Truyen ngan1-Lenghiabk05

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Nồi cháo trắng

Đầu tháng bảy âm lịch năm nay, tôi trở về nhà chú Chín tôi ở Rạch Lùm để dự 

ngày giỗ nội.

           

Bà nội tôi vốn là người tu tại gia, ăn chay trường, nên đám giỗ chỉ cúng toàn đồ chay. Cuộc sống ngày càng khó khăn nên việc cúng quải ông bà cũng càng đơn giản. Chú tôi cũng không mời ai cả, chỉ có bà con trong thân tộc tự giác đến, mỗi người mang đến một ít rau cải, trái cây, họp lại nấu thành vài món đồ chay như: đậu đũa hầm dừa, đu đủ kho, canh khoai nấu dừa, dầu dừa xào bắp cải… rồi dọn ra bốn mâm, con cháu ra đứng sắp hàng mỗi người thắp một nén nhang tưởng niệm. Sau đó, hai mâm được dọn ra hai bộ ván nhà trên, một bên dành cho cánh đàn ông thuộc hàng chú bác, một bên dành cho cánh thanh niên trong cánh anh em con chú con bác chúng tôi. Còn lại hai mâm dọn ra nhà sau cho cánh đàn bà, con nít.

Đang lúc uống rượu cườm cườm, bỗng có tiếng dượng Ba tôi từ mâm bên kia gọi sang:

           

- Ê, thằng Sanh, năm nay, thằng Tư 

Ngạn nó về rồi đó nghe mậy.

           

Hai Sanh buông đũa quay sang nói:

           

           

- Nó về thì kệ nó chớ, ăn thua gì với tôi. Tưởng ai chớ thằng Tư Ngạn, tôi chấp nó câu trước tôi nửa ngày.

           

- Ai mà chẳng biết nó câu dở hơn mày, tao muốn nói đây là để tụi mình cảnh giác cái tật câu trộm đìa của nó.

           

- Thằng nào câu trộm đìa thì bị khất nhượng ráng chịu chớ dượng lo gì.

           

Ở xứ này có hai người câu cá rô nổi tiếng là Tư Ngạn và Hai Sanh. Hai Sanh là con bác Năm tôi, còn Tư Ngạn là dân miệt trên về đây lập nghiệp. Nói là lập nghiệp chớ thật ra sự nghiệp của Tư Ngạn chẳng có gì ngoài chiếc cần câu cá rô để nuôi vợ và tám đúa con. Cách đây năm năm, vào tháng chạp, Tư Ngạn câu trộm đìa ông Tám Trân bị bắt quả tang. Hôm ấy nếu không có mấy người thợ gặt xung quanh đến can kịp thì chắc Tư Ngạn đã bị hai đứa con trai ông Tám Trân nhận nước dưới đìa.

           

Từ đó, hễ mỗi lần Tư Ngạn vác cần câu ra khỏi nhà thì bị người ta hỏi:

           

        

- "Ê, bữa nay định câu đìa ai đó mậy?".

           

Tư Ngạn cúi đầu xấu hổ. Cái tài câu cá rô 

đã từng là niềm kiêu hãnh của anh bây giờ đã trở thành xấu hổ. Sau cái tết năm ấy, vào một buổi sáng, người ta phát giác cái chòi của Tư Ngạn trống hoang, nằm há mồm bên bờ lung chuối.

           

Còn lại một mình Hai Sanh độc quyền nổi tiếng ở xứ Rạch Lùm.

Sau sự kiện Tư Ngạn là một niềm vinh quang đối với Hai Sanh sau cuộc thách đố với dượng Ba tôi.

           

Sáng hôm ấy, dượng Ba tôi qua nhà Hai Sanh mua cá về nấu cơm cho công gặt, ông nói:

           

- Thằng Tư Ngạn mắc cỡ quá nên nó bỏ xứ rồi, còn mày, muốn ở xứ này thì đừng có câu trộm đìa người ta nghe mậy.

           

Dượng Ba tôi nói chơi nhưng làm Hai Sanh bị tự ái, anh nói như trách:

           

- Xin lỗi dượng, tôi đành câu đìa là một ngày mười ký lấy lên chớ không phải vài ba ký quèn như thằng Tư Ngạn đâu.

           

- Nói trời hoài mậy.

           

- Tôi nói thật, dượng dám thách cho tôi câu đìa dượng hôn. Tôi câu xong rồi dượng cho tát, nếu còn được một ký cá rô, tôi để xứ này cho dượng ở.

Dượng Ba tôi vốn mê đá gà nên cũng ham thách đố.

           

Chiều hôm ấy tại nhà chú Chín tôi, cuộc thách đố được giao kèo có nhiều người chứng kiến: Nghĩa là sáng ngày mai, Hai Sanh sẽ ra câu đìa dượng Ba tôi, hai ngày sau, gặt hái xong dượng Ba tôi thuê máy tát đìa, nếu trong đìa còn hơn một ký cá rô thì Hai Sanh 

sẽ trả lại toàn bộ số cá câu được, còn nếu đúng như Hai Sanh nói, nghĩa là còn dưới một ký cá rô thì chẳng những anh hưởng trọn phần cá câu được mà dượng Ba tôi còn phải chịu thêm cho anh con cá lóc lớn nhất dưới đìa.

           

Sáng hôm sau, Hai Sanh bắt đầu câu cá trong sự hồi hộp của mọi người. Đến hai giờ chiều, anh xách hai thùng cá vô nhà, chị tôi lấy cân ra cân được mười ba ký rưỡi. Hai Sanh rọng đó chờ, đến hai ngày sau, dượng Ba tôi tát đìa lên chỉ toàn cá lóc, cá trê và cá bổi. Cả nhà dượng Ba tôi cố gắng quần bắt đến nhão nhừ, chỉ được 

bảy con cá rô.

           

Sáng hôm sau, chị Hai chở hai thùng cá rô sang trả lại cho dượng Ba tôi nhưng ông không nhận nên chị chở luôn ra chợ huyện 

bán lấy tiền sắm đồ Tết cho con. Chiều hôm ấy, dượng Ba tôi lựa hai con cá lóc lớn nhất mang qua nhà Hai Sanh, ông nói:

           

- Con này tao thua tao trả, còn con này tao thưởng cho mày. Đồ cái thằng sát cá! - Vợ thằng Hai đâu, bây lên cò nhỏ hai con cá này rồi luộc hèm cho tụi tao nhậu một bữa coi.

           

Năm năm trôi qua, sự kiện ấy vẫn còn để lại trong lòng Hai Sanh niềm tự hào man mác, mặc dầu cái tài câu cá của anh không làm cho cuộc sống của anh khá hơn năm năm trước. Phải, làm sao khá hơn được khi lượng cá đồng mỗi năm một 

giảm mà gia đình anh mỗi năm thêm một miệng ăn.

           

Hôm nay, dượng Ba tôi báo tin Tư Ngạn trở về, niềm tự hào trong Hai Sanh bỗng bốc lên. Anh uống cạn ly rượu rồi nhổm người lên nói:

           

- Nè dượng Ba, dượng có gặp thằng Tư Ngạn, dượng nói với nó là câu đìa thì phải câu như tôi vậy mới oai, chớ câu kiểu nó thì đừng có về xứ này nữa.

           

- Sanh à - Dượng Ba tôi nói - Ở đây bà con không hà, mày nói thiệt coi mày có câu mồi thuốc hôn?

           

- Không, tui thề danh dự với dượng là tui chỉ câu bằng trứng kiến vàng hoặc ong vò vẽ non, nếu tui có câu mồi thuốc cho ôn binh đại an vật tui cũng được.

           

Anh Tư Đức, con cô Tư tôi, khều Hai Sanh nói:

           

- Mày nói ong vò vẽ non tao mới nhớ, sau vườn chú Chín có cái đồn bự quá trời.

           

- Thiệt hôn? Ở chỗ nào?

           

- Trên nhánh xoài ở đầu ao Cây lụa.

           

- Đồn mấy lỗ châu mai?

           

- Ba lỗ.

           

- Vậy là ngon rồi, tối nay mình đánh đồn nấu cháo ong non đãi thằng Năm một trận.

Thằng Năm, mày biết ăn thứ đó chưa?

           

Tôi trả lời:

           

- Dạ chưa biết.

           

- Chưa biết thì tối nay ăn cho biết. Ong vò vẽ non mà nấu cháo dừa thì tao nói thiệt với mày, thấy mà hổng ăn thì 

chết còn sướng hơn.

           

Bỗng có tiếng thằng Út la vang ngoài vườn:

           

- Ba ơi , xe tăng, xe tăng.

           

Rồi nó ôm vô con rùa vàng chừng hơn một ký lô, làm cho cả nhà xôn xao. Bác Năm tôi nói:

           

- Tháng này mà lên bờ làm ổ đẻ!

           

Hai Sanh cãi:

           

- Đâu phải ba, tại bà nội thấy mình nhậu đồ chay tội nghiệp nên bà khiến nó lên nạp mạng đó chớ - Rồi anh quay vào trong gọi chị Hai - Má thằng Lành đem con rùa đi làm nồi da xáo thịt, nhanh lên?

           

Mấy phút sau, chị Hai mang ra cái lò nhỏ hừng hực than, cái mu con rùa lật ngửa lên, đặt trên lò làm cái nồi nấu thịt. Hai Sanh mời mấy ông già sang chơi, nhưng bác Năm tôi nói:

           

- Mình chơi kiểu này xỉn rồi làm sao tối nay đánh đồn được tụi bây?

           

- Tối nay không được thì tôi mai chớ gì - Anh Tám Bành con Bác Hai tôi - nói.

           

Hai Sanh hỏi tôi:

           

- Chừng nào thằng Năm mày về?

           

- Dạ sáng mai em về.

           

- Vậy thì không được. Để tao tính coi, bây giờ mà nghỉ chơi chờ đến tối thì phí quá, còn chơi nữa thì tối xỉn mất mẹ rồi. Lâu lâu thằng Năm về mà không đãi nó nồi cháo ong thì uổng lắm. Bây giờ, mình mở chiến dịch đánh đồn giữa ban ngày.

           

Chị Hai đứng ở cửa buồng nói ra:

           

- Tài khôn nữa à, bữa hổm bị mấy chục vít chưa tởn hả?

           

- Bữa 

hổm tại tui chưa có kinh nghiệm, bữa nay tui biết cách rồi. Bà yên chí.

           

- Tui đã nói không được nghen, cái thứ xỉn xỉn vô rồi hăng máu có ngày bỏ mạng.

Hai Sanh vừa nhảy xuống đất vừa nạt vợ:

           

- Đàn bà 

mà biết cái quái gì - Anh quay sang chúng tôi - Tụi bây, thằng nào ra tháo cây sào quần áo làm móc - Hai Sanh lấy chiếc chiếu cột túm một đầu. Xong, anh bảo chị Hai:

           

- Bà đi bắt nồi cháo lên đi, biểu đứa nào lột trái dừa.

           

Chị Hai đành phải làm theo.

           

           

Hai Sanh ôm chiếc chiếu và vác cây sào ra vườn. Đến ngồi gần ổ ong, anh trùm chiếc chiếu lên đầu và lội xuống ao. Lúc ấy không còn nhìn thấy Hai Sanh mà chỉ thấy giữa ao một đầu chiếu túm lại nhô lên mặt nước.

Mấy đứa con nít kéo ra đứng ở đầu ao hồi hộp chờ xem. Tư Đức nắm tay tôi nói:

- Tao với mày lại xích đằng kia coi mới đã.

           

Chúng tôi núp dưới đám sậy cách tổ ong chừng ba chục mét. Tư Đức co hai bàn tay đưa lên mắt và nói:

           

- Mình làm phóng viên quay phim nghen.

           

Cái ổ ong bằng hai cái thúng táo vàng quánh và quằn quện như da cọp trên nhánh cây, chừng vài chục con ong bò ra bò vào ở mấy lỗ cửa.

           

Hai Sanh nhón người lên đặt cây móc cẩn thận, chắc chắn ở kèo ong rồi anh thu người nhỏ lại trong chiếc chiếu. Xong, anh giật mạnh cây móc, nhánh xoài oằn xuống, đàn ong túa ra đen nghịt một vùng trời. Cái kèo ong cứ đùng đưa, đùng đưa không chịu gãy. Đàn ong tủa xuống vây quanh Hai Sanh. Thoáng chốc, chúng bu nghẹt trên đầu chiếu. Hai Sanh như không hay biết gì cả, anh cứ ghịt mạnh cần móc và cái ổ ong cứ đùng đưa.

           

Bất giác, tôi nghe cái bốp trên mí mắt phải, rồi một cái nửa trên lưng. Tôi hốt hoảng và biết ngay chuyện gì xảy ra, tôi co giò chạy. Tư Đức cũng tức tốc chạy theo, anh vừa chạy vừa la:

           

- Chết mẹ, nó đánh, nó đánh.

           

Mấy đứa con nít ở đầu ao bên kia vỗ tay hô đồng thanh:

           

- Vô! Vô! Vô!

           

Anh Tư Đức quát:

           

- Đứa nào đi bứt cọng môn nước cho tao! Vô cái gì mà vô, người ta đau chết mẹ mà tụi bây vui lắm hả?

           

Chúng tôi thoa môn nước lên chỗ ong đánh và chạy lại đầu ao nhìn Hai Sanh, bỗng thấy anh đang cựa quậy trong chiếc chiếu, cái ổ ong vẫn còn nguyên đó và cây móc thì treo lủng lẳng trên nhánh xoài. Đàn ong đớp nghẹt trên đầu chiếu.

           

Chiếc chiếu bỗng hụp lên hụp xuống rồi trườn một đường dài dưới ao, dạt bèo qua hai bên mé. Trườn được một đoạn, Hai Sanh bỏ chiếu, lặn một hơi dài rồi nhảy qua bờ ao, luồn qua đám lau sậy, đàn ong vẫn đuổi theo.

           

Chừng năm phút sau, Hai Sanh chạy về, hai mí mắt sưng húp, anh vừa thở vừa nói:

- Đù mẹ, cái nhánh xoài dai quá mà mình lại giựt theo bề xuôi nên giựt hoài không gãy. Hồi nãy tao cột đầu chiếu không kỹ nên mấy con ong nó chui vô làm tao hết năm sáu vít.

           

Chị Hai chạy ra bứt môn nước thoa cho anh, ánh mắt chị nhìn chồng có vẻ vừa thương vừa giận:

           

- Tui đã nói mà không chịu nghe. Một hồi nữa ông vô ăn hết cái nồi cháo trắng cho tôi.

Ba anh em tôi nhìn nhau, mặt đứa nào cũng sưng vù, nặng trịch và nhức nhối. Hai Sanh nhìn lại cái ổ ong, đàn ong đã bay về vây quanh như mừng cho sự an toàn sau trận đánh. Hai Sanh lên án:

           

- Chưa yên đâu con, tao hẹn với mày cho chuyến câu cá rô sắp tới.

           

Chúng tôi trở vô nhậu tiếp nửa con rùa còn lại, Hai Sanh nói:

           

- Tại mình nóng ruột mới nông nổi này, chớ đánh nó ban đêm chỉ cần nửa lít đầu lửa là tôi diệt gọn.

           

 Sáng hôm sau, tôi từ giã Rạch Lùm, mang về cái mặt không giống ai, cái mặt sưng vù, nặng nề và nhức nhối. Chỉ vài ngày nữa, nó trở lại bình thường, nhưng kỷ niệm thì chắc không thể nào quên được.

MÓN  

NỢ  

NGÀY  

CUỐI  

NĂM

                            

                                 ĐỖ NHỰT THƯ

   

Trưa 28 tết

 màu trời xanh pha trắng dịu dàng, hơi lành lạnh, trời đất như ban tặng cho con người một cõi yên bình sau một thời bão giông, sóng gió như quy luật của muôn đời.

   

Ngôi nhà vừa uy nghiêm vừa mềm mại khá thoáng đãng của Thứ năm nay không thấy sơn sửa, mua sắm gì, chỉ có cây mai đang nở những cánh vàng thanh tao tỏa hương thoang thoảng.

   

Sau mâm cúng đất đai, gia đình gã tụ họp ăn bữa cơm đoàn tụ cuối năm

- Ủa, sao năm nay con không mời láng giềng, bạn bè ? – Ba gã cất tiếng

  

Gã gượng gạo:

- Không, ba ạ.

Ba gã tiếp:

- Năm nào con cũng làm 5, 7 mâm, rượu ngoại, bia lon, ba vui quá ,

Trời quả báo đó ba – vợ gã nối lời – đại bàng gãy cánh rồi. Hào hoa cho lắm giờ …

Em – gã nhăn mặt – Thôi ta ăn cơm đi. Mời ba

  

Nhìn quanh phòng khách, nhìn vợ con, rồi nhìn ra sân … gã cố nén tiếng thở dài buồn bã

Sao vậy con ? – Xã Thi 

lại hỏi

Năm nay làm ăn bị lỗ nặng ba à, lo trả nợ 

đến nẫu ruột, vui gì ba

  

Ba gã nhướng mắt ngạc nhiên, thằng con có tiếng giỏi giang, làm cả nhà vinh dự mà sao …?

Giá cả tăng gấp rưỡi, giá nhận thầu xây dựng thấp. Kinh doanh mà ba. May mà con đã căn cơ, quản lý

tốt, trên thanh toán 8 phần con đã trả nợ được 8 phần, chứ không thì chừ đâu được ngồi ăn cơm với gia đình như ri.

 

Ba gã ngạc nhiên:

- Thì giá lên trên biết họ phải trả lại cho mình chứ ?

Mọi việc ở đời không đơn giản thế đâu ba. Thôi cho qua đi. Nào ta ăn đi chứ ? Xin chúc mừng một năm 

khỏe mạnh, bình an. Mời ba, mời cả nhà nâng ly.

  

Ba mình đã tám mươi, cụ làm sao hiểu được những dích dắc của thời này. Thời buổi người người lao vào vật chất như những con thiêu thân. Gã thở dài - bất hạnh cũng từ đó mà ra, dù miệng ai cũng thơn thớt nghĩa nhân, chúc nhau hạnh phúc.

… Chiếc pick-up thắng k...rét trước nhà gã, Phú, bạn cùng nghề với gã vào cùng một tên bậm trợn. Gã thoáng tái mặt, bỏ đũa bước ra:

Chào anh . Mời ngồi uống nước

Ông Thứ. Tôi không uống. Ông cho tôi lấy 20 triệu còn nợ .

Anh Phú, nợ anh chừng 100 triệu, tôi đã trả anh 80 rồi, trên mới thanh toán có 80, mong anh thông cảm.

  

Phú:

- Ông nói hay chưa, nợ phải trả trước tết chứ ? Trên nợ anh tôi không biết, anh nợ tôi thì anh phải trả.

Nhưng chúng ta là dân kinh doanh, tôi đã hợp đồng với anh Hội, phó của anh trước kia rồi. Bên A thanh toán cho tôi bao nhiêu phần thì tôi sẽ trả anh bấy nhiêu mà.

Hội là bạn thân gã. Xây dựng nhiều công trình, thiếu xe máy gã hợp đồng miệng thuê xe máy của

 Hội, Phú.

Phú tráo trở:

- Tôi là thủ trưởng, anh Hội nói không có giá trị.

   

Tên vệ sĩ gườm gườm nhìn gã.

 Thấy vợ con bỏ đũa chết lặng gã xót xa đến đắng lòng - thất lý, nhục, buồn … gã muốn mình tan biến đi

 - 

Mai tôi vô. - Phú trở giọng: - Thôi chỗ quen biết 

ông trả 

trước tôi 10 triệu.

  

Phú cùng gã đàn em bước ra, cửa xe đóng sầm, vụt chạy.

 

… Gã thẩn thờ - giờ này còn kiếm đâu 10 triệu mai trả cho hắn

Thôi đừng buồn con, đời có lên có xuống.- Ba gã nhẹ nhàng - Mà sao bây giờ cuối năm họ đòi nợ ghê quá, đối xử với nhau thật tệ, cả năm tất bật đến cái tết cũng không yên. Chẳng như xưa…

Ngày xưa sao nội ?

Ừ, ngày xưa… À, 

nhân việc này ba cũng nên kể cho con cháu nghe chuyện đòi nợ cũng vào dịp giáp tết, cách đây khoảng 60 năm mà ba từng dự vào. Trời ơi ! đến bây giờ mà ba vẫn kính nhớ đến ngài tri huyện ấy.

Tri huyện ? nghe như chuyện ngày xưa ấy, sao có nội ở đó ? Kể đi nội.

                                                

*******

  

Cả bọn vui như tết, tên bắt heo, tên nấu nước, tên mài dao… Cả năm đầu tắt mặt tối, may mà ông bà cho cái tết để ăn chơi một chút đây.

  

Tá Bảy lên tiếng:

- Mẹ ! Nhờ con mẹ nó tần tảo, sớm chiều rau cám mới có được chú trư này ăn tết. Này, các ông, lấy thịt phải tiền ngay đấy nhé, để mẹ nó mua cho mấy đứa nhỏ bộ đồ mới, chúng hỏi mãi nghe xót cả ruột.

Này người anh em, không cần phải đòi. Cùng một cảnh tá điền với nhau cả mà.

  

Con vá sủa giận dữ, cả bọn nhìn ra cổng.

Thằng Bảy ngon hè, làm heo ăn tết. - 

Hương Đinh bước vào cùng tên quản gia lực lưỡng .

Chào ông Hương, mời ông ngồi uống nước – Tá Bảy xun xoe

Thôi, thời gian đâu mà uống nước. Này tá Bảy, trả nợ đây chứ?

Thưa ông Hương, mong ông thương cho gia đình con, sang năm con sẽ trả.

Mày nói thế mà nghe được à.? Làm cả con heo ăn tết, nợ không trả. Con heo này khoảng 10 tiền, mày nợ gốc 10, lãi 6 tháng bằng 6, vị chi 16, mày còn nợ 6 đấy nhé. 

Quản đâu, vác con heo này về nhà.

  

Cả bọn dừng tay sửng sờ, một nỗi uất hận trào dâng. Mẹ nó , chết là cùng chứ gì.

Ông Hương! - 

Tá Năm to giọng - Heo này của bọn tôi, ông không được đụng vào !

Này thằng Năm, mi có tiếng cứng đầu, lý xã đang để ý đó, đừng có xen vào có ngày mọt gông.

Này bọn cường hào, chúng tao không để chúng mày đè đầu cởi cổ mãi đâu – Tá Năm gằn giọng

  

Gã quản gia bước tới, tá Năm thủ bộ, cả bọn xắn tay áo.

Gì mà ồn ào thế?

 À, xin chào ông hương. – trương tuần Ninh cùng hai tuần đinh bước vào, gậy cầm tay 

- Chà , tá Bảy,

 mày ngon nhất xóm nghe.

   

Mẹ, chúng sắp xếp sẵn chứ đâu bọn tuần này đến đúng lúc thế.

  

Tuần Ninh tiếp:

Tôi đi ngang có nghe mọi chuyện. E hèm…

Này các ông. Việt Minh sẽ về lại đấy 

- Tá Năm trừng mắt, tưng tửng.

  

Nghe đến Việt Minh, lão hương, trương tuần, gã quản gia chững lại.

Thôi, chiều nay mời ông hương, tá Bảy ra đình.- Tuần Ninh xuống nước - Tôi sẽ mời ông hương trưởng, lý trưởng đến giải quyết. Mẹ! tết đến nơi rồi mà việc làng vẫn chưa yên.

                 

                                *******

  

 Đình làng chiều 28 sạch đẹp, bàn thờ trang nghiêm, khói hương bảng lảng, cây đa trước cổng đình đang nhú những lộc xanh mơn mỡn. Tiếng lanh canh của mấy cái khánh trên cây nêu dựng giữa đình như thay thánh thần xua đuổi thế lực đen tối cho con người hưởng tết.

  

Hương trưởng bận lễ tộc, hương phó Thâm, xã Thi, trương tuần Ninh, hương Đinh và tá Bảy phân vai chánh thứ ngồi ở ba cái bàn gỗ lim đen bóng nước thời gian, ngoài cửa các con tá Bảy đen điu, áo vá, lấm lét thụt thò .

Xã Thi lên tiếng:

- Chuyện này …lý thì phải trả, tình cũng đáng thương. Ý ông Hương Đinh thế nào?

  

Hương Đinh :

 - Cả xóm này có khó khăn gì cũng chạy đến tôi, ơn đâu không thấy, ai cũng như thằng Bảy thì sao?

 Xin làng phân xử.

Xin thỉnh cao kiến của cụ phó hương .

Phó Thâm:

- Nợ thì phải trả, điều đó đã ghi rõ trong hương ước của làng. Ông lý cứ theo lệ mà xử .

  Tuần Ninh:

Đã sai bét nhè mà cả bọn lại chống đối , không xử nghiêm sẽ loạn cả , thưa ông lý.

 

 Xã Thi phân vân, phó Thâm, tuần Ninh đều là thân tộc của hương Đinh, khó cứu tá Bảy. Nó với mình cùng họ. Làng bầu lên hội đồng kỳ hương, lập hương ước, hội đồng chọn ta vào ủy ban quản trị để chấp pháp, nhờ nhà ta cũng võ vẻ ba chữ thánh hiền, lời cha ta dạy: “

làm việc nhân nghĩa để yên dân

” ta vẫn lấy đó làm câu tâm niệm. Lão Thâm học hành chẳng ra gì chỉ nhờ cái miệng dẻo, họ tộc lớn mà vào ghế hương phó. Ta cũng từng tham gia Việt Minh, họ lo cho bọn bần nông này thế nào ta đã biết, họ đang mạnh, tương lai không khéo họ lật cả nhà vua, Bảo Đại chỉ ham chơi, việc nước dựa vào thằng Pháp, bọn nó đang núng thế, bị bức rút dần khỏi các vùng núi. 

Chà… chà…gay go quá, ta không khéo thì cũng ra ma sớm.

Nào! Mời ông lý quyết đi chứ - phó 

Thâm giục

…Chợt tiếng người lao xao, ba vị dáng nho sĩ bước nhanh gọn vào đình, ngoài sân dân làng í ới, cả bọn ngớ người, thủ thế.

Chào hai ông – tuần Ninh lên tiếng – chẳng hay …

Thưa các vị chức sắc làng Thanh, chúng tôi có việc đi thăm làng ăn tết thôi mà, thấy ngôi đình định vào thắp hương thành hoàng bổn xứ.

  

Phó Thâm ngờ ngợ, bóp trán, ta đã gặp người này ở đâu nhỉ? À chết rồi, tết năm ngoái tại nhà chánh tổng Ba khi mình đi chúc tết làng tổng, lão sụm người:

Dạ. Lạy…lạy quan huyện,…Ớ … chúng con không biết quan vi hành để nghinh… tiếp

  

Cả bọn sững sờ đứng lên vái lạy. Tri huyện Bình thong thả đến ngồi bên hương phó Thâm:

Ta đi thăm tình hình dân chúng ăn tết , tiện thể thăm ông bạn tú Quỳnh làng ta. Nghe ông tú kể chuyện, ta sợ các ông không rành đạo lý xử sai oan cho bá tánh nên phải vào đây xem thử. Nào ông lý! 

Các ông đã quyết thế nào rồi?

Trình quan, chúng con đang phân vân chưa quyết. Lý thì phải trả, còn tình …

Lý nào ? Đạo ! đạo các ông hiểu chưa? Lý từ đạo mà ra. Lý mà không từ đạo là lý cùn – huyện Bình chợt nổi giận như nén sẵn từ lâu - Tiếc là làng các ông tệ quá, 

toàn chọn các phú hào vào hương dịch, có ông tú ở đây mà không biết mời vào. Hay là các ông chê ông ấy nghèo? hay sợ ông ấy sẽ làm tiên chỉ vì đỗ đạt ?

Ông than:

- Có ông tú các ông không cực thế này đâu. Ta hỏi các ông làng dựng cây nêu để làm gì?

Dạ… để đuổi ma quỷ ạ - phó Thâm lí nhí

Đó, các ông mới hiểu một mà không hiểu hai, từ đạo sinh đức nhân mà ông cha ta dạy: từ khi dựng đến khi hạ nêu không được đòi nợ để lòng người được thanh thản hưởng cái tết nhằm 

bù lại một năm lao khổ. Này, ông hương Đinh! ông có biết không?

  

Hương Đinh mặt xanh như lá:

- Bẩm quan, con ngu dốt chưa biết đạo đức, xin quan tha thứ. Nay được quan dạy con như mở mắt ra, đa tạ ơn quan lớn đã chỉ bảo.

  

Huyện Bình cười đứng lên:

- Thế nhé ! ta còn phải đi, cầu chúc cả làng năm mới

 yên vui, thịnh lợi.

                    

                             *******

   

Xã Thi nhìn con cháu, yên lặng

Đúng là người xưa quá trình độ, quá nhân bản… – vợ gã xúc động

Nội, sao thời nay không biết lệ làng, đức nhân hở nội ?

Nội không biết cháu ạ. Này con, ba có dành dụm khoảng 10 triệu phòng hậu sự, con lấy mai trả cho anh Phú đi.

Ba! … – gã nghẹn ngào.

  

Trời vẫn xanh

 bàng bạc hơi xuân, 

không gian nhẹ tênh, hoa vẫn nở theo quy luật đất trời.

Đường phố hối hả tiếng còi xe, chen lấn ồn ào. Họ đang đi về đâu vậy nhỉ ? 

                            

                              Hội An, những ngày mưa lạnh                                                                                                     

                         

                                                   12/ 12/ 11

VỰC Ở PHỐ

                                            TRUYỆN NGẮN CỦA NGUYỄN TRÍ.

      Thức là một thứ rất thiệt ở hẻm sáu mốt.

   Nói là hẻm nhưng bề thế lắm. Sau lên hàng khu phố hẳn hoi. Bốn hướng dân số thuộc loại khủng. Phòng trọ dăm bảy dãy. Tạm trú Nam Trung Bắc, cả Tây Nguyên đều có mặt. Đủ thứ nghề, từ hủ tíu gõ, hột vịt lộn, chưng gai giò, ba bánh đạp, có cả loại...liều phận mình bán nguyệt buôn hoa.

    

Tất cả đều tự xếp mình dưới trướng của Thức.

   Giang hồ nào cũng có cái đệm kèm theo như Tám Thẹo, Bốn Bù Loong, Sáu Vũ Bảo... Thức thì không, trụi lủi. Nhưng anh chị em nhà Thức lại chúa ăn theo. Bụi đời, tạm trú cả thường trú làm ơn đừng đụng chạm tới Thủy Thức, Thưởng Thức, Thọ Thức nếu muốn làm ăn nuôi vợ nuôi con.

   Muốn an lành phải biết. Biết làm sao? Thằng Hải chồng con Ánh Loan miền tây lên. Chạy Honda ôm, không biết luật đóng hụi chết, đã bị đòn còn bị cấm hành nghề, con vợ có tí nhan sắc mang ra làm kế mỹ nhân mới được vô biên chế mà chạy. Ghê ta? Hơn cả ghê, gớm lắm. Xong cái án năm năm tù về tội mua bán tàng trữ ma túy và cầm đầu đâm chém dành lảnh địa, vừa về đến nhà Thức ra một đòn  là cả hẻm tâm phục khẩu phục liền. Đòn gì?  Con Thủy - chị Thức- mua bán nhà giải tỏa lấy tôn, sắt, xà bần bị cạnh tranh bởi một đầu nậu khác. Nghe nói có người ăn hiếp bà chị thân yêu. Thức phê một mũi ma túy, na con rồng xăm ở trong tù, cái đầu ở ngực, đuôi vắt xuống tận chân cùng cái mặt cô hồn mò xuống chổ bán mua. Kẻ cạnh tranh không biết sợ con rồng hay sợ thành tích ở tù bỏ của chạy lấy người ngay lập tức, bọn cò con ăn theo cũng rút lui có trật tự.

   Sự biết điều được tính bằng giấy bạc. Không một nghề nào trong hẽm không đóng hụi chết. Ba bánh đóng tuần, Honda ôm đóng ngày. Nhiều ít tùy vào thu nhập, không luận ai, tất nhiên chừa dân thường trú. Vậy mấy đứa  bán phấn buôn hương đóng cái gì?

    Đóng người. Thức muốn người đẹp nào là má mì phải chiều. Thôi kệ đi - mấy má nói với gà - Chiều nó đi em, với lại nó xì ke ôm ấp cho vui thôi, chả có gì đâu. Ma mì nói để an ủi chớ gà nào qua tay Thức mà không hãi. Đừng nghĩ xì ke không nghĩ đến khoản đó. Chỉ mấy thằng thiếu thuốc mới lo kiếm thuốc, còn Thức là dân mua bán, trong tay luôn đủ và đầy. Gái vào tay nó đâu bình thường như khách tìm hoa. Phê vô Thức hành hạ thế nầy thế nọ như thú vật... Ma mì cũng biết, nhưng làm sao?

   Tạm trú mong Thức bị hốt cốt, nếu cần chết luôn đi cho rồi. Làm ăn khó khăn, tiền nhà, tiền điện nước thêm cái triều cống uất không chịu được. Mong vậy thôi, chứ Thức là con quỷ, tù tội về nó hóa trùm Lu-xi-phe. Buổi sáng Thức nhâm nhi cà phê quán cóc, con nghiện đến giao tiền, rồi tự động đến gốc cây nầy, cục gạch kia lấy hàng. Công an cũng có truy quét, nhưng đành chịu. Bắt được vài thằng dỡ gạch lấy hàng, chưa kịp thu nó đã quăng xuống cống phi tang, đâu có tang vật để truy... Ai dám đứng ra tố cáo Thức mua bán hoặc thu hụi chết? Bằng chứng đâu? Thời nào cũng phải nhân chứng vật chứng, đâu phải ưng sao nói vậy. Có Tề Thiên cũng bó tay.

   -   Chuyện của Ánh Loan vợ Thằng Hải mới tội nghiệp.

   -   Tội nghiệp khỉ mẹ gì, con nhỏ đó ăn theo thằng Thức cũng làm trời làm đất, nói thiệt với ông, gái miền tây....

   -   Nè, đừng có quơ đũa cả nắm, dân miền tây nghe được họ lột da đầu mày liền. Dân nào mà không có người nầy người nọ. Ở đâu cũng có anh hùng. Ở đâu cũng có thằng khùng thằng điên. Ai dám nói Sài Gòn, Huế, Hà Nội không có trời ơi đất hỡi, trong chùa còn có Sư Hổ Mang nói chi đời...

   -   Tui vui miệng nói vậy thôi, ông làm gì dữ vậy, tui xin lỗi được chưa?

   -   Đâu có được, nói phải uốn lưỡi, phải thông qua bộ não chớ. Tao là dân xứ Thần Kinh nè, nghe câu

huế mộng, huế mơ ai ngờ huế... cũng tự ái, nhưng nghĩ lại, cũng có dăm ba anh lợi dụng giọng Huế ngọt ngào. thành mang tiếng. Thiệt tình mà nói em gái miền tây sông nước mười em đẹp hết chín rưởi, bọn đứng đường cứ dạ em ở Bến Tre, Đồng Tháp, Cần Thơ mà khoe thành miền Tây mang tiếng, mày hiểu chưa?

   -   Xin lỗi lần nữa được hông? Tui xin phạt một li.... Khà....Rồi tới ông...  Tiếp vụ Ánh Loan đi

   -   Khà.... Con nhỏ đẹp ác liệt luôn. Túm lại cỡ người mẫu thời trang phải ước ao có cái bo-đỳ như nó, gương mặt thì tầm cở á hậu. Tao đi đó đi đây gặp người đẹp không ít, nhưng gặp Ánh Loan là mộng mơ, mơ mộng liền...

    -  Kha kha kha... Ông tiếu lâm thiệt. mộng mơ gì ở đây ông?

    -   Thấy cái đẹp mình thấy đời đẹp hơn, hiểu hông?

    -   Hiểu, hiểu. Người đẹp là một kì quan, đúng hông?

    -   Ok. Ánh Loan đẹp nhưng lấy trúng một thằng chồng không biết trân trọng. Cứ rượu vô là...

    -  Mấy tay miền

Tây

rượu dữ lắm ông ơi....

    -  Nữa, lại miền Tây. Tao miền Trung, mày Ban Mê Thuột không đang rượu là gì? Nói chung bọn đàn ông mình, mười thằng rượu hết chín, còn một bị đau bao tử. Miền Tây có uống nhiều hơn một tí, nhưng dân sông nước thôi, còn ở phố họ cũng chừng mực lắm. Mày quơ cả nắm vô, lọt tai họ lột da đầu nữa à...

   -   Ông hở cái đòi lột da đầu, rồi tiếp đi.

  Thằng Hải không hiểu sao bị Thằng Thức ghét, không cho chạy ôm. Nó biểu vợ qua năn nỉ hộ. Thăng du côn Thức, thấy nhan sắc thích quá, đòi con nhỏ lên giường. Nó nghĩ Ánh Loan cũng như mấy con móng đỏ, muốn là được nên sàm sở, ai ngờ bị phản ứng kịch liệt. Con nhà đàng hoàng, lại có chồng, ai lại để cho đàn ông động tay động chân, nó bạt tai đàn anh, chạy về trọ bù lu bù loa với chồng. Biết thằng chồng nói sao không?

    -   Sao?

    -   Đù má...Có mất miếng thịt nào mà mày làm dữ vậy, mày đánh nó là tao biến khỏi thành phố này luôn. Đồ con ngu.

   Vậy mà Thức không làm gì cả, con nới tay cho Hải. Thằng đàn ông nào cũng có một chổ đâm đầu vô để chết, là gì biết không? Là nhan sắc, là tình yêu. Thức say đắm Ánh Loan. Hải vừa ra khỏi nhà, Thức đã đến. Trước Ánh Loan, Thức hóa thành con mèo tội nghiệp. Nó vung tiền ra giúp đỡ người đẹp...nỉ non, òn ỉ...Trong khi đó thằng chồng chỉ biết tiền, bỏ bê cô vợ trẻ. Có bữa ngà ngà hơi men, bạt tai vợ rồi đi kiếm của lạ... Ánh Loan thút thít khóc đã có Thức săn sóc vỗ về, mày hiểu hông?

    -   Hiểu.

    -   Hiểu sao?

    -   Đường mật.... Mua dầm thấm lâu...

    -   I như rằng. Cuối cùng Ánh Loan lọt tay du côn Thức

    -   Thằng Hải biết không?

    -   Cả cái hẽm sáu mốt ai cũng biết, chỉ mình nó không biết.

    -   Lạ vậy?

    -   Lạ cái đầu mày, nó làm như không biết.

    -   Nó không yêu vợ nó à?

    -  Đàn ông có nhiều tay rất lạ. Có thằng vì tiền đem vợ mình dâng cho kẻ khác.Tao có quen một thằng đich thân  đưa vợ đến vũ trường làm vũ nữ. Đêm nào nàng " nhảy sô" nó chạy xe về một mình.

   Hải mặc kệ vợ và Thức thành một cặp. Ánh Loan từ một chân chất hiền lành hóa khô cằn đá sỏi. Ngày cặp kè với người tình, đêm về ngủ với chồng, có đêm ngủ luôn với Thức. Từ đá sỏi cô gái dần sắt và máu, cũng lạnh lẽo với đời. Ở quê lên cô xem việc đóng hụi chết là độc ác tàn nhẫn, khi thay mặt Thức thu tiền cô lại thấy là điều tất nhiên.

   -   Vậy thôi. Ăn cắp quen tay ngủ ngày quen mắt .... Bộ trấn lột vậy mà chính quyền không trị hả ông?

   -   Từ từ - dzô đi - Tao làm cái coi, mày cầm li lâu quá... khà.... Sau nầy có thằng Thuận dưới Đồng Nai lên chạy ba bánh đạp.Nó cũng chung theo lệ...hẽm. Nhưng tuần đó con Loan đòi thêm, thằng Thuận không chịu, vậy là thằng Thức đập cho một trận. Tuyên bó cấm hành nghề. Thuận cũng chúa lì đòn, nó cứ chạy.... Thằng Thức thấy lệnh mình không linh ngang nhiên tịch thu xe...

    -   Mẹ ơi, cha chú dữ a. Đâu coi pháp luật ra gì.

    -   Thì vậy, Thằng thuận điên lên phát đơn kiện Thức về tội đánh người vô duyên cớ, ăn cướp tài sản công dân... Chụp ngay cơ hội, Công An phường lôi thằng Thức lên tạm giam ba ngày...

    -   Ba ngày mùi mẽ gì.

    -  Thằng Thức nghiện nặng, nhốt ba ngày nó vật vã như con dòi. Công An bài trừ ma túy lập hồ sơ chờ đưa đi cai nghiện cưỡng bức...Sau đó thả nó về.

    -   Rồi sao?

    -  Về nhà, nó độp một mũi, bị sốc đi luôn...

    -   Chuyên nghiệp mà cũng bị sốc à?

    -   Biết sao không? Bon giao hàng ma mảnh lắm. Ánh Loan ở nhà phân hàng bán lẽ. Ngày đầu nó còn giao thứ thiệt, biết Thức bị tó nó trộn ba cái bá láp vô... Thèm quá Thằng thức đâu còn lí trí mà luận ra...

    -   Rồi sao?

    -   Công An bắt đầy đủ tang vật.  Ánh Loan bị đưa đi trại cai nghiện, mới lòi ra cái hát có ết....

Hạ màn

         

Truyện ngắn của

Trọng Bảo

         

Cục trưởng Lũy ngồi trầm ngâm bên tách cà phê nguội ngắt. Ngày mai thôi lão sẽ mãn hạn công tác nhận quyết định về hưu. Cái ghế cục trưởng cục Quảng bá nghệ thuật này sẽ được một thằng mặt còn non choẹt tiếp nhận. Cục trưởng Lũy thấy buồn và nuối tiếc. Thế là lão chấm dứt cuộc đời làm nghệ thuật. Thực ra lão không tiếc gì cái sự nghiệp nghệ thuật xướng ca vô loài ấy. Mà lão tiếc là kể từ nay mất nguồn thu hoạch béo bở, mất những cái vuốt ve êm dịu của đám diễn viên trẻ đẹp xúm xít nịnh bợ mong lên lương, lên chức. Thì ra cuộc đời cuối cùng cũng đến lúc hạ màn, kết thúc như một vở diễn trên sân khấu.

          Lão Lũy bước vào hoạt động trong ngành nghệ thuật bắt đầu từ một nhân viên chuyên kéo phông màn cho một đoàn chèo tỉnh lẻ. Ngày ấy lão còn rất trẻ. Lão học hết lớp 10 thì về nhà làm ruộng. Một hôm, đoàn chèo của tỉnh về xã biểu diễn. Lão ở trong đám thanh niên được cử đến giúp đoàn dựng sân khấu. Ông trưởng đoàn chèo thấy lão mạnh khỏe, kẻng trai bèn hỏi:

          - Cậu có muốn vào làm diễn viên của đoàn không?

          - Nhưng… em không biết hát chèo?

          - Thì… có nhiều công việc không cần phải hát hò gì cả!

          - Vậy thì thủ trưởng cho em đi làm văn công với!

          Thế là lão Lũy trở thành thành viên của đoàn chèo tỉnh. Công việc chuyên môn của lão tại đoàn chèo là đảm nhiệm việc kéo màn, hạ màn khi đoàn biểu diễn. Một việc tưởng là đơn giản hóa ra không đơn giản chút nào. Việc kéo màn lên, hạ màn xuống phải thật đúng lúc. Khi người giới thiệu chương trình nói: “Sau đây buổi biểu diễn bắt đầu!” thì hai cánh màn nhung phải được từ từ kéo lên. Và khi trống chèo dứt vở màn phải hạ xuống che kín sâu khấu để cho các diễn viên rút lui vào hậu trường. Giữa các màn diễn cũng đều phải kéo màn, hạ màn như vậy. Việc kéo hạ màn còn phải có sự phối hợp ăn khớp giữa hai nhân viên hai bên cánh gà. Ngày xưa không có hệ thống mô-tơ tự động kéo, khép màn như bây giờ. Việc kéo hạ màn khi biểu diễn đều dùng bằng tay và sức người. Ròng rọc kéo màn cũng rất kém. Nhiều hôm người giới thiệu vở xong chán chê mà màn vẫn chưa được kéo lên vì ròng rọc bị kẹt. Có buổi vở diễn kết thúc màn vẫn không làm sao hạ xuống được. Những lúc ấy hai nhân viên phụ trách phông màn phải bỏ cả dây kéo lao ra sân khấu dùng tay lôi kéo mở, khép màn. Lão Lũy không bao giờ quên những buổi diễn ngoài trời gặp mưa hai tấm màn nhung ngấm nước nặng chình chịch co kéo bỏng rát cả tay cũng không nhúc nhích. Lắm bận đám quan quân trên sân khấu nhốn nháo vì màn không hạ xuống che khuất nên không rút lui được theo đúng như trong kịch bản…

           Tuy vậy, việc được làm việc ở đoàn chèo cũng khiến lão mở mày, mở mặt. Đứng bên cánh gà nhiều bận lão cũng được bổ túc mắt khi các diễn viên nữ thay trang phục, nhất là những lúc đoàn đi biểu diễn dã ngoại ở cơ sở. Vú vê cô nào to bé lão đều tận thấy hết. Có đêm đang diễn mất điện có cô diễn viên sợ ma còn ôm choàng lấy lão. Mỗi khi về làng dân làng ai cũng lác mắt xun xoe chào lão như một diễn viên lớn. Nhiều người xúm quanh lão hỏi thăm khi nào đoàn về xã biểu diễn để xin vé…

          Vào làm việc ở đoàn chèo của tỉnh chưa đầy một năm thì lão Lũy cưới vợ. Vợ lão là một diễn viên khá xinh đẹp của đoàn. Ông đoàn trưởng đoàn chèo tận tình mối lái, lại đứng ra chủ trì tổ chức đám cưới đời sống mới cho lão và cô diễn viên trẻ kia. Khi mọi việc tác thành lão mới biết cô diễn viên còn là con gái út của ông phó chủ tịch tỉnh phụ trách văn xã. Cưới chưa đầy bảy tháng thì vợ lão sinh con trai. Đầu tiên lão tưởng vợ đẻ non. Sau đó thì lão lại ngã ngửa ra một khi biết mình chính là một thằng đổ vỏ ốc cho tay phó đoàn trưởng đoàn chèo mới lên thay ông trưởng đoàn cũ vừa về nghỉ chế độ. Chuyện quan hệ giữa cô diễn viên trẻ và tay phó đoàn này cả đoàn đều biết mà lão lại không biết. Ông trưởng đoàn cũ lo sợ sắp đến lúc “hạ cánh” trong đoàn lại có chuyện quan hệ trai gái bất chính, mà lại liên quan đến cô con gái yêu của phó chủ tịch tỉnh thì sẽ bất lợi. Cho nên ông tìm mọi cách khắc phục sự cố. Phương án ghép cô con út ông phó chủ tịch tỉnh với anh chàng nhân viên chuyên kéo màn đẹp trai được đặt ra. May mà cô bé này cũng đồng ý vì cũng chả còn cách nào khác.

          Thằng con do vợ lão đẻ ra càng lớn càng giống hệt tay trưởng đoàn mới. Lão Lũy căm lắm. Lão tìm cách báo thù. Nhưng báo thù mà vẫn bảo vệ được mình là phương châm hành động của lão. Lão bắt đầu triển khai phương án của mình. Đầu tiên là việc lão dẫn dụ đàn kiến lửa từ mặt đất kéo lên sân khấu bu quanh chiếc ngai vàng mà tay trưởng đoàn kiêm diễn viên chính vẫn ngồi mỗi khi hắn thủ vai nhà vua trong các vở chèo. Việc dẫn đàn kiến lửa từ mặt đất lên chả khó khăn gì. Khi dựng rạp lão chỉ việc bôi ít nước đường vào cái cột từ mặt đất rồi dẫn đến chỗ ngai vàng. Ngai vàng cũng được lão tẩm một ít nước đường. Để cho chắc chắn, lão dùng một mảnh lá chuối phết đậm nước đường gom sẵn một ít kiến lửa từ lúc chiều. Khi vở diễn sắp bắt đầu lão mới đem mảnh lá chuối đàn kiến lửa bu đặc đến chỗ cái ngai vàng. Buổi biểu diễn hôm đó tay đoàn trưởng bị một phen khốn nạn. Lũ kiến lửa đốt liên tục, hắn cứ như bị lên đồng khi ngồi trên chiếc ngai vàng quen thuộc. Sau bận ấy tay đoàn trưởng cáu lắm. Hắn quát nạt inh ỏi đám nhân viên chuyên đảm nhiệm việc dựng rạp để lũ kiến khốn kiếp bò lên chiếm lĩnh cả ngai vàng của nhà vua. Một lần khác lúc chuẩn bị diễn, lão lẻn vào nơi để phục trang rút lưỡi dao cao râu cắt gần đứt dây chun chiếc quần thụng của nhà vua.

Tay

đoàn trưởng mặc mặc quần thụng, khoác long bào vào lên sân khấu. Giữa lúc cao trào, nhà vua đứng dậy hùng hồn truyền chỉ thì dây chun đứt phựt. Cái quần tụt xuống quá đầu gối. Nhà vua hốt hoảng ngồi thụp xuống ngai vàng. Miệng vua ấp úng chả rõ là lệnh hoà hay đánh nữa. Rồi một tay túm cạp quần, một tay cầm phương trượng nhà vua lao vào bên trong cánh gà ngã dúi dụi khiến khán giả một phen cười vỡ bụng vì tưởng đang được xem hài kịch. Sau bận ấy tay đoàn trưởng đỡ tranh giành với các diễn viên trong đoàn việc đóng vai vua quan ậm oẹ trên sân khấu hàng đêm nữa.

          Song tay trưởng đoàn chỉ bị hạ gục hẳn khi đưa một cô diễn viên trẻ đang tập sự vào nhà nghỉ bị lão theo dõi phát hiện. Lão lập tức điện thông báo cho vợ hắn ta. Mụ vợ hắn tức tốc thuê xe đến tận nơi đánh ghen tưng bừng, náo loạn cả cái thị trấn nhỏ nơi đoàn đang lưu diễn.

*

         

Vợ lão Lũy tuy chỉ là một diễn viên chuyên đóng vai phụ nhưng lại có ảnh hưởng trong đoàn chèo vì là con ông lớn. Một dạo rộ lên tin đồn tỉnh không “nuôi” nổi, đoàn chèo sẽ phải giải tán. Cô diễn viên chuyên đóng vai phụ xin nghỉ chạy về hỏi bố rồi lên đoàn tuyên bố xanh rờn: “May mà tôi kịp thời can thiệp không thì diễn viên ra đứng đường mà kéo nhị, gẩy đàn xin ăn!”. Không biết lời cô ta thật giả ra sao và chính xác đến mức nào nhưng một thời gian sau thì có tin thông báo chính thức là đoàn được tiếp tục đầu tư phát triển để góp phần gìn giữ vốn dân ca truyền thống quý báu cho quê nhà. Cũng chính nhờ hơi vợ mà sau một thời gian làm nhân viên kéo phông màn, chuyên đi trước về sau nhận sân bãi, dựng rạp, lão Lũy được đề bạt lên chức phó phòng rồi trưởng phòng hậu cần kỹ thuật của đoàn chèo. Thực ra chức phó phòng của lão cũng chỉ là một người chuyên lo chuyện nhận sân, dựng rạp, khuân vác đạo cụ và chuyện ăn ở, nước uống cho cả đoàn, nhất là khi đi diễn ở cơ sở. Một trong những nhiệm vụ trọng tâm của lão là đảm bảo nồi cháo gà ăn đêm bồi dưỡng cho diễn viên sau buổi diễn. Tưởng là đơn giản nhưng cũng không dễ dàng chút nào. Thời bao cấp có được nồi cháo gà cho ngon cũng vất vả. Diễn viên mỗi người một tính. Người ăn nhạt, kẻ thích ăn mặn, vừa miệng người này thì hỏng khẩu vị của người khác. Lão đã suýt đánh nhau với một thằng diễn viên chuyên đóng vai quan tể tướng vì nó dám hất bát cháo gà ngay trước mặt lão chê nhạt. Thằng này vợ đẻ ba con vịt trời nó nghe ai nói phải ăn mặn mới có con trai. Chỉ có nó là thằng đã lừa lúc lão không chú ý lén đổ cả gói muối hơn một cân vào nồi làm cháo mặn chát khiến không ai nuốt nổi.

          Khi vị phó đoàn trưởng đoàn chèo chuyển công tác khác thì lão được kế nhiệm luôn chân chức vụ ấy. Cũng chả phải học hành, nghiên cứu khó nhọc gì. Chân cấp phó của lão cũng vẫn là chỉ chuyên lo công tác hậu cần kỹ thuật, chạy xin kinh phí, xăng dầu, mua sắm trang thiết bị, vá vứu phông màn, đảm bảo cho đoàn tồn tại và biểu diễn.

          Khi tay đoàn trưởng đã mất hết quyền lực và uy tín, lại bị phó chủ tịch tỉnh để bụng ghen ghét sau vụ dám cả gan vuốt râu hùm xơi tái cô con gái út yêu quý của ông ta. Thế là số phận của hắn đã được định đoạt. Chuẩn bị đại hội nhiệm kỳ mới, vợ lão Lũy liền bảo:

          - Anh chuẩn bị mà lên làm đoàn trưởng đoàn chèo nhé!

          Lúc đó lão ngạc nhiên:

          - Tôi biết gì về chuyên môn mà làm đoàn trưởng?

          - Thì cần gì phải biết! Anh chỉ cần biết “chỉ đạo” thôi là được!

          - Chỉ đạo thế nào?

          - Thì... "cố gắng", "tích cực", "ra sức", "đổi mới", "tiến lên"! Chỉ cần có thế thôi! Chuyên môn thì đã có hội đồng nghệ thuật rồi, lo gì...

          - Hừ... ừ... - Lão Lũy ậm ừ. Trong lòng lão hơi phân vân. Lão chưa làm lãnh đạo bao giờ nên cũng thấy ngài ngại. Nhưng đã có vợ lão trợ giúp việc chỉ đạo, bố vợ chống lưng thì còn lo gì nữa chứ.

          Thế là lão Lũy lên làm đoàn trưởng đoàn chèo tỉnh.

          Cầm tờ quyết định bổ nhiệm đóng dấu đỏ chói lão Lũy không tin là sự thật. Anh em đạo diễn, diễn viên trong đoàn lúc đầu cũng có người phản ứng không đồng tình. Nhưng sau đó thì họ hiểu. Lãnh đạo thì cần gì cứ phải giỏi về chuyên môn. Lãnh đạo thì chỉ cần “chỉ đạo” và “định hướng” thôi là được. Hơn nữa chỉ sau một thời gian lão lên lãnh đạo đoàn chèo tỉnh được đầu tư lớn để mua sắm, nâng cấp đạo cụ, trang thiết bị máy nổ, phông màn, hệ thống âm thanh, ánh sáng đều mới tinh. Kinh phí dựng vở mới cũng khá hơn, lương bổng đầy đủ, đời sống anh chị em diễn viên có khá hơn. Tất cả đều do công lao của vợ ông đoàn trưởng và xuất phát từ chỗ ông phó chủ tịch tỉnh phụ trách văn-xã. Lão Lũy trở thành người quan trọng, có uy tín trong đoàn chèo. Nhất nhất anh chị em diễn viên đều phục tùng mệnh lệnh của lão. Mặc dù lão chả có một ti ti gì trình độ chuyên môn, nghiệp vụ. Nhưng lão có quyền. Quyền lực nhiều khi cao hơn tất cả, quyết định tất cả. Biên kịch, đạo diễn muốn dựng vở mới cầm kịch bản lên báo cáo lão chỉ cần hỏi:

          - Định hướng chính trị thế nào?

          - Hoàn toàn đúng định hướng ạ!

          - Tính đảng, tính cách mạng, tính nhân dân, tính chiến đấu ra sao?

          - Có đầy đủ hết rồi ạ!

          - Thế có đảm bảo yêu cầu “tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” không?

          - Đảm bảo… đảm bảo rất tốt, rất đậm đà ạ!

          Thế là vở mới được đầu tư và dàn dựng. Lúc duyệt vở để công diễn  lão Lũy cũng chê chỗ này, khen chỗ kia, yêu cầu sửa chữa nâng cấp đoạn này, cắt bỏ đoạn khác. Quan điểm thống nhất trong công tác chỉ đạo của lão trong các vở diễn là “ta nhất định thắng-địch nhất định thua”, cái ác phải bị trả giá, cái thiện, cái tốt phải thăng hoa. Biên kịch, đạo diễn vâng vâng, dạ dạ rồi mặc kệ đấy chẳng làm gì cũng xong, lão không quan tâm nhiều đến nữa. Có một tác giả trẻ cố gắng mãi mới viết được một vở chèo, nội dung khá hay đưa lên cho đoàn trưởng. Nhưng mãi không thấy động tĩnh gì việc thông qua nội dung và dàn dựng. Anh này buồn lắm. Ông đạo diễn già xem lướt kịch bản rồi vỗ vai anh ta bảo:

          - Vở này hay đấy! Lâu lắm tao mới lại thấy có một kịch bản khá thế! Nhưng không có “đồng tác giả” thì vở không dựng được đâu!

          - Thế nghĩa là thế nào ạ?

          - Nghĩa là phải cho đoàn trưỏng “đồng tác giả” kịch bản là xong xuôi luôn thôi!

          Anh biên kịch viên trẻ ngơ ngác như bò đội nón. Ông đạo diễn già ghé tai:

          - Đoàn trưởng cũ thì ham mê đóng vai chính trong các vở diễn để có nhiều tiền thù lao, còn đoàn trưởng mới thì ham thích “đồng tác giả” trong các kịch bản để có nhiều danh tiếng! Cậu đã hiểu chưa?

          Vốn là người thông minh, anh này hiểu rõ ngay nguyên nhân vì sao kịch bản của mình cứ bị gác lại mãi. Anh ta liền xé bỏ trang đầu kịch bản vở chèo chỉ ghi mỗi tên mình là tác giả, đánh vi tính thêm cái tên “Lê Chiến Lũy” vào sau dòng chữ “đồng tác giả” rồi nộp lại kịch bản lên cho trưởng đoàn. Quả nhiên, vở diễn được thông qua rất nhanh và đầu tư dàn dựng ngay. Vở diễn hay, đem đi dự liên hoan chèo toàn quốc đoạt luôn huy chương vàng. Khi nhận giải thưởng anh chàng biên kịch trẻ lấy phong bì, ông đoàn trưởng là “đồng tác giả” thì lấy bằng chứng nhận huy chương vàng về treo. Anh chàng tác giả biên kịch trẻ nghĩ: “Thế cũng tốt, mình đang thiếu tiền thì danh cũng chả để làm gì”. Các vở sau này ngay từ khi hình thành đề cương anh chàng chuyên biên soạn kịch bản trẻ đều vờ vịt lên xin ý kiến đoàn trưởng. Sau khi ngồi im làm bộ chú ý lắng nghe ý kiến hết sức vớ vẩn về nghệ thuật của đoàn trưởng, anh xin lão cùng đứng tên “đồng tác giả” trong vở mới. Lão đồng ý luôn. Thế là mọi chuyện đều êm xuôi ngay từ khi duyệt nội dung kịch bản cho đến lúc dàn dựng và công diễn…

*

          Lần lần từng bước, lão Lũy cũng ngoi lên đến chức cục trưởng cục Quảng bá nghệ thuật của bộ. Khi đã có đầy đủ quyền hành lão càng sướng hơn. Bà vợ diễn viên chuyên đóng vai phụ vẫn ở đoàn chèo của tỉnh. Bây giờ thì bà ấy là đoàn phó biểu diễn của đoàn chèo. Nhưng uy tín và quyền lực của bà không bằng khi còn là một diễn viên chuyên đóng vai phụ. Bởi lẽ ông bố phó chủ tịch tỉnh đã nghỉ hưu.

          Lên trung ương, lão Lũy thoát khỏi cái bóng của ông bố vợ. Bây giờ lão là một nghệ sĩ có tiếng tăm, một nhà biên kịch tài năng. Lão đã tập hợp kịch bản các vở chèo, xoá tên anh chàng biên kịch đồng tác giả, chỉ để lại mỗi tên mình rồi đem in thành cuốn sách với tựa đề “Làn điệu chèo quê tôi”. Cuốn sách có tiếng vang lớn trong giới nghệ sĩ.

         Anh chàng biên kịch - tác giả của các vở chèo mà lão Lũy lấy in trong cuốn sách "Làn điệu chèo quê tôi" - bị tai nạn xe máy bị chấn thương sọ não rất nặng suýt chết. Bây giờ thì anh ta trở nên ngu ngơ, suốt ngày vẩn vơ ngâm thơ, hát chèo, chả còn nhớ chuyện gì ra chuyện gì nên cũng chẳng biết đấy là đâu mà kiện lão Lũy đạo văn, vi phạm bản quyền tác giả. Thế là với tác phẩm “Làn điệu chèo quê tôi” lão Lũy được kết nạp vào hội nghệ thuật trung ương. Đời lão phơi phới mà lên. Đám diễn viên các đoàn nghệ thuật các tỉnh, thành vây quanh lão. Họ nhờ vả lão. Con trai thì cảm ơn lão bằng tiền, con gái thì bằng tình. Nhiều lúc tiền đưa cả sấp chả bằng cái liếc mắt đưa tình. Số lão hoá ra đào hoa. Ngày xưa ở đoàn chèo tỉnh lẻ lão chỉ mới thấy ao hồ, bây giờ thấy cả biển lớn mênh mông.

          Cục Quảng bá nghệ thuật của lão Lũy có nhiều người tài ba. Các trưởng phòng đều là những nhân tài, những người có kinh nghiệm, có công lao đóng góp đối với nền nghệ thuật nước nhà, nhiều người là nghệ sĩ ưu tú… Việc một lão “trọc phú” về làm cục trưởng khiến nhiều người bất mãn. Ở cấp bộ không thể chỉ dùng uy, dùng tiền, dùng chế độ đãi ngộ để tập trung ý chí, an lòng nhân viên như hồi lão còn là đoàn trưởng đoàn chèo tỉnh lẻ. Mà dùng uy tín nghề nghiệp để khống chế cấp dưới thì lão lại không có. Tuy lão cũng có được cái bằng cử nhân tại chức ngành văn hóa văn nghệ và đang tại chức thạc sĩ nhưng đều là mánh khoé “tiền học thay người” mà thôi. Ai chả biết. Vì thế lão Luỹ nghĩ là phải có một phương sách khác. Phương sách mới của lão là loại trừ dần dần những người giỏi hơn mình, tập hợp những kẻ ngu hơn mình để dễ bề quản lý, lãnh đạo. Với danh nghĩa gìn giữ truyền thống nghệ thuật cố truyền của dân tộc, lão Lũy đề nghị cho thành lập các bộ phận chuyên ngành nghiên cứu về chèo cổ, tuồng cổ, cải lương, dân ca, dân vũ, hội họa… tập trung các nhân tài của cục Quảng bá nghệ thuật lại. Thực ra đây đều là các tổ chức “ngồi chơi xơi nước” vì các bộ phận nghiên cứu này chẳng có kinh phí đầu tư hoạt động. Một số người tâm huyết, các trưởng phòng ban được điều động về bộ phận này chả có việc gì làm ngoài việc đánh cờ, tán gẫu hoặc chơi games trên máy vi tính. Có người chán nản xin đi nơi khác, có người xin nghỉ hưu non… Thế là dần dần lão Lũy loại trừ được các nhân tài, những người giỏi hơn mình, hay tranh cãi lại thủ trưởng ra khỏi cục một cách vô cùng êm thấm. Cục Quảng bá nghệ thuật bây giờ toàn người thân tín, lão hô tiến là tiến, lão bảo lui là lui, nhất nhất chung một ý, một lòng với lãnh đạo. Cũng có lẽ vì thế mà lão Lũy bình yên cùng nền nghệ thuật bình yên khi xã hội luôn luôn đầy sự biến đổi.

          Nhưng rồi lão Lũy cũng đi vào vết xe đổ của anh đoàn trưởng đoàn chèo tỉnh ngày nào. Đó cũng là lẽ thường xảy ra đối với con người ta khi sự nghiệp thành công, tiền tài đầy đủ. Cổ nhân thường bảo: “Anh hùng khó thoát ải mỹ nhân”. Anh hùng khí khái còn không thoát thì kẻ tiểu nhân, những người bình thường làm sao thoát được. Bà vợ “diễn viên chuyên đóng vai phụ” không làm ồn ào như những kẻ ghen tuông khác. Bà chỉ cho lão xem mấy tấm ảnh của ông và một cô diễn viên trẻ chụp ở những tư thế không hay ho gì lắm rồi bảo:

          - Ông nên nhớ lại thân phận của mình từ chỗ nào mà ngoi lên… ông sẽ lại trở lại chỗ ấy đấy!

          Thằng con cả của lão thì nói:

          - Bố nên nhớ bố chỉ là “hình nhân thế mạng” thôi!

          Lão nén chịu. Thực ra thì thằng con lão nó nói đúng. Nó đã biết phần nào về nhân thân của mình qua lời đồn đại về bố mẹ mình thời trẻ. Nghĩ đến chuyện “kẻ ăn ốc, người đổ vỏ” dạo trước lão lại thấy cay đắng. Lão lầm lũi xách cặp ra xe về Hà Nội. Bấy lâu nay lão ít về quê. Lão bảo có nhiều việc bận ở Hà Nội. Thực ra ngày nghỉ lão thường đi du hí với mấy em trẻ đẹp đang mon men bước vào ngành nghệ thuật. Bà vợ lão biết tỏng mọi sự. Bà là một diễn viên chuyên đóng vai phụ nhưng có những việc lại biết chủ động đạo diễn tình thế. Ông bố bà nghỉ hưu nhưng còn bạn của ông bố, bạn của bạn ông bố bà. Những mối quan hệ lằng nhằng kéo đổ được tất cả khi cần. Bà tuyên bố sống ly thân. Lão Lũy cũng hiểu khi một vở diễn kết thúc ắt sẽ phải hạ màn.

          Lão Lũy vừa ra đến cổng nhà thì chiếc xe riêng cũng vừa chà đến. Lái xe là một người tin cậy và luôn luôn đúng giờ. Lão Lũy mở cửa xe định chui vào thì chợt nghe tiếng chào rất to sát ngay sau gáy:

          - Chào bác…

          Lão Lũy giật mình ngoảnh lại. Đứng ngay cạnh cái gốc cây sấu già sù sì là một anh chàng quần áo xộc xệch. Cúc áo trên cài nhầm khuy dưới. Đầu anh ta nghiêng nghiêng. Một cái sẹo dài to bóng loáng như xẻ ngang đầu, tóc không mọc được. Tuy vậy, lão Lũy trông anh ta thấy có vẻ quen quen. Anh ta thì cứ nhìn lão chân chân như vừa phát hiện ra điều gì đó lạ lẫm. Đoạn, anh ta nhắc lời chào và hỏi:

          - Chào bác Lý… bác không nhận ra em à?

          - Cậu là… - Lão Lũy reo lên: - À…à nhận… nhận… ra rồi! Cậu chính là Thạch, biên kịch ở đoàn chèo tỉnh!

          - Đúng rồi… bác đã nhận ra em rồi! Ngày xưa bác là đoàn trưởng đoàn chèo tỉnh ta, bây giờ bác lên trung ương làm lãnh đạo, lãnh đạo cao… cao… cấp… cao… cao… cho nên em xin được… chào… chào bác Lý… Lý…

          - Cậu nhớ lại được thế là rất tốt! Nhưng mình tên là Lũy, không phải là Lý… Cậu đã khỏi hẳn rồi à?

          - Vâng! Thưa bác Lý… em đã khỏi… lại không khỏi… rồi lại khỏi… rồi lại không khỏi.... nhưng... nhưng mà em vẫn nhận ra bác là Lý chứ không phải là Lũy… ha... ha... ha... Đây này… này… bác xem... xem... đây này...

         Anh ta lôi từ trong ngực áo ra một cuốn sách ném tung hê lên trời. Rồi vừa quay đi anh ta vừa gào lên:

         - Bác chính là Lý… là Lý… là Lý… Thông… L…ý… Th… ô… n… g… ô...ô… ô… n… g…!

          Lão Lũy giật mình khi nhìn cuốn sách đang nằm dưới cái rãnh nước thải bẩn thỉu. Đó chính là tác phẩm “Làn điệu chèo quê tôi” của lão. Lão luống cuống trông theo anh chàng biên kịch. Anh ta vừa chệch choạng bước thấp bước cao vừa lè nhè lẩy một làn điệu chèo:

          “Lý Thông ơi hỡi Lý Thông

          Sao mày lại nỡ cướp công của người?

          Mày thành con bọ hung hôi

          Quanh năm đào lỗ, suốt đời ăn phân…

          Hi… hì hi... í… hị... hì… hi… hi… ".

          Lão Lũy cuống quýt chui vội vào xe. Đầu lão va vào cửa xe đau điếng. Anh lái xe hỏi:

          - Một thằng điên hả bác?

          - Thằng điên… một thằng điên…

          Chiếc xe quay đầu lướt đi. Lão Lũy thoáng nhìn thấy trên vỉa hè thằng biên kịch đoàn chèo đang dang tay xoay vòng một điệu múa mà các diễn viên chèo thường múa mỗi khi mở màn một vở diễn.

                                                                      

      Hà Nội, cuối 2012

Chạy việc

Nguyễn An Cư

T

rọng là một cán bộ ở tỉnh. Một tối, anh đang trò chuyện với con gái khoảng chín mười tuổi; một người đàn ông dắt đứa con trai thập thò trước cửa nhà anh rồi bước vào.

Trọng đẩy con gái sang chiếc salon nệm và đứng lên:

- Ồ! Vào đi! Đồng hương mà. Ngồi! Ngồi! Dưới quê mới lên hả? Chà… tên gì quên nữa!

Thanh móc gói thuốc “ba số năm” chìa ra mời Trọng:

-

         

Thanh đây mà! Quên à?

-  Bất chợt chưa kịp nhớ tên chứ làm sao quên. Bạn ngày xưa mà. Có việc gì không?

Thanh gãi đầu ấp úng:

- Thằng nhỏ mới ra trường. Nghe nói anh quen biết nhiều và cũng đã gởi giúp nhiều người, nhờ anh xem chỗ nào gởi dùm.

Trọng cũng gãi đầu:

- Chà! Cũng khó đấy. Năm nay xin việc không phải dễ! Cháu ngành gì vậy?

- Cơ khí! Lao động chân tay chứ có sang cả gì mà khó?

- Khó chứ! Ngành nào bây giờ chen lấn vào cũng khó hết. Con ông cháu cha họ gởi hết rồi!

Trọng lật xấp hồ sơ xem và lắc đầu:

- Cháu không có bằng tiếng vi tính, autocard hay sao?

- Dạ không! Lao động chân tay mà cũng cần mấy thứ đó nữa hay sao anh? Thằng con tôi mà có thiết kế cái giống gì?

- Cần chứ! Hơi “găng” nhen.

- Thì anh cố giúp dùm.

Trọng lật tiếp hồ sơ:

- Ủa! cũng không có chứng chỉ tiếng Anh à?

- Trời ơi! Cái nghề “búa kềm, mỏ lết” mà cũng tiếp xúc khách nước ngồi nữa sao?

- Cũng phải phịng hờ chứ! Lỡ người nước ngồi họ đến đặt hàng thì sao?

- Họ có đặt thì cũng đặt với giám đốc, với phòng kinh doanh, phòng kỹ thuật; gặp thằng nhỏ tôi làm gì?

- Tôi nói cũng cần lắm! Đôi khi họ đòi gặp trực tiếp thợ. Lại… “găng” nữa rồi! Bây giờ xin việc, người ta đòi hỏi nhiều bằng lắm.

Thanh nài nĩ:

-

         

Thì anh cố giúp dùm cháu.

Trọng bóp trán:

- Tay giám đốc cơ khí  nầy… “ăn”… kinh lắm! Để coi… À… tôi có anh bạn là xếp cũ của hắn. May ra nhờ được nhưng hơi lòng vòng.

Thanh lại gãi đầu:   

- Anh cố giúp dùm, khó khăn gì tôi cũng cố gắng lo.

Trọng móc điện thoại di động ra nói chuyện với ai đó. Thanh dảo tai lắng nghe:

- Anh Kha phải không? Trọng đây! À… Có người bạn nhờ gởi đứa con vào làm ở xí nghiệp cơ khí 1 tháng 5. Tay giám đốc là lính cũ của anh mà. Nhờ anh “phôn” cho hắn và gởi gắm dùm. À… Khó lắm hả? Thì cố gắng giúp đi, nếu không có yêu cầu thì đành chịu vậy chứ sao. Cố gắng nhé… À cháu nó tên… Hi vọng đấy!

Thanh ngồi nghe mà nẫu ruột gan. Trọng quay sang khách:

- Rồi! Tui gởi rồi. Anh cứ làm thủ tục và nộp bình thường. Đừng nói gì cả, kẹt tụi tui. Bây giờ người ta đang chống tiêu cực đấy. Bữa nào tui sẽ gặp trực tiếp tay giám đốc gởi gắm thêm.

Thanh mừng rỡ:

- Được như vậy thì cám ơn anh quá. Một tiếng nói của anh nặng gấp trăm lần của tôi.

Thanh luồn tay dưới bàn, thọc tay vào túi quần rút ra mấy tờ năm trăm ngàn đồng nhét thêm vào chiếc phong bì đã dày cọm rồi rụt rè nói:

- Anh cầm chút đỉnh để giao tế lo dùm cháu.

Một tay Trọng khoát tía lia, một tay lại chìa ra, miệng vả lả:

- Anh bày vẽ làm gì không biết nữa. Mình là đồng hương, giúp đỡ nhau thôi…

Cha con Thanh lại rối rít cám ơn, giả vờ quên gói “ba số” trên bàn và xin cáo từ…

Con gái Trọng nãy giờ ngồi lặng im, chăm chú nhìn cha và khách, vụt hỏi:

- Cái di động của cha lúc nãy hết pin chưa nạp điện mà cũng nói chuyện được sao cha?

Trọng giả vờ không nghe, nhanh tay mở chiếc phong bì ra đếm những tờ giấy năm trăm ngàn láng coóng…

Thây ma

Trần Văn Bạn

Trận lụt khủng khiếp năm ấy tràn ngập và cuốn phăng mọi thứ. Nó mang theo rác rưởi, cây cối, nhà cửa, xác động vật và xác người. Tất cả dồn lại với mật đô đậm đặc đến kinh ngạc nơi cửa biển hẹp rồi tuôn ra, lềnh bềnh, trôi dạt khắp một vùng biển rộng lớn.

           

Cái làng chài nhỏ bé, hiu quạnh nằm ở phía nam cửa biển, sát rìa bờ biển, bên chân núi Ngũ Hành, dường như vẫn bình yên ngái ngủ dưới những biến cố của đất trời. Hằng đêm, những người đàn ông vẫn đi biển. Đàn bà vẫn ngồi lê đôi mách. Chỉ có dòng nước ngầu đục, rác rưởi và những cái xác gia súc bị sóng biển đánh dạt vào bờ là bằng chứng cho họ biết rằng ở nơi kia lụt lớn đang đổ về.

           

Lụt 

đổ về đã ba ngày ba đêm.

Ngày thứ tư. Từ đầu hôm, trời chuyển và gió thổi mạnh dần. Tờ mờ sáng, phụ nữ, trẻ em và người già còn đang say ngủ trong tiết trời giá lạnh mùa đông bị đánh thức bởi những tiếng rì rầm khác lạ của bọn đàn ông đi biển 

về. Cả làng liền ùa ra bãi. Ở mép nước, bọn đàn ông đứng vây quanh một cái xác người. Trong ánh sáng nhá nhem của bầu trời âm u, đầy mây xám, họ vẫn nhận biết đó là cái xác phụ nữ cao lớn. Và khi trời tỏ hơn một chút họ ngạc nhiên xác định chắc chắn rằng người phụ nữ nằm ở mép nước là một cô gái da trắng, tóc vàng. Cô gái mặc chiếc váy nâu sậm và áo sơ mi sặc sỡ nhưng chất liệu vải thô mộc và cách cắt may vụng về cho thấy đó chỉ là thứ trang phục rẻ tiền. Cách phục sức và vóc dáng chân quê của cô gái khiến họ hiểu rằng dứt khoát cô xuất thân từ tầng lớp bình dân. Nhưng cô có khuôn mặt thiên thần: mọi đường nét đều thanh tú; mắt, mũi, miệng, lông mày và làn da mịn màng bừng lên nét thanh tân, trinh khiết.

           

“Đây là một con Tây. Sao lại trôi dạt ở đây?”, cụ Năm Tạo, người đàn ông già nhất làng, nói.

 “Không phải Tây, Tàu gì đâu. Xác của Tiên cô đó.”, bà Lý già, một cốt đồng nổi tiếng khắp vùng, nói.

 “Tao đã sống đủ qua các thời Pháp, Mĩ, Tây, Tàu. Đây là xác một con Tây”, cụ Năm Tạo nói.

Đám người già, đàn bà, con nít 

xầm xì, bàn tán.

Sóng biển vẫn ầm ào trườn lên mặt cát, phủ lên xác cô gái rồi đột ngột rút đi để lại cô trơ vơ trên mặt cát phẳng còn đẫm nước mặn.

Bọn thanh niên hau háu nhìn xác cô gái.

 “Chắc chiếc tàu Tây nào đi ngang qua đây. Con Tây này lỡ rơi xuống biển mà không ai trên tàu hay biết”, ông già Năm Tạo nói.

Chẳng đếm xỉa đến điều người đàn ông già nhất làng nói, cốt đồng nữ 

quả quyết:

“Đây là phước lành của làng ta. Tiên cô đến, đó là điềm tốt. Có Tiên cô phù hộ, không bao lâu nữa, làng ta sẽ có cái ăn, cái mặc. Chúng ta sẽ không phải sống khổ sở như con chó thế này. Nhất định chúng ta sẽ giàu có.”

Cả đám dân làng nhao lên tán thưởng. Cái làng chài to bằng nắm tay, hoàn toàn khu biệt với thế giới bên ngoài, luôn đắm chìm trong nỗi cô quạnh, mê ngủ và đói ăn đang được đánh thức bởi ánh hào quang của một thế giới đầy ắp thức ăn và tiền bạc.

“Không phải Cô Cậu gì đâu, đừng dại.”, người đàn ông già nhất làng, nói.

“Thôi đi, ông già, đừng có nói bậy. Ông muốn cái làng này tàn mạt suốt đời suốt kiếp hay sao?”, một bà đay nghiến. Cái đầu rối như tổ quạ cùng với cặp vú thõng thà thõng thượt lồ lộ bên dưới bộ quần áo tả tơi như mớ giẻ rách, trông bà ta như một con điên.

“Già cả lú lẫn, mệt ghê.”, có ai đó nói.

“Đã bảo không phải mà cứ cãi”, ông già Năm Tạo phát cáu.

“Thôi đi ông già. Im giùm cái miệng, có được không?”, đám đông giận dữ đồng thanh gào lên. Bọn họ phát hoảng vì cái thói lầy đây của ông già sẽ mạo phạm đến Tiên cô. Rõ ràng là niềm kính tín của bọn họ đang bị xúc phạm một cách trắng trợn.

Người đàn ông già nhất làng chưng hửng đứng nhìn đám hậu sinh đang lên cơn điên. Lát sau, ông già lẩm bẩm điều gì đó nhưng, dường như, chẳng ai thèm nghe thấy. Tất cả đã bị nhấn chìm trong cái ồn ào, hỗn độn của đám đông. Khi mọi thứ lắng xuống, việc đầu tiên là bọn họ bàn tính lựa chọn vị trí thích hợp cho việc quàng đặt thi hài để thực hiện công việc tế lễ một cách trang trọng nhất. Họ tranh cãi nhau quyết liệt. Lòng sùng kính Tiên cô được hình thành theo những chiều kích khác nhau và từng ngư dân tự cho mình cái quyền được quyết định. Do vậy, mãi đến tận trưa, phải bằng hình thức tập trung dân chủ: giơ tay biểu quyết, bọn họ mới thống nhất địa điểm.

Đám thanh niên nhỏ thó nhưng rắn chắc và đen như than hầm hè nhau khiêng cái xác mềm oặt của Tiên cô đặt lên trên cái bục cao ngang rốn, nằm trong cái chòi lá được dựng lên từ trước, ở giữa bãi biển. Lũ con nít hiếu kì lại tranh nhau bâu vào để được ngắm nhìn thật kĩ dung nhan của Tiên cô, người mà theo lời cha mẹ chúng bảo sẽ mang đến cho chúng cơm ăn, áo mặc, nhưng chúng liền bị những người đàn ông đứng bao quanh tử thi đuổi đi. Nơi tôn nghiêm không dành cho đàn bà, con nít.

Người ta chuẩn bị cuộc hành lễ với tất cả những gì có thể. Những cụ già có trách nhiệm háo hức lôi ra từ chiếc hòm gỗ được cất giữ cẩn thận ở ngôi đền thờ của làng những bộ lễ phục đẹp nhất, bộ nhạc cụ quí hiếm mà chúng chỉ được dùng trong những ngày trọng đại. Những người đàn ông trung niên hì hục xẻ những khúc gỗ súc được vớt lên trong dòng nước lũ từ những đợt lụt trước để đóng chiếc quan tài to nhất, đẹp nhất. Những người phụ nữ, bằng đôi tay thô ráp và chỉ với cây kim, sợi chỉ, may nên chiếc áo lộng lẫy cho người chết; số khác lo qui tập nhang đèn, gạo thóc, nồi, niêu, xoang, chảo. Đám thanh niên sức vóc thì nháo nhào đi vồ chụp, mổ xẻ heo gà để dâng lên Tiên cô mà hẳn đi đường xa, giờ đây, bụng Tiên Cô đang cồn cào đói.

Khi mọi thứ chuẩn bị xong thì trời tối hẳn. Đêm đó người ta cắt cử môt tốp thanh niên túc trực bên thi hài. Dưới bầu trời đêm u ám, đầy mây, trong tiếng gào rú thê lương của gió lạnh, tiếng gầm gừ dữ dội của biển cả, ánh leo lét vàng vọt của những chiếc đèn gió và căn chòi lợp lá dừa mỏng manh chực chờ đổ sập lẩn quất mùi vị cái chết, nhìn Tiên cô nằm im lìm, lần đầu tiên trong đời, đám thanh niên cảm nhận hết cái cô đơn, bất hạnh mà thánh thần cao cả phải gánh chịu thay cho người phàm tục. Cũng chính đêm hôm đó, lần đầu, những người thanh niên đã từng đối mặt với tử thần nơi đầu sóng ngọn gió nghe biển Đông gào thét khôn cùng, cứ như tiếng gào thét bật lên từ nơi thẳm sâu trong lòng họ.

Mới bảnh mắt, bãi biển đã ồn ĩ, náo nhiệt khác thường. Cứ như đêm qua người ta buộc mình phải thức trắng đêm 

để chờ đợi giây phút được tận mắt chứng kiến ngày hội có một không hai ở cái mảnh đất đèo heo hút gió này. Người ta náo nức nấu nướng, lập bàn thờ, thắp hương, đốt đèn, bày biện thức ăn, đơm hoa quả. Đội quân tham gia hành lễ đã trút bỏ y phục thường ngày, khoác lên thân hình khô đét, còm nhom của mình những bộ lễ phục rất bắt mắt, sẵn sàng thực thi nhiệm vụ.

Đúng giờ N. người ta bắt đầu hành lễ. Ông trưởng làng với vẻ mặt nghiêm trọng, căng thẳng gồng cổ đọc bài điếu văn mòn cũ, sáo rỗng, luộm thuộm do lão Tám, học hết lớp nhì, là người chữ nghĩa nhất làng chấp bút soạn thảo nhưng hầu như chẳng ai nghe thấy gì. Tiếng sóng ở đằng kia cứ gầm gào lấn át và cơn gió thổi rát đã cuốn phăng về phía núi cái giọng khàn đục của ông già. Nhạc tang nổi lên. Những ông già trong bộ lễ phục sặc sỡ cứ nhảy múa, di chuyển không ngừng nghỉ trong một đội hình thống nhất theo sự điều khiển có vẻ thuần thục của nguời trưởng tộc. Bọn họ thực hiện một nghi thức phức tạp mà ngay cả chính bọn họ cũng không biết nó có ý nghĩa gì. Tiếng đờn cò, tiếng kèn, tiếng trống quyện chặt lấy nhau chậm rãi, kéo dài một cách uể oải ở âm vực thấp không khiến người ta hưng phấn như tính chất buổi lễ cần có mà nghe thật não lòng. Nhiều người đàn bà rơi nước mắt. Thỉnh thoảng, ở đâu đó trong đám người đứng chen chúc quanh khu vực hành lễ, có tiếng thút thít của các cô gái. Hình như không phải các cô khóc than cho nỗi bất hạnh của Tiên Cô mà các cô đang than khóc cho thân phận mình.

Vào khoảng mặt trời đứng bóng, tất cả bọn họ dừng lại vì đói và hụt hơi. Cả làng tràn ra ăn uống. Trong kí ức đau buồn với chuỗi ngày dài đói ăn triền miên của họ, có lẽ đây là bữa no nê duy nhất trong đời. Và khi cơn no say lắng xuống họ lại tiếp tục hành lễ. Họ mê mẩn hành lễ đến tận chiều tối.

Trong ánh chiều nhập nhoạng, Tiên cô nằm đó, đơn côi, giữa trời đông giá rét, trong tiếng gầm gào của biển cả, da bắt đầu xỉn màu, khắp người mọng nước và thoáng bốc lên mùi thum thủm, ngàn ngạt của cái chết.

“Sao không chôn cha nó cho rồi. Thối quá.”, một thằng bé nhăn mặt nói. Nó chưa dứt lời đã bị một cái tát như trời giáng bởi bàn tay một người đàn bà lực điền.

“Vạ miệng”, người đàn bà hoảng sợ nói.

“Đuổi nó đi. Đuổi nó đi. Đừng để con nít đến.”, đám đàn bà hoảng hốt la lên rồi lấm lét nhìn về phía cái xác.

Cái mặt non trẻ của thằng bé hằn rõ dấu tay người đàn bà nhưng nó không khóc.

Đêm đến, người ta phân công những ông già và những trung niên có uy tín nhất, trách nhiệm nhất canh giữ giấc ngủ của Tiên cô. Vì rằng, bọn thanh niên với tuổi trẻ bộp chộp của mình thường sơ suất và để lại những hậu quả khôn lường: Tiên cô có thể bất ngờ bỏ họ ra đi hoặc gió dữ có thể nổi lên cuốn phăng xác Tiên cô ném ra biển khơi. Và nếu điều đó xảy ra thì quả là hoạ lớn: Cái làng chài đang ruỗng ra vì buồn tẻ và đói ăn vĩnh viễn không thể cải tạo cái thân phận hẩm hiu của mình.Vả lại, giao cho đám trẻ canh giữ hình hài cao quí của Tiên cô là hành vi bất kính. Nhưng đêm nay các cụ già thực thi nhiệm vụ không phải nhọc sức nhiều lắm, bởi đến quá nửa đêm, trời rét căm căm, dân làng vẫn còn ngồi dày đặc bãi. Họ thành khẩn chờ đợi phước lành ở cái xác bắt đầu trương phình kia.

Cũng như sáng hôm trước, đàn ông quên chuyện đi biển, đàn bà bỏ bê cơm nước, sáng nay, người ta lại đổ dồn ra bãi biển. Vẫn những nghi thức hành lễ cũ, người ta tiến hành liệm xác Tiên cô. Xác trương lên căng cứng như muốn phá tung bộ trang phục rẻ tiền Tiên cô mặc trên người lúc lâm nạn. Người ta phải mài thật sắc con dao chọc tiết heo để xẻ làn vải mà giờ đây nó thít chặt vào da thịt Tiên Cô đến nỗi người khâm liệm cứ tưởng làn vải và da thịt Tiên Cô là một. Sự trương phình thái quá trên cái thân thể vốn cao lớn đã biến Tiên cô thành người khổng lồ. Ngặt nỗi bộ quần áo và chiếc quan tài mà những người đàn ông, đàn bà nâng niu suốt cả ngày hôm qua chuẩn bị hiến tặng cho Tiên cô giờ đây đã trở nên quá 

chật hẹp đối với cơ thể nàng. 

Người ta hành lễ trong tâm trạng bất an. Nhưng rồi mọi chuyện cũng ổn thoả: ngay buổi sáng hôm đó người ta đã có y phục và quan tài mới đúng kích cỡ cho Tiên cô. Khi người khâm liệm đưa bàn tay dè dặt sờ vào để chuẩn bị tắm rửa và thay đổi xiêm y cho tử thi thì mọi người bỗng nhiên nhảy lùi lại, có người vội đưa tay bịt mũi. Một mùi thối kinh khiếp chợt phụt ra rồi cứ thế nó lì lợm lan toả khắp cả vùng cho đến khi hơn chục người đàn ông lực lưỡng gắng sức nâng cái xác khổng lồ đặt vào quan tài rồi đậy nắp. Nhưng, sau rốt, người ta nhận ra rằng dù quan tài có được đậy nắp thì cái mùi hôi thối nồng nặc kia vẫn cứ hiện diện âm ỉ, dai dẳng. 

Bỗng một thanh niên gào lên:

“Chôn mẹ nó đi. Cố giữ cái thây ma để làm gì? Hôi thối không chịu được”

Vì dại miệng dại mồm, gã thanh niên liền bị điệu đi tống giam trong ngôi đền của làng, mặc cho anh ta gào la phản đối.

           

Hôm sau, người ta vẫn tiếp tục hành lễ trong sự vây chặt của cái mùi khủng khiếp. Theo kế hoạch người ta sẽ hành lễ bảy ngày bảy đêm. Đối với các cụ nghi thức phải được tổ chức qui mô cả về thời gian và hình thức mới xứng tầm với sự kiện trong đại: sự xuất hiện của Tiên cô và phước lộc to lớn mà dân làng chài sẽ được hưởng từ sự xuất hiện đó đem lại. Nhưng mọi tính toán của các cụ đã không được thực hiện: lúc ngày sắp tàn quan tài đột nhiên nổ tung. Tiếng nổ to đến mức nó 

ném cái xác khổng lồ, rỉ nước của Tiên cô ra khỏi căn chòi. Mùi hôi thối kinh khiếp lại tràn ngập bãi biển, tràn ngập cái làng chài nhỏ bé, cô quạnh, đơn độc, tràn ngập biển khơi và tràn ngập cả một vùng không gian mênh mông của biển Đông. Suốt đêm đám dân chài ngập chìm, ngạt thở trong cái mùi hôi thối deo dẻo, sền sệt. Đêm tối khiến người ta bất lực với cái xác thối khổng lồ.

           

Trời chưa rạng, những người đàn ông đã có mặt đông đủ để khắc phục hậu quả nhưng tình hình cho thấy không mấy khả quan. Đang trong lúc bối rối, người ta lại phát hoảng lên vì có nhiều người bỗng dưng đổ ra phát bệnh. Bệnh lây lan nhanh chóng. Gần một nửa dân làng cứ ôm bụng đau đớn, rên la, quằn quại. Đã có trường hợp tử vong. Cái làng chài thật sự hoảng loạn. Có ai đó đã cấp báo chính quyền. Người ta nhanh chóng triển khai dập dịch nhưng khi các đoàn cứu hộ vượt qua chặng đường gian nan đến được hiện trường thì dịch bệnh đã tàn phá nặng nề: người ta phải dành cả một khu đất phía sau làng, bên rìa núi để chôn người chết. Khi trận dịch được dập tắt, người ta bắt đầu điều tra, qui trách nhiệm để truy cứu.

           

Trong lúc ra sức đổ trách nhiệm lên nhau, người ta vắt óc nhớ lại và cố đoán xem người đàn ông già nhất làng đã lẩm bẩm điều gì vào cái ngày phát hiện xác cô gái da trắng, tóc vàng. Nhưng vĩnh viễn cái bí mật kia không được khám phá. Vì rằng ông già Năm Tạo đã hôn mê và một chân ông đã đặt vào cửa thiên đàng từ cái buổi sáng giá lạnh đó.

Khuôn mặt phòng họp

Một ngày kia, đang ngồi họp, C chợt phát hiện đồng nghiệp mình bị biến đổi. Từ những khuôn mặt khác nhau, giờ đây, bọn họ có chung một khuôn mặt.

Không vội vàng tiết lộ điều mình phát hiện, C tiếp tục quan sát và càng ngạc nhiên thấy rằng cái khuôn mặt phòng họp không chỉ đóng khung trong khuôn viên của cơ quan mà nó đã cùng đồng nghiệp C vượt ra ngoài cánh cổng cơ quan.

Sự phát hiện của C có ý nghĩa gì?

Rõ ràng là từ khi phát hiện cái hiện tượng kia, C không thể giữ lấy nhịp sống bình lặng trước đây của mình: ở C đã có sự xáo trộn. Giờ đây, C đang phải đối mặt với một cái gì trừu tượng, mơ hồ nhưng có thể cảm nhận được rằng nó khuôn mẫu, xơ cứng và hết sức giả tạo: bọn họ đi lại, nói, cười, chào hỏi, thao tác công việc cứ hệt theo một kiểu trong một khuôn mặt. 

C bộc lộ nỗi bức xúc với vợ.

Vợ C cũng là viên chức. Nàng có thâm niên hơn 20 mươi năm công tác. 

Dĩ nhiên, chuyện họp hành, với nàng, gần gũi như cơm ăn áo mặc. Song, nàng chưa bao giờ nhận thấy điều gì tương tự như điều chồng nàng phát hiện. Nhưng một thời gian sau nhìn vẻ mặt thành khẩn của chồng, nàng không thể không quan tâm đến tính chân thực của vấn đề: biết đâu cái tập thể của cơ quan nàng cũng có cái hiện tượng kỳ lạ như tập thể cơ quan chồng nàng?

Thế là, nàng bắt đầu quan sát. Nhưng quan sát mãi nàng vẫn không thấy gì. Nàng nói với chồng: “ Đừng có nói với em cái chuyện mặt mày của anh nữa. Chẳng có biến đổi biến điếc gì đâu”.

C im lặng. Với con người ta, cái trước mắt không phải là cái nhìn thấy, cái trước mắt là cái chỉ để nhìn thấy. Với C, những gì diễn ra ở đồng nghiệp là cái nhìn thấy. Đó là cái vừa thực vừa ảo, vừa xa lạ vừa quen thuộc, vừa mòn cũ, khô cứng vừa mới mẻ, mềm mại. Đó là cái hiện hữu. Đó là cái hiện tồn. Đó là cái có thực. Nhưng có cần chứng minh cho bàn dân thiên hạ biết hiện đang tồn tại trong đời sống một khuôn mặt phòng họp?

Một hôm, C tiết lộ với một đồng nghiệp cùng phòng về phát hiện của mình.

Đồng nghiệp giễu: C bị hâm.

C bảo:” Hãy nhìn. Nhìn để thấy, thấy để biết”.

Nhưng chẳng có nhìn, thấy, cảm, biết gì cả. Với đồng nghiệp của C, câu chuyện C đề cập chỉ là sự thêu dệt cẩu thả của một đầu óc bất bình thường. Nguy cơ C bị đưa ra kiểm điểm trước tập thể vì lí do tung tin đồn nhảm là không tránh khỏi.

Quả nhiên, chuyện vỡ lở và sếp tức tốc gọi C lên “ làm rõ vụ việc.”

“Tất cả mọi nguời chỉ có chung một khuôn mặt.”, C nói.

 “Khuôn mặt nào?”

“Khuôn mặt phòng họp”.

“Khái niệm mới mẻ nhỉ?”

“Không phải khái niệm mà nó là một thực thể hiện tồn”

Dĩ nhiên, với sếp, đó là chuyện nhảm nhí. Sếp là người của chủ nghĩa duy vật.

“ Cậu biết, tôi là người của khoa học, của lô-gích.”.

Nhưng với đồng nghiệp của C chuyện đó chẳng nhảm nhí chút nào. Đó là sự khiêu khích, là sự bôi bác, xúc phạm nghiêm trọng đến lòng tự trọng cá nhân vì rằng anh quy chụp tất cả mọi người trong một khuôn mặt chung, nghĩa là anh tước đi cái cá nhân, cái riêng biệt mà vốn nó khẳng định sự tồn tại của từng cá thể. Điều đó còn có thể hiểu: câu chuyện là sự kết luận đầy ác ý về tính a dua, ăn theo nói leo tập thể, sự cố tình đánh mất bản thân của cái tập thể C đang sống và làm việc. Do đó, người ta nhanh chóng tìm được sự đồng thuận và một cuộc họp toàn thể cơ quan để kiểm điểm, kỷ luật C đã được tổ chức.

Cuộc họp diễn ra gay gắt và quyết liệt. Và điều bất ngờ đã xảy ra: giữa cuộc họp, đột nhiên, C thấy mình bị biến mất. C như cảm nhận được sự nghiền nát và tan ra của thân xác mình trong cái khối bầy nhầy, hỗn độn.

Phải đến cuối cuộc họp, C mới trở lại tồn tại và như người mộng du, C thừa nhận mọi khuyết điểm của mình.

Cảnh cáo là mức kỉ luật đã được tập thể cân nhắc dành cho C.

Giờ đây, mỗi khi bước vào phòng họp C thấy mình bị biến mất. Sự biến mất cứ lập đi lập lại thành nỗi ám ảnh khiến C thật sự lo âu và nỗi lo đó ngày càng dồn ứ trong C như một nỗi kinh hoàng khi mà nguy cơ bị biến mất vĩnh viễn luôn đe doạ C và C không thể tìm kiếm sự chia sẻ. C thật sự hoang mang.

Dẫu đã nhắc nhở chồng về tính hoang đường của câu chuyện khuôn mặt phòng họp nhưng vợ C vẫn không thôi quan sát cái tập thể Người, nơi nàng công tác. Trong cái phi lí bao trùm của câu chuyện nàng vẫn mang máng thấy hiện diện một chút sự thật. Và tại cuộc họp bình xét thi đua cuối năm của cơ quan nàng đã thảng thốt nhìn thấy khuôn mặt phòng họp.

Trong bữa cơm tối, nàng thuật lại vụ việc với chồng.

Bất giác, mắt C và vợ gặp nhau. Một nỗi sợ hãi xuyên qua người khiến bọn họ run lên.

“Em có thấy mình bị biến mất?”

Vợ C lắc đầu với ánh mắt dò hỏi.

Nhưng một buổi trưa đi làm về, vợ C hốt hoảng, nói: “Em bị biến mất”. Buồn bã C nói:”Anh đã bị biến mất từ lâu”. Vợ C khóc. Đột nhiên, C giật bắn người: bên trên cái cổ dài, kiêu hãnh của vợ không còn cái khuôn mặt thanh tú với đôi mắt mơ buồn mà đã gắn lên đó khuôn mặt phòng họp của cơ quan C.

Những ngày tiếp theo, đến cơ quan, C mang theo chiếc gương con của vợ thường dùng để trang điểm. Những lúc rỗi việc C bí mật ngắm mình trong gương.

Một lần, nhìn thấy khuôn mặt phòng họp trong gương, nghĩ là có đồng nghiệp đứng phía sau mình, C quay đầu lại nhưng chỉ có bức tường vôi trắng đục 

màu sữa chắn ngang tầm mắt.

C cay đắng nhận ra rằng mình đã mang khuôn mặt phòng họp .

Lưỡng tính

Khi phát hiện, dương vật của H đã teo tóp đi khá nhiều. Phát hiện cái tình thế khốn nạn ở ông chính là nàng, người đã liên tục cùng ông đắm mình trong các cuộc giao hoan long trời lở đất suốt hai năm ròng.

Đó là buổi tối thứ bảy, trong một khách sạn sang trọng, với nỗi bức xúc sau nhiều lần chung đụng hụt hẫng, nàng quyết tâm khám phá. Tính nàng vốn thế: nàng luôn cần giải tỏa những nghi ngờ của mình bằng những chứng thực cụ thể thông qua việc cân, đo, đong, đếm. Làm ra vẻ như một trò nghịch ngợm, nàng dùng sợi thước dây để xác định kích thước cái của quý của ông. Nàng đo cả chiều dài lẫn chu vi và hẳn nhiên, cuối cùng, nàng đã có số liệu cần thiết.

Khi nàng đo đạc, trong cơn ngất ngây, ông bảo: “Em luôn là cái chết ngọt ngào”

“Em chỉ là con điếm”.

“Em là con người, hơn cả con người”

Nửa năm sau, nàng lập lại trò chơi “cái chết ngọt ngào”. Cũng bằng cái cách dùng những ngón tay mềm mại mà quyết liệt rê vuốt dọc thân rồi xoáy mạnh vào đỉnh đầu dương vật khiến ông tê cứng, rồi với cái lối đo đạc tỉ mẩn, thành thạo hệt như người thợ may đo thành thục các thao tác nghề nghiệp, nàng rất đỗi ngạc nhiên nhận ra rằng dương vật của ông đã teo đi gần phân nửa. Phân vân nàng đo lại lần nữa và kết quả vẫn không có sự khác biệt.

Chẳng hay biết gì về cái “sự thật kinh hoàng”- cách nói của ông sau này- trong nỗi đê mê, ông rên lên: “Đừng đụng nó nhiều quá, không lại nằm mơ”.

“Ác mộng”, nàng bảo.

“Nó là thiên đường của các em”

“Nó là con bò đực già”.

Nhưng lúc đó, nàng chưa vội cho ông biết cái “sự thật kinh hoàng” kia. Chẳng hào hứng gì, song, chiều ông, nàng cố làm cho ông chìm vào cơn mê mệt. Rồi cứ vậy, mắt mở thao láo, nàng nằm im suy nghĩ vẩn vơ.

Gần nửa đêm, H trở dậy đòi yêu. Nàng thử sờ vào cái nơi ấy nhưng chẳng mùi mẻ gì. Nó như một mớ bầy nhầy. Nàng cố gắng làm cái công việc đàn bà của mình. Vẫn không kết quả.

“Tệ quá”, H ngượng nghịu nói.

“Có thấy gì khác lạ không?”, nàng hỏi.

“Thấy gì?”

“Nó bị teo”

H bật dậy như chạm phải lửa.

Liền đó, ông bắt nàng chứng minh điều nàng nói. Ông giục nàng đo đạc lại nhưng việc đo đạc không thành. Dù nỗ lực kiên trì hơn hai tiếng, bằng các ngón nghề của người đàn bà giàu kinh nghiệm giường chiếu và được ông tích cực hỗ trợ, nàng vẫn không thể làm thay đổi trạng thái nhũn nhão của ông. Với cảm giác thương hại pha chút chán nản và khinh bỉ nàng nằm vật ra giường rồi chìm sâu vào giấc ngủ. Còn H trằn trọc đến tận sáng. Gần sáng, trong H có tiếng khóc.

Tờ mờ sáng, H vội vã rời khách sạn, trở về nhà. Song phải hai ngày sau ông mới kiểm chứng được cái sự thật đau lòng kia: Quả thật, dương vật ông đã teo tóp đi khá nhiều. Khi đã kiểm chứng, ông liền gọi điện cho nàng thừa nhận tính đúng đắn của thông tin nàng cung cấp và đề nghị nàng hãy kín mệng. Cuối cuộc gọi ông không quên củng cố lòng tin của nàng và tự an ủi mình bằng những viện dẫn khoa học.

“Mọi cái sẽ trở lại bình thường”, H nói nhưng nỗi lo đã choáng ngợp trong ông.

Những ngày tiếp theo, lòng luôn trĩu nặng, H dành toàn bộ thời gian và công sức cho việc theo dõi tình trạng nhũn nhão của “cái dương vật”. Ngay cả những lúc bận rộn công việc, lúc tiệc tùng, lúc hội họp, ông cũng tranh thủ lẩn ra một nơi nào đó, thường là nhà vệ sinh để xem cái dương vật. Còn lúc nằm nhà, trong phòng riêng, ông phơi nó ra và xem xét rất tỉ mỉ. Dù không phát hiện được gì ngoài cái mớ bèo nhèo mà giờ đây đã trở nên quen thuộc, ông vẫn cứ xem xét. Những lúc như thế, ở ông vẫn lóe lên chút hy vọng, 

rằng sức khỏe dương vật của ông sẽ được cải thiện bằng dinh dưỡng và thuốc men, rằng sự luyện tập có phương pháp sẽ đưa đến những kết quả tốt.

“Có thể do thay đổi nội tiết tố nhưng không chắc lắm”, gã bác sĩ 

nói.

“Nghĩa là thế nào?”, H nói.

“Chứng bất lực thì có thể lý giải. Còn chứng teo …”

“Y học các cậu đổ thừa cho rượu, thuốc lá và đàn bà chứ gì?”

“Không, đam mê quyền lực…”.

“Cậu bậy bạ gì đây?”

“Đam mê quyền lực làm cho đàn ông thì bất lực, đàn bà thì lãnh cảm”.

“Cậu bảo đó là căn bệnh thời đại mà đám báo chí đang rêu rao phải không?”

“Đó là sự thật”

“Y học bất lực hay tôi bất lực?”

“Trong chứng teo có chứng bất lực”

“Ừ, thì quyền lực, tham vọng, tiền bạc cũng mắc chứng bất lực nốt”, H nhại.

Thế là H bắt tay vào việc chữa trị cái dương vật. Trước tiên, ông tiến hành thu thập những tài liệu, sách vở, tóm lại, ông thu thập bất cứ thứ giấy má gì có liên quan đến tình dục. Bước tiếp theo, thông qua bạn bè, môi giới và quảng cáo ông xác định chắc chắn những địa chỉ đáng tin cậy, nơi có thể phục hồi và tăng cường khả năng hoạt động tình dục nam giới. Cuối cùng là những cuộc tiếp xúc bắt buộc giữa các lương y và con bệnh.

Chỉ sau ba tháng, kể từ cái đêm đáng nhớ ấy, cái đêm trong khách sạn nàng chơi trò đo đạc với ông, sách vở, báo chí và các mẩu quảng cáo đã đầy ắp phòng ông và ông đã có mặt ở khắp mọi vùng lãnh thổ Việt Nam.

H dùng Via-gra, tiết chim se sẻ, ba ba, hạt sen, củ hành, nhân sâm, sừng tê giác, long diên hương… nhưng cuối cùng, kết quả thật tồi tệ: dương vật ông teo hẳn lại.

Những ngày này, H cảm thấy bế tắc và luôn nghĩ rằng chỉ có nàng mới có thể giúp ông thoát khỏi tình trạng phiền muộn hiện tại nhưng ông sợ phải gặp nàng. Ông cảm thấy xấu hổ. Ông không thể phô diễn nỗi đau của mình bằng những lời than vãn hoặc tâm sự.

Ngay cả với vợ, H cũng không thể tìm kiếm sự chia sẻ. Vợ H là người đàn bà đa dâm. Thị có vóc dáng cục mịch và khuôn mặt u tối nặng trình trịch của người phàm ăn. Bao năm rồi, thông qua đồng tiền “kiếm dễ như trở bàn tay” của chồng, thị nỗ lực cải tạo thân xác mình. Nhưng chim cú không thể là chim công nên thị cứ phơi ra giữa cuộc đời này cái hình dáng cú.

Hai mươi năm chung sống, thị giần cho H nát nhừ xương cốt. H ngoan cường chống đỡ và chấp nhận thực tế như một “sự thật hiển nhiên”. Giống chiếc hàn thử biểu cực nhạy trước sự thay đổi của thời tiết, thị nhận biết một cách chính xác độ mạnh yếu, trồi sụt khả năng tình dục của chồng. Vì vậy, không cần H tiết lộ về cái “sự thật kinh hoàng” kia, chỉ nhìn và đánh hơi qua sự lãnh đạm và tần suất chung đụng thưa thớt, thị đã hiểu khả năng đàn ông của H đang có vấn đề.

“Sao gần đây nó quặt quẹo quá?”, thị than phiền.

“Nó bị teo”, H đau đớn thú nhận.

Thị ngớ người trố mắt nhìn.

“Chó đẻ”, thị nói.

Thế là vấn đề “Cái dương vật” của chồng trở thành vấn đề quan tâm của thị. Qua sự mách bảo của đám người ngồi lê đôi mách, thị cùng chồng lùng sục khắp nơi tìm kiếm bằng được các thức quý hiếm để liên tục bồi bổ cho H. Nhưng khi cơn lửa tình cứ hừng hực cháy thiêu đốt mãi thân xác thị mà không được cơn mưa rào tình dục của chồng tắm mát, thị hiểu rằng những nỗ lực của mình là vô ích.

H thấy rõ là mình đang phải đối mặt với nguy cơ bị bỏ rơi.

Điều đến đã đến. Dương vật của H teo quắt lại như tóp mỡ bị vắt kiệt trên chảo nóng, rồi rụng đi. Nơi trước đây là niềm tự hào về sức mạnh đàn ông của H, bây giờ là cái lỗ nho nhỏ, sâu hoắm, không hình thù, không đặc trưng, không đặc tính; chẳng phải đàn ông, chẳng phải đàn bà. Đó là thế giới bất tận mà H không thể khám phá và hẳn nhiên, không bao giờ có thể khám phá được.

Cùng với việc rụng dương vật, cơ thể H bắt đầu biến đổi. Giọng H không còn sang sảng, vang động, đầy quyền uy mà trở nên nhẹ nhàng, êm dịu. Cử chỉ H cũng trở nên dịu dàng và đường nét cơ thể bắt đầu mềm mại, uyển chuyển.

Đám nhân viên bắt đầu bàn tán sau lưng H. H nhịn nhục, làm ra vẻ như chẳng có chuyện gì xảy ra. Nhưng miệng lưỡi con người thì độc địa vô cùng. Một em ở phòng tài vụ, không xinh đẹp nhưng rất bắt mắt đàn ông vì cái vẻ dâm dục lồ lộ trên gương mặt với ánh nhìn dài dại và đôi môi dày luôn ươn ướt, chọc:

“Sếp giành mất cái phần trời cho của bọn em”.

H tức lộn ruột nhưng cố dằn.

“Vậy sếp thích đàn ông hay đàn bà?”

“Dĩ nhiên tôi là đàn ông”

H là đàn ông hay đàn bà không ai có thể biết. Với mọi người đường nét đàn ông ở H biến đổi thì rõ H phải là đàn bà. Còn với người tình, với vợ, H bị teo và rụng dương vật thì hẳn H không thể là đàn ông. Đã thế họ dứt khoát phải bỏ rơi ông. H đã thấy điều đó từ lâu. Ông đủ khôn ngoan và già dặn để hiểu rằng, sau rốt, với đàn bà, lãng mạn chỉ là khái niệm phù phiếm. Ông có thể bảo với họ: ông là đàn ông. Nhưng có phải là đàn ông không khi mà ông không thể đem niềm khoái cảm đến với họ?

Vì thế, gần hai năm, kể từ cái tối thứ bảy trong khách sạn đáng nhớ ấy, H không còn nhìn thấy hình vóc kiều diễm của nàng ở cái thành phố hoa lệ này nữa.

Còn với vợ, H biết thị đã vụt khỏi tầm kiểm soát của mình. Đúng chín tháng mười ngày, kể từ cái ngày thị cay đắng thốt ra cái từ “chó đẻ”, thị công khai cặp bồ với tay C lực lưỡng, người luôn bốc ra mùi heo nọc, nhỏ hơn thị năm tuổi.

H luôn nhìn thấy cái chết của mình trong mắt vợ.

Một ngày kia, H chết. Người ta đồn rằng H chết là do vợ đầu độc. Những người quen biết H thì cho rằng H tự sát. Số khác thì bảo H chết trong cô đơn vì bị bỏ rơi và quên lãng. Nhà chức trách chưa có kết luận về nguyên nhân cái chết.

Một nhân viên điều tra nói:”Cái lỗ sâu hoắm. Kinh quá”.

GUYỄN NGỌC CHIẾN

Người đàn bà ấy…

Truyện ngắn

       

Chỉ cần nhìn thật kỹ vào khuôn mặt ả, cái mặt nhòn nhọn, với đôi con mắt ánh lên cái nhìn thăm thẳm, bướng bỉnh, cũng đủ biết ả là người chanh chua, hàm hồ. Cả xóm này không ai lạ gì tính nết của ả. Một ngày mà ả không gây gỗ với ai đó, là hình như ả ăn không ngon ngủ không yên. Một ngày mà ả không mở miệng chửi vu vơ một lần, là hình như ngày đó ả không chịu nổi. Bất kể chuyện gì ả cũng có thể chửi được. Có những việc hết sức nhỏ nhặt như con gà, con lợn hàng xóm, lỡ qua bươi móc vườn nhà ả, ả cũng chửi. Mà ả chửi thì độc địa và sâu cay lắm! Có khi ả còn lôi cả ông bà ông vải nhà người ta lên nữa. Khi chửi tiếng ả cứ xa xả như hắt nước vào mặt người ta vậy. Người bị ả chửi khó chịu đã đành, mà đến cả người nghe cũng không sao chịu nổi. Ai cũng có cảm giác như là ả đang chửi mình vậy. Thì mới hôm kia đấy thôi. Chỉ vì mấy bông hoa mẩu đơn nhà ả không biết bị ai ngắt mất, thế là ả phát hiện ra được và chửi. Chao, ả chửi như mưa như gió. Chửi như không còn biết giữ mồm giữ miệng là gì nữa. “Tiên sư bố thằng nào, con nào, hái trộm hoa nhà bà. Hoa nhà bà trồng ra chứ đâu phải mọc hoang mà chúng mày muốn hái là hái. Chúng mày hái hoa nhà bà về để thắp hương cho cố tổ, ông bà, cha mẹ chúng mày à? Cha mẹ chúng mày có chết, thì chúng mày lên chợ mà mua, chứ sao lại hái hoa của bà…”. Đấy! Ả luôn chửi vu vơ như thế! Kỳ thực mấy bông hoa đó chỉ hoa ở hàng rào, nên mấy đứa trẻ chăn trâu đi ngang qua, thấy đẹp thì tắt mắt hái chơi.

Nhà ả sát với nhà tôi. Thế mới rầy rà to. Mỗi lần nghe tiếng ả dóng lên từ bên ấy, thì bên này, tai tôi cũng như ù đi. Không còn biết phân biệt đâu là âm thanh gì nữa. Nhất là những lúc tôi đang viết lách gì đấy. Những lúc ấy tôi không còn làm được gì nữa, không còn viết được gì nữa. Thần kinh tôi như bị tê liệt hoàn toàn. Tôi quẳng bút đứng dậy, nhìn sang nhà ả mà lòng đầy căm giận. Có người khuyên tôi, nên sang tận nhà góp ý với ả. Còn như không nghe thì cứ đưa ra giữa làng giữa xóm nhờ…can thiệp. Tôi cũng đã mấy lần lựa lời nói với ả. Có lúc gần như cầu xin ả. Rồi cũng có lúc không chịu được, tôi đã nổi nóng, to tiếng quát nạt ả. Nhưng rút cục tôi đã không làm gì được ả. Không những tôi, mà cả xóm này cũng không ai làm gì được ả. Có mấy lần, trong các cuộc họp xóm, người ta đã đưa chuyện này ra kiểm điểm. Ả vâng vâng, dạ dạ, hứa sẽ sửa, nhưng rồi đâu lại hoàn đấy. Ả chửi cứ chửi, người nghe cứ nghe. Và nó đã gần như một thói quen mà ả không thể bỏ được.

       

Ả tên là Tuyết. Cái tên ấy đẹp, gợi nhớ một thời thiếu nữ mộng mơ. Hồi còn con gái, nhìn ả trông cũng dễ thương lắm! Cả bây giờ khi đã xấp xỉ tuổi bốn mươi, hương sắc ả vẫn còn rất mặn mà. Dáng người cao ráo. Nước da trắng. Cái cổ cao. Và nhất là ả có một đôi mắt rất đẹp. Đôi mắt ấy luôn luôn hiển hiện một cái nhìn thăm thẳm, bướng bỉnh, khiến cho ai cũng phải nao lòng. Chỉ tội cái tính ả thật lạ lùng, hiếm có. Chua ngoa, đanh đá nhất làng. Đầu thôn cuối xã không ai là không biết. Chính vì thế mà dù có đôi chút nhan sắc, nhiều ông bố bà mẹ hồi ấy chẳng ai dám chọn ả làm nàng dâu. Ai cũng bảo, nó ngoa ngoắt vừa phải thì còn sửa được. Chứ người đâu có thứ người hơi tý là lồng lộn lên. Lấy về rồi vợ chồng lại chả cải nhau chí chóe cả ngày. Có khi còn đánh đập nhau nữa thì chết. Ấy thế mà vẫn có người đến với ả. Để rồi, đúng như thiên hạ đã nói. Vợ chồng ả chỉ yên ấm với nhau đâu được vài bữa rồi ầm ầm cả lên. Suốt ngày cải vả, chửi rủa nhau. Mỗi lần vợ chồng cải nhau, là ả Tuyết lại ra đứng ngay đầu ngõ mà oang oang giữa thanh thiên bạch nhật. “Ban đêm thì mày ngon ngọt, để bà chiều mày, cho mày rúc đầu vào váy bà. Mày đay, mày nghiến, mày cắn, mày xé…cả đêm chưa thỏa hay sao mà ban ngày mày còn định đè ngửa bà ra. Bà không cho thì mày đòi thượng cẳng chân hạ cẳng tay với bà…”. Mỗi lần nghe ả chửi chồng như thế là ai cũng phải ôm bụng mà cười. Có người nói, cái con Tuyết này, nó vừa chua ngoa vừa chập mạch. Bởi, chỉ có chập mạch, chỉ có mát nặng thì ả mới thế. Nếu không, ả đã phải lấy làm xấu hổ với những gì mình nói. Đằng này ả cứ tỉnh bơ. Thế mới lạ!

       

Từ ngày chồng bỏ đi, không có ai đến với ả nữa. Ả ở vậy với bố đẻ từ ấy cho đến bây giờ. Hồi ông Cụng, bố ả còn sống, vì là tình làng nghĩa xóm, lại nhà trước nhà sau, tôi vẫn thỉnh thoảng qua chơi với cụ. Cụ là thầy giáo vở lòng của tôi cách đây bốn mươi năm về trước. Tôi rất lấy làm lạ, không biết tại sao, một ông giáo làng hiền lành, đức độ như thế mà lại sinh ra cô con gái tính khí kỳ cục như vậy. Hồi ấy, mỗi lần nghe con gái chửi bóng chửi gió là ông Cụng lại cầm cái gậy chỉ chỉ về phía con, miệng hổn hà hổn hển:

       

- Cái con Tuyết, mày có im đi hay không. Mày có biết mày làm như thế là mày bôi tro trát trấu lên mặt bố mày không. Con với chả cái! Không còn ra thể thống gì nữa…

Nói xong, ông cụ ôm bụng ho sù sụ trông rất tội nghiệp. Nhiều lần, cụ than thở với tôi:

       

- Khổ thế đấy anh ạ! Chỉ vì cái tính ngang ngược, bướng bỉnh của nó, mà đường chồng con nửa đời nửa đoạn, không đâu vào đâu. Nào tôi có dạy con tôi như thế đâu anh. Tôi cũng muốn con tôi bằng chị bằng em lắm chứ! Rồi sau này không còn tôi nữa, liệu nó sẽ sống sao đây?

       

Nơi khóe mắt ông cụ bỗng lăn ra mấy giọt lệ. Tôi thấy thương cho ông Cụng quá, nhưng không biết phải làm gì. Chỉ biết nói đôi lời động viên, an ủi. Và tôi biết những gì tôi nói với ông cũng chả có tác dụng gì.

       

Từ ngày ông Cụng mất, tôi ít qua nhà hơn. Thậm chí có khi hàng nửa năm trời, tôi không bén mảng đến. Chỉ năm thì mười họa, như ngày tết, ngày giỗ ông Cụng, là tôi không thể tránh được mà thôi. Không phải tôi ngại gì, mà cái chính là vì tôi ghét cái tính chửi xiên chửi quàng của ả. Đã thế lại không chịu nghe lời ai, nên tôi càng coi thường. Nhưng ả thì qua nhà tôi luôn. Động tý là ả lại chạy qua. Khi thì ả nhờ tôi tính hộ lại các khoản mà hợp tác xã thu nộp của ả xem có đúng không. Khi thì ả nhờ tôi kê khai cho ả cái bản thành tích để ông Cụng được hưởng chế độ ưu đãi. Có khi, chẳng có việc gì, ả cũng qua. Mỗi lần như vậy, cái miệng ả lại bô bô:

- Anh cứ tính lại cho em thật kỹ xem, làm gì mà tới mấy trăm bạc. Thuế khóa gì mà mỗi ngày mỗi cao ngất ngưởng. Rồi quỹ này quỹ nọ. Đàn bà góa như em làm gì ra mà nộp. Mấy cha trong ban quản trị chỉ được cái ghi khống thêm, để lấy ra chia chác với nhau, nhậu nhẹt với nhau, em còn lạ gì chúng nó. Em mà biết là em chửi cha chúng nó lên.

       

Rồi, đến cái bản thành tích của ông cụ, thì ả hoa chân múa tay:

       

- Bố em cả một đời vì dân vì nước, cả một đời tận tụy với nghề dạy học. Không như các thầy các cô bây giờ, tiền bạc, quà cáp, phụ huynh, học sinh biếu xén liên tục. Rồi lại bày ra khoản này khoản kia để trục lợi. Bố em hồi ấy có gì? Chỉ quanh năm đem cái chữ đến cho học trò. Nhiều buổi đi dạy còn không có mà ăn nữa. Không biết mấy ông trong ban thi đua khen thưởng có biết cho bố em điều ấy không. Hay lại như một lũ ăn hại thì em chửi cho vào mặt chứ chẳng chơi.

       

Đấy, nói với tôi mà ả cứ cái giọng chợ búa ấy. Nhiều lúc nghe ả nói, tôi chỉ làm thinh, không nói lại một lời. Vì tôi biết tính ả. Có nói ả cũng chẳng thèm nghe. Có khi, thấy mình đưa ra ý kiến, ả còn lấy đó làm đà mà toang toác cái miệng nữa thì chỉ thêm rách việc.

Nhưng thấy ả Tuyết qua nhà tôi nhiều quá, cũng làm tôi đâm ngại. Vì dẫu sao tôi cũng đang sống độc thân. Ả đến nhiều, làng xóm không hiểu lại đâm ra dị nghị. Từ ngày vợ tôi mất, các con tôi mỗi đứa một phương làm ăn, tôi vẫn…thui thủi một mình. Nhiều người thấy vậy thì khuyên tôi…tục huyền, cho có đôi có bạn, đớ quạnh hưu lúc tuổi già. Thấy ai khuyên cũng có lý có tình. Nhưng tôi lại chưa bao giờ nghĩ đến điều đó. Tôi tự thấy mình đã bắt đầu bước vào cái tuổi của người già. Vợ con mà làm gì khi đã đầu hai thứ tóc, gối đã chồn, chân đã mỏi. Tôi vốn quen sống trong cảnh đơn côi kể từ ngày ấy. Cuộc sống tuy có côi cút, nhưng cũng không đến nỗi nào. Các con tôi, tuy ở xa, vẫn thường chăm sóc tôi. Vậy thì tôi đâu còn cần gì nữa. Nay, nếu như phải làm lại cuộc đời với một người đàn bà nào đó, liệu cuộc sống của tôi có được như bây giờ không? Hay lấy vợ vào lại chả khác gì con trâu đeo thêm ách vào cổ, thì càng khổ thêm. Các con tôi cũng vậy. Chúng tuy không nói ra thành lời, nhưng tôi biết chả đứa nào muốn cha chúng lấy vợ khác. Nhìn ra bên ngoài, tôi thấy nhiều ông đơn thân cũng na ná như hoàn cảnh của tôi. Nhưng họ khác tôi ở chỗ là ai cũng có vợ khác. Mặc dù trước đó các con họ chẳng ai đồng ý cho họ lấy vợ khác. Đã đành rằng, các con mà như thế là ích kỷ, hẹp hòi với cha mẹ. Không hiểu được nỗi lòng của cha mẹ. Không cảm thông cho cha mẹ. Nhưng, đã như một tiền lệ, xưa nay chẳng bao giờ có đứa con nào lại muốn cha chúng, hay mẹ chúng đi lấy vợ khác chồng khác cả. Chúng luôn khư khư giữ lấy cha mẹ chúng, không muốn cha mẹ chúng chia sẻ tình cảm với bất cứ ai. Những ông này lạ lắm! Hình như không có vợ là họ không chịu được. Thế nên, có ông vợ mất chưa được năm đã có vợ mới rồi. Lại có ông, sáu lăm, bảy mươi tuổi rồi, mắt đã mờ, chân đã chậm rồi, mà vẫn lấy vợ khác.

       

Chính vì thế mà khi thấy ả Tuyết đến nhà là tôi lại ngại. Nhất là gần đây, tôi nghe thiên hạ đồn rằng, tôi và ả Tuyết phải lòng nhau. Ở nông thôn chẳng ai giấu được ai chuyện gì. Mà những tin tức kiểu như thế bao giờ cũng lan nhanh như gió thổi. Chỉ một người nghe thôi là chẳng mấy chốc khắp cả làng cùng nghe. Rồi thì từ không thành có, từ chuyện chỉ có một, đột ngột thành ra mười, ra trăm, là lẽ thường tình. Cho nên có một dạo, thấy ả Tuyết đến nhà, là tôi lại tránh không gặp mặt. Nhưng ả vẫn cứ đến hoài thành ra rất khó xử. Chẳng lẽ lại đuổi người ta về. Với lại, ả đến nhà tôi đâu phải vì chuyện ấy. Ả đã có tình ý gì với tôi đâu. Mình nghĩ thế chẳng hóa ra mình tự đề cao mình sao! Tôi không ưa gì ả đã đành. Mà chắc ả cũng đã ưa gì tôi. Thôi thì kệ. Làng xóm họ nói gì thì nói. Cây ngay không sợ chết đứng. Mình đâu có làm gì mà phải sợ. Ngặt một nỗi, mỗi lần thấy tôi là mọi người, nhất là bọn thanh niên choai choai, lại nhao nhao cả lên gán ghép tôi với ả Tuyết. Còn bọn trẻ con thì không biết làm được hai câu thơ từ bao giờ, thấy tôi là lại ngâm nga: “Chị Tuyết mà lấy anh Quây.

Như cá gặp nước như mây gặp rồng”.

Thế có chết không cơ chứ! Những lúc ấy, thú thực tôi có hơi bực. Nhưng chẳng biết phải làm gì. Thôi thì cứ coi như giả câm giả điếc mà cho qua. Bọn trẻ làng này, nó đã trêu ai, thì tốt nhất là hãy im lặng. Chứ không biết rồi cứ ra lời chống chế lại, chúng càng trêu đến cùng.

       

Mấy đứa con tôi về thăm nhà, chưa hiểu đầu cua tai nheo ra sao đã đem chuyện này ra trách cứ tôi. Chúng hỏi tôi, tôi có ý định lấy vợ từ bao giờ thế? Sao không nói với chúng một tiếng? Chúng lại còn ra vẻ ta đây phân tích điều hay lẻ phải. Rằng tôi cần lấy vợ đến thế sao? Rằng, chúng không lo cho tôi được đầy đủ hay sao mà phải cần đến một người đàn bà khác? Rồi, cuối cùng, chúng kết luận, nếu tôi có lấy vợ thì cũng tìm cho được người nào đó tử tế mà lấy. Chứ không thể có ý định với cái người đàn bà vừa ngoa ngoắt vừa chập mạch ấy? Chúng lại còn nặng lời xúc phạm đến người ta nữa chứ! Nào là cái hạng đàn bà hơi tý là chửi, hơi tý là lăn đùng ngã ngửa ra. Nào là cái hạng đàn bà diều tha quạ mổ…Nghe đến đây thì tôi đã không thể im lặng được nữa. Tôi nổi khùng lên, quát cho chúng một trận tơi bời. Thế là cả mấy đứa ngồi im như thóc, không dám hó hé điều gì nữa.

       

Mà cũng thật lạ! Từ mấy tháng nay ả Tuyết như không còn là ả ấy nữa. Chẳng ai còn nghe tiếng chửi vu vơ của ả nữa. Ả gần như thay đổi hoàn toàn cả tâm hồn lẫn thể xác. Tôi không thể hiểu vì sao một người, mà ngày ngày, tưởng như không mở miệng chửi, là không sao chịu nỗi ấy, nay bỗng im bặt. Có cảm giác như con thuyền đang từ một nơi phong ba bão táp, đã trở về với bờ yên biển lặng vậy. Không những tôi mà làng xóm ai ai cũng lấy làm ngạc nhiên. Họ nói với nhau, thế là từ nay làng đã bớt đi được cái loa công cộng, đỡ điếc đít hàng xóm. Còn với người xưa nay vốn gán ghép tôi với ả, thì lại nói theo cách khác. Họ nói, tại nó đang yêu nên cũng phải thay đổi tính nết đi để được lòng người yêu. Họ còn thêm thắt ra, nói rằng, tại tôi ra điều kiện với ả như vậy, nên ả sợ. Ả phải bỏ dần thói xấu thì mới chiếm được cảm tình của tôi. Tôi nghe vừa buồn cười vừa bực bội. Nhưng cũng như những lần trước, tôi không thèm đôi co làm gì cho thêm chuyện. Tôi còn nghe nói, ả Tuyết mỗi lần nghe ai đó gán ghép với tôi là vui lắm, cười tươi như hoa vậy. Tất cả những gì tôi nghe, tuy chỉ là lời đồn thổi trong thiên hạ, nhưng không phải không làm tôi suy nghĩ. Tôi tự hỏi, không lẽ ả Tuyết thầm yêu tôi thật? Và những thay đổi nơi ả cũng xuất phát từ phía tôi? Nếu không phải như vậy thì tại sao khi nghe thiên hạ gán ghép tôi với ả, ả lại không một mảy may phản đối? Bình thường như trước đây, những trêu chọc kiểu ấy, ả đã đào mồ nhà người ta lên rồi. Mà nếu quả đúng như vậy thì tôi phải làm sao đây? Thú thực, từ trước đến nay tôi chưa hề có cảm tình với ả. Thậm chí có lúc tôi còn thấy ngại khi tiếp xúc với ả. Bây giờ nghe vậy, tôi lại đâm ra suy nghĩ lung tung.

Dạo này ả còn diện lắm nữa cơ. Trước đây ả đâu có như vậy. Bây giờ tôi để ý thấy ả mỗi ngày thay đổi một sắc áo. Mà toàn đồ lụa là, vừa mỏng, vừa bóng, trông rất khêu gợi. Có hôm ả còn mặc cả váy nữa. Váy chỉ lưng lửng ngang chân, nhìn rất…dễ thương. Rồi hôm phụ nữ liên hoan văn nghệ, tôi còn thấy ả mặc cả áo dài nữa. Tà áo dài truyền thống ôm khít lấy thân hình ả, trông thật thướt tha, mềm mại. Lúc ấy tôi thấy ả vừa xinh đẹp, vừa duyên dáng lạ lùng. Có hôm ả qua nhà tôi, vừa mới bước vào nhà, tôi đã nghe mùi nước hoa thoang thoảng. Rồi khi ả đến cạnh tôi, tôi còn phát hiện trên đôi môi của ả có xoa một lớp son mỏng. Bình thường trước đây, ả qua nhà tôi, nhờ tôi giúp gì đó, xong việc là về ngay. Nay, tôi để ý thấy ả rất nhiều lần cứ nấn ná, chần chừ, như không chịu về. Có lần tôi còn thấy ả cứ nhìn chăm chăm vào mặt tôi. Những lúc ấy, tôi cũng chăm chăm nhìn lại ả. Để rồi khi bắt gặp ánh mắt của tôi, ả lại rất nhanh nhìn sang hướng khác. Tôi biết ả đang muốn nói gì đó với tôi. Và cả cái điều mà trước đây tôi nghi ngờ, thì bây giờ tôi đã có đủ cơ sở để không còn nghi ngờ nữa. Tôi đã khẳng định và tin chắc điều mình khẳng định là đúng. Rằng, ả đang thầm yêu tôi, đang muốn xây đắp hạnh phúc cùng tôi. Còn tôi, nếu như bắt buộc phải đứng trước hai sự lựa chọn, có hoặc không, tôi sẽ phải làm gì? Mà sao ả lại không chọn ai, ngoài tôi? Không lẽ cái số tôi đã vận vào câu nói, ghét của nào trời trao của ấy sao?

       

Rồi điều gì đến cũng đã đến. Buổi tối ấy ả Tuyết lại sang nhà tôi. Vẫn bộ đồ hoa lụa là mát mẻ ấy. Vẫn thoang thoảng cái mùi nước hoa quyến rũ ấy. Và vẫn đôi môi mộng đỏ ấy. Vừa vào nhà, ả đã bước thẳng đến chỗ cái bàn viết mà tôi đang ngồi. Rồi hình như không một chút chần chừ, nấn ná, ả ôm chầm lấy tôi. Ả kéo mạnh đầu tôi về phía ả, ép chặt đầu tôi vào bộ ngực đang phập phòng, nóng hôi hổi của ả. Tôi có cảm tưởng như mặt tôi đang kê lên hai bầu vú của ả. Và miệng tôi thì ngáp ngáp như con cá vừa được lôi từ dưới nước lên bờ. Tôi ngồi yên, nhưng hai tay thì cố gỡ tay ả ra. Nhưng tôi càng ra sức gỡ, thì hai tay ả càng xiết chặt lại. Tôi đành ngồi yên, để rồi sau đó là tới tấp, dồn dập những nụ hôn từ đôi môi mộng đỏ của ả phủ trên khắp mặt tôi. Tôi gần như không thở được. Cảm thấy cả cái thân hình còm cõi của tôi cứ run lên từng hồi một. Nhưng người tôi lại nóng ran như đang lên cơn sốt vậy. Tôi không còn biết mình phải làm gì. Chỉ biết mình đang trong một tình trạng hưng phấn kỳ lạ. Vừa lưng lưng, vừa rạo rực. Như một phản xạ tự nhiên, tôi cũng vòng tay ôm chặt lấy thân thể ả. Hai tay tôi xoa nhè nhẹ trên khắp tấm lưng thon chắc của ả. Tôi hôn ả khắp mọi nơi. Tôi hít thật sâu hương vị ngọt ngào từ khắp cơ thể ả tỏa ra. Cảm thấy lồng ngực mình như đang căng tràn một sức sống mãnh liệt từ con người ả truyền sang.

       

Rồi, như không ai bảo ai, cả tôi và ả cùng nhích dần, nhích dần về phía chiếc giường gần đó. Tôi và ả cùng lăn ra, cuộn tròn lấy nhau…Trong nỗi đam mê, đắm say tột độ, tôi mơ màng tỉnh dậy. Tôi thấy đầu tôi đang kê trên đùi ả. Mát rượi. Còn ả thì ngồi đó, hai tay mân mê trên mái tóc đã bạc quá nửa của tôi. Trong mơ màng, tôi bỗng nghe văng vẳng tiếng ả nói với tôi đầy chứa chan, trìu mến: “Anh ơi, em yêu anh từ lâu lắm rồi. Em muốn được cùng anh chia sẻ mọi đắng cay, ngọt bùi trong quãng đời còn lại của hai chúng mình. Em biết anh không hề yêu thương em. Nhưng em thì không có ai khác ngoài anh. Không có anh, đời em sẽ chẳng còn gì nữa…”. Tiếng ả trở nên nghẹn ngào. Rồi ả bỗng thút thít khóc. Nước mắt từ mặt ả ướt cả sang mặt tôi. Tôi không trả lời, chỉ biết ôm chặt lấy ả. Lần đầu tiên, kể từ ngày vợ tôi mất, trái tim tôi đã bắt đầu biết rung động trở lại…

Giông gió đi qua

Truyện ngắn của

Trọng Bảo

Từ rất lâu rồi làng Dương Cống đã có một lời nguyền truyền lại.

          Lời nguyền ấy khiến những thiếu nữ sinh ra ở làng đều kinh hãi. Theo lời nguyền gái làng Dương Cống luôn phải có những “trinh nữ chết già”. Nguyên do là làng Dương Cống địa hình rất đặc biệt, có một huyệt đạo rất hiếm. Đầu làng có một mỏm núi rất giống hình một con sư tử đực đang tung bờm đầu hướng về phương Bắc. Đó là một mỏm núi đá xanh liền khối. Phía dưới mỏm núi đầu con sư tử đá ấy có một cái am miếu nhỏ lúc nào cũng có khói hương. Nghe nói ngày xưa bọn giặc Tàu giấu vàng ở bên trong mỏm đá liền khối ấy. Tương truyền rằng là bọn Tàu thường bắt những trinh nữ cho ngậm nhân sâm, khâu miệng lại rồi chôn sống ngay tại những nơi giấu vàng để họ từ từ chết dần biến thành thần giữ của cho chúng. Những trinh nữ làm thần giữ của ấy sau một thời gian thì được đầu thai lại mà kho vàng vẫn cần người tiếp tục canh giữ nên đời đời sau này làng Dương Cống vẫn phải có những trinh nữ làm thần giữ của cho bọn người phương Bắc. Vì thế bọn Tàu đã yểm lại bùa chú gì đó nên sau này làng Dương Cống luôn có gái đẹp ế chồng, những “trinh nữ chết già” để truyền đời kế tiếp nhau làm thần coi giữ kho của cải cho chúng.

         

 Làng Dương Cống có năm họ lớn. Đó là họ Nguyễn, họ Phạm, họ Vũ, họ Trần và họ Đỗ. Năm dòng họ ấy lần lượt thay nhau có những “trinh nữ chết già” để làm ma cho ngoại quốc.

          Tôi còn nhớ khi mình đang học cấp 2 thì được kết nạp vào đội thiếu niên tiền phong. Phụ trách đội thiếu niên tiền phong làng Dương Cống ngày ấy là chị Thu, người dòng họ Nguyễn. Chị Thu rất đẹp. Đôi mắt chị sáng long lanh, má lúm đồng tiền. Nước da chị trắng hồng. Mái tóc của chị dài. Chị lại có giọng hát rất hay. Chị hay mặc cái áo cánh màu gụ bó khít người làm nổi bật lên những đường cong tuyệt mỹ. Chị có mặt ở đâu là đám thanh niên đều bồn chồn nuốt nước miếng vì thèm khát. Vậy mà một lần tôi nghe lỏm được bà mụ - là người đã đỡ đẻ khi chị sinh - nói chuyện với mẹ tôi. Bà chép miệng bảo:

          - Con bé đẹp như thế dễ thành “trinh nữ chết già” mất thôi!

          - Làm thế nào hoá giải được nguyền khốn khổ ấy không? - Tiếng mẹ tôi xót xa.

          - Khó lắm! - Tiếng bà mụ thở dài.

          Tôi không tin vào những điều mê tín, vớ vẩn.

          Khi tôi lớn lên nhập ngũ vào miền

Nam

chiến đấu. Năm tháng qua đi, mãi sau năm 1975 tôi mới trở về làng. Lúc đeo ba lô rẽ vào con đường ven núi thì gặp ngay một đám ma đang đi đến gần mỏm đá hình con sư tử. Tôi giật mình nhận ra có nhiều người quen đi đưa đám. Lại thấy đám ma toàn là vòng hoa trắng. Tôi hỏi thì một bà khẽ nói:

          - Đám ma cô Thu đấy!

          - Sao lại toàn là vòng hoa trắng hả bà?

          - Thì nó đã có chồng bao giờ đâu mà chả toàn hoa tang màu trắng?

          Tôi thầm nhẩm tính chị Thu năm nay cũng đã gần bốn mươi tuổi rồi. Chả lẽ là chị ấy lại trở thành một “trinh nữ chết già”, đúng như lời nguyền tiền định đã giành cho con gái làng tôi!

*

          Chuyện “trinh nữ chết già” ở làng Dương Cống rồi cũng lắng đi.

          Bây giờ con gái đẹp cũng nhiều, con gái sống độc thân cũng lắm. Nhiều cô đến tuổi gả chồng mãi vẫn không thấy động tĩnh gì bị dân làng xì xầm là “trinh nữ…” thì đùng một cái phải vào bệnh viện nạo hút thai. Có cô chẳng có chồng mà vẫn có con nên càng không phải là trinh nữ để trở thành thần giữ của cho bọn giặc trên mỏm sư tử đầu làng.

          Bẵng đi đến cả chục năm sau dân làng Dương Cống đã gần như quên hẳn chuyện “trinh nữ chết già” thì xảy ra một chuyện. Đó là có một người phụ nữ thuộc dòng họ Đỗ từ miền

Nam

trở về làng. Tên chị là Tho. Chị Tho theo gia đình đi khai hoang ở Tây Nguyên. Lúc ra đi chị vẫn còn bé tý vậy mà trở về đã ngoài ba nươi tuổi. Không thấy chị ta có chồng con gì. Nhìn khuôn ngực nhỏ gọn tròn căng, đôi chân, cặp đùi bước đi khin khít bọn con trai thì thào rỉ tai kháo nhau: “Có lẽ chị ấy vẫn còn “zin” đấy!”.

          Mấy bà có tuổi thì bấm ngón tay rồi khe khẽ thở dài. Theo họ tính toán thì đã đến chu kỳ thời gian và đến lượt họ Đỗ phải nộp trinh nữ làm thần giữ của kho vàng trên mỏm núi sư tử rồi.

          Chị Tho bỏ tiền mua một mảnh đất nhỏ gần đầu làng, ngay dưới chân núi. Chị làm một căn nhà tạm bằng tre nứa lấy nơi tập kết vật liệu gạch ngói, xi măng để chuẩn bị xây một ngôi nhà kiên cố. Chuyện về gia đình chị Tho ở Tây Nguyên cả làng rồi cũng biết rõ ngọn ngành. Hồi ấy sau khi vào đến Tây Nguyên, cả nhà chị Tho có bốn người bố mẹ, chị và đứa em trai. Tại vùng đất mới họ khai hoang trồng cà phê đời sống cũng khấm khá dần lên có của ăn, của để. Nhưng cứ ngỡ bỏ làng ra đi kiếm ăn nơi đất khách quê người thì thoát lời nguyền cay nghiệt. Vậy mà người con gái xinh đẹp họ Đỗ ấy vẫn không tránh được. Một lần, bố mẹ và em trai đi rẫy về gặp trận lũ quét. Em trai bị nước cuốn đi, bà mẹ nhảy xuống suối cứu cũng chìm luôn, ông bố nhào theo cũng mất tích trong dòng nước cuồn cuộn réo sôi sùng sục. Sau khi khóc cạn nước mắt tìm kiếm và làm ma cho bố mẹ và em, chị Tho bán hết tài sản và mấy héc-ta cà phê khăn gói trở về quê.

          Khi thấy chị trở về, các cụ già bốn dòng họ khác trong làng Dương Cống thấy đỡ lo lắng cho con gái họ mình hơn. Song họ cũng thấy ngậm ngùi thương xót người con gái họ Đỗ bao năm phiêu bạt trở về. Họ lo rồi sẽ đến một ngày lời nguyền ngày xưa sẽ lại trở thành hiện thực…

*

          Làng Dương Cống vài năm nay bỗng có một anh ở đâu phiêu bạt về mua đất dựng nhà. Anh này gốc gác quê tận Hải Dương. Vợ và con gái út anh ta bị tai nạn giao thông chết thảm trên đường 5. Anh đưa đứa con trai lớn bỏ quê lên đây. Anh nhận thầu mấy héc-ta ao hồ, thùng đấu, gò mả vẫn bỏ hoang ở cuối làng để nuôi trồng thuỷ sản và lập trang trại. Anh ta tên là Đồng Tiến Luân. Thế là làng Dương Cống có thêm một dòng họ nữa. Đó là họ Đồng.

          Hai bố con anh Luân hì hục cải tạo khu gò mả, ao tù, thùng đấu mà các lò gạch lấy hết đất đã bỏ hoang. Thằng con anh Luân mặt mày lấm láp thế mà học giỏi. Nó thi đậu đại học thuỷ lợi khăn gói lên thành phố học. Vậy là chỉ còn một mình anh Luân với căn lều cá ở khu gò mả cuối làng. Vốn là một người lính trinh sát nên anh Luân có tính gan lì. Khi nghe chuyện làng Dương Cống với một lời nguyền trinh nữ anh bực tức chửi đổng:

          - Đ… mẹ cái bọn Tàu khựa ám hại dân ta từ bao đời rồi. Tao đã từng moi tim chúng nó vứt cho chó gặm đấy!

          Hóa ra anh Luân vốn là một người lính chiến. Tháng 2-79, chiến tranh biên giới xảy ra anh ở mặt trận Cao Bằng. Anh chiến đấu rất dũng cảm nhưng lại bị kỷ luật vì vi phạm chính sách tù binh chiến tranh. Một lần đi trinh sát bám địch anh đã chứng kiến chuyện bọn giặc ùa vào một bản đâm chém bắn chết hết đàn ông, lôi phụ nữ và cả các em gái nhỏ ra bãi đất trống sát chân núi. Chúng lột trần tất cả phụ nữ và các em gái nhỏ rồi thay nhau hãm hiếp. Tiếng kêu khóc thảm thiết rung động cả núi rừng âm u. Những tên giặc trần truồng man rợ như thời trung cổ lao vào đám đàn bà, trẻ em không vũ khí. Những người phụ nữ, những cô gái, những em bé bị làm nhục quằn quại bò lết trên mặt đất. Bọn giăc lần lượt đâm chết họ. Chúng mổ bụng moi gan. kéo ruột những người mà chúng vừa hãm hiếp rải trên mặt đất.

          Nằm trong bụi cây gai xấu hổ, anh Luân không thể làm gì được. Anh cắn môi đến bật máu nuốt hận. Đến đêm, anh dẫn đường cho đơn vị tập kích vào nơi trú quân của bọn giặc đã hãm hiếp giết hại phụ nữ, trẻ em lúc chiều. Anh bắn hết mấy băng đạn vào bọn xâm lược giòi bọ. Nhiều tên giặc bị giết và bị bắt. Anh Luân được chỉ huy giao nhiệm vụ dẫn hai tên tù binh lên núi để khai thác tin tức. Dẫn hai tên giặc bị trói đến một khe núi anh vít đầu một thằng kê vào mỏm đá rồi dùng một viên đá khác ghè chết. Trong khi thằng còn lại gào rống lên vì sợ hãi. Đạp tên giặc vừa bị đập chết bật ngửa ra, anh Luân rút dao găm rạch bụng nó một nhát thật dài. Anh định moi quả tim nó vứt cho mấy con chó đói khát lạc chủ từ ngày đầu chiến tranh xảy ra đang lởn vởn xung quanh. Có mấy chiến sĩ theo kịp thấy vậy vội ngăn anh lại.

          Sau lần ấy anh Luân phải nhận kỷ luật cảnh cáo. May mà anh không phải ra toà án binh. Sau chiến tranh một thời gian thì anh bị loại ngũ trả về quê hương. Lúc lên đường nhập ngũ, nhà nghèo, anh Luân chỉ có một bộ quần áo. Lúc trở về anh cũng chỉ có một bộ quân phục cũ mặc trên người. Bộ quần áo mới vừa được cấp sau chiến tranh anh để lại cho đồng đội mặc lên chốt. Anh xách chiếc ba-lô lộn lầm lũi cuốc bộ từ trong rừng ra thị trấn để bắt xe khách về xuôi. Về quê đang chí thú làm ăn thì nhà xảy ra hoạn nạn. Anh đưa thằng con bỏ làng lên Hà Nội làm thuê kiếm tiền rồi tình cờ mà phiêu bạt về tận vùng đồi núi quê tôi định cư. Tôi thân với anh Luân vì cùng là lính đánh trận ở Cao Bằng. Câu chuyện truyền đời về “trinh nữ chết già” và thần giữ của trên mỏm núi sư tử làng Dương Cống khiến anh Luân rất bức xúc. Một lần anh bảo tôi:

          - Nhất định tao sẽ đặt thuốc nổ phá tan tành cái miếu hoang của bọn Tàu trên mỏm sư tử!”.

          Tôi vội gàn anh:

          - Chuyện người làng ta vẫn đồn thổi thế thôi, làm gì có chuyện trinh nữ và thần giữ của? Đừng nên manh động anh ạ!

          Anh Luân lừ lừ nhìn tôi không nói thêm gì nữa.

          Sau đó mấy lần trèo lên núi tìm phong lan, tôi bắt gặp anh Luân lảng vảng ở chỗ mỏm núi đầu con sư tử…

*

           K

hi anh Luân bị công an bắt vì tội tàng trữ thuốc nổ trái phép thì tôi mới tin rằng anh quyết tâm phá tan tành cái miếu hoang của bọn Tàu khựa trên đỉnh núi đầu sư tử là có thật. Anh Luân bị giam vài tháng rồi được thả. Số thuốc nổ hơn một ki-lô-gam là do anh mua của bọn chuyên đánh cá không dùng lưới trên dòng sông Trùng Thuỷ. Bọn này đang dùng mìn đánh cá thì bị bắt. Vì muốn nhẹ tội nên chúng đã khai thêm việc anh Luân cũng đang có thuốc nổ. Tại cơ quan điều tra anh nói là mua để nổ phá đá đào giếng ở khu gò mả nhưng vẫn bị giam giữ để điều tra.

           Hôm được thả về gặp tôi anh bảo:

          - Mẹ kiếp! Không bị thu mất gói thuốc nổ thì tao đã cho tan tành cái miếu hoang để giải thoát cái lời nguyền cho làng ta rồi!

          Tôi cười:

          - Anh mà phá cái miếu hoang ấy có khi làng ta còn bị tai họa đấy!

          - Tai họa cái con khỉ! Để nó ở đấy chỉ tổ làm chỗ cho lão Tụng thầy cúng nó lòe bịp, dọa dẫm dân làng, đám nghiện hút nó trú ngụ tiêm chích. Hôm trước tao còn gặp mấy thằng lạ hoắc từ thị huyện trấn kéo về túm tụm ngồi trong miếu chơi xóc đĩa đấy!

          - Chết, thế thì phải báo ngay cho công an xóm họ kiểm tra anh ạ!

          - Kiểm kiếc quái gì! Bọn chúng ranh ma lắm, công an vừa xuất hiện dưới chân dốc chúng nó đã biến sạch mất tăm rồi… Mà mày đừng có lên đấy tìm cây cối vớ vẩn nữa nhé!

          - Tại sao hả anh?

          - Vì hôm qua tao còn thấy có cả mấy con mắt xanh, mỏ đỏ theo bọn cờ bạc về tụ tập trên núi đấy!

          Nói xong anh rẽ vào cái ngõ nhỏ ở ngay đầu làng. Đó là lối vào khu đất chị Tho đang thuê đào móng làm nhà. Hai bên con đường nhỏ um tùm những bụi cây xấu hổ. Tôi nheo mắt nhìn theo bóng anh mỉm cười.

*

           Mấy tháng liền tôi bận đi công tác ở cơ sở nên không về làng. Một hôm tôi vừa đi công tác về thì gặp thằng Tèo ở bến xe Gia Lâm. Tôi hỏi thăm chuyện làng thì nó nhăn nhở bảo tôi:

          - Anh đã biết chuyện gì vừa mới xảy ra ở làng ta chưa?

          - Chuyện gì vậy?

          - Chuyện ông Luân và chị Tho! Phen này ông Luân đi tù là cái chắc!

          - Tại sao thế?

          - Ông ấy hủ hoá với chị Tho bị dân quân bắt quả tang tại trận…

          Tôi thở phào:

          - Anh ấy vợ mất đã lâu, chị Tho chưa chồng, họ quan hệ với nhau thì việc quái gì mà phải đi tù?

          - Nhưng mà… công an đang nghi ông ấy đã dùng thuốc nổ đánh sập mỏm núi sư tử gây hoang mang cho cả làng ta đấy.

          Thằng Tèo kể chưa hết câu chuyện thì đã vội chào tôi rồi nhớn nhác chạy theo nhao người đu lên một chiếc xe đang rời bến. Nó lên Lạng Sơn để làm cửu vạn kiếm tiền. Quê tôi bây giờ thanh niên bỏ làng ra thiên hạ kiếm ăn rất nhiều. Có lần đi công tác ở Bình Dương tôi còn gặp mấy người làng Dương Cống đang đi thu mua sắt vụn, phế liệu ở đây. Câu chuyện của thằng Tèo làm tôi băn khoăn. Chuyện anh Luân với chị Tho thì tôi không lo mà chỉ lo là chuyện anh đã nổ mìn trên núi sư tử.

          Ngày chủ nhật được nghỉ tôi liền phóng xe máy về quê. Từ xa tôi đã trông thấy mỏm sư tử bị vỡ toác ra làm đôi giống như bị chém một đao chí mạng. Vừa đến đầu làng tôi đã chạm ngay anh Luân đang hì hục bốc vác mấy bao xi-măng đi vào ngõ nhà chị Tho. Tôi chặn anh lại hỏi chuyện. Tôi kể cho anh nghe về những gì tôi nghe được khi gặp thằng Tèo ở bến xe Gia Lâm. Anh Luân cười hề hề:

          - Cái thằng Tèo chỉ chuyên tung tin láo toét!

          - Thế không phải là anh đã dùng khối thuốc nổ lớn đánh vỡ mỏm sư tử à?

          - Tao nào đánh mà là trời đánh đấy! Ông trời đã hóa giải lời nguyền ác nghiệt cho dân làng ta rồi?

          - Sao nghe nói công an họ đang truy xét anh?

          - Thì… một mỏm núi vỡ tan, đất đá lăn xuống sập cả tường nhà văn hoá thì công an họ phải tiến hành điều tra chứ! Mà họ có điều tra ra cái gì đâu?

          - Nhưng… anh phải cẩn thận đấy!

          - Tao, một thằng lính chiến bị loại ngũ vì đã khử mấy thằng tù binh, bây giờ trên răng, dưới các-tút, không đoàn, không đảng, sợ đéo gì bố con thằng nào?

          - Anh không sợ, nhưng anh cũng phải nghĩ đến thằng Thường đang học trên Hà Nội…

          - Ờ… ờ… lần trước bị triệu tập “cải tạo không giam giữ” về mấy cái ao thả cá  bị bọn trộm nó kéo lưới vét sạch sành sanh. Mất mẹ nó mấy chục triệu tiền cá giống đấy… - Anh càu nhàu vẻ bực bội rồi chợt hỏi tôi: - Mà lâu nay hai chú cháu có hay gặp nhau không?

          - Thỉnh thoảng mới gặp! Hình như dạo này thằng Thường đang đi thực tập mãi trong Nghệ An.

          - Nó cũng ít gọi điện cho tao! Thôi mày về nhà tắm táp đi, tối này ra lán coi hồ, tao luộc con cá quả chấm muối ớt nhâm nhi rồi nói chuyện gẫu nhé!

*

            Câu chuyện của anh Luân kể về một đêm giông gió. Hôm ấy, áp thấp nhiệt đới từ phía biển đã tạo nên một vùng không khí biến động dữ dội vô cùng nguy hiểm. Bầu trời u ám và chứa đầy điện tích. Ánh chớp xé ngang dọc trên bầu trời. Tiếng sét ầm ầm khiến anh Luân nhớ lại cái buổi sáng ngày xảy ra cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc khi anh đang là lính của một đơn vị đóng quân tại biên giới.

Những tiếng nổ dữ dội. Bầu trời sáng rực lên bởi những luồng lửa của đạn pháo từ bên kia biên giới bắn sang. Trong tiếng đạn pháo đinh tai, chói óc là tiếng người gọi nhau thảm thiết, tiếng kêu khóc hoảng loạn, tiếng chó sủa, gà kêu, bò rống tan tác, vỡ đàn, tiếng tre nứa nổ lốp bốp từ những ngôi nhà trúng đạn đang bốc cháy rần rật. Mọi thứ âm thanh hỗn độn hoà vào nhau tạo nên sự vang vọng của thần chiến tranh, thần chết đang dần dần tiến đến. Khói lửa, cát bụi mù mịt. Mặt đất chao đảo liên tục xô những người lính chới với, ngả nghiêng. Ánh chớp nhoáng nhoàng tựa như một cơn giông bão lớn nhưng dữ dội hơn rất nhiều.

 

Đó là ký ức của anh Luân về khoảnh khắc cuộc chiến tranh nổ ra hơn ba mươi năm về trước.

           Đêm giông gió dữ dội ấy khiến anh Luân chợt rùng mình. Anh chợt nhớ tới cái chết của hàng trăm, hàng ngàn người dân nơi biên ải năm nào. Hình ảnh những người phụ nữ bị quân giặc lột trần đang lăn lóc, tả tượi chợt hiện ra trong tâm trí anh.

           Những hạt mưa ném xuống rào rào một lát rồi lại thôi. Gió thổi quần quật vặn gãy gục hàng chuối hột trồng bên bờ mương nước. Đêm nay sẽ mưa rất to - Anh Luân nghĩ và vớ vội cái xẻng lao ra phía các ao thả cá. Chiều nay anh mới thả mấy triệu đồng tiền cá giống xuống cái ao sát bờ kênh. Một ánh chớp sáng loà. Mỏm núi đầu con sư tử hiện lên gớm ghiếc sừng sững giữa bầu trời. Anh Luân chợt nhớ ngay phía dưới mỏm sư tử là căn lán tạm của chị Tho. Chiều nay mới cho chuyển về gần bốn tấn xi-măng chuẩn bị ngày mai cho thợ đổ trần tầng một. Anh ném cái xẻng lao ra phía đầu làng.

            Chị Tho đang cuống cuồng bê những bao xi-măng xếp lên chỗ cao để che bạt. Thấy anh Luân lao đến chị mừng hú. Cũng chẳng nói được câu nào, chị chỉ ú ớ, hổn hển vì mệt quá. Anh Luân hối hả giúp chị Tho chồng xếp mấy chục bao xi-măng gọn vào góc cao của cái lán tạm rồi phủ bạt che kín lại. Khi hai người làm xong việc thì mưa to. Nước trút xuống ầm ầm. Chốc chốc ánh chớp lại lóe lên xanh lét. Tiếng sét nổ rất lớn như muốn phá tung tất cả mặt đất bầu trời. Chị Tho và anh Luân ngồi co ro trên chiếc giường một kê ở góc lán. Chiếc bóng điện đỏ nòng nọc đung đưa lập lòe lúc tắt, lúc sáng, có lẽ là do chập dây dẫn điện ở đâu đó. Tiếng nước mưa ào ào như trút nước từ trên trời xuống đất. Anh Luân chợt nhớ và kêu lên:

          - Thôi chết! Mưa to thế này thì ao cá của tôi vỡ mất…

          Anh Luân vừa nhỏm dậy thì cái bóng điện nổ bụp một cái rồi tắt ngấm. Tối mù mịt. Chị Tho hét lên:

          - Ma… ma…

          Anh Luân giật mình nhìn ra phía ngọn núi sư tử. Trong ánh chớp sáng loà và trong màn nước mưa có một người con gái mặc quần áo trắng toát, đầu tóc rũ rượi đi như lướt trên ngọn cây từ trên đỉnh núi về phía làng Dương Cống. Anh Luân dụi mắt. Bóng ma biến mất khi ánh chớp lại lóe lên. Chị Tho lập cập nài nỉ: “Anh đừng đi… em sợ lắm!”. Anh Luân ngồi lại. Mưa vẫn ào ào. Khi ánh chớp loé lên soi rõ đám lau sậy ngả nghiêng giống như những bóng ma chập chờn vây bủa xung quanh căn lán tạm trống trải. Chị Tho ngồi sát lại bên anh Luân vì sợ. Vốn là một người từng trải qua bao nhiêu sóng gió cuộc đời mà sao bây giờ tự nhiên chị lại thấy sợ hãi đến thế.

          Mưa lạnh.

          Hơi thở ấm nồng nàn.

          Tiếng sét vẫn nổ ngang trời…

          Và điều gì tất sẽ xảy ra thì phải xảy ra. Chị Tho cố cưỡng lại nhưng không thể thoát khỏi vòng tay cứng như thép của anh Luân. Chị giẫy giụa một cách bất lực dưới sức nặng và sự hào hứng bột phát của người đàn ông. Chị cố chống hai gôi lên, hai tay chị đẩy ngược anh về phía cuối giường. Tiếng giây chun đứt “phựt” nghe rất rõ trong tiếng mưa và tiếng thở hào hển. Chị Tho giẫy giụa khiến anh Luân mãi vẫn chưa định vị được… Đột nhiên một tiếng sét kinh hoàng từ trên trời phóng xuống mặt đất. Mặt đất rung chuyển như đang vỡ toác ra. Có tiếng đá lở ầm ầm. Chị Tho giật nảy mình đơ người ra. Anh Luân ép chặt xuống. Chị Tho cảm thấy đau và bỏng rát như vừa bị tia sét đánh trúng. Cơ thể chị như vỡ vụn, tan ra thành nước chảy tràn lan ra mặt đất…

          Khi chị Tho tỉnh dậy thì trời đã tang tảng sáng. Anh Luân đang lúi húi xem xét lại tấm bạt phủ đống bao xi-măng ở góc lán. Chị Tho len lén nhét giấu chiếc quần ngủ loang lổ màu nâu đỏ xuống dưới chiếu. Cái cảm giác lâng lâng lạ lùng vẫn còn râm ran trên da thịt chị.

          Có tiếng ồn ào, nhốn nháo khắp làng.

          Anh Luân vội chạy ra. Mọi người đang tập trung ở nhà văn hoá đầu làng. Một hòn đá to nằm chềnh ềnh giữa sân. Nó đã lăn từ trên núi xuống trong cơn giông gió đêm qua. Hòn đá lăn đã phá vỡ bức từng hậu nhà văn hoá. Lại có tiếng kêu to sửng sốt. Mọi người cùng ngước mắt nhìn lên đỉnh núi sư tử. Mỏm núi đã bị vỡ làm đôi. Anh Luân cùng mọi người kéo nhau lên núi. Mỏm núi đá đầu con sư tử đã bị vỡ làm đôi. Vết vỡ phẳng như một nhát chém. Đất đỏ ở phía dưới tảng đá phòi lên theo nước mưa còn đang chảy giống như một dòng máu. Dân làng xôn xao bàn tán. Có người bảo tiếng nổ kinh hoàng đêm qua là do sét đánh trúng mỏm sư tử. Có người lại khẳng định là do ai đó đã kích hoạt một khối thuốc nổ lớn. Có nhiều ánh mắt lén nhìn anh Luân nghi ngờ. Lão Tụng lò dò chống gậy lên sau. Lão thở dốc đứng nhìn mỏm đá đầu con sư tử vỡ toác. Lão này vốn là một thầy cúng giải nghệ. Lão bị công an xã nhiều lần gọi lên kiểm điểm, giáo dục vì các hoạt động mê tín, dị đoan. Sau khi quan sát mỏm đá lão gật gù bảo đêm qua lợi dụng mưa to, gió lớn người Tàu đã mở núi lấy vàng.

          Mỗi người một ý, đang tranh luận sôi nổi thì công an xã và công an xóm kéo lên yêu cầu mọi người giải tán để họ phong toả hiện trường chờ công an huyện về khám nghiệm xem có dấu vết của thuốc nổ không.

           Mọi người kéo nhau xuống cái miếu hoang phía dưới. Họ ngạc nhiên thấy trong miếu phủ đầy một lớp muội tàn hương nhang. Càng ngạc nhiên hơn là các tăm chân nhang trong cái bát nhang to bằng sứ để trên bệ thờ đều cắm ngược lại tua tủa. Mọi người ngạc nhiên kinh hãi, như thể có ai đó đã lộn ngược cái bát nhang.

           Sau đêm giông gió ấy anh Luân bị công an gọi lên hỏi thêm về chuyện đã tàng trữ thuốc nổ dạo trước. Rồi chuyện “thiên đả” mỏm núi sư tử lan truyền việc trời giải hoá lời nguyền cho làng Dương Cống. Câu ca dao ám ảnh:

“Bao đời trinh nữ chết già/Người làng Dương Cống làm ma cho Tàu…”

dần dần rồi cũng phôi pha. Căn nhà hai tầng xinh xắn của chị Tho khánh thành. Hôm chị tổ chức tân gia cả làng đến chung vui. Chị đi từng bàn mời rượu mọi người. Ánh mắt chị lấp lánh, vạt áo chị hơi kênh kênh lên. Ở cái bàn góc rạp mấy người hò hét nâng ly. Anh Luân ngồi ở bàn ấy. Sau khi chúc mừng chị Tho khánh thành nhà mới, thằng Tèo chạm cốc với anh Luân giọng lâng lâng cợt nhả: “Chúc mừng anh nhá, phen này nuôi cá, cá đẻ, nuôi người, người… người… he… he…”.

          Chuyện ở làng Dương Cống chỉ có thế thôi. Nhưng mỗi lần về nhà khi nhìn thấy mỏm núi sư tử bị xẻ làm đôi tôi lại vấn vương suy nghĩ về cuộc đời những người con gái trong làng mà tôi đã biết. 

                                                                

               Vĩnh Phúc, 11-2012

         

Cuộc đời và tô hủ tiếu

Mẹ đã đau lòng đến thế nào khi sinh ra gã, mẹ cũng đã khóc quá trời khi từng ngày nhìn gã phải lớn khôn. Thật tâm mẹ muốn gã bé thơ mãi mãi, muốn ở mãi trong vòng tay mẹ. Mà mẹ cũng biết, ừ thì gã có lớn lên đó nhưng tâm hồn gã mãi mãi chẳng lớn lên được tí teo nào đâu.

***

Lúc còn nhỏ thì không sao, gã cũng không ấn tượng với dáng đi chấm phẩy của mình. Gã chỉ thấy sao vặn vẹo mà đau quá thôi, nhìn gã chập chững tập đi, mẹ gã nhìn gã mà khóc. Mắt mẹ khóc nhưng miệng mà cười, môi mẹ nói rằng, ráng bước đi đi con.

Tự mình phải bước đi trên đôi chân của mình dù đôi chân ấy có khập khiễng, mẹ muốn gã hiểu ý nghiã sâu xa đó, nhưng trí óc non nớt của gã "giới hạn" sự hiểu biết mẹ à. Nhưng mẹ an tâm, gã nhủ lòng, vì tim gã biết thổn thức khi nhìn mẹ khóc đấy thôi. Gã yêu mẹ nhất, và mẹ yêu gã nhất!

Khi gã lớn khôn, mà chỉ nói là nói thế thôi, chớ gã chỉ lớn mà chưa khôn ra bao nhiêu. Chẳng sao cả, gã vẫn sống bên cạnh mẹ. Lớn rồi gã cũng thấy sao nhà mình nhiêu đó hà, không có gì thay đổi, nhìn nhà bên cạnh thấy cái gì cũng to. Thắc mắc hoài không biết hỏi ai, đành hỏi mẹ chứ ai.

Hỏi lần đầu tiên, duy nhất và từ đó gã chẳng hỏi thêm, vì hỏi rồi gã thấy mẹ khóc. Mẹ còn hỏi gã thích nhà to hay nhà nhỏ, thích cái gì thì nói mẹ mua cho, muốn ăn gì mẹ nấu cho. Sao mẹ cho mà mẹ khóc, sao mẹ nói mẹ cho mà mẹ lại buồn. Không giống như những lần mẹ cho gã gì đó trước đây...

Ngây ngô gã hỏi, ngây ngô trả lời, rồi tự cái ngây ngô ấy gã cũng nhận sự khác biệt của mẹ mình và mẹ người ta. Mẹ mình tóc màu trắng, mẹ người ta tóc vàng vàng đen đen. Mẹ mình tay gân cục cục, mẹ người ta tay trắng và có nhiều màu vàng. Mẹ mình ở căn nhà nhỏ, mẹ người ta ở căn nhà to. Mẹ mình phải thức khuya dậy sớm, mẹ người ta cả ngày trong nhà thôi. Mà mẹ người ta thì thương người ta, mẹ mình cũng thương mình, đôi khi gã cũng thấy mẹ người ta thương mình nữa mà.

Phải rồi, mẹ của ai người nấy thương, cũng như nhà của ai người nấy ở. Gã cũng có mẹ có nhà, tội gì làm mẹ khóc khi đặt câu hỏi như thế, gã biết mà, hiểu hết mà, chẳng qua gã không có nhiều từ ngữ để diễn đạt thôi. Buồn thật buồn cho kẻ biết suy nghĩ mà lại không thể diễn đạt, chỉ đứng bên rìa mọi thứ vô tình mà thôi.

Là trẻ con thì gã được mẹ chăm lo, lúc ấy tóc mẹ màu đen.

Là người lớn thì gã phải chăm lo lại mẹ, vì tóc mẹ bây giờ màu trắng rồi.

Gã hiểu thế đấy, nhưng làm gì bây giờ, đôi chân khập khiễng, đôi tay khập khiễng... làm gì bây giờ? Đâu đó ở căn nhà to vọng qua lời nhạc "hai bàn tay trắng nghèo xơ xác nghèo...". gã nghe sao hiểu vậy thôi! Gã thấy thương mẹ quá trời quá đất.

Người ta nói ở đời chẳng có chi là đường cùng cả, gã còn có ích. Một lần mẹ bệnh, gã hớt hơ hớt hải bưng bê tô cháo về nhà cho mẹ (Mẹ vẫn bảo gã dại khờ lắm, dại khờ mà biết mẹ bệnh, dại khờ mà biết mẹ cần thuốc, dại khờ mà biết đi mua cháo, dại khờ mà biết chạy thật nhanh về với mẹ sao mẹ!).

Nơi gã sống moị người quen nhìn gã rồi, chẳng ai đâu ở không mà chọc với ghẹo, cũng chẳng ai nỡ làm tổn thương gã cả. Vì hễ là con người ai mà chẳng thương chẳng xót những gì thơ dại, bởi thế lần bưng cháo cho mẹ, người ta phát hiện ra gã vẫn còn có ích. Tức là có khả năng lao động kiếm tiền bằng chính sức mình. Từ sau hôm ấy gã thành anh bồi bàn, kêu thế cho nó sang chứ thật ra gã bưng bê hủ tiếu cho hàng hủ tiếu gần nhà thôi.

Bắt đầu bưng bê hủ tiếu và trở thành công việc thường nhật kiến cho gã vui, cho mẹ vui, cho tóc mẹ ít trắng đi một chút, cho mẹ không thở dài xót xa khi nghe câu hát :

"Mẹ già như chuối chín cây

Gió lay mẹ rụng con phải mồ côi

Mồ côi khổ lắm ai ơi..."

Mồ côi thì ai chẳng khổ, nhưng ai cũng biết với gã nỗi khổ ấy lớn lao biết chừng nào. Bây giờ hằng ngày, hai bàn tay gã vui, hai bàn chân gã vui, cái tô hủ tiếu gã bưng chẳng khi nào bị nghiêng dù gã đi nhiều người nhìn theo ái ngại, sợ đổ mất cái tô hủ tiếu. Mà được ăn hủ tiếu hồi hộp nhìn theo từng bước đi của gã đôi khi làm một vài người cho là thú vị, trước cái ăn phải có "sự kích thích" nào đó thì ăn mới ngon.

Người ăn hủ tiếu thích gã, gã thì thích bưng hủ tiếu, "cung" và "cầu" thoả mãn nên cả hai cùng khoái chí lẫn nhau.

Vậy là gã sống hạnh phúc bằng cái nghề bưng bê hủ tiếu của mình. Nhưng mà, có một bữa trời mưa, có đứa bé ngồi chờ tô hủ tiếu của gã bưng đến, đứa bé hỏi chớ: "Chú bưng hủ tiếu suốt đời luôn hả chú?". À, nếu có bà mẹ đứa trẻ ở đó hẳn là sẽ la lên "Sao con hỏi vậy với chú, thôi lo ăn đi!" nhưng vì chú bé ngồi một mình và không có mẹ theo kèm, nên nhận được câu trả lời khó nhọc mà cũng khó hiểu từ gã rằng: "Hủ tiếu là cuộc đời!".

Đúng rồi, hủ tiếu đâu có chết bao giờ, hủ tiếu đâu có sợ thất nghiệp, hủ tiếu đâu có sợ người ta quên nó. Hôm nay không hủ tiếu thì ngày mai hủ tiếu, hủ tiếu chẳng biến đi đâu cả, chẳng bao giờ mất cả, ăn để sống là qui luật rồi mà! Gã chọn hủ tiếu là cuộc đời là chọn sự bất diệt trong những ngày sống có ích, ngày nào người ta chẳng ăn để sống, không ăn món này thì ăn món kia.

Ngày nào cũng có người ăn hủ tiếu, không phải người này thì cũng là người kia. Đâu có gì khó khăn khi chọn hủ tiếu là cuộc đời đâu, gã ngày nào cũng lao động, lao động nhiệt thành nữa ấy chứ. Phải bưng bê bằng tay nè, đi bằng chân nè, suy nghĩ bằng đầu óc nè, suy nghĩ để giữ cho tô hủ tiếu không nghiêng nè. Đã làm việc hết mình như thế thì không đáng quý sao, không đáng trân trọng sao, không đáng được bù đắp gì đó sao.

Gã đã có một cuộc đời sống hết mình trọn vẹn bên hủ tiếu, hơn bao giờ hết, mẹ gã hạnh phúc vì nhìn thấy như thế! Mẹ cứ yên tâm rằng gã biết chọn cuộc đời cho mình như thế mà mấy ai hiểu được.

***

Một lúc nào đó bạn vô tình có ăn hủ tiếu, hãy thử nhớ đến một gã trai như thế. Để thấy rằng làm một con người rất khó, chọn cho mình một cuộc đời còn khó hơn nhiều. Chọn rồi thì mình phải sống ra sao cho nó chu toàn, cho nó nồng nhiệt, cho cuộc đời mình có ích theo một cách nào đó.

Chúng ta tự cho mình quá đầy đủ nhưng đôi khi ta không biết thế nào sống cho nó cảm thấy vừa vặn. Còn với gã, chọn hủ tiếu là cuộc đời dù rằng gã không trọn vẹn nhưng gã đã sống vừa vặn trong cái không trọn vẹn đó biết bao.

Nguyên mẫu (Truyện ngắn chủ nhật)

Posted on

11/11/2012

Như bất kỳ người viết nào khác, trong sáng tác của mình tôi luôn sử dụng các nguyên mẫu. Đó là những số phận có phần đặc biệt nhưng đôi khi chỉ là những cảnh đời cảnh người tác động trực tiếp đến xúc cảm và tư duy sáng tạo. Gã là một nguyên mẫu như vậy. Gọi là Gã vì thực đến tận giờ tôi không hề biết tên thật của con người này. Đành gọi Gã là chính xác nhất. Từ Gã tôi đã viết được cái truyện ngắn “Cố hương” rất tâm đắc mươi năm trước và hình bóng Gã phảng phất trong nhiều tác phẩm khác. Và điều này khiến tôi biết ơn Gã.

Gã trạc tuổi tôi. Tôi quen biết Gã qua một người bạn. Anh bạn luật sư Quang của tôi vô tình giáp mối cho tôi gặp Gã nhân một chuyến đi miền núi Thái Nguyên giáp ranh với Tuyên Quang. Tôi thích miền núi. Bản tính hoang dã, đến già vẫn sống bản năng cho tôi niềm mến yêu đặc biệt với rừng rú núi non sông suối. Chỉ đến nơi đó tôi mới thấy mình thật sự được hít thở, con người mình thật sự đang được sống đúng nghĩa. Lần gặp Gã đầu tiên có lẽ phải đến hai chục năm có lẻ. Ngay từ khi chạm mặt, tôi đã linh cảm thấy điều gì đó rất khác người từ Gã. Người Gã không béo không gầy không cao không thấp. Mái tóc dài buông thả tự do che lấp một phần khuôn mặt và cả vầng trán. Nom Gã như một đạo sĩ ở ẩn. Chân một quả núi là nơi gã tọa lạc. Một ngôi nhà chắc chắn với những hàng cột gỗ to làm không ra lối miền xuôi hay mạn ngược. Màn giới thiệu được Gã tiếp nhận một cách hờ hững nhưng cũng không ra lạnh nhạt. Vì nếu có cảm giác ấy tôi đã chuồn chuồn có cánh ngay tắp lự. Bắt tay tôi nhưng mắt Gã lướt lên vách nhà nơi treo khẩu súng tự chế. Dường như không có gì quan trọng với Gã ở nơi chân núi xó rừng ấy cả. Khi tôi chưa kịp đặt mông xuống ghế theo phép xã giao thì đã thấy hai con gà giãy đành đạch sau phát súng nổ đánh đoàng khiến chim rừng từ những lùm cây gần đó bay tao tác. Gã dùng đạn ghém bắn gà nhà nuôi thả. Vẫn lừ lừ như lúc đầu, Gã xách đôi gà xuống suối làm thịt. Nhanh lắm chỉ chưa đến tiếng đồng hồ Gã đã dọn mâm. Gà luộc và canh mướp nấu với hai bộ lòng để nguyên trong xoong bày trên một miếng gỗ tròn làm chức năng mâm. Thịt gà Gã chặt to bày lổn nhổn trên lớp lá chuối lót trải trên miếng gỗ bốc hơi chào mời hấp dẫn. Bê ra cái bình sành đựng rượu ngâm to vật rót ra bát, Gã phẩy tay buông nhõn một tiếng:

-Mời!

Tôi được một bữa ăn nhớ đời ngon như chưa từng bao giờ ngon đến thế. Phần vì đói và phần nữa dạo đó nghèo mấy khi được ăn uống thịnh soạn nhường này. Hai con gà được tẩn vèo vèo chả mấy hồi đã biến thành xương xẩu nham nhở. Tôi bốc bải thịt gà và nốc cật lực. Rượu ngô tự nấu ngâm với chuối hột rừng của Gã ngọt chát, lịm vào từng kẽ xương góc thịt khiến tôi say lử lả. Suốt bữa Gã tịnh không nói một tiếng. Tôi mải ăn uống cũng chỉ ư hừm hưởng ứng lời kể của anh bạn luật sư giới thiệu về Gã. Lạ là Gã không một tán đồng hay phản đối trước lời kể của tay luật sư. Mà câu chuyện có phải tầm phào gì cho cam. Toàn bộ là những lát cắt cuộc đời của Gã. Thái độ này khiến tôi vô cùng ấn tượng. Say thôi rồi, tôi ngủ miên man đến tận sáng hôm sau mới tỉnh. Bữa rượu lúc nhỡ cỡ tầm ba giờ chiều đã quật gục sức trai ở thời cường thịnh nhất của tôi. Buổi sáng mở được mắt tôi đã thấy Gã ngồi đợi ở giữa nhà. Người gã nai nịt gọn gàng. Mái tóc cũng đã được buộc lại. Ông bạn luật sư giờ như ở chức phận phiên dịch bảo tôi ăn sáng rồi đi thăm thú dinh cơ của Gã sau đó vào rừng chơi. Tôi quá oải chẳng mấy hứng thú nhưng bắt buộc phải làm chức phận này của một viễn khách. Quên chưa nói nơi Gã ở cách biệt với dân trong vùng đa phần là người dân tộc một khoảng khá xa. Một mình Gã ngự chốn này, sống hoàn toàn tách ra khỏi thế giới loài người. Hàng tuần gã đi chợ xã một lần cách nơi ở cũng phải dăm bảy cây số để mua bán những vật dụng cần thiết của đời sống. Tóm lại là Gã cô đơn cô độc “cô quả” toàn diện.

Gia sản của Gã chẳng có gì đáng nói. Để duy trì sự sống cho một con người nơi rừng xanh núi thẳm này chẳng cần gì nhiều. Gã không trồng trọt gì ngoài mấy vạt nương gầy ít gốc bí bầu mướp, mùa nào cây ấy. Cũng có một khoảnh rộng trồng ngô lấy thức chăn nuôi. Gạo thì Gã mua của dân bản ở chợ chứ không cấy hái. Cây trồng thì thế nhưng đến đoạn chăn nuôi thì tôi sợ. Sợ hẳn hoi vì cách nuôi của Gã. Từng khu đất được khoanh bằng lưới thép gai quy hoạch cẩn thận. Chỗ này là gà. Có chuồng để tối tối lũ gà tụ về còn thì ban ngày tự túc chạy nhảy kiếm ăn. Lợn cũng vậy, chúng chạy nhanh thoăn thoắt như lợn rừng muốn ăn cũng phải bắn hạ như gà. Nhưng thế thì có gì mà sợ. Xin thưa quá sợ. Tôi chưa thấy ai nuôi như Gã. Đó là khu rắn và chim. Rắn Gã bắt được ở rừng mang về thả ở một khu đất riêng có cây cối tự nhiên rậm rạp chẳng có chuồng. Sẵn thức ăn nên đám rắn toàn hổ mang định cư lại không bỏ đi. Chúng đào hang sinh con đẻ cái nên khá đông đúc. Khu rắn của Gã nổi tiếng khắp vùng. Chuột bọ không một con nào dám bén mảng khu vực nhà Gã. Dân xung quanh có việc đi qua bao giờ cũng phải đi vòng. Ông bạn luật sư kể ngày nắng ráo rắn bò ra khỏi hang vắt mình lên cây trườn bò mặt đất nhìn mà phát khiếp. Thức ăn của rắn bằng chim. Chẳng hiểu sao hắn nghĩ ra được cách nuôi kinh hãi đến thế. Hắn bẫy chim rất tài và mang về. Tất cả các loại chim, nhiều nhất là chim hét, loại chim giống con sáo khi bị bắt thả đều bị cắt cụt cánh. Loài vật biết bay giờ lổm ngổm đi lại đen sì trên mặt đất khiến tôi sợ phát sốt. Gã nuôi chim bằng ngô hạt xay nhỏ. Chim con nào con nấy béo nần nẫn bỏ đi thuộc tính bay, giờ chúng như những con vật vô tri duy trì sự sống chỉ bằng ăn ngủ và tái tạo giống nòi theo cách thức mới. Chúng làm tổ ngay trên mặt đất và sinh trứng ấp con ở đó. Thậm chí chúng dần lai tạo tiếng hót giống nòi thành những tiếng kêu quái đản. Khi rắn đói mồi chỉ cần bò sang sân chim là thỏa thích đánh chén. Chim con mọc đủ lông cánh là Gã cắt. Cứ thế lớp lớp đàn đàn chim thích nghi dần với đời sống không bay. Tôi rùng mình khi nghĩ ngợi đến cái sự không bay của loài chim và ngờ rằng nếu có lông cánh mọc lại chưa chắc những con chim mặt đất kia đã bay nổi. Hoặc giả chúng chẳng còn tư duy bay để cất nổi mình.

Khi tôi ngỏ ý tìm hiểu về những con rắn thì Gã hơi nhếch môi. Gã rút từ cái túi vải ra một ống tiêu khoét từ trúc. Âm thanh chẳng ra kiểu gì chỉ thấy nó rờn rợn ma mị. Một lát thì có vài con chui ra từ hang. Có con quăng mình đến phách từ trên cây xuống ngắc ngư bò lại gần Gã khiến tôi không thể chịu đựng nổi phải bảo dừng lại. Từ khu rắn và chim Gã dẫn chúng tôi vào rừng theo dòng chảy một con suối khá lớn. Trưa đó Gã đãi chúng tôi một bữa cơm hoang dã đúng nghĩa là bắt cá suối nướng, nấu cơm giang và pha trà bằng ống vầu vát đầu đun sôi trong lửa. Cả món canh rau rừng cũng theo cách thức đó. Nếu bình thường thì đấy là bữa đánh chén để đời nhưng ám ảnh rắn tiêu và chim cắt cánh không bay khiến tôi chẳng còn mấy hứng thú. Mấy hôm ở nhà Gã đã gieo vào tôi những ấn tượng thật khó quên và bội phần kỳ lạ về một kẻ muốn lánh mình ra khỏi thế giới con người này. Cái lý do để Gã phải làm thế thực ra chẳng có gì đáng ghê gớm lắm nó chỉ là chuyện cơm ăn nước uống của cuộc sống hiện đại hôm nay mà thôi. Thì ra Gã là bạn thân của Quang luật sư, từng có thời gian về Hà Nội học đại học. Nhà Gã ở một thị xã trên này. Gã có công việc đàng hoàng và cưới được cô gái đẹp nhất nhì trong vùng. Bất hạnh chính ở đó. Khi mê mải kiếm tiền làm giàu thì Gã bị trúng đạn sau lưng. Vợ Gã ngã vào tay một kẻ kém Gã toàn diện. Khủng hoảng và không vượt qua được cú sốc ấy Gã đã tự sát khi không đủ gan để trừng phạt những kẻ phản bội. Nhưng chết đâu phải dễ. Lúc tỉnh táo ngẫm nghĩ lại Gã thấy mình cũng có phần lỗi. Và Gã tha thứ cho vợ nhưng tự trừng phạt mình bằng cách bỏ đi tất cả vào núi sống cuộc sống biệt lập xa lánh cuộc đời.

Sau này vào những lúc chán chường nhất hoặc hưng phấn nhất bao giờ địa điểm đầu tiên tôi tìm đến cũng là khu nhà của Gã. Có lần Gã dẫn tôi vào rừng làm lán ở đến tuần lễ sống như người nguyên thủy. Khi đi Gã chỉ mang diêm lửa, mắm muối, gạo rượu, dao súng, còn thì tất tật phải tự kiếm. Mỗi lần như thế tôi như được tái sinh như là một con người được làm mới toàn bộ. Dù thế tôi vẫn cám cảnh cho Gã. Khuyên Gã nên tự giải thoát mình. Gã chỉ im lặng vào những lần như vậy, chẳng bao giờ hé môi nửa tiếng. Có vẻ như gã đã quyết định đến cùng cố thủ ở đó. Tôi bất lực và cũng thấy mình chẳng có quyền gì để phán xét khuyên bảo gã. Mỗi người tự quyết định cuộc sống của mình. Chắc là Gã sẽ yên ổn với những thú chẳng biết là vui hay buồn với những con vật kia đến tận cuối đời. Nghe nói có lần khu núi Gã ở bị những toán khai thác quặng thiếc xâm chiếm đào bới nham nhở nhưng tiệt chẳng một kẻ bạo gan nào dám xâm phạm đến lãnh thổ của Gã. Đận đó Gã thổi tiêu điều khiển đám rắn tấn công lũ người quyết liệt. Chẳng biết có phải vì thế hay là sự cấm đoán khai thác của chính quyền khiến quả núi nơi Gã sống sót. Đám khai thác quặng thiếc phải bỏ đi vùng khác.

Lần gần nhất vừa viết xong cái kịch bản dài để xả hơi tôi rủ Quang luật sư lên chơi với Gã. Quang ớ ra rồi bảo thôi chết tôi quên béng mất không báo bác. Thằng đó lấy vợ rồi. Lấy vợ? Chứ sao. Một cô người Hải Phòng còn trẻ chưa chồng đi phượt mê cái ống tiêu với đàn rắn thế là cô này bỏ hết ở lại với nó làm cuộc chồng vợ. Tôi không tin. Gã hận đàn bà đến thế cơ mà. Quang cười bảo bác là nhà văn mà ngỗng lắm. Thì cái cô kia dám bỏ hết tất cả mọi thứ từ công việc đến gia đình ở lại với nó, lý do đó chẳng nhẽ không xoay chuyển được hay sao. Đến lượt tôi ớ ra. Ừ nhỉ. Cái lý lẽ giản đơn đến thế mà tôi không hiểu. Gã hận tình bỏ đi thì giờ cũng lại chính chữ tình kéo hắn lại với đời. Quang thông báo tiếp cái nhà đó hắn dỡ ra mang về xuôi tại quê vợ dựng nhà ở rồi. Giờ lập trại rắn kiếm nhiều tiền lắm. Tôi cười thở phào một cái mừng cho Gã nhưng lại thở dài một tiếng tiếc cái điểm đến lý tưởng độc nhất vô nhị giờ đây vĩnh viễn không còn. Tiếc thế nên tôi trách Quang luật sư không báo cho tôi vố lấy vợ của Gã. Quang cười hiền lành bảo đến tôi cũng có biết đâu. Tận tháng rồi tự nhiên vợ chồng nó xuất hiện ở Hà Nội khiến tôi bất ngờ suýt tai biến não. Nó có việc đi qua thông báo tiện thể mời cả bác về thăm nhà hắn ở quê vợ ăn rắn.

Tôi cười sặc. Nguyên mẫu của tôi. Mừng cho bạn. Cái bước ngoặt mới không ngờ này chí ít cũng được cái truyện ngắn chủ nhật. Tôi sẽ thu xếp về chơi với Gã một ngày gần đây nhưng lần này tôi biết sẽ không còn được hoang dã, không còn được tái sinh làm mới như những lần trước đây nữa. Nhưng thà thế vẫn hơn. Tái sinh một niềm vui sao bằng tái sinh một cuộc đời. Khekhe….

Tre nở hoa

 Khách qua Kim Long thích ghé vườn mụ điên ni lắm!


- Sao lại gọi người ta là điên?


- Từ từ rồi biết. Kia rồi! Ngồi với hai đứa con! - Thằng Tí chỉ cái cổng vòm tuyệt đẹp phủ cây thằn lằn, lá lăn tăn bò loăng quăng, mê mải viết bức tình thư màu gạch chín.


- Người rứa mà nói điên. Mi điên thì có.


- Đợi coi!


Thằng Tí ngoác miệng chào:


- Mấy mẹ con ngồi hóng mát hả?


Người đàn bà ngồi ở bậc thềm gật đầu nhoẻn miệng cười. Chị khoảng bốn mươi, đẹp thâm trầm như cái cổng gạch, khoát tay từ chối lời xin lỗi rối rít của tôi:


- Ai giận chớ tui sướng. Dễ chi được gọi rứa Vàng hí?


Chị choàng tay qua con chó ngồi cạnh nựng. Thật ngược đời. Chủ nhân thế, cơ ngơi thế mà chó thế. Chó ta. Lông bợt bạc. Lại già. Lại lòa. Lại ghẻ. Gãi kịch liệt. Còn bàn tay ngón thon dài quý phái đeo chiếc vòng ngọc ánh nước biếc lại xoa xoa lên chỗ ngứa của nó để làm dịu cơn khó chịu.


Thấy ấn tượng, tôi xin phép chụp một pô ảnh. Người như hoa hải đường bên cạnh con chó già thè lưỡi. 


- Rứa không điên là chi? Giàu lại đi nuôi chó ghẻ còn bỏ bạc triệu chuộc nó bao nhiêu lần. Thấy bở ăn, tụi trộm rình bắt đòi chuộc hoài! Giữ còn hơn giữ con! - thằng Tí kết luận.




° ° °


Cơn mưa chiều tưới mát thôn Kim Long. Đang tồng ngồng tắm mưa, thằng Tí bỗng đứng lại, lom khom dòm qua rào.


- Chi rứa?


- Tới coi xi nê ! - Thằng ranh thì thào - Cậu dòm đi.


Tôi ghé mắt. Một cảnh trong phim cũng không có. Như thuở hồng hoang. Đôi người chân trần, thân trần che chiếc lá sen đuổi nhau trong mưa. Chó ghẻ theo bén gót. Tiếng cười mướt mưa. 


- Mụ Tú bộn tuổi rồi mà nhẹ nhõm như hạt mưa...


- Không con nên trẻ mãi! Hễ mưa xuống là họ say.


- Say chi?


- Say mưa. Cậu không thấy họ tắm truồng rồi ngửa cổ nhấm mưa như nhấm rượu đó à? Đêm trăng họ lại say trăng. Rồi say hoa quỳnh, hoa súng, cả thứ hoa tầm thường như hoa thầu đâu

(1)

 cũng trồng quanh vườn. Mùa hoa, tím ngát trời, thơm ngát xóm. Mụ Tú bày tiệc hoa có món gỏi lá thầu đâu và gỏi hoa hồng. Tóm lại, nhà nớ sống không giống ai, quanh đây gọi là đờ iên... điên.


- Điên rứa được mấy người, mi! Thôi, dòm người ta tắm truồng không xấu hổ hả thằng ranh?


- Ai biểu tắm lộ thiên cho người ta dòm. Tui còn chộ

(2)

 chồng tắm cho vợ ở hồ sen, kỳ cọ như đứa con nít.


- Tình hỉ? Họ không có con cái chi hả?


- Cả bầy. Đứa nào cũng không biết nói - Thằng ranh cười.


Tôi được mời bước qua cái cổng gạch khi đem tặng chủ nhân bức ảnh ngồi với con chó ghẻ. Vườn đẹp như tên - Mộng viên. 


Mộng viên do người kiến tạo mà như từ cái búng tay của tạo hóa. Chùm nhà cổ tự tại thư thái. Hồ bán nguyệt mơ màng gót sen. Hành lang nối ngày xưa - hiện tại. Ao tiên cho người tắm tiên. Chòi cô miên phạt người cắc cớ - Người cắc cớ đang cười cười. Trông anh giống người làm vườn hay anh thợ mộc chứ không giống một nghệ sĩ. "Ảnh làm hết đó. Một mình đi lùng mua nhà cổ xuống cấp chở về... Có cái chỉ lấy được vài mảnh rồi hì hục lắp ghép" - Chị khoe.


- Còn hắn? - Tôi chỉ con chó già cứ lóng nga lóng ngóng bám theo chị. Chị đi, chúng đi, chị ngừng, chúng ngừng. Nó là bóng chị.


- Nhặt Vàng (gold chứ không phải yellow) trước cổng từ nhỏ. Lòa rồi, thấy bằng tai. Sợ Vàng cô đơn, tôi nuôi thêm Mực - Chị chỉ con chó thứ hai đứng cạnh. Vàng thương còn hơn con đẻ, lây cả ghẻ cho nhau - Chủ nhân ngồi xuống quàng tay qua hai đứa cười. Hạnh phúc đôi khi đơn sơ thế đấy.


Sau chó, đến khỉ chuyền cây, chim hót trên cành, cá lội dưới nước, rùa trên bờ...


- Mộng viên là nơi mộng biến thành thực - người, cây cỏ, thú vật sống giao hòa - Tôi tấm tắc.


- Thì tất cả chúng ta sinh ra từ cát bụi của các vì sao, là anh em họ hàng với động vật hoang dã, với hoa đồng cỏ nội

(3)

. Con người không thể độc quyền trái đất. Nó là mái nhà của muôn loài. Nhưng thương cái gì khổ cái nấy anh à! Tui khổ vì thương - Chị cười.




° ° °


Người đàn bà ấy khổ vì thương...


Đêm ngồi trong nhà nghe tiếng gọi miu... miu trải dài suốt xóm. Thằng Tí bảo: "Mụ Tú đi tìm mèo đó. Tối tối gom thức ăn thừa cho mèo hoang. Ăn quen chúng đợi, rứa là có hẹn. Gió mưa lướt thướt cũng che dù đi vì sợ chúng đói. Ông chồng lẽo đẽo theo sau. Rứa không điên thì là chi?" - thằng Tí kết luận.


- Người ta bảo tôi điên anh à - chị nói - Cứ lụy bởi chó mèo. Mà không chỉ chó mèo, con gì cũng thương. Chúng cũng có sinh mệnh, số phận và số phận ấy tùy thuộc con người. Tôi đi đâu chó mèo theo đó. Chúng nhận ra tôi. Thấy con nào đói khát là chịu không nổi. Có khi thương thành hại chúng nữa. Cho ăn có thịt có da, thì người ta bắt làm thịt... Có lần tôi thương một con chó mà đẩy nó vào chỗ chết. Nó ở bên kia, tôi gọi là Lu tồ - Chị chỉ tay vào vườn bên cạnh - cứ chui rào qua chơi với hai con bên này. Ba đứa giỡn với nhau thật hạnh phúc. Rứa là chủ ghét, cột lại trước cổng, bỏ đói như trêu tức tôi. Thấy tôi đi qua, nó tru thảm thiết như cầu cứu. Tôi năn nỉ cho nó làm bạn với con Mực, mấy cũng mua nhưng chị ta lắc đầu khinh khỉnh rồi bỏ bao chở đi. Chồng tôi đi tìm các chỗ bán chó nhưng không thấy...


Con Vàng, con Mực lại biến.


Vợ chồng chị đi quanh mấy xóm vừa gào con vừa bắn tin chuộc lại. Đã mấy lần bị mất nhưng con Vàng không bị thịt. Nó đã quá già, thịt dai nhách. Đợi chuộc tiền gấp ba. Nhưng lần này nó đang ở trong tay một gã không bình thường, Tuệ anormal.


Tuệ anormal ở xóm bên, sống cách biệt và cô đơn trong khu vườn xô bồ, rậm rạp. Gã không vợ con, ít nối kết, chơi với đá. Với gã, đó là những khối vô ngôn dễ chịu, tạo tác tuyệt vời của thời gian và mưa nắng. Chủ nhân cũng như vườn, tóc dài thấu vai, râu ria ngập mặt. Tôi đã thấy gã một lần ở chợ. Gã đi từ đầu đến cuối chợ, mua không cần trả. Nói bao nhiêu đưa bấy nhiêu nhưng chẳng ai dám bán đắt cho gã. Tướng như anh mổ lợn, mặt ngầu như tướng cướp, bí mật và cô đơn như một ốc đảo. Người ta sợ sức mạnh và nỗi cô đơn ấy. 


Con Vàng, con Mực quả đang ở trong nhà Tuệ anormal. Nghe tiếng chủ, nó sủa cuống cuồng nhưng cổng vườn không mở. Gọi thì đá thưa. Sợ gã làm thịt con chó, ông chồng nâng giá chuộc từ một triệu lên hai triệu nhưng Tuệ anormal lắc đầu. Gã bảo chó tự động vào vườn gã. Gã chỉ thả với điều kiện nữ chủ nhân Mộng viên vào làm khách nhà gã, không đi kèm với ai.


- Sao không phải anh mà là em? - Ông chồng nghi ngại.


- Không làm theo hắn, con mình sẽ chết - Chị rơm rớm nước mắt.


- Hắn không bình thường...


- Hắn điên, em cũng điên. Hắn không mần chi em được mô! Anh cứ ngồi ngoài, có chi em gọi di động hoặc la lên.


Anh chồng xiêu lòng gọi tôi tới cho có đồng minh. Hai người đàn ông ngồi ngoài cổng, còn chị vợ bước vào Thạch viên. Đúng là Thạch viên. Giữa ngổn ngang cây cỏ, đá đứng ngồi nhấp nhô.


Tiếng chó rộ lên như một dàn đồng ca rồi im bặt. Thời gian dài ra đến nghẹt thở. Kim đồng hồ nhích từng chút khó nhọc. Điện thoại câm lặng. Anh chồng gọi vào thì chị vợ trả lời "An tâm". Gọi nữa thì cáu: "Ai ăn thịt mô mà sợ !". Bóng chị lay động trong cái khung chết tiệt ấy cho đến khi mặt trời đứng ngọ.


Chị trở ra không chỉ với con Vàng, con Mực, mà cả con Lu tồ tưởng đã thành món cầy tơ. Tôi ngây người nhìn chị sóng bước thanh thản bên lũ chó hạnh phúc. Sẵn máy ảnh, tôi chộp khoảnh khắc ấy. Chộp luôn Tuệ anormal đứng dưới bụi tre nhìn theo, bởi tôi phát hiện trên đầu gã một chùm hoa tre vàng nhạt nở bung như pháo hoa. Người ta bảo đời người hiếm ai nhìn thấy hoa tre. Tre chỉ ra hoa cuối đời, mà đời tre có khi dài hơn đời người. Nở hoa xong, tre chết.




° ° °


Bức ảnh chụp khoảnh khắc ấy đổi được một câu chuyện dài.


- Năm đó tôi mười lăm tuổi - Tuệ anormal mở đầu - Nghỉ hè, cha bắt tôi chở cái lồng sắt theo ông. Cha tôi làm nghề buôn chó. Ông nói tôi có học hành mấy cũng không kiếm tiền dễ như nghề buôn chó sống bán chó chết. Chúng tôi rảo khắp hang cùng ngõ hẻm mua chó. Có chủ thì mua. Không chủ thì quật gậy sắt. Chó sống, chó chết, chó bệnh gì mua tất. Chó bệnh hay trúng bả thì người ta cho như tống đi. Chó chết da bọc xương thì vặt sạch lông, chôn xuống cát một ngày rồi bới lên. Trương phình, mập mạp tròn quay, thui rơm vàng ươm hấp dẫn. Một vốn bốn lời.


Chiều đó, cha con tôi đi vào một xóm nghèo. Nghèo người ta mới bán chó, mới thả rong chó. Bọn chúng đều ốm giơ xương, nuôi để dọn cứt trẻ nhỏ. Đến cuối xóm, ngang qua một căn nhà trống hoác thì có tiếng chó sủa. Một người đàn bà đứng ở sân nhìn ra. "Đổi chó lấy tiền đong gạo đi!" - Cha tôi gạ. Con chó vá đánh hơi mùi chết, sủa điên dại. Người đàn bà nhìn nó rồi nhìn cha tôi, lưỡng lự. Ông bồi thêm: "Một ký hơi hai chục nghìn. Con đó khoảng dưới chục ký. Đổi lấy gạo cho con ăn".


Ông vừa dứt lời, một con bé ào ra ôm chó chạy vụt đi. "Bán không, tôi giúp?". Người đàn bà gật. Cha ra hiệu cho tôi đuổi theo con bé. Con chó dài ngoằng, con bé thì gió thổi bay nên tôi dễ dàng bắt kịp nó. "Tau không bán!" - Nó hét rồi thả con chó "Xuỵt, cắn thằng ác ôn đi Vá!". Con chó táp ngay bắp chân tôi. "Chạy đi, Vá !" - Con bé lại ra lệnh, còn nó xông vào cản tôi, đu tấm thân bé bỏng lên người tôi và ngoạm tôi bằng tất cả sức mạnh của những chiếc răng nhọn hoắt. Tôi tát liên hồi lên mặt, nó vẫn không thả. Cha tôi xuất hiện.


Ông huơ chiếc thòng lọng ra, lập tức siết lấy cổ con vật trung thành đáng thương không nỡ bỏ chủ. Tấm thân gầy nhom của con bé như tan thành tiếng thét đớn đau nhọn hoắt. Con chó của nó trong rọ cũng tru lên, chảy nước mắt. Cha tôi quẳng đại cho người đàn bà hai trăm bạc rồi hối tôi đạp xe đi. Con bé ghì lồng sắt lại. Đụng vào, nó cắn còn hơn chó dại. Tôi đạp, con bé vẫn không buông tay. Hết hai con đường, phải tránh chiếc xe lớn, con bé mới thả tay nhưng vẫn kiên trì đeo bám, dẫu khoảng cách cứ xa dần. Không hiểu sao vòng xe của tôi không còn hăm hở nữa. Nó chậm dần, chệnh choạng vì tôi cứ ngoái lại. Lần cuối cùng ngoái lại, trời sắp tối. Con bé chỉ còn là cái chấm nhỏ trong chiều.


Đêm ấy tôi không ngủ được. Vết cắn sưng nhức. Hình ảnh con bé như dại như điên vì mất chó cứ luẩn quẩn trong đầu. Trời sắp tối, chạy xa nhà đến năm cây số, nó có về nhà được không ? Nó có bị xe cán?... Gần sáng, tôi rón rén xuống nơi nhốt chó. Con chó của nó vẫn còn trong rọ sắt, đúng năm giờ cha tôi sẽ hóa kiếp nó, cùng những con khác. Tôi nhấc rọ, bỏ lên xe đạp, chạy lui trở lại...


- Rồi sao? - Tôi bị hút vào câu chuyện.


- Đến đầu xóm, con chó mừng rỡ sủa vang. Nó nhận ra chốn thân quen. Từ trong tối, một cái bóng nhỏ vọt ra. Chính là con bé ấy. Nó không ngủ, nhào tới ôm lồng chó.


- Thả nó ra, muốn gì tau cũng chịu - Con bé năn nỉ.


- Tới coi mi có về thấu nhà hay không chớ không phải tới trả chó. Tiền mẹ mi lấy rồi. Con chó này thuộc về tau - Tôi vờ quay xe.


- Tau sẽ tìm cách trả tiền lại.


- Tau không lấy tiền.


- Rứa mi lấy chi?


- Lấy mi - Tôi trêu - Mi mấy tuổi?


- Mười ba.


- Răng ốm nhách rứa? Đói lắm hả? Ăn thịt chó không? Làm vợ tao, vài ngày tao cho ăn một đùi chó là mập căng ra.


Con bé rùng mình, lắp bắp:


- Mi giết chó là ác lắm.


- Chó cũng như gà heo bò thôi. Nuôi để ăn thịt. Ác chi mà ác.


- Chó là con vật tình nghĩa. Hai cha con mi ác như nhau.


- Rứa thì thôi - Tôi trở đầu xe.


Con bé lập tức nhào tới, bấu chặt cái lồng chó. Con Vá trong lồng cũng cào cấu, rên rỉ.


- Chịu không? Tau đi đây - tôi khoái chí bỏ chân lên bàn đạp.


- Chịu - Con bé đầu hàng.


- Ngoéo đi - Tôi giơ ngón tay út, nó giơ theo. Tôi lồng ngón tay mình vào tay nó rồi dùng tay kia chặt rời.


- Từ rày mi là vợ tao. Lật lọng tao bả chết chó mi.


- Thả chó tau ra!


- Dễ rứa hả? Muốn thả hun chồng miếng đã - tôi chìa má - Càng lúc, tôi thấy trò chơi càng thú vị.


Nó đứng yên liếc con chó trong rọ.


- Hun chứ không phải táp như chó đâu nghe! Mau lên kẻo tau đổi ý.


Nó đến bên tôi, tần ngần. Tôi cúi xuống vì cao hơn nó cả cái đầu. Nó kề má tôi, nhăn mặt hít nhẹ. Còn tôi thoáng một cảm giác thật khó tả.


Sau đó, tôi còn quay lại xóm nhiều lần nhưng nó lẩn như chạch. Một lần tôi đón được nó ở đầu xóm khi nó đi học về, và giở trò đe dọa, đòi hôn. Con bé không nói không rằng, quật cái cặp vào mặt tôi rồi bỏ chạy.


Tôi thích con bé ấy. Quyết liệt dữ dằn nhưng lại đa cảm. Gầy gò xanh xao nhưng rất dễ thương. Không lẫn vào ai bởi một nốt ruồi đen dưới khóe mắt phải, như một giọt lệ không rơi.


Rồi chính nó lại điều khiển tôi. Nó ra giá một con chó tôi trộm của cha trả về cho chủ (để chính mắt nó thấy) được đổi một lần gặp mặt. Tôi trả đến con thứ ba thì bị cha phát hiện, đánh một trận la lết. "Tau đánh cho mi chừa cái thói mê gái khốn kiếp. Con nhà đổi chó mà thả chó là lộn sân rồi! Người còn ăn thịt nhau huống gì thịt chó! Mấy anh chị mi không đứa nào giống mi. Có nước đói thôi con à". 


Suốt tuổi thiếu niên tôi rình nó. Mười lăm tuổi, con bé trổ giò lớn vùn vụt. Vừa học vừa bán xôi với mẹ mà vẫn học giỏi và kiêu hãnh như bà hoàng. Ánh mắt nó nhìn tôi lạnh băng. Khóe miệng mím chặt. Tôi sẵn sàng đổi một lồng chó lấy nụ cười của nó nhưng nó không hề cười với tôi. Nó cũng không sợ tôi vì nó biết sức mạnh của mình. Tôi mà giết chó nó, nó sẽ giết tôi với cách của nó. Thế là tôi cứ lẽo đẽo theo nó như một con chó. Chỉ để nhìn thấy nó.


Cái tình thơ dại buồn cười ấy không tàn theo năm tháng mà cứ lớn dần lên. Tôi nhìn nó đẹp lên từng ngày và xa vời vợi. 


Mười tám tuổi, nó có vệ sĩ. Một thằng hơn tôi cái khoản dẫn chó đi ị và không có mùi máu chó tanh tao bám vào từng


milimét thịt da như tôi. Cha tôi cũng có mùi đó. Đậm đặc. Tôi chặn đánh mấy bận tóe máu nhưng thằng kia không hề ngán. Con bé đi đâu, nó theo đó. Hai đứa còn phối hợp để trêu tôi. Tôi vạch kế hoạch thịt thằng đó...


Gã đột ngột hạ giọng như tiếng thì thầm: "Ông có bao giờ thấy người hóa chó chưa?".


"Buổi sáng ấy, cha tôi thức dậy vào bốn rưỡi sáng như mọi khi. Hai mươi năm làm nghề buôn chó, giết chó, đồng hồ sinh học của ông chính xác hơn cả đồng hồ thực. Ông bỏ chân xuống giường là đồng hồ báo thức reo. Ông dậy có nghĩa là cả nhà phải dậy và mười con chó phải chết. Đúng mười con. Tẩm ướp, pha phách, chế biến có nghề có ngón tạo thành thương hiệu quán Mười con cầy. Khách nườm nượp, xe hơi sắp hàng, thấy treo chữ Hết to tướng mới quay về. 


Nhưng sáng ấy không nghe ông quát tháo. Nhìn qua giường ông, tôi thấy ông ngồi chồm hổm, giơ chân gãi kịch liệt rồi thè lưỡi liếm người. Dạo này tôi hay lén dòm cha... Ông như bị chó nhập, mỗi ngày thêm giống chúng từ điệu bộ đến dáng vẻ. Sáng nay, ông dậy, làm động tác rùng rùng lắc lắc như rũ lông rồi đi ra vườn. Tôi đi theo ông, thấy ông ghếch chân lên cây cau đái rồi vục mặt xuống thau nước cạnh đó uống và đi ra cổng... Tôi kêu toáng lên. Cả nhà đổ ra, chứng kiến cha tôi băng qua đường ở vạch trắng hẳn hoi nhưng bằng bốn chân, lưỡi thè ra...


Cha tôi bị nhốt trong căn phòng trên sân thượng. Dưới nhà, anh tôi, mẹ tôi vẫn bán thịt chó. Một thời gian sau ông chết... Còn tôi bỏ nhà đi...".


Tuệ anormal im bặt. Ngừng luôn ở đó. Tôi đến, thấy cổng vườn khép chặt. Khép một câu chuyện dở dang. Một mối tình dang dở.


Chùm hoa tre nở bung như mây đầu ngõ giờ đã tàn, khô quắp. Thân chuyển qua màu ngà, bạc phếch, sắp chết. Cũng đã đến ngày tôi rời Huế. Chủ nhân Mộng viên tiễn tôi bằng một bữa gỏi hoa hồng. Không kìm được, tôi hỏi chị:


- Tuệ anormal hình như đi đâu. Không chào được hắn.


- Dạ... Đi vắng. Ông ta còn định bán vườn. Con người rứa mà tốt. Ông ta đã mua lại con Lu tồ từ người chủ nhẫn tâm, giờ gửi lại tôi nuôi. Đừng coi chuyện chó là chuyện nhỏ. Nhìn cách con người đối với con vật thì biết ngay người đó thế nào - Chị kết luận. 


- Còn cái hôm chị vào vườn, ông ta nói gì? - Tôi tò mò.


- Mắc cười lắm. Ông ta chỉ hỏi chuyện chó. "Chị có nhớ tên con chó chị nuôi hồi nhỏ không?" - "Nó tên Vá" - Tôi trả lời - "Làm ơn kể tôi nghe chuyện về nó". Tôi kể về con Vá. Ông ta ngồi nghe. Sự im lặng của ông ta buộc tôi nói rồi miên man không dừng được. Tuổi thơ ùa về. Ngày tháng cũ hiện ra. Con Vá mà tôi thương, cái thằng mà tôi ghét, chặng đời tôi trải qua... Tới khi dừng, mới biết tôi đã nói hai giờ liền. Ông ta là một người biết nghe chuyện. Chăm chú. Trầm ngâm. Không hỏi. Không ngắt. Xong chuyện, ông ta cám ơn, gửi lại tôi con Vàng, con Mực, cả con Lu tồ. Đúng là ở với đá, lần lần cũng hóa đá, thâm trầm, ít nói và bí mật như đá. Nhưng ông ta là người tử tế, tôi biết - Chị khẳng định.




° ° °


Từ dạo đó, tôi không về lại thôn Kim Long, cũng không gọi điện hỏi thăm thằng Tí về Tuệ anormal ( anormal: không bình thường ), về chị, về chó, về tre. Tôi sợ những kết cục. Tôi đã có một câu chuyện dở dang để họ cùng sống trong đó. Thỉnh thoảng buông viết, tôi liếc nhìn Tuệ anormal trong bức ảnh chụp hoa tre. Ánh mắt gã trầm tĩnh, thanh thản. Ánh mắt của một người yêu vô lượng, một gã đồ tể buông cây dao trong tâm.


Tôi tin gã không còn lẽo đẽo theo chị như con chó trong phần đời còn lại của mình. Tình yêu gã như cây tre nở hoa, kết tụ đằng đẵng, bung nở rồi chết.


Rồi hết. 

Lão ăn mày, gái ăn sương và gã

Sưu tầm 

Vẫn cái dáng đi còm cõi, cúi gằm mặt xuống đường, nặng nề như đang gánh cả nỗi buồn nhân thế, lão bước đi liêu xiêu giữa ánh chiều gần tắt. Bộ quần áo cũ kĩ, nhàu nát, bẩn cáu như một con đường đất đỏ đầy bụi, bị cơn mưa rào làm cho lỗ chỗ, hằn lên chỗ bẩn rõ rệt. Ở chổ hai tà áo, từng đường vân bẩn, như trảng cát gặp mưa. Tất cả hiện lên rõ rệt. Bộ dạng của một lão ăn mày.



Lão lê bước chân khó nhọc, mặt rịn mồ hôi. Người lão bốc lên một mùi hôi thối. Vẻ mặt già nua, hốc hác, đầy những vết rỗ, hằn lên nỗi khổ cực của đời người càng làm lão trông gớm ghiếc và bẩn thỉu hơn. Lão đi về phía công viên. Ngôi nhà của lão. Buổi tối, đó là "đại bản doanh" của lão. Lão kiếm được chút ít. Những thằng thanh niên, những con thiếu nữ ở đấy sẽ vứt cho lão vài đồng. Chúng đi với người yêu, chúng làm tình, hôn hít công khai. Chúng không muốn ai làm phiền phút giây sung sướng của chúng. Thế là, trong khi ôm nhau, chúng thò túi, móc ra vài đồng lẻ, vứt vào cái nón rách của lão, không quên kèm theo câu chửi vì cái tội phá phút giây sung sướng của chúng. Biến đi ông già. Và cả những thằng thanh niên, những con thiếu nữ tri thức, đi dạo trong công viên. Khi đi ngang lão, đứa con gái sẽ dừng lại, bộc lộ chút thương cảm mà mở ví, vứt vào cái nón rách của lão. Đều là bố thí cả. Lão vui. Cái nghề ăn mày, còn gì vui hơn là khi người ta cho mình tiền? Dù chỉ với năm trăm bạc rách, chúng nó cũng có thể chửi mình, sỉ nhục mình.(Hình như đó là cách làm chúng bớt tiếc đồng tiền mình đã bỏ ra) Dù với hai trăm, một thằng nhóc cũng có thể tự hào là mình vừa làm một việc tốt. Bố thí, cứu rỗi một ông ăn mày.

Công viên, tối thứ bảy.



Tụi thanh niên, nam nữ, ngồi trên băng ghế đá, nằm dài trên thảm cỏ như những kẻ không nhà. Chúng ưỡn ẹo, chúng hôn hít và những thứ mà phần bản năng gắn vào con người. Thiên hạ này là của chúng. Công viên này là của chúng. Thằng nào, con nào nhìn việc chúng làm, dơ mắt thì ráng chịu. Mà, có ai shơi đâu nhìn cái lũ nhố nhăng ấy. Thành ra, công viên này là của riêng chúng. Chúng khoe với nhau những nụ hôn, những động tác khiêu dâm điêu luyện nhất. Không ai buồn bận tâm. Lão là người bận tâm nhất. Lão ghét những đôi choai choai kia. Nhà cửa đâu mà không ở, ra giữa công viên, làm cái trò như thú vật. Rồi, sẽ chẳng còn nơi nào dành riêng cho lão nữa. Lão nhắm nghiền mắt, mệt mỏi sau chuyến di chuyển từ bên quán ăn đến công viên. Lão già mất rồi. Một chặng đường ngắn cũng làm gã rệu rã.



- Không làm ăn gì mà ngủ hả ông già?



Lão giật mình. Trước mặt lão, ả đang phì phèo điếu thuốc lá. Cái áo hai dây mỏng mảnh, khoe cả cái áo ngực màu đen ra ngoài. Chiếc váy lấp lánh kim sa ngắn cũn cỡn, không hơn một chiếc quần lót là mấy che đôi chân dài, trắng nõn. Nghề bán trôn nuôi miệng, bắt buộc ả phải hấp dẫn ngay từ hình thức bên ngoài. Đó là một cách "giới thiệu sản phẩm" của ả và tất cả bọn làm nghề như ả. Ả thả vòng khói thuốc lên trời rồi ngồi phịch xuống chỗ lão.



- Đã ăn tối chưa?



Ả hỏi. Ả luôn thế. Những câu trống rỗng, không chủ ngữ. Những câu hỏi mà thoạt nghe có vẻ gì đó nanh nọc. Gã không hiểu sao những thằng đàn ông kia có thể thích một đứa như ả.



- Tao ăn bánh mì rồi. Còn mày? À! Tao có ổ bánh mì lúc chiều người ta cho. Cứng quá! Răng tao yếu lắm rồi.



Lão lui cui lục cái bịch cũ xì vẫn mang theo bên mình. Ả phẩy tay từ chối. Vẫn tiếp tục những vòng khói thuốc phả vào lớp không khí se se lạnh.



- Ăn rồi, phải ăn mới có sức, tối làm việc chứ ông già?



Lão quay sang nhìn ả. Lão vẫn nhớ ý nghĩ ngày đầu gặp ả. Một con đàn bà đáng sợ. Cái lũ bán trôn nuôi miệng thì đều đáng sợ cả. Đáng sợ cho những thằng đàn ông, cho tất cả những con vợ của những thằng đàn ông. Ả đã chọn cái nghề đáng ghê tởm, đáng phỉ nhổ. Ai cũng có quyền khinh ả. Đàn bà đi qua, lườm nguýt ả, nhổ toẹt vào ả. Đàn ông thấy ả, đưa cặp mắt dâm dục ra nhìn. Cái nhìn như muốn xuyên thủng tất cả, rồi chúng cười lên hô hố. Có vài thằng dừng lại đưa tay quờ quạng lên mông ả. Đôi mắt cháy lên thèm khát.



Ả đẹp. Đẹp nhưng nhão mất rồi. Qua tay bao nhiêu thằng đàn ông, không nhão mới lạ. Ả năm nay đã ngoài ba mươi. Ba mươi tuổi là đã sắp hết thời rồi đấy. Cần nhất của cái nghề này là sắc đẹp, thân hình và tuổi trẻ. Bây giờ, khi bỏ ra một số tiền, những thằng đàn ông cũng biết lựa những "mặt hàng" còn tươi nơn mơn mởn. Lũ "gà" mười bảy mười tám tuổi không thiếu trong những quán cà phê đèn mờ. Rồi chúng cũng sẽ như ả. Bị đào thải phải ra đứng ngoài đường, ngoài công viên. Thoáng chút xót xa trong ý nghĩ lão khi nghĩ về vòng đời của những con người làm nghề đốn mạt này. Ả đã ba mươi, chắc chắn đã bị thải ra từ một nơi nào đó.



Lão giật mình. Ba mươi năm đã là nửa đời người. Ả đã đi được nửa đời người. Ba mươi năm đã trôi qua rồi đấy. Con gái lão, chắc cũng bằng tuổi ả. Nó ngoài ba mươi. Nó đang làm gì? Để người ta khinh bỉ, phỉ nhổ và cả xa lánh như ả mà không buồn nói lại? Đáp lại tất cả sự cay nghiệt của người đời dành cho mình, nó chỉ cười lạnh tanh. Hay nó đang sống trong một gia đình hạnh phúc, đang bận lo trăm công nghìn việc khác. Phụ nữ có học ngày nay thì có hàng trăm thứ để lo. Những thứ tủn mủn và không tủn mủn. gã lại thoáng kéo giãn cơ miệng mình. Nếu có một đứa con gái như thế, lão sẽ hạnh phúc đến chết mất thôi.



Ba mươi năm rồi con ơi!



* * *



Anh trở về nhà bất ngờ. Túi xách nặng trĩu trên vai. Lần này về, quà nhiều lắm. Bánh kẹo, đồ chơi, cho con đầy nhóc cả chiếc túi xách. Chắc con bé sẽ mừng lắm. Lần nào viết thư cho bố, nó cũng nhắc khi nào bố về, bố nhớ mua thật nhiều quà cho con. Mua bánh, mua kẹo xanh đỏ bố nhá. Cả mua cho con em búp bê, để con cho em ăn. Mỗi lần đọc nét chữ to tròn của con là anh rưng rưng nước mắt, khoe ầm lên với các anh em. Ở chốn rừng thiêng nước độc, anh thèm nghe tiếng con trẻ biết mấy. Anh đã xin chủ về sớm, dành bất ngờ cho con bé, cho vợ anh. Anh còn mua cả một xấp vải áo dài màu tím, tặng vợ. Năm ngoái, đi chợ Tết, vợ anh đã đứng tần ngần mãi ở sạp vải. Anh biết, vợ anh luôn ao ước có một chiếc áo dài màu tím, được mặc chiếc áo dài màu tím, đi chúc Tết, đi lên huyện với anh. Thấy anh về như thế này, chắc cô mừng lắm. Nhìn xấp vải anh mang về, không khéo cô khóc vì bất ngờ. Nghĩ vậy, anh đi rón rén ra sau nhà.



Sau này, anh mới biết, việc anh về bất ngờ, anh đi ngõ sau là một sai lầm của cuộc đời mình. Giá mà anh không về bất ngờ, giá mà lúc ấy anh là thằng câm, thằng mù thì hay biết mấy. Song, anh không mù, cũng không câm. Mắt anh thấy rõ lắm. Trên chiếc giường tân hôn của hai vợ chồng, trên cặp gối đôi có hai chữ "tân hôn hạnh phúc", vợ anh đang trần truồng, uỡn ẹo với một gã đàn ông khác. Tai anh nghe rõ lắm, anh nghe tiếng thở dồn dập, tiếng rên rỉ, tiếng tỉ tê của cô. Tiếng kẽo kẹt của chiếc giường đâm thủng óc anh. Chiếc túi xách nhuốm bụi đường trên tay anh rơi xuống đất. Đôi gian phu dâm phụ nghe tiếng động, giật mình, thả nhau ra. Trông gớm ghiếc như những con vật. Anh đi ra khỏi nhà. Không đánh, không mắng, không gì cả. Nhu nhược ư? Yếu hèn ư? Lẽ ra anh phải làm gì đó.



Anh đi đã ba mươi năm. Anh đi nhiều nơi lắm. Ra Hà Nội, đứng chờ người ta thuê làm việc. Đi theo mấy tay đào vàng, lên tận vùng biên. Chịu không nổi, bị truy bắt ráo riết, anh về miền xuôi. Đã có lúc, anh làm tay lái đò trên một con sông lạ hoắc.Anh đi qua đủ nơi. Chứng kiến đủ cảnh, đủ nhuốc nhơ của cuộc đời. Sau cơn bạo bệnh, thân thể không còn chút sức lực nào. Những nơi đã từng thuê vào làm việc, giờ nhìn bộ dạng khẳng khiu của đều từ chối thẳng thừng.



Cuối đời, khi đã trở thành ông lão, không có một mái nhà, một người thân, lão lang bạt trở về thành phố này. Thành phố này, nó dễ sống, dễ chứa những con người như lão. Đi gần hết cả nửa đời người, cuối cùng lại về vạch xuất phát. Chẳng có gì, sống vào bố thí của thiên hạ. Có đáng nhục không?



Nhiều buổi chiều, trời mưa, lão ngồi trước hiên nhà người ta, lắng nghe mùi thức ăn thơm phức, lão chạnh lòng, nhớ quay quắt về một gia đình. Gia đình? Gia đình của lão, giờ đã ra sao? Lão thấy nhớ lắm, nhớ mâm cơm dưa cà, mắm muối mà tràn ngập tiếng cười. Lão nhớ món canh cua rau đay. Lão nhớ từng cái gắp thức ăn đặt vào chén vợ, chén con với tất cả yêu thương. Lão nhớ quay quắt cái tiếng cười non nớt, ngây thơ của con gái lão.



Ba mươi năm rồi con ơi. Phải chi ngày đó, lão cứ tảng lờ đi như không biết gì. Lão đừng lên tiếng, lão bỏ đi đâu đó. Đi ra quán, uống thật say. Uống say rồi sẽ quên hết. Lão sẽ trở về vào sáng hôm sau. Vợ lão sẽ đón lão, con lão ùa vào lòng lão, ríu rít gọi bố. Tất cả sẽ trở về như xưa đã từng. Vợ là của lão, con của lão, mái nhà yên ấm lão đã gây dựng sẽ là của lão. Lão có tất cả. Nhưng liệu có được như vậy không? Hay trong một phút giận dữ nào đó lão sẽ nói toẹt hết ra. Lão sẽ hành hạ vợ lão, làm vợ lão chết dần trong bất hạnh, trong dày vò, trong ghen tuông của thằng đàn ông. Ghen tuông của một thằng đàn ông thì đáng sợ không gì bằng. Không thằng đàn ông nào chịu nổi với ý nghĩ mình bị cắm sừng, thân thể vợ mình đã từng bị một kẻ khác vày vò, ân ái.



Không biết vợ lão sẽ nói gì với con gái lão về sự ra đi của lão. Bố đã bỏ mẹ con mình theo người đàn bà khác. Bố không yêu con, không yêu mẹ nữa. Con không được nghĩ về bố nữa, nghe không. Vợ lão sẽ gieo vào đầu con lão, lòng căm thù, căm thù bố nó. Nó sẽ lớn lên với nỗi oán hận về một người cha đầy tội lỗi, đã bỏ rơi nó. Hoặc, nhân đạo hơn, vợ lão cứ nói là lão đã chết rồi. Bị sốt rét mà chết, hay là bị hổ vồ. Chốn rừng rú ấy, không thiếu người chết vì những thứ quái ác ấy. Vân vân và vân vân lý do đưa ra để giải thích cho sự biến mất của lão. Miễn là, đừng cho nó biết, bố nó bỏ đi vì bố nó đã thấy một điều bố nó không muốn thấy và bất kì thằng đàn ông nào cũng không muốn thấy. Rồi sau đó, nó sẽ có một người bố mới. Sẽ tốt hơn bố của nó hay là lũ lang sói như những ông bố dượng, người ta đăng trên báo?



***



Như mọi lần, ả thò tay qua làn áo mỏng tang, đưa tay vào chiếc áo ngực màu đen, móc ra xấp tiền. Ả lựa ra tờ mười nghìn, vuốt thẳng tắp, rồi đặt vào tay lão. Ngày nào cũng vậy, từ khi ả gặp lão. Ả luôn lấy từ trong áo lót của mình ra đồng mười nghìn và dúi vào tay lão. Những đồng tiền nhơ nhớp. Đồng tiền nào không nhơ nhớp. Người ta cứ mạnh mồm mà tuyên bố, tiền không là cái gì, không có nghĩa lý gì. Thế mà, con giết bố vì tiền. Đâm chém nhau vì tiền. Tiền là tất cả. Ai không cần tiền? Đồng tiền đáng nhơ nhớp, đáng nguyền rủa. Ả nguyền rủa nó. Lần nào cho lão tiền, ả cũng nói những câu đại loại như



- Đồng tiền ghê tởm của thiên hạ, trả lại cho những người cần hơn.



Thi thoảng, ả hỏi trống, ông có chê tiền của tôi không? Đồng tiền bẩn thỉu của con đĩ bán thân nuôi miệng. Ông có khinh tôi không? Ông cũng có hơn tôi đâu. Ông ăn bám vào thiên hạ. Còn tôi, tôi có, tôi đem thể xác ra kiếm tiền. Tôi làm thỏa mãn những thằng đàn ông. Tôi đã "lao động" đấy thôi. Lao động thì đáng quý. Đồng tiền của tôi, đáng quý lắm đấy chứ? Ả cười khẩy. Hơn hẳn ông. Ả làm ra vẻ bất cần đời, ả miệt thị, ả khinh lão. Ả nói vậy, nhưng nhìn cái cách ả vuốt thẳng tờ tiền, đặt vào tay lão thì lão biết ả quý đồng tiền lắm. Đồng tiền mà ả đã mang thân ra phục vụ thằng xe ôm, thằng cửu vạn hay một thằng đàn ông thèm của lạ nào đó. Ả đã bán thân xác, phẩm giá, linh hồn cho đồng tiền đó. Ả quý nó. Ả tiếc rẻ nó?



Ả đã ngoài ba mươi. Cái tuổi lẽ ra người ta đã có một gia đình, có chồng, có con. Cái tuổi lẽ ra, ả đang chăm sóc cho con, nấu cho chồng những bữa ăn ngon, giặt giũ. Lẽ ra ả đã có một mái nhà. Những buổi tối như thế này, lẽ ra ả đang dạy con học bài, để cửa chờ chồng. Đời ả, chỉ có một mơ ước duy nhất. Nhỏ nhoi lắm. Một mái nhà nhỏ, một gia đình yên bình yên lành để đi về, vun vén hạnh phúc. Ả cũng như bao nhiêu người phụ nữ trên thế gian này, chỉ mong muốn cái thiên chức làm mẹ, làm vợ. Ả sẽ là người vợ ngoan hiền, chăm chồng, sẽ sống chết để bảo vệ cái gia đình của mình. Ả thèm lắm một lần được nghe tiếng gọi mẹ ơi. Ả mơ một ngày sẽ có một người đàn ông sẽ chấp nhận ả. Nhưng chúng chỉ đến với ả theo kiểu "ăn bánh trả tiền". Chúng hứa hẹn khi đang ân ái, chúng muốn ả tin chúng mà phục vụ chúng tốt hơn. Chúng ra rả cái điệp khúc, "sẵn sàng lấy đĩ về làm vợ". Sau đó, sau cái đêm ân ái, sau khi sung sướng rồi, chúng quên ngay. Chúng thảy vào ả núm tiền, chúng cười khẩy. Cũng có thằng hứa hẹn đủ điều, đặt cho ả cả núi hy vọng. Anh sẽ ly dị vợ để cưới em. Anh sẽ đến với em. Một năm, rồi hai năm, khi "của" đã hết lạ, chúng biến mất, để lại cho ả nỗi ê hề vì bị bỏ rơi.



Hồi ả hai mươi lăm tuổi, ả đã ngây thơ tin vào miệng lưỡi của một thằng đàn ông, tin vào những lời thề hẹn của nó. Ả cật lực đi bán thân mình, ả đứng lại công viên thật khuya, có gắng chèo kéo khách "xộp" thật nhiều. Ả mong kiếm thật nhiều tiền. Rồi ả và hắn sẽ có tiền sinh sống. Cả hai sẽ kiếm việc làm, sẽ đi đến một nơi không ai biết về quá khứ của ả, làm lại từ đầu. Ả sẽ sinh những đứa con, sẽ dạy chúng điều hay lẽ phải. Ả ao ước lắm, ả xây đắp bằng tất cả sức lực thể xác.Làm việc đến kiệt sức. Ả bệnh, bệnh nặng. Ả không đi làm được. Thằng chồng "hờ" bỏ ả đi, trước khi đã kịp cuỗm một số tiền của ả, và để lại cho ả căn bệnh HIV chết người. Thằng khốn nạn. Ả tưởng như mình sẽ gục ngã, sẽ chết. Nhưng, ông trời vẫn còn ngó ngàng đến ả. Trong số những thằng đàn ông mà gã từng bán thân cho, làm cho chúng lên tiên, ghé lại thăm ả. Đúng hơn thì chúng đi thăm cái "của lạ". Chúng chăm sóc cho ả vài ngày. Rồi ả cũng vượt qua. Trời chưa cho ả chết! Ả phải sống, phải sống mà trả thù đời. Ả đâu thể chết dễ dàng như vậy được.Và ả sống. Sống bằng cái nghề của ả.



Giờ thì, ả không bao giờ tin vào những lời hứa hẹn nữa. Ả chỉ cốt làm sao moi được thật nhiều tiền từ túi những thằng đàn ông. Và, ác độc hơn, ả muốn gieo rắc cái chết đến với thật nhiều thằng đàn ông. Cứ làm cho chúng đê mê, chúng khoái cảm, cho chúng hành hạ, cấu xé, dày vò thể xác ta rồi ta truyền cho chúng cái chết. Cuộc đời chúng nó rồi sẽ hết. Đó là sự trả thù. Ả đã trả thù, gieo rắc cái chết lên bao nhiêu thằng đàn ông? Năm, mười, hay nhiều hơn thế? Càng nhiều thì ả càng vui. Vui lắm.



Cuộc sống dạy cho ả ác độc, tàn nhẫn, lạnh lùng. Càng ngày, ả càng ác độc hơn, đáng sợ hơn. Phải! Một đứa trẻ được sinh ra với mầm mống quỷ dữ ở trong người thì sớm muộn gì nó cũng trở thành một con quỷ dữ, khát máu, sẵn sàng đi gieo tội ác ngay.



Ả được sinh ra trong nỗi hận thù của mẹ ả. Mẹ ả đã gieo vào đầu ả những lời răn dạy về cách làm người. Đừng tin vào bất cứ ai. Nhất là bọn đàn ông. Chúng là những con quỷ dữ. Có cơ hội, chúng sẽ ăn thịt con, biến con thành vật thế mạng. Con phải băm vằm chúng ra, giết chết chúng. Đứa trẻ non nớt đã lớn lên như vậy. Lớn lên với những suy nghĩ đáng ghê tởm ăn sâu vào trong tâm trí. Nó lớn lên với cái tên Thu Huyền, nghe rất hay và rất kêu. Có ai biết, Thu Huyền nếu ghép lái có nghĩa là Thù. Mẹ ả thù tất cả, thù đàn ông, thù đàn bà, thù cái làng đã xua đuổi mẹ con ả, đã khinh miệt mẹ con ả. Mẹ ả thù thằng đàn ông đã hứa hẹn, đã cướp lấy đời con gái của mụ rồi bỏ mụ. Mẹ ả dẫn ả đi khắp nơi. Ở nơi nào, mẹ ả cũng cố chui vào vài gia đình, phá hoại hạnh phúc. Mẹ ả khiến những thằng đàn ông phải bỏ bê vợ con, những con mụ đàn bà phải nhảy cẫng lên, lồng lộn tru tréo vì ghen. Mẹ ả đã khiến bao nhiêu đứa trẻ như ả phải xa cha, xa mẹ. Mẹ ả trân tráo, độc ác một cách đáng sợ. Ả sợ cả mẹ mình. Ở đời, không ăn được thì khuấy cho hôi. Cái nghề của ả, cũng là do mẹ ả truyền lại. Năm ả mười bảy, ả bị một trong số khách của mẹ để mắt đến. Và rất nhanh chóng, ả được bán đi với một cái giá khá hời. Ả khóc, tởm lợm tiếng gọi mẹ. Dửng dưng. Câm nín. Ả thôi không còn gọi tiếng mẹ nữa. Cho đến ngày mẹ ả nằm chênh vênh trên bờ vực cái chết, mụ đã nắm tay ả gặc gặc, cầu xin tha thứ. Ả gật. Không nên tàn nhẫn với người sắp chết. Nhận được cái gật đầu ấy, mẹ ả ra đi thanh thản. Đôi mắt trũng sâu, khuôn mặt gầy gò lịm đi nhanh chóng.



Mẹ ả chết. Gieo quá nhiều tội ác, không thể tránh khỏi lưỡi hái của thần chết. Ả ớn lên, ả đi phiêu bạt và trở thành phiên bản của mẹ ả ngày xưa. Ác độc, tàn nhẫn. Như vậy, ả sẽ chết như mẹ ả thôi. Ả bật cười thật to.Cười rồi lại ngẫm lại, cuộc đời mình có gì mà đáng cười. Vậy mà, ả cứ cười mãi đấy thôi. Cười đứt quãng, chen vào tiếng thở dài, tiếng nấc.



Ả thương cảm cho lão. Một chút gì đó nhói lên trong lòng ả. Không biết, cha ả, người cha ả chưa từng biết mặt, có giống ông lão này không? Cha ả đang hạnh phúc, chức cao vọng trọng, xe đưa xe đón hay là vật vưởng như lão này? Ông có nhớ mình đã có một đứa con không? Ông ta sống hạnh phúc hay đang bị tội lỗi dày vò. Biết đâu, lão là cha của ả. Vậy thì ả sẽ nhón tay, sẽ làm phúc. Sẽ chuộc lại một tội ác nào đó của ả. Ả biện minh vậy với chính mình. Ả biết, trong lòng mình đang bùng lên nỗi thèm khát của cả thời ấu thơ.



***



- Có khách!



Ả reo lên, âm vực hệt như một con chim khách nuôi cảnh. Suốt ngày chỉ chờ được nói câu đó.Vui nhất với câu nói đó. Ả vụt chạy đi, uốn éo, cố gắng khiêu gợi hết mức. "Con mồi" tiếp theo của ả. Thằng đàn ông thứ bao nhiêu đây? Liệu, ả có gieo lên mình nó cái chết ả đang mang? Cái đó thì chưa biết được. Còn tùy thuộc vào thái độ của nó, nó có làm ả đau hay không? Ả có căm ghét nó hay không? Đôi khi, những khuôn mặt có giá trị trong việc làm ả quên đi suy nghĩ tội ác trong đầu mình.



Đáng tội nghiệp thay cho những thằng đàn ông. Nhục dục sẽ làm chúng chết, bản năng sẽ khiến chúng trở thành con vật đáng thương.



***



Một đêm mùa đông.



Công viên thưa thớt hẳn. Chỉ còn lại những kẻ không nhà như lão. Những đôi, những cặp đã chui đến một quán cà phê nào đó. Giữa trời này mà hôn nhau thì không khéo run cầm cập, cắn lưỡi nhau mất. Chúng bỏ đi, nhường lại cho lão những chiếc ghế đá. Lão đặt mình xuống chết ghế đá. Xương cốt kêu lên răng rắc. Ghế đá lạnh ngắt. Lão co ro trong chiếc chăn vá đủ chỗ. Lão nhìn lên bầu trời. Bầu trời mùa đông tối om, nặng nề, chẳng nhìn thấy ngôi sao nào. Không biết, cuộc đời của một người khốn nạn như lão có được một ngôi sao chiếu mệnh nào không? Mà nếu có, chắc nó cũng mờ nhạt lắm. Làm sao mà lão thấy được. Hay lão chọn ngọn đèn trong công viên này làm sao chiếu mệnh. Nó sáng trưng, thấy rõ lắm. Số phận lão sẽ đỡ khổ hơn một chút. Nhưng, ánh đèn kia cũng phải tắt. Cuộc đời tăm tối của lão cũng chẳng soi sáng được bao nhiêu. Lão đã đi gần hết con dốc đời người. Lão đã vượt qua bao nhiêu vách núi dựng đứng, đoạn đường tối đầy những cái hố chực chờ. Đến giờ, chỉ còn một đoạn ngắn, bằng phẳng mà lão lại chùn bước, không muốn vượt qua. Đoạn đường đi về bên kia dễ dàng quá, lão không muốn bước đi. Đi về cõi chết, dễ thế mà chẳng ai muốn đi. Lão còn ham hố gì ở cuộc đời này nữa mà muốn sống? Dù vậy, lão cũng đã làm được cái gì đâu mà chết? Lão chết, lão sẽ trở thành cái xác vô danh trong nghĩa địa dành cho người nghèo, dành cho những kẻ vô gia cư. Lão không muốn thế. Như thế thì ai khóc thương cho lão. Ả đâu rôi? Ả có khóc thương cho lão không? Số tiền ả cho lão, lão đã cất thật kĩ, chưa tiêu một đồng nào. Sau này lão chết, ả sẽ dùng nó để chôn lão. Chôn lão bằng đồng tiền dơ dáy, bẩn thỉu mà ả đã trân trọng. Ả sẽ nhỏ cho lão vài giọt nước mắt để gọi là. Ở nơi chin suối, lão cũng an lòng. Còn gã, gã có đi cho lão được nén nhang? Gã, gã đâu rồi? Tại sao khi lão cô đơn như thế này, gã không đến? Lão nhớ cái lối nói chuyện điên rồ, văng tục của gã. Cái kiểu nguyền rủa cuộc đời của gã?



Gã xuất hiện và biến mất một cách kì lạ. Mỗi lần xuất hiện là lại nghe gã than thở. Tôi cũng sắp đi xin ăn như ông thôi. Tôi ao ước được sống như ông. Ngửa tay, thu vào tiền của thiên hạ. Tôi muốn như ông lắm. Tôi muốn giả què, giả mù, giả câm, bẩn thỉu, nhếch nhác, cầm nón đi ăn xin. Người ta sỉ nhục tôi như sỉ nhục ông. Mà sỉ nhục tôi nhiều hơn ông. Vì tôi là một thằng thanh niên. Người ta bảo tôi là thằng ăn hại, gánh nợ của xã hội, bảo tôi là vô tích sự. Cha mẹ tôi chắc không dám ngẩng mặt lên mà nhìn ai. Họ đã từng tự hào về tôi bằng niềm tin ngây thơ thánh thiện nhất về cuộc sống, về thằng tôi này. Chắc chắn tôi sẽ làm nên chuyện lớn. Chuyện gì bây giờ? Nhếch nhác, bẩn thỉu, sống để cho người ta cười. Tôi mặc. Gã cười. Tôi đã nghĩ thế đấy! Miễn là tôi có cái ăn. Miếng ăn là miếng tồi tàn, ăn ra sao mà không tồi hả ông? Quái quỷ, tôi lại là thằng có lòng tự trọng. Lòng tự trọng là cái gì? Có ăn được đâu? Tự trọng quá, người ta nói là điên, là ngu, là sĩ diện hảo đấy. Tự trọng, nó biến tôi thành một thằng không ra gì, ra công viên ngồi với ông. Cũng chẳng khá hơn thằng ăn xin là mấy. Người ta cũng dè bỉu tôi đấy thôi. Gã nhấp hớp rượu, rồi nói.



Cuộc đời này, xã hội này nó chó má hết ông ạ. Ông chó, tôi chó, toàn bộ đều chó cả. Chỉ khác, tụi nhà giàu là lũ chó xù, chó Nhật, chó becgiê, chó lai gì đấy. Lũ chó cái đấy, chúng xúng xính, liếm láp, nịnh nọt chủ. Chúng được mặc cho quần áo, được cả buộc tóc, được đeo lục lạc vàng. Chúng vênh váo, đú đởn. Lũ chó đực là những con to như một con bê, hung dữ, muốn nuốt chửng người khác. Còn tôi, ông, và lũ nghèo khó là loại chó nhà, chó hoang, chó ghẻ. Chúng ăn toàn cặn bã của xã hội thôi ông ạ. Nhưng, chó nào mà chả là chó hả ông?



Lão bất ngờ, lão không hiểu, một thanh niên như gã lại có cái nhìn kinh tởm về xã hội như thế. Ai đã nhồi nhét vào đầu gã những điều đó? Những điều đáng ghê tởm. Qua cách nói chuyện, lão biết gã sống có lý tưởng, có hoài bão. Gã muốn thay đổi cả thế giới này. Gã liến thoắng về lý tưởng, về xã hội như một thằng điên. Gã hỏi lão "Ông có mong muốn sau một đêm, vạn vật đổi ngôi không?". Ông thức dậy, ông làm một tay nhà giàu, có kẻ hầu người hạ. Ông than thở bận rộn, ông đi họp, ông phát biểu kế hoạch này, dự án kia, thật ra thì ông chẳng biết cái quái gì. Người ta vẫn phải xun xoe bên ông, nịnh hót ông, a dua theo ông. Còn những thằng giàu, chúng sẽ đi xin ăn, chúng nếm mùi bị ghẻ lạnh, bị xua đuổi. Tôi muốn thế lắm ông ạ! Tôi muốn cái lũ đã xua đuổi tôi, xuống làm một thằng như tôi. Chúng sẽ hiểu thế nào là nỗi khổ đi xin việc, bị xua đuổi, không có việc làm, không có cơm ăn. Đời thế mà buồn cười, ông nhỉ? Ai đời, thằng có bằng cấp, cử nhân này, cử nhân nọ hẳn hoi, bằng ngoại ngữ, bằng tin học ... mà bị cái thằng mới học hết lớp chín, trình độ, abc nó khinh, nó xua đuổi. Nó vứt tấm bằng vào mặt. Vì nó có quyền, có tiền, nó làm được tất cả. Nó được phép cho ông chờ mấy tiếng trong khi nó ăn nhậu, rồi nó khinh khỉnh nhìn ông, nó đuổi khéo ông. Ôi! Giá mà đổi ngôi.



Gã chửi văng tục vài câu nữa rồi tiếp tục cái giọng của gã.



Gã nói như một thằng điên, gã thao thao bất tuyệt, rồi gã biến mất. Không biết thật sự gã có tài hay không? ( Thường những thằng không có tài, thích chửi đổng vào thiên hạ cho đỡ tức). Nếu gã có tài, chỉ mong sao, gã sẽ nhìn cuộc đời tích cực hơn. Xã hội, đâu chỉ toàn mặt trái như gã nhìn. Gã cứ mang đôi kính đen như thế thì có ngày vấp ngã vì không thấy đường quang. Vì gã quen nhìn vào bóng tối.



***



Lão nằm nghe tiếng thở của mình. Mệt mỏi và yếu lắm rồi.Chẳng mấy nữa là lão ra đi. Đi khi chưa làm được gì. Khốn nạn cho một ông lão không làm nên tích sự gì như lão. Bất chợt, lão nghe tiếng trẻ con khóc. Lão nhìn quanh. Công viên chẳng còn ai. Sao lại có tiếng trẻ con khóc? Lão nhìn quanh quất. Tiếng khóc phát ra từ bụi cây đằng kia. Lão nặng nhọc lê bước về phía phát ra tiếng khóc.



Trong bụi cây, một đứa trẻ đang khóc đến tím tái mặt mày. Chắc nó lạnh. Lão nhìn vào chiếc chăn của nó, có một lá thư và một gói tiền nhỏ. Một đứa trẻ bị bỏ rơi. Lão ôm nó lên, lắng nghe được nhịp tim của nó. Lão sẽ phải làm gì với nó đây? Lão ôm nó về chiếc ghế đá. Da thịt nó lạnh ngắt. Lão đắp cho nó chiếc chăn rách của mình. Lão nhìn nó thật lâu. Một đứa bé kháu khỉnh. Tại sao lại bị bỏ rơi như thế này?



***



Ả xuất hiện vào lúc sáng sớm. Ả đã đi đâu đó mấy tháng nay, bây giờ lại xuất hiện. Giờ đâu phải là giờ "làm ăn" của ả. Mà trông bộ dạng lúc này của ả thì không giống ả đi "làm việc". Ả mặc một bộ đồ màu xanh kín đáo, không có điếu thuốc ở môi. Ả xách theo một cái càmen. Ả muốn đem thức ăn sáng sáng đến cho lão, khoe với lão là ả đã tìm được việc làm ở công ty may. Lương ít nhưng từ nay ả sẽ không bị người ta dè bỉu, chê bai nữa. Ả hoảng hốt khi nhìn thấy lão nằm co ro dưới thảm cỏ. Người lão lạnh ngắt, hơi thở khò khè yếu ớt. Ả giật mình hơn nữa khi nhìn lên thấy một đứa trẻ đang ngọ ngoậy trong tấm chăn rách. Lão đưa cho ả lá thư. Ả hiểu ra tất cả.



- Con nuôi nó, được không?



Lão hỏi trong hơi thở nặng nhọc. Đó là trăn trối thì phải. Ả gật đầu lia lịa, nhòe nước mắt. Ả hiểu điều gì sắp xảy ra. Ả chỉ mong có một đứa con. Ả sẽ nuôi nó trong những ngày còn lại của cuộc đời. Ả sẽ dạy nó sống tốt.



- Con sẽ nuôi nó.



- Con sẽ nuôi bố nữa. Bố không được chết đâu đấy!



Giọng ả thảng thốt ở tiếng "bố". Từ khi lọt lòng đến giờ, ả chưa phát âm tiếng ấy lần nào. Nó thiêng liêng quá thể. Ả khóc, nước mắt ngập bờ môi. Lão thì mỉm cười. Lão đã làm một việc có ý nghĩa. Đoạn đường sắp tới, lão sẽ yên tâm mà đi tiếp. Đã có người khóc cho lão.



***



Nghĩa địa một chiều nắng nhạt.



Hai con người đứng cạnh ngôi mộ mới. Ả đã dùng số tiến trong bọc kia để xây mộ cho lão. Sau này, ả sẽ nói cho con gái ả nghe về số tiền đấy. Ả sẽ nuôi nó bằng số tiền chân chính mà ả kiếm được. Ả sẽ kể cho con gái ả nghe về lão. Ông đã nhường chăn cho con, để cứu con. Ông là một người ông tốt.Còn gã, gã sẽ nhớ mãi một tấm lòng. Gã sẽ dùng tháng lương đầu tiên để làm cúng tuần cho lão. Gã sẽ nhìn cuộc đời theo hướng khác. Nhờ lão. Nhờ lão cả lão ạ.



Bóng đêm đổ xuống. Hai con người vẫn đứng im lặng trong nghĩa đại vắng lạnh ấy. Họ đang thả những suy nghĩ miên man mình. Gió mang những dòng ấy đi thật xa.



Xa hơn, cao hơn nữa gió ơi!

Sống
Truyện ngắn của Kim Nhan Sơn

09:03 | 17/01/2013

A.

Có lẽ mày nên đi về phía mặt trời mọc. Thi sĩ nói, mắt vẫn dán vào cái vi tính cũ kỹ lập lòe gợn sóng.

Thôi đi anh, nóng bỏ bố. Gã bán thịt quặc lại, tay róc những miếng thịt còn bám trên những chiếc xương.

Thì tao cứ ví dụ thế. Thi sĩ trả lời.

Vớ vẩn, đây, mấy miếng xương này nói chị nấu cháo cho tụi nhỏ. Em đi chợ cho kịp.

Nói rồi gã buộc mấy tảng thịt vào yên xe phóng đi.

Tại sao mình lại ở gần được với hạng này nhỉ. Khi nào cũng đẽo xương oang oác mà chẳng chút ghê tay. Thi sĩ gom đống xương vụn xách vào bếp.

A’.

Anh không làm thơ nữa à. Gã bán thịt hỏi chiếu lệ, suốt ngày nhìn mặt nhau không hỏi han gã thấy bức bí.

Thơ thẩn gì, rách việc. Thi sĩ đáp, tay lau màn hình, lâu không lau bụi bám đầy.

Hay anh chuyển sang phụ em một tay, dạo này bán được mà không có người. Gã bán thịt thăm dò.

Mày nói cái gì? Thi sĩ đỏ bừng mặt.

Dạ, thì em cứ ví dụ thế. Gã lại tiếp tục đẽo oang oác.

Tự nhiên thi sĩ thấy đói lạ. Thằng khỉ, đẽo thịt thà buổi này. Thi sĩ uống ừng ực một cốc nước đầy vem rồi tiếp tục dán mắt vào màn hình máy tính lập lòe gợn sóng.

A’’.

Này. Thi sĩ bâng quơ.

Dạ. Gã bán thịt đáp.

Hay mày để tao chở thịt ra chợ giúp, chứ khoản róc riếc tao không quen. Dạo này vợ chồng tao cũng bí. Thi sĩ ngường ngượng.

Quen ráo, băm chặt vài lần là quen. Em nghĩ anh cứ ở nhà, tranh thủ lúc nào làm thơ thì làm, nghỉ tay anh lại róc thịt, phân loại cho em, em chạy ù về chở ra là hay nhất, lâu nay chỉ mình em làm, mất thời gian quá. Gã bán thịt được lời như cởi tấm lòng.

Đành vậy. Thi sĩ miễn cưỡng đáp.

B.

Chặt đi. Chiếc xương hếch mặt thách đố.

Mi đừng ép ta, ta chẳng sợ mi. Thi sĩ quả quyết.

Thì chần chờ gì nữa? Chặt đi. Chiếc xương vẫn vẻ tự đắc.

Ta sẽ chặt, đó là công việc. Thi sĩ đáp.

Đằng nào ta cũng chết rồi, mạnh dạn đi. Chiếc xương khiêu khích.

Được, lạy Chúa. Thi sĩ bổ những nhát đầu tiên lên chiếc xương.

Mạnh lên, mạnh nữa lên, thế, băm nát ta đi, thế. Chiếc xương run lên sung sướng.

Khốn kiếp, trò gì thế này. Thi sĩ vứt chiếc dao đồ tể xuống đất, quay vào trong nhà.

Đồ hèn yếu, đồ bất lực… Thi sĩ nghe rõ chiếc xương nói vọng vào.

B’.

Còn lâu anh mới trở thành thi sĩ đại tài. Thơ bĩu môi nói.

Nàng nói sao? Thi sĩ tỏ vẻ ngạc nhiên, vì từ lâu nàng thơ vẫn rất nhu mì.

Em nói, anh không được lựa chọn. Thơ khinh khỉnh.

Là sao? Thi sĩ băn khoăn.

Nhu nhược không phải phẩm chất của thiên tài. Thơ trả lời.

Ý nàng là ta phải róc, phải băm thịt mạnh mẽ hơn. Thi sĩ hoang mang.

Em không biết. Nàng thơ thiu thiu ngủ.

Thi sĩ bỏ ra ngoài tiếp tục róc thịt.

B’’.

Thế có phải ngoan không? Chiếc xương hồi nãy lên tiếng.

Mày câm đi, để tao làm việc. Thi sĩ run rẩy cầm con dao.

Dao diếc nặng bỏ mẹ. Để xem mày còn ngoa ngoắt được bao lâu. Thi sĩ ngắm nghía chiếc xương để chọn thế. Những đường gân máu rỉ ra từ những thớ thịt còn sót lại khiến thi sĩ dợm nơi cổ họng. Dứt khoát tao phải mạnh mẽ. Nàng thơ nói mạnh mẽ là phẩm chất của thiên tài. Tao lại đếch muốn làm người thường.

Phang em đi chứ? Chiếc xương giục, nó đổi cách xưng hô.

Mày không phải hối, tao biết phải làm gì.

Những nhát dao lại bổ xuống khúc xương, lần này mạnh hơn.

Thế, đúng rồi, em thích thế, dứt khoát vào anh, đấy, thế, trở lưng con dao lại, nện mạnh vào, ôi, đúng là thi sĩ khi hứng khởi có khác, ôi…

Đồ đĩ thõa. Thi si lại vứt con dao xuống đất bỏ vào trong.

B’’’.

Tôi không ăn đâu. Thi sĩ nói giọng mệt mỏi.

Sao thế anh, em nấu nhừ lắm rồi. Vợ nói, tay múc cho thi sĩ một bát đầy có khúc xương lếu kềnh ở giữa.

Vớt ra, vớt ra. Thi sĩ giãy nảy.

Anh bị sao thế, xương nấu canh bí anh thích lắm cơ mà. Vợ ngạc nhiên.

Của nợ, tôi thấy nó là lợm ói rồi, vớt ra. Thi sĩ dùng đũa định vớt khúc xương ra.

Khúc xương cười đểu. Thi sĩ lẳng lặng vào phòng nằm nghỉ.

C.

Tôi đang làm cái quái gì thế này? Tôi nói.

Mày chẳng làm quái gì cả. Tôi trả lời.

Mày là đồ dơ dáy, hạ lưu, bẩn thỉu, yếu hèn. Tôi lại nói.

Điều này thì đúng. Tôi lại trả lời.

Đồ bỏ đi. Tôi khẳng định.

Còn dùng được. Tôi phủ định.

Mày chết đi. Tôi lại khẳng định.

Chưa đến lúc. Tôi lại phủ định.

Này ông hèn quá ông ạ. Khúc xương chen ngang, nó lại đổi cách xưng hô.

Để tao yên. Thi sĩ gắt lên.

Đằng nào chả băm tôi rồi, bày đặt đạo với chả đức.

Mày có im đi không. Để tao yên. Thi sĩ hai lần nói để tao yên.

Tôi đã chết hai lần, lần đầu người ta chọc tiết tôi, lần hai vợ chồng ông đun hầm tôi. Chưa kể băm, vằm, đẽo, róc. Đến thế thì ông cứ xơi. Tôi không giận thì thôi cớ chi ông dằn vặt. Đích thị ông nhu nhược quá đi rồi. Ông hèn yếu chưa từng thấy. Thiên với chả tài. Khúc xương lý sự.

Mày có biết sát sinh nghĩa là gì không? Đồ khốn. Thi sĩ bực tức.

Sát với chả sinh. Tôi cầu các ông giết tôi để tôi được làm người đây này. Khúc xương nhìn xa xăm.

Người thì sướng sung lắm đấy! Thi sĩ mặt đần ra.

Dẫu sao người ta thích thịt ai cũng được, chúng tôi thì toàn bị giết thịt. Khúc xương lại lý sự.

Ta không muốn tranh cãi với đồ vô tri. Thi sĩ muốn chấm dứt cuộc nói chuyện.

Ông đang bất lực. Khúc xương xấc xược.

Ừ để xem.

Thi sĩ choàng dậy, trở ra húp hết bát canh, vứt khúc xương cho chó.

C’.

Tao tính không làm nghề này nữa, mày bảo cu Thiêu làm cho, nó khỏe hơn. Thi sĩ uể oải nói, mắt vẫn nhìn vào chiếc màn hình gợn sóng lập lòe.

Anh quen việc rồi mà. Gã bán thịt nói.

Quen cái con khỉ. Vật lộn với mấy khúc xương mệt lắm rồi.

Vợ anh trông mập ra đấy. Gã bán thịt thăm dò.

Mập mà làm gì, mày nhìn tao giống cá khô chưa. Thi sĩ đáp.

Gã bán thịt hết hy vọng ngồi róc xương oang oác.

C’’.

Mình giỏi lắm, chân trong chân ngoài, biết sớm thế này có lẽ mình cất được nhà mới rồi. Vợ hớn hở.

Ừ. Thi sĩ miễn cưỡng đáp.

Tụi nhỏ kỳ này học phí tăng mình ạ. Vợ sầm mặt lại.

Ừ. Thi sĩ miễn cưỡng đáp.

Hồi sáng em đi chợ sơ sơ hết veo hai trăm bạc. Vợ phàn nàn.

Ừ. Thi sĩ miễn cưỡng đáp.

Mai cưới cháu Nhi mình định đi ba trăm, không biết nó trách chi không, mốt thì chạp đằng nội, hương hỏa đèn đóm không lơ là được anh ạ, mình ăn nên làm ra nhờ phần âm nữa đó, em tính trong đầu hết rồi… Vợ nói huyên thuyên.

Ừ. Thi sĩ miễn cưỡng đáp.

Vợ gắt.

Sao anh ừ hoài vậy, nghe em nói không?

Thi sĩ giật mình.

Tôi nghe mà, ấy là tôi cũng đang tính.

Anh tính chi? Vợ tò mò.

Thi sĩ nén thở dài.

À, tôi nói chú nó làm thêm vài con nữa, tôi tranh thủ róc một ngày có lẽ được trăm bạc.

Nói xong thi sĩ lẳng lặng đi vào trong.

Chiếc máy tính cũ kỹ vẫn lập lòe gợn sóng.

Nhạc thính phòng chơi trong lò mổ

Anh thường giết heo trong lúc nhà bên cạnh ông nhạc sĩ già đang chơi một bản giao hưởng của Johann Sebastian Bach trên chiếc piano cũ. Nó có cái gì đó hơi quái đản trong chuyện này. Anh nghĩ vậy.

Ba giờ sáng, không phải là giờ để người ta chơi đàn. Giờ đó người ta còn ngủ. Chỉ là giờ của những tay đồ tể như anh mà thôi. Chưa kể anh không tìm thấy lý do gì để giải trí vào cái giờ sớm sủa như thế. Rõ là phức tạp. Chưa kể, cái thứ âm thanh trang nhã đó không hợp chút nào với việc giết mổ. Rock Rap còn dễ chấp nhận hơn, có vẻ xô bồ, thô nhám. Đằng này không, Bach đàng hoàng, sang trọng, kính cẩn, thể như mỗi nốt vang lên là có một người cúi xuống nguyện cầu. Đi hết cái chuỗi âm thanh đó, là một hàng người dài vô tận đang cúi xuống làm anh sợ.

Con heo là cái thứ phi Bach. Là cái thứ không thể sống chung với Bach. Cái chết của con heo được minh họa bằng trí tuệ Bach không ổn chút nào. Máu, tiếng rống cắt tiết, dao phay và piano. Thỉnh thoảng anh còn nghe thêm vài âm điệu như violon cứa cứa trên dây đàn lúc anh đang cứa cứa vào cần cổ heo. Trong đầu anh hình ảnh đó, đúng vậy, toàn là hình ảnh đó cứ đều đặn lặp đi lặp lại. Con heo được treo lên cao, đầu trút xuống. Nồi nước sôi được vợ anh chuẩn bị kỹ từ lúc hai giờ sáng bốc khói nghi ngút. Hai giờ ba mươi phút anh dậy, mài con dao lần cuối cho đến hồi bén ngót. Có lẽ nó đã thọc vào cổ không dưới một ngàn con heo, cướp không dưới một ngàn sinh mạng, trên ánh thép xanh nó chở không dưới một ngàn linh hồn. Cũng vào giờ ấy, bên đây vách tường, ông nhạc sĩ già trở dậy, mở hộp đàn, lấy miếng vải nỉ lau từng phím sừng một. Đúng ba giờ, anh kéo căng hai mươi con heo lên chuỗi ròng rọc dài, cũng là lúc ông nhạc sĩ ngồi vào ghế chơi một bản của Bach. Máu heo tuôn ra theo lưỡi dao, tuôn trong cái khối âm thanh thành kính bên kia vọng sang. Bach đã minh họa cho cuộc cắt tiết một cách hoàn hảo.

Không biết ông nhạc sĩ già kia có nghe tiếng heo chọc tiết không nữa. Anh phân vân. Chắc chắn là ông ta phải nghe thấy. Anh tin vậy. Giữa nhà anh và nhà ông nhạc sĩ chỉ cách nhau một bức tường mỏng. Không có cớ gì ông ta lại không nghe thấy. Ông ta ngồi vào cây đàn, tai văng vẳng vong hồn của Bach và vong hồn của lũ heo trộn lẫn vào nhau. Thiếu gì khoảng lặng trong Bach, dứt một nốt, dứt một chuỗi, dứt một giai điệu, là giờ của lũ heo bị chọc tiết chen vào gào thét đau đớn, chúng lìa đời trong bàn tay sát sinh của anh. Và trong nhạc Bach nữa.

Lúc trước chưa có ông nhạc sĩ già, việc mổ heo đối với anh dễ dàng làm sao. Xẹt xẹt xẹt, liếc dao trên đá mài, phập phập phập, đâm vào cổ heo, hứng máu, đẩy cái xác qua nồi nước sôi cho vợ anh cạo lông, xong. Bây giờ thì không phải thế nữa. Âm nhạc Bach cứ như nhạc nền minh họa cái việc cắt tiết của anh. Khi con dao anh đâm phập vào cổ heo cũng là lúc bên kia, ông nhạc sĩ gõ xuống phím đàn một hợp âm mạnh mẽ quái thai, gõ xuống những nốt thăng giáng, những nốt cao vút như xiết cổ, những nốt trầm nghèn nghẹt như ngợp hơi. Bách mô tả chính xác việc anh đang làm.

Anh rơi vào những hình ảnh như vầy, Bach ngồi bên vai trái anh tìm cảm hứng, rồi những giai điệu của ông ta càng lúc càng dồn dập tuôn trào theo hình ảnh con dao phay vung lên vung xuống trên tay anh. Rồi ông ta chép lại chuỗi thất thanh của lũ heo cho violon chơi. Tiếng dao lách cách cho bộ gõ chơi. Tiếng cạo lông sột soạt của vợ anh như chất phụ gia vào nồi lẩu thịt của ông. Màu đỏ của máu như những nốt la. Màu trắng lạnh của dao phay như những nốt sol, đô. Tất cả được gói ghém lại một cách ngoạn mục, như một gói âm thanh bi tráng. Rồi một ngày nào đó, mươi năm, thậm chí vài trăm năm, trong một nhà hát trang nghiêm nào đó người ta tấu lên, lòng không nguôi xúc động mà không hiểu vì điều gì. Người ta không hề biết trong tiền kiếp của nốt la, nốt đô, nốt sol, nốt fa có gì, tiền kiếp của bộ gõ có gì, người ta chỉ xúc động, đơn thuần xúc động.

Cách đây mươi ngày anh định qua nhà ông nhạc sĩ già hỏi nguyên nhân tại sao lại chơi Bach lúc ba giờ sáng nhưng vợ anh đã cản lại. Anh vô duyên cũng vừa thôi. Nàng nói. Người ta có quyền chứ?

Đúng là người ta có quyền thật, có quyền chơi Bach lúc anh giết heo. Thậm chí khi ngồi trong nhà vệ sinh người ta vẫn có quyền chơi Bach bằng kèn chẳng hạn. Chút trí thức và lịch sự hão thời còn học đại học như một nguồn sáng le lói đã cản anh lại. Chúng ta chẳng bao giờ biết chuyện gì sẽ xảy ra trong đời sống này. Một thằng tốt nghiệp xã hội nhân văn như anh lại đi mổ heo. Điều đó có khác gì chọc tiết heo trên nền nhạc Bach đâu.

Nhưng dù sao thì anh cũng phải gặp ông ấy một lần. Anh nói với vợ lúc nàng đang hát bài thoát ly. Nàng thích mỗi bài ấy. Khi cạo lông heo nàng cũng hát mỗi bài ấy. Anh phải gặp ông ta. Ít nhất thì anh cũng phải nhìn xem những ngón tay gảy đàn của ông ta có giống dao chọc huyết không. Nàng bật cười thú nhận. Đúng là, em cũng không thích ông ta chơi mấy cái bản ấy. Em có cảm giác là ông ta hơi man rợ. Mỗi khi nghe tiếng heo bị chọc tiết thì ông ta ngồi xuống đánh đàn. Ông ta chơi xong một đoạn thì thốt lên, xong, một con. Sau đó tiếp tục chơi, tiếp tục thốt lên, xong, hai con. Ông ta chơi đủ hai mươi con thì dừng. Anh có nghĩ như vậy không? Anh rùn vai.

Có lẽ, suy cho cùng thì cả anh và vợ không thích ông nhạc sĩ già chơi Bach còn vì một lẽ khác trong tiềm thức, lúc cả hai quen biết nhau lần đầu, Bach đã được chơi trên radio. Họ đã từng ngồi im lặng hàng mấy giờ liền nghe Bach. Và cũng chỉ vì có kẻ dám bỏ hàng mấy giờ liền để ngồi nghe Bach giống mình nên họ đã yêu nhau. Lần làm tình đầu tiên giữa họ cũng là lúc Bach được chơi trên radio. Có lẽ đứa con trai của anh cũng được ra đời từ những âm điệu của Bach. Anh tin như vậy. Còn nữa, con của anh cũng là Bach, Nguyễn Văn Bach. Để kỷ niệm cho cái giai điệu tình yêu, nhưng vì một nhầm lẫn tiếng Việt nào đó người ta đã cho nó một cái dấu sắc vào trong giấy khai sinh thành Nguyễn Văn Bách. Thôi kệ. Bách nào thì cũng Bách. Nhưng Bach để minh họa cho cái việc giết mổ thì anh không ưa.

Âm nhạc và thịt heo, chúng là cái quái gì vậy? Cái chó chết gì vậy?

Anh ghé nhà ông nhạc sĩ già. Căn nhà cũ kỹ như trong phim năm con quỷ và chín cái xác. Đúng như anh nghĩ, ngón tay ông nhạc sĩ già mỏng lét như dao phay. Gân máu nổi lên không xanh mà đen thẫm xuống như máu lợn vón cục. Cái bàn tay này hẳn đã thọc sâu vào Bach như quỷ dạ xoa thọc mõm vào xác chết. Ông có cô con gái đang học thanh nhạc, môi dày. Từ đôi môi cô, Bach cũng đã từng được ngân lên, tuy không thành công bằng việc cô cong môi lên trước anh tình nhân giàu sụ. Nhưng bấy nhiêu cũng đã đủ giúp cô siêu thoát rồi. Sau đó thì cô theo anh ta đi nước ngoài. Cả hai thành hôn trong nhạc Bach. Tất nhiên. Sự nghiệp thanh nhạc của cô chấm dứt ở đó. Bây giờ, đối với cô, Bach thật xa vời. Thỉnh thoảng lúc yêu đương với chồng, để thay đổi không khí, cô cất lên dăm nốt làm quà rồi tắt tịt. Nhưng dù gì thì bấy nhiêu cũng đủ làm thằng chồng tai điếc chết mê chết mệt. Cô cũng chẳng mong gì hơn.

Từ ngày lấy chồng, dăm năm cô về thăm bố một lần. Tiền thì thay mặt cô về thăm ông bố đều đặn hơn, một lần mỗi tháng, đủ để ông không phải làm gì. Mỗi lần về thăm, thằng con rể ngồi nghe rồi khen ông già vợ đàn hay. Cũng tàm tạm thôi. Ông nhạc sĩ già nói. Tay bố cóng hết rồi. Hẳn ông muốn nói, hồi trẻ ông đàn còn hay hơn thế. Nói chung cuộc đời của ông, con gái, và thằng rể là Bach. Âm nhạc đã chen vào họ. Bây giờ thì đến phiên anh. Bỗng dưng Bach cũng chen vào anh. Lũ heo của anh cũng là Bach.

Cậu làm cái nghề giết mổ à! Ông nhạc sĩ già nói. Giọng khô như ngói, thể như cái cần cổ ông lâu năm chưa được thấm nước. Để giết một con heo, cậu tốn bao nhiêu nhát dao, kể tôi nghe với? Hai. Anh nói. Khi mới vào nghề thì năm. Nhát thứ năm mới chết. Bây giờ thì chỉ cần hai nhát là đủ chết tươi. Là sao, kể kỹ hơn chút nữa nghe xem. Nhát đầu tiên thì thế nào? Ông nhạc sĩ già chăm chú. Thì... Anh ấp úng, nhát đầu tiên đâm thẳng vào. Anh trả lời. Đâm thẳng à. Có run tay không? Tôi nghĩ chắc run lắm. Không. Không run à. Thế đâm thẳng rồi sao nữa? Đâm thẳng vào và gạt ngang. Ông nhạc sĩ ngồi im, vẻ như đang cố hình dung cái cú đâm thẳng vào và gạt ngang. Thế à! Đôi mắt ông nheo lại. Sau cùng mở bừng ra. Máu có nhiều không? Máu heo ấy. Nhiều. Anh cảm giác như thế nào khi nhìn thấy máu? Lúc đầu thì hơi chóng mặt. Nhưng bây giờ thì quen rồi. Ông nhạc sĩ gật gù, thế à, cũng đúng thôi, chừng vài năm nữa, có khi chỉ cần một nhát là đủ, đúng không nào. Là sao? Anh không hiểu à! Thì nghĩa là, không cần gạt ngang, đâm vào là đủ rồi, là đủ chết chứ sao nữa. Tôi không biết. Anh lắc đầu. Ông nhạc sĩ gật gù, giết chóc cũng như chơi đàn, dùng mãi cũng phải thành tuyệt kỹ.

Anh ra về. Cứ ba giờ sáng, lúc chuẩn bị chọc tiết heo lại hình dung ông nhạc sĩ già như con quỷ trong phim năm con quỷ và chín cái xác. Có điều con quỷ này thuộc loại yêu nghệ thuật. Khi chuẩn bị hút hồn một ai, thay vì le lưỡi hả họng đầy răng nanh, chúng nhảy lên chiếc piano, ngón chân dạo một khúc Bach, đầu mình tay chân gì đó của Bach và vong hồn trong từng nốt nhạc Bach trỗi mồ sống dậy. Chúng kéo từng đoàn từng lũ trùng điệp đi tìm xác chết.

Anh nói với vợ, ông nhạc sĩ già là quỷ hiện hình. Ba giờ sáng là giờ ông trỗi nhạc kêu gọi vong hồn. Ở chỗ giao thịt, anh kể cho mọi người nghe mình đã sống gần nhà con quỷ chơi Bach như thế nào. Ngón tay mỏng lét như dao chọc tiết. Hắn đã gõ những ngón tay của mình trên xác chết giống như dạo nhạc Bach trên piano.

Mọi người cười anh. Chẳng ai tin. Vợ anh cũng cười.

Chỉ có con Loan ngô nghê bán thịt là tin anh. Ẻm nói, eo ôi gớm quá. Người ẻm run lên, ngực phập phồng lo sợ. Mỗi lần nghe anh kể, tối về em không cách gì ngủ được. Em thức suốt đêm vì anh đó. Ẻm cười. Này, anh nhìn xem, ngón tay em có giống dao chọc tiết không? Ẻm chồm vào người anh. Đặt ngón tay to vồ như chọc vào người anh. Ngực ẻm sát ngực anh, như hết cả phần ngực muốn chảy tràn sang người anh theo động tác tay. Mắt thì lúng liếng háo hức nhìn. À, mà Bach là cái gì vậy anh? Nhạc à! Anh Lam Trường có hát bản đó không vậy? Sao em không biết. Không à! Eo ôi. À, mà đúng rồi, nếu anh Lam Trường hát thì mắc gì mình phải sợ, phải không anh. Ôi anh làm em vừa sợ vừa vui quá.

Chả ra làm sao cả.

Từ đó anh không bao giờ kể chuyện ông nhạc sĩ già cho Loan ngô nghê nghe. Ngày xưa, cũng chỉ vì sợ ma, nghe đâu ẻm đẻ một lúc hai thằng con mà không cần một thằng cha nào rõ ràng danh tánh. Anh cũng không kể cho ai nghe chuyện ngực ẻm chảy tràn sang anh.

Một lần khác, anh được gặp cô con gái thính phòng của ông nhạc sĩ già. Cô ngồi trong góc tối hút thuốc nên anh không nhìn thấy. Anh sang nhà cô vì không thể chịu đựng được nữa, rằng phải có một nguyên nhân nào đó để ông nhạc sĩ già chơi Bach vào lúc ba giờ sáng. Điều thứ hai là, anh muốn biết ông có nghe tiếng heo thét inh ỏi vì bị chọc tiết không. Nhất định là ổng phải nghe.

Căn nhà vắng ngắt. Anh ngồi xuống cái ghế dài trước cây đàn piano chờ ông nhạc sĩ già. Cô con gái ngồi bên kia quan sát anh. Sau cùng cô tiến lại gần. Từ cái môi dày của cô, một ngụm khói phun ra. Anh có phải là người chọc tiết heo bên nhà không. Tiếng nói của cô vang vang như giọng nữ cao giữa dàn nhạc thính phòng làm anh giật bắn cả người. Cô ghé sát mặt vào người anh. Và tất nhiên đôi môi dày cũng sát vào người anh. Có phải không? Cô cười hắt hắt. Anh gật đầu. Các phản xạ chết tiệt của anh trôi đâu mất. Không nói được lời nào. Tai anh đỏ rần lên. Nghe nói anh lấy dao đâm vào cổ heo? Đúng không? Cô gái nói. Anh đứng bật dậy. Ông cụ có nhà không. Anh thốt lên. Tôi muốn tìm ông cụ. Ông cụ thì vẫn còn đó có mất đâu mà anh sợ. Cô gái vẫn không buông tha anh. Có phải là anh lấy dao đâm vào cổ con heo không? Eo ôi, cái mặt trắng trẻo như anh mà đâm dao vào cổ heo, em không tin đâu. Tùy cô thôi. Anh nói, nghèn nghẹn như không thở được nữa. Tôi đâm đó. Cô không tin cũng không sao cả. Anh chợm bước định bỏ về, cô gái chặn lại, này, em đang chán đời bị chồng bỏ, anh có dám lấy dao đâm vào cổ giúp em không. Em muốn chết vô cùng. Vừa nói cô ta vừa cười, vươn cái cần cổ trắng nõn ra. Vươn cái gáy gợi tình ra. Cái cần cổ và cái gáy trắng nõn đó chẳng có gì là chán đời cả. Đúng là điên thật. Từ cha đến con. Cha thì chơi piano khát máu, con thì liêu trai chí dị. Anh lách khỏi cô gái chuồn nhanh ra cửa. Cô gái đuổi theo. Lúc nào rảnh, anh nhớ sang giúp giải thoát cho em nhe. Giọng cười thính phòng của cô nghe thật ấn tượng, khó quên. Ngay cả khi anh đi về tới nhà rồi, giọng cười của cô vẫn cứ áp vào tai anh, như đôi môi dày của cô vẫn còn dính ở đó.

Anh kể cho vợ nghe, cô gái con ông nhạc sĩ già bị điên tình. Cô ta nhờ anh chọc dao vào cổ cô. Vợ anh không tin. Cười như hóa rồ. Anh điên vừa thôi. Ờ mà cũng có thể anh điên thật. Anh nói.

Điên thật. Từ một thằng tốt nghiệp xã hội nhân văn chỉ vì yêu con ông hàng thịt mà ra thằng đồ tể nông nỗi thế này thì chuyện quái gì mà chẳng xảy ra. Biết đâu anh cũng có máu điên sẵn đâu đó trong thịt. Cũng như cha già nhạc sĩ, biết đâu lúc nghe tiếng lợn bị chọc tiết lại hăng máu lên dạo một bản Bach. Việc gì phải cắt nghĩa cho mệt xác.

Tờ mờ sáng lúc vợ anh hát biệt ly, Bach trỗi lên gào thét cùng lợn chết, anh lại tiếp tục công việc của mình. Chẳng nghĩ ngợi gì. Chẳng đau đớn dằn vặt gì. Bach đã chết rồi, chết trong thời trai trẻ đang sống của anh. Chết trong thời đại của anh. Chết trên radio. Chết trong vũ trường. Chết trên sân khấu. Bach bị Rock Rap đè chết. Chết từ lúc anh vung con dao phay và những con lợn cuống cuồng chạy trốn kiếp sau.

Thời chuồn chuồn cắn rốn"

Nhẽ ra, phải, nhẽ ra, chúng tôi phải là đôi bạn chí thân. Tôi là Chí, hắn là Thân, hai cái tên do bố mẹ đặt cho theo ý riêng, mà có lúc tưởng như tạo hóa sắp đặt. Thân ở ngõ trên, tôi ở ngõ dưới. Thân bằng tuổi tôi, học dưới tôi một lớp, còi cọc hơn tôi, chơi với nhau từ thời con nít, bảy tám tuổi gì đó, có lần suýt nữa đã đồng sinh đồng tử với nhau. Tôi vẫn nhớ như in cái lần ấy. Chúng tôi chưa biết bơi, mặc dầu đã cho chuồn chuồn chúa cắn rốn dăm bảy lần.

Lần ấy chúng tôi rủ nhau ra tắm ao cuối ngõ. Khoảng hai ba giờ chiều, xung quanh vắng tanh không một bóng người. Ao nông, lội ra tận giữa ao, nước chỉ đến ngực. Chúng tôi dắt tay nhau, nhích dần từng bước nhỏ, tiến về phía bờ bên kia chẳng hiểu để làm gì, hơn nữa bờ bên kia là một vạt đất hoang, cây cối um tùm, đầy rắn rết, ít khi có người sang. Nhích dần, nhích dần, nếu nước sâu thêm đến cổ, sẽ dắt tay nhau quay lại. Nhưng đáy ao vẫn bằng phẳng, nước vẫn không quá ngực. Được hai phần ba ao, bỗng tí ủm, cả hai nhào xuống thùng đấu (*), rời nhau ra.

Sau này, mỗi lần nhớ lại, tôi vẫn không hiểu tại sao chìm nghỉm dưới nước sâu tôi lại làm được cái điều kỳ lạ là quờ quạng dưới đáy rồi lần ra bờ thùng đấu, còn tay kia không quên khua khoắng kéo được cánh tay Thân, cùng leo lên. Âu cũng là cái số không chết bởi xung quanh nào có bóng ai để biết mà ra cứu. Bản năng sống, hay còn phải trả nợ đời, hay tạo hóa muốn ban tặng chúng tôi một kỷ niệm khó quên, chỉ biết rất mừng, tuy bị uống nước ao khá nhiều. Nhưng rất lạ là cả tôi và Thân sau đó chẳng bao giờ nhắc lại với nhau chuyện cũ, và cũng chẳng bao giờ tắm lội cùng nhau nữa. Rồi thì tôi cũng biết bơi, chỉ mấy tháng sau thôi, đứa biết bơi dạy đứa chưa biết bơi, lúc đầu bơi úp mặt, rồi bơi ngửa, rồi bơi được thật sự tuy chỉ dăm bảy mét. Còn Thân, vì không cùng tắm lội, có biết bơi không, tôi không biết và cũng chẳng bao giờ hỏi.

Tuy vậy, thỉnh thoảng vẫn chơi với nhau. Đêm, đốt đèn rủ nhau đi bắt dế chọi. Dế của tôi bao giờ cũng thua. Rồi chơi bi, chơi đáo. Cũng vẫn thua. Tôi nhớ một lần chơi đáo ngay ngoài ngõ nhà tôi, tôi thua khá nhiều. Chiều đã tắt nắng, anh Lân, người giúp việc của nhà tôi gọi tôi về ăn cơm. Mẹ tôi đã mất, cha tôi có việc buôn bán phải đi vắng mấy hôm, nhà chỉ có mỗi hai anh em, anh phải chăm nom, cơm nước cho tôi. Tôi không về, bảo chơi thêm mấy ván để gỡ. Nhưng càng gỡ càng thua. Anh sốt ruột lại ra gọi tôi. Tôi vẫn không chịu về. Mỗi khi đi vắng, cha tôi thường cho tôi một ít tiền. Thua gần nhẵn túi, mất tới hơn một hào, một hào là mười xu, mà thời đó một xu mua quả trứng vịt. Trời lại sắp tối rồi, thấy thế, anh Lân bảo:

- Để tao chơi hộ nó.

Thân không đồng ý. Anh trợn mắt:

- Mày định ăn non à?

Anh chơi hộ. Và chơi gian. Khi dùng xu cái đánh xu con lên khỏi vạch tít, anh quét tay hất xu con lên, bách phát bách trúng.

- Ê, chơi quét tay à?

Anh ngửa bàn tay dí tận mắt nó:

- Đây, mày xem, có lấm đất không?

Được ba ván, gỡ được ba xu, nhìn vẻ mặt Thân, vừa ấm ức vừa cam chịu, tôi bỗng thấy áy náy, liền bảo anh:

- Thôi, không chơi nữa, em đói lắm rồi.

Lúc ăn, tôi bảo anh:

- Anh đã chơi gian, lại còn bắt nạt nó.

Anh cười:

- Không thế, ôi hết cơm à?

Năm chín tuổi, tôi thi đỗ bằng sơ học yếu lược, cái bằng giữa cấp tiểu học, to gần cỡ giấy A3 bây giờ, phải có nó mới được thi lên lớp nhì, và cũng phải có nó mấy ông phó lý (chạc tuổi bố tôi, ngồi thi cùng phòng với tôi) mới đủ điều kiện chạy chân lý trưởng, cũng là năm Thân thôi học. Chẳng hiểu có phải tại bị lưu ban hay không, nhưng Thân bảo tôi:

- Bố tớ bảo, sĩ, nông, công, thương, nhất sĩ nhì nông, hết gạo chạy rông, nhất nông nhì sĩ.

Thân thôi học, tạm thời ở bậc nhì, nhưng rồi có ngày lên bậc nhất. Còn tôi cứ biết việc là phải đi học, trốn học, lười học là ăn đòn, chứ đâu nghĩ nổi sâu xa đến chuyện nhất nhì.

Chúng tôi vẫn chơi với nhau, dĩ nhiên ít hơn trước, không phải do Thân thôi học, vì trước đó khác lớp, lại ngõ trên, ngõ dưới, có bao giờ rủ nhau đi học đâu, mà vì tôi đã có những bạn mới, cả ở làng khác đến học, cho nhau mượn sách mượn truyện, và tôi bỗng sinh ham đọc truyện, linh tinh đủ loại, sách hồng, trinh thám, dã sử v.v... Thân hỏi tôi học hành thế nào, có khá không, tôi bảo cũng khá, thằng Tỵ Vẩn con ông Cai Khiếu và Tỵ Tiến con ông Thơ Tiến, ngồi hai bên vẫn phải coi bài của tôi. Tỵ Vẩn xui tôi che bài đừng cho Tỵ Tiến coi, sẽ cho tôi chiếc sáo nhỏ xíu bằng gỗ vẫn đeo vào chân chim bồ câu ngày hội thả chim, để tôi gắn vào diều. Còn Tỵ Tiến lại hứa cho tôi bức tranh Quan Công cầm long đao, nếu tôi che bài với Tỵ Vẩn. Nghe kể, Thân bảo:

- Mỗi Quan Công thôi thì chán chết, nhà tớ có hẳn bức Đào viên kết nghĩa có đủ bộ ba Quan Công, Lưu Bị, Trương Phi.

Tôi bỗng nghĩ đến chuyện tôi và Thân cũng đã từng sống chết có nhau dưới chiếc thùng đấu, biết đâu chả trở thành kết nghĩa đào viên, liền gạ luôn:

- Đổi cho tớ đi.

- Đổi lấy gì?

Tôi nghĩ một lúc rồi bảo:

- Năm cái dĩa nhỏ, được không?

- Dĩa là cái gì?

- Như cái đinh ba ấy, để ăn bánh ngọt, trái cây, khỏi phải cầm bẩn tay.

Nói rồi, tôi về ngay lấy dĩa cho Thân xem. Chả là cha tôi đã lấy vợ kế. Trước bà buôn cốc, tách, ấm trà, thìa dĩa... ở thị xã Ninh Bình. Hàng tồn, bà mang theo về xếp đầy tủ chè nhà tôi. Loại dĩa nhỏ có tới mấy chục chiếc cắm đầy hai bên chiếc cốc trong tủ. Thân mân mê mấy chiếc dĩa, nhìn tôi, phân vân, rồi gật đầu đồng ý. Tôi chờ mấy tuần, rồi mấy tháng sau vẫn chẳng thấy Thân đem tranh lại. Tôi nghĩ, hay là nó nói hươu nói vượn, hoặc thấy ở nhà ai đó, chứ thật ra không có. Tôi chẳng đòi lại dĩa, nhà tôi còn khối, còn nó cũng lờ đi như không hề có chuyện gì. Giá nó nói với tôi một câu, bịa ra cũng được, bố nó không cho đổi, sẽ trả lại dĩa, rồi không trả cũng có sao đâu. Tôi với nó, đã khi nào to tiếng với nhau mà ngại.

Nhưng từ đó, chúng tôi ít chơi với nhau hơn, mà có chuyện gì để nói, bi, đáo, dế chọi, tôi không chơi nữa, vì đã lớn hơn. Chúng tôi như đã ở hai miền khác nhau. Tôi lo chuyện học hành thi cử, vui chơi đã có cắm trại, học hát, diễn kịch, nghe thầy giáo kể chuyện Ác-xen Luy Panh vào giờ giải trí thứ bảy hằng tuần, còn Thân lo nhất nông nhì sĩ theo định hướng của bố, ông Mười Bí, Mười là tên tục của ông, còn Bí là tên của chị cả Thân.

Rồi tôi thi đỗ vào trung học, ra Hà Nội học. Đang học năm thứ nhất thì ngày 9.3.1945 Nhật đảo chính Pháp. Tôi đã mười bốn tuổi, đã từng đọc những sách loại như Vợ ba Đề Thám, Chuyện Cô Giang..., cha tôi trước đó thường đọc thơ Phan Bội Châu cho tôi nghe nên lúc này, trong lòng tôi bỗng nổi lên cái gì đó, khuấy động tôi, là cái gì, tôi cũng không rõ nữa, có thể chỉ như chuyện "chuồn chuồn cắn rốn", nhưng lòng ham muốn biết bơi là có thực.

Hết năm học, về quê nghỉ hè, phong trào Việt Minh gần như công khai ở làng tôi. Những đêm trăng sáng, các đội tự vệ rình rịch đi tập quân sự ở mấy bãi tha ma sau làng. Báo Cứu Quốc bằng giấy giang màu xanh nhạt dán công khai ngay đầu ngõ nhà tôi. Tôi muốn làm một việc gì đó. Giá ai đó tìm đến tôi. Không ngờ tìm đến tôi lại là Thân. Thân rủ tôi ra chỗ bụi tre vắng cuối ngõ, ngay bờ ao chúng tôi suýt chết đuối ấy, đưa bài Tiến quân ca cho tôi chép, rồi dạy tôi hát: "Đoàn, quân Việt Minh đi, chung lòng cứu quốc...", Đoàn, ngắt hẳn ra chứ không liền Đoàn quân Việt Nam như bây giờ. Thân còn nói, cờ của Việt Minh màu đỏ sao vàng năm cánh, năm cánh là sĩ, nông, công, binh, thương. Tôi hỏi:

- Ai phổ biến cho cậu?

Thân hơi mỉm cười, vẻ bí mật:

- Người của đoàn thể.

Chỉ có thế, chả có gì thêm nữa. Rồi một hôm Việt Minh làng tôi tổ chức đoàn biểu tình sang Phú Ninh (Ninh Hiệp bây giờ) chống Nhật thu thóc, tôi đánh liều vác con dao dài chuôi sừng, lưỡi chạm hoa văn hai mặt, của cha tôi đi theo mà không thấy có Thân. Rồi tối 17.9.1945 trước tổng khởi nghĩa hai ngày, Việt Minh làng tôi tổ chức biểu tình thị uy, cướp chính quyền, tôi cũng đi theo hô đến khản cổ "Đả đảo", "Muôn năm", vòng đi vòng lại suốt các đường chính trong làng, quá khuya mới giải tán, cũng không thấy Thân. Tôi hơi lạ, nhưng không hỏi, rồi nghĩ bụng hay là Thân bị bố cấm.

Hết hè, tôi lại ra Hà Nội học tiếp.

Tháng 12 năm 1946, tôi cắp sách đến trường, cho tới khi sân trường Chu Văn An (nay là trụ sở Bộ Tư pháp ở đường Trần Phú) vắng tanh, chỉ còn thấy mỗi thầy Phong (tầu) và thầy Thái (cò). Hai thầy vẫy tay bảo tôi về mà đi tản cư. Tôi không về quê, lòng những muốn ở lại tham gia kháng chiến. Tôi đã sang tuổi mười tám, đang lớn như thổi. Cha tôi sai người ra gọi tôi về. Tôi về người không, không mang theo quần áo, sách vở gì, định bụng xin cha tôi ít tiền rồi lại ra. Nhưng hôm sau giặc chiếm Gia Lâm, tắc đường. Bốn hôm sau, toàn quốc kháng chiến. Gia đình tôi đi tản cư. Tôi không đi, vừa để trông nhà, trong nhà còn nhiều đồ đạc, hàng hóa chưa thuê chuyển đi được, vừa để tham gia việc gì đó với dân quân, gác đêm chẳng hạn. Một hôm, Thân dò xuống nhà tôi rủ tôi chơi bài xì. Ở nhà một mình, cũng buồn, sách vở để hết ở Hà Nội chẳng có gì xem, dân quân thì chưa đủ tuổi, tôi nhận chơi và lại thua, thua đau. Mất hơn hai chục đồng, gần hết số tiền cha tôi để lại cho tôi tiêu và mua thức ăn hằng ngày. Đây là lần gặp nhau cuối cùng trước khi gặp lại gần chục năm sau.

Hơn nửa tháng sau, xảy ra trận mồng ba tháng ba âm lịch đầu năm 1947 mà dân làng tôi đã đặt vè: "Mồng ba tháng ba, thịt gà trôi nước, biết thế này cúng trước hôm qua...".

Trận tấn công đầu tiên khốc liệt, có cả hai chiếc máy bay Sprit-fire uy hiếp và súng cối, đại bác hiệp đồng. Mười hai du kích hy sinh, mấy dân thường bị giết. Riêng xóm tôi, giặc không vào nổi, nhưng bị trả đũa một trận cối và đại bác dữ dội trước khi rút. Khi đã yên, tôi ra chỗ cổng xóm, nơi tôi đã cùng dân quân gác đêm, nơi giặc không vào nổi và còn vớ được mảnh xương hàm có nguyên răng bị bắn vỡ và bỏ lại. Tôi còn thăm một số cổng khác nữa, vẫn không thấy Thân đâu, chắc đã theo gia đình đi tản cư.

Sau trận ấy, cha tôi về bắt tôi đi học tiếp, vì ngoài vùng tự do kháng chiến, một số trường trung học đã mở. Năm 1950, đang học dở bán tú tài, kháng chiến bước sang giai đoạn chuẩn bị tổng phản công, học sinh chuyên khoa chúng tôi, người thì ghi tên vào lục quân khóa 6, người thì đi công tác, tôi cũng đi công tác thanh niên và năm sau chuyển sang ngành sư phạm, dạy học tận Hà Giang.

Cuối năm 1956, lúc tôi đã tốt nghiệp đại học và đang dạy tại một trường cấp ba, em gái tôi đến mời về dự lễ cưới của nó tại thành phố Nam Định. Lúc đó nó là công nhân nhà máy dệt. Nó bảo tôi:

- Anh sẽ gặp anh Thân đấy. Anh ấy là chấp hành công đoàn ở chỗ em.

Thì ra năm 50, lúc tôi đi công tác thanh niên, cũng là lúc Thân vào làm công nhân dệt vải quân nhu ở Quyên, Thái Nguyên, không "nhất nông nhì sĩ" nữa, mà đã đứng vào hàng ngũ giai cấp tiên phong.

Hôm cưới em gái tôi, gặp nhau, Thân cười, vẫn cái cười dè dặt, phân bua như khi xưa chơi bài với nhau, rồi hỏi tôi:

- Chí đã người của đoàn thể chưa?

Thật ra, chưa bao giờ tôi thấy Thân có cái cười thoải mái, hết lòng, hết cỡ, vô tư, nhưng cái cười sáo mòn, nhàm chán và câu hỏi lạc lõng ấy vẫn làm tôi sững người và trả lời cộc lốc:

- Không!

Rồi hết. Tôi cứ ngỡ phải ôm chầm lấy nhau, đấm thùm thụp vào lưng nhau, nhắc lại thời "chuồn chuồn cắn rốn", nhắc lại cái thùng đấu, Tiến quân ca, rồi hỏi nhau gần mười năm qua sống ở những đâu, công tác gì, vợ con thế nào rồi... Ai ngờ lại bẽ bàng đến thế.

Lại hai nhăm năm nữa mới lại gặp nhau, khi đã về hưu cả. Thân sau lên quản đốc phân xưởng, rồi được đi học chính trị ở Hà Nội, được giữ lại trường làm phó phòng hành chính, về hưu với mức lương cán sự năm. Thân về làng ở. Tôi vẫn ở ngoài thành phố, năm vài ba lần về thăm làng, và cha tôi đã mất, anh em mỗi người về hưu ở một tỉnh, chẳng còn ai. Lần nào về chơi cũng ghé thăm Quắc, cũng cùng tuổi, ở ngay cạnh nhà tôi và lần nào cũng gặp Thân đang ngồi chắn cạ ở đấy. Họ thanh minh, cò con thôi, được thua nhiều nhất chỉ mấy chục nghìn, chỉ là giải trí. Thân, đầu nhỏ như chiếc gáo dừa, lơ phơ mấy sợi tóc bạc, mắt thường đỏ ngầu, thường chỉ liếc nhìn tôi, rồi lại cắm mắt xuống những quân bài.

Một lần, mọi người vừa chơi xong, giữ tôi ngồi lại nói chuyện. Vài người hỏi chuyện viết văn dịch sách của tôi, có kiếm được không. Tôi bảo cũng mất ngủ lắm, nhưng lương hưu đủ ăn, nên cũng để dành được ít tiền mua được mấy chục mét vuông đất trong ngõ hẹp, làm được ngôi nhà nhỏ đủ ở, không phải ở nhờ người quen nữa. Một người khen tôi ngày xưa học giỏi. Tôi thanh minh:

- Chẳng qua nhà tôi có điều kiện hơn, không phải vất vả như các ông, chứ ở điều kiện như tôi, có khi các ông giỏi bằng mấy.

Chả hiểu sao tự dưng Thân hứng lên, hồn nhiên khoe:

- Ông cụ nhà tôi thông minh lắm nhé, thuộc làu từ đầu đến cuối truyện Kiều.

Chẳng hiểu ông Mười Bí có thuộc làu ba nghìn hai trăm năm tư câu Kiều thật hay không, nhưng nghe Thân khoe, tôi bỗng nhớ một hôm cháu nội tôi, được mẹ đèo, vừa chân ướt chân ráo về đến nhà đã vội khoe:

- Ông ơi, hôm nay Minh đến trường sớm nhất!

Rồi lại nhớ tiếp lâu lắm rồi, nhân nói về chuyện học, tự nhiên cha tôi phì cười kể:

- Ngày xưa ông Mười Bí học chữ nho cụ Hương Tráng, dốt quá bị cụ đánh luôn. Ông ấy tức, bắt một con châu chấu bỏ vào bao diêm, rồi hờ khóc "Ối Hương Tráng ơi là Hương Tráng ơi", không thèm học nữa.

Và bây giờ con ông đang khoe ông thông minh, chỉ thiếu nước ca ngợi ông sáng suốt "...hết gạo chạy rông, nhất nông nhì sĩ".

Nhẽ ra... Không, chúng tôi khác nhau nhiều quá. Những kỷ niệm xưa có lẽ chỉ là kỷ niệm của riêng tôi, Thân không có kỷ niệm. Nhưng cũng chỉ là kỷ niệm của một thời "chuồn chuồn cắn rốn".

Nhà trọ

Đây hình như là một cái hang. Nàng thì thào với tôi. Quả thực, căn phòng này giống như một cái hang. Vì nó quá tối và có vẻ âm u. Nhưng điều quan trọng nhất là tôi và nàng đều cảm thấy yên tâm trong cái hang này. Nó có vẻ dễ chịu...

Thỉnh thoảng tôi cũng để ý đến các cảm giác của mình. Tôi không muốn nảy sinh những cảm giác buồn tẻ và tồi tệ.

Thực ra ban ngày căn phòng này rất hay. Nó nhìn ra cả một khoảng sân rộng, có hồ bơi. Ta có thể thấy các cô nàng mặc bikini đi đi lại lại. Và họ thường cười khanh khách hay nhảy xuống hồ bơi, những cánh tay vung vẩy có thể làm nước bắn tung tóe. Những đứa bé ngậm kẹo mút nằm trên ghế bạt có sọc xanh và đỏ đan nhau. Chúng lẳng lặng ngắm trời xanh. Nhưng điều quan trọng nhất là ngoài cửa sổ kia có một cây bàng.

Một cây bàng lá rất xanh, tán rộng mênh mông. Hằng ngày có thể nhìn thấy những chiếc lá bàng già màu đỏ sậm rơi xuống đất. Vẫn còn khoảng sân bên dưới chưa tráng bê tông với nguyên cả dải đất nện pha cát. Và đôi khi những trái bàng chín rụng xuống.

- Chúng rất thơm, anh biết không. Hồi em còn bé, mỗi khi thấy một trái bàng rơi là em mừng lắm. Vì có thể ăn cho đỡ đói. Trái bàng ăn rất ngọt, thơm mát. Vỏ của nó có màu xanh rất nhẹ. Phơn phớt xanh pha một chút vàng. Còn cái hột của nó, nếu mình bổ ra, có thể ăn cái nhân vừa thơm vừa bùi. Vào thời đó, có một vài trái bàng lót dạ là cả một niềm vui lớn với em.

Nhưng thực ra chẳng mấy khi được ăn một trái bàng nguyên vẹn. Vì bọn trẻ con thường hái bàng từ khi chúng còn trên cây. Khi có một trái bàng rớt xuống đất, có nghĩa là nó bị bỏ quên. Khi đó, nó thường quá chín và hay bị dập nát. Và ăn một trái bàng như vậy thật là khốn khổ. Nó thường bị cát lậm vào trong thịt bàng. Vừa nhai vừa thấy cát lạo xạo.

Tôi nằm im và nghe nàng kể chuyện về quả bàng, về niềm mơ ước có một trái bàng nguyên vẹn. Nếu có một trái bàng nguyên vẹn thì sao nhỉ? Tôi tưởng tượng ra đôi môi mọng đỏ của một cô bé gái cắn ngọt lịm vào trái bàng và thấy rất thương nàng.

- Thực ra em rất thích cây này. Tán của nó rất rộng và mát. Hơn nữa, chỉ cần nhìn thấy những đốm nắng dưới sân kia, vào những ngày mặt trời rực rỡ, cứ như là hoa ấy. Nếu khi đó, ta kê dưới tán cây này một cái bàn, một cái bàn có mặt làm bằng kính trong. Và rồi cả hai đứa mình ngồi dưới tán cây này uống trà. Anh sẽ nhìn thấy bầu trời lợp bằng một tán bàng tươi xanh và cả đôi chân của em đung đưa phía dưới. Ngay cả làn da chân cũng sẽ được nhuộm màu xanh của lá bàng.

Tôi rít thuốc và nằm dài nhìn nàng. Tôi thường thấy làm lạ về bản chất phụ nữ của nàng. Bởi vì ở trong cái hang tối om này, khi mà chẳng nhìn thấy bất cứ cái gì ngoài màn đêm, nàng vẫn có thể ríu ran kể chuyện về một tổ ấm dưới tán cây bàng. Cứ như hễ nàng đi đến đâu thì lập tức ở đó mọi thứ sẽ được thiết lập, từ nhà cửa, cây cối đến trái quả...

- Ở đây nghe mưa thấy rất hay, phải không anh?

Nàng nói trong tiếng mưa rơi ầm ào. Tiếng mưa gõ trên mái tôn nghe rất lớn, bởi ở dưới mái tôn này, âm thanh bị cộng hưởng.

Quán trọ này ở ven thành phố. Nó được bạn tôi giới thiệu và chúng tôi đã dọn về đây ở. Giá của nó rất rẻ. Chúng tôi chỉ đủ tiền để trả cho một chỗ trọ rẻ thế này.

Nằm trong cái hang tối om này, tôi chợt thấy hoang mang. Thỉnh thoảng, tôi lại lâm vào tình trạng hoang mang. Mọi thứ cứ như rối tung lên, chẳng biết thế nào. Ở ngoài đường mọi người đều đi rất nhanh, chạy rất nhanh. Họ nghĩ cũng rất nhanh. Người chậm chạp như tôi và nàng có thể bị hất tung ra khỏi thành phố này, trong cái guồng quay này.

Tôi vẫn thường nghĩ tốc độ một là dành cho những người ở vòng trung tâm. Tốc độ trung bình ở vùng gần trung tâm. Và tốc độ càng chậm thì càng bị đẩy lùi ra xa.

Nỗi buồn có thể đang gặm nhấm tôi như một tổ mối, loang lổ. Và sự hoang mang cũng đang gặm nhấm tôi. Tôi đành thở dài và im lặng. Tôi không muốn chạm vào nàng.

Chỉ có nàng là vẫn hồn nhiên.

- Có gì thay đổi không anh? Người ta đã hứa sẽ có một việc làm cho anh mà.

- Ừ, anh cũng đang đợi.

Trạng thái chờ đợi trong tôi có thể là bất tận.

- Em vừa xuống dưới sân trò chuyện với con bà chủ nhà. Cô ấy nói nhà của cô đã được làm nhà trọ từ lâu lắm rồi. Thật hiếm có nhà trọ nào sạch sẽ thế này. Cô ấy và chị giúp việc hằng ngày bỏ rất nhiều công để lau chùi dọn dẹp thì mới có được nền nhà không có bụi và cát như vậy. Điều mà cô ấy mong muốn nhất là làm thế nào để không gặp phải những khách trọ dữ tợn. Vì như thế sẽ mệt mỏi lắm.

Tôi nhớ đến cô con gái chủ nhà trọ. Một thiếu nữ xanh xao có hai bím tóc dày. Hình như bao nhiêu thứ cô ấy ăn được chỉ để nuôi hai bím tóc. Mắt cô ấy hay nhìn xuống và môi mím lại. Cô thường đi guốc gỗ lộc cộc. Và tôi thường cảm thấy ái ngại mỗi khi gặp cô...

Nàng nói tiếp:

- Cô ấy nói thỉnh thoảng cô phải chia tay một người khách trọ ở đây. Họ phải trở về quê vì không thể nào sống tiếp ở thành phố quá đông đúc, chật chội này. Khi đó, cô thấy rất buồn.

Tôi thầm nghĩ, thật hiếm hoi để tìm được một cô bé chủ quán trọ còn có thể buồn vì phải rời xa khách trọ của mình. Mà tại sao lại không nhỉ? Ngay cả ta, khi phải rời một quán trọ ra đi thì chính ta vẫn buồn nhớ chứ...

Tôi nắm tay nàng và nghĩ về nỗi buồn nhớ của mình. Có thể cảm giác đầu tiên ấy đến với tôi khi tôi mười sáu tuổi, lần đầu đi ra khỏi quê hương trên một chuyến xe lam và chờ đợi ở một bến xe liên tỉnh xa lạ để đến trường công nhân mà tôi chuẩn bị nhập học. Tôi đã ngồi cả ngày để chờ đợi ngoài bến xe cho đến khi chuyến xe ấy đến. Trong cả một buổi chiều, tôi đã nhìn thấy bà bán bánh rán, chú bé đánh giày và những tay du thủ du thực lang thang trên bến xe. Có những người ngả lưng ngủ ngay trên nền xi măng lạnh giá. Họ rất thanh thản và vui vẻ. Họ có thể cãi vã, nhưng lại tiếp tục trò chuyện và ăn uống với nhau rất ngon lành. Khi đó tôi đã nghĩ rất nhiều về những điều mẹ tôi nói. Hình như bà đã lầm khi tưởng rằng những con người ấy thường rất đau khổ bởi không nhà không cửa. Tôi lờ mờ nhận ra rằng, khi ta có đủ can đảm để nằm trên một nền xi măng lạnh giá và nhìn lên trời rồi ngủ một giấc hết đêm, khi đó ta đã có một đời sống khác.

- Chúng mình sẽ cố gắng, em à. Điều quan trọng nhất là chúng mình sẽ không chia lìa... Tôi thì thào vào tai nàng.

Mặc dù điều này quá khó với chúng tôi, khi chúng tôi quá nghèo. Nhưng đó là điều duy nhất tôi thực sự muốn giữ. Tôi không muốn mất nàng.

Trong cái quán trọ mất điện này, tôi nghĩ về sự ly biệt. Nó có thể cũng là nỗi sợ hãi. Thực ra sự ly biệt không ghê gớm bằng nỗi sợ hãi khi tôi có thể mất nàng.

Đôi khi nỗi sợ hãi làm cho người ta tê dại đi. Tôi cũng thử quan sát nỗi sợ hãi của nàng. Trong cảnh cùng cực này, nàng thường nép sát vào tôi mỗi khi tôi trở về phòng trọ. Và nàng đi rất nhẹ, nói rất khẽ. Nàng khiếp sợ mọi cái nhìn. Nàng khiếp sợ khi chờ kỳ kinh nguyệt đến gần. Nàng sợ tất cả những gì có thể đe dọa, dù là âm thanh hay ánh sáng. Thậm chí nàng kéo rèm che cửa nhiều hơn vào ban ngày, kể cả những ngày trời rất dịu mát.

Nhưng nàng cố giấu kín nỗi sợ này. Nàng thường tỏ ra vui vẻ, rất vui vẻ. Nhưng tôi không thích trạng thái vui vẻ thái quá này vì tôi biết nàng đang chôn sâu trong đó những nỗi buồn bã và khổ sở. Nàng không muốn tôi biết những điều đó vì sợ tôi buồn.

Đó có thể là trạng thái vô phương. Tôi cảm thấy tôi đưa tay ra mà chẳng chạm được vào nàng. Và tôi đành an ủi:

- Thực ra đó là trạng thái mà chúng ta sẽ phải trải qua, em biết không. Đó là trạng thái hoang mang. Đôi khi ta rất an tâm về mọi việc. Rồi thì ta lại hoang mang. Dù sao bây giờ cũng là tốt rồi. Ta có một mái nhà để ẩn trú.

Tôi nằm im và nghĩ đến sự cô đơn. Vì cố né tránh sự cô đơn, tôi thường ôm nàng rất chặt và luôn chạm tay vào da thịt nàng. Tất cả là sự sống, nóng bỏng, những mạch máu chảy rần rật, hơi thở, từng sợi tóc vương trên má...

Nỗi cô đơn đôi khi giống như cơn thủy triều. Nó chợt đến và bùng lên, chảy tràn lên tất cả...

- Ngày mai ta lại ra đường, hả anh?

- Ừ, mai ta lại đi tìm một nơi có việc làm nào đó. Anh nghĩ là cuối cùng ta cũng sẽ sống được thôi.

- Anh ăn bánh không?

- Bánh gì hả em?

- Bánh bột em mới chiên hồi trưa...

Nàng đưa cho tôi cái bánh bột và hai đứa cùng nhấm nháp. Nó hơi ngọt một chút nhưng khá ngon.

- Em này, ta sẽ mua một cái áo mới nhé.

- Dạ.

- Ta sẽ đi xem cá voi nhé.

- Dạ.

Tôi nghĩ đến cảnh nàng ngồi chen chúc ngoài vịnh biển chờ cá voi dạt vào và mỉm cười.

- Cá voi màu trắng. Nó hiếm lắm. Người ta sẽ làm lễ tang cho cá voi - nàng thì thào.

- Ừ, vậy mình sẽ ra đó chờ người ta kéo cá voi vào bờ. Và chôn cất con cá voi to đùng ấy chắc sẽ rất mệt. Những người ở trọ nói phải dùng xe cẩu để trục cá voi lên. Người ta sẽ vừa đi vừa làm động tác chèo thuyền và hát một điệu gọi là hò bả trạo.

- Em đã nhìn thấy họ làm lễ này rồi. Những người trong đoàn hát chân quấn xà cạp và cất giọng oang oang, da họ đen cháy. Đó là những ngư dân ở ngoài cảng cá.

Tôi ngồi dậy và lấy chiếc mũ rộng vành của nàng treo trên mắc gỗ xuống, bẻ cho cong vành của nó. Tôi hình dung nàng sẽ mặc chiếc áo đầm đẹp nhất và đội chiếc mũ rộng vành này, và ngồi trên bãi cát để chờ người ta đưa cá voi vào bờ.

Chúng tôi sẽ sống qua một ngày chủ nhật như thế.

Hôm nay là thứ bảy. Khu nhà trọ mất điện, và chúng tôi nằm im như những con thú trong hang ở cái nhà trọ này để chờ ngày mai đi xem cá voi

"Cái mặt biến hình"

Tiếng gõ cửa dồn dập, lẫn trong những tiếng gọi gấp gáp "Tâm ơi... Tâm ơi ...", khiến tôi phải dừng gõ bàn phím máy tính, lao vội ra mở cửa. Ối, cha mẹ ơi..., một con mèo đen khổng lồ. Tôi hoảng hốt, bật lùi về sau mấy bước, nghe trong lồng ngực trái những tiếng đập thình thịch, loạn xạ hơn cả khi xem phim kinh dị. Ô, mà không, không phải mèo. Là người, người mặt mèo. Lại không, không phải thế. Sau một lát đứng trừng trừng nhìn tôi, cái mặt mèo ấy đang chuyển dần thành cái mặt người. Ơ, sao lại là mặt... của tôi.

Chỉ trong khoảng vài phút, cái mặt bên trên cái thân thể người đang đứng trước cửa căn hộ của tôi đã biến đổi liên tục như thế khiến tôi hoảng hồn, khắp người túa mồ hôi, run lẩy bẩy như đang bệnh nặng. Tôi định đóng sầm cửa lại, nhưng cái người, giờ mang gương mặt của tôi ấy, đã nói vội: "Đừng sợ, Tâm. Lê đây mà. Để tao vào nhà đã rồi sẽ nói mọi chuyện".

Tôi lại choáng thêm một cú nữa. Trời ạ, đúng là giọng thằng Lê, bạn tôi. Cái dáng người tầm thước, đúng là nó rồi. Mái tóc vuốt keo bóng mượt, đúng là nó rồi. Bộ quần áo, cái đồng hồ đeo tay, cũng giống những thứ mà nó hay dùng. Mà sao cái mặt nó lại biến thành mặt mèo rồi thành mặt tôi nhỉ? Quái lạ thật! Chẳng biết là Lê hay là ma nữa. Chẳng biết hôm nay là ngày gì, có phải ngày ma quỷ hiện hình trêu chọc, quấy đảo nhân gian hay không? Hay là mình ngủ mơ?

Trong lúc tôi còn đứng ngẩn ra với một mớ nghi vấn trong đầu, cái người ấy đã đi vội vào nhà. Tôi quờ tay kéo cánh cửa đóng sầm lại, rồi đảo mắt nhìn vào trong. Người ấy đang lặng lẽ ngồi xuống ghế. Vậy ra, không phải tôi mơ, tôi đang tỉnh đây mà.

Tôi bước vào nhà, rụt rè ngồi xuống chiếc ghế đối diện với người ấy. Tôi chăm chăm nhìn vào mặt hắn, nhưng hắn lại cố không nhìn vào mặt tôi. Và tôi lại thêm một lần kinh ngạc khi thấy cái mặt của hắn đã chuyển từ mặt tôi về đúng mặt của Lê. Vậy đúng là Lê thật rồi.

Vẫn không nhìn tôi, Lê thở dài, nói: "Tao mà nhìn mặt mày nữa là cái mặt tao lại hóa ra mặt mày như lúc nãy". Tôi giật mình. Té ra, lúc nãy cái mặt mèo biến thành mặt tôi là bởi khi tôi mở cửa, Lê đã nhìn vào mặt tôi. Còn cái mặt mèo của Lê, chẳng lẽ...? "Trước khi vào nhà tao, mày nhìn mặt một con mèo phải không?". "Ừ, tao không có ý định vào nhà mày lúc này đâu. Nhưng lúc đi bộ ngang qua chung cư của mày, tao gặp con mèo bộ lông đen tuyền đứng ngu ngơ ngay giữa lề đường. Nó nhìn tao và tao cũng dừng chân, nhìn vào mặt nó. Tao vốn thích mèo mà. Đang định kêu meo meo với nó, tao bị một cơn gió nhỏ cuốn qua, hắt một ít bụi vào mặt. Đưa tay lên chùi mặt, chạm vào một mảng lông êm mượt. Giật mình, tao xoa vội khắp mặt mình, thấy chỗ nào cũng đầy lông cả. Ở hai bên miệng, còn rờ thấy mấy sợi lông dài, cứng như râu mèo. Tao vội ngó vào cánh cửa kính của ngôi nhà bên cạnh và thấy cái mặt mình đã thành ra mặt mèo. Hoảng quá, sợ ai đó nhìn thấy, tao vội lao vào cầu thang chung cư, cứ thế chạy lên đến tận lầu năm rồi nhào tới gõ cửa nhà mày".

Thật là một câu chuyện kỳ quái, ngoài sức tưởng tượng của tôi. Tôi ngồi đần mặt ra, nhìn Lê như nhìn một sinh vật vũ trụ vừa đột nhiên rơi huỵch xuống trái đất này. Lê vẫn không nhìn tôi, chắc vẫn sợ mặt mình lại biến thành mặt tôi như lúc nãy. Ô, mà sao mặt Lê lại không còn sắc nét, rành mạch, đầy cá tính như trước kia nữa. Nom cứ mập mờ thế nào ấy. Quái lạ thật? Hay là nó bị căn bệnh bí hiểm nào đó?

"Trước khi gặp con mèo, mày có... từng bị như vậy không?", tôi hỏi. "Có, trước đó, tao cứ nhìn vào mặt ai một lát là mặt tao lại biến thành mặt người đó. Hôm nay không chỉ biến thành mặt người mà còn biến cả ra mặt mèo. Sợ quá, không biết là sao nữa?". "Mày bị vậy lâu chưa? Có biết vì sao bị không?". "Không..., chẳng biết vì sao cả. Tao chỉ nhớ cách đây một tháng, sếp gọi tao lên gặp riêng. Trong khi sếp nói, tao chăm chú ngồi nghe và kính cẩn nhìn vào thẳng vào mặt ông ta. Mày biết rồi đấy, lâu nay, tao vẫn luôn ngưỡng mộ sếp mà. Tao còn bắt chước những kiểu cách, trang phục, lời ăn tiếng nói, sở thích của sếp nữa... Mày đừng vội chửi tao nhé. Tao chỉ giả vờ thần tượng lão thôi. Để tồn tại và có cơ hội thăng tiến ở cơ quan mà. Chứ lão ấy ngu bỏ mẹ, nhờ có ô dù nên mới lên chức, lên quyền, vậy mà hay lên mặt cao đạo dạy đời, chỉ hứa hẹn những điều viển vông, sẵn sàng bóp mồm, chặn miệng những kẻ ngang ngạnh dưới quyền để không ai dám hó hé, phê phán những cái ngu dốt, bịp bợm, bạo ngược và những trò ăn bẩn của lão. Thôi, nói ngoài lề nhiều rồi, tao kể tiếp nhé...

Đang nói, sếp chợt im bặt, mặt hơi tái đi, trợn mắt nhìn lom lom vào mặt tao. Rồi ông ta hỏi gắt "Cậu... cậu làm trò gì thế?". Tao ngỡ ngàng hỏi lại: "Thưa anh, em có làm gì đâu ạ. Em vẫn đang nghe anh nói mà". "Nhưng cái mặt... cái mặt của cậu, tại sao lại... lại giống mặt tôi thế?". "Dạ, sao lại giống được ạ? Mặt em vẫn là mặt em mà. Đâu có giống mặt của sếp đâu ạ". "Không phải mặt của cậu nữa rồi, mà là mặt tôi. Cậu... cậu soi gương đi". Sếp lập cập đẩy cho tao cái gương nhỏ đang để trên bàn.

Tao vội chụp lấy, soi mặt mình vào. Trời ơi, đúng là cái mặt tao đã thành mặt sếp. Tao hoang mang quá, không biết chuyện gì đang xảy ra nữa, hết ngẩng lên nhìn vào mặt sếp rồi lại cúi nhìn vào trong gương. Rồi tao dùng những ngón tay xoa nắn, cấu véo mọi chỗ trên mặt, thấy vẫn đúng là thịt da mình. Sếp cũng có vẻ sợ, cứ hỏi dồn xem tao có bị bệnh gì không hay là có phép thuật gì đó không. Tao ú ớ, chẳng biết trả lời sao cả, nên không dám nhìn vào mặt sếp nữa, mà cứ cúi mặt xuống đất. Chừng vài phút sau, sếp lại kêu toáng lên: "Ơ kìa, cái mặt cậu, sao lại... đúng là mặt của cậu rồi". Tao ngỡ ngàng, lại soi mặt vào gương. Ồ, đúng lại là cái mặt của mình rồi. Quái lạ thật, chẳng hiểu làm sao nữa. Sếp chợt bảo: "Này, hay cậu lại nhìn vào mặt tôi một lát nữa đi". Hiểu ra ý tứ của sếp, tao lại nhìn vào mặt ông ta.

Một lát sau, ông ta lại kêu lên: "Mặt cậu lại đang... biến thành mặt tôi rồi". Tao lại nhìn vào gương, đúng là cái mặt mình lại đã biến thành mặt sếp. "Cậu đừng nhìn mặt tôi nữa, cứ nhìn vào gương thôi", sếp lại gợi ý. Tao nghe lời và chừng vài phút sau, lại thấy trong gương, cái mặt giống sếp biến dần trở lại thành mặt tao. Tao và sếp thử đi thử lại vài lần, đều vậy cả. Sau đó, sếp bảo không thử nữa, rồi lại gặng hỏi tao: "Này, đúng là cậu không có tà thuật gì chứ?". "Vâng ạ. Em thề với anh là em chẳng biết tà thuật gì hết. Em cũng chẳng hiểu làm sao lại xảy ra chuyện như vậy nữa". Sếp có vẻ không tin, cứ nhìn xoáy vào mắt tao. Lát sau, ông ta bảo tao quay về chỗ làm. Lúc khép cửa phòng sếp lại, tao vẫn thấy ông ta đang nhìn theo với ánh mắt ngờ vực. Chắc ông ấy nghĩ tao đang giở trò gì đấy. Tao thấy sợ cái nhìn của sếp quá.

Trở về phòng mình, tao hoang mang lắm, cứ ngồi nghĩ mãi về chuyện ấy. Lúc ấy, trong phòng cũng đang có hai người nữa, thằng Thu, kém tao mấy tuổi và bà Như, già nhất phòng. Tao chợt nghĩ, thử nhìn mặt mấy người này xem sao. Đầu tiên, tao nhìn mặt thằng Thu một lát, rồi soi mặt mình vào mặt kính của điện thoại di động. Trời ạ, mặt tao cũng đã biến thành mặt nó rồi. Tao lại nhìn mặt bà Như rồi lại nhìn gương. Cũng thế. Đúng là đã có một điều gì đó rất kỳ quái ám vào người tao rồi.

Hết giờ làm việc, tao lấy xe, chạy một mạch đến phòng mạch tư của ông bác sĩ quen. Từ lúc rời khỏi phòng, lấy xe rồi đi trên đường, tao chẳng dám nhìn mặt ai lâu. Sợ cái mặt lại biến đổi lung tung. Xui quá, ông bác sĩ lại đang đi xa dài ngày. Tao định đến một bệnh viện nào đấy. Nhưng lại thôi. Tao sợ đến chỗ đông người. Vả lại, chắc gì họ đã tìm được nguyên nhân. Về đến chỗ trọ, cả đêm ấy, tao cứ trằn trọc mãi. Đến gần sáng, mới chợp mắt được một chút.

Sáng ra, vừa nhìn thấy mặt tao, mụ chủ nhà đã nheo nhéo đòi tiền nhà. Mụ đòi cũng đúng thôi, vì tao đã trễ tiền nhà tháng trước mấy ngày rồi. Nhưng cái kiểu vừa đòi tiền vừa chửi người ta như chửi chó của mụ, khiến tao bỗng thấy bực. Đầu tao chợt nghĩ ra một trò nghịch ác. Đưa tiền cho mụ xong, tao lén đến gần chỗ lão chồng mụ đang tưới mấy chậu hoa, nhìn vào mặt lão. Khi biết mặt mình đã biến thành mặt lão, tao chạy đến chỗ mụ chủ, thẳng tay tát cho mụ ấy một cái thật mạnh rồi chạy biến.

Mụ chủ chắc phải nổ đom đóm mắt, nên sau khi định thần, đã lao đến chỗ lão chủ, vừa tru tréo chửi, vừa tát bôm bốp vào mặt lão. Thế là hai vợ chồng chủ nhà xảy ra một trận ẩu đả, chửi mắng nhau tưng bừng. Còn tao thì thong dong dắt xe đi làm, đắc chí cười thầm. Khi đến cơ quan, tao lại giở những trò quái ác với đồng nghiệp, nhất là những kẻ mà tao vốn không ưa. Chẳng hạn biến thành mặt gã này để hôn trộm lên má, hay sờ lên mông ả kia.

Tao cũng chẳng chừa lão giám đốc, vì tao biết, từ hôm thấy mặt tao biến thành mặt lão, lão vừa nghi ngờ, vừa sợ, nên đã rắp tâm chuẩn bị đuổi việc tao. Đã mấy lần, tao lén nhìn và biến thành mặt lão rồi chay đi hôn hít, sờ soạng lung tung mấy em mơn mởn trong cơ quan. Thế là việc giám đốc sàm sỡ với nhân viên dưới quyền cứ ầm ào cả lên. Tất nhiên, lão biết ai là thủ phạm những trò ấy, nên cho tao về vườn ngay.

Đã thế tao chơi tiếp. Tao lẻn vào nhà lão, nhìn và biến thành mặt lão rồi đi tới ôm hôn em ôsin trẻ măng ngay trước mặt vợ lão rồi chạy biến đi. Chuyện gì xảy ra sau đó, chắc mày cũng đoán được rồi. Cứ thế, suốt thời gian thất nghiệp vừa qua, tao cứ dùng cái mặt biến hình của mình đi chọc ghẹo lung tung. Mãi cho đến vừa rồi, khi bị biến thành mặt mèo, thì tao mới thấy sợ, sợ lắm, chẳng còn hứng thú gì với trò biến mặt nữa. Tao sợ, chẳng biết rồi đây cái mặt mình còn có thể biến đổi ra sao nữa. Liệu có nhìn mặt bàn rồi cũng biến ra mặt bàn, nhìn mặt ghế biến thành mặt ghế... Thậm chí, nếu nhìn cái bồn cầu, mặt tao có... biến ra mặt bồn cầu không...".

Tôi suýt phì cười, nhưng kìm ngay được. Cái mặt rầu rĩ của thằng Lê quá đủ để biến tiếng cười ấy của tôi thành lố bịch, vô duyên. Ngẫm nghĩ một lát, tôi bảo nó: "Tao có quen một ông bác sĩ. Cũng là một nhân vật kỳ quặc. Ông này không mở phòng mạch tư kiếm tiền, làm giàu, mà chỉ dành thời gian rảnh để nghiên cứu những bệnh lạ hay những khả năng kỳ quái của con người. Mày thử đến gặp ông ta xem sao". Lê nghĩ ngợi rồi gật đầu: "Mày đưa tao đến chỗ ông ấy nhé!".

***

Tôi bất ngờ khi thấy ông bác sĩ không hề ngạc nhiên trước sự biến đổi kỳ quái của cái mặt Lê, kể cả khi mặt hắn biến thành mặt của ông ta. Ông bảo, chuyện lạ như thế, ông cũng đã gặp không ít lần. Nhưng ông bác sĩ cũng chịu, chẳng biết nguyên nhân. Vì thế, ông cũng chẳng thể có phương pháp điều trị nào cả. Bác sĩ chỉ e rằng, càng ngày, việc biến đổi trên mặt Lê càng nhanh hơn nữa. Chẳng hạn, hiện giờ, phải mất vài phút nhìn vào mặt người khác, mặt Lê mới biến thành mặt của người ấy. Nhưng sau này, có khi chỉ vừa nhìn là đã lập tức biến ngay rồi. Lúc ấy, cứ tới gặp ông ta, xem có giúp được gì không.

Và rồi, nỗi lo ngại của Lê và lời tiên đoán của ông bác sĩ đã trở thành sự thật. Một hôm nọ, Lê lại gõ cửa nhà tôi ầm ầm. Khi tôi ra mở cửa, thấy hắn che kín mặt bằng một cái khẩu trang to và một chiếc kính đen bự. Hắn vội gỡ kính và khẩu trang ra, để cho tôi thấy cái mặt hắn đã biến thành mặt tôi nhanh như thế nào, nhanh hơn hẳn so với lần trước đó.

Lê hấp tấp vào nhà, hổn hển bảo: "Chết... chết thật rồi..., mày ơi. Bây giờ... tao cứ nhìn thấy mặt ai... là mặt tao... biến ngay ra mặt người ấy... Tao sợ... chỉ mai mốt... chỉ cần nghĩ đến ai... là mặt tao... cũng biến... thành mặt người đó rồi". Tôi lại vội vàng chở Lê đến gặp ông bác sĩ.

Nghe Lê kể xong, bác sĩ lẳng lặng lấy ra một loại máy ảnh có kiểu cách khá lạ, hướng thẳng vào mặt Lê. Chụp xong, ông kết nối máy ảnh với máy vi tính để đưa hình vào đấy. Rồi ông bảo Lê: "Bây giờ, anh nên ở lại đây vài ngày để tôi làm cho anh một cái mặt nạ". "Thưa bác sĩ! Mặt nạ gì ạ?", Lê ngơ ngác hỏi. "Mặt nạ giống hệt mặt thật của anh. Anh không thể lúc nào cũng đeo kính đen và khẩu trang kín mít như vậy được. Những lúc ngồi trong phòng làm việc, gặp gỡ ai, hay hội họp, ăn uống..., anh cũng phải để cái mặt mình ra ngoài chứ. Mặt nạ này làm bằng những chất liệu mà tôi xin giữ bí mật, trông nó giống hệt da người. Khi anh dán mặt nạ này lên mặt mình, tha hồ cho cái mặt thật của anh bên dưới mặt nạ có biến ra mặt ai đi nữa thì người ta cũng sẽ không biết đâu. Nhưng cũng xin nói là anh nên tránh nhìn vào mặt thú vật. Lỡ mặt anh biến thành mặt chó với cái mõm dài ra, hay biến thành... mặt voi có cái vòi lủng lẳng, thì cái mặt nạ này làm sao còn che chắn cho anh được nữa... ".

Nghĩ ngợi một lát, Lê gật đầu đồng ý. Tôi bèn để Lê lại đó, đi về nhà.

Mấy hôm sau, Lê gọi điện cho tôi, báo là bác sĩ đã làm xong cho nó một cái mặt nạ rồi. Nó cảm thấy hơi bất an nên muốn tôi đến trước thời khắc nó dán cái mặt nạ ấy lên mặt.

Khi tôi đến, Lê đang bồn chồn xem xét cái mặt nạ cầm trên tay. Tôi nhìn kỹ cái mặt nạ ấy, thật là hoàn hảo, chẳng khác gì mặt của Lê, cả về hình dạng lẫn sắc thái, như thể vừa được lột ra từ mặt Lê vậy.

Khi ông bác sĩ dán mặt nạ lên trên mặt Lê, tôi không thấy được bất kỳ một điểm khác biệt nhỏ nhoi nào giữa cái mặt thật của nó với cái mặt bây giờ. Khi đưa cái gương cho Lê soi mặt, tôi tưởng nó sẽ thấy hài lòng. Nhưng sau một hồi trân trân nhìn cái mặt trong gương, Lê bỗng cất lên những tràng cười man dại, rồi lại tru lên khóc nức nở. Khi tạm lắng cơn cười khóc bất thường ấy, Lê nói giọng chua chát: "Người ta chỉ đeo mặt nạ kẻ khác. Còn tao, chẳng ngờ... giờ đây lại luôn phải đeo mặt nạ của chính mình".

Rồi Lê chạy vụt ra ngoài. Tôi hốt hoảng đuổi theo mà không kịp.

***

Từ đấy, tôi không gặp lại Lê. Nó không về chỗ trọ ấy nữa. Số điện thoại cầm tay, nó cũng bỏ luôn từ hôm ấy. Tôi đã nhiều lần dò hỏi tung tích nó mà chẳng được. Chẳng biết bây giờ, Lê sống ra sao với chiếc mặt nạ ấy.

Còn tôi, bỗng dưng có thêm một thói quen: cứ chốc chốc tôi lại nhìn vào gương hoặc đưa tay sờ nắn khắp mặt mình...

"Tháng bảy"

Tháng bảy năm ấy, một năm trong thập niên 1960, trời mưa thúi đất. Cứ hễ chiều đến là các sợi nước dài, mỏng mảnh lại lướt thướt nối nhau rơi, triền miên không dứt, mãi cho đến tận sáng hôm sau. Để rồi ngừng chẳng bao lâu, đến xế chiều lại lướt thướt mưa. Và không biết có phải vì nhiều mưa hay không, năm ấy trúng lớn mùa cá nục.

Những chiếc nốt (1) chạy buồm đầy khẳm nhộn nhịp vào vào ra ra cửa biển. Cá được chở về thị xã bằng xuồng, bằng xe lam, đổ đống ngồn ngộn trước cửa các nhà lều (2) muối nước mắm. Những người gánh cá cong oằn cả lưng, còn đám trai lều (3) thì mệt bã người, chẳng còn ai nhấc nổi chiếc bồ cào trộn muối nữa, đành để cho những đống cá cứ mặc tình phơi mưa phơi nắng, những đôi mắt cá chết trắng dã ngước nhìn trời, thân cá sình lên xọp xuống, máu chảy thành những dòng lớn, đỏ lòm hoặc đen thẫm, chạy ngoằn ngoèo men theo bờ lộ trước khi đổ xuống cống. Mùi tanh tưởi ban đầu bao trùm lên khắp thị xã, sau biến thành mùi thối, sau nữa đúng là mùi xác chết. Như thể có hàng trăm cái xác người thối rữa treo lơ lửng ở khắp các hang cùng ngõ hẻm vậy.

Tôi năm ấy là một chú nhóc mười hai tuổi, về quê ngoại ở Phan Thiết để nghỉ hè. Ông ngoại tôi có một trại cưa nhỏ, chuyên đóng ghe cho người đi biển. Nhà là căn nhà chồ đóng bằng ván thô nằm trườn dài nửa trên bờ nửa dưới sông giữa một xóm nhà được gọi tên là xóm Lò heo, đa phần dân trong xóm sống nghề đồ tể. “Cọp Khánh Hòa ma Bình Thuận” mà, thiên hạ thời ấy ai cũng đồn là xóm có nhiều ma. Rằng tối tối ma heo kéo đi cả bầy, luẩn quẩn khắp ngõ làng nẻo xóm đến gần sáng mới biến đi, nhất là trong những đêm tháng bảy lê thê mưa dầm, đêm đầy bóng tối và bóng các oan hồn vất vưởng. Những người đi uống rượu về khuya còn đoan chắc rằng có khi họ trông thấy cả những con ma người lất phất bay trên nóc nhà ngoại tôi, vừa bay vừa hát những câu hát sầu não mê hoặc, mà ai nghe trọn hết những câu hát ấy sẽ trở nên nửa điên nửa dại vì mất hết linh hồn. Nhất là trên nóc nhà bà Cả Mạnh, đêm nào cũng có ma bay. Đó là chưa kể đến ngôi trường Bạch Vân bỏ hoang, cách đó chỉ chừng trăm bước chân chứ bao nhiêu, cứ hễ chiều xuống là tuyệt đối không ai dám đi ngang qua. Bởi vì bao nhiêu lời đồn đãi đã xoay quanh ngôi trường ấy, từ chuyện ma bay, ma ném đá, ma xõa tóc ngồi than khóc trên ngọn cây me, hễ thấy ai đi ngang qua là nhảy xuống quặp chặt lấy cổ không gỡ ra được..., đến ma le lè lưỡi, ma vòng treo cổ trên xà nhà...

Bọn trẻ con chúng tôi tối tối rúc cả vào nhà mình, hoặc có đi đâu thì tay bấm chặt ấn quyết theo kiểu Phật Bà Quan Âm, miệng lầm rầm không ngớt câu niệm Nam Mô A Di Đà Phật, kẻo bị ma giấu vào bụi tre đố ai tìm được, miệng bị trét đầy đất sét mà cứ tưởng là bánh trái. Chẳng biết có phải nhờ thế hay không mà sau này tôi nghiệm ra rằng chẳng có đứa nào trong bọn trẻ con chúng tôi thật sự từng gặp ma cả. Mà ngay người sống trong những ngôi nhà có ma bay trên nóc, thật ra cũng chưa từng thấy ma. Nhưng nỗi sợ ma thì rất thật, và nỗi sợ ấy cùng với những bóng ma oan khuất cứ đương nhiên mà sống chung với người, đương nhiên len lỏi vào mọi ngóc ngách tâm hồn và cuộc đời chúng tôi, đương nhiên cũng như mùi cá mắm nồng nặc vẫn lẩn quẩn sống cùng vậy thôi.

Bà Cả Mạnh làm nghề giết mổ trâu bò. Nhà của bà là ngôi nhà hai tầng, bề thế và đẹp đẽ nhất trong cái xóm nghèo ấy, nghe đâu trước kia là của một ông sĩ quan, được xây cùng lúc với ông hoàng thân Pháp đã xây lầu Ông Hoàng bên Phú Hài. Nhà đẹp lắm, đắp cả phù điêu ở các đầu cột và đầu tường, nhưng lúc này đang bắt đầu rệu rã. Nhà quay mặt ra sông. Lòng sông trước nhà đổ đầy những đầu trâu đầu bò đã róc sạch thịt da. Trên bờ là một khoảng đất rộng trồng mấy hàng dừa, thường có vài con bò được buộc ở đó, chúng vừa phẩy đuôi đuổi ruồi vừa hấp háy những đôi mắt ướt mơ màng, buồn thiu nhơi cỏ. Đó là chỗ để bà Cả và những người lái bò chiều chiều ngồi chồm hổm trên đất cát cò kè, thương thảo giá cả cho những sinh mệnh ngắn ngủi và vô tội. Qua khoảng đất đó là sân trước, có một dãy chuồng để nhốt những con bò đã thuộc sở hữu của bà, xong mới tới nhà chính. Lò mổ ở sân sau, có cửa hậu để vận chuyển thịt ra chợ.

Tôi chơi với hai thằng cháu nội bà Cả nên thường vào nhà bà chơi nhưng chưa thực sự trông thấy việc giết mổ bao giờ, vì việc ấy chỉ làm vào lúc gần sáng, khi chẳng có đứa trẻ con nào thoát ra khỏi các giấc ngủ đầy mộng mị của chúng cả. Chỉ nghe kể đó là một công việc ghê rợn của sự giết chóc: những cú chày vương vãi máu và óc. Những bắp thịt điên lồng lên vì hoảng loạn. Những tiếng rống đau đớn, thảm thiết, hờn oán. Ròng ròng mọi thứ chất lỏng thoát ra khỏi một cơ thể sống: máu, đờm nhớt, mồ hôi, cứt đái, nước mắt, nước mũi...

Sống chung với bà Cả là gia đình ông Thân, con trai thứ ba của bà. Hai người con trai lớn làm ăn buôn bán ở Sài Gòn. Những người con gái kẻ lấy chồng gần người lấy chồng xa, có con đều gửi cho bà Cả nuôi. Ông Thân học hành làm ăn không tới đầu tới đũa, ở lại với mẹ lấy vợ đẻ con, lúc ấy đi lính địa phương quân, đóng lon thượng sĩ, doanh trại ở bên kia sông. Đám cháu nội ngoại của bà Cả sống cùng trong mái nhà ấy không phải là ít, nhưng hiếm con gái, duy nhất chỉ được chị Hạnh, con gái lớn của thượng sĩ Thân.

Chị Hạnh học trên dì Út tôi một lớp, được nhiều người yêu thích theo đuổi, trong nhà thì nhất mực được cưng chiều, nhưng chị lại rất ít nói, sống xa cách với mọi người. Chị đẹp lắm, cái đẹp vừa đài các vừa trong trẻo của một thiên thần. Tôi là một thằng nhóc lêu lổng có tiếng mà lắm lúc không cưỡng được việc nằm im thin thít hàng giờ như một con mèo rình mồi để nhìn chị chải tóc, trong lòng dậy lên một thứ gì đó mà sau này lớn lên mới hiểu nó chính là sự mê đắm. (Về sau, mỗi khi nhớ về quãng thời gian ấy, tôi vẫn tự hỏi phải chăng sự mê đắm đó là mối tình đầu của mình? Lúc đó tôi có chút khái niệm nào về tình yêu đâu, làm sao hiểu nổi những xúc cảm mộng mị kỳ lạ lúc ấy chính là thuộc tính của ái tình. Hay thực ra đó chỉ là libido? Như là một thứ dục tính có tính chất tiềm ẩn?).

Tóc chị Hạnh dài, khi ngồi lên bộ ván ngựa thì ngọn tóc vừa chấm mặt ván. Chị bôi một thứ dầu gì đó lên tóc rồi ngồi cả buổi dùng một chiếc lược sừng chải cho dầu ấy tan hết vào chân tóc, mắt không rời một cuốn sách nào đó mở rộng đặt trên bệ cửa sổ. Những cuốn sách ấy lạ lẫm biết bao đối với tôi, cho đến lúc ấy tôi chưa từng ngồi yên đọc cho hết dù là một quyển truyện nhi đồng. Kín cửa, Ngộ nhận, Buồn ơi chào mi... và hàng đống các truyện tình ái lãng mạn khác, đều do anh Hoàng mang sang cho chị mượn. Anh ấy sắp vào Sài Gòn học đại học, là con trai duy nhất của ông thiếu tá tiểu khu trưởng, người khét tiếng về sự chuyên quyền.

Phòng chị Hạnh ở trên lầu, có cửa sổ mở xuống sân sau. Tối chị đóng cửa sổ lại khi đi ngủ. Không ai biết rằng vào mỗi sáng tinh mơ tiếng rống thảm thiết của những con bò đang giẫy chết có chui qua được những khe cửa hở, len lỏi vào các giấc mơ thanh tân của chị hay không. Các giấc mơ không có máu và nước mắt, chỉ có tình yêu và hạnh phúc.

***

Chuyện xảy ra sau ngày rằm tháng bảy, nên lễ Vu Lan năm ấy mọi người trong xóm vẫn cùng đi chùa với nhau trong tâm trạng rất vui vẻ, có cả mấy thằng cháu của bà Cả Mạnh nữa. Sân chùa rộng mênh mông mà hôm ấy chật kín người, không có chỗ chen chân. Lũ trẻ con ngồi đầy các dãy bàn trong nhà trù và trong nhà khách chờ bữa cơm thí, đám khác không tìm được chỗ thì chạy nhảy ngoài sân, chờ xô cộ sau lễ cúng cô hồn các đẳng.

Trong chánh điện cũng đông người, khói hương mù mịt. Các vị Phật ngồi đứng trên các tòa sen, mắt khép, vẻ mặt thanh thản bao dung. Các thầy cũng lim dim mắt chuông mõ boong boong, miệng đọc bản danh sách dài vô tận những vong nhân đang được thân nhân cầu xin xá tội. Lũ chúng sinh bên dưới, từ bà hàm hộ(4) tay đeo kín hột xoàn đến chị gánh cá có đôi lòng bàn chân bị miểng chai cắt nát, từ bác xích lô mặt mày đen đúa nhăn nhúm đến ông thầy giáo trắng trẻo đạo mạo..., thảy đều xì xụp lạy, xì xụp cầu xin. Quang cảnh trang nghiêm là thế, mà không khỏi nhiều lúc mọi người đồng loạt khịt mũi hoặc bịt mũi, không chịu nổi cái mùi xác thối cứ hỗn hào chen lấn với đám khói hương lãng đãng bay khắp chánh điện.

Được một lát dì Út kéo tôi ra ngoài chờ giờ xô cộ. Dì nói: Mày có thấy ứa gan không, mấy cái bà đó tay thì đeo hột xoàn, chân thì bước qua đống cá chết sình trước nhà lều mấy bả, rồi tới đây nam mô, lạy lạy, làm dơ cả cửa chùa. Mấy bả muốn cầu xin cái gì nữa? Bao nhiêu tiền chưa đủ sao, bao nhiêu con cá đang nhởn nhơ bơi lội ngoài biển bây giờ thành đống chết sình như vậy còn chưa đủ sao? Phật nào mà chứng cho mấy bả... Dì Út tôi lúc ấy sắp lên lớp đệ nhị, bắt đầu hiểu những điều tôi lờ mờ chưa hiểu, thường hay bị bà ngoại mắng là con người lý sự. Lúc ấy tôi chỉ thấy đó là chuyện người lớn, mắc chi mà dì phải nóng giận đến vậy. Khi xô cộ xong, hè(5) được mấy chiếc bánh bò bánh ít dập nát đất cát gói trong tờ lá loan(6) mang về, tôi tung tăng vừa nhảy vừa hát, mà không hiểu sao dì Út vẫn không buông tha, tiếp tục rót vào tai tôi những lời u ám: "Mày biết bà Hạnh xóm mình giống mấy bà hàm hộ ở chỗ nào không? Ở chỗ họ cùng sống trên những xác chết đó". Tới đây thì tôi vùng bỏ chạy, thật tình tôi không muốn nghe những chuyện rối rắm và xúc phạm đến chị Hạnh của tôi như vậy.

Hôm sau ngày mười sáu, bà ngoại tôi cúng cô hồn. Lúc bà ngoại cúng cháo thí thực, dì Út đứng bên cạnh bảo tôi: "Tháng này là tháng cô hồn rong chơi, mày có đi đâu phải cẩn thận, kẻo gặp quỷ ma xúi bẩy làm điều bậy bạ đó". Xế trưa tôi đi theo bà ngoại ra cầu sông để thả chiếc bè kết bằng bẹ chuối chở đầy chè bánh cho những người mà ngoại tôi giải thích là những người Hời, xưa kia là chủ của vùng đất này. Lúc ấy tôi trông thấy anh Hoàng ngồi trên bờ sông, trước sân nhà chị Hạnh. Tôi vẫy tay gọi nhưng anh không trả lời. Không ngờ ngay hôm sau đã xảy ra cái chết bi thảm của anh làm rúng động cả thị xã, có phải chăng ma quỷ đã xúi bẩy anh làm cái việc quá đỗi sai lầm ấy? Vụ tự tử dữ dội ấy xảy ra ở một cái giếng cạn bỏ hoang trong khu gia đình binh sĩ nằm bên kia sông. Anh đã ném một trái lựu đạn, tay kia cầm một trái khác, cùng nhảy theo nó xuống đáy giếng. Trái lựu đạn nổ, kích trái kia nổ theo, thân xác anh bị bằm xé hai lần, nát tan như xác pháo.

Những tin tức loại đó lan truyền rất nhanh trong đám trẻ con chúng tôi. Khi tôi nhanh chân chạy đến thì đã có mặt hàng trăm đứa khác, đang chen lấn bao chặt lấy miệng giếng để nhìn xuống. Những đứa xem xong thì chen ra ngoài, mặt mày xanh lét. Có đứa ói, có đứa òa ra khóc nức nở. Tôi không dám chen vào xem, chỉ nhìn thấy mấy vết máu dính trên thành giếng đã tự nhiên run lẩy bẩy, mà thật tình lúc ấy cũng chưa biết ai nằm dưới đáy giếng. Một lúc sau tôi trông thấy dì Út. Dì hét lên: "Mày chạy mau lên, thật mau, báo cho bà Hạnh hay liền". Tôi lắp bắp: "Tại sao? Tại sao phải cho chị Hạnh hay?". Dì hét lên: "Ảnh là anh Hoàng, là người yêu của bà Hạnh. Trời ơi, sao mày ngu quá vậy, đồ con bò! Mau lên!". Tôi vừa chạy vừa run vừa khóc vừa té bầm dập vì trượt nước mưa vừa tự hỏi, tại sao vậy nhỉ, tại sao lại là người yêu của chị Hạnh được, không phải chỉ là bạn thôi à?

Thành ra tôi là người đầu tiên cho chị hay cái tin dữ ấy. Ban đầu mắt chị mở to ngơ ngác, rồi sụp xuống, ánh lên thứ ánh sáng hoảng loạn, đau đớn. (Về sau tôi nghĩ đôi mắt ấy có lẽ rất giống mắt những con bò hấp hối bên dưới cánh cửa sổ phòng chị). Chị gào lên: "Mấy người vừa lòng chưa? Mấy người bắt tôi giết anh ấy, đã vừa lòng chưa?". Rồi chị đổ gục xuống, như một cây chuối bị dao chém ngang.

***

Người ta bàn tán đồn đãi rất nhiều về vụ tự sát đó, nên không khó khăn gì cho tôi trong việc ráp nối chúng thành câu chuyện có đầu có đuôi, có cả những lời bình luận. Anh Hoàng và chị Hạnh yêu nhau, nhưng không được gia đình chấp thuận. Cha anh ấy là chỉ huy trực tiếp của cha chị Hạnh, cho rằng mối tình ấy không xứng đáng, làm uổng phí tương lai sự nghiệp con trai ông. Trong khi gia đình chị Hạnh kiếm sống bằng nghề hạ tiện, thượng sĩ Thân là thuộc cấp dưới quyền, ít học, tính tình lại ương bướng làm sao mà kết thành thông gia được, thì con trai ông cứ khăng khăng rằng chưa làm lễ đính hôn thì nhất quyết không vào Sài Gòn đi học.

Sáng thứ hai ấy, trong doanh trại có lễ chào cờ, mọi sĩ quan, hạ sĩ quan, binh sĩ đều có mặt đủ, xếp hàng ngay ngắn dưới sân. Sau lễ ấy, như thường lệ, ông thiếu tá lôi các lính tráng phạm lỗi ra chửi bới và phạt. Thượng sĩ Thân hôm ấy không biết ma đưa lối quỷ dẫn đường thế nào, lại lớn tiếng bênh vực cho người lính tài xế đang bị ông thiếu tá mắng mỏ. Thế là bao nhiêu bực bội, tức tối trong lòng ông thiếu tá bấy lâu nay tuôn trào cả lên đôi bàn tay. Mặt đỏ rần, ông hét to lên, thẳng cánh tát vào mặt thượng sĩ Thân. Không phải chỉ một cái, mà cái nữa, cái nữa, cái nữa, cái nữa, cái nữa... Càng tát càng say, càng hả hê, càng sung sướng.

Ban đầu ông Thân ngớ ra ngạc nhiên, nhưng sau đó cúi đầu chịu tát. Cả một sân người im phăng phắc. Nỗi nhục đi qua cổ họng, ông thượng sĩ nuốt đánh ực xuống bụng. Ông biết nếu mình đánh lại ông thiếu tá thì nắm chắc chuyện phải ra tòa án binh. Nỗi nhục ấy, trưa về đến nhà, lại trào lên lần nữa lên đôi cánh tay ông Thân, ông thẳng cánh tát vào mặt con gái. Mặt chị Hạnh sưng vù, ông xô chị vào một căn phòng kín, khóa trái cửa nhốt lại. Ông cho rằng chính chị đã rước nỗi nhục đến cho ông, và ông sẽ không bao giờ tha thứ cho chị cái tội đã yêu con trai của kẻ thù.

Anh Hoàng không biết chuyện chị Hạnh bị cha đánh và nhốt. Chiều ấy anh đến tìm chị. Người trong nhà không cho vào, anh bỏ ra ngồi suốt buổi ở bờ sông trước sân nhà, chỗ những người lái bò thường ngồi hút thuốc, mặc cho mưa cứ từng sợi từng sợi dài ướt đẫm áo. Anh cũng hút thuốc, liên miên, nối điếu này với điếu kia, không nói với ai một lời nào, cũng không lần nào ngước mắt nhìn lên cửa sổ nhà chị. Ai mà biết được anh đang suy nghĩ những gì! Anh ngồi đấy đến tối, rồi sáng lại đến ngồi đúng vào chỗ cũ. Mặc cho mưa rơi. Cha chị không đuổi anh ấy đi, mà đe dọa chị đủ điều, buộc chị viết thư tuyệt tình. Chị khóc sưng mắt, rồi chị viết. Mẹ chị mang thư ra, không ai biết chị đã viết gì, anh đọc xong lẳng lặng vò bức thư ném xuống dòng nước sông đang chảy. Hôm anh ném thư xuống sông đúng là hôm rằm, người trong xóm đều ở cả trên chùa. Sau hôm ấy là ngày tôi đã vẫy gọi nhưng anh không trả lời. Hôm sau nữa anh lại đến, nhưng ngồi không lâu thì cha anh đến với hai người lính ngồi trên xe Jeep. Anh không cãi cọ gì, ngoan ngoãn ngồi vào xe, nhưng tuyệt đối không hé răng nói lấy một lời, mặc cho ông bố la hét điên cuồng trên xe.

Khi về đến nhà thì cơn giận của người cha lên đến cực điểm. Ông lôi anh xuống xe, rồi đánh anh tới tấp bằng hai sợi dây nịt nhà binh chắp lại. Con ông không bao giờ hiểu ông, và trời ơi, có phải là cũng chưa bao giờ ông hiểu con ông? Những đầu móc kim loại trên các sợi dây nịt xé rách thịt da anh, cũng là xé rách cõi lòng ông. Đánh mệt rồi, ông sầm sầm nhảy lên xe lái đi. Từ khi con còn nhỏ, từ khi vợ ông mất đi, từ khi ông nhận ra cuộc đời mình nhiều nỗi cô đơn hơn là niềm vui thú, thì đây là lần đầu tiên ông đánh con trai của mình. Đứa con mà ông quý còn hơn sinh mệnh ông. Khi người cha đi rồi, anh Hoàng mím môi đi xuống nhà sau, lặng thinh như một nấm mồ. Lúc ấy anh đã không hề nói với ai một lời giã từ, hay một lời trăng trối, hoặc gửi lại cho ai một dòng chữ nào. Cũng không lý gì tới người chị gái nãy giờ vẫn nước mắt lưng tròng cố chen vào giữa cuộc xung đột của hai cha con. Bởi thế không ai đánh hơi được cái chết đang rình rập, không ai ngờ đến sự nguy hiểm của việc anh đi xuống nhà sau. Ở đó, trong hốc tường, anh biết chỗ cha anh cất giữ lựu đạn. Có thể lúc ấy anh chỉ nghĩ đến cái giếng, là nơi trái đạn có thể nổ mà không gây hại gì cho ai khác.

Sau này không bao giờ tôi còn gặp lại chị Hạnh nữa. Lúc ấy người ta mang ngay chị vào Sài Gòn sống với hai người bác, còn tôi cuối tháng ấy cũng rời quê ngoại trở lên Đà Lạt để bắt đầu năm học mới. Mấy năm sau tôi được nghe kể rằng chị Hạnh ở Sài Gòn lúc tỉnh lúc điên, khi lên cơn bốc cả cứt chó mà ăn. Nhưng một người khác lại quả quyết rằng đã từng gặp chị ở Vũng Tàu, bấy giờ mới lấy chồng, sống trong khu cư xá dành riêng cho cố vấn Mỹ trồng đầy hoa đại trắng. Dù tỉnh hay điên, hẳn chị đã quên đi câu chuyện cũ. Tôi vẫn hằng mong như thế, bởi vì nếu cứ phải nhớ những điều đau đớn thì làm sao mà sống nổi.

Ở trên đời, quả là rất khó lý giải được tâm tình của con người, mà việc đoán được mỗi con người sẽ phản ứng như thế nào trong mỗi tình huống lại càng khó hơn. Về cái chết của anh Hoàng người ta quy cho nhiều lý do rất khác nhau. Người cho rằng vì được nuông chiều quá đáng mà hình thành trong anh những cơn nư giận cũng dữ dội quá đáng. Người thì bảo đó hoàn toàn là một câu chuyện tình, tỏ rõ sức mạnh của tình yêu, có khi còn mạnh hơn cái chết. Rất nhiều người khác lại đoan chắc rằng chẳng qua do ma xui quỷ khiến mà thôi. Riêng dì Út tôi (sau này lớn lên không còn tin dị đoan hay ma quỷ nữa, lại đi học môn triết ở đại học Văn khoa Sài Gòn) một hôm nhân nói chuyện với tôi về thuyết hiện sinh của Jean Paul Sartre, dì nhắc lại câu chuyện cũ: "Mày có biết tại sao ông Hoàng ổng chết không? Cha ổng từ nhỏ đến lớn sống trong nền giáo dục của Khổng tử, tin chắc vào một xã hội theo trật tự quân sư phụ. Trong khi đó lại để cho ông Hoàng đọc tiểu thuyết quá nhiều, nhiễm vào đầu ông cái triết lý hiện sinh, cho rằng tha nhân là địa ngục, còn cái cá nhân tôi của mình thì bất khả xâm phạm. Thế thì chuyện xung đột là đương nhiên phải xảy ra rồi, ai thua thì chết thôi". Rồi dì kết luận một câu xanh rờn: "Bởi vậy mày đừng có tưởng rằng chữ nghĩa mà không giết được người".

"Không manh mối"

1.Hai cao ốc cao 97 mét, nghiêng nhẹ 9 độ so với phương thẳng đứng. Mặt ngoài nhẵn nhụi, với một hệ thống lưới vuông giữ các tấm ốp bằng kính và kim loại tạo thành lớp vỏ cứng và lạnh. Những đai thép che cửa sổ, như một sợi dây siết cẩn thận theo chiều xoắn ốc.

Tùy theo thời khắc trong ngày, ánh sáng chiếu thẳng từ trên xuống, có khi theo đường xiên. Hai tòa nhà hiện lên cách đây vài năm. Tất cả sáng sớm chủ nhật, anh đều nhìn chúng, suy nghĩ về các thông số kỹ thuật đầy mê hoặc tình cờ đọc thấy trên một trang web kiến trúc. Hình ảnh hai cao ốc kỳ dị biến thành một phần trong anh, kín đáo và riêng tư. Thấm đẫm sức mạnh đe dọa nhưng cũng đầy an ủi, chúng bám theo anh khắp nơi. Anh nhìn thấy chúng giữa cuộc họp căng thẳng ở văn phòng công ty. Tại phòng khám sức khỏe định kỳ, anh bắt gặp chúng in bóng lộn ngược trên kính cửa sổ. Cả trong các giấc mơ lộn xộn không trọng lượng, chúng luôn ở đấy, đứng bên rìa, lẳng lặng ma quái.

Một buổi sáng, khi Hoan còn nằm ngâm người trong bồn tắm, mở nước ầm ĩ và hát, anh lờ mờ nhận thấy hết thảy những thứ ngỡ quan trọng nhất - công việc, những liên hệ mật thiết, các mối quan tâm hàng đầu - thực ra không làm nên con người anh. Đơn giản là anh đang đi theo con đường dành sẵn cho mình, được dẫn dắt bởi kẻ khác. Một kẻ vô hình. Giống như hai tòa nhà xa vời kia, anh biết chắc nó tồn tại, nhưng vấn đề là anh không bao giờ muốn hiểu rõ cách thức vận hành của chúng.

Khi Hoan nhảy ra khỏi phòng tắm, bằng giọng bình thản, anh thông báo với cô việc anh cần sống một mình. Ném vào anh cái nhìn chết lặng, rồi bằng loạt động tác kinh hoàng pha giận dữ, Hoan thu dọn đồ đạc, bỏ đi. Cánh cửa đóng sầm lại. Anh mở quạt hút gió, bật máy pha cà phê. Máy móc rầm rì. Tiếng xe cộ ngoài đường vọng đến êm ả. Mọi thứ quanh anh bình ổn. Thậm chí sự vận hành của chúng giờ đây được kiểm soát tốt hơn. Tuy nhiên, quá trình xóa bỏ dữ liệu đang diễn ra. Tự nhủ chỉ là sự lãng quên cần thiết, nhưng anh biết rõ mình hệt như một phi công mất phương hướng.

2.Văn phòng công ty mất điện đột xuất. Nhân viên xin về sớm. Buổi chiều khoảng ba giờ. Bên ngoài bức tường kính, trong làn ánh sáng chói lóa, các chuyển động đều bị cóng lạnh. Mọi hình ảnh hiện rõ mồn một. Trên cái nền chói chang ấy, một bóng người đi thẳng về phía anh. Mái tóc đen sẫm im lặng thả xuống vai. Gò má phẳng mịn, không màu sắc. Một nụ cười khoan khoái tỏa ra từ bên trong, lờ mờ in trên gương mặt. Chừng như thứ ánh nắng khốn kiếp khiến cô gái lạ không nhận ra tấm kính trong suốt phía trước. Anh muốn hét to, vạch tay lên mặt kính ra hiệu. Đúng lúc đó, cô ta dừng lại. Rất nhanh, cô gái lạ hướng về anh cái nhìn chăm chú. Sau đó, lơ đãng ngoảnh đi đâu đó rồi cô ta rẽ trái.

Một khách du lịch đãng trí và điên rồ, anh tự nhủ. Uống cạn cốc cà phê nguội, anh tỉnh táo trở lại. Kiểm tra xong đống sổ sách kế toán của resort, tính lại bảng lương cho nhân viên, anh đóng cửa văn phòng. Bãi để xe cách hai dãy phố. Khu trung tâm đông đúc. Vài quán cà phê tràn xuống vỉa hè khiến người đi bộ phải len lỏi vòng qua cột điện thoại hoặc gốc cây.

Thường xuyên bị đâm sầm bởi lũ trẻ bán bưu thiếp, tem và các đồng tiền giả cổ đang guồng chân đuổi theo đám khách du lịch, anh bước thẳng xuống lòng đường. Một cách hối hả, anh băng qua ngã tư ngập ngụa xe cộ trước khi đèn xanh. Cạnh gallery treo tranh chép Macke và Hopper, anh đẩy cánh cổng sắt han gỉ, rẽ vào con hẻm nhỏ len giữa mấy bức tường nhà lớn. Âm thanh đường phố mờ dần, rồi đột nhiên biến mất. Một loài cá có cánh thảng hoặc bay vọt ra khỏi đám đông huyên náo, lơ lửng trong khoảng không trước khi rơi xuống, chìm sâu trở lại lòng nước u ám. Ta giống vậy, anh nghĩ. Dù sao cũng không thể cười nổi với hình ảnh so sánh tồi tệ.

Càng sâu vào lối đi, ánh sáng càng yếu ớt. Vài đoạn gần tối đen. Bỗng, nổi rõ lên tiếng chân bám đuổi. Hơi thở dồn dập từ phía sau với khoảng cách ngắn dần. Anh ngoảnh nhìn. Bóng người dừng lại. “Ai đó?”- anh lên tiếng. Bóng người im lặng. Anh bước nhanh hơn. Nếu bị cướp, cũng chẳng có gì đáng giá ngoài một chút tiền. Anh nghĩ, buồn bã chấp nhận tình thế bất an. Cái bóng vẫn bám theo. Đi thêm vài bước nữa, có một ngạch cửa. Đúng khi anh tìm thấy chỗ ẩn nấp, khuỷu tay anh bị nắm nhẹ, kéo lại. Anh giật mình vùng ra, lục tìm trong bóng tối kẻ đối diện. “Cho tôi năm phút! Tôi cần nói với anh” - giọng một cô gái trẻ.

Hơi thở dưới da anh bình ổn. Thay cho trạng thái căng thẳng, chỉ là cảm giác thờ ơ. Lại một quan hệ được cố gắng thiết lập, vì lợi ích thảm hại nào đó. Anh đi tiếp. Người lạ vẫn lặng lẽ bám theo. Còn hơn mươi mét, như nhìn từ miệng cống ngầm, ánh sáng bất thần hiện ra. Cô gái đi vượt lên, ngang hàng anh. Một cách tự nhiên, cô ta nắm nhẹ áo anh chỗ khuỷu tay. Họ bước cùng nhịp. Ra tới vỉa hè đường lớn, anh ngoảnh nhìn người đi kế bên. Chính là cô gái ban nãy anh nhìn thấy, với mái tóc sẫm thả xuống vai, với gò má đọng khoảng tối, và nụ cười vững tin giờ đây lan rộng trên gương mặt không thể nói là không đẹp.

Chỉ cần bước qua đường, sẽ tới bãi xe. Chỉ cần vung mạnh tay với chút thô bạo, kẻ làm phiền sẽ bong ra khỏi anh, rơi vào đám đông và mất tích vĩnh viễn. Nhưng, có gì đó gần giống nỗi tò mò ngăn anh lại. Họ tấp vào quán kem vỉa hè, len lỏi giữa những cái bàn ửng đỏ khách du lịch, kiếm được chỗ ngồi khả dĩ. Không rào đón, cô gái hấp tấp nói ngay vào việc:

- Tôi có một thứ cần bán.

- Tôi là người mua hả? - anh bỗng thấy khôi hài lẫn bực bội.

- Anh sẽ mua nó, vì không đắt. Và anh cũng cần nó nữa! - trong giọng nói của cô gái, có gì đó nhiệt thành đến tội nghiệp.

Đến lúc này, anh mới nhận ra cô gái lạ đeo chéo ngang thân một vật thể bằng da thuộc đen mờ, hình thù lạ mắt. Cô ta mở nó một cách thành thục, lấy ra một cái ống nhòm. Đưa nó cho anh, cô ta nghiêm trang:

- Nó rất tốt. Đời mới nhất. Có điều chỉnh bằng tia hồng ngoại.

- Tôi dùng nó vào việc gì?

- Anh biết rõ điều ấy hơn tôi! - cô ta tinh quái cười, bắt đầu uống từng hớp nước to.

- Nếu nó tốt, sao cô không giữ lại?

- Tôi cần tiền!

Trong câu nói giản dị, có tất cả sự thành thật cần thiết. Anh mỉm cười, bỗng thấy dễ chịu. Khoảng cách lạnh giá giữa họ mau chóng thu hẹp. Xoay trở chiếc ống nhòm trong tay, anh ngắm nó hồi lâu. Nhãn hiệu cao cấp dành cho dân du lịch có kèm chức năng chụp ảnh. Một vật thể thuần túy kỹ thuật thiết kế tinh xảo. Nặng và lạnh. Những khớp nối hoàn hảo có thể xoay vặn nhẹ nhàng. Hai chiếc thấu kính ánh tím, chưa vết trầy xước. Nhưng anh sẽ mua chiếc ống nhòm để làm gì? Chưa bao giờ anh ham thích du lịch. Những chuyến đi liên tục vì công việc đã quá đủ. Ý nghĩ quan sát kỹ lưỡng vật thể nào đó lại càng kỳ khôi với kẻ như anh. Đặt chiếc ống nhòm lên bàn, anh hỏi thẳng:

- Thứ này của cô thật chứ?

- Tôi mua nó cách đây vài tháng ở Đức. Tôi làm nghề phiên dịch. Nó ngốn hết số tiền mang theo.

- Tại sao cô chọn tôi?

- Tôi đã mang nó ra cửa hiệu. Họ trả quá rẻ. Tôi tình cờ thấy anh trưa nay, khi anh đến văn phòng. Tôi đã nhìn anh khi anh làm việc. Không hiểu sao tôi nghĩ chiếc ống nhòm thích hợp với anh.

- Cô có việc gấp phải cần tiền?

- Tôi gần lập gia đình. Chồng sắp cưới của tôi đã chọn một căn hộ. Tôi muốn được tự mình mua đồ nội thất. Đổi cái ống nhòm này, tôi có thể mua chiếc sô-pha lớn, loại bọc vải mềm có sọc xanh...

- Thôi được, tôi sẽ mua! - anh quyết định đột ngột - Nhưng tôi không mang theo đủ tiền mặt.

- Mai tôi đến văn phòng anh! - nụ cười bừng lên khiến cô gái tươi tắn, đáng yêu kỳ lạ.

- Vậy cũng được!

Khi anh ngẩng lên, cô gái đã biến mất.

Anh lái xe về nhà. Điện thoại rung nhẹ. Một khách hàng có hẹn chiều bàn việc. Tắt điện thoại, anh ném ra băng ghế sau. Ra khỏi khu vực trung tâm, anh rẽ vào đường một chiều. Ánh sáng chói chang phía chân trời đột nhiên tắt lịm. Vệt đỏ sẫm của mặt trời sắp tắt hắt ánh hồi quang lên nền mây nhẵn thín màu thép xám. Một xe lửa gần băng qua. Xe anh dừng sát barie. Tiếng còi xa xăm. Bên kia rào cản, con đường sâu hút. Những hạt nước mau chóng biến thành trận mưa dày đặc, nhuộm ướt các khối nhà im lìm. Một con sẻ ngô từ đâu sà xuống, bám trên thanh barie, hót điên loạn, nhảy nhót từ khoảng sơn đỏ sang khoảng sơn trắng.

Đúng khi ấy, con tàu lao vụt đến, với âm thanh cuồng nộ phá vỡ lớp vỏ tĩnh lặng xám xịt. Mưa làm cho đoàn tàu biến thành một vệt chuyển động đen tối lao đi. Lúc cho xe lăn bánh, anh chợt nhận ra con chim vẫn đứng im trên barie, ướt đẫm, đờ đẫn chịu đựng. Rồi nó lảo đảo bay lên, lơ lửng trong khoảng không trước mũi xe, nhỏ xíu, tựa cái bóng chấp chới của nỗi tuyệt vọng và khát khao phá hủy. Đột nhiên, gương mặt cô gái lạ hiện ra trước mắt anh. Một người biết mình muốn gì và nỗ lực hết cách để chiếm được nó. Những mục đích vụn vặt nhưng rõ ràng khiến đời sống sinh động và đáng thèm muốn.

Cửa xe đóng kín, nhưng anh rất lạnh. Anh nhớ cô gái lạ khủng khiếp. Như thể giữa họ luôn tồn tại một tình yêu sâu đậm, và họ chỉ vừa chia tay chốc lát. Ở ghế bên cạnh, chiếc ống nhòm vẫn nằm yên.

***

3.Công việc ở văn phòng công ty tiến triển thuận lợi. Mùa hè, resort đầy kín chỗ, những bungalow hạng đắt nhất được đặt hết tháng. Các cổ đông đồng ý xây dựng thêm khu nghỉ dưỡng ở cao nguyên. Những đợt giao dịch mới. Các cuộc cạnh tranh mới. Và nỗi mệt mỏi mới. Đó là tất cả những gì anh ưa thích lâu nay. Cuộc sống chẳng có gì phàn nàn. Anh đến văn phòng sớm, trước cả nhân viên. Các bản vẽ thiết kế tràn đầy trên bàn. Trong ngăn kéo, anh để sẵn chiếc phong bì 500 đô la, số tiền mua chiếc ống nhòm. Thỉnh thoảng, anh mở ngăn bàn, cầm nó hồi lâu. Suốt tuần vừa qua, cô gái lạ không xuất hiện.

Một buổi trưa, từ tiệm cơm trở về văn phòng, anh nhìn thấy bóng người dưới mái che cánh cung. Cô gái lạ. Anh đã chờ đợi cô đến mức giờ đây, anh bình thản đẩy cửa cho cô bước vào như với một người khách bình thường. Xoay nhẹ cái phong bì, cô bỗng đổi cách xưng hô:

- Anh đi ra ngoài cùng em không?

- Đi đâu?

- Cũng chưa biết. Nhưng ta đi bộ thôi.

Anh khóa cửa văn phòng, treo bảng closed trên tay nắm. Xế trưa. Bóng dưới chân họ tan chảy, thấm vào kẽ hở các phiến gạch lát vỉa hè. Trong một tuần, cô gái đầy đặn lên hẳn. Ánh sáng theo phương thẳng đứng khiến gương mặt cô gái đượm vẻ sung sướng và thanh thản. Anh nghĩ cô thật trẻ, thậm chí ngây thơ. Thi thoảng, cô dừng bên ngoài cửa hàng nội thất, trầm ngâm ngắm nhìn chiếc gối thêu hay bức tranh phong cảnh đóng khung giản dị. Cũng có lúc, cô bước hẳn vào khu vực trưng bày, rụt rè ngồi lọt thỏm vào lòng chiếc ghế da, nở nụ cười mãn nguyện.

Những thứ đồ đạc vô nghĩa bỗng nhuốm ánh sáng khác lạ. Chúng là hình ảnh của mơ ước bình yên và được che chở. Trong chúng, vang lên tiếng nói bí ẩn, ngạo mạn nhưng cũng thật trìu mến. Bên cạnh cô gái, anh thấy nhẹ nhõm kỳ lạ. Bầu khí quyển cân bằng bao quanh, gợi cảm giác dễ chịu bất tận. Chỉ có cô và anh hiện diện, bước đi thong thả trong cái thế giới yên tĩnh mênh mông.

- Em chọn mua được gì cho chỗ ở mới chưa? - anh lên tiếng, phá vỡ sự yên lặng.

- Gần đủ. Chỉ là loại đồ đạc trung bình. Anh biết đấy, em không nhiều tiền.

- Anh có thể cho em mượn chút ít! - anh thử mỉm cười.

- Không.

- Tại sao?

- Em chỉ muốn mua bằng tiền của mình - cô bật cười, hết sức cởi mở - Hơn một năm nay em làm thêm đủ thứ. Em luôn hình dung kết quả mỗi việc sẽ là tủ quần áo, tấm rèm cửa, hay lò nướng bánh. Thật hứng thú, và không mệt chút nào.

- Chồng sắp cưới nghĩ gì khi biết em làm việc cực nhọc?

- Em không biết. Nhưng em thật sự muốn sống với anh ấy.

- Một tình yêu đích thực? - anh hỏi, với đôi chút thất vọng.

- Em không giải thích được. Có lẽ khi hạnh phúc, thì mọi việc hơi khó hiểu.

Vừa đi, họ vừa trò chuyện. Không có điểm nào che giấu, vì thế không có chút gì ngại ngần. Chồng sắp cưới của cô gái hiện còn làm việc ở nước ngoài. Anh ta đã đặt mua một căn hộ 72 mét vuông phía nam thành phố. Cả hai từng giữ ý định sống độc thân. Nhưng bàn tay run rủi của số phận khiến họ gặp nhau tại một hội thảo. Hai người chia sẻ mọi ý nghĩ, mà quan trọng nhất, là mong muốn nơi chốn yên ổn, dựa vào nhau, sống một cuộc đời bình thường...

Thấm sâu trong giọng nói bình thản kia, có gì đó tựa như niềm hy vọng tha thiết, chân thành. Anh lắng nghe, có lúc đồng hóa mình với người đàn ông không biết mặt. Mọi chi tiết và cảm giác đều trùng khít, không khoảng cách.

Trong cửa hàng cuối khu phố đi bộ, cô gái mua được chiếc sô-pha bằng gỗ mảnh mai, nệm bọc vải trắng có những sọc xanh nhỏ. Để hết tâm trí vào chiếc ghế, cô truyền cho nó sinh lực của chính mình. Tại quầy thu ngân, cô thanh toán hết sạch 500 đô la. Lúc người bán hỏi địa chỉ để giao chiếc ghế, cô thoáng lưỡng lự, xin gửi nó ở cửa hàng thêm một thời gian, cho đến khi cô nhận chìa khóa căn hộ.

- Cái sô-pha thật sang trọng, và đắt tiền! - anh nhận xét khi họ ra ngoài.

- Em muốn anh ấy được nghỉ ngơi trên ghế, sau một ngày làm việc. Có thể hơi điên, nhưng em tin cái sô-pha là biểu tượng hạnh phúc. Frohlichkeit. Nghe thật hay, đúng không?

- Lạ lùng!

- Người ta hay chạy theo thứ gì đó. Nhiều tiền. Quyền lực. Đôi khi cái người ta theo đuổi quan trọng hơn chính cuộc đời họ - Cô cười to - nhưng... chắc chắn em không như thế!

- Ý em là gì?

- Anh biết quyết định gắn bó với người khác, ngoài chính mình, ý nghĩa thế nào không?

Anh lặng đi. Họ chia tay ở ngã tư. Chẳng còn lý do gì gặp lại. Và cô ta cũng không có ý định ấy. Anh bước chậm, thở khó nhọc. Cô nói đúng. Những kẻ như anh đầy rẫy, trong các vỏ bọc tốt đẹp. Nhưng từ lâu, họ đã đánh mất khả năng tiếp nhận người khác. Rung động chỉ là tiếng vọng mờ nhạt từ những cảm xúc tồi tệ luôn có sẵn. Mồ hôi ứa từng hạt to trên da. Đột nhiên, anh thèm khát vị trí người chồng sắp cưới của cô gái một cách khủng khiếp.

***

4.Với chiếc ống nhòm, hai cao ốc đột nhiên hiện ra trước mắt anh, rõ ràng một cách kinh ngạc. Sự tương phản giữa những trụ đặc bê tông, các tấm kim loại và phần trong suốt của kính. Và hơn hết, quan sát tỉ mỉ khiến anh phát hiện sức mê hoặc của hai tòa cao ốc nằm ở những khoảng trống mà chúng tạo thành. Một buổi tối, anh đứng bên cửa sổ theo dõi chiếc thang máy hình trụ chuyển động liên tục theo phương thẳng đứng ở tòa nhà bên trái. Anh xoay nhẹ, chỉnh độ nét ống nhòm.

Trong thang máy, có khi là đám đông chen chúc. Nhưng đôi khi một người đơn độc, ngồi trên cái vali lớn. Hình ảnh lướt qua luôn làm anh bất ngờ. Chìm ngập trong chúng, anh gắng không nghĩ đến điều gì. Nhưng nỗi khắc khoải còn nguyên đấy, không mờ đi. Hệt như không khí quanh anh được tạo ra bằng thứ bê tông trong suốt. Cô gái lạ đã áp toàn bộ con người cô vào đấy rồi bỏ đi. Lớp bê tông đanh khô, để lại trong anh ảo giác cô luôn hiện diện.

Anh bắt đầu lùng tìm trong đám đông hình bóng cô gái. Thật điên rồ là anh đã không hỏi số điện thoại. Ngay cả tên cô ta anh cũng chẳng biết. Không manh mối. Mọi nỗ lực hoàn toàn vô ích. Vài lần anh tức giận vô cớ khiến các nhân viên trong văn phòng nhìn anh hoảng sợ. Có một hôm, anh đi bộ ngang trạm xe buýt vào giờ cao điểm. Một mái tóc buông thẳng sượt qua mắt anh, rồi tức khắc biến mất. Anh sục vào các con hẻm khuất nẻo, mấy quán cà phê, những ngóc ngách tối. Chẳng có tăm tích. Len lỏi qua đám đông, anh ghé cửa hàng nội thất. Chiếc sô-pha vẫn gửi chỗ cũ. Trong gần hai tháng, các tìm kiếm đều vô vọng đến mức anh tự nhủ cô ta cố ý lẩn trốn. Anh chỉ hy vọng cô ta chưa quên anh, ngay cả khi người chồng chưa cưới đã trở về, cùng sửa soạn cho căn hộ của họ.

Sau chuyến lên Đà Lạt một tuần theo dõi tình hình xây dựng khu resort mới, anh quay về thành phố, hết sạch mong đợi. Bên trong anh có gì đó đổ sụp. Một chiều mưa nặng và lâu, anh rời văn phòng khá muộn, với một cái ô. Gió thốc mạnh. Anh rảo bước càng lúc càng nhanh, đi thẳng vào màn nước trắng xóa. Khi anh vội vã mở cửa xe, một ai đó chạm nhẹ vào anh từ phía sau. Một bóng ma trùm áo mưa gầy guộc, gò má với những hốc tối, mái tóc ngắn xác xơ hiện rõ khi cái mũ trùm đột ngột lật về phía sau. Mất một lúc im sững, anh mới nhận ra cô gái anh đã chờ đợi, kiếm tìm suốt mấy tháng qua.

Cô ngồi im băng ghế sau, hai bàn tay trắng mờ buông trên đầu gối. Anh lùi xe, chạy thẳng ra đường lớn. Những lời nói co lại trong khoang miệng. Thi thoảng, qua gương chiếu hậu, anh quan sát nhanh. Cô xanh xao khủng khiếp. Thật không thể tin nổi đây chính là cô gái tự tin, thành thật và tràn đầy hy vọng anh từng biết. Như thể giữa khoảng thời gian vắng mặt kia, con người cô đã tan biến.

Anh cho xe len lỏi giữa dòng xe đông đặc. Tòa cao ốc bất thần hiện ngay trước mặt. Cho xe xuống tầng hầm, rồi anh cùng cô ta bước vào thang máy bằng kính trong suốt. Một vài người đi cùng tò mò nhìn họ. Cô gái lơ đãng ngó ra khoảng không bên ngoài. Một cái nhìn trống rỗng. Quai hàm cô căng lên. “Em uống chút gì nóng?”. Cô ta gật đầu. Họ vào nhà hàng ở tầng tám. Anh nhận ra cô gái rất đói. Cô ăn chậm, uống chậm, nhưng không bỏ thừa chút nào. Dù gắng sức, ngón tay cô thảng hoặc vẫn run bần bật.

- Chuyện gì xảy ra vậy? - anh hỏi thẳng.

- Em ốm. Mới tỉnh dậy mấy hôm nay. Em nằm im. Nhưng em nghĩ gặp ai đó thì hơn...

Cô gái nói nhát gừng. Giọng nói khó nhọc, vang lên xa lạ. Gương mặt lơ đãng thất thần.

- Bây giờ em muốn đi đâu? - anh hỏi khi một lần nữa họ bước vào thang máy.

- Một nơi nào đó có thể nằm im!

Ba tầng trên cùng của tòa nhà thuộc về một hệ thống khách sạn. Anh bấm nút đi lên. Hai người trong cái khoang đầy ứ ánh sáng. Cô gái trắng bệch, đứng chệnh choạng. Chưa bao giờ anh sợ hãi và lo lắng cho một người khác như thế. Một kẻ nào đó đang quan sát chuyển động vùn vụt đi lên của chiếc lồng kính hẳn cũng nhìn thấy họ, nếu sử dụng một chiếc ống nhòm điều chỉnh bằng tia hồng ngoại.

***

5.Anh đăng ký phòng đôi. “Ông có muốn view đẹp không?”. Thật kỳ dị. Trong trường hợp khốn đốn, người ta vẫn phải quan tâm các chi tiết vặt vãnh tầm thường. “Không!” - anh đáp. Nhân viên khách sạn xem qua giấy tờ của anh, liếc nhìn người đi cùng bằng đôi mắt nghi hoặc. “Cô ấy đang ốm”. Anh giải thích ngắn gọn, cầm chìa khóa và đi về căn phòng khuất sau khúc quanh hành lang.

Cô ngã vật xuống sàn gỗ khi anh mở những tấm rèm cửa sổ. Tiếng ngã vang lên rõ mồn một trong bầu không khí tĩnh lặng tù đọng của căn phòng. Anh đặt cô nằm lên giường, đắp chăn. Cô đang sốt, nóng rực. Lấy viên thuốc hạ sốt mang theo trong ví, anh đưa cho cô ta cùng một cốc nước. Mỉm cười nhợt nhạt với anh rồi cô nhắm nghiền mắt, ngủ thiếp đi. Ngồi bên bức tường kính, anh nhìn sang cao ốc tối om bên kia cho đến khi mắt đờ dại. Rồi anh đọc mấy quyển tạp chí có sẵn, mở tủ quầy bar lấy một ít brandy. Đọc hết báo, anh vào phòng tắm, ngâm người trong nước nóng. Khi mở choàng mắt, anh nhận thấy trong tấm gương lớn mờ hơi ẩm, phản chiếu hình ảnh một con người với những hành động thản nhiên, vô cảm tuyệt đối. Anh không nghĩ đó là anh.

Anh ngả lưng trên chiếc ghế dài cạnh cửa sổ. Cô gái vẫn ngủ. Ngoài kia, mưa rơi không âm thanh. Không gian mênh mông đen. Trên cái nền ấy, tiếng thở của anh và cô gái vang lên, thoạt tiên chỉ là vài vệt mờ. Dần dần, chúng biến hình, hóa thành những thân cây thẫm xanh xuyên qua mặt đất, vươn cao lên thành vô số nhánh lá dài mảnh. Khi chạm tới độ cao nhất định, các đỉnh lá quấn vào nhau, rồi tan vào bầu không khí vô hình. Chỉ là ảo giác mọc ra từ mấy cốc brandy, thế nhưng nó khiến anh xúc động ghê sợ. Anh trở dậy, mở đèn, đi về phía giường, đứng im nhìn cô gái ngủ.

Bao nhiêu thời gian, bao nhiêu ký ức đã trôi qua khi ngắm nhìn gương mặt với những hốc tối buồn thảm kia, anh không biết. Anh đưa tay, chạm nhẹ vào cô. Cô gái mở mắt. Đôi mắt đầy bóng tối.

- Căn hộ của em đã xong chưa? - anh hỏi thẳng vào điều muốn biết.

- Em không bao giờ có nó nữa! - cô đáp, nhìn anh trừng trừng.

- Chuyện gì xảy ra? - anh kinh hoàng.

- Chồng sắp cưới của em đã mất, trong một tai nạn ở Pháp. Cách đây một tháng.

- Không thể ngờ được. Anh xin lỗi...

- Em cũng không thể ngờ được. Em đã phát điên... Rồi ốm...

- Thật đau khổ!

- Nhưng rồi cũng phải chấp nhận. Những gì quá tốt đẹp để thành sự thật không phải là sự thật.

- Em định ra sao, sắp tới?

- Em sẽ sống tiếp. Sẽ đi làm. Tìm một dự án nào đó để theo. Sẽ cố gắng...

Anh chết lặng nhìn cô. Những bí mật của cuộc đời mà anh không bao giờ lường nổi. Những nỗi khốn khổ giấu kín. Những người tốt lành, gắng gỏi xây dựng cuộc sống theo mơ ước tốt lành, rồi chỉ cần trò đùa không thể lường trước của số phận, tất cả bỗng chốc bị phá sụp. Những kẻ bị ném trả lại cho chính mình. Không gì bám víu...

Thật kỳ dị, dường như không phải cô, mà chính anh đang phải gánh chịu sự thật khiếp đảm ấy. Các sợi cơ trong ngực anh co thắt, đau đớn. Các khớp nối ở tay và chân anh tê dại. Vẫn nằm im, trắng bệch như cây nến, cô đặt một cánh tay lên lưng anh: “Không sao đâu anh. Mọi thứ rồi sẽ qua...”.

Họ nằm sát vào nhau. Làn da mỏng như giấy lụa bám vào các dẻ xương mỏng mảnh thở phập phồng yếu ớt dưới ngón tay anh. Mùi mưa tuyệt vọng vẫn ám trong mái tóc ngắn xơ xác. Sượt nhẹ qua má anh, đôi tai cô lạnh như đá. Ôm cô chặt hơn, anh áp môi lên vầng trán rộng xanh biếc.

Bằng chính mình, anh thiết tha đổ đầy các hốc tối trống rỗng bao quanh cô. Cô im lặng. Hơi thở của họ di chuyển, tựa hàng ngàn nhánh lá dày ken của rừng mưa nhiệt đới đang vùn vụt mọc lên trên các bức tường. Cô cựa nhẹ. Anh biết anh là một người khác. Là người đàn ông đã mất, nhưng còn đầy ắp tiếc nuối, xót thương người vợ ở lại. Là chính anh, cô độc, tìm thấy một người có thể khóc chung mà chẳng ngượng ngùng...

Anh vẫn giữ chặt cô trong tay. Cả hai rơi xuống, rơi xuống mãi, không thể đưa tay đỡ lấy chính mình. Khoảnh khắc ấy ập đến. Lớp vỏ cứng bọc quanh họ đột nhiên vỡ vụn. Anh chạm nhẹ vào mặt cô. Cô vẫn câm lặng, chỉ có những hạt nước ảm đạm bò ra khỏi hốc mắt.

***

Khi anh tỉnh dậy, ngoài ô kính trời sáng trắng. Yên tĩnh. Cô gái đã đi. Anh đứng bên cửa sổ, nhìn ra khoảng trời xanh lơ không một gợn mây. Anh đứng mãi cho đến khi ngoài cửa có tiếng gõ nhẹ của người dọn phòng. Ở quầy tiếp tân, nữ nhân viên trả giấy tờ cho anh, cho biết tiền phòng đã thanh toán. “Cô ấy có để lại lời nhắn không?” - anh hỏi khó nhọc. “Không có gì cả, thưa ông”.

Anh lái xe đến thẳng văn phòng. Điện thoại rung nhẹ. Tiếng Hoan vọng đến, vui tươi. Cô hỏi khi nào họ có thể trở lại cuộc sống bình thường, như cũ. Hoan dự đoán thời gian anh muốn ở một mình đã hết. Và sự thật là cô rất nhớ anh. “Tùy em!” - anh đáp.

Từ bãi để xe, anh lại đi bộ qua các dãy phố. Tiếng chân dồn đuổi. Một gã da nâu đi vượt lên, bằng thứ tiếng Anh nặng giọng Pháp hỏi anh đường đến hồ bơi. Chỉ dẫn qua loa cho gã xong, anh bước tiếp.

Có một lúc, anh ngỡ như một người nào đó đang lẳng lặng đi phía sau. Anh ngoảnh nhìn. Đường phố đầy ắp. Nhưng không ai cả.

"Tháng năm nóng

Mồ hôi thoát ra từ những kẽ tay và lòng bàn tay. Mồ hôi hạt đọng trên nhân trung và sống mũi. Mồ hôi nóng loáng hầm hập trên ngực. Khi đôi bầu ngực căng lên vì khoái cảm, từ mồ hôi sẽ nồng nàn mùi hương cơ thể.

Tôi cầm lấy bàn tay nuột nà đầy mồ hôi tháng năm trong nghi thức trao nhẫn cưới. Vị linh mục với bộ áo lễ màu đỏ. Màu áo đỏ rực gợi cảm giác nóng nảy và bực mình. Nếu bây giờ mang màu áo đỏ ấy đi ra cánh đồng, vị linh mục này sẽ bị đàn bò đói cỏ đuổi chạy đến chết. Lũ bò không ưa màu đỏ gắt. Đến loại người có chút máu điên như tôi cũng thế. Màu đỏ luôn gợi lên cái chết, máu me, sự choáng váng cuồng nhiệt, tính nóng nảy và ít nhiều chất sử thi thêu dệt mê muội. Nó thiếu sự mềm mại và thăng hoa cần có trong một lễ cưới.

Bấy giờ đang là lễ cưới. Chú rể là tôi. Cô dâu là người mà ngày mai tôi gọi là vợ. Đến đoạn tôi cầm lấy bàn tay đầy mồ hôi được bọc bởi một thứ bao tay lưới ren trắng. Chất liệu ấy làm cho tôi bực mình vì những ngón tay không đan vào nhau bằng xác thịt thực sự mà bằng sự bao bọc. Một cảm giác vụng vịu gián tiếp, thiếu hơi thở và xúc cảm tự nhiên.

Nơi này là nhà thờ.

Nàng nói:

- Nhẹ thôi anh, đau em!

Đến giai đoạn quan trọng của nghi lễ. Tôi muốn tuột cái bao tay lưới ren trắng ấy ra và lột bộ váy cô dâu dài ba mét để thấy da thịt nàng nồng nàn và thơm tho đến chừng nào. Thế mà cách đây ba ngày, lúc đi thuê đồ cưới ở shop, tôi khuyên nàng nên chọn bộ váy lùng nhùng dài ba mét quý phái quá mức này. Nó có tôn thêm chút đỉnh sắc vóc nàng. Nhưng nó hạn chế sự gợi cảm, hạ thấp sức hấp dẫn của những đường cong trên cơ thể nàng. Cũng may, vớt vát lại là bộ váy cưới này có cổ khoét sâu xuống nửa ngực cô dâu, bày biện chút phập phồng trắng mịn, tạo sức hút cho những cái nhìn.

- Ừ, thế này cho gợi cảm. Với lại bây giờ là tháng năm, trời nóng, hở ngực một chút cũng chẳng sao...

Nàng tỏ ra là một người vợ biết lắng nghe, nhưng vẫn hỏi lại:

- Thế còn cái đuôi váy quá dài, ai sẽ giúp em khi bước đi, để không quét rác ngoài đường vào nhà thờ?

Một câu hỏi thông minh khiến tôi phải suy nghĩ lại. Rồi tôi bảo, cũng chẳng đến nỗi phải lo lắng. Bây giờ là tháng năm. Trời nóng. Đường sá khô và nhiều bụi. Cái tiện nhất là váy không lấm sình lầy như tháng tám mưa giông. Anh sẽ là người ôm đuôi váy cho em. Và tôi hình dung đến đoạn mình trong bộ veston trắng đuôi tôm, mang giày trắng có mũi dài cong về phía trước, điệu như diễn viên Hàn Quốc, với khuôn mặt ngập tràn hạnh phúc dang rộng vòng tay ôm một... cuộn đuôi váy, bám theo một đám mây mà nàng là người định hướng bay. Chúng tôi cùng lướt trên đám mây trắng tinh, bay đến ngôi giáo đường có vị linh mục mặc áo đỏ luôn ôm khư khư cuốn thánh kinh được đánh dấu sẵn ở trang tiệc cưới Cana. Buổi tiệc cưới duy nhất trong kinh thánh Tân Ước, nơi mà đến cả Chúa cũng hóa nước ra rượu cho người đời uống no say. Tiệc cưới của tôi không phải Cana. Nó trong phạm vi truyền thống cho phép. Và trong phạm vi truyền thống, chú rể hoàn toàn có thể ôm đuôi váy và đi sau cô dâu để bắt đầu một cuộc sống hôn nhân nhất vợ nhì trời.

Tháng năm. Những tên tình địch của tôi trong thành phố này sẽ có những cuộc say vật vã. Chúng sẽ bứt tóc quăng lên trời. Tóc chúng sẽ bay thành những đám mây đen luôn dọa nạt những cơn mưa cổ điển kiểu Thủy Tinh. Nhưng tôi không việc gì phải làm Sơn Tinh và nàng cũng chẳng phải Mỵ Nương. Những ảo tưởng thêu dệt chết người ấy đang làm cho những trận lụt lội được giải quyết không bằng nỗ lực thực sự mà có phần đổ vấy cho các huyền thoại. Dù sao bọn người tình nghệ sĩ của nàng sẽ choáng ngợp khi thấy chúng tôi lượn qua sân nhà thờ trong tư thế cô dâu thì bay, đầu rúc ra khỏi đám mây, đôi bờ ngực trắng hồng phập phồng phơi mở và mái tóc buông dài, trong khi chú rể thì rất khúm núm ôm cái đuôi trắng xóa bay theo sau một cách đầy tự nguyện và vất vả.

- Nhớ trả váy lúc sáu giờ chiều để còn lên chương trình đám cưới khác nghe!

Bà chủ tiệm cho thuê đồ cưới giao kèo. Tôi chẳng biết nhiều về thủ thuật kinh doanh. Nhưng tôi ghét kiểu dặn dò thiếu tế nhị này. Nó không cho thấy giá trị của bộ váy nhiều người chọn mà chỉ tạo cảm giác đây là một bộ đồ công nghệ cưới được các cô dâu đứng xếp hàng thay phiên nhau cởi ra mặc vào liên tục. Nghĩ đến điều đó là đã thấy tệ hại. Tháng năm nóng bỏng thế này, cứ tính trung bình mỗi ngày có bốn cái đám cưới đến đây thuê đồ và có đến ba chú rể thích chiếc váy này thì có nghĩa là sẽ có ba cô dâu choàng nó vào mình hớn hở vào ra. Mùa nóng, hơi cơ thể của họ sẽ lưu cữu trong chiếc váy và trộn vào nhau. Cũng phải hiểu cho rằng, chủ tiệm thuê đồ chỉ biết sắp lịch chứ làm sao có thể đủ thì giờ để giặt lại hay xịt nước hoa cho nó. Đây lại là loại váy ren lưới đâu thể quẳng vào máy giặt bấm nút ột ột ột là xong!

Thế nghĩa là người vợ tương lai trinh trắng của tôi sẽ mặc bộ váy có quá nhiều người mặc. Và mùi cơ thể nàng sẽ trộn chung với mùi cơ thể của bao cô dâu khác. Nếu tôi ôm đuôi váy, chắc chắn sẽ không thể nào nhắm mắt lắng nghe trong gió thoảng hồi chuông giáo đường và hít thật sâu mùi hương mát lạnh thơm tho cỏ non trên cơ thể nàng. Nói cách khác, mùi hương ấy đã hỗn tạp cùng mùi của các cô dâu trước đó, thậm chí, của các chú rể khác (cũng ôm đuôi váy như tôi). Và sau đó, những tên chú rể khác đi thử váy cũng cầm lấy đuôi váy mà  bảo vợ tương lai mình: Tháng năm nóng, anh thích bộ váy này vì nó khoét ngực, vì nó có đuôi dài...

Nghĩ thế thôi, tôi đã có thể đau đớn tột cùng. Dù sao thì không có chọn lựa nào khác. Đây là chiếc váy đẹp nhất, đắt tiền nhất của tiệm váy cưới lớn nhất thành phố. Tôi trả cho bà chủ tiệm số tiền thuê váy và bảo rằng sẽ đến trả váy vào lúc sáu giờ chiều, khi lễ cưới ở nhà thờ kết thúc.

Bây giờ quay lại đoạn tôi cầm tay nàng.

Tôi lấy chiếc nhẫn cưới và cho vào ngón tay đeo nhẫn. Ánh mắt nàng long lanh như sắp khóc. Em hãy mang chiếc nhẫn này để làm bằng chứng tình yêu và lòng chung thủy của anh. Nói đến đó tôi bỗng sặc sụa ho khi phát hiện ra một con gián từ cầu thang nhà thờ tiến đến gần và gọn lẹ rúc vào váy nàngå. Từ đó đến cuối buổi lễ, tôi không sao tập trung được. Thậm chí ngay cả khi nàng đáp lễ bằng cách trao nhẫn vào tay tôi và đọc một câu tương tự: Anh hãy mang chiếc nhẫn này tượng trưng cho lòng chung thủy và tình yêu của em, để làm bằng chứng tình yêu...

Vị linh mục áo đỏ không cho chúng tôi xáp lại hôn nhau hay đơn giản là xử lý tình huống phát sinh (bắt gián) trong nhà thờ tôn nghiêm như những lễ cưới trong phim Hàn Quốc. Nghĩa là đầu óc tôi lúc bấy giờ đang hình dung về lộ trình của con gián trời đánh. Nó có thể chạy vào những nơi kín nhất của nàng và gây ra hậu quả khôn lường.

May thay, thực tế đã đẩy những hình dung ấy đến nơi xa vời. Nàng là người nhạy cảm, nhất là với sự nhột nhạt mà một con gián gây ra. Tôi chú ý đến sắc mặt hơi tái đi và nỗ lực trấn tĩnh đầy thông minh cần thiết của nàng. Cô có yêu và tự nguyện nhận anh ấy làm chồng hay không? Dạ... con... có. Nàng nói khẽ và hơi rùng mình vì con gián bấy giờ có lẽ đã rúc vào đùi nàng. Nhưng với nghi thức dài dòng, khuôn sáo, vị linh mục tiếp tục xoay về hướng tôi: Con có nhận cô ấy làm vợ vì tình yêu hay không? - Thưa, có! - tôi đáp gọn. Tôi nói nhanh để giải quyết tình trạng tâm lý hiện tại. Rồi trong một tình huống khá ngặt nghèo, tôi hơi nâng váy nàng lên, cả hai cùng lùi về chỗ ngồi trang trọng thêu đầy hoa dành cho đôi uyên ương. Tôi bất giác thấy nàng dùng ngón tay vừa đeo nhẫn bóp chặt vào đầu gối mình và tay kia thì rãy một phát thật lực, sau đó, bóp mạnh một cái vào phần váy ở đùi. Dứt khoát và chính xác. Một mùi hôi xộc lên từ đám mây váy. Tôi biết, con gián đã hy sinh.

Tôi nhìn sang, mỉm cười và thán phục sự quyết liệt của nàng trong những tình huống chẳng lấy gì làm dễ chịu. Nhưng nàng nắm chặt tay tôi, khá tự đắc, ánh mắt nàng như muốn truyền cho tôi thông điệp: Em đã xử hắn khá lẹ. Anh yên tâm...

Tháng năm. Một con gián hy sinh trong bộ váy cưới đầy mùi hương cỏ non của nàng. Và bộ váy được trả vào lúc sáu giờ. Ngay tức thì sau lễ cưới ở nhà thờ. Nàng trở về với bộ jean bụi bặm và gợi cảm. Chúng tôi chở nhau lướt qua thành phố. Để mặc cho hai họ còn xúm xít chụp hình và chào hỏi nhau trước sân nhà thờ cho đến tối. Vị linh mục áo đỏ cũng đã thay bộ đồ đen có cổ cồn trắng thường ngày.

Đêm đầy sao và đứng gió. Chúng tôi nằm trên sân thượng nhìn những cửa sổ thành phố lên đèn. Những ngày qua là một giấc mơ! - nàng nói. Tôi bảo, giấc mơ ấy hôi mùi gián chết! - tôi đáp. Không còn thơm mùi cơ thể em sao? Từ khi em giết chết con gián trong nhà thờ, anh đi đâu cũng thấy mùi gián chết! Nhưng anh phải hiểu tình huống bắt buộc em phải xử nó. Anh hiểu. Nhưng đó là cảm giác của anh thôi...

Và đời sống hôn nhân của chúng tôi bắt đầu từ những ngày tháng năm hôi mùi gián chết. Những ngày trời nóng bức mà thiên hạ ai cũng muốn tỏ thái độ phản kháng trước thời tiết bằng cách phô bày và cởi mở mình hết cỡ. Những cô gái mặc váy ngắn hơn và những cánh tay rám nắng của họ luôn làm cho nhiều kẻ độc thân giai đoạn cuối như tôi thèm muốn. Nhưng tháng năm cũng ồn ào và đầy phô trương. Nó trôi với tiết tấu nhanh hơn bình thường. Đêm tân hôn trên sân thượng chung cư, tôi chậm chạp thưởng thức tất cả mồ hôi trên cơ thể nàng ẩm ướt. Hơi thở tháng năm mềm mại và nóng bỏng, không còn mùi gián hay một mùi hỗn tạp tỏa ra từ chiếc áo cưới.

- Nhẹ thôi anh... Đau em!.

Tôi nhẹ nhàng lặn vào tháng năm nóng bỏng và trơn trượt trên nóc thành phố. Bên dưới là con hẻm cong chằng chịt dây điện. Thi thoảng vọng lên tiếng một gã say chửi tục hay tiếng gõ lóc xóc từ gánh mì dạo của mấy em sinh viên nhập cư. Cuối hẻm, những người đàn bà ngồi vắt những cặp giò nhẫy mỡ lên ghế. Những bộ áo tay cánh phô ra các bắp thịt mạnh mẽ phồn thực và chật chội. Tiếng quạt giấy phành phạch. Những người đàn ông đánh trần mặc quần xà lỏn đi đi lại lại khoe những vết xăm trên ngực, trên cánh tay cuồn cuộn gân bắp. Những con người đi qua tháng năm huy hoàng lẫn chìm lặng. Những tháng năm rạo rực lẫn buồn tủi. Tất cả đang hiện lên bình yên trong một con hẻm vắng được nhìn từ chiều cao của sân thượng nhà hai tầng. Thanh âm xen lẫn trong tiếng cót két của chiếc giường khi chúng tôi nằm chồng lên nhau và chuyển động chậm chạp trộn trăng vào sao.

Ba tôi lo lắng cho đêm tân hôn. Ông ra ra vào vào, bảo rằng không nên ngủ với nhau đêm đầu tiên giữa trời như thế. Chẳng ai làm chuyện đó như thế mà coi được. Phòng tân hôn gắn máy lạnh, có gối mộng gối hoa thêu loại xịn. Chỉ tội trên trần hơi nhiều gián. Nên vào phòng, bật điện sáng lên mà tận hưởng những khoảnh khắc ngọt ngào và ngắn ngủi của đêm nay. Nhưng tôi bảo, đó là căn phòng nhiều gián. Chưa hết, tôi không muốn ai kiểm soát trinh tiết của vợ tôi. Chỉ có tôi đủ quyền hạn và chịu trách nhiệm về việc đó. Tôi nghĩ thế nhưng lại lấy lý do: thời bố mẹ, đêm tân hôn cũng diễn ra ở đó, anh Hai, anh Ba, thằng Út đều tiến hành tân hôn trong căn phòng máy lạnh nhiều gián ấy. Tại sao lại phải nhất thiết chỉ chọn một địa điểm như thế. Tôi không muốn vợ chồng tôi lên giường với những ám ảnh quá khứ kiểu như:

Trước đây bố mẹ đã tân hôn ở đây với đôi bao gối được bọc bằng vải bao bố thời bao cấp: chúng ta phải sống sao cho vật chất không đè lên tình cảm...

Hay kiểu như anh Hai cũng tân hôn và bạt tai chị dâu ngay trong phòng tân hôn khi phát hiện chị không còn trinh: chúng ta phải sống sao cho thuận hòa để những rủi ro quá khứ của hai người không can thiệp vào tương lai...

Rồi anh Ba từng ngất xỉu và nửa đêm bác sĩ phải phá cửa vào phòng dùng kim chích vào huyệt đan điền giữa lúc vợ chồng anh trần truồng gắn chặt vào nhau: chúng ta phải biết tiết dục, hôn nhân đâu chỉ có xác thịt mà còn tâm hồn...

Cũng không thể chấp nhận được cái ám ảnh về đêm tân hôn như thằng Út: làm vấy thuốc đỏ đầy chăn nệm khiến mẹ phải vất vả ngâm thuốc tẩy và bột Omo suốt mấy ngày trời.

Tháng năm trời nóng, con muốn tân hôn trên sân thượng. Không cần phòng. Bọn con sẽ làm mọi cách để có một tân hôn ngọt ngào. Ba tôi gí mẩu tàn thuốc vào chậu cây hình chữ thọ. Ông bảo, chúng mày muốn làm gì thì làm. Nhưng nhớ rằng là trên đó gió máy, với phụ nữ, đêm tân hôn là một ký ức quan trọng suốt đời họ luôn nhớ. Tôi bảo, con biết.

Và tôi nhớ đến khuôn mặt đau đớn ê chề của chị dâu Hai trong đêm tân hôn năm ấy. Vào mùa hạ. Nhưng không phải tháng năm. Mẹ tôi đóng cửa phòng bước ra vài bước thì đã nghe tiếng bạt tai và tiếng thét cất lên từ bên trong. Ba tôi rít một hơi thuốc dài và phả khói lên trời. Đêm mùa hè bức bối. Tiếng chị dâu Hai khóc ấm ức bên trong. Anh Hai tôi đạp cửa bước ra ngoài và đấm ầm ầm vào vách. Rồi lại quay đi. Những thanh âm vội vàng, tiếng thở tức cùng với tiếng nấc nghẹn và tiếng rên tức tưởi cứ nối dài đến hết đêm.

Anh Hai mới ly dị vợ. Anh bảo, không thể chấp nhận được chuyện đó. Chuyện đó là chuyện gì, chẳng ai biết. Mười năm vợ chồng sống chung không sinh con. Ngày ra tòa, chị dâu Hai nói với mẹ tôi: Bác sĩ bảo anh ấy bị loãng tinh. Anh ấy cũng bảo ngày trước, thời bỏ nhà đi đào đãi vàng đã ngủ chung với nhiều đàn bà làm đĩ. Mẹ tôi khóc rồi quấn lấy cô con dâu mà nói: "Nó cũng mang con về từ bãi vàng...". "Anh ấy bảo con mất trinh nên mỗi lần sinh hoạt vợ chồng lại vục đầu vào ngực con mà xỉ vả. Con không chịu được..." - chị dâu Hai gục vào vai mẹ tôi mà than khóc. Mẹ tôi cũng nấc lên. Không giọt nước mắt nào.

Thế rồi chị dâu Hai trở ngược lên vùng mỏ vàng tìm lại đời sống cũ như một cơn tự đọa đày. Anh Hai trở về đập đầu vào vách phòng tân hôn, tóe máu. Bầy gián chạy tán loạn đầy trần nhà. Lũ gián cánh bay loạn khắp phòng rồi đuổi nhau tán loạn trên vách. Anh ngủ trong căn phòng đó. Trở lại thời độc thân, tự giải quyết vấn đề sinh lý mỗi đêm. Điều đó chỉ mẹ tôi biết. Bà cắm mặt xuống thau bột giặt phập phồng sủi bọt, dùng bàn chải và xà bông giặt chăn nệm hằng ngày. Bà bị xà bông ăn tay, loét đỏ. Nhưng vẫn phải đi giặt chăn nệm cho anh Hai. Điều tồi tệ ấy kéo dài cho đến ngày anh Ba lấy vợ.

Vợ anh Ba khỏe mạnh. Ba tôi bảo ở phố có làm ruộng hay bán thịt heo đâu mà lấy con vợ phốp pháp như thế. Nhưng anh Ba bảo, cốt là anh thấy hạnh phúc. Anh Hai bỏ phòng  ra ngoài hiên mắc võng ngủ sau một đám cưới no say. Nửa đêm, chị dâu Ba la thất thanh: "Ba mẹ ơi, chồng con yếu lắm... Con sợ quá!". Ba tôi gọi điện ngay cho bác sĩ. Ba bảo, trước đám cưới tụi nó đã đi trăng mật với nhau lai rai vài chuyến. Đã vậy còn bày ra đêm tân hôn làm gì. Nó không biết lượng sức. Thằng này đoản thọ. Cứ nhìn mặt nó tái xanh như đít nhái, tay chân lạnh ngắt thì biết. Mẹ tôi ngồi nói với bác sĩ: "Bác có thuốc gì cho nó qua khỏi mùa đông này không?". "Nói ảnh ăn uống điều độ và sinh hoạt tình dục ít lại. Mới hai tám tuổi đã để xảy ra tình trạng này thì khá nguy hiểm. Ảnh có vấn đề huyết áp, tim mạch..." - bác sĩ phán, rồi đi. Không để lại bí kíp gì ngoài mấy viên thuốc bổ và căn dặn về đời sống tình dục cần khởi động kỹ lưỡng và điều độ.

Trong đêm xảy ra sự cố tân hôn, anh Ba tỉnh dậy và từ đó về sau, miệng hơi méo. Chị dâu Ba bảo, miệng anh thường hay méo khi làm chuyện ấy, nhất là lúc cao trào. Từ khi bị sự cố đêm tân hôn, đến giờ ngay cả khi không làm chuyện ấy miệng cũng méo. Có lẽ dây thần kinh miệng đang có vấn đề. Cần phải đi vật lý trị liệu một thời gian. Dù sao, cuộc sống của anh chị Ba là một cuộc sống ấm áp hạnh phúc nhưng quá tải. Anh Ba bảo với anh Hai rằng: Tui cứ nhớ lại bà vợ ông mà thương. Chẳng biết bả sống sao rồi. Ông nên đi tìm. Anh Hai bảo: Nó ngủ thêm với cả chục thằng đàn ông nữa rồi. Tìm về lấy trôn hôi làm cối giã gạo à?

Anh Ba lấy vợ xong thì hai tháng sau thằng Út cũng về xin cau trầu đi hỏi vợ. Vợ nó là sinh viên đại học. Vừa cưới vừa học bây giờ là mốt. Chuyện lấy vợ phải liền tay theo kiểu quyết đoán lẫn nông nổi của thế hệ 8X. Để lâu thể nào cũng sinh chuyện. Chuyện dễ xảy ra nhất là ngủ với nhau suốt thế nào cũng có thai. Cách đây hai năm, hằng đêm mẹ tôi phải canh ma cho thằng Út ngủ. Ngày vào đại học nó vẫn còn sợ ma khi đêm về. Nó luôn hình dung có một bàn tay thò ra từ khe cửa sổ, tóm lấy chim của nó mà kéo cho đứt rồi quăng ra đường cho lũ chó ăn khuya đớp rau ráu. Ám ảnh ấy theo nó suốt từ tuổi thơ đến trưởng thành khiến ba tôi bảo, có lẽ kiếp trước nó là một hoạn quan. Nó không quan tâm tới ý kiến hay nghi vấn của người khác. Vấn đề của nó là cứ có người ngồi bên cạnh canh ma thì mới chịu ngủ.

Thế mà bây giờ nó không hề sợ ma. Càng không lo nỗi ám ảnh mất chim nữa. Vì suốt năm hai đại học, nó đã có thể bỏ nhà sang ngủ ở nhà trọ của con bé kia. Cả hai cùng thuê phim về xem. "Bồ em thích xem phim ma pha sex! Em tưởng chỉ con trai thích chuyện đó thôi, ai dè tụi con gái vướng bả tình dục cũng mê tít. Bồ em thích ôm em trong tình trạng hoảng sợ sau khi xem phim ma...". Bố tôi nghe được, bảo: "Con gái bây giờ...". Nó nói: "Con thích thế. Tụi con chịu trách nhiệm về lối sống của mình...". "Rồi mày có lấy con người ta không? Ngủ với nó phải lấy nó nghe con...". "Đúng là nói chuyện với ba mẹ kênh quá. Chúng con biết việc mình làm!". Nó vuốt ngược đầu tóc lờm xờm rồi đeo túi xách đi khỏi nhà.

Nó quyết định cưới. Mẹ tôi bảo nên làm ở nhà hàng. Không, con không muốn cưới truyền thống. Con muốn lên núi trao nhẫn cưới. Là sao? Tụi con dẫn nhau lên núi rồi trao nhẫn khi đang cheo leo vách đá. Thế làm sao bố mẹ lên vách núi được hả con? Bố mẹ cứ đứng bên dưới, mặc đồ bảo hiểm vào nếu sợ trầy xước tay chân. Tụi con sẽ ở trên vách núi làm thủ tục hôn nhân. Nguy hiểm lắm con ơi. Mà con nhà người ta, mình rước về thì cũng phải đàng hoàng. Kẻo tội. Không. Vợ con nó thích thế. Tụi con hợp nhau cái khoản yêu hoang dã và xì-tai mạo hiểm. Vừa giống phim Hollywood vừa đáp ứng xu thế trở về với thiên nhiên. Mày muốn làm gì thì làm bất kể người lớn, tao làm sao nhìn mặt dòng họ hả mày? Bố tôi nổi nóng. Anh Hai lao đến ôm chân bố. Còn thằng Út thì vào phòng đóng cửa cái rầm. Nó bảo: Nhà này có mấy con ma xó...

Thế rồi đám cưới nó. Một đám ở nhà có cau trầu nghi thức cho các cụ. Khá nhẹ nhàng. Một đám lên núi chuẩn bị trước để rước dâu rể hai bên lên vách núi. Hai đứa đeo dây nhợ, móc đai vào người và leo ra vách núi tuột xuống. Đến lưng chừng vách thì máy ảnh thay nhau lia tành tạch bên dưới. Flash chớp nháy tới tấp. Nghi thức cưới đời mới kiểu Hollywood kết hợp hoang dã mang lại cho vợ chồng nó những hưng phấn nhất định. Đối với bọn nó, đó là một sự kiện có một không hai. Đánh dấu cho giai đoạn một cuộc hôn nhân cheo leo và đầy cảm giác mạnh. Chỉ cần một ngày sau, những hình ảnh leo vách đá trao nhẫn đã phát tán trên các blog một cách rộng rãi.

Con dâu út về nhà trong tình trạng đi xiểng niểng. Mẹ tôi bảo, chơi cho lắm. Thằng Út gằn gừ: Đám cưới nào chả mệt! Nó kéo cửa phòng. Một lát sau lại thấy chạy ra tiệm thuốc tây mua một túi thuốc đỏ loại đậm mang về. Con vợ nó la oai oái. Con gái nhà ai mà đêm tân hôn lại la nát cả nhà chồng. Anh Hai bảo, nó la theo kiểu mấy xen mạo hiểm phim Hollywood. Nhưng anh Ba lại bảo: Không. Nó Oh yeah... oh oh... oh... yeah... theo kiểu phim sex bên Tây đó...

Đêm trong. Và đầy trăng sao. Ba mẹ tôi lên sân thượng lặng lẽ nhìn ra bầu trời. Những đợt gió trái mùa làm ba khục khặc ho. Mẹ tôi bảo, vậy là xong. Bốn thằng con trai, tứ quý của ông đều trưởng thành, có nơi có chốn, tôi với ông lui về đâu đó sống cho yên, chết cho yên. Ba tôi không nói không rằng, khóc không khóc mà cứ khục khặc ho cứ như thể có gì đó cứ tức lên trong cổ họng.

Trưa hôm sau, thằng Út làm mọi người một phen hú vía. Nó lôi từ trong phòng ra một đống chăn nệm trắng bết màu đỏ. Mặt vợ chồng nó tái xanh, đi liêu xiêu. Mẹ tôi ngất. Sau khi xức dầu, tỉnh lại, bà phải đối diện với một công việc quá ư nặng nề: giặt hết đống chăn nệm bết đầy thuốc đỏ. Thằng Út nói, tân hôn ai lại dùng chăn nệm trắng. Thời buổi này muốn đỏ cỡ nào chả được.

Em dâu út tôi không như chị dâu Hai, biết nấu nướng và chăm lo nhà cửa. Nó chỉ biết vào ra cho đẹp nhà. Dù sao từ khi nó về, không khí gia đình cũng vui vẻ trẻ trung hẳn. Đêm tới, tụi nó lục đục, ba mẹ tôi cũng có cớ mà hy vọng sớm có cháu bồng bế cho đỡ buồn. Người già chỉ mong có thế. Nhưng thằng Út gằn gừ bảo: Chưa đâu. Sinh gì sớm. Khi nào xài hết một ký bao cao su trên đầu nằm thì mới sinh con. Đừng ai lộn xộn mà can thiệp vào chuyện đẻ đái của người khác!

Rồi nó xin đi. Nó bảo phải đi thuê phòng ở riêng. Vợ chồng muốn làm gì cũng được. Chứ ở chung, mấy ông anh nhòm ngó. Nó không muốn vợ mình trở thành mục tiêu cho các ông anh quan sát và các bà chị dâu dè bỉu.

Căn phòng tân hôn trở thành nơi ba mẹ tôi ngủ chung một thời gian cho đến khi tôi lấy vợ. Bầy gián sinh sôi và chạy lột sột trong kẽ tường ngày càng nhiều. Vài hôm quét phòng một lần thì thấy toàn những hạt cứt gián đen vương vãi đầy nền đất. Mẹ tôi bảo, thằn lằn hay mèo cũng bất lực. Mà dùng thuốc xịt thì độc hại. Gián chưa chết thì người đã ngỏm trước. Ba tôi nghĩ ra cách chế tạo một cái quạt giết gián. Nhưng cái quạt này chỉ giết được bầy gián con và mấy con gián mang bọc trứng chứ không tài nào diệt được loại gián cánh bay lè xè như bọ ngựa. Có buổi ba tôi đóng cửa phòng suốt ngày, và tối loạng choạng bước ra với một mảnh giấy trắng gói mười ba xác gián. Một công việc xem ra khá thú vị. Ba tôi lấy việc tiêu diệt bầy gián làm thú tiêu khiển thay vì chăm sóc cho lũ bonsai đang mọc một cách xum xuê vô tội vạ ngoài hiên. Ông chí thú với việc đóng cửa phòng dùng mồi cơm để câu từng con gián rồi đập chết. Mùi gián xông lên nồng nặc. Mỗi lần bước ra khỏi phòng, ba tôi - chiến sĩ diệt gián - kiêu hãnh đưa lên một sợi dây được kết bằng những xác gián chết. Ông cười khà khà man dại. Mẹ tôi bảo, bố mày chẳng nhớ gì ngoài lũ gián. Có lẽ ông ấy sắp lẫn. Còn mỗi mày, nên lấy vợ sớm trước khi bố mày chọn gián làm lẽ sống...

Chúng tôi nằm trên sân thượng, sau một ngày làm tròn nghi thức cưới hỏi đúng như các cụ muốn. Hai họ đều hài lòng. Nhà thờ, nơi có vị linh mục mặc áo đỏ chói và cầm cuốn Thánh Kinh cũ cũng hy vọng vào đôi vợ chồng muộn nhưng son.

Nàng trườn lên người tôi và chiếc giường sắt bắt đầu kêu ót ét, cót két... Anh đã khóa cửa chưa? Cửa nào? Cửa dẫn xuống cầu thang. Khóa ngược lại đi, rủi có ai đi ngắm sao thì thấy hết. Không sao, mọi người đều biết chúng ta tân hôn trên sân thượng. Mọi người đang nằm trong những phòng khác của nhà này để lắng tai nghe âm thanh từ giường của chúng ta. Nàng cười và rúc sâu vào tôi. Gió đêm mùa hạ thổi phóng túng thi thoảng hắt lên một mùi thối từ dòng kênh bên cạnh. Những cửa sổ đêm tháng năm mở toang, sáng lên tầng cao mái thấp nhà phố. Mỗi khung cửa là một thế giới. Chúng tôi thoải mái và bay bổng với chọn lựa không gian này.Vợ tôi nói, cái chính là không có chăn, nệm và chẳng ai kiểm tra được chuyện trinh tiết của em. Tôi ậm ừ. Và trượt sâu vào nàng. Một tiếng thét tưởng chừng như rụng rơi những chùm sao trên bầu trời thành phố. Rồi hơi thở nén lại, dập dồn...

Đêm mùa hạ. Oi nồng và cuồng nhiệt. Tôi thấy thế giới tràn ra những luồng ánh sáng. Một rừng cửa sổ vây quanh, hòa nhịp nhấp nháy với sao trời trên cao. Thi thoảng, chúng tôi lại giật mình vì tiếng cười rúc rích của anh Hai, anh Ba và thằng Út từ tầng dưới vọng lên. Có lẽ bọn họ đang chụm đầu tán gẫu về chủ đề đêm tân hôn của chúng tôi.

Thể nào họ cũng cãi nhau về chuyện vợ tôi còn trinh hay đã "thông suốt", và trong đêm tân hôn, tôi sẽ dựng vợ dậy bao nhiêu lần để làm chuyện ấy. Cũng như tôi từng làm điều đó cùng với mọi người khi nhà có dâu mới. Thi thoảng, bố tôi ho khùng khục rồi lại cười sặc trong căn phòng vách gỗ đầy gián dưới căn phòng mà tôi luôn hình dung lũ gián sinh sôi nhanh chỉ vì thấy và nghe hết mùi vị, thanh âm của con người.

- Em... em...  nghe thấy gì không?

- Từ từ thôi anh... đau em!...

Ráp Việt

Chị Hường chủ nhà nghỉ, một loại nhà nghỉ bình dân bảo Canh đâu rồi sao cái phòng 203 không mở được khóa. Canh đi lên cầu thang cúi cái thân hình to béo bảo vệ nghe hỏi vậy rất nghi hoặc bảo phòng đó hôm chủ nhật có hai người thuê trả tiền trước ba ngày nhưng ngay buổi tối thấy trả phòng hỏi người nữ đâu người nam bảo đi ra rồi. Anh chị có lấy lại tiền không bảo thôi để đấy bo cho mấy anh. Người nam này trẻ hơn người nữ trông như chị em nhưng đeo kính đen to tròng cổ áo khoác dựng lên không rõ mặt lắm. Sao biết trẻ hơn? Dạ nghe giọng thấy chỉ độ hai mươi người nữ cũng không rõ mặt lắm vì lúc ra không thấy lúc vào quàng khăn to nhưng trông dáng đi thì có vẻ già già. Chú chỉ được cái đoán mò đoán mẫm. Dọn phòng rồi chứ gì? Vâng. Nhận phòng thấy tinh tươm không mất thứ gì kiểm tra tủ lạnh tủ quần áo toa lét, kiểm tra ngay mới cho người nam đi, không mất gì. Đã có ai thuê phòng đó chưa? Bốn hôm rồi không có ai thuê. Hôm có tốp học sinh đi trại đưa chìa khóa phòng đó chúng nó nhận lên giữa cầu thang chúng nó lại đổi sang 206 không lấy 203 nữa. Hỏi sao không lấy chúng nó bảo không thích.

Mấy người nữa nhập bọn. Vừa đi vừa lời qua lời lại.

Cũng lạ nhỉ. Phòng nhìn ra chân núi đẹp thế nhiều người thích. Hay có ma mãnh gì nó ám nhỉ. Lúc nãy tra chìa khóa mà không mở được đây này... Cả tốp gồm chủ nhà nghỉ, trực tầng, bảo vệ đêm và thu ngân vừa đi vừa thấy hồi hộp chìa khóa xủng xoảng đi sát vào nhau có người còn nắm tay người bên cạnh. Nhà nghỉ kiểu của những năm chín mươi chưa cũ lắm nhưng không phải loại hiện đại bây giờ. Mỗi người xoay vài vòng mà khóa vẫn không mở ra được. Sau cùng bảo vệ và trực tầng vạm vỡ cùng ô dô ta - lao nào. Cửa gỗ tung ra. Cả mấy người cùng bị gió thốc vào mặt. Gì thế nhỉ? Mùi. Ở cái xứ nhiệt đới gió mùa này không có gì gây ấn tượng bằng các thứ mùi của nông thôn giờ không còn cây cối cống rãnh ngập ngụa của thành phố đất chật người nêm cối suốt ngày bốc mùi đặc trưng của sự bừa bãi hoang dã thậm chí có người vào nhà hát Tây thành phố lớn cũng có mùi tràn vào nhạc giao hưởng cổ điển. Nhưng cái mùi này thì khủng khiếp y như thời chiến tranh đi qua cái làng nào đó bị bom đạn tàn sát mà chưa kịp dọn. Mùi người chết. Nhưng đâu phải ai trong đời cũng một lần bị mùi đó thốc vào mũi. Mọi người nôn nao mặt cùng xanh một lượt. Như bị nước rêu quét vào da. Có ánh sáng tràn vào, căn phòng như có sự chuyển động như có sự đánh thức vì mấy hôm rồi chưa ai mở cửa. Ai đó thét lên: dòi! dòi thật đấy kìa! Những vật thể tròn mum múp bằng đầu đũa màu ngà ngà bò như cách bò của bọn bò sát tỏa ra trên nền đá hoa. Chúng bò từng dãy dài từ trong gầm chiếc giường đôi nhà nghỉ không cao không thấp có những thang giường to tướng chịu được các trận đấu đá thuê giờ. Đàn bà chạy ra hành lang nôn oẹ. Bọn đàn ông gan hơn vẻ có trách nhiệm khoát tay bảo nhau cứ vào xem sao. Rồi thay nhau khiêng hẳn cái giường lên.

Loại giường hộp này lâu lâu người ta mới dựng dát lên quét bụi bên trong. Còn thường thì ít khi lia được chổi vào trong gầm mặc kệ các thứ bụi bẩn các thứ tiện tay ném vào từ vỏ chuối đến bao cao su. Giường khiêng lên và tô hô một... xác chết. Nữ xác chết đặt trên một cái khăn ni lông trải bàn đầu gối lên cái túi da đắt tiền loại túi giá ngàn đô mà các cô nàng tỉnh lẻ có tiền khoác vai đến các quán rượu mở cho dân làm ăn đang học đòi thượng lưu. Đồng quê nhưng vào được giới có tiền buôn đất tiền phần trăm dự án tiền hối lộ thừa sức thượng lưu dù đi ỉa quên giật nước dù ngồi xổm trên ghế thả sức xỉa răng như gõ mõ súc miệng òng ọc. Một trong mấy gã đàn ông nhìn xác chết kịp nghĩ từng ấy điều khi thấy “đồng bào” nằm đó quen mặt nhưng ít giao tiếp vì xưa nay khinh tái nhau... “Đồng bào” này mặt đã lỗ chỗ ruồi bâu dòi đã đục vào hốc mắt đã bò từ tai ra hàng đàn nhưng vẫn nhận ra nàng là Lan Hương cái tên khá thông dụng. Là một trang nhan sắc do có mấy lần lên thành phố lớn dao kéo. Nàng là con gái một thợ cắt tóc vốn cựu binh chiến tranh biên giới. Thợ cắt tóc thuộc thành phần cơ bản công nông trúng ủy viên hội đồng nhân dân huyện từ ù lì chân chất vào chân ủy viên họp hành gặp gỡ ông thợ cắt tóc trở nên ma mãnh. Ông tư vấn cho cánh đàn em nên mở rộng các hoạt động xã hội thu hút tiền đầu tư cụ thể huyện này thời chiến tranh có cây cầu nổi tiếng vì bị Mỹ đánh phá ác liệt lại nổi tiếng vì có một tấm gương bảo vệ cầu. Dù chỉ được liệt vào hàng anh hùng ở địa phương nhưng đang có phong trào học tập gương sáng tiền bối sao ta không mở cuộc thi làm ca dao hò vè rồi đọc diễn ca về anh hùng quê hương? Dự án trình lên. Phong trào phát động. Diễn ca đọc ra rả trên đài huyện đài tỉnh. Thơ cả đống. Các trường học cứ sáng thứ hai trẻ con tập trung dưới cờ nghe đọc các thứ nọ kia. Bọn trẻ đi học sớm đã buồn ngủ lại nghe những chuyện đâu đâu chúng nó vừa ngáp vừa thờ ơ vừa cáu kỉnh. Nhưng tiền thì về. Tiền về. Đó mới là quan trọng. Tiền nhiều thì phần trăm nhiều và các sếp ở huyện nở mặt nở mày. Tiền phần trăm là chính đáng không bị liệt vào tham nhũng. Các sếp cám ơn ông thợ cắt tóc cựu binh đã sáng suốt nâng được tầm chính trị cho quê hương lại dầm tay nặng túi. Trớ trêu thay con gái cưng cựu binh thợ cắt tóc nằm chết trong gầm giường nhà nghỉ dòi đục thủng mắt thủng tai. Mới có mấy ngày mà bọn nó đã ăn ruỗng thân thể giai nhân. Nhan sắc tuyệt trần cũng không kháng cự nổi mấy con bọ...

Gã đàn ông nãy giờ nghĩ ngợi về cái sự “đồng bào” nằm kia về ông thợ cắt tóc ủy viên về con gái cưng Lan Hương của ông. Nàng là một trang anh hùng hiếm có. Nàng lên tỉnh khi túi mỏng lao vào nghề chạy quảng cáo cho một công ty truyền thông. Anh em lả lướt tuốt luốt với các giám đốc các chủ doanh nghiệp bất cần gì dù đó là một lão ngà ngà hoa râm nách bốc mùi vì nốc rượu thịt chó thịt mèo nhưng tiền tỉ xí nghiệp nhà nước gã nắm trong tay. Lan Hương đặt đầu các lão lên đùi mặc váy ngắn một tay vuốt ve phần nhô ra của lão một tay đưa bút cho lão ký. Tám mươi phần trăm phi vụ thành công. Hai mươi phần trăm kia thuộc về các sếp có lương tâm, sếp keo bẩn hoặc sếp có chữ nghĩa. Số không ký nổi này lại ít tiền. Nên nàng đếch cần. Nàng thắng lớn. Tiền quảng cáo của nhà nước rót vào tài khoản riêng trong hơn một năm nàng có vài trăm ngàn đô. Sếp lớn trên tỉnh gà cho nàng lao vào bất động sản. Giàu có hơn bất cứ một sếp nào ở huyện nàng lại còn chạy được cả bằng tiến sĩ. Nhan sắc tiền bạc học vị... đủ cả nhà vài cái đứng tên cho thuê trên tỉnh lãi mẹ đẻ lãi con trên tài cả bố. Nàng chỉ còn thiếu mỗi mùi chính trị xã hội để có thể sánh ngang anh em đứng trên đài vẫy tay đoàn người vô danh cờ hoa diễu hành ngày lễ. Nàng đăng ký kể chuyện anh hùng quê hương... Nàng kể chuyện và đã vào giải nhất.

Nhưng giờ nàng nằm đây. Sao thế nhỉ? Dòi đã đục mặt đã rỗ xác đã trương phềnh... Gã đàn ông nãy giờ nhìn Lan Hương thắc mắc thường ngày vẫn khinh bỉ gọi loại này là “nệm mút” do thấy sức trai thời nay không thể sánh được với tài năng chinh chiến của các nàng thấy loại này như sứa đi khe cửa hẹp cũng qua nên gã cú. Gã vừa ghê sợ vừa hả hê nhìn vô số người đang rầm rập chạy đến bu đầy hành lang nhà nghỉ. Tay thanh tra cảnh sát huyện đang dùng di động gọi về tỉnh. Vụ án rất kỳ lạ anh ạ mời các anh về. Cô Lan Hương đoạt giải nhất kỳ thi kể chuyện anh hùng quê hương nên vụ này càng quan trọng. Tôi nghĩ có thể có yếu tố chính trị. Nhà nghỉ này cũ nhưng mới bán lại cho chị Hường người tỉnh khác đến cả chủ cả nhân viên đều ở xa nên không ai rõ mặt đối tượng đi cùng Lan Hương. Lại chỉ có một chứng minh thư của Lan Hương đăng ký thuê phòng... Chứng minh thì giờ vẫn còn ở lễ tân.

Chúng tôi phải xuống rồi! Lời trên tỉnh - Do cô này có tiếng trong ngành tư tưởng đang đưa vào diện kế cận từ hôm thi kể chuyện.

Chị Hường chủ nhà nghỉ khóc mếu bảo em mua chỗ này không rẻ bây giờ xác chết trong gầm giường ai dám đến nữa.

Cậu Canh bảo vệ cố nhìn từng khuôn mặt đàn ông trong đám hiếu kỳ kéo đến chật hành lang xem có nhận ra ai không nhưng bó tay. Ai biết sự thể này mà lường trước. Dám giết cả người giải nhất thi kể chuyện anh hùng quê hương. Bắt được tử hình là cái chắc... Không ai ngờ sát thủ trẻ măng đứng ngay cửa ra vào. Một chàng đầu húi kiểu tài tử Hàn Quốc mặt còn lông măng cao lớn dáng dấp tỉnh thành mặt mũi sáng trưng áo phông quần bò như mọi gã ở mọi nơi trên hành tinh thế kỷ này. Sát thủ điềm nhiên đứng trong đám người hiếu kỳ vô can nhìn ngó. Người ta đang đo đạc đang dùng kính lúp soi chiếu rồi chụp ảnh rồi dùng kìm bỏ các thứ lặt vặt quanh xác chết vào các túi ni lông trong. Dòi đang bò ra phía ánh sáng người ta dùng một thanh gỗ chặn cửa... Mọi con mắt mê man quan sát. Cả sát thủ. Hắn cũng quan sát như không phải việc mình gây ra. Cho đến lúc một vị oai vệ mặc cảnh phục chen vào và quát to: ra hết. Sao lại để đông thế này. Ngăn hiện trường ngay!... Sát thủ bị đẩy ra cùng với mọi người.

Sát thủ tên là Cảnh, đang học đại học trên tỉnh. Là cháu nội ông Hùng. Người mà cả quê hương tôn vinh suốt những năm chiến tranh giờ đột nhiên người ta ra rả tên ông! Ngày và đêm.

Cảnh mím môi thỏa mãn và cả liều lĩnh. Bây giờ có bị bắt cũng thoải mái vì việc làm của hắn là để trả thù cho cái việc đem ông hắn ra bờm xơm... Cảnh lấy xe máy đi một mạch về nhà ở đầu phố huyện nơi trước kia là một rừng cây ổi cho quả thơm lừng giờ này là một rừng xi măng với nhà mái bằng giống nhau cả chỗ đi ỉa. Mẹ Cảnh ngồi máy khâu đang sửa quần áo thuê thấy Cảnh lầm lì đi xăm xăm vừa nhìn theo con vừa cười: lại gây sự ở đâu rồi! Cảnh không trả lời đi tuốt lên tầng thượng nơi để bàn thờ, ông nội trong ảnh phóng to đặt giữa bàn thờ. Ảnh ông chụp sau kháng chiến chống Pháp chưa đầy ba mươi tuổi tóc rẽ ngôi lệch chải sáp bóng răng ông hơi hô trong ảnh trông ông như cười. Ba tấm huân chương ông cài áo trong ảnh giờ thêm hai nữa là năm huân chương cài trên nền vải đỏ để trong khung cạnh ảnh ông. Ông bị mất một chân thời đánh Điện Biên sang đánh Mỹ ông không thể tái ngũ. Ông phụ trách dân quân huyện nhà - tiểu sử về ông ghi như thế. Các bài học ở trường tiểu học huyện thường có bài ngoại khóa như thế. Mỹ ném bom dữ dội xuống Cầu Kim bắc qua sông có con đường lên phía Bắc chở hàng viện trợ. Đường tỉnh lộ nhưng vài cây số nữa là tới đường quốc lộ. Mấy thằng phi công Mỹ gầm rú săm soi ông cho đại đội dân quân bắn trả rơi một thằng F105 ở trên núi. Thời đó bố Cảnh cùng lũ bạn tiểu học chạy lên núi lùng phi công Mỹ nhưng bộ đội ở bên kia núi đã làm xong mọi việc. Các bài ngoại khóa kể cho trẻ con trong huyện dựng lên đúng hình ảnh ông nội đi chân giả đội mũ sắt phất cờ hiệu hô bắn.

Cảnh phổng mũi suốt thời học ở quê hương. Phổng mũi với bọn bạn không phải vì ông chỉ huy bắn máy bay mà chỉ đơn giản ông là ông nội hắn. Gần một năm nay cả huyện như phát rồ học tập. Đủ các thứ gắn cho ông. Chăm lo công tác. Tiết kiệm cần lao. Tính quần chúng cao. Gia đình xã hội hài hòa... Ra rả ở các buổi họp phường họp xã. Bọn trẻ con thi nhau hót những điều chúng nó chả bao giờ nghĩ đến... Thằng bạn Cảnh dạy cấp hai rỉ tai Cảnh tao bạn mày tao nói thật mày đừng nói lại với ai cứ cái kiểu này người ta ghét ông nội mày rồi ghét sang cả mày liệu hồn đừng xuất hiện nhiều chỗ đông người chúng nó ném đá củ đậu vào đầu mày tan xác!

Mẹ Cảnh bảo ông là anh hùng sống trong dân gian ai lại nỡ đem ông ra làm trò như thế.

Cảnh bó tay.

Lúc này Cảnh thắp hương. Vái ông. Thì thầm ông ơi cháu khử cái đứa dám đem tên ông ra hát trên sân khấu. Cháu không phải giết người đâu vì nó không phải là người nó láo nó hỗn cháu làm phận sự của người cháu ông phù hộ cho cháu ông nhé!

Mắt ông nội trong ảnh như cười. Thẻ hương rung rinh khói. Cảnh cảm thấy như vậy. Hắn lấy ít đồ đạc rồi bảo mẹ con về trường đây mẹ ạ. Không nghỉ chủ nhật à? Con có việc ai hỏi mẹ cứ bảo con không về chủ nhật nhé. Cứ xem như con không về mấy hôm vừa rồi. Nói như chơi. Cả tuần mày lang thang ở thị trấn mà lại bảo không về. Cái thằng! Thì có thế nào mẹ nói như thế. Con đi chơi loanh quanh rồi ở nhà nghe nhạc xem phim. Mẹ cứ nói như thế.

Mẹ Cảnh là lạ nhìn thằng con. Có gì mà phởn thế nhỉ!

*

Buổi chung kết kể chuyện anh hùng quê hương trong hội trường ủy ban huyện xanh đỏ y như các buổi hội hè cấp huyện thời xưa. Những cờ những khẩu hiệu những đội cổ vũ mũ giấy trên đầu tay giăng biểu ngữ hò hét cố lên cô chú cố lên anh chị làm cả hội trường rung rinh tường gạch. Phần thưởng trao giải nhất một ngàn đô la Mỹ nên các đội các anh chị thi nhau trổ khả năng trời phú người phú. Nàng Lan Hương leo lên hạng A sơ khảo nhưng lại dành để kết thúc buổi thi cho có ấn tượng với vị to trên tỉnh về dự và các vị chủ chốt huyện nhà. Một tốp thanh niên trương chữ cố lên Lan Hương đứng sát sân khấu, y như các buổi truyền hình giao lưu. Lan Hương mặc váy có đuôi như váy cưới hoàng gia bên Tây cổ áo lại bình dân khoét xuống phần núm ngực giày cao gót nhọn như đinh đầu gắn mũ lấp lánh như đầu hoàng hậu. Nàng đứng bên phải. Bên trái xuất hiện hai chàng mặc y chang nhau quần lửng vô số túi hộp áo đen ba lỗ in hình một thằng người đang ngoác mồm tóc dựng như bị điện giật, cổ hai chàng tròng hai xích bạc to tướng. Trong mấy phim tài liệu về thổ dân Nam Thái Bình Dương người ta thấy những gã y như thế này nhưng đi trong rừng ăn sâu nướng. Trên loa đang giới thiệu hai chàng nói ráp. Mấy bà già ngồi phía xa bảo nói ráp là nói đế đấy. Như trong chèo có nói đế.

Lan Hương giọng cao vút rồi hạ xuống trầm trầm giọng đàn ông. Lan Hương gọi ông nội thằng Cảnh là đồng chí. Điều này làm thằng Cảnh tức. Bắt đầu tức. Cô nàng cố lấy vẻ nghiêm trang trí thức kể thế này thế kia về gia cảnh về tình yêu về đức cần kiệm liêm chính về tình đồng đội về tinh thần vượt khó xây dựng quê hương... Những điều mà bố mẹ thằng Cảnh chưa từng kể. Nó nghe. Nó nghĩ ông nội nó cũng giản dị như ông Thưởng bạn ông chỉ có điều ông chân giả mà vẫn bắn được máy bay Mỹ và người ta phong anh hùng. Có gì mà con đĩ kia bịa tạc hót như khướu. Trên trời ông sẽ bực lắm đây. Cảnh cố chen qua các hàng ghế để đến gần sân khấu, gần vị to trên tỉnh đang ngồi cùng các vị huyện. Tai hắn không bỏ sót một lời từ cái giọng chuyên đi mồi các đại gia cái giọng của bọn đàn bà con gái ở quê ra làm chiến binh đánh phá vào tận giường ngủ các nhà tường dày cửa chắc đang xây dựng luật lệ gia phong. Kể đến đoạn người anh hùng chia tay người vợ trẻ lên đường lên Tây Bắc giọng cô nàng pha chút thê lương nhưng cô nàng điều chỉnh ngay cho hợp với không khí hào hùng.

Đột nhiên cô nàng ngừng bặt hất đuôi váy liếc sang chỗ hai rapper đang chờ vào nhịp. Các rapper cất giọng và mọi thứ ở đây một chút ở kia một chút rồi nhại poping và locking - băng đĩa tràn ngập phố huyện nhại gì chẳng có. Rồi các rapper sờ gáy giơ hai tay về phía trước rồi vuốt vai rồi cúi người quay tơ rồi sờ chim rồi đập gót chân... nói tóm y hệt các rapper da đen đang nổi đình đám trên ti vi cáp. Rồi người nọ nói người kia nghiêng tai rồi ngược lại rồi cả hai cùng nói. Tiếng Việt nói một chặp cũng ra ráp. Như ai. Chỉ có điều ráp tiếng Việt lại có nhịp điệu sáu tám thơ lục bát -

Ta anh hùng thời nào cũng sẵn - Sì chét- Người chết thì đã anh hùng - Sì chét - Bảy mươi tuổi lại bước vào đời - Sì chét - Hiểu ra cái sự ăn chơi khôn cùng - Sì chét - Khi tuần tự lúc cao trào - Sì chét - Đúng nơi đúng lúc ngọt ngào vô biên - Sì chét...

Lan Hương nhún một bên. Hai rapper nói ráp một bên. Huýt sáo vỗ tay. Hai rapper vuốt tóc cúi người sờ chim sờ chân chém gió móc tay túi quần mồm miệng tía lia nhạc sàn ngoáy tít đèn như phim chiến tranh tia lên trần chiếu tìm máy bay phát xít thế chiến. Lan Hương cứ chen giữa các giọng ráp kể theo bài soạn sẵn mà tay nghệ sĩ phòng văn hóa huyện bịa tạc. Vỗ tay ầm ầm. Các VIP ngồi bàn đầu trải khăn kẻ ô để hoa nhựa cạnh chai la vi mặt mày phương phi ngả người tỏ vẻ chăm chú. Cảnh nhìn cả bọn thấy kích động toàn thân tê buốt như bị dội nước lạnh đúng đỉnh đầu. Hắn không còn thấy tức. Hắn thấy căm thù.

Cái gã cứ đệm sì chét giữa mấy câu ráp giờ lại gần Lan Hương giơ tay bá vai cô nàng. Gã kia nhảy tưng tưng.

Ngày xưa lắm cái tù mù - Sì chét - Biểu sao làm vậy cộng trừ giản đơn. Sì chét... Bây giờ thời đại kim tiền. Sì chét. Quyết sớm một tí quy tiên phí hoài. Sì chét!

Lan Hương kể về đức tính cần kiệm của người anh hùng. Thời đó, nghe bố kể nghèo khổ cả làng nghèo khổ cả nhà có gì phải tiết kiệm. Cái đệm mút kia bịa không biết ngượng. Khổ nỗi cái loại đệm mút cao cấp này bảo kê bảo hiểm đầy mình. Cả thị trấn xôn xao từ lâu cửa nào nó cũng lọt nhờ tiền nhờ lưỡi trên lưỡi dưới chả ai làm gì được cả hai cha con nhà nó. Vụ này Cảnh nghĩ mình phải tìm ra cách chứ không thể chịu được nữa. Trên kia hai rapper đưa đời sống tươi rói để kết bài ráp bằng ca dao rao vặt.

Bàn là quạt cháy máy bơm ti vi tủ lạnh nồi cơm bộ đàm công tơ cát xét đầu dàn dùng lâu đã hỏng thành hàng bán đi... Sì chét!

Vỗ tay như sấm. Giậm chân rầm rầm. Vị cao nhất ủy viên tỉnh ngả người chớp mắt nhìn váy chấm trên sàn Lan Hương. Vị này nghe nói thành tích chiến tranh biên giới chống Tàu đại đội trưởng bộ binh dốt đặc được mỗi đức tính là mê gái. Mê gái nghĩa là còn một góc mù mờ không đến nỗi đặc sệt mùi tiền. Vị đĩnh đạc rời chỗ ngồi các vị theo hầu cỡ ủy viên cấp huyện mụ mị theo sau như bị đánh thuốc mê do cái sự ồn ào vừa diễn ca vừa kể vừa ráp dù lời lẽ nghe chả thủng chữ nào. Cảnh cố chen chân theo đoàn ra hậu trường. Cảnh có gã anh họ vai u làm cảnh vệ vị trên tỉnh nên Cảnh vào được nơi vị trên tỉnh giải lao. Vị ủy viên tỉnh ngồi giữa các quan chức huyện nhà thân mật vỗ vai vài người rồi bắt tréo chân ngồi ngả người rồi nheo mắt. Vị này răng trắng không phải loại răng Zombie mà các vị u năm mươi u sáu mươi sở hữu tài sản nhan sắc mà cha mẹ đầu tắt mặt tối để lại đến lúc làm quan cũng không buồn chỉnh sửa nên mồm mở ra cứ đen sì sì một lượt lại nham nham nhở nhở. Vị tỉnh này cười tươi răng trắng chả biết thật hay giả nhưng ít nhất cũng chiếu cố mắt thiên hạ. Một gã đưa đến chai rượu giải lao khi chờ ban giám khảo xếp hạng. Ngoài hội trường huyên náo ca nhạc học sinh chào mừng ngày kể chuyện anh hùng quê hương. Vị trên tỉnh, có lẽ rất là quen sự này nên cầm ngay chai rượu còn vướng vài sợi rơm ngoài vỏ. Vệ sĩ anh họ ghé tai Cảnh chai này ngàn rưởi đô! Cha mẹ ơi! Cảnh rên. Chai rượu uống chơi chơi ngàn rưởi đô! Ăn thua gì. Vệ sĩ anh họ thành thạo ghé tai thằng em bảo đứng xa xa ra đằng kia. Cảnh nán lại xem vị trên tỉnh phát biểu về chai rượu uống chơi. Vị nhìn lướt qua quay quay cái chai một chút rất sành điệu rồi gật đầu uống được ha! Tay hầu rượu đưa ở khách sạn đến cung kính đón cái chai để mở nắp rót ra mấy ly chủ chốt. Nâng ly. Chạm cốc. Cảnh mê man nhìn các vị. Nghe nói nhiều vị hay diễn. Thường uống loại xịn ở chỗ vắng vẻ còn các vị này có vẻ không thèm diễn. Quên cả cái sự những chỗ đông người thế này nên diễn chữ cần kiệm thương dân nghèo đói không nỡ uống chơi ngàn rưởi đô tài sản của một nhà làm cả năm. Vẻ mặt của vị trên tỉnh tươi tắn loại quan càng ngày càng trẻ đẹp vị nâng ly rượu sánh màu mật ong cụng bên phải bên trái. Nhìn cách vị uống rượu Cảnh nghĩ các vị không tội gì mà diễn thật. Cái gì đến tay thì cứ ô kê đời ngắn lắm. Vị trên tỉnh ngó nghiêng đưa mắt tìm kiếm trong đám đông ở cuối phòng. Ngay lập tức nàng Lan Hương sà lại nhanh như bướm. Nhìn gần cô nàng tóc nhuộm nâu đỏ da tay trắng nõn cằm xẻ mắt lột mi. Nàng rẽ váy lại gần và ngay lập tức nàng như ngồi lên đùi vị nhưng để giữ khoảng cách nàng lại xích ra một chút lả lướt nhưng đoan trang đủ cho vị nọ muốn giơ tay ra rồi lại để ngang cho xứng địa vị cấp trên đàng hoàng. Nhìn từ xa thấy hai kẻ vừa bờm xơm ông nội mình bây giờ đang diễn trò vừa nâng đỡ vừa dựa dẫm nhau Cảnh mím môi mẹ kiếp cuộc đời. Khi ông nội hy sinh cha mẹ Cảnh chưa gặp nhau. Còn ở tuổi thiếu niên. Nhưng Cảnh ngưỡng mộ ông không muốn ai đưa ông ra đám đông ồn ào làm linh hồn ông xao động.

Vị trên tỉnh đang khen đứt lưỡi giải nhất giải nhất! Cô kể chuyện thật duyên đặc biệt xen vào bài kể chuyện lại có nhạc ráp nội dung như vậy là hỗ trợ cho nhau anh hùng có thời xuất sắc giờ đây cuộc sống tiếp theo thật hoành tráng. Tốt tốt! Các vị huyện hân hoan thành thích huyện nhà được tỉnh nhìn thấu. Lan Hương cư xử đúng chức phận nòng cốt. Vị kia nhìn nàng đánh giá cao thế hệ kế cận rồi bảo chuyển công tác đoàn thể để phát huy. Xem như cô nàng toại nguyện ước mơ đứng trên lễ đài vẫy tay ngày lễ! Vào cầu rồi!

Nghe nói tỉnh nào đó có nàng xinh đẹp không muốn đi bán hàng vào giữ chân rót nước tiếp khách ở cơ quan ngạch đoàn thể. Thủ trưởng thành phố tóc bạc vi hành ghé chân. Nhìn giai nhân ỏn ẻn vai châm trà rót nước vị tóc bạc xuýt xoa tiếc. Không phải tiếc cho tuổi cao trông thấy đầu xanh nhớ thời trai trẻ mà tiếc cho cái sự bỏ phí tài năng. Vị khều thủ trưởng trực tiếp của nàng: Này này kế cận đấy chứ tìm ở đâu. Cho đi học rồi đào tạo! Cứ tưởng nói qua nói quít ai ngờ các thủ trưởng cấp dưới thực thi trên cả sốt sắng. Nàng nọ nhảy cóc sách vở sao đó giờ nghiễm nhiên áo dài hạt trai đeo cả chuỗi đứng trong giới quan chức tỉnh chức danh to đùng chữ ký tiền ngàn tỉ ai trước kia trót thờ ơ giờ trông thấy nàng sợ tắc thở.

Lan Hương xem vậy là vào tầm ngắm. Cô nàng thẳng vai bước lên sân khấu nhận giải nhất mà vị trên tỉnh trao tặng. Cúp pha lê vòng hoa quấn cổ. Ông cựu cắt tóc nghẹn ngào. Một vài vị huyện nghẹn ngào nhưng lại có mấy ngài sáng suốt ở huyện thì thào thế này thì không ổn cái vấn đề nhân cách. Kể chuyện anh hùng phải là người có đạo đức. Khổ nỗi vị trên tỉnh đã chấm đã chỉ đạo ai còn dám lăn tăn?

*

Thằng Cảnh lượn lờ cả buổi chiều cổng nhà Lan Hương. Lão bố không còn cái vẻ nhà quê mù mịt thời cắt tóc giờ lão mặc pyjama tưới hoa, con chó cảnh nhắng nhít bên chân vườn nhà rộng như rừng ô tô đậu lối ra cổng. Không thấy Lan Hương ra đường hai hôm rồi. Có lẽ sợ đá củ đậu. Bỗng dưng múa mép ẵm cả ngàn đô thiếu gì đứa tức. Cảnh định bụng cứ chờ thể nào tối nó cũng ra tương cho một phát vào đầu rồi chuồn... Sau cùng lại phải nhờ đến cái di động. Cảnh dụ được cô nàng ra quán cà phê ở bên chân núi. Lan Hương cũng hơi sững người khi thấy một thằng bé cao lớn sáng trưng chờ mình dưới ánh đèn mờ. Chẳng khó gì cho cô nàng vào bẫy với cái vẻ xúc động ngào ngạt khi nhắc đến ông nội khi biết ơn chị đã kể chuyện về ông em hay đến không ngờ bố mẹ em hôm đó đi xem về cũng nắc nỏm cả đêm bảo em tìm chị cám ơn. Chẳng khó gì cả khi Lan Hương chạm tay vào cánh tay rắn chắc của thằng bé. Lan Hương hơn bảy tuổi cảm thấy toàn thân kích động khi cái sự trẻ trung kia truyền qua da thịt cô nàng như một thứ điện làm mạch máu chuyển như đun sôi dưới mặt trời. Thôi đừng gọi là chị xưng em nữa mà gọi nhau bằng tên nhé. Cảnh mơi cô nàng gật tắp lự. Một cái vuốt lưng từ bàn tay mạnh mẽ một cánh tay quàng qua vai như người lớn Lan Hương rùng mình dựa vào thân thể trai tân. Cô nàng thành thạo nhưng toàn nếm của ôi toàn là chồng người ta chưa bao giờ nếm mùi thanh tân của thứ cây chưa rạch ra cho nhựa chảy. Bọn thanh niên hay liếc mắt đưa tình hay thẽ thọt tai cô nàng do cái nhan sắc nhưng đố thằng nào sáp vô cụ thể sợ phải chịu trách nhiệm cưới xin. Mẹ chúng nó dạy rồi của chung đừng vơ làm vợ thiệt hại cả đời. Nên chúng nó cứ xa xa nên Lan Hương nổi tiếng mà vẫn chưa có đám nào gật. Như một con cái đích thực chính cô nàng ngỏ ý vào nhà nghỉ. Mới ngồi với nhau hai đêm quán cà phê núi vắng vẻ nhưng không tăng tốc nhỡ nó xù thì phí hoài vì chưa bao giờ biết mùi của thứ chưa bóc tem. Lan Hương lùa tay vào lưng thằng Cảnh làm nó phải co vai vì lạnh. Một cách vô thức thằng Cảnh bị lôi đi trước cái dễ dãi của con mồi dù hắn đã tâm niệm phải chủ động. Cảnh bỏ túi quần đôi găng tay và sợi dây dù. Hắn đi bộ cùng Lan Hương tới nhà nghỉ. Trời tháng chín cuối năm vùng núi tràn ngập hơi lạnh về đêm. Cảnh kéo cao cổ áo như trong mấy phim gián điệp. Cảnh bảo Lan Hương đưa chứng minh thư hắn lên cầu thang trước mở cửa nhìn vô các xó xỉnh phòng đôi khá rộng giường đôi trải khăn kẻ ô có mùi xịt phòng bình dân gây cảm giác ghê ghê như ghế đá công viên. Cô nàng Lan Hương ào vào phòng hôn lướt qua thằng bé. Vào phòng tắm khá nhanh trở ra cô nàng đã hoàn toàn khỏa thân. Cảnh đờ người nhìn vú nhìn vai nhìn hai bên hông cô nàng cảm giác buồn nôn dâng lên bụng dưới đau quặn một lúc hắn đứng nhìn trân trân quên cả mục đích. Cô nàng giang tay ôm cổ hắn đèn không tắt sáng một ngọn trên bàn đêm nàng bảo Cảnh đừng sợ em sẽ bày cách cho anh đi tắm đi. Rồi cô nàng lên giường. Xõa tóc. Lấy nước hoa trong ví xịt gối xịt cổ xịt nách. Vú cô nàng cao vút trong sách nói loại vú này thường bơm si li côn. Cảnh kịp nghĩ rồi lui vào góc khuất gần cửa nhà tắm quan sát cô nàng vuốt lông dọn ổ. Khi cô nàng nằm ườn ra lim dim chờ đợi Cảnh nhìn chăm chăm tưởng tượng tiền đồ lấp ló giữa hai cái đùi mở ra trắng nhởn của cô nàng. Tưởng tượng lúc nào đó Cảnh phải đứng trong đám sinh viên dưới trời nắng nhìn lên diễn đàn có dù che để nghe một ả nhẫn tâm sành sỏi ngu dốt lười biếng sống dựa giàu tiền chục tỉ... đang thao thao rao giảng vớ va vớ vẩn trong khi bố Cảnh con trai người anh hùng vẫn phải lái xe đường dài kiếm sống mẹ ngồi may vá lặt vặt nhặt từng đồng năm trăm nhỏ. Như mọi người. Như ông Thưởng cựu binh bạn ông nhẫn nại với quán nước chè ở gần đường tỉnh lộ. Ý chí làm máu sôi như dầu đun Cảnh lao lên giường phủ lên người Lan Hương lập tức dùng tay đi găng chẹn cổ cô nàng ngực đè cái gối lên mặt cô nàng. Bị bất ngờ chẹt cổ đè mũi Lan Hương giãy như cá rô mắc cạn. Cực khỏe. Sức sống bùng lên dữ dội nhưng Cảnh to gấp đôi tay quen tập tạ chân quen đá võ hắn khiến cô nàng tắc thở chỉ trong mươi phút.

Cảnh im lìm ngồi ở chân giường nhìn xác người đẹp xuôi lơ không còn phập phồng thở như mấy giây sau cùng lúc Cảnh buông tay. Hắn nhìn đôi môi dù có son nhưng đang bắt đầu xám màu chì. Các đầu ngón tay bắt đầu thẳng ra móng tay bắt đầu có màu đen. Có lẽ đã lâu có lẽ đã êm Cảnh bế xác chết để lên sàn gỡ nệm giường gỡ giát giường lục túi cô nàng lấy cái khăn trải, có lẽ loại này đi đâu cũng có khăn trải trữ trong túi. Cảnh trải khăn xuống nền bê cô nàng đặt đầu lên túi đắt tiền thân lên khăn trải rồi cho giát giường vào để nệm mút lên gối khăn tinh tươm kiểm tra dấu vết không quên bỏ sim điện thoại của cô nàng ra rồi không buồn nói lời tạ lỗi Cảnh giơ tay như chào căn phòng rồi thong thả xuống cầu thang nói vài lời ở quầy lễ tân rồi đi bộ về nhà. Đi như chạy gằn khi gần đến nhà nghe đâu đây có tiếng lào xào như tiếng người hắn nghĩ ông nội đi theo để bảo vệ che chở hắn yên tâm ngủ một mạch.

Vài ngày trôi qua. Không động tĩnh.

*

Chào mẹ thằng Cảnh lấy xe máy đi về trường gần đến lối rẽ về quốc lộ lên tỉnh hắn quay lại. Cả thị trấn vẫn còn xao xác cái chuyện xác chết trong gầm giường nhà nghỉ. Thời buổi nhiều chuyện phải chết cả chùm chết kiểu đặc biệt mới được dư luận chiếu cố. Chết nằm gầm giường cũng hơi đặc biệt dòi đục ruồi bâu cũng khá là lạ. Có nhan sắc lại ở vị trí kế cận càng đặc biệt nên người ta vẫn còn nồng nhiệt quan tâm. Cảnh lượn xe qua nhà nghỉ. Dừng xe gần một tốp người hóng hớt. Cảnh cũng làm ra vẻ hóng. Nghe nói cảnh sát điều tra đã tóm hai thằng nói ráp hôm kể chuyện nghe nói tỉnh chỉ đạo khắt khe đề phòng âm mưu chính trị nhưng nghe nói sát thủ này chuyên nghiệp không để lại dấu vết nghe nói nàng này quen biết nhiều khó mò ra ai trong đám giao lưu với lại nhiều người ghét lắm cũng không mấy tận tình truy thủ phạm đâu... Hóng chừng ấy xong Cảnh về nhà cuối thị trấn thấy mẹ đang lúi húi nhặt rau Cảnh bảo con ăn cơm với.

Sao bảo về trường hả con? Con về lấy mấy cuốn sách ăn cơm xong con đi. Vậy để mẹ rán cho quả trứng.

Cảnh nhảy hai bậc một lên tầng thờ. Cảnh nhìn ông nội trong ảnh lấy tay sờ vào khung để huân chương Cảnh thì thầm: Có được không ông? Cháu làm việc này không phải tội ác đúng không ông. Ông nội như hơi cười. Nhìn ảnh ông Cảnh thấy cực kỳ an tâm lại như nghe ông bảo diệt ác trừ gian mà cháu bớt cho cộng đồng gánh nặng cháu làm đúng rồi. Cháu về trường đi học hành tử tế. Không sao đâu ông che cho!

Cảnh thắp một cây hương xoa tay lên ảnh ông. Thấy yên tâm thở phào cứ thế Cảnh ngồi với ông nội mãi tới khi mẹ gọi với lên bảo có ăn tôm không mẹ mua nhá người ta gánh tới đây này.

Không gian trên này là của hai ông cháu.

BUÔN THÁNH

TRẦN CHIỂU

Kết

5



Trời lây rây mưa. Ba người đàn bà không chức cao quyền lớn như những chính khách thời hiện đại nhưng đối với thế giới tâm linh, họ thật sự là những con nhang đẹp đạoThánh thật sự là mẫu mực để con nhang đệ tử Hà Lâu tổng trông vào và ngưỡng mộ. Mới năm ngoái thôi, một gã thầy cúng đánh chén thịt chó tỳ tỳ, rất thích dùng ngôn ngữ đời thường mỗi khi tiếp cận với các nhà đầu tư xây dựng đình, đền, chùa, miếu và kinh doanh tượng các loại: Các ngài chủ trì, tôi chủ chi. Nói trắng phớ ra là, tiền không là gì đối với gã. Không hiểu đầu cua tai nheo thế nào mà gã bị một lão nông chi điền cho cái bạt tai sau khi chở cỗ nhà cũ cho con nhang đệ tử làng Quao xây đền. Ba bà này cạch mặt gã sư đánh chén thịt chó tỳ tỳ nọ.

Thị Lơ bàn việc xây đền Lân với thị Loan, phu nhân sếp Thụ và mụ Vị:

-Nhất định phải xây đền Lân to nhất mười làng, hai tổng. Thị Lơ khẳng định.

-Tôi cũng nghĩ thế, không xây thì thôi mà xây thì phải xây to nhất mười làng, hai tổng. Phu nhân sếp Thụ phụ họa.

- Đền Lân hiện có tám trăm con nhang đệ tử rồi cho nên xây đền mới phải đủ cho một nghìn phật tử thỉnh lễ. Không xây đền Lân mới to như thế, tôi e đền vỡ có ngày, tai họa khó lường. Mụ Vị giảng giải.

Ba người đàn bà miệng có gang có thép đã quyết thì không gì có thể đảo ngược. Nhưng xây đền Lân có cái khó không dễ khắc phục. Giả sử không được cấp đất thì tính sao? Đã bảo, đền Lân vẫn còn nguyên móng cũ. Đó là chứng tích không thể bác bỏ. Họ lấy lý ấy buộc địa phương cấp, nhưng thiếu vai trò sếp Thụ là không xong.

-Mỗi sếp Thụ thôi chưa đủ. Mụ Vị khẳng định

-Ý bà muốn sếp Kiến vào cuộc ? Thị Loan hỏi.

-Phải!

-Sếp Thụ tham gia là sếp nhà tôi xung phong liền. Bà chị phải ép ông anh cho ra bã. Thị Lơ vui vẻ nói với vợ sếp Thụ.

-Còn khoản kinh phí tính sao?

-Một ngàn con nhang phật tử chung sức, nếu huy động ngoài xã hội sẽ có hàng vạn người ủng hộ, mỗi người một trăm ngàn, xây ba đền cũng xong, nhưng ý thầy pháp Có thì khác.

-Khác là khác thế nào? Thị Loan gặng hỏi.

-Thấy pháp Có không muốn dùng nguồn kinh phí con nhang đệ tử đóng góp mà để khoản kinh phí này dùng vào việc trọng đại hơn, nhưng chưa biết việc trọng đại đó là gì. Thị Lơ tỏ vẻ phật ý.

Thị Loan đứng phắt dậy:

- Không cần khoản kinh phí con nhang đệ tử cung tiến mà bổ vào đầu bọn doanh nghiệp giàu sụ đang đốt tiền, chả thế mà, chùa Lôi đúc chuông, một trăm gã ném vàng vào lửa đủ biết họ sùng bái đến mức độ nào.

-Ý chị Loan là bắt bọn giàu sụ vào cuộc vì chúng đang hấp hối.

-Chứ sao!

Vừa lúc đó thì một con nhang đệ tử hớt hải chạy tới:

-Mời ba mẹ về đền, thầy có việc cần bàn thảo.Tên này lễ phép thưa.

Họ ra xe.Thị Lơ lái chiếc xe Ford màu đen lượn vòng quanh sân rồi vọt ra cổng, hướng đền pháp Có.

Pháp Có thỉnh ba hồi chuông.Tiếng chuông ngân vọng như dòng suối ngọt. Đối với con nhang đệ tử, tiếng chuông như tiếng con tim đập đưa máu lưu thông nuôi cơ thể. Họ có thể chịu đói, chịu khát, nhưng không thể thiếu tiếng chuông ngân vọng. Dễ thấy nhất là khi tiếng chuông cất lên tất cả mọi người lặng đi, nỗi phiền muộn tan biến, con người cảm thấy thanh thản, tin yêu…

Họ sẵn sàng dâng hiến phần hồn cho đấng tối cao. Nhưng trong tận sâu thẳm cõi lòng mụ Vị vẫn chưa cảm thụ được giá trị tinh thần mà tiếng chuông mang lại, bởi trong con tim nó còn sót lại một chút đắn đo…thật khó mô phỏng khi mụ phải dùng nắm đấm đánh vào mặt chuông, nhịp nhàng theo nhịp đập con tim. Đó là nhiệm vụ thiêng liêng, đồng thời cũng vinh hạnh đối với một đệ tử sùng đạo như mụ. Nhưng bản thiện trong con người nó không chịu nổi sự tĩnh lặng đến lặng người và mùi hương quyến rũ lâng lâng như ru con người ta vào cõi mộng. Cuộc đời trần tục vẫn còn có chỗ để mụ lưu luyến, để mụ trông đợi một cái gì đó cũng thiêng liêng. Nếu pháp Có không áp sát ngày đêm, có lẽ mụ đã tục huyền bởi mụ vẫn còn nuối tiếc thuở xuân thì. Đêm nay lại buông tiếng thở dài trước cái mõ. Hình ảnh pháp Có hiện lên trong tâm trí mụ. Bất giác mụ nhớ lại tiếng đập cử thình thịch kinh hoàng diễn ra ở nhà con trai mụ và tiếng rên ư ử ở sau nhà mụ trong cái đêm ấy…Ấy thế nhưng khi trở về với thực tại thì mụ lại sẵn sàng bỏ lại tất, tiếp tục bằng quả đấm nện vào mặt chuông…Pháp Có bảo thằng Bát:

-Con yên tâm ở lại với bản đền. Con sẽ không thiếu thốn vật chất và cả về tinh thần nữa. Con hãy tin vào đấng tối cao, gạt bỏ mọi thứ ngoại đạo nơi trần tục.Ta chọn con.Thánh sẽ trừng phạt nếu ta sai lầm về việc đó. Con hiểu ta nói gì không?

-Da. Con hiểu.

-Con nghe ta hỏi đây. Con có hiểu vua Lý Thái Tông không?

-Dạ. Con hiểu.

-Đó là một vị vua sáng kiệt xuất đời Lý, người có công xây chùa Một cột. Tương truyền, một đêm vua chiêm bao thấy Phật Quan Âm trên tòa sen đưa tay dắt vua lên tòa.Tỉnh dậy, vua kể cho văn võ bá quan nghe. Sư Thiên Tuế khuyên vua làm chùa, dựng cột đá giữa hồ, làm tòa sen của Phật Quan Âm như thấy trong mộng. Nhà vua nghe và làm theo. Nhờ vậy đến nay con cháu Người mới có ngôi chùa Một cột nguy nga giữa lòng Thủ đô Hà Nội. Noi gương Người, ta cũng muốn xây ngôi đền lớn để cho muôn họ sau này, con nghĩ sao ?

-Được như thế quả là phúc lớn.

-Ý tưởng một ngàn con nhang đệ tử xây đền Lân to nhất Hà Lâu tổng, nhưng ý tưởng của ta, ta sẽ xây ngôi đền Lân không chỉ to nhất Hà Lâu tổng mà còn to, đẹp hơn cả tòa thị chính huyện và to, đẹp hơn đình làng Quao, ngôi đình được ghi danh thiên cổ. Con phải giúp ta việc lớn đó ? Con nghĩ sao?

-Được như thế quả là phúc lớn đối với con.

Phu nhân sếp Thụ cho xe dừng trước cửa đền. Ba con nhang đệ tử ngực vái pháp Có một vái:

-Kính thầy an lành.

-Mời các chư vị.

Pháp Có lấy tờ sớ in trên nền lụa vàng đưa cho ba đệ tử, nói:

-Ta đã dâng sớ xin thánh cho ta xây đền Lân trên nền móng đền Lân cũ, các đệ tử nghĩ sao ?

-Dạ.Thưa thầy. Chúng con cũng vừa bàn thảo việc xây đền Lân trên nền móng đền Lân cũ, trùng khớp ý tưởng của thầy. Có lẽ đây là duyên phận, nếu không sao lại có sự trùng khớp kỳ lạ vậy. .Xin thầy ra ân.

-Đó là ý Đấng tối cao. Các đệ tử giúp ta lên kế hoach.

-Da. Việc trọng trước là phải làm thủ tục xin phép.

-Ta đã làm xong việc này cách đây ba ngày.

-Dạ. Thầy đã dạy. Xin thầy ra ân cho chúng con thực hiện.

-Cái khó của ta bây giờ không phải là kinh phí, vật tư, cũng không phải phải thợ mà là địa phương yêu cầu giao cho địa phương đứng ra xây ngôi đền này. Ta không đồng tình. Các đệ tử nghĩ sao?

-Dạ. Giao cho địa phương việc sẽ không thành vì người địa phương họ tham lam, nhũng nhiễu vô độ. Việc này thầy phải đứng ra gánh vác mới thông sáng.

-Dạ. Đúng thế. Người địa phương bản chất tham nhũng. Làm bất cứ việc gì dù lớn, dù nhỏ, họ cũng bớt xén. Ngay như việc dựng tượng đức vua, xây tượng đài Điện Biên Phủ đến sửa chữa đền đài miếu mạo, họ cũng không từ. Vậy xin thầy ra tay cứu độ.

- Các đệ tử giúp ta việc này nữa. Pháp Có nói.

-Xin thầy yên tâm. Chúng con đã có quý nhân phù trợ.

-Ai vậy?

-Da. Sếp Thụ và sếp Kiến, những người có tâm vớiThánh.

-Ta tin cậy lắm.

-Xin thầy chỉ giáo ngày khởi công.

-Ta đã hoàn tất mọi thủ tục và chuẩn bị đầy đủ vật tư, đúng ngày hoàng đạo sẽ khởi công.

-Dạ.

-Ta giao phó cho đệ tử Loan giúp ta trông coi việc thánh.Ý các đệ tử thế nào?

-Dạ. Rất trùng khớp với ý chúng con.

-Vậy thì từ nay có việc gì cần kíp, các đệ tử bàn bạc với đệ tử Loan và quyết định.Pháp Có căn dặn.

-Dạ.Thưa thầy,chúng con tin là sếp Thụ có ý kiến chỉ đạo, ắt địa phương phải đồng ý với thầy để nhà đền đứng ra xây dựng đền Lân không tơ lơ mơ được.

-Ta sẽ thỉnh ngài Thụ. Bây giờ ta xin cáo. Pháp Có ra về.

Chỉ một ngày sau đó, thông báo xây đền Lân được loan tới tất cả con nhang đệ tử muời làng thuộc Hà Lâu tổng. Người người hân hoan đón đợi ngôi đền lớn như đón đợi ngôi nhà lớn của gia tộc mình sau những tháng ngày mong uớc đại lộc.

6



Ban Xây dựng đền được thành lập. Đệ tử Lơ được phong Trưởng ban. Kinh phí do thị Loan đảm nhiệm. Phu nhân sếp Thụ, dựa vào thế mạnh của đức lang quân lo việc quyên góp tứ phương, tới đâu cửa ấy mở tung hết. Người ta không sợ Thánh mà sợ sếp Thụ. Đó là việc tâm linh. Kẻ nào nhạo báng việc xây đền Lân tức là kẻ ấy vô đạo. Mụ Vị được phân công coi giữ quỹ vì biết dùng tiền đẻ ra tiền, chu tất, cẩn trọng.

Pháp Có cẩn trọng kiểm lại việc giao trọng trách cho các đệ tử có chỗ nào khiếm khuyết cần chỉnh sửa sửa ngay. Sau khi cân nhắc đi cân nhắc lại, pháp Có thật sự yên tâm bởi ba đệ tử không chỉ đã gửi phần hồn mà còn gửi cả phần xác cho gã. Nói nôm na, gã vẫn còn máu của con dê đực. Thấy ba con nhang đệ tử liếc ngang liếc dọc, nổi máu dê, nhưng nghĩ đến danh và lợi gã kiềm chế được. Gã với cây gậy trúc uốn hình con rồng thung dung nhịp bước trên con đường lên Tòa Tam bảo. Đệ tử đứng hai bên chắp tay kính cẩn vái chào biểu thị sự tôn ái. Nhớ lại thưở công chức thường thường bậc trung, ăn không nên miếng nói không nên lời, chẳng mấy ai nghe theo, làm theo.

Bây giờ chỉ giơ cây gậy đầu rồng lên, một nghìn đệ tử cúi rạp mình. Họ sẵn sàng móc đồng tiền tận đáy túi bỏ vào hòm công đức. Trước mặt con nhang đệ tử, pháp Có là một đấng tối cao, nhưng khi trở lại đời thường, hắn vẫn có những ham muốn của con người: tiền và tiền. Mỗi khi mở hòm công đức, mắt pháp Có hoa lên trước đống tiền. Đồng tiền công đức biến thành đô la Mỹ, biến thành vàng.

Khi lột cái áo tu hành ra hắn cũng trần một gã đàn ông đầy dục vọng. Hiểu một cách nôm na, pháp Có đang thủ vai sếp như các sếp ngoài xã hội. Chúng khác nhau về cái danh còn cái thực hoàn toàn giống nhau,cùng một lộ trình, nhưng mỗi người đi cách riêng của mình, cùng đặt chữ Ích lên hàng đầu. Chúng như con bạch tuộc chặt vòi này nó mọc vòi khác thiên biến vạn hóa, khôn lường. Pháp Có ngà ngà say thì mụ Vị đến, nhưng thấy mặt gã tím tái như quả bồ quân, vội lảng đi nơi khác, không dám mon men tới. Mụ vào chuẩn bị phòng nghỉ cho thầy, nó ngó thấy một chiếc ca-pốt trên đầu giường, vội nhặt đem vứt vào thùng rác. Mụ làm thế để đề phòng con nhang đệ tử có việc qua lại phát hiện thấy chẳng hay ho gì, nhưng đối với mụ thì chuyện đó chẳng có gì đáng phải bận tâm, bởi thầy pháp cũng là con người, đã là con người đều cần có tất cả các nhu cầu về cuộc sống. Mụ chợt nghĩ đến bộ phim Tiếng Chim Hót Trong Bụi Mận Gai nói về một cha cố yêu một con chiên khi nàng mới sáu bảy tuổi và họ sống vô cùng hạnh phúc há chẳng đáng trân trọng sao? Mụ vui vẻ ra nhà khách hầu trà pháp Có. Sau khi nhâm nhi ngụm trà, pháp Có bảo mụ:

- Con luôn luôn phải đánh thức bộ não cho tỉnh táo. Lúc này ta cần con hơn bao giờ hết. Ta phát tích là nhờ có con mắt sau gáy. Ta không chỉ nhìn phía trước, bởi e sẽ có ngày bị đấm quả đấm vào thẳng mặt.

-Dạ.

-Từ mai, con chuyên tâm lo đại sự, phải nhớ tấm áo nâu sồng có thể bao phủ cả một vùng đất anh hùng. Ta một lần nữa khẳng định, sẽ xây đền Lân không chỉ to nhất mười làng, hai tổng mà còn to hơn cả tòa thị chính huyện và đẹp hơn đình làng Quao, ngôi đình đã được lưu danh thiên cổ.

Đêm ấy pháp Có không ngủ, y nhớ lại và suy ngẫm về một thời quá khứ: Lên voi nhưng chỉ là đi nhặt bã mía, khi xuống chó thì nhục hơn cả chó, mặc dầu gã biết gió chiều nào che chiều ấy, biết cúi đầu để người bước qua, biết có mắt mà phải như đui, có mồm mà phải như câm, nói tóm lại gã đã đánh mất mình. Gã ra đường với danh nghĩa này kia nhưng, nói không ai nghe, không phải vì ngọng líu, mà vì lời gã nói không đi đôi với làm, làm một tấc dóng lên một thước, cho nên không lọt nhĩ người nghe, nhưng cấp trên lại thích gã vẫn. Gã thăng quan tiến chức, bổng lộc nhiều, cho nên gã uất những người trọng dân, lắng nghe ý kiến dân, không tơ hào đến cái kim sợi chỉ của dân, sống giản dị như đất, như nước đồng quê nghèo lam lũ là lá chắn cản bước tiến của gã. Chỉ đến khi pháp Có bị về vườn xua gà cho vợ vì can tội tham nhũng, những người cùng phe cánh gã mới hiểu ra thì đã muộn, cũng như bệnh ung thư di căn vô phương cứu chữa.



Trời rạng sáng, pháp Có chiêu trản trà Long tỉnh, một loại trà quý nhất nước Trung Hoa chỉ các bậc anh tài, vương giả mới thưởng ngoạn để tự vỗ ngực mình là kẻ thức thời, kẻ thức thời là kẻ tuấn kiệt. Y đang có trong tay tất cả những thứ con người ta cần, đó là sự minh mẫn, sức khỏe và khoái cảm, nhưng còn thứ quý nhất, quý hơn cả vàng ngọc châu báu và đô la Mỹ đó là một ngàn con nhang đệ tử đã hiến cả phần hồn cho y. Khi thoát tục, thích đàn bà, y không cần đến các tiệm mà đã sẵn có con nhang đệ tử, những quý bà lộng lẫy, thơm tho phục dịch. Y khẳng định, sếp Thụ có mà nằm mơ cũng không thể thấy. Bây giờ đầu y đã cạo trọc, cái áo the đen hồi nảo hồi nào chuyên mặc để niệm người chết thay bằng cái áo thùng rộng màu vàng, cổ đeo cái vòng tràng hạt trễ xuống tận rốn, trông cao đạo hơn các thầy pháp trong vùng. Y coi đám quan chức địa phương một thời gạo châu củi quế với gã như mẻ bởi khi y ngã chúng xúm vào đánh, chứ chẳng thằng chó nào nâng. Ấy thế mà khi vợ chết, bố chết, chúng vẫn vác cái mặt thịt đến nhờ y. Y nhận lời, nhưng cho đệ tử làm chứ gã đâu có thèm bước vào nhà chúng cho bẩn chân. Họ không thể trách y được bởi y phải lo cho một ngàn con nhang đệ tử khi cha già mẹ héo, họ chỉ mời y, bởi họ tin y mới là người đem lại sự an lành. Y làm không thấu việc, có ngày năm đám ma tươi rước, chạy xô như con thoi, đâu còn hơi sức. Làm xong việc cho gia chủ, y về, không bao giờ ngồi lại xơi miếng giầu, uống trản nước, bởi gã chỉ làm phúc, chứ không tiền nong gì cả, nhưng sau đấy, nhà hiếu mang lễ vật đến, tất nhiên là dưới con gà đôi cánh bắt ngoéo cổ có đồng bạc đẫm nước mắt. Y được tiếng làm phúc lại được miếng đẫy mồm, ngẫm ra cái nghề thầy cúng như y hiện giờ phát đạt nhất, béo bở nhất mà chẳng mất chút mồ hôi nào hết.

Động thổ đền Lân gặp trời mưa tầm tã đám thợ ngõa ướt như chuột lột tên nào tên ấy run như cầy sấy. Pháp Có bảo thánh tắm mát cho mặt đất sáng, nghe ra có lý thật bởi vì nền móng đền Lân cỏ mọc um tùm, bọn chiêm chích lấy làm nơi lạc thú, kim tiêm vứt trắng phớ, mùi xú uế xông lên nồng nặc. Đúng là thánh có mắt thật. Ý tưởng pháp Son xây đền Lân không chỉ to nhất mười làng, hai tổng mà còn khang trang hơn tòa thị chính huyện, hơn cả đình làng Quao, một ngôi đình được lưu danh thiên cổ đã thành hiện thực chứ không phải chiếc bánh vẽ. Pháp Son tự hào nói trước bàn dân thiên hạ rằng, nhà đền chỉ có những nén hương thơm thấu trời, thấu đất chứ không có tiền ròng bạc nén, nhưng một vạn con nhang đệ tử kết thành một khối thống nhất đã làm nên tất cả.

Đền Lân mang đậm phong cách thời Nguyễn, kiến trúc kiểu chuôi vồ, gồm năm gian tiền đường và một gian hậu cung. Trong hậu cung có bốn bức cốn nhỏ chạm hình con phượng cõng chữ Thọ và các con kê hình bánh chưng được chạm khắc cách điệu những bông sen nở. Gian giữa tiền đường có hai bức cốn đối gian hậu cung là những bức tranh khắc họa sinh động những con vật tượng trưng sự cao quý như rồng, phượng, lân, ly ngụp lặn trong nước cùng với tôm, cá, cua, sò giữa hoa sen nở. Đặc biệt gian thứ hai bên phải có bức chạm khắc đủ tứ linh. Trên là con phượng ngậm dải lụa buộc bông sen nở, dưới là con lân có vẩy như vẩy rồng, chân giống như chân ngựa đang phi. Tiếp là con rồng đang cuộn mình trong nước như đang đà bay lên cạnh một khóm sen với bông hoa năm cánh và đài hoa nở rộ, tàu lá úp trên lưng con rùa đang bơi lội. Bức cốn bên trái cũng có rùa hoa sen và sóng nước với những nét điêu khắc cách điệu, tinh sảo thể hiện các loài hải sản rất gần gũi với dân cư vùng biển. Pháp Son bảo đó là bức tranh hoành tráng nhất từ trước tới nay thể hiện tấm lòng trung nghĩa của dân vùng biển làng Quao đối với Đức thánh Phạm Nguyên Soái cầu mong ngài phù trì cho mùa màng tốt tươi, sông ngòi sinh sôi nhiều hải sản quý, người làng Quao an sinh thịnh vượng.

Làng Quao mở Hội Đại kỳ phước năm ngày. Pháp Son giao cho mụ Vị tổ chức tế nhập tịch do đội tế làng Quao đảm nhiệm. Thị Loan, phu nhân sếp Thụ làm chủ tế vì vợ chồng đức độ, song toàn, con cái phương trưởng có trai, có gái lại có sức khỏe để hành lễ và am hiểu nghi thức tế. Các quan viên tế đều là con gái trinh bạch, tử tế. Buổi sang ngày đầu hội Đại kỳ phước, một ngàn con nhang đệ tử không vắng mặt ai, đó là chưa kể khách thập phương đến cầu an tham gia đoàn rước Đức thánh Phạm Nguyên Soái từ đền cũ về đền mới. Người tham gia đoàn rước đông chật như nêm cối, ai nấy phải chen chúc toát mồ hôi hột.Tượng Đức thánh ngồi trên kiệu Long cống do tám trinh nữ mặc quần áo hội khiêng và hai trinh nữ cũng mặc quần áo hội cầm lọng che. Tiếp sau là hai hàng trinh nữ, mỗi hàng mười hai người cầm cung tên giáo mác đi hai bên hộ vệ. Sau khi Đức thánh Phạm Nguyên Soái nhập tịch, đoàn tế nữ làng Quao ra thủ tế. …

6



Một năm sau.

Lễ khai trương Sân golf 36 lỗ Sao Xanh long trọng tổ chức.

Sếp Thụ, một trong số hàng trăm nhân vật được trọng vọng, bây giờ được thay bằng từ mới nghe khá mát víp trên chiếc E-Class 2009 với những tính năng nâng cấp vượt trội gồm hệ thống điện thoại và âm thanh nổi, kết nối Bluetoth và mâm hợp kim bảy cánh bắt mắt, với động cơ mạnh mẽ Kompressor và điều khiển khí hậu bốn vùng của E200k tạo nên sự êm ái cùng với những cửa sổ trời siêu rộng đến thưởng ngoạn thú chơi thanh cao thời hiện đại. Thật hào sảng mỗi khi quả gôn bỏ đúng lỗ, không ít người hâm mộ cổ xúy bị ngất xỉu bởi sự quá khích. Sau cuộc giao tranh phân hạng thắng, thua, các tay golf về Thượng Lầu quán để được thỏa mãn tất cả các giác quan, cảm xúc của mình bằng những âm thanh và hình ảnh tuyệt tác của một miền quê mang đậm không gian mở thời hiện đại. Thượng Lầu quán có Câu lạc bộ Triệu Phú, Câu lạc bộ thể dục, Câu lạc bộ chăm sóc sắc đẹp, Phòng tập Fitmss One và bể bơi ngoài trời mái che di động. Chủ Thượng Lầu quán, một thương gia có hạng chuyên chế các loại rượu cất bằng gạo nếp hoa vàng bốn mươi độ ngâm với một số loại thảo duợc quý hạ thổ ba tháng đã được cơ quan chức năng cấp giấy chứng nhận chuyên chữa yếu sinh lý, mạnh hơn cả Minh Mạng tửu. Thượng Lầu quán chuyên phục vụ các víp bốn món ăn độc đáo: Lẩu Ngũ ngư (năm loại đặc sản quý: tôm hùm, bào ngư, cá thu, cua gạch, bề bề). Cá Trình hấp.Tôm chiên mật ong. Ngán nướng tẩm sữa lợn rừng. Đó là những món ăn đặc trưng của Thượng Lầu quán mà các víp rất mến mộ. Bữa nhậu ở Thượng Lầu quán trong đại lễ khai trương Sân golf 36 lỗ Sao Xanh theo thằng Út thì một trăm con trâu mộng đã chui xuống những lỗ gôn hôm ấy.

Đó là ý Thánh. Pháp Có nói. Mời hai đại nhân sang phòng trà ta bàn việc thỉnh lễ đặt tượng. Đệ tử Lưu Loan, phu nhân sếp Ngụy đã tới, như vậy là đủ bộ tứ, ta quyết định ngày thỉnh đại lễ đặt tượng.



Phòng trà đặt ở vị trí đắc địa, nhìn thẳng ra cổng Tam quan được bài trí khá hiện đại nhưng lại đậm đà bản sắc dân tộc. Bức chân dung pháp Có khổ lớn lồng trong cái khung đồng vàng chóe treo ở vị trí trang trọng nhất. Chiếc ghế bành cuốn hổ phù, sơn son thếp vàng cao hơn bộ tràng kỷ cổ khảm trai tích một trăm lẻ tám anh hùng Lương Sơn Bạc đặt dưới bức tranh xác định ngôi vị chủ nhân khả kính. Pháp Có ngồi trên cái ghế bành rực sáng hai bên tả hữu là Kiển đối diện với phu nhân sếp Thụ và mụ Vị. Pháp Có nói, ngài Kiển là người đại tâm đại đức. Bà Loan, bà Lơ và bà Vị là những con nhang đẹp đạo Thánh tạo nên thế chân kiềng đại biên. Pháp Có thưa với ba con nhang đẹp đạo Thánh:



-Xin mạo muội kính thưa chư vị là tôi đã chọn ngày minh triết thỉnh đại lễ rước hai Đức ngài THIỆN và ÁC vào đền, đó là ngày Canh Tý, giờ Giáp Thìn. Theo sách Thánh hiền thì ngày đó hợp cung nghinh phúc.



Tất cả mọi người ra một lạy tạ ơn pháp Có công minh hiển Thánh. Pháp Có nói:



-Đại nhân Kiến qua xung hạn sang cung Thiên Định. Đó là ý Trời. Như vậy là được cả thiên thời, địa lợi, nhân hòa. Đại lễ này nhất thiết phải có thiên đức thỉnh chuông thì đó là phúc của vạn nhà. Ý ta là thỉnh ngài Bùi Thụ, đó là người vô thần minh triết cao tâm nơi cửa Thánh. Ý các quả nhân thế nào?



Tất cả mọi người lại ra một lạy tạ ơn pháp Có công minh hiển Thánh. Pháp Có bấy giờ mới hỏi Kiển:



- Lễ rước tượng, đại gia có ý kiến gì khác?



-Mọi việc hoàn tất bản chủ xin được sự gia ân cùa Thánh. Kiển đáp.



-Như vậy mọi sự chủ trì đều do bản đền?



-Thưa vâng ạ.



- Việc đại phuớc bản chủ phải đứng vai chủ lễ.



-Vâng.



- Đúng hoạch định ý Thánh. Giờ Giáp Tý. Ngày Giáp Tuất, thỉnh lễ rước tượng. Bản chủ phải có mặt đúng giờ. Nếu đã đồng tâm đồng lực xin các bậc đại gia ngơi nghỉ tại bản đền dùng bữa cơm chay nhà Thánh.



Kiến cáo lui với lý do việc đại sự quốc gia không thể đừng đuợc.



Qua giờ Ngọ, pháp Có gọi mụ Vị sang. Một cuộc đối thoại diễn ra rất lý thú:



-Việc thánh con đã hoàn tất chưa?



-Dạ. Nghìn bộ trang phục, nghìn xuất cơm chay đã xuất về Hà Lâu tổng.



-Tốt. Con cần kiểm tra lại lần cuối cùng xem có phát sinh?



-Dạ. Con đã trù liệu.



-Con thấy ý bản chủ Kiển thế nào?



- Người sâu sắc lắm.



-Con nói lại ta nghe sự sâu sắc của người.



-Việc Thánh hiền tất vô cùng.



-Có nghĩa là bản chủ Kiển không quan ngaị vấn đề kim ngân chi đại lễ?



-Hay lắm! Con hãy làm đúng lời ta chỉ dẫn.



-Mời thầy xem dự toán.



-Ba trăm triệu?



-Ta yên tâm rồi.



-Xin phép thầy, con về dinh lo đại sự.



-Con đi an lành.



Đúng giờ Giáp Tý, ngày Giáp Tuất, lễ rước tượng được tổ chức trọng thể từ dinh sếp Kiến. Đi đầu đoàn rước đội chiêng, trống, do trai trẻ khênh trống và một lão ông đánh trống, hai trai trẻ khênh chiêng và một lão ông đánh chiêng. Tất cả mặc đồng phục đen, thắt lưng đỏ đầu quấn khăn đỏ. Tiếp đến mười trinh nữ xinh đẹp mặc đồng phục hội màu xanh, đầu vấn khăn vàng cầm cờ thần. Nối theo sau là mười hai trai trẻ khỏe mạnh mặc đồng phục đỏ chân đi giày đen, đầu quấn khăn vàng cầm chấp kích và đoàn cầm bát bửu, cũng mười hai chàng trai trẻ y phục giống như đoàn cầm chấp kích. Kiệu Long đình gồm bốn trinh nữ rước Đức ngài Thiện và hai người cầm tàn che tượng mặc áo hội đội khăn vàng giống đoàn cầm cờ. Kiệu Bát cống rước Đức ngài Ác cũng có hai trinh nữ cầm lọng che cho ngài. Đoàn đội lễ mặc áo tứ thân đầu đội nón quai thao đội một ông lợn bố, mười cặp bánh dầy và hai mâm hoa quả. Đội tế nữ làng Quao mặc đồ tế bàn tay phải chồng lên bàn tay trái đặt đúng trái tim sôi cảm, biểu thị sự trung thành tin cậy nơi cửa Thánh. Đoàn người tham gia đoàn lễ có đủ một nghìn con nhang đệ tử ở mười làng, mỗi làng trăm người thuộc Hà Lâu tổng mặc đồng phục ni sòng xếp hàng một, người làng nào đứng vào hàng làng ấy, thẳng như kẻ chỉ, biểu hiện tấm lòng thẳng ngay nghìn người như một. Đặc biệt là, các nhà dân nơi Đoàn rước tuợng đi qua đều bày lễ vật trước cửa nhà mình để cầu mong hưng thịnh. Đoàn rước đến đền thì tế nhập tịch do đoàn tế nữ làng Quao khởi tế dâng hương hoa vật phẩm. Tế nhập tịch xong, ngài Bùi Thụ thỉnh hồi chuông nghinh đức tất cả nghìn người yên vị trên chiếu phúc sám hối. Pháp Có hỷ sự đại bái Thánh hiền. Đại công đại đức Kiến và phu nhân rải chiếu thiên đức trên đường tả hữu Tòa Tam bảo. Hai ngọn lửa thiêng tỏa sáng rước Đức ngài Thiện về bên tả, Đức ngài Ác về bên hữu. Bấy giờ tất cả con nhang đệ tử mới thượng phong cầu siêu. Đại nhân Kiến, người đại tâm đại đức cung tiến hai pho tượng vinh danh vào lễ đường thỉnh tuần hương đại bái.



Ba con nhang đẹp đạo Thánh biết ý Thánh thỉnh đại lễ đặt tượng Đức ngài Thiện và Đức ngài Ác là cuộc biểu dương lực lượng của con nhang đệ tử Hà Lâu tổng dưới trướng pháp Có cho thần dân thiên hạ biết uy của ngài. Ngài sẽ như ngôi sao tỏa sáng không chỉ trong phạm vi Hà Lâu tổng mà còn lan truyền ra khắp thiên hạ rộng lớn. Sau lễ đặt tượng Đức ngài Thiện và Đức ngài Ác nhập tịch, pháp Có mời ba con nhang tốt đạo Thánh thân tín nhất đến nhà khách bàn đại sự. Đền Lân không chỉ to, đẹp nhất Hà Lâu tổng mà còn to, đẹp hơn cả tòa thị chính huyện, hơn cả đình làng Quao, ngôi đình đã được ghi danh thiên cổ. Tòa thị chính huyện tiêu tốn mười tỷ, đền Lân chi hai mươi tỷ.Tòa Thị chính huyện xây bằng tiền ngân sách quốc gia. Đền Lân do một vạn con nhang đệ tử cung tiến. Tòa Thị chính huyện có thể thất thoát tiền tỷ, đền Lân không suy suyển một đồng kèng. Công đức ấy thuộc về các đệ tử trung thành của Thánh. Ta chỉ như hạt muối thêm đậm bát canh ngọt cho muôn dân.



Ba bậc con nhang đẹp đạo Thánh mỗi người lại ra một lạy tạ ơn pháp Có công minh hiển thánh.



Pháp Có đã có một thời danh giá đi đâu có xe đón xe đưa nghênh ngang nhưng chưa bao giờ vinh hạnh được dẫn thuyết trước một trăm công chúng, và chưa nói điều gì dân nghe ngay và làm theo ngay. Bây giờ nhất hô vạn ứng. Cả ngàn con nhang đệ tử đứng im như thóc nghe mười điều pháp Son nói và cả ngàn người làm theo. Xin dẫn một ví dụ: Ngày khởi công xây dựng đền Lân, pháp Có ra chỉ mỗi con nhang đệ tử cung tiến một trăm ngàn, chỉ sau một giờ, ba con nhang đẹp đạo Thánh kiểm kiểm đủ mười tỷ. Người trúng thầu gói thầu đền Lân mệnh giá hai mươi tỷ, trước khi hoàn công, pháp Có nói, bản đền thỉnh gia chủ điều lành, ấy là sự cung tiến cho Hội Đại kỳ phước. Nghe bản đền nói vậy, nhà thầu chỉ xin nhận mười lăm tỷ còn năm tỷ cung tiến vào đền. Pháp Có cho tạc tên nhà thầu vào bia đá công đức lớn tại đền Lân.



-Ta muốn các đệ tử trung thành của ta làm một việc mà ý Thánh muốn. Pháp Có nói.



-Dạ. Xin đại đức chỉ giáo. Mụ Vị kính cẩn nói.



-Dạ. Xin Đại đức chỉ giáo. Thị Lơ tiếp.



-Dạ. Xin Đại đức chỉ giáo. Thị Loan bái pháp Có một lạy.



-Các đệ tử trung thành của ta cố tìm trong bộ não thông thái xem ý ta muốn gì? Pháp Có hỏi.



Ngẫm nghĩ hồi lâu, thị Lơ cung kính thưa:



-Đệ tử hiểu rồi ạ.



-Đệ tử nói đi. Thị Loan giục.



-Đệ tử nói đi. Mụ Vị sốt ruột nói.



Thị Lơ bình tĩnh:



-Các đệ tử xin tổ chức cuộc họp Đại hội đồng con nhang đệ tử toàn tổng để bầu ngài là Thầy Cúng Nhân Dân.



Pháp Có nâng thị Lơ lên:



-Ta thật lòng chân thành tạ ơn các đệ tử. Điều đó là ý Thánh.



-Dạ.



- Ta giao việc trọng này cho các đệ tử. Xin cáo về tư gia.



Pháp Có đi rồi còn lại ba bậc công danh tôn tạo đền Lân ngồi lại bàn việc lớn. Thị Lơ nói:



- Theo Điều lệ mới, Đại hội đồng con nhang đệ tử toàn tổng đuợc quyền ủy thác cho con nhang đệ tử làng Quao bầu ra Thầy Cúng Nhân Dân.



-Đúng. Hội đồng con nhang đệ tử làng Quao họp toàn thể bầu Thầy Cúng Nhân Dân là hợp lệ, là dân chủ.



-Đúng. Đúng. Thị Loan khẳng định.



-Đúng. Đúng. Đúng.



Tháng Qúy Hợi, Ngày Bính Ngọ, Giờ Mậu Tý, Hội đồng con nhang đệ tử làng Quao họp chật lễ đuờng nhưng trật tự và im lặng, tuyệt nhiên không có nguời cuời nói chuyện riêng, ai nấy hớp hồn lắng nghe thị Loan trình thuyết:



-Thưa các bậc tu nhân tích đức. Tôi được sự chỉ giáo của Đại đức giao họp mặt các chư vị tại đây vào thời khắc thiêng liêng này để bàn thảo một việc hệ trọng nhất. Như chư vị đã biết, Đại đức Có là bậc tu nhân tích đức đã hiển Thánh lập nên bao kỳ tích chói sáng. Chỉ nói ngôi đền chúng ta hiện diện to đẹp nhất Hà Lâu tổng, không những thế mà còn to, đẹp hơn cả tòa thị chính huyện, to, đẹp hơn cả đình làng Quao, ngôi đình đã được ghi danh thiên cổ, đủ nói lên công lao trời biển của Ngài.Vậy nên ý Thánh muốn ghi danh công trạng. Tôi xin mạo muội nói rằng, các chư vị có mặt tại đây vào thời khắc thiêng liêng này, không ai là không tán đồng, vạn người một ý, hưởng ứng công danh người suốt một thập niên cắn cỏ ăn mày cửa thánh, lập công đức cho muôn đời sau một lá phiếu bầu danh hiệu Thầy Cúng Nhân Dân cho vinh danh đền Lân vạn phúc. Nếu chư vị nhất hô, nhất ủng xin một cánh tay thần diệu giơ cao biểu tượng linh ứng một con nhang tận trung, tận bái.



Thị Loan vừa dứt lời, lập tức những cánh tay giơ thẳng lên như những bông sen năm cánh xòe nở biểu tượng sự thống nhất. Một khối nguời vút đứng lên nhìn thẳng Tòa Tam bảo tụng năm điều an phước. Kết thúc việc đại đức công minh hiển thánh, các con nhang đệ tử ra về tâm thành vui như Hội Đại Kỳ phước loan báo ngay tin Đại đức Có được vinh danh danh hiệu Thầy Cúng Nhân Dân nhanh như gió, sâu như biển.



Thông báo tin con nhang đệ tử làng Quao bầu pháp Có danh hiệu Thầy Cúng Nhân Dân khiến thiên hạ phì cười phải ôm chặt bụng không thì vỡ tung lúc nào không hay nữa.Thế là từ đây, trên dương thế có danh hiệu Nhà Giáo Nhân Dân, Thầy Thuốc Nhân Dân, Nghệ sỹ Nhân Dân, bây giờ có thêm danh hiệu Thầy Cúng Nhân Dân quả thật không thể tưởng tượng được chuyện tức cười, vô bổ ấy lại diễn ra ở làng Quao đúng vào thời điểm ấy. Nếu không dẹp, ắt chuyện này biến thành chuyện Tiếu lâm hiện đại.

Vực thẳm

Người tôi gặp đầu tiên trong chuyến về thăm làng sau ngày hòa bình lập lại là Hức. Tôi chào gã nhưng gã chẳng hé răng, chỉ giương đôi mắt trắng dã lên nhìn tôi, vẻ hung dữ. Mẹ tôi bảo: "Chấp nó làm gì, nó điên đấy!".



Những cơn điên của Hức thật đáng sợ. Gã đi dọc làng, chân tay múa may, nói lảm nhảm không ngớt. Thỉnh thoảng gã lại gào lên. Gã đập nát tất cả những gì gã nhặt được trên đường. Vô phúc đứa trẻ nào chạy theo, trêu chọc gã, gã tóm được là bị ăn đòn ngay. Có lần, gặp một cô hàng thuốc lào, gã tụt ngay quần ra, đứng chạng háng ở giữa đường và cứ thế cười lên sằng sặc... Sau khi đã kiệt sức, gã đi lại lừ đừ, thất thểu về cái quán hoang ở đầu xóm, nằm gục xuống, ngủ như chết. Cho đến khi cơn đói đốt cháy bụng gã lên, gã mới tỉnh dậy. Gã dụi mặt, nhìn gian quán trống trơn một lượt rồi lùi lũi ra đi. Gã lên phố huyện, vào hàng cơm, ngồi riêng một bàn, đàng hoàng và cứ giương đôi mắt trắng dã lên nhìn những người chạy bàn. Người ta phải cho gã ăn. Xong, gã đi phất phơ quanh phố. Có lần, ở bến ô-tô, gã gặp một ông hàng bánh dày gánh hai hòm kính để phơi ra những chồng bánh trắng muốt. Gã thèm quá, liền tới gần người đi xe rơm cho công trường đê đang ngồi nghỉ bên lề đường và nói với ông cụ già nhất:



- Ông cho cháu xin vài trăm, cháu mua bánh về ông cháu ta cùng ăn cho vui nào!



Gã làm hai miếng, hết gọn đôi bánh. Và gã lại chìa tay ra, nhăn nhó cười:



- Chỗ ông cháu ta, đàn ông đàn ang với nhau, chẳng nhẽ ông để cháu đi xin bọn đàn bà, xấu hổ bỏ mẹ!



Nói tóm lại, khi nổi cơn điên gã như một tên say máu và khi cần kiếm ăn gã lại có đủ mánh khóe của một tên lưu manh thạo đời. Tuy vậy, cũng có những lúc gã tỉnh táo và tỏ ra biết điều. Những lúc đó gặp ai trên đường gã cũng nép sát vào tường, chào hỏi cẩn thận rồi cúi gầm mặt xuống, nhìn né đi chỗ khác. Gã biết điểm mặt từng người trong làng xem có thể đến nhà ai, xin được cái gì.



Nhà tôi thuộc số gia đình gã thường hay lui tới xin xỏ nhất, vì mẹ tôi vẫn thường giúp gã, đã hàng chục năm nay.



Gã vốn con nhà nghèo, mồ côi cha mẹ từ nhỏ, phải đến ở với ông xã Thịnh là bác ruột. Ông xã Thịnh giàu có nhưng cả hai vợ chồng đều keo kiệt, thấy nuôi gã chẳng béo bở gì nên càng về sau đối với gã càng tồi tệ. Lúc nhỏ, chưa biết gì, gã đành cam chịu, bị chửi mắng nhiều quá thì trốn vào một xó, nằm khóc, thế thôi. Lớn lên, gã lì ra, gã cãi lại và khi đã trưởng thành, gã phản kháng ra mặt, gã bỏ nhà ra đi. Gã lên phố huyện đẩy xe bò thuê hoặc làm các việc linh tinh khác.



Cũng có khi ông xã Thịnh cần người làm đi gọi gã về, cũng có khi vì đói bụng gã tự bò về, nhưng chỉ được một thời gian ngắn rồi đâu lại hoàn đấy. Gã như con ngựa bất kham và cứ hư hỏng dần. Về làng, gã để cái đầu bù xù, tóc mai dài và nhọn hoắt, áo bao giờ cũng phanh cúc ngực. hễ chó nhà ai xồ ra cắn là gã nhặt gạch ném văng mạnh vào sân nhà người ta và trợn mắt lên quát:



- ồ, ồ... mẹc-xà-lù, cu-sông!



Gã đọc tiếng tây cứ thoắng đi. Ai diễu cợt hoặc tỏ ra nghi ngờ là gã sinh sự rồi nhổ toẹt và nói:



- Suốt đời chỉ ru rú ở nhà rúc váy vợ, biết cái đếch gì!



Nhưng gã năng lên phố huyện còn vì một duyên cớ khác nữa.



Tôi có người chị họ tên là Nuột. Nuột sợ làm ruộng nên đem mẹ già lên phố huyện, đi bán quà bánh ở bến ô-tô. Nhờ gánh hàng, không phải dầm mưa, dãi nắng, Nuột phổng phao hẳn lên, hai cánh tay để trần cứ trắng ngồn ngộn. Chiều đến, Hức thường diện bộ cánh thật bảnh, chải đầu bằng nước lã rồi lượn qua, lượn lại trước hàng Nuột. Gã mua đĩa lạc luộc hoặc dăm cái kẹo bột ngồi ăn và liếc mắt cười tình với chị. Ban đầu, chị nguýt gã và chỉ muốn xua đuổi gã đi. Nhưng càng thế gã càng ngồi dai, đôi mắt gã càng sáng long lanh, nhấm nhảy đủ các trò. Nuột không sao cưỡng lại được, chốc chốc lại phải ngước nhìn gã một cái thật nhanh, hai má đỏ ửng. Tuy vậy Nuột thừa biết Hức xác như ve, lại lông bông nên chỉ đối đãi với gã vừa đủ mức giữ gã làm khách hàng. Mấy bác ét ô-tô, phu kéo xe nhà, anh nhỏ ở hiệu thuốc bắc... chiều chiều cũng thường ra đây ve vãn Nuột. Nuột chẳng màng ai. Lúc nào chị cũng mơ tưởng đến cảnh sống của anh chủ hàng cơm ở trước bến ô-tô: Chồng đứng chặt thịt chó côm cốp, vợ ngồi canh nồi nước xáo, cả hai cứ béo mẫm ra...



Một hôm, trời trở lạnh, thấy Nuột chít cái khăn vuông bạc phếch, ngồi co ro, Hức liền tán:



- Tớ có cái khăn vuông len đẹp lắm, hôm nào tớ đưa cho đằng ấy chít, chít cái khăn kia phí hoài cả đời người đi!



Nuột bĩu môi:



- Tôi thì thèm vào của nhà anh!



- à hà, thèm và... ào... à?



Hức cười ngật ngưỡng rồi bỏ đi. Hôm sau, gặp phiên chợ, bến ô-tô chật ních người. Hức trông thấy một bà lái buôn béo ị, đang chen vào chỗ lấy vé xe, mồ hôi ướt đẫm tấm lưng to bè, chiếc khăn vuông len kẻ ô vuông tụt xuống, vướng hờ ở trên vai. Hức xoáy luôn chiếc khăn vuông len nọ...



Từ đấy, Hức sinh ra trộm cắp. Gã bị đội xếp bắt giải về làng, giao trả ông xã Thịnh. Và cũng từ đấy ông xã Thịnh có cớ để trút tất cả mọi tội vạ lên đầu gã. Ông ta xỉ vả gã thậm tệ, làm như từ xưa tới nay vợ chồng ông vẫn đối xử với gã tốt nhất trần đời và tống gã xuống ở xó nhà ngang, cạnh chuồng trâu. Gã chẳng nói năng gì hết, nhưng thỉnh thoảng lại cuỗm của nhà ông ta một mẻ các đồ dùng đáng tiền và chuồn đi. Dần dần, gã quấy nhiễu đến những nhà khác, những nhà thường tỏ ra đồng tình với ông xã Thịnh, miệt thị gã, ruồng rẫy gã.



Riêng đối với gia đình tôi, gã vẫn rất tử tế. Mẹ tôi vốn sẵn lòng thương người nên thường tỏ ra ái ngại cho cái tình cảnh khốn khổ của gã và lựa lời khuyên bảo gã điều này, điều khác. Vả lại gã còn muốn nhờ mẹ tôi làm mối cho đám chị Nuột tôi. Bấy giờ, thấy mẹ tôi nhận lời giúp gã tôi cứ ngấm ngầm cáu mẹ tôi, tội gì mà lại chuốc vạ vào mình, gã chẳng tốt đẹp gì mà chị Nuột tôi cũng vậy... ấy thế mà, thật không ngờ, về sau chính tôi lại là người vun vén cho họ.



Cuộc kháng chiến nổ ra được hơn một năm thì địch tràn đến chiếm đóng phố huyện, chỉ còn cách làng tôi tám cây số.



Mẹ chị Nuột tôi đã chết, chị trở về làng và đến ở nhờ nhà tôi. Ông xã Thịnh, cũng như nhiều gia đình giàu có khác trong làng đã tản cư đi xa, chỉ còn mình Hức ở lại trông nom nhà cửa và, theo lời ông ta nói, thay mặt gia đình ông đóng góp vào công việc hàng xã. Bấy giờ, phong trào làng tôi đang lên cao. Người ta bận rộn túi bụi suốt ngày về việc chặt tre rào làng, đào giao thông hào, đắp ụ, đục tường nhà mở lối đi bí mật... Ðêm đến lại tập mã tấu ở sân đình cho tới khuya và ngủ tập trung đầy cả dãy tảo mạc. Ngoài những việc ấy ra, hầu như tất cả mọi việc khác đều bị ngừng trệ. Thằng Tây đã đóng ở phố huyện rồi, chỉ nay mai là nó sẽ tiến đến đây, nếu mình không giết nó thì nó sẽ giết mình. Hoàn cảnh ấy đã tạo nên một tâm trạng chung hết sức căng thẳng đồng thời cũng tạo nên nhu cầu phải hành động thực mạnh mẽ, giản dị và rõ ràng.



Các cô gái làng, bạn bè cũ của chị Nuột tôi đã lôi cuốn chị vào phong trào. Thỉnh thoảng chị lại mở cái hòm gỗ đỏ cũ kỹ của chị ra, giở cho tôi xem những bộ quần áo đẹp nhất của chị, chiếc khăn vuông len kẻ ô vuông và các thứ vặt vãnh khác toàn là của giai cho và chị thở dài, vẻ nhớ tiếc điều gì không bao giờ còn trở lại nữa. Nhưng rồi chị vẫn tặc lưỡi, nói với tôi:



- Thôi, chú cầm lấy mấy nghìn bạc này đi mà đong thóc xay cho anh em du kích ăn.



Một đêm, vào khoảng khuya, tôi đi ra vườn, thình lình bắt gặp Hức đang trèo tường vào nhà tôi. Tôi im lặng. Gã lén đến đến nếp nhà ngang, nơi chị Nuột tôi ở, cào tay vào cánh liếp, chốc chốc lại khẽ gọi, nghe rền rĩ và tha thiết. Nhưng chẳng ăn thua gì, gã bực bội nhổ toẹt rồi quay ra. Tôi gọi giật gã lại:



- Anh Hức!



Hức giật mình, đứng sững, lúng túng nhìn tôi và cười ngượng nghịu. Lúc ấy trông gã hiền lành và dễ thương quá.



Tôi bảo gã, đùa hơn là thật:



- Anh cứ vào du kích đi rồi tôi nói giúp cho!



ít hôm sau, gã xin vào du kích thật. Tôi đâm hoảng nhưng cũng đành phải nhận gã vào trung đội của tôi. Gã làm chúng tôi thật vất vả. Gã chẳng biết tí gì về quân sự nhưng lại hay lên mặt dạy khôn anh em. Nói gã, gã phát khùng, gây sự với người ta hoặc buông bịch ra đấy. Nhưng anh em cũng dễ tha thứ vì gã có cái hăng hái riêng của gã. Ðầu tiên, gã thịt luôn con chó mực to tướng của nhà ông xã Thịnh cho trung đội chén một bữa no say. Trong làng, còn bao nhiêu chó vô chủ gã đều lần lượt cho ăn bả, lăn quay ra chết sạch. Bả chó gã làm thật tuyệt nhưng anh em tránh không nhắc đến việc này sợ chạm đến những chuyện xấu xa của gã. Gã lôi ở trong nhà ông xã Thịnh ra tất cả bộ đồ phòng cướp như dáo mác, đinh ba, dao quắm đem cho trung đội hết. Tôi đề nghị xã đội biểu dương gã. Gã lại càng vênh váo với anh em, nhưng cũng chẳng sao vì cái chính là gã đã tỏ ra có ý thức và có trách nhiệm trong công tác. Cứ sau mỗi phiên gác đêm gã lại báo cáo tỉ mỉ với chúng tôi đêm đó có tiếng moóc-chiê địch câu về làng nào, có ánh lửa cháy ở vùng nào. Những điều gã phỏng đoán đều đúng hoặc chỉ xê dịch chút ít.



Tôi bắt đầu nói hay cho gã trước mặt chị Nuột tôi. Ban đầu, Nuột nguýt tôi:



- Ðang đánh nhau đì đùng khắp nơi, chú toàn nói chuyện tầm phơ!



Sau, Nuột chỉ im lặng. Tôi biết ý, liền bảo Hức:



- Ðêm nay anh em chúng tôi đi họp vắng cả, ở nhà chỉ có mẹ tôi với chị Nuột tôi, anh cứ đến mà nói chuyện.



Ðịch đã mở một chiến dịch càn quét mới. Máy bay của chúng liên tiếp đến khủng bố các làng kháng chiến trong vùng.



Giữa tiếng bom nổ rền, trong bầu không khí khét lẹt mùi lá gồi cháy, bên cạnh những thây người bị xé ra từng mảnh, thịt bay cả lên ngọn cây, cả Hức và chị Nuột đều nhìn thấy rõ cái chết hiện ra lừng lững ngay trước mặt và để chống lại sự đe dọa khủng khiếp đó họ đã xích lại gần nhau. Vào những đêm yên tĩnh, lại không đến phiên gác, hai người thường rủ nhau ra ngồi trò chuyện ở những nơi vắng vẻ.



Gã nắm chặt lấy tay Nuột, nhìn Nuột đắm đuối, còn Nuột thì cúi đầu xuống, đôi mắt lim dim, miệng mỉm cười. Một lần gặp nhau không kìm hãm được mình nữa, Hức ôm choàng lấy Nuột, áp chặt chị vào gốc sung bên bờ ao nhưng chị vội vàng đẩy Hức ra, chạy thẳng một mạch về nhà. Nhưng vài hôm sau, trong buổi tập đào hố chông, Hức khẽ chít vào cánh tay Nuột một cái, nháy mắt ra hiệu, Nuột lại lẳng lặng trốn các bạn bè ra chỗ hẹn với Hức.



Bấy giờ, trong số người hăng hái hoạt động có thím hai Ðắm. Chồng thím là thợ mộc, quanh năm xách tràng đục đi ăn cơm thiên hạ. Thím đã có hai mặt con nhưng vẫn chê chồng. Ðã thế chồng thím lại bị mắc nghẽn tận bên phủ Thường từ mấy tháng nay, giờ gẫn chưa thấy tăm hơi gì. Vốn người khỏe mạnh lại đa tình nên thím chẳng thể nào chịu mãi cái cảnh nằm suông. Thời gian rào làng, thấy Hức cứ lách vào giữa bụi tre, chọn những cây to mà chặt rồi lôi ra phăng phăng, vác gọn ba, bốn cây một chuyến, thím hai Ðắm đâm ra mê gã. Thím đi tìm mua kỳ được thứ thuốc lào ngon nhất rồi rình những lúc vắng vẻ, thím sán lại gần Hức, dúi vào tay gã. Gã nghĩ bụng: "Của giời cho, tội gì chẳng nhận!". Nhưng gã chỉ bông lơn với thím cho vui chuyện thôi.



Một đêm, Hức đi đặt lờ về, ngang qua nhà thím hai Ðắm, thấy trong bếp có ánh lửa, lại nghe tiếng người gọi tên mình khe khẽ, gã liền rẽ vào. Thím hai Ðắm thì thào với gã:



- Mới mua được phong thuốc lào Vĩnh Bảo ngon lắm. Hút thử mà xem.



Cái thứ thuốc lào quái quỷ này ngon thật. Nó sắc nước, nặng mà lại êm. Hức đang lạnh, rít một hơi dài, thấy người choáng váng rồi ngã quay lơ. Lúc sau, tỉnh lại gã thấy mình nằm gối đầu lên đùi thím hai Ðắm. Cái bếp lửa nấu cám lợn đã tắt ngấm từ bao giờ, chỉ còn ngọn đèn vặn nhỏ như hạt đỗ, xanh lè, để sát vách. Thím hai Ðắm ngồi cúi gập mình xuống, phả cả hơi thở nóng hổi vào mặt Hức, khẽ nói bằng một giọng run run:



- Hết say rồi à?



- Hết rồi.



- Hết rồi thì đi ngủ nhá?



- Không...



- Không thì bú tí vậy nhá?



Nói rồi thím hai Ðắm vạch ngay yếm ra. Trong bóng tối mờ mờ, Hức trông thấy bầu vú trắng, to tròn và hơi chảy xệ xuống của thím hai Ðắm và bàn tay thím nâng bầu vú ấy lên, vẻ chờ đợi. Hức thấy lòng mình nóng cháy lên, cổ họng se lại, khắp người buồn buồn như có kiến bò. Gã định chộp lấy bầu vú nhưng liền ngay lúc ấy gã kìm mình lại rồi đột ngột, gã vùng đứng dậy, hất mạnh tay thím hai Ðắm ra. Gã cắm đầu đi một mạch về nhà, vừa đi vừa nhổ toèn toẹt, ngực áo phanh ra, mặc cho gió lạnh ùa vào.



Sau đêm ấy hai người không bao giờ giáp mặt nhau. Hức chẳng lấy thế làm tiếc rẻ. Gã còn đang say đắm Nuột. Từ nhỏ, gã vẫn thèm khát hơi ấm của gia đình, của những người thân và bây giờ chính Nuột đã mang lại cho gã. ở đội du kích, Nuột sống xa cách hẳn việc chợ búa với đủ các thói bon chen, mưu lợi. Nuột cũng ra đồng làm với chị em.



Chị làm không đến nỗi kém, nhưng chân tay chị trắng quá, bạn bè cứ xúm vào trêu ghẹo và dọa chị nếu có đi gác đêm phải cẩn thận không có Tây nó bắn chết toi. Chị vừa ngượng vừa sợ. Chị cố làm cho chân tay mình chóng bắt nắng. Chị lại giống như các cô gái khác trong làng.



Giấc mơ về anh chủ hàng cơm không còn ám ảnh chị nữa, những lời tán tỉnh của mấy gã đàn ông trăng hoa ngoài bến ô-tô cũng không còn làm xiêu lòng chị nữa và chị đã yêu Hức với tất cả những gì tốt đẹp của một cô gái làng nghèo khổ, côi cút, còn sót lại và đang sống dậy trong lòng chị.



Ðợt càn quét của địch vẫn kéo dài. Chúng tiến đến làng La, chỉ còn cách làng tôi một cánh đồng và đóng quân lại ở đình. Chúng tôi cần cấp tốc tổ chức điều tra tình hình địch để định kế hoạch tác chiến. Hức khăng khăng một mực đòi đi. Gã đi vào khoảng gần nửa đêm, đến tờ mờ sáng thì về, bùn lấm suốt từ đầu trở xuống. Về tình hình địch canh phòng, quân số và vũ khí gã nắm không được rõ ràng cho lắm nhưng để bù vào đó gã mang về một bọc bánh mì và vô số thịt hộp. Thì ra, lọt qua trạm gác gã đã mò vào tận bếp của địch, lục lọi hồi lâu rồi mới chịu ra. Gã giảng giải huyên thuyên cho chúng tôi nghe về các thứ thịt hộp.



- Còn đây là xi đánh giầy - gã vứt ra mấy thỏi gì đó mầu nâu nâu và nói, vẻ thành thạo - mẹ kiếp, xi đánh giầy mà cũng bọc giấy bóng với giấy bạc.



Ðồng chí cán bộ huyện đội có mặt ở đó nhìn gã, tủm tỉm cười rồi nhặt lấy, bóc ra ăn ngon lành. Gã nhăn mặt chê bẩn. Ðồng chí ấy bảo đó là xúc-cù-là. Chúng tôi cũng ăn. Rồi cuối cùng gã cũng ăn nốt. Nhưng gã vẫn khăng khăng cãi rằng trên đời chẳng có thứ gì gọi là xúc-cù-là.



Sau chuyện này tôi theo đồng chí cán bộ về huyện rồi đi công tác thoát ly. Trong những năm dài sống xa quê hương tôi thường hay nghĩ đến Hức. Gã chưa phải là một đội viên du kích tốt nhưng ít ra thì gã cũng đã tránh xa được cái vực thẳm tội lỗi mà trước gã vẫn lảng vảng ở trên bờ. Nhưng, ngày nay, tôi trở về làng gặp lại gã thì gã đã rơi xuống đáy vực từ bao giờ...



Mẹ tôi bảo:



- Thằng Hức nó biết anh về rồi đấy. Nó là thằng dại, mình là người khôn, nó đã hỏi mình, mình cũng nên giả nhời nó, kẻo nó tội nghiệp!



Một buổi sáng, đi qua cửa quán, tôi thấy gã đang ngồi co ro sưởi nắng, hai bàn tay đen đủi vuốt ve một cách trìu mến con mèo cái già không biết của nhà ai nằm ở dưới chân, tôi liền rẽ vào. Tôi hỏi gã:



- Anh có nhận ra tôi không?



Gã không trả lời, chỉ ngẩng lên nhìn bằng đôi mắt tinh khôn và nở nụ cười gượng gạo nhưng ngay thật. Tôi đem cho gã một bó rơm khô để rải ổ. Gã cảm ơn tôi và nói:



- Tôi phơi thêm một nắng cho thật nỏ đã rồi mới rải.



Tôi cùng gã rũ rơm ra góc sân. Con mèo cái già ngồi thu hình dưới nắng, ngay phía trước, đôi mắt lim dim, thỉnh thoảng lại khẽ kêu "gừ... gừ". Gã thường sẻ phần ăn gã xin được cho con mèo và con mèo trở nên thân thiết đối với gã. Nhìn con mèo, tôi nghĩ đến cảnh cô độc của gã, bỗng thấy ái ngại. Xã Thịnh, trong thời gian địch chiếm đã ra làm lý trưởng tề và bây giờ hắn ta cùng các con giai đã đi Nam cả, chỉ còn bà vợ và đứa con gái nhỏ ở lại. Bà này đã từ gã, chỉ thỉnh thoảng nhắc đến gã bằng vài câu thương hờ. Tôi hỏi thử:



- Sao anh không về ở nhà xã Thịnh có phải hơn không?



Gã chẳng nói sao, chỉ nhổ toẹt một cái, mặt sa sầm.



Tôi nói:



- Ðời người ta thay đổi kể cũng nhanh. Hồi tôi đi anh vẫn còn trẻ măng. Tôi vẫn còn nhớ rõ mồn một cái đêm anh trèo tường vào vườn nhà tôi...



Nghe nhắc đến chuyện trèo tường gã quay lại nhìn tôi một thoáng rồi vội quay đi, vẻ giận dữ. Một cơn gió nổi, ném một chiếc lá vàng xuống trước mặt chúng tôi. Con mèo liền chồm tới, vờn chiếc lá đang xoay tròn. Cùng lúc ấy, đột nhiên Hức ném cái gậy gẩy rơm về phía con mèo và hét lên:



- Mẹ cha mày!



Tôi vội nhặt lấy cái gậy. Gã liền sấn tới, định giằng lại. Mặt gã đỏ bừng, đôi mắt sáng lên vẻ man rợ, trán nhíu lại và một bên mép cứ giật lên.



Tôi đinh ninh chẳng còn dịp nào để trò chuyện với gã nữa, không ngờ sau đó chính gã lại tìm đến tôi. Một đêm trời lạnh, cả nhà tôi ngồi quây quần quanh bếp lửa rang ngô ăn. Chợt tôi trông thấy gã đứng mé ngoài cửa bếp tự lúc nào và đang nhìn vào, vẻ mặt hiền lành, đôi mắt chăm chú đầy vẻ thèm khát.



Tôi liền chạy ra, kéo gã vào trong bếp. Gã ngoan ngoãn nghe tôi nhưng nhất định không chịu ngồi chung với chúng tôi, chỉ chìa tay nhận vốc ngô rồi ngồi lùi lại phía sau. Ăn xong, gã nằm quay lơ ra ngủ, đầu vùi trong đống rạ. Khi cả nhà tôi đã lên nhà trên, tôi khẽ lay gã dậy, bảo gã về kẻo khuya.



Gã ngần ngừ một lúc rồi nói:



- Anh cho tôi ở đây có được không? ở đây có lửa ấm...



Rồi gã cứ ngồi nhìn trân trân vào đống than hồng trong bếp. Lát sau, gã khẽ nói:



- Hôm nọ tôi chửi anh thế, anh có giận tôi không?



- Chẳng việc gì mà giận.



Gã cúi mặt, tỏ ra ân hận. Tôi liền gợi:



- Anh có nhớ ở cái nền bếp này trước nó thế nào không?



- Có cái nhà ngang ba gian.



- ừ, cái nhà ngang chị Nuột tôi vẫn ở đấy.



Gã im lặng.



- Anh có biết chị Nuột tôi bây giờ ở đâu không?



Gã thở dài đánh thượt một cái và lắc đầu:



- Không.



- Anh không nói dối tôi được đâu. Anh hãy kể cho tôi nghe tại sao anh và chị Nuột tôi...



Ðột nhiên gã đứng phắt dậy, chửi một câu gọn lỏn: "Con mẹ nó!", rồi không hiểu ngẫm nghĩ thế nào gã lại ngồi xuống và gã bắt đầu kể cho tôi nghe những điều gã còn nhớ được...



Chuyện gã kể không đáng tin cậy một chút nào nhưng dù sao nó cũng rất có ích cho việc tìm hiểu một con người phức tạp như gã. Tôi sẽ nói rõ điều này ở đoạn sau. Bây giờ, trước hết tôi hãy kể lại câu chuyện thực về gã mà bà con trong làng đã cho tôi biết.



Sau khi tôi đi được ít lâu, làng tôi bị địch chiếm. Ðội du kích bị thiệt hại nặng, tan rã ra từng mảng, những phần tử trung kiên phải rút vào bí mật, còn thì mạnh ai nấy chạy. Hức theo một số người trốn sang bên kia sông Ðáy. Hơn nửa năm sau, nghe nói làng đã lập tề, gã trở về. Gã không còn được gặp Nuột. Nuột chạy lên phố huyện. Nuột gặp một chị bạn buôn cũ, nay mở cửa hàng giải khát và ở nhờ nhà chị ta. Cửa hàng mới mở nhưng lính ngụy kéo đến suốt ngày nên lời lãi cũng khá. Nghĩ phận mình thân cô thế cô, đã mấy lần Nuột định trở về làng, dựa dẫm vào bà con. Nhưng cái không khí buôn bán ồn ào, những món lời, những lời tán tỉnh giăng hoa của khách hàng trong lúc say sưa... cứ giữ Nuột lại. Chân tay Nuột lại dần dần trắng trẻo ra. Chị bạn Nuột có đứa em trai tên là Bạo, đi lính bảo hoàng, đóng ở bốt La thường vẫn về chơi và làm thân với Nuột. Bạo đẹp giai, ăn nói có duyên, lại có tiền. Chị em Bạo giúp Nuột xin môn bài, cho vay vốn và Nuột cũng đã trở thành cô bán hàng giải khát có một gánh hàng nho nhỏ, hai cái bàn và bốn chiếc ghế dài kê ngay dưới gốc bàng, xế cửa hàng của chị Bạo. Cuộc sống cũ đã trở lại và những mộng ước cũ cũng đã trở lại với Nuột. Chị vấn tóc trần, mặc áo phin nõn nhuộm gụ, hai bên xẻ tà để hé ra mẩu áo lót trắng bong. Tai chị lủng lẳng đôi khuyên vàng của Bạo cho. Chị đã quên Hức...



Một hôm Hức vào hàng Nuột. Hai người cùng đứng sững nhìn nhau và cùng im lặng. Hức lấy một chai bia, tự mở nút, ngửa cổ tu ực một hơi hết sạch. Gã chờ xem Nuột có nói gì không. Nhưng Nuột chẳng nói gì. Gã giận quá, đặt phịch cái vỏ chai xuống quầy hàng, chìa mấy tờ giấy bạc ra trước mặt Nuột, nói rít qua kẽ răng:



- Tiền!



Nuột tái mặt đi, bàn tay nắm chặt mép quầy hàng cứ run lên làm cho thìa, cốc chạm vào nhau kêu lách cách và chị lắc đầu, khẽ nói, nghe không ra hơi nữa:



- Không!



Hức giận điên người. Một bọn lính đã kéo đến hàng Nuột. Chúng có súng, lại đông... Hức đành lủi thủi về làng.



Ban đầu Hức nghĩ: "Chậc, báu gì cái quân tham vàng bỏ ngãi ấy. Hừ, kệ mẹ nó, nó muốn đi theo thằng nào thì đi!".



Nhưng Hức càng muốn quên đi bao nhiêu thì hình ảnh Nuột càng hiện ra rõ ràng bấy nhiêu trong trí nhớ của gã. Gã vừa yêu, vừa căm giận Nuột. Rồi gã đâm ra căm giận tất cả bọn đàn bà. Giả thử bây giờ có một người nào đó như thím Ðắm chẳng hạn đến với gã, gã chẳng ngần ngại gì mà không dằn ngửa thị ra cho thỏa cơn thèm khát rồi gã sẽ bóp cổ cho thị chết thè lưỡi ra. Nhưng gã chờ đợi chỉ uổng công. Một số anh em du kích hoạt động bí mật vẫn gần gũi Hức. Nhưng Hức tỏ ra hờ hững. Gã muốn phải làm loạn phố huyện lên và gã biết những người du kích chẳng thể nào chiều ý gã. Vào du kích, gã sẽ phải làm những việc khác...



Thế là Hức biến khỏi làng. Gã xin vào lính. Gã không vào lính bảo hoàng mà vào lính pa-ra- suýt (Lính nhảy dù) đóng tại một bốt lớn trên đê sông Ðáy. Gã định bụng chỉ đi lính khi nào trả thù xong tên Bạo thì thôi. Ngày phiên chế đến đơn vị, đội Hiền, cấp trên chỉ huy trực tiếp của Hức hỏi Hức:



- Sao chú mày lại xin đăng lính?



- Giận đời thì đăng!



Ðội Hiền phá lên cười, vẻ thích thú.



Sau khi biết chuyện của Hức, đội Hiền cho gã một con dao găm và khích gã:



- Con dao này mà đâm trúng ngực thế nào cũng lọt tới tim. Chúc cho chú mày được toại nguyện.



Những phiên chợ La người ta thường thấy Hức mặc bộ quần áo loang lổ, đội mũ lá vả, vai đeo súng, diện giầy đinh cùng với mấy tên lính pa-ra-suýt đầu trâu mặt ngựa khác đi nghênh ngang. Hức uống rượu say túy lúy. Gã uống rượu để giải sầu và để nung nấu thêm mối thù trong dạ. Một phiên chợ, Hức trông thấy Bạo cùng lũ bạn của nó ngồi trong hàng thịt chó. Hức liền lừ lừ đi tới, rút dao găm ra và nói, giọng rít qua kẽ răng:



- Bạo! Sao mày dám cướp vợ tao?



Hức giơ dao lên. Nhưng chính trong khoảng khắc quyết định đó Hức bỗng thấy lạnh buốt ở sau lưng, bao nhiêu ý nghĩ táo tợn thoắt tan biến, gã đâm ra run tay, đường dao hạ xuống đến nửa chừng thì hơi chệch đi và cắm phập xuống mặt bàn. Bạo tái mặt, rồi trấn tĩnh được ngay, hắn liền chồm tới cướp lấy con dao. Hai người giằng co nhau cho đến khi nghe tiếng lưỡi dao gẫy đánh khấc, cái sức mạnh hung bạo trong người Hức vừa dịu xuống lại trỗi dậy. Hức với ngay cái vỏ chai rượu để trên bàn đập mạnh vào mặt Bạo. Bạo thét lên một tiếng ngắn, ngã sấp mặt xuống bàn và trong giây phút đó Hức thấy có một cái gì đỏ lòe hiện ra...



Bọn lính pa-ra-suýt vốn là đàn anh trong tất cả các loại lính ngụy nên Hức chỉ bị phạt giam ba hôm cho có chuyện.



Hết hạn giam, vừa về tới đơn vị, đội Hiền đã vỗ vai gã, nhếch mép cười và nói:



- Anh buồn cho chú mày quá, chú mày làm uổng cả công rèn dao của anh!



Hức nhìn đội Hiền, vẻ buồn rầu, không nói gì cả.



- Chú mày sợ à!



Hức cúi mặt xuống. Lát sau gã bỗng ngẩng phắt đầu lên, dằn giọng nói:



- Không, tôi không sợ! Rồi tôi sẽ giết chết thằng Bạo cho anh xem!



Chắc chắn là lúc này gặp Bạo, Hức chẳng ngần ngại gì mà không đâm chết nó.



Nhưng Bạo biết mình kém vế đã xin đổi về làm lính hầu cho tên quận trưởng, không bao giờ ló mặt ra khỏi phố huyện.



Mối thù chưa trả được và những lời kích động của đội Hiền làm cho lòng gã luôn luôn nhức nhối không yên. Tay gã đã vấy máu Bạo. Máu ai cũng chỉ đỏ đến thế mà thôi. Dù có dúng cả cánh tay vào máu đi nữa gã cũng chẳng còn ghê sợ.



Tuy vậy, sau mỗi trận càn, càng bắn giết, đốt phá bao nhiêu gã lại càng thấy mỏi mệt, rời rã bấy nhiêu. Một nỗi buồn nặng nề, vô duyên cớ, cứ dâng lên tràn ngập trong lòng gã. Gã nghĩ vẩn vơ. Gã nhớ tới Nuột, nhớ cả thím hai Ðắm.



Nhưng cả hai người ấy đều đã tuột khỏi tay gã. Gã tự giận mình trước đây sao ngờ nghệch quá. Gã đâm ra thèm khát, không sao kìm hãm lại được. Và gã đi tìm đàn bà...



Ngày lại ngày cứ thế trôi qua và gã đã trở thành một người khác hẳn.



Mùa thu năm 1953, địch mở trận càn quét lớn vào khu du kích vùng quê tôi. Hầu như tất cả các đơn vị Âu Phi và ngụy binh đóng trên phòng tuyến đê Ðáy đều bị huy động vào cuộc càn quét này. Chúng dàn quân, giăng kín bốn mặt, cùng tiến sâu vào khu du kích, nhằm cất vó cán bộ ta ở làng Chanh. Chiều hôm thứ ba của cuộc càn quét, đơn vị Hức dừng lại ở một làng chỉ còn cách làng Chanh một cánh đồng. Sự chống cự quyết liệt của du kích và cảnh hoang vắng của cả cái vùng rộng lớn này khiến cho Hức mệt mỏi rã rời. Gã muốn bắn giết, đốt phá, hãm hiếp cho chân tay đỡ buồn bực và lòng khỏi thấp thỏm lo âu. Các đơn vị đã chuẩn bị xong chỗ đóng quân, Hức lánh mặt đồng đội, một mình đi tha thẩn về phía cuối làng, nơi đó những đơn vị tới sau đang dồn ứ cả lại. Gã đi tới gần một cái cổng xóm đổ, thình lình gặp Bạo từ trong ngõ đi ra. Gã đứng sững ngay lại. Gã nhìn thấy một vết sẹo dài, bóng loáng trên trán Bạo, ăn lằn xuống tận lông mày.



Ðúng là vết sẹo do Hức đập chai rượu vào mặt Bạo. Trong chốc lát, Hức cảm thấy sung sướng, hả hê nhưng liền sau đó cơn giận cũ lại bốc lên mạnh mẽ hơn.



Bạo lúng túng đánh tiếng trước:



- Chào anh!



Hức không trả lời, chỉ nhìn trân trân vào mặt Bạo. Gã nghĩ: "Phúc cho mày nếu gặp tao giữa lúc tiến quân thì tao đã cho mày một phát vào giữa sọ rồi!".



- Giờ tôi không làm lính hầu ở bốt quận nữa. Tôi đi tìm anh đã hàng tháng nay...



- Mày tìm tao? Mày tìm tao để làm gì?



Hức nói qua hai hàm răng nghiến lại và gã tiến lên sát mặt Bạo, Bạo thoáng vẻ bối rối nhưng hắn trấn tĩnh lại được ngay, hắn nuốt nước bọt và nói một cách khó khăn:



- Nuột bị người ta cướp mất rồi... Ông một Cát-xi ở quận cướp mất Nuột rồi!



- Cát-xi à? Cát-xi nào? - Hức nói chậm rãi, rồi đột nhiên gã túm lấy ngực áo Bạo và to giọng lên:



- Sao mày không giữ được vợ mày? Sao mày không giết ông lớn nhà mày đi?



- Khốn khổ thân tôi. Anh xem, tôi chỉ là một thằng lính hầu...



- Mày là thằng hèn!



Hức xô Bạo ngã dúi vào thành cổng. Bạo vẫn không chống đỡ gì. Với một chủ định sắp sẵn từ trước, Bạo liền dùng một cái giọng hết sức buồn rầu kể lại tỉ mỉ cho Hức nghe ông một Cát-xi đã cướp Nuột đi và giày vò Nuột như thế nào.



Hức giận điên lên, ngắt lời Bạo:



- Ông một nhà mày hiện có ở đây không?



Bạo gật đầu.



- Mày chỉ cho tao, tao sẽ giết nó.



- Một mình anh không làm gì nổi đâu.



- Tao sẽ giết nó rồi sẽ giết mày luôn.



Bạo biết rằng bây giờ là lúc có thể nói ra những mưu toan của mình với Hức và hắn tin Hức sẽ không phản lại. Hắn nắm chặt lấy tay Hức, giọng cầu khẩn:



- Anh Hức ơi, sao anh lại định giết cả tôi? Trước đây tôi là kẻ thù của anh nhưng bây giờ tôi có còn như trước nữa đâu.



Ruột gan tôi đang rối như tơ vò. Tôi xin anh, anh hãy quên những chuyện cũ đi, anh giúp tôi giết chết thằng Cát-xi cho hả giận này...



Hức nhếch mép cười chua chát:



- Mày không làm mủi lòng được tao đâu!



- Tôi đâu dám nghĩ như vậy.



- Thế thì mày dám nghĩ tới cái gì? Mày đừng có lải nhải. Mày có mưu chước gì thì cứ nói thẳng ra đi!



Hôm sau, trận càn lại tiếp diễn. Ðến quá trưa, các đơn vị thuộc ba mũi tiến công - mũi thứ ba đã bị bộ đội địa phương bẻ gãy - đã trông thấy nhau trên cánh đồng làng Chanh. Với quân số đông như kiến vỡ tổ, chúng giăng thành hàng ngang, tên nọ cách tên kia chỉ một cánh tay, tràn qua những ruộng cỏ lạc rậm như rừng và thu nhỏ dần vòng vây lại. Cũng như thế tất cả các sĩ quan, viên quan một Cát-xi đi phía sau đơn vị của mình, đốc thúc quân lính tiến lên bằng mũi súng và những tiếng quát tháo. Ðơn vị của Hức cũng đi gần đó. Khi gần tiến sát đến lũy tre làng, Bạo bỗng nổ một phát súng vào bụi rậm và kêu lên:



- Việt Minh!



Thế là các đơn vị quanh đó nháo cả lên. Hức nổ súng thét: "A-la-xô!" rồi bò tạt ngang, thúc vào đít đơn vị của Cát-xi.



Giống như một phản ứng dây chuyền, nhiều tiếng hô và tiếng súng nổ vang lên theo. Giữa không khí hỗn quân hỗn quan ấy, Hức nhanh nhẹn giơ súng lên, nhắm vào đầu Cát-xi đang cúi lom khom sau một bờ ao và bóp cò. Bộ tóc mầu vàng hoe rất đẹp của Cát-xi đột nhiên nẩy bật lên, bay tung lên, rồi rơi xuống, nằm bất động bên bờ cỏ. Hức chớp mắt, thong thả chùi bàn tay nhơm nhớp mồ hôi vào ống quần. Nhưng gã chưa kịp mỉm cười thì một viên đạn đã bay vèo qua đầu gã, tiếp theo là tiếng kêu của một tên lính nào đó:



- Thằng kia làm phản. Bắt lấy nó!



Không kịp suy nghĩ gì, Hức nhảy vọt ngay về phía trước, tụt xuống lòng một con mương, cứ thế chạy. Ðạn đuổi theo gã, kêu chiu chiu ở trên đầu. Rồi đột nhiên có một vật gì nặng nề đổ xuống lòng mương, ngay sau lưng gã làm nước bắn tóe lên. Hức quay lại nhận ra Bạo. Bạo đã chết. Hức lại cắm đầu chạy. Khi đã sắp lọt được vào lũy tre làng Chanh gã bỗng thấy đau nhói ở bắp chân và gã bị ngã chúi sấp ngay xuống. Gã thoáng nghĩ: "Mẹ kiếp, thế là hết!".



Nhưng Hức không chết, gã chỉ bị què. Gã bị giải ngay về ban tham mưu binh đoàn. ở đấy có nhà giam và phòng tra tấn.



Mặc dầu trong người Hức không có truyền đơn hoặc một tang vật gì khả nghi, gã vẫn bị buộc tội mưu phản để chạy theo Việt Minh. Gã sợ quá. Gã cố chối quanh. Chẳng ai tin gã. Gã phải chịu một hình phạt khủng khiếp: bọn phòng nhì cắm ngập đinh ghim vào mười đầu ngón tay gã, mỗi đầu đinh ghim cắm một cái lông tơ gà rồi chúng quạt phe phẩy. Mười đầu ghim khẽ động đậy, ngoáy vào xương thịt gã làm cho gã đau buốt lên đến tận đỉnh đầu. Gã ngất đi, rồi gã khẽ kêu lên:



- Tôi xin nói... tha cho tôi...



Sau khi tỉnh lại, gã với lấy cốc nước lạnh buốt, uống hết sạch và bắt đầu kể lại đầu đuôi câu chuyện một cách ngay thật. Phòng nhì tư giấy về bốt của gã, yêu cầu xác minh những gì gã đã khai. Viên chỉ huy bốt chẳng dại gì vì một tên lính quèn người bản xứ mà lại đi chuốc vạ vào thân nên chỉ trả lời bằng những nhận xét chung chung rằng quả là gã có những chuyện rắc rối về tình duyên ,v.v. còn chuyện vì sao gã bắn Cát-xi và bỏ chạy thì đó là việc của cơ quan chuyên môn có thẩm quyền điều tra và kết luận.



Tòa án binh chưa thể kết án Hức. Bọn chúng cũng chẳng cần tiến hành điều tra thêm làm gì cho mệt xác thế là Hức cứ nằm bẹp mãi trong nhà giam. Những vết đạn bắn, kim đâm và đòn tra sưng tấy cả lên, rỉ mủ ra, thành dòi thành bọ ra... làm tình làm tội gã. Gã ốm liệt. Giữa những cơn đau đớn quằn quại, gã bỗng nghĩ: "ừ, sao mình lại không chạy ra hàng Việt - Minh nhỉ?" Trước đây mình đã vào du kích, đã đi tập mã tấu, đi rào làng... Bọn họ buộc tội mình như vậy khéo mà thực cũng nên!". ý nghĩ ấy làm gã bàng hoàng. Gã choàng dậy. Gã gào lên. Gã muốn phá phách, tung hê tất cả lên. Nhưng trong phòng giam trống trơn. Gã chạy cuồng trong phòng giam, đạp cửa, đập đầu vào tường, nghiến răng lại mà bẻ những chấn song sắt và nhổ phì phì mỗi khi thấy bóng người đi qua. Gã đã phát điên...



Cái đêm ngồi ở bếp nhà tôi. Hức kể lại cho tôi nghe những điều rời rạc có liên quan đến Nuột và gã nguyền rủa Nuột bằng đủ các lời độc địa. Suốt cuộc đời bi thảm và tội lỗi dài dằng dặc của gã chỉ có một thời gian ngắn ngủi là trong sáng và tươi đẹp, ấy là thời gian gã sống gắn bó với anh em chúng tôi trong đội du kích. Có lẽ mối tình vừa ngọt ngào, vừa chua chát đối với Nuột thường gợi cho gã nhớ lại cái kỷ niệm xa xôi và không bao giờ còn trở lại ấy nên gã căm ghét Nuột đến thế. Gã không nhìn thấy phần trách nhiệm nặng nề gã phải chịu sau khi gã tự ý rời bỏ chúng tôi, bước sang phía bên kia, bước đi ấy của gã là mò mẫm nhưng lại là quyết định... Trong đầu gã có một khoảng trống rỗng to lớn quá, đã từ lâu chỉ có bóng tối tràn ngập chứ không được ánh sáng rọi vào...



Tôi bảo mẹ tôi:



- Thằng Hức thế là hỏng rồi!



Mẹ tôi, với tấm lòng nhân hậu mà cả làng đều biết tiếng, nói với tôi:



- Thì thế... Nhưng nó là người làng, đánh kẻ chạy đi ai nỡ đánh kẻ chạy lại...



Mẹ tôi bàn với một số bà con trong làng sửa sang lại gian quán, rải lại ổ, lấy bao tải rách đụp lại làm chăn cho gã. Tôi cũng nghe lời mẹ tôi, cho gã cái áo trấn thủ đã sờn rách tất cả các ô quả trám của tôi. Những ngày mưa rét bắt đầu kéo đến. Hức nằm cuộn tròn trong ổ, ngủ li bì. Con mèo cái già thỉnh thoảng lại đến với gã. Gã ôm chặt nó vào ngực, mặc cho nó kêu gừ gừ, thỉnh thoảng lại ve vẩy khe khẽ cái đuôi như muốn cù vào cổ, vào nách gã...



Bỗng một đêm kia, con mèo đến kỳ động đực. Nó đi quanh trên nóc quán, gào lên từng thôi dài những tiếng "meeo... meeo..." kéo dài, cuồng si, rạo rực. Tiếng mèo gào đực, khác nào tiếng gọi vừa xa lạ vừa thân thiết của một cuộc đời bình thường thức tỉnh Hức nhưng đồng thời nó cũng giống như một sợi dây thừng mầu xám trói chặt lấy gã, dìm gã xuống đáy một cái vực thẳm tối om và giá buốt. Từ đáy vực, gã ngẩng đầu lên, nhìn thấy một ngọn lửa cháy bập bùng tỏa hơi ấm ra chung quanh...



Gã vùng dậy, gã ném con mèo, làm xô từng mảng ngói lớn. Nhưng chỉ được một lúc sau, lại thấy tiếng con mèo gào đực không biết từ phía nào vẳng tới nghe rền rĩ trong làn gió bấc thổi ù ù. Gã giựt đứt các phên cửa và ôm cái ổ rơm quẳng cả ra sân rồi châm lửa đốt. Ngọn lửa này không giống như ngọn lửa gã vừa trông thấy trong tưởng tượng. Gã sợ, gã cắm đầu chạy ra khỏi làng và đi lang thang trên con đường hàng tổng, chính con đường đã dẫn gã về làng trước ngày hòa bình lập lại ít lâu...



Bấy giờ trời đã sáng. Mặt trời hiện lên sau màn sương mù phía bên kia cánh đồng. Một toán đàn bà đi chợ huyện nhô ra ở một chỗ ngoặt. Ðột nhiên Hức từ sau khúc bờ cao nhảy bổ lên đường, thét to một tiếng nghe man rợ. Gã đứng nhìn các bà bỏ chạy, cười sằng sặc và lục tung quang gánh của họ lên. Gã không biết rằng một toán đàn ông từ phía sau chạy tới đã vây chặt lấy gã. Một bàn tay to lớn gân guốc túm chặt lấy ngực áo gã, lắc mạnh và đẩy gã ra xa. Gã khuỵu xuống rồi không hiểu sao gã khỏe hẳn lên, gã ôm đầu chạy một mạch về làng, nằm gục xuống trước cửa quán trống trơn.



Mẹ tôi đứng nhìn gã một lúc, quăng cho gã mấy cái bao tải rách cuối cùng của nhà tôi rồi ra về và nói với tôi:



- Tội ai nấy chịu, biết làm thế nào!



Cái sự thực ấy càng tàn nhẫn bao nhiêu lại càng đơn giản bấy nhiêu.

Ở ATM - Truyện ngắn của Quỳnh Ngọc


Bà già đứng trước tôi khoảng bảy mươi tuổi, nom yếu ớt, da xám, trước bà là gã trung niên có dáng người cao, thẳng, mái tóc dày, đen, bóng mượt. Dòng người xếp hàng rút tiền từ ngân hàng tự động ATM còn dài, dài lắm, tôi không để ý đến nhiều người, vì sốt ruột nhích từng bước muốn mau chóng nhận được tiền lương. Mười lăm năm trước, tôi ra trường với tấm bằng tốt nghiệp đại học loại giỏi, bao thăng trầm cuộc đời trôi đi theo thời gian, từng đồng lương cũng nhích dần và hôm nay đã đến với con số hai triệu đồng một tháng… Tôi sẽ khoe với chồng khoản tiền lương được máy công nghiệp hóa chi trả một cách chính xác, sạch sẽ, văn minh, không lấm lem dầu mỡ như những đồng tiền của chồng làm nghề sửa chữa ô tô.



-Con mời bà rút tiền trước.

Tiếng nói trầm ấm của gã đàn ông có "mái tóc dày đen” với bà già vang lên khiến tôi nể trọng. Thời buổi hiện đại, văn minh còn ai nhường vị trí nơi đông người cho "bà già, em nhỏ, phụ nữ có thai”! Tất cả là tốc độ, thời gian là trên hết. Bà già bị đẩy lên phía trước. Bà lúng túng khi đối mặt với ngân hàng đang nhấp nháy con mắt điện tử như chế giễu với dòng chữ "kính chào quí khách đã đến với ATM”. Bà run rẫy đưa bàn tay gầy khô khỏng cho thẻ vào máy, luống cuống thẻ rơi xuống đất. Gã đàn ông nhanh tay nhặt lên, giúp bà cho thẻ vào khe dọc máy ngân hàng. Tôi đứng gần, nhìn thẳng vào mặt gã. Trời ơi, gương mặt đến là thánh thiện. Đôi mắt to, đen sâu, đầy vẻ quyết liệt trong ánh nhìn. Đôi mày của gã cũng đen, rậm đầy nam tính, đài các và kiêu hãnh.

Tôi nhìn xuống bàn tay gã đang đặt lên vai bà già có vẻ chở che. Trái tim tôi phút chốc nóng bừng, hơi thở cũng nóng. Bàn tay của gã, các ngón tay thon dài mềm mại như bàn tay của các nghệ sĩ chơi đàn đến là tuyệt diệu. Biết đâu chính gã cũng là nghệ sĩ chơi đàn đang "mai danh ẩn tích” để ‘ vi hành” chăng? Lâu lắm rồi, trái tim tôi lạnh giá, bởi cuộc sống cuồn cuộn trôi đi che khuất hết vẻ đẹp của cuộc đời chăng? Tôi chưa thấy người nào giữa chốn đông người lại vẹn toàn vẻ đẹp tâm hồn và hình thể như gã đàn ông tóc đen dày hôm nay. Tôi thường chứng kiến nơi đông người, người lấn nhau, văng tục chửi thề. Ai cũng muốn phải hơn người khacsm dù chỉ là chút thời gian, mặc dầu chẳng để làm gì.

Tôi nhìn gã bằng con mắt của kẻ tình si. Tôi ngán ngẫm nghĩ đến người chồng quê mùa lem luốc, đen nhẻm, bàn tay thô kệch suốt ngày chui dưới gầm ô tô tải luôn bốc lên mùi dầu mỡ. Đã thế, kết thúc một ngày làm việc bao giờ chồng cũng kèm theo đùm thịt chó, trứng vịt lộn, rau thơm, lại còn rượu nữa, đến là thô tục. Hình ảnh gã "tóc đen, dày” đã làm mờ người chồng quê mùa, lạc hậu trong tôi. Tôi khao khát muốn hôn lên đôi mắt là cửa sổ tâm hồn của gã. Muốn hôn lên mái tóc đen, dày, bàn tay đẹp như nghệ sĩ chơi đàn. Tôi mơ màng ngám nhìn gã – con người của thời đại văn minh- đang giúp bà già nhận tiền từ ngân hàng tự động, dìu bà nơi tam cấp của tòa nhà ngân hàng to lớn bước xuống vỉa hè. Tôi nhìn thấy gã nhoẻn cười với tôi, rồi đưa bà ngồi nghỉ chân ở quán nước ven đường. Gã kiểm tra lại chiếc xe FX đồ sộ, lại cười thiện chí, hàm răng trắng lóa đến mê hồn, khiến trái tim tôi muốn vọt lên tận trời xanh. Gã tình nguyệ xếp hàng tiếp vào dòng người chờ đợi mà không hề chen lấn.

Tôi đã nhận được tiền lương, theo thói quen…đếm lại, rồi bắt đầu nản lòng nghĩ đến đoạn đường trở về nhà. Tôi xao lòng đưa mắt tìm gã tóc đen, dày nhưng không thấy đâu. Cũng trong giây phút đó, tiếng âm ỉ nức nở của người già đến ai oán. Bà già lúc nãy đứng trước tôi, giờ ngồi trong quán nwowqcs đang đưa hai tay ôm ngực như không thể chịu đựng nỗi đau đang cấu xé trong tim. Đông người vây quanh bà, tiếng lao xao. Tôi bước lại, nhìn thấy túi áo đựng tiền của bà được ghim chặt bằng kim băng, giờ đã bị mở tung, trơ mỗi tấm thẻ ATM nằm lăn lóc. Lởn vởn trong đầu tôi còn nguyên hình ảnh gã đàn ôngđỡ hai bên hông dìu bà đi cách đây chưa đầy mười phút đồng hồ. Chẳng lẽ thủ phạm lại là gã ư? Thật là khủng khiếp hơn thế nữa, nếu tội ác có tính toán đầy "nghệ thuật” được dấu kín dưới lớp vỏ hào hoa của thời đại văn minh. Không ai nói lời nào với bà, tôi cũng vậy, nỗi đau sâu thẳm chất chứa đã qua bao nhiêu thời gian của cả một đời người khiến không ai dám động vào. Tôi ngồi bệt xuống ỉa hè, cầm lấy cánh tay của bà, tôi hỏi:

-Bà mất tiền phải không?

Điều này thì hẳn rồi, ai cũng biết, nhưng không ai dũng cảm để hỏi bà câu ấy. Bà chỉ chờ có thế, nỗi đau đớn bật trào ra:

-Tôi đã từng là thanh niên xung phong…ở một mình…không muốn làm phiền ai…tôi lấy tiền ủng hộ bảo thọ…tôi yếu rồi…có năm triệu đồng…tôi không ngờ…đau quá.

Bà già lại nhắc đi nhắc lại "đau quá…tôi không ngờ” . Tiếng nói của bà nghe thì thào như vang lên trong lòng đất. Nỗi đau của bà lớn quá, khiến mọi người bối rối lặng im. Tôi cho tay vào túi xách, hai triệu đồng lương tháng của tôi giờ chẳng là gì trước nỗi đau của bà. Tôi xếp lại mớ tiền ngay ngắn rồi đặt tất cả vào bàn tay trơ xương lạnh giá:

-Con tặng bà thanh niên xung phong.

Bà lão đã khóc được, hai hố mắt bị da nhăn nheo che khuất, khô queo, bà làm gì còn nước mắt để tẩy rửa bớt nỗi đau. Bà có chịu đựng được sống thêm bao nhiêu ngày tháng nữa? Lấy hết sức lực, bà cám ơn tôi, còn hỏi trong hơi thở hốt hoảng đến kinh hoàng:

-Tại sao nó lại lấy của tôi chứ, thật không ngờ, không ngờ…

Làm sao tôi có thể trả lời được câu hỏi ấy, trái tim tôi cũng đã từng rung động trước vẻ đẹp hào hoa về hình thể của gã, cũng đã từng xao long trong giây phút muốn quên gia đình để đi theo. Giờ đây, đã đi qua, kết thúc những giây phút đó, những ước mơ ngọt ngào say đắm, tình si. Tôi thấy mình…trưởng thành hơn qua những gì vừa trải nghiệm của thời đại …văn minh. Con đường về nhà đầy lá rơi thường ngày, bỗng chốc thấy gần gụi ấm cúng hơn.

Hạt bụi

Buổi chiều, sau giờ tan sở, gã phóng lên chiếc Dylan ra quán nhậu, chiều nay gã và đám bạn nối khố hẹn nhau tại quán thịt cầy lão Sú vừa xả xui vừa rửa chiếc xe mới, chả là vừa tuần trước gã mới mất chiếc @ láng cóng, chiếc Dylan này gã mới tậu cách đây hai hôm. Dừng xe trước cổng quán, gạt chống để chiếc xe cho nhân viên quán đem đi đâu thì đi, gã chả sợ vì gã là khách quen cái quán này.
Mụ chủ quán tròn như hột mít, hai thớ thịt nung núc kéo chảy xệ hai gò má bóng bẩy những mỡ, đôi mắt nhỏ xíu liếc tới liếc lui như hai đường chỉ chạy ngang gương mặt, bộ đồ len thun cố tình thắt chặt vô người chỉ tổ hiện rõ những thớ thịt ngấn hằn sâu qua từng lớp vải, nhìn mụ trông cứ như một khúc giò lụa biết di động. Gã nhún vai nhìn mụ nháy mắt, vừa trông thấy gã mụ chủ đã nở nụ cười rất tươi đon đả:
- Chú Toàn hôm nay trông bảnh nhể, đi chiếc Dylan trông cứ sang sang là..
- Chị cứ nói thế, thằng em bao giờ chả sang, nhẩy khà khà...
- Uh, chú là nhất rồi, hôm nay chú định ủng hộ quán chị bao nhiêu két đây?
- Chị cho bọn kia mang cho em 5 két, hết kêu thêm.
- Ok, có liền.
Mụ chủ gật gù vừa hét vào trong:
- Chúng mày lấy bàn anh Toàn 5 két ken, phục vụ các anh chu đáo đấy nhá mấy đứa…
Tiếng khua chai bia, tiếng cười nói rôm rả . Mùi thịt chó , mùi riềng mùi mắm tôm cứ thơm nức cả mũi, đánh xộc vào những chiếc mũi phinh phỉnh của cả một lũ đàn ông luôn tay nâng ly, tiếng ly tách chạm nhau lanh canh…Thời gian cứ đi qua, những chai bia liên tục được khui ra, từng két một vơi dần. Buổi nhậu đi dần vào tàn cuộc khi những tiếng lè nhè đã bắt đầu được tuôn ra. Gã khật khưỡng đứng lên nâng ly gục gặc đầu:
- Hức… chúng mày phải chúc mừng tao vừa tậu được thằng Dylan mới..hức… của đi thay người... hức… hừm…không mất chiếc @ tao dek có Dylan, cái nào cũng phải thử… hức… chúng mày nhể…
- Uh, chúc… mừng mày… mất chiếc này... có chiếc khác mới hơn, tống cựu nghinh tân ha ha...
- Hức… trăm phần trăm... thằng nào không cạn đập bỏ mẹ…
Gã ngửa cổ nốc cạn ly bia nuốt cái ực ngon lành, bỗng giật mình vì cái níu tay:
- Chú ơi, chú đưa giày cháu đánh bóng cho ạ
- hức… mày là thằng nào… xê ra
- Giày chú dơ lắm, cháu sẽ đánh thật sạch cho chú
- Tao bảo... hức… xê ra không tao oánh bỏ mẹ bây giờ…
Thì ra là một thằng nhóc có nước da ngăm ngăm, trên tay là hộp đánh giày, trên người là bộ quần áo cũ kỹ và thậm chí có phần rách , được khoác bên ngoài là chiếc áo len màu xám tro cũng đã cũ nhưng nhìn kỹ lại rất sạch sẽ, thằng bé cố níu gã van vỉ:
- Cháu đánh giày bảo đảm với chú không sạch không lấy tiền, không còn một hạt bụi
Gã nhướng mắt nhìn thằng bé soi mói một lát rồi quay sang đám bạn nhậu vừa nấc cụt vừa nói:
- Thằng này nó đòi… hức… đánh giày cho tao kìa chúng mày haha, này nhóc… hức… mày bảo đảm…hức… đánh xong giày tao không hề có hạt bụi không?
- Vâng
- Vậy làm tao coi… hức
Thằng nhóc như chỉ cần có vậy, vội vàng nhào xuống tháo giày cho gã, mang vào chân gã đôi dép nhựa, rồi vội vã mang đôi giày gã chạy ra ngoài, gã trừng mắt túm cổ thằng nhóc:
- Thằng khốn, mày định mang giày tao đi trốn à?
- Không ạ, cháu mang ra ngoài kia đánh, ngồi đây họ không cho, lát cháu mang vào cho chú.
Thằng bé rụt cố nhăn mặt vì cái túm cổ khá đau của gã, nhướng cặp măt đỏ ngầu vì rượu gã hất mặt buông tay khỏi cổ thằng bé hăm với theo:
- Mày liệu đấy, giở trò là chết mẹ với tao.
Bàn nhậu lại tiếp tục, 15 phút sau thằng bé trở vô, chiếc giày đã được đánh bóng. Nó trao cho gã và khoanh tay đứng chờ. Gã chăm chú nhìn đôi giày của mình, bỗng gã nhướng mắt tinh quái nhìn thằng nhóc:
- Mẹ, nói không một hạt bụi chứ cái giống gì đây mày? định lừa tao hả?
- Cháu…
- Này, chúng mày nhìn đi, rõ ràng giày tao… hức… còn bụi mà nó bảo dek còn...
Thằng bé nghệt mặt ra nhìn hạt bụi nhỏ xíu vương nơi hông chiếc giày, nó lấy tay định khều xuống thì gã đánh thật mạnh vào tay nó:
- Bỏ ra, định phi tang chứng cớ hả thằng nhóc, còn bụi thì tao dek trả tiền.
Đám bạn nhậu gã lao nhao lên:
- Thôi đi thằng Toàn, trả tiền cho thằng nhóc để nó đi cho rồi, hâm hả mày?
- Trả là trả thế nào... hức, nó bảo... hức… tao… hức… không sạch không lấy tiền, còn một hạt bụi đây này, biến đi thằng nhóc.
- Chú giả tiền cho cháu đi, có một hạt bụi thôi mà, chú phẩy đi là hết.
- Mày lẹo lưỡi quá thằng nhóc, biến khỏi mắt tao ngay… hức... không tao đập vỡ mặt…
Gã trừng mắt nhìn thằng nhóc khiến nó hoảng sợ chợt lùi lại, nhưng bỗng như có gì xui khiến, nó nhào lại bấu lấy tay gã:
- Chú giả tiền cho cháu…
Gã thuận tay hất thằng bé té nhào, lồm cồm bò dậy thằng bé lại níu lấy gã mà hét:
- Giả tiền cho cháu.
Lần này thì gã điên tiết thật sự, kèm thêm tâm trí gã đang chếnh choáng hơi men, bàn tay to đùng hộ pháp của gã táng thẳng vào mặt thằng bé khiến thằng bé văng ra xa, nhưng thằng bé rất lì nó vẫn cứ nhào về phía gã, lần này thì máu nóng kèm chếnh choáng hơi men đã khiến gã trở nên thật hung dữ gã thẳng tay tát liên tiếp vào mặt thằng bé khiến máu từ trong mũi thằng bé trào ra. Nhìn thấy cảnh đó mụ chủ quán hoảng quá chạy lại can:
- Thôi, chú cho chị xin, chú để chị làm ăn với chứ lị, chúng mày đâu lôi thằng chó con kia ra khỏi quán cho tao, quăng nó ít tiền đuổi nó đi.
Mụ vừa dứt lời thì một gã nhỏ thó từ bên trong đến nhấc bổng thằng bé lên đi về phía cửa quán, thằng bé vùng vẫy miệng vẫn không quên kêu khóc:
- Giả tiền cho cháu… hu hu… cháu không phải ăn xin, cháu làm bằng công sức… giả tiền cháu đây…
Không ai nghe thằng bé kêu la nữa cả, những bàn nhậu lại vang lên tiếng cụng ly… tiếng xì xồ, tiếng chửi thề... tiếng cười nói rôm rả. Những ket bia lại liên tục bật nắp, một lúc sau gã đứng lên tuyên bố giải tán tiệc nhậu, ai về nhà nấy.

Bước chân loạng choạng gã bước ra đường, gió ngoài đường thổi mát lồng lộng, mùa này gió đông bắc thổi về sớm quá, cái lạnh cứ len qua từng lớp áo len dày. Gã dừng lại hít một hơi thật sâu rồi thở ra. Cầm lấy cổ xe từ tay một gã trong quán trao, gã leo lên xe đề máy. Bỗng ánh mắt gã sững lại khi nhìn thấy thằng bé đánh giày ban nãy đang đứng bên gốc cây nhìn hắn. Ánh mắt thằng bé đầy căm phẫn, trên mặt nó đã xuất hiện dấu bầm tím có lẽ do cú táng ban nãy của gã. Bỗng dưng gã rùng mình khi bắt gặp ánh mắt thằng bé, một sự căm hờn hiện lên trong khoé mắt tròn to ngơ ngác của nó. Một cảm giác quen thuộc bất chợt ập đến khiến trái tim gã hụt nhịp, cố lắc đầu xua đi cảm giác lạ kỳ vừa ập đến, gã đề máy và phóng xe đi. Ánh mắt thằng bé cứ dai dẳng đeo đuổi theo gã suốt chặng đường về.

Dừng xe trước một ngôi biệt thự cổng màu đen với hàng rào xanh ươm loại dây leo mà người đời đặt cho nó cái tên thật trang trọng "Sử quân tử", mùi thơm thoáng thoảng ngọt ngào xộc vào mũi gã. Cánh cổng mở ra, gã bình thản dắt chiếc xe vào, bỗng tiếng the thé của một người phụ nữ rít lên:
- Giờ này mới về, giời ơi là giời..suốt ngày chỉ nhậu nhẹt, anh làm được cái chó gì ngoài chuyện đó hả?
- Này, ông đang bực nhá, đừng có mà sủa trước mặt ông kiểu đó, ông đánh bỏ mẹ.
- Giời ơi là giời, làng nước ngó sang mà xem, chồng với con toàn một lũ vô tích sự… đi thì chớ về nhà lại say xỉn, chả làm ăn được cái con mẹ gì chỉ toàn báo cô... suốt ngày chỉ biết đàn đúm nhậu nhẹt, khốn nạn cái thân tôi không cơ chứ…
Gã ngán ngẩm nhìn người phụ nữ đang trợn mắt chống nạnh bên cửa nhìn gã, cái thân hình mập mạp kênh kiệu với những móng tay đỏ chót huơ huơ trước mặt gã như muốn cào rách mặt gã. Lách người qua gã đi vội vào căn phòng đối diện. Gã tự hỏi không biết đến bao giờ gã mới không phải nghe cái giọng chì chiết đanh thép khó nghe của cái người phụ nữ mà hắn gọi là vợ.
Bỗng gã thở dài khi ánh mắt gã chạm vào hai tấm hình trên bàn thờ, trong lòng gã chợt trào lên một sự uất hận, rồi bỗng dưng gã đóng sập cửa lại… bật khóc như một đứa trẻ. Gã trách hai đấng sinh thành đã đẩy gã vào cảnh đồng sàn dị mộng. Gã oán sự chọn lựa của chính gã ngày xưa. Giá mà gã đừng ham giàu, ham địa vị , ham cái chức danh con rể của tổng giám đốc thì có lẽ giờ đây gã đã và đang sống bên người con gái dịu hiền mà gã yêu. Nhớ đến nàng, lòng gã đau nhói...

Ngày xưa khi gã cùng nàng còn yêu nhau, gã là sinh viên năm cuối trường kinh tế, nàng có cái tên thật dịu dàng Như Mai, là sinh viên năm ba trường sư phạm. Gã và nàng gặp rồi yêu nhau thật tình cờ trong một đêm giao lưu giữa trường nàng và trường gã. Nhà nàng nghèo lắm, nhưng nàng học rất giỏi. Còn gã, là cậu ấm của một gia đình trung lưu. Ước mơ của nàng và gã rất đơn sơ, một gia đình bé nhỏ sau này khi ra trường và hai đứa con một trai một gái. Nàng sẽ là giáo viên, còn gã sẽ đi làm cho một công ty Trách nhiệm hữu hạn nào đó, cuộc sống sẽ êm đềm và yên bình biết bao. Nàng yêu gã cuồng nhiệt và gã cũng vậy.
Mọi thứ sẽ nhẹ trôi đi nếu không có một ngày bố gã làm ăn tất trách gây hậu quả nghiệm trọng. Để cứu bố gã, một người làm ăn chung với bố gã đã bỏ tiền ra giúp cho bố hắn khỏi ngồi tù với điều kiện gã phải làm rể của họ, làm chồng đứa con gái lẳng lơ của họ với cái bụng đã chửa 3 tháng với thằng bồ Việt kiều nào đó. Giống như một sự trao đổi sắp đặt trước. Bố hắn khỏi ngồi tù, còn con gái họ không mang tiếng không chồng mà có con.
Chuyện tình của gã và nàng càng đi dần vào bế tắc, thế rồi một hôm nàng thông báo cho gã tin động trời rằng gã đã được làm bố sau những ngày tháng mặn nồng giữa gã với nàng. Gã hốt hoảng đứng giữa bên tình bên hiếu. Nếu lấy nàng gia đình gã sẽ mất trắng, bố gã sẽ đi tù. Còn lấy con gái bạn bố hắn thì nàng sẽ ra sao. Cuối cùng đứng trước sự khóc lóc của mẹ gã, một chiều cuối tuần gã đến gặp nàng nói lời chia tay, hắn dằn lòng phủ nhận cái mầm sống trong bụng nàng, ánh mắt nàng hôm ấy nhìn gã đầy căm hờn nhưng nàng không một lời nào thốt ra. Đôi mắt nàng nhìn gã đầy khinh bỉ và nàng quay lưng bước thẳng, từ đó gã không còn nghe tin tức gì của nàng. Một tháng sau gã nghiễm nhiên trở thành con rể một ông Tổng giám đốc, bố mẹ hắn mừng rơn, ra vào cười tít mắt. Còn gã… đêm tân hôn ôm gối ra sofa ngáy đến sáng.

Vợ hắn ban đầu cũng không tệ, ả biết gã không phải kẻ dễ bắt nạt, ả cũng thích cái thư sinh lịch lãm của gã. Những ngày tháng ban đầu trôi qua, sau khi vợ gã sinh con dù không mặn mòi thì cuộc sống vợ chồng gã cũng không sóng gió. Nhưng vợ gã ngày càng lạ lùng, ả nhận ra ả yêu gã mất rồi. Tuy nhiên ả cũng nhận ra rằng, thân thể gã đó nhưng hồn gã trái tim gã như treo tận nơi nào xa tít mù. Rất nhiều đêm ả nghe gã nằm mơ gọi tên người con gái nào đó, ả căm tức nhưng không thể nói gì vì rõ ràng khi lấy ả, gã không hề yêu ả.
Giữa ả và gã chỉ như một cuộc trao đổi, ả giữ được gã nhờ vào những đồng tiền và thế lực của cha ả. Bố mẹ gã khi xưa rất mong một đứa cháu trai. Gã cũng vậy! Nhưng sau lần sinh nở ấy thì vợ gã không muốn sanh nữa. Gã là một người cha rất có trách nhiệm với đứa trẻ dù nó không phải con của gã, nhưng tình yêu thì ả hiểu rằng không bao giờ có được từ gã. Sự thèm khát chiếm hữu trái tim gã và ganh ghét một "con hồ ly" nào đó theo cách nghĩ của ả về người con gái trong lòng gã khiến ả ngày càng cay nghiệt, ả có thể chửi bất cứ khi nào, bất cứ lúc nào nhìn thấy gã, bất cứ ngôn từ nào ả có thể nghĩ ra để đay nghiến gã. Có lúc gã im lặng nín nhịn, cũng có lúc gã gầm lên chửi bới đập phá như con thú hoang rồi đóng sập cửa chui vào thế giới của riêng gã. Cái thế giới mà nơi đó gã dành riêng cho nàng.


* *


Gió bên ngoài thổi như muốn giật tung chiếc rèm cửa trong căn nhà tồi tàn nơi cuối ngõ nhỏ nghèo nàn, cái lạnh lùa vào qua khe hở. Tiếng người phụ nữ ho sặc sụa trong gian bếp cũng bé như lỗ mũi, bỗng nghe chừng hốt hoảng:
- Trời ơi, Ân... mặt con sao thế này? Lại đi đánh nhau đấy hẳn?
- Không ạ, con bị vấp té trượt chân đập mặt xuống nên bị bầm thôi mẹ ạ
- Lại đây mẹ xem nào, bầm tím hết rồi…
Vừa nói xong thì một tràng ho kéo đến khiến người phụ nữ gập người lại, cái dáng gầy gò như chỉ còn lại sức sống mỏng manh. Thằng bé nhào đến đỡ mẹ, giọng nó đầy lo lắng:
- Mẹ ho nhiều quá, để con sang ông lang lấy ít thuốc cho mẹ
- Nhà mình hết tiền rồi con, mấy hôm nay mẹ ốm không buôn bán được, tiền đâu mua thuốc?
- Con đã bảo để con nghỉ học mà mẹ không chịu.
- Mẹ cấm con nhé Ân, dù mẹ có phải lê lết cả đời cũng không để con thất học.
- Nhưng mà…
- Không nhưng nhị gì cả, mẹ cố được ngày nào hay ngày đó, cách gì mẹ cũng không cho phép con nghỉ học, nghe rõ chưa Ân?
- Vâng... nhưng...
Người phụ nữ lại ho một tràng dài, thằng bé đỡ mẹ lên giường rồi bước ra cửa, ánh mắt nó đăm chiêu buồn thăm thẳm, nó thương mẹ lắm mà không biết phải làm gì, nước mắt chợt ràn rụa. Nó đưa tay lên quệt mũi, bất chợt chạm vào vết bầm đau buốt trên mặt. Nó bặm môi, ánh mắt nó bỗng rực lửa, nó nhớ đến nét mặt gã đàn ông ban tối đã đánh nó, đôi bàn tay thằng bé nắm chặt đầy giận dữ, nó lầm bầm: "Nếu tôi gặp lại ông, ông sẽ biết tay tôi".

Đêm về khuya trời càng rét buốt, người phụ nữ nhổm dậy nén những cơn ho chực chờ kéo đến, đắp lại chiếc chăn mỏng cho đứa con trai đang ngon giấc, chị thở dài nước mắt tràn trên má. Gương mặt khắc khổ vẫn không thể che dấu những nét đẹp hiền dịu trên gương mặt của chị, chị cố nén tiếng khóc đang muốn bật ra khỏi lồng ngực. Chiều nay bác sĩ đã cho chị biết kết quả xét nghiệm, bệnh lao của chị đã đến thời kỳ cuối, trái tim chị đau nhói khi nhìn đứa con trai chưa đủ tuổi lớn . Sau này không còn chị nó sẽ ra sao? Giữa cái ngõ nhỏ tối tăm này nó sẽ đi về đâu? Bao năm nay chị đã cố nuôi nó lớn.
Ngày xưa, dở dang việc học với một mối tình cay đắng cùng cái thai đã 4 tháng chị không dám vác mặt về quê khi bụng mang dạ chửa vì sợ làm mất mặt bố mẹ và sợ những định kiến của miền thôn quê, chị cố bám trụ cái thành phố khắc nghiệt này để nuôi dưỡng cái mầm sống trong người. Bao năm lao lực làm đủ thứ việc nặng nhọc để nuôi con chị đã mắc phải căn bệnh lao này, ban đầu chỉ là những cơn ho không dứt, hết rồi lại tái phát, nhưng chị không có thời gian chữa trị nên bệnh chị ngày một nặng. Một ý nghĩ chợt loé trong đầu chị… nước mắt chị tuôn không ngừng, cơn ho dữ dội ập đến kéo cả cơ thể chị gập xuống, những vết máu loang lỗ trên chiếc khăn tay. Thằng bé chợt thức giấc nhào đến ôm mẹ:
- Mẹ ơi, mẹ bị sao thế này?
- Mẹ không sao con ạ, lấy cho mẹ bát nước
- Vâng…
- Ân này...
- Mẹ nghỉ đi mẹ, mẹ ho dữ quá, con lo quá
- Mẹ không sao, Ân nghe mẹ nói này, con có muốn gặp bố con không?
- Ơ… sao mẹ nói bố chết vì tai nạn…?
Thằng bé bỗng quay phắt lại nhìn mẹ đầy kinh ngạc, trái tim chị đau nhói lên khi nghe thằng bé nói câu ấy:
- Không, bố con còn sống
- Vậy bố đâu hả mẹ? Tại sao bố không sống với mẹ con mình?
- Con có muốn gặp bố không?
- Có…ạ… bố đang ở đâu hả mẹ?
Thằng bé ngập ngừng rồi im bặt, nó nhìn thấy những giọt nước mắt trào ra trên gò má gầy guộc của mẹ nó:
- Bố… có một gia đình khác, lẽ ra... mẹ không muốn nói với con chuyện này… nhưng…
Người phụ nữ lại gập người lại với cơn ho rũ rượi, thằng bé hoảng hốt gào lên:
- Mẹ… thôi mẹ đừng nói nữa…
- Mẹ muốn con về sống với bố, nếu lỡ mẹ có mệnh hệ gì… còn có bố lo cho con.
- Không… mẹ đừng nói gở
Thằng bé bật khóc gào lên ôm cứng lấy người phụ nữ, chị khẽ đẩy thằng bé ra rồi từ tốn nói:
- Con đừng ôm mẹ như thế, mẹ sẽ lây cho con. Ân…
- Con mặc kệ… con thương mẹ…
- Nghe mẹ nói, mẹ sẽ đi tìm lại bố cho con, bố sẽ lo cho con sau này… vì… mẹ… không thể lo cho con được nữa.. con biết không Ân?
- Không... mẹ ơi…
Thằng bé nhào đến ôm chặt cổ mẹ, người phụ nữ cố đẩy con ra nhưng bất lực, cánh tay yếu ớt của chị cũng ôm ghì lấy thằng bé, nước mắt chị trào ra… Ngoài kia trời đã chạng vạng sáng… tiếng xe cộ, tiếng va chạm quang gánh, tiếng rao hàng, gọi nhau í ới của những người buôn gánh bán bưng bắt đầu vang lên từ cái ngõ hun hút gió…


* *


Trời tiết tháng Ba gió bấc thổi về se buốt, thằng bé run run nắm chặt tay mẹ. Người phụ nữ gồng mình kéo lại chiếc áo bông cho cậu con trai vừa bị gió thổi bật ra và quấn lại chiếc khăn quàng cổ trên chiếc cổ gầy guộc của chị, cố nén tràng ho ập tới. Đôi bàn tay run run nhấn chuông bên cánh cổng màu đen to bảng của ngôi biệt thự cuối con phố. Tiếng lách cách và chiếc cổng được mở ra. Chị bước vào không có vẻ gì ngại ngùng, nhưng bàn tay chị nắm chặt tay thằng bé run run, người giúp việc chỉ cho hai mẹ con ngồi xuống chiếc ghế sofa giữa nhà. Người phụ nữ đảo mắt nhìn mọi thứ trang trí bên trong, tất cả đều toát lên sự sang trọng cho thấy những người sống trong căn nhà này có một cuộc sống đầy đủ sung túc.
Chị chợt thở dài, để có quyết định này hai hôm trước chị đã dẹp hết mọi tự ái, dằn lại trái tim buốt nhói để đi tìm gặp người đàn ông đã phản bội mình ngày xưa… Chị vẫn nhớ ánh mắt sửng sốt pha lẫn mừng rỡ của người đàn ông đó khi nhìn thấy chị và rồi ánh mắt ấy trở nên xót xa với câu nói "Em gầy quá Mai ơi...", nỗi uất nghẹn khiến chị suýt chút nữa thay đổi ý định. Nhưng vì con, chị buộc lòng phải ghìm nén lại cảm giác của mình… và kết quả là hôm nay chị dẫn nó đến đây. Thằng bé trố mắt há hốc mồm ra nhìn sự hoành tráng của ngôi nhà đầy vẻ kinh ngạc, nó hồi hộp và đầy lo lắng. Nó sẽ đến sống ở ngôi nhà tuyệt vời này ư? Với một người nó sẽ gọi bằng bố?? Thằng bé nhấp nhổm người nhìn ngắm linh tinh và quay sang nhìn mẹ định nói gì đấy, người phụ nữ nắm chặt tay con nói nhỏ:
- Ngồi im đi con…
Có tiếng bước chân từ trên cầu thang, bóng một người phụ nữ và một người đàn ông bước xuống. Ánh mắt người phụ nữ mập tròn nhìn xoáy vào chị đầy khinh miệt và căm ghét, ánh mắt đó đảo qua thằng bé như có ngàn mũi kim khiến thằng bé chợt sợ hãi co rúm người. Trái tim chị bỗng lo sợ, chị chợt tự hỏi với người phụ nữ có ánh mắt kia liệu thằng con của chị có tìm được bình yên ở ngôi nhà này chăng? Trong giây lát, ý nghĩ giao con lại bỗng như ngưng lại trong chị, nhưng bỗng một tràn ho lại nổi lên, chị gồng mình cố ngăn nó lại, chị hiểu rằng không còn cách nào khác bởi cuộc sống của chị từng ngày rút ngắn lại. Con chị cần phải có một chỗ ở, nó phải được bố nó nuôi nấng và làm tròn trách nhiệm. Người đàn ông kia đã rất mừng rỡ khi chị đến tìm gặp và quyết định trao thằng bé cho anh ta….
Khi cả hai người kia bước xuống đối mặt, chị vừa mở miệng định nói cho thằng bé biết rằng đây chính là bố nó thì chị hoảng hốt khi bắt gặp ánh mắt thằng bé nhìn người đàn ông ấy một cách căm phẫn rực lửa, chị vừa cất lời:
- Ân, đây là bố con…
Thằng bé bỗng thét lên khủng khiếp khiến mọi người trong căn nhà đều kinh ngạc:
- Không… không bao giờ là ông ta, ông ta không phải bố con… ông ta ác độc… ông ta là thú dữ... mẹ ơi mình về thôi mẹ...
- Ân... có chuyện gì... đứng lại con… chờ mẹ…
- Con căm thù ông ta…
Thằng bé chạy vụt ra khỏi căn nhà, phóng thật nhanh lách qua cánh cổng khép hờ ngoài sân trước sự kinh ngạc của mẹ nó. Chị vừa chạy theo con vừa kêu thảng thốt và rồi ngã gục ngất xỉu ngoài lề đường, những gương mặt xa lạ mờ mờ lướt trước mắt chị và giọng ai đó nói hoảng hốt "Cô gì ơi... cô bị sao thế này, có ai không gọi cấp cứu…", môi chị vẫn lảm nhảm gọi tên con và tắt dần…
Người đàn ông đứng sững nơi bậc thềm không thốt lên được lời nào, gã nhìn theo người phụ nữ vừa tất tả chạy ra khỏi sân nhà mình vừa ôm ngực ho rồi ngất xỉu ấy mà trái tim thắt nghẹn. Gã muốn mở miệng gọi tên chị, muốn kêu tên thằng bé mà tiếng gọi "Mai ơi… Ân... con ơi…" ứ nghẹn trong cổ gã, đôi chân dường như không chịu nghe lời gã cứ chôn chặt xuống đất, gã cảm giác đôi chân gã đang dần khụy xuống… bởi gã đã nhận ra thằng bé đó chính là thằng bé đánh giày hôm nào nơi quán thịt cầy lão Sú đã bị gã tẩn cho một trận hộc máu trong cơn say. Từ khóe mắt gã giọt nước mắt trào ra… gã khụy hẳn xuống nghe trái tim gã trào lên một nỗi niềm khó tả, gã lảm nhảm trong mồm câu nói "Ân ơi… tha lỗi cho bố… Mai ơi, anh có tội với em"…

Ngoài trời gió bấc thổi rít qua từng rặng cây, tiếng của gã tan ra bay theo gió… Trên con phố, bóng một đứa trẻ phóng như bay về phía cuối ngõ quanh, nó quẹo ra khỏi con đường lớn và vẫn cứ chạy bang về phía trước, ánh mắt nó sắc lạnh dường như vô cảm, trên đôi môi nhỏ nhắn vẫn lầm bầm câu nói "Ông ta không phải bố con… ông ta độc ác... mẹ ơi… không bao giờ…". …Phía ngoài căn nhà với cánh cổng to màu đen kia vọng lại tiếng còi hụ của xe cứu thương, người phụ nữ được đưa lên băng ca, chiếc xe màu trắng với chữ thập đỏ lao về phía trước trong cái lạnh của tiết trời mùa đông...
 

Truyện ngắn: 'Chuyện tình không nước mắt'

07.06.2011 12:06

Hai đứa chăm sóc nhau kỹ đến nỗi thời gian về sau quên hẳn cả việc vào bệnh viện thăm thằng em nữa. Cho đến ngày nó được về thì gã và con bé đã sống với nhau tự nhiên như vợ chồng.


Thằng bạn cùng phòng với gã đôi lúc cũng tỏ ra vẻ là con nhà có gia giáo. Nó không mày mày, tao tao..., cá mè một lứa như những thằng khác, mà tử tế gọi gã là thằng anh, còn tự xưng mình là thằng em.



Gã làm rửa bát ở quán Tầu, hàng ngày, cứ mười giờ sáng là khăn, áo, giày, mũ ra đi, đến gần mười hai giờ đêm. Còn thằng em thì phụ bếp ở quán phở, đi muộn, về muộn hơn một tiếng, có nghĩa là đến gần một giờ đêm mới mò về đến nhà. Thường thì, lúc gã dậy đi làm thì thằng em vẫn còn nằm ngáy phì phà, phì phò trên giường, còn buổi đêm, lúc nó về thì gã cũng đã ngủ say như chết. Vậy nên, mặc dù ở cùng một nhà, mà thằng anh, thằng em, ít khi có dịp nói chuyện gì đó với nhau được lâu lâu. Cũng còn may, hai thằng cùng xin được nghỉ vào một ngày thứ hai, mà hàng tuần còn có một dịp nấu nướng, ăn uống chung, rồi cà kê, chuyện nọ, chuyện kia một tí.



Một hôm, sau khi đã ngủ cho thật bõ mắt, hai thằng mới bò dậy, luộc ít cổ, cánh gà, xong khui mấy hộp bia ra, vừa ngồi nhâm nhi, vừa chuyện trò. Tự nhiên thằng em hỏi gã:



- Thằng anh tuổi con gì nhỉ?



Gã đáp, xong hỏi lại:



- Tuổi con chó. Sao?



Nó không trả lời, nhưng hỏi tiếp:



- Là chó ta hay chó tây?



Gã trả lời:



- Ðược là chó tây đã sướng. Nhưng tao nghĩ, là con chó ta chắc đúng hơn.



Nó lại hỏi:



- Nghĩa là thuộc loại chó vớ được cái gì cũng gặm, đúng không?



- Chắc là đúng. Ðến cứt cũng phải ăn nữa là... - Gã cười khẽ, đáp, xong hỏi lại:



- Thế tuổi thằng em là con gì?



Nó đáp:



- Em tuổi con lừa.



Gã phán:



- Thằng này nói lung tung. Làm gì có tuổi nào là tuổi con lừa?



Nó đáp:



- Chính ra thì là tuổi ngựa. Nhưng lừa với ngựa thì cũng è cổ ra mà thồ hàng, có khác gì nhau đâu. Bởi vì em ngu lâu nên mới tự nhận mình là lừa. Người ta vẫn bảo lùa ưa nặng, hoặc ngu như lừa là gì?



Gã cười:



- Thì người ta cũng bảo ngu như chó nữa?



Nó ra vẻ đăm chiêu:



- Anh em mình thật khéo hợp nhau. Một thằng chó, một thằng ngựa. Còn nhớ ngày đi học ở nhà, có lần đọc mấy câu thuộc lòng: Làm thân trâu ngựa cho loài khuyển dương. Em lại đọc nhầm trâu thành chó. Cô giáo nhắc trâu chứ không phải chó. Em cãi: Thưa cô thì chó hay trâu cũng vậy... Có thế mà bị bà ấy phạt, cho xơi trứng ngỗng ngon ơ như chuối đấy.



Một hôm thứ hai khác, thằng em khoe:



- Thằng anh biết không? Thằng em mới làm quen được với một con bé Việt Nam đấy.



Gã hỏi:



- Làm quen được ở đâu? Khá không?



Nó trả lời:



Thì ngay trong quán của thằng em. Nó đến ăn rồi quen thằng em.



Gã vặn:



- Cả buổi mày chúi mũi trong bếp chứ có ra ngoài phòng ăn đâu mà làm quen được với nó?



Thằng em giấu đầu hở đuôi, chống chế:



- Không! Lúc thằng em được nghỉ, ra ngoài quán ngồi thì gặp nó.



Gã cho thằng em qua câu ấy, xong lại hỏi tiếp:



- Thế con bé có khá không? Làm cái gì? Ở đâu?



Nó đáp, không giấu nổi vẻ tự hào, hãnh diện:



- Trông em gái cũng khá lắm, nhà ở ngay trung tâm, là sinh viên, tiếng Ðức, tiếng Việt giỏi như nhau, đang thực tập ở gần đây.



Gã bảo:



- Thế thì thằng em bố trí để bao giờ dẫn nó về đây chơi đi. Lâu lắm rồi tao không được nhìn thấy đứa con gái Việt Nam nào, phải điều chỉnh lại mồm, lại mắt.



Nó đáp:



- Ô kê! Thế nào cũng có dịp sẽ đưa em gái về đây trình diện với thằng anh.



Dạo lễ Phục Sinh, các loại cửa hàng, công sở, quán Tầu, quán Tây đóng cửa nghỉ hết thì thằng em dẫn con bé về. Mấy hôm trước nó đã dậy sớm dọn dẹp lại nhà cửa, lau chùi bàn ghế, tủ rả, thay chăn ga mới, lại mua cả một bó vừa hồng, vừa cúc, lẫn thược dược, cẩm chướng thật bự cắm vào bình hoa để ở cái bàn giữa nhà. Cả bát đĩa, xoong, chảo trong bếp, thằng em cũng rửa ráy, lau chùi cho đến sáng choang lên mới thôi. Từ trước, cái tủ lạnh thường là trống không, giờ nó mua về đầy nhóc đồ ăn, gà non, gà già, thịt bò, thịt lợn, trứng và các loại rau quả,... chất đầy trên nóc máy giặt đủ loại bia cùng một cơ số rượu nhẹ, rượu nặng đủ vật ngã bất kỳ một đấu thủ nào dù có uống khỏe như sư tử đi chăng nữa.



Buổi sáng ngày lễ Phục Sinh, sau khi đã hút bụi lại một lần nữa cho tấm thảm mới mua vẫn còn sạch như lau như lia, rửa lại ít cốc chén, thằng em thắng bộ quần áo bảnh nhất của nó vào rồi bảo gã:



- Thằng anh cũng rửa mặt, đánh răng, rồi cạo râu, chải đầu đi... Bộ củ của ông đâu, lấy ra mà mặc vào. Ðã mấy khi mà nhà mình có khách đâu.



Nói xong nó hớt ha hớt hải ra đi để gần ba tiếng sau đưa được con bồ mới cưa cẩm về. Chúng nó đứng trước cửa và lịch sự bấm một hồi chuông nhẹ, đợi gã phải đứng lên mở cửa mời mọc tử tế mới bước vào phòng. Con bé lí nhí chào, trong khi thằng em sốt sắng cởi áo khoác của nó khoác lên mắc áo treo vào tủ, rồi kéo ghế cho nó ngồi. Ðể thằng em khỏi phật ý, gã cũng làm ra vẻ lăng xăng hỏi xem con bé thích uống cái gì, nước ngọt, nước khoáng, chè hay cà phê. Con bé hỏi nhà các anh có chè đen không, nếu có thì cho nó xin một cốc thật đặc, không có đường. Gã ra bếp pha ba cốc chè đen xì không bỏ đường và xếp đầy mấy đĩa vừa bánh, kẹo, vừa cam, táo, xong mang vào chất đầy một bàn để cả bọn vừa ăn uống vừa nói chuyện.



Ðến bây giờ gã mới có thời gian mà nhìn kỹ con bồ của thằng em. Nó chẳng lấy gì làm xinh, nếu không muốn nói xấu là đằng khác. Ðược cái dáng hơi dong dỏng cao là tàm tạm, chân dài, mông to, ngực to, nhưng da đen, mặt ngắn, miệng rộng, môi dày, răng thưa, cái mũi vừa to, vừa đỏ, vừa sần sùi, cặp mắt trố, trắng dã như mắt lợn luộc, lông mày vừa ngắn, vừa thưa, đếm được từng sợi, mái tóc rễ tre cứng quèo, mảng đen, mảng vàng hoe hoe như râu ngô.



Con bé có vẻ điệu và rất để ý đến việc giữ eo, giữ dáng. Lúc thằng em nhấc một cái bánh ngọt ngon và đẹp nhất đĩa dâng lên mời thì nó trợn mắt lên, nhún vai, xua tay chối đây đẩy:



- Ấy chết! Em không dám ăn nhiều của ngọt như vậy đâu. Có mà thành cái thùng phi mất.



Thằng em mời tận tình, rằng chỉ cần ăn một miếng nhỏ thôi, nhưng nó vẫn một một mực nguây nguẩy:



- Em chịu thôi... Ðến nước chè mà em cũng còn không dám cho đường nữa là.



Ðến tận lúc này thằng em mới làm như chợt nhớ ra, nó ngượng nghịu chỉ vào từng người mà nói như tuồng:



- Giới thiệu với Lan Anh, đây là anh Phúc bạn thân của người ta từ ngày sang Ðức. Còn đây là Lan Anh, sinh viên năm thứ tư, bạn của em, đang thực tập ở phòng khám bệnh phụ khoa.



Gã cười ruồi, cho qua lời giới thiệu trang trọng của thằng em, xong cũng hỏi cho có chuyện:



- Lan Anh sang Ðức được lâu chưa?



Con bé trả lời, giọng vừa kiêu vừa điệu:



- Dạ, sơ sơ cũng mới có gần một chục năm thôi ạ.



Thằng em gã xen vào:



- Lan Anh cũng là dân lao động hợp tác như anh em mình nhưng hiếu học lắm. Dạo phá hợp đồng, mọi người lao vào làm ăn, buôn bán như điên, cả đoàn chỉ có một mình vị ấy là xin được đi học...



Nghe đến đấy, cô bé cười, ngắt lời thằng em lại:



- Khối người bảo là em hâm đấy các anh ạ. Nhưng em cứ ngồi xổm trên dư luận, mặc kệ thằng nào con nào muốn nói cái gì thì nói.



Gã cũng cười, phụ họa vào bằng một câu vu vơ:



- Ừ! Nhiều khi cũng phải ngồi xổm trên dư luận thật.



Bữa cơm trưa hôm ấy ngon. Con bồ của thằng em có vẻ có năng khiếu về nấu nướng. Nó xung phong vào làm bữa với thằng em trong bếp, ưu tiên cho ông anh ngồi chơi xơi nước để khoảng hơn một giờ sau bưng ra xếp đầy một bàn đủ các loại thức ăn, mà món nào cũng được gia giảm cho rất vừa miệng. Lúc nghe gã khen nịnh một câu, con bé nói, vẻ rất tự hào:



- Em là dân Hà Nội mà anh. Mà đấy là em đã phiên phiến đi rất nhiều rồi đấy... Chứ dạo còn ở nhà, thịt gà luộc mà không có lá chanh em cũng ứ thèm ăn đâu.



Cơm nước xong, gã nghĩ thầm là cũng nên kiếm cớ bỏ đi chỗ khác, để ở nhà thằng em được tự nhiên. Và gã đi thông cho đến tận hơn mười giờ đêm mới về. Thằng em và con bồ của nó đã đi từ lúc nào, chúng để lại phần cho gã một mâm rất tươm tất. Gã ngồi vào bàn ăn, nhâm nhi đến gần cuối bữa thì thấy thằng em về. Nó có vẻ hơi mệt, ngồi phịch xuống ghế, với lấy hộp bia, bật nắp rồi ngửa cổ nốc ừng ực.



Ngồi được một lúc, không đợi gã hỏi han gì, thằng em đã nói trước:



- Chiều nay em với bé tâm sự nhiều lắm... Ðời nó cũng khổ thằng anh ạ.



- Như thế nào mà khổ? - Gã hỏi.



Thằng em đáp:



- Thì đại thể: Mẹ nó mất sớm. Từ ngày lấy vợ kế, ông bố chẳng hề quan tâm gì đến mấy anh em nó, làm được đồng nào cũng phải mang nộp cho bà kia hết. Mấy thằng anh thì trộm cắp, cờ bạc, nghiện ngập, bê tha... đối với em cũng chẳng tử tế gì. Chúng nó đánh con này suốt, để đến bây giờ thỉnh thoảng vẫn bị đau đầu, đau bụng. Nó kể, có lần xào rau muống nó quên không cho muối, có vậy mà bị một thằng anh đằn ra, nhét cả thìa muối vào mồm bắt nuốt hết. Lại có lần chúng bắt nó uống cả nước đái nữa...



Gã nhún vai, gật đầu, tỏ vẻ thông cảm:



- Ừ, thế thì khổ thật.



Thằng em kể tiếp:



- Ðang dở dang lớp mười, nó phải bỏ học để xin vào làm ở công ty vệ sinh của thành phố. Thằng anh biết nó làm cách nào để đi Tây được không? Phải mất trinh cho lão trưởng phòng tổ chức đấy... Mà sang đến đây rồi cũng vẫn còn khổ, mấy lần bị bọn Tây trong nhà máy lôi vào rừng hiếp.



Gã chép miệng, an ủi thằng em bằng một câu vu vơ, vô thưởng, vô phạt:



- Thì có khi tại cái số nó vậy.



Thằng em lại kể:



- Nhưng nó cũng là đứa có trí lắm. Khổ vậy mà vẫn cố gắng học. Nó bảo, chỉ vất vả thêm vài năm nữa là kiếm được cái bằng bác sỹ. Ðến lúc ấy nó sẽ mở phòng mạch tư, ổn định công ăn việc làm rồi mới tính chuyện gia đình.



Sau mấy lần đưa con bồ về nhà chơi như thế nữa, một hôm thằng em nói với gã:



- Thằng em muốn đưa Lan Anh về đây sống chung. Thằng anh thấy thế nào?



Gã nói:



- Tùy mày! Nhưng sao vậy?



Thằng em đáp:



- Hiện nó đang thuê ở riêng một phòng, nhưng đắt quá, hơn sáu trăm Mark một tháng. Thằng anh tính, sinh viên lấy chó đâu ra tiền... Về ở chung với thằng em thì nó đỡ được khoản ấy.



Gã tỏ vẻ hơi ngại:



- Tao với mày thì làm sao cũng được. Nhưng chỉ ngại mỗi điều là nó là con gái.



Thằng em tấn công luôn:



- Con gái thì đã sao? Thằng anh cứ coi nó là em gái đi... Với lại thằng em thấy, nó cũng có vẻ mến thằng anh lắm đấy...



Từ ngày có con bồ thằng em về ở chung cái căn hộ hai buồng vốn bẩn thỉu, bừa bộn của bọn gã như được thay đổi hẳn. Con bé chịu khó lau chùi, xắp xếp lại đồ đạc cái nào ra cái ấy cho gọn gàng đẹp mắt. Bàn ghế, tủ rả, cửa kính lúc nào cũng sáng choang. Chăn ga, quần áo bẩn của bọn gã thải ra nó giặt giũ sạch sẽ, là ủi cẩn thận xong mắc thẳng thớm vào trong tủ. Những ngày nghỉ của ba anh em vui như hội. Cả bọn đưa nhau đi mua sắm, nấu nướng ăn uống, con bé có dịp trình diễn nhiều món đặc sản, tối đến không đi xem phim xem kịch thì cũng đi nhảy disco hoặc đi hát karaoke.



Con bé có vẻ mến gã thật, nó nhí nha nhí nhảnh, vô tư kể đủ mọi thứ chuyện cho gã nghe. Nhiều hôm thằng em lười để cho hai anh em gã đi chợ. Xuống đến đường là nó đi sát vào người gã, đưa tay ra cho gã cầm, dung dăng, dung dẻ như hai đứa trẻ con. Ở những chỗ chờ đèn xanh, đèn đỏ, nó đứng quay mặt về phía gã, cười, nói, nũng nịu cứ như là với người yêu.



Nó cũng hay hỏi gã là cách ăn mặc thế này thế kia xem kiểu nào thì đẹp. Nhiều lúc chỉ có hai anh em ở nhà mà con bé thử đến ba bốn kiểu áo. Nó cứ đứng trước gương mà tự nhiên hết cởi ra đến mặc vào, xong quay sang xin ý kiến gã là đã được hay chưa, có khi còn chạy đến nhờ kéo hộ cái phemotuya hay cài hộ mấy khuy áo khó khăn phía sau lưng... Phần gã cũng coi con bé như là em gái thật, vô tư giải đáp các câu hỏi hoặc làm hộ nó những việc vặt vãnh ấy. Thỉnh thoảng mua được bộ quần áo mới, gã cũng hỏi nó xem có khỏi nhà quê quá không. Soi gương, thấy trên đầu đã điểm vài sợi tóc bạc, nếu tự mình không nhổ nổi thì gã gọi nó, bảo là nhờ em gái tân trang hộ anh tí. Con bé chẳng có gì gọi là ngại ngùng. Nó kéo đầu ông anh vào lòng, bắt xoay bên trái, bên phải, nhổ cho bằng hết mọi sợi mới thôi. Nhiều hôm, nó còn tỉ mỉ nặn cho gã những mụn trứng cá lấm tấm trên mặt, xong còn lấy nước hoa xoa xoa vào bảo làm như thế cho khỏi nhiễm trùng và khỏi có sẹo.



Ba anh em ở với nhau như thế được chừng hơn tháng thì thằng em lăn ra ốm. Bác sỹ bảo nó bị cả bệnh phổi lẫn bệnh gan, trong máu lại có nhiều mỡ. Gã đoán có lẽ là vì thằng em làm ở trong bếp nhiều. Sáu bảy năm trời ngày nào cũng hàng hơn chục giờ đồng hồ đối diện với mấy cái bếp ga cháy hầm hập như thế, lại hít thở phải thứ không khí vừa nóng hừng hực, vừa bị ô nhiễm bởi ti tỉ thứ mùi mè thì bị mấy cái bệnh ấy là đúng lắm. Gã nghĩ mà thấy kinh. Rồi cũng đến một lúc nào đấy, căn bệnh ấy sẽ lây sang gã là cái chắc chắn. Bây giờ cơ thể còn tạm gọi là khỏe mạnh, còn chống chọi được, chứ ít nữa yếu đi rồi thì trước sau cũng bị nó đánh quỵ.



Thằng em phải vào nằm trong bệnh viện. Cơ thể nó giờ gầy gò, tiều tụy, nước da bủng beo, vàng khè, đôi mắt hoe hoe, trũng xuống như đôi lỗ đáo, hơi thở khò khè và hôi...



Vào những ngày nghỉ, gã lại đưa con bé vào thăm thằng em. Con bé hỏi nó có thèm cái gì nói để nó làm đưa vào cho mà ăn. Nhưng lần nào thằng em cũng rất cảm động, rân rấn nước mắt mà lắc đầu, bảo trong này chẳng thiếu gì, và nó cũng chẳng thèm, chỉ hơi buồn là không có ai để mà tâm sự thôi.



Cũng có lúc tiện đường chỉ một mình gã vào bệnh viện. Thằng em nỉ non nói với gã rằng là nó yêu và thương con bé lắm. Nó phó thác con bé cho gã, bảo rằng thằng anh nên quan tâm, chăm sóc đến em gái một tí, nói chuyện, nói trò với nó hoặc thỉnh thoảng hai anh em đưa nhau đi đâu chơi cho đỡ buồn.



Thằng em đúng là biết lo xa, nhưng hơi thừa. Những ngày không có nó ở nhà, thằng anh và con bé đã có thừa điều kiện để quan tâm đến nhau. Con bé vẫn thường đứng trong buồng tắm mà gọi với ra sai gã tìm hộ khi thì cái khăn, lúc lại cái quần lót, áo lót để mang vào. Ðêm thì nó kêu nằm một mình, không có ai tâm sự thì buồn, không ngủ được. Tự nhiên nó lại đọa chứng hay đau bụng, đau lưng với tức ngực, cứ bắt gã phải mang dầu vào mà xoa hoặc làm tẩm quất hộ...



Hai đứa chăm sóc nhau kỹ đến nỗi thời gian về sau quên hẳn cả việc vào bệnh viện thăm thằng em nữa. Cho đến ngày nó được về thì gã và con bé đã sống với nhau tự nhiên như vợ chồng. Con bé giành hẳn ra một buổi để tâm sự với nó. Ðại để là nó rất mến, rất cảm ơn thằng em, rằng thằng em đã giúp đỡ, đã cho nó nhiều cái chẳng biết lấy gì mà trả nổi... Nhưng nó thấy tình cảm giữa hai đứa cũng chỉ đến mức coi nhau như anh em thôi, còn đi xa hơn thì không được, còn nhiều điều không hợp nhau lắm.

Thằng em chẳng biết nói gì hơn, thở dài đáng thượt một cái, lấy thuốc uống rồi đi nằm. Trước ngày từ bệnh viện về, ông bác sĩ đã cấp cho nó cái đơn mua được cả tủ thuốc, bảo phải uống ngày cả chục bận.



Ít lâu sau thì nó thuê được một căn hộ mới ở gần chỗ làm. Con bé và gã tận tình giúp nó chuyển đồ đạc từ nhà cũ sang nhà mới. Hôm đã xong xuôi, lúc ngồi ăn với nhau bữa cơm cuối cùng, thằng em tâm sự:



- Tôi tuổi lừa, ông anh tuổi chó... Ngẫm lại cũng đúng, nhỉ. Nó chuyển gam, ông, tôi, chứ không thân mật thằng anh, thằng em như trước nữa.



Trong lúc gã cười, nhớ lại câu nói đến cứt cũng còn phải ăn nữa là của mình ngày trước thì nó quay sang con bé hỏi tiếp:



- Thế còn em gái. Em gái cầm tinh con gì?



Con này nhe hai hàm răng vừa thưa, vừa to, vàng khè như vừa xơi thịt gà nấu ca ri xong, vừa ngặt nghẽo cười, vừa nói:



- Thì em cũng tuổi chó. Em với anh Phúc nhà mình cách nhau vừa chẵn một giáp mà.



Ðức Quốc. Ngày 30 tháng tư năm 1997.

 

Câu Hát Tìm Nhau

Tác giả: Quế Hương

Tôi gặp lão lần đầu trong quán thịt chó của bà Tư béo, nơi tôi đến bỏ rượu gạo hàng chiều sau giờ đi làm. Lão xuất hiện với bộ dạng một người lỡ đường, tay bị, tay mũ cối, gương mặt rỗ hoa lấm tấm bụi đường và mồ hôi. Tưởng lão là người ăn xin, bà Tư đuổi như đuổi tà:
- Ði ra! Ðể người ta bán, đừng có hãm tài.
- Thưa bà, tôi không xin. Tôi tận Hà Bắc vào đây tìm người quen. Bà cho tôi hỏi... bà có biết người này.
Lão chìa ra mảnh giấy bọc ép nylon như thẻ căn cước, ghi dòng chữ: Hai Xuân, người Bắc Ninh, có chồng tên Tuất. Sau 1975 có người gặp sinh sống ở Ðà Nẵng.
- Mơ hồ thế có trời biết! Không đường, không số nhà... Già rồi lẩm cẩm. Con cháu sáng suốt không sai đi tìm.

Thôi đi chỗ khác. Ðây cũng là dân ngụ cư thôi! Không biết!
Bà chủ quay ngoắt, dềnh ngang bộ mông núng nính đi vào bếp. Lão lẩm bẩm:
- Cả tuần nay... hỏi ai cũng trả lời chừng đó!
Thương hại lão, tôi gợi chuyện:
- Thế bà Xuân người như thế nào?
- Cô ấy người dong dỏng. Trắng tươi. Hát hay. Xinh đẹp.
Bàn thịt chó bên cạnh lập tức nhao lên:
- Ồ! Cháu lão hả? Bao nhiêu tuổi? Ðể tụi này tìm giúp coi có “xơ múi” chi không?
- Cô ấy thua tui một tuổi.

Cái quán ven đường bỗng òa vỡ tiếng cười. Tiếng đập bàn, la ó, huýt gió, hô hố… náo loạn.
- Thế thì “cố” chứ “cô” gì! Làm tụi này tưởng bở bố ạ! Cỡ ấy ra nghĩa địa tìm dễ hơn.
- Mà cố Xuân là gì của lão? – Gã để râu xồm xoàm vừa nhai vừa hỏi.
- Xưa cô ấy là bạn hát quan họ của tôi.
- Lão vượt đường dài ở tuổi này để tìm một bạn hát xưa già khú đế à?
- Vâng.
- Trời ơi... là trời... ở mô rớt xuống ông ngố đa tình như ri hở trời! – Gã giọng Huế cùng bàn cúi gập người rên giữa một tràng cười. Còn lão điềm tĩnh, kiên định hỏi tiếp:
- Mua bản đồ thành phố ở đâu mấy chú?
- Thôi lão ơi, có khát tợp ít ngụm rồi mua vé về nhà nằm nghỉ. Kiếp sau yêu cho dài ngày rộng tháng.

Rồi để thưởng câu nói mà gã tự cho là ý vị ấy, gã để râu ngửa mặt lên trời, ném điệu nghệ một miếng dồi chó vào miệng, nhai nghiến ngấu, tợp một ngụm rượu, khà một tiếng khoái trá.
- Ngoài tôi, chỉ có món xào và rựa mận là để bát đĩa. Còn các món khác đựng trong lá tất... Ăn bốc mới đúng điệu. – Ðột ngột lão góp ý.
- Coi bộ cũng là dân nghiện mộc tồn.
- Phải thật thoải mái, không cần giữ ý tứ. Bữa ăn phải đượm mùi hoang sơ của những người lục lâm tứ chiếng.
- Mở đầu được đấy! Mần ly rượu nói tiếp đi!

Câu chuyện xoay quanh chó: cách chọn chó, nấu chó, ăn chó… Lão sành đến nỗi những cái mặt đỏ gay, những cái miệng bóng nhẫy đều quay về phía lão hóng chuyện. Cái mông núng nính của bà Tư cũng yên vị trên chiếc ghế dựa hồi nào. Bà chủ đang há hốc miệng nghe lão bày cách chế biến từ bảy món cầy cơ bản thành mười món hoặc hơn nữa. Lạ là lão sành món “hương nhục” đến thế lại từ chối động đũa vào đĩa chó bà Tư đích thân bưng đến đặt trước mặt lão để mong thụ giáo. Lão giải thích hễ lão cầm đũa là phải ăn no mới thôi. Cái thứ này hễ ăn là say, ăn mãi... ăn thì phải đúng điệu với bạn tri ân để say còn khóc cười cho hả...
- Khách của tui đủ giới, ở khắp thành phố này – bà chủ lên tiếng – Dò tìm một cố Xuân nói giọng Bắc, vấn khăn, cao dong dỏng, biết hát quan họ không phải là khó. Tui sẽ nhờ anh em... sẽ để lão ăn thịt chó thỏa thuê không lấy tiền... với điều kiện lão giúp tôi tiếp khí sắc cho quán. Dãy này bốn quán... phải có ngón nghề đặc biệt mới kéo khách về mình...

Quán thịt cầy của bà Tư béo từ độ có lão bỗng đông khách hẳn. Thịt bao giờ cũng lớn bùi, bé mềm, cả tơ cả cứng cho đủ vị cuộc đời. Lá sen, lá dong riềng, lá chuối được thay đĩa men. Quán có đến mười hai món “hương nhục”, thơm điếc mũi. Buổi tối quán tắt đèn điện thắp đèn cầy ăn thịt cầy... âm âm u u thế mà gọi mời đáo để. Những câu chuyện về đời, về chó của lão dưới ánh nến bao giờ cũng khiến khách ăn cảm thấy bữa rượu thịt đậm đà. Bữa nào lão không tới, họ lại ăn uể oải đòi lão có mặt. Bọn họ gọi lão là “lão Tầm Xuân”. Cái quán ven đường rôm rả hẳn lên khi ông lão mặt rỗ hoa, ăn mặc nhếch nhác bước vào. Họ hát ong ỏng đón lão: “Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc. Em đi lấy chồng anh tiếc lắm thay. Già rồi tiếc vẫn chưa nguôi. Xắn quần anh lội suối, khòm lưng anh vượt đèo...”. Có hôm, men rượu không giải được nỗi sầu vô vị, họ lại đem lão ra giải buồn. Họ đổi những tin “dỏm” về cố Xuân bằng những câu chuyện của lão hoặc một cú tẩm quất sướng ê người. Nếu quán vắng khách, họ nằm ườn ngay trên nền quán, ưỡn tấm thân trẻ trung rã rời cho lão tẩm. Xương bật giòn tan, còn bọn họ lè lưỡi: “Hồi trẻ, lão phải vật trâu!”

- Hồi trẻ, tôi giật đến hai giải thi vật – Hứng chí lão khoe.
- Thế mà không vật nổi cô Xuân dong dỏng, trắng tươi, hát hay xinh đẹp.
Cả bọn cười ồ còn lão bỗng tiu nghỉu. Lão ngừng đấm hỏi:
- Lần này “dỏm” không đó?
- Dỏm 50%. 50% có thể thật. Ðứa nào nói dối 100% hộc bia ra ngay.
Chân dung cố Xuân thay đổ xoành xoạch. Khi thì cố Xuân ở tận bên làng biển An Hải, mù vì khóc lão. Khi thì ở trên Hòa Khánh, điếc đặc. Khi thì ở tận Hòa Cường, suốt ngày ho sù sụ...

Có lúc bọn trẻ kéo vào quán một bà già nghễnh ngãng, ré lên: “Lão Tầm Xuân ơi, cố Xuân đây nè!”. Bà già chửi te tua còn bọn chúng cười hô hố: Chỉ có lão không nói một lời. Tôi có cảm tưởng có cái gì nặng hơn chiếc lá khô vỡ tan tành trong lòng lão. Ôi lão Tầm Xuân! Lão tìm trong cuộc đời nước chảy mây trôi như một hình bóng của ký ức thì tìm sao đặng? Những cuộc “gặp” ấy để lại trong lòng lão dư vị cay đắng. Lão ngồi uống rượu suông, mắt mờ đục như có khói và lão hát. Dĩ nhiên không phải để cho chúng tôi nghe! Lão hát hay lắm.

Hay đến nỗi có lần tôi phải chở vợ đến nghe. Nàng đứng ở ngưỡng cửa nghe lão hát bài ruột: “Khi tương phùng, khi tương ngộ. Xuôi lên bộ, văng vẳng tơ tình. Chiêm bao lần chẵn năm canh. Bao lần anh ngồi tựa trăng thanh. Thương nhớ sâu oanh. Lẻ loi chim nhạn. Bạn tình ơi! Em biết đến bao giờ gặp mặt sánh đôi. Suốt năm họa là. Duyên bén ngãn, văng vẳng tơ tình. Trước không phải, sau đền duyên ba sinh”. Khó tưởng tượng một giọng hát say đắm ngọt ngào dường kia lại thoát ra từ một lồng ngực hom hem phô những giẻ sườn. Vợ tôi bảo không phải lão hát mà tình yêu lão hát. Nàng có đôi chút học vấn để nhận xét: đằng sau vẻ ngù ngờ, xấu xí, già nua kia là một trái tim thực có một cô Xuân dong dỏng, trắng tươi, hát hay, xinh đẹp trên đời. Cô Xuân ấy không bao giờ già, không bao giờ xấu, không bao giờ chết trong lão!

Sau lần nghe lão hát và những câu chuyện tôi kể về lão, vợ tôi bỗng trở nên “ái mộ” lão. Nàng bảo tôi chở lão đến nhà chơi rồi lão trở thành khách quen thuộc của cả nhà. Họ cũng bị lão “mê hoặc” như cả quán cầy tơ của bà béo. Lũ con tôi quý lão vô cùng. Lão bày chúng hát nghêu ngao những bài quan họ. “Sớm đi chơi hội, tối về quay tơ. Dải yếm phất phơ. Miếng trầu, mồi mốc. Miếng ăn, miếng buộc. Miếng gối đầu giường. Muốn tìm người thương. Tìm đâu cho thấy?”... Lão cho chúng những đồ chơi thật ngộ – những con vật bằng lá dừa biết ngúc ngắc, con gà trống bằng đất sét lòe loẹt xanh đỏ tím vàng kẹp chiếc kèn lá có thể cất tiếng gáy... Bếp nhà ấm áp khi có lão. Lão nếm rượu chính xác như đo, hàn giúp cái xoong, cái nồi rất khéo. Lão mơ màng kể cho chúng tôi nghe những ngày hội Lim, những liền anh áo the khăn xếp, liền chị thắt lưng hoa lý, yếm đào con nhạn, mắt lá răm lúng liếng hát thâu đêm. Tôi ngồi nghe lão tả những làn điệu quan họ đắm say miên man dìu dặt và yêu cầu lão hát nhưng thường lão lắc đầu. Lão bảo hát quan họ phải có đôi, có bạn, có chỗ. Ký ức lão còn giữ nguyên vẹn những ngày hội quê lão: Hội làng, Hội Xuân, Hội mùa... Trai thi mạnh, gái thi mềm. Thi hoa, thi vật, kéo co, hát chèo, nấu cơm, đánh đu, cờ người...

- Lão gặp cố Xuân ở những ngày hội đó à?
- Vâng. Ðó cũng là ngày hội quan họ, cả vùng như ngấm men say, phát cuồng vì hội lễ. Năm ấy anh cu Rỗ là tôi tròn 18 tuổi, được cử vào bọn quan họ làng để luyện giọng thi hát với bọn quan họ làng bên kia sông. Nhà tôi ba đời hát quan họ. Tôi luyện trên dưới 200 giọng, thế mà khi hát đôi với cô ấy tôi run. Tâm hồn tôi lơ lửng không đặt hết vào lời. Cô ấy là tiên quan họ. Ngày xưa cô Tấm cũng đẹp thế là cùng! Giọng hát sóng sánh. Mắt đen lóng lánh. Môi cắn chỉ đỏ thắm. Cần cổ như cuống hoa huệ... Tôi say, say lời hát, say cô ấy, quên cả ngón ruột phải tung ra vào phút chót để thắng dứt điểm. Cuộc thi kéo dài đến ba ngày. Tiếng trống dứt mới giật mình ngơ ngẩn. Dĩ nhiên tôi thua...
- Ða tình thế sao không lấy?

- Lệ quan họ những đôi trai gái đã kết bạn quan họ không lấy nhau. Tình yêu có nảy sinh thì cũng gửi thương gửi nhớ qua lời hát. Kết nghĩa quan họ như kết nghĩa anh em, được cha mẹ hai bên, dân hai làng chấp nhận. Tình bạn ấy chân thành, thủy chung, thắm thiết không chỉ đời mình mà có khi còn đến đời sau. Làng tôi có nhiều cặp quan họ khi đầu bạc răng long, tình yêu trong câu hát xưa vẫn không tàn. Có dịp gặp nhau trên chiếu quan họ, họ lại sống lại thời xuân sắc. Anh em kết nghĩa quan họ gặp nhau “xuân thu nhị kỳ”, đến thăm nhau, ăn uống, vui chơi, ca hát với nhau. Mỗi bên có chuyện vui buồn đều tổ chức đi lại thăm viếng. Tôi nhận ra một điều: người ta có thể cho nhau niềm hạnh phúc to lớn biết dường nào và chẳng lần nào giống lần nào... Rồi cô ấy cũng phải đi lấy chồng. Bọn quan họ chúng tôi đến chia vui. Tôi đau lòng hát miên man...

Mắt lão bỗng mơ màng xa vắng. Rồi một giọng hát trẻ trung đằm thắm da diết cất lên: “Ăn quả nhãn lồng. Ước sao người ấy tôi bồng trên tay...”. Không phải lão Tầm Xuân tóc bạc da mồi hát mà anh cu Rỗ tóc đen như mun, da mầu đồng, có giọng hát Trương Chi hát! Cô ấy hiểu lòng tôi, chú ạ! – Lão lại ngưng hát, kể: Tôi hát bài “Khi tương phùng, khi tương ngộ” ngang nửa bài thì cô ấy xen ngang, hát tiếp: “Bạn tình ơi! Em biết đến bao giờ họp mặt sánh đôi... Trước không phải, sau đền duyên ba sinh”. Chúng tôi cắt câu quan họ làm đôi, mỗi đứa giữ một nửa. Hẹn kiếp sau chắp lại.

Sau đó là chiến tranh... nạn đói... Câu quan họ tan tác trăm phương. Tôi vào Vệ quốc quân, tham gia kháng chiến chống thực dân Pháp, khi hòa bình lập lại, tôi về làng thì nghe cô ấy đã theo chồng... nghe nói vào Nam.
Rồi tuổi già đến. Già buồn lắm chú ạ! Cô đơn và bất lực. Chết không đáng sợ bằng tuổi già. Sống đến đó, người ta mới nếm tận cùng chén đắng cay của đời. Tôi sợ hình ảnh ông hàng xóm ngày nắng được bế cả người lẫn chăn ra hong nắng. Nắng rực rỡ đọng thành từng vũng quanh ông ấy, còn ông ấy nhăn nhúm trong cái chăn rách... Tôi có cảm tưởng ông được đem phơi cho chết vi trùng. Có bà, được mua cho một cỗ hậu sự thật tốt. Lâu không chết, áo quan bị mọt đục. Ngày nắng con cháu đem ra phơi, trở qua lật lại rửa ráy càu nhàu... Luật đời chú ạ! Già thì lụi tàn, phải chết. Sống lâu thành nợ của mọi người ngay con cái cũng chán... Một lần tôi ốm, trận ấy ốm thương hàn, thập tử nhất sinh. Trong những cơn mê, tôi cứ nghe một giọng hát lảnh lót níu tôi lại trần thế: “Người về bỏ bạn sao đành. Người về em vẫn đinh ninh tấm lòng...”. Giọng cô ấy! Chỉ có cô ấy mới có cái giọng la đà sát ngọn cỏ, cao vút chạm mây xanh, thầm thì luồn lách trong da trong thịt. Tôi tỉnh lại đang mơ màng thì nghe giọng dâu con thở than gần hết ngày tốt mà cha chưa chịu đi. Tôi mở mắt, chúng nó lại ríu rít hỏi han, làm ra vẻ vui mừng... Sau lần ốm ấy, tôi nghĩ đến chuyện đi tìm cô ấy. Chính cô ấy níu tôi lại cuộc đời này. Tôi phải đi tìm nửa câu quan họ cắt đôi. Trẻ không lấy nhau được, già ở bên nhau, hát với nhau cho đỡ côi cút. Trước sau vẫn là bạn có gì sai trái đâu?

Lão im bặt. Ðôi mắt già nua chìm trong cõi vắng. Thời gian với lão chỉ là lớp bụi mờ. Gió thổi, bụi bay, dĩ vãng lại hiện ra nguyên vẹn trước mắt lão. Ðêm ấy, lão hát miên man bên bếp lửa tàn. Một mình hát, một mình nghe, một mình mở hội đồi Lim, lúng liếng, đắm say, chân tình lai láng.
Thế mà sau một tuần đi công tác xa về, con tôi đã mếu máo níu áo ngoài cửa đòi tôi đi tìm lão Tầm Xuân. Thì ra lão đã bỏ đi... Tự nguyện theo lão là con chó mập ú của bà Tư cầy. Dường như chán gặm xương đồng loại, nó bỏ theo lão Tầm Xuân.

Tôi cũng vô tình quên lão nếu không có lần gặp lại ở Hàng Xanh, Sài Gòn cách đó hai năm.
Ðó là một buổi trưa nắng chang chang. Con hẻm em gái tôi ở vang lên tiếng rao lạc lõng: “Ai hàn xoong hàn nồi, mài dao mài kéo không...? – Tiếp liền sau một giọng hát cất lên: ”Khi tương phùng khi tương ngộ, xuôi lên bộ văng vẳng tơ tình... thương nhớ sầu oanh, lẻ loi chim nhạn. Bạn tình ơi...”. “Ôi!”. Lão. Lão chứ còn ai nữa. Không kịp xỏ dép, tôi chạy nhào ra hẻm gọi ơi ới: “Lão mài dao... lão Tầm Xuân”. Lão quay phắt lại rồi ôm chầm lấy tôi mừng rỡ. Mới hai năm mà lão già thêm nhiều. Lão đã thực sự già thêm nhiều. Lão đã thực sự già! Gương mặt chằng chịt nếp nhăn lỗ chỗ nốt rỗ như tấm gỗ mọt. Ðôi mắt mờ đục, giọng hát khào khào. Lão mang lỉnh kỉnh dụng cụ hàm mài. Câu quan họ lầm lũi lạc theo, lạc lõng trong thành phố hoa lệ. Con chó vàng của bà Tư cầy lẽo đẽo theo bên. Chỉ khác là nó không còn mập ú nữa, nó xơ xác gầy nhom như chủ.

Chúng tôi tấp vào quán nước bên đường. ở đó tôi được biết vì sao lão bỏ đi đột ngột. Bà chủ quán thịt cầy cùng dãy với bà Tư béo bảo có gặp một bà người Bắc đi xin ở Gia Ðịnh biết hát quan họ và y hệt cô Xuân của lão. Thế là họ đi!... Quán bà Tư mất hấp lực, đâu lại vào đấy. Tôi nghĩ thế nhưng không nói ra, sợ lão buồn. Tôi định bụng khuyên lão trở về quê. Không ngờ lão cũng nói:
- May gặp nhau lần cuối... Tuần sau tôi về chú ạ. Tiền tàu xe đủ rồi... Tôi về để mười ba tháng Giêng tới dự hội Lim lần cuối. Hội Lim giờ đâu như xưa nữa... Nhưng tôi vẫn nghe tiếng trống vào hội giục giã lòng tôi. Tôi yếu rồi! Tôi đã nghe đất gọi. Quê gọi. Ðành hẹn kiếp sau vậy...

Tôi nhìn lão, còn lão nhìn dòng xe cộ nườm nượp đến chóng mặt. Chiều tà dần trong đôi mắt màu hoàng hôn.
- Lâu ngày gặp lại, tui với lão mần đích đáng một bữa thịt chó đi! Ở đây có Bồng Lai quán nghe nói khá lắm, ăn hoài không đã miệng. Tui mời lão.
- Cảm ơn chú! Nhưng năm rồi tôi không đụng thứ đó. Tôi sẽ không đụng cho đến ngày cuối đời...
Lão cúi xuống vỗ về vào lưng con vàng. Con chó ngước đôi mắt nặng trĩu yêu thương nhìn lão rồi không dằn lòng nổi, nó đứng trên hai chân sau, vừa kêu ư ử hài lòng vừa liếm khắp người lão.
- Chú thấy đấy! Cứ tưởng tượng nó thành những đĩa dồi, đĩa luộc, đĩa xào, xáo... là tôi lợm giọng rồi... Không có nó tôi không sống nổi ở đây đến hai năm... Nó sưởi ấm tôi, kéo tôi đứng dậy, nó bị đánh què cẳng vì ăn cắp của người ta để cho tôi ăn những ngày tôi ốm... Nó từng sung sướng... theo tôi nó mới cực thế này... Nó...
Lão nghẹn ngào, mắt hấp háy. Giọt lệ tuổi già chắt mãi mới thành dành cho kẻ đồng hành bốn chân!

Khoảng mươi hôm sau, con dao chặt thịt bị mẻ, em tôi nhắc:
- Không thấy lão mài dao kéo vào xóm... cái lão thật lạ, không lo kiếm khách chỉ lo hát... Có đồng nào mua đồ ăn lại chia đôi cho chó một nửa. Con chó cũng đáo để, không bao giờ ăn trước chủ dù có đặt trước miệng... Người già cũng lạ! Trại dưỡng lão em làm có một bà già... nhập trại ba năm không nói một lời, tưởng câm, khi gần chết hóa ra biết hát. Cái giọng cái điệu, cái lời na ná như lão mài dao.
- Ðâu? Bà ấy ở đâu? – Tôi chụp tay nó.
- Ở trong, sắp chết rồi. Mà anh hỏi làm gì?

Tôi kéo áo nó, bắt nó chở đi rồi tôi sẽ giải thích. Dọc đường tôi kể vắn tắt chuyện lão Tầm Xuân đi tìm nửa câu quan họ. Tôi linh cảm đó là cố Xuân.
- Ba năm trước, một người đàn ông sang trọng, gương mặt tràn trề nhân ái dẫn bà ấy vào trại. Ông ta bảo với Ban quản đốc ông ta thấy bà già cơ nhỡ, ngủ trước hiên nhà nên thương xót dẫn giúp vào đây. Ba năm ở đây, bà ấy sống lặng lẽ như bóng không hề nói, nằm quay mặt vào vách. Nhưng cách đây một tháng, dường như không nén được nỗi đau đớn, bà ta khóc rống lên: “Hắn là con tôi, cái thằng dẫn tôi vào đây chính là con tôi”. Mấy hôm nay bà ta hát... không ăn, không uống... chỉ phều phào hát... – Em tôi kể.
Bây giờ nằm trước mặt tôi, trên chiếc chiếu tỏa mùi khai thối trải trên nền gạch loang lổ là bà cụ tóc trắng như bông vấn vành khăn nhung đã sờn, mỏng như giấy, mặt vàng, hơi thở dốc...
“Dong dỏng, trắng tươi, hát hay, xinh đẹp...”

Hình hài ấy không còn nét nào giống lão Tầm Xuân tả. Thời gian cho, thời gian lấy hay tôi đã lầm? Tôi định lui ra nhưng chiếc lá khô ấy bỗng khẽ khàng động đậy. Rồi từ lồng ngực thoi thóp hơi tàn, phều phào những tiếng, lời rời rạc. “Bạn tình ơi! Duyên bén ngãi, trước không phải... sau đền... duyên... ba sinh”.
- Ðúng rồi! Cố Xuân đây rồi! – Tôi reo to giữa những gương mặt già nua ngơ ngác – Lão Tầm Xuân ơi! Nửa câu quan họ đây rồi.
Lão tìm ba năm, nay biết tìm lão ở đâu.

Bà cụ mấp máy môi hát, âm sắc yếu dần... yếu dần... Nhanh trí, tôi nắm lấy bàn tay còn xương với da ấy và tôi lập lại lời hát của lão Tầm Xuân: “Khi tương phùng, khi tương ngộ, xuôi lên bộ văng vẳng tơ tình...” Giọng hát vụng về thô ráp như đọc của tôi cất lên, và lạ lùng thay, nó tựa những giọt nước cành dương diệu kỳ... Mí mắt bà lão động đậy, ngực phập phồng rồi giọng hát yếu ớt cứ rõ dần hòa với cái giọng vịt đực ồ ồ của tôi. Những bà già trên nền nhà lập tức ngồi dậy. Họ không hiểu nhưng họ vỗ tay như những đứa trẻ. Họ reo, họ hò, họ hát ru... Những đôi mắt mờ mờ đục chất ngất nỗi buồn và bất hạnh bỗng háo hức như mắt trẻ con. Một bà lão lục đục trong hai ba lần áo một cái gói nhỏ mở hai ba lớp nylon bày một nhúm thịt chà bông, chần chừ ngắm rồi nhón tay bốc hai sợi thịt đem tới đút vào miệng tôi một sợi, miệng cố Xuân, bị lời hát đẩy ra, còn trong miệng tôi, trào thành nước mắt!

Tôi lập tức đạp xe đi quanh vùng Gia Ðịnh tìm lão Tầm Xuân nhưng bóng lão bặt tăm... Hình như lão đã về quê rồi. Em gái tôi góp ý nhắn lão trên tivi. Mẩu tin kỳ quái được nhắc lại hai hôm: “Lão Tầm Xuân! Ðã tìm ra nửa câu quan họ. Ðến gấp trại dưỡng lão số 3, đường... Mau lên kẻo không kịp”.
Không kịp thật. Cố Xuân hắt ra hơi thở cuối cùng, lão vẫn bặt tăm. Chiếc xe tang của trại đưa cố đến lò thiêu. Không một vành khăn, không dòng nước mắt.
Có lẽ giờ này lão Tầm Xuân đang lê bước trở về. Nửa câu quan họ lầm lũi theo lão... Chơi vơi... Chơi vơi...

TIỀN

                                                                                            

  Truyện ngắn

         

         Điều may mắn bất ngờ ập đến với gã, tưởng như đang lạc vào vườn cổ tích có những bà tiên, ông bụt hiền lành, tốt bụng luôn mang đến cho những kẻ khốn cùng nhiều điều may mắn, tốt đẹp.

          Năm tỉ bạc! Khoản tiền khổng lồ mà trước đây dẫu có nằm mơ gã cũng không thể nào thấy được hiện đang nằm gọn trong tay gã, đang chờ gã sai khiến.

          Nghe tin gã trúng thưởng lớn, bà con họ hàng làng xóm lũ lượt kéo đến mừng gã đổi đời. Nhưng những lời chúc tụng nồng nhiệt nhất, tốt đẹp nhất được đáp lại bằng mấy tách trà thô, vài viên kẹo dừa để lâu ngày dai nhách, nhai muốn trẹo quai hàm, với vài tiếng cảm ơn cộc lốc, sáo rỗng, nhạt phèo như nước ốc. Cách xử sự lạ lùng, hờ hững của con người vừa mới giàu xổi, nét mặt còn hằn sâu dấu ấn của một thời khốn khó, cực nhọc đã gây sự bất bình cho bà con. Bên họ tộc chì chiết, rằng cái quân mất gốc, cơm họ hàng còn dính kẽ răng, vừa mới trúng số đã ngoảnh mặt, quay lưng. Họ dọa sẽ từ, sẽ không bao giờ thèm đặt chân đến cổng ngõ nhà gã. Cánh láng giềng cũng lên án gã gay gắt. Họ bảo bà con xa không bằng xóm làng gần, nghèo khó có nhau. Mới ngày nào nhà nó có sự cố, nó chỉ ho lên một tiếng là bà con đủ mặt. Vậy mà từ ngày có của, mặt nó cứ lạnh tanh như được tạc ra từ băng tảng!

          Riêng gã, trước mắt, gã tập trung tất cả vào việc cải tạo lại nơi ăn chốn ở, củng cố lại vị thế để mở mày mở mặt cùng thiên hạ. Chọn ngày hoàng đạo, gã thuê người đến triệt hạ căn nhà cũ kỹ, nhếch nhác đã qua mấy đời đang tọa lạc giữa khu vườn rộng xum xuê cây lá và thay vào đó là căn nhà ba mê, kiểu dáng mái chớp đỏ, mặt tiền lát toàn gạch men Ý. Gã hả hê thích thú nhìn những nhát búa tạ giáng thình thịch vào hiện thân của sự nghèo khó, cực nhọc đã bám riết mấy đời nhà gã…

          Chẳng bao lâu, ngôi nhà ba tầng hồng hào ngất ngưởng, nội thất bài trí toàn đồ dùng ngoại nhập đắt tiền xuất hiện giữa cái xóm lao động nghèo như một kẻ thống trị. Thế là một tên nghèo mạt hạng, lâu nay sống bám vào rổ chanh, hành, ớt, tỏi, rau của người vợ hiền đảm đang bỗng chốc trở thành tỷ phú nhờ vào tờ vé số điện toán. Gã sướng đến rên mình khi nghĩ rằng, rồi đây thiên hạ sẽ nhìn gã đến trật ót, thậm chí không ít kẻ đến nhà gã khúm núm, xum xoe, cậy nhờ giúp đỡ. Nhưng cái ý tưởng hợm hĩnh của gã tân trọc phú đi ngược với truyền thống trọng nghĩa khinh tài của người dân trên mảnh đất đã trải qua nhiều cuộc biển dâu, bao thăng trầm của thời đại, kết cục chẳng mấy ai thèm nhìn ngôi nhà mới của gã đến trật ót, hoặc đặt chân đến nhà gã để cậy nhờ. Chỉ có số ít người rất dị ứng với bản mặt ngạo mạn, ngông nghênh của gã nên thi thoảng đi ngang qua nhà gã, họ dừng lại ngay trước cổng, trật quần ra tè….lại còn chỏ mồm vào căn bổn mạng lên tiếng chửi đổng bằng những câu thô lỗ, cộc cằn nhưng minh triết: Mới hôm nào còn đi xin hàng xóm từng đĩa nước mắm. Vừa có chút đỉnh tưởng giàu sinh ngông nghênh, lấc cấc. Nhà nó phát hỏa đếch có ma nào động tay động chân vào.

          Mặc kệ, ghen ăn ghét ở là tật người đời, hơi đâu bận tâm, hơi đâu trách cứ. Gã tự giam mình trong cái tháp ngà, cách ly với mọi sinh hoạt đời thường, chú tâm vào phương pháp làm giàu bằng vốn liếng còn lại, phấn đấu trở thành đại gia tỉnh lẻ. Gã còn mơ gã làm chúa đảo nữa đấy! Tiền! Tiền sẽ biến đổi số phận con người, sẽ làm đảo lộn mọi giá trị! Đó là triết lý cơ bản về đồng tiền gã nghe lỏm được từ cửa miệng đầy men rượu của dân buôn lão luyện trong các cuộc ăn chơi bạt mạng, bất kể trời trăng. Làm đảo lộn mọi giá trị? Gã chưa tin. Nhưng thay đổi số phận con người, gã không thể phủ nhận. Không tin? Hãy đợi đấy!

          Nói đến gã tưởng cũng nên điểm sơ vài nét đặc trưng về vợ gã. Phải công nhận rằng, thị rất xinh, rất hấp dẫn, rất nhạy cảm, rất thông minh. Nói tóm lại, thị có đủ tố chất để trở thành nhà doanh nghiệp. Thời ngăn sông cấm chợ, thị cũng là con buôn đường dài có hạng. Nhưng trong chuyến đi định mệnh, thị bị đội kiểm soát kinh tế hốt sạch hàng hóa và bị bốn tháng tù giam vì tội buôn hàng quốc cấm. Thị sạt nghiệp, cả gia đình thị liêu xiêu, lảo đảo. Ra tù, thị chấp nhận lối sống cò con. Việc mua chợ dưới bán chợ trên tuy thu nhập chỉ dừng lại ở mức đủ trang trải cho cuộc sống hàng ngày trong gia đình, nhưng trong đầu óc thị thấy thanh thản, thoải mái, gia đình hạnh phúc. Nghe ai nhắc đến đi buôn hàng chuyến, thị ớn đến tận xương sống. Số phận run rủi, đời gã nếu không có thị chắc húp cháo cám trừ bữa. Với bản tính cầu toàn, ăn chắc, thị đề nghị gã đem số tiền còn lại gửi vào ngân hàng lấy lãi cải thiện đời sống. Gã nhìn vợ đến nứt mắt, vỗ đùi, quát:

          - Ngu! Quen với lối sống cò con, gà què ăn quẩn! Thời buổi này người ta đổ xô đến ngân hàng tranh vay vốn về phát triển kinh tế, mình lại nhét vào lấy lãi tượng trưng. Chỉ có hóa rồ! Gã bỗng dịu giọng giảng dụ - Thời buổi này phải biết cách bắt đồng tiền sinh sôi nảy nở theo ý muốn của mình em à. Sực nhớ ra, gã lại vỗ đùi đánh “đét”, hỏi - Khi nay em có gặp cô Lài không? Cô ấy trông thế mà giỏi. Nhờ buôn chuyến mà nên cửa nên nhà, xây dựng cơ nghiệp đồ sộ.

          Nghe nhắc đến buôn chuyến, vợ gã vội xua tay:

          - Thôi thôi, em sợ đi buôn đường dài lắm rồi!.

          Gã cắt lời:

          - Thời bao cấp khác, thời kinh tế thị trường nó khác. Thời trước ngăn sông cấm chợ nên việc lưu thông hàng hóa gặp nhiều rắc rối lắm, nhiêu khê lắm! Cơ chế bây giờ hết sức thông thoáng, cởi mở.

          Vợ gã vẫn lắc đầu quầy quậy:

          - Anh chưa biết chứ đi buôn hàng chuyến nó phức tạp lắm! Thời nào cũng thế!

          Gã tỏ vẻ bực tức:

          - Phức tạp là phức tạp thế nào? Người ta đi được mình đi được. Em cố theo cô Lài một vài chuyến xem sao. Quanh quẩn mãi chợ trời, chợ xổm với mấy lọn rau, vài túm ớt, sọt cà thì biết bao giờ mới mở mày mở mặt cùng thiên hạ?

          Lài là bạn thân của vợ gã hồi còn học phổ thông. Lài đang là con buôn chuyên nghiệp, giàu sụ trên phố huyện. Trước đây, Lài thường đến rủ vợ gã hùn vốn buôn chung, nhưng hồi đó gã nghèo kiết xác. Bây giờ có vốn lớn trong tay, gã cố động viên vợ đi vài chuyến thử thời vận. Nghe nói dạo này đi buôn hàng Tàu trúng mánh lắm. Gã độc tài, quân phiệt! Tuy ngán ngẫm việc đi buôn đường dài, nhưng để gia đình hoà thuận, thị cũng liều…nhắm mắt đưa chân…

          Sau vài chuyến lấy hàng từ thành phố Hồ Chí Minh về bỏ sỉ cho mấy con buôn, thị mới vỡ lẽ. Hóa ra thời bây giờ đi buôn đường dài dễ dàng thoải mái hơn nhiều so với thời bao cấp. Khôn khéo, linh hoạt, uyển chuyển một chút là hàng về đúng địa chỉ, một vốn bốn lời. Chưa gần một năm trở lại nghề cũ, thị đã có vàng đeo đầy tay, cổ mang một sợi dây chuyền vàng to đùng như sợi xích chó.

          Thấy vợ ăn nên làm ra, gã vừa mừng vừa lo. Gã bảo vợ để bớt vàng vòng lại nhà, độ này bọn cướp cạn nổi lên như rươi, không khéo lại tự chuốt họa vào thân. Vợ gã rúng rảy cho gã lạc hậu, chẳng hiểu tí gì việc làm ăn, buôn bán trong thời buổi kinh tế thị trường khoe của cũng là tạo niềm tin với đối tác. Gã đuối lý.

           Rồi vợ gã thoạt đi thoạt về như con thoi. Việc buôn bán của thị cứ phất lên như diều gặp gió.

            Khi viêc buôn bán đã quen nước quen cái, có bạn hàng bạn họ, những chuyến đi của thị ngày càng dài hơi hơn. Có chuyến đến hai mươi ngày, thậm chí cả tháng mới về nhà, nghỉ vài hôm lại tiếp tục ra đi. Lần nào cũng vậy, trước lúc ra đi, thị không quên đặt một xấp bạc dày cộm lên bàn, bảo đó là khoản tiền tiêu vặt hàng ngày của bố con nó. Bố con gã sống nhàn nhã như các đại gia trong ngôi nhà đầy đủ tiện nghi hiện đại. Vợ gã tranh thủ chạy đường dài xây dựng cơ nghiệp.

              Nghe cải lương, đọc sách kích dục, xem video, chơi trò chơi điện tử, tối nằm ôm điện thoại nói chuyện với vợ mãi rồi cũng chán. Gã bỗng nảy ra ý định gia nhập vào một hội hè nào đó để tiếp cận với giới thượng lưu trong xã hội. Mục tiêu đầu tiên gã hướng tới là hội tơ nít trên phố huyện, hội của giới quý tộc thời hiện đại. Đa phần thành viên của hội là những tay trưởng giả học làm sang, trọc phú khoe mẽ, cánh lao động bình dân thích chơi trội cũng có. Hồi còn ở dưới phố, sáng sáng gã trông thấy cặp vợ chồng mặc bộ thể thao trắng muốt, lưng đeo vợt, chở nhau trên chiếc Rim Thái bóng lộn chạy ngang qua khu nhà trọ của gã. Trông họ sang như Tây. Sau này gã mới biết, đó là vợ chồng tay bán thịt chó, giỏi chế biến món mắm tôm nổi tiếng cả vùng. Nhưng suy đi tính lại, vào hội tơ nít không ổn tí nào. Tạng người nhỏ thó của gã dễ bị người ta nhầm tưởng là trẻ nhặt banh. Đó là chưa nói đến sự cố có thể xảy ra trên sân banh bởi chứng hen suyễn kinh niên của gã. Hội thơ quy tụ đủ mọi thành phần trong xã hội. Theo gã nghĩ: “Đến với thơ là đến với trí tuệ; sáng tác được năm bảy bài thơ đăng báo là đã thành nhà thơ rồi. Thời buổi bây giờ in thơ cũng dễ dàng. Chỉ cần chiêu đãi một tay lính gác nào đó trong tòa soạn vài cốc bia, đĩa ốc luộc chẳng hạn là sẽ có thơ in trên trang báo, đếch cần phải thông qua ban biên tập biên dượt gì cho mất thì giờ. Xuất bản thơ cũng nhanh chóng dễ dãi tỉ như lấy đồ trong chính túi áo mình. Có tiền là in thơ mệt nghỉ, miễn là đừng viết sai chính tả, nội dung đừng vi phạm chủ trương chính sách, việc hay dở đếch có tiêu chí nào phân định rạch ròi. Cứ  bám vào cái phao “để cho thời gian thẩm định” mà tha hồ sáng tác, tha hồ in ấn, tha hồ cao đàm khoát luận giữa chốn “trà dư tửu hậu”.

***

          Rồi sự giàu sang và cả giấc mộng trở thành đại gia tỉnh lẻ của gã bắt đầu sụp đổ tanh bành vào một ngày…Đó là ngày hạnh phúc nhất và cũng là ngày bất hạnh nhất của đời gã. Hôm đó, Giám đốc nhà in gọi điện mời gã xuống nhìn mặt đứa con tinh thần đầu lòng của gã vừa mới in xong. Gã hồ hởi phóng xe đến thành phố vừa đúng nửa buổi sáng. Lúc đi ngang qua một ngã ba, hắn bỗng giật bắn người khi bắt gặp vợ gã ngồi ôm riết tấm lưng to bè của tên đầu trọc, râu cá chốt đang điều khiển chiếc xe Attila mới cứng chạy ngược chiều. Toàn thân gã run lên lẩy bẩy, tai ù, mặt tím tái!. Gã luống cuống cho xe quặt lại đuổi theo con đàn bà phản bội. Gã đầu trọc, râu ngạnh trê vẫn thản nhiên cho xe rẽ trái rồi chạy thẳng vào một khách sạn sang trọng, lộng lẫy. Gã toan qua đường, nhưng một chiếc xe tải vừa nhấn còi, vừa lù lù từ phía sau làm gã phải chậm mất mấy phút. Cho xe vào sân khách sạn, gã lập cập dựng xe vào một góc khuất rồi phóng lẹ lên phòng lễ tân. Một nhân viên khách sạn tướng tá bặm trợn như thần giữ cửa cản lại, sừng sộ:

          - Này, biết đang ở đâu không?

          Gã cố lấy lại bình tĩnh, giải thích:

          - À, xin lỗi! Tôi muốn gặp một anh bạn đầu trọc có bộ ria cá chốt như thế này này (gã chỉ vào bộ ria của gã).

          - Hình như ông ta đang ở phòng 307, 308 gì đó. Đây là việc của cô lễ tân nên tôi không rõ lắm!

          Gã không kịp để lại lời cảm ơn, vội vọt thẳng lên lầu 1 rồi lầu 2… Cuối cùng gã đứng lớ ngớ trước dãy phòng 307, 308, 309 một lúc rồi lấy điện thoại di động ra bấm số… Giọng nói dịu dàng quen thuộc của vợ gã vang lên trong máy:

          - A lô, anh đấy hả? Hiện giờ em đang ở thị trấn Lạng Sơn. Ngày mốt em mới chuyển hàng về.

          Gã cố nén cơn tức giận đang dâng lên tới tận cổ:

          - Nói thật to lên. Nghe không rõ!

          Từ phòng 308, vang lên giọng vợ gã:

          - A lô, hiện giờ em vẫn đang ở Lạng Sơn. Anh vẫn khỏe chứ?

          Gã quát to trong máy:

          - Khỏe cái con mẹ mày. Hóa ra bấy lâu nay mày lừa ông để đi với trai. Gã nhét di động vào túi, dồn hết sự tức giận vào nắm tay đấm mạnh vào cánh cửa phòng 308 thình thình:

          - Mở cửa ngay! Mở cửa!

          Giọng đàn ông từ bên trong quát ra:

- Ai đó?!

Đáp lại câu hỏi cộc lốc, trịch thượng là những cú đấm mạnh hơn, quyết liệt hơn. Có tiếng dép khua sàn sạt rồi cánh cửa phòng bật mở. Tên đầu trọc xuất hiện, ngực đầy lông lá, nhìn gã đến nứt mắt, nói giọng anh chị:

- Hết chỗ quậy rồi hả? Cút ngay!

Tên đầu trọc phất mạnh tay xua đuổi. Gã lùi lại mấy bước rồi đứng nhìn tình địch bằng tia mắt rực lửa như muốn thiêu cháy kẻ thù ra tro bụi.

- Thằng này láo, dám cương lại ông ngoại mày đấy hử?

Nói chưa hết câu, gã đầu trọc sấn tới giáng vào mặt gã một cái tác nảy đom đóm, thuận chân bồi thêm một đạp nữa, gã bật ra xa đứng loạng choạng, máu mũi rỉ ra loang xuống môi mằn mặn. Gã đưa ống tay áo lên lau vội. Ngay lúc đó, vợ gã đứng thấp thoáng sau cánh cửa phòng với chiếc váy ngủ trong như thủy tinh. Giọng thị nhẹ mỏng nhưng gã vẫn nghe đủ:

           - Lão bị suyễn nặng, đừng mạnh tay mang họa đấy!

          Khốn nạn, đồ đĩ rạc. Gã muốn xông vào phanh thây xé thịt con đàn bà phản bội cho hả lòng ghen tức. Nhưng lù lù trước mặt gã là một tay đầu bò đầu bướu có thân hình lực lưỡng như một võ sĩ quyền Anh hạng nặng. Hắn chỉ nắm cổ gã nhấc lên quật xuống một nhát là gã chết bẹp như con mực nướng!. Gã đứng nhìn đối phương bằng đôi mắt rực lửa căm thù. Rồi như một con đực đang đứng trước địch thủ dũng mãnh hơn mình gấp bội, gã ôm hận lùi dần, lùi dần, rồi bất chợt, gã xoay người phóng nhanh ra khỏi khách sạn như kẻ đang bị quỷ ám!.

          Về đến nhà, bao nhiêu nỗi hờn ghen uất ức bị dồn nén đến cực điểm gã trút cả lên những đồ dùng dắt tiền như bộ đầu máy đa hệ, dàn đầu câm âm ly, dàn vi tính hiện đại, bộ bàn ghế ngoại nhập, mấy chiếc lọ sứ Giang Tây vừa mới mua trong kỳ hội chợ hàng chất lượng cao, cả những trang bản thảo thơ, thơ in báo cũng cùng chung số phận. Gã điên cuồng đập phá tan tành những thứ mà mới vừa đây thôi, gã coi như vật gia bảo thiêng liêng ông bà truyền lại. Đến lúc không còn gì để hủy hoại, để tàn phá, căn phòng ngổn ngang chồng chất những mảnh vỡ như vừa mới trải qua một trận động đất kinh hoàng, gã mới nằm bẹp xuống chiếc ghế xa lông rách bươm khóc nức nở, khóc tức tưởi như đứa trẻ lạc mẹ. Đang ơi hời trong nỗi cô đơn tuyệt vọng, bất chợt, gã ngồi bật dậy như một chiếc lò xo bị nén chặt bởi giọng nói ngọng nghịu của chú bé hàng xóm từ ngoài cổng vọng vào:

          - Chú Cằn ơi! Xằng Cọt bị…tai nạn xe máy!

          Trời! Thằng Cọt, đứa con trai duy nhất của gã đang học lớp bảy bị tai nạn mô tô! Gã đứng vụt dậy chạy thục mạng ra cổng ngõ nắm chặt cánh tay thằng bé hỏi dồn dập như người đang mê sảng:

          - Sao! Ai bị tai nạn? Thằng Cọt hả? Tai nạn ở đâu? Bây giờ ra sao rồi? Hả?

          Thằng bé hãi quá càng nói lắp:

          - Xằng… xằng Cọt chạy… chạy xe âm …âm vô dô cột điện bị gãy… chân. Người ta ưa nó dô nhà… thương rồi. Còn chiếc xe… (nó gập cánh tay lại tỏ dấu chiếc xe bị gãy đôi).

          Lúc này gã mới nhớ ra, hồi sáng, thằng Cọt có hỏi mượn chiếc xe Future mác Nhật vừa mới rô đa xong đi học một bữa. Thấy thằng con trai cưng lâu nay tập lái xe đã biết quẹo trái rẽ phải thành thạo rồi nên gã yên tâm gật đầu. Nào ngờ! Không cần phải đóng cửa khóa cổng cẩn thận như mỗi khi, gã chạy ù ra đường, miệng lảm nhảm như người mất trí:

          - Cọt ơi, trời cao đất dày ơi, bố mày hại mày rồi!

          Thằng bé hàng xóm vội phóng xe đạp rượt theo:

          - Chú Cằn ơi, ể cháu chở chú i cho mau.

          Gã luống cuống ngồi lên bọt ba ga, ôm cứng lấy thằng bé. Nó ngoáy đít đạp thẳng.

          Đến bệnh viện huyện, hai chú cháu chạy nháo nhác tìm chỗ thằng Cọt. Cuối cùng rồi gã cũng thấy con đang nằm bất động trong phòng cấp cứu. Không cần biết bác sĩ trực có cho phép hay không, gã chạy ào vào ôm con khóc bù lu:

          - Trời, Cọt ơi. Có sao không con?

          Bác sĩ trực có gương mặt khó xác định bản chất đẩy gã ra ngoài, gắt:

          - Ra ngay, bệnh nhân đang trong tình trạng hôn mê. Người nhà cũng không được vào.

          Như một kẻ vô hồn, vô cảm, gã lầm lũi ra ngồi trên chiếc ghế dài kê đối diện phòng cấp cứu, mắt mở thao láo nhìn vào cánh cửa đóng chặt, cũng có thể không nhìn vào đâu. Một lúc lâu sau, cửa phòng bật mở, cô y tá trực xuất hiện. Gã đứng bật dậy, hỏi:

          - Thưa bác sĩ, tình…

          Cô y tá cắt lời;

          - Phải cưa chân!

          - Phải cưa! Gã lặp lại bản án nghiệt ngã bằng giọng thản thốt, đau đớn. Cô y tá vội trấn an:

          - Chỉ cưa một chân thôi.

          - Trời! gã nài nỉ - còn cách nào nữa không? Tôi chỉ có một mình nó. Bác sĩ cố giúp em?

          Cô y tá nói lạnh lùng:

          - Hết cách!

***

          Từ ngày gia đình gặp đại họa, gã ở luôn trong bệnh viện vừa để chăm sóc con vừa khỏi phải về lại căn nhà trống vắng, lạnh lẽo và ngổn ngang mảnh vỡ. Nhiều đêm ngồi một mình trong khu công viên bệnh viện, gã tĩnh tâm nhận ra rằng, chính gã đã phá tan hạnh phúc gia đình, làm tiêu tan gia sản. Bởi ham làm giàu nên xúi giục người vợ hiền đảm đang trở lại con đường buôn bán hàng chuyến đầy cạm bẫy giăng mắc; nuông chiều dễ dãi nên dẫn đến thằng con bị tai nạn thảm khốc; keo kiệt, bủn xỉn với họ hàng làng xóm đến nỗi họ phải xa lánh. Hiểu ra thì đã muộn! Gã chới với, chao đảo trong nỗi cô đơn tuyệt vọng. Bất chợt gã nảy ra ý định đi tu. Phải, chỉ có đi tu mới giúp gã dịu bớt nỗi đau mất mát quá lớn trong đời gã. Nhưng khi nhớ đến thằng Cọt đang nằm trong bệnh viện với một chân bị cụt, gã lại buông tiếng thở dài! Nợ đời còn nặng quá! Gã không thể bỏ đứa con tật nguyền sống bơ vơ để tìm sự bằng yên thanh thản cho riêng mình.

          Một hôm gã phải về nhà lấy thêm đồ dùng cá nhân cho cha con gã. Đang loay hoay nhồi nhét mấy thứ cần thiết vào túi xách, bỗng có tiếng cổng sắt xịch mở, một người đàn bà ăn mặc chải chuốt, nước hoa thơm phức từ ngoài ngõ xăng xái đi vào. Tưởng ai, hóa ra con mẹ bán rau chợ trời bị đồng tiền thay đổi bản chất. Lảng vảng ngoài cổng ngõ còn có tên đầu trọc mang kính đen với chiếc xe bóng lộn. Thị dừng lại trước mặt gã thản nhiên mở chiếc xắc tay bằng da ca sấu lấy tờ đơn ly hôn đưa cho gã. Thị định mở lời. Gã vội khoát tay cắt ngang:

          - Đồ dâm đãng. Đồng tiền đã ám vào con người mày rồi. Đời mày chẳng khá chó gì đâu con ạ! Gã rút cây bút ra ký “rẹt” vào tờ giấy rồi ném trả vào mặt thị - Đây, cút mẹ mày đi cho khuất mắt ông. Đồ phản trắc!

          Thị thản nhiên cho tờ giấy trở lại chiếc xắc tay, lặng lẽ ra khỏi cổng.

          Thị đi rồi gã lại thấy bùi ngùi xót xa. Xét cho cùng, lỗi đâu phải do vợ! Dẫu sao thì nàng cũng chỉ là người đàn bà yếu đuối, nhẹ dạ, bị gã đẩy vào môi trường đầy cạm bẫy vì mục đích làm giàu.

          Theo quyết định của Tòa án, căn nhà phải cưa đôi. Bên nào muốn làm chủ hợp pháp phải thối tiền cho bên kia. Gã sạch túi, trắng tay nên đành phải nhận một khoảng tiền chỉ bằng nửa giá trị ngôi vườn ông bà mấy đời truyền lại rồi lặng lẽ rời khỏi nơi mình đã sinh ra và lớn lên giữa buổi chiều nhập nhòe sương khói. Thế là gã mất sạch rồi! Mất vợ, con mất một phần cơ thể, mất tình cảm họ hàng, làng xóm. Mảnh vườn ông bà truyền lại cũng không còn! Quả thật người đời nói không sai, tiền vào tay kẻ dốt nát sẽ trở thành đại họa. Lúc này gã mới thấy hối tiếc cuộc sống thanh bần của một thời chưa xa.

          Ra khỏi nhà với túi bạc ôm khư khư trước ngực, gã như một người mộng du. Cứ đi, đi lầm lũi mà chẳng cần biết đi đâu. Mãi đến lúc chân gã dẫm phải một vũng nước đọng lạnh buốt chắn ngang lối đi gã mới giật mình bừng tỉnh và nhận ra mình đang đứng trước chốn đồng không mông quạnh, lòe nhòe bóng đêm. Gã quay lại định đi về hướng cũ thì một bóng đen cao to xuất hiện đột ngột chắn ngang trước mặt gã. Một giọng lạnh lẽo, ma quái:

          - Để túi bạc xuống nếu mày chưa muốn chết!

          Nghe thanh âm, gã nhận ra kẻ đứng trước mặt mình chính là tên đầu trọc. Gã ôm chặt túi tiền vào ngực. Đây là phần của thằng Cọt, phải giữ bằng mọi giá. Tên đầu trọc rút từ thắt lưng ra một con dao thái hươ hươ trước mặt:

          - Mày ngu bỏ mẹ, đếch biết sử dụng đồng tiền để nó quật mày ra bã. Tao tình nguyện rước họa cho.

          Gã riết túi bạc vào ngực:

          - Không, phần này dành cho thằng con tao nó đang nằm viện.

          Gã đầu trọc cười khằng khặc:

          - Mày cứ yên tâm đi. Tao có quen với vài tay bác sĩ trên bệnh viện. Tao chỉ cần ho một tiếng là chúng nó vãi đái ra quần. Cần gì…

          Gã giận giữ quát:

          - Câm mồm! Đồ kẻ cướp!

          Gã đầu trọc lại cười khằng khặc:

          - Đúng, tao là thằng ăn cướp, nhưng chỉ cướp vợ của những thằng chồng mất khả năng giữ vợ, cướp tài sản của những tay trọc phú thu nhập bất chính, đếch biết sử dụng đồng tiền cho ra hồn. Tỉ như mày chẳng hạn. Không có tao, con vợ mày sẽ tanh bành té bẹ bởi tay hàng trăm thằng đàn ông khác, biết đâu nó còn nhiễm HIV đem về truyền lại cho mày?! Tao sẽ vét nhẵn đồng tiền cuối cùng của mày cũng có nghĩa là cứu mày thoát khỏi nhát búa của một tên côn đồ nào đó không nhiều lời như tao. Cướp có nhiều đẳng cấp. Tao thuộc loại cướp có hậu đấy.

          - Đồ kẻ cướp, quân mạt hạng, lý sự cùn!

          Rồi như được kinh nghiệm sống mách bảo, gã vội xoay người co giò lao vút trong bóng tối lòe nhòe. Tên đầu trọc cũng bám theo bén gót. Cuộc rượt đuổi bắt đầu diễn ra thật rùng rợn, thật khủng khiếp như một cảnh trong phim xã hội đen.

          - Ném túi bạc xuống rồi cứ thế dông thẳng. Tao không phải đứa giết người diệt khẩu. Nếu ngu ngốc thì con dao thái này sẽ giúp tao sớm kết thúc trò chơi trẻ con này.

          Mặc cho tên hung thần quát tháo ầm ĩ phía sau, gã dồn hết sức lực chạy thục mạng, chân gã như lướt nhẹ trên mặt đất. càng chạy con đường càng mở ra, cảnh vật càng hoang vắng âm u, sự sống không còn chỗ bấu víu. Gã cố chạy thêm một đoạn nữa thì mồ hôi bắt đầu vã ra như tắm, hơi thở đứt quãng, đôi chân cũng bắt đầu rệu rão, tên hung thần cũng bám sát sau lưng. Trên bước đường cùng, gã bật lên tiếng kêu thất thanh:

          - Cướp! Có cướp! Cứu!

          Thanh âm kêu cứu của gã như không đủ sức bật ra khỏi cổ họng. Giọng tên cướp sắc lạnh như mũi dao thái kề sát bên tai:

          - Thằng này khó mà giáo dục. Như thế là hết đời mày rồi con ạ.

          Lúc khốn cùng, gã định bỏ của chạy lấy người, nhưng nghĩ đến thằng Cọt đang nằm viện, gã càng ôm chặt túi bạc vào ngực, dồn hết lực vào đôi chân tiếp tục cuộc chạy đua hoàn toàn không cân sức. Nhưng tình cha con dẫu có sức mạnh đến đâu cũng chỉ giúp gã vượt thêm một quãng ngắn. Đang lúc sự sống và cái chết chỉ cách nhau trong gang tấc thì chân gã lại vấp phải một vật gì đó ngang qua đường, toàn thân gã ngã sấp về phía trước, mồ hôi ướt đẫm, hơi thở khò khè, miệng gã vẫn phát ra tiếng kêu cứu bằng thứ âm thanh méo mó đến kỳ dị. Thế là sự sống sắp kết thúc. Một thằng đàn ông dốt nát không nhận ra mặt trái của đồng tiền để nó quật cho tan nát, cho tả tơi là đáng chết lắm. Nhưng nghĩ đến thằng Cọt, gã lập tức xoay người sang tư thế nằm ngửa rồi dồn hết tàn lực vào đôi chân ra sức quẫy đạp…Như một chiếc xe tăng xả hết tốc lực, tên cướp từ phía sau lao thẳng vào gã, gã co giò đạp mấy nhát cầu may, bỗng một tiếng “oái” vang lên vọng mãi vào cõi vô cùng. Tiếng kêu thản thốt, đau đớn đó đã lôi tuột gã ra khỏi cơn ác mộng hãi hùng. Gã ngồi bật dậy thở dốc, mồ hôi vã ra như tắm, tay vẫn ôm khư khư túi bạc trước ngực. Đến khi nhận ra, túi bạc đó chỉ là chiếc gối. gã vội ném ra xa. Cũng ngay lúc đó, từ dưới sàn nhà, vợ gã lồm cồm bò dậy, cất giọng dấm dẳng:

          - Khiếp! Uống cho cố vào rồi đêm nào cũng mê sảng la ó, quẫy đạp lung tung chẳng cho ai ngủ.

          Như là chuyện thường ngày không cần phải bận tâm, vợ gã thản nhiên leo lên giường ngủ tiếp. Thật tỉnh hẳn, gã khẽ khàng bước xuống giường đi lại chỗ thằng Cọt nằm. Gã thở phào nhẹ nhõm thấy thằng bé vẫn lành lặn đang trong lúc ngủ say, trên môi còn đọng lại nụ cười hồn nhiên trong trẻo. Gã rón rén đi lại chỗ móc áo lục túi lấy ra tờ vé số điện toán mới mua hồi sáng trong quán cà phê vườn, thuận tay lấy hộp quẹt ga đang nằm trên bàn, bật lửa. Tấm vé số chưa công bố kết quả cháy bùng, trong chốc lát trở thành nhúm tràn to.

          Như người vừa trút xong gánh nặng, gã khe khẽ leo lên giường nằm xuống rồi vòng tay riết vợ vào lòng đưa thẳng vào giấc mơ. Thi thoảng gã lại bật lên một tràng cười khoái trá.

 KHỐI U

          Hình như hắn có một cái khối u ở trong bụng. Chính xác là ở bên trong sườn trái. Một lần nằm trên ghế bố đọc báo, hắn trở mình và bỗng thấy chỗ ấy hơi nhói lên. Rồi ngâm ngẩm đau. Bụng đầy đầy, chương chướng. Hắn bỏ tờ báo xuống, lấy mấy ngón tay nắn nắn nhẹ. Không có gì lạ. Nhưng bỏ tay ra thì cảm giác khó chịu lại xuất hiện. Hắn thử nằm nghiêng sang bên kia. Bỗng đau quặn lên. Hắn bật ngay dậy. Rõ ràng có một vật gì đó di chuyển bên trong. Tròn tròn, răn rắn, cỡ quả trứng vịt, trơn và nóng. Cái vật ấy thoắt ẩn thoắt hiện, chèn lên các dây thần kinh.

            Tay bác sĩ ấn mạnh cái đầu dò máy siêu âm lên đám dung dịch lầy nhầy phủ kín bụng hắn, tràn ra cả hai bên sườn. Mắt kính cận 8 đi ốp gườm gườm nhìn màn hình:

            - Không có gì lạ. Tim gan phèo phổi ngon lành. À à… Có, có. Một hòn sỏi!

            - Ở đâu?

            - Mật.

            - Sỏi mật à?

            - Sỏi mật.

            “Lạ. Sỏi mật sao lại to thế nhỉ?” - hắn nghĩ.

            Cái đầu dò vẫn nhùng nhằng day đi day lại trên bụng:

          - Chả chết thằng tây nào. Cứ kệ nó, khi nào nó giở chứng thì tính.

            - Biết khi nào nó giở chứng?

            - Khi nào đau quặn lên ở hạ sườn phải.

            - Tính là tính thế nào?

            - Chuyện nhỏ! Đến bệnh viện, mổ nội soi, cắt béng túi mật đi là xong.

            - Nhưng tôi đau ở sườn bên trái?

            - Hả? - Tay bác sĩ ngơ ngác. Cặp kính cận tuột xuống một đoạn trên sống mũi, vấp phải chỗ gồ lên thì dừng lại - Có cái gì ở bên ấy đâu?

            Hắn ngồi dậy, chẳng nói chẳng rằng, lừ lừ nhét áo vào trong quần, thắt dây lưng, xỏ giày. “Mẹ! Chẳng tin được thằng nào. Gãy chân trái thì đè chân phải ra bó bột. Cắt ruột thừa xẻo luôn dạ con. Mổ mắt trái cho mù luôn mắt phải. Tốt nhất là… không cần chúng nó nữa”.

            Tay bác sĩ chộp lấy hai vai hắn, ấn xuống ghế:

            - Ông bảo đau ở bên trong sườn trái à?

            - Chính xác là một khối u - Giọng hắn gay gắt.

            Tay bác sĩ bình tĩnh đưa tay sờ nhẹ sườn hắn, miệng lẩm bẩm: “Tưởng gì! Khối u thì anh quái nào chẳng có”. Rồi bất thần vỗ vào đó một phát đánh bộp:

            - Này thì u này!

            Hắn giật thót mình. Nhưng không hề đau. Thậm chí cảm giác tưng tức ban nãy biến mất. Hắn ngồi bất động trên ghế thêm vài giây đồng hồ. Nhìn cái vẻ tỉnh bơ của tay bác sĩ. Mặt hắn từ từ giãn ra.

            Đường phố vẫn tấp nập người xe như mọi ngày. Hắn dừng xe máy trước một ngã tư đèn đỏ. Xe của hai thằng thanh niên đèo nhau đi sau phóng ào qua, suýt chút nữa quệt vào hắn. Thằng ngồi sau ngoái lại, nở ra một nụ cười vàng khè toàn răng. Hắn cũng bất giác mỉm cười. Một bà bán vé số từ trên vỉa hè tót xuống lòng đường, không nói không rằng, chìa tập vé ra trước mặt hắn. Còn 13 giây nữa đèn xanh. Hắn móc ví lấy tiền, rút lấy 5 tờ vé.

            Biết đâu đấy? May mắn hay đến vào những lúc không ngờ nhất. Cả đời chẳng mấy khi chơi xổ số, nhưng hắn vẫn tơ tưởng đến một lần trúng đậm. Một lần nào đó thật tình cờ. Cái giống cờ bạc nó huyền hoặc, khó lường vô cùng. Bán nhà bán cửa, mất vợ mất con, rũ xương mục xác trong tù chẳng qua cũng vì tận lực tận tâm, bao nhiêu tinh túy trong người dồn hết cho các canh bạc. Trong khi ấy, một con mẹ hàng thịt vớ vẩn ngoài chợ, chỉ sến sến mủi lòng trước cảnh thằng bé bán vé số mếu máo (giả vờ) chìa ra những tấm vé cuối ngày, thò tay móc hầu bao lấy ra mấy tờ bạc nhờn mỡ, thế là phút chốc nẫng sạch độc đắc của thiên hạ. Những ví dụ trở thành giai thoại, huyền thoại như thế nghe đầy hai lỗ tai. Nghĩ rộng ra thì chuyện nào ở trong đời mà chả có tí đánh bạc, tí xổ số? Chăm chú thì thua. Quên phứt đi lại thắng.

            Còi toét toét thúc sau lưng. Hết đèn đỏ. Hắn vội vàng kéo tay ga.

          Việc đầu tiên là hắn sẽ xây nhà. 5 cái độc đắc, cứ cho là thế đi. Giá như mấy năm trước thì xây ngon. Năm nay giá sắt thép, gạch ngói, xi măng tăng gấp đôi, gấp rưỡi. Hắn suýt xoa như vừa bị mấy thằng bán vật liệu xây dựng chém ngọt. Thôi, không xây nhà nữa. Cái nhà hắn đang ở còn tốt chán. Có mà ở đến chết cũng chưa hỏng. Chẳng qua là hắn sốt ruột, thấy chúng nó xây nhiều quá. Mấy năm nay phố xá thay đổi hẳn. Mọc lên toàn biệt thự, nhà lầu. Có những cái nhà hắn nhìn phát hoảng. Thế mà nhà của hắn vẫn bé con con, thấp tè tè. Cũng không phải là nhà hắn làm. Nó là cái nhà cũ mua lại. Sống đến hai phần ba đời người, hắn chưa được hưởng niềm hạnh phúc tự đứng ra xây ngôi nhà cho mình. Phấn đấu mãi, thoát khỏi nhà tập thể, mua được cái nhà cũ bên ngoài là hết tỉ. Thế mới biết thiên hạ nhiều đứa giàu. Trúng xổ số thì chắc không phải rồi, vì chả lẽ thằng nào xây nhà cũng là nhờ trúng số? Chúng nó đào đâu ra lắm tiền thế không biết. Hắn chịu, không hiểu. Chúng nó không cần trúng số cũng xây nhà. Còn hắn muốn xây nhà thì chỉ có nước trúng số.

            Nhưng bây giờ trúng số cũng không xây nhà. Đi chơi. Bỏ hẳn ra một khoản. Đi cho khắp. Cho cả vợ con đi cùng. Ô, ô… Khoan khoan. Hắn nhếch mép cười thầm. Cái gì cũng dính vào vợ con là thế nào? Thói quen thực thi bổn phận. Bổn phận chán đến tận mang tai, nhưng thói quen cứ bám riết. Đưa vợ con đi chơi thì nói làm gì. Vợ con cần gì phải tốn nhiều tiền thế? Đời chả còn mấy. Tháo cũi sổ lồng. Thả lỏng ra mà tận hưởng. Tim hắn thắt lại trong một nỗi dịu dàng tê tái. Hắn nghĩ đến cô bồ. Trẻ, đẹp. Phát ghen lên được. Nhưng điều khiến hắn kinh ngạc không phải là sự trẻ trung hay nhan sắc. Hắn kinh ngạc, luôn luôn kinh ngạc vì cái vẻ trinh bạch của nàng. Gương mặt nàng sáng ngời vẻ trinh bạch. Một người đàn bà như thế làm sao có thể hư hỏng? Làm sao có thể phản bội chồng để đến với hắn? Thế mà cả hai đã từng thả sức mây mưa, đã từng làm đủ mọi thứ trò khỉ với nhau ở trên giường. Có những lúc nàng vừa làm tình với hắn vừa nghe điện thoại của chồng. Chính những điều oái oăm nho nhỏ ấy đã khiến hắn khát cháy cổ mỗi khi nhớ đến nàng. Quả núi lửa con con của hắn. Khu rừng rậm rạp và ẩm ướt của hắn. Mạch nước ngầm không bao giờ vơi cạn của hắn. Mỗi lần thèm muốn, nàng nũng nịu bắt đền: “

Em ướt hết rồi đây này

”. Rồi khi đang được thoả mãn thì nức lên từng đợt như một con chó con bị đánh oan.

            - Ê!

            Hắn giật mình. Bên kia đường hình như có ai gọi. Một gã đàn ông dừng xe, giơ tay vẫy. Hắn tấp vội xe vào bên lề. Gã đàn ông cẩn thận cho xe quay đầu vòng sang:

            - Đi đâu đây?

            - Đi lăng quăng - Hắn đáp qua quýt theo thói quen. Chả lẽ lại không trả lời?

            - Ông sướng thật. Suốt ngày lăng quăng.

          Gã đàn ông lạ mặt cười cười, lướt cái nhìn lành lạnh suốt từ đầu xuống chân hắn:

          - Kiếm chỗ làm vài ve chứ?

            - Ở đâu? - Hắn miễn cưỡng hỏi, trong bụng chẳng hứng gì với bia bọt.

            - Đến

Con Rồng

.

            “

Con Rồng

?

Con Rồng

nào? Bao nhiêu năm sống ở cái thành phố bé tí này, chưa bao giờ mình nghe tên quán

Con Rồng

”. Hắn chưa kịp nói gì thì gã đàn ông đã cho xe chạy vụt đi. Hắn bị hút theo. Hệt như gã kia có một sức mạnh bí ẩn nào chi phối hắn. Hắn vẫn chưa nhận ra gã là ai. Một tí lờ mờ cũng không. Hay là gã nhầm hắn với thằng nào? Không phải. Nếu thế thì thể nào cũng có thoáng ngờ ngợ. Đằng này, cứ như gã đã nhẵn mặt hắn.

            Hắn nhận ra mình mắc chứng hay quên từ vài năm nay. Đầu tiên, quên một cái gì đó nhưng khi được gợi lại thì hắn nhớ. Chẳng hạn như quên tên người. Bất chợt nhắc đến ai hoặc gặp ai, nhưng hắn quên biến mất tên. Chỉ nhớ mang máng, ví dụ, cái tên ấy hình như có vần “ân”. Phương pháp mà hắn hay sử dụng là ghép tất cả những gì có thể ghép với “ân”. Lần lượt theo thứ tự A - B - C, như trong từ điển. Bân, Cân, Dân, Đân, Hân… Rồi Chân, Khân, Thân… Cho đến khi nào bật ra được cái tên thật của người ấy. Hơi mất công một tí. Lắm khi cứ lẩm nhẩm ghép vần suốt từ ngoài đường về đến nhà. Lẩm nhẩm cả lúc ngồi vào mâm cơm. Rồi nửa đêm chợt thức cũng lẩm nhẩm. Nhưng gần đây thì hắn kinh ngạc phát hiện ra có những cái hắn quên biến. Quên tiệt. Sạch sành sanh. Tức là bị xoá trắng trong óc, không mảy may dấu vết.

            Có lẽ cái thằng cha đang dẫn hắn đến quán

Con Rồng

là một trong những trường hợp bị xoá trắng như vậy.

            Gã

Xoá Trắng

lượn xe vào con hẻm. Một con hẻm lạ. Thế mới lạ. Hắn chưa tới đây lần nào. Đúng hơn là chưa bao giờ nhìn thấy con hẻm này.

            Hẻm dài hun hút. Càng vào sâu lối đi càng hẹp, chỉ vừa cho hai chiếc xe máy tránh nhau. Hắn cố giữ khoảng cách với xe của

Xoá Trắng

. Liên tục mớm chân phanh vì ổ gà. Và khi cảm thấy hơi chờn chợn thì quán

Con Rồng

hiện ra.

            Quán nằm mé tay phải. Phía trên cổng gắn một cái đầu rồng bằng sành. Miệng rồng há hoác, hai mắt lồi ra như hai cái chén tống, râu tóc dựng ngược. Hắn  nghĩ ngay đến cái thủ cấp Quan Vân Trường nằm trong hòm nghiến răng trừng mắt nhìn Tào Tháo, lúc Tháo mở nắp ra hỏi đểu: “Tướng quân lâu nay vẫn mạnh giỏi chứ”?

            - Ông lâu nay có khỏe không? -

Xoá Trắng

đẩy ly bia trào bọt về phía hắn.

            - Cũng… làng nhàng - Hắn ngập ngừng.

            - Gặp ông hôm nay hay lắm. Nào, cạn một cái đã!

            Hai ly bia chạm nhau. Một lần nữa hắn liếc nhanh khuôn mặt kẻ đối diện. Thất vọng. Đúng là bị xoá trắng.

            Quán không lớn nhưng khách đông. Khách ngồi gần kín các bàn. Chẳng hiểu những người kia đã tới đây bằng cách nào? Chả lẽ còn một con đường riêng mà chỉ có họ mới biết? Ngay cả cái cách họ ngồi uống bia cũng không giống như ở những quán bia bình thường. Nói năng rất khẽ. Người nào biết chuyện người ấy, không ai để ý ai.

Hắn cẩn thận duỗi dài hai chân dưới gầm bàn.

           

Xoá Trắng

hỏi hắn mấy câu về công việc, gia đình… Những câu hỏi vô thưởng vô phạt. Hắn ậm ừ cho phải phép. Nhẩn nha nhấp từng ngụm bia lạnh.

            - Ông có tin thằng B. lại đối xử với bạn bè như thế không?

            - Ừ ừ…

          “Bạn bè” ở đây chắc là “tôi”, tức là kẻ đang kể chuyện. Nhưng còn thằng B là thằng nào? Thấy

Xoá Trắng

im lặng, có vẻ chờ ở hắn một phản ứng dứt khoát hơn, hắn vội thêm:

          - Thật ra…

            - Nó không phải là giống người -

Xoá Trắng

tiếp lời - Nó chơi tôi thì nó sẽ lãnh đủ.

            Hắn đần mặt, đặt ly bia xuống bàn. Bắt đầu kịch tính rồi. Chuyện nọ sẽ dắt dây sang chuyện kia. Thằng B ắt sẽ kéo theo cả lũ X, Y, Z… khác. Hắn sắp lạc vào mê lộ những câu chuyện của

Xoá Trắng

. Làm cách nào thoát ra bây giờ? Nếu không thoát thì sớm muộn hắn cũng bị lộ tẩy.

            May sao đúng lúc ấy, chuông điện thoại reo trong túi quần. Hắn rút máy di động, chẳng cần biết người gọi là ai, cứ thế “ok, thế à”… một thôi một hồi, mặt nghiêm trọng.

            - Bà xã? -

Xoá Trắng

hỏi.

            Hắn gật đầu: “Xin lỗi. Nhà có việc đột xuất”…

            - Tiếc nhỉ? -

Xoá Trắng

mỉm cười - Ông vẫn như cũ, chẳng có gì thay đổi.

          Hắn ngờ vực nắm lấy bàn tay

Xoá Trắng

đang chìa ra.

            - Hôm nào tôi đến ông chơi nói nốt câu chuyện -

Xoá Trắng

ôn tồn - Chuyện liên quan đến nhiều người, có cả ông nữa đấy. À mà ông vẫn ở nhà cũ nhỉ? Số 86 đường TK…

            Bàn tay gã lạ mặt nắm lấy tay hắn rất chặt, như không muốn rời.

            Hắn cắm đầu cho xe chạy ngược lại đoạn đường khi nãy. Một lát sau ngẩng lên, phố xá vỡ oà trước mặt. Có cảm giác như vừa thoát ra từ một đường hầm kín bưng. Gió thổi phần phật hai bên mang tai. Cả người và xe hắn nhanh chóng hoà lẫn vào dòng sông người.

            Ở cổng nhà mình, lúc giơ tay định bấm chuông, hắn bỗng khựng lại. Cái biển số nhà như đập vào mắt hắn. Con số 86 màu trắng lồ lộ trên nền xanh dương.

            - Giời ơi là giời…

            Vợ hắn mặt nặng như chì hiện ra sau cánh cổng. Đôi mắt mụ mòng mọng, ngân ngấn nước. Mụ rút then, rồi cứ để cho cánh cửa sắt mở toang hoang, quay ngoắt người lùi lũi đi vào nhà.

            - Sao thế? - Hắn gằn giọng hỏi đứa con gái.

            - Bà ngoại mất rồi - Con bé đáp lí nhí, như chính nó là kẻ có lỗi - Cậu Khế vừa điện vào…

            - Làm gì mà rối tinh rối mù lên! - Hắn quát to. Rồi chẳng biết vì sao mình lại  to tiếng như vậy, hắn đứng ngây ra giữa nhà.

            Hình ảnh bà mẹ vợ hiện lên trong đầu hắn.

            Bà ngồi bất động trên chiếc ghế tựa trước cửa nhà. Bà có thể án ngữ ở đó cả buổi sáng, cả buổi chiều. Bảo đưa bà đi thăm thú đây đó, bà không đi. Bảo sang hàng xóm chơi, bà cười trừ. Rủ bà đi chùa, không đi chùa. Có những lúc hắn chột dạ, thử mon men đến gần sau lưng bà. Yên tâm không có chuyện gì xảy ra, hắn lại quay về bàn ngồi trước máy vi tính. Chìm đắm dần vào những dòng chữ trên màn hình. Nhưng đầu óc chưa kịp thăng hoa thì lại giật thót người, choàng tỉnh. Có ai lướt qua sau lưng hắn. Bà! Cái bóng của bà đang vật vờ vật vờ xuống cửa bếp, không một tiếng động. Tim hắn đập thình thịch… Hắn im lặng nhẫn nhịn. Vợ hắn bị căng thẳng, hoá trầm uất. Cũng may còn hai đứa trẻ. Không ai xui mà chúng vẫn qúy bà. Quanh năm bà ở tít ngoài quê với cậu Khế, thỉnh thoảng mới có dịp vào chơi. Đi học về là chúng xán đến bà rủ rỉ những chuyện chỉ có trời mới biết. Hắn thầm cảm ơn hai đứa con lắm lắm. Nhưng vợ chồng hắn vẫn thở hắt ra nhẹ bẫng khi bà đòi về.        

             - Bây giờ tính sao?

            Vợ hắn hỏi, vẫn giữ nguyên bộ mặt nằng nặng và đôi mắt ngân ngấn nước.

            - Còn tính sao? Đi mua vé đi.

            - Thế, có định về cả không?

            - Về cả là về thế nào? - Hắn trợn mắt, phản ứng tức thì - Tiền đâu? Mất chục triệu vé máy bay chứ ít à? Với lại về cả thì lấy ai coi nhà? Chúng nó còn đang đi học…

            - Thôi thôi… không nói nữa, hiểu rồi… Mẹ ơi... Hu hu…

            Vợ hắn bù lu bù loa quay vào phòng trong. Thằng con trai nem nép ngồi vào bàn học. Con chị lầm lũi dắt xe máy ra sân, chuẩn bị đưa mẹ đi mua vé máy bay để bay luôn. Chuyến bay gần nhất. Lát sau vợ hắn nước mắt nước mũi sụt sùi, lếch thếch ôm chiếc túi du lịch căng phồng trèo lên sau xe. Đứa con gái ngoái nhìn bố, cái nhìn cứng cỏi. Chiếc xe nổ máy đưa cả hai mẹ con phóng ra đường.

            Hắn quăng mình xuống chiếc ghế bố.

            Năm nay mẹ vợ hắn ngót chín mươi tuổi. Canh cánh lo từ lúc bà bảy mươi. Lo miết, lo đến tám mươi, đến ngoài tám mươi thì hết cả lo. Thế là đùng một cái…

          Chuông điện thoại báo tin nhắn reo trong túi quần.

          Cùng lúc, sườn trái hắn đau nhói lên.

          Hắn bật ngồi dậy, đưa bàn tay lên chỗ đó xoa bóp nhè nhẹ.

            Chó thật! Có cái gì ở trong ấy không nhỉ?

            Lại từ từ nằm xuống.

          Từ từ nghiêng sang phải.

          Nghe ngóng.

            Một lát sau yên ắng sực nhớ móc túi quần lấy điện thoại di động.

            Màn hình bật sáng.

            “ANH OI EM BI UOT HET ROI”.

LỎNG VÀ TUỘT

            Y bấm nút khởi động chiếc điện thoại đi động. Màn hình sáng lên trong vài giây, rồi từ từ tối lại. Không có tin nhắn. Đêm qua không có ai nhớ đến y. Không  ai muốn nói, muốn chia sẻ với y điều gì trong lúc y ngủ và tắt máy. Giá như mọi sáng khác, y sẽ cất điện thoại vào một chỗ rồi bắt đầu những công việc hàng ngày của mình. Nhưng sáng nay, y lẩn mẩn giữ máy trong tay hồi lâu. Lẩn mẩn nhấn phím mở danh bạ. Không hề có ý định gọi cho ai. Chậm rãi lướt một lượt từ trên xuống dưới. Những cái tên người xếp theo thứ tự ABC, cẩn thận, chính xác như trong từ điển. Mỗi tên kèm theo một dãy số. Số di động, số nhà riêng, số cơ quan. Anh (Hoàng). Anh (Kim). Ánh (Ngọc)... Chu (Vũ Duy). Cầm (Hoàng Trọng)... Giao (Trần Bá)... Huyền (Thu), Hương (Minh)... Khả (Nguyễn)... Nhiều nhất vần T - Tảo, Tần, Tân, Tam, Tình, Thu, Thúy, Tiến... Ít nhất vần S - chỉ có độc một mống: Sáng (Lê Xuân). Không ngờ trong máy của y lại lưu nhiều tên và số đến thế. Những mấy trăm người. Thân thiết, hoặc đã từng gặp, từng quen. Những mối liên hệ còn giữ được. Và cả những mối liên hệ đã nhạt dần, lỏng ra, rụng hẳn. Lẫn vào giữa những số máy còn sống - những số máy thường xuyên hoặc thỉnh thoảng còn hiện trên màn hình - là những số máy chết ngoẻo từ bao giờ. Y đã quên bẵng chúng. Chúng nằm rải rác đây đó trong danh bạ như những bia mộ.

            Chẳng hạn có một số máy kèm theo tên người như thế này: Yến. Mở ngoặc: Lê Kim.

            Cứ như là cô ta đã lẻn vào cuộc đời y bằng một cái tên với mười con số sắp xếp ngẫu nhiên trong lúc y say khướt.

            Những cơn say y đã từng trải qua... Say mửa cả mật xanh mật vàng. Say li bì qua ngày qua đêm không nuốt nổi thứ gì vào bụng. Say bò ra nhà, say đái ra quần, say xong tưởng chừa rượu cho đến chết. Vậy mà cũng có một lần khi tỉnh cơn say y lại sướng âm ỉ. Mọi chuyện diễn ra lạ lùng đến nỗi nhiều năm sau nhớ lại, y vẫn ngỡ mình chưa ra khỏi cơn mơ.

            Ba thằng công chức xa nhà thổi cơm chung trong khu tập thể. Mấy lạng thịt phiếu, mấy bìa đậu phụ, rất nhiều rau sống và một can rượu trắng xách từ quê ra. Đến khi rượu chỉ còn lắp xắp dưới đáy can, hai thằng lăn ra sàn. Còn y sực nhớ ra khoản nợ. Y vay tiền của một chị làm cùng cơ quan. Vừa lĩnh lương xong, giờ là lúc nên trả. Chị này hơn y sáu tuổi, tính tình hào phóng, hình như cũng có nhiều thiện cảm với y hơn những người khác. Cho y vay nóng tiền. Thỉnh thoảng rủ y ra phố Gầm Cầu ăn trứng vịt lộn. Những quả trứng vịt lộn trong những năm đầu thập kỷ tám mươi của thế kỷ trước... Đấy không phải trứng. Đấy là thuốc bổ. Là nhân sâm. Vừa nuốt khỏi cổ rôm đã cắn nhôn nhốt khắp người, máu chạy giần giật. Trứng vịt lộn xoá đi khoảng cách tuổi tác. Trứng làm trẻ lại các tế bào, làm mới các quan niệm, đánh thức những ý tưởng bị bỏ đói và thúc cho chúng phóng vun vút.

            Chiếc coóc-sê màu trắng chập chờn liệng xuống chiếu. Chiếc coóc-sê ngoại cỡ, như chiếc diều

cánh cốc

mà hồi còn trẻ con y vẫn thả lên trời. Hai bàn tay rất khỏe túm lấy tóc y ghì xuống. Những câu trách móc lặp đi lặp lại như điệp khúc: "hư quá, hư quá". Sau "hư quá" đột nhiên "chết rồi". Sau "chết rồi" vẫn sống nhăn và đòi "bắt đền". "Bắt đền gì"? "Bắt đền... cái này này". Đầu óc y vẫn còn đang lơ mơ. Chị chàng bèn vùng vằng kéo tay y ấn lên cái

này này

. Ấm, mượt, phập phồng như bụng cá.

            Sáng hôm sau y thức dậy trên chiếc giường hôi xì của mình trong khu tập thể. Một buổi sáng hiếm hoi thằng đàn ông còn trẻ xa vợ không phải vén màn quay vào tường thủ dâm.

            Lê Kim Yến. Cô ta là ai nhỉ? Cô ta làm gì, ở đâu? Quen biết y từ khi nào? Tại sao lại quen y? Bây giờ lấy búa bổ vào đầu có lẽ y cũng chịu. Vì thế, cái tên đã bị xoá đi trong trí nhớ kia (mặc dù vẫn còn được bảo hiểm bằng một dãy số cụ thể), cũng có vẻ giống một giấc mơ hơn là một sự thực. Như mấy chục năm về trước, sau cái đêm đi trả nợ, vĩnh viễn không bao giờ còn trứng vịt lộn với phố Gầm Cầu. Đàn bà rất lạ. Họ thường có những cú phanh gấp, dừng đột ngột, đúng vào lúc cuộc phiêu lưu vừa khởi đi những vòng quay đầu tiên. Những ngày tiếp theo y đến cơ quan, vẫn ngồi gần chị chàng cho vay tiền, nhưng vẻ thản nhiên của người đàn bà khiến y chưng hửng. Y mấy lần liếc trộm ngực áo chị ta. Đoan trang, kín đáo. Có đúng bên trong là chiếc coóc-sê to cỡ đó không nhỉ? Y liếc trộm cả xuống phía dưới. Nghiêm lạnh, xa vời. Thất vọng não nề về cái bụng cá nóng hổi và sống động. Y đâm ra nghi hoặc tất cả. Những câu hỏi dai dẳng bám theo y. Những điều ngỡ thật hơn cả thật, thoắt cái trở nên hư huyễn. Con cá đã luồn ra khỏi tay y và lặn mất tăm.

            Suýt nữa y nhấn nút gọi cho Lê Kim Yến.

            Nếu cô ta trả lời, có thể y sẽ nhận ra, nhưng cũng có thể vẫn mù tịt. Y sẽ nói gì, làm gì tiếp theo? Suy đi tính lại, chỉ có mỗi cách mời đi uống cà phê là hay nhất. Đó là một giải pháp trung tính. Quán cà phê giống như nơi cắm cột mốc biên giới. Vừa tiếp giáp gần gụi, vừa khẳng định chủ quyền. Xem nào... Đã lâu lắm y bỏ thói quen ra ngồi quán cà phê lúc đầu ngày. Những quán cà phê trong thành phố đua nhau mọc lên, ồn ào, đông đúc. Y không chịu được những nơi đông người. Ngày trước, khi còn ra quán uống cà phê, y cũng chọn những quán nhỏ, vắng.

Trầm

chẳng hạn. Y thích đến

Trầm

, không phải vì cà phê

Trầm

ngon. Cũng không phải vì nhạc hay. Mà vì cái tên quán rất hợp với không khí quán. Bàn gỗ mộc sạch sẽ. Trên mỗi mặt bàn đặt chểnh mảng một tách cà phê bằng gốm. Trong lòng tách, dưới đáy có lớp men màu nâu sẫm hệt như lớp cà phê còn đọng lại. Mô hình tách-cà-phê-uống-dở luôn gây cho y cảm giác có một người nào đó vừa ở đây đứng lên. Người đó là ai? Người đó đi đâu rồi? Người đó đã chờ y, đã uống cạn sự nhẫn nại của mình mà y chưa tới.

            Y nhấn nút, gọi Lê Kim Yến.

            Hồi hộp đưa máy lên nghe.

            Ở đầu kia mối quan hệ vừa được tái lập, chỉ vang lên những tiếng tút dài.

            Giống như kẻ bị đẩy lên con đường do chính mình bất ngờ tạo ra, sau nhiều năm, y một mình tới

Trầm

.

            Thêm nhiều bàn ghế, căn phòng như hẹp lại. Nhạc mở to. Hoa cắm vội trên bàn. Và tất nhiên không còn những tách cà phê bằng gốm. Mùi khói thuốc lá trong phòng máy lạnh hăng hăng như kim châm vào lỗ mũi. Y tò mò nhìn quanh. Toàn những gương mặt lạ. Lách qua mấy dãy bàn, y chọn cho mình một chỗ ở cạnh cửa sổ. Khung cửa nhìn ra khoảnh vườn nhỏ có giàn chanh dây với những trái tròn tròn màu xanh non.

            - Ngồi một mình à?

            Những trái chanh vụt biến, sau cái vỗ vai khá nặng.

            Lão già có mái tóc lởm chởm màu xi măng kéo ghế, ngồi xuống cạnh y.

            Lão chủ cửa hàng vật liệu xây dựng. Lão

vòi nước

. Chết tiệt. Sao lão lại xuất hiện ở đây, vào đúng lúc này? Lúc này y chẳng có nhu cầu gì về vòi nước! Chỉ có vòi nước mới là lý do - lý do duy nhất - để y tìm đến lão, hay nói cho bình đẳng, hai người tìm đến nhau. Mối quan hệ đó được hình thành trên cơ sở sáu cái vòi nước ở nhà y. Một cái tưới cây. Một cái rửa bát. Một cái máy giặt. Và ba cái trong toilet. Sáu cái vòi  thay nhau hỏng. Chúng chỉ hỏng vì mỗi cái joăng cao su ở bên trong mới tức. Nước cứ rỉ ra từng giọt. Thế là phải thay cả vòi. Y đến cửa hàng vật liệu xây dựng đầu phố, nơi chất ngổn ngang những xi măng, gạch ngói, cát sỏi, đồ trang trí nội thất... và hàng trăm thứ đồ linh linh tinh khác, chỉ để tìm mua vòi. Rồi  gọi luôn lão là lão

vòi nước

cho tiện. Mãi gần đây, khi bán chiếc vòi mới cho y, lão thông báo: tất cả các loại vòi bây giờ đều có joăng thay thế. Lão khuyến mãi cho y liền một lúc năm cái joăng mới tinh. Những cái joăng sơ cua chưa dùng hết.

            Y miễn cưỡng chấp nhận tình huống trớ trêu:

            - Anh uống gì?

            - Thế cậu uống gì?

            - Em kêu rồi. Cà phê đá.

            - Cho tớ ly bưởi ép. Tớ chỉ uống cà phê vào buổi tối.

            Y vẫy cô phục vụ, gọi thêm ly bưởi ép. Trong lúc chờ đợi, y chẳng biết nặn óc ra chuyện gì hay ho hơn là hỏi tiếp:

            - Uống cà phê buổi tối mà anh không sợ mất ngủ à?

            - Tớ dùng cà phê buổi sáng thì đến đêm mất ngủ. Còn dùng buổi tối thì đến sáng hôm sau mới thấy tỉnh như sáo - Lão

vòi nước

cười ồ ồ - Cái gì vào tớ cũng bị chậm hơn người...

            Cà phê và bưởi ép cùng lúc được đưa ra.

            - Bưởi ép rất có lợi cho tiêu hoá. Chẳng hiểu cậu thế nào, chứ tớ rất khoái được tống cái thứ khí thải ra khỏi người. Ở nhà thì khỏi phải nói, mặc kệ vợ con, tớ cứ thoải mái nện từng phát. Bùm! Bùm! Còn lỡ khi đang ở ngoài đường đông người, thì phải nhịn cho đến lúc có chiếc ô tô hay xe máy nào chạy qua. Pạch pạch! Tít... Chẳng có đứa quái nào nghe thấy.

            Lão

vòi nước

lại cười như một cái vòi mở hết cỡ.

            Y sượng người liếc trộm mấy bàn xung quanh. May nhạc mở to, người nào chuyện ấy, chẳng ma nào để ý.

            - Cậu có hiểu gì về thị trường chứng khoán không?

            - Không.

            - Tớ cũng đếch hiểu. Nhưng thiên hạ thì sôi lên sùng sục - Lão vung tờ báo mới lên - Báo viết có thằng sớm mai tỉnh dậy đã vớ trong tay bạc tỉ. Thấy chúng nó đua nhau làm ăn, mình cứ ớ ra như người bị mất tiền cậu ạ.

            Chiếc điện thoại trong túi quần y đổ chuông. Y lấy máy, nhìn hàng chữ hiện trên màn hình. Nét mặt thoáng thay đổi.

            - A lô! - Y hắng giọng, nhắc lại - A lô... A lô! Tôi nghe đây...

            Đầu bên kia im phăng phắc.

            - Thôi chết! Cậu hẹn với bạn à? Tớ vô ý quá, vô ý quá!

            Lão

vòi nước

dốc tuột ly bưởi ép vào miệng. Những viên đá chưa kịp tan xô nhau lóc cóc. Lão cuộn tròn tờ báo, đứng lên bắt tay y. Bàn tay thô nhám cứng như sắt. Lão còn kịp ghé tai y bỏ nhỏ thêm một câu:

            - Nước bưởi nhanh tệ. Ra cửa thể nào tớ cũng "bùm"!

            Đợi cho lão

vòi nước

khuất sau cánh cửa, y cũng đi vào buồng vệ sinh.

            Y đứng trong đó khá lâu. Vừa tiểu vừa nghĩ về cú điện thoại vừa rồi. Dòng nước tiểu nhỏ và chậm, đôi lúc suýt bị ngắt quãng, như chảy ra từ cái vòi bị hỏng. Những ý nghĩ lan man trong đầu y. Rõ ràng cái tên đó vừa hiện ra trong máy. Cô ta đã gọi lại. Có thể vì cú điện thoại của y gọi cho cô ta lúc sáng. Nhưng tại sao cô ta chỉ im lặng? Y gặp những trường hợp tương tự như thế này ở đâu rồi nhỉ? Với ai nhỉ?... A, thường là với mấy cô điếm trong quán bia ôm. Đúng thế. Họ vẫn thường có kiểu thăm dò thận trọng như vậy. Để tránh sa vào các thứ bẫy. Để thêm một lần cân đong lại giá trị của mình. Để kiểm tra chất lượng những lời hứa hẹn, thề thốt từ những cái miệng đầy mùi rượu của bọn đàn ông. Không loại trừ một ít mặc cảm tội lỗi, cũng như sự giằng co tranh đấu ngoạn mục giữa phẩm hạnh và bùn lầy...

            Những viên thuốc vàng vàng xanh xanh trong bồn tiểu bốc mùi mãnh liệt, hăng gắt hơn cả khói thuốc lá. Mấy giọt nước tiểu còn lại són ra chiếc quần lót. Ươn ướt, lành lạnh ở bên đùi. Y tặc lưỡi, kéo khoá quần.

            Ra khỏi buồng vệ sinh, y đến ngồi chỗ cũ. Mảng quần lót vẫn dinh dính vào háng... Bao giờ ngồi bên cạnh những cô điếm trong quán bia ôm, y cũng làm ra bộ trầm trọng. Hỏi em có ngại không, có sợ không? Rồi khe khẽ đổi lại tư thế ngồi cho dương vật đang cương lên khỏi tức. Em đừng ngại, đừng sợ. Anh không như những thằng đàn ông khác đâu. (Đến chỗ này, gặp đứa con gái nào sành sỏi là nó sẽ trắng trợn tóm ngay vào của quý của y để kiểm tra độ thành thật). Những thằng đàn ông khác là những thằng bạn y đang ngồi xung quanh đây này. Những thằng đàn ông vừa tọng cho đẫy rượu thịt ngoài quán nhậu, vào đây vớ được đùi non vú mẩy là mê mụ đi, là mắm môi mắm lợi nghiến ngấu. Anh không như chúng nó. (Á à). Anh xin phép được quàng tay ôm em. Xin phép được hôn lên cái nốt ruồi trên ngực em. Nữa, xoè tay ra để anh xem bói cho. Những đường chỉ tay rách nát mã hoá cuộc đời của những cô gái điếm. Y chẳng đọc được mẹ gì ở những đường chỉ tay ấy. Y nhè nhẹ nâng niu khép những ngón tay ngoan ngoãn (hoặc tạm thời ngoan ngoãn) của các cô lại. Rồi thở dài. Hoàn thành xuất sắc màn giáo đầu có tên là "

Lòng trắc ẩn của anh có thừa, chỉ mỗi tội tiền hơi bị kẹt".

            Thật chẳng hơn gì cứt!

            Ấy thế mà cũng có đứa cảm động vãi nước mắt, tiễn y ra cửa còn dấm dúi cho số phôn.

            Có tiếng chuông điện thoại reo vang trong túi quần.

            Y hấp tấp lôi máy ra. Trên màn hình là một số máy lạ hoắc.

            "Xin lỗi. Có phải bác Y nghe máy không ạ"?

            Một giọng đàn ông từ tốn vang lên.

            "Vâng... Tôi đây... Y đây".

            "May quá. Mời bác mười giờ đến nhà hàng Con Lừa. Đúng mười giờ sáng nay bác nhá".

            "Anh là..."?

            "Em đây... Em là cháu ngoại cụ Lang Gừng ở xóm Giữa... Hôm nay họp đồng hương mà bác? Bác chưa nhận được thư mời à? Ban tổ chức chúng em hỏi thăm mãi mới xin được số điện thoại của bác. Năm nào vào ngày này làng mình cũng tổ chức họp đồng hương. Bác nhớ đến cho vui nhá".

            Ôi trời ơi! Y vừa ngán ngẩm, vừa muốn phì cười. Y rời khỏi làng năm mười bảy tuổi, và bây giờ đã ngoài năm mươi. Hơn ba mươi năm chỉ có vài lần về thăm quê, lần nào cũng như khách lạ. Những sợi dây liên hệ cuối cùng đã đứt từ lâu. Bố mẹ không còn. Anh em ly tán. Không còn bất cứ điều gì ràng buộc, níu kéo y. Y ghét những cuộc tụ tập đông người để nhấm nháp món nước dùng nhạt hoét có tên là kỷ niệm. Hội đồng hương. Hội trường. Hội lớp... Y đã từng kinh ngạc khi một hôm bất ngờ nhận được bản danh sách dài những bạn học cùng lớp thời sinh viên. Bản danh sách với đầy đủ tên họ, địa chỉ, nơi làm việc, số điện thoại, thậm chí cả chức vụ của từng người. Tên họ y, những thông tin về y cũng đầy đủ, chính xác như luôn luôn có một cặp mắt, một bàn tay vô hình nào đó dõi theo và cập nhật. Nhưng y đã quên biến một số kẻ có tên trong danh sách đó. Và một số kẻ khác thì chưa bao giờ có ý định gặp lại. Giống như một hành khách đã nhảy lên chuyến tàu của đời mình, y cứ muốn tàu chạy thẳng một lèo đến ga cuối cùng. Y kiên quyết nói KHÔNG với việc ngoái đầu nhìn lại ga cũ... Thế mà vẫn chưa được buông tha. Lại còn gì ấy nhỉ? Cụ Lang Gừng. Xóm Giữa. Nhà hàng Con Lừa. Ha ha... Thật khéo chọn. Họp đồng hương ở nhà hàng Con Lừa! Đồng hương tỉnh chưa chán thì đồng hương huyện. Và bây giờ là đồng hương làng.

            Y tắt phụt máy. Lại thấy buồn đái.

            Lần này không có giọt nước tiểu nào són ra quần.

            Cái tên Lê Kim Yến cứ mãi luẩn quẩn trong đầu y. Không hiểu sao nó lại gợi cho y nhớ đến một người. Thấp thoáng. Một phụ nữ không mang tên đó. Cũng không phải điếm. Có nghĩa là lành lặn trong con mắt của tất cả những người bình thường. Nàng khoảng bốn mươi tuổi. Một viên chức nhà nước hẳn hoi, thậm chí còn là một viên chức ở một cơ quan sang trọng. Chỉ có một điểm khiến y hơi phàn nàn (thầm trong bụng) là làn da giữa hai bầu vú của nàng. Nó khô và gợn lên vô số những nếp nhăn li ti...

            Rủ nhau lẻn đi cà phê, đi ăn trưa. Sau nhiều lần đưa nhau vào khách sạn ôm ấp, hôn hít và làm đủ mọi thứ trò khỉ khác, nàng mới chịu cúi xuống tự cởi giày. Còn váy thì để nguyên. Trong lúc y cuống quýt thu xếp một tư thế, nàng rên rỉ như hối hận, như bị xúc phạm. Chỉ có cặp đùi nàng không biết nói dối, cứ vô tư khuyến khích y. Xong việc, y ngồi dậy, thở. Nàng cũng vùng ngay dậy. Rồi bỗng nhiên nổi cơn cớ, tiện tay vớ được thứ gì ném vung đi thứ ấy. Gối. Chăn.Quần lót. Túi xách... Này cả nể này! Này mềm yếu này! Này nhẹ dạ này! Này lú lẫn này!... Cho đến khi vẫn thấy y ngồi đực mặt như đang xem một trò diễn, nàng bèn vùng vằng kéo vạt váy nhàu nhĩ xuống (lúc nãy vẫn chưa cởi ra khỏi người) chạy thẳng vào toilet, vặn nước xoè xoè.

            Vài ngày sau, y thì thầm tâm sự với một thằng bạn, cả hai ngã ngửa người... Hai thằng nằm gác đùi lên nhau, cười hô hố, tranh nhau kể ra những tình huống, những câu nói, những việc làm. Tối hôm trước nó thề thốt với mày thì tối hôm sau nó ngã vào lòng tao. Nó ném chăn ném gối với mày trên giường thì nó sụt sùi đau đớn véo tai dứt tóc tao ăn vạ. Nhưng cái gì cũng có giá cả đấy. Nó bòn mày con di động thì nó mơi tao sợi dây chuyền... Cứ thế, công khai, ráo hoảnh, những mảnh tình chim chuột của hai thằng đàn ông với một con đàn bà được trưng ra bằng hết, và chúng giống hệt nhau như những bản photocoppy. Cả hai thằng bí mật ngoéo tay nhau cùng ngoảnh mặt với nàng. Để mặc nàng tiếp tục đóng vai con nai vàng ngơ ngác...

            Sau lần ấy, y bắt đầu quen dần với việc đi chơi điếm. Và thầm nghĩ rằng đàn bà chẳng khác nhau bao nhiêu.

            Y lấy điện thoại, mở thật nhanh danh bạ tìm đến cái tên Lê Kim Yến. Bấm máy gọi.

            Sau hai hồi chuông, đầu kia có người bắt máy.

            "A lô" - Y hồi hộp lên tiếng.

            Không ai trả lời. Chỉ nghe tiếng thì thào. Rồi bỗng nhiên có tiếng cười. Tiếng phụ nữ cười. Một người. Hai, ba người cùng chụm đầu vào nhau cười. Khúc khích.

            Y tắt máy, ngẩng lên.

            Quán cà phê vắng ngắt.

            Những người khách cuối cùng đã rời khỏi quán từ khi nào.

            Buổi sáng dài đằng đẵng như trôi qua trong sương mù. Hình như y cũng đang dập dềnh trôi đi đâu đó. Mọi thứ đang lần lượt tuột ra khỏi tay y.

            Nửa tiếng sau ở nhà hàng Con Lừa, giữa những người đồng hương xa lạ, y giật mình phát hiện ra khoá quần vẫn mở...

MÙ TĂM

                                                                 Tặng Ch., để biết chặng đường từ T đến S.

            Ông Cầm xếp xong bộ quần áo cuối cùng vào túi xách thì gã xuất hiện:

          - Đi thật à?

            Gã hỏi, nửa ngần ngại nửa chia sẻ.

            Ông Cầm cúi xuống, kéo xoẹt cái fermeture rồi nhanh chóng khoác túi lên vai. Ông biết phút ấy ông không lờ gã đi là ông thua, là không bao giờ có thể bước chân ra khỏi cửa. Ngoài sân, bà vợ ông đang hứng nước tưới cây. Bà chỉ nhìn lướt ông một cái rồi cúi xuống chăm chú vào mấy chậu cây cảnh héo rũ. Ông Cầm gọi xe ôm, bảo chở thẳng ra bến tàu cánh ngầm.

            Tàu cánh ngầm phi lên thành phố.

          Tới thành phố, lại xe ôm đèo ra sân bay.

          May quá! Vẫn còn kịp đặt vé đi chuyến gần nhất.

            Còn hơn tiếng đồng hồ nữa máy bay cất cánh. Khách ngồi trong phòng chờ ở cửa số 3 - cửa đi đảo Q - ngoài ông Cầm, mới có độc một bà già. Bà lão ôm khư khư bọc hành lý trong lòng. Khi ông Cầm bước đến, còn cách bà những 5 chiếc ghế, đôi mắt bà đã lắc quắc bắn ra những tia sáng cảnh báo: “Này này ông kia, chớ có vượt qua giới hạn ấy nhé”!

            Ông Cầm tảng lờ hạ cái túi trên vai xuống, ngồi ngả lưng, mắt lim dim.      

          Gã đàn ông lại chập chờn hiện ra với vẻ miễn cưỡng:

            - Ở đâu cũng thế thôi ông ơi. Hay ông biết ở ngoài ấy có gì lạ lắm?

            Ông Cầm nín thinh. Không, ông cũng chẳng biết gì. Sáng ngủ dậy chui vào toilet làm vệ sinh. Lúc lên nhà ngồi thừ ra ghế, đưa mắt nhìn một lượt khắp căn phòng quen thuộc. Cái bàn, cái ghế, cái máy tính, cái giường xếp để ngả lưng, bộ ấm chén pha trà, cuốn sách đọc dở cả tháng vẫn chưa xong… Tự nhiên thấy rời rã cả người. Tự nhiên muốn bỏ mặc tất cả. Tự nhiên muốn đi. Đến một nơi nào thật xa thật khác. Vì lý do gì ông chẳng hiểu. Bao nhiêu năm nay, bao giờ ông cũng có lý do chính đáng để cắt nghĩa cho những hành động của mình. Nhưng lần này thì chịu. Cái ý muốn đó đã manh nha trong ông từ lâu, sáng nay nó quặn lên như một cơn đau bụng đói. Đúng lúc ấy, tên hòn đảo bất ngờ vang lên, lặp đi lặp lại trong đầu…

          “Vì lý do kỹ thuật nên chuyến bay từ S đi đảo Q…”. Loa phóng thanh trong phòng chờ thản nhiên đọc hai lần cái thông báo bằng một giọng nữ bị cúm nặng.

            Gã đàn ông nhìn ông Cầm cười cười:

          - Hoãn bay! Ông thấy chưa? Mọi thứ chưa sẵn sàng ủng hộ ông...

            Gã mở miệng định nói tiếp câu gì, có vẻ đưa ra một lời khuyên, thì ông Cầm đã vụt đứng dậy:

            - Không!

            Bà già ôm bọc liếc nhìn sang. Cái ông khách đáng ngờ cách 5 chiếc ghế kia hình như đang hục hặc cãi nhau với ma.

            Ông Cầm bước nhanh đến quầy bưu điện. Ông nhặt lên… Một, hai, ba… năm. Năm tờ báo khác nhau. Đủ cho hai tiếng rưỡi ngồi chờ thêm, nếu như nội dung cái thông báo vừa rồi không có gì thay đổi. Cô nhân viên bưu điện khẽ nhắc: “Báo ra hôm qua đấy bác ạ”. Hơi ngẩn người, nhưng ông Cầm vẫn móc túi lấy tiền trả. Ông mang tập báo về chỗ ngồi, thong thả mở bao lấy kính ngoắc lên mắt.

            Gã đàn ông nọ lại miễn cưỡng khuất sau những trang báo.  

            Giá vàng thế giới sốt cao. Phe áo xám thủ đô K. biểu tình ăn vạ ở sân bay quốc tế. Hội nghị thượng đỉnh các nước G7. Nông dân đồng loạt khởi kiện nhà máy V. xả nước thải làm ô nhiễm môi trường. Hơn 300 hành khách trên chuyến bay thoát chết trong gang tấc. Người đẹp cứa cổ tình nhân trên xe hơi. Con cá voi ngót 30 tấn chết giạt vào bờ. Hành trình mờ ám của một dự án nghìn tỷ. Chất lượng truyền hình cáp xuống cấp. Ăn gì có lợi cho bệnh liệt dương. Ngày hội Thơ năm nay có những câu thơ chép sai thả lên trời…

            Rõ thật!... Sai lầm dưới đất còn có thể sửa chữa. Sai lầm thả lên trời thì vô phương. Những câu thơ rởm sẽ vĩnh viễn đi vào cõi bất tử.

            “

T., 40 tuổi, ở thị trấn X., một buổi chiều cầm chiếc kính hỏng của mình đi bộ từ nhà đến tiệm chữa kính ở đầu phố. Mười bảy năm sau chưa thấy quay về”...

            Ông Cầm bỏ tờ báo, lặng người đi mấy giây.

Quả

biến mất này ấn tượng hơn

quả

thả thơ sai. Cùng một lúc ông nhận ra hai điều. Một (hơi chua xót): những gì chạm được vào nơi sâu kín bí ẩn nhất trong con người ông thì dường như không ai thèm để ý. Chẳng hạn như cái tin tìm người lạc vừa rồi. Một con người lạ lùng. Một số phận bi tráng. Ông nghĩ thế. Một gợi ý cho cả cuốn tiểu thuyết bảy trăm trang chứ ít à? Thế mà nó bị ép vào trong khoảng không gian chật chội vừa bằng một bao diêm, nằm ở góc trang báo, chữ nhỏ như con kiến. Hai (dịu dàng khôn tả): sự giao cảm đặc biệt bất ngờ tràn ngập tâm hồn ông. Ông chưa từng nghe nói đến thị trấn X. Và đương nhiên chưa bao giờ được hân hạnh làm quen T. Nhưng ông hiểu gã, ông hiểu gã… Chỉ mấy bước chân với một cái kính hỏng (tuột tròng hay gãy gọng nhỉ?), T. đã thản nhiên ra khỏi thế giới này.

            Không cần một lý do chính đáng nào.

            Không cần!

          Tuyệt.

          Vợ con hắn sẽ tha hồ mà ngơ ngác. Còn hàng xóm thì tha hồ đoán già đoán non. Những cái đầu bình thường ấy, ông Cầm biết tỏng, rốt cuộc chỉ quanh quẩn với ý nghĩ: phải có một lý do nào đó chứ? Mà cái lý do này chắc chắn ghê gớm lắm. Mới có thể khiến hắn bỏ nhà ra đi như vậy. Quá khứ của hắn sẽ bị lục tung lên. Mọi ngóc ngách riêng tư của hắn được soi chiếu kỹ càng như phim quay chậm. Trí tưởng tượng nghèo nàn đắp điếm cho những chỗ phim nhòe mờ. Và đương nhiên, sau mọi nỗ lực, đám đông sẽ khoan khoái xoa tay nhìn nhau nhất trí: hắn bị thần kinh!

          “Một lần tôi thấy T. đi ngoài đường mà quên không cài cúc quần”.

          “Ông ấy gặp tớ, chào, nhưng mắt nhìn đi đâu, cứ như có ai đang đứng ở đằng sau tớ, sợ lắm”.

          “T. kể tôi nghe một chuyện. Mấy ngày sau gặp, ông ấy lại hào hứng kể đúng chuyện ấy, không sai một chữ. Đến lần thứ ba”…

            Đấy, đại khái thế. Dở người. Cám hấp. Thần kinh. Hợp lý vô cùng. Lắp vào nhau vừa khin khít. Không có thì không thể hiểu được. Chuyện gì cũng vậy.

            Gần suốt cuộc đời, ông Cầm đã sống cuộc sống của một người bao giờ cũng bằng lòng với những bộ cánh may sẵn. Ông đi học, đi làm, lấy vợ, sinh con. Ở cơ quan chưa từng giữ chức vụ quan trọng nào, nhưng luôn luôn là viên chức gương mẫu. Đúng giờ có mặt. Sếp giao việc gì cũng không chối từ. Xong việc, giở báo, giở tài liệu ra miệt mài nghiên cứu, học tập. Ai ốm đau bệnh tật tai nạn gì cũng nhớ thăm hỏi ân cần. Đám ma nào cũng thành kính có mặt. Đám cưới nào cũng hớn hở xuất hiện. Mỗi năm một lần diện bộ quần áo mới, đầu tóc tươm tất đến họp hội đồng hương. Ở nhà hoà thuận với vợ con. Hàng xóm láng giềng không ai phàn nàn. Ngày lễ ngày tết nhớ treo cờ đầu tiên, chẳng đợi khu phố phải nhắc. Mọi khoản đóng góp nghĩa vụ với địa phương răm rắp thực hiện… Cho đến lúc ông ngoài 50 tuổi, cái trật tự dễ chịu ấy - cái trật tự tưởng như đã ru ông vào giấc ngủ vĩnh viễn êm đềm ngay từ khi ông chào đời - bỗng nhiên bị trục trặc tí chút. Sự cố xảy ra vào những lúc chính ông cũng chưa kịp hiểu đầu đuôi ra sao.

            Đột nhiên muốn về hưu trước tuổi. Đột nhiên muốn đập cái nhà đang ở đi xây nhà mới. Đột nhiên thèm uống rượu. Đột nhiên nửa đêm vùng dậy nghe có người vừa gọi tên mình. Đột nhiên mê internet, chìm đắm vào thế giới ảo, ngồi chat cả buổi chiều không biết chán với một cô nàng có cái nick là

matthuytinh

… Và bây giờ thì đến lượt đảo Q. - cái chấm xanh nhỏ xíu xa vời trên bản đồ, cái thẻo đất mơ hồ dập dềnh giữa mênh mông trời nước, chưa bao giờ nghĩ là mình sẽ đặt chân tới.

            - Sắp đến đấy ông ạ.

            Ông Cầm mở choàng mắt. Bà già ngồi cạnh đã trở nên thân thiện. Biết làm thế nào - không gian trên máy bay bị ép lại, khoảng cách 5 chiếc ghế ở phòng chờ biến mất.

          - Bà ra đảo thăm ai?

            Ông Cầm hỏi, trong bụng lấy làm lạ vì bà già nói giọng Bắc.

            - Con gái tôi lấy chồng ngoài này. Năm nào tôi chả ra thăm cháu - Bà già thấy ông khách bắt chuyện thì dấn thêm - Vợ chồng nó mở cái quán thịt chó. Phát tài phết ông ạ. Nghe bảo cái giống chó ngoài này khôn, thịt cũng ngon hơn thịt chó trong bờ.

            Bà vỗ vỗ vào cái túi vẫn ôm khư khư trong lòng từ lúc lên máy bay:

            - Còn đây là túi củ riềng. Riềng, mẻ, mắm tôm, ba thứ đầu vị thịt chó, không thể thiếu được. Tôi phải mang giống ở quê tôi ra cho chúng nó trồng.

            Ra thế. Ông Cầm suýt phì cười nhớ lại lúc ngồi trong phòng chờ. Túi củ riềng qúy hoá thật. Cái hòn đảo này đâu đến nỗi quá tách biệt với đất liền? Người ở xa hàng nghìn cây số cũng đã tới đây làm ăn sinh sống, dựng vợ gả chồng, sinh con đẻ cái, đi lại thăm nom nhau. Ngay cả món thịt cầy khoái khẩu cũng đã đổ bộ lên đảo. Chó đảo Q khôn có tiếng. Bơi giỏi như rái cá. Đào hang không kém kỳ đà. Tinh khôn bằng mấy Béc-giê. Nuôi trong nhà chẳng khác gì có đệ tử ruột bên cạnh. Nhưng bây giờ thì đệ tử cũng thịt…

            Gã đàn ông từ trong góc tối hoan hỉ thò mặt ra:

            - Tôi đã bảo mà. Có khác gì trong đất liền?

            Ông Cầm yên lặng, hướng cái nhìn đi chỗ khác.

            Qua cửa sổ máy bay, đảo Q dần hiện nguyên hình. Một vệt xanh dài. Rừng cây, núi đá tầng tầng lớp lớp, trập trùng gối lên nhau.

          Chưa nhìn thấy nhà cửa, đường sá.

            - Khỏi phải lo! Dưới ấy còn có cả một thị trấn sầm uất nữa cơ. Khách sạn, nhà hàng, bãi tắm, mat xa, karaôkê… Nghỉ ngơi, ăn nhậu, em út. Tuốt tuồn tuột! Thích gì cũng chiều - Gã đàn ông nhìn ông Cầm với ánh mắt châm biếm - Nhưng nếu chỉ có thế mà phải cất công đến tận đây thì hơi uổng!

            Gã nói đúng. Khi máy bay hạ cánh, bước ra cửa nhà ga, ngay lập tức ông Cầm đã bị những bác tài taxi, xe ôm nhao nhao xúm vào mời mọc chèo kéo. Chẳng khác một cái bến xe bến tàu nhộn nhạo bất kỳ nào trong đất liền. Ông Cầm chọn taxi. Xe đưa ông qua mấy con phố cửa hàng cửa hiệu đông đúc túi bụi. Mùi chợ búa. Mùi nước mắm. Mùi cá khô… Cuối cùng, dừng lại trước sân cái nhà nghỉ được “tiếp thị” là rất tiện lợi, giá phòng phải chăng.

            Ngày thứ nhất ở nhà nghỉ.

            Tắt điện thoại di động. Ăn sáng. Cà phê. Nằm dài trong phòng. Ăn trưa. Nằm dài. Lơ mơ ngủ. Ăn tối. Xem ti vi. Ngủ.

            Ngày thứ hai ở nhà nghỉ.

            Y như ngày thứ nhất.

            Ngày thứ ba.

            Gần lặp lại ngày thứ hai. Nhưng có vẻ dài hơn. Ăn tối xong bật điện thoại di động. Có tin nhắn. “

Bác đi đâu mấy ngày không thấy đến cơ quan

”? À, của một thằng làm cùng phòng. “Mấy ngày ăn thua gì. Ông bỏ cơ quan đi cả tháng thì cũng chẳng có thằng tây nào chết”.

          Gã đàn ông hiện ra cười nhăn nhở:

            - Bắt quả tang ông nhé!

            Ông Cầm cũng gượng cười, nhét điện thoại xuống dưới gối:

            - Tưởng cậu biến đâu rồi?

            - Còn tôi thì tưởng ông quay lưng với thế giới này thật! He he - Gã đàn ông cười như bọn 8X - Đóng cửa phòng. Tắt điện thoại… Dẫu sao cũng xin chúc mừng ông. Công nhận lần này ông thắng. Ít nhất ông cũng đã đặt chân lên đảo.

            - Thì ít nhất cũng phải để cậu thấy cậu không nên coi thường tôi, dắt mũi tôi như dắt một con lừa.

            - Ấy chết, sao ông lại nói thế? - Gã đàn ông đấu dịu - Tôi chỉ là… Chừng nào tôi chưa bị ông tống khứ, nói thẳng toẹt ra là chưa bị ông tiêu diệt, làm sao tôi có thể ngậm miệng?

            Ông Cầm ngồi im. Đúng quá còn gì? Bình thường gã ẩn kỹ ở một xó nào đó trong con người ông mà ông chả để ý. Chỉ những lúc ông gặp trục trặc thì gã mới xuất hiện. Những lúc ấy gã lại giống như kẻ đồng hành khó chịu mà ông không làm sao loại bỏ.

            - Nhưng cậu nên nhớ là không phải ai cũng như tớ.

            - Tôi biết ông định nói ai rồi. T ở thị trấn X chứ gì? Này, thế giả dụ T không chết, không mất hút con mẹ hàng lươn, một ngày đẹp giời nào đó hắn lại lù lù dẫn xác về… thì… thì… Sẽ như thế nào nhỉ?

            - Thì cuốn tiểu thuyết bảy trăm trang ấy không đáng ba xu!

            Ông Cầm phản ứng tức thì. Gã đàn ông cũng nhìn xoáy vào ông:

            - Chí lý! Nhưng khốn nỗi nhiều khi đấy mới chính là cuộc đời thật. Không đáng ba xu! Còn tiểu thuyết là thứ đã được nhà văn tô vẽ, mông má lại rồi.

            Ngày thứ tư.

            Sáng nằm ườn, không muốn dậy. Buổi trưa mới ra khỏi phòng đi ăn trưa. Cô lễ tân nhìn thấy, cười đon đả:

            - Chú không đi đâu chơi nhỉ?

            - Cảm ơn cô. Tôi chưa biết đi đâu.

            - Trời! Chú ra đây mấy lần rồi?

            - Tôi ra lần đầu.

            - Thế thì có nhiều chỗ chú phải đi chứ.

            Cô hồ hởi kể ra một loạt. Cảng biển, suối nước nóng, đền thờ Cô, bến Cá, bãi đá cổ… Vừa kể vừa nhìn ông khách đứng tuổi thui thủi đi du lịch một mình, vẻ thương hại.

            Nhưng ông Cầm không mảy may hứng thú. Bến bãi, đền chùa, sông suối… Nơi nào chả ang áng như nơi nào.

            - Có chỗ nào xa xa lạ lạ không cô?

            - Có xóm Mù Tăm. Chú đi không?

            - Xóm gì? Mù Tăm à? Tên hay nhỉ?

            - Vâng. Nó là nơi tận cùng của đảo.

            - Cái xóm ấy… nó như thế nào?

            - Ôi, hi hi… Cháu không biết. Cháu cũng chưa tới.

            “Ừ, chả sao - Ông Cầm nghĩ nhanh - Đến ngay con hẻm ở đầu phố nhà mình, mình còn chưa đặt chân đến lần nào. Có lần người ta hỏi thăm mà mình cứ ớ ra”.

          - Xa đấy. Chú lấy xe máy đi nhé? Ở đây chúng cháu có xe cho thuê. Có cả mũ bảo hiểm.

            Ăn trưa xong, ông Cầm về phòng nằm chợp mắt độ nửa giờ rồi dậy, thuê xe đi luôn. Nghe nói đường khó đi, có khi phải gần tối mới tới.

            Đường khó đi thật. Ra khỏi thị trấn là hết đường nhựa, đoạn nối tiếp lổn nhổn đất đá chạy thẳng vào rừng. Chỗ khô ráo bụi tung mù mịt. Chỗ nước đọng  bùn đất dẻo quẹo giữ chặt bánh xe. Nhà cửa lèo tèo hai bên đường. Thỉnh thoảng gặp một người mặt mũi trùm khăn kín mít phóng xe như ma đuổi theo chiều ngược lại. Đi chừng năm cây số, đường càng lúc càng xấu, ông Cầm bắt đầu cảm thấy ân hận. Biết thế ở quách nhà cho khỏe.

          Gã đàn ông hiện ra. Khác với mọi lần, lần này gã lại tìm cách động viên ông: “Đi tiếp đi ông. Đằng nào mình cũng lên ngựa rồi. Biết đâu ở cái xóm mù mịt gì ấy có những cái đáng giá thật”?

          Một lúc sau gã tỏ vẻ ái ngại: “Khổ thân ông. Giá tôi chạy được xe thì tôi đã cầm lái thay cho ông”.

          Một lúc khác: “Cánh rừng đẹp đấy chứ? Có lẽ ở hòn đảo khỉ ho cò gáy này mới giữ được. Trong đất liền chúng nó úm ba la một phát là thành sa mạc từ lâu rồi”.

          Có lúc gã bất bình: “Ông buồn cười nhỉ? Thích đổi gió mà lại sợ vất vả, sợ chỗ hoang vắng. Ai cũng như ông thì cứ lên máy bay, bay đến các thành phố lớn mà hít khói xăng với hơi người”!

          Có lúc hoài nghi, giễu cợt: “Này, hỏi thật nhé! Bố mày ra đảo lần này là để chạy trốn nỗi cô đơn hả? Nếu thế thì sai rồi, sai toét. Có chạy lên giời cũng chả thoát. Với cái món cô đơn khó nuốt ấy chỉ có mỗi một cách là ngồi xuống, tự mình xơi nó, gặm sạch từng tí một, và tiêu hoá cho bằng hết”.

          Nghỉ một tí gã lại tiếp, như nói cho mình mình nghe: “Công nhận cái thằng cha T ở thị trấn X cao thủ. Thiên hạ cứ đinh ninh nó bức xúc quá, không chịu được nữa nên bỏ đi. Biết đâu lúc nó mang chiếc kính hỏng rời khỏi nhà là lúc nó đã chén đẫy và tiêu hoá xong một bụng tướng cô đơn rồi. Nó thừa nhẹ nhàng thanh thản để lặn một hơi mười bảy năm”…

            Ông Cầm giật mình. Ông đã đủ nhẹ nhàng và thanh thản như T chưa? Và cái gã đàn ông quái qủy này nữa. Gã tách ra khỏi ông, trở thành một kẻ gần như độc lập và thích kiếm chuyện với ông từ bao giờ?

            Chiếc xe máy thoát khỏi khu rừng thì mặt trời vừa lặn. Hai mông ông Cầm tê dại. Cái bả vai trái mỏi rã rời. Chưa thấy làng xóm đâu. Trước mặt, phía giáp biển, chỉ có một mái nhà lợp lá đơn độc.

            Ông Cầm cho xe từ từ rẽ xuống trước ngôi nhà. Một người đàn bà phốp pháp, trắng như một củ khoai sống từ bên trong lúc lắc đi ra. Ả nhìn ông, cười rất tươi như gặp người quen:

            - Chào ông anh.

            - Chào chị. Chị làm ơn cho hỏi xóm Mù Tăm…

            - Mù Tăm đây! Đây là Mù Tăm.

            Ông Cầm ớ ra. Ả béo đọc được câu hỏi trong đầu ông khách, vội giơ cánh tay nần nẫn chỉ về phía cuối đường:

            - Qua chỗ khuất kia mới có nhiều nhà. Nhưng xóm được tính từ chỗ này.

            - Chị ở đây một mình à?

            Ả béo tươi cười hướng ra biển:

            - Em nuôi trai ngọc, phải ở đây để trông coi.

            - À…

            Khu nuôi thả loài thuỷ sinh cho sản phẩm quý hiếm chỉ là một cái chòi nhỏ bên bờ cát, một khoảng biển rộng gần bờ được quây kín bằng những tấm đăng. Những con trai ngậm ngọc chắc vùi mình đâu đó dưới đáy nước. Ông Cầm tưởng tượng ra thế, chứ làm gì có tí kiến thức nào về cái nghề ngỗng này.

            - Cảm ơn chị.

            Ả béo lúc lắc theo ông mấy bước rồi dặn với:

            - Ông anh vào xóm, không còn nhà nghỉ thì cứ quay ra đây nhé!

            Lời mời hơi lạ. Nhưng ông Cầm đã cho xe chạy đi.

            Con đường cố gồng mình lên lần cuối, trước khi đột ngột đâm nhào xuống biển rồi mất hút luôn dưới đó. Ông Cầm vội vàng phanh xe lại. Hai dãy nhà lụp sụp hai bên. Những gương mặt ngơ ngác nhìn khách lạ. Không có điện. Điện thoại di động cũng mất sóng. Ông Cầm đi tìm một quán ăn. Không thấy quán ăn. Đi tìm chỗ trọ. Chỉ có mấy cái phòng trọ bình dân tối om om như trại nuôi muỗi. Một người đàn ông đang ngồi tựa cửa giơ tay vẫy vẫy.

            Ông Cầm dừng xe lại. Người kia khum bàn tay lên vành tai nghe ông nói. Đoạn cười nhe cả hai hàm răng rụng sạch, chỉ bộ ván kê trước hiên nhà:

            - Ở đây đi, ở cho vui, không lấy tiền

.

Nhà có mình tui à. Chưa ăn gì thì mời ăn luôn.

          Nói xong quay vào nhà bê ra nồi cơm và mấy con khô nướng. Chả hiểu cơm mới nấu hay cơm nguội.

            Ông Cần nhìn bộ ván ọp ẹp bụi bặm, nhìn mấy con cá khô chỏng trơ bên nồi cơm mở vung, nhìn nụ cười không răng ngây ngây của người chủ nhà. Trời sập tối. Bụng ngót. Một con tính hiện rất nhanh trong đầu. Mình đi từ thị trấn đến đây mất hơn bốn tiếng. Quay về luôn, có thể 11 giờ đêm mới tới. Chưa biết ban đêm trong rừng có chuyện gì… Ông vội cảm ơn người kia rồi vòng xe lại. Lời mời của ả nuôi trai ngọc bỗng trở nên lấp lánh, hấp dẫn lạ thường.

            Ả như đoán trước mọi chuyện, đang lúc lắc chờ ông trước sân nhà. Ả chỉ cho ông chỗ để xe. Bảo ông xuống biển tắm cái cho mát. Nước ngọt nhà chứa sẵn. Chỗ ngủ thiếu gì. Ông nằm trong nhà, ả ra cái chòi ngoài bãi cát. Hoặc nếu ông thích thì ông ra chòi, ả trong nhà. Mùng mền sẵn. Ban đêm ở biển gió mát như đàn. Tiền nong giấy tờ ông cứ mang theo người. Mà dặn phòng xa thế thôi, chứ trộm cắp ở cái xứ ba bề bốn bên là biển thế này làm gì có đường thoát… “Nào, xong chưa anh? Xong thì mời anh ăn tối với em”.

            Món cháo trai.

            Ả béo cười rũ khi ông Cầm ngớ ngẩn tưởng ả làm thịt lũ trai ngọc đãi ông. “Trai ngọc phải nuôi trong lồng, còn bé xíu chừng này này” - Ả chìa ra cái móng tay út - “Trai nấu cháo là trai bắt ngoài biển”. Ả vui chuyện kể ông nghe về cái nghề nuôi trai lấy ngọc. Chọn giống trai. Tắm rửa kỳ cọ cho trai. Cho trai ăn gì. Bao lâu thì cấy nhân tạo ngọc. Bao lâu thì thu hoạch. Ngọc trai qúy nhất đắt nhất bây giờ là ngọc trai đen, chỉ có ít người biết cách nuôi cấy thứ ngọc này, và họ chẳng chịu truyền nghề cho ai cả.

            Món cháo trai ngon tuyệt. Trịt trai ngọt đậm đà hoà quyện với vị thơm cay của rau răm. Ly rượu đế làm tan dần sự e ngại. Sau bữa ăn, ông Cầm còn ngồi nán lại thêm một lúc, lơ mơ ngắm cái bóng đàn bà trăng trắng, chập chờn lay động trong ánh đèn dầu…  

          Những giọt mưa lớn đập xuống bãi cát. Bên ngoài căn chòi nhỏ, biển ngời sáng dưới ánh trăng. Trăng mọc lúc ông Cầm ngủ say. Bây giờ, những giọt mưa đẫm ánh trăng như những viên ngọc trai đang từ trên cao rớt xuống. Cảnh tượng kỳ vĩ khiến ông tỉnh hẳn, ngơ ngẩn hồi lâu. Chỉ đến khi mưa hắt qua màn những hạt nước li ti lành lạnh, ông mới vội vàng vùng dậy cuộn chăn chiếu chạy vào nhà.

            Trong nhà tối om.

            Ả béo vẫn say ngủ. Hồn ả theo tiếng ngáy thoát ra khỏi thân xác, đang lơ lửng vi vu như sáo diều.

            Ông Cầm rón rén đi lại giường.

          Rón rén vạch lá màn mỏng luồn vào trong.

            Con diều chao nhẹ trong gió, tiếng sáo lặng đi trong vài giây. Diều im, tiếng sáo tiếp tục cất lên vi vu vi vu.

            Ông Cầm nằm xoay lại.

             Thân thể người đàn bà to béo bất động, vừa mát vừa nóng. Ở xóm Mù Tăm, đêm đêm ả nằm ngủ không cần một mảnh vải trên người.

          Khi ông Cầm thận trọng đặt tay lên chỗ kín của ả, bất ngờ chạm phải một bàn tay lạ. Ông giật thót mình định rụt tay về, nhưng bị bàn tay kia giữ lại. Thậm chí bàn tay ấy còn nhẹ nhàng ấn tay ông xuống.

            Tim đập thình thịch, ông Cầm mở căng mắt nhìn.

            Trong bóng tối, gã đàn ông hiện ra với nụ cười đồng loã.

Truyện ngắn: “Con Tinh Tinh chồng tôi”

Nhật Nguyệt Xuân Hương - 

01-10-2011 03:30:54 PM

Đêm, chỉ khi chuông đồng hồ điểm mười hai tiếng chồng tôi mới trở về, sau tiếng khoá mở lách cách, cánh cửa bằng sắt hoen gỉ xù xì kẽo kẹt mở ra. Một luồng gió lạnh buốt xộc vào mang theo đám mùi ô hợp, mùi hôi của chó sói, mùi gây gây của hổ và mùi tanh tưởi buồn nôn đến lợm giọng của xác người đang thì phân hủy. Tiếng cửa đóng đã lâu, căn phòng chết lặng trong bóng tối âm âm đầy đe dọa, khi ngọn nến cuối cùng run lẩy bẩy trước khi bị thổi tắt.

Loạng choạng từng bước nặng nề, con Tinh Tinh già chậm chạp lên gác. Gã đứng sững ở đầu giường  câm lặng. Tiếng thở hổn hển đầy nhục dục. Gã đang mơ tưởng tới tiếng kêu gào thảm thiết của con mèo cái khi nó giao cấu với mèo đực. Gã nuốt nước bọt ừng ực, gã bắt đầu cởi quần áo, lần lượt từng thứ  một cho đến khi thân thể hoàn toàn trần truồng.

Tôi nín thử đầu óc căng cứng như quả khinh khí cầu, chỉ cần một cánh chim lạc cũng đủ làm nó vỡ thành trăm mảnh, tôi ôm chặt lấy bộ ngực, hai chân co quắp lại phòng thủ. Một con nai tơ vàng óng sắp bị con sói già ăn tươi nuốt sống.

Gã đổ vật vào người tôi, ngọ nguậy đôi bàn tay đầy lông lá, cào cấu một lúc rồi mới chịu buông ra, rồi trườn xuống. Tôi thở hắt ra, thoát rồi cám ơn mày đã tha cho tao. Nửa tiếng sau gã đã ngáy đều đều, lúc thì rin rít lên ghê rợn, khi lại phập phồng như mang cá mập, thi thoảng lại lắp bắp nói mê, rớt rãi chảy thành dòng nhày nhụa. Từ da thịt hắn phảng phất hương thơm gì rất lạ, thôi chết rồi nước hoa, mùi thơm của đàn bà. Gã có bồ chắc chắn rồi, một mệnh phụ phu nhân đài các cao sang  góa chồng hay một con điếm rẻ tiền được moi lên từ  bể phốt. Có thể lắm chứ, nhìn cái bản mặt hơn hớn khoái lạc của hắn mà kinh tởm,  mày cấm tao tiếp xúc với đàn ông nhưng bản thân mày có chung thủy với tao đâu. Trái tim tôi phẫn uất gầm rú điên dại vì hận, vì căm thù gã đến tận xương tủy, mày đánh tao chết đi sống lại vì ghen, nhưng tao bị oan, có tiếng mà chẳng có miếng. Mày không xứng đáng tí nào với tiết hạnh của tao, đồ dê già bạc bẽo.

Buổi sáng bình minh ló dạng đằng đông. Mặt trời giống như một quả bóng màu da cam bay từ từ lên cao.Từng tia nắng mới nhảy nhót vui đùa bên khung cửa sổ màu xanh diệp lục. Đàn sẻ từ đâu ào tới ríu rít bắt sâu bọ trên nhành hoa Kim Ngân, cánh hoa nở bung vàng óng. Tôi thức dậy đã lâu mà gã vẫn còn say giấc. Gã nằm ngửa chân co chân duỗi. Khuôn mặt vuông vức đầy đặn, sống mũi cao thanh tú và cặp môi dày gợi cảm. Kể ra thì gã đẹp trai đấy chứ, nước da trắng hồng khỏe mạnh, cặp vú mây mẩy như đàn bà, bắp tay cuồn cuộn từng múi khiến các em phải thèm thuồng:

- Này, dậy đi sáng rồi đấy.

- Để yên tao ngủ-Gã làu bàu .

- Dậy đi chợ muộn rồi.

- Mày có im mồm đi không? Con đĩ.

Không khí chợt oi ả bất thường, nóng ngột ngạt, không còn vị ngọt ngào cỏ mật trong vườn, cũng không còn những âm thanh vang lừng buổi sáng, tất cả chết lặng, buồn bã và ảm đạm.

Tôi uể oải đứng lên bóc tờ lịch treo trên tường, hôm nay là rằm tháng tám, thôi chết rồi, đêm nay là đêm động đực của con ác thú.

- Này, con kia (không hiểu gã dậy từ bao giờ) đưa tiền cho tao đi chợ.

- Bao nhiêu?

- Năm chục.

- Hôm qua tôi đưa tiền cho anh đi chợ rồi cơ mà.

- Đưa lúc nào - Gã gầm lên - Mày định lừa tao phải không?

- Rõ ràng hôm qua đến lượt tôi, hôm nay phải đến lượt anh chứ?

- Câm mồm, ông đánh chết mẹ mày bây giờ.

- Hôm qua tôi đưa rồi, hôm nay tôi không đưa nữa đâu, ông muốn làm gì tôi thì làm.

- A! đã thế ông kệ cha mày, cho mẹ con mày chết đói.

- Ông muốn làm gì thì làm, tôi ớn lắm rồi.

- Ông đánh vỡ mõm mày ra bây giờ.

Gã hầm hầm bỏ đi nhưng lại quên không mặc quần sịp. Ước gì cái của quý của gã va phải cái bồ cào của Chu Bát Giới thì sướng nhỉ, hết cả đĩ bợm.

Chuông cửa chợt reo làm tan dòng suy nghĩ, tôi xuống mở cửa trong tâm trạng xáo trộn, vừa uất tủi lại buồn cười. Cửa mở, một cái  mặt xinh xinh như thiên thần ngó vào:

- Mẹ! Bi Bi đã về (giọng còn ngọng của bé líu lo).

- Chào chị, cháu cứ đòi về. Em giữ cháu ở lại mấy hôm nữa nhưng cháu cứ kêu nhớ mẹ.

- Hai dì cháu vào nhà đi.

Đấy là dì út của tôi, dì dáng mảnh mai. Tóc chảy sóng sánh như mật. Dì mặc chiếc váy màu hồng ngọc ôm gọn thân hình cân đối tuyệt đẹp. Chân dì đi  đôi bốt cao cổ màu trắng pha xanh trông rất sành điệu. Dì đã ngoài ba mươi tuổi mà chưa chịu lấy chồng. Anh nào đến tìm hiểu cũng chê ỏng chê eo, nào thì anh A trông đẹp trai đấy nhưng hay mặc quần ngắn chuột leo bảy ngày không tới gấu. Anh B thì lưng dài, chân lại vòng kiềng, loại người chân đi chữ  bát dứt khoát to… Không thể làm chồng được. Anh C thì có học thức nhưng lại là trai quê, bố mẹ quanh năm chổng đít lên trời cấy lúa trồng khoai, về làm dâu mà tối ngày tối mặt, suốt ngày phơi tấm thân nõn nà cho đỉa nó hút máu à.

Kể ra thì dì út có giá lắm, dì xinh đẹp học giỏi, biết ăn mặc thời trang, làm chủ câu lạc bộ người mẫu, tha hồ già kén kẹn hom. Tuổi đã cao mặt dì cứ nhơn nhơn như không biết cha mẹ lo lắng con gái ế chồng khổ như thế nào.

  Vào phòng khách đợi hai dì cháu ngồi xuống chiếc ghế mây, tôi hỏi:

- Em uống cà phê nhé?

- Vâng, chị nhớ cho em nhiều sữa.

- Còn con gái, uống cô ca nhé?

- Bi Bi thích ...ước ...am, Bi Bi nhớ mẹ.

- Anh đâu hả chị?

- Đi làm rồi.

- Làm gì hả chị?

- Chăn trâu bò húc.

- Em không hiểu.

- Nghĩa là chăn lô, chăn đề...cả chăn gái nữa.

- Thì ra thế. Còn chị dạo này vẫn in thiếp cưới chứ?

- Thì vẫn túc tắc làm.

Ngồi chơi một lúc, dì út xin phép về, chỉ còn hai mẹ con trong căn nhà hai tầng trống trải, đe dọa chết chóc. Dỗ bé Bi ngủ say, tôi xách làn đi chợ chuẩn bị bữa tối. Thời gian trôi thật nhanh hơn cả mũi tên bật khỏi dây cung, mới sáu giờ tối mà cụ mặt trời đã vội vã về nhà. Hoàng hôn tím sẫm giống như một bức mành khổng lồ đang từ từ buông  xuống. Ông mặt trời vụt sáng lên rực rỡ, tỏa ra tia hoàng quang ngũ sắc rồi ẩn mình sau đám mây lam tím, giống như ngọn nến khổng lồ chợt bùng lên dữ dội trước khi tắt hẳn.

*

Cơm nước tắm rửa cho bé Bi xong, đồng hồ đã chỉ 9 giờ mà chưa thấy Tinh Tinh về. Chương trình VTV3 chiếu xong bộ phim Hàn Quốc ‘Tối nay ăn gì’ thì chuông đồng hồ đã chỉ 11g30. Tôi tắt ti vi, ngả lưng xuống định chợp mắt một chút nhưng nỗi sợ hãi cứ âm ỉ tăng dần. Không! Mình phải trốn khỏi đây thôi, đi thật xa thành phố vào miền Nam hay nơi khỉ ho cò gáy mà không ai biết đến.

11 giờ 45 phút

Mình sẽ làm lại từ đầu và tìm một nguời đàn ông tử tế để lấy làm chỗ dựa lúc tuổi già.

11 giờ 50 phút

Mình sẽ đẻ thêm một thằng cu kháu khỉnh mặt tròn xinh xinh đáng yêu, ôi thật hạnh phúc.

11 giờ 55 phút

Không! Mình phải đi thôi, sắp đến giờ hành quyết...Quá muộn rồi nhưng còn bé Bi? Không thể để lại.

11 giờ 59 phút

Ôi! Khốn khổ cái thân ta, khắp mình đau nhức, cẳng chân cẳng tay chỉ muốn long ra từ rằm tháng trước, hắn vầy vò ta suốt đêm. Cắn xé. Cào cấu. Cọ xát không thương tiếc. Thằng khốn.

12 giờ 00

Ngoài trời, trăng lồng lộng trải đẫm dương gian. Từ xa, một dải mây đen loang loáng trôi bồng bềnh trên nền trời sâu thẳm. Gió xòe rộng đôi cánh mỏng tang lươn lướt trên giàn hoa ti gôn đậm quánh.

- Đừng! đừng, làm ơn đi.

Muộn rồi một chiếc bóng khổng lồ với đôi mắt lợn vàng khè, da xam xám xù xì với những chiếc gai nhọn hoắt. Hai bàn tay lông lá đầy móng vuốt  bám chặt vào vai tôi tưởng bật máu.

Gừ...gào...Gừ...gào... Nó há hốc mồm to bằng cái thúng, thò ra thụt vào cái lưỡi đỏ lòm dài bằng đòn gánh,một mùi hôi nồng tanh tưởi xộc vào mũi.

  Soạt...soạt...Nó liếm lấy liếm để lên môi, chà đi chà lại trên bộ ngực trắng nõn, rồi nuốt nước bọt ừng ực. Nó bắt đầu rên rỉ vì bị kích động cao độ.

- Đừng! đừng, làm ơn đi hãy tha cho tôi.

Nó túm vào váy tôi nghiến răng xé rách ...Rẹt...rẹt... Ôi tấm thân của tôi phơi bày lõa lồ càng làm con quái thú say máu. Nó nhảy chồm chồm lên. Mồm mút choàm choạp, giật lên giật xuống liên hồi, nó gào thét sung sướng trong tiếng rú man dại của tôi.

Tôi ngất đi, mê man bất tỉnh, thấy mình lạc vào cánh rừng âm u rậm rạp. Đằng sau một bầy ác thú săn đuổi. Chúng hú lên man rợ, nhe nanh nhe vuốt chỉ chực xé tôi làm nghìn mảnh. Con đầu đàn to nhất, có hai chiếc răng cong vút và dài như lợn lòi. Nó truy sát tôi, đã gần lắm rồi, hơi thở nồng nặc tử khí. Nó ngoạm vào vai tôi...á..á...

Tôi chợt ngửi thấy mùi gì đó rất quen, hình như là loại rượu mà chồng tôi hay uống xen lẫn mùi khét lẹt của loại thuốc lá rẻ tiền. Một bộ râu lởm chởm cọ vào cổ tôi nhồn nhột, rồi một giọng nói khàn khàn rít vào tai tôi:

- Tại sao người mày ướt sũng thế này? Mày vừa đi với thằng nào về?

-...

- Hỏi sao không nói? Muốn chết à?

Tôi không nói gì bởi bao uất hận trong lòng, tôi muốn gào lên cho cả thế giới này biết rằng chồng tôi là một thằng khốn, là thằng bội bạc vô liêm sỉ nhưng hỡi ôi, có một cái gì đang dâng lên nghèn nghẹn khiến tôi không thể nói ra. Tôi  không trả lời đồng nghĩa với việc đầu tôi phải chịu hàng sê ri những cú đấm trời giáng. Tôi tưởng như có trận mưa đá rơi xuống đầu rồi nghe đến “Cốp” một cái và tôi lại ngất đi, trong cơn mơ màng tôi nghe tiếng khóc lạc giọng của bé Bi:

- Mẹ... Đừng bỏ con...

Tôi thấy mình trôi, trôi mãi xuống tận sâu trong lòng đất. Trên là mê cung dưới cũng là mê cung, và đi  mãi không bao giờ hết. Chợt một đàn dơi từ đâu ào tới, vừa kêu rúc rích vừa lăn xả vào tôi. Lòng hang tự nhiên rộng ra, xuất hiện một cái hồ ngầm dưới đất. Dải nước chạy dài, mờ dần trong bóng tối, không còn trông rõ tới đâu là bờ nữa. Cảnh vật hết sức yên lặng, yên lặng có thể nghe tiếng thở của dơi. Một tiếng hú ghê rợn vọng xuống từ các ngách hang, tiếp theo đó là tiếng cú rúc từng hồi dài. Dưới ánh sáng lập lòe của mấy con đom đóm ma, có một con đường nhỏ nằm giữa hai vách đá cheo leo đi lên một ngách hang thẳng đứng. Tôi cố gắng bò lết lên đó trong hơi thở hổn hển, trong những âm thanh ma quái rùng rợn. Và kìa, ngay sát trên đầu tôi là những tia sáng yếu ớt, đó là những tia sáng của sự sống. Một cửa hang được thông ra ngoài chỉ một người chui lọt. Trên đời này không có con đường chết, mà chỉ sợ không đủ lòng can đảm để tự giải thoát mình khỏi cuộc sống tăm tối địa ngục mà thôi. Tôi bám cánh tay xây xát đầy máu vào cửa hang, cố lên! Mi sắp đổi đời rồi...Khi tôi khấp khởi định thò cổ ra thì ôi thôi, một cái mặt đầy lông lá đứng nhe nanh vuốt gầm gừ định xé nát tôi để nhai rau ráu, như người ta ăn chiếc đùi gà rán. Tôi gào lên kêu cứu nhưng cổ họng đắng ngắt. Chân tay bủn rủn, người lả đi vì đói, vì khát và sợ khủng khiếp...Người quái thú tỏa ra mùi tanh lợm giọng. Nó thè cái lưỡi đỏ lòm liếm soàn soạt lên cổ, ngực tôi một cách thô bạo...Hai chiếc răng nanh từ từ găm vào động mạch cổ tôi, máu phọt ra như đài phun nước. Tôi gào lên tuyệt vọng như con bò bị người ta chọc dao vào cổ...

Tôi tỉnh dậy thấy trần nhà và chiếc giường đang nằm sáng láng màu trắng, khắp người đau ê ẩm còn đầu quấn băng kín mít. Em gái tôi ngồi bất động và hai mắt thì sưng húp vì khóc:

- Chị! Chị có đau lắm không? Trường hợp của chị bác sĩ bảo phải theo dõi, nếu nặng có khi phải mổ.

- Trời ơi! Sao thân tôi khổ thế này, bao nhiêu nguời tử tế theo đuổi không thèm lấy, tự nhiên đi rước thằng chồng dở hơi nên đời khốn nạn.

- Cái gì? Mày bảo ai thần kinh, bố mày đánh chết bây giờ-Không hiểu thằng ác nhân đến từ lúc nào gầm gừ hùng hổ xông vào định đánh tôi.

- Ông thôi ngay đi! Em gái tôi gào lên - Ông còn đánh chị tôi thì đừng có trách, đồ đê tiện, loại ma quỷ táng tận lương tâm.

- Mày chửi ai? Con đĩ mắt xanh mỏ đỏ, tao giết cả nhà mày.

Nói xong gã nhảy xổ vào hai chị em vừa chửi vừa đánh vừa nguyền rủa. Em gái tôi điên lên vác cả chiếc ghế đẩu phang vào đầu thằng anh rể mắt dạy. Hậu quả là vỡ đầu phải khâu sáu bảy mũi, chưa hả giận nó còn bê cả bô nước đái của chị đổ vào  người gã...Cuộc hỗn chiến chỉ kết thúc khi có bảo vệ can thiệp. Cả gã và em gái tôi loang lổ máu me, mắt nhìn nhau rực lửa thù hận...Tôi không chịu nổi cú sốc này lại rơi vào tình trạng hôn mê sâu...

*

Gió gào thét suốt đêm mang theo mùi huơng dị quái. Trong khu rừng rậm rạp, cây cối ken dày tầng tầng lớp lớp, một đôi mắt sắc lẻm duới đôi mày rậm rì đang nhìn đau đáu về hướng con đường mòn nhỏ hẹp. Một tiếng cú rúc xé tan màn đêm tĩnh  lặng. Những bóng đen lờ mờ xuất hiện trong đêm tối và đang thả dốc xuống con đường mòn. Chúng lặng lẽ tiến về nơi phục kích mà không hề hay biết, đêm đã vào sâu. Rừng cây xào xạc lá. Trăng cuối tháng lúc đổ tràn ánh bạc, dát lên những tán lâu niên. Lúc mây trôi dày đặc gói mảnh trăng cong lưỡi liềm giấu biệt vào âm âm u u. Súng đã lên đạn, mục tiêu đang lọt vào tầm ngắm, chỉ cần chút ánh trăng lu mọi chi tiết đều rõ ràng như nắng ban ngày. Người đi săn nhăn mặt cố nén sự tởm lợm vì mùi hôi như thịt thối bốc ra từ người lũ quái thú. Con đầu đàn to khủng khiếp cỡ bằng con trâu rừng. Nó có bốn chân và móng thì quắp chặt. Đôi tai dơi nhọn hoắt và đôi sừng xoắn vặn. Mắt ốc nhồi trắng dã. Cặp môi dày nhầy nhụa máu tươi bên cạnh cặp răng nanh nhọn hoắt chuyên để xé xác con mồi. Tóc thì dài bờm xờm chắc đầy chấy rận. Mùi xú uế tanh tưởi xộc vào mũi, đã gần lắm rồi... Những ngón tay thô ráp từ từ bóp cò... Một con thú ăn đêm từ đâu vọt ra dẫm phải cành cây khô... Lộ rồi, con ác thú đánh hơi được sự nguy hiểm đột nhiên chuyển hướng nhưng quá muộn... Ba tiếng súng nổ  đoàng  ...đoàng...đoàng xé rách màn đêm, máu từ sườn nó phọt ra đỏ ối, nó tru lên như chó sói, vật vã lăn lộn tơi bời dưới mặt đất, móng nó cào vào  cây lim cổ thụ tạo thành những đường kỉ hà chồng chéo, cây cối chung quanh rực sáng một màu đỏ máu.

*

Không biết tôi đã trải qua cuộc đại phẫu như thế nào và cũng không hiểu các bác sĩ kéo tôi trở về từ cõi chết ra sao, chỉ biết rằng khi tỉnh dậy người đầu tiên tôi nhìn thấy là dì út.Trông em gầy và xanh xao như vừa ốm dậy. đôi mắt bồ câu thâm quầng vì mất ngủ, chắc nhiều đêm em đã phải thức trông tôi. Em ấp úng nói gì đó mà tôi nghe không rõ, sau cùng em nắm chặt tay tôi, giọng khản đặc:

- Chị à! Có điều này em phải nói cho chị biết, chồng chị đêm qua uống rượu say mò vào sàn nhảy, cà khịa với lũ đầu gấu chuyên đâm thuê chém mướn, hậu quả là bị lôi như một con chó ra ngoài bãi, chúng đánh cho tơi bời. Sau đó cho nằm vắt vẻo ngang đường tàu hỏa...Bây giờ đang nằm hóng gió trong nhà xác bệnh viện X.

Tôi lặng đi không nói một lời. Những cảnh bị hành hạ ngược đãi trong chảo địa ngục dần dần hiện ra như một thước phim quay chậm, thực ra đây có phải là báo ứng không? Tôi không thể hiểu nổi là được tại sao người ta cứ hành hạ để làm khổ nhau. Cuộc đời thì quá ngắn ngủi giống như một giấc mơ, nhưng ít ai biết tận dụng những giây phút hiếm hoi đó để yêu thương nhau, chia sẻ cho nhau niềm vui lẫn nỗi buồn. Con người ta vô cùng phức tạp, vẫn là chồng mình đấy lúc yêu thì chiều chuộng, mưa to gió lớn cũng mặc áo mưa đi tìm bằng được, mua của ngon vật lạ xúc cho từng thìa, nâng niu chăm bẵm hơn cả con nít... Vậy mà khi ghét thì hắt hủi no đói mặc bay, muốn đi lên giời hay xuống địa phủ không quan tâm, ốm đau tự mà hầu... Loài người ơi hãy đối xử tốt với nhau đi để không phải ân hận suốt đời “Vợ chồng một ngày nên nghĩa” hãy khắc cốt ghi xương điều đó.

Tôi nguớc mắt nhìn ra cửa sổ, một cơn gió mát thổi tới khiến tấm rèm bay phần phật. Cửa phòng bật mở, mẹ và con gái tôi ùa vào. Mẹ vuốt ve mái tóc rối bời bời của tôi âu yếm  nói:

- Con! Mừng con hồi sinh, ông trời thật có mắt.

- Mẹ! Bi Bi ...êu...mẹ - Con gái sà vào lòng tôi nũng nịu.

- Mẹ! Tôi nói như trong vô thức: Hãy đưa con và bé Bi đến bệnh viện X. Thật lạ, tâm trạng tôi lúc đó giống như người vừa thoát ra khỏi nhà tù này, lại chuẩn bị dấn thân vào một nhà tù khác.

Con đ

ườ

ng s

ng

Bà hàng

 

c

ơ

m v

a quay

 

m

t vào trong con chó ngo

m ngay t

ng th

t. B

con chó ăn c

p c

t

ng th

t bà hàng c

ơ

m phi cái dép vào mông nó. Ông ch

ng bà ta vác g

y ra, ông đ

nh d

y cho con chó m

t bài h

c. Con chó s

cu

ng cu

ng, nó ch

y nh

ư

điên trên đ

ườ

ng ph

, nó s

a d

d

i, nó nh

y ch

m lên c

n vào tay áo ng

ườ

i qua đ

ườ

ng c

u c

u khi

ế

n h

s

hãi. Vài ng

ườ

i phóng xe trên con đ

ườ

ng r

p lá vàng bay nhìn nó khi

ế

p s

v

i ý nghĩ “chó d

i”. M

y cô giáo phóng xe vào tr

ườ

ng Chu M

nh Trinh kêu ré lên tr

ướ

c hành đ

ng kì c

c c

a con chó. Đám h

c trò ch

tr

, b

o nhau:” C

u xem kìa. Chó d

i, con chó kia m

c b

nh d

i r

i.” Con chó làm náo lo

n c

th

tr

n Văn Giang. Ch

u thua con chó, ông ta c

p đít quay vào nhà. Ch

hi

u vì nó sung s

ướ

ng đ

ế

n phát cu

ng hay vì quá s

hãi mà con chó c

ch

y nh

ng lên. Nó s

a âm ĩ b

t chuy

n v

i ng

ườ

i qua đ

ườ

ng. Nh

ư

ng không ai thèm ti

ế

p chuy

n v

i nó. Đ

ươ

ng nhiên r

i, sao con ng

ườ

i có th

nói chuy

n, k

ế

t b

n v

i chó đ

ượ

c. S

xu

t hi

n đu

ng đ

t và cu

ng lo

n c

a con chó khi

ế

n m

t vài ng

ườ

i th

y phi

n toái. M

y gã thanh niên vô công r

i ngh

, su

t ngày ng

i nghiên c

u s

má t

i quán n

ướ

c c

ườ

i ha h

tr

ướ

c bi

u hi

n khôi hài và táo t

n c

a con chó. Gã thanh niên m

t qu

t nh

n

ướ

c b

t xu

ng đ

t: - Nó là con chó hoang.

- Hình nh

ư

nó đang tìm b

n tình thì ph

i. Con chó đang đ

ng đ

c kìa. – Ng

ườ

i thanh niên m

c chi

ế

c áo đ

rít thu

c lá liên h

i nói.

- Con chó b

viêm não. Nó s

ch

y cu

ng lên cho đ

ế

n ch

ế

t. Ông hàng xóm g

n nhà tao cũng có m

t con chó. Nó m

c b

nh viêm não nó c

ch

y cu

ng lên r

i lăn đùng ra ch

ế

t. – Ng

ườ

i thanh niêm m

c áo k

phán đoán.

- G

p chó d

i ch

y qua đ

ườ

ng thì đánh bao nhiêu nh

? – Ng

ườ

i thanh niêm m

c áo đ

nhíu mày suy nghĩ.

- Đ

p ch

ế

t con chó, làm th

t bán cho ông hàng th

t chó cũng đ

ượ

c vào trăm. L

y ti

n đó đánh đ

có khi l

i chúng hàng tri

u.– Ng

ườ

i thanh niên m

t qu

t n

y ra sáng ki

ế

n. M

t anh ta sáng lên.

- Ăn th

t chó ngon ph

ế

t, nh

ư

ng thôi t

t h

ơ

n h

ế

t là đem bán l

y ti

n đánh đ

. T

i nay b

n mình mà ăn đ

thì b

ng tr

i cho c

a. – Gã thanh niên áo k

suy tính.

Tia hy v

ng lóe lên trong đ

u nh

ng con b

c. Trong nháy m

t ba gã thanh niên r

i rãi ch

y v

nhà l

y g

y và bao t

i đu

i theo con chó. Tính m

ng c

a con chó đang b

đe d

a, ch

ng ai thèm đ

ý đ

ế

n s

nguy hi

m con chó ph

i h

ng ch

u. Nó có ch

ế

t cũng ch

ng sao c

vì đó ch

là cái ch

ế

t c

a con chó. Con chó t

i nghi

p v

a run r

y v

a s

hãi c

t lên nh

ng ti

ế

ng kêu bi ai th

m thi

ế

t c

u c

u ng

ườ

i qua đ

ườ

ng. Ch

ng ai bu

n đ

ng lòng đ

ế

n nh

ng ti

ế

ng s

a n

u ru

t c

a nó. (Ng

ườ

i làm sao hi

u đ

ượ

c ti

ế

ng chó). Đám đông hi

ế

u kỳ thích chí nhìn m

y gã thanh niên đang r

ượ

t theo con chó. Nh

ng cái g

y đ

p vun vút xu

ng mình con chó khi

ế

n nó kêu lên nh

ng ti

ế

ng ăng

ng đau đ

n làm h

b

t c

ườ

i. (Con ng

ườ

i làm sao hi

u đ

ượ

c n

i đau c

a chó). Con chó đ

ơ

n đ

c ch

y th

c m

ng máu t

a ra b

ế

t c

b

lông vàng óng. Đôi m

t con chó đ

ng

u, m

t gi

t n

ướ

c kh

lăn xu

ng cái mõm nh

n, con chó tuy

t v

ng. Nó c

t

ưở

ng con ng

ườ

i đ

p đ

và vĩ đ

i l

m. Nó c

t

ưở

ng nó s

đ

ượ

c ai đó ôm vào lòng mà che ch

mà h

i han. Nó c

t

ưở

ng loài ng

ườ

i t

t b

ng l

m. Trong c

ơ

n đau đ

n con chó c

m ch

t răng đ

kh

i cu

ng lên c

n s

ng b

y vào con ng

ườ

i. Con chó c

n ch

t răng đ

ế

n đ

m

t gi

t máu nh

ra t

mi

ng nó. Loài ng

ườ

i cho nó ăn c

ơ

m, nó ch

có th

tr

ơ

n cho con ng

ườ

i b

ng cách không làm h

i h

. Nh

ng ti

ế

ng kêu

ng

ng ngày m

t th

m thi

ế

t và n

ng nh

c, con chó s

p qu

xu

ng vì ki

t s

c.

- Ch

con chó đi đâu th

ế

nh

. C

cái đà này, nó ch

ế

t m

t. – Chàng l

m b

m.

  Gã thanh niêm m

t qu

t đ

nh đánh què c

ng cho con chó kh

i ch

y.  Chàng v

i thò đ

u qua c

a s

, chàng hét lên: - Con chó c

a tôi. M

y anh đ

ng đánh n

a.

M

i ng

ườ

i đ

ư

a m

t nhìn chàng. M

y gã thanh niên văng t

c. Chàng khi

ế

n h

c

t h

ng, màm k

ch đ

ươ

ng

đo

n cao trào b

ch

n đ

ng. H

b

c d

c th

m r

a chàng trong b

ng. 

Chàng phăm phăm phi t

t

ng hai xu

ng đ

ườ

ng. Ti

ế

ng xì xào im b

t, con chó ranh mãnh nép vào chân chàng, nó v

y đuôi m

ng r

, nó li

ế

m vào chân chàng n

nh b

. Chàng xin l

i vì con chó làm m

i ng

ườ

i ho

ng s

. M

y gã thanh niên ch

ư

a k

p ch

i chàng cho h

d

, chàng đã rút ví đ

ư

a cho h

m

t trăm ngàn đ

h

u

ng n

ướ

c kèm theo l

i xin l

i. M

y gã trai c

m ti

n r

i biên m

t. Đám đông gi

i tán vì màn k

ch hay đã không còn. (Cu

i cùng cũng có ng

ườ

i hi

u đ

ượ

c n

i đau c

a con chó, ng

ườ

i đó s

n sàng b

ti

n ra mua m

ng s

ng v

cho nó). Con chó tr

ơ

n chàng b

ng cái đuôi ngu

y tít và nh

ng ti

ế

ng kêu gâu gâu hi

n d

u, h

ơ

i meo méo vì đau. Ôm con chó vào lòng chàng kh

h

i:

- Mày đau l

m ph

i không? Mày d

i quá. Mày ph

i t

v

ch

. Sao mày không c

n vào tay lũ kh

n đó, cho chúng nó s

. Đ

ng này mày ch

bi

ế

t ch

y tr

n và ch

u đòn. N

ế

u tao không c

u mày thì mày ch

ế

t ch

c. Ph

i công nh

n mày gan d

. Ch

ng nh

ư

tao có lúc h

ơ

i hèn hèn – Chàng đ

ư

a tay xoa đ

u con chó.

Con chó v

y tai ra đ

u nh

ng đi

u chàng nói, nó hi

u tu

t. Nó v

a th

h

n h

n v

a li

ế

m vào bàn tay chàng. N

m yên trong lòng chàng, nó tìm c

m giác an toàn giúp c

ơ

n ho

ng lo

n tinh th

n mau qua đi. Chàng b

ế

con chó vào trong nhà. Chàng m

t

l

y m

t ít c

ơ

m v

i m

y mi

ế

ng th

t gà b

vào cái đĩa. Chàng b

o con chó: - Mày ăn đi cho mau kh

i b

nh.

Nhìn đĩa c

ơ

m v

i th

t gà, mi

ng con chó r

ra nh

ng tia rãi. Con chó li

ế

m mép, d

ườ

ng nh

ư

đĩa th

c ăn khi

ế

n con chó s

nh

ra vi

c quan tr

ng. M

t con chó bu

n thiu, nó s

a gâu gâu m

t cách y

ế

u

t, hình nh

ư

con chó đang c

nó v

i chàng đi

u gì đó.

- Mày ăn đi. Mày đau quá không ăn đ

ượ

c h

? Chúng nó dãm man th

t. Đ

ượ

c r

i, tao s

đ

ư

a mày đ

ế

n g

p bác sĩ thú y.  Mày s

kh

e l

i thôi.

Chàng thay áo. – Đi nào. Chàng b

ế

con chó lên xe. Nó l

i nh

y xu

ng, con chó b

ướ

ng b

nh không đ

cho chàng tr

nó đi g

p bác sĩ thú y.

- Ngoan nào, có tao đây r

i mày đ

ng s

. N

ế

u mày không đ

cho bác sĩ khám b

nh mày s

ch

ế

t. – Chàng g

i thích cho con chó hi

u.

Con chó v

y v

y đôi tai ch

ng nh

ư

đã hi

u r

i, nó c

n vào

ng qu

n lôi chàng đi. Đôi m

t con chó nhìn chàng nh

ư

van xin

.

- Mày đ

nh đ

ư

a tao đi đâu ph

i không?

Con chó ngu

y đuôi m

ng r

, nó l

i li

ế

m vào chân chàng. Cu

i cùng thì chàng cũng ch

u đi theo nó.

Mày khôn quá. Mày đ

nh đ

ư

a tao đi tìm ch

c

a mày mày ch

gì? – Chàng nhìn con chó lê t

ng b

ướ

c kh

p khi

ng n

ng nh

c. – Mày là m

t con chó có nghĩa khí. - Chàng b

c đĩa c

ơ

m vào túi ninon cho con chó

.

                                      

                                                ********

Con chó d

n chàng đ

ế

n căn nhà d

t nát bên cái đ

m l

c bình chen nhau ngoi lên m

t n

ướ

c tìm đ

ườ

ng s

ng. Cách th

tr

n Văn Giang ch

ng bao xa mà c

nh v

t n

ơ

i đây th

t bu

n th

m. Vài căn nhà rêu m

c, mái ngói b

c màu, đ

t xám x

t đ

ượ

c bao quanh b

i nh

ng d

u m

ng t

ơ

i xanh xao hay nh

ng b

i Mây g

y nh

ng. C

cũng bu

n thiu ch

ng bu

n đ

ng đ

y, t

ưở

ng nh

ư

n

ng cũng b

r

ơ

i n

ơ

i này. “Th

t không th

tin n

i, quê mình l

i có m

t n

ơ

i u bu

n đ

ế

n th

ế

. T

ưở

ng nh

ư

mình đ

ang quay l

i th

i kỳ chi

ế

n tranh v

y”. Chàng l

m b

n. Con chó ch

y s

c vào căn nhà l

p x

p, tuy

nh toàng ch

ng có l

y m

t món đ

đáng giá n

a tri

u.

- Mây! Mày ch

y đi đâu th

ế

? Mày làm tao lo quá.

Con chó sà vào lòng cô gái tr

có g

ươ

ng m

t u bu

n nh

ư

mùa

đông giá l

nh. Cô m

c chi

ế

c áo k

đã l

i m

t v

i chi

ế

c qu

n phăng h

ơ

i b

c màu. – Mày làm sao th

ế

này. Ai đánh mày v

y? – Cô gái h

t ho

ng khi th

y con chó đi kh

p khi

ng v

i nh

ng v

ế

t máu trên l

ư

ng. – Tao đã b

o mày r

i. Mày không đ

ượ

c ăn tr

m đ

ăn c

a ng

ườ

i ta n

a. Ăn tr

m là x

u l

m mày bi

ế

t ch

ư

a? Mày c

ăn c

p c

a ng

ườ

i ta, có ngày ng

ườ

i ta đánh ch

ế

t mày thôi.

Nh

ng gi

t n

ướ

c m

t l

ng l

r

ơ

i xu

ng đôi gò má cao, cô gái ôm con chó vào lòng. Con chó li

ế

m vào bàn tay g

y gu

c c

a cô gái, đôi tai nó ve v

y nh

ư

mu

n nói: “Mây cũng bi

ế

t ăn tr

m là x

u nh

ư

ng cô ch

nghèo quá không có ti

n mua th

t. Cô ch

ph

i ăn u

ng đ

y đ

m

i s

c đ

làm vi

c”.  – Ôi, t

i nghi

p mày ch

ư

a kìa. Mày b

ng

ườ

i ta đánh ch

c là đau l

m.

M

t gi

t n

ướ

c r

ơ

i xu

ng m

t con chó, nó li

ế

m mép. Con chó nhìn cô gái bu

n r

ườ

i r

ượ

i nh

ư

mu

n nói: “cô ch

l

i khóc r

i, cô ch

khóc Mây cũng bu

n”. Cô gái lau v

i nh

ng gi

t l

tràn ra t

hai khóe m

t. Cô đ

ng d

y l

y chi

ế

c roi Mây trong góc nhà. Cô gái nghiêm nét m

t nói v

i con chó:

- Tao ph

i đánh vào chân mày cho ch

a cái thói ăn c

p c

a ng

ườ

i ta.

Con chó ngoan ngoãn n

m xu

ng chân cô gái. Nó chìa hai chân ra phía tr

ướ

c ý nh

ư

b

o “cô ch

đánh Mây đi” đ

chu

c l

i. M

t tay cô gái b

m ti

ế

ng n

c, còn tay kia cô qu

t cái roi Mây vào chân nó. Con chó cúi m

t đ

y v

h

i l

i.

- Đ

ng đánh n

a.

Đ

ng bên ngoài d

u mùng t

ơ

i, chàng th

y cô gái ch

ư

a t

b

ý đ

nh đành vào chân con chó đ

y th

ươ

ng tích. Chàng ch

y b

can: – Con Mây không ăn c

p, m

y gã say đánh nó. H

thèm th

t chó

y mà. H

t

ưở

ng con Mây là chó hoang.

- Tao th

t h

đ

. Tao xin l

i mày nghe Mây.

Cô gái d

u dàng vu

t ve lên đ

u con chó. Nó t

ra là gã trai m

nh m

xem nh

đau đ

n b

ng cái đuôi ngu

y tít và đôi tai ve v

y.

- Cô cho phép tôi cho con Mây ăn ch

c

ơ

m này ch

? – Chàng h

i cô gái vì chàng bi

ế

t cô đ

y lòng t

tr

ng.

L

y tay qu

t n

ướ

c m

t cô gái kh

g

t đ

u. Cô gái đ

ư

a chi

ế

c bát tô m

cho chàng. Chàng đ

túi c

ơ

n vào bát r

i đ

t tr

ướ

c m

t con Mây. Con chó nhìn chàng đ

y v

hàm

ơ

n nh

ư

ng nó không quên quay ra nhìn cô ch

nh

ư

mu

n h

i: “Mây có đ

ượ

c ăn không?”. Cô gái b

o nó. – Mày ăn đi. - B

y gi

con Mây m

i v

c m

t vào bát c

ơ

m. Mi

ng nó t

p l

y t

p đ

nh

ư

ng cái đuôi v

n không quên ve v

y.

                                                            

                                                          *******

Mãi sau này chàng thân thi

ế

t v

i cô ch

c

a con Mây t

i nghi

p r

i, chàng m

i bi

ế

t cu

c đ

i bu

n th

m c

a cô gái mang g

ươ

ng m

t u s

u. S

ph

n dành s

n cho cô gái m

nh mai con đ

ườ

ng gai góc và tăm t

i nh

ư

b

u tr

i ngày giông bão.

Năm m

ườ

i sáu tu

i b

cô phá s

n. Ng

ườ

i đàn ông n

c ti

ế

ng l

m ti

n kh

p vùng L

ng S

ơ

n b

m

y gã b

n  hàng cu

m h

ế

t v

n li

ế

ng. Trong lúc ăn Đ

c ăn qu

l

a c

a m

y gã vô l

ươ

ng tâm, suy s

p c

tinh th

n l

n trí l

c. Ng

ườ

i v

b

y lâu nay quen v

i l

i s

ng thanh nhàn, sung túc không thích nghi n

i gia c

nh b

n hàn c

a k

v

n

. Bà Ph

ượ

c b

m

c ch

ng con trong c

ơ

n  nguy kh

n, b

ngân hàng t

ch thu tài s

n, b

n ch

n

ch

i r

a, đánh đ

p, ch

y theo ng

ườ

i tình gi

u có. Tháo s

i dây chuy

n h

ơ

n hai ch

trên c

con gái bán l

y ti

n, ông Đ

c đem con gái đ

ế

n sinh s

ng t

i m

nh đ

t này đ

tr

n n

. Ban đ

u b

con cô d

ng m

t túp l

u s

ng t

m b

cho qua ngày. Th

ươ

ng b

v

t v

cô đòi lên Hà N

i ki

ế

m vi

c làm. Ông B

li

n ôm con vào lòng không c

m đ

ượ

c n

ướ

c m

t: “ B

b

t tài quá. B

không th

làm cho đ

i con gái đ

ượ

c sung s

ướ

ng, nh

t đ

nh b

không đ

con ph

i ch

u t

i c

c su

t đ

i. B

h

a đ

y. B

ph

i v

cho con gái m

t con đ

ườ

ng s

ng t

ươ

i đ

p. Con đ

ườ

ng s

ng c

a con không còn n

i kh

đau t

i nh

c c

a b

”. Ông Đ

c lên Hà N

i làm, m

i tháng ông v

thăm nhà m

t l

n. L

n nào v

ông cũng đ

ư

a ti

n cho con gái ăn u

ng, thu

c thang. (Cô b

b

nh viêm d

dày mãn tính). Ông b

o con gái ráng ăn u

ng cho kh

e. Dành d

m mãi ông Đ

c m

i xây đ

ượ

c m

t gian nhà nh

. Cô không bi

ế

t trên thành ph

ph

n hoa ông b

ki

ế

m ti

n b

ng cách nào. Cho đ

ế

n m

t ngày do hi

u l

m chuy

n ti

n long ng

ườ

i hàng xóm nói th

ng vào m

t cô: “ T

ưở

ng b

mày lên thành ph

ki

ế

m đ

ượ

c vi

c gì ngon lành, ai dè b

mày là th

ng nh

t rác”.  Cô ôm m

t khóc m

y đêm ròng. Lúc ông Đ

c đ

ư

a cho cô m

ti

n nhàu nát t

bàn hôi mùi rác, cô đ

m

t h

n b

: “ Ông già nh

t rác sao v

đ

ượ

c đ

ườ

ng s

ng cho con gái. B

đ

ng nh

t t

ng xu l

t

đ

ng rác n

a, con th

y x

u h

l

m, nh

c l

m. N

ế

u không ki

ế

m đ

ượ

c vi

c gì t

t

ế

, b

đ

con đi làm cho.…” Ông Đ

c run r

y, chân ông ch

c qu

ngã. Tay túm ch

t n

ơ

i ng

c áo, ông b

đ

v

t xu

ng gi

ườ

ng. Nh

ng gi

t l

m

n chát r

ơ

i xu

ng vai áo r

i bi

ế

n m

t. Gi

ng ông Đ

c thì thào nh

ư

ng

ườ

i đang h

p h

i: “ B

xin l

i.” Sau l

n

y ông Đ

c không còn đi nh

t rác n

a. Nh

m

t ng

ườ

i thành ph

t

t b

ng ông tr

thành công nhân c

a nhà máy bia. Ng

ườ

i ta giao cho ông công vi

c đ

c h

i và n

ng nh

c nh

t vì ít ng

ườ

i ch

u làm công vi

c đó. Năm cô hai m

ươ

i tu

i, b

cô m

c ch

ng ung th

ư

ph

i. (B

nh ngh

nghi

p mà). Cô ph

i ngh

h

n vi

c

nhà máy may. Cô gi

u b

đi bán hàng t

i m

t quán bia,

đó ng

ườ

i tr

l

ươ

ng cho cô cao h

ơ

n. Nh

ng ông khách say kh

ướ

t s

cho cô ti

n bo, v

i đi

u ki

n cô không b

t l

i thái đ

c

t nh

c

a h

.

Nh

ng c

ơ

n đau hành h

ông già còn nhom vì b

nh t

t nhi

u h

ơ

n là tu

i tác ngày m

t d

y đ

c. T

m thân khô g

y nh

ư

ng

n đèn tr

ướ

c gió ch

ch

c t

t l

m. Vào ngày sinh nh

t l

n th

25 c

a cô. Ông b

mua t

ng con gái m

t con chó. Ti

n mua chó là nh

ng đ

ng xu cu

i cùng ông dành d

m đ

ượ

c. Đêm hôm đó trăng sáng và trong đ

ế

n l

kỳ. Trăng chi

ế

u vào t

n chân gi

ườ

ng khi

ế

n căn nhà nh

bé đ

ơ

n s

ơ

l

p lánh huy

n di

u. Cô đ

nh pha s

a cho b

thì ông th

u thào g

i cô l

i bên g

ườ

ng. Đôi bàn tay gân gu

c x

ươ

ng x

u c

a ông n

m ch

t tay cô: “ B

xin l

i con vì b

không làm tròn trách nhi

m c

a m

t ng

ườ

i b

. Vì b

ch

ng ra gì nên đ

i con ph

i kh

. M

con đã có n

ơ

i có ch

n r

i, đã có cu

c s

ng sung s

ướ

ng r

i b

không ph

i b

n tâm n

a”. “ M

y ngày tr

ướ

c con g

p l

i chú H

i. Chú ý b

o m

đã vào thành ph

H

Chí Mình sinh s

ng r

i. Nghe nói m

có m

t th

ng con trai v

i ông ta và hai ng

ườ

i s

ng r

t h

nh phúc”. Cô nói. Ông b

không kìm n

ướ

c m

t sau cùng. Cô đ

ư

a tay vu

t nh

ng s

i tóc b

ế

t m

h

i vã ra trong m

i c

ơ

m đau: “ Con xin l

i. Con c

t

ưở

ng b

đã quên m

rôi”. Ông b

v

i thanh minh: “ B

không bu

n đâu. B

m

ng cho m

con. Con cũng đ

ng trách m

n

a. N

ế

u bà

y ti

ế

p t

c s

ng v

i b

thì kh

cho bà

y quá”. Ông Đ

c đ

ư

a bàn tay run run lên v

ưố

t nh

ng s

i tóc lòa xòa tr

ướ

c trán con gái: “ T

ng này tu

i b

ra đi cũng đ

ượ

c r

i. B

ch

ti

ế

c là tr

ướ

c khi nh

m m

t b

v

n ch

ư

a nhìn th

y con đ

ườ

ng h

nh phúc c

a con. N

ế

u không vì b

quá nghèo, đáng ra

tu

i này còn đã có b

n trai r

i”. Cô nén ti

ế

ng tr

ng ng

c đang đ

p r

n rã: “ Con v

n ch

ư

a nghĩ đ

ế

n chuy

n đó. L

y ch

ng có gì vui ch

. Con s

nhà nuôi b

”. Ông b

ra hi

u cho con gái b

ế

chú cún nh

l

i. Ôm con cún vào lòng ông thì th

m: “ Mây à. Tao ch

bi

ế

t trông c

y vào mày thôi. Tao ch

ế

t r

i mày ph

i chăm sóc cho cô ch

thay tao nhé. Mày ph

i thay tao tìm cho cô ch

m

t ng

ườ

i đàn ông t

t. Mày ph

i thay tao tìm cho cô ch

m

t con đ

ườ

ng s

ng….” Cô quay m

t đi gi

u nh

ng gi

t n

ướ

c m

t nóng h

i trên s

ng mũi. Ông b

nhìn con gái trìu m

ế

n qua đôi m

t h

c hác, hai con ng

ươ

i l

i h

n ra. “ Đã t

n t

i trên th

ế

gian này thì con ph

i t

tìm cho mình m

t con đ

ườ

ng s

ng. Cu

c đ

i r

t tàn nh

n, con y

ế

u đu

i thì nó s

kéo con xu

ng v

c th

m nh

ư

ng n

ế

u con m

nh m

thì nó s

đ

u hàng. Vì th

ế

b

t c

hoàn c

nh nào con không đ

ượ

c phép đ

u hàng, không đ

ượ

c b

cu

c. S

có lúc con th

y m

t m

i và chán ch

ườ

ng nh

ng lúc đó chú chó nh

này s

thay b

làm b

n v

i con. Đ

ng đ

cu

c đ

i

n đ

nh cho con đ

ườ

ng s

ng cho con. Hãy t

v

cho mình con đ

ườ

ng s

ng con

Ngay đêm đó ông Đ

c ra đi. Ch

ng có ai ch

ng ki

ế

n nh

ng giây phút h

p h

i cu

i cùng c

a lão già nghèo ki

ế

t xác. Ông ra đi nh

nhàng và thanh th

n nh

ư

ng

ườ

i ta tr

phòng tr

đ

tr

v

căn nhà vĩnh c

u d

ướ

i lòng đ

t sâu.

Ít lâu sau ngày ông Đ

c m

t, vào m

t ngày đ

u mùa h

, cô ng

i rót bia cho khách trong căn phòng ch

t ch

i mùi th

c ăn, mùi khói thu

c và mùi h

ơ

i ng

ườ

i. Gã đàn ông m

t r

cao l

n say m

m, trong c

ơ

m h

ư

ng ph

n do b

r

ượ

u kích thích tay gã s

so

ng lên ng

ườ

i cô. Không ch

u đ

ượ

c n

i t

i nh

c cô vùng d

y b

v

. Ngày hôm sau ông ch

t

ng cô ra ngoài đ

ườ

ng, ông ta qu

t luôn s

ti

n l

ươ

ng tháng đó

.

Thêm m

t l

n đ

i t

ng cô ra ngoài con đ

ườ

ng s

ng.

                                                    

                                                                     *********

Trong căn phòng đ

y đ

ti

n nghi chàng ng

i ch

ế

t l

ng v

i trái tim s

t s

o. Ngày mai tòa án s

xét x

v

ly hôn c

a chàng v

i H

ng. Chàng đã có m

t cu

c hôn nhân th

t b

i v

i m

i tình đ

u th

ơ

m

ng. Chàng yêu c

u tòa hòa gi

, đã ba l

n tòa hòa gi

nh

ư

ng b

t thành. Thành ra chàng cũng chán c

nh đ

ng sàng d

m

ng này. H

ng h

t m

t nhìn chàng: - Ly hôn xong anh ph

i bán căn nhà này, đ

ượ

c bao nhiêu chia đôi.

- Tùy cô thôi.

- Th

ế

thì tôi s

bán.

- Ti

n .Ti

n .Ti

n...Lúc nào cô cũng ch

nghĩ đ

ế

n ti

n thôi. - Chàng g

n gi

ng.

- Không có ti

n anh có s

ng đ

ượ

c không. Tôi không nghĩ đ

ế

n ti

n thì tôi nghĩ đ

ế

n m

tri

ế

t lý đ

o đ

c gi

c

a anh ch

c. Anh lúc nào ch

ng s

ng vì tình yêu, tình c

m là trên h

ế

t ti

n là cái cóc khô gì. Tôi thì không s

ng th

ế

đ

ượ

c. Tôi c

n m

t cu

c s

ng ch

t l

ượ

ng cao.

- Cô thay đ

i nhi

u quá. Ngày tr

ướ

c chính cô b

o

đâu có tình yêu thì

đó là thiên đ

ườ

ng c

ơ

.

- Ngày tr

ướ

c tôi ngu d

i nên m

i nghĩ th

ế

. Bây gi

tôi m

i ph

i tr

giá cho s

ngu d

i c

a mình. Đ

i d

y tôi ph

i b

anh chàng kĩ s

ư

nông nghi

p nghèo.

- S

ế

p c

a cô là th

ng kh

n n

n. Anh ta bi

ế

t nhân viên là gái đã có ch

ng  mà v

n quy

ế

n rũ cô ta.

- Anh đ

ng ng

i đó mà ca c

m oán h

n ch

ng s

p c

ướ

i c

a tôi. Kỳ th

c anh có trách thì hãy trách đ

i ý. Đ

i không mu

n dành cho nh

ng k

kém c

i, hèm m

n m

t con đ

ườ

ng s

ng.

H

ng m

t

, cô t

ng qu

n áo vào chi

ế

c va ly  r

i kéo khóa l

i: - Cũng may, tôi ch

ư

a có con v

i anh. Tôi v

nhà ngo

i đây. Mai chúng ta g

p nhau

tòa.

H

ng đóng s

m c

a. Cô b

đi. B

l

i chàng v

i n

i cô đ

ơ

n và cay đ

ng c

a th

t b

i l

n nh

t trong cu

c đ

i ng

ườ

i đàn ông. Th

t b

i trong chính ngôi nhà mình th

t b

i tr

ướ

c ng

ườ

i v

tr

.

                                                       

                                                          ********

B

ướ

c ra kh

i tòa án lòng chàng trĩu n

ng. Chàng lang thang trên nh

ng con đ

ườ

ng h

n lo

n vì ti

ế

ng đ

ng c

ơ

xe máy. V

i v

s

u th

m c

a ng

ườ

i đàn ông b

v

t b

không th

ươ

ng ti

ế

c chàng t

h

i: “ gi

d

m

i con đ

ườ

ng này là m

t con đ

ườ

ng s

ng, con đ

ườ

ng s

ng c

a chàng s

vào khách s

n hay đ

ế

n m

t căn nhà nh

…” Chàng miên man suy nghĩ r

i ti

ế

ng chó s

a khi

ế

n chàng b

ng t

nh. Chàng kh

reo lên:

- Mây mày làm gì

đây th

ế

?

Con chó nh

y ch

m lên l

y lòng chàng. Nó s

a gâu gâu theo ki

u Pháp r

t nh

nhàng và l

ch s

. Con chó mu

n nói v

i chàng r

ng: nó đã đi theo chàng c

đo

n đ

ườ

ng dài nh

ư

ng chàng không nh

n ra nên nó ph

i đánh ti

ế

ng.

- Cô ta b

tao r

i. T

nay tao l

i là anh chàng đ

c thân kh

n kh

.

Chàng cúi ng

ườ

i đ

ư

a tay vu

t lên b

lông m

n nh

ư

t

ơ

c

a nó, con chó s

a lên nh

ng ti

ế

ng r

n rã giòn tan nh

ư

an

i chàng: “ c

u làm b

n v

i cô ch

tôi đi. Cô

y r

t d

th

ươ

ng và không bao gi

b

r

ơ

i c

u đâu. Nghèo th

ế

mà cô

y có b

r

ơ

i Mây đâu”

.

S

qu

n quýt c

a con chó cho chàng th

y

m lòng. Nó đ

ư

a chàng chàng v

nhà nó.

Trong ngôi nhà cô qu

nh, cô ng

i n

u c

ơ

m nh

ng tia l

a nh

kêu lánh tách trên nh

ng cành c

i khô. Đôi má cô gái ch

t h

ng lên hi

n d

u nh

ư

m

t nàng tiên. Nh

ng làm kh

i m

ng bay vút lên r

i tan ra khi

ế

n chàng cay m

t: - Em n

u c

ơ

m s

m th

ế

? – Chàng ng

i xu

ng c

nh cô.

- D

o này em th

t nghi

p su

t. Qu

n áo may s

n v

a nhi

u l

i r

. Cô ch

hi

u may không c

n thêm th

ph

n

a. Đ

i l

i ch

n con đ

ườ

ng s

ng c

a em. – Cô than th

. – Em ch

ng có gì c

.

- R

i m

i chuy

n s

qua thôi. – Chàng an

i.

- Em ch

ng thi

ế

t s

ng n

a. – Cô th

dài.

- Con đ

ườ

ng s

ng c

a em th

t khó khăn. N

ế

u em có m

t ng

ườ

i đàn ông đ

san s

m

i chuy

n ch

c s

d

dàng h

ơ

n. Em có b

n trai ch

ư

a

?

- Ch

ư

a. Con gái nhà nghèo l

i khí kém s

c khó l

y ch

ng l

m. – Cô l

c đ

u.

- T

i em không ch

u m

lòng ra đó thôi.

- B

em hay đùa. Ng

ườ

i đàn ông đ

u tiên đ

ế

n thăm con vào chín gi

chín phút s

là con đ

ườ

ng s

ng c

a con. Em đ

i mãi v

n ch

ư

a th

y con đ

ườ

ng s

ng c

a em xu

t hiên. – Cô c

ườ

i chua chát.

- B

em nói đúng. R

i em s

g

p thôi.

                                               

                                                           ********

Chàng khó ngủ, khuôn mặt cô chập chờn xuất hiện. Bõng chàng muốn gom hết những tia nắng ít ỏi của mùa đông đem về sưởi ấm trong căn nhà nhiều gió của cô. Chàng thấy mến điệu bộ hài hước và lém lỉnh của con Mây. Chàng thấy nhơ nhớ khu nhà tăm tối nơi cô ở. Chàng bỗng nhận ra chàng cũng là một con đướng sống. Hết đêm nay, con đường sống sẽ thuộc về chủ nhân của nó.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro