truyen ngan thai ba tan-rat hay

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Đừng bao giờ bán tuổi trẻ của mình!

Người viết: Thái Bá Tân

15/09/2009

Người bán tuổi

Truyện ngắn. Thái Bá Tân

- Chú mày không còn gì nữa thật à?

- Vâng. Đúng thế, - hắn đáp.

- Vậy sao còn đến hiệu cầm đồ?

Hắn lúng túng đứng im vì chẳng biết nói gì.

Hắn còn trẻ, trẻ lắm, chính xác là hai mươi tuổi. Mới cách đây một tuần hắn kỷ niệm cái tuổi ấy ở quán nước cùng vài thằng bạn như hắn, bằng nước chè chén và kẹo lạc. Chỉ thế thôi vì lúc ấy trong túi không đứa nào có tiền.

Hắn là sinh viên năm thứ ba một trường đại học "con ông cháu cha" ở Hà Nội, mặc dù ông bà cha mẹ hắn bao đời nay chỉ là nông dân nghèo, lại ở tỉnh xa. Hắn vào được trường này đơn giản vì học giỏi, vào thẳng, nhờ trước đó đoạt giải cao trong một lần thi toán quốc tế và ba lần giải nhất nhì trong nước. Hắn khá đẹp trai, lại thông minh và có dáng rất trí thức. Cả con người hắn toát lên điều đó, ai thoạt nhìn cũng nhận thấy ngay. Đôi mắt hắn thật sáng và luôn hấp háy sau cặp kính trắng hình ô-van gọng mạ kền hợp mốt mà không hiểu hắn đeo vì cận thật hay chỉ để tôn thêm cho khuôn mặt vốn đã rất ưa nhìn của mình. Hắn có thói quen chốc chốc đưa ngón tay trỏ nâng cặp kính trên chiếc mũi thon thẳng, dù chẳng mấy khi nó tụt xuống. Da hắn trắng và mịn. Đôi môi chúm chím, mọng và hồng hồng như môi con gái. Dáng điệu và cách nói năng, cư xử của hắn cũng lịch sự. Tóm lại, cả phần trong lẫn phần ngoài, hắn là một người gần như hoàn thiện. Hắn luôn ý thức điều ấy, kể cả việc rất nhiều cô gái để ý đến hắn.

Chỉ tội mỗi cái là hắn nghèo. Sinh viên tỉnh lẻ ai chẳng nghèo? Hẳn thế. Nhưng với người khác thì đó là "khó khăn tài chính", còn với hắn thì vấn đề nghiêm trọng hơn nhiều. Hắn muốn có cuộc sống vật chất (tức sinh hoạt, chi tiêu và nhất là giao du với bạn bè) tương xứng với một người thông minh, đẹp trai và lịch lãm như hắn. Hắn tiếc chứ không oán giận bố mẹ. Hắn biết thân phận mình nên không bao giờ chủ động viết thư xin tiền. Có thì các cụ cho, không thì tự lo lấy. Hắn nghĩ thế và đã tìm mọi cách để có tiền. Toàn những cách lương thiện và sạch sẽ - làm gia sư, viết hộ luận án cho người khác, học giỏi để được nhận học bổng và tham gia các đề tài nghiên cứu, các chương trình, dự án. Nhưng để có được cách sống như hắn mong muốn thì các khoản thu nhập ấy không đủ, dù hắn đã rất cố.

Là người tự trọng, hắn không mua chịu cái gì và cũng không hỏi vay tiền ai, kể cả bạn bè thân thiết. Mà đã tự trọng thì dễ thành sĩ diện. Thế là hắn tìm đến hiệu cầm đồ với cảm giác xấu hổ và chua xót. Đầu tiên hắn cầm chiếc đồng hồ Thuỵ Sĩ chính hiệu được tặng lần đi thi ở nước ngoài, để có tiền mua quà sinh nhật cho một cô bạn gái con nhà giàu yêu hắn và cũng được hắn yêu lại. Tiếp đến là chiếc nhẫn vàng hai chỉ do một bà cô nghèo ở Sài Gòn đã khóc vì mừng và tự hào đưa cho hắn khi được vào thẳng đại học. Có thể dễ dàng đem bán những thứ ấy nhưng hắn không làm thế vì không muốn chia tay với những vật kỷ niệm có ý nghĩa. Hắn từng đem cầm và chuộc lại chúng mấy lần, cho đến khi chẳng kiếm đâu ra tiền để chuộc. Cách đây ba tháng hắn phải đem cái duy nhất còn lại có thể mang tới hiệu cầm đồ này là chiếc xe máy không tốt lắm nhưng cũng chẳng đến nỗi cà tàng, để có tiền hoàn thành dự án do một công ty tư nhân thuê hắn và hai đứa bạn khác làm nhưng không được ứng trước đồng nào. Hắn tin làm xong sẽ có tiền không chỉ đủ chuộc lại xe mà cả những thứ khác. Nhưng cái công ty ấy vỡ nợ, do vậy đẩy hắn vào thế tuyệt vọng.

Chẳng hiểu vì sao hôm nay hắn đến đây, một khi không có tiền để chuộc lại cái đã cầm. Hắn lờ mờ nghĩ số tiền hắn vay chỉ già nửa giá trị chiếc xe, biết đâu lão chủ hiệu cầm đồ thương tình đưa thêm chút ít nữa chăng. Tuy nhiên hắn không muốn hỏi xin điều ấy, vì hắn biết rõ tính lão và mức lãi lão bắt hắn trả. Thành ra hắn cứ nấn ná nửa muốn ở lại, nửa muốn về ngay để khỏi phải nhìn con người hắn đang căm ghét.

- Vậy là quả thật cậu không còn gì nữa? - lão hỏi lại cái câu vừa hỏi lúc nãy.

- Thì tôi đã nói là không rồi! Ông điếc à? - Tự nhiên hắn nổi cáu. Từ trước tới nay hắn luôn lịch sự "bác cháu" với lão, nhưng giờ thì hắn chuyển sang "ông tôi".

Lão giả vờ không nhận thấy thái độ ấy của hắn, vẫn nhỏ nhẹ:

- Tôi thấy hình như cậu vẫn còn cái để cầm hoặc bán cho tôi đấy. Quý và đắt tiền nữa là khác...

Ông ỡm ờ, lảm nhảm gì thế? - Hắn vẫn chưa hết cáu. - Tôi mà không biết mình đang có gì sao? Hay ông biết, ông nói thử tôi nghe. Tôi đang cần tiền.

- Rất cần?

- Vâng, rất cần.

- Cần ngay bây giờ?

- Cần ngay bây giờ.

Lão già chủ hiệu cầm đồ húng hắng ho. Từ nãy đến giờ lão ngồi sau chiếc quầy gỗ cáu bẩn, trên chiếc ghế tròn cao bằng sắt có thể xoay đi xoay lại như ở quầy bar, còn hắn thì đứng cạnh. Lão thong thả bước xuống, pha ấm trà mới rồi mời hắn ngồi xuống bộ xa-lông cũng già nua và nhăn nheo như lão.

- Mời cậu uống nước và hút thuốc, - lão nói, tay chìa bao ba số.

Đây là lần đầu lão đối xử tử tế với hắn. Hắn thầm ngạc nhiên nhưng chỉ lặng lẽ chờ xem lão định giở trò gì.

- Xin được nhắc lại: Cậu không biết cậu còn một cái rất quý mà tôi đang cần. Nếu cậu muốn, ta có thể thương lượng...

- Cái gì? - hắn tò mò hỏi.

- Thì cậu hãy uống nước, hút thuốc đi đã. Việc này quan trọng, không vội được, - lão nói, nhìn thẳng vào mắt hắn, một cái nhìn sắc lạnh và đáng sợ, đến mức không chịu nổi, hắn phải cúi mặt. - Thế này nhé, - lão lên tiếng sau hồi lâu hai người im lặng, - cậu đang có cái quý nhất của con người, đó là tuổi trẻ. Cậu có thể đem nó cầm ở cửa hàng tôi, hay tốt nhất là bán hẳn cho tôi, được không?...

- Ông nói gì cơ? Tuổi trẻ? Bán tuổi trẻ của tôi cho ông? - hắn thốt lên, lúc đầu ngạc nhiên, sau phì cười: - Ông điên à?

- Chính xác năm nay cậu bao nhiêu tuổi nhỉ? - lão hỏi như không nghe hắn vừa nói gì.

- Hai mươi.

- Cái tuổi thật đẹp mà tôi rất muốn có, dù phải trả giá đắt. Cậu đồng ý bán nó cho tôi chứ?

"Lão già này điên thật rồi, - hắn thầm nghĩ. - Lão nói lảm nhảm gì vậy không biết".

- Cứ cho là tôi muốn bán đi, nhưng ông cần nó làm gì, và... việc mua bán này thực hiện như thế nào? Đây không phải chiếc xe máy hay một đồ vật cụ thể. Ông hiểu ý tôi chứ?

- Hiểu, rất hiểu, - lão già gật đầu. - Tôi sẽ cho anh biết sau. Biết về các điều kiện mua bán ấy mà. Bây giờ chỉ cần anh nói anh có đồng ý không đã.

"Hay lão ta là phù thuỷ?" hắn tự hỏi rồi mỉm cười, buột miệng thành tiếng:

- Ông nói cứ như ông là phù thủy không bằng.

- Nếu muốn, anh có thể coi tôi là phù thủy cũng được. Không sai nhiều lắm đâu, - lão thản nhiên đáp.

Hắn bắt đầu thấy câu chuyện trở nên thú vị, dù chẳng tin chút nào những điều lão nói. Với hai chữ "phù thủy" lởn vởn trong đầu, hắn đưa mắt nhìn lão một lượt từ đầu đến chân và thấy lão cũng hơi hơi giống phù thủy thật.

Người lão bé choắt, khuôn mặt gầy, đen xỉn lại đầy những nếp nhăn sâu, đặc biệt trên trán và hai bên khóe mắt. Nhìn lão, cái đập vào mắt trước tiên và dễ nhận thấy nhất là một nốt ruồi to, hồng hồng như hạt đậu đỏ với mấy sợi lông không hiểu sao lão không cắt mà cứ để mọc dài, trông rất khó chịu. Chiếc mũi lão nhọn, kéo xuống gần miệng nhưng không khoặm. Trên mũi là chiếc kính trắng mắt tròn và nhỏ như kính thầy bói. Các ngón tay lão dài, chỉ còn da bọc xương nhưng khá sạch và không có móng nhọn như phù thủy. Còn đôi môi lão thì đúng là môi phù thuỷ - mỏng, nhỏ, bên ngoài xám ngoét nhưng càng sâu vào trong càng đỏ, đỏ như máu. Cả đôi mắt và giọng nói cũng đúng của phù thủy. Ở chúng có cái gì đấy độc ác và đáng sợ.

Hắn thầm ngạc nhiên sao mãi bây giờ mới nhận thấy những điều này ở lão. Cũng có thể do bị ám ảnh nên hắn mới thấy thế chăng? Hắn đảo mắt nhìn qua căn nhà. Đúng là hang phù thủy. Nó ở trong một con hẻm sâu hun hút. Một phần bên ngoài lão dùng làm cửa hiệu, hay đúng hơn là nơi giao dịch của cửa hiệu; các bức tường cáu bẩn đến mức không thể nhận ra nó từng được quét bằng loại vôi ve gì, trên đó có treo một cặp sừng nai cong queo, một con đồi mồi, một chiếc mặt nạ màu đen bằng gỗ với đôi nanh trắng hếu, một con chồn nhồi đang bám vào tường và... một giấy chứng nhận gia đình văn hóa mới được lồng trong khung kính. Hắn bĩu môi khi thấy cái vật quá ư đời thường, lạc lõng này. Tất cả đều bị phủ một lớp bụi dày đen xỉn. Hắn chưa bao giờ vào phòng trong, nhưng đoán biết nó rất dài, không có chút ánh sáng nào lọt vào, là nơi cất giữ những thứ người ta đem đến cầm cố, và chắc chắn phải có đủ dụng cụ hành nghề của một lão phù thủy. Hình như lão sống một mình. Ít ra xưa nay hắn chưa hề gặp ai khác ở đây, ngoài khách hàng của lão.

- Thời này không còn phù thủy nữa, tất nhiên,- hắn nhận xét. - Nhưng thực tình tôi thấy ông chẳng khác phù thủy mấy.

- Thì tôi chính là phù thủy thật mà. Tôi biết anh không tin, nhưng quả đúng thế.

- Tôi không ngờ ông là người thích đùa. Đã vậy, tôi cũng xin đùa theo. Tôi đồng ý bán tuổi trẻ của tôi cho ông. Xin cho biết cách thức và giá cả cụ thể!

- Nhưng đây không phải chuyện đùa. Chuyện nghiêm túc đấy.

- Ừ, thì nghiêm túc. Ông nói đi.

Lão già im lặng một lúc như suy ngẫm điều gì.

- Được, vậy là anh năm nay hai mươi tuổi. Anh có thể nhượng lại cho tôi số tuổi này dưới dạng cầm đồ... trong trường hợp này là cầm tuổi, lúc nào có tiền anh chuộc lại. Nhưng tôi muốn và cũng khuyên anh nên bán đứt cho tôi thì được lợi hơn nhiều, lại đỡ rắc rối sau này...

- Tôi đồng ý theo cách thứ hai. Rồi sao nữa?

- Tốt lắm. Bây giờ ta bàn giá cả. Đây là mặt hàng ít mua bán nên không có giá chung. Tôi định trả cho anh mỗi năm tuổi mười triệu đồng, anh thấy thế nào?

- Mười triệu một năm tuổi! - hắn khẽ thốt lên, không hiểu vì nghĩ như thế là quá đắt hay quá rẻ. - Vâng, cứ cho là tôi chấp nhận giá ấy. Tiếp theo là gì?

- Là coi như vụ mua bán này xong xuôi. Hai người sẽ kí hợp đồng. Anh giao hàng, tôi trao tiền. Thế thôi. Như các vụ mua bán bình thường khác ấy mà.

- Giao hàng, nhận tiền? - hắn lại ngạc nhiên và mỉa mai hỏi tiếp: - Thế cái bản hợp đồng ấy có phải đem ra ủy ban phường hoặc phòng công chứng xác nhận không?

- Kể làm được thế thì tốt hơn, nhưng mà thôi, không cần. Tôi là người tử tế và hi vọng anh cũng vậy. Vả lại phù thủy chúng tôi có luật riêng của mình, - lão nói một cách rất nghiêm túc.

Bỗng nhiên hắn ngồi thừ người, im lặng hồi lâu. Hắn vẫn nghĩ lão già chỉ đùa, nhưng hắn không thích kiểu đùa này, nhất là với một người như lão. Cuối cùng hắn hỏi:

- Chuyện gì sẽ xảy ra với tôi sau khi bán tuổi cho ông?

- Sao một người thông minh như anh còn phải hỏi tôi điều ấy? - Lão cười to thành tiếng. - Cái người ta đã bán tất nhiên sẽ không còn thuộc về mình nữa. Anh bán hai mươi năm tuổi trẻ của anh cho tôi thì nghĩa là anh sẽ mất đi hai mươi năm tuổi trẻ ấy. Anh vẫn chưa hiểu à? Nôm na là ngay sau khi nhận tiền, anh trở thành người bốn mươi tuổi chứ không phải hai mươi như bây giờ. Tuy nhiên, để tránh đột ngột và không gây bất tiện cho anh trong cuộc sống, tôi và anh nên thỏa thuận mua bán từ từ thôi, một tháng một tuổi chẳng hạn. Anh sẽ không bị già đi quá nhanh, lại không phải có quá nhiều tiền một lúc, là điều mang tai họa chứ chẳng phải ích lợi.

- Được, cứ cho là thế, nhưng ông sẽ làm gì với tuổi trẻ của tôi sau khi mua nó?

- Lại một câu hỏi ngốc nghếch nữa. Để tôi được trẻ thêm hai mươi tuổi chứ còn gì. - Lão già lại cười, lần này to và có vẻ thích thú.

- Tôi đoán năm nay ông khoảng sáu mươi lăm. Vậy ông sẽ thành một người đàn ông bốn mươi lăm tuổi. Sao ông không chọn mua tuổi của ai đấy ba mươi, bốn mươi để được trẻ hơn?

- Ồ, cái gì cũng phải có giới hạn, anh bạn trẻ ạ. - Lão lại cười. Bây giờ hắn thấy tiếng cười của lão thật đáng ghét. - Anh nghĩ xem, từ một ông già lọm khọm thế này, bỗng dưng tôi thành thằng trai tơ, người ngoài trông vào khó coi lắm.

- Tôi hỏi ông câu cuối cùng: Vì sao ông chọn mua tuổi của tôi chứ không phải của người khác?

- Đơn giản thôi. Vì anh thông minh, khỏe mạnh và quan trọng nhất là chưa nhiễm những thói xấu không thể tha thứ. Nói anh biết, chứ bọn nghiện ma túy và trộm cướp, có cho không tôi tuổi trẻ của chúng tôi cũng chẳng thèm. Là người mua, tôi phải biết chọn hàng. - Lão ngừng nói, tợp một ngụm nước rồi nhìn thẳng vào mắt hắn: - Vậy là ta nhất trí?

Thay cho lời đáp mà rõ ràng lão chủ hiệu cầm đồ đang nóng lòng muốn nghe, hắn đứng dậy, cố tình tỏ vẻ chậm chạp, uể oải để che giấu những ý nghĩ đang rối lên trong đầu.

- Thôi, đùa thế đủ rồi. Ông xem tôi như con nít không bằng. Tôi về đây, - hắn nói.

- Ấy, gượm đã! - Lão vội chặn hắn lại. - Việc mua bán chẳng ai ép ai, hẳn thế. Nhưng tôi xin nhắc lại rằng đây là chuyện nghiêm túc. Rất nghiêm túc...

- Nghiêm túc? - hắn kéo dài giọng một cách mỉa mai. - Ông thử giải thích tôi nghe cái nghiêm túc ấy của ông xem nào. Làm sao trong thời đại tàu vũ trụ và Internet hiện nay bỗng chốc tôi già đi hai mươi tuổi chỉ vì câu đùa ngu ngốc nào đó của một lão già khốn khổ như ông?

- Thì đã nói rằng tôi là phù thủy...

- Phù thủy với cái này treo trên tường? - Hắn chỉ tay vào khung kính có tấm bằng gia đình văn hóa mới.

- Anh cứ chuyện nọ xọ chuyện kia, - lão già đáp, giọng nhún nhường. Rõ ràng lão không muốn mất khách. - Cái ấy chẳng liên quan gì đến việc chúng ta đang bàn. Còn chuyện trẻ ra hay già thêm bằng cách nào thì anh khỏi lo. Đó là việc của tôi. Chỉ cần anh đồng ý là xong, ta sẽ kí hợp đồng...

- Như hợp đồng giữa Faust và Mephisto trong vở kịch thơ của ông Goethe người Đức...

- Vâng, vâng, đúng thế. Quả tôi chọn người không nhầm. Thời buổi này mà một sinh viên trẻ tuổi như anh còn có thì giờ tìm đến tác phẩm này thì kể cũng hiếm. Có điều, Faust bán linh hồn cho Mephisto, còn anh chỉ bán tuổi trẻ của anh mà thôi. Nhân tiện xin được tiết lộ điều này, một khi anh nhắc đến Mephisto. Tôi là hậu duệ của một trong những đồ đệ của ông ta đấy...

- Nghĩa là ông sống trên đời này đã lâu, rất lâu. - hắn ngắt lời lão. - Xin hỏi, ông đã gạ mua tuổi trẻ của bao nhiêu người rồi?

- Anh tò mò quá đấy, anh bạn trẻ ạ. Tất nhiên anh không phải người đầu tiên và chắc cũng chẳng là người cuối cùng, cho đến lúc tôi phải chết vì một lý do ngớ ngẩn nào đó. Tôi biết trước số phận của mình mà. Nhưng thôi, ta quay lại với vở kịch Faust kia của ông Goethe. Anh có nhớ dàn đồng ca của bầy phù thủy trong cảnh Đêm hội quỷ ở miền rừng núi giữa Siec và Elen không, với hai câu kết rất ấn tượng là Qua đá, qua ghềnh; Phù thủy đánh rắm, dê già thối inh? Các cụ kị của tôi đấy. Công bằng mà nói, cái ông phó giáo sư, phó tiến sĩ Đức Soạn nào đó đã dịch Faust ra tiếng Việt cũng thối inh chẳng kém gì mùi rắm tổ tiên chúng tôi. - Nói đến đây, lão già nhăn mũi như ngửi thấy mùi thối thật. - Mà thôi, chuyện ấy không quan trọng. Vì như tôi đã nói, đây là việc nghiêm túc, anh có thể suy nghĩ thêm trước khi trả lời dứt khoát. Tôi chờ anh quyết định. Anh vẫn cần tiền đấy chứ?

- Vẫn, - hắn đáp cộc lốc. - Cần để sống cho ra sống và làm việc tốt hơn.

- Tốt. Xin nhắc lại: Tôi sẵn sàng mua hai mươi tuổi xuân của anh, với giá mười triệu đồng một tuổi. Mỗi tháng giao hàng, nhận tiền một lần. Lần đầu tôi có thể ứng luôn cho anh hai chục triệu để anh vừa chuộc lại xe, vừa có tiền tiêu. Trường hợp cần tiền, nếu anh muốn, trong một tháng tôi có thể mua cho anh hai tuổi hoặc hơn thế. Hi vọng với số tiền lớn này anh sẽ có điều kiện sinh hoạt và làm việc tốt hơn như anh nói. Là người thông minh và cần cù, tôi tin anh sẽ thành tài. Muốn thành tài, ai cũng phải trả giá. Cái giá của anh kể cũng có đắt, nhưng chưa hẳn đã đắt lắm nếu so với nhiều người khác. Vậy nhé. Tôi chờ anh...

*

Đang đói tin giật gân, báo chí Hà Nội bỗng vớ được dịp may hiếm thấy để tăng số lượng xuất bản. Các báo tranh nhau đưa tin về một hiện tượng "xưa nay chưa từng thấy" xảy ra ở ngay thủ đô. Vì là tin hiếm nên người ta cố tình kéo dài, mỗi ngày chỉ hé cho bạn đọc một số thông tin nhất định, hôm sau li kì hơn hôm trước.

Ngoài đường, trên tất cả các phố, đội quân bán báo rong vừa đạp xe vừa vặn to hết cỡ những chiếc micro rè chạy pin của họ, dài dòng kể chuyện ở trường nọ không hiểu sao trong vòng một năm (có báo nói mấy tháng, có báo nói hai năm) một sinh viên năm thứ ba bỗng biến thành một "ông già lụ khụ" sáu bảy mươi tuổi (cũng có báo nói chỉ bốn hoặc năm mươi). Rằng chàng sinh viên-ông cụ ấy đã bị y tế nhà trường dùng vũ lực đưa đến một loạt các bệnh viện, kể cả Viện lão khoa trung ương, nơi các chuyên gia đầu ngành khẳng định chàng mắc chứng già trước tuổi, một căn bệnh nan y rất hiếm nhưng không phải không có, mặc dù chàng khăng khăng tuyên bố không hề đau ốm gì. Cái lý do "học thi nhiều nên chóng già" chàng đưa ra để giải thích trường hợp có một không hai này đã bị cả giới khoa học lẫn bạn bè thẳng thừng bác bỏ, cho là "không nghiêm túc và phi lý".

Tiếp đến là những bài báo dài, nói một cách chi tiết, cặn kẽ (chắc không tránh khỏi đôi chút phóng đại) về những nỗi khổ đau, phiền toái trong đời sống thường ngày của anh chàng hai mươi tuổi bỗng chốc thành "ông cụ sinh viên râu ria xồm xoàm" bị người yêu bỏ, bị bạn bè cười giễu, bị từ chối và đuổi thẳng về nước không được tham dự một cuộc thi tin học quốc tế dành cho sinh viên, với lý do khai man tuổi. Thậm chí chàng suýt bị khai trừ khỏi đoàn thanh niên, cũng vì tuổi tác và bộ râu rậm đã lốm đốm nhiều sợi bạc.

Suốt mấy năm sau đó báo chí còn đều đều đưa tin về "cụ sinh viên" này. Có tờ còn coi "cụ" như niềm tự hào dân tộc. Có tờ nêu vấn đề mời đại diện Guiness tới Việt Nam để tận mắt chứng kiến và đưa hiện tượng này vào sách kỷ lục thế giới.

Cũng qua báo chí, người ta biết được rằng "cụ" đã tốt nghiệp xuất sắc trường đại học của mình, đủ tiêu chuẩn nhận học bổng du học ở Mỹ để lấy bằng tiến sĩ. Tuy nhiên, lại lần nữa vì tuổi tác, "cụ" bị từ chối không được nhập trường, dù phía Việt Nam đã xuất trình giấy khai sinh gốc được chính quyền địa phương xác nhận bằng dấu tròn màu đỏ. Là nhà khoa học đầy triển vọng, "cụ" được giữ lại trường làm cán bộ giảng dạy. Nay cụ đã là một giáo sư tiến sĩ đáng kính, niềm tự hào của trường và của cả đất nước.

"Cụ" đã lập gia đình, với người vợ hơn mình hai mươi tuổi. Ấy thế mà có kẻ độc mồm còn dám nói sau lưng họ: "Trông cứ như bố con!" Sinh viên rất quý "cụ", cả về kiến thức lẫn đạo đức. Có điều họ hơi lấy làm lạ là hầu như buổi học nào "cụ" cũng nhắc họ một điều chẳng mấy ăn nhập chương trình giảng dạy: "Các em phải luôn nhớ rằng trên đời này không gì quý bằng tuổi trẻ, và bất luận trường hợp nào các em cũng không được để mất nó, cũng như không được đánh đổi nó lấy bất kì cái gì khác!"

*

Cách đây không lâu, có tờ báo ở Sài Gòn đưa tin một người đàn ông trạc tuổi bốn mươi hay hơn một tí, có nốt ruồi lớn màu hồng hồng bên má trái, bị tai nạn giao thông ở Gò Vấp lúc mười giờ đêm, may được bác xích lô tốt bụng đưa vào bệnh viện. Mặc dù được các bác sĩ hết lòng cứu chữa, người này đã chết một giờ sau đó. Điều đáng nói là lúc ông ta tắt thở, các bác sĩ rất ngạc nhiên khi thấy toàn thân ông ta rữa ra và bốc hơi rất nhanh, cuối cùng chỉ còn lại ít xương mủn trên chiếc giường bệnh trải ga trắng ông ta vừa nằm. Câu chuyện quá kì dị nên người ta không tin, và chỉ coi đó như một trong vô số trò tung tin giật gân câu khách của tờ báo vốn bị nhiều tai tiếng này.

|

Hà Nội, 20.2.2001

Đọc truyện này để cố gắng mất ngủ.

Người viết: Thái Bá Tân

05/09/2009

Mất ngủ (Đọc bản tiếng Anh Ínomnia ở mục Truyện Tiếng Anh)

Truyện ngắn. Thái Bá Tân

Như nhiều người già khác, ông Dụng mắc chứng mất ngủ, đặc biệt thời gian này, khi ông mới về hưu. Mấy chục năm ông làm ở ủy ban chăm sóc, bảo vệ bà mẹ, trẻ em của thành phố. Công việc nhàn, chẳng có gì lý thú, thậm chí "vô bổ" như nhiều khi ông nghĩ. Thế mà bỗng nhiên không còn được làm cái công việc tẻ nhạt và vô bổ ấy nữa, ông cảm thấy hụt hẫng, người cứ thế nào, thừa tay chân, thừa thời gian, thừa những suy nghĩ chẳng đâu vào đâu, đáng lẽ cũng thừa cả ngủ vì ông nằm rất nhiều. Nhưng ông lại mất ngủ.

Vào một đêm mất ngủ như thế, lúc ấy đã khuya, chắc phải đến mười hai giờ, ông bỗng nghe con Mực nhà ông sủa gắt. Thường nó vẫn sủa vu vơ khi có ai trong xóm về khuya. Nhưng lần này thì tiếng nó khác. Tiếng sủa báo có kẻ gian. Nó khôn lắm, về mặt này có thể nói còn khôn hơn cả người. Rồi im. Chừng mười lăm, hai mươi phút sau lại sủa. Ông nghe nó nhảy xổ lên cánh cổng và hình dung thấy nó bám hai chân trước lên thanh sắt nhìn "kẻ gian" với vẻ hăm dọa, cái mõm đầy nanh sắc nhô ra ngoài.

Ngõ nhà ông tối, chỉ được chiếu sáng bằng ngọn đèn tròn tù mù sáu mươi watt treo trước cổng nhà ông Hoạch cuối ngõ theo yêu cầu của tổ dân phòng, nhưng chắc con Mực nhìn rõ. Nghe nói không chỉ mũi mà mắt loài chó cũng tinh lắm. Con béc-giê của vợ chồng ông Bàn giàu nhất xóm này, chủ một quán nhậu lớn ở chân cầu Long Biên, cũng sủa gay gắt không kém. Ở đây nhiều nhà nuôi chó, vậy là chúng đua nhau đánh thức cả xóm dậy. Cả con chó Nhật bé bằng nắm tay nhà ông Hoạch cũng ti toe phụ họa.

Ông Dụng đi ra ban-công, nhìn xuống và thấy hai thằng choai choai đang đèo nhau bằng xe đạp, tới nhà ông Hoạch kịch đường, chúng quay ra rồi biến mất. Bầy chó tiếp tục sủa chốc nữa rồi cũng im. Ngõ phố lại chìm trong im lặng. Đôi nhà còn đỏ đèn. Mọi người chắc đã ngủ, hoặc giả vờ ngủ, coi như không có gì xẩy ra. ít nhất đối với nhà mình. Đây là xóm mới, nằm khuất trong một ngõ cụt sát phố Nguyễn Văn Cừ, gồm mười tám căn nhà riêng biệt do thành phố xây để bán, ai có tiền thì mua, do vậy được coi là khu xịn, thậm chí trong giấy tờ bán nhà ghi là Khu biệt thự, mặc dù nhà cái nọ dính vào cái kia. Người mua là dân các nơi khác đến, thuộc loại khá giả, nhưng nhà ai biết nhà nấy và chỉ giao tiếp ở mức lịch sự vừa phải. Ông Dụng đưa mắt nhìn một vòng, chẳng thấy động tĩnh gì bèn quay vào nằm.

"Cái bọn choai choai này là ghê lắm đấy, - bà vợ ông thường nói. - Chúng nghiện ngập, cờ bạc, giết người như ngóe. Tốt nhất đừng dây, nhỡ gặp chúng phải tránh thật xa!" Ông thấy vợ nói đúng. Chuyện gì bà ấy nói cũng đúng. Cả xóm này mọi người nghĩ như bà. Có lẽ vì thế mà như nhiều hôm khác, hôm nay chẳng ai, kể cả ông trưởng xóm kiêm tổ viên tổ tuần tra mà ông ta không bao giờ tham gia, chạy ra đuổi chúng, chí ít hỏi chúng đêm hôm vào đây làm gì. Nhiều lần chúng ngang nhiên tụm ba tụm bảy đánh bạc hoặc tiêm chích cả ban ngày mà không người nào dám nói một câu. Coi như không thấy. Không biết. Không dây! Dây vào ngộ nhỡ chúng đâm cho một nhát mà chết à?

Lát sau chó lại sủa ran. Chắc hai thằng kia quay lại. "Kệ. Nhà mình không là đối tượng của chúng, - ông nghĩ. - Vả lại con Mực sẽ chẳng chịu để yên cho chúng muốn làm gì thì làm." "Tao thách bọn mày vào đấy!" - Chắc đầu ngõ ông chủ quán nhậu có con béc-giê hung dữ cũng đang nghĩ như ông. Các nhà khác thì có lẽ cảm thấy yên tâm vì nhà mình kín cổng cao tường, cửa đóng chặt cả trên lẫn dưới.

Chó vẫn tiếp tục sủa và mỗi lúc một gay gắt. Con Mực nhảy chồm chồm lên tấm cửa sắt. Chắc có chuyện. Ông Dụng định dậy ra xem, nhưng không hiểu sao lại thôi. Nhiều người trong xóm lúc ấy có lẽ cũng chung tâm trạng như ông, và vẫn nằm yên trong nhà. Sau đấy bỗng có tiếng kêu thất thanh. Tiếng kêu cứu của một đứa bé. Bé gái. Hình như tiếng cái Hồng, con vợ chồng cậu Châu cách nhà ông một nhà về phía phải, sát nhà ông Hoạch. Mọi người, trong đó có ông Dụng, chạy bổ ra ban công, và từ vị trí an toàn ấy, tất cả gần như đồng thanh kêu to: "Trộm! Có trộm!" Chủ yếu để bọn kia thấy động bỏ đi. Rồi mọi người xuống gác, cố nói thật to, cố mở khóa cổng thật chậm để biết chắc mình không là người đầu tiên bước ra nơi nguy hiểm. Nhiều người còn dắt theo cả chó, những con chó trước đấy bị nhốt sau song sắt.

Khi mọi người đổ ra ngõ thì tất nhiên bọn bất lương đã biến mất, vì ít nhất đã năm phút trôi qua kể từ lúc có tiếng kêu cứu, có thể còn lâu hơn. Người ta thấy cánh cổng nhà vợ chồng anh Châu mở toang, còn cháu Hồng, mười ba tuổi, con gái duy nhất của họ thì nằm chết ngay ở bậc tam cấp, máu me đầm đìa. Nó nằm ngửa, bị đâm một nhát khá lớn ở bụng, lòi cả một đống ruột ra ngoài. Đến bây giờ dân trong xóm mới biết nó ở nhà một mình đã ba hôm nay vì cả bố lẫn mẹ đang theo cơ quan Bộ ngoại giao nghỉ mát ở Cửa Lò, nó bận thi học sinh giỏi tin học toàn thành phố nên không đi. Sau này, khi công an bắt được thủ phạm - hai tên lưu manh choai choai ở khu tập thể nhà máy xe lửa Gia Lâm - người ta biết thêm rằng nó bị đâm chết khi vừa kêu cứu, vừa cố giữ chiếc vi tính xách tay bố mẹ mới tặng. Một trong hai thằng kia giật mãi không được, cáu tiết dùng con dao Thái đâm một nhát vào bụng, nó ngã gục làm vết đâm rộng thêm nên ruột mới trào ra. Thằng này sau bị kết án tử hình. Bạn hắn tù mười năm. Còn dân trong xóm thì bị chính lương tâm mình kết án, nặng nhẹ tùy sự nhạy cảm và cách nhìn nhận sự việc của từng người...

*

Có lẽ người bị 'kết án" nặng hơn cả là ông Dụng, vì ông hay mặc cảm và bị cái gọi là lương tâm dằn vặt nhiều hơn. Như những người khác, khi công an điều tra hỏi vì sao biết có kẻ gian mà không ra can thiệp ngay, ông nói bình thường chó vẫn sủa như vậy, và rằng ông già, khi tới nơi thì đã muộn. Ông biết ông nói dối. Chừng này tuổi mà còn nói dối một cách trơ trẽn. Ông đã có thể ra ban-công lần chó sủa rộ thứ hai, thứ ba, và nếu vẫn thấy hai thằng ấy mà ông biết chắc đến đây chỉ để ăn trộm, đáng lẽ ông phải ra hỏi chúng, đuổi chúng đi, cùng lắm gọi to mọi người dậy. Chắc chắn lúc ấy chúng không dám ra tay và cháu Hồng sẽ không bị giết một cách thảm thương như vậy. Nhưng ông đã hèn nhát không dám làm thế. Ông sợ bị chúng chém hoặc dùng kim chích ma túy đâm vào người. Sao ông không đi ra cùng con Mực? Chắc nó biết cách bảo vệ chủ. Ừ nhỉ, ông quên không nghĩ tới điều đó. Quên một phần vì "không muốn dây vào chúng", vì đơn giản nghĩ con chó giữ riêng nhà ông đã đủ. Ông chủ cửa hàng nhậu có lần từng chỉ vào con béc-giê của mình, nói:

"Lúc ấy mà tôi kịp thả con này ra thì hai thằng kia chỉ có chết!" nhưng ông ta đã không thả. Người khác cũng không. Lũ chó ngu ngốc, không khôn như người, nhất định chúng sẽ chịu chơi, chịu "dây" với bọn kia và do vậy chắc sẽ ngăn được vụ án mạng. Nếu có lương tâm, lương tâm lũ chó bây giờ trong sạch.

Càng nghĩ, ông Dụng càng buồn và thấy mình có tội. Không nghi ngờ gì nữa, trong cái chết của cháu Hồng ông chịu một phần trách nhiệm. Ông đã tính tới chuyện thú hết với công an, rằng chính ông và những người hàng xóm của ông mới là thủ phạm thực sự. Nhưng liệu tòa án có thể vì thế mà kết tội ông được không? Không có bộ luật nào kết tội những người không kịp ra cứu giúp người khác khi gặp nạn. Không ai bắt bẻ ông được. Vâng, không ai trừ lương tâm, mà lương tâm ông bây giờ đang cắn rứt. Ông đã có thể cứu được đứa bé nhưng ông hèn, ông sợ chết, ông quá khôn. Thế mà hàng chục năm trời ông được gọi là cán bộ bảo vệ trẻ em cơ đấy. Suốt mấy chục năm ấy và cả đời mình thực ra ông chẳng bảo vệ được ai. Việc ông làm chung qui chỉ là nói những lời đạo đức giả, tham dự các cuộc họp triền miên và mỗi năm vài lần trao những túi quà người ta chuẩn bị sẵn. Tên ông là Đinh Hữu Dụng mà thực sự ông là người vô dụng. Bạn bè, đôi khi cả chính ông, cũng nhiều lần nói đùa như thế.

Choáng váng vì cái chết của con gái, vợ chồng anh Châu xin đi làm tại một Đại sứ quán ở châu Phi, để lại ngôi nhà trống rỗng và khu xóm nhỏ đang bối rối dằn vặt với những gì mới xẩy ra. Không ai bảo ai, mọi người cố tránh không nhắc đến chuyện này. Cũng chẳng ai lên tiếng tự bào chữa hay trách cứ mình.

*

Chứng mất ngủ của ông Dụng ngày một thêm trầm trọng. Nhiều đêm liền ông không hề chợp mắt. Thậm chí ông bắt đầu xem nó là bệnh, đi khám bác sĩ và uống đủ các loại thuốc vợ ông mua về bắt uống. Dạo này bị công an truy quét, bọn nghiện ngập và tội phạm không dám đến đây nữa, cả ban ngày cũng như ban đêm. Chó cũng ít sủa hơn. Tuy nhiên, ba hôm nay ông nhận thấy một điều khác thường, là lúc gần sáng con Mực nhà ông cứ tru lên khe khẽ. Tiếng tru nghe rất lạ, như thể nó đang sợ hãi điều gì. Con chó Nhật ông Hoạch cũng ngứa mồm sủa theo. Các con chó khác, trong đó có con béc-giê hung dữ của ông chủ quán bia, không thấy lên tiếng. Cả ba hôm ông đều ra xem nhưng không thấy gì.

Đấy, bây giờ con Mực lại sủa đấy, hay đúng hơn, đang rên ư ử. Ông nhìn đồng hồ. Ba giờ sáng. Trời tối, lại có gió lạnh. Xung quanh không tiếng động, trừ tiếng con Mực. Ông rón rén nhỏm dậy. Khác mọi lần, ông không ra hẳn ngoài ban-công mà chỉ đứng bên trong, vén rèm cửa sổ nhìn ra. Lối đi phía dưới vắng tanh. Ngọn đèn sáu mươi watt trước nhà ông Hoạch chiếu tù mù, nhưng cũng đủ sáng để nhìn thấy bất kỳ người nào, nếu có. Nhưng ông nhìn mãi mà chẳng thấy ai. Trong khi đó con Mực vẫn tiếp tục khẽ sủa một cách lo lắng và sợ hãi. Nghĩa là có chuyện. Không ngẫu nhiên nó sủa như thế. Nuôi nó mười năm nay, ông biết.

Ông khoác thêm chiếc áo, lặng lẽ đi xuống, lặng lẽ mở cửa rồi mở cổng bước ra ngoài, không quên mang theo chiếc gậy đề phòng bất trắc. Con Mực thấy ông, vẫy đuôi rối rít. Nó rón rén đi trước, tai cụp, đầu cúi sát đất. Có nó, ông thấy yên tâm hơn. Bên ngoài trời vẫn tối đen và ẩm ướt. Xung quanh yên ắng lạ thường. Bất chợt ông nhìn thấy có cái bóng mờ mờ trước mặt. Ông định kêu to đánh thức mọi người, nhưng nghĩ có thể nhìn nhầm nên lại thôi. Cái bóng nhỏ màu trăng trắng đứng co ro bên cửa nhà anh Châu, chỉ cách ông khoảng mươi mét. Trộm chăng? Hình như không, vì nếu thế nó đã bỏ chạy khi nghe ông cố tình hắng giọng. Vậy thì là cái gì?

"Ai đấy?" - ông hỏi to rồi mạnh dạn bước lại gần. Con Mực đi theo, sủa lên một tiếng đầy hăm dọa. Cái bóng trắng vẫn đứng yên. Nó không có ý bỏ chạy hoặc sợ hãi. Khi lại gần, ông Dụng thấy hình như đó là một đứa trẻ. Nó đứng tựa lưng vào tường rào, hai tay ôm cái gì đấy trước bụng.

"Trời ơi, Hồng đấy à, cháu?" ông khẽ thốt lên, quên mất rằng con bé đã chết hai tháng nay.

Cái bóng gật đầu, không nói gì. Ông Dụng cúi xuống nhìn kỹ thì thấy đúng là nó. Nó đang đỡ mớ ruột bầy nhầy trên tay. Dưới ánh điện tù mù, ông thấy nó khóc, đôi mắt mở to đau đớn nhìn ông.

"Trời ơi!" - ông Dụng lại thốt lên, kinh hoàng nhìn mớ ruột. "Cái gì thế này?" Con bé im lặng, nhìn xuống chiếc bụng bị đâm thủng rồi nhìn ông, vẻ van nài. Con Mực không rên nữa. Nó cuống quýt chạy quanh chủ và cái bóng ma. Ông Dụng chẳng hiểu nó muốn gì. Ông đứng lặng, lúng túng hồi lâu. Cuối cùng ông ngồi xuống ngang tầm đưa bé, nhẹ nhàng nâng từng đoạn ruột bầy nhầy dính máu nhét lại vào bụng nó. Ông làm việc này thong thả, thận trọng như một bác sĩ phẫu thuật và bình tĩnh một cách lạ lùng. Thậm chí tay ông không run. Con bé vẫn lặng lẽ đứng yên, chỉ thỉnh thoảng khẽ co giật như bị đau. "Cháu gắng chịu chút nữa. Bác xong ngay bây giờ. Cháu ngoan lắm. Giỏi lắm!" - Ông dỗ nó như dỗ đứa cháu ngoại năm tuổi mỗi lần bắt uống thuốc đắng.

Con bé mấp máy môi điều gì đó khi ông làm xong, thận trọng đưa cả lòng bàn tay vuốt lại lần nữa như vá chỗ rách ở bụng nó. Ông kéo quần nó cao lên, cài cúc áo thật chặt cho nó rồi ngước mắt, có ý hỏi "Bây giờ cháu đỡ đau rồi chứ?" Con bé gật đầu nhìn ông và con Mực lần chót, rồi từ từ tan trong lớp sương mù ẩm ướt. Ông Dụng ờ lên một tiếng vì ngạc nhiên. Ông thực sự không hiểu chuyện vừa rồi là có thực hay chỉ một giấc mơ. Dạo này ông hay có những giấc mơ kỳ quái như vậy. Khi vào nhà bật đèn, ông thấy hai tay dính đầy máu...

Từ hôm ấy, đêm đêm vào lúc gần sáng, con Mực nhà ông thôi không sủa nữa. Hồn ma cái Hồng không quay lại thêm lần nào. Tuy vậy, chẳng vì thế mà ông Dụng đỡ mất ngủ. Bây giờ đến lượt ông, bị chứng mất ngủ hành hạ, cứ gần sáng ông lại ra khỏi nhà vật vờ đi đi lại lại trong ngõ. Lúc đầu lũ chó sủa ghê lắm, nhưng rồi dần dần chúng quen, không còn làm ầm ĩ bắt mọi người tỉnh dậy.

Hà Nội, 8.8.2002

Truyện này theo thầy rất hay và ý nghĩa. Đọc đi!

Người viết: Thái Bá Tân

27/08/2009

Quả bom chưa nổ

Truyện ngắn. Thái Bá Tân.

Sau lễ tân gia đúng ba ngày thì ông Cần được biết rằng dưới ngôi nhà ông mới xây có quả bom chưa nổ. Mà bom to, loại nghìn cân Anh.

Người cho ông biết cái tin khủng khiếp này chính là bạn ông, đại tá pháo binh về hưu, thời chiến tranh chỉ huy một khẩu đội pháo phòng không ở ngay trên nền đất nhà ông.

"Tôi lấy làm lạ sao khi người ta làm móng, nó không phát nổ", ông đại tá về hưu nói.

Ông Cần cười mếu máo:

"Bác đùa. Chắc gì có mà nổ..."

"Không ai đùa những chuyện thế này. Tôi còn lưu được cuốn sổ ghi chép trực ngày ấy. Bác muốn, tôi cho xem. Đó là ngày 17 tháng Tám năm 1967, lúc bốn giờ ba mươi phút chiều. Hai chiếc F-105 từ biển bay vào. Một chiếc chúi xuống ném hai quả bom nhưng chỉ nghe một tiếng nổ. Tôi còn ghi thêm vào sổ: "Nhớ báo trên cho công binh xuống phá". May hôm trước khẩu đội chúng tôi kịp dọn đi nơi khác, chỉ chừa lại trận địa giả. Khi báo yên, tôi đến thì thấy có hố bom rất lớn và một vết lõm hun hút cách đấy không xa, bằng chứng của một quả bom khác chưa nổ".

"Cứ cho là như vậy, nhưng chắc gì nó nằm ngay dưới nhà tôi?"

"Tôi cẩn thận đánh dấu chỗ bom rơi, với mục đích báo người ta tháo gỡ như đã nói. Hướng đông cách cây si trên đường hai trăm mét. Cách giếng làng một trăm năm mươi mét về hướng tây. Căn ra, không đúng nhà bác là gì? Có thể không ngay dưới nhà mà ngoài sân. Nhưng với quả bom nửa tấn thì điều ấy chẳng có gì khác nhau".

"Có thể người ta đã tháo ngòi nổ nó rồi?"

"Tiếc là chưa, vì sau đó chúng tôi được lệnh chuyển ngay đi nơi khác. Tôi không có thời gian báo cấp trên việc này. Rồi dân quân lấp hố bom, lấp luôn cả quả chưa nổ kia".

"Có thể nó sẽ không bao giờ nổ, một khi đã nằm im chừng ấy năm dưới đất."

"Vâng. Với những quả bom loại này thì chuyện gì cũng có thể xẩy ra. Có thể suốt đời nằm im. Cũng có thể năm phút nữa nó sẽ nổ. Cái nguy hiểm và khó chịu là ở chỗ ấy".

Hai người im lặng hồi lâu. Cuối cùng chủ nhà lên tiếng:

"Thế thì tôi phải làm gì bây giờ?"

Ông đại tá về hưu không đáp, có vẻ bứt rứt vì phải báo bạn một tin chẳng mấy dễ chịu.

Ông Cần quả lúng túng không biết phải làm gì.

Đây là ngôi nhà mơ ước cả đời của ông và gia đình. Ba tầng, mái giả ngói, thiết kế kiểu biệt thự Pháp, trên diện tích đất hơn trăm mét vuông bên rìa thị xã và nhìn ra hồ. Hồ nước đục, nông choèn, nhưng vẫn là hồ nên những ngôi nhà xung quanh trở nên có giá. Biết làm sao bây giờ? Đập đi, thuê công binh đến phá bom rồi xây lại? Không ổn. Cứ tiếp tục sống như không có gì xẩy ra? Cũng không ổn. Ông vốn yếu bóng vía, chắc gì không phát điên lên với ý nghĩ đang ngủ trên một quả bom chưa nổ?

Mấy đêm liền ông thức trắng, ban ngày vật vờ như bóng ma. Người ông gầy xọp, mặt mũi hốc hác. Vợ con hốt hoảng, căn vặn mãi nhưng ông không chịu nói. Xưa nay khối người xây xong nhà là lăn đùng ra chết!

Một hôm ông bắn tin bán nhà, bất chấp sự phản đối kịch liệt của bà vợ. "Bà muốn tôi ở đây mà chết à?" Nghe thế, vợ ông bán tín bán nghi, nhưng thôi không ngăn cản nữa, mặc dù không hiểu vì sao chồng bà có thể chết khi được sống trong một ngôi nhà đẹp.

Ngôi nhà được bán một cách nhanh chóng vì giá rẻ. Ông chọn mua một nhà khác nhỏ và xấu hơn, rất xa chỗ cũ. Ông vội vã cho cả nhà dọn đi ngay trong ngày nhận đủ tiền. Đêm hôm ấy lần đầu tiên ông ngủ ngon giấc, tuy không phải không có những giấc mơ toát mồ hôi lạnh.

Mọi việc dần dần rồi đâu cũng vào đấy. Ông hết lo lắng và khỏe mạnh trở lại. Chuyện làm ăn, con cái đều tốt. Hơn thế, khu nhà mới của ông đất bỗng tăng giá vùn vụt vì theo qui hoạch sẽ có một đường phố lớn chạy qua. Thậm chí có ngày ông còn quên không nghĩ đến ngôi nhà cùng quả bom chưa nổ mà ông đã khôn khéo đẩy sang cho người khác.

Tuy nhiên, chưa đầy hai tháng sau, người mua nhà ông tìm đến nhờ viết lại giấy để ông ta bán nó cho người khác. Chả là họ mới chỉ mua bán trao tay chứ chưa làm thủ tục pháp lý.

"Vì sao bác lại bán nó?" Ông Cần giả bộ thản nhiên hỏi.

"Tôi muốn dọn về đâu đấy gần Cầu Giẽ cho tiện việc đi làm", ông kia đáp, cũng cố lấy vẻ tự nhiên, nhưng nét mặt lo lắng và thái độ lúng túng cho thấy ông ta đang nói dối.

"Vậy là họ đã biết và đang tìm cách ủn mối nguy hiểm ấy sang người khác. Như mình". Ông Cần nghĩ bụng, thầm lo bị vạch trần sự thật. Nhưng không, nhận được cái muốn có, ông kia vội vàng xin phép ra về. Thậm chí còn nói rất tiếc phải bán ngôi nhà đẹp trên thế đất tốt như vậy.

"Vâng, tôi cũng rất tiếc khi bán nó cho ông", ông Cần lơ đãng đáp.

Làm sao ông ta biết được nhỉ? Nhất định không thể do ông bạn đại tá cho biết. Vậy chỉ có thể ai đó trong số láng giềng. Điều này khó xẩy ra, vì bản thân láng giềng không dễ mà biết được. Nhưng rõ ràng đã có người biết, và cố ý báo cho người mua nhà ông. Để làm gì? Dụng ý tốt hay xấu?

Mấy hôm sau ông Cần phóng xe tới đó, chọn quán nước đối diện ở khoảng cách khá xa và bắt đầu lặng lẽ quan sát.

Chủ mới là một đôi vợ chồng còn trẻ với hai đứa con thật kháu khỉnh. Có vẻ giàu. Có vẻ trí thức. Cũng có cả vẻ hài lòng với ngôi nhà mới mua. Chắc giá rẻ.

Bỗng ông Cần nhắm mắt, thầm hình dung quả bom phát nổ, xé vụn cả ngôi nhà, cả đôi vợ chồng trí thức, hai đứa trẻ thiên thần cùng cái vẻ hài lòng và hạnh phúc ông vừa chứng kiến.

Từ đêm hôm đó ông lại mất ngủ, với nỗi sợ mơ hồ luôn ám ảnh. Ông có cảm giác như chính ông đang nằm trên quả bom chưa nổ ấy.

Không hiểu cái ông vừa đẩy được nó cho anh chàng trí thức này có mất ngủ như mình không nhỉ?

Mấy tháng sau, ông Cần không chút ngạc nhiên khi thấy anh trí thức kia đến nhờ ông giúp làm giấy bán nhà. Cứ như ông đang chờ vậy. Cả anh này cũng có vẻ vội vã, khuất tất như ông lần trước. Ông Cần không hỏi lý do bán nhà vì đã biết trước câu trả lời. "Anh này coi bộ tử tế. Chắc sẽ không thảnh thơi lắm đâu. Tử tế mà hóa ra không tử tê. Như mình".

*

Đến nay, đúng hai năm mười tháng sau khi ngôi nhà mơ ước ấy được xây xong, nó đã qua tay bốn người, và cả bốn người đã đến nhờ ông Cần chữa lại giấy tờ để sang tên cho người khác. Chắc chắn sẽ còn nhiều người nữa tìm đến ông. Ai cũng ra bộ luyến tiếc ngôi nhà, rằng bán nó vì cực chẳng đã, vì những lý do rất xác đáng. Lý do ấy ông biết. Ai cũng biết nhưng không muốn, không dám nói.

Quả bom vẫn chưa nổ. Có thể nó sẽ không bao giờ nổ. Thậm chí có thể không hề có một quả bom như thế. Nhưng vì an toàn, người ta cứ đùn đẩy nó cho người khác. Toàn những người tử tế đùn đẩy cho nhau. Cũng vì tử tế mà sau đó họ trằn trọc hết đêm này đến đêm khác, mặt mũi phờ phạc, lương tâm cắn dứt đến đổ bệnh. Họ khôn khéo thoát được quả bom nằm tít đâu đó sâu dưới lòng đất mà chưa chắc đã có thật, để tạo ra thêm, hiện giờ là bốn, nhưng sau này sẽ là bốn mươi, bốn trăm quả bom khác trong đầu mình, hoàn toàn có thật, chưa nổ nhưng chắc chắn sẽ nổ.

Những quả bom hẹn giờ mà họ, chỉ mình họ nghe được tiếng đồng hồ đếm ngược đang lạnh lùng kêu tích tắc.

Hà Nội, 2003.

Vì sao không nên ăn thit chó?

Người viết: Thái Bá Tân

22/08/2009

Ngày đẹp trời

Truyện ngắn. Thái Bá Tân

Hôm ấy là một ngày đẹp trời. Mặt trời đầu xuân ấm áp vừa nhô lên khỏi hàng cây trước nhà. Ông lão mù và con chó ngồi sưởi nắng ngoài sân.

Ông lão đã gần tám mươi. Con chó nằm cạnh sắp bước sang tuổi mười lăm. Nghĩa là qui ra tuổi người, nó cũng già như chủ, đến mức đi đứng không vững, nhìn không rõ, có thể nói gần như mù. Nó là con chó ta lai bẹc-giê, to cao, màu vàng nhạt, ở cái tuổi đáng kính ấy vẫn giữ được dáng vẻ của thời hoàng kim cách đây cả chục năm. Chỉ gầy đi đôi chút. Tất nhiên chậm chạp hơn và hiền chứ không hung dữ như xưa. Suốt ngày nó ở ngoài sân, thích thú tận hưởng cái ấm của mặt trời, lười biếng nằm bẹp xuống nền xi măng, có khi duỗi cả tứ chi ở cái thế chẳng lấy gì làm đẹp mắt. Từ lâu nó đã thôi không thèm sủa. Họa hoằn lắm, có kẻ gian, nếu đôi mắt mờ nhìn thấy, nó chỉ gầm gừ hăm dọa. Hăm dọa thôi chứ chẳng gì hơn. Qua rồi cái thời nó phải làm cái công việc trông coi nhà cửa như lũ con cháu. Con cháu nó chắc cũng nhiều, dù bây giờ không biết ở đâu. Như ông chủ, nó xứng đáng được hưởng những ngày còn lại của cuộc đời trong thanh thản và hạnh phúc. Dường như nó đang hạnh phúc, cái hạnh phúc đơn sơ theo kiểu chó...

Còn ông lão? Thì ông cũng hạnh phúc. Cũng theo cách của riêng ông, tất nhiên. Ông vốn nông dân, suốt đời chân lấm tay bùn, đến năm bảy mươi tuổi bị mù vì bệnh thiên đầu thống, được con trai đưa ra thành phố, cơm bê nước rót, đi đâu có con chó này dắt, bây giờ nó mù thì nhu cầu đi lại của ông cũng chẳng còn. Cách đây mấy năm, do vợ khó dễ, anh con mua cho ông ngôi nhà nhỏ này ở ngoại thành, thuê bà hàng xóm lo cơm nước, giặt dũ, còn mình thì mỗi tháng một lần đến thăm, trừ những tháng quên. Thế thì hỏi ông còn cần gì thêm? Đúng là chẳng cần gì. Ông vốn dễ tính. Tuy nhiên, nếu có được sự ấm áp gia đình thay cho ánh nắng vốn không phải ngày nào cũng có, và tiếng líu lo của những đứa cháu bụ bẫm chứ không phải tiếng gầm gừ của con chó, thì vẫn hơn.

Vậy là cả hai, con người và con chó, đang hài lòng và cùng sưởi nắng bên nhau, không bị ai quấy rầy. Lại vào một ngày nắng đẹp. Nhà bên, cách mảnh vườn nhỏ trồng mấy cây khế còn thấp nhưng um tùm lá, là ông hàng xóm đang lúi húi chữa xe máy. Ông ta, một người tóc húi cua, da đen, thấp mập, khoảng năm mươi, nghe nói về hưu non, không hiểu do giảm biên chế hay bị kỷ luật, hình như cũng vui vì luôn miệng huýt sáo, cả những lúc bất ngờ dấn ga rồ máy nghe đến sợ.

- Cái giống chó nhà mày ấy mà, Vện ạ, đúng là chẳng có chút tình nghĩa nào. - Ông lão lên tiếng, đập đập tay lên đầu con chó, sợ nó ngủ quên không nghe. Ông luôn gọi nó là Vện mặc dù hồi còn ở chung, vợ chồng con ông đặt cho cái tên tây là Micky. - Nghĩ mà xem, mày con đàn cháu đống như thế mà đến lúc già lại chẳng có đứa nào bên cạnh. May còn được tao thương cho ăn, không thì chết, chết đói thật đấy.

Con Vện khẽ gừ một tiếng rồi đưa chiếc lưỡi màu đỏ nhạt liếm tay chủ.

- Còn tao thì mày biết, tao đã kể bao nhiêu lần rồi. Tao chỉ có hai đứa con trai. Một nuôi mẹ, một nuôi bố. Mày không thấy thằng Khánh ăn ở với tao có hiếu à? Mấy năm trước, khi còn ở chung, tao được nó cho ở riêng một mình một tầng nhé. Tầng bốn, tầng cao nhất, mày hiểu chưa? Nó chẳng bắt làm gì, chẳng bao giờ quấy rầy. Chỉ đến giờ ăn thì gọi xuống. Hôm nào có khách còn bê lên cho ăn một mình. Nó dặn mấy đứa con gặp ông phải chào. Chỉ tội chúng hay quên. Con nít mà. Lại còn nhắc vợ phải ăn nói nhẹ nhàng với tao nữa. Mày thấy tao sướng chưa? Ở quê ấy mà, khối người về già bị con bỏ rơi đấy. Tao thì không. Tiếc là hai thằng con không thỏa thuận được với nhau để tao và bà lão nhà tao sống chung một thời gian. Mấy ngày thôi cũng được. Bà lão nhà tao ấy mà, ngu thì ngu thật, nhưng hiền lành và biết điều. Chỉ tội mau nước mắt. Nói mày đừng cười, bà ấy bảo nhớ tao đấy. Cứ như còn trẻ. Cứ như người thành phố không bằng. Tao thì tao chẳng nhớ, nhưng thương. Tội nghiệp bà ấy, chừng ấy tuổi mà còn phải thui thủi một mình. Chả là thằng kia không chịu cho lên thành phố vì chê hay nhổ nước trầu bậy bạ. Mụ nhà quê nào chả mắc cái thói xấu ấy. Nó chỉ gửi tiền về. Nghe nói cũng khá. Nhưng bà ấy ngu lắm cơ, ăn uống chẳng dám, được đồng nào cứ tích góp cho vào cạp quần, khi thành món kha khá thì vợ chồng nó về hỏi vay. Tức là lại cho chúng. Thế mà đã năm năm nay vợ chồng tao chưa gặp nhau đấy. Chả đứa nào chịu đưa đi. Chúng bận làm ăn. Đúng thôi. Già chết đến nơi rồi còn gặp gỡ làm gì. Nhưng kể thỉnh thoảng được thấy nhau, nói với nhau đôi lời cũng hay. Mày nghĩ sao, Vện? Giống người khác giống chó ở chỗ sống có đôi. Chứ như chúng mày thì chỉ bầy đàn, để đến lúc già trơ khấc một mình. Khổ chưa? May mà mày còn có tao. Rồi chết chắc chỉ mình tao đi chôn mày. Ấy là nói nếu mày chết trước. Còn nếu tao chết trước, mày có theo người ta ra mộ tao không? Công bằng mà nói, mày là con chó tốt, và có mày tao cũng đỡ buồn hơn nhiều... Ờ mà sao mày chẳng nói gì cả? Vện, Vện, mày đâu rồi?

Con chó già không đáp vì nó đang bận. Ông lão đưa tay quờ quạng tìm nó.

- Đi ị hả? Nhớ ra tận góc vườn đấy nhá!

Không, lúc ấy con Vện đứng cạnh chủ, chỉ ngoài tầm với một tí. Nó đang chăm chú nhìn miếng mồi trước mặt. Đó là một miếng thịt khá to, nướng sém, dù đã nguội nhưng cái mũi thính của nó vẫn ngửi thấy mùi thơm. Vốn khôn ngoan, lại dày dạn kinh nghiệm của một con chó già, nó cảm thấy có gì đấy bất thường trong miếng mồi này. Nó đang lưỡng lự. Tuy nhiên sự hấp dẫn của miếng thịt, lại khi đang đói, cuối cùng đã thắng. Nó cúi xuống, thè lưỡi liếm liếm, dè dặt liếc nhìn ông lão rồi ngoạm vào miệng, nuốt chửng. Giống chó có thói xấu là ăn không nhai, chỉ nuốt.

Bỗng con Vện khựng lại. Có cái gì đấy vương vướng trong miệng. Một sợi dây. Sợi dây cước màu trắng mãi đến lúc này nó mới thấy. Không phải một đoạn mà cả sợi dài. Đúng lúc nó định tìm cách nhả ra thì sợi dây bị kéo căng, và nó thấy đau buốt trong cuống họng. Đau lắm. Như có cái gì sắc nhọn móc bên trong. Nó há to mồm, cố khạc ra. Không được. Sợi dây bị kéo căng, làm nó càng đau hơn. Vì đau, vì miếng thịt mắc ngay ở cuống họng, nó không sủa được, chỉ rên ư ử và đi theo hướng sợi dây đang kéo, không hiểu chuyện gì đang xẩy ra. Tiếng ư ử của chó, cho dù vì vui hay buồn, đều giống nhau.

- Mày làm sao thế, Vện? - ông lão mù hỏi. - Sướng quá hóa rồ lại hát à? Nhưng mày hát gì mà nghe như khóc ấy. Không sao, thích thì cứ hát. Đời đẹp mà. Hôm nay ngày cũng đẹp. Gớm, tháng trước rét thế. May đêm ngủ có mày, chứ không tao cũng chết rét... Mà thôi, đừng rên thế nữa. Lại đây, lại đây ngồi với tao nào. Vện! Vện!.. Mày đâu rồi?

Lúc này con chó già đã bị kéo ra tới đường làng. Ở đó, khuất sau bụi dâm bụt là một thằng đàn ông còn trẻ đội mũ cối, mặc quần áo màu rêu bộ đội, chân đi dép nhựa, mặt quắt và đầy trứng cá. Hắn nhanh nhẹn túm lấy cổ con Vện, úp vào mõm nó chiếc rọ đã chuẩn bị sẵn, trói cả bốn chân lại rồi vứt vào chiếc giỏ sắt lớn sau yên chiếc xe đạp dựng cạnh.

Bình thường, dẫu già con Vện vẫn có thể quật ngã hai tên như hắn, nhưng lúc này nó đang đau, không sủa, không cắn được, dẫy đạp mạnh cũng không. Thằng kia biết nên hắn mới có thể làm mọi việc bình tĩnh và trót lọt như vậy. Chưa nói đến kinh nghiệm, mà kinh nghiêm trong việc này thì hắn có thừa, vì hắn là một thằng câu chó chuyên nghiệp. Vâng, câu chứ không phải bắt trộm. Như người ta câu cá. Nhử cho chó ăn mồi, chờ chiếc lưỡi câu lớn ba cạnh móc vào họng rồi kéo dây. Sợi dây cũng bằng cước, mảnh thôi, chỉ nhỉnh hơn dây câu cá một chút, nhưng thử hỏi khi đã mắc mồi thì có con chó nào, dù to khỏe đến đâu, còn dám chống cự mà sợ đứt?

- Vện ơi, Vện! Mày đâu rồi? Có chuyện gì xẩy ra thế? - Ông lão lại gọi, lần này to hơn và đầy lo lắng. - Vện! Vện! Mày đi đâu đấy?

- Đi Nhật Tân rồi. - ông hàng xóm ngừng sửa xe, nói vọng sang.

- Nhật Tân là gì? Đi Nhật Tân là đi đâu?

- Là tới các quán thịt chó ở trên ấy chứ đi đâu nữa. Cụ lạc hậu quá.

- Nhưng sao con Vện lại đến đấy và đến thế nào được? - ông lão vẫn chưa hiểu.

- Không phải nó tự đến, mà bị bọn trộm bắt...

- Bắt trộm? Con Vện này mà chịu để người khác bắt trộm?

Ông hàng xóm kể rõ thủ đoạn của bọn câu chó. Ông lão nghe xong chỉ khẽ kêu một tiếng "trời" rồi ngồi im. Mãi lúc sau ông mới lên tiếng, giọng run run;

- Sao bác biết, không ra giữ nó lại?

Ông kia suy nghĩ một chốc, đáp:

- Tôi bận chữa xe.

Rồi vô cớ, cho rú máy inh ỏi.

*

Trên đời có những người làm điều ác, những điều ác kinh khủng mà chính họ nhận thức rất lờ mờ, thậm chí không coi là điều ác. Do vậy sự khinh khủng càng tăng thêm gấp bội. Thằng câu chó này là một thí dụ. Hắn vốn xuất thân từ một gia đình nông dân bình thường. Nhà nghèo, chỉ học hết lớp ba. Hắn chẳng có thói xấu nào. Không rượu chè, cờ bạc. Gây gỗ cũng không, và chưa từng một lần có vấn đề với pháp luật. Hắn chăm chỉ làm ruộng nuôi vợ con, không mẫu mực nhưng cũng chẳng đáng trách. Quan hệ với bố mẹ, xóm giềng cũng bình thường. Tóm lại, hắn là người không đến nỗi nào, trừ việc lúc rỗi đạp xe đi khắp vùng ăn trộm chó để bán cho các cửa hàng ở Nhật Tân.

Hắn có biết việc này là xấu không? Có lẽ có. Đã ăn trộm là xấu rồi. Nhưng hắn không nghĩ đó là tội ác. Trộm vặt thôi mà. Nhất là trộm chó, cái giống gây bệnh dại mà cách đây không lâu ở quê hắn còn bị cấm nuôi, dân quân thi nhau đi từng nhà đánh chết bằng hết. Hắn chỉ có thể nghĩ đến thế, nên cứ tiếp tục "hành nghề", hết con này đến con khác, hết năm này đến năm khác. Còn về sự man rợ của việc hắn ăn trộm chó bằng cách móc lưỡi câu ba mũi vào họng chúng mà kéo thì quả chưa một lần hắn nghĩ tới. Đầu óc ngu dốt, tăm tối và thơ ngây một cách đáng sợ của hắn đơn giản không cho rằng đó là điều man rợ. Hệt những kẻ ăn thịt người ở các bộ tộc mông muội ngày xưa không chút lương tâm cắn rứt khi xơi thịt đồng loại.

Câu chó và câu cá thì có khác gì nhau? - Có thể hắn nghĩ vậy. Nhưng con cá bị câu, thả xuống nước có thể sống. Còn con chó thì không thể gỡ lưỡi câu ra được, trừ phi sau khi thui bị mố họng. Đấy là chưa nói tới việc không thể ví chó với cá. Gần đây báo đưa tin ở Thụy Điển có anh hàng cá bị phạt tiền vì tội bán cá còn sống, tức là tội hành hạ loài vật. Ở các nước phương tây ăn thịt chó là vi phạm luật bảo vệ động vật. Còn đây, hắn thản nhiên hàng ngày móc lưỡi câu vào họng những con chó tội nghiệp rồi kéo đi. Chưa có luật nào trừng trị hắn tội ấy. Mọi người xung quanh dường như cũng không lên án hắn. Vợ con hắn thản nhiên sống bằng đồng tiền moi họng chó ấy. Dân làng thản nhiên nhìn hắn "đi làm". Các chủ quán Nhật Tân thản nhiên mặc cả giá những con chó với lưỡi câu ba ngạnh trong họng như mọi món hàng bình thường. Thực khách thản nhiên ăn chúng một cách ngon lành. Ông hàng xóm thản nhiên nhìn hắn bắt con Vện với lý do "bận chữa xe máy". Anh con trai ông lão mù thản nhiên nói: "Mất con này thì mua con khác, thiếu gì mà bố phải khổ sở đến thế." Còn chú công an khu vực trẻ măng khi được thông báo vụ việc còn có ý ngạc nhiên sao người ta có thể làm phiền nhà chức trách bằng những chuyện nhỏ nhặt như vậy. Chuyện một con chó bị câu trộm.

*

Bạn đọc thân mến, nhưng tôi thì không sao thản nhiên nổi khi viết câu chuyện này. Hy vọng các bạn cũng không thản nhiên đọc nó. Một câu chuyện có thật, vừa xẩy ra ở cái huyện ngoại thành, là nơi, theo cách riêng của mình, vợ chồng tôi đang sống thanh thản và hạnh phúc như ông lão mù cùng con chó gần mù của ông. Hôm ấy đúng là ngày đẹp trời, nhưng với tôi lại là một trong những ngày u ám nhất.

Cho đến tận lúc này tôi vẫn có cảm giác như cổ họng mình đang vướng lưỡi câu ba ngạnh kia. Một sự công phẫn thôi thúc muốn thét to mà không biết thét vào ai, thét rằng trên đời vẫn tồn tại một sự dã man đến thế và người ta vẫn có thể thản nhiên với nó đến thế. Cái ác đang tồn tại khắp nơi dưới nhiều dạng, cả những dạng nhỏ nhặt và "hồn nhiên" nhất.

Chúng ta, kể cả tôi, chúng ta vin đủ cớ để không nhìn thẳng vào chúng, và quan trọng hơn cả là không làm gì để chống lại chúng. Bản thân thái độ thụ động này cũng là một cái ác. Sự ngu dốt không nhận ra cái ác cũng là cái ác. Tôi không bao giờ trộm chó, cả ăn thịt chúng cũng không, vì hàng ngày tôi vuốt ve chúng, mỗi lần đi làm về chúng vẫy đuôi mừng tôi. Nhưng không vì thế mà tôi thấy mình không phần nào có lỗi trong việc con Vện bị giết một cách dã man và ông lão mù bị tước đi người bạn thân thiết duy nhất...

Vậy là tôi đã làm hỏng truyện ngắn này của tôi, bằng cách vô tình biến nó thành một bài tùy bút với những lời ủy mị không hợp mốt. Là nhà văn, lại đang trong cơn hứng "truyện ma", tôi có thể hư cấu những chi tiết ly kỳ làm phần kết cho nó. Nhưng đây là chuyện có thật về một vấn đề nghiêm túc và khẩn thiết, tôi không thể cho phép mình được viết gì khác ngoài sự thật trần trụi và những ý nghĩ thật trong đầu tôi. Khi đọc truyện này, mong các bạn hiểu theo hướng đó.

PS.

Ông lão mù mới chết tuần trước. Tôi hỏi ông con thì được báo là cụ bỗng nhiên cảm thấy khó thở, không nói, không ăn mấy ngày rồi chết. Cũng đúng vào hôm đẹp trời. Vợ chồng tôi và cả ông hàng xóm "bận chữa xe" tiễn cụ tới tận nghĩa trang.

Chỉ tiếc không có con Vện.

Hà Nội, 8.10.2002.

Fur Elise

Truyện ngắn. Thái Bá Tân

Chiếc xe buýt du lịch cao ngất ngưỡng sơn màu sặc sỡ chậm chạp đi theo những con đường rải nhựa ngoằn ngoèo trong công viên - vườn thú Safari ở ngoại ô Băng Cốc.

Nếu được phóng tầm mắt chút nữa, người ta sẽ có cảm giác như đang đi trong các vườn quốc gia châu Phi hoặc trực tiếp tham gia quay phim Thế giới Động vật cho chương trình Discovery. Thỉnh thoảng chiếc xe dừng lại nhường đường cho một đàn hươu cao cổ. Một đàn chứ không phải vài con. Những con vật vụng về tuyệt đẹp với chiếc cổ cao lêu đêu ngật ngưỡng đi ngay bên cạnh. Có con còn dừng lại, chạm chiếc đầu bé một cách mất cân đối vào lớp kính thành xe như tò mò muốn biết bên trong cái hộp biết đi kỳ cục này có những gì. Xa hơn chút ít là bầy tê giác, loại một hoặc hai sừng, con nằm con đứng, con trơ trẽn hít hít mông con khác. Mấy con hổ (hoặc sư tử, gấu, tùy lúc ấy xe đi tới đâu) đang nằm phơi nắng trên ô đất cao bên khe nước. Hình như mỗi loài có một khu riêng nhưng không thấy có gì ngăn cách. Lạ một điều là các loài hiền lành như nai, dê sống cạnh những loài ăn thịt mà chẳng thấy cảnh săn đuổi chết chóc.

Trên xe có khoảng bốn chục khách du lịch người Việt, phần lớn gồm các ông, các bà đã có tuổi mới ra nước ngoài lần đầu được cơ quan bao trọn gói cả tua du lịch năm ngày sang Thái Lan. Mỗi cơ quan mấy người, gộp lại thành đoàn. Cũng có gia đình bỏ tiền túi đi riêng, nên hầu hết đến đây mới gặp nhau lần đầu. Hai xe đi trước và sau họ cũng có thành phần tương tự. Sau dịch SARS, theo số liệu của nước chủ nhà, khách du lịch từ Việt nam tới Thái Lan chiếm số đông, thậm chí hơn cả từ Trung Quốc và Hồng Công cộng lại.

Hướng dẫn cho đoàn suốt cả tua là một Việt Kiều sang đây đã hai mươi năm, bốn mươi tuổi nhưng chưa vợ, người gầy, da đen, hóm hỉnh và thích pha trò, tuy đôi khi không thật đúng chỗ. Ngoài ra còn có một cô người Thái trẻ đẹp nói tiếng Anh khá sõi, thứ tiếng ít người biết để trao đổi nên cô luôn im lặng với nụ cười thường trực trên môi.

Xe đang đi qua một khu có rất nhiều chim. Anh hướng dẫn người Việt bỗng ngừng lời quảng cáo các trò giải trí ở Băng Cốc, sôi nổi nói:

"Các vị hãy nhìn kia! Đây là loài nổi tiếng chung thủy nhất trong các loài chim. Điều ấy có đáng biểu dương hay không thì lại là chuyện khác, nhưng quả chúng bao giờ cũng sống có đôi, và khi một con chết, con kia sẽ bay tít lên cao để lao đầu xuống chết theo!"

"Tuyệt nhỉ!" một bà thốt lên. Bà mặc chiếc váy sọc to, người đẫy đà, mặt đỏ lự vì hay xúc động.

"Ngớ ngẩn. Thế là ngu!" ông ngồi bên đáp. Ông này nhỏ con, mái tóc bạc gần hết, có vẻ phong trần nhưng giọng nhỏ nhẹ chẳng tương xứng chút nào với câu thô lỗ ông vừa nói.

Bà kia cụt hứng, nhíu trán khó chịu nhưng không nói gì.

Mọi người nhìn theo hướng được chỉ. Trên một cành cây cụt có đôi chim gì đó to lớn đang đậu, màu sặc sỡ và đuôi dài như chim công.

"Tôi dám chắc chỉ con cái lao xuống chết chứ con đực thì không", một ông khác lên tiếng.

Anh hướng dẫn do dự một chốc rồi đáp:

"Rất tiếc rằng quả đúng như thế. Chỉ con cái. Chỉ phái yếu mới biết hy sinh vì tình yêu. Do vậy, trong vấn đề này họ cao hơn hẳn đàn ông chúng ta".

"Và cả khi con cái của mình còn sống," ông đầu bạc nói, "con đực vẫn thường xuyên lăng nhăng với các con cái khác?"

"Tôi không chắc lắm, nhưng có lẽ điều ấy cũng có."

"Vậy tôi nói ngu không đúng ư? Ấy là tôi nói về những con chim cái kia, tất nhiên, chứ không phải các bà. Đơn giản nhiều bà chưa được như thế."

Bà váy sọc quay sang nhìn ông, mặt đã đỏ càng đỏ hơn:

"Ông là người thô lỗ hiếm thấy!"

Xe dừng, vì lại có con rắn lớn nằm chắn đường. Nhân dịp này anh Việt Kiều chuyển đề tài, nói rằng có loài rắn thời gian giao cấu kéo dài những ba mươi tư tiếng đồng hồ. Mọi người có vẻ ngạc nhiên nhưng không ai nói gì. Chỉ một bà khẽ thốt lên "Khiếp", rồi không hiểu sao cười khúc khích một mình.

Buổi trưa ăn xong, khi ngồi nghỉ bên suối nước đầy những con cá to bằng bắp chân đủ màu để chờ buổi biểu diễn mô phỏng một số cảnh trong phim Điệp viên 007, ông đầu bạc quay sang nói với bà váy sọc:

"Bà đừng giận nữa. Tôi nói là nói cho vui thế thôi. Nhưng chắc bà cũng phải đồng ý với tôi rằng trong tình yêu quả có nhiều điều kỳ cục không giải thích nổi."

Bà kia im lặng. Một người xen vào:

"Có thế mới là tình yêu, chứ không thì chán chết."

"Năm ngoái ở phố tôi có người vợ chết, buồn quá mà tự tử đấy. Ông bảo thế cũng ngớ ngẩn sao?" một người nữa hỏi.

"Đúng. Ngớ ngẩn! Chết chưa phải là bằng chứng một tình yêu lớn."

"Thế theo ông thì là gì?"

"Chỉ những người yếu đuối mới chết vì tình. Sống để yêu mới khó!" Ai đó bình luận.

"Tôi thì cho là ngược lại."

Thế là do rỗi việc, cả vì do không có chuyện gì nữa để nói, người ta bắt đầu tranh luận về tình yêu, tuy không mấy hăng hái, có người ngủ gật. Cuối cùng ông đầu bạc lên tiếng:

"Để tôi kể các vị nghe chuyện này. Sau đó ai muốn kết luận thế nào thì tùy."

*

Trong tình yêu quả có nhiều sự lạ, mà chủ yếu từ phía phụ nữ. Tôi biết một người có thể nói tuyệt vời về mọi mặt. Xinh đẹp, có học, gia đình êm ấm với một ông chồng trí thức và hai đứa con rất ngoan. Ấy là tôi nói trước đây, khi câu chuyện mới xẩy ra mấy chục năm về trước. Thế mà con người có học, thông minh và đang hạnh phúc ấy bỗng dưng bỏ chồng con chạy theo một gã trai chẳng ra gì. Lúc ấy bà ta đã hơn ba mươi, còn thằng kia mới hăm lăm, chưa vợ nhưng nổi tiếng chim gái nhất nhì thành phố. Các vị muốn biết vì sao? Đơn giản vì một hôm ngẫu nhiên gặp nhau đâu đó và bà ta được hắn (lúc ấy mới tốt nghiệp khoa pi-an-ô Nhạc Viện Hà Nội) chơi cho nghe một bản nhạc ngắn. Vậy mà trời xui đất khiến thế nào, bà ta đem lòng si mê hắn, ba hôm sau thì theo hắn đi chơi xa đúng một tuần. Lúc về cương quyết đòi li dị chồng không được, bà ta liền khăn gói sang ở hẳn với người tình mới.

Chắc có vị bảo tôi phịa vì những chuyện như thế chỉ bên Tây mới có chứ không phải ở ta, nhất là vào cái thời đói khổ ấy. Bản thân tôi cũng không hiểu nhưng sự thật nó xẩy ra đúng như thế. Thì đã bảo sự lạ mà. Tôi nghĩ trong bộ não con người, hay nói trái tim cũng được, có một chỗ nào đấy rất mềm, rất nhạy cảm và dễ bị tổn thương bởi những xúc động mạnh, sau đó thì không sao lành lại được. Có thể trường hợp cái bà tôi đang kể cũng vậy. Bản nhạc kia đã làm bà ta mất trí. Nếu không chẳng sao giải thích nổi những việc bà ta làm sau này. Ở xóm tôi có một ông nhờ đọc sách Luận Ngữ của Khổng Tử và Đạo Đức Kinh của Lão Tử mà trở thành người khác hẳn đấy. Theo hướng tốt hơn, tất nhiên. Tôi cũng đọc nhưng chẳng thay đổi gì. Nghĩa là tùy người, tùy hoàn cảnh.

Đó là bản nhạc cổ điển Fur Elise (Gửi nàng Elise), của ông nhạc sĩ người Đức Beethoven. Nó ngắn thôi, lại đơn giản, nhưng phải nói rất hay và dễ gây xúc động, nhất là khi người nghe được kể rằng ông nhạc sĩ thiên tài già điếc này gửi nó thay thư cho một nàng Elise nào đó ông lặng lẽ yêu say đắm mà không được yêu lại. Chắc thằng kia vừa đàn vừa phịa thêm cho câu chuyện tình lãng mạn đó nhiều chi tiết lâm ly để gây ảnh hưởng với người hắn định tán. Và hắn đã thành công như ta thấy.

Tôi chẳng hiểu chuyện gì xẩy ra trong cái đầu thông minh mà ngu ngốc kia của bà ta. Bản nhạc làm bà mụ người, đến mức có thể yêu, yêu si mê một người như hắn - mặt lưỡi cày, mắt ti hí, gầy nhom như thằng nghiện, lại bản tính thô lỗ, lười nhác và ích kỷ nhất hạng. Sau ba tháng sống với nhau như vợ chồng, hắn chán rồi thẳng tay đuổi người tình ra khỏi nhà. Trong ba tháng ấy bà kiếm tiền nuôi hắn, cung phụng, tôn thờ hắn như một con nô lệ, tất cả chỉ để được thỉnh thoảng hắn chơi cho nghe bản nhạc Gửi nàng Elise kia! May bố mẹ giàu, mua cho ngôi nhà nhỏ trong ngõ chợ nên bà không phải quay lại với chồng cũ, dù ông này đã tha thứ và cố thuyết phục nhưng bà nhất định không nghe. Có thể vì tình yêu với hắn, cũng có thể bà xấu hổ với chồng con nên quyết định đã đâm lao thì phải theo lao.

Vài tuần sau, quen được người cung phụng, thằng kia mò đến tìm. Bà vội vã đi theo hắn như sợ bị thay đổi ý kiến, không một lời căn vặn, trách móc. Có điều lần này hắn trở nên quá quắt, thô lỗ hơn, và tất nhiên không thèm giữ ý tứ, tán tỉnh như trước. Hắn ngang nhiên dẫn gái về nhà, cả khi bà đang có mặt. Thật kỳ lạ, bà vẫn nhẫn nhục chịu đựng tất cả. Vì hắn. Vì cái bài Gửi nàng Elise của hắn! Tôi không là bác sĩ, không biết gì về thuyết phân tâm của Freud, nhưng tôi cho rằng có thể đây là một dạng bệnh tâm thần, đại khái như tâm thần tình yêu chẳng hạn.

Cuối cùng bố mẹ thằng kia bắt hắn lấy vợ. Bà lại lủi thủi quay về với ngôi nhà trong ngõ chợ. Lủi thủi héo hon chờ đợi mỗi tháng đôi lần hắn đến xin tiền. Bà nhịn ăn, ki cóp từng xu, có khi phải đi vay để đưa cho hắn. Những lúc ấy mặt bà rạng rỡ hạnh phúc, nói năng ấp úng vì xúc động. Có thể từ lâu bà nghĩ mình là nàng Elise và người tình là Beethoven chăng? Thằng Beethoven này không thất tình đau khổ mà luôn khinh khỉnh nhìn bà, và hễ có được tiền là tìm cách chuồn ngay.

Cứ thế kéo dài đúng hai mươi năm. Các vị lại ngạc nhiên? Thế tôi mới nói là ngu, là ngớ ngẩn. Trong hai mươi năm ấy bà có thể quay lại với chồng con bất kỳ lúc nào nhưng bà đã không làm thế. Ông chồng đều đặn hàng tháng gửi tiền cho người vợ chưa li dị của mình - chẳng hiểu vì tình yêu hay lòng thương hại. Sau này anh con lớn đi làm thỉnh thoảng cho thêm. Tất nhiên bà đưa hết số tiền đó cho Beethoven của mình. Vì hắn, bà đã bị đuổi việc từ lâu do tự ý nghỉ quá nhiều.

Suốt thời gian ấy bà sống lặng lẽ, không có sự cố gì đặc biệt, trừ hai lần bị đẩy đến tột đỉnh của hạnh phúc và sợ hãi. Chính xác là một hôm cuối năm 1978, để bà đồng ý kiếm cho một khoản tiền không nhỏ, hắn đưa bà vào Nhà Hát Lớn nghe buổi hòa nhạc của một nghệ sỹ dương cầm người Nga. Trong chương trình có bản Fur Elise. Bà dành trọn ba ngày chuẩn bị cho sự kiện trọng đại đó. Sự kiện thứ hai xẩy ra khoảng mấy năm sau. Một sự kiện buồn. Bà bị vợ hắn tạt a-xit do ghen tuông. May không trúng mặt và chỉ bị bỏng nhẹ ở bàn tay phải. Sau đấy vì lo sợ, bà ốm mất một tháng mới khỏi.

Bây giờ bà đã là một mụ già. Một mụ già khốn khổ nhưng mãn nguyện vì đã mười năm nay được sống với người mình yêu. Số là vợ thằng kia không chịu nổi chồng cuối cùng đã bỏ đi, để lại hắn một mình không việc làm, không đồng xu dính túi, hơn thế lại mắc bệnh hen xuyễn và xơ gan nặng vì rượu. Thời gian gần đây thì hắn hầu như nằm một chỗ, thậm chí có muốn cũng không chơi nổi bài Fur Elise để gọi là trả công cho mọi lo toan vất vả của mụ. Vì yếu và bất động, hắn không thể thô lỗ như trước, nhưng thỉnh thoảng vẫn quát mụ bằng giọng khò khè the thé khi cần cái gì đó. Những lúc ấy người đàn bà tội nghiệp này lại cuống lên lo chạy thỏa mãn yêu cầu của hắn, miệng xuýt xoa đến cảm động...

*

"Đúng là một mụ điên!" Ai đó lên tiếng khi người kể chuyện dừng lời.

"Dẫu sao cũng là một tình yêu lớn. Người yêu được như thế ít lắm". Một người khác nói, không hiểu sao thở dài rõ to.

Bà váy sọc quay sang ông đầu bạc, thái độ lúc này có vẻ thân thiện hơn:

"Ông không là nhà văn đấy chứ? Ông phịa giỏi lắm. Phi lý nhưng nghe mùi mẫn. Hay ông đọc được đâu đó ?"

"Tin hay không hoặc nghĩ thế nào tùy bà. Tôi đã nói trước rồi mà. Nhưng chuyện có thật đấy. Trăm phần trăm, dù đúng là ngớ ngẩn và phi lý như bà nói. Nhưng rồi suy cho cùng, ở người đàn bà nào cũng có chút ít chất ngớ ngẩn và phi lý ấy, đặc biệt khi chuyện liên quan đến tình yêu. Vấn đề chỉ ở mức độ. Bà không tin, hôm nào về Hà Nội tôi dẫn đến gặp người đàn bà ấy. Bà ta có quán nước trà ở Ngã Năm Lò Đúc. Để có tiền, bà ta còn làm thêm bao nhiêu việc, từ giặt thuê, trông trẻ cho đến trông xe. Không ít khi còn giở trò láu lỉnh tính gian tiền của khách. Bà cứ đến rồi khắc thấy. Vất vả lắm, nhưng mãn nguyện ra mặt. Thậm chí người đã bắt đầu phát phì".

"Thế còn ông chồng cũ?" một người hỏi.

"Chẳng sao cả. Ông ấy không li dị vợ mà cũng chẳng lấy vợ khác. Một người tốt như tôi nói và đến giờ vẫn đều đều hàng tháng gửi tiền cho bà. Nghe nói ông còn tự học pianô để chơi bài Gửi nàng Elise cho bà nghe. Nhưng tiếc tiếng đàn của ông không làm bà xúc động mà quay lại".

"Cũng lại một thằng ngốc nốt!"

"Có thể. Tình yêu cũng biến đàn ông chúng ta thành những thằng ngốc. Ngu ngốc không phải độc quyền của riêng phái nữ. Hơn thế chúng ta dường như không chỉ đau khổ mà còn lấy làm hạnh phúc vì sự ngu ngốc ấy".

"Tôi nghi không khéo ông chính là chồng bà ta?"

Bà mặc váy sọc cười khúc khích, nhưng ông đầu bạc không đáp, chỉ quay mặt hướng khác.

Đến giờ đi tham quan tiếp, không khí chẳng mấy hứng khởi vì bữa ăn no đang gọi cơn buồn ngủ, có lẽ còn cả vì câu chuyện vừa rồi. Không ai nhắc tới nó, nhưng chắc còn vương vấn suy nghĩ, chuyện người khác và chuyện của mình. Thậm chí những con hươu cao cổ, tê giác, hổ báo trước đó làm họ phấn khích đến thế bây giờ dường như cũng chỉ là những con vật bình thường.

*

Buổi tối ở khách sạn, trước khi đi dạo phố, ông đầu bạc ngồi xuống trước chiếc đàn pianô loại lớn bóng loáng màu đen tại phòng ăn. Những ngón tay lóng ngóng của ông rón rén dạo trên các phím đàn. Bản Fur Elise của Beethoven! Ông đàn hai lần, may đều lưu loát trừ một chỗ vấp ở đoạn giữa. Tiếng đàn còn vụng về nhưng diễn cảm và đúng nhịp.

Mọi ngưòi quay sang nhìn. Đàn xong, ông đặt tay lên đầu gối rồi nói với mấy bà đang đứng cạnh:

"Không ai si mê tôi à?"

Hà Nội, 16.9.2003

Một chuyện đau lòng

Người viết: Thái Bá Tân

14/07/2009

Truyện ngắn. Thái Bá Tân

Vâng, quả đúng đây là câu chuyện đau lòng. Lại khó tin nữa. Bây giờ những chuyện khó tin kiểu này ít xẩy ra, nhưng thời ấy, ý tôi nói cái thời còn chiến tranh, chúng không phải hiếm. Chiến tranh chấm dứt đã lâu, tuy nhiên hậu quả của nó vẫn còn đó và chắc sẽ còn kéo dài. Một câu nhàm chán, nghe cứ như trích từ bài xã luận nào đó, nhưng trong trường hợp này tôi không thể nói cách khác, vì thực sự nó đúng như thế. Nó là một trong vô vàn những hậu quả chiến tranh theo nghĩa ấy.

Các bạn thử hình dung và đặt mình vào hoàn cảnh một bà mẹ hàng chục năm trời phải sống với cảm giác đau đớn mơ hồ, rằng có thể đứa con mình đang nuôi bằng tất cả tình mẫu tử không phải con mình, mà do một sự nhầm lẫn ngẫu nhiên, là con người khác. Nhầm? Nhầm cả chính đứa con mình rứt ruột đẻ ra? Vâng, đúng thế. Thì tôi đã nói là chuyện khó tin, nhưng nó xẩy ra với nhân vật của chúng ta, mà tôi xin được gọi bằng một từ đơn giản là "bà". Không phải không phịa ra được một cái tên nào đó, đơn giản tôi thích gọi thế hơn. Nếu chú ý, các bạn sẽ nhận thấy trong nhiều truyện tôi viết, ở những trường hợp có thể, tôi luôn tránh việc đặt tên cho nhân vật. Thói quen của từng nhà văn thôi, và chẳng mấy quan trọng.

Chuyện thế này. Xin được kể đúng như nó vốn có.

Vào một trong những đêm đáng nhớ cuối năm 1972, khi máy bay B-52 Mỹ ném bom rải thảm Hà Nội, bà được đưa vào khoa sản bệnh viện Bạch Mai, Phòng đẻ đêm ấy ngoài bà còn có mấy bà nữa, đã, đang hoặc chờ đẻ.

Đúng khi đứa con bà ra đời (hay có thể đang ra đời, tôi không biết chính xác) thì bỗng có còi báo động máy bay. Người ta làm nốt những phần việc không thể trì hoãn rồi vội vàng đưa bà ra hầm trú ẩn. Cả con bà cũng vậy. Nó cũng được các y tá đưa đi cùng những đứa trẻ khác. Cả thành phố chìm trong bóng tối. Chỉ có ánh sáng đạn pháo phòng không và bom nổ. Hôm ấy bệnh viện Bạch Mai chưa bị bắn phá. Khi bà ra viện và đã ở nhà, nó mới bị biến thành đống gạch vụn. Cuối cùng có còi hết lệnh báo động và bà được đưa trở lại giường đẻ. Chồng bà đang ở chiến trường. Bà con thân thích đã sơ tán về vùng nông thôn. Bà là công nhân một cơ sở sản xuất bánh mì nên phải ở lại thành phố. Quá mệt mỏi, bà ngủ thiếp lúc nào không biết.

Sáng hôm sau tỉnh dậy, người ta trao con cho bà, một bé gái khỏe mạnh, xinh xẻo và "giống mẹ như đúc!" Cô y tá bảo thế. Cô là người hay chuyện, da trắng hồng, đẫy đà, nếu không muốn nói hơi béo, một điều hiếm vào cái thời đói ăn ấy. Ca đẻ diễn ra bình thường, với những cơn đau bình thường và công việc của các nhân viên bệnh viện cũng bình thường. Thậm chí vào những ngày ấy của năm ấy, việc đẻ giữa chừng phải xuống hầm trú ẩn cũng bình thường nốt.

Được hai ngày, bà thuê xích lô tự về nhà, "mẹ tròn con vuông" như người ta vẫn nói. Cô y tá da trắng hồng tiễn bà ra tận cổng bệnh viện, vẫy tay nói theo:

- Sau này gả chồng cho con nhớ mời em nhé!

- Thì cô hẵng sớm lo chuyện chồng con cô đi đã, rồi nói chuyện ấy sau. - Bà mẹ trẻ hạnh phúc cười đáp. Một nụ cười mệt mỏi.

*

Chiến tranh kết thúc, chồng bà đã không trở về. Lúc ấy bà còn trẻ, không xinh đẹp nhưng cũng chẳng xấu. Sau ba năm, bà đi bước nữa và lại vào bệnh viện Bạch Mai, sinh đứa con gái thứ hai. Chồng bà là cán bộ thăm dò địa chất luôn lang thang khắp các vùng núi rừng của đất nước, có mặt ở nhà mỗi năm tổng cộng chưa đầy một tháng, vào dịp nghỉ phép và những lần bất chợt ghé qua nhà vài hôm. Thành ra một mình bà phải quán xuyến hết việc nhà và nuôi dạy con cái.

Như bao đứa trẻ khác cùng thời, các con bà lớn lên trong cảnh thiếu thốn đủ thứ, nhưng đó là cái thiếu thốn chung của cả xã hội nên ít ai lấy thế làm bất hạnh. Bà hài lòng về chúng, đặc biệt đứa con đầu. Lúc nhỏ nó ham ăn chóng lớn, ít đau ốm. Lớn lên nó học giỏi, ngoan ngoãn, lại xinh đẹp như cô y tá kia đã nói. Còn việc nó "giống mẹ như đúc" thì bà không thật chắc lắm. Nhìn kỹ, bà thấy giữa bà và nó hình như có nét giống nhau mà cũng hình như không. Hai người có cùng khuôn mặt trái xoan ưa nhìn nhưng da nó trắng, da bà đen, tạng người nó to chắc, còn bà thì nhỏ và mảnh dẻ. Nó cũng chẳng có nét nào giống con em, cả bề ngoài lẫn tính tình. Còn giống bố thì dứt khoát không. "Ông ấy thuộc loại người khác hẳn. Mà thôi, chuyện ấy chẳng quan trọng. Có phải con cái ai cũng giống bố mẹ cả đâu!" Bà nghĩ thế và không còn để ý tới việc ấy nữa. Còn khối việc khác cấp thiết hơn phải làm.

Vậy mà nhiều khi bà cứ hay suy nghĩ vẩn vơ, để rồi tự cười diễu mình về những suy nghĩ vẩn cơ ấy. Bà nghĩ về cái đêm bà đẻ nó ở bệnh viện Bạch Mai, về quãng thời gian bà và nó xuống hầm trú ẩn, mỗi người một nơi, về cô y tá có nước da trắng hồng, dễ mến, xởi lởi. "Con gái kiểu ấy là hay đãng trí lắm. Để đâu quên đấy, lầm lẫn lung tung". Bà chậc lưỡi, vừa mỉm cười vừa lẩm bẩm một mình. Rồi ý nghĩ bình thường, vô hại ấy bỗng dẫn đến một ý nghĩ khác làm bà co rúm người vì sợ hãi: "Thế nhỡ cô ấy đãng trí hay bất cẩn ấy nhầm con mình với con người khác thì sao?" Bà lắc đầu cố xua cái ý nghĩ kỳ cục ấy và không dám nghĩ tiếp.

Thường vẫn thế, khi một ý nghĩ nào đó, cho dù phi lý nhất, len lỏi chui được vào đầu thì khó mà thoát được nó. Điều này cũng xẩy ra với bà y hệt như thế. Bà cứ luôn quẩn quanh với ý nghĩ có thể người ta đã trao nhầm con cho bà. Đến lúc này bà mới chịu tự thừa nhận rằng từ lâu bà đã linh cảm có cái gì không ổn giữa bà và con bà. Bà ôm nó mà cứ có cảm giác như đang ôm con người khác. Bà thấy ý nghĩ ấy thật ngớ ngẩn nhưng linh tính, vâng, linh tính của người mẹ lại như bắt bà phải tin vào điều ngớ ngẩn ấy.

Là đàn ông, lại chẳng phải chuyên gia về tâm lý, tôi không thể nói gì về linh tính người mẹ. Thậm chí tôi chẳng biết chính xác có tồn tại hay không cái gọi là linh tính ấy. Và nếu có, liệu có thể tin được không. Tôi đơn thuần chỉ nêu lên sự việc, đúng sai xin tùy vào sự phán xét của bạn đọc, nhất là các bạn đọc nữ đã từng làm mẹ. Tôi chỉ biết bà tin vào cái linh tính ấy, một niềm tin không giải thích được bằng lý trí. Có thể ví thế này thì hơi thô lỗ và bất nhẫn, nhưng bà quả như con gà mái bị người ta đánh tráo, bắt nuôi nhờ người con không phải máu mủ mình. Nhưng bà không là con gà vô tâm. Bà là con người và bà mơ hồ đau khổ.

Một hôm, lúc này đứa bé đã mười tuổi và đang học lớp ba, không chịu thêm được nữa, bà quyết định đến bệnh viện Bạch Mai tìm gặp cô y tá nọ để hỏi cho ra chuyện.

- Ấy chết, làm sao có thể thế được! - cô y tá, lúc này đã là bà trưởng khoa sản, một phụ nữ chững chạc, đeo kính trắng vội thốt lên khi bà lựa lời ướm hỏi điều bà băn khuăn từ lâu. Nói chung cô thay đổi không nhiều, vẫn xởi lởi, vẫn nước da trắng hồng, chỉ già hơn và mập hơn chút ít. Bà không ngạc nhiên trước câu trả lời của cô.

- Thế bệnh viện còn lưu được hồ sơ các ca đẻ hôm ấy không?

- Tôi sợ là không. Chiến tranh mà. Vả lại đã mười năm rồi còn gì. - Bà trưởng khoa thở dài đáp. - Nhưng tôi có thể cam đoan với bác là không thể có chuyện nhầm lẫn. Ai có thể nhầm một chuyện tầy trời như thế?

- Nhưng lúc ấy đang báo động máy bay, điện tắt, mỗi người chạy một nơi... - bà rụt rè nói.

- Vâng. Lúc ấy quả có lộn xộn thật, nhưng nhầm lẫn thì không. Hôm ấy tôi là y tá trực duy nhất. Tôi không đỡ đẻ. Bác sĩ Phương Thảo cơ. Chính tôi đã đánh dấu từng cháu và bế ra hầm trú ẩn...

- Chị đánh dấu thế nào và bằng cái gì?

- Đánh dấu con nào mẹ ấy chứ sao nữa. Bằng gì thì tôi không nhớ. Nếu bác thực sự cần, tôi cho lục lại hồ sơ. Biết đâu còn giữ được. À mà hôm ấy là ngày nào nhỉ, bác có nhớ chính xác không ?

- Có. Ngày 22 tháng Mười Hai năm bảy hai.

*

Một tuần sau, đích thân bà trưởng khoa tìm đến nhà bà. Thật may, bà này đã không ngại vất vả bới lục cả đống hồ sơ bám đầy bụi bẩn và tìm được cái cần tìm. Bà cho biết đêm ấy trong phòng bà trực có bốn ca đẻ. Một ca thai lưu, tức là khi sinh ra đứa bé đã chết từ trước trong bụng mẹ. Một ca chuyển dạ lâu, đến hai hôm sau mới sinh được. Vậy là ngoài con bà, còn có một đứa trẻ khác chào đời đêm ấy. Bà trưởng khoa cho bà biết họ tên người mẹ và địa chỉ của bà ta, vì trong hồ sơ có ghi đầy đủ những chi tiết ấy.

Tiếp đến là những ngày tìm kiếm lặng lẽ mẹ con người đàn bà nọ, một người bà chưa hề biết mặt và chỉ một lần cùng nằm chung phòng, lại trong hoàn cảnh như thế cách đây những mười năm. Điều duy nhất bà biết là họ tên, ngày tháng và nơi bà ta sinh con. Con trai, theo lời bà trưởng khoa.

Ngôi nhà bà tìm đến theo địa chỉ được đưa, bây giờ là một cửa hàng bán đủ loại tạp phẩm ở khu phố cổ. Nó đã đổi chủ nhiều lần. Mất nửa tháng trời bà lần hỏi dần dần, cuối cùng cũng tìm ra được.

Họ là một gia đình viên chức, sống trong căn hộ tập thể ở khu Giảng Võ. Bà quyết định không vào gặp ngay. Lân la rất lâu ở quán nước một bà già cạnh đó, bà khéo léo dò hỏi và biết được khá nhiều chi tiết về họ. Ông chồng là cán bộ một cơ quan nghiên cứu khoa học ở Nghĩa Đô. Hàng ngày ông đi làm bằng chiếc xe máy Babetta màu đỏ, dấu hiệu của những người khá giả hoặc đã từng ở nước ngoài thời đó. Bà vợ là giáo viên trường cấp hai cách đấy không xa. "Một gia đình tử tế", bà thầm nghĩ, không hiểu sao lấy thế làm mừng. Họ có hai con, một trai, một gái. Cậu con trai kém hơn chị ba tuổi, cùng tuổi với con bà. Tất nhiên, bà chỉ chú ý tới nó.

Khi lần đầu tiên bà già quán nước chỉ nó cho bà, thoạt nhìn, bà bàng hoàng cảm thấy nghẹt thở, đến mức phải cúi xuống, hai tay ôm mặt. Không nghi ngờ gì nữa, nó chính là con bà. Bà biết chắc như thế. Trước hết vì nó giống, rất giống người chồng cũ của bà. Không sai vào đâu được. Cũng tạng người ấy, dáng đi ấy. Cũng những đường nét dễ nhận thấy ấy trên khuôn mặt. Sau nữa vì đơn giản bà biết nó là con bà, đứa con bà rứt ruột đẻ ra và suốt chừng ấy năm không lúc nào không nghĩ đến. Phải chăng lần nữa linh cảm người mẹ mách bảo bà như thế?

"Phải làm gì bây giờ?" Một cách vô thức, bà vội vã đạp xe đi theo thằng bé cho đến lúc nó tới trường và biến mất trong đám bạn bè cùng lớp.

Giờ tan trường, bà lại lén lút chờ nó trước cổng rồi cũng lén lút như thế, theo nó về nhà. Sau này, suốt nhiều năm bà còn phải nhiều, rất nhiều lần lặp lại việc này. Một cách lặng lẽ, vụng trộm, hệt như một mụ ăn cắp. Bà cảm thấy chua xót, xấu hổ về điều đó. Nhưng thử hỏi bà có thể làm được gì khác?

Bà đã từ bỏ ý định gặp bố mẹ nó. Biết nói gì với họ? Không lẽ bảo họ đây là con tôi, kia là con ông bà, ta đổi lại cho nhau? Bằng chứng đâu? Không khéo còn bị họ mắng. Cũng vì lý do thiếu căn cứ xác đáng, bà biết pháp luật chẳng thể làm được gì để giúp bà. Đấy là chưa nói đến việc các con bà, cả đứa bà đang nuôi và đứa người khác nuôi, sẽ phản ứng thế nào khi biết sự thật? Liệu chúng có hạnh phúc hơn không? Bấy lâu nay bà tìm con chỉ vì tình mẫu tử thúc dục, chứ đâu phải vì bà không yêu quí đứa con nhầm. Mà rồi liệu bản thân bà có dễ dàng chia tay với nó không, một đứa bé kháu khỉnh, ngoan và cũng rất mực yêu thương bà?

Cứ thế hết năm này đến năm khác, bà lặng lẽ sống với những câu hỏi day dứt không lời đáp ấy. Bà chỉ còn biết tự an ủi rằng cũng như con họ, con bà đang được nuôi dạy tử tế trong một gia đình tử tế. Phải đến hàng nghìn lần bà lén lút đứng từ xa quan sát con trai. Hàng nghìn lần muốn chạy đến gọi nó bằng tiếng "con" trìu mến. Nhưng cả hàng nghìn lần ấy bà không đủ dũng cảm làm điều đó, một điều dường như bình thường và bà, với tư cách một người mẹ, hoàn toàn có quyền chính đáng để làm.

"Không hiểu đã bao giờ ông bà ấy cũng có cảm giác nhầm con như mình không nhỉ? Nếu có, họ có đau khổ như mình không?" Bà tự hỏi. Cả câu này, bà cũng không trả lời được.

*

Thời gian thấm thoắt trôi qua. Lại thêm mười lăm năm nữa bà sống trong tâm trạng ấy. Bà lặng lẽ chịu đựng một mình, không cho chồng con hay bất kỳ ai khác biết.

Với tôi, người viết, và các bạn, người đọc, mười, mười lăm hay hai mươi năm - những con số ấy dường như chỉ là một chi tiết nhỏ. Ta có thể dễ dàng nói bao nhiêu cũng được, nhưng nếu thử gấp sách suy nghĩ một chút và đặt mình vào hoàn cảnh bà, ta sẽ thấy các con số có ý nghĩa khác hẳn. Vâng, vậy là bà đã sống thêm mười lăm năm nữa trong tâm trạng một bà mẹ nuôi nhầm con. Lúc này đứa con nuôi nhầm ấy đang ở xa. Nó đã hăm lăm tuổi, học cao học ở Anh, nhờ suất học bổng thủ khoa trường đại học kinh tế. Còn em cô, hăm hai, vừa tốt nghiệp một trường cao đẳng và sắp sửa đi làm cho một công ty nhà nước ở ngay Hà Nội

*

Hôm nay dường như nó có điều gì khác thường, cứ đi ra đi vào mãi. Bà biết nó có chuyện quan trọng sắp nói với mẹ.

- Mẹ ơi, - cuối cùng nó lên tiếng. - Con có người yêu rồi đấy. Chúng con quen nhau đã lâu, nhưng con chờ lúc nào chắc chắn mới báo với mẹ. Mẹ có vui không? - rồi nó âu yếm ôm vai bà, cười khúc khích. - Chắc mẹ muốn có cháu bế rồi chứ gì?

- Cha cô, - bà mắng yêu nó. - Chưa lo học hành, công việc tử tế đã nghĩ chuyện chồng con. - Ấy là nói vậy chứ trong lòng bà vui, và nó đã nói đúng. Bà muốn sớm có cháu để bế.

- Anh ấy tốt lắm, mẹ ạ...

- Khi yêu ai chẳng tốt. Hãy cẩn thận, không thì khổ cả đời đấy, con ạ.

- Mẹ đừng lo. Vậy mẹ cho phép con đưa anh ấy về đây giới thiệu với mẹ chứ?

- Có muốn, tôi cũng chẳng cấm được, - bà lấp lửng đáp. Tức là bà bằng lòng.

Mấy ngày sau, nó dẫn người yêu về giới thiệu với mẹ. Đó chính là đứa con đẻ của bà và cũng là anh trai nó!

Tôi xin nhường bạn đọc tự hình dung tâm trạng bà trước việc này. Chỉ xin nói ngắn gọn là bà đã cương quyết không chấp nhận mối tình đó. Bà cấm. Bà dọa. Bà khóc, van xin và thuyết phục. Bà đã làm tất cả những gì có thể làm được để ngăn cản. Nhưng bà lại không làm được điều quan trọng nhất để bào chữa cho thái độ không khoan nhượng một cách phi lý ấy của bà: Bà không thể cho con biết lý do bà nhất quyết không để họ lấy nhau. Mà cô con thì phẫn nộ vì oan ức, cứ luôn miệng kêu lên: Vì sao? Vì sao? Vì sao?...

- Vì nó là anh trai mày! Anh trai ruột của mày, mày biết không? - bà ôm mặt khóc to khi cuối cùng phải nói ra cái sự thật bà che dấu hàng chục năm nay. - Trời ơi. Trời ơi... Sao lại trớ trêu thế này...

Cô gái không dám nghe tiếp, cũng ôm mặt vừa khóc vừa bỏ chạy ra ngoài.

*

Tôi vốn thích những câu chuyện có hậu, cả chuyện người khác tôi đọc lẫn chuyện chính tôi viết. Hôm nọ có ông bạn già đùa bảo tôi: "Cánh nhà văn các ông sướng thật. Muốn giết ai thì giết mà chẳng sợ bị công an bắt" Tôi không thuộc loại nhà văn như thế. Tôi không thích giết người cả ngoài đời và trong tác phẩm. Nhưng lần này là một ngoại lệ, vì tôi đã hứa sẽ kể đúng sự thật. Cái sự thật đó là: Buổi sáng sau đêm bà nói ra điều bí mật của mình, người ta phát hiện thấy con gái bà và người yêu đã uống thuốc sâu tự tử bên chân đê sông Hồng, đoạn phía bắc cầu Long Biên. Họ chỉ để lại một bức thư tuyệt mệnh ngắn ngủi: "Xin bố mẹ hãy tha thứ cho chúng con. Chúng con không thể làm khác". Bản thân tôi cũng không biết họ chết vì tuyệt vọng không được lấy nhau, hay vì cảm giác tội lỗi của việc loạn luân.

Toàn bộ câu chuyện đau lòng này chỉ có thế, và đã đến lúc tôi có thể đặt dấu chấm hết. Ấy thế mà tôi cứ có cảm giác như còn điều gì chưa nói hết.

Khi viết những dòng này, bất chợt tôi nhớ tới "Sự tích hòn đá vọng phu" của Việt Nam, về chuyện hai anh em ruột do ngẫu nhiên mà lấy nhau. Tôi cũng nhớ tới vở bi kịch nổi tiếng "Ơđip làm vua" của một tác giả cổ Hy Lạp, kể chuyện vua Ơđip bị số phận bắt phải giết cha và lấy chính mẹ mình; cũng như câu chuyện của Hoàng tử chột trong cuốn "Một nghìn một đêm lẻ" về mối tình tội lỗi giữa hai anh em ruột một nước Trung á xa xưa nọ. Cả ba câu chuyện trên đều có kết cục bi thảm.

"Một chuyện đau lòng" của chúng ta cũng không tránh khỏi kết cục ấy. Nó là kết quả tất yếu một bi kịch quá sức chịu đựng của con người do những nguyên nhân khác nhau gây nên. Trong trường hợp câu chuyện tôi đã kể, nguyên nhân ấy là chiến tranh. Chính chiến tranh đã làm cô hộ lý trao nhầm những đứa trẻ sơ sinh. Chính chiến tranh đã làm các bà mẹ những đứa trẻ ấy phải âm thầm đau khổ. Và tất nhiên, cũng vì chiến tranh mà những người cầm bút như tôi buộc phải viết về những chuyện buồn của quá khứ, trong khi có thể và rất muốn viết những chuyện vui hơn của hiện tại và tương lai. Chiến tranh thật kinh khủng và đáng sợ. Đáng sợ hơn cả sự ngẫu nhiên, định mệnh và tình yêu tội lỗi.

Hà Nội, 9.2.2000

Sành điệu (Ai yếu bóng vía không xem truyện này).

Người viết: Thái Bá Tân

11/07/2009

Truyện ngắn. Thái Bá Tân

Khoảng chục năm trở lại đây, trong xã hội dần dần xuất hiện và càng ngày càng đông thêm một lớp người có thể nói đặc biệt và khá nổi bật. Đó là những nam thanh nữ tú làm việc cho các văn phòng đại diện và công ty nước ngoài. Họ có trình độ, giỏi ngoại ngữ, mặc những bộ đồng phục đẹp, suốt ngày ngồi trong phòng máy lạnh sạch sẽ với đủ các thiết bị hiện đại. Họ ăn lương nước ngoài, cách cư xử, sinh hoạt cũng phảng phất chất nước ngoài với nghĩa tốt của từ này. Ra đường, người ta dễ nhận ra họ qua chiếc điện thoại di động thời thượng, chiếc cặp da, qua kiểu ăn mặc - nam com-lê, ca-vat, đầu chải bóng, nữ bận váy bó nhã màu, son phấn vừa độ. Họ nói năng lịch sự, có tiền mà không đua đòi mua sắm. Tóm lại, họ là dấu hiệu đáng mừng của đất nước thời mở cửa và hội nhập, sự khởi đầu của một thế hệ công chức mới mà những người thiện tâm thấy họ, không thể không lấy làm mừng.

Phi Hùng là một người như thế. Anh làm việc cho đại diện một công ty luật nổi tiếng đã ba năm nay, vừa được tăng lương thăng chức sau khóa bồi dưỡng nghiệp vụ ở Mỹ. Anh đẹp trai, da trắng, dáng thư sinh, lại có năng lực nên nhanh chóng trở thành đối tượng mơ ươc của nhiều cô gái. Nhưng như phần lớn những người khác cùng địa vị, anh vẫn sống một mình trong căn hộ thuê ở một chung cư hiện đại. Thoạt nhìn ít ai ngờ chỉ mấy năm trước anh còn là một sinh viên nông thôn nghèo. Có lẽ chút "chất quê" còn lại trong anh là tính bẽn lẽn, thật thà một cách dễ thương và ít từng trải. Anh là người nhạy cảm, dễ xúc động, ít giao du và ít (hay không biết) "ăn chơi". Một người chỉn chu, nghiêm túc, chỉ chuyên tâm vào công việc. Tóm lại, anh không thuộc loại "sành điệu", cái thuật ngữ dành cho những người trẻ tuổi biết chơi và chịu chơi.

Một chiều chủ nhật nọ, đang đi giữa đường, Phi Hùng, con người nhút nhát và rất không sành điệu ấy đã gặp một đại diện điển hình của giới ăn chơi sành điệu Hà Thành. Đó là Long, bạn sinh viên cùng khóa, cùng lớp và cùng chia hai ngôi nhất nhì khi tốt nghiệp trường Đại học Tổng hợp Quốc gia. Sau đó hai người đi theo hai ngã và cùng thành đạt theo cách riêng của mình.

Vốn thông minh và có đầu óc kinh doanh, Long nhanh chóng từ bỏ công việc được coi là rất triển vọng ở một cơ quan nhà nước để thành lập công ty riêng, tay trắng và không một đồng vốn. Thế mà làm ăn phất, lúc đầu bằng môi giới, chỉ trỏ, rồi dần dần chuyển sang kinh doanh, cả hợp pháp lẫn bất hợp pháp. Còn bây giờ thì đường đường là giám đốc công ty Bình Long, chuyên nhập thiết bị xây dựng hạng nặng đã qua sử dụng từ Hàn Quốc.

Như Phi Hùng, Long vẫn độc thân, có thể vì mải làm giàu hoặc chưa tìm được ai vừa ý. Tuy nhiên ở tuổi chưa đầy ba mươi, anh ta có vẻ quá già dặn trong đời trường và quá sành điệu trong hưởng thụ. Bằng chứng là lớp da bì bì do thường xuyên hấp thụ quá nhiều bia rượu và các chất béo bổ, đôi mắt lờ đờ thiếu ngủ sau những đêm nhậu nhẹt triền miên và cả bộ ria "a la Fur" như Hitle được tỉa tót rất cẩn thận. Gần đây bạn bè đặt thêm cho cái tên tương xứng với vẻ ngoài ấy - Long Mỡ. Long Mỡ là tip người khác hẳn cậu thư sinh mảnh mai Phi Hùng.

- Lâu lắm mới gặp nhau, chúng mình phải đi chơi một trận mới được. - Long Mỡ hồ hởi nói.

- Đi chơi? Chơi gì?

- Cậu rõ tẩm. Trước sinh viên khổ mãi, bây giờ có điều kiện phải "sành điệu" một chút. Chơi gì cũng chiều. Tớ bao!

- Vấn đề không phải tiền, - Phi Hùng có vẻ lúng túng. - Nhưng quả thực tớ không hiểu lắm. Mà rồi cũng không có nhu cầu...

- Cậu vẫn cù lần như ngày nào. Thôi được, cậu không thích em út thì ta đi ăn nhậu, nhưng phải là thứ đặc biệt, đúng cách ăn nhậu của dân sành điệu.

- Tớ chưa thật hiểu...

- Thì cứ đi, khắc hiểu. Thôi, không dài dòng nữa. Nào đi!

Phi Hùng miễn cưỡng đi theo. Họ từng là bạn thân với nhau, lại cùng quê. "Ừ thì đi cho biết," anh nghĩ, mặc dù không thích nơi đông người, bia rượu và những bữa ăn kéo dài.

Lúc ấy khoảng bảy giờ tối. Long Mỡ đưa bạn đến một phố nhỏ ở khu trung tâm, ngoằn ngoèo mãi, cuối cùng dừng lại trước một ngôi nhà cũ kỹ khuất trong hẻm mờ tối. Thấy bạn có ý thắc mắc, anh ta nói ngay:

- Yên tâm. Tớ đưa cậu đến nơi cần đến. Vào khách sạn Tây mà ăn nhậu chỉ phí tiền, dù ở đó rẻ hơn nhiều. Đây là nơi dành cho giới chọn lọc. Chọn lọc, hiểu không ông tẩm?

Phi Hùng gật đầu dù chẳng hiểu gì, rồi lặng lẽ bước lên một cầu thang gỗ hẹp. Anh nghe loáng thoáng có người nói với nhau bằng tiếng Tàu. Tầng hai hóa ra rất rộng, có nhiều phòng nhỏ riêng biệt. Một ông lùn bước ra, ngưòi béo mập, đầu hói nhẵn lấp lánh dưới ánh điện màu hồng tù mù. Ông này chào Long Mỡ bằng tiếng Việt lơ lớ với sự niềm nở chỉ dành cho những khách quen nhiều tiền, rồi dẫn hai người vào một phòng khá tươm tất. Giữa phòng kê chiếc bàn phủ khăn trắng hồ cứng có để sẵn đồ uống và chiếc lẩu bằng i-nốc sáng loáng.

- Hôm nay mình ăn gì? - Phi Hùng tò mò hỏi.

- Chốc nữa sẽ biết. Tất nhiên phải là món đặc biệt. Món ăn của vua chúa. Mà không phải vua chúa nào cũng được ăn và ăn được. Ở Việt Nam chỉ hai nơi có món này, là đây và Quận Năm Sài Gòn. Bây giờ cứ tự nhiên khai vị bằng các món phụ đã. Món độc chiêu ấy chỉ được đưa ra vào cuối bữa tiệc. Đừng sốt ruột.

Hai người bắt đầu nhâm nhi những thứ các cô gái Tàu, hoặc giả Tàu, mặc quần rộng áo chẽn màu đỏ, liên tục mang lên. Họ ôn lại "một thời sinh viên gian khổ" hoặc nói chuyện làm ăn hiện nay. Thời gian cứ thế trôi qua, có lẽ đã hơn một tiếng. Phi Hùng ăn uống rất ít. Nếu không tò mò muốn biết cái món "độc chiêu của vua chúa" kia là gì, chắc anh đã dục bạn về từ lâu. Chiếc lẩu i-nốc chưa được sử dụng vẫn kiên nhẫn chờ trên bàn.

Cuối cùng thì "nó" cũng đến. Với vẻ trịnh trọng duyên dáng, hai cô gái bê vào một chiếc cũi nhỏ, bốn xung quanh che bằng kính trong suốt. Phi Hùng ngơ ngác không hiểu. Anh cúi xuống nhìn thì thấy trong cũi có con khỉ lông vàng đã được tắm rửa sạch sẽ. Chiếc cũi thấp, đè chặt nó xuống không cựa quậy nổi. Nắp cũi rất phẳng, cũng bằng i-nốc sáng loáng, chính giữa có một lỗ hổng rộng, làm chỗ cho chỏm đầu con khỉ (đã được cạo sạch lông) nhô lên, um um như chóp quả dừa.

- Cái gì thế này? - Phi Hùng ngạc nhiên hỏi, lờ mờ đoán ra đôi điều. Anh lấy mu bàn tay lau mồ hôi trán. Từ trong cũi, ở cái thế không thể cựa quậy nổi ấy, chắc con khỉ biết trước tai họa sắp đến. Nó nhìn anh bằng đôi mắt van xin tha chết. Trong đôi mắt ấy anh đọc thấy nỗi kinh hoàng và nỗi sợ không nói nên lời. Như đứa trẻ yếu đuối, nó chắp hai bàn tay bé xíu đầy lông, liên tiếp vái lạy. Phi Hùng quay mặt, khẽ kêu lên:

- Thả nó ra. Trời ơi, thả nó ra! Cái quái gì thế này?

- Con khỉ và chiếc cũi đựng nó, cậu thấy rồi đấy, thưa cậu tẩm. - Long Mỡ nói, không dấu vẻ tự hào đắc thắng. - Hôm nay chúng ta sẽ dùng món óc khỉ tươi. Đúng kiểu Từ Hy thái hậu ngày xưa chiêu đãi các sứ thần nước ngoài. - Rồi hắn giơ chiếc dao Thái Lan to bản, mỏng dính ngang tầm chém, nghiêng ngươi và...

*

Người viết câu chuyện này xin phép không đi vào chi tiết những gì xẩy ra sau đó, vì một việc làm man rợ, một sự suy đồi đạo đức như vậy của những kẻ tự xưng sành điệu, xưa hay nay cũng vậy, chỉ đáng bị chúng ta phỉ nhổ. Chỉ cần nói thêm rằng với vẻ thích thú, điêu luyện, hắn liệng một nhát dao, và chóp sọ con khỉ tội nghiệp bay ra, để lộ mớ óc trắng bầy nhầy. Trong tiếng kêu ai oán của con vật, Long Mỡ, cũng thích thú và điêu luyện không kém, thản nhiên múc từng thìa nhỏ óc khỉ, nhúng vào chiếc lẩu đang sôi rồi cho vào miệng ăn ngon lành. Trong suốt thời gian ấy con khỉ vẫn sống, vẫn không ngớt kêu khóc mỗi lần hắn chọc thìa múc óc nó. Điều này càng làm hắn thích thú và ăn ngon miệng hơn. "Bổ! Đại bổ đấy! Nào, ăn đi cậu!" - hắn bảo Phi Hùng khi anh vừa nôn mửa vừa chạy về phía cửa, nhưng cửa đã bị chốt từ bên ngoài. Cả điều này cũng làm hắn thích thú. "Không sao. Rồi dần sẽ quen. Lúc đầu tớ cũng vậy. Ăn chơi phải tàn bạo, đúng không? Nào, thử một tí. Nào..." Hắn dí chiếc thìa với chút óc bầy nhầy vào sát miệng Phi Hùng. Anh ngả người về phía sau, mặt tái nhợt, thở không ra hơi và đang định giang tay tát vào mặt hắn thì ngã xuống sàn, bất tỉnh trong tiếng cười khả ố của thằng bạn.

*

Khi tỉnh dậy, Phi Hùng ngạc nhiên thấy mình đang nằm trên chiếc đi-văng trong phòng khách căn hộ của mình, vẫn nguyên quần áo và giày dép cùng mùi tởm lợm của thức ăn nôn ọe dính trên đó. Anh rùng mình nhớ lại những gì vừa xẩy ra. Sự sợ hãi và kinh tởm khiến anh không thể gượng dậy tắm rửa, thay quần áo hoặc xem đồng hồ. Anh đoán chắc đã khuya. Xung quanh yên tĩnh khác thường. Không một tiếng động nhỏ. Không tiếng muỗi vo ve. Không cả tiếng xe đều đều quen thuộc từ xa vọng lại như mọi ngày. Anh nằm bất động rất lâu, miên man suy nghĩ tại sao người ta, cụ thể là thằng bạn thân của anh, ít ra một thời từng thân, có thể "sành điệu" đến mức ăn uống theo cách ghê tởm ấy. Hơn thế, người ta còn muốn kéo anh vào. Vì sao Long, một thằng nhà quê chất phác như anh, một sinh viên giỏi, một trí thức, một nhà kinh doanh thành đạt, lại trở thành người như anh thấy hôm nay? Vì sao anh ta có thể làm nổi một việc như vậy? Đó là tội ác, là thú tính, là phi đạo đức, là...

Bất chợt Phi Hùng nghe có tiếng động rất khẽ. Hình như tiếng bước chân rón rén. Anh chú ý lắng nghe. Không, không có gì thêm. Xung quanh vẫn là sự im lặng tuyệt đối. Đầu anh ong ong, đau nhức. "Chắc mình tưởng tượng thế thôi. Cửa có chốt tự động, đóng vào là tự khóa luôn. Không người nào, con vật nào, dù nhỏ, có thể lọt vào được." Yên tâm phần nào, vẫn ở tư thế nằm ngửa bất động, anh trân trân nhìn lên trần nhà tối om và lại miên man suy nghĩ. Một chốc sau, tiếng bước chân rất nhẹ và bí ẩn kia lại xuất hiện. Hơn thế, mỗi lúc một rõ hơn, nghe gần hơn. Hình như nó đang bước lại chỗ anh nằm. Chắc chắn như vậy, không thể nhầm được. Tim anh đập loạn xạ, các ý nghĩ như bị tê liệt. Lấy hết can đảm, anh ngoảnh đầu nhìn về phía cửa ra vào, nơi có núm điện công-tắc đang đỏ hồng hồng một cách yếu ớt. Tuy nhiên, trong căn phòng tối om nó cũng đủ sáng để anh nhìn thấy một bóng đen nhỏ, thấp tròn đang di động chậm chạp. Gặp cái nhìn của anh, nó dừng lại và chắc cũng đang chăm chú nhìn anh.

- Ai đấy? - anh hỏi to. Không có tiếng đáp lại. Cái bóng đen bé nhỏ vẫn đứng im. Rồi nó bước lại gần anh, một bên vai sệ xuống. Kiểu đi cà nhắc của người thọt hoặc đau chân. - Ai? Ai đấy? - Anh kêu to lần nữa, rồi trong cơn hoảng sợ tột độ, anh vùng dậy, chạy bổ về phía chiếc công-tắc đèn.

- Ôi!..

Phi Hùng ôm mặt thảng thốt khi dưới ánh đèn sáng rực chợt nhìn thấy một con khỉ nhỏ đang đứng trước mặt mình. Chính con khỉ ở nhà hàng người Tàu. Con khỉ bị chém mất chỏm đầu với hộp sọ bây giờ trống rỗng, và một chân, chân phải, đã bị chặt cụt gần hết cả bàn. Nó không hề có vẻ dữ tợn, không có ý định làm hại ai, là điều khiến anh thấy đỡ sợ. Nó chỉ đứng yên nhìn anh, cũng cái nhìn van xin ấy như ở nhà hàng, chỉ thêm nỗi đau, nỗi đau của con vật tội nghiệp. Chỉ van xin và nỗi đau. Không có tức giận hoặc trả thù. Nó vái anh mấy cái rồi chìa bàn tay để ngửa trước mặt, kiên nhẫn chờ. "Nó xin mình cái gì chăng?" anh nghĩ. Bây giờ sự sợ hãi đã biến mất, thay vào đó là lòng thương và nỗi đau, nỗi đau của con người đang hoảng sợ và bất lực. Đau cho con vật bé bỏng bị con người bắt làm vật hy sinh để thỏa mãn thú chơi đê tiện của mình. "Nhưng nó xin gì? Mình có thể cho nó gì ?"

Lúng túng và một cách vô ý thức, Phi Hùng cho hai tay vào túi áo vét. Chiếc áo mới, là phẳng phiu và chẳng bao giờ anh để gì trong túi, thế mà lúc này chúng hơi cồm cộm. Anh ngạc nhiên lôi cái cồm cộm ấy ra, rồi ngay lập tức vứt chúng xuống sàn nhà. Một bàn chân khỉ còn dính máu và phần chóp hộp sọ bị dao chém sắc gọn còn nguyên vẹn. Thì ra như thể trêu anh thế chưa đủ, thằng Long Mỡ còn lén giấu vào túi áo bạn hai thứ này để làm anh phải khiếp sợ lần nữa.

Trong khi anh bàng hoàng đứng đờ người thì con khỉ nhanh nhẹn nhặt chóp sọ đặt lên đầu và chắp bàn chân cụt vào chỗ cũ. Nó nhìn anh biết ơn, lạy ba cái rồi lặng lẽ đi ra khỏi phòng, chân không còn cà nhắc. Chỉ lúc này anh mới nhận thấy cánh cửa đã bị mở từ bao giờ.

*

Ngày hôm sau Phi Hùng được đưa vào bệnh viện. Sau đó một tháng thì anh bị chuyển tới một nhà thương điên của thành phố. Điên nặng, đến mức người ta phải xích hoặc có chế độ giám sát đặc biệt. Thế mà mấy lần anh khôn khéo trốn khỏi bệnh viện.

Từ một thanh niên có học dễ thương, một công chức đầy triển vọng được bạn bè kính nể, trước sự ngạc nhiên của mọi người, Phi Hùng bỗng trở thành một thằng điên quần áo rách rưới bẩn thỉu, ăn bụi nằm bờ, lang thang hết nơi này đến nơi khác, khiến ai nhìn cũng lấy làm ái ngại, đặc biệt các đồng nghiệp và những người quen biết.

Người ta ngạc nhiên nhận thấy thằng điên này hay la cà bãi chợ để nhặt những chiếc mỏm gáo dừa, luôn quấy rầy các cửa hàng thịt chó, năn nỉ xin chân chó. Hai thứ này, chẳng hiểu để làm gì, nó kiếm được khá nhiều, chất đầy chiếc bị cói luôn đeo bên hông. Ai hỏi, nó nhất định không nói, chỉ cười, nhe hàm răng trắng hếu. Nó cười mà trông như khóc. Tội nghiệp.

Còn Long Mỡ thì sao? Hắn có ý thức được rằng chính hắn và cái thói sành điệu tai ác kia của hắn đã đẩy bạn đến nước này không? Có thể có mà cũng có thể không. Tính hắn hay quên, nhất là quên việc hắn đã làm và các hậu quả của nó. Mà rồi cũng có thể hắn lập luận sự việc theo cách riêng của mình. Nhưng một điều có thể xác minh được. Đó là việc hắn cũng thương thằng điên này, một thời từng là bạn thân của hắn. Cụ thể là có lần bất chợt gặp nó, hắn đã hào phóng đãi nó một bữa cơm bụi. Muốn ăn gì thì ăn, sướng chưa! Lúc chia tay, hắn còn dúi cho nó mấy nghìn tiền lẻ, khiến thằng kia mừng run, vừa đi vừa cười. Một nụ cười mếu máo.

Còn Long Mỡ thì đứng nhìn theo, buông một câu:

- Cái thằng này hóa ra thế mà độc đáo. Sống điên. Làm thằng điên. Sành điệu ra phết!

Hắn vẫn tiếp tục làm ăn phát đạt. Vẫn đều đặn tham dự các hội nghị tuyên dương những nhà kinh doanh trẻ. Nghe nói hắn còn là nhà từ thiện lớn. Thỉnh thoảng hắn vẫn đến phố người Tàu kia, có lúc dẫn thêm bạn để khai sáng cho họ đôi chút về cái thuyết ăn chơi sành điệu của hắn. Cũng có thể hắn đã làm nhiều người khác nữa phát điên như Phi Hùng mà chúng ta biết.

Hà Nội, 8.7.2002

Người lính Mỹ mặc thường phục (truyện ngắn đầu tay của Thái Bá Tân, 1979)

Người viết: Thái Bá Tân

02/07/2009

Truyện ngắn. Thái Bá Tân

"Xin phép ông. Tôi là Clark, Henry Clark, cựu chiến binh Việt Nam. Hơn thế, tôi là kẻ phạm tội, một tên giết người. Giết đồng bào ông. Và vì thế, hôm nay tình cờ gặp ông, một người Việt Nam phía bên kia, tôi muốn được nói đôi điều.

Tôi nhập ngũ năm 1966, khi còn học dở khoa Luật trường Đại học Tổng hợp Flôriđa. Tất cả xảy ra thật tình cờ và nhanh chóng. Một hôm có người tự giới thiệu là đại diện Nhà Trắng đến trường tôi nói chuyện. Trong suốt ba tiếng liền ông ta nói một mạch không nghỉ về cuộc chiến tranh bảo vệ tự do ở Việt Nam, về sứ mệnh lịch sử của người Mỹ nói chung và của thanh niên chúng tôi nói riêng đối với cuộc chiến tranh đó. Những lần nói chuyện như thế kể ra không phải hiếm ở trường tôi, nhưng lần này tôi đã xúc động thật sự. Kết quả là ngay hôm đó tôi tìm gặp diễn giả, bảo ông ta tôi muốn tình nguyện sang Việt Nam chiến đấu, bảo vệ những gì ông ta vừa nói một cách rất hay và say sưa kia.

Ba tháng sau tôi đã có mặt ở Việt Nam, tức là cuối tháng Tám năm 1966. Tôi được sung vào một đơn vị lính thuỷ đánh bộ, và mấy tuần sau đến Đà Nẵng mà chẳng qua một lớp huấn luyện hay tập trận nào, Mọi việc xảy ra nhanh và đơn giản. Sau này tôi mới biết bố mẹ tôi đã chạy chọt xin cho tôi một chân "văn phòng" ở bộ tham mưu nào đó để khỏi ra trận, và yêu cầu cho tôi sang Việt Nam sớm để nhanh chóng hết hạn trở về Mỹ.

Thế là tôi được làm thư ký riêng cho McPherson, một đại tá trẻ phụ trách công tác bình định các mặt trận phía Bắc, chuyên đóng chốt ở Đà Nẵng, họa hoằn lắm mới dùng trực thăng thị sát tình hình hay về Sài Gòn họp.

Công việc của tôi nói chung không có gì phức tạp, thỉnh thoảng làm một bản tổng hợp tình hình dựa trên tin tức các nơi gửi về cho McPherson. Tôi mau chóng chiếm được cảm tình của ông ta, lại có văn hóa nên nhiều lần được giao cả việc thảo các báo cáo quan trọng gửi lên cấp trên, ông ta chỉ xem lại lần cuối. Tuy nhiên, tôi bắt đầu thấy chán cái công việc nhẹ nhàng, dễ dãi và quá yên tĩnh này. Tôi muốn một cái gì sôi động và mạo hiểm hơn. Lấy cớ đi nắm tình hình thực tế, tôi xin phép McPherson thỉnh thoảng được theo trung đoàn lính thủy đánh bộ Mỹ đóng cạnh tham gia các cuộc hành quân bình định. Ông ta đồng ý. Trước đó tôi đã kịp bắt bạn với một sĩ quan trẻ là trung uý James Franklin ở trung đoàn đó. James là một tay táo bạo và cũng thích phiêu lưu như tôi. Tôi nhiều lần theo anh ta ra các vùng xung quanh Đà Nẵng.

Trong các cuộc hành quân đó, lúc đầu tôi chỉ đóng vai một người quan sát, nhưng sau thì tham gia thực sự như những người khác. Mục tiêu của chúng tôi là những vùng được nghi có nhiều vi-xi hoạt động phá rối. Chúng tôi phải tiêu diệt họ để đội quân bình định đến gom dân lập ấp chiến lược. Dần dần tôi cũng bắn và làm những việc khác như những người xung quanh. Thật ra lúc đầu tôi có hơi ngài ngại đôi chút, nhưng cái cảm giác ngại ngùng ấy cũng chóng trôi qua vì tôi nghĩ chiến tranh là chiến tranh, anh không bắn người ta cũng bắn anh. Sau nữa phải thú nhận rằng mỗi lần được bóp cò, được châm lửa đốt nhà, tôi lại có cái cảm giác lâng lâng khó tả. Tôi bị kích thích. Một bản năng tàn bạo nào đấy trỗi dậy trong tôi. Những lúc như thế tôi chợt nhớ các sách báo và phim ảnh ly kỳ, rùng rợn mà tôi đã đọc và xem rất nhiều ở Mỹ. Tôi hãnh diện vì chính mình bây giờ cũng là một nhân vật anh hùng như thế. Nghĩa là tôi đang say, say với đúng nghĩa thật của nó, tức là vì rượu - trong những cuộc hành quân ấy, bao giờ tôi cũng uống, và uống nhiều. Tôi say cả với các ảo ảnh ngây ngất của chính bản thân. Cứ thế tôi tiếp tục sống trong cơn say ấy của mình và gây tội ác. Vâng, gây tội ác mà không hề ý thức gì về điều đó. Chắc chắn tôi sẽ còn lăn thêm trên con đường dốc ấy, nếu không nhờ một hôm, một việc xảy ra làm tôi tỉnh ngộ..."

Người đang ngồi trước mặt tôi ngừng nói. Ông ta trạc bốn mươi tuổi, tóc cắt ngắn nhưng chải mượt, chiếc khăn mỏng màu xanh lơ gấp nếp dắt lé trên chiếc túi áo vét. Ông là Henry Clark, người Mỹ, cựu chiến binh như ông ta, dù không ai hỏi, đã tự giới thiệu.

Vào một trong những đêm trăng nổi tiếng ở Lêningrát, khi tôi đang ngồi một mình uống rượu và nghe nhạc trong khách sạn "Tháng Mười" thì ông ta tìm đến để làm quen. Hình như ông ta đã theo dõi tôi từ trước, chọn lúc tôi ngồi một mình đến để bắt chuyện. Sau ít câu mào đầu xã giao, ông ta đã bắt đầu ngay câu chuyện tự bạch này của mình. Chắc ông ta ấp ủ nó từ lâu và đang rất cần được nói ra. Tôi vốn tốt nghiệp đại học ngoại ngữ Mátxcơva, lúc ấy, chính xác là tháng Bảy năm 1975, tôi được cử làm phiên dịch tiếng Nga - Anh cho một đoàn cán bộ của Miền Nam đang ở thăm Liên Xô và Thụy Điển. Tôi lặng im nghe ông nói, tò mò muốn biết câu chuyện sẽ đi đến đâu.

"Vào một đêm hè nóng nực, khoảng mười tháng kể từ ngày tôi rời Mỹ, - Henri kể tiếp. - James được lệnh dẫn đại đội của mình đến "trừng phạt" một làng nhỏ, rất tiếc tôi không nhớ tên, cách Đà Nẵng đâu hơn năm mươi cây số, vì làng này trước đó mấy ngày đã bất ngờ nổ súng giết chết ba cố vấn Mỹ, một trung tá Việt Nam và cả tiểu đội lính Sài Gòn đi theo bảo vệ. Đó là một vùng an toàn. Ngay sau khi sự việc xảy ra, một trung đội Việt Nam Cộng hòa được phái đến nhưng bị du kích làng này đánh trả và suốt ngày không tài nào vào được. Vì thế mới phải điều đại đội lính thủy đánh bộ Mỹ do James chỉ huy. Tôi theo James hành quân, đến nơi thì trời gần sáng. Như trong những trường hợp tương tự, James gọi pháo cho giã hồi lâu vào làng, và chỉ khi tin chắc trong làng không còn ai sống sót, anh ta mới đốc quân lò dò tiến lên. Lần này quả đúng trong làng không còn ai thật. Cây cối bị chặt ngang tơi tả. Nhà đổ sập, mặt đất bị đạn pháo cày tung nham nhở. Tuyệt không thấy một bóng người nào. Xác chết cũng không. Thì ra hầu hết dân trong làng đã bỏ đi nơi khác từ đêm trước. Bực mình vì không còn ai để trừng phạt, lại bị cái nóng dày vò, chúng tôi ôm súng đi lang thang khắp làng, gặp cái gì bắn cái ấy, thậm chí suýt làm chết một tên trong trung đội lính Sài Gòn làm nhiệm vụ "dò đường" vào làng trước đó, bấy giờ đang tỏa đi vơ vét nốt số gà lợn người ta chưa mang đi kịp.

Tôi theo James sục vào một ngôi nhà lợp tôn nhỏ may mắn chưa bị đạn pháo phá sập. Vì nó lợp tôn nên tôi không thể dễ dàng châm lửa đốt như các nhà khác. Điều này làm tôi rất tức giận. Trong nhà không có ai. James lia một băng vào bức ảnh chụp một ông già mặc áo dài đen, quần trắng, khăn xếp, hai tay để yên trên đầu gối, đang mỉm cười nhìn chúng tôi từ trên tường. Tôi cũng lia một băng tiếp theo vào nải chuối và mấy quả quất bằng nhựa phủ đầy bụi trên bàn thờ. Cả tôi và James hôm ấy uống nhiều hơn ngày thường. Uống trước khi rời căn cứ, trước khi xông vào làng và cả bây giờ, giữa đống đổ nát này. Chúng tôi thấy chân tay ngứa ngáy. Phải bắn, phải phá, phải giết một người nào đó. Để trả thù cho những đồng chủng bị giết hại ư? Vì tự do? Vì lý tưởng? Có thể. Nhưng điều quan trọng nhất là lúc ấy chúng tôi thấy mình là những người chiến thắng, những người anh hùng thực sự, có sức mạnh và có quyền trừng phạt đối thủ.

Trong khi James lục lọi trong nhà, tôi bỏ ra phía sau. Một quả pháo rơi trúng vườn, khoét sâu một hố khá lớn. Đất đỏ bắn ra bốn phía. Ở góc vườn, cách chỗ tôi đứng hơn chục mét có mô đất nhô cao, bên cạnh là một bụi cây rậm. Tôi ngất ngưỡng bước lại gần, ngón trỏ tay phải luôn để sẵn trên cò súng khẩu tiểu liên mới toanh.

Bất chợt tôi đứng sững lại. Trước mặt tôi là một đứa bé gái độ sáu tuổi, tóc rối, đang thút thít khóc bên xác một người đàn bà nằm sấp, đầu và lưng bị trúng đạn đầy máu. Tôi không nhìn rõ mặt, nhưng đoán có lẽ là mẹ hay là bà nó. Bà này nằm vắt trên miệng một chiếc hố vôi đã cạn nước, còn đứa bé thì ở phía dưới. Nó mặc chiếc quần đen dài, không áo, người lem luốc đất và nhọ. Thấy tôi và khẩu súng đang chĩa về phía nó, con bé ngẩng lên nhìn với đôi mắt mở to ngơ ngác, như muốn hỏi tôi là ai và tại sao lại ở đây. Tôi cũng đứng im, nheo mắt nhìn nó. Cứ thế kéo dài một lúc lâu. Tất nhiên trong suối thời gian ấy, khẩu tiểu liên cực nhanh của tôi cũng nhìn nó bằng con mắt duy nhất mở to và bất động của mình. Nó hết nhìn tôi lại nhìn khẩu súng. Cuối cùng nó hiểu. Nó bỗng co rúm người, kêu to một tiếng gì đấy tôi không rõ. Rồi vẫn không dám nhỏm dậy, với đôi mắt mở to nhưng không còn ngạc nhiên như trước, mà đầy vẻ hoảng sợ, nó lại nhìn như dán vào họng súng. Nó lần tay sờ sẫm, lê người về phía sau.

Tôi vẫn đứng im. Nghe tiếng kêu, lúc ấy không hiểu từ đâu James chạy ra. Có lẽ sự im lặng làm con bé thêm sợ. Khi đã tới mép bên kia và không thể lùi thêm được nữa, nó đứng khựng lại, hổn hển thở. Nó vẫn không rời mắt khỏi khẩu súng của tôi. Cuối cùng, bất ngờ cho cả tôi lẫn Jamse, nó bỗng líu ríu nói một câu gì đấy thật dài, rồi nhanh nhẹn bò lên miệng hố. Tôi tưởng nó bỏ chạy, nhưng không. Nó đứng sững lại một giây như cân nhắc lần cuối quyết định của mình, rồi rụt rè đi về phía tôi, hai bàn tay bé nhỏ dính đầy đất và máu giơ cao trước mặt. Sau này tôi mới hiểu lúc ấy có lẽ nó chắp tay van lạy tôi tha chết. James là người đầu tiên lên tiếng. Anh ta phá lên cười to, không ngớt miệng kêu "tốt! tốt!" rồi móc túi lấy chiếc "Canon" tí hon lúc nào cũng mang theo người, chụp ngay cái cảnh ngộ nghĩnh và khá độc đáo này. Tôi quên nói James là một tay rất mê chụp ảnh, và ảnh anh ta chụp nhiều lần được giải, trưng bày trong các cuộc triển lãm ảnh ở New Jork và nhiều nơi khác trên nước Mỹ. Còn tôi thì lúc ấy vẫn đứng yên. Tôi như bị thôi miên, vô tri giác. Ôm chặt khẩu súng trong tay, tôi trân trân nhìn vào đôi mắt mở to của nó lúc này để lộ đủ các thứ tình cảm lẫn lộn - ngạc nhiên, hoảng sợ và hy vọng.

Con bé vẫn từng bước nhích dần về phía tôi. Bất ngác, tôi cũng lùi lại, mắt vẫn không rời nó. Cả nòng súng cũng vậy. Tôi sợ. Có lẽ thế. Tôi sợ nó động vào người tôi, níu lấy đầu súng của tôi, hay biết đâu, có thể cắn hoặc giết tôi. Thần kinh tôi hết sức căng thẳng. Khi tôi không thể lùi được nữa vì lưng đã chạm tường nhà, cũng là lúc con bé giơ đôi tay xương xẩu và dướn bộ ngực để trần, gầy gò của nó về phía trước trong một hành động tuyệt vọng cuối cùng Tôi bỗng thấy rân rân ở đầu ngón trỏ tay phải. Và tôi... và tôi..."

"Và anh đã bóp cò?" - Tôi nhìn thẳng vào mắt ông ta, hỏi.

Henry không trả lời ngay, khẽ thở dài, hồi lâu nhìn xuống mặt bàn.

"Vâng, và tôi đã bóp cò... Tôi đã giết nó. Nghĩa là chính tôi cũng đã tự giết và cứu sống tôi..."

Có lẽ sợ tôi không hiểu, ông ta vội nói tiếp:

"Đúng thế, vâng, đúng thế. Tôi giết tôi vì cái chết của đứa bé luôn ám ảnh tôi, không cho tôi có được cuộc sống bình thường như những người khác. Tôi cứu tôi vì chính nó đã đánh thức tôi dậy khỏi cơn say mù quáng kia, biến tôi thành một người khác hẳn. Mà thôi, để tôi kể ông nghe một cách trình tự những gì xảy ra sau đó. Ông không vội chứ?"

Tôi lắc đầu, và ông ta lại kể tiếp:

"Thế là tôi bóp cò. Một băng đạn bay ra khỏi họng súng, khỏi cái con mắt duy nhất, đen kịt và im lặng kia mà con bé vẫn nơm nớp lo sợ. Tiếng nổ vang, gọn và chắc. Con bé bị bắn vào ngực khi đang giơ hai tay về phía trước. Hai con mắt mở to nhìn trừng trừng tôi, kỳ lạ lắm. Bắn xong, phải một lúc lâu tôi mới bình tĩnh trở lại, mới ý thức hết việc mình vừa làm. Tôi có một cảm giác mơ hồ, khó hiểu như vừa nhỡ tay đánh rơi cái gì đấy rất quý. Trước đó tôi đã từng giết người, nhưng chưa bao giờ có cảm giác như vậy. Bây giờ tất nhiên tôi cố tìm cách tự biện bạch cho hành động của mình. Tôi bắt tôi phải tin là con bé xông lên để giết tôi, và tôi có quyền tự vệ. Không ổn. Vì nó khóc, nó xin tôi cơ mà. Vả lại, người nó bé thế làm thế nào với tới cổ tôi để bóp? Thế thì tại súng tôi tự động nhả đạn. Nhưng vậy thì sao lại vào nó mà không vào người khác, James chẳng hạn? Hay vì lúc ấy tôi say rượu, và lỗi tất cả chỉ tại cái ngón tay ngu ngốc vô tri giác này? Tôi bất lực, cau có với chính bản thân mình. Cuối cùng tôi cũng tìm được cho mình một cái để bấu víu, tuy không chắc chắn lắm. Tôi lập luận rằng là lính, tôi phải bắn vào đối phương, phải biết tàn bạo, không nên và không có quyền tỏ ra mềm yếu, dù một trước một đứa bé. Và để chứng minh cho ý nghĩ đó của mình, tôi liền nâng súng lia khắp nơi, thậm chí còn hò hét, quát tháo mọi người làm theo. Thật ra tôi đã thầm biết trước tất cả những việc ấy là gượng gạo, và tiếng súng, tiếng quát của tôi không thể át nổi một tiếng gì đó mơ hồ, nhỏ nhẻ thôi, nhưng đang nằm sâu trong đáy lòng và bắt tôi trở lại với chính cái tôi thật của mình.

Lúc đầu tôi nghĩ có lẽ tôi đang bị một cú "sốc" về tinh thần, thầm hy vọng nó sẽ nhanh chóng trôi qua cùng thời gian và hoàn cảnh. Tôi xin phép McPherson đi nghỉ Đà Lạt hai tuần. Ở đấy, tôi cố quên mình trong các trò giải trí như tất cả các sĩ quan Mỹ khác từ các nơi về đây sống và hưởng thụ gấp cho bõ những ngày căng thẳng ở mặt trận. Kết quả không như tôi mong đợi. Tôi bắt đầu nghi ngờ về những suy nghĩ của mình. Như ông biết, từ nghi ngờ bản thân chuyển sang nghi ngờ cái khác cũng là điều dễ hiểu. Cùng một sự việc, một hiện tượng, trước kia và bây giờ tôi nhìn khác nhau. Mỗi lần nghe súng nổ, ngón trỏ tay phải tôi lại rân rân, và trước mắt lại hiện lên hình ảnh đức bé Việt Nam kia. Hơn thế, chính hình ảnh ấy với đôi mắt nhỏ trừng trừng nhìn lên đã buộc tôi suy nghĩ lại về mọi chuyện.

Thế đấy, dần dần ý thức chống chiến tranh được hình thành trong tôi, bắt đầu từ một sự kiện ngẫu nhiên tác động mạnh mẽ về tâm lý, tiếp đến là một quá trình nghi ngờ, dằn vặt, chán nản, cho đến khi tìm ra phần nào sự thực... "

"Ông không nghĩ cái giá để tìm ra sự thật ấy ấy là quá đắt à, thậm chí một phần sự thật như ông nói? - tôi nói xen vào. - Ông xem, nếu để một người lính Mỹ thức tỉnh, một đứa bé như thế phải chết, thì..."

"Vâng, tôi hiểu. Tất nhiên là không thể như thế. Tôi bị dằn vặt, ông biết, ấy thế mà nhiều khi tôi vẫn nghĩ cái ngày đáng nguyền rủa kia cũng không phải không có ích cho tôi. Ông thử tưởng tượng xem, nếu tôi không gặp đứa bé ấy, không buộc phải một lần bắt mình nhìn xuống đôi tay mà suy nghĩ... Nếu tôi cứ thế tiếp tục sống trong cơn say mù quáng ấy và cứ thế tiếp tục đốt, giết, mà không hề nghĩ đang làm gì thì... Thật kinh khủng!"

Henry Clark ngồi im lúc lâu, hai tay để hẳn lên mặt bàn, ngón trỏ tay phải trắng, khá thon và dài miết miệng chiếc cốc cao cổ bằng pha-lê trong suốt. Bất giác trước mặt tôi chợt hiện lên khuôn mặt lem luốc với đôi mắt mở to đầy hoảng sợ của một bé gái đang chắp tay van lạy thằng lính Mỹ to lớn đừng giết nó. Thawngff Mỹ ấy hiện đang ngồi trước tôi. Rồi đứa bé ấy biến mất, nhường chỗ cho tượng Đức bà Maria với đôi mắt xanh cũng ngước nhìn lên với hai tay khép vào nhau trước ngực. Rồi bà ta cũng biến đi nốt, và kia, xác hai đứa bé, cũng gái, một bảy tuổi, một ba tuổi đều là con bác tôi, đang ôm nhau ngủ trong nhà. Máy bay Mỹ ập đến ném bom na-pan, không chạy kịp, chúng bị thiêu cháy, đen xịt và nham nhở như hai đoạn gỗ ngắn đang cháy dở. Lúc đó là đầu năm 1967, đúng dịp tôi về phép thăm nhà. Chính tay tôi tự bới trong đống tro mới dội nước còn bốc khói để tìm xác hai đứa cháu. Không hiểu lần ấy thằng Mỹ ném bom làng tôi có bị hai cái chết này thức tỉnh, ám ảnh như đối với ông người Mỹ này hay không? Chắc không, vì hắn bay cao quá, nhanh quá, và có lẽ tiếng khóc yếu ớt của cháu tôi cũng khó mà át nổi tiếng rú máy bay phản lực để lọt vào tai hắn. Phải chẳng vì thế mà hắn có quyền yên tâm bay tiếp, bắn phá tiếp? Đôi mắt tôi vô tình lại dừng lại trên ngón trỏ tay phải của Henry.

"Ông kể tiếp đi" - tôi nhắc ông ta.

Henry vẫn ngồi im như không nghe tôi nói, mãi lúc sau mới lên tiếng:

"Cuối cùng tôi quyết định bỏ về Mỹ, và càng sớm càng tốt. Trước hết để xa lánh cái cuộc chiến mà tôi chán ghét này. Ngoài ra còn nhiều nguyên nhân khác, và một trong những nguyên nhân đó là đôi mắt của đứa bé.

Tuy còn mơ hồ, nhưng có thể nói lúc ấy tôi đã quyết định rời Việt Nam như một người lính phản chiến. Tôi không muốn tiếp tục lặp lại những điều trước đấy vô tình tôi mắc phải. Tôi muốn làm việc gì đó khác hẳn để chứng tỏ với lương tâm, rằng tôi đã nhìn thấy sự thật, đã thay đổi và đang thực sự muốn hối cải. Thế nhưng oái oăm thay, mọi việc xẩy ra không như tôi muốn".

"Sao, - tôi hỏi, - lúc ấy ông không về Mỹ được à?"

"Có. Ba tháng sau tôi có cái quyết định ấy. Tôi đã về Mỹ, về vĩnh viễn, nhưng tiếc thay lại bằng cách khác. Trong một chuyến bay quan sát trận địa, trực thăng của chúng tôi trúng đạn. McPherson và một thiếu tá cùng đi chết ngay, tôi và viên phi công bị thương nặng. Tôi bị gãy một chân, gãy hẳn, tận đầu gối. Khi tỉnh lại, tôi thấy mình đang ở bệnh viện. Sau đó ra viện, tôi trở về Mỹ với một chiếc chân giả, một huân chương mà tôi được thưởng sau vụ tai nạn ấy, và, không nói ông cũng biết, với một tấm lòng nặng trĩu. Tôi định bỏ về Mỹ để phản đối chiến tranh, thế mà nay trong giấy xuất ngũ lại ghi rõ rằng tôi là quân nhân về nước vì "không còn khả năng phục vụ trong quân đội". Tôi đã là người thừa ở đất Việt Nam này, vì tôi không thể tiếp tục càn quét, bắn giết, đốt phá..."

Henry tỳ một tay vào cằm, dáng trầm ngâm.

"Vâng, thế là tôi về Mỹ với một tâm trạng khác hẳn lúc đi. Tôi rất buồn và khổ tâm, nhất là thời gian đầu. Tôi không thể bình tĩnh nhìn con tôi như những người bố khác nhìn con mình, vì mỗi lần nó giơ tay đòi bá cổ, trước mặt tôi lại hiện lên hình ảnh đôi tay bé nhỏ dính đầy cát và máu của đứa bé gái Việt Nam nọ. Nhiều khi tôi nghĩ tất cả tại tôi quá đa cảm và mềm yếu. Phải cứng rắn, phải gạt bỏ những gì liên quan đến quá khứ, và chỉ sống với hiện tại, nếu cần, bất chấp cả lương tâm, đạo đức mà sống. Tôi đã thử, và thú thật với ông, làm thế, tôi cũng quên được phần nào, nhưng quên hẳn thì không bao giờ. Xã hội Mỹ phải khổ sở vì "hội chứng Việt nam". Trong tôi cũng có một hội chứng tương tự.

Cũng với mục đích xóa hết quá khứ, tôi tìm gặp James để xin lại chiếc ảnh kia, nhưng anh ta không chịu, bảo đó là bức ảnh độc đáo, và anh ta sẽ gửi nó tới một cuộc triển lãm sắp tổ chức ở Los Angeles. Cuối cùng tôi phải bỏ tiền ra mua, với giá ngang bằng giải thưởng lớn nhất - 15.000 đô-la. Tôi không trách James. Tiền tôi không thiếu. Tôi chỉ muốn một điều là nếu không vứt bỏ được con bé kia khỏi đầu, thì ít ra cũng phải hủy hết những gì còn lại liên quan đến nó và cuộc chiến tranh Việt Nam nói chung. Tuy nhên, khi cầm tấm ảnh trong tay, tôi mới biết tôi nhầm. Tôi không thể xé nó được, cũng như không thể tự bắn vào đầu mình để hủy bỏ cái nhân chứng lớn nhất của việc làm ghê tởm đó. Thành ra từ đấy tôi phải luôn giữ tấm ảnh ấy trong người, giữ kỹ như một báu vật, mặc dù tôi muốn... rất muốn không có nó. Đây, nó ở đây, cạnh trái tim tôi. Tôi không thể giấu nó ở nơi nào khác... Tôi lấy ông xem nhé?"

Không đợi tôi trả lời, Henry móc túi trong áo vét, rút ra một tấm ảnh đen trắng to bằng lòng bàn tay, được ép plastic cẩn thận. Ảnh chụp khá rõ nét và nói chung đúng như những gì ông ta đã kể.

"Tôi không hiểu tại sao lúc ấy nó không bỏ chạy. Nếu nó chạy, chắc tôi chẳng bao giờ bắn nó"

Tôi đặt tấm ảnh lên bàn. Henry ngước nhìn lên, có lẽ muốn xem thái độ tôi thế nào, rồi cẩn thận cất tấm ảnh vào ví, ông ta kể tiếp:

"Muốn hay không, tôi cũng phải thừa nhận rằng tôi không thể trốn tránh trách nhiệm của mình, và rằng lương tâm nhất định sẽ không để tôi yên. Phải làm một việc gì đó. Đúng. Thế là tôi bắt đầu tham gia các cuộc biểu tình chống chiến tranh ở Việt Nam. Thời sinh viên tôi đã có lần tham gia những cuộc biểu tình như thế, nhưng chưa có ý thức chính trị rõ rệt. Bây giờ thì khác hẳn. Tôi thực sự không muốn thanh niên Mỹ lặp lại bi kịch của tôi. Tôi phải đánh thức lương tâm họ ngay ở đây, trên đất Mỹ khi họ chưa kịp gây tội ác. Tôi phải góp phần bắt chính phủ nước tôi chấm dứt cuộc chiến tranh mà chúng tôi vẫn quen gọi là "bẩn thỉu". Cứ thế trong nhiều năm liền tôi hoạt động khá tích cực, thậm chí còn được bầu vào Ban chấp hành phân hội "Những người bạn Việt Nam " của bang Floriđa quê tôi.

Phải nói là trong quá trình tham gia các hoạt động chống chiến tranh, tôi thấy phần nào đỡ bứt rứt hơn. Tôi hầu như dành toàn bộ thời gian để hội họp, mít-tinh, biểu tình hay tuyền truyền cho Việt Nam. Nhưng, ông biết không, cũng trong suốt mấy năm liền như thế, một nỗi lo sợ mơ hồ, hay đúng hơn, một ngọn lửa cháy âm ỉ, dai dẳng, đôi lúc bùng lên thiêu đốt tâm trí tôi. Đó là việc tôi vẫn dấu kỹ quá khứ tội lỗi của mình ở Việt nam. Tôi không muốn và không đủ can đảm tự thú mình là một tên giết người. Ác thay, cái nhu cầu cần được thổ lộ một ngày một lớn dần trong tôi, như cái thai đến ngày, nhất định đòi được ra khỏi bụng mẹ".

Henry vừa nói đến đây thì có chuông báo giờ đóng cửa. Gian phòng đã vắng khách, chỉ lác đác một vài bàn có người đang khẽ nói chuyện và cũng như chúng tôi, miễn cưỡng đứng dậy, tỏ ý luyến tiếc vì câu chuyện bỏ dở.

Trước khi về phòng, Henry nắm chặt tay tôi hồi lâu:

"Xin lỗi vì hôm nay chắc tôi làm ông mệt vì phải nghe nhiều như thế, mặc dù chưa hét những gì tôi muốn nói. Nếu có thể, mai ông cho phép tôi kể nốt phần còn lại". Rồi ông ta gõ chiếc chân gỗ xuống sàn nhà, tập tễnh đi về phía chiếc thang máy với những chấm đèn khi xanh khi đỏ.

Sáng hôm sau tôi phải theo đoàn về Matxcơva dự hội nghị năm ngày. Trở lại Lêningrát, ông lão trực khách sạn vốn ưa chuyện, vừa thấy tôi đã nói ngay:

"Ồ, tiếc quá, giá biết hôm nay các ông về, tôi đã báo ông Henry ráng chờ thêm chút nữa. Cái ông người Mỹ chân gỗ, có nét mặt buồn buồn ấy mà, ông nhớ chứ? Ngay sáng các ông đi, ông ấy đến tìm tôi hỏi thăm về ông. Nghe tôi báo các ông vừa đi Matxcơva không hẹn cụ thể ngày về, ông ấy buồn lắm. Chắc có chuyện quan trọng muốn nói với ông. Ngày tiếp theo, mấy người bạn Mỹ cùng đi với ông ta đáp máy bay đi Talin, nghe đâu họ định tham quan hết một loạt các thành phố lớn ven bờ Ban-tích cơ đấy. Chà, mùa này ở đấy thì tuyệt. Ông đã bao giờ tới đấy chưa?"

Rồi ông cẩn thận đeo kính, rút ở ngăn bàn ra một chiếc phong bì màu nhạt đưa cho tôi, không quên mỉm cười, thậm chí còn hơi cúi người về phía trước:

"Hôm qua, trước lúc lên đường, ông ta có nhờ tôi chuyển giùm ông cái này".

Tôi cảm ơn rồi lên thang máy về phòng. Vẫn để nguyên cả quần áo, tôi ngồi xuống bàn, mở thư đọc.

"Thưa ông,

Thế là tôi đã nói hết, hay ít ra gần hết câu chuyện của tôi cho ông nghe. Bây giờ quả lòng tôi nhẹ nhõm hơn nhiều. Tiếc là trước khi lên đường về Mỹ, tôi không được gặp ông lần nữa để kể nốt câu chuyên, và nếu có thể, nhờ ông một việc nhỏ. Đó là việc giúp tôi giải quyết bức ảnh kia. Phải nói rằng ngay từ lúc mới gặp ông, tôi đã có ý định xin được chụp chung một bức ảnh thân mật với ông, và tôi sẽ giữ nó làm kỷ niệm, còn bức ảnh kia, tôi sẽ tặng ông, hay nhờ ông giữ hộ, cũng gọi là để kỷ niệm chúng ta đã quen nhau.

Bây giờ trở về nước, tuy không được chụp ảnh cùng ông, nhưng lòng tôi thanh thản hơn, và không hiểu sao tôi vẫn nghĩ là ông tin tôi, thông cảm hoặc thậm chí đã tha lỗi cho tôi. Tôi biết người Việt Nam các ông luôn là nạn nhân của đủ loại xâm lược, áp bức, do vậy các ông phải luôn cảnh giác, cứng rắn để chiến đấu tự bảo vệ mình. Nhưng các ông cũng là những người có trái tim biết tha thứ và giàu lòng độ lượng. Lịch sử dân tộc các ông đã chứng minh điều đó. Một phần do tin như thế nên tôi mới mạnh dạn nói chuyện với ông. Còn bức ảnh, lúc này nghĩ lại, tôi quyết định vẫn trao cho ông, nhưng với một ý nghĩa hoàn toàn khác. Không phải tôi sợ giữ nó trong người, mong ông đừng hiểu nhầm. Tôi muốn sử dụng nó vào việc khác có ích hơn, cho các ông và cả cho tôi. Ông hãy mang tấm ảnh này trưng bày ở viện bảo tàng chống tội ác chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam. Tôi sẽ sẵn sàng chịu đựng tất cả, miễn sao cái việc tôi đã làm sẽ không còn lặp lại, bất cứ ở đâu và bất cứ lúc nào.

Thưa ông, có lẽ điều cuối cùng tôi muốn tâm sự thêm với ông, là việc tôi vẫn nuôi hy vọng một ngày nào đó có thể tôi sẽ được trở lại Việt Nam, tất nhiên với tư cách một người bạn, một người khách đến xin lỗi chủ nhà vì việc làm xấu ngày xưa của mình. Lúc ấy thế nào tôi cũng sẽ tìm đến chỗ tôi đã giết con bé. Còn bây giờ, để cái ngày ấy chóng đến, tôi lại sẽ về Mỹ, làm tiếp công việc của mình ở giai đoạn sau Việt Nam này, tức là tích cực tham gia các phong trào quần chúng, đấu tranh bắt chính phủ chúng tôi phải góp phần hàn gắn những đỏ vỡ do chính mình gây nên ở Việt nam, đồng thời vạch trần những luận điệu tuyên truyền, nói xấu đất nước các ông, mà rất tiếc hiện nay một số giới nhất định ở Mỹ và nhiều nơi khác đang cố làm ầm ĩ.

Kính chào ông,

Henry Clark".

T.B.T

Thành phố Hồ Chí Minh, 1979.

Một vấn đề nguyên tắc

Người viết: Thái Bá Tân

02/07/2009

Truyện ngắn. Thái Bá Tân

Đến Quảng Ninh lần này, gặp dịp, tôi được bố trí đi X. với đoàn cán bộ chỉ đạo sản xuất của một xí nghiệp hải sản.

X. là hòn đảo lớn nằm xa ngoài biển, cách thị xã Hồng Gai hơn một trăm ki-lô-mét. Ở biển thế là xa, vả lại khu vực này thường sóng dữ nên nói chung ra được đấy không dễ, nhất là với những người không thật sự cần thiết như cánh nhà văn, nhà báo chúng tôi.

Tàu xuất phát từ sáng sớm. Thời tiết thật tuyệt. Con tàu chín mươi mã lực tuy nhỏ nhưng khá chắc, nhẹ nhàng lướt trên mặt nước trong xanh gần như tĩnh lặng. Buổi sáng vịnh Hạ Long có vẻ đẹp kì lạ, vừa thơ mộng, huyền bí, vừa như có cái gì nhí nhảnh, trong sáng. Lần đầu tiên trong đời tôi được thấy mặt trời mọc trên biển. Lúc đầu là một vệt sáng, mấy phút sau đã nhú lên hình chiếc bánh mì dài màu đỏ rực. Tàu vòng qua một ngọn núi đá, khi tới đầu bên kia thì chiếc bánh mì đó đã là chiếc mâm khổng lồ được nung đỏ, và vì bị che bởi một màng mỏng sương mù chưa tan, nên có thể ngắm nhìn nó rất lâu mà không chói mắt.

Cùng đi với tôi từ Hà Nội xuống còn có anh nhà báo trẻ. Lần đầu đi biển, lại được chứng kiến một cảnh đẹp như thế, anh ta không ngớt thốt lên những câu thán phục, chốc chốc quay sang hỏi người lái tàu điều gì đó. Người lái tàu, một ông già vui tính, sẵn sàng giải đáp mọi thắc mắc của anh. Thực ra về biển, tôi cũng chẳng hiểu biết gì hơn, nhưng do không muốn tỏ ra ngờ nghệch, tôi chỉ lặng lẽ quan sát và lắng nghe.

Qua Quan Lạn, anh nhà báo chỉ những chiếc cọc đóng thành vòng tròn rộng trên một chỗ nước nông, hỏi cái gì. Người lái tàu giải thích đó là cách dân chài bắt sam. Sam biển vùng này nhiều, thường bằng chiếc đĩa to, nếu biết chế biến sẽ là món ăn vừa rẻ lại vừa ngon. Một đặc điểm khá kì lạ của giống này là bao giờ chúng cũng đi có đôi, một đực, một cái và thường dính vào nhau. Người ta bắt chúng từng đôi, bán chúng từng đôi, và làm thịt chúng để ăn cũng từng đôi, thịt con này trộn lẫn thịt con kia. Ít khi gặp riêng từng con, có gặp cũng không ai bắt vì cho đấy là điềm gở.

- Tuyệt! Lãng mạn quá! - anh kia kêu lên hồn nhiên. - Nếu biết làm thơ, tôi sẽ viết ngay một trường ca lâm li về những con sam kì diệu này. Thế nào cũng phải mua một đôi mang về Hà Nội.

- Để treo lên tường làm biểu tượng tình yêu, hay cho cả đôi uyên ương ấy vào xoong? - Tôi đùa, làm anh chàng phần nào cụt hứng.

Tàu chúng tôi cứ thế đi, đi mãi, chầm chậm vượt hết đảo này đến đảo khác. Tôi có cảm giác như vịnh Hạ Long là vô cùng vô tận, và chúng tôi sẽ không bao giờ thoát ra khỏi cái bát đồ trận rối rắm nhưng đẹp mê hồn này. Thỉnh thoảng xuất hiện những chiếc thuyền con nép vào chân núi đá hoặc đứng chơi vơi giữa vịnh. Tôi ngạc nhiên khi thấy trên thuyền có trẻ con, rất nhiều trẻ con.

- Mỗi thuyền là một gia đình đấy, - ông già lái tàu nói. - Trẻ con sinh ra, lớn lên ngay trên mặt nước, có khi cả năm không đặt chân lên bờ.

- Ở đất liền họ không có nhà sao?

- Phần lớn là không.

- Họ sinh sống bằng cách nào?

- Bằng cách dân chài vẫn sinh sống. Đánh cá đổi gạo. Không đổi được gạo thì ăn cá trừ bữa. Không có cá thì nhịn.

- Và trẻ con không đi học?

Ông già không nói gì, chắc cho câu hỏi ấy của tôi là thừa và ngốc nghếch.

- Sao họ không làm nhà ở đất liền, hàng ngày ra biển đánh cá rồi quay về như những nơi khác?

- Cái ấy thì anh phải hỏi họ mới biết được. Đó là một điều khó hiểu, cũng như người ta không hiểu tại sao có dân tộc miền núi thích nay đây mai đó, mỗi năm làm nhà mới mấy lần.

- Dù sao sống thế cũng rất lãng mạn, - anh nhà báo lên tiếng.

- Vâng, nhưng không đến mức anh tưởng đâu. - Ông già trầm ngâm đáp. - Tháng trước có hai vợ chồng cãi nhau, rồi đánh nhau và cùng ngã xuống nước. Chính mắt tôi nhìn thấy. Còn năm kia thì một đứa bé năm tuổi đêm dậy đi đái, rơi xuống biển, thuyền cứ trôi mà bố mẹ ngủ không hay.

Chúng tôi không ai nói gì thêm. Một lúc sau anh nhà báo hỏi:

- Đi X. có hay gặp tai nạn không bác?

Đó là câu không tế nhị mà khi đi biển người ta không hỏi. Tuy nhiên ông già lái tàu vẫn vui vẻ đáp:

- Ít thôi, nhưng cũng có. Gần đây nhất là lần đắm tàu năm ngoái. Cũng của công ty chúng tôi. Cả tàu sáu người chỉ một người sống sót. Anh ta kia, - ông hất hàm chỉ một người đang ngủ trên chiếc gường nhỏ ở buồng lái, mặt úp vào tường - Một mình giữa biển ba ngày ba đêm. May trời ấm, gió thuận nên mới dạt được vào bờ...

- Ba ngày ba đêm? - anh nhà báo thốt lên. - Kinh khủng thật... Nhưng vì sao tàu lại đắm ạ?

- Vì gần tới X. thì thời tiết bất ngờ thay đổi, biển nổi sóng tới cấp bảy, cấp tám, mà tàu quá cũ. Cũng một chiếc chín mươi mã lực như tàu này. Anh ta bơi giỏi, lại khỏe nên mới sống sót. Anh ta là trưởng trạm chế biến thủy sản ở X., vừa rồi về đất liền họp nay trở lại đảo. Biển ấy mà, anh bạn trẻ ạ, không phải bao giờ cũng đẹp và êm ả thế này đâu. Chốc nữa anh sẽ thấy. Tôi sợ hôm nay trời trở chứng và có thể chúng ta phải nằm lại đâu đó chờ vài ngày không chừng.

Đúng như ông nói, vừa tới cửa vịnh, tàu chúng tôi gặp sóng lớn không dám mạo hiểm đi tiếp, đành quay lại trú ở đảo Ngọc Vừng.

Đêm hôm ấy mọi người lên đảo ngủ.

Ngọc Vừng cũng có một trạm chế biến thủy sản. Ở lại tàu chỉ có ông già lái tàu, trưởng trạm X., - người sống sót sau ba ngày ba đêm một mình giữa biển - và tôi. Tôi xin ở lại tàu không phải không có chủ ý.

*

Trưởng trạm X. đã ngoài bốn mươi, người bé và gầy, có khuôn mặt đen đanh lại vì sóng và gió biển. Anh ít nói, đôi mắt bé lại ít khi mở to nên dễ gây cảm giác khó gần.

Ăn xong, ông già lái tàu chui xuống khoang ngủ ngay, có lẽ vì mệt. Còn tôi và anh trưởng trạm thì ra ngồi trên cột neo trước mũi tàu.

Đêm tháng tư, trời nhiều sao. Ngoài biển sao to và sáng hơn ở đất liền.

Chúng tôi nói chuyện với nhau về thời tiết, về vụ cá năm nay, về Hà Nội và về tình hình biên giới. Nói chung câu chuyện rời rạc, chủ yếu gồm những câu hỏi và những câu trả lời ngắn gọn.

- Anh có thể cho biết bằng cách nào anh thoát chết lần đắm tầu năm ngoái không? - Cuối cùng tôi hỏi điều tôi quan tâm.

- Gặp may thôi. Đúng giữa lúc sóng dữ nhất thì máy hỏng, con tàu nghiêng ngả, nước ập vào rồi chìm. Mọi người nằm dưới khoang, còn tôi ở buồng lái nên chui ra kịp. Đi biển bao giờ tôi cũng ngồi hoặc nằm ở buồng lái. Sau một hồi vật lộn với sóng, bị trôi dạt khá xa, tình cờ tôi vớ được chiếc phao xăm ô tô. Thế là thoát, nhưng phải lênh đênh trên biển ba ngày ba đêm như anh biết.

- Chắc anh đói và mệt lắm?

- Tất nhiên, lại sợ nữa, sợ gió đổi chiều đưa tôi xa bờ hơn. Cũng may lần ấy tôi nhặt được một con cá rất to không hiểu vì sao bị chết. Đoán có thể còn lâu mới tới bờ, tôi ăn dè sẻn từng tí một, ăn hết chẳng sót cái gì, kể cả phần ruột đắng. Đỡ đói đã đành, nhưng điều quan trọng nhất là đỡ khát. Khát mới thực sự đáng sợ.

- Nghĩa là lần ấy chỉ mình anh sống sót? - tôi hỏi mặc dù ban ngày ông già lái tàu đã cho biết điều đó.

- Vâng, lúc đầu tôi tưởng có thể người khác cũng vớ được phao hay mảnh ván như tôi, nhưng sau hóa ra chỉ mình tôi sống sót.

- Khi tàu chìm, anh không thấy ai xung quanh à?

- Không. Sóng to quá... - anh đáp rồi im lặng như đắn đo điều gì, một lúc sau mới nói tiếp: - Lúc tàu chìm thì không, nhưng khi vớ được phao, tôi nhìn thấy một người đang vật lộn với sóng cách tôi khoảng một trăm mét. Đó là ông trưởng phòng tổ chức cơ quan tôi. Chẳng hiểu lần ấy ông ta ra đảo làm gì để gặp tai nạn thế này. Ông ta cũng là người bơi giỏi, nhưng không có cái may gặp phao như tôi. Lúc đầu tôi tưởng ai đó trong đám thủy thủ, liền vội bơi đến cứu, nhưng khi nhận ra ông ta thì tôi dừng lại. Suy nghĩ một lát, tôi quyết định coi như không nhìn thấy...

Tôi sửng sốt nhìn con người đang ngồi bên, nói câu kia một cách đơn giản và thẳng thừng như vậy.

- Anh ngạc nhiên muốn biết vì sao chứ gì? Tôi sẽ nói. Từ trước tới nay tôi không nói điều này với ai, không phải sợ mà vì không muốn. Nhưng hôm nay tôi nói. Đừng nghĩ tôi thích hoặc tin anh. Không, xin lỗi, nói chung tôi không cảm tình lắm với dân làng văn, làng báo các anh. Vì sao thì các anh tự biết. Dân gian đã nói điều đó. Nhưng thôi, việc các anh các anh làm, việc tôi tôi làm.

Quay lại chuyện ông trưởng phòng kia. Đúng, tôi đã không cứu ông ta, vì ông ra không đáng để tôi trả giá. Cái phao to và chắc thật, có thể cứu sống cả hai, nhưng cũng có thể vì thêm ông ta, tôi sẽ chết. Xin anh đừng quên điều đó và tạm thời không ngắt lời tôi. Tôi sẽ giải thích tất cả. Ông ta, người ngẫu nhiên cũng rơi vào hoàn cảnh hiểm nghèo như tôi, là một người xấu, không những không giúp ích gì cho xã hội mà còn ngược lại. Cái ghế trưởng phòng ông ta đạt được bằng thủ đoạn, nịnh hót và lừa đảo. Làm việc với nhau hai mươi năm nay, tôi lạ gì hắn.

Cuộc sống ở đảo rất vất vả, buồn chán, điều ấy chắc anh biết. Tất nhiên không ai thích ra đảo nếu không bị bắt buộc. Một số người, để được ở đất liền, đã tìm cách đút tiền cho hắn. Hắn nhận, nhưng khôn khéo và tinh vi nên chẳng ai làm được gì. Phần vì hắn phụ trách tổ chức, phần không có bằng chứng. Để thế chỗ kẻ hối lộ cho hắn, hắn cử những người không ăn cánh ra đảo, hoặc bắt các cô gái từ lâu đến hạn được về đất liền phải ở lại thêm một thời gian nữa. Bao lâu có trời mới biết - một năm, hai năm, năm năm, có thể suốt đời. Phần lớn người ở ngoài đảo là các cô gái. Hơn ai hết họ phải trở về để lấy chồng. Bao giờ hắn cũng tìm được lí lẽ không ai cãi được. Các cô ấy đòi về à? Hắn sẽ đem lí tưởng và nghĩa vụ người đoàn viên ra nói. Anh suy bì người này người nọ? Hắn viện đến tinh thần trách nhiệm, đến yêu cầu cấp bách của công tác, và nhất định thế nào hắn cũng nói rằng anh là người không thể thay thế được. Về mặt xảo quyệt có lẽ ít ai bằng hắn.

Vâng, hắn là người thế đấy. Ai cũng biết nhưng ai cũng sợ, không muốn gây sự với hắn. Còn tôi thì không. Tôi đã thẳng thắn đấu tranh với hắn trong một cuộc họp chi bộ. Rồi sau anh biết thế nào không? Trước tổ chức Đảng, hắn "chân thành" nhận "có một vài khuyết điểm trong công tác" và hứa sửa chữa. Có điều mấy tháng sau tôi có quyết định ra đảo phụ trách cái trạm chế biến thủy sản mà ta sắp tới, mặc dù lúc ấy tôi đang theo học hàm thụ năm cuối trường Kinh tế. Cả lần này hắn cũng tìm được những lí do mới nghe có vẻ hợp lí... Vậy thì tôi hỏi anh, vì cớ gì tôi phải liều mạng sống của mình để cứu một con người như hắn, một người mà tôi biết sự tồn tại chỉ mang lại tai họa cho người khác, dưới dạng này hoặc dạng nọ?

Anh trưởng trạm im lặng, nhưng chắc không phải chờ tôi trả lời.

- Anh không bao giờ thấy lương tâm cắn rứt sao?

- Hoàn toàn không. Ngược lại, nếu cứu hắn sống, lương tâm tôi mới cắn rứt.

Chúng tôi im lặng một lúc khá lâu.

- Có thể những điều anh nói là đúng, - cuối cùng tôi lên tiếng, - nhưng về mặt nhân đạo, giữa con người với con người, thì dù sao...

- Vâng, tôi hiểu anh muốn nói gì, - anh trưởng trạm xen ngang. - Tuy nhiên, xin anh chớ quên rằng tôi chỉ không cứu chứ không giết hắn. Hai cái ấy hoàn toàn khác nhau. Vả lại tôi không cứu không phải vì muốn trả thù hoặc lo cho tính mạng mình lúc đó. Vấn đề ở đây lớn hơn nhiều. Một vấn đề có tính nguyên tắc.

Nói đoạn anh đứng dậy, ngước nhìn bầu trời chi chít sao rồi ngáp một cái thật dài. Sau đó cả hai chúng tôi cùng lên giường ngủ.

Nằm trong chăn, chúng tôi nói chuyện thêm chốc nữa. Nhờ đó tôi biết được rằng trưởng phòng tổ chức công ty bây giờ là người khác và công việc tốt hơn xưa. Một số cô gái được chuyển vào đất liền, nhưng phần lớn còn ở ngoài ấy. Đơn giản vì một lúc không thể tìm được chừng ấy người thay thế. Còn anh trưởng trạm đang nằm bên tôi thì năm ngoái được tổ chức cho về đất liền học nốt chương trình đại học hàm thụ, mà thời hạn biệt phái công tác cũng đã hết, nhưng anh tình nguyện ở lại đảo thêm một thời gian nữa.

- Lúc này mà bỏ các cô ấy một mình ngoài kia để chuồn về thị xã thì còn mặt mũi nào. - Anh lẩm bẩm nói, trở lưng quay mặt vào tường và ngủ thiếp.

Còn tôi nằm thao thức mãi. Lơ đãng nhìn lên mảnh trời con hình vuông, bàng bạc trên boong tàu, tôi miên man suy nghĩ như muốn tìm trên đó ý nghĩa về cái lô-gích của "vấn đề nguyên tắc" anh trưởng trạm vừa nói, về việc anh có thể nhẫn tâm bỏ mặc một đồng nghiệp chết đuối giữa biển, nhưng không nỡ bỏ các cô gái khỏe mạnh ở lại trên đảo để về đất liền.

Sáng hôm sau biển lặng hơn. Chúng tôi lại đi tiếp.

Vừa ra tới cửa vịnh, anh nhà báo đã say sóng phải nằm yên một chỗ. Anh trưởng trạm vẫn ngủ trên chiếc gường nhỏ ở buồng lái, hai tay ôm đầu như trẻ con. Ông già lái tàu im lặng đứng bên tay lái để điểu khiển con tàu tránh những đợt sóng lớn đang chồm lên giận dữ.

Không hiểu sao một ý nghĩ lạ lùng và rất buồn cười cứ vương vấn mãi trong đầu tôi, ý nghĩ rằng nếu không may lần này gặp tai nạn, không biết con người nhỏ bé có nước da ngăm đen đang ngủ kia có cứu tôi không, tôi, một đại diện của giới văn nghệ mà anh "không thích lắm".

Quảng Ninh, 1984

Con chó hoang

Người viết: Thái Bá Tân

02/07/2009

Truyện ngắn. Thái Bá Tân

Con chó nhỏ và đứa bé gái đang chơi với nhau trên hè phố tráng xi măng loang lổ. Cạnh đấy là một chợ cóc đông người nhưng chẳng ai để ý đến chúng. Có lẽ hôm nào chúng cũng ở đây nên thành quen. Con chó nhỏ, nửa Nhật nửa ta, trước màu trắng, giờ chẳng ra màu gì vì quá bẩn. Hơn thế, nó lại có hai vết ghẻ lớn, ở hông phải và đỉnh đầu. Nó là con chó hoang.

Còn đứa bé, nếu dùng được từ này với người, thì cũng có thể gọi là đứa bé hoang hay đại loại như thế. Nó khoảng năm sáu tuổi, không bị ghẻ nhưng cũng bẩn và nhếch nhác như bạn nó là con chó. Nó có khuôn mặt bầu bĩnh, da ngăm ngăm, có thể gọi là xinh nếu được rửa ráy sạch sẽ. Tóc nó rối bù do lâu không gội nên thỉnh thoảng nó đưa tay gãi rất mạnh. Nó mặc bộ quần áo hoa vải phin mỏng, hai ống tay cứng đờ và đen xịt vì luôn được dùng để quệt nước mũi. Chừng ấy tuổi, nó đã là đứa trẻ bụi đời. Cũng có thể không, đơn giản ai đó hàng ngày đưa nó đến đây, mẹ nó chẳng hạn, rồi bỏ đấy đi kiếm sống trong chợ - buôn bán vặt, bưng bê vặt, hay ăn cắp vặt. Những người như thế khó có thể làm khác.

Con chó vừa ăn xong. Nó đã gặm trụi một cục xương lớn tha từ chợ về. Con bé nhìn nó gặm xương mà không có ý thèm. Nghĩa là chưa đói lắm. Lúc này chúng đang chơi với nhau có vẻ rất vui.

Con bé ôm một con búp bê được làm bằng vải vụn nhiều mầu mà người ta thường thấy các bà già xách từng dây rao bán trong các hẻm phố. Con búp bê bị cụt nửa cánh tay, một bên vai rách lòi bông. Nó đang chơi trò ru con, ra chiều âu yếm lắm. Còn ư ử hát. Con chó thì ngồi cạnh, ngoẹo đầu nhìn, thỉnh thoảng ngoe nguẩy đuôi chẳng hiểu muốn gì. A, thì ra nó chờ đến lượt mình. Thấy "con" đã ngủ, con bé nhẹ nhàng đặt nó xuống đất, phủ một mảnh báo rách làm chăn, rồi giả bộ tất bật quay sang làm việc khác như một bà mẹ thực thụ.

Con chó chỉ chờ có thế. Nó rón rén lại gần rồi ngoạm con búp bê kéo đi. Nó dùng chân lật lật con búp bê, chạy đi chạy lại xung quanh, đuôi vẫy tít, rồi khe khẽ sủa như đang trò chuyện. Con búp bê không đứng mà nằm ngửa, cánh tay gãy giơ lên trời. Nó thờ ơ im lặng. Cũng có thể nó đang nói chuyện với các bạn nó mà người ngoài không nghe thấy.

Con bé vẫn giả vờ bận công việc "nội trợ". Nhưng nó nghe hết, biết hết. Có điều nó phải chờ đến lúc con chó xong trò "rủ búp bê trốn nhà đi chơi" mới quay lại. Luật chơi là vậy. Lúc ấy nó sẽ giả bộ tức giận, hốt hoảng "gọi con", mắng bạn của nó. Và con chó, dù miễn cưỡng, lại ngoan ngoãn kéo lê con búp bê về chỗ cũ. Con bé bế "con" vào lòng, vừa giả vờ mắng yêu vừa ru ngủ, cuối cùng đặt nó xuống mặt hè phố đầy bụi bẩn và "đắp chăn" bằng mảnh báo rách như cũ. Sau đó lần nữa nó quay mặt để con chó lại lôi búp bê đi.

Cứ thế trò chơi đơn điệu này được lặp đi lặp lại mấy lần cho đến lúc cả hai thấy chán, bỏ con búp bê vô tri giác sang một bên để ngồi cạnh nhau, thân tình như hai chị em ruột. Hình như hai đứa đang tâm sự điều gì. Con bé vừa mấp máy môi vừa bắt chấy cho con chó. Nó còn dùng những móng tay dài cáu ghét gãi gãi lên hai vết ghẻ của nó. Con chó tựa người vào chân bạn với vẻ thỏa mãn lười biếng, thỉnh thoảng lại "gâu" một tiếng góp chuyện. Nó thè cái lưỡi ươn ướt đỏ hỏn liếm tay con bé. Khi con bé cúi xuống nựng, nó liếm cả lên mặt. Những chỗ chó liếm trở nên sạch hơn, như được lau bằng khăn ướt...

Lúc ấy ngày mới ngả sang chiều, mặt trời mùa đông chiếu sáng một cách ấm áp, dễ chịu. Cả hai đứa, một con chó hoang và một đứa bé hoang, cùng thiu thiu rồi thiếp đi lúc nào không biết. Một tay con bé ôm con búp bê bằng giẻ vụn, tay kia để lên lưng con chó ghẻ.

Như mọi bé gái khác cùng tuổi, đứa bé hoang này khi ngủ cũng có những giấc mơ đẹp. Trong mơ, tất cả trẻ con đều hạnh phúc như nhau.

Lần này nó mơ thấy một bà tiên tuyệt đẹp bay đến với nó bằng đôi cánh mỏng như cánh chuồn chuồn. Đến nơi, đôi cánh khép lại sau lưng thành bộ áo dài lấp lánh như được gắn hàng nghìn mảnh gương nhỏ. Bà tiên đưa nó bay một vòng khắp thế giới, đến tận Nhà hàng Thủy Tạ ở Bờ Hồ, nơi nó được ăn một lúc hai mươi que kem có màu khác nhau. Bỗng nhớ tới con chó hoang, nó đòi bà đưa về. Họ lại bay một vòng nữa khắp thể giới để quay về chỗ cũ, nơi con chó đang hậm hực chờ họ.

Con chó không thèm ăn que kem tuyệt ngon bạn nó mang về. Nó dỗi vì không được cho đi chơi cùng. Bà tiên mỉm cười. Để bù lại thiệt thòi ấy, bà vuốt nhẹ tay lên người nó. Ngay lập tức cả hai vết ghẻ lớn biến mất. Bà hỏi con bé muốn gì để bà cho nhưng nó chỉ cười, lắc đầu. Với nó chừng ấy đã quá đủ.

Nhìn thấy con búp bê bằng giẻ nó vẫn ôm khư khư trên tay, bà tiên liền đưa nó vào cửa hàng đồ chơi bên cạnh. Cửa hàng này lớn và đẹp lắm. Đầy ắp búp bê và thú nhồi bông đủ loại. Trước đó nó và con chó nhiều lần đứng ngắm từ xa chứ chẳng dám đặt chân vào. Bà bảo thích cái gì cứ nói nhưng nó chẳng dám. Cuối cùng, bà chọn mua cho nó một con búp bê to bằng người thật, tóc vàng, váy hồng, biết chớp mắt, biết khóc, biết nói chuyện như người thật. Còn con chó thì chẳng được bà cho gì. Nhưng nó không lấy thế làm buồn...

*

Khi con bé đang ngủ trên vỉa hè cạnh con chó hoang thì chính từ cái của hàng sang trọng ấy có một ông già và đứa cháu gái khoảng mười tuổi đi ra, tay ôm một bó lớn đồ chơi. Cô bé chợt đứng lại nói gì đấy với ông nó. Ông già mỉm cười gật đầu. Nó vội chạy lại, nhẹ nhàng đặt một con chó nhồi bông rất đẹp cạnh đứa bé tội nghiệp lúc ấy đang mỉm cười trong mơ.

Lát sau, có gã đàn ông mặt mũi sần sùi đi ngang, chốc chốc lại ngoác rộng mồm ngáp. Thấy món đồ chơi đắt tiền bên cạnh một đứa bé đang ngủ và con chó ghẻ, hắn bỗng đứng khựng lại, lấm lét nhìn trước ngó sau rồi cúi xuống cầm lên, rảo bước đi thẳng. Con chó ghẻ thấy hết, biết hết. Nhưng nó vẫn nằm im như không có gì xẩy ra. Trường hợp khác thì nó đã nhảy bổ lên mà cào cắn thằng ăn cắp kia, dẫu nó chỉ là con chó hoang bé xíu. Chắc nó đã kịp hiểu rằng con chó bông kia sẽ là đối thủ đáng gờm trong việc tranh dành tình yêu của con bé bạn nó. Một đứa bạn tốt gớm.

Con bé tỉnh dậy, ngạc nhiên vì không thấy con búp bê bà tiên cho. Nhưng rồi nó cũng hiểu đó chỉ là giấc mơ. Đây không phải lần đầu nó nhận được nhiều thứ trong mơ mà lúc dậy chẳng thấy gì. Con chó ghẻ cũng ỉm chuyện thằng ăn cắp có bộ mặt sần sùi và hay ngáp vặt. Tuy nhiên, hình như nó cảm thấy xấu hổ về thái độ không trung thực của mình, nên đáng lẽ phải rúc vào lòng bạn như mọi lần ngủ dậy trước đấy, bây giờ nó quay mặt, lơ đãng nhìn đâu đó.

Lát sau hai đứa lại chơi cái trò nhàm chán của chúng với con búp bê cụt tay bằng giẻ. Có điều lần này không còn thích thú như trước. Con chó vẫn chưa hết băn khoăn về sự phản bội của nó. Đứa bé thì còn tiếc món quà của bà tiên. Nó cũng buồn vì thấy con chó chưa khỏi ghẻ. Tuy nhiên chúng vẫn tiếp tục chơi, bình thường và vô hại. Chúng không biết một tai họa lớn đang đến gần...

*

Lúc ấy khoảng bốn, năm giờ chiều. Hai đứa chơi chán và đang ngồi tán gẫu với nhau theo cách riêng của chúng. Nắng mùa đông vẫn còn rực rỡ. Mọi việc diễn ra theo đúng trình tự và qui luật thường ngày. Phố đông hơn vì đang là giờ tan tầm, nhưng không vì thế mà người ta chú ý hơn tới chúng. Càng tốt. Con bé đang gãi chỗ ghẻ cho con chó, con chó thì nhìn nó vẻ biết ơn, đôi mắt ươn ướt.

Bỗng một chiếc xe hòm từ đâu phóng tới, đỗ xịch phía bên kia đường. Hai gã thanh niên nhảy xuống, một đứa cầm gậy, một đứa cầm chiếc vợt lưới như vợt trẻ con bắt bướm, có điều to hơn nhiều. Trong xe có tiếng rên ư ử như tiếng chó. Nhiều tiếng một lúc.

"Ta làm thật gọn nhé!'" Một đứa nói, rồi cả hai tiến lại gần đứa bé và con chó. Con chó tinh lắm. Nó lờ mờ đoán có chuyện chẳng lành, liền vùng dậy định bỏ chạy, nhưng con bé đã kịp giữ chặt nó. Vì thế mà hai gã kia dễ dàng giật lấy con chó rồi ném vào thùng xe cùng những con chó hoang khác. Chính quyền đang có chủ trương giảm bớt, nếu triệt hết càng tốt, số lượng chó hoang đông đúc trong thành phố. Chúng có vẻ hài lòng, vì thêm một con, chúng được thưởng thêm một số tiền. Rồi chúng rồ máy cho xe đi tiếp. Bầy chó lại tru lên, trong đó chắn chắn có tiếng tru không nhỏ của con chó ghẻ.

Còn con bé tội nghiệp thì mãi lúc sau mới hiểu hết tai họa vừa bất ngờ đổ xuống đầu nó. Người ta đã bắt mang đi và có thể sẽ giết chết con chó ghẻ, người bạn duy nhất của nó. Thế mà lúc ấy nó lại ngu ngốc giữ chặt con chó để người ta bắt. Nếu không, chắc nó đã thoát.

Con bé lặng lẽ khóc. Hai dòng nước mắt chảy trên má. Trước đây mỗi lần nó khóc, con chó liếm nước mắt cho nó. Bây giờ nó còn lại một mình. Từ nay sẽ không có ai chơi, trò chuyện cùng, và quan trọng nhất là vào chợ tha nhặt những mẩu thức ăn thừa cho nó nữa. Mà nó thì đã bắt đầu đói. Vì còn bé, nó chưa có khái niệm thế nào là những con chó hoang và những đứa trẻ hoang như nó. Thế cũng may, nếu không, nó sẽ lo người ta có thể bắt và giết nó như con chó bạn nó.

Khi không còn nước mắt nữa để khóc, nó cúi xuống bắt chấy cho con búp bê cụt tay bằng giẻ rách. Như mọi ngày, mọi người vẫn thản nhiên đi ngang, và vẫn không ai mảy may để ý đến nó.

Hà Nội, 30. 3. 2001

Chiếc khăn

Người viết: Thái Bá Tân

24/06/2009

Truyện ngắn. Thái Bá Tân

Nhà ông Phán Lại có cô con gái xinh người đẹp nết, mười bảy tuổi, cái tuổi đầy mơ mộng pha chút lo sợ thầm kín rất đặc trưng cho lứa tuổi ấy. Cô đang yêu, hay cũng gần như thế.

Ông làm thông phán ở thành phố mới dọn về làng, do vậy người ta mới gọi là Phán Lại. Ông vốn người bộc trực, liêm khiết (chắc vì thế mà thành buồn chán rồi từ quan), hồ hởi chào đón cách mạng và sự ra đời của chế độ mới. Dù chẳng còn trẻ, những ngày ấy người ta thấy ông hăng hái tham gia các hoạt động đoàn thể, và là một trong những người đi đầu trong đoàn biểu tình cướp phá Đồn Thủy rồi kéo về Nhà Hát Lớn cuối tháng Tám năm 1945. Khi Pháp trở lại, để tỏ thái độ bất hơp tác, ông đưa con gái, cô Nguyệt Tú, về sống ở làng này, vốn là quê tổ của ông, cách Hà Nội tám mươi cây số về phía Tây, và được xem là khu an toàn kháng chiến.

Cô Nguyệt Tú đã học hết lớp chót trường nữ sinh trung học, khá giỏi tiếng Pháp, bằng chứng là chiều chiều cô ngồi bên cửa sổ đọc tiểu thuyết của các nhà văn tình cảm phương Tây rồi thút thít khóc một mình. Thậm chí cô còn theo học cả đàn pianô như nhiều tiểu thư thị thành thời ấy, nhưng sau do gia đình sa sút đành bỏ. Cô là người nhút nhát hiếm thấy, lại mau nước mắt, và mỗi lần phải nói chuyện trực tiếp với ai, nhất là đàn ông, khuôn mặt xinh đẹp, trắng nhợt của cô lại đỏ rực, đỏ đến cả hai tai. Cô sống khép mình, không có chủ kiến mà dường như cũng chẳng muốn có. Rõ ràng cô sinh ra để được che chở chứ chẳng phải che chở người khác. Cô thực sự sợ hãi khi thấy các cô gái làng thắt quần móng lợn suốt ngày lăn lê bò toài trên sườn đồi, hò hét đâm chém các hình nộm, lại cười rất to và nói những lời cô bịt tai không dám nghe. Các cô kia thì tất nhiên chẳng coi cô ra gì, một con bé tiểu thư thành phố thuộc "giai cấp ăn bám", một phần tử "vô tích sự" không đáng cho họ mời tham gia hội họp và luyện tập.

Thế mà không ai ngờ, không ai biết chính cái cô ăn bám, vô tích sự ấy và đội trưởng đội du kích của họ đang yêu nhau, mà không chỉ mới hôm qua hay tuần trước.

Họ quen nhau vì anh đội trưởng du kích rất cách mạng ấy là thanh niên duy nhất có học trong làng, học xong trường huyện, con một gia đình phú nông có những ba người đang là bộ đội kháng chiến và trước đấy nhiều năm nuôi giấu cán bộ, có người bây giờ đang làm to. Thỉnh thoảng anh sang nhà ông Phán mượn sách. Cũng là điều dễ hiểu. Buồn vì không có người nói chuyện sách vở, hai người thân nhau, có hôm ngồi rất lâu. Ông thấy mến anh chàng này vì mặt mày sáng sủa, có văn hóa và ăn nói lễ phép chứ không như mấy ông bà cách mạng trẻ nông dân ông không dám khinh nhưng thực bụng chẳng mấy thích thú. Khi tủ sách của mình cạn, chính ông giới thiệu anh hỏi mượn sách của cô con, là người luôn lỉnh vào phòng đóng chặt cửa mỗi lần anh đến.

Một hôm, nhận lại cuốn sách anh trả, thờ thẫn cầm nó trên tay như ve vuốt, là việc cô thường làm một cách vô thức chẳng hiểu vì sao, cô chợt thấy ở ngay trang đầu có mảnh giấy nhỏ ghi ba chữ rất nắn nót "Anh yêu em!" Dấu chấm than được tô đậm đến mức suýt thủng tờ giấy pơ-luya mỏng.

Không khó hình dung đôi má cô lúc ấy đỏ lên như thế nào. Cô lặng người một lát, lồng ngực nhô lên hạ xuống vì thở gấp, rồi chạy ù vào giường, nằm ngửa mặt, trân trân nhìn lên trần nhà. Không thể nói lâu nay cô không cảm tình với anh, nhưng để nhận tờ giấy này thì quả cô không ngờ và chưa sẵn sàng đón nhận nó. Cô không biết bây giờ phải làm gì, phải nghĩ gì và nhất là phải có thái độ thế nào đối với anh ấy. Đặt cuốn sách lên ngực, cô mân mê tờ giấy, đọc đến hàng chục lần mấy chữ ngắn gọn, đơn giản mà kỳ diệu ấy. Trước mặt cô hiện lên khuôn mặt sáng sủa của anh với đôi mắt nghiêm nghị, làn da cháy rám vì suốt ngày chang nắng ngoài trời. Cô thấy hơi sợ đôi nghiêm nghị ấy, bây giờ cũng như những lần ít ỏi anh nói chuyện với cô, hầu như chỉ mình anh nói, còn cô thì bẽn lẽn cúi đầu. Anh nói hay, cô thích nghe anh, thích anh đến mượn sách, dù vẫn luôn tự trách và cười diễu mình vì sự thích ấy. Thích mà vẫn sợ, như sợ một cái gì đấy xa lạ chưa lý giải nổi. Anh ấy là người mạnh mẽ, là cộng sản, cách mạng, còn mình thì...

Buổi tối, cô cáo ốm không ăn cơm, rồi thiếp đi với cuốn sách cùng mảnh giấy vẫn trên ngực và môi khẽ thì thầm hai tiếng anh ấy cùng nụ cười nửa hạnh phúc nửa lo sợ mơ hồ.

Mấy ngày sau anh gửi trả một cuốn sách khác, lại kèm tờ giấy trắng với ba chữ "Anh yêu em" như trước, nhưng lần này, rất sâu phía dưới có viết thêm là nếu cô không dửng dưng với anh thì hãy để một tờ giấy trắng vào cuốn sách anh sẽ đến mượn ngày mai. Hôm sau đến nhà ông Phán mượn sách, anh không thấy tờ giấy nào kẹp trong đó. Cuốn sách cũng không được cô đưa tận tay như mọi lần, mà qua ông bố, còn cô thì được bảo khó ở đang nằm trong phòng.

Cuốn sách này, và thêm một cuốn nữa khi nhận lại, cô chợt buồn khi không thấy có tờ giấy với dòng chữ quen thuộc mà cô mong đợi. Nhưng cuối cùng, dẫu nhút nhát và rất sợ, cô cũng nói được anh ấy biết tình cảm của mình. Tình yêu còn lớn hơn cả nỗi sợ và nghi ngại. Một lần, ngồi bên cửa sổ thấy anh đang đến, cô nhanh nhẹn bước ra, dúi vào tay anh một bức thư dài viết sẵn rồi bỏ chạy.

Còn tối nay thì cô đã nhận lời ra gặp anh ngoài bờ đê sau làng. Chả là chỉ ít hôm nữa anh sẽ lên đường đi bộ đội tận chiến khu Việt Bắc, có thể một thời gian dài như anh nói.

Cô đã mất những ba ngày để khâu tặng anh một chiếc khăn mù-soa. Nó được cắt từ thân trước, chỗ che ngực, chiếc áo dài màu trắng cô mặc thời còn ở trường nữ sinh. Cô thẹn thùng với ý định kỳ cục ấy, mấy lần định thay bằng miếng vài lụa mới tinh, nhưng cuối cùng vẫn không thay. Vốn được dạy nhiều về nữ công gia chánh, cô có thể thêu rất nhiều hình đẹp trên đó, nhưng suy đi nghĩ lại, rốt cục cô chỉ thêu chữ cái tên hai người, T và H đan lồng nhau, bằng chỉ hồng, rất tinh tế và rất đẹp. Bây giờ chắc ít người tặng nhau những kỷ vật tình yêu kiểu này, nhưng thời đó là mốt của các cô gái trẻ mơ mộng tỉnh lẻ. Nhiều lần cô đã khóc khi thêu chiếc khăn đó, cũng nhiều giọt nước mắt đã rơi xuống nó, nhưng nghe nói nước mắt con gái mới lớn không mặn nên không để lại vết ố nào. Có thể vì thế mà anh ấy sẽ chẳng bao giờ biết được nó đã từng thấm nước mắt người yêu. Không biết rằng nó cũng từng nhận nhiều, rất nhiều những cái hôn của cô.

Trên đê lộng gió, hơi se lạnh. Trăng cuối tháng mảnh như chiếc lá cỏ voi bị uốn cong, nhưng trời sáng vì rất nhiều sao, những ngôi sao to, đẫm nước. Chếch phía Tây là dãy núi thấp mờ đen có hình con chó nằm phủ phục, đầu hơi ghếch lên, lơ đãng lắng nghe những lời yêu đương của đôi trai gái sắp xa nhau.

Nhưng họ nói với nhau ít lắm. Anh nói:

"Anh đi ít năm rồi về. Chờ anh nhé!"

"Vâng, em chờ", cô đáp.

Rồi anh với tay định cầm tay cô. Theo bản năng, cô né tránh, và tới lần thứ ba anh mới có được bàn tay bé nhỏ, nóng hổi của cô trong tay mình. Bàn tay run run như con chim nhỏ thảng thốt.

Bằng bàn tay kia, cô móc túi lấy ra chiếc khăn.

"Tặng đấy. Hãy giữ và nhớ đến em".

Con chim - bàn tay càng run rẩy, thảng thốt hơn.

"Cảm ơn em", anh nói đơn giản rồi nhét vào túi trên ngực.

Cô chạnh buồn vì anh không mở ra xem hoặc không nói thêm đôi câu nữa về nó. Xem gì, nói gì, chính cô cũng không biết, chỉ thấy hơi buồn.

Họ im lặng khá lâu, tay vẫn trong tay. Trăng đã chếch ngang đầu, trời sao như sà xuống thấp hơn. Ngoài đê, trong bụi duối rậm không xa chỗ họ đứng có con gì cứ tỉ tê đơn điệu.

"Em sợ lắm..."

"Em sợ gì cơ?"

"Không biết, nhưng em thấy sợ, nhất là khi không có anh ở đây".

"Em nói lạ thật đấy".

"Không, thật mà. Em sợ... Em sợ cộng sản, sợ cách mạng..."

Anh phá lên cười:

"Thế thì lại càng lạ. Anh là cộng sản, là cách mạng đây. Em thấy anh có đáng sợ không?"

"Anh thì không, nhưng người khác thì em sợ. Họ không thích những người như em. Em nghĩ có thể tốt hơn nếu em và bố quay lại vùng tạm chiếm".

"Em hiểu nhầm rồi, - anh lại cười. - Tại em không chịu tham gia các cuộc họp của bọn anh đó thôi. Cộng sản, cách mạng mang lại hạnh phúc cho mọi người. Em hiểu chứ? Mọi người! Cách mạng sẽ..."

Rồi anh nói một thôi, gần như nguyên xi những gì ông cán bộ tỉnh mới thuyết giảng tối qua về chủ nghĩa cộng sản, về cách mạng và những điều tốt đẹp của nó.

"Em yên tâm. Cách mạng sẽ bảo vệ em, che chở cho em! Cho gia đình em! Cho toàn dân!"

"Anh nghĩ như thế thật à?"

"Tất nhiên, nếu không anh đã chẳng chịu xa em lên đường bảo vệ cách mạng".

Cô gái khẽ gật đầu, và lần đầu tiên nắm chặt tay anh.

*

Sáu tháng sau, tức là cuối năm 1952, trong phong trào "Phát động quần chúng đấu tranh chống phản động" ông Phán Lại bị tòa án cách mạng xử bắn vì tội làm gián điệp cho Pháp. Cô Nguyệt Tú con ông bị đem đấu tố về tội ăn bám, rồi cô treo cổ tự tử vì không chịu để một ông cán bộ cộng sản cưỡng hiếp. Khi chết, cô đã nhắc tên anh, một chiến sĩ cộng sản khác đang chiến đấu bảo vệ cách mạng và chế độ cộng sản tốt đẹp anh đã nói với cô.

Cái tin này mãi về sau anh mới biết, vì lúc đó bản thân anh đang bận chỉ đạo thực hiện phong trào ấy ở một nơi xa. Cũng như trong cuộc cải cách ruộng đất sau này, anh luôn tận tuỵ với công việc được giao, và không chút nghi ngờ sứ mạng cao đẹp của nó. Anh thực sự tin vào sự lãnh đạo của Đảng, vào tính đúng đắn của con đường đã chọn, tin một cách tuyệt đối pha chút ngây thơ và mù quáng, nên không nghĩ tới sự cần thiết phải xem xét, kiểm chứng hoặc chiêm nghiệm lại. Anh là mẫu người cách mạng lý tưởng. Khi lý tưởng cộng sản chui vào đầu anh, một lý tưởng tuyệt đẹp như mọi lý tưởng khác trên đời, anh choáng ngợp trước cái đẹp cao cả của nó và háo hức vươn tới mục đích mà ít chú ý tới phương tiện. Mục đích chi phối phương tiện, người ta dạy anh thế, và một khi mục đích đã cao đẹp thì không có phương tiện nào là xấu, tức là bất kỳ hành động nào cũng có thể biện minh được, cả khi những hành động ấy là tàn bạo và phi lý. Con đường cách mạng không bao giờ bằng phẳng và không thể tránh khỏi một số sai lầm do nhận thức. Cái chết bi thảm đầy oan trái của hai bố con người yêu anh cũng được nhìn nhận dưới góc độ ấy. Và thật lạ, dẫu rất đau xót và căm phẫn, anh thấy lòng mình thanh thản hoặc cũng gần như thế, cả khi nghĩ về những việc anh đã làm trong cuộc vận động ấy. Sai lầm. Sai thì sửa. Chính lãnh tụ cao nhất của Đảng đã nói lời xin lỗi, mắt rưng rưng. Mắt anh cũng rưng rưng khi chứng kiến việc này. Có điều cả anh và lãnh tụ không đả động gì đến việc vì sao và do ai mà những sai lầm tầm cỡ ấy có thể xảy ra, và liệu một lời xin lỗi như thế có thỏa đáng không trước hàng chục nghìn sinh mạng bị giết oan.

Tuy nhiên, anh vẫn bị day dứt bởi một nỗi ám ảnh, nhỏ thôi nhưng dai dẳng và thật bất tiện, rằng chính anh đã gây nên cái chết của Nguyệt Tú và bố cô. Dẫu không chủ ý, nhưng anh đã nói dối họ về việc họ sẽ được cách mạng bảo vệ. Không có anh, chắc họ đã trở lại thành phố và do vậy tránh được bi kịch. Thoạt đầu anh nghĩ đây chỉ thuộc phạm trù đạo đức. Một lời khuyên sai, hay thậm chí một lời nói dối, suy cho cùng cũng chỉ là lời nói dối, tức là ở cấp thấp hơn nhiều so với cả một hệ tư tưởng, và rằng cùng với thời gian nó sẽ nguôi ngoai rồi đi vào quên lãng. Nhưng ác thay, thực tế diễn ra trái ngược hẳn. Như con vi rút chết người, chấm đen mặc cảm tội lỗi ấy không mất đi mà ngày mỗi lớn trong anh. Nó bắt đầu tấn công các tế bào cách mạng đỏ. Nó biến tướng, tù vi rút đạo đức thành vi rút tư tưởng, và vết thương cứ to dần, to dần...

Năm tháng trôi qua, đến nay, anh đã là một ông già. Hơn thế, một ông già cô đơn và bệnh tật. Cùng với vết thương ấy trong lòng, ông đi tiếp con đường cách mạng của mình, qua những năm tháng sĩ quan thời chiến, đến chức vụ trưởng, thứ trưởng một bộ quan trọng. Tiếc rằng đến đây thì bệnh quá nặng và nó đã bộc phát ra ngoài. Ba lần ông viết tâm thư lên trung ương của ông, thật thà trình bày quan điểm của mình cùng những đề nghị thay đổi. Chừng ấy lần ông bị kỷ luật nội bộ, bị cách chức và quản thúc tại gia. Một lần ông nhảy lầu tự tử nhưng không chết, nay có muốn nhảy tiếp cũng không thể vì chân què không còn có thể leo gác. Rồi bệnh đau mắt từ nhỏ tái phát, cộng với nỗi buồn bực, đã biến ông thành người mù.

Cuối cùng, các người ta đã để ông yên vì ông chẳng thể làm gì được nữa. Một ông lão què chân, mù mắt, sống một mình (vì ông chẳng bao giờ lấy vợ nên không con cháu) trong ngôi nhà cấp bốn hai phòng ngay sát Hồ Tây, sống với một bà lão giúp việc hơi giở người nhưng được cái sạch sẽ và chưa một lần quên nấu ăn để ông phải đói. Lúc này trong đầu ông chỉ toàn màu đên, tịnh không sót lại một chút nào màu đỏ hừng hực của thời trẻ.

Ngày nào ông cũng ngồi trên chiếc ghế được làm bằng hai thanh gỗ thô ráp, nhìn ra mặt nước Hồ Tây vô cảm. Ngồi lặng lẽ suốt từ mờ sáng đến tối mịt chứ ông thì không biết và không thèm để ý đến khái niệm thời gian trong ngày. Ông còn minh mẫn, thậm chí minh mẫn hơn cả những ngày trai trẻ, và nếu không mù và còn giấy mực, hoặc chí ít có người viết hộ thì ông còn gửi nhiều tâm thư nữa lên trên nữa. Thời kỳ đầu ông còn lẩm bẩm một mình, có khi gào to với Hồ Tây, nay thì ông im lặng, suốt ngày im lặng, và, cũng theo lời bà già chỉ điểm kia, "lúc nào cũng luôn tay mân mê một chiếc khăn mù-soa bẩn thỉu bị thủng một lỗ bằng ngón tay ở góc". (Đó là vết đạn xuyên trúng phổi ông cuối chiến dịch Điện Biên). May người ta cho đó là dấu hiệu lẩm cẩm của một ông già lẩn thẩn nên nó không bị tịch thu.

Hà nội, 13. 8. 2004

Cogito, ergo sum?

Người viết: Thái Bá Tân

24/06/2009

Truyện ngắn. Thái Bá Tân

Vào năm 1955, cùng một lúc làng Vĩnh Lộc được đón hai nhân vật nổi bật. Nói nổi bật là có ý so với mặt bằng rất thấp của cái làng miền trung nghèo đói và lạc hậu này, chứ thực ra họ cũng bình thường, lại là dân gốc của làng, tức là cũng có thời từng làm thằng con nít tồng ngồng chạy ra Bến Kiềng mò hến hoặc sau mỗi trận mưa ra Đồng Chùa mót khoai sót, những mẩu khoai sùng, khoai non bé chỉ bằng ngón tay cái. Sau này lớn lên mỗi người một ngả theo sự dun dủi của số phận.

Ông thứ nhất học giỏi, nghe nói giỏi nhất trong cả ba tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An và Hà Tĩnh, được quan Toàn Quyền Pháp đích thân trao học bổng sang Paris học khoa luật ở Sorbonne, năm 1946 trở về Việt Nam cùng một nhóm trí thức yêu nước theo lời kêu gọi của chính phủ cách mạng. Suốt thời gian kháng chiến ông ở Việt Bắc, rồi sau về Hà Nội hai năm, làm gì, giữ chức vụ nào không ai biết, chỉ thấy một hôm ông trở về làng, những tưởng chỉ ở chỉ ít ngày, nhưng rồi ông sửa sang nhà cửa, lại đưa cô Ba Héo cháu ông về ở cùng, vừa giúp vặt trong nhà, vừa để ông dạy chữ cho cô. Vậy là người ta đoán ông về hẳn, chắc do bị kỷ luật. Tuy nhiên không vì thế mà dân làng dám coi thường, vì ông có tiền, do vợ con bên Pháp đều đặn gửi về ba tháng một lần, vì ông từng là giáo sư một trường đại học danh tiếng bên ấy, và vì cả việc ông mở lớp học chữ không mất tiền cho trẻ con trong làng. Cô cháu ông đã hăm lăm mà chưa chồng, tức là sẽ không bao giờ hy vọng có chồng sau cái tuổi ấy. Cô xấu xí, người gầy đét nên mới có cái tên Héo đi kèm. Héo hon. Nhưng bù lại, cô có giọng nói sang sảng và khá chua ngoa. Người ta gọi ông bác cô là Ông Đeo Kính, vì ông này cận thị nặng và luôn đeo cặp kính trắng mắt tròn, gọng kim loại màu đen. Trong làng ông duy nhất là người đeo kính, khiến mọi người thấy vừa ngồ ngộ, vừa kính nể.

Người thứ hai là Ông Mao Chủ Tịch Dạy, do tại ông hay nói câu này, cả khi phát biểu long trọng ở hội nghị lẫn khi giao tiếp hàng ngày. Ông đi bộ đội từ hồi cách mạng, lên đến chức trung đoàn trưởng thì chuyển sang ngành dân chính và vừa mới tham dự một khóa tập huấn cải cách ruộng đất ở Hồ Nam, Trung Quốc. Vậy ông phải là nhân vật quan trọng, một quan to. Ông về cái làng này, tất nhiên chỉ một thời gian ngắn theo nguyện vọng, là cốt để biến nó thành điển hình tốt cho cả tỉnh, nếu không muốn nói cả nước, trong cuộc vận động, như Mao Chủ Tịch dạy, long trời lở đất này. Cuộc cải cách ruộng đất mà chỉ cách mạng mới có thể mang lại, làm cho người cày có ruộng, xóa bỏ tận gốc sự bóc lột và đói nghèo. Dân làng ắt phải lấy làm vinh dự và biết ơn ông lắm. Lúc nào ông cũng mặc bộ đại cán dày cộp, phẳng phiu màu lông chuột, nên đi dứng có vẻ hơi cứng nhắc, khệnh khạng. Cũng có thể ông chủ ý làm ra thế. Hồi rời làng ông không biết chữ, bây giờ thì đọc thông viết thạo, nói năng lưu loát, bàn tay phải luôn vung lên đập xuống khi muốn nhấn mạnh điều gì. Ông về làng sau Ông Đeo Kính sáu tháng, bằng ô tô riêng của tỉnh ủy Nghệ An, nhưng xe phải dừng ở chợ Hôm vì đường nhỏ, khiến ông đi bộ những ba cây số, là điều lãnh đạo xã rất lấy làm ái náy. Để tỏ ra mình quần chúng, ông từ chối không ở căn nhà riêng do xã bố trí, có người phục vụ, mà về ở với ông bố đã bảy mươi tuổi hiện đang sống một mình. Khác với ông con cách mạng triệt để, ông bố nổi tiếng hay ăn nói lung tung và "rất yếu về lập trường giai cấp". Nể tình có con làm to, chứ không thì đã mọt gông từ lâu.

Ông Mao Chủ Tịch Dạy cho mời cán bộ cốt cán trong làng đến nhà mình. Sau một hồi dài dòng thuyết về mục đích, ý nghĩa cuộc cải cách ruộng đất, là điều ai cũng biết vì được học tập rất nhiều trước đó, ông giao cho họ phải tìm bằng được mười gia đình địa chủ cường hào gian ác trong tổng số 200 hộ ở làng Vĩnh Lộc này "Mao Chủ Tịch dạy cái bọn người thối tha ấy ít nhất phải chiếm năm phần trăm dân số mỗi địa phưng. Chúng vô cùng xảo quyệt trong việc che giấu của cải và bộ mặt thật của mình. Nhiệm vụ của các đồng chí là phải tìm ra chúng. Tìm bằng hết, bằng mọi giá!"

Mọi người đưa mắt nhìn nhau. Làng Vĩnh Lộc xưa nay thuần nông mà ruộng thì vẻn vẹn một dải đất trũng dọc theo Kênh Nhà Lê. Phần lớn dân làng phải làm thuê, cấy tô cho thiên hạ, cả làng giỏi lắm chỉ chục nhà có được dăm sào ruộng, tức là nếu không mất mùa thì vừa đủ ăn. Tìm đâu ra mười gia đình địa chủ bây giờ? Lại phải cường hào gian ác! Một vài người tỏ ý băn khuăn, liền bị Ông Mao Chủ Tịch Dạy đè dập ngay bằng cách nói, bàn tay phải vẫn luôn chém vào không khí, rằng dân Trung Quốc cũng nghèo như ta, nhưng do lập trường vững và giác ngộ cao, nên họ vẫn tìm đủ con số năm phần trăm ấy, nhiều nơi còn vượt kế hoạch. Hay lập trường giai cấp các đồng chí thấp? Không, tất nhiên, không, mọi người hùng hổ đáp. Có anh còn lấy làm ngạc nhiên rằng làng mình nhiều địa chủ thế mà xưa nay không biết. Thế là người ta ra nghị quyết nhất định phải đạt hoặc vượt chỉ tiêu được giao.

Khi giải tán, Ông Mao Chủ Tịch Dạy bảo cô Ba (Ba Héo) ở lại. Cô này đang là đối tượng kết nạp Đảng nên hăng lắm, suốt ngày lăng xăng bên mấy ông bà cán bộ xã, bỏ cả việc học chữ và cơm nước cho ông bác đeo kính.

"Đồng chí Ba, ông bác của đồng chí thế nào?"

Cô Ba Héo chúm miệng vắt nước trầu, quệt vào vạt áo:

"Báo cáo, vẫn như mọi ngày. Chỉ đọc sách rồi ngồi thừ người ra".

"Ngồi thừ người ra nghĩa là thế nào? Mà đọc sách gì?"

"Toàn sách Tây, tôi không biết. Đọc rồi ngồi thừ ra suy nghĩ. Thỉnh thoảng chép miệng".

"Toàn những dấu hiệu đáng ngờ. Cô phải luôn để mắt theo dõi. Ông ấy theo cách mạng cả chục năm nay mà vẫn không bỏ được thói xấu đọc sách và suy nghĩ. Chẳng trách bị tống về quê. Mao Chủ Tịch dạy ta không được một phút lơ là. Kẻ thù có thể ẩn nấp dưới những vỏ bọc vô hại nhất, có thể chính là người thân của chúng ta. Tuyệt đối không để tình cảm riêng tư làm sói mòn giác ngộ giai cấp. Đồng chí nhớ thấy gì báo tôi ngay".

Ông nhìn bà cách mạng trẻ đang nhổ toẹt bãi nước trầu xuống nền nhà, khó chịu nói tiếp:

"Theo tôi đồng chí nên giảm bớt, bỏ được càng tốt, cái thói quen ăn trầu luôn miệng ấy đi. Đó là tàn dư của nông thôn lạc hậu. Mà rồi cũng không nên phô vú ra như thế. Đó là một biểu hiện xấu của bọn tư sản đồi trụy. Bên Trung Quốc người ta nịt chặt, phẳng lì như đàn ông".

Từ đó cô Ba Héo có ngực phẳng lì như ngực đàn ông, là điều khiến cô càng gầy và xấu hơn. Nhưng thói ăn trầu và nhổ bậy thì cô không bỏ được, một phần vì cách mạng cũng không quá khe khắt về việc này.

"Thằng Nhất vào đây tao bảo!" có giọng nói ồm ồm từ phòng trong vọng ra, khi cô Ba Héo đã ra về và Ông Mao Chủ Tịch Dạy đang mở xắc-cột lấy tập giấy gì đó định đọc.

Đó là ông cụ bố ông. Ông cụ vẫn ăn nói kiểu ấy với con trai, bất chấp tuổi tác và chức vị của ông ta. Ông ta khó chịu lắm nhưng không làm được gì, chỉ còn biết yêu cầu bố nói nhỏ để người ngoài không nghe thấy.

"Tôi hỏi anh. Anh khoe đi Trung Quốc mấy tháng học hành cái gì bên đó, để bây giờ về làng làm thế à?" Ông cụ cao giọng, lúc ấy đang ngồi uống nước chè xanh trên chiếc chõng tre.

"Bố nói gì con không hiểu. Làm thế là làm gì?"

"Là bắt phải moi ra những mười gia đình địa chủ ở cái làng nghèo rớt mồng tơi này. Ở đây không có ai địa chủ cả. Chuyện khôn không học, lại học điều quái đản gây thù hằn, chém giết lẫn nhau. Mà giả sử tìm được địa chủ, chúng mày định làm gì họ? Bắn hết à?"

"Chuyện ấy để còn xem. Cách mạng sẽ phán xử theo đúng tội từng đứa. Đây là việc của con, chuyện lớn, chuyện chính trị, bố biết gì mà nói". Ông con cũng cao giọng.

"Chuyện của mày nhưng làng của tao. Mày đi Trung Quốc, còn tao thì suốt đời ở đây. Ai thế nào, làm gì, tao không biết hơn mày chắc? Nếu mày bảo đó là cách mạng thì tao không cần cái cách mạng ấy. Nghe chưa? Đất nước được tự do, độc lập là tốt rồi. Bây giờ chúng tao muốn được yên ổn làm ăn. Tao không muốn cảnh đấu tố, bắn giết loạn xạ như ở Đô Lương, Yên Thành. Lại càng không muốn mày, thằng con tao, làm điều đó, ở đây, trên mảnh đất đã đẻ ra mày!"

"Bố im đi. Phản động hay sao mà dám ăn nói thế!" Ông con quát, giận sùi cả bọt mép.

"Nếu thế là phản động thì tao là phản động đấy. Bắt tao đi! Bắn tao đi!"

"Không phải thách. Mao Chủ tịch dạy..."

"Cút mẹ mày đi với Mao Chủ tịch! Nó dạy mày ăn cứt mày cũng ăn à? Nó dạy mày bắn bố mày, dân làng mày, mày cũng bắn à?"

Ông cụ lóng ngóng đứng dậy, tay cầm chặt chiếc điếu cày, nhưng ông kia đã vội bỏ đi, sang ở hẳn bên căn nhà người ta đã chuẩn bị sẵn cho ông.

*

Mọi việc diễn ra nhanh chóng, dồn dập, cứ như bị ma đuổi. Có thể vì Ông Mao Chủ Tịch Dạy muốn giải quyết nhanh chóng ở đây để còn đi chỉ đạo nơi khác vì ông là nhân vật quan trọng. Tối nào dân làng Vĩnh Lộc cũng họp từ bảy đến mười một giờ. Sau đó thì cán bộ làng họp với cốt cán xã và một ông nhà thơ kháng chiến được bổ sung từ Vinh về chỉ đạo cải cách ruộng đất. Họp ở ngôi nhà dành cho Ông Mao Chủ Tịch Dạy, tới hai, ba giờ sáng, có hôm thâu đêm. Cô Ba Héo ngoài việc đóng góp những câu tranh luận hùng hồn còn biết lo món cháo gà và rượu Thọ để mọi người họp xong ăn. Dạo này cô hầu như ít khi ở nhà, có hôm không về ngủ.

Không khí trong làng hừng hực, không ai chạy trên đường mà cứ rầm rập, rầm rập. Các cuộc đấu tố diễn ra triền miên, thường vào buổi sáng khi nạn nhân mới bị bắt, kéo dài đến trưa để sau đó giải đi nơi khác xử án, kết án và thi hành án. Phần sau ít ầm ĩ, không kèn trống và cũng đơn giản, chóng vánh hơn. Các làng bên cũng nhộn nhịp không kém. Cứ như hội, như cơn lên đồng tập thể sặc mùi chết chóc. Anh em, cha con, hàng xóm tố nhau loạn xạ, toàn những điều nhảm nhí ai cũng biết nhưng ai cũng tin hoặc vừ tin. Mặt người nào người ấy đỏ phừng, trừ Ông Mao Chủ Tịch Dạy còn giữ được bình tĩnh. Trẻ con cũng được lôi vào cuộc, và như người lớn, chúng làu làu đọc những lời tố được cán bộ mớm từ trước. Chúng thích lắm, vì không phải đi chăn trâu, vì đôi đứa được gọi bằng đồng chí, được mời tham gia một vở kịch người thật việc thật của người lớn. Lúc ấy tôi mới bảy tuổi, do quá nhỏ và cũng do cả việc bố mẹ, ông bà thuộc thành phần "ưu tú" nhất, tức là nghèo nhất, nên tôi chỉ được diễn vai phụ của đám đông hò hét. May không bị bắt đấu tố ai, nhất là người thân trong gia đình, họ hàng. Đến nay, dẫu đã năm mươi năm trôi qua, nhiều đêm tôi vẫn mơ thấy những cảnh rùng rợn ấy. Và tôi luôn tự hỏi vì sao, để làm gì và bằng cách nào người ta có thể bắt được người dân làng tôi làm được cái điều trái đạo lý ấy.

Ông Đeo Kính bị bắt lúc sáu giờ sáng, khi đang ngồi uống nước, đọc sách và "thừ người ra" như mọi ngày. Ông quen dậy sớm, luôn ngồi ở nhà không đi đâu, nhiều hôm đóng kín cửa để khỏi nghe, khỏi thấy những gì đang diễn ra bên ngoài.

Chính thức ông bị buộc tội là địa chủ (không có từ cường hào gian ác), và làm gián điệp cho nước ngoài. Bằng chứng không thể chối cãi là trong nhà ông có mấy cuốn sách chữ Tây (sách triết học phương Tây trong đó có cuốn Tư bản luận đại cương của Cac Mac và ít sách văn học), mấy tờ giấy ông ghi những câu tâm đắc khi đọc, và khoảng mươi bức thư vợ con ông gửi. Tất cả bằng chữ Tây, và vì không ai biết đọc thứ tiếng ấy nên mặc nhiên chúng là tài liệu gián điệp. Ngoài ra ông còn bị buộc thêm một tội nữa, tội này còn lớn hơn mặc dù không được đọc to, không có trong giấy tờ - ông là người có học.

Đêm trước khi quyết định bắt, Ông Mao Chủ Tịch Dạy nói với mấy ông bà cốt cán:

"Mao Chủ Tịch dạy: Trí thức chỉ là cục cứt. Mà cứt thì thối, phải hót đi. Còn cương lĩnh Đảng ta thì Trí Phú Địa Hào đào tận gốc trốc tận rễ, quên rồi à? Thằng này đáng ngờ lắm. Thử hỏi hắn đọc sách làm gì? Đọc rồi ngồi thừ suy nghĩ. Sao phải suy nghĩ? Suy nghĩ gì nếu không phải tìm cách phá hoại, tìm cách chống Đảng, chống cách mạng?"

Ông hùng hồn chém tay vào không khí rồi quay sang cô Ba Héo:

"Theo tôi, đồng chí Ba đã mất cảnh giác khi đồng ý để hắn dạy chữ. Bọn trí thức là thâm lắm. Chúng muốn đồng chí biết chữ rồi đọc sách, rồi suy nghĩ, và cuối cùng là mất lập trường giai cấp. Mất lúc nào không biết. À mà đồng chí nhớ cách tôi dạy đồng chí đấu tranh với hắn thế nào rồi chứ? (Cô Ba Héo ngừng nhai trầu đáp 'Thưa thủ trưởng nhớ ạ". Dao này tự nhiên cô thích dùng cách xưng hô ấy, như thể cô đã là người của cơ quan nhà nước). Sáng mai cô cứ thế mà làm. Tuyệt đối không được để tình cảm riêng tư chi phối. Mao Chủ tịch dạy vì sự nghiệp của giai cấp, người cách mạng phải biết tàn nhẫn, thậm chí cả với cha mẹ mình chứ chưa nói chú bác".

Hôm sau Ông Đeo Kính bị cô cháu tố là đã hiếp cô ta đúng 124 lần trong vòng ba tháng kể từ ngày ông dụ dỗ cô về ở chung. Chính xác chừng ấy lần vì cô ghi đầy đủ (cô quên rằng cô không biết chữ và trong khoảng thời gian ấy chẳng mấy hôm ở nhà). Vâng, hắn hiếp dã man như một tên trí thức đồi trụy.

Ông Đeo Kính bị trói quặt hai tay về phía sau, vào chiếc cột chôn ở sân đình. Chiếc kính của ông bị một anh dân quân lột khỏi mắt rồi dẫm nát dưới đôi chân trần to bè của mình. Suốt buổi đấu tố, từ chín giờ sáng đến hơn mười một giờ, ông im lặng không nói gì. Mái tóc bắt đầu đốm bạc dính bết trên trán, vì mồ hôi và vì cả những bãi nước bọt người ta nhổ vào ông. Đôi mắt ông thật buồn, ngơ ngác nhìn đám người rách rưới điên khùng đang la ó xung quanh. Tôi cũng có mặt hôm ấy, và mặc dù không hiểu gì, mặc dù nghĩ ông là một tên phản động, tôi vẫn cứ thấy thương thương thế nào.

Đứng chạng chân trước mặt bác mình, bộ ngực bằng phẳng kiểu Trung Quốc ưỡn về phía trước, cô Ba Héo chuyển sang phần tố ông làm gián điệp.

"Ngày nào, đêm nào tao cũng rình mày, thấy mày viết báo cáo cho bọn gián điệp nước ngoài, rồi nhận chỉ thị của chúng. Rồi mày bật điện đài bấm tích tích tè tè liên lạc với chúng. Có đúng thế không?"

Người bị tố gật đầu.

"Rồi mày nhận tiền công của chúng. Hàng tập dày tiền đô-la. Phải dày thế này... - cô ta gang tay cho mọi người xem. - Có đúng thế không?"

Gật đầu.

"Thế mày giấu tiền ở đâu? (Im lặng). Mày chôn dưới gầm giường phải không? Và cả ngoài vườn nữa?"

Gật đầu.

Thế là rõ. Một tên phản quốc nguy hiểm đã bị vạch mặt. Bây giờ người ta tố hắn về tội địa chủ. Cô Ba Héo mệt nên người khác làm chuyện này. Nhiều người sẵn sàng tố. Bằng chứng là trong khi cả làng đói ăn thì hắn vẫn có gạo, rau, nhiều khi còn cá thịt. Vậy thì hắn phải là địa chủ, phải nhờ bóc lột mà có. Sau đến lượt trẻ con thi nhau tố ông khi dạy chữ đã đánh đập chúng chết ngất bằng đòn gánh và cán cuốc. Một đứa bé gái nói ngày nào ông cũng sờ bướm nó. Nói chung chúng tố hăng lắm, có điều đôi đứa do quên hoặc do lập trường giai cấp chưa vững nên đã lễ phép thưa 'Con chào thầy ạ' trước khi tố.

Như nhiều người khác trước đó, ngay chiều hôm ấy ông bị đem đi bắn ở Đồng Chùa. Khi vực xác ông dậy để đem chôn, người ta thấy một cuốn sách nhỏ từ trong ngực ông rơi ra. Đó là cuốn "Discourse en Method" của René Descartes. Đó là cuốn sách khổ nhỏ, giấy vàng úa và nhàu nát. Chẳng biết ông giấu nó trong ngực để làm gì. Một viên đạn bắn xuyên qua nó trước khi vào tim ông. Một anh nông dân nhặt nó lên, lật giở đúng trang có câu "Cogito, ergo sum" bằng tiếng La-tinh và câu "Je pense, donc je suis" tiếng Pháp. Cả hai đều có nghĩa "Tôi tư duy, nghĩa là tôi tồn tại", đều được ông gạch chân tô đậm và đánh một dấu hỏi lớn bên cạnh. Anh nông dân mù chữ không biết tiếng Pháp, lại càng không hiểu ý nghĩa luận đề nổi tiếng này của nhà tư tưởng Pháp vĩ đại. Còn dấu chấm hỏi lớn của tên phản động thì đơn giản anh ta không thèm để ý. Trước khi xử bắn, người ta đã lục túi và tìm thấy một cuốn sách, cuốn "L'esprit du lois" của Montesqieu. Nó cũng bị vứt cho trẻ con chia nhau làm giấy dán diều.

Ông Đeo Kính không có được cái may như anh Bính nửa tháng sau đó. Anh này là đảng viên cốt cán, không hiểu thế nào bị tố oan thành địa chủ, kẻ thù của cách mạng, và cũng bị xử bắn tại Đồng Chùa. Đúng khi dân quân dương súng lên cò thì có người từ huyện về thông báo quyết định sửa sai. Giữa đường xe đạp người này hỏng, may sửa nhanh nên mới kịp.

Đôi điều nói thêm về các nhân vật trong câu chuyện này.

Ông Mao Chủ Tịch Dạy rất hậm hực về việc dù được ông đích thân chỉ đạo, làng vĩnh Lộc vẫn không đạt chỉ tiêu tìm ra mười tên địa chủ và phản động. Tuy nhiên, khi có chủ trương sửa sai, ông lại khoe rằng chính nhờ ông tỉnh táo, linh hoạt nên dân làng mới chết ít thế. Ông được khen, được đề bạt, sau này làm to lắm, đến mức suýt được chôn ở nghĩa trang Mai Dịch, Hà Nội, vốn chỉ dành cho lãnh tụ, nếu ông không dính vào một vụ tham nhũng tai tiếng. Người ta định đưa ông về mai táng trong nghĩa trang dòng họ mình ở Rú Thần nhưng ông trưởng họ, vốn có người thân bị ông hãm hại, nhất định không chịu. Thành ra bây giờ xác ông vẫn nằm đâu đó ở xứ người. À quên, trước đó vì giận bố, vì muốn đạt chỉ tiêu, Ông Mao Chủ Tịch Dạy đã đưa cụ vào danh sách địa chủ, có điều dặn kỹ các cán bộ cốt cán không tổ chức đấu tố, không tra tấn và tất nhiên không xử bắn.

Cô Ba Héo được kết nạp Đảng, không mảy may ân hận về việc làm của mình với ông bác, và mặc dù bị hiếp dã man tới chính xác 124 lần, cô vẫn lấy được chồng, lấy ông nhà thơ cán bộ đội cải cách được điều từ Vinh về. Ông này luôn mặc cảm với cái danh nhà thơ của mình (cũng một dạng trí thức), nên quyết định lấy bà nông dân để tăng sức nặng cho lý lịch. Họ mới chết cách đây không lâu, chết già, trong tiếng khóc thương tiếc của cháu con và lời chia buồn chân thành của cơ quan, đồng nghiệp. Báo tỉnh in cáo phó cả hai người như hai cán bộ cách mạng lão thành đáng cho lớp trẻ noi gương phấn đấu, vì trước khi về hưu, bà là phó chủ tịch hội phụ nữ tỉnh, còn ông,trước đó về hư với chức phó chủ tịch hội văn nghệ tỉnh.

.

Anh Bính may mắn thoát chết trong gang tấc, nhưng đời anh sau này cũng lắm nỗi long đong. Số là sau sửa sai, người ta cho khôi phục đảng tịch nhưng anh không nhận. Từ đó bị coi là kẻ bất mãn. Rồi bị tù ba năm vì tội dùng dao thái thịt rạch miệng một đứa từng tố gian anh. Rạch đúng mỗi bên năm phân như biên bản vụ án ghi rõ. Ra tù, anh trốn vào Nam, có người nói bỏ xác ngoài biển, cũng có người nói anh đang ở Mỹ hay Canađa gì đó.

Ông Đeo Kính được minh oan như nhiều người lúc đó. Có một điều lạ là khoảng chục năm sau, bà vợ người Pháp của ông về làng, thuê người bốc mộ ông rồi đem đốt hài cốt cho vào lọ mang về Pháp mà không xây cho ông một ngôi mộ nào, dù tượng trưng, trong nghĩa trang liệt sĩ của xã. Mọi người ngạc nhiên hỏi vì sao, bà chỉ đáp: "Ông ấy muốn thế".

Hà Nội, 7. 8. 2004

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro