truyện ngắn Người mẹ cầm súng

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

I. Căm thù và nghị lực 

Tại xã Tam Ngãi, huyện Cầu Kè, tỉnh Trà Vinh có một người đàn bà đã sáu con tên là Nguyễn Thị út. Dáng người nhỏ gọn, chị có khuôn mặt tròn và đôi mắt to, sáng. Cô bác lớn tuổi quen gọi chị là con út Trầu, vì chị hay ăn trầu. Lại có người đặt danh chị là "Bà Hồng"(1) vì chị đánh giặc rất giỏi. Xóm giềng theo tục địa phương, ghép luôn tên chị với tên chồng, cứ kêu là út Tịch. Mới đây bà con lại bàn tán một chuyện mới xảy ra về chị. 

Một đêm tối trời tháng giáp Tết vừa qua, dân làng đáy(2) ở ngoài cồn Bần Chát bỗng nghe tiếng đàn bà kêu cứu. Vào mùa nước rong, sông chảy xiết, sóng to, có lượn lớn bằng con trâu, dân nghèo đi làm ăn bị chìm ghe, đồ đạc trôi láng sông. Người ta chạy ghe máy ra giữa dòng, vớt lên được một người đàn bà chỉ có đôi mắt to là còn tỉnh táo. Trên vai chị, một đứa bé tuổi còn bú, cứng đờ, thở thoi thóp. Cùng với chị còn có ba đứa nhỏ gái run rẩy, da tím ngắt. 

Đó là chị út Trầu. Hỏi ra mới biết hôm đó nghe tin giặc bố ngoài bờ sông, chị mướn xuồng chở ít dưa sang Cầu Lộ bán, tiện dịp thăm dò tình hình giặc ngoài đó ra sao. Giặc chặn đường ban ngày, chị phải đi đêm. Ra tới giữa sông, sóng lưỡi búa đã bốc nước làm chìm xuồng chị. Sông Hậu Giang mênh mông, bề ngang bốn ki-lô-mét, chèo thẳng tay cũng mất ba tiếng. Mấy mẹ con ngụp lặn giữa trời nước tối đen. Chị út vai vác đứa con mới đẻ, lội đứng, miệng hò hét điều khiển ba đứa con gái, đứa nhỏ nhất mới lên tám tuổi, bám theo mép xuồng 

còn chìm lờ đờ, thả trôi. Xuồng muốn chìm luôn xuống đáy sông, chị cố nâng lên. Mọi việc đều phải tỉnh táo, chính xác. Nếu không khéo, đứa nhỏ trên vai sẽ chết. Quá tay một chút, cái xuồng cũng có thể chìm luôn. Cứ như vậy, hai tiếng đồng hồ, sóng lớn, sóng cả đã thua chị. 

Lên bờ, thoa bụng con, chị thử sức con bằng cách thọc lét(1) cho nó cười. 

Mấy mẹ trong xóm nói: 

- Đàn bà như tao thì sình lên rồi(2). 

Nó vậy mà mẹ con còn y. 

Mấy mẹ Khơ-me nói: 

- Con đó chuyện gì nó cũng làm như đụng giặc vậy. 

Bà Sáu Hò kêu lên: 

- Nó uống toa thuốc gì mà gan trời vậy chớ! 

(1) Cù.

(2) Chết trương.

- Có uống thuốc gì đâu. Hồi nhỏ cực quá nên bây giờ gan thôi. Mười hai tuổi từng đánh vợ Hàm Giỏi mà. 

Cô bác hay nhập chuyện đời xưa vào chuyện đời nay của chị như vậy. 

Ngày đó, út mặc quần bố tời(1). Rận ôi là rận! Lấy chai lăn, nó kêu như muối rang. út ở giữ con cho vợ Hàm Giỏi, vừa phải leo cau, vừa leo dừa. Hai bên hông út sần sượng, nổi cục. Leo cau tối ngày, đói, đến lúc đút cơm cho con nó ăn, út rất thèm. Thịt nạc nó kho nước dừa béo vàng. Những miếng thịt lưng cá trê nó lòe ra trắng như bông. út ăn đại một miếng, ngọt quá, út làm luôn cả chén, rồi chén nữa. Chiều thấy con đói, vợi Hàm Giỏi kêu út lại chửi: - Bộ ông nội bay hồi đó chết đói thụt lưỡi hả? 

(1) Bao tải. 

Rồi mụ đánh út, quyết cho lòi thịt, lòi cá ra. Nhưng thịt cá vào bụng út rồi, ra sao được? Mụ quất út một roi, làm út nằm giãy như sâu bị bắn. Lúc ngồi dậy, sẵn tay, út liệng luôn cái chén vào mặt mụ. út không hiểu sao lúc đó mình dám làm như vậy. Vợ Hàm Giỏi cao, mập. Ngay thằng chồng đứng cạnh mụ cũng chỉ như "lóc nói(1) mà ôm cột dừa". Uy thế của mụ cũng ghê gớm như cái thây mụ. Mỗi lần ngồi ghe đi góp lúa(2), mụ ngả người ra sau, chỏi chân ra trước, hai bên ghe chạm hai con khỉ bằng cây ngồi chầu. 

Cái chén đập lại của út làm mụ Hàm Giỏi tím mặt. Mụ nắm tóc út, mớ tóc non có chút tị. út với con dao cau lia vào tay mụ. Mụ vốn sợ dao, buông ngay. út phóng ra ngoài. 

(1) Một loại cá bằng ngón tay.

(2) Thu tô, thu nợ thóc.

Bắt đầu ở đợ, út là một con bé tám tuổi, cởi truồng, ốm nhách. Đến lúc đánh lại địa chủ, út mới mười hai tuổi, vẫn ốm nhách, nhưng lại thêm có một mối thù trong người.

Trốn nhà này đi, út lại phải đi ở đợ. Một nhúm tuổi, biết làm đâu, ăn đâu bây giờ. Con gái hội đồng Thanh mướn út để leo dừa, leo cau và đổ đờm ho lao. Cho đến ngày cách mạng, rồi kháng chiến. Một buổi Tây vào bố(1), các anh đàng mình rút, bỏ quên cái máy chữ. út mến các anh nên rất thương cái máy. Em lấy dây buộc, lôi nó lên ngọn dừa, giấu kỹ. Chiều, các anh về, cách mạng còn cái máy, nhưng đồ đạc và hộp vàng của con gái mụ địa chủ bị Tây lấy sạch. Chờ các anh đi, nó kêu út lại chửi: 

- Bây giấu đồ cho người ta còn đồ nhà bây bỏ. Quân bây ăn xong rồi quẹt mỏ như gà. 

(1) Càn (khủng bố). 

Nó xấn xổ tới. Từ chiều, thấy các anh đi, biết là thế nào cũng sẽ bị đòn, út đã thủ sẵn nắm ớt bột. Con kia lớn gấp ba út. Nó vừa quơ cây lên thì nắm ớt bột đã đập vào mặt nó. Lần trước, út không hiểu sao mình dám đánh vợ Hàm Giỏi, lần này, út đã hiểu rằng phải đánh nó để nó không đánh được mình. Năm ấy, út mười bốn tuổi.

Có uống thuốc gì đâu! Bị đòn nhiều 

quá mà cứ phải ngậm ngậm ở trong lòng nên nó nảy ra cái gan như vậy. 

Nhân dịp chìm ghe, nhớ chuyện cũ, ông Sáu Hò, thông tin xã, đặt tặng út mấy câu thơ: 

Vợ Hàm Giỏi thây to, mặt mốc, Vợ hội đồng Thanh vai cóc, mình lươn Đập cho bể mặt bể sườn, Bản mặt chườn trờn, hết đánh út chưa! út ơi, út hỡi, bây giờ Chìm ghe, sóng cả, con thơ, giữa dòng. 

Sông sâu phải chịu thua cùng... 

II. Cách mạng đã đem lại cuộc sống và hạnh phúc 

Một buổi sáng, các anh bộ đội thấy một em bé gái ốm tong teo, mặc quần cụt, áo cánh vải xe lửa(1) vá chằng, vết roi đòn còn hằn trên cổ, đến năn nỉ xin đi theo bộ đội. Các anh hỏi:

- Tại sao em xin đi!

Em nói:

- ở đợ cực quá mà.

- Đi đánh Tây cũng cực vậy!

- Đánh Tây sướng bằng tiên chớ cực gì.

Các anh đều cười, em nói tiếp:

- Nó đánh mình, mình đánh lại nó 

mới sướng chớ. Em ở đợ, chủ đánh em, em phải chạy.

Em đưa cổ cho các anh coi. Các anh rất thương em nhưng hoàn cảnh lúc đó đem em theo sao được.

Mấy ngày sau, má, chị Hai, chị Ba của út đều thôi ở đợ cho hội đồng Thanh. Một đồng bạc nợ của nhà nó đã có các anh bộ đội trả giúp. út, cô bé hụt đi bộ đội lần đầu, theo mẹ về lập chòi(1), làm mướn.

út lại leo cau, leo dừa, đồng xu một cây. Chiều về, út đem tiền cho má và báo tình hình giặc đã nhìn thấy trong lúc leo dừa cho chú Chín - một cán bộ bộ đội. 

Ba năm sau, cách mạng mở chiến dịch Cầu Kè. út đem cả tuổi mười bảy của mình lao vào chiến dịch. út chạy thư mặt trận, phất khăn ra hiệu cho chú Chín Luông chỉ huy bộ đội đánh trận Rạch Cách, chọi đất báo tin cho các anh biết  để đánh bọn bót Bến Cát, út giết Tây bằng khăn và bằng những cục đất của quê mình. 

Một buổi sáng, út có dè đâu, chú Chín dắt một anh bộ đội mặt mũi hiền khô đến nhà nói với má: 

- Con út nó đã lớn. Tôi lựa được thằng nầy tướng tá coi cũng được, chị gả cho nó đi. 

út chạy một hơi ra bờ sông, ngồi. 

Anh bộ đội đó tên là Tịch, người Khơ-me. Sau đó cả tiểu đội anh Tịch đến đóng nhà út, út rủ bạn gái tới nhảy cò, nhảy u, đánh banh, vật lộn cho anh Tịch chê, vì đàn bà con gái mà chơi những trò đó thì quá lắm! Nhưng anh Tịch vẫn không chê. 

Trong trận đánh bót Chuông Nô, thấy út tay không, anh Tịch hỏi: 

- Hồi nào tới giờ cô có biết chọi lựu đạn không? 

út nói không. Anh cho út một trái, rồi làm điệu bộ dạy út chọi, rất giỏi. út nghĩ: anh này đánh giặc ngon đây! 

Bót Chuông Nô bị diệt, anh Tịch vác ra một vác súng. út mừng hoa mắt, đón lấy từng cây xếp xuống xuồng. út hỏi: 

- Trước anh có ở đợ không? 

- Sao không! Mới bỏ bò theo chú Chín đi bộ đội đây. 

Pháo giặc bắn như giã gạo. Chiến dịch còn dài. Anh Tịch lại đi. út chở súng về. Miểng pháo rơi quanh người lụp bụp. 

Bộ đội ta hạ đồn Bắc-sa-ma, bao bót Bến Cát, đánh tàu. Tàu giặc bắn như vãi cát. Trận này, út cùng chị Chương, cô bạn ở đợ ngày trước, bò ra dưới làn đạn giặc, lấy cây súng nồi của anh em ta rút còn để sót lại. Cây súng tốt quá, anh Tịch và các anh bộ đội đã từng nhảy vào đồn, đổ máu ra mới lấy được nó. Hai chị em è ạch lôi cây súng dưới sình.

Chiều hôm ấy, nó được trao trả tận tay bộ đội. 

Nửa chừng chiến dịch, bỗng có tin anh Tịch hy sinh. Chưa phải là vợ, cũng chưa biết yêu, nhưng út khóc anh Tịch, thù thằng Tây lắm. út đi trinh sát, thấy tàu nó vô sông Cầu Kè, út chạy băng băng về báo. Nó bắn moọc-chê đuổi theo. Mỗi lần nghe éo éo trên đầu, út chỉ hụp xuống một chút, lại chạy. Thương anh Tịch quá, út không biết sợ chết là gì. Bộ đội được tin ra dàn kịp. Trận ấy, tàu sắt giặc bị thương tháo chạy. Tây chết ục ục dưới sông. Một chiếc tàu cây(2) bị súng "ống trúm"(3) của ta thổi thủng một lỗ bằng cái nia. út la: 

- Trám đất sét, kéo nó về để dành độc lập chạy chơi! 

(1) Bùn.

(2) Tàu bằng gỗ.

(3) Súng ba-dô-ca.

Tưởng nói chơi, chẳng dè các anh làm thật. Chiếc tàu được kéo về, gỡ hết máy, chỉ còn cái bộng. Đứng dưới tàu, út nghĩ hoài không biết mình đã trả thù được cho anh Tịch hay chưa! 

Chiến dịch hết. Đột nhiên, anh Tịch trở về. Thì ra, ở đời, con người ta trùng tên là chuyện thường. út trở thành cô dâu. Ngày cưới, vui hơn Tết. út ra điều kiện với chồng: hễ theo giặc là thôi nhau luôn, còn đánh lộn chết bỏ cũng không thôi nhau! Anh Tịch gật. Bộ đội kéo đến đầy một chùa. Má của út lên ngồi ghế danh dự. út mặc áo mới. Chú Chín, người chỉ huy cao nhất quận Cầu Kè, ra xin thưa với má mấy lời... 

Chị Hai của út nói: 

- Phải tao biết đằng mình nổi dậy, tao nhín để bây giờ hãy lấy chồng. 

Má khóc: 

- Tao có ngờ đâu đời nó bây giờ lại được vậy... 

út lên nói cảm tưởng: 

- Tôi vừa được đi đánh giặc, lại vừa được chồng... 

Sau đó trẻ con hát nghêu ngao lời các anh bộ đội dạy: 

Ai đi chiến dịch Cầu Kè,

Về giồng Tam Ngãi, giang ghe xóm chùa,

Hỏi thăm cô út ngây thơ, 

Ngày xưa cực khổ, bây giờ thì sao?... 

III. Trong bước khó khăn 

Cưới xong, anh Tịch đi chiến đấu. út ở nhà trồng dưa, lúc nào có công tác thì chú Chín tới kêu đi. Hai năm sau, út mười chín tuổi. Sông bao lớn út cũng không sợ. út còn ao ước có một cây dừa nào cao tới trời để leo lên ngọn theo dõi địch. út đi bán bánh tận nhà giam Cầu Kè, trao kế hoạch của chú Chín cho cơ sở cứu một đồng chí huyện ủy viên bị bắt. Đồng chí đó thoát, nhưng sau đó ít lâu, út được tin buồn: chú Chín hy sinh. 

út khóc, kêu anh Tịch cùng đi trả thù. Lúc đó, huyện nhà đang gặp khó khăn. Giặc đóng bót tràn lan. Sông Hậu Giang ngày nào cũng có xác người chết. Đêm đêm, Tây đem anh em mình ra bắn ở cầu sắt. Người làm việc trong xã chỉ còn lơ thơ. ạng Chín Đông, chủ tịch xã, phải lánh trong chùa. Hàng ngày, út đi bán mì nấu và nước mía ở chợ Cầu Kè, út đã bỏ súng sáu vào thúng mì, mang vào giữa chợ, giao cho anh em giết thằng quận Hùm, trả thù cho chú Chín. Việc bại lộ, thù chú Chín chưa trả, lại bị giặc rượt bắt ráo riết. Cuộc sống hình như bị co hẹp lại, nhưng cái quyền đánh Tây thì vẫn còn nguyên vẹn. út tìm được một tấm hình Bác Hồ in trong tấm bằng khen, cắt ra, giấu kỹ. Bác Hồ ở xa, út chưa gặp Bác nhưng có Bác thì cách mạng nhất định sẽ thành công. 

Bị giặc lùng bắt, út bồng đứa con mới đẻ lưu lạc lên Sa Đéc. ở đó, chị lại móc được với cơ sở nội tuyến, đi tìm anh em mình vô phá cầu, lấy bót Cai Châu. Thấy chị lạ, anh em trên đó không tin, chị đưa tấm hình Bác Hồ ra. Đồng chí chỉ huy nhìn út từ đầu đến chân. út nghèo thật, quần phèn, đầu không nón. Đồng chí đó cầm tấm hình Bác Hồ lâu lắm, rồi hỏi: 

- Chị nói thiệt chớ? 

út gật, đôi mắt sáng long lanh. Cầu Cai Châu bị đốt, đồn giặc bị san bằng, út lại bồng con trở về Tam Ngãi. 

Tây thua to ở miền Bắc, Nam Bộ ùn ùn trỗi dậy. Du kích Tam Ngãi bung ra, giải phóng xã nhà. 

Đình chiến. Các anh bộ đội, đội nón lưới có gắn sao, kéo về đầy nhà út. Vợ chồng út tiễn anh em đi tập kết, ra tận ngã ba Chà Bang. Có bao nhiêu tiền, chị may đồ tặng anh em hết. 

út chưa lường hết được những khó khăn của người ở lại, nhưng chị nghĩ: Trước mình đã dám đánh nó thì bây giờ chẳng có gì đáng sợ nó. 

Một buổi sáng, út mang khoai đi chợ bán. Thằng ấn, một thằng phản bội dắt lính tới bắt anh Tịch. Được tin, chị bỏ khoai, bồng con, cũng chưa vội đi thăm chồng mà tìm ngay thằng ấn, chửi vào mặt nó: 

- Mày ăn của tao còn dính kẽ răng mà đã vội quẹt mỏ dắt lính bắt chồng tao! 

Bà con kéo tới. Thằng ấn cao lớn, mặt tái, đứng chết trân giữa lộ. Đôi mắt út dữ quá. 

Chị lại bồng con vào dinh quận. Qua mả chú Chín, chị vái: 

- Chú Chín, anh em mình đi tập kết vắng, nhưng còn chú, chú phù hộ cho vợ chồng con. 

Tới trước dinh quận, chị la: 

- Thằng ấn khai chồng tôi làm công an xung phong giết quận Hùm. Nhưng giết quận Hùm hỏi có gì là sai mà mấy ông bắt?

Bà con kéo tới thật đông. Thằng quận mới đến nhậm chức, phải ra. út lại la: 

- Quận Hùm là quân giết người, cả hai dãy phố chợ đều biết. Bây giờ nó còn sống nhăn ở Sài Gòn. Sao mấy ông không bắt nó mà đi bắt chồng tôi? 

Thằng quận nói như ngậm sỏi: 

- Gần đây vợ chồng mày có nối với Cộng sản không? 

- Vợ chồng tôi nối với cục đất, với cái gánh trên vai, Cộng sản làm sao ai biết đâu mà nối. 

Chiều hôm đó, nó phải thả anh Tịch. út ngồi ngoài hè, bồng con, nhìn chồng ăn cơm, nghĩ: Chưa hết khó đâu!

Những cái gì sẽ xảy ra với vợ chồng út trong thời gian tới? út sẽ phải làm gì? Chưa biết. út đã trải qua nhiều cực khổ. Bây giờ cực hơn nữa chị cũng không sợ. Hồi nào tới giờ út có bao giờ được sướng? Nhưng bọn giặc mong út cúi đầu khuất phục như đời ở đợ ngày xưa thì "xin lỗi", không được đâu! út nói với chồng: 

- Còn cái lai(1) quần cũng đánh! 

IV. Cách mạng ở trong lòng mình 

Đang cho con bú. út bỗng nghe thấy tiếng gì như tiếng người ngáy trên nóc nhà. Trời đất tối đen. Anh Tịch đi vắng. Đặt con xuống, chị cầm lấy cái đòn gánh. Đến gần cái giàn gác góc nhà, tiếng ngáy rõ hơn. út chọc lên. Một con người cựa mình, rồi nhảy xuống. 

- Anh Hai! 

Anh Hai ra hiệu cho út im lặng. Đó là anh Hai Tấn, một cán bộ cách mạng, giặc lùng bắt cả năm nay. út vui mừng, vừa la: 

- Anh còn sống thiệt hả, anh Hai? 

- Tôi còn đây. 

Anh cho út biết anh đã theo anh Tịch về đây ở mấy bữa nay, nhưng còn bí mật, chưa dám ra mắt út, út hỏi: 

- Đằng mình vẫn còn phải không anh? 

- Còn chớ đi đâu mà mất? 

- Thiệt hả anh? 

út muốn reo lên. Anh Hai phải ngăn lại. út giận anh Tịch lắm. Sáng, anh Tịch đi đặt câu về, chị nói, muốn khóc:

- Tôi đánh lại địa chủ, bị nó lột trần truồng, chạy về gặp anh, giờ anh coi tôi thiếu hiểu hơn anh hả? 

Anh Tịch phải năn nỉ mãi. Cũng bởi út hay nói lô la thẳng ruột ngựa, nên anh ấy sợ. út biết vậy. 

Anh Tịch dừng lại buồng thật kín. Ngày ngày út đi chợ, nấu cơm bưng tới tận chỗ cho anh Hai ăn. Bọn lính tới nhà rà rê, út mua rượu, gà xách sang nhà bên cạnh, dụ nó sang bên đó. Giặc bố liên miên. Ruộng đất cách mạng cho, nó cướp lại hết. Vào nhà ai, chúng muốn đào đâu, cạy đâu cũng phải chịu. Đêm đêm, chúng tự do bao xóm, bắt người, tra tấn. Chúng thảy(2) vào nhà út tấm bảng sơn "Nhà tôi không chứa Việt cộng", bắt mua treo trong nhà. Anh Hai vẫn ở đó. Đêm đêm, anh cùng anh Tịch đi công tác. út ở nhà nằm võng, đưa con, nghe ngóng, chờ cửa với một nỗi mừng vô hạn, vì cách mạng của mình vẫn tiếp tục, hai vợ chồng út vẫn được làm việc. Cái công việc mà nếu phải ngưng lại một lúc nào đó thì cả hai vợ chồng sẽ cảm thấy lẻ loi, trơ trọi, buồn khổ biết chừng nào. 

(1) Che kín.

(2) Ném.

ít lâu sau, anh Hai đổi chỗ ở. Lâu lắm út không được tin gì về anh. Một buổi chiều, đang lục cơm nguội cho con, út bỗng thấy bọn lính lôi anh Hai đi ngang. út sững sờ, cái muỗng trong tay rơi xuống đất. Anh Hai bị nó trói chéo cánh, ngực bầm đen. Anh không nhìn út, nhưng lại mỉm cười như chào. Nước mắt út trào ra. Anh Tịch đi vắng. Mình phải làm gì đây? Chị suy nghĩ mà chết đứng trong ruột. 

Tới đầu xóm, bọn lính kéo vào một nhà dân, nhậu. Chúng cười giỡn ầm ĩ. Ngoài đường chỉ có anh Hai Tấn bị trói ngồi đó và một đám lính gác dở say. Bỏ con nằm nhà, út mò đến. Gần tới nơi, út bỗng nghe thấy tiếng giặc hô hoán và bắn ầm ĩ. Anh Hai chạy được rồi! út mừng, trống ngực đập tưng tưng. Giặc bắt cả xóm ra đốt đuốc, nổi trống mõ, bao giáp vòng, vạch từng kẽ lá đi tìm. út nghĩ anh Hai chạy ra chỗ đó chứ không đâu cả. Chỗ đó, trước đây, út biết rồi. 

Chạy một hơi lên xóm Đậu, vòng xuống Rạch Bờ, út mượn xuồng đâm sang ngang. Chị vừa bơi vừa vái "ông Bổn"(1) cho chị cứu được anh Hai, chị sẽ ăn chay mười ngày. Đằng kia, bọn lính vẫn ra sức tìm kiếm, bắn đùng đùng. 

Cặp xuồng vào bờ, út mò mẫm vạch tìm từ bụi cây này tới bụi khác. Trời tối đen. ạ rô, cóc kèn cào trên mặt. út ghé sát mặt xuống đất vừa trườn vừa gọi: - Anh Hai! Anh Hai! Vợ Tịch đây! Vợ Tịch đây! 

Không thấy tiếng trả lời. út trườn vào trong: 

- Vợ thằng Tịch đây! Anh Hai! Anh ở đâu?

Tiếng gọi nhẹ như hơi thở, nhưng lại mang theo một sức sống tha thiết, mãnh liệt dâng lên trên bờ sông lạnh lẽo, khuya khoắt. Súng giặc nổ càng gần, út lại gọi, giọng nghẹn lại: 

- Anh Hai! Anh ở đâu? Vợ Tịch đây! 

Vợ Tịch đây! 

Từ trong bụi, tiếng anh Hai vọng ra, rất nhỏ: 

- Vợ Tịch hả? Anh đây nè... 

Anh bò ra. Người lạnh run. Thân thể trần trụi không còn một mảnh vải. út lột khăn đưa cho anh choàng. Thương anh quá, út đứng chết trân. 

út đưa anh qua cơ sở bên Cồn.Từ đó,anh xuống Cần Thơ. Nhiều việc đang chờ anh dưới đó. Lúc tạm biệt anh dặn út một câu: 

- Cách mạng không ở đâu xa, ở ngay trong lòng mình. 

Cũng là câu anh dặn cả bà con Tam Ngãi. Hửng sáng về đến vàm, út vẫn còn nghiệm câu nói đó. Câu nói như có phép làm cho anh Hai đã đi xa mà vẫn thấy như gần. 

V. Đã lớn khôn hơn 

út sanh đứa con thứ hai. Như mọi người đàn bà Tam Ngãi khác, chị nuôi con, thương chồng, làm rẫy mướn, hàng ngày phải xấn xả chống lại những cái gì đe dọa, chết chóc do giặc phủ lên xóm mình nhà mình. Trong tiếng ru con, trong những lúc nhìn ra sông, người đàn bà nghèo nào cũng đều có ý mong mỏi, chờ đợi, không nói với ai, nhưng lại như nói với tất cả, là thời thế này nhất định phải thay đổi, phải khác đi. Rồi tự nhiên, người ta bắt nhớ đến hồi chín năm. Lòng người lại sôi lên, có một sự khuấy động nào đó mà những người đàn bà thùy mị nhất, ít nói nhất cũng không thể ngồi yên được. 

út treo thang thuốc ở đầu giường, nói với chồng: 

- Bữa nay chúng nó bắt anh đi làm khu trù mật, anh cứ vận vào thang thuốc này mà làm tới cho tôi. 

Thằng đại diện tới. út nhai cơm phun cùng nhà. Hai đứa nhỏ bị mẹ ngắt, khóc om sòm. Anh Tịch vin vào cảnh vợ bệnh, con thơ, không đi. Cả xóm đều làm theo út, không ai đi. 

Thằng đại diện bắt cả xóm phải hầm(1) gạch, chở đi khu. Hầm xong, út nói với nó: 

- Cầu xóm mới bắc, chưa có mang cá. Ba cái gạch nầy chở đi khu thì hai cái mang cá nầy để cho ai? Sẵn gạch đây ta trám vào, cầu bắc xong, ông có việc quan ông đi một hơi từ Bà Mi về Cây Sanh cho nó khỏe, khỏi xuống xe. 

Thằng đại diện ra ngắm nghía một hồi, rồi gật. Đàn ông khỏi phải chở gạch 

(1) Nung. 

đi khu, bà con trong xóm được lợi cây cầu. 

Từng chút một, út giữ chặt lòng mình với cách mạng như vậy. Năm đó, 1959, Tam Ngãi nghèo lắm, đất đai chui dần vào tay những bọn như Hàm Giỏi. Giặc rêu rao chúng đã bắt được người này, giết được người kia. Tam Ngãi đói. Khoai tháng bảy cũng không đủ ăn. Nhà không còn hột gạo. út bồng con theo chồng xuống Kế Sách làm mắm. 

Một hôm anh Tám Táo, người mới vượt ngục ra, công tác ở Kế Sách đến nhà út chơi, than: - Mình binh vận được sáu thùng đạn, nó đã mang ra ngoài rào bót rồi mà không sao vô lấy được. 

út vừa cho con ăn, vừa nói: 

- Tôi lấy cho! 

Chị mượn lưỡi hái, bơi xuồng đến bót, kêu: 

- Ông xếp ơi, cho tôi cắt cỏ nghe! 

Cắt cỏ thì sạch bót, nó cho ngay. út men theo rào. Mấy thằng lính ghẹo: "On Sro-lanh boòng-tê? "(1) rồi cười rộ lên. út trả lời: "Tê"(2) nhưng mắt út vẫn không rời hàng rào. Vào tới đây, út mới thấy gay go. Lấy đạn ra, bị lộ, nó cũng bắn. Gặp bọn lính phản vận, mình vô lấy, nó cũng bắn. Nhưng phải lấy. Đằng mình sắp nổi dậy. Một thùng đạn lấy được lúc này là cả tỉnh được nhờ. Ngồi cắt cỏ từ sáng tới trưa, chịu cho bọn lính chọc ghẹo, út mới tìm ra dấu vết. Lần lượt, cả sáu thùng đạn được út ôm lẫn với cỏ, xếp xuống xuồng, chở về. 

Từ giã Kế Sách, út cùng chồng trở về Tam Ngãi với một xuồng lỉnh kỉnh gạo, mắm, đồ làm cá và tất cả những gì thu vén được của một người đàn bà tần tảo. Thêm vào đó, một đứa con mới ra đời. Nhưng trên hết vẫn là chút việc 

(1) Em có thương anh không?

(2) Không.

cách mạng mà út vừa làm được trong lúc đi làm ăn xa. Giờ đây, trên đường về, sự sung sướng đó càng trở nên náo nức hơn vì út được tin quê nhà đã bắt đầu đồng khởi. 

Về tới nhà, anh Tịch nhào đi du kích. út lại đi trinh sát, lại leo lên ngọn dừa, giống như hồi xưa. Chỉ khác là bây giờ nhìn được xa hơn, chắc hơn. Trận Bạch Chiếc, út ra dấu cho các anh diệt cái ghe thằng cảnh sát, giết năm thằng, lấy súng. Rồi trận Vườn Dơi. (Đó là cái vườn đầy dơi quạ của nhà tổng Lâm). Sáng hôm ấy, út đi chợ, bỗng thấy giặc từ ba mặt đổ vô, đếm được ba trăm thằng. út chạy vô nhà dân, mượn xe đạp phóng về. Chỉ kịp vứt cái xe ở cửa chùa, út chỉ hướng giặc sẽ đi và đề nghị anh em mình đón đánh. Trận đó, mình đánh từ sáng tới chiều. Mỗi lần cái cù ngoéo của thằng chỉ huy giặc huơ lên, út lại thấy bọn lính bò lên như vịt xiêm. Đến lúc bị mình bắn chết, nó cũng giãy lên như vịt xiêm bị cắt cổ vậy. Mấy lúc út nhảy lên, mấy lần các anh nắm giò lôi lại. Có một anh bị thương buông cây trung liên, út chạy lên, chụp lấy súng. 

Đánh xong, út quay trở lại thăm dò. Tất cả có chín chục thằng vừa chết vừa bị thương nằm ngoài đồng. Lần đầu tiên, út thấy giặc chết nhiều như vậy. Đáng kiếp những ngày nó muốn bắn ai thì bắn, bỏ tù ai thì bỏ. út nhận xét rằng đằng mình đã nổi dậy tựa như hồi đánh Tây, nhưng bây giờ mình khôn hơn, bản thân út cũng đã trở thành người mẹ ba con rồi còn gì! 

VI. "Nghe đây! Loa báo đầu giồng: đàn bà đoạt bót, tay không mới tài!" 

Đó là hai câu thơ ông Sáu Hò đặt cho tổ gọi loa của ấp để mở đầu một bản tin. Nguyên do như thế này: 

ạng Chín Đà, cán bộ Mặt trận, nói với út: 

- Thím có lời lẽ, đi phụ với bà con đấu tranh. 

Mười lần đi, mười lần út bị đánh. Một lần, thằng quận hỏi: 

- Con nào đầu đảng? 

Thằng lính đằng sau trả lời thằng quận bằng cách thúc mũi súng vào lưng út. Lần khác, thằng quận hỏi: 

- Chồng mày đâu? 

út trả lời: 

- Đi lính trên Sa Đéc. 

- Sao không đi theo chồng làm vợ lính chân giày chân dép? 

- Vợ cũng không bằng mẹ. Mẹ của lính cũng bị quan bắt ngồi phơi nắng ngoài kia. 

út chỉ cho thằng lính Độ thấy bà mẹ nó đang ngồi ngoài sân. 

Thằng quận đánh út một trận bằng roi mây. Lúc đó, chị đang có thai đứa con thứ tư. Về, út nói với ông Chín Đà: 

- Tôi bị đòn từ tám tuổi. Tôi không sợ đòn. Nếu không nhớ đường lối, chắc tôi đánh nó rồi. 

ạng Chín chuyển sang giao cho út thăm dò bót Tám Thế. Bót Tám Thế đóng ở giữa giáp ranh hai xã Tam Ngãi, An Phú Tân, khống chế cả hai bên, hỗ trợ cho bọn địa chủ Cầu Kè lấy thuế, thu tô. 

Chiều chiều út rủ Phượng, Œn, hai cô gái đẹp nhất xóm ra rà rê trong đám dưa cạnh bót. Cũng tính thả giỡn sóng(1) với nó, nếu được thì giật súng. 

Bọn lính thằng nào cũng giống thằng nào, thấy gái là kéo ra. út về báo với 

ông Chín:

- Đám nầy "háo chua" lắm, bót nầy 

lấy được. 

(1) Giả vờ đùa cợt. 

út về nói với chồng: 

- Tôi nhứt định lấy cái bót này, nhưng lỡ phải đem thân ra cho nó giỡn hớt, giày vò, anh chịu không? 

Anh Tịch nói: 

- Em làm sao được cứ làm. 

Anh chân tình như vậy. út thấy thương chồng vô cùng. Mình hy sinh thân mình được rồi, nhưng anh ấy là chồng... Làm sao xẻ được nỗi đau lòng ấy của anh để út xin gánh chịu một mình. út nhớ đến chú Chín Luông, thầm cám ơn chú đã kiếm cho mình một người chồng thật tốt. 

Đêm ấy, út hỏi chồng lần nữa. Anh nhìn út, cười. Nụ cười hiền hậu và ánh mắt đầy tình thương như mỗi lần anh trở về sau một trận đánh. út yên tâm đi công tác. Chiều nào chị cũng rủ Phượng, Œn ra đám dưa, bỏ giùm hột. Cô Phượng, gốc người Khơ-me, trắng trẻo, cô gái không mở miệng thì thôi, mở miệng là cười. Cô Œn có duyên ngầm, nói chuyện rất khéo. Cả hai cô đều gan, không biết sợ là gì. út phụ trách Tám Thế, lớn tuổi, xếp bót. Hai cô gái phụ trách hai thằng lính. Chiều về, ba người lại báo cáo với ông Chín. ạng Chín gom ý lại, ngồi suy tính, rồi hướng dẫn ngày mai nên nói gì. 

Cả mười hai thằng giặc đều hám hơi út và hai cô gái. Dưa bỏ hột xong, hết cớ để ra, ba người xoay ra cắt cỏ quanh đám dưa. Cắt xong, mang xuống sông để bỏ, nhà có bò đâu mà cho ăn. 

Lúc cả ba người sắp ngả theo mình thì đưa lên cao. Chủ đám dưa không cho ba người vào, họ nói dưa gặp hơi đàn bà, thúi gốc. út nói với Tám Thế:

- Chừng nào tiện, mấy anh bắn ba phát súng báo hiệu kêu mấy em vô bót chơi nghe. 

Tám Thế làm thật. Ngày nào cũng đuổi vợ đi chợ. Ba người vào được bót. 

Công việc đang chạy, đùng một cái, má cô Phượng không cho đi. Bà không thích út đến rủ con bà đi làm những điều "kỳ cục". út đến năn nỉ: 

- Nhà tôi bốn đời thù giặc, thím không tin tôi sao? 

út phải chạy đi viện cả ông Chín Đà tới nói. 

Cuộc tấn công lại tiếp tục. 

Nhưng Tám Thế vẫn không chịu giao bót cho ta. út nghĩ: "Tao đã nói lấy bót là lấy, đâu có chịu thua mày!" út cùng với hai cô về bàn với ông Chín, tổ chức một bữa nhậu ở một nhà cạnh bót. 

Tám Thế có tật nhậu vô nửa ly là Long Xuyên y nói ra Châu Đốc. Tiệc nửa chừng, út nói: 

- Anh Tám à, người ta nói làm lớn láu ăn, đúng à. Sao anh không kêu anh em ra nhậu? 

Y kêu hết bọn lính ra, chỉ chừa một thằng gác kho súng ở chuồng cu. Ba anh du kích cải trang đi ngang. út giả đò kêu vô luôn. Bọn lính bắt đầu say.

Đã đến lúc phải đánh rồi mà ruột út rối như tơ, không biết làm sao kêu được thằng gác chuồng cu xuống. Để cho Phượng, Œn kềm chúng, út lẻn lại bót, kêu: 

- Anh gác à, lấy thêm rượu cho ông sếp. 

Nó không chịu xuống. út lại nói: - Anh không xuống thì chỉ chỗ tôi lấy cho. 

- Chị không lấy được. 

- Sao không? Bót này, trên Tám Thế, dưới tôi, chớ còn ai nữa. 

út nghĩ: "Tao có hy sinh thì bốn con tao nhân dân nuôi chớ không lo gì!" Thằng gác bị chọc giận, xuống. út giả lả, vừa cười vừa tuột cây súng trên vai nó: 

- Anh đưa tôi gác cho, vô lấy rượu đi... 

Thằng lính giữ lại. út giả đò lôi ra, rồi bất thần giằng mạnh một cái, cây súng gọn trong tay. 

- Đầu hàng thì sống! Giơ tay lên. 

Thằng lính ngơ ngác, mặt tái xám: 

- Thiệt sao chị út? 

- Không giơ tay tao bắn! 

Thằng lính giơ vội tay lên như bị phỏng. út bắt nó đứng ra một góc rào để cho nó không rượt được mình rồi thót lên chuồng cu, ra hiệu cho anh em mình phục bên ngoài vô lấy bót. Bọn lính tay không, nhậu ở đằng kia, ta chỉ việc bao lại, chong súng vào bụng trói dắt về. Bót Tám Thế bị diệt gọn không nổ một phát súng. Dọc đường về, ba tên lính nhìn ba "người yêu" của mình, mặt mũi như chó ăn vụng bột.

Tám Thế có hai đời vợ. Vợ lớn của y đã bỏ đi lấy lão từ đốt đèn cầy cho bàn thờ "chúa" ở bót nhà thờ Bà Mi. Vợ sau này mới lấy, y để sống chung trong bót. Mụ này đã mấy lần ghen đến tắc cổ với út. Đánh xong, út kêu cả hai vợ chồng lại nói: - Tôi vì dân giết giặc đã xong, nhiệm vụ tôi làm tròn, giờ chồng chị tôi trả chị. 

Vợ Tám Thế đỏ mặt, líu ríu: 

- Dạ, em biết rồi... 

út nói vậy để cho mụ yên tâm thôi chớ mụ hiểu sao nổi câu "vì dân giết giặc". 

VII. Có ai đánh giặc mà chờ sanh xong mới đánh? 

Con Bé, con gái lớn của út, đã tám tuổi. Nó ốm nhách, mà nhanh, cha mẹ đi công tác, ba em ở nhà nó bao(1) hết. Nó chạy đầu này ru đứa nhỏ ngủ, chạy đầu kia lôi đứa lớn đi tắm. Nhà hết gạo, 

(1) Lĩnh phần chăm sóc, lo toan. 

nó dắt em sang ăn cơm bên hàng xóm. Những việc gì nó không làm nổi: sửa lại mái nhà dột, hoặc bện lại cặp dây võng, người mẹ về làm cho nó. Mỗi buổi mẹ về, nó lại biết thêm vài việc. 

út có một đàn con như vậy. Bây giờ chị lại đang có thai. 

Mỗi lần cầm lấy súng, lòng út lại chộn rộn như người làm không hết việc. Bót Tám Thế vừa bị diệt, giặc lại quay sang đóng bót mới ở ấp Ba. Mặt mũi chúng chườn ườn ra đó, không đánh chúng không yên. Chính vì vậy nên út về nhà một lát, lại muốn đi. Ru con được vài câu, chị lại trao nó cho con Bé. Chiều hôm trước, nhân dân cho út hay bọn lính bót ấp Ba mới lãnh lương, tám thằng đi chơi chợ Cầu Kè, chiều nay nó sẽ về. út báo cáo với ông Chín. ạng Chín lựa mấy anh du kích thiệt ngon(1), cùng út ra đón đánh. Sau khi đạp xe đi rảo nắm tình hình, út quay về dặn anh em: - Đánh xong bọn này khoan rút. Chờ bọn hiến binh xuống tiếp viện, đánh nữa. Nó còn năm thằng để tiếp viện thôi. 

Nổ súng, út cũng ngồi đó, mặc dù tay không. Thấy tám thằng giặc còn bắn hoài, út nóng lắm. Chợt anh bắn trung liên tự tạo bị thương tay. út vụt lên chụp súng. Súng đụng hàm sanh làm út muốn đứt lưỡi. út hô lớn: 

- Hỏa lực xiên hông đâu, tạt lên! 

út bắn một phát, một thằng chết nhảy dựng, út lại la: 

- Nó "lâm thôn"(1) rồi! Đánh tới, anh em ơi! 

Tất cả đều la rần rần. Bọn giặc đâm hoảng. Chúng tạt xuống mé vườn. Anh em nằm đó lại nã vào hông chúng, gục thêm ba thằng nữa. Còn một thằng toan 

(1) Một điệu múa dân gian của người Khơ-me (ý nói nhảy chết).

chọi lựu đạn. út nhảy lên thọc cây trung liên tự do vào ngực nó. Nó giơ tay. Thực ra cây súng của út bị kẹt từ nãy rồi. 

Thu súng xong, út vừa giở trầu ra ăn, thì anh em nghe lầm lệnh ai, rút mất. Một lát, năm thằng hiến binh xuống lấy xác. út tay không, ngồi trong bụi, dòm ra, tức muốn nổ mắt. 

Trận đó, mười hai thằng lính vừa đến thay thế bọn lính bót Tám Thế lại bị chụm hết sáu. 

Thằng quận trưởng Cầu Kè tức, bổ sung thêm sáu thằng khác. Nó cương quyết đóng lại bót ấp Ba. Đích thân nó ngồi xe gíp, có xe nồi đồng hộ tống, vô thăm bót hàng ngày. Cấp trên quyết định đánh nó tại chòm Dừa. 

Trận này, cái thai đã lớn rồi nhưng út cũng đòi đi. ạng Ba Tê, mới thay ông Chín Đà, nói: 

- Bụng dạ vầy mà đi đâu? 

út trả lời: 

- Tôi có bụng vầy nhưng tôi khỏe. 

Mấy anh đào giùm công sự. Súng nổ mặc tôi. 

Nằn nì mãi không được, út muốn khóc. 

Đến lúc xung phong, anh em thấy một người nhỏ con, bới tóc, nhảy tưng tưng đằng trước, họ mới biết có "út Tịch" đi theo. út cũng nhào vô lấy súng, bắt tù binh, đốt xe.

Lúc về, chị bơi xuồng chở một anh thương binh. Pháo giặc bắn như rắc bột. Anh thương binh bảo út bỏ anh lại, chạy đi. 

út chỉ cười.

Trận đó, ta đốt được một xe và diệt gọn bọn lính đi theo thằng quận trưởng Cầu Kè. 

út đã có thai đến tháng thứ bảy. Bây giờ mỗi lần đòi đi chiến đấu, ông Ba Tê rầy dữ lắm. Nhưng xưa nay có ai đánh giặc mà chờ sanh xong mới đánh? Chị bảo chồng lén cho mình đi đánh bót

Đường Trâu. Đó là cái bót đóng giữa hai ấp chiến lược Chông Nô, án ngữ cho Cầu Kè. 

Anh Tịch và Năm Liêm, tổ trưởng ấp, đã móc với thằng sếp bót Mách từ lúc nào. Thằng Mách, địa chủ, bắt cá hai tay, vừa làm sếp bót, vừa móc với ta vì sợ ta đánh bót và phá không cho nó thu tô. Bởi vậy, hàng ngày út đem cá cơm ra bót bán để thăm dò. Nó biết chị đã lấy bót Tám Thế, nhưng không dám bắt. Mỗi lần vô bót nói chuyện với nó, con mắt út cứ buộc phải đảo đảo như sao. 

Hôm đó là ngày tết vô năm(1). Anh Tịch và anh Năm Liêm quyết định chụp cả bót. út cho bốn đứa nhỏ tản cư vô sát thị trấn. Lúc chuẩn bị đánh, thấy chồng không nói gì mình, út nói: 

- Anh tính không cho tôi đi sao? 

Anh Tịch nói: 

- Em đi để đẻ dọc đường à? 

út nói, nửa cười, nửa mếu: 

- "Đồng chí" đã hại người ta, giờ lại còn cản nữa. 

út mới dự trận đánh xe hôm trước, người còn xanh lét. Nói mãi anh Tịch phải cho đi. Ngang qua chùa ông Bổn, út vái, nếu ông Bổn phù hộ cho lấy được bót, út sẽ về cúng cái đầu heo. 

Hồi đó, út còn sợ ông Bổn, vì chùa ở ngay trước cửa nhà.

Tới nơi, út vô bót mời thằng Mách ra gặp Năm Liêm. Rượu, xoài chua chị bày sẵn cho cả hai ngồi nói chuyện. Kế hoạch là lát nữa sẽ làm một bữa tiệc, mời tất cả bọn lính ra nhậu say rồi đánh úp luôn. Nhưng nhìn vô trong bót thấy trống trơn, út đã hơi giật mình. Chị đi hỏi cơ sở. Thì ra, thằng Mách âm mưu phản vận. út chạy đi tìm chồng lúc đó đang cùng tổ du kích giấu quân trong vườn, nói: 

- Thằng quận Nghĩa treo đầu anh mười ngàn, đầu tôi mười ngàn. Bữa nay thằng Mách nó cho bọn lính vào phục hết trong xóm. Trên chuồng cu chỉ còn thằng nhỏ con nó cầm một khẩu súng đứng nhử, tôi với anh vô chơi như mọi bữa là tụi nó bắt. 

Anh Tịch điếng người. út nói: 

- Nếu không thì cũng phải giựt cây súng đó mà chạy đâu có chịu thua nó. 

út lại rảo vào trong xóm, mấy thằng lính phục lâu, đói, đã bỏ vào nhà dân kiếm ăn. Hôm đó lại sẵn ngày Tết. út chạy tức tốc ra gặp chồng: 

- Đánh ngay đi! 

Lúc vo(1) quần chuẩn bị xông vào bót, một ý nghĩ vụt đến trong út. ý nghĩ mà người mẹ cầm súng nào cũng phải nghĩ tới. Đó là con! Chỉ một tiếng gọn như vậy, nhưng lại đọng bao tình sâu nặng. út nói với chồng: - Bữa nay mình sẽ giựt được một cây súng, một thùng đạn, nhưng mấy đứa nhỏ nhà mình tản cư trong kia chắc nó bắt nó chặt đầu mất. 

Tịch suy nghĩ rất lung. Nhưng nó phản vận rồi, lúc này không cướp thời cơ mà đánh là bỏ luôn, Tịch nói: 

- Em đang có thai, còn gà mái thì còn gà giò. Cứ đánh! 

Anh Tịch lẻn vào bót, giả lả với con thằng Mách như mọi bữa, rồi bất thần kẹp cổ nó, lấy súng. út nhảy vô vác thùng đạn. Tổ du kích yểm hộ ở ngoài. Không khí trong bót lặng trang. Thằng Mách đang bị Năm Liêm kềm ngồi nhậu thoáng thấy bóng vợ chồng út, nó chạy tụt vô xóm. Năm Liêm đuổi theo không kịp. Nó kêu được bọn lính chạy ra bắn tới tấp. út đã vọt khỏi rào. Anh Tịch còn kẹt trong bót. Lanh trí, anh kẹp cổ con thằng Mách day về phía bọn lính, vừa lôi nó vừa chạy ra. Tổ du kích nổ súng yểm hộ. Thấy con sếp bót, bọn lính không dám bắn. 

Lớp nào mang bụng, lớp nào mang đạn, út chạy một hơi ra tới bờ sông. Chị chợt nghĩ mình lấy được đạn mà chạy trước, anh em mỗi người có vài viên, lấy đạn đâu bổ sung. Chị vác đạn quay lại. Vừa lúc đó, anh em mình cũng rút tới nơi. Tất cả lội qua sông. Bọn địch rượt tới bờ sông đứng ngó. 

Chiều hôm đó, bà mẹ già của út dắt chị em con Bé đi tản cư về ngang. Thằng Mách đang ăn cơm, vụt chén chạy ra. Nó chỉ vào những bộ mặt nhem nhuốc sau một ngày tản cư của tốp nhỏ: 

- Đ. mẹ, tụi nầy là con vợ chồng thằng Tịch nè! Đồ cái quân ăn cướp ngày. 

Nó trợn mắt, phùng má ra mà chửi. Chỉ chửi thôi chớ không dám làm gì, vì còn sợ anh Tịch. Con Bé tay bồng em nhỏ, tay dắt hai em lớn, đi như đi chợ, không thèm ngó. 

VIII. Nó cũng đánh giặc phải không mấy anh? 

Thế là út đã là mẹ của năm đứa con. Việc nhà kéo níu hơn. Vừa làm việc, chị vừa phải trông chừng từng lúc bóng nắng ngoài giọt. Từ Cầu Kè, những ấp chiến lược giặc lập ra năm ngoái theo vết dầu loang đã bị chặn lại. Bấy giờ là lúc ta tấn công. Cái kế hoạch Xta-lây-Tay-lo của giặc ở Tam Ngãi càng rạn nứt thì công việc của người mẹ càng bận rộn và đầy hấp dẫn. Sanh chưa đầy tháng, út lại đi công tác. Đi không nổi, con Bé bơi xuồng chở mẹ đi. Để tránh mắt giặc, út trùm khăn kín mặt. Thường là lúc ra đi hầu như chỉ để ra đáy mua cá về chợ bán, nhưng khi về chị lại có thêm dăm chục đạn ở trong xuồng. Cũng không cần phải giấu giếm khi qua bót giặc vì chính những cái bót ấy cho chị đạn. Đó là những buổi gặp gỡ kỳ lạ. Những tên lính mà út và đội du kích đã từng bắt sống trong các trận trước, bây giờ lại trở ra đi lính. Họ nhìn ra mặt út, tưởng như bị bắt tới nơi, nhưng qua lời chị và nhất là nhớ cái ơn cứu sống của chị năm trước, họ lại cho chị đạn. Rồi dần dần họ trở thành những cơ sở của chị, hăng hái và trung thành. Chị nói rất kém, nhưng tấm lòng của chị nói thay cho chị. Chị không thể nằm yên trong giường được trong lúc những con người đó hàng ngày trông chị tới. Chị chà gạo lức với muối, xay nhuyễn để ở nhà cho con Bé quấy bột cho em. Chị dạy con ở nhà nấu cơm không chắt nước, sợ nó bị phỏng. Rồi chị đi, cả năm đứa con đã quen đến nỗi không hề có ý đòi mẹ ở nhà. 

Cấp trên quyết định tấn công ấp chiến lược Chông Nô 2. Đó là một ấp lớn có trên năm mươi súng, nằm trên phòng tuyến bảo vệ thị trấn Cầu Kè. 

Một đêm, vợ chồng út cùng một tổ du kích bò vô thử. Anh em cơ sở trong đó đem tặng ba cây súng và một rổ lựu đạn.

út nói với chồng:

- Mình làm lớn thì không đủ sức, làm 

nhỏ thì uổng cơ sở. Phải báo cáo cấp trên kêu bộ phận huyện về đánh lấy luôn cả ấp. 

Hai vợ chồng trả súng, trả lựu đạn, tiếc lắm. 

Sáng hôm sau, út đang nấu cơm thì thư ông Chín Đà, bây giờ là trưởng ban binh vận huyện, gửi ra. Chị nhờ bà Sáu Hò đọc "tiếng đặng tiếng được", không hiểu gì hết. Một lát, mệt quá, gió mát đâm ngủ quên. 

Chiều, út chạy vô, mọi người đã chuẩn bị xong xuôi. Một chút nữa là hụt đi. Mừng quá! Chỉ tại mình dốt. Anh em cũng muốn cho út ở nhà, vì chị mới sanh, nhưng chị không đi thì rất khó móc cơ sở. Lúc sắp lên đường, anh Mười ở tỉnh nói với út: - Chị về cho thằng nhỏ bú rồi trở ra. 

Hồi nãy vì vội, út chưa cho bú thật. Nhưng về thì trễ. Chị nói: 

- ở nhà có con Bé con tôi nó quấy bột rồi. 

- Chị cứ về cho cháu bú. Anh em chờ. 

út bơi xuồng về. Chị chọc cho con dậy bú. Con bú no, chị chọc lét cho nó cười, rồi hối hả đi. 

Trời mưa như trút nước. Nửa đêm hôm đó, anh Tịch và út bò vào móc cơ sở, mở cửa rào dẫn một cánh đột vô. Vợ chồng út lại thu được ba cây súng và rổ lựu đạn hôm qua. Bộ đội tràn vô khắp ấp, lùng bắt ác ôn, rượt bọn lính chạy, thu thêm một số súng. Suốt đêm, út đi lay từng cây cọc sắt, tìm lựu đạn gài để đồng bào yên tâm phá rào. 

Sáng hôm sau, những người đàn bà đi chợ Cầu Kè ngang qua ấp chiến lược Chông Nô 2, thấy một người phụ nữ đầu đội nón nhựa chiến lợi phẩm, tay cầm súng, lá cây giắt đầy mình, miệng ăn trầu đỏ tươi, đứng gác trong công sự đầu ấp. Hình ảnh ấy của út được các bà truyền đi khắp xã cùng với tin cái ấp chiến lược kiên cố, ác ôn nhất Cầu Kè bị phá banh. 

út đứng như vậy, dưới trời mưa từ ba giờ khuya tới sáng. Những tên thanh niên chiến đấu, sáng sớm tưởng ta rút, mò về, bất thần bị út bắt giơ tay. Và cứ trông chừng hắn ta chụp tay vào lưng chỗ nào là y như chỗ đó có lựu đạn. 

Lúc gần rút về, một tên ác ôn chọi út một trái lựu đạn. Trong lúc hoảng hốt, nó không rút chốt. út nhanh mắt chụp lấy. Chị chưa kịp chọi lại nó thì anh em đã nổ cho nó một phát vào giữa ngực. 

Hôm đó, út thu được một đống lựu đạn 

đem chất đầy vọng gác.

Về nhà, trong buổi liên hoan mừng chiến thắng, anh Mười ở tỉnh ôm thằng nhỏ của út giơ ra giữa đám đông, nói: 

- Cháu à, má cháu bỏ cháu cả đêm, nhờ bác la má cháu mới về cho cháu bú đó. 

Sau tiếng cười rộ lên, mọi người đều im bặt. Tất cả đều hướng về phía mẹ con út. Bây giờ, ngồi đây, chị đang dịu dàng ve vuốt tóc con, nhưng sao hồi khuya, lúc xông vào ổ địch, trông chị gan lì, khác hẳn. Anh em chuyền tay nhau thằng nhỏ, hôn từ dưới lên trên, từ trên xuống dưới. 

út nói: 

- Nó cũng đánh giặc phải không mấy anh? Sau này tụi nó đánh giặc còn ngon hơn tụi mình bây giờ nhiều. 

IX. Mặt trận thương, cô bác thương 

Hỏi bà con những ai là người nghèo ở Tam Ngãi, bà con sẽ nói ngay là nhà út Tịch. Má Hai vẫn ngồi kể chuyện gia đình đó cả ngày không hết. Má sẽ nói rằng vợ chồng con cái nó như sao trên trời, đêm quang mây mới tụ lại. Má sẽ hết lời khen út vì đã tóc quàng tai, vai quàng súng, vừa đánh giặc, vừa làm nuôi con. út trồng dưa. Con Bé được mẹ dạy bón phân và chiết trái. Trồng dưa không đủ ăn, út đi vay gạo làm bánh, cho con đem ra chợ bán. Miếng ăn trên cạn, dưới sông, trong giồng, ngoài bãi mẹ con đều đã làm qua. 

Có một đêm, anh Tịch được út nhắn về gấp. Về tới nhà, anh chỉ thấy út ngồi giỡn với con. Đến lúc đập chân đi ngủ, út mới nói: 

- Nhà hết gạo rồi. 

Không để chồng phải nghĩ ngợi lâu, út nói tiếp: 

- Tính nhắn anh về hai bữa, cuốc mướn ít công khoai lấy tiền cho con nó mua gạo, nhưng thôi. 

- Em tính sao lại thôi? 

- Tôi tính vầy. Hồi cưới nhau tôi đã hứa với chú Chín Luông bận bịu đến mấy cũng không được để chồng mất công tác, bây giờ tôi cũng phải giữ y vậy. Anh lỡ về đây rồi thì vui cho thỏa mãn với con rồi đi, vậy thôi. 

Sáng hôm sau, anh Tịch đi sớm. út cũng chuẩn bị súng đạn đi công tác, tiện thể đi hỏi giá dưa ở ngoài sông. Chị em con Bé đã dậy, đang đùa giỡn nhí nhố ở trong mùng. Anh Tịch đi, nửa bụng thương vợ, nửa bụng thương con, và thương nhiều nhất là cái câu vợ nói: Anh đi cho gấp, đừng để anh em trông, rán làm sao vừa rõ mặt người là phải qua hết ven đồng... 

Nhân dân Tam Ngãi cũng có một thói quen. Dù ở Ngãi Nhứt, Ngọc Hồ nhiều vườn hay Bung Lớn nhiều lúa, dù là bà con người Kinh hay người Khơ-me, dù là các mẹ chiến sĩ hay các cô gái trong đội văn nghệ, tất cả đều làm một việc giống nhau: giúp đỡ gia đình út. Nếu thấy chị em con Bé đi một mình thì người ta hiểu rằng cha mẹ chúng đang đi đánh giặc. Và nếu lúc đó có pháo hoặc máy bay bắn thì bất cứ ai cũng có thể ra kéo chúng xuống hầm mình. Còn gặp bữa ăn thì khỏi nói, ai cũng cảm thấy có bổn phận ôm chúng vào nhà, cho ngồi vào mâm, và tìm mọi cách cho chúng thấy ở đây cũng như ở nhà chúng vậy. út đi ra trận đã bớt phải lo con. Sau khi đánh trận về, mấy mẹ lại kêu chị vào bọc cho vài lít gạo. 

Bà lão bán phân cá ở dưới Cồn lên bến Cây Sanh gặp con Bé có một buổi đầu, bà đã mến nó và cho ngay giạ rưỡi phân cá để mẹ nó trồng dưa. Các anh bộ đội lần nào xẻ thịt trâu liên hoan cũng chừa phần cho chị em con Bé. Các cô cán bộ ghé chơi, nghèo cách mấy cũng có đồng bạc kẹo. Mỗi lần em bị bệnh, con Bé lại bồng sang nhà hộ sinh để cô mụ cho uống thuốc. Chị em con Bé cũng có một thói quen, không ai dậy, nó kêu tất cả ông già bà cả là ông nội, bà nội, những người khác là các bác, các chú, mấy cô, mấy dì, y như tất cả Tam Ngãi đều có họ hàng ruột thịt với gia đình mình vậy. 

Hàng xóm với út có ông Sáu Hò. Người thông tin xã già, hay đặt thơ, nghèo, thương vợ chồng út như con. ông đã từng nuôi út trốn sau những lần đánh lại địa chủ. Bây giờ út làm điều gì sai ông vẫn rầy. Hàng ngày, mẹ đi vắng, khạp(1) hết gạo, chị em con Bé lại kéo sang ông. ạng nội, bà nội vẫn nhịn miệng cho cháu. 

Tháng 5 năm 1964, út được Mặt trận tỉnh tuyên dương công trạng. Cuộc lễ đông hơn ba ngàn người. Chị được tặng một cây cạc-bin và mười lăm mét vải. 

Giữa ánh điện sáng rực, trước máy phóng thanh, út nói: 

- Tôi đi đánh giặc được Mặt trận thương, cô bác thương nên cứ đánh hoài. Bây giờ trên cho làm xã đội phó tôi cũng đánh hoài. 

út vác cạc-bin xuống ngồi gốc cây bàng. Mấy mẹ, mấy chị ở Láng Sắc, Trà Cú đeo dính chung quanh. Không ai biết người mẹ nghèo năm con nhỏ làm cách nào mà vẫn còn cầm súng được. út sung sướng đến chảy nước mắt, trả lời lúng túng: 

- Nói đến công bao bọc thì con nặng tội với cô bác hết sức, không biết chừng nào con bù đắp lại cô bác cho đầy đủ. 

(1) Vại.

Bà Sáu Hò ngồi cạnh út, nói: - Không phải bây ăn của tao rồi bây gánh trả tao là được. Bây đánh giặc cho giỏi là bây bồi bổ lại cho tao được rồi. 

Như mọi người dân Tam Ngãi khác, đêm ấy bà Sáu Hò cũng cảm thấy vinh dự. Niềm vinh dự của những người đã biết sống xứng đáng trên miếng đất còn nghèo khổ mà đầy giặc này. 

X. Anh "bá đỏ" chị "cạc-bin" 

Lúc ấy, anh Tịch đang đi học xa. Từ chỗ học, anh nghe tin có một người đàn bà năm con ở Tam Ngãi được tuyên dương công trạng và thưởng súng. Tự nhiên, anh biết đó là vợ mình. Không nói với ai, anh về lớp, lòng bồn chồn, háo hức. 

Chiều hôm ấy, bắn đạn thật. Phát đầu tiên, anh cảm động bắn không trúng. Mãn khóa, về tới Tiểu Cần, anh nghe đồng bào nói đùa: - Kỳ này vợ chồng anh bắn bia được rồi! Chị cạc-bin, anh bá đỏ. 

Tới Tam Ngãi, anh chạy vội về nhà. Chưa kịp mừng vợ con, anh đã bốc cây súng của vợ ra bắn thử. Vợ anh la: 

- Không có đạn, đồng chí ơi! 

Anh cười: 

- Công đồng chí cũng có công tôi chớ. Tuy hai mà một, đồng chí à! 

Anh nói đúng. Hồi út đi lấy bót Tám Thế, anh đã trả lời người vợ trẻ yêu quý của mình: 

- Em làm sao được cứ làm. 

Anh ít nói. Và khi nói thì nói những lời như vậy. Anh thấp, bắp chân tròn vo, 

chắc như thân dừa. Tính anh cũng hiền như dừa. Anh gánh một lần ba giạ khoai. Ra trận, anh nổ những phát rất chính xác yểm hộ cho tiếng súng của vợ. Vừa rồi, anh được đi học. Trước khi đi, anh đưa hết tiền tiêu vặt lãnh được để vợ ở nhà nuôi con. Người ta đi học xin thêm tiền nhà, anh đi học thì như vậy. 

Chiều hôm đó, vợ chồng út đi ngang chợ Bến Cát, vai bá đỏ, vai cạc-bin, đồng bào vỗ tay hoan hô "đồng chí vợ", "đồng chí chồng". 

Cô bác không phải chờ đợi lâu. Năm bữa sau, hai vợ chồng út cùng một tốp anh em du kích thị trấn đi ngang Rạch Cách thì gặp chiếc trực thăng đang đáp xuống chợ Cầu Kè. Anh Tịch ra lệnh bắn. Anh bắn trước, út và tất cả nổ theo. Chiếc trực thăng chóa lửa, chích xuống như chiếc ghe lườn, cắm đầu. Hai thằng Mỹ vọt ra, co giò chạy bán mạng. út nghĩ: cái dòng nó đi máy bay nên nó chạy thiệt nhanh. Máy bay Mỹ đến tiếp viện, thấy bọn lính ngụy đứng lố nhố ở bờ ấp chiến lược, tưởng là ta, xả súng bắn. Hồi nãy anh Tịch đã lanh trí dắt tiểu đội rút vòng hướng ấy nên bọn lính kia chạy tới đâu, máy bay bắn tới đó. Nó bắn siết vào tới dinh quận. Thằng quận trưởng đang mặc quần cụt, dông thẳng ra phố trốn. 

Sáng hôm sau, đám vợ lính có chồng bị máy bay Mỹ bắn chết, vừa khóc vừa chửi, vừa đòi bồi thường rùm beng khắp chợ Cầu Kè. 

Anh Tịch được làm đội trưởng đội võ trang thị trấn. út được giao làm xã đội phó. Nhưng xã đội phó là gì? út nghiệm không ra. ạng Ba Tê giải thích xã đội phó như út là đi tổ chức đội du kích nữ, đánh giặc. 

Nghe đi đánh, út thích rồi. Nhưng làm sao tổ chức? út gom các cô có thể đi được lại, nói chuyện. Ai cũng hăng, chỉ lo cha mẹ không cho. út viện cả ông Ba Tê cùng mình đến vận động các bà mẹ. Toàn là những người đã từng ở đợ, nói cũng dễ, nhưng lại nghèo, các cô đi, nhà không có ai làm. Chị Phan, người Khơ Me, chồng tử sĩ, hai con, giặc quăng bom nhà cháy không còn cái đũa. Chị nói: "Tôi đi trả thù cho chồng tôi!". Bà mẹ chồng lo đói, Mặt trận cấp cho bà năm công đất. Du kích thay nhau đến giúp bà. Chị Phan đi. 

Được cô nào, út lại cho đeo "bá đỏ", đội nón tai bèo, đi vận động các cô khác. Làm động lây như vậy được mười lăm cô. Dù mập hoặc gầy, có chồng hoặc chưa, dù Kinh hay Khơ Me, tất cả các cô đều giống nhau: trước đã từng ở đợ, rất trẻ và đối với thằng Mỹ thì, cũng như út, quyết đánh đến cùng!

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro