TTHCM_3

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

BÀI 3: TTHCM VỀ CNXH VÀ CON ĐƯỜNG ĐI LÊN CNXH 

1. TTHCM về CNXH

Đặt vấn đề:

Thời đại ngày nay CNXH là hiện thực hay chỉ là nguyện vọng chủ quan của những người Cộng sản. Đã có nhiều quan điểm khác nhau về vấn đề này:

Kẻ thù chúng ta cho rằng, đây là sự áp đặt chủ quan của những người Cộng sản.

Những người Cộng sản Liên Xô cho rằng, sự sụp đổ của CNXH là do sự phản bội của Goóc Ba Chốp. Vào mùa Thu năm 1999 khi được mời dạy ở  Ancada, Goóc Ba Chốp nhắc đi nhắc đi nhắc lại nhiều lần, mục đích của tôi là tiêu diệt CNXH ở Liên Xô và các nước, để làm việc đó ông ta có nhiều người hỗ trợ như Xêvátnátde, Iacốplép.

Đảng ta vẫn khẳng định sự lựa chọn con đường CNXH cho sự phát triển đất nước là sự lựa chọn mang tính lịch sử, là sự lựa chọn duy nhất đúng của Đảng của HCM và cả dân tộc ta tứ những năm 20 của thế kỷ 20.

1. Quan điểm HCM về tính tất yếu của CNXH

1.1. CNXH là quy luật khách quan, phổ biến trong quá trình phát triển của xã hội loài người

Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác đã giải quyết triệt để vấn đề này, HCM vẫn có cách tiếp cận riêng ở chỗ:

Sự ra đời CNXH là do sức SX của XH quy định, do sự phát triển kinh tế kỹ thuật mà XH phát triển từ CSNT > NL > PK> TB> CS. Đây là cách tiếp cận của CN Mac.

Sự ra đời CNXH là do nhu cầu giải phóng con người một cách triệt để. Được nhìn nhận dưới 3 góc độ: giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng từng cá nhân con người để hình thành liên hiệp các nhân cách phát triển tự do.

Sự ra đời CNXH là một tất yếu đạo đức: theo quy luật cái chân cái thiện cái mỹ, tất yếu phải chiến thắng cái giả dối, cái ác, cái xấu, cái thấp hèn. HCM đồng nhất CNXH với một XH đạo đức, văn minh. Chiều sâu CNXH thực chất là vấn đề đạo đức XH.

Sự ra đời CNXH là một tất yếu văn hóa. CNXH là một thước đo trình độ phát triển cao của nền văn minh. Văn hoá ở đây được hiểu là trình độ người của các quan hệ XH, là hệ thống các quá trình bền vững XH. Sự ra đời CNXH theo HCM là tổng hợp nhiều yếu tố, HCM đi đến nhận định các dân tộc thế giới chắc chắn cuối cùng sẽ đi lên CNXH. Đó là quy luật mà không ai có thể cưỡng lại được, không lực lượng nào có thể ngăn được mặt trời mọc, ngăn được loài người tiến lên CNXH.

1.2. Khả năng tiến lên CNXH của những nước châu Á

CNXH là quy luật chung, nó tác động vào nước nào còn chịu sự chi phối của đặc điểm riêng của những nước đó.

Đầu thế kỷ 20 nổi lên vấn đề bức xúc là liệu CNXH có thể ra đời ở những nước châu Á không?

Có 3 phương án:

Phương án 1: Lê Nin nói: hiện thời CNXH đã thắng lợi ở phương Tây, nhưng sau này CNXH có thể phát triển tràn sang châu Á.

Phương án 2: Các nhà cách mạng châu Á kể cả Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh điều phủ nhận khả năng thắng lợi của CNXH ở phương Đông, vì phương Đông không có điều kiện, tiền đề tiếp cận CNXH.

Phương án 3: HCM trả lời: CNCS không những thích ứng được ở châu Á mà còn thích ứng dể hơn ở châu Âu (1921), theo người có 3 cơ sở khách quan sau:

- Những mầm mống tư tưởng XHCN ở châu Á đã xuất hiện rất sớm, đó là các quan điểm sau:

Quan điểm lấy dân làm gốc

Quan điểm về công bằng, bình đẳng tài sản giữa những người lao động với nhau

Tư tưởng về tình yêu thương hữu ái giữa người và người, nhất là những người lao khổ.

Quan điểm về một xã hội đại đồng, một xã hội có những đặc điểm tư tưởng: thiên hạ vi công (thiên hạ là của chung mọi người kể cả kẻ nghèo người giàu), tuyển hiền nhiệt năng (tuyển người hiền tài người giỏi), các tàn kỳ năng (làm hết năng lực), các đắc kỳ sở (hưởng theo nhu cầu), giảm tính thư mục (coi trọng chữ tín chăm lo sự hóa đồng xă hội)

Văn hoá như dòng chảy liên tục và CNXH có thể ra đời ở châu Á.

- Tiền đề kinh tế xă hội ở châu Á làm xuất hiện tư tưởng CNXH từ sớm:

Do sản xuất nông nghiệp trồng lúa nước, từ sớm đòi hỏi nhu cầu liên kết, hợp tác sản xuất giữa người và người.

Phương đông xuất hiện chế độ công điền, công thổ (20% ruộng đất thuộc sở hữu nhà nước), cơ sở công hữu XHCN sau này.

Ở các nước châu Á, tồn tại chế độ Công xã nông thôn, tạo ra sự cố liên kết cộng đồng mang tính tự quản rất cao ở từng làng xã, đây là hình thức sơ khai của dân chủ trực tiếp (vào những năm 80 của thế kỷ 19 khi nghiên cứu KT – XH nước Nga thì Anghen đă viết, với sự giúp đỡ của những người Cộng sản châu Âu, nước Nga có thể từ chế độ Công xă Nông thôn tiến lên chủ nghĩa Cộng sản) Bác Hồ cũng kết luận như thế!

- Dựa vào sự tàn bạo của CNTB ở các nước thuộc địa châu Á.

Vào những năm 20 của thế kỷ 20 hầu hết các nước châu á trở thành thuộc địa của các nước tư bản phương tây, CNTB đã để lại những hệ quả sau:

Những tư tưởng cách mạng tiến bộ ban đầu, đó là tư tưởng tự do, bình đẳng,  bác ái của CM TS, tư tưởng tiến bộ này vào các nước thuộc địa, được tầng lớp tri thức tiếp thu phát triển ra dân chúng. Nếu có tư tưởng lý luận cách mạng, thì nhất định sẽ có phong trào cách mạng trong hiện thực.

Xâm lược thuộc địa, CNTB tạo ra quá trình công nghiệp hoá cưỡng bức, hình thành cơ cấu giai cấp xã hội mới, trong đó có giai cấp công nhân thuộc địa – lực lượng vật chất của CMVS

Giai cấp Tư sản thiết lập ở các nước thuộc địa sự thống trị dã man tàn bạo nhất, đẩy đa số quần chúng, nhất là nông dân vào con đường cùng, dẫn đến phản ứng tự do của họ với chế độ độc tài đó (không, người Đông dương không chết, người Đông dương sống mãi mãi, bên cạnh sự phục tùng tự phát, họ sẽ bùng nổ mãnh liệt khi thời cơ đến)

CNTB tạo ra những điều kiện tiền đề cho các nước thuộc địa, lựa chọn hợp lý con đường đi lên của mình, không nhất thiết lặp lại con đường mà CNTB đã trải qua (sự tàn bạo của CN thực dân đã chuẩn bị chấm đất rồi, CNXH chỉ cần phải làm cái việc gieo hạt giống của công cuộc giải phóng mà thôi)

1.3. CNXH là kết quả tất yếu của quá trình CMVN: Có 2 cơ sở

Cơ sở lý luận: đó là lý luận CM không ngừng của CN Mác-Lê Nin, CMVN chuyển từ cách mạng Tư sản Dân quyền lên CNXH bỏ qua chế độ CNTB.

Cơ sở thực tiễn: vận dụng lý luận vào thực tiễn Việt Nam, phân tích thực trạng KT – XH, CT, VH. HCM đã rút ra những mâu thuẫn cơ bản, thấy nhu cầu phát triển của dân tộc.

Người rút ra những bài học thất bại của phong trào yêu nước trong khuôn khổ ý thức hệ PK, TS và kết luận: CM muốn thành công thì phải đi theo ý thức hệ mới, ý thức hệ Vô sản.

Trong các cuộc cách mạng thế giới Người nói đến CM tháng 10 và tác động của nó với con đường đi lên CNXH ở nước ta. Trước CM tháng 10 nếu các nước thuộc địa được giải phóng thì chỉ có một sự lựa chọn là con đường TBCN, sau CM tháng 10 có thêm sự lựa chọn mới (vào những năm 20 thế kỷ 20 Hồ Chí Minh đứng giữa ngã ba đường nếu tiến theo con đường CNTB thì không cần làm cuộc cách mạng, nhân dân ta vẫn bi áp bức bóc lột, là một nước tư bản phát triển muộn sẽ bị lệ thuộc vào những nước tư bản lớn, nếu có độc lập thì chỉ là hình thức.

Ở những nước tiền TB, giai cấp CN chủ động tham gia CMTS do giai cấp TS lãnh đạo để lật đổ phong kiến, nhưng phải ý thức về sứ mệnh của mình là xoá bỏ CNTB xây dựng CNXH, CNCS khi có điều kiện phải giành lấy sự lãnh đạo đối với cuộc Cách mang, chuyển từ cách mạng Tư sản thành cách mạng XHCN. Cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 Chủ nghĩa Tư bản tỏ ra lỗi thời. Cách mạng tháng 10 thành công, mở ra thời kỳ quá độ từ CNTB lên CNXH. 

Đảng ta kết luận. Sự lựa chọn năm 1920 của HCM về độc lập dân tộc CNXH là sự lựa chọn duy nhất đúng đắn.

- Năm 1960 báo ASAHI đăng bài: Điều làm cho Hồ Chí Minh trở thành lãnh tụ thiên tài là ở chỗ, Người đã kết hợp đưa giải phóng dân tộc với CNXH, cách mạng giải phóng dân tộc với CMXHCN.

- Tháng 2/2002 tạp chí thời đại (Mỹ) viết: Thế kỷ 20 có 20 vĩ nhân, HCM đứng thứ 4, là lãnh tụ duy nhất ở châu Á kết hợp thành công

Chủ nghĩa Dân tộc với CNCS. Làm cho đất nước Người có diện mạo như ngày nay.

Trong các thời điểm khác nhau gắn với các sự kiện khác nhau, HCM đưa ra những kết luận có tính tổng kết về con người đi lên CNXH ở VN như sau:

Năm 1929: Chỉ có Chủ nghĩa Cộng sản mới cứu được nhân loại, đem lại cho mọi người không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc sự tự do, bình đẳng bác ái, đoàn kết ấm no. Chỉ có CNXH mới tạo được giá trị phát triển của nhân loại.

Chỉ có giải phóng Giai cấp Vô sản thì mới giải phóng được các dân tộc, cả hai cuộc giải phóng đó chỉ có thể là sự nghiệp của CNCS và của cách mạng thế giới

Muốn cứu giải phóng dân tộc không có con đường Cách mạng vô sản.

Chỉ có CNVS mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và quần chúng lao động khỏi áp bức nô lệ.

Tháng 6/69: CM giải phóng dân tộc phải phát triển thành CM XHCN mới giành thắng lợi hoàn toàn triệt để cho CM nước ta. Đây là sự lựa chọn của cả dân tộc chứ không phải là sự lưa chọn riêng của HCM

2. Quan niệm Hồ Chí Minh về bản chất và đặc trưng của CNXH

2.1. Hồ Chí Minh quan niệm CNXH là một quá trình phát triển

Năm 1919 – 1920 trong các tác phẩm báo chí đầu tiên HCM chính thức sử dụng thuật ngữ CNXH, CNCS. Khi nói về CNCS Người gắn với vận mệnh các thuộc địa và triển vọng tương lai của các dân tộc bị áp bức.

Trong 5 văn kiện ngày 3/2 (chính cương, sách lược, chương trình, điều lệ, lời kêu gọi) Hồ Chí Minh đều nói đến CNCS và coi đó là con đường phát triển của dân tộc Việt Nam

Từ 1954 – 1969 do nhu cầu thực tiễn xây dựng CNXH, những bài viết nói về CNXH của người có nhiều hơn ( 8000 bài, 1635 văn kiện, 280 lần đề cập đến CNCS)

2.2. Quan niệm của HCM về CNXH. CNXH là gì ?

Người có đề cập đến CNXH:

CNXH là XH ngày càng tiến, vật chất ngày càng tăng,tinh thần ngày càng tốt (có người cho rằng quan niệm như thế này là sơ đẳng, có người cho rằng có chiều sâu, có tính hợp lý) bởi vì CNXH là một xã hội có sự phát triển đồng đều cả về KT – XH, cả về vật chất và tinh thần.

CNXH nói một cách tóm lược, mộc mạc trước hết làm cho người lao động thoát khỏi bần cùng, được sống ấm no, tự do, hạnh phúc. CNXH là một XH dân giàu nước mạnh, CNXH là sự phát triển phồn vinh của đất nước, dân tộc làm cho người đói trở nên ấm no, người đủ ăn trở nên khá, người khá trở nên giàu, người giàu ngày càng giàu thêm. Như vậy CNXH vẫn còn phân tầng, không phải cào bằng, còn động lực phát triển. Trung Quốc khẳng định CNXH là cùng nhau giàu có, miền đông giúp miền tây, vùng phát triển giúp vùng kém phát triển

CNXH là nhà máy, xí nghiệp, ngân hàng làm của công, ai làm nhiều thì hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, không làm không hưởng. Ở đây, Người đề cập tới sở hữu và phân phối trong CNXH.

CNXH làm cho người lao động ai cũng có cơm ăn, áo mặc, chỗ ở, được học hành, ốm đau có thuốc chữa bệnh. CNXH có thể thỏa mãn những nhu cầu thiết yếu cho đại bộ phận người dân.

CNXH làm cho các dân tộc bình đẳng, đoàn kết cùng nhau xây dựng cuộc sống no ấm hạnh phúc.

Rút ra kết luận:

CNXH được Hồ Chí Minh quan niệm rất giản dị, ngắn gọn, nhưng thiết thực dễ hiểu, dễ nhớ phù hợp với trình độ của từng đối tượng, làm cho ai cũng thấy được lợi ích ưu việt của CNXH bằng kinh nghiệm sống của mình, động viên mọi người tin yêu quyết tâm xây dựng CNXH

Quan niệm CNXH như trên là khoa học, nhất quán, có lôgíc, hệ thống, có nấc thang phát triển từ thấp đến cao.

Quan niệm về CNXH luôn gắn với thực tiễn, là kết quả của sự kết hợp kinh nghiệm thực tiễn nhân loại. Trước hết là Liên Xô và các nước CNXH.

Từ đây rút ra các biện pháp đặc trưng của CNXH:

CNXH là XH do người dân lao động làm chủ, nhà nước của dân do dân vì dân

CNXH là XH có lực lượng sản xuất phát triển cao gắn với sự phát triển và KH – KT và văn hóa.

Nền tảng kinh tế XHCN là chế độ sở hữu XHCN về những tư liệu sản xuất chủ yếu và chế độ phân phối cho lao động.

XH có hệ thống các quan hệ xã hội lành mạnh bình đẳng, con người có điều kiện phát triển toàn diện.

Động lực CNXH là phát huy sức dân, CNXH là công trình do nhân dân tự xây dựng lấy.

CNXH làm cho các dân tộc đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau xây dựng cuộc sống no ấm hạnh phúc.

Đảng ta khái quát và đưa ra những đặc trưng về CNXH trong cương lĩnh 1991.

2. TTHCM về thời kỳ quá độ lên CNXH ở VN

1. Quan điểm của HCM về tính lâu dài phức tạp của thời kỳ quá độ lên CNXH

1.1. Quan điểm HCM về thời kỳ quá độ lên CNXH ở VN

Mác và AnGen khẳng định CNTB phát triển tới tột đỉnh thì sẽ làm cho CNXH ra đời. Đây là hình thức quá độ trực tiếp, từ những nước Tư bản phát triển cao lên thẳng CNXH. Ngoài hình thức quá độ trực tiếp Lênin còn đề cập hình thức quá độ gián tiếp lên CNXH ở những nước tiền tư bản.

HCM cũng đề cập tới hai hình thức quá độ như trên, nhưng Người nhấn mạnh hình thức thứ hai, đó là quá độ lên CNXH ở tất cả các nước còn lại, kể cả các nước thuộc địa nửa phong kiến như VN. Hình thức này có hai đặc điểm:

 Bắt đầu lên CNXH khi Cách mạng Giải phóng Dân tộc giành được thắng lợi, thiết lập được chính quyền dân chủ nhân dân

Hình thức quá độ này rất lâu dài

- Năm 1943 trả lời Tiêu Văn( tướng của Tưởng Giới Thạch), ở VN sau 50 năm nữa thì có CNXH hay không? Trả lời chưa có thể có CNXH được.

- Năm 1946 một phóng viên Pháp có hỏi ở VN khi nào có CNCS? Hồ Chí Minh nói: Muốn có CNCS phải có ba điều kiện, phải có đất công nghệ, đất nông nghệ và phải có con người phát triển toàn diện. Ở nước tôi cả 3 điều kiện này chưa có, khi nào có đủ thì có CNXH.

- Năm 1958 cử tri Hà Nội hỏi: Thời kỳ quá độ lên CNXH nước ta kéo dài bao lâu? Bác trả lời: Căn cứ vào thực tiễn xây dựng CNXH ở các nước thì thời kỳ quá độ của nước ta kéo dài từ 3 đến 4 kế hoạch dài hạn (mỗi kế hoạch từ 8 đến 10 năm)

 1.2. Đặc điểm của thời kỳ quá độ lên CNXH

HCM luôn nhấn mạnh đặc điểm lớn nhất bao trùm và chi phối các đặc điểm còn lại của thời kỳ quá độ lên CNXH ở VN là, chúng ta đi lên CNXH từ một nước thuộc địa nửa phong kiến, kinh tế nông nghiệp nghèo nàn, lac hậu không qua Chủ nghĩa Tư bản, mâu thuẫn cơ bản là giữa nhu cầu phát triển cao theo hướng tiến bộ với thực trạng kinh tế xã hội quá thấp kém.

2. Nhiệm vụ và nội dung của thời kỳ quá độ lên CNXH

2.1. Nhiệm vụ

Xây dựng nền tảng vật chất kỹ thuật, các tiền đề kinh tế chính trị văn hóa, xã hội cho CNXH

Cải tạo XH thuộc địa nửa phong kiến kết hợp với xây dựng chế độ mới, biến nước ta thành nước công nghiệp hiện đại có văn hóa có khoa học kỹ thuật tiên tiến, nhân dân có cuộc sống no ấm hạnh phúc.

2.2. Nội dung của thời kỳ quá độ lên CNXH

Về chính trị: Xác lập quyền làm chủ của nhân dân, nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý của nhà nước, tăng cường các hình thức dân chủ trực tiếp thông qua các đoàn thể chính trị XH.

Về kinh tế: Mục đích phát triển kinh tế là nâng cao đời sống nhân dân, phát triển lực lượng sản xuất công nghiệp hóa nước nhà, phát triển khoa học kỹ thuật, công nghiệp hóa phải bắt đầu từ nông nghiệp và công nghiệp nhẹ. Phát triển toàn diện 3 loại cơ cấu kinh tế hợp lý:

Cơ cấu kinh tế công nông nghiệp, là 2 chân của nền kinh tế, hai chân khỏe đi nhanh.

Cơ cấu vùng lãnh thổ, Bác nhấn mạnh phát triển kinh tế miền núi.

Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, Bác chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần: quốc doanh, tập thể, tư nhân, cá thể, công tư hợp doanh. Về chế độ quản lý khoán, phải hoạch toán, phải kinh doanh, kết hợp 3 lợi ích.

Về văn hóa: xây dựng nền văn hóa có nội dung XHCN và tính chất dân tộc

Xây dựng con người XHCN có đầy đủ đức, trí, thể, mỹ, đủ văn hóa, KHKT, chuyên môn, nghiệp vụ đủ sức khỏe để đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước.

3. Về bước đi, phương thức, biện pháp xây dựng CNXH

3.1. Bước đi

Người viết: Chúng ta xây dựng CNXH từ 2 bàn tay trắng, khó khăn còn nhiều và lâu dài, phải làm dần dần không thể vội vàng làm nhanh một sớm một chiều. Ví dụ trong nông nghiệp lúc đầu là tiến hành giảm tô sao đó cải cách ruộng đất, sau đó tới vần công đổi công, xây dựng hợp tác xã,…. cần ưu tiên phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ để phát triển công nghiêp nặng.

3.2. Phương thức, biện pháp xây dựng CNXH

Phải kết hợp cải tạo với xây dựng, trong đó lấy xây dựng làm chính.

Kết hợp xây dựng CNXH với bảo vệ thành quả cách mạng, tiến hành hai nhiệm vụ chiến lược đồng thời ở hai miền (Xigôxibata cho rằng: tư duy HCM rất độc đáo, kết hợp được hai nhiệm vụ đồng thời).

Nhiệm vụ xây dựng CNXH là nặng nề, khó khăn, phức tạp, lâu dài, vì thế phải đem sức dân, tài dân làm lợi cho dân.

Chỉ tiêu một, biện pháp mười, quyết tâm phải hai mươi.

3. Vận dụng vào công cuộc đổi mới

1. Trong đổi mới phải kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH trên nền tảng CN Mac-Lênin và TTHCM.

Bằng kinh nghiệp xương máu chúng ta thấy rằng chế độ thực dân phong kiến, đế quốc đã kềm hãm nước ta trong vùng nghèo đói, lạc hậu, tối tăm. Thấm nhuần lời dạy của Bác: “Nước có độc lập mà dân vẫn cứ đói, vẫn cứ rét thì độc lập tự do cũng chẳng có nghĩa lý gì”.

Muốn cho dân giàu, nước mạnh không có con đường nào khác là phải tiến lên CNXH, chỉ có CNXH mới thực hiện được “ham muốn tột bậc” của Người và khát vọng ngàn đời của dân tộc ta.

Độc lập dân tộc là điều kiện để xây dựng thành công CNXH, và CNXH là cơ sở bảo đảm cho độc lập dân tộc vững bền.

Ngày nay, đổi mới là nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, XH công bằng, dân chủ, văn minh. Để hoàn thành mục tiêu trên, đổi mới không bao giờ là thay đổi mục tiêu XHCN. Tự do tư sản chỉ là cái bánh vẽ mà Liên xô và Đông âu phải trả giá, quyết không phải là sự lựa chọn của chúng ta.

Tuy nhiên xây dựng CNXH bỏ qua chế độ TBCN ở một nước nghèo nàn lạc hậu là một nhiệm vụ cực kỳ khó khăn phức tạp, chúng ta phải khôn ngoan, sáng tạo, phải biết vận dụng các công cụ kinh tế thị trường để phục vụ cho CNXH, sao cho đạt mục đích, nhưng không chệch mục tiêu đã định.

2. Đổi mới là sự nghiệp của dân , do dân, vì dân, do đó phải phát huy quyền làm chủ của dân, khơi dậy mạnh mẽ nội lực để công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước.

Khai thác triệt để mọi nguồn lực ở bên trong, nhất là nguồn lực con người, phải thu hút tốt các nguồn lực bên ngoài, phải lấy nguồn lực bên trong làm gốc, phải sử dụng có hiệu quả nguồn lực bên ngoài. Phải quán triệt quan điểm: Tự lực tự cường, cần kiệm xây dựng CNXH; CNXH là công trình tập thể của người dân, phải đem tài dân sức dân làm lợi cho dân. Tạo không khí dân chủ trong XH, thực hiện phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”, phải nâng cao bản lĩnh công dân, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân để đi lên.

3. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại

Công cuộc đổi mới của ta diễn ra trong lúc cuộc CM KHCN trên thế giới phát triển mạnh mẽ. Xu thế toàn cầu hóa, quốc tế hóa, tác động mạnh mẽ vì thế cần tranh thủ tối đa các nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước. Giao lưu hội nhập nhưng phải giữ gìn bản sắc dân tộc, hòa nhập nhưng không hòa tan, hòa nhập với thế giới để khai thác tất cả những gì tinh túy nhất, tốt đẹp nhất. Nâng cao bản lĩnh tiếp thu văn hóa nhân loại, chống văn hóa độc hại.

4. Xây dựng đảng, xây dựng nhà nước trong sạch vững mạnh, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, cần kiệm xây dựng đất nước

Xây dựng đội ngũ cán bộ đảng viên trong hệ thống chính trị, trong các doanh nghiệp trong sạch, liêm khiết, thật sự là đầy tớ của dân, xử lý những cán bộ thoái hóa, tham nhũng.

Cũng cố quan hệ máu thịt giữa Đảng với dân, xây dựng Nhà nước thật sự của dân do dân vì dân, quán triệt tinh thần tiết kiệm của Bác Hồ: sản xuất không tiết kiệm thì như gió vào nhà trống. . .

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro