ttck-otcvn

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

1.Những  vấn đề chung về thị trường chứng khoán phi tập trung

    Với số lượng chứng khoán đăng ký giao dịch lớn, doanh số giao dịch cao, phương thức thanh toán linh hoạt, thị trường giao dịch qua quầy (Over the Counter Market - OTC) là một thể chế bậc cao của thị trường chứng khoán. Tuy nhiên, tại Việt Nam, thị trường OTC hiện chưa được hiểu theo đúng ý nghĩa của nó.Vì vậy, bài viết này nhằm trao đổi một số vấn đề cơ bản về thị trường OTC, từ đó, đưa ra một vài gợi ý nhằm phát triển thị trường OTC ở Việt Nam. 

    Để phát triển thị trường OTC, trước hết cần hiểu đúng bản chất của nó. Có thể nói, khó có một khái niệm chuẩn xác về thị trường OTC. Có người cho rằng, thị trường OTC là thị trường “phi chính thức” hoặc “thị trường phi tập trung”. Quan niệm này xuất phát từ sự so sánh về tính chất giữa thị trường OTC với Sở giao dịch chứng khoán - thị trường chính thức, được tổ chức hoạt động theo nguyên tắc tập trung, công khai, trung gian và đấu giá. Chính với cách hiểu sai lầm này, nhiều người đang hiểu thị trường giao dịch chứng khoán ngoài sàn hiện nay là thị trường OTC, song thực chất, đây chỉ là thị trường “chợ đen” hay chợ “vỉa hè” (Black/Curb/Kerb Markets).

    Hiện nay, các nhà quản lý đang cố gắng tận dụng lợi thế của từng loại hình thị trường nhằm tạo thuận lợi nhất cho các nhà đầu tư. Thị trường tập trung phát triển theo hướng phi tập trung hóa, cho phép các chứng khoán được niêm yết trên nhiều sở giao dịch, áp dụng phương thức giao dịch thỏa thuận kết hợp với phương thức đấu giá trên sàn. Ngược lại, thị trường OTC phát triển theo hướng tận dụng lợi thế của sở giao dịch chứng khoán, thực hiện tập trung hóa hoạt động giao dịch qua trung tâm OTC. Mặt khác, Chính phủ các nước cũng tăng cường quản lý hoạt động của thị trường OTC. Vì vậy, có người gọi thị trường OTC là “thị trường bán tập trung”, hoặc “thị trường bán chính thức”. Những cách gọi như vậy có thể không phản ánh đúng bản chất của thị trường OTC.

     1.1.Lịch sử hình thành thị trường thị trường chứng khoán phi tập trung:

         Thị trường chứng khoán phi tập trung(OTC) là loại thị trường chứng khoán xuất hiện sớm nhất trong lịch sử hình thành và phát triển của thị trường chứng khoán. Thị trường này mang tên OTC (over the counter) có nghĩa là “thị trường  qua quầy”. Điều này xuất phát từ đặc thù của thị trường là các giao dịch mua bán trên thị trường được thực hiện trực tiếp tại các quầy của các ngân hàng hoặc các công ty chứng khoán mà không phải thông qua các trung gian môi giới để đưa vào đấu giá tập trung.

   Thời kỳ ban đầu của thị trường OTC ,việc thương lượng giá theo thỏa thuận trực tiếp-“mặt đối mặt” song cho đến nay với sự phát triển của công nghệ thông tin ,việc thương lượng có thể được thực hiện qua điện thoại và hệ thống mạng máy tính điện tử diện rộng. Hiện nay thị trường OTC được coi là thị trường chứng khoán bậc cao ,có mức độ tự động hóa cao độ.

     Quá trình phát triển của thị trường OTC là quá trình phát triển từ hình thái thị trường tự do không có tổ chức đến thị trường có tổ chức,có sự quản lý của nhà nước hoặc của các tổ chức tự quản và được phát triển từ hình thức giao dịch truyền thống,thủ công sang hình thức giao dịch điện tử hiện đại.

     1.2.Khái niệm thị trường chứng khoán phi tập trung

        Có thể hiểu thị trường OTC là thị trường không có thị trường giao dịch tập trung ,đó là một mạng lưới các nhà môi giới và tự doanh chứng khoán mua bán với nhau và với các nhà đầu tư, các hoạt động giao dịch của thị trường OTC được diễn ra tại các quầy (sàn giao dịch) của các ngân hàng và công ty chứng khoán.

    1.3.Các đặc điểm cơ bản của thị trường OTC

Ø   Hình thức tổ chức: -phi tập trung ( không có địa điểm giao dịch mang tính tập trung giữa bên mua và bên bán)

                                       -diễn ra tại các địa điểm giao dịch của các ngân hàng ,công ty chứng khoán và các địa điểm thuận tiện cho người mua và người bán

Ø    Chứng khoán giao dịch trên thị trường OTC:

§  các chứng khoán chưa đủ điều kiện niêm yết trên Sở giao dịch nhưng đáp ứng điều kiện về tính thanh khoản và yêu cầu tài chính tối thiểu của thị trường OTC

§  các chứng khoán đã niêm yết trên Sở giao dịch chứng khoán

Ø    cơ chế xác lập giá:

              chủ yếu thực hiện thông qua phương thức thương lượng và thỏa thuận song phương giữa bên mua và bên bán

                có nhiều mức giá khác nhau của một chứng khoán trong cùng một thời điểm

Ø    quản lý thị trường OTC: chia làm 2 cấp

§       cấp quản lý nhà nước do cơ quan quản lý TTCK trực tiếp quản lý theo pháp luật (thường là ủy ban chứng khoán các nước

§       cấp tự quản: do hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán quản lý (Mỹ,Hàn Quốc,Thái Lan.Nhật Bản…) hoặc do trực tiếp Sở giao dịch đồng thời quản lý( Anh,Pháp,Canada…)

Ø    thị trường có sự tham gia của các nhà vận hành và tạo lập thị trường , đó là các công ty giao dịch môi giới hoạt động giao dịch dưới 2 hình thức:

§     Hoạt động giao dịch (mua bán chứng khoán cho chính mình bằng nguồn vốn công ty)

§     Hoạt động môi giới(làm môi giới đại lý chứng khoán cho khách hàng để hưởng hoa hồng)

Ø    Phương thức giao dịch trên thị trường OTC: có 3 phương thức giao dịch

§          Phương thức giao dịch giản đơn

                                                         Lệnh giao dịch

               Lệnh GD

            Thông báo KQ    

                         Thông báo kq

§       Phương thức giao dịch báo giá trung tâm

                      Lệnh mua                                     lệnh mua

                      Thông báo KQ                            thông báo KQ

                             Thỏa thuận và                     Thông báo KQ

                             Xác nhận GD

                      Lệnh bán                                     Thông báo KQ

                   Thông báo kq

§       Phương thức giao dịch có sự tham gia của nhà tạo lập thị trường

                                              Yết giá               

                                                                                                         Yết giá

Lệnh GD

Market maker C

Công ty CK                         (môi giới)

Khách hàng

            khẳng định GD

                                                                     Báo cáo GD

                                                                            Báo cáo GD

                  Lệnh GD                                                                  xác nhận                            yết giá

     Thông báo KQ

Ø          Niêm yết chứng khoán trên thị trường OTC : các chứng khoán mua bán trên thị trường OTC phải được niêm yết công khai cho nhà đầu tư biết. gồm các điều kiện:

§       chứng khoán được phép phát hành

§       mức độ tín nhiệm thấp hơn các chứng khoán được niêm yết trên sở GDCK

Thủ tục niêm yết:

§  đăng ký niêm yết chứng khoán lên hiệp hội các nhà giao dịch chứng khoán.

§  Bản cáo bạch chính thức.

§  Các tài liệu ,các thông tin hoạt động của tổ chức phát hành.

§  Hệ số tín nhiệm của công ty.

Yết giá chứng khoán:

§       Giá yết chắc chắn (firm).

§       Giá yết phụ thuộc( subject).

§       Giá yết có chủ định( work out).

Ø         Mức độ rủi ro cao: +rủi ro về tính thanh khoản

                                +rủi ro thông tin

Những rủi ro thường gặp khi mua bán cổ phiếu OTC  

§       Một là, tranh chấp hay thiệt hại về quyền mua cổ phiếu (CP) mới tăng vốn. Một trong những kỳ vọng lớn nhất về lợi ích của người mua CP là quyền mua CP phát hành tăng vốn. Đây là một khoản lợi lớn của người sở hữu CP. Tuy nhiên, thông thường trước khi phát hành CP tăng vốn, công ty tiến hành chốt danh sách cổ đông. Tại thời điểm đó, những ai sở hữu CP nằm trong danh sách cổ đông của công ty sẽ được mua thêm CP mới.

                  Với những người mua CP trong giai đoạn giao thời hoặc khi danh sách cổ đông đã được chốt, nếu không biết thì dù đã thanh toán tiền cho người bán , cổ phiếu đã nắm giữ nhưng chưa làm xong thủ tục chuyển nhượng, người mua vẫn mất quyền mua, quyền mua CP mới vẫn thuộc về người bán. Như vậy, NĐT trên thị trường OTC cần chú ý, phải luôn luôn thỏa thuận bằng hợp đồng chuyển nhượng với người bán, ghi rõ quyền lợi mua CP mới tăng vốn thuộc về ai. Loại rủi ro này  phổ biến nhất trên thị trường OTC                   

§       Hai là, tranh chấp hay thiệt hại về cổ tức. Cổ tức được chia cho cổ đông dựa trên số lượng cổ phần họ đang nắm giữ. Thông thường, công ty chia cổ tức sau khi kết thúc năm tài chính, một số công ty tạm ứng cổ tức sau 6 tháng. Rủi ro giao dịch CP ở chỗ, khi mua CP, người mua không nắm bắt được thông tin, không thỏa thuận rõ ràng trong hợp đồng chuyển nhượng. Do đó, cũng tương tự như trường hợp trên, người mua mặc dù nắm giữ CP, nhưng không được nhận cổ tức.

§       Ba là, rủi ro trong mua bán CP chưa được chuyển nhượng. Có những CP theo quy định nội bộ của công ty, sau 1 năm mới được chuyển nhượng, nhưng nhiều NĐT không nắm được thông tin nên  đã mua. Và trong thời hạn 1 năm đó, các quyền lợi như mua thêm CP tăng vốn, nhận cổ tức… vẫn thuộc về người đứng tên sở hữu CP (người bán), còn người đã bỏ tiền ra mua thì bị chiếm đoạt quyền lợi.

§       Bốn là, rủi ro trong giao dịch nhận chuyển nhượng quyền mua. Trong các đợt phát hành thêm CP mới để tăng vốn, cổ đông hiện hữu, cổ đông chiến lược hay CBCNV được quyền mua CP. Khi đó, nhiều người do không huy động được tiền hoặc vì nhiều lý do khác đã bán quyền mua CP. Giá bán quyền mua thường thấp hơn giá thị trường thời điểm đó. NĐT mới thấy giá thấp, hấp dẫn thường chấp nhận mua. Nhưng từ khi nộp tiền để mua CP cho đến khi nhận được CP là khoảng thời gian khá dài, nên đến khi nhận được CP thì CP vẫn đứng tên chủ sở hữu là người bán. Khi đó, nếu giá CP đứng yên, giảm hay người bán nghiêm túc, đứng đắn thì việc làm thủ tục chuyển nhượng không vấn đề gì. Ngược lại, gặp phải người không trọng chữ tín thì dễ dàng bị đánh tháo và hứa hẹn trả lại số tiền trước kia đã nhận, kèm với lãi suất ngân hàng 

Ø   Thông tin trên thị trường OTC được phân cấp với các mức độ hạn chế khác nhau. Thông tin cấp một dành cho cơ quan quản lý thị trường và các thành viên (các nhà tạo lập thị trường). Các CTCK và các tổ chức TCTG khác không phải là thành viên chỉ được cung cấp thông tin cấp hai với mức độ hạn chế hơn và thông tin cấp 3 dành cho các nhà đầu tư với mức độ hạn chế cao nhất. Để có được thông tin này, các nhà đầu tư phải bỏ tiền mua và được cung cấp qua các kênh thông tin riêng. Hạn chế về thông tin này đang được dần khắc phục theo hướng từng bước công khai hóa thị trường.

Ø   Thu thập thông tin của các loại cổ phiếu: để mua chứng khoán trên thị trường OTC, NĐT thường tìm kiếm thông tin từ các nguồn như:

+ Thông tin từ các báo cáo tài chính (BCTC): nhìn chung, các CTCP chưa niêm yết không có BCTC được kiểm toán. Do những mục đích khác nhau mà DN có nhiều hệ thống sổ sách kế toán, BCTC. Mặt khác, việc có được một bản BCTC của DN đối với một người bình thường là điều không hề đơn giản, nhất là trong điều kiện mà ngay bản thân DN không biết thông tin nào nên công bố, thông tin nào không nên. Do đó, việc thu thập thông tin từ DN qua con đường chính thức khá khó khăn, nếu NĐT không có những mối liên hệ nhất định với công ty đó.

+ Thu thập thông tin qua các cơ quan chức năng: Theo quy định, DN phải báo cáo tình hình hoạt động cho cơ quan đăng ký kinh doanh (Sở Kế hoạch và Đầu tư). Tuy nhiên, việc tuân thủ quy định này của các DN không thực sự nghiêm túc hoặc các thông tin cũng rất chung chung. Và các cơ quan chức năng cũng không có tránh nhiệm và nghĩa vụ công bố các thông tin của DN. Vì vậy, việc có được thông tin từ các cơ quan này gần như là bất khả thi đối với NĐT. Ngoài ra, còn có một tổ chức lưu trữ thông tin về các DN, đó là Trung tâm Thông tin tín dụng (CIC) thuộc Ngân hàng Nhà nước. Trung tâm này lưu trữ thông tin cơ bản của các DN có quan hệ tín dụng với các tổ chức tín dụng. Tuy nhiên, tính cập nhật của các thông tin này không cao.

+ Thu thập thông tin từ các phương tiện thông tin đại chúng: khi không thể thu thập thông tin về DN từ các đầu mối thông tin nêu trên, NĐT có thể thu thập thông tin từ các phương tiện thông tin đại chúng. Tuy nhiên, nhược điểm của nguồn dữ liệu này là rời rạc, độ tin cậy không cao.

+ Thu thập thông tin từ các nguồn khác: thông tin từ những hội, nhóm kinh doanh chứng khoán, thông tin không chính thức từ bên trong DN… Nhìn chung, các nguồn thông tin nêu trên không đủ căn cứ vững chắc và không chính xác để NĐT ra quyết định. Nhưng trong thực tế, các chứng khoán vẫn được mua bán, chuyển nhượng, thậm chí, tại những thời điểm cao trào, nhiều loại chứng khoán được mua bán, chuyển nhượng rất sôi động.

1.4 Vai trò của thị  trường OTC:

Vị trí:

-thị trường OTC là một bộ phận cấu thành của thị trường chứng khoán

-Tồn tại và phát triển song song với thị trường chứng khoán tập trung

-Là bộ phận hỗ trợ cho thị trường tập trung

Vai trò của thị trường OTC:

-Hỗ trợ và thúc đẩy TTCK tập trung phát triển

-Hạn chế,thu hẹp thị trường tự do,góp phần đảm bảo sự ổn định và lành mạnh của thị trường chứng khoán.

-Tạo thị trường cho các chứng khoán của các công ty vừa và nhỏ, các chứng khoán chưa đủ điều kiện niêm yết.

-Tạo môi trường đầu tư linh hoạt,thuận lợi cho các nhà đầu tư.

*Lưu ý: Thị trường OTC và Thị trường chứng khoán chợ đen là hai khái niệm hoàn toàn khác nhau - Ở Việt Nam, nhiều nhà đầu tư hay hiểu lầm thị trường OTC là thị trường chợ đen. Thị trường chợ đen không có sự quản lý của nhà nước, nên độ rủi ro cao. 

1.6 Thành viên của thị trường OTC

-Nhà đầu tư và tổ chức đầu tư: tìm hiểu thông tin của doanh nghiệp qua hệ thống điện tử

-Các công ty môi giới-giao dịch:

                                                       +môi giới : hưởng hoa hồng từ thực hiện giao dịch của khách hàng

                                                      +Tự doanh: kinh doanh CK trên chính tài sản của mình

-Nhà tạo lập thị trường (market maker)  :

                                                     +công ty môi giới giao dịch nắm giữ một lượng lớn CK nhất định

                                                      +Tăng tính thanh khoản cho CK

                                                      +Liên tục đưa ra giá hỏi mua –chào bán

1.7.So sánh thị trường OTC với các thị trường khác

1.7.1So sánh thi trường OTC với thị trường CK tập trung 

Ø         Giống nhau: -đều là các thị trường có tổ chức,chịu sự quản lý , giám sát của nhà nước

                      -Hoạt động của thị trường chịu sự chi phối của hệ thống luật chứng khoán và các văn bản pháp luật khác có liên quan.

Ø         Điểm khác nhau: 

Thị trường OTC

Thị trường tập trung

-địa điểm giao dịch là phi tập trung

-địa điểm giao dịch tập trung,có trung tâm giao dịch cụ thể.

-giao dịch bằng cơ chế thương lượng và thỏa thuận giá là chủ yếu

-hình thức khớp lệnh thường sử dụng với các lệnh nhỏ tại các thị trường OTC mới hình thành

-giao dịch thông qua đấu giá tập trung.

-trên thị trường có thể có nhiều mức giá đối với một chứng khoán trong cùng một thời điểm

-chỉ có một mức gí đối với một chứng khoán trong cùng một thời điểm.

-giao dịch các loại chứng khoán có độ rủi ro cao. Gồm 2 loại Ck: CK niêm yết trên sở giao dịch và chứng khoán không đủ điều kiện niêm yết trên sở giao dịch nhưng đáp ứng các yêu cầu của cơ quan quản lý thị trường OTC

-giao dịch các loại CK có độ rủi ro thấp hơn. Các loại CK phải đáp ứng các điều kiện niêm yết của sở.

-sử dụng mạng máy tính điện tử diện rộng để giao dịch,thông tin và quản lý

-có thể sử dụng mạng diện rộng để giao dịch hoặc không.

-có các nhà tạo lập thị trường cho một loại CK

-chỉ có một nhà tạo lập thị trường cho một loại CK, đó là các chuyên gia CK của sở

-tổ chức quản lý trực tiếp là sở giao dịch hoặc hiệp hội các nhà kinh doanh CK

-tổ chức quản lý trực tiếp là sở giao dịch

-cơ chế thanh toán đa dạng và linh hoạt

-cơ chế thanh toán bù trừ đa phương thống nhất

1.7.2.So sánh thị trường OTC và thị trường chứng khoán tự do:

Ø         Điểm giống nhau:-địa điểm giao dịch là phi tập trung.

                             -chủ yếu áp dụng cơ chế xác lập giá qua thương lượng và thỏa thuận.

                           -các chứng khoán giao dịch phần lớn là các chứng khoán có tỉ lệ sinh lợi cao, độ rủi ro lớn.

Ø         Điểm khác nhau:

Thị trường OTC

Thị trường chứng khoán tự do

-là thị trường có tổ chức chặt chẽ

-là thị trường không có tổ chức

-giao dịch thông qua thỏa thuận qua mạng

-giao dịch thỏa thuận trực tiếp

-các chứng khoán mua bán là các chứng khoán được phát hành ra công chúng

-các chứng khoán mua bán là tất cả các chứng khoán phát hành

-có sự quản lý,giám sát của nhà nước và tổ chức tự quản

-không có sự quản lý của nhà nước

1.8. Vai trò của các nhà tạo lập thị trường;

    Thị trường OTC có sự tham gia của các nhà tạo lập thị trường (Market Maker). Các nhà tạo lập thị trường là các tổ chức tài chính được cấp phép, luôn nắm giữ một lượng chứng khoán đủ lớn và sẵn sàng mua, bán nhằm tạo lập thị trường cho chứng khoán đó.

    Trước hết, các nhà tạo lập thị trường là các nhà kinh doanh chứng khoán. Khi nắm giữ các loại chứng khoán, họ có thể nhận được thu nhập từ chứng khoán (trái tức, cổ tức), từ chênh lệch tăng giá chứng khoán, hoặc nhận được các quyền lợi khác (quyền mua cổ phiếu khi công ty phát hành thêm cổ phiếu, nhận cổ phiếu thưởng từ tổ chức phát hành). Khi tạo lập thị trường cho chứng khoán, các nhà tạo lập thị trường có thể nhận được tiền hoa hồng từ dịch vụ hỗ trợ mua, bán hộ chứng khoán cho khách hàng, hoặc tiền từ chênh lệch tăng giá chứng khoán. Ngoài ra, họ còn có thể được hưởng các quyền lợi khác như khoản miễn giảm thuế và phí giao dịch, quyền được nhận thông tin, quyền lợi từ các chính sách hỗ trợ khác của Nhà nước và Hiệp hội Kinh doanh chứng khoán.

    Tuy nhiên, các nhà tạo lập thị trường khác với các nhà kinh doanh chứng khoán thông thường. Theo quy định, họ phải luôn nắm giữ một lượng chứng khoán đủ lớn và phải sẵn sàng mua, bán một lượng chứng khoán tối thiểu (1 lô chẵn) theo mức giá đã cam kết khi có yêu cầu. Như vậy, với tư cách là “nhà buôn”, các nhà tạo lập thị trường phải thực hiện hai nghiệp vụ chính; đó là: nghiệp vụ ngân quỹ nhằm đáp ứng nhu cầu thanh toán, chi trả phát sinh, nhu cầu dự phòng thanh toán và nghiệp vụ dự trữ nhằm xác định và duy trì mức dự trữ hợp lý và cần thiết. Nói một cách khác, các nhà tạo lập thị trường thực hiện đồng thời hai chức năng: môi giới và kinh doanh chứng khoán. Để thực hiện các chức năng đó, các nhà tạo lập thị trường phải đáp ứng các yêu cầu về mức vốn pháp định, hệ thống cơ cở vật chất - kỹ thuật, đội ngũ nhân lực… và chịu sự kiểm soát chặt chẽ của cơ quan quản lý thị trường và Hiệp hội Kinh doanh chứng khoán.

    Các nhà tạo lập thị trường phải đối mặt với nguy cơ sụt giảm giá chứng khoán, thậm chí, nguy cơ mất trắng do phá sản của tổ chức phát hành. Khi giá chứng khoán lên, họ thường phải là người bán; khi giá chứng khoán giảm, họ thường phải là người mua. Hơn nữa, họ phải có đủ lượng tiền mặt cần thiết để đáp ứng nhu cầu bán chứng khoán của các nhà đầu tư, lượng tiền mặt cao sẽ làm tăng chi phí cơ hội. Để chống lại nguy cơ đó, các nhà tạo lập thị trường phải có quy mô vốn lớn, năng lực quản lý và giám sát tốt, khả năng đa dạng hóa đầu tư cao, quan hệ tốt với công chúng và các nhà đầu tư có tổ chức khác. Thông thường, các nhà tạo lập thị trường phải là các nhà đầu tư có tổ chức, là các tổ chức tài chính trung gian (TCTG). Song không phải tổ chức TCTG nào cũng có thể trở thành nhà tạo lập thị trường. Vấn đề này trước hết phụ thuộc vào mô hình kinh doanh chứng khoán. Có ba mô hình kinh doanh chứng khoán cơ bản: mô hình ngân hàng đa năng toàn phần, mô hình chuyên doanh và mô hình đa năng một phần.

    Việt Nam đang thực hiện mô hình đa năng một phần. Ở mô hình này, các ngân hàng thương mại (NHTM) muốn thực hiện hoạt động kinh doanh chứng khoán phải thành lập công ty chứng khoán (CTCK) trực thuộc. Do vậy, các NHTM không thể thực hiện hoạt động tạo lập thị trường do không được thực hiện hoạt động môi giới chứng khoán và hoạt động bảo lãnh phát hành chứng khoán. Hoạt động tạo lập thị trường đang được xem là lĩnh vực độc quyền của các CTCK. Tuy nhiên, quan niệm này là cứng nhắc và không chuẩn xác.

    Trên thế giới, thị trường trái phiếu thường được tổ chức theo hình thức thị trường OTC, trong đó, các tổ chức TCTG như các NHTM, tổ chức kinh doanh bảo hiểm sẽ thực hiện vai trò tạo lập thị trường. Ở thị trường trái phiếu, các trái phiếu chính phủ và trái phiếu doanh nghiệp có độ rủi ro thấp nên chủ yếu được các tổ chức TCTG nắm giữ, đặc biệt là các ngân hàng phát triển, các NHTM và các tổ chức bảo hiểm. Các tổ chức tài chính này không muốn giao dịch qua Sở giao dịch chứng khoán do chi phí quá cao so với thu nhập của trái phiếu. Việc giao dịch thẳng giữa các tổ chức TCTG không chỉ giúp họ tiết kiệm chi phí mà còn tạo được phương thức giao dịch, thanh toán linh hoạt và phù hợp. Hơn nữa, để thực hiện vai trò tạo lập thị trường, các tổ chức TCTG phải có một lượng vốn đủ lớn, và như vậy với quy mô rất lớn của thị trường trái phiếu, các CTCK thường không thể đáp ứng yêu cầu vốn cho hoạt động tạo lập thị trường trái phiếu. Ở Mỹ, thị trường trái phiếu doanh nghiệp có quy mô lớn gấp đôi so với thị trường cổ phiếu; thị trường trái phiếu Chính phủ và trái phiếu chính quyền địa phương có quy mô lớn gấp 12 lần thị trường cổ phiếu.

    Trong khi đó, trên thị trường OTC cổ phiếu, nhà tạo lập thị trường thường là các CTCK. Sự tham gia của các NHTM và các tổ chức tín dụng khác trên thị trường cổ phiếu thường bị hạn chế do mức độ rủi ro cao của cổ phiếu và họ phải đảm bảo an toàn cho những người gửi tiền và đảm bảo an ninh kinh tế. Do vậy, thị trường cổ phiếu thường dành cho các trung gian đầu tư như các CTCK, các quỹ đầu tư chứng khoán, các công ty bảo hiểm và các nhà đầu tư cá nhân. Do mức độ rủi ro cao nên yêu cầu minh bạch hóa về thông tin, kiểm soát các giao dịch không công bằng… luôn được các thành viên của thị trường quan tâm. Thị trường này có thể tổ chức theo ba mô hình: Sở giao dịch chứng khoán, thị trường OTC và thị trường giao dịch nội bộ (Private Markets).

    Cơ chế xác lập giá trên thị trường OTC được thực hiện qua cơ chế thương lượng trực tiếp. Các nhà tạo lập thị trường có thể thực hiện giao dịch cho các nhà đầu tư bằng cách bán chứng khoán có sẵn trong “kho”, môi giới hưởng hoa hồng hoặc kê giá. Trong trường hợp bán chứng khoán có trong kho dự trữ, thu nhập của họ là chênh lệch tăng giá chứng khoán so với thời điểm mua. Khi đảm nhiệm vai trò môi giới, thu nhập của họ là tiền hoa hồng trên cơ sở thỏa thuận với khách hàng. Khi thực hiện kê giá, nhà tạo lập thị trường sẽ mua cổ phiếu của nhà tạo lập thị trường khác có mức giá giao dịch thấp nhất để bán lại cho nhà đầu tư với mức giá cao hơn và hưởng chênh lệch. Các phương thức thực hiện giao dịch khác nhau sẽ tạo thu nhập khác nhau cho các nhà tạo lập thị trường.

    Như vậy, giá chứng khoán trên thị trường OTC do các nhà tạo lập thị trường quyết định, số lượng nhà tạo lập thị trường cho mỗi loại chứng khoán sẽ quyết định mức độ cạnh tranh về giá. Số lượng nhà tạo lập thị trường càng lớn thì sẽ càng giảm gánh nặng yêu cầu về vốn của mỗi nhà tạo lập thị trường. Luật Chứng khoán Thái Lan quy định cứ 15 CTCK cùng quan tâm tới một loại cổ phiếu, nắm giữ một lượng đủ lớn cổ phiếu đó và cùng đề nghị với Ủy ban chứng khoán thì chứng khoán đó mới được giao dịch trên thị trường OTC. Như vậy, số lượng nhà tạo lập thị trường tối thiểu cho một loại cổ phiếu ở Thái Lan là 15.

1.9.các cách thức giao dịch chuyển nhượng cổ phiếu chưa niêm yết trên thị trường OTC Việt Nam:

1.9.1. Sử dụng dịch vụ môi giới của các công ty chứng khoán  

Môi giới là một trong bốn nghiệp vụ kinh doanh mà công ty chứng khoán được pháp luật cho phép thực hiện. Các công ty chứng khoán này có một đội ngũ môi giới chuyên nghiệp, được đào tạo kỹ càng và có chứng chỉ hành nghề do Ủy ban Chứng khoán Nhà nước cấp. Họ thực hiện việc nhận lệnh của nhà đầu tư, thỏa thuận để tìm nguồn cung hoặc cầu phù hợp và thực hiện việc chuyển quyền sở hữu chứng khoán cho khách hàng (thông qua dịch vụ lưu ký và thanh toán bù trừ của trung tâm giao dịch chứng khoán).

Thông qua dịch vụ môi giới của công ty chứng khoán là hình thức giao dịch an toàn và quyền lợi của nhà đầu tư được pháp luật bảo vệ chặt chẽ. Tuy nhiên do số lượng công ty cổ phần thì nhiều nhưng số công ty đăng ký trở thành công ty đại chúng thì còn hạn chế do những công ty này lo ngại về việc thực hiện những nghĩa vụ của công ty đại chúng theo quy định của pháp luật nên số cổ phiếu có thể mua bán thông qua môi giới của công ty chứng khoán chưa thực sự phong phú. Đồng thời, nhiều nhà đầu tư ít tiền đã không còn cơ hội len chân vào các sàn chứng khoán sau sự kiện một số công ty chứng khoán lớn không chấp nhận các nhà đầu tư "nghèo". Mặc dù vậy, nhu cầu về cổ phần của rất nhiều công ty không phải công ty đại chúng lại khá lớn và số lượng những công ty này thì vô cùng nhiều nên đã dẫn tới sự hình thành của “thị trường xám” mua bán những cổ phiếu này.

1.9.2. Qua những lời chào bán hoặc mua trên mạng và người quen 

Hình thức này khá phổ biến hiện nay và đặc biệt được ưa chuộng bởi những nhà đầu tư trẻ, công chức nhà nước, nhân viên của các công ty. Rất nhiều trang web chuyên về chứng khoán và một số tờ báo điện tử đều đăng tin rao vặt, mua bán chứng khoán OTC như các trang của chính các công ty chứng khoán, như: ANS, ABCS, BVSC,... hoặc các trang chuyên về giao dịch OTC; như: SanOTC.com, OTC24h… Website cho phép người đăng nhập đưa ra các lệnh mua và bán, sau đó thống kê để đưa ra những lệnh phù hợp để khách hàng lựa chọn. Trên các website có đưa ra bảng mã OTC của các công ty và mệnh giá cổ phiếu, trái phiếu của công ty đó và có những thống kê về mức giá của những cổ phiếu đó để khách hàng có thêm các thông tin trước khi đưa ra quyết định đầu tư và hỗ trợ khách hàng tìm hiểu về thị trường chứng khoán thông qua các phân tích thị trường OTC. Và quan trọng hơn cả là danh sách các cổ phiếu OTC được chào mua, chào bán tại hầu hết các “sàn” mạng đều dài gấp vài lần danh mục gần 200 doanh nghiệp niêm yết trên sàn. Giá trên các trang web này chỉ là giá mang tính chất tham khảo thông qua giá trần, giá sàn và giá trung bình, không phải là giá trị thực của chứng khoán được rao bán hoặc mua trên thị trường OTC. Thực tế do việc tham gia vào những trang web này tương đối dễ dàng, và độ xác thực của tin rao không được kiểm tra, không nơi nào chịu trách nhiệm về những thông báo đó nên rất nhiều người đăng những tin rao không đúng sự thật, gây ra sức ép giả tạo về cung hoặc cầu để làm giá theo hướng có lợi cho mình.

Hình thức giao dịch ở đây chủ yếu là trao tay. Sau khi đã khớp lệnh đồng ý mua bán trên mạng, thì quá trình sau đó diễn ra rất đơn giản và dễ dàng. Nếu là chứng khoán đã được lưu ký thì người mua hay người bán thường sẽ đến trụ sở chính của công ty để đăng kí chuyển đổi sở hữu. Thoả thuận xong người mua và người bán đến một chi nhánh của công ty phát hành chứng khoán và điền vào mẫu phiếu (form) chuyển nhượng, sau đó nộp phí chuyển nhượng (khoảng 0.03%) là 2 tuần sau người mua có thể có giấy chứng nhận sở hữu cổ phần. Rất nhiều trường hợp nếu chứng khoán không được lưu ký, người bán chỉ việc trao cho người mua một giấy chứng nhận sở hữu. Sau vài cú điện thoại là bên mua cầm tiền đến gặp người bán (tại nhà, quán cà phê, cơ quan...), kiểm tra sơ sơ chứng khoán, viết cho nhau tờ cam kết chuyển nhượng quyền cho người mua. Phần lớn các giao dịch chỉ diễn ra trong vòng 30 phút, nếu quen nhau chỉ 10 phút.

1.9.3. Qua những broker hành nghề tự do  

Broker trên trung tâm chứng khoán chính thức được đào tạo kỹ càng và có chứng chỉ hành nghề do Ủy ban Chứng khoán Nhà nước cấp, nhưng để trở thành broker trên thị trường OTC thì khá dễ dàng. Chỉ sau vài vụ mua bán chứng khoán là có người đã gọi điện đến nhờ xem có nhu cầu mua/bán thì mách bảo và cùng chia hoa hồng thì người ta. Các broker đang hoạt động hiện nay đều là những tay nghiệp dư có nghề nghiệp khác nhau. Sắc sảo và nhanh nhạy nhất là những nhân viên làm việc trong các tổ chức tài chính. Tuy nhiên cũng có rất nhiều nhà môi giới là những người thạo kinh doanh trong những lĩnh vực khác nhau, có kiến thức về kinh tế....

Để có nguồn hàng sẵn sàng cung cấp cho nhà đầu tư, những người môi giới đi khắp nơi “săn” cổ phiếu của những công ty cổ phần và thủ tục là người bán làm giấy chuyển nhượng cho người môi giới bằng hợp đồng chuyển nhượng nhưng phần người mua là bỏ trống, công ty phát hành sẽ xác nhận vào hợp đồng này để chấp nhận người mua là cổ đông mới của công ty (mặc dù chưa biết đích danh người mua). Sau khi tìm được người mua, người môi giới chỉ điền tên nhà đầu tư vào phần còn trống.

Thông thường người môi giới cổ phiếu trên thị trường OTC hưởng chênh lệch giá. Hoạt động của những người môi giới tự do này cũng dựa trên nguyên tắc khớp lệnh giữa người mua và người bán. Tuy nhiên trong trường hợp, các lệnh mua không mua hết so với nhu cầu bán, thì tạm thời người môi giới mua số cổ phiếu đó nếu người môi giới dự đoán giá cổ phiếu đang lên. Còn khi dự báo giá cổ phiếu có chiều hướng xuống thì người môi giới phải khớp đủ lệnh mua và lệnh bán từng lô cổ phiếu. Nhìn chung nguyên tắc của người môi giới là mua cao, bán cao, mua thấp bán thấp. Trong trường hợp gặp được lô cổ phiếu mà người bán đang cần tiền, bán gấp, giá hạ, nhưng chưa khớp được lệnh mua, thì người môi giới cũng mua vào và khi gặp khách sẵn sàng mua với giá cao thì bán ra.

Cũng giống như bất kỳ thị trường nào, thị trường OTC không thể thiếu các nhà môi giới. Hoạt động của họ thúc đẩy thị trường OTC phát triển, các giao dịch sôi động hơn. Nếu không có họ, nhu cầu mua/bán chứng khoán không dễ dàng gặp nhau và do đó tính thanh khoản của các chứng khoán cũng bị hạn chế nhất định. Thực tế thời gian qua ít khi kẻ mua, người bán giao dịch được với nhau qua thông tin trên mạng. Các cuộc giao dịch thành công phần lớn là nhờ broker do các broker nắm bắt được nhiều thông tin, biết nhiều khách hàng cũng như có nhiều mối quan hệ nên đã giúp quá trình thực hiện làm các thủ tục thanh toán, chuyển nhượng chứng khoán khá dễ dàng. So với hình thức tự tìm đến nhau qua mạng thì nhà đầu tư phải mất thêm phí cho broker và phí này cũng khá cao.

1.9.4. Giao dịch thông qua chính công ty phát hành chứng khoán các bên đang mua/bán 

Trong số những nhà môi giới trên thị trường OTC cũng dễ dàng bắt gặp chính các cán bộ Văn phòng Hội đồng quản trị của một số Ngân hàng thương mại cổ phần, Công ty cổ phần... nơi làm thủ tục chuyển nhượng cổ phiếu của doanh nghiệp đó do đang hình thành xu hướng là mua chứng khoán của tổ chức nào thì nhờ chính những người ở tổ chức đó môi giới. Họ có nhiều mối hàng, phát giá khá hợp lý và có trách nhiệm hơn trong việc đảm bảo tính hợp pháp, hợp lệ chứng khoán. Vì vậy, đôi khi có những loại chứng khoán đang rất "nóng" trên thị trường mà lại không thấy giao dịch trên chợ mạng như cổ phiếu của VPBank, Habubank trong thời gian qua. Thậm chí có những công ty phát hành muốn bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư đã đứng ra làm trung gian mua bán và thực hiện chuyển nhượng quyền sở hữu cho khách hàng, ví dụ như công ty chứng khoán Bảo Việt.

Thực ra đây là một hình thức biến thể của hình thức giao dịch thông qua các môi giới nhưng cái khác nhau là ở chỗ, theo quy định của UBCK thì hoạt động này của các công ty phát hành chứng khoán không được thu phí dịch vụ từ các nhà đầu tư, chính vì vậy, hình thức này sẽ không tốn nhiều chi phí như giao dịch thông qua các môi giới tự do. Thủ tục chuyển nhượng cũng hết sức chặt chẽ với việc xuất trình sổ hộ khẩu, chứng minh thư, chữ ký gốc... Cổ phiếu của các công ty chưa niêm yết giao dịch OTC cũng hầu hết được ghi rõ các giao dịch chuyển nhượng chỉ có giá trị khi làm thủ tục qua văn phòng hội đồng quản trị của doanh nghiệp đó. Vì vậy, đây là hình thức giao dịch có giá trị. Tuy nhiên, các nhà đầu tư chứng khoán sẽ không có cơ hội tiếp cận với các nguồn thông tin đa chiều vì hình thức này chỉ cung cấp thông tin của công ty phát hành chứng khoán chứ không cho biết thông tin của các công ty khác cùng với các thông tin về biến động thị trường OTC, như vậy các nhà đầu tư khi sử dụng hình thức này sẽ gặp phải tình trạng thông tin không đối xứng.

2.Liên hệ thị trường OTC Việt Nam:

2.1. THỊ TRƯỜNG OTC TRONG THỜI GIAN ĐẦU 

Năm 2005, Sau khi ra đời gần 2 tháng, nhưng Sàn Chứng khoán thứ cấp (OTC) với loại hình giao dịch thoả thuận đang bộc lộ những điểm yếu cản trở các nhà đầu tư. 

Trên sàn OTC, lượng mua bán gần như chỉ diễn ra với những người đã có chứng khoán từ khi sàn OTC chưa hoạt động.Sàn OTC không phải không hấp dẫn bởi những cổ phiếu được mua bán rất tiềm năng. Tuy nhiên, với phương thức giao dịch thoả thuận, ai cũng có thể làm giá trên thị trường được.

1. Dễ lũng đoạn thị trường 

Không khó nếu ai đó muốn 'làm giá' một cổ phiếu trên thị trường OTC. Nếu tôi muốn đẩy giá ngày mai lên, tôi sẽ tìm người mua cùng thoả thuận mức giá trần hôm nay, thế là giá tham chiếu ngày mai sẽ bị đẩy lên. Cũng chính vì vậy, nhà đầu tư rất khó có thể biết được giá trị thực của cổ phiếu. Giá cổ phiếu sau khi bị tác động không hoàn toàn phản ánh đúng ý của nhà đầu tư trên thị trường. Chính giá tham chiếu cũng không đủ khách quan để làm cơ sở đánh giá thị trường.

Trao đổi với VietNamNet, ông Vũ Bằng - Phó Chủ tịch Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước - cho rằng, để áp dụng phương thức thoả thuận với sàn OTC thì mình phải chấp nhận một số nhược điểm. Nếu muốn chống làm giá phải có những động tác mà nó sẽ hạn chế tính mở của thị trường. So với sàn chứng khoán TP.HCM, OTC vẫn là sản phẩm loại II nên sẽ hạn chế. "Việc làm giá sẽ tạo ra giá ảo ban đầu, nhưng chỉ được một thời gian. Dần dần người ta thấy giá đó không phù hợp", ông nói.

2. Mất thời gian

Một lý do nữa khiến nhà đầu tư và công ty chứng khoán không hào hứng với OTC bởi họ quá mất thời gian trong việc đàm phán lệnh và nhận lệnh khi giao dịch. Nếu như trên thị trường sơ cấp, giao dịch báo giá gần như khớp lệnh liên tục và người mua bán có thể nhận các thông số là quyết ngay việc mua bán cổ phiếu thì với cách thức thoả thuận, người muốn mua phải tự tìm ra ai muốn bán.

Thoả thuận nghĩa là khi các nhà đầu tư muốn bán chứng khoán, họ phải nhờ công ty chứng khoán viết lệnh lên sàn. Sau đó phải chờ môi giới tìm đối tác. Môi giới phải hỏi ra công ty chứng khoán nào có nhà đầu tư đang muốn mua (hoặc đợi người đến hỏi mua). Môi giới sau đó cũng phải đàm phán với người bán giá người mua muốn. Người mua đồng ý với giá thoả thuận hay khụng lại qua môi giới báo lại người bán. Cứ thế cho đến lúc nào hai bên cùng thoả mãn với giá mua bán. So với sự biến động của thị trường vốn, thời gian đàm phán để hoàn tất một giao dịch thoả thuận có thể khiến giá cả trên thị trường đó thay đổi.Không những mất thời gian, giảm tính thanh khoản, giao dịch thoả thuận khiến cho OTC gần như không có người tạo lập thị trường

  Sàn OTC trước khi ra đời đó được xây dựng hai hệ thống giao dịch báo giá và thoả thuận. Nhưng sau đó, do chủ trương đưa giao dịch thoả thuận trước, phần mềm được sửa lại. Nếu muốn đưa thêm giao dịch báo giá vào hệ thống sẽ phải mất khoảng 1 đến 1 tháng rưỡi. Nếu không thử nghiệm kỹ sẽ gặp phải tình trạng rối loạn thông số trên thị trường như trường hợp mới đây xảy ra với VN-Index.

3.Mở cửa sàn thứ cấp 

Sàn chứng khoán thứ cấp mở cửa: những tâm trạng trái ngược!

 Sàn chứng khoán thứ cấp sau khi chính thức khai trương diễn ra giao dịch cổ phiếu của 6 doanh nghiệp tại Trung tâm Giao dịch chứng khoán Hà Nội (TTGDCK Hà Nội). Tổng số lượng cổ phiếu được đem bán là gần 1420 tỷ. Giá đăng ký giao dịch là 10.000 đồng/cổ phiếu.

Biên độ dao động giá đối với cổ phiếu tại sàn Hà Nội là (+/-) 10% và không áp dụng biên độ dao động giá đối với giao dịch trái phiếu.

Trong thời gian đầu, giao dịch cổ phiếu và trái phiếu tại sàn thứ cấp Hà Nội được thực hiện theo phương thức thoả thuận. Các công ty chứng khoán được thoả thuận mua, bán với các khách hàng, hoặc giữa các khách hàng với nhau. Kết quả giao dịch được chuyển vào TTGDCK Hà Nội để tạo thành kết quả giao dịch chung.

Trong tương lai, giao dịch báo giá cũng sẽ được áp dụng. Lệnh giao dịch của nhà đầu tư sẽ được công ty chứng khoán nhập vào hệ thống giao dịch của TTGDCK Hà Nội để khớp với các lệnh đối ứng thoả món cỏc điều kiện giao dịch.

 Hai phương thức giao dịch trên thực sự phù hợp với tính chất giao dịch của thị trường OTC bởi nó đều mang tính thoả thuận cao và sự thuận tiện, linh hoạt cho người đầu tư, nâng cao tính thanh khoản của các chứng khoán được giao dịch qua sàn Hà Nội.

Trước mắt, do số lượng doanh nghiệp chưa nhiều, sự tham gia của các nhà đầu tư chưa lớn nên sàn thứ cấp Hà Nội chỉ mở 3 phiên giao dịch trong tuần. Sau phiên giao dịch đầu tiên vào sáng thứ 5 (ngày 14/7/2005), các phiên giao dịch tiếp theo sẽ được tổ chức định kỳ vào các ngày thứ 2, thứ 4 và thứ 6 trong tuần. Trong tương lai, khi nhu cầu tăng và hàng hoá cũng dồi dào hơn, phiên giao dịch sẽ được mở thường xuyên hơn.

Ý tưởng thành lập TTGDCK Hà Nội chính thức ra đời trong Quyết định 127/1998/QĐ-TTg ngày 11/7/1998 của Chính phủ. Đến nay, đó 7 năm chủ trương một sàn OTC qua bao "sóng gió" mới thành hiện thực. Tuy nhiên, giới kinh doanh vẫn cho rằng, đó là một cố gắng không nhỏ của những người thực hiện.

Từ khi chính thức ra mắt hôm 8/3/2005, TTGDCK Hà Nội đã thực hiện 5 đợt đấu giá với hơn 530 tỷ đồng giá trị cổ phần

Doanh nghiệp hào hứng

Để thúc đẩy một nền kinh tế cổ phần như mong đợi, Chính phủ đã có những chính sách khuyến khích mạnh tay hơn với Thị trường chứng khoán Hà Nội. Các doanh nghiệp cho biết, thay vì e ngại như ban đầu, họ cũng đó cảm thấy hào hứng hơn với sàn chứng khoán bởi đã thấy những lợi khi đăng ký giao dịch.

Điều kiện, thủ tục đăng ký lên sàn Hà Nội đơn giản hơn nhiều so với TTGDCK TP.HCM. Bất cứ doanh nghiệp nào với số vốn điều lệ từ 5 tỷ đồng trở lên, có 50 cổ đông trở lên (không kể cổ đông trong hay ngoài doanh nghiệp); có tỡnh hỡnh tài chớnh minh bạch (báo cáo tài chính phải dược kiểm toán), một năm cuối trước khi tham gia giao dịch làm ăn có lời... đều có thể tham gia giao dịch tại TTGDCK Hà Nội. Hơn nữa, doanh nghiệp cũng được giảm 50% thuế thu nhập doanh nghiệp trong vòng 2 năm đầu, kể từ khi đăng ký giao dịch...

 Thậm chí, để tạo thuận lợi hơn cho các doanh nghiệp đăng ký giao dịch tại TTGDCK Hà Nội, ông Dũng cũng cho biết sẽ kiến nghị Ủy ban chứng khoán, Bộ Tài chính sửa đổi quy định về đăng ký giao dịch theo hướng mở rộng thêm 2 nhóm đối tượng là các doanh nghiệp hạch toán phụ thuộc nhưng chưa có báo cáo kiểm toán (tức là chưa xác định được 1 năm có lời) được và các doanh nghiệp đang cổ phần hóa,  mới ở giai đoạn hồ sơ đó được sự tư vấn của Công ty chứng khoán mà chưa được kiểm toán.

Nhà đầu tư băn khoăn

Với các chính sách mở, thậm chí lãnh đạo sàn Hà Nội cũng gửi cả thư kêu gọi các DN "để ý" đến mình. Tuy nhiên, dường như tất cả những ưu đãi trên của TTGDCK Hà Nội mới chỉ "nghiêng" về phía doanh nghiệp đăng ký giao dịch, cũng lợi ích của nhà đầu tư tham gia đến đâu, lại chưa "cân đong đo đếm" được. Dù rằng, việc xây dựng "5 bước đấu giá" có tạo điều kiện cho bên mua và bên bán "gặp" nhau nhiều hơn, nhưng vẫn chưa đủ lực hấp dẫn.

   Hàng giao dịch tại TTGDCK Hà Nội chưa phải là hàng Việt Nam chất lượng cao" như tại TTGDCK TP.HCM do việc nới lỏng các quy định về chế độ công bố thông tin của doanh nghiệp. Thế nhưng, đây lại chính là cốt lõi của việc đưa đến quyết định, có bỏ tiền hay không của nhà đầu tư. Thêm vào đó, đối tượng của TTGDCK Hà Nội lại là các doanh nghiệp nhỏ (vốn điều lệ khoảng 5-10 tỷ đồng), nên cũng chưa phải là mối quan tâm của những nhà đầu tư lớn.

    Giải pháp để tạo nguồn hàng cho TTCK Việt Nam là bỏ bớt bao cấp không cần thiết đối với một số doanh nghiệp nhà, ban hành các quy định để doanh nghiệp niêm yết và không niêm yết đều phải tuân theo các điều kiện quản trị doanh nghiệp tốt. Khi ấy các công ty sẽ thấy được quyền lợi hấp dẫn khi niêm yết và đua nhau tham gia thị trường. 

2.2.Thực trạng thị trường OTC Việt Nam:

Quy mô thị trường lớn:

-giá trị giao dịch một ngày từ 7,5 đến 30 triệu USD (cao hơn 1,5 đến 6 lần doanh số của thị trường niêm yết)

-tổng giá trị vốn hóa của thị trường OTC khoảng 5-6 tỷ USD,gấp đôi thị trường chính thức.

-thu hút 500 nghìn nhà đầu tư tham gia, gấp 5 lần HOSE và HASTC.

-chưa có các nhà tạo thị trường

-giao dịch diễn ra rời rạc

-hoạt động không có tổ chức

-chứa đựng nhiều rủi ro, giá cả và thông tin thị trường không minh bạch, giá cổ phiếu bị thổi phồng.

-không có cơ quan chức năng theo dõi chế tài.

Trung tâm giao dch chng khoán Hà Ni và th trường OTC Vit Nam:

Việc xây dựng mô hình hoạt động cụ thể cho Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội có ý nghĩa rất quan trọng, vừa phải đáp ứng những nhu cầu cấp thiết của nền kinh kế, vừa phải phù hợp với quy mô và lộ trình phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam. 

Ngày 05/8/2003 Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt chiến lược phát triển TTCK Việt Nam đến 2010. Theo đó, xây dựng thị trường giao dịch cổ phiếu của các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Hà Nội, chuẩn bị điều kiện để sau 2010 chuyển thành Thị trường giao dịch chứng khoán phi tập trung (OTC). 

Tháng 6/2004, Bộ tài chính ra Thông báo số 136/TB/BTC nêu kết luận của Lãnh đạo

Bộ về mô hình tổ chức và xây dựng thị trường giao dịch chứng khoán Việt Nam. Trong đó, định hướng xây dựng Trung tâm GDCK Hà Nội thành một thị trường giao dịch phi tập trung (OTC) đơn giản, gọn nhẹ, theo đó, Trung tâm GDCK Hà Nội sẽ phát triển theo hai giai đoạn: 

Giai đoạn đầu, từ 2005 đến 2007 - thực hiện đấu giá cổ phiếu doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá và đấu thầu trái phiếu chính phủ đồng thời tổ chức giao dịch chứng khoán chưa niêm yết theo cơ chế đăng ký giao dịch.  Giai đoạn sau 2007 - Phát triển TTGDCKHN thành thị trường phi tập trung phù hợp với quy mô phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam. 

Mô hình hoạt động của TTGDCK Hà Nội đã từng bước được cụ thể hoá. Gần đây, Bộ Tài chính đã ra Quyết định số 244/2004/QÐ-BTC ban hành Quy chế tạm thời tổ chức giao dịch chứng khoán tại TTGDCK Hà Nội. Như vậy, có thể nói cơ sở pháp lý ban đầu cho hoạt động của TTGDCK Hà Nội đã được thiết lập. Theo đó, có thể khái quát các nội dung hoạt động chính trong giai đoạn đầu của TTGDCK Hà Nội như sau: 

1. Tổ chức  đấu giá cổ phần cho các doanh nghiệp : TTGDCKHN cung cấp các phương tiện để thực hiện đấu giá cổ phần, đặc biệt là cổ phần của các doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá, theo tinh thần Nghị định số 187/2004/NĐ-CP về việc chuyển công ty nhà nước thành công ty cổ phần vừa  được Chính phủ ban hành và thông tư số 126/2004/TT-BTC của Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện Nghị định 187/2004/NÐ-CP.

Trong đó quy định các doanh nghiệp khi cổ phần hoá phải bán đấu giá công khai ra bên ngoài tối thiểu 20% vốn điều lệ. Trường hợp doanh nghiệp cổ phần hóa có khối lượng cổ phần bán ra trên 10 tỷ đồng phải tổ chức đấu giá cổ phần tại TTGDCK để thu hút người đầu tư, các trường hợp khác cũng được khuyến khích đấu giá qua TTGDCK. 

2. Tổ chức đấu thầu trái phiếu : TTGDCKHN tổ chức đấu thầu trái phiếu, bao gồm các loại trái phiếu chính phủ, trái phiếu  được chính phủ bảo lãnh, trái phiếu chính quyền địa phương, trái phiếu công trình…

3. Tổ chức giao dịch chứng khoán theo cơ chế đăng ký giao dịch: 

Hàng hoá giao dịch trên TTGDCK Hà Nội: 

- Các loại chứng khoán của các công ty cổ phần có vốn điều lệ từ 5 tỷ đồng trở lên, chưa thực hiện niêm yết tại TTGDCKTP. HCM, hoạt động kinh doanh của năm liền trước năm đăng ký giao dịch phải có lãi, số cổ đông tối thiểu là 50 người (kể cả trong và ngoài doanh nghiệp). 

- Các loại trái phiếu chính phủ, trái phiếu chính quyền địa phương 

Phương thức giao dịch áp dụng tại TTGDCKHN: 

+ Phương thức giao dịch thoả thuận.

+ Phương thức giao dịch báo giá trung tâm.

Ngày 8.3.2005 TTGDCK Hà Nội chính thức khai trương hoạt động 

 Như vậy, cũng như thị trường chính thức, Nhà nước đã đứng ra làm nhà tạo lập và tổ

chức thị trường OTC. Tuy nhiên, giải pháp này có tạo  động lực cho sự phát triển của

thị trường OTC hay  không cần phải có thời gian để trả lời.

Hệ thống kế toán và những yêu cầu kiểm toán thể hiện  đúng sức khoẻ của doanh nghiệp

Đối với các công ty niêm yết chính thức, việc công bố thông phải tuân theo các quy định hết sức chặt chẽ. Tuy nhiên, đối với các công ty không niêm yết, điều này là không bắt buộc mà chỉ được khuyên khích. Chính điều này, cộng với nhựng vấn về mập mờ trong công tác thuế, đã khuyến khích cac doanh nghiệp làm cho hệ thống sổ sách, báo cáo kế toán của mình trở nên không minh bạch là rào cản để việc phát triển thị trường. Có mộthệ thống kế toán và các yêu cầu kiểm toán nhằm thể hiện đúng thực trạng của doanh nghiệp là điều hết sức cần thiết trong việc phát triển thị trường OTC. Khi các thông minh bạch, rõ ràng, các nhà đầu tư sẽ cso khả năng đáinh giá thực trạng công ty một cách tốt nhất. Tổ chức đánh giá và xếp loại mức độ tín nhiệm của doanh nghiệp

Có một khác biệt rất lớn giữa các công ty niêm yết trên thị trường chính thức và các công ty mua bán trên thị trường phi chính thức là yêu cầu công khai thông tin. Tất cả các thông tin liên quan đến hoạt động của doanh nghiệp niêm yết đều phải được công bố kịp thời, trong khi đối với các ông ty không niêm yết, điều này là không bắt buộc. Do đó, để có thể đánh giá các công ty không niêm yết (cũng như niêm yết) cần phải có một tổ chức đánh giá xếp loại độc lập đảm bảo các điều kiện sau:

-  Tính khách quan: Phương pháp đánh giá tín dụng cần phải chặt chẽ, có hệ thống và

phải căn cứ vào các số liệu quá khứ theo một phương pháp đánh giá nào đó. Ngoài ra, các kết quả đánh giá cần phải liên tục được rà soát và điều chỉnh kịp thời theo những thay đổi về tình hình tài chính. Để được các cơ quan chủ quản ngân hàng công nhận, phương pháp đánh giá đối với mỗi khu vực thị trường, trong đó có việc đối chiếu lại một cách chặt chẽ (rigorous back testing), cần phải  được sử dụng trước đó ít nhất một năm và nên là ba năm

-  Tính độc lập: Tổ chức đánh giá tín dụng độc lập cần phải độc lập và không chịu các sức ép về kinh tế hoặc chính trị có thể ảnh hưởng đến kết quả đánh giá. Quá trình đánh giá càng ít bị ảnh hưởng bởi những mâu thuẫn về lợi ích có thể phát sinh do thành phần của hội đồng quản trị hoặc cơ cấu cổ đông của công ty gây ra càng tốt. 

-  Khả năng tiếp cận quốc tế/ Tính minh bạch: Các kết quả đánh giá cần được cung cấp cho các tổ chức trong và ngoài nước để sử dụng trong các mục đích hợp pháp và với các  điều kiện cung cấp tương  đương nhau. Ngoài ra, phương pháp luận chung để đánh giá tín dụng của các tổ chức đánh giá cần phải được công khai, hầu hết các dự án vay vốn từ WB hoặc ADB đều công khai trên web rõ ràng phương pháp luận cụ thể  để  đánh giá một dự án,  điều này sẽ tránh  được những che  đậy thông tin từ bên phía khách hàng đặt mục tiêu có nguồn tín dụng bằng mọi giá.

-  Về việc cung cấp thông tin: Tổ chức đánh giá tín dụng độc lập cần cung cấp các thông tin về phương pháp đánh giá, bao gồm các khái niệm về khả năng không trả được nợ, khoảng thời gian đánh giá, ý nghĩa của mỗi bậc xếp hạng; tỷ lệ không trả được nợ trong thực tế ứng với mỗi nhóm xếp hạng; và xu hướng thay đổi các kết quả đánh giá, ví dụ khả năng từ xếp hạng AA xuống xếp hạng A theo thời gian. 

-  Các nguồn lực: Một tổ chức đánh giá tín dụng độc lập cần phải có đủ các nguồn lực cần thiết để thực hiện việc đánh giá với chất lượng cao. Các nguồn lực này cho phép các tổ chức này tiếp xúc thường xuyên với cán bộ quản lý và nghiệp vụ tại các tổ chức đang được đánh giá tín dụng để bổ sung các thông tin quan trọng cho việc đánh giá tín dụng. Các kết quả đánh giá cần phải dựa trên sự kết hợp các phương pháp định tính và định lượng. Nguồn lực thẩm định tín dụng cũng nên làm việc theo nhóm, có nghĩa là bản thân ngân hàng cũng nên có những chuyên gia độc lập thẩm định từ phía nước ngoài nhằm áp dụng cho những dự án qui mô lớn. 

-  Tính tin cậy: Trong một chừng mực nhất định, độ tin cậy của các kết quả đánh giá

đạt được nhờ các tiêu chí đã nêu trên. Ngoài ra, lòng tin của các tổ chức độc lập (nhà đầu tư, nhà bảo hiểm, các đối tác kinh doanh) đối với các kết quả đánh giá của một tổ chức đánh giá tín dụng độc lập cũng là bằng chứng của độ tin cậy của các kết quả đánh giá này. Độ tin cậy của một tổ chức đánh giá tín dụng độc lập cũng thể hiện ở việc các tổ chức này sử dụng các quy trình nội bộ nhằm tránh không cho các thông tin mật  được sử dụng sai mục  đích. Để  được công nhận, một tổ chức đánh giá tín dụng độc lập không nhất thiết phải đánh giá các công ty ở hai quốc gia trở lên.

Được biết hiện nay đã có một số tổ chức đứng ra thực hiện việc phân đánh giá và xếp hạng doanh nghiệp như Trung tâm thông tin tín dụng (CIC) của Ngân hàng Nhà nướcViệt Nam, các công ty chứng khoán, trung tâm xếp hạng tín dụng của Vietnamnet. Nhưng những số liệu các tổ chức này đưa ra mới chỉ là bước đầu. Ngoài ra uỷ ban chứng khoán

nhà nước đang triển khai kế hoạch hình thành tổ chức này (có thể là một công ty có vốn đầu tư nước ngoài) và Hiệp hội các nhà đầu tư tài chính cũng đang lập kế hoạch thành lập công ty cổ phần xếp hạng tín dụng độc lập.

Văn hoá công khai và minh bạch trong hoạt động của các doanh nghiệp

Việc có được một hệ thống kế toán và báo cáo tài chính tốt, một tổ chức đánh giá xếp loại mức độ tín nhiệm độc lập và có các nhà tổ chức thị trường là điều hết sức quan trọng. Tuy nhiên, cso một vấn đề hết sức quan trọng lŕm nền tảng cho việc phát triển thị trường OTC nói riêng, thị trường tài chính dài hạn là cần phải có văn hoá công khai và minh bạch. Tạo niềm tin cho các nhà đầu tư. Khi mà các doanh nghiệp, công chúng, không có thói quen chấp nhận việc công khai, minh bạch tình hình hoạt động của mình sẽ là một rào cản rất lớn để áp dụng hệ thống chuẩn mực kế toán tốt, có thông tin đủ độ tin cậy cho các tổ chức

đánh giá mức độ tín nhiệm xếp loại một cách chính xác doanh nghiệp. Khi đó, khả năng không thể phát triển hoặc bị sụp đổ của thị trường là điều rất khó tránh khỏi.

Mặt khác, còn một vấn đề nữa mà các doanh nghiệp, nhất là các công ty cổ phần cần phải chú ý đó là nâng cao hiệu quả của việc quản trị công ty. Khi mà quy mô của công ty ngày càng lớn, các chủ sở hữu không còn đồng thời là những người điều hành trực tiếp doanh nghiệp thì việc xử lý xung đột giữa người sở hữu và người điều hành cần được đặc biệt

quan tâm.

Trên đây là những vấn đề mà nhóm ông Reform đã tìm hiểu về thị trường phi tập trung ở Việt Nam. Đây mới chỉ là những chấm phá ban đầu, để có thể có được những giải pháp phát triển thị trường OTC ở Việt Nam cần có một sự nghiên cứu kỹ hơn, bài bản hơn.

    2.3. Giải pháp phát triển thị trường OTC ở Việt Nam

    Những phân tích trên cho cái nhìn tương đối khái quát về thị trường OTC và có thể đi đến kết luận: ở Việt Nam chưa có thị trường OTC theo đúng nghĩa của nó. Chúng ta mới chỉ có một số tiền đề khá cơ bản cho sự hình thành và phát triển thị trường như: sự phát triển về số lượng và chất lượng của các nhà đầu tư, đặc biệt là các nhà đầu tư có tổ chức; các loại chứng khoán khá đa dạng với chất lượng khá tốt và ngày càng được nâng cao; hệ thống tổ chức TCTG phát triển nhanh; hệ thống cơ sở hạ tầng, đặc biệt là cơ sở hạ tầng kỹ thuật được đầu tư và phát triển… Để hình thành và phát triển thị trường OTC ở Việt Nam, cần thực hiện đồng bộ các giải pháp sau:

    Thứ nhất, cơ quan quản lý nhà nước về chứng khoán và thị trường chứng khoán cần hoạch định rõ chiến lược phát triển thị trường OTC. Trong đó, cần hoạch định sự phát triển thị trường OTC đồng bộ với sự phát triển của thị trường tập trung. Cơ quan quản lý cần xác định rõ mô hình thị trường, bởi với mỗi mô hình thị trường OTC khác nhau thì loại hình, số lượng nhà tạo lập thị trường, phương thức đăng ký và giao dịch, thanh toán và lưu ký là khác nhau. Mô hình thị trường bao gồm các nhân tố, cơ chế vận hành, cần được thể chế hóa cụ thể trong các văn bản luật liên quan. Trên cơ sở xác định đúng mô hình thị trường, cần có chính sách hợp lý trong việc phát triển các nhân tố của thị trường, đặc biệt là chính sách hỗ trợ phát triển các tổ chức TCTG nhằm phát triển các nhà tạo lập thị trường chứng khoán; chính sách đầu tư hợp lý nhằm tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật, hệ thống thông tin của thị trường; tăng cường các chính sách hỗ trợ, bao gồm chính sách miễn giảm thuế; hỗ trợ đào tạo; hỗ trợ về thông tin, về cơ sở vật chất kỹ thuật…

    Thứ hai, cần xây dựng thị trường trái phiếu Việt Nam theo mô hình thị trường OTC. Trong đó, cho phép các NHTM, các công ty bảo hiểm và các tổ chức TCTG khác đủ yêu cầu trở thành nhà tạo lập thị trường trái phiếu. Với lượng trái phiếu lớn đang được các NHTM và tổ chức kinh doanh bảo hiểm nắm giữ, với hệ thống thanh toán liên ngân hàng đang vận hành tốt, thị trường OTC đối với trái phiếu sẽ sớm vận hành có hiệu quả. Việc phát triển thị trường trái phiếu, đặc biệt là trái phiếu doanh nghiệp có ý nghĩa đối với các doanh nghiệp trong việc nâng cao năng lực huy động vốn, tăng khả năng linh hoạt trong quản trị vốn, đồng thời, tăng khả năng tích tụ, tập trung và phân phối nguồn vốn có chi phí rẻ cho phát triển kinh tế Việt Nam giai đoạn hiện nay. Phát triển thị trường trái phiếu là ưu tiên trong khuyến nghị của Hội nghị APEC 14 tại Hà Nội.

    Thứ ba, để hình thành và phát triển thị trường OTC đối với cổ phiếu, cần phát triển các nhà tạo lập thị trường, đặc biệt là các CTCK. Thời gian vừa qua, các CTCK đã có sự phát triển khá nhanh về số lượng, chất lượng hoạt động của một số CTCK đã được cải thiện đáng kể. Tuy nhiên, có thể nói, các CTCK Việt Nam chưa thể đáp ứng được vai trò tạo lập thị trường cổ phiếu, bởi hoạt động môi giới và hoạt động tự doanh của các CTCK chưa phát triển. Hơn nữa, các CTCK vẫn đang phải đối mặt với tình trạng cơ sở hạ tầng yếu kém, đội ngũ nhân sự thiếu về số lượng và chưa đảm bảo về chất lượng.

    Thứ tư, để nâng cao chất lượng chứng khoán giao dịch, cần hoàn thiện lĩnh vực quản trị điều hành, minh bạch hóa về thông tin thông qua các biện pháp tuyên truyền, hỗ trợ đào tạo, tư vấn. Quy chế quản trị công ty cần được áp dụng cho cả doanh nghiệp niêm yết và chưa niêm yết, ban hành điều lệ mẫu và áp dụng thống nhất cho các doanh nghiệp. Để tránh hiện tượng nhà nước hóa công ty cổ phần, nâng cao quyền tự chủ của các doanh nghiệp, cần xem xét bán lượng cổ phần Nhà nước đang nắm giữ trong các doanh nghiệp nhà nước. Cần sớm thay đổi chính sách cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước hiện tại nhằm đảm bảo hơn quyền lợi của cán bộ, công nhân viên, thúc đẩy quá trình cổ phần hóa.

    Thứ năm, phát triển hoạt động của Hiệp hội Kinh doanh chứng khoán Việt Nam. Do đang ở giai đoạn phát triển ban đầu, vai trò của Hiệp hội vẫn còn khá mờ nhạt, hoạt động quản lý thị trường, quản lý các thành viên chủ yếu do cơ quan quản lý nhà nước về thị trường chứng khoán thực hiện. Để tăng mức độ đảm bảo quyền lợi cho các thành viên, cần phát triển hoạt động của Hiệp hội Kinh doanh chứng khoán như phát triển hoạt động tư vấn, đào tạo, hỗ trợ thông tin cho các thành viên, đồng thời, hiệp hội cần nâng cao vai trò hỗ trợ cho các nhà chính sách trong việc hoạch định và thực thi chính sách phát triển thị trường.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro