Truyen Phongdiep-Lenghiabk05

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

 

Rồi con gà cũng ra đi

» Tác giả: Bùi Đức Hiền

» Dịch giả:

» Thể lọai: Truyện ngắn

» Số lần xem: 2925

1. Rồi con gà cũng ra đi

Chuyện xảy ra vào những năm tám mươi của thế kỷ trước.

  Ngày đó vợ chồng Lâm mới cưới được gần một năm. Họ ở nhà tập thể cấp bốn của cơ quan, mỗi nhà một phòng hơn chục mét vuông; các phòng cách nhau chỉ một bức tường xây không tới mái. Mẹ Lâm ở quê lặn lội ra thăm. Ngày nào cũng đãi mẹ chỉ bằng rau muống luộc; vợ chồng Lâm quá ngượng với láng giềng hàng xóm trong khu tập thể. Lương bổng của vợ chồng chỉ đủ để đong gạo và chi tiêu những gì cần thiết nhất. Bởi vậy sau khi tính toán rất kỹ vợ chồng Lâm mới đi đến quyết định phải gắng mua một chú gà khao mẹ. Chiều hôm đó lúc Lâm đang đánh  bóng bàn ở nhà văn hóa ngay đầu ký túc xá thì nghe tiếng gà kêu quang quác. Vậy là vợ đã giết gà đãi mẹ chồng rồi. Lâm khấp khởi mừng thầm vì "khách ba chủ nhà bảy", nhân cơ hội này Lâm cũng được hưởng hương vị gà, cái hương vị mà hắn đã quên mất trong vòng nửa năm trời rồi. Sau khi tắm rửa xong, Lâm háo hức mời mẹ ăn cơm chiều. Khi mở mâm cơm ra, Lâm tiu nghỉu hẳn: trên mâm cũng vẫn lặp lại món rau muống luộc với bát cà muối; chỉ có khác là hôm nay còn có thêm đĩa lạc rang mặn.

Lâm nhìn vợ, hắn chưa kịp nói gì thì vợ hắn đã nhanh nhẩu nói:

-          Em cứ nghĩ là bắt gà và nấu nước sẵn, chờ anh về cắt tiết làm thịt..., nhưng anh đang chơi mải mê quá em lại không nỡ gọi. Thôi thì để mai vậy. Mẹ còn ở chơi với vợ chồng mình ba bốn hôm nữa mà anh.

  Dù sao thì gà vẫn còn, không hôm nay thì ngày mai - Lâm nghĩ bụng- Hôm nay có thêm món lạc rang cũng đã là “tươm” lắm rồi. Mặc dù ngon miệng nhưng hắn cũng cố ý dành cho mẹ và vợ hắn khẩu phần có đạm nhiều hơn, dù chỉ là đạm thực vật.

Chiều hôm sau, Lâm chủ động không đi chơi bóng bàn nữa mà ở nhà để thịt gà. Vợ hắn đặt nồi nước sôi, sau đó ra bắt gà. Chú gà thật là đanh đá, cứ la oang oác như thể đã cắt tiết rồi. Khi Lâm chuẩn bị hạ dao sát thủ thì vợ hắn kêu:

-          À mà anh ơi, hôm nay em phải sang nhà cái Hà bạn em tham dự sinh nhật nó. Anh và mẹ "chén" vắng em vậy.

   Mẹ Lâm nghe vậy liền can lại:

-          Con ơi. Thôi để mai hãy làm. Hôm nay vợ con đi vắng chỉ mẹ con mình thì cũng mất vui đi con ạ.

  Cũng muốn vợ mình cũng được hưởng hương vị gà mà nàng cũng đã tạm quên cùng thời gian như hắn, nên Lâm đồng ý. Tuy vậy khi thả gà lại vào chuồng hắn vẫn thấy ấm ức. Chả là cả ngày nay trong giờ làm việc hắn chỉ mong hết giờ để nhanh đến cơm chiều.

  Bữa cơm chiều dọn ra, thấy vợ mình vẫn ở nhà, hắn hỏi:

-          Em bảo phải đi sinh nhật nhà cái Hà kia mà?

-          Em chưa chuẩn bị quà gì, đến sinh nhật bạn mà đi tay không thì không tiện anh ạ. Thôi mai đến trường em chúc mừng nó sau cũng được.

  Lâm nghĩ chắc là vợ hắn muốn tiết kiệm khoản tiền mua quà sinh nhật bạn. Hắn biết tháng này có mẹ hắn tới nên cán cân tài chính nghe chừng đã thâm hụt.

  Tới đêm, khi vợ chồng trùm kín trong chăn vợ Lâm mới thỏ thẻ tiết lộ ý nghĩ của nàng. Rằng là chẳng phải vì Lâm bận đánh bóng bàn, chẳng phải vì sinh nhật bạn mà nàng không giết gà. Nàng bảo đằng nào cũng khao mẹ, chi bằng để hôm mẹ về cũng không muộn. Bù lại hàng ngày mình cứ bắt ra nhốt vào thì nghe tiếng gà kêu lại được tiếng với hàng xóm là ngày nào cũng giết gà khao mẹ!

   Thật là botay.com, Lâm chẳng thể nào có một lời bình luận về "kế hoạch” của nàng. Lâm chỉ ậm ừ cho qua, còn lòng thì thầm trách mình bởi là đấng nam nhi mà để cho vợ phải rơi vào tình cảnh vậy. Hắn thấy cũng đã cố gắng lắm rồi, bởi ngoài giờ ở cơ quan hắn cũng đã đào đất, tưới rau v.v như bao đấng ông chồng khác trong khu tập thể. Chắc phải nghĩ ra cách gì khác… – Chưa kịp nghĩ thêm phải làm gì cụ thể thì vợ hắn đã kéo tay hắn gối đầu và rúc vào ngực hắn, thế rồi hắn lại quên mất như bao đêm khác…

Cho đến chiều trước hôm mẹ Lâm về, vợ hắn thật sự định giết gà để khao mẹ thì bà can ngăn:

-          Thôi đừng phung phí thế các con ạ. Mẹ đến thăm con, ngày nào cũng ăn cơm không độn là đã cảm thấy lo và thương các con lắm rồi. Mẹ biết khi mẹ về rồi thì các con lại phải "thắt lưng buộc bụng" ăn sắn khoai suốt cả tuần để bù đắp hao hụt tuần mẹ tới thăm. Lâm ạ, con hãy cố mua mấy cây tre, làm cái chuồng nuôi nó. Lần sau đến thăm mẹ sẽ mang từ quê lên thêm vài đôi gà giống nữa...

 Tiễn mẹ về rồi, vợ Lâm lại ra chợ. Con gà đã ra đi.

 Dẫu muốn làm theo lời mẹ dặn nhưng hắn biết tháng này còn chưa đủ ăn, nói gì chuyện mua tre làm chuồng nuôi gà.

 

Nồi Canh Riêu Cá

» Tác giả: Nguyên Nhung

» Dịch giả:

» Thể lọai: Truyện ngắn

» Số lần xem: 3958

1. Nồi Canh Riêu Cá

Cứ ra Tết độ mùng bảy là cụ Chánh lại làm một nồi canh riêu cá. Lúc ấy trời đã sang xuân, nắng dịu, gió thổi hiu hiu, những món rau tươi cũng rất sẵn sàng cho nồi canh riêu cá được đậm đà, mát mẻ hơn. Mọi người sau những ngày Tết ăn nhiều thứ nóng nảy, nặng bụng, đều cảm thấy khoan khoái, dễ chịu với nồi canh riêu cá, một món ăn dân giả, ngon miệng trên những mâm cơm của gia đình miền Bắc.

    Bà Chánh người Bắc Ninh, nơi xuất xứ những bài dân ca quan họ nổi tiếng. Thuở còn trẻ, bà cũng có đi hát đối, không phải vì ăn chơi, lãng mạn gì nhưng đấy là nền văn hoá đặc trưng của dân tộc. Bà Chánh vào Nam thấy đám trẻ mỗi lần hát bài Dân ca Quan Họ, bà lại nhớ đến khúc "Người ơi, người ở đừng về" , cũng vì mấy câu "Hai bên vạt áo ướt đầm như mưa" mà ông Chánh độ ấy còn trẻ, gốc người Thái Bình, đã phải về quê nói với cha mẹ đến xin cô gái Bắc Ninh về làm vợ.

    Năm năm mươi tư, dạo ấy bà Chánh còn trẻ, mới độ bốn mươi thì ông chết, bà một mình dẫn ba người con xuôi Nam. Bà Chánh vẫn ở quê chồng, tỉnh Thái Bình, vùng đồng chiêm. Sau khi ông Chánh qua đời, bà Chánh nửa muốn đem con về quê mình, nhưng rồi thời cuộc đưa đẩy, từ đấy cứ theo người làng nước chạy ra Hải Phòng xuống tàu đi Nam. Bởi vậy khi ra đi, bà cũng mất liên lạc luôn với gia đình ở quê nhà, lúc cùng lũ con ngồi trên chiếc tàu há mồm của Mỹ lênh đênh từ biển Bắc xuôi về Nam, nước mắt bà cứ tuôn như mưa. Nhờ ơn trời cả nhà đi được hết, không thiếu một mống. Năm ấy anh con trai cả mới mười tám, đứa con út lên bảy. Cũng vì bà muộn con, lấy chồng mấy năm cầu khẩn mãi trời mới làm phúc cho được mống con trai, rồi thêm luôn hai cô con gái.

     Tưởng hôm ấy ra đi bà Chánh bặt tin luôn người thân ở quê nhà, nhưng lần hồi khi vào Nam họ cũng gặp lại nhau. Hóa ra lúc thời thế hỗn độn, người nào người nấy cứ im ỉm mà từ giã làng quê. Lắm nhà kẻ ở người đi, chỉ có một dải đất mà biền biệt ngóng chờ nhau đến hai mươi năm chưa gặp lại. Hai mươi năm ly loạn, bom đạn giăng giăng trên quê hương làm đau lòng người dân hiền lành trên hai miền đất nước, bà Chánh vẫn khắc khoải nhớ từng con đường làng, lũy tre xanh, những thửa ruộng xanh màu lá mạ, gác chuông nhà thờ vươn lên khoảng trời đầy mây tím, vài cánh chim bay về tổ mỗi khi chiều xuống. Miền Nam mưa nắng hai mùa, Tết đầu tiên đón Xuân trời nắng chang chang, món thịt đông miền Bắc không thể thực hiện được. Chợ Tết dưa hấu chất cao như núi, bánh tét thay cho bánh chưng, mùa Xuân mà nóng đến chảy mỡ, bà cứ nhớ cái rét ở quê xưa thắt cả ruột.

Bà Chánh tiêu biểu cho một người phụ nữ Việt Nam hiền lành, tần tảo và đảm đang. Bà chẳng hiểu chính trị, chính em là gì, nhưng từ lúc Tây về nước, Việt Minh lên nắm chính quyền, rồi sau này lại bảo là Cộng Sản, xem ra làng quê đã có chiều thay đổi. Từng đoàn bộ đội từ mặt trận kéo về, ngày thì họp, đêm lại văn nghệ, đánh trống, phèng la, thanh niên nam nữ, trẻ con trong làng họp nhau lại để nhảy "son đố mì " thì bà đâm sợ. Tự nhiên người ta nhòm ngó nhau từ cái rổ đi chợ cho đến nồi cơm trong bếp, người ta bươi móc sự giàu nghèo của nhau mà kết tội. Làng bên chồng lẫn lộn vàng thau, chẳng biết ai tốt ai xấu, ai thật ai giả, có một số đi biệt đã lâu nay trở về xem chừng con người đổi khác. Mỗi chiều, ngay cả tiếng chuông nhà thờ nghe cũng đã buồn mênh mang, dường như từ độ ấy, nghe đã vắng tiếng cười vui trong các thôn ổ, gặp nhau bỗng nghi ngại điều gì, đa số những người lớn tuổi thường nhìn nhau rồi quay vội đi nén tiếng thở dài. Tuy là đàn bà, lại góa bụa, nhưng bà cũng biết nhìn xa, cứ kiểu cách này thì đám con bà khó mà nên người. Thế là một đêm tối trời, bà dẫn lũ con theo dăm người trong họ nhà chồng bỏ làng ra đi, nước mắt cứ tuôn như mưa giầm tháng Bảy.

 *       *       * Bà Chánh di cư vào Nam, nhưng phong tục tập quán nơi quê cha đất tổ thì bà không thay đổi. Tết chưa phải là Tết nếu không có bánh chưng, thịt mỡ, dưa hành, dưa cải, thịt đông, thịt kho tàu và nồi gà xáo măng, lại thêm giò thủ nhai lựt xựt, đậm đà lẫn với tiêu sọ và mộc nhĩ. Món ngọt thì đã có nồi chè kho, đấy là thứ đậu xanh đãi vỏ nấu nhừ, nhưng không nhão, cô lại với đường rồi đổ ra cái mâm gỗ, trên mặt rắc vừng.          Quan trọng nhất vẫn là vại dưa, vại cà, Tết lại phải thêm món dưa hành để ăn với thịt mỡ. Món dưa hành miền Bắc sau này cũng có khác đi khi ở miền Nam, vì mỗi nơi có một lối muối khác nhau. Miền Nam ăn cái gì cũng ngọt, cho nên dưa hành chua ngọt ăn cũng hay hay. Ở làng bà ngày xưa, hễ thời làm con gái là phải biết muối dưa muối cà, cô nào đoảng vị, "muối dưa, dưa khú, muối cà, cà thâm" là kể như ế chồng.

    Nay thì mọi người đã gọi bà Chánh bằng cụ, khi anh con trai lấy vợ rồi có được ba đứa con lớn lồng nhồng cả lên. Cô con gái kế cũng đi lấy chồng, còn mỗi cô út kén cá chọn canh vẫn ở nhà với mẹ, cụ Chánh vẫn ở với con trai. Phong tục Việt Nam mình thế, "tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử". Đó là cụ theo lối cổ, chứ thời buổi này mọi thứ thay đổi cả rồi, còn mấy ai lại chịu lệ thuộc con cái như phụ nữ Việt Nam ngày xưa.

    Buổi sáng hôm nay, cụ Chánh vọc tay vào vại dưa, xem lại mớ dưa chua cụ làm từ trong Tết. Mấy ngày Tết, cả nhà đã thanh toán nhanh chóng mấy món thịt đông, thịt kho nước dừa ăn với dưa cải, dưa hành của cụ. Dạo còn ở Bắc cụ Chánh chỉ làm thịt kho tàu, thịt thái từng miếng nhỏ cỡ hai đốt ngón tay, kho xong miếng thịt đỏ au, tươm mỡ, rất đậm đà. Nhưng từ lúc vào Nam, cụ bắt chước người miền Nam cắt thịt từng miếng to tướng, kho với hột vịt và dùng nước dừa tươi, nồi thịt kho trông thật hấp dẫn, vừa mềm, vừa béo, vừa thơm. Dầu vậy, thịt kho tàu hay thịt kho nước dừa, nếu không có món dưa cải chua thì vẫn chưa đủ bộ. Ngay từ khi miếng dưa chua chưa đủ chua, còn nồng nồng vị cay và thơm lựng mùi hành xanh, các con các cháu cụ đã thắc thỏm khen ngon , đã bảo cụ Chánh làm dưa khéo từ hồi con gái.

 Hôm nay chỉ còn ít thịt kho, cả nhà ăn đã ngán, cụ Chánh nhìn mớ dưa còn lại bảo con dâu:

- "Hôm nay đi chợ nhớ mua bún, cá thu tươi với lại cà chua, thìa là , hành lá. Nhớ là cà chua phải thật chín, rau sà lách, rau kinh giới và tía tô, thêm một bó ngò rí nữa mẹ nó ạ."

     Cô con dâu người Nam, gốc miền Tây Nam Bộ, tính tình rất đơn sơ cho nên độ mới về làm dâu, mẹ con cũng có vài khác biệt nho nhỏ. Chẳng hạn cụ kho thì phải mặn, người miền Nam lại thích ngọt cho nên lúc nấu ăn, thế nào cũng phải cho thêm tý đường. Lâu dần cụ Chánh cũng quen với lối nêm nếm cuả miền Nam, ăn canh chua đã thấy ngon, nhưng món riêu cá của cụ cũng chẳng xa lạ gì với cô con dâu gốc Nam Bộ ấy nữa. Bây giờ "Nam Bắc đề huề", cô con dâu đã biết pha tiếng "ạ" mỗi lần nói chuyện với bà con bên chồng, cái giọng Nam pha Bắc nghe ngọt ngào dễ thương làm sao.

     Cô con dâu hiểu ý mẹ chồng, năm nào cũng vậy, nồi canh riêu cá là món cuối cùng tổng hợp tất cả những món ngon ngày Tết còn lại, vậy mà cả nhà ai cũng thích. Chị xách giỏ đi chợ, nhớ kỹ những món mẹ chồng dặn, vì cụ Chánh chả mấy khi ra chợ, cụ ở nhà lãnh phần ru cháu ngủ. Ra Tết đồ hàng bông rất rẻ và rất non, xanh mươn mướt. Bao năm rồi về làm dâu cụ Chánh, chị đã quen cái món rau xanh ăn với canh riêu cá của bà mẹ chồng. Những món bánh chưng, lạp xưởng, giò thủ, giò lụa, thịt kho, xáo măng giờ này xem đã nặng bụng lắm. Giữa tiết trời thế này, trong người thấy hao háo một cái gì man mát, tươi tươi , xem ra món canh riêu cá đáp ứng thật là đúng lúc.

      Cô con dâu đi chợ về, bình thường thì chị vẫn nấu ăn, nhưng đặc biệt món canh riêu cá ngày đầu năm phải đích thân do cụ Chánh nấu. Cụ rửa sạch mấy khứa cá thu với một chút nước muối, bao nhiêu thứ tanh tưởi trôi đi nhờ nước muối. Sau đó, cụ xát một chút muối tiêu vào từng khứa cá, rồi mới chiên sơ trên chảo mỡ. Cụ Chánh vớt hết dưa chua còn lại trong vại, dưa đã chua, ăn tươi thì hơi ghê răng nhưng chua thế này thì nấu riêu ngon tuyệt. Cụ trầm trồ nhìn mớ cà chua chín đỏ thẫm, cà phải chín thì nồi canh mới ngon, là vì trong cái chua ngọt của cà lẫn với cái chua dôn dốt của dưa, nó hòa hợp y như là có thuyền thì phải có sông vậy.

      Cụ Chánh thái dưa, thái cà, đảo trên bếp với một chút hành lá, rồi tất cả những thứ thịt thà, mắm muối còn dư trong trạn cụ đổ cả vào nồi riêu. Người ta cho cụ là người tằn tiện, không bỏ phí một tí gì, nhưng nếu đã trải qua trận đói năm Ất Dậu như cụ, cả nhà suýt chết đói nếu không có người họ hàng giúp cho ít gạo nấu cháo, thì không thông cảm được cái lòng của cụ. Cái kinh nghiệm quí giá ấy, sau này các con cụ mới thấy rõ, nhất là anh con trai phải đi "cải tạo" mấy năm, càng nghĩ anh lại càng thương mẹ đã chắt chiu, tiện tặn.

     Bây giờ cụ Chánh quay lại với nồi canh dưa của mình. Tý nữa thì cụ quên, còn phải cho vào tí mắm tôm, nhờ vậy hương vị của nồi canh dưa mới đậm đà, mà mấy anh muối hoặc nước mắm không làm sao có được. Ngần ấy thứ hỗn hợp với nhau, có thể nói nồi canh riêu cá là một thứ canh đặc biệt hòa hợp tất cả những thứ đồ ăn linh tinh còn lại của nhà bếp, bát thịt kho cũ, bát mắm ăn dở, tất cả trộn lẫn vào nhau để thành một hương vị riêng. Bếp vừa lửa, canh sôi vài dạo, canh dưa phải nấu kỹ mới ngon, nhưng cũng không lâu quá để miếng dưa cải vẫn còn hơi sần sật, và cái màu cà chua đỏ thẫm lẫn lộn với màu dưa cải vàng, một lớp mỡ váng trên mặt nồi canh, nhìn đã thấy thèm.

    Cụ Chánh cho những khứa cá thu chiên vào nồi canh dưa, cá lẫn với dưa, bốc lên một mùi dễ chịu. Người ta cũng có thể nấu dưa với sườn heo non, hoặc thịt bò bắp, nhưng thật ra không anh nào qua mặt được thứ riêu cá. Cụ sống ở vùng biển nên dùng cá biển cho tiện, thực ra thịt cá thu vừa thơm, vừa bùi, đem kho riềng thì phải gọi là vô địch trong các thứ cá, trẻ con ăn không sợ hóc xương. Nồi canh dưa không thể nào ngon nếu không có hành, thìa là. Khi nấu canh xong, người nội trợ phải cho vào nồi canh rồi bắc ngay xuống bếp, mùi hành lá và thìa là đặc biệt dậy lên một mùi thơm khó mà tả nổi.

    Trong lúc nồi canh đặt trên bếp, cụ Chánh đã lo sửa soạn món rau sống. Trong chiếc rổ to, những cọng sà lách non mềm mại, tươi hơn hớn như con gái đang xuân, rau ngò rí thật thơm, kinh giới, tía tô, dấp cá đầy vị thuốc. Người Việt Nam mình sống trên đống thuốc mà không biết, những thứ rau cỏ hàng ngày đã cung cấp bao nhiêu thứ mát tì, mát vị, bổ âm bổ dương, lại cứ cầu kỳ đi tìm những thứ thuốc giời ơi, uống lắm chỉ phá gan, nát thận. Cứ nghiệm cái câu "thịt cá hương hoa, dưa cà căn bản", mới biết ông bà ta ngày xưa đã tìm ra được chân lý trong vấn đề ẩm thực, mới thấy cái văn minh, văn hóa của dân tộc tiềm tàng ngay từ trong cách ăn, nết ở.

                   *    *     *    Trưa hôm ấy, mâm cơm được dọn lên chỉ duy nhất có nồi canh riêu cá, đấy là dấu hiệu báo Tết đã hết, các món ngon, đầy bụng cũng không còn, nhà nhà đã trở lại những thức ăn dân giả đạm bạc. Gia đình anh con trai cả, gia đình cô con gái lớn, cô con út chưa chồng nhưng anh rể tương lai cũng được mời đến ăn canh riêu cá của cụ, chắc chắn là anh sẽ thành con rể sau này khi đã có dịp thưởng thức canh riêu cá.

    Cả nhà quây quần quanh nồi canh riêu nóng, một rổ bún trắng ngần, mát như lụa, bún chan canh riêu nóng ăn với rau sống và một chút nước mắm cay. Cái hài hòa của thực phẩm và rau cỏ đi với nhau làm khoan khoái lục phủ ngũ tạng trong cơ thể con người, nhưng cái chính là nó đã nói lên sự bền chặt, ấm áp của một gia đình đoàn tụ. Họ nhai rau ráu, họ húp sùm sụp, miếng rau quyện vào miếng cá, bún cứ thế trôi tuồn tuột vào bao tử mọi người trong nhà, ăn đến đâu mát ruột đến đấy. Cụ Chánh hể hả nhìn niềm vui khoan khoái giãn ra trên nét mặt lũ con cháu cụ. Bát canh riêu cá chứa đựng biết bao nhiêu tình yêu của một người mẹ, đậm đà như miếng cá nằm trong bát canh sóng sánh, mát mẻ dịu dàng như các thứ rau xanh biểu hiện cho một tấm tình quê mộc mạc, chuyên chở được tất cả tình thương của người mẹ Việt Nam trong gia đình, với tình quê hương bàng bạc trong đó.

    Sau bữa ăn, hai cô con gái phụ chị dâu dọn dẹp mâm bát, cả nhà quây quần trong phòng khách uống nước vối ăn chè kho. Năm nào cũng thế, nồi chè kho ăn lăn lóc mãi ra giêng cũng chưa hết, vì nó ngọt quá, nhưng cứ xong một bữa canh riêu cá ngon lành, miếng chè kho hình như bùi đậm hẳn lên, khi được chiêu bằng ngụm nước vối nóng.

 *    *    *  Chẳng ai ngờ được có một ngày cụ Chánh lại theo đám con sống ở quê người. Sau năm 75, anh con trai bị đưa đi cải tạo ngoài miền Bắc, cụ lại khăn gói gió đưa đi thăm con, rồi nhân tiện đáo về quê cũ thăm mồ mả cha mẹ, ông bà. Bao nhiêu năm xa quê, cụ cứ thắt cả ruột khi nhìn lại xóm làng cũ, nơi chôn nhau cắt rốn nay đã tàn tạ, xác xơ, may là mồ mả cha mẹ vẫn còn vì nhờ có mấy tấn đá ong quây quanh nên cũng còn dấu vết.

       Chuyến xe lửa từ Nam ra Bắc, đi qua bao nhiêu đoạn đường dài, cụ Chánh không ngủ được, cụ đứng tựa vào khung cửa sổ của con tàu, ngắm nhìn cảnh quê xưa đang lần lượt trở về trong tầm mắt của cụ. Làng xóm miền Nam khác xóm làng miền Bắc, chỉ cần vượt qua ranh giới hai miền là cụ đã nao nao xúc động, khi nhìn thấy cây đa cao ngất với những luỹ tre xanh bao bọc thôn làng, dăm nóc nhà ngói đỏ, mấy đứa trẻ con đang chơi đánh đáo dưới bóng cây cổ thụ râm mát. Cụ cứ bùi ngùi mãi, lúc bước thấp cao về tới quê xưa, ngôi Thánh Đường hồi ấy đẹp đẽ xiết bao, nay đã nghiêng ngả, tiều tụy như người ốm lâu ngày không vực được dậy. Nhưng lúc ấy hai miền Nam Bắc có khác gì nhau, mà cụ cũng không còn đường để chạy, mãi cho đến ngày anh con trai và cả gia đình được đi Mỹ theo diện HO, là cụ vui vẻ đi ngay không nuối tiếc.

         Nói như thế không có nghĩa cụ là người bạc bẽo với quê hương, nhưng nếu không theo con cháu đi nước ngoài, mong gì cụ có để giúp đỡ cho người còn ở lại. Sang Mỹ, người cụ có khoẻ ra nhưng cái lưng lại còng hơn, bao nhiêu năm vất vả người cụ không đổ xuống là may. Suốt ngày trong nhà, cụ lạch từ nhà trên xuống nhà dưới, từ trong nhà ra ngoài sân, rồi từ cái khoảng sân sau mát mẻ ấy, cụ trồng rau. Anh con trai sợ mẹ già vấp ngã khi vun tưới cho vườn rau sau nhà, đã gắn sẵn cho mẹ một hệ thống tưới cỏ tự động. Cứ mỗi chiều, cụ Chánh lạch bạch ra vườn, ngồi ở mé hiên gần cây hoa đào, phe phẩy chiếc quạt trong tay, cụ nhìn những tia nước phun lên rào rào trên những luống rau, luống cà, cụ lại ngỡ trời mưa. Cơn mưa xuân ở quê nhà ngày xưa cũng y như thế, trong trí cụ lại lan man hình ảnh mình với áo tứ thân, những câu dân ca Quan Họ ngày trẻ tuổi. Cánh đồng lúa chín với những cô thôn nữ hai má rám nắng hồng, đôi môi đỏ vì miếng trầu cánh phượng, những mối tình quê mộc mạc và đằm thắm, ý tứ kín đáo mà lại biết bao nhiêu tình. Buổi chiều mắt cụ Chánh tuy đã hấp hem, nhìn những giọt nước đọng trên rau cỏ trong vườn, sao nó cứ thấm thía tình tứ như câu quan họ ngày xưa:

 " Người ơi! Người ở đừng về, Người về ta chẳng ý y cho về, Ta giữ vạt áo, ý a ta đề câu thơ, Người ơi! Người ở đừng về Người về em những ý y khóc thầm, Hai bên vạt áo ướt đầm, đầm như mưa, Người ơi! Người ở đừng về . . . . "         Không biết có phải vì chiều nay nắng hanh hanh, cơn gió Xuân chợt tới mà bà cụ già tự dưng lại cất cái giọng khàn khàn để ca lại cái bài Dân ca Quan họ . Những giọt nước mắt nóng hổi bỗng dưng cứ chảy dài xuống đôi gò má nhăn nheo, cụ lấy vạt áo lau vội đôi hàng ïlệ, hóa ra cái tình quê vẫn còn nguyên trong lòng cụ, như hương vị nồi canh riêu cá cụ cũng vẫn mang theo từ quê nhà tới quê người. Thế cho nên dẫu sống ở xứ người, sung sướng tới đâu, chẳng mấy ai đã quên được mảnh đất quê nhà, và những kỷ niệm ở quê hương, một lúc nào đó sống dậy, lại biến thành những nỗi nhớ đằm thắm dịu dàng cho suốt một đời vậy.

    Bởi thế, đã bao nhiêu năm qua đi không thay đổi, nhà cụ Chánh vẫn duy trì nồi canh riêu cá, rau tươi và món chè kho vào ngày mùng bảy Tết. Đạm bạc, đơn sơ, nhưng cái ấm cúng của một gia đình xum họp, ràng buộc với nhau bằng nồi canh riêu cá của bà mẹ già mới là những gì phải ghi nhớ mãi.

  Để tưởng nhớ đến Mẹ Già với "Nồi Canh Riêu Cá" ở quê nhà năm xưa.

Ốc Thượng Thổ

» Tác giả: Đào Hiếu

» Dịch giả:

» Thể lọai: Truyện ngắn

» Số lần xem: 5907

1. Ốc Thượng Thổ

Anh thường than thở:

 

- Lúc nhỏ xem tử vi, thầy tướng bảo tuổi Bính Tuất như anh nhằm mạng thổ nhưng lại là Ốc Thượng Thổ, tức là đất trên mái nhà. Em nghĩ coi đất trên mái nhà là đất gì? Có phải là mấy cục đất tụi nhỏ ném mận ném xoài rớt trên đó không? Hay lại là lớp bụi bặm bám lâu ngày trên máng xối? Đất của người ta là hàng trăm hàng ngàn mẫu, còn đất của mình là vậy đó, hỏi khá sao được?

 

Chủ nhật, anh chở về năm miếng ngói rồi leo lên mái nhà thay ngói bể. Tôi đang rửa rau ngoài hành lang thì nghe anh gọi:

 

- Này, đồng chí!

 

- Gì mà hào hứng quá vậy, ông?

 

- Đưa anh cái xô.

 

Tôi không hiểu chuyện gì nhưng cũng làm theo lời anh. Không ngờ anh thòng xuống cho tôi cả chục xô đất đầy rong rêu và lá mục. anh bảo đổ hết vào trong những cái bửng dành để trồng hoa trước ban-công trên lầu. Xong việc, anh leo xuống, mặt tươi cười:

 

- Không ngờ " Ốc Thượng Thổ " của nhà mình nhiều đến như vậy. Nguyên một dãy cả hai chục mét máng xối bê tông đầy nghẹt đất, lá mục và rong rêu.

 

- Nhưng anh lấy đất để trồng gì?

 

- Trồng hoa cúc.

 

- Hoa cúc cũng đẹp đấy nhưng không ăn được. Hay là anh trồng một ít rau muống thử coi.

 

- Nhưng giống đâu?

 

- Anh khỏi lo, em cứ mua rau muống về nấu canh, anh lấy gốc mà giâm xuống. Đất này coi bộ tốt lắm.

 

Những gốc rau muống nẩy chồi và vươn lên xanh tốt. Mỗi buổi sáng thức dậy sớm lo bữa ăn sáng cho gia đình, tôi không quên tưới chúng. Chúng lớn nhanh, mơn mởn đến nỗi khiến anh phải chú ý. Buổi chiều hai vợ chồng đứng ngoài ban-công nhìn ngắm những nhánh rau muống xanh non mượt mà, khoẻ khắn mà lòng thấy vui... Lũ con chúng tôi cũng ríu rít với luống rau. Anh hỏi tôi:

 

- Chừng nào thì nấu canh được?

 

- Một tuần nữa em sẽ đãi anh một bữa canh rau muống thịt bò.

 

Từ đó anh tưới rau hàng ngày. Có lần tôi thấy anh leo ra ngoài ban-công nhổ cỏ dại cho rau, dường như anh đã tìm thấy ở công việc ấy một cái gì thích thú. Đám rau nhỏ bé kia bỗng dưng làm chúng tôi thân mật hơn, thông cảm nhau hơn. Cả lũ con cũng thế.

 

Một hôm đi làm về, tôi vào bếp định nấu cơm thì không tìm thấy cái lon đong gạo. Tôi kiếm cùng khắp, cuối cùng nghe có tiếng lộp bộp trong kẹt cửa thì ra thằng con trai lên bốn của tôi đang dùng một cây đinh và chiếc búa nhỏ cố hết sức đục lủng đít cái lon gạo của tôi thành từng dãy lỗ.

 

- Con làm gì vậy?

 

- Con làm cái đồ tưới rau.

 

Tôi không thể nhịn cười. Anh cũng vừa về tới, nghe tôi kể chuyện, anh khoái quá, ôm thằng nhỏ lên mà hôn như mưa.

 

Nhưng mấy hôm sau, một biến cố xảy ra: Cả cái đám rau của chúng tôi đều bị cuốn lá. Thủ phạm là lũ kiến cánh. Chúng bu từng chùm, chúng đi từng đàn, từng đàn đen kịt, dễ sợ.

 

Chúng tôi nhìn đám rau tiêu điều mà tức nghẹn. Nhà tôi thở dài vô giường nằm. Tôi lặng lẽ đi dọn cơm và mời anh ra ăn. Anh lại giở giọng giỡn cợt chọc tôi:

 

- Anh đã nói với em rằng cái Ốc Thượng Thổ như anh thì chẳng trồng trọt gì được đâu. Vậy mà em không tin.

 

- Thôi, anh đừng giỡn - tôi nổi xùng - anh cũng biết là chỉ tại lũ kiến quỷ quái ấy mà thôi. Anh phải tìm cách trị chúng chứ. Anh là đàn ông trong nhà mà.

 

Có lẽ anh bị chạm tự ái. Anh thôi, không cười nữa, anh nói:

 

- Dĩ nhiên là anh có thể kiếm thuốc về trừ kiến, nhưng cái luống rau của mình đáng giá là bao nhiêu?

 

- Thì anh tìm cách trị bằng thứ nào mà không tốn tiền.

 

Nhà tôi im lặng. Thằng con thấy đám rau hư hết trơn cũng giận lắm, nó cứ lầm bầm bảo ba nó hoài:

 

- Đốt nó đi ba! Đốt cho chết hết mấy con kiến đó đi ba!

 

*

 

Anh không đốt đám rau. Anh chỉ xới đất vuì chúng xuống và trồng lên một cây bí đỏ. Một cây bí đỏ duy nhất. Anh giải thích cho cả nhà nghe:

 

- Giống bí này kiến không phá. Anh có người bạn kỹ sư canh nông đang phụ trách một trại chuyên canh rau ở Hóc Môn bảo anh như thế. Cây bí này anh lấy ở đó.

 

Tôi ngắm cây bí. Anh cũng ngắm cây bí. Hai đứa con gáí thì bắc ghế lên đứng để ngắm cây bí. Riêng cậu út của tôi vì còn nhỏ quá nên phải leo lên lan can mới ngắm được cây bí. Cây bí đỏ mập mạp, bụ bẫm. Những lông tơ trên thân, trên lá rải điều như một lớp phấn trắng óng ánh. Cây bí thật đẹp.

 

- Nhưng liệu có đủ đất để nó ra trái không?

 

- Đủ. Anh đã mô tả thành phần cấu tạo của đất và số lượng đất, thằng bạn anh nó bảo dư sức có trái.

 

Từ đó anh cưng cây bí hơn cưng lũ con. Anh chăm sóc nó hàng ngày. Và để trả ơn anh, nó cũng lớn rất nhanh. Nó bò tràn lan khắp nơi, vươn ngọn bốn phía. Nó leo lên lan can, bò lên cửa sổ, leo qua hàng rào. Bồn chứa đất của tôi trải dài suốt dãy hành lang, cây bí cũng đi suốt đoạn đường ấy. Cái dây chính của nó mập tròn như con rắn lục, lá xòe ra như cái lọng xanh, đọng đầy sương long lanh trong những buổi sáng sớm trời mưa phùn. Dây bí làm xanh hẳn một vùng, đem lại sự dịu mát, sự êm ả đằm thắm cho căn phòng chúng tôi.

 

- Quả thực đây là giống bí tốt - nhà tôi cứ trầm trồ khen - anh chưa bao giờ thấy ai có dây bí tốt như thế.

 

Ngày tháng đi qua. Dây bí phát triển như một cô gái dậy thì mơn mởn, thanh xuân và nghịch ngợm. Nó bò lên cửa sổ phòng tôi, vươn những cái râu cong cong xinh xắn. Nhưng một hôm anh bỗng hỏi tôi:

 

- Mình trồng dây bí bao lâu rồi, em?

 

- Em không nhớ nhưng chắc cũng gần hai tháng rồi.

 

Anh có vẻ băn khoăn:

 

- Sao không thấy nó ra cái hoa nào hè. Nếu anh nhớ không lầm thì bạn anh nó bảo là độ một tháng sau là có hoa mà.

 

Tôi an ủi anh:

 

- Cứ đợi ít lâu nữa coi sao.

 

Và chúng tôi đợi. Kể cả lũ nhỏ. Trong khi chờ đợi anh vẫn tưới đều, chăm sóc đều. Quả thật là lũ kiến không bén mảng tới nữa. Từng cái lá, cái ngọn cho tới những cái chồi non đều nguyên vẹn. Nhưng mười ngày trôi qua, vẫn không có một cái hoa nào xuất hiện. Anh buồn rầu bảo tôi:

 

- Lần này thì em đừng cho là anh tin dị đoan nhé. Muôn đời Ốc Thượng Thổ thì không thể khá được.

 

Tôi lặng thinh. Rồi bỗng nhiên trong đầu tôi nảy ra một điều hay. Nhưng tôi không nói cho anh biết. Hôm sau khi anh đi làm về nhìn thấy trong bữa cơm có một món lạ, anh ngạc nhiên hỏi:

 

- Thịt bò xào với cái gì đây?

 

- Đố anh biết cái gì.

 

Anh gắp một đũa ăn và khen ngon. Tôi nói:

 

- Xào với đọt bí đấy.

 

- Đọt bí à?

 

Tôi gắp đọt bí xào với thịt chia điều cho lũ con. Chúng ăn ngồm ngoàm, khen ngon quá xá. Tôi bảo:

 

- Ốc Thượng Thổ vậy mà hay.

 

- Đúng - anh nói dứt khoát - Ốc Thượng Thổ cũng có cái hay của nó chớ.

 

*

 

Tiết lập xuân đến nhằm ngày chủ nhật. Trời trở lạnh. Cơn mưa phùn đến lúc người ta đang ngủ, phải lắng nghe lắm mới cảm thấy được những tiếng thầm thì của giọt mưa trên những chiếc lá bí to bản xanh mướt bên ngoài.

 

Anh tập thể dục ngoài hành lang một mình và chờ mặt trời lên. Tôi mở mắt trong bóng tối, suy nghĩ một chút về giấc mơ hôm qua, những giấc mơ nhẹ, thoáng qua, dễ quên vô cùng...

 

Đứa con trai tôi nằm nghiêng ngủ, bàn tay nhỏ xíu của nó để lên má. Tôi hôn cái cổ tay tròn trịa của nó và kéo mền đắp lên tới ngực.

 

Bỗng nghe như tiếng nhà tôi gọi. Tôi ngồi dậy, xuống giường, đi ra ngoài hành lang. Anh đang đứng sát ban-công.

 

- Lại đây mà coi. Anh nói.

 

Tôi đến bên anh. Thật không ngờ. Dây bí của tôi ra hai cái hoa vàng tươi, rực rỡ trong nắng xuân vừa lên.

Ông cháu

» Tác giả: Nguyễn Khải

» Dịch giả:

» Thể lọai: Truyện ngắn

» Số lần xem: 3278

1. Ông cháu

1.

Khi nhìn thấy một nhóm người nặng nề bước lên các bậc gạch dẫn ra bến xe, ông già níu chặt tay đứa cháu, kéo lại:

- Hàng cơm dưới đó mình đã đến trưa hôm qua rồi.

Đứa cháu nhìn ông, cười gượng gạo :

- Thì mình xin chỗ khác, phố dưới ấy có hai dãy hàng cơm cơ mà.

Người ông vẫn ngần ngại :

- Ngồi đây nghỉ một lát, lúc này người ta mới bán hàng.

Hai ông cháu ngồi xuống một góc của bậc gạch, từ đó có thể nhìn thấy một dãy quán cơm bình dân ở phía dưới đã đông người đến ăn. Người ông khoảng ngoài sáu chục, tóc cắt ngắn mảng đen mảng bạc, gương mặt xanh tái, mặc cái áo bông xanh đã cũ, cái quần bộ đội cũng cũ, đi đôi dép lốp, tay cầm cái mũ nan. Thằng cháu trạc 13, 14 tuổi, mặt mũi sáng sủa, vóc người phổng phao không ra dân đói, quần áo mặc cũng sạch sẽ, trời rất rét nhưng nó chỉ mặc ngoài có cái áo len mỏng, đội mũ bộ đội, cái bị cói đặt giữa hai cẳng chân. Nó đưa mắt nghiêng ngó xung quanh một lát rồi nói thì thào với ông nó :

- Hay là cháu xuống mua một bát cơm cháy, rưới thêm một tí nước mắm, ăn rồi ta ra bến xe.

Ông nó ngẫm nghĩ rồi bảo, giọng khàn khàn :

- Đang bữa ăn trưa làm gì đã có cơm cháy.

Thằng cháu lại cười nhoẻn :

- Cháu chưa đói. Ông đói rồi phải không ?

Người ông không nói gì, quàng tay qua vai cháu, đưa cặp mắt nhấp nhoáng như có nước nhìn sang phía bến xe. Hai ông cháu từ một làng quê giáp núi của Thanh Hóa ra Hà Nội đã được gần một tuần nay. ở nhà đói quá nên phải đi đến nơi đô hội kiếm miếng ăn cũng là một nhẽ. Còn một nhẽ khác là ông muốn đứa cháu nội, cháu đích tôn, tìm được một công việc ở chốn kinh kỳ để đời nó đỡ khổ. Nó khỏe mạnh, thông minh, lại rất ngoan nết, sống mãi ở một vùng quê khô cằn quanh năm đói rồi cũng đến hỏng người. Bố nó mất năm nó mới lên bảy, ông nội nó cũng đã quá già, nếu ông chết thì mẹ nó, một người đàn bà cạn nghĩ, biết lo liệu làm sao. ở Hà Nội ông có vài người bạn thân cùng là giáo viên cấp tiểu học một trường ở ngoại ô từ hai chục năm về trước. Năm ấy ông đưa vợ và đứa con trai lên mười tuổi từ Thanh Hóa ra Hà Nội, ở nhà tập thể, chồng giáo viên, vợ nấu cơm cho một cơ quan, sự chi tiêu tạm gọi là dư dật. Đó là những năm tháng sung sướng nhất của đời ông, không phải lo nghĩ gì ngoài công việc của mình. Rồi tai họa bắt đầu đến. Vợ ông bị ung thư phổi. Vợ chồng lại bàn tính trở vào Thanh, ông sẽ xin đi dạy ở thị xã, vợ con sẽ về quê, nếu có bề gì còn có họ hàng làng nước, ở thành phố lúc hữu sự biết nhờ cậy vào ai. Vợ mất, ông đưa con lên tỉnh, ở nhờ nhà một người trong họ, bố đi chợ con nấu cơm, gà sống nuôi con trong mười năm. Rồi nó lấy vợ ở quê, vợ chồng ăn ở với nhau được nửa năm thì nó đi bộ đội, vào tuốt tận chiến trường miền Đông Nam Bộ. Năm năm không nhận được tin tức gì, đã tưởng mất con, may còn được đứa cháu nội mồ côi bố từ ngày nằm trong bụng mẹ. Cuộc chiến tranh giải phóng kết thúc nhưng tin tức con ông vẫn biền biệt, thư báo còn sống không có, giấy báo đã chết cũng không có, chả hiểu ra thế nào. Ngày đó ông vẫn lên thị xã từ sớm, mãi tối mịt mới đạp xe về tới nhà. Bước vào cổng đã thấy đèn thắp sáng trưng, người đứng kẻ ngồi lố nhố. Có thằng cháu họ bước ra, ông hỏi như bị hụt hơi : "Ai đến chơi mà đông thế ?" Nó đáp tưng tửng : "Các ông xã lại thăm". Chân ông bỗng nhũn mềm, tim đập như búa gõ. Cái điều ông vẫn sợ bây giờ đã đến rồi, không trốn khỏi nữa rồi. Lại có tiếng con dâu nói lanh lảnh : "Bố đã về kìa !" Nó nói với ai thế? Một anh bộ đội bồng thằng cháu nội của ông trên tay, rẽ vòng người nhảy xuống sân, nói nhỏ: "Bố !", "Con đấy ư, mày đã về thật đấy ư ! Con ơi..."

Thằng cháu ôm chặt lấy một cánh tay ông nội, nói thì thào:

- Ông lại khóc đấy à ? Ta xuống đi, không ai cho thì mình mua cơm cháy ông ạ. Còn tiền mà.

2.

Hai ông cháu lại đứng trước hàng cơm của trưa hôm trước. Hôm trước, cô gái bán hàng đã xúc cho hai ông cháu một bát cơm cháy to, thêm một gắp dưa cũng to, rưới lên một tí nước mắm, bảo : "Cho lần này thôi nhá, để chúng tôi còn bán hàng !" Bà mẹ ngồi cạnh không nói gì, nhìn thằng nhỏ ra chiều ái ngại rồi hỏi : "Ông cháu người ở đâu thế ?" Ông nói nhỏ : "Thưa, chúng tôi ở trong Thanh". Bà ta chép miệng, thở dài : "Trong ấy năm nào cũng đói nhỉ, tội nghiệp !" Ông chưa từng đi xin ăn bao giờ, ông ra Hà Nội là cốt gặp bạn bè, nhờ cậy họ giúp cho ông cháu một công việc nào đó nhất là với đứa cháu. Nó khỏe mạnh, lại thật thà, có thể làm mọi việc tạp vặt trong một gia đình, chỉ cần được ăn no, đợi lúc lớn xin một việc làm ở Hà Nội. Chẳng may những người bạn của ông hoặc đã chết hoặc không còn ở chỗ cũ, có người đã theo con vào Nam từ lâu, hai chục năm cũng là dâu bể đối với một đời người. Tiền giắt lưng vẫn còn nhưng ông cháu đã tính sẽ không tiêu thêm một đồng nào vào số tiền dự phòng ít ỏi đó. Xin ăn ở tỉnh thành bữa ít bữa nhiều vẫn cứ no hơn ở trong quê. Lại còn có chút ít hy vọng đổi đời, biết đâu đấy, họa phúc đều là những việc lớn có ai được biết trước bao giờ. Ông già thường nghĩ như thế và ông vẫn nói với đứa cháu như thế. Bữa nay người bán hàng là bà mẹ, lại có thêm một ông già bưng bê các chậu thức ăn nấu sẵn từ trong nhà ra. Bà quay sang phải xới cơm, quay qua trái múc thứa ăn, mồ hôi dính bết chân tóc nhưng miệng vẫn tươi cười : "Các bác giúp em nhá, có mấy đứa đầu sai thì nằm ốm suốt lượt ở nhà rồi". Chợt bà hét tướng lên : "Một đống bát rếch không ai rửa cho thì lấy gì bán hàng đây !" Thằng cháu đưa bị cho ông nó cầm, bước lại nói : "Thưa bác, cháu rửa có được không ạ ?" Bà kia nhìn nó cười cười : "ừ, đem ra rửa giúp đi, chớ có làm vỡ làm mẻ nhá!". Trước hết nó nhặt nhạnh các bát đũa trên mấy bàn đã ăn xong xếp vào cái rổ lớn, lấy khăn lau sạch mặt bàn, xếp lại ghế ngồi rồi xách hai cái xô ra máy nước. Bà bán hàng vẫn nhìn theo nhưng không nói gì. Một lát nó đã xách hai xô nước đầy trở lại , đem rổ bát ra gần rãnh đường ngồi rửa. Nó rửa rất nhanh, rất sạch, xếp từng chồng bát đã lau khô lên giá gỗ cạnh bà bán hàng, quét rửa lại đường rãnh rồi lại tiếp tục thu dọn các bàn khách vừa đứng lên. Có một bác tài râu ria rất dữ tợn ngồi uống bia với đám bạn nhìn chằm chằm thằng nhỏ từ lúc ông cháu nó mới tới, ngoảnh mặt nói với bà chủ :

- Bà nuôi nó đi, nó làm ăn được lắm đấy.

Rồi ông ta lại nói với ông già ngồi sát mép đường :

- Bố lên đây ngồi uống bia với bọn tôi cho vui.

Ông già quay người lại, nói nhỏ nhẻ :

- Thưa, xin cảm ơn chư ông, tôi không uống được bia.

Ông tài có râu nói với bà hàng :

- Xin bà một bát cơm với một đĩa thịt kho để tôi mời ông lão. Thằng nhỏ lát nữa ăn cùng với bọn tôi.

Chính thằng cháu cầm bát cơm với một đĩa thịt kho đưa cho ông nó. Người vừa gọi cơm liền quát :

- Mày mời ông mày lại ngồi đây chứ. Mời bố lại đây !

Bà chủ hỏi thằng bé :

- Mày đói chưa, ăn tạm một bát rồi lại làm.

Thằng nhỏ cười nhỏn nhoẻn :

- Cháu ngồi không thì mau đói lắm mà đã làm lại không thấy đói nữa.

Bà chủ cười he he, mặt đỏ ửng :

- Sao mà bác cháu mình giống tính nhau thế. Cái đứa làm ít ăn nhiều thì một đời đói rách con ạ.

Rồi bà đưa tiền sai nó mua một ca nước chè tươi và hai cái bánh rán. Nó chạy nhấm nhoáy một lát đã về, đặt ca nước chè, bánh rán và cả nắm tiền lẻ trả lại lên mặt bàn. Bà lựa một tờ bạc lẻ giúi vào tay nó, bảo :

- Bác cho, cầm lấy.

Nó đưa trả lại, cười ngượng nghịu :

- Để lúc khác bác hãy cho cháu.

Bà ta lại cười :

- Mày là con tao mới phải. Tiền nào ra tiền ấy con nhỉ?

Bà rót ra hai cốc nước chè, bắt nó phải uống và ăn một chiếc bánh. Nó chỉ kịp cắn được một miếng đã có mấy người khoác bị, tay nải từ bậc gạch lên bến xe đi lại, còn đang lưỡng lự chưa biết vào hàng nào, thằng bé đã vội đứng lên: "Mời các bác vào xơi cơm". Họ vừa ngồi vào ghế, nó đã đem bát đũa lại. Rồi nó xách cả một xô nước sạch bảo họ rửa mặt và rửa chân. Nó lại hỏi hai người đàn ông : "Các bác có uống rượu không ?" Nó lấy một cút rượu và hai cái chén nhỏ, rồi đứng chờ họ gọi món ăn. Cứ như thể nó là con nhà hàng cơm, quen thuộc mọi cung cách của một hàng cơm từ nhỏ. Làm thì làm nhưng nó vẫn để mắt đến cái ăn của ông nó. Đã lâu lắm ông nó mới được ăn một bữa ngon và được ngồi ăn tử tế. ở quê một ngày chỉ được ăn một bữa trưa, khoai khô độn chút gạo hoặc ngô bung ăn với hoa chuối luộc chấm muối. Toàn là những thứ khó ăn đối với người già. Bữa ăn nào ông nó nuốt cũng nghẹn, hết nghẹn lại nấc, mặt tím bầm, nước mắt ứa ra giàn giụa. Mẹ nó lườm bố chồng rồi lại cắm cúi ăn. Còn nó vừa ăn vừa nhìn trộm ông nó, chỉ muốn òa khóc vì thương ông quá.

3.

Bà bán hàng cơm đã bằng lòng nuôi ông cháu nó ít ngày vì mấy đứa con và cháu của bà sau trận ốm vẫn còn phải nằm nhà. Rồi bà lại cho ông cháu nó nghỉ đêm lại trông hàng, tức là đã dám tin vào sự thật thà của những người mới quen biết. Nếu chỉ có một thằng nhỏ bà đã giữ nó lại ngay từ hôm đầu. Hiềm vì nó còn có ông lão. Nếu nuôi nó thì ông già sẽ đi đâu ở đây ? Người già bữa nay khỏe bữa mai ốm, có thể ốm lâu, có thể chết ngay. Thương người vẫn là thương nhưng vì thương người mà phải chịu thêm nhiều sự phiền hà thì bà không muốn. Chỉ riêng con cháu trong nhà cũng đã đủ chuyện để lo rồi. Cái sự ngần ngại đó có thể thằng nhỏ không biết nhưng ông nó thì biết. Ngay trong đêm đầu được ăn no, được ngủ trên tấm chiếu trải, ông nó đã bàn tính sẽ vắng mặt trong ngày. Ông tin rằng trước sau sẽ tìm ra được một người quen cũ, từ đó mà tìm dần đến những người khác. Trong một tuần lễ, ông nó đều đi rất sớm và lảng vảng trở về lúc thằng nhỏ dọn hàng. Tối nào nó cũng để phần ông nó một bát cơm cháy to, cá hoặc thịt kho và một bát canh rau. Nó không lấy tiền công, bữa trưa chỉ ăn gọi là vì rất lắm việc, nó chỉ đòi hỏi dành cho ông nó một suất cơm đàng hoàng vào buổi tối. Nó nuôi ông nó chứ không để ông nó phải đi xin ăn. Nó sung sướng, tự hào về điều đó lắm. Bố nó chết sớm, mẹ nó quá nghèo. Nó sẽ thay bố mẹ nuôi ông nội. Có bao nhiêu tiền kiếm được nó sẽ dành nuôi ông hết. ở Hà Nội kiếm được ra tiền cũng chẳng có gì là khó nếu nó thật thà và chăm chỉ. Đêm đêm nó thủ thỉ với ông nó như thế. Ông nó ôm riết nó vào lòng rồi đưa bàn tay nắn bóp khắp người nó, nói lào phào : "Có da có thịt rồi đấy con ạ. ở Hà Nội được vài năm là thành người khác ngay".

Trong mười năm nuôi đứa con trai độc nhất ông đã rờ nắn nó mỗi đêm, nhìn ngắm nó mỗi ngày, mong mỏi nó lớn mau để có người trò chuyện bàn bạc. Rồi nó đi biền biệt suốt năm năm, ông lại ôm ấp thằng cháu nội, cũng mong mỏi nó lớn thật mau để có thêm người đàn ông trong nhà. Một đời hy sinh và mong đợi rốt cuộc vẫn trắng tay. Có đêm ông ho nhiều, thằng cháu chợt tỉnh giấc. Nó ngồi phắt dậy, hỏi lo sợ : "Ông làm sao thế, ông ốm à ?". Ông kéo nó nằm xuống, cười khùng khục : "Ông chưa ốm bao giờ, ông còn sống đến lúc được ôm thằng chắt nội cơ". Đúng thế thật, ông chỉ ốm có một trận tưởng chết vào năm mười hai tuổi, từ đó đến nay đã hơn năm chục năm ông chưa phải nằm một ngày nào. Trời bắt ông khỏe để hầu hạ vợ và chôn cất vợ, để hầu con và chôn con. Thằng con trai ông ở độ đội về là đi nằm bệnh viện tỉnh cả năm trời để chữa bệnh gan do sốt rét mãn tính. Rồi nó khỏi bệnh về nhà nhưng không làm ruộng mà đi làm ở công trường đá. Bụi đá làm nó bị suyễn trở lại. Bệnh gan cũ lại tái phát. Ông phải xin nghỉ hưu để ở nhà chăm sóc con. Một năm trời ông không còn biết giấc ngủ là gì, đêm đêm con lên cơn suyễn, ông ngồi ngoài hút thuốc lào vặt với ngọn đèn con cũng thấy ngực mình đau thắt lại. Vợ con nó thì ngủ nhưng ông phải thức hoặc nằm trên cái ghế kỷ bằng tre nửa ngủ nửa thức phòng lúc bất chợt con gọi. Khi nó sắp mất, ông ngồi cuối giường nắn bóp như điên như dại hai bàn chân nó đã bắt đầu lạnh giá nhưng nó chỉ nhìn chằm chằm có vợ với hai con nó. Tới lúc vợ nó òa khóc ông mới biết mình đã mất hết những gì có được trong gần một đời người. Con trai chết, con dâu cư xử với ông như người lạ, còn tệ hơn thế, như người thừa. Nó không cãi lại, cũng không nói đay nghiến, bóng gió, nó chỉ im lặng. Mối liên lạc giữa bố chồng và con dâu chỉ còn là hai đứa cháu, chủ yếu là thằng cháu đích tôn. Trong nhà chỉ một mình nó chào hỏi ông, mời mọc ông và trò chuyện với ông trong ngày. Ông vẫn kiếm ra tiền bằng nhiều nghề vặt vãnh, chưa ai phải hầu, phải nuôi ông một ngày nào nhưng ông vẫn là kẻ có tội. Tại sao ông thì khỏe thế mà con ông lại bệnh tật thế ? Tại sao ông không chết mà con ông lại chết để vợ nó chịu cảnh góa bụa sớm ? Tại sao ông nghèo thế, con chết rồi là cửa nhà tan hoang, vợ con nó biết trông cậy vào đâu ? Ông đã quen nhẫn nhục chịu đựng những búa rìu của số phận. Nhưng con dâu ông thì luôn luôn hối tiếc về sự lựa chọn trước đây của nó. Nó không thể nói với bố chồng về sự hối tiếc ấy. Ông cũng không có cơ hội để an ủi con dâu về những vất vả không tránh khỏi của mọi kiếp người. Họ sống gượng gạo với nhau như thế đã bảy năm. Năm nay thằng cháu nội của ông đã mười ba tuổi. Còn ông đã sáu mươi bảy tuổi.

4.

Sau nửa tháng làm người phụ việc cho một hàng cơm, thằng bé nom đẹp đẽ hẳn ra. Lại được thêm một bộ quần áo thay đổi, tuy hơi rộng một chút nhưng mặc vào đã ra dáng người của tỉnh thành. Lúc bán hàng nó rất nhanh nhẹn, cô gái con bà chủ khó tính là thế cũng phải bằng lòng. Chỉ những lúc ngồi một mình là mặt nó không được vui, con mắt luôn liếc nhìn về phía những bậc gạch dẫn lên bến xe. Chả là chiều nào ông nó cũng từ ngả ấy khoác bị lò dò bước xuống. Dạo này ông nó gầy đi nhiều. Mỗi ngày ông cháu đều được ăn một bữa no, được ngủ ấm áp cả đêm trên tấm phản, no hơn, nhàn hơn ở quê mà ông nó gầy rộc như có bệnh. Và đêm nào ông cũng ho quá, ho từng cơn, ngồi dậy mà ho. Nó hỏi : "Ông bị sưng phổi hay sao mà ho nhiều thế ?" Ông nó cười : "Người già ban đêm thường hay ho, ai chả thế". Nó lại hỏi : "Tay ông sao nóng thế, ông sốt à ?" Ông nó bảo : "Trời rét được nằm ấm chân tay ai mà chả nóng". Nó chỉ không dám hỏi, vì sao ông gầy thế, mắt ông nhìn lại dại thế, ông ăn sao ít thế. Nó đã bàn ông nó nên về quê trước, thiếu tiền tàu xe nó sẽ vay bà chủ, còn nó sẽ ở lại. Ông nó gạt phắt : "Không khi nào ông để cháu ở đây một mình. Ông sẽ ở liền với cháu trong vài năm nữa". Nhưng ông ốm thì sao ? Người già phải ốm chứ ? Ông sẽ nằm ở đâu, ăn ở đâu, ai hầu hạ ông ? Ông nó nín thinh rồi nói lầm bầm : "Ông còn khỏe chán. Một đời có biết ốm đau là gì". Tối nay ông nó về muộn hơn mọi tối. Nó đã dọn hàng xong, đã quét rửa mặt hè và rãnh cống ông nó vẫn chưa về. Bà chủ hỏi nó : "Ông mày xem chừng không được khỏe thì phải?" Nó cố tình trả lời thật tươi tỉnh : "Bữa qua ông cháu có uống tí rượu nên hơi say". Bà lại hỏi : "Nếu ông mày ốm thì mày tính thế nào ?" Nó ngần ngừ một lát rồi nói : "Cháu sẽ xin phép bác đưa ông cháu về quê". Bà ta nói : "Mày tính thế là phải". Nó tiếc thầm nếu ông nó còn trẻ, trẻ hơn một chút thôi, thì từ nay hai ông cháu sẽ không còn lo đói nữa. Đường phố đã vắng hoe, hàng nước bán khuya cũng đã dọn về, chỉ còn mấy hàng bán cháo và xôi ăn đêm là vẫn để đèn, mãi tới lúc đó mới thấy ông nó bước ngật ngưỡng từ xa lại. Gần như nó muốn hét lên vì mừng rỡ, nó bổ nhào tới ông nó, nắm lấy một cánh tay của ông dìu về tận chỗ nằm. Ông thở rất nặng nhọc, hơi thở hôi và nóng, bàn tay râm rấp mồ hôi cũng rất nóng. Ông ốm rồi, ốm thật rồi. Làm sao bây giờ ? Biết nhờ cậy ai bây giờ ? Nó lấy vội nước cho ông uống, ông uống một hơi như người bị khát đã lâu, không chịu ăn gì, đi nằm ngay, người co lại. Rất may, nó lại đang có tiền, những ba trăm bạc do bác tài có bộ râu hung dữ cho nó trưa nay. Nó tính toán rất nhanh rồi chạy đến nhà ông bác sĩ có treo biển khám bệnh ngoài giờ ở đầu phố, kể bệnh mua thuốc. Lại mua một bát cháo gà cho thật nhiều hành, ép ông nó ăn hết bát cháo rồi uống thuốc. Đêm đó ông chỉ ho có vài lần, ngủ rất say, gần sáng đã ngồi dậy, nói tỉnh táo : "Bữa này trong người nhẹ quá". Nó khoe với ông số tiền nó mới có và sẽ xin bà chủ nghỉ làm vài ngày để chăm sóc ông nó. Ông nó giãy nảy lên : "Ông ốm rồi ông sẽ khỏe. Cháu mà bỏ việc ở đây là không xin vào làm lại được đâu. Chớ có dại !" Nó nhìn ông nó rồi thở dài : "Một ngày hôm nay ông sẽ ăn đâu ở đâu ?" Ông nó lại bàn rằng ông sẽ trở vào Thanh, nó cứ ở ngoài này làm ăn, cái số nó là may mắn lắm, mới vào đời mà đã có nhiều người giùm giúp là rất may, chớ có bỏ qua rồi lại hối. Bữa trước chính nó giục ông nó nên về quê nhưng bữa nay nó lại muốn ông ở lại cùng với nó. Về quê ông ở với ai ? Trong nhiều năm ông sống với nó, sống vì nó nay xa nó ông sống làm sao nổi. Nó quyết định : khi nào ông nó khoẻ, cả hai ông cháu sẽ cùng về quê. Mẹ nó không nuôi ông, nó sẽ nuôi. Nó biết sức lực của nó rồi. Khi nào ông chết nó mới yên tâm đi làm ăn xa. Nó còn ít tuổi mà. Ông nó nghe nó nói chỉ lặng thinh vì ông cũng bối rối. Ông không thể sống thiếu nó, ông biết chắc thế, nhưng bám víu mãi vào nó ở một thành phố xa lạ sẽ là một gánh nặng với thằng bé mới mười ba tuổi. ở tuổi ông sáng khỏe tối ốm nặng cũng là lẽ thường. Lúc ấy nó biết xoay xở ra sao ? Vì thương ông nội nó sẽ mất chỗ làm hiện tại. Rồi vì miếng ăn của ông cháu, nó sẽ nhúng tay vào những việc làm phi pháp. Làm lâu rồi quen chẳng mấy nỗi thành người hư hỏng. Cái tội ấy là do ông gây ra mà ông đâu cần cố sống lâu thêm nữa. Ông hứa với thằng cháu sẽ uống thuốc đủ, sẽ ăn ngon trong ngày và tìm một phố gần ngồi nghỉ, chiều nay ông sẽ về thật sớm.

Còn cái dự tính của nó ông cháu sẽ bàn sau, còn dư thời giờ để bàn, ông đã bắt đầu khỏe lại rồi mà.

5.

Chiều hôm đó ông lão về rất sớm, dáng đi nhanh nhẹn, da mặt nhuận hồng, là một người khỏe mạnh hoàn toàn. Bà chủ hàng cơm đon đả hỏi ông :

- Cụ đã tìm được người quen chưa ?

Ông trả lời vui vẻ :

- Thưa bà đã, ông ấy bảo tôi đến quét dọn và gác đêm cho một trường học.

- Tôi cũng mừng cho cụ, nếu cụ nhớ cháu mời cụ cứ về đây chơi, chứ thằng bé thì bận lắm.

Khi còn hai ông cháu, thằng cháu hỏi :

- Ông có việc làm rồi à ?

Ông nó trả lời ậm ừ :

- Người ta mới hứa.

Nó nhìn ông môi mắt rỡ ràng :

- Ông cháu mình gặp lắm cái may nhỉ ?

Ông nó quay nghiêng mặt đi :

- Là cái số cháu may mắn nên ông cũng được may theo.

Nó cũng nói cho ông nó biết một tin vui khác. Bác tài để râu muốn nhận nó làm lơ xe tuyến đường Hà Nội - Hải Phòng. Dăm ba năm nữa bác ấy sẽ truyền nghề lái xe cho nó, làm ông tài thời nào ăn tiêu cũng dư dả. Làm lơ xe chắc sẽ có tiền lương. Nó sẽ đưa hết tiền cho ông nó giữ, ông cháu ăn tiêu rồi còn thừa sẽ gửi tiền về quê đỡ mẹ nó nuôi em. Một đêm thật vui, cả hai ông cháu mỗi lần tỉnh giấc lại rì rầm bàn tính, náo nức như đêm trước tết. Ông nó khỏe mạnh vui vẻ được mươi ngày. Cái việc gác trường ban đêm không nghe ông nhắc lại. Nó cũng không dám hỏi. Tháng cuối năm mưa sập sùi cả ngày, trời đất nhọ nhem. Xung quanh người ta đã lo chuyện sắm tết. Thằng bé có vẻ buồn. Nó nhớ mẹ và em, nhớ bạn bè, nhớ làng xóm. Rồi một tối ông nó trở về, da mặt tím bầm kêu rét. Nó mua về một bát cháo cá rất nóng, rất ngon nhưng ông chỉ ăn được vài thìa. Cứ bảo khó thở. Nửa đêm nó mời bác sĩ tới thăm bệnh cho ông nó. Bác sĩ tiêm một mũi thuốc, nói là bị sưng phổi. bệnh dễ chữa thôi, tiêm vài ngày sẽ khỏi, ông ấy bảo thế. Nhưng ông nó phải nằm một chỗ, không được để nhiễm lạnh lại. Gần sáng thì bệnh lui. Ông ngồi dậy nói với nó rất nhẹ nhõm : "Có lẽ sáng nay ông đi nằm bệnh viện". Thằng bé nghe nói đến bệnh viện đã hoảng lên, bố nó đã chết ở một bệnh viện. Ông nó bảo không phải vì bệnh nặng lên mà vì ông muốn nằm một nơi ấm áp trong vài ngày cho khỏe hẳn. Ông còn đủ tiền trả tiền thuốc và tiền giường. Khỏi hẳn ông sẽ đi gác trường ban đêm, chắc chắn là không đói và cũng không phải đi lang thang nữa. Trong những dự định về tương lai của đứa cháu không có gì thay đổi. Nó đưa hết tiền của nó cho ông thì ông gắt lên : "Mang nhiều tiền để chúng nó lấy cắp à ?" Nó đòi đưa ông đi ông cũng ngăn, ông khỏe rồi đâu cần có người đi kèm. Ông nó chỉ dặn một câu, như người đùa vui mà dặn : "Sau này lớn lên cháu chớ có quên những ngày này của ông cháu mình". Ông nó bước đi chân nhon nhón, đi được một quãng còn quay mặt lại nhìn nó miệng hơi cười. Ông đi nằm bệnh viện mà vui quá. Vì ông đi rồi ông lại về. Lần này chắc ông sẽ khỏe lâu. Ba ngày qua đi rất mau. Bác tài để râu có đến ăn trưa một lần, nhắc lại chuyện lấy nó đi làm lơ xe và hỏi ý kiến nó thế nào. Nó cười ngượng nghịu: " Cháu cũng chẳng biết nữa". Bà chủ nói ngay : "Thằng út của tôi đấy ông ạ. Có một thằng lớn thì nó đã lấy vợ tận trong Sài Gòn rồi". Ông tài ngồi lặng lẽ uống bia một lúc lâu rồi quay lại nói với bà chủ, giọng van vỉ : "Bà chị biết hoàn cảnh của tôi rồi đấy. Từ ngày thằng cháu mất đi, vợ tôi như người dại, còn tôi cũng chả thiết làm ăn gì. Bữa trước gặp cháu nó đây tôi cứ rợn cả người. Nó giống thằng nhà tôi như anh em sinh đôi, tính nết cũng giống. Lấy đi cũng là ông trời, cho lại cũng là ông trời nên hai bố con tôi mới còn được gặp nhau..." Nói xong ông đưa mu bàn tay lên quệt nước mắt. Còn nó, nó cũng cảm động lắm nhưng còn phải đợi ý kiến của ông nó đã. Ông nó lại đang nằm bệnh viện. Khi được hỏi đi bệnh viện nào, nó cứ ngẩn ra, là bệnh viện chứ có biết bệnh viện nào. Nhưng Hà Nội có tới mấy chục bệnh viện lớn nhỏ biết đến bệnh viện nào mà tìm. Trong hai ngày bác tài nó cùng bạn bè đã đi khắp các bệnh viện ở Hà Nội để tìm một ông già, hình dạng như thế, tuổi tác như thế, có thể đến bệnh viện vào khoảng giờ ấy, ngày ấy, nhưng tìm không ra. Họ cũng đến cả nghĩa trang thành phố. Không có tin vui cũng không có tin buồn. Ông già đã biến mất. Nó cũng lo lắm nhưng cũng hy vọng ông nó còn sống, còn khỏe mạnh và đã trở về quê để khỏi làm vướng chân thằng cháu. Nhưng ông làm gì còn đủ tiền tàu xe mà về quê ? Về quê mà không cầm thư và tiền của nó, mẹ nó hỏi ông biết ăn nói làm sao? Có khi ông vẫn ở quanh đây nhưng đang tìm việc làm theo sự giới thiệu của bạn bè. Bao giờ xong việc ông mới tới báo tin vui cho nó biết. Nên nó vẫn chờ. Đêm nào nó cũng ngồi chồm hỗm ở vỉa hè quán bán cơm đã thu dọn, đã hạ hai tấm ván, trải chiếu, mắc màn để chờ ông nó bất thần nhon nhón bước lại. Nó nhìn đờ đẫn những bậc gạch tối đen, ẩm ướt trong ánh đèn đường nhòe nhoẹt, kêu khe khẽ từng lúc một : "Ông ơi ! Ông ơi...!"

1992

Cửa hàng ốc nóng

» Tác giả: Ma Văn Kháng

» Dịch giả:

» Thể lọai: Truyện ngắn

» Số lần xem: 4562

1. Cửa hàng ốc nóng

Mắt người là một cái gì đó vô cùng tinh tế, không hoàn toàn khớp với hệ thống vật chất qua sự chọn lọc của tự nhiên. Tôi cam đoan vậy khi nhìn sâu vào hai con mắt Chiêm. Mắt Chiêm đẹp, nhưng lạnh lùng.

Mai anh đi Đà Lạt. Tôi nói và thấy mình như kẻ bước hụt. Mắt Chiêm lặng tờ vô cảm. Cũng không có câu hỏi lại: Mấy giờ anh đi? Hoặc đi có lâu không? Hoặc: Nhanh rồi về nhé! Dửng dưng, mắt Chiêm thật vô tình. Nàng thờ ơ như việc đó chẳng can hệ gì đến nàng. Như tôi không phải là kẻ đang yêu nàng. Nếu không, mắt nàng, cửa sổ tâm hồn nàng phản ánh điều sâu kín gì vậy.

Một cơn mưa lành tạo nên cuộc gặp gỡ của chúng tôi. Nói chính xác hơn, rằm tháng bảy năm ấy ở Tam quan chùa Quán Sứ, chiều ấy cơn mưa lớn ập xuống đúng vừa lúc tôi dạt vào. Mưa nước lên, lúc sụt sùi, lúc sầm sập. Khi xiên chéo đều tăm tắp, khi quẫy lượn nhịp nhàng. Nhìn mưa, tôi nghĩ, cái sinh thể tự nhiên này cũng lý thú như một kẻ có linh hồn vậy. Nó là một ẩn dụ nghệ thuật, nó là phông màn của bao câu chuyện đời thú vị.

Mải mê nhìn mưa, tôi không để ý đến một người phụ nữ trẻ đã dịch vào đứng giữa vòm ô tôi từ lúc nào. Nghe thấy hơi thở ấm một bên vai, tôi biết là cô đứng rất gần kề tôi và khó chịu về sự tự nhiên này. Phụ nữ là phải có ý có tứ chứ. Tôi nghĩ. Nhưng mưa tạnh, đẩy xe ra khỏi giọt gianh, sự thể càng gây khó chịu hơn, vì người nọ tay đã bám đuôi xe, miệng nhanh nhẩu: Cho quá giang về Giảng Võ mới. Tính cả nể khiến tôi ừ hữ, tôi cho xe nổ máy. Đường phố không ngờ úng nước. Phố Nguyễn Khuyến ngập lút bánh xe. Vòng ra Nguyễn Thái Học cũng vậy. Định quay xuống Khâm Thiên thì gặp tắc đường ở cuối phố Quang Trung. Cố chạy đến hồ Hale thì nước đã lọt vào ống bô. Dắt xe lội bì bõm cùng mọi người, đã mệt phờ, nhưng quay lại phía sau, lại vẫn thấy người nọ nhằng nhẵng bám theo.

"Ta ăn cái gì cho nó nóng ấm người lên một tí đi anh." Người nọ nói. Lại còn thế nữa. Nhưng thôi, đã đến nước này thì mặc cho con tạo xoay vần. Theo tay người phụ nữ chỉ, tôi nhận ra một quán hàng ốc nóng. Sực lên mùi hương thơm của lá chanh và mùi gừng cay, nồng ấm áp. Quán hàng quá chật hẹp. Không ngờ cùng lúc sáng lên hai gương mặt phụ nữ, người bán ốc và người rủ tôi vào ăn ốc.

- Cho hai đĩa. Có rượu thuốc không? Người phụ nữ đi theo xe tôi cất giọng lảnh lót, đưa tay hất cái mũ mưa, để lộ một gương mặt trái xoan đẹp lộng lẫy, kiêu ngạo và cứ làm như đã quen thuộc với tôi từ lâu rồi: - Anh xem có lạ không, thời buổi cua cáy nhảy lên làm người. Trước kia dân thành thị thượng lưu, có ai thèm ăn món ốc ếch, cua cáy như bây giờ!

Tôi nhận ra cô có ý châm chọc, khinh miệt người phụ nữ bán ốc ở phía sau chõng hàng. Trên cái chõng có bình rượu thuốc, thấu nước chấm và những cái đĩa nhỏ còn dính đầy vẩy ốc. Bên trái chõng là nồi ốc luộc, ủ vỉ buồm nóng hôi hổi. Cô hàng ốc mặc áo hồng, tóc búi, khuôn mặt tròn, hai mắt sáng như hai mắt trẻ thơ, giấu đôi chân dị tật trong cái chăn dạ mầu đỏ.

- Nào, có bán hay không mà õng ẹo thế.

- Dạ, chờ em lau cái đĩa một chút ạ.

- Bán hàng thế thì ai người ta còn muốn ăn nữa.

- Dạ, em xin lỗi.

Thấy cô hàng ốc chuyển dịch khó khăn đôi chân, tôi vội giúp cô mở nồi ốc luộc và nhận ra gương mặt đẹp mang vẻ nhẫn nhịn của cô, gương mặt của những người nghèo, những người phải bươn trải vất vả với cuộc sống hàng ngày, tôi vội đưa câu chuyện sang những đề tài khác. Tôi nói về những cơn mưa lành. Tôi nói về những con ốc, loài ốc vặn, ốc mít, ốc nhồi và hỏi cô bán hàng về món rượu ngâm thuốc của cô. Cuối cùng, chính là những con ốc béo ủ lá chanh được nhể ra bằng những chiếc kim sắt chấm vào bát nước thơm nồng mùi gừng, béo ngậy và cay sực lên trong miệng, đã khiến cho không khí giữa người bán và người ăn trở nên vui vẻ và hài hòa!

- Để tôi trả tiền. Người phụ nữ đi nhờ xe tôi nói và khi xe chạy ngược một quãng nữa, cô nói thêm - Ngày mai anh còn thích ăn ốc nóng nữa không, em sẽ đến rủ anh đi.

Một tuần lễ qua, những buổi chiều đi ăn quà đã thành lệ. Cuối cùng cái phải đến đã đến. Tôi gọi điện: Anh đến nhà em nhé và nhận được câu trả lời thật hững hờ: Anh thích đến thì cứ đến! Tôi đã đến nhà Chiêm và câu nói: Mai anh đi Đà Lạt như buông rớt trong căn nhà ba tầng diện tích mặt sàn năm mươi mét vuông hoang vắng lạnh lùng.

Chuyến đi Đà Lạt hoàn toàn thất bại. Một bài bút ký viết chỉ thấy lổm ngổm những chữ là chữ, thiếu hẳn một linh hồn sống động. Tôi trở về, buồn day dứt, hỏi Chiêm: Có nhớ anh không? Ôi, giá đừng hỏi thì hơn. Vì nàng đáp lại câu hỏi phập phồng bao hy vọng của tôi bằng cái nhếch mép và hai từ trượt qua vành môi: Bình thường. Bình thường! Đã gọi là tình yêu thì sao lại là bình thường được!

*

Chào đời đã được hưởng một ưu thế trội bật, một cơ thể không mảy may khuyết tật lại đạt đến cấp độ hoàn mỹ, Chiêm như một đóa hoa hồng hàm tiếu ở tuổi mười tám. Cha nàng là bác sĩ khoa ngoại, mẹ nàng là nghệ sĩ múa và nàng là đứa con duy nhất của gia đình. Vóc hình nàng cân đối, nở nang đều đặn. Nơi căng trương, nơi thắt bó, chỗ nào cũng ưa nhìn. Đàn ông thích nhìn nhất là ngực nàng và mắt nàng. Mắt nàng to, rờ rỡ sáng và thuở đó thắm thiết niềm thân tình vồn vã. Ngực nàng lớn và vểnh cao, nhô về phía trước như tính kiêu hãnh của nàng. Ở đâu nàng cũng như vầng dương chói lọi. Ở đâu nàng cũng tỏa ra một trường lực cuốn hút. Nàng tạo ra những kẻ ham mê, yêu mến mình. Và chắc chắn rằng chính là do nàng mà những người thầy ở trường trung học đã biến thành những kẻ si tình bậc nhất. Nàng tạo nên một vòng vây ham muốn, mê đắm, nuông nịnh, yêu chiều quanh mình. Và cũng có thể nói, chính là cuộc sống của nàng đã tạo ra bản tính nàng. Thân mật gần gụi đó mà cũng lạnh lùng cao ngạo đó. Nàng là người phụ nữ có hai gương mặt. Và cuộc đời nàng từ khi ở tuổi thiếu nữ đã là một bằng chứng rõ rệt nhất về tính hai mặt, về sự bù trừ của lẽ đời. Được sống trong sự nuông chiều, ưu ái triền miên, nhưng nàng đã trượt liên tiếp ba kỳ thi vào đại học. Đến tuổi trưởng thành, đi làm việc, trong bậc thang đẳng cấp xã hội, nàng bị xếp vào loại thấp kém. Vì nàng chỉ là cô nhân viên đánh máy ngồi khuất lấp ở cái góc hẹp của một cơ quan văn hóa, nhưng nàng lại là đối tượng chiêm ngưỡng, tụng ca, chiều chuộng của vô số đàn ông. Phụ nữ đẹp tuy không nhiều, nhưng cũng không hẳn là ít. Tuy nhiên sắc đẹp như một thứ tài sản trời cho, đẹp như nàng, thì chỉ có một mình nàng thôi. Ngồi ở góc hẹp của tòa nhà, nhưng tiếng tăm nàng lan rộng khắp thành phố. Có một gã thi sĩ nổi tiếng đẹp trai và kiêu căng về tài sắc vừa nhìn thấy nàng đã tái nhợt mặt mày, quay lưng, chạy tới một cửa hàng gần đó, mua ngay một lọ nước hoa Soir de Paris, rồi trở lại khúm núm dâng lễ vật lên nàng. Y gọi nàng là Hoàng hậu Elizabeth. Một phó thống đốc ngân hàng suốt một tháng trời, chiều nào cũng đánh xe đến đưa nàng đi ăn ở cửa hàng đặc sản, bị vợ phát hiện, thuê ma cô theo dõi, dọa sẽ có án mạng, đã khóc sướt mướt vì phải chia tay nàng. Tỏ tình với nàng, cầu xin nàng ban cho tình yêu, ngỏ lời cầu hôn với nàng có đến vài chục anh đàn ông, trẻ có, già có; trong đó có vài gã đã có gia thất, đang nuôi ý định ruồng rẫy vợ con, bỏ lại tất cả để theo nàng.

Nhiều kẻ được mời, nhưng Chúa chỉ chọn một. Kinh Thánh đã nói vậy. Cuối cùng, nấn ná mãi, chọn lựa mãi, đến năm hai mươi tư tuổi Chiêm mới lấy chồng. Thông thường trong trường hợp này các nhà văn sẽ cho nhân vật nữ xinh đẹp của mình kết hôn với một gã đàn ông giàu có, gã này có thể là một nhà doanh nghiệp, một ông chủ ngân hàng Việt kiều có bạc tỷ nhưng ngu đần, thô lỗ, vô học rồi cuộc sống của họ sẽ tạm hòa hợp ở giai đoạn đầu và trục trặc ở giai đoạn sau, cuối cùng dẫn đến bi kịch tan vỡ. Đó là một mô hình đặc sắc của hư cấu nghệ thuật. Còn ở đây là cuộc sống thật. Cuộc sống thật đã xảy ra của Chiêm không giống thế.

Chiêm kể:

- Chồng em là Đồng, một cán bộ nhà nước. Chứ không thuộc típ giám đốc, kế toán các ngành kinh tế, lớp người trở nên giàu có trong khuôn khổ pháp luật từ thời mở rộng tự do kinh doanh. Đồng thời là cán bộ tầm cỡ quốc gia. Theo lý thuyết thì Đồng cũng chỉ là loại làm công ăn lương cố định, nghĩa là loại cán bộ có mức sống trung bình, làng nhàng như số đông những kẻ đang làm việc trong guồng máy nhà nước. Thế nhưng phải nói ngay rằng, Đồng rất giàu. Chắc anh nghĩ: Quyền lực sinh ra tiền tài? Chiếm hữu quyền lực sinh lợi còn bằng mấy chiếm hữu tư liệu sản xuất? Em không rõ và cũng không muốn nói tới điều ấy. Em chỉ biết, khi Đồng bỏ vợ lấy em, lúc Đồng ba mươi lăm tuổi anh ta đã có một căn nhà bốn mươi mét vuông ba tầng cho một cơ quan Liên hợp quốc thuê, một tháng lấy ba ngàn đô-la Mỹ. Ba ngàn đô-la Mỹ mỗi tháng nghĩa là hơn bốn mươi triệu đồng tiền Việt, bằng tài sản cả một đời người lao động kỹ thuật đấy. Ở đây, em muốn anh nhớ cho, căn nhà này là do nhà nước phân cho Đồng! Phân phối theo chính sách chung chứ không phải chiếm hữu. Với số tiền cho thuê căn hộ đó, gần chục năm qua, Đồng đã mua được một căn hộ khác ở khu tập thể Ngọc Khánh và một tòa biệt thự ở Tam Đảo, một căn nhà nghỉ ở bãi biển Vũng Tàu. Đó là những tài sản công khai. Có gì mà phải giấu giếm! Vì nó là đồng tiền Đồng kiếm được hợp pháp, công khai cơ mà! Anh có đồng ý thế không?

- Tạm cho là như thế!

- Dạo ấy, cũng là sau một buổi tránh mưa, em quen Đồng và rủ Đồng đi ăn ốc. Sau đó, nhiều lần em đến nhà Đồng. Biết ý thích của em, một hôm Đồng sai người giúp việc mua ốc về làm món ăn. Giúp việc là một bà già. Bà vâng dạ, nhưng khi bưng mâm lên thì chỉ có mấy hộp thịt lợn thịt gà và cá đông lạnh. Sao lại thế được? Đồng hỏi. Thì bà rụt rè thưa rằng, bà theo đạo, hôm nay là ngày kiêng sát sinh. Thế sao không bảo tôi trước! Đồng gắt gỏng. Em can. Đồng dịu, mời em đi ăn hiệu. Em thấy đấy, Đồng phàn nàn, thuê được một người giúp việc khó vô cùng. Thuê đứa trẻ thì sợ nó ỷ sức vóc bóp cổ mình trấn lột, thỏa lòng tham. Thuê bà già thì gặp lẩm cẩm. Có bữa bà cho mình ăn cả tóc lẫn kiến. Sao lại cả tóc lẫn kiến? Tóc là tóc bà rụng vào món ăn. Còn kiến là vì bà ấy hay để lại thức ăn thừa để ruồi bâu kiến đậu. Nghe chuyện Đồng, em cười: Nếu vậy thì em xin đến làm người giúp việc nhà cho anh vậy. Đồng được lời, nhảy cẫng lên. Trời, em đồng ý, anh rước em về làm bà chủ, chứ thuê mướn gì!

Ngưng một lát, tỏa một ánh cười nhè nhẹ trên môi, Chiêm kể tiếp:

- Em tươi đẹp thế, xứng làm bà chủ quá chứ anh? Nhan sắc đàn bà là thứ trời cho. Nó cũng là thứ của cải. Em kiêu hãnh vì nó. Còn Đồng, Đồng kiêu căng vì lắm tiền nhiều của "Cho em!". Hằng ngày, Đồng có thể lẳng cho em cả một tập dầy giấy bạc mà không cần đếm. Kinh nghiệm cho thấy thường kẻ nào vuốt ve, nâng niu đồng tiền, nghĩa là trọng nó quá đáng, thì nó bỏ đi. Đồng không thế. Có lần em còn thấy Đồng giấu đô la ở trong giày, dưới gót chân. Anh ta bảo: Anh giống nhà văn Giả Bình Ao, Trung Quốc, dẫm lên đồng tiền, coi khinh nó, cho bõ những ngày cơ hàn, nghèo khổ. Thì ra Đồng xuất thân dân ở đồng chiêm trũng, cụ kỵ chỉ là anh mõ làng. Bây giờ Đồng giàu có, ở vị trí thượng lưu xã hội, nhưng căn cốt vẫn thấp thoáng nét bần hàn, bỉ tiện. Nghĩa là thiếu cái đàng hoàng, chính trực của đàn ông. Điều này thấy rõ ở khuôn mặt hẹp, đôi môi dày, cái mồm thổi lửa, cái dáng đi chăm chúi về trước. Ở câu chuyện đầu lưỡi nói xấu người vợ cũ, từ căn bệnh hôi nách, tới thói tham ăn tục uống của chị ta. Ở tham vọng thăng tiến và cách ngáng trở đồng cấp đê hèn thỉnh thoảng Đồng vẫn để lộ cho em biết. Thí dụ, Đồng rất hay ghi chép những câu nói hớ hênh, vô tình của bạn bè. Nhưng thôi, quyền chức vốn là chốn tranh đua của những tham vọng. Xưa nay, đàn ông vốn là những kẻ ưa tranh giành mà. Một hôm em về bên ngoại ăn giỗ mẹ em. Mẹ em mất sau bố em một năm, trước khi em lấy Đồng. Thình lình trở về, em bước vào buồng ngủ, vừa đẩy cửa em đã thót mình bật lui. Anh có biết chuyện gì xảy ra không? Mải mê, quên cả khoá trái cửa, trên giường Đồng và một người đàn bà đang trần trụi trong tư thế làm tình. Sợ hãi và xấu hổ, em quay ra ngồi chờ ở phòng khách. Một lát, người đàn bà chỉnh tề váy áo, cắp ví điềm nhiên đi qua. Trời, khủng khiếp quá! Người đàn bà này là vợ cũ của Đồng. Thà rằng, Đồng chung đụng với một người đàn bà xa lạ, thậm chí một con điếm! Thà rằng sau sự việc trác trụy này, Đồng cứ ngạo nghễ phớt lờ, đừng nói gì hết. Đằng này hắn lại sụp xuống ôm chân em, khóc lóc, xin em tha thứ. Và còn ghê tởm hơn nữa, anh có thể tưởng tượng được không. Đồng nói: "Anh phải chiều ả vì đang có việc phải nhờ cậy ả. Ông bố ả hiện là cấp trên của anh". Em rủn hết cả người, chân em, nơi hắn đang ôm, nổi gai sần sùi.

*

Tất cả những gì đang hiện hữu đều dự phần vào niềm bí ẩn của cuộc sống. Chiêm đã tạo nên bản tính nàng từ những gì đã có sẵn trong đời sống tinh thần của nàng. Và đến đây, tiếp nhận thêm những nhân tố mới, nàng định hình một gương mặt đàn bà dung nhan trác tuyệt, nhưng lãnh cảm, lạnh băng. Trước đây vì được cưng chiều mà nàng sinh ra khinh ngạo. Giờ đây, sự sa đọa cùng cực của thằng đàn ông làm nàng ghê rợn và tàn lụi hết niềm sinh thú giao tiếp. Nàng là một sản phẩm của một chấn thương não nề.

Dấu lặng dài sau cơn sang chấn ở nàng đã chia cắt quan hệ của chúng tôi. Sau chuyến đi Đà Lạt trở về, tôi không còn gặp lại Chiêm nữa. Tuy nhiên, nàng xa cách mà vẫn để lại cho tôi bao luyến nhớ. Tôi nhớ một chiều trời đổ cơn mưa lành, bầu không khí ướt át và khung cảnh ấm áp cùng hương vị thơm nồng của cái quán hàng ốc nóng nọ.

Tôi đã trở lại cái quán hàng quà bình dân sơ sài ở đầu một con ngõ nọ. Tìm cái nọ tôi lại bắt được cái kia. Cô hàng chủ quán xinh xắn tên Hiền bị tật nguyền một bên chân, hóa ra lại là phần đời tôi đang đi tìm. Bác mẹ sinh em phận ốc nhồi (*). Hiền gặp bất hạnh ngay khi chào đời. Căn bệnh quái ác để lại di chứng liệt một bên chân khiến bước đi của nàng luôn phải là một sự nỗ lực phi thường. Nàng phải nỗ lực vô cùng để sống và nàng đỡ một bà mẹ già bị xuất huyết não nằm liệt đã hơn năm nay. Không được chiều chuộng. Không được một ân thưởng nào của tự nhiên và người đời. Trái lại, rủi ro gắn liền với số phận nàng. Nhưng khác hẳn Chiêm, nàng là một tấm tình nhiệt thành với mọi người. Nàng là hương thơm của lá chanh và vị mặn của muối, vị cay của gừng. Nàng là chất liệu tươi nguyên của đời sống. Nhẫn nhịn để kiếm sống, nhưng nàng lăn xả vào cuộc mưu sinh và hòa nhập với nó và do đó tạo ra bản tính mình, là tận tâm tận lực với mọi người. Nàng bị dị tật ở thân thể, nhưng tấm lòng nàng nguyên lành, trong trẻo. Nói chuyện với tôi, nàng bảo: "Em mà yêu ai thì em sẽ dành độc quyền săn sóc người ấy!". Ít lâu sau khi đã thành vợ thành chồng, theo lời Chiêm, tôi kể lại cho nàng nghe chuyện Chiêm lấy chồng, và việc chồng Chiêm ăn nằm với người vợ cũ. Nghe xong, yên lặng hồi lâu nàng mới run rẩy nói: "Sao lại có thể rành mạch, rõ ràng thế, hả anh. Em mà yêu thì em rối ruột rối gan, chẳng nhớ được gì đâu!".

*

Tôi và Hiền sống hòa thuận trong tình thương yêu giản dị, chân thành hết mực với nhau. Sẽ chẳng còn có dịp nhắc nhở lại hình ảnh Chiêm nữa nếu như hôm đó, Hiền không đưa tôi xem tờ báo An ninh Thủ đô, với câu hỏi: "Anh xem có phải người tên là Ch. trong bài báo này là cô Chiêm, người phụ nữ hôm đó đưa anh đến quán hàng của em không?".

"Một vụ tự vẫn khó hiểu. Người vợ tên là Huỳnh Ngọc Ch. ba mươi lăm tuổi có nhan sắc, đã một đời chồng. Người chồng là họa sĩ, ngoài sáu mươi tuổi mới từ nước ngoài về định cư ở trong nước. Hai người tậu một biệt thự bốn tầng ở khu vực Hồ Tây. Sáng qua, mười lăm tháng chín năm hai nghìn, nghe người giúp việc kêu la, hàng xóm xô đến thì đã thấy xác người chồng tự vẫn treo cổ giữa phòng ngủ. Theo lời khai của người giúp việc thì người vợ hiện đang đi du lịch một mình ở Đà Lạt. Người chồng ở nhà một mình. Ông thường buồn rầu, thui thủi một mình trong mặc cảm đơn độc... Không hiểu sao ông lại tự tử?".

Người thả ống lươn

» Tác giả: Đặng Văn Sinh

» Dịch giả:

» Thể lọai: Truyện ngắn

» Số lần xem: 3758

1. Người thả ống lươn

Trịnh Doãng cùng họ với tôi. Hắn ở ngành dưới. Xét về thứ bậc, Doãng phải gọi tôi bằng ông cho dù hắn hơn tôi cả một giáp. Tôi là dân thợ mộc, quanh năm xách cưa đục đi kiếm ăn thiên hạ, thỉnh thoảng mới về làng, mỗi lần về lại được nghe một chuyện về Doãng, thật có mà người ta thêu dệt thành giai thoại cũng có, cứ rối tung rối mù chẳng biết đâu mà lần. Thời gian hầu như không mấy tác động mấy đến tính cách của Doãng. Con người hắn vẫn như mấy chục năm trước, chỉ có khuôn mặt là nhàu đi, kéo những vết sần lỗ chỗ, hậu quả của trận đậu mùa, giãn ra, trông lại có vẻ dễ coi hơn trước.

 

Trong ba người con của ông Cả Duệch thì Doạng và Doan thuộc loại làm ăn cơ chỉ, tính hạnh hiền lương, chỉ riêng Doãng, anh thứ hai là trái tính trái nết. Doãng tuổi Ất Hợi, năm lên bảy bị bệnh đậu mùa, toàn thân phủ dày một lớp mụn to bằng hạt đậu, mọng nước như phỏng dạ. Những mụn ấy vỡ, nước vàng chảy ra bốc mùi khăn khẳn không chịu được. Người Doãng quắt như con mèo hen, miệng  hớp hớp không khí chẳng khác gì con cá mắc cạn, thở khò khè. Ông lang Ích thăm bệnh xong, lắc đầu :

 

- Tôi chịu, ông bà sắp chiếu, chẻ lạt đi là vừa...

 

Ông Duệch thương con không nỡ. Thôi thì còn nước còn tát. Nghĩ vậy, ông bảo Doạng chạy ra xóm Bãi gọi bà Phó Lễ vào xem có cứu được không. Bà Phó Lễ là lang vườn kiêm nghề cô đồng. Thuốc của bà toàn nước thải với bùa chú thêm ít rễ cây trộn lẫn cho con bệnh uống. Vậy mà đến chập tối Trịnh Doãng tỉnh lại. Lúc ra về bà Phó dặn :

 

- Mệnh thằng bé này lớn lắm. Nó vốn là tướng Nhà Giời bị Ngọc Hoàng đày xuống trần gian hầu hạ "Chúa Bà" nên không thể "đi" được.

 

Lớn lên Trịnh Doãng không thích học mà chỉ khoái chia phe chơi trò đánh nhau. Dạy học ở làng Yên là ông đồ Sách. Đồ Sách dữ đòn, trò nào mới nhập môn cũng bị nện ba roi thật đau để nhớ câu "Tiên học lễ, hậu học văn". Doãng là đứa ngỗ nghịch lại lười nên nên hay bị thầy nọc ra sập gụ đánh đòn. Hắn căm lắm, lựa hôm đồ Sách đi ăn đồng môn, lẻn vào nhà vạch chim đái vào nghiên mực với ống bút. Ồng Duệch biết chuyện, trói hai tay Doãng treo lrên xà nhà, nện cho một trận nhừ tử. Doãng gan lỳ, trơ ra như đá, không khóc cũng chẳng van xin, ông bố chịu phép, phải tha. Từ đấy hắn bỏ học chuyên đi thả ống lươn.

 

Đầu năm Bính Thân, ông Cả Duệch bị trúng gió độc vào hôm đưa ma lão Quản Tháp, được hai ngày thì mất. Lúc ấy Doạng đã có vợ, ăn riêng nhưng ba anh em vẫn ở  chung một nhà. Ông bố vừa nằm xuống là Doãng đòi chia gia tài. Doạng bàn với Doan cắt cho Doãng phần đất sát đường có ngôi nhà ngang ba  gian lợp ngói mũi nhưng hắn không nghe mà ngang ngược đòi mọi thứ phải chia ba, anh nào không thích có thể bán cho người khác. Gay nhất là toà nhà chính. Doạng tranh gian giữa. Chị dâu không chịu được, nói mấy câu bị thằng em trời đánh vả cho một cái hộc máu mồm. Ông trưởng công an đến dàn xếp, Doãng cầm con dao mác vót nan đứng giữa cửa, mặt hằm hằm, cặp môi dày chĩa ra như môi cá ngão :

 

- Kẻ nào cả gan dám bước qua bậc cửa là Doãng này lấy mạng đổi mạng.

 

Vua cũng thua thằng liều. Cuối cùng, anh em Doạng, Doan phải chấp nhận phương án chia ba. Chia buổi sáng, chiều Doãng gọi người bán tài sản của mình. Doạng hốt quá, sợ cơ nghiệp mấy đời cha ông chắt bóp mới có được bỗng chốc sang tay người khác, liền bàn với Doan vay giật mỗi nơi một ít, gom đủ số tiền, tất nhiên là cao hơn so với giá nhà đất hiện thời, đưa cho ông em đầu bò. Mấy hôm sau Doãng tìm mua được miếng đất cuối làng gần khu Mả Gạch của ông Vệ Tuân . Ông này thua xóc đĩa phải gán nợ về ở với con . Khu đất rộng chừng hai sào có túp nhà ba gian lợp rạ. Từ đấy anh em Doạng Doãng không thèm  nhìn mặt nhau.

 

Không biết Doạng học thả ống lươn ở đâu, vì làng Yên đến lúc ấy mới chỉ có công nghệ móc cua, đánh giậm, chạy dủi và đơm đó. Móc cua là thứ nghề hạ đẳng, chủ yếu dành cho trẻ con và đàn bà. Cua đồng là của trời cho, nhiều vô thiên lủng, rẻ như bèo, không bõ bẩn tay những đấng nam nhi. Đánh giậm và chạy dủi có khá hơn nhưng tốn sức, cuối buổi cá tép thường ươn, khó bán. Đặt đó lại phải thức canh đêm, lơ đi một tí là công cốc, vì trộm ở xóm Rộc như rươi. Có thằng chơi đểu, sau khi dốc hết cá tép trong chúm, còn co chân đạp bẹp hết lượt. Cuối cùng chỉ thả ống lươn là sống được, thậm chí sống phong lưu nếu biết cách giữ độc quyền, không để bí quyết rơi vào tay người khác. Kỹ thuật làm ống lươn khá đơn giản. Nguyên liệu chính là một đoạn nứa ngộ có đường kính cỡ bắp chân, đầu mặt trổ vài lỗ thông khí, đầu rỗng dùi hai lỗ đối nhau, lắp hom rồi xuyên qua một thanh tre vạt nhọn là thành cái bẫy bắt lươn khá hiệu quả. Thứ mồi hấp dẫn nhất là ốc vặn đập dập trộn với giun đất. Bí mật nghề nghiệp của Doãng là ở công đoạn chọn vị trí cắm ống. Lươn ưa cư trú ở những ao tù nhiều bùn. Làng Yên thuộc vùng chiêm trũng, mười hộ thì có đến bảy, tám vật đất đắp nền nhà, thành ra, chỗ nào cũng có ao chuôm, thùng vũng, rất thuận tiện cho Doãng hành nghề.

 

Thường thì ban ngày hắn la cà khắp nơi, có khi lẩn vào những chỗ ngóc ngách, rậm rạp quan sát bằng con mắt dày dạn kinh nghiệm. Ai không biết, tưởng hắn vô tích sự, mải chơi. Mặc kệ. Doãng không thèm chấp. Chập tối, sau khi đã chuẩn bị đồ nghề đầy đủ, hắn khoác chùm ống lên vai đến những vị trí ban ngày nhắm được. Thao tác của Doãng rất gọn, có khi chưa đầy ba phút đã thả xong một ống. Những ngày tối trời, giáp mặt không nhìn thấy nhau, Doãng cứ bước phăm phăm, khỏi cần đèn đóm. Đàn bà, con gái rất sợ gặp tay thả ống lươn ban đêm vì cho rằng hắn là hiện thân của mọi sự rủi ro. Có lần chàng ta vừa lỉnh kỉnh bê ống lươn đến đầu Cầu Đá ngăn giữa hai thôn Đông, Đoài gặp ngay anh bí thư chi đoàn đang bóp vú cô phân đoàn trưởng. Thoáng thấy bộ dạng hắn, cô gái ngỡ là ma hiện hình, hoảng quá, rơi tõm xuống ngòi. Cực chẳng đã, anh bí thư đành phải nhảy xuống nước cứu nhân tình sau khi cô ta đã uống no bụng thứ nước  nhờn nhợt khá nặng mùi được thải ra từ một trại chăn nuôi lợn tập thể.

 

Xong việc, Doãng quay về làm một giấc. Cuối canh tư, thức dậy trong lúc cả làng còn đang ngái ngủ, hắn rảo một vòng quanh các ao thu hết những chiếc ống đã cắm hồi đêm. Trời vừa sáng, Doãng lần lượt tháo hom dốc những con lươn béo múp, vàng ươm ra chiếc rổ sề. Hắn chọn toàn con to thả vào nồi hông bán buôn cho cô Mít. Loại nhỏ, hắn cho vào om củ chuối nhắm rượu hoặc thả xuống ao nhà để ăn dần. Có hôm Doãng đổ ra được ba con rắn, toàn loại cạp nia, khúc đen khúc trắng. Của này độc hơn cả hổ mang chúa, vô phúc bị nó mổ, chỉ vài giờ sau là đóng ván. Gan lỳ như Doãng mà cũng sợ chết khiếp, sau lần ấy, không dám thọc tay vào ống như trước nữa.

 

Sau khi chia gia tài, Doãng được năm sào ruộng đồng Gà. Chân ruộng này thuộc loại thượng đẳng điền, năm hai vụ, làm chơi ăn thật  nhưng phải cái mùa khô thường khan nước. Đến vụ cày cấy, Doãng một mình xoay trần ra không thèm nhờ ai. Giai thoại hay được bà con nhắc đến là có lần hắn tát nước với cọc. Quê tôi có lệ tát nước gầu dai, mỗi bên một người thành cặp. Những sòng tát cao người ta đóng đến ba bốn cặp. Thích nhất là tát nước đêm trăng. Từng đôi, kẻ bên này, người bên kia, đong đưa theo nhịp. Từng gầu nước lẫn ánh trăng sóng sánh, chao theo một đường vòng cung rồi bất ngờ vãi tung toé trên mặt ruộng, loang ra một màu trắng bạc. Chẳng biết có bao nhiêu thanh niên nam nữ nên vợ nên chồng từ những đêm trăng tát nước huyền ảo như vậy. Nhưng với Doãng thì khác. Hắn ghét cay ghét đắng lối vần công và mọi kiểu chung chạ. Năm ấy hạn nặng. Như đã nói, đồng Gà thuộc diện cao, nước từ ngòi máng chảy vào ít, các chủ ruộng phải thương lượng với nhau tát theo giờ. Doãng nhận vào lúc nửa đêm, chắc là vì không muốn thiên hạ nhìn thấy cung cách làm ăn quái gở của mình. Đợi cho mọi người về hết, Doãng mới lấy hai chiếc cọc tre đóng bên kia sòng. Sau khi buộc cố định dây thừng vào cọc, hắn thả gầu rồi vung tay chao nước. Khốn nỗi, cọc tre hoàn toàn vô cảm, không có khả năng điều khiển linh hoạt như bàn tay người, thành ra, gầu vừa lên được nửa chừng đã dốc miệng hết sạch nước. Nhùng nhằng mãi chẳng ăn thua, tay thả ống lươn tức mình ném cả cọc lẫn gầu xuống ngòi rồi nằm ngửa đếm sao. Đêm ấy thưa sao, trời sáng mờ mờ. Gió đông nam phe phẩy khiến Doãng thiu thiu. Chợt có tiếng cười từ xa. Doãng giật mình, lập tức bật dậy. Hắn vốn là kẻ bạo gan nhưng giữa đồng không mông quạnh cũng thấy rờn rợn. Từ lâu, người ta đồn cánh đồng này thường có Mẹ Hét hiện hình thành thiếu nữ tóc trắng trêu các bà các chị đi chợ sớm. Có lẽ mụ ta thật. Doãng nắm chắc cán cuốc và từ từ quay lại... Không phải ma mà là một người con gái bằng xương bằng thịt đang lại gần. Hắn mê ngủ chăng ? Bởi vì người con gái đó chính là Nhụ. Bố Nhụ là ông Trản, chuyên nghề quăng chài, máu rượu, một lần uống say quá, vác chài ra ngòi Vạn, ngã xuống nước chết, để lại cho vợ ba cô con gái. Con bà Trản cô nào cũng phục phịch, hay lam hay làm và mắn đẻ. Cô chị và cô út đã lấy chồng, có con, riêng Nhụ ưa nhìn nhất lại chưa cùng ai. Nhà Nhụ chỉ cách nhà Doãng một quãng. Đêm ấy, biết Doãng mang cọc với gầu đi, cô ta cũng giả đò ra thăm ruộng nhà mình.

 

Nhìn thấy Nhụ, Doãng sững người.Hắn có tật nói lắp, mãi mới hỏi được một câu hoàn toàn vô nghĩa :

 

- Cô... cô là... là... người hay...ma ?

 

Cô hàng xóm khẽ cười, giọng ỡm ờ :

 

- Là ma đến tát nước hộ người đây. Cái gầu có tội gì mà quẳng nó xuống ngòi ? Nào, lội xuống vớt lên, đây tát cho...

 

- Thật chứ ? - Doãng có vẻ không tin lại hỏi một câu rất thừa.

 

- Ai nói dối làm gì, mau lên kẻo trời sáng người ta bắt gặp...

 

Khỏi phải nói, đêm hôm ấy Doãng cảm động đến mức nào. Hai người mải tát quên cả thời gian, đến lúc vợ chồng nhà Quýnh xách gầu ra đòi sòng mời biết nước đã tràn bờ...

 

Mấy hôm sau, lúc  làm  đồng về, gặp Nhụ ở gốc đa, Doãng lén cầm tay hỏi khẽ :

 

- Nhụ có bằng lòng về ở với tôi không?

 

Cô gái tỏ ra khá bạo dạn :

 

- Thích thì nhờ người mang trầu cau sang nói với mẹ người ta...

 

Hắn nhờ bà Cõn làm mối thật. Hơn tháng sau thì cưới. Đám cưới của vợ chồng hắn thế mà đông, có điều toàn khách nhà gái. Họ nhà trai không có ai kể cả anh em Doạng Doan.

 

Cưới nhau chưa được một năm, Nhụ đẻ sinh đôi hai thằng con trai. Doãng thích lắm đặt tên là Dọng và Dõng. Hai thằng giống nhau như hai giọt nước, người ngoài không thể nào phân biệt được thằng nào là anh, thằng nào là em. Còn bé mà chúng nghịch hơn cả quỷ sứ. Trong nhà có thứ gì dễ vỡ đều phải treo cao, sểnh một chút là các ông nhóc moi ra, nghịch chán chê rồi đập. Khi đã choai choai, Dõng và Dọng toàn gọi nhau bằng mày tao, không đứa nào chịu đứa nào. Nhiều hôm hai anh em đánh nhau chảy cả máu mồm máu mũi. Có bận hai thằng bảo nhau rút rơm nướng khoai. Lửa cháy to quá bén sang cả nhà bếp. Doãng tức lắm, bắt nằm sấp vụt mỗ đứa ba roi đau quắn mông nhưng chỉ được một lúc lại chứng nào tật ấy.

 

Dọng và Dõng khá đẹp trai, nói năng lưu loát chứ không ngọng líu ngọng ló như bố. Điều giống bố duy nhất ở chúng là thói bán giời không văn tự. Dân làng Yên vốn ghét thói ba hoa thường nói sau lưng Doãng là "giỏ nhà ai quai nhà nấy".

 

Cuối năm năm chín, làng Yên thành lập hợp tác xã nông nghiệp. Doãng dứt khoát không viết đơn mặc dù cán bộ xã đã nhiều lần vận động. Hắn lý sự :

 

- Vào hợp tác xã nông nghiệp là hoàn toàn tự nguyện. Chủ trương của Đảng và Chính phủ là như vậy. Ai không muốn vào thì thôi, vì sao các ông cán bộ lại ép bà con ?

 

Ông chủ nhiệm coi Trịnh Doãng là dân đầu mấu, khó cải tạo tư tưởng liền tuyên bố :

 

- Những đối tượng chống lại chủ trương chính sách của cấp trên, ban quản trị sẽ trả ruộng ở đồng Mả Đá.

 

Khu Mả Đá là địa giới giữa hai xã An Trạch và An Nhân, bỏ hoang đã nhiều năm, đưa các hộ cá thể đến đấy khác gì bắt đi đày. Doãng nuốt nước bọt đến ực, nghiến răng, cắm phập lưỡi dao phát bờ, dõng dạc tuyên bố :

 

- Ruộng này là cha ông họ Trịnh để lại chứ không phải của vớ được hồi cải cách nhá. Kẻ nào động vào một hòn đất là ăn đòn.

 

Không hiểu ban quản trị sợ Doãng hay là họ không thèm chấp thằng khùng mà các hộ cá thể khác đã tự nguyện chuyển đến vùng đất mới, riêng mấy sào ruộng của Doãng vẫn ngang nhiên "ngự" tại khu đồng Gà như cái gai trước mắt trêu ngươi nhà chức trách. Nhưng Doãng sức mấy thi gan được với tập thể. Hợp tác xã chi công điểm đào đắp hệ thống mương máng thuỷ lợi dẫn nước vào ruộng. Hắn là dân tự do chẳng thuộc tổ chức đoàn thể nào, bị "cấm vận" ngay từ vụ đầu tiên. Chẳng nhẽ cứ nằm đấy chờ nước trời trong khi trời lại đang đại hạn. Ruộng của vợ chồng hắn đã nứt chân chim, lúa héo đến nơi. Nóng ruột quá, nửa đêm thức dậy, Doãng lẻn ra đồng. Hắn đang hì hục tháo trộm nước thì cánh cờ đỏ tuần tra bắt được. Nói mãi Doãng không nghe, tay đội trưởng sấn vào giằng cuốc đắp lại bờ bị hắn tống cho một quả vào quai hàm. Phải vất vả lắm họ mới điệu được gã " thủy tặc" về trụ sở hợp tác xã. Chuyến ấy Doãng bị giải lên công an huyện làm khách của đám muỗi vằn mấy đêm. Không biết ở cơ quan bảo vệ pháp luật người ta nói những gì mà sau hôm được thả, dân xóm Rộc thấy hắn lử khử như tù mới xuất trại, đến ban quản trị xin đổi ruộng.

 

Vợ chồng Doãng xoay trần ra với mấy sào ruộng xấu. Hắn sang cồn Láng cắt lá về làm phân xanh, còn Nhụ quẩy đôi quang sảo khắp làng nhặt phân trâu bò bón ruộng. Không có hạt đạm nào mà lúa của hắn tốt bời bời, năng suất gấp mấy lần hợp tác xã. Khổ nhất là hồi chưa mua được trâu, Doãng phải nai lưng kéo cày. Hai vợ chồng hắn, người đi trước, kẻ bước sau, nhũng nhẵng mấy ngày mới làm xong đất. Ý chí quyết tâm làm giầu của Trịnh Doãng thật đáng nể. Trong có mấy năm, hắn vừa làm được nhà ngói ba gian xây gạch chín, tậu được con nghé, lại bổ sung dân số cho làng Yên hai thằng con trai làm cho chủ nhiệm Tào Văn Hỗ tức điên lên. Lão bèn triệu tập cuộc họp ban quản trị khẩn cấp chuyên bàn về lĩnh vực ao, hồ, đầm, ngòi. Sau hai ngày cãi nhau khá căng thẳng, cuối cùng ban lãnh đạo cũng ra được nghị quyết với nội dung cơ bản như sau :" Các diện tích mặt nước trong làng và ngoài đồng đều thuộc quyền sở hữu tập thể, cấm mọi hình thức đánh bắt cá. Ai vi phạm sẽ bị xử phạt tùy theo mức độ nặng nhẹ". Thông báo trên được gã Tuyển Què trong ban Cờ Đỏ kẻ chữ son lên bảng tin ngay cổng làng và trước trụ sở hợp tác xã. Ngoài ra, mỗi ao chuôm thùng vũng còn được cắm biển gỗ viết sơn đỏ dòng chữ ngắn gọn :"Cấm mọi hình thức đánh bắt cá".

 

Xã viên kháo nhau, phen này Trịnh Doãng hết đường làm ăn. Những kẻ ghen ăn tức ở nhìn ngôi nhà ngói đỏ của hắn nhếch mép cười nhạt. Thế nhưng, biển cấm cắm hôm trước, sáng hôm sau vợ Doãng vẫn có lươn mang ra chợ Tổng bán. Chủ nhiệm Hỗ cáu tiết gọi trưởng ban bảo vệ ra lệnh :

 

- Đêm nay cậu cho anh em đi kiểm tra một lượt các ao trong làng, nếu gặp tay Doãng, không nói lôi thôi, cứ điệu cổ về đây, tội vạ đâu tôi chịu.

 

Phải đến tối thứ ba cánh dân quân mới tóm được Doãng trong khi hắn đang lúi húi gài ống ở cầu ao nhà ông Phó Duyệt. Chẳng nói chẳng rằng, thằng Cửu và thằng Hiệp quàng ngay dây thừng vào cổ nạn nhân , trói nghiến lại dong về uỷ ban xã. Hắn vừa chửi vừa la :

 

- Ới dân làng ơi! Chúng nó trói người...

 

Doãng bị vứt nằm queo ở nhà kho suốt một đêm. Bên ngoài có hai dân quân cầm súng đứng canh. Sáng hôm sau, chủ nhiệm Hỗ, phó chủ tịch Trần Sớ, trưởng ban bảo vệ Tiệp Cò cho dẫn Doãng vào trụ sở hỏi bằng giọng đắc thắng :

 

- Anh có biết vì sao bị bắt không ?

 

Doãng lừ mắt, điểm hết lượt các vị chức sắc, giọng ráo hoảnh :

 

- Các ông bắt trói người vô cớ là vi phạm pháp luật.

 

- Đề nghị anh ăn nói nghiêm chỉnh ! - Chủ nhiệm Hỗ lên giọng răn đe - Vậy anh có biết hợp tác xã đã cấm mọi hình thức đánh bắt cá không ?

 

- Biết . - Doãng nói cộc lốc.

 

- Tại sao vẫn cố tình vi phạm ?

 

Doãng nhếch mép cười gằn :

 

- Tôi không bắt trộm cá của tập thể mà là bắt lươn. Thưa các ông cán bộ, lươn không nằm trong danh mục cấm.

 

- Anh, anh...láo, còn già mồm cãi hả ? - Chủ nhiệm Hỗ bị cú điểm huyệt đâm ra đuối lý  nhưng vẫn cố nói liều để vớt vát sĩ diện. - Lươn cũng là...cá thuộc tài sản hợp tác xã.

 

- Này các ông ! - Doãng lại hếch cặp môi cá ngão về phía chủ nhiệm hợp tác xã - Các ông ra văn bản cấm mọi hình thức đánh bắt cá mà lại cho dân quân rình trói thằng thả ống lươn, thế có phải là phường lừa đảo không? Được, tôi sẽ theo kiện vụ này lên tỉnh, tỉnh không xong sẽ vác đơn lên trung ương.

 

Từ chuyện ấy , Ban quản trị hợp tác xã làng Yên đâm ra ngại đụng chạm với Doãng. Thấy chính quyền lờ đi, hắn mặc sức tung hoành, đồng thời nghiên cứu, nâng cao kỹ thuật bắt lươn lên hàng công nghệ. Có lần Doãng được đích thân chủ nhiệm Hỗ đặt hàng hai trăm năm mươi con. Chuyện có vẻ khó tin nhưng hoàn toàn là sự thật. Dạo ấy làng Yên nổi tiếng khắp cả nước về làm thủy lợi nội đồng, được ông bí thư tỉnh uỷ dẫn một đoàn khách tham quan cùng mấy chục nhà báo "quốc doanh" về thăm. Ông bí thư vốn thích món lươn om củ chuối. Vậy là Trịnh Doãng được triệu đến. Người hắn thì nhếch nhác, bẩn thỉu nhưng các món đặc sản do hắn chế biến từ lươn thì ngon không chê vào đâu được. Trước khi về tỉnh, ông bí thư bắt tay và ban cho hắn lời khen, thậm chí còn mời hắn đến nhà chơi nếu có dịp về thị xã. Vậy là, bỗng chốc tay thả ống lươn trở nên nổi tiếng. Cánh cán bộ xã từ đấy có ý gờm cho dù hắn chỉ là anh nông dân cá thể, một đối tượng mà đáng lý ra mọi người luôn phải cảnh giác.

 

Dọng và Dõng chưa học hết lớp bốn, đã muốn bỏ, Doãng gật đầu  bảo các con :

 

- Họ Trịnh nhà mình không có mả làm cán bộ, học lắm cũng vô ích. Tốt nhất chúng mày cứ theo nghề bắt lươn. Thứ này thời nào cũng cần, tuy chẳng giầu nhưng cũng không đến nỗi nhếch nhấc như đám xã viên ngày công hai lạng thóc.

 

Đầu năm bảy ba, thằng Dõng có giấy gọi nhập ngũ. Doãng vừa ở đồng về, vẫn còn mặc quần đùi, tay chân lấm bùn đất, chạy đến nhà xã đội trưởng  sừng sộ :

 

- Nó mới mười bảy tại sao các ông đã bắt lính ?

 

Xã đội trưởng  Quản văn Bền biết tính Doãng, mở ngăn kéo , lấy bản danh sách sao từ sổ hộ khẩu đặt trước mặt hắn :

 

- Đến tháng ba năm nay, hai cháu Dọng, Dõng vừa đủ mười tám. Số liệu tôi lấy bên uỷ ban, ông xem. Xã ta đợt này cuối tháng tư mới tuyển quân nhưng chúng tôi báo trước để bà con có sự chuẩn bị.

 

Doãng hiểu ra nhưng chưa chịu về ngay. Hắn ngẫm nghĩ một lúc rồi nhấm nhẳng bảo xã đôi trưởng :

 

- Nói thật, thích thì tôi cho thằng Dõng thậm chí cả thằng Dọng nữa đi bộ đội, còn không, thách các vị đấy...

 

- Ông nói toàn giọng phản động. - Xã đội trưởng xua tay bảo - Đi bộ đội là nghĩa vụ thiêng liêng của mỗi công dân trong sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, ông không giữ mồm là vào... nhà đá.

 

Doãng lắc lư mái tóc tổ quạ, nghểnh cái cổ ngẳng như cổ cò ruồi, lý sự cùn :

 

- Vậy tôi hỏi nhá, ông Sầm, chủ tịch xã, có hai thằng con đều đã quá tuổi mười tám, sao chúng không đi làm "nghĩa vụ thiêng liêng của mỗi người dân" mà lại sang Liên Xô học? Hơn nữa, từ trước đến nay nhà nước có quan tâm gì đến những hộ cá thể đâu mà bắt con người ta đi lính ?

 

Xã đội trưởng không thể kiên nhẫn giải thích được nữa, khoát tay bảo :

 

- Nói như ông thì mất nước từ lâu rồi. Xã hội phân công mỗi người một việc, thắc mắc cái gì. Ai bảo hai đứa nhà ông chỉ học đến lớp bốn rồi bỏ?

 

Có điều Trịnh Doãng không ngờ đến là, thằng Dõng vừa nhập ngũ được bốn tháng thì đến lượt thằng Dọng, chẳng biết ai xui, đã dấu bố mẹ làm đơn tình nguyện gửi lên huyện đội. Bà Nhụ thương con, ngăn không được, khóc vật vã mấy ngày liền, hẳn thản nhiên bảo :

 

- Nhà mình những bốn thằng con trai, cứ để nó đi cho thoả chí tang bồng. Mà tôi nói thật, có giữ cũng chẳng được. Họ tuyên truyền giỏi lắm, nghe nói bên xóm Chùa  có mấy đứa viết đơn bằng máu...

 

Hôm tân binh lên đường, Doãng tổ chức bữa liên hoan, các món ăn toàn chế biến từ lươn. Lúc thằng Dọng khoác ba lô lên vai, hắn rơm rớm nước mắt dặn :

 

- Đã đi thì phải đi đến nơi đến chốn, hễ mà đào ngũ thì đừng có vác mặt về nhà...

 

Bà vợ nghe chướng tai vội trách chồng :

 

- Ơ kìa ! Sao chưa chi ông đã mắng con thế ?

 

Hắn lấy những ngón tay xù xì quệt nước mắt chống chế :

 

- Tôi chỉ ... dặn nó chứ mắng ...đâu mà.

 

Thằng Dọng vào Nam sau em ba tháng. Hơn một năm hai đứa chẳng thư từ gì. Vợ chồng Doãng sốt ruột lắm. Vào đúng hôm thanh minh, Doãng choáng người vì có giấy báo thằng Dọng mất tích. Mất tích hay đầu hàng địch ? Câu hỏi cứ lởn vởn trong tâm trí hắn. Không ai bảo ai, từ cán bộ đến xã viên làng Yên đều mặc nhiên nhìn vợ chồng hắn như là bố mẹ của kẻ phản bội. Ban đêm, thỉnh thoảng thức dậy, linh tính báo cho hắn biết, hình như có kẻ nào đó rình mò sau nhà.

 

- Mặc mẹ chúng mày ! - Doãng làu bàu chửi, cốt để những vị khách không mời nghe thấy - Có giỏi thì đêm nào cũng đến đây canh trộm cho ông.

 

Nói thế nhưng hắn cũng mài sẵn cây mác, rót thêm dầu lạc vào chiếc đèn "ló" để phòng bất trắc.

 

Cuối năm bảy tư thằng Dõng có thư về. Nó được phong danh hiệu "dũng sỹ diệt xe tăng" và tặng thưởng huân chương chiến công. Doãng mừng lắm, đem khoe khắp xóm. Từ hôm ấy, hắn để ý không thấy có kẻ rình rập ban đêm nữa.

 

Giải phóng miền Nam được một tháng, Thằng Dõng giải ngũ, mang theo chiếc khung xe đạp và con búp bê nhựa gần bằng đứa trẻ mới đẻ. Còn thằng Dọng, hết năm bảy nhăm, qua năm bảy sau vẫn bặt vô âm tín. Cứ vài tuần một lần, Doãng lại đạp xe lên huyện đội hỏi, và lần nào cũng vậy, người cán bộ chính sách đều trả lời :" Chưa xác minh được". Tuy không nói ra nhưng trong thâm tâm, Doãng nghĩ thằng Dọng đã hy sinh mà đồng đội không tìm thấy xác. Thật khổ cho nó. Con người ta chết được công nhận liệt sỹ, còn con mình sao lại chết mờ ám thế. Những ngày tháng chờ đợi càng dài, niềm hy vọng vủa vợ chồng Trịnh Doãng càng vơi. Gặp người làng, nếu ai vô tình nhắc đến chuyện ấy là hắn nổi cáu :

 

-  Ông đừng có mà xỏ xiên, nay mai người ta cấpbằng liệt sỹ cho thằng Dọng rồi khối đứa trắng mắt ra...

 

Doãng già đi trông thấy. Chưa đến bốn nhăm mà tóc hắn đã lốm đốm hoa râm, khuôn mặt nhằng nhịt những vết tàn nhang, bình thường vốn đã khó coi, giờ nhăn nhúm như chiếc bị rách trông càng hãm tài. Đã thế, cặp môi cá ngão dầy quá mức bình thường mỗi ngày một thêm dẩu ra, đẩy lưỡi về phía sau, làm hắn nói năng rất khó khăn. Thỉnh thoảng Doãng lại hỏi thằng Dõng :

 

- Mày gặp các ông chỉ huy đơn vị thằng Dọng người ta bảo thế nào ?

 

- Con đã nói rồi, bố cứ hỏi mãi. Họ bảo anh ấy có khả năng bị địch bắt rồi chúng thủ tiêu.

 

- Thế có khốn nạn không chứ ! - Doãng thở dài thườn thượt - Đợi ít lâu nữa rồi tao với mày phải vào trong ấy xem sao. Chẳng nhẽ họ lại vô trách nhiệm với người lính như thế...

 

- Được rồi, con đi. - Thằng Dõng nhấm nhẳng - Nhưng bố mẹ phải cưới cái Nụ cho con.

 

- Mày ra điều kiện với tao đấy hả ? - Doãng cáu, nói lập bập - Con với cái.

 

***

 

Nhiều năm qua đi...

 

Thằng Dõng, thằng Dung, thằng Dị đã lấy vợ ra ở riêng. Ba thằng chẳng thằng nào theo trọn nghề của bố. Dõng kiếm được ít vốn chạy tuyến biên giới buôn hàng Trung Quốc. Dung cùng với mấy anh bạn nhận đấu thầu khu đồng trũng thả cá và nuôi vịt đẻ tận quán Năm Gian. Riêng thằng Dị không chịu cảnh đất chật người đông chỉ độc canh cây lúa đã dắt vợ vào Lâm Đồng lập nghiệp. Doãng vẫn túc tắc thả ống lươn kiếm đồng ra đồng vào. Có điều, bí mật công nghệ đã bị đánh cắp, làng Yên hình thành một đội ngũ hành nghề khá đông, chuyên cung cấp hàng cho cửa khẩu Móng Cái, thành ra lươn ít dần, thậm chí có nguy cơ tuyệt chủng. Nhiều lúc ngồi nhắm rượu với lươn om riềng bên cạnh bà vợ kém mắt, Doãng than thở:

 

- Nghề của tôi mạt vận đến nơi rồi bà ạ !

 

Giữa năm chín hai, Trịnh Doãng nhận được thư thằng Dọng từ Pháp gửi về. Vậy là nó còn sống nhưng tại sao lại theo bọn " thực dân đế quốc"  ? Doãng giận lắm, định xé thư đi. Thằng Dung vội ngăn lại :

 

- Thầy nóng tính quá, cứ đọc hết xem anh ấy nói những gì đã.

 

 Doãng lườm con :

 

- Nó bỉ mặt tao. Chuyện này mà lộ ra thì nhục với cả làng.

 

Dung đọc xong, mặt ông bố tươi tỉnh hẳn lên. Hoá ra sự việc cũng đơn giản chứ không phức tạp như Doãng nghĩ.

 

Đầu năm bảy tư, trong một trận đụng độ với t tiểu đoàn 7 thủy quân lục chiến quân đội Sài Gòn  , đại đội 12 bị đơn vị thiện chiến này tập kích gây tổn thất nghiêm trọng. Trung đội của Dọng toàn lính mới, tuy chiến đấu dũng cảm nhưng chưa có kinh nghiệm với những tình huống phức tạp ở chiến trường, thương vong khá nhiều. Số còn lại, trong đó có Dọng, bị trực thăng hốt đưa về căn cứ Phước Tân. Tại đây, phần lớn tù binh phải lên rừng chặt gỗ hoặc khai thác đá ở sườn núi Ông Tượng. Một lần đi làm, nhận thấy toán quân cảnh giám sát có vẻ lỏng lẻo, nhóm sơn tràng của Dọng giết chết một viên thiếu uý, trói mấy người lính, nhét giẻ vào mồm rồi rủ nhau trốn trại. Nhưng cuộc tháo chạy thất bại, ngay đêm hôm ấy, tất cả đều bị bắt lại. Dọng nhận hết về phần mình, như thế có nghĩa là chấp nhận hình phạt xử bắn. Viên trung tá giám thị trại giam, người gốc Phát Diệm, thấy gã Việt cộng trẻ măng, vẻ lanh lơi, lại có hành động nghĩa hiệp, trong lòng phục lắm liền gợi ý :

 

- Tôi có thể miễn tội chết cho cậu nhưng với một điều kiện.

 

- Điều kiện gì ? - Dọng nhìn viên sỹ quan với vẻ cảnh giác, hỏi cộc lốc.

 

- Đơn giản thôi, làm lính hầu cho tôi.

 

Dọng nghĩ một thoáng rồi khẽ gật đầu :

 

- Được... nhưng xin ông đừng xử bắn những người kia.

 

- Cậu là thằng đầu têu mà tôi còn tha huống hồ anh em khác.

 

Cuối tháng hai, viên trung tá có dự cảm cuộc chiến sắp tàn, nền Đệ nhị cộng hoà khó mà đứng vững, nếu không thoát ra mau sẽ có nguy cơ chìm thuyền, bèn xin giải ngũ đem cả vợ con sang Pháp. Ông ta bảo Dọng :

 

- Cậu được tự do nhưng theo tôi nên xác lập cho mình một tương lai chắc chắn ngay từ bây giờ.

 

- Trung tá nói sao ?

 

- Từ giờ đến lúc kết thúc chiến tranh có lẽ cũng chẳng còn mấy , và ai biết chuyện gì sẽ xẩy ra đối với những tù binh như cậu, cho nên, tốt nhất là di tản cùng gia đình tôi.

 

- Nhưng còn bố mẹ, anh em tôi ở miền Bắc ?

 

- Nhà cậu còn những ba gã con trai đúng không ? - Viên cựu giám thị kiên nhẫn thuyết phục - Vả lại, Bắc Việt đang đói và có lẽ còn rất lâu mới thoát ra khỏi ảnh hưởng tai hại của cuộc nội chiến chó má này. Khi đã có chút tài sản trong tay, về nước lúc nào chả được.

 

Nghe ông ta tán, thấy cũng có lý, Dọng gật đầu bảo :

 

- Trung tá nói đúng, ông bố tôi suốt đời làm nghề thả ống lươn, có nằm mơ cũng không dám nghĩ đến chuyện sang Pháp.

 

Mười mấy năm qua, Dọng biết quê nhà đã có nhiều thay đổi. Chính quyền hiện tại không còn định kiến nặng nề với những người vì hoàn cảnh bắt buộc phải rời tổ quốc kiếm sống ở phương trời xa. Nó dự định sẽ về thăm quê.

 

Mấy tháng sau, Dọng đưa vợ con về thật. Vợ nó chính là con gái viên trung tá giám thị trại tù bình Phước Vĩnh năm xưa. Vợ chồng Dọng ở nhà một tháng. Nó biếu họ hàng quà cáp chu đáo, giúp vốn các em làm ăn và cho bố mẹ đủ số tiền xây ngôi nhà hai tầng đẹp nhất làng Yên. Trước khi về Pháp, Dọng ra uỷ ban xã xin góp năm ngàn dollars để xây trạm xá.

 

Trịnh Dọng nghiễm nhiên trở thành Việt kiều yêu nước. Lão Doãng bao năm khổ sở vì cái nghi án mất tích của con trai, nay được mở mặt mở mày với hàng xóm, trong lòng vô cùng tự đắc.

 

Sau tết nguyên đán, Dọng gửi giấy bảo lãnh cho bố sang Pháp chơi mấy tháng. Lão Doãng đến Paris cứ như người từ hành tinh khác xuống vậy. Gặp cái gì lạ lão cũng "ồ","à" hệt như dân làng Yên ra tỉnh  nhìn thấy những manequin ăn mặc hở hang trong tiệm may đo. Thằng Dọng là chủ cửa hàng cơm chuyên bán những món đặc sản Việt Nam, nổi tiếng nhất là lươn, ếch, ba ba. Lão không thể hiểu , ở cái xứ sở cách quê nhà cả chục ngàn cây số, quanh năm giá lạnh này mà chúng vẫn kiếm được hàng thùng lươn béo mẫm, phục vụ khẩu vị của các thượng đế tha hương.

 

Sang đây với con, Doãng đâm ra nghiện món bánh mỳ sốt vang thịt bò. Người lão đẫy ra, những vệt rỗ nhằng nhịt - di chứng của căn bệnh đậu mùa - hình như đang lặn dần. Khuôn mặt nhăn nhúm vốn dĩ khó coi của lão giờ giãn ra, bóng nhẫy, linh động, đầy sinh khí. Hết đi thăm các danh lam thắng cảnh lại ở nhà bật máy thu hình (toàn người Tây, chữ Tây) xem mãi cũng chán, Doãng đòi về. Vợ chồng Dọng giữ mãi không được đành phải chiều ông bố trái tính.

 

Về đến nhà, như lời thằng Dọng dặn, Doãng mang tặng uỷ ban bảy ngàn dollars để xây trụ sở theo sự gợi ý của ông chủ tịch vốn là bạn đánh giậm với nó thuở trước. Số còn lại, lão bàn với vợ gửi ngân hàng lấy lãi. Từ đấy họ Trịnh bỏ hẳn nghề thả ống lươn.

 

Trụ sở uỷ ban hai tầng, mặt tiền ốp đá, mái chóp, nổi tiếng hàng huyện. Để ghi nhớ công lao của Trịnh Doãng có được người con làm vẻ vang cho quê hương, ông chủ tịch đề nghị dựng tượng lão ở ngay phía sau khuôn viên trụ sở. Công trình hoàn tất, rất nhiều người đến xem và bình phẩm. Đó là một hình người thô kệch bằng xi măng cốt thép, đứng ưỡn ngực trên bệ cao, vai khoác chùm ống lươn, chiềng ra trước thiên hạ bộ mặt vênh váo, do nhà điêu khắc Quang Đệ nổi tiếng lãng tử của Hội văn nghệ tỉnh sáng tác.

 

Dạo này, bụng Trịnh Doãng có xu hướng mỗi ngày một to bởi từ khi giải nghệ, ít vận động, tỳ vị đâm ra ngưng trệ.Vì thế, sáng nào lão cũng đạp chiếc xe Peugeot cánh trả qua lối cổng chùa Vĩnh Hưng, lên đường trục liên xã rồi sang Phố Phủ làm vại bia cỏ, bát tiết canh và tô phở tái. Vừa ăn, lão vừa thả lời ong bướm tán tỉnh bà chủ quán phốp pháp còn khá trẻ, có cặp mắt hiếng.

 

Trên đường về, Doãng đạp xe thật chậm rãi như người tập thể dục dưỡng sinh. Đến trụ sở uỷ ban, thế nào lão cũng vòng ra phía sau vườn ngắm tượng của mình.  Có lần, ngắm xong lão chép miệng :

 

- Cái tay Quang Đệ nói phét một tấc đến giời. Tượng chẳng giống mình tí nào. Thật phí tiền... 

Lều hoang

» Tác giả: Nguyễn Hồng Dung

» Dịch giả:

» Thể lọai: Truyện ngắn

» Số lần xem: 3057

1. Lều hoang

Những luống mây xốp ửng hồng đằng đông báo hiệu một ngày đẹp trời. Gió thu thơ thới lùa trên đầu những bông cỏ may tím dọc bờ mương. Ông Tâm cởi trần, áo vắt vai, đi từ lều cá về nhà. Bây giờ chắc bữa sáng đã sẵn sàng chờ ông. Một đĩa bánh cuống chả nóng chấm mắm cà cuống, một ly cà phê và vài thứ trái cây hái ở trong vườn - bữa sáng mà ông ưa thích. Cà phê sáng và rượu buổi tối là những thứ mà ông không bỏ được trong thói quen hàng ngày.

Cổng nhà hiện ra trong làn sương nhẹ mỏng. Một ngôi nhà bề thế nhất làng. Nhà ngói ba gian làm bằng gỗ lim. Hơn hai mẫu đất thổ cư, vườn cây trĩu quả, mùa nào thức nấy. Ngôi nhà luôn là niềm tự hào của gia đình ông.

Nhưng hôm nay có chuyện gì trước cổng nhà ông thế kia? Người đứng đầy thành vòng tròn túm tụm. Thôi chết, hay là nhà mất trộm? Lũ chết tiệt trộm cắp nghiện hút trong làng thường rình ngày rình đêm nhà ông nhưng chưa có cơ hội để lọt vào. Nó mà nẫng đi một chiếc xe máy hay cái dàn của ông thì mất toi vài chục triệu. Ông lật đật chạy về, tim thắt lại. Hay là trong nhà ai bị làm sao? Con ngan già của ông (ông vẫn gọi đùa vợ ông như thế) khụyu rồi chăng? Ông vừa rẽ đám đông bước vào vừa hớt hải hỏi xem có chuyện gì. "Ông chủ đây rồi ! - ai đó reo lên - Ông về mà xem, một đứa bé". "Đứa bé nào? Đứa bé nào? - Ông hỏi dồn dập - đẻ rơi à?". Không phải là đứa bé đẻ rơi. Trên mặt đất đặt một chiếc làn bên trong làn có một đứa bé đỏ hỏn, quấn trong đống tã bẩn, đang cựa quậy khóc. Sáng nay bà Tâm đi chợ thì thấy chiếc làn treo trước cổng. Bà hét lên khi trong đó là đứa trẻ sơ sinh. Hàng xóm lập tức bu đen bu đỏ để chứng kiến một hiện tượng chưa từng xảy ra trong làng. Người ta kháo nhau có lẽ đây là hậu quả của một cô nàng dại dột nào đó, thấy nhà khá giả thì vứt lại cho người ta làm phúc. Bà Tâm hết rên rỉ lại thở dài sườn sượt. Thấy chồng về, bà túm áo hỏi xem phải xử trí thế nào. Một đứa bé trai. Nó khóc nhiều đến nỗi mặt nó tím lại. Có người xót, bảo đem vào trong nhà. Một bà con mọn vạch vú cho nó bú. Ông Tâm bảo, "Thôi cứ từ từ hẵng tính. Đúng là của nợ. Để rồi tôi báo cho chính quyền xã biết". Đám đông dần tản đi, chỉ còn vài người hiếu kỳ nấn ná ở lại. Đang đi vào nhà, bỗng nhiên một linh tính khiến ông quay phắt lại. Trong bụi cây ở ngã ba đường rẽ, ông nhận ra chính nó. Khuôn mặt nó bất ngờ làm ông giật mình. Nó hơi hoảng sợ khi gặp cái nhìn của ông, vội vàng lẩn vào trong vườn cây và biến mất.

Ông Tâm giật mình. Chân ông như tê cứng. Mồ hôi vã ra như tắm. Ông cảm thấy run, phải vịn vào tường mấy giây mới bình tĩnh lại được.

Thế là nó đã về.

Ông Tâm thuộc loại có máu mặt nhất làng Thượng này. Tuy không giữ chức vụ gì nhưng ông được người trong làng trong xã trọng nể. ấy là vì nhà ông kinh tế đầy đủ, con cái lại phương trưởng. Ba cậu con trai lớn đều thành đạt. Cậu cả hiện đang lao động bên Đức. Cậu hai thì làm chủ cảng than trên tỉnh. Cậu ba ở Hà Nội, chủ thầu xây dựng. Hàng năm hai con về nhà thăm bố mẹ đều đi bằng ô tô. Chỉ có đứa con gái út 16 tuổi, đang ở với ông bà. Ông bà Tâm thuộc loại chăm chỉ, cần mẫn và biết tính toán. Trong nhà tiện nghi không thiếu thứ gì. Giàu có nhưng cái tính hay lam hay làm kế thừa của ông cha thì không bao giờ mất trong ông, ông bà vẫn tăng gia sản xuất như một trang trại. Ngoài hai mẫu đất của nhà với đầy đủ lâm lộc, gà lợn đầy chuồng thì ông còn đấu thầu trồng sen thả cá, mỗi năm cả sen lẫn cá mang lại cho gia đình ông ngót ba chục triệu đồng. Ngoài sáu mươi, ông Tâm còn rất trai tráng. Da thịt đỏ au, rắn chắc, ngực nổi múi, vạm vỡ. Tiếng nói sang sảng như lệnh vỡ. Có điều bà vợ, cái con ngan già của ông thì đã tã rồi. Vú đã teo như quả mướp khô. Người chỉ toàn xương với xẩu. Đàn bà nông thôn ngoài năm mươi là vứt, chẳng có cái vị gì.

Chuyện chăn gối vợ chồng là điều ông Tâm chán chường nhất. Ông có thú uống rượu tối một mình mỗi khi ra lều trông cá. Rượu trứng gà ngâm mật ong, uống vào khiến cơ thể nóng bừng, chộn rộn. Nằm ngoài lều cá nhìn mây nước, thấy thiếu thiếu một cái gì đó. Cuộc sống của ông đầy đủ, nhưng như món bánh cuốn chả thiếu vị của nước chấm cà cuống vậy. Cái thứ gia vị cuộc đời mà ông thiếu đó đã được ông tìm thấy vào một ngày đẹp trời.

*

Cả làng không ai biết mẹ con thị Mùi ở đâu, bỗng rơi vào cái làng nhỏ bé này. Thị xin đến ở trong ngôi nhà hoang ở vách núi - vốn là nơi trước kia của một người đàn bà chửa hoang, bà chết đã khá lâu, đứa con bỏ làng đi biệt tích. Thị Mùi ngoài 30 tuổi, người đậm chắc lẳn, mắt sắc như dao, cười rất duyên và rất lẳng. Thị đi cấy thuê gặt mướn kiếm cơm. Đứa con lên năm thì lủi thủi chơi một mình. Một thời gian sau thì người làng bắt đầu nổi giận với thị, nhất là đám đàn bà có chồng. Cái lều của thị là nơi qua đêm của những gã trai mới lớn muốn nếm mùi đời, những gã đàn ông háo của lạ, là nơi an ủi của những ông đàn ông góa vợ. Thị đón tiếp tất thảy các loại đàn ông, miễn sao phải để lại thứ gì có giá trị. Không có tiền mặt thì bắt gà nhà hay của hàng xóm cũng được, cùng lắm là moi chĩnh gạo của vợ lấy vài bơ. Với thị cứ tiền giao cháo múc. Một lần, có hai gã đến với thị, người trước người sau chỉ cách nhau có vài chục phút. Gã đến sau luồn tiền vào cửa và ngồi đợi. Sốt ruột, gã gọi. Không được gã đập cửa. Máu sĩ nổi lên, gã dọa sẽ xin tiết tay ở trong. Tay ở trong lại là một kẻ ngang ngạnh, thách lại. Thế là gã ở ngoài phá liếp cửa xông vào. Họ ẩu đả rách cả mặt mày, người làng kéo đến xem, thắp đuốc đỏ cả một vùng. Chuyện vỡ lở từ đó.

Ông Tâm tìm đến với thị khi thị đã xuống mã lắm rồi. Thị bắt đầu phát phì: ngực xồ, mặt mũi tay chân nung núc mỡ. Khách đến với thị thưa dần. Ngoài xóm chợ xuất hiện một ranh con, rất ăn khách, làm thị bị ế ẩm, chỉ còn mấy ông góa trong làng đến với thị, mỗi lần cho thị vài ngàn, có khi còn chơi qu��Thị sống vất vả, ngày ngày đi mò cua bắt ốc.

Cái ngày đẹp trời ấy, quả là đẹp trời thật. Ông Tâm đang đứng ở bờ hồ cho cá ăn thì thị đi qua, tay xách một rổ ốc. Thị xuống hồ rửa chân. Ông nhìn chòng chọc vào cổ áo bị bật cúc, để lộ khoang ngực trắng ngồn ngộn, mỗi lần mụ xốc rổ ốc, món phụ tùng ấy lại rung lên, núng nính một cách viên mãn và rất chi ngứa mắt. "Độ này nhà chị bắt ốc bán à?" - ông hỏi. "Dạ vâng. Ông lấy cho em vài cân ốc, ốc mít luộc thì nhất đấy". "Ta cũng thích ăn ốc nhưng ngại luộc". "Tối nay em luộc, ông có dám đến xơi không?" Thị nói, mắt cười tít, trông đến tình ! Ông bảo: "Thật nhé. Ta sang thử xem ốc nhà chị thế nào".

Ông sang thật. Định bụng chỉ đùa trêu con mẹ ấy cho vui, nào ngờ khi rượu vào thì người bứt rứt quá thể. Ông cứ nghĩ vẩn vơ. Một tuần sau, ông đáp lại lời mời của thị.

Thị thực sự là một người đàn bà sành sỏi. Với người vợ hàng mấy chục năm chung sống nhưng chưa khi nào cho ông nhiều khoái cảm đến như thế. Ông đến căn lều đó rất chóng vánh, khi thỏa mãn cộng với một giấc ngủ ngắn ông lại áo khoác vai mò về lều cá. Ông chu cấp cho thị Mùi khá rộng rãi. Ông thấy khỏe ra, hăng hái như thể mình còn đang sung mãn lắm. Có đôi lúc ông cảm thấy ân hận khi nhìn vợ mình nhưng rồi lại tặc lưỡi. Đàn ông năm thê bảy thiếp là chuyện thường tình.

Những đêm cuồng nhiệt bên người đàn ông mà thị cho là chỗ dựa của cuộc đời mình, thị kể cho ông về cuộc đời của thị, từng mẩu một, chắp vá lại sẽ là một câu chuyện lâm li, tất nhiên là có thêm chút gia vị. Ông nghe một cách mơ màng, chuyện một người đàn bà hư hỏng thì thế nào cũng bắt đầu bằng sự bị lừa lọc phản bội... Những chuyện đó không làm ông mủi lòng. Đàn bà là đàn bà, thế thôi. Đứa con gái út ông cho học vừa đủ, sự học không dành cho đàn bà. Đàn bà cần sạch sẽ, trưng diện. Ông giao cho vợ giám sát con gái chặt chẽ các mối quan hệ với bạn trai, các buổi tối và cả từng kỳ hành kinh của nó nữa. Theo ông, đức hạnh đàn bà có được là do sự giữ gìn, còn đàn bà, ai cũng thiên hướng lẳng lơ tuốt.

Thị Mùi đột ngột chết vào một ngày mùa đông do một cơn đau kỳ lạ mà ông bác sĩ xóm bảo đó là ruột thừa. Thị không có người thân thích, ngoài đứa con mười ba tuổi vì vậy xã bỏ tiền ra chôn cất thị. Vài tuần sau người ta phải bận tâm về đứa trẻ. Trẻ em trong làng không ai kết bạn với nó, nó lớn lên một cách cô độc, hiu quạnh. Mẹ chết, nó trở nên bơ vơ. Nó tha thẩn ra chợ xin ăn. Mới đầu người ta thương cảm cho tình cảnh của nó, sau cho nhiều, thành nhàm, tình cảm nhạt dần. Mùa lũ năm ấy, miền Trung bị trận lụt lớn. Người ăn xin tràn về các tỉnh thành, họ mò đến cả cái xã bé nhỏ này. Có những thằng bé đi xin ăn bằng hát xẩm, đứa thì đi đánh giầy nhưng có khi cả ngày chẳng đánh được đôi giầy nào vì chợ quê toàn đàn bà, chủ yếu là đi dép và chân đất. Đám trẻ con ăn mày tha phương đó rẻo mỏ, nhanh nhẹn, chúng làm hộ những công việc mà các bà cần như nâng thúng, bê bì gạo vào chợ... Con bé chậm mồm chậm miệng không còn kiếm được miếng ăn đều đặn nữa, nó đi mò cua bắt ốc kiếm ăn qua ngày. Nó đói và rách rưới. Trông tơi tả như một thây ma. Nó sống một cách khốn quẫn trong tình thương của những người bố thí cạn dần.

Với ông Tâm cái chết của thị Mùi làm ông hơi động lòng. Ông tặc lưỡi, cho rằng đó là cái may của mình. Hàng năm thị cũng tốn của ông một khoản kha khá. Nhưng chỉ vài tháng sau ông lại cảm thấy chống chếnh. Nhiều đêm sao chịu nổi, bò về với vợ. Khi vừa sờ vào con ngan già của ông thì hưng phấn đã nguội ngay. Người đâu mà các khớp xương cứ lục cục như một cỗ máy tã khi cử động. Chán chết !

Một đêm hè, trời oi oi, sau khi đã lâng khâng, ông lang thang trên con đường mòn, vừa đi vừa gãi bụng. Những bước chân theo thói quen, hình như vậy, đã dẫn ông đến trước ngôi nhà nơi xó núi, nó xam xám dưới ánh trăng hạ tuần. Nửa năm nay ông không tới, cỏ mọc che mất cả lối mòn. Ông đẩy tấm liếp vào nhà. Thực sự thì ông không biết vì sao mình đã làm như vậy. Ông tìm vào căn buồng xưa, bỗng nhiên vấp phải một vật, loạng choạng suýt ngã. Ông bấm đèn soi và chợt sững người. Dưới đất là một tấm thân con gái cong queo trên manh chiếu rách. Nó mặc độc chiếc quần đùi rách. Cặp vú trinh nữ mới nhú như chỏm cau có chiếc núm hồng hồng. Ông bỗng ngạc nhiên vì bao nhiêu lần mình tới đây mà không hề nhìn thấy sự tồn tại của đứa nhỏ. Những món tóc cháy nắng lòa xòa phủ trên gương mặt xanh xao một vẻ gì đó đáng yêu, nửa đàn bà nửa trẻ con. Rất nhanh chóng ông phủ lên người nó và lặng lẽ chiếm đoạt đứa bé. Nó hầu như không có một chống cự. Nó mềm oặt, thân xác quá bé nhỏ và lúc đó nó gần như chết đói.

Ông Tâm hầu như quên ngay chuyện đó. Ông không có thời giờ để suy nghĩ về hành động của mình vì tiếp đó là ngày giỗ mẹ, hai đứa con ông đánh ô tô về làng chè chén suốt hai ngày mới đi. Một chiều ông cùng vợ bắt cá để cho buổi sớm mai, thì nó xuất hiện. Những món tóc cháy nắng được chải có lề lối hơn. Nó nhìn ông, nở một nụ cười thảm hại và chờ đợi. Bà vợ ông ngứa mắt: "con kia, mày tới đây làm gì?". Nó yên lặng, nhìn ông chằm chằm. Ông trấn tĩnh lại, bảo vợ cho nó một con cá trắm. Bà Tâm giẫy nảy, nhưng vẫn làm theo ý chồng. Con bé cầm cá, mắt vụt sáng chạy thẳng về lều.

Ngay đêm ấy ông lại mò tới lều. Người nó hôi rình, nhưng ngậy mùi trẻ thơ. Ông cho nó tiền, bảo nó không cho ai biết, chi tiêu vừa phải và nhớ mua xà phòng thơm mà tắm.

Tấm thân còi cọc của con bé làm ông say. Cái mùi vị đàn bà mới lớn ngầy ngậy, sự hoang dại của nó khiến ông luôn thèm muốn. Ông đi lại với nó nhiều hơn. Con bé với một bản năng đàn bà thiên bẩm, nó nhanh chóng thành thạo, có điều không được nhiệt tình. Nhưng nó lại gợi hứng cho ông nhiều hơn người đàn bà từng trải kia.

Cho tới một hôm ông phát hiện ra cái bụng nó lùm lùm dưới áo, núm vú bắt đầu thâm lại, ông mới thật sự hoảng hốt. Ông nghiến răng mắng nó. Nó giương mắt nhìn ông, đầy vẻ vô tội. Tính ra cái thai đã ở tháng thứ tư.

Ông cho nó một khoản tiền kha khá, lén đưa nó lên bệnh viện tỉnh, không dám vào ngộ nhỡ gặp người quen. Ông bảo, xong việc tự nó tìm về.

Nhưng nó không về. Một tuần. Một tháng, hai tháng... Ông nhớ nó. Ông nghiện nó. Thời gian cứ lầm lụi trôi. Khi ông đã gần quên thì nó tự dưng bò về.

l

Bà Tâm rầu rầu nhìn đứa trẻ. Bà chửi cha bố đứa nào bỏ con vất vưởng trước cổng nhà bà. ác giả thì ác báo. Bà tính đi tính lại, rồi quyết định nuôi đứa bé. "Thứ nhất để lấy phúc cho con cái, với lại thằng cả nhà mình chưa có con, có thể sau này làm con nuôi nó. Nuôi một đứa bé đối với nhà mình cũng chỉ bằng nuôi một con chó mà thôi" - bà bảo vậy. Ông đồng ý. Dù sao nó cũng là máu mủ của mình, không thể vứt đi được. Thế là ông trút được gánh nặng về mối nghi ngờ nhưng lại quàng vào cổ một gánh nặng khác. Ông thấy cần phải trị cho con bé một trận. Trong óc ông thoáng nhớ đến cái mùi ngây ngậy hoang dã của nó, nước bọt ông tứa ra. Đêm ấy ông lại mò tới lều. Ông tự nhủ, sau khi răn dạy nó xong, cẩn thận khi chung đụng, kẻo lại vớ phải một cái làn nữa ở cổng thì mất mặt. Căn nhà đã thành hoang phế, cây dại mọc kín lối vào. Ông đẩy liếp vào nhà. Ngôi nhà trống tênh, mái tranh thủng lỗ chỗ, qua đó ông có thể nhìn thấy khoảng trời và cả mảnh trăng hạ tuần đỏ ối.

*

Người làng Thượng kính phục ông Tâm hơn sau cái vụ nhận nuôi một đứa trẻ hoang. Cũng có lời xì xào rằng không dưng lại có ai đó đặt con vào nhà ông và cả chuyện đứa bé lớn lên hao hao giống bố nuôi của nó. Nhưng đó là mồm miệng thế gian. Một bậc đáng kính như ông Tâm, thiếu gì kẻ đố kị.

Ông Tâm năm nay không còn tráng kiện như xưa. Làng lại có một người đàn bà mò về ngôi nhà hoang đó. Người ta bảo ngôi nhà đó có dớp. Một gã trai chịu chơi của làng đã gặp con bé con thị Mùi trong nhà hàng trên tỉnh, bây giờ nó khác xưa hoàn toàn. Nó đang thời kỳ ăn khách. Đúng là ngôi nhà có dớp. Vả lại, giỏ nhà ai quai nhà nấy, câu nói đó của các cụ cấm bao giờ sai !

Chuyện Miền Thôn Dã

» Tác giả: Nguyễn Tân

» Dịch giả:

» Thể lọai: Truyện ngắn

» Số lần xem: 3608

1. Chuyện Miền Thôn Dã

Lời Người Viết:

Nhớ hồi tôi còn nhỏ, ba tôi "phái" đọc "Hương Rừng Cà Mau" của Sơn Nam lắm. Nhưng, theo lời ông, "thằng chả " nói hổng hết những chuyện mà người dân Nam Kỳ Lục Tỉnh thấy hàng ngày, nghe hàng ngày.

Nay ba tôi đã khuất núi lâu rồi, tôi ghi lại vài mẩu chuyện để vơi nỗi nhớ quê nhà. Mong rằng những người đã lớn cỡ tuổi ba tôi, cũng "pháí nghe chuyện về miền thôn dã xa xưa đó. Nhân năm Tỵ, xin khởi đầu bằng...

1. TRĂN RẮN Ở SÓC XOÀI

Ngoại trừ núi Sóc sơn, thuộc Kim Anh, tỉnh Phúc Yên ở ngoài Bắc, nơi Phù Đổng Thiên Vương với ngựa thần, roi sắt bay về trời, còn ở trong Nam, nếu địa danh nào có chữ sóc, thì y chang đó là vùng, hoặc làng của người Miên.

Sóc Xoài nằm ở giửa khoảng đường từ Rạch giá đi Hà Tiên. Rạch Giá thì ruộng vườn thạnh mậu, Hà Tiên với núi đồi xanh mướt, nhưng Sóc Xoài chỉ cách hai Thị xã kia chừng ba mươi cây số mà đất đồng đỏ quạch vì phèn, thỉnh thoảng mới có một vườn miá cây khẳng khiu như cái cẳng gà. Người Pháp xưa kia đã từng mở đồn điền khóm tại đây, nhưng bây giờ lâu lâu mới thấy có vườn khóm rộng không quá năm công.

Dân chúng hầu hết là người gốc Khờ me, nói tiếng Việt theo kiểu " cực khổ " thì y như là "cứt khô ", nhưng học tiếng chửi thề thì rõ ràng và không sót một chữ". Nhà cửa nghèo nàn, lúp xúp, trống cả trước sau, con nít ngồi chồm hổm phơi cái bụng ỏng như cái trống chầu. Thế nhưng gần đối diện với nhà lồng chợ, một ngôi chùa Miên đột ngột mọc lên , rực rỡ diêm dúa như cô công chúa lạc xuống cõi dân gian đầy khổ ải. Cũng như những ngôi chùa Miên đẹp đẽ khác, chung quanh nó là những hàng cây sao cao vút mọc lẫn với chừng vài chục cây thốt nốt. Người Miền Nam đã được mang tiếng lè phè, nhưng so với những người Miên ở đây thì đành phải chào thua. Họ làm lúa ít khi đủ gạo ăn. Đến mùa nước lớn, họ đi nhổ bàng về đương nón, đệm và bao cà ròn. Còn mùa khô, cả xóm kéo đi bắt chuột, bắt rắn hoặc trăn.

Lúa vùng này năng xuất đã kém, mà chuột đồng còn phá dữ dội. Những đám lúa gần lung đìa luôn luôn phải cắt trễ, vì nước sâu nên chín chậm hơn chỗ cao. Chuột dồn về đây nên dưới mặt đất in đầy dấu chân chuột. Người ta cắm đăng, đặt lọp như bắt cá , trên lọp còn phủ một cái chài, vừa ngăn chuột chạy thoát, vừa có thể bắt thêm được ít chim ốc cao đang lẩn lút dưới bụi lúa không bay ra được. Bình thường , lọp tre hay lưới chài, bọn chuột coi có ra gì với hàm răng sắc bén, nhưng lúc đang bị rượt đuổi, chúng chỉ lo chạy mà thôi. Có đôi khi họ dùng phương pháp dậm cù : Chừng năm mười người chạy vòng quanh một đám lúa hay cỏ, đạp nhẹp xuống, càng lúc càng nhỏ vòng lại. Sau cùng , cù chỉ còn lớn bằng cái nia, chuột quay đầu vào giữa, thò cả mấy trăm cái đuôi ra ngoài. Người ta nắm đuôi từng chú, đập mạnh xuống đất , rồi vất ra phiá sau. Chuột lột da, xào sả ớt nhậu một bữa, còn bao nhiêu mới đem ra chợ bán.

Vì vùng này đất hoang còn nhiều, cỏ lăn cỏ lác mọc cao trùm lấp, chuột làm ổ khắp nơi, trở nên một nơi lý tưởng cho loài bò sát như trăn với rắn sinh sống. Rắn ở đây phần nhiều là rắn cá, không có nọc độc, nhưng nó táp như chó cắn và để lại hai hàng răng như xương cá.

Có người đã từng bắt gặp rắn mắc võng tát cạn một vũng nước đầy cá. Cũng có vài loại rắn độc như loài hổ trâu, dài khoảng hai thước, trên đỉnh đầu có chữ o lớn, nó cắn nhằm thì trâu cũng phải rống lên và trong ít phút là ngã qụi. Loài cạp nong ít ai dám đánh, vì xương sống lưng nhọn lên như hình tam giác, lấy khúc cây hay cán cuốc đập nó, xương lưng dính luôn vào đó, khi ta dỡ lên để đập cái thứ hai theo phản xạ, nó sẽ theo cán cuốc nhấc bổng lên cao và đớp trúng ngay mặt người đập. Mà đã bị rắn cắn ngay mặt, thì chỉ có trời cứu.

Con rắn Mai gầm tuy nhỏ con, nhưng lúc đói, nó thôi miên những con rắn khác, và há họng nằm chờ, con rắn kia tự mình bò vào cái họng đang hả lớn cho nó nuốt. Có đôi khi con rắn đó dài quá, khúc đuôi vẫn còn thò ra ngoài. Mà loài trăn , rắn khi đã nuốt con mồi vào thì không thể nhả ra được, vì hàm răng móc xuôi vào phía trong. Thế nên, cả con Mai gầm, lẫn con rắn nạp mạng đều chết.

Có những ngày động tình, cả bầy rắn cuốn xà nẹo nhau như một đống dây thừng, người ta lấy gậy hoặc cù nèo móc cả bọn bỏ vô bao mà chúng cũng không buông nhau ra. Có lẽ vì thế, nhiều dân tộc trên thế giới tôn rắn là thần ái tình chăng?

Có những con rắn lớn thường phủ con mèo cả mấy tiếng đồng hồ, con mèo gầm gừ, mắt lim dim nằm im dưới gốc bụi tre rậm rạp. Nghe nói con của nó sinh ra thường là linh miêu màu đen. Nếu một người mới chết còn đặt nằm trên chõng, hoặc đã bỏ vô hòm mà chưa đậy ván thiên, khi bị con linh miêu nhảy ngang, hấp lực có thể dựng xác chết dậy mà đuổi theo. Người ta gọi đây là qủi nhập tràng.

Ở bến xe Long Xuyên , có người bán dạo quảng cáo rằng : Anh ta bán một loại đậu hái trên núi Cấm, khi bị rắn cắn, cứ chẻ hai hột đậu ra, úp vào vết thương, là nó sẽ trị được nọc. Không biết có ai nghe lời láo khoét này để bị chết oan mạng không ? Thực ra , nọc rắn làm cho máu con người bị đông lại, nghẹt mạch máu mà chết. Có người bị nọc độc quá, khi chết tất cả các chân lông đều rướm máu. Cách hay nhất là làm chỉ huyết, nghĩa là dùng dây cột chặt để ngăn nọc độc chạy về tim, sau đó rạch vết thương rồi hút máu ra. Nhưng cũng rất nguy hiểm nếu người nào có vết lở trong miệng , hoặc sâu răng, nọc có thể làm chết người đã hút máu cứu bệnh nhân. Thường thường ở vùng quê nhiều người có ống giác hơi, dùng ống này là tốt nhất, sau đó chở tới y tá hay nhà thương chích thuốc trị rắn.

Trăn không có nọc, nó không ăn cá, mà thường ăn chuột sống, đôi khi đói quá, còn bò vào chuồng gà để ăn trộm. Nếu chuồng làm bằng lưới mắt cáo, nó chui lọt khúc đầu vào ngoạm con gà, nhưng không sao rút ra được, vì con gà đã nuốt nửa chừng. Khúc đuôi quá to ở ngoài thì quật đập đùng đùng lẫn với tiếng gà kêu oang oác. Chủ nhà chạy ra chỉ việc lấy mác hay phảng, lia một nhát là đầu đi đằng đầu, đuôi đi đằng ..xào lăn.

Rắn đi đâu cũng cô đơn, nhưng trăn thường sống một cặp. Theo lối trăn bò, người ta có thể đoán biết đó là trăn đực hay cái, là vì cơ quan sinh dục của con đực cà thành một vết sâu xuống đất.

Bắt trăn phải có tay nghề, sức nó mạnh lắm. Gặp con trăn lớn khi bị tấn công, nó cuốn nghẹt thở chết người như chơi. Cả trăn lẫn rắn, nếu không bị đạp nhằm, hoặc đuổi đánh, chúng không hề muốn đối đầu với loài người. Khi nghe động, chúng thường lủi trốn thiệt mau.

Chuyện rắn trả thù hoá thành Thị Lộ hại ba đời nhà Nguyễn Trãi ngày xưa không biết có thật hay không, nhưng kẻ viết bài này đã từng chứng kiến việc rắn tìm đến tận nhà chờ trả thù.

Ông Ba Tụng cùng vài người bạn lúc phát cỏ để tát đià, có đập được mấy con rắn hổ hành, nhưng có một con chạy thoát. Chiều hôm đó, họ nướng cá và nấu cháo rắn nhậu chơi. Đến lúc cô con dâu của ông Ba soi đèn vô buồng để rót rượu, thì trời ơi, một con rắn hổ cuộn quanh hũ rượu, đang ngóc cổ lên chờ. Cô la lên và mọi người tuy sợ hãi nhưng sau cùng cũng hè nhau đập chết con rắn này.

Bắt được trăn, dân nhậu không ăn bừa phứa như rắn, họ đem lại tiệm Cắc chú bán theo ký. Ở đây có thợ lột da trăn, căng ra phơi, rồi chở tuốt đi bán trên Sài gòn, còn thịt thì cắt khúc trông như khúc cá lạt , bán cho dân Miên kho chung với mắm bò hóc .. ăn dần.

Hồi đào con kênh xáng, công nhân chiếc xáng đang cạp một bờ mọc đầy đế xậy, lúc dỡ cạp đất lên cao, thấy một cặp trăn bị kẹp chung trong đất , họ ngưng máy và bắt được cả đôi. Con bị thương thì trưa hôm đó bị lên dĩa liền, còn con kia họ lấy dây chì sỏ xuyên cả hai hàm , rồi cột lại ở cuối xà lan. Thế mà nó vuột mất tha theo cọng dây kẽm.

Ai cũng tưởng nó vọt xuống sông đi mất luôn rồi. Có ngờ đâu nó vẫn còn trốn ở trên tàu. Dưới tàu và xà lan chuột sinh sống nhiều lắm, người ta đặt cạm, bỏ bả, nhưng không sao diệt hết được. Bỗng dưng chuột bị chết nhiều quá, thúi um trong những kẹt hóc. Con nào cũng rụm xương và bị kéo ra dài ngoằng. Lúc đó, vì dò tìm chuột chết, người ta lại tìm thấy con trăn ốm nhách. Thì ra nó đói, bắt được chuột, cuốn cho nhừ, kéo dài ra rồi, mà ăn không được vì miệng đã bị khâu laị. Nhờ công diệt chuột đó, con trăn được mở dây và nuôi trên tàu như một con mèo dễ thương. Mấy tháng sau, có lẽ vì nhớ nhung đồng loại, nó âm thầm bỏ ra đi không một lời từ giã.

Bây giờ những quán Đặc Sản mọc lên như nấm, với những màn uống máu rắn máu dơi, nuốt tim nuốt mật coi ớn quá. Những vùng hoang dã cũng chẳng còn bao nhiêu cọp beo rắn rết để cung cấp cho những quán loại này. Người ta đã bắt đầu có những trại nuôi thú rất rộng lớn, và chủ nhân thì.. .. giàu lên cấp kỳ.

2. Làm Giàu

Thằng cháu rể hỏi tôi: " Chú biết tại sao, ba cháu hồi trước 75, ruộng nương không có mà ổng giàu không?"

- Dỡn chơi mậy. Ổng có nhà máy làm đường, lại có cơ sở làm men thì giàu là phải.

- Không phải do hai cơ sở đó đâu, dĩ nhiên nó có dính liú tới, nhưng chuyện này hồi đó gia đình cháu dấu, bây giờ qua đây hết rồi để cháu kể chú nghe.

- Khoan đã, để tao đi pha hai ly cà phê rồi mày hãy kể.

Vừa pha cà phê, tôi vừa ngẫm nghĩ: Làm giàu thì ai mà không muốn, tại sao mình không tìm hiểu để bắt chước làm giàu như người tả Cho dù Chúa có phán "Người giàu vào được nước thiên đàng còn khó hơn con lạc đà chui qua lỗ kim." Nghe theo lời Chúa cái gì thì được, chứ cái vụ giàu thì tôi nghĩ khác. Mình giàu mà dùng tiền bạc làm điều phải, giúp đỡ kẻ khốn cùng thì được quá đi chớ.

Sáng chủ nhật mùa thu có chút sương mù, gây gây lạnh. Chú cháu tôi ra vườn phì phà điếu thuốc bên ly cà phê nóng. Thằng cháu rể thong thả kể chuyện làm giàu của ông già vợ nó.

Ông Hai Sáng, sui gia của anh chị tôi, có hai cơ hội làm giàu.

Trước hết nói về lò đường. Ông nhận ép miá cho nông dân theo tấn, họ đem mật miá về tự làm ra đường. Ông cũng còn mua mía về ép rồi nấu đường.

Hồi khởi đầu, ép miá bằng "che," đó là hai trục làm bằng cây gỗ căm xe dựng đứng bên nhau, dùng sức bò hay trâu kéo một cái cần như cái dàng xay lúa đi vòng tròn quanh trục. Một người ngồi cho "ông che ăn", nghĩa là đút miá vào ép. Mật miá được hứng dưới đáy và chảy vào thùng. Tại sao lại gọi là "ông" chẻ Vì ông hay ăn cả cánh tay người đang ép miá khi người này mỏi mệt quá mà ngủ gục, trong khi tay vẫn đều đều thọc miá vào máy ép, mà mắt thì ngủ.

Tai nạn càng xảy ra nhiều thì ông che lại càng được nể sợ và cúng kiến nhiều hơn. Ở miền quê, con gì, cái gì làm người ta sợ thì đều được tôn lên là ông cả. Ông cọp; ông sấu; ông lò vv...

Mật miá được nấu và đổ ra muỗng có lót bùn non. Khi đang nấu, bọn con nít thường hái lá chanh hay lá mít, loại lá già vừa phải, nhúng vào nồi đường đang nóng rồi xỏ dây treo lên phơi. Khi khô rồi, lớp đường trong như kiếng phủ bên ngoài, có thể nhìn thấy màu xanh và từng gân lá phía trong. Cắn một miếng kẹo lá này thì hết biết, nó dòn, ngọt, mang mùi mật lại có vị thơm mùi lá cây.

Hồi xưa chỉ làm được đường thẻ và đường tán, sau này máy ép miá chạy bằng máy dầu, sạch sẽ mà công xuất mạnh hơn nhiều. Mật miá cũng nhờ máy li tâm làm ra đường cát, nhưng làm sao trắng bằng đường Hiệp Hòa, nói chi đến đường nhập cảng. Bởi vậy giá bán rất hạ. Tóm lại nghề lò đường chỉ đủ ăn chứ không làm giàu được.

Tới đây xin ngưng lại một chút nói về con đuông, một món ăn lừng danh mà nghe nói ngày trước, mỗi lần ông Kỳ hay ông Thiệu về miền Tây thường được đãi ăn. Món này chỉ họa hoằn mới thấy xuất hiện trên thực đơn nhà hàng Đồng khánh Chợ Lớn. Đuông là một loại sâu trắng to bằng ngón tay cái, nhà hàng bỏ con còn sống vào chén nước mắm hay xì dầu cho nó uống no, rồi chiên trong chảo dầu, nó sẽ phồng lên vàng rộm. Con đuông đục lỗ để ăn ngọn cây dừa (cổ hủ) và cây chà là , nó đùn xác dừa ra ngoài lỗ thì người ta mới biết, họ đục lỗ to ra để bắt, đôi khi đuông còn non quá, có lúc lại quá già gần biến thành con rầy to hơn con cánh cam hay con bọ hung. Non quá hoặc già quá đều không có giá trị.

Cây dừa phải trồng bao nhiêu năm, đục ra bắt được mấy con đuông là cây chết ngắc. Cây chà là thì nhiều hơn , nó mọc chen chúc nhưng gai nhọn lểu. Như vậy mới biết rằng bắt được con đuông là một kỳ công nên giá trị của nó phải lớn. Ở đời, cứ cái gì hiếm thì trở nên quí, chứ không chắc gì con đuông ăn ngon như lời người ta thường đồn đãi, người nhát trông thấy hình thù nó giống con sâu, chưa chắc đã dám ăn.

Ông Hai Sáng một hôm cầm mỏ sảy hất tung đám xác miá lâu ngày đã dồn đống ở phiá sau lò đường, ông nhìn thấy nhiều con đuông mà khởi đầu ông tưởng là con sâu đất, cho đến khi thấy một con sắp biến thành rầy, ông mới biết mình vừa đào trúng mỏ vàng. Ông âm thầm bắt xếp vào hộp đưa lên nhà hàng trên Chợ Lớn bán. Dĩ nhiên ông đã khôn lanh bắt những con vừa lứa, lại còn để lại một số lớn lên , bay đi rồi trở lại đẻ trứng trong tương lai. Tuy miá đã ép rồi, nhưng vẫn còn sót lại một ít đường, con đuông ăn xác miá này thay thế cho đọt dừa.

Đống xác miá vô tích sự không ai thèm để ý lại là một mỏ vàng bí mật.

Bây giờ kể đến việc làm men.

Bột gạo lức xay ra phải trộn nhiều vị thuốc Bắc như : Hồng khấu làm cho men rượu có vị nồng; Đại hồi gây ra vị ngọt và thơm; nang mực làm men nở xốp; Nhưng căn bản vẫn là củ riềng. Loại củ hay được dùng để ướp thịt chó đó. Men được vo viên to bằng quả trứng gà rồi phơi khô, bán cho người nấu rượu.

Ở Rạch Giá có quận Giồng Riềng, ở đó riềng mọc như rừng. Miền Nam có nhiều giồng lắm: Giồng Trôm, Giồng Ông Tố vv.. Đó là những vồng đất cao, có lẽ mấy ngàn năm về trước nó là một dẫy núi. Về sau đất bồi lên mãi nên bây giờ nó chỉ còn cao hơn vùng chung quanh một ít. Đất ở đó không phải đất phù sa, nó là đất cát pha sỏi.

Ông bà Hai Sáng thường xuống mua riềng về để xài, rồi còn bán cho ngừơi Tàu Chợ Lớn xuất đi mọi nơi, kể cả ngoại quốc. Ngươì Tàu là chúa dìm giá, khi thấy mầm non nhú ra, họ chê riềng phơi chưa khô. Mà ở miền Nam mưa hoài, chỉ cần trúng ít nước mưa là củ riềng mọc mầm ngay.

Ông Hai nghĩ ra được một cách, mà trước nay không ai nghĩ tới: ông đem luộc sơ lên rồi mới phơi. Như thế dù có đem ngâm nước, bố nó cũng không mọc nổi mầm. Mà vì mơí luộc sơ sơ nên vị thuốc ở trong củ không thay đổi gì mấy.

Một lần hai ông bà đưa riềng lên Chợ Lớn bán, ông về trước nhưng bà phải ở lại vì phải chờ chuyến tàu từ Hồng Kông qua mới có một vị thuốc quan trọng. Bà chủ tiệm lại là một ngưòi Việt, nên bà Hai trọ ở đó luôn. Bà chủ hỏi :

- Ở dưới đó không có riềng già hay saỏ

- Trời ơi, nó mọc thâm căn cú đế từ hồi nào ở trong rừng mà sao chị nói hổng già.

- Nếu già sao không có tráỉ

- Tui không có theo người ta vô rừng nên không chắc, nhưng tui nghĩ rằng nó có trái.

- Nếu có trái thì chị đi mua làm chỉ

- Tui mua hồi nào ở đâủ

- Chớ chị đang đợi thứ gì đó?

- Hồng Khấu.

- Thì Hồng Khấu chính là trái riềng.

Rồi bà Hai vỗ đùi kêu lên:

- Trời ơi, tui đâu có biết Hồng Khấu là trái riềng, nếu vậy để chuyến này tui về dưới đó mà có, thì tui khỏi thất công lên đây mua.

- Nếu đúng vậy thì chị phải chở lên đây bán cho tui, chớ trái đó nhập cảng mắc quá trời. Nếu có nhiều, tui còn xuất cảng ngược qua Hồng Kông và Singapore nữa chớ dỡn chơi saỏ Nè nếu ông trời mà thương, thì tui với chị phen này khá lên cấp kỳ.

Từ đó, bà Hai cứ đều đều đi mua thứ trái riềng mà người ta vất đi đó, với giá rẻ rề, chở lên Sài Gòn bán, rồi mua vàng lá hiệu ba trái núi đem về chôn dấu ở dưới đống xác miá.

Nghe chuyện, tôi hỏi thằng cháu rể:

- Bây giờ còn chôn đó không mậy ?

- Đào lên để đóng vàng đi vượt biên hết rồi chú.

3. CHUYỆN KHỈ

Năm 1961, miền Tây bị trận lụt nặng lắm, lúa mùa mới cao chừng nửa thước mà nước lụt dâng lên hơn hai thước. Nếu không tìm nơi khác mà sinh sống thì khó qua khỏi đói khát cho đến mùa lúa sang năm. Má tôi như một con mèo, tha bầy con trở lên rừng, về lại quê xưa ở vùng Dầu Tiếng tỉnh Bình Dương.

Thoát được cảnh nước lụt, chúng tôi lại phải đối đầu với thú rừng, loại thú này thông minh có lẽ chỉ kém loài người mà thôi. Đó là bầy khỉ.

Vì chưa đến 18 tuổi, anh em tôi không thể xin vào làm bất cứ công việc nào cho hãng cao su Michelin, dù chỉ làm cỏ trong vườn cao su, nên đành đi theo làm rẫy với mấy gia đình bạn của má tôi ở ven bờ sông Thị Tính. Đã khá lâu sống quen với dòng nước đục ngầu phù sa chảy hiền hòa ở vùng Hậu giang rồi, chúng tôi cảm thấy sợ hãi khi nhìn thấy dòng nước xanh đen , chảy mạnh thành những cái xoáy sâu hun hút ghê rợn, lòng mường tượng những loài thủy quái đang ẩn núp ở tận dưới đáy kia, bất ngờ chồm lên trên mặt nước. Dưới sông thì mặt nước đầy vẻ âm u kỳ bí, ven bờ cây dứa dại mọc um tùm. Vẳng trên rừng tiếng vượn hú chim kêu. Đến đêm nghe tiếng nai lép bép đã sợ ; Ban ngày lại thấy khỉ chạy từng đàn mà thất kinh. Đúng là trái ngược với cảnh thổ mà chúng tôi vừa phải rờì xa. Tuy thế rồi cũng phải quen dần.

Sông Thị Tính là một nhánh nhỏ của sông Bé chảy ngang thị Xã Thủ Dầu Một. Vùng thượng nguồn này được bao bọc bởi những vườn cao su bao la kéo dài từ Tây Ninh xuống tận Bến Cát. Tuy nhiên rừng cây vẫn còn bạt ngàn, nơi sinh sống của vô vàn thú hoang, mà nhiều nhất là loài khỉ.

Khi chúng tôi phá rừng , cuốc rẫy , khỉ kéo ra hàng bầy, ngồi trên rặng cây cao nhòm xuống. Chúng nhảy nhót, chí choé, rồi bắt rận cho nhau. Khỉ mẹ đỵu con dưới bụng, khỉ cha làm trò khỉ. Nhất là khi mấy con khỉ đực này nhìn thấy mấy bà, mấy cô là chúng làm những trò tục tĩu không chịu được.

Nhưng đến khi bắp đã có trái, khoai lang và đậu phọng đã có củ, bọn khỉ này trở thành đảng cướp chứ không phải là ăn trộm nữa.

Chúng nhổ dây khoai có dính cả củ, ràng quanh người, rồi bẻ bắp dắt vào cho được nhiều, tay còn cầm thêm vài gốc đậu phọng dính đầy những củ. Khi nông dân gõ phèng la rượt đuổi, chúng chạy hai chân như người, tay vung vẩy chiến lợi phẩm cho đến khi bị bắt buộc vất đi một mớ để rảnh tay mà trèo cây. Khi ngồi chót vót trên cao rồi, đàn khỉ kêu chót chét khiêu khích, nó còn gãi dái như trêu tức chúng tôi. Mấy anh em tôi chỉ có dàn thung (ná cao su) bắn lên tới nó chẳng nhằm nhò gì.

Nhớ hồi còn ở dưới ruộng, mấy ông gìa xưa thường kể rằng: Ở dưới miệt U Minh, người ta bắt khỉ bằng cách cho chúng ăn cơm rượu cho say, hoặc cho nghịch nước có pha ớt để bắt. Chúng tôi liền bắt chước.

Ở một khoảng đất trống kế bên bìa rừng, chúng tôi dùng cây nứa cao hơn đầu người, đóng quây thành một vòng tròn đường kính cỡ tám thước, có ràng dây cho chắc chắn, lại cột một cành cây bằng cổ tay từ hàng cây bìa rừng chĩa vào giữa vòng vây, nhưng mút đầu vẫn cách mặt đất gần hai thước. Chúng tôi để vô giữa một chậu đầy cơm rượu , và một chĩnh (tỉn) nước đã gĩa ớt hiểm bỏ vào, rồi núp trong bụi cây xa xa mà rình .

Lúc chúng tôi làm vòng rào này, bọn khỉ đã bén mảng ra xem , đến khi thấy mọi người về hết, con khỉ đầu đàn chuyền theo cành cây vào giữa vòng để thám thính. Thấy không có gì khả nghi, nó nhảy xuống , bốc cơm rượu lên ăn một cách ngon lành . Cả bầy ùa xuống, giành nhau ăn, lộn xộn như một đám con nít tranh nhau trong đám cúng cô hồn. Khi đã no say , chúng tìm nước uống , mà cái tỉn nước miệng nhỏ quá, bèn thọc tay vào mà hớt . Nước đã không lấy được , lại cấu xé nhau, nên nước ớt dính tèm lem lên mặt, chúng doạy mắt liên hồi vì xót, một hồi sau, không con nào còn mở mắt ra nổi nên đi ngả nghiêng ở trong vòng rào.

Đến lúc ấy, chúng tôi mới chạy tới, dùng thòng lọng lôi cổ từng anh ra mà trói thúc ké. Đúng là trói giật cánh khỉ.

Mấy anh lơ xe đò bàn rằng , nên bỏ hết vô bao gởi mấy ảnh đem xuống Bình Dương mà bán, có khi được khối tiền, chứ biết làm gì với cả trăm con khỉ bây giờ. Qủa vậy, họ đã đem về số tiền lớn mà chúng tôi không ngờ. Họ kể lại là ngườI ta mua hết để nấu cao khỉ , và còn chở xuống Sài gòn Chợ lớn gì đó bán cho Cắc chú ăn óc khỉ sống. Nghe nói bổ lắm.

Có người lại tả rõ ràng y như anh ta đã từng vào nhà hàng : Con khỉ sống bị trói ngồi dưới gầm bàn có phủ khăn trắng, chỉ thò cái sọ lên. Khách ăn lấy búa hay dao bén cắt ngang sọ khỉ như ta vạc trái dừa non , rắc muối tiêu lên, vắt chanh vào rồi lấy muỗng múc ăn như ăn tàu hũ. Không biết lúc đó miệng con khỉ có bị dán băng keo không, nếu không chắc nó kêu thét lên ai nghe thấy mà không ớn.

Bị một vố nặng quá, đàn khỉ còn lại rút sâu vô rừng, không biết chừng nào mới dám ló ra. Chúng tôi để lại vài con khỉ để nuôi chơi, nhưng nó phá phách và dơ dáy quá, lại hao thêm đồ ăn, nên mấy dân nhậu hè nhau đập chết một con , nhúng nước sôi , cạo lông rồi thui như thui chó. Con khỉ còn lại, nhìn thấy vậy kêu khóc thảm thiết quá, và nếu có ai tới gần , nó chắp tay như lạy trông rất tội nghiệp.

Con khỉ khi cạo sạch lông, trông không khác gì thân thể một đứa bé, giống từ đầu cổ, chân tay, cho tới cả cơ quan sinh dục . Tôi nhìn mà lòng kinh sợ, và cả ngày không dám mon men đến gần đám nhậu.

Đêm hôm đó, thao thức không ngủ được, tôi len lén ra cởi dây cho con khỉ rồi xua đuổi nó chạy vào rừng. Quên đi rằng cả bọn chúng nó đã cướp không, mồ hôi và sức lực của biết bao người.

4. CON MA NÉM ĐÁ

Vừa đậu Tú tài I xong, Toàn liền được ba thưởng cho một chiếc xe Goebel mới tinh. Ngày ấy chưa có Honda, nên có một chiếc xe Goebel là chiến lắm rồi. Đối với một làng nhỏ như Tân Hiệp, đi lên Sài Gòn học, mà lại đậu bằng Tú tài là thơm lây cho cả họ. Toàn muốn về làng để khoe xe, và cha mẹ anh cũng muốn nhân dịp này cúng tạ ơn tổ tiên làng nước đã phù hộ.

Anh mời thầy Tuấn sau này anh mới biết đó là nhà văn Bình Nguyên Lộc), về thăm quê mình. Nhân dịp này, thầy đã cười hỉ hả sung sướng vì đã kiếm ra được một con ma.

Hai thầy trò cỡi chiến mã bon bon trên quốc lộ 4, bên đường lúa xanh trải rộng đến tận chân trời. Qua khỏi cầu Bến Lức, Tân Hương là về đến Tân Hiệp. Tuy gọi là thị trấn, nhưng không có căn nhà lầu đúc nào, hầu hết nhà lợp ngói, vách gỗ bổ kho và nền đất.

Không hiểu tại sao chung quanh đây toàn là đất sét pha thịt, mà đất Tân Hiệp lại đỏ như đất ở Miền Đông. Ở đây dân chúng trồng được những loại cây ăn trái như sầu riêng, chôm chôm, nhãn, mít v.v.. y như ở miệt Thủ Đức, Lái Thiêu. Từ đây mà về đến Trung Lương Mỹ tho, hai bên đường bạt ngàn mận đỏ.

Khi hai thầy trò về tới nhà, cả làng chạy tới, vui mừng vì có người thi đậu thì ít, mà vì được tận tay sờ mó cái xe thì nhiều. Trẻ con thì khỏi phải nói, người lớn kia mà cũng trầm trồ không ngớt. Mấy cô gái làng đứng ngó cái xe và chàng thanh niên học thức, đẹp trai trong bộ đồ Tây, rồi nuốt nước bọt ừng ực.

Tối hôm đó, sau bữa tiệc, mọi người còn đang ngồi uống nước trà, thì bên nhà hàng xóm có tiếng la :

- Ma lại ném đá nữa đó.

Tiếp theo là tiếng một viên đá rớt xuống mái ngói, rồi lăn lốc cốc xuống đất. Mọi người già trẻ lớn bé chạy ùa sang, nhưng ai cũng đứng ngoài đường dòm vô, vì sợ đá rớt trúng lỗ đầu. Ba Toàn gỡ cái đèn Manchon xuống, rồi rủ thầy Tuấn cùng qua. Toàn cũng lót tót theo sau.

Theo lời ba Toàn kể cho thầy nghe, thì con ma này không biết thù oán gì với ông chủ nhà, mà cả tuần nay cứ đêm đêm, khoảng sau 10 giờ tối, là nó bắt đầu ném đá. Cứ khoảng năm bảy phút một cục. Loại đá to bằng nắm tay mà công chánh đổ hàng đống ven lộ, dân chúng hốt mỗi nhà một mớ về để dành mà đôi khi cũng không biết để làm gì. Ngoại trừ vài viên ngói bị bể, nạn nhân còn sợ và không ngủ được, vì cứ lâu lâu nó lại phang cho một viên. Thầy Tuấn hỏi :

- Có ai thù hằn với ông chủ nhà không?

- Không ngơ! Ổng bả già rồi, mà lại hiền khô, có một đứa con gái đi làm trên Sài Gòn mới về thăm. Đó, con nhỏ mặc áo màu hường kia kìa.

Toàn thấy cô hàng xóm đã ngoài hai mươi, ngoại hình không có gì sắc xảo, thì chắc không có cậu trai làng nào lại mất công tán tỉnh một cách rắc rối như vầy.

Đó, nó lại quăng một lúc hai cục, mà lần này ra sát mé trước quá làm bà con xô dạt té đùn cục, vừa té vừa cười. Bỗng có người hô:

- Lấy vôi, lấy vôi.

Họ quệt một chút vôi ăn trầu vô cục đá mà con ma mới quăng vào, rồi vừa ném đi xa, vừa nói :

- Tao đố mày tìm thấy cục này.

Trong tích tắc, cục đá có dính vôi được quăng trả lại liền. Mọi người kêu ré lên sợ hãi.

Thầy Tuấn nói nhỏ với ba Toàn, ông kéo mấy thanh niên theo rồi nói nho nhỏ :

- Nó không ở xa đây đâu, mấy cậu đi âm thầm tìm coi, một tầm ném xa của cục đá lớn cỡ đó không quá 50 thước đâu, tin tôi đi, thế nào cũng bắt được nó.

Chưa đầy 10 phút sau, đám thanh niên lôi về một anh trai làng cao lớn, da ngăm đen, chừng 20 tuổi mặt đang hầm hầm. Dân làng xúm bu lại:

- Ủa, thằng Đức!

Đức không tỏ vẻ gì sợ hãi, anh điềm nhiên trả lời hương chức trong làng :

- Dạ thưa, tôi không có thù oán gì ông Sáu Đáng, nhưng chỉ muốn cho cô Hai Thơm sợ không dám về làng nữa mà thôi.

- Sao lạ vậy, nó làm gì màỷ

- Cổ không làm gì tôi hết, nhưng từ ngày lên Sài Gòn mần ăn, mỗi lần về dưới này cổ lại rủ rê mấy đứa con gái theo lên trên đó, mấy lần trứơc không nói làm gì, nhưng lần này cổ lại rủ con Thắm đi theo thì tôi chiụ sao được?

Ai cũng biết cặp này bồ nhau mấy năm nay rồi.

- Mấy đứa đó đi làm ăn, kiếm tiền về cho gia đình, vả lại con Thơm có ép buộc tụi nó đâủ

- Cổ không ép, nhưng cái tương lai mà cổ vẽ ra cho tụi nó thấy, rồi quần là aó lượt, nữ trang đeo nhỏng nhảnh, thì tụi con gái đẹp sẽ bỏ làng này mà đi hết. Rồi tụi tui chỉ còn trơ lại có mấy con nhỏ xấu như ma.

Đám thanh niên mới đi bắt Đức về đều gật đầu khen phải.

Thầy Tuấn hỏi :

-Sao anh chộp được cục đá mà họ đã đánh dấu vôi vổ

Đức cười:

-Tôi biết thế nào họ cũng thử coi có đúng là ma không, nên đã thủ sẵn một cục có bôi vôi, rồi quăng trả lại. Đâu có ai để ý, vì cục đá nào cũng giống cục đá nào.

Thầy cười:

- Anh thông minh lắm.

Rồi thầy nói với làng là nỗi tức giận của Đức cũng có phần phải, đáng được hưởng sự khoan hồng.

Sau cùng, tuy được tha, nhưng làng bắt Đức bồi thường mấy viên ngói bể cho nhà ông Sáu Đáng.

Về đến nhà rồi, ba Toàn mới nói :

- Thầy Tứng à, hồi nãy thầy khen thằng Đức thông minh, nhưng tui thấy thầy mới thông minh vượt bực đa. Từ trước tới nay mỗi lần ma ném đá là cả làng đều sợ. Nhưng nhờ thầy, từ nay ai cũng biết rằng không phải ma qủi gì, mà chỉ là ma nớp.

Toàn nhăn mặt;

- Thầy của con tên Tuấn, sao ba cứ kêu Tứng, tứng hoài..

Thầy cười hiền hòa :

- Ấy, em cứ để cho ổng gọi. Thực ra người miền Nam mình phát âm chữ tuấn sao coi bộ khó khăn quá, mà ngay cả ông già của thầy cũng cứ kêu Tứng hoài.Rồi hồi làm giấy khai sanh, mấy ông trong làng vô sổ bộ cũng ghi là Tứng, cho đến sau này, khi học trung học, mấy người bạn cùng lớp chế diễu hoài. Họ giả đò khảy đờn : Tứng từng tưng, làm thầy tức nẻ ruột, phải ra toà xin chỉnh lại tên cho trúng.

Ba Toàn cười hể hả :

- Thầy nói đúng. Cái thằng Toàn này nó ỉ có văn hóa, cứ đòi chỉnh mấy ông già xưa hoài. Thôi, mình đi ngủ, để mai hai thầy trò về Sài gòn sớm cho mát.

Mấy mươi năm qua rồi. Ngày nay, thành phố Sài Gòn với biết bao tụ điểm Karaoke, bia ôm, khiêu vũ trường. Có bao nhiêu cô gái quê đã bị dụ dỗ vào nơi chốn tối tăm ấy, nhưng có còn cậu trai làng nào ném đá cảnh cáo không?

Mà dù có ném đá cũng không còn lăn cồng cộc trên mái ngói được nữa, vì ngày nay, thị trấn Tân hiệp đã làm nhà ba bốn tầng rồi. Sức nào mà ném cho tớỉ

huyện Miền Thôn Dã [Tập Truyện]

» Tác giả: Nguyễn Viết Tân

» Dịch giả:

» Thể lọai: Truyện ngắn

» Số lần xem: 63017

36. Đi Thẻ Mực

Mực có ba bốn loài mà thôi:

Mực ống, mực nang, mực vĩ đại (giant squid) và bạch tuộc.

-Mực nang thì lớn chừng 2 kg cho tới cả chục ký, râu ngắn, mình bè ra mập ngang và trong thân mình có một cái nang cứng, màu trắng xốp.

Nang này phơi khô để làm thuốc Bắc, tán nhuyễn để bỏ vô men rượu làm cho men xốp, đốt xông khói dưới gầm giường để trừ rệp, dán v v.

Mực này bắt không được nhiều nên người ta ít phơi khô, nhưng nếu có khô mực nang thì giá mắc lắm, vì nó ăn rất ngon.

Ở vùng biển Đà Nẵng, giữa đèo Hải Vân và núi Sơn Chà có nhiều mực này, khi mình bắn nó bằng súng săn cá ở giữa những đám rong biển rồi lôi lên ca nô, thì nó vằn vi như áo lính nhảy dù,

 

màu sắc lấp lánh và thay đổi luôn luôn. Nếu bạn đến làng phong (Trị bịnh cùi) ở chân núi thì sẽ săn được con to lắm.

Mấy năm gần đây, mực nang được VN xuất khẩu qua Mỹ khá nhiều, giá cũng khá mắc và ăn thì dòn ngon lắm. Có điều này nói ra hơi buồn, là chỉ mấy lần đầu thì ăn ngon thôi!!! Mấy lần sau thì

 

trong bụng con mực đầy nước đá, cho nên mua con mực 10kg thì đến 3kg là nước đá rồi.

Đã thế lại ướp quá nhiều muối, đến nỗi khi luộc lên chấm nước mắm gừng hay mắm nêm thì trở thành mặn đắng, nuốt không trôi. Làm như vậy giống như lừa khách hàng, và kết quả lâu dài về

 

sau ai cũng biết là sẽ tệ hại lắm lắm!!

Mỗi khi có El Ninõ, luồng gió và nước nóng thổi từ Mễ Tây Cơ lên miền Nam Cali một loại mực cực lớn, dáng ngoài nó giống con mực ống, nhưng có khi nặng tới hơn 10kg, thịt nó dầy hơn hai

 

đốt ngón tay. Khi nó ăn câu thì thường là đứt dây, ngoại trừ mình dong nó vô sát trong bờ hay cạnh tàu, rồi dùng móc sắt mà kéo lên.

Con bạch tuộc thì mình nó tròn như quả trứng, nhưng râu to mà dài, râu nó to hơn ngón chân cái là thường. Tuộc thường sống trong đám đá ở lòng biển, đi câu tôm hùm mà dính bạch tuộc thì

 

phải biết cách mới kéo nó lên được. Mình thả lỏng dây câu ra cho đến khi nó di chuyển, các hấp khẩu buông ra khỏi cục đá để bò thì phăng giây câu lên thật nhanh.

Mực nào cũng thế, khi lên khỏi mặt nước là nó phụt mực ra có vòi, thành thử phải cẩn thận để né mực, không thôi sẽ dính có khi đầy mặt hoặc quần áo.

Bạch tuộc con nhỏ như cái ốc mít, xào khóm hoặc hành tây ăn cũng ngon lắm.

Người ta dùng cái tỉn nước mắm cũ, xỏ vô thành từng dây rồi thả chìm dưới đáy biển, con bạch tuộc thường chui vô đó trú ngụ và thế là ngư dân kéo lên mà bắt một cách dễ dàng.

Con mực mà ta thường ăn, và có nhiều nhất trên biển là mực ống. Nó đi hàng đàn và nổi lên gần mặt nước khi thấy ánh đèn. Vì vậy, người ta đốt đèn thật sáng, khuyến dụ nó nổi lên mà xúc,

 

cái đó kêu là đi thẻ mực. Mực ống nhỏ làm sạch, lấy râu nó bằm chung với thịt ba rọi, nấm mèo, bún tàu (miến), tiêu hành tỏi ớt, rồi dồn vô con mực, lấy cái tăm gài lại cho chắc rồi chiên lên ăn

 

ngon kể gì, nhớ là khi chiên thì để lửa vừa vừa không thôi nó nổ, đừng ở trần mà đứng gần bếp, phỏng cả da đó nghe.

 

Loài mực đặc biệt nhất ở điểm đi thụt lùi, lúc gặp nguy hiểm nó chạy ngược như tên bắn.

Cái đít đi trước, cái đầu đi sau ....còn mấy cái râu đi sau rốt.

Nhờ một cái ống ngay ở miệng, con mực nạp nước vô bụng rồi phun ra thành vòi như máy phản lực để tiến.

Nó còn một đặc điểm nữa là phun mực đen ngòm rồi chạy trốn, khiến cá hay kẻ thù không tìm thấy nó đâu trong làn nước đen thùi đó.

Hồi trước kia, người ta dùng ánh sáng của đèn khí đá hay đèn manchon mà dụ mực nổi lên mặt nước trong những đêm tối trời rồi dùng vợt mà xúc. Nhưng bây giờ ngư dân dùng ánh sáng đèn

 

điện có sức sáng cả hàng mấy ngàn nến.

Ở VN thì mực có khắp trên các vùng biển, nhưng nhiều nhất là ở Nha Trang, Đại Lãnh. Không những có nhiều mà mực lại lớn nữa.

Phú Quốc cũng có nhiều mực, con nhỏ hơn nên ngoại trừ phơi khô một số ít con trộng trộng, còn lại nhỏ quá thì họ bỏ chung vô cá tạp mà làm nước mắm.

Ở chợ Dương Đông Phú Quốc, họ bán mực còn sống trong những thau nước biển, khi mình mua thì họ bỏ cả mực lẫn một ít nước vô bịch ni lông, thành thử khi về tới nhà, con mực vẫn còn

 

bơi lội.

Ngoài đảo này có nhiều cây bứa mọc hoang, trái bứa lớn bằng nắm tay dùng để nấu canh chua, khi chín vàng thì hơi ngọt có thể sên với đường làm thành mứt bứa chua chua, ngọt ngọt.

Lá bứa non có màu nâu đỏ như màu lá xoài lúc mới mọc, nhưng khi già rồi thì xanh đậm, lá rất dầy. Cả trái lẫn lá bứa đều chua nên bị tụi con nít trèo lên hành hạ tối ngày, không có trái thì

 

chúng lấy lá mà ăn với muối hột.

Trong buổi nhậu mực tươi, họ cũng bẻ một cành bứa về. Một nồi nước sôi có tra chút muối và bứt ít lá bứa, vò cho bể ra làm bốn làm năm mà thả vô nồi.

Con mực còn sống nguyên như thế, được vớt và thảy vô nước sôi (nó sống dưới nước cả đời thì cần gì phải rửa, mà bị trụng vô nước sôi như vậy thì nhớt nheo, lẫn vi trùng gì cũng chết ráo).

Con mực chín liền, lại được vớt ra, cuốn với rau thơm mà chấm với mắm nêm. Phải nhớ đưa đầu nó vô trước, vì khi mình cắn phát đầu tiên, bọc mực bể ra, thì nó không có dịp phọt vô mặt

 

người đối diện.

Chất mực, trộn lẫn với thịt con mực thật ngọt ngào, nhưng ăn xong, thè lưỡi ra thì cả miệng lẫn lưỡi đều đen thùi như cái ống khói tàu.

 

Ngày xưa người ta hay phơi mực trên sân, hay trên cát ngoài bãi biển, ôi thôi ruồi bụi bay phủ lên coi phát gớm, nhưng nay những tàu mực làm dàn phơi ngay trên tàu, hoặc trên liếp đóng nổi

 

cao gần bờ. Lại có nhà máy xấy mực nên phần vệ sinh khỏi lo nữa.

 

Đây là bài hát hồi còn nhỏ, mà tui còn nhớ:

-Anh em ơi, rượu đế với khô mực này

Ai chưa say, thì uống với tôi ly đầy.

 

Từ chỗ tôi ở miền nam Cali mà tới Seattle ở miền bắc Mỹ cũng xa xôi như SG với Bắc Kinh, thế mà nghe người bạn rủ rê lên đó câu mực, là tôi hún hớn khăn gói tã lót lấy vé máy bay đi liền.

Mùa đông ở trong vùng vịnh Seatle có đầy mực. Những chiếc tàu đánh cá từ Alaska nằm thả neo trong vịnh có rọi đèn quanh tàu sáng trưng. Chúng tôi dùng thuyền cao su và ca nô nhôm chạy

 

lại gần hàng phao của họ, dùng mồi cây lân tinh phát quang có một chùm lưỡi mà giựt lên giựt xuống, mực bu lại gần và bị giựt móc vô có khi một con, có khi hai ba con.

Trời mưa tuyết lạnh cóng, phải mang bình ga và lò sưởi theo mà hơ tay hơ chân, nhưng đi câu mực ham lắm, chỉ cần một tiếng đồng hồ là được đầy mấy thùng rồi.

Hơi buồn một tí, là vì nhiều quá, ăn mất ngon, và mình cũng không thể phơi hay xấy gì được, đành phải đem phân phát cho mấy người quen, mà phải năn nỉ họ mới chịu lấy.

Con cá nhà táng là con vật lớn nhứt trên quả địa cầu này (còn sống), nó lớn hơn cá voi, và chỉ ăn mực mà thôi.

Mỗi ngày nó ăn hàng mấy trăm ký lô mực. Cái miệng nó ngoác ra và "xúc" cả đàn mực. Khi ngậm miệng lại thì nước thoát ra bằng cái mang, còn bao nhiêu mực thì nuốt trộng, không cần phải

 

nhai và cũng không thấy nó đòi hỏi rau thơm nước mắm gừng chi cả, đúng là dễ tánh!!!

Thịt heo nạc quết nhuyễn gói lại trong lá chuối mà luộc thì kêu là giò lụa hay giò nạc, nếu làm dẹp bằng bàn tay rồi cho thêm quế vô mà chiên, hay đắp chung quanh một ống tre hoặc nhôm mà

 

nướng thì gọi là chả quế.

Con cá thác lác cắt đầu rồi phơi chừng vài tiếng đồng hồ, sau đó lấy cái chai mà lăn cho phòi thịt ra, chỉ còn xương da ở lại, rồi cũng bỏ vô cối quết cho dẻo lại, đem chiên hay vo viên bỏ vô lẫu

 

thì gọi là chả cá.

Cá biển vì ít xương, nên có thể lọc lấy thịt bỏ vô máy xay mà làm chả cá, bán ở chợ thiếu gì, nhưng sao bằng được chả cá thác lác!

Con mực tươi thái nhỏ, xay ,rồi quết nhuyễn mà làm chả mực thì ngon lắm. Ở ngoài Bắc và vùng Nha Trang có món này dòn và ngon tuyệt trần.

 

Hiện nay những người cung cấp thức ăn cho nhà thương hay các hãng xưởng bên VN đang gặp khó khăn vì người ta bị ngộ độc thực phẩm hàng loạt, không thể nào biết được chả cá, chả

 

mực có pha thêm thịt cá nóc hay không. Làm như vậy khác nào cầm dao giết người?

 

Trong sông rạch miền Nam có cá nóc mít, nó nhỏ bằng ngón tay thôi, nhưng khi bắt lên bờ, nó kêu nóc nóc chừng vài giây thì lớn như trái banh tơ-nít. Không thấy ai ăn con nóc mít ruộng này

 

bao giờ.

Cá nóc biển thì có nhiều loại và lớn hơn nhiều. Ngư dân cũng không sợ khi ăn nó, họ nói khi lột da và làm ruột đừng làm dập gan mật của nó thì ăn không sao cả.

Thịt nó lại dai và ngon, làm khô để nhậu cũng rất bắt mồi, nhưng hàng năm người chết vì thịt cá nóc càng tăng, có khi cả làng bị trúng độc..

Nhưng nếu người ta xẻ ra, nhuộm màu rồi ướp tiêu, đường vô mà phơi rồi chở lên vùng cao nguyên để bán, thì không ai phân biệt được nữa.

Khi thịt cá nóc đem trộn với cá khác, xay ra làm chả thì lại ngon hơn và chỉ có trời mới biết có bao nhiêu con cá nóc độc ở trong đó.

 

Ôi cuộc sống đau có dài bao nhiêu, chúng ta nếu chăm chỉ làm ăn, cuối tuần hoặc mai mốt già rồi thì xách cần đi câu không sung sướng hay sao, cần gì phải lừa gạt người khác, mà vẫn cảm

 

thấy sảng khoái trong lòng.

Câu Tôm Hùm

Ngày trước có nhiều lần tôi dùng cần câu trúc để câu cá biển ở Dinh Cậu, trên bờ đá chắn sóng ngay cửa sông Dương Đông Phú Quốc. Cá lớn, cá nhỏ rất nhiều, nhưng vì không quăng ra xa

 

được nên dễ vướng đá làm mất lưỡi câu.

Khi đến Mỹ định cư tôi mua cần câu máy ngay, vì tôi sống ngay tại Little Sài Gòn, miền Nam Cali nắng ấm, từ đây ra biển chạy xe chừng 15 phút.

Cảng biển ở bờ Thái Bình Dương của Mỹ thì rất nhiều: Cảng Portland, Seatle, San Francisco, Long Beach, San Diego ... nhưng nơi tôi ở chỉ có một cảng nhỏ nằm trong cái vịnh dành riêng cho

 

tàu du lịch và tàu buồm thể thao là Newport Beach.

Tuy nhỏ nhưng nó cũng có kè đá hai bên chạy tuốt cả hơn cây số ra ngoài biển, kè này gọi là water breaker nên cho dù biển có sóng lớn tạt ngang thì tàu ra vô vẫn an toàn không sợ bị dạt vào

 

bờ cát.

Cửa biển Dương Đông có kè đá thấp vì làm bằng những cục đá nhỏ, nhưng kè ở đây họ xếp những cục đá to bằng cái nhà, cái xe tải, không biết người ta đã mang từ đâu về và bằng cách gì

 

mà rinh nó ra tận ngoài biển như thế này. Những tảng đá được xếp liền kề nhau, có đổ thêm ít bê tông cho dính liền, bề ngang chừng 20 m và dài hơn cây số, ngoài cùng có hải đăng ánh đèn

 

chớp tắt hàng đêm và nếu có sương mù thì lâu lâu nó lại tự động hú lên ra hiệu cho tàu biết đường mà vào cửa biển.

 

Nhớ nhà, tôi thường đứng nhìn ra biển khơi mịt mù sương khói.

Cứ khoảng mười hay 15 dặm lại có một cầu bắc dài ra biển, ngoài cùng thường là một nhà hàng, cầu này chân thường làm bằng bê tông và xe hơi chạy ở trên được. Lan can ở hai bên, có ghế

 

băng ngồi câu và cả hệ thống nước phông tên để rửa tay nữa.

Cá ở đây nhiều nhất là cá nục chuối lớn bằng cườm tay, có khi nó lớn như con cá ngừ (bonita), cá nục gai thì nhỏ bằng cẳng cái mà thôi.

Đến mùa hè, người ta đứng đầy trên cầu, cả người câu lẫn khách du lịch, mỗi lần có bầy cá ùa vào thì cần nào cũng dính cá, có ông mắc nhiều lưỡi quá, kéo lên cả chục con một lúc, mà vì từ

 

mặt nước lên đến cầu cao quá, nên nó dãy kinh hồn, có khi lên tới nơi chỉ còn ba bốn con.

Cá nục ăn mồi mực, tôm, nhưng ta chỉ cần một vài miếng mồi khởi đầu mà thôi, sau khi được con đầu tiên thì cắt khúc ra cỡ bằng ngón tay mà câu. Nó ăn vào lúc nước lớn, khi một con dính

 

thì cả đàn nhào theo, lưỡi câu có mồi, có chút lông gà, hay có khi chẳng có cái mốc xì gì, chỉ lấp lánh ánh mặt trời là nó cũng đuổi theo táp ráo nạo.

Màn đêm buông xuống, mặt biển nhìn tối thui thì dùng một cây đèn lân tinh bằng ngón tay út, ánh xanh lè mà cột gần thẻo câu, loại đèn này sáng được chừng 10g rồi phải vất đi. Câu đêm có khi

 

dính cá đục, cá lù đù, cá đuối, còn câu ngày thì có cá nhám, cá nhòng (baracuda răng rất bén nên phải xài thẻo bằng dây cáp). Nếu câu mồi sống bằng cá cơm, cá lòng tong biển thì sẽ được cá

 

ngừ rất lớn. Mồi đủ thứ có bán ngay tại chỗ, kể cả cá sống.

Cá ở Mỹ hình như "khờ" hơn ở VN, hay là tại người ta ít ăn cá nên nó còn nhiều như vậy?

Mà nghĩ cũng kẹt cho người Âu Mỹ, những con cá nhỏ, hoặc nhiều xương, nếu họ không đóng hộp thì làm sao mà ăn? Họ cũng không ăn món canh chua như mình, còn kho cá lên, gắp bỏ vô

 

miếng bánh mì thì làm sao mà nhá cho được? Hóc xương bỏ bà!! Bởi thế câu lên rồi hầu hết họ thả xuống biển, còn VN ta thì cứ từng xô 20lít (loại thùng nhựa đựng sơn) chất cá vô xách về

 

hết. Ăn không xuể thì cho bạn bè, bạn có chê thì ta ướp muối xấy khô, có khi còn dám làm nước mắm ở sân sau nữa, cũng may là cái nắp thùng sơn tốt quá nó không bị xì hơi ra, hông thôi

 

hàng xóm Mỹ ngửi thấy họ gọi cảnh sát vì nghi có xác chết thúi trong vườn thì thêm phiền hà lắm lắm.

Với cá nục tươi như thế, tui chỉ khoái kho nước kiểu Huế để ăn với bún, miếng thịt cá trắng bóc có lớp váng mỡ với ớt bột, ớt trái bẻ đôi, cộng bún trắng ngần, cộng rau thơm xanh mướt, ôi

 

thôi ăn ngon chết bỏ. Ngoài ra, còn có thể cuốn con cá nục vô trong lá mướp, lá nho rồi nướng trên than, khi chín thì mở lớp lá mà rưới hành mỡ lên, gỡ thịt cuốn với bánh tráng rau sống, chấm

 

mắm nêm thì có khi nuốt cả lưỡi hoặc chết ... vì bội thực!!!!

 

Câu trên cầu riết rồi đâm chán nên tui xách cần đi ra ghè đá câu cá ngừ chơi, cần câu cá ngừ dĩ nhiên là cần tốt và dây to, mồi giả bằng inox sáng lấp loáng, chỉ có điều phiền là cứ quăng rồi lại

 

quay vô hoài mau chán lắm, nên tui móc con mồi sống vô lưỡi câu rời.

Quăng dây và cục chì lớn ra xa, lấy dây, lưỡi câu có khoen móc vô đuôi cá mồi lòng tong sống (smell fish) rồi móc vào dây chính (phải làm như vậy thì con cá mồi không bị sút ra văng đi mất khi

 

mình quăng với cục chì khá nặng đi xa).

Sức nặng của cá mồi sẽ theo dây mà chạy tuốt ra tới gần chì neo, nó đong dưa phập phờ, đầu ngóc lên, đuôi vẫy vẫy làm cho mấy con cá ngừ ngứa mắt, ứa gan lắm .. và thế là .. ập, là rồi đời

 

con cá ngừ!!!

 

Con ngừ khi dính câu thì chạy như ngựa phi, nó lạng qua lách lại quay tay đã lắm, nhưng khi nó còn khoẻ, ta phải nương thả dây câu ra bớt, chừng nào nó khờ rồi hãy kéo vào bờ, chớ không

 

thôi có ngày trớt quớt.

Một hôm đang câu cá ngừ tui thấy có ông VN ngồi hút thuốc giữa hai hòn đá lớn, tay lại cầm lon bia dỡ lên hạ xuống, thấy lạ tui mò đến gần và hỏi:

-Ông làm gì vậy?

-Câu tôm.

Lúc đó tôi mới để ý thấy trên cái ống lon có cuốn sợi cước, tôi hỏi:

-Được con nào chưa?

-Có mấy con rồi, tui bỏ trong bao bố, dấu đàng hốc đá kia cà.

Tôi chui vào hốc đá, mở miệng bao (loại bao bố đựng gạo đã thấm ướt nước biển) thì tá hoả, ở trỏng năm sáu con tôm lớn bằng cổ chân, chân cẳng râu ria chàm ngoàm đang dương mắt lên

 

nhìn tui.

Tui nuốt nước miếng ngồi gần đó nhìn anh ta câu, bỏ mặc cần câu và thùng cá của tôi ở tuốt đàng xa.

Nhìn kỹ mới thấy anh cắt thịt cá nục tươi ra bằng cỡ ngón tay mà móc vô lưỡi ba ngạnh chĩa ra ba phía, lưỡi câu bằng i nóc lớn như cây tăm, bên dưới lưỡi câu chừng một gang tay là cục chì

 

bằng ngón chân cái. Dây câu rất lớn có thể bằng cây tăm tròn, và dài khoảng 10m mà thôi.

Những cục đá tuy xếp cạnh nhau nhưng còn nhiều lỗ hổng tạo thành những cái hang thiên nhiên cho tôm trú ẩn, người ta chỉ cần thòng mồi vào giữa khe các tảng đá mà câu.

Tôm hùm ở Mỹ chia làm hai loại: Tôm có râu sống ở Thái Bình Dương thì không có càng, tướng nó trông oai phong như viên tướng Tàu trong cải lương Hồ Quảng: Loại thứ hai là tôm có càng

 

to như càng cua, sống ở Đại Tây Dương mà ta thường gọi là Maine Lobster vì ở tiểu bang này có nhiều lắm.

Hầu hết tôm bán trong nhà hàng đồ biển là tôm có càng, ăn dở hơn tôm râu dài nhiều lắm. Thỉnh thoảng tui thấy ở chợ có bán loại tôm ngon này, giá dĩ nhiên mắc hơn một chút, khoảng

 

$9/pound có nghĩa là dưới $20/kg. Ấy vậy mà bên Úc bán tới 25 đô, nhưng khi thấy ở Nha Trang bán tới 40 đô /kg thì mấy thằng Việt Kiều dỏm như tui đành lè lưỡi và rút lui có trật tự. Bán gì

 

mà mắc quá dzậy, chỉ có những đại gia, mấy anh Tàu hay Đại Hàn mới dám mua ăn mà thôi.

Thấy tui ngồi dòm với ánh mắt thèm thuồng quá, anh kia mới chia cho tui ít lưỡi ba ngạnh và dặn nên cẩn thận vì khi bị sóng đánh hay con tôm tha cục mồi vô kẹt đá thì phải bứt đứt lưỡi câu là

 

cái chắc, mà lưỡi câu thì anh ta gần hết rồi.

Tui hún hớn làm y hệt (monkey see, monkey do) và y như rằng, chưa biết mùi vị con tôm ăn mồi ra làm sao thì đứt mất mấy cái lưỡi, đành ngồi đực mặt ra mà ngó anh ta kéo lên mấy con tôm

 

liên tiếp .

Khi anh chuyển ra ghè đá sát biển vì lúc này nước đã ròng sát, tôi cũng đi theo như một đứa trẻ con thấy chuyện lạ, bỗng anh ta giựt mạnh rồi cứ kéo lên buông xuống hoài, sau cùng nói nhỏ:

-Con tôm này lớn lắm, nhưng tôi bị vướng vô một đám dây cước đã móc vào đá, chắc điệu này phải bứt dây bỏ!

Tôi vội nói khoan đã và nắm lấy sợi dây câu, nó giựt búng liên hồi. Quay qua quay lại chỉ thấy hai đứa tôi và trời cũng tồi rồi, chỉ còn ánh sáng của hải đăng gần đó, tôi bèn làm một phát "sexy"

 

rồi nhảy ào xuống biển, phăng theo sợi dây câu xuống khoảng vài thước nước thì vơ vào tay một con tôm chừng 1 kg đang lùng nhùng trong đám bùi nhùi cước câu mà ai đã vất bỏ xuống đây

 

từ đời nào. Tôi ôm chú tôm và trụ chân vô tảng đá bứt và rinh toàn bộ chiến lợi phẩm gồm tôm, lưỡi câu và cả chục cục chì lên bờ.

Lúc định bỏ con tôm vào bao bố thì nguời bạn mới quen nói:

-Con này tôi định bỏ, mà anh bắt được thì là của anh. Nhân tiện hôm nay tôi câu được khá nhiều nên biếu thêm anh vài con ăn lấy thảo.

 

Không còn sự vui mừng nào hiển hiện trên mặt tôi hơn lúc đó, tôi cám ơn rối rít và mang ngay ba con tôm về khoe với vợ, vất cả thùng cá ngừ xuống biển không thèm cầm về. Và chắc các bạn

 

cũng đoán được là hôm sau tôi ra biển rất sớm với đầy đủ lưỡi câu cùng chì. Phen này tôm hùm chết cả lũ với tôi.

Thế nhưng cuộc đời đâu có dễ ăn ngay như rứa??

Cả tuần sau tôi mới bắt đầu câu được tôm, có ngày vài con cũng có khi cả chục con.

Tôi ra thư viện kiếm sách nói về tôm hùm mà đọc.

Cách đây hơn 100 năm tôm hùm bò lổm ngổm trên bãi biển của Mỹ mỗi khi triều xuống, nhiều đến nỗi không ai muốn ăn.

Khi chiến tranh Nam Bắc kết liễu, chế độ nô lệ đã bị bãi bỏ, người ta phải mướn người làm và thường thì trong hợp đồng có câu: "Không bắt công nhân ăn tôm hùm 1 tuần 2 lần". Đúng là

 

chuyện lạ! Nhưng bạn hãy tưởng tượng coi, nếu bắt chúng ta ăn tôm hùm rang muối mỗi lần 1 con tổ chảng và ăn hai lần một tuần thì liệu bao lâu chúng ta sẽ sợ mà khóc thét lên?

Những ngày ấy, người ta dùng tôm hùm để nuôi tù, hay bóc ra làm mồi câu cá, uổng ghê!!!

Loài tôm hùm có khi bị thợ lặn bắt gặp nó kéo đi nhón gót từng đàn như đi diễn binh, hình như đó là ngày đi tìm bạn tình. Con tôm to nhất mà tôi thấy đăng trên báo Register là nặng hơn

 

80pound (40kg) do thợ lặn bắt được ở kè đá Balboa này.

Khi đã câu có kinh nghiệm, tôi có thể cảm thấy được qua dây câu là con tôm đang bám mồi, râu nó cạ vô như có ai lấy cái que đóm thuốc lào mà cà lên dây đờn vậy, sau đó nó ghì mồi để kéo

 

vô hang, cũng có khi hang ở phía cao hơn ta sẽ thấy dây bỗng nhẹ tênh (như kiểu bình phao). Lúc bị ghì hay bị bỗng mà giựt mạnh thì thế nào cũng dính, nhưng đưa được tôm lên bờ lại là

 

chuyện khác: Miệng con tôm nhỏ và cứng ngắc nên ít khi lưỡi dính vô miệng nó, mà thường là xóc vô khớp chân. Khi kéo nó lên thì nó nằm êm ru, nhưng vừa quá khỏi mặt nước là nó búng cái

 

bạch, cả con tôm to lớn rớt tõm xuống biển và thằng cha câu tôm thì ngồi vân vê cái cẳng tôm lớn như cây đũa mà tiếc hùi hụi.

Có người sẽ hỏi là tại sao không dùng vợt mà xúc, xin thưa là khe đá nhỏ tí, làm sao thò vợt xuống được, có khi dính con tôm lớn phía dưới đáy mà khe phía trên lại nhỏ nên lấy thế lượn qua

 

kéo lại thật lâu, đến nỗi khi lên tới nơi râu ria gai góc trên đầu chú tôm bị cà vô đá trụi lủi coi như thằng trọc.

Những ngày đi câu về khuya, tôi đành hấp tôm lên hết, tống vô tủ đá rồi đem cho bạn bè vào ngày cuối tuần. Mấy đứa con tui chê mùi tôm thúi (tổ cha tụi nó) còn "bà nội" tui thì mới có bầu nên

 

ngửi thấy mùi tôm luộc là lại ói, thế có tức không?

Nhớ hồi mới qua, thèm ăn tôm quá phải chạy tuốt qua Mễ ăn một con 10 đồng, bây giờ có nhiều thì lại "chảnh".

Tết Nguyên Đán xong, tôi rủ người bạn đi câu mấy con tôm để cúng giỗ ông già vợ (ổng mất ngày mùng 8 tết), hai anh em hút hết gần gói thuốc rồi, trời đã khuya lắm mà bị tổ trác hay sao câu

 

không được con nào, chúng tôi bảo nhau cuốn dây đi về thì lưỡi dây của tôi như vướng vào nhánh rong lớn, nhưng kéo thì nó lại lên. Khi ánh đèn pin tôi đeo trên trán chiếu xuống mặt nước tôi

 

thấy hai con mắt đỏ kè, tôi la:

-Mực ma ông ơi, tiếp tôi với.

Hai thằng hì hục kéo lên thì ra một con tôm nái, nó dãy dữ dội quá nên tay có găng mà chúng tôi đều toé máu mới dồn nó vô bao được.

Con tôm đưa về cân hơn 8pound (gần 4kg), phải lấy cái nồi nấu phở 40lít mới bỏ nó vô mà hấp được.

Lúc bỏ vô cái dĩa làm bằng foil nó còn thò đầu thò đuôi ra ngoài coi kềnh càng như một Dương vận hạm.

 

Khói hương nghi ngút, ông nhạc tôi ngồi trong hình mặc áo dài khăn đống coi trịnh trọng lắm, ông nhìn con tôm, nhìn ly rượu Remy Martin mà tôi mới rót ra, ánh mắt long lanh như muốn nói với

Chim Trời Cá Nước

....Gõ sừng mục tử gọi cô thôn

Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi

Dặm liễu sương sa khách bước dồn ..

(Bà Huyện Thanh Quan)

Cứ mỗi buổi chiều về, từng đàn chim, cò, vạc, diệc .. vội vã bay về tổ, chúng đâu biết rằng con người đã giăng lên một tấm lưới để hòng bắt chúng!

Từ lúc ánh nắng chỉ còn thoi thóp trên các ngọn cây, tôi xăng xái đi theo mấy ông già đi lưới chim cho biết. Họ vác hai cây sào bằng cây trúc đá dài tới hơn 15 m, một cheo lưới đan bằng nylon

 

nhỏ như sợi nhợ câu mà trong vắt.

Ngày qua ngày chim thường bay theo lối cố định, và thường là giữa hai rặng cây cao. Hai cây sào được mắc lưới vô sẵn rồi mới dựng lên giống như cái lưới ở sân bóng chuyền, bề dài thì tuỳ

 

theo khoảng trống mà mình phải giăng ngang, còn bề cao chừng 3m mà thôi.

Ở cái dây dưới đáy cột vài ba ống lon sữa bò có đựng mấy hòn sỏi, để khi chim dính lưới thì bị giật kêu lên tiếng loong coong báo cho thợ săn biết.

Vì ỷ y "đường xưa lối cũ" nên bầy chim vẫn vươn cổ về phía trước mà mải miết bay cho mau về đến tổ, nên chim không để ý nhìn thấy lưới rập cho đến khi lao vào lưới. Vì đang đà đập cánh

 

nên con chim bị vướng vào mắt lưới còn khó thoát hơn là con cá muốn tự gỡ mình ra khỏi.

Tiếng ống lon khua lên kèm theo tiếng kêu thét hãi hùng, tiếng đập cánh của bầy chim, người ta vội nhổ sào hạ lưới để bắt chim bỏ vô lồng rồi giăng bẫy lên lại, vì chim chỉ bay về tổ lúc trời cập

 

quạng tối mà thôi.

Đêm càng khuya thì chim bay càng ít, chỉ thỉnh thoảng buông xuống màn đêm tiếng kêu rã rời của con vạc đi ăn đêm. Chim đêm ít khi dính, nhưng lại dính nhiều dơi lắm. Con dơi khi bị dính lưới

 

thì hét lên kêu cứu, và đàn dơi quay lại để cứu bạn, thế là cả đàn sa lưới hết.

Chim bán rất được giá, nhất là chim cu, chim gáy, chim ngói hay vịt nước chàng bè, mà dơi người ta cũng mua mắc lắm. Con dơi quạ lớn như chuột cống, cánh xải dài cả thước thì bán cho

 

tiệm nhậu, còn dơi muỗi thì họ lấy kim tiêm hút hết máu nó ra để pha rượu uống tiêu trừ bách bịnh !!!

Không thể nói là người VN vì nghèo đói mà ăn những loài thú hoang dã có khi rất nhỏ bé, bởi vì có nhiều người giàu có, cán bộ cấp cao sẵn sàng bỏ ra cả trăm đô la mà ăn tim uống máu, uống

 

mật một con rắn.

Bây giờ họ tin tưởng mù quáng vào những nấm linh chi, máu dơi, mật rắn .... Có người tin rằng uống mật gấu ngựa trị dứt được ung thư gan. Nhưng làm sao biết được đó là mật gấu ??

Có gì đâu, thì tới tận nơi coi người ta chích thuốc cho con gấu mê đi, dùng một kiếng soi có bóng điện luồn vào trong bụng của con gấu, họ hướng dẫn cho một người khác dùng kim tiêm dài

 

thọc vô mà hút mật gấu ra.

Như thế là chắc ăn như bắp, khỏi sợ mật giả.

Thế mà .. hỡi ơi ... Đêm hôm trước người ta đã "chôn" trong bụng con gấu một cái lọ, giống như lọ đựng thuốc Bi ngày xưa, trong đó có mật gà hay vịt (thứ này trong chỗ tiệm ăn họ vất đi thiếu

 

gì ).

Uống xong, nếu khỏi bịnh thì khen mật gấu hay, nếu lỡ có chết thì nói giá mà được uống sớm hơn thì không đến nỗi chết .

 

Viết đến đây tôi nhớ tới chuyện xảy ra sau 75:

-Có chàng Bộ Đọi đóng quân trên mạn ngược Tuyên Quang mua được một miếng cao Sơn Dương (cao nấu bằng xương dê núi) nhỏ bằng nửa cái hộp quẹt, anh gói lại cẩn thận rồi cất đi.

Hồi đó đồ phụ tùng xe đạp còn quá hiếm, Công Thương bán ra thì có anh mua được cái ghi đông, anh khác mua được vỏ ruột, mà có khi chính những anh này đang không có cái xe nào, anh ta

 

sẽ bán lại món đồ mới mua được.

Anh Bộ Đọi mua được cái má phanh (chong Lam chúng em kêu là cục gôm thắng)

Nó là cái cục cao su màu đen to bằng ngón tay, khi mình bóp thắng thì cục cao su này sẽ xiết vô vành xe cho hãm lại.

Vì không có xe, nên anh ta cũng gói lại cất trong balô để dành.

Khi có người về phép, anh gửi cục cao Sơn Dương về làm quà cho bố, nhưng mấy tháng sau, khi luc soạn balô anh lại thấy cục cao thì mới biết rằng mình gửi nhầm cục cao su rồi.

Ấy vậy mà có người quen ghé ngang nhà, ông bố lấy rượu ra đãi mà rằng:

-Thằng Hai nhà tôi ở mạn ngược có gửi về biếu một miếng cao Sơn dương tốt lắm, nó đen tuyền, càng ngâm rượu càng dẻo, mỗi khi ra ruộng về, tay chân gân cốt bải hoải, tôi chỉ uống một cốc

 

là đêm nằm ngủ khoẻ re

 

Đã nói chuyện chim trời rồi bây giờ nói chuyện cá dưới nước.

Không gì khoái bằng đi câu. Đã có câu đố dân gian về thú đi câu:

-Ở dưới nhấp nháy, ở trên sướng.

Ở trên giựt mạnh, ở dưới đau.

Ở dưới đau, ở trên sướng ...

 

Không chỉ đi câu mới sướng mà khi đi thả lưới, quăng chài, tát đìa, soi cá đêm đều sướng cả. Không chỉ vì mình bắt được cá ( Ở Mỹ nhiều khi ăn không hết, bán không ai mua phải năn nỉ đem

 

cho) mà khi dính cá thì trong lòng khoái tỉ gì đâu á.

Nhưng cũng có những cách bắt cá không nên chút nào, đó là thuốc cá.

Ngày xưa không biết ai là người biết được loại cây lá gì trên rừng có thể làm cá ngất ngư hoặc lờ đờ hoặc chết nổi lên ngay?

Lá ngón rất độc với cơ thể con người nhưng khi vò ra thả dưới nước thì cá tôm vẫn tỉnh bơ, nhưng hột thàn-đát đã già, mà mình giã ra chừng 100 hột, bao bằng miếng vải mùng, lên phía đầu

 

con suối hay con kinh nước đang chảy mà vo, bọt sẽ nổi trắng xoá như bọt xà bông, nó trôi đến đâu, cá tôm lươn rùa cóc nhái gì cũng nổi lên hết và trôi vào tấm lưới đã giăng sẵn phía cuối

 

giòng nước, bắt không sót một con kể cả cá rồng rồng.

Trong rừng phía Nam lại có loài giây thuốc cá, người ta cắt từng đoạn rồi phơi khô để dành, mỗi lần muốn đi thuốc cá thì ngâm nước cho mềm, giã dập ra rồi đưa lên ngọn suối mà vò.

Chắc các bạn đều biết củ sắn (người Bắc thì gọi là củ đậu) mà người ta hay thái nhỏ ra làm nhưn bánh xèo đó. Trái của nó coi ngon lành như đậu cô-ve nhưng to bản hơn, nó lại rất sai trái

 

nhưng hồi tôi lên Thủ Dầu Một và Phương Lâm thì không thấy ai ăn cả, hỏi ra mới biết nó có chất độc, ăn chết liền.

Lấy hột củ sắn này giã chung với tro lá kè và một ít phân gà rồi thả xuống giòng nước thì cá lóc cá trê lớn cũng đều nổi lên hết.

Những chất độc này khi ngấm vô con cá, người ta ăn cá vào có làm hư hao tạng phủ dần dần hay không thì không ai biết.

Từ khi thuốc trừ sâu du nhập vào VN, có người còn dùng ngay loại độc hại này mà đi thuốc cá, họ cũng cứ cho rằng bỏ vô làm mắm hay kho nấu chín lên là thuốc độc bốc hơi hết, ăn vẫn an

 

toàn.

 

Nếu một ngày nào đó bị ngã lăn ra mà chết thì hàng xóm sẽ chắc lưỡi:

-Trời ! Trúng cơn gió độc quá !

Chuyện Miền Quê

Ở miền Trung, từ Noel cho đến tết ta trời lạnh buốt và mưa giăng giăng rất buồn. Trong khi ở miền Nam, mỗi năm khi gió bấc thổi về thì lòng người hớn hở.

Từ tháng 11 cho đến Noel, trên ruộng đồng miền Nam có rất nhiều tép đồng. Nó chỉ lớn bằng mút đũa thôi, nhưng mập tròn căng.

Người lớn thì đặt đó, cắm đăng, có đêm được cả giạ, cả bao. Con nít cũng có thể bắt được nhiều bằng cách cất vó. Chẳng phải là vó lớn đâu, chỉ là một mảnh vuông vải mùng mỗi bề chừng 5

 

gang, gọng là 2 thanh tre mỏng.

Bỏ chiếc vó nhỏ xíu này xuống bờ ao, hoặc bên bờ ruộng luá, rắc lên một nhúm cám đã rang vàng. Chừng một phút sau, nhấc lên đã được nửa chén tép đang nhảy lao xao rồi.

Tép này lấy kéo cắt hết râu, xào với hành tỏi tiêu bột ngọt rồi bầy ra diã.

Ở dưới mương nước trong, có hai loài rau dại: Cây hẹ nước và cây chóc. Hãy hái một ít rửa sạch. Dùng bánh tráng dầy hay mỏng cũng được, cuốn những thứ kể trên như cuốn bò biá, chấm

 

với nắm nêm.

Món này mang củi lửa ra ngay chỗ bắt tép, ăn mới ngon.......

 

Ai có về miền Rạch Giá...Nhắn dùm tôi...

 

Trên đường từ Long Xuyên về Rạch Giá, có một vùng ruộng đất phì nhiêu gọi là vùng Cái Sắn.

Sau 1954, có 1 bài hát hình như của nhạc sĩ Nguyễn Hiền:

-Ai về Miền Cái Sắn xinh tươi.

Ai về đồng luá mới, ai về nhà má tôi.

Nhắn rằng dù xa nơi mến thương.

Nhưng lòng tôi vấn vương,

Mối tình hoài cố hương.

-Đây dù nhà mới cất thô sơ,

Cánh đồng tràn sóng luá,

Bên bờ dòng nước mơ.

Lớp người dân di cư đắp xây

Phá rừng hoang đốn cây,

Ðồng thẳng cánh cò baỵ

-Mai ngày muà luá mới đâm bông.

Tôi về tìm sức sống

ven bờ giòng nước trong.

Gió chiều đuà trăng thanh ngát hương,

Sống hoà nhịp bốn phương.

Cho lòng tràn mến thương .....

 

Ở giữa vùng Cái Sắn là Quận Kiên Tân(Sau 75 gọi là Huyện Tân Hiệp). Từ đây trở lên hướng Long xuyên, Cần Thơ thì có những kinh đào theo mẫu tự ABC .... Nhưng về hướng Rạch giá thì lại

 

theo thứ tự 12345.

Mỗi kinh cách nhau 2 cây số (Có mấy kinh lại chỉ cách 1 cây)

Những kinh ABC ngoài trồng luá, người dân còn làm vườn, rẫy và làm pháo.

Thuốc lào 999 bán ở chợ Ông Tạ, xuất xứ ở đây. Cà pháo từng bao tải chở đi SG cũng như món mắm tôm đen thùi, thúi nức mũi (nhưng ngon lắm) cũng từ vùng này chở đi.

Những kinh gần Rạch Giá chuyên trồng luá thần nông từ trước năm 1970, nên kinh tế rất khá. Đến hồi vượt biên, họ có khả năng đi nhiều hơn các vùng khác, có nhiều kinh đi vượt biên tới 1/4

 

dân số.

Ruộng luá ở đây trải dài mút tầm nhìn, như trong bài hát Hè Về cuả Nhạc Sĩ Hùng Lân:

-Bâng khuâng nghe gió đùa mây thắm đàn chim cánh đo trời

Phân vân đôi maí chèo khua nước thuyền ai biếng trôi.

-Xa xa lớp lúa dồn cao sóng vàng leo dốc chân đồi.

Thanh thanh hương sen nồng ướp gío trăng khi chiều rơi..

 

 

 

Tôi không phải gốc là người Bắc Di Cư 54, nhưng thời thơ ấu từ Thủ Dầu Một về sống chung trong khu người Bắc ở Cái Sắn, bạn bè cùng lớp, bạn bè lính, hầu hết là Bắc Kỳ, nên bây giờ nói

 

giọng Bắc rặt.

Tôi có thể nói:

-Tôi không đi xe nôi, cũng chẳng đi xe nam, tôi đi xe nửa. Vưà nanh nẹn, dzẻ tiền, nại không sợ bị xìu nốp.

Tôi còn hát:

-Ai bảo Di cư là khổ Di cư sướng lắm chứ. Ngồi tàu bay, ta vào miền Nam, lòng ta sướng nao nao. Rau muống trong Nam lại nhiều, mà người Nam không biết. Ước mong sao, rau muống lên

 

cao, tăng sức mạnh cần lao ...

Trẻ con Bắc kỳ, Nam Kỳ chủi nhau, tôi vào cả 2 phe.

Chửi rằng:

-Bắc kỳ ăn trái cà na. Ăn nhằm lựu đạn, chết cha Bắc Kỳ.

Rồi hợp với bên kia chửi lại:

-Bắc kỳ ăn cá rô cây. Nam kỳ ăn d...ái thằng Tây đen xì.

Tuổi thơ qua mau, lớn lên chúng tôi sát cánh, cả Bắc lẫn Nam kỳ, chống lại quân thù, có nhắc nhớ lại những trận đánh nhau ngày còn nhỏ để mà nhớ tiếc ngày vui qua mau.

 

Rau muống có màu đỏ tím, mọc tràn đồng, dân Nam chỉ hái cho heo ăn. Người Bắc vô thấy rau muống mọc hoang ngoài ruộng nhiều quá, mừng như gặp cố nhân, thiếu điều ôm chầm lấy, oà

 

lên mà khóc nức nở.

Tại sao lại phải khóc? Là vì rau muống đồng ăn dễ bị đau bụng lắm. Mãi về sau này người ta mới khám phá ra rằng, phải lấy một cần câu, hay một roi trúc vụt tưới sượi vào đám rau muống cho

 

ra bớt nhựa, thì vài hôm sau ăn mới được.

Sau này, chẳng ai phải làm như thế nữa, chẳng cần luộc hay xào đập tỏi gì cả. Chỉ cần muối chua ngọt, ăn cũng ngon quá trời, mà chẳng thấy ai đau bụng nữa hết...

Ngọn rau muống đỏ rất bự, to như ngón tay cái, chẻ ra trộn dầu dấm như trộn sà lách ăn cũng ngon lắm.....

Ðâm Cá Nhái

Vào mùa nước lớn, nước sông cuồn cuộn chảy, thì dưới những cây cầu sắt thường có đàn cá nhái nổi lên, bơi đứng một chỗ cho dù nước chảy mạnh thế nào đi nữa.

Cá nhái chính là con cá lìm kìm trong câu hát ru em:

-Má ơi con vịt chết chìm

Thò tay vớt nó cá lìm kìm nó cắn con.

Cá lìm kìm làm sao dám cắn người? Nó nhát hít mà, chỉ một tiếng động nhỏ là nó phóng như hỏa tiễn, lặn mất tiêu.

Con cá nhái nhỏ hơn ngón tay cái, nhưng dài hai ba tấc, nguyên cái mỏ nhọn đã dài bằng một phần ba thân mình.

Bọn thiếu niên lấy gọng dù hay căm xe đạp làm thành cái lao có bốn năm chĩa. Cán bằng cây tầm vông, ở cuối cán có cột sợi dây nhỏ, để thâu hồi cây lao sau khi được phóng đi.

Từ trên thành cầu cao, người ta phóng cây lao xuống ngay giữa đàn cá, có khi dính một, có khi hai con cá nhái. Những con còn lại phóng lặn mất tăm dưới làn nước. Nhưng chỉ một phút sau,

 

cả đàn cá nhái lại xuất hiện y chang chỗ cũ như không có gì xẩy ra. Cái này là lì, hay là ngu?

Người phóng lao giỏi có khi đâm được bốn năm chục con trong vài tiếng đồng hồ. Nhưng loài cá này bán không được giá cho lắm, chỉ phơi khô để dành làm mồi nhậu. Còn nếu kho khô để ăn

 

cơm thì phải bỏ vô thiệt nhiều ớt và tiêu, vì nó tanh thầy chạy!

 

Những chỗ nước xoáy ven sông là do giòng nước đụng cái gì cản trở như gốc cây, đám chà v v .. thì thường có cá lớn lởn vởn rình mồi là cá con. Người ta lấy cục đá hay cái cối dằn một bên

 

xuồng cho nó lệch nghiêng hẳn qua một bên. Người bơi xuồng cũng ngồi lệch như thế. Ông ta chèo chầm chậm, mạn xuồng sát vô bờ, thỉnh thoảng lại thọc mạnh mái chèo xuống nước, giữa

 

xuồng và bờ theo một góc độ nào đó, khiến con cá hoảng sợ nhảy vọt lên cao rồi rớt vào lòng xuồng .

Cái khó là làm sao đoán biết được chỗ nào có cá. Thật là tuyệt cú mèo.

 

Đi soi và đâm cá đêm cũng thú vị lắm. Nếu con cá ngủ ở chỗ nước sâu thì đâu có dùng nôm được, chỉ có cách dùng chĩa cán dài mà đâm.

 

Người đâm cá đeo đèn trên trán (Chế biến lại từ đầu đèn pin hay đèn xe đạp).

Đứng ở đầu xuồng, tay cầm bơi chèo, tay cầm chĩa.

Người đâm được cá nhiều chưa chắc đã là người đâm cá giỏi, phải đâm từ khoảng rốn ra phía đuôi, cho con cá không chết vì vết thương để hôm sau đem ra chợ bán. Chớ nếu nó chết khi đâm

 

ngang khoảng bụng trúng ruột, thì chỉ có nước làm mà nấu cháo trong đêm, chớ bán cho ai được.

Đâm khoảng đuôi thì phải xoay làm sao để đâm ngược vảy, hông thôi sẽ trợt "trớt quớt".

 

Mùa sau tết, nước sông sẽ cạn gần sát đáy, người ta vừa đi vừa dậm một hàng lỗ bàn chân dưới sông. Lúc trở lại vừa đập nước đùng đùng vừa lấy xình quăng tứ tán tạo tiếng động, rồi dùng

 

hai bàn tay không, vừa bịt vừa bắt cá trốn trong lỗ bàn chân, có khi được cá lớn cả nửa ký lô chứ không phải toàn cá nhỏ.

Có người cầm cào, cào mạnh xuống bùn, răng cào liền khít như lược chải chí. Họ làm gì vậy? Thưa họ bắt cá chạch. Con chạch lấu to lắm, thịt béo nên nấu canh chua ăn rất ngon, nhưng

 

chạch thường thì chỉ to bằng ngón tay. Nó sống dưới hang như lươn, nhưng hang cạn xều. Vì đầu nó nhỏ nhưng lại có khấc, nên khi bị cào thì dính vô răng cào. Nhiều khi cào trúng ổ, dỡ lên cả

 

năm sáu con.

Cá chạch chỉ kho tiêu để ăn cơm thôi chứ chẳng biết làm món gì cho ngon.

Dỡ Chà

Mỗi tháng có hai kỳ nước lớn, thủy triều lên cao vào ngày rằm và ngày cuối tháng (tính theo âm lịch).

Người ta dỡ chà vào ngày nước nhỏ, sau khi đã cho nhiều mồi xuống đám chà để dụ cá vào tối đa.

Lưới được bủa xuống bao quanh đám chà, mắt lưới nhỏ như mắt vó, dưới đất có chì làm bằng sợi xích sắt, phía trên trương lên cao máng vào cột tre cao hơn mặt nước chừng năm thước.

Khi bắt đầu bị động, tôm cá có khuynh hướng chạy trốn vào đám chà. Thậm chí có nhiều anh đang đi lang bang, chạy vội về, đụng màng lưới nên vội phóng lên cao mà lọt vào bên trong!!!

Sau khi rà soát kỹ lưỡng để "Bứt gọn, Diệt gọn" như kiểu nói của cán bộ, người ta bắt đầu vớt lục bình, rau muống rồi kéo chà lên bờ.

Ôi thôi, lúc này binh tôm tướng cá xao xác. Những con cá lóc, cá bông lớn chừng nửa ký trở lên, những con cá mè vinh lớn bằng bàn tay phóng vọt lên trời như pháo thăng thiên ...để đụng vào

 

lưới mà rớt xuống. Con nào phóng vượt qua được thì cũng rớt ngay vào lòng thuyền, xuồng ba lá đang vây chung quanh phía ngoài lưới.

Thợ lặn xuống xê dịch chân lưới vào phía bờ, vòng vây càng thu hẹp thì cá phóng lên, ngang dọc ngược xuôi càng dữ, hoà lẫn với tiếng la ó vui vẻ của đàn bà con nít đứng đen nghịt trên bờ.

Tôm càng phờ râu lên là bị vợt xúc liền, bởi vì nó dễ chết nên cần bắt liền mà thả lồng riêng. Sau đó mới tới các loài cá trắng, cá đen.

Tùy theo năm trúng mùa cá hay không và tùy theo tháng, tôm cá bắt được chừng vài trăm ký, nhưng hầu hết thuộc loại bán có giá, nhất là tôm càng xanh.

Nếu một cái đìa ở trong ruộng, mỗi năm mới tát một lần hồi sau tết thì cũng chưa chắc được nhiều cá hơn một lần dỡ chà. Mà cá ngoài sông thuộc dạng "Chim trời cá nước", trời cho ai thì

 

nấy hưởng, nhiều ít thì tuỳ phước đức ông bà để lại.

Thời trước lẫn thời nay, mỗi khi có đám dỡ chà, là có mấy anh xã ấp đòi hỏi mấy ký tôm cá ngon nhất, để tỏ ra mình dù gì đi nữa cũng là "Dân chi phụ mẫu".

Cá bắt xong, chà lại được xếp xuống để làm cú khác, nhưng cũng chỉ được ít lâu là phải cưa nhỏ, bán làm củi mà chất chà mới, cá mới chịu vô ở nhiều.

Ngâm nước cả buổi, ngón tay móp hết, người lạnh run, các tay phụ giúp bắt cá, ngoại trừ tiền công, còn được chủ nhân đãi nhậu rượu đế với bún tôm càng, cá lóc nướng cuốn bánh tráng,

 

hoặc cháo cá cho ấm lòng.

Lúc về, say rượu, chân nam đá chân xiêu, vừa hát vừa xách toòng teng một xâu cá thác lác đem về cho Wợ.

Món Ăn Quê Mùa

Sau những cơn mưa đầu mùa khoảng tháng tư tháng năm, mùa đá dế bắt đầu thì cũng là mùa đi bắt dế cơm.

Con dế cơm lớn gấp năm sáu lần con dế thường, hai cánh mỏng hầu như không che hết nửa lưng.

Nó không núp dưới tảng đá hay cục đất cày, mà thường đào lỗ trong vườn chuối, gốc mít. Hang đã to thì chớ, đất đùn ra cửa hang lại không thèm dấu diếm, thành thử con nít cũng bắt được

 

nhiều dế một cách dễ dàng.

Có gì đâu, múc mấy gáo nước đổ xuống hang là ảnh trồi đầu lên ngay.

Gặp chỗ có cát nhiều hoặc đất nứt nẻ, nước đổ xuống ngấm mất tiêu thì lại dùng cách khác chứ ít ai phải đào hang mà bắt.

Họ lấy một cọng kẽm dài, cuốn chung quanh một cây trúc bằng ngón tay cái, để tạo thành một cái lò xo. Vừa ruồn, vừa ngoáy, vừa đẩy cái lò xo này sâu xuống hang, con dế đành phải chui vô

 

đó chứ không tránh đi đâu được. Khi tới đáy hang rồi, chỉ cần kéo lẹ lò xo ra mà bắt dế, vì nó không de ra khỏi lò xo được.

Bứt đầu bứt cánh con dế, bứt đuôi để kéo ruột ra bỏ, rồi nhét vô một hột đậu phọng, sau đó muốn chiên, kho khô gì đó thì làm

 

Mùa này ở mương đìa hay bờ suối, có một loài lạ lắm. Lấy rổ xúc nó lên, nó lớn chỉ bằng ngón tay út, bóp bụng nó nhẹ thôi, là dưới cằm nó đưa ra một cái y như cái nón lá để ngửa, họ gọi nó

 

là con ăn mày.

Con này chính là con chuồn chuồn chưa trưởng thành, chưa có cánh để bay lên khỏi mặt nước. Khi xúc nó, thường được luôn ít con bù niểng to bằng cẳng cái, cánh nó đen và cứng như cánh

 

bọ dừa. Kho khô hai loại này, bỏ tiêu cho thiệt nhiều, ăn với cơm nguội cũng đã lắm.

 

Ở quê tôi có quá nhiều ốc bươu, có nhiều con lớn như cái tách uống trà, bởi thế luộc lên ăn ngán lắm, mà coi cũng sợ.

Người ta cạy sống nó ra, rửa sạch và bỏ hết ruột đen, sắt nhỏ trộn chung với chả cá thác lác, tiêu hành gia vị, nấm rơm rồi vo thành từng viên gần bằng con ốc.

Họ dùng hai lá gừng, để thành hình chữ thập ngay miệng vỏ ốc, rồi nhấn viên chả ốc này lọt tuốt vô trong. Ốc hấp chừng nửa giờ thì chín. Ăn kiểu này thì vừa thơm vừa ngọt vừa dòn mà coi bộ

 

có vẻ văn minh ...miệt vườn.

 

Ở Ấn Độ và vùng Trung Đông, mỗi khi có dịch cào cào châu chấu, nó ăn trụi hết hoa màu trên ruộng vườn . Trên một thước vuông có cả mấy trăm con . Họ bắt chúng mà trụng nước sôi rồi phơi

 

khô như mình phơi tép hay tôm khô vậy , sau đó đóng bao đem đi bán hoặc để ăn dần.

 

Con ve sầu kêu ran mỗi độ hè về cũng là món ăn nữa đó.

Buổi chiều, trẻ nít dùng chổi quét gọn lá rụng trong vườn thành một đống, chừng chín giờ tối thì đốt đống lửa lên . Bọn trẻ ngồi xung quanh đống lửa, tay vỗ vào miệng oa oa rồi hát:

-Ve ve, và và ..

Xuống ăn cơm với cá

 

Không phải con ve xà xuống đất là vì lời hát, mà tại vì nó thấy ánh lửa như con cà cuống hay bầy thiêu thân bay ra dưới gốc cột đèn vậy.

Con nít chụp con ve bỏ vô nhung chiếc áo gối, đem vô cho người lớn đốt thui sơ qua cho cháy chân và cánh ve. Sau đó đem rang vàng lên, bỏ tiêu hành mỡ vô cho thơm để sáng hôm sau ăn với cơm.

Con rắn

» Tác giả: Lê Hoài Lương

» Dịch giả:

» Thể lọai: Truyện ngắn

» Số lần xem: 2562

1. Con rắn

1.

 

Và cuối cùng gã quyết định thực hiện ý đồ đeo đẳng mấy tháng nay dù thị vẫn ỉ ôi rằng thị chỉ cần gã chứ không cần gã bươn chải kiếm tiền. Cái quán cà phê không còn đắt đỏ như thời mình thị và gã thuyền trưởng đi đi về về- đám sồn sồn có vợ con đã không hy vọng gì mấy khi thường trực bên thị một gã vâm váp, có ánh nhìn đầy uy lực của một tay anh chị thứ thiệt. Nhưng gã vẫn thấy nhục vì sống bám vào người đàn bà đẹp và dâm đãng. Gã nhớ rừng. Nhớ một thời tung hoành ngang dọc…

 

    

 

Từ cảng quân sự Quy Nhơn, hai đường ống dẫn dầu chạy qua rìa làng gã bơm vào hệ thống kho bồn chân núi Vũng Chua. Bên kia sông, dọc theo núi Bà Hoả là kho đạn Đèo Son. Góc đường ống qua đồng Tấn thường bị dân kiện vì dầu rỉ hư lúa nhưng cả làng nhiều năm có khoản thu nhập khá từ dầu. Chỉ cần có mỏ lếch lớn vặn mấy ốc ngàm nối hai đầu ống là dầu tuôn ra như suối. Mọi vật chứa được huy động: thùng phuy, chum vại, bể tắm, hồ cá… Cả làng đi múc dầu. Bọn lính ở kho đạn thường bắn chỉ thiên. Xe zeep Mĩ lên cầu Đôi bắn đạn cay. Giải tán rồi tụ lại, dầu nổi trên nước còn đó. Dày thì lấy gàu, lon múc, mỏng thì dùng giẻ, xốp thấm, gánh về lọc lại. Tiền khiến người ta liều. Ban đêm, đèn dù dộng từng chặp vụt sáng mà cũng lắm kẻ mò đến mở ngàm. Vài người không sao, số đông tất có tiếng động. Lính bên kho đạn bắn sang thủng ống dầu phụt như suối phun: không phải tên lính nào cũng bắn lên trời!

 

    

 

Một lần, mấy phát đạn chừng như vu vơ, mọi người tuôn chạy, đến sáng mới hay có người chưa về. Người đàn bà xấu số đầu chúi xuông bờ ruộng vỡ toác, chổng mông như đang cấy. Năm đó gã mười sáu.

 

    

 

Năm sau, cha gã lãnh nguyên băng đạn vào lưng lúc lui cui ở bờ sông tiết đông chí. Người dân vệ này đang cầm trên tay cái dẹp có mấy con cá trê. Xã kết luận Việt cộng bắn nhưng ai cũng hiểu đây là vụ thanh toán nhau vì gái ở bar Chợ Dinh.

 

    

 

Gã bắt đầu la cà ở cái quán bar nổi tiếng nhất Quy Nhơn này, bắt đầu hút thuốc, uống rượu rồi thành đàn ông. Bọn gái điếm thường phát vào mông gã khuyến khích: “Anh khá lắm!” Không hiểu được đàn bà gọi bằng anh hay nhờ hơi hướm của họ mà các bắp thịt trên người gã nở nang rất nhanh. Hai bên mang tai xuống cằm đã xanh dần vùng râu quai nón. Dãy nhà ván mười mấy phòng, mỗi lần đến gã sà vào một phòng khác nhau như dân chơi bời và suýt nữa gã quên mất lý do khiến mình đến đây.

 

    

 

Hoá ra cô gái trẻ đến mức gã nghĩ cùng lứa mình. Cô ta chăm chú nhìn gã, thoáng chút lơ lửng như cố nhớ điều gì, cánh mũi phập phồng. Gã gọi bia ngồi nhấm nháp, im như phỗng. Cô gái cũng lặng lẽ quan sát, không chào mời đẩy đưa. Nhiều năm sau này gã cũng không thể lí giải được vì sao khi tên lính ấy bước vào là gã đứng bật dậy. Tên lính trợn tròn mắt nhìn gã, mồm lắp bắp tên cha gã. Tên lính đi xà lui, vấp phải ngạch cửa. Gã sấn tới vặn tay đè sấp hắn xuống nền sỏi trước sân. Đạp một chân lên cổ tên lính, tay gã túm tóc kéo ngược đầu hắn lên, cú kéo mạnh đến nỗi xương cổ hắn phát ra tiếng “khục” lớn. Tay túm tóc tay nắm cằm tên lính, gã vặn mạnh xoay mặt hắn lên. Chỉ có những âm thanh trầm đục. Tên lính không kêu được một tiếng, nước mắt nước dãi và máu lầy nhầy trên khuôn mặt kinh hoàng. Gã buông tên lính ra, thản nhiên đi về phía bờ sông, qua xóm Lò Heo rồi chạy vào núi Cấm. Mấy tháng sau Miền Nam giải phóng.

 

   

 

Hai đứa em trai mừng rú khi gã lù lù về nhà, tròn mắt nhìn gã đất hương bàn thờ cha lâm râm lời khấn.

 

    

 

Như nhiều đàn ông trong làng, gã đương giỏ lên núi Vũng Chua đốt than, đốn củi bán. Sau nhiều năm chiến tranh cấm núi, chỉ cần sức khoẻ, ngày ngày có một gánh càn khôn đủ nuôi sống cả nhà. Gã dắt theo đứa em kề để rừng đỡ vắng, chiều về chú em gánh hai bao nhỏ. Rồi núi ở quê cũng kiệt. Anh em gã nhảy tàu chợ đi núi Tân Vinh. Năm sau gã bỏ rừng Tân Vinh không phải vì kiểm lâm cấm gắt mà bởi trận hỗn chiến với đám thanh niên địa phương. Con gái chủ nhà gần ga, nơi anh em gã thường xin trú tạm những chuyến đi núi vài ngày, có chồng mới dạm là du kích, mê gã. Cô gái đã vào rừng lấy dang và tìm tới lò than… Thằng em phải uống thuốc võ cả tháng, thằng chồng chưa cưới rớt mấy ngón tay xuống đường ray còn gã theo người ra các vùng núi Hoài An, An Lão tìm xác máy bay Mĩ. Những ổ cắm, vít điện mạ vàng; trục chong chóng trực thăng, ống khói phản lực bằng bạch kim- người ta bảo thế- những giá trị tính toán trên chiếu rượu đã quyến rũ gã. Giấc mộng vàng cứ chập chờn đâu đó chứ chưa bao giờ thực sự trong tay gã. Dường như bao cái xác máy bay tìm được đều bị nhóm trước lấy hết đồ quý?

 

    

 

Chính thời điểm long đong này gã làm quen với một bầu trầm Vạn Giã. Những kẻ tiên phong “ngậm ngải” đã “ăn” hết rừng Phú Khánh giờ đang có mặt ở cửa khẩu An Lão. Gã cần kinh nghiệm khai thác, đám Vạn Giã cần người bản địa chịu chơi. Luật trầm chia đồng ăn đều, cả người ngồi đon nấu ăn cho nhóm. Rừng thiêng núi thẳm với bao bất trắc: rắn rết thú dữ, vực sâu thác lũ… dân khai thác tin rằng chỉ có trên trước phù độ mới trúng. Cúng bà- cậu từ chân núi mỗi chuyến đi. Học tiếng lóng, kiêng cữ đủ điều, không chửi thề nói tục, voi là ông lớn, hổ ông nhỏ, đi là ngược về là trở… gã nhất nhất tuân thủ.

 

    

 

Như con trai dưới biển, cây dó trên rừng cũng kéo nhựa chữa chạy vết thương mà nên trầm. Thời đầu, gặp cây dó có vết bom đạn hoặc tổ kiến mới hạ. Những kiến xanh, hạt mít, kỳ nam… tươm dầu nặng trĩu hiện dần ra sau bao kiểu dũm xoi xỉa. Vàng đấy! Có chuyến gã được chia cả cây! Mấy tháng sau cả chục bầu lên non. Tiếng rìu tra vào cây vang rất xa. Luật rừng: người phát hiện cây được quyền chọn khúc. Kẻ bầu khác bươn tới ăn theo phần còn lại. Đổ máu là chuyện thường. Giết nhau để chiếm hàng xịn đã xảy ra. Đồng tiền lớn khiến mạng người nhỏ lại. Rồi kiểm lâm chặn bắt, người miền núi truy đuổi tịch thu rìu rựa, dép lào, hàng… Một lần bầu gã bị một thanh niên H’re phục bắt dùng súng áp tải về xã. Mũi súng cứ xỉa ngang lưng, gã làm bộ sợ, bảo coi chừng cướp cò chết người. Người anh em vội trấn an: “Ố không sao đâu! Súng không có đạn!” Bằng một cú đá, gã cho chàng du kích miền núi văng vào bụi dây gai lùng nhùng mồm la í ố, bọn gã thừa thời gian chạy qua ba dông núi. Cuộc cạnh tranh khốc liệt nhanh chóng biến gã thành thủ lĩnh.

 

    

 

Tuy nhiên dù hung hãn và liều lĩnh gã vẫn rợn ngợp những lo sợ mơ hồ. Khi lưỡi rìu đã làm xong phần việc của mình, cây dó trăm năm tuổi chuyển mình rồi đổ xuống chao đảo cả khu rừng, phải, ngay cả lúc ấy gã cũng thấy mình nhỏ bé biết bao trước cây đại thụ bất lực nằm đó. Đẻ chế ngự kiếu cảm xúc bất lợi, gã tra nhanh rìu vào những nơi cần thiết. Phát hiện có hàng, gã vung rìu loang loáng, tốc độ dứt khúc của gã khiến bạn bầu lè lưỡi nể phục, thứ tốc độ không thể thực hiện bằng cơ bắp và sự chuẩn xác của từng nhát chém; nó được gia thêm rất nhiều từ một thôi thúc cuống cuồng của ham muốn và sợ hãi.

 

    

 

Thực ra bọn gã có cái sợ rất cụ thể đối với lực lượng công an, kiểm lâm và quản lý thị trường. Họ thường phối hợp với nhau và nhiều khi công lao chuyến đi mươi ngày của bọn gã thành công cốc. Chuyện cắt rừng, né làng dân tộc, định hướng để khỏi lạc, ggax đạt tới đọ thính nhạy bậc thầy. Ít khi gã sử dụng con đường khai thác gỗ của lâm trường. Một lần gã đã sơ hở. Chuyến đi trúng đậm bọn gã làm ráng quá ngày qui định phải ăn cháo, quả rừng. Đường về ai cũng kiệt sức và cũng đã hai tám tết, gã nghĩ người nhà nước giờ lo cho gia đình. Gã không ngờ ở cái thị trấn cửa khẩu quán xá mọc lên như nấm sau mưa này người ta không thấy gã ồn ĩ đập phá khi các nhóm khác đã hạ san, họ đoán gã ăn đậm và mai phục. Một phát súng nổ, nhiều ánh đèn pin loá sáng, gã hét chạy. Cả bọn cứ đà xuống dộc của con đường mà lao và, hự, ngã quay lơ: sợi dây chăng qua đường ngang tầm ngực. Kiệt sức vì chạy, cú ngã kết thúc mọi cố gắng tẩu thoát. Tiếng qui lát lách cách, ánh đèn châu tuần vào đám người còn nằm rên rỉ. Sợi dây gỡ ra làm dây trói và chính bọn gã phải mang ba lô chứa hàng hành quân về trạm thành một xâu dài.

 

    

 

Không dưới năm chục cây vàng cho bốn thằng- gã cay đắng tiếc nuối và nài nỉ xin một phần “mấy anh em về ăn tết”. Những người thường ngồi nhậu với gã đã làm lơ. Một công an xã dằn mặt gã tội cư trú bất hợp pháp. Cay cú vì tiếc của, gã tuyên bố sẽ đi tù chứ không để các ông hưởng số hàng này. Gã thấy nhục về sự hạ mình khi nãy và lớn tiếng mạt sát “loại sâu dân mọt nước”, “lũ cướp ngày”… Gã lãnh cái tát và tay công an xã bất ngờ bị cú đia rắc phải trồng bốn răng cửa!

 

    

 

Gã đi tù 5 năm 6 tháng. May mà trước đó gã đã dành dụm một ít cho hai chú em học nghề ga ra. Cậu em kề giờ đã có lương, lo cho gia đình và thỉnh thoảng lên trại Kim Sơn thăm gã.

 

    

 

Năm cuối ở trại gã quen với một thuyền trưởng tàu viễn dương lãnh cái án 2 năm tội danh buôn lậu. Thuyền trưởng đã ngoài năm mươi, biết nói tiếng Anh và kể chuyện Hồng Kông, Xin Ga Po khiến gã cứ tròn mắt thán phục. Đời gã chui lủi trong rừng giờ gặp ông anh lịch lãm trí thức gã mê ngay. Thuyền trưởng thì khoái thằng em râu ria hảo hán…

 

    

 

Một lần vợ thuyền trưởng lên thăm. Gã sững sờ nhìn người phụ nữ trẻ đẹp. Thị cũng chăm chú nhìn gã, cánh mũi phập phồng. Nửa tháng sau lại lên. Anh nhìn của thị khiến gã rạo rực, thằng đàn ông ngủ quên lâu nay được đánh thức. Gã thèm thuồng nhìn cái bụng rây rây, cặp mông đu đưa và vẻ uyển chuyển của thị khi đi. Gã lân la hỏi thăm thuyền trưởng biết thị là vợ bé của ông. Thuyền trưởng đã đưa cô ta ra khỏi khách sạn Thuỷ Thủ, xây một ngôi nhà cho thị mở quán cà phê ở ngoại ô thành phố. Sự chia sớt này khiến gần giáp năm ở trại của ông, bà vợ chính thức- người bạn chiến đấu thời chiến tranh- đã bỏ mặc!…

 

    

 

Gã cầm thư thuyền trưởng về đến quán cà phê lúc đã đông khách tối. Mắt sáng lên, thị đón cái xách trên tay gã, hạ giọng bí ẩn: “Anh vào trong này đã!”

 

    

 

Trên lầu là thế giới riêng thuyền trưởng dụng công bố trí để mỗi lần tới không bị quấy rầy. Thị vặn nước váo bồn tắm bảo gã chờ rồi đi ra. Gã cởi áo, vặn mình sảng khoái, cha chả là thơm, hương thơm từ người thị, từ các thứ xà phòng, nước hoa chung quanh. Thị vào, trên tay là bộ pyjama đàn ông. Gã hơi bối rối trước ánh nhìn của thị bò trên da thịt mình. Thị bước tới thử tay xem nước vừa chưa. Mắt dính vào các đường cong trên người thị, mồm khô khốc, gã thấy nghẹn thở và vồ lấy thị…

 

    

 

An uống xong họ lại quấn lấy nhau. Đến giờ gã mới để ý và thán phục vẻ đẹp thân thể đàn bà. Thị vuốt ve các bắp thịt săn chắc trên người gã, nhá đám lông ngực xum xuê của gã. Quá nửa đêm họ mới nói cái điều rất thừa rằng cả hai đã từng biết nhau: thị là cô gái ở bar Chợ Dinh năm ấy!

 

    

 

Những ngày sau thị khéo léo giúp gã khá dần lên trong nghệ thuật làm tình. Nguồn sinh lực trời cho của gã được vận dụng triệt để. Thị cho lắp những mảng gương lớn quanh phòng ngủ để tăng thêm khoái cảm. An uống, ngủ nghỉ và làm tình- gã không ngờ đời mình có lúc lên hương như thế. Chuyện thuyền trưởng chẳng đáng quan tâm. Ngôi nhà này đứng tên thị. Vốn liếng cái quán không nhiều nhưng chuyện đó tính sau. Gã vắt kiệt sức lực để tận hưởng.

 

    

 

Công bằng mà nói, cái nhẽo nhợt của thuyền trưởng chỉ làm khổ thị khi tàu cập bến. Thời gian còn lại thị cũng vụng trộm với một số vị quan chức hảo ngọt. Đúng ra là họ vụng trộm. Hầu hết đám này bị những mưu toan chính trường, những ức chế tâm lý khiến lực bất tòng tâm; họ giấu sự kém cỏi của mình bằng các trò chọc phá và làm mặt trí thức rởm trong tình dục khiến thị tởm lợm. Thị được gã, thằng đàn ông hoang dã hừng hực, như mèo mù vớ cá rán!

 

    

 

Bất kể ngày hay đêm, trên giường hay trên nền nhà, trong phòng tắm, lúc ngào ngạt nước hoa, khi nguyên nồng mùi mồ hôi da thịt, họ quấn riết cuống cuồng, đam mê và điên loạn. Cả hai không áy náy gì khi nhắc đến thuyền trưởng. Nhưng khi ông bất ngờ xuất hiện, họ có phần lúng túng. Lần đầu gã hiểu cảm xúc của sự lỡ quen nhau. Còn thị biết cái trơ trẽn của người ăn quỵt. Mọi thứ được giải quyết chóng vánh: thuyền trưởng phản ứng kiểu giận quá mất khôn: “Đồ đĩ rạc! Cút khỏi nhà tao ngay!” Thị xừng mặt cười khẫy, chìa tay: “Cho xem giấy tờ?” Thuyền trưởng sùi bọt mép, vừa chửi vừa vung tay lên. Gã đã chứng tỏ sức trai trẻ của mình rất đúng lúc.

 

 

 

2.

 

Thực ra dù nghĩ ngợi nhiều, gã cũng không chắc quyết định của mình do bức bách về kinh tế và ý thức trách nhiệm thằng đàn ông trong gia đình. Gia đình? Có thực gã đang có một gia đình? Thị đã không thể làm mẹ. Vai trò của gã mấy năm qua chỉ đơn giản là một con đực không hơn không kém. Và cái quán, nguồn sống chính của hai người thì khiến gã nhiều phen lộn ruột. Thị đánh mắt đánh mông lại chìu khách không chỉ bằng lời mà còn cho phép tay chúng nó sàm sỡ. Rất nhiều lần thị khọc lọc xin gã hiểu thị. Gã cay đắng hiểu rằng đời gã nhiều lấm láp, chỉ có thị là sự gắn kết phù hợp duy nhất. Chưa bao giờ gã nghĩ về tình yêu nhưng gã biết chắc rằng gã cần thị và hình như những gắng gỏi của gã trong các chuyến đi trước xuất phát từ tấm lòng của gã muốn chăm sóc thị, đỡ đần thị?

 

- Anh hai đi công tác? Cô gái buôn gánh vùng cao cùng đi nhờ xe cắt đứt luồng suy nghĩ của gã.

 

- Đi săn!

 

- Anh săn gì mà không thấy súng?

 

- Đàn bà!

 

Dù lì lợm, các cô gái cũng chỉ cười ré lên chứ không ứng đối. Họ ghé tai nhau thì thầm rồi lại cười…

 

Dĩ nhiên mọi thứ không đơn giản. Gã trầm ngâm nhớ mấy chuyến đi trước. “An” lại những cây dó cũ bị đốn hạ cách đây mười năm, những chồi non chữa vết thương gốc mẹ- gã gọi là đi ngông- nếu có, chỉ cho trầm xác, loại 5 loại 6. Ngày đi ngông tối theo suối tìm rùa vàng. Những con suối thượng nguồn sông Côn, sông Lại Giang mới có giống rùa quý, con nửa ký đã có giá cả chục triệu. Rùa vàng đi ăn nhiều theo suối, những cơn mưa đầu mùa. Gã chỉ kiếm được mấy con vài lạng. Đứt bóng con rùa vàng thì Trung Quốc lại mua rùa mỏ két. Lặn lội đêm đêm, mót máy ngày ngày, mỗi chuyến mươi bữa nửa tháng trong rừng cũng chỉ kiếm được không quá một triệu.

 

    

 

Gã học nghề săn bắt rắn. Giá rắn độc rất cao: tóm được con hổ chúa cổ tay đã có triệu rưởi! Rắn độc đã cho gã khoản thu nhập kha khá. Đôi khi gã cũng rợn người vì cuộc đánh đu sinh mạng trên sợi dây mỏng mảnh. Đem tiền về không bao giờ gã giải thích với thị mình kiếm được từ đâu. Thị vẫn mơ hồ nỗi lo vì thấy gã không vui…

 

    

 

Đây là chuyến đi cuối cùng, gã tự nhủ. Cái hốc to ở gốc da… Tiếng v.ú..t, v..ú…t như tiếng huýt sáo và luồng cây rào rào khua động. Lần lạc đường chuyến đi trầm đầu tiên gã đã thấy nó từ xa. Phải bằng bắp chân chứ không ít. Loài này thường ở cặp. Gã hình dung nếu tóm được sẽ có trong tay không dưới hai chục triệu. Đầu gã lại u u mụ mị không phải vì những con số. Sợi lạnh từ sống lưng từng chặp chạy lên óc. Gã là đứa con của rừng nhưng vĩnh viễn rừng thâm nghiêm kỳ bí. Rừng nuôi sống gã và rừng, ở vùng tối tâm thức gã, cũng phát ra tín hiệu về một cuộc trả thù.

 

    

 

Chiếc DT 55 bắt đầu bò lên dốc Cổng Trời. Sau mùa mưa, con đường khai thác vận chuyển gỗ đã hư hỏng nặng. Đây không phải đường mà là sự đánh đố. Chiếc máy kéo cứ lắc lư, gầm gừ, trồi lên sụt xuống, lừ lừ tiến tới. Chòng chành như sóng. Nhưng sóng biển thì mềm, sóng rừng thì gãy và xóc. Một cú tột vào lưng đau điếng. Gã chửi tục. Đám con gái đang bíu nhau cho khỏi bị văng xuống đất lại cười ré. Đến Lâm trường bộ đã 2 giờ chiều. Phải đi 2 giờ nữa mới tới làng Kon Trút. Cô nàng buôn gánh dạn dĩ trên xe hoá ra cũng về làng này. Cô gánh lên rượu, thuốc lá, bột ngọt, mì tôm… Chuyến về thường là rùa rắn, gà, hạt cau… Cô rẽ vào con suối gần làng bồi thêm nước vào hai can rượu. Người vùng cao quen rượu cần, thứ rượu gạo pha nước cũng là rượu nặng, với họ. Rượu giúp vơi bớt nhọc nhằn. Rượu nhấn chìm vào thói quen không nghĩ ngợi. Mà có gì để nghĩ ngợi đâu? Suối có ốc có cá, bắt đủ ăn thì về. Nhà lúa trên rẫy, gùi đủ giã cho hôm sau là thôi. Tự bao đời con người sinh ra đã có rừng, rừng cho tất cả. Miếng ăn nhập nhoà giữa công sức làm ra và của trời đất… Rượu cũng làm cái mắt long lanh cái cười dài dại cái giới tính bừng thức. Dẫu được nuôi trong nôi ấm nệm êm hay lớn lên cùng tiếng gió ngàn suối lũ, một đằng là những mưu tính lòng vòng, một đằng cứ hồn nhiên trỗi dậy nhưng nó, cái giới tính ấy, vẫn cùng một màu vẻ. Điều khác nhau duy nhất: một phía là thuần tuý tận hưởng nếu được thỏa mãn, phía kia là nhấm nháp sự thoả mãn đó để định danh cái dư vị có được. Một giáo viên người Kinh cùng bầu rùa vàng có lần triết lý như thế. Gã cóc cần hiểu ý nghĩa lòng vòng của các thứ lý luận: đối với gã, đàn bà giống nhau tuốt. Đã mấy lần gã bị làng phạt vạ vì cô gái sau cuộc rượu ưng để gã làm cái việc cả hai đều thích rồi sấng ra kể cho mọi người biết. Các cô này muốn bắt gã làm chồng. Gã chịu cúng phạt.

 

    

 

Gã trở mình trên sàn ván. Lúc chiều khi tặng chai Nếp Mới và lân la hỏi chuyện, già làng cho biết khu đồi gã quan tâm ấy không nên tới vì ở đó có cặp rắn sống lâu năm rất lớn, đó là vùng đất thiêng, ai xâm phạm không thể trở về. Gã từng nghe người ta kể chuyện rắn ông rắn bà, rắn báo thù rất rùng rợn. Chậc, gã đã tóm bao hiêu là rắn độc: balas, cạp nong, hổ chúa, hổ thái, cả con hổ mun rất hiếm. Giờ thì, như mũi tên đã gài vào ná. Mà có dễ đâu, sức lực như gã cũng lầy cầy lật cật lắm mới gài được dây, chả lẽ bật lẫy suông? Chuyến này là chuyến cuối cùng, gã tự động viên mình. Không vượt qua được thì, đây là lần đầu tiên gã đầu hàng, lại chính là lần đầu tiên gã nghĩ ngợi kỹ trước khi làm. Nghĩ ngợi, tính toán để sắp xếp lại đời mình mà chưa ra quân đã đầu hàng thì thằng đàn ông ra con mẹ gì nữa? Cái lờ mờ trong tâm trí gã đã sáng tỏ: xét cho cùng mục đích chuyến đi này là sự tự vượt chính mình. Gã thấy điềm tĩnh trở lại, quờ tay cầm bao thuốc lá. Gã chợt nhớ ả buôn gánh: “em ở nhà bà Kít, tối anh sang chơi nghen!” Gã mỉm cười, buông bao thuốc dò dẫm xuống các bậc thang. “Đàn bà lạ thật”- gã nghĩ.

 

    

 

Quá 7 giờ sáng sương mới tan dần. Gã cầm con dao rừng mượn già làng, khoác ba lô lên vai. Qua nhà bà Kít gã bảo cô gái lấy mấy gói mì tôm. Ả cười ngỏn ngoẻn hỏi thăm chiều gã có về không. Gã nheo mắt tỏ vẻ đồng loã rồi đi. Gần nửa buổi sáng gã mới tách khỏi đường mòn người làng đi rẫy, ngược triền dông phía đông. Việc định hướng cắt rừng gã quá rành từ thời đi trầm. Dấu chân gấu còn mới trên cây khiến gã chờn chợn. Gã dừng lại chặt một đoạn cây vừa tầm, mở ba lô lắp đồ nghề. Cuộn dây gã đặt tiền gấp đôi, nguồn điện được kích lên rất lớn, voi cũng ngã chứ nói gì đến hổ báo. Gã xốc lại ba lô bắt đầu vượt qua quãng đồi tranh rất dốc. Nãy giờ luồn rừng gã không hay mặt trời đã lên cao. Ở đỉnh ngọn đồi này sẽ nhìn thấy cây da. Gã nhẫn nại bước, mồ hôi túa ra như tắm. Cô ả thế mà sức lực, tay lơ mơ chắc chả mùi mẽ gì. Chiều nay à? Gã rấn bước. Một làn gió mát rượi phả vào mặt. Kia rồi! Gã ngồi nghỉ, ước lượng khoảng cách. Quãng trống bên cạnh sẽ dễ xoay trở. Cái quãng trống khiến cây da càng uy nghi giữa rừng đại ngàn. Gã thấy hồi hộp trước khi vào cuộc. Nhai hai gói mì khô, ngửa cổ uống hết nửa bình nước suối gã thấy người khoẻ hẳn ra. Ừ, chiều nay phải giở ngón nghề cho ả nhớ đời. Gã hít một hơi thật sâu rồi thận trọng tiến bước…

 

    

 

Đã nhìn thấy cái bọng cây. Tim gã đập thình thình. Rừng cây xao động. Gã ngoái cổ nhìn ba bề bốn bên, dỏng tai nghe tiếng huýt gió từng chặp. Sống lưng ớn lạnh, gã ân hận đã không rủ một chiến hữu cùng đi. Thực ra chỉ tiếng gió có thật còn âm thanh v.ú..t v.ú…t ở trong đầu gã. Gã trấn tĩnh gài lại con dao bên hông, ngồi im trong lùm cây nghe ngóng. Mắt gã chợt dính vào lùm cây kế bên. Gã dụi mắt rồi định thần nhìn kỹ, quả thật, không thể nào nhầm lẫn, vắt qua các dây leo cành lá, cái vỏ rắn dài hơn 5 mét còn nguyên màu xám trắng! Con rắn mới lột vỏ! Và giờ này dù nắng tháng hai không gay gắt lắm nhưng mặt trời đã đứng bóng, loại có thân nhiệt thay đổi theo môi trường chung quanh chắc đã lẩn mình vào bóng râm. Cái bọng cây loà xoà dây leo và cây con… Gã nhón bước, thần kinh căng lên, ngón tay đặt vào công tắc điện.

 

    

 

Gã không nhận ra ngay chớn sáng trong hốc tối. Mắt quáng vì nắng và quá căng thẳng, gã nghĩ chớn sáng ấy là nấm rừng. Khi cái chớn sáng thoáng biến đổi như dịch chuyển, gã lập tức hiểu rằng giờ phút quyết định đã đến.

 

     

 

Tay gã rùng lên, bọng cây phụt ra âm thanh như tiếng gió rít rồi khối rắn ngồn ngộn từ từ tụt xuống. Gã nhanh chóng tắt điện, cởi ba lô, lôi thanh sắt uốn cong đầu gấp đôi cho gọn, giải ra. Lầy cầy hai ba bận gã mới kéo bật đuôi rắn ra khỏi bọnh cây. Gã vứt thanh sắt dùng tay kéo con vật ra thành vệt dài trên cỏ. Chặt cây có chạc ba đã đẻ ý lúc rình chờ, lấy sợi dây dù có thắt gút sẵn, áp chạc cây vào cổ con rắn, khớp miệng, kéo đầu nó kẹt vào đó và bắt đầu quấn rắn theo cây. Cách này gã học được của người miền núi bắt trăn. Tất cả đã trù liệu trước kỹ càng và gã thực hiện nhanh chóng, chuẩn xác. Con rắn to quá! Thắng lợi trong tầm tay khiến sức mạnh gã tăng nhiều.

 

    

 

Không, không phải tiếng xao động một vùng cây lá, không phải tiếng phì phì giận dữ- trong tình trạng tê dại tri giác và làm việc theo phản xạ tự nhiên, gã bỗng nhìn thấy bóng thần chết ở phía sau. Gã buông sợi dây dù, chụp con dao quay lại.

 

    

 

Con rắn còn cách gã hơn ba thước. Nó cũng kịp hãm đà lao tới. Đầu cất cao tầm mặt người, cổ bạnh to dị thường, nó quái ở chỗ chỏm đầu có vệt thịt đỏ như mào gà chọi. Lưng màu xám đen, bụng trắng ngà, đích thị con hổ ngựa từ lâu gã nghe kể! Phần thân áp đất luôn ngọ nguậy tư thế sẵn sàng phóng tới, cái đầu hơi lắc lư phun phì phì doạ nạt- con vật đang trong trạng thái kích động tột độ. Quay lưng chạy là bỏ mạng tức khắc, gã từng chứng kiến con rắn bằng cổ tay thong tới nhanh mức nào. Nó đang thận trọng nhích dần. Bộ rà điện phía nó, sinh mạng gã phụ thuộc hoàn toàn vào con dao rừng trên tay và nhát chém đầu tiên. Gã xê dịch qua lại một ít để nhử. Con vật bám theo. Kẻ thù đã không bỏ chạy như những con thú khác, lần đầu tiên ná đối diện với một tình huống khác thường. Con thú đi hai chân này không gầm ghè mà lặng thinh nhìn nó, và bạn nó đang nằm sóng soãi bất lực kia…

 

    

 

Bàn chân con người dẫm lên một hòn đá. Mắt vẫn nhìn thẳng vào con rắn đầy uy lực, gã kẹp hòn đá bằng các ngón chân kéo lên. Bàn tay trái đón lấy, chân trái bỏ xuống đã dịch lên phía trước. Gã dồn sức vào mấy ngón tay, búng mạnh hòn đá qua vùng lá bên phải con rắn. Tiếng động quá gần khiến con vật cảnh giác quay đầu qua nhìn. Gã rê mạnh chân phải tới trước để rút ngắn khoảng cách cùng lúc với con dao chém mạnh vào cổ trái con vật. Các thao tác diễn ra chớp nhoáng và cực kỳ chính xác đến nỡi khi bị một cú quật như trời giáng vào lưng chúi mặt xuống đất gã cũng chưa kịp hiểu chuyện gì đã xảy ra. Con dao quăng khỏi tay tự lúc nào. Gã lồm cồm bò dậy theo bản năng. Trước khi bị một cú phang nữa vào mặt, gã kịp kinh hoàng nhìn thấy cái đầu rắn treo lủng lẳng bên cổ, nơi nhát chém máu đang phụt ra nóng hởi trên trán gã.

 

    

 

Không biết bị choáng bao lâu, lúc nhận ra vật gì đè trên người, gã hột hoảng quờ tây nhổm dậy lập tức thái dương gã buốt nhói tê rần. Gã cuống cuồng dùng hai tay tóm lấy cái vật bám riết vào mặt mình, hiểu rằng con rắn bị trói lở dở đã hồi tỉnh, rằng cái giật mình vừa rồi của gã là giật mình chết chóc. Gã dồn hết sức lực vào hai bàn tay bóp riết cổ rắn, nghiến răng giằng mạnh ra, miệng con rắn còn giữ một chòm tọc bết máu, không rõ máu gã hay máu con rắn đực lúc nãy. Con rắn đã vặn mình cuốn lấy gã, cố giãy khỏi cơn ngộp thở. Gã thấy toàn thân nhanh chóng rã rời, cố gắng nghiêng người đè lên đầu con vật. Những cánh rừng quay cuồng chung quanh và đất trời tối sầm trong mắt gã.

 

 

 

3.

 

    

 

Nỗi buồn rồi cũng qua đi. Không có gã cái quán của thị lại nườm nượp khách như xưa. Thị đã có những người đàn ông khác nhưng trong thâm tâm thị vẫn mong một ngày gã trở về. Gần đây, giám đốc một công ty lâm sản có vẻ là món khá. Chuyến đi đến lâm trường khai thác anh ta rủ thị cùng đi. Ở mãi thành phố biển cũng chán thị muốn tìm chút gió rừng.

 

    

 

Lúc anh ta sang làm việc với trưởng phòng kế hoạch, giám đốc lâm trường bắt đầu thăm dò thị. Ông này biết vợ con cái anh trách nhiệm hữu hạn nên chẳng áy náy gì khi nhìn thị ánh nhnf không lương thiện. Chuông điện thoại reo. Tổ trồng rừng báo cáo phát hiện một bộ xương người, xin ý kiến xử lý. Ông đưa đẩy mời. Chàng hữu hạn ngậm bồ hòn làm ngọt bảo xong việc sẽ lên ngay. Trưởng phòng kế hoạch ghi nhận cái nháy mắt của sếp.

 

    

 

Chiếc U-oát cần cù sàng lắc khiến câu chuyện về những con voọc ngũ sắc, con hổ ba chân của giám đốc cứ ngắt quãng nhưng nó giúp hai người thân tình hơn rất nhanh và nảy sinh trong ý nghĩ họ những dự định, mơ ước…

 

    

 

Dấu vết hiện trường cho phép đoán định người chết chưa quá ba năm. Bộ xương người trộn lẫn với xương trăn- mọi công nhân đều khẳng định thế vì độ lớn của nó. Cạnh đó có bộ xương trăn khác. Thiết bị rà điện giải thích đây không phải hài cốt liệt sĩ. Giám đốc lâm trường lệnh cho công nhân đóng cái quách thu nhặt cột người chôn cất tử tế. Thị kêu lạt miệng, buồn nôn. Ông đưa thị sang khu rừng quế 3 năm tuổi để giới thiệu thành tích di thực cây kinh tế cao về đây.

 

    

 

Người công nhân gom xương trăn để nấu cao. Anh ta không được học hành tử tế nên cứ lẫn lộn các đốt xương, không rõ đâu người đâu thú đành gộp chôn chung.

Đệ nhị khoái: Đầu cá !

» Tác giả: Việt Hải

» Dịch giả:

» Thể lọai: Hương vị

» Số lần xem: 6296

1. Đệ nhị khoái: Đầu cá !

Trong câu nói bình dân của các đấng có tâm hồn ăn uống thì "Nhất phao câu, nhì đầu cá ” cho thấy đầu cá là loại thức ăn rất quý báu mà ông bà của chúng ta đã áp dụng lâu rồi mà mãi đến hôm nay, các nhà dinh dưỡng học phương tây mới mổ xẻ vấn đề. Bài viết này xin miễn bàn về cái đệ nhất "phao câu " kia.

Ngày còn nhỏ tôi và ông anh ruột thường tranh giành nhau hai thứ ở con cá trong mâm cơm của gia đình, đó là ruột cá và đầu cá. Thông thường gia đình tôi thường ăn cá lóc và cá bông lau. Ruột cá thì rất quý vì nó giòn và khoái khẩu. Còn đầu cá thì khỏi chê khi anh em chúng tôi mê mẫn hút các chất tủy, tinh túy từ đầu cá vào cổ họng. Ôi, tôi cảm thấy mùi béo ngậy của đầu cá đang tràn vào mồm làm lâng lâng tâm hồn. Do đó hôm nào mẹ tôi hay chị Út, người làm nhà tôi nấu canh chua khóm cá lóc hay canh chua bạc hà cá bông lau là anh em tôi đặt trước phần mình. Quay về lại dĩ vãng của thuỡ niên thiếu, tôi nhìn thòm thèm tô canh chua khóm có trứng cá lóc nổi lều bều và chiếc đầu cá nhô lên giữa tô như một hải đảo mời gọi sự đói bụng vô biên. Ở quê hương ta, khi bán cá người ta bán nguyên con; Khác với bên xứ Mỹ, đầu cá, thân và phần sau đuôi cá thường đựơc bán riêng tại các chợ Việt Nam. Đầu cá nhiều xương lớn nên giá bán rẻ hơn. Điều này cho thấy người ta không giành nhau phần đầu cá như anh em tôi ngày xưa nữa. Đầu cá không đựơc ưa chuộng, lựơng giá đúng mức giá trị của nó. Ngày ấy tôi thường nghe chị Út bình phẩm về tụi tôi là: " Sao lại không ăn thịt cá mà lại ăn đầu, chỉ có xương xẩu không thôi. Dại thế ! ”. Vâng, chính chị Út cũng đánh sai về tầm quan trọng của đầu cá.

Gần bờ sông Cầu Ông Lảnh, có mấy quán nhậu bình dân bán các món nhậu trứ danh như cá lóc nướng trui cuốn bánh tráng, lẩu cá, cá hấp, hay cơm với canh chua cá lóc hay cá bông lau, cá lóc hay cá bông lau kho tộ, khách hàng tấp nập ngồi ăn ngon miệng. Không khí ở đây chứa chan hương vị quê hương. Các ghe chở cá tươi nhảy xông xổng tiếp tế lựơng cá từ miệt lục tỉnh về cho thành phố Sài Gòn. Đâu đây tôi chiêm ngưỡng cảnh thực khách húp canh, múc lẩu, hút đầu cá sồn sột cho thấy con người đang bồi bổ sức khỏe bằng những chất đạm protein quý báu và mỡ tốt vào cho cơ thể của họ.

Theo những nghiên cứu y khoa dinh dữơng, người ta thấy ở đầu cá có chứa chất lecithin, trong nhóm phospholipids làm thành phần trong màn tế bào và liên quan trong việc chuyển hóa chất béo trong gan. Chất biến dưỡng lecithin xúc tác trao đổi và phân giải thành chất choline để tổng hợp ra chất acetylcholine. Acetylcholine là chất quan trọng với nhiệm vụ biến dữơng, chuyển vận và xúc tác các chất hóa học cần thiết cho thần kinh hệ. Acetylcholine có tác dụng làm tăng trí nhớ. Do đó con người sẽ thông minh hơn, tránh việc mất trí nhớ. Trong đầu cá là nơi qui tụ nhiều chất bổ dưỡng cho cá. Đầu cá có nhiều phosporous và calcium so với các loại thịt mà con người xử dụng. Phốt-pho (phosphorous) và chất vôi (calcium) là những chất quan yếu cấu trúc thành xương như chất phosphate calcium cho con người, trong đó có xương não và cột xương sống. Chúng rất cần thiết cho tiến trình biến dưỡng cho chức năng thần kinh hệ làm co cơ bắp và sự đông máu. Hơn nữa đầu cá còn có những chất béo cần thiê’t, essential fatty acids (EFAs). Những chất béo hữu cơ ở dạng docosahexaenoic acid (DHA) và docosapentanoic acid (DPA). Đây là những chất dinh dưỡng chủ yếu, cần thiết cho não bộ. DHA và DPA giúp cho trí nhớ được bền lâu, minh mẫn và sáng suốt.

Trên bước đường tị nạn sang Mỹ, tôi nhớ thuỡ ở trại tị nạn Pendleton năm 75, các nhà ăn (mess halls) thường cho chúng tôi ăn món cá fillet luộc. Bà con tị nạn phản đối vì món cá luộc rất tanh, mà nhà ăn chỉ có muối tiêu và không có món quốc hồn quốc túy nước mắm đi kèm. Một hôm tôi và các anh bạn định xếp hàng ăn trưa thì các mess halls ồn ào vì đồng bào ta quyết định tuyệt thực không vào ăn. Chúng tôi mặt mày bơ phờ, bụng đói meo nhưng phải theo nguyên tắc số đông. Nhìn các anh chàng tị nạn đứng gác cửa mặt mày bặm trợn, đằng đằng sát khí ngăn cản đồng bào nào muốn xé lẻ chui vào ăn. Tiếng đồn đến tai trại trưởng, trung tướng Paul Kelly. Ông tiếp đón phái đoàn đại diện tị nạn để nghe thỉnh nguyện. Phái đoàn đại diện yêu cầu trại cho ăn cá chiên và kèm nước mắm pha tỏi, ớt, chanh... và nên cho ăn gà nhiều hơn cá. Nguyện vọng của người tị nạn đựơc đáp ứng. Trại bắt đầu tuyển mộ nhân viên Việt Nam vào nấu nướng. Vì số người lưu trú quá đông nên số cá chiên đựơc cung cấp rất giới hạn, tuy món cá luộc vẫn còn, nhưng bây giờ trại ban cho món quốc hồn quốc túy nước mắm do người tị nạn pha chế. Trên bàn anh, anh em chúng tôi rất thoải mái với món cơm cá luộc ăn kèm nứơc mắm pha. Bổng một anh ngồi bàn bên cạnh hỏi các bạn: " Tại sao không có món đầu cá nhi? ". Một vị thực khách khác lên tiếng: " Bọn Mỹ không thích xương, nên chỉ ăn fillet thôi ”. Anh bạn đặt câu hỏi thì thầm: " Dại thật nhỉ! ". Trong một khía cạnh nào đó anh bạn nói đúng. Người Mỹ không xơi đầu cá, và đồng bào tị nạn vẫn thích món gà luộc hơn cá luộc. Khi xuất trại rồi tôi mới biết ngày xưa đồng bào ta tuyệt thực đòi ăn gà thì mess halls yểm trợ ngay gà. Nứơc Mỹ giàu mạnh, nứơc Mỹ không hề thiếu thịt bò và thịt gà cơ mà.

Hôm tuần rồi nhà tôi nấu món canh mẵn hay người miền nam gọi là canh ngót có cá rainbow trout và cà chua cho kèm thêm tí chanh, và món cá hồi salmon kho me có cả đầu cá. Úi giời ơi, hai cậu con trai nhỏ của tôi giành nhau đầu cá trout và salmon la ỏm tỏi, vì quả thực đầu cá hấp dẫn bao tử các cháu. Chúng thích thú vì chất tủy béo ở đầu cá. Tôi nhớ lại thuỡ nhỏ tranh ăn đầu cá với anh tôi hay là các con tôi đã thuộc bài của bố chúng tôn vinh cái đệ nhị đầu cá ngày xưa cần đựơc nâng cấp thành đệ nhất đầu cá mới đúng gôut y khoa dinh dưỡng.

Con Bà Xơ

» Tác giả: Lã Mộng Thường

» Dịch giả:

» Thể lọai: Truyện ngắn

» Số lần xem: 2703

1. Con Bà Xơ

Cầm xiên vơ gọn những sợi mì lên chiếc muỗm mà mình nghĩ là đang thưởng thức những miếng lòng heo béo ngậy như hình ảnh nào đó còn vương lại nơi cuốn truyện của một nhà văn Việt Nam thời tiền chiến. Sống nội trú nơi đại học, bọn sinh viên "con bà xơ" như mình, mì gói Kungfu, mì Tôm, mì Hành, Gà, Thái kết cấu thành những giọt máu quí báu. Sáng mì, trưa mì, và tối lại cũng mì. Trông thấy mì là thấy ngán đến tận cổ, nhưng thiếu mì lại thấy nhớ nhung. Không phải nhớ vì thèm ăn nhưng nhớ để sợ. Sợ nhưng vẫn phải ăn vào những lúc này. Không ăn thì đói, mà mới trông thấy hay nghĩ về mì đã ngán thì ăn nào có sung sướng gì. Có chăng, lùa đại vô miệng, nuốt cho qua để dằn cơn đói đang hoành hành nơi chiếc dạ dày kêu réo. Bởi thế, muốn cho dễ nuốt, mình đành phải tưởng tượng những sợi mì vàng vàng dưới ánh đèn tròn thành những miếng lòng heo béo ngậy. Nghĩ đến lòng heo, chưa chi nước miếng đã ứa ra. Tuy nhiên, mì vẫn là mì. Có tưởng tượng đến cách mấy thì thứ con bà xơ vẫn chưa mất cảm xúc của cái miệng.

Có thằng bạn tậu được cái tủ lạnh tí hon, muôn ngàn thằng khác chịu khó thăm viếng, thăm viếng thật đúng giờ như một cố tật. Hình như giữa những con người khác biệt, lại có một điểm chung rất hòa đồng và đó là cái dạ dày nơi mỗi người kêu réo cùng thời điểm. Không hiểu điểm chung này có trùng hợp thật hay không, nhưng khi mình đến lấy mấy miếng thịt bò "gửi" nhờ nơi chiếc tủ lạnh tí hon đó, ba bốn thằng khác cũng vừa ập tới nơi; thành ra của mình biến thành của chùa! Vài cọng hành cũng không hơn gì; chúng bị bắt buộc phải ra đi với sự chấp nhận khó chịu của chủ mà chui vào những chiếc dạ dày khác của bọn con bà xơ.

Có được vài lát thịt bò thái mỏng vừa đủ che khuất đáy chiếc tô sành, những sợi mì bỗng nhiên mang mùi vị lòng heo. Mấy cọng hành lơ phơ càng làm hương vị giả tưởng của mì thêm hấp dẫn. Những tô mì được bồi đắp thêm với mấy lát thịt bò và vài cọng hành tươi hình như được thưởng thức nhanh hơn mặc dầu chủ nhân của chúng cố gắng ăn chầm chậm với hy vọng kéo dài cái hương vị quí báu được giây phút nào hay giây phút ấy. Khi có thịt bò, nghi thức ăn mì cũng được thay đổi. Trên bàn có thêm loong bia bởi chỉ có bia mới đủ khả năng khuyến khích thịt bò thỏa mãn cái khẩu vị đến tuyệt đỉnh của nó. Rượu có lẽ hay hơn nhưng thứ mồ côi làm sao dám nói đến rượu. Có thịt bò, có bia, thịt bò biến nhanh hơn. Nào những thằng ăn ké, nào tốn thêm tiền. Tiền mua thịt bò, tiền mua hành, tiền mua bia. Hơn nữa, thứ vô gia đình đào đâu ra tiền; có dành dụm được vài đồng thì thời gian dành dụm lâu hơn thời gian tiêu chúng. Thế cho nên, càng có thịt bò, càng thấy sự đời chóng qua và chỉ càng thêm nuối tiếc...

Nghĩ đến cái sung sướng của sự khoái khẩu làm cho mình thèm địa vị của mấy thằng có vợ mà còn đi học đại học. Chúng có vợ, chúng không phải lo nấu nướng mà đồ ăn thức uống thay đổi từng bữa; chẳng bù cho tụi vô gia cư, chui vào "dorm." tránh việc bếp núc lủng củng. Ôi sung sướng nhất là có vợ, vừa được đàng nọ lại vừa được cả đàng kia. Nghĩ đến đây, mình mới nhận thấy phục tài tụi sinh viên có vợ. Phục chúng nó sát đất đồng bào ơi! Không hiểu bố chúng cưới vợ cho chúng hay chúng có cái miệng dẻo quẹo thành ra gái mê. Gái mê là có vợ. Nghĩ lại phận mình, cũng thích và muốn có vợ lắm chứ nhưng mình là con bà xơ, mình lại không có cái miệng trơn như mỡ; mình không biết nói dối hoặc gạt gẫm con nhà lành thành ra vẫn phải nấu mì đôi khi ngày vài bữa.

Mấy bé em trung học, mới chỉ lớp 11, 12, đã mong kiếm chồng MD thì sao mà thứ con bà xơ, BS, dám xớ rớ tới. Mình theo học BS, mấy em mơ MD. Ngày xưa, thiên hạ bảo nhau rằng kiếm lấy cái kỹ sư dán vào mặt bố vợ. Nay mấy em "với" MD thì bố vợ phải dùng "bằng dollar" mới che lấp được. Đàng này, BS không thể nào kiếm tiền bằng MD, cái bằng dollar tất nhiên nhỏ hơn thì sao có thể đặt vấn đề mơ với ước. Chỉ còn cách an ủi chính mình "Hừ, đàng nào thì cũng chỉ đi làm thuê." Dù MD, MA, BA, BS, cũng phải lo cày suốt. Đôi khi, tự trấn an bằng cách tưởng tượng nói với mấy em; "Không sung sướng chi đâu bé em! Dân MD chỉ nhìn mấy em như những thành phần được tổng hợp bởi bộ xương và những miếng thịt bầy nhầy thôi! Con mắt dân MD thấy đâu cũng có vi trùng, làm sao có thể hôn em cho mặn mà; sao họ nói được những câu tình tứ với lớp thịt lổm ngổm vi trùng bao bọc một bộ xương thực nghiệm đầy ma quái! Có phải mấy em trang điểm để che mắt dân MD không? Chẳng đánh lừa được họ đâu! Dù có trát phấn dầy đến đâu chăng nữa thì dân MD vẫn thấy những con vi trùng to tổ bố đang tranh nhau gậm nhấm làn da thịt mặn mà của mấy em thôi! Chớ dại mà tới gần họ; kiếng của họ nhìn thấy hết mọi tế bào của các em đó!"

Nghĩ vậy, mình cảm thấy an phận hơn. Nếu 99% các em còn chưa nhận ra cái nhìn của dân MD, thì hãy còn 1% các em nhận thức được sự nguy hại đó. Tô mì bỗng trở thành ngon hơn, vị mì hấp dẫn hơn bởi mình không có cặp mắt MD; mình không có cái mũi MD. Thế cũng tạm đủ, con bà xơ thì không nên với cao. BS an ủi chán! Một năm nữa thôi mì ơi; ta sẽ giã từ ngươi. Ta sẽ nhớ ngươi nhưng nhớ để mà sợ. Thế thôi!...

Con gái của rừng

» Tác giả: Đào Hiếu

» Dịch giả:

» Thể lọai: Truyện ngắn

» Số lần xem: 2617

1. Con gái của rừng

Cô gái người Châu Mạ xòe bàn tay ra. Tôi hỏi:

 

-Ngón nào đeo nhẫn?

 

-Ngón áp út.

 

-Không phải. Ngón trỏ.

 

-Tại sao?

 

-Vì đó là ngón tay bất hạnh nhất trong bàn tay của em.

 

Nó có một đường rãnh như vết dao cắt. Cái rãnh ấy do động tác ngắt lá chè ngày nọ qua ngày kia, năm này sang năm khác tạo ra.

 

Và đó cũng không chỉ là ngón tay của Ka Hèng. Đó là ngón tay của tất cả những cô gái hái chè ở Lâm Đồng.

 

Tội nghiệp cho cái ngón tay bất hạnh đó. Sao không có ai cầm lấy nó và đưa lên môi hôn?

 

*

 

Đồi chè vây quanh chỗ ngồi, trải xuống thung lũng, chập chùng qua các sườn núi. Chè làm cho nắng có màu xanh lá.

 

Nhưng áo của Ka Hèng thì đen. Một cái áo khoác cũ. Em mua ở vỉa hè Đà Lạt. Có mười ngàn đồng. Đã sờn rách. Đã bạc màu. Tôi thương cái áo đó. Và thương ngón tay trỏ của cô gái người Châu Mạ.

 

Chúng tôi nghỉ trưa ở lưng chừng đồi, ngay dưới gốc mít. Cơn mưa chợt đến. Gió núi lùa mưa ướt mặt. Ướt cả quần áo. Mưa ngăn chúng tôi trở về vì sườn núi trơn trợt. Xe máy không lên nổi. Cô gái lấy trong gùi ra một ổ bánh mì và bẻ đôi.

 

-Anh thử ăn đọt chè với muối nhé? Những lúc không có gì ăn thì tụi em vẫn ăn như vậy.

 

Bữa trưa thật khác lạ. Đọt chè đắng, chát.

 

Ka Hèng nhìn tôi ăn. Như một người mẹ bao dung. Và cười. Đôi mắt người Châu Mạ nào cũng đẹp.

 

Rồi cô hát.

 

Tôi không muốn thi vị hóa cuộc hội ngộ này. Tôi không muốn trang điểm cho cô gái này. Vì thực sự cô hát hay hơn tôi tưởng. Cô hát hay hơn bạn tưởng.

 

Không gào thét, không hú, không cố ý làm cho hoang dã. Cô hát tự nhiên như suối chảy. Như gió lướt qua đồi nương. Vừa đi vừa hát. Vừa hái chè vừa hát. Hát trên đồi sim, hát trên đồng cỏ may đỏ tía. Hát bên đống lửa, giữa rừng đen, sâu thẳm, bí ẩn và im lặng. Đó là bài LangBiang Buồn (LangBiang Xơninh). Mọi người im lặng. Những ngọn gió cũng im lặng. Con dơi rừng xếp cánh lại.

 

Tôi đứng lên, tách khỏi vòng tròn quanh đống lửa, bước vào rừng đêm. Trong ánh sáng mờ ảo lung linh, hiện ra một khóm hoa dại, không biết màu gì. Nó như một ân huệ của thần rừng vừa ban xuống.

 

Tôi đem hoa tặng cho người con gái đang hát:

 

Cao nguyên, nghe trong anh hồn núi

 

Thổn thức đêm nay

 

Nỗi buồn ngàn thu

 

Hởi anh yêu! LangBiang ta trầm lắng

 

Ôm ấp bao tình, quyện từ muôn phương.

 

Đó là một chất giọng độc đáo, nhưng lâu nay nó chỉ dành cho gió núi, cho nương rẫy. Một giọng hát lẽ ra phải được dành cho cả dân tộc Châu Mạ, và dành cho Việt Nam.

 

Mưa đã tạnh. Bánh mì, đọt chè và muối đã hết. Nhưng giọng hát thì bất tận. Núi rừng Bảo Lộc đã nhập vào Ka Hèng. Cô đang hát lời của con nai dậy thì trên đồi sim, lời của con chim chào mào dưới lũng thấp.

 

*

 

Năm tám tuổi Ka Hèng học lớp Một. Học ba năm liền không lên nổi lớp Hai. Ka Hèng nói: “Không muốn đi học. Chỉ muốn đi cắt cỏ thôi.” Ở xã người ta dụ: đi học sẽ được lãnh ổ bánh mì. Cô bé đến lãnh ổ bánh mì rồi trốn về. Nhưng cuối cùng cũng đi học. Ngày học, ngày cắt cỏ, nên ba năm không lên được lớp Hai.

 

Khi Ka Hèng mười tuổi, cô giáo nghỉ đẻ, không có người thay thế. Cô nói: Ka Hèng nó thông minh lắm, có thể dạy học được.

 

Từ đó trong buôn có cô giáo mười tuổi mới học tới lớp Một.

 

Năm mười bốn tuổi gia đình Ka Hèng từ Lộc An chuyển về Bảo Lâm, mẹ ở chung với dì, nhà rất đông người. Ka Hèng thích vô rừng sống một mình.

 

Năm năm đơn độc giữa mây núi. Không biết đến loài người. Cô gái tuổi teen ấy làm con của rừng.

 

Mười bốn tuổi, mỗi tuần gùi củ mài ra buôn làng đổi gạo, muối. Hai mươi cây số đường rừng. Đi từ sáng và về một mình trong đêm. Đi theo ánh sáng của bầy đom đóm. Âm thầm như con nai nhỏ. Như con chim bay về tổ của mình.

 

Đó là thời gian cô sống bên này suối.

 

Thế giới của Ka Hèng là bên này suối. Nhưng năm mười chín tuổi cô đã đi theo tiếng gọi của trần tục mà về sống với con người bên kia suối, nên bất hạnh đã vây phủ cô.

 

Nó đến trong đêm, khi Ka Hèng đang ngủ. Chợt cảm thấy có ai nằm cạnh mình, quay lại. Bị hôn ngay miệng. Đó là một gã người kinh. Cô bỏ chạy ra suối rửa mặt, súc miệng. Nhưng gã người kinh ấy lại ngỏ lời cầu hôn.

 

Gia đình Ka Hèng hỏi :

 

-Cha mẹ đâu ?

 

Anh ta nói mình lớn lên trong trại mồ côi. Không biết quê quán. Không biết cha mẹ. Ka Hèng hỏi tôi :

 

-Sao người kinh hay nói dối vậy?

 

-Sao biết hắn nói dối?

 

-Vì em lấy được chứng minh nhân dân của anh ấy. Quê ở Thái Bình. Cha mẹ đều còn sống.

 

-Vậy sao em cũng lấy nó.

 

-Em nghĩ là nó thương em. Chị em hứa: mày lấy Ka Hèng tao cho mẫu chè.

 

Nó chịu. Nhưng đêm tân hôn nó bỏ đi nhậu với tụi thợ rừng. Em nằm một mình buồn quá. Khóc. Nửa đêm ra ngoài tìm chồng. Đi ngang nhà thờ nghe tiếng thánh ca. Đó là lần đầu tiên em không hát cho ca đoàn trong đêm Giáng Sinh. Mà lại lang thang trong đêm tối.

 

Hồi ở trong rừng em vẫn hay đi một mình trong đêm tối như vậy. Chợt sống lại cảm giác ấy. Không buồn nữa. Đứng dưới bóng cây mà hát. Rồi cứ thế, đi và hát trong đêm. Không một ai trên đường. Không một ai trong buôn làng còn thức. Chỉ có Đức Chúa Trời nghe em hát như ngài vẫn thường nghe em hát trong nhiều năm dưới mái nhà của Người.

 

*

 

Hai mươi tuổi Ka Hèng có bầu. Người chồng bán mẫu chè và bỏ đi biệt tích. Ka Hèng vô rừng ở, lần thứ hai. Không tiền bạc. Không của cải. Nhưng rừng là nhà của cô. Vẫn còn những củ mài, măng tre, lá bép và suối.

 

Nhà của Ka Hèng ở lưng chừng đồi. Nó mảnh khảnh và tơi tả.

 

Buổi sáng lại gùi củ mài và măng ra buôn đổi thực phẩm. Vẫn hai mươi cây số đường rừng. Trở về trong đêm. Cọp thường ngủ trong đồi sim. Nhưng cọp cũng thích nghe Ka Hèng hát. Giống như lời ru. Ru được cả thú dữ. Con đười ươi, con gấu, đến con rắn cũng thích nghe Ka Hèng hát. Chúng thân thiện với cô như trong cổ tích.

 

Chỉ có con người là mang mầm mống của sự bất trắc. Hai thằng con trai đứng ngay đầu cầu. Cây cầu khỉ bắc qua suối.

 

-Đưa trái thơm thì cho qua.

 

Trong gùi của Ka Hèng có gạo. Và hai trái thơm. Cô lấy một trái, cầm cái cán như cầm quả chùy.

 

-Có phải trái này không?

 

-Hai trái mới được.

 

-Vậy tôi đếm đến hai nhé.

 

Và đếm : một, ha..i... Tiếng « hai » chưa kịp thốt ra thì một gã con trai đã văng xuống suối. Gã còn lại ngoan ngoãn tìm cách kéo đồng bọn lên.

 

Nhưng lại có một gã to con hơn. Râu quai nón, tóc dài. Gã không chặn đường. Không chọc ghẹo. Gã theo dõi. Lén lút. Giấu mặt. Ban đầu Ka Hèng rất sợ. Lần thứ ba, lần thứ tư vẫn không ra mặt. Khi thì theo sau, khi đi song song, lẫn trong cây rừng, khi ẩn hiện phía trước, có lúc từ trên ngọn cây cao nhìn xuống.

 

Nhiều tuần trôi qua như vậy. Ka Hèng không còn cảm thấy bị đe dọa. Hắn giống như người được thần rừng sai đi bảo vệ cho cô. Ngay cả trong đêm, cô không thấy hình dáng của gã nhưng những tiếng động gã gây ra cũng rất quen thuộc. Vì không sợ nữa nên cô lại hát. Có thể gã không phải là người. Vì làm sao lại có người bỏ công theo đuổi suốt ngày đêm như vậy? Chẳng lẽ đó là một gã si tình ?

 

Lại có khi Ka Hèng rình gã. Thấy gã từ trên ngọn cây nhảy xuống, nhanh như một con vượn. Râu tóc rất dài. Nhưng mặt là mặt người. Một người đàn ông cao lớn và cũng có thể gọi là đẹp trai. Đến khi gã phát hiện mình bị theo dõi thì trốn biệt. Biến mất trong rừng dày. Suốt một tuần không hề thấy tăm hơi. Chỉ có một lần Ka Hèng tắm suối. Cô để ngực trần. Và hát vang cả rừng núi. Chợt nghe tiếng động trong nhánh cây thấp. Cô ngừng hát. Nhưng vây quanh cô chỉ là những tầng tầng lớp lớp lá rừng dày đặc. Rừng cũng đang nín thở, nghe ngóng.

 

Cô nghĩ rằng gã đã bỏ đi nơi khác rồi. Và từ đó cô không bận tâm đến gã nữa.

 

*

 

Có một ngày Ka Hèng thấy thèm chua. Mà ổi thì mới ra hoa. Trong rừng không có quả gì. Cô đi lang thang bên suối tìm lá giang. Nhưng không có. Chỉ gặp một bụi lá bứa chua chua chát chát. Nhưng rất là ngon. Ăn một bụng, còn để dành cho ngày hôm sau.

 

Nhưng hôm sau đến thì thấy một con bò rừng đang ăn khóm lá bứa của mình. Nó to quá. Không đuổi đi được. Đành phải chạy đến tranh ăn với nó.

 

Và ngày hôm sau thì không còn gì để ăn.

 

Cơn thèm chua lại đến. Cô vuốt ve cái bụng bầu của mình. Con ơi. Mẹ đói như thế này thì làm sao con no được?

 

Ngày kia có một chàng trai lạ bơi qua suối.

 

Anh ta nhìn thấy một cô gái hai mươi tuổi, mang bầu và ở một mình trong rừng. Lễ vật của chàng là một nửa gùi sim chín. Chàng hái sim trên đồi cù.

 

-Cô ở đây có một mình sao?

 

-Tôi thích ở một mình.

 

-Chồng đâu ?

 

-Không có chồng.

 

-Sao có bầu ?

 

-Con của rừng đấy.

 

Hôm sau chàng trai lại đem đến một nửa gùi bắp. Lần thứ ba là muối. Chàng trai rủ Ka Hèng đi hái sim. Họ đi từ sáng và đến đồi cù vào giữa trưa. Sim dày đặc, trái chín đen cả một vạt rừng. Gió mát quá. Ka Hèng len lỏi giữa những bụi sim cao ngang mặt. Hai người tung tăng như hai con nai nhỏ hồn nhiên.

 

Chợt nghe tiếng thở của con thú lớn. Một con cọp đang ngủ say. Chàng trai cầm cái xà gạt thủ thế. Ka Hèng lùi lại. Nhưng không sợ. Cô thấy con cọp cũng hiền lành khi nó ngủ. Chàng trai nói:

 

-Cô giữ cái đuôi nó đi. Tôi sẽ cho nó một nhát.

 

Ka Hèng thích trò chơi đó. Cô chụp lấy cái đuôi con cọp. Nó giật mình thức dậy. Gầm lên một tiếng. Nanh vuốt giương ra hết cỡ. Chàng trai ném cây xà gạt bỏ chạy.

 

Ka Hèng không còn sự chọn lựa nào ngoài việc giữ chặt cái đuôi khủng khiếp của con mãnh thú. Người và thú xoay vòng tròn. Cô gồng mình, mười ngón chân cày xới mặt đất tóe máu. Mặt đất cũng rách nát.

 

Quần áo Ka Hèng thì tả tơi, tóc bê bết mồ hôi, sợi dây chuyền bằng hạt cườm đứt tung, vung vãi trong cỏ gai. Cô bắt đầu đuối sức nhưng không dám buông tay vì buông tay là chết. Trong giây phút tuyệt vọng ấy một đám thợ rừng xuất hiện, la hét. Ka Hèng buông cái đuôi ra, ngã quỵ trên vòng tròn nham nhở đất cát.

 

Cọp phóng vào rừng.

 

Cô lại trở về căn nhà sàn tả tơi của mình.

 

Một đêm trăng mờ, chàng trai hôm trước lại bơi qua suối. Lần này anh ta không đem theo quà. Lặng lẽ bước lên cầu thang, ngồi xuống bên bếp lửa. Ka Hèng đang khâu lại cái xà rông rách nát do quần nhau với cọp hôm trước. Hai ngưòi đều không nói lời nào. Cuối cùng chàng trai mở lời.

 

-Anh có lỗi với em.

 

Im lặng.

 

-Hãy cho anh ở lại đây đêm nay để canh ngọn lửa cho em.

 

-Về đi!

 

-Hãy cho anh ở lại.

 

-Tôi bảo anh về!

 

-Nếu không về thì sao?

 

Ka Hèng ném cái xà rông xuống sàn nhà. Hỏi:

 

-Anh nghĩ gì về một cô gái dám sống một mình trong rừng?

 

-Anh thương em.

 

-Bây giờ anh có đi về không?

 

-Hãy cho anh ở lại.

 

Ka Hèng bước lại phía vách lá, đẩy cánh cửa sổ.

 

Không phải ánh trăng lùa vào. Không phải gió lùa vào. Mà một đàn dơi rừng như cơn bão đen từ địa ngục lùa vào.

 

Chàng trai biến mất trong chớp mắt. Chỉ còn là một khối đen có cánh, lúc nhúc và rối rít. Cái khối đen ấy lăn tròn xuống cầu thang.

 

Đàn dơi tung mình lên. Lấp lánh ngàn đôi cánh của bóng tối.

 

Chàng trai nằm bất động. Ka Hèng lại ngồi bên bếp lửa, tiếp tục vá cái xà rông. Một lúc sau, cô nghe tiếng bước chân dẫm trên lá khô. Và tiếng một con chim tu hú kêu trong rừng sâu.

 

*

 

Cái thai vẫn tồn tại sau trận ác chiến với con cọp nhỏ. Đến ngày, Ka Hèng về buôn ở với mẹ. Nửa đêm bụng đau thắt. Mẹ bảo cô ngồi xổm, hai tay nắm chặt thành giường. Đứa con ra đời, được cắt nhau bằng một sợi chỉ.

 

Ba tháng sau Ka Hèng lại đưa con vào ở trong rừng. Ở được một tháng thì có cơn bão đến. Rừng núi chuyển động. Đồi chè chuyển động. Ngôi nhà sàn lắc lay như cái tổ chim. Mưa trút xuống giận dữ. Trời gầm thét. Và núi cũng đáp lại bằng những tiếng rú.

 

Căn nhà sàn bay xuống đồi như một chiếc lá khô. Vừa bay vừa xoay vòng. Ka Hèng gùi con sau lưng, ôm lấy cột nhà. Và bay đi như đang cưỡi lên một cánh diều. Cô nghĩ rằng hai mẹ con sẽ bị ném xuống hẻm núi và sẽ chết. Cuối cùng cô quyết định mở cánh cửa. Ôm con trước ngực. Và lao ra ngoài.

 

Hai mẹ con lăn lóc trên sườn đồi. Tấp vào những bụi chè. Và sống sót.

 

Sau cơn bão, những người hái chè quanh đấy xúm lại dựng tạm cho cô một túp lều. Lều cất xong, các chàng trai trong buôn săn được một con đỏ, làm tiệc. Ka Hèng đi hái mồng tơi được một rổ đầy, đem rửa bên bờ suối. Bọn thanh niên xúm lại vừa nhặt rau vừa chơi trò bóp trái mồng tơi quẹt lên mặt, đùa giỡn náo động cả một góc rừng.

 

Bỗng nhiên nghe tiếng khóc. Già Làng hỏi:

 

-Đứa nào khóc?

 

Ông chạy ngược lên đầu suối, thấy hoa mồng tơi trôi đầy trên mặt nước. Trên hòn đá chỉ còn mình Ka Hèng ngồi khóc, xòe hai bàn tay che lấy ngực. Già Làng hỏi:

 

-Ai làm gì?

 

-K Đùng bôi mồng tơi lên ngực con.

 

Già Làng chỉ cười, lội xuống suối vớt cái rổ rau lên.

 

-Nín đi.

 

Nhưng Ka Hèng tức quá không nín được.

 

Buổi tối khi mọi người đã về hết, còn lại một mình với rừng đêm, cô thấy mình sống lại, thanh thản, tự do giữa trời và đất, giữa mây và núi. Đứa con đã ngủ yên bên bếp lửa. Ka Hèng đi chân đất, bước xuống các bậc thang. Bàn chân dẫm trên những lá cỏ ướt. Mặt đất phẳng lặng.

 

Ban sáng bông cỏ may có màu tím đỏ, xế chiều nó cháy rực lên như lửa. Còn bây giờ dưới ánh trăng mờ đục, bông cỏ may tỏa ra một vùng sáng bạc hư ảo, chập chờn, lãng đãng như sương khói. Đó là thế giới của cô. Lặng thinh, tĩnh mịch, thầm kín, riêng tư. Nhưng mà không phải riêng tư. Vì cô đang sống với rừng, với bông cỏ may, với tiếng suối thủ thỉ bên cạnh. Cho nên riêng tư mà cũng giống như là hòa nhập, kết nối, ôm ấp, trao gửi. Như cô đang ngã người vào vòng tay của cỏ may để đón nhận sự vuốt ve của những cánh lá mỏng, để hít cái bồng bềnh của sóng gió trắng đục, để nghe lời ru vụng về mà âu yếm của con nước vô danh dưới lũng thấp.

 

Hãy chúc phúc cho Ka Hèng, con gái yêu của rừng già.

 

Hãy chúc phúc cho con chim sơn ca của núi rừng Bảo Lộc có đôi cánh quá mỏng, không bay lên được trời cao.

 

Peace be with you, Ka Hèng, con chiên của Đức Chúa Trời lòng lành. Cô là giọng solo sáng giá của ca đoàn nhà thờ Tơn Rai. Tháng 5 năm 1995, trong lễ khánh thành ngôi giáo đường xinh xắn này có một trăm linh mục khắp nơi về dự. Năm nghìn giáo dân quỳ dưới chân Chúa. Ka Hèng được chọn là giọng “hát đáp” duy nhất, hát trên bục thánh.

 

Sau buổi lễ cha xứ địa phận Đà Lạt đến và nói:

 

-Con hát hay lắm. Hãy về hát cho ca đoàn của cha.

 

Nhưng đến nay cô vẫn là một cô gái hái chè.

 

Và vết cắt trên ngón tay trỏ của cô ngày càng sâu thêm.

 

*

 

Phía dưới thung lũng có tiếng con nít la lối. Hình như đoàn văn công ở tỉnh về. Ka Hèng đang hái chè, bỏ gùi chạy ra xem, mới biết là có bốn người Fulro bị bắt, đem từ trong rừng về. Một đàn ông, một đàn bà và hai đứa con nít. Bọn họ và mấy người dân quân xã ngồi nghỉ mệt bên những gốc mít.

 

Ka Hèng rẽ đám đông, thò đầu vô xem. Tức thì chạm phải một khuôn mặt râu tóc dài như người rừng. Và một đôi mắt buồn, khắc khoải. Đó là đôi mắt đã từng theo dõi cô trong rừng, phía sau, phía trước, trên ngọn cây…bất kể ngày đêm, bất kể mưa nắng. Đôi mắt ấy đang nhìn cô trân trối. Một đôi mắt đẹp. Một cái nhìn tuyệt vọng.

 

Người đàn bà ngồi cạnh ông thì ốm yếu và thất thần. Chỉ có hai đứa con nít thì lanh chanh như hai con khỉ nhỏ. Chúng đứng nhăn răng cười, chỉ tay vô bụng. Có người đưa cho chúng mấy viên kẹo, chúng đưa lên mũi ngửi, xé viên kẹo ra nếm rồi nhăn mặt vứt đi. Người nọ lại đưa một ổ bánh mì. Một đứa chụp lấy, nhảy tót lên cành cây, đu mấy cái đã ở tít trên ngọn mít. Đứa còn lại phóng theo, chuyền cành nhanh như vượn, tiếng kêu “khẹt khẹt” phát ra từ cổ họng chúng. Hai đứa đuổi nhau trên ngọn cây, giành ổ bánh mì. Cuối cùng đứa nhỏ thua. Nó ngồi trên cành cây, nhìn đứa lớn gặm ổ bánh, rồi chợt nó bẻ một cành mít nhỏ đưa lên miệng, gặm lớp vỏ cây, ăn ngấu nghiến.

 

Hai đứa trẻ đã được sinh ra, lớn lên trong rừng. Và đây là lần đầu tiên chúng biết đến xã hội loài người.

 

*

 

Tôi và Ka Hèng phải vượt qua một con dốc rất cao mới tới được làng Tul. Trên đỉnh dốc là một vùng đất bằng phẳng vàng cháy và trơ trụi. Tôi không thể tưởng tượng được rằng giữa vùng rừng núi bạt ngàn này lại có một ngôi làng cằn khô như thế. Như ốc đảo trong sa mạc.Như một thị trấn hoang sơ của miền viễn Tây Hoa kỳ cách đây 200 năm.

 

Hai bên con đường đất bụi mù là những ngôi nhà gỗ lụp xụp ủ rũ dưới nắng cháy. Những ngõ cụt màu nâu đỏ mất hút sau các vách ván so le, vỡ nát, thủng lỗ. Không một bóng người. Không tiếng chim. Không tiếng heo gà. Làng Tul lạnh lẽo dưới nắng chói.

 

Rồi đột nhiên hàng chục đứa trẻ từ trong các ngõ ngách hiện ra. Đứng như trời trồng, Không nói. Không cười. Không cử động. Chỉ thấy những cái bụng ỏng và những cặp mắt đầy ghèn.

 

Tôi đang lạc vào thế giới nào vậy?

 

Những đứa trẻ như vừa mọc ra từ đất. Chúng như những bụi xương rồng lùn tịt, khẳng khiu trên cát nóng. Chúng đang thủ thế với tôi hay đang chào đón?

 

Dường như sắp xảy ra một cuộc đấu súng.

 

Những chàng cao bồi nhỏ áo quần rách rưới, ruồi đậu quanh mép. Còn tôi thì toát mồ hôi. Không ai có súng cả. Dường như đó là một sự căng thẳng giả tạo. Cũng có thể đó chỉ là một sự ngạc nhiên kéo dài.

 

Ka Hèng nói một câu gì đó bằng tiếng dân tộc.

 

Ngay tức khắc đám trẻ con chạy ùa đến vây lấy hai chúng tôi. Tôi ngồi thụp xuống, mở cái bao vải to tướng ra. Chúng tôi vội quá, nên quà không có gì ngoài những bao xì-nách. Một trăm bao cũng không thấm tháp gì.

 

Mấy con gà mái không biết từ đâu cũng chạy đến. Năm ba con chó vàng và heo mọi ốm nhách.

 

Dưới gầm ngôi nhà sàn thường là để nhốt trâu bò nhưng dường như đã lâu lắm người ta không dùng đến cái khoảng trống đó. Mặt đất trong chuồng nham nhở. Không có cỏ, cũng không có rơm khô. Cả phân bò cũng không có. Sự sống đang tàn lụi, đang co rúm lại, quắt queo như một trái cây chưa kịp chín đã khô héo.

 

Ngôi nhà sàn này giống hệt nhà của Ka Hèng trong rừng năm cô mười bốn tuổi. Một cầu thang đi lên. Tỏa ra hai bên là những khoảng trống u ám của những vách lá mục nát đen nhẻm bị hun khói hàng chục năm bởi những bếp lửa phân chia từng gia đình một.

 

Bếp lửa cũng đã tắt ngấm. Đặt bàn tay lên tro than thấy lạnh tanh. Những que củi cháy dở nằm ngổn ngang như xác chết nám đen trên chiến địa.

 

Nhìn lên mái thấy hàng trăm cái lỗ thủng. Thấy có đám mây dửng dưng bay ngang qua. Thấy gió phe phẩy những lá mục. Vách ngăn giữa các gia đình làm bằng bao bố kết lại. Cũng đã tả tơi.

 

Nhưng đây không phải là cái nhà sàn bỏ hoang. Vẫn có mấy bộ quần áo treo trên vách. Mấy cái bầu khô. Xà gạt và gùi. Những cư dân ở đây đang ở trong rừng. Họ không có chè để hái, không có cà phê để hái, không có bắp để hái. Họ hái củi. Bó từng bó lớn, mang trên vai, gùi trên lưng. Đi bộ mấy chục cây số. Hai bàn chân bè ra. Nứt nẻ. Chai cứng. Băng rừng ra đến chợ. Kiếm được hạt gạo sao mà khốn cùng vậy!

 

Xế chiều quay về nhà. Nhà đây sao? Hay là chuồng? Có khi không bằng một cái hang thú. Sao nỡ bỏ người dân tộc ở cái làng Tul này sống thảm thương đến vậy?

 

*

 

Ka Hèng hỏi tôi.

 

-Anh có biết vì sao chồng em bỏ đi không?

 

-Vì hắn đã bán mẫu chè của em.

 

-Không phải.

 

-Vậy thì vì sao?

 

-Vì đối với chồng em thì rừng chỉ là nơi anh ấy đến để nương tựa lúc ngặt nghèo. Không phải nơi anh ấy trở về.

 

Tôi hỏi:

 

-Còn em?

 

-Em là con gái của rừng. Rừng là mái nhà. Là nơi em trở về. Nếu như người kinh cũng nghĩ rằng rừng là mái nhà của mình, là nơi từng che chở mình... thì họ sẽ không bỏ rừng một cách phũ phàng như thế.

Chuyến Về Nhà Chị

» Tác giả: Ngô Viết Trọng

» Dịch giả:

» Thể lọai: Truyện ngắn

» Số lần xem: 2971

1. Chuyến Về Nhà Chị

Cầm tờ giấy ra trại , Tín đón xe tìm về xã Bình Trạch , một xã thuộc kinh tế mới thuộc miền Đông Nam bộ. Nơi đây , người chị góa bụa của Tín đã dắt đứa hai con đến lập nghiệp vài năm trước.

Ban quản lý trại cấp cho Tín được 15 đồng tiền xe. Số tiền Tín gửi khi vào trại qui cũng được 15 đồng nữa. Như vậy là Tín có được 30 đồng lận lưng trong chuyến trở về.Đoạn đường từ trại ra đường chính chừng 3 cây số , chỉ có xe lôi chạy vào những ngày có thăm nuôi hay những ngày tha tù. Toán cùng đi với Tín vừa ra khỏi cổng đã gặp ngay mấy anh xe lôi nồng nhiệt chào mời. Nhưng họ đòi mỗi người 5 đồng để ra đường chính , trả tiền trước không bớt một xu. Những người chạy xe lôi trong khu vực này đều là thân nhân của những cán bộ trại , họ thường biết trước khi nào có thả tù.Họ cũng dư biết tâm lý những người tù mới được tha , chẳng mấy ai dám tiếc tiền. Đã có một vụ tha tù năm 1979, khi một số tù còn đang đón xe để về nhà, một số khác đang còn chờ nhận lại những đồ gửi thì bỗng cơ lệnh giữ họ lại. Xe công an hỏa tốc đuổi theo vớt từng anh một đang đi lếch thếch trước sự ngơ ngác của mọi người. Nhớ lại việc đó , Tín bấm bụng mà bỏ ra 5 đồng bạc cho một khoảng nửa giờ đi bộ.

Ra thấu đường chính đám tù được tha rẽ thành hai toán đón xe về hai hướng ngược nhau. Toán Tín có bốn người. Tín chưa phải đợi chờ lâu thì một chiếc xe đò xà lại. chủ xe , tài xế , lơ xe đều tươi cười nồng nàn mời bọn Tín lên xe. Không nói đến tiền xe , họ chỉ hỏi thăm lần này được thả bao nhiêu , cảnh sống trong tù như thế nào , bây giờ đi đâu , dự tính sắp tới làm gì....Tuyến xe này đi về Bà Rịa. Theo lộ trình , Tín phải xuống dọc đường ở ngã ba Cam Hưng để đón xe khác đi Bình Trạch. Đi một chặng khá xa mà chẳng ai hỏi đến tiền bạc , Tín đâm ra lo lắng. Nếu họ đòi nhiều thì kẹt lắm. Bốn anh cựu tù hỏi thầm nhau rồi cùng cười tới đâu hay tới đó. Tới một trạm đổ nước , xe ngừng lại để đổ nước thêm và cho khách xuống xả hơi chốc lát. Tín đi giải xong định vô trạm kiếm miếng nước thì gặp bà chủ xe trong trạm vừa bước ra :

- Ủa quên , mời bốn anh vô đây ăn tô bún Huế cho ấm bụng. Bún ngon lắm.

Tín cười lúng túng :

- Dạ chúng tôi tiền đâu mà dám ăn ! Sợ không đủ tiền xe trả cho bà nữa đấy làm sang sao được !

- Đừng có lo. Tôi bao cho mấy anh. Anh mời hết cả bốn anh vô đây !

Thấy Tín do dự , bà chủ kêu anh lơ đi mời. Đồng thời , bà kêu người trong trạm múc bún , đem nước xá xị và nước cam ra. Nhiều hành khách cũng nói theo :

- Bà chủ đãi thiệt đấy mà ! Ai cũng hiểu hoàn cảnh của anh hết. Đừng có ngại !

Tín được ăn một tô bún ngon đáo để. Trong khi bọn Tín ăn uống thì bà chủ xe cùng một số hành khách ngồi bên cạnh nói chuyện. Một hành khách móc ra tờ 20 đồng để lên bàn :

- Xin lỗi , tôi xin góp một chút để mấy anh uống nước dọc đường.

Một hàn khách khác thì biếu mỗi người một chai dầu xanh.

Bà chủ xe hỏi Tín :

- Quê anh ở Huế sao lại đi về miền Đông?

- Dạ thật ra tôi cũng muốn chấp cánh mà bay về Huế ngay bây giờ. Ngặt vì họ chỉ phát có 15 đồng bạc trong khi tiền xe về Huế nghe đâu tới tám chục , tôi phải ghé lại nhà bà chị ruột ở xã kinh tế mới Bình Trạch để nhờ chị ấy xoay xở ra sao đã.

- Xã Bình Trạch thì tôi biết. Tiếc rằng anh lại về nhằm ngày hôm nay. Nếu như ngày mai anh về , tôi cho quá giang tận tới nơi được.

- Dạ thế bà cũng chạy tuyến đường về Bình Trạch nữa à!

- Không, tôi chỉ chạy tuyến này. Nhưng ngày mai ông bí thư Huyện ủy thuê xe tôi chở một số người về Bình Trạch xem đất đai. Nghe đâu họ trù kế hoạch trồng cà phê hay trồng điều gì đó , Phải rồi , bây giờ trời cũng đã chiều , anh đợi xe về đó cũng vất vả lắm. Sớm hơn một buổi cũng chẳng làm được chi. Hay là anh về nhà chúng tôi ở lại đêm nay rồi ngày mai cùng đi với đoàn người của ông bí thư huyện cũng tiện.

- Dạ thưa bà , tôi thế này mà cùng đi với đoàn người của ông bí thư huyện sao tiện? Đôi khi cao hứng ông lại tống tôi vào tù lần nua thì khổ.

- Anh đừng lo. Tôi sẽ đưa áo quần nhà tôi cho anh mặc , anh đừng nói chi tới chuyện ở tù mới về hết là xong. Anh coi như người nhà của tôi ai mà hỏi đến , có điều này nói ra tôi xin lỗi trước nhé. Tôi để ý thấy mấy ông cải tạo mới về ông nào cũng có thói quen hay dạ dạ khi nói chuyện. Tránh bớt đi thì hay hơn.

Đêm đó dù nôn nóng trong lòng ,Tín cũng có được một giấc ngủ khá ngon lành .

Hôm sau , vợ chồng ông chủ xe cùng Tín đến nhà ông bí thư huyện. Bà chủ đã thay cho Tín một cái xách mới trong đó bà có bỏ thêm một mớ đồ cũ của chồng mình.

Ba người bước vào nhà ông bí thư trong khi ông này đang uống trà cùng với mấy ông bạn . Ông bí thư mời ba người cùng ngồi.

- Nửa giờ nữa chúng ta sẽ khởi hành. Ông anh đây cũng đi Bình Trạch à !

Bà chủ xe đáp :

- Dạ đây là ông anh họ của tôi từ Huế vô thăm , anh ấy cũng nhân tiện ghé thăm người chị ở Bình Trạch vài ngày.

Tín thấy viên bí thư người khá to con , trán hơi hói , mắt lé mài mại.Những người cùng ngồi với ông trông anh nào cũng có vẻ bảnh bao. Hình như họ đang nói với nhau một câu chuyện gì hào hứng lý thú lắm .

Giọng viên bí thư ồm ồm :

- Bác Hồ nói đúng lắm chứ Kế hoạch một năm không hơn gì là trồng lúa. Kế hoạch mười năm không hơn gì là trồng cây. Nay mai đây nhà nước sẽ cho dọn sạch rừng trường sơn. Chỗ cao thì trồng mít ,trồng điều , chỗ vừa thì trồng cà phê , trồng trà , chỗ thấp thì trồng lúa , trồng bắp. Đâu có ngu như bọn đế quốc kêu gọi giữ rừng cho nó choán đất !

Một ông bạn hỏi ông bí thư :

- Ông nói khu đất rộng đó ai đã khai phá trước đây?

- Hồi đó Ngô Đình Diệm trù lập khu dinh điền. Chúng san bằng khu đó định làm chỗ ở cho bọn đầu não kế hoạch. Nhưng bị ta quấy phá ngăn trở nên kế hoạch của chúng phải bỏ dở. Bỏ hoang lâu thì nó trở lại rừng hoang. Ước chừng ba mươi mẫu là tê.

Một người khác chen vào :

- Tiêu , điều , cà phê một ngày nào đó sẽ nâng Việt Nam lên hàng đại cường !

Không may cho Tín , năm vừa rồi mùa màng vùng này không khá. Tín lại về đúng vào cuối mùa khô , lúc mà lương thực dự trữ mọi nhà đều cạn. Nhiều nhà phải ăn cháo bột sắn cầm chừng. Có nhà phải đi hái rau hoang để độn thêm. Nhà chị Thành trong lúc khó khăn lại phải bao thêm một miệng ăn nữa. Mọi người trong gia đình tuy vui mừng vì một người thân vừa được thoát cảnh cá chậu chim lồng nhưng không dấu nổi vẻ lo lắng cho những ngày sắp tới.

Mùa khô nơi này rất khó tìm ra việc làm. Hai đứa con chị Thành ngày ngày vào rừng kiếm tổ ong , đào củ mài hoặc lên sông Ray câu cá. Mùa khô nước vừa cạn vừa trong , cá rất ít ăn. Buổi tối cả nhà không ai dám ăn quá ba chén cháo nhỏ. Con chó trong nhà nuôi cũng ốm nhom , luôn phơi sượt cái bụng lép kẹp ra trước sân đợi người đi cầu. Sống với tình trạng đó gần một tuần lễ , Tín thấy vô cùng chán nản.

Một hôm , trong lúc hai chị em đang hàn huyên thì thằng Lễ , con trai đầu của chị đi đâu về , nó reo mừng :

- Khỏi lo thất nghiệp rồi mạ ơi ! Hôm nay ngoài chợ xã có một chiếc xe GMC về mua củ ngải hoang. Cân ký củ tươi giá cao như củ mì tươi vậy. Con buôn tranh nhau hẹn giao hàng quá trời. Phần đất thôn mình có cả một khu mênh mông mọc chằng chịt loại ngải đó. Đất không có cây gỗ lớn , có lẽ được khai khẩn từ lâu rồi bỏ hoang. chỉ ngán hai loại dây mắc mèo và mắc cỡ tây leo hỗn dữ quá . Chịu khó khử nó đi thì ta đào mấy năm cũng không hết.

Tín nghe thằng cháu nói cũng mừng rơn lên :

- Ừ , có công việc cho cậu làm với. Cậu cũng muốn kiếm một ít tiền để về thăm quê một chuyến. Trị loại mắc cỡ tây này dễ lắm. Cháu chỉ cần cầm dao phạt đại vào chúng đứt dây nào cũng được hết , đứt gốc thì càng tốt. Thân dây chúng xốp, giòn và rất mau khô nước nên nhạy cháy. Cứ phạt sơ sơ chừng một buổi thì châm một mồi lửa cho cháy bớt cái phần rườm rà sau đó dọn lại khoẻ lắm. Còn loại mắc mèo thì khó trị hơn nhiều. Cháu phải đến chỗ cần phá lúc sương còn ướt , lông ở trái nó không thể bay được , nhẹ nhàng cắt gốc nắm từng dây kéo ra dồn lại một đống đơị khi khô thì đốt một mồi là xong.

Chị Thành hỏi Tín :

- Cậu cũng biết dây mắc mèo à? Chị nghe nói nó ngứa lắm mà chưa biết cây trái nó ra sao. Chị sợ mình cũng có ngày vấp thôi.

Tín giải thích :

- Nó là loại thân dây , lá đôi , cũng thuộc họ đậu , trái cong cong gần giống trái me ra từng chùm , mang một lớp lông tơ nhỏ dày đặc , mầu sắc sặc sỡ trông rất đẹp. Những lông tơ đó mang đầy chất ngứa. Chất ngứa đó chỉ có lửa mới làm tiêu được. Có lần kia hai người bạn em đi phá rừng , gặp lùm cây đầy dây mắc mèo treo trái lòng thòng mà không biết. Cả hai anh hăng hái cởi áo ra mà đốn. Chỉ mấy phút sau là cả hai anh bị ngứa chịu không nổi liền nhảy đại xuống suối mà rửa. Nhưng càng rửa càng ngứa , xoa đến đâu thì ngứa lan ra đến đó. Hai anh phải bỏ luôn cả dao rựa lẫn áo quần vừa rên la vừa chạy về trại quên cả báo cáo với cán bộ. Cũng may là gặp viên quản giáo đã có kinh nghiệm về loại trái này. Nhìn qua hiện trường anh ta hiểu liền. Anh ta cũng chạy theo hai nạn nhân về trại và giúp họ đốt lửa để hơ. Sau đó anh ta cho hai nạn nhân nghỉ buổi chiều rồi trở lại hiện trường. Giờ giải lao anh ta kể : " Hồi đó tôi có cái rẫy kề cận thửa ruộng của một người khác. Bên mép ruộng cây mắc mèo này mọc nhiều quá nhưng chủ nhân quá lười không chịu triệt đi khi chúng chưa ra trái. Đợi khi ra dọn ruộng để cấy , họ cắt ra lôi lên quẳng bừa vào rẫy tôi. Ra làm cỏ bị ngứa quá đâm cáu , tôi dùng cái cây móc dừa xuống hết thửa ruộng kia. Nhưng sau đó tôi nghĩ lại cũng ớn vì sợ bị trả thù. Tôi bèn chịu khó dùng móc kéo từng về quậy mạnh trong nước cho rụng bớt lông , rồi kéo dồn lại một đống tại một chỗ đất hoang chờ khô mà đốt. Hôm sau cả gia đình kia ra cấy. Bà già nhanh chân xuống trước. nhưng chỉ mới cấy được mấy cây lúa thì kêu ngứa cấy không được. Ông già và hai đứa con gái đều cười cho rằng tại bà muốn nghỉ nên nói như thế chứ nước gì mà lại ngứa không cấy được. Tôi làm gần đấy cười một mình " Thì chốc nữa biết liền " mấy phút sau quả thật người nào cũng xuýt xoa. Ngày đơ họ không làm gì được. Qua một tuần không làm việc ở đó , khi tôi trở lại rẫy thì đám ruộng kia đã được cấy xong. Tôi cũng không hiểu họ làm cách nào mà cấy được. Lâu lâu nghĩ lại chuyện đó tôi vẫn tức cười. "

Một lần có một anh bạn khác cũng gặp một lùm mắc mèo , thấy những chùm trái treo lủng lẳng sặc sỡ đẹp quá liền ngắt mấy chùm cột với nhau rồi tự đeo lên cổ mình gọi là vòng hoa chiến thắng. Khốn nạn sau đó vì vòng hoa chiến thắng anh ta phải chịu rên khóc một đêm. Đã vấp phải mắc mèo thì chỉ có cách chịu ráng nóng hơ lửa mới giải nổi. Bữa nào đi đào củ ngải , cậu lo việc giải trừ dây mắc mèo cho !

Chị Thành cười nghi ngờ hỏi Lễ :

- Con đã dò chắc là chuyện có thật chưa? Khi nào họ bắt đầu thu mua?

- Họ hẹn bắt đầu ngày mai. Mình cũng bắt đầu ngày mai. Con hy vọng chỗ đó rất ít người biết. Cận Tín đã cơ kinh nghiệm về dây mắc cỡ tây và mắc mèo thì mình làm khoẻ thôi.

- Đừng ! nói vậy chứ cậu mới về chưa lại sức. Để cậu nghỉ ngơi một thời gian đã. Tụi con cứ theo lời cậu mà làm là được rồi.

Tín phấn khởi cười nói :

- Em đi làm với các cháu được mà , không sao đâu chị. Có việc làm người nó khuây khỏa đi. Em đã tốt nhiệp đại học Địa Ngục rồi thì khó khăn nào mà chẳng làm được.

- thế con có báo cho bạn bè gì cùng đi làm không?

- Cần gì mạ tụi nó biết tụi nó cũng giấu mình nữa đấy chứ.

Thế là cả nhà quyết định hôm sau xuất hành. Suốt buổi tối hai anh em Lễ và Lộc bận rộn về việc mài lại cái dao cái rựa , giũa lại cái cuốc , tra lại cái cúp cẩn thận. Đây là lần đầu trong đời chúng tự lo cho công việc mà không đợi mẹ thúc đẩy.

Khi chị Thành thức dậy thì hàng xóm đã nhiều nhà lục đục nấu ăn. Bữa đơ chị Thành nấu cháo nhiều hơn thường lệ.

Trên đường ba cậu cháu gặp rất nhiều toán người cùng đi. Chưa tới địa điểm , Tín đã nghe tiếng người ồn ào như một cái chợ. Thằng Lễ nói :

- Thế mà con cứ tưởng chỗ này không ai biết!

Tới gần chỗ người ta tập chung , Tín mới thấy cảnh hỗn loạn xảy ra. Người đang cãi cọ phân chia tranh giành nhau. Có người định phá đào chỗ này mới vừa bứt vài dây thấy khó lại đi thử chỗ khác.Những dây mắc cỡ tây , mắc mèo cứ bị lai rai vứt ngổn ngang. Cố một số người vướng trúng mắc mèo ngứa chịu không nổi phải bỏ về. Lại cơ một người bị rắn độc cắn , người thân phải cõng đi cấp cứu. Ai cũng muốn lựa nơi ít gai góc , ít dây mắc mèo. Đã có vài vụ tranh cãi gay gắt và cả đánh lộn xảy ra.Tuy thế , chừng một giờ sau công việc cũng đi vào nề nếp ổn định.

Gần trưa thì một số viên chức xã ghé thăm. Họ chúc mừng dân chúng có công ăn việc làm đúng lúc. Viên trưởng công an nói ngày mai sê cử người đến lo an ninh trật tự. Ông cũng cho biết khu đất này là của huyện. Đồng bào có quyền đào củ ngải nhưng không có quyền chiếm dụng đất để canh tác .

Buổi chiều các vựa thu mua củ ngải hoạt động hết sức nhộn nhịp. Những người đem bán đầu tiên được trả tiền mặt đầy đủ . Trông người nào người nấy sắc mặt tươi rói , cười nói hân hoan cầm tiền trên tay mà phát thèm. Có lẽ đây là lần đầu từ khi sống đưới chế độ xã hội chủ nghĩa họ kiếm ra đồng tiền ít vất vả và không ai kiểm soát. Sau đó , thấy lượng củ ngải đưa về quá nhiều , các chủ vựa chỉ trả cho người bán 20% phần còn lại họ ký biên nhận hẹn trả vào hôm sau.

Hôm sau người đi đào ngải tăng lên gấp bội. Rút kinh nghiệm qua một ngày tranh giành nhau lộn xộn không ai cơ lợi hết , ai cũng cố gắng tránh đụng chạm nhau. Với lại thu được đồng tiền khá ngon lành , lần này mọi người làm việc bên nhau vui vẻ hơn nhiều. Khoảng 8 giờ sáng thì một toán công an cùng du kích xã đến. Viện lẽ phải lo giữ trật tự công bằng , họ tính đầu người , chia từng người khu và tính lệ phí. Ai có mang sẵn tiền đủ tiêu chuẩn thì được đào. Ai không có thì phải mượn chác từ người quen hoặc phải về nhà lấy.

Chiều hôm đó người ta ngạc nhiên thấy phần lớn số củ ngải mang về chiều hôm trước vẫn còn nằm đó. Các chủ vựa đều giải thích chủ mua chưa thuê được xe. Nay mai họ sẽ đưa từng đoàn xe tải về. Ngày này các chủ vựa cũng chỉ tạm ứng 10% tiền mặt , còn thì tạm xác nhận bằng biên lai.

Qua hai ngày làm việc , Tín thấy mỏi nhừ. Hai bàn tay Tín đều rớm maú. Mấy đứa cháu thanh niên hăng hái quá không biết là ông cậu phải cố gắng chạy theo sức mình. Nhưng Tín không than thở nề hà. Vẫn vui vẻ theo hai cháu đi làm tiếp. Ngày làm việc thứ ba trở về Tín vẫn thấy các đống củ ngải còn đó. Thấy một đám đông tụ lại như đang nghe chuyện gì có vẻ quan trọng , Tín đi lại gần thì thấy một người đang cầm đọc một tờ tin tức nhật báo Sài Gòn giải phóng.

Tin Sài Gòn giải phóng :Các nhà bác học thế giới vừa khám phá ra một loại củ ngải hoang dùng chế thuốc chữa bệnh cùi rất hiệu nghiệm. Tin mới nhất cho biết loại củ ngải này cũng dùng bào chế được các chứng bệnh ung thư như ung thư màng óc , ung thư vú...Loại củ ngải hoang này được biết rất nhiều ở miền cao nguyên đông nam bộ nước ta.Dân chúng vài nơi đã đào củ này đem bán với một giá rất rẻ so với giá trị thật của nó. Nay mai đây khi hợp đồng xuất khẩu được ký kết , có thể giá bán sẽ cao lên cả trăm lần so với giá hiện tại. Đặc biệt loại củ ngải này để càng khô càng giá trị và để dành lâu mấy cũng được. Sắp tới đây nhà nước có thể đề ra chương trình trồng củ ngải này...

Ngày đó các chủ vựa cũng chỉ ứng 10% số tiền củ ngải mang về. Những người đào ngải bấy giờ bàn nhau chưa được trả tiền thì cứ mang về nhà cất đã. củ ngải càng khô thì càng giá trị lo gì !

Số người đào củ ngải vẫn tiếp tục tăng. Lần lần cả bà già con trẻ cũng xuất trận. Nhưng sau này ít ai mang đến bán cho các vựa mà cứ mang tuốt về nhà. nhiều nhà lựa những củ mập có chồi còn tươi đem trồng ở trong vườn.Dù mùa khô thiếu nước , họ vẫn gắng bòn để tưới.

Riêng vựa ông Hai Viễn thấy ít người mang củ ngải tới cân , vội vàng đem tiền nhà ra trả hết số tiền thiếu. Các vựa khác không đủ sức trả tiền thiếu cũ cũng cố gắng trả tiền đủ cho những ai đem củ ngải mới đến cân. Bấy giờ thì dù trả tiền ngay cũng ít người chịu đem củ ngải đến bán ngoại trừ cần sơ tiền để đóng lện phí hay phải trả nợ gấp.

Quả thật ý dân là ý trời ! Sức mạnh của dân là sức mạnh của lực sĩ khủng lồ ! Chỉ dưới 20 ngày với sự nhịn đói nhịn khát , dân kinh tế mới Bình Trạch đã xới nhuyễn hơn 20 mẫu tây đất cứng với nhiều chướng ngại vật như lớp lớp củ ngải lâu đời chằng chịt và lớp lớp dây mắc mèo mang đầy chất ngứa ác liệt.

Cái khó khăn nhất của mọi người là chỗ chứa củ ngải. Hết bắp , hết mì ,họ có thêm một ít đồ đựng.Sau đó họ cất củ ngải dưới gậm giường , dưới nhà bếp...Hễ hớ hênh là lập tức bị mất cắp. Các chủ vựa thì phải nhờ đến công an du kích giúp đỡ và thuê người canh giữ. Đống củ ngải của ông Hai Viễn lớn nhất , trông như một ngọn đồi.

Nỗi lo lắng không còn là vu vơ mà là sự thật đến nhanh với mọi người. Hơn nửa tháng chẳng thấy xe ai lên lấy hàng. Theo dõi một số báo ít ỏi cũng chẳng thấy tờ nào nhắc đến vụ ngải chế được thuốc thần nữa. Hỏi qua hỏi lại cũng chẳng ai còn nhớ ai đem tờ báo kia về và nay nó ở đâu. Người lo lắng nhất đương nhiên là ông Hai Viễn. Vựa ông thu nhiều củ ngải nhất và trả tiền đầy đủ hơn ai cả. Hết cái nhà hương hỏa ở queong bán để đi kinh tế mới bây giờ tiền đã đem dùng gần sạch trong chuyến đầu tư này.

Cuối cùng thì toàn dân xã kinh tế mới Bình Trạch đều cười ra nước mắt. Một ít tiền nhân được từ chủ vựa không đủ để đóng lệ phí cho nhân viên anh ninh trật tự xã. Các chủ vựa lại càng méo mặt hơn. Ông Hai Viễn cả đời chưa biết buôn bán , thử thời vận lần đầu tiên làm tiêu tan cả sản nghiệp.Ông bỏ ăn bỏ uống khóc than cả ngày.

Những người chòm xóm gặp nhau vẫn đùa nhau qua nụ cười méo xệch :

- Tiền bán củ ngải cất đâu rồi?

- Tiền bán củ ngải đã sắm sửa gì chưa?

Cái khó khăn mới cho mọi người là việc thanh toán những đống củ kia. Một số người cứ đổ bừa ra đường đi gây rất nhiều trở ngại. Có người gom đống lại lấy lá kè ủ lên cho nó thối mục. Vườn nương những nhà cẩn thận lưu giống loại ngải hoang thuốc thần lúc này thấy một số ngải mọc lên xanh tươi mập mạp.

Giống củ ngải dù khô rồi đốt vẫn khó cháy. Cách loại bỏ hữu hiệu là đào lỗ sâu để dập chúng xuống. Chị thành nhìn hai đứa con đang lấp đống củ ngải , miệng chửi lầm bầm :

- Mụ cô cha tụi nó. Chữa bệnh cùi ! Chữa bệnh ung thư !Tội nghiệp cậu Tín vừa ra tù cũng đóng góp 20 ngày lao động tích cực không uống được một ly nước giải khát.

Không có cách nào kiếm được một ít tiền để về quê , phải ăn bám vào người chị trong lúc gia đình chị cũng túng thiếu , Tín rầu muốn thúi ruột. Hằng ngày , hằng giờ , Tín nằm , ngồi , đi đứng quanh quẩn mà lòng không được yên. Lâu lâu chàng chỉ ngước mắt nhìn lên bầu trời trong vắt ngóng từng cụm mây , mong từng hơi gió. Ôi thiết tha sao một đám mây đen hay một luồng gió lạnh báo hiệu mùa mưa sắp về !

Buổi tối ấy Tín vừa ăn cháo xong thì có một người đàn ông ghé thăm nhà.

- Chào chú Hải , khoẻ chứ ! Đến chơi hay có việc gì đấy chú?

- Chị dọn rẫy bái xong chưa?Tôi cũng định sang thăm ông cậu một chút và cũng tiện thể nói với thằng Lễ thằng Lộc một chút chuyện.

Ông Hải hỏi thăm Tín một chút rồi đi thẳng vào vấn đề :

- Tôi có thầu đi đào lỗ trồng cà phê cho người ta. Thằng Lễ thằng Lộc có muốn đào thì ngày mai đi với tôi. Tính số lỗ đào mà ăn tiền.

Chị Thành cười hỏi lại :

- Đào có giống như đào củ ngải không đó? Ai trả tiền ? Lần này có làm thì ngày nào phải lấy tiền ngày nấy chứ không ai dại nữa đâu !

- chị khỏi lo. Đào ngày nào tôi trả tiền ngày nấy không thiếu một xu.

Hôm sau ba cậu cháu Tín đến nhà ông Hải để cùng đi. Vùng đào lỗ cà phê chính là vùng đất mà dân xã Bình Trạch mới đào củ Ngải. Tín thấy một người đàn ông khá to con đang điều khiển một số người dọn dẹp rác rến. Trông người đàn ông Tín thấy quen quen , trán hơi hói , cặp mắt lé mài mại. Tín chắc chắn đã gặp ông ta ở đâu rồi. Tín cứ nhìn người đàn ông ngẩn ngơ cố moi trí nhớ của mình. Ông Hải đến gần Tín nói nhỏ :

- Làm bí thư huyện ủy mà còn kinh doanh cây công nghiệp dữ chưa ! Vùng đất ông ta chiếm ít nhất cũng hai lăm mẫu !

Tín sực nhớ ra , đúng là viên huyện ủy đi chuyến xe về Bình Trạch xem đất ngày tín mới ra tù. Tín buộc miệng nói :

- À ! Hèn chi !

Ông Hải hoàn toàn không biết Tín nói gì .

Những Cái Tết Vô Vị

» Tác giả: Ba Râu

» Dịch giả:

» Thể lọai: Thời chinh chiến

» Số lần xem: 6515

1. Những Cái Tết Vô Vị

Cuộc đời của tôi đã trải qua gần 60 cái Tết, tôi cố gợi nhớ có bao nhiêu cái Tết làm tôi hứng thú nhất, nhưng hỡi ơi, tuyệt nhiên không tìm ra cái nào cả. Có lẽ những chuyện vui dễ quên hơn là những chuyện buồn. Trong khi tôi cố gợi những chuyện vui thì những chuyện buồn cứ tuôn ra lấn áp làm tôi phân tâm. Mà ngay như tôi chỉ nghe đến tiếng Tết không thôi thì bao nhiêu chuyện buồn của những cái Tết mà tôi trải qua tuôn ra ào ạt.

Cái chuyện buồn thường tuôn ra đầu tiên là chuyện thời Tết Mậu Thân. Phải, Tết Mậu Thân là cái Tết hãi hùng nhất trong đời tôi. Chính mắt tôi thấy lũ cộng sản dã man tàn sát dân lành vô tội mà lại hãnh diện rêu rao, đã làm tôi bị sốc mạnh, mạnh hơn là ngày bị mất nước nữa.

Ðồng ý là chiến tranh thì phải có bạo tàng, chết chóc. Sự tàn sát giữa hai phe lâm chiến là điều dĩ nhiên. Thế nhưng trong cuộc chiến Tết Mậu Thân là một cuộc chiến tôi nhìn tận mắt hậu quả, đã vượt quá sức tưởng tượng của tôi. Những người dân vô tội đã bị vạ lây chỉ vì họ là người dân ở nơi mà bọn cộng sản muốn chiếm đóng. Khẩu hiệu "Thà Giết Lầm Hơn Tha Lầm" là một án lệnh dán lên ngực người dân. Nhưng mỉa mai và tàn nhẫn hết sức là những ông già bà cả, những phụ nữ và trẻ thơ cũng lại được dán án lệnh đó nhiều nhất!

Ngày cộng sản chiếm toàn bộ miền Nam, tôi không có dịp đi đó đây như thời trận chiến Tết Mậu Thân. Tôi chỉ thấy trận chiến ở một lõm nhỏ thủ đô Sài Gòn. Không hãi hùng, không thấy những cảnh tượng dã man, tàng bạo như Tết Mậu Thân. Nhưng những câu chuyện của bạn bè của người thân ở các nơi trên đất nước rót vào tai tôi, thì trận chiến Tết Mậu Thân đã xuống vào thứ yếu. Với lại chính mắt tôi thấy cái gọi là "Cải tạo công thương nghiệp", "Kinh tế mới" và "Cải tạo những người chế độ cũ" dù đã được cố che lấp bởi những từ ngữ cao đẹp nhưng tôi vẫn thấy sự trả thù, ăn cướp một cách man rợ. Sự trả thù và ăn cướp cứ kéo dài, kéo dài mãi.

Năm 1976 là cái năm mà tôi "phải" ăn Tết chung với bọn cộng sản tại cơ sở đầu tiên. Ối chao ơi, những hình ảnh "lạ mắt", những âm thanh "lạ tai" tôi chưa bao giờ được thấy, được nghe được diễn ra từ sáng sớm cho đến chiều. Những hình và âm thanh đó khác hẳn với hình ảnh và âm thanh cũng tại cơ sở này chỉ cách nhau có một cái Tết.

Khởi đầu, từ sáng sớm, bọn thống trị cơ sở thay phiên nhau ra "quan sát" một con bò đực ốm đói được cột ở góc phòng thí nghiệm, nơi tôi làm việc và từ trong nhìn ra thấy rõ ràng. Tôi không biết con bò đó được mua hay ăn cướp của ai và đem về cột nơi đó từ ngày hôm trước. Bọn thống trị có vẻ vui mừng hớn hở chỉ chỏ con bò. Có một điều là những nhân viên cũ hay nhân viên "ngụy", hay nhân viên "vùng giải phóng" hay những "ông bà chủ" lại ít léo hánh tới, trừ lúc con bò bị giết xong và được xẻ ra để chia cho từng phòng phân phối cho nhân viên mang về nhà và phần đem đi nấu cỗ cho buổi tiệc Tết tại cơ sở.

Cảnh tượng chia phần con bò đực ốm đói được diễn ra như một trận giặc nho nhỏ. Tôi cứ lo ngại sẽ có vài nhân mạng ngả gục trên đống thịt bò nhầy nhụa kia. Một trong những cán bộ cao cấp có công góp phần trong trận giặc chia thịt đó đã chứng tỏ là người sành điệu về sự láu cá cả mình bằng hành động cầm bộ sinh dục của con bò với giọng ghê tởm rồi ném qua hàng rào. Mọi người có vẻ không hài lòng nhưng rồi cũng cấm đầu vào trận giặc. Ở đâu đó, tôi nghe tiếng heo la hét dữ dội. Thì ra nhân viên cơ sở ngoài được "hưởng" thịt bò mà còn được "hưởng" thịt heo nữa.

Thế rồi mọi việc cũng êm xuôi, không có việc gì đáng tiếc xảy ra. Mọi người ôm mớ thịt bày nhày về phòng và lên câu lạc bộ. Bãi chiến trường giờ đây chỉ còn lũ ruồi đang bu trên những miếng thịt vụn và máu rơi rớt tên thảm cỏ. Có lẽ trong trận chiến chia thịt, viên cán bộ cao cấp láu cá kia là được hưởng lợi nhiều nhất. Khi mọi người giải tán, một chốc sau, viên cán bộ trở lại, nhìnqua lại rồi chui ra hàng rào nhặt cái bộ phận sinh dục của con bò, nhanh chóng bỏ vào túi vải rồi chuồn êm.

Buổi tiệc được bắt đầu trong giờ cơm trưa. Những thức ăn được nấu đơn giản. Nếu nói đúng hơn là tất cả thịt bò cũng như thịt heo đều được luộc chín. Một món chánh duy nhất là như thế và món phụ là rau. Thức uống thì có rượu đế và "bia tươi". Tráng miệng thì có bánh ngọt và thuốc lá. Sau cả chục bài diễn văn mà

nội dụng chỉ quanh đi, quẩn lại là ca tụng sự chiến thắng "Mỹ Ngụy" vang lừng, công ơn "bác đảng" vĩ đại và cuộc giải phóng "giai cấp" để giờ đây tất cả đều làm "chủ" với sự nồng nhiệt tán thưởng bằng những tràng phao tay của những kẻ khống trị và một số người bị trị trong đó có cả lãnh đạo cũ của tôi, không khí trở nên sôi động hơn, ồn ào hơn trong niềm hân hoan phấn khởi tận hưởng những ly rượu đế màu không bình thường, những ly "bia tươi" có xác ruồi với những miếng thịt luộc. Một bà "ngụy" ngồi cạnh tôi khều tôi và chỉ những khúc ruột luộc. Tôi không hiểu. Bà nói nhỏ vào tai "lải" rồi đứng lên bỏ đi. Tôi thấy lợm giọng muốn mửa. Nhưng điều đó không là vấn đề với những người khác. Những khúc ruột vẫn nhanh chóng rời dĩa để được nghiền nát bởi những hàm răng đầy màu sắc u tối.

Buổi tiệc được chấm dứt khi mà tất cả những bình chứa không còn một giọt rượu hay bia, trên bàn không còn một cái gì để nhai. Mọi người kéo nhau về phòng để tiếp tục vui chơi cho đến giờ về, bỏ mặc vài cán bộ gục ngay tại bàn. Họ khệnh khạng ôm nhau từng bước về phòng miệng lải nhải vài câu hát vinh danh "bác đảng". Một bà cán bộ ghì chặt một lãnh đạo cũ của tôi trong tư thế chưa hề có trong cơ quan này từ trước, miệng kề miệng, vừa kéo lê từng bước vừa nhừa nhựa rên: "Hôm nay em mới thấy anh tiến bộ vượt bậc".

Tôi vừa về phòng thì đã thấy những bạn bè của tôi có mặt trong đó không biết từ bao giờ. Họ đến với tôi với tâm trạng của kẻ mất nước của những kẻ bị trị, với tương lai đầy u tối. Những lời ta thán, những giọt nước mắt được tuôn ra vì sợ hãi trong một ngày trọng đại nhất trong năm.

Tôi cũng có tâm trạng của kẻ bị trị như họ, tôi còn bị hành hạ nhiều hơn họ vì tôi là một cựu lính chiến mà bọn thống trị cứ lải nhải là có "nợ máu tày trời", tôi biết tương lai không riêng gì cá nhân nào mà cả đất nước u tối như thế nào, không qua những hình ảnh như kể trên mà qua chủ thuyết cộng sản, qua chính sách cai trị của cộng sản trên khắp thế giới. Khi cộng sản chưa chiếm miền Nam, tôi có dịp bộc lộ những hiểu biết của tôi cho những người bạn đó, họ cho tôi là cực đoan, không cởi mở và có ý tưởng thù hận vì những năm trong quân ngũ bị nhồi sọ. Giờ đây, họ thường đến với tôi, kín đáo hỏi tôi về cộng sản. Còn gì phải hỏi nữa. Chỉ nhìn sơ qua cách quản trị trong cơ sở, phường khóm, tác phong của cán bộ cũng đủ biết tương lai đất nước như thế nào rồi. Tôi có khác hơn những người bạn tôi là tôi không sợ. Có lẽ tôi đã cận kề quá nhiều sự hiểm nguy, tôi đã vượt thoát nhiều tai biến kinh hoàn, đã từng tìm cái chết để dành sự sống cho nên với hoàn cảnh này chả làm tôi một chút gì gọi là sợ hãi. Mới cách đây chưa đầy một tháng tôi phải "trình diện" viên giám đốc và phó giám đốc kiêm bảo vệ của cơ sở, để trả lời những gì mà tên thời cơ mà cũng là bạn cũ của tôi "phát hiện". Những nhân viên cũ biết chuyện đã lo lắng cho tôi. Sau cuộc "trình diện" đó tôi vẫn là tôi. Ai có hỏi, tôi lớn tiếng thuật lại, không thêm bớt. Hậu quả của cuộc "trình diện" đó, tên bạn cũ thời cơ của tôi mất hết bạn bè. Tôi thì không đến nỗi nào nhưng cũng có vài người xa lánh vì sợ vạ lây. Một điều đáng buồn cho tôi là những người mang tiếng lãnh đạo của tôi xưa kia, như người mà bà nữ cán bộ CS ôm ghì trên câu lạc bộ lúc nãy, cố né tránh. Tôi biết họ sợ vạ lây. Tôi biết họ sợ bọn cộng sản còn hơn những người bạn tôi đang ở trong phòng này nhiều. Bọn cộng sản vừa đến tiếp thu cơ sở, sự xum xoe của họ đã làm nhiều người nôn mửa. Họ coi sự đày đọa lớn hơn tác phong đạo đức của người lãnh đạo. Họ tệ hơn nhân viên cấp thấp mà trước đây không lâu thường lên giọng "răn bảo".

Ðến cái Tết thứ hai từ khi cộng sản chiếm miền Nam cuộc "vui" không còn tổ chức chung nữa mà tổ chức từng phòng. Những tên cộng sản năm rồi đi đâu không ai biết, để nhường lại cho những tên gọi là "hồi kết" nắm giữ. Những tên này không huyênh hoang, gương mặt u buồn. Thậm chí còn lén tâm sự những điều mà bọn an ninh bảo vệ biết được là dán bản "phản động" lên ngực liền. Những điều tâm sự đó bạn bè tôi càng sợ hãi thêm nữa. Và liên tục những cái Tết sau đó, cho đến khi tôi rời bỏ đất nước, bạn bè tôi vắng dần. Họ đã "ba chân bốn cẳng" dọt ra ngoại quốc và họ gởi thơ về thúc tôi phải rời bỏ "thiên đàng cộng sản" càng sớm càng tốt. Có bạn sẵn sàng trợ giúp một phần chi phí, có bạn sẵn sàng giúp tôi bằng cách trả hết chi phí nếu đến được nước thứ hai. Tôi vẫn còn những người tốt với tôi. Họ lo lắng cho tôi. Những họ có biết đâu, tôi cũng cố gắng đào thoát như họ nhiều lần nhưng không thành công. Trong quân ngũ, tôi là một đứa được các cấp khen là có tài mưu sinh thoát hiểm. Trong lãnh vực đào thoát khỏi nước, phải thành thật mà nói tôi là thằng tệ.

Cuối cùng, tôi cũng thoát thân. Tôi thoát không do tôi tự tôi chủ động mà lại do mẹ tôi, một cụ già gần 80 tuổi quán xuyến. Thật mỉa mai cho tôi.

Cái Tết ở hải ngoại đầu tiên là ở trại chuyển tiếp xứ Mã Lai Á. Những người tỵ nạn như tôi từ người có tiền cũng như "mạt rệp" cũng sửa soạn một cách nghiêm chỉnh. Tôi thì không. Cái Tết đã mất trong lòng tôi từ lâu rồi. Nếu nói thật lòng một chút thì mỗi lần Tết đến là đồng nghĩa với sự đau buồn đến với tôi. Tôi không thể ngăn cản cái Tết đến. Tôi không thể né tránh cái Tết. Nhưng tôi không thể đón Tết, vui chơi trong sự đau buồn, dù gượng ép.

Lần Tết sắp tới, cũng như nhiều lần trước trên xứ Úc Ðại Lợi này, tôi cũng không xin phép nghỉ để gọi là "vui chơi" với gia đình, với bè bạn. Những chuyện buồn đã lần lượt tuôn ra như mọi lần khác và lần này có lẽ còn dự dội hơn nữa là trong năm nay nhiều họ hàng, bạn bè thân thuộc tại quê nhà đã vĩnh viễn ra đi. Tôi làm sao cố vui cho được khi mà vừa nhận cái thiệp chúc Tết của một người bạn thân còn ở quê nhà, thì có tin người bạn đó đã theo ông bà vì bệnh không tiền chạy chữa. Tôi làm sao vui cho được khi nhìn những cái thư của thân nhân bè bạn báo tin nhà cửa bị những cơn bão vừa qua quét sạch không cách nào tạo dựng lại được.

Có chăng là trong những ngày Tết, như những Tết trước đó, tôi và gia đình đứng trước bàn thờ có mâm cơn đạm bạc mời ông bà, cha mẹ, anh em, bè bạn đến đoàn tụ với chúng tôi.

Đêm xuân trong trại tù Cao Lãnh

» Tác giả: Phạm Hồng Ân

» Dịch giả:

» Thể lọai: Truyện ngắn

» Số lần xem: 4178

1. Đêm xuân trong trại tù Cao Lãnh

Trại tù Cao Lãnh, chiều cuối năm, buồn hiu hắt. Bữa cơm chiều, ngoài phần rau luộc và nước chấm như thường lệ, tù nhân được lãnh thêm phần thịt kho để mừng xuân về. Nói “thịt kho” cho xôm, thực ra, mỗi đứa chỉ thêm vài miếng ba rọi mỏng lét, dài hơn lóng tay út một chút.

 

Cơm vừa phát xong, đã hết ngay. Thau sạch loáng, chẳng còn một hột sót lại. Thế mà, có đứa vẫn cầm muỗng đứng ngẩn ngơ, tiếc rẻ phần cơm sao quá ít, đã vội vã trôi nhanh vào bao tử.

 

Những miếng ba rọi tội nghiệp, than ôi, chỉ làm bụng thêm cồn cào. Chỉ làm miệng tôi thêm háo hức, thèm thuồng đủ thứ. Tôi nhớ đến góc phố Sài Gòn. Những cái bàn bu quanh xe mì lưu động. Tô nước lèo béo ngậy, mỡ nổi màng màng. Hương thơm bốc lên từ sợi mì, từ miếng xí quách đầy nạc. Tôi nhớ đến dĩa cơm bình dân. Dĩa cơm ở Cường Để, thời sinh viên nghèo nàn. Dĩa cơm nơi quân trường gian nan. Dĩa cơm tận chiến tuyến lửa đạn. Những dĩa cơm bình dân, nhưng ê hề cá thịt. Ăn một lần đã thấy no. Ăn một hơi đã thấy đủ.

 

Chỉ có thằng Hữu, đặc biệt. Phần ăn của hắn còn nguyên, chưa vơi đi chút nào. Tôi đếm tất cả là sáu miếng thịt ba rọi trắng phau phau, đang nổi lều bều trong chén nước kho. Chu choa! miếng thịt tràn trề hương vị, đánh thức vị giác và khứu giác của tôi một cách mãnh liệt.

 

- Bộ...dư hả? Cho tau đi...

 

Thằng Hữu liếc tôi. Con mắt lấp lánh nắng chiều, tưởng như có ngọn lửa nào đó, sắp sửa bùng lên.

 

- Mẹ! Ở đây, làm sao...dư? Có cách nào...dư?

 

Tôi lắp bắp, chỉ vào phần ăn của hắn, nói ngọng nghịu :

 

- Nó...nó...còn nguyên? Bộ ...bịnh hả?

- Mẹ, bộ bịnh...rồi...rồi...nhịn đói hử? Đồ...đồ...vô duyên!

 

Bị chửi, nhưng tôi vẫn còn tiếc rẻ phần cơm. Tiếc rẻ miếng ba rọi nằm khêu gợi trong chén nước kho sóng sánh mỡ.

 

- Sao...sao...nó còn nguyên? Còn nguyên?

 

Tôi nuốt nước bọt, luống cuống hỏi. Lúc này, thằng Hữu mới há miệng cười. Hắn kéo tôi vào một góc, thì thầm trong tai :

 

- Tau để dành. Đêm nay, đón giao thừa với người đẹp.

 

Nghe hắn nói, tai tôi bắt đầu lùng bùng. Có luồng điện nào đó, chạy ngược lên đầu, rồi lan ra, tê rần các giác quan.

 

- Mày...mày nói sao? Người đẹp? Mẹ, dóc cha nội! Người đẹp nào ở đây?

 

Thằng Hữu không trả lời. Hắn nắm tay tôi lôi một hơi, ra cây trứng cá cuối trại. Khoảng sân rộng thênh thang chạy dài. Tới đấy, nó hẹp lại, chỉ còn lối mòn nhỏ, dẫn đến gốc trứng cá. Xung quanh, lau sậy mọc đầy. Vòng kẽm gai cuối cùng của trại tù, nằm hoang vu, ở đó.

 

Thằng Hữu ngồi bệt dưới gốc cây. Hắn ngả người ra sau. Hai khuỷu tay chống xuống cỏ. Rồi lơ đãng nhìn lên vòm lá. Tôi nằm kế bên, hồi họp chờ lời nói của thằng Hữu. Những áng mây trôi trên trời, xuyên qua kẽ lá, như những tà áo dài trắng...đứt đoạn.

 

- Mày còn nhớ đêm Giáng Sinh, cách đây vài tháng không?

- Nhớ chứ! Đêm đó, nửa khuya, mày biến đâu mất dạng? Tau dậy đi đái, thấy không có mày, tìm, muốn khùng.

- Đêm đó, đêm đầu tiên tau gặp người đẹp.

 

Tôi há mồm, ngạc nhiên. Người đẹp? Lại người đẹp? Trại tù Cao Lãnh là nơi bọn việt cộng nhốt sĩ quan chế độ cũ. Toàn một đám đực rựa, từ thiếu úy đến trung tá. Ở đây, chúng bắt bọn tôi nhai đi nhai lại những bài chính trị nghịch ngợm, để chờ thời gian thanh lọc, đưa đi lao động khổ sai trong các trại tù xa xôi ngoài Bắc. Lũ việt cộng cũng vậy, từ quản giáo đến vệ binh, chỉ gồm một bầy đàn ông chán đời, thiếu vắng hơi hướm đàn bà lâu ngày.

 

Thằng Hữu mơ màng nhìn ra bờ sông. Con sông Cao Lãnh mênh mông. Giờ này, nước lớn, sóng đập trắng xóa bờ. Cái lô cốt cuối cùng, cách chúng tôi rất xa. Mãi tận đằng kia của gờ đất. Xung quanh đây, cỏ dại mọc đầy. Lau sậy chằng chịt như mạng nhện. Vòm lá của cây trứng cá rậm rạp, phủ kín một vùng rộng lớn.

 

- Đêm đó, đêm Giáng Sinh. Tau trằn trọc mãi, không ngủ được. Nửa khuya, bỗng nghe tiếng gọi trong trẻo : “Anh ơi! Thức dậy đi! Ra ngoài cây trứng cá. Em chờ anh ở đấy!”. Tau lồm cồm ngồi lên. Bóng đen dày đặc.Từ đầu phòng đến cuối phòng, chỉ nghe tiếng ngáy nổi lên khắp nơi. Phía cửa vào, ánh sáng hiu hắt của ngọn đèn trên cao, soi rõ dáng dấp của một thiếu nữ, đang nhìn tau mỉm cười. Nụ cười quyến rũ thật! Mới thấy, tau bị lôi cuốn ngay, quay quắt ngay!

 

Tôi chộp ngực thằng Hữu, kéo hắn ngồi lên, thôi thúc :

 

- Em...em đẹp hông? Em mặc áo gì? Đêm tối, làm sao mày mò ra cây trứng cá?

- Em đẹp một cách lộng lẫy. Em mặc áo dài trắng, tóc xõa ngang lưng. Hình như, tà áo dài trắng, thân thể em trắng...đã phát ra một thứ ánh sáng huyền diệu. Theo đó, mà đi. Theo đó, tau đã ra được cây trứng cá.

 

Tôi tưởng tượng đến dung nhan nàng, như lời mô tả của thằng Hữu. Tôi chợt nhớ đến câu thơ của Nguyên Sa. Da em trắng anh không cần ánh sáng. Đúng rồi, sắc đẹp của nàng là thứ ánh sáng huyền diệu, dẫn thằng Hữu đến thiên đường...

 

- Rồi...rồi sao nữa?

- Đây này! Chỗ này đây!

 

Thằng Hữu vỗ nhẹ xuống nhánh cây. Đó là một nhánh thấp, là đà gần mặt đất. Người ta có thể ngồi lên đó nghỉ ngơi, lưng tựa thoải mái vào thân cây chính.

 

- Chỗ này, tau và nàng ngồi nói chuyện với nhau cho tới sáng. Mày biết không? Gần nàng, tau mới khám phá ra một điều. Thân thể nàng luôn tiết ra một mùi hương cực kỳ thơm tho, khiến tau cứ ngây ngất mãi. Không phải là mùi hương riêng biệt của hoa hồng, hoa cúc, hoa lan...Hay bất cứ một thứ hoa nào đâu! Cũng không phải mùi hương của mỹ phẩm, của son phấn, của vải vóc, lụa là...Đó là một mùi hương kỳ diệu, dường như là tổng hợp của hàng triệu mùi hương tuyệt vời nhất trên trái đất này. Hay đó là mùi hương của thế giới khác, của hành tinh khác, của miền miên viễn nào đó mang lại...Tau, cho tới bây giờ, thực sự...chưa hiểu ra?

 

Tôi ngó quanh quất cây trứng cá. Cố gắng sục sạo, tìm kiếm hình bóng giai nhân của thằng Hữu. Câu chuyện có vẻ kỳ bí quá! Có vẻ hoang tưởng quá! Chợt, tôi rùng mình, nổi da gà khắp người.

 

- Thằng quỷ! Mày có thấy mặt em rõ ràng không? Chân em có chạm đất không? Và em...em đã nói chi với mày?

 

Thằng Hữu tươi cười. Hắn nhắm mắt lại, thả hồn vào thế giới tình yêu đầy mộng đẹp.

 

- Hình ảnh em đã nằm trong đầu tau, trong trái tim tau đây này! Làm sao xóa nhòa được? Tay em đã nắm chặt tay tau. Chân em đã quyện vào chân tau. Và cứ thế, hai đứa tâm tình với nhau, tới sáng.

 

Niềm hân hoan tột độ của thằng Hữu đã đánh thắng nỗi hoài nghi nhỏ nhen của tôi. Tôi cũng muốn nhìn người đẹp lắm chứ? Muốn nghe nàng nói đôi lời, dù đôi lời ngắn ngủi, cũng đủ an ủi thằng tù lỡ vận thất thời mới có hai mươi lăm tuổi đời. Đêm nay, giao thừa, trong tù. Tại sao còn phải đo lường dông dài? Tại sao không cùng thằng Hữu, không cùng người đẹp, ngồi đón xuân với nhau dưới gốc trứng cá, ngoài trời – thú vị biết bao!

 

- Ơ...Hữu! Cho...cho tau cùng đón giao thừa đêm nay với mày nhen?

 

Hữu suy nghĩ giây lát :

 

- Ừ. Nhưng... chuyện này...bí mật. Không nói cho ai biết đấy!

 

Nói xong, thằng Hữu nhảy chồm lên như ngựa. Hắn phóng qua mặt tôi, chạy về hướng sân trại. Tôi hối hả, gọi theo :

 

- Này, khoan đã...Mày cho tau biết người đẹp tên gì? Tên gì?

 

Có tiếng Hữu oang oang trong gió :

 

- Thục Huyền. Trần thị Thục Huyền.

 

Đêm yên tĩnh. Chỉ có tiếng côn trùng kêu buồn bã ngoài đám rẫy. Chỉ có tiếng gió lộng chơi vơi bên cửa. Gió lùa qua lán tù, thổi phần phật những cái mùng nhà binh cũ mèm của các tên tù binh vô phước.. Hữu và tôi ngồi lặng lẽ trong bóng tối. Chúng tôi lắng tai nghe từng tiếng động. Chúng tôi phân biệt từng âm thanh. Nào tiếng muỗi vo ve quanh góc mùng. Nào tiếng ngáy ồ ồ của các bạn tù chung đội. Nào tiếng ễnh ương kêu quàng quạc ngoài đồng. Chúng tôi chờ đón tiếng pháo giao thừa. Hơn mười hai giờ rồi, chẳng nghe một tràng pháo nào hết. Cũng chẳng nghe tiếng trống chùa hay tiếng chuông nhà thờ dồn dập vọng lại, báo hiệu năm mới đã tới, mùa xuân đã trở về. Chế độ cộng sản ác độc thật! Cho đến mùa xuân tràn trề nhựa sống, cũng phải rón rén, sợ hãi – không dám lộ liễu, hiện diện.

 

Gần một giờ khuya, người đẹp mới xuất hiện. Tôi thấy rõ ràng một thiếu nữ trẻ trung, thướt tha trong tà áo dài trắng, nhẹ nhàng từ cổng rào lán tù tiến vào. Thằng Hữu bấm tay tôi. Hai đứa há hốc mồm, nhìn ra khung cửa. Gió làm ánh đèn chao đi chao lại trên đầu lán. Ánh sáng vàng vọt hắt xuống khuôn mặt nàng. Đó là khuôn mặt giai nhân tuyệt sắc, trắng trẻo, dễ thương – khiến tôi mới gặp lần đầu, đã chợt ngẩn ngơ, mê mẩn. Đợi nàng vào sân, thằng Hữu kéo tay tôi, chạy ra. Quả thật, tà áo dài trắng như tỏa ra thứ ánh sáng huyền diệu, dẫn đường chúng tôi tới. Nàng đi trước, chúng tôi theo sau. Cứ thế, cả bọn tiếp tục đếm bước, trong bóng tối mênh mông, để đến cây trứng cá ở vòng kẽm gai cuối cùng.

 

Đến điểm hẹn, nàng mới ngoảnh mặt ra sau, cười với chúng tôi. Ánh sáng mỏng manh, nhưng huyền diệu, được toát từ tà áo dài, đủ để cho tôi thấy khuôn mặt xinh đẹp với nụ cười tươi tắn của nàng – một nụ cười tôi chưa từng thấy trên đôi môi của thiếu nữ xinh đẹp nào, trên cõi trần gian này.

 

Nàng khéo léo ngồi trên nhánh cây thấp nhất, rồi bật diêm thắp nến. Một mùi hương thơm cực kỳ, thoang thoáng quanh đây. Đúng như lời thằng Hữu nói, thân thể nàng tiết ra một mùi hương kỳ diệu – có thể là mùi hương tổng hợp của hàng triệu mùi hương tuyệt vời nhất trên trái đất này.

 

- Bạn anh đấy ư? Sao chưa giới thiệu?

 

Nàng vừa bày thức ăn, đặt các thứ lên tấm nylon, vừa nói với thằng Hữu.

 

- Ơ, bạn anh. Tên Ân. Ân muốn cùng vui giao thừa với chúng mình, đêm nay.

 

Thằng Hữu choàng tay qua vai, kéo tôi ngồi xuống, cạnh nàng. Tôi run run trong vòng tay hắn. Không phải vì thời tiết lạnh lẽo của đêm đầu năm. Chính là vì sắc đẹp não nùng của nàng – một sắc đẹp – chắc chắn, không một hoa hậu thế giới nào có thể so sánh được.

Tôi muốn chết điếng, bởi câu nói êm ái vừa phát :

 

- Anh Ân tự nhiên nhé! Đêm nay, chúng ta ăn Tết với nhau nghen!

 

Thằng Hữu cũng bày tộ cơm và chén thịt kho ra. Thức ăn của hắn họp cùng với bánh tét, chả lụa, củ kiệu, tôm khô, mứt...của Thục Huyền đem đến – đã thành một bữa ăn thịnh soạn, đáng ghi nhớ nhất trong đời chúng tôi. Không có rượu mà dường như say. Tôi chếnh choáng trước sắc đẹp Thục Huyền, trước lời nói dịu êm, ngọt ngào như mật ong. Và thế đấy, chúng tôi tiếp tục cuộc vui cho tới rạng sáng.

 

Vài tuần sau, theo lệnh cán bộ trại tù, đội tôi phải thực hiện một cái ao để nuôi cá. Chu vi ao rất rộng. Nó bắt đầu từ khoảng sân đội chạy qua đám rẫy, chạy thẳng đến vòng kẽm gai cuối cùng. Thế là, cây trứng cá bị hạ xuống. Đội tôi bứng luôn cả gốc cây, cho cái ao được hoàn thành một cách trọn vẹn.

 

Thời gian này, thằng Hữu và tôi buồn dào dạt. Đêm nào, chúng tôi cũng ngồi lặng lẽ, hút thuốc cho tới khuya. Chúng tôi không còn tranh nhau từng hột cơm, từng cọng rau nữa. Cả hai đều dành thì giờ để nghĩ tới Thục Huyền, như một thứ tương tư cuồng nhiệt. Tôi chợt nhớ đến hai câu thơ của ông thi sĩ Trung Hoa nào đó :

 

“Thiên nhai hải giác hữu cùng thì

Duy chỉ tương tư vô tận xứ ”.

( Tạm dịch : Chân trời góc bể có thể đi tới được

Duy chỉ có tương tư là vô bến bờ.)

 

Trong khi đào ao, tới khu vực cây trứng cá, đội tôi gặp phải một cổ quan tài nằm sâu trong lòng đất. Cả đội phải họp lại nhau, bàn bạc. Cuối cùng, chúng tôi đành bốc hài cốt cho vào nón sắt, rồi cẩn thận hàn kín, đem chôn nơi khác.

Từ đó, thằng Hữu và tôi không còn gặp lại Thục Huyền nữa. Chúng tôi có kể chuyện này đến các bạn tù . Họ đều lắc đầu cười cợt, cho là chuyện hoang tưởng, hoang đường.

 

Riêng thằng Hữu, trước khi chia tay với tôi đi lao động nơi khác, hắn có tâm sự như sau :

 

- Tau mang tâm trạng chán đời khi vào tù, vì nước mất nhà tan. Cha mẹ, vợ con tau...đã chết trên chiếc tàu hải quân từ Đà Nẵng về Sài Gòn, trong những ngày cuối cùng của tháng tư oan nghiệt. Đêm Giáng Sinh năm nọ, tau đả chuẩn bị sẵn một sợi dây nylon để tự vận. Chờ khi cả đội chìm vào giấc ngủ, tau tròng sợi dây vào cổ. Lúc đó, Thục Huyền bỗng dưng xuất hiện. Tiếng gọi dịu dàng và sắc đẹp tuyệt diệu của nàng, làm tau dừng tay, bỏ ý định tự tử, rồi riu ríu theo nàng ra tận cây trứng cá. Từ đó, tình yêu đã làm tau yêu đời trở lại, sống đến ngày hôm nay.

 

Và tôi, mùa xuân năm ấy là một mùa xuân đặc biệt nhất trong đời.

Bụi rau dền gai

» Tác giả: Bắc Phong Saigon

» Dịch giả:

» Thể lọai: Truyện ngắn

» Số lần xem: 4432

1.

Buổi sáng, những tia nắng rừng vạch sương rọi thẳng xuống sân trại. Những tàn cây, thân thẳng như những chiếc đũa chọc trời, không đủ sức che những vạt nắng càng lúc càng hừng hực trên lưng người tù. Những chiếc ba sườn cong lên khi người tù khom xuống. Một ngày như mọi ngày, đám tù tập họp chờ lao động. Hơn ba tháng lao động giữa rừng xanh, cơm mục lẫn sạn cát, canh măng trộn muối, ngủ không mùng, đi chân trần, đau ốm không thuốc men, chết nhẹ nhàng như giun dế. Cả chục người chết chỉ mới mấy mươi ngày tập trung lao động, chờ hoài không thấy bút giấy, học hành gì. Thét rồi dường như người tù nhận luôn cái số kiếp con người lên khu rừng này chỉ có nhiệm vụ lao động và ngả xuống theo ông bà, không cần một giọt nước mắt của mẹ cha.

Hà quay sang người bạn thắc mắc:

- Mày thấy bữa nay có cái gì là lạ không?

- Ừ! Nói nhỏ nhỏ vậy! Tụi nó nghe rắc rối!

- Lẽ ra bây giờ đã chui hết vào rừng cắt tranh và xắn măng. Bây giờ còn đứng đây, chả có lệnh lạc gì! Tao thấy trên trại có mấy tên cán bộ mới đến.

Toàn trại gần như im thin thít. Gần với cái chết, gần với bệnh tật, gần với cảnh chôn bè bạn không một miếng ván hòm... làm cho đám tù chai đi, ù lì và phó mặc. Nhưng quả thật, sáng nay, trong đầu đám tù, người nào cũng thắc mắc như Hà. Bỗng mọi người không hẹn, mấy trăm cái đầu quay nhìn về văn phòng trại trưởng. Trung Ống Vố đi với một tên cán bộ lạ mặt, thẳng xuống sân trại, sau hắn là hai tên bộ đội, súng cầm tay. Dường như cả hai khẩu AK đạn đều trong tình trạng tác chiến.

- Tất cả các anh, thứ tự từng dãy trại, mang hết đồ đạc ra sân tập họp và chờ lệnh. Các anh nghe rõ không?

- Rõ!!

Ðám tù như những cái máy, tuần tự mang gia tài rách rưới ra sân sắp hàng. Bóng nắng đã nghiêng góc. Rừng Kà Tót hôm nay khác lạ, ngay cả chiếc lá rơi cũng không bình thường, nó không rơi xuống đất mà đậu trên vai người tù, nhẹ nhàng, êm ái. Tâm trạng những người tù cũng không giống như mọi ngày. Một chút âu lo, một chút hy vọng. Có kẻ lại cóc cần.

- Kệ mẹ mày! Ði đâu cũng được! Miễn là thoát được chỗ này!

- Ê mày! Mấy thằng sốt rét bò càng mỗi đêm lên cơn sốt làm sao nó chuyển trại?

- Tao đâu biết! Cái thân tao tao không biết có lết nỗi vài chục cây số đường rừng hay không thì còn lo cho ai được! Không chừng lúc tụi mình đi, mấy ông nội sốt rét sợ cọp ăn cũng phóng theo. Mày khỏi lo.

Trên ban chỉ huy trại, một tên bộ đội bỗng ôm ra mấy cái võng. Hắn bỏ võng xuống đất, chống súng và nhìn vào đám tù.

- Ê! Anh kia! Ra khỏi hàng... Anh kia! Anh kia nữa! ... Khẩn trương lên! Hai anh nhận một cái võng để khiêng người bệnh, nhanh lên!

- Thưa cán bộ! Tôi yếu, mới hết cơn hôm qua, chắc khiêng không nổi!

Một tên bộ đội lên nòng đạn AK, nhát gừng:

- Ðịt mẹ! Tôi không cần biết! Anh có khiêng hay không thì bảo!

Thế là đám tù tong teo phải thay phiên nhau võng những đám tù da bọc xương rời trại. Lệnh chuyển trại không hề được báo trước, nó đến một cách đột ngột. Nó cũng không cho đám tù biết sẽ về đâu... Ðám tù dắt díu đưa nhau rời trại, vượt rừng theo một lối mòn hướng về liên tỉnh lộ số 8, hai bên súng ống bộ đội chạy ngược chạy xuôi ...

Ðoàn xe chở tù từ trại Kà Tót về đến Sông Mao thì trời đã về chiều. Trại tạm trú là doanh trại của một đơn vị bộ binh VNCH bỏ hoang phế tự bao giờ. Có một số tù các nơi được chuyển về đây mấy hôm trước. Họ đứng từng nhóm nhìn đám tù mới đến.

- Trời đất ơi! Mấy anh em này bị nhốt ở đâu mà ông nào cũng như ông nấy, ốm và xanh xao như những thây ma!

- Có mấy anh em không xuống xe được, làm sao mình tới giúp họ!

- Bộ mày muốn bị nằm chuồng cọp chắc! Mày không thấy mấy thằng bộ đội hầm hầm nhìn đám tù hay sao? Họ cấm quan hệ với người mới tới. Bộ mày quên tên cán bộ nói buổi sáng hay sao?

- Tao thấy dường như có mấy thằng bạn quen! Ð M, tụi nó hành con người ta cái kiểu gì mà thằng nào cũng như những con ma đói!

Khi mọi người đã xuống xe, tập trung điểm danh, bộ đội đuổi tất cả đám tù cũ đang tụm năm tụm ba bàn tán về đám tù mới đến về phòng. Hà nói nhỏ với người bạn tù:

- Mấy ông nội kia ở đâu mà sao tao thấy họ còn mướt và khỏe mạnh quá vậy mậy?

- Tao loáng thoáng thấy mấy thằng Ðà Lạt và Phan Rang. Có lẽ tụi nó trình diện ở Lâm Ðồng, Ðà Lạt hay Ninh Thuận thì phải. Tụi mình số con rệp mới trình diện ở Bình Thuận để bị đày lên Kà Tót. Chắc kiếp trước mắc nợ Trung Ống Vố! Nghĩ mà tội những anh em không về Sông Mao với mình!

- Ai?

- Sao mày ngu quá vậy! Mấy chục đứa chết trên Kà Tót kể từ lúc mất Lâm Ðồng, vượt rừng về Phan Thiết bị bắt, và một số anh em nghe lời xúi dại trình diện sớm, như thằng Biên, chi khu Tuy Phong... đa số đều ngủ lại thiên thu trên Kà Tót. Về đây tao mới thấy cái sống, may ra có cơ còn sống!

- May ra là sao? Sao lại may ra?

- Thì ai biết!? Mình như con dế trong hộp, tụi nó rinh đi đâu thì mình chết dí ở đó. Ai cấm sáng mai, tuần sau tụi mình bị chuyển đi nơi khác còn tàn độc hơn Kà Tót!

- Kệ mẹ nó! Coi như hết số rồi! Tìm chỗ ngả lưng cái đã! Mai còn sống thì thấy mặt trời mọc, còn chết thì bỏ, trở về với cát bụi, lo nghĩ hoài mệt quá!

Ðêm đầu tiên ở Sông Mao là đêm thần tiên. Ðám tù ngủ say như chết. Sáng ra không thấy rừng cây u ám, không thấy những rừng tranh ngun ngút, không thấy cắt lên rừng đốn tre, chặt mây... và không thấy cái cùm dài hàng chục thước xỏ chân người như xâu cá nục, nhung nhúc những rệp mỗi đêm về. Nhưng khi nắng lên, hực lửa đổ xuống mái tôn, anh em bỗng nhớ những tàn cây trong rừng Kà Tót, nhớ dòng suối uốn quanh bên sân trại, nước trong và mát. Kà Tót vô cùng nên thơ trong những đêm trăng tỏ, trừ những đêm trăng cọp gầm hay về chụp mấy con heo của trại. Trại không có hàng rào, chỉ nghe tiếng lách cách của AK ở đâu đó, nó làm cho trăng vỡ, nó làm cho đêm thành ác mộng...

Cuối hè 1975, đầu tháng Tám, trời Sông Mao đổ nắng, nước không có, từng toán tù chia nhau đào giếng. Chẳng có giếng nào có nước trên vùng đất cao. Những ngày đầu chưa phân trại, nhìn ra bên ngoài hàng rào thấy dân qua lại cũng đỡ buồn, nhưng nghe tiếng bà bán xôi bắp rao hàng, hàng trăm bao tử của đám tù thi nhau co thắt. Ðói! Cái đói trên rừng Ka Tót cận kề tử sinh nên nó ngủ yên, nay về đồng bằng, gần dân, gần thôn làng, gần với những giấc mơ được gia đình tiếp tế.. . nên nó thao thức, nó đòi hỏi, nó dày vò. Trại thì cấp lương thực cho tù gần như lấy lệ kiểu nuôi mèo hoang, nên đám tù phải kiếm thức ăn như trâu bò để dằn bao tử.

Cả một khu doanh trại quân đội VNCH bỏ hoang mọc lên đủ thứ, khoai mì, rau đồng tiền, rau lang, rau dền trơn, rau dền gai nuôi heo và những cây bắp rài. Các toán tù đến trước đó vài ngày từ các nơi khác, khỏe mạnh, hồng hào, còn dự trữ thức ăn của gia đình, họ nhìn bọn tù về từ Kà Tót như những tên ăn mày đói rách, thất thểu lang thang dưới nắng hè tìm đủ mọi thứ rau để ăn dậm. Lúc đầu thì chỉ nhặt các loại rau lang, đồng tiền, rau dền trơn. Vài ngày sau, đến bắp non, đọt mì... Và một tuần sau nữa thì sạch, chỉ còn những thảm cỏ còi cháy nắng và khu dền gai mọc cao hơn đầu người đầy sâu bọ, rắn rết.

Hà nằm trong toán tôi. Tôi chịu đựng, lầm lì. Hà bất xúc lo âu.

- Anh Hai! Tụi mình quả ăn nhanh hơn trâu bò. Chưa đầy 10 hôm mà mình ngốn cha nó hết những thứ rau dại, cỏ hoang, mà vẫn đói thấy bà tổ. Chẳng hiểu tại sao mấy thằng chả cho tụi mình ăn như mèo!

- Ở Kà Tót, tôi thấy tụi mình là những con vật. Về đây, nhìn anh em Ðà Lạt, Lâm Ðồng, Ninh Thuận mình mới thấy hy vọng mình được đối xử như con người một chút. Nhưng đói thế này thì thành ma đói, cắt đi lao động là chắc chết! Hà có biết đại úy Nguyễn Văn Tư hấp hối từ hôm qua không? Chắc Tư ra đi trước bọn mình!

- Toán mình có bác sĩ Lê Bá Dũng mà!

- Bác sĩ Lê Bá Dũng làm gì được với mấy triệu con trùng sốt rét tràn ngập trong máu Tư? Bộ anh tưởng hễ là bác sĩ thì có quyền án ma ni thần phù chữa hết bệnh, khỏi cần Chloroquine, Quinine, Fansida chắc?

- Tôi không rành chuyện thuốc men. Không về đây, anh Tư cũng chết trên Kà Tót, về đây ảnh chết gần nhà hơn! Số kiếp! Thôi anh để tôi chạy tìm chút rau cỏ gì để cải thiện chiều nay!

Hà chụp lên đầu cái mũ làm bằng bao cát bước ra ngoài. Tôi nghĩ bụng " bây giờ là lúc Hà BÐQ tận dụng hết ngón mưu sinh thoát hiểm" trong các lớp rừng núi sình lầy trước đây. Ở trong cái rọ này, mưu sinh thét rồi cũng không còn một cọng cỏ non, còn thoát hiểm thì vô kế khả thi! Ngày xưa, quân trường Sình Lầy Dục Mỹ đâu có ngờ, đâu có dự liệu cái ngày phe ta thê thảm như hôm nay.

Tôi qua phòng Lê Bá Dũng, Tư hai mắt lờ đờ gần như đứng tròng. Tôi phụ Dũng đổ một ít nước vô miệng Tư. Dũng lắc đầu. Dũng là y sĩ chỉ huy phó Quân Y Viện Ðoàn Mạnh Hoạch Phgan Thiết và Tư là sĩ quan tài chánh. Hai người cùng đơn vị, hội ngộ trong tù, và sắp chia tay, chia tay không có ngày gặp lại! Tôi là bạn học cùng lớp. Hai thằng trơ mắt, xuôi tay trước cái chết sắp xẩy ra trong giây phút của bạn mình. Tư tắt thở sau đó trên tay tôi và Dũng. Thêm một đứa ra đi. Những người ở lại cũng chai đá trước cái chết gần như định số, kẻ trước, người sau...

Buổi chiều, Hà trở về, kéo theo một bụi rau dền gai tổ chảng bị chặt gốc. Hay tin Tư qua đời, Hà khựng lại, thở dài rồi tiếp tục với bụi dền gai, coi như không có chuyện gì xẩy ra.

- Bụi dền gai tổ bố này Hà kiếm ở đâu vậy?

- Ở gớc trại, sát hàng rào kẽm gai. Chỗ đó chui ra được bên ngoài là thoát, vì nó nối sát với một đường mương. Nhưng lạng quạng coi chừng vướng mìn phe ta còn để lại. Ớn bỏ mẹ!

- Bộ gần đó không có trạm gát sao?

- Bây giờ thì không. Tương lai thì không biết! Thôi bỏ chuyện này đi. Lọt tai cán bộ là khốn nạn.

Lần đầu tiên kể từ ngày lên Kà Tót và chuyển về đây, bữa nay mới nghe Hà đề cập tới chuyện trốn trại. Bị cắt đứt với bên ngoài, bị khủng hoảng đến tê liệt tinh thần ở bên trong, tôi gần như không có ý niệm gì cho cái chuyện vượt thoát. Thế nhưng hôm nay,khi nói chuyện thì thầm với Hà, tôi bỗng thấy bầu trời bung rộng lớn hơn, màu xanh của đám cây ngoài trại dễ thương hơn, cánh chim trên bầu trời nhẹ nhàng hơn và nỗi khát khao tự do bừng bừng trổi dậy. Nó trổi dậy như sóng vỗ, và nó cũng tan mau như cơn sóng lùi ra biển khi tầm mắt nhìn vào lớp kẽm gai vây kín, bên ngoài lảng vảng bóng dáng những tên bộ đội đi tuần. Khi tôi tư lự, Hà bắt đầu chặt bụi dền gai ra từng nhánh.

- Chiều nay toán mình bồi dưỡng mấy nhánh này. Phần còn lại cho ngày mai!

- Dền gai toàn là gai làm sao ăn được?

- Bộ anh không biết người ta bầm dền gai nấu cháo heo sao? Heo ăn được là người ăn được. Món này có trong danh sách các thứ rau cỏ mưu sinh. Lần này tụi mình mưu sinh, chuyện thoát hiểm hạ hầu phân giải! Con người có số, giàt saut có số, tới đâu hay tới đó!

Anh em xúm nhau lặt tất cả đọt non, tất cả lá, bất kể lá non hay lá già. Thân cây dền lô nhô những gai nhọn hoắc được anh em róc bỏ, chặt ra từng khúc, tước vỏ ngoài còn lại cái lõi bên trong. Ðọt và lá luột riêng, lõi thân dền luộc riêng. Cả đám chụm đầu nhau ăn buổi chiều, gạo mục, rau dền chấm nước mắm. Một bữa ăn thần tiên của anh em nhờ ngón nghề mưu sinh xưa của Hà.

Sang đến đầu năm 1976, trại Sông Mao được phân trại theo cấp bậc tù nhân dưới cái tên trên giấy tờ: Tổng Trại 8 Tù Tàn Binh Sông Mao thuộc quân khu 6 của Việt cộng. Trại A ở phía đông tập trung tất cả sĩ quan từ đại úy đến đại tá. Ðại tá Lê Hưng Phê, chỉ huy phó BÐQ/QK2 cũng nằm trại này. Trại B nằm ở giữa tập trung tất cả anh em sĩ quan cấp trung úy, và trại C nằm về hướng Tây gồm tất cả anh em thiếu úy và chuẩn úy. Tù nhân phải tự làm trại và hội trường lấy để chuẩn bị học tập chính trị.

Từ khi tổng trại gom tù các nơi về và chia làm ba phân trại, tôi ở trại A, Hà ở trại B, cách nhau một hàng rào kẽm gai gang tấc mà anh em lại xa như ngàn trùng. Sau gần 6 tháng xây trại và các dãy phòng học, toàn trại bị dẩy vùi đầu vào các lớp học chính trị tẩy nảo, nhồi sọ với bài học số một: " Ðế quốc Mỹ là kẻ thù của nhân dân thế giới và là kẻ thù số một của dân tộc Việt Nam"... " Tội ác ngụy quân, ngụy quyền..." Ba dòng thác cách mạng..." , rồi thu hoạch, rồi kiểm điểm, toàn những thứ nhét vô lại trào ra, nhưng nó lại làm cho con người phờ phạt, thèm đi lao động, thèm phơi nắng giữa trời, thèm vật lộn với mồ hôi hơn là ngồi chồm hỗm nghe những bài nhồi sọ.

Cho đến khi bắt đầu trở lại giai đoạn lao động, đám tù ba trại thỉnh thoảng mới gặp nhau. Dọc đường xe lửa cách ga Sông Mao về phía Nam độ ba bốn cây số, tù nhân ba phân trại được lệnh tập trung phá rừng thưa trờng bắp. Có những buổi trưa hạnh phúc khi nhìn đoàn tàu đi ngang qua. Có những buổi trưa hạnh phúc khi một vài cánh tay nỏn nà con gái đưa tay vẫy về phía đàn tù đang chống cuốc đứng nhìn đăm đăm. Dường như ai cũng muốn tìm trong đám đông trên toa xe hình bóng thân thương của vợ con, cha mẹ. Một vài anh em vẹt nước mắt, không biết nước mắt hay mồ hôi. Có những toa tàu đi qua, có những toa tàu mất hút. Hà là người nhìn tàu hỏa đi qua một cách chăm chú như bị con tàu thâu miên. Tôi gặp lạ Hà trên các luống bắp, đang nhìn theo con tàu. Tôi kéo Hà vào một bóng cây, nhìn quanh, không có ai, tôi hỏi.

- Hà! Khỏe hả? Sống bên trại B ra sao?

Dường như Hà gặp tôi mà quên cả mừng, quên cả trả lời câu hỏi. Trong đầu Hà đang bị một cái gì cuốn hút. Hà bất chợt hỏi:

- Nghe nói ngày xưa đơn vị đầu tiên sau khi anh ra khỏi lò Thủ Ðức là An Ninh Thiết Lộ?

- Ừa! Lính xe lửa!

- Anh thấy sau khi rời ga Sông Mao chạy ngang khu rừng này mà xe chạy tộc độ mình thường thấy hàng ngày, anh có thể phóng theo nhảy lên tàu được không?

- Hà ơi! Tôi hiểu Hà rồi! Tội quá! Bây giờ hai cái giò tôi muốn teo lại không biết có chụp tàu được không, nhưng thuở xưa thì lính An Ninh Thiết Lộ lên tàu và xuống tàu dễ dàng với tốc độ này. Hà còn trẻ, còn khỏe, tôi không biết sao, nhưng nguyên tắc là phải chạy theo tàu gần với tốc độ tương đương, rồi chụp thành tàu phóng theo. Không thể đứng một chỗ phóng lên tàu khi tàu chạy, và cũng không thể chạy chậm hơn tàu mà phóng được lên tàu. Vấn đề là có một khoảng thuận tiện để có thể chạy theo tàu.

- Tôi hiểu rồi! Thôi mình chia tay, hết giờ ăn trưa, tụi bộ đội đang đi tới.

Tôi lách ra, cúi đầu vun những gốc bắp. Hà biến mất trong mấy lùm cây. Hôm sau, Hà gặp lại tôi cũng vào giờ nghĩ trưa. Cũng lại một đoàn tàu đi qua. Mỗi đoàn tàu đi qua để lại trong đầu Hà một viễn tượng vượt thoát mạnh hơn. Hà tâm sự:

- Thú thật, trong số anh em, tôi biết anh hơn cả. Tôi tin anh hơn cả. Tôi lại biết cả đơn vị đầu tiên của anh. Hay là tôi và anh tìm cách thoát. Về thẳng Sài Gòn, anh sống lang thang với tôi, sau đó tụi mình tìm cách chui xuống miền Nam.

- Hà biết, khát vọng tự do, khát vọng thoát tù trong tôi không thua gì Hà cả. Tôi đã mơ ngàn giấc mơ. Tôi mơ trong giấc ngủ, tôi mơ khi ngả lưng nhình những con chim bay, tôi mơ những đám mây lang thang trên bầu trời... Cái thân tôi đánh cuộc cái chi tôi cũng cóc cần, nhưng tôi mà thoát là cả lò nhà tôi bị hốt, bị vây bũa, khốn nạn. Tôi biết rõ cảnh này. Tôi chịu đựng, tôi an phận tù đày một phần cũng vì cái an nguy của gia đình. Chế độ này không từ một ai. Chế độ này không có chuyện ai làm nấy chịu. Họ cột nhau một chùm, họ cột cả nước một chùm.

Hà nắm tay tôi xiết mạnh.

- Anh giữ gìn sức khỏe. Tôi đã định một con đường. Anh cầu cho tôi nghe. Anh đạo Phật hả! Anh thầm tụng kinh cho tôi nghe!

- Ừ! Tối nay, tôi sẽ lấy đũa làm nhang hướng qua trại B tụng Nam Mô Cứu Khổ Cứu Nạn Quan Thế Âm Bồ Tát cho Hà! Hà phải thật cẩn thận, kín đáo, đừng để ai hay, thoát không được thì tìm cách nhập vào toán lao động để về trại. Tụi nó phát giác là tàn đời, Hà hiểu không!

- Anh đừng lo! Số tôi cao lắm!

Hôm sau, các toán lao động lại tập trung ở rẫy bắp. Kể từ khi hết học tập chính trị và ra lao động đến nay, chưa có một vụ đào trại nào. Buổi trưa đám vệ binh chui vào bóng râm, các toán lao động cũng ngừng việc tìm bóng mát ăn trưa. Hà băng mình như con chuột lủi xuống ống cống và chui sang bên kia đường rầy xe lửa. Trưa đó Hà không gặp tôi. Chuyến tàu về Nam hú những tiếng còi dài rời ga Sông Mao tiến gần, càng gần đến ngang rẫy bắp. Tôi gần như bỏ ăn, hồi hộp nhìn đoàn tàu đi qua. Tôi hồi hộp sợ nghe tiếng súng nổ. Không có gì. Tôi mừng cho người bạn trẻ. Ðoàn tàu mất hút. Tôi cứ đăm đăm nhìn theo mà tưởng chừng Hà đã thoát được lên tàu. Mọi người lại bắt đầu lao động tiếp. Buổi chiều, trên đường về, toán lao động trại B về trước, đi ngang qua toán tôi, tôi kinh ngạc thấy Hà thất thểu vát cuốc đi chung toán, áo quần rách toạt mấy chỗ, chân đi cà nhắc. Hà nhìn tôi lắc đầu. Tôi nhìn Hà lắc đầu rồi lục đục theo toán đi về trại.

Buổi lao động kế tiếp, gặp Hà, tôi chưa hỏi được câu nào, Hà đã lên tiếng thì thầm:

- Xuýt nữa là thoát! Tôi chờ toa chở gỗ sau cùng không có người, chạy theo kiểu anh nói, nhưng tôi chụp hụt thành tàu, té muốn gẩy bản họng. Chả ai thấy tôi. Tôi lăn xuống mé đường rầy, lom khom bò về ống cống, chui qua rẫy về nhập bọn lao động tỉnh bơ. Phải trước kia ra trường tôi chui vô cùng đơn vị lính xe lửa với anh thì hay biết mấy!

- Tôi lo điếng người. Khi tàu mất hút, tôi cứ ngỡ Hà là con chim xổ lòng tối nay tung tăng ở Sài Gòn!

Một thời gian sau, khi các toán lao động không làm việc chung trên cùng một đám rẫy, tôi không có cơ hội gặp lại Hà. Tôi không biết Hà còn ở trại hay đã "hổ mất xác". Rồi mọi chuyện cũng quên đi. Một đêm Sông Mao lạnh cứng người, cơn mưa ném mạnh những hạt nước theo gió qua khe vách tù. Cái lạnh của đêm, của mưa, của gió, của những tấm vĩ sắt thay ván không ngăn nỗi những mệt nhọc của một ngày lao động mệt nhoài, đám tù cứ ngả lưng là lăn ra ngủ. Nửa đêm, bỗng có tiếng AK nổ, và thượng liên trên chòi canh nổ theo dồn dập. Có tiếng bộ đột cộng sản chạy thình thịch. Cả trại thức giấc. Cơn mưa lại tiếp tục. Tiếng súng không còn nổ. Nhiều anh em đoán chừng là có người vượt trại bên phân trại B. Tôi bỗng lo cho Hà và không ngủ được đến sáng.

Buổi sáng, trời tạnh mưa và mây tan. Mặt trời lên sớm. Tôi ra sân trại, vờ đi cầu ở hầm cầu gần hàng rào kẽm gai phân trại B để quay mặt nhìn qua một góc hàng rào đầy những bụi dền gai, nơi bộ đội cộng sản chùm nhum làm cái gì đó. Bỗng tôi điếng người. Họ khiêng ra một xác người mắc dính dưới hàng rào kẽm gai. "Trời ơi! Hà!"

Thì ra làHà đã tìm cách vượt trại ngay đám dền gai mà Hà phát giác từ lúc rời Kà Tót về Sông Mao, Hà đã dự trù chuyện này từ lâu,và cuối cùng Hà đã thua cuộc.

Miền Nam đã không dự liệu được ngày 1975. Quân lực đã không dự liệu được cái cảnh mưu sinh mà không đường thoát hiểm, và Hà đã bỏ mình ngay bụi dền gai ban đầu trong ngững ngày mưu sinh trên vùng đất chết của cái gọi là Tổng Trại 8 Tù Tàn Binh Sông Mao.

Tội nghiệp Hà, một con chim bất khuất, khao khát tự do, bị chết oan nghiệt trong chiếc lồng tù ngục.

huyện về một thầy giáo làng

» Tác giả: Trần Văn Tuấn

» Dịch giả:

» Thể lọai: Truyện ngắn

» Số lần xem: 4324

1. Chuyện về một thầy giáo làng

Làng Chát có thầy Bắc. Thầy Bắc nổi tiếng trong vùng, mặc dù thầy không có huân chương, cũng chưa được phong tặng bất kỳ danh hiệu gì trong ngành giáo dục.

Chưa có ai làm báo cáo thành tích, công lao đóng góp của thầy cho làng, cho xã. Mà nếu như có ý đó, cũng rất khó thực hiện. Nghề của thầy là dạy học, dạy cấp 1 thôi. Thầy dạy học trò viết chữ, làm toán là chuyện đương nhiên. Có gì vượt trội đâu.

Chuyện kể rằng, hồi sau giải phóng miền Nam, khoảng năm 1978 ở xóm trên có anh đi học ở Tây về, được cấp bằng phó tiến sĩ về ngôn ngữ hay lịch sử gì đó, tổ chức tiệc mừng. Hồi đó đời sống khó khăn, người làm ruộng chỉ trông cậy vào cây lúa. Được mùa thì ăn cơm độn khoai, mất mùa ăn cháo loãng với cà muối. Mổ lợn (heo) làm tiệc đãi làng là sự kiện hiếm có. Vậy mà cỗ bàn nhà anh phó tiến sĩ đã bày ra ê hề nhưng hàng xóm, láng giềng chẳng một ai tới. Người nhà phải mất công đi vận động, dò hỏi. Thì ra, làng xóm tẩy chay bữa tiệc vì anh phó tiến sĩ nọ vinh quy bái tổ về làng đã quên không đến thắp nén nhang, dâng mâm cúng lễ thầy Bắc.

Thầy Bắc mất tháng 10 năm 1970. Thầy đi, sạch sẽ và thanh thản. Sự ra đi của thầy cũng là một chuyện lạ trong chốn nhân gian. Người ta kể rằng, buổi sáng hôm đó thầy pha ấm trà tất niên, ấm trà được ướp bằng nẩy bưởi (lộc non) và nhụy sen dành cho lúc giao thừa đón năm mới. Ấm trà này thầy chuẩn bị từ tháng giêng lúc bưởi ra hoa, qua tháng 5 lúc sen nở rộ. Thầy mời hai người hàng xóm là ông Phó Cối, người chuyên nghề đóng cối xay ngày xưa và ông Cả Đàm sang uống trà, dóng dả nói: - Thân thể tôi có chuyện rồi! Chiều nay tôi đi, mong hai bác đưa tôi về với đất. Sau này, nếu con tôi còn nhớ tới quê cha đất tổ tìm về, hai bác nói cho nó biết đời tôi sống khỏe mạnh, khang trang, không có gì phải ân hận. Bát nhang thờ tổ, đất hương hỏa tổ trên để lại vẫn còn nguyên vẹn, tùy ý nó sử dụng. Bằng như nó không về, hai bác lấy đất này tặng cho ai đó nghèo khó. Đừng để hoang hóa, lãng phí.

Lúc đó, thầy Bắc vẫn rắn rỏi, mạnh mẽ. Pha trà không run tay. Hút thuốc lào không bị sặc khói. Cả hai ông hàng xóm đều cười, bảo thầy bị mớ dai nói đùa, không lưu tâm để bụng. Buổi trưa vẫn thấy bếp nhà thầy tỏa khói. Thầy tự nấu ăn. Trước lúc ra ruộng, ông Cả Đàm có ghé qua, thấy thầy ngủ trưa trên cái chõng tre, đắp sơ sài chiếc chăn dạ bạc phếch màu cháo lòng.

Đến khi chiều tối, không thấy nhà thầy đỏ đèn, cả hai ông hàng xóm đều chạy sang. Không biết thầy đi từ lúc nào, toàn thân lạnh ngắt, thân thể co thắt lại. Tối ấy cả làng Chát bỏ bữa cơm tối. Đèn đuốc sáng rực một góc trời.

Những người có tuổi ở xã Ninh Xá khẳng định, đám tang thầy Bắc là một trong số ít đám tang to nhất vùng. Có đến hàng nghìn người về dự lễ tang. Ủy ban xã không kham nổi khâu tổ chức, phải xin người trên huyện về giúp sức.

Một người làng Bồng (kế bên làng Chát), công tác ở Hà Nội có ý định làm luận án tiến sĩ về thầy Bắc và ảnh hưởng của thầy ở một vùng quê nghèo khó. Nhiều năm qua đi, ông cử nhân nọ tóc đã điểm bạc, nhưng tư liệu và ý tưởng cho công trình nghiên cứu ấy vẫn chỉ đủ để viết một bài báo. Sắp đi, xếp lại thêm bớt này nọ, diện mạo thầy Bắc vẫn chỉ là một ông giáo làng bình thường như trăm ngàn ông giáo khác. Không có gì đặc biệt cả. Có chăng, chỉ là cuộc đời nhọc nhằn đau khổ của thầy.

Ở làng Chát, họ Trần là họ lớn, chăm lo chuyện học. Thầy Bắc ở chi đầu, vai vế lớn nhất của họ Trần. Ông nội và cha thầy đều theo chuyện học nhưng không đỗ đạt thành danh, giữa đường gãy gánh làm ông đồ dạy chữ Nho. Đến lượt thầy Bắc cũng vậy. Qua sơ học yếu lược hai năm, thầy cũng phải rẽ ngang đi dạy học tư, làm gia sư cho nhà giàu. Thầy dạy học từ năm 1940, năm thầy mới 20 tuổi. Những năm làm gia sư ở Hà Nội, thầy lấy vợ, một cô gái bán vải ở chợ Đồng Xuân. Năm 1954, vợ thầy ngoại tình với một người nào đó ở cùng phố rồi cùng người đó chạy vào Nam, đem theo đứa con trai 4 tuổi.

Suốt 7 ngày, thầy đi lang thang khắp nơi tìm vợ con. Thầy ngã bệnh, ốm liệt giường ở nhà trọ phố Khâm Thiên. May nhờ có người làng tới thăm, định đưa tới bệnh viện, thầy thều thào nói: - Xin đưa về làng!

Mùa đông năm ấy rét đậm. Ngoài đồng cá chết nổi lềnh phềnh. Mạ chết héo như cỏ khô. Trâu cũng bị chết. Người ta tưởng thầy Bắc không sống qua nổi mùa đông ấy. Ba lần chết đi, sống lại. May nhờ có người học trò của thầy từ trước Cách mạng Tháng Tám, làm cán bộ ở tỉnh về thăm, biếu hai củ sâm Trung Quốc. Thầy ngậm sâm, sống qua mùa đông. Sang xuân, thầy khỏe lại. Người như con sếu vườn qua cơn bão. Đầu lơ thơ vài nhúm tóc. Chẳng thấy da thịt đâu, chỉ thấy những đường gân nổi to như chiếc đũa xanh dớt bò ngoằn ngoèo trên thân thể. Thầy tự nguyện dạy bình dân học vụ. Khi xã thành lập trường cấp 1, chưa có giáo viên từ huyện về, thầy dạy hai lớp. Sáng một lớp. Chiều một lớp. Tối dạy bổ túc. Thầy dạy suốt ngày đêm, nhưng không có lương. Việc xét tuyển biên chế cho thầy gặp vô vàn khó khăn, trục trặc. Một số người có chức trách ở xã, ở huyện cho rằng lý lịch của thầy không trong sạch. Những năm sống ở Hà Nội đã dạy học cho con Tây, ở nhà Tây, nói tiếng Tây. Còn giao du kết bạn với người Anh, người Mỹ. Đáng nghi lắm. Còn nữa, vợ con thầy di cư vào Nam là một tì vết rất nặng. Một ông tổ chức ở huyện gặp thầy bảo: - Tôi sẽ thu xếp mọi chuyện. Có điều, thầy phải có một giấy xác nhận ở Hà Nội, nói rõ vợ thầy theo trai bỏ nhà ra đi, không liên can gì tới thầy.

Thầy từ tốn bảo: - Xin để tôi yên. Đừng xát muối vào vết thương của tôi nữa. Tôi không cần vào biên chế. Cho dạy, tôi dạy. Không cho dạy, tôi vẫn cứ dạy.

Chưa bao giờ người ta thấy thầy to tiếng tranh cãi với ai. Mọi lời thầy nói đều rất nhẹ nhàng, khoan thai, rõ ràng. Việc dạy học của thầy rất nghiêm khắc. Thầy có cái thước bằng loại gỗ lim ngâm trong bùn đất nhiều năm màu nâu nhạt. Những đứa trẻ làng Chát khi bắt đầu nhận mặt chữ là thấy ngay cái uy lực của cây thước ấy, cho dù cả đời cầm thước, thầy chưa hề đánh bất kỳ một trò nào. Người ta bảo, cái thước ấy có thần lực, học trò nhìn thấy là phải sợ. Cũng lạ, cái thước ấy gõ vào đâu, tiếng cũng vang, cũng mạnh hơn các loại thước khác.

Hầu hết trẻ con ở làng Chát đều là học trò của thầy ở năm học đầu tiên. Hết thảy đều sợ thầy. Kể cả những đứa trời không sợ, ma không sợ, rắn không sợ, có thể ngủ qua đêm ở bãi tha ma, bóp cổ rắn trong tổ chim, lấc cấc láo xược với cha, mẹ, gặp thầy đều khép nép sợ sệt.

Có trò sợ thầy đến mức, mót đái không dám xin ra ngoài, đái trong quần, lại giở trò ma giáo đổ chai nước vào quần để phi tang. Thầy đập cây thước lên bàn, như chặt xương, chẻ củi. Bom nổ cũng đến mức ấy thôi! Cả lớp xanh mặt. Mười vía còn ba. Không hiểu chuyện gì đã làm thầy giận dữ đến vậy. Thế nhưng, tiếng thầy vẫn trầm trầm, ấm áp lan tỏa như tiếng trống trường báo giờ tan học:

– Ta rất buồn vì trò gian dối của người đời. Hèn nhát vốn đã có mùi khó ngửi. Che giấu sự hèn nhát càng nặng mùi hơn.

Thầy nói bâng quơ như vậy, không nêu đích danh ai. Gần 30 năm sau, chuyện mới được tiết lộ trong tiếng khóc tức tưởi của người từ chiến trường trở về. Người đổ chai nước giấu đi chuyện đái bậy đã là một trung tá quân đội. Bài học đầu tiên cho bọn trẻ ở lớp 1 là bài học tập viết chữ h và chữ g:

“Chữ h và g phải có chiều dài bằng nhau. Giống như cây cối. Cây cao phải có rễ sâu và chắc mới chống chọi được dông bão”.

Tiếp đó là bài học về phép làm tính. Thầy có cách dạy học trò làm tính nhanh. Cộng, trừ, nhân, chia gì cũng phải đúng và nhanh. Thầy luôn giới hạn thời gian ngắn nhất buộc các trò phải thực hiện xong.

“Sau này lớn lên các em sẽ hiểu rõ hơn về sự cần thiết phải tính toán nhanh và chính xác. Đây là yêu cầu bắt buộc. Nếu tính đúng, chính xác nhưng chậm hơn người ta thì chẳng có giá trị gì hết. Còn như nhanh hơn người ta mà lại không chính xác cũng là thứ bỏ đi, có khi còn nguy hiểm”.

Cách dạy làm tính nhanh, chính xác của thầy rất có hiệu quả. Học trò của thầy theo học các lớp trên hầu hết đều khá, giỏi môn toán.

Người ta kể rằng, trong tất cả các bài học, bài học về người tốt của thầy là bài học ấn tượng nhất, sâu sắc nhất, khó có thể quên.

“Tại sao lại nói việc học là đi học? Là vì việc học không bao giờ dừng lại. Học để đi, đi để học, để từ hiểu biết này đến với hiểu biết khác. Hiểu biết để làm gì? Không có gì khác hơn để làm người tốt. Người tốt là gì? Người tốt là người có ích cho gia đình, cho bè bạn, cho mọi người ở ngoài đời. Người tài giỏi chưa chắc đã là người tốt nhưng người tốt nhất quyết không phải là người ngu đần”.

Sức thuyết phục trong tiếng nói của thầy không chỉ ở ý nghĩa của lời, chất giọng của thầy có sức truyền cảm mạnh. Là âm điệu của tiếng còi tàu báo hiệu rời ga. Thầy không chỉ dạy trẻ con, còn dạy bổ túc văn hóa cho người lớn vào các buổi trưa. Không chỉ dạy văn, toán. Thầy dạy cả lịch sử, địa lý và tiếng Anh cho cán bộ xã, hợp tác xã và dân quân. Những năm chiến tranh vốn kiến thức của cán bộ làng Chát được bồi dưỡng khá phong phú. Chuyện tiểu đội dân quân làng Chát biết nói tiếng Anh, do thầy Bắc dạy đã trở thành một chuyện lạ xưa nay hiếm.

Những năm chiến tranh, làng Chát vắng lặng. Đám thanh niên đi hết, không còn một ai. Đêm đêm thầy Bắc xách đèn chai đến thăm hỏi những gia đình có người thân đi chiến trường. Cũng có khi thầy mang cây thước kẻ bằng gỗ lim đến trụ sở ủy ban xã, gõ thước lên mặt bàn chất vấn, căn vặn điều này, điều nọ.

Cán bộ xã, hợp tác xã sợ thầy một phép. Một điều thưa thầy, hai điều vâng dạ. Vậy mà thầy vẫn chưa phải là cán bộ biên chế của nhà nước, không có lương, chỉ có phụ cấp. Dân làng Chát nuôi thầy. Có người ngỏ ý mai mối chọn vợ cho thầy. Thầy từ chối dứt khoát, bảo: “Tôi vẫn là người có vợ, không thể phạm luật hôn nhân một vợ một chồng được”.

Như mọi người trong làng, thầy ăn cơm độn khoai, ngày hai bữa. Uống nước lá vối ở cây trồng bên bờ ao. Thầy ăn ít lắm. Mỗi bữa ăn hai chén. Cơm độn nấu trong niêu đất, một lần vào buổi trưa. Tối ăn phần còn lại. Quanh năm suốt tháng bữa cơm chỉ có muối vừng, nước tương cà muối nén và rau luộc. Có cá thịt do người khác biếu, thầy đem cho hết. Năm thầy được xét duyệt vào biên chế ngành giáo dục, làng Chát mở tiệc ăn mừng. Thầy cảm động rớt nước mắt, run giọng nói: “Không ngờ nửa đời còn lại của tôi lại được sống hạnh phúc như vầy!”.

Ít năm sau thầy đi!

Ông cử nhân làng Bồng, nêu ra một vài số liệu qua khảo sát: 60% học sinh của thầy đã thành danh trong xã hội, là cán bộ cao cấp, trung cấp, tiến sĩ, giáo sư, bác sĩ, kỹ sư, nhà văn, nhà báo… 100% số học sinh của thầy đều là người lương thiện. Không có ai phạm tội đi tù. Không ai đào ngũ đầu hàng kẻ địch. Tuy nhiên, số liệu ấy cũng không nói được điều gì cụ thể. Thầy Bắc trước và sau gì cũng vẫn chỉ là một thầy giáo trường làng dạy cấp 1.

– Làm sao bây giờ? – Ông cử làng Bồng áy náy, lo lắng.

Ông Phó Cối làng Chát cười hề hề bảo:

– Cứ để mọi chuyện theo tự nhiên. Xuân về hoa nở rộ, thu về lá vàng rơi…

Nhiều năm qua đi, nhà thầy Bắc vẫn còn đó. Mái ngói cũ thay bằng mái mới, tường gạch quét vôi hàng năm. Cây cối vẫn còn đó. Trong nhà bát nhang vẫn tỏa khói ngày rằm và những ngày Tết. Chiếc niêu đất nấu cơm, cái chõng tre thầy nằm vẫn còn đó…

Không chỉ ông Phó Cối, ông Cả Đàm chăm sóc gìn giữ ngôi nhà. Cả làng Chát đều có trách nhiệm. Không phải là miếu, là đền thờ hay chùa, nhưng mỗi khi có việc lớn lao như đi thi đại học, di chuyển nơi cư trú, lấy vợ gả chồng… người làng Chát đều đến nhà thầy thắp nhang cầu khấn thầy phù hộ mọi chuyện hanh thông, mọi điều thuận lợi như ý.

Chung Cư

» Tác giả: Trần Văn Tuấn

» Dịch giả:

» Thể lọai: Truyện dài

» Số lần xem: 18823

1. Mèo đến

"... Ta đâu phải là bóng

Ta là ta

Dẫu không có trăng.

Ta vẫn là ta..."

Hát xong, ông hỏi to: "Trả giá bao nhiêu cho bài hát này?"

"Meo!" Không có tiếng người, chỉ có tiếng con mèo hoang trú ngụ nhà Ba Tỷ lên

tiếng. Ông thở dài, bế con mèo lên, hát tiếp: "Trời đất bao la, co trăng, có nước,

cần chi mái nhà..."

Con mèo hoang từ nơi nào đến đây, không ai biết. Nó đã mang đến đây nhiều chuyện vui, buồn. Nói đúng ra, những chuyện đó đã

xảy ra ở cái chung cư cao tầng, kiến trúc, thiết kế theo kiểu khách sạn Mỹ vuông thành sắc cạnh, một cái hộp hình chữ nhật lớn chứa

nhiều cái hộp nhỏ có 63 hộ ở này cùng lúc với sự xuất hiện của con mèo.

Đầu tiên là chuyện mất điện. Cả một thời gian dài, có đến gần 10 năm sau ngày giải phóng 30-4-1975 chuyện điện ở đây là điều vặt,

nhưng cần để ý, gần như xài điện chùa. Sau đó, việc thu tiền điện được thực hiện khắt khe, người ta cũng không quan tâm lắm, vì tiền

đóng chẳng là bao. Tới khi Sở điện qui định giá điện mới thì số tiền phải đóng cho từng nhà không còn là chuyện nhỏ nữa. Chung cư

chỉ có một đồng hồ. Tiền điện bổ theo đầu người. Họp tổ dân phố chung cư đã nhất trí như vậy. Thực hiện gần 2 năm, không ai có ý

kiến gì. Nhưng rồi, theo cơ chế thị trường, cư dân chung cư có sự xáo trộn, người đi, người đến, người bỗng nhiên giàu lên và, chị

Chín Rơm đòi phải tính lại tiền điện, không đồng ý việc chia theo đầu người. Chị dõng dạc nói: "Người không thể dùng tay bốc điện

mà ăn được. Xài điện nhiều hay ít là do đồ điện trong nhà. Nhà tôi nghèo, đâu có nhiều đồ điện cao cấp như máy giặt, máy lạnh như

nhà khác. Chia điện theo đầu người là không công bằng, là dìm chết dân nghèo".

Chị Chín Rơm còn đưa ra những con số đồ điện trong từng hộ để chứng minh cho sự thật "nhiều hộ ít người nhưng xài điện nhiều".

Chị còn nói đến những hộ làm nước đá lậu, sản xuất sữa chua, kem chuối... đã trốn thuế lại không phải đóng tiền điện. Chị tuyên bố

đanh thép: "Đấy là tiêu cực! Đấy là bất công, "thằng còng làm cho thằng ngay ăn". Không tính lại, tôi không đóng".

Phản ứng của chị Chín Rơm được nhiều người ủng hộ. Nhưng cũng có không ít hộ bảo vệ cho phương án "chia điện theo đầu người".

Họ bảo: "Nhà có nhiều đồ điện nhưng chưa chắc đã xài nhiều điện. Xài điện nhiều, ít là do người, các đồ điện không có chân, tay, tự

động cắm vào ổ điện được". Dẫn đầu nhóm người bảo vệ phương thức "chia điện theo đầu người" là cô Đoan Trang, vợ mới cưới của

ông cán bộ nhà máy in, ở căn hộ trên tầng 5. Cô Đoan Trang lớn lên từ góc chợ vỉa hè, từng chạy hàng bỏ mối cho các sạp "chạp

phô", chạy áp phe, thu mua giấy vụn... nên miệng lưỡi nhanh nhẹn, bốp chát, ai cũng ngán. Thế là chị Chín Rơm và cô Đoan Trang

đối đầu nhau, cuộc khẩu chiến ác liệt đã diễn ra ngay ở nhà giữ xe, tầng trệt. "Đành rằng là thế, đồ điện không có tay chân, nhưng

sắm đồ về làm gì? Không nhẽ để thờ!". Chị Chín Rơm tuy là nhân viên gấp báo đóng xén ở nhà in nhưng do thường đọc báo, ít nhiều

cũng tiếp thu được khẩu khí của giới phóng viên, nên cũng tỏ ra có lý luận sắc sảo.

"Không thờ nhưng cũng không dùng, hoặc chưa dùng, hay dùng rất ít. Như tivi, đầu máy video, có nhà mở suốt ngày đêm, lại thêm

cả cải lương cát-xét nữa, nhưng cũng có nhà chỉ mở có một giờ trong ngày. Người ta xem những thứ nghệ thuật, có chọn lọc chứ đâu

xem triền miên hổ lốn thứ hàng sến, hàng dỏm".

Chị Chín Rơm biết cô Đoan Trang cạnh khóe xỏ xiên mình, cười nhạt bảo: "Đầu máy cũng không tốn điện bằng bàn ủi. Người ta là

ca sĩ mà chỉ ủi quần áo có một lần trong ngày, có người là thứ nhân viên đánh máy quèn lại ủi tới 3 lần, diêm dúa lố lăng như gái nhà

hàng, nom dơ lắm...

Cô Đoan Trang nóng mặt, xô xe, chống nạnh, cong cớn, và ngôn ngữ hàng chợ xổ ra: "Này, tôi nói cho chị hay, người ta mặc gì thì

kệ người ta. Chồng người ta mua quần áo về cho người ta mặc. Người ta mặc để chồng người ta vui, hà cớ gì chị chõ mồm vô".

Chị Chín Rơm sôi tiết, con lưu manh đầu đường xó chợ, một bước lên bà này dám xỉa xói chị về chuyện chồng con - một nỗ đau

nhức nhối của chị hơn 10 năm nay. Chị rít lên:

- Chuyện chồng con các người già trẻ, xấu tốt thế nào đây không thèm nói. Đây chỉ nói về chuyện xài điện. Đừng có giở thói đầu

đường xó chợ ra đây. Đây không ngán sợ thằng nào con nào hết!

Tình hình căng thẳng, có khả năng chiến tranh nắm tóc cào nhau xảy ra, nên ông trung tá pháo binh nghỉ hưu làm thường trực, giữ xe

phải ra tay can thiệp. Ông có cái còi từ thời xa xưa, huấn luyện tân binh, lúc nào cũng đeo tòn ten trước ngực. Cái còi ấy giúp ông

nhiều việc lắm. Có lần, nhờ có chiếc còi, ông bắt được một tên trộm móc túi ở bến xe. Tên trộm chạy, ông thổi còi "toét" một cái. Tên

trộm hãi quá, tưởng công an rượt theo, đứng lại, giơ tay xin hàng...

Ông thường trực nhảy vô giữa hai người đàn bà hầm hầm sát khí, thổi còi "toe" một cái, hai tay dang thẳng giống như trọng tài trên

sân bóng đá thổi phạt hai cầu thủ chơi xấu nhau.

Hai người dắt xe đi, hấm hứ, lườm nguýt nhau. Chung cư chia làm hai phe, xỏ xiên, công kích nhau. Phe chống đối việc thu tiền điện

phân bổ theo đầu người nhất định không đóng tiền điện nữa. Ban quản lý dọa mấy cũng không được, đành chịu thua, thây kệ sự

đời... Ba tháng không đóng tiền điện, Sở điện đến cắt điện, chung cư không có điện, tối đến các nhà như hang, động le lói ánh đèn

dầu.

Ngay đêm cắt điện, một biến cố hãi hùng đã xảy ra. Khoảng 10 giờ đêm, cả tầng 2 và 4 náo loạn vì tiếng kêu cứu của chị Chín Rơm:

"Bớ người ta, cứu tôi"... lúc đó, hầu hết mọi người đều chưa ngủ, nên nhanh chóng ùa ra, cấp cứu kịp thời. Với nhiều ngọn đèn dầu

hôi xúm lại, đủ thấy rõ sự khiếp đảm của chị Chín Rơm. Chị ngã ngồi, dựa lưng vô tường, tay thu lên ngực giữ chặt khuy áo, hai chân

khóa chặt lại, co quắp như thể đang chống lại một sự cưỡng hiếp...

Chị Chín Rơm lắp bắp, run rẩy: "Có kẻ nào đó định cưỡng bức tôi". Người ta yêu cầu chị kể lại sự việc cho rõ ràng, chị bảo: "Tôi

không nhớ gì cả. Chỉ thấy một bóng trắng mờ vượt qua, chạm vào ngực tôi. Thế là tôi ngã xuống và la lên".

Nơi chị ngã kêu cứu lại ở gần cửa nhà Ba Tỷ, một thanh niên, cao, to, đẹp trai mắt xanh, tóc quăn như dân tây, làm nghề lái xe taxi

mới chuyển về. Thường thường Ba Tỷ chạy xe đến nửa đêm mới về, ít khi ngủ trước 12 giờ đêm. Hôm ấy, anh ta mớ trúng quả đậm,

đưa khách sộp người Mỹ đi Đà Lạt về, nhậu một trận tơi bời ở nhà hàng "ốc biển" rồi về nhà ngủ lúc 9 giờ tối. Ba Tỷ mặc quần xà

lỏn, cởi trần, ngái ngủ, mở cửa, thấy đông người, đèn đuốc lố nhố, lại có nhiều đàn bà con gái nên vội vã đóng cửa lại. Mọi người

nghi Ba Tỷ, gặng hỏi chị Chín Rơm:

- Có phải cái thằng tây lai chạy xe taxi đấy không?

Chị Chín Rơm càng run rẩy hơn, lắp bắp, ấp úng: "Tôi không biết, tôi không thấy rõ người ấy!".

Ông trung tá pháo binh về hưu khẳng định: "Đúng là nó rồi, thằng khốn kiếp. Người ngợm nó chần dần, lắm xương nhiều thịt đến thế

kia mà. Phải nện cho nó một trận"...

Có người phân vân: "Không thấy rõ mặt, làm sao có thể kết tội người ta!" Ông trung tá nói: "Trời tối thế này, làm sao có thể thấy ai

với ai được. Nó vừa thò cổ ra, thấy mọi người hãi, nên lại đóng cửa. Để tôi lôi cổ nó ra đây. Dám làm loạn hả!".

Tòa án được thành lập ngay tại hành lang, trước cửa nhà Ba Tỷ. Chẳng đợi ông trung tá đập cửa, Ba Tỷ đã mở cửa đi ra, mặc bộ

pijama sọc, trông lừng lững, hơn hẳn mọi người một cái đầu. Anh ta cười toe toét hỏi ông trung tá: "Có chuyện gì vậy, thưa trung tá".

Ông trung tá lúng túng, định đưa còi lên miệng thổi. May mà ông dừng lại được. Có lẽ sự ngờ vực của ông đã bị thui chột. Thái độ tự

nhiên của anh ta làm ông phân vân, khó xử. Dầu sao, đã ở thế "leo lên lưng cọp" rồi, không thể xuống thang được, ông dằn giọng:

- Chị Chín bị ai đó có ý đồ xấu, ở ngay gần cửa phòng anh.

Ba Tỷ nhìn chị Chín, ngờ vực hỏi: "Xấu là thế nào? Trấn lột hả?"

Ông thường trực dậm chân, phẩy tay tức tối: "Không phải là trấn lột mà là... là định cưỡng hiếp"...

Ba Tỷ cười hô hố, rất chi là sàm sỡ, oang oác nói: "Trời đất quỷ thần ơi, chỉ có người điên mới làm chuyện đó ở đây, ngay hành lang

trước cửa nhà người ta. Mà nhà này tôi dám chắc là không có ai điên".

Giọng cười của Ba Tỷ làm cho mọi người khó chịu hơn, gắt: "Từ tối đến giờ, anh đi đâu, làm gì?". Ba Tỷ vẫn hồn nhiên, giả lả: "Hóa

ra sếp và mọi người nghi tôi. Làm sao tôi có thể giải thích cho mọi người biết tôi ngủ và mơ thấy một nàng tiên kiều diễm ở xứ sở Hoa

Hồng nhỉ? Nhưng thôi, trước hết tôi muốn nghe chị Chín kể lại sự việc đã". Thấy Ba Tỷ đến gần mình chị Chín Rơm đột nhiên nổi

giận, đứng phắt dậy, sừng sộ nói: "Không có gì phải kể cho mọi người nghe nữa. Tôi bị vấp té. Hết".

Chị lao lên cầu thang. ào một cái. Biến mất. Mọi người chưng hửng, sững sờ. Lại săm soi nhìn Ba Tỷ. Ba Tỷ cười hì hì: "Các vị yên

tâm, tôi không làm chuyện đó đâu. Nếu cần đàn bà, tôi có nhiều lắm, chỉ cần xì ra vài đô là có em đẫy đà phốp pháp ngay". Ai đó

nói: "Ba Tỷ nói phải đấy. Chưa biết chừng chị Chín yếu tim, hoa mắt đâm phải tường, rồi tưởng...".

Ông thường trực hài lòng, bảo: "Chắc là Chín Rơm không quen bóng tối, hãi quá, thần hồn nát thần tính, chứ nhà này không thể có

kẻ bạo dâm".

Đầu còn chút hồ nghi nhưng mọi người đều cảm thấy yên tâm, ai về phòng nấy, đóng cài cửa cẩn thận.

ấy là nói cư dân từ tầng 4 trở xuống, biết hoặc có chứng kiến vụ chị Chín Rơm kêu cứu. Còn cư dân tầng 5 trở lên thì xôn xao bàn

luận về chuyện ma xuất hiện ở nhà cô Đoan Trang.

Cô Đoan Trang kể lại chuyện ma gấp gáp, hồi hộp nhưng vẫn rõ ràng, và sẵn sàng lặp lại nguyên văn cho từng người nghe.

"Ông xã nhà tôi đi công tác nước ngoài, nhà chỉ có một mình. Tôi đang mơ màng ngủ, chợt nghe tiếng gầm rít hết sức quái đản, tiếp

đó lại là tiếng rên hừ hừ đau khổ, u uất. Rồi tôi thấy cái giường "mô đẹc" của tôi như bị chao đảo, lắc qua lắc lại và có tiếng kêu "trả

đầu cho tôi". Tôi hé mắt nhìn, thấy hai đầu sáng xanh lè phát ra từ chỗ bàn thờ ông Địa. Rồi cái giường "mô đẹc" của tôi như bị dựng

lên. Tôi kinh hãi lắm, không dám nằm nữa, phải đốt đèn, thắp nhang, cầu trời khấn phật phù hộ tai qua nạn khỏi, cho tới sáng". Cư

dân chung cư lại chia làm hai phe khác biệt nhau. Phe này bảo có ma. Phe kia nói không thể có ma. Đứng đầu phe có ma là bà Tư

Rêu (tên Rêu là tên khai sinh, sau đó bà đổi nhiều tên, toàn là Lan, Ngọc, Hạnh, Tuyết... cuối cùng, khi về già bà lại lấy tên Rêu),

một bà mẹ chồng khắt khe với con dâu, từ ngoài Trung vô. Trước đây, có một thời, do giận hờn chồng, con bà lên chùa núp bóng

Phật, xa lánh sự đời. Không hiểu sao, sau khi ra chùa, bà càng để ý đến chuyện đời hơn và bà luôn tự hào về con mắt tinh đời "con

ruồi bay qua cũng biết con đực, con cái" của bà. Không biết bà săn tin ở đâu, tra cứu tư liệu chỗ nào, mà nhất quyết nói rằng căn

phòng, nơi vợ chồng cô Đoan Trang đang sống, trước năm 1975 đã xảy ra án mạng. Người chết là một người đàn bà. Kẻ sát nhân là

người đàn ông "Già nhân ngãi, non vợ chồng" với chị ta. Tên giết người đầu độc nạn nhân, rồi nói là bị trúng gió chết bất đắc kỳ tử.

Người đàn bà chết oan, tức tưởi, không siêu thoát được, lại không thể vượt biển sang Hoa Kỳ để đòi nợ máu nên phải lẩn quất quanh

đây...

Phe bảo vệ thuyết "không có ma" đứng đầu là nhà sử học bất hạnh (vì hai lần lấy vợ đều bị vợ bỏ) phản bác lại bằng ngôn ngữ châm

biếm, rằng: Cớ sao những năm qua, con ma nữ ấy không thấy xuất hiện. Hay là nó ngủ quên?

Nhà sử học bình thêm:

- Có lẽ nó vượt biên, bị đắm tàu, bị cướp biển bắt rồi phiêu bạt giang hồ cho đến giờ mới tìm lại được quê hương bản quán...

Cuộc khẩu chiến ở thế giằng co, bất phân thắng bại. Tuy nhiên, phe có ma xem ra có lợi thế hơn bởi một số thông tin về "bóng trắng"

và tiếng động lịch kịch, tiếng cào cửa, tiếng rên, tiếng khóc... xuất hiện đêm sau ở tầng 5, 6 và 2.

Bà Tư Rêu bé nhỏ nhưng chắc khỏe. Đã tới tuổi 60 nhưng tóc bà còn đen lắm, rất ít sợi bạc, lên xuống cầu thang huỳnh huỵch,

nhanh nhẹn như con gái. Bà là người duy nhất không gửi xe đạp ở nhà trực, mà vác lên tận tầng 4 và chiếc xe đạp của bà là chiếc duy

nhất trong chung cư có khóa. Bà Tư Rêu không bị lôi kéo vào cuộc tranh luận cho ra lý, ra lẽ như những người khác. Trước sau, bà

chỉ nói: "Tôi nói đúng là đúng. Có ma tức là có ma!".

Ba ngày sau, chuyện ma mãnh ở tầng 7 và vụ chị Chín Rơm xẹp xuống vì thủ phạm đã được tìm ra. Người "phá án" vụ này là ông

thường trực giữ xe của chung cư - người có tinh thần trách nhiệm cao, tự nhận phần bảo vệ trật tự an ninh chung cư về mình. Cũng

cần nói thêm, từ ngày về hưu, ông hay bị những tiếng nổ thời chiến tranh quấy phá giấc ngủ. Trong tuần, ít nhất ông cũng bị hai đêm

mớ thấy cảnh pháo nổ kế bên, tưởng chết, toát mồ hôi lạnh, tỉnh lại, hoặc tiếng đề pa "cắc" kế đó là tiếng rít "ét ét" xé tai, phải lăn

qua để tránh... và rơi xuống đất. Đêm ấy, vào lúc 2 giờ sáng, ông mớ bị "pháo" dội xuống đầu, tưởng chết, tỉnh lại. Người có tuổi như

ông ngủ đi đã khó, ngủ lại càng khó hơn. Bởi vậy, ông quyết chí điều tra vụ ma mãnh xuất hiện.

Ông pháo binh về hưu đã trải qua trận mạc trên nhiều chiến trường, chôn cất nhiều tử sĩ, chết đi sống lại đã từng, nên vững chắc niềm

tin không có ma. Ông nghi có kẻ nào đó "dư thừa sức lực" chọc phá người ta. Từng là lính trinh sát pháo binh, đo mục tiêu địch bằng

dây dù nên "nghề trinh sát ban đêm"của ông thuộc loại "cao thủ". Ông biết cách đi không gây ra tiếng động, qua đèn không lộ bóng,

biết ngửi, nghe tiếng người... Gần đến tầng 6, ông nghe tiếng cào cửa gấp gáp hổn hển, và tiếng gầm gừ đau khổ, ẩn ức. Ông thận

trọng đi lên, thấy một vệt trắng đang đập cửa nhà chị Lệ Tuyết, vợ của anh Lê Bảo, kỹ sư cầu đường... Vợ chồng nhà này mới dọn

đến đây ở vài ba tháng nay. Hồi đầu, ai cũng tưởng là hai cô cháu hoặc chị em. Chị Lệ Tuyết phải đi gặp từng người suốt từ tầng trệt

lên tầng 7 để thanh minh rằng chị là người "bị anh Lê Bảo săn đuổi với tình yêu lãng mạn sâu thẳm và dữ dội chưa từng có", rằng chị

là người đa sầu, đa cảm lắm suy tư nên nét mặt có vẻ già dặn chứ thực ra chị mới có 35, vẫn còn kém anh Bảo 1 tuổi... Dần dần người

ta cũng phải tin chị, vì hiếm có ai yêu thương vợ hơn anh chàng kỹ sư cầu đường ấy. Ngày nào đi làm về, trên tay anh cũng có một bó

hoa nho nhỏ tươi thắm để tặng vợ. Lên xuống cầu thang bao giờ anh cũng ôm vai vợ dìu đi, âu yếm, thiết tha. Các bà vợ đều đem

chuyện đó về răn dạy chồng: phải học người ta chứ! Chồng thế mới là chồng. Chị Chín Rơm tỏ ra khó chịu, bĩu môi, dài giọng bảo:

"Tây chẳng ra Tây, ta chẳng ra ta. Nom bẩn thấy mẹ".

Lại nói chuyện ông pháo binh về hưu phát hiện ra vệt trắng đang gõ cửa nhà chị Lệ Tuyết. Ông bật đèn pin, chiếu thẳng vào kẻ ma

quái và thấy đó chỉ là một con mèo trắng khá to.

Trong ánh đèn, con mèo trắng không tỏ ra sợ hãi và bỏ chạy như ông tưởng. Nó càng gào rú cuồng nhiệt và đập, cào cửa nhà chị Lệ

Tuyết mãnh liệt hơn. Ông pháp binh về hưu lao tới bắt mèo. Bởi tuổi đã cao, sức đã yếu, tay chân chậm chạp, lại chỉ có một tay nên

việc bắt mèo của ông hết sức khó khăn vất vả. Trong khi đó, con mèo tràn trề sức lực, lại nhất quyết không chịu rời xa cửa phòng chị

Lệ Tuyết. Nó nhảy lên đầu ông, đập cửa phòng người ta, rồi xô đổ thùng rác ở dưới, làm vỏ chai bia bị vỡ và những vỏ lon sữa bò, lon

bia, những thứ đồ phế thải khác vãi đổ tung tóe gây chấn động cả vùng.

Cư dân ở tầng 6 mở cửa ra xem. Đèn cầy, đèn dầu lố nhố, nhập nhoạng. Tất cả đều đồng thanh kinh ngạc: "Gì thế này?" Ông pháo

binh về hưu giật mình, giận người, hét lên: Ma của các người đấy...

Dường như chị Lệ Tuyết chỉ cần nghe tiếng người ở ngoài tông cửa chạy ra. Chẳng cần nhìn kỹ cũng biết chị đã trải qua cơn sợ hãi

kinh hoàng. Và cũng với sự xuất hiện của chị, con mèo mà chị lao vút ra như một trái lựu đạn, cùng tiếng gào sung mãn hả hê. Con

mèo trắng từ trên đống gỗ tạp phế loại chất cao quá đầu người kêu lên mừng rỡ rồi phóng theo con mèo nhà chị Lệ Tuyết. Chị Lệ

Tuyết hổn hển, lắp bắp: - ma... ma...

Ông thường trực nói cho chị biết, không phải ma mà là một con mèo trắng cào cửa nhà chị... Chị Lệ Tuyết ngờ vực:

- Cớ sao nó lại đập cửa nhà tôi?...

Ông thường trực lúng túng:

- Chắc là nó ngứa móng vuốt, cào bậy bạ thôi...

Lệ Hồng, cô ca sĩ phòng trà, ở kế bên nhà Lệ Tuyết tủm tỉm cười, nói với chị Lệ Tuyết:

- Lẽ ra chị phải mở cửa cho con mèo cái nhà chị ra sớm, chia uyên rẽ thúy như vậy là có tội.

Mọi người cười vui vẻ, như trút được gánh nặng. Chị Lệ Tuyết cũng hiểu ra, sượng sùng, lỏn lẻn:

- Làm sao em biết được, anh Bảo nhà em đi công tác vắng, em sợ lắm!

Chuyện ma coi như đã xong. Nghi án về vụ chị Chín Rơm ở tầng hai cũng được giải tỏa. Cứ theo lời giải thích của Ba Tỷ thì vụ ma ở

nhà cô Đoan Trang là do đám phim kinh dị, bạo lực, xã hội đen của Mỹ và Hồng Kông gây nên. Cô Đoan Trang ngốn phim kinh dị

suốt ngày chủ nhật, có khi suốt cả đêm nên bị chuyện ma ám ảnh. Nghe tiếng "rên động tình" của mèo tưởng tiếng kêu đòi mạng, lại

tưởng ra cảnh dựng giường, đuổi nhà... Còn đối với vụ chị Chín Rơm có phức tạp hơn một chút. Gã Ba Tỷ nhăn nhở cười, sàm sỡ bảo:

"Tại chị ấy bỏ chồng đã lâu, tuổi chưa già, sức còn mạnh mẽ, lại thích xem cải lương, phim tình cảm sướt mướt, say mê với những

mối tình lãng đãng khói sương, nên rất sợ chuyện bạo dâm bạo tình...". Gã còn ỡm ờ bình thêm: "Cũng giống như sợ rắn vậy. Sợ thì

vẫn sợ nhưng lại thích xem".

Lời nói Ba Tỷ đến tai chị Chín Rơm. Bão tố nổi lên ở cửa phòng Ba Tỷ lúc 5 giờ sáng. Chị Chín Rơm gần như muốn phá cửa nhà Ba

Tỷ, đòi đập gẫy răng và cắt lưỡi Ba Tỷ. Gã lái xe taxi hãi quá phải bám theo ống nước "tị nạn" nhà ông Lưu Văn Bi, ngoài 50 tuổi

sống độc thân làm nghề sửa xe gắn máy ở lề đường trước nhà. Chị Chín Rơm canh me, truy đuổi Ba Tỷ suốt một tuần lễ, đòi ăn thua

đủ.

Chị Chín Rơm lạnh lẽo tuyên bố:

- Nó đã xúc phạm tới tôi, tôi phải trừng trị nó...

Ông thường trực đề nghị đem Ba Tỷ ra kiểm điểm ở tổ dân phố. Chị Chín Rơm không chịu, bảo đó là việc riêng giữa chị và Ba Tỷ,

phải giải quyết tay đôi. Cuối cùng, nhờ có sự trung gian hòa giải của ông Bi, chị Chín Rơm nguôi giận tha thứ cho Ba Tỷ. Người ta

bảo ông Bi có uy tín cao đối với chị Chín. Giới phụ nữ trong chung cư thì thầm "hai người có tình ý với nhau". Cô Đoan Trang cả

quyết "Không phải thế, do gã Ba Tỷ chạy cho chị Chín Rơm cái đồng hồ điện". Chuyện không biết thực hư thế nào, nhưng việc chị

Chín Rơm làm hồ sơ xin đồng hồ điện riêng là có thật và điền này quả là một sự kiện gây chấn động lớn cho chung cư... Hai ngày

sau, người của Sở điện đến tầng 3, lắp cho chị Chín Rơm một cái đồng hồ điện và chị Chín Rơm chia điện cho 3 nhà xung quanh

trong đó có nhà ông Bi. Chị Chín Rơm vui vẻ, ồn ào suốt ngày: "Trăm sự cũng là do không có điện mà ra. Anh Bi nói thế, tôi nghĩ

cũng phải. Chú Ba Tỷ cũng tốt, tháo vát, giúp chúng tôi có riêng đồng hồ".

Tầng 3 có điện. Các tầng khác nhanh chóng tụ họp, đoàn kết nhất trí làm đồng hồ điện riêng. Chung cư không còn phe có ma, không

có ma, phe điện đầu người, điện đồ điện nữa mà lại chia ra thành từng nhóm theo tầng xung quanh cái đồng hồ điện.

Và, cái chuyện đồng hồ điện lại tiếp tục sinh ra những rắc rối mới.

Sự sống

» Tác giả: Trần Văn Tuấn

» Dịch giả:

» Thể lọai: Truyện ngắn

» Số lần xem: 3024

1.

1

Nó ốm nhách. Xương sống, xương sườn nhô ra thụt vào. Một ấn tượng sâu đậm về sự thiếu đói, vất vả.

Nó biết! Thân phận xấu xí của nó lẽ ra không nên tồn tại. Thế nhưng, niềm ham sống sợ chết giống như mạch nước ngầm cứ cuồn cuộn tuôn trào, nhấn chìm mọi sầu thảm, u uất. Và nó cũng biết, để tồn tại, nó phải hạn chế bớt sự sinh động, sôi nổi. ở mọi nơi mọi chỗ, kể cả nơi vắng vẻ chỉ có một mình, nó vẫn co rúm và hạn chế tối đa những cử động. Rón rén đi, rón rén ngồi, nằm. Ngay cả khi ngáp vặt vì buồn tủi hay mệt nhọc, nó vẫn phải nhìn trước ngó sau và ngáp một cách rụt rè. Dầu vậy, nó vẫn bị người đời và đồng loại xa lánh, xua đuổi. Đó là điều đau buồn nhất đối với nó.

Đêm đêm, nơi ven rạch, dưới gốc cây điệp già nó ngửa cổ kêu than. Tiếng kêu của nó như gió hú qua khe núi khi chiều xuống, như lời ca vút cao bị nghẽn lại nửa chừng. Nhức nhối khôn lường.

2

Một ngày kia! Đám chó nhà ở gần cầu sắt dồn nó tới đường cùng, không còn chỗ chạy nữa. Sau nó là tường nhà cao tầng. Trước mặt là năm "người anh em" cao to lực lưỡng với những hàm răng sắc nhọn trắng ởn như rừng gươm đao chắn lối. Ai cũng nghĩ, cuộc đời nó sẽ kết thúc tại đây. Người xưa nói, chó cùng bứt dậu. Bản năng sinh tồn huy động hết mọi tiềm lực, khiến nó mạnh lên gấp nhiều lần. Cuộc chiến một chọi năm xảy ra tuy ngắn, nhưng sự khốc liệt thật khủng khiếp. Nó phá được vòng vây, băng qua đường, lao xuống rạch với thân thể rách nát máu me đầm đìa.

3

Băng qua rạch, nó nhắm hướng mặt trời lên mà đi. Theo cảm nhận của nó, đấy là nơi hết thảy mọi vật đều rạng rỡ, tươi vui, không có cãi lộn hay đánh đấm lẫn nhau. Chắc hẳn ở nơi đó người ta sẽ để nó sống yên ổn, không xua đuổi đánh đập. Cuộc sống đã dạy nó, cho nó một năng lực tránh người xấu. Trên mảnh đất người nhiều hơn cây cỏ này, không thể tránh hết mọi người được. Chỉ cần tránh những người xấu bụng, độc ác. Nó nhận ra từ xa mùi vị kẻ xấu. Cái mùi ấy khó ngửi lắm, nếu không nhanh chóng tránh xa, nhất thiết bị hắt hơi, nhảy mũi, có khi sinh bệnh đau đầu, đau bụng. Đêm đi, ngày ngủ, tự liếm vết thương cho đỡ đau, đỡ rát. Lần lần nó đến một nơi ít nhà cao tầng, nhiều nhà lụp xụp, thấp bé. Đêm ấy mất điện. Thế nên trời trong, gió mát càng trong, mát hơn. Trăng sáng mơ màng như người thiếu phụ chợt nhớ cố nhân. ánh trăng lãng đãng dịu dàng. Nó cảm thán kêu lên: "Chao ôi! Cuộc sống mới kỳ diệu làm sao!". Chưa bao giờ nó thấy ham sống đến thế.

Vừa kêu dứt tiếng, bỗng nhiên nó thấy một con quái vật từ trên mái nhà gần đó phóng xuống. Quát vật mắt xanh lè, móng vuốt nhọn hoắt táp vào mặt nó. Nó lùi lại, nhe răng gầm gừ. Quát vật cũng dừng lại thủ thế, rít lên những tiếng mảnh và sắc. Nó nhận ra, quái vật là con mèo cái.

Người ta thường nói, xung khắc như chó với mèo là ý nói chó mèo không bao giờ làm bạn với nhau được, hễ gặp nhau là đánh lộn. Nó không thích mụ mèo này chút nào, từ giọng điệu, lời nói, dáng vẻ đứng đi cho đến cái mùi bẳn gắt của mụ. Nhưng nó cảm thấy mụ không phải là giống vật độc ác. Cái gì không thích, không hợp thì tránh đi. Cuộc sống dạy nó thế. Chẳng nên cãi lộn hay đánh nhau với cái mình không thích. Nó khép nép nhún nhường bỏ đi. Được một đoạn, ở nơi nhà cao che khuất ánh trăng, nó nhận thấy có người. Không có mùi của kẻ xấu. Mùi của sự sống cũng rất ít. Nó cẩn trọng bò lại gần hơn. Người đó nằm sấp, bất động, ở tư thế đang đi bị đổ ngã rồi không gượng dậy nổi. Nó dí dí mũi sát người đó, đánh hơi lần lần. Sự sống chập chờn leo lét. Nó không thể bỏ đi, xem như không có chuyện gì. Sự sống lớn lắm, chẳng nên để mất đi một cách dễ dàng. Nó hô hoán, gõ cửa các nhà. Cả một vùng đang yên ả dưới trăng bỗng náo động hẳn lên. Người ta mở cửa chạy ra, la lối. - Cướp, cướp! Nó ngạc nhiên nhìn người ta chạy tới, chạy lui. Cớ sao thiên hạ không nghĩ ngay đến việc cứu người. Lẽ ra trong cuộc sống, khi có sự cố nào đông như vậy, ý nghĩ đầu tiên của người ta phải là cứu người bị nạn mới phải. Nó kêu to "cứu người ở đây!". Chẳng ai để ý tới nó. Nó buồn! Nhưng cũng không thể buồn lâu được. Phải cứu người: Nó cắn vào gấu quần một người, ráng sức kéo người đó lại gần người bị nạn. Cuối cùng, mọi người cũng biết được nguyên cớ xảy ra. Người bị nạn được đưa vô nhà. Có người giận dữ nói: - Đang đêm gây rối trật tự chỉ vì gã sỉn. Con chó nào ngu vậy! Đập chết nó đi! Mọi người đồng thanh hưởng ứng. Nó hãi quá, chui sâu vô gầm giường nhà người bị nạn. Nhưng chẳng ai tìm nó cả. Thiên hạ chỉ nói mạnh mồm cho hả giận, bõ ghét thế thôi. Xem ra, người trong xóm vừa giận vừa thương người bị nạn... Họ chăm sóc anh ta chu đáo...

4

Rồi anh ta cũng tỉnh lại vào lúc trời đã gần trưa. Con người đáng thương này là một nghệ sĩ vô danh trên sân khấu, phim ảnh nhưng lại nổi tiếng về lòng yêu nghề. Anh ta bấu víu vào các đoàn hát, đoàn làm phim như kẻ si tình mê muội. Gần hai mươi năm, kể từ khi rời khỏi miệt vườn lên thành phố theo gánh hát học nghề cho tới nay, chưa bao giờ anh nhận được một vai diễn dài mười phút. Anh hát cũng được, diễn cũng không đến nỗi tồi, nếu giảm bớt việc nhấn nhá làm duyên, cường điệu mọi thứ. Tuy nhiên, người ta không dùng anh không chỉ vì bệnh diễn cương, hát cương. Lý do, chính vẫn là bệnh hay tranh cãi với đạo diễn. Không chán nản, thất vọng, anh kiên trì đeo bám các đoàn hát, đoàn làm phim. Từ ngày vợ ôm con bỏ nhà đi theo người khác, anh sinh tật nghiện rượu. Hằng ngày ngoài việc chạy xe hon đa ôm, anh quẩn quanh săn tìm các đoàn làm phim, các gánh hát xin vai diễn. Thù lao bao nhiêu cũng được, không có cũng không sao. Anh cần được có mặt mình trên phim, trên sân khấu. Như kẻ nghiện lên cơn, anh vật vã năn nỉ các đạo diễn. Có lần anh theo đoàn làm phim suốt cả tháng trời làm công việc tạp dịch phục vụ đạo diễn, diễn viên chính chỉ để được đóng vai một người vô danh bị đám đông hỗn loạn tháo chạy chà đạp. Vỏn vẹn chỉ có mười giây trên màn ảnh với khuôn người và bộ mặt ốm nhom, hốc hác chẳng cần phải hóa trang. Anh năn nỉ xin được gào lên: "cứu tôi với" nhưng đạo diễn gạt đi, bảo: Âm nhạc nói thay lời đó, thế mới ép-phê!

Anh cãi lại: "Phim mà thiếu tiếng người, sao gọi là nghệ thuật". Đạo diễn trừng mắt, quát: "Anh biết gì vì nghệ thuật, cút đi". Anh buồn lắm. Nỗi buồn nhức buốt từ trong xương tủy lan ra. Thuốc giảm đau của anh là rượu, rượu tàn phá cơ thể anh. Chưa tới tuổi 40, anh đã bệu xệu như một ông già. Mùa mưa vừa qua, sức anh càng yếu hơn.

5

Căn nhà trống rỗng, mốc thếch và hôi hám. Anh nằm trên chiếc giường gỗ mọt, mắt lờ đờ nhìn lên trần nhà. Con mèo cái mầu vàng lợt, gà gật ngủ ngồi ở bên anh. Con mèo này, ngày trước là cục cưng của vợ anh. Khi bỏ nhà, chị đem theo nó. Không hiểu sao, khi ra khỏi cửa, con mèo đột nhiên nhảy ra khỏi chiếc giỏ xách tay, leo tuốt lên mái nhà gừ gào ra ý từ chối. Từ đó, nó là người thân duy nhất ở bên anh, khi anh về nhà. Anh không lo ăn cho nó. Mọi việc nó tự lo. Vùng này lắm chuột, nhiều rau, nó không bị đói. Có điều lạ! Trước kia nó mắn đẻ lắm. Kể từ ngày đó, không thấy nó mang bầu, đêm trăng sáng không thấy nó gào đực. Ngày lại ngày, năm qua năm, người ta luôn thấy nó ngồi ở cửa nhà chờ đợi chủ về.

6

Con chó bò ra khỏi gầm giường. Con mèo xù lông nhảy tới, tỏ ý xua đuổi. Anh ngồi lên, thều thào nói: - Bạn thân mến, đêm qua đã cứu ta, ta cảm ơn bạn nhiều lắm. Nếu không có chỗ nào nương thân, xin ở đây với ta...

Con mèo ngúng nguẩy bỏ đi, tỏ ý không vui. Anh giữ lại vuốt ve con mèo: - Đừng giận, thêm bạn bao giờ cũng tốt hơn, phải không nào?

Loài vật luôn hiểu được tiếng người. Nhiều người tin vậy. Con chó hoang sớm thân thiết với anh. Nó ở lại với anh. Sống cùng nhà với con mèo già khó tính, hay bẳn gắt, dỗi hờn. Để tránh khỏi xảy ra chiến tranh, chúng biết cách tránh né nhau. Khi con mèo đi kiếm ăn, con chó ở nhà. Khi chó đi tìm thức ăn, con mèo ở nhà. Gặp khi mưa gió trở trời không ra ngoài được, hai đứa phân chia ranh giới. Con mèo ở trên giường. Con chó ở góc nhà. Mỗi đứa nhìn theo một hướng. Nếu chẳng may vì một nguyên do nào đó phải nhìn thấy nhau, chúng cứ để tự nhiên không ngoảnh mặt ngó lơ như loài người. ấy là vì chúng nó có khả năng nhìn thấy mà không thấy. Thấy hay không là ở lòng mình, ở sự cảm nhận của mình. Không thấy nhau hiềm khích oán thù cũng không tồn tại. Dân xóm bắt đầu nói nhiều về chuyện ở nhà ấy. Họ bảo là chuyện lạ. Không lạ sao được, trong nhà ấy có ba con sống hòa thuận: con chó, con mèo và con sâu rượu...

Người ta cười hề hề. Ai đó rơi nước mắt!

7

Người có cách tính thời gian của người. Các giống vật khác cũng có cách tính thời gian của mình. Ngay như người, cách tính cũng khác nhau. Người tính thời gian theo giờ. Người tính theo sản phẩm... Nó nhận thấy chủ của mình tính thời gian theo "xị". Ngày có sáng, chiều, tối. Sáng (tính đến trưa) là một "xị". Chiều, tối (đến khi lăn kềnh trên giường) là hai "xị". Ngày có ba xị thôi. Dĩ nhiên, đơn vị xị không phải là nước bình thường, mà là rượu đế loại nặng, đốt cháy vù vù, còn hơn cả bếp ga.

Dân nghiền cần uống đủ liều theo thói quen. ít không xong, coi như chưa có. Nhiều hơn cũng không ổn, thấy mệt hơn, khó chịu hơn. Ngày nào cũng buồn phiền nói với chủ: "Sống vậy là hỏng đời, không tốt đâu!". Như một tiếng rên rỉ uẩn ức, xót xa. Anh vỗ về nó, hát rống lên: "Nhân gian mờ mịt, mịt mờ. Đâu cần sự nhớ, đâu chờ đợi chi..." Thương đấy, cũng giận đấy. Nó bật thành tiếng la: "Không! Không!". Nhưng anh đã ngục xuống và chìm ngập trong cơn mê.

Con mèo già lặng lẽ rời khỏi nhà. Đã đến giờ kiếm ăn của mụ ấy. Nó cuộn khoanh thân mình trên mớ giẻ rách, đầu ngóc lên, chúi xuống, quay trái ngó phải, suốt đêm trằn trọc, thao thức, nghĩ mãi không ra, cớ sao con người hay tự mình làm khổ mình. Loài người thông minh hay ngu muội u mê đây?

Một ngày kia, nó thấy thời gian bị gián đoạn nghĩa là không có thời gian nữa. Ông chủ không rời khỏi nhà, nằm co quắp, dúm dó trên giường, không có xị nào hết. Nó ngửi khắp người chủ, thấy sự sống mờ nhạt, mùi vị chập chờn trong khi đó mầu sắc mùi vị của sự đau nhức, rời rã hết sức đậm đặc và hỗn tạp. Không thể biết đau ở đâu là chính, bệnh ở đâu phát ra. Theo suy đoán của nó, người sống phải đứng vững trên mặt đất. Cái kiểu đau bệnh hỗn tạp như vậy, chắc chắn là bởi từ chỗ đứng có sự đau bệnh hay thương tích trầm trọng. Nó liếm chân chủ. Cách chữa bệnh của nó là vậy. Đau bệnh gì cũng dùng lưỡi liếm nhè nhẹ, để xoa dịu nỗi đau, để khuyến khích phần khỏe mạnh tự điều hòa.

Nó mới đụng lưỡi vào chân chủ đã bị mụ mèo già rít lên: "Thôi đi, đừng quấy rầy người ta" và táp vào mặt nó một cái. Nó trợn mắt nhe răng, tính dạy cho mụ một bài học về sự lịch lãm, trừ diệt tính đành hanh thô bạo của mụ. Nhưng nó lại thôi, lặng lẽ lùi xa. Thực lòng, nó cũng rất thương mụ. Mụ bị đau bệnh mấy ngày nay. Nghe tiếng thở, ngắt quãng và nặng nề, nó biết bệnh của mụ phát ra từ ruột. Chắc mụ ăn phải thứ đồ ươn, thối, thiu rữa gì đó. Thật tội! Thân già vậy, vẫn phải lụi cụi đi kiếm ăn một mình... Mà cái giống mèo thật ngu ngốc. Cớ sao chúng lại nghĩ rằng chữa trị đau bệnh không cần đến sự an ủi, đến thuốc men, chỉ cần nằm im, ngủ một giấc là khỏi.

8

Không có thời gian, nên thời gian rất dài. Dường như vô tận, không có điểm dừng. Nó bồn chồn, ngồi đứng không yên. Trong nhà có một người bệnh đã là buồn. Hai người ngã bệnh càng buồn thảm hơn. Nắng chiều vàng vọt đã tắt lịm. Trời xầm xì những cơn gió gọi nhau mang mưa về. Rồi đêm nay sẽ lại mưa. Mụ mèo không thể dò dẫm kiếm ăn được. Chẳng gì cũng sống trong một nhà. Mụ đau bệnh như vậy, nó không giúp, ai giúp đây? Nó đi ra ngoài, nghĩ ngợi mông lung về những thức ăn bọn mèo ưu thích. Người đời thường nói: "Mèo ăn chuột", lại nói: "Mèo mù vớ cá rán". Xem ra, thức ăn hợp khẩu vị nhất của mèo là chuột và cá. Chuột thì dễ thôi, nhưng không ổn trong lúc này. Mụ đau bệnh là bởi ăn phải thứ chuột bẩn. Mà chuột ở đây bẩn thật. Con nào, con nấy đều nồng nặc mùi hôi thối cống rãnh. Phải kiếm cho mụ con cá tươi để mụ tẩm bổ. Quyết định vậy! Đầu hẻm có cái chợ chiều, trong chợ có đến bốn, năm người bán cá. Toàn là loại cá tươi mới bắt ở sông lên. Nó ra chợ. Lặng lẽ luồn lách, kiên nhẫn rình rập, chờ đợi. Rồi nó cũng "chôm" được một con cá chép nhỏ còn tươi roi rói, giẫy đành đạch.

Không thể mang con cá về nhà khi người ta còn nhìn thấy rõ mặt nhau. Nó ẩn mình trong đống rác, chờ tối. Rồi mưa xuống. Tối về. Nó đội mưa đi vòng vèo phía sau những ngôi nhà để tránh người. Căn nhà tối thui, im lìm. Trong mưa, càng im lìm ghê rợn hơn. Nó thấy ớn lạnh. Không phải vì sợ hãi! Một nỗi lo sợ vì mất mát, vì sự đau đớn chia ly chợt dấy lên trong cõi lòng bồn chồn khắc khoải. Nó mang con cá lên giường, lay gọi mụ mèo dậy. Không thấy động tĩnh gì. Nó gí sát mũi ngửi. Mùi của sự sống mờ nhạt, phảng phất.

ở bên mụ, chủ của nó vẫn mê man trong cơn sốt nóng. Sự sống leo lét, chập chờn! Sự sống từ giã người ta dễ dàng như vậy sao, buồn thảm và u uất như vậy sao?! Nó càng rống, càng la to hơn, kêu cứu thảm thiết hơn. Nhưng, tiếng của nó bị ngập chìm trong tiếng mưa. Ngày này mưa to quá, dữ quá. Chắc không ai nghe thấy tiếng nó kêu! Cần phải đi gọi người đến để cứu chữa cho người, cho mèo.

9

Nó vội nhảy bổ ra cửa. Chợt sững lại, ngơ ngác. Gọi ai bây giờ? Đâu phải người nào cũng sẵn sàng cứu giúp người khác. Phải tìm đến người thân thiết nhất, tốt bụng nhất. Nó khịt mũi liên tục để nhớ lại mùi vị của người tốt, người thân với chủ nó. Cuối cùng, nó chọn người đàn bà nghèo khó ở cuối hẻm. Chị này không có chồng nhưng có đến ba con và vui vẻ hớn hở suốt ngày. Nghe nói, chị làm đủ mọi nghề, mọi việc người ta thuê mướn, trừ việc làm gái mại dâm. Mấy ngày trước chị thường qua đây lo chuyện cơm nước cho chủ nó. Chị có ý thương, nhưng chủ nó cư xử nhạt nhẽo, thậm chí còn có hành động xua đuổi. Chị không giận, cười hi hí, nói với mọi người: "Cái lão ấy ngu lâu, ngu dài, ngu tàn, ngu mạt. Người ta nói thương cái đồ quý của lão là cái tâm, cái tài chứ đâu phải cái đó!". Nghe giọng nói, tiếng cười và mùi vị của người đàn bà này, nó chắc là người tốt. Ông chủ nó được sống cùng nhà với chị là một điều tốt lành. Chỉ có chị mới cứu được chủ nó thoát chết.

Mưa vẫn rầm rầm, rộ rộ. Lại thêm sấm chớp liên hồi. Trời đất như vầy, chắc cả người tốt lẫn kẻ xấu đều ngại ra đường. Không sợ gặp người nữa. Không phải đi đường vòng vèo qua các kẽ hở, lỗ thủng của những rào chắn. Cứ theo đường lớn mà đi. May thay, người đàn bà vui vẻ kia có nhà. Chị mới đi làm thuê ở tỉnh xa về, cười nói hớn hở với ba đứa con.

Nó nhảy bổ vào nhà, sủa ba tiếng ngắn gọn. Là ý nó muốn bắt chước tiếng người hô, gọi hay xua đuổi: đi, đi... đi!

Dường như người đàn bà hiểu ý nó. Chị vội trùm áo mưa, tông cửa chạy ra. Có chị căn nhà sáng bừng lên, ấm áp hẳn lên.

Thêm hai người hàng xóm nữa chạy sang. Họ nói với nhau nhiều thứ, nhiều điều, nó không biết. Nhưng nó hiểu, mọi người tìm cách cứu chữa cho chủ nó. Người ta không chú ý đến còn mèo già sắp chết. Không thể trách họ được. Họ đang tập trung cứu chữa cho người. Việc cứu chữa, mang lại sự sống cho con mèo nó phải lo thôi. Nó lấy một chiếc áo rách của chủ, dùng răng, dùng chân bọc mụ mèo lại mang ra khỏi nhà.

10

Vào lúc nửa đêm về sáng. Mưa tạnh, trời quang. Trăng sao lần lần hiện ra. Trời đất sáng láng, mát mẻ. Bên bờ sông nơi doi đất nhỏ bé cuối cùng còn có cỏ xanh, hoa dại, có một con chó vàng bẩn thỉu, xơ xác, loang lổ vết sẹo ra sức liếm toàn thân con mèo già. Không hiểu do sự nồng nhiệt cứu chữa, hơi ấm, sự sống của con chó đã truyền sức sống, hay vì mầu nhiệm nào đó mà con mèo già đột nhiên tỉnh lại. Mụ lồm cồm đứng lên và lặng lẽ trở về nhà.

Con chó duỗi chân, gồng mình cho dãn cương cốt. Phía xa, dải mây mầu hồng lan tỏa. Người ta bảo, trời đã sáng.

ùa nước rút

» Tác giả: Phạm Hồng Ân

» Dịch giả:

» Thể lọai: Truyện ngắn

» Số lần xem: 4058

1. Mùa nước rút

Chúng tôi tới Long Khiêu ngay khi cơn lũ bắt đầu rút. Nước đua nhau trườn đến rạch, chảy qua kinh, đổ ra sông ầm ập tuôn về hướng cửa biển. Trong cái ngạo nghễ của nước, Long Khiêu quằn quại, tiêu điều lớp lớp cỏ cây ngã gục. Hàng loạt thực vật úng thủy từ rễ, vàng rữa lên thân rồi nghiêng nghiêng đọt, héo rũ - giống những tên tử tội phơi mình giữa pháp trường xác xơ. Chúng tôi tới đây bằng toán chiến đĩnh lỉnh kỉnh súng đạn, đi sau là nhóm ghe dân nhóc nhách vật dụng. Họ đang trở về nơi chốn của họ, sau khi kéo nhau tháo chạy về vùng cao, tránh sự hoành hành tàn khốc của mùa lũ.

Giữa trời nước lai láng, Long Khiêu như chiếc nón lá của thôn nữ nghèo, bị gió cuốn tung, rớt úp xuống mặt biển hồ. Mùa khô, đó chỉ là một vùng đất bạc thếch, cằn cỗi đến độ tội nghiệp. Vùng đất dẫy đầy : chông, gai, mìn, bẫy nằm sát cột mốc biên giới Việt-Miên. Vùng đất lắm kinh nhiều rạch, chằng chịt như mạng nhện, xẻ dọc chia ngang như bát quái đồ.

Phía Mộc Hóa lượn tới, dòng Vàm Cỏ Tây bỗng nhỏ lại, rồi hẹp dần theo dạng con rạch. Lúc này, nó lững lờ cắt Long Khiêu thành hai mảnh vụn tả tơi, giống hai mảnh vá của chiếc áo rách lưng.

- Thiếu úy, ghé vô chợ làm ly xây chừng. Thèm quá ông thầy ơi !

Người lính hiền nhất đơn vị, hiền như cục đất, hiền đến độ đồng đội phải lấy tên một loài vật nhút nhát nhất thế gian để trêu chọc : Cù Lần - thủy thủ cơ khí Cần lù. Trong giang đoàn, có đầy dẫy những cái tên tiếu lâm, khi đọc lái, biểu lộ đặc điểm ngồ ngộ của mỗi người. Ðại khái là : Thái dúi, Các lu, Thu đạm, Hiền tạ, Công ngủ, Ðức giọc. Họ ghép tên cho nhau để đùa vui, để quên ngày quên tháng, quên đi hiểm nguy đang rình rập, bao vây chung quanh họ từng phút từng giây.

Cần-lù ít nói, ít cười, suốt ngày chui rúc vào xó tàu đọc kinh Phật. Ði đâu, hắn cũng kè kè keo chao hoặc bịt đậu phọng muối mè. Thế mà, sau tháng ngày dài bó gối trên sông, hắn bỗng bực bội bật lên, thèm một ly xây chừng.

- Ð.M., tụi nó rung cây nhát khỉ, kìa, thiếu úy !

Hạ sĩ Các-Lu vừa vểnh râu chửi thề, vừa nhanh nhẹn quay nòng đại liên 50 về tả ngạn.

Bảng "tử địa" nhô lên, xuất hiện dài dài trên những thân cây hoang dã. Bảng nào cũng y như bảng nấy. Cũng chiếc đầu lâu đỏ ngòm máu. Cũng hai khúc xương trắng hếu, bắt chéo theo hình chữ X . Và có thể, lẩn khuất đâu đó, dưới những chùm lá cây phong phanh, dăm trái lựu đạn giết người, sẵn sàng nổ tung bất cứ lúc nào.

- Em chơi "la phan" nghe thiếu úy !

Tôi la lớn :

- Dừng lại ! Mẹ, bắn VC. Ai bắn chi ba thứ khỉ gió. Vô ích.

Các-Lu gãi gãi đầu, như nén lại cơn hăng say tột độ đang dâng lên tới óc. Nó bực dọc bước xuống cầu thang, lách ra hông tàu, vạch quần đái tỏn tỏn xuống nước.

Tôi biết nó đang bất bình. Dòng máu lính tráng của nó bắt đầu bốc lên, cựa quậy khắp chân tay. Và khi dòng máu ấy bốc lên. Nó trở thành một anh hùng xung kích, tấn công VC như vũ bão, đem lại cho giang đoàn bao chiến thắng vẻ vang. Nó tên Các. Ðồng đội đã thân ái tặng thêm chữ Lu. Các Lu - Cu Lác.

Người vừa tân đáo đơn vị khoảng vài tháng, lính mới tò te, là : Hiền-Tạ. Hắn cưới vợ xong vài ngày, vội vác ba lô về Năm Căn nếm mùi địa ngục dương trần. Khi gặp tôi, giữa chiến trường Mộc Hóa khốc liệt, khuôn mặt hắn còn thộn ra, ngây ngây một cách lạ kỳ. Hương vị nồng nàn của đêm động phòng, hình như, vẫn đang mơn man trên da thịt hắn. Vẫn đang cứa vào cảm giác hắn những vết cắt thần tiên, như thứ bùa yêu, mê hoặc hoài hoài.

Chợ Long Khiêu xơ xác, tiêu điều. Ðó đây những căn nhà sụp đổ, rải rác. Xác súc vật nằm chết khắp nơi. Con lộ nhỏ lở lói, đầy nước đọng, bùn lầy. Dãy chợ chụm vào nhau, ẩm ướt và tan hoang như một bãi chiến trường. Chúng tôi xắn quần tới gối, lội bùn hì hục, đi tìm ly cà phê đen giải phá cơn ghiền. Long Khiêu không có cà phê. Chẳng ai rảnh rang tiếp chúng tôi. Mọi người bù đầu bù cổ với công việc dẫy đầy. Nước đã rút đi, và để lại hậu quả não nùng. Họ đang tất tả, khắc phục hậu quả đó.

Chỉ có ông già tự xưng là trưởng ấp, mời chúng tôi vào nhà.

- Dơ, Trời Phật ơi ! Ở đây khôong có cà phê. Tui còn chút trà, mời các ông nhấm tạm.

Trưởng ấp là người Việt lai Khờ Me. Ông dẫn chúng tôi vào ngồi xếp bằng trên chiếc phản lớn, choán hết hai phần ba căn nhà. Ông xé toạc một gói trà bánh ú cũ mèm. Trút tất cả vào cái ấm nhôm đen kịt lọ, rồi đổ đầy nước, bắt tum hum lên một lò đất đang cháy âm ỉ.

Trưởng ấp mặc độc chiếc xà rong cũn cỡn tới gối. Có lẽ, ông chỉ che chỗ đáng sợ, phần còn lại cứ để lộ thiên. Ðó là khoảng da thịt đen kịt, mốc cời. Với đôi bàn chân bè ra, lâm châm những dấu hà.

- Dơ, còn một chút đường tán. Các ôong tự nhiên.

Ông lôi ở đâu ra vài cục đường tán ướt nhèm. Hào phóng bày ra trên chiếc dĩa mẻ miệng. Rồi đặt chính giữa chúng tôi. Với dăm ba cái ly nhem nhuốc.

Dãy nhà lêu khêu, vách trống trơn, mái lổ chổ những mảnh trời xanh lơ trên cao. Bàn ghế lèo tèo, cái thấp cái cao. Mùa mưa, mái dột cột xiêu. Mùa nắng, rắn bò cò đẻ. Vậy mà, nó là ngôi trường duy nhất của Long Khiêu - bập bềnh, nổi trôi theo mùa nước dậy hàng năm. Từ mảng cửa sổ trống hoác của ông trưởng ấp, tôi có thể nhìn rõ mồn một dáng vẻ của ngôi trường tội nghiệp đó. Và hình ảnh một thiếu nữ với vật dụng lỉnh kỉnh, tẩn mẩn sửa sang lại lớp học, chuẩn bị cho những ngày sắp tới.

Công-ngủ thoáng thấy bóng hồng, vội vã khơi chuyện :

- Này, ông ấp. Có phải cô em đang ì ạch bên kia, là cô giáo làng này ?

- Dơ, cô đấy là hiệu trưởng. Trường có ba cô giáo. Năm nay, khi nước lên, hai cô kia bỏ dìa Môộc Quóa. Chỉ còn cô Bưởi ở lại, chống mũi chịu sào.

Tôi hớp ngụm trà. Nhăn mặt. Chất nước chua chua chát chát ngấm vào lưỡi, tê điếng. Vài ba cọng trà mềm bụp, cũng theo đó, trôi vào cổ họng. Lẩn quẩn. Khó chịu.

- Thế sao ông không huy động dân làng giúp đỡ cô giáo, sửa sang ngôi trường ?

- Dơ, nhà nào cũng bị lụt, cũng hư hết. Ai cũng có công chiện của họ. Chỉ có tui giúp cô giáo. Tui mới dìa đây, từ bên đó.

Không biết có phải những ngụm nước phèn của dòng Vàm Cỏ Tây xanh biếc dưới kia, đặc biệt nấu với trà bánh ú cọng to, khiến chúng tôi lưu luyến cái vùng đất Long Khiêu khổ sở này chăng ? Hay cục đường tán ướt nhem của ông trưởng ấp ? Cục đường tán đậm đà tình người, làm tan đi chất chua chua của nước sông, làm loãng đi chất chát chát của vị trà bình dân ? Hay có phải cái dáng dấp gầy gò của cô giáo Bưởi. Cái dáng thành thị thanh thanh. Tóc xõa ngang vai. Áo lụa phất phơ. Sầu nặng một trời. Hay có lẽ hơn thế, các em học trò ốm tong teo, bụng đầy sán lãi - nhưng hồn nhiên, chất phác; quanh năm đói văn khát lễ.

- Ðề nghị thiếu úy, chúng ta qua giúp cô giáo một tay. Sửa sang lại ngôi trường cho tụi nhỏ.

Lòng nhân hậu của Cần- lù, khiến đồng đội cảm động, tán thành. Chúng tôi kéo tới nhà trường, nhào vô làm việc nghĩa. Mặc kệ cô giáo hiệu trưởng, vừa lúng ta lúng túng, kéo vành nón lá nghiêng nghiêng, giấu đôi má ửng màu mận chín hồng đào.

Một đêm, chúng tôi kéo tới nhà trưởng ấp nghe đờn ca vọng cổ. Lâu lâu, dân Long Khiêu giải trí với nhau như thế. Họ tụ họp trước sân ông trưởng ấp, dưới ánh trăng rằm sang sáng, đờn ca cho tới khuya. Lúc đó, ông trưởng ấp có nhiệm vụ nấu nước, pha trà. Cái ấm nhôm đen kịt lọ lại có dịp đầy nước, đầy cọng trà bánh ú, loại gói to. Nó lại được cẩn thận bắt tum hum trên lò đất bập bùng lửa hồng. Soi sáng những khuôn mặt vây quanh. Những khuôn mặt quê mùa - nhưng thật thà, chất phác.

Ðêm đó, một anh lính đồn ca bài vọng cổ "tình anh bán chiếu" rất hay. Khi tới đoạn "ghe chiếu Cà Mau đã cắm sào trên bờ kinh Ngã Bảy, sao cô gái năm xưa chẳng thấy ra chào." Cần-lù bỗng chột bụng. Hắn chạy vội ra bãi sông, để trục xuất cấp tốc. Từ đó, hắn mới phát hiện một chuyện : dân Long Khiêu chưa có cầu xí. Cả làng đều đợi đêm về, kéo nhau ra bãi, giải quyết vội vàng. Cũng chính đêm đó, có lẽ, khi tụt quần xuống tống khứ sự đời. Hắn chợt nhận ra một mùi hương con gái, cũng đang ngồi gần đó, vội vã làm cái công việc khẩn thiết như hắn. Tức cảnh sinh tình, hắn đã làm bài thơ như sau :

Hôm ấy trăng lên khỏi đỉnh đầu

Tôi ngồi tôi ị thật là lâu

Bỗng nghe có tiếng cười khúc khích

Có lẽ cô em cũng đi cầu.

Chuyện dân Long Khiêu chưa có cầu xí, đã bay tới tai trưởng ấp, như một tiếng vang nghiêm túc. Thế là, chẳng bao lâu, dãy nhà vệ sinh được dựng lên, ngay bờ sông, đánh dấu bước tiến tốt đẹp của chính quyền Long Khiêu.

Bước tiến tốt đẹp của Long Khiêu, một phần, do nhóm giang đĩnh chúng tôi góp công vào. Trong đó, Cần-lù là nhân tố tích cực nhất. Hắn xông xáo đóng từng cái ghế cho học trò, xẻ từng mảnh gỗ cho cầu xí, lợp từng mái lá cho dân địa phương. Và hành động hào phóng này, dần dà lọt vào đôi mắt nhung huyền của cô giáo Bưởi, làm rung động trái tim trinh trắng đầu đời.

Từ ngày có đôi bạn, Cần-lù thay đổi hẳn 180o. Hắn bắt đầu đi sớm về khuya. Bắt đầu hút thuốc liên miên. Nói năng hoạt bát với đồng đội. Ít lâu sau, hắn bỏ cả ăn chay - xếp luôn kinh Phật vào góc xó tàu. Hắn chìm sâu vào thơ. Và những trang thơ tình diễm tuyệt, từ đó lất phất đi vào cuộc đời.

Nhan sắc cô giáo Bưởi trung bình, nhưng dáng dấp rất dễ thương. Mái tóc thề thắt thẻo ngang vai, cuống quít ôm chầm bờ lưng thon nhỏ. Rồi, đôi tay trần trắng muốt với những ngón mềm mại, khiến người ta dễ liên tưởng tới pho tượng vệ nữ đa tình nào đó ở phương tây. Không phải chỉ có Cần-lù chết mê chết mệt bởi ngoại diện Bưởi. Cả toán giang đĩnh chúng tôi, nếu tình cờ nhìn nàng thoang thoáng từ phía sau, bảo đảm ai ai cũng đều ngơ ngẩn tâm thần.

Cô giáo Bưởi còn có giọng nói mật ngọt, làm chếnh choáng khách râu mày. Giọng nói như mang từng bậc âm thanh thánh thót của ngũ âm, của tiếng chim chìa vôi buổi sáng hót vang trên đỉnh cây chót vót, hay của tiếng sóng chuyển mình trong lòng Vàm Cỏ Tây - giữa mùa nước nổi liu riu.

Nằm tại đây trên tám tháng, lính tráng bắt đầu nhớ thành phố. Họ đều nôn nao ngày về, ngày nghỉ bến thảnh thơi, mong tiêu pha những giờ phút huy hoàng, ở nơi chốn êm đềm nào đó. Một bữa, Hiền-tạ gặp tôi trong bộ quần áo tươm tất. Nó đứng nghiêm trang, chỉnh tề chào kính theo kiểu quân trường.

- Chào thiếu úy, em muốn xin thiếu úy ra Mộc Hóa gặp con vợ. Hôm nay, nó từ Mỹ Tho lên, thăm em.

- Mày đi bằng cách nào ?

- Ðón đò. Hôm sau, em về.

- Giỡn mậy ? Giữa đường, vixi nó "bụp" như chơi.

- Em mặc xi vin. Trà trộn vào dân làng.

- Làm sao mày phân biệt được dân làng và vi xi ? Chờ chút. Tau sẽ cho ba giang đĩnh về Mộc Hóa với mày. Ði lãnh lương khô luôn.

Chiều đó, tôi cho ba giang đĩnh khởi hành về Mộc Hóa, về căn cứ của giang đoàn. Hiền-tạ là người đi phép đầu tiên, sau những ngày tháng lao lung nơi vùng tuyến đầu biên giới.

Buổi chiều, Long Khiêu tưng bừng với từng tốp trẻ tan trường. Các em túa ra từ lớp, chạy nhảy tung tăng, reo hò khắp nẻo đường làng. Ðứa nào cũng ăn mặc nhếch nhác, lem luốc như tấm giấy trắng bị rây đầy mực. Hình như các em chưa từng bao giờ mang dép, nên đôi chân cứ bè bè, hum húp những mụn ghẻ lở lói.

Tôi đứng trong khoảnh sân thênh thang, bên ngôi chợ đổ nát. Những cây cột lung lay, ngã gục, nằm la liệt trên mặt nền u nần, đầy rác rến. Tôi kéo chưa tàn điếu thuốc, bỗng nghe tiếng gọi hoảng hốt từ xa.

- Thiếu úy ơi, xuống tàu mau ! Vừa bắt được thằng vi xi cầm M72 định bắn tàu.

Tôi bật lên như lò xo. Cắm đầu chạy vội xuống bãi sông. Toán giang đĩnh nhanh chóng báo động. Máy nổ thùm thụp. Các họng súng tua tủa, chỉa thẳng vào bờ.

Thủy thủ đang bao quanh một người. Người đó cởi trần, đi chân không, quần dính đầy bụi bẩn. Khẩu M72 nằm trên tay Ðức-giọc. Trái đạn còn lù lù trong ống. Gờn gợn hung thần.

- Vi xi hả ? Tau quánh chết mẹ mày

Cát-lu hầm hầm vạch đám đông. Cung tay, toan đấm thẳng vào mặt hắn. Tôi tiến đến, la lên :

- Dừng lại. Chuyện đâu còn đó.

Trực giác cho tôi vài phán đoán nhanh chóng. Nếu đúng là vi xi, hắn đã "phụp" tàu rồi. Ðằng này, hắn định bắn. Nghĩa là, có tính cách hù dọa. Vả lại, vi xi đâu dám hiên ngang, cầm vũ khí quân đội VNCH giữa thanh thiên bạch nhật ? Chuyện này, e có nhiều tình tiết. Phải điều tra, phải xét lại.

Lát sau, đồn trưởng đồn Long Khiêu dắt toán lính đi xuống. Ðồn trưởng niềm nỡ bắt tay tôi, rồi chỉ chỉ vào hắn, nhỏ nhẹ :

- Thành thực xin lỗi thiếu úy và các bạn hải quân. Thằng này thuộc đơn vị tôi. Nó làm bậy quá. Vui lòng cho tôi lãnh về. Nghiêm phạt.

Mọi người ồ lên, ngạc nhiên. Thủy thủ ngỡ ngàng, buông người lính ra. Tôi thấy hắn loáng thoáng giống anh lính đồn đã ca bài vọng cổ "tình anh bán chiếu" đêm trước. Bây giờ, hắn thiểu não quì xuống bên gốc cây. Ôm mặt. Gục đầu khóc nức nở.

Tôi kéo đồn trưởng tách rời khỏi đám đông :

- Lính của ông, sao lại toan "phụp" tàu tui, cha nội?

- Ðại ca thông cảm. Nó thất tình cô giáo Bưởi, nên làm càn.

Tôi đem chuyện này nói với Cần-lù. Nó ngồi lặng câm như tượng đá, âm thầm ngó ra dòng sông, chẳng nói lời nào. Tối đến, tôi thấy nó lục lại kinh Phật, tìm đến góc tối trong xó tàu, lầm bầm đoạn thơ của một ông sư nào đó :

"Thân như điện ảnh hữu hoàn vô."

Chuyện cô giáo Bưởi chưa yên, tiếp đến, tôi nhận thêm một tin buồn từ giang đoàn. Vợ Hiền-tạ đã tử nạn trên đường vào Mộc Hóa thăm chồng. Trái mìn trọng lực do vi xi gài, bất thần làm nổ tung chiếc xe đò vô tội. Và trong số thường dân vĩnh viễn ra đi, đau đớn thay, lại có người vợ mới cưới của Hiền-tạ.

Toán giang đĩnh chúng tôi tức tốc ra Mộc Hóa, vừa lúc chiếc GMC hú máy, chuẩn bị đưa quan tài kẻ xấu số về Mỹ Tho. Hiền-tạ ngồi thu lu bên cạnh. Mới xa nhau đôi ngày, trông hắn già đi một cách dễ sợ. Chiếc xe chuyển bánh vội vã, tôi chỉ kịp đứng nghiêm trang, thành tâm thương tiếc cho một linh hồn vừa vắn số bạc phần.

Dần dà, tất cả mọi chuyện đều lặng lẽ qua đi. Cần-lù cũng trở về với vị trí ban đầu. Hắn ăn chay cật lực, cố bôi xóa đi mối đau thương trong lòng. Cô giáo Bưởi, có lẽ, đã ngã vào vòng tay cuồng nhiệt của người lính đóng đồn. Long Khiêu vẫn nghèo nàn, nhưng vẫn kiên cường, ngạo nghễ trước đầu gió ngọn sóng. Chỉ tội nghiệp có Hiền-tạ. Nó thường lủi thủi ra phía lái tàu, nhìn đăm đăm xuống con sông, mặt loang đầy nước mắt. Mà con sông có xa lạ gì đâu? Ðó chỉ là dòng nước xao động, luôn luôn ngổn ngang những nỗi u hoài.

Tết trong tù

» Tác giả: Đỗ Văn Phúc

» Dịch giả:

» Thể lọai: Hồi ký

» Số lần xem: 9175

1. Tết trong tù

Người ta bảo rằng: Nhất nhật tại tù, thiên thu tại ngoại. Tôi ở tù gần mười năm, từ tháng 5/1975 đến tháng 2/1985, tổng cộng ba nghìn bốn trăm sáu mươi lăm ngày, nhân lên một nghìn, vị chi là ba triệu bốn trăm năm, bỏ đi con số lẻ chẳng thèm tính, tức là sống lâu hơn cụ Bành tổ bên Tàu. Đó là nhờ "lượng khoan hồng nhân đạo của Đảng và nhà nước Việt Nam Cộng sản anh hùng, đỉnh cao nhất của trí tuệ loài người, lương tâm nhân loại, vân vân và vân vân..." Cũng nhờ ân điển vời vợi đó, anh em chúng tôi được hưởng trọn bao nhiêu cái Tết Tù cô đơn, đói khát tưởng ở tận cùng vực sâu của nhân loại, con người dù cơ hàn đến đâu cũng không mường tượng nỗi.

 

Ba năm tù đầu tiên, khi còn ở trong bàn tay quản lý của bộ đội, khách quan mà nói thì cũng tương đối khá. Vì bộ đội Bắc Việt cũng chì là con em của dân, phải chịu thi hành nghĩa vụ quân sự mà đi chiến đấu chết thay cho bọn đồ tể Hà Nội. Tuy được giáo dục lòng hận thù sâu sắc đối với anh em quân sĩ miền Nam, những cán binh cấp thấp vẫn tỏ ra chút gì phóng khoáng hơn. Nhất là sau thời gian tiếp xúc thấy anh em quân nhân miền Nam không giống như hình ảnh họ biết qua tuyên truyền của Hà Nội; họ cư xử nhẹ nhàng hơn. Thực tình mà nói, thì chính những người này cũng hiểu lầm về chính sách cải tạo của Đảng, họ cho rằng chúng tôi là những học viên, chỉ phải chịu qua một thời gian ngắn là trở về cùng với họ chung lưng đấu cật xây dựng Tổ quốc, bình đẳng với họ. Chỉ có bọn lớn cấp, nham hiểm, tàn độc luôn úp mở về số phận chúng tôi.

 

Tết đầu năm 1976, chúng tôi ở trại K2, Long Khánh, nơi trước đó là hậu cứ của một Trung đoàn thuộc Sư đoàn 18 BB. Một vụ nổ dữ dội xảy ra những ngày gần Tết phá huỷ gần sạch các dãy nhà, gây thương vong cho một số anh em chúng tôi và bọn lính cai tù. Chúng tôi được gia đình thăm viếng lần đầu tiên sau 8 tháng xa cách. Những xúc động, bồi hồi, hứa hẹn... Chúng tôi còn u mê, tin tưởng ngày về không còn xa, khuyến khích vợ con làm đơn từ lo bảo lãnh để mau được về đoàn tụ, dù phải chịu đi lập nghiệp vùng kinh tế mới. Sau này, mới biết những lá đơn do vợ con mình lặn lội đi các nơi, hao tốn bao thời giờ, tiền bạc (thuở đó Cộng sản sắp xếp lại các đơn vị hành chánh, muốn chứng một lá đơn có khi phải vượt hàng trăm cây số, mất cả tuần lễ) được chúng xử dụng làm toilet paper. Ôi bao tình cảm, nỗi niềm hy vọng đặt vào tờ giấy mỏng manh đã bị bọn thú vật trắng trợn dày đạp lên.

 

Ba năm đầu, gian khổ nhiều, có chết chóc, thương tật do phải làm những công tác lao động hiểm nghèo, nhưng về ăn uống, tương đối có khá. Ngày Tết, có đủ thịt cá, bánh trái, thuốc lá và nhất là có chút thì giờ nhàn rỗi để cùng nhau tâm sự, ôn kể chuyện gia đình, trao đổi nhau ước vọng ngày xuân.

 

Nhưng từ sau Tết 1978, khi bộ đội bàn giao quyền quản lý cho bọn chó vàng Công an thì chúng tôi như bước sụp một bước dài xuống tận cùng mười tầng địa ngục. Đến đây, trang sử cuộc đời chúng tôi đã qua một bước ngoặc vĩ đại, an bài với bao cay đắng, tuyệt vọng. Ngày về sẽ là ảo ảnh, vợ con từ đây ngàn đời vĩnh biệt, tuổi thanh xuân hoa mộng từ đây bị chôn vùi nơi những vùng rừng thiêng, nước độc. Bọn cán bộ nói trắng ra: "Khi nào bò đực đẻ con thì các anh được về".

 

Chế độ tù khắc nghiệt nhưng không làm chúng tôi đau đớn bằng suy nghĩ về gia đình, vợ con bé bỏng, mẹ già gần đất xa trời từ nay chỉ còn trong hoài niệm. Ngoài cái khổ cực về thể xác, chúng tôi còn chịu cái đau đớn tủi nhục của sự đối xử không nhân tính của bọn thất học vô loài. Chúng tước đoạt của chúng tôi từ tư trang, thực phẩm cho đến nhân phẩm. Chúng đày đoạ chúng tôi tệ hơn đối với loài súc vật, giam đói bỏ khát, và đem chút khoai mì ra khuyến dụ lòng chính trực, lương tâm của chúng tôi. Chúng tôi thắng, trong cuộc đấu tranh cam go này, khi sức chịu đựng đến tận cùng mà một con người xương thịt có thể chịu đựng nổi. Biên giới của người anh hùng và kẻ hèn mạt là ở đây, được thử thách bằng miếng cơm thừa của bọn cai ngục.

 

Ngày đầu tiên được chuyển ra trại giam công an, mở màn là cuộc khám xét hành trang tận tình, chúng tịch thu tất cả, tất cả, chỉ trừ chiếc chiếu rách, vài bộ áo quần tù in chằng chịt dấu Cải tạo. Thuốc men, thực phẩm bị tịch thu ráo trọi, để rồi sau đó, chúng phát ngày hai bữa khoai mì độc ăn không đủ bén môi với một muỗng nước muối. Ăn như thế, mà hàng ngày mười tiếng đồng hồ phơi mình ngoài nắng gắt hay những cơn mưa triền miên của miền Trung nghèo, khắc nghiệt, lao động cật lực với những chỉ tiêu phi lý mà bọn cán bộ đặt ra. Dĩ nhiên chúng tôi biết cách đối phó để khỏi đem sức tàn của mình phục vụ kẻ thù, lúc thì giả đau, lúc thì đồng lòng lãng công, phá hoại hoa màu, dụng cụ...

 

Sau cơn đói kéo dài cho đến ngày gần Tết, bọn cán bộ, qua các tên tay sai nhà trưởng, thi đua trật tự, cho biết: "Tết đến, Rờ Nượng khoan hồng Rân đạo (lại khoan hồng nhân đạo!) và sự quan tâm của Nãnh đạo, các anh sẽ được ăn Tết đầy đủ, trại cho mổ hai con bò, ba con Nợn, có bánh đa, một gói thuốc Ná xây Rựng, kẹo Nạc, Rưa cải..." nghe mà thèm chảy nước miếng.

 

Chiều ba mươi, nhà bếp tấp nập, tiếng dao thớt cụp cụp nghe sao mà êm ái lạ, hương thơm bay ngào ngạt, ai nấy chuẩn bị chén bát để lãnh phần. Kìa hai anh trực ngày đang khiêng thức ăn về, tiếng xôn xao nổi lên, chúng tôi bắt bạn với nhau để cùng chia xẻ cái Tết tù hẩm hiu. Nhưng buồn sao và thất vọng sao, khi trong cái thau cỡ số mười chỉ lỏng bỏng những nước và nước, tận đáy thau có vài miếng da bò cắt như miếng mứt dừa. Thau thịt "nợn" thì gồm những miếng xương, tí "nòng", tí huyết; thau "rưa cải" thì lòng thòng nguyên cây cải dài từ ngọn cho đến cuống rễ. (Vì muốn đạt chỉ tiêu về cân lượng, bọn CS chỉ cho thu hoạch cây cải sau khi nó ra hoa, đem về ngâm nguyên cây trong hồ nước muối, sau khi nhúng vào một cái chão gọi là rửa qua.) Quí bạn có khi nào nhai thử miếng vỏ xe đạp thì sẽ hình dung chúng tôi đã ăn da bò như thế nào. Dưa cải thì thật sự nó dai nhách như cái bao tải, nhai qua nhai lại cho có chút nước xong nhả ra như các bà cụ già nhai trầu. Chỉ có cục xương heo, gặm cho hết phần gân có dính tí mỡ, tí thịt, rồi cất đi, ngày ngày cho thêm muối, kho lui kho tới, và sau vài tuần cố gắng dùng mấy cái răng hàm đã khập khễnh, tiêu hoá luôn phần mà cả con cho đói cũng chê. Chắc quí vị sẽ hỏi: "thế bao nhiêu thịt đi đâu?". Thưa, thịt ngon thì giao cho nhà bếp tiểu táo của bọn chỉ huy trại, thịt vừa thì đại táo của bọn cán bộ, thịt bạc nhạc thì bọn trật tự thi đua, nhà bếp thiếm xực.

 

Sau năm đó, hàng năm bọn Việt cộng cho phép gia đình ra thăm định kỳ nửa năm một lần, và gửi quà theo đường bưu điện hàng tháng vì lý do được giải thích như sau: "Nhà Lước Lói chung, và Trại Lói riêng có nhiều khó khăn, không No cho các anh đầy đủ, vì thế cho phép các anh được nhận quà để có sức khoẻ." (mà Nao động cho chúng Ló).

 

Thế là Tết đến, một số nhỏ các anh có gia đình tương đối khá ăn Tết rất ra chi. Họ tụ tập với nhau từng nhóm năm, mười người hùn hạp làm đủ các thứ, mứt bánh, xào nấu từ mười ngày trước Tết, kéo dài cả mười ngày sau Tết. Chỉ tội nghiệp cho các anh mồ côi, nằm đắp chiếc chăn rách, ôm bụng đói nghe những tiếng nhai nuốt nhồm nhoàm, ngửi hương vị thơm tho của cá thịt mà tủi cho thân phận mình. Chỉ những anh em nghèo dễ dàng chia sẻ với nhau. Thường, anh em chúng tôi ngồi tụm với nhau, kể ra vô số món ăn ngon do mình tự sáng chế, ôi thôi đủ loại cao lương mỹ vị, chúng tôi gọi là ăn hàm thụ.

 

Nhớ nhất là Phan công Danh, một nhạc sĩ, họa sĩ tài ba, chiều chiều làm bộ thơ thẩn gần chỗ hội trường, thấy vắng đôi mắt cú vọ của bọn trật tự, là nhanh như cắt, vặt lấy vặt để mớ cỏ kiểng trồng làm hàng rào. Đem về, ngâm với nước muối làm thành một thứ Salad độn cho đầy cái bụng lép. Những anh bạo hơn thì làm bộ khai bệnh, trong lúc ngồi chờ xin thuốc, vọt ra vườn thuốc Nam hái trộm các loại rau do bọn y tá trồng vừa làm thuốc "dân tộc" vừa để cải thiện bữa ăn của họ.

 

Gần ngày Tết, bọn cán bộ thường yêu cầu anh em làm cho chúng lồng đèn. Tôi vốn khéo tay, được đội nhờ ở nhà làm. Dùng bất cứ thứ gì kiếm được, vì bọn cán cũng nghèo, không mua nổi giấy màu, mực viết. Màu thì dùng lá cây làm màu xanh, hoa mồng tơi làm màu tím, thuốc đỏ làm màu đỏ, kí ninh làm màu vàng. Giấy thì lượm lặt đủ thứ dán lại. Tôi ở nhà, lợi dụng thời gian nghỉ ngơi, lén nấu nướng ăn uống, lâu lâu bày giấy, hồ ra kẻo tên cán nóng ruột mò vào xem. Ngày giao nộp, tên cán vui vẻ cho anh em nhổ khoai mì, nấu một nồi ăn "bồi dưỡng" tại nơi lao động, trong khi nó vào trại để lấy lồng đèn. Tội nghiệp, khi tôi đưa cho nó cái đèn, vẻ thất vọng hiện lên rõ rệt, vì cái lồng đèn méo mó, màu thì nguệch ngoạc, tối tăm. Nó vội trở ra, trút cơn giận dữ đạp đổ thùng khoai mì sắp chín. Thế là ba mươi anh em đành tiu nghỉu nhìn những củ mì H 34 lăn lóc giữa đất đá. Sau này một vài anh em trách tôi, nhưng biết làm sao.

 

Mỗi năm trôi qua, tâm hồn chai lì thêm một tí. Vì chẳng hy vọng ngày về, nên dại chó gì mà lo lắng, ưu tư. Cứ coi như vô vi, sáng chui ra, chiều chui vào cái chuồng chật ních nhốt hàng trăm người, đủ thứ bệnh truyền nhiễm. Ơn trời cho ai nấy sống, cũng ơn trời kêu ai nấy dạ. Có nghe tin đồn sẽ có đợt về ngày Tết, lòng cũng trơ đi, không mảy may suy nghĩ đến. Cho đến ngày Tết 1985, nghe đến tên mình, ngồi giữa hội trường, tôi cũng chẳng vui, chẳng thấy mừng, lạ thật!

 

Nguyễn Tuân, trong cuốn "Hà Nội Ta Đánh Mỹ Giỏi" kể lể chi tiết về khẩu phần ăn ngày Tết của Hà Nội dành cho tù binh Hoa Kỳ. Với cái bánh chưng, vài miếng thịt, ông đã dành nguyên một phần mười cuốn sách để ca ngợi lòng nhân đạo của bọn Cộng sản khi cho tù ăn uống như thế. Tội nghiệp cho cái xã hội bần cùng, miếng cơm không ra gì cũng trở thành một thứ ân sũng quý báu và được nêu ra như một hành vi cao cả!

 

Giờ đây, gần mười năm sau ngày ra tù, gần bốn năm trên miền đất dung thân, hưởng thụ đủ thứ ngon vật lạ, hưởng thụ đủ thứ tự do, làm người với đầy đủ ý nghĩa, tôi vẫn lấy làm lạ sao con người có thể phải chịu đựng phi lý sự đối xử tàn tệ, dã man. Càng thương hơn, thông cảm sâu sắc với những nỗi bất hạnh của bạn bè, chiến hữu và đồng bào còn kẹt ở nơi tận cùng địa ngục đó.

 

***

 

Trong căn phòng tối mịt mù này, tôi không còn ý thức rõ rệt về thời gian. Tôi chẳng nhớ đã bị đưa vào cùm nơi đây bao nhiêu ngày rồi. Dễ cũng đến hơn hai tháng chứ không ít đâu. Những người tù thay phiên nhau vào ra ở phòng hai bên đã nhiều bận mà tôi thì vẫn cứ trụ trì trên chiếc bệ xi măng lạnh cóng này; với hai cổ chân xích cứng vào thanh sắt 12 li bằng hai chiếc cùm xoắn oan nghiệt.

 

Mỗi ngày, tên cai tù cùng một tên trật tự vào đưa cơm một lần. Theo thông lệ là phần ăn trưa. Có lúc chúng đem vào khoảng 9 giờ sáng, khi nhà bếp vừa ra chảo bánh khoai mì đầu tiên. Có khi mãi đến giờ lao động buổi chiều mới nghe tiếng dép lẹp kẹp của chúng. Hai mươi bốn tiếng đồng hồ chờ đợi, chỉ để nhận một khi thì vài lát khoai mì luộc; khi thì một góc chiếc bánh cũng bằng bột khoai mì chỉ nhỏ bằng phần tư bao thuốc lá. Chẳng phải vì đói mà chúng tôi mong sớm đến bữa ăn đâu. Chẳng qua là muốn cho ngày tháng qua mau kẻo nằm mãi trong xà lim cũng buồn chán và kiệt sức quá đổi.

 

Tôi vào ra xà lim như người ta đi chợ. Ở cái trại Xuân Phước này, một chút vi phạm cũng đủ là cớ để bọn cai tù đọc bản án cùm 7 ngày, 15 ngày như chơi. Chỉ cần tên ăng ten nào đó hót bậy một câu với cán bộ quản giáo, là thấy trước mắt hàng tháng dài trong nhà đá lạnh lẽo. Phân trại E chứa khoảng gần 700 tù nhân cải tạo. Đa số là thành phần quân nhân; có khoảng 15 phần trăm là các anh bị bắt sau 1975 do các hoạt động chống đối. Một số thuộc nhóm Vinh Sơn, một số thuộc lực lương Fulro bị bắt từ các tỉnh Tây Nguyên đưa về. Xung quanh phân trại E là các phân trại chứa tù hình sự có án từ 15, 20 năm đến chung thân, tử hình. Đi sâu vào phía núi khoảng 10 cây số là phân trại B, giam giữ các quân cán chính mà theo Cộng sản là thành phần nguy hiểm nhất.

 

Tôi đã ở phân trại E gần 5 năm, sau 3 năm chuyển vòng vòng từ các trại ở Long Khánh, Biên Hoà ra Hàm Tân. Cứ mỗi lần chuyển trại là thấy bị đẩy xuống thêm một tầng của địa ngục; là thấy ngày về một xa xôi, và đi dần đến tuyệt vọng. Coi như chôn chặt cuộc dời trong cái thung lũng khỉ ho cò gáy này thôi. Ba năm sau cùng, tôi cũng đươc ưu ái cho vào phân trại B để nếm cho đủ mùi khổ nhục trần gian trước khi lãnh tờ giấy ra trại trở về với gia đình sau đúng 10 năm tròn làm kiếp tù.

 

Mấy ngày trước đây, tên cán bộ an ninh vào mở cùm dẫn tôi ra làm việc. Làm việc có nghĩa là bị hỏi cung trong một không khí vừa hăm doạ vừa vuốt ve. Khi thanh sắt vừa được kéo ra, tôi nhanh chóng tháo cùm để cho hai chân vội vã hưởng ngay cái giây phút nhẹ nhàng hiếm có. Chiếc cùm do chính tên cán bộ lựa chọn sao cho siết cứng vào cổ chân, đã làm rách da ở phía nhượng chân tôi. Chỉ nửa giờ sau khi bị cùm là có ngay cảm giác đau đớn tột độ. Hai lòng bàn chân úp sát vào vách không cho phép tù nhân ngồi thẳng dậy. Chỉ có hai vị thế. Một là nằm dài ra, hai là gượng nhổm lên một chút. Sức nặng của hai chân tì lên thanh sắt nhỏ 10 li, dần dần như một khối đá nặng làm tăng lên sự đau đớn. Cơn đau này kéo dài ít lắm vài tuần lễ trước khi cơn đói và lạnh làm cho tù nhân gầy guộc nhanh chóng để cảm nhận sự lỏng lẻo của chiếc cùm.

 

Bị đưa ra hỏi cung cũng là một điều may mắn. Không cần biết những gì đang chờ đợi trong căn phòng u ám kia, sau khuôn mặt gian xảo, độc ác của những tên cán bộ an ninh trại. Chỉ cần cho đôi chân được thoải mái vài giờ đồng hồ. Được ra ngoài nhìn thấy ánh sáng mặt trời, hít thở chút không khí trong lành, và nhìn thấy được sinh hoạt của anh em là vui lắm rồi. Nhất là một dịp để vục mặt xuống uống cho đã thèm từ bất cứ nguồn nước nào. Có khi là vũng nước đọng nơi góc tường, có khi là từ chảo nước rửa cạnh nhà bếp. Cũng có khi may mắn, ngắt đươc cọng rau sam, rau dệu ven đường. Đến rau trai dai nhách cũng không chừa.

 

Tuy có các vườn rau bát ngát xung quanh trại do anh em tù ngày đêm chăm bón, nhưng suốt năm dài, hoạ hoằn lắm chỉ được ăn vài ba bữa có rau tươi. Mà lại là các ngọn rau đã già dai như giẻ rách. Thứ nào non mềm thì thu hoạch đưa ra nhà bếp cán bộ hết rồi. Anh em tù phải tự cải thiện lấy bằng các loại rau rừng hay lẹ tay chôm nhẹ từ các luống rau. Đa phần là chẳng rửa ráy gì, cho nhanh vào miệng nuốt vội kẻo bị cán bộ bắt gặp là mang hoạ vào thân. Người bên ngoài đã thế, thì người trong xà lim càng thảm hại hơn. Chất rau, chất ngọt, chất thịt là những thứ chỉ có trong giấc mơ của người tù. Ngay cả nước uống, tù nằm xà lim cũng chỉ được cấp cho vừa đủ nhấp thấm môi. Mỗi ngày chừng một phần tư lon nước, đong ra được ba bốn muỗng canh thôi.

 

Vì thế, cứ được mở cùm ra ngoài là vui rồi. Đối phó ra sao ta sẽ liệu tính. Phải tìm cách để kéo dài thời gian hỏi cung; phải tìm cớ để được ra thêm, dù phải căng thẳng chuẩn bị để khỏi bị sơ hở, sa bẫy bọn an ninh mà hại cho bạn bè hay chính bản thân mình.

 

Chút kinh nghiệm mà anh em chúng tôi truyền nhau là cứ chối, chối phăng tất cả, ngay dù có bị chúng nó nắm được đầu dây mối nhợ. Vì có nhận tội, thì cũng bị cùm tiếp tục để cho chúng khai thác dài dài để mong truy ra thêm nhiều vấn đề khác. Mà có chối thì cũng bị giam thêm cho đến khi nào chúng thấy không thể khai thác gì được. Khi thân xác sắp kiệt quệ, nghĩa là khi tên cán bộ đánh giá cái thân tàn ma dại kia không cho ra thì sớm muộn cũng bị tử thần lôi đi. Đó là lúc chúng vêu mồm khoe khoang cái nhân đạo của đảng, của cách mạng cho ra khỏi cùm để học tập, lao động cho sớm tiến bộ. Chẳng phải chúng coi trọng cái sinh mạng khốn khổ của người tù đâu. Nhưng có những cái chết mà chúng thấy không cần thiết bằng để cho sống lây lất mà lao động làm tôi mọi cho chúng cũng như một thứ lợi khí tuyên truyền để làm ổn định trật tự trong trại giam.

 

Lần nào ra làm việc thì tên cán bộ cũng cho người đem vào một bát cơm trắng, có chú thịt từ nhà bếp cán bộ. Đặc biệt là có vài điều thuốc thơm. Có anh em tù nhân khẳng khái không thèm nếm bát cơm ngon lành đó. Có anh cho rằng ăn thì ăn, mà cứng đầu thì cứ cứng đầu. Tội gì không ăn để cho cơ thể có chút sinh lực mà chịu đựng. Tôi đã ra làm việc tổng cộng ba lần trong thời gian bị cùm ba tháng vào dịp Giáng Sinh năm 1979 vì tội chống đối.

 

Ngày đầu tiên vào cùm, chúng lột sạch trên người chỉ chừa bộ áo quần tù bằng vải mỏng màu xám tro. Không chăn, không chiếu, không cả chiếc mù xoa, đôi dép. Trong cơn lạnh mùa đông của núi rừng, ngày đêm co ro run cầm cập. Cố nhắm mắt cho qua ngày đêm dài dằng dặc cũng không xong. Tấm lưng chịu lạnh riết rồi cơ quan bài tiết cũng bị hư luôn, không tự kiểm soát được việc tiểu tiện. Tự dưng thấy ướt mông là biết mình đái; thấy chất nhờn chảy ra trong quần là biết mình đã xuất tinh. Lần đầu, tên cán bộ Hiến gọi tôi ra khoảng mười lăm ngày sau khi vào xà lim, tôi đã đem chuyện Hồ Chí Minh cởi áo lạnh cho tù binh Pháp mà thuyết phục y; so sánh giữa kẻ thù ngoại chủng và người "trại viên cải tạo" đồng màu da để mong y có chút nhân tố nào còn sót lại trong thâm tâm.

 

Đêm đó, khi trở về nhà cùm, tôi được tên trật tự quẳng vào cho chiếc chiếu. Đó là giây phút hạnh phúc tuyệt vời nhất. Hoá ra hạnh phúc của con người thật đơn giản và mang tính tương đối. Những ai sống sang giàu, nhung lụa có bao giờ tưởng tượng được một muỗng cơm, một bát nước, một tấm chiếu rách là cả một thiên đường của những người cùng khổ.

 

Nhờ tấm chiếu đó, tôi yên thân được thêm một thời gian để chịu đựng cơn đói và khát. Hai lần ra làm việc sau này cũng chẳng bên nào thắng lợi. Tôi chẳng đòi hỏi được thêm gì, cũng chẳng nhường một bước nào. Vì quả tình thì có gì mà khai với báo ngoài việc tôi đã hành động chống đối và chịu sự trừng phạt đến mức này. Việc anh em bên ngoài âm thầm tổ chức sinh hoạt Giáng Sinh, viết khẩu hiệu dán đầy phòng giam, tôi biết rõ các bạn tôi ai hô, ai ứng. Chẳng Phạm Đức Nhì, Nguyễn Tú Cường, thì Hoàng Ngọc Thủy, Phạm Văn Hải, Huỳnh Bá Vạn chứ còn ai vào đây. Nhưng tôi nằm trong cùm thì tại sao mà hỏi tôi? Mà nếu tôi ở ngoài thì có bắn chết, anh em tôi cũng chẳng khai nhau ra. Ai xui bị tó thì rán chịu một mình. Tụi Quang què, Cao hữu Vốn, Dương Đức Mai thì bị coi như chó ghẻ; ai chơi với chúng mà chúng biết đầu dây mối nhợ. Tiếc là những năm sau cùng, Ngô Quang Ly phản thùng. Từ nhân vật tranh đấu rất anh dũng đã trở cờ làm ăng ten khi bị đưa vào phân trại B. Có lẽ thời gian tù lâu qua làm cho anh ta mỏi mòn, tưởng có thể lập công mà về sớm.

 

***

 

Hôm Chủ nhật vừa qua, trời Austin tự nhiên trở tính. Đang nắng cả tuần, nóng như lửa đốt, lại đổi bộ mặt âm u. Mưa lai rai suốt ngày; có lúc rất nặng hạt. Buổi Picnic kỷ niệm ngày Quân lực 19 tháng Sáu được chuẩn bị chu đáo đàng phải hủy bỏ. Cả mấy chục cân thịt ướp sẵn làm BBQ đành được đưa về nhà. Anh em tụ tập chừng ba chục hơn. Thôi thì ta picnic trong nhà vậy. Sẵn bia, sẵn thịt, vui miệng kể chuyện tù. Nơi đâu cũng đầy rẫy đau thương, khổ ải. Từ Yên Bái, Hoàng Liên Sơn, vào Gia Trung, Xuân Phước. Xương thịt của bao bạn bè để lại. Tuổi thanh xuân chôn vùi trong cay đắng, nhục nhằn. Sao ta lại chẳng nhắc lại ngày tháng lao tù để ấp ủ chút lửa căm thù đối với một bọn người lang sói. Ai không có căm thù với Cộng sản thì dùng ngọn đuốc Nhân Quyền, xin chớ cho rằng những người cựu tù nhân sao cứ đem chuyện tù ra mà kể lể. Nó không phải là tấm huy chương mà coi là vinh giá, nhưng là vết hằn để đời mà chiêm nghiệm và cảm thông với những đồng bào anh em ta còn đang nằm trong nanh vuốt giặc.

Ao Tù, Ao Tình

» Tác giả: Chưa rõ Tác Giả

» Dịch giả:

» Thể lọai: Truyện ngắn

» Số lần xem: 4900

1.

Tâm lý chung của đọc giả khi đọc những mẫu chuyện ngắn đều muốn có được những câu chuyện có thật ngoài xã hội, nơi gia đình hay ở từng mỗi một môi trường đặc biệt nào đó. Chuyện ngắn có thật mà quý đọc giả sắp đọc sau đây được viết trong một hoàn cảnh hết sức đặc biệt, trong một môi trường xa cách với xã hội của loài người văn minh: đó là nhà tù. Khi nói tới nhà tù thông thường người ta thường nghĩ tới những sự tra tấn, hành hạ, đánh đập, bỏ đói, đày đọa, phòng tối, chuồng cọp v.v. . . . nhưng ít khi nghe nói về những câu chuyện tình trong tù giữa một nam tù nhân và một nữ tù nhân.

Câu chuyện tình trong tù sau đây là chuyện có thật một trăm phần trăm. Tất cả những nhân vật trong truyện giờ đây vẫn còn sống và mặc dù ngày nay mỗi người ở mỗi nơi nhưng nếu họ đọc được chuyện nầy có lẽ họ sẽ phải suy tư rất nhiều.

Câu chuyện bắt đầu như thế nầy: Anh Bảy đi vượt biên nhưng bị bắt và vì bị nghi ngờ là thợ một máy trên chiếc tàu vượt biên cho nên anh Bảy bị xem như là thuộc nhóm đầu nậu tổ chức đưa người trốn ra nước ngoài nhưng họ đâu có biết rằng anh Bảy chỉ tự khoác cho mình cái nghề thợ máy để xí gạt tên chủ tàu người Hoa cho anh Bảy khỏi phải trả 10 cây vàng, để được có mặt trên chiếc ghe vượt biên của hắn.

Muốn chắc ăn, tên chủ tàu còn kéo thêm một người kỷ sư máy tàu thứ thiệt đi theo và anh Bảy chỉ còn là kẻ phụ hụ hợ cho người kỷ sư trẻ. Người kỷ sư nầy thương anh Bảy nghèo khó cho nên bao che cho anh Bảy và nhờ vậy anh Bảy qua mặt được tên chủ tàu.

Khi bị bắt ở ngả Ba Vàm Láng và dự cuộcc đối chất khai cung, tên chủ tàu người Hoa hèn hạ, muốn được chính quyền khoan hồng cho nên hắn đã khai ra hết mọi người có dính liếu trong cuộc tổ chức. Khi công an gọi riêng anh Bảy lên hỏi cung, anh Bảy chỉ nhận mình là hành khách trả tiền đ ể‹ được đi: kết quả của sự dối trá không thành thật khai báo là hai bá súng nặng nề vuốt ve vào mặt anh Bảy khiến nguyên hàm răng trên của anh bị nát vụng ra. Sau đó anh Bảy được gửi sang chấp pháp, cơ quan công tố của chế độ mới, được nhốt riêng một mình trong một căn phòng không thể đứng thẳng lưng, không có cầu vệ sinh, mỗi ngày chỉ ra ngoài 5 phút để đổ và rửa lon đựng phân và dội vài gáo nước lên mình: kết quả là mình mẩy anh Bảy bị lở lói khắp nơi, trở thành một con vật trần truồng nhơ nhớp trong ngục tối hơn ba tháng.

Rồi anh Bảy được đưa đi trại tù Mỹ Phước Tây ở sâu trong bưng ruộng không có người lai vãng tới. Ở nơi đó mở ra chuyện tình của anh Bảy.

*

Tiếng xì xào hớt hãi bổng nổi lên trong căn trại của đội tù thứ 12: " Ông Sáu...Ông Sáu tới."

Tất cả tù nhân đều nhốn nháo chạy nhanh về chỗ nằm của mình hồi họp đợi chờ tai họa giáng xuống.

Sáu Mộng khệnh khạng đi vào từ phía cửa trại ăn thông qua đội tù 13. Mùi rượu từ miệng của anh ta xông lên nực nồng. Tiếng chửi thề vang vang như tiếng tru hú của loài chó sói trong rừng sâu vào những đêm trăng tròn thanh vắng.

"Đ.. m.. tụi bây làm bộ làm tịch hay quá há! Thấy tao tới mặt mũi thằng nào thằng nấy lấm la lấm lét nhưng tao quay đi thì tụi bây chửi tao sau lưng. . ."

Tên Năm Long, một tên hiếp dâm bị tù đưa vào đây cho làm thư ký chỉ huy đội tù 12, đon đả chạy tới khúm núm đón tiếp:

"Dạ thưa ông Sáu xuống chơi. . ."

Tiếng nói của Năm Long vừa dứt thì Sáu Mng đã đá vỡ tung một chiếc giỏ đựng đồ ăn thăm nuôi của một tù nhân. Mắm muối, gạo bánh đổ văng tứ phía. Sáu Mộng rống lên:

"Đ.. m.. tụi bây, cái nầy là của thằng nào đây ? Tụi bây ăn ở bừa bãi như heo, dơ dái hôi tanh như cái quần của đàn bà có tháng; vậy mà ngày trước tụi bây ở trong nầy cũng gọii là sĩ quan, là ông nầy ông nọ. Nhốt chung tụi bây với đám lưu manh, trộm cướp, hiếp dâm thì cũng hạp quá mức . . . Đ.. m.., tao đá chết cha tụi bây hết bây giờ, có muốn không? . . ."

Tay chân anh ta quơ tứ tung để đập phá, miệng không dứt tuôn ra những lời chửi rủa thô bỉ nặng nề. Cả đội tù yêm phăng phắc. Hơn tám mươi tù nhân của đội tù 12 ngồi êm rơ chẳng ai dám hó hé cựa quậy.

Có tiếng ho phát lên từ một góc xó tối, tròng mắt của Sáu Mộng long lên sòng sọc như mắt chó điên:

"Đ. . m. . thằng nào cả gan dám ho khọt khẹt khi tao đang nói chuyện, thằng nào ? Ra đây tao biểu coi?. . . Không dám chường mặt ra sao, mấy thằng chó đẻ ? Tao mà tóm được thì tao bẻ vặn cổ quay ra sau lưng, đồ quân súc sinh."

Khi đi ngang qua một góc cột treo chiếc đèn dầu, Sáu Mộng ngừng lại cầm lấy cây chổi tào cao dựng tựa cột nhà, đưa lên khỏi đầu rồi hét lớn:

"Mả cha tụi bây, thằng nào dựng cây chổi ở đây? Thằng nào."

Giọng của tên Năm Long ấp úng:

"Dạ thưa ông Sáu, cây chổi của trực sinh . . ."

"Trực sinh là thằng nào? Ra đây coi. Đ.. m.., không có thằng nào nhận là trực sinh hả? Tao đá chếtt cha từng đứa mộtt coi tụi bây ngoan cố tới mức nào?. . ."

Có một giọng nói yếu ớt từ phía sau lưng Sáu Mộng:

" Xin báo cáo , tôi là trực sinh của đội 12."

Cả đội tù sửng sốt ngạc nhiên. Mọi người nín thở trước cảnh tượng môt cậu bé Đa Vít ốm yếu gầy còm đang mặt đối mặt với một tên Gôliath khổng lồ hung bạo, cuồng sát. Sáu Mộng quay người lại nhanh như cọp đói vồ mồi:

"Đ... m..., là mầy hả thằng chó đẻ? Sao không chờ cho thằng tía của mầy chết rồi mới ra trình diện với tao?"

Sáu Mộng chụp nắm lấy cái cổ áo rách tươm của người tù trực sinh lôi đi như lôi một con chó ngang qua mặt đám tù nhân bất lực, anh ta đá vào người tù trực sinh giống như những buổi chiều anh ta đá bóng tròn ở giữa sân của trại tù Mỹ Phước Tây. Khi đấm đá đã thỏa lòng, Sáu Mộng buông cổ áo của người trực sinh ra nhưng tay kia đã chụp lấy mớ tóc rối bù của nạn nhân rồi kéo bật ngữa ra phía sau. Anh ta kê sát cái miệng đỏ ối khạc nước giải, nuớc đờm hôi tanh vào mặt nạn nhân vừa la hét chửi bới điên loạn:

"Đ... m... mầy, mầy làm ăn bê bối như vậy hả? " Tay kia anh ta thoi bóp bóp vào mặt người tù khốn khổ. Rồi thụi, rồi thoi, rồi đá, quần thảo con mồi nhừ tử như tên võ sĩ đang tập luyện thoi, đấm, đá vào cái bị đựng cát.

Người tù trực sinh đứng thẳng để nhận lãnh những trái đấm trời giáng, không né tránh, không than van nài xin. Máu từ trong miệng của người tù ứa ra hai bên mép , mặt bên phải sưng phù lên. Trong vũng sáng leo lét của ngọn đèn dầu mù u, các tù nhân vẫn có thể nhìn thấy được đôi mắt sưng húp của người tù trực sinh đang nhìn Sáu Mộng, không câm hận nhưng có vẻ khinh bỉ và thương hại cho kẻ đang hành hạ thân xác mình.

"Đ. . m. . , chắc thằng nây câm rồi phải không? Nói đi mầy, nếu không tao sẽ móc họng mầy cho coi. . ."

Sáu Mộng bắt đầu chồn tay. Cái lì lợm của mảnh da trơ xương kia, cái hình ma đứng thẳng dưới trận đòn thù kia làm cho Sáu Mộng nhớ lại những lúc anh ta chạy trối chết, chạy tuông bờ, tuông bụi, khi quân thù của anh ta xuất hiện. Hình dáng của quân thù lầm lì gan dạ lúc xong pha trước lằn tên mũi đạn cũng giống như tên trực sinh cứng đầu cứng cổ đang đứng kia. Anh ta tưởng mình là kẻ đã thắng trận không còn cái cảm giác sợ hãi đó nữa nhưng sao đêm nay anh ta vẫn còn gặp lại cảnh cũ. Anh ta chửi bới, đánh đập, hành hạ để trả thù, muốn được nhìn thấy kẻ thù trước kia phải gục quỳ xuống kêu la vang xin nhưng anh ta đã vỡ mộng và tự cảm thấy mình thật là hèn hạ. Kể từ lúc đó, tự nhiên anh ta tỉnh rượu, muốn thoát thật nhanh ra khỏi căn trại u ám nầy. Giọng la hét của anh ta bắt đầu chống chế gượng ép đê gỡ gạc với đám tù nhân:

"Hừ, thằng nầy lì thiệt. Muốn chống lại phải không? Đ. . m. ., ở tù rục xương đó con!"

Sáu Mộng thôi đấm đá, buông người trực sinh ra rồi khệnh khạng đi về phía cửa trại ăn thông qua đội tù 13.

Khi tiếng chửi bới lầm rầm của Sáu Mộng khuất lấp ở cuối đầu ngõ, người trực sinh ngã khuỵu xuống miệng hộc ra máu tươi.

*

Đội tù 12 có hai người trực sinh, một người coi sóc dọn dẹp bên trong còn người kia có nhiệm vụ dọn dẹp vệ sinh quanh lều trại và gánh nước tiêu dùng hằng ngày cho hơn 80 nhân khẩu của đội. Trách nhiệm bên trong là của Năm Phước, một tù nhân vượt biên, hồng hào như tên lại cái nhờ được gia đình giàu có thăm nuôi tiếp tế dồi dào và thường xuyên.

Món ngon vật lạ, thuốc lá, cà phê, tiền bạc của Năm Phước đã mua chuộc được tên thư ký đội trưởng Năm Long và mua được từ tên dâm tặc nầy chức trực sinh nhàn hạ bên trong phòng trại của đội tù 12.

Người tù bị "ông Sáu" đá lăn long lóc là người trực sinh vòng ngoài, người tự nguyện thế mạng cho Năm Phước và những tù phạm khác.

Tù nhân đội 12 gọi người trực sinh vòng ngoài nầy là chú Bảy. Ngày mới nhập trại Mỹ Phước Tây, chú Bảy nằm liệt trên sàn đất hơn cả tháng vì lở lói, đau yếu, rách rưới, bệ rạc và nhất là những cơn trụy tim bộc phát vô chừng khiến chú Bảy tưởng mình đã bỏ xác ở nơi đồng chua nước mặn nầy rồi! Vậy mà chẳng ai thèm để ý, ngó tới hỏi thăm chú Bảy được một câu.

Không ai biết ngày trước chú Bảy làm nghề ngổng gì, chỉ biết được một cách chính thức rằng chú bị bắt vào đây vì tội vượt biên. Chân trực sinh của chú đáng lý phải dành cho những tên tù hình sự giàu tiền bạc, lắm thăm nuôi giống như trường hợp của Năm Phước. Chú Bảy chỉ có cái quần xà lỏn và chiếc áo thợ máy trá hình đầy mùi dầu Gasoil khi nhập trại. Ngày leo lên tàu, chú Bảy mặc một chiếc quần ka ki màu vàng mua ở khu Dân Sinh gần chợ cầu ông Lãnh và chiếc áo ngắn tay Montagu đã sờn vai do một người bạn giàu có bố thí cho ngày chú Bảy sắp lên đường chạy trốn ra nước ngoài.

Khi bị bắt vào ty công an Vàm Láng ở Mỹ Tho, một sĩ quan công an đã ra lệnh cho chú Bảy phải giao nạp bộ quần áo cũ đang mặc để cấp trên khám xét tài liệu, vàng bạc, quý kim hoặc đô la Mỹ nhét dấu bên trong. Chú Bảy làm sao mà có được những thứ đó để họ lục với xét !

Ngày thẩm vấn lấy khẩu cung sơ khởi chính "ông" sĩ quan đó đã tặng nhẹ cho chú Bảy hai bá súng vào mặt, đánh vỡ vụng nguyên hàm răng trên của chú Bảy khiến cho chú đau đớn suốt mấy tháng liền, không ăn uống được một cách bình thường mà chỉ trợn trạo nuốt cho trôi qua cuống họng những nấm cơm tù hẩm mốc.

Ngày giải giao tội phạm vượt biên đến trại tù Mỹ Phước Tây, chú Bảy để ý thấy "ông" công an mặc bộ đồ của chú để chỉ huy đoàn xe đò đóng cửa bít bùn chở tù phạm.

Khi vừa mới ngoắc ngoải ngồi dậy chưa kịp lấy lại sức, tên đi trưởng Năm Long đã bắt chú Bảy ra ngay hiện trường lao động để lặn hụp moi đất đắp nền nhà nới rộng thêm vòng đai của trại tù. Ba tháng tiếp theop theo, chú Bảy phải lặn hụp từ sáng sớm lạnh buốt trong các đồng ruộng ngập nước phèn sâu khỏi đầu để dọn cỏ ruộng thuộcc quyền khai thác trồng khóm của trại Mỹ Phước Tây. Rồi bệnh tình của chú Bảy lại tái phát, lần nầy kèm thêm chứng sốt rét rừng vì bị muỗi mồng chăm đốt.

Ngày chuyển đội, chú Bảy nằm đó thoi thóp như người sắp chếtt để chờ được bó bằng lá chuối rồi đem đi vùi vập ngoài đám đồng hoang ngoài kia. Chôn cất xác chết tù phạm kiểu nầy thì chú Bảy đã được chứng kiếnn hằng ngày: người chếtt không có hòm, xác chỉ được cột bó bằng dây lát rồi bọc lại bằng lá chuối, đầu được trùm bằng một bao giấy nhật trình, hai chân để lòi ra ngoài và được 6 tội phạm khiêng đi chôn phía ngoài vòng rao kẽm gai và chong nhọn của trại tù. Sau khi chôn, phần mộ được phủ đất và sang bằng, không có mộ bia, không còn dấu tích: phía trên những phần mộ vô danh nầy sẽ được dùng để trồng khóm che khuất lấp đị. Kẻ tù đày khi chết được chôn cất như thế đã là có phước lắm rồi, của đâu có dư để mà hòm với mộ bia cho những kẻ gọi là cặn bã của xã hội mới!

Nhưng thật là kỳ lạ, chú Bảy không chếtt! Chú Bảy vẫn sống để rồi được một ân huệ bấ ngờ do tên thư ký đội tù 12 ban cho: trực sinh gánh nước và làm vệ sinh vòng ngoài phòng trại của đội.

Không thấy có thân nhân nào xuống đây thăm nuôi Chú Bảy. Trong tù thì kẻ ghét người thương. Kẻ thương vì thấy chú Bảy thiếu thốn, khốn khó, cơ cực, lạc loài và bị đám tù trẻ kéo bè kéo phe theo tên thư ký Năm Long để ăn hiếp, đăm thọt, cho rằng chú Bảy sung sướng hơn bọn họ vì chú Bảy khỏi ra hiện trường lao động sản xuất, rằng chú Bảy không tốn đồng xu cắt bạc nào mà được chân trực sinh, không còn phải phơi sương, tắm nắng cắt lạc, đào kinh.

Chỉ có một tù phạm thương chú Bảy thật tình. Người đó là Tư Vinh, cũng là dân vượt biên bị lừa bẫy cho vào tù. Tư Vinh là hạng tù sang, tù

nhà giàu và nhờ vậy mà Tư Vinh được "cấp trên" tuyển chọn đứng bán hàng ở căn tin cho hơn 3,000 tù nhân trong trại Mỹ Phước Tây. Vốn mua hàng cho căn tin thì Tư Vinh phải bỏ ra, tiền lời thu được thì thuộc về trại tù. Vợ Tư Vinh từ Sàigòn xuống thăm chồng từng ngày một mà còn được phép ở lại qua đêm với Tư Vinh tại khu nhà "hạnh phúc", nơi dành cho những tên tù hạng gộc dùng làm nơi giải quyết sinh lý; tù cắc ké, vì ăn uống chỉ có món cơm với rau muống suốt năm cho nên không có đủ sinh khí để mơ tưởng đến việc ăn nằm với vợ hay người thương trong khu nhà hạnh phúc đó.

Ngoài giờ quét dọn, gánh nước cho đội tù, chú Bảy lo việc bếp núc, nấu nướng riêng cho Tư Vinh. Tiền bạc của Tư Vinh đã mua được đủ thứ, mua cả những "ông" lớn của trại tù. Tư Vinh ở trong tù hơi lâu không phải vì Tư vinh bị khép tội quá nặng nhưng vì Tư Vinh là con bò sửa của các ông gộc coi trại tù cho nên con bò sửa nầy không thể được thả cho ra khỏi chuồng quá dễ dàngvà quá sớm.

Tuy là tù phạm nhưng Tư Vinh được hầu hêt cai tù ở đây nịnh bợ, ve vảng xin xỏ đủ thứ. Có lần trước mắt chú Bảy, Tư Vinh đã lột chiếcc đồng hồ Omega đang đeo trên tay để gởi cho "ông Sáu" đeo tạm khi vừa nghe "ông Sáu" tỏ ý ước ao một chiếc đồng hồ loại mới.

Không có người tù nào được lẩn quất bên ngoài phòng trại sau giờ giới nghiêm. Sau giờ đó, các sinh hoạt của đám tù nhân đều bị cấm chỉ. Mọi người đều phải chui vào mùng nằm thẳng và không được phép ngồi dậy nếu không có lý do khẩn thiếtt như: tiểu tiện hoặc đại tiện. Trên đầu nằm của mình, mỗi tù nhân đều có một lọ keo hay một bình bằng nhựa loại 5 lít để tiểu tiện và một lon loại đựng sửa bột Guigoz cho con nít dùng để "đi đồng" ngay trong mùng.

Tư Vinh không cần các loại bình mủ hoặc lon Gugoz kiểu đó. Lúc cần, Tư Vinh cứ nhỏm dậy, không cần phải la lớn báo cáo với người tù trực phiên ban đêm "báo cáo trực phiên, số 10 đang đi đồng trong mùng", rồi xách đèn rời đội 12 đi về phía cầu vệ sinh dành riêng cho mấy chức quyền của trại; đó là một luật lệ quy định của nhà giam: đang đêm ai tự động ngồi dậy mà không báo cáo thì sẽ bị quy vào tội có ý định vượt trại và sẽ bị cùm chân cùm tay giam vào ngục tối không được ăn uống.

Tên thư ký đi Năm Long sợ Tư Vinh một phép. Chỗ nằm nằm của Tư Vinh được trang hoàng như một phòng trà thu nhỏ. Tối đến, Tư Vinh từ căn tin trở về đội, tụ tập, ăn uống đờn ca tưng bừng. Đối với Tư Vinh thì không có giờ giới nghiêm nằm êm re trong mùng. Tù nhân trong trại không được phép mua và uống rượu nhưng thầy chú vẫn lén lút mang rượu tới cho Tư Vinh để bán mà được lời gắp 3, gắp 5 giá mua. Khi có rượu vào, Tư Vinh nói năng huyên thiên xích đế và có khi quấy phá náo loạn cả đội.

Tư Vinh kể chuyện tam quốc không bỏ sót một chữ, có lớp lang mạch lạc giống như chính mình là tác giả của cuốn sách. Thỉnh thoảng, chức sắc của trại lượm được cầy tơ mang về xẻ thịt bán cho tù nhân để lấy tiền cải thiện thì Tư Vinh lại có dịp trổ tài nấu món thịt cầy ướp chao rồi bắt ép chú Bảy phải ăn cho bằng được.

Chú Bảy ăn chung với Tư Vinh. Thức ăn thăm nuôi của vợ Tư Vinh mang từ Sàigòn xuống đều giao hết cho chú Bảy giữ gìn và sắp xếp việc nấu nướng. Trong tù Tư Vinh càng ngày càng mập ú ra nhờ thịt cá, bánh trái lúc nào cũng ê hề đầy giỏ.

Tư Vinh có cái thú uống cà phê sau buổi ăn chiều nhưng không bao giờ chịu ngồi uống một mình. Vì thế, cứ tối đến thì "phóng trà" của Tư Vinh lại tấp nập khách khứa tù nhân tới thăm để đấu láo và nhất là để được uống cà phê miển phí. Thường xuyên thì phòng trà của Tư Vinh cũng đón tiếp cả các "vị "chức sắc trẻ tình cờ đi ngang qua phòng trại và những lúc như thế thì phòng trà miểnn phí của Tư Vinh mở cửa thâu đêm suốt sáng.

*

Một người bạn khác của chú Bảy là Tư Thành. Tư Thành là một cựu thành viên của chế độ mới . Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, không hiểu vì lý do gì mà Tư Thành lại bắn chết một chức sắc cao cấp của chính quyền tại một huyệ để rồi vào nằm đây nhận lãnh bản án 8 năm tù dài lê thê. Tư Thành đã lớn tuổi, lớn tuổi hơn chú Bảy và đã lụm khụm như ông lão 90, hậu quả của những năm tháng nằm gai nếm mật trong rừng. Nước cờ tướng của Tư Thành ngang ngửa với chú Bảy. Mỗi khi hai người nhập cuộc đấu thì cả đội tù 12 bu quanh để xem và cổ xúy. Phần thưởng cho người thắng trận đấu cờ là người thua phải thưa "dạ có em đây" 20 lần khi người thắng cuộc gọi tên kẻ bại trận. Hai chân của Tư Thành rất yếu lại đi hàng hai theo kiểu chữ bát cho nên khi Tư thành di chuyển thì chẳng khác gì như một kép hát bội đang diễn trò cỡi ngựa trên sân khấu.

*

Trại tù Mỹ Phước Tây có một khu riêng giam nhốt tù nữ. Tù nam hạng cắc ké không có "chức phận" không được phép la cà bén mảng đến gần khu tù nữ. Những cảnh chớp mắt đưa tình lén lút có thể khám phá được vào những buổi chiếu phim lộ thiên ngoài sân chào cờ của trại. Những lúc đã ngấm hơi men, "ông Sáu" lại có dịp xâm nhập vào khu tù nữ để lột áo, xé quần khám xét, đánh đập, hành hạ, chửi bới.. Lâu lâu lại nghe có tù nữ bị cùm tay cùm chân nhốt vào phòng giam kỹ luật bỏ đói vì đã thư từ lén lút với tù nam.

Cứ mỗi buổi chiều vào lúc mãn giờ đi lao động, đám tù nam của đội 12 và 13 thường ra đứng dọc theo vách trại của mình chờ đón giờ "rửa mắt khi toán lao động tù nữ trở về đi thướt tha trên bờ ruộng ở phía ngoài vòng kẽm gai của trại với quần áo lam lũ ướt đẫm bó sát lồ lộ vào da thịt. Cũng có lúc, một vài chị em táo bạo, khi đi ngang qua những cặp mắt cú vọ, háo đói, thèm thuồng của đám tù nhân nam, đã vạch thẳng chiếc áo ướt lên thật nhanh để trưng bày bộ ngực nõn nà của mình với những tiếng la hét vỗ tay cổ xúy của đám "khán giả" bên trong khuôn rào kẽm gai.

Từ đại đội của mình, chú Bảy phải trải qua một chặn đường dài gần 3 cây số để tới ao nước lợ. Những ngày đầu tập gánh nước, chú Bảy phải nghỉ từng chặn một, ba bốn lần nghỉ cho một đôi nước. Đến đôi thứ 30, đôi nước cuối cùng theo ấn định của tên Năm Long cho buổi sáng thì chú Bảy hầu như kiệt lực. Chú Bảy không còn đủ thời giang để nhởn nha nhìn ngắm chung quanh. Chỉ tiêu của chú Bảy là 30 đôi nước nặng 20 kí lô phải gánh gồng trên một chặn đuờng tới lui tổng cộng 60 lần, tương đương gần 60 cây số. Kế đến là dọn dẹp bếp núc củi lửa do các tù lao động nấu ăn buổi sáng để lại bên sân trái của trại.

Tối đến thì phải lo dọn dẹp chỗ nấu nướng của đám tù nhân đi lao động về rồi mới trở vào bên trong lo việc chăm dầu đốt đèn cho buổi tối. Trực sinh vòng ngoài khỏi đi lao động nhưng công tác ở nhà lại càng cực khổ hơn. Năm Long tặng cho chú Bảy vai trực sinh nầy không phải là vì hắn thương chú Bảy nhưng là vì đám tù nhân trẻ chẳng ai thèm mua chức vụ trực sinh đó và hơn nữa, dưới con mắt nhận xét của tên chúa ngục Năm Long thì chú Bảy sẽ tìm đường trốn trại nếu hắn để chú Bảy đi lao động bên ngoài.

*

Nàng cũng gánh nước trực sinh như chú Bảy. Dáng người của nàng thon cao, điệu gánh nước của nàng đong đưa khoan thai và trông thật thiện nghệ. Nàng lãnh nhiệm vụ trực sinh cho hơn 600 tù nữ, một công tác lao động ngang với một bản án khổ sai. Chú Bảy là người Rạch Giá. Nàng là người Hố Nai-Tam Điệp, nước da nàng sạm đen vì cái nắng đồng khô cỏ cháy của miền đất phèn Đồng Tháp. Nét đẹp của nàng không phải gương mặt trái xoan với đôi mắt bồ câu của hạng người đài các thường được mô tả trong tiểu thuyết nhưng nét đẹp của nàng ở đôi vú tròn cứng không có áo đở nâng bên trong và đôi mong tròn lẳng không quần lót phô bày dưới lần vãi màu đen bạc thếch dính sát da thịt vì sũng nước.

Từ tờ mờ sáng tinh sương, khi ngoài trời vẫn còn lạnh cóng, các trực sinh tới lui ao nước lợ giống như lớp người nông phu gánh mạ ra đồng để cấy. Nam nữ gánh nước phải cúi đầu gầm

mặt, yêm hơi lặng tiêng, lầm lũi mà đi, cấm không được chào hỏi tiếp xúc với nhau. Họ đi tới đi lui như những cái máy được vặn dây cót. Họ giống như những con bò, con ngựa kéo lê những cổ xe nặng kịt và đó là chính sách cai quản của trại tù. Thân xác chú Bảy bị đày đọa nhưng tâm trí chú Bảy vẫn được thong dong tự do tưởng tượng và thưởng ngoạn những đường nét khêu gợi mời mọc của cô gái mọc mạc kia. Chú Bảy mỉm cười đắc ý khi biết rằng hằng tá cặp mát cú vọ của họ đang rình rập theo dõi từng cử chỉ hành vi của chú Bảy. Cứ cho họ theo dõi, chú Bảy tự nói thầm: thử xem họ có kiểm soát nổi phần tâm trí hồn phách của chú Bảy không!

Khởi đầu chỉ có chú Bảy len lén nhìn nàng rồi cũng có khi nàng nhìn lại chú Bảy thật nhanh rồi gật nhẹ đầu tỏ dấu chào thăm. Rồi thêm một nụ cười khi gặp nhau, rồi thêm một cái liếc mắt đẩy đưa, rồi trù trừ chưa chịu múc nước ngay để về trại cho kịp giờ, rồi bên nầy đợi gặp bên kia. Lúc đầu còn phải chờ đến phiên người nầy múc nước lên xong rồi mới tới người kia bước xuống. Nhưng rồi, bổng một hôm, người ta nếu khéo để ý thì sẽ thấy một tù nam và một tù nữ đứng sóng đôi dưới bờ ao để múc nước cu1ng một lúc: chắc là luật trại tù đã quên đi việc cấm hai người khác phái xuống ao múc nước cùng một lúc. Họ tưởng họ khôn, nhưng họ vẫn còn ngờ nghệch! Cái ngờ nghệch của họ chỉ có chú Bảy và nàng biết được và như thế là đã bắt đầu được gần gũi nhau rồi. Nhưng vẫn câm lặng, vẫn vội vã, vẫn hồi họp xen lẫn với nôn nao và hậm hực. Vẫn chỉ được nói với nhau bằng ánh mắt, chỉ nhớ nhau bằng những nụ cười vội vàng thầm kín. Có khi đôi thùng nước chạm nhau dưới đáy nước sâu nhưng cũng có những ngón tay của ai đó hối hả đan vào nhau thật tình, thật ấm.

Rồi một hôm nàng mở lời đầu tiên:

"Sao hôm nay, ra trễ vậy?"

"Nhuốm bệnh, dậy không nổi!"

"Có thuốc uống không?"

"Suỵt . . .Coi chừng. . . Có ăng ten đang dòm ngó...!"

Buổi sáng hôm sau:

"Hết bệnh chưa?"

"Hơi đở. Thức ăn bên ấy còn không?"

"Gần cạn rồi!"

"Làm sao đưa qua được!"

"Thôi, không cần....nguy hiểm lắm!"

Buổi tối chú Bảy xin Tư Vinh:

"Anh Tư nè, anh cho tôi mượn đở hai chục đồng, được không?"

Tư Vinh hơi chưng hửng hỏi lại:

"Chi vậy?"

"Cần xài lắt nhắt...Với lại để có tiền dằn túi đôi chút đó mà..."

"Muốn gì thì cứ nói để tui lấy từ căn tin đem về cho, đâu cần phải mua sắm? Chỉ có hai chục đồng mà dằn túi cái giống gì?"

Nói xong Tư Vinh móc ví trao cho chú Bảy một tờ bạc năm mươi đồng. Tối hôm đó chú Bảy không uống cà phê với Tư Vinh nhưng chui vào mùng đi ngủ sớm. Trong giấc mơ chú Bảy thấy mình đang đi tìm nhà ai đó ở Hố Nai.

Gặp nàng ở ao nước, chú Bảy ra hiệu:

"Gói giấy nhỏ dưới chân đó, lượm lẹ lên đi... '

"Cái gì vậy?"

"Thì cứ lượm đi. . .Về trại rồi mới mở ra. . . Coi chừng tụi nó thấy... Cẩn thận kẻo chết chùm cả hai đứa. . . ."

&

Gặp lại sáng hôm sau nàng thì thào:

"Cho chi nhiều vậy? . . . Để dành mà hộ thân . . ."

"Ăn nhằm gì. . . Còn mà! . . . Để đó mà mua thức ăn . . ."

"Thương anh đâu phải vậy!"

"Nói vậy là không thương rồi! . . ."

"Có thấy ai thăm nuôi đâu? Sao có tiên? . . ."

"Bạn cho. . ."

"Vợ con đâu?"

"Đuổi xua không thèm nhìn từ ngày cải tạo về. . ."

"Sao vô đây ở tù nữa?"

"Vượt biên. . . Còn em?"

"Cũng vượt biên."

"Thôi nghe, có người tới . . ."

Một buổi sáng trời lạnh, mưa lất phất, đất bùn trơn trợt nhầy nhụa. chú Bảy lạnh tê cóng khi nhún chân xuống thềm ao nước.

"Áo lạnh anh đâu sau không mặc?"

"Không có."

"Hứng mưa coi chứng đau trở lại nguy lắm..."

"Chết là cùng, có gì gọi là nguy?"

"Đừng nói gỡ."

"Thiệt đó chớ! . . ."

'Bộ không thương em hay sao mà lại nói vậy?"

"Có! "

"Vậy sao lại muốn chết bỏ em?"

"Nói vậy chứ không bỏ đâu . . ."

Đợt gánh nước thứ nhì:

"Được tha về trước chờ em nghe. . ."

"Em cũng vậy?"

"Em chờ. . . mà còn xuống đây nuôi anh. . . "

"Đợt tha kỳ nầy có hy vọng không?"

"Hy vọng lắm, còn anh?"

"Chắc là mút mùa . . . Chờ để đóng cửa trại một thể! . . ."

"Chi mà thối chí dữ? . .. Cứ hy vọng đã sao? "

Đợt gánh nước lần thứ 3:

"Lở ngu khai toẹt ra hết . . ."

"Khai cái gì? "

"Đại . .. . ."

"Trời ơi! Sao không chịu dấu? Khai chi vậy?"

"Vậy mới ngu. . . Về trước nhớ xuống thăm nghe. . . Đừng bỏ đi trước. Chờ về đi một lượt sống chết cùng nhau . . ."

". . . Em hứa ..."

*

Đợt tha tù kỳ đó chú Bảy và Tư Vinh được trả tự do. Lãnh giấy xuất trại đi ngang qua đội tù nữ, chú Bảy thấy nàng đứng nhìn chú mắt đỏ hoe. Ít lâu sau Tư Vinh bị tử nạn xe cộ sau một vài lần nhậu chung với chú Bảy ở Sàigòn. Vài tháng sau, chú Bảy tới Mả Lai rồi sang Úc.

Chú Bảy không chờ nàng! Chú Bảy bỏ đi trước! Với con tim, chú Bảy thật đáng trách nhưng xin hãy tha thứ và cảm thông cho chú Bảy: ngày 28 tháng 4 năm 1975, chú Bảy cũng trù trừ vợ con, đã bước xuống xà lan nhưng lại bước trở lên bờ để rồi phải trả một giá thật đắt với nhiều năm tộii tù đày đọa và ngày bước ra khỏi cửa trại giam địa ngục để cho vợ con hất hủi đuổi xua.

Lần vượt biên bị bắt cũng vì trù trừ không nở bỏ lại vợ con của tên chủ tàu quỷ quyệt trên đường trốn chạy công an biên phòng Vàm Láng.

Xa mà không thể nào quên nhưng tên của nàng chú Bảy không biết !

Hồi Ức Cuộc Tuyệt Thực Ở Trại Cổng Trời

» Tác giả: K. Vĩnh

» Dịch giả:

» Thể lọai: Hồi ký

» Số lần xem: 7585

1. Hồi Ức Cuộc Tuyệt Thực Ở Trại Cổng Trời

LTS: Tác giả bài này không ghi rõ danh hiệu, chỉ ký tên tắt mà chúng tôi đoán là K. Vĩnh. Bản thảo viết tay nét chữ không dễ đọc, từ trong nước đã được gửi sang cho Thế Kỷ 21 vào đầu năm 1997, với tựa đề "Cuộc Tuyệt Thực". Tòa soạn đã mạn phép thêm "Ở Trại Cổng Trời." Chúng ta đã đọc nhiều cuốn hồi ký về chế độ lao tù ở miền Bắc Việt Nam dưới chế độ cộng sản. Nhưng hầu như chưa có ai viết về Trại Cổng Trời. Đọc ký ức của K. Vĩnh chúng ta biết Nguyễn Hữu Đang đã bị giam ở Cổng Trời, nhưng trong bài viết nổi tiếng của cố Thi sĩ Phùng Quán về Nguyễn Hữu Đang không hề nhắc đến chi tiết đó. Trong cuốn hồi ký của Vũ Thư Hiên, ông nhắc đến Nguyễn Hữu Đang, nhưng cũng không kể chuyện cụ Đang đã bị giam ở Cổng Trời.

Trong cuốn Đêm Giữa Ban Ngày" của Vũ Thư Hiên mới xuất bản, ông viết về Trại Cổng Trời như sau: Cổng Trời là một trại giam ở xa tít mù tắp mãi tận Hà Giang, bên kia Mù Cang Chải, giáp giới Trung Quốc. Cổng Trời đi vào huyền thoại, là nỗi kinh hoàng của tù. Những người đã từng sống ở Cổng Trời thậm chí không muốn kể về nó, không phải vì sợ bị công an trừng phạt (nghiêm cấm nói đến bí mật của các trại), mà còn vì sợ người nghe nghĩ mình bịa đặt. Hình như Tôn Thất Tần đã ở cái trại kinh khủng đó, nhưng ông ngậm tăm. Những người tù nói rằng ai đã lên Cổng Trời mà còn về được coi như sống lần thứ hai....Chế độ giam giữ ở đây rất khe khắt. Hơi một tí là bị khóa cánh tiên, bị hạ huyệt, còn nếu bị cùm hộp thì coi như đời đi tong. Vũ Thư Hiên đã mô tả ba lối hành hạ Khóa cánh tiên, Hạ huyệt và Cùm hộp trong cuốn hồi ký của ông, mà thú nhận chỉ mới được thấy cảnh người bị "khóa cánh tiên" (có người chỉ chịu được vài phút là ngất xỉu, có người chịu được hàng giờ trong đó có thi sĩ Nguyễn Chí Thiện,) còn hai lối giết người kinh khủng kia ông chưa được thấy chỉ nghe kể lại.

Sau đây là những kỷ niệm ở Cổng Trời của K. Vĩnh

K. Vĩnh

TK21 #98, Tháng 6 1997

Tôi xin nhắc lại: Tôi không theo đạo Thiên Chúa, và điều ấy có thể đã làm cho tôi sống được đến hôm nay, năm 1994. Vì những người Cộng Sản căm những người theo đạo Thiên Chúa nhất nên tất cả mũi nhọn của nền chuyên chính đều chĩa vào họ. Thứ nhất là các đấng bậc trong Giáo Hội, rồi đến các tu sĩ cả nam lẫn nữ. (Tôi đã gặp hai bà sơ bị bắt vào xà lim). rồi đến các chánh trương, trùm trưởng, cả đến hội trống hội kèn cũng bị bắt đi tù hàng loạt.

Tôi trông họ hiền lành, ngơ ngơ nói năng chẳng rõ họ mắc tội gì mà bị hành hạ đến như vậy: Họ có mỗi một tội là tin vào Chúa Jê Su. Thế thôi.

Còn tôi, chả hiểu làm sao, tôi thiếu đức tin đó, và điều đó đã cứu tôi sống. Nói thế không có nghĩa là tất cả mọi người công giáo đi tù đều chết hết đâu. Còn chứ. còn anh Thi, anh Thọ, chị Diệp những người trong vụ nổi loạn ở Ba Làng Thanh Hóa năm 1954, còn Nguyễn Công "Cửa" tức Môn, ngư dân vượt biển, còn Nguyễn Hữu Bổn người thôn Vạn Lộc Nam Lộc Nam Đàn...

Tôi có nghe nói lại là khi đọc lệnh tha anh Thi, anh không chịu ra khỏi tù, họ phải lôi anh ra, anh mới chịu ra.

Ngay cả giáo dân họ cũng kiên cường như vậy, thảo nào mà những người Cộng Sản đặt họ lại hàng đầu để tàn sát họ, tiêu diệt họ.

Cho đến hôm nay năm 1994, tôi vẫn mong mỏi gặp lại vài người còn sót lại trong số 72 người đầu tiên lên Cổng Trời mà vẫn chưa gặp lại ai, ngoài 1 người Cộng Sản là anh Nguyễn Hữu Đang.

Khi ở khu A còn thưa thớt người thì tù ở các trại dưới được dồn lên để lấp vào các chỗ trống, nên có sự sắp xếp lại.

Tôi được chuyển sang khu B dưới quyền quản giáo mới tên là Duật người Nam Hà

Khu B nhẹ hơn khu A, chế độ ăn uống có hơn đôi chút, được đi lao động nhẹ ở sân trại. Ba tháng được viết thư một lần và được phép nhận thư .

Tôi vừa chuyển sang khu B, chưa được viết thư về nhà thì đã nhận được thư của mẹ tôi gửi lên với địa chỉ:

Công trường 75A Hà Nội C65 HE.

Mọi người đều ngạc nhiên, cả tôi nữa.

Lúc đó nhà tôi ở số nhà 7 phố Thi Sách gần ngay đằng sau Chợ Hôm-Hà Nội

Tính từ khi lên Cổng Trời , đã được hơn 3 năm có lẽ tôi chưa được viết thư về nhà lần nào, thế mà tại sao mẹ tôi lại biết được địa chỉ này mà viết thơ cho tôi và mẹ tôi có biết là tôi đang ở Cổng Trời Hà Giang không?

Mãi đến khi được tha tù lần thứ nhất (1970) tôi về gặp lại mẹ tôi, tôi mới rõ. Thì ra sau khi tôi được chuyển lên Cổng Trời -1960- thế là mất hết tin tức về tôi. Tất nhiên là mẹ tôi không chịu để mất. Mẹ tôi lên trại cũ ở Bất Bạt Sơn Tây để hỏi. Chánh giám thị trại là thiếu tá Thanh trả lời là ông ta không rõ!

Quay về Hà Nội mẹ tôi đến bộ Công An ở Phố Trần Bình Trọng hỏi. Họ không cho vào gặp. Nhưng từ nhà tôi ở chợ hôm ra đến hồ Thiền Quang chưa đến 1Km nên hầu như liên tục khi nào mẹ tôi dắt cháu đi chơi là mẹ tôi lại tạt vào quấy rầy họ. Đến nỗi người thường trực cứ trông thấy mẹ tôi là tránh mặt không tiếp.

Mẹ tôi cứ đi. Kiên trì dắt cháu đi hỏi. Hỏi mãi. Riết rồi họ đành phải trả lời. Nhưng cũng mất 1 quãng thời gian là hơn 3 năm họ mới cho mẹ tôi cái địa chỉ đó: Công Trường 75A Hà Nội.

Mẹ tôi lại hỏi tiếp: Thế cái Công trường này nó ở chỗ nào ở cái đất Hà Nội này. Họ bảo họ cũng không biết

Mẹ tôi đời nào chịu.

Và cuối cùng họ đành phải trả lời là tôi đang ở Cổng Trời Hà Giang.

Thế là mẹ tôi đi Hà Giang.

Đi với 2 bàn tay trắng: Không có mảnh giấy đi tiếp tế cho tù.

Quy định đi thăm tù phải có giấy giới thiệu của địa phương cấp, mà địa phương được lệnh không cấp giấy cho mẹ tôi vì thành phần gia đình tôi là địa chủ cường hào đại gian đại ác. Bố thì bị bắn chết trong cải cách ruộng đất, còn tôi thì đi tù nên gia đình tôi là đối tượng của cách mạng cần phải chuyên chính. Mặc, không có giấy giới thiệu mẹ tôi vẫn cứ đi.

Nhưng lên được đến Hà Giang, chưa qua được đèo Quyết Tiến thì bị Công An theo dõi và bắt quay về Hà Nội.

Mẹ tôi đành viết thơ chọ tôi theo địa chỉ trên. Thế là tôi nhận được thư.

Thế ra mẹ tôi vẫn còn sống và tôi, tôi vẫn còn sống.

Cũng có 1 phần do mẹ tôi không chịu mất dấu vết của tôi, làm phiền họ, quấy rầy họ, mà trên bộ Công An chưa bật đèn xanh cho Ban giám thị trại xóa tên tôi trong danh sách tù nhân ở Cổng Trời này.

Đã có lần họ cho người giả làm tù ở cùng trại với tôi về báo tin là tôi đã chết. Nhưng mẹ tôi khăng khăng không tin. Mẹ tôi cứ làm tới, sấn tới, và điều đó phần nào đã cứu sống tôi.

Vả lại ở trên Cổng Trời này, đối với các bậc như Cha Vinh, cha Quế, tu sĩ Đỗ Bá Lang, tu sĩ Nguyễn Trung Chính tức Nhẫn, tôi là hạng bét so với các đấng bậc ấy nên mũi nhọn của cuộc tàn sát không chĩa vào tôi. Ban giám thị trại đem so tôi với các bậc thánh đó thấy rằng tôi là một phần tử tiến bộ trong số này.

Này nhé: Tôi không cầu kinh, không làm dấu thánh, không ăn chay trước lễ phục sinh. Không cần nghi lễ Giáng Sinh, thế là tôi chấp hành nghiêm chỉnh mệnh lệnh của Ban Giám thị rồi còn gì nữa.

Còn với các đấng bậc kia.

Cấm cầu kinh, cứ cầu

Cấm làm dấu thánh trước khi ăn. Cứ làm ngày lễ Giáng Sinh cứ nghỉ không chịu đi làm.

Và nhất là chuyện tôi cứ ăn không chịu tuyệt thực cùng các vị đó khi có lệnh cấm làm dấu thánh trước khi ăn.

Câu chuyện tuyệt thực xảy ra như sau: "...Đây là nhà tù, chứ không phải là nhà thờ của các anh, nên cấm mọi hành vi tôn giáo và tịch thu mọi thứ: thánh giá, kinh bổn, tràng hạt". Tịch thu thì được. Còn cấm thì hơi khó hơn, nếu không nói là không cấm được.

Cấm cầu kinh các vị ấy cứ cầu, vì làm thế nào mà biết các vị đang cầu kinh?

Ăn xong, rồi ngồi chơi nhìn nhau. Im lặng không nói chuyện, không đi lại, thế là cầu kinh đấy.

Chỉ có đêm đến, lệnh cấm ngồi là có hiệu lực, chứ ban ngày chả nhẽ lại cấm ngồi bắt nằm mãi sao.

Ban Giam Thị uất lắm!

Sau chuyện tu sĩ Đỗ Bá Lang, Chánh giám thị Nguyễn Quang Sáng tỏ ra quyết liệt hơn, cứng rắn hơn, dấn tới một bước nữa.

Cấm triệt để làm dấu thánh trước khi ăn cơm. Nhưng lần này thì Nguyễn Quang Sáng phải chịu thua.

"Ai cho các anh ăn?" chúng tôi. Chúng tôi cho các anh ăn chứ không có Chúa nào cho các anh ăn cả."

"Cấm cầu kinh, các anh vẫn lén lút cầu kinh vậy bây giờ trước khi ăn, tôi cấm các anh làm dấu. Các anh phải cảm ơn người cho các anh ăn. Đúng lắm, nhưng đó là chúng tôi đây chứ không có chúa nào hết.

Không có con mẹ Maria, thằng Jê su nào cả. Biết chưa?"

(Nguyên văn như vậy, tôi xin lỗi các vị phải viết đúng, không dám xuyên tạc, bịa đặt, báng bổ gì).

Và đến bữa ăn. Quản giáo đứng đó. Mọi lần thì cửa mở, chúng tôi bê cơm vào trong phòng. Đóng cửa lại. Chúng tôi chia nhỏ từng xuất một và ăn. Không có sự hiện diện của ai cả.

Nhưng hôm ấy, bê cơm vào, cửa vẫn mở, Quản Giáo đứng đó kiểm soát và nhắc lại lệnh cấm của Ban Giám Thị.

Tất cả, cả tôi, không ai phải bảo ai, không chia cơm ra ăn. Đứng mãi chán, Quản Giáo đóng cửa lại đi về.

Đến chiều, tù nhà bếp đến lấy thùng. Cơm canh vẫn nguyên. Cơm canh đều chia vào hai cái thùng gỗ to, chứ không chia thành một phần như ở xà lim.

Buổi chiều, đích thân Chánh Giám Thị xuống, mọi việc lại diễn ra đúng như buổi sáng. Mặt tái vì giận dữ. Nhưng làm thế nào mà bắt họ ăn cho được?

Không có khí thế hừng hực đấu tranh như những người Cộng Sản ở Sơn La, Côn Đảo tuyệt thực, không có hô khẩu hiệu, tất cả đều lặng lẽ ngồi im.

Không thể dùng lưỡi lê và sức mạnh để nhét cơm vào mồm họ được.

Họ không ăn, thế thôi. Không hò reo, không gõ bát, gõ đĩa, không ai diễn thuyết, kích động, yêu sách điều gì.

Im lặng, ai ngồi chỗ ấy. Giám thị Sáng đứng đó, không một ai thèm nhìn vào mặt ông ta cả. Tất cả đều quay mặt đi chỗ khác.

Giám thị Sáng đành phải ra về.

Đêm đến: Tôi đói không thể nào ngủ được. Đã một ngày trôi qua, và hai bữa không ăn. Suốt mười năm tù đầu tiên, tôi không bỏ một bữa cơm nào, ngoài hai bữa hôm ấy.

Chỉ có khi nào đến ngày giỗ người sinh ra tôi bị bắn chết, là tôi lặng lẽ khai ốm và báo cháo, vì tôi nghĩ: Đói ngày giỗ cha, no ba ngày Tết.

Dạ dầy tôi là dạ dày thép, nó ngốn và nghiền nát tất cả mọi thứ mà đối với người khác bình thường, cùng tù với tôi cũng không kham nổi.

Sắn sống, khoai sống, ngô sống, om on sống, cả cây ngô non tôi cũng ăn được, khoai hà chỉ có ngỗng mới ăn, tôi cũng ăn được khoai sọ tôi ăn cả vỏ, rong diềng ăn cả vỏ, có lần đi làm tôi lẩn vào ruộng trồng đỗ Mèo ních một bụng quả đỗ sống, chiều về say gần chết.

Ra suối tắm, quả vả mọc hoang tôi bứt ăn, cũng say gần chết.

Chỉ gần chết thôi chứ chưa chết hẳn. Ngất ngư lảo đảo thôi.

Sắn ăn say, ngày nào mà tôi chả say sắn, mà theo cái đầu óc ngu dốt của tôi chính có lẽ do say sắn triền miên mà tôi vẫn còn sống đến hôm nay.

Chả là rét quá, tôi bị sưng phổi. Cứ thấy ho, sốt, rồi tôi không dám nói láo cứ cúi xuống ngẩng lên là nghe trong phổi có tiếng óc ách...

Ở Cổng Trời không phải khai ốm, vì có còn khai với ai được. Ốm mặc, không có thuốc men gì hết.

Quản Giáo trực thấy tôi nằm ốm, hỏi làm sao. Hỏi để mà hỏi. Rồi thôi. Để đấy. Tôi cứ ăn sắn, say sắn. Và rồi khỏi. Mọi người: đều coi chuyện đó là chuyện thường tình.

Mãi đến khi về, năm 1970 tôi đi khám ở Bệnh viện A để kiểm tra phổi. Sau khi chụp X quang, kết luận: dầy dính màng phổi. Bác sĩ Kim hỏi tôi là tôi bị sưng phổi bao giờ và ở đâu hút cho.

Tôi trả lời là quên mất thời gian và chưa ai hút ra bao giờ. Bác sĩ Kim rất ngạc nhiên.

Qua chuyện trên, tôi đi đến kết luận là Acide Cyavidrique nghĩ thế, theo đầu óc ngu dốt của tôi thôi.

Ở Cổng Trời, khu nọ cách biệt với khu kia bằng một hàng rào bao quanh khu. Cấm liên lạc nhưng khi trả thùng cơm canh, thì đem đến một cái sân chung để nhà bếp tiện lên lấy. Có lần khu C: họ được mua sắn cải thiện để ăn thêm. Chả hiểu sao cả khu say, và chết đâu mất năm người.

Sáng ra, quản giáo trực vào thấy chết vì say sắn bèn ra lệnh tịch thu số sắn còn lại, cấm không cho ăn, và đem ra tập trung ở chỗ trả thùng cơm.

Hôm ấy đến lượt tôi bưng thùng ra trả. Tôi thủ ngay gối một thùng sắn luộc rồi dấu vào bụng đem về buồng ăn.

Cái vị tu sĩ bảo tôi: Họ ăn chết hàng loạt kia kìa, lấy về làm gì?

Tôi bảo: Họ có nhiều họ ăn mới chết! Chứ mình cứ củ một ăn, chết thế nào được. Và tôi ăn. Ăn củ một, thấy đắng quá thì thôi. Hơi say một chút chẳng sao cả. Và những chất say ở sắn đã làm tôi khỏi bệnh phổi, làm tôi no, và có thêm một hiện tượng là hai bên quai hàm tôi to bạnh ra. Say sắn có khổ nhưng không khổ bằng đói: tôi chọn cái ít khổ hơn.

Điều này là sự thật 100%, cứ ăn sắn nhiều là hai bên quai hàm to bạnh ra. Xin các nhà khoa học giải thích hộ cho. Kể lại với quý vị như thế, để quý vị biết tôi đói đến thế nào. Tôi đói lắm ấy!

12kg cả gạo cả sắn một tháng, với sức tôi cao 1m76 nặng 78kg và ba mươi tuổi thì các vị chắc cũng hiểu cho được.

Lại quay trở về với câu chuyện tuyệt thực. Thế là qua một ngày và hai bữa không ăn.

Tôi xin phép được nhắc lại, mười năm tù đầu tôi không nhịn bữa nào ngoài hai bữa cơm tuyệt thực đó, và tất nhiên là tôi đói lắm.

Ở trong Mein Kamp (Cuộc Chiến Đấu Của Tôi) Hitler viết: "Cái đói nó theo tôi như một cái bóng..." tôi xin thêm: Nó hành hạ tôi khổ sở nữa.

Tối hôm đó, đã hơn chín giờ mà tôi không thể nào ngủ được, cứ dở mình trằn trọc.

Tu sĩ Chính tức Nhẫn ở xứ Trung đồng Thái Bình, nằm cạnh tôi khỏi khẽ:

"Đói không ngủ được à."

"Vâng, đói lắm không ngủ được."

"Vậy, có lẽ mai Vĩnh cứ ăn đi. Tôi sẽ đứng ra chia cơm để Vĩnh ăn nhé."

"Tôi, xin thưa rằng, phần xác tôi nặng, nặng lắm nhưng cơ thể tôi lúc đó thì rất nhẹ. Tôi cân nặng 49kg.

Tôi gầy đến "lõ đít" ra. Tôi xin phép được dùng từ này, vì đúng là tôi gầy đến như vậy. Những lúc ngồi chơi, hoặc luyện yoga tôi nhìn xuống đùi, đầu gối ống chân đều trơ xương ra khẳng khiu khô khắc.

Trước đó ít hôm ra khênh cơm vào, có một anh bạn ở nhà bếp nhìn thấy tôi ra hiệu bằng cách lấy hai bàn tay vuốt vào hai má, chúm cái miệng lại ra cái điều là gầy quá má hóp, vêu miệng.

Tôi cũng biết vậy, tôi yếu lắm rồi, tay nắm không chặt, hai bàn tay xoa vào nhau như sự cọ sát của hai thanh củi khô, không có cái mềm mại của da thịt. Ở Cổng Trời này không có gương để soi, xem mặt mũi hình hài của mình nó ra sao. Mỗi lần cắt tóc, quản giáo đưa cho một cái tông đơ, cắt cả tóc lẫn râu thế thôi không có gương lược, dao kéo gì. Có lần muốn nhìn cái bản mặt mình, tôi đã bắt chước Nguyễn Tuân đái một bãi xuống đất rồi soi mặt mình vào đó. Nào có thấy rõ chó gì đâu mà cái nhà ông Nguyễn chỉ nói ngoa ngôn, phóng đại xui dại anh em thôi.

Vì gầy thế, nên hai cái mông teo lại, cái xương cùng nó thò dài ra, khi đi ngoài, chùi nó chạm đâm vào tay mình.

Chính lúc ấy tôi mới cảm nhận thấy hết cái từ gầy lõ đít.

Mười năm tù, lúc nào tôi cũng ước ao có một bữa no, thèm muốn làm sao mà được ngồi trước nồi cơm nóng bốc hơi nghi ngút, muốn ăn bao nhiêu thì đơm bấy nhiêu, và có đầy một bát muối để ăn cho mặn. Cả muối tôi cũng thèm nhạt. Chỉ có một ước muốn đơn sơ ấy, thế mà suốt trong 10 năm tù lần thứ nhất ngay cả ở các trại dưới tôi cũng không đạt được nói chi nữa là ở trại Cổng Trời này.

Tất cả các nhà tù của Cộng Sản miền Bắc mà tôi đã đi qua và sống ở đó đều đói và có thể chết đói được.

Khi còn ở trại Bất Bạt Sơn Tây, tôi ở toán kiên giam, biệt lập: phải xay lúa giã gạo ở khu biệt lập kiên giam này, tôi nhớ tới phim "Samson và Đalila" anh chàng Samson mù quay cối xay. Chúng tôi cũng vậy. Rào kín và hẹp chả nhìn thấy gì ở ngoài cả. Chế độ ở kiên giam Bất Bạt cũng học đòi cách quản lý và đối xử với tù của Cổng Trời, nhưng mà là học trò hạng bét.

"Cũng tù hình sự đem cơm đến để đấy rồi chạy."

"Cũng không được ra khỏi khu cấm!"

Nhưng vẫn còn được viết thư về nhà và còn được gặp và nhận đồ tiếp tế của người nhà đi thăm nuôi.

Chứ ở trại Cổng Trời Cắn Tỷ không một ai được thăm nuôi. Không một ai trong suốt thời gian bảy năm tôi ở đó.

Khi đói, tôi kêu. Tôi kêu đến nỗi Quản Giáo phụ trách Giáo dục tên là Kích người liên khu năm Bình Định đi tua nghe thấy, gọi tôi ra ngoài lục vấn, lên lớp và đe dọa tôi:

"Anh Vĩnh, anh định kích động mọi người, phải không. Cẩn thận. Không có lại đi suốt đấy."

"Thưa ông, tôi đói thật, ông ạ. Phàm cái gì uất ức, đau khổ quá cũng phát ra thành tiếng. Có thế thôi.

Thứ tôi mà đi kích động hở ông. Vả lại tôi là một sĩ quan chiến đấu, võ biền. Ông xét xem, tôi sẽ kích động được ai trong số những tu sĩ ở cùng với tôi trong buồng. Tôi nói rất thật, để chứng minh điều đó ông làm ơn súc cho tôi một bát cám lợn kia tôi sẽ ăn hết ngay trước mặt ông cho ông xem (Chả là chỗ nói chuyện gần chỗ nuôi lợn của nhà bếp mà)."

Chừng quản giáo Kích cũng hiểu ra, nên không trấn áp tôi thêm nữa cho tôi trở về buồng.

Trên đường về đi qua dàn su su, quả mới bé bằng ngón tay cái, tôi vốn cao, nên với tay vặt ngay lấy dăm bẩy quả đút túi về ăn sống.

Trần Liệu bảo tôi: "Được ra khỏi buồng, bất cứ cái gì động đậy đều vồ lấy ăn hết, chỉ trừ khi vồ nó mà nó kêu "Ối giời ôi" thì chịu không ăn mà thôi".

Hắn ăn dun, ăn dế, ăn gián, ăn cả trứng con bọ hung nữa...

Chúng tôi cười với nhau.

Trần Liệu cũng đói lắm? Hắn to con gần bằng tôi và vốn là đồ tể Quỳnh Lưu Cầu Giát, rất thích ăn tiết canh "me" (bê non)

Nhưng tôi cũng phải phục hắn; thế mà hắn cũng chịu được hai ngày liền theo các đấng bậc tu sĩ đấy.

Hắn là con chiên cực kỳ ngoan đạo. Ông Chính bảo tôi: "Mai tôi sẽ chia cơm để Vĩnh ăn. Vĩnh cứ ăn đi. Không sao cả. Có gì tôi sẽ nói với anh em trong phòng để họ cảm thông trường hợp của Vĩnh."

Tu sĩ Chính là người có uy tín nhất ở trong số tu sĩ còn lại đó.

Tôi im lặng. Đối với ông, tôi có một món nợ lớn lắm! Lớn lắm mà không bao giờ có thể trả được.

Tôi vốn có duyên nợ nhiều với đất Thái Bình và ông, ông là người sinh ra ở đó và tu ở đó. Tôi và ông có rất nhiều điểm tương đồng. Ông hay nói chuyện với tôi lắm.

Tôi ở với ông từ ngày đầu đi tù, từ trại Bất Bạt Sơn Tây lên ở khu A Cổng Trời, ở cho đến lúc ông bị gọi đi chết.

Những năm 50, ở Thái Bình tôi có may mắn gặp Đức Giám mục nguời Tây Ban Nha coi sóc địa phận, cha Chính, cha Trụ ở thị xã, rồi các cha ở Sa Cát, Phương Xá, Bái Bồ Trung, Phù Lưu (ngã ba Đọ) Cao Mái. Tôi hành quân giải vây cho các nhà thờ bị vây hãm.

Tóm lại tôi có nhiều kỷ niệm đẹp về các xứ đạo ở đó lắm.

Tôi nói chuyện vói tu sĩ Chính về các kỷ niệm xưa đó, hai ngươi rất tâm đầu ý hợp.

Thấy tôi kêu la nhiều. Có một hôm, tu sĩ Chính ốm, ốm ở đây ít ai bỏ ăn. Ở Cổng Trời, ôm phải không? Tốt. Tốt lăm! Nếu ốm chết thì hay quá: Khỏi phải giết! Đỡ mệt hơn.

Hôm ấy tu sĩ Chính bỏ ăn. Ông rất ít khi ốm, từ Bất Bạt tôi thấy ông không ốm bao giờ tuy rằng ông rất gầy và xanh. Nhưng sự chịu đựng gian khổ, đầy đọa của ông thì tôi phải ngã mũ kính cẩn vái chào.

Lúc nào cũng ôn tồn, nhỏ nhẹ, điềm tĩnh cười nói như không cho dù có điều gì xảy ra.

Tôi còn mấy viên thuốc cảm, đưa ông dùng ông bảo không sao đâu. Chỉ có miệng ông đắng và bụng ông nó không ổn, thế thôi. Buổi chiều qua đi ông cũng bỏ cơm. Chúng tôi thường ăn vào độ ba, bốn giờ chiều. Cám mọi hình thức nấu nước đun lại. Với chúng tôi chín giờ đêm là khuya rôi. Tu sĩ Chính lay tôi dậy và bảo:

"Vĩnh ăn hộ tôi đi, chứ để mai thiu, bỏ đi. Phí của lắm."

Tại sao tôi lại có thể ăn xuất cơm của tu sĩ Chính như thế được chứ. Tôi từ chối: Tu sĩ cố ăn đi chứ?

"Thật tình tôi đắng miệng lắm, và bụng tôi nó nóng như lửa, quặn đau lắm, không thể ăn được. Vĩnh ăn hộ tôi đi."

Không để đến mai thì phải đổ đi mất! Họ có cho đun đâu mà bảo nấu lại được.

"Ăn đi. Ăn hộ tôi, khỏi phí. Vĩnh ạ."

Nếu Vĩnh không ăn, sáng mai nhà bếp nó lên nó lấy đồ cho lợn thì uổng lắm Vĩnh ạ.

Tôi nghĩ thấy đúng như ông nói. Ở các trại duới, cơm có thể phơi khô để dành. Chứ còn ở đây, thì chỉ còn có đổ xuống nhà bếp cho lợn ăn mà thôi.

Thế thì tại sao lại cho lợn ăn nhỉ? Trong khi ấy tôi đói, tôi đói lắm, tôi thèm lắm. Tôi thấy thế và nghĩ đúng như thế.

Lúc đó đã là 10 giờ đêm rồi:

Thế là tôi ăn hai xuất cơm đó, các vị đọc tới đây, tất có vị sẽ chửi rủa tôi. Xin các vị cố hiểu mà đánh chữ đại xá cho.

Tôi ăn, ăn cả hai xuất cơm canh trong nháy mắt và nằm ngủ.

Ngủ yên và say cho đến sáng. Lâu lắm tôi mới được "sínđề" và được một bữa tương đối.

Cám ơn tu sĩ Chính tức Nhẫn. Cám ơn nhiều.

Sáng hôm sau, như thường lệ, mọi người và cả tu sĩ Chính dậy sớm cầu kinh và ông bảo tôi ông thấy đỡ nhiều. Chỉ đến chiều hôm ấy, tôi đã hiểu ra là tu sĩ đã nhịn cho tôi ăn.

Cám ơn ông. Cho đến tận hôm nay ba mươi năm trôi qua tôi vẫn còn món nợ đối với ông mà không thể nào trả được.

Chỉ còn biết cầu Chúa, để Chúa biết đến sự hy sinh cao cả của ông, đến sự vất vả nhọc nhằn của ông khi ông vác cây thánh giá của Chúa theo Chúa đến chết.

Cầu sao cho linh hồn ông được tới thiên đàng.

Sáng hôm thứ hai của sự tuyệt thực, tù lại khênh cơm lên.

Quản giáo lại đứng đấy để giám sát. Không ai nhúc nhích gì. Không ai ăn cả, kể cả tôi. Lúc ấy tu sĩ Chính đứng dậy cầm bát chia cơm canh của tôi ra cái thùng gỗ của nhóm năm người, tôi vẫn ăn cùng với tu sĩ. Tu sĩ Chính xúc vào bát của tôi, cơm canh đầy đặn và lặng lẽ bê đến trước mặt tôi.

"Đây phần của anh, anh ăn đi và về ngồi lại ở chỗ mình."

Một lần nữa tôi lại xin các vị cố hiểu cho tôi và bỏ qua cho tôi.

Tôi không theo đạo Thiên Chúa và không làm dấu thánh bao giờ.

Tôi ăn. Hà tất gì tôi lại nhịn không ăn. Không có điều gì thúc đẩy buộc tôi bắt tôi không ăn cả.

Tôi nghĩ đúng như vậy.

Nhân cơ hội ấy. Quản Giáo bèn lên tiếng:

"Đấy các anh thấy không? Anh Vĩnh, anh ấy ăn cơm không cần làm dấu thánh. Có sao đâu nào. Anh ấy vẫn ăn được một cách ngon lành, thế thì tại sao các anh lại không ăn?

Các anh là đồ ngu dốt, cuồng trí, dại dột dám chống lại Đảng và Chính phủ.

Rồi các anh sẽ biết.

Không một tu sĩ nào trả lời đáp lại.

Có tôi lên tiếng:

"Xin lỗi ông, chắc ông đọc lý lịch của tôi thì ông đã rõ, tôi không theo đạo nào cả? Phật không, chúa cũng không, mà lệnh của các ông thì chỉ có cấm làm dấu thánh trước khi ăn mà thôi. Tôi, tôi từ thuở cha sinh mẹ đẻ chưa làm dấu thánh bao giờ. Vì vậy tôi ăn có thế thôi."

Đứng cho đến lúc tôi ăn xong. Quản giáo thấy trơ trẽn quá, quay gót khóa cửa ra về.

Đến buổi chiều không thấy mặt ai cả. Cả Giám thị, cả Quản giáo cả lính coi tù.

Tu sĩ Chính đứng dậy chia cơm cho một mình tôi. Tôi ăn.

Các đấng bậc và kể cả T.H Liệu cũng không ăn.

Hai ngày trôi qua.

Sáng hôm thứ ba tù khênh các thùng cơm canh nguội lạnh còn nguyên xuống nhà bếp và rồi lại khênh lên với cơm canh mới hãy còn nóng.

Không có ai đi kèm.

Ban Giám thị không.

Quản giáo không.

Khênh cơm canh vào buồng. Khóa cửa lại.

Chia đều.

Và các đấng bậc tu sĩ lại làm dấu thánh trước khi ăn.

Chẳng ai cười cợt, nói năng, hát hò, reo vui gì trước cuộc đấu tranh đã dành được thắng lợi lẫy lừng và vang dội đó (như các bài báo của Cộng Sản mà tôi đã đọc riết về các cuộc tuyệt thực của họ cả)

Và cuộc sống của chúng tôi lại lặng lẽ trôi như thế cho đến khi tôi được về và các vị còn lại chết hết.

» Tác giả: Song Thao

» Dịch giả:

» Thể lọai: Phiếm

» Số lần xem: 3970

1. Tù

Nhiều tháng trước tháng tư năm 1975 có một khóa huấn luyện nhiều ngày về cải cách hành chánh cho các cấp chỉ huy các Bộ Sở Trung ương tại Trung Tâm Chí Linh, Vũng Tàu. Trong một buổi tối trước khi ngủ, chúng tôi nằm trên những chiếc giường cá nhân tán chuyện gẫu với nhau. Một anh bỗng cầm tay tôi, nhìn sơ qua, rồi kéo tôi ra chỗ ánh đèn sáng nhất săm soi nhìn bàn tay tôi. Anh không nói gì. Anh xem chỉ tay tiếp cho một số người khác. Mỗi lần coi xong, anh vẫn ngậm miệng rồi vội vàng chụp một bàn tay khác. Anh nằm vật ra giường, mặt đần ra. Mọi người xúm vào gặng hỏi mãi, anh mới dè dặt nói. Lạ quá! Sao lạ vậy cà? Tôi coi số ông nào cũng đi tù cả là làm sao? Chúng tôi phá ra cười. Rồi tranh nhau bình… loạn. Xem nào, chắc mắt ông có chữ tù dính vào rồi chứ gì! Giải nghệ đi cho rồi ông thày ơi! Một giọng nói từ góc phòng bắn ra. Thì tù cha nó hết cả chứ còn gì nữa! Tụi mình đang xổng tù đây này. Tôi cá với các ông là những bà cai tù ở nhà giờ này đang tưởng tượng đủ thứ cho lũ tù xổng chuồng này đấy! Câu chuyện qua đi. Coi như một chuyện vui. Tới khi gặp nhau lại trong cái gọi là trại học tập cải tạo, chúng tôi mới phục tài ông bạn xem chỉ tay. Thì tù cả nút chứ còn gì nữa!

 

Không bao giờ nghĩ là mình đi tù nên khi vào tù người cứ bàng hoàng ngơ ngẩn. Chúng tôi bị đẩy vào một hoàn cảnh không ngờ một cách chóng vánh nên người như chết trân, chẳng còn phản ứng gì được. Người có tính lo xa, chán nản, buồn khổ thì rơi vào tình trạng rầu rĩ quá mức. Người có tính bất cần, mặc mẹ nó, tới đâu hay tới đó, chết là cùng chứ gì thì tỉnh bơ ngồi xổm lên trên hoàn cảnh. Chúng tôi ở thái cực này hoặc thái cực khác. Khi con người đã lâm vào ngõ cụt, chẳng toan tính gì được nữa thì coi mọi sự như pha. Chúng tôi vẫn nghịch ngợm với nhau. Những con người cùng một tâm trạng tìm tới với nhau.

 

Một bữa, tôi tìm tới chỗ nằm của anh tu bíp bất cần có biệt danh là Bác sĩ Django. Này ông, ở trong này được cái tiện là đi bác sĩ dễ dàng quá , cứ quần xà lỏn áo may ô là xong ngay! Anh Dzango trợn mắt quát. Ăn nói đúng quá nhỉ! Bệnh gì, khai ra? Tôi cười cười. Bệnh đau bụng! Lại quát. Ăn uống có cái đếch gì đâu mà đau bụng! Quái nhỉ! Kể lể. Chẳng là sáng nay có thằng bạn đi ngoại giao đâu được cái bánh giò bằng nắm tay, nó chia cho một miếng nhỏ, ăn vào là thấy đau bụng! Nạt nộ. Bánh có nhân thịt không? Gật đầu. Có! Nhưng chỉ một chút bằng đầu ngón tay út! Thở phào. Đấy! Bệnh là ở đấy đấy. Cậu lâu ngày không được ăn thịt, bao tử nó quen rồi. Bây giờ tự nhiên (nuốt nước miếng) nhét thịt vô đau là cái chắc. Cho đáng kiếp! Ôm bụng. Làm sao bây giờ? Lên giọng. Lần sau, nếu bạn bè có cho bánh giò thì cậu cứ đưa tớ ăn cho là xong!

 

Ông bạn đồng liêu xưa và đồng tù nay một bữa kéo tôi ra một góc sân, ghé vào tai nói như nói thầm. Đố cậu biết Hiệp Định Ba Lê có bao nhiêu điều? Ông này bỗng nhiên dở chứng. Vừa lên lớp nghe nói ra rả về cái hiệp định bị xé toang hoang ra chưa chán hay sao mà còn bày đặt vấn. Bực mình. Nó có bao nhiêu điều thì kệ mẹ nó! Vẫn nụ cười trên môi, ông bạn tự trả lời. Nổi nóng chi vậy? Hiệp Định Ba Lê chỉ có một điều: Điều 21! Tôi phá ra cười. Chẳng là giảng viên chính trị sáng nay cứ thao thao mắng Đế Quốc Mỹ không chịu thi hành điều 21 của hiệp định là bồi thường chiến tranh cho Việt Nam! Những điều khác lơ đi hết.

 

Ông tù nằm bên cạnh tôi là một ông Giám Đốc già. Già là trông thấy ông già chứ tuổi ông chưa quá năm mươi. Vợ con moa đi hết rồi. Moa muốn đi thì đã đi từ trước ngày 25 rồi! Hỏi móc. Sao bố không đi? Cười trừ. Thế mới nói! Ông bạn đồng sự với ông Giám Đốc cười xoạc ra tới mang tai. Thế mới vào tù. Bố mày mê em út nên dính chân dính cẳng. Bây giờ bố ở tù chắc em kiếm kép khác chứ chờ gì được bố! Bố già hực lên, cười nhạt. Tối hôm đó, trằn trọc chẳng ngủ được, tôi… đặt lời nhạc. Bài ca chúng tôi bị bắt hát ra rả ngày nọ qua ngày kia là bài Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây được tôi cải biên. Sáng hôm sau, tôi kêu anh bạn đồng sự với bố già ra rỉ tai hát cho nghe. Anh cười sằng sặc, kêu bố ra. Thằng này nó giễu bố đấy bố ơi! Bố có muốn nghe không? Cười. Sợ đếch gì mà không nghe! Tôi hát nho nhỏ đủ cho hai người nghe. Cùng đứng ngắm chung một vầng trăng/ Hai đứa ở hai đầu xa thẳm./ Đường ra về mùa này đẹp lắm./ Người bên Đông nhớ người bên Tây/ Ở bên Đông anh ăn, anh ăn khoai sắn hơi nhiều/ Con đường cải tạo khó khăn gập ghềnh cho đời anh nát/ Hết rắn rồi anh bắt cóc anh ăn!/ Còn bên Tây em sống vẫn phây phây/ Hết ăn rồi lái xe đi tìm kép/ Biết rằng em bắt được kép lạ/ Chắc em quên đời có anh rồi!/ Em lên xe trời đổ cơn mưa/ Chiếc quạt nước xua đi nỗi nhớ/ Anh gánh nước, nắng về rực rỡ, chiếc đòn ngang nặng chĩu thân khom./ Từ bên anh đưa sang bên em/ Những cơn dài nhớ nhung hàng vạn kiếp… Bố cười. Nụ cười trông khá xộc xệch!

 

Tìm vui trong tù, khó lắm. Nhưng hình như chúng tôi tìm vui hơi trễ. Ông Cao Xuân Huy bày cuộc vui sớm hơn nhiều. Trong cuốn hồi ký “Tháng Ba Gãy Súng”, nhà văn nhiều máu tếu này đã kể lại lúc bị bắt làm tù binh. Khi đoàn quân Thủy Quân Lục Chiến di tản bị kẹt lại đã hết phương chống đỡ, bị Việt Cộng bắt, họ… giỡn ngay tức thời.

 

“Có tiếng nói từ trong đám tù binh.

- Yêu cầu cho nước uống

Nhiều tiếng khác vang lên, lúc đầu còn rời rạc, càng lúc càng ăn nhịp dần, cuối cùng có cả tiếng vỗ tay bắt nhịp.

- Nước! Nước! Nước!

Cứ như vậy cho đến khi nước uống được hai ả du kích cái mang ra.

Nhiều người bu lại uống nước, lúc đầu còn uống tử tế, đến thùng thứ ba được mang ra, cũng vẫn nhiều người bu lại, nhưng chỉ một số người uống nước, số khác giả vờ chen lấn giành nước để bóp vú hai ả du kích.

Nhiều tiếng chí chóe vang lên. Tên Việt Cộng đứng ngoài hắng giọng hỏi.

- Cái gì ồn ào thế?

Thùng nước được hất đổ kèm theo nhiều tiếng nói.

- Hết nước rồi, yêu cầu cho thêm.

Tên Việt Cộng đứng ngoài ra lệnh.

- Đề nghị hai đồng chí mang thêm nước.

Khi thùng nước kế tiếp được mang ra, màn bóp vú lại tái diễn, và khi hai nữ đồng chí được đề nghị mang thêm nước lần nữa thì trốn luôn.

Không còn nước, không còn đàn bà, mọi người ngồi trở lại trong hàng. Một người lính vừa ngồi xuống bên cạnh quay sang nhìn tôi cười.

- Đụ mẹ, bị bắt mà còn được bóp vú Việt cộng, đã quá!”

 

Sống trong tù là sống trong sự bấp bênh. Người ta phó mặc cho số mạng. Nếu Chí Phèo lâm vào bước đường cùng nằm lăn ra ăn vạ thì dân tù chúng tôi khi bất lực với cuộc đời mình coi đời như pha. Đời trôi thì mặc xác nó trôi.

 

Về đây nắng buốt cả ngày,

Trưa không buồn ngủ ngồi say thuốc lào.

Saigon gần biết là bao

Mà xa như cả vì sao trên trời.

Ngoài sân chiếc lá vàng rơi

Khoanh tay ngồi để sự đời trôi qua.

(Tạ Ký)

 

Sự đời trong tù nhiều khi khá bi hài. Trong hồi ký tù “Đại Học Máu”, nhà văn Hà Thúc Sinh vẽ lại một trong những hoạt cảnh bi hài đó.

 

“Một đám tù đương đứng tắm “chuổng cời” cạnh giếng. Bỗng nhiên quản giáo Dương xuất hiện, nhanh quá không ai kịp mặc quần áo. Những người nhanh chân nhảy ngay đến những cái phuy đặt rải rác quanh giếng để giấu đi một phần thân thể. Bùi Vịnh, chậm chạp, khi ngó lại thì không còn cái phuy nào cả, anh đành đứng yên tại chỗ và giơ tay bụm lấy “chim”… Quản giáo Dương bỗng mỉm cười ác độc. Hắn hét bảo Bùi Vịnh: “Mày bỏ tay ra và giơ cao lên cho tao coi”. Thân tù, Bùi Vịnh không thể nào làm được cái gì khác hơn là tuân lệnh. Anh đứng giữa sân, hai tay giơ cao, tồng ngồng như một con vượn. Tên Dương lừ một ánh mắt khinh bỉ rồi chửi: “Mày có thấy mày dơ dáng dại hình không? Mày phải nhớ rằng mày thua một con vật xét trên mặt tư cách.Vì con vật nó còn có cái đuôi, nó biết dùng cái đuôi để che giấu đi những cái không đáng khoe ra. Mày nhìn lại mày coi…” Trong khi quản giáo Dương đang chửi mắng thậm tệ thì quản giáo Hồng từ nhà 2 bước ra phía giếng, không cần để ý đến sự có mặt của Dương, hắn hét mấy thằng tù đang lâm nạn: “Mặc quần áo đi vào trong nhà tôi nói chuyện”. Quản giáo Dương nhìn Hồng uất ức ra mặt, nhưng có lẽ đã quá rõ tính Hồng nóng nẩy, lại mang quân hàm Trung Úy trong khi hắn chỉ là Chuẩn Úy, hắn đành hậm hực bỏ đi một nước. Khi thấy Dương bỏ đi, Hồng quay lại đám tù cười cười nói nói một câu không ai ngờ: “Muốn tắm nữa thì cứ tắm đi. Nhưng đừng tắm truồng trước mặt nó. Thằng ấy nó mất vợ về tay ngụy các anh đấy. Cứ giơ b… ra trước mặt nó, nó thấy lẫm liệt, nó lại liên tưởng đến chuyện xưa và đâm uất lên”.

 

Chuyện tắm táp luôn luôn là một chuyện khôi hài. Nó giúp vui cho những tháng ngày thiếu chuyện vui của chúng tôi. Thường thì tù đàn ông với nhau cả, cứ… thiên nhiên như đang ở bãi tắm tiên! Tại trại Long Thành chúng tôi có quây được một khoảnh đất rộng chừng 4 thước mỗi bề. Đi lao động về là ùa nhau xách nước ra tắm. Người đông, chỗ tắm chật hẹp, dân làng tếu không phải là ít, mỗi người một câu, mua cho nhau được tiếng cười. Nhưng nhiều khi câu tếu nặng quá, nhất là cái tếu nhắm vào cái đàn ông nhất trong các món đàn ông, mất vui đã đành, còn gây thêm những trận khẩu chiến khi nhỏ khi lớn. Nhìn các bạn đồng tù cãi lộn nhau , đôi khi vì những lời nói rất trẻ con, tôi chẳng thể nghĩ được là chỉ mới mấy tháng trước đây, họ đều là những bậc mẫu nghi thiên hạ, đi đứng nói năng rất là… cấp lớn!

 

Chuyện tiện nhỏ cũng là chuyện dài. Nhà tiểu tiện là một đường mương chảy xuống một cái hố đào. Thứ nước gọi là nước thải không được coi như là nước thải. Nó cũng có… nhiệm vụ đàng hoàng. Mỗi đội đều ra hố múc lên để tưới vườn rau cải thiện của đội. Nhu cầu thì nhiều mà các nhà máy lọc làm việc không đủ chỉ tiêu nên thường thường phải tranh nhau vơ vét. Một buổi sáng sớm, khi anh em ra giải thủy đón ánh mặt trời, bỗng thấy nhà tiểu được tân trang. Nơi một góc có một cái phễu lớn nối tiếp bằng một ống máng dẫn ra một cái thùng phuy đặt ở phía ngoài. Một anh đội trưởng đã có sáng kiến đặt hệ thống… dẫn thủy nhập điền này để tranh nước thải về đội mình. Nhiều anh không thích cái trò phỗng tay trên này nên cương quyết không phóng tia nước vào phễu. Anh đội trưởng có sáng kiến bèn phải nỉ non năn nỉ. Một cây tếu đã lớn giọng mắng mỏ rất… cách mạng: “Các ông là thứ bóc lột tinh vi nhất. Biết rằng chúng tôi chẳng còn cóc gì để bóc lột, các ông bóc lột cả cái thứ mà chúng tôi chẳng thể giữ trong người được! Biết không?”

 

Cứ bóc lột nhau những niềm vui, chúng tôi sống qua ngày. Niềm vui thanh tao nhất là làm thơ. Thơ tâm sự thì giữ kín trong đầu. Hé ra “ăng ten” chúng nghe được lên mách bu thì bị gọi lên làm việc phát mệt. Cứ thơ… thẩn cho nó vui cửa vui nhà. Trại Long Thành có một khu nhà nữ biệt lập giam giữ các nữ dân biểu, công chức và cả bà Bí thư của Tổng thống. Đó là khu vườn hoa của đám tù nam. Những đóa hoa này cao sang lắm. Nhìn các chị tay vo giấy đi ra nhà số một, thế mà cũng ra thơ. Tay tiên cầm giấy lụa đào… Nhưng thú vị nhất là làm thơ đối đáp. Một anh giả danh các chị ra thơ.

 

Thiếp ở bên này có máy may

Cớ sao quân tử lại may tay?

Hôm nào rỗi rảnh qua chơi thiếp

Đôi ta khẩn trương máy tối ngày!

Một… thi sĩ khác bèn trả lời.

Biết rằng nương tử có máy may

Bên này chúng tớ vẫn may tay

Cơm ngày hai bữa ăn như thế

Sức đâu mà rủ máy tối ngày!

 

Chuyện muôn thuở vẫn là chuyện ông Adam và bà Eva. Những anh Adam bị giam giữ nơi nhà tù lâu ngày chẳng tránh được những phút ngơ ngẩn. Sau này, khi thời gian ở tù đã lâu mà ngày về vẫn thăm thẳm mù mịt, cách mạng bầy ra trò cho vợ lên thăm nuôi 24 tiếng. Không phải ai cũng được… đặc ân này. Phải có điều kiện này kia. Đó là một thứ phần thưởng mà người treo giải chẳng mất gì nhưng người thi đua tiến bộ vẫn cứ phải thi đua. Biết là bất nhẫn nhưng phần thưởng lớn lao quá nhắm mắt sao đành. Khi tù được lệnh dựng những chiếc lều tranh nơi khu thăm nuôi được đặt tên là “Nhà Hạnh Phúc” thì dân tù đã nao nức lắm. Nhà sử học Tạ Chí Đại Trường, trong hồi ký “Một Khoảnh Việt Nam Cộng Hòa Nối Dài” đã kể lại.

 

“Một đơn vị ở Kà Tum (Tây Ninh) nghĩ ra một cách thăm nuôi đặc biệt: cho phép vợ chồng những người “cải tạo tiến bộ” được gặp mặt nhau trong 24 tiếng đồng hồ. Một dãy nhà lá được dựng lên trong rừng, ngăn riêng từng phòng cho các cặp vợ chồng nghỉ đêm. Ta có thể hình dung ra sự hỗn loạn vồ vập của bọn thanh niên sung sức bất ngờ bị ngăn cấm lâu ngày. Các cô vợ sáng ra bơ phờ phải để các bà già đi thăm con dìu về… Nhưng cũng có người đàn bà thật cứng cỏi: “Anh biết họ quan niệm như thế nào khi cho tổ chức cuộc gặp gỡ như thế này. Dưới mắt họ, bọn ngụy đều là những kẻ chỉ biết sống bằng nhục dục, như súc vật. Em hiểu tình trạng anh bây giờ, nhưng anh hãy nghĩ lại coi, anh có thể chịu đựng sự khinh miệt ấy không. Em cho rằng dù là trường hợp riêng lẻ, chúng ta cũng phải chứng tỏ chúng ta không như họ nghĩ. Nếu trời thương anh được trở về thì chúng ta còn được dịp sum họp. Anh hãy an lòng, em vẫn đợi và không làm điều gì đắc tội với anh…” Đêm hôm đó, hai vợ chồng kéo tấm vải ra ngoài sân nhìn trời sao, chờ sáng. Anh chồng vui nói với bạn bè: “Nó nói phải, tao phục lăn, mà ấm ức quá!”

 

Niềm vui chẳng bao giờ được trọn vẹn, kể cả những niềm vui hiếm hoi trong hoàn cảnh ngặt nghèo!

 

Đọc tới đây chắc có nhiều bạn sẽ théc méc. Tù vui nhỉ? Tù vui tại vì đây là tù… phiếm! Những niềm vui cố tìm kiếm của chúng tôi trong những năm tháng tù đầy chỉ như những khoảnh khắc chúng tôi trồi lên khỏi mặt nước để thở. Những đầy ải phải chịu khi bị dìm sâu xuống dòng nước, chúng tôi ít muốn nhớ tới, và nhắc tới. Tủi nhục không phải là một thứ dễ mà quên được.

Phố nhà binh

» Tác giả: Chu Lai

» Dịch giả:

» Thể lọai: Truyện ngắn

» Số lần xem: 6040

1. Phố nhà binh

Tất nhiên căn phố dài một ngàn hai trăm mét đó có tên gọi đàng hoàng nhưng lâu nay, do quen miệng, người ta cứ kêu là phố Nhà binh cho khỏi lẫn với các khu phố dân sự khác.

Chỉ mới cách đây chừng đôi ba năm thôi, cảnh sắc nơi này còn vắng lặng thâm trầm lắm. Dường như tất cả các căn hộ to nhỏ, ngắn dài đều bảo nhau khinh khỉnh xây lưng ra đường, khiến cho dãy phố đã tăm tối lại càng hun hút nỗi đe dọa rập rình mỗi khi ai đó có việc phải đi sớm về khuya qua đây. Chao ôi là những đêm đông khuya khoắt, cả dãy phố chỉ độc tôn còn lại tiếng giày đinh quân cảnh gõ uể oải hai bên hè, tiếng trai gái run rẩy thì thầm nhòa chìm vào những vùng tối gốc cây và tiếng cành sấu khô rụng đơn côi xuống mặt đường mỗi khi có làn gió lạnh thổi qua...

Vậy mà bỗng một ngày, lại như tuân thủ nhất loạt một khẩu lệnh của đấng toàn năng, sau vài đêm hỗi hả đục tường, trổ cửa, nới mái... phắt một cái, các căn hộ rùng rùng chuyển động ngỡ ngàng quay mặt ra với cuộc đời. Bao mảng tường rêu phong tựa hồ đã bị bỏ quên hàng ngàn năm in nhờ nhờ dấu chịn ngọt ngào của thân người bỗng phát khởi thành những khuôn sáng vuông tròn chan hòa đủ màu đỏ, vàng, xanh, của đủ loại kiốt thấp cao: mỹ phẩm, uốn sấy tóc, photocopi, giày dép da, điện lạnh, cà phê Berr, cà phê Noa, bún phở, xe máy, thuê và ghi hình video và sự sang trọng đến ngốt người của các đại diện giao dịch Mếch này, Tếch kia... Phố nhà binh ngày ngày bị phá vỡ cấu trúc từ bên trong để hóa thân thành một khu phố thương mại náo hoạt. Và người nhà binh cũng tự vặn mình phá vỡ mọi mặc cảm, định kiến, mảnh giáp trụ quân phục, vị thế cố hữu của phẩm hàm tướng tá, gia phong gia phả... để cố gắng hòa nhập vào dòng đời đang cuộn chảy bên ngoài, mong tìm được cuộc sống khả dĩ còn gọi được là... Cuộc sống.

Tôi cũng có một anh bạn thân ngụ tại một căn hộ trong phố đó mà mỗi khi về Hà Nội, tôi không thể không ghé qua ăn nghỉ. Sau một ly rượu ngà ngà, nhìn Thẩm (tên người bạn) trẻ trung, cường tráng, lanh lợi và có đôi phần viên mãn, lại liếc nhìn căn hộ hai buồng không to tát nhưng xinh xắn, tiện nghi và ấm cúng, tôi bất giác buột miệng nói ra một câu mà đáng lẽ ở vào cái tuổi tôi chẳng nên nói:

- Giả dụ như mình Thẩm ạ... Tất nhiên nói theo cảm nhận cá nhân thì... thì mình...

- Thì dù có ăn rau ăn cháo, một thằng đàn ông chân chính không bao giờ được phép để vợ đi như thế chứ gì? - Thẩm nói tiếp hộ tôi với cái cười dễ dãi, rất tươi - Khỏi lo đi! Mỗi người một quan niệm, mỗi người một hoàn cảnh, một phận số, mình tin ở cô ấy. Mà... Hả? Dù có thế đi nữa thì đã làm sao nào? Miễn là khi cô ấy trở về, bọn mình sẽ sống ổn hơn, nhân quyền hơn, tương lai con bé Hương Thảo sẽ được đảm bảo. Ðó là cái chính, chứ ông bảo lứa bọn mình còn làm được gì nữa, coi như bỏ đi rồi. Hả?

Nó "hả" cái kiểu nện quả tạ vào mặt người ta như thế thì còn cách nào khác là lặng lẽ gật đầu. Rồi tôi cũng bỗng dưng bật cười vì cái suy nghĩ ngồ ngộ rằng không còn nhận ra thằng Thẩm ngày xưa nữa. Một thằng Thẩm to cao như lực sĩ, cười ha hả, giọng oang oác, vui chửi tục, buồn cũng chửi tục, mặt mày lúc nào cũng tươi tỉnh rỡ ràng như sắp sửa vào cơn hưng phấn. Còn giờ đây, bộ pi gia ma trưởng giả đã thay thế cho chiếc quần cụt thể thao nó thường mặc ở nhà, thoạt trông giống như cái thằng đàn ông mắc bệnh phong tình, bữa cơm đã có cốc nước đá lạnh để cạnh mâm, vừa ăn vừa chiêu dần dà, xem ra lời ăn tiếng nói, dáng đi dáng đứng đã mềm mại khoan thai lên nhiều lắm. Còn Hương, vợ Thẩm, vốn là con một vị tướng tư lệnh binh chủng, Căn hộ hai buồng dễ thương này là ông cho con gái rượu. Trước đây hai người cùng công tác trong một đơn vị công binh cầu đường, chỉ khác kẻ ở văn phòng, người nằm sâu dưới đơn vị. Yêu cái vẻ yêng hùng chiến trận, yêu tính cách đàn ông khoáng đạt bạo liệt của chàng kỹ sư tiểu đoàn trưởng vốn gốc gác con nhà làm ruộng, cô đã lạnh lẽo khước từ không ít chàng trai tốt người đẹp mẽ, học vị đến nơi, lại con nhà môn đăng hộ đối để chấp nhận tình yêu của Thẩm, tất nhiên sau khi đã quần cho cu cậu chỉ còn thiếu nước đập đầu vào tường.

- Này - Tôi hỏi - Ðằng nào thì cậu cũng đã trót khoét tường, trổ cửa rồi, cớ sao không cho thiên hạ thuê mở cửa hàng mỗi tháng kiếm vài trăm ngàn nuôi con?

- Chả bõ. Thà đất đai rộng rãi như mấy ông tướng về hưu ở phố này, mỗi tháng ít nhất cũng trên dưới một triệu tiền cho thuê mặt bằng thì lại đi một nhẽ. Nói đùa! Chờ mẹ bé Hương Thảo về đã. Hình như cô ấy có ý định làm ăn lớn, cứ nhắn về là đừng ham lợi nhỏ, tập trung cho con bé có khoảng tĩnh tối thiểu để học hành, chớ để con sớm va đập vào chuyện buôn bán lời lãi, méo mó đầu óc đi. Mình ô kê ngay! Nàng còn dặn: ba tháng sẽ gửi về một va li, nửa năm gửi về một cái kích, cứ bán đi mà tiêu, đừng dành dụm.

- Cậu hạnh phúc thật!

- Thật lòng đấy chứ?

- Hương vẫn như ngày nào, đảm đang, tốt bụng và rộng rãi.

- Còn cậu - Ðôi mắt khá đẹp của Thẩm ánh lên vẻ cảm động chấp chới - Cũng phải tìm đường làm một cú mã hồi về Hà Nội đi. Hơn bốn chục tuổi mà vẫn cứ thanh gươm yên ngựa mãi?

- Stop - Tôi lấy lại cái giọng của Thẩm - Mỗi người một quan niệm, một lối sống. Dòng người còn trôi chảy dài dài, cứ thử xem từng số phận sẽ lênh đênh đến đâu. Dẹp! Kiếm rượu uống bậy cái đã.

Thế đấy! Không gặp thì nhớ, gặp rồi lại thường cãi lộn những chuyện không đâu và bao giờ cũng được kết thúc bằng mấy chén rượu cay nồng ở cái quán chè khuya gần đầu đường như thế!

Phố vắng, gió lạnh, ngọn đèn dầu cháy thắc thỏm, các cánh cửa chính, cửa sổ của mọi ngôi nhà đã lần lượt được khép kín, xa lắm mới có một tiếng rao bán bánh khúc nóng khàn khàn vẳng đến. Có lẽ chỉ về đêm, cái phố nhà binh đang biến tướng này mới yếu ớt phục hồi lại cái vẻ thâm trầm xưa cũ. Vẫn lại tiếng cành sấu rơi, tiếng đế giày quân cảnh, tiếng quét rác... Chỉ khác, cả chiều dài dãy phố không còn những cặp tình nhân đứng lả người trong tay nhau.

Khoảnh khắc ấy, tầm mắt đã có chiều bảng lảng của tôi không hiểu sao lại vô cớ ngập ngừng dừng ở góc phố, nơi có một gia đình nhỏ đang loay hoay tìm chỗ ngủ đêm. Một luồng đèn pha xe máy từ đâu đó xa lắm quét tới, đủ cho tôi kịp nhận ra đó là một cặp có vẻ là vợ chồng, một cởi trần vận quần đùi hay vận khố gì đó, một bế đứa con đang ngủ tựa một cái xác trên tay. Vang lên tiếng nhai mía rôm rốp của người đàn ông và tiếng nựng à ơi vụng dại nhọc nhằn của người đàn bà...

- Uống đi, để ý làm gì, cảnh đời thường ở đâu chẳng có.

Mặc Thẩm huých nhẹ vào vai, mắt tôi vẫn dán vào đấy.

- Ðôi vợ chồng từ quê lên ăn xin à? Hay dân Phúc Xá chạy lụt?... Nhưng mùa này đâu có phải là mùa lũ?

- Không biết!

- Hay dân chạy chợ, dân lỡ độ đường? Có cả đứa bé nữa kia kìa!

- Ơ hay cái cậu này! - Giọng Thẩm đã cao lên - Ra đây uống rượu hay điều tra xã hội học đấy?

- ờ... Vừa có tốp quân cảnh đi qua, sao không thấy họ xua đuổi như mọi bận?

- Ðuổi cả tỉnh, cả nước - Thẩm gắt khẽ - Nếu xỉn rồi thì mời ông về ngủ, ông ạ!

Có lẽ động lòng trước cái vẻ ngơ ngơ của một kẻ ở xa đến như tôi, chị hàng nước lúc này mới cất tiếng khẽ khàng.

- Họ đã cư trú ở đây gần một năm rồi đấy chú ạ! Tội lắm! Mưa thì chạy vào núp trong hàng hiên toà báo, tạnh lại dắt díu nhau ra đây. Mùa hè còn đỡ, đông về, cha con vợ chồng ôm nhau thành một cục tránh gió. Cũng có đận họ bỏ đi đâu cả tháng, tưởng đi luôn cũng mừng, nhưng rồi lại thấy họ trở về xơ xác, tiều tụy hơn. Ðứa bé này mới sinh được có sáu tháng. Con gái, còi cọc chỉ bằng đứa mới nở.

- Sinh ngay trên hè phố ạ? - Tôi buột miệng.

- Còn chỗ nào khác nữa!

- Trời đất! ¡n ở vật vã thế này mà lại còn bày chuyện đẻ đái! Rồi đứa bé sẽ

ra sao? Rồi họ lấy gì mà sống?

- Vậy mà vẫn sống đấy - Chị hàng nước cười hiền từ - Sống quấn quít đáo để. Còn đứa nhỏ, dường như ông trời cũng thương, cấm có bệnh tật sài đẹn bao giờ.

- Hết chưa? - Thẩm đột ngột đứng dậy.

- Cái gì hết?

Thẩm bật cười:

- Là tôi hỏi cái cơn tò mò của cậu đã qua chưa?

- Cậu về trước đi! - Ðến lượt tôi gắt lại - Cứ mặc tôi ngồi đây một mình.

- Tuỳ! Cấp thêm cho cậu một thông tin để có cớ mà tò mò: người đang ngồi chuyện trò với cậu là một giáo sư đại học vừa về nghỉ tạm không ăn lương.

Nói xong, Thẩm quay người đi vào. Ðến lúc này tôi mới chú mục nhìn chị bán quán. Khoảng bốn mươi nhăm tuổi, tóc uốn cao, cặp mắt hay nhìn lơ đãng lên vòm cây, miệng thi thoảng lại cố tạo ra một cái cười mỉm nhẫn nại.

- Xin lỗi! Chị dạy ở trường nào ạ? - Tôi hỏi.

- Thôi! Biết làm gì chú. Mỗi người một cảnh, chẳng nên nói ra, mà có nói cũng đâu có ai thông cảm, có khi còn gây bực mình. Ðấy, cứ ngẫm như cái đôi vợ chồng khốn khổ kia kìa. ở đã mòn cả vỉa hè rồi nhưng tịnh chưa thấy một ai tỏ ý giúp đỡ, chưa thấy một ai hỏi han trò chuyện nửa câu. Thiên hạ coi đó như việc tất nhiên, dễ hiểu. Buồn không? Ôi dào! - Chị thoắt thở dài - Cũng một kiếp người, đêm ôm nhau ngủ còng queo như con sâu cái kiến, ngày chồng bế con èo ẽo cho vợ đi kiếm tiền.

- Chị ta làm ở tổ sản xuất thủ công nào ạ?

- Tổ thủ công... chợ. Ra chợ, ai thuê gì làm đó, không ai thuê, nói phải tội, đành phải chôm chỉa, con móc túi. Miễn là có tiền. Nói vô phép chú, thậm chí có lần ông nhà tôi còn bắt gặp cô ta đi bắt khách ngoài ga. Khổ! Người ngợm cóc cáy, thịt da tong teo như thế có ma nào nó màng. Nếu có thì lại là mấy gã du côn, say rượu chơi quỵt, vừa chơi vừa trấn, có đồng nào mất hết.

- Anh chồng chấp nhận?

- Sao chú lại hỏi thế? Trên thế gian này thử hỏi có người chồng nào lại chấp nhận cho vợ mình đi làm cái việc kia, nhưng đói thì đầu gối phải bò thôi. Song cũng sầu thảm lắm! Hầu như không đêm nào cậu ta không đánh vợ, có bận đánh thâm tím cả mặt mày, tôi phải đỡ vào nhà lấy rượu mật gấu xoa bóp cho. Vậy mà chị ta không hề hé răng chửi lại, cãi lại một câu, cứ như con nô lệ tận tụy, cung cúc. Tối tối vẫn mang về cho chồng nào rượu, nào thuốc, có bữa còn khệ nệ cả một xoong to thứ bốc mả toàn xương bò.

- Vậy ra anh chồng lại chỉ lo làm nhiệm vụ trông con ạ?

- Cũng tùy lúc. Những buổi chiều mưa, nhìn cậu ấy bế con, mắt nhìn ảm đạm ngọn sấu già, thương lắm! Lại còn thỉnh thoảng ru con nữa chứ. Tiếng ru như tiếng nấc khan. Vào những ngày đông gió hay cô vợ ốm mệt, không ra chợ được, cậu ta trao con lại, một bị một gậy đi trèo sấu. Trèo cả ngày, có bận ngã trẹo xương vai, may lắm mới kiếm đủ tiền mua một vài cân gạo.

Nghe tới đó, tôi đứng dậy:

- Chị cho tôi mua gói thuốc.

- Thuốc gì?

- ... Du lịch thôi. Thuốc ngon hơn không đủ tiền. Lính mà.

- Ðừng lo, chú cứ cầm gói Hê rô, tất cả đã có chú Thẩm thanh toán. Chú ấy là con người đàng hoàng, trọng nghĩa khinh tài, thỉnh thoảng vẫn sai con bé Thảo đem ra cho đôi vợ chồng kia lúc thì hộp sữa, khi lại gói thuốc, cân đường. Mà... gói này vẫn đang còn nhiều, chú mua làm gì nữa?

- Muốn ra chuyện trò với họ một chút.

- Thôi đi chú ơi! Cậu ta chả mở miệng đâu. Suốt ngày lầm lì, buồn thì nhai mía, vui thì ngơ ngẩn cười, mắt lúc nào cũng gườm gườm như sắp sửa đánh nhau với ai. Có lẽ cậu ấy mặc cảm?

- Ðã khi nào chị nghĩ rằng cậu ta là người đã từng có tiền án chưa?

- Ôi giời, mấy cái ông này! Nhìn đâu cũng thấy tội phạm cả. Cậu ấy là bộ đội đấy, bộ đội đóng ở biên giới hết nghĩa vụ trở về. Nhà ở cách đây vài dãy phố thôi, nghe nói cũng khá giả và nền nếp. Vậy mà chả rõ phải lòng phải dạ, bắt tình bắt thóp nhau thế nào mà lúc trở về lại dẫn một cô gái giang hồ, gia đình làm nghề trồng mía về theo. Tức là cô gái này đấy. Tất nhiên là gia đình không chấp nhận, đuổi thẳng. Vậy là kéo nhau ra tá túc ở đây. Công an khu vực cũng đã có đôi phen làm dữ, tống xuất họ ra khỏi thành phố, đưa đi tập trung cải tạo ở tận đẩu tận đâu nhưng cũng chỉ ba bảy hai mốt ngày là đâu lại nguyên đấy. Rút cuộc công an họ cũng chán, thây kệ không phải chỉ có một gia đình này đâu. Ôi, thời buổi nó vậy. Chả nhẽ thiên hạ đua nhau đục tường trổ cửa, kiếm tiền ngàn tiền triệu như chơi mà lại nỡ khép những con người khốn khổ vào khuôn vào phép? Ðằng kia có ánh sáng, đằng này cũng phải nhường cho người ta một khoảng bóng tối chứ. Tất cả còn đang bung bét, tất cả đang đòi hỏi phải sắp xếp lại kia mà.

Tôi chán nản đứng dậy. Ðành rằng câu chuyện chị kể là có thật, lại kể bằng một cái giọng hết sức xót xa nhưng sao tôi vẫn không muốn nó được nói ra từ chị, từ một người đàn bà đã giảng dạy qua cấp đại học. Lạ thế!

- Chào anh!

Tôi cố dọn một nụ cười thân thiện, một giọng nói bỗ bã có thể và chìa gói thuốc ra trước mặt người đàn ông đang gặm mía. Nhìn cái cách anh ta gặm mía mới khiếp chứ! Gần như ăn cả vỏ, ăn cả bằng răng hàm lẫn răng cửa, chỉ ba cái rốp rốp là bay gọn một đẫn dài, bã mía đùn dưới chân cả đống. Anh ta lầm lì rút một điếu thuốc giắt chéo lên vành tai. Im lặng... Vẫn chỉ là tiếng nổ rốp rốp trong cái miệng khá rộng.

- Rét vậy mà ăn mía không cóng răng sao ông bạn? - Tôi ngồi hẳn xuống.

Ông bạn không trả lời, chỉ gúc goắc cái đầu to tướng. Lại im lặng... Lại rốp rốp... ánh sáng đèn cao áp xanh lét vừa đủ để soi tỏ một khuôn mặt không ra già, không ra trẻ, xanh bợt, tóc gần chấm vai, cặp môi dày trễ ra, thâm xì như cái vẻ lúc nào cũng thèm ăn thèm uống. Tóm lại là một khuôn mặt hơi bệnh hoạn và gần như không có tư duy. Anh ta chỉ mặc độc một chiếc quần đùi rộng ống đã rách te tua ở gấu, để lộ đôi bắp chân dài thõng sần sượng nhưng có vẻ còn săn rắn, vắt trên vai là chiếc áo bộ đội nhàu nát đang bốc ra mùi chua lòm khen khét.

Lui về sau một chút, chị vợ đang âm thầm ngồi ôm con sát chân tường. Nghe được cả tiếng muỗi vo ve bay ra từ đó. Cũng là khuôn mặt nửa già nửa trẻ, tiều tụy, không rõ hình nhưng đường nét gãy gọn, nhìn kỹ thấy cũng có duyên. Bất ngờ, chị ta nháy mắt với tôi và làm một động tác xin thuốc rất láu bằng hai ngón tay đen đúa, khô xác.

- Cái gì?

Bất thần anh chồng quát lên một tiếng quát hùng dũng, có lẫn cả đờm, có cả nước mía bắn ra. Như bị điện giật, hai ngón tay kia vội thụt lại, cùng lúc mái tóc xơ xước chắc tới hàng tháng nay không được chải gội gục xuống cam chịu như một tội nhân tử hình.

- Này - Tôi vỗ vỗ vào xương vai hắn - Cô ấy muốn hút thuốc thì để cô ấy hút, cũng là một cách chống lạnh.

Không thèm trả lời, hắn chuyển ánh mắt gườm gườm dài dại từ người vợ lên cành cây rồi lại... rốp rốp...

Biết rằng có nán lại cũng vậy thôi, có khi còn làm cho cái gã quân chủ độc tài đầy quyền uy này nổi quạu, tôi lén để gói thuốc xuống mép chiếu rồi lẳng lặng đi trở về. Ðuổi theo tôi là tiếng ru con nghèn nghẹn như nói mơ của người vợ, và trên cao, trong một căn hộ còn sáng đèn, có một nét nhạc gầm gào vọng xuống.

Thẩm vẫn thức chờ tôi bên bản vẽ thiết kế.

- Ðã chưa? - Không ngẩng lên, nó hỏi.

- Chưa.

- Cậu vẫn như cũ, ngớ ngẩn và lành bụng. Hơi khó chịu một tí nhưng ít nhất tôi cũng còn có một thằng bạn ra bạn để chơi.

- Cám ơn!

PHIẾM LUẬN VỀ CÁI NGHÈO VÀ THI NHÂN

» Tác giả: Bắc Giang

» Dịch giả:

» Thể lọai: Tùy bút/Tản mạn/Tiểu luận

» Số lần xem: 4460

1. PHIẾM LUẬN VỀ CÁI NGHÈO VÀ THI NHÂN

Một điều làm tôi ngạc nhiên là đa số các thi nhân Việt Nam đều.. nghèo như nhau, nghèo từ khi mới sinh ra, nghèo từ khi biết làm thơ; chưa có một khảo cứu nào chứng minh được thi nhân nghèo trước khi tập tễnh làm thơ hay làm thơ rồi thì bị con ma nghèo nó ám ảnh suốt cuộc đời. Nhưng điều đáng khích lệ của thi nhân là càng nghèo càng làm nhiều thơ và có những bài thật hay. Tôi được hân hạnh quen một ông thi sĩ nhà rất nghèo lại thêm gia đình lục đục, vợ con nheo nhóc, nhưng thơ của ông ta thật tuyệt vời, đến khi ông ta bước vào mười năm đại vận mới, ăn nên làm ra, gia đình hạnh phúc trở lại, thì hồn thơ của ông ta hầu như... tịt luôn, có cố gắng cũng không làm được bài thơ nào ra hồn.

Thế mới biết tiền bạc và thơ văn không thể nào đi chung với nhau được, đôi khi có vài ông bà nhà giầu thỉnh thoảng cũng nhả ra ba vần thơ... con cóc rẻ tiền ra cái vẻ ta đây cũng có tâm hồn...dzăng nghệ!, nhưng không làm sao... ngửi được, đâu đó thoang thoảng mùi “Câu thơ Thi Xã, con thuyền Nghệ An”, thật tội nghiệp cho văn học Việt Nam!

Nghèo không phải là bệnh dịch nguy hiểm mà nó lây hết từ thi nhân này sang thi nhân khác không cách chi ngăn chặn nổi!!! Chưa ai biết một cách chính xác thi nhân ở thế kỷ hai mươi mốt này có còn nghèo như ngày xưa không? Hay bệnh nghèo còn lan tràn một cách kinh khủng ở các nước Á châu nữa không?

Cũng chưa có một thống kê chính xác về tình trạng của các thi nhân Việt Nam ở hải ngoại giầu nghèo ra sao? Có một điều chắc chắn là thi sĩ Việt Nam hải ngoại nào miệng cũng “giả vờ” than nghèo nhưng vẫn đủng đỉnh... xe hơi nhà lầu:

Tối rượu sâm banh, sáng sữa bò

Chẳng như cụ Tú Xương:

Quanh năm ăn quịt chơi lường mà thôi

Siêu vi trùng nghèo, nếu có, còn quái ác hơn siêu vi trùng HIV, chắc phải đợi đến thế kỷ hai mươi hai, hai mươi ba mới hy vọng tìm ra và chữa trị nổi và thi nhân thì vẫn... nghèo như thường lệ :

Gạo cứ lệ ăn đong bữa một

Vợ quen dạ đẻ cách năm đôi.

Đã nghèo lại mắc phải cái... eo! Cái ”eo” của cụ bà Tú Xương mặc dù đã... bị “diet” cẩn thận và nhỏ như “eo” của các cô đào chiếu bóng (có khi còn nhỏ hơn) nhưng tội nghiệp cứ “quen dạ đẻ cách năm đôi” làm cho đã nghèo lại càng nghèo thêm. Cái nghèo của cụ Tú là cái nghèo chung của thi nhân, đa số, nếu tôi không muốn nói 99% thi nhân đều lâm cảnh nghèo, có người nghèo đến cùng cực, đến tận xương tận tủy, cái nghèo hầu như cha truyền con nối từ đời ông nội, ông ngoại cho tới đời con cháu, nghèo lắm lúc phát... nhục! Nghèo lắm lúc chạy long tóc gáy:

Bạc đâu ra miệng mà mong được

Tiền chửa vào tay đã hết rồi

Van nợ lắm khi tràn nước mắt

Chạy ăn từng bữa toát mồ hôi

Một người tài hoa như cụ Tú mà trời bắt phải nghèo, phải van xin khất nợ, phải chạy ăn từng bữa cơm, lúc nào cũng khư khư ôm chiếc áo bông cũ bạc mầu, nắng cũng như mưa, đông cũng như hè, bố con rách rưới từ trên xuống dưới, vợ chồng ngao ngán nhìn nhau mà tủi cho thân phận... thi nhân!

Bức sốt nhưng mình vẫn áo bông

Tưởng rằng ốm dậy hóa ra không

Một tuồng rách rưới con như bố

Ba chữ nghêu ngao vợ chán chồng.

May mà cụ Tú sinh ra vào thuở xa xưa, thuở mà chưa có những bộ quần áo lộng lẫy St. John, những chiếc ví da cá sấu Chanel, những bộ trang phục diêm dúa Victoria Secret, những chai nước hoa thơm phức... Gio! Chứ nếu cụ sinh chậm chỉ hơn một trăm năm thì với ba mươi mấy tuổi, thi cử long đong, ở cái xã hội kim tiền này bằng cấp không có, tiền bạc rỗng tuếch, thì không những chỉ bán ba luống vườn hoang mà có khi vào một buổi sáng đẹp trời nào đó còn lãnh thêm một cái giấy... ly dị của cụ bà không biết chừng:

Kể đã ba mươi mấy tuổi rồi

Tôi ngồi tôi nghĩ cái thằng tôi

Mấy khoa hương thí thi không đậu

Ba luống vườn hoang bán sạch rồi!

Nhưng không vì nghèo mà thi nhân mất đi cái hào hoa phong nhã, cái thú ăn chơi phóng khoáng của cuộc đời:

Bài bạc, kiệu cờ cao nhất xứ

Rượu chè trai gái đủ trăm khoanh

Đã mang tiếng là thi nhân thì phải.. biết đủ thứ! Cái ” biết” của cụ Tú là:

Biết chăng cũng chẳng biết gì

Biết ngồi nhà hát, biết đi ả đầu

Biết thuốc lá, biết trà tầu

Cao lâu biết vị, hồng lâu biết mùi.

Có ai tự hào biết nhiều hơn thi nhân, triệu phú, tỷ phú may lắm cũng chỉ biết bằng ấy ngón ăn chơi, hơn nữa, đã là thi nhân thì không phải lo đến kế sinh nhai mà vẫn thong dong ngao du sơn thủy :

Tiền bạc mặc thây con mụ kiếm

Ngựa xe chẳng có lúc nào ngơi

Cái hào hoa phong nhã, cái ung dung của thi nhân là ở chỗ đó. Tiền bạc? Của cải? Danh vọng? Địa vị? chỉ là phù du, sống cho chính mình mới là cuộc sống vĩnh cửu,sống trong thế giới của thơ văn mới là cuộc sống đầy thi vị. Đời sống chỉ có “ba vạn sáu nghìn ngày” thì thi nhân có đủ ba vạn sáu nghìn câu thơ trác tuyệt, còn các nhà triệu phú, tỷ phú lãnh đủ... ba vạn sáu nghìn nỗi lo âu!

Thi nhân còn gì nữa? Còn mấy vần thơ? Còn trời? Còn non? Còn nước? Bán hết, bán để tự mình mang cái nghèo của mình ra diễu cợt, trào phúng, cũng chẳng cần phải đợi người đời chê cười:

Khi túng toan lên bán cả.. trời

Trời cười, thằng bé nó hay chơi.

Đến như Uy Viễn Tướng Công Nguyễn Công Trứ cũng không tránh khỏi cảnh nghèo, cái nghèo làm cho Tướng Công nhiều phen điêu đứng :

Quân tử lúc cùn thêm thẹn mặt

Anh hùng khi gặp cũng khoanh tay

Có ai không đau đớn, có ai không chán chường, bất lực trước cái nghèo. Cái nghèo như là cái nghiệp của những kẻ tài hoa, đôi khi cũng là nỗi hổ thẹn của người quân tử:

Mang danh tài sắc cho nên nợ

Quen thói phong lưu hóa phải vay

Nhưng nghèo mà vẫn không biến, nghèo mà vẫn can đảm chịu đựng, nhẫn nại, khí tiết để un đúc tinh thần phấn đấu, đó là niềm hãnh diện của một hàn nho. Uy Viễn Tướng Công đứng trước định mệnh, đứng trước sự nghiệt ngã của trời đất cũng đành phải bó tay mà than thân, trách phận:

Còn trời, còn đất, còn non nước

Có lẽ ta đâu mãi thế này.

“Có lẽ ta đâu mãi thế này” cũng là câu tự an ủi, đặt niềm hy vọng vào ngày mai trời lại sáng của một nho sĩ dù nghèo nhưng vẫn an phận bên ao thu lạnh lẽo với chiếc thuyền câu cá bé tẻo teo, dưa muối sống cho qua ngày:

Sớm trưa dưa muối cho qua bữa

Chợ búa giầu-chè chả dám mua

Cần kiệm thế mà không khá nhỉ

Bao giờ cho hết khỏi đường lo

Cả một chiều dài văn học hơn bốn ngàn năm tôi chưa thấy một thi sĩ nào vỗ ngực khoe cái giầu sang phú quý mà chỉ an phận với số phận hẩm hiu của mình:

Cũng chẳng giầu mà cũng chẳng sang

Chẳng gầy, chẳng béo chỉ làng nhàng

Làm thi sĩ mà được ”làng nhàng” cũng là.. vui lắm rồi! Tôi không biết các ngành nghề khác (văn sĩ, nhạc sĩ, ca sĩ, kịch sĩ ... ) có khấm khá hơn không, thôi đành:

Bắc thang lên hỏi ông trời nhỉ

Trêu ghẹo người ta thế nữa thôi?

Câu chuyện Đồng-nghiệp

» Tác giả: Phương Vũ Võ Tam Anh

» Dịch giả:

» Thể lọai: Ký sự /Tạp ghi

» Số lần xem: 2787

1. Câu chuyện Đồng-nghiệp

Một bác-sĩ cách-mạng từ Bắc vào, hăm-hở đến tiếp-thu bệnh-viện Vĩnh-long sau ngày 30 tháng Tư năm 1975 đã thốt ra câu nói đầu tiên với chúng tôi :

 

"Các anh là kẽ thù của nhân-dân, đáng tội chết..."

 

Tuy mới mấy ngày sau khi "giải-phóng" nhưng tai chúng tôi cũng đã quen với câu nói đó, chỉ có khác là lần này được phát ra từ miệng một bác-sĩ mà chúng tôi chờ đợi để hy-vọng thấy được một nụ cười hay một chút thông-cảm trong tình đồng-nghiệp. Chẳng khác gì những cán-bộ khác, bác-sĩ cũng tuông ra câu học thuộc lòng:

 

"Nhưng Đảng và Nhà-nước khoan-hồng tha tội chết cho các anh..."

 

May thay, chúng tôi được tha tội chết, nhưng thay vào đó, phải lảnh cái án "dở sống dở chết " kéo dài năm này qua năm nọ trong các nhà tù, nhường sự-nghiệp lại cho các đồng-nghiệp mới, huênh-hoang trong cái độc-quyền nhân-đạo với các bảng hiệu « Lương Y như Từ-mẫu » treo nhang nhản khắp xó xỉnh trong bệnh-viện.

 

Có lẽ Cụ Hippocrate ở dưới suối vàng cũng không khỏi phẫn-nộ khi các môn-đệ ở Miền Bắc không chịu học lời thề Cụ dạy trước khi ra trường:

 

"Tôi thề sẽ giúp đở các đồng- nghiệp và gia-đình họ trong cơn ngặc nghèo, tôi sẽ mất hết danh-dự và bi khinh-bỉ nếu tôi không giữ lời thề đó".

 

Trước mặt thì đồng-nghiệp gọi chúng tôi bằng "anh", nhưng quay lưng lại là "thằng", là "chúng nó" ngay, không hiểu là vì thói quen, vì văn-hóa, vì mặc-cảm hay vì chính-sách.

 

Ngày đầu tiên mới đặt chân lên đất Bắc trên con đường lưu đày, khi mà tầm mắt đang còn ngỡ-ngàng với rừng sâu núi thẳm, khi mà thể xác và tinh-thần chưa lai tỉnh qua cuộc hành trình định-mệnh kinh-hoàng, thì chúng tôi được đón tiếp vồn-vã bởi một đồng-nghiệp. Vồn-vã không phải để thăm hỏi sức khỏe hoặc để an-ủi một lời nào, mà để tịch-thu thuốc men và dung cụ y-khoa mà chúng tôi mang theo, nhất là để tò mò tìm hiểu những điều mới lạ trong cuộc sống "phồn-vinh giã-tạo" ở trong Nam.

 

Câu nói đầu tiên và gần như là câu chào hỏi ở cửa miệng mỗi khi gặp nhau: "Anh ăn mấy lạng ?" (gạo mỗi ngày), làm chúng tôi bở ngở không biết đâu mà trả lời. Thì ra cái quan-tâm hàng đầu của nền y-khoa miền Bắc là cái bao-tử, và xã-hội được chia ra làm nhiều loại bao-tử khác nhau tùy theo đẳng-cấp và sự trung-thành với Đảng: 120 lạng ,150 lạng, 170 lạng.... cái hàn-thử-biểu để đo vị-trí mình trong xã-hội. Kế đó là thắc mắc về những phần thit đươc bồi-dưỡng trong những ngày lể, ngày Tết… Thấy chúng tôi không ở cùng một tần-số trong cái hội-chứng đường ruột đó, bác-sĩ bèn lên mặt chỉ-đạo: "Chớ có trốn trại nghe, không thoát đâu ". Quả-nhiên lời khuyên có chấp-chứa ít nhiều tình thật đó lại là không sai. Chỉ có vài ngày sau khi đặt chân đến cái nơi núi rừng chằng chịt mang tên Sơn-la đó, khi chưa xác-định được vị-trí trong cái bản-đồ mênh-mông của miền Thượng-du Bắc Việt, thì một số anh em đã lần lượt trốn trại rồi lần lượt bị bắt lại để gánh chịu những hình phạt ghê gớm đang chờ sẵn. Trong số đó phải kể đến hai đồng-nghiệp, một Thiếu-tá Y-sĩ- trưởng Trung-tâm Hồi-lực ở Sài-gòn và một Y-sĩ Đại-úy Thủy-quân Lục-chiến, đã thoát khỏi lao tù vì đã trốn qua "bên kia thế -giới" sau khi không thành-công trong cuộc tổ-chức trốn qua "bên kia biên-giới".

 

Sau một thời gian xáo trộn, chúng tôi gồm có tám bác-sĩ, một nha-sĩ, hai dược-sĩ được tập-trung lại để thành-lập một "trạm-xá " có nhiệm-vu săn sóc sức khỏe cho anh em tù trong vùng. Bằng những phương-tiện của thời-đại đồ...tre, với kỹ thuật từ thời Hoa-đà, chúng tôi cũng được an-ủi bằng một số thành-công trong nhiệm-vụ chửa trị, và đã lưu lại cho chúng tôi nhiều kỹ niệm khó quên. Anh T. bị bệnh phung, bọn cai tù ghê sợ, biệt giam trong một cái chòi giữa rừng, thường ngày chúng tôi đến thăm viếng, theo dỏi bệnh tình, chia nhau từng cù sắn củ khoai, khích lệ cho nhau cho đến ngày về. Anh H. bị mất trí vì trúng độc khi ăn phải trái cây rừng, suốt ngày la hét, phải cách ly trong một túp lều ở giữa rừng, chúng tôi chia phiên nhau túc trực ngày đêm bên cạnh để canh chừng, nhưng cuối cùng anh cũng qua đời. Phải kể đến những trường hợp giải-phẩu theo kiểu...rừng, với tất cả liều lỉnh rủi may. Trang-bị bằng một bộ trung-phẩu dã-chiến của Trung quốc và một lò hấp ướt (autoclave), với mấy bình ether và cái masque Ombredane là dụng cụ đánh thuốc mê hở (circuit ouvert) cổ lổ sĩ dùng trước thế chiến 1914-1918. Trong những "bloc" được ngăn cách bởi những tấm phên tre và tấm vải mùng, muổi mòng tha hồ bay lượn, dưới ngọn đèn dầu và đèn pin, mà nhờ trời chúng tôi cũng thành-công được trong nhiều trường hợp, những chấn-thương vì tai-nạn lao-động, hay trường hợp anh N. bị tắc nghẻn ruột, phải giải-phẩu để tái tạo một hậu-môn tạm thời, phải theo dỏi và săn sóc từ A đến Z trong nhiều tháng với sự tận-tình của mọi người nên kết quả rất khả-quan, vân vân và vân vân. Chúng tôi đã đóng tất cả các vai trò trong việc điều trị, từ lao-công, y-tá, phụ mổ, gây mê, cầm dao, rồi hậu-phẩu, vệ-sinh, giặt giủ v...v...bù lại khỏi phải đi lao-động đốn vầu, đốn nứa, đẩy xe trong những lúc đó.

 

Một sự tình cờ khiến chúng tôi phải giải-phẩu cấp cứu thành-công cho một tên cán-bộ bị viêm ruột thừa cấp-tính mà không biết chở đi đâu. Mấy tháng sau, nhân dịp Tết Nguyên-đán 1978, có mấy cán-bộ trong ban chỉ-huy trại đến cám ơn chúng tôi, và tưởng-thưởng bằng một tấm hình chụp chung mấy anh em chuyên-môn trong bệnh-xá, một kỹ-niệm độc nhất vô nhị của những ngày tù ở Sơn-la.

 

Tiếng đồn lên tới Bộ Chỉ-huy Đoàn. Một số cán-bộ có thiện-tâm muốn mở tầm hoạt-động của chúng tôi cho dân-chúng trong vùng Mường Thải, huyện Phù-yên, nơi mà xưa nay dân chúng chưa hề thấy đươc cục xà bông chớ đùng nói chi đến viên thuốc tây. Thế rồi dân chúng đến xin chửa trị mỗi ngày một đông, tuy thuốc men chẳng có gì nhiều nhưng cũng giúp ích được một số lớn trường hợp và ít ra cũng giúp họ làm quen với y-khoa ngày nay thay vì phải uống lá rừng suốt đời. Khi đặt ống nghe vào ngực, có người đã huênh-hoang khoe rằng là được... rọi điện. Đông nhất là phần chửa răng. Ngậm một cái răng sâu năm này qua tháng nọ như một cái đinh đóng vào óc, nay được nha-sĩ nhẹ nhàng xoi xỉa với một cái máy quay đạp bằng chân, hoặc nhổ đi mà không đau đớn gì, thật là một điều mà dân Mường ở đó không bao giờ mơ tới.

 

Một đêm nọ, đang lúc giữa khuya, một cán-bộ cầm cây đèn bảo xăm xăm bước vào phòng giam chúng tôi, bảo rằng một người đàn-bà trong bảng Mường đang nguy kịch vì đẻ không ra đã hai ngày nay. Anh Thức, chuyên môn về phụ-khoa được cử đi cấp-cứu. Trong môt gian nhà sàng rộng rải không có vách ngăn, ở giữa là cái bếp lửa cháy suốt ngày đêm, dăm ba người đàn ông ngồi quanh nói chuyện ồn-ào tỏ vẻ lo lắng, ở trong góc một người đàn bà đang quằn quại rên la một cách tuyệt-vọng. Trong khi mọi người bu quanh chăm chú và nghiêm-nghị nhìn anh Thức khám bệnh như nhìn một phù-thủy đang làm phép, anh Thức bình-tỉnh khám thấy rằng đó là một trường hợp song thai, hai đứa bé ôm quàng lấy nhau mà lại nằm ngang, không đẻ ra bằng đường tự-nhiên được. Phải chở đi bệnh-viện để mổ lấy con ra, nhưng anh Thức quên rằng chuyện đó không thể có được ở đây. Không làm gì hơn được, anh bèn tạm thời dẹp sách vở qua một bên mà cố gắng xoay một đứa cho cái đầu ở vị-trí thuận-lợi để ra trước, rồi đến đứa kia, cuối cùng được mẹ tròn con vuông, trong sự rối rít cám ơn của mọi người mà trước đó đã được học tập để coi chúng tôi như những kẽ ác ôn, lúc nào cũng sẳn sàng "cho một mũi tên độc".

 

Từ đó các cô gái Mường trong bảng cũng tự -nhiên hơn, cưới đùa mỗi khi tắm suối mà có chúng tôi đi lao động ngang qua, có khi còn chọc ghẹo nửa. Có anh trong phút chốc bốc đồng đã quên mình là tù đang đói rách, cũng gồng mình nhảy xuống tắm theo, chỉ tiếc là không có sẵn cục xà bông để tặng mấy cô Mường, lúc đó hẳn là muôn phần quý giá hơn cả viên kim cương đem tặng đào ở Sài–gòn nửa. Về sau mỗi cô gái Mường lại đươc đặt cho cái tên của một ca sĩ nổi tiếng, nào là Mai-Lệ-Huyền, Phương-Dung, Giao-linh, Phương-Hồng-Quế v…v…, để rồi lúc chiều về, trong khi ngậm-ngùi nhai từng hột bo bo, thường kể cho nhau nghe rằng hôm nay đi rừng gặp được ca-sĩ nào, ai nghe tưởng như mới đi phòng trà về mà tạm quên trong giây lát cái cảnh nước sông công tù mình đang sống.

 

Một hôm, một cô giáo hớt ha hớt hãi tìm tới chúng tôi, vì chồng cô, một bộ-đội công-tác ở trong Nam được về nghỉ phép, bổng nhiên thấy mình mẩy nổi mề đay lên đỏ rần, ngứa khắp cả người. Chúng tôi đoán là bị dị-ứng với trứng gà, vì thường ngày đi lao-động ngang qua trường học, thấy cô giáo cứ o bế mấy con gà để chờ ngày chàng về mà bồi-dưởng. Chúng tôi bèn lục lạo đươc mấy viên thuốc Phénergan đưa hết cho cô. Mấy hôm sau đi lao-động gặp lại, chúng tôi hỏi : "Sao? Anh nhà đã đở chưa?" Cô vui vẻ trả lời : "Thuốc các anh cho hay quá, khỏi ngay." Chưa kịp hỏi thêm thì bổng thấy cô cúi mặt e thẹn, ấp úng nói thêm như không muốn cho chúng tôi nghe: " Nhưng ngủ li bì, về phép có năm ngày mà ngủ như chết suốt cả năm ngày" .Chúng tôi hối hận vì đã cho thuốc ngủ mà không dặn trước, làm cho cô phải bỏ lở một cơ-hội bằng vàng.

 

Thế rồi trạm-xá càng ngày càng đông khách, dân chúng từ xa cũng nghe đồn kéo lại để cho trạm-xá được hoạt-động đúng với danh-nghĩa y-tế của nó. Thiện-cảm và uy -tín càng tăng thì, ngược đời thay, cấp chỉ-huy Trại càng lo lắng. Cuối cùng, Uỷ-viên Chính-trị trên Đoàn lập tức ra lệnh không được khám bệnh cho dân nửa, vì trái với chính-sách, và lý-luận rằng từ mấy ngàn năm nay họ đã chửa trị bằng lá rừng thì đã sao đâu.

 

Chúng tôi trở lại lao-động, cũng đốn vầu đốn nứa như những anh khác.

 

Phải cái tội cao giò, tôi thường được chọn đi công tác gánh hàng ở xa, để gánh luôn tất cả tủi nhục của kiếp làm… tôi mọi. Buổi sáng ra đi thì còn dể chịu, trời mát, gánh nhẹ. Nhưng buổi trưa lúc trở về, trời nắng gắt miền núi như đốt cháy da, lại phải leo đèo, mồ hôi chảy giọt, bụng đói cồn cào, cái đầu nặng trỉu, chiếc đòn gánh đè nặng trên vai đang nghiền nát da thịt như những con dao. Người cán-bộ đi theo cũng không quên máng thêm vào chiếc nón cối, cái áo trấn-thủ mà hồi sáng mang trong người vì trời lạnh, nay không cần nửa thì tội gì mà không để cho rảnh tay, vì tay đang bận cầm cây roi, một thứ thời trang của cán-bộ quản-giáo khi đi bên cạnh tù. Đã thế mà khi gặp một bạn đồng-hành cán-bộ cũng không quên niềm-nỡ mời :"Đồng-chí có mang gì không, đưa cho nó gánh luôn". Tôi nghe mà rụng-rời, mắt hoa lên mà không dám nhắm lại vì sợ ngả sẽ không bao giờ dậy lại được, cũng không dám nhìn xa hơn mấy đầu ngón chân vì sợ không đủ can-đảm để bước thêm....

 

Một hôm vì nhu-cầu cấp-cứu một bệnh-nhân tù đang nguy kịch, tôi được cử theo một cán-bộ đến bệnh-viện Phù-yên để xin mấy chai nước biển. Đã lâu bị giam hãm giữa bốn bức tường núi, nay được dịp thấy lại làng mạc với cảnh sinh-hoạt của nhân-dân, lòng cũng không khỏi thích-thú vì tầm mắt đươc hé rộng ra một chút và thỏa -mãn thêm tánh tò mò nghề-nghiệp muốn biết tổ-chức y-tế miền Bắc ra sao mà các "đồng-nghiệp " đề cao như là đúng hàng đầu trên thế-giới.

 

Huyện Phù-yên thuộc tỉnh Sơn-la, nằm giữa một thung-lũng nhỏ, bốn bề là núi nhưng rất nên thơ. Từ trại tới huyện phải đi qua ngọn đèo Bang xinh xinh, có con đường mòn uốn quanh, có hoa rừng thơm ngát. Từ trên nhìn xuống gần giống như một bức tranh Tàu, mờ mờ ảo ảo., rải rát nơi nơi là nhũng túp lều lụp xụp bám theo

 

sườn núi. Bước vào huyện phải qua một con suối lớn, mùa khô thì chỉ là một suối đá hiền-hòa thơ-mộng, nhưng khi mưa xuống thì trở nên một thác lũ kinh-hoàng. Bắt ngang qua suối là một cây cầu treo, gió thổỉ đu đưa, mà lại được anh em tù gán cho cái tên rất hấp-dẩn để cho trí tưởng-tượng được nâng cao là cầu Golden Gate. Mỗi khi gánh hàng qua Golden Gate, tôi có cảm-tưởng như mình đang là một nghệ-sĩ đu giây trong một đoàn xiệc mà có thể hụt tay bất cứ lúc nào.

 

Bên kia cầu là một túp lều không vách, gió lộng bốn phía, đó là trường học với dăm bảy em bé ốm tong teo, bụng ỏng thề lề, mỗi đứa cầm một que củi đang cháy quơ qua quơ lại trước người cho đở lạnh trong những bộ áo Mường mỏng manh. Trong khi các em nghêu ngao hát bài "Hôm qua em mơ thấy Bác Hồ..." thì cô giáo đang chăm chú ngồi vá áo, mắt đăm chiêu, hình như cũng đang mơ thấy những chuyện mà dĩ-nhiên khác hơn là thấy Bác Hồ. Hình ảnh đó làm cho tôi có cảm tưởng rằng Cụ Cao-Bá-Quát đã đi ngang qua đây để cảm-hứng mấy câu thơ:

 

"Một thầy một cô một chó cái,

 

Nửa người nửa ngợm nửa đười ươi."

 

Bên cạnh trường là một cái "cối giả gạo" có lẽ đã được sáng chế từ đời vua Thần Nông. Nước từ con suối nhỏ đươc dẩn qua một máng xối đục từ một thân cây, chảy xuống một thân cây dài khác, một đầu là cái chày, đầu kia đục thành một máng chứa nước. Hể máng đầy nước thì cái chày tự -động ngóc lên, rồi nước bị đổ ra ngoài để cho chày giả xuống cái cối ở đằng trước. Cứ thế mà tiếp-tục, cối cứ giả ngày giả đêm, tạo nên một tiếng đập nhịp nhàng khô khan để đánh thức cô giáo và lủ học trò khỏi ngủ gật. Năm thì mười họa, một năm vài lần cối mới có gạo để giả, vì dân phải đóng cho nhà nước hết ba phần tư số thu hoạch, vốn đã nghèo nàn trên những mãnh ruộng bằng bàn tay xếp thành từng tầng trên sườn núi.

 

Khi đến cổng bệnh-viện, tôi được chứng-kiến một cảnh tấp-nập khác thường, nghỉ bụng rằng chương-trình y-tế ở đây đã thành-công vì được dân-chúng hưởng-ứng đông đảo. Mọi người bu quanh một tấm bảng, hình như để theo dỏi một thông-báo gì quan-trọng của bệnh-viện về một biện-pháp y-tế nào đó chăng. Lại gần, tôi thấy rõ thông-báo như sau "Hôm nay bệnh-viện có mổ lợn, bán theo giá chính-thức. Đồng-bào nào muốn mua xin ghi tên ở phòng ngoại-chẩn". Tôi suýt té ngửa vì sau bao nhiêu năm hoạt động trong ngành y- tế tôi vẫn chưa biết được rằng cung-cấp thực-phẩm cho dân chúng cũng là một khía cạnh trong chương-trình y-tế.

 

Trái với cảnh xôn-xao ngoài cổng, trong bệnh viện lại vắng tanh. Tìm cho ra người thủ-kho để xin thuốc thì được biết cô gái Mường này bận đi hái bông lau về làm nệm để tặng một cô bạn gái sắp về nhà chồng, một tục-lệ không thể bỏ được của người Mường. Lân la mãi mới gặp được bác-sĩ trực, vị này không mấy niềm-nỡ vì đang bận cải-hoạt (có nghĩa là cải-tiến sinh-hoạt để cho đời sống vui tươi hơn) bằng cách ngốn nghiến mấy củ khoai. Bác-sĩ trực cho biết "Chỉ có bác-sĩ thủ-trưởng mới có quyền quyết-định, nhưng bác-sĩ đang bận mổ." Tôi thất-vọng chán chường, nghỉ đến bệnh-nhân ở trại đang hấp-hối mong chờ mấy giọt nước hồi-sinh, nghỉ đến con đường về vừa nắng gắt vừa phải leo giốc, nghỉ đến cái dạ-dày đang cồn-cào vì sáng nay không may đọc được mấy chữ "thịt lợn" trên bảng thông-cáo mà nước bọt cứ chay dài (chẳng lẽ tôi lại biến thành con chó của Pavlov, hể nghe tiếng chuông là dịch tiêu -hóa cứ tuông chảy, rồi hay sao?) Tôi buồn rầu thất vọng, không biết bao giờ bác-sĩ trưởng mới mổ xong, vã lại áo quần lem-luốt thế này làm sao gặp được bác-sĩ ở khu giải -phẩu. Tôi đánh bạo tìm đến bác-sĩ trưc hỏi : "Thế tôi có thể gặp bác-sĩ thủ -trưởng được không?" Lần này vị y-sĩ trực vui vẻ trả lời (vì đã ngốn xong mấy củ khoai): " Được chứ, có gì đâu, anh ấy đang bận mổ lợn dưới ao đấy mà". Tôi như từ cung trăng rơi xuống.

 

Quả nhiên, cách đó không xa, cạnh bờ ao, năm ba người đang bao quanh một con lợn đã cạo lông trắng nõn nằm trên một tấm thớt lớn. Trong khi đó, bác-sĩ thủ-trưởng bệnh-viện, mình trần, quần xắn tới bẹn, áo bờ-lu vắt ở hàng rào, đang nhanh nhẹn ra tay mổ bộ đồ lòng với tất cả sự nhanh nhẹn và khéo léo của một...đại giải -phẩu gia.

Lẽ tất nhiên tôi phải chờ cho ông bạn đồng-nghiệp thanh toán xong con lợn để giải -quyết cho mấy chai nước biển rồi mới hân-hoan ra về. Ra tới cổng, tôi gặp lại đám dân-chúng cũng đang hân-hoan thở phào nhẹ nhõm như tôi khi được tin bác-sĩ đã mổ xong...lợn.

 

Trên đường về, lần này chiếc đòn gánh đè nặng lên vai không còn cho tôi cảm-giác đau đớn như trước nửa, vì đầu óc tôi đang bị ám-ảnh bởi một ý-tưởng muôn phần nặng-nề hơn, vì tôi đã nhìn thấy được sự thật, đã chứng-kiến tận mắt một hiện-tượng sinh-hoạt phản-ảnh lối sống của những "đồng-nghiêp" bên kia bức màng tư-tưởng.

Chuồng Người

» Tác giả: Lâm Chương

» Dịch giả:

» Thể lọai: Truyện ngắn

» Số lần xem: 4832

1.

Chỉ còn vài ngày nữa là thu hoạch xong vụ mùa. Tôi được miễn đi lao động, vì cái chân đau. Hôm qua lúc chuyển lúa vào bồ, tôi vô ý vấp ngã nơi bậc thềm nhà kho. Mặc dù đã được nắn bóp, sửa trặc, nhưng khớp xương mắc cá chân vẫn sưng đỏ, đau nhức.

Khi các đội đã xuất trại, tôi chống cây gậy ra cửa, đứng nhìn lên sân trại. Giữa sân có đặt ba cái thùng phuy, dùng chứa phân người. Sau một đêm bài tiết của anh em trong trại, phân được xúc từng gánh đem đổ vào thùng. Hàng ngày, người của đội rau xanh sẽ chuyển ba cái thùng này bằng xe cải tiến đến vườn rau. Ðổ phân xuống hố, lấp phủ lên một lớp đất. Ủ phân. Một thời gian sau, phân từ màu vàng như đất sét nhão, biến thành màu xám như bùn, đã tới lúc có thể dùng được, xúc lên làm phân bón rất tốt. Phân được chế biến kiểu này gọi là phân Bắc. Mới đầu, anh em đội rau xanh rất tởm phân Bắc, nhưng thời gian lâu dài, tiếp xúc mãi thành quen, thấy cũng không có gì đáng gớm ghiếc, và khám phá ra cái công dụng tuyệt vời của nó. Chỉ cần rau muống nếm một chút phân Bắc, rau trở nên xanh tốt, tăng trưởng rất nhanh.

Từ trong đội cải tạo hình sự, có hai tên cầm que đi đến thùng phuy. Nó bươi móc thứ gì trong đó. Một trong hai tên này, tôi quen. Hồi mới quen, tôi hỏi nó:

- Mày tên gì?

- Ný!

- Tên ngộ quá! Họ gì?

- Nê !

- Cái gì? Làm gì có họ Nê?

- Có chứ! Rất nhiều!Tên họ của cháu: Nê văn Ný

.

Tôi chợt hiểu, bật cười:

- Mày nói ngọng. Tên họ của mày là Lê văn Lý.

- Người miền Nam của các chú thường nói thế. Ở đây chúng cháu gọi Nê Văn Ný!

Từ đó trở đi, tôi cũng gọi nó là thằng Ný.

Thấy nó bươi móc trong thùng phuy, tôi kêu lớn:

- Ný! Mày làm cái gì đó?

Nó quay lại nhìn tôi, rồi bỏ cái que, đi lại gặp tôi.

- Hôm nay sao chú được nghỉ?

- Tao bị bong gân chân. Còn mày?

- Cháu chờ để trưa gánh đồ ăn thông tầm cho đội!

- Mày tìm gì trong thùng phân?

- Nhà bếp vừa đổ rác trong ấy. Cháu kiếm chút rau cải vụn.

- Ăn uống dơ bẩn, có ngày bỏ mạng con ơi!

- Cháu mang về rửa sạch, cho vào ca cống, đun sôi, vi trùng nào chả chết!

Tôi nhìn thân hình gầy gò, cái mặt hốc hác của nó, và nghĩ đến mình. Tôi có khác nó gì đâu. Cùng một hoàn cảnh khốn khó, người ta không cần tỏ lòng trắc ẩn cho nhau.

Ðứng tần ngần một lúc, nó hỏi:

- Chú có thuốc nào, cho cháu xin một bi!

-Vô đây!

Tôi dẫn nó vào lán, ngắt trong cái bọc nhỏ, cho nó một bi thuốc lào. Rít xong hơi thuốc, nó nói:

- Hôm nay, đội cháu có mấy thằng được chỉ định nên khung, mổ nợn cho cán bộ bồi dưỡng. Cháu không được đi. Tiếc thật!

- Mổ lợn đâu có gì thích mà mày tiếc?

- Thích chứ! Ðược xơi thịt!

- Cán bộ cho ăn hả?

- Không. Làm gì có người tốt thế!

- Vậy ăn bằng cách nào?

- Khi được chỉ định đi mổ nợn, thằng nào cũng phải măc hai nớp quần. Nớp trong được bó sát vào bìu dái như cái quần xì của người miền Nam. Ðến núc xẻ thịt thì xén vài cục, nén dấu vào quần, dưới bìu dái. Trước khi về, cán bộ bắt đứng xếp hàng, mò xét khắp ngườii, nhưng không mò dưới bìu dái. Thế nà thoát!

-Tụi mày tài thật!

- Cách này dùng mãi, bị phát giác. Chúng nó bắt cởi đồ, chỉ còn độc cái quần trong, thò tay sờ vào quần, sờ nắn trong háng, nhột bỏ mẹ. Bắt gặp có dấu thịt, chúng nó dần cho nát đòn và cùm vào nhà kỷ nuật.

- Khó khăn, nguy hiểm như vậy, tụi mày không sợ?

- Trong khó khăn nẩy sinh sáng tạo. Chúng cháu nghĩ ra được cách giấu thịt, chỉ có trời biết.

Nó ngừng lại, chỉ tay vào túi tôi:

- Chú cho cháu thêm bi thuốc!

- Mày có tài thật, đang kể chuyện tới hồi gây cấn là ngừng lại, đòi thứ này, thứ nọ.

Dù cằn nhằn nhưng tôi vẫn ngắt cho nó bi thuốc lào thứ hai. Nó cẩn thận cho bi thuốc vào nõ điếu, châm mồi lửa, rít một hơi dài...Tôi giục:

- Kể tiếp đi. Cái mánh lới giấu thịt của mày!

- Thằng nào được chỉ định đi mổ lợn, khi trở về đội cũng phải nạp cho thằng đội trưởng hai cục thịt bằng ngón chân cái. Không có, nó thụi vào bụng cho thổ huyết!

- Tao không muốn nghe chuyện thằng đội trưởng của tụi mày. Hãy kể phương pháp dấu thịt mà mày cho rằng sáng tạo.

- Vâng! Phương pháp này không cần phải chuẩn bị đồ nghề gì cả. Lúc xẻo thịt, nếu cán bộ không để ý, cứ xén từng cục, cho vào mồm xơi tươi!

- Ăn thịt sống hả?

- Vâng! Xơi thịt sống thì đã có sao?

- Tụi mày ăn uống như người tiền sử!

- Người tiền sử nà người xứ nào mà ăn uống như chúng cháu?

- Chẳng phải xứ nào cả! Ðó là tổ tiên của chúng ta nhiều triệu năm về trước. Khi chưa tìm ra lửa, loài người phải ăn thịt sống.

- Ðấy! Họ vẫn khoþe mạnh, sinh tồn đến ngày nay. Cọp beo cũng thế!

- Hãy nói vấn đề lấy thịt. Tụi mày ăn tại chỗ, nhưng làm sao lấy về cho thằng đội trưởng?

- Chúng cháu xén sẳn vài cục, khi có nệnh về nà cho vào mồm nuốt ngay. Bọn cán bộ dù có con mắt thánh cũng không bắt gặp. Xét xong, chúng cháu vội về đội, móc họng, nôn ra niền, nạp đủ số cho thằng đội trưởng.

- Rồi thằng đội trưởng ăn bằng cách nào?

- Hắn rửa cục thịt sạch chất nhớt, cho vào ca cống, đun lên nà có được bữa ăn ngon.

Nói xong, thằng Ný đứng dậy:

- Cháu phải về gánh cơm cho đội thông tầm. Cái chân chú đau, không nên đi đứng nhiều.

Nó quay lưng, ra khỏi lán.

Nhìn đôi vai gầy guộc của nó rút lại như đôi vai cuþa người bệnh ho lao, tôi gọi: -Ný! Mày trở lại lấy vài bi thuốc laòo, đêm nay hút cho đỡ lạnh!

Vào những ngày cuối năm, trời bỗng dưng trở lạnh. Mưa phùn lất phất trên những vòm cây. Ðồi nương ẩm đục. Ngày hai mưới chín tháng Chạp, được phép trại trưởng, các đội khỏi phaþi xuất trại lao động bên ngoài. Thay vào đó, anh em được giao công tác dọn dẹp và làm vệ sinh trong trại, chuẩn bị đón Tết.

Tôi đang ngồi nhổ coþ dọc theo những chân tường ngăn chia các đội. Thăng Ný đi ra. Hôm nay nó mặc bộ đồ lành lặn, sạch, mặt hiện niềm vui. Tôi nói:

- Chưa Tết mà ngó mày, tao đã thấy mùa xuân!

Nó báo tin: - Cháu được mẹ từ Vĩnh Yên nên thăm. Bộ đồ này cháu mượn của thằng bạn, để mẹ cháu không nhìn thấy cháu rách. Cháu đang chờ cán bộ dẫn ra nhà thăm nuôi.

- Mày ngon rồi! Vừa có đồ ăn của trại, vừa được mẹ tiếp tế thêm. Tết này mày huy hoàng!

- Vâng! Huy hoàng thật! Cháu không ngờ may mắn đến thế!

Khoảng hai giờ chiều, cán bộ dẫn thằng Ný về trại, tay ôm bụng, mặt nhăn nhó, tái nhợt. Ngờ nó bị trúng gió, tôi theo nó vào lán. Nó năm vật lên sạp, lăn lộn, kêu đau bụng và lạnh. Tôi hỏi mượn mấy thằng bạn của nó ve dầu nóng để cạo gió.

Thằng đội trưởng hình sự đứng nhìn một lúc, nói:

- Chả phải trúng gió đâu! Nó bị bội thực đấy! Móc họng nôn ra là khỏi ngay!

Nhiều thằng khác lao nhao:

- Nôn ?đi! Nôn đi!

Thằng Ný trườn về bìa sạp, rướn cổ, thò đầu ra ngoài, cho ngón tay vào miệng. Có thăng la lớn:

- Hãy khoan!

Và nó chạy ra ngoài, đem vô một cái thau bằng nhựa, bưng thau kề sát miệng thằng Ný:

- Hãy nôn vào đây!

Thằng Ný móc họng, ụa mữa. Ðồ ăn lẫn nhớt dãi tuôn trào xuống thau. Thằng bưng thau bóc lên những miếng thịt còn dính lòng thòng nhớt dãi, đưa lên miệng ăn. Một thằng khác đang đói cũng ăn.

Có thằng nhăn mặt: - Gớm quá!

Thằng bưng thau nói:

- Gớm gì? Từ bụng kia sang bụng nọ mà thôi!

Sáng mồng một Tết, mọi người quy tụ ra sân trại coi anh em văn nghệ trình diễn. Có đàn và trống xập xình vui tai. Tôi gặp thằng Ný đang lóng ngóng coi hát. Tôi hỏi:

- Mày khỏe hẳn chưa?

- Hôm sau nà khỏe ngay!

- Mẹ mày thăm nuôi, sao tao thấy mày đi vào tay không?

- Nhà cháu nghèo, không có tiền sắm sửa. Thăm nuôi là thăm cho có nệ thế thôi! Mẹ cháu chỉ mang cho cháu một con gà nuộc, và một cân xôi.

- Sao không đem vô trại, để dành ăn từ từ?

- Nếu đem vô trại, mấy thằng đầu gấu, chúng nó giành giựt cả. Thế cháu mới xơi hết tại chỗ!

Tôi trợn mắt:

- Mày ăn hết một lần hết con gà và cân xôi?

- Vâng! Không còn cách nào khác! Lúc thì dư thừa phải nôn ra, bây giờ thì đói.

Nhìn thằng Ný, tôi thấy nó đang tàn tạ, khô héo dần. Nó không có mùa Xuân.

Bình xăng Phổ Thông Đầu Phiếu

» Tác giả: Ngô Tự Lập

» Dịch giả:

» Thể lọai: Truyện ngắn

» Số lần xem: 3024

1. Bình xăng Phổ Thông Đầu Phiếu

Mỗi khi đám hàng xóm rách chuyện của tôi, với một khoái cảm kỳ lạ của đàn ông thành thị, vừa rung đùi vừa giễu Trí là dở hơi, thông thái rởm hay ếch ngồi đáy giếng, còn Trí thì ngước nhìn tôi như nhìn kẻ đồng minh cuối cùng, tôi lại cảm thấy tội tội. Nhưng dù có muốn tôi cũng biết phải bênh vực được Trí thế nào. Trí óc tôi ngắn, nó phản bội tôi, tôi lại phản bội Trí.

Đám đàn ông trong xóm gồm có tôi, Hùng "thịt lợn" làm nghề mổ lợn, Hải Kều bộ đội về hưu nay gác cổng nhà tang lễ, Ba Trạc cũng bộ đội về hưu nay làm đồ sắt, Đông, Thái "lốp" buôn lốp, Đông "Gioăng" không ai biết làm gì và cậu Biền trượt đại học giờ làm nghề thợ mộc. Sang nhất là Hùng, mạnh mồm nhất cũng là Hùng: "Này ông Trí ạ. Ông nên bán quách cái đống giấy lộn đi cho đỡ chuột. Ông mà nghiên cứu được thì có mà..." Có mà thế nào, họ không nói ra, nhưng Trí cứng họng.

Nói vậy chứ anh em trong xóm cũng quý nhau, nói như vậy được cái thật lòng.

Một hôm, Trí mời tôi đến nhà, cho tôi xem giá sách. Toàn những quyển sách dày như cục gạch, cả mới lẫn cũ.

- Tác phẩm của tôi đấy - Trí nói, tôi nghe giọng Trí có phần cay đắng.

Tôi choáng người. Những quyển sách này, thực tình, chỉ một quyển cả đời tôi cũng không đọc hết. Nhưng khi nghe tôi thuật lại, mấy ông hàng xóm gạt đi: "Ui dào, thời buổi này, tiền là in được tất. Gì mà chả in được. Ông có tác phẩm nhớn nào đưa đây, tôi in cho, còn dày bằng mấy ấy chứ!". Đến lượt tôi cứng họng.

Những chuyện xảy ra với Trí, tôi chẳng biết nói thế nào. Tôi nhớ, một lần cả xóm tụ tập nhân dịp Hùng "Thịt lợn" mới mua được chiếc TV Liên Xô vỏ đỏ. Trí góp lời:

- Trên thế giới bây giờ người ta phần lớn dùng T.V màu, thậm chí có điều khiển từ xa, chứ không còn phải bấm tay như thế này nữa rồi các bác ạ".

Chủ nhà cụt hứng, đốp ngay:

- Vâng nhà em "nạc hậu", chỉ dùng đồ thải, đâu dám dùng đồ hiện đại cho hại điện!

Đám Hải Kều, Ba Trạc, Đông "Gioăng", Thái "lốp" cũng ùa vào:

- Đời thửa nhà ai TV lại không cần nút bấm. Thế thì điều chỉnh làm sao?

- Em cũng chưa nghe ai nói - Đông "Gioăng" có vẻ tư lự.

Cậu Biền thợ mộc nháy nháy mắt làm ra vẻ trịnh trọng:

- Có chứ. Chắc là bác Trí có nhân điện!

Không thể địch với chừng ấy cái mồm, Trí lắc đầu, nhìn tôi cầu cứu, nhưng tôi cúi đầu, giả vờ không để ý.

Một buổi tối, cũng vào lúc cả xóm tụ tập vì chuyện gì chẳng rõ, Thái "lốp" mang đâu về một tờ "Hà Nội Mới", đọc oang oang.

- Thấy chưa, tôi đã nói là có loại T.V điều khiển từ xa, vậy mà ông Trí cứ khăng khăng là không.

- Đấy, ông Trí nhé, có phải cứ chúi mũi vào đống sách vở là được đâu!

Tôi khuyên ông nhé, cứ bán quách cái đống giấy lộn của ông đi cho đỡ chuột, mà cô ấy lại được vài buổi đi chợ.

Trí định phản bác lại nhưng Hải Kều, Ba Trạc, Đông "Gioăng", Hùng "Thịt lợn" và cậu Biền đều cười ồ lên vui vẻ:

- Thôi bác ạ, chính bác nhớ nhầm. Chúng tôi đã bảo bác là Tây nó giỏi lắm, nó làm cả TV điều khiển từ xa, nhưng bác không chịu tin. Chẳng lẽ chừng này con người lại đổ thừa cho bác!

Tôi vô cùng hoang mang. Trong cái trí nhớ mù mịt của mình, tôi nhớ hình như Trí là người nói đúng. Nhưng suy nghĩ một lát, tôi lại có cảm giác ngược lại: "Ừ, chẳng nhẽ chừng ấy con người đều nhớ nhầm?" Thế là tôi đánh trống lảng:

- Thôi, thôi, có gì quan trọng đâu mà các bác!

Những chuyện như thế xảy ra rất nhiều lần, khi thì với chuyện đi giày - Trí nói đi giày là nóng hay không nóng? - khi thì với chuyện mì chính - Trí nói ăn mì chính có hại hay không có hại? - và thậm chí cả chuyện tránh thai đẻ đái - Trí nói thắt ống dẫn tinh sau này nối lại được hay không nối lại được? - khiến tôi suy nghĩ rất nhiều. Linh cảm mách bảo tôi rằng con người đọc chừng ấy quyển sách chắc phải là người hiểu biết, nhưng mặt khác tôi lại tin vào đa số. Nhiều cái đầu phải hơn một cái đầu chứ. Thiểu số phục tùng đa số, chẳng phải chúng ta đều được học như thế đó hay sao? Thế là tôi nảy ra ý định kiểm tra.

Ở đời, anh cứ cần cái gì thì y như rằng chẳng thấy nó đâu. Bát phở chẳng hạn. Ở cái đất Hà Nội này nhìn đâu chả thấy hàng phở. Thế mà cứ lúc nào anh định anh phở là đi rạc cẳng chẳng thấy một hàng! Cái ý định kiểm tra của tôi cũng vậy. Chờ mãi mà chẳng có dịp nào.

Đầu những năm 1980, loại xe Cub màu ốc bươu được dân buôn theo tàu Vốt cô đem về Việt Nam. Đèn tròn long lanh, đề phát nào ăn phát ấy, chạy từ Hà Nội xuống Hải Phòng chưa hết hai lít, ngay lập tức nó đánh bạt anh "Mô kích" vè vè của đám lưu học sinh Đông Đức. Hết tối này đến tối khác cả xóm ngồi bàn về nó và bao giờ đề tài cũng chuyển sang sự ngợi ca người Nhật trước khi kết tục bằng chuyện tiếu lâm. "Mẹ kiếp, máy êm hơn máy đàn bà một con!". Với cánh đàn ông, dù là đàn ông trong cái ngõ tồi tàn của chúng tôi, chiếc xe màu ốc bươu ấy vẫn trở thành niềm mơ ước cháy bỏng.

Thế nhưng Trí tương ngay một câu:

- Này, nhưng tôi thấy cái bình xăng hơi dở. Theo tôi, đáng lẽ họ phải biến cả phần dưới yên thành bình xăng, như thế vừa chứa được nhiều xăng, vừa đẹp dáng. Chứ cái anh Cub này, bình xăng đã bé lại thù lù một cục, thô lắm.

Như thường lệ, Trí chưa kịp dứt lời, những tiếng phản bác đã ồ lên:

- Cái gì, ông đùa đấy à? Đầu óc người Nhật chứ có phải cứt đâu!"

Hải Kều nói, Ba Trạc nói, Đông "Gioăng" nói, Thái "lốp" nói, Hùng và cậu Biền cũng nói.

Riêng tôi không nói. Tôi mừng như bắt được vàng. "Bình xăng dưới yên, bình xăng dưới yên" - tôi nhủ thầm trong bụng - "Trí nói bình xăng dưới yên. Lần này mình phải ghi nhớ thật kỹ". Lần này tôi sẽ không ba phải nữa. Lần này tôi sẽ đóng vai trò phân xử đúng sai. Cả Trí lẫn đám đàn ông trong xóm đều không hề biết kế hoạch của tôi.

Sau đó còn nhiều cuộc tranh cãi khác, nhưng tôi không chú ý đến nữa. Tôi biết mình đầu óc ngắn, không thể nhớ nhiều. Tập trung vào nhớ câu nói của Trí đã đủ mệt rồi.

Nhà Trí ở đầu ngõ, hôm nào đi làm về tôi cũng đạp xe chậm lại, ngoái nhìn cái cửa gỗ sơn xanh đã bạc phếch của anh và đọc thầm trong bụng: "Bình xăng ở dưới yên. Trí nói bình xăng ở dưới yên". Có những hôm Trí đang làm gì đó trong nhà, trông thấy tôi, anh đẩy cửa ra:

- Có gì mà tươi thế!

- Tươi chứ, tươi chứ! - Tôi nói lấp lửng, vừa buồn cười vừa cảm thấy thú vị với cái bí mật nho nhỏ của mình. Và tôi còn nghĩ thầm "Tôi đang bảo vệ ông đây, ông có biết không!"

Câu chuyện này kết thúc sau đó khoảng ba năm. Cuối những năm 1980, những chiếc Suzuki 100 đầu tiên xuất hiện và tiếp theo là loại Honda Dream đầy kiêu hãnh. Lại Hùng, anh hàng thịt tốt số, dắt về con "Dream" đầu tiên của xóm. So với nó, cái anh Cub ngày xưa mới thảm hại làm sao!

Đám đàn ông lại có cớ tụ tập. Khi tiệc rượu đang tràn cung mây, Trí đứng lên nói với một giọng nhỏ nhẹ, đầy tự tin. Anh vẫn chưa quên cuộc tranh cãi.

- Các ông thấy chưa, mấy năm trước tôi đã nói rằng phải làm bình xăng chạy dài suốt yên xe, đúng không.

- Cái gì, ông nói thế nào ấy chứ. Chính chúng tôi, chính mồm tôi đây này, tôi nói rằng thế nào người Nhật họ cũng cải tiến nữa, năm nào họ cũng cải tiến, họ sẽ biến toàn bộ phần dưới yên thành bình xăng, vừa chứa được nhiều xăng vừa đẹp dáng. Mà họ chẳng chịu dừng ở đấy đâu, họ còn cải tiến nữa! Còn ông thì cứ khăng khăng là xe Cub đã đẹp rồi, sửa thế nào được. Có anh em đây làm chứng.

Đông "Gioăng" hùa theo:

- Tôi còn nhớ khi đó tôi nói sẵng với ông, rằng đầu óc người Nhật có phải cứt đâu! Ông nhớ không? Thế nào ông Lập, sao ông toàn chơi cái kiểu ngậm miệng ăn tiền thế là thế nào?

- Tôi nhớ, tôi nhớ. Ông Trí ông ấy nói rằng bình xăng ở dưới yên...

- Con khỉ! Thì ai bảo bình xăng ở trên yên! - Hùng "Thịt lợn" mở khoá đánh tách rồi ngửa các yên xe còn bọc nguyên ni lông - Bình xăng chẳng ở dưới yên thì ở dưới cái lồn mẹ thằng ăn mày à! Nói thế mà cũng nói!

Tôi đắng cả miệng, chẳng biết nói sao.

Cũng may, Đông Gioăng đã sốt ruột:

- Thằng Hùng đúng. Thằng nào có xe, có rượu, thằng ấy nói đúng, xong chưa!

- Đúng! - Tất cả đồng thanh.

Hải "Kều" vuốt ve cái mặt đồng hồ, suýt xoa:

- Đã quá các bố ạ. Ông Hùng là nhất đấy!

- Nào cạn chén. Trăm phần trăm nhé! - Tất cả đều hồ hởi.

Tôi cũng cạn chén và tặc lưỡi. Thôi, kệ xác. Ừ, chẳng lẽ chừng ấy cái đầu đều nhầm cả...

Pho tượng Phật

» Tác giả: Nguyễn Quốc Văn

» Dịch giả:

» Thể lọai: Truyện ngắn

» Số lần xem: 2628

1. Pho tượng Phật

Cho đến bây giờ anh Cu Mão vẫn chưa hoàn hồn. Anh bị kiện, bị kết án và vào tù nhanh đến mức không ai ngờ lại như vậy. Tang vật sờ sờ ra đấy, có trời mà cãi. Anh oán trời không có mắt, có miệng. Anh Cu cố ngủ. Cũng lạ, khi còn ở nhà, cứ buổi tối là mắt anh đã díp lại. Thế mà ở đây, mắt cứ thao láo. Mọi việc đã qua, càng muốn quên, nó càng bám riết lấy mình. Anh lại nhớ...

Cũng tại chị Cu cả. Hôm anh đang cày ruộng ở gần Chùa Cả, chị Cu hớt hơ hớt hải từ nhà chạy ra, vẫy nón rối rít. Anh dừng trâu "họ, họ" rồi lên đầu bờ gặp vợ. Chị Cu vừa thở, vừa quạt vừa nói:

-Bố thằng cu Ngọ này, nhà mình có khách. Bố nó cho trâu nghỉ một lát về nhà xem ất giáp ra sao. Họ nói cái gì, tôi nghe chả hiểu đầu cua tai nheo gì cả, bố nó ạ.

Anh Cu chưa kịp hỏi thì chị đã nói tiếp:

-Họ cứ khăng khăng đòi mua con lợn nhà mình.

Anh Cu xẵng:

-Hừ, lợn đang lớn mau,mua bán cái gì. Vớ vẩn...

Chị Cu đưa tay vén mấy sợi tóc bết trên gò má đỏ bừng, nhìn chồng cười:

-Vẫn biết là thế, dưng mà...

-Mà sao? Anh Cu giật giọng.

-Họ trả giá thịt hơi gấp rưỡi người ta...

-Lạ nhỉ...

Anh Cu nói đến đấy thì mặt biến sắc! Anh kêu lên: "Bỏ mẹ rồi, nó..."

Rồi anh bỏ chạy. Vắt chân lên cổ mà chạy. Mau, mau lên ! Không thì sạt nghiệp. Trời ơi, con mẹ ngu ơi là ngu...

Chị Cu còn kịp chạy xuống ruộng. Nước bắn tung toé ướt hết cả quần áo. Chị tháo cái ách cho con trâu. Chị chạy lên bờ. Ngã dúi dụi. Tay áo, ống quần dính bết bùn non. Chị nhớ nhà có cái xe đạp, cái đài anh Cu mới sắm trên tỉnh tuần trưốc, một ít tiền bỏ ống trong con lợn đất để dưới gầm giường... Chị bật khóc, le te chạy theo chồng. Cái nón cầm ở tay rơi lúc nào không nhớ. "Giời ơi là giời", chị kêu nghẹn ứ cả cổ. Muốn đứt hết hơi.

Tới sân, chị bỗng đứng sững lại. Chị lườm anh Cu, ra ý nói làm người ta hết cả hồn. Anh Cu đang cười hề hề với mấy ông lái lợn. Thấy vợ lườm mình, anh bảo: "Lệnh ông không bằng cồng bà, bu nó quyết định quách cho rồi. Gọi tôi về chỉ thêm mệt".

Mấy ông lái lợn nói theo:

-Ông nói vậy chứ không phải như vậy. Nhìn chị Cu kìa... Cả bọn phá lên cười. Lão to nhất trong bọn cười hềnh hệch: "Để cho chị ấy quyết mà ông anh tôi dìm bà xuống bùn thế kia kìa..."

Chị Cu giờ mới nhìn xuống áo, xua xua tay chữa thẹn: "Không, chỉ tại con trâu. Với lại, ruộng chằm quá...". Anh Cu bảo vợ: "Đặt cho tôi nồi bảy nước. Rồi đi tắm rửa cho sạch. Trông khó coi quá!". Chị Cu cười thầm, thế mà cứ bảo bố cu Ngọ cục. Xem ra việc này bố cu cũng đáo để đấy. Tiền nó dạy người ta khôn. Lợn hơi người ta mua có mười bốn ngàn một cân, có người trả hai mươi ngàn, khờ gì mà không bán. Ô hay, hay là giá thịt nó lên? Có lẽ chẳng phải. Mới chiều qua mua cho anh Cu hai lạng thịt ba chỉ mỗi lạng cũng mới hai ngàn. Bốn ngàn thịt và hai ngàn rượu anh Cu đã say tuý luý,ngủ ngáy vang cả nhà. Ơờ, mà lúc nãy mấy bác đây nói là người làng bên, đi mua lợn làm đám cưới, đắt rẻ chẳng quan trọng. Miễn là vừa túi tiền là được... Hay là họ lừa mình. Lừa? Chẳng phải. Vì tiền anh Cu đang đếm kia. Chị đến bên cạnh, đúng là tiền thật... Thôi kệ, việc ngừơi ta, người ta lo, việc bán lợn có lợi thì vợ chồng chị bán. Ai làm gì cũng mặc. Cái bác be bé kia nói thế mà có lý: "Con lợn đang lớn, chỉ nửa tháng nữa là tiền bằng bây giờ. Chúng tôi mua có tính đến chỗ thiệt ấy của chủ". Thật mát cả lòng. Người ta cũng biết của cả chứ ai dại đâu...

Chị vừa nghĩ vừa múc nước giếng vào cái nồi bảy bằng đồng. Chị đặt lên bếp kiềng vẫn để nấu cám lợn, chất củi vào rồi quạt lửa phù phù. Xong, chị dặn anh Cu:

-Bố cu Ngọ uống nước với mấy bác, nhớ trông hộ nồi nước sôi. Tôi đi tắm đây.

Yý tứ vì nhà có khách, chị lấy quần áo bỏ vào cái rổ mang ra phía cầu ao. Chị khúc khích cười khi thấy cái rổ không phải là cái nón. Cái nón đâu nhỉ. Rõ là đa nghi cái vợ chồng nhà chị... Chị Cu tắm vội vàng rồi chạy về nhà. Mấy người mua lợn đã trói nghiến con lợn lại, đang đè ra chọc tiết vào một cái chậu thau. Họ cạo lông, mổ bụng con lợn và để bộ lòng ra ngoài. Sau đó, họ bỏ con lợn vào một cái bao tải, đầu thò ra ngoài. Chị Cu đang hái lá xương xông ngoài vườn được gọi vào cho họ mượn một cái quang tre. Anh Cu và một người nữa ra cầu ao loay hoay rửa và làm lòng lợn.

-Chị đặt thêm nồi nước . Khi nào xong lòng thì luộc. Chúng tôi khênh thịt về trước để làm cỗ -một người nói.

Người kia bảo:

-Chị nhớ nói anh Cu đánh cho chúng tôi mỗi người một bát tiết canh. Xong việc, chúng tôi đánh chén với nhau một bữa.

Con lợn có ba chục cân mà sao cái đòn gánh cứ oằn xuống. Họ khênh lợn về phía đầu làng. Ai mà để ý mấy ông lái lợn. Khoảng hơn mười hai giờ thì họ quay lại. Rượu vào lời ra, rôm rả lắm... Bốn người đàn ông đang uống rượu với lòng lợn thì sư ông bên chùa Cả hớt hải đi vào ngõ. Sư ông hỏi: anh Cu có thấy ai đi tắt từ chùa sang đây không. Anh Cu lắc đầu. Ba người kia rót rượu mời sư ông . Ông cụ trông thấy bát tiết canh còn loang lổ máu, xua xua tay rồi đi nhanh ra ngõ. Đến khoảng ba giờ chiều thì ba người đàn ông chào vợ chồng anh Cu, nói là đi về dự cưới. Ơở làng bên, vẳng theo gió đưa lại tiếng nhạc, tiếng kính thưa quan viên hai họ... Anh Cu rờ lên cằm, nhổ một sợi râu nhìn chị Cu, cười. Rồi chợt hỏi:

-Thằng Cu Ngọ đâu?

Chị Cu hiểu ý chồng, khẽ bảo: "Quên khấy mất, tôi chưa nói với bố thằng Cu, tôi cho nó sang ngoại từ khi bố Cu dắt trâu đi. Vừa về đến nhà thì họ đến... Anh Cu nháy mắt, chị hiểu ý: "Nỡm ạ, ban ngày ban mặt. Aà, bố thằng Cu xem con trâu tôi thả từ sáng ở đâu rồi. Nó mà theo trâu cái làng dưới, thì tha hồ mà tìm đến mất cả đêm..." Anh Cu nghe ra, khoác cái áo, với cái roi đi ra ngõ. Anh vừa đi vừa cười...

Sáng hôm sau, anh dắt trâu đi cày. Mới có hơn tám giờ đã thấy anh Cu về. Trên vai vác một cái gì như khúc gỗ. Kiếm cớ về nhà đây. Đến dễ ghét, chị Cu lườm chồng:

-Dửng mỡ... định cấy chậm lại à?

Anh Cu cười:

-Có tiền đây. Phúc vô đơn chí chí... hì... hì... Anh vứt cái vật trên vai xuống đất cái bịch.

- Cái gì thế, bố cu? Chị Cu thấy lạ hỏi rồi không chờ anh Cu giải thích, chị ngồi xuống, lấy cái que tre cời cời đất, reo lên:

-Một pho tượng... thế mà tôi cứ tưởng cái tút đại bác hay cái đầu tên lửa cơ đấy.

Hai vợ chồng cời hết đất bám bên ngoài pho tượng. Đẹp quá! Vợ múc nước giếng, chồng lấy cái xơ mướp cọ. Lạ quá, đồng cứ sáng lên một lát rồi lại xỉn đen lại. Anh Cu sờ tay lên trán vẻ ngẫm nghĩ.

-Đồng đen rồí!. Ôồ...

-Ôồ cái gì? Bố cu kêu toáng lên người ta đến thu mất bây giờ. Mà ồ cái gì, bố nó?

-Nó hao hao tượng bên chùa Cả sư ông quí hơn cả mả tổ ông ấy.

-Ơờ nhỉ, tôi cũng nghĩ thế... Aà, sư ông quí pho tượng ấy, chắc nó có giá lắm. Chị nhìn chồng lo lắng:

-Tôi quên chưa hỏi bố cu lấy pho tượng này ở đâu.

-Tôi đâu có lấy ở đâu. Đang cày thì bỗng.. kịch.. tôi bèn thò tay xuống, moi thế này này.. rồi lôi lên - Anh làm như đang moi đất - Rồi tôi đem về... như bu nó thấy đấy. Có dễ hơn hai chục cân.

Chị Cu bảo chồng cất pho tượngvào trong buồng. Chị nghe phong phanh cái gì ở dưới đất lâu không rỉ đều quí. Đài phát thanh hôm nọ có nói một món đồ cổ có giá trị hàng triệu đô la. Thôi một triệu tiền Việt Nam cũng là to lắm rồi. Những cả tấn thóc chứ chơi à... Chị Cu chưa kịp mừng. Ngay tối hôm ấy, công an xã và công an huyện đi cùng sư ông ập vào nhà chị. Theo đơn kiện của sư ông, rõ ràng hôm chùa Cả mất pho tượng phật quí bằng đồng đen, có rất nhiều vết chân từ chùa đi tắt qua vườn nhà anh Cu. Sáng qua, chính sư ông đã thấy...

Anh Cu bị đưa ra xử vì tội ăn cắp di sản văn hoá dân tộc. Chị Cu từ hôm đó ra đồng cứ bịt khăn kín mít, cái nón đánh rơi đã tìm lại được cứ xùm xụp trên đầu. Đi đâu cũng nghe thấy người ta đang xì xào về nhà mình. Chị tưởng như mỗi lần chị đi qua, những người ở phía sau đang chỉ trỏ vào chị mà bảo nhau: "Vợ thằng ăn trộm của chùa đấy. Thế mà cứ bảo vợ chồng nó hiền...". Ưức muốn khóc được. Nhục nhã, ê chề quá.

Có một phạm nhân can tội giết người được tha bổng. Anh tên Lành. Lạ nhỉ ! Tội to thế mà còn được tha là làm sao? Anh Cu nghe phong phanh anh này bị oan. Anh kêu oan hay kháng án gì đấy. Một luật sư đã cãi cho anh trắng án. Ta cũng oan, có thể làm như thế được chứ. Không thì nhục lắm. Ra tù cũng chẳng dám về làng. Anh Cu nghĩ thế và tìm gặp Lành. Anh này rỉ tai anh nhắn vợ tìm luật sư Tâm Thiện cãi cho. Chị Cu vào thăm nuôi chồng nghe nói như vậy, thì mừng lắm. Về nhà , chị Cu gọi cậu em ruột bán cho nó con trâu. Cậu em đưa tạm cho chị hai triệu, còn bao nhiêu cậu lo dần... Chị gởi Cu Ngọ cho ông bà ngoại, nắm theo bốn nắm cơm và một lọ vừng, lên xe ra Hà Nội.. Chị tìm được nhà ông luật sư không khó lắm. Từ trong nhà một người đàn ông chừng hơn bốn chục tuổi bước ra. Ông hỏi :

-Có phải chị muốn tìm tôi?

Nghe có vẻ người dễ gần. Mặc dù vậy giọng chị Cu vẫn run run:

-Thưa ông, ông có phải là ông Thiện không ạ

-Tôi đây, tôi đây, mời chị vào nhà...

Ông rót nước mời chị uống. Thấy chị e dè, người run run, ông hỏi trước:

-Chắc chị có việc gì oan ức, muốn nhờ tôi giúp đỡ...

Nghe ông nói chị Cu òa khóc. Rồi vừa sụt sùi chị vừa kể lể câu chuyện chồng mình được pho tượng ngoài ruộng mà phải lại đi tù vì tội ăn cắp...

Ông im lặng ngồi nghe. Thỉnh thoảng, ông hỏi chị Cu một câu và ghi vào cuốn sổ tay. Lúc chị Cu ra về, ông hẹn hai hôm sau nữa sẽ về làng Chùa Cả để biết thêm các chi tiết. Chị Cu đặt cái gói vuông lên bàn, khẽ khọt:

-Thôi thì trăm sự nhờ ông, vợ chồng cháu có chút tiền mọn gọi là lộ phí xe cộ...

Ông Thiện cầm lấy gói tiền lên, bảo chị cầm lấy, mọi cái sẽ tính sau. Ông cười.

Chị Cu chào ông rồi ra bến xe ô tô. Trên xe, chị vừa mừng, vừa lo. Mừng vì ông thầy này có vẻ đức độ. Lo vì sợ ông chê gói tiền kia bé quá...

Đúng hẹn, ông Thiện về làng Chùa Cả. Ông bảo chị Cu dẫn ông ra chỗ cái ruộng anh Cu bắt được pho tượng. Ông hỏi trước đó có ai đến gặp anh Cu không. Chị Cu kể chuyện ba ông lái lợn. Chị có tỏ ý nghi ngờ sao con lợn nhà chị đã thịt rồi còn nặng đến thế. Cái đòn gánh chị gánh cả gánh cỏ nặng mới oằn được. Thế mà... Mắt ông luật sư sáng lên. Sau đó ông Thiện đi sang Chùa Cả. Sư ông dẫn ông đi xem pho tượng. Phần đế của pho tượng phật bị khuyết một góc, ông lẩm bẩm: "Sao lại có sự trùng hợp kỳ lạ thế nhỉ. Hay là..." Ông hỏi sư ông trong chùa có sách nào ghi về pho tượng phật không.

-Có nhưng là sánh Nôm. Theo sư cụ đã viên tịch, bản ở đây chỉ là bản sao. Còn bản chính thất lạc từ bao giờ, sư cụ cũng không nhớ. Aà mà ông cũng đọc được chữ Nôm?

-Được, được-Ông Thiện cười-cũng gọi là võ vẽ...

Sư ông dẫn ông Thiện vào phòng khách. Ông đưa cho luật sư một cuốn sách bìa đen đã sờn: "Nó đây". Ôõng Thiện bắt đầu đọc. Mới mở trang thứ nhất ông đã kêu lên: "Nó đây rồi. Nhị phật đồng đen cản thôn lân..." Sư ông lại bên ông: "Như vậy nghĩa là sao, thưa ông?"

-Có nghĩa là-Ông Thiện nói-Pho tượng trên điện thờ đang ở chùa nhà ta kia đúng là pho tượng anh Cu Mão bắt được...

-Không thể được-Sư ông kêu lên-Đó là pho tượng nó đã ăn cắp. May mà...

Ông Thiện giở trang thứ chín. Trong trang sách có đoạn đại ý: Năm một nghìn bốn trăm hai tám, dân làng Chùa Cả đào một con mương, bất ngờ thấy một cái cột đồng, đoán là quân Minh yểm vượng khí nước Nam chôn ở đây, bèn đúc hai pho tượng phật, mỗi pho dự tính là hai mươi lăm cân. Đồng được chia đều vào hai nồi nấu. Lúc đúc pho thứ nhất, khuôn hơi rộng, người thợ đã múc một gáo đồng đã nấu chảy đổ vào. Pho tượng thứ hai vì thế mà khuyết một phần đế. Pho thứ nhất để ở Chùa Cả, pho thứ hai gởi ra đền Chân Quốc... Khoảng năm kiêu binh nổi loạn, pho tượng phật ở đền Chân Quốc tự nhiên biến mất...

Sư ông chăm chú đọc theo ngón tay chỉ của ông Thiện. Rồi hỏi:

- Liệu sách có ghi lầm hoặc người xưa chuyển lầm pho tượng khuyết đế ra Chân Quốc?

-Tôi nghĩ là không lầm. Chỉ có thể là lúc loạn lạc, một người nào đó ở làng Chùa Cả này đã ra lấy pho tượng đem về đây. Tiếc là không thể đặt ở chùa được vì đã có một pho rồi. Người kia bèn dấu đi...

-Còn pho tượng không khuyết đế mà ông bảo rằng nó ở đây thì sao? Sư ông hỏi

Ông Thiện cười:

-Nó đang ở sân bay Tân Sơn Nhất...

-Sao ông biết...

- Tôi làm luật sư cho một công ty nước ngoài liên doanh với Việt Nam. Vụ này liên quan đến một nhân viên của họ...

Sư ông chăm chú nghe ông Thiện lý giải:

-Đó là một người đàn ông Pháp. Hải quan sân bay phát hiện ra pho tượng quí, bèn giữ lại. Người ta còn giữ được một cuốn sách Nôm và một bản dịch tiếng Pháp liên quan đến pho tượng. Bản chữ Nôm là một bản chụp từ một thư tịch cổ ở thư viện quốc gia. Ông xem đây, địa danh Chùa Cả không ghi tên tổng, tên phủ...

-Vậy người Pháp kia làm sao lấy được pho tượng ở đây? Sư ông hỏi, tỏ ý không hiểu.

-Sư ông còn nhớ bọn lái lợn đã mua lợn và đánh chén ở nhà anh Cu Mão không?

-Tôi nhớ... Nhưng họ có liên quan gì ở đây.

-Có đấy. Chúng chính là bọn trộm pho tượng. Nếu tôi không lầm thì hôm ấy pho tượng đã được nhét vào bụng con lợn đã mổ.

-Bọn này được thuê phải không?

-Có lẽ chúng là đồng bọn. Còn kẻ tìm ra địa danh này phải là một người có học, thậm chí rất giỏi về cổ học...

-Thế công an đã bắt được bọn chúng chưa.

-Thưa, hiện nay thì chưa.Nhưng tôi nghĩ sớm muộn gì thì cái kim trong bọc cũng sẽ lòi ra...

Điện từ thành phố Hồ Chí Minh cho biết: phía trong, phần rỗng của pho tượng, có một vài vết máu lợn. Pho tưọng phật tưởng vô chủ đã có địa chỉ...

BÊ TRỌC

» Tác giả: Phạm Việt Long

» Dịch giả:

» Thể lọai: Hồi ký

» Số lần xem: 65792

10. Tháng 1 đến tháng 4

Năm 1971

Ngày 1/1/1971

Năm mới đến trong cái mưa dầm dề dai dẳng. Trời mù suốt và cứ mưa rả rích. Tôi đón năm mới trên đường đi nóc Ông Thiên. Một mình cắm cúi bước trên đường trong cái lạnh ướt. Một mình ngủ giữa rừng thấy buồn tẻ vô cùng. Đêm đầu, cột võng ngay bên đường mòn, súng ngắn để trên bụng và ngủ yên lành tới sáng. Đêm thứ hai vào một khu cơ quan bỏ hoang bên sông, thấy ấm áp hơn.

Đến cơ sở sản xuất lúc anh em đang cuốc ruộng. ở đây đang vỡ hoá lại cánh đồng bị bỏ hoá từ mấy năm trước đây. Những thửa ruộng cao bị cỏ tranh bao dày. Những thửa ruộng cũ bị sình lầy và cũng dầy đặc cỏ.

Chúng tôi dùng cuốc vỡ ruộng. Sình lầy quá đỗi. Dẫm thụt đến quá đầu gối. Cuốc, ra sức cuốc. Cỏ kết bè lại, nhùng nhằng. Nước bùn thấm vào da thịt lạnh ngắt và rất ngứa. Da thịt ửng đỏ lên, ngứa muốn điên lên. dầm trong nước lạnh và bùn lầy, bọn tôi vẫn vỡ từng đám ruộng một. Chúng tôi còn có cái thú là bắt chim cuốc - Tô biết làm loại bẫy bằng tre thít cổ chúng.

Chẳng bao lâu ruộng đã bờ liền bờ, phẳng phiu, đủ cho chúng tôi cấy 6 ang giống. Mạ cũng đã được gieo.

Ngày 16/1/1971

Mấy hôm nay trời đã hửng nắng. Bầu trời cao, xanh, xen những đám mây trắng xốp. Những tia nắng le lói chiếu trên khắp núi rừng, xua tan dần cái ẩm ướt, lạnh lẽo. Bọn địch lợi dụng trời nắng hoạt động dữ. Moranh quần lượn suốt. "Rọ", "gáo", HU.1A (các loại máy bay trực thăng trinh sát và chiến đấu) luôn luôn chúi vào các hẻm núi dòm ngó. Có khi "rọ" còn lách theo bờ sông dùng cánh quạt ở đuôi quạt tung từng bụi cây để tìm người, nhà cửa. Cái thứ tầu "rọ" này đáng ghét lắm: chúng nhỏ bé nên luồn lách khắp nơi, sà xuống thấp dễ dàng. Đã thế, chúng chỉ có bộ khung bằng kim loại, còn lại bọc bằng nhựa trong suốt nên quan sát rất dễ. Rất nhiều đồng chí của tôi đã bị "rọ" kít xuống bắn chết hay bắt sống.

Chúng phát hiện ra xóm nhà của nóc ông Điền. Thế là lũ HU.1A và tầu rọ bu đến bắn đại liên, phóng rốc két, cối... Một chiếc máy bay cánh dơi quần lượn suốt, thả hết tràng bom này tới tràng bom khác. Chúng đánh phá như vậy suốt 3 ngày liền. Đêm, chúng còn bắn pháo cấp tập đến nữa. Không hiểu đồng bào bị thiệt hại ra sao?

Ngày 22/1/1971

Tôi cùng Tô, Tùng mang nếp, gà về cơ quan ăn tết.

Ráng tới bờ sông Tranh khi trời đã nhoà tối. Gọi đò hoài mà không ai đáp. Trời lại rắc xuống một trận mưa, lạnh vô cùng. Chúng tôi lội ngược suối, định lên đơn vị sản xuất gần đó ngủ nhờ. Nhưng khi vừa bước vào nhà, đã nghe giọng nói chẳng lấy gì làm thân thiện lắm: "Các anh định ngủ nhờ hả, không được đâu!". Tính tôi không thích kèo nèo. Tô, Tùng cũng vậy. Thế là lại quay ra bờ sông mưa lạnh.

Dăng tạm tăng ở lại bờ sông mà ngủ. Tô bỗng kêu thét lên. Hoá ra cậu ta vịn vào cây, vớ trúng con rắn lục. Loại rắn này mầu xanh lá cây, sống trên cây nhưng chỉ hoạt động vào ban đêm. Nọc chúng rất độc, có thể giết chết người như không. May mà lúc này còn ánh mặt trời, con rắn đang ngủ, chỉ phản ứng một cách chậm chạm. Tô dùng rựa chém chết con rắn. Chỗ này dốc, nhiều đá nên chúng tôi cột võng không thoải mái chút nào, đầu cứ chúi xuống phía sông. Ăn chút cơm nguội. Rồi leo lên võng nằm. Gần sáng, cái tăng bị đọng nước, đổ một vũng xuống võng Tô làm cậu ta ướt mèm. Tô làu bàu: "Ngồi vậy thôi". Tuy nhiên, vẫn cột võng tránh chỗ nước và lại ngủ thiếp đi - mệt quá mà. Nghe mấy quả pháo nổ gần gần.

Từ 24 đến 30/1/1971 - Xuân Tân Hợi

Chúng tôi đón xuân mới tại cơ quan. Trời chẳng có gì là xuân cả vì cứ u ám suốt và lạnh vô cùng.

Thật là tai hại, cái con heo to lớn mập mạp của cơ quan lại bị bệnh gạo - phải chôn. Do vậy quá nghèo thịt. Anh em kháo nhau rằng đó là điều may, năm mới sẽ tha hồ gạo mà ăn.

Tuy nhiên, về tinh thần thì khá thoải mái. Chúng tôi họp tiểu ban, đại hội chi bộ trước tết, còn đến giao thừa và ngày 1, 2 đều được nghỉ. Tôi và Vượng thức suốt đêm nghe đài, tán chuyện tào lao.

Đồng bào cũng vào ăn tết với chúng tôi. Cơ quan đãi bà con một bữa khá thịnh soạn. Bọn tôi cũng dành kẹo bánh đem biếu nhà ông Xây - cơ sở của chúng tôi.

Ngày 4/2/1971

Nhà ông Xây cho chúng tôi một con heo nhỏ. Bọn tôi mổ thịt và mang về nấu. Nhà chỉ có 3 anh em. Xì xụp lúc cúc nấu nướng suốt buổi tối. Kể ra đây cũng là một việc hiếm có.

Trời vẫn mù, mưa nhỏ hạt. Lạnh vô cùng. Chúng tôi chất lửa suốt đêm ngày.

Ngày 8 - 16/2/1971

Tôi đi cõng gạo "Xã hội chủ nghĩa". Đây là loại gạo được chuyển từ miền Bắc vào chứ không phải loại gạo mua từ đồng bằng miền Nam lên. Nói chung, những gì liên quan đến miền Bắc, chúng tôi đều gắn với 4 từ Xã hội chủ nghĩa: "gạo Xã hội chủ nghĩa", "đường Xã hội chủ nghĩa", "thuốc Xã hội chủ nghĩa"...

Chúng tôi đi về phương Bắc. Ngoài tết rồi mà trời vẫn mưa lai rai. Đường nhão nhầy, trơn truội. Đi qua con đường mà cách đây gần 3 năm tôi đã đi qua khi hành quân từ Bắc vào. Đến nước Kiết - trạm Dân cũ - Tôi ngồi ngắm nhìn cảnh vật, lòng đầy suy nghĩ. Dòng suối này tôi thường ra câu cá và mỗi khi đi mót sắn về lại cõng gùi sắn qua để vào bãi khách phía trong kia. Ôi! những ngày đói kém, gian khổ đầu tiên đến thử sức bọn tôi có lẽ là ở đây đây.

Lại đi qua con sông Nước Mỹ. Dòng sông đầy những tảng đá khổng lồ. Người ta lấy gỗ bắc qua những tảng đá đó để làm cầu đi qua sông. Hồi vào, bọn tôi đi qua đoạn sông này. Phía bãi cát có những bụi rù rì duyên dáng, tôi và San từng ra đó chụp ảnh - bao năm trôi qua rồi, song cảnh vật không khác chi mấy.

Trời lạnh vô cùng. Đêm ngủ, thấy võng giá ngắt như ướt sũng nước. Sơn và Khoa cột sát võng, nằm chung bọc võng cho ấm. Tôi mang đủ màn, áo ấm mà vẫn lạnh không sao ngủ được. Trời nắng được 3, 4 bữa. Đường ráo một chút, song có những quãng lầy, bùn lại đặc quánh lại, dính dép nhằng nhẵng. Rồi lại rắc mưa xuống, nhớp nháp.

Đường dốc vô kể. Những cái dốc đứng sựng trơn truội. Xuống dốc, thần kinh căng như dây Mi của đàn Măng đô lin. Có một anh đã sảy chân ngã, bị sứt 2 cái răng. Tôi phải dùng gậy chống, dò từng bước đi xuống. Lạnh mà mồ hôi vẫn tuôn ra. Ngồi nghỉ một chút, mồ hôi rao ráo lại lạnh vô cùng, phải đi ngay. Ngán nhất là lúc ăn cơm trưa. Ăn vào rồi, thấy run lên vì lạnh. Không muốn ngồi lại chút nào, tuy biết rằng ăn xong mà đi ngay là rất hại, rất ác với cái dạ dày.

Thư gửi gia đình

Ngày 19/3/1971

Bố mẹ kính mến!

Có anh Phò ra Bắc chữa bệnh, con gửi thư nhờ anh ấy mang ra và mời anh ấy đến chơi nhà. Anh ấy cùng ở tiểu ban, cùng tổ đảng với con. Anh ấy sẽ kể nhiều chuyện về con cho gia đình nghe.

Bố mẹ ạ, hoàn cảnh gia đình anh Phò cũng tội, vợ, con anh ấy đều ở đồng bằng, lâu nay không liên lạc gì được. Nay anh ấy bị bệnh, không có đủ sức khoẻ, phải ra Bắc, anh ấy cũng buồn. Mong gia đình đối xử với anh ấy thân mật, đầm ấm như người nhà để anh ấy vui.

Bố mẹ muốn gửi gì cho con thì nhờ anh Phò gửi cho nhanh và bảo đảm. Gần một năm không nhận được tin tức gia đình, con buồn quá.

Thôi, chúc bố mẹ khoẻ, các em ngoan, học giỏi. Anh Phò sẽ nói chuyện nhiều cho bố mẹ nghe.

Con đã dặn anh Phò nếu có điều kiện thì chụp ảnh gia đình để gửi cho con. Con mong ảnh gia đình lắm,

Con của gia đình.

Việt Long.

Ngày 22/3/1971

Lý rủ tôi xuống ngọn nước Ta để kiếm cá. Dụng cụ mang theo là hai cái cần câu và một cái lưới rách nát, đứt xiên và chỉ có vài cái phao.

Chúng tôi mang gùi đi - cả võng, ăng gô, gạo, rựa, súng... ở núi rừng này phiền phức thế đấy, đi khỏi nhà một đêm là phải mang đủ thứ lích kích.

Đến nơi, đã xế chiều. Tôi kiếm chỗ dăng tăng, kiếm củi nấu cơm. Lý đi thăm chỗ câu và rải lưới. Tối xuống nhanh quá, hai anh em ăn vội mấy miếng cơm rồi vác cần câu đi. Đầu tiên, chúng tôi ngồi câu cá ở gần một thác nước. Thác nhỏ thôi nhưng dựng đứng. Nước đổ xuống trông như bức tường đá, bắn bọt khắp một vùng. Dòng nước chảy mạnh, xô khối không khí quanh đó chạy dạt về phía trước, tạo thành một luồng gió mạnh. Thành thử ngồi đó luôn có cảm giác trời mưa gió lạnh lùng. Cá chẳng cắn câu gì cả. Chúng tôi vượt lên thác. Đá trơn, không có bậc, nên vượt thật vất vả. Phải bám vào rễ cây, dây rừng mà đu người lên. Trời tối thui. Lội qua suối, tôi bị hẫng chân vào một hũng sâu, ướt cả hai ống quần.

Câu chán ở trên không được, bọn tôi lại lần xuống dưới thác. Phải dò từng bước xuống. Trời dậm doạ mưa. Vội về dăng tăng. Bấm đèn, dứt dây rừng để dăng tăng. Tới nửa tiếng đồng hồ mới xong. Lý đi thăm lưới. Cá cũng mắc. Cả câu, cả lưới được 9 con, mỗi con to bằng 2 ngón tay!

Ăn tiếp chút cơm còn lại. Mưa. Rải vội lưới, thả lưỡi câu Chình rồi về nằm.

Mưa rả rích. Rồi mưa lớn dần. Hai anh em nằm chung một tăng. Nước mưa hắt làm ướt cả bọc võng. Song không lạnh lắm.

Bốn rưỡi sáng, Lý thức tôi dậy. Mưa nặng hạt hơn. Sông réo ầm ầm. Chắc nước đang lên. Lý lo lưới bị cuốn mất. Anh nhấp nhổm muốn dậy. Tôi viện lý là ở đó nước quẩn, không trôi lưới được, khuyên anh nằm lại đợi sáng đã. Nhưng rồi anh vẫn dậy, bấm đèn ra gỡ lưới. Anh mang về một gói lưới. Lá dính đầy lưới. Cũng có 5, 6 con cá. Lại cả một chú cua, một chú ếch nữa. Chúng tôi gỡ ra, cho vào ăng gô. Cả thảy có 14, 15 con cá, một con ếch, một con cua - đó là chiến công của chúng tôi sau gần 2 tiếng vượt dốc, lội suối và một đêm hì hục lần mò, dầm mưa kiếm chác.

Nước sông lên to. Bọn tôi bàn nhau phải xuyên sơn về. Chẳng thèm nấu cơm sáng nữa. Thu dọn đồ rồi lội thử qua sông. May quá, cũng được. Tiếp tục lội ngược sông, vượt hai thác, leo dốc về cơ quan. Tôi cho rằng đó là một thất bại. Lý nói rằng không thất bại, vẫn là thắng lợi. Tôi nói rằng phải trả giá mấy con cá đắt quá. Lý nói rằng không đắt, vì nước lớn, lẽ ra phải mất lưới cơ.

Về nhà nấu cơm ăn. Anh em để phần thịt mang xào, thịt mang nấu mì chay. Và trưa đó mỗi người được một nửa con cá do chúng tôi kiếm. Kiếm ăn đâu phải chuyện dễ!

Hồi này địch tập trung xâm lược Nam Lào nên chỗ chúng tôi khá yên. Ngày, đêm có những chuyến máy bay phản lực vội vã bay qua đầu chúng tôi, lướt về hướng Bắc. Cứ hôm nào có máy bay bay nhiều, y như là hôm đó ngoài ta đánh mạnh, thắng lớn.

Ngày 19/3/1971

Nghe tin ta đánh thắng Bản Đông. Thật lý thú khi nghe những tin, bài phản ánh sự thắng lợi đó. Ngày 23, quân ta làm chủ hoàn toàn Nam Lào. Chúng tôi say sưa ghi chép tin tức chiến thắng. Anh Phi chỉ thị phải có kế hoạch tuyên truyền tập trung cho chiến thắng này. Tập thể bàn bạc, sau nửa tiếng vạch xong kế hoạch cụ thể. Bài vở soạn kịp thời, vẽ cả bản đồ nữa. Đem in kịp thời tập tài liệu về chiến thắng đó để chuyển về các tỉnh cung cấp xuống cơ sở.

Anh em tổ chức liên hoan mừng thắng lợi. Trong 2 ngày liền đổi được 2 con lợn - thế là rôm rả.

Phong trào cải thiện lên khá. Tổ đánh cá thỉnh thoảng lại gửi về một thùng cá muối. Đó là thành quả của việc cả tổ lặn lội suốt ngày đêm ở Nước Ta.

Đêm 27 rạng ngày 28/3, quân ta tập kích cứ điểm Xã Đốc. Suốt đêm, ở xã đó vang lên tiếng súng, tiếng máy bay. Nghe tin diệt gọn một tiểu đoàn Mỹ ở đây. Địch phản ứng yếu ớt. Chúng bắn pháo vu vơ vào các vùng xung quanh. Máy bay trinh sát cứ bay rít nhặng xị trên bầu trời nơi chúng tôi ở suốt ngày, đêm. Pháo chúng câu tới vùng này, song còn cách chúng tôi vài chục phút đi bộ.

Suốt 3 ngày 27, 28 và 29/3, quân và dân Trung Trung Bộ tiến công dồn dập hàng trăm vị trí địch, diệt hàng ngàn tên Mỹ, ngu��ình hình chung toàn chiến trường rất tốt.

Thư gia đình

Hà Nội, ngày 6-4-1971

Long thân yêu của mẹ!

Thấm thoát con xa gia đình đã gần 3 năm rồi, gia đình nhớ con nhiều lắm, mẹ cứ thấy người ta ra ngoài này bồi dưỡng sức khoẻ hoặc được ra hẳn, mẹ mong con cũng được ra quá mà chả biết bao giờ con mới được ra. Kỳ này có đoàn vào để thay thế cho một số trong ấy ra, chả biết con có được ra không?

Hôm mẹ vào thăm anh Thành, mẹ cũng mua thuốc lá và đem kẹo vào biếu anh ấy và mẹ có dặn khi nào anh Thành ra viện thì thế nào cũng đến nhà chơi một ngày và anh Thành cũng chưa thể vì còn nhiều chuyện nhưng đến bệnh viện không tiện nói nhiều.

Vì bố được tin tổ chức đến báo là có đoàn vào, có gửi gì cho con thì gửi cho nên mẹ tạm gửi 50đ và 20v thuốc tetracylin thay Biomycin. Khi nào con sốt hay viêm họng thì con dùng và còn một số thuốc viên trắng là nhung viên, anh mua cho mẹ dùng nhưng còn 70 viên mẹ gửi cho con dùng, một ngày uống 3 viên thôi, mẹ rất muốn gửi nhiều thứ cho con nhưng sợ họ không nhận. Đây là mẹ cứ chuẩn bị sẵn còn mai đem lên xem chị Sáu có nhận cho không? Mẹ đổi 5 tờ giấy 10 đ mới tinh để gửi cho con đấy, còn bao giờ anh Thành vào, mẹ có điều kiện lại gửi thêm tiền cho con, con chỉ để bồi dưỡng thôi không cần mua bán gì cả, mẹ chỉ cốt con còn khoẻ mạnh, về với gia đình là tốt rồi. Hồi này các em bận học thi cả, chưa viết thư cho con được, thi xong các em sẽ viết cho con. Em Phúc còn một năm nữa là về rồi.

Nếu mẹ gửi được các thứ vào mà con nhận được thì con trả lời mẹ để mẹ còn gửi kỳ sau, con cứ viết sẵn thư khi gặp ai ra là con gửi thì tiện hơn, ở nhà mỗi khi ăn gì mà món ăn con thích thì mẹ lại nhắc đến con luôn, con cố gắng phấn đấu cho tốt và giữ gìn sức khoẻ, đừng chủ quan, khinh địch, gia đình rất mong con được về đoàn tụ cùng gia đình ngày gần nhất.

Thôi thư đã nặng rồi, mẹ chỉ viết được thế thôi, chả sao mà nói hết lời mấy con được.

Bố mẹ và gia đình chúc con khoẻ mạnh.

Mẹ chụp ảnh gửi gấp cho con để con mừng.

Mẹ .

Ngày 9 tháng 4

Tôi và Vượng được cử đi công tác thực tế. Đó là ao ước suốt 3 năm nay của chúng tôi. Tôi sẽ đi Quảng Nam, Vượng đi Quảng Ngãi. Chúng tôi mau chóng chuẩn bị vài thứ cần thiết để đi sớm. Anh Phi (Phương) căn dặn chúng tôi nhiều. Nói chung anh tỏ ra khá lo ngại cho chúng tôi vì chuyến đi này là chuyến đi đầu tiên, chiến trường lại ác liệt. Anh bảo: Xuống địa phương, ở làm việc với Tuyên huấn và Văn phòng Tỉnh ủy - kết cho chặt, cùng làm việc khoảng 15 ngày. Xuống huyện 15 ngày rồi đi huyện khác. Những tin có thể điện về Khu: Phá khu dồn, mở mảng vùng giải phóng, phá rã phòng vệ dân sự, binh biến, khởi nghĩa trong quân ngụy, đấu tranh chính trị lớn - nên viết gọn, rõ. Những tin tổng hợp về phong trào, về huyện. Làm ngay tin chống bình định, giành dân của tỉnh: đánh bọn kìm kẹp, diệt ác ôn, làm rã địch, phá khu dồn, xây dựng vùng giải phóng như thế nào? Phong trào du kích chiến tranh - của tỉnh, huyện. Phong trào đấu tranh chính trị - có thể viết tổng hợp hoặc gắn với tin về nổi dậy. Những mẩu chuyện về du kích, đấu tranh chính trị, sản xuất, người tốt việc tốt - nêu rõ hành động, suy nghĩ, nhưng viết ngắn gọn. Có thể xuống một xã nhưng không ở lâu.

Ngày 10 /4/1971

Chúng tôi phấn khởi lên đường xuống Nước Ta.

ở đây tổ Đảng tuyên truyền họp. Cuộc họp không thú vị gì, vì là buổi kiểm điểm một số khuyết điểm. Vấn đề đặt ra: tại sao Tuyên truyền có quỹ riêng 5.000đ? Có phải là tham ô tập thể không? Câu chuyện này đáng lẽ lùi vào dĩ vãng rồi. Số là hồi năm 1969, các bộ phận đều có cơ sở sản xuất tự túc riêng. Tới cuối năm này, qua đầu năm 1970 thì các chi bộ giải thể, trở thành tổ đảng, cả cơ quan thành một chi bộ, và các bộ phận sản xuất nhập chung lại. Qua việc thanh toán với quản trị, anh Tần Phồ (phụ trách sản xuất của Tuyên truyền) báo cáo còn thừa 5.000đ, nhưng anh em thắc mắc: số tiền đó còn nhiều hơn. Anh Nặng (phó tiểu ban) lúc này làm rất hăng. Anh nói: "Tôi phát hiện ra còn 27.000 đ cơ! Song để anh Phồ đi công tác, xong hãy hay". Sau tết, anh Phồ về mua một số hàng. Rồi lại có chuyến anh Phồ đi Quảng Ngãi mua một số hàng nữa. Rồi thấy anh Nặng im, không nói đến chuyện tiền nong nữa. Mãi đến cuối tháng 3/1971 , khi 2 anh này yếu sức khoẻ, phải ra Bắc và bàn giao 5.000 đ lại, cơ quan mới biết. Nhưng 2 anh đã đi rồi. Chuyện xấu để lại nơi này.

Anh em phát biểu rất công phẫn. Phải nói, nơi sản xuất của Tuyên truyền khá tách biệt với cơ quan. Tần Phồ lúc đó là phó bí thư chi bộ, phụ trách tổ sản xuất. Lối lãnh đạo của anh ta độc đoán. Nhất là về kinh tế, anh ta khắc làm, khắc thanh toán với quản trị và có nhiều lúc rất sai nguyên tắc. Ví dụ: trả công cho đồng bào bằng hiện vật đều tính cao hơn giá thực mua để lấy lãi, bán 20 ang bắp để lấy tiền liên hoan v.v. Nói chung số tiền thu là bất hợp pháp, phải trả cơ quan. Chỉ có số tiền bán chất độn (ngô khoai) là chính đáng và lẽ ra phải chia cho số anh em sản xuất ở đó. Nhưng bằng thủ pháp dối trá, Phồ đã hợp pháp hoá số tiền đó và nhập cục lại thành một quĩ. Rồi anh ta làm một bản danh sách dài dặc về những buổi liên hoan, bồi dưỡng để trừ số quĩ đó đi. Nhưng thực ra, những món chi đó, anh em đã trả rồi. Tức là Phồ thu tiền hai lần. Rõ là có tham ô trong đó.

Còn Nặng, anh em nghi là có liên quan đến vụ này - có thể chấm mút gì ở số tiền đó chăng? Tại sao lúc đầu anh ta làm hăng thế, sau hai chuyến anh Phồ mua hàng về lại im đi? Anh em thắc mắc, anh ta bảo: cứ bình tĩnh, nôn nóng hỏng việc. Anh ta báo cáo lên trên là ổn thoả cả rồi. Những nghi vấn của anh em đều bị ứ lại ở anh - anh đóng vai trò cái cửa cống xập xuống làm nghẹn lại những rác rưởi ở bên kia. Lãnh đạo không rõ chuyện này. Anh ta dùng mọi thủ đoạn để bịt mọi chuyện. Chi, Tân, Tứ... đều bị phân công đi sản xuất, không được sinh hoạt với Tiểu ban, không nêu được thắc mắc. Những anh em khác ở nhà thì không biết, hoặc biết lờ mờ. Thế là anh ta đi thoát ra miền Bắc.

Rất tiếc là sự phát hiện quá chậm, như người ta bắn vuốt đuôi máy bay vậy, chẳng ăn thua gì, còn người bắn thì chịu tiếng nổ và khói của chính mình bắn ra!

Nặng người trong này. Ngay từ lúc mới gặp, nhìn đôi mắt anh ta đã thấy khó tin. Đôi mắt sâu song con ngươi lại hơi lồi, nhiều lòng trắng. Con mắt hay nhìn trộm và nhìn cái gì cũng rất nhanh. ở bắp đùi anh ta có một cái bướu thịt rất lớn, phải to bằng bầu vú của phụ nữ. Có lần ngồi nghỉ ở một nhà đồng bào, thấy mấy cô gái dân tộc nhìn cái bướu vẻ tò mò, Nặng đưa tay xoa xoa, nắn nắn cái bướu như kiểu người ta xoa nắn bầu vú phụ nữ, thế là mấy cô gái đỏ mặt, lảng đi hết. Lúc gần đi, Nặng phong toả anh Huỳnh Ngọc Lý - chi uỷ viên - dữ. Anh ta dựng đủ chuyện nói xấu sau lưng anh Lý hoặc báo cáo với lãnh đạo: nào là lấy cốc đổi chuối, nào là đổi rựa, nào là kèn cựa, địa vị. Phải nói, anh Lý cũng phải lao đao vì cú đánh nham hiểm đó.

Trong buổi họp, có lẽ quá xúc động, Lý nói rằng tổ chức Đảng bị lừa, tập trung đánh vào anh! Nói vậy là thái quá.

Anh Châu Hoàn - Bí thư chi bộ - nói rằng anh Nặng đến nỗi nào nham hiểm dữ vậy? Anh em tập trung vạch cái nham hiểm của Nặng. Tôi còn nhớ, anh ta từng lấy làm hãnh diện kể với chúng tôi câu chuyện: hồi ở Bắc, một hôm anh ta và một số bạn bè rủ nhau đi ăn hàng, ăn rất nhiều, song ai cũng nói quên tiền ở nhà. Nặng bảo để anh ta về lấy tiền. Thế là xách xe đạp đi thẳng một hơi. Các ông bạn tha hồ chờ!...

Châu Hoàn rất hiền lành, thật thà, cần mẫn, đáng mến. Anh không tin chuyện ấy cũng phải thôi. Anh là hoạ sĩ, song tham gia sản xuất nhiều hơn là vẽ. Anh mặc bộ bà ba xám thùng thình, đội cái nón rách, vai khoác một cái xắc cốt to quá khổ, tay cầm con rựa lúi húi với công việc suốt ngày. Thường, anh đi sớm, về muộn, ít có bữa cơm ăn cùng với anh em. Song có lúc anh khắc khổ một cách thái quá. Có khi anh tự soi gương và cắt tóc mất cả tiếng đồng hồ. Trong khi đó rất nhiều anh em sẵn sàng cắt giúp anh chỉ mất 20 phút đồng hồ! Con người cù mì ấy lại nổi tiếng cả Khu bộ về chuyện chặt nai. Bữa ấy anh xách rựa đi làm rẫy. Chẳng dè gặp một con nai - nó bị thương từ lúc nào, ốm nhom. Con nai chạy qua bãi đá. Anh nhào theo, vấp một tảng đá, ngã trầy cả đầu gối, nhưng đã chém được một nhát vào chân nó. Con nai qụy xuống, anh chém cho gẫy cả 4 chân rồi cõng về. Gần tới nhà, mệt quá, anh để đó, lẳng lặng về rỉ tai Tuấn và Tám Tuyên. Cả 3 lặng lẽ kéo đi trước sự ngỡ ngàng của anh em. Lát sau, họ quăng con nai giữa sân. Con nai mở tròn mắt ngơ ngác nhìn mọi người. Các tay thày dùi chuyến này mới nổi lên đả kích. Họ chế riễu những xạ thủ cứ xách súng suốt đêm này đến đêm khác, tốn kém biết bao nhiêu pin mà thua một anh chàng chỉ có con rựa trong tay.

Thật xúi quẩy, tôi nhận được thư anh Phi: tình hình Quảng Nam khó khăn, khoan đi, chờ anh Huấn về bàn cụ thể! Thế là phải khoác ba lô về. Chia tay Vượng, bịn rịn vô cùng. Mong anh đi được đằm mình trong thực tế mà làm tin, mong anh bình yên.

Bị một cơn sốt cao - trên 40. Mệt rã rời. Song không đến nỗi kéo dài lắm. Nằm bết mất 2 ngày. Hai ngày gắng đi lại cho khuây khoả. Rồi lại bình thường.

ở rừng núi có những đêm trăng thật đẹp. Trăng ngạt ngào tràn ngập cả núi rừng. Những tán lá hầu như đều mọng lên, trong xanh, ướt át ánh trăng.

Mùa hè, rừng núi thường dậy sớm hơn mùa đông. Đàn ve đồng ca một điệu chỉ có độc một âm, râm ran khắp khu rừng. Con chim "khó khăn khắc phục" cần mẫn hót từ lúc chưa rạng đông. Những tiếng "cúc cu" thỉnh thoảng điểm vào thờ ơ và xa vắng. Khi ánh nắng bắt đầu loé lên, bầy bồ chao lắm điều lại xúm xít nhau tranh cãi loạn xạ, chẳng con nào nghe con nào. Rồi ánh nắng xuyên thủng tán lá, trải mầu vàng nhạt trên mặt đất ẩm ướt.

Trong những lúc rảnh rang, tôi ngồi xem lại cuốn "thép đã tôi thế đấy". Trong những ngày gian khổ này, đọc càng thấy cái hay, cái đẹp của cuốn sách, thấy nó càng gần gũi với mình. Cuộc đời của Pa Ven trong sáng, cao đẹp quá.

Hoàng Liên Sơn : Núi rừng trùng điệp

út kinh nghiệm qua chuyến đi của đợt trước, những người bị gọi chuyển trại lần sau bỏ lại những gì liệu không thể được trại cho mang đi ngay bên trong khu ở của tù cải tạo để bạn bè còn ở lại thụ hưởng. Do đó thời gian kiểm soát hành trang của đợt sau nhanh chóng hơn và bộ đội mất đi dịp may thu góp những hộp sữa Guigoz bằng nhôm, những chiếc ca uống nước và ga-mên bằng kim loại không sét của quân đội Hoa Kỳ mà bộ đội rất thích. Một lần nữa, tù cải tạo lại có dịp đi dạo đồng quê bằng xe tải dưới bầu trời đêm không trăng sao. Cũng những lộ trình chừng như vô tận và lang thang với tốc độ theo kiểu đoàn quân cơ giới diễn hành trong một dịp lễ quân sự ở thành phố. Rời trại vào khoảng gần giữa đêm, đoàn xe đổ tù cải tạo xuống bãi đậu phi cơ của sân bay Tân Sơn Nhứt khi trời hừng sáng. Ðoàn xe không vào phi trường qua cổng quân sự thường lệ trước kia mà qua lối vào sân Golf miệt Phú Nhuận. Tù cải tạo được tập hợp kín đáo bên trong một ụ phi cơ để giải quyết vấn đề vệ sinh cá nhân và được cho ăn sáng với khẩu phần lương khô Trung Quốc, làm bằng một loại bột của nhiều thứ đậu nén chặt lại như cục xà phòng. Bánh lương khô cứng như đá, ném chó, chó gãy giò. Lương khô đó thường để cung cấp cho bộ đội trong chiến đấu, có lẽ đã quá thời hạn sử dụng nên một số đông tù cải tạo bị bộ máy tiêu hóa quấy rầy.

 

Vào khoảng tám giờ sáng, hai chiếc phi cơ loại Hercules C-130[18] xuất hiện, tắt máy đậu lại trên đường băng. Bộ đội kiểm điểm số lượng tù và lần lượt cho lên máy bay, sau khi loan báo những nguyên tắc cần phải tôn trọng trong chuyến bay mà điểm đến dĩ nhiên là mơ hồ đối với tù cải tạo. Cũng như khi lên xe tải, tù được xếp thành hàng đôi, mỗi hàng tiến vào bụng phi cơ tùy theo phía đứng của mình. Vào bên trong, tù ngồi thành hai hàng đâu lưng nhau, dọc theo đường tâm chiều dài của thân máy bay. Sau đó cứ hai người là một cái còng số tám[19] tai trái người này cùng với tay phải người kế cận. Cả một hàng tù được ràng vào băng ngồi bằng một sợi thừng để ràng vật liệu có sẵn trên phi cơ. Phi hành đoàn, mà tù cải tạo nghĩ là nhân viên phi hành cũ, không thấy xuất hiện ở khoang hành khách, chỉ ngồi cố định ở phòng lái.

 

Phi cơ cất cánh, trên gương mặt mất ngủ, bơ phờ, hốc hác của tù cải tạo còn đượm thêm nỗi âu lo về an toàn của chuyến bay và phần thắc mắc về nơi đến. Suy luận chung có phần phân tán, người cho rằng sẽ bị đưa đi Phú Quốc, kẻ cho là sẽ bị đưa đến Cao Nguyên. Mỗi khuôn mặt mỗi ưu tư, đầy nét thẩn thờ, mỗi người một suy nghĩ khác nhau, nhưng dưới cặp mắt theo dõi của bộ đội áp tải không một ý kiến nào được trao đổi. Tuy nhiên, những bộ quân phục tác chiến ngụy trang của tù cải tạo làm cho người ta liên tưởng đến những chuyến bay hành quân trước kia. Cũng những bộ đồng phục đó xưa kia đã một thời hào hùng mà nay thì lại là chỉ dấu của những người phải được canh chừng. Dưới lớp quân phục như vậy chính những con người đó đã từng chiến đấu để mong có được hòa bình. Giờ đây tiếng súng đã im cũng chính họ lại âm thầm ngậm đắng nuốt cay trong tủi nhục, nhận lãnh vết thương của chiến tranh. Chiến đấu thành công thì chánh khách lớn tiếng rêu rao thành quả chánh trị phe tôi thế này, hiệu năng đường lối đảng tôi thế nọ. Chiến trường thất bại thì trăm dâu đổ đầu tằm, thiên hạ lại cho rằng "chiến tranh là một vấn đề vô cùng quan trọng không thể phó thác cho bọn quân nhân"[20] để rồi xa chạy, cao bay khi cuộc chiến chưa tàn!

 

Ngồi dọc theo đường tâm chiều dài của phi cơ nên dẫu có day mặt ra cửa sổ tù cải tạo cũng chỉ thấy những khoảng trời xanh và mây trắng chớ không nhìn được xuống mặt đất nên không làm sao biết được phi cơ đang đi về hướng nào. Sau lối một giờ bay mà không cảm thấy máy bay đổi cao độ để xuống lần và luôn nhìn thấy mặt trời ở bên phải của hướng bay thì những suy đoán lúc đầu về nơi đến đều sai lạc. Nơi đến phải xa hơn nữa vì một giờ bay của C-130 cũng phải nửa đường mây Nam-Bắc và như vậy có thể phi cơ sẽ đi ra miền Bắc thôi. Thế là viễn tượng của một thời lưu đày, một kiếp tù biệt xứ lại bắt đầu xuất hiện, chớ không phải như lời ca trong một bài hát nào đó của Trịnh Công Sơn trước 1975: "Khi hòa bình, tôi sẽ đi thăm..." Trong phút chốc mà quê hương miền Nam đã nghìn trùng diệu vợi  trong tâm tư của những người tù cải tạo trên chuyến bay!

 

Phi cơ chao mình, đổi hướng. Một thành phố rộng lớn xuất hiện dưới đôi cánh sắt, có thể là Hà Nội hoặc giả Hải Phòng, căn cứ trên khoảng thời gian trôi qua. Thế là phi cơ từ từ đổi chiều cao và xuống thấp lần, thấp lần. Bánh máy bay chạm đất, nỗi ưu tư của tù cải tạo về an toàn chuyến bay đã tan biến, bớt đi được một mối lo. Ít ra cũng còn sống sót được một thời gian nữa, dẫu là trong cảnh tù đày, mất tự do. Ðiều mâu thuẫn ở con người là đây, thường chủ trương "tự do hay là chết", thế nhưng đứng trước thực tế thì không thực hiện được lý tưởng đó! Lý do? Chỉ vì cứ tìm mãi lý do mà nhiều khi con người bị dở dang trong hành động. Nhưng, với tù cải tạo trong thời điểm này thì không còn đủ thời gian để suy nghĩ về điều đó nữa.

 

Sợi thừng đã mở ra và tay còng cũng đã được giải thoát, tù cải tạo theo hàng đôi mà xuống máy bay qua cái mồm há rộng về phía sau đuôi. Sau khi số người trên hai chiếc phi cơ được tập hợp lại dưới bóng mát của những cây cọ[21] thì có một chiếc quân xa chạy tới và một nhân vật tự xưng là tướng gì đó có lời "chào mừng" đoàn tù miền Nam. Theo lời ông thì tù cải tạo đang ở trên lãnh thổ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa để "có được những điều kiện thuận lợi học tập cải tạo tốt hơn". Những lời nói thật bóng bẩy nhưng đượm vẻ chua cay và mỉa mai được thốt ra từ miệng lưỡi của một con người đầy điệu bộ và kiểu cách kiêu căng. Thế nhưng, để nói với một đám đông im lặng thì cũng chẳng khác gì những lời rao giảng giữa sa mạc. Ở thế thượng phong, đứa bé thơ kém giáo dục muốn nói hỗn với người lớn cũng còn được huống hồ gì một ông tướng Hà Nội sau ngày ba mươi tháng tư năm bảy mươi lăm trước một đám tù. Bỡ ngỡ trước cảnh lạ, chưa biết đích xác đâu là đâu, và với một tâm tư còn bị xáo trộn với không biết bao nhiêu là câu hỏi chưa được giải đáp, nhóm tù cải tạo cứ bình thản trước những lời "chào mừng" của ông tướng kia, không một phản ứng nào xuất hiện trên những khuôn mặt thờ ơ. Vì không đối tượng nên mất phần hào hứng, thế là ông tướng lại lên xe ra đi, trả lại cho đoàn tù cải tạo cái yên tĩnh cần thiết cho tâm tư họ trong những giây phút như vậy. Chẳng bao lâu sau đó tù cải tạo được lịnh lên xe tải để đi vào một hành trình vô định nữa.

 

Dưới nhãn quan có một quá trình quân sự dày cộm của đoàn tù cải tạo thì diện mạo của sân bay miền Bắc này - dĩ nhiên là quân sự - quả thật có một bề ngoài đánh lừa được phần lớn các kỹ thuật về tin tức không ảnh. Chung quanh phi trường không có một hàng rào nào để phân biệt vùng đất quân sự với khu ruộng lúa của dân thường cả. Bên trong phi trường có những đàn trâu, đàn bò thản nhiên gậm cỏ dọc theo phi đạo và ngay trên đường bay cũng đầy dẫy những bãi phân trâu bò, như một sân bay hoang phế tỉnh lẻ miền Nam. Trên ngọn đồi nằm cạnh sân bay là những cái chòi tranh, bên trên mái nhà có cánh ăn-ten ra-đa đang quay ba trăm sáu mươi độ vùng trời. Có lẽ trong những ngày chiến tranh, cánh ăn-ten này không được thoải mái đến như vậy đâu mà phải được ngụy trang với lá của những loại cây quanh đó. Trên mặt phẳng của sân bay không thấy dáng dấp của một doanh trại quân sự nào hết mà chỉ thấy rải rác, lưa thưa đây đó những mái nhà lá trông như xóm làng nông thôn. Khoảng cách vừa phải giữa hai ngọn đồi được phủ kín bằng một mái lá to lớn để che kín mấy chiếc chiến đấu cơ MIG đậu bên dưới. Thảo nào, không ảnh dù tinh vi đến mấy của Mỹ trước kia cũng không sao phát hiện được những sân bay quân sự như vầy. Cho nên phân tích tình báo không thể căn cứ trên những điều kiện chủ quan mà phải giả thiết dựa theo dữ kiện của hoàn cảnh khách quan, và dựa theo lối sống thực tế của đối tượng. Vì một lý do nào đó miền Bắc đã chiến đấu theo cung cách của nhà nghèo, chớ không như miền Nam, bị đưa đẩy vào nếp sống của người chi tiền viện trợ. Hơn nữa, cộng sản miền Bắc còn được lợi thế là không bị xâm nhập phá hoại. Giá như hoạt động biệt kích đã thành công thì họ cũng khó mà bỏ ngỏ được sân bay như vậy.

 

Những suy nghĩ miên man về chiến thuật và chiến lược, bắt nguồn từ những điều thấy được tận mắt lần đầu tiên như vậy ở miền Bắc, làm cho đoàn tù cải tạo tạm gác được một bên trong giây lát những ưu tư về hành trình và nơi đến ở đầu kia. Lần này, đoàn xe không còn chạy chậm, không che bạt bít bùng và không di chuyển vòng vo tam quốc như khi ở trong Nam nữa mà cứ phăm phăm trên quốc lộ tráng nhựa. Những tưởng sẽ được yên thân cho đến cuối hành trình, nào ngờ đâu tình hình bình yên đó đã vội vàng chấm dứt khi đoàn xe ngừng lại trước một dòng sông có bảng đề "Phà Ô Lâu". Theo một số anh, người miền Bắc thì đây là sông Hồng mà dòng nước cuồn cuộn chảy mang theo chất đỏ phù sa. Ðoàn tù cải tạo phải xuống xe đi bộ xuống phà và bắt đầu nếm những giây phút đầy tủi nhục. Sau một phút ngỡ ngàng rồi sau đó những người đi đường cũng biết được nội dung của đoàn người mà phần nổi là những bộ đồng phục tác chiến "lính ngụy". Thế là những lời mắng nhiếc và nguyền rủa thậm tệ bắt đầu nổi lên, những lời lẽ nếu lập lại cũng thấy ngượng miệng và buồn nôn. Người nghe chưởi cảm thấy xấu hổ và tủi thân chẳng bao nhiêu nhưng lại vô cùng thương hại cho một phần dân tộc đã bị đầu độc và bỏ quên trên bình diện công dân giáo dục. Như vậy vẫn chưa đủ vì sau đó còn có những hòn đá, những nắm đất của "nhân dân" gởi tặng tù cải tạo. May mắn thay, giữa quần chúng xã hội chủ nghĩa và đoàn tù cải tạo có một khoảng cách khá xa nên những vật ném vì căm thù kia không đạt được mục tiêu.

 

Qua phà xong, đoàn tù cải tạo lại lên xe và đoàn xe tiếp tục lộ trình xuyên qua những cánh đồng của vùng châu thổ sông Hồng, với những hoạt động của nông dân, gợi lại những hình ảnh đã từng in sâu vào tâm trí của tuổi thơ miền Nam qua các trang sách Quốc Văn Giáo Khoa Thư. Cũng con trâu đi trước cái cày - một con độc nhứt, chớ không phải hai con như ở đồng ruộng miền Nam - thậm chí thỉnh thoảng còn có cảnh người kéo cày thay trâu. Hình ảnh của miền Bắc "ba mươi năm dân chủ cộng hòa, kháng chiến đã thành công[22]" là như vậy sao? Trên đường cái quan, chiếc xe đạp là phổ biến, thỉnh thoảng lắm mới gặp được một chiếc xe nhà, phóng thật nhanh, vừa bóp kèn inh ỏi, vừa chớp đèn liên hồi. Có lẽ xe đang chở một cán bộ cao cấp đi công tác?

Khởi hành rời sân bay - có lẽ không xa Hà Nội bao nhiêu vì từ lúc phi cơ nghiêng cánh đổi hướng bay và tù cải tạo nhìn thấy thành phố này đến khi đáp chỉ độ mười lăm phút - vào khoảng mười giờ sáng, đoàn xe về đến nơi thì đã xế chiều, sau khi nuốt hết một đoạn đường khá xấu và nhiều bụi vì là con lộ đất tráng đá xanh. Ðoàn xe đậu dài theo lề đường, giữa một ấp nông thôn miền núi, nhà tranh, nhà ngói lẫn lộn. Ðoàn tù cải tạo hoàn toàn mù tịt chẳng biết được địa danh của vùng vừa mới đặt chân đến. Xóm nhà nằm vào một vùng lòng chảo khá rộng, bao quanh là núi rừng, núi khá cao và rừng thì cũng khá rậm, trên đỉnh núi có những cây cổ thụ to lớn đứng trơ cành trên nền trời xanh. Con đường xe đậu còn chạy ngoằn ngoèo xa tít mất hút vào rừng núi phía trước, nơi mà nhà cửa bắt đầu lưa thưa. Bên trái của con đường là một vùng thung lũng, nơi mà nhà cửa tập trung đông đúc hơn.

 

Kiểm điểm nhân số xong, một bộ đội hướng dẫn đoàn tù cải tạo, xếp thành hàng đôi, quẹo mặt đi xuống con đường đất bề ngang độ mét rưỡi xuyên qua ruộng lúa. Người nào, người nấy hành trang nặng trĩu, tay xách, tay mang, ban đầu còn hăm hở tiến bước chẳng bao lâu sau thì lê thê lếch thếch, hàng ngũ cứ lần hồi kéo dài ra. Thỉnh thoảng người bộ đội dừng lại, la lối om sòm, đốc thúc đoàn tù đi nhanh lên và cho biết không còn bao xa nữa là đến nơi. Thế mà, dưới trọng lượng của hành trang và với nỗi nhọc mệt sau một ngày dài di chuyển, đoàn tù cải tạo cảm thấy đường xa diệu vợi, nhứt là không biết trước được nơi đến. Nhìn xa xa phía trước chỉ thấy những căn nhà lá lẻ tẻ dưới bụi chuối, chòm cau nằm quanh quẩn bên một ngôi nhà ngói đỏ, tường vôi trắng còn mới, như một trường học nông thôn, chẳng thấy đâu là dáng dấp của một trại tù. Vậy mà bộ đội bảo là sắp đến nơi. Ðoàn tù cải tạo nghĩ rằng đó chỉ là một lối nói khích lệ và trại tù chắc còn xa, phải vào sâu tận bên kia bìa rừng, cách đó áng chừng trên cây số ngàn nữa. Ý nghĩ đó làm cho quãng đường đi không biết nơi đến càng mông lung, gánh hành trang càng thêm nặng và nỗi ngao ngán mệt nhọc càng ê chề. Không cần có lịnh dừng chân, đoàn tù cải tạo cũng tự động bỏ hành trang xuống, ngồi bên vệ đường thở dài. Bộ đội quát tháo ầm ĩ, rung chuyển cả cánh đồng và mặt nước bên mương cũng chau mày. Rồi cũng phải đứng lên bước đi. Cứ tưởng đường còn dài, nào ngờ khi đến ngang dải nhà ngói, dường như mới vừa xây cất xong, bộ đội hướng dẫn tiến vào. Thì ra, ngôi nhà tưởng là trường học kia lại là trại tù.

 

Từ lúc dặt chân lên miền Bắc, dẫu rằng chưa trọn một ngày thời gian, đoàn tù cải tạo đã bắt gặp khá nhiều chuyện bất ngờ. Không phải là những điều hay lạ hay khéo léo tài tình mà chỉ vì những điều đó hiện hữu không theo tính hợp lý mà họ đã được đào tạo từ tấm bé. Giữa một vùng nông thôn với diện mạo nghèo xơ, nghèo xác, dãy nhà ngói duy nhứt lại là nhà tù, chớ không phải là trường học. Dãy nhà này được xây cất khi chiến tranh chấm dứt vì trên tường vôi có ghi năm hình thành qua nét ghi vội của người thợ hồ vào lớp vôi tô tường. Dọc theo chiều dài của dãy nhà gạch còn có một dãy nhà tranh, cũng tương đương với ngôi nhà gạch mà bên trong có những dấu tích cho thấy rằng trước đây gian nhà đó là nơi đã từng nhốt những người tù miền Nam[23]. Hai dãy nhà này tựa lưng vào một ngọn núi, mặt tiền nhìn ra cánh đồng hẹp mà bìa ruộng bên kia là một hòn núi khác. Thẳng góc với dãy nhà hổn hợp ngói và tranh này là một dãy nhà tranh khác, vừa mới hoàn thành trên một nền đất chưa kịp khô. Song song với dãy nhà này là một gian nhà tranh ngắn hơn, day lưng ra một con suối, được sử dụng như nhà bếp cho tù. Từ nhà ngói nhìn ra, bên phải có những gian nhà lá nằm hiền lành dưới một vài cây cau lêu nghêu, bên cạnh những giàn bầu, những luống rau xanh và mấy cây rơm khô như bất cứ nhà nông dân nào khác. Thế nhưng đó lại là những văn phòng, những nhà ở của cán bộ cộng sản cai tù. Ðường đi nối liền giữa những gian nhà lá này và khu nhà ở của tù là những lối bờ con, vừa đủ cho đôi chân người đi, xuyên qua ruộng lúa, nương khoai, có những đoạn chạy dưới tàn cây, giàn mướp, giàn bầu như một lớp ngụy trang thiên nhiên. Như vậy để đánh lừa không ảnh địch trong thời chiến tranh, đề phòng những toan tính giải thoát tù binh.

 

Ðiểm đặc biệt là quanh trại tù này chỉ có một hàng rào bằng tre mong manh, không phải bằng tre nguyên cây, hoặc gai góc mà chỉ là loại tre đã được chẻ năm, chẻ bảy. Như một thứ rào giậu ngăn gà, cấm vịt rong chơi. Dư luận tù cải tạo liên tưởng đến vụ đột kích không thành của toán đặc vụ Mỹ xuống trại tù Sơn Tây ngày còn chiến tranh. Thật vậy, không ảnh nào có thể phát hiện ra một trại tù theo kiểu trại mà tù cải tạo vừa mới đặt chân đến? Từ trên nhìn xuống, thậm chí đứng cách trại trăm thước nhìn vào cũng không ai có thể nói rằng đây là trại tù được hết. Dưới cái nhìn và theo suy luận của những bộ óc bình thường và không bị bóp méo theo kiểu cộng sản thì giữa một bối cảnh nông thôn như vậy, những dãy nhà gạch tường trắng, ngói đỏ khang trang kia phải là trường học, bịnh viện hoặc trụ sở cơ quan hành chánh cao nhứt của địa phương. Thế nhưng, thực tế cụ thể lại là một chuyện khác.

 

Số lượng tù tăng một cách đột ngột, vượt quá quy hoạch của trại - vì sao chẳng ai hiểu nổi, vì trung ương không thông báo chính xác hoặc vì cơ sở thiếu phương tiện thực hiện - nên khi nằm ngủ tù bị dồn ép, chèn nhét như cá mòi vào hộp. Bên trong dãy nhà ngói, được chia ra làm nhiều phòng nhỏ, chỗ nằm là thềm xi-măn cao khỏi mặt đất độ năm tấc, chạy dọc theo chiều dài hai bên tường của căn phòng. Bên phía nhà tranh, không được chia thành buồng, tù nằm trên hai mảnh vạc tre dài lót trên sườn cây chạy theo chiều dài dãy nhà, cao khỏi mặt đất năm tấc. Tù cải tạo đến trại vào mùa hè, bị chèn nhét như vậy nên đêm nằm ngủ mồ hôi cứ nhễ nhại, mồ hôi người này hòa lẫn mồ hôi của hai bên láng giềng làm cho thân người lại nhảo nhoét như sắp tan biến thành nước. Ðêm sao cứ dài lê thê như bất tận, nhưng nỗi nhọc đường xa cũng đem giấc ngủ gượng ép đè xuống đoàn tù cải tạo cho đến lúc kẻng báo thức dựng dậy thì bỗng thấy mình như ở một nơi nào chơi vơi! Như một dàn gà lạ chuồng, đoàn tù cải tạo lẩn thẩn, lơ mơ trên sân trại, không biết phải làm gì sau khi xuống suối rửa mặt và nối đuôi dài hàng trăm thước chờ đến phiên giải tỏa nỗi "ấm ức" của khúc ruột già. Một nỗi ấm ức càng lúc càng thôi thúc vì trên ba trăm con người lại chỉ có ba "khu giải tỏa bom đạn" mà thôi!

 

Ngày đầu tiên, trại chưa có chương trình sinh hoạt nên tù cải tạo cứ lang thang trên sân trại chờ đợi, một lối chờ đợi bỡ ngỡ, chẳng biết chờ đợi gì. Không có bữa ăn sáng mà cũng chẳng có tập hợp để phân công lao động và không có lịnh lạc gì hết. Một lúc sau, tiếng còi tu huýt nổi lên gọi tù tập hợp để được hướng dẫn đến một sân trống, cách đó vài ba thửa ruộng. Một cái sân vuông khá rộng lót gạch tiểu, mỗi cạnh lối mười thước, cuối sân là một gian nhà lá cũ kỹ, cột và vách bằng cây, có vẻ như là sân đạp lúa và nhà chứa nông sản và nông cụ của một đại điền chủ. Ðoàn tù cải tạo được lịnh ngồi xuống đối diện một cái bàn con của cán bộ chủ trì. Từng người một, tù cải tạo được gọi tên để "kiểm diện", nghĩa là xem mặt và đối chiếu với hồ sơ. Người được gọi phải đứng lên để cho cán bộ nhìn mặt. Trong công tác này, những anh bạn cận thị bị phiền hà hơn ai hết vì khi trình diện trước cán bộ họ được lịnh phải lột kiếng ra. Một vài anh có độ cận cao phải lúng ta lúng túng khi đi đứng vì không trông thấy rõ. Không hiểu sao cán bộ cộng sản rất dị ứng với những cặp kiếng mắt đến như vậy? Dư luận cho rằng, đối với cộng sản, cặp kiếng trắng là biểu hiệu của con người trí thức, học cao, biết nhiều, một giai cấp không được cộng sản ưa thích đến độ cho rằng "không bằng cục phân"! Còn loại kiếng mát thì chỉ có cán bộ cấp lãnh đạo mới được sử dụng. Như vậy, cả hai loại kiếng đó là điều cấm kỵ đối với tù cải tạo. Qua lần "làm việc" này, đoàn tù cải tạo được đội ngũ hóa lần nữa, không liên quan gì đến những hình thức tổ đội trước kia trong Nam. Không ai hiểu được những sự sắp xếp đó dựa theo tiêu chuẩn nào, mỗi tổ mang một con số, và tổ trưởng hay đội trưởng được chỉ định tùy theo sở thích tùy cơ của cán bộ. Sau khi "làm việc" xong, tất cả trở về nơi ở, tiến hành một cuộc biên chế, sắp xếp lại chỗ nằm theo hình thức tổ đội vừa được cho biết rồi chờ bữa ăn trưa.

 

Cứ sáu người họp thành một mâm ăn, những người dư lẽ trong tổ họp thành một mâm ăn riêng. Mỗi mâm ăn có một người phụ trách luân phiên hàng ngày đến nhà bếp lãnh phần ăn của mâm liên hệ, mỗi phần được đựng trong một cái thau tráng men. Thau cơm đầu tiên ở trại tù miền Bắc xã hội chủ nghĩa đem lại cho tù cải tạo một sự ngạc nhiên không nhỏ. Nhìn từ xa, thau cơm có một màu vàng kỳ lạ, ai cũng nghĩ rằng sẽ được một bữa cơm chiên trộn trứng, như loại cơm Dương Châu. Ý nghĩ hời hợt ban đầu cho rằng miền Bắc đối xử với tù có khác. Thế nhưng khi đến gần thì sự khác biệt kia lại càng đậm nét và phũ phàng hơn. Ðó là thứ cơm độn bắp, loại bắp nguyên hột màu vàng. Bữa cơm độn đầu tiên trong đời của những con người sinh ra và lớn lên ở miền Nam. Lương thực thì như vậy, còn thực phầm thì cũng đựng trong thau kích cỡ tương tự, nhưng chỉ lỏng bỏng dưới đáy thau một chút mắm tôm pha loãng. Nhà ngủ chật hẹp, tù cải tạo đành ngồi rải rác dưới bất cứ bóng mát nào có được trên sân để giải quyết nhanh gọn phần cơm cho đẹp lòng cái bao tử đang cồn cào. Ðể quan sát sinh hoạt buổi đầu của đoàn tù cải tạo từ miền Nam ra, một cán bộ mặc thường phục đi quanh quẩn qua các nhóm "thực khách", hai tay chấp sau lưng, mặt mày thích thú, miệng cười mĩm, nửa phần thỏa chí, nửa phần khinh khi. Ờ đầu này, ông quát tháo:"Các anh dùng bữa phải ăn mặc chỉnh tề vào" vì dưới cơn nóng ngày hè, tù đã mặc quần đùi để lưng trần mà ăn cho thoải mái, nào phải tiệc tùng gì. Ðến đầu kia, ông lại la:"Các anh ăn mà cán bộ đi ngang không có lấy một lời mời". Ngạc nhiên ơi là ngạc nhiên! Cơm tù ai lại dám mở lời mời cán bộ? Thì ra phép lịch sự xã hội chủ nghĩa có điều khác lạ mà những con người thấm nhuần văn hóa tự do kiểu Tây phương không sao hiểu nổi!

 

Buổi chiều, tù cải tạo được lịnh "sắp xếp nội vụ và trật tự" theo đội ngũ mới vừa được tổ chức lại, mỗi tổ trung bình khoảng hai mươi người, đứng đầu là một tổ trưởng. Vào xế chiều, từ xa có một toán lối mươi người đi theo sau một chiếc xe tải tiến vào khu trại. Thì ra, một số đại tá của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa bị bắt ở các mặt trận từ khi Ban Mê Thuột lọt vào tay cộng sản. Một cảnh tao ngộ nửa mừng, nửa tủi, mừng vì gặp lại chiến hữu và do đó cảm thấy số phận mình có phần nào bớt hẩm hiu và bị đe dọa một cách vô cớ tùy hứng, và tủi vì đại sự đã tiêu tan.

 

 

 

ß

 

 

 

Qua biên chế mới, các tổ tù cải tạo được sắp xếp chỗ ngủ trở lại, nới rộng ra, nằm cả ở chuồng trâu và ở dãy nhà vừa mới cất xong, nền đất còn ướt. Nhờ vậy mà đêm thứ nhì ở trại tù miền Bắc xã hội chủ nghĩa tương đối dễ ngủ hơn và do đó may ra có thể lấy lại sức, chuẩn bị cho những bất ngờ khác của ngày hôm sau. Giữa núi rừng dày đặc bóng đêm, chỉ có khu trại tù được soi sáng bằng ánh đèn điện, một thứ ánh sáng mù mờ của một loại điện thế yếu ớt, nhìn thẳng vào bóng đèn người ta có thể thấy rõ sợi tóc đỏ mà không sợ chói mắt. Nguồn điện xuất phát từ một máy phát điện cơ sở[24] và cung cấp cho một vùng, đường bán kính khoảng từ năm đến sáu cây số, qua một hệ thống tải điện thô sơ gồm đủ thứ loại dây, do tù cải tạo ráp nối lại rồi thả trên cành cây hay những cột điện tùy tiện, bất chấp mọi tiêu chuẩn kỹ thuật và an toàn. Nguồn điện hàng đêm kéo dài đến chín giờ thì tắt phụt sau ba lần chớp báo hiệu và lúc bấy giờ tiếng kẻng ngủ cho tù cải tạo cũng nổi lên, vang dội cả một vùng thung lũng và rừng núi. Tiếng kẻng giữa đêm đen và núi đồi rừng rậm nghe thật rùng rợn, mang một âm hưởng ma quái làm cho tù cải tạo càng thấy thân phận mình hẩm hiu hơn.

 

Năm giờ sáng hôm sau, khi kẻng thức chấm dứt, tất cả đều phải ra sân tập thể dục buổi sáng. Bắt đầu là những bước chạy tại chỗ, vừa chạy vừa la to "một, hai, ba…, bốn" theo tiết tấu của điệu gà gáy sáng. Kế tiếp là "bốn bài thể dục tay không" của bộ đội, được cán bộ chỉ dẫn cho tù. Ở trại này, tù cải tạo có thêm phần ăn sáng, chủ yếu là cháo nấu đặc. Thế nhưng như vậy không phải là miền Bắc xã hội chủ nghĩa nuôi tù chu đáo hơn vì trên thực tế thì cũng ngần ấy lượng lương thực trong ngày được phân chia ra làm ba bữa ăn. Trại phân phối phần ăn như vậy cốt để cho tù có thêm sức qua một đêm dài, có khả năng lao động với hiệu quả cao, chờ giờ cơm trưa.

 

Kẻng lao động thôi thúc tù chấm dứt bữa ăn sáng, một phần ăn thực ra có thể vừa đi vừa ăn, toàn trại tập hợp theo từng tổ trên một khoảng sân rộng chờ phân công. Ngày đầu, chưa có cán bộ quản giáo phụ trách từng tổ riêng biệt. Một cán bộ đứng ra, hiên ngang như một ông tướng trước ba quân, giao một số tổ cho một vài vệ binh (bộ đội súng dài) để đưa đến hiện trường lao động nhất định. Công việc chưa có hình thức rõ rệt, có lẽ vì chưa được dự trù ăn khớp với số tù cải tạo vừa được đưa đến nên hầu như tất cả các tổ thuộc "Trại-2, Liên Trại 1" - trại nhốt cấp đại tá Việt Nam Cộng Hòa, thường được gọi là "Trại-2 nhà ngói" - đều được đưa đến một nơi cách trại khoảng ba cây số để chuyển những thân cây "bồ đề"[25], cỡ một năm tuổi do lâm nghiệp tỉa bớt bỏ bên vệ đường. Mỗi cây dài từ năm đến sáu thước, đường kính ở gốc độ một tấc. Bộ đội phân công mỗi người một cây, tuy không nặng lắm vì cây đã khô, nhưng khó di chuyển vì cồng kềnh và ngọn cây cứ nhúng nhảy theo bước đi. Là những người chưa có kinh nghiệm lao động chân tay nên vô cùng khó khăn. Giải pháp cuối cùng là cứ hai người hợp nhau, hai cây trở đầu bó lại thành một, hai người khiêng đi. Chung cuộc, mỗi người một cây nên bộ đội không thể phê phán gì được. Những ai thích làm một mình thì ôm đầu gốc của cây rồi cứ thế mà lôi đi trên đường. Như một đàn kiến tha mồi, đoàn tù cải tạo lần hồi cũng chuyển hết đống cây đến một địa điểm dự trù dựng thêm trại mới, cát bụi tung lên cả một đoạn đường dài hằng bao cây số. Cứ như vậy, mỗi ngày hai buổi đi về, một chuyến khoảng sáu cây số, để chuyển gỗ dựng trại cho tù, sáng đi trưa về và xế đi chiều về. Mỗi ngày trung bình một người lôi được bốn cây dưới nắng hè gay gắt. Những ngày mưa, đường đất ướt đẫm thành bùn lầy lội quả thật là não nề!

 

Sau một tuần lễ lao động chung chung như vậy trại bắt đầu tìm cách phân loại "chuyên môn" trên căn bản tự nguyện. Người ta tập hợp toàn thể tù cải tạo, xong một cán bộ đứng ra hỏi anh nào biết nghề này, nghề nọ. Dựa theo những phát biểu của cá nhân, người cán bộ "tuyển dụng nhơn tài" kia sắp xếp tù theo ngành nghề. Chủ yếu trại cần những ngành chuyên môn như mộc, hồ, cưa xẻ. Những người không "chuyên môn" được biên chế vào tổ "cơ động", chuyên làm việc nặng như đi rừng lấy củi cung cấp cho bếp bộ đội và bếp tập thể, lấy cây và tre dựng trại, cất nhà tù. Những tù cải tạo ốm yếu hơn được đưa vào tổ "canh tác" trồng rau cải sản xuất thực phẩm cho bếp trại. Những người tốt số nhứt được đưa vào tổ "anh nuôi" chuyên làm bếp để phục vụ bữa ăn cho toàn thể tù cải tạo. Mỗi tổ có một cán bộ quản giáo phụ trách, vốn là những bộ đội mang "quân hàm" cấp sĩ quan. Qua cung cách của họ và qua lối xử sự của bộ đội súng dài đối với họ mà suy đoán thôi, chớ ngoài thực tế những người này không bao giờ mang phù hiệu cấp bực gì hết. Vấn đề phân chia ngành nghề theo lối tự xưng như vậy được tù cải tạo cho là một lối "xổ số kiến thiết", vì tùy theo sở thích cá nhân chớ đúng ra trước kia có ai thực sự hành nghề liên hệ bao giờ. Nhưng, ngày một, ngày hai, nghề dạy nghề rồi thì đâu cũng vào đấy vì trước tiên, tù cải tạo học nghề đâu phải khó khăn gì và sau nữa, người ta đâu có đòi hỏi tù cải tạo thực thi những công tác to lớn hay làm nên những sản phẩm tuyệt hảo, tinh vi.

 

Tù được chấp nhận vào tổ cưa xẻ thường là những người khỏe mạnh, lực lưỡng vì công việc này đòi hỏi rất nhiều ở khả năng của đôi tay. Dụng cụ sử dụng là một loại cưa có lưỡi dài khoảng hai thước, ráp vào một cái khung bằng cây hình chữ nhựt. Gỗ để xẻ thường là những cây to lớn, đốn ngả xong để tại chỗ rồi dựng trại cưa ngay đó. Thân cây được kê lên cao, cách mặt đất khoảng hơn một thước. Kíp cưa gồm hai người, kẻ đứng trên, người ngồi dưới, kẻ đẩy, người kéo. Là một công việc phải vận dụng nhiều sức lực nên tiêu chuẩn ăn hàng tháng là mười tám ký, cao hơn tiêu chuẩn của những tù khác. Tuy nhiên, lượng gạo căn bản vẫn cố định, phần gia tăng được cung cấp bằng lương thực phụ như khoai, sắn, bắp,... Lý thuyết nghe có vẻ hợp lý và xứng với công lao, thế nhưng tính lại thì thu chẳng bù chi vì số lượng ca-lo nhận vào chẳng ăn thua gì với nhiệt lượng thảy ra trong lao động. Khả năng dinh dưỡng của thứ lương thực độn vào gạo chẳng là bao. Trại cưa thường lưu động, xong chỗ này, dời đi chỗ khác, tùy theo địa điểm của các cây được hạ xuống. Thông thường phải đi sâu vào rừng, cách trại tù khá xa, khoảng đôi ba cây số ngàn vì chỉ trong rừng sâu mới có cây to. Do đó, tổ cưa xẻ thường làm việc "thông tầm"[26], mỗi ngày lãnh lương thực và thực phẩm mang theo nấu ăn trưa tại chỗ. Ván xẻ ra được miếng nào, nhân viên trong tổ phải mang về trại trong chuyến trở về lúc tan tầm. Sản phẩm do tổ này làm ra, chủ yếu cung cấp cho tổ mộc đóng bàn ghế, tủ, giường cho trại. Tổ cưa xẻ trung bình khoảng mười người do một bộ đội hướng dẫn và canh chừng. Vì nhân số không đông nên nhiều tổ như vậy được nhập lại giao cho một quản giáo. Mỗi ngày bộ đội cảnh vệ đưa tổ đến hiện trường lao động xong ôm súng chui vào bóng mát ngồi đếm thời gian. Tù cũng lãnh trách nhiệm nấu ăn trưa cho bộ đội cảnh vệ với phần lương thực và thực phẩm phát riêng. Gạo trắng và ngon, không có chất độn và cơm phải nấu thật khô. Có khi bộ đội không tiêu thụ hết tiêu chuẩn cá nhân, để mặc cho tù hưởng, một sự hưởng thụ rất tủi thân, nhưng khi thiếu đói thì đôi lúc lương tâm cũng tha thứ và rộng lượng. Ngoài những lúc phải hợp lực làm những việc nặng nề như nâng cây lên bệ cưa hoặc xây cất mái lá chống mưa che nắng, số người thật sự cưa xẻ trong một thời điểm nhứt định chỉ có hai nên trong lúc rảnh rỗi những người còn lại khai thác vùng đất xung quanh để trồng trọt "cải thiện" bữa ăn. Thời gian hoạt động của tổ tại một địa điểm đôi khi kéo dài cũng đôi ba tháng. Nhờ vậy mà, theo với thời gian ở vị trí, phần ăn của tổ cưa xẻ ngày một gia tăng với chất độn.

 

Tổ mộc cũng là một bộ phận được trại quan tâm khá nhiều vì có khả năng làm ra "của cải vật chất", mà những người ưu tiên hưởng thụ sản phẩm của tổ này là cán bộ quản giáo và trại trưởng. Tiếng là cung cấp cho "khung quản trị trại", nhưng thông thường "văn phòng" và chỗ ở của cán bộ cai tù cũng là một, một gian nhà chia làm hai phần. Phía cửa vào đặt một cái bàn nhỏ và một chiếc ghế cây có dựa và cuối phòng phía trong cùng là chiếc giường cá nhân bằng cây, phía đầu nằm có tấm bửng trang trí bằng một ngôi sao. Dưới giường là một cái rương bằng cây chứa đựng tài sản của cán bộ. Tổ mộc Trại-2 được giao cho một anh tù cải tạo, xưa kia tốt nghiệp trường kỹ thuật Sài Gòn trước khi bị động viên vào khóa I trường sĩ quan trừ bị Thủ Ðức, nên được sắp xếp và điều động rất "khoa học kỹ thuật". Thế nhưng, bắt buộc ý kiến của cán bộ quản giáo phải là ý kiến quyết định dẫu cho nguyên tắc chuyên môn đôi khi bị xúc phạm. Tiêu chuẩn ăn của các thành viên tổ này cũng mười tám nên ngoài ba bữa ăn chính trong ngày còn có một phần lương thực phụ bằng khoai, sắn, bắp, bột,... vào giữa buổi. Vì hoài nghi về sự thất thoát trong phần ăn, nhứt là vào thời buổi thiếu đói khi mà người ta coi miếng ăn bằng ba miếng nuốt, nên phần lương thực "bồi dưỡng" đó tổ mộc đứng ra nấu nướng lấy, mặc dù trại mộc không xa nhà bếp bao nhiêu. Qua thời học tập cải tạo, những tài mọn, những sự khéo tay tiềm tàng của những người sĩ quan Sài Gòn lại xuất hiện, như chừng gặp khó, ló khôn. Chẳng qua là họ đã sẵn có vốn tri thức, nay chỉ cần đem ra thực hành và khi thời gian của họ không còn biết để làm gì nữa, ngoài việc đầu tư vào công việc thường nhựt để quên đi những khắc khoải của cuộc đời tạm bợ vô duyên.

 

Bộ phận xây dựng cũng có tính cách chuyên môn, có mức ăn cao nhưng không được quan tâm bằng ngành mộc. Ngành hồ của núi rừng Hoàng Liên Sơn sử dụng xi-măng chẳng bao nhiêu mà chủ yếu là vôi, cát và đất sét vì không phải xây cất nhà có từng mà chỉ là những căn nhà nho nhỏ, bé thấp. Vôi là một loại vôi nhão, trộn với một tỷ lệ cát nào đó thành vữa và cứ thế dùng để kết dính những viên gạch lại với nhau. Gạch do một trại tù khác trong khu vực cung cấp. Có thể nói mà không sợ lầm là hệ thống các trại tù trong khu vực hợp thành một vòng sản xuất khép kín và tự túc. Những trại trong liên trại trao đổi nhau của cải và dịch vụ, chỉ đòi hỏi một số mặt hàng ở cấp nhà nước bên ngoài. Công tác đầu tiên của tổ xây dựng Trại-2 là làm ba ổ lò cỡ lớn, đường kính khoảng một thước, cho bếp của trại. Những cán bộ gọi là quản giáo không phải là những người rành về chuyên môn liên hệ mà thật ra chỉ là những người trông coi về kỷ luật và tinh thần học tập của tù cải tạo mà thôi. Cho nên không thể trông chờ họ hướng dẫn được gì. Do đó, ở hầu hết các lãnh vực chuyên môn trong trại, tù cải tạo phải vận dụng lấy những hiểu biết thực tế của mình. Có nêu ra khó khăn, trở ngại thì cũng chỉ nhận được câu trả lời khá phổ biến:"Các anh khắc phục". Lần hồi, tổ xây dựng được đưa đi làm ở những địa điểm bên ngoài trại, theo mức độ tiến triển của tay nghề, như xây nhà chứa "máy nổ" (máy điện), xây nhà vệ sinh. Ðiểm đặc biệt của các trại tù khu vực là xây cất nhà vệ sinh. Nhà ở thì cất bằng tranh, bằng tre, bằng đất nhưng nhà vệ sinh thường là bằng gạch hẳn hòi. Có lẽ vì khối lượng gạch, vôi và xi-măng không bao nhiêu, nhưng nhu cầu về phân lại quan trọng, nhứt là loại phân tươi do con người thảy ra mà tên gọi thông dụng là "phân Bắc". Giới trồng tỉa thường nói "nhứt nước, nhì phân, tam cần, tứ giống" và phân hóa học gần như xa lạ đối với trại tù cải tạo nên phân tươi được coi trọng lại không mất tiền mua, cần phải được thu thập vén khéo, không thể để mất đi vào đất bùn. Bên cạnh nhà vệ sinh là hố chứa nước tiểu riêng biệt với hệ thống thu thập đã được nghiên cứu và quy hoạch trước.

 

Tổ canh tác lo trồng rau xanh và hoa màu phụ trên vùng đất phụ cận quanh trại để tăng phần thực phẩm cho trại. Những ngày mới đến, khu canh tác chẳng có gì hết và trong khi chờ đợi kết quả lao động của các tổ canh tác, trại phải đi mua rau và hoa màu phụ ở địa phương. Mua như vậy với một số tiền nhứt định chi ra, số lượng rau nhận về không được bao nhiêu mà số ngày công để chuyển vận lại quá nhiều. Do đó, thành quả lao động của các tổ canh tác cũng là thu nhập quan trọng đối với trại. Mỗi trại tù ví như một vết dầu loan. Lần hồi theo thời gian cư ngụ, tù cải tạo mở rộng vòng đai canh tác vì quanh trại toàn là rừng hoang, khai khẩn được bao nhiêu, trồng trọt bấy nhiêu. Chu vi hoạt động của các tổ canh tác nằm trong một vùng bao quanh trại với đường bán kính khoảng một cây số ngàn và tổ không cần phải được canh chừng. Trong những tổ này, khâu làm đất nặng nhọc hơn hết vì phải cuốc nhiều và diện tích đất không phải nhỏ. Tuy nhiên, khâu phân bón, dẫu được kể như nhẹ, thường được giao cho những người sức khỏe kém hoặc già yếu, nhưng cũng khá vất vả. Hàng ngày phải đi lấy phân ở nhà vệ sinh công cộng, ở khu chăn nuôi, ở chuồng trâu và thậm chí còn phải suốt ngày quảy gánh lang thang đây đó để thu nhặt những bãi phân trâu, bò và dê rơi rớt rải rác trên những con đường trong khu vực. Phân thu lượm về có khi sử dụng tươi, có khi được chế biến, sấy khô, nghiền nát tồn trữ cho những vụ tới. Ngoài ra còn phải chuyển nước tiểu được tập trung ở những hố nhứt định, đào cạnh nhà ở của tù, đến hố nước tiểu của khu canh tác để tưới rau cải và hoa màu. Việc xử lý phân tươi của con người lắm lúc đã gây ra những bịnh ngoài da mà thời gian và thuốc men chữa trị không phải là ít. Sản phẩm của tổ canh tác vốn là công trình đòi hỏi khá nhiều mồ hôi và sức lao động của tù cải tạo nhưng cũng chỉ vừa đủ thỏa mãn nhu cầu của tổ nhà bếp, đó là chưa kể số và chất lượng rau xanh và hoa màu phụ phải cung cấp cho bếp cán bộ.

 

Tổ nhà bếp[27] làm bia hứng chịu nhiều phê phán nhứt mà lại có nhiều người thích được thu nhận vào thành phần tổ viên, đặc biệt ở thời kỳ thiếu ăn. Suy nghĩ dễ dãi thường cho rằng lao động tại nguồn gốc của sinh hoạt ăn uống dĩ nhiên là bản thân mình phải được no đủ trước tiên. Tổ này hoạt động khá cực nhọc, phải thức giấc từ sáng sớm và hoạt động liên tục đến xế chiều, sau khi đã hoàn tất ba bữa ăn trong ngày cho cả trại trên ba trăm con người, trên tiêu chuẩn một thành viên phục vụ từ hai mươi đến hai mươi lăm người. Trước tiên trong ngày, họ lo cho hai bữa ăn chánh. Thường thường mỗi bữa ăn gồm có cơm và rau, thỉnh thoảng mới có một món mặn, thịt hoặc cá, trong những cơ hội đặc biệt ngày lễ lớn. Sau cùng là bữa ăn sáng cho ngày hôm sau, cháo hay khoai, sắn nấu hoặc luộc và phân phối sẵn để giao cho các mâm ăn vào sáng sớm, ngay sau kẻng thức. Ngoài ra, còn phải nấu chín một số lượng nước uống để cung cấp cho toàn trại, ba lần trong ngày, mỗi người lối một lít rưỡi nước. Củi đun do các tổ cơ động cung cấp hàng ngày. Nhu cầu củi khô không làm sao thỏa mãn nỗi vì nấu nướng quá nhiều cho nên thường phải đun cả cây tươi, khói lên mù mịt. Nhưng, nhờ bếp to nên lần hồi cây tươi mấy cũng phải cháy. Nước rửa ráy lấy ở suối, nước ăn uống thì phải lấy ở giếng. Tổ anh nuôi lao động sáu ngày trong tuần, ngày chủ nhựt hay ngày lễ nghỉ thì một trong những tổ khác luân phiên phụ trách nấu nướng để cho tổ bếp chánh thức nghỉ xã hơi.

 

Ngoài những tổ chuyên ngành là các tổ "cơ động", phụ trách bất cứ chuyện gì những tổ khác không làm, phần lớn là những việc nặng nhọc như đi rừng lấy củi, lấy cây, lấy tre, đấp đập chận nước, xây cất nhà lá,... Lấy củi là chuyện làm thường xuyên vì nhu cầu chất đốt cho cả trại, bếp cán bộ lẫn bếp tù. Củi cho bếp cán bộ nhứt định phải loại củi tốt và khô, còn chất đốt cho bếp tù thì sao cũng được. Trung bình mỗi ngày, mỗi người phải cung cấp hai bó củi "chất lượng", nghĩa là củi tốt, dài khoảng hai thước và bó lại với đường kính tối thiểu cũng năm tấc. Thời kỳ mới đến trại, chỉ cần đi quanh quẩn gần trại cũng có củi, nhưng càng về sau càng phải đi xa vì cây lớn lên không kịp. Có khi phải qua mấy ngọn đồi và vượt mấy thung lũng mới gom đủ hai bó củi trong ngày. Lên tận đỉnh cao hàng trăm thước, chặt được hai bó củi rồi đem xuống đến chân đồi cũng là cả một vấn đề, chưa kể những lúc mưa rỉ rả, tỉ tê, ngày này sang ngày nọ, đường đất trơn trợt bùn lầy, đôi dép râu không chịu nằm dưới bàn chân mà cứ lật ngược lên trên lưng bàn chân. Lấy cây thì tùy theo nhu cầu của trại, khi thì cây to để làm cột nhà, lúc thì cây cỡ cườm tay nhưng dài từ ba thước trở lên để làm kèo hay đòn tay. Cây to thì phải vào rừng sâu và, cắc cớ thay, những cây này thường đứng ở những vị trí hiểm trở cheo leo. Có khi hạ được rồi, nguyên cả cây chạy theo dốc đồi xuống nằm tận đáy thung lũng, tuột xuống lôi lên thì vất vả mà đốn cây khác thì đâu phải dễ gì tìm. Cây nhỏ thì tối thiểu phải một bó từ năm đến mười cây, nhiều hôm lạc lối giữa rừng tìm đường ra gần muốn khóc.

 

Còn có những tổ để thực hiện những công việc lẻ tẻ khác như tổ chăn nuôi, chủ yếu giữ trâu, bò, dê, vịt và nuôi heo, nuôi gà. Trại thường đưa cho tổ này những con lợn một vài tháng tuổi nuôi cho đến khi có dịp mổ thịt hoặc những con lợn sẵn sàng giết thịt, sau một vài tuần lễ vỗ béo. Thế nhưng, khi mà con người đã không đủ ăn thì lấy gì để bồi dưỡng cho lợn? Chưa kể trường hợp người nuôi lợn, vì quá đói, ăn bớt của lợn những thứ gì người có thể ăn được. Cho nên càng vỗ béo, lợn càng gầy đi, thân hình có góc có cạnh, một loại lợn thân xác hình kỷ hà. Mang tiếng là tổ chớ thật ra chỉ có một người phụ trách chuồng heo chưa đến chục con. Những người bịnh hoạn hay già yếu được bố trí vào tổ đan lát để thực hiện những vật dụng bằng tre cho trại.

 

Nói chung, một khi đã vào trại cải tạo thì chỉ có những người ốm đau liệt giường liệt chiếu phải năm bịnh xá mới được miễn lao động vì khẩu hiệu của cộng sản đã viết cùng khắp các nơi trong trại cho rằng "Lao động là vinh quang". Nhưng, đôi khi những người nằm bịnh xá còn được phân công "lao động tự giác" đi trồng trọt dăm ba cây rau, ngọn cải hay chăm sóc mấy chậu kiểng. Bịnh xá[28] cũng có một vài tù cải tạo được chỉ định làm việc dưới quyền một cán bộ y tế, một con người sẵn sàng và vui vẻ chấp nhận danh gọi "bác sĩ" do mấy anh tù trợ y gán cho. Chánh sách và chủ trương chỉ đạo của "bác sĩ" là chủ yếu trị bịnh theo phương pháp y khoa cách mạng, nghĩa là khắc phục, hay nói trắng ra là cắn răng chịu đựng, hoặc nhiều lắm là cho uống một vài viên thuốc dân tộc của trại phát cho. Có một lần, với ý định ngăn ngừa trường hợp đào thoát, trại ra lịnh tập trung tất cả những thuốc trị bịnh mà ủy ban quân quản đã bảo tù mang theo trong thông cáo gọi trình diện học tập. Mỗi lần ốm đau, bịnh hoạn, tù cải tạo phải làm đơn xin lấy một vài viên thuốc của chính mình. Nhận được thuốc đôi khi bịnh đã quá sợ nên bỏ chạy từ lâu! Có anh lên cơn suyễn giữa đêm đông lạnh, không lấy được thuốc khẩn cấp mà chỉ được bộ đội tuần tra bảo khắc phục chờ đến sáng, bèn yêu cầu bộ đội cho một phát súng cho xong. Mải về sau, nhận thấy biện pháp không thích hợp, trại cũng phải bỏ đi.

 

 

 

ß

 

 

 

Qua hình thức tổ chức và đội ngũ hóa như vậy, tù cải tạo chánh thức bước vào cuộc sống tù tội lưu đày biệt xứ, trong tinh thần "hòa hợp, hòa giải dân tộc" đã được hiệp định Paris long trọng cam kết trước dư luận thế giới. Ðàng sau những gì đẹp đẽ và hoa mỹ dưới ánh sáng của truyền thông và ngoại giao quốc tế là một nếp sống tồi tệ và bệ rạc mà lương tri con người bình thường không làm sao tin là có thể xảy ra được. Thế nhưng, trong bối cảnh núi đất đỏ và rừng lá xanh trùng điệp của Hoàng Liên Sơn, tù cải tạo phải thực tế nếm mùi. Nhìn lại quãng thời gian vừa qua, những ngày ở trại Long Giao được coi như là thời kỳ học lý thuyết và giờ đây tù cải tạo bắt đầu bước vào thực hành, sau khi cộng sản không ngớt lời rêu rao lòng "khoan hồng độ lượng của Ðảng và Nhân Dân, chấp nhận tha tội chết cho ngụy quân, ngụy quyền", để bắt buộc tù cải tạo phải chấp nhận lý lẽ "lao động là vinh quang" mà lao đầu vào một quá trình "học tập làm người công dân lương thiện"!

 

Chấp nhận hay không là chuyện riêng của mỗi cá nhân, nhưng với thân phận cá chậu, chim lồng, tù cải tạo chẳng còn cách nào khác hơn. Ở miền Bắc xã hội chủ nghĩa, tù cải tạo được cộng sản "dạy cho những bài học lao động" vì họ thường cho rằng "các anh là những người ngồi mát, ăn bát vàng, nắng ngủ, mưa nghỉ, trời mát đi chơi, nhát gió, kỵ mù sương, chỉ biết hưởng thụ công sức lao động của nhân dân". Trong hoàn cảnh như vậy, tù cải tạo bị đẩy vào một nhịp độ lao động cật lực, như chừng để bù lại mấy mươi năm cộng sản phải vất vả đối đầu với chính những con người đó trên tuyến khói lửa. Cán bộ trại quát tháo, dùng những lời nói nặng nề, xóc ốc, dẫu chưa phải là những đường roi hay những lời nguyền rủa, vì dù thế nào đi nữa thì, trên thực tế, "bọn ác ôn rằn rì, ăn thịt người" này cũng biết tự trọng.

 

Trong tinh thần giữ tròn phận mình, đừng tạo điều kiện để cho đối phương khinh thường và triệt tiêu nhân tính ở mình, tù cải tạo cố gắng tối đa làm tròn phận sự của mình trong ngày tù, một ngày khá dài, tưởng chừng như vô tận. Dù xuất thân từ một gia đình như thế nào trong xã hội miền Nam trước kia thì trong mấy mươi năm qua, trong hàng ngũ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, những người tù cải tạo cũng xa lạ với những chuyện làm hôm nay. Do đó, điều dĩ nhiên là họ phải cắn răng chịu đựng, làm được đến đâu hay đó, trong khi cán bộ cai tù lúc nào cũng đòi hỏi tối đa.

 

Chẳng bao lâu mà những thửa đất hoang dại quanh trại đã trở thành những ruộng sắn, nương khoai, những liếp rau xanh mướt, những luống cà đỏ mọng. Ðồi núi chập chùng trong vùng lần hồi thưa cây, bớt chổm[29], vòng đai càng lúc càng mở rộng ra, thiên nhiên không đủ thời gian để cung cấp trở lại. Ðã vậy mà khí hậu của miền trung du Bắc Việt lại vô cùng khắc nghiệt, với những cơn "rét ngọt" khi gió mùa đông-bắc tràn về, với những trận nắng đổ lửa, rờ đâu cũng nóng và với những trận mưa dài lê thê của cơn bão rớt, như một mẻ lưới nước vây lấy trại tù. Thân phận tù tội lưu đày đã đau thương mà sinh hoạt quần quật suốt ngày, bất chấp luật lệ lao động và sức chịu đựng của con người, lại càng nâng nổi chán chường trong tâm tư của mọi người tù cải tạo lên đến đỉnh cao.

 

Ngày tù bắt đầu từ sáng tinh mơ, khi thung lũng còn ngập bóng đêm đen và triền núi còn nặng lớp sương trắng như giòng sữa đặc từ cao đổ xuống. Tiếng kẻng của Long Giao hay Tam Hiệp trước kia lan đi rồi tan biến trong không gian nhưng tiếng kẻng của vùng núi đồi và rừng rậm Hoàng Liên Sơn cứ vang đi rồi vội lại, đay nghiến và giày vò, như muốn cho nỗi đau khổ đời tù cứ quấn quýt lấy những con người bất hạnh đó không thôi. Tiếng kẻng đáng ghét đó đánh thức cả những loài chim ngáy ngủ ở rừng lân cận, làm cho chúng phải bực mình kêu lên một cách thảm thương, một thứ chim gì mà không biết hót lại chỉ kêu rên thiểu não. Bị động, chúng di chuyển từ khu này sang khu khác, vừa bay vừa kêu la, những tiếng kêu mà tù cải tạo suy diễn theo nhiều cách khác nhau, tùy theo tâm trạng của mỗi người, như một khúc nhạc nhưng nhiều lời ca. Người thì cho rằng tiếng chim kêu giống như "bắt cô trói cột", kẻ thì bảo rằng chim kia đã được cộng sản cải tạo để đề cao khẩu hiệu "khó khăn, khắc phục", mà cán bộ cộng sản thường dùng với tù mỗi khi được báo cáo về những khó khăn, trở ngại trong công việc được giao phó. Sau tiếng kẻng khó thương đó, trại tù như một đàn ong vỡ tổ trở nên rần rộ, kết thúc một đêm yên tĩnh của núi rừng. Tù cải tạo lăng xăng, nhảy ra khỏi chỗ ngủ, tập hợp ở ngay sân trước nhà, quơ tay, múa chân tập thể dục buổi sáng. Sau phần thể dục, lãnh phần ăn sáng, lấy nước uống và tập trung ở sân lớn của trại, áo quần lang thang thiểu não, trông chẳng giống ai. Người cầm dao, kẻ xách cuốc xẻng, vác cưa, mang đòn,... tùy theo công việc đã được giao phó trong sinh hoạt đêm hôm trước. Một hồi kẻng khác thay lịnh xuất quân, từng tổ, từng tổ kéo ra khỏi trại về hướng của "hiện trường lao động". Ðoàn tù đi rồi, trại đâm ra hoang vắng, chỉ còn lại tổ nhà bếp, tổ mộc, các tổ canh tác và những người khai bịnh.

 

Cáo ốm trong tù không phải đơn giản vì nếu bị phát hiện có gian dối nhằm trốn tránh lao động là có vấn đề ngay. Sau khi các tổ lao động xuất trại hết rồi, những người khai bịnh đi đến trạm xá và trước tiên phải qua sự hạch hỏi của một anh tù được chỉ định làm "trợ y" cho cán bộ y tế. Dĩ nhiên, anh trợ y đó chẳng có chút hiểu biết gì về y khoa, ngoài các kiến thức thông thường về vệ sinh phòng bịnh hay nhiều lắm là về những thuốc men cần uống khi sổ mũi, nhức đầu. Gặp những anh trợ y thông cảm và biết nghệ thuật sống ở đời, đặc biệt là trong cảnh tù tội, thì đỡ khổ. Nếu chẳng may đối đầu với những con người quen thói đội trên, đạp dưới trước kia và nay vẫn chứng nào tật ấy thì nỗi khổ bị cộng sản đay nghiến còn nhẹ nhàng hơn niềm cay đắng được bạn bè mình chiếu cố. Khó khăn cho lắm hay dễ dãi qua loa rồi thì cũng chỉ một vài viên thuốc dân tộc hay thuốc của các nước xã hội chủ nghĩa anh em rồi trở về "lao động trị liệu", nghĩa là làm công việc lặt vặt xung quanh láng trại để thỉnh thoảng bị mệt nhọc có thể nằm vật nằm vựa chút đỉnh chờ khi lao động về mới được thật sự nghỉ ngơi.

 

Sau khi xuất trại, những người lao động bên ngoài, tùy theo công việc được giao phó, tỏa đi khắp nơi dưới sự hướng dẫn của cán bộ quản giáo, có một cảnh vệ canh chừng. Trên thực tế, việc canh chừng chỉ là hình thức vì khi một tổ tù cải tạo đã vào rừng, mỗi người một hướng thì bộ đội đâu mà canh chừng cho đủ. Nguy cơ trốn trại trong vùng núi rừng Hoàng Liên Sơn không đáng ngại cho nên đó không phải là khía cạnh mà trại quan tâm nhiều nhứt. Thế nhưng, như vậy không có nghĩa là không có trường hợp đào thoát xảy ra. Với nhu cầu lớn lao về vật liệu xây cất trại tù, nhiều tổ cơ động phải hợp lại để đi rừng lấy một lúc và thậm chí phải làm thông tầm cho khỏi mất thời gian đi về. Cây và tre được chặt khá nhiều, kết bè thả trôi theo giòng suối về đến một địa điểm gần trại, rồi lần lượt vác về. Thông thường trước khi tỏa vào hiện trường, mỗi người tù được chỉ định chỉ tiêu trong ngày, rồi cứ thế vào rừng chặt đốn. Khi xong, vác trở ra, tập hợp lại đủ số người trong tổ để được đưa về trại. Những ai làm chậm, ra khỏi rừng quá trễ thì cán bộ quản giáo hoặc bộ đội cảnh vệ phải vào rừng tìm, bao giờ đủ số người mới rời khỏi hiện trường. Dĩ nhiên, sẽ được tập hợp lại để nghe những lời phê phán, lao động không tích cực, không tôn trọng giờ giấc tập thể,...

 

Những tổ cơ động thường lao động đa dạng hơn các tổ chuyên ngành, hoạt động quanh quẩn quanh trại, nhưng lại nặng nhọc hơn. Khi hết nhu cầu về vật liệu xây cất thì các tổ này được đưa đi tăng cường đấp đập cho hợp tác xã lân cận, hoặc đốn và chuyển cây bồ đề cho lâm nghiệp địa phương hay là phá rừng khẩn hoang. Các hợp tác xã nông nghiệp và lâm nghiệp địa phương không có nhiều nhân sự nên thường nhờ vả vào nhân lực của những trại tù trong vùng. Người ta đấp đập, ngăn suối không phải để phục vụ cho ngành thủy điện mà chỉ nhằm chận và giữ nước lại làm thành một hồ lớn, vừa có dự trữ để phân phối cho những nơi cần tưới tiêu trong mùa hạn hán, vừa có chỗ nuôi cá. Công việc lớn lao dường ấy mà chỉ dựa vào công sức của bọn tù ăn không đủ, mặc không ấm và của mấy con trâu ốm tong teo, thích nằm nhơi hơn đi đứng. Nên chi, trên một tỷ lệ nào đó và nhìn dưới nhãn quan quen thuộc có máy ủi đất và xe cán đất, việc làm cũng gần như đội đá vá trời và trông giống như chuyện làm của thằng điên giữa lòng thế kỷ hai mươi. Một toán xắn và chuyển đất bằng những cái ky đan bằng tre, mỗi chuyến đi về của hai người khoảng một phần tư mét khối. Trên nguyên tắc kiến tha lâu đầy ổ, thế rồi bờ đê chắn nước, tháng này sang tháng nọ cũng phải thành hình. Cho nên khi nhìn vào bất cứ công trình tập thể nào của cộng sản người ta thấy vô số con người. Ðất đổ xuống rồi thì bắt trâu đạp lên để nén chặt. Nước sông, công tù, sáu tháng không xong thì một năm cũng phải xong. Bờ đập xong rồi, nhìn lại công trình, những người chịu khó suy nghĩ bỗng thấy hãi hùng, hãi hùng ở chỗ công sức và mồ hôi của con người đã phải đầu tư vào đó, chớ không phải hãnh diện như những con người cộng sản có thói quen coi đó như là một thành tích vẻ vang.

 

Một công việc lớn khác của địa phương mà tù cải tạo được "hân hạnh góp công" là khai thác cây bồ đề. Loại cây này có khá nhiều công dụng lại thích hợp với vùng đất hoang du nên được lâm nghiệp trồng đại trà ở miệt Hoàng Liên Sơn. Tuy nhiên, nếu phải sử dụng công nhân viên thuê mướn thì sẽ không có lợi nên người ta nghỉ đến loại nhân công rẻ mạt là tù cải tạo. Không biết lâm nghiệp trả tiền công cho trại như thế nào chớ mỗi người tù đi làm bồ đề cho lâm nghiệp mỗi ngày thêm được một phần sắn khoảng nửa ký, ăn vào khoảng giữa ăn sáng và ăn trưa. Công việc chủ yếu là hạ những cây đủ tuổi, gốc to ít lắm hai tấc đường kính và cao tối thiểu năm thước. Ðốn xong, chặt sạch cành lá rồi chuyển xuống chất đống bên vệ đường, xe đến lấy. Nội dung công tác nghe qua rất giản dị nhưng thực tế không phải dễ vì địa bàn hoạt động là vùng núi non hiểm trở, bồ đề lại thường hay đứng trên triền núi. Với rựa bén, hạ được một cây cũng phải nửa giờ nhưng khi cây ngã xuống đâu phải cây nào cũng nằm yên tại chỗ mà có cây tuột theo triền núi đổ xuống thung lũng, nghe như xe lửa tốc hành chạy qua. Vì vậy cho nên trước khi cây ngã, người đốn phải la vang dội núi rừng:"Cây đổ!" cho những ai đứng phía dưới triền núi liệu mà tránh né. Nguy cơ bị cây tuột dốc lùa đi không phải ít, nhưng may thay loại tai nạn đó không xảy ra. Thế nhưng, khi phải tuột dốc xuống thung lũng tìm cây khiêng ra đường, qua mấy ngọn đồi thì quả thật, nổi khó khăn kia có nói cũng không cùng! Một thân bồ đề với kích thước tối thiểu nói trên muốn di chuyển được ít ra cũng phải từ năm đến sáu người. Phải đi qua những con đường mòn bên hông núi, nhiều khi trên lá cây đẫm ướt sương mai hoặc nước mưa đêm trước trơn trợt run chân. Ðể bảo đảm an toàn trong lúc khiêng, người nào cũng phải đi "ba chân", chõi gậy để giữ thăng bằng. Lắm khi có cây phải di chuyển hàng cây số ngàn mới đưa được đến "bệ phóng", điểm cao cuối cùng để từ đó cho cây lăn xuống đường.

 

Có một lần, những thân bồ đề kẹt lại lưng chừng triền núi suýt nữa gây tai nạn chết người. Một sáng ngày đông đầy kín sương mù, đoàn tù đang chuẩn bị leo lên dốc núi để lên hiện trường làm bồ đề. Một anh vì yếu chân nên lên trước, qua đường lăn của bồ đề cho dễ leo, trong khi một tốp đang lên qua ngõ lối mòn, một tốp còn đứng dưới chân đồi. Người cán bộ dẫn toán đi lên ném một hòn đá vào đống bồ đề theo kiểu nghịch ngợm thế thôi nhưng bỗng dưng phá vỡ thăng bằng sao đó làm cho một cây đổ dốc lăn xuống rất nhanh. Trong khoảnh khắc, những người đứng dưới chân đồi cho rằng anh tù đang đi lên kia thế nào cũng bị cây nặng hàng trăm ký quật chết. Nhưng may mắn thay, anh nhìn thấy một mỏm đá bèn nằm ngay dưới chân nó, cây bồ đề vấp phải hòn đá, nhảy ngang qua người anh tù, trong nỗi nhẹ nhàng của những người chứng kiến ở dưới chân đồi. Tuy nhiên, công việc khai thác bồ đề với giá năm trăm gờ-ram sắn một ngày cũng làm hỏng mắt cho một anh tù. Cùng với một người tù khác, anh khiêng thân bồ đề để sắp xếp thành đống ở vệ đường. Vì thiếu phối hợp sao đó, khi bạn anh liệng đầu cây xuống rồi mà đầu cây của anh còn trên vai nên chấn động của cây đập vào mặt anh, tác động đến thần kinh mắt. Ðền bù lại, cộng sản đã cho đương sự ra trại sớm hơn để suốt đời thương tật, thế thôi!

 

Ngoài những công tác lẻ tẻ góp công cho các cơ quan địa phương, những tổ cơ động còn có những việc làm với quy mô lớn là phát hoang lấy đất rừng đưa vào canh tác cho trại. Xuất phát từ một con suối, đoàn tù cải tạo, mỗi người một con dao cán dài độ một thước mài thật bén, dàn hàng ngang cách khoảng nhau lối hai thước rồi từng bước một tiến lên phía trước, vừa đi vừa chặt cỏ và cây con hai bên hướng đi. Những cây to nằm trong vùng phát hoang, bộ phận phụ trách sẽ giải quyết sau. Khoảng vài tuần lễ sau, ngoái đầu nhìn lại không thể ngờ rằng cây rừng dày đặt hôm nào, giờ đây đã nằm rạp xuống để chờ đốt đi làm phân. Không cần hạch toán kinh tế chi cho phiền phức vì trên thực tế thì công sức bỏ ra không thế nào nhỏ hơn lợi ích thu vào, nhưng những con người cộng sản cứ lấy đó để tự hào rằng họ đã "bắt thiên nhiên phải cúi đầu".

 

Ðại loại, quá trình lao động của những tổ tù cải tạo phải gánh chịu nặng nhứt là như vậy. Thế nhưng, ngày làm việc của những tổ được coi như là lao động nhẹ cũng chỉ là hình thức vì nó làm xói mòn sức khỏe và tinh thần không ít. Vì được làm việc quanh quẩn cận kề trại nên nỗi niềm thiếu đói càng dằn vật tâm tư khi phải chờ bữa ăn sắp đến qua tiếng kẻng tan tầm, qua hình ảnh của làn khói nhà bếp và của các thau cơm di chuyển sau khi được phân chia từ chảo lớn lên giàn gác chờ phát ra vào giờ ăn. Tổ canh tác, sáng ra có hăng hái lắm thì cũng được một giờ đầu cuốc đất hay tưới rau. Tổ mộc thì cũng chừng ấy thời gian cưa, bào, đục. May ra, chỉ có tổ "anh nuôi" còn cựa quậy được lâu dài hơn, nhờ một vài chén nước cơm, một vài nắm cơm cháy hoặc vài ba củ khoai, khúc sắn. Dù được động viên hay bị trách móc, tù cải tạo cũng không còn sức để lao động hăng say khi mà cái đói không cho phép con người cố gắng hơn nữa. Chủ yếu, nhịp độ và mức độ lao động cũng chỉ là để chờ bữa ăn trước mắt, xong bữa trưa lại chờ bữa chiều. Một phần ăn vừa vào đến bao tử lại có nhu cầu về một phần ăn khác.

 

Sau cơm chiều rồi cũng chưa phải là hết một ngày sinh hoạt của tù vì còn phải họp tổ, một loại hình sinh hoạt không ai ưa thích nhưng ai cũng phải tham dự. Vào khoảng nhá nhem tối, từng tổ một ngồi vòng tròn lại ở ngoài sân, nếu là những ngày tạnh ráo mùa hè, và ngay trên sạp nằm, nếu là những ngày mưa hoặc lạnh lẽo mùa đông. Tổ trưởng chủ trì cuộc sinh hoạt này, chủ yếu để rút ưu khuyết điểm của ngày lao động và phê bình cũng như tự phê nếu có. Thỉnh thoảng, nhân dịp lễ này lễ nọ hay kết thúc đợt thi đua, sinh hoạt tổ cũng bình bầu ra cá nhân xuất sắc của tổ để đề cử đưa lên đợt tuyển lựa cá nhân xuất sắc của trại. Với tổ trưởng nào biết điều thì sinh hoạt qua đi nhanh chóng vì sau ngày làm lụng mệt nhọc, ai cũng muốn được thảnh thơi tâm trí hay được ngả lưng nghỉ ngơi. Gặp tổ trưởng tích cực hăng say, thậm chí "cách mạng hơn cách mạng" thì quả thật chẳng còn nỗi ngao ngán nào bằng! Sau sinh hoạt là tự do, nhưng khi bóng đêm đã về, người tù chẳng còn có hoạt động nào tốt hơn là chui vào chỗ nằm của mình, nhứt là vào những chiều lạnh lẽo mùa đông, để thả hồn về với những gì mình mơ ước.

 

Thế nhưng cũng chưa phải là lúc để bắt đầu đánh một giấc ngủ yên lành, quên đi cái đói và phục hồi năng lực đã mất vì phải qua một lần sinh hoạt nữa với cán bộ quản giáo. Cán bộ cũng có một phiên sinh hoạt nội bộ của khung để phân chia công tác cho mỗi cán bộ quản giáo liên quan đến ngày hôm sau. Buổi họp của khung kết thúc cũng khá khuya, khoảng từ hai mươi đến hai mươi mốt giờ. Sau đó, những đèn bấm cầm tay tủa ra đi về phía láng trại của tù cải tạo và tiếng còi tu huýt vang lên kêu gọi các tổ tù ra sân tập hợp. Ðây là dịp để cho những con người tuổi trẻ cỡ con cháu của tù lên lớp giảng dạy cho những người bậc cha chú. Thôi thì họ nói trên trời, dưới đất, bằng những luận điệu đầy tính chất bài học và tuyên truyền về cái hay, cái đẹp của chủ nghĩa xã hội, cố nhồi nhét vào tâm tư của những người tù đang ngáy ngủ và mỏi mệt sau ngày lao động vừa qua. Dĩ nhiên, họ thiếu kỷ thuật sư phạm vì những lời nói đó tất nhiên phải theo gió thoảng bay đi. Nhưng, đã là thân tù tội thì phải cố chịu đựng, thế thôi! Gặp hôm sung sức và cao hứng cách mạng anh hùng có cán bộ cũng can đảm nói hàng giờ một cách hăng say. Nhưng, dẫu tù cố tình muốn nghe thử thì cũng chẳng hiểu được ý nghĩa của "thông điệp" ra làm sao hết. Thực ra, những loại sinh hoạt đó cũng để chỉ trích tinh thần lao động của tổ trong ngày và để giao công tác cho ngày hôm sau, thế nhưng cán bộ cộng sản thường là những con người hay nói lại nói nhiều và với một luận điệu rập khuôn, thiếu vắng phần lý luận riêng tư nên người nghe dễ bị nhàm chán. Thậm chí không cần nghe cũng có thể biết được họ nói gì cho nên chẳng có một ai có ý kiến gì sau phần lên lớp đó. Chỉ mong sao chóng hết để còn đi ngủ mà sống với môi trường tự do của riêng mình, qua giấc ngủ cô đơn. Ngày mai lại là một ngày tù tội và lưu đày khác nữa, chẳng biết đến bao lâu, cũng như mỗi lần chuyển trại không biết được nơi sẽ đến.

 

 

 

ß

 

 

 

Trong lối sống đơn diệu, khổ nhọc nhưng không thấy được một tia sáng nào ở cuối đường hầm, một số người nôn nóng và vô cùng quả cảm muốn tự mình tìm một lối thoát. Vả lại, bối cảnh và hình thức quản lý tù của bộ đội cũng có phần gợi ý và mời mọc đối với người tù tội mà mục đích trước mắt dĩ nhiên là tự do. Những sự kiện ngẫu nhiên đồng quy đã tạo ra sự kiện mà thành tựu được đánh giá trên năm mươi phần trăm nên ý định vượt thoát đã xuất hiện, liên quan đến bốn anh thuộc quân binh chủng khác nhau, biệt động quân, pháo binh, không quân và quân nhu, và cũng thuộc những tổ cơ động khác nhau.

 

Âm thầm và lặng lẽ, trung thực với cá tính của từng người một, nhóm đào thoát đã quy hoạch dự định một cách tỉ mỉ. Liếc sơ qua thành phần nhóm này, người ta có thể thấy ít ra có hai người nắm vững được hành trình di chuyển đường rừng, một người có kiến thức về mưu sinh thoát hiểm và một người có tầm vóc đối ngoại. Chi tiết hơn nữa, trong số bốn người này có một anh rành về tử vi mạng số, nếu như quy hoạch của nhóm muốn một phần nào vựa vào những dữ kiện vận mạng để ước lượng mức độ thành công. Nhứt định là nhóm vượt thoát này không hời hợt chủ quan vì họ đã có nhiều cơ hội để tiếp xúc với dân chúng bên ngoài, trước khi có quyết định quan trọng đến cuộc đời của họ như vậy.

 

Là những người thuộc tổ cơ động nên lãnh vực lao động của họ rất rộng lớn, cho họ những cơ hội tiếp xúc với quần chúng bên ngoài, dĩ nhiên là đàng sau lưng bộ đội cảnh vệ. Dịp may thuận lợi nhứt là những chuyến đi lấy cát ở lòng sông Hồng tận Yên Báy. Ðể cung cấp vật liệu làm hồ cho tổ xây dựng, mỗi ngày trại thường đưa hai xe cải tiến[30], mỗi xe ba người đi ra tận Yên Báy, cách trại khoảng ba hay bốn cây số để lấy cát. Vì chuyến đi xa như vậy nên phải lao động thông tầm, tù được phát gạo và thực phẩm để nấu ăn trưa tại chỗ. Xuống lòng sông lấy xong hai xe cát đầy, tù được phép tụ tập trong bóng mát để nấu nướng ăn và nghỉ trưa. Bên trên mỏm đá ở phía đường đối diện có một căn nhà nhỏ của dân thường mà tù được bộ đội cảnh vệ cho phép vào để xin nước giếng nấu ăn. Khi tù đã ổn định và bắt đầu nấu nướng thì bộ đội súng dài đi rong chơi ở nhà dân chúng trong xóm, với những nhu cầu cá biệt của họ, để mặc cho tù ở gốc cây bên đường và bên dòng sông. Dưới bóng mát và trong cơn gió đồng nội hây hây, ngồi bên này sông mà nhìn thị trấn Yên Báy bên kia sông, tâm tư người tù trong giây lát bỗng thấy mình gần với tự do, đôi khi quên mất thân phận tù đày của chính mình. Trong giây phút đó, một vài bác nông phu mệt mỏi, một vài chú mục đồng nhởn nhơ với bầy trâu ghé tạm qua bóng mát hỏi han tù dăm ba câu chuyện. Qua những lần đối thoại đó, khôn khéo gợi chuyện thì những người trong nhóm vượt thoát có thể dò la được những gì họ muốn biết.

 

Ðến một ngày nọ, sau khi qua sinh hoạt đêm hôm trước được cán bộ quản giáo cho biết ngày hôm sau sẽ có một cuộc đi lấy chổm đại quy mô, kết hợp nhiều tổ cơ động, họ quyết định hành động. Trong một chuyến lao động đông người như vậy nếu hành động của họ bị phát hiện thì họ cũng đi được khá xa. Hơn nữa, khi lao động thông tầm tù thường mang theo túi đựng tấm đi mưa và chén đũa ăn trưa, do đó những người định vượt thoát không bị để ý nếu túi của họ cũng căng đầy vì lương thực, thực phẩm và thuốc men đem theo. Ðến giờ dừng tay ăn trưa, cán bộ mới nhận ra sự vắng mặt của bốn anh thuộc hai tổ. Sau khi cơm trưa đã được phát ra, tất cả được lệnh trở về trại, bỏ số chổm đã chặt được tại chỗ thay vì phải kết lại thành bè để thả trôi theo dòng suối đưa về trại như những lần trước. Dư luận tù nghĩ là có điều bất thường, nhưng ngay lúc bấy giờ chưa rõ đích xác, phải chờ đến khi về trại mới biết là có người trốn trại. Một nỗi xôn xao đầy xúc động, vừa mừng vừa lo sợ. Mừng cho những người đã ra đi, nhưng lại lo sợ cho sự bấp bênh của kết quả và cho thân phận của những người còn lại.

 

Sinh hoạt tổ đêm đó dĩ nhiên là một buổi lên lớp nặng nề và gay gắt, đầy tính chất răn đe đối với những người còn lại. Tổ nào cũng được chỉ thị phải mổ xẻ vấn đề để rút kinh nghiệm và "hạ quyết tâm", trong khi đó phía cán bộ có thái độ khắc khe trở lại. Từ đó trở đi, lao động bên ngoài tù cải tạo chỉ được phép mang theo mỗi tấm đi mưa và tất cả mọi bao bì gì cũng bị cấm. Những anh tổ trưởng liên hệ bị quấy rầy không thôi, nay cán bộ này kêu lên hỏi, mai cán bộ nọ gọi điều tra, tưởng chừng như tổ trưởng phải nắm được tư tưởng của tổ viên. Hết tổ trưởng rồi đến những người nằm bên cạnh và xong với những người đồng sàn là những người cùng mâm ăn.

 

Cuộc điều tra cứ chạy lanh quanh, nhưng ai biết được bây giờ và giả sử có biết đi nữa thì ai dại gì nói ra? Chung cuộc, cũng phải có một người còn ở trại để thiên hạ dằn vặt, giận cá chém thớt. Ðó là anh tù thuộc tổ nhà bếp bị nghi ngờ là đã cho một vài người trong nhóm đào thoát một số muối hột, thay vì nước muối như đã quy định. Thế nhưng, nghi vấn đâu phải là yếu tố để kết tội. Trong khi đó tâm tư của tập thể tù cải tạo Trại-2 Nhà Ngói trầm hẳn đi mấy ngày liền, một phần dõi theo bốn người bạn đang băng rừng lội suối tìm về cõi tự do mà ai cũng ước mơ, phần khác trăn trở với những soi mói của của cán bộ trại. Vì vậy mà nếp sống như có phần nào khựng lại, sinh hoạt lờ đờ và lao động uể oải như để trông chờ kết quả của biến cố, nếu có, chắc cũng phải lâu lắm.

 

Thế nhưng, chẳng bao lâu, khoảng ba hay bốn ngày gì đó, trong sinh hoạt đêm, cán bộ quản giáo cho biết tin chẳng lành là nhóm trốn trại đã bị bắt lại. Một lối thông tin kiêu căng và ngạo mạn như để cho tù ngầm hiểu rằng: "Chúng mày làm sao mà thoát khỏi tay chúng tao". Người ta còn kể công với tù: "May mà cán bộ trại đến kịp, không thì nhân dân đã thẳng tay trừng trị, các anh ấy chỉ có chết thôi". Theo lời thuật lại thì sau mấy ngày quanh đi quẩn lại trong vùng núi đồi, không cách xa trại bao nhiêu, nhóm đào thoát đã bị dân quân địa phương, được báo động và có sự trợ giúp của chó đánh hơi người, chận bắt trên đường di chuyển. Một công trình đổ vỡ và những anh tù xấu số phải gánh chịu đau thương. Càng đau thương hơn nữa là một trong bốn người tù quả cảm đó đã tự quyết định lấy mạng sống bản thân khi bị rơi trở vào vòng tay trại tù. Giấc mộng không thành, người cựu chiến sĩ Biệt Ðộng Quân, trẻ tuổi hơn hết trong nhóm, đã tự ru mình vào giấc ngủ thiên thu. Thế là chỉ còn lại "ba chàng hiệp sĩ", một hôm bị giải giao vể trại trong một cung cách được dàn dựng nhằm răn đe những tù cải tạo của trại. Ba người đi theo hàng một, hai tay bị còng ra phía sau lưng, áo quần thiểu não, tóc tai bơ phờ, dung nhan tàn tạ, chân đi đất, đôi dép râu cột dính lại treo tòn teng ở cổ, bộ đội súng dài theo sau, vũ khí cầm tay trong tư thế sẵn sàng nhả đạn. Họ như bị người bộ đội kia đẩy đi trên từng bờ con của cánh đồng minh mông trở về nẻo cũ. Bóng hình bi đát đó của "ba chàng hiệp sĩ" rọi xuống nước ruộng, qua một màn mưa bay lất phất, khiến cho cảnh tượng càng thêm não nề rùng rợn khi bạn bè của họ liên tưởng đến những hình phạt đang chờ đón ở cuối đường trở về.

 

Ngày "ba chàng hiệp sĩ" trở về trại, một tổ cơ động được phân công "khẩn trương" đào ba hầm kỷ luật ở chân đồi bên hông trại, đối diện với nhà ở của cán bộ. Ba cái hầm ngang tám tấc, dài hai thước và chiều cao ở phía trong cùng cỡ hai thước. Nhìn theo tiết diện, hầm có dạng gần như một phần tư hình tròn và trên chiều phẳng của mặt đất thì đủ một người nằm. Hầm đào xong, bên trên phủ bằng những thân cây tròn đường kính gần hai tấc, toàn bộ được lấp đất kín, nện chặt. Cửa hầm rất kiên cố, làm bằng những thân cây xẻ đôi, xếp khít nhau, xiềng xích bên ngoài. Chẳng khác gì một hầm nhốt thú dữ. Vào bên trong, người bị nhốt không làm sao với tới nóc hầm, vả lại còn bị đặt ở thế nằm và bị xiềng chân bằng một hệ thống cùm khóa bên ngoài. Một vòng rào bằng tre bao quanh khu hầm kỷ luật, một khu được một chòi canh quan sát thường xuyên.

 

Ðương nhiên là không một người tù nào được phép lai vãng khu "biệt thự" đó. Ngày hai lần, một tổ viên nhà bếp đưa cơm đến khu "biệt thự", dưới sự kiểm soát của một bộ đội. Mỗi chàng "hiệp sĩ" một nắm cơm với ít muối, khối lượng khoảng một chén cơm vì tiêu chuẩn chỉ có mười hai ký, và một phần nước uống. Nắm cơm đó thường bị bộ đội xâm xoi cẩn thận trước khi được đưa tới cửa hầm cho mỗi người. Chính tay bộ đội mở khóa cửa hang và mỗi ngày nhờ hai lần lãnh cơm, "ba chàng hiệp sĩ" mới có dịp hít thở không khí và trông thấy ánh sáng bên ngoài, mới có cơ hội cử động tay chân và thảy bỏ những gì không cần thiết trong cơ thể. "Chuồng cọp Côn Sơn" có lẽ còn thoải mái hơn những "biệt thự Hoàng Liên Sơn" này. Những ngày rét buốt giá lạnh mùa đông hay những ngày nóng bức tháng hè, nằm trong hang đó, không cần nói ai ai cũng thừa biết những thách thức mà cơ thể con người phải chịu đựng. Vậy mà các anh ấy đã phải sống như thế trên sáu tháng dài, qua hai trại. Ngày rời "biệt thự" để trở lại sống chung với tập thể, các anh ấy trông thật thảm thương, nước da trắng xám lạ thường, gần như nước da của một người chết! Nhưng, nhờ có nghị lực và niềm tin nên thể xác dẫu bị xói mòn, tinh thần vẫn bền vững.

 

Chuyện vượt ngục trong trại tù là một vấn đề đương nhiên nhưng khả năng thực hiện tùy thuộc ở nhiều điều kiện cùng hoàn cảnh, và cũng là vấn đề mà những người giữ tù quan tâm không ít. Từ khi đến những trại miền Bắc, tù cải tạo được lịnh phải tập trung quần áo có tính dân sự vào một nơi, chỉ được phép lấy ra khi có lịnh của cán bộ. Những ngày ở "Trại-2 Nhà Ngói", quần áo dân sự được dồn vào một kho khóa chặt lại. Thỉnh thoảng vì sợ ẩm ướt, hư hỏng và theo yêu cầu của các thành viên, tổ trưởng xin phép cán bộ cho lấy ra để phơi nắng và xem xét qua, nhân dịp những ngày không lao động. Ngoài ra, trại còn có biện pháp đề phòng khác như tạm giữ những tài sản quý giá của tù như nhẫn vàng, đồng hồ đeo tay,... Những thứ này đều phải được "đăng ký", giao nạp cho trại, đổi lấy một biên nhận. Người ta sợ rằng tù có thể bán những thứ đó để lấy tiền trong khi đào thoát hoặc để mua chuộc cán bộ "thực hiện ý đồ đen tối". Lúc ban đầu, khi chưa có lịnh đăng ký nhẫn vàng và đồng hồ, trong một chuyến đi rừng lấy chổm, một anh tù đánh rơi đồng hồ lúc nào không hay, đến khi tập hợp tổ để về trại mới phát hiện ra. Thế là cán bộ cho lịnh cả tổ dàn hàng ngang khu lao động, đi ngược trở vào rừng lục lạo từng gốc cây, hốc đá để tìm cho kỳ được mới có thể trở về trại. Người ta sợ rằng tù báo mất để che đậy chuyện buôn bán vì ở thời điểm bấy giờ trên quãng đường di chuyển của tù còn có những người dân làm đường. Hôm đó tù cải tạo lo ngại vô cùng vì giữa rừng cây dày đặc như vậy mà tìm cho ra một cái đồng hồ không phải là chuyện dễ. Thế nhưng, may mắn thay, khi lục lạo ở những bụi tre mà đương sự đã rảo qua để chặt thì thấy được chiếc đồng hồ đang nằm bên dưới lớp lá khô.

 

 

 

ß

 

 

 

Sau khoảng ba tháng sinh hoạt một cách nửa dơi, nửa chuột, học chẳng ra học mà làm thì cũng chẳng phải làm, nhưng chủ yếu là dằn mặt và làm cho thân xác rã rời, thì một buổi sáng nọ thay vì được phân công lao động như thường ngày tù cải tạo được lịnh chuyển trại. Lịnh đã ban, mỗi người tù hối hả lo lấy tư trang của mình sao cho gọn, nhẹ để có thể mang đi dễ dàng trên một hành trình đi bộ tối thiểu cũng phải vài ba cây số ngàn. Chuyện thay đổi chỗ nằm, thay đổi buồng ở, thay tổ đổi đội và chuyển trại là một sinh hoạt khá phổ biến trong nếp sống của tù cải tạo vì trại không muốn để tù cố định lâu dài ở một nơi sợ rằng tù có thể nghiên cứu cơ sở để trốn trại, hoặc câu kết với nhau trong những hoạt động chống phá trại. Trong tinh thần bảo mật, trại không bao giờ loan báo trước địa điểm sẽ đến. Giữ hình thức tổ đội sẵn có, cả trại cùng di chuyển theo sự hướng dẫn của cán bộ quản giáo. Không như những lần chuyển trại trước kia ở trong Nam, kỳ này chuyển trại bằng đường bộ và đặc biệt tổ nhà bếp được tăng cường một xe trâu để chuyên chở dụng cụ nấu nướng nặng nề như chảo  đụng, thau đựng thức ăn,...

 

Ði ngược trở ra trên con đường tiến vào ngày trước khoảng ba cây số, đoàn tù cải tạo rẽ vào một con đường đất quanh co, ngang một thước, một bên là núi, một bên là suối. Vào sâu trong rừng khoảng một cây số là trại mới gồm khoảng mươi dãy nhà nóc tranh, vách phên, cái ở trên đồi cao, cái nằm dưới thung lũng cạnh suối. Khu trại này, nằm trên một vùng đất rộng đường kính lối một cây số giữa núi rừng dày đặc bao quanh, có lẽ đã được thành lập từ lâu và trước đó đã có người ở vì tranh và lá đã cũ, quanh trại có đất đã canh tác. Trên ngọn đồi khống chế cổng trại là những dãy nhà của cán bộ khung. Những dãy nhà kho chứa lương thực, thực phẩm và bếp cán bộ nằm dưới chân đồi. Vòng rào giới hạn khu nhà ở của tù được làm bằng tre thô sơ, thậm chí một vài khoảng đã ngã đổ nhưng cũng không được sửa chữa hay thay thế. Cổng vào, không có cửa, được hình thành theo hình dáng đặc biệt của một cổng chào, bên trên có một khung đan bằng tre dành sẵn cho câu nói, đầy mỉa mai ở một trại tù nhưng bắt buộc phải có, của Hồ Chí Minh:"Không có gì quý hơn độc lập tự do" cùng khẩu hiệu và biểu ngữ vào những ngày lễ.

 

Bên trong khu trại, dãy nhà nằm cạnh con suối nhứt định phải là nhà bếp vì nhu cầu nước trong việc nấu nướng. Nước để uống và nấu ăn lấy ở giếng, một loại giếng miệng rất rộng, tối thiểu cũng phải hai mét đường kính, thậm chí có nơi cả chục thước. Mục đích là để được dễ dàng trong khi nhiều người đào cùng một lúc và trên một vùng núi đá. Trên khu đất vùng thung lũng dọc theo con suối, người ta dựng những dãy nhà dùng cho sinh hoạt tập thể của tù như hội trường, trạm xá, nhà "văn hóa"[31] và một sân rộng để tập hợp tù trước giờ xuất trại đi lao động. Hội trường là một ngôi nhà rộng rãi, nền bằng đất nện cứng và trần trụi vì người tù nào, mỗi khi được triệu tập, cũng có một vật gì đó để lót ngồi. Phòng khám bịnh mang tên trạm xá nghe khá hào hùng nhưng thật ra chỉ có hai phòng trong một ngôi nhà nhỏ, một phòng cho cán bộ y tế, một phòng nữa để người tù trợ y khám nghiệm bịnh nhân bằng cách hạch hỏi trước khi đưa sổ ghi kết quả "tra khảo" bịnh lý để cán bộ phụ trách quyết định cấp thuốc. Nhiều anh trợ y, "tràn đầy thiện chí", cách mạng hơn cả cách mạng, khiến cho người tù bịnh hoạn càng thấy tủi thân. Qua một vài trang sách y dược mang theo khi đi trình diện, một vài anh trợ y độc đáo đã tự ý cho mình trở thành những nhà bào chế thần dược, bắt tù cải tạo ăn những con rít núi, những con trùng đất, những chén cám luộc,... Nhà "văn hóa" chỉ là một trạm thông tin chứa những thứ báo, tạp chí và văn hóa phẩm không ai muốn đọc, nếu không bị bắt buộc. Những dãy nhà ở của tù nằm trên những ngọn đồi bao quanh khu lòng chảo và đối diện với ngọn đồi khu doanh trại của cán bộ khung. Vì vậy mà sinh hoạt của tù đều bị phía đồi bên kia thường xuyên theo dõi.

 

Sang trại mới, mỗi tổ được xếp vào những dãy nhà đã được quy định, tổ nào đông người chiếm trọn dãy, ít người thì nhiều tổ ở chung một dãy. Mỗi dãy nhà, dài khoảng hai mươi thước, ngang độ năm thước. Ðiểm đặc biệt của loại nhà tranh vùng núi rừng Hoàng Liên Sơn là được xây cất hoàn toàn bằng tre, cột lạt giang, không cần đến một cây đinh hay cọng kẽm nào hết. Tên gọi nhà tranh, nhưng không phải loại tranh lá nhỏ và mịn như thường thấy. Tranh ở đây chỉ vì tên gọi đã quen chớ thật ra là những mảnh đan bằng tre, dài từ bảy đến tám tấc và ngang khoảng năm, sáu tấc. Tre (chổm) cỡ cườm tay, lấy ở rừng về, chặt sẵn từng khúc dài năm, sáu tấc, đập nát ra làm bốn hay năm mảnh gì đó, xong đan vào với ba thanh tre dài bảy, tám tấc xếp cách khoảng đều nhau thành một miếng tranh. Khi lợp lên, tấm này chồng lên tấm kia như kiểu lợp ngói, tấm trên phủ tấm dưới khoảng hai phần ba, ruột tre ngửa lên trên như trăm ngàn máng xối. Một mái nhà tranh như vậy, bên trong nhìn thấy được những mảnh trời nho nhỏ bên ngoài, nhưng nước mua khó lọt vào. Nếu bị dột, chỉ cần xê dịch miếng tre qua lại chút ít là có thể giải quyết được vấn đề.

 

Tù được xếp nằm thành hai hàng theo chiều dài của dãy nhà, đầu day ra vách, chân đâu vào nhau. Giữa hai dãy nằm là đường đi thông suốt từ đầu hồi này đến đầu hồi kia của dãy nhà. Mỗi dãy nhà có từ bốn đến sáu cửa, hai ở hai đầu hồi và hai hoặc bốn ở chiều dài. Giường ngủ là những tấm phên bằng tre nứa đan, hình chữ nhựt, theo kích thước của chỗ nằm ráp nối lại thành hai dãy giường dọc theo chiều dài của căn nhà. Những chiếc "giường âm nhạc" vì trong đêm thanh vắng, mỗi lần một anh tù trở mình là một điệu nhạc kẽo kẹt. Ở phía chân của mỗi chỗ nằm là một mảnh giấy ghi tên họ người nằm nơi đó, đã được cán bộ quản giáo chỉ định, chỉ được thay đổi nếu được phép hay có lịnh. Sinh hoạt ăn uống thì tùy tiện, bạ đâu ngồi đó vì phần ăn thông thường chỉ có cơm, rau và nước muối. Chỉ một phần cơm thôi mà thậm chí có người không có cái tô, cái chén để đựng vì qua những lần chuyển trại, dụng cụ ăn uống cứ lần hồi bị loại đi. Ai biết đan lát thì đan cái rổ nhỏ, lót lá chuối rừng lên trên để nhận phần cơm. Có người lấy lon sắt đồ hộp, săn nhặt được ở đống rác của bếp bộ đội, đựng phần cơm trại phát cho. Về mặt này, những người hành khất trên đường phố Sài Gòn trước kia có lẽ còn hơn tù cải tạo nhiều!

 

 

 

ß

 

 

 

Ở "Trại-2 Nhà Lá" này, cuộc sống của tù cải tạo đã rõ nét một cách dứt khoát, so với sinh hoạt ở những trại trước kia. Cộng sản đã tinh ranh "từng bước một vững chắc" đưa tù cải tạo vào tròng và giờ đây ở nơi rừng núi trùng điệp này họ yên chí không còn sợ tù cải tạo trốn trại nữa, nhứt là sau lần đào thoát không thành, họ chẳng cần phải mất công mơn trớn, đẩy đưa như những ngày còn trong Nam. Thế nhưng, ngoài mặt vẫn còn những luận điệu tránh né một cách hình thức. Qua cách trò chuyện cùng nhau giữa tù và tù, cũng như qua thơ từ về gia đình, nếu ai lỡ tự cho mình là tù đều bị cán bộ quản giáo sửa sai đúng mức. Chỉ có những tên gọi như "trại viên" hay "cải tạo viên" mới được chấp nhận, những tên gọi nặng tính cách bình phong.

 

Cũng như ở các trại trong Nam, mỗi tháng tù cải tạo được viết thơ về gia đình một lần, coi như là "một đặc ân của đảng và nhà nước đối với các anh". Giấy viết thơ, bao thơ và tem đều do trại phát, một thứ giấy mà người dân miền Nam phải sử dụng trong thời kỳ khó khăn của những năm bốn mươi. Giờ đây, vào buổi hạ huyền của thế kỷ hai mươi, nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam anh hùng lại bắt đầu sử dụng. Một quá trình tiến bộ khởi sự bằng một bước chênh lệch đáng kể trong thời gian.

 

Viết thơ cho gia đình thông thường là một việc làm thích thú và thoải mái để gởi về người thương, kẻ mến tâm tư tình cảm của mình. Thế nhưng, trong hoàn cảnh này, viết thơ về nhà là cả một bài luận văn đầy trăn trở suy tư của tù cải tạo vì viết cho người nhận không quan trọng bằng viết cho người cán bộ kiểm duyệt thơ. Một tờ thơ trên một trang giấy nhỏ thế nhưng đòi hỏi không biết bao nhiêu là toan tính, là kỷ thuật viết và lách. Qua thơ từ viết về cho gia đình, cán bộ kiểm duyệt thơ sẽ đọc tư tưởng của tù để có một ý niệm về mức độ cải tạo tư tưởng. Thành thử ra thơ từ trại về quê nhà bị coi như là một khía cạnh của công tác "thu hoạch" về quá trình học tập cải tạo. Cho nên "đặc ân" kia cũng bằng một thanh kiếm của Damoclès treo trên đầu tù cải tạo. Do đó thơ về nhà tựu trung cũng chỉ là những bài viết ca ngợi cộng sản, đề cao "lượng khoan hồng của đảng, nhà nước và nhân dân", và ngợi khen cung cách cư xử của cán bộ trại, dĩ nhiên là không được lộ liễu một cách trơ trẽn để cho những đối tượng liên hệ khỏi đỏ mặt. Chủ yếu là cho gia đình biết mình đang mạnh khỏe ở một nơi nào đó trên đất nước Việt Nam, vì địa chỉ của trại mang hình thức "hòm thơ" ngụy trang bằng những chữ và số. Tên gọi "hòm thơ", thay vì hộp thơ, ban đầu đã đem lại cho tù cải tạo một ấn tượng rùng rợn khi liên tưởng đến cái chết dễ xảy ra trong đời tù tội.

 

Mỗi đợt viết thơ, bầu không khí của trại như chừng lắng đọng lại với những gương mặt nhiều suy nghĩ, với những dáng người đăm chiêu, như trong những kỳ thi ở trường học xưa kia. Cân nhắc và đắn đo dường ấy, thế nhưng cũng không khỏi có một vài trường hợp bị phê bình vì thái độ hoài nghi khắc khe của cán bộ quản giáo. Mượn lối tả cảnh để nói lên tâm tình, một lá thơ bàn đến khung cảnh "núi rừng, chim kêu, vượn hú" đã bị chận lại và người viết bị phê bình vì đã tiết lộ địa điểm của trại. Một cái thơ khác muốn xin gia đình một đôi dép để đi lao động nhưng vì quá cẩn thận, không tin tưởng ở những số chân ghi trên dép bán, người viết đã in hẳn bàn chân của mình lên trang giấy. Do đó, tác giả bức thơ bị kết tội "phạm thượng" vì "xem thường những từ có tính cách mạng trong thơ và chà đạp lên tình cảm dành cho gia đình". Những ai cắc cớ xỏ xiên đều bị phê bình đích đáng với những lời lẽ thậm tệ, nhưng lại là một niềm thích thú của những con người tự cho rằng thân phận mình đã kể như ở cuối đường và châm chọc được đối tượng cũng bằng một lối trả thù hả hê. Không than mình đói ăn, nhưng chỉ nói rằng "sức ăn nay đã giảm được nhiều để tăng năng suất lao động, làm lợi cho Ðảng và Nhà Nước" hoặc không nói mình ăn độn mà khen loại cơm pha khoai sắn, bảo gia đình ăn thử, như một thức ăn hiếm có xưa nay chưa biết, dĩ nhiên là bị phê bình. Phê bình như vậy không phải chỉ được tiến hành ở tổ mà có khi được đưa ra cấp toàn trại để cho mọi người rút kinh nghiệm.

 

Không phải chỉ lo âu về thơ đi mà tù cải tạo còn phải bận lòng vì thơ đến. Ðương nhiên gia đình bên ngoài cũng biết được tình trạng kiểm duyệt thơ trong trại tù nhưng đôi khi một vài lời tưởng chừng như vô tội vạ lại bị cán bộ cho là "ký tín ám hiệu" nên người nhận thơ bị gọi tới, kêu lui hạch hỏi khá lôi thôi. Từ đó, đương sự được lịnh phải "giáo dục gia đình" trong kỳ thơ tới và dĩ nhiên lá thơ đó không bao giờ tới tay người nhận. Trình độ văn hóa của người cán bộ cộng sản không bao nhiêu nên nhiều lúc kiểm duyệt thơ cũng có những thắc mắc lôi thôi, tập thể tù không sao hiểu được. Chẳng hạn như có người nhận thơ tên May và trong ngôn ngữ yêu thương giữa vợ chồng thường gọi nhau bằng danh tánh. Thế nhưng, người cán bộ duyệt xét thơ lại đọc khác đi nên ông chồng bị cán bộ gọi lên hỏi:"Tại sao vợ lại gọi chồng bằng mầy, có ý đồ gì đây?" Lại phải một lần giải thích, nhưng cán bộ có chấp nhận hay không đó là quyền của họ. Thơ đi tin lại trong tù là điều cần thiết và rất được tù trân trọng vì, tuy rằng thơ bị bắt buộc phải mang những nội dung nặng tính bài học tâm lý chiến, tối thiểu cũng là sợi dây liên lạc với gia đình. Dẫu rằng thơ nhà chẳng nói được gì nhiều, nhưng chỉ riêng những nét chữ run run của song thân tuổi đời xế bóng tà huy, những lời thơ trìu mến của người vợ yêu thương hay nét vẻ thơ ngây của đứa con tuổi mẫu giáo đều là cả một khối tình cảm làm ấm lòng những người tù cô độc bơ vơ. Một trang giấy bé nhỏ nhưng lại gói ghém cả một thế giới tâm tình của gia đình ở quê nhà. Có những bức thơ cứ bám mãi người tù, lúc nằm ngủ cũng như trong những giờ lao động giữa núi rừng, như lá bùa hộ mạng, để lúc nào cảm thấy nhớ thương thì lại dỡ ra xem. Mỗi tháng một kỳ thơ, người được gọi tên nhận thơ mặt mày hớn hở, reo vui như trúng số độc đắc và đương nhiên phải có trường hợp của những người buồn vì không được thơ, đành tự an ủi qua niềm vui của bạn bè. Bắt được yếu tố tâm lý đó, trại coi chuyện gởi và nhận thơ của tù cải tạo là một trong những yếu tố then chốt để quản lý. Cứ có vi phạm kỷ luật nhẹ, cứ mỗi lần cán bộ quản giáo có điều gì không vừa ý thế là người tù liên hệ bị cắt một kỳ thơ và trong thời điểm ở Hoàng Liên Sơn nếu không được phát giấy, bao thơ và tem thì không có cách nào để đưa tin tức về gia đình hết.

 

Tuy nhiên không phải vì vậy mà những gì gia đình và tù cần thông báo cho nhau không lọt qua được cái sàn gạn lọc của cán bộ kiểm thơ. Lần hồi cũng có những cách ngụy trang thông tin khá hữu hiệu. Nhờ cung cách mã hóa thơ từ mà ở trong trại, tù cải tạo cũng biết được phần nào những diễn biến trong gia đình hay những hoạt động ở ngoại quốc liên quan đến số phận của họ. Không phải chỉ riêng phương thức suy diễn thơ cá nhân mà còn có sự đối chiếu với thơ bạn bè. Thế nhưng cũng không phải là dễ dàng vì có lúc mật mã do gia đình sử dụng phải suy nghĩ nhiều mới hiểu được vi hai bên không có dịp để thỏa thuận nhau về chiếc "chìa khoá giải mã". Công việc mã hóa và giải mã thơ từ đã trở thành một sinh hoạt vui thích vì nhờ vậy mà thời gian được cảm nhận như là đi nhanh hơn. Trong quá trình mã hóa như vậy, "Bột Bích Chi"[32] được hiểu như là đài BBC của Anh quốc, "Voi" được hiểu như là đài VOA của Hoa Kỳ, một ai đó đi "vùng kinh tế mới để xây dựng đất nước xã hội chủ nghĩa giàu đẹp với một bà con ở Tây Ninh hoặc ở Mỹ Tho" được hiểu là đã vượt biển, vượt biên thành công đến Pháp hay Hoa Kỳ... Thậm chí có những câu được gia đình sử dụng thẳng thắng, ngay tình, thế nhưng tù cải tạo lại cứ nghĩ là mật mã nên băn khoăn mãi không thôi, đem tham khảo với bạn bè thì bạn bè cũng chào thua!

 

 

 

ß

 

 

 

 Từ lúc bị chuyển về Hoàng Liên Sơn, việc học tập đích thực của tù cải tạo chủ yếu là lao động còn khía cạnh học tập lý thuyết coi như không đáng kể. Thảng hoặc, nhân một diễn biến quan trọng, một dịp lễ kỷ niệm có tính lịch sử, trại mới tổ chức một ngày học tập khi có cán bộ cấp trung ương hay một nhân vật nào đó về nói chuyện. Ngoài ra, chỉ là những "bài giảng luân lý" hàng đêm của cán bộ quản giáo, những bài giảng với luận điệu rất ngây ngô và rẻ tiền. Ðể trám vào chỗ thiếu sót về học tập lý thuyết, trại chủ trương đọc báo, nghe đài hàng ngày cũng là học tập.

 

Chuyện nghe đài phát thanh ở vùng rừng núi Hoàng Liên Sơn là một sinh hoạt khá hiếm hoi. Cả trại có một máy thâu thanh, chạy bằng bình điện xe hơi, hoặc chạy pin gì đó và một vài ống loa bắt ở cành cây khu cán bộ bên kia đồi. Do đó, vào lúc bản tin hai mươi mốt giờ phải lắng tai lắm mới nghe được, nếu gặp hôm trời không gió. Phần lớn chỉ nghe điệu nhạc văng vẳng xa xa. Báo thì dĩ nhiên là báo chánh thức "Nhân Dân" và "Quân Ðội Nhân Dân", nhưng cũng không đủ số lượng cho toàn trại nên phải luân phiên mà đọc. Tổ này đọc báo ngày hôm trước, tổ nọ, báo ngày hôm sau và sau đó trao đổi nhau mà đọc. Nếu trong cuộc sống của người miền Nam trước kia, dù phải bỏ tiền ra mua, tờ báo chẳng có giá trị gì hết ngoài chức năng thông tin của nó thì trong trại tù báo lại được trân trọng vô cùng. Sở dĩ như vậy là vì nó có một giá trị tinh thần do chỗ báo chí chuyên chở những lời nói và hình ảnh của lãnh đạo, của đảng. Cũng giống như ông bà mình ngày xưa cứ coi trọng những gì có chữ Hán, vì là lời nói của thánh hiền.

 

Mỗi tổ chọn một người đọc báo mỗi tối cho cả tổ nghe. Người được chọn vào nhiệm vụ đó coi như chịu thêm một cực hình nữa trong án tù cải tạo của mình. Ðêm đêm, trước ngọn đèn chong leo lét, nhứt là những đêm khí lạnh tràn về theo cơn gió mùa đông-bắc, giương to đôi mắt lem nhem sau một ngày lao động mệt xác để đọc gần hết bốn trang báo, với những bài phần lớn nói về nông nghiệp, chăn nuôi, người tốt việc tốt, thành tích thi đua và những con số thống kê vượt bao nhiêu phần trăm so với cùng thời kỳ năm trước khi mà trên thực tế lại là những sự kiện phũ phàng dưới mắt người tù. Mỗi lúc đọc báo như vậy, cả tổ phải ngồi lên nghiêm túc ngay tại chỗ nằm, không được buông mùng, không được trùm mền. Sự mệt mỏi sau ngày lao động vất vả cộng với cái mát lạnh đêm đông lại được nhẹ ru bởi giọng đọc đều đều, êm êm của người đọc báo, nhiều khi giấc ngủ xâm chiếm lấy con người mà chính con người cũng không ý thức được. Cho nên, thỉnh thoảng có tiếng ngái ấm ức vang lên hay tiếng của khối thịt ngã  rầm xuống tấm phên giường ngủ, theo sau là một vài tiếng cười rúc rích. Nhiều khi buổi đọc báo kết thúc nhưng nội dung được ghi nhận chẳng được là bao. Nếu có nghe, hiểu và ghi nhớ được đi nữa thì phần lớn cũng chỉ là những bản tin nước ngoài ít oi, thông thường được đăng ở trang cuối cùng. Thái độ nghe báo lỏng lẻo như vậy đôi khi cũng bị bắt quả tang nếu hôm nào cán bộ bất chợt đi rình mò vào giờ đọc báo. Thế là sinh hoạt đêm lại có bài luân lý nên thân. Nhưng cũng là một chuyện vui nữa đối với tù thôi và cũng nhờ vậy mà luận điệu lên lớp của cộng sản đương nhiên bị hóa giải.

 

Có một lần, người đọc báo phát âm ba từ Iran, Irak và Italie bị cán bộ rình ngoài hè nghe được, không bằng lòng bèn vào chận lại ngay và chỉnh:

 

- Học tập bao nhiêu lâu mà anh đọc báo như thế à?

 

Người đọc báo ngơ ngẩn, chẳng biết mô tê ra làm sao cả thì người cán bộ lại tiếp:

 

- Ba nước đó sao anh lại đọc một cách xuyên tạc thế? Anh phải đọc là "một răn, một rắc, một tà  li" rõ chưa?

 

Ðêm đã khuya, trời càng lạnh và cơn buồn ngủ lại hoành hành, người đọc báo đành cười thầm chấp nhận "chân lý" của cán bộ một cách nhanh chóng và hứa sẽ sửa sai. Vả lại chân lý của cai tù thì lúc nào mà chả đúng! Những người nghe báo đêm đó thêm được một chuyện tiếu lâm thời đại cho đời tù đỡ buồn tênh. Thì ra chỉ vì ba địa danh đó trên báo cộng sản thường viết:"I-Ran, I-Rắc, I-Ta-li" nên phát âm theo kiểu cán bộ quả là đúng thôi.

 

Ðối với một xã hội mang truyền thống tôn vinh lao động, coi trọng công nhân theo một chủ đích thầm kín nào đó thì những gì liên hệ đến văn hóa và trí thức là một cái gì cao siêu và ghê gớm, mặc dầu giới trí thức bị khinh thường. Thế nhưng, tờ báo hàng ngày mang hình ảnh lãnh đạo và những chỉ thị của trung ương được trân trọng vô cùng. Cho nên, trong trại tù cải tạo thường có một anh tù được chỉ định phụ trách công việc nhận lãnh báo và phân phát cho các tổ để đọc hàng đêm, sáng hôm sau đi thu gom lại đem về lưu trữ. Vào những đợt học tập, có khi báo cũ được lôi ra để làm tài liệu căn bản vì trong đó có những "bài nói" của cấp lãnh đạo trung ương liên quan đến đề tài học tập, như đường lối, chính sách chánh trị hay kinh tế. Người tù đó tù gọi nôm na là "anh văn hóa". Ngoài ra, anh này còn có nhiệm vụ quản lý một số sách, báo, tạp chí. Cơ ngơi làm việc của anh là một gian nhà lá nhỏ, nơi mà tù có thể đến đọc sách báo hoặc xem báo tường do các tổ hình thành nhân những kỳ lễ lớn.

 

 

 

ß

 

 

 

Người đời thường nói "Có thực mới vực được đạo" nên chuyện đọc báo, nghe đài hay thường lui tới "nhà văn hóa" của trại chỉ là chuyện phụ thuộc vì tù cải tạo làm gì được mặc đủ ấm và ăn đủ no để quan tâm đến khía cạnh tinh thần trong nếp sống tù tội. Những năm tháng ban đầu, quân phục tác chiến ngụy trang của Quân Ðội Việt Nam Cộng Hòa đã được đem ra phân phát cho tù. Nhờ vậy mới chịu đựng nổi sức trì kéo trong lao động. Lần hồi về sau, khối dự trữ đó không còn nữa nên tù phải chấp vá đủ mọi cách, quần áo càng dày thêm nhưng lại không bền. Ðầu mùa lạnh đầu tiên ở miền Bắc, trại phát ra cho tù cải tạo mỗi người hai cái mền và một áo bông cũ, lấy từ đâu không biết, có cái còn dính những vết máu, giặt không sạch mà tẩy thì lấy gì mà tẩy. Một chỉ dấu cho phép nghĩ rằng đó là những chiếc áo của bộ đội tử trận. Túng thì phải tính, tù tự tạo lấy những trang phục để chống lại cái lạnh nghiệt ngã của miền Bắc, nhứt là ở vùng núi rừng Hoàng Liên Sơn, có ngày hàn thử biểu xuống đến bốn độ dưới không. Vải bao cát đấp chiến hào từ Nam mang ra, thậm chí bao bố tời đựng gạo nhà bếp vứt đi cũng được sử dụng để chế biến thành những chiếc áo chống lạnh. Tuy nhiên, tất cả những sáng kiến đường cùng này đều bị trại phê phán cho là có ý "bêu xấu chế độ".

 

Ngày đêm, lúc nào tù cũng trực tiếp với cái lạnh vì cảnh nhà tranh vách lá. Khi đi lao động và lúc nằm ngủ đều mặc nguyên vẹn từng ấy lớp quần áo. Ấy thế mà nửa đêm về sáng vẫn cứ run như lên cữ rét, mặc dầu đã nằm co rút như con tôm kho tàu. Vào mùa lạnh, không có rơm để làm ổ nằm tù phải lợi dụng các chuyến đi rừng thu lượm lá chuối khô để lót lưng vì cái gọi là giường chỉ là tấm phên tre, hơi lạnh của đất dễ thấm vào lưng. Những ngày khí lạnh tràn về cùng với gió mùa đông-bắc mang lại cái "rét ngọt", trại mới cho phép nổi lửa để sưởi bên trong nhà ở. Lò sưởi dã chiến là một cái hố đào giữa nhà trên đường đi giữa hai dảy chỗ nằm. Tù phải tìm lấy những khúc cây gút mắt loại "đầu bò"[33] mang về đốt để lấy hơi nóng sưởi ấm. Tuy vậy, muốn được ấm thực sự thì tù cũng phải ngồi quanh miệng hố vì nhà tranh vách phên không thể giữ được hơi nóng, do đó giấc ngủ không thể trọn vẹn. Thời tiết đã lạnh lại thiếu ăn nên nhiệt lượng trong người không được bao nhiêu, do đó sức chịu đựng của tù đi theo một chu kỳ trôn ốc khi đòi hỏi của lao động lại không giảm. Trời lạnh và mưa phùn làm cho bối cảnh lao động thêm phần khó khăn vì tay chân cứ rung, mất đi mức độ chính xác, nhứt là sáng ra phải lội qua con suối nước lạnh như cắt lên quá đầu gối mới vào được khu lấy củi, lấy tre. Một bó tre, bó củi trên vai, tay ôm, tay chống gậy, đường đất lầy lội hay trơn trợt vì lá rừng ướt đẫm trên đường đi, mũi miệng thở ra khói, mấy lượt lên đồi, xuống thung lũng mới về đến trại đổi lấy vài chén cơm với ít rau và nước muối thì nhiệt lượng thu vào liệu được bao nhiêu?

 

Về lâu về dài, mức ăn thiếu hụt càng tác động đến sức khỏe. Vấn đề thiếu đói tù cải tạo đã trải qua từ những ngày trong Nam. Giờ đây, thời tiết khắc nghiệt, mức độ lao động nặng và thời gian chịu đựng lại làm cho tù càng thắm thía hơn. Tiêu chuẩn ăn hàng tháng chỉ là trên lý thuyết vì thực tế thì tổng số gạo do hậu cần trại phát ra đã thiếu. Hơn nữa, phần lương thực phụ để độn vào gạo trong bữa ăn là sắn, bắp hột, khoai lang, khoai tây, bí rợ làm gì có độ dinh dưỡng cao nên không cung cấp cho tù đầy đủ sức chịu đựng. Vả lại, thành phần bữa ăn chủ yếu chỉ có cơm và rau, ít khi có chất béo, một yếu tố cần thiết để chống lạnh. Năm khi mười họa, nhân những ngày lễ lớn hay những cơ hội đặc biệt, như có phái đoàn này nọ đến viếng trại, tù mới có được một bữa ăn có thịt, cá, nhưng rất ít ỏi. Một con trâu ngả thịt cho trên ba trăm con người ăn từ ba đến bốn ngày, ăn toàn bộ kể cả da[34], thử tính ra liệu mỗi người được bao nhiêu chất béo? Ăn thiếu lại lao động nặng nên tù phải tìm cách độn cho đầy bao tử. Củ chuối và rau má rừng là hai thứ được tù cải tạo khai thác nhiều nhứt vì rừng miệt đó chẳng có rau trái gì khác hơn. Chuối rừng thì bạt ngàn thế nhưng trái không ăn được vì rất nhiều hột và chát vô cùng. Hơn nữa, có dư luận cho rằng củ chuối rừng ăn nhiều dễ bị bịnh rét rừng. Vào những ngày mưa[35] rau má mọc lên rất nhiều. Tù thường hái về độn với cơm, non một tô cơm độn với gần một thau rau má, ăn cốt cho đầy bụng. Do đó phân người trông như phân trâu, được những bộ phận phụ trách khâu phân tươi cho là "phân không hôi thúi". Cũng là một điều may cho những ai phải làm chuyện bần cùng bất đắc dĩ này.

 

Thế nhưng, hành động túng thế làm liều miễn sao no bụng như vậy đã gây ra khá nhiều tổn thất nhơn mạng của tù cải tạo. Trong rừng vùng đó có một loại trái hình thù giống trái nhãn mà dân địa phương gọi là trái "guốc" ăn vào là phải "xách cuốc ra đồng" để đào huyệt chôn. Tù không ý thức được điều đó nên sau khi nếm thử thấy hột guốc luộc ăn giống hột nhãn có thể tiêu thụ được. Tuy nhiên khi ăn lấy no, độc tố của hột guốc có một tác dụng khá mạnh. Gần cả chục trường hợp phải cấp cứu và cũng thiệt mất một vài nhơn mạng. Ngọn sắn, được một số tiến sĩ viết trên báo Ðảng đề cao chất lượng dinh dưỡng, nhưng khi một vài anh tù cải tạo đem thực nghiệm thì lại phải khiêng vào trạm xá. Việc nấu nướng cá nhân bị cấm triệt để ở những trại miền Bắc nên được tiến hành một cách lén lút, ngụy trang. Nhân dịp những lúc đốt rừng khai hoang, tù cải tạo hái đọt sắn dồn vào lon sữa Guigoz đổ nước suối vào luộc. Có thể vì ít nước lại quá nhiều đọt sắn nên độc tố càng cao, ảnh hưởng đến sức khỏe của người ăn. Theo phân tích, sắn chứa nhiều chất độc, thậm chí có cả chất Cyanure, dĩ nhiên là với một lượng thấp. Thực tiễn mà nói thì có trường hợp heo của trại ăn vỏ sắn đã nấu chín vẫn bị ngộ độc chết. Còn chuyện tù cải tạo ăn sắn tươi bị "say" ngã lăn là trường hợp khá phổ biến.

 

Bên cạnh ảnh hưởng sinh lý của nạn thiếu đói trong tù còn có hậu quả tâm lý, một trường hợp khá kỳ quái nhưng rất phổ biến, trại nào cũng có. Dân gian thường nói "miếng ăn là miếng tồi tàn" và trong trại cải tạo, cộng sản còn mạnh tay hơn nữa là lấy miếng ăn để quản lý con người và làm cho con người biến chất, mất hết phẩm giá và nhân tính. Mức độ tiêu chuẩn ăn uống hàng tháng tùy thuộc vào từng loại lao động và cũng tùy theo chiều sâu của điều mà họ muốn khai thác tù. Một vài biệt lệ về ăn uống được trại áp dụng để mua chuộc những tâm hồn băng hoại làm tay sai, làm điềm chỉ viên cho trại để dò xét đồng đội rồi báo cáo cho trại trừng trị. Thế nhưng, chỗ thâm độc cao siêu của họ là những chênh lệch trong tiêu chuẩn ăn uống lại được xoay tròn trong số lượng lương thực, thực phẩm đã được tính chung cho toàn trại. Cho nên tăng tiêu chuẩn cho một số người trại cũng chẳng phải xuất thêm lượng thực phẩm nào, chỉ có những người tù khác chịu thiệt mà thôi. Do đó tình trạng chia rẽ giữa người tiêu chuẩn cao và tiêu chuẩn thấp lại càng gay gắt hơn.

 

Nạn thiếu ăn, đói bụng hành hạ con người một cách vô cùng nghiệt ngã, khiến cho tâm trí lúc nào cũng duy nhứt nghĩ đến miếng ăn và tìm mọi cách để trám đầy bao tử. Không ăn cụ thể được, tù lại liên tưởng đến chuyện ăn uống trong quá khứ, đến những nhà hàng một thời mình đã đặt chân vào, đến những món ăn ngon miệng mình đã một lần thưởng thức. Những đêm đông giá lạnh, mỗi người chui vào chăn mền và ổ lá khô để đương đầu với cái rét nhưng chuyện ăn uống của thời đã qua cứ râm ran, càng kể càng thấy đói. Thậm chí có những người, mà kỹ thuật làm bếp không biết đến mức nào, lại thích mô tả phương thức nấu món này, làm món nọ và dĩ nhiên cũng có những người thích làm học sinh gia chánh, ghi chép cả một tập dày, chẳng biết để làm gì. Bụng đã đói, phần ăn hàng bữa lại kém cỏi nên người đói ăn hay tính toán chi li, kèn cựa từng muỗng cơm, từng củ khoai bé nhỏ, từng con cá khô tí ti. Vì vậy, việc chia thức ăn hàng ngày đem lại những khổ tâm không nhỏ và đã có người sáng chế ra chiếc cân thô sơ để cân thức ăn. Nhờ đó mà những người cùng mâm ăn có được một tâm trạng yên ổn vì nghĩ rằng ít ra cũng có được sự công bằng. Dưới tác dụng của bao tử, tù cải tạo đã có những hành động làm cho họ phải xấu hổ khi đặt vào khung cảnh của đời thường. Thậm chí còn có những người không tự chế được phải ăn cắp thức ăn của bếp tập thể hay của bạn bè để dành, hoặc giấu bớt một vài củ khoai nhân lúc họ có phận sự lãnh phần ăn của tổ trên đường từ bếp tập thể về tổ ăn! Miếng ăn quả thật làm nhục con người, lúc dư ăn dư để cũng như khi chẳng có để ăn.

 

 

 

ß

 

 

 

Nạn thiếu đói kết hợp với thời tiết khắc nghiệt và mức độ lao động khổ cực lần hồi theo thời gian đã ảnh hưởng đến tinh thần và sức khỏe của tù cải tạo một cách rõ rệt. Với một ý đồ thầm kín nào đó, chớ chẳng phải vì lòng nhơn đạo, cộng sản mở một đợt cho tù gởi thơ về nhà yêu cầu gia đình gởi bưu phẩm, ba tháng một lần, mỗi lần ba ký lô, chủ yếu là quần áo và một ít thức ăn khô. Quy định của trại là như vậy, nhưng gia đình khôn khéo và linh động vì biết nhu cầu chánh của tù nên bưu kiện nào cũng thức ăn nhiều hơn, thậm chí có cả tiền mặt được giấu trong thực phẩm hay quần áo. Dĩ nhiên trại phản ứng nhưng tù chỉ biết cuối mặt chịu đựng thôi chớ chẳng có cách nào khác. Dựa trên điều gọi là tinh thần cộng sản "xóa bỏ bất công" trước trường hợp kẻ có quà, người không, trại đi xa hơn một bước bằng cách bắt những người cùng chung một tổ, nhận được bưu phẩm cùng một lúc, phải tập trung tất cả thức ăn nhận được lại để cả tổ cùng hưởng. Thế là bột dinh dưỡng, đường được nhập chung lại làm thành một nồi chè, nội dung chẳng giống ai hết. Nhưng đói quá nuốt cũng trôi qua. Như vậy cộng sản muốn rằng thức ăn có tính cách chiến lược, có thể sử dụng để trốn trại đều được tiêu thụ một lần một và một cách nhanh chóng. Tuy nhiên, qua phương thức này người có quà phải đưa vào sử dụng tập thể có thể cảm thấy thiệt thòi mà người không quà lại được hưởng thụ đâm ra ái ngại.

 

Trong điều kiện thiếu thốn và tiêu phí ca-lo như vậy nhu cầu về chất ngọt rất gay gắt. Lúc bấy giờ, ở miền Bắc đường thuộc loại nhu yếu phẩm khan hiếm, được cung cấp theo tiêu chuẩn. Tù cải tạo mỗi ba tháng được trại phát khoảng một trăm gờ-ram đường. Nhân dịp gia đình có gởi tiền cho tù qua bưu phẩm, trại tổ chức những đợt đi mua chất ngọt[36] cho những ai có tiền đăng ký[37] ở trại. Mỗi chuyến mua mật đường phải di chuyển đi về gần mười cây số. Cứ hai người khiêng một cái xô hay một cái hũ chứa khoảng vài mươi ký mật đường, và mỗi chuyến đi khoảng mười người, có bộ đội hướng dẫn vào tận làng mạc xa xôi hay hợp tác xã nào đó để mua về chia ra. Mật đường vừa lấy từ mía ép ra chưa nấu nên có những trường hợp không được sạch gây ra những trận phiền toái cho đường ruột khá rắc rối. Nhưng dẫu sao cũng trấn áp được sự khao khát chất ngọt của cơ thể. Tuy nhiên vì thiếu thốn quá lâu và quá nhiều nên cũng có những trường hợp vì tiêu thụ với số lượng lớn nên bị phản ứng gần như say rượu hay say sắn, làm cho thân xác phải khốn khổ vì sự đòi hỏi của cái miệng. Ðúng là "thần khẩu hại xác phàm"!

 

Trong số những điều bất thường của trại học tập cải tạo còn có một việc khác thường đáng kể là chuyện thành lập một tổ phiên dịch trong khi trước đó cộng sản cho rằng ngụy quân, ngụy quyền cần phải học tập lao động chân tay. Với ý đồ khai thác tri thức văn hóa và khả năng ngoại ngữ của tù cải tạo, bộ quốc phòng Hà Nội phái người về trại bảo anh tù nguyên trưởng Phòng Nhứt của Bộ Tổng Tham Mưu Việt Nam Cộng Hòa tìm người để dịch tài liệu tiếng Anh và Pháp ra tiếng Việt Nam. Thế là trong một môi trường lao động tay lắm, chưn bùn lại xuất hiện một nhóm người lao động trí óc. Ban đầu người nào ở tổ nấy, lãnh tài liệu về dịch xong tập trung lại tổ trưởng để thỉnh thoảng Hà Nội cho người đến lấy về sử dụng. Về sau, trại cho một túp nhà tranh riêng biệt trên một mỏm đồi con, bàn ghế toàn bằng phên đặt nằm trên mấy cây trụ làm chưn. Ban đầu, tổ dịch gồm có năm hoặc sáu người, có lúc tăng lên ngoài hai mươi người. Nhưng chung cuộc lại, sau mấy lần chuyển trại, chỉ còn khoảng mươi người. Tài liệu để dịch chẳng có gì khác hơn là những quyển sách của Anh, Pháp và Mỹ liên hệ đến chiến tranh Ðông Dương và Việt Nam được bán ra trên thị trường. Thế nhưng trong trại tù và trong hoàn cảnh thiếu thốn mọi thông tin nên cứ mỗi khi một chi tiết nào đó trong bài dịch được dư luận bàn tán xôn xao là trại đặt vấn đề "tiết lộ bí mật" và tổ dịch lại bị một phen lên lớp. Buổi đầu, tổ dịch được bộ quốc phòng Hà Nội săn sóc "bồi dưỡng" để mong khai thác trí tuệ triệt để hơn nên cứ mỗi lần đến thu bản dịch và trao tài liệu mới là có tặng trà, cà-phê, thuốc lá và đường. Nhưng càng về sau thì mỗi khi quốc phòng đến là tổ dịch lại phải có trà, thuốc để mời người đại diện của bộ và phần bồi dưỡng cho tổ dịch chỉ có tính cách tượng trưng.

 

Một bất thường khác nữa, chỉ bắt đầu xuất hiện ở Hoàng Liên Sơn, là những điềm chỉ viên cho trại. Ðó là một loại người đứng về phía cộng sản để làm hại bạn bè trong khuynh hướng gọi là "xây dựng để cùng nhau tiến bộ". Trại đã đưa ra những ảo ảnh với một vài quyền lợi nhỏ nhen để lôi cuốn đôi ba con người thích được chút gì khác hơn thiên hạ, nhứt là trong bối cảnh thiếu thốn và không thấy lối thoát. Trại đã để cho họ có cảm tưởng rằng với sự hợp tác như vậy họ sẽ được ưu đãi hơn và biết đâu họ sẽ được cho về với gia đình sớm hơn. Cụ thể thì cũng có một vài ưu đãi về tiêu chuẩn sinh hoạt như được cán bộ lén lút mua hộ món này, vật kia, được ăn thêm một cái bánh chưng vào dịp Tết, được nhiều lần viết thơ về nhà hơn bạn bè,... Nhưng, vì chẳng có bí mật nào được giữ kín trong trại tù hết nên không sớm thì chầy những mật vụ kiểu đó cũng bị lật mặt nạ. Thậm chí có những trường hợp chính cán bộ cộng sản đã gián tiếp tiết lộ khi điệp viên của họ bị coi như là đã cháy. Giao du với cán bộ cộng sản chẳng khác nào chơi dao hai lưỡi vì bản chất của họ chỉ là một thứ "giáo Tàu đâm Chệc".

 

 

 

ß

 

 

 

Hệ thống chó săn đó hoạt động chưa được lâu dài để đem lại hậu quả mong muốn thì lại có lịnh chuyển trại. Lần này tổng số tù cấp đại tá bị chia đôi, một nửa ở lại "Trại-2 Nhà Lá", một nửa bị đưa vào "Trại-3". Trại này nằm sâu hơn nữa trong vùng núi rừng, cách "Trại-2 Nhà Lá" khoảng hai cây số, qua con đường đất ngoằn ngoèo ôm sườn núi chạy vào nương. Vì trại này nằm ở một thung lũng trong tận cùng nên thường được gọi là trại cốc. Trại này trước kia cũng đã có người ở nhưng bỏ đi khá lâu nên khi đoàn tù cải tạo vào thì đứng trước một cảnh hoang tàn. Một lần nữa lại phải bắt đầu chỉnh đốn nơi ăn chốn ở và vùng đất canh tác hoa màu. Trước mắt là mức ăn phải sút kém vì phần rau xanh phải mua bên ngoài nên không được dồi dào bằng phần rau do chính trại thực hiện. Khu nhà ở của tù nằm trên một khoảnh đất cao lưng chừng trong lòng chảo còn khu nhà ở của cán bộ khung được xây cất trên một ngọn đồi nhìn xuống lòng chảo. Mức độ lao động lại nặng nề hơn vì với một nửa nhân số mà diện tích phải khẩn hoang quanh trại lại khá rộng. Nhưng trại cho rằng sau thời gian thử lửa lao động ở các "Trại-2" trước đây, tù cải tạo có thể thỏa mãn được đòi hỏi của họ. Ngay từ những ngày đầu, sau khi đã ổn định xong chỗ ở, các tổ cơ động đã bắt đầu làm việc thông tầm để vào sâu phía trong khoảng trên một cây số, phá rừng trồng bắp, sắn và lúa nương[38]. Lúc vào phải đi theo con suối, rồi từ suối dàn hàng ngang phát hoang ngược lên đồi cao. Khoảng một tháng sau, khu rừng rậm ngày nào đã trở thành một vùng đất thênh thang, cây rừng làm củi còn cành lá thì đốt tại chỗ để lấy phân cho đất mà tỉa bắp, đặt hom sắn và gieo lúa mới. Công tác rất cấp thiết nên nhân viên tổ dịch cũng phải tham gia công tác của các tổ cơ động bằng cách đi rừng với tổ gốc vào ngày thứ bảy trong tuần. Công cuộc khẩn hoang vừa xong thì phải lao vào việc đấp đập chận con suối lại làm hồ nuôi cá và chứa nước dự trữ cho các trại cuối nguồn. Khi đập đã hoàn tất, vùng đất thấp bên kia đập biến thành một cái hồ khá rộng, mặt nước trên một mẫu tây. Hồ nước này làm nhẹ gánh cho những người phải đi rừng xa lấy củi vì có thể kết củi thành bè thả xuống nước đẩy tắt về trại, đỡ đi một khoảng đường lối một cây số, với mấy mươi ký trên vai.

 

Khoảng bốn tháng sau, nếp sống ở Trại-3 bắt đầu được ổn định. Một hôm vào giữa đêm, có tiếng tu huýt gọi tù tập hợp ngoài sân trống. Một số khoảng hai mươi người được gọi tên và được lịnh mang hết tư trang theo để "cách ly", chuẩn bị chuyển trại. Ngày hôm sau, họ được bồi dưỡng cẩn thận, được cấp phát thêm quần áo, được phát phần ăn đi đường và đêm đến họ được đưa đi trong âm thầm. Dựa theo những tiết lộ của trại, dư luận tin rằng:"Ðó là những phần tử ác ôn, có nhiều nợ máu", vì thành phần gồm có những cựu tỉnh trưởng và cựu sĩ quan an ninh quân đội nên bị đưa đi học tập riêng. Một loại tin đồn để trấn an cho những người ở lại có cơ sở để suy diễn tự thấy mình không ác ôn thì nay mai sẽ được tha thôi, khỏi cần đào thoát.

 

Sau một thời gian xôn xao bàn ra tán vào về chuyến đi đó rồi hoạt động trại cũng trở lại bình thường. Trại không khi nào để cho tù yên để suy nghĩ được cả với cái đói và với mức độ lao động gay gắt sáu ngày trong một tuần. Thậm chí có khi làm cả bảy ngày với ngày chủ nhựt được gọi là "ngày thứ bảy cộng sản" khi có đợt thi đua hay đợt "lao động xã hội chủ nghĩa". Sau Tết nguyên đán năm 1978, bắt đầu có những sinh hoạt khả nghi được dư luận của tù cho là sắp có chuyển trại. Các tổ cơ động được bố trí đi lấy củi thật nhiều cho bếp bộ đội, mức ăn có vẻ cải tiến, trại cho tháo đập bắt cá đưa vào thành phần thực phẩm, điều chỉnh phiếu đăng ký tiền và tang vật, tổ dịch không hoạt động nữa mà đi lao động cùng với tổ gốc và tập trung tài liệu, tự điển giao cho trại,... Thế nhưng, trong sinh hoạt hàng đêm dư luận đó bị cán bộ chỉ trích nặng nề, cho là "tung tin đồn nhảm, vô căn cứ có chiều hướng phá rối trật tự của trại". Thậm chí ngay buổi sáng, các tổ cơ động còn phải vào rừng lấy củi như thường lệ và đã đưa củi về đến bờ đập nhưng đã đến giờ cơm trưa đành phải để chiều trở ra vác vào. Sau giờ nghỉ trưa, khi kẻng lao động buổi chiều thì cả trại được lịnh tập hợp ở hội trường chờ lịnh. Thế là buổi chiều và suốt đêm hôm đó phải chuẩn bị cho chuyến chuyển trại mà, như thường lệ, nơi đến còn mù mờ hơn nẻo vào rừng hoang của vùng núi đồi Hoàng Liên Sơn.

Món cá chép

» Tác giả: Trang Thanh

» Dịch giả:

» Thể lọai: Truyện ngắn

» Số lần xem: 3161

1. Món cá chép

Hôm nay ngày cuối tháng, cơ quan chưa phát lương. Lý do là nhân viên sơ kết 6 tháng đầu năm chưa xong, chưa rõ định mức đủ thiếu thế nào, còn chờ "sếp" duyệt, và cũng vì tiền trong két còn chỉ đủ một nửa, nếu ai cần thì có thể tạm ứng.

 

Lúc chào tôi ở cổng trường mẫu giáo, bé Bống dặn: "Chiều mẹ mua cá chép về rán cho con ăn nhé, con thích ăn phần bụng cá chép". Tôi hứa: "Con ngoan, nay mẹ lĩnh lương, sẽ mua". Nó bước đi rồi, lại gọi với: "Mẹ ơi, rau bí nữa nhé, ngọn non, con thích rau bí luộc". Tôi gật gật, lại nắm nắm tay vào, giơ ngón cái ra dứ dứ. Mẹ con tôi vẫn quy ước khi đồng tình với nhau điều gì thì cùng giơ ngón tay cái ra. Con tôi ngoe nguẩy bím tóc đi vào lớp.

 

Chiều, mấy đồng nghiệp chụm đầu bàn tán một hồi về cái chuyện định mức với cả tiền lương xong thì ngán ngẩm tản dần ra, rục rịch đi lấy lương tạm ứng. Tôi mải mê với cuốn tuyển truyện ngắn Nga Những truyện cổ tích dành cho người lớn, mãi đến đúng 5h, tan sở, mới đứng dậy. Chạy vội xuống phòng kế toán, may quá, cô thủ quỹ vẫn ngồi đó. Tôi chưa kịp hỏi thì cô bảo: "Chị Lam xuống chậm quá, trong két chỉ còn có hơn một trăm ngàn, thôi để mai". "Nhưng mai là thứ bẩy kia mà". "ừ nhỉ, chán quá, trong túi em cũng chỉ còn mấy chục ngàn..." Kể ra hơn một trăm ngàn thì cũng rất tốt cho tôi lúc này, vì trong túi tôi cũng chỉ còn một ít tiền đủ mua thức ăn cho vài ngày. Nhưng không hiểu sao lại ra mặt tươi tỉnh, tôi bảo: "Thôi, chị lĩnh sau cũng được, cơm chưa ăn thì gạo còn đó, vội gì".

 

Tôi ra về, hơi căng óc nhưng mặt vẫn tươi, ve vẩy quần bò lửng ống loe đi vào chợ. Tiếng chào mời vây lấy tôi từ đầu cổng. "Ngồng cải Lào Cai giòn lắm chị ơi, có mười hai ngàn thôi, làm một cân xào thịt bò đi bà chị". "Tôm tươi sống em, mua đi cho chị, chiều rồi, chị bán rẻ, chín mươi, ăn nhé". "Chị ơi cua mười ngàn ba lạng, em xay, nóng thế này làm bát canh cua mát ruột". "Hôm nọ em cứ hỏi ngao nâu, nay có đây ăn cho chị vài cân, bằng giá ngao trắng". "Madam xinh đẹp ơi, mãi nay mới có một con chạch chấu, chả lãi lờ gì, chị lấy mười đồng" (mười ngàn một lạng).

 

Tôi đứng trước chậu cá sủi tăm, dè dặt: "Em muốn mua cá chép". "ừ đây, chép sông bụng trắng thịt vàng như thịt gà, đảm bảo không có ruột, ăn con cân rưỡi hay hai cân". Chị hàng cá quờ cái rổ vào chậu tôn xúc lên liền hai con chép nhảy choi choi, bắn hết cả nước lên mặt khách. Chiếc Spasy lách đám đông đỗ xịch lại: "Ôi chép ngon thế, luộc ngọt hết ý chị nhỉ, cân cho em con to kia, bao nhiêu một cân?" Chị hàng cá bỏ con chép vào cái túi ni lông sũng nước, cân lên vừa đúng hai cân rưỡi: "Ngon không, tròn 100 ngàn". "To quá bà chị ạ, con khác đi". "Thôi ăn cố đi, con cá ngon thế này, không ăn phí của, cá sông mấy khi mới có". "Nhưng nhà chỉ có ba người. Cho con cân rưỡi thôi".

 

Trong lúc chờ "chị Spasy" mua cá, tôi kín đáo liếc qua liếc lại cả một dãy hàng thuỷ sản, không có con chép nào mổ sẵn cả. Trong chậu toàn cá to, trắm, chép, mè, trôi - đủ - mua thì vẫn phải mổ, lấy vài khúc, nhà chỉ có hai người lớn với một đứa trẻ, không ăn hết cả con.

 

Chiếc Spasy đi rồi, tôi mới thập thững: "Chị có mổ con to này không, em mua". "Mua bao nhiêu?" "Bốn lạng". "Tôi chửa dở hơi mà mổ cả con cá hai cân rưỡi chỉ để bán bốn lạng cho nhà cô. Tối sập xuống rồi tôi mang về muối táng cất nước mắm cốt được à. Thế mà cứ đứng án mãi". Mấy chị hàng lươn, mực, cá thu bên cạnh nhìn tôi thương hại, chẳng buồn mời. Ngượng ngạo đi đến tận cuối dãy, tôi mới thẽn thò hỏi chị cá trắm cá mè, đổi đi cũng chẳng sao, con bé chắc không thể nhận ra: "Chị có mổ cá không, em mua". Chị ta tử tế: "Ăn cả con đi em, không hết thì cứ cho vào ngăn đá, mai ăn, sắp tối rồi, mổ ra chị không bán được, để cả con thì mai nó vẫn sống". Tôi lắc đầu cảm ơn chị. Nhà tôi tiết kiệm điện, không chạy tủ lạnh.

 

Lững thững đi ra khu vực dành cho những người quê mang rau nhà ra bán, cũng có cả hàng cá của những người đi đánh rậm ở Hồ Tây chiều nào cũng ngồi đây, may ra họ có con chép nhỏ thì hay. Nhưng rút cục họ chỉ còn vài lạng cá lành canh nhỏ xíu, cứ mời chào: "Chị ơi mua cho em đi, về pha bột mà chiên, ngon lắm, em bán rẻ cho còn về, nhà em ở tận Văn Giang. Đi chị, mua đi em bán rẻ cho, em cũng để đá, cá chết nhưng còn tươi lắm, vẩy vẫn sáng đây này. Thôi chẳng phải cân kẹo gì cả, em lấy nốt 7 nghìn". Tôi như bị thôi miên, rút tiền ra trả.

 

Quay ra định mua rau bí, trời đã sâm sẩm tối. Mấy hàng rau vẫn hay bán hời ở cổng chợ vẫy cả nón lên trên đầu mà mời. Những chiếc xe ga sành điệu phân khối lớn cứ hết quẹo phải rồi quẹo trái một tí, không ai chịu nhường ai. Chợt có tiếng la thất thanh: "Gọi anh Vạn đi mày ơi, bà ấy mà làm sao thì chúng mình phải vạ, gọi anh Vạn đi mau lên". Tôi cố lách qua những chiếc xe máy phả hơi nóng giãy. Đang lầu bầu vì bánh xe họ quệt vào chiếc quần mồi bẩn hết cả thì tôi lại phải giãy nảy lên vì chạm vào bô chiếc Suzuki. Nghĩ chắc cũng chỉ bỏng qua loa, cũng là tại mình cố lách, chẳng nói làm gì, nhưng chị chủ xe mắt xanh mỏ đỏ váy ngắn chân cong thì lại loe cái môi bóng nhờn lên với tôi: "Đi mới chả đứng, hớn mắt lên cho chết, chật thế này mà cứ cố lách. May mà không đổ cái xe của tôi vào cái bà động kinh này, không thì tôi đền ốm thì chị cũng chẳng yên với tôi đâu".

 

Lúc này tôi mới biết tiếng la "anh Vạn" là để gọi người đàn ông gác chợ ra lôi người mẹ động kinh của anh ta dậy. Bà ta bị động kinh đã hàng chục năm, luẩn quẩn ở chợ, chẳng ra ăn xin nhưng cũng là để dựa hơi người khác kiếm miếng qua ngày, cứ thỉnh thoảng lại lăn đùng ra, chân tay co quắp, miệng nhểu dãi trông hãi lắm. Những lúc ấy chẳng ai dám đụng vào bà ta, sợ phải vạ. Cứ người nọ truyền khẩu cho người kia, gọi bằng được anh Vạn đến lôi mẹ dậy. Mà thực ra bà ta chẳng làm sao. Cái bệnh động kinh vốn thế, thỉnh thoảng lại lăn đùng ra một tí rồi thôi, chỉ trừ khi lên cơn mà ngã xuống nước thì dễ chết đuối. Tôi nhìn bà ta co quắp mà rợn cả da gà, nhưng cũng như tất cả mọi người, chỉ sốt ruột chờ anh Vạn đến.

 

*

 

Tôi mất 20 phút để mua được mớ cá lành canh, mất 10 phút nữa để từ chỗ cá lành canh ra đến cái hàng rau bí quen mua. Đã tối nhọ mặt người. Rổ rau bí nhặt sẵn còn lồng khồng một ít, chủ yếu là cuộng, ít lá già và hoàn toàn không còn ngọn non. Chị bán rau rả lả: "Mua đi chị bán rẻ nốt cho, nghìn một lạng". Tôi nhướng mắt một cái, ra ý chê, chị vội ngăn: "ấy đừng bớt nhá, chị em giờ này mua cho nhau là tốt rồi". Tôi cầm rau xởi xởi lên: "Toàn cuộng, chán lắm, mà một nghìn thì đắt". Chị hàng rau bỗng nổi giọng chanh chua: "Thế á, giờ này còn ngọn thì ba nghìn một lạng không mua nổi nhá, vẽ chuyện, ít tiền thì thà cứ bảo một câu. Nào mấy người tránh ra cho người ta bán hàng!"

 

Tôi nhìn mấy hàng xung quanh, chẳng có tí rau bí nào sất, bụng nghĩ chân bước phải quay vào trong, đành mua của mấy hàng rau sạch vậy chứ biết làm thế nào, đã không có cá chép... Nhưng vừa quay gót thì chình ình trước mặt lại là một đám đông, xe máy bấm còi bim bim, tiếng người nói nhốn nháo, cứ thế đã trôi qua dăm bảy phút. Tôi cố lách một chút thì lọt thỏm ngay vào giữa đám, lùi cũng dở mà tiến cũng không được. Có người chửi tục: "Mẹ kiếp! Chợ gì mà chợ chán đời, ngày nào cũng tắc, mà chỉ tại mấy con mẹ ăn mày lăn đùng ngã ngửa, không cách nào dẹp được hay sao?" Rồi lại có tiếng "gọi anh Vạn, gọi anh Vạn". Tôi nghĩ đến mẹ anh ta, không lẽ bà lại lên cơn? Nhưng không phải. Khi một vài chiếc xe máy bên phải lách được lên, thì bên trái phải đứng yên tại chỗ. Lúc vài chiếc xe máy bên trái được từ từ lao đi, thì bên phải lại yên vị. Tôi theo dòng xe chạy gằn lên. Thì ra là bà ức ăn mày. Bà ta quấn lên người những miếng vải cũ rách tơi tả, chân bó mo nang, ngày nào cũng lê lết trên nền đất, hai tay dang hai bên, vừa co quắp vừa run lên bần bật, còn đầu thì vừa lắc vừa vật bên phải bên trái như lên cơn phát phiền, giọng nói lại đứt hơi từng tiếng như muốn dứt từng khúc ruột người nghe, thảm lắm, ai đi qua cũng thương tình, cho vài đồng tiền lẻ. Ngày nào cái cổng chợ cũng vì bà ta mà tắc nghẽn. Có điều mọi ngày tôi đi chợ sớm hơn, mua bán xong mới thấy bà ta từ ngoài đường lết vào.

 

Tôi cũng đã không dưới dăm lần cho tiền vào cái nón rách ấy, nghĩ thương bà ta tật nguyền, tội nghiệp. Nhưng hôm nay tôi đang bực muốn chết, mãi chưa thoát ra khỏi cái đám ngốn ngáo lộn xộn này. Bà ta phát hiện ra tôi, nhìn như van lạy, hai bàn tay co quắp chấp chới khiến tôi lúng túng. Chợt chị hàng rau củ quả từ trong quầy nhảy xộc ra, tay chống nạnh: "Bà có im đi mà đứng dậy cho người ta đi không? Ngày nào cũng án ngữ, tắc nghẽn hàng giờ, không bán được hàng thì quật mả bố bà lên mà chôn rau thối à! Tôi bảo bà có đứng lên không tôi vứt mẹ bà ra cống đấy". Mọi người đang căng thẳng vì mãi không đi được, bỗng tỏ ra bất bình ghê gớm khi người phụ nữ chỉ đáng tuổi con bà ức dám xúc phạm người tật nguyền. Nhưng tất cả bỗng phải giật thót tim khi bà ức vụt đứng lên, một tay giơ chiếc nạng gỗ, tay kia chỉ mặt chị hàng rau củ quả tay bo: "Mả mẹ nhà mày, mỗi người một nghề, cơm tao tao ăn, việc tao tao làm, mả bố mày tao không động chạm!" "Đấy nhá các bác các chị thấy nhá. Bà ta mà không đứng bật lên như cái lò xo để chửi vào mặt tôi thì mọi người lại nghĩ tôi ác nhá. Bà ta còn khoẻ bằng mấy mẹ tôi ở nhà, mà ngày nào cũng bò lê bò càng kêu van. Từ giờ thì bà vừa vừa chứ. Bà nỉ non thì cảm động thế mà bà vừa cất cái giọng tác yêu tác quái lên, tôi mặc quần bò mà muốn rách mẹ nó cả quần!" Bà ức giơ cái nạng gỗ lên, ý chừng định phang cho chị hàng rau một nhát, thì anh Vạn xộc tới giằng ngay lấy: "Đ. mẹ! Tôi đã nói bà bao nhiêu lần rồi, làm ăn gì thì làm cũng đừng để lối đi bị tắc, bà muốn tôi đuổi cổ bà ra khỏi đây phải không!" Bà ức lu loa: "Thằng mất dạy, quân ăn cắp nằm tù thối thây, mày lại dám xúc phạm bà kia à, hả quân ăn cắp nằm tù thối thây. Còn mẹ mày nữa đấy! Không có đất này bà đi làm ăn đất khác, thì mẹ con nhà mày không còn đường mà đẽo vào xương tuỷ bà, mày có giỏi thì khênh bà đi!"

 

Anh Vạn bị chạm nọc, đỏ mặt tía tai chẳng nói được câu nào. Nghe nói anh vốn là tội phạm trộm cắp, bị bắt đi tù ba năm, lúc mãn hạn, không có công ăn việc làm, thỉnh thoảng lại giở thói côn đồ với bà con hàng phố. Chính quyền địa phương đã "thu phục nhân tâm" bằng cách cho anh một chân gác chợ, khỏi "nhàn cư vi bất thiện". Bà ức giả lê giả lết ăn xin, nghe nói thỉnh thoảng cũng phải dúi cho anh Vạn mươi đồng mua đĩa lòng lợn nhắm rượu mới yên. Nay đã vạch mặt nhau cả, thì "lành làm gáo vỡ làm muôi", bà ức cứ chửi cho hả dạ, đằng nào thì bà cũng phải đi nơi khác "làm ăn". Anh Vạn biết điều, lủi mất.

 

Tôi về đến nhà thì trời đã tối trẫm. Con gái đứng ngóng trước cổng: "A, cá chép, mẹ đã về!"

Nhà Ba Hộ

» Tác giả: Nguyễn Văn Thọ

» Dịch giả:

» Thể lọai: Truyện ngắn

» Số lần xem: 3387

1.

Ngôi nhà không số. Con đường không tên. Nguyên xưa là đất vật bùn ven hồ của một xưởng than quả bàng, sau bỏ hoang, đầy bụi gai, cỏ, rác, phân, xác súc vật thối. Con đường lồi lõm hiện ra từ các vệt bánh ô tô chở hải sản sơ tán đến cái nhà kho tạm một thời. Người quanh vùng lần theo, đi bộ tắt sang khu bên kia hồ, nơi có đường lớn gần hơn vào trung tâm thành phố.

Lối nhỏ luôn lép nhép bùn. Nước đọng. Những đám cỏ bánh chè. Đôi khi lác đác mấy con cuốc mỏ hồng, chân đỏ, thân đen, ăn lẫn với đám gà nhà. Đường cong như cánh tay ôm dải cúc tần sát cái hồ. Hồ cũng không tên, ba mẫu. Bên cùi chỏ cánh tay là khu tập thể của công ty thủy sản : tám ngôi nhà hai tầng. Xuân và đông nồm, nom như tám con tầu cũ rẽ sương, khói bếp mù mịt. Dải cúc tần lắm dây tơ nguyệt, mùa xuân nhả mớ tóc vàng óng phủ trên mầu xanh đông đã già.

Ngôi nhà quay lưng vào đầu hồi một nhà tầng, mặt ngoảnh đón gió hồ. Nhà rộng bẩy chục mét vuông, lợp lá gồi, xưa là kho tạm chứa cá khô, nước mắm từ ga Giáp Bát về. Hết chiến tranh, kho không cần tới. Cỏ dại mọc xoá vệt ô tô, chỉ còn vệt đi bộ. Rồi người quay lại Hà Nội như kiến, công ty nhớ tới cái kho bỏ quên hai năm, cải tạo lại, lợp tấm phi-bờ-rô-xi-măng, quét vôi vàng, ngăn thành ba phần không đều cho ba hộ.

Thật bất ngờ, ba chủ dọn đến đều là vợ chồng mới cưới. Một tuần, đám phụ nữ đã tường gần hết lý lịch của nhau. Tôi, thương binh phục viên, cán sự ba, phòng bảo vệ công ty, ở gian giữa. Vợ chồng anh Phạn bán lòng lợn tiết canh, cô vợ tên Xuân, con gái lớn của bà phó phòng tổ chức ở chái hữu. Vợ chồng anh Thủ, chị Huyền, cán bộ kiểm nghiệm công ty ở chái tả. Hộ cô Huyền rộng gấp rưỡi hộ của tôi và Phạn. Lý do giản đơn là nó có sẵn bức ngăn gỗ, xưa là nơi thủ kho làm việc.

Được chia nhà là diễm phúc rồi. Mè nheo hơn kém vài thước vuông làm gì !

Sự giống nhau của ba hộ là ba cái cửa vào đều loại gỗ tạp, bản lề sắt luôn kin kít và hở toác trên, dưới, đón gió hồ lồng lộng thổi. Không có gió hồ thì thật không thể nằm trong cái nhà trần thấp lợp xi măng tấm bắt nhiệt như hun ấy. Lại mùa đông, khi gió heo may về, những ống tre hu hú đón gió và bụi đất lả tả bay từ vách tre trộn bùn rơm ngăn giữa hộ tôi và hộ Phạn. Trời nồm, tường sau và trước nhiễm mặn cá khô, tưa nước đọng thành hột, toả mùi khăm khẳm, khó thở. Trần bưng bằng cót, kín mà hở. Mùi của ba nhà, tiếng động cứ thông thống từ hộ này sang hộ kia.

Chủ nhật, vợ chồng tôi hì hục dán giấy báo lên biên giới phía trái để che bụi. Phía phải vang lên tiếng đóng đinh cồng cộc, chan chát. Tôi đoán, anh chàng rể của công ty mới đi tây về xẩm chiều qua, da trắng nhễ nhãi phá hòm gỗ, sớm nay chắc làm xong gác xép, thừa gỗ gia cố biên giới giữa hộ tôi và anh cho vững chắc.

Buổi sáng tuần thứ hai đi xếp hàng lấy nước máy ở đầu nhà A3, gặp ngay Phạn. Hắn đang rửa cái thùng to còn dính cáu mỡ lòng và tiết lợn.

_ Chào ông bác ! Gớm làm gì mà chèn chắn ghê thế. Để hổng ra một tẹo cho thoáng. Đã bó rì rì các bố lại thi nhau bưng thêm. Đứa đếch nào nghe tiếng phì phò ! Em cũng như bác, lúc mải cái ấy thì để ý đến ai.

Phạn bán tiết canh lòng lợn chợ cóc (1). Gã vừa nói vừa đổ ào thùng nước đầy bọt mầu hồng lênh láng khắp mặt đất. Mắt nháy với tôi nom vừa trải vừa bất cần.

_ Ấy, mình che chắn gì đâu. Bụi quá !

_ Nói là nói thế thôi, chứ ông bác có đổ tường xi măng em cũng kệ. Phía em căng cái nilon xanh vừa dịu vừa cách âm hết xảy ! Ông bác đi tây hôm qua mới lấy hòm về. Bốn năm cái Kích (2), một đống hàng như núi. Tiên sư ! Các bác sướng thật ! Chả đầu tắt mặt tối như cánh em !

Tôi không dám trả lời câu chửi đổng bất ngờ ấy. Tủm tỉm cười và lấy thùng nước quẩy nhanh về : " Tớ cũng như ông thôi ! ". Phạn có thể nhìn dáng cà nhắc của tôi mà đoán ra điều gì, chắc thế, ái ngại mời với : " Em nói cái bác Thủ thôi ! Bác xá cho ! Chủ nhật này rỗi, tối, ông anh sang em làm chầu tiết canh nhé. Đừng khách khí ông bác ạ. Trước lạ sau quen ! "

Điều mà Phạn vạch ra trần trụi ấy là có thực, nhưng mà không đáng lo. Bởi vốn hay e thẹn nên vợ tôi nhất quyết bất động trong thời gian khi mấy nhà mới đi nằm. Chúng tôi thường rón rén yêu nhau lúc gần sáng. Khi ấy chỉ có tiếng chuột chạy, tiếng gió đu đưa sáo trên các lỗ tre, tiếng thở, ngáy đều đều của bốn đứa người ở hai hộ bên.

Mọi sự hoạt động của ba hộ, sau ba tuần chúng tôi đã thuộc làu lịch ăn uống, khẩu vị từng bữa, sinh hoạt, yêu nhau. Tất cả như một mùi hỗn tạp song vẫn phân biệt được, nhất là mỗi chiều chủ nhật, ba nhà cùng nổi lửa. Mùi tỏi xào thịt bò của anh Thủ, mùi rau muống xào tóp mỡ của vợ tôi hoà trong mùi rượu đế thơm nức với tiếng mỡ sôi lép bép, béo tanh khi nhà Phạn rán cá.

Mùa hè năm ấy, gió quật từ hồ đem theo cả mùi ngai ngái và hơi tanh của bèo tây và bọt khí lòng hồ. Tôi thường đọc sách tới khuya bên vách đất. Vợ tôi đã lăn ra ngủ, thở đều, đôi chân trắng nõn của nàng gác lên bức ngăn gỗ.

Tất cả quen dần như vậy. Nó cũng giống như ta thở hít thứ không khí làng quê. Hương làng sống ăn đời ở kiếp bao đời với đa số người Việt Nam, nhưng chẳng ai để ý. Khi ra thành phố, vẫn nhơ nhớ một cái gì đó, thiêu thiếu cái gì đó, xưa ẩn giấu trong vô thức, nay có dịp, hong hanh nhớ ra, gợi về cái làng xa kia mà chẳng nhớ rõ mùi gì.

Tuần thứ tư từ khi lấy nhau, vợ tôi ghi một dấu thập to vật trên tờ lịch. Mới chín giờ tối, mà hai nhà bên đã tắt đèn. Tôi đành tắt đèn trần và bật cái đèn ắc quy vẫn dùng khi mất điện.

_ Trời nhiều mây, gió nhẹ, nhiệt độ từ 18 tới 25 độ. _ Tôi tắt vội đài.

_ Tiên sư mấy con phò bán trứng (3). Bảo mấy lần rồi mà nó cứ chèn ngang vào đầu hàng nhà mình.

_ Ngày mai anh sẽ bảo nó. Thôi, lại đây ! Anh chúa ghét cái thứ khuy cài. Mai anh lên Hàng Đào mua cho em cái loại mới về của Thái ! Mềm và đẹp lắm. Sờ vào, mát cả tay !

_ Rõ dơ ! Tay gì như hòn than thế !

_ Gớm _ có tiếng khúc khích rồi yên một lát.

Tôi cố tập trung cúi xuống đọc tiếp giáo trình thương phẩm để khỏi mang tiếng là nghe trộm.

_ Anh yêu em như thế nào ? Có tiếng rất nhẹ từ chái phải vọng sang._ Tiếng Huyền !

Tôi bịt tai lại. Đầu ong ong mà vẫn nghe tiếng rinh rích của bầy chuột đùa chơi trên trần nhà. Bịt tai mới được muơi phút phải bỏ hai ngón tay ra. Khó chịu quá !

_ Mùa đông bên kia lạnh lắm. Tuyết trắng xoá. Anh ở nhà một mình ngồi nghĩ tới em !

_ Nói dối !

_ Thật đấy, đoá hồng của anh !

_ Ai tin ma ăn cỗ ?

_ Nhìn trăng kia kìa. Có nó chứng giám cho anh !

_ Bây giờ của anh rồi, ván đã đóng thuyền. Còn yêu thế không ?

_ Hơn chứ, Cưng ơi ! Anh yêu em bằng cả trái tim chỉ dành cho em !

Tôi chợt nhận ra, trăng lên thật. Tia sáng loang loáng như lưỡi kiếm màu vàng chém xéo qua khe cửa xuống vạt chiếu vợ tôi nằm.

Có tiếng gì chun chút như tiếng mở cái giác chữa cảm khỏi da thịt, như mút bóng từ miếng bóng bay vỡ, vọng từ chái phải. Lại nghe : " Anh thích trai hay gái ? "

_ Trai gái đều được tuốt ! Gì cũng thích.

_ Em thích con trai !

_ Anh cũng thích con trai !

_ Em thích con gái !

_ Thôi, gái trai như vậy cả. Đấy ! Con gái nhe... ! _ Có tiếng thở. Tiếng cựa mình. Rồi tất cả chìm trong im ắng như tuyệt đối. Một lát lại nghe tiếng sột soạt của áo quần. " Ngày mai anh còn đi lên viện, có cuộc họp rất quan trọng ! Thôi, ngủ đi cưng ! "

Gió đêm nổi lên. Đập vào chỗ trần nào kẹp không kỹ, dập lên dập xuống. Hình như có tiếng thổn thức. Hay là gió ?

Buổi sớm hôm sau tôi ra chợ. Đám hàng rong bán rau và trứng bầy lấn ra hết cả lối đi. Mới sớm mà trời oi lạ. Những người ở ngoại thành kéo ra bán rau tự sản từ tinh mơ, những người buôn từ chợ rau Mơ cũng đã qua nhà tôi rình rịch từ khi trời còn tối. Cái chợ bé mà chẳng thiếu gì. Tôm cá từ mạn Đuôi Cá tươi đành đạch trong các thùng sơn hay trên mẹt. Rau, dưa, hành, thơm, đủ cả. Quầy bán tiết canh lòng lợn ngay đầu chợ. Họ không trông thấy tôi. Tôi nhìn thấy Phạn thoăn thoắt thái lòng cho vợ anh xếp lên đĩa. Mùi cháo dăm hành phả ra thơm ngậy. Tôi nín thở. Tôi quay mặt đi vòng nhanh trốn chạy cái mùi hấp đẫn. Cồn cào ! Tới chỗ bán đậu phụ còn nghe tiếng Xuân lanh lảnh : " Nhà em hãm tiết bảo đảm, nước luộc lòng sôi trăm phần trăm. Các bác có chén tới ễnh bụng cũng vô tư đi ! "

" Tổ sư con kia, ông đã bảo không quang thúng chềnh ểnh chỗ đấy cơ mà. Đổ xe của khách ông bảo ". Tôi quay mặt đi. Giọng Phạn ! Có tiếng cười nồng khùng khục của ai đó. Tiếng ai : " Em đi đây, em đi đây ! "

v

Tháng sau, phòng quản trị công ty cho người tới chuẩn bị mắc nước cho ba hộ chúng tôi. Người ta đo đạc sau nhà và quyết định đào phía sau một cái hố, xây bể nước. Công việc chẳng cần sự có mặt của tôi nên tối về mới biết công trình ngày mai khởi công. Phạn chạy sang nhà Huyền rồi quay sang nhà tôi : " Anh em ta mỗi người bỏ ra năm ngàn bồi dưỡng thợ. Chúng em tính giá lòng mua, đắt là hai lít chính hiệu Con Nai Vàng (4) nếp lủi. Thôi thì cho bọn nó nhờn mép một tí, không mai bể nước lại rò rỉ thì chết cả nút." Vợ tôi lấy tiền đưa Phạn. Gã cầm tiền xỉa vèo vèo. Xong ! Phạn cười, mùi rượu phả vào tôi : " Giầu mà kiết, anh ạ. Nó tưởng em lợi dụng chém nó, hỏi đi hỏi lại mấy đồng bọ, như thanh tra không bằng. Em cần đếch gì mấy cắc đểu (5) của nó ".

Nửa tháng sau bể nước xong. Cái bữa xả nước hồi hộp như đào vàng. Dòng nước trong vắt lừ đừ dâng lên trong bể. Cô Xuân, cô Huyền chốc chốc lại ra ngó xuống. Phạn và tôi xúc đất, than xỉ làm một cái nền quanh bể. Từ nay chúng tôi đỡ chen chúc tranh nước quanh cái vòi công cộng. Cám ơn công ty. Công ty muôn năm ! Phạn tự nhiên hô to như vậy, gã nằm lăn ra đất, sau khi dội ào ào liền mấy xô nước lên cái thân hình khi nào cũng ám lòng lợn và mùi rượu.

Vợ tôi dọn một mâm cơm đậu phụ và đĩa thịt vịt ra chiếc chõng kê ngay đầu hồi nhà Phạn. Dù đã mời gia đình cô Huyền trước, nhưng cô Huyền cười cười từ chối : " Các bác cứ tự nhiên xơi, chứ nhà em hôm nay có hội nghị đã ăn cơm rồi ". " Cán bộ có khác, suốt ngày đi họp, lại đỡ cơm nhà ! " _ Xuân nói.

_ Gớm ! Người đẹp vì lụa, lúa tốt vì cứt. Ấy, em xin lỗi bác ! _ Phạn nhìn theo cặp mông căng lẳn của cô Huyền tấm tắc cái quần hồng cô đang mặc để nhận một cái véo rứt thịt của vợ.

Đêm ấy thực là dễ chịu hiếm có. Gió phe phẩy, nhiệt độ chỉ 18 độ. Tôi nằm xuống cứ thao thức mãi, có thể vì quá chén chăng ? Trăng mười bẩy và ánh sáng của muôn ngàn tinh tú loang loáng qua các khe hở phía trước nhà. Tiếng đồng hồ rí rách, chậm và thong thả thế !

_ Lần này thì trúng thật rồi anh ạ.

_ Nói thật chứ !

_ Tiên sư đứa nào lừa anh !

Tôi giật mình nghe tiếng ré lên ngẹt trong họng của Phạn sau đó. Tôi trả vờ ho đánh tiếng. Có tiếng đấm bùm bụp vào da thịt chắc nịch. Yên ắng một lúc, lại nghe :

_ Anh yêu em không ?

_ Yêu !

_ Yêu thế nào?

_ Yêu đéo chịu được !

_ Thật không ?

_ Đ... mẹ thằng nào nói dối !

Tôi thiếp đi sau tiếng rúc rích, tiếng chân chuột vẫn chạy trên tấm trần cót.

Tôi không hề biết rằng gần sáng hôm đó vợ tôi cũng trúng, bắt đầu có trong người một mầm sinh linh. Sự kiện phải hai tháng sau mới xác định được. Ba tháng sau, vợ cho biết tin ấy, tôi vừa mừng vừa lo. Mừng vì mình sẽ có con. Lo vì cuộc sống thế này, hai miệng ăn với lương lậu chỉ đủ chi hạt tiện, nay mai thêm trẻ, nuôi nấng ra sao ? Tôi không dám nói điều băn khoăn ấy cho vợ biết. Còn vợ tôi thì hớn hở khi thấy nụ cười của tôi trong đêm. Chưa gì nàng đã dự kiến tương lai của cái hoa mới vừa hong noãn. Nào là đi học trường y, trường nhạc, nào là sẽ may cho nó đồ màu xanh ; nào là đi học bách khoa hay trở thành nhạc sĩ ? Đàn bà trẻ bao giờ cũng lãng mạn như bọn thi sĩ ấy, còn khi đã có con, trăm công ngàn việc, họ có còn vậy không ? Tôi không dám cười, lặng kéo vợ vào lòng, nhìn nước mắt vợ cũng lặng ứa và chợt nhớ bao nhiêu mộng ước trước chiến tranh tôi từng có.

Câu chuyện của chúng tôi nói nhỏ thế mà sớm ấy Phạn nghe thấy. Phạn chả hay dậy sớm uống trà rồi đi lấy lòng và tiết từ ba giờ. Vài tháng sau, khi thau bể nước vì con chuột nào ngu ngơ sểnh chân, chết nổi lềnh bềnh, Phạn khoe : " Vợ em cũng có rồi. Ba tháng ! Mẹ em sờ bụng, xem tóc gáy bảo : con trai ! Vợ chồng anh thì mong cháu đi học này, học nọ chứ con em chả cần học gì hết. Chỉ cần biết đếm là đủ ! Đếm không nhầm là đủ. Con trai cho học hết lớp năm, biết đọc báo. Con gái thì ở nhà giúp mẹ thái lòng, đếm tiền ! Hết ! "

Phạn nhoẻn miệng cười rồi vỗ vai tôi. Nụ cười của gã ngoắc tận tai, nom vô tư và rất thiện cảm. Nụ cười ấy xoá hết những nét rất sắc cạnh ở khuôn mặt phong trần của gã. Người ta, khi cười rõ hình thiện và ác, có phải thế chăng mà tôi quên đi hết nét mặt vốn dĩ chờn chợn của gã, giữ lại nụ cười ấy suốt bao nhiêu năm phiêu lạc sau này của mình. Bàn tay gã nặng và ấm đặt lên vai tôi. Tôi nghĩ, Phạn không đùa.

Mùa thu năm ấy đến sớm hơn mọi năm. Không gian trước nhà chúng tôi như rộng ra khi gió trở mình đùn hết bèo từ mặt hồ bên này sang bờ bên kia. Vợ chồng tôi cuốc đất, dọn bụi trồng rau ven hồ từ đầu hè. Thu tới, rau muống vừa cằn thì cải lên xanh. Nom rất mát mắt. Thấy vậy, vợ chồng Phạn cũng xí một khoanh. Cô Huyền cũng xí một manh, chạy dọc tới năm chục mét, rào kỹ mà chẳng trồng xới. Vợ chồng Phạn không mát tay, rau cải của họ chưa kín luống đã vàng. Bù lại, mấy hàng ớt của họ rất tốt. Xanh mướt và cho trái ngay. Phạn bảo, gã bứng cả gốc từ nhà bạn nên lạ đất và lắm phân gà mà như vậy, chứ chả giỏi giang quái gì ! Con người em như ớt ấy, càng lạ càng tốt, nhiều phân rác càng hay ! Lạ là cái gì nhỉ ? Tôi chẳng biết gã muốn nói gì. Hắn lại bảo, hơn ba chục tuổi mới biết cái sở trường của hắn là chọc tiết và hãm tiết ! Ông anh biết không, thọc con dao vào cái cổ mũm mĩm trắng toát để máu phun ra chói loà ấy mà, chuyện ấy đâu có giản đơn. Phải biết ! Phải xử chính xác lưỡi dao. Không run tay, chệch hướng. Chọc một cái, đứt màng trên. Dí cái thứ hai, trúng tim. Tiết chảy hết, không đổ màu tím, không còn một tiếng kêu. Đấy là nghề ! Nghe gã nói mà rởn người.

Những khi rau rộ, chúng tôi tỉa vài cây tươi roi rói chia cho hai nhà. Đúng là chúng tôi bắt đầu già trước tuổi, hay là khó khăn mà thấy vui vui bên luống rau. Những câu chuyện bên cái vườn ấy lan man đủ thứ. Tôi biết thêm việc Phạn cũng từng ở lính. " Ông đừng nhìn tôi bây giờ mà đánh giá nhé ! Tôi từng là học sinh giỏi, chẳng khi nào chịu tổng kết các môn tự nhiên dưới điểm 9 đâu ! " Phạn mở màn với câu như vậy.

Phạn vào Bình Trị Thiên hai năm, đánh dăm trận rồi bị thương, ra Bắc điều dưỡng. Cả năm, anh đi xin việc khắp nơi mà không có công sở nào nhận. Sau nhờ bạn đồng ngũ, làm ở lò mổ dạy cho nghề tiết canh lòng lợn, lại tìm cả mối bỏ hàng. Phạn kể : " Gia đình tôi gốc ở Nam Hà. Hai đời các cụ kỵ đều đỗ đạt, làm quan cho triều Nguyễn. Đời ông cũng bằng tây, chữ ta đủ cả. Tới đời bố tôi thì ruộng nương cũng chẳng còn mà cái sở học, tiếng tây, những sự biết của ông về Hắc Sơn, Man, Chu Chi, Hê Min Uê (7), đại loại như vậy, trở nên thừa thãi. Chẳng kiếm đủ cơm ở Hà Nội, bố mẹ tôi lên Tuyên Quang khai hoang rồi lại xuôi Hà Nội. Xoay đủ thứ, sau chuyển làm hộp giấy gia công, rang xay café. Khi sinh tôi, mẹ tôi chỉ muốn tôi sau này đủ ăn nên đặt tên tôi là Phạn. Phạn là cơm. Mẹ tôi nói vậy. Người ta đói thì cần cơm. Cha mẹ tôi trong loạn lạc triền miên, nên giản đơn mong tôi có ăn là đủ. Các anh chị tôi tên đẹp lắm, nào Hùng, nào Lan, Ngọc. Chuyện tôi lấy vợ là duyên số. Tôi quen cô ấy trong một lần đi xem phim ở Tháng Tám. Gặp người ta gây gổ với nó. Tôi can thiệp. Sau đó nên vợ nên chồng. Vợ tôi như miếng mỡ gầu, ngu hơn tôi một chút. Cô học chỉ hết cấp hai. Cái thời sơ tán, đạn bom, đi theo mẹ lang thang suốt trên những chuyến giao hàng. Nồi lành úp vung lành, méo úp méo. Chúng tôi hợp nhau. Trời cho lộc thì chả mấy chốc tay dao tay thớt mà có của ăn của để ! ".

Đêm ấy tôi nằm nghĩ lại chuyện Phạn. Cái tên là lạ của anh ấy cũng có cả một lịch sử dằng dặc của mấy đời. Đời phức tạp quá hay con người ta trót mơ mộng nhiều nên khi vỡ mộng thì quay lại thực tế với những điều giản đơn nhất ? Lạ thật, có còn xứ nào cái tên cũng cõng theo thân phận, ước mơ của một kiếp đời không ?

Vài lần, khi cả bọn đang làm vườn, tôi thoắt trong thấy bóng anh Thủ nhìn chúng tôi qua cửa sổ. Cái nhìn rất khó hiểu, gật đầu chào nhau mà tôi vẫn thấy có gì đó không cắt nghĩa. Sao anh ấy không trồng hái gì nhỉ ? Tôi tự hỏi khi cô Xuân và vợ tôi vừa nhổ cỏ vừa thì thào. Họ thương cùng kiếp đàn bà mà sao chị Huyền vợ Thủ chưa có gì. Phạn cười phá lên : " Các bà lo bò trắng răng. Tại giống đấy. Bọn tôi lực điền, giống xịn. Còn nó giống phò. Không tin để tôi thử một phát. Lách trái con gái, lách phải con trai. Trúng ngay ! ". Xuân đứng bật dậy, tát liền vào má chồng : " Tiên sư cái thằng dê ! "

Tát rõ mạnh. Ten tét hai ba cái liền, thế mà Phạn chẳng né tránh, còn cười như phá. Tiếng cười thia lia trên mặt hồ có làn sóng lao xao.

Chúng tôi cứ như thế, như thế sống.

Tôi bước vào năm cuối cùng tại chức nên rất bận. Tuy nhiên vẫn phải chuẩn bị vật chất cho đứa con sắp chào đời. Tôi đi làm thợ hồ, thợ chụp ảnh đám tang, đám cưới, làm điện trong tất cả các ngày chủ nhật, cả ngày lễ, tết. Vợ tôi năng lên bà ngoại lấy tóp mỡ, dưa, thịt kho, cá kho. Vợ chồng Phạn thì xoay ra mua lợn tự mổ, bán kèm thịt. Có hôm, không mổ ở nhà chủ lợn, Phạn đèo lợn bằng xe đạp về chọc tiết ngay đầu hồi. Hắn làm thế nào mà không có một tiếng kêu. Sáng ra, thấy vệt máu mới biết đêm qua hắn làm lợn ở đó. Tôi bảo, ông khéo thế ! Gã hiểu ý tôi cười : " Sợ làng xóm mất ngủ thôi, còn mấy ông bác thuế vụ, có phần cả rồi ! ".

Vợ chồng anh Thủ vẫn đều đều đi làm. Mỗi sớm, anh dắt xe máy qua cửa nhà thấy tôi gật đầu chào. Bây giờ anh để bộ ria đen nhẫy, cặp kính râm vừa khuôn mặt màu xám nom rất hợp. Mắt luôn nhìn thẳng như chưa bao giờ trông thấy chúng tôi. Tôi nghĩ, mỗi người có một cá tính và sống bên Tây rồi nên như thế. Nhưng Phạn thì phản ứng ra mặt. Một lần đụng nhau ở chỗ bể nước, Thủ vụng về để rơi thùng múc nước xuống mà không sao lấy lên. Phạn nhổ nước bọt ra dáng khinh bỉ, đu xuống lấy hai chân khều cái dây lập lờ lôi lên. Thủ không nói gì, mặt hơi tái, xách xô nước đi về nhà không ra nữa. Cô Huyền ra kín nuớc thay chồng. Phạn múc nước giúp Huyền, lại xách cả hai thùng về để ở đầu hồi nhà Thủ. Không hiểu sao Phạn hay ác cảm với Thủ như vậy ?

Sau tết, qua xuân, sang hè, cái bụng vợ tôi cao lên bao nhiêu thì công việc chuyền sang tôi bấy nhiêu. Vợ tôi yếu, người vàng nhớt. Cô ấy chẳng chịu ăn, hơi trở trời là kêu mỏi, đau. Vợ Phạn thì không như vậy. Chị quần quật từ sáng tới tối mịt như chưa từng có chửa. Cái bụng ưỡn ra phía trưóc, bước chân khuỳnh khoàng nhưng vẫn thoăn thoắt đi trước gánh lòng, thịt chồng gánh. Đúng là trời sinh ra mỗi người một phận. Chúng tôi thường an ủi nhau rằng có con thì hạnh phúc phải trả giá, thêm vất vả, neo bấn. Cô Xuân đôi khi e ngại nhìn vợ tôi rồi lại bảo : " Sướng chán, nom con Huyền kia kìa, có cái đéo gì để sướng như tụi mình đâu ! ". Lời thì thế, nhưng mặt ngó không có ý ác. Vợ tôi nhăn nhó cười.

Tháng tám vợ Phạn sinh trước. Một thằng con trai rõ to khoẻ, bốn cân hai, chân tay mũm mĩm, mắt đen nhìn lơ láo, miệng đỏ tươi như múi quýt hồng. Tôi hỏi Phạn, đặt tên con là gì ? Phạn bảo : " Tiến ! Tiến lên ông ạ ! ".

Hồi ấy, Hà Nội chưa chơi Tá Lả, mới có trò Tiến Lên. Giá có Tá Lả thì chắc Phạn đã đặt tên con là Tá.

Vợ tôi vật vã hai ngày hai đêm trong bệnh viện Bà Mẹ Trẻ Em. Mụn gái chưa đầy ký rưỡi, ủ trong lồng kính, chân tay đầy lông như con chuột con, nom rất thương. Phạn chắc cũng như tôi chỉ mong mọi việc xong là về nhà với con. Khuôn mặt người ta có hạnh phúc là biết ngay, lúc nào Phạn cũng tơn tớn. Không biết nom mặt tôi có thế không ?

Sự thật là như vậy ! Nhưng bên niềm vui dễ cảm nhận ấy thì Phạn rất vất vả trong mỗi phiên chợ mà chỉ có mình anh. Tôi thì khỏi phải kể. Ai đã từng có con ở cái thời bấy giờ, cái thời mà mua một hộp sữa, một lạng sườn nấu cháo cho trẻ cũng phải cân nhắc, đắn đo mãi, phải nhịn ăn, nhịn tất cả mọi sở cầu vật chất, tinh thần của người lớn như thịt tươi, xi nê. Sự ấy, cho tận tới khi con gái tôi biết đi, biết chạy và đến lúc bẩy tám tuổi, chúng tôi chưa hết vất vả vì cháu luôn đau ốm. Tim dị tật, bẩm sinh, phản kháng rất nhậy với đủ mọi thời tiết. Sau, do tiêm gì đó động huyệt, chân cứng nhắc, đại tiện đứng rất tội ! Không khí trong nhà luôn căng thẳng, nhất là những ngày nóng bức mà con khóc ngặt nghẽo, mềm lả trong tay người vợ tôi.

Có thể tất cả những điều ấy đã làm cho một thằng tôi, một người quen với cuộc sống 12 năm ở lính, chỉ quen chấp hành mệnh lệnh, nay trở nên một người hết sức lúng túng chăng ? Đi bộ xuyên rừng tốt, kiếm rau rừng tốt, kinh nghiệm tìm nơi ẩn giấu, giữ cái mạng mình tốt, nhưng chả biết gì ở cuộc sống một cặp vợ chồng phải mềm mại giải quyết những khó khăn khi rơi vào hoàn cảnh mà tôi kể trên. Tôi trở nên thường xuyên cáu bẳn vô cớ. Vợ tôi cũng hết cả sự dịu dàng của cô kỹ sư trẻ vừa ra trường. Cả hai kẻ chẳng đứa nào xấu, nhưng ngô nghê trước cuộc sống gia đình vốn chả giản đơn. Sau này nghĩ lại, tôi vừa xa xót vừa ân hận. Nhất là nghĩ tới vợ tôi, người suốt cả thời gian ấy phải chịu đựng quá nhiều, việc cơ quan, việc nhà, việc con cái ốm đau. Song thường là, người ta có gục xuống, thì mới nhận ra điều đã mất. Đã mất đi thì cái gì chứ tình cảm như con chim sổ lồng đã vụt bay mất rồi.

Chúng tôi cãi nhau về những điều rất lặt vặt trong đêm. Từ chuyện tôi hút thuốc nhiều ; chuyện đi hôm về tối chẳng buồn nhắn một câu ; chuyện sao nhà bừa bộn thế, đến cái đầu tôi luôn hôi, bốc mùi trong căn buồng hẹp ! Tất tần tật ! Mọi sự cứ sinh sôi, chất đầy, nèn chặt trong cái hộ vốn hẹp tí của chúng tôi. Tháng, năm, những giọt nước mắt khô đi để lại khuôn mặt lầm lì và nặng chình chịnh của vợ cả mỗi khi cơm nước dọn ra ; có khi bất ngờ không duyên cớ, những tiếng bát vỡ tan tôi ném vào cái cửa đầy những khe hở. Trong khi đó, cuộc sống của vợ chồng Phạn, Xuân vẫn hùng hục như ngày nào, vất vả hơn, nhưng thực là thứ cây hoang dã bất chấp mọi thời khí, để những khi Phạn dậy muộn, chúng tôi phải nghe một câu chửi rất chói tai của Xuân :

_ Trời ơi, đéo mẹ nó chứ, bảnh mắt rồi mà bố con nó còn ôm nhau ngủ như chó thế kia ?

v

Khi đứa trẻ đầu mới chập chững biết đi thì vợ Phạn lại chửa. Công việc đòi hỏi cần có người giúp đỡ. Lúc sinh con đầu lòng, mẹ Xuân tới, hai tháng quần quật giặt tã đỡ đần Phạn. Lần này Phạn dứt khoát không muốn mẹ vợ vất vả. Sáng xuống nhà, chiều ngược vào phố. Bà ngoại già rồi, phải ngơi chút xíu chứ ! Phạn bảo vậy.

Một cô gái thôn Linh Cầu, đang tuổi xuân thì, em họ Xuân, tên Phượng. Tóc dài mượt đến ngang lưng. Hai tháng trời ra Hà Nội ở nhà trông cháu, không mưa đồng, gió bãi, trắng ra, mắt luôn lấp lánh, đôi má mơn mởn như rắc phấn.

Có người giúp việc, quán xuyến, tháo vát từ trông cháu tới cơm nước, vợ chồng Phạn rảnh rang đan tay làm ăn. Mà đúng khi ấy, Hà Nội đang rộ cao trào nhà nhà nuôi lợn, nên công việc giết mổ, tiết canh rất thuận. Phạn bận bịu lắm, quần quật suốt tháng, suốt năm, nhưng vẫn phởn ra hơn cả hồi mới lập gia đình, lại bớt say ngất ngư. Một bữa Phạn sang tôi bảo, sao vợ chồng tôi không thêm một nhau. Cho có lứa ! Cho chó có đànấ! Tre ấm bụi ! Như cách nói của Phạn. Hắn cười hoắc cái miệng khi ghé tai tôi : " Hay máy ông anh tịt rồi ? ".

Phạn thừa sức biết gia đình tôi khó khăn ra sao, nhưng điều hắn không thể biết là tôi đã rất nhiều lần phải tự dày vò với mình khi công ty mở chiến dịch giải toả hàng, điều cán bộ bảo vệ đi áp tải. Chỉ cần phẩy tay một cái, trút ngay vài can nước mắm là có mấy tháng lương. Sự hao hụt vài chục lít nước mắm sẽ được bù trừ dễ dàng bằng nước ruộng. Nhưng tôi không sao làm được cái điều giản đơn ấy. Can nước mắm trở nên nặng như buộc đá mỗi khi định xách nó xuống xe dọc đường. Hay, vì công việc chuyên môn, những lần lập biên bản, giáo dục những người ăn cắp hàng hoá níu tay tôi lại ; hay từ điều xa xôi nào, ẩn tàng một cái nhìn như quở trách con người thực tại của tôi khi ấy. Ai nhìn tôi ? Mắt vô hình ! Ở đâu, từ đâu nhỉ ? Tôi cũng không tự lý giải ngọn ngành mà chắc Phạn càng không biết. Hay là hắn biết mà không thèm nói, vì có lần thấy tôi đăm chiêu, hắn bảo : " Các ông là hay phức tạp lắm. Đời rắc rối quá rồi, cứ để nó thiên nhiên ! (8) Nghĩ nhiều là tổn thọ ! ".

Vợ chồng Thủ, Huyền vẫn chưa có con. Tôi ngửi thấy mùi thuốc bắc đủ loại thơm phức bay sang nhà tôi. Tôi luôn nhìn thấy khuôn mặt đã buồn buồn lại buồn hơn theo năm tháng của Huyền. Anh Thủ vẫn qua cửa nhà tôi mỗi sớm. Cái Mu Kích đã thay bằng chiếc xe Hon Đa đầu bằng máy cộc, long lanh giọt lệ (9), nhưng khuôn mặt thì chẳng đổi, vẫn là cái gật chào rất lịch sự, bộ ria nhẵn nhụi và kính nâu nhạt.

Năm ấy hay mất điện. Mất điện thì ngày cũng như đêm. Ngôi nhà của chúng tôi biến thành lò thiêu. Riêng chái nhà Thủ ở hướng Nam, lại có bóng cây lớn phủ lên và Thủ trổ thêm cửa rộng đằng hồi, nên rất mát. Buổi chiều, bên hồi ấy trẻ con hai nhà hay làm sân chơi. Phượng cũng bế cháu ra đó cho uống sữa, ăn bột, hóng gió.

Tháng bẩy, cô Huyền đi dưỡng bệnh trên Tam Đảo một tháng theo tiêu chuẩn công đoàn. Chắc ở nhà buồn, chiều nào anh Thủ cũng ra chơi với trẻ con. Nom người vậy mà dỗ trẻ còn tài hơn cô Phượng. Anh bế con Phạn rung rinh trên tay, cười nắc nẻ. Tôi nhìn ra chợt thấy thương anh. Căn hộ chật ních tiện nghi, lương lậu đủ chi, lại thấy anh luôn có khách tới mua bán đồ phim giấy, chắc kiếm ăn được. Thế mà anh chưa có một đứa trẻ ! Nom đôi mắt và cái miệng có ria xanh kia nựng trẻ tươi ron rón, chắc cũng thèm một mụn con ?

Cuối tháng bẩy, trời chợt đổ cơn mưa chiều bất ngờ. Cô Xuân từ chợ đội mưa về lấy thêm nước mắm, thấy dãy quần áo chưa kịp rút, ướt sũng trên giây phơi. Xuân ngó vào nhà chẳng thấy cô em đâu. Linh tính thế nào, cô đạp mưa, chạy xô cửa nhà Thủ. " Con em tớ còn ôm cháu. Mặt gục xuống. Thằng khốn nạn đã cởi hết khuy áo của con bé dại dột. Thền lễn vú vê, hêu hếu cả rồi. Tớ điên hết cả người, chả kịp nói gì, lao vào giật con và tát ngay một cái lệch mặt thằng khốn nạn ". Hai tuần sau Xuân vẫn kể hệt như vậy với vợ tôi.

Đêm ấy tôi tưởng tượng lại câu chuyện qua lời thuật của vợ. Tôi thấy Thủ mặt tái với vệt tát đỏ, cúi mặt xuống. Thấy tiên nữ làng quê của tôi hới hải ôm áo đội mưa chạy về nhà. Thấy Xuân chạy ngược ra chợ báo tin dữ với chồng mà Phạn mặt tím lại nhưng vẫn bình thản thái thịt xếp lòng. Tôi nghĩ Phạn sẽ vác dao xông vào băm cho Thủ mấy nhát. Nhất là vợ anh cứ sấn sổ quát : " Bỏ dao thớt đấy cho tôi, về cho nó biết thế nào là mỡ chài với mỡ khổ ! ".

Vậy mà im như thóc. Tối ấy, Phạn vẫn sang tôi uống trà nhưng lầm lì, không hé răng về chuyện đã xảy ra.

Mưa chiều làm nhẹ không khí cho vợ chồng tôi ngủ thiếp từ chín giờ. Có lẽ hai giờ sáng, tôi chợt tỉnh vì tiếng thì thào từ nhà Phạn vọng sang : " Tôi nói như thế đủ rồi. Đàn bà như cô biết đéo gì ! ".

Có tiếng thút thít. Không biết Xuân khóc hay cô Phượng khóc. Lại nghe.

_ Em cô vú vê nòn nõn như thế, làm đếch gì không có đứa thích. Nó chưa tụt quần em cô là may rồi. Xử như cô chả ra sao, lại tan nát hết ! Lỗi ở con mả mẹ kia nữa. Con gái phải biết giữ mình. Các bà, cái gì chả đổ tội dâm ô trụy lạc cho đàn ông ! Đàn ông, đàn bà đều là đàn. Còn thằng Thủ, tôi có cách của tôi. Sao cho nó sợ mà lại biết rõ bộ mặt nó, cho nó biết rõ cái mặt mình. Khóc gì nữa. Ngủ đi, mai còn chợ. Con Phượng muốn lên thành phố thì thiếu gì chỗ. Bạn bè tôi, dân giang hồ, tứ chiếng, đủ cả ! Không thiếu thằng chồng ra chồng. Các bà thời này cứ tưởng, mới một tí là chu lên như chó, khóc thảm như thiên hạ khóc Kiều ấy ! Bà biết Kiều không ? Hay đếch biết nốt ? Cũng như cô em cô thôi. Đẹp mà, thời nào chả chết ! Không đẹp thì chó nó dòm, một quan cũng chả đắt, tiền đâu chuộc ông via. Nín ngay cho tôi nhờ ! Thế đấy ! Chán quá ! Đời ơi là đời ! Đời cứ là đời. Lý thuyết lằng nhằng với cô chán bỏ mẹ. Ngủ đi cho nhanh để mai còn chợ búa !

Tôi bàng hoàng. Thì tôi cũng là thứ chẳng ra gì. Tay đây, vai đây, sức vóc đây mà như bị vòng kim cô thít chặt. Xoay xoả như thế nào, kiểu nào cho vợ con mát mặt ? Tôi nín thở, cắn răng để khỏi đấm mạnh xuống giường.

Buổi chiều hôm sau. Biết Thủ có nhà, Phạn sang rủ tôi sang. Tôi từ chối. Nhưng Phạn quyết kéo tôi đi. Anh không lo ! Phạn này chả dẫn ai vào thế cùng đâu, gã nói vậy và kéo tôi xềnh xệch ra cửa.

Cái bàn gỗ lát có tấm kính và bộ uống trà men sứ tây long lanh trước khuôn mặt tái nhợt của Thủ. Tay anh run run nhưng còn chút bản lĩnh để mở cửa, lịch sự mời chúng tôi vào nhà. Đôi mắt Thủ vốn vô hồn, giờ đây nhớt nhát, khó tả quá. Tôi ngoảnh mặt đi chỗ khác, nín thở. Không khí căng, im như khi tôi lên dây mí đàn ghi ta.

Phạn vào đề ngay. Tiếng anh nhỏ, nhưng gằn :

_ Nói cho ông biết ! Vuốt mặt phải nể mũi ! Đánh đĩ thiếu đéo gì nơi. Nó là em tôi ! Chúng tôi không phải là chó ! Cho ông một nhát thì dễ hơn chọc con lợn. Nhưng như thế thì tiệt cái thứ giềng tỏi xóm gừng. Ông định lợi dụng nó thì phải dứt khoát sang xin lỗi vợ tôi, xin lỗi con Phượng. Còn muốn có con vì vợ thiếu trứng, hoặc yêu thực nó thì báo vợ. Có gan ! Tôi cho ông quan hệ thoải mái. Đ...mẹ ! Đừng có lập lờ ! Hẹn cho ông ba ngày ! Nếu không làm thì nói một câu cho nhanh ! Nhắc lại, chúng tôi quyết không phải giống chó ! Nhưng... !

Phạn chợt dừng nói. Anh đứng phắt dậy. Tôi giật thột nguời.

_ Thôi ! Đủ rồi ! Phạn kéo tôi đứng dậy, đi luôn.

Suốt vài hôm, tôi không thấy bóng Thủ. Hắn biệt đi hai hôm, lại về. Tôi không rõ việc Thủ có gặp Phạn không và nếu gặp thì gặp ở đâu, nhưng thấy Phạn trở lại vẻ tơn tởn xưa. Thậm chí còn tỉnh bơ huýt sáo như chưa hề có chuyện gì. Mãi nửa năm sau Phạn mới bảo, nó thực hèn, đạo đức giả, cố làm sang, tách ra khỏi hàng xóm láng giềng. Đi mẹ đâu cho khuất chứ còn gầm trời này, phải thở khói bụi này ! Nhưng may là nó còn biết thương vợ một chút. Còn không thì em bảo, Phạn này không thích đùa dai.

Chuyện chỉ biết đến vậy. Mắt gã khi ấy kinh thật ! Quắc sáng như điện, chớp lạnh cả sống lưng tôi.

v

Hết đợt nghỉ, Huyền về và sự việc Thủ với Phượng chìm trong lãng quên. Cũng còn do sau đó hai tháng Phượng về quê, thế chỗ là một chị cứng tuổi, cũng em Xuân. Đùng một cái có tin vợ Thủ có mang. Một năm sau sinh một cháu gái rất kháu khỉnh. Con Thủ đầy tháng, cô Huyền tổ chức đầy tháng cho con, xe pháo chật cả dẫy bên hồ.

Chúng tôi, hàng xóm láng giềng cũng sang mừng vợ chồng Thủ. Vợ tôi và Xuân bàn nhau đi mua quà mừng. Họ mang về một cân đường, hai chục trứng gà, một bộ quần áo lọt lòng rất đẹp trên hàng Đào làm quà mừng đẫy tháng. Từ nhà Thủ, xong việc, Phạn vào tôi uống nước. Hết tuần trà thứ hai, gã ghé vào tai tôi nói : " Ông có thấy con bé giống ai không ? ". Tôi trừng mắt lên ngạc nhiên. Phạn cười bảo : " Nó chẳng giống ai cả. Thụ tinh nhân tạo đấy ! Như lợn ấy mà. Ông không biết chuyện này đâu. Nhưng tôi thì biết rõ ! ". Tôi có cảm giác bất nhẫn, nhưng lại nhớ lại việc gặp vợ chồng Thủ ở viện bữa nào mà họ cứ né mặt. Có thể như vậy thật. Trầm ngâm một lúc, Phạn lại nói : " Cái hôm nó gặp tôi để nói chuyện con Phượng, có lúc điên tiết, tôi đã tính đạp mẹ nó xuống hồ, thí cho một nhát. Đến lúc nó cúi mặt xuống, kể chuyện rằng vợ chồng phải thụ tinh nhân tạo thì mình lại thấy giận dữ, căm thù cái bộ mặt đểu giả của nó biến đi đâu hết cả. "

Từ ngày có con, Thủ chẳng thay đổi gì, vẫn khuôn mặt như hôm nào, nổ máy xe nhè nhẹ qua cửa nhà tôi.

Gia đình Phạn cũng thêm đứa nữa là ba mống, hai trai một gái. Vợ chồng tôi vẫn ở với nhau. Chúng tôi hoàn toàn tan vỡ về mặt tình cảm nhưng bệnh tật của đứa con gái vẫn níu chân nhau lại. Có bận, tôi bỏ nhà một đêm sau lần tôi thư từ với một bạn gái cũ tận Huế, bị vợ nghi ngờ trai gái, vặn vẹo rồi ném thẳng vào mặt một câu nói khinh bỉ : " Anh là đứa phản bội. Từ bộ đội về, thực khố rách áo ôm ! Bây giờ no xôi chán chè lại định mèo mả gà đồng hả. Muốn bỏ mẹ con tôi thì nói cho rõ ràng rồi chia tay ! ".

Tôi không muốn thanh minh cho sự hèn hạ và kém trải đời của tôi khi ấy. Tôi không đủ sức chịu đựng và hiểu ra nguồn cội câu nói nặng nề của vợ. Tôi cảm thấy bị xúc phạm nặng nề. Tình cảm của cả hai như con chim sẻ già bị bẫy vào lồng, cố vùng vẫy càng xơ xác. Chỉ còn nước chim tự cắn lưỡi chết hay vụt bay đi khi cửa lồng vô ý hé mở. Như thế, vợ tôi và tôi là hai bóng ma buộc vào đứa con tật nguyền.

Năm 1988, con gái tôi đã hơn mười tuổi. Cơ quan có đợt đi Đức. Tôi quyết định ra đi mong : " Có tiền mà tay vẫn ". " Cũng nên biết ở xứ khác, người ta sống thế nào " vợ tôi nói vậy. Chúng tôi quyết định, nếu tôi đi thì bán căn hộ ấy để vợ tôi có cái mà chi tiêu chữa chạy cho con. Vợ tôi cũng muốn đi chỗ khác. Cô ấy bảo, đất ấy xúi quá nên con cái không ra gì. Nếu bán hộ ấy, tính cả đất chúng tôi chiếm được trước, sau nhà làm vườn, chái bếp công ty mới làm cho ba hộ sau nhà, vị chi khoảng hai cây rưỡi. Tôi hoả hồng một phòng nhỏ ở khu tập thể gần nhà mẹ vợ bên Tương Mai còn dư ra vài chỉ. Thế là quyết !

Vợ tôi đánh tiếng cho cô Huyền vì biết cô dóng tiếng mua nhà. Dây dưa hai tuần, ông Thủ dứt khoát chỉ trả cây tám. Chuyện bán chác nhà tập thể khi ấy chẳng phải che giấu như xưa nên đến tai Phạn. Tối chủ nhật Phạn sang hỏi giá và không bớt một cắc, hẹn tuần sau chồng đủ hai cây rưỡi. Vợ tôi mừng rỡ, sớm sau vay tiền mẹ đặt cọc cái phòng nhỏ nói trên. Đùng một cái, thứ tối thứ hai vợ tôi lại nhận tiền đặt cọc của cô Huyền. Ba cây ! căn hộ này ba cây ! Vợ tôi báo với tôi giọng mãn nguyện.

Tôi không biết xử lý ra sao. Trời ơi, nửa cây với chúng tôi là cả gia tài lớn. Bảo vợ giữ lời với Phạn thì mất toi nửa cây. Tôi trằn trọc tới nửa đêm nhưng không sang nói lại với Thủ hoặc là thưa lại chuyện với Phạn. Đêm tối, tôi quay về nhà Phạn lầm rầm : " Phạn ơi tha thứ cho vợ chồng tôi ! "

Ngày giờ tôi đi Đức được quyết định chính xác. Ngày giờ chúng tôi chuyển đi, bứt khỏi nơi chúng tôi sinh sống, chung đụng mười hai năm trời trong cái nhà ba hộ, đã xác định. Vợ chồng tôi vào đêm trước ngày chuyển nhà không sao ngủ được. Con gái đã ngủ, chúng tôi ngồi yên lặng nhìn nhau không nói một lời. Cô ấy đang nghĩ gì nhỉ ? Bao lần tôi tự hỏi.

Đêm ấy, tôi linh tính cảm thấy cuộc đi của tôi là cuộc chạy trốn vô vọng hay cô ấy cũng cảm thấy điều ấy mà mọi sự nói chuyện phút chia tay đều trở nên vô nghĩa và dối trá ?

Cuộc dọn nhà diễn ra trước khi tôi đi Đức hai ngày, rất nhanh và không kèn trống. Tôi và vợ sang chào Phạn. Vợ Phạn vẫn cười chúc chúng tôi may mắn. Phạn thì chẳng nói nửa lời. Mắt hắn lơ lơ nhìn đi đâu. Mãi lúc ra cửa gã mới hạ một lời gọn lỏn : " Thôi, ông đi ! "

Gã giận là phải ! Tôi nghĩ.

Tôi ngoái lại mảnh đất. Con đường. Cái hồ. Ba căn hộ !

Khi ấy bất chợt xuất hiện bẩy sắc huyền ảo của chiếc cầu vồng dẫn từ bên bờ bên này sang bờ bên kia hồ. Tôi dụi mắt. Không ! Cầu vồng ! Cái hồ nửa nắng, nửa mưa tạo thành cầu vồng, bắt đầu từ cái dải đất bên này vắt sang bờ bên kia.

v

Thực ra câu chuyện chỉ nên kể đến vậy. Nhưng thực bất công nếu quên nhắc tới việc vợ tôi đã hết sức kiên trì theo đuổi chữa bệnh cho con gái tôi. Qua bàn tay của giáo sư X, với hai lần phẫu, mổ tim và mổ chữa xơ cứng cơ tứ đầu đùi, con tôi hoàn toàn đi lại bình thường. Tất nhiên cũng phải tốn kém. Con gái chúng tôi học xong đại học và ra trường, nay công tác tại một viện khoa học. Nửa năm, sau khi nó khỏi bệnh, tôi nhận được thư và đơn ly hôn của vợ tôi gửi sang. Thư khá dài, nhắc lại thêm đau buồn. Nhưng không bao giờ tôi quên được đoạn thư sau : " Em biết, anh không yêu em. Sự cầu mong một gia đình, sau lần anh cãi nhau với chị dâu anh, dẫn đến việc chúng ta đột ngột quyết định từ mới quen biết thành vợ thành chồng. Đốt cháy giai đoạn, cả em và anh đều ngộ nhận. Tuy mỗi người ngộ nhận một dạng khác biệt. Chia tay, em cầu mong cho anh sẽ chẳng khi nào mắc lại khuyết điểm ấy. Không thể có một gia đình thiếu một tình yêu đích thực..."

Tôi về phép. Chúng tôi ly dị. Tôi thề chẳng bao giờ quay lại nhà ba hộ. Nó không có tội gì, nhưng tôi không muốn nhìn lại quá khứ, kỷ niệm một thời chật chội ! Vì thế, mấy năm liền, dù vẫn về Việt Nam ăn tết với anh chị tôi nhưng không khi nào tôi ghé qua nơi đó.

Sự đời chẳng giản đơn giữ một câu thề.

Tết vừa rồi, tôi lại về thì gặp con cả của Phạn đi cùng chuyến, ngồi cạnh ghế. Vô tình hỏi chuyện, mới nhận ra cậu bé mũi xanh lét, ngày nào cha cậu định quyết số phận cậu chỉ học hết lớp năm, biết đếm là đủ. Thằng mũi xanh ấy, vừa đỗ đại học kiến trúc tại Đức với số điểm cao tuyệt đối và được ở lại để làm tiếp bằng tiến sĩ. Vậy là tôi quay lại nhà ba hộ với sự háo hức qua những lời kể của con Phạn : " Bố mẹ cháu vẫn nhắc tới bác. Mẹ cháu vẫn hay tới thăm vợ bác. Mà sao cả hai bác không đi bước nữa hở bác ? Chú Thủ sinh thêm con gái nữa. Vẫn ở đấy, nhưng bây giờ nổi tiếng lắm. Chú ấy lên ti vi, viết cả thơ, mới đỗ tiến sĩ mĩ học gì đó ! Cô Huyền lên Hồ Tây xây một biệt thự, sống hẳn trên đó với con. Bố mẹ cháu dạo này bỏ bán lòng lợn tiết canh, chuyển sang mở hai cửa hàng bia hơi. Người làm thuê bây giờ ở quê ra đầy nên bố mẹ cháu không phải đầu tắt mặt tối như trước nữa."

Tôi bàng hoàng không nhận ra con đường cũ. Một dãy phố dù lộn nhổn nhưng đúng là phố, hiện ra bên hồ không tên xưa. Mặt hồ vẫn nhiều bèo tây và tôi cảm thấy hẹp lại. Tôi chẳng còn trẻ để xúc động, dù nhận ra cái mùi tanh tanh của nước hồ ngày nào. Ngôi nhà của Thủ và Huyền rộng tới hơn bẩy chục mét, cao vót lên với cái tháp tròn Ba Tư. Tháp muốn nghiêng chùm lên ngôi nhà ba tầng của Phạn. Được báo trước, Xuân ăn mặc rõ nuột nà, còn Phạn thì nghiêm chỉnh trong bộ com lê màu xám rất điệu. Họ đã bốn cháu, nom cũng khác truớc, đẫy ra và tóc đều đổ muối tiêu cả lượt.

Chẳng đứa nào chịu chỉ biết đếm cả ! Gã cười toắc tận mang tai khi tôi nhắc chuyện cũ và chỉ sang nhà bên : " Xem kìa ! Ông tiến sĩ mĩ học xây cái nhà nửa tây, nửa ta cứ chực nuốt tôi. Tôi thu xếp xong cửa hàng bia hơi nữa cho ổn, sẽ bán đây đi, nhường khu này cho lão và chuyển hẳn đi anh ạ. Con cái đều muốn vậy. Chúng nó bảo, bố mẹ lưu luyến gì đây ? Sau này người ta sẽ chẳng phá tất đi để xây lại hết cho mà xem ! Bây giờ chả đứa nào nó nghe mình, nên mình khéo phải theo chúng lên khu mới làm nhà mới, cho đời chúng chuyển hẳn sang cái đất khác đi. Ông anh và tôi cố sống chờ xem bọn trẻ chúng nó có cơm cháo gì không rồi nhắm mắt. Mà đếch ai biết được con tạo nó vần thế nào ông anh nhỉ ? ".

Phạn đặt tay lên vai tôi. Mắt ấy, môi ấy, hơi rượu thơm nức phả vào tôi để tôi nhận ra hắn đã rũ sạch nỗi bực xưa.

Mưa xuân lắc rắc lẫn trong nắng nhạt. Bụi cúc tần sót bên kia đường mới nhả đám tơ hồng vuơn lên chua chúa những sợi lua rua vàng óng, cố bứt lên, trong ảo huyền mưa nắng, khỏi màu xanh đông già cũ.

Vùng Biên Ải

» Tác giả: Ma Văn Kháng

» Dịch giả:

» Thể lọai: Truyện dài

» Số lần xem: 84185

5. 5

Nhà hố pẩu đang có đám ma khô.

 

Người đứng chật ních hàng hiên. Góc sân, cạnh chuồng lợn có cái đầu con trâu mới cắt, nghềnh ngàng hai cánh sừng, mắt còn mở ngầu ngầu dữ tợn. Bà cụ Xoá - bà nội Pao - Lử - Pùa - mất giờ thìn, ngày con Cừu, đã ba năm, dạo Pao còn ở nhà. Khi bà cụ mất, lễ nghi thủ tục đã làm đủ. Nhưng, tuần trăng trước, hố pẩu nằm mộng thấy bà cụ hiện về, sực tỉnh thức giấc, mồ hôi vã đầy người. Đời người đàn ông Hmông có hai cái lo lớn: lo cưới vợ cho con, lo làm ma trâu báo hiếu bố mẹ. Mấy năm loạn ly, ma trâu chưa lo được, giờ bà cụ đã đòi. Con trâu! Con trâu là cái mũ che nắng mặt trời cho bà cụ đi đường, là kẻ dẫn đường đưa hồn bà về với tổ tiên, lúc bà cụ nằm xuống chưa lo được, giờ chẳng thể nấn ná nữa.

 

Lễ cúng ma khô làm to vì cũng là dịp cúng sơn thần, thổ địa. Đèn thắp bằng mỡ lợn sáng trưng gian giữa. Trước bàn thờ nghi ngút khói hương là cái ghế buộc thanh tre khoác cái áo cũ của bà cụ. Mặt ghế đặt mâm cúng, có con gà luộc, bát cơm và chén rượu. Lễ cúng cũng là buổi tụ hội của cả làng. Thật ra thì cây to cây chia cành, người đông người chia nhà thôi, chứ phần lớn dân làng đều là người họ Giàng. Cùng họ, cùng ma. Cùng đạo lý, phong tục. Dòng họ, dù có khác biệt người này người kia về sự phong lưu, về số của cải, vẫn là sợi dây vô hình bền chặt giằng níu mọi người.

 

Ngồi trước mâm cúng, mặt hố pẩu lầm lì, thành kính và không giấu được nỗi buồn tủi. Tóc đã ngả màu gio. Chòm râu bạc theo tóc, khô xác. Nếp nhăn hai bên mép kéo cái cằm trễ xuống. Khổ thế! Ngày cúng lớn mà cũng chỉ bộ quần áo cũ hơn người. Làm ma trâu cúng mẹ là phải lý. Nhưng gặp lúc túng quá. Hai trăm đồng bạc trắng một con trâu. Lại phải vay mượn. Vay mượn thì được nhưng lấy gì mà trả? Nhà có hai con trai lớn là Pao và Lử thì hai đứa hai ngả, chẳng giúp được gì. Thằng Pùa còn nhỏ. Lại thêm việc tục huyền hồi đầu năm kia. Đời người già không có bạn buồn quá. Dòng họ vun đắp. Vậy là lấy bà vợ kế về, rồi hai năm qua, hai đứa trẻ ra đời, ốm đau quặt quẹo luôn. Thôi thì nhân dịp làm ma khô cho mẹ thì cúng chín ông sơn tinh giữ cõi, chín ông thổ thần giữ đất luôn thể, để các ngài phù hộ cho cả nhà, cả dòng họ.

 

Ngồi cạnh hố pẩu, là thầy cúng A Đa béo nục, đầu múp, hai má chảy xệ, cằm đùn hai lớp, ria mép xoắn nhọn chĩa hai bên mép đen sì. Lúc này lão ngồi trên một tấm ghế băng phủ khăn đỏ đặt trước bàn thờ. Cái ghế là con ngựa thần đi chu du tìm linh hồn lưu lạc. Đùi quặp chặt vào bụng ngựa, chân nhún trên đất, thân trên lắc lư theo nhịp ngựa phi, tay giơ cao rung chùm nhạc, miệng lão eo éo:

 

Ngựa mạnh ngựa khoẻ

Tiến lên nào!

Chạy nhanh lên.

Chạy nhanh đến không có dấu chân.

Ngựa khổng lồ.

Hãy dẫn quân lính ta đi.

Đi xa nữa đi.

 

Theo nhịp bài hát cúng, chốc chốc lão lại phắt một cái, nhảy lên ghế đứng, rồi lại phịch một cái, phệt xuống ghế ngồi, môi mím bật “brừ… brừ” như tiếng ngựa thở.

 

Ấy là lúc hồn lão rời khỏi thể xác, đi theo cái trục xuyên qua ba thế gian: Thiên đường, Địa ngục, Mặt đất để tìm ma, tìm hồn.

 

Thầy cúng A Đa là thầy cúng cao tay, có nhiều phép thuật. Lớp cúng nào thầy cũng bắt được hồn, cũng trừ được ma. Thôi thì đủ các loại ma. Ma cây, ma bụi rậm sai khiến hổ bắt lợn, bắt người. Ma ngọn suối phá hại sự sinh đẻ, làm sản phụ chết. Ma trong núi làm người gãy chân và sốt mê man. Ma ác nào thì cũng phải thua thầy.

 

Năm ngoái, hố pẩu lên càng cua, cũng đã mời thầy A Đa cúng. Cúng ba ngày, mất một lợn, một dê mới bắt được hồn ma. Hồn ma là những con sâu đen đào thấy ở cái rãnh cạnh nhà. Đầu năm thằng Pùa ốm, thầy khấn xong, đặt hai con gà, một con trắng, một con đỏ lên hai vai nó, rồi hát véo von như dụ dỗ: "Đến nhanh! Đến nhanh! Mọi thứ đã sắp sẵn cho mày! Trông xem những con gà đẹp này!" Quả nhiên, thoáng cái con ma hang đá mắc lừa đã dẫn thân đến cho thầy bắt.

 

Pao đứng ở hiên từ lúc nãy. Theo dõi buổi lễ, đến đây Pao bỗng thấy căn nhà chợt a lên một tiếng reo mừng rỡ. Thầy A Đa vừa từ lưng con ngựa thần đứng xuống đất. Một người đàn ông bưng chậu nước đi vào bếp, đổ ập vào miệng cái bếp lò. Trong khói bếp mịt mù, một dòng người từ gian nhà trong bưng bê mâm, bát, chai, hũ đi ra. Nét mặt ai nấy đều hỉ hả khác thường. Các ma ác thế là đã phải bỏ chạy cả rồi.

 

                                              * * *

Cỗ đã dọn. Ba mươi bát xếp thành hai hàng trên tấm ván kê trước bàn thờ. Ba mươi bát, bát nào cũng giống bát nào: trong bát có đủ miếng thủ, miếng lòng, miếng gan, miếng thăn. Và các mâm gỗ cũng đã ngả ra, xếp thành hàng lối, ngay ngắn. Thằng Pùa từ trong nhà lách ra, kéo tay Pao: "Anh Pao, vào đi!”. Người trong nhà đang toá ra, Pao né vào cạnh cái quan tài ở hiên.

- Dà, cháu Pao! Mẹ cháu đẻ cháu dưới chòm cỏ ngải nên cháu xa làng lâu quá.

 

Có tiếng ai đó nói. Pao quay lại. Cha Pao vừa ló ở khung cửa.

- Cha! Cha! - Pao lắp bắp.

- Pao! Con… con đấy à, Pao?

- Cha! Pao kêu to một tiếng rồi đứng lặng. Ba năm là bao nhiêu ngày tháng nhớ, âu lo. Ba năm mà cha đã già xọp. Mặt hóp lại, chân tay cha khô khẳng, chẳng còn khí sắc, chẳng còn tuyết người như hồi xưa. Nước mắt trĩu nặng vành mi Pao. Cúi đầu, cố nén xúc động, hố pẩu quay ra sân, giọng nghẹn đắng:

- Mời các ông các bà, mời các cháu vào nhà đi! Pao nó về rồi đây này. Nào, nào…

                                             * * *

Lão Sếnh tuần chay nào cũng có nước mắt, cỗ bàn nhà nào cũng có mặt. Lão bỏ đám hội họp ở nhà Giàng ly trang sang đây, giờ đập đập chân phủi bụi, co cẳng ngồi lên ghế ở sát ngay bàn thờ. Cái mặt đầy tàn nhang, tươi hớn:

- Nào, mời các cụ - Lão Sếnh nhấc chén - Ta uống rượu mừng, rượu hội ngộ, rượu vui vì cháu Pao trở về. Cháu Pao à, khà… rượu này làm người chết tỉnh dậy đây. Cháu về, lòng lão có con chim hót đấy. Cây có nấm, ở trên rừng cũng có nấm, ngâm dưới ao cũng có nấm. Cháu Pao à, người Hmông ta đã có na nủ Châu Quán Lồ, giờ lại có cháu làm quan to bên Việt Minh. Hế! Cháu đã thấy mặt na nủ Lồ chưa? Húi, ngài khác người thường. Hai mắt dồn một nên mắt ngài như sao. Ngài bắt được con hổ vằn. Này cháu, tướng mạo cháu cũng khá đấy. Mắt cháu tinh anh hơn mắt người. Tai cháu to hơn tai người.

 

Mâm cỗ trên bàn cao có năm người: Pao, A Sinh, lão Sếnh, thầy cúng A Đa và một người đã có tuổi, da đỏ đắn, dân làng vẫn gọi là ông già tam thất vì ông có một cái trại trồng cây thuốc quý đó ở đầu làng. Ông già tam thất và lão A Đa, Pao chưa quen. Mâm cơm hơi tẻ. Chỉ có lão Sếnh nói. Hết chuyện về na nủ Lồ, lại chuyện hổ, chuyện trâu, chuyện gái. Cái miệng có cái răng cửa gãy của lão chẳng để yên lúc nào.

 

- Ông quản ma này, tôi nằm mộng gặp một con trâu. Con trâu bảo tôi: Mình ơi, tôi phải làm trâu năm năm nữa. Thế là thế nào?

- Bà nhà ông đấy! - Thầy cúng A Đa đáp.

- A, thế cái răng tôi tự dưng gãy khục một cái là làm sao?

A Sinh đặt kịch chén rượu:

- Ông ghẹo cô Seo Say bị nó đuổi ngã chứ sao!

- Láo!

- Hì hì…

- Húi, con Seo Say mê tao thì có ấy! Làng này, không đứa nào bằng nó - Lão Sễnh cười tít mắt - Con Váy vợ ông tư được cái trắng và hai tảng mông to. Nhưng con gái Hmông không đứa nào có cái ngực to đẹp như con Say. Mà ông quản ma này. Nó, cái con Say ấy, nó đẹp thế mà anh đàn ông nào cũng chê… - Ghé tai thầy cúng rồi bật ngửa cổ, lão Sễnh cười khành khạch - Tốt mái hại sống á! Nhưng giờ nó mê na nủ rồi. Nó đang hỏi tôi đường đi Pha Linh. Này, hay ta cho gà trống Pao họ Giàng ta đến. Hả, cháu Pao. Có dám chơi không?

 

Mặt Pao im phắc. Tất cả đều xa lạ, như từ ký ức của Pao sống lại. Căn nhà cũng lạ. Cạnh Pao là cái cột chính, trên cột treo hàm xương lợn. cột này thờ ma lợn, cái cột cũng lạ.

 

Hình như Pao lạc đến đây. Cái cảm giác ấy ám ảnh Pao cho tới khi hố pẩu trong vai gia chủ đã mời khách vào các mâm và quay lại ngồi cạnh Pao.

- Mừng quá! Mời các bác, anh A Sinh…

 

Sau buổi cúng, bao âu lo rầu rĩ đã tiêu tan, con người thảnh thơi, nhẹ nhõm, lại thêm Pao trở về, có mừng nào mừng hơn, có vui nào vui hơn. Quay sang Pao, hố pẩu dịu dàng:

- Ăn đi, con. Nào, cạn chén, các bác, anh Sinh. Nhờ ông bà, tổ tiên chở che, không còn giặc giã, đường đi không dây quấn, dây quàng…

Pao rưng tưng. Nhấc đũa, Pao chọn một miếng gan gắp đặt vào bát cha. Thầy cúng A Đa ngẩng lên, hai con mắt nhỏ, dài, sắc hiểm chạm mắt Pao, lảng ra.

- Anh Pao xa quê núi lâu rồi chắc không nhớ - Thầy cúng A Đa liếm mép - Xưa, có hai người là Giàng Sì và Xì Gì, người Hmông ta, tài giỏi lắm. Hai người đi đây đi đó. Một hôm họ tới bờ biển nọ, thấy một con hạc làm tổ đẻ trứng. Họ liền rình lức hạc đi vắng, mới lấy trứng hạc, đục lỗ, hút hết lòng đỏ, lòng trắng, rồi lại đặt vào tổ hạc. Hạc không biết, cứ ấp. Ấp mãi không thấy trứng nở liền bay đi lấy lá chát về dịt kín lỗ hổng. Bốn mươi ngày sau, trứng nở ra hạc con.

- Ui! Giỏi thế! - Lão Sếnh kêu.

- Giàng Sì và Xì Gì mới rình lấy thứ lá đó đem chữa cho con giun, con kiến chết, các con này sống lại hết. Hai người trở về quê. Ở nhà, vợ con họ đã chết cả. Hai người bèn lấy lá thuốc chữa cho vợ con. Nhưng vì lâu rồi nên xương của vợ con họ đã tàn, thuốc không còn hiệu nghiệm nữa. Hai người buồn quá. Họ liền ném lá thuốc vào hang và bảo dân làng: Chúng tôi chết đây. Sau khi chết ba ngày chúng tôi sẽ hiện lên thành cô gái dạy các người cách cúng bái, chữa bệnh.

Lão Sếnh nhổm phắt dậy, búi tóc tuột thõng dài xuống mặt ghế:

- Sao tôi không biết chuyện này nhỉ?

- Đấy là cái gốc của cúng bái - Thầy cúng lia mắt về Pao, đầy ác ý - Cái lý người Hmông cũng vậy. Đừng có bỏ!

Pao nhột người như chạm vào sâu róm. Đó là cái phản ứng xấu đầu tiên Pao nhận được. Hố pẩu không để ý tới việc đó, lại nhấc chén vui vẻ.

- Nào mời bác - Hố pẩu nhìn ông già tam thất - Cháu Dín đâu, sao không thấy nó sang, bác? Thằng Pùa nhà tôi nó hay lên trại chơi, bác phải nghiêm với nó bác nhé. Đừng cho nó vào vườn nghịch.

- Dà, cái vườn tam thất thì chả ai vào được đâu - Ông già tam thất cười - Mà cháu Pùa nó ngoan. Nó còn giúp tôi canh trại mà. Vừa rồi có bọn lính rút qua hỗn quá, định vào cướp… Chà, cây tam thất bảy năm mới có được củ to…

Lão Sếnh nghển sang, tay búi lại tóc, lô la:

- Khó thế đấy! Làm ăn giờ khó thế đấy. Ngày xưa có người Hmông ta đi tìm được một cái nước gọi là Nước Sung Sướng. Đường đi khổ lắm. Qua một hẻm núi có hai đao phủ gác, muốn qua phải tự cắt đầu mình. Rồi lại phải đánh nhau với thuồng luồng, rắn lớn. Nhưng đến được thì sướng lắm. Gà ở đó ăn tiền nhé. Lúa, ngô chín, tự nó bay về. Bí chín, tự nó lăn về. Về sau, có người đàn bà lúc lúa chín không chịu quét kho, không chịu quét sân, lúa ngô, bí chê bẩn không tự về nữa.

Như tìm được dịp, Pao đặt bát rượu, bắt chuyện:

- Thế thì ta phải quét dọn cho sạch trong sạch ngoài, cụ ạ. Đường đi đến Nước Sung Sướng gian nan nhưng bền lòng đi phải tới. Tới thì ta bền nơi ở, bền nơi làm.

 

Đó là câu nói dài đầu tiên của Pao, kể từ lúc vào bữa rượu. Giọng Pao trẻ, nhưng âm vang sắc thái thuần thục. Thầy cúng A Đa cúi xuống húp soạt một thìa canh, le lé liếc trộm Pao. Lúc ấy, đám đàn bà con gái ăn cỗ ở trong bếp đã lục tục ra về, ở mâm Pao ngồi ăn, câu chuyện đang đứng lại, thì chợt lão Sếnh đặt chân xuống đất đánh phịch, ngảnh ra sân, reo to: “Ông lý Giàng Súng!" và giọng thằng Pùa cất lên lanh lảnh ở hiên "Cha ơi! Anh Lử về…".

 

Hố pẩu Giàng Lầu lập cập đứng dậy. Bọn người tụ hội ở nhà trưởng Giàng Súng đã tan cuộc, đang bước vào sân. Giàng Súng áo ca pốt dạ, cắp ô đen, cao gầy, đi đầu. Theo sau là Lử và Seo Cấu.

- Mời ông lý! Mời ông lý - Hố pẩu vồn vã - Lử, con về đấy à? Mời anh Cấu, các anh…

 

Giàng Súng treo ô lên vách, xoa tay:

- Hố pẩu đừng gọi tôi là ông lý nữa. Đời mới đến rồi. Vả lại, quan là chức thôi, còn thì vẫn là dân. Như cháu Pao đây. Cháu Pao là quan to Việt Minh. Nhưng về tới làng thì lại là con cháu họ Giàng ta chứ. Mà đời mới thì ai cũng chẳng như ai. Có phải không, cháu Pao?

- Đúng quá rồi! - Seo Cấu gào, xấn tới ngồi chen vào giữa ông già tam thất và A Sinh.

 

Lử lừ lừ đi vào, chẳng nói chẳng rằng, đặt đít xuống ghế, lưng chạm vào sườn lão Sếnh. Mâm rượu bỗng phình to. Bà cô Doa bưng hai bát miến, một bát thịt tới tiếp thêm. Hố pẩu rót rượu vào mấy cái chén mới. Pao ngồi lui ra như để ngắm kỹ hơn mọi người và nhận thấy nhiều cái nhìn trộm chớp qua mặt mình. Không khí có gì như ngập ngừng, giống như tiết trời lửng lơ, không biết đi về đâu. Mâm cỗ chia thành hai nhóm tức khắc. Nhóm dưới: Lử, Seo Cấu, Giàng Súng, lão Sếnh ăn uống sùng sục. Nhóm trên chỉ nhấp rượu như để nghĩ ngợi cho thêm phần sâu xa. Âm thầm vui sướng nhất lúc này là cha Pao. Cha ngồi, không nói, mắt hiền từ hết nhìn Pao lại nhìn Lử. Các con đã về. Vậy là sau bao năm loạn ly điêu linh tan tác, mỗi con một ngả, giờ hai con đã trở về làng quê. Nâng chén rượu, chòm râu rung rung, mắt hố pẩu nhoà lệ:

- Ông bà tổ tiên họ Giàng để phúc đức cho con cháu.

Nhấc chén theo hố pẩu, Giàng Súng nghề ngà:

- Nào! Rượu mừng!

Pao đứng dậy, đĩnh đạc:

- Cha, con có mấy lời trước khi uống chén rượu này. Con đã đi theo Cách mạng. Được Cách mạng dạy dỗ, giờ, Cách mạng bảo con về làng ta cùng mọi người đoàn kết xây dựng đời mới. Vậy, chén rượu này là chén rượu đồng lòng, chén rượu đoàn kết!

 

Mấy chén rượu cùng nâng. Những cái đầu cùng ngửa. Không khí hưng hửng vui, nhưng sự chan hoà vẫn có một vẻ gượng gạo thế nào. Vả, ở nhóm dưới đang chộn rộn bỗng bật lên một tràng cười thật thô lỗ. Seo Cấu bá vai lão Sếnh, ngả ngốn:

- Bây giờ, chỉ có ông Phơ-rô-pông và bọn đi theo ông ấy là sướng thôi.

Lão Sếnh vỗ vai Lử, cười hắc hắc:

- Vợ chồng đánh nhau không bỏ được cái giường. Anh em đánh nhau cũng không bỏ được nhau đâu, ông Lử ơi!

Giàng Súng cầm đũa bới đĩa xào. Lão tìm cái gì? A! Tìm quả tim gà. Quả tim cắt đôi rồi. Lão gắp một miếng đặt bát Pao. Pao lặng lẽ nhón miếng tim bỏ ra rìa mâm. Vừa lúc, Lử ngồi thẳng dậy, thấy Giàng Súng vừa đặt vào bát mình nửa quả tim gà, liền xua xua tay, gắt: "Tôi không ăn tim đâu!”

 

Giàng Súng bật ngửa đầu, hể hả:

- Các cháu đi xa mà còn nhớ lý dòng họ đấy. Ngày xưa, họ Giàng ta ở cạnh nhà người Hán, hai nhà kết nghĩa thân gia. Một hôm, nhà họ Giàng ta mổ lợn cúng. Lúc múc thịt, không thấy quả tim, người anh mới hỏi người em. Người em nói không biết. Người Hán thấy vậy liền rỉ tai người anh: "Em anh nó ăn vụng đấy. Thật mắt tôi trông thấy mà!". Người anh tức giận bắt em phải mổ bụng ra xem. Bụng em mổ ra, quả tim không thấy, chỉ thấy cái nấm. Tới lúc xong buổi cúng, múc hết chảo thịt mới thấy quả tim dính, cháy ở đáy chảo. Từ đấy họ Giàng ta kiêng ăn tim, giữ lời nguyền: không nghe lời kẻ ngoài dòng họ!

- Phải rồi, người ngoài họ tộc độc bụng lắm - Ông già tam thất nói.

- Chỉ có họ Giàng ta tin nhau thôi - Giàng Súng nhìn Pao - Cháu Pao à, bóng dù phải che cán dù chứ nhỉ?

- Na nủ Lồ cũng tốt chứ! Ngài cho ta con hổ - Lão Sếnh phồng mồm nhồm nhoàm nhai.

Seo Cấu lắc đầu, đập tay xuống bàn đánh thình:

- Không có na nủ Lồ gì hết! Họ Giàng ta, hổ xám là ông Giàng A Lử.

Cả mâm cỗ chỉ có Lử là im lặng. Hắn tợp một hụm rượu và cứ ngậm hụm rượu trong mồm. Mặt hắn tái nhợt, hắn đã nốc đầy bụng rượu ở buổi ăn thề lúc nãy rồi. Và bây giờ, cái răng sâu lại tấy nhức.

- Lử, ăn đi con…

- Hố pẩu nhìn Lử, dịu giọng, xót thương. Lử đưa tay cúi xuống nhổ ngụm rượu vào chân bàn và đứng dậy, tay vẫn ấp má. Seo Cấu đứng dậy theo. Chợt ông già tam thất kêu: "Ơ, sao kéo cái túi tiền của tôi, ông Cấu". Cấu buông tay, cười hí hí rồi đi theo Lử. Lử bước khật khưỡng. Pao đứng dậy. Lử đang định đi đâu?

Bỗng… huỵch… Lử vướng cái bậc cửa, ngã dập xuống, nửa người ở ngoài hiên. Seo Cấu kêu:

- Ông Lử bị ba chục chén rượu vật đổ rồi!

Hố pẩu cuống quýt chạy tới. Pao nâng Lử dậy. Hố pẩu sờ ngực Lử:

- Vào cạnh bếp lửa đi! Đi đâu nữa bây giờ, con! Về ngủ bên bếp lửa nhà mình, con à.

Hai cha con khiêng Lử vào nhà. Lử bắt đầu mê man li bì…

Xóm Đông

» Tác giả: Trang Thanh

» Dịch giả:

» Thể lọai: Truyện ngắn

» Số lần xem: 2516

1. Xóm Đông

"Nào Hồng Hoa Mơ Ước út Thêm, dậy dậy thôi, sáng bảnh mắt ra rồi đây này. Nào dậy thôi... ôi..." Ba trăm sáu lăm ngày như một, con Thắm, chị cả, đã bắt đầu màn chào buổi sáng bằng cái giọng hấm hách phát ra qua cặp môi cong khô khốc, trong khi nó cũng chỉ vừa ngật ngưỡng ra khỏi giường, mắt vẫn dính nhép. Một cái ngáp rõ dài, nó tỉnh hẳn. "Nào! Hồng Hoa Mơ Ước út Thêm! Chúng mày còn phải đợi người ta vào tận giường lôi ra nữa à, đã bẩu dậy là dậy thôi!" Nhưng "bầy vịt" vẫn không nhúc nhích. Chợt vẳng lên tiếng rít thuốc lào vào điếu long sòng sọc. Anh Thân đã dậy từ lúc nào, ngồi rung đùi bên chiếc bàn gỗ cáu cạnh, nhả ra từ miệng và cả hai bên lỗ mũi từng cụm khói nhờ trắng cuốn xoáy mây bay. Hễ anh cất giọng là bao giờ cũng gằn lên từng tiếng: "Chúng - mày - có - dậy - cả - đi- không - thì - bẩu - ông! Mẹ kiếp! Con gái con lứa vô tích sự, sáng bảnh mắt ra..."

 

"Dậy cả đi lũ báo hại! Dậy cả đi ra đây tao bẩu đây này!" Chị Thân, sau khi đã vung gầu vục nước đổ tràn bể, đổ cám cho đàn lợn 1 mẹ 12 con ăn để bịt miệng lũ chúng nó khỏi rít chói tai, lúc này mới cất lên thứ tiếng có uy lực nhất trong nhà, tay vẫn thoăn thoắt xâu cua vào cái xiên tre. Một. Hai. Năm. Mười. Mười lăm. Hai mươi con. Một xiên. Vừa vặn. Đều tăm tắp và chặt chẽ không lệch đi đâu được. Đến khi Con Thắm quát em dậy chị đã xâu được 7 xiên, con Thêm khóc chị đã xâu được 10 xiên. Giờ thì cả "đàn vịt" 7 con đã ngồi quây tròn xung quanh cái nồi đồng năm mươi cua vơi đi quá nửa, ngước nhìn mẹ thành kính như con chiên xưng tội.

 

Đồng hồ chỉ 4h30'. Lịch treo tường màu đỏ: Chủ nhật ngày 19 tháng 6 năm 1992. Không có tiếng ê a học bài buổi sáng của lũ trẻ trong xóm như thường lệ, vì dạo này tất cả đều nghỉ hè. Con chó vện chốc chốc ư ử rên.

 

"Con Thắm mang vó ra ao thả, con út đi theo ném thính, con Hồng ra xoi hái rau đay mồng tơi, con Hoa thủi cơm, con Mơ chuẩn bị quang gánh, thả gà ra cho ăn, con Ước quét nhà, hót cứt gà, quét sân. Làm đi. Nhanh lên. Còn con Thêm, đưa đây tao cho bú". Con Thêm ư ư những âm dài sung sướng, nhanh chóng truồi khỏi lòng con Mơ, rúc vào nách mẹ. Chị Thân khẽ kênh cánh tay vẫn thoăn thoắt múa trên xiên cua, tay kia đưa ngang, kéo đánh thoắt đường nách cái áo ba lỗ rộng thùng xộc xệch nhệch sang bên. Cái vú dài thây lẩy, căng nhức bị bắt chành ra phía nách. Đầu vú đen thẫm như quả dâu ta chín, ngỏng lên, cứng đanh, rỉ ra một giọt sữa trắng, thách thức con Thêm chồm tới. Con Thêm rướn lưng, đôi chân cong khuỳnh, miệng nhanh nhảu đơm ngay vào. Bầu vú méo mó biến dạng dưới hõm nách sâu hoắm, hằn rõ những vệt gân xanh.

 

Người đàn bà đẻ 7 lần 7 cô con gái là chị Thân, đã sáng tác ra kiểu ti mẹ độc nhất vô nhị thế gian. Con Thêm khịt khịt mũi, "choét" một cái, môi bóng đỏ, má ửng hồng, mặt bửng chửng.

 

***

 

"Mẹ nhà chúng mày! Mới sáng bảnh mắt đã lè nhè hả! Xúi cả buổi chợ của bà thì bà cho ăn cái l... của bà đây này!" Con Thêm đang nghịch mấy hòn sỏi chợt víu vào áo mẹ, ngơ ngáo. "Giời ơi là giời, sao cái thân tôi nhục nhã thế không biết! Mới sáng bảnh mắt đã rượu. Hả giời ơi là giời!" Anh Thân súc miệng òng ọc, chẹp chẹp vài cái rồi nói vóng qua cửa sổ: "Bà có im đi, không thì thiên hạ người ta cười cho. Đã bẩu là chín bỏ làm mười. Mà mới sáng ngày ra đã..." "Im gì, im cái mả mẹ nhà chúng mày! Sao mày không bẩu cái thằng chú của mày chừa đi. Xúi cả buổi chợ của bà..." Anh Thân tái mặt. Bà thím dâu vênh váo cắp nón đi.

 

Lúc này, ông mặt trời còn chìm khuất dưới tán cây bên kia cánh đồng làng. Bà Xiển chân vòng kiềng, bước khuỳnh khoàng hai cột trụ cổng, đôi cánh tay dài thõng thẹo quá gối vung bên nọ vẩy bên kia. Cái thúng đội trên đầu lồng khồng túm lông vịt, không cần tay đỡ, vững chãi như thể cô hầu đội mâm lúc nhập đồng. Bà người Đoài thôn, đến xóm Đông làm dâu, đẻ sòn sòn 9 lần: 4 trai 5 gái, chết non 3 đứa còn 6: 3 gái 3 trai. Chúng đã có vợ có chồng, ở riêng cả. Ông lo vài sào ruộng khoán, bà chạy chợ bán thêm ít bánh nếp bánh tẻ.

 

Ông Xiển nhả ra khỏi miệng khói thuốc lào, bụng lầm bầm nghĩ thế là thoát khỏi cái con mẹ điên lắm điều. Rượu hết. Túi rỗng. Định bụng bán cân lông vịt thì bị mụ vợ phát hiện lôi ra chợ mất. Sáng ngày ra trệu trạo vài hạt cơm nguội, miệng nhạt tanh nhạt thếch. Rít thêm khói thuốc lào, miệng lại đắng nghét. Ông Xiển chẳng chịu được tanh, chẳng chịu được đắng. Chỉ có cay. Cay đến thế nào cũng làm ông dễ chịu. Có tí cay vào là ông ngủ ngay được. Cánh bợm nhậu cùng cạ với ông gọi ông là "ỉ tửu". Ông ngủ quên hết cả vợ con, trời đất. Ngủ ngả nghiêng, ngủ say mèm, ngủ mê mệt, ngủ suốt cả một ngày. Tỉnh dậy ông lý luận. Mà rõ lạ. Chỉ khi ngủ dậy mới dọn giọng. Còn lúc uống xong chỉ ngủ như chết. "Mẹ chúng mày, cứ bẩu ông là "ỉ tửu"... ỉ cái con mẹ chúng mày đây này! Uống - ngủ. Ngủ - mơ. Ông lên tiên giới. Ông tới suối ngàn. Suối ngàn í... a... đào... nguyên...í...í...a... Ông bay... ông nhảy... í...a...í...à... Ông gặp tiên ...a...á...a...a...à...ì... Mẹ kiếp! Ông đây tiên tửu chứ chả chơi. Thử hỏi chúng mày có thằng nào bằng ông! ỉ tửu... ỉ... tửu... ỉ.... tử...u..."

 

"Này Ước, đi mua hộ ông cút rượu!" Con Ước đang lúi húi hót cứt gà, vờ không nghe tiếng. Tay nó cầm hai cái lá mít vàng xuộm, cứng như hai miếng mo nang, chân dò dẫm, mắt lần tìm theo từng bước chân, lưng cong dấu hỏi. Gặp bãi cứt gà, nó nhún gối xuống một chút, hai bàn tay đưa hai cái lá mít từ từ xít lại, nhẹ nhàng và khéo léo vun vào một cái. Bãi cứt gà nằm gọn trên một cái lá mít. Nó nhón chân hất thẳng ra vườn.

 

"Ước, đi mua ông cút rượu, con!" Lần này tiếng ông Xiển lọt gọn qua khe cửa, phóng thẳng vào tai con Ước êm ru. Nó gục goặc: "ứ. Mặc kệ!" Ông Xiển khẩn khoản: "Đi con, mua ông cút rượu!" "Thế ông có tiền không?" "Ông mua chịu". "Thế thì đừng hòng. Dơ lắm". Chị Thân quát: "Con Ước, hót xong chưa, quét sân đi. Mày lải nhải gì như con điên đấy hảng?" Ông Xiển ôm ngực ho rũ rượi.

 

***

 

"Tôi đi gặt trước". Anh Thân vác đòn xóc lên vai, buông sõng một câu, ý chừng chào vợ. Đấy cũng là lúc con Hồng bưng rổ rau đay mồng tơi lồng khồng về đến sân: "Mẹ ơi". Con Thắm tất tả cái rổ hất tép tong tong rỏ nước; tôm chà, sậu sặt nhảy lách tách lơn tơn: "Mẹ xem này..." Chị Thân khẽ đánh mắt một cái: "Nhanh tay lên, chúng mày nhanh tay lên, con Hoa cơm nước xong chưa, bố mày đã ăn chưa, dọn cơm ra đi". Con Hoa vung cái chiếu rách như tổ đỉa, bụi tung lên khắp nhà, miệng lầu bầu: "Bố mói cơm ăn từ đời nảo đời nào, đi rồi lại còn..." Chị Thân nghe không rõ: "Lầu bầu mả bố mày cái gì? Có nhanh lên cho tao còn đi không? Chợ trưa rau héo cá ươn. Chợ chiều cá thối người ườn mặt ra..." "Con bẩu bố mói cơm ăn lâu rồi chứ cái gì mà mẹ cứ..." "Lại còn cãi hả, mặt trời đỉnh đầu bố mày rồi kia kìa!"

 

Thoắt một cái, "lũ vịt" đã lại quây vào mâm cơm. "Nhanh nhanh lên. Tao bẩu chúng mày nhanh nhanh lên" - mẹ nó giục. Con Hoa cầm hai cái đũa cả đã mòn vẹt vọc vào cái nồi gang đầy cơi, tay ra chừng bải hoải. "Thật vô đoảng, cơm khô như cho chó ăn thế này à?" Nó khó nhọc xới được một bát, đặt trước mặt mẹ, lấm lét: "Mẹ ăn đi". Con Mơ, con Ước, con út tay lăm lăm một bát hai đũa. Con Thêm mới nhấm nhém được cơm rót cũng vọc một tay vào cái bát không, một tay vào bát rau luộc, mồm ư ư. "Ăn, ăn đi! Tao đi chợ rồi thì con Mơ ở nhà mớm cơm cho em". Bát rau muống luộc to tướng, thâm xì xì, bát nước cua muối mặn chát, mấy con cá sậu sặt rang nhội chạt những muối là muối, nồi cơm gang ba bơ khô khốc như gạo sống cơi vung, thoắt hết. Ngoài hiên, tia nắng đầu tiên xuyên qua khung cửa sổ. Dòng bụi hỗn loạn quay như đèn cù. Con Thêm mặt nhoe nhoét nhọ-cơm-rau, tay cầm đũa đều đều vung lên đập xuống mâm đồng coong coong mà mắt thì dõi theo dòng bụi quay tít, cười bí ẩn.

 

Con vện sau khi nhai gọn chỗ cháy, nằm choãi chân như con thạch sùng bám tường, từ đầu đến đuôi dính bệt xuống nền hè. Người ta bảo giống chó có kiểu nằm thế này khôn phải biết. Chị mái già tục tục gọi con uống nước ngoài sân giếng. Mười chú gà con đã khá lớn, vẫn chưa bị mẹ bỏ, te tái vẫy những đôi cánh cũn cỡn chơi trò ú tim. Bỗng ở đâu ào đến một cơn lốc. Chú trống cựa bất nhã xông vào giữa đàn gà, đạp lộn mấy chú gà con lăn lông lốc, đuổi chị mái già té tái. Chị mái già nhảy giạt lên cành rào, lộn cổ xuống, bị chú trống lực lưỡng mổ một nhát trúng mào, kêu quang quác, lại vùng chạy cắm đầu cắm cổ vào trong nhà, táp cả vào chân tường. Chú trống thừa thế gằn mạnh lên. Vừa kịp. Cả hai dúi dụi cạnh nồi cơm...

 

Chị Thân nhắc nhẹm mông rút cái chổi cùn đánh xoẹt, ném một cái trúng phóc "hai con ôn vật". Chú trống "kéc kéc" khoan thai rời khỏi lưng chị mái già, đập nhẹ đôi cánh vàng đen tím đỏ xanh biêng biếc, đẹp như đôi cánh thiên thần, niềm kiêu hãnh ngời ngời hàng ngày giương diễu, át vía hết thảy bọn gà choai trong xóm. Với chú thì có gì mà phải vội. Cặp đùi chú kệnh ra hai bên, thả từng bước khụng khiệng sau "chiến trận" thắng giòn. Chị mái già chạy thục mạng tới chỗ đàn con đang dáo dác tìm, đầu chúc xuống đất ra chừng xấu hổ. Con Thêm khóc thét. Con út lôi em ra, rút xoẹt cái khăn mặt màu cháo lòng vắt trên cành rào trước sân, quệt một nhát ngang mặt con bé. Con Hoa dọn mâm. Con Mơ cuốn chiếu. Rũ.

 

"Con Hồng, con Hoa, kéo xe cải tiến ra đồng gặt với bố mày trước đi. Gặt cái mảnh sào mười Ngũ Đồi ấy. Còn con Thắm, kéo thêm vài lượt vó nữa lấy tép ăn rồi thu về, xem thóc rơm chúng nó phơi thế nào rồi ra sau. Con Mơ, con Ước, con út lấy chủi quét sân, đổ thóc, rũ rơm. Đến trưa thủi cơm cho dẻo dẻo vào. Tép rang mặn muối hơn hôm qua tí nữa. Rau muống xào cho tí mắm tôm. Chúng mày nhớ trông em cho cẩn thận vào đấy!"

 

Không đứa nào nói gì, ấy là chúng đã tuân lệnh. Chỉ con Thêm khóc như phải bỏng.

 

***

 

"Cha tin hiền đứa nào hôm qua ăn không ăn hỏng con gà của bà. Bà bẩu cho mà biết mà mở mắt ra nhứ... ứ... Ăn không ăn hỏng của bà mà có ngày của nả trong nhà đội nón ra đi, sống mà không yên, chết mà không nhắm mắt nhứ... ứ... Cha tin hiền nhà chúng mày! Nhứ... ứ... ứ..." Bà Na, người đàn bà làm lẽ không có con, tội nghiệp, cứ mấy hôm lại mất một con gà. "Thôi bà nó ạ, chẳng gì mình cũng là đảng viên, của đi thay người. Chửi bới làm gì mất quan điểm". "Mặc cha chúng nó chứ, tôi cứ nói vóng lên thế đấy, đứa nào có tật thì giật mình". "Chị The này. Tôi tức chết đi được mất". "Thế lại mất con nữa hở bà?" "Con gà mái vừa mới đẻ được vài cái trứng con so. Đứa nào mà khốn nạn! Tôi thì tôi cứ chửi cho chúng nó ăn không ngon, ngủ không yên. Tôi mà bắt tận tay day tận trán đứa nào bắt gà của tôi thì tôi chan tương đổ mẻ vào mặt ông bà ông vải nhà chúng nó..." "Chị Côi này, tôi đến bán hết đàn gà thôi, được dăm ba đồng cũng là được, còn hơn để cho lũ chó nó ăn mất". "Cứ như là có cáo ấy bà nhỉ?" "Cáo cầy gì? Lũ cáo đầu đen thì có. Ông ấy nhà tôi cứ bẩu một câu nhịn là chín câu lành. Lành gì! Quan điểm gì! Ai mà đi giáo dục quan điểm được cho cái lũ ấy. Tôi mà biết đích xác đứa nào..."

 

Chị Thân đã ra đến đầu ngõ giếng. "Mẹ nhà Thân một gánh trĩu cua kia à? Tiền để đâu cho hết! Còn lo gì mất mùa mấy chả không mất mùa! Cả cái xóm này chả có nhà ai lợn đầy đàn đầy nái..." Bà Huê, người đàn bà dẻo mỏ nhất xóm Đông chào chị Thân thánh thót. Từ sáng đến giờ bà Huê đã thánh thót ngon ngọt với ít nhất ba người. Đầu tiên là bà Xiển: "Gớm, bác có gì mà tất tả sớm thế. Hôm qua bánh bán không kịp bóc hả bác? Hôm nay đi sớm chắc đắt hàng phải biết!" Thứ đến chị Nhận: "Gớm, vườn trên ao dưới có khác, ngày nào cũng mấy trăm rau. Tôi bẩu rau nhiều thế còn đi bắt cua làm chó gì cho khổ!..." Ai cũng chỉ ừ hữ với bà Huê cho qua chuyện. Thể như lúc nào bà cũng hậm hực với anh em họ hàng rằng nhà mình thiệt thòi, mà thực ra cũng ruộng sâu trâu nái, con cái lớn ngồng, đến tuổi kén chồng hỏi vợ, nhà xây năm gian, lợn đàn gà đẻ. Anh em chòm xóm chỉ bằng mặt với bà mà không bằng lòng. "Hôm nay bà được nhiều không? Chưa đi chợ kia à?" Chị Thân bao giờ cũng là người nhẹ nhàng với bà Huê nhất. "Có quái đâu mà nhiều! Vài cái xiên cua óp. Hái thêm mấy mớ rau nữa cho đủ tiền mua cân phân đạm. Hì...hì....hì...." Chị Thân khinh khỉnh: cái điệu cười của bà ta sao mà nhạt. Rồi quày quả bước đi. Đến giữa con mương dẫn đến chợ Khu Tám, vắt ngang cánh đồng Ngũ Đồi, chị Thân gặp chị Nhận đang ngồi phệt dưới cỏ. "Ơ bác Nhận! (Chị gọi chị Nhận bằng bác thay con) Sao còn ngồi đây?" "Nặng quá mày ạ. Tao bị đau lưng mấy hôm rồi". "Để em đỡ cho". "Khiếp, không có tiếng lợn ét nhà mày thì tao mấy bà bu không còn biết đường nào mà dậy. Hôm qua tao bắt được ba giỏ đầy cua. Cố bòn vụ hè này để đầu năm còn tiền học cho các chị ả. Sáng lại hái được hai trăm rau muống, không gặp mày có mà phải đổ tháo xuống mương". "Thóc nhà bác săn nhiều chưa? Bao giờ gặt nốt sào ba Đệ Tam?" "Lép kèm kẹp chán chả buồn gặt. Sang năm bỏ cái giống ấy đi mày ạ, lắm dầy nâu bỏ bà. Cứ cái kiểu khoán mười như thế này, mình không chủ động, chiêm khê mùa thối có mà ăn cám. Sáng nay bà Xiển ca sớm thế?" "Ôi dào cái mụ! Có mà đến nhắm mắt xuôi tay..."

 

Hai người đàn bà kĩu kịt bám gót nhau mà đi. Cào cào châu chấu bay rào rào. ở giữa đồng, lom khom vài bóng người đang gặt. "Ông Thân nhà em nhanh thế. Nhìn thế kia chắc đã được nửa sào đấy bác nhỉ?" "Sào có mà sào rơm lại chả nhanh". "Nhà bà Xiển không biết lấy gì mà giả nợ lúa non. Bóc ngắn cắn dài, độ vài vụ mất mùa thế này có mà đi ăn mày bác nhỉ". "Tao mấy bu tao đã bảo mà. Cứ rượu lắm có ngày còn chết. Nhưng mà lại không chịu được. Bà ấy đi chợ ăn nhờn mồm. Tí nữa thể nào tao mấy mày cũng gặp ở hàng bánh cuốn đi ra cho mà xem. Buôn với chả bán. Buôn cu bỏ sọt nó tọt xuống ao. Chả trách được". "Hôm qua em thấy thằng Phong nó vào, tưởng có gì cho hóa ra không, ông thì chẳng nói chẳng rằng, bà khinh khỉnh. Chả trách đứa nào cũng muốn ra ở riêng cho chảnh hoảnh. Đến mấy đứa cháu nó cũng chả thiết vào. Già rồi mà còn chưa chót đời". "Mấy cái thằng ấy cũng mất dạy một lũ mày ạ. Cứ bảo ra thành phố đi xây đi xẻ lắm tiền, rồi cũng dốc vào cháo lòng tiết canh mấy thịt chó hết, lại còn mua đầu "viô" về ông ổng hát "kaôkê". Cứ đánh dậm thâm dái chẳng sao, đi ra thành phố ráo chân ráo tay, không khéo còn mắc thói đĩ bợm. Hôm nọ con vợ nó khóc sưng mắt, hình như là thằng mất dạy tha cái bệnh tim la cù đinh về. Mày xem!" "Nếu thế thì thậm khốn nạn". "Kể nghĩ ông Xiển cũng tội nghiệp mày ạ. Lúc tao thắp đèn hái rau ao đằng sau, ông ấy ra vạch chim rót ngay vào trái bếp, miệng ư ử "ông tới suối ngàn ông lên tiên giới" làm bu tao cứ cười lăn". "Em đã bẩu cái ông Thân nhà em không nghe. Đụng vào làm gì để mụ ấy chửi cho. Đèn nhà ai nấy rạng. Anh em cái họ nhà này chẳng đứa nào tử tế. Mình không đẻ được mụn con trai chúng nó cũng nói ra nói vào. Ông Thân nhà em cứ vài hôm lại hậm hực, mình còn sống sờ sờ mà lại cứ bẩu trưởng tràng nhường cho người khác đi thôi, vớt vát mãi. Nói có bác chứ em cứ nẫu cả ruột". "Mày nghĩ làm gì cho mệt. Đẻ đến 7 đứa rồi, cố nữa có mà chết rục xương à. Nhà tao cũng không có con trai, chết ai đâu. Nhìn ba đứa nhà tao ăn học ruôn ruôn, lũ chúng nó có mà ức đến tận cổ". "Thì có bác như thế bác mới hiểu em. Mình thì gồng gánh nuôi con mà nó lại cứ rủa rồi không ngẩng mặt lên được với anh em họ hàng!" "Những đứa độc mồm độc miệng thì rồi nó vận vào thân. Mình ăn ở trời có mắt. Trưa hôm qua, lúc con Ước cong môi gọi "mẹ ơi", tao bẩu, điệu bộ, cứ gọi "bu" như bác đây này. Nó bảo gọi thế đi học chúng nó cười cho". "Đúng đấy bác ạ, bọn nó bây giờ kinh lắm, cũng đua đòi ra phết. Con Thắm đòi đi thi cấp 3. Nó cứ bì với các chị bên ấy, em bẩu mỗi cây mỗi hoa, mỗi nhà mỗi cảnh. Cứ bắt ngày vài giỏ cua, cấy nhanh gặt đảm rồi lấy chồng, đứa nào cũng thế. Nó bẩu, rồi đẻ như mẹ. Sư bố con cái thế kia chứ! Kể cũng khổ thân nhưng mình muốn chả được, bác nhỉ. Hôm nay bác không đi bắt cua thì gặt đủi cho em một công nhé".

 

***

 

Con Mơ chỉ đạo các em rũ rơm khắp ngõ, vãi thóc kín sân. Mặt đứa nào đứa nấy đỏ gay, mồ hôi mồ kê nhễ nhại. Đứa chang, đứa cào, chúng nắn nót san phẳng sân thóc bộp xộp những hạt lép và vụn rơm của vụ lúa thất bát. "Te le xình xình xình... Te le xình xình xình... Rứp...rứp...rứp...ứp...ứp...ứ..p... Nín đi, nín đi! Mai cho ăn cỗ cụ Mo cụ Thèm, nín đi, nín đi..." "Cụ Mo cụ Thèm cục giắm ấy! Đã không dỗ hộ lại còn cứ trêu. Trả em ông đây!" Con Ước ngừng chang, dẩu cái môi cong loe như cái loa kèn vặc lại chú Hai nó vừa cù quay con Thêm khóc ngằn ngặt trong cái nong đặt trên bờ hè, giọng xấc xược. Nó là đứa con gái thứ 5, một cái "thằng cu tẹt" có ước mơ thật buồn cười: lớn lên sang Trung Quốc lắp chim! Con Thắm con Hồng con Hoa, ba đứa cách nhau hơn một tuổi, nay vừa độ mười lăm mười sáu, phổng phao, da trắng, môi hường. Người xóm Đông bình phẩm đàn vịt giời nhà Thân có nước da trắng nhất, không hề bắt nắng, môi lại đỏ, phải tội hơi cong. Con Thắm môi cong nhất, thường xuyên nứt nẻ, thuở bé gọi là "con Cong". Con Hồng cũng có biệt hiệu "con Cớn". Con Hoa hay khóc biệt hiệu "Ba Nhè". Một Cong hai Cớn ba Nhè. Ba cô môi mè mót lúa chạy rông... Nhông nhông nhông... cởi truồng nhông nhông... đồng Bông trông thấy... Mỗi khi thấy ba "con vịt" lớn nhà Thân ra đồng, bọn trẻ trong làng lại hát rống lên như vậy. Đồng Bông chẳng biết có trông thấy gì không. Lũ trai choai thì nhìn cặp chân trắng nõn lấp lóa bùn của chúng tủm tỉm cười: ôi cha những 7 cô con gái. Tối tối, chúng lại đến trước cửa nhà chị Thân đua nhau rít thuốc lá Điện Biên, phả khói nồng nặc cả xóm Đông. Nhưng con Thắm con Hồng con Hoa dường như chưa lớn. Chúng tất tưởi nấu cám, dọn cơm, tắm táp và quát đạt lũ em đâu ra đấy trong tiếng rít đanh quánh của mẹ, kiểu rít của người mẹ dạy con đàn.

 

"A...á...a... chúng con là lũ vịt giời. Bé thời ăn hại lớn thời bay đi...i...i..." Chú Hai nó làm điệu ngâm nga trong họng. Con Ước tức lộn ruột: "Vịt giời cái con bướm ông đây này! Sĩ diện, có mỗi cái thằng cu Đạt". "Tao bẩu mày không sang Trung Quốc lắp chim sớm đi, sắp hết đợt rồi đấy". "Hết đợt thì kệ cụ nó hết đợt, việc gì đến chú nào?" "Chậc... chậc... ấy là tao cứ bẩu thế..." "Sĩ diện, có mỗi cái thằng cu!" "Cái con này láo quá rồi đấy nhá! Tao về sẽ mách với bố mày". "ừ, mách thì cứ đi mà mách. Chú là cái đếch gì. Có mỗi cái thằng cu..."

 

"Con Ước kìa, đuổi gà đi, nó tãi hết thóc ra rồi! Tao về mách mẹ cho mà xem!" Lệnh của con Mơ bây giờ như lệnh mẹ. Con Ước không dám cãi một lời, chỉ đưa mắt lườm lườm. Ui xì... ui xì... Lũ gà bắn tung tóe mỗi con một nơi. Nó quay vào, thấy con Thêm đang bám một tay vào thành nong, tay còn lại chới với cái dây thun lòng thòng từ cái dui nhà xuống, chân ở tư thế nửa quỳ nửa đứng. Con Ước hốt hoảng: "Con út, trông em sắp ngã rồi kia kìa! Cụ nhà chúng mày, ông về mách mẹ cho mà xem". Nhưng chính nó đã lại chạy vội tới đỡ em. Trong nhà, con út, con Mơ đang ao gạo sống vào cái bát bàn nhau rang trộm. "Cái gì đấy?" - con Ước hỏi. "Gạo rang, mày có ăn không?" "Đâu?" "Bây giờ mới ấy..." Con Ước quên cả tức giận, giục: "Chúng mày nhanh lên, bố sắp về bây giờ!"

 

***

 

Đi gần đến chợ, chị Thân và chị Nhận vẫn tiếng to tiếng nhỏ: "ừ. Bà Na lại mất gà hở mày? Mẹ! Rõ tội. Chẳng phải cáo mèo gì đâu mày ạ, nhưng nói chỉ để bụng thôi mày nhá. Cái thằng cu Phong nhà mụ Xiển chứ ai. Bố rượu con rượu, rau nào sâu nấy, thật nhà dột từ nóc dột xuống. Đêm qua, lúc nó bóp cổ con gà, chó nhà tao sủa ầm lên, tao tỉnh giấc, thế là mãi gần sáng mấy ngủ lại được. Không có lũ lợn nhà mày thì có mà ngủ chết trương". "Chứ thế bác tưởng em không biết ấy à? Ông bà Na ông bà ấy hiền chứ. Nó có giỏi thì cứ đụng vào nhà em". "Thật, có bà Na chứ, cả như tao mấy mày, bố bẩu chúng nó dám..."

 

Lúc này, ở chợ, sùm sụp cái nón trên đầu, bà Xiển suỵt soạt cúi gằm vào đĩa bánh cuốn. Cái mồm rộng nghuếch bóng nhờn những mỡ là mỡ. Còn ở nhà, ông Xiển chẳng biết đã xách chai đi tự bao giờ. Đàn gà mẹ con trên một chục ùa vào trong nhà ông Xiển bới lộn một góc tường đất vách. Mùi ẩm nồng xông lên, muỗi bay, cóc nhảy. Cái nhà vách bỗng lạnh như nhà hoang.

 

Chị Nhận bỗng bảo: "Bà Huê nhanh thế, đã đến rồi kìa". "Gặp bà ấy như chợ giời mưa. Nhanh lên bác". Hai người đàn bà đã đến chợ.

 

Mặt trời mới lả ngọn tre, xe lúa lồng khồng cũng nhẹ nhàng lăn bánh về đến ngõ. Tiếng con Thắm lại dóng dả: "Mơ đâu Ước đâu út đâu..." Không một tiếng đáp, chỉ con Thêm khóc ré bên nồi gạo rang bốc khói thơm lừng. Con Thắm chạy vội vào bếp, bế xốc con Thêm bị bỏng một vệt ở tay, miệng la lớn: "Giời ơi là giời, bố ơi! Lũ giời đánh chúng mày chết rấp đâu để em ông bị bỏng nặng thế này hả giời!" Anh Thân sấp ngửa kịp vớ chai nước mắm dội thẳng vào tay con bé thì đã nghe con út thất thanh, át hết cả tiếng khóc xé trời của con Thêm: "Chú Hai ơi bố ơi, chạy mau nhanh lên, ông Xiển... ông Xiển ngã... chìm nghỉm dưới ao rồi kia kìa!"

 

Xóm Đông bỗng chốc tá hỏa những tiếng la.

 

Nhưng rồi đâu lại vào đấy. Đèn nhà ai nấy rạng. Ông Xiển được đưa về sân nhà, người xóm xúm đến, cạy răng cho uống nước đái con thằng Phong, đã tỉnh. Bờ ao, bờ giậu xóm Đông lại lập lòe đom đóm và đâu đó rộ tiếng hát, tiếng tum chát ỉ eo của đội chèo đang tập ở sân đình...

 

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro