TRUYEN1-Lenghiabk05

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

thì để tôi đi lấỵ Trong nhà có nhiều đồ ăn lắm cơ!!! Nhưng bà phải hứa là ở lại chơi một chốc nhé, đừng đòi về vội, tôi ở nhà một mình buồn lắm đấy!!!

Lão ăn mày hơi tưng hửng về thái độ quá sức thân thiện của cụ bà... Nhưng cũng len lén bước vàọ Lưng lão khom hẳn xuống, làm như nếu lão đứng thẳng lên, thì có lẽ nhiều bụi đất sẽ rớt xuống nền đá hoa sáng choang vậỵ.... Theo chân bà cụ, lão vào đến phòng khách. Cụ bà lôi sềnh sệch lão ăn mày đến chiếc ghế sofa, ấn lão ngồi xuống vui vẻ bảo:

- Bác ngồi đây một chút. Chờ tôi xuống lấy đồ ăn cho bác sơị Đừng đi đâu đấy nhá... Tôi sẽ lên ngaỵ...

Ngồi lại một mí'nh trong phòng khách. Lão ăn mày len lén đưa mắt nhìn quanh. Đó là một căn phòng bày biện những thứ thật đắt tiền, nhưng lỏng chỏng, chẳng cái gì hợp với cái gì... Hình như chủ nhân khoái thứ gì thì đem về trưng thứ ấy, không cần biết nó có hài hoà với nhau không. Có lẽ đó là tất cả "chiến lợi phẩm" của gã công an hút máu mủ của dân lành và của đám đàn em mỗi lần cầu cạnh, xin xỏ ở gã một điều gì. Nhìn kỹ, thấy cũng có những đồ vật rất đẹp và quý, nhưng vì tất cả đều tạp nhạp, trưng bày lại không biết cách nên trở thành một "kho chứa đồ" hơn là một phòng khách. Chỗ góc phòng, kê một tủ kiếng cổ làm bằng gỗ lim bóng, trưng bày hầm bà làng đủ thứ bên trong. Từ những con búp bê nhắm, mở mắt, đến những chai rượu đắt tiền. Góc bên cạnh là chùm chìa khoá, kìm, búa, vài phong thuốc lá 555, Dunhill v.v..

Ngay giữa phòng là một bộ ghế salon kiểu của Ý mầu kem. Bên cạnh đó là một chiếc xe gắn máy nằm kềnh càng choán gần hết một góc phòng. Trên tường, treo vài bức tranh sơn màị Một bức hình Bác với bộ râu (giả), khuôn mặt Bác hơi choắt lại vì buồn (?). Bên cạnh là một bức hình cô đào Madona hở gần nửa bộ ngực trông rất hấp dẫn....

Tiếng dép lại lẹp xẹp trở về. Bà cụ cầm trên tay đầy thức ăn. Khuôn mặt vui vẻ, cụ bảo:

- Tôi chỉ tìm thấy được từng này thôị Tôi đem lên tất cho Bác. Ăn đi nhé, xong rồi chúng mình thong thả nói chuyện....

Cụ để xuống bàn 2 cái bánh chưng và vài chiếc bánh ú. Mắt lão ăn mày sáng lên. Nước miếng trong miệng tự động trào rạ... Lão vội cầm lấy chiếc bánh ú ăn lấy, ăn để. Bà cụ ngồi bên cạnh kiên nhẫn chờ đợị Ăn độ một lát, nghe chừng cơn đói đã vơị Lão ăn mày rón rén xin thêm:

- Cụ có nước uống, cho cháu xin một lỵ...

- À.... Phải rồị... Tôi quên khuấy đi mất...!!!

Nói rồi, cụ lại xuống bếp đi lấy nước cho lãọ Sau khi ăn uống no say, cụ bắt đầu gợi chuyện. Ban đầu, lão ăn mày còn e dè. Sau vui chuyện nên ra chừng có vẻ tâm đầu ý hợp lắm. Hỏi ra mới biết họ là người cùng quê, nhưng lão thì di cư vào Nam năm 45, làm ăn cũng khá. Cho đến khi bắc quân "giải phóng" miền nam. Sau vài lần đổi tiền của nhà nước với mục đích bần cùng hoá nhân dân, thì lão trở thành dân bần cùng nhất của hạng bần cùng. Chăng biết làm gì với tuổi già, lão đành phải làm nghề ăn mày vậỵ..

Biết được lão ăn mày là người cùng quệ Rất mừng rỡ và thích thú như gặp được lại người thân, xưa cũ vậỵ Cụ bà cũng cởi hết ruột gan ra kể lể:

- Ôi chao... Bác không biết.... Hồi còn ở ngoài Bắc. Chúng tôi cũng thuộc dân bần cùng, khố đế lắm cơ... Đời sống rất cực khổ Tôi cũng đã từng làm nghề ăn mày đấy chứ. Nhưng khốn một nỗi là ngoài ấy ai cũng nghèo, chẳng có đồng dư nào cho hạng ăn mày cả, nên chúng tôi phải xoay ra đi mót lúa, củ khoai, của sắn dưới ruộng, hoặc đi vớt tôm, tép.... Cực nhọc cả ngày, đôi khi cũng chẳng có được đủ ăn.... (thở dàị..) Hoá ra, bác cũng là người cùng làng đấỷ?? Quý hoá quá... Nếu không vào Nam sớm có lẽ chúng ta đã là bạn thiết rồi đấy!!! Hôm nay, có ít bánh. Tí bác cứ đem tất về cho các cháu sơi nhé...

Mặt lão ăn mày tươi hẳn lên. Bắc chước cụ bà, lão cũng giở giọng Bắc kỳ (nhưng đã pha Nam):

- Quý hoá quá !!! (nhấp nhổm). Thôi cũng đã trễ, cụ cho cháu xin về, và đem mấy chiếc bánh về làm quà cho các cháu nhé???

Hơi thất vọng, bà cụ nài nỉ:

- Ấỵ... Sao lại vội vềthế??? Ở lại chơi tí đã.... Chuyện chưa xong mà...!!!

Nói xong, cụ bà nhìn vào khuôn mặt nhăn nheo của lão ăn mày, tâm cụ nhuốm lên một niềm thương cảm sâu xạ... Cụ muốn cho lão một ít tiền hay bất cứ gì để cho lão bớt khổ. Khốn nỗi, cụ chẳng bao giờ có tiền trong túị... Các con có bao giờ đưa cụ tiền để làm gì, vì thức gì trong nhà cũng có. Cụ nhìn quanh nhà, định kiếm một vật gì có giá trị đem biếu lão ăn mày... Nhưng vật gì cũng gồ ghề, đồ sộ cả, cho lão cụ lại sợ bị lôi thôi với thằng con....

Cụ còn đang ngẫm nghĩ, tìm cách giúp lãọ Trong khi lão ăn mày cứ nhấp nha, nhấp nhổm đòi về, mắt lão chỉ dán chặt vào trong mấy chiếc bánh chưng và bánh ú cụ vừa bưng lên. Nhưng cụ bà vẫn chưa cho thế là đủ, lòng cụ nhớ lại những ngày cùng khổ ngoài Bắc mà thương bạn đứt ruột... Chẳng hiểu con bà sao giời thương, vào Nam, làm ăn gì mà khấm khá, cụ mới có được một đời sống đầy đủ thế nàỵ. Cụ muốn chia sẻ bớt niềm vui sướng của mình cho "người bạn thiết" mới quen.... Tần ngần, nắm lấy bàn tay nhăn nheo của bạn, nhìn sâu vào đôi mắt mờ đục của bạn. Rồi như có một quyết định loé lên, một điều gì thoáng qua trong đầụ Khuôn mặt hớn hở, cụ bà bóp khẽ bàn tay nhăn nheo của bạn tha thiết bảo:

- Bác ngồi đây chơi một tẹo nhé... (nhấn mạnh). Nhớ chờ tôi về.... Tôi sẽ đi kiếm tiền cho Bác mua gạọ....

Lão ăn mày vẫn chưa biết chuyện gì. Trong lòng, chỉ muốn từ giã bà cụ tốt bụng rồi đem mấy chiếc bánh về làm quà cho các cháụ Tưởng tượng khuôn mặt hớn hở của chúng lão bỗng rộn lên một niềm vuị... Định từ chối phứt để rời đây cho sớm. Nhưng chưa kịp nói gì, thì cụ bà đã lúp xúp đi thẳng ra cổng...

Ngồi lại một mình, lão sốt ruột chẳng biết tính saọ Nhìn quanh quẩn. Muốn lên tiếng gọi mà chẳng biết gọi aị Sự sợ hãi cứ ùn ùn trở về tăng theo cấp số nhân. Sợ rằng, lỡ có người nào về thấy lão trong nhà một mình thì có lẽ sẽ lôi thôi tọ... Nhiều khi còn phải ngồi tù nữa là đằng khác... Nghĩ đến đó, lão toát cả mồ hôị Không còn do dự gì nữa, lão quyết định đứng phắt dậy, quơ mấy cái bánh, túm hết vào vạt áo rồi thoát ra cửạ...

Đi được mươi bước đường thì thấy cô con gái của gã công an mặt hớt hơ, hớt hải, lao ào vào trong nhà như một cơn lốc, rống cổ kêu lớn:

- Mẹ ơị..... mẹ ơiiiiiiiiiiiiiị... Bà Nội đang ở ngoài đường làm ăn mày kìaaaaaaaaaaạ...!!!

Lão Hợi

Tác giả: Vũ Ngọc Tiến

,

1- Người đàn ông ấy trạc 60 tuổi. Tay chân ngắn cũn, ngón tay như những quả chuối mắn, trán ngắn, mắt híp, mũi tin hin như mũi lợn ỉn. Thoạt nhìn, ngỡ lão không có cổ vì nó ngắn, gáy và vai nung núc những tảng thịt. Đôi má chảy xệ, che lấp một phần chiếc cằm lẹm. Mái tóc đốm bạc vốn đã thưa lại rụng gần hết trên đỉnh đầu. Nom lão già hơn so với tuổi. Người tuổi Hợi thường hiền lành, dễ ăn, dễ ngủ. Riêng lão Hợi, ngoài nết phàm ăn tục uống, còn rất khôn ngoan đầu chứa đầy mưu mẹo. Ánh mắt lão không quen nhìn thẳng, chúa hay liếc xéo, nhìn trộm. Cách nói năng của lão luôn lấp lửng, mập mờ nước đôi. Hơn hai mươi năm làm việc tại công ty thực phẩm thành phố, qua bốn đời giám đốc, lão vẫn yên vị trên ghế Trưởng phòng Tổ chức, đủ thấy tài thích ứng hoàn cảnh của lão tuyệt chiêu đến mức nào! Ông sếp mới nào cũng thế, dù không ưa Hợi, nhưng vẫn phải kiêng dè, đôi lúc tỏ ra ưu ái lão. Sau ngày về hưu non, tham gia “Hội ngồi bệt” ở quán nước đầu thị trấn của bà Lương, lão mới chịu tiết lộ ngón võ giữ ghế của mình: “Nghề làm tổ chức trên đe dưới búa phải có mẹo kiềm chế thiên hạ, nhất là với các ông sếp trực tiếp của mình. Làm người ai chẳng có tật này khuyết nọ. Mỗi lần nghe tin có sếp mới về nhận chức, mình vừa làm thân, vừa điều nghiên xem tật của sếp là gì. Gặp cơ hội thuận tiện là lập tức nửa đùa nửa thật, giả giọng bông phèng theo chiến thuật rung cây nhát khỉ… Điều quan trọng là ngay sau đó phải bằng hành động cụ thể chứng tỏ cho sếp biết mình sẽ trung thành, sẵn sàng bảo vệ sếp đến cùng. Người ta là cấp trên sẽ mau hiểu và phải tự biết phải nên đối xử với thuộc cấp thế nào…”

2- Thị trấn ven đô của tôi bé nhỏ như lòng bàn tay. Dân thị trấn thông tỏ lai lịch của từng người, từng dòng họ như thuộc lòng các con đường gạch lát nghiêng rẽ vào lối xóm. Đời cụ cố của lão Hợi là dân ngụ cư, gốc quê xứ Thanh. Gặp năm hạn hán, sâu bệnh mất mùa nên phải đi ăn xin rồi may mắn trụ lại được ở thôn Đoài, nay là trung tâm thị trấn. Người quê tôi xưa có ba nghề tổ truyền là làm ruộng, nấu kẹo mạch nha và canh cửi. Dân ngụ cư không có điền sản, lại không thạo nghề nấu nha hay dệt lụa, đương nhiên phải làm thuê kiếm sống. Thời ấy, thôn Đoài có ông cai Tổng Dật vừa có năm khung cửi dệt lụa, vừa mở thêm lò sát sinh chuyên cung cấp hàng cho các chợ trong nội đô và mấy tiệm Ba Tàu bán lợn quay ở phố Hàng Buồm. Các cụ già quê tôi vẫn chê nghề sát sinh là thất đức, mỗi khi có việc phải mổ bò, mổ lợn đều thắp hương xin phép thổ công, thần hoàng mới dám động dao thớt. Chỉ có cai Tổng Dật đã từng đi lính khố xanh, khố đỏ mới dám hành nghề này, bất chấp ý kiến của cụ đồ ăn Tiên chỉ trong làng. Trai tráng quê tôi thời đó thà chịu đói rách chứ không chịu làm thuê cho lò sát sinh của cai Tổng Dật.

Khi còn ở quê nhà trong xứ Thanh, cụ cố lão Hợi vốn thạo nghề giết trâu, mổ bò mỗi khi có việc làng hay lễ hội. Tình cờ ông đến xin ăn nhà cai tổng Dật, gặp mấy anh thợ người Thường Tín làm nghề còn vụng về. Ông ta nổi máu nghề, tay chân ngứa ngáy, xin vào biểu diễn cho họ từng động tác chọc tiết, chế nước sôi, cạo lông, xả thịt. Con lợn ông làm thoáng một lúc đã xong mà móng giò với thủ sạch bong không một sợi lông, thịt pha thứ nào dứt ra thứ ấy, trông ngon lành và đẹp mắt. Cai Tổng Dật thấy vậy giữ ông làm đồ tể cơm nuôi ba bữa, gả cô vợ là chị vú em thọt chân để ông sống chết với nghề. Chẳng bao lâu, ông trở thành quản gia kiêm cai quản lò mổ cho Tổng Dật nên bớt xén, kiếm chác được ít dấn vốn, ra mở lò riêng. Nghề đồ tể truyền từ đời cụ cố đến đời lão Hợi được ba đời thì phát đạt, lấn át cả con cháu nhà cai Tổng Dật. Hồi nhỏ đi học, lão Hợi cũng theo phụ giúp ông bố nên bây giờ về hưu quay lại nghề cũ, lão xả thịt, dóc xương con vật như múa dao trên tay. Đồn rằng cha con lão Hợi giết lợn lâu đời đã thành tinh, chỉ cần ghé mắt vào chuồng lợn nhà ai, lũ vật rống lên kêu eng éc và chê cám như bị ma ám…

3- Lão Hợi mổ xong năm con lợn, từ nhà bà Mâu trở về trời vẫn còn chưa rõ mặt người. Cái nghề đồ tể quen lọ mọ làm việc trong bóng đêm nên lão tỉnh táo, ung dung ngồi rít liền ba điếu thuốc lào Tiên Lãng, tận hưởng cái đê mê của chất nicotin ngấm vào từng mạch máu trong làn da, thớ thịt. Lão bắc nồi luộc miếng thịt nạc vai bằng bao thuốc lá, nửa cỗ tràng và mấy khúc ruột non. Mối lần nhìn ngọn lửa bếp dầu lom đom cháy trong căn bếp tối thâm màu bồ hóng, lão vẫn cười thầm, tự nhủ: Ăn vụng cũng phải biết cách. Tim và bồ dục ngon thật, nhưng con lợn nào cũng chỉ có một quả tim, hai trái bầu dục, nhà chủ nhìn thiếu sẽ hỏi ngay. Bỏ tiền ra mua thì chủ sẽ cắt xén tiền công, mất toi khỏan tiền mua cút rượu làng Vân chứ bỡn. Xẻo mấy thứ lặt vặt mang về có mà giời biết... Sớm nay, thức nhắm đã luộc xong, bày lên đĩa đầy ú ụ, bỗng lão Hợi chợt cảm thấy buồn mông lung, chẳng thiết rót rượu, đụng đũa. Tiếng chim lợn kêu đầu nhà đêm qua cứ ám ảnh tâm trí lão một nỗi sợ vu vơ về tai họa sẽ bất ngờ ập đến. Đời lão đến nước như bây giờ còn gì để mất thêm, nhưng lão vẫn thấy chập chờn cơn ác mộng.Về hưu được nửa năm, vợ lão lăn đùng ra chết vì bệnh ung thư tử cung. Đứa con gái giời đánh từ trong Đà Nẵng ra lợi dụng lúc tang gia bối rối đã khoắng sạch tiền vàng của bố mẹ nó tích cóp trong nhiều năm. Đã thế, cách đây một năm thằng con út gần ba mươi tuổi không thèm lấy vợ, vẫn chơi bời trác táng ở các vòm hút xách quanh thị trấn. Nó đánh bạc, chơi đề rồi lấy giấy tờ nhà đem thế chấp vay nợ ngân hàng mấy trăm triệu, bị người ta xiết nợ thu nhà biến lão thành tay trắng. Con bị đi tù, lão bơ vơ không nhà, không tiền, may được bà Lương nể tình xưa nghĩa cũ, cho ở tạm trong căn nhà bỏ hoang cuối xóm. Cái kiếp lão như con kiến leo cành đa, leo phải cành cộc, thành ra cuối đời mới từ ông cán bộ tổ chức hét ra lửa phải quay lại nghề cũ, mổ lợn thuê cho mẹ Mâu, chắt nội cai Tổng Dật ngày xưa. Nhưng tiếng chim lợn kêu xưa nay là điềm gở. Ngộ nhỡ thằng con út của lão trên trại giam gặp chuyện chẳng lành? Nếu  nó chết kể như lão tuyệt giống…

4- Bà Lương đã dậy, tất bật dọn hàng để kịp bán nước cho mấy người đạp xích lô, thuê nhà trong thị trấn. Tiếng chim lợn đêm qua kêu phía đầu nhà lão Hợi cũng làm bà phấp phỏng, ái ngại cho người bạn già. Pha trà, rót nước cho khách xong, bà gửi hàng le te đi vào trong xóm gõ cửa nhà lão Hợi.

- Ông Hợi ơi! Vẫn khỏe chứ?

- Vâng. Bà vào xơi nước. Chưa dọn hàng à?

 - Dọn rồi, nhưng đêm qua thấy chim lợn kêu, sốt ruột quá nên gửi hàng vào thăm ông đây.

- Cám ơn bà! Tôi vẫn khỏe, nhưng cảm thấy lo cho thằng út trên trại giam lắm.

- Thôi. Đời cua cua máy, đời cáy cáy bò. Ông lo cho nó cũng chẳng ích gì, liệu mà giữ sức khỏe. Ông không việc gì là tốt rồi, tôi ra quán đây.

Bà Lương lại le te quay về quán nước, trong lòng thấy xót xa thay cho lão Hợi. Quan hệ giữa bà với lão chẳng tốt đẹp gì, nhưng dẫu sao cũng là mối dây mơ rễ má từ thời con gái. Ngày ấy các bà, các cô ai cũng ao ước được làm mậu dịch viên. Cô nào học thương nghiệp ra trường mà được đứmg bán hàng ở quầy gạo hay quầy thịt ở giữa chợ lớn trong nội thành thì ngang bằng trúng số độc đắc. Có người mách nước cho cô Lương vừa tốt nghiệp trung cấp thương nghiệp, mang túi quà đến trưởng phòng tổ chức Hợi. Cô đưa giấy tờ, lí nhí trình bày hoàn cảnh. Anh trưởng phòng Hợi lúc đó chưa phì nộn như lúc về già. Anh hấp háy cặp mắt híp, ỡm ờ hỏi chuyện, thỉnh thoảng như vô tình đụng trạm vào người cô. Cứ thế sau nhiều lần hẹn đi, hẹn lại, Lương đã đồng ý trao thân cho Hợi để đổi lấy chân biên chế trong cửa hàng cung cấp thực phẩm chợ Tô Lịch. Lương không đẹp nhưng còn chanh cốm, hấp dẫn hơn nhiều so với bà vợ nái xề của Hợi. Cuộc tình trăng gió kéo dài đến lúc công ty nhận cô Bích vào làm, vừa đẹp lại vừa lẳng lơ. Tuy vậy, Hợi vẫn quan tâm nâng đỡ Lương. Nếu không có vụ đánh tráo thịt lợn bị mắc bệnh “đóng dấu” vào quầy, có lẽ Lương sẽ được đề bạt Cửa hàng phó. Cô bị con mẹ Mâu nhận là người nhà của Hợi, đến dỗ ngon dỗ ngọt nên làm liều. Không ngờ trong số khách hàng hôm ấy có hai giáo viên trường múa bị ngộ độc chết. Sự việc bị vỡ lở, Lương đáng nhẽ bị truy tố, may nhờ Hợi lo liệu thu xếp nên chỉ phải buộc thôi việc, còn mụ Mâu phe tem phiếu ở chợ, sẵn tiền nhờ Hợi lo lót, đương nhiên là vô can. Quả đất xoay tròn nên cuối đời con dâu bà Mâu lại giao kẹo lạc, bánh giò cho bà Lương bán quán. Tội nghiệp cô Bích lẳng lơ, có chửa với Hợi bị cô vợ anh ta đánh ghen đến trụy thai. Ngày ấy nó được coi là một vụ động trời. Bích mắc bệnh hậu sản mòn, may nhờ có sư cụ bên Sơn Tây chữa trị khỏi cho bệnh rồi ở lại chùa xuống tóc đi tu không biết bây giờ ra sao…

5- Một ngày lặng lẽ trôi vào cõi giới vô hình nhạt thếch, bệch bạc như bóng chiều lợt nắng. Thị trấn ngoại ô yên tĩnh, lèo tèo hàng quán, thưa thớt bóng người. Thỉnh thoảng một chiếc xe tải rồ lướt tới, chạy lên đầu dốc, để lại quầng bụi nâu xám bốc lên mù mịt, xộc vào quán nước. Bà Lương cầm chiếc phất trần phẩy bụi, miệng lẩm nhẩm rủa thầm con đường và mấy chàng lái xe tải chở phế thải xây dựng đang phóng tít mù.

- A di đà phật! Thí chủ cho tôi hỏi nhà lão Hợi?

- Bạch thầy… ơ… giời ơi, có phải sư thầy là…

- A di đà phật! Tôi là sư Diệu Tâm. Thí chủ cho tôi hỏi nhà ông lão Hợi?

 - Nhưng bạch thầy! Tôi nom thầy rất quen. Có phải xưa thầy là cô Bích bán hàng ở công ty thực phẩm?

  - A di đà phật! Thiên địa bao la, đâu cũng là con cháu nhà Phật. Xin thí chủ đừng bận tâm về một cô Bích, một hạt cát trong vũ trụ mà thôi. Sự đời sắc sắc không không, nhân quả luân hồi. Nhân sinh là kiếp phù du, bèo dạt mây trôi, vô thường bất định. Phật pháp vô biên, vớt người cứu khổ. Nếu có cô Bích nào từng đến ăn mày cửa Phật thì thể xác dẫu còn, nhưng tâm đã ngộ… A di đà phật!...

  Bà Lương bàng hoàng gieo mình ngồi xuống ghế, trân trối nhìn sư Diệu Tâm. Bộ áo nâu sồng nhà chùa đã bạc vẫn chỉ tôn thêm dáng người thon thả, mày thanh, mắt sáng của cô Bích ngày xưa. Đôi bàn tay mười ngón thon dài của sư Diệu Tâm úp vào nhau, đặt trước ngực toát lên vẻ thanh cao, thoát tục. Hai cánh môi như hai cánh hoa đào của nhà sư khép mở nhịp nhàng theo giọng nói trầm ấm, du dương, thấm vào tâm linh, tuệ giác người nghe. Nhiều năm rồi, theo bạn bè lên các chùa khắp trong thành phố, bà Lương chưa bao giờ nghe được những lời có sức truyền cảm, lay động tận tầng sâu u ẩn của lòng mình như vậy. Bà đứng dậy, ôm chầm lấy sư Diệu Tâm nghẹn ngào nói:

- Tôi là Lương, nhân viên công ty, bi kỷ luật vì đánh tráo thịt lợn mắc bệnh “đóng dấu” vào quầy mậu dịch chợ Tô Lịch đây, sư còn nhớ không?

- A di đà phật! Tôi nhận ra bà Lương từ xa, quan sát kỹ quán nước của bà rồi mới đánh bạo vào hỏi thăm.

- Bạch  thầy, tìm ông lão Hợi có việc gì?

- Ông ấy có người con trai chừng ba mươi tuổi, đi tù chốn trại phải không? – Sư Diệu Tâm hỏi lại.

- Bạch thầy, đi tù thì có nhưng chốn trại thì tôi mới nghe lần đầu.

- Vậy thì đúng rồi. Đúng là con trai ông Hợi.

- Có chuyện gì thế? Lành hay dữ, bạch thầy?

Sư Diệu Tâm thở dài, mắt đăm đăm nhìn ra bầu trời ngoại ô đang mờ dần. Hai tròng  mắt nhà sư đỏ hoe, nước mắt chảy dài trên khuôn mặt thánh thiện. Sư  nghẹn ngào kể:

- Đêm qua vào lúc rạng sáng tôi nằm ở trai phòng, mơ thấy một khung cảnh hệt như thị trấn này. Chợt con chim lợn đậu trên cành cây gạo, gần một căn nhà tồi tàn. Nó kêu lên ba hồi não nuột rồi vỗ cánh bay về hướng Đông Nam. Sau đó, tôi thấy một ông già hao hao giống ông Hợi ngày xưa, nhưng có bốn chân ngắn cũn và cái đuôi lợn. Ông ấy gào lên thảm thiết nghe như bị chọc tiết: “Tôi có tội. Giời đất ơi, tôi có tội, xin để mình tôi chịu. Lạy Trời, lạy Phật tha cho con tôi!..” Tôi choàng tỉnh giấc và nghe rõ tiếng lợn kêu eng éc, tiếng súng săn trong bản Mường nổ liên tiếp, chứng tỏ có cả đoàn người đang đuổi bắt tên ăn trộm lợn. Suốt mấy tuần liền, ở bản Mường cách chùa tôi trụ trì khoảng một cây số, dân chúng bị mất gà, lợn rất nhiều nên họ cắt cử nhau đi rình bắt. Khi tôi đến nơi nghe dân bản cho biết có hai thằng trộm mặc áo tù, một đứa chạy thoát còn một đứa bị bắn què chân, ngã lăn xuống vực đang hấp hối. Tôi lại gần nhìn tên trộm có nét quen quen. Nó ứa nước mắt nhìn tôi, nhờ báo tin cho bố nó là Bùi Hữu Hợi, cán bộ Tổ chức của công ty thực phẩm thành phố đã nghỉ hưu, đang ở thị trấn này. Tôi nhờ bà con dân bản chôn cất anh ta chu đáo, rồi tất tả về đây tìm ông Hợi lên lập đàn cầu xiêu cho người xấu số…

Bạch thầy, Giời- Phật thiêng quá! Đêm qua quả có con chim lợn kêu ở cây gạo đầu nhà ông Hợi. Từ sáng tới giờ ông ấy đang nằm bệt, chẳng thiết ăn uống, luôn miệng cầu Giời khấn Phật tha cho con mình. Sư thầy ngồi nghỉ tạm, xơi nước rồi tôi sẽ rước thầy vào xóm thăm ông Hợi – Bà Lương kéo vạt áo lau nước mắt, nhìn sư Diệu Tâm đau xót nói.

- A di đà phật! May mắn tôi được gặp lại thí chủ, cũng là do ý muốn của đức Phật từ bi. Phần tôi đã mấy mươi năm ăn mày cửa phật, xa lánh đời tục. Tôi thật lòng không muốn gặp lại ông Hợi trong lúc này. Xin thí chủ thay tôi báo tin và chỉ đường dẫn lối cho ông Hợi lên chùa cầu siêu cho con. Đức Phật sẽ phù hộ cho thí chủ.

6- Bà Lương cố vật nài, níu kéo, nhưng sư Diệu Tâm vẫn nhất quyết ra về. Bà tần ngần nhìn theo bóng nhà sư xa dần, hòa lẫn vào dòng người nhốn nháo trên đường. Bà bàng hoàng như vừa qua một giấc mộng. Đôi bờ mi bà cay rát, nhập nhòe những tia lửa nhỏ. Báo tin dữ cho người bạn già, bà không ngờ đó là lần gặp ông cuối cùng. Đêm đó ông Hợi uống rượu và rên rỉ thanh minh với Phật tổ từ bi, hỉ xả. Gần sáng, ông sang nhà bà Mâu theo phản xạ để bắt lợn đem mổ. Người ta tìm thấy xác ông vắt qua thành chuồng lợn, cắm đầu xuống máng đựng cám. Ông bị xuất huyết não cấp tính. Sau đám ma, cả thị trấn tiễn bà Lương và bà Mâu đi lên chùa gặp sư Diệu Tâm để cầu siêu cho cha con lão Hợi. Từ đó không thấy họ trở lại thị trấn. Nghe đồn họ đã xuống tóc đi tu sám hối ở chùa cùng sư Diệu Tâm…

Con cá song

Tác giả: Anh Đức

, Tàu chúng tôi sau khi đưa chiếc tàu buôn Thụy Điển ra khỏi cửa bể thì neo lại. Là vì đến khuya chúng tôi còn phải đón một chiếc tàu Liên Xô vào cảng. Lúc tiếng chuông trên tàu đánh lên báo hiệu neo đã thả xong thì vừa đúng tám giờ tối. Tôi nhận gác phiên đầu. Tôi đem treo đèn mũi và đèn lái rồi ra đứng ngoài boong. Tất cả thủy thủ đều tranh thủ đi ngủ lấy một giấc. Chỉ còn lại có tôi và người thuyền phó. Người thuyền phó ấy tức là anh Năm Trường, vốn đồng hương với tôi. Bóng tối đã buông xuống mặt bể từ lâu. Trước mặt tôi ngọn hải đăng Long Châu vẫn đều đều chớp lóe. Quanh chỗ tàu đậu và dọc về phía hòn Xám Buối Chẩu hiện ra nhan nhản những cánh buồm thuyền lưới. Mỗi chiếc thuyền lưới mang một ánh đèn nhỏ, lặng lẽ lướt đi lướt lại trên mặt biển. Anh Năm Trường bàn với người cấp dưỡng trên tàu là ông Tư Già, định gọi thuyền mua cá nấu cháo. Ông Tư cấp dưỡng đồng ý. Tôi với anh Năm Trường đi ra lái tìm gọi một chiếc thuyền mua cá nấu cháo. Ông Tư cấp dưỡng đồng ý. Tôi với anh Năm Trường đi ra lái tìm gọi một chiếc thuyền ở gần nhất. Anh Năm bắt tay lên miệng gọi lớn. Có tiếng người têrn thuyền ơi ới đáp lại. Nhưng rồi không rõ vì sao, chẳng thấy một thuyền nào cặp bến. May sao giữa lúc ấy, có một chiếc hướng mũi chèo về tàu. Chiếc thuyền đó đi rất chậm, đôi lúc như vùng vằng định trở mũi, mãi sau mới cặp vào mạn tàu. Tôi cầm chiếc đèn bão giơ lên. Trước mũi thuyền, một anh con trai chạy ra bám vịn thành tàu. Đó là một thanh niên có đôi vai rất rộng, bộ ngực anh ta nở căng cả áo và mái tóc anh ta đẫm nước. Sau lái thuyền, có một ông lão bịt khăn đầu rìu. Dưới chân ông lão là cái bếp lửa mới nhóm lên, cháy vờn vờn.

Anh Năm Trường vui vẻ hỏi vọng xuống:

- Có con cá nào ngon không anh bạn? Cho chúng tôi mua một con!

Anh con trai không đáp, hất mớ tóc trên đầu, đoạn cúi dỡ sạp mũi. Dưới khoang thuyền, tiếng cá quẫy lạch bạch. Những cái sống lưng cá to đen và những vẩy cá như bạc hiện ra lấp loáng trước mắt tôi. Nhưng anh trai trẻ nọ trông lầm lì quá. Đôi bàn tay anh ta quờ quạng dưới khoang chẳng mấy là nhanh nhẹn, xem chiều như miễn cưỡng nữa. Sau cùng anh ta nhấc lên được một con cá. Song thực tình chẳng phải là con cá chúng tôi đang ao ước tí nào. Một con cá nhụ coi như mới chết, mình không được dịu. Tôi kêu lên:

- Con cá ấy bé quá, mà nó lại chết!

- Anh chọn cho tôi một con đủ trên mười người ăn. Chúng tôi cần cá to và ngon để nấu một nồi cháo! Anh Năm Trường nói vào.

Anh con trai đáp nho nhỏ:

- Không còn con nào to đâu, cũng thế cả thôi!

Giọng nói của anh ta rõ là giọng nói của một người bán mà không thiết bán. Tôi lấy làm lạ quá. Rõ ràng vừa rồi dưới khoang thuyền có nhiều con cá trườn sống lưng rất to, đâu phải tôi trông lầm. Tôi định nói, nhưng chưa kịp thốt lời thì sau lái ông lão đã nói lớn:

- Có, còn mấy con song to các bác ạ!

Vừa nói lão vừa bò tuông ra mũi. Tôi nhìn thấy lão rõ hơn. Đó là một ông lão khoảng trên năm mươi. Đầu lão như húi trọc, tóc lún phún trổ ra ngoạm lấy mang tai. Dưới gáy lão in dấu một vết sẹo to như đường dao chém. Người lão coi gầy nhưng cứng cáp. Chiếc áo nâu ngắn tay đang mặc không gài cúc để lộ ra một chiếc thánh giá bằng đồng nhỏ buộc lủng lẳng trước ngực. Lão nói như thét với anh con trai:

- Chậc... Bắt cái song ấy. Gớm, sao mày lại dấm dớ thế, hử?

Anh con chưa kịp cúi xuống khoang thì lão huých luôn cùi tay vào người anh ta và giật lấy chiếc vợt. Nhanh như cắt, lão đã lùa ngay được một con cá vào vợt và nhấc lên. Tôi thấy một con cá song rất to đè trĩu đáy vợt. Thân con cá màu nâu sẫm điểm vằn đen, mang nó thở đều đặn và nơi mũi phì phò những bong bóng nước nhỏ. Nằm trong lưới vợt mà nó xòe cái đuôi ra to như một bàn tay giang rộng. Thực là một con cá đẹp song đẹp đẽ. Anh Năm Trường trông thấy cũng ưng ý ngay. Nhưng anh ta đưa mắt nhìn anh con trai nọ bảo:

- Anh kia có cá to mà sao không muốn bán thế, bộ anh cho chúng tôi không có tiền à? Cán bộ công nhân chúng tôi quả thực không giàu, nhưng thừa sức mua mấy con cá của anh mà.

Người thanh niên nọ ngước mắt lên, lặng lẽ nhìn người thuyền phó chúng tôi. Có lẽ anh ta định nói gì, nhưng ông lão đã quắc mắt nhìn. Cái tia sáng đôi mắt ông lão đã chặn lời anh ta. Bấy giờ thật bụng tôi cũng chẳng thương hại cho anh ta một chút nào. Cái sự anh ta làm trở ngại việc mua bán của chúng tôi thật là sai quấy hẳn đi rồi. Thì anh ta còn định nói gì nữa kia chứ!

Ông lão hai tay chấp cái cán vợt nâng lên. Bộ điệu như vừa là để cho chúng tôi trông thấy tỏ rõ con cá, lại như vừa có vẻ xin lỗi. Anh con trai bấy giờ trở nên một người vô phận sự. Anh ta bò ra sau lái, có vẻ như vẫn còn hậm hực điều gì. Anh Năm Trường hỏi ông lão giá cá bao nhiêu một cân. Ông lão đáp mỗi cân giá một nghìn hai. Chúng tôi thuận mua con cá ấy với giá sáu nghìn hai trăm đồng. Ông lão đưa vợt lên. Tôi đón lấy, lật vợt hất con cá xuống boong tàu. Người đánh cá già sau khi nhận đủ tiền thì xin buộc thuyền vào mạn tàu để nghỉ nấu cơm và đợi con nước khuya.

Trên tàu, tiếng dao thớt của ông Tư cấp dưỡng đã khua lên. Tôi vào bếp bỏ thêm than vào lò chuẩn bị bắc nước. Anh Năm Trường ngồi với tôi một lúc, trước khi xuống cabin ngủ, anh dặn tôi:

- Hễ thấy tàu đến thì đánh chuông, chừng nào cháo chín kêu tụi tôi dậy. Chốc nữa thế nào anh cũng phải uống với tôi một cốc rượu. Từ lúc anh xuống đây tôi chưa được thấy anh uống rượu bây giờ!

Tôi cười không đáp, vặn cây đèn cho cháy sáng hơn rồi ra ngoài, ngồi im, ngửa mặt nhìn trời. Đêm tháng mười, bầu trời lấp lánh các vì sao. Những ngôi sao có tên gọi cùng với những ngôi sao khác chiếu lên nền trời thứ ánh sáng xanh dịu. Gió biển từng cơn từ khơi thổi vào khiến cho tôi mát tỉnh người. Đêm sang thu ở cửa biển thế này thường gợi cho tôi nhiều mơ ước và cảm hứng muốn viết. Bên mạn tàu, ông lão và anh con trai đang hạ buồm xuống. Ông lão ghì sợi dây luộc lòng và anh con trai thì kéo sợi lèo trôn. Trên thuyền, ánh lửa đã nhóm cháy sáng. Tôi đưa mắt nhìn qua ánh lửa chập chờn soi rọi, thấy trong mui có một bức tượng nhỏ Đức Bà Maria và Chúa Hài Đồng tạc bằng đá xám, hơi bé và thô, đặt trên một cô con gái ngồi cạnh bếp lửa. Một cô gái ở biển, có đôi cườm tay đầy đặn, đôi gò má bầu bĩnh rám nắng. Mái tóc cô cũng đẫm nước như anh con trai. Cô ngồi bó gối vào lòng, nhè nhẹ đưa tay đun những que củi đang cháy kêu lắc rắc. Anh con trai sau khi xếp buồm trên mui xong thì đến ngồi bên. Anh ta lặng lẽ tựa lưng mình vào lưng người con gái và duỗi hai chân ra. Tôi đoán chừng họ là hai vợ chồng. Anh con trai ngồi im như thế rất lâu. Tôi nhận thấy cái khuôn mặt đó lầm lì thế nào. Dường như anh ta có sự ấm ức trong lòng mà chưa bộc ra được. Người con gái đưa mắt liếc nhìn, đoạn với tay lên mui lấy một chiếc khăn nâu vắt lên vai anh ta, khẽ bảo:

- Lau đi cho khô tóc.

Anh chồng trẻ vẫn lặng thinh không đáp. Thình lình anh ta hất chiếc khăn sang một bên và nói chõ vào khoang:

- Bố làm thế thì thật không còn mặt mũi nào!

Trong khoang có tiếng dặng hắng của ông lão. Rồi tiếng ông lão nói ra:

Mày bảo sao?... Hừ... tao làm cho tao ăn cả đấy!

- Không phải chuyện bố ăn hay tôi ăn. Lúc nãy tôi đã bảo bố đừng bán, thế mà bố chẳng nghe. Bây giờ đã trót vậy, tốt hơn hết là đem số tiền bán con cá song ấy hoàn lại cho tập đoàn...

Tôi giật nảy mình. Câu đó làm tôi hiểu ra. Tôi có ngờ đâu con cá song chúng tôi vừa mua là của một tập đoàn phường lưới. Thật chẳng dè câu chuyện bán cá đơn giản vừa rồi lại ẩn náu cái uẩn khúc như vậy. Tiếng ông lão rít lên:

- Mày nói gì thế, thằng khốn. Không đời nào thằng già này chịu thế. Mày còn dại lắm con ạ... Không, không...

Thấy mình nói khí to, sợ trên tàu nghe thấy, lão liền hạ thấp giọng. Nhưng tôi vẫn nghe được tiếng lão ta nói tiếp:

- Ai biết được. Chẳng có thuyền nào trông thấy. Đêm hôm tối tăm thế này...

Anh con trai cười:

- Hừ... Hằng ngày bố vẫn cầu nguyện "Chúa ở khắp mọi nơi... thông biết mọi sự" đấy thôi!

Ông lão lặng im.

Anh con trai nói thêm:

- Thế là bố đã không giữ điều răn thứ bảy của Chúa!

Anh con trai mới nói xong thì người con gái quay mặt lại. Cô ta lấy tay cấu khẽ chồng, cau mày.

- Mày dạy lại tao đấy à? Phải, kinh thánh có răn là không được tham của người. Chúa dạy thế. Nhưng đó là Chúa dạy chớ lấy của người khác. Mà tao, tao chẳng có lấy của ai sốt. Của tao làm ra, tao có quyền bán đi. Như vậy là tao không mảy may phạm tội tới điều răn của Chúa.

Ông lão nói với giọng vừa tức giận vừa hả hê. Nói xong lão ngồi nhổm dậy. Kế đó tôi thấy lão mò mẫm tìm vật gì. Lão với tay ra sau lái nói: "Đốt tao cái đóm!" Cô con dâu rút một cọng đóm đốt, trao cho lão. Ông lão hút thuốc. ánh sáng que đóm bùng lên. Tôi nhìn thấy cái ống điếu của lão hút thật to và dài. Loại điếu của người miền núi, tôi chỉ thấy trong một dịp lên Hoàng Su Phì. Tiếng điếu rít lên ồng ộc. Anh con trai lại nói:

- Ăn cắp của một người đã có tội. Ăn cắp của nhiều người càng có tội hơn. Của tập đoàn là của nhiều người. Chúng ta lấy phần của một trăm hai mươi thuyền... Thế mà bố bảo là không có lỗi.

Ông lão bị con dồn vào chỗ thất thế, không lựa lời gì để nói được nữa. Lão tựa lưng vào vách thuyền. Hồi sao lão cất lên một tiếng thở dài não ruột. Trong ánh sáng chập choạng, bóng lão nhổm dậy. Hai tay lão quờ quạng về phía trước nắm chặt lấy then thuyền. Lão nói, giọng không quát tháo như lúc nãy, mà đay nghiến và kể lể:

- Trước kia... mày có biết đâu. Tao đối với bố tao không có như mày đối với tao bây giờ. Tao sống với bố qua những ngày cơ cực không sao nói xiết. Biển cả mênh mông này, chỗ nào mà chẳng có pha mồ hôi của tao, của bố. Chẳng phải đổ mồ hôi không đâu, mà còn đổ cả máu nữa, con ạ. Năm đó mày hãy còn bé, vả lại ở trên bãi mày không thể biết được một trận bão chưa từng thấy. Tao với bố đã chịu qua một đêm một ngày giữa biển. Và không sao bẻ lái như ý muốn. Cuối cùng thuyền rập vào bờ. Không phải là bờ cát đâu, mà rập vào đá. Bố bị chết chuyến ấy, người bị rập giữa đá với thuyền. Còn tao, tao kịp nhảy ra, nhưng vỡ đầu và ngất lịm đi. Vết sẹo trên đầu này của tao có phải là do tao đi ăn cắp, ăn trộm bị người ta chém cho đâu. Không, đó là vì tao vật lộn với miếng ăn để nuôi mày đấy. Bu mày cũng thế, suốt đời cực khổ chẳng ngước mặt lên được. Đời tao với bu mày có biết ăn chơi đàn đúm như chúng mày ngày nay đâu. Bu mày chết, mày làm gì biết được cái cảnh chết đau đớn ấy. Chết vì ăn phải nhiều cá quá. Dạo đó người ở Cát Hải - Gia Luận không có gạo ăn, cá mang lên chả đổi được gạo. Tao cõng xác bu mày đi chôn. Sức tao yếu quá, đến nỗi không thể lê chân đi tìm được chỗ nào cao ráo, đành phải chôn bu mày ở đầu bãi. Cái bãi mà bây giờ chiều chiều bọn bay vẫn xi nê xi niết đấy... Chuyện đó chắc mày đã nghe bà con nói. Tao hình như chưa kể với mày một lần nào. Là vì tao không muốn nhắc lại làm gì. Nhắc lại, mày nghe có thể có ích cho mày, nhưng tao thì lại không chịu nổi. Sau khi bu mày chết, tao sống một mình trơ trọi. Nhiều đêm chợt nghĩ tới chuyện cũ thì không sao ngủ được, nước mắt cứ trào ra. Mặt khác lại không yên thân với chủ thuyền. Chiếc thuyền rập nát trong trận bão biển năm đó nào có phải của tao đâu, của thằng Mã Chiếm đấy chứ. Thế là phải làm trả nợ thuyền suốt hai năm đấy con ạ. Nào ngờ vẫn không chết, sống qua khỏi cái năm đói ghê gớm nhất, rồi lần lần tách ra khỏi sợi dây thòng lọng của thằng Mã Chiếm tròng trên cổ tao suốt mười chín năm trời. Lần hồi, tao dành dụm sắm được thuyền cùng đi lưới chung với bà con. Cho đến nay tao năm mươi nhăm tuổi, mới nhẹ thở được một tí. Nếu Chúa không thương xót thì còn gì thân tao, và mày cũng không được khôn lớn như ngày nay. Thế mà ngày nay chính mày lại làm cho tao ngạt thở. Lúc nãy mày lảm nhảm những gì thế, hở?... Chịu thô, mày đối với tao thực không bằng người dưng kẻ chợ. Cầu Chúa tha tội cho mày...

Trên boong tàu, tôi cúi nhìn xuống. Dưới ánh sao đêm mờ nhạt, ông lão quỳ một gối chân, đang giơ tay lên ngực lên chán làm dấu. Giữa lúc ấy tôi nghe vẳng tới một tiếng nức nở. Đó là tiếng khóc của người con dâu. Cô ta ngừng cời than, úp hai bàn tay vào mặt, đôi vai khẽ rung lên. Anh con trai không động đậy. Rõ là anh ta đang đứng trước một cuộc phản công hết sức mãnh liệt. Lời lẽ nửa đay nghiến nửa thở than của người bố già ấy đã đưa anh vào một tình thế khó tháo gỡ. Người bố từ chỗ trước kia bị thất thế, giờ hóa ra chủ động. Rõ ràng ông ta đang đưa con mình vào một chỗ đã định, bắt người cont rai trẻ dừng lại ở đó mà suy nghĩ, mà đắn đo để rồi uể oải không cất chân bước lên được nữa.

Tôi miết chặt hai ngón chân cái xuống sàn tàu, dán mắt lo lắng nhìn về phía anh bạn trẻ của tôi. Lưng anh ta vẫn dựa vào vai vợ nhưng hai chân từ từ co lại. Anh ngồi im như một bức tượng. Chỉ có đôi lông mày hơi nhíu và đôi mắt mở trừng trừng, long lanh đọng ánh than lửa từ bếp hắt lên. Tôi không rõ anh ta đang nghĩ gì. Điều chắc chắn là tâm trạng anh ta không được bình thường. Tôi chợt thấy anh ta thúc nhẹ khủy tay vào sườn vợ, chừng như bảo vợ nín đi, đừng có khóc nữa.

Rất lâu sau, dưới thuyền vẫn im lìm. Tiếng sóng đều đều vỗ ộp oạt vào mạn thuyền và tàu, càng làm cho sự yên tĩnh lộ rõ hơn. Anh con trai từ lúc nghe gợi nhắc về cái quá khứ cũ của bố mẹ, vẫn cứ ngồi im phăng phắc, khiến tôi sốt ruột. Nhưng tôi vẫn kiên trì chờ đợi và hy vọng. Bấy giờ tôi thấy hết sức cần đòi hỏi ở anh con trai ấy một câu nói. Cái câu nói của anh và của chính lòng tôi đang mong đợi. Cốt sao anh ta đừng tạo một sự căng thẳng, đừng làm cho người vợ yếu lòng kia phải cất tiếng khóc một lần nữa. Thời gian trôi qua rất chậm và nặng nề. Vẫn không thấy anh con trai hé miệng. Tôi sắp sửa nản lòng, thì người con trai ấy đã lên tiếng.

- Nỗi khổ của bố ngày xưa, tôi rõ lắm... Bố ạ, khi bố nhớ lại những cảnh ấy thì bố có nghĩ là tại sao bây giờ bố được dễ thở không? Chẳng nhẽ bố lại không nhớ vì thế nào, nhờ ai mà thằng Mã Chiếm nó chịu buông cái sợi dây thòng lọng của nó ra hay sao? Bố cứ nghĩ xem...

Tôi thở phào nhẹ cả người. Anh con trai đã nói lên cái câu nó mà chỉ có trong lứa tuổi anh mới nói được. Lời nói khiến ông lão im đi một chập rất lâu không đáp. Tôi bỗng nghe từ dưới cabin có tiếng chân người đi lên. Thì ra anh Năm Trường. Anh đến bên tôi. Khi anh sắp mở miệng định nói thì tôi đã kịp giơ tay chặn lại. Tôi kéo anh đi về phía mũi. Anh Năm Trường lo lắng hỏi:

- Cái gì thế, anh?

Tôi nói: "- Chuyện gác thì không có gì xảy ra, nhưng có chuyện này... " Rồi tôi thuật lại cho anh nghe câu chuyện giữa bố con ông lão thuyền cá. Cuối cùng tôi chép miệng:

- Bọn mình cũng sơ suất, lẽ ra phải hỏi cẩn thận rồi hãy mua.

- Không hề gì. Vả lại mình có biết đâu. Giờ cá đã sắp ăn rồi không thể trả lại được!

Nói đoạn anh Năm Trường bảo tôi cùng đi với anh lại chỗ chiếc thuyền buộc. Đến nơi tôi với anh im lặng ngồi nép xuống. Dưới thuyền, ông lão vừa hút xong một hơi thuốc lào nữa rồi ngả lưng nằm xuống. Đằng lái anh con trai đã xây lưng lại. Anh ta đưa tay vuốt vuốt làn tóc ướt của vợ. Vợ anh đã thôi khóc, ngồi yên cho chồng mân mó tóc mình. Một lúc sau chị rũ nhẹ mái tóc, lúi húi tìm đèn đốt lên. Chị lấy đũa cả giở vung xới cơm. Mùi cơm nếp bốc hơi thơm ngát đến tận mũi chúng tôi. Chị ta bày ra trên sạp lái một chiếc mâm gỗ, trên có đặt ba cái bát và một con cá nhụ nước. Chị rướn người vào khoang nói:

- Bố ra xơi cơm!

- Cứ ăn đi, bố chưa đói đâu. Ông lão đáp.

Người con dâu lộ vẻ không yên tâm. Chị ta lo bố chồng còn giận. Nhưng anh chồng đã nhắc trên giá xuống một chiếc bát to. Anh sẻ một nửa con cá và xới cơm nếp, cẩn thận để riêng ra. Anh đưa mắt ra hiệu bảo vợ ăn. Hai vợ chồng cùng ăn với nhau. Anh con trai ban đầu còn cầm đũa về sau cứ vắt xôi trong tay mà ăn ngấu nghiến. Chị vợ thì ăn nhỏ nhẻ từng miếng một. Chốc chốc chị liếc chồng và nâng bát che nụ cười tủm tỉm.

Bỗng ông lão lên tiếng, chừng như sau bao nhiêu lâu nghĩ ngợi:

- Tuổi già như tao không hề quên tạ ơn ai bao giờ. Nhưng có cái tao nghĩ mãi chẳng ra. Đảng và Chính phủ bày ra cái tập đoàn làm gì nhỉ? Nói thực, tao có thích vào tập đoàn đâu. Tao mà vào tập đoàn là tại mày, là vì tao không chịu nổi cái miệng thế. Có ngày đây rồi không dư dả đâu mà góp nuôi cha xứ được!

- Sao lại không? Mấy tháng nay cha vẫn sống đầy đủ đấy chứ!

Ông lão im đi một chập, hồi sau nói:

- Ngày mai chủ nhật thuyền về bến Quảng, tao cấm mày nói ra điều gì đấy nghe không?

- Ngày mai tôi có việc bận phải lên thị xã đấy bố ạ!

- Việc gì?

- Tôi đi họp thanh niên.

Ông lão tỏ vẻ ngạc nhiên:

- Thế mày không đi lễ à... Mà thôi, cũng được, đã đi họp thì đừng đi lễ.

Anh con trai trả lời: - Tôi đi họp nhưng tôi cũng không bỏ lễ.

- Đi đâu thì đi nhưng giữ cẩn thận cái mồm anh đấy!

- Nếu nhỡ bà con biết thì sao?

- Làm thế nào mà biết được?

Anh con trai ngẫm nghĩ một lúc rồi bảo:

- Bố nên nghe tôi, tốt hơn hết là đem trả số tiền bán cá lại cho ban quản trị tập đoàn đi bố ạ!

Câu nói của anh con trai như lời tuyên bố cuối cùng, như một tiếng chuông đánh vang lên lần chót. Chúng tôi nghe thấy hình như ông lão rít chặt hai hàm răng lại. Anh Năm Trường đập nhẹ vào vai tôi một cái. Tôi đinh ninh là nhất định hai bố con sẽ cãi nhau to. Cô con dâu cũng quả có nỗi lo như tôi. Chị ta phát nhẹ tay vào lưng anh chồng, môi bậu lại. May sao giữa lúc đó trên mặt bể có tiếng động cơ. Tôi khều anh Năm Trường nói khẽ: "- Tàu đến!". Anh Năm đứng lên nhìn, nhưng lắc đầu nói: "- Không phải!".

Chiếc "Maiascốpki" chưa đến. Đó là chiếc "Vĩ ngư" của Trung Quốc đi đánh cá về. Tàu chạy ngang mặt chúng tôi về mé phải. Có lẽ tàu đánh được nhiều cá lắm nên trông rất khẳm. Anh con trai nọ buông câu chuyện đang nói với bố, mải lo nhìn tàu. ánh mắt anh lộ vẻ thèm thuồng. Tàu chạy khỏi rồi, anh bảo vợ:

- Thích thật, giá mà cho tớ được đi đánh cá trên tàu thì tớ đi ngay!

- Thì anh cứ đi đi, có ai buộc chân anh ở thuyền đâu. Ông lão xen vào. Ngừng một lúc, lão tiếp lời:

- Mà cái thứ như anh người ta cóc có cần... Anh đi, tôi đây cũng chả thiết. Anh ở đây, anh chỉ độc làm khổ tôi...

Anh con nghe bố nói thì vùng cười:

- Không có tôi bố sẽ ra khỏi tập đoàn chứ gì?

- Không biết!

- Thế thì tôi chẳng đi đâu cả. Chừng nào bố thích được cái tập đoàn đó thì chừng ấy tôi mới đi!

- Ma quỷ! Mày bất hiếu bất mục thế thì Chúa không chứng cho mày đâu!

- Sao, bố nói sao? - Anh con trai hỏi lại.

- Tao nói Chúa không chứng cho mày. Mày mà cứ thế thì rồi mày chết sa địa ngục.

Anh con trai bèn cười nữa, và nói:

- Chưa biết ai sa địa ngục đấy. Tôi thì tôi cứ thẳng một mạch lên thiên đường cho bố xem!

Hai bố con cứ thế mà nói. Không khí dưới thuyền đã trở nên dễ chịu hơn. Dẫu sao, qua một trận cãi vã, họ vẫn là bố con ruột thịt với nhau. Nhưng riêng tôi, tôi cảm thấy cuộc cãi vã đến đây chưa phải là đã kết thúc. Từ lời nói đến việc thực hiện được ý muốn, người con sẽ còn phải vượt qua bao nhiêu khó khăn nữa. Tôi hình dung nỗi khó ấy mà lo thay cho anh. Nhưng bây giờ tôi trông anh có vẻ ung dung chứ không vội vã. Sau khi thôi nói với bố, anh ta day qua cọ cọ nằm lên đôi vai tròn trĩnh của vợ. Anh áp miệng nhá nhá hàm răng lên cái đôi vai đó. Chúng tôi không nghe họ nói thêm gì nữa. Vừa lúc ấy, chợt có tiếng người cấp dưỡng gọi. Cháo đã chín, bay mùi hành thơm phức. Tôi với anh Năm Trường rời chỗ ngồi. Đồng hồ tàu điểm mười một giờ. Tôi xuống cabin đánh thức anh em dậy. Chốc sau chúng tôi đã quây quần ở quầy lái, múc chuyên tay nhau những bát cháo cá tươi. Anh Năm Trường đem chai rượu ra rót vào những chiếc cốc sứ nhỏ. Trước khi ăn chúng tôi mời ông lão thuyền cá. Ông lão từ dưới thuyền đáp: "- Cám ơn các bác, chúng tôi vừa mới lỗi cơm xong!". Anh Năm Trường bưng một cốc rượu bước ghé ra mời ông lão. Nhận ra rượu, ông lão cảm ơn nhiều lượt, rồi hai tay đỡ lấy cốc rượu uống thẳng một hơi. Uống xong lão "khà" một tiếng khoái trá. Anh Năm Trường lại rót một cốc khác nói rõ là mời anh con trai. Nhưng anh ta lắc đầu:

- Tôi không biết uống đâu!

- Sao lại không? Uống đi chứ, một hớp thôi...

Và mặc dù anh con trai từ chối, người thuyền phó vẫn nài anh ta uống cho được. Ông lão chuyển cốc rượu ra sau lái với vẻ mặt ngạc nhiên trước sự thay đổi thái độ của người thuyền phó đối với con mình. Người con gái e thẹn tiếp lấy cốc rượu nơi tay ông lão đưa lại cho chồng. Anh con trai không từ chối được, bưng lấy cốc. Tôi mỉm cười nhìn anh bưng cốc rượu uống. Hẳn chỉ có riêng tôi với anh Năm Trường là hiểu được ý nghĩa của cốc rượu tặng ấy. Sau đó, chúng tôi cùng húp cháo nóng một cách ngon lành. Nhưng gương mặt của thủy thủ ngồi quanh tôi đều đỏ hồng lên. Trên trán họ lấm tấm rịn ra những giọt mồ hôi nhỏ. Lúc sắp ăn xong, đồng chí hoa tiêu kêu lên:

- Tàu đến kia rồi!

Tôi buông thìa cháo đang ăn, nhìn ra khơi. Quả nhiên thấy có ánh đèn tàu xuất hiện ở cuối mặt bể. Đồng thời chợt nghe từ phía ấy phát lên những tiếng nổ rất ấm. Vô số những pháo hoa xanh đỏ, vàng từ tàu "Maia" bay vọt lên không trung. Chúng tôi reo hò thích thú. Mọi người đều hiểu. Đêm nay đúng là đêm kỷ niệm Cách mạng tháng Mười, các thủy thủ Liên Xô bắn pháo hoa để chào mừng ngày lễ lớn.

ánh đèn tàu "Maia" mỗi lúc một đến gần. Đèn tàu sáng rực như đèn điện ở một vùng phố nhỏ. Tôi đến cởi hộ dây cho chiếc thuyền lưới. Ông lão gò lưng kéo mạnh sợi dây buộc lòng. Cánh buồm nâu từ từ bị lôi sểnh lên. Tiếng chuông trên buồng lái reo giật. ống khói tàu khọt khẹt như người hắt hơi. Chiếc thuyền lưới tách ra khỏi tàu, xa dần. Tôi chỉ còn vừa kịp nhìn thấy chiếc lưng vạm vỡ và đôi vai rộng của người con trai. Rồi bóng thuyền khuất mất trên mặt biển tối.

Tôi bảo anh Năm Trường:

- Anh Năm à, tôi e rằng bọn mình vừa rồi ăn phải mấy miếng cá không được xã hội chủ nghĩa lắm.

Người thuyền phó đồng hương của tôi đáp:

- Tớ thì tớ nghĩ khác. Tớ tin là anh con trai sẽ thắng ông bố!

Bấy giờ tiếng máy khởi động mạnh làm thành tàu rung lên. Đèn tàu bật sáng, chân vịt sau lái bắt đầu khuấy nước ùng ục. Tàu chúng tôi quay mũi nhằm hướng chiếc "Maiaxcốpki" mà chạy lướt tới. Tôi đưa mắt nhìn từng chùm pháo hoa ngũ sắc đang bay múa tuyệt đẹp từ trên lưng chừng không là là buông xuống, chiếu sáng những ngọn sóng hình lưỡi búa.

Trước mũi tàu, sóng nước bị rẽ ra, vỡ tan, đầm đìa ánh sáng. Còn các vì sao xanh biếc trên trời kia thì cứ như là cùng lướt đi theo tàu chúng tôi không đành lòng tạm biệt.

Chuyến lưới máu

Tác giả: Anh Đức

, Vào năm một ngàn chín trăm bốn mươi ba, tôi có lần tới Bãi Mũi. Từ thị xã Hà Tiên đi Bãi Mũi cũng không lâu lắm. Chiếc xe ngựa đưa tôi xuống tận bãi mới dừng lại. Đằng sau lối xe vừa qua, hai hàng dấu chân ngựa in dài trên lớp cát trắng mịn. Lần đầu tiên tôi mới tới có cái bãi này. Đến Hà Tiên đã đi Thạch Động, lên núi Tô Châu nhưng không đến đây thì cũng hoài. Ông giàa đánh xe dừng lại, hàm thiếc của con ngựa nghiến ken két chưa dứt thì lão Tư Hưng đã chạy ra, tay lão cầm cái vi cá bơi bơi như đón khách. Lão hỏi ông già xe ngựa:

- Có khách lên không ông Bảy Hân?

Ông Bảy Hân, trỏ tôi nói:

- Có cậu này lên chơi đó!

Trên xe tôi đi có bốn người, hai người là dân biển ở đây. Khi ông Bảy Hân cầm roi vút nhẹ vào mông ngựa, đánh chiếc xe lộc xộc trở về nhà ngủ Đông Hồ rồi thì chỉ còn lại tôi với một thím bán hàng rong. Thím ấy ốm yếu, nước da vàng bủng, cắp cái rổ trong đó còn lại ba bốn cái bánh ếch chưa bán hết.

Sau khi hỏi tôi có ở lại chơi không, và tôi gật đầu thì lão Tư Hưng quay vào phía nhà gọi lớn:

- Vọi ơi! Ra khiêng đồ!

Nghe tiếng gọi, từ trên dãy nhà, một thằng bé vấn khố xăm xăm chạy xuống. Nói là thằng bé bởi vì mặt mũi nó coi còn ngây ngô quá, chớ cũng độ mười sáu, lại có phần cao lớn khỏe mạnh hơn tôi nhiều. Đến nơi, chợt nó chạy lại thím bán bánh kêu "má" rồi nước mắt rớt lả chả. Bấy giờ tôi mới biết người đàn bà ấy chính là má nó. Hai mẹ con dường như lâu lắm mới gặp nhau. Song chưa nói câu nào, lão Tư Hưng đã la lên:

- Thôi chớ! Đem đồ cho khách mau lên!

Người mẹ lấy hai cái bánh ếch đưa cho con và nói nhỏ: "- Thôi, đi đem đồ cho người ta lên đi!". Thằng Vọi chùi nước mắt. Đến trước tôi nó chắp tay xá một cái làm tôi nhột nhạt hết sức. Coi da thịt của nó thì biết, nắng và nước biển đã nhuộm da nó đen sạm, mốc mốc, mắt nó hơi đục và đỏ, còn tóc thì vàng cháy như hun nắng. Người lớn, con nít ở biển đại để đều như vậy cả. Cái vali nhẹ như không, có gì đâu mà phải xách giùm, nên tôi cứ tự xách. Thằng Vọi ngó tôi coi bộ lạ lắm. Từ chỗ xe ngựa đậu lên chỗ cái nhà ngói nóc đỏ của lão Tư Hưng thấy thì gần, nhưng vì đi lên dốc, chân tôi mỏi cứ líu ríu trên cát. Một đoạn đường ngắn vậy thôi, nhưng tôi bắt đầu làm quen với thằng Vọi. Tôi hỏi ở đây có gì vui không.

Vọi suy nghĩ hồi lâu rồi nói: - Tôi không biết!

Tôi thấy thằng quê quá. Rải rác trên bãi có trên mươi cái nhà bát giác màu xanh, màu vàng. Ghế phô tơi của mấy người nghỉ mát nhiều đếm không xiết. Ta cũng có, Tây đầm cũng có, ăn uống hát xướng ngậu lên. Vậy mà thằng Vọi nó nói không biết, không vui.

Lên đến nhà trọ, tôi ở gian buồng liền với lão Tư Hưng. Tôi đem đóng tiền trọ, gặp mụ Tư tôi tưởng như gặp phật Di Lặc. Sao mụ ta mập ghê gớm quá, quần áo bó lấy mình mụ chật cứng. Gió biển thổi suốt ngày mà người mụ ta lúc nào cũng đầm đìa mồ hôi. Khi mụ Tư chìa tay lấy tiền, tôi thấy cổ tay mụ núc thịt, to béo lạ thường.

Bữa cơm trưa ấy, có thức ăn ở biển. Cá đao hấp mỗi khoanh lớn bằng cổ tay của mụ Tư Hưng. Cá khoai luộc nước dừa, mực tươi chưng cách thủy. Trong lúc tôi ăn cơm thì thằng Vọi biến đâu mất. Bên kia nhà, hai vợ chồng lão Tư Hưng đang bận rộn với khách. Khách là bốn năm người dân lưới đến nạp từng bao lớn vi cá cho lão ta. Hai vợ chồng lão Tư săm sói mấy bao vi cá, híp cả mắt. Ăm cơm xong, tôi đến coi vi cá chơi cho biết. Bấy giờ lão Tư ngồi trên bục cao, gõ bàn toán lốp cốp... Tôi tưởng lão ta tính tiền để trả, nhưng không phải, lão ta có tật như vậy. Hễ người nào mướn lưới và ghe của lão mỗi tháng đến nạp vi cá hoặc bong bóng, thì lão Tư gõ con toán quy ngay ra tiền thử coi được bao nhiêu. Tôi có ngờ đâu mỗi cái vi cá bán tới một cắc bạc. Hèn gì lão ta có cái nhà ngói, tậu mười cái nhà bát giác, lại có phần hùn trên nhà ngủ Đông Hồ nữa.

Tôi đi ra ngoài. Vừa lúc ấy thằng Vọi ở đâu về, vác trên lưng một giỏ lớn đựng đầy sò huyết. Nó đặt giỏ sò lên thềm bếp rồi đi ra. Tôi liền theo nó xuống bãi. Thằng Vọi nói với tôi:

- Chiều tôi phải ra lưới, lén đi chơi một chút... sợ ông chủ biết được thì chết!

- Không sao, có tôi đây... Chơi một chút, chừng nào đi thì về đi, sợ gì!

Vọi chỉ con dã tràng bò lểnh nghểnh trên cát, nói:

- Anh ngó thấy chưa, nó đương vò cát đó! Vò đã đời rồi để sóng đánh tuốt luốt hết. Nè, vậy mà khó bắt được nó lắm nghe.

Tôi hỏi:

- Bắt con đó làm chi!

- Chơi thôi... Trên bãi này không ai bắt được đâu. Khó lắm, hễ tới gần nó trốn xuống hang liền!

Tôi nghe nó nói thì rón rén rình bắt thử. Nhưng tới gần, quả nhiên dã tràng trốn xuống hang không còn một con. Mấy lần đều bắt không được, tôi hỏi Vọi:

- Mày bắt được không?

Thằng Vọi nói được, vừa nói nó vừa bảo tôi ngồi im một chỗ, đoạn nó chạy đến một nơi khác nằm rạp xuống. Nó nằm như vậy rất lâu, không động đậy. Tôi ngồi đợi, thấy chốc sau dã tràng nhú lên hang bốn năm con. Tưởng yên, dã tràng bò từ từ, quơ càng đằng trước. Dã tràng đã mắc lừa, tưởng Vọi là một vật gì chứ không phải người rình bắt nó. Tôi cười ré lên, vì lúc ấy Vọi đã quơ tay chộp luôn được ba bốn con. Nó nhổm dậy, chạy lịch phịch lại đưa cho tôi, nói:

- Thấy tôi bắt chưa?

Tôi nói:

- Bắt lần nữa mới giỏi!

Vọi nói:

- ừ nghe!

Và dứt lời, nó chạy một quãng dài, nằm chuồi trên bãi cát như một khúc cây.

Tôi mê nhìn thằng Vọi, lão Tư Hưng đi đến hồi nào tôi không biết. Lão cầm cây đao cá màu vàng vàng, có răng giông giống như răng cưa. Lão ta chắp cây đao cá sau lưng đi tới chỗ thằng Vọi. Chết chửa. Thằng Vọi vẫn nằm im đợi dã tràng lên hang. Tới nơi, lão Tư vụt thét:

- Vọi! Mày biết có bao nhiêu người đợi mày đem lưới ra ghe không?

Tiếng lão ta gầm rất to. Dứt tiếng, lão ta giơ cây đao cá, thẳng cánh tay giáng xuống. Tôi nhắm mắt, nghe một cái "chát", chừng mở ra thấy người thằng Vọi như bẹp dưới cát, trên đít hằn lên một lằn đỏ lớn, in nguyên hình cây đao cá. Tôi sợ nếu lão Tư trở bề cạnh răng cưa cây đao mà đánh, thì lút vô thịt thằng Vọi liền.

Trong lúc lão ta giang tay muốn đập nhát nữa, thì thằng Vọi lồm cồm dậy được, co cẳng chạy lông lốc. Lão Tư Hưng rượt theo như bay. Song hình như lão ta chỉ rượt nó chạy mau về đặng đem lưới ra ghe thôi.

Tôi ngồi một mình trên bãi. Trong hai bàn tay tôi, bốn con dã tràng vẫn còn rọ rạy.

Mười sáu chiếc ghe lưới mà tôi thấy lúc trưa gần bờ, bây giờ nước thủy triều lên, dường như có dai dời ra ngoài hai trăm thước. Sóng đánh ào ào, mấy chiếc ghe cắm ngoài kia bồng bềnh muốn giạt đi, nhưng không hề giạt được. Xa hơn đó nữa, đảo Phú Quốc như một tảng đá màu thạch lục, nổi cố định trên mặt biển.

Thằng Vọi khệ nệ ôm từng tay lưới lớn chất lên một cái xe bò. Lâu lắm nó mới chất lên hết. Xong đâu đó nó ra trước tay càng, ghé vai vô sợi dây da trâu. Nó rị một cái, chiếc xe không nhúc nhích. Lần sau nó đổi vai bước dấn tới, bánh xe bò mới chuyển. Thằng Vọi kéo một hơi. Tôi không ngờ nó khỏe đến thế. Kéo tới sát mí nước nó dừng lại, bỏ dây ra, thở phào. Hai ba mươi người đi lưới mướn hàng năm cho lão Tư Hưng, từ trên cái nhà ngói nóc đỏ lô nhô kéo xuống bãi. Đến nơi họ bu chung quanh xe bò, xốc lưới trên xe xuống. Cả bọn lội xuống nước đi ra chỗ ghe cắm.

Đất cát cạn xợt, lội đã xa mà vẫn chưa lút đầu gối họ. Thằng Vọi kéo cái xe chạy trở lên. Một hồi nó đi xuống, trên lưng mang cái giỏ sò huyết, hai tay bê tấm ván, trên tấm ván là một cái hỏa lò than đỏ có lót vỉ sắt. Trên cổ nó còn có một xâu chuỗi, không phải chuỗi hạt trai, mà là chanh trái xỏ qua một sợi kẽm.

Thằng Vọi đem từng thứ ấy để tại chỗ xe bò rồi lội ra nơi ghe đậu. Nó không đi luôn mà ra lôi một chiếc ghe vô, đem tay lưới còn lại cùng các thứ để lên ghe.

Trên nhà bấy giờ đi xuống hai người, lão Tư Hưng với một bác già, chừng như cũng là người ở mướn. Tất cả gồm bốn người, trong đó có tôi, sửa soạn lên ghe. Ra bãi Mũi, tôi cốt ý đi theo ra khơi cho biết. Lúc đầu lão Tư Hưng không khứng chịu, tôi nói mãi, sau cùng chìa ra một đồng bạc nói là chung tiền sò, lão ta mới thuận cho tôi đi.

Thấy chiếc ghe còn ở ngoài độ ba bốn sải tay, lão Tư mắng thằng Vọi om sòm:

- Còn một chút nữa cũng làm biếng không chịu kéo rấn ghe vô, mày khiến chết, tội mày bữa nay tao chưa trị đa!

Thật là lạ, ở biển mà lão ta ngại đặt chân xuống nước. Tôi thì có quần áo nào mặc quần áo nấy, còn lão ta đi lưới mà ăn mặc như đi chơi. Quần xá xị đen, áo cẩm tự màu trứng gà. Cái túi trên áo của lão, cộm ló lên gói thuốc Mêlia trắng.

Thằng Vọi vẫn vấn khố, mặc một cái áo vải ta nhuộm chàm, sợi to như bố tời.

Sau rồi thằng Vọi cũng phải lội ra kéo ghe vô sát bờ thêm đoạn nữa cho lão ta xuống. Bác lưới già dùng sào chõi ghe ra quãng sâu rồi cùng thằng Vọi cất buồm lên. Buồm giương cao bọc gió chạy như tàu. Sóng nhỏ thôi mà cũng hung hăng xốc tới muốn nhảy vô ghe, nhưng đời nào được, vì ghe do bác già lái luôn cỡi trên lưng sóng. Lão Tư Hưng móc gói Mêlia, búng cái tách lòi ra một điếu, lão ta ngoạm lấy, ấm ứ nói:

- Vọi, lấy lửa!

Thằng Vọi bò tới hỏa lò than, cầm đũa sắp gắp lửa đưa lão ta mồi thuốc. Lão Tư Hưng phà phà khói nói với bác lái già:

- Mẹ! Con nước này chém chết cũng mười tạ cá khoai. Mấy người làm cho hết mình, về tôi cho nhậu say chết cha hết thảy!

Tôi càng lấy làm lạ nữa, về cái câu như vừa nói vừa chửi của lão ta.

Chiều xuống dần, nắng rút về phương Tây. Cái nhà ngói trên bãi chỉ còn là một chấm đỏ bằng ngón tay út. Ghe càng ra xa, lão Tư Hưng càng hút thuốc nhiều. Dứt điếu này lão ta mồi điếu khác. Không thấy lão cho bác già đằng lái một điếu nào. Đi đâu quá mà vẫn chưa tới chỗ đánh cá, tôi hỏi:

- Đi xa quá vậy?

Lão ta cười, trỏ tận ngoài khơi mù mịt bảo:

-Anh khờ quá, mới có nửa đường thôi. Hôm nay ra tám cây số, có bữa phải tới mười một cây. Kiếm tiền cực thấu trời chớ anh tưởng sung sướng lắm sao/

Tôi làm thinh, gẫm lại câu nói của lão thiệt vô lý. Cực thì mấy người đi lưới mướn cực chớ lão ta cực khổ nỗi gì. Nãy giờ lão ta ngồi trên sạp hút thuốc thơm, cái áo cẩm tự trứng gà chưa dính một giọt nước biển. Nhưng tôi cứ làm thinh ngó ra khơi nữa. Thấy mấy chiếc ghe đằng trước nhỏ xíu mờ trong hơi nước biển bốc lên như sương.

Trời đã bắt đầu sụp tối. Nhưng lúc bóng tối chưa úp trọn màu đen của nó xuống khắp biển thì trên trời sao đã mọc lấp lánh. Đêm càng đến thì sao càng bật sáng hơn lên, muôn ức vì sao đếm không biết. Trước mũi ghe, nước biển rẽ ra rực sáng. Những ghe trước đã thôi chạy, hiện lờ mờ một dãy dài. Lão Tư Hưng móc ra cái đồng hồ quả quít có kim sáng, coi và nói to:

- Đúng một giờ tám cây số! Thôi, hạ buồm đi!

Thằng Vọi nãy giờ bị gió lạnh, cứ giả cách gầy than, ngồi thủ bên cái hỏa lò cho ấm. Nghe tiếng lão Tư, nó ngồi bật dậy như lò so, bò ra cột buồm mở dây. Cái rõ rẽ kêu rốc rốc. Bác lái già nương dây cho buồm từ từ hạ xuống. Cả cột lẫn buồm nằm xếp gọn bên phải sạp ghe. Ghe đi lừ đừ, đến cặp song song với một ghe khác. Mười sáu chiếc bắt cặp với nhau. Trên sạp, tiếng phao và lốp cốp, lưới được dàn ra. Hai ghe đánh chung một lưới, hai tay lưới giáp lại thành một, mỗi bên giữ một cáng lưới rồi từ từ buông rời ra. Đường lưới dài, ghe tếch ra rất lâu mới cuối hết vạt lưới.

Thằng Vọi bây giờ có muốn thủ bên cái hỏa lò cũng không được. Gió, nước thốc vào người, nó ngồi trên be ghe ghì chặt cáng lưới. Bác lái già thấy lưới buông ra rồi, thả chèo, chèo bọc lên. Tôi đợi mãi mà hai ghe vẫn chưa giáp nhau. Bác lái già kêu lên, khi ngó thấy trong vòng lưới, ánh sáng xanh chéo ngược loạn xạ. Những người đi nghề quen như bác biết ngay là đã gặp cá bầy. Lão Tư Hưng mừng được của, nói toáng lên:

- Hồi đi tôi đã biết rồi! Con nước này là con nước kim ngân mà! Cứ làm khá lên, nhứt định lần này về tôi sẽ cho mỗi người một ly rượu. Không phải rượu nếp đâu nghe, rượu ánít... anít...!

Hai đầu lưới giáp nhau, thằng Vọi nhấc cáng lưới đưa sang ghe bên kia. Lưới từ từ kéo lên, cá trắng như bạc thật, lấp lánh đều trong các kẽ lưới. Chuyến đầu đã trúng mẻ cá to.

Người bên kia trút cá hết vô khoang, trao lại cáng lưới. Thằng Vọi với lấy, ngồi thụp xuống ghì chặt như trước. Ghe lại rời ra, đi bọc. Trên sạp, lão Tư Hưng cười khà khà. Lão kéo cái giỏ sò hyuết lại bên hỏa lò. Cái xâu chanh hồi chiều tôi thấy thằng Vọi đeo trên cổ như xâu chuỗi hạt ấy, bây giờ lão sẽ nới ra từng trái, dùng dao con xắc hằng chục miếng dày chung với muối tiêu trên đĩa sứ. Lão ta nói với tôi!

- Phải ăn mừng mới được, lại đây anh!

Hễ ai có tiền thì lão Tư Hưng mới mời mọc như vậy. Lão ta phùng mang thổi mấy hơi vô hỏa lò. Lửa than đỏ rần rật. Bốc một vốc sò huyết, lão đặt từng con lên cái vỉ sắt hực nóng. Sò huyết kêu eo éo như sôi bụng, một chút sau nắp sò hé bật ra. Lão vắt chanh vào con sò, dùng đũa gắp ra chấm với tiêu ăn. Tôi cùng ăn với lão. Tôi nói:

- Dành cho họ một ít!

Lão vừa nhai ngấu nghiến thịt sò một cách ngon lành vừa đáp:

- Dành gì, tụi nó còn lo lưới chớ!

Tôi ăn có ngon nhưng dường như nhột miệng. Còn lão thì vẫn cứ tiếp tục. Đến lúc cái giỏ đựng sò vơi đi, thì cũng là lưới sắp bọc tới. Những đường sáng xanh lại rạch loạn dưới nước. Lão Tư Hùng vừa ăn và với vẻ hả hê đắc thắng, lão khoe với tôi:

- Một chuyến đi lưới gặp con nước như đêm nay, có thể tạo thêm một cái nhà bát giác nữa... Cho thuê một cái mỗi tháng hai mươi đồng, mười cái mỗi tháng hai trăm...

Hai ghe từ từ xáp lại. Lúc cách nhau độ mươi sải bỗng có một cơn gió luồng thổi vùn vụt. Thằng Vọi nâng cánh lưới đứng dậy sửa soạn trao sang... Khi nó với tay tới, bỗng một chân trái nó trượt khỏi ghe. Nó chưa kịp rút chân lên, thì luồng gió đẩy giạt ghe bên kia xô rập vào. Tôi hốt hoảng kêu rú lên. Hai be ghe va nhau vào một cái dữ dội, kẹp lấy chân thằng Vọi vào giữa. Gió thổi vù vù, tay nó vẫn ghì cáng lưới không dám buông. Rời cái cáng lưới, để rớt xuống biển, tức nhiên cá trong lưới sẽ tuột ra hết. Lão Tư Hưng chồm đứng lên. Tiếng thằng Vọi kêu như van lão:

- Tôi buông... Cho tôi buông cáng!

Dưới ánh sao, đôi mắt nó thất lạc. Lão Tư Hưng hầu như không nghe tiếng kêu thảm thiết ấy. Lão đang nghe tiếng cá dậy rộn trong lưới... Trước mắt lão hiện ra vô số cá khoai, cá gộc. Cá ấy sẽ cho lão vô vàn giấy bạc. Lão Tư Hưng giậm chân một cái rầm trên sạp ghe. Miệng lão còn đang nhai sò, huyết sò chưa chính ứ ra mép lão như máu người, lão ta gằn từng tiếng:

- Không được buông cáng! Vọi, ráng lên. Đưa cái cáng qua ghe mau. Một chút nữa... ráng, ráng!

Thằng Vọi lóa cả mắt rồi. Nhưng tiếng thúc của lão Tư Hưng dồn dập quá, khiến nó hết sức kinh sợ, cố với tay qua chừng hai gang nữa. Người bên kia vớ lấy được cáng lưới. Lão Tư Hưng mừng húm, lè lưỡi liếm máu sò bên mép, trố mắt nhìn từng vạt lưới kéo lên. Tiếng cá choi trút vô khoang nghe lạch đạch. Lão nghe đến khi cái tiếng lạch đạch dứt rồi mới quay lại. Tôi đã kéo thằng Vọi lên để nằm dài trước mũi ghe, lấy khăn quàng nhắm mắt mà buộc cái chân gẫy rập của nó. Máu ở chân nó chảy tuông như xối. Cái khăn trắng biến thành màu đỏ.

Tôi với bác lái già giục về gấp. Lão Tư Hưng cúi nhìn và gọi tên thằng Vọi. Nhưng nó đã ngất rồi đâu đáp lại được. Lão Tư Hưng nói:

- Về đâu bây giờ, lâu lâu mới gặp cá bầy như vầy. Nó chưa hề gì, dẫu có về, chân nó đã gẫy rồi nào có nối liều lại được đâu? Làm ăn không ý tứ thì khiến vậy nó mới tởn. Được rồi, mai cho xe ngựa chở nó lên nhà thương thí!

Lão Tư Hưng gọi lớn:

- Bên kia qua đây bớt một người nghe!

Một anh từ bên ghe kia nhảy sang, thay thằng Vọi.

Đi hai mẻ lưới nữa... Lão Tư Hưng mới chịu rúc tù và báo hiệu về. Mười mấy chiếc ghe sửa soạn trở mũi. Từ đó về đến bãi tôi ngồi bên thằng Vọi. Nó có tỉnh mấy lần, sau đó lại ngất đi.

Đến nơi, hai bác dân lưới khiêng nó lên. Tôi xách cây đèn chai đi sau, thấy máu nơi chân Vọi rỏ dài trên cát. Giọt máu nào rơi xuống liền bị cát hút ngay giọt ấy.

Hôm sau, lão Tư Hưng sai người chở nó lên nhà thương thí. Trưa đó, tôi cũng ra đón xe ngựa ông Bảy Hân về một cách vội vàng. Xe chạy ngang bãi lưới, tôi dòm xuyên qua cửa, thấy những vết máu đêm hôm rỏ thành một đường dài. Màu máu thấm cát bị nắng hun trọn buổi biến thành màu xám sẫm như màu sét sắt.

*

* *

Mãi đến năm sau, cũng trong mùa nắng ráo, tôi trở lên Hà Tiên, có về bãi Mũi một lần. Ông Bảy Hân vẫn còn đánh xe ngựa như cũ. Sực nhớ đến chuyện xưa, trên xe tôi hỏi thăm về thằng Vọi. ông Bảy Hân cho tôi biết sau khi lão Tư Hưng đem bỏ nó trên nhà thương thí cưa chân, tới chừng lành rồi lão bắt nó trở về đi lưới cho lão như cũ. Má nó bán bánh ếch dành dụm mà không đủ tiền chuộc nó ra. Kể xong, ông Bảy Hân chép miệng, quất con ngựa một roi chạy lồng lên. Ông còn cho biết lão Tư Hưng đã được Tây bổ làm chủ bãi. Đến nơi, tôi xuống xe, thấy cái nhà ngói lão Tư Hưng xây lại hai từng cao nghệu, nóc ngói đỏ au.

Đột nhiên ông Bảy từ trên xe nhảy xuống kéo tôi chỉ về đám người lô nhô cuối bãi, hấp tấp nói:

- Ghe lưới của chủ Hưng sắp ra khơi. Kìa thằng Vọi nó đi sau chót kìa.

Tôi nhìn theo tay ông Bảy Hân. Tuy một năm qua, nhưng tôi nhận ra đúng là thằng Vọi. Cái lưng mốc thích của nó phơi dưới nắng trưa, và tay nó cắp một cây nạng.

Hình như nó đi nạng quen rồi chăng, nên một chốc sau tôi chỉ còn thấy cái dáng đi của nó tập tễnh, mờ dần dưới cuối bãi.

Mùa nước lũ

Tác giả: Quỳnh Chi

,

Hàng năm cứ đến mùa này, khi tin lũ lụt lại trở thành mối lo lắng của người miền Trung ,  những kỷ niệm xa xưa vào những mùa nước lũ lại hịên về và Y lại nhớ chị Nha hơn bao giờ hết.

Những ngày thơ ấu ở miền Trung, nhà Y ở ngay trên đường Cường Để của thị xã Hội an - có lẽ nay đã đổi tên khác - là con đường cổ kính có Chùa Cầu tức Lai Viễn Kiều nổi tiếng. Từ đó xuống bờ sông không xa, chỉ cách độ vài trăm thước.

Vào mùa mưa, nước sông thường dâng lên ngập đường bờ sông và đường Nguyễn Thái Học và có khi ngập cả đường Cường Để. Các nhà ở hai bên các con đường này thường làm nền nhà rất cao so với lòng đường. Mùa lụt đầu tiên ở Hội an, năm ấy Y đang học lớp năm tiểu học, những thuyền nhỏ từ chợ bơi dọc theo bờ sông rồi chèo vào tận đường Cường Để, ghé vào trước cửa nhà.

Mẹ đứng trên thềm cao, tò mò hỏi

-Ông ơi ông bán gì thế ?

-Gụ, bán gụ.

Vì mới vào Nam chưa được bao lâu, chưa nghe quen tiếng Quảng, mẹ ngạc nhiên hỏi lại :

-Trời mưa gió lụt lội thế này mà ông đem gỗ gụ đi bán cho ai hở ông ? Thuyền ông nhỏ thế làm sao chở được gỗ gụ ?

-Bán gụ , bán gụ nấu cơm mà eng chớ !

Hỏi đi hỏi lại năm lần bẩy lượt mẹ vẫn chẳng hiểu. May sao sau đó vào bếp, mẹ kể cho chị Nha giúp việc người miền Trung, chị liền phiên dịch lại :

-Dạ thưa bác, họ nói " Bán gạo , bán gạo nấu cơm mà ăn chớ" đó ạ.

Y có cảm tưởng mình còn nhớ rõ mồn một mẩu đối thoại ấy giữa mẹ với những ngưòi chèo đò. Nhưng cũng có thể là vì câu chuyện kỷ niệm đầu tiên khó quên về mùa lụt này đã đựơc kể đi kể lại hàng bao nhiêu lần, hàng năm mỗi mùa lũ lụt nên Y mới không quên.

Khi còn đang tuổi học sinh mơ mộng Y vẫn chưa biết sợ lụt là gì, mà hay thi vị hoá, ví phố Hội của mình về mùa lụt như là một Venise nho nhỏ, với những con thuyền đi trong lòng phố, giữa những ngôi nhà và chùa chiền cổ kính... Mùa lụt chỉ làm cho phố Hội của Y càng thêm thân thương và thi vị hữu tình ...

Mùa lụt ở miền Trung cũng là mùa mưa dầm mà Y không cảm thấy khó chịu , như khi bị những cơn mưa rào mùa hè hay đổ ào xuống làm ướt hết xống áo, cho dù đã mặc áo mưa cẩn thận. Đi dưới mưa lại là một cái thú rất thơ mộng. Y còn thích mùa mưa vì hễ trời mưa lạnh là mẹ có lệ cho đổ bánh xèo, Y sẽ đựơc ở gần chiếc hoả lò làm bánh, một không khí ấm cúng - tương tự như khi ngồi chờ khoai lùi trong bếp luộc bánh chưng cuối năm- . Thói quen đổ bánh xèo ngày mưa này bắt đầu từ thời còn có chị Nha. Hình như năm nào cũng thế, hễ trời mưa lớn ...sắp có lụt, là y như rằng chị Nha sực nhớ tới chuyện đi ngâm gạo xay bột đổ bánh xèo. Nhờ chị Nha và mấy chị giúp việc khác người miền Trung gia đình Y mới biết cách nấu và ăn các món ăn miền Trung, mà trong các món ăn đó Y mê nhất là bánh xèo ngày lụt của chị Nha. Không bíết chị Nha đã truyền nghề cho mẹ thế nào, mà sau đó cho dù không phải là chị Nha mà là ngưòi khác, hễ được mẹ sai đi ngâm gạo xay bột đổ bánh xèo.. thì bao giờ cũng vào một ngày mưa, trước khi con sông Hoài dâng nước lên và sau đó là nghe nói có mấy nhà ở đường bờ sông bị nước vào.

Thời bấy giờ muốn tự làm bánh xèo ở nhà phải ngâm gạo để xay thành bột bằng cối đá. Vừa xay gạo vừa đổ nước vào cối đá hoà chung với bột. Bột hoà trong nước chảy từ cối ra được hứng vào chậu để đổ bánh. Hai cái bếp lò được nhóm lên trong bếp, trẻ con ngồi chờ từng chiếc bánh xèo vừa đổ còn nóng hổi, trong khi ngoài trời mưa lớn. Ngoài kia có lẽ nước sông cũng bắt đầu dâng lên. Và Y sẽ lại thú vị chờ xem con đường trước mặt trở thành giòng sông nhỏ, thuyền bè đi vào tới cửa. Đổ bánh xèo trước ngày nước lớn có lẽ chỉ là một sự trùng hợp tình cờ, hay là thói quen trong gia đình của chị Nha mà chị đã truyền lại cho, nhưng không khí ấm áp chung quanh hai chiếc hoả lò đúc bánh xèo trong những ngày mưa lạnh ở miền Trung để tiếp theo đó là một cơn nước lớn với những chiếc thuyền đi vào lòng phố có lẽ đã thành một kỷ niệm khó quên, và trí tưỏng tượng của trẻ con cứ thích gắn hai sự việc ấy lại với nhau cho thêm phần huyền bí về lũ lụt cũng không chừng.

Này nhé người ta chẳng bảo

Ông tha mà bà chẳng tha

Lại thêm cái lụt hăm ba tháng mười

là gì !

Ông bà nào nhỉ.. Y liên tưởng đến các vị thần linh vô hình trong các đền miếu chùa chiền ở các góc phố, và vô số các bàn thờ gia tộc thiêng liêng sau những màn trướng thâm nghiêm trong các căn nhà sâu thăm thẳm của phố Hội.

Rồi chị Nha xin nghỉ việc vì cha mẹ chị bắt phải về quê lấy chồng, cũng ở bên kia sông. Khi đã lớn, hàng năm cứ sau mùa lụt, khi bưng thùng theo ban xã hội hiệu đoàn trường tổ chức lạc quyên cứu trợ nạn lụt miền Trung , Y lại càng nhớ chị Nha. Chị về quê lấy chồng ít lâu thì gia đình Y dọn vào Tam Kỳ, nên từ đó bặt vô âm tín. Y nhớ chị có nói quê chị bên Kim Bồng chi đó, tức là bên kia sông, nơi mà Y chưa bao giờ đi tới, vì chỉ có những con đò nhỏ xíu đi ra giữa giòng sông Hoài - đối với Y lúc đó là rộng mênh mông - để sang bên kia bờ xa tắp. Trong biển nước mênh mông tràn ngập mấy đảo nhỏ bên sông, nhà chị Nha ở đâu ?

Có lần Y say mê tả lại chiếc bánh xèo của chị Nha nào nhân tôm nhân thịt, giá hành, cuốn với những rau sống rau thơm này nọ, thì anh bạn quê Quảng Nam cho biết "Ở quê nghèo cực lắm. Có gạo xay bột, có mỡ đổ bánh xèo quấn rau muống chấm nước mắm thôi đã là ngon lắm rồi, nói chi tới bánh xèo có nhân tôm nhân thịt ". Y chợt nghĩ biết đâu lệ đổ bánh xèo vào ngày mưa, trước mùa lụt, trong một gia đình nghèo như chị Nha, có thể là một bữa ăn đoàn tụ gia đình trước mùa thiên tai, với mong ước sẽ tai qua nạn khỏi, để rồi sang năm lại đựợc có một ngày đoàn tụ quây quần quanh chảo bánh xèo như thế. Cầm chiếc chảo nhỏ bằng gang xinh xắn dùng để đổ bánh xèo do chính chị Nha đã chọn mua và vẫn còn dùng mãi trong nhà, Y cầu mong gia đình chị đều tai qua nạn khỏi trong các mùa lụt, để hàng năm chị vẫn xay bột đổ bánh xèo trứơc khi nước lớn cho chồng con chị.

*

Có một năm nhà Y đã không kịp đổ bánh xèo trước mùa lụt. Đó là năm xẩy ra trận lụt kinh hồn của miền Trung. Khi đó, sau một thời gian thuyên chuyển vào Tam Kỳ, lúc trở lại Hội an , lần này mẹ Y không thích ở trong phố chật chội mà thích ở nhà vừơn, nên ba Y đã mua một căn nhà ở đầu thị xã, trong xóm bên trái đường cái. Bên kia đường, bên phải, cũng có nhiều ngõ nhỏ đi vào trong xóm. Nhà bạn Y ở bên đó, từ đó đi thêm một quãng nữa ra tới bờ sông. Tính ra từ bờ sông đi lên nhà bạn rồi ra tới đường cái, sang tới nhà Y cũng phải cỡ mấy trăm mét, vậy mà tới mùa lụt, nước lũ vẫn dâng lên tràn ngập con đưòng dẫn vào thị xã và tràn sang tận các ngõ bên trái chỗ xóm nhà Y, vốn là gò đất cao hơn bên xóm bờ sông. Hoá ra đoạn đường này và cả mấy xóm này nền đất hơi bị võng xuống nên mới bị ngập nước. Tuy vậy nước lụt chỉ ngập đường chừng một buổi rồi rút đi ngay. Y chưa bao giờ phải nghỉ học vì đoạn đường ngập nước đó.

Thế mà năm ấy, nghe đâu trên thượng nguồn mưa lớn làm lở phiến đá lớn hay ngọn núi nào đó tên là Hòn Kẽm lâu nay vẫn ngăn lại dòng nước từ thượng nguồn, khi khiến nước sông đổ ập xuống hạ lưu thành giòng thác lũ...

Hôm đó ở nhà gạo đã ngâm và xay xong, chỉ chờ đổ bánh, thì trời mưa tầm tã. Chỉ trong chớp mắt, nước bỗng tràn vào nhà thật bất ngờ, và cứ thế lừng lững dâng lên. Cả nhà bỏ việc cơm nứơc vội vàng dọn quần áo sách vở và đồ đạc lên gác, hầu như bị nước đuổi theo bén gót. Nước lên ngập chân giường. tràn vào ngăn dưới cùng của tủ quần áo, tủ bát. Than củi trong kho thế là dầm nước, chỉ kịp đem lên gác mấy bao than với hoả lò, bếp dầu lửa cùng với nồi niêu xoong chảo và gạo cùng mắm muối... Nước lên ngang bắp chân, trẻ con đựơc lệnh phải lên hết trên gác lửng. Ngồi trên đó nhìn xuống thấy nước dâng cao dần, ngập đầy trong nhà, bọn trẻ vẫn còn vui đùa vì thấy cảnh lạ, bảo nhau đây là "hồ bơi".. Nhưng ngoài ba không một ai biết bơi, nên cũng không một ai dám xuống .." hồ bơi" lúc này. Nước dâng lên mỗi lúc mỗi cao và chỉ trong vài giờ đồng hồ đã dâng lên đến ba phần tư các khung cửa ra vào. Bấy giờ lũ trẻ mới thực sự biết sợ, hết còn cười đùa chỉ trỏ. Ba bơi quanh nhà thăm dò tình hình chưa về, Y lo lắng gọi Ba ơi. Lát sau ba về lắc đầu , bảo mẹ làm sao gọi thuyền tới cứu vào lúc nửa đêm..

Tuy thế... đã có cha mẹ lo, trẻ con vẫn ngủ thiếp đi cho tới sáng.. Sáng mở mắt ra thấy mực nước đã lên cao hơn các cửa , nước dâng lên tới tận mái nhà. Trong nhà là một bể nước sâu thẳm phía dưới căn gác lửng. Bàn ghế giường tủ chìm ngập cả trong nước. Nước đục lờ , chiều cao của mực nước khiến cái "hồ bơi" tối qua bây giờ trở thành một vực nước sâu thẳm. Y nghĩ tới mấy chiếc xe chìm trong nước như những con tàu biển ngộ nạn nằm dưới đáy biển sâu. Căn gác lửng của Y bây giờ là hoang đảo. Mở cửa gác nhìn ra ngoài chỉ thấy bầu trời u ám gần sa xuống một biển nước mênh mông bao la quanh nhà. Mưa vẫn rơi rào rào rất nặng hạt. Tuy nhà có gác , nhưng nếu nước lụt dâng cao dị thường cứ tiếp tục dâng lên thì sao...

Có ai đã làm điều gì thất đức để các " ông bà " linh thiêng nào đó đang giận dữ mà không tha cho dân lành chăng ? Những truyền thuyết mà ngày thường Y chẳng để tâm suy nghĩ hay thực sự tin tưởng, bỗng lởn vởn hiện lên trong đầu. Năm nào Y cũng đi lạc quyên cứu trợ nạn bão lụt, cứu trợ dân quê bị mất mùa hư hại nhà cửa, nhưng Y có ngờ đâu nay chính mình lại sắp phải trầm mình dướí làn nước lũ. Trong lúc đọc kinh cầu buổi sáng, Y nhớ tới ngày tận thế. Ngày tận thế tới mau vậy sao, chưa tới năm 2000 mà..Và ngày đó đang đến với một trận đại hồng thuỷ ư ?

Đúng lúc ấy bên ngoài có một chiếc thuyền nhỏ từ đâu tiến đến gần, đậu sát mái nhà và một thanh niên bước lên mái nhà tiến đến gần cửa gác, gõ cửa. Người thanh niên ấy đã hịên ra như một vị thiên thần mà Y vẫn thấy hình vẽ trên tường nhà thờ, trong các bức hoạ của Thiên Chúa giáo. Ba mẹ hơi lưỡng lự nhưng rồi cũng đồng ý để anh ta đón đi. Đó là lần đầu tiên Y bước ra trên mái nhà , bấy giờ đã ngập trong làn nước và trơn trựơt vì ngói đã mọc rêu. Mưa vẫn rào rào ném những hạt buốt giá xuống mặt nước và trên người, trên mặt. Mặt nước mênh mông, lên ngang ngọn cây trong vườn, những nhà trệt mái tranh ở xa như những đụn rơm hay nón lá lớn thật lớn úp xuống mặt nước. Trong giây lát Y nhớ ra một sự thực là mình đang đi trên không , trên mái nhà, nghĩ tới cái giếng sâu trong vườn...Y rùng mình trựơt chân, suýt ngã. Người thanh niên bèn bảo Y hãy dẫm hai chân lên mu bàn chân của anh ta, và cứ thế anh ta nắm lấy hai vai Y cho Y vịn vào tay anh, chân anh bước lùi từng bước thận trọng đưa Y ra tới tận thuyền.

Con thuyền nhỏ của ngưòi thanh niên còn đi đi lại lại nhiều lần, mỗi lần chỉ chở đựơc một hay hai người, nhưng đã đưa được rất nhiều gia đình xung quanh tới ngôi nhà ba tầng gần đó. Số người lánh nạn được đưa tới mỗi lúc một đông, dễ tới gần cả trăm người. Trong hoang mang lo lắng, mọi người chia nhau những nắm cơm vắt ăn với tôm kho mặn của Mạnh Thường Quân chủ nhà. Chiều tối dần, trời tạnh mưa, nhưng mực nước vẫn cao lừng lững, không có dấu hiệu gì là muốn rút xuống. Mạnh Thường Quân cũng bắt đầu nao núng, lo sợ đông người quá nhà có thể bị sập, nên sau đó mọi người lại lần lựơt lên thuyền vào phố lánh nạn...

Thuyền đi qua con đưòng mà hàng ngày Y vẫn đi học với những hàng cây cao xum suê hai bên đường, nay chỉ còn phần ngọn nổi trên mặt nước giống như những bụi cây lá um tùm ở hai bên kênh rạch hay trong rừng sâu âm u của những chuyện phim thám hiểm. Tưởng chừng như có cọp beo rình rập trong xóm kia, từ phía nhà bạn của Y sắp sửa xông ra, hay dưới làn nước ngầm này ở đầu ngõ - nơi mà Y biết chắc là có hai hồ sen lớn-, đang có cả một đàn cá sấu rình rập dưới đáy thuyền. Người thanh niên đã tới cứu mọi người và Y đang ngồi ở mũi thuyền , vẫn như một vị dũng sĩ Hy Lạp, một vị thiên thần hộ mệnh quả cảm, đang đưa con thuyền tới bến bình yên. Y không rõ anh ta là ai, nghe đâu là một ngưòi lính tình cờ về nghỉ phép. Thuyền đi trong đêm, dưới bầu trời đã trong vắt và có những ánh sao xanh lấp lánh như ánh lân tinh xa thẳm cao vút trên cao, như đang âm thầm che chở..

Vài ngày sau nước rút, khi Y trở về thì nhà cửa đã được dọn dẹp sạch sẽ. Nghe chị Hồng than phải hốt bùn đọng trên nền nhà cả tấc. Biển nước mênh mông mới đó mà như một cơn ác mộng thoáng qua. Cuộc sống trở lại bình thường vì khu xóm của Y chẳng bị thiệt hại gì lớn ngoài cái khổ vì bị nước dâng lên ứơt ngập hết đồ đạc, giờ phải lo phơi phóng. Củi đun bếp ướt sũng, phải đem phơi lại mỗi ngày, hầu hết chỉ nấu bếp cồn cả tháng trong khi chờ cho củi khô. Ngoài ra không có ai chết. Nhưng khi đi học, nghe đồn và nghe tin qua báo chí, từ đài phát thanh, Y mới biết hết thảm hoạ to lớn của trận lụt vừa qua. Các nữ sinh thì thầm bảo nhau ở bờ sông có nhiều xác chết trôi trên sông tấp vào...trông dễ sợ lắm. Đó là dân chúng ở các làng quê đã bị nước lũ cuốn trôi ra biển. Vùng quê ở phía thượng ngùôn tang tóc ngập trời. Hoa mầu thịêt hại, nhiều nhà bị cuốn trôi, và người chết lên tới mấy ngàn, vì chạy lụt không kịp. Họ không may mắn ở gần những gò đất cao, không thể bám vào một ngọn cây nào đó khi nước lừng lững dâng lên, không đựơc một con thuyền nào kịp tới cứu nạn như Y.

*

Chị Nha bên kia sông vẫn bặt vô âm tín. Sau lụt, đôi khi theo mẹ đi chợ ở gần bờ sông, Y nhìn quanh ngó theo những người đàn bà có vẻ ở quê ra phố, mong tình cờ gặp lại chị, nhưng vẫn chẳng bao giờ.. Y chỉ biết cầu trời chị vẫn còn đổ bánh xèo trước mùa nước lũ năm sau đó, sau đó, năm nay rồi năm tới, những năm sắp tới ...cho bầy cháu nội ngoại của chị.

Chuyện cọp Bầu Lòng

Tác giả: Lưu Linh Tử

, Bầu Lòng là một làng nhỏ ở về hướng Bắc Sài Gòn lối 80 cây số, trước kia thuộc Tỉnh THỦ DẦU MỘT (Bình Dương), rồi thuộc Tỉnh Bình Long.(nay Sông Bé. S.N.)

Từ Sài Gòn lên Bầu Lòng phải theo Quốc lộ 13, qua Lái Thiêu, Bình Dương, Bến Cát, Lai Khê, Bến Đồng Sổ, Bầu Bàng rồi Bầu Lòng đến Chơn Thành, Hớn Quản v.v...

Bắt đầu từ Bến Cát trở lên ta thấy rất nhiều cao su mà trước kia người Pháp mộ dân phá rừng để trồng, lấy gốc cao su thay cây rừng thì chúng ta cũng tưởng tượng rừng Bầu Lòng ngày xưa trông lớn bực nào ?

Từ năm 1898 người Pháp bắt đầu áp đặt chế độ cai trị đến miền rừng thiêng nước độc nầy và cũng gấm ghé phá rừng.

Thuở ấy dân cư còn thưa thớt, mỗi làng không nhiều hơn 30 nóc gia nhưng họ cũng thành lập Ban Hội Tề như những làng khác.

Việc phá rừng lập nghiệp của người dân quê thật là thiên nan vạn nan. Họ rủ nhau đi khẩn hoang, họ đem cả gia đình tài sản đến một vùng nào đó. Khởi sự họ đốn cây cất nhà gần nhau rồi phá rừng, đốt rẫy và khởi sự tỉa lúa trồng khoai. Sau vài mùa, coi bộ yên nơi yên chỗ, họ mới công cử vài người lớn tuổi có uy tín về Tỉnh xin lập làng, lập ấp và họ được thỏa mãn ngay.

Những gia đình khẩn hoang nầy phần đông đều giống nhau. Họ có ít lắm cũng một đôi Trâu hay Bò, một cái xe BO và một vài gia súc khác để nuôi gây giống. Người gia trưởng đen đúa, nhưng bậm trợn, sức vóc mạnh mẽ, một bà vợ mộc mạc quê mùa nhưng chí thú làm ăn, vài đứa con ngây ngô ốm đói...

Họ sống đơn giản, tận lực khai phá, để sống ấm no, bất chấp cả rừng thiêng nước độc.

Sau vài ba mùa, đời sống của họ tạm đủ với gạo đỏ, củ khoai, ngoài việc sự lập làng lập ấp, họ cũng không quên tín ngưỡng riêng, lập một ngôi đình và một cảnh chùa như bao nhiêu làng khác. Lần lần xuất đinh trong làng tăng thêm, đôi khi nhiều nguời xứ khác đến xin với Ban Hội Tề để nhập dịch. Ngoài việc đồng áng, thú vui của người dân là rủ nhau đi săn chồn đuổi thỏ với bầy chó cỏ, con nào con ấy chỉ bằng bắp chơn, nhưng đánh hơi rất tài, chạy theo con thịt rất bền và dai như đỉa đói. Trẻ nhỏ thì cùng nhau rấp rào đánh lưới thỏ hay gài bẫy bắt chim, đuổi cút. Những đêm trăng họ tề tựu lại sân đình, nhà việc hay nhà Ông Hương Cả, Hương Chủ để bày với nhau những trò giải trí lành mạnh, không kém phần hào hứng.

Người lớn thì đẩy cây, kéo tay, bẻ chơn, giã gạo thi hay thực tế hơn là học võ để giữ mình. Trẻ nhỏ thì chơi những trò nhộn hơn như : U-U bắt Mọi, Nhảy Chan-Chán-Chậu, tập Chuồng-Chuồng hay Bịt mù khỏû lon, những trò giải trí mà người lớn trẻ con đều ưa thích.

Ngày Kỳ Yên, Kỳ Bông hay những rằm lớn còn vui hơn nữa, người người đều nô nức dự lễ với niềm tin tưởng nhiệt thành.

Làng Bầu-Lòng với tương lai đầy hứa hẹn...

Ngày mai sung mãn phì nhiêu.

Cọp về làng

Suốt một tháng qua, dân làng Bầu Lòng bị một cơn đe dọa trầm trọng. Nguyên do là có cọp về làng quấy nhiễu.

Không phải là cọp mới về làng lần nầy là lần đầu tiên đâu, nhưng mấy lần trước, cọp về bắt chó, bò, heo rồi đi mất, hoặc bị dân làng xua đuổi bằng tên tẩm thuốc, chó săn, mõ tre, thùng thiếc, khiến cho mấy Ông BA-MƯƠI nhận thấy dân làng tiếp rước không được thân mật, hoặc hoảng sợ mà bỏ đi.

Lần nầy, cọp về làng phá nhiều hơn trước. Mỗi đêm mỗi bắt bò, chó, heo hoặc trâu nghé mang đi, mặc cho mõ tre thùng thiếc khua chát óc, cọp cũng không bỏ mồi.

Mấy ông thợ săn rình rập suốt đêm nầy qua đêm khác, để rồi khi gặp không dám bắn mũi tên nào vì Ông BA MƯƠI to sầm sầm vừa thấy là kinh khủng rồi. Còn mấy chú chó săn tối đến là chui xuống gầm giường không sủa được một tiếng cho ra hồn, có chăng thì chỉ rên ư ử...

Lần lần cọp khủng bố dân làng cả ban ngày chớ không chờ đến ban đêm nữa. Muốn ra đồng làm lụng, họ chờ mặt trời lên cao hơn một sào rồi hú nhau ra hiệu để gom lại mà đi chung, mỗi người ngoài dụng cụ của mình cũng không quên đem theo khí giới hộ thân như lao, mác thông, lưỡi đồng hay roi trường, còn đàn bà thì cả mõ tre, thùng thiếc.

Lần nọ, cọp toan bắt trâu ở Gò Đậu cách làng không xa quá 200 thước nhưng nhờ con trâu phát cổ của ông Hương Sư chống cự kịch liệt thêm mấy con trâu cái có con đến vây chém tiếp làm cho Chúa Sơn Lâm rống lên vài tiếng thật to rồi chạy dài không dám bắt trâu nữa.

Từ đó người ta xem con trâu Pháo của ông Hương Sư như con vật quí, bao nhiêu trâu bò gom lại một nơi để cho con trâu Pháo cầm bầy.

Khổ nhứt là toán người đi kéo củi thì không làm ăn gì được. Bò mà nghe hơi cọp thì mang xe chạy trối chết, bất kể hầm hố chông gai, xe gãy tan tành, bò chạy mất, còn chủ thì không bưu đầu sứt trán cũng gãy tay.

Suốt tháng trường không biết làm cách nào tránh nạn cọp hoành hành mấy ông Hương chức mới bàn nhau xuống Ông Cai Tổng xin lãnh súng về bắn cọp.

YÙ kiến của Ông Hương Quản vừa đưa ra được mọi người tán thành ngay và sáng hôm sau Hương Cả và Hương Quản cùng về Tổng, xin thầy Cai cấp súng. Đường về Tổng cũng toàn là rừng rú không chắc là đi yên lành. Họ bèn dùng phương pháp đâm tỏi thoa mũi bò, đồng thời mượn con trâu Pháo của Ông Hương Sư đem theo phòng khi gặp cọp cho nó nghinh chiến và trên xe còn có ba bốn anh lực điền gan dạ cùng mình đem theo khí giới để hộ vệ hai ông Hương Chức.

Lãnh súng

Hai ngày sau, Ông Hương Cả và Hương Quản lãnh súng về làng. Theo thủ tục thì không được lãnh mau lẹ như thế đâu nhưng nhờ Ông Cai Tổng thông cảm nỗi khổ dân của làng mà bảo lãnh giùm, cho nên Chánh Chủ tỉnh mới cấp cho cây súng " ca-lip đuôi " (nòng 12) với 10 viên đạn, mỗi viên tròn, nhồi thuốc súng để bắn ra 9 viên đạn khá nhỏ (chevrotines) để đem về bắn cọp.

Dân làng nghe nói lãnh được súng, mừng rỡ vô cùng. Từ đó, ông Hương Quản đi đâu cũng ôm kè kè cây súng một bên, dẫn theo chú Phó Hương Quản và chú Cai Tuần, mỗi người cầm một cây roi trường bóng láng.

Dân làng bắt đầu tin tưởng, yên chí làm ăn vì mỗi ngày Ông Hương Quản và hai người hộ vệ đi từ đầu làng đến cuối làng rồi trở lên để canh chừng động tịnh. Ban ngày, họ ra đồng làm lụng, tối đến đóng kín cửa nẻo, nằm yên, nhưng cọp chỉ ngưng hoạt động độ chừng mươi ngày rồi bắt đầu làm dữ trở lại.

Dường như có linh tính, hễ Ông Hương Quản xách súng đi đầu làng thì cọp xuất hiện ở cuối làng để bắt heo, bắt chó. Ban đêm, khi Ông Hương Quản đi rông (ronde) về, treo súng lên vách thì tiếng cọp " Cà-um " rền trời. Có một đêm, cọp lại về nhà Ông Hương Quản bắt một con heo, Ông Hương Quản xách súng lên cò, bước ra sân nhìn thấy Ông "Ba Mươi " thì hốt hoảng, thối lui, không dám bắn một tiếng lấy oai, dù là bắn chỉ thiên?đành để cho cọp bắt heo đi mất. Sáng hôm sau, ông tìm Hương Cả, mà báo cáo miệng :

- Bẩm Cả, đêm rồi cọp về bắt heo tại... nhà tui.

- Sao ? Thằng Hương mầy có bắn nó phát nào không ? Tao không nghe súng nổ.

- Dạ... Dạ...

- Không có bắn sao ? Bậy quá, sao không bắn nó ?

- Dạ, nó lớn quá trời quá đất. Tui sợ bắn nó không trúng, nó không chết thì... tui cũng chết.

Sau một hồi thảo luận, cả hai đồng ý, cho đánh mõ mời toàn ban hội tề nhóm lại, rồi sau đó Hương chức đồng ý về tỉnh xin Lính Tập về giết cọp. Hôm sau, họ cụ bị lên đường, cũng đâm tỏi thoa mũi bò, cũng trâu Pháo, cũng mác thông và súng... để xin binh tiếp viện.

Lần nầy Ông Cai Tổng không còn sốt sắng trong công việc xin lính tập nữa. Sau khi nghe hết những lời thỉnh cầu, ông chỉ cười rồi bảo :

- Ối, chuyện dễ ợt hè mà Cả lo quá ! Cả và Hương Quản nên về rước thầy nghề võ đánh cho một lần thì cọp tởn tới già chớ có gì đâu mà phải xin lính tập cho rộn chuyện. Làm vậy không sợ Tây nó chê dân mình bất tài sao ?

Biết không thể lay chuyển ông Cai Tổng được vì ông là người ăn một đọi nói một lời, hai ông Hương chức Bầu Lòng đành trở về và suy gẫm lời ông Cai Tổng bèn rước thầy nghề võ về đánh cọp ; vậy là hữu lý.

Ông thầy Gia Bẹ

Sau khi dọ hỏi mấy ngày Ông Hương Cả cho người đem lễ vật qua Gia Bẹ (thuộc tỉnh Gia Định) rước thầy nghề võ về Bầu Lòng trừ cọp.

Thật vậy, làng Gia Bẹ có ông thầy nghề võ tục gọi Ông Tám rất có tên tuổi.

Thưở thiếu thời, ông từng đụng độ với nhiều tay danh sư và luôn luôn ông thủ thắng. Cọp beo ông cũng từng chiến đấu, phần nhiều chúng chịu được vài chục roi là cúp đuôi chạy mất hoặc trúng nhằm chỗ nhược, chết tại chiến trường.

Quanh vùng Ông Tám ở, luôn cả làng Gia Bẹ, trộm cướp đều kiêng oai, không hề dám về phá quấy.

Mặc dầu tuổi đã ngũ tuần, nhưng ông còn tráng kiện, tay chân gân guốc, đi đứng gọn gàng, sức ăn còn bằng một thanh niên trai tráng. Mỗi ngày ông đều tập dượt và học trò của ông học võ, dù dạy lén, cũng đến mươi người.

Khi đoàn sứ giả Bầu Lòng qua tới, Ông Tám tiếp đón rất nồng hậu và không đợi phải " Tam Cố Thảo Lư " như Lưu Bị cầu Gia Cát, ông Tám lật đật cắp roi trường đi liền.

Hai ngày sau, dân làng Bầu Lòng lại sống trong rạo rực và tin tưởng ở ông thầy Gia Bẹ. Ông Cả lãnh phần tiếp khách quí. Mọi người đều đến nhìn ngắm ông thầy võ với cặp mắt tò mò và thán phục.

Ông Hương Cả và Ban Hội Tề thay nhau chuyện trò với Ông Thầy thật là thân mật. Ông Cả sai con lo cơm nước, bắt gà làm gỏi, mua rượu ngon.

Buổi cơm chiều hôm ấy ăn sớm hơn thường lệ và hầu hết Hương chức đều có mặt tại nhà Ông Cả để dự bữa cơm chiều giống như bữa đám giỗ nho nhỏ. Mọi người vui vẻ chuyện trò, nhưng cơm rượu vừa được nửa bữa thì có tiếng la thất thanh đâu đấy. Mọi người buông đũa, nhìn ra sân vừa đúng lúc cọp nhảy vào sân, nhìn vào nhà, mặt to chần vần, vóc cao như con ngựa, thật là khủng khiếp !

Mọi người dường như nín thở, im lặng hoàn toàn, tiếng một con ruồi bay qua nghe cũng rõ. Cọp cũng im lặng đứng nhìn hồi lâu rồi ngồi xuống chống tó, quít đuôi, nhìn vào nhà như khiêu khích, như đợi chờ...

Và lúc ấy người ta yên lặng và cũng đợi chờ. Họ chờ gì... ?

Họ chờ đợi việc mới lạ mà họ vừa quên đi trong chốc lát. Đó là chờ ông thầy Gia Bẹ trổ tài. Nhưng chờ mãi hồi lâu không thấy gì lạ, họ nhìn lại thì thấy ông thầy Gia Bẹ ngồi chết trân, mặt xanh như tàu lá, cắt không còn hột máu... trán rịn mồ hôi.

Họ hiểu ra và biết rằng ông thầy đã ... sợ cọp rồi. Vậy không lẽ để yên chờ cho cọp chụp, nên họ tự động cùng nhau la hét, đánh thùng thiếc mõ tre, những phương tiện tự vệ tiêu cực mà lúc nào cũng có sẵn để đuổi cọp như bao lần khác.

Cọp biết mình bị xua đuổi, uể oải đứng lên, vươn vai, rồi chầm chậm bước khoan thai, từng bước từng bước một, còn cà um mấy tiếng như dọa nạt rồi biến vào rừng.

Bây giờ mọi người mới hoàn hồn, kể cả ông thầy. Ông thú thiệt :

- Trời đất quỉ thần ơi ! Cọp nầy lớn quá trời quá đất...Tôi mới thấy lần thứ nhứt.

Vừa nói, ông vừa lắc đầu coi bộ buồn xo làm cho mọi người cũng buồn lây. Càng lo sợ, họ càng thương ông thầy võ hơn.

Hôm sau, người ta thấy ông Hương Cả cho người đâm tỏi thoa mũi bò, ông Hương Quản vai đeo súng đứng chờ lịnh.

- Hương Quản mầy đưa ông thầy về, rồi sẵn trớn mầy xuống luôn dưới thủ, bẩm lại với ông Cai Tổng coi ổng tính làm sao chớ cứ như vầy hoài... đây rồi dân làng bỏ hết công ăn chuyện mần thì có phương chết đói cả lũ.

Ông Hương Quản chán nản, cúi đầu vâng lịnh ra đi.

Ông Ất, Ông Giá

Sau khi đưa Ông Thầy về Gia Bẹ, Hương Quản bèn đánh xe bò về Tỉnh rồi thẳng đường về luôn miệt Tân Long Tân Khánh để giáp mặt ông Thầy Cai. Gặp lúc ông Thầy Cai đang nói chuyện với hương chức Hội Tề tại nha việc Tân Khánh. Ông Hương Quản Bầu Lòng mang súng bước vào lột khăn cúi đầu chào.

Ông Thầy Cai bèn hỏi :

- Sao ? Vụ Cọp Hùm trên đó ra sao em Hương ?

Hương Quản lật đật kể lại tự sự cho Thầy Cai và Ban Hội Tề Tân Khánh nghe. Nghe xong ông

Thầy Cai phì cười mà rằng :

- Thầy bà gì mà nhát như thỏ đế vậy a... Hương Quản ?

- Dạ ! Bẩm Thầy, Ông cọp lớn quá chừng, ai mà không sợ...

- Lớn thì lớn chớ. Bộ làm thầy nghề võ hễ gặp cọp nhỏ thì đánh còn cọp lớn thì chừa hay sao ?

Đoạn ông kêu thường xuyên lại bảo :

- Mầy chạy đi kêu ông Ất ông Giá lại tao mượn chút coi.

Người chức việc chạy đi ngay, ông Thầy Cai (Cai Tổng) bảo với Hương Quản Bầu Lòng :

- Thằng Hương mầy ở chơi chờ một chút, ông Ất ông Giá lại đây, qua mượn lên Bầu Lòng đánh cọp giùm cho.

Ông Hương Quản vâng lời, đến bộ ván bên hông nhà việc mà ngồi chờ nhưng trong lòng không tin tưởng chi cho lắm.

Một giờ sau, ông Ất ông Giá đến chào ông Cai Tổng và Hương chức rồi đứng chờ lịnh.

- À, hai đứa bây đến đó hả ? Sao tụi bây ? Có rảnh không ? Có rảnh thì làm ơn giùm tao lên trên Bầu Lòng với Hương Quản đây, coi con cọp nào đó về làng phá dữ quá, họ sợ làm ăn gì cũng không được.

- Dạ bẩm Thầy tôi rảnh chớ không có việc gì.

- Dạ thưa tui cũng rảnh.

- Ừa, rảnh thì đi giùm. Nghe nói mấy bữa rày có rước ông thầy nào đó mới thấy cọp thì thiếu điều muốn té... mà đánh đập nỗi gì.

- Dạ. Bẩm Thầy để tôi về lấy roi và dặn bầy trẻ cái đã...

- Dạ. Bẩm Thầy cho tui về thay đồ rồi đi luôn thể.

- ƯØa, lẹ lẹ đi hai em. Nhớ ở lại trên đó giúp giùm cho xong việc rồi về, chớ bỏ nửa chừng đa. Có đánh thì đánh cho nó tởn tới già, còn có đánh chết được thì chở về đây qua thưởng cho.

Nửa giờ sau, ông Ất và ông Giá theo Hương Quản về Bầu Lòng. Riêng Hương Quản thì rất ngao ngán và nực cười thầm cho ông Thầy Cai Tổng, chưa chi mà mong chở xác cọp về...

Viết đến đây tưởng cũng nên phác họa vài nét đơn sơ về ông Ất ông Giá.

Ông Ất tuổi độ trên ba mươi, người cao lớn, nước da bánh ếch, cổ tay no tròn như ống tre. Người ta đồn rằng bắp tay ông chỉ có một cái xương mà thôi, nhưng chỉ là giả thuyết chớ chưa ai dám quả quyết. Lông tay và lông chơn của ông xồm xàm đen trại. Ông chuyên sử dụng roi trường bằng cây Mật Cật to bằng cái chén đen mun.

Ông Giá thì trái lại, trắng trẻo, mảnh khảnh hơn ông Ất độ một bảy một mười. Tay chơn ông cũng liền lạc, nhặm lẹ, cũng chuyên sử dụng roi trường. Tài ông Ất ông Giá thì hầu hết mọi người biết võ đều kiêng nể. Tuy không phải anh em ruột nhưng thương nhau còn hơn ruột thịt và đi đâu cũng có nhau.

Chiến đấu

Xe bò đi suốt ngày đêm mới về tới Bầu Lòng.

Ông Hương Cả lo tiếp đãi như lần trước. Ông sai người lo cơm rượu nhưng cả hai đều từ chối bảo có gì ăn nấy, không uống rượu để tỉnh táo mà đánh cọp vì cọp xuất hiện bất ngờ.

Tuy vui vẻ tiếp đãi, nhưng trong thâm tâm ông Hương Cả và toàn ban hương chức Hội Tề cũng đồng tâm sự với Hương Quản trên suốt con đường rừng dài thăm thẳm?

Bữa cơm trưa vừa xong, ông Ất bảo ông Giá :

- Cọp đâu không thấy ; hễ đánh thì đánh phứt đi cho rồi chớ nếu ở đây hoài bỏ hết công chuyện nhà chịu gì nỗi...

Ông Ất vừa dứt lời thì nghe một tiếng " hự " thật to ở ngoài sân, tiếp theo những tiếng la thất thanh của lũ trẻ và tiếng chó ăng ẳng.

Dường như có linh tánh, nên cọp khi biết có thầy nghề võ đến là về làng thử sức ngay. Mọi người còn đang khiếp sợ tìm chỗ núp rình xem ông cọp khổng lồ thì ông Giá nhanh nhẹn cắp roi trường, nhảy ra sân thủ thế, còn ông Ất tay chống roi đứng cạnh cửa mạch, tay kia còn cầm tăm xỉa răng như người vô sự đứng coi...

Ở ngoài sân, cọp thấy có người nhảy ra thủ thế, bèn mọp xuống, rồi bất kể lợi hại nhảy đến chụp đùa. Ông Giá nhẹ nhàng nhảy qua một bên tránh khỏi, rồi thuận tay ông chỉa một ngọn roi đâm trúng hông cọp khá mạnh. Cọp rống lên một tiếng như tức giận lắm, nhảy trở lại chụp liền.

Ông Giá loang roi vun vút, lúc đập lúc quơ, cọp nhảy tới nhảy lui miệng luôn gầm thét...

Bụi bay mù mịt, ở ngoài người ta coi mê mệt, hết sợ phần nào, họ lần ra khỏi chỗ núp rồi lần ra sân, xem mê mẫn thích thú. Lúc ấy ông Ất cũng đứng tại cửa mạch mà coi như mọi người, không thèm tiếp tay với ông Giá.

Độ hút tàn điếu thuốc, cọp hộc lên một tiếng, nhảy ra ngoài vòng chiến đấu, nằm ngửa thủ thế đưa bốn chân lên trời.

Theo mấy thầy nghề võ nói lại thì đó là miếng " trâu vằng " miếng tổ của cọp. Ai sơ xuất nhảy vào thì chết. Roi đánh vào thì bị cọp bắt roi, tiện dịp cho cọp đoạt roi, móc họng địch thủ.

Ông Giá thấy cọp thủ thế trâu vằng. Ông cũng không thèm đánh nữa, đứng chống roi nghỉ cho khỏe.

Một hồi lâu, cọp không thấy ông Giá phá miếng nghề của mình và cọp cũng nghỉ mệt xong, hộc lên một tiếng rồi nhảy trở vô vòng chiến đấu. Ông Giá vung roi đánh tiếp.

Một lần nữa, dân Bầu Lòng được dịp xem say sưa, xem mê man, cát bụi tung mịt mù không còn phân biệt được người và thú. Lúc sau, cọp lại mệt bèn dùng miếng cũ, nằm ngửa thủ thế trâu vằng. Ông Giá chống roi đứng chờ tái chiến.

Theo lời người xưa kể lại, cọp rất giỏi võ. Mỗi lần giao đấu với ai, người hoặc thú khác, cọp ta đều chú ý học hỏi những miếng hay, vì thế, nghe có thầy nghề võ ở đâu là tìm đến đấy để thử sức. Càng thử sức nhiều thì cọp chiến đấu càng giỏi, biết nhiều miếng võ bí hiểm và lẫn tránh các đòn rất tài tình.

Hễ hơn thì hạ địch thủ, liệu thua thì bỏ xứ đi mất, nhưng cũng nhớ rất dai mối thù thất bại chua cay, có dịp là tái đấu đặng rửa hờn.

Lần này, chờ cũng không thấy ông Giá phá miếng trâu vằng, cọp lại trở mình phóng vào vòng chiến đấu.

Phen này ông Giá đánh rất kịch liệt, roi loang nghe vo vo, lúc đánh trật, roi lún xuống đất, bụi cát tung bay, và không bao lâu người ta nghe tiếng cọp rống thật to và vọt một cái ra ngoài vòng chiến toan chạy về rừng. Nhưng, người ta nghe cọp rống thêm một tiếng nữa to hơn và dài hơn, nhìn lại thấy ông Ất đang đứng bên xác cọp, cọp còn vặn mình sắp chết.

Tất cả mọi người đều không thấy ông Ất đánh cọp. Nhưng ông Ất đã độ được đường rút lui của cọp, nên lúc cọp phóng vào rừng, hướng ông Ất đang đứng, ông bèn chống roi phóng mình ra chận đầu đánh một roi là cọp hết đường tránh né và chịu chết dưới ngọn roi ngàn cân của ông.

Chờ cọp chết hẳn, ngưòi ta mới dám mon men lại coi. Ông Ất lấy cỏ tranh thui ngay bộ râu mép cọp rồi mượn người khiêng chất lên xe bò. Ông Giá vấn một điếu thuốc hút say sưa... rồi ra giếng xách nước tắm cho sạch bụi chiến trường. Riêng ông Hương Quản hớn hở ra mặt, lấy thước đo ngang đo dọc coi con cọp được bao lớn đặng làm " phúc bẩm " (làm tờ báo cáo lên cấp trên. S.N.).

Ông Ất toan xin tỏi đặng thoa mũi bò thì ông Hương Cả cản lại mà rằng :

- Đâu được em... Mấy em phải ở lại dùng với qua một chén rượu lạt mới phải chớ ...

Ông Ất còn đang lưỡng lự thì ông Giá bước vào, nghe thế bèn bảo :

- Ờ phải đa, tụi mình ở lại ăn ba hột cơm rồi về. Tôi đói quá đi không nổi đâu.

Cả ba người cùng cười xòa đồng thời toàn thể dân chúng vui mừng hoan hô reo hò ầm ĩ. "

KẺ VÔ HỌC

Tác giả: Nguyễn Một

,

Đêm. Khu rừng rộ lên những âm thanh ma quái, rừng không hề yên tĩnh như cái vẻ bề ngoài của nó. Tiếng nai tác, hổ gầm, cú rúc, làm cho hắn cảm thấy bình yên, đó là thói quen mười mấy năm qua! Hắn sợ nhất là bỗng dưng rừng im bặt, chim ngừng hót, thú ngừng kêu, chỉ còn rì rào âm thanh đều đều, mê hoặc, ru ngủ của dòng suối bên căn chòi. Những lúc như vậy, hắn nắm chặt chuôi dao găm, cặp mắt tròn xoe như mắt mèo rừng nhìn đăm đắm vào bóng tối. Đứa con gái nằm trên cái sạp tre, hắn bẻ từng cành củi nhỏ ném vào đống lửa để sưởi ấm cho con. Đã từ lâu hắn không bao giờ ngủ ban đêm, hắn thức không phải vì sợ thú rừng mà sợ con người, hắn căm ghét loài người, tất nhiên ngoài con gái của hắn ra. Điều hắn bực bội nhất là đứa con gái hoang dã của hắn ngày càng xinh đẹp, giống mẹ như đúc. Dù mọi sự liên hệ với xã hội loài người đều thông qua con gái, nhưng hắn dạy con phải căm ghét loài người, luôn luôn nghi ngờ thì mới tồn tại được, con người là loài động vật ưa phản bội nhất ! Năm mười hôm hắn cho con ra bản làng một ngày. Những người dân Chơ Ro hiền lành không hề quan tâm đến cô gái nửa kinh, nửa thượng thường mang thú rừng ra đổi gạo muối cho quán tạp hoá của lão Chệch đầu bản. Hắn không bao giờ cho con gái mang cái gương về nhà, nhìn thấy gương là hắn đập ngay. Ngày xưa vợ hắn cũng thường soi gương như vậy. Hắn thù hận nàng, nhưng hắn nhớ quay quắt nụ cười của nàng. Ngọn lửa liếm dần cành gai lào táo, ánh lửa xanh lè ma quái, ngọn lửa liêu trai và dâm đãng. Bỗng dưng máu trong huyết quản của hắn sôi lên, ngọn lửa làm hắn nhớ hình ảnh nàng quằn quại cuốn đôi chân ngà ngọc vào tấm thân trần của tên khốn nạn! Hắn nhớ ngày hắn dắt nàng về nhà, mẹ hắn khen nàng đẹp, nhưng bà lại nhìn hắn bằng con mắt lo lắng khi thấy nụ cười mơn trớn của nàng dành cho hắn. Bà lẩm bẩm:Đời thằng này rồi sẽ khốn nạn! Mẹ hắn bao dung đón nhận đứa con hư hỏng trở về, hắn biết rõ điều đó, một nhược điểm cố hữu của những người đàn bà nông thôn, chú hắn bảo thế mà! Đôi mắt lá răm lúc thì lúng liếng, lúc xa xăm của nàng đã hớp hồn hắn. Bao nhiêu tiền bạc kiếm được, hắn mang đến quán karaoké để mua nụ cười của nàng.

Mẹ hắn, người đàn bà từng trải, một phụ nữ Việt Nam điển hình, chịu muôn vàn mất mát đau thương. Cha và anh trai hắn hy sinh lúc cùng đoàn quân vào đến tận cửa ngõ Sài Gòn. Đồng đội kể rằng:Khi niềm vui chiến thắng đã gần kề, hai cha con gặp nhau trên đường hành quân, họ ôm nhau, ôm như thể dính vào nhau và họ đã chết trong tư thế lạ lùng như vậy. Họ chết cứng, bọn Mỹ ném quả bom ngạt CPU cuối cùng xuống mặt trận Xuân Lộc trước khi tháo chạy. Lúc ấy, hắn mới mười lăm tuổi, mười lăm tuổi nhưng hắn đã là lực điền, một lao động chính, khi nghe tin cha và anh hắn hy sinh, mẹ hắn ngất xỉu trên đám ruộng đang cấy dở, hắn vác mẹ chạy về làng. Tưởng bà ngã quỵ đợt ấy luôn, nhưng trái với sự tưởng tượng của mọi người, bà tỉnh dậy, cặp mắt ráo hoảnh và lạnh như băng, trong lúc những đồng đội của chồng và con trai bà vừa làm lễ truy điệu vừa khóc. Họ khóc vì thương đồng đội, họ khóc vì chứng kiến cái chết đầy bi tráng của cha con người lính. Hai cha con dính chặt vào nhau, không gỡ ra được, đồng đội đành phải làm quan tài đôi để chôn chung hai người. Mẹ hắn dành hết tình thương còn lại cho hắn, nhưng hắn đã phụ công ơn của mẹ. Học chưa xong tú tài, hắn bỏ học theo bạn bè đi đào đá đỏ. Học làm quái gì, cái thứ lý thuyết vô bổ ấy. Hắn thấy chú ruột của hắn học chưa qua tiểu học, cũng làm cán bộ to trên huyện. Mỗi khi tạt qua nhà thăm chị dâu, sau khi đánh một vòng quan sát khu vườn đất hương hỏa, ông vỗ vai hắn nói:

- Nghe bảo mày học dốt lắm hả, đã học không vô thì cố học làm quái gì, đâu có phải ai có học cũng giỏi cả đâu, tao chỉ học hết lớp ba mà mầy thấy đó, mỗi khi về trường mầy dự lễ tao chỉ mới nói một câu: Kính chào thầy cô giáo..!, là bọn trí thức ấy vỗ tay rầm rầm. Hà hà… Có tiền có quyền là có tất cả mày hiểu chưa?

Ông cười sảng khoái vì sự phát hịên ra điều chứng tỏ sự thông minh của mình. Hắn không thích ông chú ruột lắm, một kẻ vô học dám chế nhạo các thầy cô giáo của hắn, dù hắn có học dốt thì các thầy cô hắn cũng là những người đáng kính, nhưng hắn thấy ông ấy nói có lý. Mẹ hắn căm ghét ông em chồng ra mặt, có lần nghe chú hắn nói thế, bà nổi giận mắng té tát vào mặt ông:

- Đồ sâu bọ, đồ rắn rít, chú đừng truyền tư tưởng mất dạy đấy cho thằng bé, không hiểu sao chồng tôi lại có người em khốn nạn như chú!

Ông chú cười nhăn nhở:

- Thời thế nó vậy bà chị ơi, nhà có hai anh em, một người sống lý tưởng thì người kia phải thực tế mới có tiềân lo cho gia đình, dòng họ chứ!

- Chú nói vậy, làm vậy mà không sợ bị mất chức à ?

- Ấy đó là em chỉ nói với chị thôi, người nhà với nhau, chứ ra ngoài em đạo đức lắm, em khuyến khích sự học đấy chứ, ai cũng khen em cả chị không thấy sao. Thôi chị đừng giận, em về đây, khi nào thằng cháu không học được nữa chị tống nó lên huyện cho em.

Nói xong ông kéo hắn ra góc vườn dúi cho hắn một nắm tiền.Từ những đồng tiền của chú cho, hắn trượt dần xuống vũng lầy cuộc sống, chưa nghiện ngập nhưng hắn chán học, mới mười bảy tuổi đầu hắn biết đánh bạc, chơi gái. Việc trốn học xảy ra như cơm bữa, thầy giáo gởi thư báo tin cho mẹ hắn, hắn chận đường mấy đứa bạn tước thư đi. Hàng ngày hắn vẫn quần xanh, áo trắng mang cặp đi học. Trường học của hắn là quán karaoké trong thị trấn. Ở đây hắn gặp nàng, nàng trói chặt cuộc đời gã trai tơ của hắn bằng đôi chân mềm mại như ngó sen. Mỗi lần ghé qua uỷ ban, chú hắn lại dúi cho hắn vài triệu. Hắn sống như vua con cho đến cái ngày đích thân thầy chủ nhiệm đến báo tin cho mẹ hắn biết hắn đã bị đuổi học, lần này thì mẹ hắn quỵ thực sự, bà khóc liền mấy ngày đêm. Hắn nạt mẹ:

- Có gì mà khóc, cần gì phải học, đâu phải cứ có học mới giỏi, con sẽ làm giàu cho mẹ coi.

Mẹ hắn nhổm dậy, đầu tóc rũ rượi, bà hét vào mặt hắn:

- Mày cút đi, thằng khốn nạn, mầy làm nhục vong hồn cha mày.

- Làm quái gì có vong hồn, chết là hết - Hắn lẩm bẩm, rồi vác ba lô lên rừng đào đá, chú hắn đã rỉ tai cái công việc dễ kiếm tiền này, ông tận tình hướng dẫn cặn kẽ về vùng đất mà hắn sẽ đến. Sau một năm lăn lộn, hắn trúng lớn. Không như hăm doạ của nhiều người, hắn chẳng hề bị sốt rét, chẳng phải đâm chém, chỉ đánh nhau vài trận, nhưng dường như có sự che chở vô hình nào đó nên bọn "lính cũ" hậm hực dạt ra để hắn làm ăn tự do.Việc đầu tiên khi trở về thị trấn, hắn vào quán Karaoké tìm nàng, hắn xoè ra trước mặt nàng nắm đá đỏ, nàng vội vứt bỏ tất cả mọi thứ lỉnh kỉnh trong quán, theo hắn về quê. Hắn xây nhà mái bằng, làm hẳn bồn tắm trong phòng ngũ để vợ chồng tắm chung. Hắn đặt một bàn thờ sơn son thếp vàng thay cho bàn gỗ ngay giữa nhà, hắn tạc hình cha và anh lên sơn mài, lồng hai cái bằng "Tổ quốc ghi công" và cái khung kính mạ vàng mười tám. Ai vào nhà cũng trầm trồ khen sự hiếu thảo của hắn. Họ khen mẹ hắn có con trai giàu có, con dâu xinh đẹp. Mẹ hắn không vui, không buồn, hắn ném ra rào cái bát hương sành để thay lư đồng trên bàn thờ, bà lặng lẽ mang bát hương vào buồng của mình. Tới bữa bà ăn rau chấm tương, chứ không hề đụng tới thịt cá, từ ngày hắn bỏ học mẹ ăn chay trường, tụng kinh suốt ngày.

-Mặc xác bà ấy, cụ lẩm cẩm mất rồi !

Nói xong hắn lăn vào nàng…

***

Thành nhích dần về phía căn chòi, anh biết rõ gã tội phạm bị truy nã đang ở trong căn chòi kia, anh cũng biết gã rất nguy hiểm và nhanh nhẹn. Mới ra trường, Thành đã nhận một nhiệm vụ khó khăn, anh phải truy nã tên tội phạm giết người sống ngoài vòng pháp luật suốt mười lăm năm qua. Mười lăm năm, quãng thời gian đủ để cho con người quên đi nhiều thứ, nhưng nghề của anh thì không được quên, tên tội phạm nguy hiểm sẽ bị truy nã bằng mọi giá. Khi nhận nhiệm vụ, anh chỉ có trong tay tấm hình của hai người trẻ tuổi đang trao nhau cái nhìn âu yếm. Chàng trai có gương mặt cương nghị rắn rỏi, môi dày trễ ra khi cười, mắt sáng, mái tóc đen nhánh bồng bềnh, cô gái mắt lá răm, mũi dọc dừa, nụ cười tươi như hoa, lúm đồng tiền tăng phần quyến rũ trên gương mặt bầu bỉnh. Ngắm đi, ngắm lại tấm hình, anh không tin rằng chàng trai có nụ cười hiền lành lại là một tên tội phạm nguy hiểm, một kẻ giết người và đang trốn tránh pháp luật. Có nguồn tin tên giết người đang lẩn tránh trong vùng rừng núi miền Đông Nam bộ. Trong vai một hoạ sĩ, Thành cắp giá vẽ lang thang nhiều ngày trong các bản làng miền Đông, từ Bình Dương đến Đồng Nai nhưng vẫn chưa có vết tích gì cả. Lợi thế lớn nhất của Thành là anh biết vẽ, trước khi theo ngành công an, anh đã tốt nghiệp cao đẳng mỹ thuật. Thành thu mình thật nhỏ lại trong bụi cây quan sát căn chòi có ánh lửa bập bùng dưới gốc cây lim già. Anh biết tên tội phạm nguy hiểm, kẻ giết người đang ở trong ấy. Hắn không chỉ ở một mình, hắn ở với một con người thánh thiện. Cô trong trắng như bông hoa rừng, anh không muốn làm cho cô tổn thương nên anh phải thu mình chờ đợi. Anh gặp cô trong một lần mang giá vẽ vào rừng. Đã một tuần trôi qua anh chưa tìm ra manh mối gì cả, nhưng bù lại anh có gần chục phác thảo tuyệt đẹp về núi rừng và những cảnh sinh hoạt hấp dẫn của người dân tộc. Đang lang thang trong rừng anh bỗng nghe tiếng hát, tiếng hát thánh thót của một cô gái, tiếng hát rất hay dù bài hát là những ngôn từ lộn xộn và kỳ cục. Anh lần theo tiếng hát và gặp cô, cô ngâm mình trong nước, váy áo dính sát người, lộ những đường cong tuyệt mỹ. Không kiềm chế được trước vẻ đẹp lạ lùng ấy, anh bày giá vẽ. Ngọn bút chì chạy thoăn thắt trên giấy, vừa vẽ anh vừa van lơn: "Đứng yên nhé! Đứng yên nhé!" Thấy anh chàng trẻ tuổi có hành động kỳ lạ cô chẳng hiểu gì cả, nhưng dường như cô đọc được điều gì đó trong ánh mắt van lơn ấy, nên cô đứng yên. "Xong rồi!"- Tung cây bút chì xuống dòng suối, anh reo lên như đứa trẻ. Cô lội lên bờ tò mò ghé mắt vào bức tranh. Anh quay lại nhìn cô thốt lên: "Em đẹp lắm!" Cô gái bật cười lanh lảnh. "Em tên gì ?" - Anh hỏi. "Tên ư? Không có tên!" Nói xong cô vụt chạy vào rừng. Đêm về, nằm một mình trong ngôi nhà rông của già làng, anh mang bức tranh ra ngắm, lúc này anh mới giật mình thấy gương mặt của cô quen lắm, dường như anh gặp ở đâu rồi. À đúng rồi, gương mặt cô giống như tạc người chụp chung với tên tội phạm trong tấm ảnh mà cấp trên giao cho anh. Cái tư duy nhạy bén của người công an quay trở lại trong anh, anh đã tìm ra manh mối của vấn đề…

Đêm ấy, cô không ngũ được, lần đầu tiên trong đời cô không ngủ được, ánh mắt van lơn của chàng trai bên bờ suối theo cả vào trong giấc mơ, ánh mắt mơn trớn, vuốt ve cô. Tâm hồn rạo rực, người nóng ran, cô lang thang ra rừng. Cô không hề kể cho cha cô nghe chuyện này, ông sẽ giết anh ấy mất, ông rất ghét con người, đó là điều bí mật ông không bao giờ kể cho cô nghe.

Không hẹn nhau, ngày hôm sau và nhiều ngày sau nữa họ gặp nhau bên bờ suối, giống như duyên nợ tiền định…

Cô đã ngây thơ kể cho anh nghe về người cha kỳ cục của mình và quãng đời sống cơ cực trong rừng sâu, suốt mấy chục năm qua. May mắn, ông còn cho cô về buôn làng để giao tiếp với người Chơ Ro, người dân tộc ở miền Đông này không giống như ở Tây Nguyên, ngôn ngữ chính của họ là tiếng Kinh, nhờ đó mà cô biết được nhiều chuyện của xã hội loài người, dù vậy cô vẫn là con người hồn nhiên, hoang dã cho tới ngày cô gặp anh…

Thành sẽ phải bắt cha của cô, đó là nhiệm vụ, anh không thể làm khác được, anh đã xác định được tên tôi phạm truy nã mà cơ quan công an đã tìm kiếm suốt mười lăm năm qua. Nhưng anh không muốn làm cô hoảng sợ, ngồi thu mình trong bụi cây anh chờ cô ra ngoài để hành động, anh chợt nhớ lời mẹ anh, trước khi anh lên đường vào trường đại học Cảnh sát, mẹ nói: "Con hãy suy nghĩ cho kỹ, mẹ biết con đau lòng về cái chết của cha con, nhưng tư chất nghệ sĩ của con không theo nghề này được!" Bây giờ anh mới thấy mẹ nói đúng, nhưng dù sao anh cũng phải hoàn thành nhiệm vụ này, nhiệm vụ đầu tiên trong đời làm cảnh sát hình sự của mình. Nhất định cô ấy phải ra, anh sẽ bắt cha cô rồi thuyết phục cô trở lại với xã hội loài người, anh sẽ đùm bọc cho cô.

***

Hắn ném thêm một thanh củi vào đống lửa, con bé lại trở mình. Lạ thật! Cả tháng này con bé thẩn thờ như người mất hồn, từ khi con bé lớn đến giờ, hắn không dám nhìn vào mặt con. Hắn sợ gương mặt ấy lắm, sao mà nó giống nàng như đúc, quả là oan nghiệt ! Hắn nhớ rất rõ cái ngày khốn nạn ấy…!

Của như núi, ăn mãi rồi cũng phải hết, khi đứa con gái đầu lòng được hai tuổi, nàng suốt ngày soi gương và than phiền, vì hết tiền nàng buộc lòng phải thay đổi kem dưỡng da loại rẻ tiền nên da nàng không còn tươi như trước. Hắn bảo nàng không phải lo, hắn sẽ lên rừng kiếm ít đá đỏ, mỏ đá mà hắn phát hiện mới lấy một ít, khi trở về hắn cẩn thận lấp lại để đó. Hắn hôn nàng rồi lên đường, mẹ hắn vào buồng tụng kinh.

Ngọn lửa tàn dần, hắn lại ném vào đống lửa một cành cây, con chím cú rúc lên những âm thanh ma quái trên cây lim già trước căn chòi. Bỗng dưng tiếng rúc ngưng giữa chừng, khu rừng tĩnh lặng mọi thứ im bặt, hắn bật dậy đặt tay vào chuôi dao. Vài phút sau, có tiếng cú rúc trở lại, hắn thở phào ngồi xuống, con gái hắn trở mình nhìn cha, rồi nhắm mắt. Mười mấy năm sống trong rừng với cha, con bé nhanh như sóc, nhấp nháy nó có thể phóng lên ngọn cây tranh nhau với lũ khỉ hái mớ trái gùi.

Hắn trở lại vùng đá đỏ không thuận lợi như lần trước, hầm đá mà hắn phát hiện đã có người khai thác. Nhưng hắn không nản lòng, hắn sẽ tìm chỗ khác, đất ở đây mênh mông hắn lo gì. Lúc này công an truy quét dữ lắm, nhưng hắn có bửu bối, chú hắn đã có lời nhắn gởi cho một người bạn làm lớn ở vùng này, nên hắn hoạt động tự do. Hắn hì hục suốt sáu tháng trời nhưng chưa trúng quả như lần đầu, hắn sẽ không trở về, nhất định như thế. Nàng sẽ trách hắn để cho nàng thiếu thốn. Hắn yêu nàng, hắn không muốn nhìn thấy cái cau mày của nàng. Hắn biết ơn nàng. Xung quanh nàng có bao nhiêu người săn đón, nhưng nàng chọn hắn. Hắn phải làm cho cuộc sống của nàng sung sướng. Lần này hắn sẽ cố kiếm thật nhiều tiền rồi giải nghệ nghề đào đá. Hắn sẽ nhờ chú kiếm một chỗ ở chợ huyện để mở một sạp vải cho vợ buôn bán. Trời lại mưa, hắn nằm ngữa, gối đầu trên đùi cô gái điếm. Nhà thổ phục vụ cho dân đào đá đỏ mọc lên từ lúc bãi đá mới có vài mươi người. Những cô gái điếm quá tuổi xuân dạt lên đây kiếm sống. Tuy nhan sắc tàn phai nhưng họ cũng giúp cho những tay đào đá khoẻ mạnh giải quyết khoản khao khát đàn bà. Hắn không bao giờ đụng đến bọn này, hắn chỉ cần chúng đấm lưng, nhổ tóc ngứa và hát cải lương cho hắn nghe thôi. So với vợ hắn , bọn này chỉ là con quạ xấu xí trước con công sặc sỡ. Trứơc khi lấy hắn, nàng cũng là kỹ nữ, nhưng kỹ nữ hạng sang, nàng chỉ chấp nhận đi chơi với những ai có xe hơi. Hắn là trường hợp ngoại lệ. Hắn bị nàng hớp hồn sau lần hắn được chú hắn đưa vào quán karaoke, gặp nàng hắn thấy đám bạn gái kiêu kỳ ở trường trung học chỉ là đám trẻ ranh. Chú hắn đã tạo mọi điều kiện cho hắn gặp nàng, nàng đã chiếu cố sau nhiều ngày hắn quỳ dưới chân nàng. Cậu học sinh trung học hoang đàng biết mùi đàn bà trong một cơn say, hắn cầu xin nàng làm vợ hắn, nàng đồng ý nhưng với điều kiện hắn phải đảm bảo cho nàng một cuộc sống sung sướng. Hắn lên đường kiếm tiền, lần ấy hắn gặp may và đã có được nàng. Hắn mơ màng nghĩ đến ngày hắn trở về, nàng sẽ đón hắn bằng nụ cươi tươi rói ngay đầu ngõ. Hắn sẽ vần cho nàng một trận ra trò, hắn không muốn phí sức với đám đĩ rài, đĩ rạc này. Hắn cũng nhớ con nữa, đứa con gái có đôi môi nhỏ xíu chúm chím mỗi khi hắn đặt nụ hôn trên đôi má thơm tho của nó. Đang mơ màng, mụ chủ quán sầm sập đá vào người hắn.

- Dậy đi, có người dưới xuôi báo tin mẹ mày chết rồi, chết cả tháng nay.

- Thật à ?

Hắn bật dậy như cái lò xo, bàng hoàng hỏi một câu thừa. Mẹ hắn đã chết ư? Hắn đúng là đứa con bất hiếu, mấy tháng qua hình ảnh nàng chiếm hết tâm trí, khiến hắn quên mất hình ảnh người mẹ tần tảo ngày xưa nuôi hắn khôn lớn. Hắn vơ vội túi đá vụn rồi lao ra đường. Về đến nhà trời đã khuya, hắn nghe tiếng con gái khóc. Hắn ngưng lại, với kinh nghiệm của một kẻ giang hồ bãi đá hắn nhận ra chuyện khác thường. Dưới ánh trăng mờ mờ hắn thấy chiếc xe gắn máy của ai giấu bụi chuối sau hè. Hắn rón rén như con mèo rừng, tay đặt lên chuôi dao găm đeo bên hông, lưỡi dao lê của Mỹ sắc như nước luôn được hắn đeo bên mình, đó là thói quen của dân đào đá đỏ. Ghé tai vào cánh cửa gỗ, hắn nghe tiếng rên nho nhỏ trong cổ họng của người đàn bà, tiếng rên này hắn quen thuộc lắm, tiếng rên đĩ thỏa của nàng. Mặt nóng bừng, hắn đạp cửa xông vào, hai tấm thần trần truồng thổn thện trắng lốp nổi lên giữa bóng tối mờ mờø, bọn chúng làm trò bỉ ổi ngay trên ghế salon, trước bàn thờ của mẹ hắn. Hắn vung dao, gã đàn ông vọt chạy về phía cửa sau, hắn lao theo. Nàng chồm lên ôm chân hắn. Không kịp suy nghĩ, hắn vung dao đâm xuống, lưỡi dao ngập vào tấm lưng trần trắng toát của nàng, hắn rút dao máu vọt thành vòi, nàng hực lên ngã xuống, hắn hất nàng ra và lao theo gã đàn ông, nhưng đã trễ, tiếng xe máy nổ xa dần trong đêm tối. Hắn quay lại sững sờ chết lặng bên xác nàng. Hắn hoàn toàn không ngờ điều khốn nạn này đã xảy ra trong ngày hắn trở về.

Oe…o..e..oe…

Tiếng khóc của con gái kéo nó về thực tại, hắn chợt nhận ra mọi chuyện, hắn bế thốc con gái và băng mình vào đêm tối…

Mới đó mà đã mười lăm năm rồi, mười lăm năm trốn tránh khắp nơi, cuối cùng hắn quyết định sống trong rừng sâu của miền Đông Nam bộ này… Mười lăm năm, mà hắn nhớ rõ mồn một như chuyện vừa mới xảy ra hôm qua...

Thành nhìn đồng hồ dạ quang, đã ba giờ sáng, khẩu súng trong tay anh lạnh ngắt tê buốt. Thành căng mắt trong đêm tối, ngọn lửa vẫn âm thầm cháy. Một bóng người ra khỏi căn chòi, chính là cô ấy. Cuối cùng sự chờ đợi của Thành cũng đã đến, cô bé đi về phía dòng suối, rời chỗ ẩn nấp, anh rón rén đi về phía căn chòi. Thành áp sát căn chòi rồi bất thần đạp cửa bung vào, nhưng anh đã chậm, chưa kịp bóp cò thanh củi đã giáng xuống tay Thành, khẩu súng văng ra, anh lao vào hắn, nhưng hắn nhẹ nhàng lách qua một bên, thuận tay hắn rút lưỡi dao găm bên hông. Trong lúc Thành lỡ đà, hắn đã vung dao lên, lưỡi dao sáng loáng dưới ánh lửa. Bỗng có người xô mạnh, Thành loạng choạng dạt qua và sau đó là một tiếng rú dài vang động cả khu rừng..! Cô bé đã hứng trọn lưỡi dao của cha mình trên bả vai. Hắn không ngờ con gái bất thần quay lại và lao vào cứu kẻ lạ mặt này, hắn lại phạm thêm trọng tội, hắn hú lên thống khổ đau đớn và phóng mình vào bóng đêm của rừng già. Cô gái ngã trong vòng tay Thành, rất may lưỡi dao không trúng chỗ hiểm, anh rút lưỡi dao, xé phăng chiếc áo sơ mi băng vội vết thương và vác cô chạy về buôn. Anh chạy bằng tất cả sức lực trai trẻ của mình, cô đã được đưa lên bệnh viện trước khi trời sáng…

***

Mười hai giờ trưa, cô qua cơn nguy kịch, anh thẩn thờ rời phòng bệnh. Trước cổng bệnh viện, mọi người xúm quanh gã người rừng, gã dựa vào gốc cây xà cừ trước cổng bệnh viện, cúi đầu ủ rủ. Gã đứng như thế cả giờ đồng hồ qua. Khi Thành ra cổng, gã nhìn anh bằng đôi mắt buồn bã rồi đưa hai tay về phía anh, anh móc chiếc còng trong túi quần tra vào tay gã. Gã cố nhìn qua hàng rào bệnh viện, Thành khẽ gật đầu và nói thật nhỏ chỉ vừa đủ gã nghe: "Con gái ông đã được cứu sống" Gã lặng lẽ đi theo anh.

Người đàn ông đường bệ từ chiếc xe hơi bên kia đường bước xuống, nhìn theo gã người rừng, mĩm cười quay lên xe. Ông tin rằng gã không thể biết khu đất của gã, ông đang sở hữu theo luật thừa kế đang có giá hàng tỷ đồng. Con đường chạy ngang qua mảnh đất hương hoả được ông duyệt theo quy hoạch từ ngày gã còn đi đào đá đỏ nay đã làm xong. Ông cũng tin rằng gã không thể biết người đàn ông mà gã giết hụt đêm đó chính là ông. Mười lăm năm rồi còn gì, không chỉ gã mà không ai có thể biết được chuyện của ông làm, không một ai biết được! Ông dựa người ra nệm xe và tự thưởng cho mình một điếu ba số năm thơm lừng. Mãn nguyện với sự thông minh của mình, ông lẩm bẩm: "Cuộc đời này đâu cứ phải học nhiều là sẽ giỏi !".

Anh tài xế khẽ mỉm cười…

Bình Nguyên Lộc

Rừng Mắm

Chim đang bay lượn bỗng đứng khựng lại, khiến thằng Cộc thích chí hết sức. Nó theo dõi con chim thầy bói từ nãy đến giờ, chờ đợi cái phút này đây.

Thật là huyền diệu, sự đứng yên được một chỗ trên không trung, trông như là chim ai treo phơi khô ngoài sân nhà.

Chim thầy bói nghiêng đầu dòm xuống mặt rạch giây lát rồi như bị đứt dây treo, nó rơi xuống nước mau lẹ như một hòn đá nặng. Vừa đụng nước nó lại bị bắn tung trở lên như một cục cao su bị tưng, mỏ ngậm một con cá nhỏ.

Cộc ngửa mặt lên trời để theo ông câu kỳ dị và tài tình ấy nữa, nhưng mắt nó bị ngọn dừa nước bên kia bờ rạch níu lại.

- Trên một tàu dừa nước, một con chim thằng chài xanh như da trời trưa tháng giêng, đang yên lặng và bền chí rình cá.

Trong thế giới bùn lầy mà thằng Cộc đang sống, ai cũng là ông câu cá, từ ông nội nó đến những con sinh vật nhỏ mọn quy tụ quanh các ngọn nước.

Màu xanh của chim thằng chài đẹp không có màu xanh nào sánh kịp. Sự bền chí của nó cũng chỉ có sự bền chí của các lão có sầu não là ngang vai thôi, cái bền chí nhìn rất dễ mê, nhưng mê nhứt là mũi tên xanh bắn xuống nước nhanh như chớp, mỗi khi thằng chài trông thấy con mồi.

Thặng Cộc là một đứa bé bạc tình. Một đàn cò lông bông bay qua đó, chỉ làm cho nó quên thằng chài ngay. Là vì đầu cò chơm chởm những cọng lông bông, nhắc nhở nó những kép vó hát bội gắn lông trĩ trên mão kim khôi mà nó đã mộ cách đây năm năm, hồi gia quyến nó còn ở trên làng.

Hồi ấy nó sướng lắm. Quanh nhà nó, có hàng trăm nhà khác, có vườn cây trái, có nước ngọt quanh năm, có trẻ con để nó làm bạn, để nó đùa giỡn với.

Nhưng không hiểu sao một hôm, tía má nó bán chiếc chòi lá đi, rồi ông nội nó, tía nó, má nó và nó, một đứa bé mười tuổi kéo nhau xuống một chiếc xuồng cui, một thứ xuồng to mà người ta gọi là xuồng mẹ, ghe con, rồi họ đi lang thang từ rạch hoang vắng này đến kinh hiu quạnh nọ, và rốt cuộc dừng bước nơi cái xó không người này mà ông nội nó đặt tên là xóm ổ Heo.

Nghĩ đến những năm cũ, thằng Cộc bỗng nghe thèm người vô cùng, thèm còn hơn là thèm một trái xoài ngọt, một trái khế chua mà từ năm năm nay nó không được nếm.

Những người di cư năm nọ trên chiếc xuồng cui, vẫn còn sống đủ cả. Những chiều nghi ngút sương từ đất lầy bốc lên, và những đêm mưa gào gió hú, những người ấy thường kể chuyện cho Cộc nghe, những chuyện ma, rợn óc như ăn phải trái bần chua. Nhưng dầu sao, Cộc cũng thích người khác hơn, cũng như nó thích vườn tược sầm uất hơn cảnh rừng tràm tối mịch hoặc cảnh đồng không bát ngát ở đây. ở đây, cho đến tiếng chó sủa, tiếng gà gáy nó cũng không nghe từ lâu. Con chó săn và mấy con gà giống mang theo đã ngã lăn dùng ra mà chết ngay trong tháng mới tới. Thặng Cộc ngạc nhiên mà thấy sao người vẫn không chết trong khí hậu tàn ác nầy: nóng, ẩm, còn muỗi mòng thì quơ tay một cái là nắm được cả một nắm đầy.

Chưa bao giờ mong mỏi của Cộc được thỏa mãn mau lẹ như hôm nay. Nó vừa thèm người thì tiếng hò của ai bỗng vẳng lên trong rừng rậm, rồi tiếp theo đó là tiếng chèo khua nước:

Hờ ơ... tháng ba cơm gói ra hòn.

Muốn ăn trứng nhạn phải lòn hang mai.

Mũi xuồng cui ló ra khỏi khúc quanh của con rạch, và trên xuồng chồng chèo lái, vợ ngồi không trước mũi mà hò. Cặp vợ chồng này Cộc quen mặt mấy năm nay, nhưng không biết họ từ đâu đến. Nó chỉ biết họ ra biển để bắt cua và ba khía, một năm mấy kỳ. Nghe tiếng người lạ nói, nhứt là nghe hát, Cộc sướng như có lần tía nó cho nó ăn một cục đường từ nơi xa mang về.

Thà là không được ăn, chớ còn ăn một chút xíu thì cái vị của món ăn còn chọc thèm hơn bao giờ cả. Nên chi Cộc nhìn xuồng chèo khuất dạng thì xây lưng tức khắc để chạy lên ổ Heo.

Trọn vùng này, ông nội nó đã đặt tên là ổ Heo nhưng riêng trong gia quyến nó thì ổ Heo chánh hiệu là một cái gò xa ở tận trên kia, cách mé rạch đến hai dặm hú.

Số là hồi trước, ngày đầu tới đây, ông nội nó với tía nó đi kiếm đồ ăn trong rừng, đã gặp nơi đó một cái ổ heo rừng.

Cả ổ heo đều bị sát hại hôm đó và canh tác của gia quyến nó về sau này đã đuổi thú dữ đi xa. Tuy nhiên, đề phòng chúng trở về, ông nội nó đã cấm nó lên ổ Heo một mình.

Thằng Cộc lại thích lên đó, ban đầu chỉ vì ổ Heo có sức quyến rũ như một trái cấm. Nhưng về sau, nó đã gặp người ở nơi đó.

Đó là vài người đờn ông và đờn bà, nói là ở xa lắm, cách đó một ngày đường sông, đờn ông thì đến để gác cuốc, gác nhan sen, còn đờn bà thì để nhổ bồn bồn về làm dưa bán.

Đó là những người bạn bí mật của nó, nó giữ kín không cho nhà nó biết. Họ hay kể chuyện xóm làng, chuyện đám cưới, đám ma, đám hát, đám cúng đình, tóm lại tất cả sanh hoạt của làng mạc từ lâu Cộc không thấy và ngậm ngùi tưởng đến như nhớ những kỷ niệm xa xôi.

Cộc chạy qua khỏi ruộng nhà, và đứng lại nghỉ mệt. Nó mệt lắm vì nó chạy dưới nước và dưới bùn mặc dầu lúa đã đến mùa gặt.

Năm xưa, gia quyến nó đến đây vào cuối tháng giêng, sau khi cúng ông vải xong ở quê cũ.

Ông nội nó với tía nó đốt rừng tràm từ ngoài bờ rạch. Gió thổi vô rừng và lửa như con vật khổng lồ, đã táp một cái vào khối thịt xanh um của biền rừng tràm này. Thành ra ruộng nhà nó mang một hình tròn kỳ dị, không tròn đều đặn vì không ai chỉ huy được sự cháy rất là rắn mắt của ngọn lửa.

Cộc nhìn ruộng mình một hơi rồi cười khan lên. Đám rừng bị khoét một lỗ để làm ruộng, trông như đầu tóc trẻ con được mẹ cạo, nhưng mới cạo có một mảng thì có chuyện gấp, bỏ dở công việc, đứa bé bị chúng bạn chế nhạo là đầu chó táp.

Lúa ruộng chín, cây lúa cao quá, ngã rạp xuống để lòi trăm ngàn gốc tràm lên, trông như ai đóng cọc để cất nhà sàn; năm xưa đốt rừng nhưng không đủ sức đánh những gốc tràm tươi rói không cháy được nầy, tía thằng Cộc dành cấy lúa giữa những gốc ấy, mãi cho đến ngày nay mà gốc vẫn chưa mục. Tía nó nói mười năm nữa tràm chết cũng vẫn còn đưa cẳng lên như vậy.

Sau lưng Cộc là những rặng tràm bị cháy sém dưới trận lửa khai hoang, không chết ngay, nhưng "Chết Nhát", cứ mỗi năm chết lần mòn thêm vài mươi cây. Mấy hàng tràm đầu nám đen và trụi nhánh như cột nhà cháy, căm hận nhìn chiếc chòi lá xa tít mù dưới mé rạch đang chứa chấp kẻ thù đã lấn đất của chúng, đã sát hại chúng.

Sau đó, rừng chàm dày mịt, chằng chịt những dây bóng bong, dây choại bò từ thân cây nầy qua thân cây khác.

Thằng Cộc lắng tai nhưng không nghe tiếng động nào cả. Nó đánh bạo chen qua những cây bình bát, cây rán, mọc xen với tràm, để đi tới đích.

Một ổ chồn cộc bỗng chạy qua trước mặt nó khua lên một cái roạch, làm nó giựt mình, nhưng tiếng người trên ổ Heo cách đó chừng hai hàng cây giúp nó vững dạ.

Tiếng đờn bà hỏi:

- Anh hổng sợ thằng Mùi hay sao?

Tiếng đờn ông đáp:

- Thằng Mùi thì qua cho một loi là nhào hớt.

Cộc vẹc cỏ, lá, đi mau đến đó và khi nó chun ra khỏi khối xanh thì hai người có mặt trên gò ổ Heo sợ hãi ngồi dang xa ra. Người đờn ông gác cuốc là người quen, người đờn bà nhỏ bên thì lạ hoắc. Chị này trẻ đẹp hơn tất cả những chị nó quen biết từ lâu.

Người đàn ông trấn tĩnh lại ngay, ngoắc nó lại mà hỏi:

- Muốn về trên hay không Cộc? Muốn thì đi theo chị Hai mầy đây, chị có một đứa em gái ngộ lắm.

Trong khi thằng Cộc mắc cỡ đỏ tía tai thì chị đờn bà hỏi anh kia:

- ở miệt này có người sao anh?

- Chỉ có một nhà thôi. Mới tới đây chừng năm năm.

- Quen hay lạ?

- Lạ. Họ ở trên Sa Đéc lận.

Chị đờn bà an lòng, vui lại được và nói với Cộc để mua lòng kẻ đã bắt chợt việc thầm lén của chị:

- Em của chị không bao giờ chịu về làm dâu một chỗ như vậy. Em có muốn thì phải ở rể thôi.

Rồi hai người lớn cười ngặt nghẹo với nhau.

Thằng Cộc mới mười lăm, nhưng cao lớn gần bằng người đàn ông kia. Mình trần của nó nổi u nổi nần những bắp thịt rắn như nắm bằng đất sét gắn vào đó rồi nung cho đen và cứng.

Sự nẩy nở của thân thể nó đi song đôi với sự trưởng thành của đời sống sinh lý bên trong nó. Năm nay nó đã bắt đầu bâng khuâng mỗi khi chiều xuống, mặt trời đốt cháy đỏ đầu rừng tràm trầm thủy trước nhà. Nhưng sống cô đơn ở đây, nó không biết chuyện trai gái như vậy là xấu đến mức nào và phải có thái độ làm sao nên bối rối lắm.

Chị đàn bà nắm tay nó, rị nó ngồi xuống bên cạnh chị, vỗ lên đầu nó rồi dỗ ngọt:

- Chị không ăn thịt em rể chị đâu mà sợ. Mày mà về trển làm ruộng thì ai cũng ưa. Làm rể có công ba năm thì má chị gả con Thôi cho mầy liền. Nói thiệt đó mà.

- Nó muốn trốn để theo qua dữ lắm, người đàn ông nói, nhưng nó còn ngại.

- Ngại gì?

- Thì lo sợ cái việc xa xôi, đất lạ đó mà.

- Em nè, chị đàn bà lại hỏi, nhà có mấy người?

- Bốn người.

- Ai với ai?

- Ông nội tôi, tía tôi, má tôi với tôi.

- Làm mấy công đất?

- Hồi đó bốn công, bây giờ mười công.

- Gặt được mấy giạ mỗi mùa?

- Tám giạ.

Chị đàn bà cười ngất một hơi rồi day lại hỏi nhân tình:

- Trời ơi, ruộng gì mà mười công đất chỉ gặt được có tám giạ thôi?

Người đàn ông không cười, đáp:

- Đất nước mặn nào mới khai hoang cũng như vậy hết.

- Rồi lấy gì mà ăn, em nhỏ?

- Tía tôi đi đổi lúa thêm, ở đâu không biết, xa lắm.

- Đổi bằng gì?

- Bằng cá khô. Với lại nhiều khi ăn rùa, ăn rắn trừ cơm. ở đây rùa nhiều như kiến. Đốt rừng rồi đón trên đầu gio một cái là chúng nó lạch cạch chạy trốn, bắt không kịp lận.

Chị đàn bà tỏ vẻ ái ngại một hơi rồi nói:

- Nãy giờ chị nói chơi đó. Nhưng không biết tình cảnh của em, chị thật bụng thấy là em cần đi theo chị, hoặc theo anh đây cũng được.

Chị ta với tay ra sau lưng lấy bầu nước ngọt, mở nút rồi ngước mặt lên trời, rót nước vào miệng. Chị nuốt ừng ực vài cái rồi nói:

- Em có được ăn chè lần nào không?

- Không, từ năm năm nay rồi. Cách đây một ngày đường không có nhà của ai cả, không có quán, tiệm gì hết. Với lại cũng không có tiền.

- ở Sa Đéc sao lại không vô Tháp Mười mà nhè xuống U Minh này?

- Tui cũng không biết tại sao? ở Tháp Mười dễ chịu hơn hả.

- Chị cũng không biết. Chỉ biết đất hoang ở Tháp Mười gần quê cũ của em hơn. Quê em ở Cao Lãnh hay không?

- Gần.

- Em có nhớ xoài Cao Lãnh hôn?

- Tui lạy chị, đừng có nhắc chè, nhắc xoài nữa tui thèm muốn chết đi. Năm năm nay, tui không biết món ngọt là gì. Mấy cây chuối trồng sau nhà cũng chết queo vì đất còn mặn quá. Năm nay một cây trổ buồng, chắc tui sẽ được ăn ngọt đấy. úy chà! Trưa rồi chắc tới bữa cơm, thôi tui về nhà, anh chị?

- ừ về, mai mốt lại lên đây nữa nhá?

- Xuồng anh chị ở đâu?

- Dưới kia. Nhổ bồn bồn ở dưới ấy, nhưng lên đây cho khô ráo để ăn cơm trưa è mà! Em Cộc nè, em của chị ngộ lắm, trắng lắm nghe không?

Chuỗi cười của hai người nhơn tình ấy đuổi theo lưng Cộc khiến cho nó trong giây phút không muốn về nhà nữa.

Ra khỏi rừng tràm râm mát, mắt Cộc bỗng dưng như đổ hào quang trước ánh nắng tháng mười. Không khí bị đốt cháy đang rung rinh như nước xao, và nó tưởng chừng như mái lá nhà nó, đen thui dưới kia, sắp cháy đến nơi.

Thằng Cộc về tới nhà, thì cơm trưa đã dọn.

- Mầy đi đâu mà tới đứng bóng mới về? Má Cộc hỏi.

- Tôi đi lượm lông chim lông ô.

- Lông đâu?

- Mà kiếm hoài hổng có.

- Mồ tổ cha mầy, nhiều chuyện. Chim lông ô đời xưa chớ đời nay đâu còn nữa. Mai gặt nghe không? Ăn cơm khuya rồi xuống đồng chớ đừng đi đâu hết.

Cả nhà lặng lẽ ngồi quanh mâm cơm, không ai nói với ai lời nào. Những người nầy, sống biệt tích ở đây lâu ngày rồi, đã gần biến thành á khẩu vì thói quen.

Riêng thằng Cộc, sự cần nói của tuổi thơ đang lên mạnh lắm như cần chạy nhảy, cần ăn uống vậy. Câu chuyện hồi nãy trên gò ổ Heo khiến nó càng bắt mùi nói thêm, nên nín không được, nó hỏi ông nội nó.

- Nội nè, hồi tôi mới tới, giữa mùa nắng, mình uống nước gì tui quên rồi?

Nó hỏi như vậy vì nó vừa nhìn ra cái giếng bên hè và nhớ ra là giếng đã ngọt nước hôm mùa nắng trước, mặc dầu đã được đào năm năm rồi.

- Uống nước đọng trên lung, trên rừng chớ nước gì.

- Sao mình lại tới đây ông nội?

- Đã nói cho mầy biết rồi. Trên xứ, mình không có ruộng làm công khổ cả đời.

- ở đây, mình có ruộng, nhưng cũng khổ cả đời. Ông nội thằng Cộc làm thinh. Nó nhìn ông nội nó rồi chợt nhận ra năm nay ông cụ già quá. Tóc râu ông cụ đã trắng bông. Nhớ ra ông cụ thường than mình chết ngày nào không biết chừng, thường than mình nhớ mồ mả ông bà quá, nó bùi ngùi thương ông, nên dòm ra sân để quên.

Bấy giờ bóng bốn nồi rau đã tròn vành, chỉ rằng thật đúng ngọ. Bốn cái nồi bể ấy, hèn thế mà rất nhiều công dụng đối với gia đình nó.

Để tránh nước mặn tràn bờ ngập sân, tía nó đã đóng mười hai cây cọc, làm thành bốn cái giá ba chơn tréo như giá trống của bọn đờn thổi đám ma. Trên mỗi giá đặt một cái nồi lủng đít, và trong nồi để đầy đất tía nó mang từ xa về. Đất ở đây mặn chát dùng không được. Hành ớt, rau răm, rau òm om được trồng trong mấy vườn cao đẳng đó. Đó là bốn thứ tối cần, đất mặn bao nhiêu cũng phải lập thế mà trồng cho được không thôi không có món gia vị nào để ăn cá nữa.

Bốn miệng vườn cao đẳng và tí hon lại là chiếc đồng hồ của nhà này vào mùa khô. Cứ xem bề dài của bóng giá là tính giờ được ngay và khi bóng nồi tròn vụm che mất bóng giá là đúng ngọ ngay bon.

Nhìn sân một hơi, nhai nuốt hết cơm, nó day vô hỏi tía nó:

- Năm nay mình gặt cỡ bao nhiêu tía?

- Nhờ ông bà, đất nước, được hăm lăm giạ là ít lắm.

- Cũng chưa đủ ăn.

- Đủ gì mà đủ, má nó nói - nhà mình phải ăn trăm rưỡi là số chót.

- Với lại, tía thằng Cộc trở vào câu chuyện tại lúa nàng Cụm thất gạo lắm. Năm tới tao gieo giống Tằm vuột chắc được gạo hơn nhiều. Năm nay hễ chuối trổ buồng thì năm tới tao trồng sả, trồng ổi được rồi đó.

Cả nhà đều hớn hở trước dự định tương lai tốt đẹp kia. Nhưng thằng Cộc chưa thấy gì là sáng lạn cả. Trồng ổi cũng phải lâu mới có trái, trong khi đó, nó tiếp tục thèm chè, thèm xưng xa, nhớ đám cúng đình, nhớ hát bội và bị một hình ảnh mới quyến rũ, hình ảnh của con Thôi, chắc là giống hệt chị nhổ bồn bồn, tức là có duyên lắm.

Con trai làng thấy con gái thường là thế, mà họ còn thầm lén rủ nhau đi một ngày đường nước để ra đây gặp nhau, huống hồ gì là nó chưa được nói chuyện với con gái lớn lần nào hết. Những đứa con gái bạn của nó cách đây năm năm, nó nhớ lại là không có gì quyến rũ cả. Đứa nào cũng cạo trọc chừa bánh bèo phía sau và giữa chiếc bánh bèo mọc ra một chòm đuôi dài trông đến buồn cười.

Nhưng mà con gái lớn phải khác. Cộc chưa thấy con gái lớn, nhưng tin chắc như vậy. Có một linh cảm gì, ở đâu từ kiếp tiền thân của nó bay lại và giúp cho nó biết như vậy.

Những cô con gái lớn chưa thấy hình ấy, mà đã có tiếng kêu được, chúng âm thầm gọi Cộc, tiếng gọi như văng vẳng đâu trong không trung.

Thẫn thờ, thằng Cộc nói lại câu hồi nãy, và giận dỗi thêm một đoạn khiến ông nội nó giựt mình, chống đũa mà nhìn nó trừng trừng:

- ở đây mình có ruộng, nhưng cũng khổ cả đời. Tui muốn đi quá, đi đâu cũng được, miễn là ở đó có làng xóm, có người ta.

*

* *

Thằng Cộc thích mấy cây nọc nạng lắm. Bó lúa nào gác lên đó cũng nằm yên cả chớ không chực rớt xuống nước ruộng như những bó lúa gác lên đầu nọc thường.

Đó là những gốc tràm mà chảng hai chè ra rất thấp. Khi đốn tràm cháy, tía thằng Cộc đã trừ xa, đốn ở trên chảng hai ấy độ một gang rưỡi, nên bây giờ mới có nọc nạng rất tiện mà dùng gác lúa.

Ông nội thằng Cộc chống xuồng trên ruộng, len lỏi qua mấy gốc tràm. Ông ghé từng gốc để cho lúa xuống xuồng.

Đủ thứ là cò, cò ma, cò lông bông, cò quắn, cò hương thân mật nhìn gia đình bốn người gặt lúa nhà. Đây là bốn người độc nhứt mà chúng thấy mỗi ngày ở vùng hoang vắng này; ban đầu chúng sợ hãi họ, nhưng về sau thấy họ hiền từ quá, chúng làm quen với họ đã được ba bốn thế hệ cò rồi.

Má thằng Cộc lội sình tới đầu gối, và lội nước gần tới háng, nhưng vui vẻ hơn ngày nào hết.

Bà ta đằng hắng cất tiếng hò:

Hờ ơ... Tiếng anh ăn học lầu thông

Lại đây em hỏi khăn lông mấy đường

Hò xong câu đó, bà lắng đợi chồng bà hò đáp. Nhưng tía thằng Cộc cứ làm thinh mà gặt, khiến bà đâm ngượng nên cười rồi cự chồng cho đỡ mắc cỡ:

- Tía nó sao câm cái miệng, không bắt vậy!

- Hứ, nhiều chuyện này mà rồi còn hò với hát, bắt với nghoẹo. Bộ còn trai gái đó sao?

Vì vui kết quả của cần cù nên má thằng Cộc quên rằng bà ta đã quá mùa hò rồi. Tía nó nhắc lại bà ta mới chợt nhận ra. Tuy nhiên bà vẫn ngậm ngùi nhớ cái thú vui ấy thuở bà còn con gái và ngay bây giờ đây tóc đã nhuốm hoa râm rồi, bà cũng có thể hưởng được nếu còn ở làng, hưởng bằng cách khuyến khích bọn trai trẻ hò đối đáp với nhau.

Thằng Cộc thì xôn xao trong lòng, nhớ lại lời chị nhổ bồn bồn bảo rằng nó mà về làng làm ruộng thì ai cũng ưa. ừ nó sẽ hò đối đáp với con Thôi. Chậc! mà nó phải nhờ má nó dạy hò mới được. Nó có nghe hò lần nào đâu để mà thuộc giọng và biết câu.

Đến chiều thì xong xuôi cả. Ông nội thằng Cộc chống xuồng lúa ra bờ rạch, còn tía, má nó và nó thì lội nước sình mà về bộ.

Đập lúa và phơi phong mất hết mười ngày. Trong những ngày buồn tẻ phẳng lì giữa cảnh bùn lầy nước đọng ấy, thằng Cộc càng nao nức muốn về làng.

Lại đây em hỏi khăn lông mấy đường.

Câu hò của má nó ám ảnh nó từ hôm gặt đến nay. Nếu con Thôi mà hỏi đố nó câu ấy chắc nó phải ngậm câm, chớ đâu được phép trả lời bằng văn xuôi.

Khăn lông là vật dụng mà nó đã quên rồi thì còn biết là mấy đường để đáp cho thông. Từ lâu, nó chỉ có một chiếc quần xà lỏn trên người, mùa nắng cháy như mùa mưa lạnh. Đêm khuya nhờ nó che thân cho đỡ bị muỗi đốt và gió cắt da.

Những món đồ cần dùng của thế giới văn minh ấy cũng thuộc vào những thứ gợi thèm như là bánh trôi nước, bánh ít trần và mái tóc của con Thôi.

Hôm ấy dừng bồ cho con cháu đổ lúa khô vào, ông nội thằng Cộc long trọng nói:

- Ngày mai ra biển.

Không ai hỏi ra biển để làm gì hết. Thằng Cộc cũng làm thinh, trái với mọi ngày mà nó hỏi không kịp đáp.

Con rạch ổ Heo trước nhà, nếu có đi trên đó thì phải về ngọn, nó nghĩ như vậy, đi về ngọn để rẽ qua những kinh rạch khác mà tìm làng mạc sầm uất, chớ xuôi dòng ra biển, thì còn nghĩa lý gì nữa chớ?

Nó chưa được ra biển lần nào cả và mấy năm trước đây nó muốn theo ghe của bọn bắt cua đi một chuyến lắm, mà không được phép đi.

Chuyến đi đâu đến một chân trời lạ mà ông nội nó vừa cho biết, không làm cho nó phấn khởi chút nào cả.

Ông nội nói tiếp, dặn mẹ nó:

- Con mẹ Trùm, ngày mai phải dậy khuya nấu cơm. Tao đi với thằng Trùm và thằng Cộc, đi thật sớm để gặp con nước lớn ngay tại cửa mà về cho tiện.

*

* *

Rạch ổ Heo nhỏ xíu cho nên tràm ở hai bên bờ giao nhành với nhau được, và phủ kín cả mặt nước.

Rạch tối om, đi như đi trong hang. Bây giờ thằng Cộc mới hiểu thấu nghĩa hai tiếng "hang mai" trong câu hát của bọn đi bắt ba khía.

Những nơi ánh nắng lọt vào được thì hai bên bờ, ô rô và cóc kèn mọc đầy.

Nước ròng chảy xiết xuồng trôi bon bon, tuy vậy ông nội và tía cũng chèo cẩn thận để mau tới, hầu về kịp nội buổi chiều ngày đó.

Gần tới trưa, xuồng không đi mau nữa.

- Nước đứng rồi, ông nội nói, tức là gần tới cửa rồi.

Họ nghỉ chèo, để xuồng trôi linh đinh, không tiến cũng chẳng lùi, rồi lấy cơm dở trong mo ra ăn.

Không đi thời thôi đã trót đi, và lúc gần đến đích thằng Cộc nghe thích thấy biển coi ra sao. Nó và cơm hối hả rồi hỏi:

- Ra đó làm gì ông nội.

- Rồi mầy sẽ biết.

Họ ăn cơm xong thì nước bắt đầu lớn. Họ chèo nước ngược cho đến quá đứng bóng thì đến một nơi mà ông nội tuyên bố rằng đó là biển.

Thằng Cộc ngạc nhiên lắm mà không thấy biển đâu cả. Con rạch tiếp tục đi xa ra ngoài kia, ngoài một chỗ xa tít mù khơi, hai bên bờ rạch cây vẫn mọc xanh um, và ở ngoài đầu kia, hai hàng rào cây như đứt khúc, đâm vào một tấm vách tường xanh như da trời.

- Biển ở đâu, ông nội? Cộc hỏi.

- Đằng xa kia, xanh xanh đó.

- Sao không ra ngoài, ông nội?

- Không cần.

Tía thằng Cộc chèo mũi, rút sào cậm xuống bùn, theo lịnh của ông nội nó.

Ông nội gọi Cộc lại gần rồi hỏi:

- Con có thấy gì khác lạ không.

- Không, ông nội à?

- Không thấy? Cây ở đây không khác cây sau lưng mình à?

- à... phải rồi.

Cộc nhìn lại quả như lời ông nội nó nói. Nơi đây, đất đã hết, mà chỉ có bùn, tràm mọc tới mé đất cuối cùng thì dừng lại, như là dân ở biên giới một nước kia dừng lại nơi bia lãnh thổ mình.

Hết tràm thì có một khoảng trống nửa bùn nửa đất, trên ấy cỏ ống mọc rậm rì và chim cao cẳng đủ loại đáp đầy trong cỏ.

Tràm đứng trước bãi cỏ mà nhìn dân láng giềng mọc trên bùn đen. Đó là những cây ốm nhom, chen nhau mà vượt lên cao, cây này cách cây kia không đầy bốn gang tay.

Bờ biển thoai thoải dốc xuống, trông rừng cây lạ ấy như một đạo binh núi, tuôn tràn từ trên cao xuống mé biển ngoài xa.

Xa, xa lắm, có những cây mọc lẻ tẻ như những tên lính xung phong mau bước tiến tới để hãm thành lập công.

- Nhìn xuống gốc cây! Ông nội bảo.

- Nước chưa lớn hẳn, để lộ bùn đen dưới gốc cây ra. Bùn đen từng nơi lại trắng xóa những đóa hoa năm cánh, hai màu đối chọi trông rất đẹp.

- Cây gì mà lạ vậy ông nội? Trổ bông ngay dưới gốc.

Bông trổ trên đầu những cái rễ ăn lên mà người ta gọi là rễ gió. Cây này là cây mắm, đây là rừng mắm đấy.

- Cây mắm? Sao tui không nghe nói đến cây ấy bao giờ.

- Con không nghe, vì cây ấy không dùng được để làm gì cả cho đến làm củi chụm cũng không được.

- Vậy chớ trời sanh nó ra làm chi mà vô ích dữ vậy ông nội, lại sanh hằng hà sa số như là cây cỏ ấy.

- Bờ biển này mỗi năm được phù sa bồi thêm cho rộng ra hàng mấy ngàn thước. Phù sa là đất bùn mềm lủng và không bao giờ thành đất thịt được để ta hưởng, nếu không có rừng mắm mọc trên đó cho chắc đất. Một khi kia mắm sẽ ngã rạp. Giống tràm lại nối ngôi nó. Rồi sau mấy đời tràm, đất thuần, cây ăn trái mới mọc được.

Thấy thằng cháu nội ngơ ngác chưa hiểu, ông cụ vịn vai nó mà tiếp:

- Ông với lại tía con là cây mắm, chơn giầm trong bùn. Đời con là đời tràm, chơn vẫn còn lấm bùn chút ít, nhưng đất đã gần thuần rồi. Con cháu của con sẽ là xoài mít, dừa cau.

Đời mắm tuy vô ích, nhưng không uổng, như là lính ngoài mặt trận vậy mà. Họ đã ngã gục cho kẻ khác là con cháu họ hưởng.

Con, con sắp được hưởng rồi, sao lại muốn bỏ mà đi. Vả lại con không thích hy sinh chút ít cho con cháu của con hưởng sao?

Thằng Cộc nhìn lại ông nội nó và thương không biết bao nhiêu ông già đã bỏ mồ bỏ mả ông cha để hì hục năm năm trong đồng chua, nước mặn của ổ Heo.

Phải, cứ theo dự đoán của gia đình thì nó sắp được hưởng tuy không nhiều, mà rồi sẽ nhiều.

Nó nắm chặt tay ông nội nó và thấy nội nó giỏi quá. Ông có biết chữ nho kia mà.

- Ông ơi, nó than, nhưng tràm buồn quá!

- Tràm sẽ khỏi buồn nữa. Năm tới, đất thuần, ta làm ba mươi công, và sẽ gọi dân cấy ở xa để phụ lực. Rồi tía con sẽ cưới vợ cho con, rồi thiên hạ sẽ bắt chước tràn tới đây mà phá rừng, vùng ổ Heo sẽ sầm uất, vui biết bao nhiêu.

Tràm hết buồn vì sẽ đẻ ra cau, dừa, xoài, quít đầy nhà, nước sẽ ngọt một khi đất thuần...

- Và sẽ có chè ăn?

Ông nội cười ha hả mà rằng:

- Gì chớ chè thì sẽ có lu bù.

- Mà ông nội nè, cưới vợ làm sao được, ai thèm về ổ Heo?

- Hai năm nữa người ta sẽ đồn đất ổ Heo thuần... Những kẻ nghèo khó như ta chỉ mong được tới đây.

Ông nói điều này, không biết con hiểu được hay không. Là tổ tiên ta ngày xưa từ miền trung tràn vào đây đều chịu số phận là cây mắm cả, từ xứ Đồng Nai nước ngọt tới đây, ở đâu cũng hoang vu cả.

Họ đã ngã rạp trong chốn ma thiêng nước độc này để lót đường cho con cháu họ đi tới, y như là đàn kiến xung phong, tốp đầu liều chết đuối lội qua lộ nước rộng đắp đường để làm cầu cho bạn đi sau vào nơi có chất ngọt.

Tất cả mấy lớp tiên phong đầu đều ngã gục như rừng mắm rồi ông sơ ông cố con, ông nội đây là tràm mới kiếm được miếng ăn...

- Tía!

Thằng Cộc lo lắng không biết tía nó sẽ làm tràm như nó được hay không và kêu tía nó bằng một giọng thương yêu trìu mến hết sức.

- Thôi nhổ sào đi về cho kịp con nước, ông nội ra lịnh.

Ông nội vui vẻ quá, ông bỗng nhớ sực lại những câu hò của thế hệ người tiên phong đi khai thác đất hoang ở miền nam, mà ngày nay thế hệ tràm không hát nữa. Ông cất giọng khàn khàn lên:

Hò... ơi! Rồng chầu ngoài Huế,

Ngựa tế Đồng Nai

Nước sông trong sao cứ chảy hoài

Thương người xa xứ lạc loài đến đây.

CHÉN CƠM NGUỘI

Tiểu, bới cho Thầy chén cơm nguội!

_Thầy dùng cơm nóng đi, để cơm nguội con ăn.

Chẳng là tiểu ta nấu cơm hầu thầy, hôm nào còn cơm nguội không chịu hấp, nấu cơm nóng thầy dùng, còn cơm nguội mình ăn. Thầy không để ý, cho tới một hôm bắt gặp tiểu nghf ta đang “xơi” một tô cơm nguội, thầy rầy ngay vì ăn như vậy sẽ dễ bị đau bao tử. Nhưng tiểu vẫn chứng nào tật nấy, hôm nay nghe Thầy đòi ăn cơm nguội, tiểu sợ xanh cả mặt.

_Con cứ bới cho thầy một chén, tại thầy một chén, tại thầy thích ăn cơm nguội mà_thầy từ tón bảo.

_Ồ! Thầy thích ăn cơm nguội à? Vậy mà thầy không nói sớm sớm.

Tiểu ta cảm thấy có lỗi vì bấy lâu nay dành ăn cơm nguội một mình. Nhưng nó lại không hiểu nổi, tại sao cơm nguội vừa cứng, vừa khô so với cơm nóng vừa mềm, vừa dẻo chả có gì là thú vị cả, thế mà thầy nó lại thích ăn? Có lẽ thắc mắc này sẽ luôn là ẩn số đối với nó nếu như một hôm đi học về tới cửa, nó không tình cờ nghe được câu chuyện giữa thầy nó và sư Bác ở thành phố về thăm.

_Tiểu của chú năm nay lên lớp mấy rồi? Sư Bác hỏi.

_Dạ lớp 8, coi bộ cũng hiếu nhưng còn khờ lắm chị ơi! Chị coi, hôm nào nấu cơm ăn không hết nó lại để lại, nấu cơm nóng cho em ăn còn nó ăn cơm nguội, em rầy hoài không được. Thấy đang tuổi ăn tuổi lớn mà ăn vậy tội nghiệp, em muốn ăn phụ với nó nên nói em thích ăn cơm nguội. Thế mà chị ta cứ tưởng thật, hôm nào cũng xăng xái bới cơm nguội cho em ăn còn mình thì “hy sinh” ăn cơm nóng. Mới mấy hôm mà răng nứu của em song hết cả lên đây nè. (Vì thầy nó có mấy cái răng giả mà lị).

Nghe đến đây, sư Bác nó cười ngất, thầy nó cũng cười theo. Còn tiểu nhà ta ư? Thật không biết chui mặt vào đâu để trốn.

Thế mà thời gian trôi qua thật nhanh, mới đó mà tiểu ngày đó sắp bước vào cái tuổi “Tam thập nhi lập”. Mười năm xa chốn đồng quê nước mặn, mười năm miệt mài bên đèn sách để rồi có những buổi chiều đi học về ngồi bên chén cơm nguội, đưa mắt nhìn ngoài trời mưa rơi, trong lòng lại cảm thấy nhớ thầy vô hạn, càng thấm thía hơn khi nhớ đến chén cơm nguội thầy ăn ngày nào!

Thằng bé trong quán cơm

     Cuối mỗi ngày, thằng bé đã có thể đổ tất tật bát thức ăn thừa nó đã gom lại vào chiếc chảo to sâu lòng còn vương mỡ, đảo qua đảo lại. Thế là nó đã có túi thức ăn đem về cho bọn nhóc cùng trọ.

- Bà chủ, cho một bia Hà Nội!

- Cho hai đĩa xào nhé. Thêm tý nước chấm vào.

    Chiếc bếp than cứ rực lửa, rồi mùi thức ăn dậy lên với đủ thứ gia vị tỏi, hành, nước mắm quyện vào nhau, vương vấn trong khắp gian không. Khách ăn lần lượt kéo vào, gian phòng bỗng chốc như thu hẹp vì người ngồi kín các bàn ăn cùng những âm thanh ồn ào. Những chồng bát đĩa liên tiếp được bê ra, để lộn xộn, bừa bộn ngay cạnh thằng bé. Và nó không ngừng đôi tay, cứ liên tục khoắng tròn những chiếc bát, đĩa trong thau ngầu bọt nước rửa bát. Nó tinh ý và nhanh nhẹn nên làm đâu gọn đấy, rất sạch sẽ, cộng thêm đức tính cần mẫn, chăm chỉ vì vậy bà chủ rất hài lòng. Một lần trước khi nó về, bà chủ đưa cho một túi nilông nhỏ đựng đầy thức ăn thừa với lời nói ban ơn:

- Thưởng cho mày vì làm việc chăm chỉ !

    Nó định không lấy nhưng khuôn mặt bà chủ đang phơn phởn, hỉ hả thế kia. Nó không cần sự bố thí, nó chỉ cần những đồng tiền làm ra bằng sự lao động chân chính và hai bữa cơm no bụng đủ để cho nó làm việc suốt một ngày. Nó trở về căn phòng trọ tồi tàn. Sao tối om thế này? Bọn nhóc chửa đứa nào về cả. Có tiếng rên ở đâu vậy? Nó dò dẫm tìm công tắc điện.

- Em mệt và đau đầu quá nên chiều nay về sớm. Anh ra quán bà Năm mua hộ em bát cháo, em đói quá. Nó chợt nhớ ra túi thức ăn và xăng xái hẳn lên:

- Chú mày ăn tạm cái này rồi khắc có cháo.

Thằng Tính chẳng chê bai, khách sáo gì, đánh vèo một cái gần hết túi thức ăn.

- Ngon quá, đã lâu lắm rồi em chẳng được ăn ngon thế này.

    Câu nói của thằng Tính làm nó thấy thương cảm và chợt nẩy ra một ý định nhưng nó chưa cần nói ngay. Một lúc sau đã nghe tiếng thả gầu ùm ùm trong giếng cùng tiếng xối nước ào ào và giọng huýt sáo vui vẻ của thằng Tính.

     Bà chủ để ý thấy thằng bé lựa những miếng thức ăn thừa có vẻ ngon cho riêng vào một bát to. Nó làm việc đó một cách chậm rãi. Số còn lại nó đổ vào thùng nước gạo váng mỡ nổi lềnh phềnh những ruột bí, cọng rau... Bà chủ hỏi nó:

- Mày nhặt riêng ra thế để làm gì? Cứ đổ tất vào thùng nước vo, ngày nào chẳng có người đến lấy, thành tiền cả đấy.

Nó biết bà chủ đang giáo huấn và như có vẻ “ngăn chặn” một ý định nào đó mới nẩy sinh trong đầu nó.

- Cháu muốn mua lại thức ăn thừa này.

Bà chủ ra vẻ hào phóng và nhân từ:

- Ôi dào, đáng bao nhiêu. Mày muốn lấy thì cứ lấy.

Nhưng bà chủ chẳng cho không ai cái gì bao giờ:

- Lúc nào vãn việc mày bưng bê, dọn dẹp thêm giúp cô được không.

     Được cái bà chủ phốp pháp này tính tình xuê xoa nhiều khi hơi đồng bóng nên thằng bé cũng chưa muốn rời đi đâu. Vả lại nó nghĩ làm công việc này là cách tốt nhất để nó có thể tìm được bố. Có lần bà chủ cũng đã nói sẽ để ý giúp nó chuyện này.

     Cuối mỗi ngày, thằng bé đã có thể đổ tất tật bát thức ăn thừa nó đã gom lại vào chiếc chảo to sâu lòng còn vương mỡ, đảo qua đảo lại. Thế là nó đã có túi thức ăn đem về cho bọn nhóc cùng trọ. Thằng Tính nhanh nhẩu vừa gặm miếng thịt gà vừa nói:

- Từ ngày anh cả đem thức ăn về, em thấy ít mệt hơn lại không chóng đói như dạo xưa.

   Trong căn phòng trọ chật hẹp, ngột ngạt này, nó được 5 đứa trẻ tôn là anh cả. Cũng bởi vì nó nhiều tuổi nhất là biết tổ chức cuộc sống chung, dù rằng những đứa trẻ mỗi đứa một quê, một tính và làm nhiều nghề khác nhau. Cuộc sống lang thang, xa nhà đã dạy cho bọn trẻ cách thích nghi rất nhanh với mọi hoàn cảnh và biết đùm bọc nhau trong cuộc sống. Có như vậy chúng mới tồn tại được với cuộc sống nghiệt ngã, đầy cạm bẫy này. Buổi tuối sau khi tắm giặt xong xuôi, chúng thường kể cho nhau nghe về công việc trong ngày, về những điều mắt thấy tai nghe. Đứa nọ bổ sung cho đứa kia những “kiến thức”, những “tin tức cập nhật” mà những đứa trẻ như chúng cần biết. Chẳng hạn khu vực nào dễ bán bánh mỳ, đánh được nhiều giầy...

     Cuối cùng sau những câu chuyện tào lao vui vẻ, chúng vô tư lăn ra ngủ.

     Mới sáng ra mặt trời đã chói chang, đài báo nhiệt độ lên đến 37oC. Thằng bé thấy người uể oải và nóng ruột rất lạ. Nắng tắt, một người làng đến báo tin mẹ nó ốm nặng, nhắn nó về. Bọn trẻ cùng nhau gom được 100.000 đồng, thằng Tính đặt vào tay nó tờ 50.000 đồng phẳng phiu:

- Đây là tiền tiết kiệm của em, anh cầm đỡ tiền tàu xe, mua thuốc cho bác. Khi nào bác khỏe anh lại ra với chúng em nhé.

     Chiếc xe khách kín chỗ cứ ì ạch leo qua những con dốc. Từng hàng cây quen thuộc hiện ra trước mắt thằng bé. Thế mà nó cũng xa nhà gần một năm rồi. Chắc ở nhà mẹ và các em nó mong lắm. Nhưng việc mà trước khi đi mẹ nó dặn đi dặn lại rằng phải cố gắng mọi cách tìm ra manh mối của bố nó thì nó vẫn chưa làm được. Bố nó bỏ nhà đi đã vài năm nay và lên thành phố cặp với một người đàn bà làm nghề bán cơm bình dân.

     Hai tháng sau nó quay lại phòng trọ, không phải để tiếp tục thuê trọ mà là dọn đồ đạc về hẳn quê. Nó thông báo tin mừng rằng mẹ nó đã khỏi ốm, quan trọng hơn là bố nó đã trở về nhà. Rồi nó dõng dạc tuyên bố hôm nay sẽ khao cả bọn một bữa cơm ngon lành gọi là bữa cơm chia tay với thức ăn nóng sốt, tươi nguyên, không hề có chút gì thừa. Thằng Tính tò mò:

- Anh làm thế nào tìm được bố ?

Mắt nó hàm chứa sự biết ơn khi nhìn về phía bà chủ.

- Nhờ cô ấy đấy.

Thằng Tính ranh mảnh:

- Không trừ một tháng lương rửa bát nào để trả công chứ. Ô, mà đúng thật, lần đầu tiên nó thấy bà chủ giúp nó mà không hề có một điều kiện, một giao kèo gì. Và kia, bà chủ đang vui vẻ gắp vào bát bọn trẻ những miếng thịt kho tàu thật ngon.

Từ Chén Cơm Thừa

Trúng tuyển trường Cao Đẳng Viễn Thông Quốc Gia, tôi lần đầu vào Sài Gòn trọ học, khó khăn lắm ba mẹ tôi mới cho tôi đủ số tiền tối thiểu để ăn uống hàng ngày, học xong buổi sáng, là tôi tìm ngay quán cơm dọc đường kêu diã cơm,cơm dọc đuờng là những quán, cắm chiếc dù lớn ngay viả hè, chiếm lòng lề đường, bán xong , buổi tối thu lại, vì thế phải nói là giá bình dân mà ăn cũng được, cũng chỉ gọi là tạm no, vì sức đang lớn, chứ thật ra là phải 2 diã mới đủ,

Buổi trưa đó, khi tôi mới ăn, một cô gái đi chiếc Honda leo lề chạy thẳng vào quán cơm gần chỗ chủ quán làm như có bà con gì đó ,thay vì đậu dưới lòng đường như bao nguời khác, cô tháo găng tay, cởi mũ và kiếng bỏ vào giỏ rồi treo lên tay xe, cô đi vào nói nhỏ với bà chủ quán điều gì , rồi đi tìm chỗ ngồi. Quán lúc này đông nghẹt, các bàn đều có 4 người nên cô chỉ có thể chọn ngồi cùng bàn với tôi hay bàn gần đó cũng có 1 người, quán lề đường người xa lạ ăn chung là chuyện thường vì chật và ít bàn, không như các quán lớn hay cửa hàng.

Cô nhìn 1 chút rồi tiến tới bàn tôi, có lẽ cô thấy vẻ mặt của tôi ...hiền lành tuy ăn mặc hơi lam lũ, cô vén chiếc áo dài rồi thản nhiên ngồi xuống ghế, chờ đợi quán đem cơm ra, lúc này tôi mới để ý, thật là ....may cho tôi, cô quá đẹp !!

Tôi không thể tả cô như những nhà văn khác, khuôn mặt trái xoan, mắt bồ câu to tròn, mái tóc chấm lưng ...vì tả như vậy chính tôi cũng không hình dung ra người đẹp như thế nào ,mà chỉ có thể nói là tới lúc đó tôi chưa từng thấy ai đẹp như cô.

Diã cơm được cô bé giúp việc quán mang ra, diã cơm thịt kho hột vịt nóng hổi còn bốc khói. Cô chậm rãi ăn, nhưng chưa tới nửa diã thì ngưng rồi kêu 1 chai xá xị, cô ăn rất gọn, trái hột vịt và vài miếng thịt còn nguyên cũng như cơm, hầu như chưa đụng tới, không như những người khác thường trộn diã cơm rồi mới ăn, xong cô đứng dậy đi về phiá chủ quán trả tiền.

Khi tôi thấy chiếc lưng cô vừa quay đi, chiếc áo dài xanh tha thướt nổi bật giữa trời nắng. Lúc đó tôi đang tính kêu thêm chén cơm, vì với tuổi sinh viên như tôi lúc ấy, diã cơm thường không đủ no.

Trong 1/10 giây suy nghĩ, tôi vốn nghĩ nhanh nên đôi lúc cũng sai lầm, tôi thấy tội gì mà không "sang" nửa diã cơm gọn ghẽ còn lại của cô qua diã cơm heo xào dưa cải đã gần hết của tôi, -thứ nhất là tôi đâu có ăn xin,- thứ hai mấy người ngồi chung quanh tôi lúc này toàn là nam sinh viên, nghèo khổ như tôi mới ăn cơm bụi, có nhìn thấy chẳng nhằm nhò gì - thứ ba là tôi tiết kiệm được 10 đồng cho chén cơm thêm...

thường khi khách ăn không hết , quán đổ vào 1 cái thùng để cho heo, bất quá tôi chỉ bớt của con heo hơn 1 chén cơm, Với lại nhìn cô là tôi đã có …cảm tình, nên đuợc ăn thừa của cô cũng chấp nhận. Thế là khi cô đang trả tiền, tôi thản nhiên cầm diã cơm của cô gạt qua diã tôi.

Đúng lúc những hạt cơm cuối cùng từ diã của cô sang diã tôi, cô chợt quay lại. Nếu tôi là đứa bé ăn xin mà làm động tác đó là bình thường, nhưng rõ ràng ăn mặc đeo mắt kính như tôi là sinh viên,...Quán không lớn, khoảng cách không xa lắm, đủ để tôi thấy khuôn mặt cô đỏ bừng lên rồi vội quay đi với đôi mắt cũng đỏ hoe .. ngấn lệ

Y như người đang ăn trộm bị bắt quả tang, tôi hết sức lúng túng, chỉ muốn độn thổ,nhưng làm sao bấy giờ chả lẽ đổ lại, thế nên tôi cứ cúi đầu gượng gạo ăn hết diã cơm. Ăn xong tôi kêu tính tiền,bà chủ quán bước gần đến tôi và nói:

- Có người trả tiền cho cậu rồi, nó là cháu ruột tôi đó.

Tôi toan hỏi ai vậy, nhưng rồi chỉ cảm ơn bà chủ quán và bước ra.

Đạp xe trở lại trường để ngủ, tôi như người mất hồn, chưa bao giờ tôi lại cảm thấy xấu hổ như vậy, nỗi ân hận ăn chén cơm thừa cứ dằn vặt tôi suốt buổi trưa ấy .

Tôi không vào lớp ngủ như những trưa khác, mà thẫn thờ dựng xe trước cái bốt nhỏ làm bằng gỗ dựng ngay trước cổng trường, bốt này dành cho bác lao công ngồi gác, buổi trưa nên bác đã về cái quán nhỏ sau trường cũng là nhà bác để ăn cơm.

Tôi vào ngồi trong đó, đưa đôi mắt ...buồn rượi nhìn không định hướng, trường Viễn Thông Bưu chính nằm ngay ngã ba đường Phan đình Phùng và cuối Phạm đăng Hưng , xe cộ chỉ lưu thông một chiều, ngay góc đường là nhà thờ Đa kao. Lúc này có lẽ điều mà tôi mong ước nhất là đừng gặi lại cô gái lúc nãy, xấu hổ tủi thân đến dường nào. 

Bỗng mắt tôi hoa lên ( không phải vì đói như buổi sáng gần tan học) vì từ xa đường PĐH, chiếc xe Honda đang từ từ chạy tới, trên xe là cô gái mặc áo dài xanh. Tôi lúc đó không biết làm gì cứ ngồi như pho tượng, cô tiến vào trường, tất nhiên là phải đi qua bốt gác, tiếng máy xe nổ nhe nhẹ,cô dừng xe lại rồi hơi nhoẻn miệng cười, hồn viá tôi như lên mây..cô hỏi tôi:

-ủa , bạn học ở trường này hay sao mà ngồi đây.

- tôi mới học năm đầu Viễn Thông

Ngưng lại một chút tôi nói như phân trần và cảm ơn người đã trả tiền cơm.

-lúc nãy ở quán cơm ...

Ngay lập tức cô ngắt lời;

- Nhắc chuyện ấy làm gì, bỏ đi.

Tôi cảm thấy gánh nặng nhẹ bớt vì cô gái không nhìn tôi dưới con mắt khinh dễ mà ngược lại có vẻ thông cảm và 1 chút thiện cảm

Tôi nghĩ cô cũng học trường này nên hỏi:

- Bạn cũng học trường này và đang vào lớp ngủ trưa ?

- Uh, Nhiên ( cô gái xưng tên với tôi ) học năm thứ 2 Bưu Chính, mọi khi về nhà, nhưng hôm nay có chút chuyện tính ghé con nhỏ bạn, chắc giờ nó đang ở trong lớp.

Không nghe rõ tên nên tôi hỏi :

-Bạn tên Duyên ?

-không, Nhiên, Nguyễn thị Tự Nhiên nghiã là không khách sáo.

Học năm thứ 2 nghiã là hơn tôi 2 tuổi, Thấy cô cởi mở , tôi quên mất chuyện chén cơm thừa, tôi nói:

- Mình tên Hòa, ...Đào Nam Hoà, thôi bạn vào đi.

Lại nhoẻn miệng cười cô gái nhìn tôi rồi nói:

- Hoà ngồi chơi, Nhiên đi nhen.

Cô đi rồi, tôi dắt xe vào, thay vì mọi khi để xe dãy cho SV Viễn Thông như mọi khi thì tôi lại chạy qua dãy dành cho Bưu Chính, tôi quan sát thấy chiếc xe Honda của cô gái khi nãy và vài chiếc xe khác của những sinh viên ăn cơm xong vào lớp ngủ, chờ học giờ chiều, tôi dựng xe rồi ngồi 1 ghế đá gần đấy, dưới hàng cây cổ thụ to cao rợp mát .

Tôi đang ngồi suy nghĩ, bỗng lại giật mình, khi từ dãy lớp Nhiên xuất hiện đi về phiá dãy xe.Tôi đoán là Nhiên đã gặp bạn xong và ra về, Thấy tôi ngồi, Nhiên thản nhiên bước lại,ngồi không xa cũng không gần, vén tà áo dài, để chiếc cắp lên đùi, im lặng 1 lúc , không ai nói lời nào. Tôi mở lời hỏi 1 câu mà đã biết câu trả lời:

- Nhiên gặp bạn chưa

- Rồi, sao Hoà không vào lớp ngủ đi

- Tự nhiên hôm nay thấy khó ngủ, mà thường ngày Hoà cũng ít ngủ trưa, thường là đọc sách.

Thấy tôi có cuốn sách cuả Jean Paul Satre để gần chỗ ngồi, Nhiên hỏi:

- Hoà cũng đọc sách Jean Paul Satre?

"Cũng" đọc nghiã là Nhiên đã đọc, tôi nói

- Thấy ngưòi ta nói về thuyệt hiện sinh nên mượn thằng bạn đọc để khi cần có cái nói chuyện,

Nhiên cười:

-Hoà có lối nói chuyện nghe ngồ ngộ.

Tôi không hiểu ý Nhiên nên nói:

- Hoà mượn thật mà, chứ đâu có tiền mua.

Nhiên lại gạt ngang:

- Đừng nói tiền bạc, không cần phải nói chuyện ấy, khi nào cần, Hoà có thể mượn sách, nhà Nhiên cũng có khá nhiều.

Tôi hỏi:

- Nhiên thích đọc loại sách nào.

- Nhiều loại, kiểu đọc để có cái nói chuyện khi cần giống Hoà ấy mà.

Rồi Nhiên lại khẽ cười, thấy Nhiên khôi hài và cởi mở, câu chuyện tự dưng mỗi lúc sôi nổi hơn như thể là chúng tôi quen nhau từ lâu lắm rồi

Nhiên hỏi tôi:

- Cuốn sách nào mà Hoà thích nhất?

- Notre Dame de Paris.

- Còn bản nhạc?

- Như "cánh vạc bay" và "hẹn hò"

- Chắc Hoà biết câu: hãy cho tôi biết bạn thích cuốn sách nào tôi sẽ nói cho bạn biết bạn là người như thế nào?

- Biết, vậy theo Nhiên , Hoà là người như thế nào

- Lãng mạn, quá lãng mạn

- còn Nhiên thích cuốn nào và bản nhạc nào?

- Sách thì thích cuốn Les Miserables và Mùa thu lá bay, còn nhạc thì thích bài "Cành hoa trắng" và "Người đi qua đời tôi"

- Tại sao Nhiên lại thích bài Người đi qua đời tôi?

- Chắc Hoà biết câu mở đầu, Người đi qua đời tôi trong những chiều đông buồn, nhưng mà Nhiên cảm thấy bài đó lúc nào cũng buồn ngay cả khi hát trong những ngày hạ gắt nắng.

Ngưng 1 chút Nhiên tiếp:

- vậy theo Hoà, Nhiên thuộc loại người nào?

- Lãng mạn và đầy thương cảm.

Nhiên hỏi tôi:

- Hoà biết đàn chứ?

- Biết, cũng võ vẽ được mấy bài guitar cho có với người ta, còn Nhiên?

- Nhiên cũng vậy, cũng biết chút ít.

Tôi hơi ngạc nhiên:

- Nhiên biết chơi guitar.

- Không, Piano.

Phải là nhà giàu có lắm mới học Piano nên đến lúc này tôi nhìn kỹ Nhiên hơn 1 chút, mặc chiếc dài xanh mới tinh có thêu mấy bông trắng nhỏ giữa ngực, chiếc quần đen láng mướt và đi đôi sandal, chiếc cặp táp bằng da.... tất cả đều thuộc loại đắt tiền, Người đẹp nhờ luạ, Nhiên đã quá đẹp , khuôn mặt láng o, cân đối  mà lại có thêm lụa nữa!

Tôi nghĩ ngay đến sự bất công, chả lẽ Thượng đế hay Đấng nào đó lại dành cho một số người quá ưu đãi, khi nhìn lại tôi, chiếc áo vải thô đã cũ, chiếc quần cũng sờn, trên tay chỉ vài cuốn sách.

Tôi liên tưởng tôi đang là Quasimodo lão gù nhà thờ Đức bà và Nhiên là nàng kỹ nữ tuyệt đẹp Esmeralda trong Notre Dame de Paris.

Nhiên cắt ngang ý nghĩ của tôi và tôi có cảm tưởng Nhiên đang đi đôi ...sandal trong bụng tôi.

- Hoà đang so sánh đó huh.

Tôi chối:

- Không, chỉ hơi buồn thôi.

- Nãy giờ Nhiên có làm gì đâu mà Hoà buồn.

Thật ra tôi buồn là thật, vì giữa tôi và Nhiên có sự cách biệt như vậy thì làm gì có những buổi gặp nhau để nói chuyện nữa

Tôi hỏi:

- Nhiên có buồn không khi mất cái gì đó mà mình thích.

- dĩ nhiên là buồn, mà Nhiên đâu có làm mất của Hoà cái gì đâu,

Tôi lại thật thà:

- Không mất gì cả, mà Hoà có cảm tưởng như không còn được nói chuyện với Nhiên nữa...

Tôi lặng thinh không nói nữa, Nhiên cũng im lặng, đầu hơi cúi xuống, nụ cười nãy giờ đã tắt, tôi thấy 1 chút buồn trên khuôn mặt thiên thần của Nhiên.

Tôi có cảm tưởng thời gian trôi qua sao mà nhanh đến thế, sắp đến giờ học chiều,sân trường đã đầy SV, dãy xe 2 bên VT và BC đã gần đầy, một số thằng bạn nhìn tôi và Nhiên ngồi nói chuyện tỏ vẻ ngạc nhiên, không hiểu sao mà tôi có thể quen với Nhiên được.

Nhiên đứng dậy:

- Thôi đến giờ học rồi, Nhiên vào lớp học luôn chứ về nhà không kịp nữa.

Có lẽ mải nói chuyện với tôi mà Nhiên quên cả về nhà nghỉ trưa, kể ra thì tôi cũng có chút đỉnh ...diễm phúc.

Tôi cũng đứng dậy khẽ nói:

- Hoà cũng vào lớp, thôi đi nha.

Ngày hôm sau tôi không ngồi ghế đá nữa mà vô lớp ngủ trưa như thường lệ, không ngủ được, tôi lấy sách ra đọc mà sao hàng chữ cứ nhảy muá lung tung.

Nhà trường có hai dãy là Viễn Thông (chung với Điện thoại) và Bưu Chính. Ở giữa là văn phòng nhà trường, thường học ngành nào đậu xe bên đó cho gần

Bốn ngày sau liên tiếp ngày nào tôi cũng đậu xe bên VT rồi tản bộ ra ngồi ghế đá bên Bưu Chính, buổi trưa lác đác dăm sinh viên qua lại, mà chả thấy Nhiên đâu, tôi có làm gì đâu mà phải chờ Nhiên, mà sao bụng như nao nao,

Thật ra là muốn kiếm Nhiên không có gì là khó, hai dãy lớp chỉ cách nhau mấy chục thước, tôi chỉ cần lê qua văn phòng chung của trường là tới dãy lớp Bưu Chính, canh gần giờ vào học, lảng vảng gần lớp thế nào chả gặp, nhưng sao tôi không đủ can đảm làm việc quá dễ đó, hoặc canh giờ tan học đứng ở cổng trường chặn đầu thì hết …xảy.

Người ta theo tò tò còn được, tôi không làm nổi việc đó, vì mặc cảm tự ty hay sao? Sao 2 dãy lớp giữa tôi và Nhiên gần như có gì vô hình cách ngăn, không cho tôi vào. Đối với tôi, ngồi ghế đá đã là dũng cảm lắm rồi và không làm gì cả, gần như chỉ còn chờ sung rụng…và gần như ngồi theo ..vô thức.

Đúng một tuần sau, kể từ ngày …ăn chén cơm thừa, tôi lại ra ghế đá dãy lớp Bưu chính ngồi ngắm những cụm mây trắng lững lờ trên bầu trời cao, 15 phút đã trôi qua nhanh chóng, còn hơn nửa giờ nữa là đến giờ học,bỗng tôi giật mình, Nhiên đang đậu xe, thấy tôi ngồi, Nhiên tiến lại, ngồi xuống như tuần trước, không gần cũng không xa, Nhiên nhoẻn miệng cười rồi hỏi:

- Hoà đang làm gì đấy?

Tôi không trả lời mà hỏi lại:

- Sao hôm nay Nhiên đi học sớm vậy?

- Ở nhà Nhiên cũng không ngủ, nên ...tự nhiên hôm nay đi sớm một chút

- Tự nhiên Nhiên đi sớm một chút?

Cả hai cùng cười khi tôi nhắc điệp ngữ nhiên.

Im lặng một chút, tôi thu hết can đảm, nói:

- Hoà cảm thấy thích, ước gì được nói chuyện với Nhiên như thế này.

Nhiên trả lời làm như vừa giỡn vừa bày tỏ trên nỗi niềm của 2 kẻ mới …hơi nhớ nhau:

- Nói chuyện mà cũng ước! Thế bao lâu Hoà muốn nói với Nhiên, hàng ngày, hàng tuần hay mỗi tháng một lần.

- Lấy trung bình là hàng tuần đi …

Chúng tôi lại lan man hết chuyện này tới chuyện khác chẳng mấy chốc tiếng chuông báo hiệu giờ học lại vang lên. Nửa tiếng nói chuyện thật là …biểu kiến, cảm chừng chỉ có mấy phút.

Rồi ước mơ của tôi thành sự thật, mỗi tuần Nhiên đều vào trường sớm hơn và chúng tôi đều có buổi ngồi nói chuyện như vậy, những câu chuyện lắm khi sôi nổi về bất cứ đề tài nào,kiến thức của Nhiên làm tôi kinh ngạc, có thể chúng tôi nói với nhau cả năm vẫn còn đề tài để nói, Nhiên quá đầy đủ về vật chất và quá dư mặt tinh thần, tuy vậy chẳng bao giờ chúng tôi hỏi chuyện về đời sống hay gia đình, tôi chẳng biết Nhiên có bao nhiêu anh em, ba mẹ làm gì và Nhiên cũng chẳng bao giờ hỏi tôi những chuyện ấy. Tôi không hiểu sao có người con gái nào trên đời này lại có thể kết bạn với người đã dám ăn thừa diã cơm của mình.

Một trưa tôi hỏi Nhiên:

- Ngồi nói chuyện như vầy Nhiên không "sợ" sao?

- Sợ ? mà sợ cái gì? tình bạn trong sáng thì có gì mà sợ.

- Dư luận , Nhiên cũng không sợ?

- Hơi đâu mà sợ dư luận, Nhiên chỉ sống thật với chính mình. Nhiên coi Hoà như một người bạn trong sáng.

Tôi suýt phì cười, nói:

- Vậy mấy bạn khác của Nhiên không trong sáng à.

- Nhiên có cả đống bạn gái cũng như trai, bạn gái thì không nói chứ bạn trai thì chán lắm...

- Sao mà chán?

- Có ông mới gặp có chút xíu đã rủ đi ăn kem, ra công viên, có ông ra vẻ ta đây giàu có, có ông ...

Tôi cắt ngang:

- Nhiên khó quá, ai có phước lắm mới gặp được Nhiên.

Rồi tự nhiên tôi đổi đề tài:

- Hồi nhỏ Hoà mê nhạc ghê lắm, thường học khuya xong, radio có chương trình nhạc hoà tấu và giao hưởng, Hoà hay nghe nhất là những bài đàn piano cổ điển thuộc trường phái lãng mạn như Chopin, Tchaikovsky, …

- Nhiên cũng thích nhạc cổ điển, bữa nào đến nhà Nhiên đánh cho nghe

Tôi tưởng như tai mình nghe lầm, nên nói cho qua:

-uh, bữa nào cũng được

Nhiên bất chợt hỏi tôi nửa đùa nửa thật:

- Hoà không sợ đến nhà Nhiên sao?

- Tình bạn trong sáng làm gì mà phải sợ

Nhiên nói như thử tôi:

- Nhưng mà ba mẹ Nhiên khó lắm

- Đến nhà nghe đàn với tình bạn trong sáng, Hoà đâu có làm gì mà phải sợ ba mẹ Nhiên

- Nói vậy thôi, ba Nhiên đi làm xa, tuần về một lần, còn mẹ Nhiên làm công chức.

Lần đầu tiên Nhiên nói về gia đình mình, rồi hỏi tôi:

- Còn Hoà?

- Ba Hoà làm lính, mẹ buôn bán ngoài chợ, nhà ở BH, xuống SG nhờ Ba Hoà quen, xin cho Hoà ở trọ cùng một số lính trong một nhà mà trước để Quân Đội xử dụng, nay để không

Chúng tôi lại tạm ngưng câu chuyện vì chuông đã reo đến giờ học,

Ngày tháng trôi qua …trung bình, nghĩa là không nhanh không chậm, chỉ vừa đủ cho hai chúng tôi mỗi tuần gặp nhau nói chuyện một lần, thế thôi, cũng chẳng toan tính gì vì nào ai biết trước ngày mai ra sao?

Rồi việc phải tới, một ngày đầu tuần thứ 2 của tháng 4, tình hình trong nước đã có nhiều biến động, nhưng chúng tôi vẫn đi học bình thường vì nhà trường không thông báo gì, Sáng hôm ấy,  đang giờ học, khoảng 9 giờ, đột nhiên tiếng bom nổ thật gần trường chúng tôi, sau đó là vài loạt súng, chả ai biết chuyện gì, về sau biết là một phi cơ F5 đã thả bom xuống Dinh Độc Lập, từ dinh Độc lập chỉ cách trường khoảng hơn 500 mét đường chim bay, mọi ngưòi chạy ra sân, tôi gặp Nhiên, hai đứa đứng sát nhìn nhau không nói, nhưng lòng tôi thấy vui vì mấy khi gặp bất ngờ, dường như có một chút nhung nhớ đã xâm chiếm trong lòng nên gặp nhau dù vài ba phút cũng thấy ...mừng.

Chỉ 15 phút sau, hàng trăm lính Cảnh sát dã chiến kéo đến, xe đậu kín sân trường vì trường sát vách đài phát thanh SG, họ đến để bảo vệ , Sau đó, trường thông báo cho tất cả sinh viên nghỉ học. Mọi người đổ ùn ra đường.

Lúc này đường xá chật cứng vì tất cả cơ quan khác cũng cho nghỉ, chỉ có thể nhích từng bước trên các con lộ lớn như Đinh Tiên Hoàng, Phan đình Phùng, Duy Tân , Hiền Vương....

Tôi ở trọ,đâu cần vội vã, ra sau cùng, tới cổng trường thì Nhiên đang đậu, xe vẫn nổ máy, Nhiên chặn tôi lại:

- Hoà, hôm nay nghỉ, về nhà Nhiên ăn cơm đi.

Rồi không đợi tôi ý kiến Nhiên nói tiếp:

- Sách nhà Nhiên nhiều lắm, Hoà cứ lấy mà đọc.

Tôi hơi phân vân dù sao nhìn bề ngoài, Nhiên hơn tôi xa, ăn mặc chải chuốt toàn hàng đắt tiền, không cần nói cũng biết là con nhà khá giả, còn tôi thuộc tầng lớp bình dân, lại đi chiếc xe đạp lọc cọc, tôi thăm dò:

- Nhà Nhiên gần hay xa

- Gần,mà cứ theo đuôi Nhiên đi thôi, Nhiên đi chậm cho Hoà theo mà.

Trời nhân đạo thiệt,được làm cái đuôi của Nhiên thì còn gì hơn!

Nói vậy chứ lúc đó đường kẹt cứng, xe đạp như tôi chắc luồn lỏi nhanh hơn Nhiên .Tới ngã tư Phan Đình Phùng-Công Lý , quẹo phải một chút, tới một khu toàn là biệt thự, mỗi nhà bốn bề có hàng rào riêng. Khu ở rất tĩnh lặng, yên ả chứ không có chút nào náo nhiệt như những xóm bình dân ồn ào đông đúc.

Nhiên leo xe lên vỉa hè, ngưng lại rồi xuống xe đưa tay luồn vào trong mở khoá, rồi đẩy xe vào . Tôi hết hồn.

Trời ơi, biết vậy tôi không theo, nhà lớn quá, chỉ nhìn qua cũng biết là nhà của quan chức cao cấp, nhà hai tầng xây theo kiểu thời Pháp, rộng rãi, bên trong trang trí toàn đồ sang trọng, mà lần đầu tiên tôi mới trực tiếp trông thấy, có cả cặp ngà voi treo trên tường và những đèn chùm rũ xuống từ trần nhà trông rất đẹp và sang trọng, một tủ đựng bóng mượt lấp lánh những ly tách, ruợu, cái Ti vi có khung cửa, dàn máy Akai to , một kệ sách bằng gỗ qúy đóng sát tường với khoảng vài trăm cuốn sách đủ loại,….bộ Salon bằng gõ chạm trổ rồng phượng ….

Bước vào tôi đã choá mắt, nhưng ..tự ái của thằng con trai, nên tôi chỉ khẽ nhìn sơ, tôi chú ý nhất là cây đàn grand piano,đặt ngay kế cửa sổ phòng khách trông ra vườn hoa với dăm bảy loài hoa khoe sắc dưới nắng mai

Nhiên dọn sơ nhà cửa vừa rót nước ra ly, đẩy về phiá tôi, mở to cánh cửa sổ rồi Nhiên hỏi bâng quơ:

- Hoà thích hoa nào?

- Hoa mười giờ, màu hồng nhẹ nhàng, sáng nở chiều tàn, nhưng mai nở tiếp, ngày nào cũng nở

-Hoà nói câu đó có …triết lý hông dzậy?

- Nhiên hiểu sao cũng được

Cả hai chúng tôi cùng cười vì thật ra có câu trả lời rồi.

Vừa lúc đó, em Nhiên là Phương cũng về đến, Phương học Lê Qúy Đôn, trường cũng cho về vì vụ đánh bom vừa qua

Lịch sự , tôi đứng dậy, nhưng chưa lên tiếng, Phương mau mắn:

- Chào anh

Thì Nhiên đã nói:

- đây là Hoà, bạn chị, học cùng trường, thôi em xuống giúp chị nấu cơm trưa có anh Hoà ăn nữa đó

Còn mình tôi, đứng xớ rớ, tôi lại cây đàn, vén tấm khăn phủ lên, gõ gõ

Nhiên chạy lên, hỏi:

- Hoà biết chơi Piano?

- Không, chưa thấy cái đàn piano bao giờ , mà Nhiên học đàn lâu chưa?

- Hai chị em Nhiên học lâu rồi từ nhỏ

- Ước gì đưọc nghe Nhiên chơi một bài!

- Hoà muốn nghe nhạc gì?

- Gì cũng đuợc, nếu Nhiên đàn thì còn hân hạnh nào bằng.

- Nhiên chưa đàn cho người con trai nào đâu đấy, Hoà là người đầu tiên

Nhiên chỉnh ghế lại, bắt đầu tập trung, Nhiên chơi nhạc Chopin bài Nocturne Op. 9 No. 2, bài nhạc êm đềm như ánh trăng vừa hé, mang đầy phong cách của trường phái lãng mạn, tôi lắng nghe, trời ơi, sao mà trời thương tôi thiệt, tôi có lộc được một hoa khôi của trường, một cô con gái nhà qúy tộc cho nghe bài tôi thích.

Lát sau,tiếng Phương gọi:

- Chị Nhiên ơi, phụ em dọn cơm

Nhiên bảo tôi:

- Xuống nhà ăn cơm với hai chị em Nhiên

Nhà bếp cũng đẹp và ngăn nắp, sáng sủa vì có tới hai cửa sổ và một cửa hậu, tủ đựng chén bát toàn hàng kiểng của Tàu, Nhật nhìn sang trọng, tủ lạnh, bếp, nồi, ngăn nắp và sạch sẽ …

Cơm xong, chúng tôi lên nhà uống nước, tôi khá ngạc nhiên, Phương, em Nhiên cũng vui vẻ nói chuyện với tôi , thậm chí còn yêu cầu tôi khi nào rảnh ghé lại nhà kèm thêm toán cho em khi biết tôi giỏi về toán,Phương cũng hỏi tôi dăm câu về tỉnh tôi ở mà Phương chưa có dịp tới, nhiều câu hỏi rất ngây thơ, Phương hỏi tôi:

- Anh ở Biên Hoà, vậy có hay ra sông Đồng Nai ?

- Có chứ, đó là con sông gắn liền đời anh mà

- Anh ra sông làm gì?

- Làm …thơ và ngắm mây trôi.

- Bữa nào dạy em làm thơ với nha ..

Lan man một lát xong Phương cũng lên lầu nghỉ trưa, còn lại tôi và Nhiên ngồi nói chuyện, tôi nhắc lại:

- Nhiên nhớ Hoà thích bài Hẹn hò của PD chứ?

- Hoà muốn nghe, ?

Rồi không chờ tôi trả lời Nhiên đi tới cây đàn, bắt đầu chơi. Hết bản nhạc, tôi như mê mẩn, trời ơi,sao mà nhanh quá vậy! Thật là diễm phúc khi nhìn những ngón tay lả lướt đang nhảy múa trên phím đàn do một nàng tiên áo trắng thả hồn mình vào trong giai điệu buồn thảm. Mái tóc thề loà xoà bay nhẹ, rung động theo bài nhạc của bờ vai Nhiên, những lúc thăng trầm nhanh chậm, làm tôi có cảm tưởng mình đang hẹn hò ở một chốn mơ ảo nào đó …

nhưng cuộc vui nào chả có lúc tàn, tôi đứng dậy xin kiếu ra về, nhìn trời cao, tôi thấy những đám mây trắng, bay gặp nhau rồi tan loãng, mất hút ở lưng trời.

Ngày 27 tháng 4, chúng tôi vẫn đến trưòng, nhưng không học, có thày cũng không tới, đứng lơ vơ một lát, mạnh ai nấy về, tới cổng, từ xa Nhiên xuất hiện, dáng vội vã, ngoắc tôi qua bên đường, chúng tôi ngồi xuống bãi cỏ, gần nhà thờ Đa Kao, rất ít người qua lại. Tôi hơi ngạc nhiên khi lần này Nhiên ngồi gần như sát vai tôi. Tôi im lặng chờ đợi. Nhiên nói nhanh:

- Sáng nay ba Nhiên mới về đang giục cả nhà chuẩn bị gấp quần áo hành lý đi ra nước ngoài

Buổi sáng trời trong xanh mà tôi tưởng có sét đánh đâu đây, sẽ không còn gặp Nhiên nữa, không còn nghe tiếng piano tuyệt vời nữa, không còn những buổi nói chuyện nữa ...

Nhiên cắt ngang ý nghĩ của tôi:

- Hay là Nhiên về nói ba cho Hoà đi theo vì không chỉ có một mình gia đình Nhiên mà có một số người khác nữa

Tôi nói nhanh:

- Chắc là không được vì ba Nhiên không biết Hoà với lại Hoà muốn đi cũng phải về nói với ba mẹ chứ

Nhiên nói:

-Thôi khi ra nước ngoài rồi Nhiên sẽ tìm cách liên lạc với Hoà sau

- Uh, chắc Hoà sẽ học tiếp năm sau ở truờng, Nhiên cứ gởi thư về ai quen đó, rồi nhờ đưa lên trường

Im lặng một chút, bỗng Nhiên nhìn thẳng vào mắt tôi, , Nhiên nói khi đôi mắt đã long lanh:

- Thôi anh ở lại, em đi nha

Rồi lần đầu tiên Nhiên nắm hai tay tôi, xiết mạnh.

Xong Nhiên quay đi, hai giọt lệ lăn nhanh xuống đôi má, Nhiên nhanh chóng đứng dậy và ra về.

Tôi cứ ngồi ở bãi cỏ, lâu đến chừng nào thì không biết, chỉ biết là tôi chả còn nghĩ gì nữa, cũng chả cần phải diễn tả nỗi buồn và đau xé như thế nào của cảnh chia ly, trời đất như đang một cơn giông bão khủng khiếp cuốn mất đi cái gì qúy giá nhất -

Bảy tháng quen nhau, tôi chưa dám nắm bàn tay con gái một lần nào của Nhiên,không hẹn mà tuần nào chúng tôi cũng "tự động" gặp nhau ngồi dưới ghế đá sau trường trò chuyện tới mấy chục lần, tôi quen từng ánh mắt, lối cười của Nhiên. Nhiên như một ánh sao sáng đến với tôi giữa trời đêm cô tịch tuy xa mà gần, ánh sao không phải của tôi,mà ánh sao chiếu cho tim tôi một chút bâng khuâng, ảo mộng, cho tôi thấy vẫn còn chút tình người không phân biệt, dù có hố ngăn sâu thẳm

Từ một chén cơm thừa, định mệnh đẩy chúng tôi sa lưới. Chúng tôi là những con người nguyên khối, có tâm hồn biết thương yêu, với những tự do bay bổng, dưới mắt chúng tôi, tình cảm luôn là báu vật vô giá và trong sáng, quyến rũ, bao hàm ý nghiã khát vọng, chống lại những gì giả dối, già nua, cưỡng bức, nó đáp ứng nhu cầu tự nhiên của con người, cả hai chúng tôi đều dám dối diện sự thật, không e sợ trước trở ngại bất công hay dư luận.

Tôi và Nhiên đến với nhau vì tôi là trai và Nhiên là gái, chỉ có trai và gái mới có thể chuyện trò kéo dài lâu như thế.

Nhưng lần đầu tiên Nhiên xưng hô anh em và nắm tay tôi, lần thứ hai đôi mắt … Em ngấn lệ, thì đó cũng là lần cuối cùng tôi gặp ….Em.

Những con số lần đầu, lần hai và lần cuối là con số biết nói của yêu thương và đau khổ, và tôi chưa kịp nói tiếng Em nào cho Nhiên …

Đói

Một cơn gió lọt vào làm Sinh tỉnh giấc. Anh ta thấy cái hơi lạnh của mùa đông thấm qua lần chăn mỏng, và thấy người mệt mỏi vì suốt đêm đã co quắp trên chiếc phản gỗ cứng.

Sinh cuốn chăn ngồi dậy. Thế là, cũng như những buổi sáng khác, một cái buồn rầu chán nản, nặng nề ở đâu đến đè nén lấy tâm hồn.

Những đồ vật quanh mình ẩn hiện trong bóng tối lờ mờ khiến Sinh lại nghĩ đến cái cảnh nghèo nàn khốn khó của chàng. Một cái bàn con xiêu vẹo bên góc tường, một cái chõng tre đã gẫy dăm ba nan, một cái ấm tích mất bông và mấy cái chén mẻ, nước cáu vàng... Trong cùng, một cái hòm da, dấu vết còn lại, của cái đời phong lưu độ trước...

Tất cả đồ đạc trong căn phòng chỉ có thế. Mà đã lâu lắm, quanh mình Sinh vẫn chỉ có những thứ đồ tồi tàn ấy, đã lâu lắm chàng đến ở cái căn phòng tối tăm, ẩm thấp này. Những ngày đói rét không thể đếm được nữa. Tiếng gió vi vút qua khe cửa ban đêm chàng nghe đã quen, cả đến cái mệt mỏi lả đi vì đói, chàng cũng đã chịu qua nhiều lần rồi.

Sinh thở dài. Chàng nhớ lại cái ngày bị thải ở sở chàng làm, cái giọng nói quả quyết và lạnh lùng của ông chủ, cái nét mặt chán nản, thất vọng của mấy người anh em cùng một cảnh ngộ với chàng... Từ lúc đó, bắt đầu những sự thiếu thốn, khổ sở, cho đến bây giờ...

Một tiếng guốc ngoài hè làm cho Sinh ngẩn lên trông ra phía cửa: vợ chàng về. Nàng vén cái màn đỏ treo ở cửa bước vào. Sinh thoáng trông cái thân hình của vợ in rõ trên nền sáng, một cái thân thể mảnh giẻ, gầy gò trong chiếc áo the mỏng phong phanh. Cảnh tượng ấy làm cho chàng xót thương...

Vợ chàng đi lại cạnh giường, yên lặnh nhìn Sinh không nói gì.

Sinh vơi lấy tay nàng kéo xuống bên mình, âu yếm hỏi :

- Em đi đâu mà sớm thế?

- Em lại đằng bà Ba ở cuối phố vay tiền.

Thế có được không?

Vơ Sinh nhìn chồng, thở dài lắc đầu :

- Ai cho chúng mình vay bây giờ. Bà ấy còn nhớ đâu đến khi trước vẫn nhờ vả mình.

Sinh buồn rầu, nói một cách chán nản:

- Thói đời vẫn thế, trách làm gì. Nhưng bây giờ làm thế nào?

Chàng nghĩ đến cái thạp gạo đã hết, mà trong túi không còn được một đồng xu nhỏ... Đã hai hôm nay, chàng và vợ chàng thổi ăn bữa gạo cuối cùng, đã hai hôm, cái đói làm cho chàng khốn khổ...

- Làm thế nào?

Vợ chàng nhắc lại câu hỏi ấy, rồi cúi mặt khóc. Một mối tình thương tràn ngập vào trái tim chàng như một làn sóng mạnh. Sinh nắm chặt lấy tay vợ ôm vào lòng, đắm đuối, thiết tha. Chàng chỉ muốn chết ngay lúc bấy giờ để tránh khỏi cái nghèo khốn khó, nặng nề quá, đè ở trên vai...

Buổi chiều đến đem theo những cơn gió lạnh lùng. Sinh bắc ghế ra cái hiên nhỏ trước cửa phòng, tựa vào bao lơn nhìn xuống nhà... Chỗ chàng thuê ở là một căn nhà hẹp và dài, chia làm nhiều phòng. Mỗi gian phòng là một gia đình che chúc ở, toàn là những người nghèo buôn bán ở các nơi.

Giờ này là giờ họ làm cơm. Trong thấy họ tấp nập làm lụng, Sinh lại nghĩ đến cái bếp nhà mình bây giờ vẫn còn tro lạnh, chàng lại lo không biết vợ đi từ sáng đến giờ sao mãi không thấy về, mà về không biết có đem cái gì không, hay lại chỉ một mối thất vọng như nhiều lần...

Nghĩ đến, Sinh lại đem long thương, thương người đàn bà xưa nay vẫn quen thói đài điếm phong lưu, mà bây giờ phải chịu khổ vì chàng... Hai bên gặp gỡ nhau trong một tiệc rượu dưới xóm cô đầu. Hồi ấy, chàng còn là một người có việc làm, còn là một người có lắm tiền. Quen biết nhau, rồi yêu mến nhau, chàng đã chẳng quản sự ngăn trở của nhà lấy nàng về. Đôi vợ chồng đã cùng nhau sống những ngày sung sướng, ái ân, những ngày còn để lại trong trí chàng một kỷ niệm êm đềm, mà mỗi khi nghĩ tới, chàng không khỏi bồi hồi. Rồi sự nghèo nàn đến, đem theo những cái nhọc nhằn, khổ sở, đem theo những ngày đói rét.

Tuy vậy, sự khổ sở chàng nhận thấy không làm cho vợ chàng bớt tình yêu đối với chàng. Cũng vẫn nồng nàn, đằm thắm như xưa, cái ái tình của đôi bên chỉ có thêm màu cay đắng vì xót thương nhau.

Cái hình ảnh một thân thể yếu đuối, mảnh giẻ in trên nền trời sáng buổi sớm mai lại thoáng hiện ra trước mắt Sinh. Chàng nhớ lại cái thất vọng không vay được tiền, đôi con mắt buồn rầu, đắm đuối nhìn chàng như ngụ biết bao nhiêu âu yếm, bao nhiêu hy sinh.

Một cơn gió đến làm cho Sinh thấy lạnh buốt tới xương. Chàng thấy đói, một sự đói vô cùng như trong đời chàng chưa thấy bao giờ. Đói như cào ruột, làm người chàng mệt lả đi, mắt hoa lên, trong vật gì cũng lờ mờ như lay động.

Khi còn đủ ăn, đủ mặc, chàng không hề để ý đến cái đói, không bao giờ nghĩ đến. Bây giờ chàng mới được hiểu biết cái đói như thế nào. Chàng rùng mình khi nghĩ đến trước cái mãnh liệt của sự đói, chàng cảm thấy sự cần dùng của thân thể tràn áp đuợc hết cả những lệ luật của tinh thần.

Mùi xào nấu đồ ăn ở dưới sân nhà đưa lên làm cho chàng khó chịu vô cùng. Sinh cúi đầu trên bao lơn nhìn xuống xem họ làm bữa cơm chiều. Các thức ăn tuy tầm thường, nhưng Sinh lấy làm lạ rằng chàng chưa bao giờ thèm muốn những cái đó như chàng thèm muốn bây giờ. Mấy miếng đậu vàng trong chảo mỡ phồng dần trên ngọn lửa, mấy con cá rán bắt đầu cong lại làm cho chàng ao ước đến rung động cả người...

Không bao giờ chàng thèm muốn như bây giờ cái miếng ăn kia.

Trước kia, khi nghe chuyện người ta tranh giành nhau vì miếng ăn, chàng vẫn mỉm cười khinh bỉ. Chàng cho rằng miếng ăn là một sự không đáng kể, chỉ có cái thanh cao trong sạch của linh hồn mới là cần. Nhưng bây giờ, trong cái phút đói này, chàng mới thấy rõ cái cần mạnh mẽ của miếng ăn là thế nào.

Và chàng, trước kia phong lưu trưởng giả, trước kia khi đi qua đám bình dân bẩn thỉu và nghèo nàn này, chàng vẫn khinh và tự hỏi không biết họ sống để làm gì, sống để mà khổ sở, để mà đói rét, không biết sống đối vơi họ có ý nghĩa gì mà còn ham mê quyến luyến. Bây giờ chàng lại ao ước được một miếng ăn như họ để sống qua cái rét mướt bây giờ...

Một bàn tay nhẹ nhàng để lên trên vai Sinh quay lại, vợ chàng tươi cười, giơ ra trước mặt mấy cái gói giấy bóng, gọn gàng, sạch sẽ, mà chàng thoáng trông, Sinh cũng nhận biết ngay là những thức ăn được, mà rất ngon, ở các hiệu tây mới có. Mùi thịt ướp và mùi giò thoang thoảng đưa qua. Sinh rung động cả tay khi lần cởi những giây buộc chung quanh. Chàng sung sướng hỏi:

- Ồ! Ở đâu thế này? Em Mai lấy tiền đâu mà mua thế?

Mai nghe Sinh hỏi:

- Anh cứ ăn đi đã! Ăn cho đỡ đói, rồi em kể chuyện cho anh nghe. Thật là may quá, mà cái bà ấy thực phúc đức quá, anh ạ...

- Ai thế? Kể đi cho anh nghe.

Mai âu yếm nhìn chồng:

- Không, anh cứ ăn đi đã kia. Vừa ăn, em sẽ vừa nói chuyện...

Rồi nàng nhanh nhẹn đặt mấy cái gói giấy lên bàn, mở những tờ giấy bọc ngoài. Sinh nhìn thấy mấy miếng thịt ướp hồng hào, mỡ trắng và trong như thủy tinh, mấy khoanh giò nạc mịn màng, mấy cái bánh tây vàng đỏ...

Mai cất tiếng vui vẻ:

- Thế này nhé, em ở nhà đi cũng là đi liều chứ thật không biết đến nhờ vả ai được. Anh còn lạ gì các bạn hữu bây giờ: họ thấy mình nghèo khổ, thì ai người ta giúp, vì có mong gì mình trả lại người ta được. Vì thế em mới lang thang ngoài phố, nghĩ lúc bấy giờ cực thân quá, anh ạ, chỉ muốn đâm đầu xuống sông cho rảnh...May quá, vừa lúc ấy, lại gặp ngay bà Hiếu, một người quen biết từ trước. Bà trông thấy em, vồn vã hỏi han như người bắt được của...

Mai nói nhanh, liếng thoắng:

- Bà tử tế quá... Cho em vay tiền, lại còn hứa giúp vốn để em buôn bán nữa. Rồi nay mai, em đi buôn cau, anh nhé. Thật không ngờ có bà biết thương người đến như thế...

Sinh sung sướng:

- Nếu không thì chúng ta đành nhịn đói ngày hôm nay. Nhưng sao em mua hoang thế này?

Mai cúi đầu cười, hai má đỏ hồng, mấy sợ tóc rối tung trên trán càng tăng thêm vẻ kiều mỵ của nàng.

Nàng thò tay vào trong túi áo, rút ra một tập giấy bạc, vứt ra trước mặt Sinh rồi nhanh nhẹn vui vẻ bước vào trong nhà.

- Anh đợi em một lát, em đi lấy dao cắt bánh.

Nàng quay lưng đi, Sinh chợt trông thấy trên mặt đất một mảnh giấy gấp rơi xuống đất. Chàng vô tình cúi xuống nhặt lên mở ra đọc:

Em Mai,

Đây, anh đưa em số tiền anh đã hẹn. Em muốn lấy nữa, anh sẽ cho em nốt, nhưng thế nào tối nay em cũng phải đúng hẹn đến đấy, anh đợi...

Tờ giấy trên tay Sinh rơi lúc nào chàng cũng không biết. Một cái sức nặng nề như đè nén lấy quả tim, làm cho chàng ngừng thở. Hình như một giây phút, bao nhiêu cái hy vọng sung sướng của đời chàng tan đi mất.

Sinh tưởng có thể chết ngay trong lúc ấy. Cái đau đớn chàng cảm thấy thấm thía, và sâu xa quá.

Còn mong gì đó là một sự không thật, một giấc mộng nữa. Không còn phải ngờ vực gì, cái số tiền kia chính là cái số tiền bên trong thư này. Ai cho vay mới được chứ! Sinh nhớ lại những ngày đi hỏi tiền, những buổi trở về thất vọng và buồn rầu, những lời tha thiết và oán hờn của vợ chàng kể lại, về cái lãnh đạm, hững hờ của những người nàng quen biết. Bà Hiếu là bà nào! Chẳng qua là một sự bịa đặt ra để che mắt chàng.

Sinh thấy cơn giận dữ nổi lên mãnh liệt trong lòng; đôi môi chàng tự nhiên nhách lên một cách khinh bỉ, chàng run người lên, khẽ rằn từng tiếng:

- Đồ khốn nạn.

Quả tim buốt như có kim đâm. Sinh nắm chặt lấy thành ghế, nhìn cuốn bạc giấy để trên bàn, nhìn gói đồ ăn đang mở dở rồi cúi mình xuống nhặt tờ giấy gấp lên.

Một lát, yên lặng. Rồi Sinh nghe rõ tiếng tấm màn vải ở cửa vắt lên trước gió, tiếng dép đi nhẹ nhàng, gần đến bên chàng... Sinh cố hết sức cắn môi để đè nén cơn giận dữ đang sôi nổi trong lòng, nắm chặt tay hơn nữa cho khỏi rung động cả người.

Tay vuốt nhẹ trên tóc Sinh, vợ chàng đưng sát hẳn ngay bên người. Nàng giở giấy ra, lấy dao cắt bánh, vui vẻ:

- Anh xem bánh này có ngon không? Em mua ở hàng Trống kia đấy. Miếng thịt ướp này là hạng ngon nhất, em đã phải trả đến năm hào đấy, anh ạ. Để em cắt cho anh nhé. Hinh như anh đói lắm thì phải. Em cũng thế. Thôi chúng ta hãy ăn cho no đã, rồi sẽ liệu sau...

Nàng cắt xong miếng thịt ướp, xếp lên đĩa, tươi cười nói tiếp:

- Kìa, anh ăn đi chứ? Thật là may cho chúng mình quá. Nếu hôm nay em không gặp bà Hiếu thì không biết chúng ta làm thế nào nhỉ?

Nàng vỗ vào vai Sinh, lay chồng:

- Làm thế nào? Lại nhịn như mọi hôm, chứ còn làm thế nào nữa, anh Sinh nhỉ! Anh nên cám ơn bà ta đi. Bà thật là một người tốt, hiền hậu biết thương người. Em vừa mở miệng hỏi, thì bà đã lần ruột tượng đưa ngay cho em 15 đồng tất cả đấy, anh ạ...Cuốn giấy bạc anh chưa đếm à? Em không nói dối anh đâu.

Cái giận của Sinh lên đến cực điểm: chàng không nén nổi nữa. Cái tên bà Hiếu làm chàng uất ức, vì chàng rõ những nhời giả dối của vợ chàng, giả dối một cách khôn khéo, tự nhiên như thật vậy...Mai lại đến nỗi như thế ư? Đôi mắt trong, cái khuôn mặt hiền hậu như thế kia không ngờ lạicó thể giấu được những sự tối tăm như bây giờ...

Vùng mạnh cánh tay, Sinh hất Mai ra xa như người ta hất một con vật đáng ghê sợ. Mai lảo đảo lùi lại sau ngã dúi vào tường, vành khăn tung, tóc xổ. Nàng giương to con mắt ngạc nhiên nhìn chồng:

- Ô hay! Anh làm sao thế?

Sinh cất tiếng cười, hai hàm răng rít lên, cái tiếng cười ghê gớm như tiếng cười của một người điên:

- Làm sao à? Cô lại còn hỏi tôi tại làm sao nữa...Thôi, đừng vờ đi, đừng giả dối nữa...

Sinh mở bàn tay giơ ra tờ giấy gấp đã nát nhàu:

- Thế cái giấy gì đây mới được chứ?

Mai trông thấy mặt xám đi, hai tay ôm lấy đầu, người run lẩy bẩy. Giọng nói của Sinh càng thêm vẻ chế riễu, mỉa mai, chua chát:

- Bà Hiếu tử tế đấy! Úi chà! Nào là bà ấy tử tế, nào là thương người, nào là hiền hậu... Sao không nói, bà ấy hẹn đến đêm nay lại đến nữa.

Mai cúi đầu ôm mặt khóc nức nở. Cái tiếng khóc ấy không làm cho Sinh bớt giận, lại chỉ làm tăng thêm lên như ngọn lửa đổ thêm dầu. Càng nói Sinh lại càng thấy cái giận như sôi nổi, bồng bột trong lòng. Mai sợ hãi nép vào tường, thổn thức, ngập ngừng, khẽ gọi:

- Anh Sinh...Anh...

Sinh như không nghe thấy tiếng, nói luôn:

- Cô còn khóc làm gì nữa... Cô đi ngay đi, đi ra khỏi cái nhà này, tôi không muốn thấy mặt cô một phút nào nữa. Cô cầm lấy cái này...

Sinh giơ tay vơ cuốn giấy bạc trên bàn ném mạnh vào người Mai; giấy bạc tung ra rơi lả tả trên thềm. Chàng hất cả mấy gói đồ ăn xuống đất, những mẫu bánh, miếng thịt bắn tung tóe dưới bàn...

- Không ai thèm ăn những thứ khốn nạn này!

Rồi chàng mệt nhọc ngả người trên ghế, hai tay dây mỡ ôm lấy trán, không để ý đến Mai đang sợ hãi giơ tay về phía chàng cầu khẩn, van xin. Rồi nàng nấc lên khóc, kéo vạt áo che mặt, đi ra phía ngoài.

Sinh cúi đầu ngẫm nghĩ; cái giận dữ đã tan đi, đểlại một nỗi buồn rầu chán nản vô cùng. Sinh thấy trong lòng nguội lạnh, một cảm giác lạnh lùng như thắt lấy ruột gan. Nghĩ đến những ngày đói rét khổ sở đã qua, đến mấy năm sống trong cảnh nghèo nàn, Sinh uất ức căm giận cho cái số phận của mình. Nhưng tại sao lại có thêm một sự đau đớn nữa? Tại sao Mai trước kia đã từng bao phen khổ sở cùng chàng, đến bây giờ đem thân bán đi lấy một vài đồng bạc, tại sao Mai lại làm sự khốn nạn như giờ...

Bao nhiêu đau đớn trong tâm can làm Sinh thổ thức, nghẹn ngào. Quả tim không đủ chứa nổi nỗi đau thương, Sinh gục xuống bàn.

Một cơn gió hắt hiu thổi đến làm cho chàng rùng mình. Bỗng nhiên tất cả người chàng chuyển động: chàng vừa thoáng ngửi thấy cái mùi thơm và béo của những miếng thịt ướp mỡ còn dính ở tay.

Cơn đói lại sôi nổi dậy như cào ruột, xé gan, mãnh liệt, ác hẳn cả nỗi buồn. Chàng muốn chống cự lại, muốn quên đi, nhưng không được, cái cảm giác đói đã lan ra cả khắp người như nước triều tràn lên bãi cát. Mỗi lần cơn gió, mỗi lần chàng ngửi thấy mùi ngậy béo của miếng thịt ướp, mùi thơm của chiếc bánh vàng, mũi Sinh tự nhiên nở ra, hít mạnh vào, cái mùi thơm thấu tận ruột, gan, như thấm nhuần vào xương tủy.

Sinh cúi xuống nhìn gói đồ ăn tung tóe dưới bàn, chàng lắm lét đưa mắt nhìn quanh, không thấy Mai đứng đấy nữa... Khẽ đưa tay như ngập ngừng, sợ hãi, Sinh vớ lấy miếng thịt hồng hào.

Sinh ăn vội vàng, không kịp nhai, kịp nuốt. Chàng nắm chặt miéng thịt trong tay, nhây nhớp mỡ, không nghĩ ngợi gì, luôn luôn đưa vào miệng...

Trong gói giấy, đồ ăn đã hết, chỉ còn những cái vụn nhỏ dính trên mặt giấy bóng mỡ. Sinh thấy nóng ran trong bụng. Chàng ưỡn người ra đằng sau khoan khoái thở dài. Nhưng chàng nhớ lại bức thư, cuốn giấy bạc, nhớ lại tiếng khóc thổn thức của Mai nép bên tường, nhớ lại những lời khinh bỉ, mỉa mai, chua xót. Chàng nhớ lại nỗi uất ức, đau đớn của mình...

Một cái chán nản mênh mông tràn ngập cả người. Sinh lấy hai tay ôm mặt, cúi đầu khóc nức nở.

Khi người ta đói

 Có kẻ từng mỉa mai về người viết sự đói, người đói, rằng tầm nhìn không thoát khỏi miếng ăn(!) Đúng rồi, nếu người ta no thì miếng ăn quá khẩu thành tàn, còn nếu đói, như các cụ nói, đói rã họng ra ấy à...

Chủ nhật vừa rồi tôi đi uống bia với anh bạn cùng cơ quan và vài người nữa ở quán bia Bò Tùng Xẻo trên đường Thái Hà. Anh bạn béo tốt, béo tốt tới mức, anh em trong cơ quan gọi đùa - Dũng Di Lặc và cậu ta là cỏi thước đo mức tăng trưởng của nền kinh tế nước nhà mấy năm qua.

Vốn người sành ăn, hễ đi nhậu, anh em đều tín nhiệm cậu ta khoản “đi chợ”. Tôi lần đầu tiên tới quán bia đó, còn bọn họ là khách quen. Quán đang đông, sau cú trăm phần trăm vại bia hơi Hà Nội, mới thấy anh bạn béo gọi đồ nhậu.

- Cho đĩa ... rau bí xào!

Bữa đó tôi là chủ chi, nên hơi áy náy, nhắc bạn, xem gọi thêm vài món gì nữa. Ông bạn bảo từ từ thôi, cậu ta khề khà nhắc chủ quán: chọn rau non, tước kỹ rồi xào nhiều tỏi vào... Nghĩa là chỉ đĩa rau thôi, ông béo hành nhà hàng đủ thứ. Chưa hết, cậu ta còn nhấn rõ, làm đĩa năm nghìn. Sau hai, ba lần trăm phần trăm nữa, vẫn chưa thấy ông bạn kêu thêm, mà lại gọi nhân viên tới, huơ huơ đũa, trỏ miếng bã rau trên bàn, cậu ta hất hàm hỏi:

- Này, rau chăn nuôi hay sao mà ăn phải nhả bã thế này!

Để cho cậu chàng chạy bàn phân trần một lúc, anh bạn béo mới tiếp:

- Cho đĩa thịt trâu xào cần! Mười nghìn.

Tôi hơi ngạc nhiên, lấy đâu ra thứ oái oăm đó, hay tay này tếu. Lại tiếng cậu ta cao vống:

- Xem nào, có đúng thịt trâu không!

Đầu bếp phải giương mịếng thịt trâu sát mặt cho cậu ta kiểm tra. Hoá ra quán đây có thịt trâu. Đĩa thịt 10 nghìn, còn xem có đúng không, mà tiếng ông bạn tôi đâu nhỏ, chắc không ít khách bia bàn khác phải nhìn sang. Sau tiết mục kiểm tra thịt, ông bạn Dũng Di Lặc oang oang tiếp:

- Miếng ăn là miếng nhục, nhưng miếng nhục lại là miếng thịt... Giống thịt trâu nó đậm hơn thịt bò, quán này có thịt trâu, không biết mà gọi thịt bò, nó mang thế bằng trâu, trâu mà tưởng bò, bò lại tưởng trâu... nó đã chém, lại còn cười mình con vịt... Nên cái gì bây giờ cũng phải xem, giả giả thật thật. Thôi nào, rước các chú chuẩn bị xơi món thịt trâu xào nào... H..à h...à!

Nghe tiếng mời giễu của bạn, tôi chợt nhớ tới từ “rước” trong bữa được mời cơm khách cũng trong một bữa ăn cách đây tròn ba mươi năm.

Ấy là mùa hè năm 1969, sau khi Giôn Xơn phải ngưng cuộc bắn phá miền Bắc lần thứ nhất, tôi được chuyến ra thăm Thủ đô, lần đầu tiên biết Hà Nội. Bầu đàn chúng tôi khá đông, ông chú ruột, 3 đứa em họ và tôi, tất cả 5 người. Quá hiểu và thông cảm với hoàn cảnh người nhà ở Hà Nội, sau chiến tranh khó khăn, nên dù là khách, ông chú tôi vẫn tự túc mọi thứ phục vụ cho sự ăn uống của đoàn. Trong bốn đứa, cậu em họ hơn tôi một tuổi, lớn nhất, được giao nhiệm vụ nặng nề, vác bó củi. Bó củi sắp tầy tặn, chằng bó cẩn thận, nặng không dưới 30 cân. Cậu thứ hai bằng tuổi, nhưng vóc dáng hơn tôi, được phân công vác bao tượng gạo chẵn mười lăm bơ, loại ống cân chín lạng. Đó vừa là lương thực của đoàn trong chuyến viếng thăm thủ đô, vừa là quà nhà quê đem đi biếu. Còn tôi đội quả dưa hấu. Không phải quả dưa mang đi làm đồ giải khát dọc đường, nó là món quà cho một người họ hàng danh giá bên ngoại của chú tôi. Sau chặng chen lấn ô tô khách từ quê tôi - Ninh Giang lên thị xã Hải Dương, chúng tôi lại tiếp chầu nữa rồng rắn xô đẩy xếp hàng mua vé, rồi tranh cướp nhau lên tàu hoả. Khoảng sáu, bảy giờ tối, tàu đến ga Hàng Cỏ, thầy trò tôi lếch thếch tìm đến người nhà ở ngã tư Khâm Thiên, khu 2A bây giờ. Dù cả ngày vất vả, hai ba giờ sáng xếp hàng tranh vé ô tô và khoảng bảy tiếng đồng hồ ngồi tàu xe trên quãng đường vỏn vẹn 87 km, tôi vẫn mê mẩn Thủ đô. Một đứa trẻ nhà quê lần đầu tiên ra tỉnh, thật cái gì cũng lạ. Có lẽ mải hếch mắt ngắm nhà, ngắm xe, ngắm tàu điện, lại loạng quạng vì đèn đường, tôi vấp rễ cây, ngã lăn cu chiêng, quả dưa hấu - món qùa mang đi biếu, đội trên đầu - lăn lông lốc và... vỡ toác. Tôi không rõ ông chú mắng mỏ, quát tháo những gì, chỉ nhớ đại ý rằng, lúc ấy ông cáu lắm. Thôi thế là món quà nhà quê có ý đồ đem biếu bị vỡ mất rồi!

Chuyến đi thật nhiều kỷ niệm và là kho chuyện cho tôi kể với đám bạn bè quê: Hồ Gươm to rộng bằng trăm cái ao đình làng mình, mà không bèo, nước xanh biêng biếc cơ; xì, cây gạo làng mình chưa đi đến đâu, vườn Bách Thảo cây to mười mấy người ôm mới xuể; ôi kem lạnh toát, thì kem là kem chứ còn là cái gì, thế mới lạ, lạnh mà lại bốc khói nhé, tao vừa mút vừa phải xuýt xoa cho răng đỡ bu?t; quầy bán xi rô Hà Nội chỗ nào cũng có, ngọt lắm, lại ngọt... không như xi rô trên thị trấn, nhạt thếch;... Phải đến cả tháng tôi tự hào kể với đám bạn như vậy, những đứa chưa một lần rờ chân tới phố huyện, chứ nói gì tới Thủ đô, chúng cứ tròn xoe mắt nghe. Có một chuyện mà tôi không kể, thực ra mới đầu về quê tôi đã kể, sau mấy cậu em họ nhắc nhở, bảo chú tôi dặn, đừng kể chuyện ấy nữa - đó là bữa được mời cơm.

Hà Nội vui quá, người đông quá, phố xá tấp nập, tưng bừng. Ba hôm ở thăm mà tôi thấy thời gian đi vèo vèo. Rồi bọn trẻ được ông chú thông báo, chiều mai có người họ hàng bên ngoại nhà chú tôi mời cơm. Mấy hôm thăm chơi Thủ đô, chúng tôi ở một nhà người họ hàng, tự nấu ăn lấy, củi gạo đã mang sẵn từ quê lên rồi. Lâu nay ở quê nghe nhiều về người Hà Nội. Ôi cái gì người Hà Nội cũng đẹp cũng hay, người Hà Nội lịch sự lắm, người Hà Nội nấu ăn ngon lắm, cỗ Hà Nội to, to lắm! Biết tin mai được mời cơm, tuy không nói ra, song chắc chắn trong thâm tâm mấy đứa trẻ chúng tôi, ai nấy đều khấp khởi mừng thầm, sẽ được một bữa thoả thuê, cỗ bàn Hà Nội mà, thịnh soạn, thịt cá ê hề, cứ thoả sức ăn.

Trước và trong chuyến đi, điều thường xuyên chúng tôi được nhắc nhở, khi công khai, lúc thầm thì, kể cả dùng ám hiệu nhắc nhở về vấn đề ăn uống. Bài học “Phải, không” có rất nhiều điều: phải ăn uống từ tốn; phải mời trước khi ăn; không nhai nuốt nhồm nhoàm; không tự tiện múc gắp;...! Nội dung bài học nhắc đi giảng lại đến mức tôi thuộc lòng. Dù vậy vẫn sợ hớ hênh hay quên, thỉnh thoảng tôi còn đem ra ôn tập, lẩm nhẩm đọc thành lời: không gắp, không nhai, không... Tức là phải lịch sự như người Hà Nội. Nếu không lịch sự được cái gì, thì chí ít gắng mà giữ cái sự ăn uống. Vâng, giấy rách phải giữ lấy lề, cái lề nhà quê. Trong lúc ở quê dạy các lễ nghi “Phải, không” kia, ông chú cao hứng, làm luôn một tràng, chẳng rõ nói với lũ tý nhau chúng tôi hay nói với ai:

- Người nhà quê vẫn bảo, lời chào cao hơn mâm cỗ cơ. Đúng quá! Đâu phải đói, mà cũng đâu phải người nhà quê sĩ.

Người mời cơm chúng tôi ở một phố tôi không còn nhớ rõ nữa, hình như nhà ở quãng quá Cửa Nam một chút. Ngoài chú cháu chúng tôi, gồm năm người và vợ chồng chủ nhà (ông bà không con cái), cũn cú người em ruột của ông ta. Nhà ông em ấy thì tôi biết, bởi chú cháu tôi một lần đã tới thăm gia đình đó. Gọi là nhà, nhưng thực ra đấy chỉ là hỏm chân cái cầu thang. Trước đây ngôi nhà là của ông ta, sau gia đình đi xây dựng kinh tế mới, nơi rừng thiêng nước độc, dân Hà Nội không quen cuốc cày, quyết tâm chưa cao, đã không vượt nổi cái hói hựng chốn chim kêu vượn hú, đành quay về Hà Nội. Lúc quay về nhà ông ta người khác ở rồi, gia đình tám khẩu đành tạm trú nơi chân cầu thang của chính nhà mình ngày trước.

Trở lại chuyện bữa cơm mời khách, tất cả chủ khách gồm 8 người. Phải nói rằng bát đĩa đẹp, mâm đồng sáng loáng, không nhôm nhoam mâm gỗ sứt mẻ kiểu làng tôi. Tôi chỉ hơi thất vọng, cơm mời khách sao sơ sài thế. Hay người ta để cho thức ăn nóng, chưa bày ra mâm. Đến khi chủ khách đã quây quần hết cả, tôi mới hết thấp thỏm hy vọng, sẽ còn nhiều món nữa.

Trên mâm có đĩa rau sống, cái đĩa rất to và đẹp, diềm đĩa lượn sóng, phía trên lồng bồng mấy cây hành chẻ tỉa như nhành hoa, rau muống cuộn lại tròn vo, xen vào đó là những nhánh rau xanh nhỏ, trông từa tựa rau húng quê tôi, nhưng cuống màu lại tia tía, lá thì nhỏ săn hơn. Trong bữa ăn tôi mới biết là húng Láng, một đặc sản của Hà Nội, ông chủ nhà cứ luôn miệng giới thiệu, còn chú tôi thì xuýt xoa khen rằng ngon, thơm thế!

Bày kế đĩa rau sống là món rau muống xào, cũng đựng trong cái đĩa to tương xứng với cái đĩa rau sống. Món rau muống xào không có gì đặc biệt so với món rau muống xào quê tôi, ngo?i trừ nó điểm hoa trắng bằng những mảnh tỏi đập dập, cay xộc mũi.

Tiếp nữa là hai cái đĩa nhỏ, lòng đĩa to hơn miệng cái bát ăn cơm, đĩa trứng tráng và đậu rán.

Thứ sang và lạ mắt nhất với tôi là bát ô tô có con chim bồ câu nằm gần ngập mình trong nước váng mỡ và được đặt trang trọng giữa mâm. Bồ câu thì tôi không lạ, chỉ lạ là dưới làn nước váng mỡ và đùng đục, thấy những hạt tròn tròn trăng trắng. Sau này tôi được giải thích, ấy là món chim ninh hạt sen, thứ đó ăn vào đại bổ và dễ ngủ.

Đếm ngắm các món, tôi nghĩ bụng, hoá ra cỗ Hà Nội cũng không sang và to tát gì, thậm chí còn kém cỗ giỗ hay cỗ Tết quê tôi. Chắc là bởi vì người Hà Nội ăn uống thanh cảnh, như lâu nay người nhà quê chúng tôi thường đàm luận.

Anh em tôi khoanh chân ngồi theo sự sắp xếp ngầm của ông chú. Tôi nhớ, quy trình từ động tác soạn đũa, chia bát, đến rót rượu và “rước nhau xơi” kéo dài chừng 15 phút.

Đợi quá lâu tôi đành ngắm con chim câu ninh trong cái bát ô tô sứ đẹp. Tự dưng lúc đó nước b?t tôi cứ tứa ra. Vì tôi ngắm nghía món chim ninh kỹ quá, cậu em họ lớn hơn tôi đã huých một nhát vào mạng sườn tôi, đấy là tín hiệu nhắc nhở, không được nhìn như vậy nữa, cả không được tứa nước bọt nữa...

Dù dềnh dàng bao nhiêu, bữa cơm thết khách cũng phải đến lúc bắt đầu, người ta mời nhau đến đây ăn, có phải đến xem cơm đâu, tôi nghĩ bụng vậy. Người lớn thì nhắm rượu, còn chúng tôi “xơi cơm”, đấy là từ ngữ nói như ông bà chủ dùng, vì từ đầu bữa ông bà chủ toàn dùng từ xơi: “Rước ông xơi!” và chú tôi đáp lại “Ông cứ để em dùng tự nhiên...” Tuy gạo mậu dịch, thổi khô, không thơm như gạo quê, mà mùi hôi xộc lên, vậy mà chỉ cơm không - chúng tôi được học tập trước rồi, không tự nhiên mà múc gắp - tôi vẫn cảm thấy ngon thế. Mà có muốn ăn, muốn gắp thì gắp thứ gì đây, món chim ninh tất nhiên là không được rồi, đĩa đậu rán cũng vậy, nó nhỏ xíu xếp lát cỡ chục miếng...

- Ngon, bà chị nấu ngon quá!

Tiếng ông chú tôi. Chẳng rõ chú tôi khen món nào. Không thể là rau sống và rau xào được. Cơm ở quê, ngày nào chẳng ăn rau muống, cả một rổ rau muống đầy tú hụ.

Hay là ông khen món trứng tráng? Tôi được bà chủ gắp cho một miếng, đĩa trứng trông thì vàng ngậy và dày, nhưng bở bùng bục, tôi lại nghĩ có lẽ do trứng gà ung, sau mới hay, người ta cho nhiều bột mỳ vào độn.

Hay là món chim? Ông chú đã dùng đâu, làm sao biết được nó ngon thế nào.

Sau những lời rước nhau xơi trịnh trọng, thời gian khoảng được nửa tuần rượu, ông chủ nhà hướng đôi đũa về phía bát chim ninh:

- Rước ông xơi! Kìa các cháu gắp ăn đi!

Ông chủ chưa kịp dứt câu, đã thấy tiếng chú tôi đỡ lời:

- Dạ vâng, ông cứ để em dùng tự nhiên!

Câu tiếp lời hơi to và rõ của chú, tôi biết đấy là sự cảnh báo ngầm của ông, chúng mày đừng có mà sa đà, tưởng người ta mời là gắp đấy nhá! Vâng, thưa chú chúng cháu nhớ chứ! Gi?y rách phải giữ lấy lề!

Tôi vừa thầm nghĩ vậy thì ông chủ ra đũa. Phải đến lúc này tôi mới thấy con chim được ninh nấu kỹ lắm. Ông chủ dùng đôi đũa đụng nhẹ một cái, thân hình con chim đã rời ra làm đôi. Ông dùng đũa gắp và cả cái muôi đỡ nửa con chim lên. Như chú tôi, động tác đồng loạt của các em tôi là giật lùi cái bát của mình lại một chút. Theo lý trí, cái bát của tôi cũng được điều khiển lùi lùi lại.

Quả thật, tuy lùi lùi bát, nhưng đầu óc tôi lại cầu mong: Bác ơi, bác gắp cho cháu nhá! Kìa cháu ngồi sát gần bác cơ mà! Và suýt nữa thì thứ tình cảm thầm kín trong tôi buột ra thành lời và cả xui khiến cả đôi tay tôi làm cái việc đưa bát của mình vươn ra. May sao phần lý trí trong tôi đã thắng.

Nửa con chim về bát ai, bởi ai cũng rụt bát cả lại?

Chắc nó lại phải trở về vị trí xuất phát ban đầu thôi!

Không, tôi thấy đôi đũa và cái muôi của ông chủ thu lại... và rồi, nửa con chim vào bát của ông.

Không khí bữa ăn hình như lặng đi, ngoại trừ đâu đó tiếng xương gãy, kêu r..ắ...c r...ắ...c!

Thời gian trôi đi dăm, ba phút, cả chủ và khách không thấy ai rước mời nhau xơi, nhau dùng gì nữa, chắc mọi người - lũ nhỏ chúng tôi ăn cơm thì thưởng thức cơm, còn ông chủ thì thưởng thức món chim ninh, mấy người lớn kia nhắm rượu thì thưởng thức rượu...

Lát sau tôi mới thấy lại tiếng ông chủ, trước đó ông rót tuần rượu thứ hai vào các chén, tất nhiên lần này không phải câu ông rước xách gì đâu, mà là đề tài mới, nội dung chuyện thăm thú Hà Nội của chúng tôi: “Thế các cháu đi được những đâu rồi?” “ồ phải ra hồ Gươm!” “à ra rồi à!” “ Thế thì nên đưa tiếp các cháu ra Bách Thảo!” “Đền Quan Thánh đẹp lắm!” “ Nghe bảo bức tượng đồng đen nặng đến mấy tấn cơ. Tôi là người Hà Nội mà đã đến được đâu.” “Thế nào, kem Hà Nội các cháu ăn có thấy ngon không?”

Sau những nội dung thăm hỏi và giới thiệu các điểm hấp dẫn cần tới thăm, tôi lại thấy ông chủ “Rước ông xơi” và điệp khúc của chú tôi đáp lại “Ông cứ để em dùng tự nhiên!”

Kìa, đôi đũa của ông chủ nhà đang hướng xuống bát chim ninh kìa.

Lần này, đôi đũa không dềnh dàng như trước, cũng không thấy ông nói câu “rước” nữa, chỉ thấy cái bát của ông đã đón sẵn và nửa con chim còn lại rơi gọn vào bát ông.

Tại sao bao nhiêu năm rồi tôi không quên bữa cơm khách đó và vẫn còn hình dung con chim bồ câu ninh nhừ, nhừ là, rất béo và ngậy nữa?

Thằng đói

Tiếng phanh rít, xe xịch đỗ ngay trước mặt tôi. Còn chưa hoàn hồn, tôi đã nghe tiếng cười hơ hơ. Trước mặt tôi, một người cổ nổi u, nổi múi, bàn tay đẫy đà, chìa phắt về phía tôi... Tôi không quen. Hắn ta vẫn ghếch chân trên chiếc @ trắng toát, nhăn nhở cười, nhìn tôi. Quái lạ, sao tôi vẫn chưa nhận ra là ai nhỉ. Chắc chắn phải là người quen mới có cử chỉ suồng sã vậy.

- Sao? Không nhận ra người quen à? - hắn hỏi và đến lúc này, mới bỏ cặp kính đen sì, trùm gần nửa mặt ra.

- Ông là...

- Hà hà... Hoàng, Hoàng số rách đây...!

Tôi nhớ ra rồi! Hắn, một thuở từng là hàng xóm cùng căn hộ, cùng cơ quan với tôi. Không thể nhận ra nổi, hắn như được lột xác, một thằng cha ngày trước tong teo, nay thành ông kễnh. Nhác nhìn đã thấy sự no nê, thừa đủ. Cái dây chuyền lủng lẳng đến vài cây quanh cổ và bàn tay, vằn vện những chiếc nhẫn, có chiếc gắn hột xoàn to ngật.

Ngày ấy hắn ở cùng căn hộ với tôi. Nhà tập thể, xây sau giải phóng bảy lăm. Tôi ở tầng bốn, căn hộ diện tích ngót nghét 40 mét vuông, gồm cả nơi ăn, ở, hành lang và tuốt tuột công trình phụ, công trình chính. Nếu tính cả 2 khẩu độc thân như tôi, gia đình hắn, cùng một gia đình khác 5 khẩu, lô lốc mười mấy mạng người, vỏn vẹn trong không gian 40 mét vuông ấy. Căn phòng được ngăn ba, mỗi “nhà” đều được chia đầy đủ, gồm diện tích ở, diện tích đi lại, riêng bếp và nhà vệ sinh, thì dùng chung. Không thể hình dung nổi, hơn chục mạng người, nhét trong cái diện tích toen hoẻn vậy, mà vẫn sống.

Sống như vậy cãi cọ, chạnh choẹ nhau như cơm bữa là chuyện thường, nhưng khó chịu nhất vẫn là hắn, cái tính bủn xỉn, hà tiện. Kể ra ngày ấy, lấy đâu ra để hào phóng, song hà tiện như hắn, thì trên đời này có là một. Kể ra, thành kẻ dòm ngó người khác. Nhưng mỗi khi nghĩ lại cái thuở chen chúc ấy, tụi không quên được những chuyện của hắn. Nhiều chuyện cứ như chuyện bịa, như cái chuyện định mức dùng diêm chẳng hạn.

Hắn định mức mỗi ngày nhà hắn chỉ được sử dụng một que diêm. Làm sao nhà người ta có thể sử dụng được như vậy nhỉ? Vì ít ra nhà nào ngày chẳng phải hai, ba lần nổi lửa? Mua bao diêm mới về, mỗi que hắn dùng con dao sắc, tách làm đôi, cả thuốc lẫn thân gỗ. Thế là một bao diêm, tự nhiên thành hẳn hai bao, hắn tự hào khoe bô bô với hàng xóm lỏng giiềng về sáng kiến tuyệt vời đến như vậy. Hắn ra cái luật ở nhà mình, mỗi ngày chỉ được dùng hai que diêm tách đôi này. Hôm nào vợ con hay bản thân trót đánh diêm, lấy lửa không thành, thì miễn, đừng bao giờ được dùng thêm một que diêm tách đôi nữa. Vậy thì lấy lửa ở đâu? Cứ việc đi xin lửa hàng xóm. Đã đi xin thì phải đợi, đợi cho kỳ được gia đình hàng xóm nổi lửa. Có bận, tính trong ngày hôm đó, đã đánh đến que diêm thứ hai, mà nhà hắn vẫn không lấy được lửa. Không may, hôm đó mấy nhà háng xóm đều đi vắng cả, đến tận sáu, bảy giờ, chẳng thấy nhà ai về. Thế là hôm đó, nhà hắn nguội bếp. Điều đó chẳng làm hắn bận tâm, mà lại lấy thế làm hay, tiết kiệm được một bữa cơm chiều. Chỉ có lũ con, oai oái khóc. Sự kẹt xỉ, bủn xỉn là việc riêng của hắn, miễn là không ảnh hưởng đến ai. Nhưng nhiều cái sự bủn xỉn của hắn, còn ảnh hưởng đến mấy nhà trong căn hộ. Một dạo, cứ mỗi lần nhà hắn nổi lửa, nhóm bếp, hàng xóm không ai chịu nổi. Có người phải ra cầu thang đứng. Kỳ cho đến khi nào hết làn khói bếp của nhà hắn, mới dám quay vào. Mọi người kỹ tính, không thông cảm hay khó chơi chăng? Cùng lắm việc đun bếp, khói lửa, thì nó cũng chỉ là các bô níc. Không phải vì khói bếp, mà là cái tính chất khói, nguồn gốc khói. Thứ giấy nổi lửa nhóm bếp của nhà hắn là giấy báo ở cái thùng trong nhà vệ sinh. Sau này, để chống cái làn khói ấy, ai trong căn hộ đi xong, đều giội nước hoặc cho giấy tọt vào lỗ thoát.

ở nhà đã đầy sự khó chịu, đến cơ quan hắn còn gây nhiều thứ khó chịu hơn. Khi còn là công nhân, do tay nghề yếu, tổ này đẩy ra, tổ kia dun lại, cuối cùng hắn được phân cái chân coi kho. Vài tháng sau, nhỏ to thế nào ấy, hắn lên chân giao phát linh kiện, vật tư ở kho. Thủ kho to hơn thủ trưởng, quyền ấy ai chẳng biết. Tự nhiên hắn trở thành một nhân vật quan trọng. Chưa kể, do sự bầu bán, cơ cấu, hắn lại có chân công đoàn. Từ khi sang chức thủ kho, tự dưng hắn hay lý luận. Hắn lý luận mọi nơi, mọi chỗ. Cái anh học vấn, văn hoá thấp, đánh vần chữ đánh máy không dấu còn chật vật, tên các linh kiện tiếng Tây, tiếng Tầu, đánh vần sao nổi, mà lại hay lý luận. Cái lý luận của hắn chung quy như sau: Tiết kiệm, chống lãng phí, quan điểm giai cấp, phe xã hội chủ nghĩa anh em....

Anh em thợ trẻ càng bị nghe nói nhiều, mỗi lần đến lĩnh vật tư, linh kiện, họ tức nổ máu mắt. Có cậu sinh viên thực tập, đến lĩnh thỏi thiếc, ai đời chờ viết, ký sổ, rồi cân, đo, đong đếm đến nửa tiếng. Xong rồi hắn vẫn chưa tha, mà tiếp tục bài giảng chính trị: Cậu còn là sinh viên, thì phải biết học cái đức tính tiết kiệm. Cậu có biết không, đây không chỉ là thỏi thiếc đơn thuần, mà nó còn mang ý nghĩa chính trị, tình đoàn kết giữa phe xã hội chủ nghĩa chúng ta. Vì vậy khi dùng, mỗi mũi hàn, cũng phải biết tiết kiệm... Lần đó tôi có việc đi qua, thoáng nghe cái điệp khúc giảng dạy lệch chỗ này, nóng mặt quá, tôi sấn lại. “Tiết kiệm, tiết kiệm cái gì. Chính cậu, cậu hãy học cách tiết kiệm đi. Bao nhiêu linh kiện, máy móc quý giá trong kho, vì dốt, cậu xếp tịt chúng xuống sàn kia kìa. Đấy chính là lãng phí, phá hoại đấy. ”

Rồi không hiểu sao, sau bảy lăm, tự dưng hắn bỏ cơ quan, chuyển nhà. Vốn chẳng ưa nhau, chẳng ai để ý thông tin về hắn. Hôm nay, bất ngờ tôi gặp lại người quen cũ. Hắn hỏi có bận gì không, chẳng thèm nghe ý kiến của tôi, hắn hất hàm về phía ngôi nhà hàng sang trọng gần đó. Ly rượu Tây khai vị và cậu chạy bàn lễ phép đứng bên cạnh. Tôi lúng túng khi hắn e hèm hỏi, chọn món ăn gì. Biết chọn thứ gì, khi mà đến cái tên món ăn, tôi cũng ma tịt. Đến ly rượu thứ hai, hắn nhìn tôi cười, rồi nhẩn nha hỏi: Ông còn nhớ cái bếp ăn tập thể ngày nào chứ? Ông... còn nhớ món canh rau muống chứ? Mặt tôi chợt bừng nóng. Chắc là tại ly rượu ngoại chăng. Hắn cười khùng khục...

Ngày ấy, cách trung tâm thành phố dăm, bảy cây số là cái xưởng sơ tán của chúng tôi. Anh em đa phần từ nội thành, sáng tối đi về, bữa trưa ăn cơm tập thể tại xưởng. Riêng hắn không ăn bếp tập thể, mà nấu ăn một mình. Hắn nói bị bệnh dạ dày, không ăn cơm tập thể được. Tuy là nấu ăn riêng, nhưng thực ra hắn vẫn nấu, vẫn ăn ở cái bếp tập thể đó. Ai cũng biết, hắn chả dạ dày, dạ mỏng gì, nấu và ăn riêng là hắn có ý đồ, mục đích hẳn hoi. Nấu riêng, tiền than củi không mất, cứ đun ké vào bếp than tập thể, mỗi ngày đã nhẹ đi khoản năm, ba xu củi lửa. Bếp chung, mắm muối hắn xin, ai nỡ từ chối. Đất xưởng rộng mênh mông, rau hắn trồng được, thế là hắn chỉ mất tiền gạo. Mấy bà nhà bếp tức lắm, cứ nay tí muối, mai tý mắm, họ chỉ biết xì xầm, thi nhau kể xấu về hắn. Hắn biết, hắn biết quá rõ, biết những ánh mắt tức bực, khinh thị, nhưng hắn vẫn phớt, vẫn nấu và một mình một nồi, một bát, ngồi xổm giữa nhà bếp tập thể, ăn. Từ lâu các bà nấu bếp biết cái trò trộm mỡ, khoắng mì chính của hắn, song chưa ai một lần rình bắt quả tang được. Cũng có người đã cố công rình, những vừa xểnh ra, đến khi quay lại nhìn, thấy xoong canh của hắn lềnh bềnh những mỡ là mỡ. Hôm thì hắn tưng tửng nói, đấy là cái xoong của hắn hôm qua rửa chưa kỹ, nên hôm nay nấu váng quá; hôm thì hắn bảo, sáng nay cô vợ gói cho hắn túi ni lông mỡ tướng, chẳng nhẽ bớt lại nấu bữa sau, chỉ tổ rây rớt, tanh tưởi. Hắn còn ca cẩm, sao cô vợ lãng phí, hoang toàng đến thế không biết.

Hôm ấy tôi đã biết âm mưu của mấy bà nhà bếp và ngấm ngầm quan sát. Từ sáng sớm mấy bà nhà bếp dóng ra dóng vào bảo, nhà bếp mới mua được loại mỡ mới, mỡ hộp viện trợ. Hình như là mỡ cừu của Mông Cổ, nên đặc quánh và trắng phớ. Không như mọi khi, hôm ấy hộp mỡ để chềnh ềnh, gần ngay bệ bếp than, chẳng đậy điệm, giấu diếm, hay phải cho vào chạn khoá như mọi khi. Đến bữa trưa, mấy người cứ diễu qua diễu lại, quanh quẩn chỗ hắn đang ngồi ăn. Có người còn như vô tình, đi sát chỗ hắn ngồi. Hắn vẫn thản nhiên ăn như mọi khi, không nhanh, không chậm, tất nhiên cơm hắn đánh đến tận đáy nồi, cuối bữa kết thúc bằng tiếng húp soàm soạp nồi canh. Chỉ có điều lần này, sau tiếng soàm soạp húp canh của hắn, thấy tiếng của ai đó rinh rích cười - dù đã cố kìm nén. Có bà còn ôm bụng, chạy ra ngoài sân cười sằng sặc.

Thế mà chuyện đã xảy ra gần ba chục năm rồi. Sau khi nhắc lại, hắn khùng khục cười, rồi thong thả rót rượu vào ly tôi, ly hắn. Lưng lửng ly rượu, hắn nhấc lên, hướng về tôi, tôi cũng gượng nhấc ly. Khi hai chiếc ly sắp cụm vào nhau, hắn chợt dừng lại, nghé mắt nhìn tôi:

- Hờ... Tiếng hắn cười - Chắc đến giờ ông vẫn chưa rõ cái món rau nấu của tôi lúc đó nó ra làm sao? Chát, đắng, nhục... nhưng mà đói, mà tiếc của, mà ki bo, kẹt xỉ, thì vẫn phải nuốt cái nồi canh mỡ xà phòng ấy... Nói đến đây hắn cụm cái ly khá mạnh vào ly của tôi, mà cười khẩy. Tôi ấp úng rằng, thế mà tôi không nhớ, không nhớ cảnh một người phải húp cả nồi canh xà phòng.

Người ta bảo rằng, nghèo là hèn. Cái đói là thứ người ta chóng quên nhất và cái giàu là thứ người ta dễ quen nhất. Không nhớ bởi vì bây giờ hắn giàu, rất giàu và tôi thì vẫn nghèo chăng?./.

Ăn vụng

        Ở ngõ phố tôi có anh chồng kia trót đi ăn vụng. Ăn vụng thế nào, mà cô vợ biết. Cô ta ghen đến độ ngất lịm đi. Tỉnh lại, mang ra rêu rao khắp ngõ. Chưa hả, cô nàng lên trình báo tận thủ trưởng cơ quan của chồng. Thời buổi bây giờ, chuyện ăn vụng, chả chi bộ, hay công đoàn cơ quan nào mang ra phê bình, kiểm điểm. Có phải của chung đâu. Thôi thì, của nhà ai, nhà ấy phải giữ chứ. Chỉ tội cho anh chồng, đâm ra sượng sùng - ăn vụng, mà không biết chùi mép. Ngẫm người lại nghĩ đến ta, tôi lại  nhớ đến vụ ăn vụng ngày bé của mình.

Nay ăn vụng với trẻ con, đặc biệt là trẻ con phố xá, có lẽ thành chuyện lạ, thậm chí chúng không hiểu, hành động ấy là gì. Cũng như hai đứa con gái của tôi, cho ăn như đánh vật, bố mẹ phải bắt ép, trước khi đi học ép uống cốc sữa, về học, ép ăn quả chuối. Trưa ép đằng trưa, tối ép đằng tối.

Nghĩ lại cái thuở nhỏ của mình, nghĩ mà thương. Giá được như bây giờ nhỉ. Tôi từng giải thích cho hai tố nga nhà tôi, ăn vụng là gì: Ngày xưa, bố mẹ chưa cho phép, thì không được tự tiện lục đồ ăn, như đĩa tép rang, niêu cá kho, âu đường, tự tiện mà ăn, ấy gọi là ăn vụng. Nghe giải thích vậy, các cháu ngạc nhiên, không hiểu tại sao lục đồ ăn, như bây giờ mở tủ lạnh, phải chờ bố mẹ cho phép. Ôi, thật khó mà giải thích cho chúng.

Cái thuở trước ấy, cách đây mới chỉ độ hai, ba chục năm thôi. Nếu cứ lấy tôi và đám trẻ hàng xóm nhà tôi ra mà suy, không đến một trăm phần trăm, thì cũng tới chín mươi phần trăm trẻ mỏ từng ăn vụng. Có khi ăn vụng một mình, có khi ăn vụng tập thể - anh chị em, hay rủ thêm bạn hàng xóm. Tất nhiên, khi ăn vụng, anh chị lớn trước khi đầu têu, đều dặn dò đám em, phải giấu bố mẹ. Trẻ con nghĩ thật ngây thơ, ăn vụng mà cứ kể bô bô, ăn vụng lần nào, bị phát hiện ra lần đó, mà vẫn không sợ, không chừa và vẫn thế, cứ tái diễn.

Nhà tôi ít anh em, kinh tế lại vào loại tàm tạm, nên hiếm khi bị cái đói hành hạ. Đại ý rằng, hàng ngày, không bị lép bụng, tháng tháng, mẹ mua con mè, con chép, dăm ba tháng có con gà toi, hay nhảy ổ, bị vỡ  trứng, rồi cỗ bàn, lễ tết. Những bữa ăn như vậy, tuy không đến thừa mửa, hay ăn đến độ no lòi kèn tổng nhỉ, nhưng cũng dịu bớt những cơn thèm khát thịt cá. Nói là kinh tế nhà tôi vào loại tàm tạm, song sự thèm khát của tôi đôi khi vẫn diễn ra. Như hàng xóm có cỗ bàn, giỗ chạp, bạn bè khoe: Ê, nhà tao hôm nay thịt gà nhé. Ê, nhà tao hôm nay có giỗ, thịt chó! Thế là thèm, thèm phát chảy dãi chảy dớt.

Tôi nhớ lần ăn vụng ấy, thật nhớ đời. Sau này lớn, có lúc nghĩ lai, vẫn tỉm tìm cười một mình. Phải gọi chính xác, đó là lần uống vụng. Đi ăn cỗ, hay khi nhà có khách, tôi thấy người lớn thường uống rượu. Thày tôi không phải người hay rượu. Ông chỉ uống khi có khách khứa, hay nhà giỗ chạp. Không biết từ bao giờ, trong tôi nảy sinh ý nghĩ tò mò, rượu nó như thế nào? Chắc phải ngon nghẻ lắm. Thế nên, người lớn mới nhâm nhi, mới tấm tắc khen ngon. Chắc nó còn rất bổ. Mỗi lần khi người lớn uống, ngữ chỉ một, hai chén, lại rót lưng lửng. Chưa hết, vào dịp tết, cửa hàng hợp tác xã mua bán, chỉ phân phối cho mỗi nhà có chai rượu mùi, hay chai rượu chanh. Người buôn rượu lậu, họ phải giấu đựng trong săm xe, bí mật quấn quanh bụng, hay đựng trong nồi chân, giả là nước tiểu. Mấy ông phòng thuế mà bắt được, kẻ buôn rượu lậu khóc nhều bọt mép, lẽo đẽo theo sau, xin  xỏ. Người ta bảo, ngày trước ấy à, thời Pháp thuộc, nhà ai nấu rượu lậu, chứa chấp rượu lậu, nếu bị phát hiện ra, tù mọt gông.

Ý nghĩ thử rượu cứ lởn vởn và sự tò mò ngày một gia tăng trong tôi. Rồi tôi nghĩ bụng, tại sao mình không uống vụng nhỉ? Uống vụng rượu với tôi không khó. Chai rượu thày tôi để ngay trên mặt tủ být phê, không chằng buộc, chỉ nút lá chuối và quấn lớp ni lông bên ngoài. Hôm ấy thày, u tôi đi làm, anh chị đi học cả. Một cơ hội thuận lợi uống vụng rượu của tôi. Tôi đóng cửa, cái then chốt cẩn thận, rồi bê chai rượu từ trên mặt tủ xuống, rót hẳn một nửa bán ăn cơm. Mùi rượu thơm lừng như kích thích tôi. Tôi hăm hở đưa bát rượu lên miệng. Không hiểu sao, lúc trước mùi rượu thơm lừng, quyến rũ, đến khi kề bát rượu vào sát miệng, hơi rượu lại xộc lên, cay xè, như chặn lại họng. Ngập ngừng, rồi tôi dừng lại, hạ bát rượu xuống. Quái lạ, sao nó như thế này? Rất nhanh trí, tôi nghĩ, mình phải nín thở, không ngửi, mà chỉ uống. Một lần nữa đưa bát rượu lên, tôi làm nhanh một ngụm. Dù nuốt vội, nuốt vàng, do hơi rượu cay nồng, xộc lên, vẫn đủ làm tôi ho sặc sụa. Ngụm rượu một nửa to bị hắt ra, nửa kia kịp trôi tọt xuống dạ dày. Mồm miệng cay xè, tôi phì phì nhổ nước bọt cũng dãi dớt, nhổ đến lúc không còn gì để nhổ nữa.

Tưởng ngon ngọt, ai dè nó ra như vậy. Tôi nhìn nửa bát rượu còn thừa trên bàn, vừa muốn đổ đi, vì chưa hết cảm giác sặc nôn, vừa tiếc rẻ, những nửa bát rượu. Chợt một sáng kiến nảy ra trong tôi, người lớn uống quen, còn mình chưa quen thôi, pha đường vào, chắc sẽ ngon ngọt ngay, sẽ dễ uống hơn. Đấy, mỗi lần ốm, cho mình uống thuốc, mẹ đều khuấy đường vào nhé. Thế là tôi xúc đường, đổ vào bát rượu. Chờ cho đến khi đường tan, tôi đưa bát rượu lên. Lần này có kinh nghiệm vì vừa sặc rượu, nên tôi hết sức cảnh giác, đưa từ từ, lia lưỡi nếm thử. Than ôi, dù đã pha đường, đã khuấy kỹ, thứ nước đường rượu vẫn đắng ngắt, vẫn cay nồng, mới chỉ nhấp môi, vẫn không chịu nổi.

Nhà tôi vốn nuôi con mực, suốt ngày nó quấn quýt quanh tôi. Lúc trước nghe động thìa bát, con mực  xán đến, mắt hau háu nhìn, lưỡi thè ra liếm liếm chân tôi. Nó thực sự trở thành kẻ đồng lõa trong vụ uống vụng rượu ấy. Bát rượu uống thì không được, đổ đi lại tiếc. Còn con mực vẫn hau háu chờ đợi, cái đuôi nó ngoáy tăng tít, đầy nịnh bợ, xem ông bạn của nó có chia chác cho nó thứ gì không. Ừ, sao mình không cho nó uống nhỉ, đỡ phí của. Tôi đặt bát rượu xuống nền nhà, con mức xán lại, thục mõm hít hít. Ơ hay, sao nó lại nghểnh ra, xem chừng dửng dưng. A, mày chê à? Tôi túm chặt đầu nó, lôi lại, ấn ngay mõm nó vào bát rượu. Cái mõm vừa bị nhúng xuống, đã vùng ra, nó còn hất đổ văng nửa bát rượu ra khắp sàn. Sau khi vẫy vùng thoát khỏi  tay tôi, con mực chạy tụt vào gầm tủ. Từ trong ấy nó ư ử, lấm lét nhìn ra. Đúng lúc ấy nhìn ngó nó, tôi thấy mắt hoa hoa, con mực hình như ư ử cãi lại tôi. Nó có láo toét không, bạc bẽo không.

Đoạn sau của bữa rượu vụng ấy không rõ tiếp diễn thế nào. Tôi đã say vì nửa ngụm rượu và ngủ thẳng cẳng ngay trên nền nhà. Trưa ấy thấy u tôi đi làm về, thấy cậu quý tử nằm sõng xoài trên nền đất, ông bà hốt hoảng la khóc, không rõ con trai mắc chứng bệnh gì. May mà có hàng xóm đổ sang, họ kịp ngửi thấy mùi rượu nồng nặc, đoán ra lý do là gì – là tôi say rượu. Tôi được lay gọi, cho uống cả rau muống dã nhuyễn, hòa với nước đường, rồi bôi vôi vào gan bàn chân và gối đầu lên chổi rơm cho rã rượu. Tuy thoát cơn say, nhưng đến mấy ngày hôm sau, người tôi còn đỏ mẩn. Người ta bảo, ấy là bị dị ứng rượu./.

Ao làng

Tôi đến thăm ông bác ruột. Gõ cửa mãi mới thấy ông lò rò bước ra sân. Nhìn thằng cháu một lúc, mà ông vẫn chưa nhận ra là ai. Mãi tới khi tôi lên tiếng, ông mới chậm chạp mở cổng, húng hắng giải thích: “Dạo này trộm cắp lừa đảo nhiều, hết giả danh tiếp thị, quảng cáo, bán hàng, đến quyền góp tô tượng, đúc chuông. Cứ sểnh ra là không mất cái này, thì mất cái kia. Cứ phải xem kỹ, nhòm kỹ, có đúng người quen không, mới dám mở cổng.” Bác cháu tôi ngồi uống nước được một lúc, thì bà bác dâu ở đầu về về. Bà áo dài, cổ đeo lủng lẳng chuỗi ngọc trai to bự. Trái ngượi với ông chồng hom hem, bà phốp pháp, đẫy đà. Gặp thằng cháu chồng, bà chẳng mấy mặn mà. Bà vừa khuất vào phòng trong, ông bác nhát gừng giải thích: “ Đi chùa”. Nói rồi ông cười ruồi: “Dạo này lắm người thành kính. Không còn thiếu đền, chùa nào không đến. Cúng mà lắm lộc, sạch tội thì....”. Ông chưa nói hết câu, từ phòng trong, bà khó chịu bước ra: “Ông... ông thì biết gì mà tham góp. Suốt ngày ru rú trong nhà. Ông không thành kính thì thôi. Đừng có mà báng bổ”.

Kéo cái ghế cách xa chồng một quãng, bà bác dâu vắt chân ngồi vắt chân ng ồi và chõ về tôi, hỏi:

- Nâu nay anh có về không? Khiếp, khiếp quḠmất thôi. Tháng trước tôi mới về quê ăn cỗ cưới. Đúng nà quá bằng hành tội. Cỗ bàn gì mà toàn thịt nợn nà thịt nợn. Có đĩa gà nuộc, thì nà anh gà công nghiệp, trắng nhởn. 

-  Trắng, trắng mà còn có mà ăn là phúc - ông bác tôi đế luôn - Ngày trước ấy à, đói, đói rã họng ra. Đến gộc tre cũng chả có mà ăn. 

- Trước... trước.... Ông không còn chuyện gì để nói nữa sao. Suốt ngày... chỉ trước, trước. Nghe mà sốt ruột!

- Trước... trước.... Ông không còn chuyện gì để nói nữa sao. Suốt ngày... chỉ trước, trước. Nghe mà sốt ruột!

Nghe quen nghe cái sự đối đáp của hai bác tôi như vậy, t ôi nín thinh.  Bà bác dâu tôi lúc này đã thay bộ đồ khác. Nom kiểu cách ăn vận, chẳng hợp với cái tuổi cña bà. Ở ngữ ngoài sáu mươi, cái áo hở cổ hoác ra, cái quần mỏng dính, trông rõ cả bắp đùi béo nũng. Bà khác người đàn bà thôn quê thuở nào rồi. Đâu còn quê kệch cái khăn nâu mỏ quạ, chiếc quần phin đen thường trực xắn móng lợn và miệng đỏ quết trầu. Gia đình bác tôi chuyển ra phố huyện được mấy năm nay. Nhà này, kiểu cách và cái chất quê, chỉ còn lại ở ông bác. Mấy ông anh và bà bác dâu, họ như là lột xác, lột từ trang phục đến lời ăn tiếng nói, tức là đặc sệt dân phố.

Để tỏ thái độ bất hợp tác với chồng, bà bác dâu chẳng thèm chào thằng cháu chång lấy một câu, lệt bệt dép leo thẳng lên gác. Đúng lúc đó ông anh họ tôi ở đâu xe con láng coãng xịch đỗ trước nhà. Lúc trước nhấm nhẳng với bà vợ già, giờ đến lượt thằng con trai, trong câu chuyện, ông cũng tỏ ra khó chịu. Anh con trai mở miệng câu nào, ông bố chặn họng câu đó. Thái độ của ông bố là vậy, nh¬ng anh họ tôi vẫn thản nhiên như không, cứ nói cười bô bô. Anh còn đưa cho tôi tấm các thơm lừng, trên các in chềnh ềnh chức danh: Tổng giám đốc Tổng công ty cổ phần Hưng Phú. Mặt sau các thì in đến ba, bốn thứ ngoại quốc. Nghe nói anh buôn bán to lắm, hàng toàn xuất sang Đài Loan, Hồng Kông và đi cả Mỹ nữa.

Chuyện gia đình ông bác tôi rời làng ra phố bắt đầu từ việc ông anh họ với cái ao làng. Anh họ tôi mấy năm trước ở quê từng làm chủ tịch xã. Ông chủ tịch xã chỉ đạo khoanh đất, đổ cát cái ao, rồi bán. Trong việc bán chác, mấy vị chức sắc xập xí, xập ngầu tiền nong. Việc vỡ ra, họ bị cách chức ráo. Không chịu được cái nhục đó, ông bác tôi đành phải bỏ làng, lên mảnh đất con trai đã dấm trước ở phố huyện. Ông không thể nào chịu nổi trước những lời ong, tiếng ve của dân làng, con ông là một thằng tham nhũng.

Tôi có nhiều kỷ niệm với cái ao làng. Cái ao rộng lắm, nước trong veo. Mặt n¬ước dập dềnh những đám bèo tây, bèo ta. Đâu đó ven bờ, những bè rau rót, rau muống giăng ra. Ao làng, còn có có tên là ao Bà Phó. Cái tên ao làng thì hiển nhiên rồi. Còn cái tên ao Bà Phó là có gốc rễ của nó. Ông tôi hay kể: Đã lâu lắm rồi, c ái năm trước bốn lăm, có bà Phó goá chồng. Cái tên Phó bắt nguồn từ việc chồng bà mua phó lý, chứ ông có ngày nào ra làm ông lý, ông phó đâu. Bỏ tiền ra mua, khao vọng xong, ông bà nghiễm nhiên được dân làng gọi là ông phó, bà phó. Ông bà giầu có, mà không con cái, chẳng có người hương khói. Tất nhiên hương khói phải theo nghĩa chính tông, chứ còn tiền của như vậy, ở làng, họ hàng dây mơ rễ má, chả khối kẻ chẳng tấp tểnh ăn tự. Ông mất đi, bà bơ vơ trên cõi đời. Bà đã lo người ăn tự råi, nhưng tiền của vẫn nhiều. Người này bàn vào, kẻ kia tán ra, các cụ lại luôn rỉ tai, thế là bà Phó bỏ tiền mua cái ao, cúng cho làng. Thế nên cái ao mới có tên, ao Bà Phó.

Hồi cải cách ruộng đất, những người nhiều ruộng, lắm đất, đều bị quy là địa chủ tuốt. Người gian ác thì bị xử bắn, còn các địa chủ khác, bị tống ra khỏi nhà. Những người ít ruộng, diện phú nông, trung nông, bần nông, sau đổi công, đến thời HTX, đều góp ruộng vào làm ăn tập thể. Tất nhiên cái ao Bà Phó trở thành ao chung. Ao làng là nơi dân làng tắm gội, kín nước về ăn, quanh bờ mấy bà bắt ốc, móc cua, lũ tý nhau bơi lội, tắm táp, còn đêm hôm, trai gái tình tự. Cũng chính cái ao làng này, có đứa trẻ tầm trạc tuổi tôi bị chết đuối. Không biết bơi, chỉ ôm cây chuối tập tững đạp nước quanh bờ, đến khi trượt tay, uống nước no và chìm nghỉm. Lúc vớt được lên,  thân xác đã mềm oặt, nhợt nhạt. Người lớn vác ngược, chạy khắp làng, người theo sau la hét, kêu hồn, gọi vía. Vác ngược để nước éc ra miệng, nhưng chẳng ăn thua gì. Chết vẫn hoàn chết. Chuyện tôi biết bơi cũng rất vô tình. Tôi theo đám trẻ ngụp lội quanh bờ. Lũ trẻ đùa nhau, một đứa đẩy tôi ra xa, làm tôi chìm nghỉm, uống no một bụng nước. May được cứu, không thì tôi thành người thiên cổ. Cứu tôi là một ông chú trong họ. Mẹ dắt tôi đến nhà ông cảm ơn và xin cho “cháu” làm con nuôi. Ông cười, không nhận, mà nói rằng, không họ hàng thì cũng người trong làng. Thấy cảnh đó, ai mà chẳng cứu. Sau đận đó, tôi vẫn không hề sợ và tự dưng biết bơi. Lội xuống ao, người cứ nổi lềnh bềnh. Sau này tôi còn dạy bơi cho khối đứa. Có thằng bé hàng xóm thuê tôi dậy bơi cho nó. Giá thuê là mấy củ khoai, nó vụng trộm của nhà. Nhớ buổi trước lúc dạy bơi, tôi bắt con chuồn chuồn ngô râ to, bảo nó cởi trần ra. Nhìn tôi giơ con chuồn chuồn, thằng bé mặt xanh xám. Nhưng trước những lời khích bác của đám trẻ, nó đành cố nhịn. Đến khi tôi gí con chuồn chuồn vào rốn, thằng bé hét toáng. Hôm đó về nhà, tôi bị bữa no đòn, bởi mẹ thằng bé đến mách thầy tôi. Chẳng hiểu có phải và con chuồn chuồn cắn rốn không, mấy hôm sau, thằng bé biết bơi.

Về bà Phó, hồi còn nhỏ, tôi có biết mặt bà. Giầu có  là vậy, nhưng vì sang tên, chuyển chủ ruộng đất cho người ăn tự, rồi bao lần cúng tiến làng, cúng tiền chùa, tài sản của bà vơi đi vợi. Đến hồi cải cách ruộng đất, do ruộng đất chẳng còn bao nhiêu, đâm ra may, bà không bị quy là thành phần địa chủ, phú nông gì sất. Hình ảnh về bà Phã tôi còn nhớ, là những lần bà vßng vọng đứng chửi những kẻ trộm chuối, bắt gà của bà. Ngày trước hào phóng bao nhiêu, hiến cả cái ao rộng là thế cho làng, vậy mà nay, chỉ mất có con gà, bà réo rắt chửi cả tháng. Bài chửi của bà có văn có vẻ, cứ thượng tổ, hạ tổ cái đứa trộm cắp mà réo. Cứ như bà chửi, thì nhà chúng nó đến tàn cây, héo lá, mồ mả tổ tiên phải nhảy xếch lên. Không biết có phải vì chửi rủa ngoa ngoắt quá, dù bà đã cúng nhiều của, nhiều ruộng cho chùa, cho làng, nó ám vào số phận của bà, nay lúc về chầu tổ tiên, bà khổ lắm, ngắc ngứ mãi mới nhắm mắt được.

Lại nói về cái ao Bà Phó. Thời HTX, ngoài chức năng tắm rửa, cung cấp nước ăn cho dân làng, cái ao còn là nơi thả cá. Cứ vào cuối năm, HTX tát ao, chia cá cho cả làng. Dịp tát ao, đúng là ngày hội, trai, gái, trẻ, già nhua nhúa tụ tập quanh bờ. Cái máy bơm xình xịch chạy suốt đêm. Nước cạn lưng lửng ao, nước cạn nửa ao, cá trồi lưng. Dân quân gác suốt. Ao cạn rồi thì bắt. Người ta chẳng mấy ai quan tâm đến sản lượng, đến chỗ cá chung bắt được là bao nhiêu, vì kiểu gì thì kiểu, cũng chia, mỗi nhà một suất. Người ta quan tâm nhất là cái khoản hôi tát. Hôm đó tôi chầu trực suốt từ sáng đến quá trưa, bỏ cả cơm, bỏ cả học. Tôi nhớ, ông bác tôi, hồi đó giữ chân đội trưởng đội sản xuất, buổi tát ao, ông rõ là vất vả. Tay cầm cái tay tre đực rất to, ông hết chạy đầu ao đến cuối ao, xua đuổi, dậm doạ đám người quanh bờ. Cứ xểnh dân quân và ông ra, là có người nhanh như cắt, vọt xuống, chộp con mè, con trôi.

Hôm ấy, chưa chờ khẩu lệnh hôi cá phát ra, mọi người đã ào ào kéo xuống. Ông bác tôi chỉ đạo cuộc tát ao, không hiểu sao, lúc đó lại cứ vẫy vẫy tôi. Lúc trước thì ông chạy chỗ này, chỗ kia, lúc gần tháo khoán hôi tát, ông đứng y nguyên một chỗ. Tôi đúng là thằng ngố, mãi mới hiểu ra. Tôi xán lại phía ông, thọc tay nhanh xuống bïn, chỗ chân ông đang đứng, móc lên con sộp to tướng. Người xung quanh sững sờ, sao mà tôi may đến thế. Cả làng kháo, tôi được con cá đến mấy mươi cân. Thực ra thì con cá chỉ suýt soát hai ký lô. Cũng vì con cá sộp ấy mà tình cảm anh em bị một trận sứt mẻ. Con cá mang về, mẹ tôi được bữa mừng suýt chết. Đang còn mừng vui, bà bác dâu đã hớt hải chạy sang. Bà sống chết bảo, con cá này, công lớn là do chồng bà. Không có chồng bà dúi nó xuống chân, thì cái mặt tôi, làm sao bắt được con cá to như thế. Cãi cọ, giằng co nhau mãi, cuối cùng con cá phải chia đôi, bổ dọc từ đầu đến đuôi, mỗi nhà một nửa. Rồi chuyện con cá inh lên, làng trên xóm dưới đều hay, ông đội trưởng dúi con cá cho thằng cháu ruột. Ông bị lôi ra kiểm điểm trước ban quản trị HTX. Cái án cuối cùng là ông bị cắt tuột cái chận đội trưởng. Thật là xót, mỗi vụ bỗng dưng nhà ông mất toi mấy trăm công điểm cái chân đội trưởng đội sản xuất.

Tôi xa làng đã mấy chục năm. Có lúc nhớ về quê nhà, không hiểu sao lại hay nghĩ đến cái ao làng mình. Tôi cứ hay kể chuyện cái ao cho lũ trẻ, đến độ mấy đứa con tôi thuộc lòng, cái ao rộng là bao nhiêu, nước trong đến mức nào, mùa nào thì thả vỏ mít bẫy ốc bưu, tháng nào thì tát ao,...Có dịp về quê, tôi hay tha thẩn ra ao làng. Không hiểu sao cái ao giờ không còn trong veo như thuở xưa nữa. Mấy nhà làm đậu, mấy xưởng nhuộm xả chất thải xuống ao, nên nước đen ngòm, thum thủm. Đám bèo tây, bèo ta cũng xác xơ, bè rau muống, rau rút lơ thơ và chả còn đứa trẻ nào dám tắm táp, lặn ngụp nữa. Cái ao như nhỏ bé lại. Mỗi năm từng quãng, từng quãng, có nhà bung ra cạp ao. Họ xây tường, xây nhà, những cái mái bằng, mái chảy, cái kiểu Ả Rập chóp tròn xoe như củ hành, cái kiểu Gô tích chóp nhọn hoắt, chìa lên giời. Sau khi thực hiện chủ trương lấp ao của chủ tịch xã, tức ông anh họ tôi ấy, cái ao Bà Phó chỉ còn rộng bằng cái bàn tay.

- Giỗ họ vừa rồi sao không thấy bác về - tôi hỏi ông bác.

- Đã định về thì tự dưng lăn đùng ra ốm. Thấy bảo, họ định chặt hàng rào tre trước nhà thờ, xây tường. Sao lại chặt đi thế. Bây giờ về quê hiếm hoi lắm mới có một khóm tre.

Nghe bố nói vậy, ông anh họ tôi nhếch mép:

- Tre pheo mà làm gì. Mấy thằng hội người mù vào đây bán tăm. Thương hại chúng, mua một lần dùng cả năm không hết. Quý.. quý thế đấy. Đất, bây giờ là cây là que...

- Hừ ... cây, cây .... Để đến nỗi anh phải mang tiếng nhục...

- Nhục, nhục gì? Thì cùng lắm bằng cái nhục con cá sộp ngày trước....

- Đồ... đồ bất hiếu!

Ông bác tôi giận tái cả người, còn anh con trai vẫn nhơn nhơn như không. Nhìn cái vẻ nhơn nhơn của anh, tôi chợt nhớ đến cái vẻ ấy của anh, trong lần giỗ họ năm nào - đúng vào cái dịp anh vừa bị cách chức. Năm ấy tôi về hội làng, giỗ họ. Câu chuyện cửa miệng và rôm rả nhất của dân làng là chủ tịch xã và cả ê kíp mất chức. Dân làng còn kháo, các vị đều ẵm cả tiền triệu, tiền tỷ. Chẳng như ông bác tôi ngày xưa, bị cắt chức vì con cá sộp, ông xấu hổ đến mấy năm, không dám bước chân ra đường. Còn nay ông con, chủ tịch xã, bãi chức tháng trước, tháng sau đã nhồng nhỗng phi xe máy khắp làng. Trước đó anh còn kịp mua mấy lô đất trên phố huyện. Hôm gặp tôi ở đám giỗ họ, anh cứ thản nhiên như không. Chìa bao ba số ra mời tôi, anh oang oang tuyên bố, đã quyết cúng cho họ khoản tiền sửa cái hậu cung. Trước lúc cỗ bàn, anh nghênh ngang quẳng ra giữa chiếu, quẳng ngay trước mắt các cụ, bó tiền mới cong hai chục triệu. Tôi thoáng thấy ánh mắt đâu đó, có người vừa tức, lại vừa muốn được như ông anh họ tôi./.

Chết… vì nhục

Đây không phải lần đầu tôi ra Hà Nội. Nói chính xác, đây là lần thứ ba tôi ra Thủ đô, ra vì động cơ tiền, kiếm tiền cứu nhà, cứu vãn hoàn cảnh bi đát, khốn khó của nhà tôi. Thày tôi, một ông giáo hom hem, hưu non vì căn bệnh nghề nghiệp - ho lao. Mẹ tôi cũng đau yếu luôn. Lại thêm chị gái và đứa con nhỏ, vừa quay về, chồng chị mất vì một vụ tai nạn giao thông. Tôi không muốn nói, không muốn nghĩ về hoàn cảnh khốn nạn của nhà tôi.

Cảm giác đến Thủ đô lần này chẳng như những lần trước, như ngày bé, hay hồi học phổ thông, đi tham quan, du lịch theo chương trình của trường. Nó cũng chẳng như thằng bạn, tên Việt, người cùng làng, mấy năm ra Hà Nội làm ăn, về nghỉ Tết, khoe trong bữa rượu. Cứ như nó, ở Hà Nội, xúc được bạc. Cái mặt nó hôm ấy đỏ nhẫy vì rượu, thịt, huyên thuyên, mỗi tháng kiếm ngon ơ dăm triệu. Vừa nói, nó vừa dúi điếu ba số mới hút được vài hơi vào cái gạt tàn. Nhìn cử chỉ ấy, mà tiếc và ai cũng hay, thói chơi ngông của kẻ lắm tiền. Đấy, cứ nhìn mái tóc nhuộm vàng hoe, rồi cả quần áo của nó nữa, lũ trai làng, nào mấy ai bằng. Tôi như chết đuối vớ được cọc, xoắn lấy và nó hào phóng gật đầu, sẽ dắt tôi ra Hà Nội làm ăn.

Sau Tết, tàu xe chen chúc, xếp người như chở lợn. Thôi thì chen đẩy, đứng ngồi chồng lên nhau, nhà xe thoải mái chém, bắt khách. Ngoài thân hình to cao và cái mặt đẹp, thì tôi mang theo, chỉ có hai trăm mẹ gói gém cần thận và của cả tôi nữa, tổng cộng bảy trăm ngàn - vốn liếng chuyến đi làm ăn đầu đời của một thằng trai.

Sau chặng xe khách từ quê ra, thêm tuyến xe buýt và cuốc bộ, vẫn chưa đến nơi. Hà Nội ồn ào, tàu xe ngược xuôi, người ta phi xe như lao vào nhau, phi lấy được, ngang ganh đua vào chỗ chết. Ô tô, xe máy ganh đua nhả khói, hối hả bóp còi. Chắc họ nghĩ, đi đường, toàn kẻ điếc với người mù. Sợ nhất là lúc sang đường, tim tôi thót lại, nhắm mắt, lao bừa sang, để lại sau lưng những lời nguyền rủa:

- Tiên sư thằng nhà quê! Muốn chết à. Văn Điển chúng ông, chật chỗ rồi.

Kệ xác họ, mồm liền tai, tôi học nhanh được cách cư xử  của dân kẻ chợ.

Chúng tôi rẽ vào một ngõ hun hút sâu, đường nhớp nháp nước. Người cảm thấy bết bát, chỉ ước được lăn kềnh ra làm một giấc. Rồi cũng nghe tiếng thằng Việt:

- Đến rồi!

Thở phào nhẹ nhõm. Thôi rồi, đã đến! Sau bức tường cao là mấy dãy nhà cấp bốn, lợp phi bờ rô xi măng thấp tè, ngăn nhau ra thành từng ô, như trại lính. Một bể nước tướng và giáp đó là căn nhà đái, ỉa. Mấy dãy nhà, cái cửa mở, cái cửa đóng. Thằng bạn đẩy cửa một căn phòng, tôi theo nó vào. Trong phòng có độ dăm người, kẻ nằm, người ngồi. Chẳng thấy ai đáp lời hai đứa lấy một câu. Thằng bạn thông báo như chốn không người:

- Thằng này cùng quê. Đi làm. Nó sẽ trọ ở đây!

Nói xong, thằng đồng hương vứt bịch cái ba lô lên phản và chỉ cho tôi chỗ giáp ngay bên cạnh. Dãy phản gỗ liền kề, chạy suốt tù tì gian nhà dài chừng chục mét. Chỗ có chiếu, chỗ không, những chiếc chiếu tua rua rách, lên nước đen sỉn màu mồ hôi.

- Mỗi ngày trả 10 ngàn. Trả tháng thì bớt hai ngàn. Tối lão chủ đến thu. Thiếu một đồng, lão chửi cho ủng mả!

Sao lúc này nó chả vênh vang như khi nói ở bữa rượu quê, kiếm tiền Hà Nội dễ như bỡn. Nó nằm ườn ra và một tý đã ngáy o o…

Tôi lơ ngơ ngó qua cửa sổ. Ở mảnh đất choen hoẻn này, gia chủ vẫn hào phóng để lại khoảnh đất trồng cây khế. Nhìn cây khế, tôi lại nhớ nhà, nhớ cây khê cuối vườn. Cây khế trĩu trịt những quả là quả và vàng ươm. Khác với cây khế nhà tôi, cây khế kia toàn lá là lá, không thấy bóng dáng  quả nào, kể cả quả non. Chắc đám người trọ, ra quả nào, vặt trụi quả đó. Nhìn cây khế, tôi lại nhớ tới cha mình, ông giáo hưu non. Thày tôi nghỉ hưu được dăm năm. Cái nghề giáo để lại cho ông căn bệnh phổi. Chữa chạy bao năm không khỏi, cứ húng hắng ho, cứ đờm rãi nhổ. Từ khi đau ốm nặng, không mấy khi thày tôi rời khỏi căn buồng chật hẹp, tối tăm. Phần nghèo túng của nhà tôi cũng do phải thuốc men, viện phí chạy chữa cho ông.

Thày tôi, một ông giáo được xóm làng kính trọng. Dân làng một điều ông giáo, hai điều bà giáo. Ông là người kiệm lời, mực thước, một ông giáo làng. Những điều ông hay rủ rỉ, răn dạy con cái: “Sống phải có trước có sau. Sống phải nhân đức. Sống phải ngẩng cao đầu, không gì mà hổ thẹn….” .

Tại sao lúc này, trong căn nhà trọ tềnh toàng, tôi lại nhớ tới lời khuyên dạy của ông – Không có gì… hổ thẹn. Dù hai lần con trai thi trượt đại học, tôi biết, ông vẫn hy vọng, con trai thi tiếp. Rồi ông im lặng, không biết trả lời thế nào, khi tôi bảo: Nếu thi đậu, sẽ sống bằng gì, học phí ở đâu. Dáng ông trước hôm tôi đi, yên lặng ngồi, đờ đẫn nhìn ra sân. Bao hy vọng của ông về đứa con trai ngoan hiền, học giỏi, mà nay đành lơ ngơ ra Hà Nội kiếm việc. Khốn khổ lắm đấy, ông biết, dù có nghe thằng Việt nói, tiền kiếm dễ như bỡn. Chắc thày tôi bất lực, im lặng nhìn thằng con ra đi làm cửu vạn.

Quê tôi vùng chiếm trũng, sống ngâm da, chết ngâm xương. Nhà tôi giờ thành nông dân không ruộng đất. Giữa quê lúa xanh rờn, mà nhà không tấc đất. Cha tôi dân giáo học, loại không được chia, giao ruộng; chỉ có mẹ, chị và tôi được chia. Tổng cộng ba sào. Bỗng dưng cái doanh nghiệp may mặc nước ngoài ào ào về cắm đất, ào ào về liên doanh đầu tư xây dựng. Khoảnh ruộng nhà tôi nằm trọn trong khu công nghiệp liên doanh ấy. Nghe nói, liên doanh bồi thường mỗi sào 36 triệu. Không hiểu sao, về đến tay dân, chỉ còn 12 triệu. Sau vụ bồi thường và giải phóng mặt bằng, mấy dân làng bị bắt, bị tòa xử và đi tù, tội chống đối người thi hành công vụ, rồi cả gây mất trật tự và tý nữa không được khoản bồi thường. Lần ấy, tôi định cầm dao, lao đến nhà lão chủ tịch xã, đâm cho hắn một nhát. Mẹ tôi quỳ xuống, khóc mếu, van xin thằng con là tôi:

- Mẹ xin con!

Tôi khóc lặng, nuốt nước mắt và căm hận trào lên vào lòng.

- Mẹ… mẹ ơi!

Số tiền bồi thường vừa đủ cho chuyến cha tôi nhập viện, bệnh nặng vì cảnh nhà nhận bồi thường, mà ông con trai cứ nhăm nhăm đòi đi đâm người, suýt còn mắc vào vòng tù tội.

Hà Nội ồn ào quá, náo nhiệt quá. Mới tờ mờ đất, ngõ đã inh ỏi tiếng xe và còi máy bim bim, công thêm cái đài phường oang oang tuyên truyền về chính sách kinh tế - xã hội, rồi an ninh trật tự, diễn biến hòa bình, đặt vòng tránh thai, hiến máu nhân đạo, …. Dân trọ làu bàu chửi cái loa phường, nó làm họ tỉnh giấc. Mắt nhắm mắt mở, tôi loạng quạng theo thằng Việt ra bể nước. Không xô chậu, không bàn chải, hai đứa vục tay vợt nước xúc miệng, rửa mặt. Bên cạnh, khu nhà đái, tiếng kêu ồ ồ và khai nồng.

- Đồ đạc có gì quý, mang theo. Nhất là tiền ấy. Mà có đếch gì quý!

Giọng thằng bạn đay đả. Ô hay, sao nó lại khó chịu với tôi. Chính nó chẳng hênh hoang, Hà Nội xúc tiền dễ như bỡn.

Nơi xúc tiền thằng bạn rắt tôi ra là chợ người Giảng Võ.

Mưa xuân lất phất. Chợ người vắng teo. Đầu năm, ai đã mướn gọi. Chợ chỉ có mươi người, toàn dạng người không ra ngợm, èo uột, xanh mướt, quê một cục, mắt hong hóng đợi khách. Thằng bạn dấm dẳng giải thích, khi tôi hỏi nó, làm gì:

- Làm tất. Bốc vác, dọn nhà, chùi rửa, ….  đít cũng rửa!

Tức là làm tuốt.

Rét và đói. Bữa sáng làm ổ bánh mì ở đầu ngõ, đứng hóng khách gần ba tiếng, chẳng ma nào thuê mướn. Còn dạ dày bắt đầu lên tiếng.

- Thôi! Kiểu này chẳng có chó nào đâu. Đi ăn, rồi về khểnh.

Tiếng thằng đồng hương. Buổi xúc tiền đầu tiên của tôi là hai đứa kéo nhau vào quán, làm hết chai rượi, cùng bát tiết canh đỏ lọng, đĩa lòng và hai đĩa bún tú hụ. Tổng cộng hết bốn chục, chia đôi, mỗi thằng một nửa, dù là đồng hương làng, đồng hương xóm, vẫn sằng phẳng. Công nhận lòng lợn, tiết canh Hà Nội ngon thật. Lòng thì trắng hồng, ròn sừn sựt như sụn; tiết đỏ au, rắn thành cục, xắn, nhấc lên được. Chỉ phải bà bán hàng chửi khách như chửi chó và khinh khích cười, khi ai đó khen đểu cặp đào tiên của mụ. Đúng là cặp đào tiên của bà này thây nẩy, đùn đầy ra một ngực.

Người Hà Nội đến lạ, đàn bà, con gái, từ già, chí trẻ, rất thích khoe ngực hở, bụng hở và cả đùi nữa, trắng tơn tởn như lợn cạo. Tôi mới đầu nhìn cũng ngượng, chỉ dám liếc trộm, sau lâu thành quen, đâm ra bạo, đứng đón khách, cứ trừng trừng nhìn, cùng ngắm...

* * *

Trở lại buổi đầu săn việc của tôi.

Ngày săn thứ hai.

Ngày săn thứ ba.

….

Y như ngày đầu, chẳng ma nào gọi. Người ta bảo, đầu năm dân Hà Nội đi lễ chùa Hương cầu lộc, đi hội bà Chúa Kho vay tiền, … nên chẳng ai phá nhà, sửa cửa, chúng tôi đâm thất nghiệp.

Bảy trăm ngàn mang theo, cứ mỗi ngày vơi bớt đi hai, ba chục. Tôi lo lắng, sốt ruột. Đúng là cũng có một vài bận kiếm được việc, đến thông và lau chùi nhà vệ sinh tắc. Chắc Tết nhất ăn nhiều qúa, đâm tắc cống; rồi vụ bê gường tủ từ tầng bốn, tầng năm xuống, trong vụ ly hôn, vợ chồng nhà nọ chia tài sản,…. Vụ ly hôn, tổng cộng tôi vớ được hai trăm. Bà chủ còn khuyến mại tấm bánh chưng xanh. Lâu ngày để trong tủ lạnh, nó cứng nhắc. Giờ vợ chồng bỏ nhau, chả ai còn tâm trạng ăn uống nữa.

Thằng bạn tôi, đôi bữa thấy biến đi đâu đấy. Nó đi đâu nhỉ? Tôi thoáng nghĩ, mà không dám hỏi. Trong một bữa ngồi quán, thằng bạn thầm thì, việc kiếm tiền của nó, bảo địa chỉ, cả phố, cả số phòng cho tôi. Cái phố ấy tôi biết, một lần đến đấy cửu vạn. Nghe nó mách, tôi đờ mặt, đỏ lên vì ngượng.

Ở quê, tôi biết chuyện ấy, nhưng là của lợn. Người ta nuôi con lợn đực, to cỡ một, hai tạ. Giống lợn Tây trắng nhởn, bừu dái to lủng lẳng đến mấy cân, thỗn thện bước. Ông nái lợn nón trên đầu, tay nọ cầm roi tre vung vẩy, tay kia nắm dây thừng chòng cổ con lợn, rong khắp xóm, rều rễu rao:

- Lợn nhảy đi! Nhảy lợn đi!

Nhà nào có lợn động hớn, muốn nhảy, thì gọi vào. Giá một lần nhảy, một trăm. Xua con lợn đực vào chuồng, vừa nhìn ả lợn cái, nó đã phăm phăm nhảy. Còn ả lợn cái thì ỵ ra, đứng chịu đực. Mắt lim rim, y như mặt đàn bà ấy. Trẻ con, người lớn xúm vào xem. Đại ý lợn nhảy là vậy. Ngoài lợn nhảy tươi, còn thứ tạo lợn con nhân tạo. Quê tôi, nẻo đường nào chẳng thấy treo biển rao: Đây, bán tinh lợn ngoại. Thấy bảo, con lợn đực được nuôi ăn sướng lắm, toàn rá đỗ non với trứng gà tươi. Lợn mà sướng thế, bồi bổ hơn cả người.

Không phải thằng bạn bảo tôi đi nhảy lợn, nó bảo việc khác cơ, cũng không phải nhảy người.

Trời vẫn mưa xuân. Mưa như vậy chợ người ai mua bán. Giữa tháng hai rồi, tôi vẫn cơ bản nằm khan ở nhà trọ. Số tiền mang theo, chẳng còn đáng bao nhiêu. Càng nằm, càng lo… lo đến thắt ruột, rỗi việc, lại mang tiền ra đếm lúc ấy. Đầu óc tính toán, lẩm nhấm cả ra mồm. Càng tính đếm, mỗi ngày số tiền càng vơi hụt. Thấy tôi tính đếm nhiều quá, thằng Việt phát bẳn, gắt:

-        Đếm c… gì, mà lắm thế.

Nói rồi nó bỏ đi. Chả rõ đi đâu. Còn lại một mình, tôi lại nghĩ đến chuyện thằng Việt mách cách kiếm tiền. Hay nó đang đi kiếm tiền kiểu ấy.

Ngày thứ nhất, thứ hai,…. thứ bảy, thứ tám, sau hôm thằng Việt thì thầm, mách việc cho tôi, mưa xuân vẫn rơi, vẫn lất phất, vẫn lâm thâm. Nằm khan, ngó mưa rơi, tôi chợt nhớ tới bài thơ của ông nhà thơ Nguyễn Bính:

Bữa ấy, mưa xuân phơi phới bay,

Hoa xoan lớp lớp rụng rơi đầy.

Hội chèo làng Đặng đi ngang ngõ,

Mẹ bảo: “Thôn Đoài hát tối nay”.

Thấy bảo ông nhà thơ này chết vì đói, chết vì rét, ngã rúi xuống cầu ao mà chết. Thương thay cho ông ta. Thương người, lại nghĩ đến số kiếp mình, hơn gì mấy ông ta.

Nhà trọ vắng tanh, chẳng rõ mọi người đi đâu, chỉ tối tối mới quần tụ về. Về là ngủ, hoặc cấm cảu, cắn chí nhau vì những chuyện không đâu.

Công việc mà thằng bạn mách, thỉnh thoảng lại lởn vởn trong đầu óc tôi. Cuối cùng, tôi quyết định… đi. Nơi tôi đến, dù là tiết xuân mưa lất phất, người người vẫn đến đây tập nập. Nào người đi đẻ, nhưng bà bầu ngỗn ngện bụng, nào người nhà tháp tùng. Rồi đám nạo thai, vì vỡ kế hoạch. Già có, trẻ có. Đám gái mới mười bốn, mười lăm cũng vỡ kế hoạch, mang bụng đến đây nạo vét. Đứa thì nhí nhảnh, váy áo tũn tỡn dìu bước cùng người yêu, đứa thì ỉu sìu, thân nữ một mình.

Tôi đến đây không phải vì nạo thai, đàn ông, ai chửa đẻ được.

Nơi đông vui vậy, hóa ra lại may. Nếu không, tôi chỉ còn nước chui đầu xuống đất giấu mặt vì ngượng. Tôi cũng không phải hỏi han ai, tự mò được địa chỉ cần tìm kia. Căn phòng cửa nửa đóng, nửa mở, treo lơ lửng tấm vải hoa. Bước vào phòng, thoáng nhìn thấy dăm người đang chờ: một ông chừng bốn mươi, ăn mặc nhếch nhác, dáng vẻ dân xe ôm; một vị trẻ hơn, khoảng độ hăm hai, hăm ba, mặt trắng nhởn, cộng thêm cặp kính ba, bốn đi ốp, rõ là dân có chữ, chắc một cậu chàng sinh viên; một người nữa… Tôi ngượng, không dám xoi mói tiếp, cụp mắt xuống. Âm thầm tôi chọn chiếc ghế trống, ngồi vào đấy. Tôi cố nghĩ, cố lẩm bẩm để đủ can đảm ngồi đợi: "một trăm ngàn, một trăm ngàn đồng,..."

Được một lúc có người đàn ông bước ra. Ông ta mặc áo blu trắng - nghề y. Ông ta nói gì đó, nghe như là phiếu ấy. Mấy người kia đồng loạt đưa tấm bìa ra cho ông ta. Đến lúc ông này giơ tay về phía tôi, tôi ấp úng. Ông ta như hiểu ra:

- Lần đầu hả. Thế thì kiểm tra, khám. Đợi ý nữa...

Thu phiếu của mấy kẻ kia xong, ông ta quay vào phòng. Chỉ thoáng nghĩ tới khám, kiểm tra, tôi rùng mình. Người ta sẽ lột trần, lột truồng tôi. Hình ảnh con lợn đực thỗn thện, bừu dái ngỗn nghện, nhảy lên con lợn cái và người người nhua nhúa đứng xem, tôi tá hỏa. Ngó trước, nhìn sau, không thấy ai để ý đến mình, tôi đứng lên, chuồn nhanh. Thôi, tôi không dám khám đâu, không dám khám để bán tinh – cái mà người ta vẫn gọi, thụ tinh nhân tạo, công việc do thằng bạn mách cho, một trăm ngàn một bận.

Tưởng việc ấy rồi quên, mà nó cứ ám ảnh. Hai, ba tuần sau khi đứng đón khách, nghe mấy kẻ ở chợ Giảng Võ kháo nhau, chuyện đi bán máu, tôi rùng mình, lại nghĩ vụ đi bán tinh hụt của mình. Nghe họ nói, bán máu một lần 250 ml được trăm rưỡi. Anh bạn chợ người vốn đứng gần tôi, hướng dẫn tận tình phương cách bán máu, địa chỉ bán máu: Viện C, Viện Huyết học, Viện…. Cậu ta bảo, lấy phiếu loại màu xanh - loại phiếu được trả tiền. Cậu ta hướng dẫn thêm: Mua hộp thuốc sắt, mà bồi bổ, chỉ có bốn ngàn. Rồi mỗi tháng, bán mấy lần. Sau khi kiểm tra máu xong, tếch ra ngoài làm bát phở, cố uống lấy vài cốc nước đá, tốt nhất là  nước muối nhạt, đỡ mệt, mà dôi máu. Kiến thức dồi dào vậy, mà chính cậu ta có bận vừa bán xong, ra đến cửa, lăn kềnh ra ngất. Đi bán máu, chắc chắn không ngượng, nhưng nghe chuyện cậu ta ngất, tôi phát khiếp. Thôi, dù chết đói, tôi cũng không dám đi bán máu.

Giữa tháng hai, đầu tháng ba, dạo này, mưa đã ngớt, tôi túc tắc có việc, kiếm đủ sống và dư dư chút đỉnh, gom góp gửi về nhà.

Chiều đó quãng ba giờ, tôi đang gà gật đợi khách. Buổi sáng được khách gọi - chuyển gạch vữa lên tầng tư. Làm từ 8 giờ đến 12, mỗi đứa được một lít. Khuân vác xong, anh em rủ nhau vào quán lòng lợn tiết canh, mỗi người xơi vài chén, chiều đâm buồn ngủ. Đang lơ mơ, chợt có tiếng xe tạt vào, choàng mở mắt. Hóa ra là thằng bạn học phổ thông. Nó ngoắc miệng cười, hất hàm bảo, nhờ tôi, nên nó được con đề hơn triệu. Chả là hôm trước, vô tình thằng bạn thấy tôi đứng ở đây. Thằng này số may, ngay năm đầu thi, đỗ luôn đại học, hiện học năm thứ ba trường Nhân văn. Hồi cấp ba, tuy khác xã, nhưng tôi và nó chơi khá thân với nhau. Thằng bạn rủ tôi đi cà phê. Trong lúc hàn huyên, nó lại nhớ và nhắc, hôm ấy là sinh nhật của tôi. Tôi, thân phận thằng cửu vạn, sinh nhật sinh nhẽo làm gì cho rách việc. Kể cả đến việc nhớ, tôi cũng chẳng thiết nữa. Tối về, thằng bạn làm con đề. Đảo ngược, quay xuôi ngày sinh của tôi, nó trúng luôn. Nhờ cái lộc ấy, nó quay lại, rủ bạn đi uống.

Ngồi sau xe, tôi nghe nó huyên thuyên đủ chuyện, tâm trạng phấn khởi của thằng trúng đề. Xe tạt vào quán bia hơi ồn ào ở một phố lớn, mỗi đứa làm dăm vại, ăn đến mấy đĩa rau muống xào thịt trâu và vó bò luộc. Mặt thằng bạn đỏ tía như gà chọi. Thanh toán xong, tôi trèo lên xe, tưởng nó trả về khu trọ, thằng bạn lại đèo tuột đến quán mát sa. Giọng thằng bạn oang oang, làm chầu mát sa và cười hềnh hệch, loạng choạng bước. Nể bạn quá, tôi không tiện từ chối. Ra Thủ đô kiếm tiền, nhiều lần nhìn và nghe mát sa gie, nhưng đây là lần đầu tiên thằng tôi bước chân vào đây. Cái giống lao động, lại lao động phổ thông chân tay, quần quật vận động suốt ngày, gân cốt việc gì phải mát sa mát gần cho giãn.

Thằng bạn mua hai vé, mỗi vé một lít, khật khưỡng nó kéo tôi lên gác. Qua cầu thang nhỏ xíu và dốc ngược, tầng hai là căn phòng rộng chừng 50 mét, chia thành từng ô, ngăn cách nhau bằng tấm ri đô lửng. Vừa bước vào phòng, mấy cô mắt xanh mỏ đỏ ngó ra, rinh rích cười, chào mời khách. Hình như thằng bạn là khứa quen, một em vừa tý tởn ngó ra, thằng bạn đã quàng cổ, hôn đánh chụt và vỗ đét một cái vào mông cô nàng. Cô hàng mát sa ré lên cười, cả hai như ngã kềnh sau tấm ri đô. Tôi cũng được một cô em, phải gọi là chị mới đúng, dù chị ta cố bôi trát phấn son, vẫn không giấu bớt tuổi tác, kéo tuột tôi vào gường. Tôi chả dám nhìn ngắm mặt chị ta, chỉ đăm đăm ngó tấm ri đô.

- Ơ kìa, anh trai, à em trai… cởi ra chứ!

Tiếng chị mát sa gie. Không đợi tôi, chị ta đưa tay cởi phắt hàng cúc, lột áo và kéo xoẹt luôn phéc măng tuya quần, tiện thể hất bàn tay, mà theo phản xạ của thằng trai, tôi giơ ra giằng giữ…. Chị ta khúc khích cười. Tôi còn độc chiếc quần đùi. Ngượng thay cho chiếc quần của tôi, vừa cũ, vừa bẩn. Xoay người, tôi úp mặt xuống gối. Bàn tay chị mát sa cứ tự nhiên xoa vuốt tấm lưng trần của tôi, rồi nắn bóp cổ, nắn bóp vai, nắn bóp mông, nắn bóp đùi,…. Thằng trai tôi ngượng chín cả người, úp mặt, vùi thêm sâu vào gối. Chị hàng mát sa đang nắn vuốt mông, bất ngờ kéo tuột quần của tôi. Quá bất ngờ, thằng trai tôi chỉ kịp giơ tay giữ hụt. Quần cũ mủn, kịp nghe tiếng rách đánh xoẹt và nhà chị mát sa cười lên sằng sặc:

-        Em trai. Hôm nay chị phá trinh cho nhá.

Tiếng cười, nói nhao nhao của các cô nàng nhân viên mát sa mấy giường giáp xung quanh.

-        Trai tân à, phá, phá…..

Tiếng cười, nói đồng loạt rú rít, có cô còn nhón chân, ngó sang xem.

Tôi chỉ còn biết cắm mặt sâu thêm vào gối. Không lẽ tôi, một thằng trai, nhồng nhỗng chạy....?

Ngày ở quê, tôi đã nhiều lần tò mò nhìn ngó gia súc, gia cầm giao hợp, giao phối. Con gà trống hồn nhiên cùng cục, mỏ giữ hờ hòn sỏi. Nó lừa con mái, lượn vài vòng, rồi bất ngờ… nhảy. Động tác ấy của gà, người ta gọi là đạp - đạp mái. Gà trống chưa đạp, gọi là gà trống tơ, như dạng loại tôi bây giờ - gọi là trai tơ. Tôi cũng nhiều lần nhìn thấy chó… đi tơ. Con đực, con cái, giữa ban ngày ban mặt, hồn nhiên ăng ẳng giằng kéo nhau. Có lẽ trong các loài vật, thì chó là giống yêu nhau khốn khổ nhất, ăng ằng, đau đớn giằng kéo nhau ra. Lắm khi hai con chó đang yêu, lũ trẻ ríu rít đứng xem. Một bận, có thằng bé chạy về nhà, bốc nắm tro bếp, tung vào đấy…..

Không ngờ rằng, hai mươi mốt tuổi, tôi bị cưỡng hiếp thành đàn ông, thành đàn ông bởi nhà chị mát sa, kiêm nghề nghiệp ca ve. Tôi không còn trong trắng của thằng trai quê nữa.

Ngay chiều hôm ấy, vào lúc nhọ mặt người, thằng Việt lầm lũi vác cái mặt sưng vù về nhà trọ. Môi nó đỏ tấy, sưng húp, còn trán u lên một cục tướng bằng quả ổi. Hỏi tại sao, đã không thèm trả lời, nó còn văng tục, rồi lên giường cuộn tròn, trùm kín chăn ngủ. Đám bạn trọ thì thầm, thằng Việt cửu vạn cho một nhà. Trong khi gia chủ không để ý, nó khuấng được cái ví. Sau gia chủ phát hiện, khám túi, bắt tươi tang vật. Lũ con nhà chủ xúm vào táng cho thằng Việt một trận lên bờ xuống ruộng. Tối ấy, tôi thì mới bị cưỡng hiếp thành đàn ông, lữ lả, nằm xuống là ngủ như chết, ngủ đến tám chín giờ sáng hôm sau mới dậy. Nhìn sang giường thằng Việt, không thấy nó đâu nữa, không thấy cả đồ đạc của nó nữa. Thằng này đi đâu nhỉ, hay về quê, hay chuyển nhà? Sao nó không bảo tôi lấy một câu. Tôi đâm bơ vơ, không biết đi hay ở.

Ăn sáng ở quán đầu ngõ xong, móc ví ra trả tiền, tôi giật mình, ví rỗng không. Trời ơi, thằng đồng hương trời đánh, đã khoắng sạch tiền của bạn.

* * *

Câu chuyện buổi ban đầu đi làm ăn xảy ra đã dăm, bảy năm rồi. Giờ tôi không trọ ở xóm nghèo tồi tàn ấy nữa. Tôi đã có nhà riêng, tuy không rộng rãi, nhưng có chốn đi về. Sau bao tháng ngày vật lộn kiếm sống, tôi - thằng trai quê thành kẻ dày dạn kinh nghiệm, khối công việc để xúc tiền... kiếm không phải năm triệu, mà mười, mười lăm triệu, hay còn cao hơn nữa. Công việc lại nhàn tản, sáng sáng nhâm nhi tách cà phê, thả hồn theo làn khói thuốc, nhấn, nghe điện thoại và tối tối, dập dìu tiếp khách ở một vũ trường, hay nhà hàng nào đó. Đôi khi tôi còn bay cùng khách vào Nha Trang, Vũng Tàu, phơi mình trên bãi biển lộng gió, sóng và nắng. Nay về quê, tôi là cậu trai đẹp mã, sành điệu trong  bộ đồ hàng hiệu, dây chuyền lủng lẳng, tóc nhuộm hai lai và mới đây thôi, sang trọng trong con xe hơi đời mới, hai chấm, trắng muốt. Giờ trong mắt dân làng, tôi là người phố, người Thủ đô chính hiệu. Họ ngưỡng vọng, thèm thuồng nhìn theo, thì thầm ao ước và cả chửi rủa, ghen tị nữa.

Con trai thành đạt, thày tôi chả ra mừng vui. Chỉ đôi lần ông thủng thẳng: Đói cho sạch, rách cho thơm con ạ. Lừa đảo, trộm cắp, làm ăn thất đức, chả lâu bền đâu.

Tôi có trộm cắp, làm ăn thất đức đâu. Im lặng, thằng trai tôi không đối lại ông bố già giáo học.

Sau buổi thằng Việt lẫng sạch tiền và bỏ đi, tôi không gặp lại nó nữa. Về làng, loáng thoáng nghe đồn: thằng ấy vào Nam; nó hình như nghiện; rồi trộm cắp;... Tưởng chả bao giờ gặp lại, đúng buổi từ một nhà hàng sang trọng tôi đang  cùng khách rập rìu bước ra, thằng cô hồn kia sừng sững chặn lại. Hềnh hệch nó cười:

- Ô kia, chào đồng hương. Làm ăn khá giả quá. Nhớ thằng bạn này không? Ân nhân…

Một thằng người nghiện, tong teo, ngoắc mồn ra ngáp vì đói thuốc. Tôi rơi vào tình thế khó xử, chỉ còn nước rút ví, móc tờ trăm ngàn, ném thằng vào mặt nó, kèm theo lời cảnh cáo:

- Cạch mặt tao ra nhé. Ân nhân gì hạng mày. Quân ăn cắp!

Thằng Việt trả thèm đối lời tôi. Cúi xuống, nó nhặt nhanh tờ tiền. Thằng nghiện hềnh hệch cười, bông dưng xoáy được tiền đi hít. Rồi chuyện tôi cũng quên, bởi hơi sức đâu nhớ thằng người làng nghiện. Giờ dân nghiện hút đầy.

 Tôi vừa có chuyến làm ăn ở bãi biển Nha Trang. Khách đi cùng là bà chị sồn sồn, tuổi chừng ngoài bốn chục. Lúc đi vội, tôi quên mang theo chiếc sạc pin, điện thoại mang theo thành vô dụng. Nghĩ, càng đỡ mệt, khỏi nheo nhéo quấy rầy. Sau cả tuần tắm biển, rong chơi, ăn nghỉ phố biển, bay ra Hà Nội, tôi ngủ như chưa bao giờ được ngủ. Chín giờ sáng hôm sau, vẫn còn ngon giấc, thì bị điện thoại khua tôi dậy. Nhìn số gọi đến, tôi giật mình, điện thoại từ quê. Vội vàng bấm máy, tiếng chị tôi thổn thức:

- Cậu đấy à. Sao cả tuần… gọi mãi không được. Thày... thày mất rồi…!

Thày tôi mất rồi sao? Tôi rụng rời chân tay.

Trong bãi tha ma, người khuất đã mồ yên mả đẹp. Thắp nén nhang cho bậc sinh thành, lòng tôi thắt lại. Giá mà… giá như… Chị gái đứng sau lưng, thút thít khóc, đứt quãng, nói không liền mạch:

-        Tại ….cậu, mà thày… mất đấy!

Trời ơi, sao lại là tôi? Tại sao tôi là thủ phạm gây ra cái chết ông?

Thằng cô hồn nghiện ngập kia về rêu rao khắp làng, công việc của tôi – công việc kiếm tiền của tôi.

Gái làng ra phố làm ca ve, làm gái, thì đầy, nhưng làng tôi, trai bao, đĩ đực, thì mới có tôi là một.

Thày tôi chết …. vì nhục./.

Con nhà sẩm

Giáp căn hộ nhà tôi là nhà ấy - vợ làm báo, chồng PTS, nay gọi tiến sỹ. Ngay buổi đầu họ mới dọn tới, nhìn anh chồng tôi đã ngờ ngợ. Lục mãi trí nhớ, vẫn không ra. Anh chàng trán dô, tai chuột. Dù cố ra cái vẻ khinh khỉnh, khuồn mặt vẫn không dấu được cái nét tồi tội, hạ mình. Anh chồng kém tôi độ dăm, ba tuổi, cô vợ còn ít hơn. Lạ là vợ chồng họ muộn tuổi, mà vẫn chân son, chẳng thấy mống con nào. Nhà họ chuyển đến tuần trước, tuần sau gia đình tôi bị cái vạ, nghe nhà ấy cãi, chửi nhau. Và từ đấy... cứ đều đặn, tháng dăm ba bận, nhà tôi phải cái vạ, nghe họ chửi nhau. Không phải tò mò chuyện gia đình nhà người, nhưng khốn nỗi, căn hộ áp tường, hai nhà lại chung hành lang, có đóng chặt cửa, bên này động nhẹ, bên kia vẫn nghe rõ mồn một.

Họ cãi nhau vì hai lý do: cô vợ ghen, còn anh chồng luôn nghi vợ chi tiêu hoang tàng và lợi dụng chấm mút khoản đóng góp chung. Nhà ấy, vợ chồng đều kiếm được, kiếm ngang nhau. Cứ mỗi lần cãi cọ, họ phô ra, thì hàng xóm biết: Anh chồng kiếm bằng khoản cấu véo từ kinh phí đề tài nghiên cứu, từ quà cáp phong bì từ nghiên cứu sinh, cao học sinh cho đến sinh viên - kính biếu thầy hướng dẫn. Còn cô vợ, kiếm bằng khoản cơ sở bo cho những bài báo - bo thẳng bằng tiền, hay bo qua quảng cáo. Cứ như giọng anh chồng gọi, thì tiền ấy cơ sở bo cho công thổi kèn, khóc mướn: “Báo chí gì. Rặt cái thứ ...” Anh ta cười sằng sặc khi vô tình nhìn thấy bài báo có bút danh của vợ: “Khởi sắc trong thế đi lên” “Một giám đốc năng động ” “ Nhà doanh nghiệp nặng lòng với công tác từ thiện”... Mỗi lần như vậy, anh chồng đọc oang oang lên. Nghe giọng ngân nga, lên bổng xuống trầm, mà toàn nhấn vào những từ, những chữ không cần phải nhấn, với cái chất giọng mỉa mai, biết ngay là anh ta chả thưởng thức các thông tin giật gân, hay sốt dẻo trong bài báo của vợ. Trong khi đọc, thỉnh thoảng anh ta lại tưng tửng: “Thiếu cái dấu chấm”, hay “Cụt cái vị ngữ”, hoặc là “Thừa cái...”. Và thường sau khi đọc, anh ta thản nhiên tuyên bố, tuyên bố thẳng vào mặt cô vợ nhà báo:

- Nếu là Tổng biên tập, tôi ấy à, cấm. Phí tiền, tốn giấy, mất thời gian đọc dạng bài vô bồ này . Thổi kèn, khóc mướn...

Cô vợ chả kém, đáp lại:

- Thổi kèn, khóc mướn! Còn hay hơn chán vạn sẩm nhị cò cưa (!)

- Câm ngay!

Không rõ tại sao, cô vợ mới nhấm nhẳng đối có thế thôi, anh chồng đã gầm lên. Thường là sau đó, vợ chồng ấy chấm dứt cuộc tranh luận chuyên môn, chuyển sang tiết mục tính tiền.

Tự biết, đàn ông, mà đàn ông trí thức hẳn hoi, ai lại đi quản tiền, thiên hạ trông vào, nom chả tiện chút nào, nên những khoản chi tiêu lặt vặt, như đi chợ mua đồ ăn, thức uống, sắm chiếc phất trần, thùng đựng rác,... anh chồng giao quyền cho cô vợ, anh ta chỉ tối tối kiểm tra, đối chứng, rồi ghi lại, để cuối tháng, vợ chồng chia nhau cho minh bạch. Vào tầm cơm tối xong, bên nhà tôi hôm nào cũng nghe vợ chồng họ bô bô công khai tài chính: khoản rau mua hết bao nhiêu, thịt cá chi tiêu như thế nào, nước mắm, mì chính,... nghĩa là chi tiết, cụ thể, công khai. Có hôm nghe cô vợ kê vừa mua gói mì chính, anh chồng tra ngay: “Làm gì hết nhanh thế. Mới thấy còn nửa gói...” “Thì xuống bếp mà nhòm. Còn nửa gói hay đầy cả gói đấy!”. Lắm hôm nghe sốt ruột, tôi không con tâm trí đâu tập trung xem nổi chương trình thời sự trên ti vi.

Một lần có khách của cô vợ nhà báo đến chơi, khách đến vì cô vợ vừa có công “ca ngợi” cơ sở, giúp họ một bàn thua trông thấy. Tất nhiên khách không đến chơi suông, mà có quà và phong bì kính biếu. Tiễn khách xuống cầu thang, khi quay lại, cô vợ lục ngay túi quà và quắc mắt hỏi chồng: “ Sao cái phong bì trống không thế này?”. Anh chồng thản nhiên trả lời: “ Tôi biết làm sao được phong bì của họ có những cái gì”.

- Chẳng lẽ họ mang phong bì không đi biếu - cô ta lạc cả giọng...

- Rút ruột. Chắc mấy thằng nhân viên rút ruột. Tôi còn lạ gì trò này.

- Người ta, ai lại làm cái trò khỉ ấy.

Nói rồi cô ta sán lại, thọc ngay tay vào túi quần của chồng, lôi tuột ra đám giấy bạc mới cứng. Anh chồng trơ tráo cười “Đùa một tý ấy mà”. “Đùa” - cô vợ bĩu môi.

Không biết trong thời gian tìm hiểu yêu đương, cô nhà báo kia có rõ tình yêu của anh chàng PTS dành cho mình, nó có sâu nặng bằng sự quan tâm đến đám tài sản nhà đằng vợ tương lai hay không, chứ bây giờ, ông bố vợ còn sống lù lù ra đấy, rể ta cứ hồn nhiên tuyên bố với hai cậu em vợ và thẳng vào mặt ông nhạc:

- Ngôi nhà và đất, nếu bây giờ chia, dứt khoát phải phân bốn. Như giá thị trường nhà đất Hà Nội hiện nay, 200 cây, vị chi mỗi người 50 cây. Sau này cậu mất (tức ông nhạc), phần của cậu lại chia ba. Gái cũng như giai, không được hơn kém, dù là một cây. Thế mới công bằng chứ! Bây giờ, thời buổi bình đẳng, con nào chẳng là con.

Mấy sáng liền tôi mang tài liệu về làm việc ở nhà, vô tình thấy, sáng nào một cô sinh viên váy áo cũn cỡn thập thò đến nhờ thầy hướng dẫn luận văn. Hôm đó trò đến được một lúc. Mới đầu tôi còn nghe tiếng ông thầy giảng giải, phân tích, nào là mỹ học, nào là chân thiện mỹ, cặp phạm trù phạm chiếc gì đó. Rồi bên đó yên lặng. Thoảng hoặc nghe tiếng kình... kịch. Chợt cái cửa rầm rầm mở - đấy là cách thức mở cửa hành lang của cô vợ, kèm theo tiếng nện giày cao gót công cốc. Sao hôm đó cô nhà báo lại về lưng chừng buổi. Được một tý thì nghe tiếng cô học trò ấp úng: “ Xin phép thầy, Xin phép cô” và tiếng cô vợ mát mẻ đáp lại “Không dám”.

Buổi tối hôm đó họ kê khai chi tiêu sớm hơn mọi ngày. Sau tiết mục tính toán các khoản, được một lúc, bên ấy ầm ỹ. Thôi rồi, tôi lại mất buổi xem chương trình thời sự. Không như mọi bữa, thường anh chồng khai mào, lần này cô vợ khởi sự trước. Lý do vì chuyện cô sinh viên buổi sáng. Tiếng cô nhà báo the thé:

- Thứ gì đây. Uí giời ơi! Hướng dẫn thế này đây! Còn chối được không! Gái này sáng nay lơ đi không thèm nói. Cái của bẩn tưởi này, chắc thầy hướng dẫn trò phòng chống ết! Thằng dê cụ!

Cô ta vưỡn gọi chồng bằng cụm từ thằng dê cụ.

- Câm!

Sau tiếng quát của anh chồng tiến sỹ là tiếng bốp rõ to, nối tiếp là những lời tru tréo của cô vợ. Chát, bốp... Chắc bữa nay có đập phá to. Bình thường thì anh chồng rất hà tiện, nhưng khi cãi cọ nhau, anh ta lại đâm ra hào phóng, có bữa anh ta đập cả cái gương treo tường to tướng và vị tiến sỹ này hay dùng tay chân, chứ không đem vốn học vấn ra giáo dục vợ. Bốp, bốp... nghe còn to hơn loạt bốp chát trước. Chắc anh chồng phải thẳng tay giáng vào mặt vợ. Tiếng cô vợ rống lên, to cũng không kém. Cũng chả đau đến thế đâu, nhưng đàn bà uất ghen, hét to phải biết. Còn từ ngữ, thì vẫn như mọi bận, thôi rồi... nhơ nhớp quá!

- Mày tưởng thứ mày danh giá lắm à? Thằng bần tiện kia! Tông giống gì! Cái thứ con nhà sẩm trôi sông, chết đò. May mà quạ chưa tha, cá chưa rỉa, còn xác chôn ở cái bến đò…. Tranh.

Ô kìa, cô vợ nói gì thế nhỉ? Tôi có nghe nhầm chăng? Lâu nay nom cái mặt anh chồng, thấy quen quen. Hoá ra anh chàng là một trong những đứa con nhà sẩm ngày ấy.

Bến đò ấy ở quê tôi. Đò đưa khách từ Ninh Giang sang Vĩnh Bảo, một vùng đất trồng thuốc lào nổi tiếng của tỉnh Hải Phòng. Khách đò không đông, đa phần là người đi chợ và ít khách qua đường. Thường thì nửa tiếng, hay cả tiếng, mới có một chuyến sang ngang. Thế mà bến đò vẫn có một gia đình nhà sẩm kiếm ăn.

Không rõ quê quán họ ở đâu. Cặp vợ chồng này thật khéo chọn: Ông chồng mù hẳn, mù không nhìn thấy gì. Chẳng cần phải như bao tay sẩm khác, đeo kính đen sì che mắt giả mù, mà ông ta cứ dương dương tròng mắt trắng, kéo đầy hai hố mắt, kéo nhị và hát.

Còn cô vợ thì mù dở, như các cụ gọi - thong manh. Họ không ngụ suốt năm ở cái bến đò này, mà mỗi năm chỉ thấy độ lại dăm ba tháng, rồi bồng bế nhau dời đi bến khác. Nửa, hoặc cả năm sau, mới thấy gia đình sẩm quay lại. Khi trở lại, nhà sẩm chẳng có gì khác, vẫn hát những bài cũ rích, vẫn cái nhị cò cưa kéo cưa, khi hát, ông chồng ngương ngướng cặp mắt trắng nhởn, gân cái cổ gầy nhẵng lấy hơi,… hát. Có khác chăng là vợ chồng sầm gầy yếu, tiều tuỵ hơn và thường đàn con tăng thêm một đứa, hay cái bụng cô vợ lùm lùm ra.

Năm ấy họ đến. Lần này những bốn đứa, đứa này nhỉnh hơn đứa kia chỏm tóc. Lạ cái, con cái nhà sẩm mà đứa nào, đứa nấy, béo nung núc. Thành nếp, nhà sẩm đến, họ ngự luôn mái hiên cái nhà đợi của bến đò. Nó thành nơi che mưa, che nắng, thành nhà của gia đình sẩm.

Ban ngày thì chồng xuống đò hát. Thằng con lớn độ năm, sáu tuổi, xách cái nón trơ vành, theo bố xuống thuyền. Đợi khi bố hát xong vài bài, đò sang được hai phần ba sông, thằng bé ngửa nón, riễu một lượt trước mặt khách. Người vợ trên bờ khá bận rộn, không chỉ đánh vật với mấy đứa nhỏ, mà còn khối việc: kiếm củi, hái đám rau hoang và lúi húi đỏ bếp cả ngày.

Buổi tối cũng như bao gia đình khác, sau bữa cơm, nhà sẩm quây quần dưới mái hiên cái nhà đợi. Họ cũng nói chuyện, cũng cười đùa. Ông chồng mù rất quan tâm đến thời tiết, cứ luôn mồm hỏi vợ, giăng sao, trời đất ra sao...

Bọn trẻ con xóm tôi thường hay tụ tập ở bến đò. Cái nhà đợi là điểm chơi ồn ào nhất. Chúng sà quanh gia đình sẩm. Có đứa còn trà trộn, lấp vào cái gìa đình đông đúc ấy trong trò chơi trốn tìm. Hôm đó trăng rất sáng, lại đúng tối thứ bảy, bọn trẻ được nghỉ học, ra bến đò chơi rất đông. Nhà sẩm không ngủ sớm như mọi tối. Ông chồng chắc có điều gì phởn chí, hát cả ngày mỏi mồm, mà vẫn đem nhị ra cò cưa. Cũng như mọi hôm, chốc chốc ông ta lại hỏi vợ, chuyện giăng sao, trời đất ra sao.

Không ai để ý, có một người đàn ông lạ lân la gần gia đình sẩm từ lúc nào. Anh ta không phải người trong xóm, cũng không phải khách qua đường, nhỡ đò ngủ lại. Nhìn vóc dáng và cách ăn mặc, có thể là dân thuyền bè, hay đội cát dưới bến. Loanh quanh, cuối cùng anh ta đã ngồi vào cái chiếu của nhà sẩm.

Lũ trẻ con ồn ã chơi xung quanh. Người đàn ông bắt chuyện được với cô vợ sẩm. Ông chồng mù hình như cũng biết. Không rõ câu chuyện của người đàn ông kia và cô vợ sẩm thong manh nói với nhau những gì, cứ rấm ra rấm rứ. Lâu lâu thấy người này hỏi, người kia rấm rớ trả lời. Chồng sẩm thỉnh thoảng còn góp chuyện: “Hử? Cái gì? Hả...”. Rồi cô vợ phản ứng, nhấm nhẳng như là gắt gỏng với người lạ. Ông chồng mù ngướng cái mặt về phía vợ, hỏi: “Hử, cái gì? Hả...” Bất ngờ, đáp lại câu hỏi của chồng sẩm là giọng một đứa trẻ con trong xóm:

- Đồng một mục. Người ta bảo đồng một mục.

- Hử? Cái gì? Hả...

- Người ta hỏi, đồng một mục, vợ ông có đồng ý không?

Sau tiếng đáp của đứa trẻ kia là đồng thanh tiếng cười cợt, rú rít của lũ trẻ: “Đồng một mục, ưng ý không?”. Chợt hiểu ra, chồng sẩm hét lên. Người mù, lại làm nghề sẩm, lúc tức giận hét to lắm. To đến mức xung quanh đang ồn ào, vẫn mồn một nghe rõ tiếng sẩm chồng. Sau tiếng hét, sẩm chồng quơ cái gây, hướng về phía vợ và người đàn ông lạ mà khua, mà đập. Cô vợ bất ngờ bị ăn quật, rống lên. Tiếp đó là đàn con sẩm vô phúc bị đòn lây, đồng thanh kêu khóc rầm rĩ. Người đàn ông lạ lủi nhanh từ lúc nào rồi, không ai rõ.

Mãi tới khuya, dân xóm bến đò còn nghe tiếng người đàn ông mù chửi vợ - cái giống đĩ thoã. Còn người vợ oan ức, lượn quanh, đề phòng cây gậy của chồng và rấm rức khóc.

Sáng sớm hôm sau, ngồi đợi chuyến đò sớm, mấy bà chạy chợ, thấy nhà sẩm quầy quần bên bếp lửa, ăn cơm. Nhìn cô vợ gắp gắp rau cho chồng, ông chồng mù huơ huơ cái bát ra đón, khách đi chợ ai đó chõ vào: “Vợ chồng sam có khác, tình cảm quá!”. Chẳng thấy nhà sẩm đáp lại, chỉ nghe cô vợ rinh rích cười, hoà cùng tiếng cười khờ khờ của ông chồng sẩm. Không ai hay biết, tối qua vợ chồng sẩm có trận đánh chửi nhau to. Chẳng rõ họ làm lành với nhau từ lúc nào.

Khác với mọi khi, buổi sáng đó, chuyến đò sớm, vợ nhà sẩm thay thằng con lớn, xách cái nón cùng chồng xuống đò. Vợ chồng nhà ấy đâu có biết, đó là chuyến đò cuối cùng cầu xin sự bố thí của người đời. Đò gần cập bến, bất ngờ có cơn giông lớn ấp tới. Gió xoáy lật chìm đò. May trong mưa giông có sấm, sét, xác nhà sẩm nổi lên rất sớm, nổi lên ngay ở khúc sông sát bến đò. Cho đến lúc được kéo lên bờ, hai cái xác vẫn ghì chặt nhau. Người ta phải rưới và bóp mấy chai rượu, rồi kéo mãi, hai kẻ xấu số mới rời được nhau. Bố mẹ chết, đám con nhà sẩm bơ vơ. Dân xóm bến đò không rõ số phận chúng ra sao.

Bữa đó, cho đến tận lúc vợ chồng nhà hàng xóm đánh chửi nhau, tôi mới biết, một trong những đứa con nhà sẩm ngày ấy, nay là anh chồng tiến sỹ.

Giờ thì vợ chồng nhà hàng xóm ấy, mỗi người một ngả rồi. Tất nhiên, trước khi ly dị, căn hộ được bán để chia đôi, đồ đạc cũng vậy, phân đôi rất công bằng. Chả như bố mẹ họ, chết rồi mà còn dùng rượu rưới bóp, mời rời được nhau./.

Đêm tân hôn

Đêm khuya. Khu tập thể chìm trong giấc ngủ mệt nhọc. Bất chợt khung cảnh yên ắng đó bị khua dậy bởi bước chân đuổi nhau thình thịch và tiếng người giật giọng. Không phải tiếng kêu cướp mà là giọng trai gái níu kéo, người thì tức bực, kẻ thì uất ức. Một vài nhà trên tầng cánh cửa mở ra, những cặp mắt ngái ngủ tò mò ngó xuống. Dưới ánh sáng dãy đèn điện khu tập thể, họ nhận ra đôi trẻ chiều nay vừa tổ chức lễ cưới, chiếc xe hoa trắng muốt đưa cô dâu, chú rể về căn hộ trong khu này.

Đám cưới của họ là kết quả một mối tình mối lái, dàn xếp và cũng diễn ra khá chóng vánh. Nàng bước sang tuổi hai lăm, cái tuổi không còn thơ ngây, đã nhiều suy nghĩ và mơ hồ lo lắng cho tương lai, số phận. Song tuổi đó không phải không còn nhiều mộng mơ. Bốn năm đại học, đôi lần hình bóng vài bạn trai thấp thoáng trong ý nghĩ nàng. Rồi nàng gạt đi, hãy tập trung học tập. Hai mươi mốt tuổi cô cử nhân văn chương ăm ắp hoài bão, tự tin bước vào đời bằng những cuộc tìm việc, cả thi tuyển, cả quen biết nhờ vả... Suốt ba năm trời cố gắng, lúc chờ đợi hồi hộp, lúc phấn khởi hy vọng, khi chán nản buồn bực, để cô cử nhân vẫn quẩn quanh ở nhà, ăn bám bố mẹ. Kẻ đó đến trong đêm sinh nhật lần thứ hai tư của nàng. Nàng đâu quen, đâu mời và hắn thì cũng đâu vô tình. Hắn đi cùng người bạn của chị dâu nàng. Chính chị dâu nàng là bà mối, tổ chức cuộc làm quen. Có lẽ chẳng có bà chị dâu nào không tích cực ủng hộ việc lập gia đình của các cô em chồng. Giặc bên Ngô... Mà đây lại là bà cô đang không công ăn việc làm, suốt ngày ở nhà, nhởn nhơ ngắm vuốt. Hắn hơn nàng bảy tuổi, cao, to, đẹp trai, nói năng hóm hỉnh, nghĩa là rất đàn ông, ga lăng... Nàng tiếp nhận cuộc giới thiệu, mối lái không ra thờ ơ, cũng chẳng hẳn là vồn vã - bình thản nàng ngồi nghe chị dâu giới thiệu về tương lai, sự nghiệp của hắn: Tốt nghiệp đại học; đầy triển vọng ở một công ty làm ăn phát đạt; bố mẹ địa vị, kinh tế khá giả, họ vừa tậu cho hắn căn hộ khép kín ba buồng tại khu nhà cao tầng giữa trung tâm thành phố. Đều là các tiêu chuẩn đẹp của một tấm chồng. Đám cưới diễn ra sau chưa đầy nửa năm, kể từ buổi gặp mặt làm quen đêm sinh nhật.

Hôn lễ rất linh đình. Hai họ tổ chức chung tại khách sạn. Khách khứa nhà trai quá đông, nhà gái có phần hơi ít. Tiệc tùng đón tiếp suốt ngày mà tận đến mười giờ đêm, xe hoa mới rời khách sạn, đưa đôi trẻ về căn hộ riêng của họ. Gần mười rưỡi nàng tiễn mấy bạn gái, họ đi cùng nàng theo tục đưa cô dâu về nhà chồng. Lúc đó nhìn vẻ bừng bực, sốt ruột của hắn, nàng thoáng mỉm cười nghĩ bụng, chắc anh chàng nôn nóng vì chuyện ấy... Lần đầu tiên từ khi quen nhau, nàng chợt có cảm giác thương thương hắn. Tiễn khách ra khỏi nhà, chồng nàng vội vàng sập cửa, hấp tấp vào buồng tắm và cằn nhằn gì đó. Tiếng nước xối ào ào. Nàng hình dung cái sự tắm vội của chồng, lại mỉm cười. Một loáng đã nghe tiếng bước chân chồng hấp tấp vào phòng khách... Trong nhà tắm, nàng chầm chậm gỡ từng món đồ trang sức, ngước nhìn trong gương tấm thân trần và mái đầu xịt gôm nom ngồ ngộ của mình. Lúc này nàng cảm thấy thấm mệt. Ngâm mình trong bồn nước ấm thật dễ chịu. Thôi, thế cũng qua một ngày, một sự kiện, một kỷ niệm thiêng liêng giã từ thời con gái. Buồn hay vui? Sao nàng như muốn kéo dài khoảnh khắc này. Chợt tiếng động bên ngoài cắt dòng suy nghĩ của nàng. Bất giác nàng lại mỉm cười: Anh chàng sốt ruột, có ý nhắc mình. Đàn ông gì mà nhát thế. Từ lúc quen nhau, đôi lần đi chơi khuya bên dải lan can ven hồ hay trong một nhà hàng kín đáo, yên tĩnh nào đó, bàn tay hắn rụt rè thăm dò, đôi lúc cũng tham lam đòi hỏi, song thấy vẻ cương quyết của nàng, hắn không dám nữa. Lau khô mình, khoác bộ váy ngủ mỏng manh, nàng nhẹ nhàng rời buồng tắm. Từ hành lang, nàng thoáng nhìn thấy chồng nằm dài trên chiếc sa lông da ở phòng khách, lưng quay về hướng nàng. Lần đầu tiên thấy cảnh đàn ông ngỗn nghện và quá gần như vậy, xấu hổ, không qua phòng khách nàng theo cửa khác vào phòng ngủ. Tiếng bước chân và chăn nệm sột soạt, chắc chồng nàng nghe thấy. Mấy phút qua đi yên ắng. Hay hắn chưa biết? Nàng đành khẽ hắng giọng. Bất chợt tiếng chồng nàng vọng vào:

- Này em, tổng số 89 phong bì, 18 chiếc của em, còn... bảy mươi mốt chiếc của anh.

À, hoá ra chồng nàng đang đếm phong bì. Chắc chờ lâu sốt ruột, giết thời gian, anh chàng mang phong bì, thiếp mừng ra xem. Lại mấy phút yên tĩnh trôi qua, nàng vẫn chưa thấy tiếng bước chân của chồng. Hình như có tiếng xé giấy, tiếng chồng nàng lẩm nhẩm đọc gì đó, rồi tiếng hỏi vọng vào:

- Hoa là cô nào?

- Dạ... con bé xinh xinh, có cái răng khểnh. Lúc chúng mình tới bàn, em trêu... Nó cũng vừa mới xin việc được ở viện...

- Thảo nào, phong bì năm chục!

Nàng hơi sững. Lại tiếng xé phong bì và giọng chồng đều đều, lành lạnh: “Nguyễn Bạch Kim, năm chục... Đỗ Hải Yến, năm chục. À thêm cái thiếp mừng. Phan Huyền Tố Anh... cha cha, thi vị chưa! Không tiền, nhõn chiếc thiếp mừng. Hừ... lời chúc mới tốt đẹp, thướt tha làm sao! Hai bạn mãi mãi hạnh phúc... Hão!" Tiếng chồng nàng dài ra. Đây đâu phải chuyện đùa mà cười cợt! Mặt nàng nóng bừng. Nàng xấu hổ với bạn bè thay cho chồng. Tại sao anh ta cười cợt, mỉa mai trước những tình cảm chân thật của bạn bè nàng? Chồng nàng vẫn tiếp, giọng khô khốc:

- Thôi! Tổng cộng phong bì của em 18 chiếc nhé! Anh cuộn gọn vào rồi đấy. Mấy cái chưa bóc đâu. Hừ,... chắc lại điệp khúc năm chục!

Tiếp tục tiếng xé. Sao lúc này nó thô bạo, cứ xoèn xoẹt, xoèn xoẹt. Nàng rùng mình như nghe phải tiếng cạo tinh nứa. Trong nàng nỗi buồn chợt đến mênh mang... -"Ơ hơ... hên rồi! Thế chứ, một tờ. Thằng này khá! Mà phải thôi, hồi nó cưới, mình đi năm mươi đô.” Lại tiếng xoẹt. “ Năm mươi đô, khá!” Lại xoẹt. -“Hừ, phong bì dày kiểu này, phèo rồi. Trăm nghìn. Bà dì ruột giàu nứt đố, lúc nào cũng dì dì, cháu cháu, thế mà mừng có một lít! Giống giàu, toàn quân kiết". Xoẹt. -"Ba mươi đô”. Xoẹt tiếp. -“Hai mươi đô. Mẹ cha thằng bủn xỉn! Hồi nó cưới, mình phải mò tận lên thị xã Vĩnh Yên...". Tai nàng ù đi trước những tiếng xoèn xoẹt xé phong bì, tiếng cười ha hả, tiếng văng tục thô lỗ. Mắt nàng cay cay. Chẳng biết thời gian trôi đi bao lâu, mười lăm phút, nửa tiếng, một tiếng...? Người chồng đáng kính của nàng vẫn say mê xé, cười, văng tục. Nước mắt nàng chảy dài trên gò má, lăn xuống chiếc gối thêu đôi bông hồng bạch trắng tinh. Giọt nước mắt ấy có khi lăn đến lớp vải ga cũng trắng tinh, xuống đến tận... đệm. Nàng cảm thấy ân hận. Sao mình đồng ý con người kia? Trước đây đôi lúc nàng mơ hồ nhận thấy ở hắn điều gì khó nói, khó diễn tả. Nhưng rồi nàng gạt đi, nghĩ mình khắt khe, kỹ tính quá. Lần hắn tặng nàng bó hồng nhân ngày mồng tám tháng Ba, vẻ như vô tình, hắn để nàng biết hắn đã mua, giá mỗi bông hồng là bao nhiêu và phải mất bao thời gian mặc cả, chọn lựa trong cái ngày cực nhiều người mua hoa - bảy lăm nghìn 5 bông hồng Đà Lạt. Lại một lần đi chơi, vô tình giày hắn bị bùn bắn, hắn gọi, chọn, hỏi giá đến hai ba chú bé đánh giày. Bất ngờ, lúc đó nàng nhớ mình có cuộc hẹn, phải về gấp, thế mà hắn đợi kỳ được, tận khi chú bé đánh giày đi đổi tiền lẻ quay lại, trả tờ một nghìn.

- Em! - chợt tiếng hắn đầy kích động vang vang- Tổng cộng là mười tám vé ba và... chín triệu bảy trăm nghìn! Giá đô hôm qua mười một hai. Thắng con dream rồi. Ờ... mà còn phần phong bì ông bà già nữa, mình "nghía" toàn cỡ phong bì thiên thần. Hai cụ khốt làm gì không viện trợ thêm cho cục cưng này chục tờ nữa... Ha... ha...

Tiếng cười của hắn vô tình như tiếp thêm cho quyết định của nàng. Nàng vùng dậy. Đúng lúc thằng đàn ông nhồng nhỗng bước vào phòng, nàng lao ra. Bất ngờ, không kịp tránh, nàng đẩy mạnh và băng qua mặt hắn. Hơi sững lại, mới đầu hắn tưởng cô vợ đùa, nhưng thấy nàng giật cửa vọt ra ngoài. Sự việc diễn ra quá nhanh làm hắn đứng ớ ra độ mươi giây, rồi như là bản năng, gã vọt theo vợ. Trong đầu hắn sùng sục ý nghĩ: Cô có biết, đám cưới này nhà tôi chi hết bao nhiêu không?./.

Khóc ngứa nghề

Hắn khóc vợ, khóc thảm thiết. Sao trên đời có người đâu khóc vợ thê lương đến vậy! Tiếng khóc khàn khàn, lặng tắc như phát ra không phải trong họng mà từ phổi ruột tim gan. Nghe, chú ý mới rõ lời than khóc. Hà nghệ sĩ, dân làng gọi như vậy, hắn khóc kể về tình cảm buổi ban đầu, kỷ niệm như tươi nguyên nóng hổi. Rồi hắn kể bầy con dại cùng hắn bơ vơ côi cút trên cõi đời này. Đàn bà khóc chồng là thường tình, cảnh đàn ông khóc vợ nghe thật não lòng. Lắm lúc khóc hắn kể cả cái chuyện ái ân, nghe phát ngượng. Nghĩ, ai lại than chuyện ấy làm gì. Nhưng thôi, người ta đận mất vợ, đầu óc không tỉnh táo, biết đâu chọn lựa câu khóc:

- Hu hu... em ơi, em ơi!... Sao em nỡ chết khi anh còn sống... Hu hu hu... em ơi tình ta dang dở!... Hu hu

“ Choang... choang”- mấy cái bát vỡ tan. “Xoảng”- lại chiếc mâm vèo ra sân. Tiếng trẻ con giật mình ré lên.

- Ông cấm chúng mày nhặt, đám ăn hại đái nát... kia! Xéo, xéo mẹ chúng mày đi cho khuất mắt ông. Hu hu hu... em ơi! Nếu mai anh chết thì cõi lòng ai tan nát em ơi!

Thế là bắt đầu kể lể đoạn trường. Hàng xóm biết hết đoạn này sẽ tới đoạn hắn chửi rồi lại bắt đầu khóc cha, khóc mẹ. Hắn khóc cha mẹ giọng cũng ai oán, lâm li vậy:

- Hỡi cha mẹ ơi, bao công sinh thành nuôi dưỡng... hơ hơ... Cha ơi mẹ hỡi có hay! Linh hồn xin giáng về ngay linh sàng! Hoặc cha mẹ ở thiên đường cực lạc, xin lệnh trên cưỡi hạc kịp về. Hoặc về địa phủ âm ty, xin đức Địa tạng, hộ trì cho lên... hu hu... cha mẹ hỡi!

Hoá ra thằng cha đó bố mẹ đều chết. Thảo nào tiếng khóc nghe buồn thế. Khổ thân hắn thật! Sao có người số phận đến không may. Như hắn chẳng hạn, vợ đã chết, bố mẹ lại cũng chết! Có lẽ chết tai nạn giao thông. Còn giọng hắn chửi phẫn uất, chắc đứa thất nhân nào lừa đảo hắn. Tiếng khóc chửi nhỏ dần, yếu dần, hực cái, hực cái, lịm hẳn. Khốn khổ hắn chưa khóc chửi mệt không còn sức lả đi rồi.

Vợ hắn người đàn bà mảnh như dải khoai, xanh như tàu lá, hai tư tuổi mà gặp ai cũng đồ đến ba lăm. Nhìn khuôn mặt cô ta đoán ngay một cuộc đời khổ ải. ánh mắt len lét ngước nhìn vội cụp xuống. Không phải ánh mắt vụng trộm gian giảo, nó tồi tội và khiếp nhược. ở cái làng này, con gái mười sáu mười bảy là lấy chồng, học cao hết cấp hai, đại học chẳng đến lân, có trúng lấy tiền đâu theo đuổi, chưa kể ra trường ngược xuôi chạy việc. Vậy vào cấp ba mà làm gì? Tiền ấy, sức ấy, thời gian ấy, còn ở với bố mẹ, chịu khó đồng áng, khéo léo dành dụm giấu diếm được chỉ vàng là của hồi môn ngày cưới, không đớn hèn thì may lấy vài bộ quần áo, kẻo khi về nhà chồng mang tiếng tay không. Người đàn bà nom như dải khoai kia lúc cưới tròn mười bảy. Đám cưới nhà trai tổ chức to, ngả hai lợn tổng cộng chín mươi mâm, ba ngày ăn chưa hết cỗ. Chú rể, thằng Hà không hiểu tán tỉnh cách nào qua mặt được mấy đứa. Đẹp giai không bằng chai mặt. Giống con gái mới lớn thích ăn bánh phỉnh cộng thêm tính huyếnh, một tấc lên đến giời của thằng Hà và thời buổi yêu đương tự do, tìm hiểu kiểu dấm dúi bờ bụi, bụng phưỡn ra, thằng Hà chứ thằng phát vãng nào chả phải đồng ý.

Cưới cỗ bàn chưa ráo mâm bát, ngoài sân người còn dỡ rạp khênh bàn, bố mẹ thằng Hà đã lôi vợ chồng nó vào công khai tài chính, chứng kiến việc bóc phong bì và liệt kê đồ mừng. Tính ra, đồ tiền mừng không đủ khoản vay mượn cưới, lõm một triệu không trăm ba bảy nghìn đồng chẵn. Bố mẹ thằng Hà gàn trước rồi, bảo cưới nhỏ nhưng thằng này hống không nghe, quyết cưới to. May bố mẹ nó mặc cả trước, giao kèo ba mặt một lời hẳn hoi, cưới to, lỗ vợ chồng nó hoàn toàn gánh chịu.“ Vợ chồng mày ăn chung với nhà hết tháng là ra ở riêng. Sau mày còn đống em. Khu đất nhà ngoài trại tao tạm giao cho vợ chồng mày. Ra ở riêng, thế là sướng quá. Ngày trước chúng tao ấy à... tay trắng” Nghe bố nói sốt ruột, thằng Hà nhếch mép cười, kiểu: “Biết rồi, ông bà muốn vỗ tuột thằng tôi cho nhẹ nợ. Đây cũng đếch cần.” Chẳng phải chờ đến cuối tháng, ngay đêm tân hôn thằng chồng quyết, vợ chồng chúng chăn gối nồi xoong tếch thẳng ra trại luôn.

Năm năm ba đứa trẻ liên tiếp ra đời, đứa này nhỉnh hơn đứa kia chỏm tóc. Năm miệng ăn chỉ anh chồng kiếm, thằng Hà lại vốn chơi bời rượu chè nhà càng thêm túng. Cái làng nó kiếm việc không dễ, quanh đi đội cát, đóng gạch, quẩn lại phụ nề, thồ than... Thằng Hà làm đủ, dăm tháng nó lại bỏ. Cai không thải thì nó chán cũng bỏ, mà chủ yếu là cai bỏ, thằng nghiện ngập cờ bạc, lúc cần thì nó lại say bí tỉ hay dúi ở chiếu bạc. Mấy bận nó suýt ngã trên giáo xây cao tít vì ngái ngủ hoặc lơ mơ say. Giờ ở làng đố ai dám gọi nó đi làm nữa. Thằng Hà đâm thất nghiệp.

Cơ may thế nào trong một bận say nó hát, cười, ngâm đủ giọng bi ai hài tiếu. Hôm ấy là ở đám cưới trong làng. Thành lệ rồi, làng cứ đám xá mời hay không mời dân làng già trẻ tới ăn cỗ ráo. Cỗ bàn thì phải rượu, không rượu thịt tử tế có đứa đốc chứng cà khịa là khốn. Lâu rồi thằng Hà chưa được bữa rượu nào hả hê vậy, hắn say. Tính thằng này rượu vào là hát, nó trích đủ tuồng, chèo, cải lương. Lão cai Bền khách xã bên sang mừng đám cưới thấy thằng Hà hát đến vỗ vai làm quen. Lão khen: “ Này thằng em, cái giọng chú mày vang, khoẻ! Hừm... đi làm với anh đi. Ngày cơm nuôi ba bữa, rượu thịt đánh thẳng rốn còn giắt về cho mẹ đĩ mười nghìn. Đấy là mới vào nghề, sau giỏi giang tay nghề lên còn kiếm nhiều, có đám... tiền trăm. Chết đuối vớ được cọc, dù lơ mơ thằng Hà vẫn tỉnh ngay, dỏng tai nghe. Hắn cười hỏi khách, giọng vừa nghi ngờ vừa khấp khởi hy vọng: “Ông anh không đùa thằng em chứ?... hì hì...” Khách liền rỉ tai. Khách nói thằng Hà chưa rõ hỏi lại. Nghe thủng ra mắt nó chợt cụp xuống, lưỡng lự. Vốn lõi đời, khách biết cu cậu sĩ diện, ngượng, liền khích:

- Xì... Việc quái gì mà ngượng! Có phải đánh đĩ trộm cắp đâu... Khối đứa đánh đĩ ăn cắp đầy ra đấy vẫn vênh váo, diện ngất trời. Chú mày không tin à? Lên thị xã, phố huyện mà xem. Anh hỏi mấy cái quán ka ra ô kê chẳng bán trôn nuôi miệng công khai à! Hò hát gì!

Thằng Hà nghĩ: Có lý. Mà thá nó con ông cháu cha gìđâu phải giữ gìn! Hắn bùi tai, nhưng vẫn gãi gãi đầu, làm mẽ với khách:

- Em là em ô kề... dưng bác thư thư cho thằng em về hỏi thử ý kiến mẹ đĩ...

- Vẽ!- ông khách bĩu môi khích- Đàn ông mà phải hỏi vợ, vứt! Chỗ quý chú anh mới bảo. Giờ ới cái người có cả đống. Nào chú quyết đi, tôi chờ!

Làm quái gì có chuyện không đồng ý. Khách rút ngay tờ mười nghìn mới khự nhét vào túi thằng Hà, hợp đồng mồm luôn.

- Có việc, anh ới chú phải đi ngay. Còn tuần sau sang anh tập trước vài buổi. Tất nhiên tập chỉ cơm nuôi thôi. Không có anh bán xới đi ăn mày à!

Thằng Hà về bảo vợ. Vừa nghe cô vợ giãy lên như đỉa phải vôi:

- Anh không sợ dân làng cười cho à?

Nghe vợ nói vậy thằng Hà quắc mắt:

- Thằng nào con nào dám cười tôi. Ông tha cười cho chúng là phúc! Mà tôi nói cho cô hay, tôi biết tỏng ra rồi, nhà cô, bố con cô cười chứ ai. Này, cô đừng tưởng nhà cô danh giá, cành vàng lá ngọc nhé! Bố cô, cái chức chủ tịch xã về hưu chục năm nay, vứt ra đường chó nó không thèm ngửi. Mà thằng này kiếm không đổ riêng lỗ mồm nó. Đổ... đổ cho tất cả lũ lĩ nhà cô kia kìa. Hừ... khóc, ông đã chết đâu mà khóc. Ha ha ha... khóc được đấy, lời dài, gịong khoẻ như chúng nó vừa khen ông!

Người đàn bà còn biết nói gì nữa, thằng chồng cô chuẩn bị đi làm nghề khóc mướn. Những giọt nước mắt thánh thót rỏ xuống cái bụng tháng thứ tư, thứ năm nhinh nhỉnh của cô. Hắn đi làm. Buổi đầu gặp người làng hắn cũng sường sượng. ánh mắt họ nhòm ngó, cạnh khoé, mỉa mai. “Chúng mày khinh ông à- hắn nghĩ- Đây thịt xôi giò chả bọc tướng ông mang về, vợ con ông cắn ngập răng. Nhìn thấy, chúng mày lại không thèm rỏ dãi, không ghen lồng lên thì ông đi đầu xuống đất!”. Đám con chầu chực mỗi bận hắn về, hau háu lục ca táp lấy đùi gà, xôi, chân giò ngấu nghiến ăn. Tiền hắn mang về cho vợ nhiều dần, một chục, hai chục, ba chục, có bận cả tờ năm mươi nghìn cạo râu được. Nghe mọi người xỏ xiên gọi mình là Hà nghệ sĩ, Hà nhà báo, hắn chẳng lấy thế làm nhục. “ừ , nghệ sĩ đấy, nhà báo đấy! Được như ông chúng mày đã phúc bảy mươi đời”. Và thế là từ dạo ấy hắn vênh váo hãnh diện luôn với cái danh hiệu nghệ sĩ người làng mát mẻ gắn cho. Hắn là nghệ sĩ khóc mướn. Đi làm chưa đầy nửa năm hắn nổi như cồn. Khắp huyện, dần dần lan ra cả tỉnh, phường kèn trống lão cai Bền nổi tiếng nhờ tay khóc mướn Hà nghệ sĩ. Tiếng khóc của hắn mới thảm thiết bi ai làm sao, giọng to, lời dài... Từ khi có hắn các phường khác trong huyện vêu mõm, nhìn phường hắn hốt bạc thiên hạ mà tức. Tiếng đồn nhanh thế, đến cái huyện Hải Tiền cuối tỉnh nhà đám cũng lặn lội đến nói khó rước kỳ được phường kèn trống cai Bền. Hà nghệ sĩ được cả phường trọng vọng. Lão cai Bền nhũn như con chi chi, một điều chú, hai điều anh với hắn. Làm gì không anh anh em em, nhờ hắn mỗi ngày lão đút túi ngon ơ trăm nghìn, chưa kể tiền thướng.

- Nhìn chú vất vả anh xót quá! Thôi cố mà giữ cái sức khoẻ chú Hà ạ. Ăn đi, ăn đi em. Này miếng phao câu,... Không không gì cả, anh gắp chú phải cố- đấy là lão cai Bền đang chăm sóc, cởi gan cởi ruột với Hà nghệ sĩ trong bữa ăn khuya nhà đám phục vụ- Bảo việc khác như gánh nặng thì anh em san đỡ , chứ khóc, không năng khiếu, có tài như chú, cứ chịu!

Vất vả quá đi chứ, có ngày buổi sáng lăn gô bổ chửng gào khóc đám này, chiều đã ngồi sau xe lão Bền phi đến hờ đám khác. Ngang diễn viên hát sô, chạy rạp ngoài thành phố. Hắn biết người ta cần, nên cũng làm mình làm mẩy ra phết, yêu sách đủ điều. Mà phải thế nào mới mình mẩy được, không tài như hắn, khóc có mả có nghề, khối ra chúng cầu cạnh. Phải nói thằng cha giỏi. Còn nó thì nghĩ: Trước đây nhờ nghe nhiều nhạc vàng, lại sẵn đầu óc biến báo, mồm miệng ứng khẩu nhanh, mới mấy tháng đã khối kinh nghiệm. Khóc mướn xứ ta đâu có bài bản dạy truyền. Vào nghề học lỏm được câu nào, đoạn nào thì được, như bài khóc bố mấy câu thế này, khóc mẹ mấy câu thế kia, quanh đi quẩn lại có vậy, đến hắn còn thấy nhàm. Chốn quê đám xá lắm thầy nhiều ma, bình luận khen chê mỗi người một kiểu. Người ta đến nhà đám để ý kỹ lắm. Khóc phải sao cho nó thật, giả mà như thật. Khó là vậy đấy. Cứ xem người đến phúng viếng kia kìa, họ có buồn thương đến vậy đâu, nhưng mặt đều buồn rười rượi. Kẻ cầu cạnh thì đến cốt phúng viếng người sống; còn kẻ tò mò thì đến xem nhiều thứ lắm: chia của; xem anh em mâu thuẫn cạnh qué nhau; xem con cháu đứa nào đóng góp nhiều và ai bài bây, quỵt, không chị đóng góp. Càng có chuyện giật gân càng hay, tỷ như, tự dưng nảy nòi ra đứa nhận bố, nhận mẹ, khăn trắng áo xô chở người khuất. ái chà chà, chuyện ấy tha hồ kháo, cả tháng chưa hết. Đấy người dự nhà đám vậy đó. Mà ở quê đến chỗ ma chay như đi xem tuồng xem hát, cứ mấy lời cũ rích ai người ta còn thiết nghe, thiết rung động buồn thương nữa. Chưa kể đồng tiền bát gạo bỏ ra, nhà đám họ phải gỡ lại cho xứng.

Nghĩ vậy nên hắn để ý. Đầu tiên tới nhà đám hắn hỏi tỉ mỉ thân thế, sự nghiệp, nếp ăn nhẽ ở người khuất, tình cảm quan hệ với họ hàng thân tộc ra sao, thế là đầu hắn phác hoạ nhanh sườn bài khóc. Riêng với nhà đám chết trẻ cần nhất cái bi ai. Thứ này lời điệu hắn thiếu giống, cứ mô ni phê anh nhạc vàng, tân cổ giao duyên, miễn đừng bê nguyên xi, như “Nếu mai anh chết em có buồn không...”, lại nữa “Anh đâu ngờ, có ngày đàn đứt dây tơ... hơ hơ”, rồi thì “ Một hôm mưa bay được tin em chết... ớ ơ ”. Vô thiên ủng. Vậy là thằng cha tha hồ thả hồn khóc. Một bận có tay giám đốc già ở thị xã, vợ chết. Thằng cha quá yêu cô vợ trẻ. Đoán trước mỏ vàng thỏi đây, hắn chuẩn bị lời điệu bài khóc rất chi là cẩn thận. Y rằng, lần đó hắn trúng quả đậm. Nhà đám này quan hệ rộng toàn khách khứa sang, tay chồng dù tiếc thương vợ vẫn phải kìm nén đứng gượng đáp lễ người phúng viếng. Thằng cha giàu nên cầu kỳ cho tận xe con về đón phường kèn trống, yêu cầu đích danh Hà nghệ sĩ. ở nhà đám, thằng Hà vừa cất giọng lời khóc khúc mở màn- kể lể nỗi chồng đau mất vợ, gã giám đốc kia đã nức lên, rồi mặc quan khách cứ thế vật vã gọi vợ. Cảnh tượng thương đau đến độ, tự dưng chủ khách- cả rạp tu tu khóc theo. Đám xứ dự nhiều nhưng chưa có bận nào hắn thấy đám tang mà buồn đến thế. Tang ma xong anh chồng ghi công cậu chàng khóc mướn, kẻ thay gã nói lên tấc lòng thương tiếc cô vợ yêu, gã hào phóng thướng riêng Hà nghệ sĩ năm trăm nghìn đồng. Ơ hơ ngon ơ ba tạ thóc, lại còn đánh bạc nhoè! Phường kèn trống mỗi người được năm chục nghìn tiền thướng. Chưa có đám nào công xá hậu hĩnh vậy. Hắn nổi tiếng càng trở nên nổi tiếng. “Cứ đà này chẳng mấy nỗi chú lên rim, có khi tậu cả mô bin phôn đeo đít”- lão cai Bền nịnh hắn. “Chứ không à. Lúc ấy ông thèm vào bám đít cái bảy tám ghẻ của nhà mày”- thằng Hà nghĩ bụng vậy.

Sông có khúc người có lúc, đang lên như diều, đánh đùng cái, giọng như chuông như khánh của hắn tự dưng khàn khàn tịt tịt, tiếng khóc nghe chẳng thấy đâu mà cứ khừng khực. Người ta bảo lộc trời cho hắn thế thôi. Lúc trước tiếng tốt giọng dài lão cai Bền săn đón, phắt cái lạnh nhạt liền. Đến khi giọng hắn khóc không ra hơi, tiếng tắt lịm trong họng, ngay lúc nhận tiền công gia chủ thanh toán, lão Bền gọi thằng Hà tới cắt hợp đồng. Vừa nghe lão cai nói, Hà nghệ sĩ quáng quàng trình bày lẽ thiệt hơn, tình cảm lâu nay và hoàn cảnh gia đình hắn. Lão Bền cười khẩy:

- Tôi thương cậu nhưng gia chủ người ta không thương tôi. Mà họ không thương là không thương thật! Không kiểu thương vay khóc mướn như loại nhà cậu. Thôi ông biến cho tôi nhờ. Cắt!

Nói tới đây lão tót lên xe, rồ ga phóng thẳng, để lại Hà nghệ sĩ trân trân ngó theo. Cái thá thằng Hà đấu sao lại với cai Bền. Hắn dàn dụa nước mắt, những giọt nước mắt thật hẳn hoi, tuy không lời kể bi ai như lâu nay hắn thường rặn ra ở nhà đám nhưng lòng hắn buồn rười rượi. Lúc kiếm ra tiền ngày hơn bù ngày kém, bình quân tháng già triệu bạc, tưởng là nhiều. Khi thất nghiệp tiêu vèo một cái, tra tiền vợ thấy sạch như chùi. Lâu nay ăn uống ngày ba bốn bữa rượu thịt nhà đám thành quen, tật nghiện rượu của Hà nghệ sĩ càng nặng. Kiếm không ra nhưng sáng trưa chiều tối hắn vẫn phải có chai rượu. Ngồi uống suông một mình thằng cha nghĩ ngợi tợn. Càng nghĩ càng căm lão Bền, đồ bất nhân, phường giả dối, quân khóc thuê hờ mướn. Căm, thằng Hà chửi. Chửi lâu ngày thành tật. Nó nói cũng như chửi, chửi cũng như nói. Chửi chán lão cai nó quay sang chửi vợ, con vợ lười chảy thây, chỉ biết ăn và đẻ, không biết kiếm tiền để hắn khổ. Cho hả cơn giận, hắn lôi vợ ra đánh. Phàm đã say, nó không phân biệt đâu là hiện tại đâu là quá khứ, nhầm lẫn thời nọ, thì kia. Ngồi nhà mà hắn tưởng mình còn đang buổi nổi như cồn- Hà nghệ sĩ khóc mướn, oanh oanh liệt liệt. Cái giống hành nghề, phải bỏ, người ta nhớ nghề ghê lắm. Hắn cũng nhớ nghề khóc mướn của hắn y vậy. Lúc tỉnh còn giữ ý với xóm giềng hắn chỉ lẩm nhẩm bài khóc trong miệng, song khi say hắn nào biết ý tứ gì, cứ rống lên: Con khóc cha, anh khóc em, vợ khóc chồng. Trong các bài, bài khóc vợ là hắn hay mang ra nhiều nhất.

Hôm nay cũng vậy hắn uống rượu và say. Người vợ ngồi trong buồng, cô cho lũ con ăn cơm trưa. Khi đứa nhỏ mới đầy chín tháng bú xong, lừa nó xuống giường, giao đứa lớn trông, người vợ lén đi ra. Cô định nhân lúc thằng chồng say không để ý mà lẻn ra ngoài. Mấy tháng nay từ khi nó thất nghiệp cô ra bờ sông đội cát thuê kiếm mấy nghìn đong gạo. Không làm chết đói cả nút mất. Vừa mới lò dò bước, thằng Hà nhìn thấy quắc mắt lên, quát:

- Đi đâu? Mày định... mày bỏ ông... theo giai à... con đĩ kia! Mày... màyđịnh giở mặt như cái thằng phường kèn trống kia phải... kh..ô..ng...?”

Vừa nói nó vừa giơ cái chai không lên nhứ nhứ. Người đàn bà rúm lại. Nó phang thật đấy, không đùa đâu. Bao trận đòn thì biết rồi, nó đánh vũ, phu man rợ, khắp người cô còn đầy vết tím bầm. Người vợ lại len lét vào buồng ôm con, nước mắt lưng tròng. Sao ông trời sinh ra giống người lại còn đầy ải, có những kiếp người như mẹ con cô. Cô có thể cắn răng chịu đựng, nhưng lũ trẻ kia chúng có tội tình gì? Như mẹ chúng, đám trẻ nép vào nhau sợ. Chúng biết tý nữa người đàn ông kia sẽ đánh mẹ, đánh đau lắm, có khi còn đánh cả chúng nữa. Người vợ chờ đợi thằng chồng đánh. Càng say nó càng đánh vũ phu. Chờ mãi... chờ mãi nó vẫn chưa vào cô sốt ruột. Cứ vào đi, con cầu Trời cầu Phật nó đánh nhanh lên. Người ta chỉ sợ khi roi giơ lên chứ khi vọt xuống rồi là hết sợ hết đau. Mà cái lệ thằng chồng đánh cô xong, mệt nó lăn ra ngủ. Nó đánh sớm, ngủ sớm, thì cô mới kịp ra đội cát ca chiều. Chủ bãi họ thuê công nhật, không khoán khối khoán thúng, đến làm muộn, chủ bãi cắt buổi ấy liền. Thế là người đàn bà mong thằng chồng vào đánh mình nhanh. Còn điều nữa cô mong hắn vào đánh - tiếng khóc. Tiếng khóc của hắn cô sợ lắm, sợ nhất bài chồng khóc vợ. Thà nó đánh còn hơn.

Thằng Hà lại rề rà chưa vào buồng đánh vợ. Người đàn bà đợi hắn đến khi bóng nắng xiên xiên hắn vẫn chưa vào. Hắn còn tiếp tục chửi thằng cha cai phường kèn trống. Rồi bất chợt bặt tiếng. Im lặng...“ Choang... huỵch” Người đàn bà tưởng tượng cảnh thằng chồng đứng lên. Chắc hắn loạng choạng ngả nghiêng, nó đang quơ quéo tìm thứ gì, như đoạn gậy, chiếc cán vồ thậm chí cả cái chày giã cua để vào đánh vợ. Song, sao lâu thế? Chợt giọng hắn hực lên. Trời ơi... thôi chết rồi! Người đàn bà hai tay vội vàng bịt lấy tai. Thằng say bắt đầu bài chồng khóc vợ. Lời bài khóc và thứ tiếng lờ phờ, lào phào của hắn như tiếng ma tiếng quỷ- thê lương, rùng rợn. Nghe nó người đàn bà kinh hoàng tưởng tượng: Cô và bầy con như đang nằm dưới huyệt sâu; trên kia, nơi trần gian, thằng chồng- một con quỷ- dang tay phủ phục huyệt mộ, gào thét./.

Lão buôn thần

Hàng phố thấy lão ăn mày lạ thất thểu đi qua. Trông lão già tiều tuỵ, đói khát, đội cái nón sùm sụp, nhìn không rõ mặt. Xin, lão chỉ chìa tay, chẳng nói năng gì. Dân phố nghĩ lão câm. Một tuần, hai tuần, lão ta vẫn lang thang khắp phố. Có điều, nếu để ý, thường thấy lão luẩn quẩn trước lũ con nhà Đồng Cái. Những lúc ấy lão ăn mày già bỏ nón nhìn vào lấm lét. Lão chính là kẻ coi đền ngày trước. Dân phố không ai nhận ra, duy có người đánh cá nay thành cụ già coi đền còn nhớ. Như mọi ngày, lúc bố thí, phân phát đồ lễ thì lão ăn mày tới, cụ vẫn bình thản bố thí cho kẻ đó. Lòng không gợn chút căm tức hay khinh bỉ, mà chỉ thoáng thương hại, cụ nghĩ: “ Luật nhân quả đâu chỉ đến kiếp sau. Đời cha ăn mặn thì ngay đời cha đã khát nước”.

* * *

Phố ấy dưới dãy núi, bên dòng sông. Dãy núi như dải phân cách, chỉ qua đèo là tới vùng thâm sơn cùng cốc, vượt sông là sang miền đồng bằng trải rộng ra biển, nơi có thành phố làng mạc. Con đường đèo là thang bắc từ đất lên trời. Thế đất ít ác nhiều thiện. Toà đền ngự sừng sững chân đèo. Đền hướng ra sông, thờ thuỷ thần. Ngày ấy, giữ đền lộng lẫy kia là một lão đồng, dân phố không gọi tên tục mà thường gọi lão là Đồng Cái. Đồng Cái có dáng người ẻo lả, giọng eo éo như đàn bà. Lão để tóc dài, búi một búi củ hành và chuyên vận kiểu áo quần ta, thứ lụa mỡ gà vàng bóng. Tay thì ba bốn ngón, nhẫn vàng tướng. Đi đâu người lão cũng sực nức nước hoa. Hình như mồm Đồng Cái không lúc nào ngơi nghỉ, không nói, không chửi thì chóp chép nhai, quết trầu đỏ đọng mép. Lúc phởn chí hắn cười, mồm ngoác ra trông rõ hàm răng bọc vàng choé. Ghét ai chẳng nể nang hắn vỗ mặt hoặc xỏ xiên ngay. Chửi, một tay Đồng Cái kéo quần đến tận bẹn, tay kia xỉa xói hay vỗ bành bạch, chân nhảy tênh tếch. Nhà hắn cách đền không xa, vậy mà hắn rất ít đi về. Đồng Cái có tính mê đàn ông, đứa trai nào càng to khoẻ, càng dữ dằn, hắn càng thích. Chẳng biết có thật vậy không, bởi hắn vẫn có bà vợ béo nung núc cùng đàn con bảy tám đứa. Cả lũ không nghề ngỗng gì, chỉ nhồng nhỗng rong chơi. Dân phố biết mọi khoản chi tiêu của nhà ấy đều từ tay lão Đồng Cái tất. Khinh người, đồng Cái nhìn dân phố bằng nửa con mắt. Riêng người đánh cá là hắn kỵ, nhác thấy xa đã lánh, bất đắc dĩ giáp mặt, cái bản mặt vốn vênh vang của hắn, thoắt biến thành lấm lét, như chó ăn vụng bột. Hắn sợ người đánh cá vì ông biết rõ chuyện xấu xa của hắn.

Đền thủy thần có khu vườn rộng. Đồng Cái mướn một đứa trẻ gái làm vườn. Tiếng là mướn mà thực ở không công, ngày hai bữa cơm thừa, chỗ Đồng Cái và lũ trai ngủ qua đêm với hắn ăn không hết. Dân phố không rõ đứa trẻ ấy từ đâu tới, họ chỉ nhớ, một sáng có đứa trẻ lạ ngơ ngác đứng góc chợ. Nó xấu xí, đen đúa, ai hỏi chỉ giơ tay quơ quơ. Nó là đứa trẻ câm. Sau đền có khoảng ao hoang rộng, người đàn ông đánh cá thường hay tới đó. Ông chứng kiến bao lần cảnh lão Đồng đánh con bé. Đánh vì nhiều cớ, nó ngủ quên, nó làm gãy nhành mẫu đơn hay Đồng Cái cãi nhau ở đâu về, trút tức lên con bé. Đánh thì cán cuốc hoặc rút guốc ra phang. Đánh bao giờ cũng chửi. Đánh chửi mệt hắn mới bỏ đi. Thương quá, nhưng người đánh cá can ngăn thế nào được. Chủ ngược đãi người ăn kẻ ở nhà nó, biết làm gì. Đợi đến lúc Đồng Cái bỏ đi, người đánh cá mới giúp được con bé. Ông hái lá láng, nướng lên, xoa những vết tím bầm khắp người nó. Câm, nhưng con bé biết. Lúc bị đánh không hề nghe thấy tiếng nó kêu hay khóc, nhưng lúc người đánh cá tới, nó nhìn ông ràn rụa nước mắt; nó lấy tay và đầu làm dấu, đau lắm. Dù không dư dả, người đánh cá khi mua nắm xôi lúc cái bánh đa, lén cho. Nhìn nó ăn đến tội nghiệp, nhồm nhoàm, cổ rướn lên như rắn nuốt ngoé. Nó đói.

Bận đó người đánh cá tới ao hoang. Ông thoáng nghe tiếng rẫy rụa, tiếng ơ ớ và cả tiếng vật vã. Con bé lại bị đánh, người đàn ông nghĩ. Nhưng sao không thấy tiếng chửi như mọi khi? Vườn rậm rạp... hay nó bị rắn cắn? Chết! Người đánh cá vội áp thuyền lao vào vườn. Ông khựng lại, quá bất ngờ cảnh lão đồng cái cưỡng bức con bé. Mất đến mấy giây người đánh cá mới kịp phản ứng, ông lao lại, thẳng tay túm đám tóc củ hành trên đầu lão đồng. Thình lình bị giật ngược, Đồng Cái ngã ngửa và sừng sững trước mặt lão người đánh cá. Sợ, Đồng Cái rũ ra như con gà bị cắt tiết. Thoáng cái hắn chắp tay, quỳ lết về phía người đàn ông, vừa lết vừa vái, hắn vái như thăng đồng, chỉ khác mồm không hú hét. Nhìn dáng quỵ luỵ ấy, người đánh cá thấy ghê tởm, ông nhổ bãi nước bọt vào giữa mặt thằng chó má. Bước lại phía con bé, ông quyết định đón nó về nuôi, không thể để đây với con quỷ đực cái ác dục. Người đánh cá vừa chạm vào con bé, nó đã giật ra, lết lùi, lết lùi, rồi bất ngờ vùng dậy, chạy thục mạng ra hướng bờ sông. Hôm sau đang bơi mủng thả lưới ven sông, vô tình nhìn rặng cây ven bờ người đánh cá giật mình, hình như có xác người lập lờ mé nước. Đó là xác con bé câm. Người đánh cá đứng ra chôn cất kẻ xấu số. Đám ma không thấy bóng dáng Đồng Cái. Dân phố có người xì xầm, tại sao con bé câm tự vẫn, tại sao người đánh cá đứng ra làm ma cho nó. Người đánh cá chỉ im lặng. Từ đó hễ gặp ông, lão đồng len lét như rắn mồng năm.

Dân phố vốn ghét lão đồng, họ ghét luôn cả ngôi đền, rất ít người đến lễ. Thế nhưng đền vẫn đông khách. Họ từ các thành phố xa xôi về lễ, toàn những bậc giàu có béo tốt, có bà ngồi chật cả chiếc xích lô, tay cổ trạt vàng. Bổng lộc của Đồng Cái ai trong phố cũng rõ, từ nguồn những người khách phương xa đó. Làm gì không tính ra, riêng khoản nhảy đồng, mỗi giá đồng con nhang đệ tử cung phụng số tiền bằng một nhà dân phố ăn cả tháng. Hợm của, Đồng Cái đem phô với bàn dân thiên hạ. Hắn phá ngôi nhà cổ. Dạo đó phố toàn nhà tranh, thảng hoặc mới có gian nhà ngói cổ, thế mà hắn xây ngất ngư cái mái bằng. Tấm ô văng đến lạ mắt, xỉa ra như vành mũ anh chàng bán phở. Dịp hoàn thiện ngôi nhà Đồng Cái khệnh khạng leo lên giáo, tay kéo quần lụa ngang háng, tay kia chỉ trỏ thợ tô trát tấm ô văng, phía trên đắp ba ô vuông, phía dưới đục bảy lỗ tròn. Dân phố nhìn thấy ngỡ ngàng, chẳng biết kiểu ấy là gì. Đúng là cái thứ không giống người! Mãi họ mới luận ra, ngầm ý của Đồng Cái phô với thiên hạ:

Ba vuông sánh với bảy tròn

Đời cha sung sướng, đời con sang giàu!

Dân phố trông mà tức nhưng làm gì được, nhà người ta muốn bôi trát gì là quyền của họ. Dây vào, nó réo tổ tiên sư cho thì khốn. Dân phố chỉ còn biết thì thầm cùng nhau: ừ, cứ đợi xem! Hay là đời cha ăn mặn, đời con khát nước! Năm ấy có chuyến bè xuôi dòng. Bè thả neo nghỉ lại quãng sông kế phố. Lệ qua đây, các ông lái làm mâm cỗ cúng đầu bè. Xong tuần hương họ lên lễ trình đền thuỷ thần. Như vô tình, hôm đó có chuyến xe hơi cũng về lễ. Nghe nói hai đám khách xin nhà đền cho hầu thánh. Cổng đền cửa đóng then cài từ sớm. Vẻ thì dấu mà như khoe, dân phố đều hay, tối đền có hầu bóng. Ngay sân đền, lão đồng còn ẽo ợt với khách:

- Nhà đền chỉ sợ mấy ông dân quân. Các ông ấy tuần tra mà túm được hầu bóng thì phiền lắm... Nhưng các vị cứ an tâm đi, trần sao âm vậy, cô có khoản tạ trước rồi...

Nói đến đó lão cười phe phé. Kiểu giấu diếm đến lạ. Mới chập tối đèn đuốc trong đền đã sáng choang. Lão đồng khăn chầu áo ngự ngồi xếp bằng, xung quanh cô con nhang đệ tử quỳ cung kính. Tiếng đàn dạo, tiếng hát chầu văn cất lên, hoà với tiếng xì xầm khấn lạy. Lão đồng đảo nhẹ, mâm lễ trên đầu lão cũng đảo nhẹ. Mười ngọn lửa nến bấc lượn lờ, chao đảo trong những ngón tay kẹp của lão. ánh sáng nến hắt tường, lúc sáng, lúc tối, mờ ảo. Lão đồng đảo nhanh dần, nhanh dần; mâm quả cũng chao đảo nhanh dần. Có tiếng thì thầm:

- Ngài nhập! Ngài nhập!

Cùng lúc ấy tiếng con nhang đệ tử rộ lên cầu khấn. Mùi khói hương, tiếng đàn hát, hú hét, lửa nến chập chờn... Không khí thật rùng rợn ma quái. Con nhang đệ tử thi nhau dâng trầu, dâng thuốc lên Thánh, cô một lúc xơi hai ba miếng, mồm ngậm năm bảy điếu thuốc, mỗi lần cô rít, bó thuốc đỏ rực, rồi cô phì phì nhả khói. Các thứ dâng lên, cô chỉ thưởng thức qua lại ban phát luôn. Ai được lộc Thánh, miếng trầu, điếu thuốc hút dở đều hỉ hả hưởng. Hết một giá đồng, mọi người xúm vào chăm sóc cô, người quạt, người mời nước, kẻ lau mồ hôi. Sắp giá đồng mới họ, thay cho Đồng Cái bộ khăn áo chầu mới. Lần này cô trùm khăn, tay cầm roi, đó là roi ngựa của Thánh- giá chầu quan Tuần Tranh. Bắt đầu đảo, bắt đầu múa, vòng đảo nhanh dần, tiếng roi vun vút. Con nhang đệ tử lại thành kính kêu cầu Thánh phù hộ... Thình lình, tiếng còi ré lên, mọi người giật mình nhớn nhác. Tiếp đó, tiếng hô, tiếng lên quy lát súng rôm rốp. Như đồng loạt, đàn hát cầu khấn ngưng bặt. Cô- Thánh cũng hết nhập, ngồi đơ đơ. Chỉ có đôi mắt cô còn trừng trừng, chẳng hiểu cô căm tức hay Thánh còn nhập dở. Chợt thấy công an, mặt Đồng Cái tái dại, rũ xuống. Đọc lệnh khám, công an lục soát, tìm thấy bó tướng thuốc phiện giấu dưới điện thờ. Lúc đó dân phố mới té ngửa, Đồng Cái và đám khách lễ là dây buôn đồ quốc cấm. Lão đồng đi tù, dân phố nghĩ, chuyến này rục xương.

* * *

Có người trong phố nhìn lão ăn mày thấy khuôn mặt quen quen, hình như kẻ coi đền xưa? Nhưng họ lại phân vân, có lẽ mình nhầm. Vì nếu là Đồng Cái thì lũ con phải nhận ra bố chứ. Chẳng biết lũ con có nhận ra bố chúng không, hay nhận ra mà cứ lờ đi? Hồi ấy sau khi bố vào tù, đám con Đồng Cái hùa nhau bán cái nhà ba vuông sánh với bảy tròn, đến lúc tiêu hết tiền, chúng đánh chửi nhau một trận tơi bời, rồi mạnh đứa nào đứa ấy sống, coi như không anh em, quen biết gì nhau nữa. Chúng làm đủ nghề, từ lừa đảo, đánh đĩ, đến trộm cắp. Trong lũ con có thằng cả phất nhanh. Hắn vốn là đứa tinh ranh. Bây giờ dân phố đồn nhà nó có bạc tỉ. Lão ăn mày lảng vảng trước nhà thằng cả đã mấy ngày mà vẫn chưa giáp mặt con. Nhà ấy đông khách, toàn người sang đến giao dịch. Có lần Đồng Cái mon men qua được cổng thì gặp mấy thằng tá túc trong nhà nó. Lũ ấy tống ngay Đồng Cái ra ngoài. Không gặp con, Đồng Cái còn bị bồi thêm mấy cái đá và cốc bia uống dở lũ đó hắt theo. Không nản, Đồng Cái nghĩ: “Nó giầu, bỏ ra chút tiền nuôi bố thấm tháp vào đâu. ắt thằng này sẽ nhận mình, sẽ không như mấy đứa mất dạy kia.”

Tự dưng phố ấy náo loạn, cảnh bắt nợ, nhà này xiết nợ nhà kia; người khiêng ti vi, kẻ bắt tủ; có người còn tróc con nợ cả giấy thổ trạch. Phố, mấy chục nhà khóc khóc cười cười vì vỡ nợ. Mới đầu họ còn giằng xé nhau, sau cả con nợ lẫn chủ nợ rầm rầm kéo đến nhà thằng cả, con lão đồng. Chính hắn là thủ phạm, lừa đảo người này, lường gạt người kia. Đám giật nợ đang đùng đùng trên đường kéo tới thì có chiếc xe con rú còi ầm ầm chạy vào phố. Xe ập vào nhà thằng cả. Phố càng náo loạn hơn, từ đứa cởi truồng đến ông lão cập kề miệng lỗ, suốt ngày chỉ kháo nhau, kẻ tưởng giàu nhất phố lại là đứa lừa đảo và còn trong đường dây buôn ma tuý. Đúng là rau nào sâu ấy.

Đồng Cái biết ngay tin đó. Mặt lão rũ buồn. Lão khóc, khóc tức tưởi. Từ lúc ấy Đồng Cái không câm lặng nữa. Dân phố đã rõ lão là ai. Thấy tay lão huơ huơ, người bảo lão giống con bé câm ngày trước thế! Hay hồn ma con bé câm nhập vào lão? Thấy lão nhảy múa, vừa nhảy vừa hú như nhập đồng, người bảo lão điên rồi. Riêng cụ già coi đền - người đánh cá xưa, nghĩ: Không, kẻ ăn mày già nua ấy không điên, lão chỉ giả điên. Nhìn vào mắt lão, cụ thấy sự sám hối.

Luật Giời

Vì công việc, vì gia đình và trăm thứ lý do khác, nên lâu lắm rồi tôi mới về quê, cái thị trấn nhỏ giáp ngã ba sông. Ân hận quá. Hay tin bạn ốm, nghĩ chắc chỉ cảm cúm qua loa, thế mà nó chết. Nghe kể, tang lễ trang trọng lắm, có cả ông chủ tịch xã đọc điếu chia buồn. Ai cũng nhắc câu, ơn giời, ra đi thanh thản lắm! Trước nấm mồ hương khói, những vòng hoa thật, giả lẫn lộn, rũ héo... Tất cả chỉ để được thế này ư,... dưới ba thước đất?

Viếng bạn xong tôi trở về nhà mình. Căn nhà hoang lạnh, lâu rồi bỏ không. Nhìn quang cảnh mà lòng rưng rưng. Chính nơi này đây ta từng cất tiếng khóc chào đời, rồi khôn lớn,… Thế mà nay, rời xa, bỏ mặc. Sân rêu, lá rụng. Dặng tre kẽo kẹt xõa phủ lên mái nhà rạ mủn mốc. Trong vườn khóm chuối xác xơ, có mấy cây, buồng buông dài tận gốc, dúm dó quả đen, quả thối. Nào ai người chặt dấm, chuối ơi.

Thẫn thờ ngó cảnh buồn hoang nhà mình, ánh mắt vô tình tôi ngó sang nhà hàng xóm bên kia dậu. Nhà ấy cũng xác xơ xơ xác, xác xơ hơn cả nhà tôi. Mái tranh hơ huếch, cửa dả tềnh toàng. Kìa, giữa nhà là thằng đàn ông tiều tụy, tóc tai dài cợp. Nó đang ngồi lơ ngơ, ngó ra sông, hờ khóc. Nghe nói, giờ nó thành thằng điên rồi. Kỷ niệm xưa chợt ập đến trong tôi. Ngày ấy cách đây hơn 30 năm. Tuổi tôi lúc đó còn dạng bẻ gãy sừng trâu. Nhà hàng xóm có ông bà già và hai thằng trai. Đứa lớn hơn tôi dăm, ba tuổi, đã lập gia đình và thằng bé, xấp xỉ tuổi tôi. Mới đầu nhà họ quần tụ dưới một nếp nhà. Rồi nhà ngăn đôi bằng tấm vách, thằng trưởng và vợ một gian; gian kia là ông bà già và thằng út.

Nói về nhà này, đáng nhắc tới nhất là thằng trưởng. Nhà nó lúc nào cũng rộn rã tiếng… chửi. Công nhận rằng, đàn ông, mà nó chửi bới ngoa ngoắt, bài bản lắm. Kẻ bị nó chửi là cô vợ. Tuần, có khi đôi ngày, đến dăm bữa, nó chửi. Cứ đều đặn, tục tĩu... Chửi vì nhiều lý do, túng tiền, vắng khách - nó là thợ cúp tóc, hoặc rỗi mồm, buồn miệng, thì mang vợ ra đánh chửi. Chửi cả điều vợ nó đẻ ra toàn lũ vịt, sau này chết, không có thằng chống gậy. Hồi ấy, dân xóm tôi sống thoải mái thật. Việc ai nhà nấy lo. Đánh vợ, chửi con, cứ thoải mái, không có ông chính quyền, xã hội nào can thiệp. Thế nên, thằng cả hay mang vợ ra đánh chơi. Đánh bể đầu, đánh vợ lê lết, vừa đánh chửi, vừa rêu rao, kêu gọi xóm ngõ ra xem nó đánh vợ.

Nó chửi đánh vợ như vậy, mà bà mẹ chồng tịnh không dám lên tiếng bênh vực nàng dâu. Có một bận bà cụ vừa mới ấm ớ được mấy câu, thằng giai trưởng đã chỉ thẳng tay vào mặt bà mẹ:

- Già rồi thì biết quái gì. Đến đẻ còn không xong. Đấy, đẻ ra chúng tôi, mà để khổ thế này đây. Thế cũng đòi đẻ!

Còn ông bố, thì cụ hiền như cục đất. Ngày trước cứ sáng sáng ông già xách hòm đồ đi cắt tóc dạo. Mấy năm nay già yếu, gần bảy mươi rồi, đành ở nhà chầu chực sống nhờ con. Tôi nhớ lần nghe nó chửi vợ, mà khiếp. Ấy là một đêm khuya, sau khi đánh vợ thỏa thuê, cô vợ rống lên khóc và chạy trốn, nó ra sân trước nhà, gióng giả:

- Ông truyền đời báo kiếp cho con đĩ nhé. Mày ngủ với thằng nào, con nào, thì mặc xác bố mẹ mày. Ông thèm vào. Ông thích, thì ông ngủ với chán vạn đứa. Còn mày, ông cứ đem chặt phăng bố cổ mày đi, dựng ngược thây ở bến đò này, cho ông đi qua, cho bà đi lại, nhìn cái xác lộn ngược không đầu của mày. Rồi ông thắp hương, gọi hồn thằng ông, con bà mày về đây, ông chửi tiếp.

Nghe mà rùng mình. Đêm khuya, đang luyện ôn thi đại học, tôi phát khiếp, vột tắt đèn, trùm chăn đi ngủ.

Nhớ chuyện ngày thằng út cưới vợ. Nhà này hàng phố quan hệ thưa vắng. Lý do cũng bởi thằng út. Thằng này to như con tượng, bắp chân, bắp tay cuồn cuộn. Ngực xăm con rồng xanh vuốt nanh dữ tợn. Nghề nghiệp chính của nó là đánh củi. Suốt ngày bổ bổ, cuốc cuốc, mà về nhà, sau cuộc rượu tối khề khà khoảng nửa lít, nó cũng huỳnh huỳnh múa võ trước sân. Nó khoe là có võ Tàu. Tính thằng này rất cục súc, không vừa lòng ai, nó chửi vỗ mặt và cần là đánh nhau liền. Hủi như nó, hàng ngõ, ai nào dám quan hệ, rây vào. Thế nên khi nó cưới vợ, lúc đón dâu, nhà lưa thưa có mấy khách.

Ngày cưới, thằng út bày vẽ ra trước hiên nhà cái chõng tre và mấy chiếc ghế. Chào mời mãi, hàng xóm chả có ai. Nó chạy sang, níu kéo mời tôi. Nể quá, tôi miễn cưỡng sang dự. Uống qua quýt ngụm nước chè tươi, rồi kiếu, tôi tếch thẳng. Cô vợ nó, hình như quê cũng làng bên đâu đó. Chẳng hiểu thằng ấy cưa kéo kiểu gì, cô nàng hơ hớ tuổi trăng tròn, lại chịu về làm vợ thằng đánh củi. Chắc cô nàng mê thằng kia, vì nó là dân phố huyện, tiêu chuẩn tháng được đong 13 cân gạo bông. Lúc đón dâu, nó mượn được ở đâu ra cái xe đạp. Chú rể bổ củi mà cũng sơ mi trắng, quần ka ki sẫm, cô dâu áo phin trắng chiết eo, ngồi sau xe, lúi dúi về nhà chồng. Đưa dâu là dăm ông bác, bà cô tung tẩy xe đạp. Đến nhà trai, thấy dân phố mà gia cảnh xơ xác. Chắc họ nhà gái trong bụng thầm ngán ngẩm thở dài. Nhưng ván đã đóng thuyền rồi.

Dịp ấy, tự dưng ông bố nhà ấy ốm mệt. Anh em chúng đưa bố vào viện. Bệnh viện cách nhà chừng già hai cây số. Chạy chữa được dăm hôm, bỗng dưng hàng xóm hay tin, ông cụ chết mất rồi. Chữa trị tại bệnh viện, mà chết lại tại gia. Tối trước, hai thằng con cõng ông bố về. Lạ quá, “vừa về tới nhà, ông cụ nhà tôi lăn đùng ra chết” - ấy là lời hai thằng con toe toe khoe với dân xóm.

Đám ma tưng bừng, kèn trống, gậy tre, nùn rơm, cờ phướn, bùa chú dán khắp nhà, nghĩa là ỏm củ tỏi. Nhà đám còn rước về một ông thày cúng. Ông thày này trông rất dị tướng. Người nhỏ thó, đầu trọc lốc, cằm và miệng lưa thưa mấy sợi râu. Người thì nhỏ, mà cả xóm nghe tiếng ông ta lanh lảnh – hô hoán đuổi tà ma. Trưa ấy dân xóm được bữa thất kinh, sau khi phần đầu bài thần trú niệm xong, thằng út hạ mâm cỗ cúng, mời ông thày cùng hưởng lộc. Rượu vào lời ra, một bên là gã thày cúng khoe từng nhiều bận đả ma trừ quái, một bên là thằng đánh cúi có võ Tàu, khoe hạ gục khối tay giang hồ. Vừa ăn uống vừa khoe, hai gã say lúc nào không hay biết, chúng chuyển sang đánh nhau bằng mồm, rồi xông vào đọ tài bằng tay chân. Lão thày cúng kia chịu sao được mấy cái gạt tay, phi chân của thằng đánh củi. Chỉ một thoáng đã thấy lão oai oái la hét, không có mấy người xúm vào lôi ra, thì thằng út bóp cổ chết tươi lão thày cúng. Tưởng vụ đánh nhau đã yên, nhà đám não nề kèn trống tiếp rồi, lại ré lên tiếng thét của thằng út nữa:

- Ông giết!

Chuyến này thì thằng cục súc ấy giết lão thày cúng rồi. Hàng xóm bủa sang. Họ phát hoảng khi thấy máu me bê bết chảy trên nắp cỗ quan tài. Dưới nền nhà, không phải là lão thày cúng mà là con mèo, đầu vỡ toang, nằm giãy giãy. Chuyện là thế này. Người thì đang lo việc ma buồn. Nhà có người chết, kị nhất là giống mèo. Vô phúc nó nhảy qua thây ma, là khốn đấy, cứ là quỷ nhập tràng. Nhà này có con mèo, đã nhốt kỹ rồi, không hiểu sao, nó xổng được ra. Lúc ấy con mèo kia lớ xớ mò ra chỗ cỗ áo quan, ngó nghiêng nhìn ngó tấm màn xanh đỏ treo trước khung ảnh thờ. Tấm vải màn đong đưa theo gió. Tưởng là chim, hay bướm bay, con mèo định nhảy lên vồ. Trong cơn lơ mơ say, lại còn hậm hực với lão thày cúng, thấy con mèo nhún nhún, định nhảy lên ma bố nó, thằng út chụp ngay lấy, thẳng tay giáng vào tấm thiên cỗ gỗ.

Đêm bến đò thanh vắng, nhà đám cửa mở toang, cỗ áo quan chình ình kê giữa nhà, nhị kèn não nề, hương khói nghi ngút, nhất là ông thày cúng miệng rú rít, thỉnh thoảng phun phì phì ngụm rượu hòa tàn nhang bùa chú, chỉ bó hương trên tay vào, lửa thêm cháy bùng bùng, làm cho không khí đêm khuya càng thêm ma quái. Dân xóm kinh hãi, nhà nào nhà nấy đóng kín cửa, sợ.

Sau hôm đưa ma ra đồng, chị hàng xóm giáp vách nhà ấy, thì thầm với mẹ tôi:

- Bà ơi! Hình như anh em nó giết ông cụ. Giết vào đêm chúng đưa ông cụ từ viện về. Anh em chúng thay nhau cõng quật, cõng cho đến kỳ chết ông cụ.

- Thôi thôi chị ơi, liệu mà kín lời. Đừng rây với chúng. Rầy rà đấy!

Thế rồi những chuyện xảy ra sau đó đến lạ và kinh hãi. Bố chết, chúng yểm con cóc, yểm trong cái niêu đất. Được nửa tháng, thì đào lên. Lạ thay, con cóc kia không chết, lại trắng ơn ởn ra, mắt thì tháo láo mở và ngóc đầu kêu... cóc cóc. Cả hai thằng sợ vãi linh hồn, tá hỏa, quăng cả cóc lẫn niêu ra sân. Cái niêu đất vỡ tan, chỉ còn con cóc phình bụng, ngóc ngóc đầu, rồi chầm chậm nhảy cóc, cóc. Hai thằng trai đứng lặng trong nhà, ngó con cóc ma ám mà kinh hãi.

Đêm ấy tự dưng mưa to gió lớn, sấm chớp đùng đoàng. Gió quật từng cơn sầm sập. Bất chợt một cơn gió giật tung cửa liếp nhà ấy. Trên ban thờ, đèn nến tắt phụt, chỉ còn mấy nén nhang sáng lập lòe. Nhìn lên ban thờ bố, thằng út thấy cờ phướn phần phật bay. Trên khung ảnh thờ, con đom đóm bay vào đậu từ lúc nào, chiếu sáng làm gương mặt người khuất xanh lòe.

- Ma… Ối làng nước ơi ma!

Giữa đêm mưa chợt nghe tiếng thét thất thanh, dân xóm giật cả mình. Họ thấy hết thằng anh, đến em, mỗi đứa một dao, huơ huơ, gào thét, ròng ròng chạy khắp xóm chém đuổi ma bố. Vì quá khiếp sợ, ngay nhập nhoạng tối hôm sau, hai thằng con len lén gỡ bỏ ban thờ, nào màn trướng, nào cờ phướn, nào thân chuối, âm thầm ném ráo xuống sông. Cả chiếc giường cũ vốn của ông bố nằm, cả chăn chiếu nữa, quẳng ráo.

Giữa tháng bảy âm, đang mùa lũ. Nhà ấy nằm giáp mép sông. Nơi ngã ba sông, dòng nước chảy quẩn, tạo ra cái vật xoáy cuồn cuộn ngay sau nhà ấy. Vật nước lúc thì xoáy ngược, lúc lại đảo xuôi. Mỗi khi vật xoáy tụt xuống, phát ra những âm thanh khùng khục, nghe như ma cười quỷ khóc. Đám đồ đạc vứt xuống sông, đã không trôi đi, lại cứ dập dờn xuôi ngược. Mặt sông trăng giữa tháng soi bàng bạc. Ngó ra sông, trên mặt nước, trông lộ lộ lúc cái thành gường, lúc cái giát giường, lúc bó chăn, rập rềnh trôi ngược xuối. Khi bị cuốn vào vật xoáy, chúng quay tròn, bất thần đứng dựng lên, rồi thụp xuống, lặn mất tăm, cứ lật đật như đám âm binh dậy non phù thủy Cao Biền tập trận trên sông. Thật đúng là ma trêu, quỷ ghẹo. Lũ con càng nhìn, càng khiếp kinh.

Dịp ấy dân xóm bị vạ lây. Đêm hôm chẳng mấy ai dám lớ xớ ra đường. Họ chỉ ở trong nhà sợ và nghĩ: Sao bà già cứ nỉ non khóc. Tiếng khóc khác lạ, ai oán, như là trách hận ai đấy. Sao bố mất mà yểm bùa, dán chú khắp nhà, khắp sân. Lại tiếng trống điếm canh đê ngũ liên gõ rập rồn, báo nước sông lũ lớn. Cũng vào dịp ấy, nhà ai đó trong xóm để xổng ra con tắc kè núi. Khuya khuya, tiếng nó khắc khoải: tắc kè, tắc kè. Cả con mèo của nhà ai nữa động dục, ư ử kêu như trẻ mỏ khóc. Chắc nó tưởng con mèo của nhà kia còn sống, nên thảm thiết gào gọi bạn tình. Và lắm đêm dân xóm giật mình, tiếng hai thằng trai hú hét, huỳnh huỵch đánh đuổi ma bố khắp xóm.

Không rõ, giờ gia cảnh thằng lớn thế nào. Chỉ hay rằng, nó bán nhà, chuyển đi đâu đó. Giờ nó không còn đánh chửi vợ con nữa, vì cô vợ cặp bồ với ông già giàu tú hụ, anh chồng chả dám đánh. Thằng út thì sao? Vợ nó, giờ cũng bỏ rồi. Nay nó thành một thằng khùng điên. Đấy, nó đang ngồi vật vờ hờ khóc bố nó đấy!

Mất ngựa

     Tôi ra ngoại ô thăm sếp, tổng biên tập cũ, nay đã nghỉ hưu. Chưa đến cái tuổi thích cảnh điền viên nhưng nhìn sếp chăm chút vườn cây cùng đứa cháu nội bi bô theo chân,  “Hạnh phúc cuộc đời đấy.” - tôi chợt mỉm cười nghĩ - “ Câu nói đó của ông. Mình nói năng, triết lý hao hao giống sếp mất rồi! Có người bảo mình bắt đầu gàn, lập dị. ”

Sếp, một người uyên thâm, bao dung. Nhận xét đó là qua tiếp xúc, sống và làm việc sau này, chứ buổi đầu gặp ông, nghĩ đến tức cươì. Khoảng mười giờ hay mười rưỡi gì đó, như lời hẹn tôi đến, tổng biên tâp đang... dở việc - một ông già hom hem, luộm thuộm. Phòng làm việc của toà soạn thiết bị cũ kỹ, tồi tàn, lúc đó vào năm 1987. Chỉ cái cặp lồng trên bếp may xo đỏ rực, nước sùng sục sôi, Ông nhìn tôi cười xuề xòa, bảo đợi một chút và đưa tờ báo cho tôi đọc. Đánh mắt quan sát phòng làm việc của sếp, bộ bàn ghế xộc xệch, tủ tài liệu và cả trên mặt bàn sách báo khá lộn xộn. Ngay góc nhà, giáp với bếp điện là chiếc xô tôn Liên Xô lưng lửng nước, cạnh đó cái chậu nhôm cáu cạnh, dúm dó. Tôi ngồi đọc báo nhưng vẫn kín đáo quan sát sếp nấu ăn. Sếp đổ nhúm gạo từ túi ni lông, khoảng lạng gạo vào ca men, thứ gạo sổ mậu dịch vàng khè, nấu lên nở bung, hôi rình, đã ăn thì đừng ngửi. Ông vục ca gạo vào chậu nước, lấy đũa khoắng rồi gạn, làm tiếp vài lần, tức là vẫn nước ấy, chậu ấy, múc khoắng rồi đổ. Tiếp đó ông nhón mấy ngọn rau trên sàn thả vào chậu, lại dùng đũa khoắng. Nước trong chậu lấm tấm bèo, đùng đục trắng.  Nghĩ chậu nước sẽ đổ đi, tôi đứng dậy định bê cho sếp, thấy vậy ông xua tay:

- ấy ấy, cậu cứ để đó. Dùng được nữa, còn sạch chán. Đổ đi có phí à!

Chắc ông để đó rửa đồ rếch sau bữa ăn trưa, tôi ngồi xuống tiếp tục đọc báo. Sếp đến ghế cạnh tôi ngồi, tháo bít tất, đôi tất rinh rích cũ, thủng cả mũi lẫn gót. Vì ngồi quá gần tôi thấy phảng phất mùi mồ hôi chân. Trừ khi ngăn tôi đổ nước, đến lúc này sếp mới lên tiếng, gọi là nói chuyện, giọng đủng đỉnh:

- Cậu nghĩ rằng chậu nước đó bẩn, nhưng tôi lại không, nó còn sạch chán. Suy nghĩ của mỗi người đôi khi là vậy đấy. Anh bảo rằng hay, tôi bảo không hay.

        Bất ngờ sếp thả chân vào chậu nước, chậm rãi kỳ cọ. Buồn cười về cả triết lí lẫn hành động của ông, tôi cố nhịn. Sau này  nhiều lần còn thấy sếp dùng cái chậu cóc cách dúm dó đó, ngâm rau sống, chứa bã chè.  Đến khiếp!

Sếp nói có điều mới nghe đến lạ tai.

- Đời người nó ngắn ngủi lắm cậu ạ! Tại sao cứ khó chịu, mà “chịu vui” đi, thanh thản không?

Những lúc tâm sự riêng hay khi trao đổi họp hành tòa soạn, ông thường mang triết lý sống, triết lý đối nhân xử thế mình rút ra, đặc biệt ông hay dẫn cái anh điển tích Tàu. Đến mức, mỗi khi ông chuẩn bị nói, nhiều anh em, nhất là đám trẻ cứ bấm nhau tủm tỉm hoặc ở phòng lại lôi ra bắt chước giọng ông, trêu chọc nhau. Đại ý những câu: “à, điều này tớ biết 20 năm rồi!...” Cái điển tích Tàu ông lão nước Hồ mất ngựa, sếp tâm đắc lắm. Tôi nhớ mấy câu sếp trích: “ Mất ngựa, thế mà phúc cho tôi đấy, biết đâu! .... Được ngựa, thế mà họa cho tôi đấy, biết đâu!”

Có người bảo ông lập di, gàn. Họ kể nhiều chuyện gàn của ông. Hồi ông là trưởng ban, thời ấy đi nước ngoài như cơ hội đổi đời. Nếu đi Đức, không được chiếc mô kích thì ít ra cũng kiếm cái đi a măng. Còn đi Nga là chiếc đài mô nô đi a. Ngù ngờ thì dăm chiếc bàn là, cái nồi áp suất. Anh nào đụp cũng khuân về cho vợ chiếc chậu nhôm Liên Xô, đựng cả thùng nước, thả con vào tắm sung sướng không. Thế là tranh cướp nhau đi. Họ nói xấu, dựng chuyện, moi móc nhau đủ điều: từ chuyện cổ xưa nhất, tay ấy từng có tin đồn trái gái hủ hoá, bắt được quả tang; đến chuyện, hắn hễ xuống cơ sở là xin xỏ, nghe nói có thư về toà soạn phản ánh. Toàn kiểu thông tin nghe với đồn hoặc loại thư nặc danh. Đủ chết rồi. Lần ấy có suất đi Nga, bình đi chọn lại mãi trong danh sách đề cử ứng cử trừ ông ra, không anh nào không có vết. Ngay từ đầu, biết mình trong danh sách, ông xin rút. Mọi người nghĩ, lẽ đời từ chối là một chuyện, nhưng bụng nghĩ thế nào lại là chuyện khác, có trời biết.  Đến khi làm hộ chiếu ông vẫn khăng khăng từ chối, lại tiến cử một tay phóng viên trẻ. Ông bảo: “ Cậu ta đi là xứng. Đi học hỏi, mở mang đầu óc, chứ đi mua nồi áp suất, bàn là đâu.” Gàn đấy! Nếu không ai lại nói ra mồm vậy.

Tết năm đầu tiên tôi về báo. Vào quãng đầu tháng chạp, chúng tôi có chuyến công tác Tây Bắc. Kể đi viết tết thế là quá muộn. Đoàn có ba người: sếp, tôi và lái xe với chiếc com măng ca cà khổ. Đây là chuyến đi xa đầu tiên đời làm báo viết tết của tôi. Tôi biết sếp muốn trực tiếp đưa đi nhằm dìu dắt truyền kinh nghiệm cho lính mới. Chuyến đi suôn sẻ, gần như dự kiến. Đường về chỉ còn điểm nữa chúng tôi vào làm việc. Tuy sát tết bề bộn công việc, nhưng vừa thấy đoàn, anh em Ban Định Canh Định Cư tíu tít đón chào. Tình người ngày ấy rất chân thật. Làm việc xong trưởng ban ĐCĐC huyện nhất quyết kéo chúng tôi về nhà, gọi là ăn tết sớm. Lại trưa sau, chiều sau, người này mời, người kia giữ, chúng tôi không biết từ chối ai. Sếp vốn cả nể, tôi còn cả nể hơn, nhất là ai nỡ khước từ lời mời rượu. Chủ nhà bữa cơm trước hôm chia tay là vị phó ban, người Thái. Tôi lính mới tò te chưa có kinh nghiệm, lại ngựa non háu đá, thích khẳng định mình, nên liên tiếp mấy trận say bí tỉ. Với người miền núi, đã làm khách đến nhà uống rượu, chưa say là không được. Bữa cơm cuối cùng tôi còn say hơn mấy bận trước. Tối đó không rõ chúng tôi về phòng khách bằng cách nào, bò, dìu hay gia chủ phải khênh. Có người lay gọi, trời còn tối om, tôi cố loạng choạng ra xe. Rét thế mà anh em trong Ban ĐCĐC huyện vẫn tận tình ra tiễn. Mệt quá, tôi bắt tay chiếu lệ và tót trước vào xe. Lên sau, sếp loay hoay ngoái lại hàng ghế tôi ngồi, ông xếp đồ, bấm đèn pin soi soi gì đó. Chợt tiếng sếp hốt hoảng: “ Rắn xổng...!”. Sếp lao bật khỏi xe. Ô hay, anh lái xe cũng như điện giật, vọt khỏi ghế trước. Nghe tiếng la và họ lao ra, tôi giật mình, chẳng hiểu mô tê răng rứa gì, theo bản năng rụt vội chân thu lu lên ghế. Lúc đó tiếng người hô ngồi yên, tôi chẳng rõ thế nào, sợ toát mồ hôi. ánh đèn pin dưới đất rọi lên trên ghế và cả sàn xe. Tôi đánh mắt nhìn xuống. Quái, có cái lồng nứa chềnh ềnh trên sàn. Trong lồng... trời ơi! Một con rắn vằn vện to cỡ ngang cổ tay. Lưỡi và mắt nó bắt đèn loang loáng. Lúc này tôi mới hiểu. Thảo nào người ta hét, bảo chớ động đậy. Tôi nổi da gà nghĩ bụng, nhỡ mà nó bổ cho một nhát thì toi đời. Mặc ai hô tôi vẫn co giò phi tót qua cửa xe, đầu va một cái đau điếng. Cũng mừng không bị sao. Ai đó bắt đầu dùng gậy gõ vào thành xe, một cậu thanh niên bạo gan bám vào khung cửa, ghếch đèn soi kỹ. Chẳng thấy rắn xổng đâu. Chắc chúng cao chạy xa bay từ khuya rồi.

Trên xe hỏi anh lái tôi mới hay, quý khách, ban ĐCĐC huyện chuẩn bị bộ tam xà, tối qua đưa cái “lồng quà” biếu lên xe luôn. Lúc đó say, tôi nào biết gì. Khi sếp soi đèn kiểm tra, giật mình thấy còn mỗi con, mới hay chúng xổng. Xe chạy được quãng xa sếp vẫn im lặng. Nghĩ sếp chưa hoàn hồn sau sự cố vừa xảy ra, thì chợt tiếng ông cười, rồi cất giọng đủng đỉnh, phong thái mọi khi:

- ừ, trong cái không may, có cái may. “Mất ngựa thế mà phúc cho tôi đấy, biết đâu! Được ngựa thế mà họa cho tôi đấy, biết đâu!” Như cái chuyện xổng rắn của cánh ta vừa nãy, tưởng là không may à? Chưa hẳn. Nếu hôm qua tỉnh, cẩn thận đem lồng rắn vào phòng ngủ thì...            

Nghe sếp nói tôi nghĩ mà kinh! Đúng là may thật, không thì đêm qua có vị rắn quấn cổ. Xe chạy quãng xa tôi vẫn ngơm ngớp, thỉnh thoảng ngoái cổ kiểm tra con rắn sót lại đó, nó xổng nữa là khốn. Định bụng bảo sếp quẳng béng cái của nợ đó thì tiếng sếp  nhẩn nha:

- Các cậu ạ, cái giống này đại bổ. Quý lắm, quý lắm! Các cậu còn trẻ không biết, chứ già như cánh tớ, trở giời là mình mẩy ê ẩm. Nhưng nếu được cái tang anh rượu rắn, dãn xương dãn cốt.

Sếp nói vậy tôi sao dám bàn quẳng cái thứ đại bổ, đại quý kia đi. Ngồi ghế sau, chốc chốc tôi lại liếc mắt xem thứ của quý đó còn không. Gần tới Hà Nội sếp quay lại nhắc tôi:

- Cậu xách con rắn về ngâm cho cụ nhà. Quý, quý lắm đấy!

Vừa nghe tôi đã thất kinh, khước từ liền. Có lẽ anh lái xe cũng như tôi, khiếp mà từ chối... Chuyện con rắn tưởng hết, thôi không đại bổ tam xà thì cũng  hoá kiếp nó vào chai cho độc xà tiểu bổ. Chả phải lo lắng nữa. Đi công tác về tôi được sếp cho ở nhà viết bài vài hôm rồi mang lên sếp sửa. Ngày hẹn tôi đến nhà sếp trình bài. Căn hộ gác ba tập thể vỏn vẹn 15 m2, gồm cả bếp, lẫn ban công. Chật vậy nên đồ đạc lỉnh kỉnh, chồng đống xếp hai ba tầng. Nhà chỉ còn khoảng trống bằng cái chiếu một. Lúc tôi tới có mâm cơm úp lồng bàn, để ở khoảng sàn ấy. Sếp giải thích, phần cơm bà xã làm ca chưa về. Sếp tiếp tôi trên chiếc giường một duy nhất. Trước khi đưa bài sếp xem, tôi hỏi thăm độc xà ngâm tẩm ra sao. Nghe tôi hỏi, giọng sếp thản nhiên:

- Nó lại xổng rồi!... Mất là rủi nhưng rủi... biết đâu rồi lại may đấy?

Đang ngồi  giường, chân đặt trên sàn, nghe vậy tôi hoảng qúa vội lén thu chân lên luôn. Kể khách đến nhà ngồi thu lu vậy, lại ngay trước mặt sếp là bất nhã quá, tôi cũng biết, nhưng... sợ. Định bảo sếp hãy cẩn thận, song thấy ông bình thản như không, nên tôi ngại, sợ sếp nghĩ mình thần hồn nát thần tính. Hỏi ý kiến sếp về bài vở tết mà đầu óc tôi cứ loay hoay với ý nghĩ, tý nữa ra bằng cách nào đây. Lớ xớ con cạp nong hay cạp nia ở đám xó xỉnh đồ đạc nhà sếp xổ ra thì rồi đời. Sợ nên tôi nấn ná mãi chưa dám về. Còn sếp, hình như đang dở việc gì, giục: “Thôi cậu về được rồi, chỉ cần sửa đôi chút. Về cơ bản, ý tứ khá. Văn cậu ít lời nhưng nhiều ý. Khá!” Cuối cùng tôi cũng phải chào sếp, ngồi mãi thế nào được, nhà độc cái giường, tý nữa vợ người ta lại về. Lúc trước tôi tính kỹ, chào sẵn sếp trên giường, rồi phi thật nhanh, quãng từ giường đến cửa ra vào ấy. Thực hiện đúng vậy, song khốn khổ thay, tôi mới sải được vài bước chân, đã đến cửa đâu thì sếp giật giọng gọi. Tôi giật bắn cả mình, nhắm mắt phi ào ào, nghĩ sếp hô rắn. Ra đến ngoài hành lang mới biết, mình nhầm, sếp gọi tôi để quên bài viết. Giờ thì bố tôi cũng không dám quay vào. Dù không bản nháp nào ở nhà, tôi vẫn nói dối vọng vào với sếp :

- Em... em còn bản thảo nữa mà!

Lúc ngồi uống nước trên giường thì lo cho mình, khi về đến nhà đi nằm, tôi lại nghĩ ngợi, lo cho vợ chồng sếp, nguy hiểm quá. Song chả nhẽ đêm hôm khuya khoắt, tới nhà người ta gọi, bảo cẩn thận, rắn xổng đấy(!) Sáng sau lên toà soạn, tôi thấp thỏm đợi, thấy sếp tới, mới thở phào nhẹ nhõm, sếp chưa bị rắn cắn. Tâm trạng phấp phỏng diễn ra mất mấy hôm. Chiều hai chín, khi chào nhau nghỉ tết, sếp có lời mời anh em trong toà báo chiều mùng hai đến nhà uống rượu. Tôi vội từ chối luôn, lấy cớ tết này mình về quê. Thực ra tết ấy tôi có về quê đâu. Tôi không nhận lời vì... sợ con rắn xổng. Nó mà còn luẩn quẩn trong nhà là khốn.

May... không may, rủi... không rủi. Trong cái rủi có cái may, trong cái may có cái rủi. Ôi, đến rối rắm. Hồi ấy tôi chỉ đơn giản nghĩ sếp duy tâm, kiểm nghiệm thuyết rủi may bằng con rắn xổng, tôi không dám.            

Tiếng cười quả báo

Ngõ nhỏ ngoại ô. Thằng bé đu trên chấn song cửa. Chân tay nó co rút, sẹo nham nhở. Vết bỏng kéo nhằng, che tịt một phía, không nhìn rõ tròng mắt. Ai đi qua nó đều nhí nhố gọi ra:

- Chú chú... bác bác... bố bố...

Tiếng gọi chưa dứt thì chuỗi cười hềnh hệch trên cao dội xuống. Đó là tiếng cười của đứa trẻ ở gác hai nhà đối diện đập xuống. Tiếng cười, tiếng gọi hú đuổi nhau, ngõ vắng khách lạ sởn gai ốc, rảo gót bước nhanh, còn dân ngõ chỉ biết thở dài...

* * *

Vị thiếu tá quân y bước vào ngõ, anh phân vân dừng lại trước nhà có thằng bé tàn tật. Viên sĩ quan tìm nhà ai? Thấy khách, đứa trẻ ríu rít: -“Chú chú... bác bác... bố bố...”

* * *

Thằng bé cười trên gác là con gã đàn ông nhà đối diện, nó bị ngẩn ngơ; đứa trẻ tàn tật là con người phụ nữ lỡ thì. Một thời người phụ nữ ấy xinh đẹp lắm, cô từng là thanh niên xung phong tuyến đường Trường Sơn. Tuổi trẻ qua đi trong năm tháng chiến tranh. Hoà bình cô khoác ba lô về, nhà cô sâu hoắm hố bom, trận mười hai ngày đêm Mỹ bắn phá Hà Nội. Không bố mẹ, anh em, đến nấm mồ thắp hương cũng là mộ giả. Đang lúc cô gái khóc trước “nhà”, mấy người hàng xóm và bà lão mù khua gậy đến an ủi. Cô gái về ở với bà cụ. Cuộc sống mặt trận và hậu phương khác nhau quá. Mấy năm cô gái mới quen thì bà cụ trăm tuổi ra đi. Cô lại thui thủi đơn côi. Và khi nhìn lại mình, tuổi trẻ lùi xa mất rồi, cô thành gái quá thì trong ngõ nhỏ ngoại ô ấy.

Người chẳng có gì, kẻ thừa mứa, đủ đầy. Gã đàn ông đối diện: căn nhà ba tầng bề thế, chồng-phó giám đốc một công ty, vợ- nhân viên ngân hàng. Nhà họ gần nhau, tiếng động bên này, bên kia nghe rõ. Buổi tối tiếng lũ trẻ hay cô vợ trẻ cười đùa vọng sang, người phụ nữ độc thân nghe rõ mồn một. Qua âm thanh cô mường tượng cảnh diễn ra bên kia, khi thì người bố giả làm ngựa, hai trẻ cưỡi, cười như nắc nẻ; lúc lại cảnh mẹ trêu con đánh yêu chồng, cô vợ trẻ cười tiếng cười trong vắt...

Đêm. Gió đập cửa thình thình. Người phụ nữ trở mình đè lên con búp bê nhựa. Con búp bê cô nhặt được, không rõ ai đã vứt đi. Nó cũ kỹ, tóc rối, váy áo xộc xệch, nhưng cô vẫn thấy đẹp. Hồi bé, cô thích chơi búp bê lắm. Loại bây giờ hồi ấy làm gì có, toàn búp bê vải, các mảnh vụn từ những tấm áo cũ mẹ cô xé cho. Thành lệ, từ hôm nhặt được con búp bê, trước khi đi ngủ, cô mang nó ra bồng bế, trò chuyện. Ngắm nó, cô càng khát khao được làm mẹ. -“Ước gì mình có con! Con ơi... mẹ sẽ dành dụm, mua một con búp bê thật mới, thật đẹp tặng con...”. ý nghĩ miên man, đêm dài ra, cô thao thức không ngủ.

Dân trong ngõ cho anh hàng xóm là quá đầy đủ, sung sướng. Người đàn ông đâu nghĩ thế, anh ta vẫn thấy thiếu thằng con trai. Vậy nên anh ta âm thầm mưu tính, dù cô vợ sư tử Hà Đông và bao thứ “rách việc” khác, phải kiếm bằng được thằng con giai. Gã đã thoáng nghĩ tới cô hàng xóm lỡ thì rồi vội gạt đi: -“Hừ... sao chàng màng được. Tính vẻ khô khan. Ngữ đàn bà ấy khó đăm đăm, trông thì biết...”

Chẳng rõ từ khi nào, quẩy gánh hàng đi chợ, người phụ nữ vô tình hay liếc sang nhà đối diện. Sáng ấy gã hàng xóm đứng trên ban công. Ngẫu nhiên ánh mắt họ chạm nhau, người phụ nữ đỏ mặt, bối rối nhìn nhanh đi nơi khác. Gã đàn ông nhận ra ngay. Hắn nhếch mép cười, nghĩ: -“Ta khờ quá! Mỡ kề miệng mèo, mèo không xơi. ừ, trông được, khá là đằng khác. Chà chà, một cuộc trao đổi đôi bên cùng lợi: Thị thèm khát đàn ông, mình cần thằng con giai. Ta sẽ chu cấp. Mà thân một mình, làm gì không có vốn ăn vốn để, đủ nuôi con... Hà... hà... cái giống đàn bà, tốt mơn, ruột gan tuôn ra hết, có khi còn cơm no, bò cưỡi”. Hắn cười khùng khục trước tưởng tượng đó, lạng bạng bước xuống gác, vợ con tròn mắt ngạc nhiên, nào biết gã cười gì.

Ngõ vắng. Đêm khuya dường như nghe thấy cả tiếng vỗ cánh chập choạng bầy dơi ăn đêm. Tắt đèn đã lâu người phụ nữ độc thân vẫn thao thức không tài nào chợp mắt nổi. Chợt tiếng gõ cửa khe khẽ, giọng đàn ông thì thầm. Quá quen với cảnh ấy người phụ nữ đâu có bất ngờ sợ hãi. Khuya, những gã đàn ông, nhiều lắm, già có, trẻ có, quen có, lạ có, cả những đứa chỉ đáng tuổi em út chị, giọng chúng méo mó say hay khàn nồng dục vọng- một lũ sổng chuồng. Chị ghê tởm. Bất chợt trong trí nhớ cô hiện về câu chuyện năm nào: Hình bóng chàng lái xe và tiếng cười trong trẻo. Lần gặp gỡ cuối cùng bên nhau chỉ có họ. Nàng ngột ngạt trước thác hôn cuồng si... Tiếng súng vang lên, họ rời nhau trong bịn rịn. Người con gái khoảng ngực mở tung trắng ngần giữa đêm rừng hoang dại. Chia tay không lời từ biệt. Vệt B52 xoá sổ cả đoàn xe. Chàng ra đi. Cho đến lúc ấy giữa tuổi đôi mươi, người trai vẫn chưa trở thành đàn ông.

* * *

Tiếng gõ dai dẳng, giọng nói van xin, nài nỉ. Chị nhận ra kẻ ấy, gã hàng xóm. Đó là tiếng con đực rên khát dục. Chị trở mình giả cất nhịp thở đều như giấc ngủ say mệt nhọc. Ngõ sâu yên ắng trở lại, người phụ nữ vẫn chưa ngủ. Dòng suy nghĩ miên man... Bất chợt ẩn hiện đám ma buồn thương cụ già cô độc - người đón chị về ở cùng. Đám ma duy nhất một vành khăn, chị thắt cho hương hồn cụ khỏi tủi. “Nếu sau này mình... đến một vành khăn tang cũng không có nốt”. Nước mắt chị trào chảy. Đêm sau, đêm sau nữa, gã đàn ông vẫn dai dẳng nài gõ. Tới đêm... then cửa không cài, gã run lên vì sung sướng, quáng quàng đẩy cửa lách vào.

- Đứng lại! -giọng nói cất lên nghèn nghẹt- Tôi biết việc mình làm có lỗi với vợ anh. Nhưng tôi... tôi chỉ cần đứa con...

Tiếng người đàn bà nói trong hơi thở. Gã đàn ông mừng rơn. Trời run rủi! Hắn nào ngờ may mắn thế. Hắn có con mà không phải chu cấp. Chính cô ta tự nguyện làm cái việc ấp trứng tu hú. Vô cảm, qua những đêm dài người đàn bà âm thầm chịu đựng, có chăng là xúc cảm về đứa con rõ dần, lớn dần trong chị. Nhận được dấu hiệu làm mẹ đầu tiên chị thông báo ngay và yêu cầu gã chấm dứt như lời hứa. Gã đàn ông nhếch mép cười giữa căn nhà tranh tối tranh sáng. Sau buổi đó gã không tới nữa.

Tháng ngày chờ đợi, cuộc vượt cạn một mình êm xuôi, cặp song sinh bé gái, bé trai. Ngay đêm đó gã đàn ông mò tới. Người mẹ gượng ngồi dậy, cô định ngăn song chợt nghĩ. -“Thôi để các con một lần hưởng tình phụ tử”. Gã đàn ông sà vào sát giường, chằm chằm nhòm hai đứa bé, rồi xốc vội đứa trẻ trai, dâng thằng cu sát mặt, hắn chườm cái chim lên mũi, lên cằm, ư ứ nựng:

- Chim yêu... giống yêu của bố!

Động, đứa bé cựa quậy, rin rỉn. “Thằng bố” khừng khực cười, hớp nhanh tia nước. Nhìn cử chỉ đó người mẹ không khỏi xao xuyến. Giá các con có bố... Cô thoáng buồn cho con gái, “bố nó” không hề đoái hoài. Sau bận ấy, mặc người đàn bà phản đối, gã vẫn thậm thụt sang. Hắn nhâng nháo hôn hít thằng bé và để lại chút tiền, tất nhiên người đàn bà khước từ, không lần nào nhận. Cái kim bọc giẻ lâu ngày cũng lòi ra, người vợ trẻ linh cảm thấy, để một lần sững sờ chứng kiến cảnh đêm khuya anh chồng vụng trộm từ căn nhà ấy mò ra. Trên ban công cô chết lặng. Cô muốn xông sang xỉa xói con đàn bà đĩ thoã ngấm ngầm dụ dỗ chim chuột chồng mình. Thế mà hàng ngõ cứ khen ả thế này, ả thế nọ. Thảo nào lâu nay nó tránh mặt mình. Những tưởng ả chửa hoang xấu hổ. Lúc chồng lách cách mở khoá, vờ vịt loạng choạng rượu bia họp hành cơ quan về muộn, cô vợ lại trấn tĩnh được. “Mình làm thế có phá nổi chúng không? Lão dại gái hay thèm khát thằng con giai?” Người đàn bà cười lành lạnh. Anh chồng nghi ngại liếc trộm mà chả thấy vợ nói năng gì. Bẵng đi đã lâu, rồi chợt vợ hắn tuyên bố xanh rờn: đã có mang. Nghe, gã đàn ông hốt hoảng, tíu lên giục vợ nạo thai. Ngọt nhạt không xong hắn định nổi xung hù dọa, cô vợ đối lại, tiếng rin rít qua kẽ răng, cái chuyện ăn chả ăn nem của hắn. Gã đàn ông thừ mặt.

Gần hai năm sau khi cặp song sinh kia ra đời thì vợ gã đàn ông sinh con, một bé trai bụ bẫm, tuy cuộc sinh nở khó khăn, phải mổ đẻ cứu ngạt thai nhi. Suýt thì chết cả hai mẹ con. Qua đận sóng gió ấy hắn nghĩ: Thế vẫn mừng, có đứa nối dõi chính tông rồi. Mà lão thầy bói nói thánh thật, đầu năm rút quẻ lão tán: Sẽ gặp vận xúi nhưng kèm theo lộc lớn, phúc đức tiền tài. Y rằng lộc phúc đức cùng vận xúi đến liền một lúc. Chà chà, còn lộc tiền tài nữa... Cuối năm mà trúng quả đậm vài chục cây, ta phải tới tạ cái lão thầy mù thật hậu”. Từ khi vợ sinh con trai, những cuộc thăm nom vụng trộm thưa dần và rồi mất hẳn. Thậm chí có lúc đụng cửa gặp thằng bé hắn cũng dửng dưng luôn. Người đàn bà nghĩ bụng: “Thôi cũng tốt. Mình có muốn vậy đâu”.

Cuộc sống của ba mẹ con người đàn bà tuy chật vật nhưng bù lại, căn nhà ấm tiếng cười. Một sáng như mọi ngày, chị tong tả chuẩn bị cơm nước cho con rồi khoá cổng, quẩy gánh hàng đi chợ. Ra cửa người đàn bà thấy nhà hàng xóm nhộn nhịp chuẩn bị sửa soạn, kê dọn. Tối qua chị láng máng nghe nhà người ta cỗ đầy năm thằng út. Mẹ đi chợ, hai đứa trẻ ba tuổi léo nhéo khóc một lúc rồi nín, tự chơi với nhau trong nhà. Hết trò chúng dắt díu nhau ra vườn nghịch đất. Chợt xế trưa, cả ngõ nhốn nháo. Người trong ngõ tua túa kéo vào nhà người đàn bà. Tin truyền thằng bé sa xuống hố vôi sau vườn, nhà bên cạnh mới tôi. Dân ngõ vội đưa thằng bé đi viện. “ Sao khổ thế cơ chứ! Nó bị nặng quá. Mẹ con biết xoay xở ra sao?” Đấy là lời dân ngõ từ bệnh viện về nói thế. Còn biết xoay xở thế nào, đứa bé chớm lành vết thương, người mẹ đã phải cho con xuất viện. Như kẻ mất hồn, chị lơ đãng nghe lời bác sĩ khuyên: “ Cố gắng đưa cháu bé đến viện bỏng trung ương. Để vậy vết thương co rút, thằng bé sẽ tàn tật suốt đời...”. Lấy tiền đâu đưa con đi? Vật lộn nuôi ba miệng ăn còn vất vả, song chả nhẽ chứng kiến cảnh con lòng khòng, chân tay co rút dần lại sao? Đôi lúc người đàn bà nghĩ tới gã đàn ông kia. “ ừ , hay anh ta không tới vì giữ lời hứa? Hay vì bao lần mình từ chối sự chu cấp? Hay mình chưa có lời khi con gặp nạn? Dù sao anh ta cũng là bố nó, có máu có xót. Người đàn bà bừng lên tia hy vọng. Chị thầm nói với con: “Con ơi... con sẽ được cứu! Nếu phải cầu xin, van lạy ông ta, mẹ...”

Sặc sụa hơi rượu gã đàn ông khật khưỡng trên xe con bước xuống. Giữa đêm khuya rét buốt, hắn loáng thoáng thấy người đàn bà đứng đợi ngay đầu ngõ. Nghe lời rụt rè trình bày, giọng cầu khẩn van lơn, gã nhếch mép cười nhạt, nhắc lại câu nói của người phụ nữ trước đây và dài giọng tiếp:

- Tôi...tôi vốn trọng lời hứa.

Tuyệt vọng, uất hận, người đàn bà nước mắt lã chã, lao vào ngõ.

Cái thằng con nối dõi tông đường của gã đàn ông kia được cả nhà chăm bẵm, hơn một tuổi, nó to trắng ngần ngẫn bằng đứa bé lên ba. Ba tháng biết lẫy, bảy tháng biết bò... mà sao mười mấy tháng rồi, đặt đâu nó ngồi đó và thằng ấy nhiều dãi thế. Khách khứa đến chơi động viên: Đấy là tẩm bổ quá. Còn dãi nhiều là do bị cam hay lúc chửa mẹ không kiêng, ăn ốc. Thuốc cam thuốc tễ chả khỏi, dãi ngày càng lề thề chảy nhiều hơn, ngày thay năm bảy bận, áo yếm vẫn ướt sũng. Hôm gã đàn ông công tác miền Nam hơn tháng về, thằng bé ngó bố cười hềnh hệch. Bố ngồi ngắm con, chợt nhận thấy: “Quái... đầu nó như hơi to hơn những đứa trẻ khác thì phải?”. Hắn lo. Đưa con đi khám bệnh viện, họ chẩn đoán: Não thằng bé có vấn đề. Có thể ảnh hưởng do thai ngạt khi sinh nở. Tây y, đông y, tốn bao tiền thuốc vẫn không chuyển. Gã tới cả nhà lão thầy bói mù, lão phán động mả. Mả động thì biết đằng nào mà tìm, ông cha hắn dân lang bạt, chết có về làng đâu!

Cái đầu thằng bé cứ to dần. Tiếng cười càng dài dại.

* * *

Vị sĩ quan quân y vào ngõ hỏi thăm chính là chàng lái xe năm nào. Chiến tranh nhiều chuyện xảy ra đâu ngờ được. Trận bom B52 anh bị thương nặng, may có đơn vị hành quân qua... Chiến tranh lùi xa hơn hai mươi năm, kẻ đầu người cuối thành phố mà nay họ mới tìm lại được nhau.

* * *

Thằng bé ngẩn ngơ vô phương cứu chữa. Gã đàn ông như kẻ mất hồn. Hắn lấy rượu giải sầu. Càng uống hắn càng tỉnh. Bữa nhậu tại cơ quan hắn nốc trọn chai rượu tây vẫn không say. Về ngõ ngơ ngác hắn nhìn ngôi nhà người đàn bà đối diện, chủ mới đang dọn tới. Chàng sĩ quan quân y đưa họ đi rồi, nghe nói ở một nơi đầu kia thành phố.

Hắn ngật ngưỡng bước. Bất chợt tiếng cười trên cao đập xuống... hu hu... ha ha... Chuỗi cười như tiếng ma kêu, quỷ khóc, dội vào tai hắn. Gã đàn ông giật mình loạng choạng. Hắn bước... hắn chạy... chạy qua chính cả nhà mình. Tiếng cười hú đuổi hắn vào sâu trong ngõ.

Con chim câu nhồi thịt

Một cái gì ó lạnh buốt nơi ngực trái. Không, không phảit trái tim lâu nay đã nguội ngắt như cục sắt. Cũng không phải cái ví lép kẹp làm ta rảo bước thật nhanh

mỗi khi qua hàng phử, than ôi. Nó là cuốn sổ lương hưu con mẹ phòng lao động xã hội quẳng vào tay sáng nay, không, nó quẳng vào hồn ta đó, nhói đau

như bị ném một cục đá. Bốn mươi năm cán bộ, tám giờ vàng ngọc từ nay toàn là của ông, thế nhưng cần quái gì cái thứ giàu có xa xỉ ấy nhỉ, cứ bám cơ quan,

làm gì cũng được cốt lĩnh đủ tiền năng suất, tiền ăn trưa chứ chẳng phải vừa xoẳn 60 ngàn, quy ra phở mỗi ngày chỉ đủ ăn một bát chín. Lẽ tất nhiên, tính toán

lý thuyết vậy thôi, có họa điên mới bước châ vào cái máy chém đó. Vài sợi bánh, ba miếng thịt thái mỏng như lá lúa, hai môi nước dùng nhạt như nước rửa bát

vậy mà nó cắt cổ người ta những ba ngàn bạc thì thà để tiền mua mấy gói mì ăn liền lại chả hơn ư? Thôi thôi, nghĩ ngợi gì tẹp nhẹp quá thế, suốt một thời đã

quẩn quanh chuyện con cá, lá rau, giờ hưu rồi, phải tư duy cao siêu một chút chớ. Ông thong thả ngồi dậy. Ngoài cửa sổ mở ra vườn, trên một cành cây, có

chú chim nhìn ông lúc lắc đôi mắt hạt cườm. Lát nữa nó sẽ bay lên, bay lên, bay lê cao, cao mãi tới trời xanh, vượt khỏi mọi cây cò nơi trần thế. Còn ông,

chao ôi, lặn ngụp trong cõi nhân sinh, sáu mươi năm trong đời chưa lần nào cất mình khỏi cái hàng ngày đầy phiền tạo, chưa một lần đi trệch khỏi đường rầy

của những nề nếp người ta qui định cho ông, từ khi ông bước vào guồng máy với bậc khởi điểm nhân viên I và ra khỏi nó mới nhúc nhích vài bậc tới cán sự 3.

Bốn mươi năm lao động tiên tiến, ông quả là một viên chức cần mẫn với ý thức tổ chức cao vượt yêu cầu tới mức chưa bao giờ phát biểu phê bình thủ trưởng

trong các đại hội công nhân viên chức cho dù được khuyến khích nói thẳng nói thật. Tuy nhiên, tất cả những cái đó đều đã qua, đã thuộc về một thời... cóm

róm, bây giờ ông đã là người tự do, chẳng còn lo thủ trưởng nghĩ gì về mình, chẳng còn sự "tam quản", "nhị quản" (quản lý lập trường tư tưởng, quản lý lao

động, quản lý sinh hoạt v.v...). Ôi chà chà, bây giờ ông mới thực là ông, ông phải làm một cái gì đó chứng tỏ mình, một cái gì đó làm ông ngẩng cao đầu, ưỡn

ngực, cất mình vươn cao lên khỏi cái hàng ngày dung tục và tầm thường. Thật kỳ lạ, ông chưa đụng tới bình rượu thuốc uống một chén trước bữa ăn, vậy mà

người đã bừng bừng say, như người trong cõi khác.

- Đâu rồi, ra mà ăn cơm... Từ nay hưu rồi, ngủ lúc nào chả được, cứ nhè ngay bữa ăn.

Vợ ông đó, sau ba mươi năm nâng khăn sửa túi, bà đã kịp tạo cho ông một phản xạ căng thẳng mỗi khi nghe nàng nói. Ngay lập tức mọi ý nghĩ viễn vong

đều bị xóa sạch, ông có mặt ngay tại mâm cơm nhanh nhẹn như người lính được điểm danh, con gái ông reo to:

- Hay quá bố hưu rồi, ở nhà làm cái máy giặt, con đỡ phải sắm.

- Thôi, thôi, để bố cô nấu cho cô hai bữa cơm, vậy cũng gần hết tám tiếng rồi.

- Thì sáng bố dậy sớm, giặt loáng cái là xong ấy mà. Người già ngủ được mấy.

Ông nhìn vợ và nhìn con gái với cái nhìn đầy bí ẩn của con nhân sư trên sa mạc Sahara, rồi ông phá ra cười:

- Yên chí, yên chí, tôi sẽ nấu cả hai bữa cơm, giặt quần áo cho cả nhà, không có việc gì khó, chỉ sợ lòng không bền. Ngày xưa đánh Pháp, đánh Mỹ còn

được, huống hồ ba cái việc vặt trong nhà...

Bà vợ trợn mắt:

- Lại say rồi, đã bảo buổi trưa đừng có uống, cứ uống vào là nói phét. ừ thì ông đánh Pháp, đánh Mỹ, nhưng tôi hỏi ông lúc về hưu ông mang được về mấy

cây?

Lại chuyện "cây", "que", lại chuyện duyên số hẩm hiu, làm như chính ông là nguồn gốc mọi khổ đau cay đắng bà ta phải gánh chịu cả đời. Vợ ông quên mất

rằng đã có một thời bà dắt ông đi trong bộ quân phục bốn túi, chân do giày đen, ngực đeo huy hiệu Điện Biên trên khắp phố phường đỏ rực rỡ cờ hoa đó sao?

Chẳng phải do vị trí của ông lúc đó mà bà ta được nhận vào thẳng sở thương nghiệp mà chẳng phải qua một ngày lao động cải tạo giống như các cô gái khác

thời đó sao?

Như mọi khi hẳn ông đã "mũ ni che tai", mặc cho bà đấm bị bông, nhưng hôm nay, ma xui quỹ khiến sao đó, ông đáp lại rằng ừ thì bà xui xẻo vớ phải "thằng

nhà quê", nhưng thử hỏi, nếu không có thằng nhà quê này liệu bà có thoát khoải mục xác trên Tây bắc như chán vạn đức khác vào thời đó chăng? Ông dẫn ra

cô A chết sốt rét trên bản Mèo, cô B mới mười năm đi cuốc đường xương sống gần gẫy làm đôi mới bò được được về, chả ma nào thèm lấy. Càng nói ông

càng hăng khiến cô con gái phải can:

- Thôi thôi, bố đừng nói nữa, bố ăn giò đi, giò Phú Hương đây, ngon lắm.

A... không nhé, đã tới lúc phải coi khinh miếng 5n, cái đã làm ta tranh đua cả một đời. Ông lại hăng lên, chạy tiếp cái đà hùng hồn, trịnh trọng tuyên bố:

- Từ hôm nay, tôi chỉ ăn đúng theo tiêu chuẩn lương hưu của tôi thôi, chẳng ăn lẹm của ai hết. Như món giò Phú Hương này chẳng hạn, không hợp túi tiền

của tôi, từ nay dứt khoát tô không ăn.

Cô con gái cười to:

- Lương hưu của bố chia ra, ngày được hai ngàn, vậy bố chỉ được ăn rau muống luộc chấm nước nắm.

- Cũng được, càng sạch ruột, không chết đâu mà sợ.

Thế là thực sự nổ ra cuộc cách mạng, không ăn nhờ vợ con, từ nay ông sẽ làm chủ gia đình, nói năng dõng dạc, đi đứng đàng hoàng chứ chẳng phải cóm

róm, rụt rè như trước kia nữa. Vợ ông không hiểu được điều đó, bà ta cười nhạt:

- Không ăn càng tốt, cất tủ lạnh chiều đỡ đi chợ.

Được rồi, cứ cất đi, cất ngay vào cái dạ dày càng kín, nhưng từ nay đừng hòng ra rửa bát nhé, ông xác định quyền làm chủ gia đình bằng cách phá lệ dọn dẹp

sau bữa ăn, cắm cái tăm vào miệng, đủng đỉnh tráng ấm pha trà, giở ra tờ báo là thứ mọi ngày ông chỉ sờ tới vào lúc đã xong xuôi mọi ciệc từ rửa bát, lau nhà

tới giặt giũ cả ba chậu quần áo khổng lồ. Thôi nhé, cả đời là, đầy tớ nhân dân, không lẽ hưu rồi lại vẫn làm đầy tớ dù rằng cho vợ con. Không, nhất định từ

nay ông chỉ có làm chủ, chẳng mó máy việc gì, cứ ăn rồi lại nằm, cuồng cẳng thì đi ra dạo phố, thật sướng hơn cả vua. Được vài ngày, ông chợt thấy thời gian

đã dôi ra một cách đáng sợ, tờ báo hàng ngày từ bài xã luận "Kiên quyết đi theo con đường của chủ nghĩa xã hội" cho tới "Bố cáo thành lập Công ty tư

doanh", đọc đi đọc mãi mới tiêu được hai tiếng đồng hồ, buổi sáng còn dài dằng dặc, ngã lưng một lát buổi trưa, quanh quẩn mãi vẫn chưa tới chiều. Trong

ngày ông ngại nhất hai bữa cơm, bởi lẽ như để chọc tức chềng vợ ông ngày nào cũng mua về khi thì khoanh chả quế vàng rộm khi thì nguyên một con vịt

tiềm thơm phức, óng ánh toàn những mỡ là mỡ. Hóa ra trong việc làm chủ, khó nhất là làm chủ cái ... dạ dày. Trong cả đám lục phủ tạng, nó là đức đòi hỏi

nhiều nhất, ương bướng nhất, chả thế mà lúc ngồi vào mâm, nó cứ bắt đôi mắt ông nhìn hau háu vào đĩa thịt, bát canh cá, mũi ông cứ phải huếch lên mà thu

nhận mùi thơm ngào ngạy từ những mó ăn ngoài túi tiền không bao giờ ông cho phép mình đụng đũa tới, Giữa nó và ông là một cuộc đấu tranh một mất một

còn, chưa xác định được ai thắng ai, mỗi lẩn ông đưa đũa gắp rau, nó cứ lái ông về đĩa thịt. A không nhá, miếng ăn là miềng nhục, thà chết còn hưn, ông cứ

lặng lẽ nhau rau muống, cà muối, dưa chua, toàn những thức ăn nhà Phật cả, miệng đắng ngắt nhưng vẫn làm ra vẻ ngon lành lắm. Vậy nhưng thằng dạ dày

đâu có buông tha ông dễ dàng như thế, nỗi bất mãn dần dần tỏa đi khắp mọi nơi, mắt ông mờ hẳn đi, hai đầu gối lúc nào cũng mỏi nhờ và tệ hại nhất là đêm

đêm rất khó ngủ, bụng cứ réo òng ọc, không làm sao nhắm mắt được.

Một hôm, quá lo lắng cho sức khỏe, ông cầm y bạ đi khám bệnh. Sau khi nghe ngóng, đo đạc đủ thứ trên người, ông bác sĩ tuyên bố: "Bác bị thiếu Ptotit".

Suýt nữa thì ông nổi cáu, người nội địa với nhau không dùng tiếng mẹ đẻ, cứ thích lòe tiếng Tây. Ông bác sĩ phải xin lỗi và nói lại một cách nôm na rằng nó

chính là cái bệnh... thiếu thịt. Láo toét, ông chửi thầm, ngày cưa ở trên rừng mấy tháng liền chẳng có tí thịt nào có thấy bệnh tật gì đâu, rồi các ông sư ở chùa

nữa, quanh năm chẳng có miếng thịt nào mà vẫn béo mập... già đấy thôi. Ông tự an ủi vậy và chiều hôm đó vợ ông đãi bạn bè nhân dịp lên lương, để giữ vững

được lời thề, ông cáo bệnh nằm trong phòng. Rõ thật không may, phòng ông liền ngay với bếp và phòng ăn, cho dù ông có bưng tai bịt mũi thì những mùi

xào nấu, mùi cá nướng, tiếng sao chặt thịt chan chát vẫn cứ vọng tới. Sau cùng bữa ăn cũng bắt đầu, chỉ nghe tiếng kéo ghế, tiếng người nói, mời mọc... ông

cũng đủ hình dung được ra các món ăn ngon lành bầy biện trên bàn. Trước tiên ắt phải có món cua tẩm bột rán là món tủ của vợ ông, rồi đến gà chiên cơ, cá

lóc bỏ lò, bê thui chấm tương gừng và sau cùng, ắt phải có một cái lẩu thập cẩm. Ông cứ nằm tưởng tượng ra cái màu sắc, hình dạng và mùi vị của từng món

vợ ông đãi khách cho tới khi cô con gái gõ cửa và lách người vào, đi tới sờ tay vào trán bố:

- Bố hết sốt rồi, bố ra ngồi với các bác ấy cho vui.

Ông dãy nãy:

- Thôi, thôi, tao mới dứt sốt đang còn mệt lắm, ngôì sao nổi.

- Hay con bưng các món vào đây cho bốn nhé.

Dạ dày của ông như mớn rên lên một tiếng vậy, nhưng không vẫn lắc đầu quầy quầy:

- Thôi, thôi, miệng đang đắng ngắt, ăn uống gì được.

Cô con gái đi rồi, một nỗi tuyệt vọng đau đớn đè nặng trên dạ dày ông. Nó tức giận sôi ùng ục làm ông phải nằm úp sấp, dán bụng xuống giường vũng không

trấn nổi cái cơn cồn cào đang làm đầu óc ông quay cuồng như người đang đi thuyền giữa biển bất ngờ gặp bão. Ông thiếp đi trong cơn đói và lúc choàng tỉnh

dậy trời đã tối, xung quanh yên ắng, tịnh không một tiếng động. Ông vén tay xem đồng hồ, trời đất đã quá nửa đêm, dạ dày lại réo ùng ục, cơn đói đẩy ông

xuống giường, bước ra phòng ngoài và đi tới chiệc tủ lạnh kê trong góc nhà như một người mộng du. Không, không phải là ông đâu, một người nào đó đã chi

phối mọi hành vi của ông, đã bắt ông giơ tay mở tủ lạnh và mắt sáng lên khi thấy trong cái bát to Trung quốc một con chim câu nhồi thịt, mỏ ngậm cọng

hành, chúi xuống nước hầm sen còn vương mấy cọng mộc nhỉ. Ông thaóng nghỉ tới con chim hôm nào nhìn ông lúc lắc đôi mắt hạt cườm rồi vút bay lên trời

cao, hôm đó ông mới nhận sổ lương hưu và mới xảy ra quyết định "chỉ ăn trong mức lương hưu" trong một phút bốc đồng muốn cất mình khỏi cái hàng ngày

đầy phiền tạp. Mới đó thôi mà đã một tháng rồi, một tháng ông bóp mồm bóp miệng để được thực thi cái quyền "làm chủ gia đình" của mình. Nhưng lúc này,

đối diện với bát chim hầm, ông không còn là ông nữa, một người khác đã nhập vào ông, không còn kịp đóng tủ lạnh, cứ đứng thế bốc từng miếng thịt chim.

Chao ôi, cái vị ngọt không bút nào tả nổi của nó xộc thẳng cuống dạ dày, lan đi các mạch máu như một luồng sinh lực đang ào ạt tràn vào cơ thể. Chính là lúc

cơn khoái đang lên tới độ cao nhất, tiếng kẹt cửa làm ông giật nẩy và mọi thứ trên đời bỗng dừng cả lại, ngay cả thời gian dường như cũng không trôi nữa.

Nhẹ nhàng như một con mèo, bà lướt tới trước mặt ông và cất tiếng cười, Ông bỗng lảo đảo như bị trúng gió, hai tay ôm ngực, ông nôn thốc nôn tháo tất cả

món chim câu nhồi thịt vừa rồi ông đã tọng vào dạ dày một cách vội vả.

Cái đinh

Đang ngủ gã thấy có ai đóng một cái đinh vào đầu. Gã kêu la ầm ĩ, tỉnh giấc biết mình nằm mơ, nhưng chẳng hiểu sao từ lúc đó, đầu gã lúc nào cũng nhức

buốt.

Gã thổ lộ với vợ, nàng bĩu môi:

"Kháo tưởng tượng"

Rồi quay sang chiếc gương trên bàn trang điểm. Gã thuộc lòng từng việc đó bởi sáng nào cũng chầu, chờ vợ sai. Phất lót, phấn hồng, son môi... gã cầm đưa

vợ trong niềm tôn kính của người phụ lễ. Nhưng sáng nay bộ mặt nhăn nhó của gã làm nàng phát ghét, không khiến nữa. Vả lại cho dù nàng có sai phái, gã

cũng chịu không làm nổi, bởi lẽ cái đính trong đầu gã không những không biến mất như gã hy vọng mà dường như mùi nước hoa gay gắt trên người nàng

càng làm nó xoáy mạnh thêm.

"ối đau quá"

Gã ôm đầu kêu thét, lập cập bước vào nhà tắm xối nước. Vợ gã đã biến ra phố, thôi đành coi cái đinh ấy như một vật lạ, cố chung sống với nó rồi sẽ quen?

"Đọc sách"

Gã thầm reo lên, rút lại một cuốn trên giá, không phải, nó là một cục gạch nặng trịch, tuột tay rơi xuống đất tung tóe ra toàn những chữ là chữ, nom cứ như

đám ruồi đậu trên bãi phân vậy. Tệ thật, sao lại ra cái nông nỗi ấy, toàn những lời hay ý đẹp cả đấy chớ. Không, chắc gã rút nhầm phải cái gì đó không phải

sách, thôi dẹp trò này đi, đọc có tới hết sách trên giá chắc gì đã quên được cái đinh trong đầu. Gã nằm vật xuống, lập tức cảm thấy người chìm dần, chìm dần

như bị chôn sống khiến gã hoảng sợ nhỏm phắt dậy. Không, vẫn căn phòng quen thuộc, vẫn chiếc giường ngủ biểu trưng cho đời sống vợ chồng, gã dụi mắt,

không, không phải nó, tuầng như kể từ lúc bị đóng đinh vào đầu, mọi thứ trong mắt gã đã đổi khác, gã thấy chiếc giường như một chiếc quan tài chứa bao kỷ

niệm của một thời đã qua mà người ta chưa chôn. Thế còn bức ảnh vợ gã đang tươi cười trên trên tường, niềm tự hào bấy lâu nay của gã, không, gã chẳng còn

nhìn thấy vợ nữa, một chiếc bánh tráng phúng nước ai gắn lên đó thì đúng hơn. Gã buồn rầu đưa mắt nhìn xung quanh, tất cả đều méo mó hết như trong nhà

cười gắn những tấm gương lõm vậy, chẳng có ai, chẳng có cái gì trong ngôi nhà này giúp đã gút được cái đinh ra chăng, gã đi như người mộng du qua những

đường phố, những cột đèn, hơi lạnh của thần chết chỉ lướt qua người cho dù gã chẳng thèm đếm xỉa tới những chiếc xe hơi vun vút phóng tới. Sau cùng gã

đâm đầu vào tủ thuốc lá của cô gái bán dâm trá hình.

"Mù hả? Mắt để đâu?"

Chưa gắt hết câu, vẽ mặt của gã làm cô sững ra

"Anh sao thế? ốm hả?"

Cô vội túm lấy ngực áo không cho gã bổ nhào vào người. Chao ôi, chưa bao giờ cô thấy một gương mặt dúm dó vì đau đớn đến vậy cho dùng không thể tính

được hết bao nhiêu gã đàn ông đã nằm trong vòng tay của cô. Cô dìu gã tới nằm trên chiếc ghế đá gần đấy xoa nhẹ lên trán, kỳ lạ thay, mặt gã dần dần, hồng

trở lại, cứ như bàn tay cô gái có phép màu biến mặt nạ bằng sáp trở thành người vậy. Gã mở mắt, ngồi nhỏm dậy, sờ tay lên đầu, không, không có cái đinh

nào cả, nó đã biến mất như một giấc mơ hoặc một tưởng tượng quái dị.

"Cảm ơn... cảm ơn..."

Gã lắp bắp và chẳng hiểu sao nước mắt cứ ứa ra. Cô gái châm cho gã điếu thuốc, vuốt ve dỗ dành như thể gã là đứa trẻ lạc vậy. Gã sung sướng ngồi bên cô,

đầu óc nhẹ nhõm, trong veo, đến một hạt sạn cũng chẳng có nói gì đến cả một cái đinh. Gã cứ ngồi như thế cho tới khi vợ gã phóng xe quá, trố mắt nhìn gã.

Mặc kệ, cứ nhìn đi, nhìn lòi mắt ra cũng được, từ nay mọi thứ ở trên đời đối với gã chẳng là cái đinh gì, điều quan trọng nhất là đã rút được nó ra khỏi đầu.

Nhưng điều đó đã diễn ra như thế nào nhỉ, cô gái này có bàn tay kỳ diệu đến thế kia ư? Xưa nay trong các chuyện cổ tích, người ta thường hay nói tới tay

Tiên tay Phật chứ tay gái đứng đường thì cổ kim chưa hề thấy.

"Anh khỏe rồi, về nhà cho vợ nó hầu..."

Cô gái cười vào bộ mặt ngẩn ngơ của gã, kinh nghiệm nhà nghề cho thấy chẳng trông mong gì được ở ông khách bất đắc dĩ này, có móc rách túi cũng chẳng

ra được cắc nào, phải xua gã đi còn đón khách chờ, ám quẻ mãi đâu có được. Vậy nhưng gã đàn ông cứ nghĩ tới chuyện trở về lại nhói lên một nỗi lo lắng

kéo dài cuộc sống trong một ngôi nhà ở đó mọi thứ đều đã thuộc lòng, đã biết trước và nhất là chẳng hứa hẹn điều gì mới mẻ? Tất nhiên có cả triệu thằng đàn

ông cam chịu sống như vậy, có khi còn hí hửng nữa là khác, nhưng thằng nào bị đóng một cái đinh vào đầu như gã đâu? Chắc là có đấy, chỉ có điều tụi nó

giỏi chịu đựng, không la hoảng, không chạy ra khỏi nhà như gả. ý nghĩ đó an ủi gã phần nào, gã không còn đơn độc, gã có cộng đồng của gã, cộng đồng

những thằng bị đóng đinh vào đầu. Vậy hà cớ gì cứ phải ngồi đầu đường mãi, về nhà thôi, về với tất cả những gì quen thuộc, hàng ngày, và cho dù có chán

ngấy đến tận cổ đi chăng nữa, vẫn hơn ngồi hè phố trong một tương lai mịt mờ. Gã rối rít cảm ơn cô nàng đã giúp gã hết được bệnh đau đầu và hỏi cô có phép

thuật gì mà tài tình đến thế.

"Anh giai ạ, em sợ rằng cái đầu anh giai còn đau kinh niên nữa đấy. Em đã gặp biết bao nhiêu đàn ông trên đời, chẳng ông nào là không than vãn trong đầu

luôn luôn có một cái đinh..."

"ối trời ơi... sao em thánh quá vậy, cứ như là ma xó trong đầu người ta ấy..."

Cô gái cười giòn:

"nghề của nàng mà, thôi xéo đi cho người ta bán hàng, ám mãi".

Gã đành lê bước về nhà, co rúm cả người lại khi nhìn thấy cái cổng sắt sơn xanh quen thuộc. Càng gần tới nhà, gã càng cảm thấy cái đinh ấy xuất hiện trong

đầu và khi bước vào buồng ngủ, vợ gã nhảy xổ ra tru tréo:

"Anh cút đi, cút ra chỗ con điếm ấy mà ngồi, sa đọa đến thế là cùng..."

Ngay lập tức đã cảm thấy đau nhói trong đầu hệt như lại vừa mới có ai đóng một cái đinh vào đó. Không nói một lời, gã lao ra đường như một luồng gió,

cắm đầu cắm cổ chạy qua các phố. Quầy thuốc lá của cô gái đây rồi, riêng cô ta thì mất hút. Không sao cả, gã sẽ ngồi đây chờ. Chờ bao lâu cũng được, bởi từ

nay gã không còn trở về nhà nữa. Gã sợ...

Đêm đợi lũ

    Ông bà nói trật lất! Lão Sơn cụt lầm bầm, tiếc nuối hàng xà cừ trốc gốc đánh ùm xuống dòng nước ngầu đỏ chảy xiết.

Mấy năm trước, mưa nguồn cả ngày nước mới đổ về khúc sông La ngang nhà lão. Năm ngoái, mưa nửa ngày nước về mấp mé ranh vườn. Còn năm nay, mưa chừng sôi nồi cơm, nước đã cuồn cuộn nuốt hàng xà cừ sát mép sông. Vợ lão Sơn đang thu dọn đồ đạc, còn đám trẻ đã di tản về nhà ông bà ngoại từ trưa để tránh lũ quét. Màu xanh núi rừng ngày càng hút tầm mắt. Ông bà nói “Ăn của rừng rưng rưng nước mắt”. Bọn ăn của rừng giàu có vì không vốn bốn lời, chúng tậu nhà tuốt ở Sài Gòn có bao giờ biết mưa rừng lũ quét. Chỉ có đám dân nghèo bám đất bám rừng mới rưng rưng nước mắt vì thiên nhiên trả thù, vì môi trường sinh thái bị hủy diệt. Ông bà không nói trật lất là gì!

Có tiếng í ới rồi Hòe chui rào sang với bao quần áo trên vai. Lão Sơn đánh trận nửa đời, gửi lại trận mạc một cánh tay Hòe mới tập vác súng. Lão từ rừng ra, còn chú lính địa phương quân Hòe từ phố xá lên vùng kinh tế mới lập nghiệp lại chui vào rừng để đốn củi, hầm than. Lão Sơn quí Hòe vì anh dám nói thẳng với đại diện chính quyền địa phương là con anh ta đói, trong khi chờ khoai sắn cho củ, anh chỉ lượm mót chút của rừng. Hòe thách thức lão Sơn cụt chặn bắt những chiếc xe chở gỗ lóng dài ngoằng chạy rầm rập từ rừng ra quốc lộ 1 hằng đêm của bọn đại lâm tặc, chứ bắt tịch thu gánh củi bao than của bọn tiểu lâm tặc như Hòe chỉ thêm mang tiếng... pháp luật không nghiêm minh. Ngày xưa, nếu không có những gốc cây gỗ đường kính hai, ba người ôm phải nối song mây vào dây dù mới căng được chiếc võng thì khối chiến sĩ đã bị bọn tàu gáo quạt tróc đầu.

Lão Sơn cụt đem chuyện những chuyến xe gỗ dài ngoằng hỏi bạn cũ giờ làm lãnh đạo. Bạn cười khẩy. Làm sao giữ nổi rừng trước làn sóng di dân ồ ạt, thôi thì biến rừng thành đồi trà, vườn cà phê, vườn cây ăn trái. Đó cũng là cách giữ độ che phủ cho đất, giữ nguồn cho nước bằng cách thay chiếc áo xanh cho rừng mà còn tạo ra của cải cho xã hội, đem lại cuộc sống sung túc cho bao người. Về những chuyến xe gỗ dài ngoằng rầm rập hằng đêm, người bạn lãnh đạo thề trên tình đồng đội năm tháng đổ máu chiến trường là hoàn toàn hợp pháp. Chỉ thời gian ngắn, lời thề theo người bạn cũ bay vào... trại giam vì giấy phép cho khai thác một thì bọn họ câu kết khai thác gấp mười. Rừng xanh nào mà còn!

Con tắc kè ló đầu khỏi cây cột ống tre thao láo nhìn hai người đàn ông uống trà trên bộ ván trước hiên, lạnh lùng buông hai tiếng “tắc kè” mà Hòe thường nhại “hết rừng”. Nước vẫn sôi sùng sục ngang khúc sông ôm quanh đất lão Sơn cụt. Vợ lão đang treo chiếc rổ đựng mẹ con bầy gà mới nở lên cây cột giữa nhà, góp chuyện :

- Tại sao người ta chặt cây gỗ cả người ôm rồi trồng lại cây con bằng chiếc đũa, hả ông cụt?

- Chuyện phá rừng nguyên sinh để trồng rừng non, bà phải hỏi mấy thằng Bảy Rưỡi.

Lão Sơn cụt tưng tửng. Bảy Rưỡi là tên chung mà lão đặt cho bọn phá rừng. Từ anh Ba anh Bảy đến thằng Mỹ, thằng Pháp lão đều gọi chung là Bảy Rưỡi để khỏi mếch lòng vì cha mẹ có đẻ đứa con nào chỉ có nửa người đâu mà đặt là Rưỡi. Hòe xía:

- Thằng Bảy Rưỡi - phó - chủ - tịch mới ra tù hôm qua.

Bọn phá rừng nổi tiếng ở quê lão mà báo chí gọi là “phá rừng vô địch quốc gia” bị kêu án mỗi thằng hai mươi năm tù, mới thụ án sáu, bảy năm đã được đặc xá về với vợ con; có thằng về chỉ còn con vì vợ đã ôm của ăn của rừng đi lấy chồng khác. Trường hợp này coi chừng ông bà nói đúng là “ăn của rừng rưng rưng nước mắt”, à ta!

- Vợ chồng thằng Bảy Rưỡi - giám - đốc ra tòa ly dị rồi …

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro