có Nhược Dự. Bận nào Đặng đến nhà tôi, Nhược Dự cũng đi theo. Anh ta là người khó hiểu, khôn ngoan và kín đáo. Ngồi nói chuyện với anh ta khó mà biết được ý thật của anh ta như thế nào. Bao giờ anh ta cũng nói theo ý của người khác và nếu gặp một ý nào đối chọi lại lập tức anh ta rụt lại ngay. Lúc nào anh ta cũng khoác bên ngoài cái vẻ lờ mờ, rụt rè như một người lạc lõng, hiểu rất ít về thời cục.

Hồi mới chạy lên trên này, Nhược Dự còn để cái đầu trọc. Cái đầu sinh ra từ ngày còn Nhật chưa có dịp chuyển sang đầu thường, nhưng chỉ mấy tháng sau tóc anh đã mọc rất dài, không những thế anh còn để cả bộ râu dài lượt mượt như một ông cụ nữa. Bộ râu lạc lõng trên cái mặt non choẹt, trắng nhẫy nom như râu đóng kịch. Có bộ râu ấy, anh có thể rền rĩ, than thở với mấy ông xã đội trưởng rằng mình già yếu không thể đi canh gác, hay đi phá đường được; hoặc từ chối một vài việc gì đấy mà uỷ ban muốn nhờ anh ta giúp đỡ. Trước ngày, Nhược Dự cũng có viết văn. Anh ta viết những truyện “ái tình” lâm li, sướt mướt với một thứ văn chương uốn éo, quen thuộc, rẻ tiền. Anh ta làm văn chẳng khác gì người thợ kim hoàn quen tay làm đồ mĩ kí. Vì thế, từ ngày khởi nghĩa anh không viết gì được nữa, mà anh ta cũng chẳng nghĩ gì đến chuyện tiếp tục viết văn.

Tuy vậy, cả nhà anh ta, từ bà cả già mõ bán bún riêu ngoài quán đình Bùi, đến cô vợ hai còn trẻ măng chuyên việc bếp núc, hầu hạ chồng và con chồng ở nhà đều như còn luẩn quẩn, mê luyến với cái không khí của một thời “oanh liệt” của ông chồng trước kia… Trước mặt người lạ, họ đối đãi, nói năng với nhau hoa mĩ, kiểu cách như người trong truyện cả. Nghĩa là nghe nó ngớ ngẩn, giả dối rất chướng tai!

Người như vậy, kháng chiến cũng không bỏ. Biết Nhược Dự trước kia có viết văn, cơ quan tôi mấy bận cử người về đón anh đi công tác. Bận nào Nhược Dự cũng có bộ mặt rầu rĩ, băn khoăn vì nỗi hoàn cảnh anh ta bó buộc, vì anh ta nặng gánh gia đình, vì anh ta bệnh tật, đau yếu luôn. Phải loanh quanh ở nhà như vậy anh ta lấy làm xấu hổ và khổ tâm lắm lắm.

Người địa phương vì thế ghét vợ chồng anh ta thậm tệ. Giữa cuộc kháng chiến bùng nổ, không ai có thể ưa một anh đàn ông sức dài vai rộng mà chỉ thấy cập kè với hai bà vợ và nhởn nhơ với một ngôi hàng. Người ta làm vợ chồng anh khó chịu, tức tối ngấm ngầm, có khi phải tủi hổ.

Mỗi lần Đặng có việc đi qua tạt vào chơi, vợ chồng Nhược Dự rất mừng. Trong số bè bạn ngày trước chỉ có Đặng là chịu chuyện được vợ chồng nhà này. Nhược Dự vớ được Đặng như người chết đuối vớ được cọc. Mỗi lần gặp nhau lại rượu. Trên mâm rượu “tha hương ngộ cố”… ít ra anh ta cũng nói được đại ba câu cảm khái vụn, ngâm ngợi một vài bài thơ than thở cho thân, cho thì. Có lần rượu vào anh ta rũ xuống mà khóc.

Hôm Nhược Dự theo Đặng đến nhà tôi chơi, thấy Đặng có ý kiến về con chó ghẻ như vậy, anh ta liền “bốc” ngay. Anh ta ca tụng các món thịt cầy, ca tụng cái đạo của những ai biết thưởng thức thịt cầy, cuối cùng anh ta hẹn ba tháng nữa, Đặng trở lại sẽ hội ẩm một chầu thịt cầy có thể gọi là “phanh dương, tể ngựu…”

- Cô hai nhà moa sẽ đội sang một cái quả sơn đầy bún với hai cây rượu đặt thật trứ danh. Các toa sẽ thưởng thức của bà cả nhà moa món giò chó, món thịt chó hầm cách thuỷ, món thịt chó hấp… À, các toa đã được nghe bà cả nhà moa ngâm “Hồ trường” chưa? Này “en” mà ngà ngà mấy chén vào, ngâm “Hồ trường” thì lạ lùng hết sức… Buồn mà thấm vô cùng…

Thực tình trong lúc này, tôi chẳng thấy hay ho gì những cái trò ấy. Nhưng thôi, con chó như thế, nó cũng yên với cái phận của nó rồi. Tôi cũng thôi không còn phải băn khoăn, kì kèo, ca thán gì về nó nữa. Trong những ngày chờ đợi nó béo, lớn lên, tôi như đã quên nó, coi như không có nó trong gia đình. Đôi lần gặp Đặng, anh ta có nhắc nhở, tôi mới nhớ ra và trả lời một cách mù mờ rằng: con chó ấy có dễ nó cũng kha khá lên rồi. Thật ra tôi có biết bây giờ con chó nó gầy, béo ra sao đâu. Một phần vì độ ấy cơ quan tôi đã chuyển sâu vào rừng, tôi ít khi về nhà; một phần vì con chó ấy cứ thoáng thấy bóng tôi, nó đã lui lủi lỉnh đi, nằm bẹp ở xó xỉnh nào rồi.

Một buổi chiều, tôi vừa ở cơ quan ra thì gặp Đặng khoác ba lô, chống cái gậy hèo khật khưỡng đi tới. Thấy tôi, anh ta mừng quá, phì cả hơi rượu vào mũi tôi, nói choang choang giữa rừng:

- À, mày… Thằng Hiền! Thế nào, to chưa? To rồi chứ còn gì?

Tôi đứng ngây ra không hiểu Đặng hỏi tôi cái gì to chửa. Anh ta phì cười, phát đen đét vào vai tôi:

- Bố khỉ, bố đần!… Con chó ốm nhà mày ấy, to chửa? Khử được rồi chứ còn gì?

Tôi gật đầu cười “à à…”. Ra cái tay bợm rượu này không lúc nào nó quên được con chó!

- Tao đã bảo vợ chồng nhà Nhược Dự rồi. Hai chai bố trong suốt như nước suối…

Anh nháy tôi một cái, ngấp ngó cặp kính thõng xuống tận mũi, nhìn tôi:

- Kể ra vợ chồng chúng nó cũng có khí… nhạt đấy. Mặc mẹ, được việc cho mình thì thôi, hả?

Anh ta cười khá lên một dịp ròn tan.

- Chủ nhật hả! Chủ nhật này mày về, ta làm một chầu văn hoá cao!

Đặng bắt tay tôi, hỉ hả chống gậy lên đường. Nhưng sự đời có mấy khi chiều những ý muốn đã định trước. Đặng vừa đi hôm trước thì hôm sau có tin giặc nhảy dù Thái Nguyên, rồi có tin giặc từ Bắc Giang đánh lên, Bắc Ninh đánh sang. Lối Kim Tràng, Cầu Xim, Cầu Đồng; bên núi Hia, núi Đót; dưới chợ Lữ, bến Lủi, bến Phà, đâu đâu cũng có giặc cả rồi. Người các mạn dưới đánh trâu, bò, bồng bế, gồng gánh chạy giặc dạt lên đen kín cả ngoài cánh đồng.

Cơ quan tôi đã chuẩn bị từ trước, vừa có tin giặc nhảy dù Thái Nguyên, lập tức chuyển sâu thêm nữa vào rừng, sang một địa điểm tỉnh khác. Tôi được anh em đồng ý cho về thu xếp gia đình rồi sẽ theo cơ quan sau. Anh em ai cũng biết cảnh nhà tôi neo bấn, chỉ có một mình vợ tôi với đứa con gái nhỏ, lại ở vào giữa vùng giặc đang đánh lên, một mình vợ tôi sẽ không biết xoay xoả như thế nào trong cái tình thế khó khăn, bối rối ấy được. Tôi về chuyến ấy, có ý định sẽ đưa gia đình theo cơ quan, ở một trại ấp hẻo lánh nào đấy cách cơ quan tôi chừng độ dăm bảy cây số cho tiện sự đi về thăm nom.

Con chó của tôi như thế không thể “làm một chầu văn hoá cao” như Đặng hẹn nữa, và cái số phận của nó cũng vì cuộc chạy giặc ấy mà thay đổi.

Đêm ấy tôi từ cơ quan về đến nhà thì vợ con tôi đã chạy cả rồi. Hàng ấp cũng không còn nhà nào ở lại. Xóm ngõ vắng tanh, súng giặc nghe rền từng chập. Nghe rõ tiếng liên thanh ùng ục và, từng phát súng trường lẻ tẻ rít vào không khí.

Tôi biết vợ con tôi đã chạy vào đồng Kĩnh. Từ mấy tháng nay, mỗi bận tôi về nhà, hay viết thư về cho nhà, tôi đều căn dặn vợ tôi lúc nào cũng phải hết sức gọn gàng, phòng giặc đánh lên, hoặc nhảy dù là có thể bế con chạy ngay được. Trường hợp tôi chưa về kịp, mẹ con hãy chạy vào nhà cụ bếp Móm trong đồng Kĩnh làm chỗ liên lạc, tôi sẽ về đón. Ở trong ấy gần rừng, hẻo lánh dễ chạy, mà cụ bếp Móm lại là chỗ đi lại quen biết từ trước, nhỡ xảy gặp khó khăn có thể nhờ cậy được.

Tôi đảo về qua nhà, đi vẩn vơ ngoài cái sân bỏ vắng mấy lượt, rồi cắm đầu đi thẳng vào đồng Kĩnh. Bấy giờ đã khuya lắm. Đêm tối vẫn rùng rùng bóng người, bóng trâu bò chạy giặc. Người ở vùng dưới chạy lên đây, người ở đây lại chạy mãi vào những mạn ven rừng. Trong các búi cây, bờ ruộng, khe suối, rệ đồi, trong các lều quán ven đường, chỗ nào cũng thấy nhan nhản những người. Chỗ nào cũng nghe tiếng trẻ khóc, tiếng gọi thưa, tiếng than thở, chửi rủa. Ruột gan tôi càng rối lên.

Vào đến nhà cụ bếp Móm, tôi giục nhà tôi thổi cơm ăn, chuẩn bị đi ngay đêm nay. Bây giờ tôi mới chợt nghĩ đến con chó. Tôi thấy nó vương vướng. Đem nó theo gia đình lúc này thật chẳng được tích sự gì, rất phiền, mà rất có thể nguy hiểm. Mà bỏ nó lại thì… thật ra trong lòng tôi cũng áy náy. Trong cái lúc chạy giặc này, trong cái lúc con người ta đang phấn đấu giành lấy sự sống, sự đoàn tụ, yên vui, phải bỏ lại bất cứ một vật gì đã có trong gia đình mình cũng đều thấy xót xa như phải bỏ lại một con người và có cảm giác như đấy là một cuộc chia li phũ phàng giữa cái sống và cái chết.

Con chó ấy, từ trước vẫn sợ tôi, thoáng thấy bóng tôi là tránh cho thật xa, đêm nay hình như nó cũng thấy có những cái gì khác hẳn, cái gì như là tan nát, thấy tôi về, nó mừng quá, nó quên cả cái thói quen sợ tôi của nó, nó chạy bổ ra với tôi, mừng rối rít. Nó quấn lấy tôi, dều dễu theo tôi, nằm phục dưới chân tôi mà hít hít, ngửi ngửi rên lên những tiếng ư ử sung sướng, thân thiết. Thì ra những lúc gian nguy, chẳng những con người, đến con vật cũng quên hết những ghét bỏ, hiềm khích cũ mà gần gũi, thương yêu nhau, thấy cần phải nương tựa vào nhau mà sống. Tôi bỗng đâm ra lưỡng lự không biết đối xử với con chó này như thế nào, bỏ nó lại, hay là mang nó đi?…

Người chạy giặc vẫn kéo lên mỗi lúc một đông. Có tốp tiếp tục đi mãi vào trong mạn rừng, có tốp nghỉ lại ở đây. Cái túp nhà ông cụ bếp Móm chặt nèn những người. Trong số những người mới đến tôi thấy có cả ba vợ chồng Nhược Dự, tôi mừng quá, chạy ra hỏi tin giặc. Nhược Dự với cô vợ hai không nói gì. Đêm nay anh ta thay đổi hẳn, gặp tôi anh ta cũng chẳng thấy nhích lên được một nét vui nào. Anh ta chỉ lầm lầm cái mặt và thở dài. Sự lo lắng, chán nản, oán trách hiện lên đầy mặt. Anh ta đối với tôi lúc này lại như có vẻ hờ hững, khó chịu. Trái lại chị vợ cả lại nói rất nhiều, cặp môi ăn trầu thuốc thâm đen của chị cuốn lên. Chị nói bằng mắt, bằng tay, bằng nét mặt, bằng tất cả cái sắc sảo của một tay buôn lọc lõi. Có lúc chị nói liên liến một hồi như cái máy khâu đạp cố rồi đột nhiên ngừng lại, đưa mắt dò la đánh giá người nghe, có lúc chị nói khoan thai thẽ thọt như thể giọng mẹ chồng ngồi kể xấu nàng dâu. Có lúc chị giả giọng ba bốn người trò chuyện đối đáp với nhau. Chị vừa nói vừa cười ròn khanh khách. Kể chuyện giặc đánh lên, giặc đốt làng mà giọng chị nghe văn hoa, hồ hởi như chuyện vừa kiếm được món hời.

- Tại anh Nhược Dự đấy, kêu là chiều tối rồi, nó không lên nữa, để sáng sớm mai hẵng chạy còn kịp chán. Thế mà ai ngờ nó đi đêm anh ạ. Nó đốt cái quán ở đình Bùi của tôi rồi. Tiếc quá.

- Nó lên đình Bùi rồi chị?

Chị bổ cái mặt chị vào mặt tôi:

- Chả có hai lần đình Bùi! Nó đến Nhã

Nam

rồi anh ạ. Thật cả là một sự điêu linh. Cũng chỉ tại mấy bố du kích nhà ta thôi anh ạ. Súng ống chẳng có, có mấy khẩu súng kíp còm cũng đậm đọp bắn nó. Nó mấy cáu, nó mấy đốt cho. Nó đốt đình Bùi, đốt Cao Thượng, bây giờ nó đang đốt Nhã

Nam

đấy. Vợ chồng tôi vừa chạy giặc, vừa ngoảnh lại nhìn ngọn lửa quân xâm lăng tàn bạo nó đốt nhà, đốt cửa của đồng bào mà trái tim của vợ chồng tôi tưởng chừng như sắp sửa tan vỡ ra từng mảnh… hé, hé, hé…

Chị ngửa cổ, bưng miệng cười khé lên. Mặt anh chồng cứ nhăn như bị. Nhược Dự vốn là người kín đáo, giữ gìn, có điều gì hậm hực, không được như ý, anh ta chỉ hậm hực riêng với mình, hoặc quá lắm thì anh hậm hực với hai bà vợ của anh. Cái lối văn hoa giả khôn, giả dại của bà vợ anh, thường ngày làm cho cái cửa hàng bún riêu của vợ chồng anh đông khách, người ta ngồi ăn hàng và xem một người ăn nói lạ tai như vậy cũng thấy hay hay, nhưng hôm nay, nghe vợ nói năng như vậy Nhược Dự ta khổ tâm quá, khổ tâm lắm. Anh khổ tâm không phải cái lối nói ba hoa, giả dối của vợ mà có lẽ anh khổ tâm vì bà vợ của anh không biết giữ mồm giữ miệng, nói những điều mà anh chỉ dám nói trong cổ họng. Anh ta vội hỏi tôi một câu, có ý lái khéo câu chuyện sang hướng khác:

- Lâu nay toa có sáng tác được cái gì mới không?

Hình như thấy câu nói của mình lạc lõng không hợp với tình thế lúc này, anh ta hỏi thêm:

- Lâu nay toa có gặp Đặng không? Toa có biết luý chạy đâu không?

Tôi chưa kịp trả lời, Nhược Dự đã quay ra nói gì nho nhỏ với bà cả. Hình như anh không cần thiết câu trả lời của tôi cho lắm. Tình hình lúc ấy đột nhiên lại thấy lộn xộn. Người ở ngoài chạy dồn vào, người ở đây lại nhốn nháo kéo nhau đi. Tin người tản cư nghe mỗi lúc một khác, những tin không biết từ đâu truyền đi rất nhanh. Lúc có tin giặc đã đến Nhã Nam, lúc có tin giặc ở Thái Nguyên đánh sâu vào rừng lùng các cơ quan, lúc lại có tin giặc ở Thái Nguyên đốt phá Thác Huống, Đá Gân. Mạn Vĩnh Yên, Phúc Yên cũng có tin giặc vào đến chân Tam Đảo. Con đường tôi và vợ con tôi phải đi qua đêm nay cũng có tin giặc đánh đến nơi rồi. Đằng nào cũng phải vượt thôi!

- Này mình ạ… - Tôi nhìn nhà tôi đắn đo một lúc. - Cái con chó nhà ta ấy, tôi thấy, tôi nghĩ không thể đem nó đi được đâu.

- Sao, mình bảo gì cơ?

Nhà tôi ngồi nắm nắm cơm bằng chiếc khăn tay trên mặt cái sàng, ngẩng lên nhìn tôi sửng sốt. Tôi ngập ngừng nói thêm:

- Cái con chó nhà ta ấy, tôi thấy không thể đem nó đi theo mình đêm nay được đâu.

- Sao lại không đem nó đi được! Mình nói tôi chẳng hiểu ra sao cả.

Nhà tôi cau mặt lại một cách khó chịu:

- Nuôi nó ngần ấy ngày giời, gặp lúc như thế này lại định bỏ nó! Mình nghĩ thế nào, lại tính thế? Chả thà là thịt nó đi như anh Đặng nói lại đi một nhẽ.

Tôi nín lặng chẳng biết nói với nhà tôi như thế nào, trong lòng thật cũng thấy hổ thẹn với những ý nghĩ của mình. Ngoài kia, ba bốn đám lửa đốt làng, đốt phố rừng rực trong đêm tối. Những đám lửa nom gần lắm rồi.

Tôi càng nôn nao, bối rối, tôi nói với nhà tôi như dỗ dành, như phân trần:

- Có phải rằng tôi muốn để lại nó đâu, nhưng mà giặc thì nó đánh đến nơi rồi, xung quanh mình chỗ nào cũng có tin giặc, mình đem nó đi làm sao được… Thôi, đành nhẽ là phải gửi nó lại… Sau này giặc yên, về ta lại đem nó về…

Nhà tôi cắm cúi nắm nắm cơm không trả lời. Nắm xong, nhà tôi lẳng lặng thu xếp, bỏ vào quang gánh, rồi đi vào trong nhà. Nét mặt nhà tôi lúc ấy nom lầm lì và buồn bã vô cùng. Lát sau nhà tôi và cụ bếp Móm từ trong nhà đi ra. ông lão bước nhanh về phía tôi, xăm xắm:

- Thôi được, hai bác không đem được nó đi thì để lại, tôi trông nom cho, anh em mình, lo gì. À hà, con chó này đang ngon thịt đây…

“Quái thật, làm sao ai nhìn đến con chó cũng nghĩ đến chuyện thịt?” Tôi thấy hơi khó chịu.

Ông lão chắp hai tay sau đít, cười gật gật ngắm nghía con chó. Chừng như con chó ấy nó cũng thấy có điều gì khác ý, nó vội rúc vào chân tôi liếm liếm, ngửi ngửi, hai chân nó đập đập vào chân tôi, ngoáy đuôi mừng mừng.

Nhà tôi chẳng nói chẳng rằng, một tay cầm cái xích, một tay nắm gáy lôi tuột nó ra, xích nghiến lại. Con chó giật mình, hoảng quá nó chồm lên và càng cố lăn vào chân tôi, trốn tránh, giãy giụa, kêu ăng ẳng.

Ông cụ bếp vui tính thấy thế cứ nhe bộ lợi ra cười kha khá, còn nhà tôi thì hai mắt càu cạu, môi mím chặt lôi sềnh sệch con chó ra một cách phũ phàng. Nhà tôi buộc nó vào gốc mít gần đấy. Con chó lăn lộn trong cái xích căng thẳng, cái xích vít cổ nó lại, nó cố nhoai về phía tôi mà không được, nó tru lên từng hồi. Trong ánh lửa cháy bập bùng ở bếp hắt ra, tôi thấy mắt nó có hai đốm lửa nhỏ tí. Hai đốm lửa ấy nhìn vào tôi oán trách, cầu khẩn, lúc lại thấy như thù hằn, giận dữ. Tôi cúi mặt xuống, không dám nhìn vào con chó ấy nữa. Khốn nạn thân nó, bây giờ chắc nó biết chủ nó bỏ nó. “Thôi, để chuyến này chạy giặc về, tao sẽ nuôi mày, tao không dám phụ mày, tao không thịt mày nữa đâu”…

Nhà tôi đã thu xếp quang gánh, đồ đạc xong. Đứa con gái nhỏ của chúng tôi ngồi gọn bên một thúng, xung quanh nó quây chăn, tã cho ấm, phía trên che một cái chiếu cuộn khum khum như cái mái lều. Một bên là nồi niêu bát đĩa, tương muối và các thức cần dùng khác. Bây giờ nhà tôi mới cầm một bọc gạo vừa mới san ở trong bị ra, đi đến trước mặt cụ bếp Móm:

- Thôi, chúng cháu đi đây…

Nước mắt nhà tôi bỗng giàn ra, nhà tôi đứng im trước mặt cụ bếp nghẹn ngào không nói được. Tiếng con chó vẫn kêu ăng ẳng và, tiếng cái xích căng ra xoắn vào thân cây mít lục cục.

- Cháu… gửi lại cụ một ít gạo đây, nhờ cụ trông nom nó giúp cháu… Sau này thiếu đủ như thế nào, về cháu sẽ xin thưa lại với cụ…

- Được! Được! Chỗ tôi với hai bác ấy mà.

Ông cụ bếp cười, xua xua tay, gạt đi.

Nhà tôi khẽ chào ông cụ, bước vội về phía quang gánh. Tôi cũng đứng dậy khoác ba lô, ôm bọc chăn màn chào cụ bếp, bước theo nhà tôi. Từng chặp súng máy nổ rền ngoài đêm tối. Và, đám lửa đốt làng, đốt phố ở mé Cao Thượng càng khuya nom càng rừng rực ngất trời. Bao giờ cho giặc rút? Bao giờ cho vợ con tôi được sống yên ổn dưới một mái nhà? Tôi thèm một cái mái nhà…

“Ắng!… Ắng! Ắng!…” Tiếng con chó lồng lộn, cuống quýt đằng sau bước chân tôi. Nó như gọi tôi, nó như kêu cứu, như than khóc, oán trách. Tôi lẳng lặng bước qua chỗ vợ chồng Nhược Dự đang đứng. Rõ ràng anh ta biết tôi đi nhưng lại lờ đi như không nhìn thấy. Ra khỏi ngõ tôi thoảng nghe tiếng chị vợ cả nói với chồng:

- Vợ chồng nhà ấy họ đi đấy à? Này, họ bỏ lại con chó cậu ạ.

Và tiếng anh chồng dấm dẳn:

- Đến người cũng chả chắc giữ được nữa là con chó!…

Tôi xóc lại cái quai ba lô, bước theo hút cái bóng nhà tôi đang đi xăm xắm xuống đồi.

Đêm “thu đông” lạnh buốt. Rải rác trong những búi sim, mua rậm, bóng những người chạy giặc nằm ngả ngốn, chụm đầu vào nhau nói chuyện rì rầm. Trâu bò hàng đàn sồn sột gậm cỏ thầm trong tối. Tiếng con chó tự trong nhà cụ bếp Móm đưa ra vẫn nghe rõ mồn một “Ắng!… Ắng! Ắng!…”. Tiếng con chó da diết, nhọn hoắt xói vào ruột gan tôi. “Thôi để chuyến này về tao nuôi. Tao sẽ nuôi mày, tao không bỏ mày đâu…”.

Tôi nhủ thầm với tôi một lần nữa như vậy.

*

*

Hai tháng sau tôi về. Giặc rút lâu rồi. Cuộc tấn công rầm rộ của chúng nó ngày ấy ai ngờ lại là cuộc đánh tháo cho đám quân mắc nghẽn ở giữa rừng già trong thị xã Bắc Cạn. Chúng nó tràn lên đâu trong vòng chỉ có nửa tháng thì rút hết. Vợ con tôi cũng đã dọn về nhà cả rồi.

Dọc đường từ cơ quan về thăm gia đình hôm ấy tôi rất vui. Bao nhiêu nỗi vui dồn đến chen chúc rộn ràng trong ý nghĩ. Mấy tháng ở cơ quan, ngày lại ngày trông ra chỉ thấy cây già và núi thẳm bưng bít xung quanh, bây giờ về xuôi, tôi lại được thấy trời rộng, sông dài và những cánh đồng bát ngát. Tôi lại sắp được gặp vợ, gặp con tôi.

Mỗi bước chân, bao nhiêu vui sướng. Nhưng mà tôi đã quên mất con chó khốn khổ ấy. Nhà tôi thấy tôi về, mừng quá cũng không kịp nhắc đến nó. Sau một trận giặc đánh lên, cái sống cái chết kề bên bây giờ mới được đoàn tụ, ai mà còn kịp nghĩ đến một con chó xấu xí!

Một hôm tôi chợt thấy cặp kính trắng lấp loáng của Đặng cồn từ đầu ngõ đi vào, bấy giờ tôi mới giật mình, sực nhớ đến con chó. Tôi quay lại hỏi nhà tôi:

- À, mình này! Con chó nhà ta đâu nhỉ? Mình chưa vào trong cụ bếp dắt nó về à?

Nhà tôi đứng ngẩn ra một lúc. Có lẽ nhà tôi cũng không ngờ rằng tôi đã về bằng ấy ngày giời rồi vẫn không nói chuyện con chó ấy với tôi.

- Nó chết rồi!… - Nhà tôi nói khe khẽ.

- Chết rồi? Làm sao mà chết được?…

Tôi trố mắt lên hỏi lại. Nhà tôi cúi mặt xuống, thở dài:

- Nó chết thương lắm cơ mình ạ. Không phải nó chết trong cụ bếp Móm đâu. Nó về nhà ta nó chết đấy.

Nhà tôi ngừng lại, cắn môi chớp chớp hai mắt nhìn ra ngoài sân. Lát sau, nhà tôi đứng dậy mời Đặng vào trong nhà, rót nước mời anh rồi mới tiếp tục câu chuyện.

Chao ôi! Con chó xấu xí ấy, của tôi! Con chó từ lúc mua, đến lúc chết không được một lần vuốt ve! Nó đã chết một cách thảm thương và trung hậu quá. Từ hôm vợ chồng tôi gửi lại nó cho ông cụ bếp Móm, con chó không chịu ăn uống gì. Nó chỉ kêu. Nó kêu suốt ngày, suốt đêm. Một đêm, ông cụ bếp không thấy con chó kêu nữa, thì ra nó đã xổng xích đi đâu mất rồi.

Hôm nghe tin giặc rút, ở trong khe đồn Khau Vắt dọn về, nhà tôi tạt vào nhà cụ bếp Móm định đem con chó về nhân thể, nhưng vào đến nơi thì nó không còn đấy nữa. Lúc ấy nhà tôi cũng yên trí là con chó mất rồi. Chắc chắn nó sẽ lạc vào một trại ấp nào đấy và người ta làm thịt nó.

Nhưng khi nhà tôi về đến nhà. Bà con xóm giềng vừa chạy sang láo quáo thăm hỏi thì, ở ngoài vườn sau, có mấy tiếng chó hú lên thảm thương và ghê rợn.

Từ sau bụi dứa rậm rạp, con chó khốn khổ ấy lảo đảo đi ra. Người nó run lên bần bật. Nó gầy quá, chỉ còn một dúm xương da xộc xệch, rụng hết lông. Nó đói quá, đi không vững nữa. Nó đi ngã rụi bên này, rụi bên kia. Rồi nó không còn đủ sức mà đi nữa. Nó nằm bệt trên đất, rúm người lại, lết lết lê dần về phía nhà tôi.

Lúc ấy cả người nó chỉ còn có cái đuôi là còn ngó ngoáy được để mừng chủ và, cái lưỡi liếm liếm vào tay chủ. Khốn nạn con chó! Được gặp chủ nó mừng quá. Từ trong hai con mắt đờ đẫn của nó mấy giọt nước chảy ra. Lát sau thì nó không liếm được nữa, cái đuôi ngoáy yếu dần, yếu dần rồi im hẳn. Nó chết.

Tôi tối sầm mặt lại, vừa thương xót con chó, vừa thấy xấu hổ. Quả thật tôi chỉ là một thằng tồi. Một thằng ích kỉ. Tôi chỉ nghĩ đến mình và vợ con mình. Đến như con chó mình nuôi, mình đối xử với nó có được như cái tình nghĩa của nó đối xử với mình đâu?

Đặng vẫn ngồi im. Từ lúc đến, đến lúc nghe xong câu chuyện, Đặng vẫn ngồi im. Hình như câu chuyện con chó ấy của nhà tôi kể làm anh có điều gì áy náy, nghĩ ngợi.

- Này, lâu nay cậu có được tin gì về vợ chồng Nhược Dự không?

Lúc lâu sau Đặng chợt ngẩng lên nhìn tôi hỏi. Cặp môi mỏng dính của anh kéo xệch một bên lên thành một nụ cười. Anh tự trả lời câu anh vừa hỏi:

- Nó dinh tê rồi! Nghe nói vào trong ấy nó viết báo, viết truyện chửi kháng chiến, chửi bọn mình đểu lắm.

Cả hai chúng tôi cùng im lặng. Cái im lặng trang nghiêm ghẻ lạnh, thật khó chịu.

HỒI

ỨC BÁNH DÀY

Hồ Tĩnh Tâm

Sáng 10 tháng 6(2012) vợ tôi đi chợ Trường An mua bánh cuốn cho con gái, đem về cái bánh giò, hỏi tôi có ăn không. Vì đã ăn sáng bằng cơm nguội nên tôi lắc đầu. Khi vợ tôi bóc cái bánh giò ra, mùi bánh bốc lên thơm phức, quyến rủ lạ lùng, nhưng không hiểu tự nhiên vì sao tôi lại hỏi, chợ Trường An có bánh dày không. Vợ tôi nói, chợ Trường An là chợ nhiều người Bắc, ở đó đầy các món Bắc, như thì là, cần ống, rau đay, su hào, mắm cáy, cà pháo, cà bát, nước mắm rươi… anh thích ăn bánh dày hôm nào em mua cho.

Nghe bà xã nói, hình ảnh cô hàng bán bánh dày ở Hà Tây mà tôi gặp ngày nào, lập tức hiện lên, cứ như chỉ mới vừa hôm qua đây thôi. Đó là lần tiểu đoàn 3(đoàn 568 Quân khu Tả Ngạn) chúng tôi, được chuyển bằng xe Jin ba cầu từ Hải Dương về Hà Tây đóng quân ba ngày, để chuẩn bị vào Nam. Sáng ngày thứ tư, chúng tôi tập kết tại một bãi đất trống gần ga tàu lửa. Tôi không nhớ rõ là ga nào, chỉ nhớ ga ấy thuộc huyện Thường Tín. Trước khi đến điểm tập trung, tiểu đội tôi đã ăn sáng từ lúc mới năm giờ. Nhưng lính tráng đang tuổi lớn thì ăn nhiều đến bao nhiêu cũng đói, nên chúng tôi gặp bất cứ thứ hàng quà nào cũng mua. Ăn cho hết tiền, chứ vào đến chiến trường rồi, thì tiền Miền Bắc cũng chẳng để làm gì. Đang lúc dạo lòng vòng chờ tàu, thốt nhiên tôi nhìn thấy trên cánh đồng khoai Tây đã thu hoạch, có một đám lính đứng xúm xít rất đông. Vì tò mò nên tôi chạy đến xem thử. Giời ạ! Một cô hàng bán bánh dày trắng như bông bưởi, đẹp đến ngơ ngẩn. Tuổi chắc khoảng ngoài ba mươi chút đỉnh. Mái tóc dày đen bóng, chảy xoã trên đôi bờ vai tròn trịa. Đôi bàn tay mềm mại với những ngón thon dài. Đôi môi đỏ mọng, luôn nở nụ cười tươi rói, với hai hàm răng trắng, đều tăm tắp. Cặp mắt to đen, lúng liếng ánh nhìn như hớp hồn. Thảo nào mà lính ta bu đen bu đỏ, mua xong cứ đứng đấy mà ăn, mà ngắm. Vài ngày nữa họ vào tới chiến trường rồi, kiếm đâu ra một người đàn bà đẹp như vậy mà ngắm. Tôi cũng chen vào mua được cặp bánh, không nhớ rõ là một hào hay hai hào gì đấy, chỉ nhớ bàn tay của cô ấy cầm cặp bánh đưa cho tôi quá đẹp, chỉ nhớ hai cái bánh quá đẹp, vừa tròn, vừa trắng, cặp ở giữa miếng chả lụa hồng hào quá thơm. Bánh dày ấy, ngoài Bắc gọi là bánh dày chay, vì trong bánh không có nhân, khác với loại bánh dày nhân đậu xanh và mỡ lợn thái hột lựu.

Tiết trời hôm ấy rất lạnh, vì đang là mùa đông, bởi vậy ăn cái bánh dày dẻo quẹo càng thấy ngon hơn nhiều. Thêm nữa là bánh dày của người đẹp , chỉ cần nhìn đã thấy ngon lên bội phần. Bấy giờ thốt nhiên tôi nghe ai đó nói, “đúng là bánh dày Quán Gánh, danh bất hư truyền thật”. Cái tên bánh dày Quán Gánh của xã Nhị Khê, Thường Tín, Hà Tây, đeo dính trong đầu tôi từ dạo ấy. Và cũng từ dạo ấy, không hiểu sao, cứ lâu lâu tôi lại nhớ tới bánh dày, nhớ tới cô bán bánh dày ở Thường Tín. Hai cái thúng trong đôi quang mây, ủ đầy những cái bánh dày nho nhỏ, trắng muôn muốt, có dán những mảnh lá chuối cắt hình tròn. Cô hàng bán bánh dày ngối trên cái đòn gánh. Người đẹp, đến dáng ngồi cũng đẹp, đến đôi bàn tay cầm bánh cũng đẹp. Nhiều đêm đói quá, tôi nằm trên võng mơ thấy đang ăn bánh dày ngon lành, sáng ra miệng mồm đắng nghét. Ngủ ở rừng Trường Sơn, xung quanh toàn cây cối, nước quý như vàng, nên có ai dám đánh răng, súc miệng, thành ra ăn sáng với hai miếng lương khô cứng còng, nhai trệu trạo như nhai đất, nuốt muốn không trôi cuống họng.

Thế rồi chúng tôi cũng vượt được dãy Trường Sơn, tiến thẳng vào đất nước chùa tháp, dừng lại đóng quân tại sóc Tà Nu, tỉnh Sroai Viêng. Duyên phận thế nào, tiểu đội thông tin vô tuyến điện của tôi, lại được đóng quân trong ba ngôi nhà dân, có vẻ như thuộc thành phần khá giả, mà ngôi nhà tôi đóng quân, lại có cô gái đẹp như tiên trên trời giáng thế. Tuyệt vời hơn là cô gái trắng trẻo này lại nói được tiếng Việt, lại là người có học, nói tiếng Hoa tiếng Pháp nhanh lau láu. Nhờ vậy tôi làm quen với cô gái được hơn một tuần, đã có được mớ tiếng Khơ Me kha khá, có thể đi tán gái trong phum sóc được rồi. Mình cứ nói, dẫu có nói sai thì các cô gái cũng hiểu. “Mắt con trai, tai con gái” mà. Nhờ vậy, vào mùa Lễ hội Đoóc Om Boóc năm ấy tại Tà Nu, tôi lân la đi thăm hết nhà này tới nhà khác, rồi lại cùng giã xôi nếp với họ để làm bánh phồng. Cô gái đẹp con chủ nhà, nghe tôi kể về bánh dày, đã cho tôi cả một nắp ăng gô Trung Quốc đầy bột xôi, với cả đậu xanh và thịt mỡ. Để có chả, tôi dùng móc sắt đi móc tắc kè trong các bọng cây me nước. Đi chừng hai tiếng đồng hồ, đã bắt được đâu khoảng gần ba chục con. Tôi nấu nước sôi trụng tắc kè làm vảy, rồi mổ bụng, chặt bỏ đầu và bốn bàn chân, rồi bằm nhuyễn đem rán lên làm chả. Bánh dày của tôi là thứ bánh dày đặc biệt, ngon không chê được chỗ nào. Chính cô gái đẹp con chủ nhà, khi ăn cũng luôn miệng khen tấm tắc. Vậy mà nhiều chàng lính trong tiểu đội lại không dám ăn chả tắc kè mới lạ chứ.

Sau khi tiểu đoàn vượt sông Trăng biên giới vào Miền Nam, suốt cả một thời gian dài chinh chiến, chết chóc triền miên, tôi chẳng còn có thời gian đâu để mà nhớ tới bánh dày nữa. Cho đến ngày Miền Nam hoàn toàn giải phóng, khi tiểu đoàn về đóng quân ở ấp Bình An, xã Bình Thành, huyện Lấp Vò, Đồng Tháp, một hôm thấy cô con gái vợ chồng ông chủ nhà nơi tôi ở trọ, xay bột nếp nấu chè trôi nước, tôi mới sực nhớ tới bánh dày, nhớ tới người phụ nữ đẹp, ngồi giữa cánh đồng khoai tây vừa thu hoạch để bán bánh dày, tự nhiên tôi nhớ Miền Bắc tới nao cả lòng dạ, và thèm được ăn bánh dày kinh khủng. Kìm không được lòng mình, tôi hỏi xin một ít bột nếp, một ít đậu xanh, với miếng thịt mỡ, tự làm cho mình mấy cặp bánh dày. Bánh làm xong, tôi đem hấp trong nồi cơm cho chín. Cô gái chắc là thương nỗi lòng nhớ quê của tôi, chạy ra chợ mua cho tôi cây giò lụa. Khi cô gái đưa cây giò lụa, tôi nói đùa, “sao cô Ba không mua cho tôi mấy con cà cuống”. Cô gái chắc không biết cà cuống, nên hỏi tôi cà cuống là con gì, liên quan gì tới bánh dày mà mua. Tôi kể cho cô gái biết, ở quê tôi cà cuống là quý lắm, vì túi dầu của nó vừa thơm vừa cay, pha vào nước mắm ăn bánh cuốn thì không gì bằng, làm nhân bánh dày hương thơm sẽ đầy quyến rủ, hôm nào tóm được vài chú cà cuống, tôi sẽ trổ tài làm nước mắm cho cô Ba biết(xin lỗi, tôi nói mấy chú cà cuống, vì chỉ cà cuống đực mới có túi dầu). Để giúp cô gái biết cà cuống, tôi bỏ cả buổi sáng chủ nhật ra đồng tìm bắt cà cuống, nhưng tịnh không nhìn thấy con nào. Quái lạ, Nam Bộ ruộng đồng mênh mông, sao lại ít cà cuống hơn ngoài Bắc nhỉ. Bánh dày Quán Gánh thơm ngon nổi tiếng, chính là nhờ vào nếp làng Quán Gánh, con cà cuống ở đồng làng Quán Gánh.

Sau này tôi được ăn bánh dày ở nhiều nơi, nhưng chưa bao giờ thấy ngon hơn cái bánh dày cô gái Thường Tín- Hà Tây- bán cho tôi.

HTT

Thấy lại cảnh xưa, thấy có chỗ chèn hình cũng muốn đưa mấy tấm hình trắng đen từ năn 1980 lên (mới kiếm được), nhưng chèn hình không vô, rồi quên không xóa dòng thiệu. Thôi để coi hình màu ông bạn Thanhh63 đưa lên, đẹp hơn, đã mắt hơn coi hình trắng đen đời cũ...

 Đi chơi nhiều chỗ, nhiều nơi chắc tại cái số bắt phải vậy bác Tuanb5, cứ phải đi…đi tới, đi… hoài, đi như.... những khúc quân hành, bây giờ cũng vẫn còn thích đi. Cũng có lúc do ...

“Bể vô tận sá gì phương hướng nữa/ Thuyền ơi thuyền theo gió hãy lênh đênh/….Lũ chúng ta đầu thai lầm thế kỷ/ Một đôi người u uất nỗi trơ vơ/ Ðời kiêu bạc không dung hồn giản dị/ Thuyền ơi thuyền xin ghé bến hoang sơ.”

 Hồi ở Định Hóa không đi  vào nhà dân thì qua chỗ anh Thọ già bấu. Anh Thọ già, có thời gian dài B trưởng anh nuôi D6, thường mỗi khi bên đó có thịt Lợn là ông cho hay, chiều hôm đó được bữa trơn họng, bóng mỏ.. . Chỗ trung đội anh nuôi K6 kế bên bác Thủy, mỗi khi nghe tiếng Lợn kêu bên đó, không cần ông Thọ cho hay là bác Thủy thông báo liền: Bên kia có “mều”.

Ngày Tết trung đội anh nuôi nghỉ nấu cơm, các đơn vị luân phiên nấu cơm- Bữa nào nấu cơm mà ngay hôm làm thịt Lợn là vô mánh. Con Lợn bị ngắn hơn bình thường vì khúc giữa lưng bị mất một khúc, khúc cổ cũng bị mất, hai lá mỡ cũng không còn- Hai lá mỡ được thắng lên đổ vào ống nứa dữ trữ những ngày khó khăn sau Tết. Ngày tết trong tiểu đội thường thì mấy ông quê gần đơn vị như: Bắc Thái, Hà Bắc … cũng lặn về quê, số ở lại đơn vị được no hơn trong mấy ngày tết. Lúc này chai, bình hiếm lắm mua rượu phải đựng bằng ống nứa, ngày tết cũng say- say, tưng - tưng.

Nhớ Thanhh63 có kể về Gà trống thiến. Có một buổi tối, ngày tết đi chơi với bác Thủy ở chợ Chu ghé nhà chị Đ. bà con của bác Thủy và Lợi. Người cháu nói có chừa cho mấy cậu đồ ăn- Một đĩa thịt gà trống thiến, phải nói là lần đầu tiên mới được thấy: Miếng thịt dày cui, vừa thịt vừa mỡ trắng, thơm ngậy. Đúng ra là chừa đồ ăn cho cậu Thủy và cậu Lợi, nhưng nhờ cậu Lợi tối ngày ở trong đơn vị,  không biết đi chơi, không biết đi kiếm ăn, nên không có lộc ăn.

Hồi đó do đói, thiếu ăn làm sấu mà chẳng thấy.....! 

Cái khoản phụ anh nuôi ngày tết thì khỏi nói rồi, lính vui như được mùa và anh nuôi cũng méo mặt vì lộ mánh, chắc ông Thọ già có nhiều mánh lắm đây. Ngày ấy chính liên lạc D là người chỉ mánh "ăn xén" thịt bằng cách làm "lợn ngắn lại" tại phần sườn, chỉ cần 2, 3 que sườn là có vài ký để các sếp tích trữ rồi, sếp D lấy được, anh nuôi cũng xén (tội quái gì, nước sông công lính mà  

) ... vậy là mang tiếng ngày tư ngày tết nhưng miệng lính cũng chẳng "nhẫy" được bao nhiêu. Còn nhớ ngày đó, ở B anh nuôi có đ/c đồng hương Đức, tay này phải công nhận là thợ mổ heo loại cừ, nhoằng 1 lát là xong xuôi, tay này có thể sánh ngang tay Bồn lính 77 Hà Nam Ninh, nhưng mỗi lần xả heo xong là chùm phèo non "biến mất", còn hai lá mỡ là "đặc quyền" của B nuôi quân rồi giống như bộ lòng là của D bộ vậy vì đâu có ai nhập kho lòng heo đâu 

À còn cái khoản nhu yếu phẩm ngày tết, sao mình chẳng có tẹo ký ức nào về nó  

, các đơn vị khác nhất là bên K bảo có, mà còn xôm nữa là đằng khác, còn anh em mình... mình chỉ nhớ mỗi bát đường đỏ và nửa cục xà phòng đen thui hàng quý thôi, còn tết thì chỉ có ăn uống đỡ hơn, lính ta đa phần đi "cứu" hay đi "bấu - theo cách gọi của AG1" nên anh em ở nhà được "hưởng phước của những ông vắng mặt" chứ nếu đầy đủ, nhoằng một thoắt là bay ngay cả mâm, lấy đâu nhâm nhi ngày tết.

Hôm rồi đi Phan Thiết được ăn món gà đặc sản của vùng đó, món gà mềm, dai vừa phải, không nhão, da vàng ươm ... làm mình nhớ đến miếng gà trống thiến những ngày đó quá, chỉ có những người từng ở đất Bắc mới biết món này thôi, còn dân Nam thì thua, mình đã hỏi nhiều người trong mình, hầu như không biết món gà này  

, thật tiếc !  

Ngày tết, theo mình nhớ là đơn vị có phát tiền mấy đứa trong tiểu đội gom lại ra chợ mua rau sống, cà chua...mua rượu xôm lắm, chơi một buổi chiều 30 là sạch bách.

Hôm rồi mình chèn hình vô không được, phải đưa lên mạng thì sợ nhiều người biết quá, sau này lỡ trốn tội đi đâu cũng dễ bị phát hiện.

Nghe QuangNinh viết về mấy sư phụ Tiền Giang nghe mà mắc ham, chắc cũng cỡ đồ tôn của Nguyễn Công Trứ - Chơi xuân kẻo hết xuân đi:

  .."Cuộc hành lạc bao nhiêu là lãi đấy/ Nếu không chơi thiệt ấy ai bù"

Vừa rồi mấy bạn nhắc đến gà trống thiến, ăn tết ở miền Bắc, mình cứ nhớ và thèm mãi, không biết có dịp nào được thưởng thức nữa không? nhớ hoa Đào, mà phải là Đào phai, Đào rừng mới tuyệt

Nhớ được ăn Tết tại nhà Ông Bí Thư xã Hoàng Nông năm đó, mình lần đầu tiên được ăn gà trống thiến..không thể tả nổi cảm giác nó như thế nào, nhưng lúc đó thật tình là mình rất lâu không được ăn thịt gà...mình cứ nhớ con gà trống thiến nó béo tròn, đi lại rất khó khăn, nhưng thịt thì ....

Mình cứ nghĩ sao trong mình họ không thiến gà nhỉ, bữa nào anh em mình có điều kiện thử làm xem sao

À mình có tấm hình này gửi cho các bạn xem nhé: Trong hình là bạn mình đang nhận hài cốt chiến sĩ hy sinh ở biên giới Tây Nam về Tiền Giang, còn một tấm nữa là đồng chí Thiếu Tướng Nghĩa - Tư lệnh QĐ4 và đồng chí Nhi trao tặng nhà đồng đội cho đồng chí Nguyễn Văn Tư (Ấp Bắc 2) nhừng mình tìm hoài không thấy đâu, khi nào có mình sẽ up lên

Các bác Nam bộ có vẻ ấn tượng món thịt gà trống thiến luộc xứ Bắc quá ha ,nói vậy thôi dân ngoài này vẫn coi đó là món " hỏa lực mạnh " trong những dịp quan trọng như : tết nhất,khách quý và... sêu tết bố mẹ vợ.

 Tôi lại nhớ nhất món tái lợn của đồng bào dân tộc Tày Bắc thái . Tết 1979 tôi  lần đầu tiên được thưởng thức món này.Hôm ấy quãng 26,27 tết trời rét lắm ,mấy đứa rủ nhau vào Phượng  tiến chơi.Thật may mắn đúng ngày gia đình mổ lợn

.Không khí đón xuân đã rộn rịp lắm rồi, cành đào lớn hoa phớt hồng. Rồi gạo nếp trắng, lả dong xanh,thịt ,đỗ trông thật vui mắt... Nhà này có cô con gái tên Phượng đang học cấp 3 Chợ Chu .Ngay gần đấy là nhà cô Đ mà hôm trước bác ag1 có lần nhắc tới.

Ngồi chưa ấm chỗ, Bác chủ nhà đã đặt giũa nhà 1 mâm lớn rượu thịt và giảng giải cho bọn tôi về món tái lợn ( Thực ra tiếng Tày khác nhưng lâu ngày quên rồi ,tôi tạm gọi vậy) Đại khái lợn mới mổ ,lấy miếng thăn ra và thái mỏng .Sau đó vắt chanh bóp chua, khi chất acid đủ làm thịt"chín" thì lấy thính rắc  vào và trộn đều . Cuối cùng phủ rau thơm lên nữa là...xong. Cái hương vị của món ăn này mà " phối thuộc" với cuốc lủi thì thật...không còn gì mà nói.

 Hôm ấy ,chúng tôi ngồi trong ngôi nhà sàn   ấm cúng với nồi bánh chưng&tình cảm quân dân chân thành. Tạm quên đi những cơn gió bấc hun hút thổi bên ngoài , tạm quên đi 1 cái xuân tha hương đang tới...

Lính 6a nạp cái mới:

Cứ đều đặn khi trời tối khoảng từ 18g00 đến 20g00 (tùy theo mùa đông hay mùa hè) là vận tải từ hang Dơi tới 6a, cơm vẫn mãi là tấm Ấn Độ, thức ăn thì lúc thịt lợn, lúc cá toàn đồ hộp, rồi định xuất … rau thì xu hào muối cả củ, ruốc cá còn gọi là mùn cưa, củ cải thái mỏng phơi khô là phoi bào..rơm khô… hôm nào có thịt mới, xu hào, rau muống tươi xào thì lính ta mắt sáng, miệng cười .. vui hẳn lên vì được ăn tươi.. Nước can 14L/ 4đ/c/ 2 ngày, khi đó ăn thì nó hơi âm, ấm sau thì nguội ngắt, nhất là vào mùa đông gặp phải củ cải khô mà xào với bơ thì .. môi nó cứ dầy lên hở cả cái hàm răng...vàng cáu..bẩn vì hút nhiều thuốc lào 

, đúng là môi hở thì..răng lạnh..thật. Tối nào quá giờ mà không thấy vận tải lên là lại nghĩ ngay tới chuyện xấu của động đội khi trên đường đem cơm lên 6a rồi !

Lính 6a bỏ cái cũ:

Thời gian mới lên chốt, đại…thì vào cái túi giấy, báo.. nghe nói là của các em học sinh làm và gửi lên. Tiểu thì vào vỏ nhựa bảo vệ đạn B41, rồi chuyển cho đ/c gác ném, đổ ra ngoài. Sau này quen, nghe và định hướng được vị trí, tiếng nổ đầu nòng của pháo, cối T.. rồi ngày thì cố nhịn (trừ trường hợp đặc biệt và tiểu..) mãi cũng quen để tối mới mò ra ngoài bỏ cái cũ, chao ôi ! lúc đó mới biết được..,bầu trời là..to..thật.

. Đôi khi trưa chút xong bầu tâm sự đã nghe 3 tiếng.. cạch ..cạch..cạch của thằng cối tép T.. tiếng đề pa của nó khi bắn vào 6a nhỏ hơn nhiều so với mọi hướng khác, vậy là đành vội vàng chui tọt vào hầm mà chưa kịp.. chùi .. đ... Bầu trời lại bé tý chỉ thấy mỗi Cô Ích, Đồi Đài, Pháp, 1 phần Pha Hán và 1 tý đồi Chuối mà thôi (ngồi trong đáy … ống .. mà lỵ.) hic

Bác TuanQĐ3 thân mến. Về vấn đề " nạp cái mới " của lính 6a , lúc này - có phần tươi hơn bọn tôi thời 11 - 1984 rồi đó.

Lúc đó bọn tôi chỉ có một món đặc sản : cho cả 3 bữa - sáng - trưa - tối ,: đó là món gạo sấy.

Nếu bọn địch không bắn pháo , thì còn xuống suối lấy nước > và có món cơm sấy ,còn nếu pháo bắn rát qúa thì đành nhai gạo trừ bữa vậy ...

Về rau xanh ,thì chẳng khác xa sỉ phẩm,...nhiều khi thèm chất rau xanh, bọn tôi cố gắng nhai nõn cây chuối rừng cho đỡ nhớ !

Ngược lại thịt hộp ,lại rất dư dả , nhưng cũng không ăn được ,vì cơm sấy + thịt hộp cho ra một món rất ngấy...

Nhưng khổ nhất là khoản tắm giặt,vì từ chốt E4 xuống suối phải mất 30 phút.trong khi địch bắn pháo liên tục -do đó anh em tắm khô là chủ yếu.HIC.

Còn thuốc men thì hầu như không có , nhưng cũng không ai bị ghẻ lở gì?

Còn cái khoản " phế liệu của lính " thì xin được cất kỹ ... Chứ mà nói ra, thì các bác một thời tá túc trong hang Làng lò - biết nguồn cơn : chắc phải nôn hết cả ra : chả là nguồn nước dùng để ăn,uống trong hang là do suối Cụt cung cấp

úng chúng mình .. “...ở nơi ấy đầu nguồn con nước …” mổi khi mưa lớn thì những cái cũ bỏ đi chắc hẳn nó xẽ chảy theo dòng nước .. rồi anh em ở hang Dơi lại nấu cơm, đun nước … và đem lên chốt, đúng là .. “Anh ở đầu sông, em cuối sông .. uống chung dòng nước …”

 Món gạo sấy, thịt hộp và lương khô, ở 6a hầm nào cũng có cùng với 1 can 20L nước đun sôi để nguội, nhằm dự chữ phòng khi mưa gang vận tải không đem cơm lên được, lúc đó lính chốt mới đem ra mà “nạp cái mới”.

 Rau xanh đúng là xa sỉ phẩm, không phải là ác, nhưng mà tụi em khoái pháo T.. làm đứt cái dây TT hữu tuyến từ 6a sang Pháp 1 thế, lần nào 2 thằng TT đi nối dây về cũng cho tụi em 1 bó rau dền, tàu bay (đúng là lá tàu bay B52)  và cả .. cỏ nữa. Phải công nhận mấy thứ rau đó nó tốt thật, lá to mà xanh mướt, lại không có sâu, nấu canh với thịt hộp ngon hết ý  (chắc mấy con sâu nó cũng đào và chui vào hầm trú ẩn)

Rau tàu bay là nguồn rau xanh chính cảu lính chốt đó ! chúng tôi không có đồ hộp để nấu cùng chỉ đun nước sôi lên rồi thả mấy hạt muối vào ăn ngon ra phết. Đôi khi lính ta muốn đổi bữa rau thì xuống nũng hái rau muối về nấu canh ăn ngon đáo để. Từ khi về đời thường rồi sống ở Thủ Đô   

đôi lúc tôi vẫn lần tìm ít rau tàu bay và rau muối ăn cho đỡ nhớ đó ! có bác nào muốn thưởng thức hai món rau đó đăng kí hôm nào tôi kiếm được tôi sẽ gọi. À mà ở Cao Bằng chốt bọn tôi còn phải ăn cả rau thầm bóp " tầm bóp " lữa nhớ các bác đã được ăn rau đó chưa.

Em chào các bác .qua giới thiệu về rau,em xin chút tham gia.đã bác nào ăn thân và gốc đu đủ đực cạnh sông lô chưa? hồi 85 khi đi tải đạn về,qua đoạn là cáy có mấy cây đu đủ đực.bọn em thiếu rau đào cả gốc. về lạo ra xào với mỡ bơ ăn ròn như củ cải,ăn xong một hồi bụng cồn cào,đói.cảm ơn các bác đã nhắc lại một thời.tất cả các loại rau các bác giới thiệu em sơi hết rồi.em còn sơi cả sâu trong cột mục,cá rô cạn nữa cơ.óc cọ cũng ăn rồi.em cam đoan các bác chưa từng được ăn một món đặc sản của sông lô.đại đội em may mắn được hai lần thưởng thức.kể cả thời giờ có tiền chưa chắc đã mua được. đến giờ nghĩ về nó vẫn còn thèm. Cái món rau của lính mình, đa dạng quá các bác nhỉ:

 Rau dớn mà xào với mỡ lợn, thêm tý mẻ (hoặc bỗng rượu) ăn ngon đáo để. Nhưng chỉ ăn được loại lá xanh, dầy, lông thưa hay mọc ở bờ suối và bờ ruộng chằm thụt. Còn loại lá mỏng lông dầy mịn, màu hoe vàng mà ăn vào thi … hic .. tới C 24 liền.

 Lại còn 1 ngọn tóc tiên bằng 100 phi-la-top (lạc tiên,chùm bao vv.) Lính ta nói “ăn măng, rau tàu bay…nó hại máu, vậy thì ta bỏ xung … tóc tiên hoặc rau sam.

 Có nhiều cây rau ngót rừng to bằng .. cái cột nhà ấy chứ, hoa nhỏ ly ty nhưng lại tạo thành từng chùm, nấu canh khỏi cần mì chính mà vẫn ngọt hơn cả lá và ngọn của nó.

Maianh@:Cây đu đủ, bỏ vỏ, thái con chì, ngâm nước muối rồi kho với mấy cục ma-gi,ăn vào cảm tưởng như ăn xu hào ấy, nhưng cào ruột thật

 Lính quany@:Cái gọi là lá vón vén, mọc theo dây leo của bác thì ở Bắc Thái lại gọi là lá méo, nó leo trên cây rừng, lấy 1 bó về, bỏ vào nồi, đổ nước đun sôi 1 lúc rồi chắt thứ nước chua đó cho vào nồi óc đậu làm cho óc đậu nó nổi lên rồi đông lại, chỉ cần vớt óc đậu lên, đổ vào khuôn, ép lại là ta có món đậu phụ rồi.

ôi nói đặc sản,là vì nó là đặc sản thật .kể thì cũng hơi lạc đề một chút.cả nhà đang kể chuyện rau,bỗng tôi kể chuyện cá.nhưng là kỷ niệm, kể một chút cho vui.

chuyện là thế này.khi tôi đóng quân huấn luyện tại phú linh.đơn vị chưa có doanh trại nên phải ở nhờ nhà dân.từ xuôi lên,nhà sàn và người dân tộc đối với chúng tôi còn lạ lắm.tôi ở trọ một bà người tày,nhà nào trên này cũng có cái ao dưới chân nhà sàn.ao rất nông chứ không như ở dưới xuôi.nước chỉ độ một mét.tôi nhìn thấy một con cá rất to,khoảng 3-4 cân.tôi hỏi chủ nhà là cá gì ,sao to thế.bà bảo cá bống.nhưng tôi thấy nó giống nửa cá chép,nửa cá trắm cỏ dưới xuôi.tôi hỏi nuôi lâu chưa,bà bảo,từ hồi tao về làm dâu nó đã có rồi.bà khoảng 60 tuổi,tôi rất ngạc nhiên.cá gì mà nuôi lâu thế.thời gian cứ thế trôi,huấn luyện song, chúng tôi bổ xung cho đơn vị phía trước.một hôm khoảng 5 giờ chiều,trên đường tải thực phẩm vào hang dơi về.chúng tôi buộc phải đi qua đỉnh 673,và qua hang là cáy.nếu đi qua ngã ba thanh thủy thì rất nguy hiểm.vừa từ hang là cáy rẽ ra đường số 2,tôi thấy một vật rất trắng lằm ở bãi bồi giữa sông. vì sợ pháo lên tôi không dám nhìn kỹ.về đến nhà khoảng gần một tiếng không thấy thằng NĂM cùng b và là đồng hương với tôi đâu.tưởng nó tranh thủ kiếm rau như mọi khi.nhưng không,khi nó về,cả đơn vị ngạc nhiên vì nó lễ mễ đeo sau lưng một con cá mà một nửa trong ba lô,còn một nửa thì thò bên ngoài.đuôi nó cao hơn đầu thằng NĂM.con cá nặng 22 kg.nó là loại cá bống mà tôi tả ở nhà bà người tày, thằng NĂM bảo,nó có gọi tôi lại giúp nó nhưng tôi vội chạy nên không nghe thấy.nó bảo cũng giông tôi, thoạt tiên nhìn thấy vật rất trắng nằm ở bãi cát giữa sông,tưởng hàng tâm lý chiến,nhìn kỹ thấy động đậy thì ra con cá bị sức ép của pháo nằm dạt đó.nó bơi ra đầu tiên hơi giật mình vì con cá to quá.khi nó đeo qua trận địa cối 160 ,các bác ở đó cứ nửa đùa nửa thật bắt nó chia cho một nửa,song nó không chia. đại đội tôi hồi đó chỉ khoảng 40 người.vì đơn vị vừa tham gia lấy chốt,lên quân số hy sinh và bị thương lên chưa đủ.bữa đó chúng tôi liên hoan vui như tết bạn ạ.thịt cá ăn rất thơm,không rắn cũng mềm,beo béo ngầy ngậy,vẩy của nó to gần băng trôn bát ăn cơm.bữa đó chỉ tiếc là không có rượi như thời giờ.cảm giác bữa đó giờ vẫn còn bạn ạ.

Xin đính chính một chút: có rau tập tàng thay vì gọi là rau thập thàng. Hay là có loại rau thập thàng mà tôi không biết. Vậy thì xin lỗi nhé.

Rau tập tàng là một tập hợp đủ thứ rau hái trong vườn từ rau dền, mồng tơi, rau sam, dền cơm, thài lài, rau dệu, ngót, lá ớt non, lá mướp đắng (khổ qua) kể cả mướp đắng qua còn non, bắp ngô vừa nhú còn thơm mùi sữa (ngô bao tử), quả mướp vừa hái trên giàn...nghĩa là kính thưa các loại rau mà lại không phải cụ thể là một loại rau nào. Rau tập tàng ở quê thì nấu với tép hoặc tép khô giã nhỏ, hến, trai, trùng trục...còn lính thì nấu với thịt hộp, ruốc mặn thậm chí một chút muối, mì chính là đời đã lên hương rồi.

Búp sắn thì ngon rồi, tôi đã từng được thưởng thức ở  rẫy  rừng Long khánh năm 1975. Bùi, hơi khô khô, chấm với muối vừng càng ngon nhưng khô hơn và nhai mỏi răng hơn, chú ý có thể bị say nếu anh nuôi lười không luộc lại nước lã lần hai. Bồ công anh thì tôi không giám nghĩ tới vì trong vườn thuốc của bố tôi tại Giao ThủyNam Định chỉ có mấy khóm nhưng cũng giải quyết được cơ cấu bệnh của bà con trong vùng thời bao cấp. Còn món cuối cùng bác nêu thì thôi rồi Lượm ơi vì quê tôi có "Rau câu" là Rong biển (tảo hồng), là quà tặng của thiên nhiên, tích tụ bao chất vi lượng, vi ta min và cả Selulo từ trùng khơi rất tốt cho tiêu hóa, thậm chí có thể còn chống ung thư và phóng xạ. Vậy thì nhất định quà tặng của thiên nhiên từ núi rừng nhiệt đới là loại rêu mọc từ đá (thạch mao) quí lắm, nhất định có chừa trong nó những thứ tương tự hoặc hơn cả Rong biển (lưu ý bác kêu là Rong Rêu nhá, đừng gọi Dong sẽ thấp giá trị hơn) kính.

khiếp quá,hỏi gì bác cũng có.trông cây rau đay của bác ngon quá.mà bác cũng tài thật.lại còn mang về tận thủ đô trồng nữa.không biết có đúng không,theo trí nhớ không nhầm của em,cây rau đay em tả thì nhìn hơi khác bác ạ.lá nó cũng xanh,tía,trông không khác rau đay bình thường là mấy.có thể vì mọc hoang lâu ngày ,cây phát triển thành bụi.một bụi của nó phải trên chục mét vuông.nói không ngoa,lính ta còn trèo lên hái được.lá và thân cây hơi giáp,ăn cứng hơn rau đay bình thường,trông nó có vẻ không được mỡ màng ,hiên ngang như cây rau của bác.

còn một loại rau nữa,em tin có thể bác cũng ăn rồi.hồi bọn em mới lên,mấy anh 80,81 nói rằng,đắng lắm,chúng mày không ăn được đâu.nhưng bọn em vẫn thử,phải nói đắng thật.ăn song rồi thì cảm giác rất ngọt ngọt trong cổ.ăn mấy lần thì nghiện luôn.cây mọc thẳng,thoáng nhìn thân và lá rất giống cây chè,loại này chỉ ăn được búp thôi.hái y như chè ấy.xào với mỡ bơ thì thôi rồi,thời giờ mà có chắc ăn vẫn còn ngon.nhưng hồi đó kiếm cũng khó,lâu lâu mới gặp.tên thì không ai biết,mấy anh lính cũ,quê trung du cũng chỉ gọi đại nó là rau đắng,chắc không đúng.

Em lại chen phát nữa:Những năm 80 ấy,đói toàn diện,gạo mậu dịch hôi mù,gạo tấm của Ấn độ viện trợ cho ta(có khi cho lợn ăn) cũng chẳng có mà ăn.Người nông dân phải ăn cơm độn(+khoai lang,sắn,bo bo-Đông âu viện trợ).Bọn em con nhà nông dân,ăn khoai lang è cổ,làm gì có gạo mà ăn,lúa bị sâu tim chết sạch,ăn khoai lang xong ợ chua liên tục,nóng ran cả bụng(xin lỗi các bác,cái loại này nhuận tràng tốt,tốt lắm).Bộ đội ở nhờ nhà dân,nhưng các anh có bếp riêng,gia đình và bộ đội ăn riêng.Các anh ấy chắc cũng đói lắm.Trước khi phải lên Lạng sơn các anh nói nhỏ với em:Mang cho anh rổ củ doải(khoai lang to bằng ngón tay,loại này vứt đi dân không thèm ăn).Nhìn mấy anh ăn ngon lành,em đã khóc thầm:Ớ các anh ơi,bao nhiêu tháng ở nhờ nhà em,đâu có biết các anh thèm cái món của nợ này,sao các anh không nói trước,mai các anh đi rồi!

(Sau khoảng 1 năm,mấy anh này ra quân,về nhà em chơi,chẳng ai bị thương vong gì.Chỉ nói:Pháo Tàu nó bắn khiếp lắm)

 - Bác và gia đình bác là diện những gia đình có ăn rồi . Vì có cơm rồi khoai lang mà ăn . Bọn em đóng quân ở nhà dân em biết . Họ còn không có cơm và khoai để ăn nữa kia . Bọn em tuy đói nhưng cũng còn có bát cơm , hay 1 khúc mì Nga được anh nuôi luộc dài như khoang giò rồi cắt ra đoạn 1 . Chủ nhà em ở họ chỉ ăn đúng có 1 món sắn đồ . Hết ngày này tháng nọ họ ăn . Không muối , không rau , cũng không thịt . Người nào cũng xanh lét , môi thâm . Em đã có lần xin ăn thử bà chủ 1 miếng . Mẹ ơi ! nó đắng , nó thâm và nhớt của nhựa  . Họ hòa bột với nước rồi cho vào ống tre bầu rồi buộc lại . Để dựng đứng trên cái nồi có nước , bịt kín rồi đun sôi lên . Hơi nước xuyên qua ống tre và bột sắn . Thế là chín . sau đó hạ xuống tách ống tre ra . 1 khoanh giò sắn được cắt ra . cứ thế là ăn . đó là món sắn đồ đó . Nhưng ăn vài lần cũng quen

Em hơi lan man 1 chút,vì em cũng xuất thân từ nông dân.Trước 1979 thuốc trừ sâu TQ viện trợ cho bà con là DDT(Điclo-Đifenyl-Tricloetan),666(Hecxancloran) cực độc,rắc xuống ruộng lúa ở dạng bột,sâu,cua,cá chết sạch.2 loại này hiện nay đã cấm.Ngoài ra còn có đạm,lân,kali...của bác Mao viện trợ,nông dân mùa màng tốt tươi.

-Sau 1979 quan hệ cắt đứt hoàn toàn.Cây lúa của người nông dân,bị sâu bệnh,nhất là sâu tim nó hoành hành,cùng với nạn bọ rầy.Tóm lại cây lúa chết dần,mất mùa liên tiếp.Chỉ có cây khoai lang,khoai tây là không bị ảnh hưởng.

-Các bác có thể thèm 2 món khoai trên,nhưng với em là 1 nỗi kinh hoàng thời thơ ấu(khoai luộc,nướng,sấy,hấp cơm,cháo...)

-Với em thì buộc phải ăn.Biết đâu mấy anh lính kia vừa thèm,vừa đói(Toàn lính Hà nội đấy)

- Đã vào lính thì ai cũng phải chấp nhận cái khổ . Không khổ thì không phải là lính . Đã đi lính thì phải đi xa nhà , xa bố xa mẹ và xa người yêu . Nếu đơn vị không thương lính và quản lý tiêu chuẩn lương thực và thực phẩm cho tốt , thì lính đói dài dài . Mình còn biết vá cả quần áo cho mình nữa cơ .

 - Còn món khoai lang là món ăn giải cứu cho người nông dân ta rồi . Tớ đã ăn khoai lang luộc trừ bữa . Khoai lang cạo vỏ sắt đoạn nấu chung với gạo . Khoai lang hấp trên mặt nồi cơm . Khoai nấu nhừ với tỏi làm canh để chan ăn với cơm , Khoai lang cắt mong phơi khô cất đi để sau này nấu độn với cơm . Hay say tán nhỏ ra để hòa nước nặn thành bánh hấp lên ăn thay cơm . Đi chăn trâu thì moi dưới cái mầm khoai lên cái củ còn sót rồi rửa đi nhai ngọt như đường . Tớ có oai bằng bạn không hay vẫn còn kém bạn món khoai nào ?

 . Còn ngày xưa thì Hà-nội cũng phải về quê hết . Cả Hà- nội từ già trẻ trai gái phả đi sơ tán về quê hết . Chỉ những đơn vị hay cơ quan không thể đi được thì trụ lại Hà -nội thôi . Nhưng đi sơ tán thì vẫn được đong gạo ở kho của xã hay của huyện . Mãi sau năm 1972 thì dân sơ tán mới dần dần quay về Hà-nội .

Lại nhớ món măng ớt. Người ta lấy quả mắc mật mới chuyển sang màu trắng nhạt thì ngâm ngon hơn. Ngâm ớt, mắc mật , măng với tỉ lệ vừa phải thì chúng có vị the the của mắc mắc mật, cay cay của ớt, hơi inh ỉnh và giòn của măng.Cái này cũng chỉ ăn ngon trong thời gian nhất định. Để lâu quá cũng kém ngon. Lính mình thiếu thức ăn. Mỗi khi vào dân rớ được ăm cho thỏa cái mồm con ma đói. Lúc đứng đậy, mồ hôi mồ kê vã ra. Bụng cồn cào cả buổi.Thằng nào ngu đi ăn mía hay mít dứa vào càng chết.

 Lợn quay của dân Lạng sơn thuộc dạng siêu đặc sản. MT tôi đã từng thực hiện.

 Bây giờ ăn ko thấy ngon là do chăm cầu đền lễ miếu nên con ma đói nó tha. Thịt lợn quay bán ở chợ, ở nhà hàng là lợn siêu nạc, nuôi theo lối công nghiệp chứ không còn lợn cỏ thả rông. Thay cho mật ong rừng quyết lên bì lợn là mật mía hoặc mật ong nuôi nên bì không giòn thơm như xưa. Ngoài ra than, củi để quay cũng rất quan trọng. Có người nói dùng cây quế rừng để xiên qua con lợn quay càng ngon. MT chưa được làm như vậy.

 Lá mắc mật còn một công dụng bí truyền trong chế biến thực phẩm. Đố bác nào biết. Bác nào nói đúng em hầu bữa vịt quay với rượu Mẫu sơn chính hiệu

Đói thì ăn củ ăn khoai . Chớ ăn củ chạc củ chài mà chết con ơi''.

 Nói thật với các bác, củ chạc em chửa ăn nên không biết có chết không còn khoai thì em đã ăn các kiểu. Có lẽ nhanh chán là món khoai khô nấu với mật, đỗ đen phải không bác Ếch? Còn trường kì thì chỉ xơi được khoai sống. Sợ nhất là khoai luộc. Nhìn cảnh lính mình ra bờ suối chế tác non bộ mà khiếp mỗi thằng cho ra vài cái chóp như cứt mèo. Quân y kêu trời sợ dịch bệnh. Nhưng biết làm sao. Xơi toàn khoai rát lắm không dám chùi. Ra suối còn tiện nước rửa. Mấy thằng bến cuối tha hồ lặn ngụp. ;

Em lại chen phát nữa:Cái xóm của em ngày ấy,lính ở nhờ trong dân,ngày ấy đất rộng,chứ bây giờ thì...lấy đâu nhà mà cho ở nhờ,sĩ quan thì ở ngoài lán chỉ huy ngoài đầu làng.Đến bữa cơm thì 1 trong 4 anh phải mang chậu nhôm ra nhà bà Tráng lấy cơm do anh Đoan nấu rồi mang về.Hôm đó là 22/12/80 nhà bếp "kháp"-thịt lợn cho bộ đội.Anh Đoan là bếp trưởng gọi em ra từ sớm vào bếp với anh.Nồi canh măng om xương lợn đặt trên bếp than sôi ùng ục,mùi hấp dẫn.Em và 2 anh nữa cứ lấy 1 que xiên xuống đáy nồi lấy xương lên và...gặm,rồi lại...thả vào nồi.Láo chưa?

-Các bác lần sau đừng ăn xương ở nồi canh măng của lính nhé,toàn hàng "si cần hen" đấy!

ôi nhớ cái ngày 9 thằng lính HN được phân về D12E108 pháo binh.Vì chưa kịp phân chúng tôi ra từng C lên tập trung tất cả 9 thàng tại C8.Hôm ấy 9 thằng nằm dài tại lán B thì có chú gà nhép của dân viếng thăm.Chỉ 1 cái phất tay,chú gà kia lìa trần bay vào nồi cháo.Chuyện đáng nói là 9 cái miệng háu đói cứ chăm chăm vào nồi cháo.không thể cả 9 thằng ăn,nồi cháo chỉ có vốc gạo với con gà nhép.Thằng nào ăn,thằng nào không,bài toán không có câu trả lời.Cường bò nhanh trí giải quyết vấn đề.Nó khạc 1 cái rõ dài,1 cục đờm xanh nét bắn bào nồi cháo.Bốn, năm thằng văng tục rồi nui lại.Tôi nhanh tay cầm cái môi,hớt cục đờm của Cường bò .Lúc này việc đã quá rễ,còn 4 thằng ăn cháo trong đó ,tôi có 1 xuất.

Các bác mất tác phong quá. Chuyện ăn, chuyện ị của lính còn dài. Sáng nay, thứ Hai đầu tuần em đưa các bác đi tham quan nhà phạt giam xem bác nào còn vô kỷ luật nữa không !

Chuyện lính vệ binh

Có lẽ đi quân cảnh đêm là cái mà đám vb chúng tôi khoái hơn. Đi cả đêm tuy vất vả một chút nhất là khi phải tới mấy làng xóm xa e bộ. Mỗi dịp ‘’có mầu’’ của lính, hàng quán tấp nập hẳn. Lính ra vào như hội. Mang đồ ra bán chác ì xèo.

 Nói là hàng quán cho hoành tráng. Thực ra chỉ là mấy nhà dân quanh đv. Bình thường thì bán ấm chè, túm thuốc, chai rượu với ít nông sản cho lính. Có khi lính ăn hút tại chỗ, có khi mua về đv, cũng có khi mua xong mang ra bờ suối, sườn đồi đánh chén với nhau. Người bán, kẻ mua chỉ là người nông dân chất phác với anh lính xa nhà thèm một chút men say hay đơn giản là củ sắn, bắp ngô bù vào chỗ thiếu của bữa cơm chiều. Biết là vi phạm quy định của địa phương, biết là vi phạm điều lệnh nhưng cái quy luật cung-cầu nó cứ phải diễn ra như vậy. Vb thì vẫn là lính. Thông cảm cho nhau.Mỗi toán quân cảnh thường bố trí thằng HN, thằng TB, thằng HNN ,thằng BTT. Chúng tôi  bắn súng đì đòm từ xa đánh động cho anh em tránh mặt. Đám nào đang dở dang thì nhắc nhở chút xíu. Lính ăn nhậu thì như mổ bò. Rượu vào rồi trời bé tí nói gì mấy thằng vb. Từ ngoài, nghe giọng anh em , chúng tôi cho thằng đồng hương vào khuyên anh em về sớm. ‘’ Ăn nhậu’’ . Nói nghe cho oai. Chỉ là ấm trà, mười điếu thuốc ‘’ con gà’’ trói ngang lưng bằng miếng giấy đỏ gọi là một ‘’túm’’. Chai rượu sắn với vài cái bánh đa. Sang thì được bơ lạc rang cả vỏ. Tất cả bày trên chiếu trải dưới nền nhà. Dăm bảy thằng lính xúm xít . Vb vào, lúc đầu có vẻ ngỡ ngàng, gượng gạo. Sau túm tay túm cẳng mời ‘’ đồng hương làm tí’’. Chúng tôi không bao giờ nhận lời. Có lần anh Thắng ở c vận tải dúi cho tôi túm thuốc . Tôi không lấy, anh mắng :’’ Đan mạch. Huấn luyện rít chung điếu thuốc lào. Giờ làm vb sĩ vừa thôi. Của anh anh cho. Mày có bắt anh về nằm cùm thì ctr anh xin chứ anh đé thèm xin mày’’. Nhiều khi chủ quán vì nhiều lí do cũng mời. Tất nhiên chúng tôi cũng không bao giờ nhận.

Thường thì anh em chia tay vui vẻ. Cũng có lúc phải bắt vài thằng. Những thằng quậy phá, ăn chằng ăn bửa của dân trị tới nơi tới chốn. Vô phúc cho thằng liên lạc nào ra mua đồ cho thủ trưởng. Gặp là tó ngay. Khỏi trình bày. Cho thầy mày đi giao ban hết kêu vb ko chịu duy trì kỷ luật khu vực. Cũng có khi bắt hàng loạt. Âý là khi e bộ có việc cần cửu vạn.

 Có một điều đặc biệt. Lính bị bắt trình bày lý do qua quýt. Được thả thì vui vẻ cảm ơn rồi về. Không được thả cũng vui vẻ chịu giam chứ không hề xin xỏ lèo nhèo. Trên đường về dù trời tối, địa hình hiểm trở cũng ko thèm trốn chạy. Một lần bắt chừng 10 lính, tôi bảo thằng Tùy đếm xem đủ chưa. Nó đếm bảo đủ. Trong đám lính bị bắt có thằng nói:

-   Đủ rồi thì cho bộ đội về nằm cùm sớm cho phẻ mai còn công tác. Để tôi cử một đồng chí về báo d tr khỏi báo động đv. Mai đồng chí ấy có mặt trên e bộ.

 Qủa thật, cái thằng về báo dtr ấy sớm hôm sau đã ngồi ở cổng vb.

                                           *  *  *

 Chuyện cái cùm.

 Cái gây ấn tượng nhất cho người ta mỗi khi đến b vb là cái cùm. Đó là hai tấm gỗ dày khoét các lỗ bán nguyệt. Khi hai tấm gỗ khớp vào nhau thành một khối chắc chắn. Các lỗ bán nguyệt đớp gọn cổ chân thật khít khao cho thằng lính phạm yên giấc. Chỉ những thằng cứng cổ tội nặng có tiềm năng bỏ trốn hay những thằng coi thường kỷ luật mới được hân hạnh tra chân vào cùm. Thằng nào ít thì một chân, thằng nào hơn ít một tí thì hai chân. Thằng nào nhiều thì cũng hai chân nhưng chéo nhau. Với cái bản gỗ dày chỉ có nước nằm sấp hoặc nửa nằm nửa ngồi mà nhắm món ‘’ gà năm vị’’. Hôm nào vắng còn đỡ, hôm đông năm sáu thằng tranh nhau nằm một cái cùm. Ken sít vào nhau không cựa được. Cả đêm càu nhàu cãi cọ .Khỏi ngủ.

 Cái cùm cũ xộc xệch lắm rồi. Nó được Hợp bọ đẽo nham đẽo nhở trông như một con quái vật bệnh tật. Trải qua năm tháng phục vụ quân đội, cái hỗn hợp mồ môi và lớp vảy bần của da mà ta hay gọi là ‘’ghét ‘’ đã phủ cho nó một lớp keo đen bóng. Cái hương gỗ sau sau thơm nhẹ ban đầu đã phôi phai. Nay nó đã dợm mùi khăn khẳn. Thật là bôi bác. Bôi bác quá. Cái cùm không còn thể hiện tính chính quy của quân đội .Nó càng không tương xứng với một đv được trang bị hiện đại nhất nhì lục quân lúc bấy giờ. Sứ mệnh của nó đã hết. Không nỡ vứt đi, người ta cố cho nó cơ hội cống hiến cuối cùng bằng cách biến thành nhiệt năng làm chín những nắm rau cải thiện của mấy thằng vb. Nhưng nó, cái cùm cưỡng lại thuyết vạn vật chuyển hóa. Vừa chạm vào lửa, cái lớp keo liền bốc mùi khét lẹt gây gây đến lộn mửa. Và người ta đành vứt nó vào xó nhà giam như một chứng tích vang bóng một thời.

 Những phát minh của loài người luôn được cải tiến để phục vụ loài người hữu hiệu hơn. Cái vật giam giữ người bằng gỗ ấy thì không thay đổi là bao kể cả ngàn đời nay. Sau khi bàn đi tính lại, cuối cùng người ta đành thay cái cùm bằng một cái ….cùm mới. ‘’ Nhưng trông nó phải  có chất văn hóa một chút’’ . Đó là câu kết của trưởng ban tác chiến khi giao nhiệm vụ cho Thế già.

  Vốn là một tay thợ mộc chuyên đóng đồ gia đình,Thế già vừa qua lớp tân binh HN biên chế về b vb. Được dịp thể hiện tay nghề lại là chế tác một sản phẩm đặc biệt có một không hai trong toàn e. Thế già tận tâm tận lực ngày đêm lao động. Đầu tiên, Thế già chọn trong đống gỗ lấy ra tấm gỗ ưng ý. Sau những ngày lao đông miệt mài . Thế già cho ra một chiếc cùm phải nói là tuyệt tác. Hai tấm gỗ màu đỏ au khi khép lại trông như một. Đường vân nổi tựa mây vờn lấy cái đầu rồng là tay cầm được cách điệu . Hàm rồng treo cái khóa Trung quốc mới coóng tựa như đang giữ một báu vật. Các mộng, chốt, cá cực kỳ chắc chắn, khít rịt. Một người lính có lương tâm người thợ. Hai trong sáu lỗ  cùm được Thế già  tạo hình côn, lấy mảnh chai cạo nhẵn lì. Thế nói với đám vb : ‘’ Để anh em mình có bị cùm thì đỡ cắn chân’’.

 Để tăng thêm phần ‘’ văn hóa ‘’, cũng là để lưu danh một thời trai trẻ , đôi bàn tay vàng  tỉ mẩn chạm dòng chữ ‘’ ĐỜI CÒN KHỔ’’.

 Thế già le te lên báo công với trưởng ban tác chiến. Bụng nhủ thầm ‘’ phen này thế nào cũng được đóng giường tủ cho các thủ trưởng’’. Những bữa cơm rượu, những ngày tự do,những lời khen nịnh thời còn gánh hòm đồ bòn cơm thiên hạ dậy lên trong lòng. Thế già khoái lắm. Trưởng ban tác chiến rất ưng ý với cái cùm đầy chất văn hóa ấy. Anh cho khiêng vào kê đúng chỗ mà chỉ có cái cùm đáng được ngự.

-   Ô ! Cái gì thế này ? Chữ gì đây ?

Thế già bẽn lẽn, mắt cười tít tay gãi gáy.

-   Anh khắc lên đây phải không?

 Thế già cười hì hì như công nhận.

-   Vào ! Vào !

 Thế già ngồi đấy. Cái miệng méo xệch. Cái ống tay áo cắt ngắn để cưa, bào cho đỡ vướng chốc chốc đưa lên quyệt hai hàng nước mắt. Đôi bàn chân run rẩy qua hai cái lỗ  ‘’ Để anh em mình có bị cùm thì đỡ cắn chân’’. Thế già ơi! Thật nực cười cho thằng cha làm ra cái cùm rồi bóc tem nó !

Đợt đó cả D em đi làm công trình , toàn d rút hết chỉ để lại mỗi c 3 thằng trông coi đơn vị và mấy thằng quản lý , thủ kho anh nuôi trên D bộ , ban chỉ huy d lúc này chỉ để lại một thủ trưởng là d phó ở lại trông coi mấy thằng lính lác tụi em . Thực ra công việc trông coi doanh trại cũng chẳng có gì , chỉ trừ mấy kho quân khí và quân lương ra thì trống hơ trống hoác , gần 20 thằng ở lại chỉ có mỗi việc gác đêm là không dám bỏ , còn lại bỏ tuốt he he bởi chẳng có việc gì . Bọn em ngày chỉ vật vờ vào dân chơi kiếm đồ tươi cải thiện , lợp lại vài cái mái tranh bị gió làm tốc , cuốc đất tưới rau , ngày ba bữa ăn xong lại trà thuốc tán phét , tối thì đánh tiến lên bôi nhọ nồi rồi lăn ra ngủ , đến phiên gác thì dậy thế thôi . Mà d phó thấy bọn em như vậy cũng yên tâm phần nào , cả d còn mỗi mình bố ấy nên cũng buồn , tán phét với mấy thằng lính mãi cũng chán nên hay vào bản chơi với dân cho tình quân dân thêm thắm thiết .!

   Đúng là sướng mà không biết đường sướng , các cụ nhà ta nói không sai bao giờ rằng : " nhàn cư vi bất thiện " , cũng bởi chẳng còn trò gì , trời xui đất khiến thế nào mà hôm đó thằng Dũng béo là quản lý kho quân khí hứng lên bảo muốn xăm hình môt con thuyền buồm lên ngực để làm kỷ niệm , nó biết em là thằng vẽ đẹp nên cứ nằn nì , của đáng tội từ hồi đi học em là thằng chuyên đảm trách báo tường của lớp và cũng được học qua trường lớp nên có tý nghề , nghĩ cũng ngại nhưng nó cứ nằn nì vả lại lâu không vẽ vời gì cũng muốn thử xem tay nghề của mình ra sao nên tặc lưỡi vẽ cho nó . Thằng Long quản lý D thì xung phong xăm hình , nó lấy một đoạn dây thép mài nhọn đốt chiếc dép cao su lấy muội  trộn với kem đánh răng để xăm cho đồng đội, thằng Dũng cởi trần mặc quần đùi nằm ngửa dù đau nhưng vẫn khoái chí lắm , xong việc nhìn lại tác phẩm thì đep thật , he he có một con tàu cánh buồm no gió tung tảy ra khơi chiếm dt gần hết ngực của nó . khi ngồi trà lá nó cứ cởi trần khoe tác phẩm và rồi tiếng lành đồn xa những thằng lính lác còn lại thi nhau nhờ em với thằng Long tạo hình nghệ thuật . Bố khỉ thằng thì xăm hình nàng tiên cá , thằng thì khẩu AK cái mũ cối, thằng thì dãy núi chập trùng , quả lựu đạn mỏ vịt liên xô , trái mìn tăng kèm theo những chữ rất ấn tượng như : Nhớ mẹ ! Thương em ! Lính phong sương ! Đời rẽ ngoặt ! Em ở đâu ? !Vvv...

   Sướng lắm ! ra ngoài bản chơi các ông con cũng đều khoe khéo cho đám trai bản biết , nhưng về đơn vị thì giấu biệt vì sợ D phó biết , nhưng cái kim trong bọc mãi cũng phải lòi ra , đầu tiên là thằng Dũng béo , đi tắm bị D phó tóm được và rồi nó phải phun ra tất , bố khỉ gần 20 thằng cởi trần bị đứng giữa sân nắng của D để nghe D phó  : he he đ..mịa chúng mày là cướp hay là bộ đội ? Đ..mia bộ đôi đ..gì chúng mày ! chúng mày chỉ làm hỏng quân đội hỏng lính mới của tao . Muốn vào tù  mai tao điện cho vệ binh sư xuống cho chúng mày nằm hầm ...ôi trời ơi bọn em hồn xiêu phách lạc chỉ mong d phó nói dọa ...he he mà dọa thật mới phúc chứ , bố ấy chỉ tức một lúc thôi xong thì : Đ...mịa hẹn cho chúng mày phải xóa ngay lập tức , mai tao kiểm tra thằng nào còn thì Đ..mịa kéo dài thêm 6 tháng tuổi quân Đ..mia cho chúng mày nhớ !! Còn thằng vẽ và thằng xăm Đ..mia mai  chúng mày vào công trình vác" kẹo lạc " ở đó tha hồ mà vẽ mà xăm .

   Hu hu , khổ cho cái thân em làm gì lên tội thủ trưởng ơi , không vẽ cho bọn

   nó thì bọn nó chửi mà vẽ cho chúng thì mang họa vào thân !! Họa cái nối gì Đ..mịa mày xem chúng nó còn họa hơn mày , chúng nó phải xóa hết hình xăm trên người kia kìa !

   He he Dũng béo ơi chỉ thương mày !! Cái thuyền buồm trên ngực của mày to quá Dũng ơi !!

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro