Tu ban tu nhan

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

§Ò ¸n Kinh tÕ chÝnh trÞ

LỜI MỞ ĐẦU

Hiện nay, chúng ta đang ở trong giai đoạn quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đây là

thời kỳ chuyển tiếp từ nền kinh tế cũ lạc hậu lên nền kinh tế mới xây dựng công

hữu. Do đó đòi hỏi cần phải tập trung phát triển nền kinh tế thị trường với sự đa

dạng hoá các hình thức sở hữu và các thành phần kinh tế. Vì có như vậy mới đưa

đất nước thoát khỏi tình trạng nghèo nàn lạc hậu và bắt kịp với tốc độ phát triển của

các nước trong khu vực và trên thế giới. Tuy nhiên, để xây dựng thành công chủ

nghĩa xã hội  thì chúng ta không                đơn thuần tập trung phát triển nền kinh tế thị

trường thuần tuý mà phải đặt dưới sự lãnh đạo tài tình sáng suốt của Đảng "phát

triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa".

Với vai trò quan trọng "kinh tế tư bản tư nhân  có khả năng đóng góp vào

công cuộc xây dựng đất nước, khuyến khích tư nhân đầu tư vào sản xuất, yên tâm

làm ăn lâu dài, bảo hộ quyền sở hữu và lợi ích hợp pháp tạo điều kiện thuận lợi đi

đôi với tăng cường quản lý, hướng dẫn làm ăn đúng pháp luật có lợi cho quốc kế

dân sinh" - Báo cáo chính trị tại Đại hội VIII của Đảng. Tuy nhiên, trong quá trình

phát triển, kinh tế tư bản tư nhân  ở nước ta đã bộc lộ những hạn chế, yếu kém và

phải đương đầu với nhiều thách thức và khó khăn về môi trường kinh doanh, năng

lực cạnh tranh, trình độ công nghệ, chất lượng, giá thành sản phẩm. Một số doanh

nghiệp vốn lớn, công nghệ tiên tiến, còn phần lớn vẫn là doanh nghiệp có quy mô

nhỏ, vốn ít, công nghệ sản xuất lạc hậu, trình độ quản lý doanh nghiệp còn yếu kém,

hiệu quả và sức cạnh tranh trên thị trường yếu; thêm vào             đó là những khó khăn

vướng mắc về vốn, về mặt bằng sản xuất, kinh doanh, về khả năng tiếp cận và xử lý

thông tin về môi trường pháp lý…

Vì thế, kinh tế tư bản tư nhân  có khả năng đóng góp vào công cuộc xây dựng

đất nước như huy động và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn, giải quyết và tạo công ăn

việc làm cho một lực lượng lớn lao động, tăng nguồn thu cho ngân sách. Bên cạnh

những mặt tích cực khu vực kinh tế tư bản tư nhân  ở nước ta bộc lộ những yếu

kém, hạn chế đòi hỏi phải có sự can thiệp từ phía Nhà nước về các chính sách 

Nguyên nhân khiến tốc      độ phát triển của khu vực kinh tế  tư  bản tư nhân 

chưa đáp  ứng được những đòi hỏi của sự phát triển kinh tế xã hội ở nước ta giai

§Ò ¸n Kinh tÕ chÝnh trÞ

đoạn hiện nay được nêu rõ tại Nghị quyết Hội nghị  lần thứ  năm Ban chấp hành

Trung ương khoá IX "Một số cơ chế, chính sách của Nhà nước chưa phù hợp với

đặc điểm của kinh tế tư bản tư nhân  mà đại bộ phận có quy mô nhỏ và vừa; quản lý

có phần buông lỏng và có những sơ hở, hạn chế việc thúc đẩy kinh tế tư bản tư nhân 

phát triển đúng hướng".

Để có thể phát huy những lợi thế của khu vực kinh tế tư bản tư nhân  và hạn

chế đến mức thấp nhất những khuyết tật vốn có, Đảng và Nhà nước phải có sự đổi

mới cơ chế chính sách để thúc đẩy phát triển của kinh tế tư bản tư nhân. Bài viết

này nêu lên: "Thực trạng và một số giải pháp để phát triển khu vực kinh tế tư bản tư

nhân" làm nội dung chính của đề án kinh tế chính trị của em.

§Ò ¸n Kinh tÕ chÝnh trÞ

CHƯƠNG I 

LÝ LUẬN VỀ CÁC THÀNH PHẦN KINH TẾ VÀ TƯ BẢN TƯ NHÂN 

I. HỌC THUYẾT MÁC - LÊNIN VỀ CÁC THÀNH PHẦN KINH TẾ 

Từ khi bước vào công cuộc đổi mới chuyển từ nền kinh tế tập trung quan liêu

bao cấp sang nền kinh tế thị trường, chúng ta đã đạt được một số thành tựu đáng kể.

Trong đó phải nói đến vai trò của khu vực kinh tế tư bản tư nhân  đã góp phần  đáng

kể trong việc tạo ra công ăn việc làm, tăng nguồn thu cho ngân sách. Sau khi luật

doanh nghiệp có hiệu lực 1/1/2000, kinh tế tư bản tư nhân  phát triển mạnh mẽ là

điều kiện quan trọng thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế trong nước,  nâng cao vị thế

của Việt Nam lên so với khu vực. Tuy nhiên, xét về nguồn gốc hình thành và quy

mô hoạt động của đại bộ phận doanh nghiệp tư nhân (DNTN) còn mới, quy mô nhỏ.

Vậy trong quá trình hội  nhập, kinh tế tư bản tư nhân  nên phát triển như thế nào?

Đó là vấn đề cần có những dự báo đúng đắn để Đảng và Nhà nước có căn cứ khoa

học ra các quyết định chủ trương chính sách cho phù hợp.

Dự báo đúng được xu thế vận động và phát triển của khu vực kinh tế tư bản

tư nhân  trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta thì cần dựa trên các

luận cứ khoa học. Mà nền tảng tư tưởng của Đảng ta là học thuyết Mác - Lênin và

tư tưởng Hồ Chí Minh; do đó, luận cứ khoa học trước hết phải là lý luận học thuyết

của Mác - Lênin về các thành phần kinh tế.

Ngay từ khi mới ra đời, chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định sự phát triển của

các hình thái kinh tế - xã hội có thể coi là  một quá trình lịch sử tự nhiên. Vì vậy, sự

vận động của các hình thái kinh tế xã hội là một quá trình khách quan dưới tác động

của những quy luật nhất định và chỉ có thể đánh giá đúng xu thế vận động của các

hiện tượng kinh tế - xã hội khi đặt nó trong quy luật chung của sự phát triển các

hình thái kinh tế xã hội đó. Trong đó, chúng ta phải xét đến hai nguyên lý về sự vận

động và phát triển cần tính đến khi nghiên cứu xu hướng vận động của kinh tế tư

bản tư nhân  trong cơ cấu kinh tế nhiều thành phần.

Thứ nhất, đó là quy luật về mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ

sản xuất. Trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nước ta chưa thể có ngay

lực lượng sản xuất hiện đại với trình độ xã hội hoá cao nên hệ thống quan hệ sản

§Ò ¸n Kinh tÕ chÝnh trÞ

xuất phù hợp là cơ cấu kinh tế  nhiều thành phần với sự đa dạng về hình thức sở

hữu. Đó chính là cơ sở khách quan của sự tồn tại của kinh tế tư bản tư nhân .

Thứ hai, là lý luận về cơ cấu sản xuất  kinh tế quyết định cơ cấu xã hội, giai

cấp của xã hội tương ứng và vai trò vị trí của nó. Như ở nước ta trong giai đoạn hiện

nay, khi kinh tế tư bản tư nhân  đang có điều kiện phát triển mạnh thì tầng lớp chủ

doanh nghiệp sẽ có vị trí xứng đáng tương ứng trong cơ cấu xã hội giai cấp.

Qua học thuyết của Mác - Lênin về các quy luật, nguyên lý về sự vận động

và phát triển của các hình thái kinh tế xã hội, ta đem áp dụng và tìm hiểu thành phần

kinh tế tư bản tư nhân  ở Việt Nam.

II.  KINH TẾ TƯ BẢN TƯ NHÂN  TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH

HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM

1. Khái niệm về kinh tế tư bản tư nhân   

Nói đến kinh tế tư bản tư nhân  là thực chất nói đến khu vực kinh tế tư bản tư

nhân , về quan hệ sở hữu gồm kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân. Xét

về mặt  lý luận thì kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân có khác nhau về

trình độ phát triển lực lượng sản xuất và bản chất quan hệ sản xuất. Nhưng trên thực

tế, việc phân định rạch ròi ranh giới kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế  tư bản tư

nhân là không đơn giản. Hai thành phần kinh tế này luôn có sự vận động, phát triển,

biến đổi không ngừng và chịu sự ảnh hưởng của các yếu tố thời đại, đặc điểm ngành

nghề, lĩnh vực sản xuất….

Để có thể hiểu rõ hơn về khu vực kinh tế tư bản tư nhân  ta đi tìm hiểu xem

khái niệm của nó là gì? Kinh tế cá thể là thành phần kinh tế tư hữu mà thu nhập dựa

hoàn toàn vào lao động và vốn của bản thân và gia đình. Thành phần kinh tế cá thể

được quy định bởi trình độ phát triển thấp và sản xuất nhỏ bé. Kinh tế tiểu chủ cũng

là hình thức kinh tế tư hữu nhưng có thuê lao động, tuy nhiên thu nhập vẫn chủ yếu

dựa vào sức lao động  và vốn của bản thân và gia đình Kinh tế tư bản tư nhân là

thành phần kinh tế mà sản xuất kinh doanh dựa trên cơ sở chiếm hữu tư nhân tư bản

chủ nghĩa về tư liệu sản xuất và bóc lột lao động làm thuê.

Nếu muốn có cái nhìn đầy đủ hơn về khu vực kinh tế này, chúng ta cần tìm

hiểu thêm về quá trình hình thành và phát triển của khu vực kinh tế tư bản tư nhân .

§Ò ¸n Kinh tÕ chÝnh trÞ

2. Quá trình hình thành và phát triển của khu vực kinh tế  tư  bản tư 

nhân . 

Ngay từ những năm đầu của quá trình hình thành học thuyết của mình, Mac

đã cho rằng chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội tất yếu phải trải qua một thời kỳ

quá độ. Thời kỳ này xét về mặt kinh tế sẽ tồn tại đan xen những kết cấu kinh tế xã

hội khác nhau. Thích ứng với thời kỳ đó là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần

với một cơ cấu xã hội nhiều giai cấp, giai tầng có mâu thuẫn gay gắt về lợi ích kinh

tế, song thống nhất trong mục tiêu vận động. Từ đó  chúng ta phải có những thái độ

đúng đắn trong nhìn nhận về kinh tế tư bản tư nhân  và nhận rõ triển vọng phát triển

của kinh tế tư bản tư nhân  trong cơ cấu kinh tế nhiều thành phần.

Ngay sau khi cách mạng tháng tám 1945 thành công, nhận định về vai trò của

kinh tế tư bản tư nhân  ở Việt Nam lúc bấy giờ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tuyên bố

"…để giành lấy nền hoàn toàn độc lập của  nước nhà thì giới công - thương phải

hoạt  động để xây dựng một nền kinh tế và tài chính vững vàng và thịnh vượng.

Chính phủ nhân dân và tôi sẽ tận tâm giúp đỡ giới công - thương trong cuộc kiến

thiết này". Sau khi cuộc kháng chiến  9 năm kết thúc , năm 1951, miền Bắc bước

vào thời kỳ cải tạo xã hội chủ nghĩa và phát triển kinh tế theo mô hình kế hoạch hoá

tập trung. Kinh tế tư bản tư nhân  bị hạn chế, bị cải tạo và dần dần bị xoá bỏ vì nó

được coi là "hàng ngày hàng giờ " đẻ ra chủ nghĩa tư bản nên luôn là đối tượng của

cải tạo xã hội chủ nghĩa và không được khuyến khích phát triển. Sau thời kỳ khủng

hoảng kinh tế ở nước ta, tại Đại hội Đảng VI với đường lối đổi mới toàn diện đất

nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, trước hết là đổi mới tư duy với tinh thần

"nhìn thẳng vào sự thật,       đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật",         Đảng ta  đã thừa

nhận "sai lầm trong bố trí cơ cấu kinh tế" và "trong nhận thức cũng như trong hành

động, chúng ta chưa thực sự thừa nhận cơ cấu kinh tế nhiều thành phần ở nước ta

còn tồn tại trong một thời gian tương đối dài". Theo đó thừa nhận sự tồn tại khách

quan của kinh tế  tư  bản tư nhân  bao gồm kinh tế tiểu sản xuất hàng hoá, tiểu

thương, tư sản nhỏ. Tiếp tục thực hiện đường lối đổi mới đã được đề ra từ Đại hội

VI, tại Đại hội Đảng VIII tư tưởng quan điểm và chủ trương phát triển nền kinh tế

nhiều thành phần đã được khẳng định rõ: lấy việc giải phóng sức sản xuất động viên

tối đa mọi nguồn lực bên trong và bên ngoài cho quá trình công nghiệp hoá, hiện

§Ò ¸n Kinh tÕ chÝnh trÞ

đại hoá, nâng cao hiệu qủa kinh tế xã hội, cải thiện đời sống nhân dân là mục tiêu

hàng đầu trong việc khuyến khích các thành phần kinh tế. Kinh tế Nhà nước giữ vai

trò chủ đạo cùng các kinh tế khác góp phần xây dựng nền kinh tế nước nhà, trong

đó kinh tế tư bản tư nhân  được xác định là thành phần kinh tế quan trọng. Với quan

niệm đó, trên thực tế, Đảng và Nhà nước ta đã cố gắng tạo điều kiện về kinh tế và

pháp lý thuận lợi để các nhà đầu tư tư nhân yên tâm làm ăn lâu dài thông qua việc

xúc tiến mạnh mẽ quá trình lập pháp, tạo cơ sở pháp lý cho sự phát triển kinh tế thị

trường nhiều thành phần và kinh tế tư bản tư nhân  nói riêng. Năm 1990 ban hành

Luật Công ty và Luật doanh nghiệp tư nhân. Hiến pháp 1992 đã ban hành khẳng

định vai trò hợp hiến của kinh tế tư bản tư nhân  và tư bản tư nhân. Hiến pháp sửa

đổi bổ sung 2001 đã nêu " doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế được liên

doanh, liên kết với cá nhân, tổ chức kinh tế trong và ngoài nước theo quy định của

pháp luật" và trong 15 năm qua đã liên tục ban hành và hoàn thiện hệ thống luật dân

sự, luật kinh tế và kinh doanh. Đạo luật doanh nghiệp đã đi vào cuộc sống rất nhanh

tạo ra bước phát triển đột biến của kinh tế tư bản tư nhân .

Tuy nhiên, không thể phát triển kinh tế  tư  bản tư nhân  một cách             độc lập,

không thể vì các khuyết điểm của mô hình phát triển mạnh các doanh nghiệp quốc

doanh kể cả trong nông nghiệp và trong mọi lĩnh vực thì tư nhân hoá hoàn toàn khu

vực doanh nghiệp quốc doanh. Bởi lẽ, trong một số lĩnh vực doanh nghiệp tư nhân

không muốn kinh doanh do lợi nhuận thấp, thời gian thu hồi vốn lâu hoặc họ không

thể làm được vì các ngành đó đòi hỏi lượng vốn lớn, trình độ khoa học công nghệ ví

dụ như xây dựng cơ sở vật chất hạ tầng (điện, nước, mạng lưới đường giao thông…)

phục vụ cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Do đó, để phát triển được nền kinh tế

tổng thể đòi hỏi phải phát triển mạnh khu vực doanh nghiệp quốc doanh để làm đầu

tàu cho nền kinh tế,yểm trợ cho các doanh nghiệp nhỏ của khu vực kinh tế tư bản tư

nhân . Tuy vậy, khu vực doanh nghiệp Nhà nước chỉ nên tập trung phát triển các

ngành mũi nhọn chứ không phải tập trung sản xuất kinh doanh tất cả các mặt hàng

thuộc các lĩnh vực khác nhau như trong thời kỳ tập trung quan liêu bao cấp. Trong

thời kỳ đó, sự sản xuất dưới sự chỉ đạo chung thống nhất của Nhà nước thông qua

các chỉ tiêu và kế hoạch. Chính vì thế dẫn đến sự trì trệ, đói nghèo trong một thời

gian tương đối dài sau khi chúng ta giành được độc lập. Để có thể tăng khả năng

§Ò ¸n Kinh tÕ chÝnh trÞ

sáng tạo cũng như cạnh tranh của các doanh nghiệp Nhà nước, Nhà nước thực hiện

chính sách cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước chính là đa dạng hoá các hình

thức sở hữu. Điều này khiến cho các doanh nghiệp chủ động kinh doanh với chế độ

tự chịu trách nhiệm bằng lợi ích của chính mình nên phát huy được mọi sự sáng tạo

trong kinh doanh của các doanh nghiệp.

Theo Đại hội IX, khu vực kinh tế tư bản tư nhân  đã đạt bước mới về hoàn

thiện chính sách, khẳng định cơ cấu kinh tế thị trường nhiều thành phần định hướng

xã hội chủ nghĩa, trong đó kinh tế tư bản tư nhân  là bộ phận quan trọng. Đại hội đã

khẳng định "Thực hiện nhất quán chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần.

Các thành phần  kinh tế kinh doanh theo pháp luật đều là bộ phận cấu thành quan

trọng của nền kinh tế định hướng xây dựng chủ nghĩa cùng phát triển lâu dài, hợp

tác và cạnh tranh lành mạnh". Kinh tế cá thể, tiểu chủ được xác định  là  có  vị trí

quan trọng lâu dài. Kinh tế tư bản tư nhân  được khuyến khích phát triển thông qua

việc tạo môi trường kinh doanh thuận lợi về chính sách trên những định hướng ưu

tiên của Nhà nước, kể cả đầu tư ra nước ngoài.

Qua đó ta thấy từ Đại hội VI đến nay, nhận thức của Đảng ta về vị trí và vai

trò của kinh tế tư bản tư nhân  trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần đã có

bước phát triển mới. Kinh tế tư bản tư nhân  được thừa nhận là bộ phận cấu thành

hữu cơ quan trọng của nền kinh tế định hướng xã hội chủ nghĩa phát triển kinh tế tư

bản tư nhân  là vấn đề có tầm chiến lược lâu dài trong quá trình xây dựng và phát

triển nền kinh tế. Không chỉ thay đổi nhận thức Đảng và Nhà nước còn xây dựng và

hoàn thiện thể chế phù hợp cho sự phát triển nền kinh tế nói chung kinh tế tư bản tư

nhân  nói riêng. Tuy nhiên đây mới chỉ là giai đoạn tìm tòi đổi mới. Về lâu dài,

muốn phát triển khu vực tư nhân bền vững và mạnh cần phải có một chính sách

quản lý vĩ mô thích hợp, đặc biệt là chính sách này phải đảm bảo cho khu vực tư

nhân có khả năng đạt lợi nhuận khá.

3.Vai trò của khu vực kinh tế  tư  bản tư nhân  trong sự nghiệp công  

nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước

* Kinh tế tư bản tư nhân  đóng góp các nguồn lực vào sự nghiệp công nghiệp 

hoá, hiện đại hoá.

§Ò ¸n Kinh tÕ chÝnh trÞ

 Là một bộ phận hợp thành cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, kinh tế tư bản tư

nhân  đã góp phần khai thác tổng thể các nguồn lực kinh tế quốc gia thông qua việc

huy động nguồn vốn trong xã hội cho đầu tư phát triển, đồng thời sử dụng hiệu quả

các nguồn nhân lực, công nghệ. Với vai trò quan trọng trong việc huy động nguồn

vốn trong xã hội cho đầu tư phát triển, khu vực tư nhân đã huy động nguồn vốn tăng

liên tục trong những năm qua.Theo ước tính, từ khi luật doanh nghiệp ra đời tính từ

2000 đến 7/2003, tổng vốn các doanh nghiệp đạt 145.000 tỷ đồng cao gấp 4 lần so

với tổng vốn đầu tư của doanh nghiệp tư nhân 9 năm trước cộng lại. Cũng thời gian

đó, tỷ trọng vốn đầu tư của kinh tế tư bản tư nhân  trong tổng vốn đầu tư tăng lên

nhanh chóng  từ 20% năm 2000 lên 25% năm 2001, lên 25,3% năm 2002, 27% năm

2003. Với bản tính nhạy cảm trong kinh doanh và mục đích doanh lợi, kinh tế tư

bản tư nhân  luôn tìm cơ  hội đầu tư, do đó ngoài vốn tự tích luỹ, các chủ doanh

nghiệp tư nhân tìm mọi biện pháp linh hoạt và hiệu quả để huy động vốn từ nhiều

nguồn góp phần làm phong phú hoá thị trường tài chính và đầu tư. Với sự phát triển

nhanh chóng và đa dạng, kinh tế tư bản tư nhân  đã thu được một kết quả đáng kể

đóng góp vào ngân sách Nhà nước ngày càng tăng. Theo số liệu thống kê của Tổng

cục thuế, khu vực kinh tế tư bản tư nhân  đã nộp vào ngân sách năm 2000 là 11003

tỷ  đồng, chiếm 16,1% tổng thu ngân sách, năm 2001 nộp 11075 tỷ            đồng chiếm

14,8% tổng thu ngân sách. Ngoài ra, các doanh nghiệp tư nhân còn thực hiện nhiều

chương trình như đóng góp cho quỹ chất độc màu da cam, quỹ người nghèo, ủng hộ

cho việc xây dựng các công trình công cộng như cầu, đường, nhà tình nghĩa, trường

học, trạm xá…

Lao động là một  trong những yếu tố đầu vào cơ bản của nền  sản xuất. Vì

vậy, việc giải quyết việc làm không chỉ có ý nghĩa về  mặt sử  dụng có hiệu quả

nguồn lực xã hội mà luôn là mối quan tâm hàng đầu của Nhà nước. Một số thành

công của đường lối đổi mới trong thời gian qua đang làm thay đổi nhận thức về thị

trường lao động của nước ta. Trước hết đó là quan niệm sức lao động là hàng hoá

cho nên hình thức thể hiện dưới dạng "hợp đồng lao động" và được pháp luật đảm

bảo thông qua Bộ luật lao động và các cơ quan thực thi. Chính sự tồn tại và phát

triển của kinh tế tư bản tư nhân  đang làm thay đổi cách nghĩ thụ động về việc làm,

việc làm không phải chỉ  do Nhà nước tạo ra cho người lao động mà người lao động

§Ò ¸n Kinh tÕ chÝnh trÞ

sẽ tự tạo việc làm, tự kiếm sống và làm giàu. Lao động trước đây chủ yếu trong lĩnh

vực nông, lâm , ngư nghiệp nay dần dần chuyển sang các ngành nghề khác như

công nghiệp, dịch vụ để từ đó hình thành cơ cấu lao động hợp lý giữa các ngành,

các vùng theo hướng hiện đại, hiệu quả. Trong giai đoạn hiện nay, để tăng sức cạnh

tranh cho các doanh nghiệp đòi hỏi phải có một lực lượng lao             động có trình   độ

chuyên môn, có năng lực có phẩm chất. Do đó, phải có chính sách phù hợp để đào

tạo và khuyến khích sử dụng lao động, tránh tình trạng thiếu lao động giỏi.Kinh tế

tư  bản tư nhân  không chỉ góp phần giải quyết một lực lượng lớn lao               động thất

nghiệp mà còn làm tăng sự lựa chọn  cho người lao động khi tham gia thị trường lao

động. Những người chuẩn bị tham gia vào thị trường lao động việc làm sẽ lựa chọn

lĩnh vực và thành phần kinh tế trên cơ sở cân nhắc các yêu cầu từ doanh nghiệp và

khả năng của họ. Còn những người đang làm việc tại một cơ sở sản xuất kinh doanh

sẽ có điều kiện di chuyển, thay đổi nơi làm việc một cách tự do không bị ràng buộc

bởi các cơ chế. Như vậy, tính cạnh tranh trên thị trường lao động sẽ gay gắt hơn và

chính sự cạnh tranh khiến cho chất lượng lao động được nâng cao. Đồng thời, do

kinh tế tư bản tư nhân  có điều kiện đổi mới công nghệ nhanh nên trình độ kỹ năng

của người lao động nhanh chóng được nâng cao. Khu vực kinh tế tư bản tư nhân  đã

giải quyết việc làm cho 4700742 lao động chiếm 70% lực lượng lao động xã hội.

Nếu tính tỷ lệ thu hút lao động trên vốn đầu tư thì kinh tế cá thể thu hút 165 lao

động/tỷ đồng vốn, doanh nghiệp tư nhân thu hút 20 lao động/tỷ đồng vốn, trong khi

doanh nghiệp Nhà nước chỉ thu hút 11,5 lao động/tỷ đồng vốn.

* Kinh tế tư bản tư nhân  thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng

hợp lý, hiệu quả và hiện đại.

Một trong những nội dung quan trọng của tiến trình công nghiệp hoá, hiện

đại hoá ở Việt Nam là cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng tiến bộ về khoa học và

công nghệ nhằm nâng cao nội lực từng bước hội nhập bình đẳng với hệ thống kinh

tế quốc tế. Trong quá trình đó có sự tham gia tích cực và có hiệu quả của kinh tế tư

bản tư nhân  bằng việc xác lập cơ cấu đầu tư cho phù hợp với tiến trình công nghiệp

hoá, hiện đại hoá trong từng thời kỳ phát triển. Do ưu thế nổi trội của các doanh

nghiệp tư nhân là năng động nhạy bén, linh hoạt trong đầu tư kinh doanh và nắm bắt

kịp thời nhu cầu của thị trường cho nên họ luôn tìm kiếm phát hiện ngành, lĩnh vực,

§Ò ¸n Kinh tÕ chÝnh trÞ

mặt hàng mà xã hội đang thiếu để có thể đầu tư. Theo số liệu, kinh tế tư bản tư nhân 

chiếm đại bộ phận của ngành nông, lâm, ngư nghiệp như phân vùng chuyên canh,

ứng dụng công nghệ sinh học, cơ giới hoá sản xuất, phát triển công nghiệp, chế biến

nông sản, điện khí hoá nông thôn… Kinh tế tư  nhân còn tham gia đầu tư vào các

ngành khác như thương mại dịch vụ và cả trong công nghiệp như công nghiệp may,

thực phẩm, sản phẩm từ cao su, da giày…

*Kinh tế tư bản tư nhân  góp phần mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, hiện

đại hoá sản xuất. 

Với sự phát triển nhanh cả về quy mô và tốc độ của quá trình hội nhập quốc

tế, các phạm trù giao dịch quốc tế ngày càng mở rộng như giao dịch hàng hoá, dịch

vụ, thông tin,    đầu tư, tài chính… và Việt Nam đang mở  rộng cửa hợp tác  kinh

doanh quốc tế theo nguyên tắc đa phương hoá, đa dạng hoá. Kinh tế tư bản tư nhân 

cũng góp phần đáng kể trong công cuộc ấy với việc tạo ra khối lượng lớn về hàng

xuất khẩu ( nông, lâm, thủy, hải sản, hàng thủ công mỹ nghệ), đồng thời mở rộng

khả năng đầu tư và là đối tác thu hút các nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài vào Việt

Nam, nhập về máy móc thiết bị công nghệ hiện đại để qua đó tận dụng và phát huy

mọi nguồn lực cho sự phát triển kinh tế trong nước. Việt Nam đang trong quá trình

mở  rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, tham gia

ngày càng sâu rộng và đầy đủ vào các tổ chức kinh tế thế giới như: AFTA, APEC

và sắp tới là WTO cho nên không thể thiếu được vai trò của khu vực kinh tế tư bản

tư nhân . Với những thuận lợi vốn có như linh hoạt nhạy bén phù hợp với sự thay

đổi nhanh chóng, khu vực này đã mang lại một nguồn lợi lớn cho đất nước. Theo

ước tính, năm 2001, khu vực kinh tế tư bản tư nhân  phi nông nghiệp nhập khẩu trực

tiếp 3,336 tỷ USD và xuất khẩu đạt 2,851 tỷ USD. Trong những năm vừa qua, khu

vực kinh tế tư bản tư nhân  đóng góp gần một nửa tổng kim ngạch xuất khẩu của cả

nước. Trong quá trình hội nhập, kinh tế tư bản tư nhân đã liên doanh liên kết với

nước ngoài hoặc làm môi giới với nhiều hình thức đa dạng và linh hoạt để tạo điều

kiện thu hút ngoại lực, tận dụng kinh nghiệm quản lý cũng như tiếp thu công nghệ

mới cho tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta. Thực tế có nhiều Công

ty của người Việt Nam ở  nước ngoài       đang muốn đầu tư  về quê hương. Nếu Nhà

nước có chính sách  cởi mở về phát triển kinh tế tư bản tư nhân  và tạo môi trường

§Ò ¸n Kinh tÕ chÝnh trÞ

an toàn, tin cậy, hấp dẫn đối với họ thì đây là một nguồn lực không nhỏ (hiện nay

mỗi năm tiền từ nước ngoài gửi về cho người thân ở Việt Nam khoảng 2,7 tỷ USD,

phần lớn trong đó là cho đầu tư sản xuất kinh doanh).

§Ò ¸n Kinh tÕ chÝnh trÞ

CHƯƠNG II 

THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN  KINH TẾ TƯ BẢN TƯ NHÂN   

Ở NƯỚC TA HIỆN NAY 

I. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KHU VỰC KINH TẾ  TƯ  BẢN TƯ NHÂN  Ở 

NƯỚC TA TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

Cùng với việc ban hành các luật, cơ chế chính sách với biện pháp hỗ trợ,

khuyến khích, khu vực kinh tế tư bản tư nhân  đã phát huy sức mạnh nội tại đầu tư

vào nhiều lĩnh vực, địa bàn trên cả  nước. Trong báo cáo tổng kết thực hiện luật

Doanh nghiệp từ 2000 cho đến hết tháng 4/2004 cả nước có 93.208 doanh nghiệp

đăng ký thành lập mới, gần gấp 2 lần số doanh nghiệp đựơc thành lập trong thời

gian trước     đó (trong 9 năm từ 1991          đến 1999 chỉ có 45000 doanh nghiệp              đựơc

thành lập). Như vậy cho đến nay cả nước có 138.208 doanh nghiệp đăng ký hoạt

động theo luật doanh nghiệp. Số doanh nghiệp đăng ký trung bình hàng năm gấp

3,75 lần so với trung bình của những năm trước 2000.

1. Phát triển khu vực kinh tế tư bản tư nhân  trong thời gian qua từ khi  

có chính sách đổi mới

 Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước trong 15 năm qua, kinh

tế tư bản tư nhân  tăng nhanh cả về số lượng và đơn vị, vốn kinh doanh và lao động,

phát triển rộng khắp trong cả nước ở các ngành nghề mà pháp luật không cấm. Từ

năm 1990 về trước, số doanh nghiệp ngoài quốc doanh trong cả  nước chỉ có vài

trăm doanh nghiệp được chuyển đổi từ các tổ  hợp tác, từ các hợp tác xã. Riêng

thành phố Hà Nội có khoảng 30 doanh nghiệp hoạt động kinh doanh dịch vụ và sản

xuất gia công những sản phẩm phục vụ tiêu dùng nhỏ lẻ trong dân cư và phục vụ

các ngành sản xuất khác. Ở thành phố Hồ Chí Minh là trung tâm dân cư và kinh tế

lớn  ở phía Nam thì số  lượng doanh nghiệp ngoài quốc doanh nhiều hơn Hà Nội

nhưng cũng không vượt quá con số 100. Còn ở nhiều tỉnh, thành phố khác trong cả

nước chỉ có một vài doanh nghiệp, thậm chí có những tỉnh đồng bằng, trung du và

miền núi không có doanh nghiệp tư nhân nào. Từ 1991 - 1999 có 45.000 doanh

nghiệp đăng ký. Và từ 1/1/2000 đến 9/2003, tức là khi luật Doanh nghiệp có hiệu

§Ò ¸n Kinh tÕ chÝnh trÞ

lực thi hành, thì có 72.601 doanh nghiệp đăng ký đưa tổng số doanh nghiệp tư nhân

ở Việt Nam đến 9/2003 lên 120.000 doanh nghiệp đăng ký hoạt động.

Xét về cơ cấu loại hình doanh nghiệp thì tỷ trọng doanh nghiệp tư nhân trong

tổng số doanh nghiệp đăng ký giảm từ 64% giai đoạn 1991 - 1999 xuống còn 34%

giai đoạn 2000 - 2004. Trong khi đó, cùng với khoảng thời gian trên, tỷ trọng Công

ty trách nhiệm hữu hạn và Công ty cổ phần tăng từ 36% lên 66%. Trong 4 năm qua

có khoảng 7.165 công ty Cổ phần đăng ký thành lập, gấp 10 lần so với giai đoạn

1991 - 1999. Sự thay đổi về tỷ lệ loại hình doanh nghiệp mới thành lập cho thấy các

nhà đầu tư trong nước đã nhận thức được những điểm lợi và bất lợi của từng loại

hình doanh nghiệp nên có xu hướng lựa chọn loại hình doanh nghiệp hiện đại, tạo

cơ  sở để doanh nghiệp ổn định, phát triển không hạn chế  về quy mô và thời hạn

hoạt động với quản trị nội bộ ngày càng chính quy, minh bạch hơn. Thực tế nói trên

phần nào chứng tỏ các nhà đầu tư đã tin tưởng vào đường lối, luật pháp và cơ chế

chính sách, có xu hướng đầu tư dài hạn hơn, công khai hơn và quy mô lớn hơn.

Theo Báo cáo của Bộ kế hoạch và đầu tư năm 2003, doanh nghiệp tư nhân ở nước

ta chiếm tỷ lệ lớn trong tổng số doanh nghiệp trong toàn quốc, đóng góp khoảng

26% tổng sản phẩm xã hội, 31% tổng sản lượng công nghiệp, 78% tổng mức bán lẻ,

64% tổng lượng vận chuyển hàng hoá, tạo ra 49% việc làm phi nông nghiệp ở nông

thôn. Số lượng hộ kinh doanh trong lĩnh vực tiểu thủ công nghiệp, thương mại, dịch

vụ tăng từ khoảng 0,84 triệu hộ năm 1990 lên 2,2 triệu hộ năm 1996 và khoảng gần

3 triệu hộ tính đến cuối năm 2004. Ngoài ra, cả nước còn có khoảng 130.000 trang

trại và trên 10 triệu hộ nông dân sản xuất hàng hoá, trong              đó có khoảng 70.000

trang trại có diện tích đất trên 2 ha và doanh thu trên 100 triệu đồng/năm. Tính đến

tháng 6/2003, tổng số doanh nghiệp tư nhân đăng ký kinh doanh lên tới 12 vạn

doanh nghiệp (chưa kể  gần 2 triệu hộ kinh doanh cá thể). Trong               đó, các doanh

nghiệp hoạt    động trong lĩnh vực công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp là 17%, xây

dựng 14%, nông nghiệp 14%, trong lĩnh vực dịch vụ là 55%. Ước tính cả năm 2004

có khoảng 35.000 doanh nghiệp đăng ký kinh doanh với tổng số vốn đăng ký đạt

khoảng 72.000 tỷ đồng. Cũng trong năm này, đã có gần 6.200 doanh nghiệp đăng

ký bổ sung vốn với tổng số vốn bổ sung khoảng 23000 tỷ đồng, tăng 31% so với

§Ò ¸n Kinh tÕ chÝnh trÞ

vốn đăng ký bổ sung năm 2003. Mức vốn đăng ký trung bình một doanh nghiệp

tăng nhanh từ 570 triệu đồng/1dn thời kỳ 1991 1999 lên 2,015 tỷ đồng năm 2004.

Điều đáng quan tâm là số lượng vốn huy động được qua đăng ký thành lập

mới và mở rộng quy mô doanh nghiệp tăng lên mạnh mẽ. Trong 4 năm, các doanh

nghiệp đã đầu tư (gồm cả đăng ký mới và đăng ký bổ sung) đạt trên 182.715 tỷ

đồng (tương đương khoảng 12,1 tỷ USD, cao hơn số vốn đầu tư nước ngoài đăng ký

trong cùng thời kỳ): trong đó năm 2000 là 1,3 tỷ USD, năm 2001 là 2,3 tỷ USD,

năm 2002 là gồm 3 tỷ USD, năm 2003 là khoảng 3,6 tỷ USD và hết tháng 5/2004 là

khoảng 1,8 tỷ USD. Từ năm 2000 - 2003, tỷ trọng vốn đầu tư của khu vực tư nhân

trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội tăng lên nhanh chóng: từ 20% năm 2000 lên 25%

năm 2001, lên 25,3% năm 2002 và khoảng 27% năm 2003  và khoảng 29% năm

2004. Tỷ trọng đầu tư của doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư bản tư nhân  trong

tổng nguồn vốn đầu tư xã hội đã liên tục tăng và năm 2004 đã vượt lên hơn hẳn so

với tỷ trọng đầu tư  của doanh nghiệp Nhà nước. Tuy nhiên, khu vực này thường

xuyên nằm trong tình trạng khó khăn về vốn, phần lớn các doanh nghiệp (90%) đều

là doanh nghiệp vừa và nhỏ với số vốn dưới 5 tỷ đồng. Số liệu năm 2003 cho thấy,

bình quân vốn của một hội phi nông nghiệp ít hơn 30 triệu đồng, của trang trại là 94

triệu đồng, của một doanh nghiệp phi nông nghiệp là 3,7 tỷ đồng. Trong khi đó, vốn

vay từ các ngân hàng thương mại và quỹ hỗ trợ phát triển còn ít và chiếm tỷ trọng

thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển. Xét theo khu vực tỉnh, thành phố thì

vốn đăng ký mới ở tất cả các tỉnh, thành phố từ năm 2000 đến 7/2003 đều cao hơn

so với số vốn đăng ký thời kỳ 1991 - 1999,  trong đó có 33 tỉnh, thành phố đạt tốc

độ tăng cao gấp hơn 4 lần; có 11 tỉnh đạt tốc độ tăng cao gấp 10 lần, thậm chí có

những tỉnh như: Quảng Ninh, Vĩnh Phúc, Hưng Yên… đạt tốc độ tăng hơn  20 lần.

Xét về  tỷ  lệ gia tăng, vốn đăng ký mới ở các tỉnh, thành phố phía bắc cũng tăng

nhanh hơn và cao hơn nhiều so với các tỉnh khác, nhất là các tỉnh vùng Đồng bằng

sông Cửu Long và Miền Trung.

Xét về quy mô doanh nghiệp thì thấy quy mô doanh nghiệp ngày càng lớn.

Thời kỳ 1991 - 1999 vốn đăng ký kinh doanh bình quân của một doanh nghiệp là

gần 0,57 tỷ đồng, năm 2000 là 0,96 tỷ đồng, năm 2001 là 1,3 tỷ đồng, năm 2002 là

1,8 tỷ đồng 7 tháng đầu năm 2003 là 2,12 tỷ đồng. Doanh nghiệp có vốn đăng ký

§Ò ¸n Kinh tÕ chÝnh trÞ

thấp nhất là 5 triệu đồng và cao nhất là 200 tỷ đồng. Nhìn chung, số vốn đăng ký

cao nhất phổ biến ở các địa phương  khoảng 10 tỷ đồng. Ở Quảng Nam, mức vốn

đăng ký bình quân/doanh nghiệp thấp nhất 422 triệu đồng, tiếp đó là Nam Định 544

triệu đồng, mức vốn đăng ký bình quân doanh nghiệp cao nhất ở Hưng Yên gần 3 tỷ

đồng, tiếp đó là Quảng Ninh và Bình Dương gần 2,5 tỷ đồng; mức vốn đăng ký

bình quân doanh nghiệp ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh là vào khoảng 1,25 tỷ

đồng.

Xét về lao động thì thấy nước ta có lực lượng lao động dồi dào mỗi năm có

khoảng 1,4 triệu - 1,5 triệu người tham gia thị trường lao động cho nên vấn đề giải

quyết việc làm luôn luôn được đặt ra  nhằm đảm bảo cho sự phát triển của kinh tế

nói riêng và của đất nước nói chung. Thực tế ở nhiều địa phương cho thấy, lao động

trong khu vực kinh tế tư bản tư nhân  là 21.017.326 người, chiếm 56,3% lao động

có việc làm thường xuyên trong toàn xã hội (số liệu năm 2000). Riêng trong lĩnh

vực phi nông nghiệp, số lao động thuộc kinh tế tư bản tư nhân  là 4.643.844 người

năm 2000, tăng 20,12% so với năm 1996. Tính riêng trong 4 năm (1997 - 2000) khu

vực kinh tế tư bản tư nhân  thu hút thêm 997.000.000 lao động, gấp 6,6 lần so với

khu vực kinh tế Nhà nước và từ năm 2000 - 2003,khu vực kinh tế tư bản tư nhân  đã

tạo ra gần 2 triệu chỗ việc làm mới cho lao động. Từ khi có luật khuyến khích đầu

tư trong nước      đã thu hút và tạo việc làm cho 1.516.456 lao động. Theo                     đó, các

doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư bản tư nhân  đầu tư trung bình 70 triệu đến

100 triệu đồng là tạo ra được một chỗ làm việc, trong đó đối với doanh nghiệp Nhà

nước thì số tương ứng là 210 - 280 triệu.

2. Phát triển khu vực kinh tế tư bản tư nhân  theo ngành nghề sản xuất 

kinh doanh và theo vùng lãnh thổ 

a. Trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp nông thôn 

Nông nghiệp nông thôn chiếm một tỷ  lệ  lớn trong dân số khoảng 80% và

70% lực lượng lao động xã hội. Đây là nơi cung cấp lương thực, thành phẩm, cung

cấp nguồn nguyên liệu      đầu vào, đồng thời là thị trường tiêu thụ  sản phẩm quan

trọng của công nghiệp và  nhiều ngành kinh tế khác. Chính sự ổn định và phát triển

vững chắc của khu vực này là điều kiện vô cùng quan trọng cho việc ổn định kinh tế

xã hội của đất nước. Giai đoạn trước đổi mới, chúng ta có 16.743 hợp tác xã nông

§Ò ¸n Kinh tÕ chÝnh trÞ

nghiệp và hàng trăm nông trường quốc doanh được Nhà nước đầu tư hỗ trợ vật chất

tinh thần nhưng vẫn không đảm bảo được an ninh lương thực cho đất nước, nguồn

nguyên liệu đầu vào. Cùng với những yếu kém của khu vực công nghiệp và các

ngành kinh tế khác của đất nước, chúng ta đã lâm vào  cuộc khủng hoảng trầm trọng

vào cuối những năm 70 và đầu những năm 80. Sau khi có Nghị quyết 10 của Bộ

chính trị (4/1986), nông nghiệp Việt Nam đã có bước khởi sắc mới từ nạn thiếu đói

triền miên vươn lên đảm bảo đủ lương thực trở thành nước xuất khẩu gạo lớn trên

thế giới (đứng thứ 2 sau Thái Lan). Thật vậy, nếu năm 1990 số lượng các hộ cá thể

khoảng trên 9,4 triệu hộ thì đến 1995 đã lên tới 11,9 triệu hộ hoạt động trên 9000 xã

trong khắp mọi vùng sinh thái. Dưới tác động của thị trường và quy luật vận động

nội tại của hoạt động kinh tế trong nông thôn  đã và đang tồn tại  nhiều loại hình

kinh tế hợp tác với trình độ khác nhau xuất phát từ nhu cầu phát triển của các hộ xu

hướng hợp tác liên kết để hỗ trợ nhau "đầu vào, đầu ra" giữa các hộ hiện nay khá

mạnh mẽ. Do nhu cầu hợp tác giữa các hộ trong việc tìm kiếm thị trường đã trở lên

cấp bách và đang rất cần có sự hướng dẫn hỗ trợ từ phía các cơ quan chức năng của

Nhà nước.

Bên cạnh những điều đạt được sự phát triển khu vực kinh tế tư bản tư nhân 

trong lĩnh vực nông nghiệp cũng đặt ra các vấn đề cần giải quyết. Trước hết, đa số

các hội cá thể tiểu chủ bình quân rộng đất quá bé, quá trình tích tụ và tập trung

ruộng đất  để hình thành những trang trại sản xuất hàng hoá quy mô lớn là khó

khăn, chậm chạp. Trong khi đó tốc độ tăng dân số lại quá nhanh, nhanh hơn nhiều

so với mức đất khai hoang       được cho nên dẫn đến việc bình quân ruộng đất           đầu

người ít. Hệ thống chính sách của Đảng và Nhà nước ban hành mặc dù có sửa đổi

nhiều lần nhưng vẫn còn nhiều bất cập, chưa thực sự tạo điều kiện cho kinh tế cá thể

phát triển mạnh mẽ theo hướng sản xuất hàng hoá tập trung  trong cơ chế thị trường.

Đồng thời, khu vực kinh tế tư bản tư nhân  phát triển rất không đồng đều giữa các

vùng trong cả nước. Theo số liệu thống kê năm 1995 của Ban kinh tế Trung ương

cho thấy 95% số doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư bản tư nhân  tập trung ở

vùng   đồng bằng sông Cửu Long và miền          Đông Nam Bộ. Trong khi       đó  ở vùng

duyên hải miền Trung là 10,1% và đồng bằng sông Hồng là 18%. Năm 1997 trong

tổng số 29002 doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư bản tư nhân  thì 18.728 doanh

§Ò ¸n Kinh tÕ chÝnh trÞ

nghiệp tập trung     ở miền Nam chiếm tới 75%, trong khi miền Bắc chỉ có 4.187

doanh nghiệp chiếm 17% và miền Trung có 2.087 doanh nghiệp 8%. Doanh nghiệp

phát triển nhanh trong tất cả  các ngành và ở khắp các địa phương đã tạo ra cơ hội

phân công lại lao động giữa các khu vực nông lâm nghiệp, thủy sản và sản xuất kinh

doanh nhỏ của hộ gia đình là khu vực lao động có năng suất thấp, thu nhập không

cao, chiếm số đông, thiếu việc làm song khu vực doanh nghiệp, nhất là công nghiệp

và dịch vụ có năng suất cao và thu nhập khó lớn. Thực tế từ năm 2000 - 2002 mỗi

năm có 700 nghìn lao      động  được tuyển dụng vào khu vực doanh nghiệp chiếm

khoảng 50% lao động đựơc giải quyết có việc làm hàng năm, đây chính là giải pháp

tích cực nhất để thực hiện  chuyển dịch lao động nông nghiệp từ gần 70% hiện nay

xuống còn 56 - 57% vào cuối năm 2005.

b. Trong lĩnh vực sản xuất tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ và thương mại 

- Về quy mô lao động và vốn: Nhìn chung các hộ cá thể tiểu chủ có quy mô

nhỏ khoảng 1-2 lao     động/hộ. Xét về  vốn thì khó có thể xác       định mức bình quân

chung vì nhiều loại nghành nghề có nhu cầu vốn khác nhau nhưng nhìn chung là

thấp: mức bình quân mỗi Công ty trách nhiệm hữu hạn có số lao động là 43 người

và số vốn trên 1 lao động là 50 triệu đồng; doanh nghiệp tư nhân là 13,5 lao động và

23,5 triệu đồng/1 lao động. Xét theo ngành thì ngành công nghiệp khai thác có số

lao động bình quân trong 1 doanh nghiệp là cao nhát 564 lao động nhưng số vốn

cho 1 lao động lại thấp khoảng 1 triệu đồng. Tại thời điểm 1/1/2003, bình quân một

doanh nghiệp chỉ có 74 lao động và 22,9 tỷ đồng tiền vốn; so với năm 2000 là 83

người và 26 tỷ đồng vốn, đấy là số liệu điều tra bình quân chung của các doanh

nghiệp trong các thành phần kinh tế. Nếu nói riêng về thành phần kinh tế tư bản tư

nhân   thì quy mô còn nhỏ hơn nhiều, có những doanh nghiệp tư nhân có thể gọi là

siêu nhỏ với vốn hoạt động khoảng vài ba chục triệu, lao động từ 5-7 người, mặt

bằng sản xuất kinh doanh không có, có khi còn phải lấy nhà ở, sân, vườn làm văn

phòng và nơi sản xuất. Theo điều tra, khu vực kinh tế tư bản tư nhân  bình quân một

doanh nghiệp chỉ có 31 lao động, và 4 tỷ đồng tiền vốn; bằng 7,4 về lao động và

2,4% về vốn so với doanh nghiệp tư nhân và bằng 10,3% về lao động và 2,9% về

vốn so với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.

§Ò ¸n Kinh tÕ chÝnh trÞ

- Về doanh thu và nộp ngân sách: doanh thu sản xuất kinh doanh của hộ cá

thể tiểu chủ nhìn chung không lớn và cũng khó xác định bởi tính đa dạng của ngành

nghề, khu vực khác nhau doanh thu vào khoảng một vài cho đến vài cho đến 4,5

triệu đồng/hộ/tháng. Tính chỉ tiêu  tỷ lệ thu trên tổng thu ngân sách địa phương ở 1

số địa phương thì thấy rõ sự đóng góp của khu vực kinh tế tư bản tư nhân : thành

phố Hồ Chí Minh chiếm 15%, Đồng Tháp 16%; Ninh Bình 19%…

Để hiểu rõ hơn về khu vực kinh tế tư bản tư nhân , ta đi tìm hiểu thêm về

những đóng góp của khu vực kinh tế này vào sự phát triển nền kinh tế đất nước;

đồng thời phát hiện những điểm hạn chế, nguyên nhân của nó. Từ đó có cái nhìn

khách quan, toàn diện hơn về khu vực kinh tế tư bản tư nhân  và nêu ra được một số

giải pháp nhằm khắc phục những yếu kém trên.

3. Các kết quả đạt được, các yếu kém cần khắc phục

3.1. Các thành tựu chủ yếu

* Khả năng huy động vốn và tỷ trọng đầu tư của các doanh nghiệp tư nhân

tăng một cách đáng kể. 

Theo số liệu ước tính, tỷ trọng đầu tư của dân cư và doanh nghiệp trong tổng

đầu tư toàn xã hội đã tăng từ 20% năm 2000 lên 23% năm 2001 và 27% năm 2003.

Tỷ trọng đầu tư của doanh nghiệp tư nhân trong nước liên tục tăng và đã vượt lên

hơn hẳn tỷ trọng đầu tư của doanh nghiệp Nhà nước. Số liệu đã chứng minh cho ta

thấy tỷ trọng đầu tư  của doanh nghiệp dân doanh trong tổng                      đầu tư toàn xã hội

tương    ứng là 2000 là 19,5%/ 18,25% năm 2001 là 23,5%/19,3%; năm 2002 là

25,9%/16,87% năm 2003 là 26,73%/17,74%. Vốn               đầu tư  của doanh nghiệp dân

doanh đã đóng vai trò quan trọng, thậm chí là nguồn vốn đầu tư chủ yếu đối với

phát triển kinh tế địa phương. Ví dụ đầu tư của các doanh nghiệp dân doanh năm

2002 ở thành phố Hồ Chí Minh  đã chiếm 38% tổng số vốn  đầu tư toàn xã hội; cao

hơn tỷ trọng của vốn đầu tư của doanh nghiệp Nhà nước và ngân sách Nhà nước

gộp lại (36,5%). Đặc biệt là, khác với đầu tư trực tiếp nước ngoài chỉ thực hiện ở 15

tỉnh, thành phố thì đầu tư của doanh nghiệp tư nhan trong nước đã được thực hiện ở

tất cả các tỉnh, thành phố trong cả  nước và đang có xu hướng tăng nhanh trong

những năm gần đây do những đổi mới về thủ tục thành lập doanh nghiệp, những

khuyến khích để thúc đẩy sự hình thành các doanh nghiệp. Ước tính cứ đầu tư vào

cùng một lĩnh vực thì khu vực kinh tế tư bản tư nhân  sử dụng vốn ít hơn khu vực

§Ò ¸n Kinh tÕ chÝnh trÞ

kinh tế Nhà nước 0,1 lần nhưng lại sử dụng lao động xã hội nhiều hơn khu vực

kinh tế Nhà nước là 1,25 lần.

Chính sự phát triển của khu vực kinh tế tư bản tư nhân  theo cơ chế thị trường

dưới sự quản lý của Nhà nước sẽ thúc đẩy mọi thành viên trong xã hội nỗ lực đầu

tư, năng động trong việc khai thác mọi nguồn lực làm ra của cải đáp ứng nhu cầu

cho mình và đóng góp cho xã hội. Ngoài việc khuyến khích đầu tư vốn của tư nhân

vào kinh doanh thì sự phát triển khu vực kinh tế tư bản tư nhân  còn giải quyết một

số  lượng lớn việc làm cho người lao động. Việc tạo thêm công ăn việc làm mới

không chỉ giải quyết vấn đề kinh tế, mà còn giải quyết các vấn đề xã hội, vấn đề ổn

định và phát triển của nước ta hiện nay. Nước ta hàng năm có khoảng 1,2 triệu - 1,4

triệu người đến tuổi lao động trong khi đó tỷ lệ thất nghiệp khá cao khoảng dưới 7%

là một thách thức không nhỏ của Nhà nước trong việc giải quyết đủ công ăn việc

làm  cho người lao động để họ có thể ổn định cuộc sống. Nông, lâm, ngư nghiệp

phát triển (chủ yếu do kinh tế tư bản tư nhân ) sẽ giải phóng lực lượng lao               động

chuyển sang các ngành nghề khác trong công nghiệp, dịch vụ, từ đó hình thành cơ

cấu lao động  hợp lý giữa các ngành, các vùng theo hướng hiện đại, hiệu quả, góp

phần thực hiện mục tiêu đến năm 2010 chỉ còn 50% lao động nông nghiệp mà Nghị

quyết Đại hội IX của Đảng đã đề ra lao động trong khu vực kinh tế tư bản tư nhân 

là 21.017.326 người chiếm 56,3% lao động có việc làm thường xuyên trong toàn xã

hội (số liệu năm 2000), riêng trong lĩnh vực phi nông nghiệp là 4.643.844 người

tăng 20,12% so với năm 1996. Thực tế ở nhiều địa phương cho thấy, 1 ha trồng lúa

chỉ giải quyết được khoảng 5 lao động (gồm 2 thường xuyên  và 3 thời vụ) và có

doanh thu khoảng 20 - 25 triệu đồng/năm; 1 ha trồng cây lâu năm cho doanh thu

khoảng 40 - 50 triệu đồng. Trong khi đất phục vụ phát triển cây công nghiệp có thể

sử dụng hàng chục đến hàng trăm lao động thường xuyên với thu nhập bình quân

khoảng 10 triệu đồng/năm. Với số liệu trên, ta có thể thấy được doanh lợi thu được

từ việc trồng cây công nghiệp cao hơn nhiều so với trồng lúa. Vì thế, việc chuyển

đổi cơ cấu cây trồng cho phù hợp với tình hình thực tế thời tiết cho doanh thu cao là

việc hết sức cần thiết.

Theo kết quả sơ bộ tình hình thực hiện khuyến khích đầu tư trong nước cho

thấy, trong 9 năm thực hiện đã có trên 1,5 triệu lao động được làm trong các dự án

§Ò ¸n Kinh tÕ chÝnh trÞ

thực hiện theo luật. Riêng khu vực kinh tế dân doanh tạo ra hơn 1 triệu việc làm

trực tiếp và hàng nghìn lao động gián tiếp, đưa tổng số lao động trực tiếp làm việc

trong các doanh nghiệp dân doanh xấp xỉ bằng tổng số lao động trong các doanh

nghiệp Nhà nước và đưa tổng số lao động làm việc trong doanh nghiệp của khu vực

kinh tế tư bản tư nhân  lên hơn 7 triệu người.

*Kinh tế tư bản tư nhân  đóng góp vào nguồn thu ngân sách và thúc đẩy nên

kinh tế tăng trưởng. 

Đóng góp của các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư bản tư nhân  vào

ngân sách Nhà nước đang có xu hướng tăng lên từ khoảng 6,4% năm 2001 lên 7,4%

năm 2002 (tỷ lệ tương ứng của doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là

5,2% và 6%; của doanh nghiệp Nhà nước là 21,6% và 23,4%). Thu từ thuế công

thương nghiệp và dịch vụ ngoài quốc doanh năm 2002 đạt 103,6% kế hoạch và tăng

13% so với năm 2001. Năm 2003: số thu từ doanh nghiệp dân doanh chiếm khoảng

15% tổng số thu, tăng 29,5% so với cùng kỳ các năm trước.

Với cơ chế chính sách kinh tế khuyến khích kinh tế tư bản tư nhân  đầu tư

vào sản xuất kinh doanh, khu vực kinh tế tư bản tư nhân  phát triển mạnh cả về số

lượng, vốn đầu tư đến quy mô hoạt động, đã góp phần không nhỏ vào việc phục hồi

và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Trong 8 tháng đầu năm 2004, giá trị sản xuất công

nghiệp  ở  một số  địa phương tăng tốc      độ cao như Hà Nội 25,8%; Hải Phòng là

23%;Cần Thơ 50,3%. Doanh nghiệp tư nhân hiện nay đang chiếm một phần không

nhỏ trong hầu hết các ngành công nghiệp chủ yếu: chiếm 50% giá trị công nghiệp

chế biến thuỷ  sản, công nghiệp giấy bìa; 30% công nghiệp may mặc… Đến nay,

doanh nghiệp tư nhân trong công nghiệp chiếm 26,5% tổng giá trị  sản xuất công

nghiệp cả  nước, tăng 1,85     điểm phần trăm so với số thực hiện ở thời          điểm cuối

tháng 12 năm 2002, và 4 điểm phần trăm so với kết quả đạt             được vào cuối năm

2000.

* Thúc đẩy việc hình thành các chủ thể kinh tế và đổi mới cơ chế quản lý theo

hướng thị trường tạo sự cạnh tranh trong nền kinh tế. 

Trong giai đoạn hiện nay, trừ một số lĩnh vực ngành nghề mà Nhà nước độc

quyền, kinh tế tư bản tư nhân  không được kinh doanh, còn lại hầu hết các ngành

nghề khác kinh tế tư bản tư nhân  đều tham gia. Thực tiễn cho thấy nhiều lĩnh vực

§Ò ¸n Kinh tÕ chÝnh trÞ

mà kinh tế tư bản tư nhân  không những phát triển mà còn chiếm ưu thế áp đảo như

sản xuất lương thực thực phẩm, nuôi trồng thuỷ sản… và với các mặt hàng như gạo,

các chế phẩm từ nông nghiệp đã mang về hàng tỷ đô la cho nền kinh tế. Tuy nhiên

đang đặt ra vấn đề cần xem xét là vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước trong những

ngành nghề mà khu vực kinh tế tư bản tư nhân  đã tham gia và chiếm tỷ trọng lớn.

Chính sự phát triển phong phú và đa dạng các cơ sở sản xuất kinh doanh của khu

vực kinh tế tư bản tư nhân  đã tác động mạnh đến các doanh nghiệp Nhà nước buộc

khu vực kinh tế Nhà nước phải cải tổ, sắp xếp lại,                  đầu tư đổi mới, công nghệ và

phương thức kinh doanh để tồn tại và đứng vững trong cơ chế thị trường. Qua đó,

khu vực kinh tế tư bản tư nhân  đã thúc đẩy sự cạnh tranh giữa các khu vực kinh tế

làm cho nền kinh tế trở nên năng động, đồng thời tạo sức ép lớn buộc cơ chế quản

lý hành chính của Nhà nước phải đổi mới đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của các doanh

nghiệp nói riêng và của nền kinh tế nói chung.

* Tạo nên sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất, thực hiện 

dân chủ hoá kinh tế, kích thích và thúc đẩy sản xuất phát triển.

Khu vực kinh tế tư bản tư nhân  phát triển đa dạng về hình thức sở hữu với

các trình độ xã hội hoá về sở hữu, về quản lý và về phân phối tạo nên sự phù hợp

với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất ở các ngành, các lĩnh vực sản xuất. Từ

đó tạo ra khả năng huy động rộng rãi tiềm năng nguồn lực, động lực trong toàn xã

hội để đẩy mạnh sản xuất, tạo ra nhiều của cải làm giàu cho mình và cho đất nước

khắc phục tình trạng trì trệ trong nền kinh tế tập trung, bao cấp trước đây. Các loại

hình tổ chức của kinh tế tư bản tư nhân  được tự do phát triển, Nhà nước còn tạo

điều kiện và khuyến khích đầu tư sản xuất kinh doanh, được luật pháp bảo hộ và là

biểu hiện dân chủ hoá đời sống kinh tế trong xã hội ta. Cho nên, nó thúc đẩy và phát

huy tính năng động, nhạy bén, cần cù sáng tao của quần  chúng nhân dân trong lao

động và sản xuất, thúc đẩy nền kinh tế hàng hoá phát triển, góp phần to lớn vào sự

nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và mở rộng hoạt động kinh tế đối

ngoại. Mặc khác, quá trình dân chủ hoá đời sống kinh tế được mở rộng nói trên sẽ

tác động và đòi hỏi sự cải tiến về tổ chức, quản lý của Nhà nước theo hướng hiện

đại, văn minh, tiến bộ, cũng như thúc        đẩy, nâng cao đời sống văn hoá, dân trí và

tinh thần trong toàn xã hội.

§Ò ¸n Kinh tÕ chÝnh trÞ

b. Những tồn tại yếu kém:

- Những năm vừa qua ở Việt Nam, khu vực kinh tế tư bản tư nhân  chủ yếu

phát triển theo bề rộng mà điển hình là tăng thêm số lượng doanh nghiệp.

Sự thay    đổi quy mô và trình         độ công nghệ không đáng kể thậm chí có xu

hướng giảm xuống.        Đa phần các doanh nghiệp tư nhân  có quy mô nhỏ nên khả

năng cạnh tranh chiếm lĩnh thị trường, chống đỡ, vượt qua những biến động, rủi ro,

bất chắc trong sản xuất kinh doanh bị hạn chế. Hiện có tới 87,2% doanh nghiệp tư

nhân có mức vốn dưới 1 tỷ đồng. Trong               đó, doanh nghiệp có mức vốn dưới 100

triệu đồng chiếm tới 29,4%. Chỉ có 1% số doanh nghiệp có mức vốn trên 10 tỷ đồng

và 0,1% có mức vốn trên 100 tỷ đồng. Hầu hết các doanh nghiệp đều khởi sự hoàn

toàn bằng vốn tự có của mình, có vay nhưng số tiền vay là ít. Ngân hàng thì luôn

trong trình trạng chờ doanh nghiệp đến vay vốn đầy đủ các điều kiện về tài sản thế

chấp chứ không phải  là tìm phương án kinh doanh có hiệu quả để cho vay. Mặt

khác, bản thân doanh nghiệp  cũng có những hạn chế nhất định trong việc tiếp cận

các nguồn vốn tiếp cận thông tin, thành lập doanh nghiệp dựa trên kinh nghiệm chứ

chưa tính toán đầy đủ nhu cầu thị trường và khả năng tiêu thụ. Đồng thời còn là tình

trạng kế toán của Doanh nghiệp không minh bạch, báo cáo tài chính không đầy đủ,

doanh nghiệp không có tài sản đảm bảo tiền vay, rủi ro tín dụng lớn, gặp nhiều khó

khăn trong việc hưởng tín dụng ưu đãi bởi vì không đủ hiểu biết về thủ tục vay và

hoàn thiện hồ sơ vay.

- Máy móc thiết bị lạc hậu và nguồn nhân lực - còn nhiều hạn chế

Phần lớn các cơ sở sản xuất thuộc khu vực kinh tế tư bản tư nhân  đều sử

dụng máy móc thiết bị lạc hậu từ 2 đến 3 thế hệ. Máy móc thiết bị phục vụ sản xuất

đại đa số đều mua lại của các doanh nghiệp Nhà nước thanh lý, nhiều máy móc ra

đời từ những năm đầu của thế kỷ XX, như vậy sự lạc hậu có thể lên tới hàng trăm

năm, chí ít cũng là năm, bảy chục năm. Phần lớn các hộ kinh doanh cá thể sử dụng

phương thức sản xuất truyền thống với các công cụ thủ công và bán cơ khí. Đối với

các doanh nghiệp tư nhân và các hợp tác xã đã sử dụng máy móc với tỷ lệ cơ khí

hoá đạt 40,6%. Tuy nhiên, kết quả điều tra cho thấy trình độ công nghệ, chất lượng

máy móc thiết bị ở nhiều cơ sở vẫn còn thấp kém không thể đáp ứng  được yêu cầu

sản xuất kinh doanh ngày càng phát triển. 

§Ò ¸n Kinh tÕ chÝnh trÞ

Thêm vào đó, chất lượng nguồn nhân lực thấp. Ở khu vực kinh tế này, số lao

động không được đào tạo chiếm từ 55 - 75%. Với số lao động không được đào tạo

chiếm quá nửa nên cũng gây nhiều trở ngại cho các doanh nghiệp của khu vực kinh

tế tư bản tư nhân  tiếp cận với khoa học và công nghệ mới,cũng như giảm năng suất

lao động và hiệu suất công việc. Theo số liệu thống kê thì khu vực kinh tế tư bản tư

nhân  có số người lao động có trình độ               đại học trở lên chỉ chiếm 5,13%, số chủ

doanh nghiệp có trình độ cao            đẳng trở nên chiếm 31,2%, trong tổng số các chủ

doanh nghiệp có tới 46,4% số chủ doanh nghiệp không có bằng  cấp chuyên môn về

lĩnh vực kinh doanh của mình. Với cơ  cấu cán bộ quản lý như  vậy, tuyệt                          đại bộ

phận doanh nghiệp tư nhân không có tầm nhìn dài hạn trong kinh doanh, sự kém

hiểu biết về pháp luật, sự chi phối của thị trường dẫn đến phương pháp kinh doanh

ngắn hạn, phi vụ trong kinh doanh là khó tránh khỏi. Đó là mặt hạn chế không dễ

khắc phục một sớm, một chiều và điều này ảnh hưởng lớn đến kinh doanh của khu

vực kinh tế tư bản tư nhân .

- Thiếu mặt bằng sản xuất và mặt bằng sản xuất không ổn định

Thêm nữa, chính sách tạo mặt bằng sản xuất kinh doanh cho các doanh

nghiệp còn nhiều bất cập như thủ tục phiền hà. Việc cấp giấy chứng nhận quyền sử

dụng đất, quyền sở hữu nhà gắn liền với đất còn chậm nên nhiều khi làm mất cơ hội

kinh doanh; cộng với sự phân biệt đối xử trong việc giao đất của Nhà nước cho các

doanh nghiệp cũng như cho thuê đất với các cơ sở kinh tế tư bản tư nhân  cũng gây

bất lợi và thiệt thòi cho khu vực kinh tế  tư  bản tư nhân . Rất ít doanh nghiệp có

được mặt bằng sản xuất ngay từ khi mới thành lập mà thường phải đi thuê hoặc tận

dụng đất ở, chính điều này cũng ảnh hưởng không nhỏ tới sản xuất kinh doanh.

- Thiếu thị trường tiêu thụ  sản phẩm là vấn đề quan trọng ảnh hưởng đến

việc sản xuất kinh doanh của khu vực kinh tế tư bản tư nhân

Do ảnh hưởng từ nguồn lao động ít được đào tạo, công nghệ thiết bị lạc hậu

nên  sản phẩm làm ra không có sức cạnh tranh trên thị trường, cả thị trường tiêu

dùng trong nước và xuất khẩu đặc biệt là những sản phẩm cơ khí có yêu cầu độ

chính xác cao. Hầu hết các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế này mua nguyên

liệu đầu vào và tiêu thụ sản phẩm đầu ra trên thị trường địa phương chủ yếu dựa vào

mạng lưới quan hệ cá nhânvà khả năng tiếp cận thị trường của hộ cá thể tiểu chủ.

§Ò ¸n Kinh tÕ chÝnh trÞ

Vả lại, công tác xúc tiến thương mại và quảng bá thương hiệu sản phẩm gặp nhiều

hạn chế  bởi quy mô nhỏ, sản lượng sản phẩm làm ra không nhiều, chi phí cho mỗi

lần tham gia các cuộc triển lãm giới thiệu sản phẩm, thương hiệu cũng là lớn cho

nên nhiều cơ sở sản xuất ra không có đủ khả năng kinh tế để tham gia mà đã bỏ lơ

cơ hội quảng bá thương hiệu sản phẩm của mình tới người tiêu dùng cũng như với

những hợp đồng tiêu thụ. Việc xúc tiến thương mại ở trong nước còn khó khăn thì

việc tham gia tại các hội triển lãm ở nước ngoài để tìm kiếm bạn hàng xuất khẩu là

một ước mơ thật xa vời đối với nhiều cơ sở sản xuất kinh doanh của loại hình kinh

tế tư bản tư nhân .

- Sự phát triển của kinh tế tư bản tư nhân có tốc độ cao nhưng không đều.

Nó được thể hiện ở khía cạnh là giữa các vùng, địa phương, giữa các lĩnh vực

hoạt   động và các loại hình doanh nghiệp. Ở các vùng                  Đông Nam Bộ, đồng bằng

sông Cửu Long và đồng bằng sông Hồng tập trung hàng ngàn  doanh nghiệp tư

nhân thì ở các vùng miền núi Trung Du và Tây Nguyên mỗi nơi chỉ có khoảng 500 -

700 doanh nghiệp. Lĩnh vực thương nghiệp và dịch vụ đã chiếm hơn một nửa trong

tổng số doanh nghiệp tư nhân và 2/3 số doanh thu thuộc thành phần kinh tế này. Dù

pháp luật có quy định quyền bình đẳng của các thành phần kinh tế; song trên thực

tế, kinh tế tư bản tư nhân  vẫn bị hạn chế trong việc tiếp cận một số lĩnh vực hoạt

động như xuất nhập khẩu, tài chính, ngân hàng.

- Những tồn tại từ chủ trương chính sách và từ  cơ quan công quyền           ảnh

hưởng đến sự phát triển của kinh tế tư bản tư nhân  Việt Nam.

Các nhà kinh tế tư bản tư nhân  chưa yên tâm  đầu tư và phát triển lâu dài vì

có tình trạng sân chơi không bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. Dù chính sách

chung là bình đẳng giữa  các thành phần kinh tế nhưng trên thực tế, trong con mắt

của các quan chức, công chức ở các cơ quan công quyền vẫn phân biệt đối xử với

các doanh nghiệp dân doanh. Với cơ chế tiền kiểm tra của các cơ quan quản lý Nhà

nước và các cơ quan bảo vệ pháp luật thì có quá nhiều điều kiện để kiểm tra và

thanh tra doanh nghiệp. Có không ít cuộc kiểm tra, thanh tra trái pháp luật đã gây

tổn hại đến sự phát triển của doanh nghiệp và làm giảm sút lòng tin của các doanh

nghiệp vào các cơ quan Nhà nước. Đặc biệt là chính sách kinh tế không ổn định, các

văn bản ban hành ra liên tục thay đổi và bổ sung, nội dung có xu hướng bảo vệ sự

§Ò ¸n Kinh tÕ chÝnh trÞ

an toàn và mang lợi ích cục bộ của cơ quan ban hành, không xuất phát từ lợi ích

chung của nền kinh tế, giá cả các dịch vụ công như điện, nước, cước phí viễn thông

vào loại đắt trên thế giới ảnh hưởng đến chi phí đầu vào của nhiều doanh nghiệp.

Cải cách hành chính đang còn là vấn đề rất phức tạp. Nguyên nhân chính là nhận

thức về nội dung cải cách hành chính của cơ quan quản lý Nhà nước ở địa phương

còn rất khác nhau, nên thực hiện chưa được tốt gây khó khăn cho nhà đầu tư khi

giải quyết các thủ tục liên quan đến quá trình đầu tư của họ. Chẳng hạn thủ tục hành

chính trong thuê đất, giao đất theo hướng "một đầu mối" đến nay vẫn chỉ là ý tưởng.

Nhiều nhà đầu tư phải chờ đợi, chạy vòng vào nhiều thủ  tục phức tạp, thời gian

hoàn thành tốt thủ tục kéo dài hơn 1 năm,thậm chí có trường hợp phải chờ đợi tới 2

năm trong khi theo quy định của Nhà nước chỉ có 2 tháng. Đặc biệt trong thời đại

khoa học kỹ thuật thông tin như hiện nay thì nguồn thông tin kịp thời, đúng lúc luôn

là cơ sở quan trọng để các nhà kinh doanh thực hiện đầu tư. Nhưng trên thực tế,

thông tin đến các doanh nghiệp là rất chậm và hoàn toàn không có những quy định

từ Nhà nước trong việc cung cấp thông tin cho các giám đốc doanh nghiệp nhằm

giúp họ biết lựa chọn và xử lý những thông tin có lợi cho hoạt động sản xuất kinh

doanh của doanh nghiệp. Điều đáng lưu tâm là thông tin  quan trọng thiếu thường là

thông tin về văn bản pháp luật mới ban hành, thông tin về thị trường, về kinh tế xã

hội.

- Tình trạng không chấp hành hoặc chấp hành không nghiêm luật pháp của

Nhà nước là biểu hiện chủ yếu của kinh tế tư bản tư nhân

Nhiều doanh nghiệp không thực hiện đúng nguồn vốn vào sổ sách kế toán,

việc tăng giảm vốn còn tuỳ tiện, khai báo doanh thu không đúng. Còn  có trường

hợp doanh nghiệp kinh doanh không đúng mặt hàng đã đăng ký, trong hoạt động

kinh doanh  vì chạy theo lợi nhuận nên đã sản xuất hàng giả, thành lập các công ty

ma để trốn thuế. Với rất nhiều thủ đoạn tinh vi, một số doanh nghiệp tư nhân đã gây

sự  mất  ổn  định trong kinh doanh làm ảnh hưởng tới nền kinh tế nói chung, ảnh

hưởng đến môi trường đầu tư và khách hàng nói riêng.

Sự yếu kém hạn chế của mọi sự vật hiện tượng đều bắt nguồn từ nguyên nhân

nào đó. Vì vậy, trong thực tế việc nhìn nhận và đánh giá các thành phần kinh tế tư

§Ò ¸n Kinh tÕ chÝnh trÞ

bản tư nhân  để đưa ra các chính sách phù hợp phải căn cứ vào những nguyên nhân

của việc hạn chế, yếu kém đó.

4. Nguyên nhân của yếu kém, hạn chế trên 

Nguyên nhân sự yếu kém của doanh nghiệp thì có nhiều nhưng tập trung lại

hình thành 3 nhóm nguyên nhân chính.

4.1. Vẫn có sự phân biệt đối xử với khu vực kinh tế tư bản tư nhân 

Một yếu tố không thể không nói tới là các nhà kinh doanh tư nhân vẫn còn

tâm lý dè dặt trong đầu tư vào hoạt động sản xuất kinh doanh. Nguyên nhân của sự

lo ngại chính xuất phát từ những biến cố trong lịch sử chính sách phát triển kinh tế

của đất nước. Tư duy của thể chế kế hoạch hoá tập trung vẫn còn tồn tại với nhiều

bất cập đó là sự không công nhận kinh tế thị trường, không công nhận kinh tế tư bản

tư nhân  đã chi phối một số cán bộ lập cơ chế chính sách, luật pháp cũng như hoạt

động thực tiễn của bộ máy Nhà nước. Điển hình cho ví dụ về sự đối xử không công

bằng giữa các thành phần kinh tế là giữa doanh nghiệp Nhà nước và doanh nghiệp

tư nhân có sự khác nhau về thủ tục vay vốn ở ngân hàng. Doanh nghiệp Nhà nước

có lợi thế hơn trong thủ tục cũng như điều kiện vay dễ dàng hơn, không phải thế

chấp, việc thuê đất dễ dàng, tiếp cận tín dụng ưu đãi của chính phủ dễ hơn.

4.2. Những nguyên nhân từ cơ chế chính sách 

Hệ thống chính sách kinh tế vĩ mô thiếu đồng bộ và nhất quán tạo ra sự bất

hợp lý cho sự phát triển của khu vực kinh tế tư bản tư nhân .

- Về chính sách đất đai: Cho dù luật đất đai được ban hành từ rất sớm là từ

năm 1993 nhưng việc triển khai các văn bản dưới luật nhằm cụ thể hoá luật còn

chậm, gây nhiều băn khoăn trong thực hiện. Luật đã quy định tổng thể 5 quyền đối

với những việc sử dụng các quyền đó như thế nào vẫn chưa được giải quyết rõ ràng

trong các quy định gây nên tình trạng vô nguyên tắc "móc ngoặc", hối lộ trong các

cơ quan và cán bộ quản lý.

- Về chính sách thuế: Chúng ta đã có cải tiến và đổi mới thể hiện ở việc áp

dụng thuế giá trị gia tăng từ ngày 1/1/1999 nhưng nhìn chung, chính sách thuế còn

phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế, ưu đãi đầu tư nước ngoài hơn là đầu

tư tư nhân trong nước. Chính đó là nguyên nhân làm giảm sút lòng tin của chủ đầu

tư tư nhân, không kích thích lòng nhiệt tình của họ. Thêm nữa là việc ưu đãi thuế

§Ò ¸n Kinh tÕ chÝnh trÞ

tràn lan và một số khoản thu chưa hợp lý, lý do ưu đãi chung chung như tạo động

lực sản xuất, cải thiện môi trường đầu tư và tăng sức cạnh tranh cho doanh nghiệp;

trong khi   đó căn cứ chủ  yếu nhất     để thể hiện    ưu đãi là luận chứng cơ  cấu theo

hướng ưu tiên ngành vùng lại bị bỏ qua. Vì thế, chưa định hướng phát triển kinh tế

tư bản tư nhân  trong cơ cấu ngành và lĩnh vực kinh doanh phù hợp với mục tiêu

công nghiệp hoá, hiện đại hoá.

- Về chính sách tiền tệ và tín dụng: Theo phản ánh của nhiều địa phương,

cho đến nay thủ tục, hồ sơ cấp tín dụng ưu đãi vẫn còn rườm rà phức tạp, quy trình

xét cấp kéo dài do phải      đi qua nhiều đầu mối, một số quy định về thủ tục không

thiết thực đối với doanh nghiệp. Việc phải có tài sản thế chấp làm cho nhà đầu tư,

đặc biệt là chủ doanh nghiệp khó tiếp cận đến nguồn tín dụng của Quỹ hỗ trợ phát

triển.

- Về chính sách thương mại và xuất khẩu: Tuy theo           đuổi mục tiêu tăng

trưởng xuất khẩu nhưng chính sách thương mại chưa định hướng được cơ cấu xuất

nhập khẩu có triển vọng lâu dài, chưa làm tốt chức năng đưa ra căn cứ thị trường để

hoạch định chính sách phát triển. Một số doanh nghiệp tư nhân tuy không trực tiếp

xuất khẩu nhưng có tham gia sản xuất hàng xuất khẩu vẫn chưa nhận                    được sự

khuyến khích thoả đáng về tín dụng, thuế. Vấn đề bảo hộ thị trường nội địa mặc dù

là nghiệp vụ có quan hệ đến sự  sống của nền công nghiệp nội            địa đang non yếu

nhưng chúng ta chưa có hướng giải quyết tổng thể rõ ràng, chưa có giải pháp đồng

bộ và hữu hiệu.

- Về cơ chế bộ máy thực thi chính sách: Công tác quản lý chỉ đạo phát triển

kinh tế tư bản tư nhân  còn nhiều bất cập, có trường hợp gây khó khăn, phiền hà cho

các doanh nghiệp. Về phía Nhà nước do nhiều đầu mối quản lý nên xảy ra  tình

trạng buông lỏng quản lý, các cơ quan quản lý ỷ vào nhau đưa ra những yêu cầu cần

thậm chí trái ngược nhau. Còn các cán bộ quản lý thì lợi dụng để sách nhiễu các

doanh nghiệp gây ra tình trạng hồi lộ và sâu xa hơn thì các doanh nghiệp phải thực

hiện hành vi trốn thuế, buôn lậu để trả cho các khoản phí không phải là nhỏ                ấy.

Năng lực của một số cán bộ còn thấp kém, có phẩm chất đạo đức tồi đã tiếp tay cho

các nhà doanh nghiệp tư nhân lợi dụng làm thất thoát tài sản của Nhà nước. Về cơ

cấu quản lý thì thiếu sự phối hợp giữa kinh tế Nhà nước với kinh tế tư bản tư nhân 

§Ò ¸n Kinh tÕ chÝnh trÞ

trong một kế hoạch phát triển có bài bản ở tầm chiến lược. Trong phát triển kinh tế

của ngành hầu như không tính đến khu vực kinh tế tư bản tư nhân , hoạt động sản

xuất kinh doanh và vai trò, vị trí của kinh tế tư bản tư nhân  trong mỗi ngành, mỗi

lĩnh vực chưa được xác định trong kế hoạch phát triển. Chức năng dẫn dắt khu vực

kinh tế tư bản tư nhân  theo định hướng xã hội chủ nghĩa của khu vực kinh tế nhà

nước mờ nhạt, thậm chí còn có tình trạng doanh nghiệp Nhà nước chèn ép lấn át

kinh tế tư bản tư nhân  để dành nhiều thuận lợi cho mình.

4.3. Nguyên nhân thuộc về bản thân doanh nghiệp   

Do các Doanh nghiệp lúc mới thành lập còn nhỏ, quy mô vốn ít và phải mất

vài năm để đạt tới quy mô lao động từ vài chục đến vài trăm người cho nên tình

trạng thiếu vốn là phổ biến, đồng thời còn vấp phải những khó khăn về thị trường,

bí quyết sản xuất, kinh doanh gây cản trở cho doanh nghiệp tăng quy mô. Thêm

nữa, đội ngũ các nhà kinh doanh tư nhân ở Việt Nam chủ yếu được hình thành trong

những năm 90. Vì vậy, họ còn thiếu kinh nghiệm về nhiều mặt, từ kỹ năng quản lý

đến hiểu biết về công nghệ và thị trường. Khó khăn chính về nguồn nhân lực là

thiếu cán bộ kỹ thuật như kỹ sư có trình độ và thợ lành nghề bậc cao. Vì thái độ của

xã hội còn chưa thật sự coi trọng khu vực tư nhân nên nhiều người có trình độ cao

ngại làm việc cho khu vực này.

Nói tóm lại, kinh tế tư bản tư nhân  ở Việt Nam đang trong quá trình hình

thành và phát triển vì thế cho nên non yếu về thực lực. Tình trạng này có thể dẫn

đến nguy cơ: kinh tế tư bản tư nhân  đang vào thế bất lợi trong cuộc cạnh tranh thị

trường, nhất là trong điều kiện kinh tế "mở" mà đối thủ của chính họ là các công ty

xuyên quốc gia với xu thế phát triển mạnh trong những thập niên gần               đây. Việc

khắc phục những tồn tại yếu kém trong hoạch định chủ trương, chính sách và giải

pháp tổ chức quản lý vĩ mô của Nhà nước đến với khu vực kinh tế tư bản tư nhân 

góp phần tạo ra môi trường thuận lợi cho khu vực này phát triển một cách tốt nhất

nhằm phát huy khả năng tối đa cho công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong

giai đoạn mới.

II. CHÍNH SÁCH VÀ PHÁP LUẬT VỚI VAI TRÒ ĐỊNH HƯỚNG VÀ ĐIỀU TIẾT.

1. Vai trò định hướng và điều tiết của chính sách phát triển

§Ò ¸n Kinh tÕ chÝnh trÞ

Trong điều kiện kinh tế xã hội nước ta, mối quan hệ kinh tế và giai cấp xã hội

được định hướng và điều tiết bởi chính sách và luật pháp của Đảng và Nhà nước.

Chính sách của Đảng về phát triển kinh tế thị trường được đề ra từ Đại hội VI đã có

quá trình liên tục hoàn thiện và đến đại hội lần IX của Đảng khẳng định rõ "Tiếp tục

nhất quán sự phát triển nền kinh tế nhiều thành phần. Các thành phần kinh tế kinh

doanh theo pháp luật là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường

định hướng xã hội chủ nghĩa, cùng phát triển  lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành

mạnh". Hội nghị lần thứ 5 của Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá IX (2002) đã

có bước nhất quán của chính sách trên hai điều rất quan trọng "bảo vệ lợi ích chính

đáng của cả người lao động và người sử dụng lao động, xây dựng mối quan hệ tốt

đẹp giữa người sử dụng lao          động và người lao động trên cơ  sở pháp luật và tinh

thần   đoàn kết tương thân tương ái" và "những                  Đảng viên      đang làm chủ doanh

nghiệp  tư nhân chấp hành tốt điều lệ của Đảng và pháp luật, chính sách của Nhà

nước thì vẫn là Đảng viên của Đảng". Qua đó có thể thấy rõ sự tôi luyện phấn đấu

của toàn Đảng, toàn dân trong quan hệ hợp tác và đấu tranh nội bộ nhan dân, dân

tộc để tạo động lực phát triển định hướng xã hội chủ nghĩa.

Để đảm bảo đưa chính sách vào đời sống xã hội, Nhà nước đã và đang xây

dựng thực thi hệ thống luật kinh tế và kinh doanh nhằm thực thi chính sách của

Đảng. Chính lẽ đó đã tạo động lực khuyến khích người dân kinh doanh hợp pháp

theo định hướng của Đảng và Nhà nước. Yêu cầu cơ bản đối với những người kinh

doanh sản xuất là "tuân theo pháp luật", nếu làm trái luật sẽ có hình phạt xử lý

nghiêm minh được quy định rõ trong các điều lệ của luật tuỳ theo từng mức độ cụ

thể. Từ khi luật Doanh nghiệp được ban hành và thực thi, với những thay đổi trong

việc áp dụng chế độ đăng ký kinh doanh thay cho chế độ xin phép đã khiến cho mọi

người dân vững tin, rất hăng hái tự đăng ký, tự xưng danh trước pháp luật như một

sự tăng đột biến bùng nổ được xã hội mong đợi. Chính nền pháp chế mới đang hình

thành và thực hiện từng bước là công cụ định hướng tạo lập quan hệ mới, tạo khả

năng đẩy lùi, loại trừ các nhân tố tiêu cực. Và từ đó mọi doanh nghiệp chịu sự giám

sát không chỉ của Nhà nước mà còn của người lao động và toàn xã hội, các tổ chức

chính trị và dân sự của công luận.

§Ò ¸n Kinh tÕ chÝnh trÞ

Mục tiêu cơ bản của các chính sách là vì con người , cho con người và do con

người. Với công dân nước ta, quyền lao động, quyền có việc làm là                         điều cơ  bản

nhất của quyền công dân. Nhưng trên thực tế nạn thất nghiệp cao, nạn thừa người

thiếu việc rơi vào lớp người đến tuổi ra trường vào đời. Cho dù mỗi năm Nhà nước

tạo thêm  trên 1 triệu việc làm mới nhưng lao động dư thừa vẫn rất lớn ở thành thị,

còn ở nông thôn là thời gian nhàn rỗi nhiều. Điều đó cho thấy chính sách và môi

trường xã hội chưa đủ sức tăng cầu lao động hay do thiếu khả năng nên Hiến pháp

chưa thể đặt nhiệm vụ Nhà nước và xã hội đảm bảo quyền có việc làm của công

dân, chưa có trợ  cấp cho người thất nghiệp. Tuy                đó thì mục tiêu con người luôn

được đặt mục tiêu hàng đầu. Điều đó được thể hiện rõ nét trong đường lối, chính

sách phát triển của Đảng; đặc biệt trong Hiến pháp quy định rõ quyền lợi và nghĩa

vụ của mọi công dân, thực hiện hình thức "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra"

để phát huy tối đa trí tuệ và năng lực sáng tạo của con người. Chính phát triển khu

vực kinh tế tư bản tư nhân  đã phần nào giải phóng sức sản xuất, thu hút thêm lao

động, phát huy sức sáng tạo vô hạn của con người.

Vì những bất cập trên cơ sở các chính sách đã tồn tại cho nên vấn đề đặt ra là

có nên đổi mới các chính sách hay không? và khi đổi mới thì đổi mới như thế nào?

Để hiểu rõ hơn ta đi tìm hiểu tính tất yếu  phải đổi mới cơ chế chính sách.

2. Tính tất yếu phải đổi mới cơ chế chính sách

Bước vào thời kỳ phát triển mới của đất nước với quan điểm "công nghiệp

hoá, hiện đại hoá là sự nghiệp của toàn dân, của mỗi thành phần kinh tế", kinh tế tư

bản tư nhân  trở thành một yếu tố năng động của nền kinh tế quốc dân và tồn tại lâu

trong cơ cấu kinh tế nhiều thành phần. Do chiếm một vị trí khá quan trọng trong

công cuộc đổi mới đất nước, Đảng và Nhà nước cần có một chiến lược để kinh tế tư

bản tư nhân  thực sự hoà nhập vào cộng đồng với tinh thần công bằng, bình đẳng và

tiến bộ xã hội. Với quá trình phát triển hiện đại của nền kinh tế , môi trường kinh

doanh thay đổi thì không chỉ phải có các chính sách cơ chế của Đảng với kinh tế tư

bản tư nhân  mà phải tiếp tục thường xuyên đổi mới cơ chế chính sách cho phù hợp

với tình hình mới. Chính vì vậy,  đổi mới cơ chế chính sách để thúc đẩy phát triển

thành phần kinh tế tư bản tư nhân  trở nên cần thiết và tất yếu.

§Ò ¸n Kinh tÕ chÝnh trÞ

CHƯƠNG III 

CÁC GIẢI PHÁP ĐỂ THÚC ĐẨY SỰ PHÁT TRIỂN CỦA KHU VỰC KINH

TẾ TƯ BẢN TƯ NHÂN  TRONG GIAI ĐOẠN MỚI

I. QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG TA VỚI VẤN ĐỀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ  TƯ  BẢN

TƯ NHÂN   

1. Tính tất yếu khách quan của kinh tế tư bản tư nhân  trong nền kinh tế 

thời kỳ quá độ

Đặc trưng của thời kỳ quá độ là thời kỳ cùng tồn tại lâu dài và đấu tranh

chuyển hoá lẫn  nhau giữa những yếu tố, thành phần bộ phận… của nền kinh tế cũ

tư  hữu với những yếu tố, thành phần, bộ phận… của nền kinh tế  mới xây dựng,

công hữu. Trong đó, kinh tế tư bản tư nhân  là thành tố quan trọng, không thể thiếu

của nền kinh tế thời kỳ quá độ Việt Nam.Sự tồn tại khách quan của kinh tế hàng hoá

cùng với xu thế và      đặc điểm thời đại về mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế là môi

trường và điều kiện cho kinh tế tư bản tư nhân  phát huy các ưu thế, hiệu quả của

mình cho nền kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nước nhà.

Mặt khác, sự tồn tại và phát triển của khu vực tư nhân còn để huy động rộng

rãi tiềm năng, nguồn lực trong toàn xã hội (vốn đầu tư, lực lượng lao động, tư liệu

sản xuất, các ngành nghề…) cùng với kinh nghiệm quản lý, tính năng động, nhạy

bén, linh hoạt, sáng tạo của kinh tế tư bản tư nhân  đã thúc đẩy nền sản xuất phát

triển, góp phần giải quyết công ăn việc làm cho người dân lao động nhằm ổn định

xã hội.

Đó chính là cơ sở nền tảng, là lý do cho sự phát triển của kinh tế tư bản tư

nhân . Kinh tế tư bản tư nhân  mới trong giai đoạn mở đường và phát triển cho nên

đòi hỏi phải có một cơ chế và chính sách cho phù hợp. Với sự phát triển nhiều thành

phần, khu vực kinh tế nhằm khuyến khích các thành phần cùng mở rộng sản xuất

kinh doanh, cạnh tranh lành mạnh trên thị trường là hết sức cần thiết đối với sự lãnh

đạo của Đảng và Nhà nước.

2. Tạo sự bình đẳng giữa các khu vực kinh tế

Một khi đã thừa nhận sự tồn tại và phát triển của khu vực kinh tế tư bản tư

nhân  là tất yếu khách quan, lâu dài thì phải đặt các khu vực kinh tế Nhà nước, tư

§Ò ¸n Kinh tÕ chÝnh trÞ

nhân, hỗn hợp có vị trí bình đẳng trước pháp luật. Sự bình đẳng đựơc thể hiện: phải

hoạt động kinh doanh tuân theo luật pháp, trong kinh doanh là đơn vị kinh tế độc

lập, cùng cạnh tranh với nhau trên thị trường và cùng chịu sự chi phối của các quy

luật thị trường. Mọi sự ưu tiên dành lợi thế cho khu vực này, hạn chế gây trở ngại

cho khu vực kia là trái với yêu cầu của các quy luật khách quan, rốt cuộc sẽ gây

thiệt hại cho nền kinh tế. Theo quan         điểm này, các chính sách      đầu tư (vốn,    đất

đai…) khuyến khích phát triển phải được thực hiện theo lĩnh vực, đối tượng đầu tư

chứ không phải theo chủ thể đầu tư là ai (Nhà nước hay tư nhân, trong nước hay

nước ngoài).

3. Nhà nước đóng vai trò điều tiết vĩ mô trong việc khuyến khích phát

triển các thành phần kinh tế 

Trước  đây, Nhà nước hầu hết tham gia vào các hoạt             động sản xuất kinh

doanh thuộc khu vực kinh tế tư bản tư nhân . Đó là thời kỳ bao cấp, tự cung, tự cấp,

nền kinh tế sản xuất nhỏ, lẻ tẻ, đóng cửa. Nhưng khi thực hiện mở cửa kinh tế, Nhà

nước không thể thực hiện bảo hộ hay chỉ        đạo sản xuất như trước đây nữa vì môi

trường kinh doanh mới có sự tham gia của các nhà đầu tư nước ngoài, hàng hoá sản

xuất ra phải chịu sự cạnh tranh. Lúc này, Nhà nước chỉ còn thực hiện lãnh đạo, điều

hành ở tầm vĩ mô thông qua các cơ chế chính sách và cơ chế quản lý vĩ mô của Nhà

nước.

Kinh tế tư bản tư nhân  đã, đang và sẽ phát triển với xu hướng liên tục mở

rộng quy mô và nâng cao vai trò kinh tế tư bản tư nhân  trong việc giải quyết những

nhiệm vụ kinh tế xã hội chính trị quan trọng (thực hiện tiết kiệm đầu tư, chuyển

dịch cơ cấu kinh tế; xu hướng hình thành nhiều triệu hộ kinh doanh và sớm xuất

hiện một số doanh nghiệp tư nhân với quy mô lớn, sẽ phát triển nhiều Doanh nghiệp

tư nhân kinh doanh trong nước và nước ngoài). Đặc biệt là xu hướng mang tính xã

hội hoá xã hội chủ nghĩa  là phát triển quan hệ liên doanh liên kết, là hợp tác giữa

các thành phần và loại hình doanh nghiệp, phát triển hợp tác xã kiểu mới và doanh

nghiệp cổ phần.

II. PHƯƠNG HƯỚNG  ĐỔI MỚI CƠ CẤU VÀ CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN KHU

VỰC KINH TẾ TƯ BẢN TƯ NHÂN  

§Ò ¸n Kinh tÕ chÝnh trÞ

Đổi mới tức là từ bỏ cái cũ, cái lỗi thời, cái lạc hậu và sáng tạo ra những cái

mới. Có những cái lỗi thời, lạc hậu phải từ bỏ không luyến tiếc, song không phải vì

thế mà thay ngay được cái mới, chấp nhạn cái mới bởi vì cái mới đó phải đúng với

quy luật, có tính công bằng, có khả năng cứu vãn tình hình vàđược xã hội chấp nhận

và hợp lòng dân. Tiếp tục đổi mới có nghĩa là công cuộc đổi mới đã khởi phát từ

trước, đã có một hành trình, nay hành trình đó đi vào giai đoạn mới.

1. Hoạch  định chiến lược và chính sách bảo đảm cho kinh tế tư bản tư

nhân  hoạt động theo đúng  định hướng góp phần tích cực vào công cuộc đổi

mới. 

Với vai trò đưa ra đường lối và chính sách phát triển kinh tế, Đảng và Nhà

nước luôn coi kinh tế tư bản tư nhân  là bộ phận hữu cơ cấu thành lên nền kinh tế

quốc dân, tồn tại và phát triển trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Cần

tạo một quan điểm nhât quán đối với kinh tế tư bản tư nhân  trong cơ cấu kinh tế

nhiều thành phần, xoá bỏ những định kiến, thay đổi một cách căn bản đánh giá vai

trò của các thành phần kinh tế. Trên cơ sở đó, Nhà nước tạo môi trường chính trị xã

hội pháp lý và những điều kiện kinh tế để các nhà kinh doanh phát huy tối đa tiềm

năng và nguồn lực của mình. Cần quán triệt sâu rộng quan điểm của Đảng và Nhà

nước về kinh tế  tư  bản tư nhân  cho mọi tầng lớp  nhân dân lao                động trên các

phương tiện thông tin đại chúng, đặc biệt là cho một số cán bộ lãnh đạo ở các địa

phương để họ có được nhận thức rõ và coi việc phát triển kinh tế  tư nhân là nội

dụng quan trọng trong phát triển kinh tế xã hội của đất nước.

Tập trung khuyến khích tư nhân đầu tư vào những ngành có lợi thế phát triển

như công nghiệp chế biến nông, lâm, hải sản; những ngành nghề truyền thống như

mây tre đan, thêu ren… Đối với các doanh nghiệp lớn, có tiềm năng về vốn và lao

động, công nghệ thì khuyến khích họ liên kết với các doanh nghiệp khác để hình

thành các tập đoàn kinh tế mạnh, ví dụ như việc hình thành các tổng Công ty dệt

may, tổng công ty hàng hải… Đứng về phía Nhà nước, Nhà nước sử dụng các biện

pháp kinh tế, hành chính, pháp lý để khắc phục sự độc quyền, tạo ra sự cạnh tranh

công bằng nhằm ổn định tâm lý cho các chủ đầu tư yên tâm làm ăn lâu dài.

Kích thích kinh tế tư bản tư nhân  đầu tư ra nước ngoài, đầu tư vào các lĩnh

vực sử dụng nhiều nhân lực, đầu tư vào các ngành xây dựng cơ sở hạ tầng cho phát

§Ò ¸n Kinh tÕ chÝnh trÞ

triển kinh tế, đầu vào các ngành nghề truyền thống và các ngành nghề có lợi xuất

khẩu. Đồng thời, khuyến khích tăng cường, mở rộng các loại hình công ty TNHH,

công ty Cổ phần để có điều kiện tích tụ và tập trung vốn mở rộng quy mô và đổi

mới công nghệ tiên tiến phù hợp với điều kiện hiện tại. Thêm vào đó, khuyến khích

phát triển kinh tế tư bản tư nhân  ở nông thôn với quy mô ruộng đất hợp lý, nhằm

tiến tới tập trung hoá sản xuất nông nghiệp, áp dụng kỹ thuật tiên tiến để tăng năng

suất lao động, tạo nguồn nông sản dồi dào, ổn định cho đời sống xuất khẩu và cho

công nghiệp chế biến.

2. Định hướng các giải pháp để khuyến khích sự phát triển của khu vực

kinh tế tư bản tư nhân  trong mối quan hệ với các khu vực khác

Nhà nước đưa ra các biện pháp khuyến khích sự phát triển của khu vực kinh

tế tư bản tư nhân  thông qua việc đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng và biến

đổi cơ cấu sản phẩm phù hợp với nhu cầu trong nước và quốc tế. Trong giai đoạn

hiện nay, sản phẩm làm ra không những bền mà phải đẹp thì mới đáp ứng được nhu

cầu và thị hiếu của người tiêu dùng ở một thời điểm nhất định cho nên vấn đề đổi

mới công nghệ luôn được đặt ra.Chính đó là nguyên nhân khiến đổi mới công nghệ

là yếu tố cạnh tranh trên thương trường, là nội dung cơ bản của công nghiệp hoá,

hiện đại hoá đất nước. Nhưng để đổi mới được về công nghệ thì phải có một số điều

kiện, cụ thể là hai yếu tố là vốn và lực lượng cán bộ khoa học kỹ thuật, công nhân

lành nghề. Chính vì lẽ đó, việc đưa ra chính sách hợp lý  để giúp doanh nghiệp có

điều kiện thuận lợi sản xuất kinh doanh là hết sức cần thiết và cấp bách. Chúng ta

đang ở trong thời kỳ bùng nổ thông tin, vì đó cho nên thông tin là  nguồn tư liệu hết

sức quý giá cho việc quyết định đầu tư sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nhà

nước nên tạo điều kiện cho các chủ doanh nghiệp tư nhân tiếp cận thông tin một

cách dễ dàng, nhanh chóng, kịp thời, chính xác và không chỉ là việc cập nhật các

đường lối, chính sách, luật pháp của Đảng và Nhà nước mà còn các thông tin về thị

trường trong và ngoài nước.

Nền kinh tế nhiều thành phần       ở  nước ta là một hệ thống nhất trong sự         đa

dạng về hình thức sở hữu và loại hình kinh tế, trong đó, mỗi thành phần kinh tế có

thể phát triển trong mối quan hệ  vừa hợp tác, vừa cạnh tranh với các thành phần

kinh tế khác. Mà kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo nên phải là người tổ chức

§Ò ¸n Kinh tÕ chÝnh trÞ

tăng cường các mối liên hệ giữa kinh tế tư bản tư nhân  với kinh tế Nhà nước và các

thành phần kinh tế khác. Hiện nay,               để nâng cao tính cạnh tranh của các doanh

nghiệp Nhà nước, chúng ta           đang thực hiện việc cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà

nước nhằm tăng cường thu hút vốn, tăng sự độc lập tự chủ cho các Doanh nghiệp.

Tuy nhiên, việc cổ phần hoá không phải là hình thức tư nhân hoá hết các doang

nghiệp nhà nước mà đối với một số doang nghiệp thì Nhà nước vẫn giữ vai trò chi

phối để làm đầu tàu thúc đẩy sự phàt triển nền kinh tế đất nước. Khu vực kinh tế

Nhà nước nên giữ vai trò chi phối như đầu tư vào cơ sở  hạ  tầng, đầu tư vào các

ngành công nghệ  mũi nhọn, an ning, quốc phòng làm nền tảng cho sự phát triển

kinh tế trong nước.

3. Xây dựng cơ chế mối quan hệ của kinh tế tư bản tư nhân  với nước 

ngoài 

Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế và toàn cầu hoá, chúng ta cũng phải

mở cửa để tiếp thu những thành tựu khoa học kỹ thuật, đồng thời phát huy tiềm lực

sẵn có cho công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Vì thế, nên mở rộng

và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại đã và đang ngày càng trở thành một bộ phận

quan trọng trong chiến lược phát triển của Đảng và Nhà nước. Với tình hình như

vậy, nhu cầu mở rộng các quan hệ kinh tế quốc tế của chủ doanh nghiệp tư nhân là

xu thế khách quan hợp với xu hướng  chung của thời đại và có thể đem lại những

điều kiện mới, những nguồn lực mới để phát triển nền kinh tế trong nước.

4. Phương hướng giải pháp về chính trị xã hội 

Bước vào công cuộc xây dựng đất nước từng bước đi lên chủ nghĩa xã hội,

lợi ích của dân tộc và lợi ích của chủ doanh nghiệp vừa có tính thống nhất vừa có

mặt đối lập. Chính công cuộc đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá              đất nước

trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với sự đa dạng về

hình thức sở hữu, loại hình doanh nghiệp đã mở ra địa bàn rộng lớn cho kinh tế tư

bản tư nhân  và tầng lớp chủ doanh nghiệp mở rộng hoạt động kinh doanh, dịch vụ

trên mọi lĩnh vực để làm giàu chính đáng và góp phần xây dựng đất nước. Nhưng

nó cũng đòi hỏi các chủ doanh nghiệp phải biết kết hợp lợi ích riêng của mình với

lợi ích chung của dân tộc mà biểu hiện chung nhất là theo mục tiêu "dân giàu, nước

mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh", phải tuân thủ luật pháp và sự quản lý

§Ò ¸n Kinh tÕ chÝnh trÞ

của các cơ quan Nhà nước. Không chỉ xét về mặt tích cực, vì mục tiêu lợi nhuận

nhiều chủ doanh nghiệp tư nhân đã có các hành vi vi phạm pháp luật; cho nên đòi

hỏi phải có những chính sách phù hợp từ phía Nhà nước để điều tiết.

Trên đây chỉ là những định hướng cơ bản để khuyến khích phát triển kinh tế

tư bản tư nhân , chúng ta cần có những giải pháp cụ thể để tập trung phát triển khu

vực kinh tế này.

III. NHỮNG GIẢI PHÁP               ĐỂ PHÁT TRIỂN KHU VỰC KINH TẾ  TƯ  BẢN TƯ

NHÂN   

1. Giải pháp về thể chế tạo điều kiện môi trường thuận lợi cho kinh tế tư

bản tư nhân  Việt Nam phát triển 

Từ khi vận dụng chính sách đổi mới kinh tế đến nay, Nhà nước ta đã ban

hành một hệ thống pháp lý hoàn chỉnh và chi phối các hoạt động của các khu vực

kinh tế bao gồm hệ thống luật doanh nghiệp, luật Doanh nghiệp Nhà nước, luật

khuyến khích đầu tư trong nước, luật khuyến khích đầu tư nước ngoài…Tuy đó, hệ

thống pháp lý chưa thống nhất, còn phân biệt theo hình thức sở  hữu chẳng hạn

doanh nghiệp tư nhân hoạt động theo luật Doanh nghiệp, doanh nghiệp Nhà nước

hoạt động theo luật Doanh nghiệp Nhà nước, một số công ty cổ phần mà Nhà nước

giữ vai trò chi phối lại hoạt động theo luật Doanh nghiệp… dẫn đến sự chồng chéo,

không hiệu quả trong việc thực thi luật pháp. Chính sự khác nhau đó đã gây ra sự

không bình đẳng giữa các thành phần kinh tế trong việc tiếp cận các yếu tố đầu vào

như đất   đai, vốn, lao động và công nghệ… và các yếu tố đầu ra như tiếp cận thị

trường trong và ngoài nước. Thường thì Doanh nghiệp Nhà nước giữ vai trò chủ

đạo trong nền kinh tế quốc dân, là nhân tố mở đường cho sự phát triển kinh tế nên

hưởng nhiều chế        độ ưu    đãi hơn các doanh nghiệp khác. Chính do                 đó mà nhiều

doanh nghiệp Nhà nước dựa vào vai trò chủ đạo của nền kinh tế mà lấn át để hưởng

nhiều chế độ ưu đãi, làm ảnh hưởng đến các thành phần kinh tế khác, gây sự không

bình đẳng trong cạnh tranh, làm giảm sút lòng tin của chủ doanh nghiệp tư nhân.

Nếu không có sự bình đẳng thực sự sẽ hạn chế, thậm chí có thể dẫn đến triệt tiêu,

mất động lực phát triển của kinh tế thị trường. Như vậy, giải pháp về hoàn thiện môi

trường pháp lý chính là nên sớm ban hành luật Doanh nghiệp chung, luật                            đầu tư

chung và cần có các cơ quan đầu mối theo dõi, tổng hợp tình hình thực hiện và đề

§Ò ¸n Kinh tÕ chÝnh trÞ

xuất các biện pháp tháo gỡ, khó khăn và chủ động uốn nắn những sai phạm của kinh

tế  tư  bản tư nhân ; tạo mặt bằng  pháp  lý  chung cho mọi loại hình doanh nghiệp.

Ngoài ra cần ban hành luật chống         độc quyền nhằm bảo      đảm quyền lợi cho các

doanh nghiệp vừa và nhỏ, cũng như ban hành luật Bảo vệ bản quyền phát minh sáng

chế, bảo vệ các cơ sở làm ăn chân chính, chống lại việc làm hàng giả. Quan điểm

phát triển kinh tế tư bản tư nhân  phải được thể hiện trong phương thức làm việc

thống nhất, trong nhận thức của các cơ quan quản lý Nhà nước tại địa phương. Ví

dụ như tiếp tục cải cách hành chính trong công tác đăng ký kinh doanh, công khai

hoá thủ tục hành chính đối với thành phần kinh tế tư bản tư nhân , tuyên truyền các

chính sách ưu đãi của Nhà nước một cách rộng rãi để mọi người đều biết.

Kinh tế tư bản tư nhân  phát triển trong điều kiện đẩy mạnh công nghiệp hoá,

hiện đại hoá cũng sẽ làm nảy sinh các quan hệ kinh tế phức tạp, cạnh tranh diễn ra

với cường độ cao, thủ đoạn tinh vi hơn. Vậy tiếp tục nâng cao vai trò điều tiết vĩ mô

của Nhà nước đối với kinh tế tư bản tư nhân  là yêu cầu khách quan, nó vừa là yêu

cầu chung của nền kinh tế  vừa tác động trực tiếp đối với kinh tế  tư  bản tư nhân 

nhằm hướng nó vào con đường kinh doanh lành mạnh và hữu ích cho xã hội. Chính

quản lý vĩ mô của Nhà nước đối với sự phát triển và hoạt động của kinh tế tư bản tư

nhân  một mặt thực hiện chức năng định hướng dẫn dắt và ủng hộ những nỗ  lực

phát triển của tư nhân, mặt khác nó cũng đảm bảo cho các doanh nghiệp tư nhân

hoạt động đúng pháp luật, tuân thủ chế độ quản lý của Nhà nước, đấu tranh chống

những hiện tượng tiêu cực, khắc phục hậu quả xấu. Một vấn đề nóng bỏng đang đặt

ra đối với cả hai phía:nhà nước và doanh nghiệp là thực thi pháp luật. Chính đây là

băn khoăn lớn của doanh nghiệp và là mối lo lớn trong quản lý vĩ mô của Nhà nước

đối với kinh tế tư bản tư nhân . Muốn pháp luật được thực hiện nghiêm chỉnh thì từ

cả hai phía doanh nghiệp và cơ quan quản lý cần chấn chỉnh, đổi mới bộ máy quản

lý về kinh tế tư bản tư nhân, cá thể, tiểu chủ không phân biệt chia cắt như hiện nay

tạo sự bình đẳng giữa các thành phần, khu vực kinh tế. Điều quan trọng là phải chú

ý coi trọng đào tạo đội ngũ quản lý có trình độ am hiểu, có năng lực chuyên môn, có

phẩm chất đạo đức không để các lợi ích vật chất làm tha hoá. Đồng thời thực hiện

nghiêm chế độ thanh tra, kiểm tra, xử lý nghiêm minh đối với những hiện tượng vi

phạm hay cố tình làm trái pháp luật.

§Ò ¸n Kinh tÕ chÝnh trÞ

Để có cơ chế chính sách phù hợp nhằm thúc đẩy khu vực kinh tế tư bản tư

nhân  phát triển trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta cần có sự

đổi mới, cụ thể là:

- Chính sách giáo dục và đào tạo: Cần có chính sách đào tạo, nâng cao trình

độ cho cán bộ quản lý Nhà nước và người lao động. Các địa phương cần có chính

sách trợ giúp đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ hiểu biết đường lối, chủ trương

của Đảng; chính sách, pháp luật của Nhà nước; nâng cao trình độ chuyên môn kỹ

thuật, năng lực kinh doanh của chủ doanh nghiệp và người lao động. Đối với chủ

doanh nghiệp, cần quan tâm bồi dưỡng giáo dục, phát huy tinh thần yêu nước và

trách nhiệm trước cộng đồng xã hội, có đạo đức kinh doanh, tôn trọng chữ tín, tự

giác chấp hành chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, chăm lo đời sống và

điều kiện làm việc cho người lao động tại doang nghiệp.

- Chính sách tín dụng ngân hàng: Ngoài việc khuyến khích cho vay ưu đãi

theo loại dự án đầu tư không  kể dự án đó thuộc thành phần kinh tế nào; đối với khu

vực kinh tế tư bản tư nhân ,cần phải loại bỏ những hàng rào ngăn cản khu vực này

tiếp cận với những loại hình tín dụng. Các điều tra gần đây cho thấy ngân hàng Nhà

nước chỉ quy định mức lãi suất  trần nhưng trên thực tế khu vực kinh tế tư bản tư

nhân  vẫn bị phân biệt đối xử, phải vay với mức lãi suất cao hơn và tỷ lệ vay vốn

thấp chiếm khoảng 2 - 5% tổng vốn mà ngân hàng cho các doanh nghiệp trong nước

vay. Nguyên nhân chủ yếu là do vấn đề thế chấp và thủ tục vay vốn còn phiền hà.

Cho nên vấn đề đặt ra là phải xem xét lại các thủ tục vay ngân hàng đối với khu vực

kinh tế tư bản tư nhân , nên có các chính sách ưu đãi tín dụng cho các doanh nghiệp

vừa và nhỏ thông qua việc cấp tín dụng trung và dài hạn cho các Doanh nghiệp này.

Cần sớm ban hành cơ chế quản lý tài chính đối với Doanh nghiệp dân doanh,

bổ sung chế độ  kế toán cho phù hợp với trình          độ doanh nghiệp vừa và nhỏ  vừa

chống thất thu thuế, vừa đảm bảo công tác quản lý Nhà nước với doanh nghiệp, vừa

tạo điều kiện cho doanh nghiệp dân doanh sử  dụng dịch vụ kiểm toán, thực hiện

công khai tài chính doanh nghiệp hàng năm. Khi thực hiện chính sách tài chính tín

dụng cần bảo đảm cho kinh tế tư bản tư nhân  được hưởng ưu đãi. Nhà nước hỗ trợ

về cơ sở hạ tầng (giao thông, điện, nước…) tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế tư

bản tư nhân  phát triển. Nghiên cứu ban hành chính sách bảo hiểm rủi ro cho hoạt

§Ò ¸n Kinh tÕ chÝnh trÞ

động của kinh tế tư bản tư nhân  trong kinh tế thị trường khuyến khích thành lập và

tham gia qũy bảo hiểm, quỹ hỗ trợ doanh nghiệp có sự hỗ trợ của Nhà nước.

- Về chính sách tài trợ của Nhà nước đối với kinh tế tư bản tư nhân

Tài trợ của Nhà nước được thể hiện dưới nhiều dạng như: miễn giảm thuế, tín

dụng ưu đãi, trợ giá bao tiêu. Trong điều kiện kinh tế thị trường, Nhà nước cần có

biện pháp giúp đỡ kinh tế tư bản tư nhân  khi nó gặp khó khăn tạm thời nhưng có

hướng phát triển lâu dài. Trong trường hợp này, để ổn định và phát triển, Nhà nước

có áp dụng chính sách bao tiêu sản phẩm với giá có lợi cho doanh nghiệp tư nhân.

Ngoài ra, Nhà nước còn có chính sách đào tạo nguồn nhân lực phục vụ cho sự phát

triển của khu vực kinh tế tư bản tư nhân .

- Chính sách khuyến khích việc sử dụng đất : Tiếp tục nghiên cứu ban hành

chính sách khuyến khích việc sử dụng đất ở những vùng còn nhiều đất chưa đựơc

sử dụng, đất trống, đồi núi trọc. Tăng cường công tác chỉ đạo để đẩy nhanh tiến độ

cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở cho nhân dân ,giải quyết tốt việc cho thuê

đất để các doanh nghiệp phấn khởi đầu tư hình thành các cụm công nghiệp ở các

huyện, cụm làng nghề và các làng nghề trong tỉnh. Kiên quyết xử lý những hiện

tượng tiêu cực trong việc giao đất, cho thuê đất.

- Chính sách thuế và hải quan: Thuế nói chung không những là nguồn thu

chủ yếu của ngân sách mà còn là công cụ quan trọng trong điều hành vĩ mô nền

kinh tế quốc dân. Đặc biệt chính sách thuế và chính sách hải quan còn thể hiện tính

ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa, thể hiện chính sách hội nhập kinh tế thế giới và

khu vực. Tuy nhiên vẫn còn một số tồn tại như khung thuế suất cao, chính sách thuế

nặng về tận thu, nặng về chế tài áp dụng đối với các đối tượng nộp thuế, chưa thể

hiện quyền dân chủ công bằng và bình đẳng trước pháp luật giữa các cơ quan Nhà

nước với công dân. Cho nên vấn đề đặt ra là phải sửa đổi, bổ sung các chính sách 

thuế trong việc giảm bớt những chồng chéo trong các luật thuế, giảm bớt các sắc

thuế, trong thu thuế xuất nhập khẩu cần thay bảng giá tối thiểu bằng bảng thuế tuyệt

đối. Cơ quan thuế và hải quan phải đồng hành cùng doanh nghiệp hướng dẫn, giúp

đỡ doanh nghiệp tháo gỡ khó khăn trong sản xuất kinh doanh. Không hình sự hoá

các quan hệ giao dịch hành chính, kinh tế dân sự.

§Ò ¸n Kinh tÕ chÝnh trÞ

- Chính sách thị trường và xuất khẩu: Thị trường là điều kiện quan trọng của

các doanh nghiệp trong nền kinh tế hàng hoá, tạo ra cả thời cơ và nguy cơ cho các

doanh nghiệp. Do đó, một chính sách thị trường đúng đắn sẽ có tác động hỗ trợ thúc

đẩy các doanh nghiệp phát triển đúng hướng. Để thực hiện được điều đó cần có một

sự hỗ trợ của Nhà nước trong việc  cung cấp thông tin về thị trường, bỏ hoàn toàn

chế độ phân phối hạn ngạch, doanh nghiệp nào có khả năng tìm được bạn hàng thì

đương nhiên được xuất với mức hạn ngạch của nước bạn hàng cho phép. Một vấn

đế  nữa là Nhà nước vẫn cần có chính sách bảo hộ thị trường trong nước và xuất

khẩu. Trong hỗ trợ xuất khẩu hiện nay cần cải tiến mạnh về thủ tục hải quan, quy

định thời gian tối đa để hoàn thành một thương vụ xuất khẩu hàng qua hải quan, nếu

vượt quá thời hạn thì phải có chế tài với các bộ phận hải quan có liên quan.

2. Nhóm chính sách hạn chế mặt tiêu cực của kinh tế tư bản tư nhân   

Khai thác tiềm năng và thế mạnh của các thành phần kinh tế để nhanh chóng

tiến tới công nghiệp hoá, hiện đại hoá là chủ trương nhất quán của Đảng trong thời

kỳ quá độ. Với vai trò quan trọng, khu vực kinh tế tư bản tư nhân  đã góp phần thực

hiện tốt công cuộc đổi mới theo định hướng mà Đảng và Nhà nước đã đề ra. Bên

cạnh những mặt tích cực còn vấp phải những khó khăn, hạn chế. Chính lẽ đó là

nguyên nhân  cần phải có chính sách và giải pháp để hạn chế tiêu cực của khu vực

kinh tế tư bản tư nhân .

Đầu tiên phải nói đến là công tác tăng cường giáo dục chính trị phát huy tinh

thần dân tộc của chủ doanh nghiệp tư nhân nhằm chủ động thu hút họ tham gia vào

các hoạt động chính trị dưới nhiều hình thức tổ chức thích hợp.  Để phát huy tính

tích cực của chủ doanh nghiệp tư nhân cần thường xuyên giáo dục đường lối của

Đảng để củng cố lòng tin cho họ về con đường phát triển đất nước; đồng thời tiếp

nhận những nguyện vọng chính đáng của họ để          điều chỉnh, hoàn thiện các chính

sách và cơ chế kinh tế cho phù hợp với hoạt động thực tiễn của kinh tế tư bản tư

nhân  trong cơ cấu kinh tế nhiều thành phần. Mở rộng tính công khai dân chủ đối

với chủ doanh nghiệp tư nhân về chính sách và cơ chế quản lý có liên quan nhằm

bảo vệ tính nhất quán giữa chính sách và cơ chế đó với việc thực thi chúng.

Sau nữa là việc nâng cao hiệu quả sử dụng các công cụ kinh tế (tài chính, tín

dụng, ngân hàng…) để quản lý và điều tiết các hoạt động của kinh tế tư bản tư nhân

§Ò ¸n Kinh tÕ chÝnh trÞ

. Kiểm tra chặt chẽ việc thực hiện sản xuất kinh doanh theo mục tiêu đăng ký, thực

hiện nghiêm túc các chế độ tài chính và kinh doanh theo quy định của Nhà nước,

phát huy vai trò của ngân hàng trong chức năng trung tâm thanh toán. Và tăng

cường công tác thanh tra tài chính của Nhà nước để giúp đỡ các doanh nghiệp tư

nhân tránh được sai lầm rủi ro trong kinh doanh, phát hiện và xử lý các hiện tượng

tiêu cực phát sinh trong kinh doanh.

Xây dựng các tổ chức chính trị trong các doanh nghiệp tư nhân để đóng góp

vào việc hướng dẫn chủ doanh nghiệp hoạt động đúng hướng, đấu tranh chống hiện

tượng tiêu cực. Việc thành lập các tổ chức chính trị trong các doanh nghiệp tư nhân

không có nhiều khó khăn như đối với các doanh nghiệp nước ngoài nhưng vấn đề

chính là nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổ chức đó trong thực tiễn. Ở đây vấn

đề cần giải quyết là nghiên cứu và xác định một cơ chế hoạt động phù hợp với tính

chất của doanh nghiệp và phương thức lãnh đạo của Đảng, không thể áp dụng cơ

chế lãnh đạo trực tiếp như trong doanh nghiệp Nhà nước mà các tổ chức chính trị

phải thực hiện chức nanưg lãnh đạo bằng thuyết phục. Đặc biệt các tổ chức quần

chúng hoạt động trong doanh nghiệp tư nhân cũng cần xây dựng phương thức hoạt

động thích hợp để xác lập địa vị làm chủ của người lao động trong điều kiện của

doanh nghiệp tư nhân vừa tôn trọng quyền của chủ doanh nghiệp theo luật định vừa

đòi hỏi chủ doanh nghiệp chấp hành đầy đủ luật pháp, tôn trọng quyền lợi hợp pháp

của người lao động và để nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổ chức chính trị đều

có ý nghĩa quyết định là lựa chọn đội ngũ lãnh đạo có đủ bản lĩnh trong các doanh

nghiệp tư nhân.

Tóm lại kinh tế tư bản tư nhân  là một thành phần kinh tế được đánh giá là

năng động, sáng tạo đầy tiềm năng phải được phát triển mạnh mẽ, đó là nhiệm vụ

có tính chất chiến lược trong sự nghiệp CNH- HĐH. Vì vậy cần tiếp tục tháo gỡ

những rào cản, mở rộng điều kiện kinh doanh, tạo lập môi trường kinh doanh thông

thoáng, bình đẳng giữa các thành phần kinh tế và Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ

thích hợp thì chắc chắn mọi nguồn lực trong dân sẽ được khai thác và phát huy có

hiệu quả.

§Ò ¸n Kinh tÕ chÝnh trÞ

KẾT LUẬN 

Căn cứ vào thực trạng của tình hình phát triển kinh tế ở Việt Nam những năm

vừa qua, những chủ trương, đường lối, chính sách nhất quán của Đảng về phát triển

khu vực kinh tế tư bản tư nhân , ta thấy rõ được vai trò của khu vực kinh tế này

trong xu thế phát triển nền kinh tế nói chung. Cho nên khu vực kinh tế tư bản tư

nhân  phải được hưởng những điềukiện của Đảng và Nhà nước, được đối xử bình

đẳng từ phía các cơ quan công quyền và từ môi trường kinh doanh thông thoáng

phù hợp với đường lối của Đảng cũng như xu thế của thời kỳ hội nhập, thời kỳ phát

triển kinh tế đất nước là trọng tâm.

Để thực hiện được điều này, vấn đề đặt ra về phía Đảng và Nhà nước là cần

phải không ngừng đổi mới và phải hoàn thiện cơ chế chính sách nhằm phát huy mọi

hiệu quả của nền kinh tế đặc biệt là trong phát triển khu vực kinh tế tư bản tư nhân .

Đó chỉ là sự hỗ trợ từ phía Đảng và Nhà nước, còn cái chính phải nói đến là sự nỗ

lực vươn lên của mỗi bản thân doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế  tư  bản tư

nhân . Có như vậy mới phát huy hết tiềm năng và sức mạnh của một nguồn lực to

lớn và quan trọng này để góp phần xây dựng và phát triển nền kinh tế đất nước

trong thời kỳ hội nhập.

Sinh viên thực hiện

Võ Thị Thu Lý  

§Ò ¸n Kinh tÕ chÝnh trÞ

1. Nguyễn Anh Dũng

TÀI LIỆU THAM KHẢO 

nhân .

Nam 

giới.

Phát triển khu vực kinh tế  tư nhân  - Thực trạng, nguyên nhân và giải pháp.

Tạp chí Nghiên cứu kinh tế số 319 - Tháng 12/2004

2. Đảng Cộng sản Việt Nam - Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 9

Nhà Xuất bản chính trị quốc gia - Hà Nội - 2000

3. Hoàng Văn Hoa

Một số ýkiến về phát triển kinh tế tư nhân  ở Việt Nam năm 2004

Tạp chí kinh tế và phát triển - 3/2005.

4. Đỗ Thị Nga Ngọc

Tiếp tục đổi mới cơ chế chính sách để thúc đẩy sự phát triển của kinh tế tư

5. Hà Huy Thành (Chủ biên)

Thành phần kinh tế cá thể, tiểu chủ và tư bản tư nhân - lý luận và chính sách.

Nhà xuất bản chính trị quốc gia - Hà Nội - 2002

6. Lê Khắc Triết

Đổi mới và phát triển kinh tế tư nhân  Việt Nam - Thực trạng và giải pháp

Nhà xuất bản lao động - Hà Nội - 2005

7. Phạm Quý Thọ

Vai trò kinh tế tư bản tư nhân  đối với phát triển thị trường lao động ở Việt

Tạp chí kinh tế và phát triển - 4/2005

8. Võ Xuân Tiến

Đẩy mạnh phát triển kinh tế tư nhân  trong tiến trình hội nhập nền kinh tế thế

Tạp chí kinh tế và phát triển - 2/2005

9. Nguyễn Thanh Tuyền (Chủ biên)

Thành phần kinh tế tư nhân và quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá 

Nhà xuất bản chính trị quốc gia - Hà Nội - 2002

10. Hồ Trọng Viện

Kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở

Việt Nam.

§Ò ¸n Kinh tÕ chÝnh trÞ

MỤC LỤC 

Lời nói đầu.......................................................................................................1

Chương I. Lý luận về các thành phần kinh tế và tư bản tư nhân ..............3

I.Học thuyết Mác - Lênin về các thành phần kinh tế........................................3

II. Kinh tế tư bản tư nhân  trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ

nghĩa ở Việt Nam ........................................................................................................4

1. Khái niệm về kinh tế tư bản tư nhân ............................................................4

2. Quá trình hình thành và phát triển của khu vực kinh tế tư bản tư nhân ......5

3. Vai trò của khu vực kinh tế tư bản tư nhân  trong sự nghiệp công nghiệp

hoá, hiện đại hoá đất nước ..........................................................................................8

Chương II. Đổi mới cơ chế chính sách để thúc đẩy khu vực kinh tế  tư

bản tư nhân  phát triển ...........................................................................................12

I. Thực trạng phát triển khu vực kinh tế tư bản tư nhân  ở nước ta trong giai

đoạn hiệnnay .............................................................................................................12

1. Phát triển khu vực kinh tế tư bản tư nhân  trong thời gian qua từ khi có

chính sách đổi mới ....................................................................................................12

2. Phát triển khu vực kinh tế tư bản tư nhân  theo ngành nghề sản xuất kinh

doanh và theo vùng lãnh thổ .....................................................................................16

3. Các kết quả đạt được, các yếu kém cần khắc phục ....................................18

4. Nguyên nhân của yếu kém, hạn chế ...........................................................27

4.1. Vẫn có sự phân biệt đối xử với khu vực kinh tế  tư nhân........................27

4.2. Những nguyên nhân từ cơ chế chính sách...............................................27

4.3. Nguyên nhân thuộc về bản thân doanh nghiệp........................................29

II. Chính sách pháp luật với vai trò định hướng và điều tiết ..........................30

1. Vai trò  định hướng và điều tiết của chính sách phát triển ........................30

2. Tính tất yếu phải đổi mới cơ chế chính sách ..............................................32

Chương III. Các giải pháp để thúc đẩy sự phát triển của khu vực kinh tế

tư bản tư nhân  trong giai đoạn mới .....................................................................33

I. Quan điểm của Đảng với vấn đề  phát triển kinh tế tư bản tư nhân ...........33

1. Tính tất yếu khách quan của kinh tế tư bản tư nhân  trong nền kinh tế thời

kỳ qúa độ ...................................................................................................................33

2. Tạo sự bình đẳng giữa các khu vực kinh tế ................................................34

3. Nhà nước đóng vai trò điều tiết vĩ mô trong việc khuyến khích phát triển

các thành phần kinh tế...............................................................................................34

II. Phương hướng đổi mới cơ cấu và chính sách phát triển khu vực kinh tế tư

bản tư nhân ...............................................................................................................35

III. Những giải pháp để phát triển khu vực kinh tế tư bản tư nhân ...............38

Kết luận..........................................................................................................45

Tài liệu tham khảo ........................................................................................46

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro