Truyện tranh Hòa thượng Quảng Khâm

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng
65756756756756756

Truyện tranh Hòa thượng Quảng Khâm

LỜI TÁC GIẢ

Trước hết, chúng tôi xin cảm tạ ơn gia bị của Tam Bảo và sự hộ trì của Long Thiên Bát bộ, cho đến những tấm lòng nhiệt tâm ủng hộ và tán trợ của chư Đại đức mười phương để cuốn sách này mau ra mắt độc giả.

Cuốn truyện tranh này thành tựu phần lớn đều nhờ sự chỉ đạo của chư sư trụ trì và chư vị Pháp sư của ba ngôi Già-lam: Thừa Thiên Tự, Diệu Thông Tự và Quảng Thừa Nham, đồng thời cung cấp cho những tư liệu rõ ràng tường tận, những truyện ly kỳ về một đời của Quảng Khâm thượng nhân, do các đệ tử dùng phương thức biến họa để biên tác thành truyện, cố gắng làm cho nội dung đơn giản dễ hiểu, già trẻ đều có thể đọc. Nhưng đệ tử chúng tôi đều là phàm phu sinh tử, không chút công phu tu hành, văn cảnh nếu có chỗ bất như pháp, mong cầu chư Phật mười phương từ bi xá tội! Độc giả sau khi đọc, nếu có cao kiến gì, rất mong được sự chỉ giáo, chúng tôi rất lấy làm cảm kích!

Những Nhân Vật Họa Truyện Phật Môn của bổn hội, sau này chúng tôi sẽ lần lượt xuất bản, nội dung sẽ thu thập những cao Tăng, Đại đức của giới tại gia, xuất gia cổ kim nội ngọai, đem những quá trình gian khổ của chư Đại đức, cao Tăng trong thời kỳ tầm sư phỏng đạo có thực tu, thực chứng, cho đến đạt ngộ những trí huệ phước đức và sức thần thông sau khi thành tựu khai mở tự tánh Như Lai, đồng thời đại chuyển pháp luân, mỗi mỗi sự tích tuyệt diệu ly kỳ trong khi hóa độ, nhất nhất chúng tôi đều cống hiến cho độc giả. Chỉ mong sau khi đọc, có thể chiêu cảm được tinh thần của Cổ đức, tiếp đó đại khai nhạn trí, nghiệp chướng tiêu trừ, dũng mãnh tinh tấn, hiện kiếp chứng ngay Phật đạo.

Cuối cùng, xin hoan nghênh chư Đại đức, tín chúng mười phương đã nhiệt tâm tác trợ ấn hành, đồng thời hồi hướng cho hết thảy chúng sinh đồng thành Phật đạo.

Nhóm công tác Giác Văn

CHƯƠNG I:THỜI NIÊN THIẾU

Ngày 26 tháng 10 năm Quang Tự thứ 18 triều Thanh, tại tỉnh Phúc Kiến, huyện Huệ An đã sinh ra một người có lòng thương tưởng cho đời, sau này trở thành hàng Tăng bảo của Phật môn, chuyên tu khổ hạnh, đạo phong lẫm liệt, phong độ hạnh kiểm xưa nay ít ai bì kịp, có những sự tích về việc hoằng pháp thật ly kỳ. Đó chính là Quảng Khâm thượng nhân, một vị đại cao Tăng được người người ngưỡng mộ.

Quảng Khâm họ Hoàng tên Văn Lai. Lúc 3, 4 tuổi, nhân vì gia đình nghèo khó, anh trai không tiền cưới vợ nên bố mẹ đã đem Văn Lai bán cho gia đình họ Lý, một gia đình nông dân ở huyện Tấn Giang làm con nuôi.

Gia đình họ Lý ngụ ở sườn đồi, sinh sống bằng nghề trồng vườn. Vì họ Lý không có con nên xem Văn Lai như con ruột, rất mực thương yêu. Thuở ấu thơ, Văn Lai thường hay yếu đuối bệnh hoạn, khiến cho cha mẹ nuôi rất lo lắng.

Có một ngày, Văn Lai bệnh đến mê man bất tỉnh.

Cha nuôi:

- Thằng nhỏ này sức khỏe kém như vậy. Chà! biết làm sao đây?

Mẹ nuôi:

- Này! Uống thuốc đi con!

Sau khi dưỡng mẫu bón thuốc xong, lo lắng bàn bạc với dưỡng phụ:

- Bây giờ phải làm thế nào để Văn Lai được mạnh khỏe?

Cha nuôi:

- Thế này nhé! Chúng ta hãy đến điện Quan Âm đầu làng khấn nguyện cho nó.

Mẹ nuôi:

- Đúng đấy! Chúng ta có thể mang Văn Lai đến cho Quán Thế Âm Bồ-tát làm văn khế, cầu được bình an.

Mẹ nuôi:

- Xin Bồ-tát che chở cho con của con, con nguyện suốt đời ăn chay để đền đáp ơn Phật!

Dưỡng mẫu bế Văn Lai đến trước Quán Thế Âm hứa nguyện. Do đó, từ nhỏ Văn Lai đã kết duyên sâu dầy cùng chư Phật, Bồ-tát.

Một ngày, Văn Lai cùng cha mẹ nuôi quây quần bên mâm cơm...

- Này mẹ, sao mẹ không ăn thịt?

- Mẹ đã nguyện với Bồ-tát Quán Thế Âm ăn chay suốt đời, với lại, ăn thịt động vật, mẹ cũng thấy lòng bất nhẫn.

Văn Lai vốn có trí tuệ thiện căn nhiều đời, nay nghe lời mẹ nói, bèn khởi lòng thương xót, thốt ra:

- Đúng đó! Những động vật này cũng có sinh mạng, sao chúng ta chỉ vì no bụng mà không đoái hoài đến sự thống khổ hay sống chết của nó?

Văn Lai nghĩ đến đây, trong lòng bèn quyết định...

- Này mẹ, con cũng muốn như mẹ vậy, ăn chay suốt đời!

- Thế à! Vậy thì tốt quá!

- Dạ, con thà ăn rau xanh, đậu hũ chớ không chịu ăn thịt những lọai động vật có sinh mạng này.

- Thật là một đứa con ngoan, mới 7 tuổi mà lại có thiện căn như vậy! Mẹ thật là vui sướng.

Lúc Văn Lai lên 9 thì mẹ nuôi qua đời, năm 11 tuổi, dưỡng phụ cũng theo mẹ ra đi. Ba năm ngắn ngủi, thương hải tang điền, bởi sự tàn phá của vô thường. Văn Lai mất chỗ nương tựa. Cô đơn lẻ loi giữa mây mù dầy đặc. Lúc ấy Văn Lai ốm yếu bệnh tật, tứ cố vô thân, không biết phải đi về đâu!

Văn Lai gói ghém lên đường, túi hành lý trên vai khá nặng đối với cái tuổi lên 9, nhưng trong lòng lại càng nặng trĩu hơn.

Ngồi trên tảng đá bên mộ cha mẹ, Văn Lai suy nghĩ về tình cảnh lúc này: "Đời là vô thường, có cái gì vĩnh viễn đâu! Hình ảnh sung sướng tợ như ngay ở trước mắt thì đã mất rồi. Bây giờ mình phải đi đâu?... Chi bằng đến chùa Thừa Thiên ở Tuyền Châu quy y đầu Phật". Văn Lai đem hết ruộng vườn nhà cửa, của cải cho bà con thân tộc, một mình đi thẳng đến chùa Thừa Thiên.

Chùa Thừa Thiên được xây dựng vào đời Chu Hiển Đức thứ nhất (954), phía Bắc gối đầu với núi Anh Vũ, diện tích khoảng 1 dặm vuông, cùng với chùa Khai Nguyên, chùa Sùng Phước được gọi là "Tuyền Châu Tam Đại Tòng Lâm". Từ lúc sáng lập đến nay, chùa đã trải qua mấy đời trụ trì, đối đầu với biết bao khó khăn gian nan, cực khổ, nhưng vẫn vững bước theo dấu những bậc tiên đức để gây dựng cho đàn hậu tiến pháp duyên thù thắng, nhiều Tăng tài cũng được đào tạo từ đó mà ra

Khi Văn Lai đến Thừa Thiên Tự, gặp một vị Sư Tăng ngoài cổng.

Văn Lai:

- A-di-đà Phật! Đệ tử muốn gặp Hòa thượng trụ trì, xin thầy hoan hỷ vì con trình lên Hòa thượng được không?

Sư Tăng:

- Xin tiểu thí chủ đợi một tí, để tôi đi xin ý kiến!

Vị trụ trì chùa Thừa Thiên lúc ấy là Hòa thượng Chuyển Trần. Văn Lai được dẫn đến trước Hòa thượng. Sau khi trình bày rõ hoàn cảnh, Văn Lai được thượng nhân đồng ý cho quy y với đệ tử của mình là Thụy Phương pháp sư.

Cuối cùng đã được như nguyện, Văn Lai đảnh lễ Pháp sư Thụy Phương, từ đó quy y cửa Phật, tâm linh đã có nơi nương tựa suốt đời.

Quy y:

- Quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng.

- Quy y Phật lưỡng túc tôn, quy y Pháp ly dục tôn, quy y Tăng chúng trung tôn.

- Quy y Phật rồi, Quy y Pháp rồi, Quy y Tăng rồi...

Pháp sư Thụy Phương:

- Con đã quy y cửa Phật thì cần phải tuân theo giới luật. Con đã ngủ nhơ ở đây thì con phải làm việc. Trồng rau nhổ cỏ tuy cực khổ nhưng được trau luyện thân tâm, phước huệ song tu, con hiểu chứ!

- Cảm tạ Sư phụ dạy bảo, đệ tử nhất định tuân hành!

CHƯƠNG II: THẾ PHÁT XUẤT GIA

Một ngày nọ, sau khi mọi người đốn củi xong, chuẩn bị lên xe đẩy về nhà ...

Thanh niên:

- Chiều rồi! Mau thu dọn đồ đạc, chuẩn bị đẩy xe xuống núi!

Văn Lại: - Biết rồi!

Văn Lai nghĩ thầm: "Quái! Sao mình cảm thấy hình như sắp có chuyện gì xảy ra, chuyến xe này tợ hồ như không được an toàn!".

Thanh niên A:

- Nhanh lên! Xe sắp đi rồi!

Văn Lai:

- Tôi cảm thấy hình như chuyến xe này không an toàn, các bạn đừng nên đẩy xe!

Thanh niên B:

- Nghĩ tầm bậy! Mặt trời sắp lặn rồi chúng ta về nhanh thôi, nếu anh không lên xe thì chúng tôi đi nhé!

Họ không tin lời khuyên của Văn Lai, vẫn đẩy xe xuống núi.

Quả nhiên, trên đường về, chiếc xe không may lọt xuống khe núi.

Ngày hôm sau, mọi người bàn luận xôn xao...

Thanh niên A:

- Chà! Hôm qua thật là xui xẻo. Té đau quá!

Thanh niên B:

- Kỳ lạ thật! Sao Văn Lai lại hay vậy nhỉ, đoán việc như thần!

Văn Lai tay cầm hộp cơm, từ xa đi tới...

Thanh niên:

- Văn Lai! Qua đây ăn cơm cho vui!

- Sao bạn chỉ ăn rau với đậu hũ? Thịt đây, bạn ăn đi!

- Không! Không! Không! Tôi không q uen ăn thịt (Văn Lai gạt tay đỡ ra).

- Anh đã kiên định ăn chay như thế. Vả lại, đoán việc như thần, sao không quyết định trở về Tuyền Châu xuất gia đi? (người thanh niên chỉ nói đùa thôi, nhưng lại thấu đến huyền tâm nên Văn Lai không ngăn được sự suy nghĩ sâu xa).

Văn Lai nghĩ thầm: "Đúng đấy! Sao ta kho âng nghĩ đến nhỉ? Như cha mẹ đang còn trẻ mà vẫn chết, ắt hẳn sau này ta cũng như vậy. Tất cả ai cũng đều phải đi trên con đường đó. Vậy thì sao ta không khẩn trương tu hành để sớm liễu sinh thoát tử?"

.

Một ngày nọ, Văn Lai cùng người bạn đẩy một xe đầy củi to, nương theo đà trượt của đường ray.

Bỗng nhiên...

Một khúc gỗ thật to từ trên xe rớt xuống đè lên mình người bạn.

Lời nói đùa của người bạn lần trước đã làm cho Văn Lai tỉnh ngộ. Và tấm thảm kịch lần này càng khiến cho Văn Lai nhận thấy đời người vô thường, và tâm xuất gia tu hành lại càng thêm kiên định.

Nhưng lúc đó Văn Lai lại mắc bệnh thổ tả. Thời đó, thổ tả được coi là một thứ bệnh nan y, không thầy thuốc nào có thể chữa khỏi, người bệnh chỉ còn nằm yên chờ chết.

Ngày nọ, Văn Lai sốt cao miệng khô rát, không thể chịu đựng được nữa, bỗng thấy dưới chân giường có chai thuốc trừ sâu, Văn Lai bèn với tay lấy uống. Một lát sau, ruột đau như thắt, sinh mạng đã đến bờ vực của cái chết...

Lúc ấy, nhờ trời Phật gia hộ, bất ngờ có một vị bác sĩ xuất hiện, tận tâm săn sóc cho Văn Lai, do đó sức khỏe lần lần hồi phục. Những người bên cạnh đều nói: "Thật là kỳ diệu! Nặng thế mà không chết!".

Qua cái chết hụt này, Văn Lai càng khắc cốt ghi tâm vấn đề sinh tử. Sau khi lành bệnh, Văn Lai lập tức thu gom đồ đạc trở về Đại Lục.

Từ lúc Văn Lai đi Nam Dương cho đến khi trở lại Phúc Kiến, thời gian đã trải qua 16 năm, lúc ấy Văn Lai đã 35 tuổi.

Văn Lai nhìn về hướng Thừa Thiên Tự thốt lên:

- Ta đã quyết chí xuất gia, song phúc cạn, đức mỏng, nếu chưa thành đạo chứng quả mà rộng thọ cúng dường thì e đền bồi nghìn kiếp, đạo nghiệp ắt sẽ khó thành.

Văn Lai nghĩ thầm: "Trước khi xuất gia, cần phải tập sống đơn giản, ăn ít, ngủ ít. Tiếp đó, ta có thể ngày ăn một bữa, ngủ dưới gốc cây, không cần giường chõng mới có thể thế phát làm Tăng".

Năm Dân Quốc thứ 16, tại chùa Thừa Thiên, huyện Tuyền Châu, Văn Lai được chính thức xuất gia, pháp danh Chiếu Kính, tự Quảng Khâm do Chuyển Trần thượng nhân thế độ (vì Sư phụ của Quảng Khâm là Thụy Phương đã sớm thệ thế). Lúc này, Quảng Khâm 36 tuổi.

Chuyển Trần nghĩ thầm: "Quảng Khâm này căn cơ thâm hậu, sau này ắt sẽ làm long tượng Phật môn, ta cần phải khẩn trương chỉ giáo để ông ta sớm thành tựu".

Chùa Thừa Thiên tọa lạc trong núi sâu, Tăng chúng đông nhưng sự cúng dường của tín chúng không được đầy đủ lắm. Thường ngày cần kiệm chỉ ăn cháo lỏng, không đủ chất dinh dưỡng mà phải làm việc nặng nhọc, nên chúng Tăng thường hay bị đói đến nỗi choáng váng ngất xỉu.

Một ngày nọ, Tăng chúng trở về chùa vào lúc đúng Ngọ, họ nghe tiếng vân bảng ngọ trai vang lên...

Tỷ-kheo:

- Gõ vân bảng rồi, có cơm ăn rồi!

Mọi người đói đến mệt lả, không kịp thu xếp dụng cụ, lấn nhau tiến vào Trai đường.

Quảng Công cũng theo mọi người tiến đến Trai đường thì bị Hòa thượng Chuyển Trần gọi giật lại.

- Quảng Khâm! Khoan đi! Hãy dọn dẹp những du ïng cụ này đã!

Quảng Công đang đói đến mềm người, hai mắt hoa cả lên, cũng đành phải quay trở lại thu xếp, nhưng trong lòng không khỏi khởi lên phiền não.

Quảng Công nghĩ thầm: "Làm ồ ạt như vậy chỉ được ăn một chút, lại còn bị xoi mói, chỉ trích, tội gì mà phải như vậy. Ta không làm thế!".

Thế là Quảng Công hầm hầm nổi giận, vượt cổng ra đi.

Đi chưa được bao xa, Quảng Công suy nghĩ: "Chẳng phải chính ta đã quyết chí khổ tu để thành tựu Phật đạo sao? Hôm nay chỉ vì một chút khổ mà đã loạn khí phách, há không trái với ý nguyện ban đầu sao? Ta phải trở lại sám hối thôi!".

Thế là Quảng Công trở lại Thừa Thiên Tự, nhanh nhẹn vào thu gom đồ đạc, xong báo cáo với Hòa thượng Chuyển Trần:

- Thưa Sư ông! Dụng cụ đã thu dọn xong rồi!

- Ừ! Con có thể vào ăn cơm được rồi. Ăn cái gì mà người ta chê, làm việc mà người ta tránh, sau này con sẽ biết như thế!

Quảng Công vì không có học vấn, chữ nghĩa chỉ biết được lèo tèo, đã không thể giảng kinh mà chuông mõ cũng vụng về nên hay bị chúng cười, Quảng Công tự cảm thấy rất khổ...

Quảng công nghĩ thầm: "Tuy ăn ít, ngủ ít, nhưng vẫn không thể trên đền bốn ân, dưới cứu b a cõi, bây giờ phải làm thế nào?".

Thế là Quảng Công quyết trồng phúc báo ơn bằng cách mỗi ngày bới cơm cho Tăng chúng.

Một lần, đại chúng đang dùng trai ở Ngũ Quán Đường, thầy Phương trượng thấy cơm rơi trên đất, bèn hỏi ai đã làm rơi. Lúc ấy, có một người nói là Quảng Công đã làm rớt khi bới cơm cho mọi người. Do đó, Quảng Công bị rầy la thật nghiêm khắc, không cho biện bác điều gì.

Sau đó, Quảng Công đợi mọi người dùng trai xong, ngồi xuống nhặt những hạt c ơm rơi đưa vào miệng.

Quảng Công chuyên chí khổ tu thế đấy, ăn cái người không ăn, làm việc người không làm. Phàm những việc thô nặng bần tiện như phụ hồ, bửa củi, nấu cơm, quyét dọn, chùi rửa nhà xí... Quảng Công đều làm việc cật lực, không so bì, không than oán. Quảng Công thường làm những công việc bần tiện, nặng nhọc để tu phước. Sau được cử làm hương đăng, phụ trách coi sóc đại điện, thắp hương hoa đèn nến cúng Phật và đánh bảng báo thức đại chúng.

Một hôm, Quảng Công ngủ quên...

Quảng Công (giật mình tỉnh dậy):

- Ấy chết! Trễ mất 5 phút rồi!

Quảng Công nghĩ thầm: "600 người cùng tu, một người trễ mất 5 phút, cộng lại là 3000 phút, gánh chịu nhân quả thế nào đây?".

Quảng Công coi trọng trách nhiệm, giữ nghi luật rất nghiêm, bèn quỳ ở cửa đại đường, mỗi mỗi vị Sư đi qua đều xin sám hối.

Từ đó về sau, Quảng Công mỗi ngày đều ngồi trước bàn Phật, không dám lơ là chểnh mảng.

Do Quảng Công tâm trọng kính giới, cho nên mỗi đêm thức dậy đến 5, 6 lần, không muốn lại bị hào ly sơ sót. Chính vì quá thận trọng và lo sợ nên Quảng Công đã không ngã lưng xuống giường.

Một lần, vì quá tinh tấn niệm Phật, ngoài việc ngủ ngồi ra, Quảng Công còn nhịn ăn uống suốt 21 ngày, nên vào một ngày nọ Quảng Công bị ngã quỵ. Từ đó, Quảng Công mới nhận thấy được sức khỏe là quan trọng như thế nào.

Quảng Công xuất gia rất lâu nhưng vẫn chưa thọ giới Cụ túc, nguyên nhân chính là Ngài lo sợ đạo nghiệp chưa thành, trên thì khi Phật tổ, dưới thì lừa dối chúng sinh, ngoài thì phụ tình thầy nghĩa bạn, trong thì phụ tánh linh của mình. Mãi đến năm Dân Quốc thứ 22, Ngài mới chứng đắc Niệm Phật tam-muội trong bảy ngày tinh tấn niệm Phật ở Côn Sơn Tự, có khả năng gánh vác gia nghiệp Như Lai, Ngài mới đến chùa Từ Thọ Thiền thọ giới. Lúc đó, Quảng Công đã 42 tuổi.

Sau khi thọ Đại giới. Quảng Công quyết định ẩn tu. Hòa thượng Chuyển Trần nhận biết công phu tu hành của Quảng Công đã thành "phiến", đã bước vào hàng Long tượng của Phật pháp, bèn đồng ý cho Quảng Công lên ngọn núi Thanh Nguyên phía sau chùa Thừa Thiên ẩn tu, chuyên tâm khổ hạnh để mau chứng ngộ đạo quả.

CHƯƠNG THỨ III: KHỔ TU Ở NÚI THANH NGUYÊN

Núi Thanh Nguyên ở phía Bắc Thành, vách đá dựng đứng trùng trùng lớp lớp như từng vách gỗ sắp lại. Trước núi thì cỏ hoang bao la bát ngát không một bóng người, sau núi thì rừng dầy mù mịt, khó kiếm được một chỗ ẩn thân.

Quảng Công chỉ mang theo bốn bộ đồ để thay đổi với hơn 10 kg gạo, khởi hành từ sáng sớm mà quá Ngọ mới đến chân núi. Vì vách núi dựng đứng, Quảng Công phải cởi giày để bám vách núi mà lên.

Leo lên chưa được bao xa, Quảng Công gặp một hang động nhỏ rất kín đáo.

Quảng Công:

- Tốt quá! Có một hang động thanh tịnh và đẹp đẽ như vậy thật là quá tốt!

Quảng Công bỏ hành lý xuống, ngồi nghỉ trên một tảng đá. Quảng Công từng nghe nói tại núi Thanh Nguyên có rất nhiều hổ, nhưng vì tìm chỗ tu hành, nếu người hổ gặp nhau biết chào hỏi thế nào?

Quảng Công nghĩ thầm: "Ta ở núi tu hành, phải tránh người như hổ tránh phân; hổ vì bộ da mà ẩn thân trong lá cỏ, ta vì ngộ đạo mà khóa tại thâm sơn".

Quảng Công ngồi liền trong động suốt hai ba ngày, trong những ngày này Ngài cảm thấy rất được an lạc.

Có một ngày...

Quảng Công:

- Quái nhỉ! Dường như có mùi tanh?

Thình lình, có một vật khổng lồ lù lù tiến vào động. Quảng Công mở mắt nhìn, thì ra là ông ba mươi! Quảng Công buột miệng: "A-di-đà Phật".

Con hổ bất ngờ khi nghe tiếng "Sư hống" này, thất kinh thục mạng bỏ chạy một mạch.

Quảng Công nghĩ thầm: "Nếu như trước kia ta có nợ mạng thì đời nay xin hoàn mạng, đó là nhân quả phải trả; nếu không phải, há không có nhân quả báo ứng muôn đời sao?".

Sau khi lão hổ định thần, lấy can đảm quay trở lại động, giận dữ ngước đầu nhìn Quảng Công...

Quảng Công:

- A-di-đà Phật! Xin Ngài chớ giận, tôi là người tu hành, vì không tìm được chỗ tốt hơn nên xin Ngài hãy đi tìm nơi khác, nhường chỗ này cho tôi. Sau này thành tựu đạo quả, tất sẽ độ Ngài!

Kế đó, Quảng Công niệm Phật, lão hổ cũng gật gật đầu rồi nhẹ nhàng bước ra nằm ngoài cửa động làm hộ pháp.

Quảng Công nghĩ thầm: "Chắc là Thiên long Hộ pháp che chở, chư Phật, Bồ-tát gia bị, chớ không thì khó thoát khỏi miệng hùm".

Từ ấy, lòng tin lớn mạnh, ý chí vững bền, Quảng Công bèn phát nguyện: "Nếu đời này không ngộ đạo thì suốt đời chôn thân trong động, quyết không ra ngoài".

Từ lúc Quảng Công hàng phục lão hổ thì sớm tối người hổ luôn bên nhau.

Hổ cũng ôn thuần dễ bảo, hiểu được tiếng người, sau đó lại dẫn cả hổ con cùng đến đùa giỡn trước Quảng Công, lại nhìn Quảng Công gật đầu lia lịa, tựa như muốn thỉnh cầu điều gì. Quảng Công bèn vì chúng mà truyền Tam quy y và khai thị pháp yếu.

Tuy Quảng Công và hổ rất hòa thuận thân ái, cuộc sống không chút vướng bận, nhưng cuối cùng vì rừng núi hoang sơ, không đủ trái quả. Vả lại, Quảng Công chỉ mang theo một ít gạo, nay đã hết. Cảnh giới Thiền định của Quảng Công ngày một thâm sâu, Ngài đam mê Thiền duyệt không muốn đi xa, mỗi lần bụng đói là ruột sôi, da quặn, chỉ tự lòng an ủi mấy câu: "Chúng ta thương lượng một tí, xin bạn hãy chịu đựng, chúng ta ngồi thêm một chút nữa, không nên vội, sau khi tôi thành chánh quả, lại sẽ cho bạn ăn".

Thế là Quảng Công ung dung đi vào thiền định, quên luôn năng sở không biết đến bao giờ.

Nhưng cái đói cứng đầu không chịu nghe lời, nhất là vào lúc đêm khuya tịch tĩnh, bụng lại càng sôi nghe như tiếng sấm.

Vì thế, Quảng Công không còn cách nào hơn, đành pha trà uống cho đỡ đói.

Đợi xuất định thử xem!

Quảng Công thử hỏi: "Tại sao da mình biến thành vàng xám thế này? Hay là mình uống nước trắng xem sao!".

Thế là Quảng Công uống liền một bát nước trắng.

Sau khi xuất định...

- Sao toàn thân lại phù thũng thế này? Thế này không được, thế kia cũng không được, dứt khoát không ăn nữa, cứ vào sâu trong định, xem nó như thế nào!

Dần dần, thân thể Quảng Công chỉ còn da bọc xương. Tiếp đó, ngay cả hơi thở cũng cảm thấy khó khăn. Cuối cùng thì nhúc nhích cũng không nổi nữa!

Quảng Công nghĩ thầm: "Không được rồi! Sao ngay cả nhúc nhích cũng không nổi! Dùng sức đẩy thử xem!".

Thế là dùng hết sức bình sinh cử động thân thể, trước là tay, kế đó là chân, dần dần toàn thân đều phục hồi tri giác.

Không còn sức lực, Quảng Công bèn miễn cưỡng chống tay dựa vách ra ngoài kiếm thức ăn...

Đằng xa, một bầy khỉ đang đùa giỡn và hái trái cây ăn, Ngài thấy mà thèm nhỏ dãi, và bụng lại càng đói không chịu nổi.

Quảng Công ngĩ thầm: "Ta và loài khỉ có khác gì nhau? Nó ăn được thì mình cũng có thể ăn được".

Quảng Công nghĩ đến đây, bèn cúi xuống nhặt trái lên ăn. Bầy khỉ thấy thêm một người nhập bọn, ngạc nhiên, bọn chúng ghé tai nhau, chéc chéc ầm ĩ cả lên.

Một lát, thấy Quảng Công trong tay không có trái nào, bọn khỉ bèn cùng nhau hái những quả tươi đưa cho Quảng Công.

Từ đó, bọn khỉ trở thành Hộ pháp, chúng thường hay hái trái cây mang đến cúng dường Quảng Công.

Nhưng một thời gian sau, bầy khỉ Hộ pháp không biết vì sao biến mất. Do đó, Quảng Công lại phải ra ngoài tìm kiếm thức ăn.

Có một ngày, sau khi rời rất xa ngọn núi, Quảng Công đào được một củ rừng nặng 5, 6 kg, Quảng Công mừng rỡ và rất trân quý.

Trước tiên, Quảng Công chắp tay báo cáo Thổ Địa rồi mới chẻ một thanh tre nhỏ để cắt củ rừng. Do đó đủ thấy, đức hạnh của Quảng Công ngửa mặt không hổ thẹn với trời, cúi xuống không thẹn với đất. Ở trong chốn không người mà Ngài vẫn đủ tác phong như thế.

Mỗi lần ăn, Quảng Công ăn chỉ cắt một miếng nhỏ, số còn lại đem chôn dưới đất. Ăn xong, Quảng Công liền nhập định, sau khi xuất định lại đào lên ăn một miếng. Cứ đào đào ăn ăn như vậy, củ cây rừng có 5, 6 kg cũng duy trì sự sống được mấy năm.

Quảng Công: "Mình khoát một miếng, số còn lại chôn xuống đất, qua một thời gian củ cây lại lớn thêm một ít. Do đó, 5, 6 kg củ rừng cứ lớn mãi, giúp ta được rất nhiều".

Một ngày nọ, Quảng Công đang tĩnh tọa niệm Phật ở trong động...

- Ồ! Sao sau núi có tiếng la thất thanh? Ta phải ra xem sao!

Quảng Công vội vã đi ra xem có việc gì.

Thấy mấy người tiều phu đang lo sợ hét lên vì có hổ.

- Ôi chao! Hổ, làm sao đây?

Quảng Công:

- Các ông chớ sợ, sẽ không sao đâu!

Mọi người không dám chạy, cũng không dám la, chỉ hướng mắt nhìn Quảng Công một cách kinh ngạc.

Quảng công mỉm cười nói với hổ:

- Ta không sợ, sao không bảo họ cũng đừng sợ đi?

Quảng Công lại nói với hổ:

- Các ngươi xem này, đời trước chính các người tạo nghiệp, sân tâm quá nặng, cho nên mới sinh ra khuôn mặt hung dữ như thế này, người thấy người sợ. Thôi, Đi đi!

Quảng công vừa nói vừa phất tay, mấy con hổ bèn bỏ chạy đi. Các tiều phu đem chuyện mắt thấy tai nghe này, truyền khắp thành Tuyền Châu và mọi người đặt cho Ngài danh hiệu là Phục Hổ Sư.

Từ đó các tiều phu, mỗi lần đi qua đều ghé để ý hành tung của Quảng Công.

Tiều phu A:

- Quái nhỉ! Sao dạo này không thấy Phục Hổ Sư đâu?

Tiều phu B:

- Ừ ha! Lần trước tôi vẫn thường gặp ông ta, còn chào hỏi nữa mà?

Tiều phu C:

- Tôi vào trong động, thấy sư đang nhắm mắt ngồi bất động.

Qua mấy ngày sau, các tiều phu vào sơn động xem thử, thấy Quảng Công vẫn y nhiên tĩnh tọa...

Tiều phu:

- Sao đến mấy lần đều thấy Sư phụ ngồi bất động, đã mấy ngày rồi, không biết... Ta phải nhanh chóng báo cho Trụ trì chùa Thừa Thiên thôi!

Chuyển Trần trụ trì:

- Đừng lo, đây là nhập định!

Tiều phu:

- Nhập định à?

Sau khi tiều phu biết được thì cũng không lấy gì làm lạ.

120 ngày sau...

Các tiều phu lấy làm khó hiểu, họ là những người quê mùa thiếu hiểu biết, khó có thể tin được người gì mà không ăn uống, không nhúc nhích động đậy, ngồi mãi như vậy? Vì thế, họ bèn vào động gọi thử, Quảng Công vẫn không nói không rằng, thậm chí họ thấy Quảng Công không còn thở nữa.

Tiều phu A:

- Sao không phản ứng gì cả? Ngay cả hơi thở cũng không có!

Tiều phu B:

- Lần này nhất định là chết thật rồi! Phải báo lại cho chùa Thừa Thiên thôi!

Chuyển Trần:

- Đã 120 ngày rồi à, lâu thế à, chẳng lẽ... Các con lên núi chuẩn bị củi hỏa để táng Quảng Công. Ngoài ra, hãy mang tin này đến cho Đại sư Hoằng Nhất, mời ông ta đến giám định xem sống chết thế nào.

Lúc bấy giờ, Đại sư Hoằng Nhất đang hoằng pháp ở Phúc Kiến. Nhận được thư, Ngài tức khắc cho người đến ngăn lại, nhất thiết không được làm bừa, phải đợi Ngài đến xem rồi sẽ quyết định.

Hoằng Nhất đến Thừa Thiên Tự, cùng Hòa thượng Chuyển Trần và một số người lên núi. Trong động, Hoằng Nhất xem trái ngó phải...

Hoằng Nhất tán thán:

- Đây là cảnh giới thiền định, xưa nay ít người có được!

Thế là Hoằng Nhất Đại sư ghé tai Quảng Công khảy nhẹ móng tay ba cái, xin Quảng Công xuất định. Mọi người đi hết ra ngoài động, vòng ra sau núi, hướng về Bích Tiêu Nham.

Mọi người đến Bích Tiêu Nham, chưa kịp pha trà thì Quảng Công liền xuất định, đến trước chư vị đảnh lễ thỉnh an:

- Đại sư đến đây không biết có điều gì chỉ bảo?

Hoằng Nhất:

- Không dám! Không dám! Tôi đã quấy rầy Ngài. Tội lỗi! Tội lỗi! Ở đây không có việc gì, hay là thỉnh Ngài hạ sơn!

Sau lần đại định này, Quảng Công như ngựa thêm roi, cực lực tham cứu cho đến chứng ngộ, và thế là Ngài đã ở trên núi 13 năm.

Năm Dân Quốc thứ 34, cũng là năm kháng chiến thắng lợi, Quảng Công quyết định xuống núi, chuẩn bị rộng độ quần sinh. Lúc ấy, Quảng Công 55 tuổi.

Quảng Công trở lại Thừa Thiên Tự, mọi người dấy lên náo động. Họ nghĩ rằng đây là một việc lạ, mắt nhìn bộ đồ 13 năm trong động của Quảng Công; cũng có người ngờ vào mắt mình, xem ra cũng bình thường thôi, khác gì thế nhân đâu, sao có thể gọi là chứng ngộ nhỉ? Nhưng đại đa số người tu hành đều nhìn với ánh mắt kính phục, ban cho nhiều ưu ái. Tuy nhiên, Quảng Công vẫn giữ thái độ khiêm tốn, ban ngày thì cùng đại chúng làm việc, đêm đến thì lên chánh điện tĩnh tọa tham thiền.

Có một ngày, tiền hương hỏa trong thùng phước sương bỗng nhiên không cánh mà bay!

Giám viện và thầy hương đăng đưa tin này ra, cả chùa ầm ĩ náo động. Trước khi Quảng Công về chùa, ở đây chưa từng mất tiền, nhưng Ngài mới về được chưa bao lâu thì đã xảy ra chuyện này. Do đó, mọi nghi ngờ đều dồn về phía Quảng Công, vì mỗi đêm Ngài đều tọa thiền trên chiùnh điện. Từ thái độ hoài nghi ấy, họ nhìn Quảng Công với ánh mắt lạnh lùng, còn Quảng Công thì không một lời biện bạch, trong lòng không khởi một chút oán hận.

Thầy Giám viện:

- Này các huynh đệ! Thật ra tiền hương hỏa không có mất, đây chỉ là do tôi và thầy hương đăng thử nghiệm Quảng Công ở trên núi 13 năm đã luyện lịch được nhân cách gì ? Không ngờ bị đại chúng phẫn nộ nghi ngờ, Quảng Công vẫn an nhiên tự tại. Đáng kính! Đáng kính!

Được hương đăng, giám viện tỏ rõ, mọi người cảm thấy hổ thẹn, ngoài lòng ân hận ra, họ đối với Quảng Công bội lần khâm phục và khen ngợi, nhưng Quảng Công vẫn an nhiên, không vì tiếng khen chê mà động dung sắc.

CHƯƠNG THỨ IV: VƯỢT BIỂN ĐẾN ĐÀI LOAN

Năm Dân Quốc thứ 39, chùa Pháp Hoa ở gần Vạn Hoa, Đài Bắc, do thầy trụ trì về nước nên phần coi sóc Thiền Tự do Trai Cô (người đàn bà coi việc thờ tự, cúng bái) đảm trách. Theo như Trai Cô nói thì ban đêm trong chùa không ai dám ở, vì nửa đêm thường hay thấy quỷ quấy nhiễu, khiến người sợ hãi...

Một ngày sau giờ ngọ, Quảng Công đi ngang qua đường Tây Ninh Nam...

Châu cư sĩ:

- Xin hỏi Đại sư tôn hiệu gì, ở đâu?

- Tôi là Quảng Khâm. Hiện không có chỗ ở nhất định.

Thế là Châu cư sĩ mời Quảng Công vào chùa Pháp Hoa nghĩ ngơi. Vào chùa, trước tiên Quảng Công lễ Phật, tiếp đó Ngài nhiễu Phật ba vòng rồi ngồi xuống hướng Tây kiết già phu tọa.

Châu cư sĩ ghé tai Trai Cô nói nhỏ:

- Mặt trời sắp lặn rồi, phiền cô mời mọi người mau rời khỏi chùa để Hòa thượng qua đêm ở đây, thử xem ông ta ứng phó với quỷ như thế nào?

Quảng Công:

- Ở đó có một bầy quỷ Nhật Bản rất đông, trai gái đều toàn mặc kimono. Các con hãy lật cái giường lên, lấy cốt, ta sẽ siêu độ cho họ (Quảng Công chỉ tay về phía phòng khách bên trái chánh điện).

Quả nhiên, Trai Cô cùng mọi người tìm được rất nhiều xương cốt. Quảng Công bảo Trai Cô bỏ vào trong lò thiêu trước chùa để hỏa táng.

Quảng Công miệng niệm mấy câu siêu độ cho vong hồn những người Nhật Bản.

Trai Cô:

- Sư phụ bảo chúng ta tối nay có thể tới chùa ngủ được rồi.

Châu cư sĩ:

- Chúng ta nên thỉnh Sư phụ trụ trì ngôi chùa này, giữ Ngài ở đây để bảo đảm an ninh.

Từ đó, chùa Pháp Hoa vẫn còn tấm hình của Quảng Công, và pháp hội mỗi tháng đều khởi lên từ đó.

Năm Dân Quốc thứ 37, Quảng Công đục núi đá sau thành Tân Điếm tạo nên ngôi Quảng Minh Nham (tức chùa Quảng Minh ngày nay).

Năm Dân Quốc thứ 40, trên Quảng Minh Nham, phía trái Ngài cho điêu khắc tượng đại Phật A-di-đà, đây là bức tượng đá có sớm nhất ở Đài Loan. Sau đó, bên trái phía dưới Ngài cho đục thạch động, xây dựng chùa Quảng Chiếu.

Năm Dân Quốc thứ 41, Quảng Công tìm được một thạch động rất lớn ở núi Thành Phúc, bèn trở lại ẩn cư tu hành. Do cửa động hướng về phía Đông nên mặt trăng mặt trời lúc mới lên đều chiếu thẳng vào động, vì thế, Quảng Công đặt tên là Nhật Nguyệt động. Trong động trước đây vốn không có nước, nhưng từ ngày Ngài vào động bỗng nhiên trong đá vọt ra một dòng nước, gọi là suối linh.

Năm Dân Quốc thứ 43, Quảng Công dựng lên núi một lều tranh để ở. Nơi đó có một con trăn rất lớn, đêm khuya thường đến túp lều của Quảng Công, Ngài vì nó mà trao Tam quy y.

Một ngày... Quảng Công bỗng nghe tiếng kêu la ầm ĩ trên núi, Ngài ra xem, thì thấy nhiều người đang xúm nhau định đánh chết con trăn.

Quảng Công vội vã nói:

- Con trăn đó đã quy y Tam Bảo, đừng giết nó!

Mọi người nghe thế bèn bỏ đi.

Quảng Công từ lúc vào động Nhật Nguyệt nhập đại định ba lần, sau mới ra cứu đời.

Mùa Xuân năm Dân Quốc thứ 44, một nữ Phật tử ở Bản kiều mua nửa ngọn núi cúng dường Ngài. Ngọn núi được gọi là Hỏa Sơn, vốn là một rừng trúc buộc làm một chiếc giường sớm tối tọa thiền.

Năm Dân Quốc thứ 49, Ngài xây dựng đại điện, từ đó được mệnh danh là Thừa Thiên Thiền Tự, đổi tên núi là núi Thanh Nguyên (lấy tên ngọn núi mà Ngài đã tu khổ hạnh trước đây).

Trải qua 5 năm xây dựng, công việc rất gian khổ, người ngoài không thể tưởng tượng được. Đến năm Dân Quốc thứ 54 thì sơ bộ kiến thiết Thừa Thiên Tự coi như hoàn thành. Từ đó về sau, Ngài được mộ danh là "Tiền lai thỉnh ích" (vì thế nhân trở lại nơi đời). Người đến quy y nườm nượp. Lúc này, Quảng Công đã 74 tuổi.

Năm Dân Quốc thứ 58, sáng lập Quảng Thừa Nham. Năm thứ 67, Quảng Thừa Nham kiến lập tháp Hoa Tạng, sau đó là Đại hùng bảo điện và hai Thiền đường, một căn nhà, Tàng kinh các, điện La-Hán, giảng đường và các Thiền phòng cũng lần lượt hoàn thành. Sau khi sửa chữa điện Địa Tạng, tháng 02 năm Dân Quốc thứ 75, xây tháp Quảng Khâm, đến giữa tháng 10 thì xong, cuối tháng tiến hành nhập linh cốt Ngài vào tháp.

Năm Dân Quốc thứ 64, Công Quán Lôn ở làng Kim Sơn huyện Đài Bắc mua hơn 4 giáp (giáp là đơn vị tính đất của Trung Quốc thời xưa: một giáp bằng một đơn vị gia cư gồm vài nhà ở gần nhau), thỉnh Quảng Công động thổ, tháng tư năm 76 bắt đầu khởi công xây dựng chùa Kim Hải Thiền. Chùa Quảng Thừa Nham và Kim Hải Thiền đều do Pháp sư Truyền Bân làm chủ sự.

Năm Dân Quốc thứ 75, Pháp sư Đạo Không tiếp nhậm trụ trì đời thứ ba ngôi Quảng Thừa Nham Tự.

CHƯƠNG V : RỘNG ĐỘ CHÚNG SINH

Ngày nọ, một giáo thọ, tự cho mình là thiền định thâm sâu. Sáng sớm hôm đó, ông ta đi thẳng vào Thiền đường của Hòa thượng, không nói một lời, ngồi phạch xuống thiền tọa. Quảng Công cũng im lặng, như thế rất lâu...

Giáo thọ:

- Thưa Hòa thượng! Ngài xem tôi đây là đệ mấy thiền?

Quảng Công:

- Không biết

- Nghe nói Ngài công phu thiền định rất cao, tôi đã được Đệ tứ thiền, sao Ngài không biết?

- Tôi chỉ biết ăn ngày ba bữa đâu có thuyền bè gì.

Kế đó, Quảng Công tiện tay cầm cuộn giấy vệ sinh, quay qua hỏi:

- Cuộn giấy vệ sinh đang nói chuyện với tôi, ông có nghe chăng?

Giáo thọ bí rị không biết đường nào mò, gãi đầu im lặng mà lui.

Một ngày nọ, bác sĩ Kim từ Mỹ quốc cùng với một Cư sĩ bản địa lên Thừa Thiên Tự tham vấn và thỉnh giáo Phật pháp. Bác sĩ Kim vốn xuất thân từ gia đình Thiên Chúa giáo nhưng rất thích học Phật pháp và đã từng tu tập thiền định ở SriLanca hơn một năm.

Đến đại điện, gặp Quảng Công, Cư sĩ bản địa cung kính đảnh lễ, bác sĩ Kim vội vã làm theo, phủ phục sát đất.

Cư sĩ giới thiệu bác sĩ Kim với Quảng Công, đồng thời làm thông dịch viên.

Quảng Công:

- Trong Phật pháp anh thích xem gì?

Bác sĩ Kim:

- Thiền tông

Quảng Công:

- Tịnh độ cũng rất hay đấy! Tịnh độ cũng là Thiền.

Một lát, thị giả mang đến mấy tách trà, mỗi người cầm một ly trong tay. Quảng Công hỏi:

- Trong tay anh đang cầm cái gì?

Bác sĩ Kim:

- Trà

Quảng Công:

- Không được do dự, trả lời tôi ngay lập tức. Cái uống trà được là cái gì?

Bác sĩ Kim:

- Khát!

Cư sĩ bản địa:

- Khô miệng!

Quảng Công:

- Không đúng! Không đúng! (Quảng Công phủ đầu làm cho bác sĩ Kim luống cuống không trả lời được).

Quảng Công nhìn bác sĩ Kim an ủi:

- Thông thường, những người đến đây, tôi đều bảo họ niệm Phật, không nói với họ thêm điều gì. Trước khi anh đến đây, tôi không biết anh từ đâu đến, khi anh đi, tôi cũng chẳng biết anh về đâu, bây giờ anh uống trà thì tôi hỏi anh uống trà. Cái uống được không phải là cái khát, khát chỉ là một hiện tượng.

Quảng Công cười:

- Tôi nghe Cư sĩ Vân nói, anh đã từng tu tập thiền định ở SriLanca, nên tôi chỉ nói chơi với anh mà thôi.

Kế đó bác sĩ Kim lại thỉnh thị cảnh giới Niệm Phật tam-muội, Cư sĩ bản địa làm thông dịch:

- Ông ta nhờ Sư phụ khai thị!

Quảng Công:

- 50 mươi năm trước, lúc tôi đang ở núi Cổ Sơn tại Phúc Châu, có một lần theo chúng hành hương niệm Phật ở chánh điện... đột ngột dừng lại.

Cư sĩ Vân phiên dịch:

- Once suddenly a stop! (một cú dừng lại đột ngột!).

Quảng Công nói với Cư sĩ:

- Con đừng có dịch sai đấy! Không phải stop đâu!

Quảng Công lại diễn tả:

- Đương lúc những câu Phật hiệu "Nam mô A-di-đà Phật...", đang xoay quanh đại điện rồi từ từ bay lên, không có cảm giác bị vướng mắc vào chỗ nào, chỉ có âm thanh niệm Phật không ngừng, xoay quanh từ thấp lên cao đến hư không, khắp pháp giới đều là A-di-đà Phật. Trong 12 thời, bất luận đi, đứng, nằm, ngồi, ăn cơm, uống nước, tụng kinh gì cũng đều trong sáu chữ "Nam mô A-di-đà Phật", trải qua cuộc sống an nhiên chim kêu hoa nở ấy liên tục hơn ba tháng...

Bác sĩ Kim và Cư sĩ vui vẻ cáo từ, ra ngoài thưởng ngoạn phong cảnh non xanh nước biếc của núi rừng. Cư sĩ nói với bác sĩ Kim:

- Phía trước có một cái động Nhật Nguyệt, nghe nói Quảng Công đã từng bay từ bên này qua bên kia chánh điện.

Đúng lúc ấy, Quảng Công cũng vừa đi tới, Cư sĩ bèn hỏi về vấn đề Ngài bay từ ngọn núi này sang núi kia. Quảng Công cười cười nói:

- Đâu có! Đâu có! Đừng có nói bậy!

Một hôm, Pháp sư sám Vân cùng 7, 8 người thuộc đạo tràng tu Phật thất ở Đài Bắc, sau khi viên mãn cùng nhau đến Thừa Thiên Tự thăm viếng Quảng Công. Quảng Công ngồi trên ghế không nói gì, sắc mặt vui vẻ...

Quảng Công:

- Các con tu Phật thất như đào châu báu, đã đào được báu nên bỏ ra xem. Mau! Nói một câu!

Nghe Quảng Công nói như vậy, mọi người nhìn nhau rất lâu không ai nói được câu nào.

Đương lúc mọi người ngơ ngác nhìn nhau không biết nói gì, trong lòng áy náy đứng ngồi không yên, bỗng một Tỷ-kheo-ni đứng lên:

- Nam mô A-di-đà Phật!

Mọi người quay đầu cả lại xem vị Thánh nào đã "rống" tiếng sư tử ấy.

Quảng Công lắc lắc đầu:

- Câu này đứa trẻ ba tuổi cũng nói được!

Tiếp đó, lại im lặng như tờ.

Quảng Công đưa ánh mắt sáng quắc và lẫm liệt nhìn quanh khắp. Đại chúng nghe như thúc giục, tất cả đều nín khe như ve mùa Đông...

Bỗng nhiên, một Tỷ-kheo đứng lên nói ép một câu như đặt cược:

- Tâm đã qua không thể nắm bắt, tâm hiện tại không thể nắm bắt, tâm vị lai không thể nắm bắt.

Quảng Công nói một cách lạnh lùng:

- Chúng ta nói nhỏ mà nghe, các con đừng có cho rằng bộ đồ này (chỉ Tăng phục) có thể mặc tùy tiện được, nên nghĩ bộ đồ này không thể dễ mặc! Người xưa tu Phật thất (còn gọi là đả thất: nghĩa là bạn định trong bảy ngày phải rốt ráo chứng quả) phải thủ chứng trong kỳ hạn, bằng như đáo hạn không thủ chứng, thì "Phật thất" không biến thành "Phật ăn" sao? Đả Phật thất mà muốn chứng ngộ, đó là tham. Đến chỗ tôi, mà lại muốn lấy một chút gì đó đi (lấy đây ý chỉ giáo pháp của sự chứng ngộ) thì cũng là tham.

Quảng Công đang nói thì phía dưới có hai người ghé tai nói với nhau:

- Chúng ta đào không được châu báu Hòa thượng muốn chúng ta đưa báu ra, chính Hòa thượng đã có châu báu rồi mà lại còn muốn chúng ta đưa ra nữa, đây không phải là hai cái tham sao?

Quảng Công làm như không biết:

- Nếu hiểu lời tôi thì bày ra trước mắt, nó có thể sờ mó được; nếu không hiểu, không phân biệt được thì cho dù có bưng hai tay bỏ ra trước mắt, nó cũng chẳng được.

Quảng Công nói chưa hết lời, một thanh niên đứng dậy.

- Bạch Hòa thượng, Ngài có xâu chuỗi không?

- Không có!

Anh ta nhìn trên người Quảng Công quả thật không có xâu chuỗi nào, đang lúc không biết nói gì, bỗng thấy Hối Công trên tay đang cầm xâu chuỗi niệm Phật, bèn quay qua Hối Công.

- Pháp sư, Ngài có chuỗi châu không?

- Có!

Thanh niên không khách khí:

- Xin Ngài đưa chuỗi châu cho tôi!

- Tôi đang niệm Phật, không thể đưa anh, nếu tôi đưa anh, anh không được làm mất.

- Đưa xâu chuỗi đây! Người thanh niên đưa tay ra nói.

Quảng Công (chỉ tay vào người thanh niên):

- Chính anh đang niệm

Người thanh niên ngay lập tức trừ dẹp tâm kiêu mạn, im lặng không nói gì. Hai vị Pháp sư thật siêu việt một người từ không vào có, một người từ có chuyển không, phối hợp chặt chẽ, khiến mọi người khen ngợi không thôi.

Ngày nọ, một Pháp sư đến tham vấn.

Pháp sư:

- Lúc tôi ở nước ngoài, mỗi lần mưa gió sấm chớp, tôi làm phép, mưa gió sấm chớp tan ngay.

Quảng Công:

- Tôi thì cái gì cũng không có.

Một lần khác...

Pháp sư:

- Thưa Hòa thượng, bây giờ thì tôi không có cái gì cả.

Quảng Công:

- Tôi mỗi ngày ăn cơm, ngủ nghỉ, còn đi tản bộ!

Công phu thiền định là tự nhiên, không có cái tôi đang là gì, không chấp có cũng không chấp không, người nói tôi có thì Quảng Công nói tôi không. Người chấp không thì lấy có đối lại.

Pháp sư nọ sắp trở về nước, nói với Quảng Công rằng:

- Mời Hòa thượng ra nước ngoài hành đạo!

Quảng Công hứa:

- Thầy về trước, tôi đến liền.

Pháp sư cho rằng Quảng Công muốn hiển đại thần thông nên sắp xếp về nước, nhưng một thời gian lâu không thấy Quảng Công đến, trong lòng cảm thấy không vui.

Lần sau...

Pháp sư:

- Không phải Hòa thượng nói tôi về nước là Ngài đến liền sao? Sao rất lâu không thấy Hòa thượng đến?

Quảng Công cười cười:

- Pháp sư đến đây tôi đối đãi Pháp sư thế nào, nói cái gì, không phải Pháp sư đã rất rõ rồi sao? Pháp sư về nước đem những lời của tôi nói lại cho mọi người nghe, không phải là Ngài vừa về đến thì tôi cũng đến sao?

Ngày nọ, một Pháp sư lại tham vấn.

Pháp sư:

- Tôi tu Tam-muội đã mười năm, nay đến xin Hòa thượng khai thị!

Quảng Công:

- Ngài tu Tam-muội mười năm, đáng lẽ Ngài phải khai thị cho tôi chứ, tôi đâu có tu qua Tam-muội, lấy gì khai thị cho Pháp sư!

Pháp sư:

- Tôi muốn bế quan, xung quanh thất trồng một vườn hoa nhỏ, Ngài xem thế naò?

Quảng Công:

- Chúng ta bế quan, xét cho cùng tâm muốn bế quan hay thân muốn bế quan? Nếu tâm muốn bế quan thì cái thân giả hợp của chúng ta đây cũng đã đủ rồi, nếu tham muốn hưởng thụ thì năm đại cũng không đủ. Bế quan là bế sáu căn.

Một Pháp sư nọ tự biết ngã chấp quá nặng, cầu Quảng Công từ bi nghĩ biện pháp khai giải giúp. Ngày nọ, gặp ngày pháp hội mọi người đang bận rộn làm việc, bỗng nghe Quảng Công trách Pháp sư nọ, lời lẽ nặng nề quá sức.

Một lát, Pháp sư quỳ trước Quảng Công, nước mắt giàn giụa xin cáo biệt.

Quảng Công cười nói:

- Không phải Pháp sư nhờ tôi nghĩ hộ biện pháp phá chấp sao? Sao mới một vố mà đã muốn đi rồi?

Pháp sư như tỉnh mộng, lau nước mắt cười, đảnh lễ lui ra.

Lại một ngày nọ, một Pháp sư từ ngọn núi bên kia sang Thừa Thiên Tự...

Pháp sư nghĩ thầm: "Nghe nói Quảng Công Hòa thượng công phu sâu dầy, và lại có thần thông nữa. Ta phải đi thực tế một chuyến xem sao".

Đi được nửa đường, Pháp sư dừng lại tĩnh tọa, Pháp sư nghĩ thầm: "Nếu thực Hòa thượng có thần thông thì biết ta đang ngồi nghỉ ở đây...".

Trong Thừa Thiên Tự, Quảng Công đang dặn dò hai vị Tỷ-kheo-ni:

- Dưới núi có một Pháp sư đang tọa thiền trên phiến đá, hai con xuống mời ông ấy lên đây!

Hai Ni cô xuống núi, quả nhiên thấy Pháp sư đang ngồi.

Tỷ-kheo-ni:

- A-di-đà Phật. Sư phụ bảo chúng tôi mời sư huynh lên núi nghỉ!

Pháp sư nghe thế, trong lòng vừa cung kính vừa hối hận. Tức tốc lên núi đảnh lễ sám hối!

Ngày nọ, một Cư sĩ hạ sơn, nửa đường gặp Quảng Công đang tịnh tọa.

Một lát, Cư sĩ xuống chân núi, lại gặp Quảng Công đang xoa đầu đùa với một đứa trẻ, trong lòng ngạc nhiên vô cùng.

Cư sĩ nghĩ thầm: "Từ trên núi xuống đến chân núi rất xa, sao Hòa thượng đi nhanh như vậy nhỉ? Ta lại lên núi thử xem".

Thế là Cư sĩ quay lại, thì vẫn thấy Quảng Công đương ngồi đó, trong lòng rất lấy làm lạ.

Ngày nọ, một cụ bà dẫn cháu lên núi lễ Phật. Đi được lưng chừng núi, đứa cháu bất cẩn sẩy chân rơi xuống vực thẩm, đang lúc nguy cấp thì bỗng có đôi tay dang ra hứng đỡ, đứa trẻ hoàn toàn vô sự.

Lên đến chùa, cụ bà dẫn cháu lên đảnh lễ Quảng Công.

Đứa trẻ chỉ vào Quảng Công:

- Này bà, vừa rồi cháu bị rơi xuống vực, ông này đã đỡ cháu lên!

Một ngày, đồ đệ bái kiến, Sư im lặng. Đột ngột Sư hỏi:

Quảng Công:

- Khỏe không?

Đệ tử:

- Không khỏe

Quảng Công:

- Sao không khỏe?

Đệ tử:

- Mẹ con qua đời.

Quảng Công:

- Tốt

Đệ tử: ....................... (sau đó cũng nhờ nhân duyên này, tinh tấn học Phật).

(Chú: Thế gian nói không tốt, xuất thế gian nói tốt; gọi là tốt, chính là anh đồ đệ này tinh tấn học Phật khiến mẹ được lìa khổ).

Ngày kia, một nghiên cứu sinh củaViện nghiên cứu Phật giáo lên núi tham vấn Quảng Công.

Quảng Công:

- Tôi cảm thấy một người mới xuất gia nên làm việc gì đó nặng nhọc để tiêu trừ nghiệp chướng. Cũng phải ăn cơm đạm, mặc áo thô, cần lao công tác, không kể là bửa củi, nấu cơm hay gánh nước... Đều có thể từ trong công việc này mà thi hành, mà thể hội. Một người mới xuất gia nên để tâm một chỗ, phước huệ song tu, trong công việc vừa làm vừa niệm Phật thì trí huệ dễ khai mở.

Hỏi:

- Thưa Pháp sư, tu khổ hạnh là làm những hạnh gì mới được tính là tu khổ hạnh?

Đáp:

- Làm tất cả, không suy bì tỵ nạnh, hằng ngày không khởi tâm phân biệt.

Hỏi:

- Thưa Pháp sư, đối với việc nghiên cứu giáo lý, có phép gì để khán?

Đáp:

- Không có phép gì chỉ, tôi cảm thấy rất tự nhiên. Các bạn lấy việc nghiên cứu giáo lý để hoằng pháp, còn tôi lấy tu hành để hoằng pháp, giống nhau mà.

Hỏi:

- Xin hỏi Pháp sư, trước đây Ngài tu hành, bế quan, lúc gặp việc không thuận lợi, Ngài đối phó thế nào?

Đáp:

- Phải có tín tâm, có nguyện lực thì tự nhiên khắc phục được tất cả.

Hỏi:

- Lúc bế quan về phương diện ăn uống, có phải càng ngày càng ăn ít không?

Đáp:

- Không, phải thuận với tự nhiên, chính là phải bình thường, phải không quái ngại, phải vô ngã mới có thể bế quan. Nếu có quan niệm có "ta", "ăn ít nhiều" khởi lên, thì đó không phải là tu hành, mà là chấp trước.

Hỏi:

- Lúc tôi bế quan, có lúc không muốn ăn cho nên không ăn?

Đáp:

- Cố ý không ăn thì hỏa khí tăng lên, không thể tu hành. Ý niệm "không muốn ăn" khởi lên, đó là chấp trước.

Hỏi:

- Có lúc không ăn, thì lại cảm thấy rất nhẹ nhàng dễ chịu?

Đáp:

- Đó chỉ nhẹ nhàng mấy ngày, chỉ là hiện tượng tạm thời, vì các bạn chưa được nhất tâm bất loạn. Cho nên chấp trước không ăn thì thân thể sẽ suy nhược.

Hỏi:

- Nghe nói Pháp sư lúc ở trên núi tìm không được cái ăn mới ăn trái cây.

Đáp:

- Đúng, trên núi không có đồ ăn, đúng lúc tìm được củ rừng để đỡ đói, đây gọi là áp dụng "lấy đất để tăng phần ẩm thực".

Hỏi:

- Ăn toàn trái cây, thân thể có chiụ được không?

Đáp:

- Ở núi tu hành phải có công phu, nếu lúc nào cũng nghĩ đến vấn đề ăn uống, vậy thì không thể ở trên núi tu hành rồi.

Hỏi:

- Có phải Ngài ngày nào cũng ngồi thiền không?

Đáp:

- Không nhất định "ngồi" mới là "thiền".

Hỏi:

- Ngồi thiền phải học từ đâu?

Đáp:

- Từ quán tự tại mà học.

Hỏi:

- Ngài có phải đi trên đường thiền không?

Đáp:

- Tôi luôn dạy người niệm "Nam mô A-di-đà Phật".

Hỏi:

- Xin hỏi Pháp sư, niệm Phật có bí quyết gì?

Đáp:

- Không có bí quyết gì cả, chỉ khán tự tâm. Người không hiểu niệm Phật, chỉ cầu sống lâu, sống lâu chỉ tạo thêm nghiệp sát, sống lâu được cái gì? Người hiểu niệm Phật mới có thể nhân cơ hội này mà ngộ lý "liễu sinh thoát tử".

Hỏi:

- Lúc mới ngồi thiền, vọng niệm rất nhiều, đối trị thế nào?

Đáp:

- Vọng niệm nhiều, chính là nghiệp chướng. Bỏ vọng niệm, cách niệm Phật tương đối dễ, ngoài ra tục duyên phải ít, cái này cũng rất quan trọng.

Quảng Công tự hỏi tự trả lời:

- Độ chúng sinh như thế nào? Độ chúng sinh phải tùy duyên; đồng thời không có ý niệm độ chúng sinh.

Hỏi:

- Xin hỏi Pháp sư, đối với việc liễu sinh thoát tử nên khán như thế nào?

Đáp:

- Liễu sinh thoát tử à? Ái chà! Phải nói thế nào cho dễ hiểu nhỉ? Chỉ có phương pháp dễ nhất là niệm Phật. Nhưng không được cho rằng niệm Phật dễ mà để tâm sơ suất, sẽ bị hôn trầm.

Hỏi:

- Nếu như niệm Phật đến lúc muốn ngủ, thì làm thế naò?

Đáp:

- Muốn ngủ thì đi ngủ!

Hỏi:

- Có người niệm Phật muốn liễu sinh tử, nhưng cũng có Bồ-tát nguyện muốn tái sinh. Theo Ngài, hai người này có gì khác nhau?

Đáp:

- Theo tôi thì nguyện lực mỗi người mỗi khác. Xin hỏi, các người làm công tác nghiên cứu, nguyện lực có giống nhau không?

Hỏi:

- Hiện nay nên lấy phương pháp gì để hoằng dương Phật pháp?

Đáp:

- Chà! Vừa mới nói xong, các bạn thì lấy nghiên cứu làm việc hoằng pháp, còn tôi thì lấy niệm Phật hoằng pháp, tất cả đều cần thiết như nhau.

Hỏi:

- Có người tu hành rất tinh tấn, nhưng lúc sắp mệnh chung thì lại gặp bệnh khổ hoặc có những việc xảy ra ngoài ý muốn. Ngài đối với mấy vấn đề này như thế nào? Có phải là định nghiệp khó chuyển không?

Đáp:

- Nhà Phật nói nhân quả ba đời, đây là bị nghiệp lực tự thân thôi thúc. Lại nói, cái túi thịt Tứ đại giả hợp, há không bệnh sao? Tâm của người tu hành không nên bị bệnh khổ chuyển lôi.

Hỏi:

- Tu hành đến một trình độ nào đó, có thể biết được mình vãng sinh Tây Phương không?

Đáp:

- Nếu như không rời niệm thì sẽ biết trước. Thân người khó được, cần phải nỗ lực tu hành, không thì Tứ sinh Lục đạo có phần, cho đến muốn thành Phật làm Tổ, nhất định phải trải qua "thân người" một đại kiếp, phải nắm lấy cơ hội, đừng để lỡ mất.

Hỏi:

- Niệm danh hiệu Phật cũng là chấp trước phải không?

Đáp:

- Niệm Phật không phải là chấp trước, niệm A-di-đà Phật tức là chánh niệm.

Hỏi:

- Niệm Phật mãi, phải niệm Phật luôn, sao nói là không ch ấp trước?

Đáp:

- Không phải chấp trước, mà là tinh tấn.

Hỏi:

- Cuối cùng đới nghiệp vãng sinh hay tiêu nghiệp vãng sinh, không biết cách nhìn của Sư phụ thế nào?

Đáp:

- Niệm Phật mới được vãng sinh. Bởi vì hằng ngày tu trì, lúc sắp mệnh chung thì niệm Phật hiện tiền, không tạp niệm sẽ được vãng sinh.

Hỏi:

- Có người nói, niệm Phật sẽ gặp ma, xin hỏi đây là vì sao?

Đáp:

- Niệm Phật sẽ không gặp ma, ma ấy à? Là do tâm sinh.

Hỏi:

- Nếu như lúc chuyển sinh, sinh ra trong một gia đình Thiên chúa giáo, vậy không phải là không niệm Phật sao?

Đáp:

- Không phải, lúc đến rồi, nguyện lực của người ấy sẽ thôi thúc khiến người ấy niệm Phật. Có nguyện lực tức có thể khiến niệm Phật.

Hỏi:

- Hòa thượng Thiền Tịnh song tu phải không?

Đáp:

- Niệm Phật đến nhất tâm thì chính là Thiền.

Hỏi:

- Nếu làm một cơ cấu giáo dục Phật giáo hoặc một Thiền đường thì làm ở trên núi tốt hay ở thành đô tốt?

Đáp:

- Tất cả đều phải tùy thuận nhân duyên, tự nhiên thành tựu.

Hỏi:

- Ở đây có mấy người xuất gia?

Đáp:

- Bốn, năm chục người.

Hỏi:

- Ngài dạy họ dụng công thế nào?

Đáp:

- Tùy theo căn cơ của họ mà dụng công.

Hỏi:

- Ăn uống thế nào?

Đáp:

- Ăn uống đạm bạc, tự làm để ăn.

Hỏi:

- Đây là quy củ của Bá Trượng thanh quy?

Đáp:

- Tòng lâm lấy quy củ làm quý, quy củ đứng vững, mọi người tùy chúng chính là tu hành.

Hỏi:

- Ngoài quy củ ra, Ngài còn có dạy cho đệ tử học kinh điển gì nữa không?

Đáp:

- Có, kinh là con đường, cho nên xem kinh mới biết con đường tu hành đi như thế nào. Tôi bảo họ xem Tâm Kinh.

Hỏi:

- Còn gì nữa không?

Đáp:

- Tâm Kinh bao hàm rất rộng, phải tự mình thể hội, phải tự mình tu hành, đến lúc thì tự nhiên minh bạch.

Hỏi:

- Tâm Kinh câu nào quan trọng nhất?

Đáp:

- Quán Tự Tại Bồ-tát..."Tự tại", hai chữ này quan trọng nhất.

Hỏi:

- Hòa thượng đời này hoằng dương Phật pháp, đại nguyện chủ yếu là gì?

Đáp:

- Tôi cả ngày ngồi đây, không có nói "tôi đang làm gì?"

Hỏi:

- Đây chính là tu hành của Đại Thiền sư!

Đáp:

- Đại Thiền sư! Bao lớn? Lớn nhất cũng không qua cái ghế của tôi đang ngồi đây!

Hỏi:

- Pháp sư cùng đến muốn tu sửa đạo tràng tu Thiền. Hòa thượng từ bi chỉ bảo cho chút không?

Đáp:

- Xây dựng đạo tràng phải có nguyện lực, phải chịu khổ chịu khó.

Năm Dân Quốc thứ 67, nghe tin pháp thể Quảng Công Hòa thượng suy yếu, có ý muốn quy Tây, chúng Tăng rất buồn bã, bèn cho mời danh y lên núi bắt mạch hốt thuốc, Hòa thượng không muốn phiền hà chúng Tăng, nhưng mọi người khẩn cầu mãi nên Ngài miễn cưỡng để lương y chẩn bệnh.

Thầy thuốc lộ vẻ ngạc nhiên:

- Chà! Mạch của Hòa thượng không giống như người thường, nhưng lại không tìm ra bệnh gì.

Quảng Công cười cười:

- Mọi người đều có bệnh, nhân tiện xem cho mọi người luôn. (Quảng Công chỉ tay qua chúng đệ tử đang quỳ).

Nghe tin Quảng Công nhuốm bệnh, mọi người lên núi vấn an, thăm hỏi nườm nượp. Pháp sư Sám Vân và bốn chúng đệ tử cũng vội vàng lên núi thỉnh Ngài trụ thế.

- Xin Hòa thượng từ bi vì chúng sinh ở lại đời mấy năm nữa!

- Thân tôi đây như cái nhà cũ rích, chi bằng đi sớm một tí, đổi thân tái lai vững chắc như ngôi nhà bê tông cốt thép.

- Hòa thượng trụ thế, chỉ cần yên tĩnh ngồi không cũng làm tăng trưởng tím tâm của đại chúng!

Cứ mỗi người một câu như vậy, cho đến lúc ngọ trai mà Hòa thượng vẫn không chấp nhận ở lại cõi đời.

Pháp sư Sám Vân trì ngọ và thế là quyết định sẽ tổ chức buổi lễ "Tiêu tai Diên thọ Dược sư Phật thất" để cầu cho Hòa thượng sống lâu, rồi vội vã đi đến Trai đường.

Mọi người đều mang tâm lý nặng nề. Đương lúc dùng trai, bỗng một Ni cô phấn chấn chạy đến trước Sám Công nói:

- Sám Công từ bi, Hòa thượng đã đồng ý rồi, Ngài không đi nữa, Ngài còn mời Sám Công đến đả Phật thất, Hòa thượng nói tốt nhất là nên đả thất A-di-đà Phật.

Mọi người nghe thế, hớn hở hẳn lên, mọi ưu phiền tức khắc tiêu hết.

Chùa Diệu Thông tọa lạc tại thôn Bảo Lai, làng Lục Quy, huyện Cao Hùng, địa thế phong thủy rất tốt, lưng dựa vách núi, mặt trước là một mạch nước trong vắt. Lúc Quảng Công vào khoảng 90 tuổi, biết nơi đây có thể có duyên độ chúng, bèn phái Pháp sư Truyền Văn phụ trách xây dựng.

Tháng 10 năm Dân Quốc thứ 74, Hòa thượng đại khai pháp hội, tổ chức Tam đàn Đại giới tại chùa Diệu Thông.

Gọi là Tam đàn Đại giới là chỉ cho giới Sa-di, Sa-di-ni lần đầu tiên đăng đàn; giới Tỷ-kheo đăng đàn lần thứ hai và Bồ-tát giới đăng đàn lần thứ ba, mỗi người xuất gia đều cần phải trải qua ba giai đoạn nhận giới này và do các giới Sư truyền thọ.

Do Hòa thượng vốn là người trì giới, nên cảm được đức hạnh của Hòa thượng, đệ tử xuất gia cầu giới đạt đến hơn 500 người, tại gia cầu giới hơn 2.200 người.

CHƯƠNG VI: VIÊN TỊCH

Trong kỳ truyền thọ Đại giới ở chùa Diệu Thông, nhiều lần Ngài nói là sau khi giới Kỳ viên mãn thì Ngài sẽ vãng sinh. Khi giới đàn viên mãn, Ngài liền tuyên bố bế quan, không tiếp một ai, ám thị duyên độ chúng đã hết, sẽ vào Niết-bàn.

Ngày 26 tháng 12, thuận lời nghinh thỉnh của Pháp sư Truyền Hối, Quảng Công về Thừa Thiên Tự. Vào sáng sớm ngày mùng 01 tháng giêng, Ngài triệu tập chúng đệ tử các phân viện và chúng Thừa Thiên Thiền Tự lại dặn dò: Linh cốt sau khi được hỏa táng sẽ chia ra ba nơi là Thừa Thiên Thiền Tự, Quảng Thừa Nham và Diệu Thông Tự.

Sau khi điểm tâm sáng, Ngài muốn trở về chùa Diệu Thông, chúng không dám trái, bèn tiễn Ngài xuống Nam.

Chiều ngày mùng 01 tháng giêng, Ngài về đến chùa Diệu Thông, các tín đồ biết Ngài sắp viên tịch, không hẹn mà cùng đến Diệu Thông Tự rất đông.

Sau khi về đến Diệu Thông Tự, Ngài vẫn niệm Phật suốt ngày đêm, đồng thời bảo đệ tử đồng niệm "Nam mô Tây Phương Cực Lạc thế giới A-di-đà Phật nguyện trở lại tiếp độ chúng sinh".

Trước ngày mùng 05 tháng giêng, Hòa thượng sáng suốt, an tường định tĩnh, sắc diện không đổi cho đến 02 giờ chiều, chợt Ngài nói với đại chúng:

- Không đến cũng không đi, vô sự! Đồng thời gật đầu mỉm cười rồi nhắm mắt an tọa.

Một lát, mọi người thấy Ngài bất động, bèn đến sát bên, thì ra Ngài đã ra đi trong tiếng niệm Phật.

Ngài Quảng Công viên tịch, tư thế ngồi, mắt nhìn xuống, cổ đeo chuỗi hạt, pháp tướng được an trí một cách trang nghiêm trước Đại hùng bảo điện, tín đồ khắp thành phố kéo đến nườm nượp không dứt để nhìn pháp thể Ngài lần chót, lại có rất nhiều tín đồ thành tâm đi ba bước lạy một lạy tiến vào trong đại điện.

Sau khi Quảng Khâm thượng nhân viên tịch, tiếng niệm "Nam mô A-di-đà Phật" vang lên không dứt. Được tin, chúng đệ tử đều đến, tất cả đều mang lòng cung kính trân trọng, đến trước nhục thân lễ bái. Bốn chúng đệ tử liên tiếp niệm Phật trước linh thể suốt 21 ngày.

Pháp sư Ngộ Minh ở chùa Hải Minh, niệm hương lễ bái tán:

"Lúc đến không chỗ đến,

Lúc đi không chỗ đi,

Đến đi vốn tự nhiên,

Thật là Như Lai ý.

Muốn đến thì đến,

Muốn đi thì đi

Tự tại như thế,

Là ý Tây lai".

Sáng sớm ngày 26 tháng giêng, chùa Diệu Thông chật ních tín đồ không kể xuất gia hay tại gia, tất cả đều thành kính tham dự lễ Trà-tỳ.

Đến 09 giờ, trưởng lão trụ trì chùa Diệu Thông pháp hiệu Bạch Thánh chủ trì lễ Trà-tỳ, buổi lễ tiến hành đơn giản nhưng rất long trọng.

Pháp sư Kiến Văn tuyên đọc sớ văn:

"Cung tán Quảng Khâm Hòa thượng

Như hành độ chúng,

Chân Tịnh chân Thiền,

60 năm không ăn hạt gạo,

Phẩm hạnh lợi nhân thiên,

Lập chùa dưỡng Tăng,

Ơn trạch khắp hư không.

Nam mô Độ Nhân Sư Bồ-tát".

Hơn 01 giờ chiều, di thể của Hòa thượng được cử xuất từ Đại hùng bảo điện. Khắp quảng trường chật ních tín đồ, mọi người giãn ra chừa một lối đi rộng rãi. Chúng đệ tử hộ pháp cầm cờ có thêu danh hiệu Phật đi trước, Pháp sư Bạch Thánh và chư trưởng lão theo sau, pháp thể được khiêng đi trang nghiêm trong tiếng niệm Phật, rầm rộ hướng ra bãi Trà-tỳ.

Pháp ngữ động quan:

"Linh tánh xưa nay không sinh diệt,

Sao có viên tịch với Trà-tỳ

Bồ-tát ứng thế độ chúng sinh

Từ chỗ không sinh hiện có sinh.

Quảng Công Hòa thượng biết rõ mà!

Thân Tứ đại này nhanh xả bỏ

Đổi thân năm ấm khác tốt hơn Lên!".

Đến 02 giờ chiều, Hòa thượng Bạch Thánh cử hành đốt lửa Trà-tỳ, nói rằng:

"Đã là Bồ-tát ứng thế

Phải biết thế sự vô thường

Thiêu đi Tứ đại ngũ ấm,

Cho ta tự tánh sao đâu".

Cử hỏa rằng:

"Đốt lên lửa Tam-muội,

Thiêu rụi sáu gốc tình

Hết thảy đều giải thoát

Trong lửa hiện kim thân Đốt!".

Lúc Trà-tỳ, không chỉ ánh sáng Phật phóng hiện điềm lành, mà còn có Xá-lợi nhiều vô số.

Theo những lời truyền tụng thì sau khi hỏa thiêu, mọi người lựa ra những viên Xá-lợi tương đối lớn có hơn cả trăm viên, còn các hạt nhỏ thì được các đệ tử tại gia nhặt về cúng dường.

Có một tín đồ đến chậm, bèn quỳ trước lò thiêu cả đêm để cầu xin, sáng ra bỗng thấy trên đầu gối có một viên Xá-lợi.

Có một bà cụ, tuổi già mắt yếu, không tìm được một viên Xá-lợi nào, bèn quỳ cầu xin Hòa thượng từ bi, dập đầu lạy ba lễ bèn được ba viên. Thật là không thể nghĩ bàn.

Có một cặp vợ chồng, đến tham dự lễ Trà-tỳ của Hòa thượng. Sau khi trở về, họ nghe nói Hòa thượng để lại rất nhiều Xá-lợi. Thế là hôm sau, họ đáp xe trở lại lò thiêu, kết quả họ phát hiện rất nhiều Xá-lợi trên đỉnh hỏa lò.

Có một ông mù họ Trương, cũng là đệ tử của Quảng Công Hòa thượng, vì bị phong thấp nên người nhà chưa báo cho nên ông biết việc Quảng Công đã viên tịch và Trà-tỳ. Khi được tin Hòa thượng vãng sinh, ông mới cùng đứa cháu gái đón xe xuống thăm. Lúc đến chùa Diệu Thông thì Xá-lợi trong hỏa lò đã được mọi người nhặt hết, ông bi thương trong lòng, khóc lên trước lò thiêu. Sau khi khóc lóc bi thương, ông ngồi dậy hốt tro gói trong khăn tay, lên xe về nhà.

Trên đường về, ông luôn niệm "Nam mô A-di-đà Phật".

Về đến nhà, ông đổ tro ra mâm, ông thật sự ngạc nhiên, tro đã biến thành Xá-lợi, to nhỏ có hơn 30 viên, trong suốt óng ánh vô cùng.

CHƯƠNG VII: NHỮNG LỜI KHAI THỊ NIỆM PHẬT

 Khi thân có bệnh không nên hoàn toàn dựa vào thuốc men, niệm Phật vô sự là tốt thôi. A-di-đà Phật là vua của mọi thầy thuốc.

 Kinh điển tức là con đường, ý là lúc phiền não khởi, bạn cầm cuốn kinh lên thì phiền não liền được chuyển. Nếu như làm được một chút như vậy thì gọi là "phiền não tức Bồ-đề", nếu không thì "phiền não tức vô minh".

 Lúc vọng tưởng đến, đừng sợ, bất kể nó là gì. Nó là nó, ta là ta. Ta vẫn A-di-đà Phật, niệm liên tục thì vọng tưởng tiêu tan. Tu hành phải chịu khổ cực, càng khổ cực thì càng có tâm đắc.

 Hỏi: "Phải niệm Phật như thế nào mới được nhất tâm?". Đáp: "Nói câu này cũng là chấp trước. Vọng tưởng đến không cần biết nó, đừng nói : Ta phải làm thế nào mới được?".

 Phàm việc gì cũng phải nhẫn nại, niệm Phật cũng phải như thế. Tu một cách thong thả, không vọng tưởng. Sau này sẽ cùng ở với Phật A-di-đà.

 Niệm Phật nhất tâm tức là Thiền, cho nên nói: "Có Thiền có Tịnh độ". Niệm Phật phải tùy duyên, bất cứ việc gì cũng phải tùy duyên trong niệm Phật, không nói: "Tôi phải niệm Phật bao nhiêu? Tôi đang niệm Phật, tôi đang làm cái gì?". Đi, đứng, nằm, ngồi, nhất cử nhất động đều ở trong niệm Phật.

 Trong kinh A-di-đà, sáu phương Phật xuất tướng lưỡi dài rộng che khắp Tam thiên đại thiên thế giới. Sáu phương thế giới là: phương Đông, phương Tây, phương Nam, phương Bắc, phương trên và phương dưới đều là hữu sắc tướng, bất kể ở đâu đều phải về Tây Phương.

 Người già biết hồi đầu niệm Phật thì sẽ không bị đến trong bốn loài: thấp sinh, thai sinh, noãn sinh, hóa sinh. Không thì rơi trong Lục đạo.

 Mạng người vô thường, chỉ cần hơi thở ra không hít vào thì đã sang đời khác. Phải dũng mãnh, tinh tấn, khẩn thiết chớ buông lung. Niệm Phật nhiều chính là vông việc cần thiết nhất phải làm.

 Đi, đứng, nằm, ngồi không được lìa Phật. Như đại sư Ấn Quang, Đại sư Hoằng Nhất là những người có tu chứng mà còn niệm Phật, huống hồ phàm phu chúng ta! Phải coi vấn đề niệm Phật là việc cấp thiết nhất!

 Người đời lấy khổ làm vui, lúc già thì sợ chết, buông xả không được con cháu. Còn người xuất gia chúng ta, tu hành khổ hạnh, vừa làm việc vừa niệm Phật, lâu ngày chầy tháng thể hội ra có thiên đường, địa ngục, Lục đạo luân hồi, vui vì mình được xuất gia. Niệm Phật nhiều, trí huệ sẽ khai mở, sẽ có chỗ ngộ, lúc già không sợ chết vì đã có Tây Phương Cực Lạc để đến.

 Hỏi: "Phật là cái gì? Giải thích thế nào?". Đáp: "Phật không phải là cái gì, trên đời thì có đủ thứ vật dụng, muôn màu muốn sắc. Học Phật thì không là cái gì cả. Không có tâm sắc tướng mới là học Phật".

 Hỏi: "Niệm mãi một danh hiệu Phật hay Bồ-tát tốt hơn phải không?". Đáp: "Tất cả chư Phật và Bồ-tát đều như nhau, không phải niệm Thánh hiệu Phật này thì tốt, Phật kia thì không. Đó là còn phân biệt".

 Người ăn chay xem những người ăn mặn là tội lỗi, họ cảm thấy ăn chay là Cực Lạc. Người hưởng phước cho rằng mình đang ở thế giới Cực Lạc, nhưng lại không biết không thể an hưởng vĩnh viễn, nếu phước báo hết thì khổ não, phiền não nghiệp chướng theo đó mà đến. Cho nên, quý vị đã quy y Tam Bảo, cần phải buông xả tất cả, thiết thực niệm Phật, đừng tham cầu con cháu làm trở ngại quý vị!

 Rất ít người được hưởng phước cả đời, có bao nhiêu phước thì có bấy nhiêu khổ.

 Chúng ta chỉ biết mình do cha mẹ sinh ra, nhưng trước khi cha mẹ sinh chúng ta ra, thì bộ mặt thật chúng ta thế nào? Lúc chết đi về đâu? Chúng ta đã nghe Phật pháp, biết có Phật A-di-đà đã phát 48 lời đại nguyện, chỉ cần niệm danh hiệu Ngài thì sẽ được tiếp dẫn đến Tây Phương Cực Lạc. Phật A-di-đà có nguyện này, chúng ta cũng nên nguyện như vậy: "Nguyện vãng sinh Tây Phương". Chúng ta phải tin rằng có Tây Phương Cực Lạc, có Phật A-di-đà đại từ đại bi. Đầy đủ Tín, Nguyện, Hạnh, chỉ cần sẵn sàng niệm Phật thì lúc sắp mệnh chung tâm có chánh niệm, thường luôn niệm Phật, Phật A-di-đà sẽ đến tiếp dẫn chúng ta. Nếu còn nhớ tưởng cho dù là cây kim ngọn cỏ của thế giới Ta-bà thì sẽ phải sinh tử luân hồi.

 Lúc vọng tưởng hoặc phiền não khởi lên thì phải dừng ngay, tiếp tục niệm Phật. Nếu vọng tưởng cứ khởi, thì mặc kệ nó, vẫn tiếp tục niệm Phật, như thế mới không thoái thất đạo tâm.

 Thân giả hợp của chúng ta khó tránh khỏi khổ đau của bệnh tật, những bệnh này còn nhẹ, vọng tưởng tham, sân, si mới là đại bệnh.

 Có vọng tưởng thì có luân hồi, không thể liễu được sinh tử. Vì để giữ chánh niệm lúc sắp mệnh chung, hằng ngày phải nên uống nhiều thuốc A-di-đà Phật, không thì chết sẽ không biết về đâu.

 Tất cả ai cũng có phiền não, nhưng đời người không lâu, có phiền não thì mãi ở trong sinh tử, mới ở trong Tứ sinh Lục đạo. Trong Tứ sinh, thậm chí ngay cả thân người cũng khó được, hễ một niệm phiền não khởi lên thì đầu thai trong Tứ sinh, cho nên phải niệm Phật mới được liễu sinh tử.

 Đả Phật thất là phải độ chúng sinh vãng sinh Tây Phương thế giới. Thế giới Ta-bà có sinh có diệt, thế giới Cực-lạc không còn sinh diệt

Phải tâm không lìa Phật, niệm Phật rõ ràng, nghe phải minh bạch. Dùng tâm tưởng, dùng tai nghe, dùng miệng niệm, cần phải tâm trụ trong tiếng niệm, buông xuống muôn duyên, phải nương vào tiếng niệm Phật mới được nhất tâm bất loạn. Không có tâm "năng niệm", "sở niệm", "anh đang niệm" hoặc "tôi đang niệm", mọi người đều nương theo âm thanh đồng âm này mới được nhất tâm. Tây Phương Cực Lạc cũng y âm mà niệm (nhất tâm chính là chú tâm vào tiếng niệm Phật, nghe âm thanh mà niệm). Đả Phật thất đừng để bị niệm thế gian lôi kéo. Nếu không chuyên tâm thì đáng tiếc chuyến đi đả Phật thất này, nên phải nhất tâm niệm Phật, một lòng lóng nghe.

 Niệm Phật mới là con đường thanh tịnh chân chính. Niệm Phật tức là con đường đến Tây Phương, đồng âm niệm Phật tức đáo Tây Phương, không cần phải mua vé máy bay, con thuyền đến Tây Phương không hình không tướng.

 Hỏi: "Niệm Phật nếu tâm bị tán loạn, phải làm thế nào?". Đáp: "Chỉ có một cách là cứ tiếp tục niệm Phật, tập trung hết tinh thần vào sáu chữ Nam mô A-di-đà Phật".

 Quý vị xem con tò vò không con, nó bắt một con trùng nhỏ rồi lấy đất hoàng thổ (đất màu vàng, hạt mịn, bở, xốp) bọc lại, ngày ngày kêu. Quý vị có biết nó đang nói cái gì không? Nó đang hết lòng nói với con tiểu trùng rằng: "Mày phải giống tao! Mày phải giống tao!". Cứ như vậy, lấy con trùng khác làm con của mình, sau vừa ra khỏi tổ cũng thành con tò vò, chuyên tâm nhất ý, siêu phàm nhập Thánh, chuyên tâm niệm A-di-đà Phật! A-di-đà Phật! Ngày ngày công phu cho thuần thục, tương lai nhất định thành Phật.

 Tây Phương ở đâu? Ở trong tâm chúng ta. Chúng ta hiện tại tuy đang ở Ta-bà, nhưng nếu niệm Phật, tâm tịnh thì Phật độ tịnh. Tâm thanh tịnh, không phiền não, không vọng tưởng chính là Tịnh độ.

 Hỏi: "Niệm Phật thế nào mới được nhất tâm?". Đáp: "Đây cũng là chấp trước. Lúc vọng tưởng đến không cần để ý đến nó, càng bảo nó lặng thì kết quả lại càng vọng tưởng nhiều. Cho nên, để ý đến nó thì cũng nhiều vọng tưởng. Niệm Phật phải tùy duyên, nghĩ đến thì niệm, không nên chấp trước "ta phải niệm thế nào?". Niệm phải niệm đến "niệm mà vô niệm".

 Niệm Phật không đơn giản, cần phải bỏ hết những lo âu phiền muộn, phải nhất tâm thanh tịnh xưng niệm Nam mô A-di-đà Phật mới có thể được tương ưng. Phải niệm sáu chữ một cách rõ ràng, không được có một chút hào ly nghi ngờ thì những tạp niệm sẽ được tiêu trừ, chắc chắn sẽ được nhất tâm bất loạn. Nếu như quý vị tin tôi, thành thật, chí tâm niệm Phật. Đi, đứng, nằm, ngồi không lìa sáu chữ, thậm chí cho đến trong mộng cũng vẫn duy trì, trong tâm luôn luôn có sáu chữ Nam mô A-di-đà Phật. Không cho trần cảnh xâm nhiễm, đạt đến mức độ ấy thì tâm không còn tham luyến, ý không điên đảo. Công phu đến lúc thuần thục thì cảnh Cực Lạc hiện tiền, nhất thiết không được không lưu ý.

 Hết thảy người thế gian đều bị sinh lão bệnh tử khổ. Chúng ta phải biết sinh tử từ đâu đến, chết đi về đâu. Là con trai, người vợ càng âu yếm, bạn lại càng khó rời xa, tham luyến thế gian, không biết thoát ly khổ hải thì vẫn phải ở trong luân hồi. Đây cũng là trọng nghiệp, nghiệp chướng chính là phiền não lo âu, ví dụ lo lắng trai gái, lớn bé trong nhà. Mỗi người có một nỗi lo khác nhau, nhưng cũng đều giống nhau ở chỗ là quên đi việc lớn sinh tử của chính mình, thậm chí ngay cả lúc mạng chung, sắp bỏ cõi đời mà cũng không quan tâm.

 Có những đứa trẻ biết lễ Phật, tụng kinh, đây là có căn lành, cho nên nói chúng sinh theo nghiệp chuyển. Nghiệp chướng mỗi người không đồng, nếu không chuyển được nghiệp thì phải luân hồi, phiền não vô tận.

 Mỗi người nghiệp cảm khác nhau, nếu không giác ngộ, nhận rằng Ta-bà là Cực Lạc thì không khác gì những con giòi dưới hầm phân, lại giống như mua gà vịt thịt cá ở chợ, cho rằng rất vui nhưng khi giác ngộ rồi thì cho đó là tội lỗi.

 Chủng tử xấu từ vô thỉ đến nay rất nhiều, nếu mang nghiệp đến thì rồi lại mang nghiệp đi, vẫn mãi ở trong luân hồi.

 Hỏi: "Mang nghiệp đến, làm sao khai trí huệ?". Đáp: "Niệm Nam mô A-di-đà Phật" cho nhiều.

 Mọi việc không được so bì tỵ nạnh, thấy việc gì làm chưa tốt thì tự mình đi làm, không nên sai bảo người khác, vì công đức thuộc về chính mình. Nếu như sai bảo người khác, đó chính là bạn đã tạo khẩu nghiệp. Làm việc không phải là làm cho ai khác, làm là tiêu nghiệp chướng cho mình.

 Chúng sinh theo nghiệp chuyển trong Tứ sinh. Chúng ta phải tìm đường liễu sinh tử, nhất tâm niệm Phật thì theo nghiệp chuyển. Nếu không, bạn sẽ luân hồi trong sáu đường sinh tử.

 Có người vì không thấy được nên không tin luân hồi. Thực ra, chúng ta có thể thấy được như trâu, heo do ai đầu thai? Ở trong thế giới phồn hoa cũng có thể thấy được Lục đạo luân hồi, như diễn kịch trong truyền hình, cũng giống như chúng ta đang diễn.

 Chúng ta nhiều đời tạo nhiều ác nghiệp, nghiệp tạo còn cao hơn núi. Đời này xuất gia tu hành thì nghiệp luôn xuất hiện trước mắt; cho nên có lúc cảm thấy sau khi xuất gia, nghiệp lại đổ nhiều hơn. Chúng ta phải cố sức để nhảy qua. Nếu không khắc phục phiền não, lại khởi tâm động niệm, như vậy thì lại tạo thêm nghiệp mới.

 Nghiệp chướng đến thì vô minh phiền não khởi, như không có chánh niệm thì tà niệm khởi, nhìn ai cũng thấy trái tai gai mắt, cái gì cũng không vừa ý, muốn bỏ chùa này đi tìm chùa khác; hoặc thấy tu hành không có ý nghĩa, muốn hoàn tục quách cho rồi. Thật ra, hễ khởi phiền não là mình đã sai rồi. Không cần bạn có lý hay không. (Chú): Có phiền não thì nghiệp chướng hiện tiền, không thể an ổn tu hành, cho nên nói: "Một niệm sân hận khởi lên thì trăm ngàn nghiệp chướng đều mở cửa".

 Chúng ta tu khổ hạnh là muốn tiêu trừ nghiệp chướng. Do đó, các bạn phải chú ý lời nói, hành động của mình để khỏi chiêu mời nghiệp chướng.

 Vì sao chúng ta bị luân hồi? Là do thất tình (bảy thứ tình cảm của con người: mừng, giận, thương, sợ, yêu, ghét, muốn). Ngũ dục (tiền tài, danh vọng, sắc đẹp, ăn uống, ngủ nghỉ) quá nặng, bị thất tình ngũ dục mê hoặc. Cả ngày vì tiền tài, danh vọng, sắc đẹp, ăn uống, ngủ nghỉ mà phiền não. "Nghiệp" cũng do như thế mà ra.

 Có người nói: "Định nghiệp không thể chuyển". Đáp: "Nếu tin Phật, hồi đầu niệm Phật tu đạo thì nghiệp có thể chuyển được".

 Chúng sinh theo nghiệp chuyển, muốn lấy thanh tịnh Phật pháp để chuyển nghiệp rất không đơn giản. Muốn giải thoát lại càng khó hơn. Mỗi người tính khí bất đồng, "hiểu tính nhau thì dễ ở cùng" (Sư phụ đặc biệt nhấn mạnh chúng ta sống phải biết thuận lòng người). Cho nên nói, độ chúng sinh phải tùy duyên chúng sinh, phải có lòng từ bi, phải cho chúng sinh phương tiện.

 Các bạn phải làm hết thảy mọi công

việc, nếu ăn không ngồi rồi thì phước báo sẽ hết, nghiệp chướng sẽ đến.

 Sinh ra không đem gì đến, chết cũng chẳng mang gì theo. Cho dù khi sống có tiền muôn bạc triệu, khi chết cũng không thể mang theo, cho nên nói: "Mọi thứ phải để lại, duy chỉ nghiệp theo mình". Đừng vì sự vật bên ngoài mà lãng phí một đời người, hãy tranh thủ thời giờ tu hành đi!

 "Cá lớn ăn cá nhỏ", con người giống như con cá lớn, cái gì cũng ăn, ngay cả con hổ hung dữ cũng muốn ăn, nghiệp chướng rõ ràng là sâu nặng. Nếu không sớm cầu sám hối, lễ Phật nhiều thì đến lúc Phật Di-lặc giáng sinh, một chút thiện căn cũng sẽ không có chớ nói gì đến tu hành. Nếu niệm Phật nhiều, hay sám hối, tu hành nỗ lực, trồng nhiều thiện căn thì đến lúc đó, không chừng được làm đệ tử của đức Di-lặc.

 Cái túi da (chỉ thân xác chúng ta) hôi thối này là chúng ta chỉ tạm mượn, nhưng chúng ta lại thường hay vì nó mà tạo vô biên nghiệp báo.

 Hỏi: "Thưa Sư phụ! Việc đó thật không dễ!". Đáp: "Đừng nói rằng khó, cứ làm đi thì sẽ dễ thôi!".

 Hỏi: "Tôi là phàm phu, cho nên...". Đáp: "Nói mình là phàm phu cũng là chấp trước".

 Thường nói người xấu, ta tốt. Nói mình tốt thì vui, nói xấu thì khó chịu. Đây chính là "tướng nhân, tướng ngã" thì không thể tu được. Nếu có "ngã tướng" thì làm việc gì cũng có "cái ta" rất là quan trọng, phân biệt ta người rất rõ ràng, như vậy là không thuận lợi cho việc tu hành, thường hay sinh khởi phiền não.

 Phải bỏ "ngã chấp" ngay từ vấn đề cơm lạt áo thô. Phải ít ham muốn, không khởi tâm phân biệt. Phải tu không "tướng ngã, tướng nhân, tướng chúng sinh, tướng thọ giả".

 Người khác nói ta không tốt, không nổi giận; nói ta tốt, cũng không vui mừng. (Chú): Sự phê bình, chỉ trích của người khác, có thể khiến chúng ta phản tỉnh, phải cảnh giác, như vậy cho nên nói "những lời nghịch tai là duyên tốt" (nghịch tăng thượng duyên).

 Tai chúng ta luôn thích nghe những lời người khác nói tốt về ta, mắt cũng thế, luôn thích nhìn cái đẹp. Những điều này đối với việc tu hành sẽ không thuận lợi.

 Thân khẩu ý của người xuất gia chúng ta khác với người đời, phải biết thế nào mới được "liễu sinh thoát tử", mục tiêu của chúng ta là "liễu sinh thoát tử". Nếu trong lòng bạn còn tham lam, yêu ghét, lo lường... Như vậy thì lúc sắp mạng chung, cảnh giới ấy sẽ tùy tâm hiện khởi. Tâm hễ chấp trước thì liền đi vào cảnh giới luân hồi.

 Cha mẹ tốt với chúng ta, càng thương yêu lúc chết càng khó bỏ. Đừng có luôn luôn phiền não cha mẹ thế này hay thế khác, phải chuyên tâm nơi đạo, không thì lại phải thương yêu xa lìa là khổ (ái biệt ly khổ), con đường sinh tử luân hồi thật là nguy hiểm.

 Giới cũng đừng quá chấp trước, phải hiểu rõ nhân duyên chế giới, học tập tinh thần giới điều này, không nên chấp trước vào giới tướng. Trì giới là không sinh phiền não, không xung đột với người.

 Không được có ngã chấp, nếu có ngã chấp thì trí huệ không khai mở. Không được có tâm cống cao ngã mạn, không thì sẽ chướng đạo.

 Phải xả bỏ tất cả. Nếu còn thích, lưu luyến cái gì ở thế gian thì lúc lâm chung sẽ hiện ra cái đó.

 Bình thường không nên lo lắng bất cứ việc gì để tránh lúc lâm chung, các cảnh lo lắng hiện ra, sẽ phải tiếp tục luân hồi (bởi vì những suy nghĩ thường ngày chính là những ý niệm của lúc lâm chung).

 Người xuất gia phải vô sở cầu, vô sở trụ.

 Đối với bất cứ việc gì cũng buông bỏ hết. Buông bỏ tức là công phu.

 Phải bỏ cho được, nhìn cho thấu suốt thì mới có thể vượt qua sinh tử.

 Xuất gia phải xả tình chấp "ái biệt ly khổ", không được phan duyên.

 Người xuất gia không chú trọng ăn mặc, chỉ cần cơm đạm áo thô, ấm thân no bụng là được.

 Tu hành không chấp trước, chấp trước tức sinh phiền não.

 Bị người khác công kích hoặc phê bình, cần phải nhẫn chịu. Cho dù oan ức cũng phải nhẫn nhục, thậm chí còn cảm ơn mọi người, bởi vì nhờ họ mà có cơ hội tu pháp "nhẫn nhục". Nhẫn nhục tức là trí huệ.

 Tu hành phải bỏ ngã tướng, không được nói ra thân phận trước khi xuất gia của mình là gì, nếu nhớ địa vị xã hội trước đây thì không thể hạ quyết tâm tu đạo được. Đã xuất gia thì không có thân phận, sở học cao thấp, mọi người đều như nhau. Cho dù là học vị bác sĩ, khi đến cửa Phật tu hành cũng phải từ nhỏ học lên. Tu hành phải xả thân, phải phát tâm vì thường trụ. Nếu cứ chăm sóc cho thân thể thì không thể tu hành, mà ngược lại còn bị cái bị thịt hôi thối này lôi chuyển.

 Phải lập đại nguyện như vậy: "Hết thảy mọi người thành Phật hết tôi mới thành Phật". Nói một cách đơn giản là giúp mọi người an tâm tu đạo, để mọi người an trụ kỳ tâm, giảng đạo lý cho mọi người nghe khiến họ tăng trưởng trí huệ. Sau khi mọi người thành Phật, ta mới thành Phật. Không được có tâm tật đố, sợ người khác hơn mình.

 Chúng ta xuất gia thì phải tu hành liễu sinh thoát tử, không phải đến hưởng thụ. Tu khổ hạnh chính là mài dũa thân tâm chúng ta. Không có "ngã tướng", không có tham, sân, si mới đạt được thân, khẩu, ý thanh tịnh.

 Không được mong cầu thí chủ đem vật thực đến cúng dường, không được dựa vào thí chủ (ý chỉ không được phan duyên tứ xứ). Chỉ cần nỗ lực tu hành, thành tựu rồi thì Thiên long Bát bộ sẽ hộ pháp ta.

 Trước đây La Trạng Nguyên đã bỏ chức vị mà xuất gia, ông ta sợ mọi người biết thân phận mọi người trước đây nên khổ hạnh làm tất cả công việc. Có một ngày, ông ta khai ngộ, nhớ lại việc rửa chén đĩa trước đây, làm bể bao nhiêu cái, tức tốc lấy của bồi thường.

 La Trạng Nguyên không có ngã tướng cho nên dụng đắc công phu, được khai ngộ rất nhanh.

 Lúc phiền não, đừng nói với người này, nói với người kia, nói đi nói lại chỉ thêm thị phi. Tốt nhất là nên lễ Phật nhiều sẽ hết phiền não.

 Tòng lâm Đại Lục trước đây, hễ có người phạm lỗi, thầy Tri khách không cần nói nhiều, viết họ tên bố cáo lên bảng, người này thấy được bèn phải bỏ đi. Người thời nay, nếu thầy Tri khách trách mắng vài câu, liền cãi lại, căn cơ còn kém hơn người xưa xa.

 Giấy loại (giấy đã viết) cũng phải quý tiếc, không được tùy tiện chà đạp, vò xé, cần phải đốt bỏ, đây cũng là một đức tính tốt.

 Đừng sợ phải đắc tội với người, điều quan trọng là công việc của mình (ý muốn nói là chỉ cần mình làm đúng). Cái gì đáng nói thì phải nói. Không được lấy Phật làm ơn huệ, để tránh rơi vào nhân quả (mất người chứ nhân quả không mất).

 Trước đây xuất gia ở Tòng lâm Đại Lục không phải dễ dàng như vậy, vừa xuất gia là phải ra ngoài đào núi vỡ đê, làm những công việc nặng nhọc, cho đến lúc thấy bạn đạo tâm kiên cố mới cho lãnh chức sự. Hôm nay, chúng ta có đạo tràng tu học như thế này, đừng có vọng tưởng đạo tràng nào tốt hơn, nếu tâm không an định thì không thể tu hành.

 Làm việc là phải làm một cách tình nguyện, đừng có làm một cách miễn cưỡng. Như thế mới tăng trưởng trí huệ.

 Có một số người cho rằng, giả sử nếu tất cả mọi người đều xuất gia thì xã hội này sẽ thế nào? Nói: "Mọi người đều xuất gia thì chúng ta cùng lên Cực Lạc thế giới, như vậy không tốt hơn sao?".

 Người đời bị năm món dục mê hoặc, muốn được ăn ngon nên giết hại để nuôi dưỡng cái thân thể này, không biết rằng thịt mình ăn đây là quyến thuộc nhiều đời trong quá khứ. Ăn một cân nhất định phải đền trả 16 lạng (16 lạng bằng một cân, theo lối tính của người Trung Quốc), không thể trốn chạy. Như vậy, vay vay trả trả, tử tử sinh sinh, vĩnh viễn không bao giờ ra khỏi vòng lẩn quẩn của luân hồi. Hơn nữa, ăn thịt của lục thân quyến thuộc trước đây, lòng sao nỡ nhẫn?

 Tu hành phải trừ bốn tướng (tướng ngã, tướng nhân, tướng chúng sinh, tướng thọ giả).

 Thấy khuyết điểm của người khác, không được khởi tâm phân biệt, phải quan sát tự tâm, cảnh giác chính mình.

 Chúng ta là phàm phu, nam nữ cần phải phân ra cho rõ ràng, phải giữ khoảng cách để khỏi phải chướng đạo

 Thân người khó được, Phật pháp khó nghe. Nay đã được thân người lại được nghe Phật pháp, phải nên tu hành cho nghiêm chỉnh.

 Lục đạo là: nhân, thiên, A-tu-la, súc sinh, ngạ quỷ, địa ngục. Trời, người tuy được hưởng phước báo nhưng chỉ cần khởi một niệm không lành thì sẽ bị đọa lạc. Con người chúng ta đã phạm sai lầm, chỉ cần thật tâm sám hối thì đồng với thanh tịnh không khác.

 Người tu hành gặp cảnh ngộ càng xấu thì càng tốt. Người xuất gia khác với người tại gia, đã xuất gia rồi thì càng khổ càng hay. Trên đường tu hành có rất nhiều chỗ khác với thế tục, không phải tranh cãi đúng hay sai. Trước đây, có hai đồ đệ ngồi thiền, một người ngồi rất trang nghiêm, một người thì ngược lại, ngã bên Đông, ngoẹo bên Tây, nhưng Sư phụ thì lại đánh người ngồi ngay thẳng. Nếu như người thời nay thì sẽ lập tức sinh khởi phiền não, nhưng vị đồ đệ đó thì không như bạn. Ngài rất hổ thẹn xin Sư phụ khai thị chỗ dụng công sai của mình. Người tu hành không phải tranh luận đúng hay không đúng mà phải là có công phu như vậy. Bạn đúng, mọi người nói bạn sai, bạn cũng phải nhẫn chịu.

 Tu hành là phải thủ tĩnh ở trong động, nếu chỉ thủ tĩnh trong tịnh thì công phu ấy chưa đạt đến rốt ráo. Cần phải động tĩnh đều không quái ngại.

 Tu hành nhất định phải ở chốn Tòng lâm đông người, như vậy mới có cơ hội rèn luyện. Không nên chỉ ở chỗ có hai ba người, đã không có Tòng lâm, lại không có quy củ Phật môn thì không có cơ hội mài dũa chính mình, không có cái gì lĩnh hội.

 Những người khen ta, nói tốt ta đều không phải là thiện tri thức. Những người chửi mắng ta (bất luận là ta đúng hay sai) mới là thiện tri thức chân chính. Lúc kích động ta, chính là đang thành tựu nhẫn nhục cho ta. Lúc chúng ta bị công kích, nên thường nghĩ: "Đừng có mỉa tôi, tôi sẽ làm cho bạn xem". Thoát ra những chí khí như vậy, nhất định bạn sẽ thành tựu.

 Nam nữ phải phân ra cho rõ ràng, cho dù sống đến trăm tuổi, cũng vậy. Trừ phi đã đắc ngộ, có định lực, không thì sẽ dễ xảy ra vấn đề.

 Xuất gia là phải xả thân. Người ta chửi mắng, sỉ nhục thế nào cũng không oán giận, trước phải bỏ "ngã tướng" thì mới có thể tu hành được. Phải thể hội "Tam quy y" cho rõ ràng, có hành được không?

 Trí huệ vượt quá thần thông, trí huệ biện biết được phải trái, liễu được sinh tử.

 Người đến giới đàn cầu giới đến từ khắp nơi, chúng ta không nên mặc đẹp, ăn ngon, ở chỗ tốt hơn người. Ở giới trường ít nói, giảm bớt phan duyên với người. Có thời gian nên lễ Phật, niệm Phật, sám hối cho nhiều.

 Thọ giới năng nhẫn tức vào đạo, phàm những việc đơn giản, thuận tiện thì tốt. Không nên so bì giường anh lớn, thức ăn anh ngon. Thọ giới là đi học oai nghi quy củ, không phải là đi tranh luận phải trái, tạo khẩu nghiệp, cho nên không được phan duyên, tiếp xúc nhiều.

 "Tham" chính là "tham" cái xấu. Nếu như bạn thấy sai lầm của người khác, cần phải cảnh giác mình để đừng sai phạm, người khác không hành đúng pháp, chúng ta phải như pháp.

 Đừng nghĩ rằng xuất gia mấy năm thì được làm Pháp sư, phải bế quan, ít nói. Nếu như đạt được trình độ đó, công phu chưa đến nơi thì ăn mặc ngủ đều còn cần thiết, làm sao mà bế quan? Sau này cũng xảy ra vấn đề.

 Chúng ta phải học tập chư Phật, Bồ-tát, Lịch đại Tổ sư, phải dũng mãnh tinh tấn lên.

 Xử sự phải cẩn thận, mọi việc đều có nhân quả. Nếu phí phạm vứt bỏ hay làm hư hoại một vật gì đó đều không thể thoát khỏi nhân quả. Nhân quả không sai một tơ hào và cũng không ai thay thế cho ai được. Cho nên nói: "Ai ăn nấy no, ai tu nấy chứng".

 Hỏi: "Sư phụ thường hay dạy chúng con học tập chư vị Tổ sư, nhưng ở hoàn cảnh quá hậu hỹ, ăn mặc ngủ nghỉ quá dư thừa thì làm sao học theo được? Đáp: "Chúng ta đừng tham chấp, chỉ cần sống được là tốt rồi. Không thể vì nhiều của cải bèn ra sức mà ăn, đây là có niệm tham. Cũng không được cố ý ăn ít để phải đói, cần phải theo thực lượng vừa đủ của mình. Ăn no là được, đừng phân biệt ngon dở".

 Người xuất gia không luận bái ai làm thầy, chỉ cần giữ được quy củ trong chùa. Mọi người đều như nhau, mọi người đều là đệ tử Phật. Nếu phân biệt, anh là người ngoài, tôi là đệ tử ruột thì chẳng phải là người xuất gia. Người xuất gia chỉ cần y giới tu hành, sống khiêm nhường, tinh tấn thì đến đâu cũng được cung kính, Thiên long Bát bộ sẽ ủng hộ; Tòng lâm mười phương đều có thể là nhà.

 Thức dậy buổi sáng, trước phải rờ đầu, đặt câu hỏi vì sao ta phải xuất gia? Vì "liễu sinh thoát tử" (đề khởi đạo tâm).

 Tại gia có khổ, xuất gia cũng khổ. Cái khổ của tại gia không có mục tiêu còn cái khổ xuất gia là cái khổ liễu sinh tử, không còn bị luân hồi.

 Miếng cơm của người xuất gia không phải dễ ăn đâu! Nếu muốn ăn một cách an ổn thì phải tu hành cho tốt.

 Phàm mọi việc không phải người ta nói sao mình nghe vậy, phải dùng trí huệ của mình mà suy xét.

 Điều chúng ta phải học là "tâm địa pháp môn" không sắc tướng, đây mới là pháp vô thượng.

 Có người thì sẽ có thị phi, cho nên đừng nói chuyện thị phi cùng người. Bởi vì nói chuyện phải trái là "người thị phi". Người xuất gia, nếu rảnh rỗi nên lễ Phật niệm Phật.

 Tu hành phải chú ý khẩu nghiệp, miệng tốt thì tâm tốt, đừng nói: "Tuy tôi nói vậy chứ trong lòng không có gì"

.

 Mỗi người độ sinh theo mỗi pháp môn riêng, không được tùy tiện hủy báng, phê bình làm ảnh hưởng tín tâm của người khác đối với Phật pháp, có nhân quả đấy!

 Phải không có tâm phân biệt mới có thể bỏ "ngã tướng". Nếu như chấp "ngã tướng" thì không thể tu hành, trí huệ không thể khai mở.

 Tiếp xúc với tín đồ chỉ nói Phật pháp. Nếu họ nói chuyện thế tục với bạn, thì nói: "Xin lỗi! Bây giờ tôi không rảnh". Sau đó thì đi lễ Phật. Nếu gặp người bất thiện, mặc kệ, không để tâm.

 Nếu không bỏ lìa tham, sân, si thì không thể khai mở trí huệ.

 Đừng có nhìn người khác đúng hay sai, hãy trở lại soi xét chính mình, xem mình đúng hay không đúng. Tu là tu cho chính mình. Ai cũng có lỗi lầm, nhưng phải thành tâm sám hối.

 Người xuất gia không nên coi thường địa dư, nhưng tu hành đạt đến trình độ nào đó thì sẽ không chịu sự ảnh hưởng của địa lý, bởi vì tâm có thể chuyển vật.

 Lúc người khác bình luận chuyện tốt xấu, không nên tham gia ý kiến, trong lòng hay biết là được cũng không nên tham gia nói chuyện thị phi, không bị chuyện phải trái.

 Nóng tính dễ khởi vô minh. Cho nên phàm làm việc gì, trước phải giữ tâm định tĩnh.

 Tín đồ mang phẩm vật tứ sự đến cúng dường, là đến để cầu phước. Cho dù là một cọng cỏ, chúng ta vẫn phải vui vẻ nhận lấy. Nếu mang phẩm vật quý giá đến, chúng ta vì phẩm vật này mà khởi tâm niệm tham thì không thể đạt đạo. Nếu đem phẩm vật hư thối đến, chúng ta vẫn dùng làm thức ăn thì phước huệ song tu. Nếu không xử lý thích đáng mà còn trở lại chỉ trích họ đã đem phẩm vật không thể dùng được mà bố thí, thì không những chính mình bị phiền não mà còn tạo thêm khẩu nghiệp.

 Thọ giới không phải là thọ mấy cái tướng giới ấy, mà giới là hành vi giới, không phải lấy những kích thước này (những giới mà mình đã nhận giữ để chỉ trích lỗi lầm của người khác). Nếu không thì đó lại là chính mình phạm giới trước.

 Phải tu "nhẫn nhục", "nhẫn" là căn bản của tu hành. Nếu không nhẫn được, thì chỉ xuất gia ở hình tướng bên ngoài.

 Xuất gia là phải hành đại hiếu, phải trên đền bốn ân, dưới cứu ba cõi. Độ cha mẹ nhiều đời nhiều kiếp, bao gồm cha mẹ rất nhiều đời nhiều kiếp.

 Xuất gia tu hành là phải tìm cho được khuôn mặt thật trước khi cha mẹ sinh ra của mình. Cái này các bạn vẫn còn chưa biết, do trí huệ chưa sinh. Giống như mặt trăng bị đám mây mù che lấp nên ánh sáng không thể tỏ lộ. Người xuất gia phải lấy từ bi làm gốc, phương tiện làm cửa. Đại bi đại thể, tất cả đều từ trong đó mà ra.

 Tây Phương ở đâu? Ở trong tâm chúng ta, trong tâm vô sự, không phiền não thì Tây Phương.

\

 Những hành động nghịch đến, giống như để bạn kiếm tiền đi Tây Phương mà bạn lại không muốn. Bạn không biết tu nhẫn nhục mà ngược lại còn khởi phiền não.

 Phải thương yêu tất cả chúng sinh, đó là tu, là trồng xuống hạt giống tốt lành. Cho nên phải phát Bồ-đề tâm, từ bi tâm.

 Tu hành, thì đến nơi đâu cũng như nhau (ở đâu cũng đều tự tại). Tu, chính là tu những cái này.

 Sống mà biết vì người thì mới đáng là người xuất gia tu hành. Nếu không như thế thì cũng như tất cả những người trong xã hội sinh con đẻ cháu, lúc sắp chết không xả bỏ được, quyến luyến không muốn ra đi.

 Người có căn cơ, nếu bạn trách mắng họ thì họ biết là bạn đang dạy họ, họ sẽ cầu xin sám hối. Người căn cơ thấp kém thì trở lại nói bạn sao bảo họ không đúng? Bởi vậy sinh phiền não, có người thậm chí muốn bỏ đi.

 Tu hành phải tu được từ bi tướng, để người khác trông vào thấy rất hòa ái, dễ gần.

 Nghe khai thị, không phải là nghe nhiều hay ít mà là nghe có vào hay không? Nghe vào mới có ứng dụng.

 Mặc y phục nâu sòng này, phải tu đến bất cứ điều gì cũng không quái ngại, lo lắng gì hết đến nhân tình thế thái.

 Tu hành phải phước huệ song tu. Tu đến lúc phước huệ đầy đủ thì mọi người tự nhiên cung kính bạn.

 Xuất gia phải điều phục tâm viên ý mã.

 Thiện tri thức ở đâu? Ở tại trong tâm bạn.

 Làm việc là không phải làm cho ai khác, mà là vì để sạch nghiệp chướng của mình. Tất cả đều làm việc, nếu có người không muốn làm thì chúng ta đến nhắc nhở; nếu họ làm không tốt thì ta hãy làm giúp. Không được chia việc ra làm, không được so bì tỵ nạnh. Nếu không thì bạn sẽ khởi phiền não. Nếu họ không làm thì bạn tự làm lấy, phải có tâm từ bi.

 Những người đả kích bạn thì bạn cho rằng họ là người xấu, nhưng nếu ở trên đường tu hành mà nói thì họ lại giúp đỡ cho chúng ta, chúng ta cần phải cám ơn họ mới phải. Bởi vì đó là chiếc vé đi Tây Phương, xem bạn có muốn kiếm không?

 Người khác làm ác, bạn không nên vui theo họ làm ác. Phải phân biện được phải trái, tâm cần có chủ, các bạn phải rộng kết thiện duyên, chưa thành Phật, trước phải kết thiện duyên với người.

 Hôm nay là hôm nay, ngày mai là ngày mai. Hôm nay có thể thân thể khỏe mạnh, không bệnh tật, niệm Phật nhiều thì sẽ cảm thấy đầy đủ. Ngày mai đến, ngày mai hãy nói, không cần phải bận tâm.

 Lúc Hòa thượng Hư Vân triều sơn đi chân đất, một chiếc gậy, một dãy vải, nhẫn chịu mọi đói khát. Đi đến đâu hay đến đó, việc ngày mai ngày mai hãy nói, tâm vô sở trụ, sẽ được Long thiên Hộ pháp hộ trì. Chúng ta chưa có nguyện, chứ có nguyện thì việc gì cũng đều làm được.

 Tu hành không phải cái gì cũng không muốn, đó là "thiên về không". Tu hành là phải tùy duyên, cần ăn là ăn, cần dùng là dùng.

 Chúng ta ở đây có thể thấy người khắp mười phương, đủ hình tướng sắc màu. Những người xuất gia trẻ tuổi, ý niệm tình ái tương đối nặng, giả như nếu thấy một đối tình nhân đang yêu nhau mà sinh khởi ý niệm thích thú là chưa có đạo tâm. Phải cho rằng họ đang tạo nghiệp, như thế mới có đạo tâm.

 Làm một vị Bồ-tát không thể cứ chỉ mình tốt là được, phải lấy "lợi người" làm trọng, còn mình thì không quan hệ, mỗi mỗi đều phải lợi người. Nếu chỉ nghĩ lợi ích cho riêng mình thì vô minh phiền não sẽ lớn chồng chất.

 Thế nào mới được gọi là khổ hạnh, chính là tất cả đều không so bì tỵ nạnh, làm những việc người khác không làm, ăn những vật người khác không ăn, sống không phân biệt. Đây chính là tu khổ hạnh.

 Hòa thượng Hư Vân chỉ một bộ đồ, rách thì vá, vá rồi lại mặc. Ăn ngày một bữa, qua ngọ thì không ăn nữa. Chỉ vì "liễu sinh thoát tử", dũng mãnh tinh tấn, xả bỏ tất cả.

 Đoàn thể chúng ta được trang nghiêm, mỗi người cũng phải trang nghiêm chính mình, bất luận chỗ nào cũng đều trang nghiêm. Lúc khóa tụng, người ngoài đến thấy đại chúng rất oai nghi, rất trang nghiêm, tự nhiên họ sinh tín tâm với Phật pháp.

 Hằng ngày phải nên luôn niệm Phật, lễ Phật, làm việc. Không có việc gì thì không có phiền não, chính là mọi sự trôi qua một cách êm ả. Không nên khởi vọng tưởng làm cái gì (không có lỗi tức là công phu).

 Người phương Tây không dễ gì hiểu được đạo lý câu nói: "Thân người khó được" này, và câu: "Tất cả chúng sinh đều có Phật tánh", lại càng không thể hội. Thân thể chúng ta sẽ hoại, nhưng Phật tánh thì mãi trường tồn, chúng sinh tuy có Phật tánh, nhưng ngày ngày ở trong mộng, ngay cả ba bữa ăn cũng ở trong mộng. Mộng trong Lục đạo luân hồi, không ra khỏi Ta-bà, cần phải hữu duyên được nghe Phật pháp, theo lý đạo đó mà tu hành.

 Xã hội không theo tổ chức của Phật pháp nhưng thế giới Ta-bà hướng về Phật pháp. Do đó, người xuất gia xả thân vì đạo, không để bị xã hội nhiễm ô, nên dùng hạnh nguyện của mình để thanh tịnh hóa xã hội.

 Nếu bạn đã quét sạch mà Sư phụ nói bạn quét chưa sạch, lúc đó nếu bạn cãi lại thì đây là tính tình của kẻ tại gia, còn chưa thoát tục. Nếu bạn tiếp thọ, nói: "Thưa vâng! Con sẽ quét lại". Đây mới là kẻ tu hành.

 Cơm đạm áo thô, tu hành phải bắt đầu từ đó mà hạ thủ. Nếu như cả ngày tìm tòi, nghiên cứu ăn mặc, lo lắng vì những điều đó thì vốn là muốn tiêu nghiệp chướng mà nay trở lại ăn hết phước huệ, nghiệp chướng cũng theo đó mà sinh.

 Người tại gia cả ngày bận bịu là do truy cầu danh lợi, tiếng thơm, chú trọng hưởng thụ ăn ngon mặc đẹp. Người xuất gia làm việc là để huấn luyện trí óc, làm việc không tham nhiều, không vội vã, lại càng không nghĩ được người khác khen ngợi. Trước đây, ở Tòng lâm Đại lục, mặc thì áo gai nhuộm màu, ăn thì cháo loãng lơ thơ (chén có thể không cần rửa), thức ăn thì rất đơn giản, không có giống như bây giờ, được ăn cơm, thức ăn lại rất nhiều.

 Phật, Bồ-tát trước đây cũng từ khổ hạnh mà thành tựu Phật đạo. Người thời nay không thể ăn khổ, cũng không tin lý xả thân của chư Phật, Bồ-tát, do đó vào đạo rất khó! Nguyện lực của Phật, Bồ-tát mỗi mỗi không đồng; như Phật A-di-đà có 48 lời nguyện, Phật Dược Sư có 12 đại nguyện. Người tu hành nên bắt chước chư Phật, Bồ-tát, mỗi người đều nên phát đại nguyện, luôn giữ chớ để thoái thất, cho đến khi thành Phật mới thôi.

 Lúc lâm chung đừng có muốn thấy sắc tướng Bồ-tát, cầu thấy cũng chưa chắc là chính xác, không thể dựa vào đó. Phải không có sở cầu, tịnh tâm niệm Phật, xuất hiện từ bên trong mới là chân thật.

 Không đơn giản, cần phải có thiện căn. Không đơn giản, không phải nói dùng cách gì để luyện tập hoặc đối trị, như vậy là chấp trước. Đây là người có đủ thiện căn có tâm tu hành, chánh niệm trong mọi hành động, tự nhiên mà thành. Nếu có người muốn luyện tập không đơn giản, một khi xuất ra câu hỏi, lầm lỡ đó không phải chính mình đáng tiếc sao? Vì thân người khó được!

 Không được khởi sân nhuế cho dù một hào tơ, không thì bạn không thể nhập đạo.

 Người tại gia sát sinh, những con vật bị giết hại đó quá khứ đều là anh em, cha mẹ, vợ con của họ. Anh giết tôi, tôi lại giết anh cho nên mới có luân hồi.

 Cha mẹ sinh ra chúng ta, ân tình rất nặng, không xuất gia muốn đền báo thâm ân rất khó, bởi vì đều là oán thân mà đến. Xuất gia muốn trên đền bốn ân nặng, muốn cha mẹ cũng được liễu sinh tử mới là độ chúng sinh.

 Người tại gia không biết, cho rằng không có con là khổ, tự than không bằng con cháu đầy nhà, không biết rằng đó là oan thân trái chủ của họ.

 Y phục của người xuất gia chẳng phải mọi người đều mặc được, chỉ có người hữu phước mới được mặc.

 Tốt cũng cười, xấu cũng cười. Xấu tốt do phân biệt mà ra.

FOTEER

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro