Tử bình- Trúc lâm tử-1A

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Vài nét về tác giả

Trúc Lâm Tử

NGUYỄN Cư Trinh

- Sinh năm 1949 tại Quảng ngãi ;

- Cựu học sinh trường TRẦN quốc Tuấn - Quảng ngãi ;

-Tốt nghiệp QGHC Saigon - 1972

- Cao đẳng kế toán (DECS) - Paris

- Kỹ sư tư vấn tin học quản trị - Paris

- Hiện định cư tại Paris - Pháp từ 1979

Lời cảm tạ :

- Quyển sách này và bộ "Tôi học Bói Dịch" sắp hoàn thành, và các bộ chương trình

điện toán cuả tôi sẽ không thể nào thực hiện được nếu không có sự giúp đỡ cuả

Isabelle, người bạn đời cuả tôi, đã lo lắng mọi việc trong gia đình, để tôi có toàn thì

giờ và tâm trí làm việc. Xin chân thành cảm ơn Isabelle.

- Cảm ơn hoạ sĩ Trần văn Tuôi đã dành nhiều thì giờ thực hiện các bià sách rất mỹ

thuật và công phu.

LỜI NÓI ÐẦU

Ngày xưa, thời còn bé, tôi rất mê đọc Tây du ký. Mê chuyện ly kỳ hấp dẫn, mê

chuyện phép tắc, biến hoá, trừ yêu tinh của Tôn Hành Giả, chê sự ngu si của thầy

Huyền Trang (Tam Tạng) v..v.. Tôi còn nhớ chuyện Thầy trò Ðường Tăng khi vượt

qua sông Hoàng Hà, Ðường Tăng xác phàm không thể qua sông được. May nhờ có

một con rùa lớn đã tu luyện trên ngàn năm nổi lên, chở giúp Ðường Tăng qua sông.

Ðến giữa sông, nó khẩn khoản nhờ Tam Tạng khi gặp Phật tổ thỉnh kinh thì nhớ xin

giùm Phật tổ cho nó được thành người, để nó khỏi uổng công tu luyện cả ngàn năm.

Tam Tạng hứa lời…

Chuyện thỉnh kinh kéo dài cả 14 năm !

Ngày kia, họ thỉnh được kinh trở về, phải băng qua bến sông cũ. Ruà thiêng lại trồi

lên, chở Tam Tạng qua sông. Ðến giữa sông, nó ngóc đầu   hỏi Tam Tạng có xin

giùm Phật tổ cho nó biến thành người không. Tam Tạng đã quên mất… Rùa tức

giận, bèn lặn tuốt.

Tam Tạng chết đuối, xác nổi lềnh bềnh… Hồn Tam Tạng và 3 đồ đệ nhìn xác một

thầy chùa trôi, sao giống Tam Tạng quá. Kinh sách thì ngấm nước , họ mở ra chỉ còn

giấy trắng, uổng công lặn lội 14 năm, với bao vào sinh ra tử !

……..

Mãi về sau, tình cờ tôi đọc Hồ Hữu Tường viết về Tây du ký, mới được mở mắt . Ðại

khái ông giải thích : Tam Tạng chết trôi, nhưng  đó chỉ là xác phàm đã chết, còn một

đức Phật đã sinh. Kinh sách ư ? Nó đã thành giấy trắng, thì có sao đâu. Nó bằng chữ

Phạn, người Trung hoa có hiểu chữ Phạn không ? có chăng chỉ một mình Huyền

Trang. Nhưng Huyền Trang nay đã thành Phật rồi, việc gì phải dựa vào kinh sách

nữa . Hãy nói, giảng Phật pháp cho đồng bào anh bằng chính ngôn ngữ, văn tự của

nước anh.

Hay ! Tôi cảm ơn Hồ Hữu Tường .

Nay, có vẻ khiên cưỡng khi ví chuyện viết « Tôi học đoán mệnh theo khoa Tử

Bình »   với chuyện kinh sách "giấy trắng" của Tây du ký. Nhưng lấy ý từ chuyện

trên, tôi cố viết sách này bằng thứ ngôn ngữ việt nam mà ai cũng có thể hiểu được,

tuyệt đối tránh viết bậy, hay dịch bậy. Chỗ nào chưa rõ tôi sẽ không viết, hay nếu có

chép lại thì cũng chua rõ là mình còn nghi vấn, vì tôi nghĩ làm cho người hậu học

hiểu sai là một tội ác đối với văn hoá.

Ngoài ra tôi cũng cố viết sao để bạn đọc có cảm tưởng như tôi đang NÓI chuyện với

bạn vậy. Bạn có đọc truyện Tàu bao giờ chưa ? Cũng lại Hồ Hữu Tường nữa, ông ta

nói đọc truyện Tàu phải đọc thành tiếng mới thấy cái hay, còn đọc bằng mắt thì chả

ra cái giống gì ! Vậy bạn nên đọc sách này thành tiếng, lười thì đọc vào máy ghi âm

rồi nghe lại ; nghe đi nghe lại nhiều lần nó mới thấm.

Cũng trong tinh thần dùng ngôn ngữ để diễn đạt ý đó, xin ghi lại đây vài « hạt minh

châu » .

Có lờ ... là vì cá,

đặng cá ... hãy quên lờ ;

Có giò... là vì thỏ,

đặng thỏ... hãy quên giò ;

Có lời ...là vì ý,

đặng ý ...hãy quên lời .

Lâu ngày tôi « quên mất » đã đọc ở đâu thời niên thiếu, dường như là ...

trong Nam Hoa Kinh cuả Trang Tử.

Nhưng trước khi biết quên lời, thì đường còn dài, bạn hãy nhớ đến bài vè đồng dao

này của Việt nam :

Con vỏi con voi,

Cái vòi đi trước,

Hai chân trước đi trước,

Hai chân sau đi sau,

Còn cái đuôi ….

đi sau rốt.

Tôi có ý định cho bạn bè xuất bản sách này tại Việt nam, tự chi tự thu, còn tôi không

lấy tiền tác quyền gì cả. Nhưng họ cho biết việc xin phép để xuất bản khó khăn, từ

tháng 10/2003 đến nay vẫn chưa đi tới đâu, và dù có được phép xuất bản thì số tiền

phải chi ra quá lớn chưa chắc đã thu lại được vốn trước khi kiếm lời để họ sống, hơn

nưã có thể sách vưà mới phát hành thì ngoài lề đường đã copy bán đầy ra rồi. Vì thế

tôi quyết định, ngoài việc tự xuất bản tại Paris, đưa toàn bộ lên mạng internet trong

website cuả tôi : www.asiandivinations.com ,phần Việt ngữ . Mời các bạn vào đọc

thoải mái miễn phí. Chỉ yêu cầu khi trích dẫn, thì xin các bạn nêu rõ xuất xứ.

Tác giả cũng mong mỏi có sự trao đổi với   bạn đọc và những bậc thức giả để   cùng

nhau ngày một thăng tiến, và tránh tác phong "dấu nghề", hoặc "mèo khen mèo dài

đuôi", hay "ếch ngồi đáy giếng". Nếu sách có những khuyết điểm cũng xin cho biết

để sửa sai (sẽ đưa ngay lên mạng). Những bài đóng góp, những kinh nghiệm, hay

những trường hợp điển hình... có giá trị, tôi cũng xin sẵn sàng đưa vào website này,

nếu tác giả đồng ý, có đề tên người viết, để đem lại ích lợi cho mọi người.

Paris , tháng 12/2004

DẪN NHẬP

Ðây là một quyển sách bói toán, nhưng không mê tín nhảm nhí.

Người Pháp có câu tục ngữ : « hãy gọi con mèo là con mèo » để ám chỉ rằng đừng nên

dối trá. Thấy sách bói toán bán chạy thì ra sách cẩu thả để bán, nhưng lại ngụy trang

dưới những chương tiết nào là nghiên cứu, nào là khoa học … để treo đầu dê bán thịt

chó ; vậy xin nói thẳng, đây chỉ là sách bói toán.

Trong quá trình tự học cực kỳ gian lao, với việc thiếu tài liệu chính xác, hay tài liệu được dịch sai, hay

được viết bằng thứ tiếng Việt còn quá sơ khai, đúng ra là phiên âm chữ nho hơn là dịch, tôi đã mất rất

nhiều tâm lực tự tìm đường đi cho mình. Nay, để tránh cho những người mới học khỏi mất công tìm tài

liệu, tránh cho họ khỏi hiểu sai, tôi xin trình bày lại một cách sáng sủa, từ dễ đến khó, để người học chỉ

cần một ít cố gắng trong một thời gian ngắn là có thể thực hành được, tiên đoán được, ít nhất cho mình

và người thân, tránh cho họ khỏi rơi vào bẫy của bọn bất lương.

Học là để hành, vì thế tôi không mất thì giờ dông dài để trình bày lịch sử của các thuyết

này thuyết nọ, mà chỉ chú tâm vào những nguyên lý cơ bản, dành nhiều thì giờ cho

cách vận dụng các nguyên lý ấy vào việc lý giải, luận giải các mệnh (và các quẻ trong một

quyển sách khác). Chúng ta có cái may là cùng ở trong văn minh Hán học như người

Trung hoa, Nhật, Triều tiên, Tây tạng, v..v.. nên một số thuật ngữ hay khái niệm coi

như chúng ta ai cũng đều biết, khỏi mất công cắt nghiã dài dòng như khi viết cho người

Âu, Mỹ (nói chung là các nước nằm ngoài văn minh Hán học) .

Chẳng hạn chúng ta ai cũng biết tên 10 CAN là gì, 12 điạ chi là gì, và cũng không mất

công nói về ngũ hành là gì, có hay không, và chuyện sinh khắc giữa chúng, vì đông y ,

đông dược , châm cứu, võ thuật, nội công, phong thuỷ, coi ngày tốt xấu, bói toán,

mệnh lý, tướng học… đều có chung những khái niệm và qui luật về ngũ hành, mà mọi

người chúng ta sinh ra và lớn lên đã tự nhiên « tắm » trong những khái niệm và từ ngữ

này.

Bói toán là dự báo những điều xấu tốt, và lúc nào có thể xãy ra, cho người muốn hỏi.

Cho biết những điều đó một cách lương thiện là trách nhiệm của người bói toán. Nhưng

ranh giới giữa lương thiện và bất lương rất mong manh. Chỉ cần ham tiền một chút là

thầy bói có thể phóng đại các tai hoạ, và ăn tiền trên chuyện giải nạn, giải họa, cúng

kiến … Trong khi đó, giải pháp thật sự không phải thế.

Biết những điều trên, mà có tin không là chuyện của người xin bói. Có nhiều người chỉ

muốn thử chơi, vì thấy thầy bói là chỗ quen biết không lấy tiền, ta không chấp chi

những hạng người này ; có nhiều người thì việc dù lớn dù nhỏ cũng đi hỏi thầy bói mà

mất cả tự chủ. Không định kiến thì rất dễ mắc bẫy, tốn tiền vô ích. Ta chỉ coi trọng

những người thứ nhất có nhu cầu muốn biết, thứ hai họ thành thật muốn biết, và thứ

ba nhu cầu ấy nghiêm chỉnh.

Nếu biết nội dung và thời gian có thể xãy ra rủi ro, tai nạn thì nên tránh và có thể tránh.

Thầy bói lương thiện   có thể hướng dẫn, chứ không thể tránh thế cho đương sự được.

Nói chung, trong các sách của tôi, hay trong khi lý giải - dù là Tứ trụ hay Bát quái -  nếu

có chỉ cho giải pháp thì cũng chỉ căn cứ trên những qui luật  ngũ hành tương sinh tương

Q1-loinoidau                                                                                                 1   01/01/2005

khắc, điạ chi tương xung, tương hợp, tương hình, tương hại, và âm dương biến đổi mà

thôi. Tuyệt đối không có chuyện bùa phép, cúng sao, giải hạn v..v..

Còn nếu đã chỉ cho biết được thời cơ thì cũng chỉ đương sự là có thể tận dụng thời cơ,

chứ   không ai có thể làm thế y được. Không biết lợi dụng thời cơ để hành sự thì khi cơ

hội qua, đừng than thân trách phận gì cả .

Khoa Tứ trụ   xét vận mệnh về mọi phương diện của một người suốt đời, hay chỉ tập

trung trên một lãnh vực nào đó (như tài vận, quan vận, tình duyên v..v.. ), trong một

giai đoạn nào đó.

Vậy phải có một trình tự : trước hết phải biết lập tứ trụ của người đó, rồi xác định

các đại vận 10 năm, đưa vào tất cả những yếu tố tự nhiên có thể ảnh hưởng vào mệnh

(như thần sát, không vong, hình, xung, khắc, hại, hợp …) trên  tứ trụ, và trên hành vận.

Rồi trong mỗi đại vận muốn xét, phải xuống đến tận từng năm (lưu niên) cũng đưa

những yếu tố đó vào lưu niên, theo cùng nguyên tắc. Tới đó ta đã có tất những yếu tố

tạm gọi là « bảng số ».

Tốt, xấu đều được cứu xét, luận giải theo những qui luật nhất định về tương tác ngũ

hành (TA mạnh hay TA yếu, ngang hàng với TA, khắc TA, TA khắc, sinh TA, TA sinh ;

TA bị nguy có được cứu hay không, hay đã   nghèo còn gặp eo ?), trước khi đưa ra kết

luận cho bảng số.

Trình tự của quyển sách, cũng là trình tự để học hỏi và thực hành khoa nầy, được trình

bày như trong phần NỘI DUNG.

Tất cả đều có những qui luật nhất định.

Có thể bạn đọc bị lạ lẫm với một số từ ngữ, thuật ngữ, nhưng không sao, cứ lướt qua,

đây chỉ là dẫn nhập, cốt chỉ ra một trình tự hợp lý của các chương trong sách , trong đó

chúng ta sẽ trở lại chi tiết hơn . Trong trường hợp có nhiều thuật ngữ khác nhau để chỉ

cùng một khái niệm thì tác giả sẽ dùng một thuật ngữ nhất quán trong toàn bộ các sách

của mình, và chỉ nhắc ở phần phụ lục "thuật ngữ (lexiques)" những thuật ngữ khác, để

bạn đọc có thể hiểu các sách khác. Ðôi khi, gặp một thuật ngữ khó hiểu, bạn cũng có

thể tìm ngay ý nghiã trong phụ lục đó trước khi đọc tiếp.

Học bói toán cũng như học võ, hay học bất cứ môn học nào : trước hết phải nắm vững

những bước căn bản, và đòi hỏi thời gian dài để nghiền ngẫm, thực hành, học hỏi , trao

đổi, mới có thể bước đi những bước xa. Học võ mà không biết trung bình tấn, không

nắm vững những thế căn bản, và không khổ luyện thì làm sao có thể luyện được cao

chiêu ?

Sách này chỉ dành cho những ai muốn tìm hiểu, học hỏi về bói toán, hoặc để hiểu về

một nếp văn hoá của người Á đông, và trong chừng mực nào đó có thể ứng dụng cho

bản thân hay những người chung quanh; biết đâu còn có thể làm thầy bói một ngày kia

- tại sao lại không ?

Q1-loinoidau                                                                               2   01/01/2005

Dầu sao, để có thể đọc thông, nhất là có thể tự học theo sách vở, thì ít nhất người đọc

cũng phải có trình độ văn hoá phổ thông .

Và cũng lương thiện mà nói, các khoa bói toán Trung hoa đều có từ hàng ngàn năm,

sách vở, kinh nghiệm tích luỹ tự bao đời đã thành sở hữu chung của người Trung hoa,

và rộng hơn, của nhân loại. Tác giả không phát minh cái gì mới cả, mà chỉ mày mò học

hỏi, thực hành, và cố gắng trình bày lại, theo các sách cổ và mới, một cách mạch lạc,

trong sáng những sở đắc của mình.

Những sách về bói dịch (bát quái) và Tứ trụ hiện nay của Thiệu vĩ Hoa và môn đệ là

Trần Viên rất phong phú và nhất quán, đã tạo thành một phái riêng đặc biệt là lấy lệnh

tháng làm cơ sở để định vượng suy của các Can, Chi và 10 thần. Vì thấy cách trình bày,

lý luận rõ ràng, các ví dụ thì có tổng hợp nhiều mặt, được phân loại theo từng đề mục,

nên tôi đã dựa rất nhiều vào các sách của phái nầy. Các ví dụ thuyết minh đã được viết

lại, chỉ giữ phần cốt lõi, loại bỏ những phần rườm rà, để soi sáng các tổ hợp tiêu chí.

Tác giả cũng là một chuyên viên về tin học, nên đã lập trình các bảng số thay vì nhớ

thuộc lòng, hay theo cách bấm trên đốt các ngón tay (độn), rất được coi trọng từ thời

xa xưa, khi kỹ thuật sao chép không có, hay tất cả chỉ làm bằng tay mất thì giờ. Ngày

nay, với   kỹ thuật photocopy hay lập trình, chúng ta không nên để trí óc ta "quá tảì" vì

những ghi nhớ này, nên tôi không khuyên người mới học phải học thuộc lòng.

Ngoài ra, trong khi lập trình các bộ chương trình bói toán của mình,  tác giả còn nghiệm

thấy rằng cách viết của người Trung hoa hay người Việt nam ta rất "hàm hồ hay nặng

tính ẩn dụ", vì ngôn ngữ của mình; trong khi đó người Tây phương, qua ngữ pháp của

họ (cụ thể là tiếng Pháp và tiếng Anh) thì rất rõ ràng, hiểu là hiểu, chứ không mơ hồ

giữa và   hay hoặc. Ngôn ngữ lập trình của tin học thì rất đơn giản, thậm chí chẻ sợi tóc

làm tư, nên khi diễn dịch cái ngôn ngữ mơ hồ của chúng ta, nó đã cho thấy cách viết

của ta có rất nhiều sơ hở. Ðiều đóng góp nhất định của tôi là chỉ ra, hay đả phá những

mơ hồ này, nếu có thể được.

Tôn chỉ của tôi là biết thì thưa thì thốt, không biết dựa cột mà nghe; nên nếu không biết

hay chưa hiểu rõ thì không nói, không viết, và dù có viết thì cũng nói rõ những ưu ,

khuyết điểm; và nếu có chọn lựa giữa các thuyết thì cũng nói rõ lý do tại sao.

Một quyển sách tốt là một quyển sách   rõ ràng, dễ hiểu, trình bày mạch lạc, có tính sư

phạm , giúp ta đọc một sách mà coi như thâu tóm được tất cả, vừa lý thuyết vừa thực

hành. Ðó cũng là sở nguyện của tôi, mong là không đến nỗi lực bất tòng tâm.

Vì thế tôi không dám xem là một tác gia, mà chỉ là người cóp nhặt có chủ ý.

Xin thành thật tri ân tất cả những ai - đã mất hay còn sống - đã có những đóng góp dù

ít, dù nhiều , cho các phương pháp đó. Và nếu người đọc có thấy các chương mục của

sách này giống   trong các sách khác mình đã đọc thì cũng xin hiểu cho là trong ngành

này, ai cũng đạo văn, đạo ý cả. Văn, ý đã thành những nguyên liệu, ta phải biết tổng

hợp, vận dụng, nếu không thì đó chỉ là những vật chết.

Q1-loinoidau                                                                                3   01/01/2005

Ðề nghị thực tế khi bạn dùng sách này :

Khi đọc sách, hay khi ứng dụng để lập bảng số, đoán mệnh, các bạn nên có ngay

những bảng hay đồ hình rời, photocopy từ các phụ lục cuả sách này ra, bày trước mặt

để có dùng ngay, vì luôn luôn phải so chiếu mới hiểu và thấy ngay tại sao tác giả lại viết

như thế, khỏi mất thì giờ tìm, hay lật tới lật lui nát sách. Ðó là :

- Bảng 10 Can, 12 Chi, lục hợp, tam hợp, tam hội, lục xung, tam hình;

- Bảng 10 thần cho CAN trụ (x)  đối với CAN NGÀY

- Bảng 10 thần cho CHI trụ (x)    đối với CAN NGÀY

- Bảng địa chi tàng Can

- Bảng can hợp hoá

- Bảng Sinh vượng tử tuyệt (gọi tắt là bảng Trường sinh) : rất quan trọng *** để

định Vượng suy, cường nhược của tất cả các can, chi, ngũ hành, 10 thần;

- Bảng lục giáp : để biết "đại mệnh"; và "không vong", hay thứ tự của bất cứ cặp

can-chi nào;

- Hình bàn tay (trái) với các địa chi, để biết "lục hợp", "lục xung", "tam hợp",

"tam hội", phương vị (theo bát quái); khi đã quen thì dùng chính bàn tay của bạn.

- Lúc mới bắt đầu cũng nên có đồ hình vòng tròn tương sinh, tương khắc giữa

Ngũ hành, giữa 10 thần hay lục thân.

- Các bảng định thần, sát.

Ngoài ra các bạn không nên quá ôm đồm, học nhiều khoa đoán mệnh quá. Chỉ cần

"nhất nghệ tinh , nhất thân vinh", và như đã nói : đây là một khoa "hoàn chỉnh".

Q1-loinoidau                                                                                 4   01/01/2005

NỘI DUNG

nội dung của bộ sách này

đề nghị thực tế

Chủ đề của quyển sách này là « khoa Tử Bình »,  tức « đoán mệnh theo tứ trụ », đây là

một khoa đoán mệnh hoàn chỉnh (*), căn cứ trên các học thuyết ÂM-DƯƠNG và   NGŨ

HÀNH chứ không có gì là mê tín dị đoan cả, vì âm dương, ngũ hành là cơ sở cuả tất cả

triết học của Trung quốc .

Vì tính phức tạp cuả khoa này, nên để các bạn dễ sử dụng sách, tôi xin trình bày làm 2

quyển, quyển 1 chú trọng đến những cơ sở lý luận của phương pháp, và quyển 2 nêu

lên khiá cạnh kỹ thuật đoán mệnh có ví dụ vận dụng, chứ không lý thuyết suông, hay

lan man sang các vấn đề khác.

(*) nói hoàn chỉnh vì nó đề cập tới cuộc đời của 1 con người trong tất cả mọi lãnh vực, và qua

suốt cuộc đời của người đó.

Quyển 1 : nặng về lý thuyết, trình bày các cơ sở lý luận và các công cụ thường dùng :

Các cơ sở lý luận của khoa Tử Bình :

* Lý thuyết âm dương

* Lý thuyết ngũ hành

* Tứ trụ là gì ?

* Cách xác định tứ trụ

* Tam nguyên của tứ trụ

* Nhật nguyên : Thân vượng, Thân nhược

* Vận trình : Ðại vận - Lưu niên

* những khái niệm căn bản .

ngũ hành sinh khắc

10 thần (hay lục thân)

Thai nguyên và Cung mệnh.

Cách cục

Dụng thần

* Các công cụ thường dùng của khoa này

* những nguyên tắc vận dụng tổng hợp để dự đoán.

Các công cụ thường dùng :

Thiên can - Ðịa chi

Bảng nạp âm 60 hoa giáp

Lệnh tháng (tiết khí)

Bảng Trường-sinh của 10 thiên can

tất cả đều xoay quanh ngũ hành, dù dưới quan điểm ngũ hành, hay dưới quan

điểm 10 thần (hay lục thân). Ðó là cốt tuỷ của khoa Tứ Trụ.

Q1-noidung                                                                                       1   01/01/2005

Các Thần, Sa't : tuy cũng là công cụ thường dùng, nhưng chỉ có tính cách bổ trợ,

không phải là chủ yếu cuả khoa Tử Bình vì thế Thần Sát sẽ được trình bày

trong quyển 2, để có đầy đủ yếu tố vận dụng.

Quyển 2 :

Nhưng lý thuyết suông thì khô khan, khó nhớ, lại dễ chán, dù bạn có đọc nát sách cũng

vẫn không xem mệnh được; nên quyển 2 sẽ chú trọng về thực hành, cụ thể qua mệnh

của những con người trong kiếp nhân sinh này. Đây là những ví dụ vận dụng điển hình

các cơ sở lý thuyết trong quyển 1, điều mà ai cũng quan tâm khi học đoán mệnh để biết

thực hành, nếu không thì còng lưng đọc sách, nghiên cứu để được ích gỉ ?

* những lãnh vực dự đoán (tiêu chí những sự việc có thể xảy ra cho mệnh / lúc

nào thì có thể xảy ra (tức thời gian ứng nghiệm) :

- cha mẹ, tổ nghiệp

- hôn nhân

- tài vân

- quan vận

- học tập - thi cử - danh vọng

- bệnh tật - tai nạn , rủi ro - lao tù

- tính tình

- con cái

- anh chị em.

(tóm lại là cho mình và lục thân);

* những vấn đề mà mọi người đều quan tâm :

- phối hôn;

- những cách hoá giải cho các mệnh có vấn đề.

Q1-noidung                                                                              2   01/01/2005

Chương 1

KHOA TỬ - BÌNH (hay TỨ - TRỤ , hoặc BÁT - TỰ )

Lịch sử

Nguyên lý

Ứng dụng

Tứ trụ cuả một người   là 4 trụ gồm năm, tháng, ngày, giờ sinh theo âm lịch, mỗi trụ được chỉ bằng 2 chữ

Can và Chi nên thành 8 chữ (bát tự). Vậy bất cứ một thời điểm   năm, tháng, ngày, giờ âm lịch nào cũng

đều là "tứ trụ" cả, không cứ là ngày giờ sinh ; Ví dụ trong việc xem quẻ Dịch, thì năm, tháng, ngày, giờ âm

lịch lúc gieo quẻ cũng là một Tứ trụ.

Trước khi đi sâu vào phương pháp này, một lịch sự tối thiểu là chúng ta phải biết nguồn

gốc , những nguyên tắc cơ bản , và các ứng dụng hay ích lợi của nó. Nếu vô dụng thì hơi

đâu bạn mất tâm lực để nghiên cứu nó làm gì !

Lịch sử của khoa Tứ trụ :

- Phương pháp này do LẠC Lộc sáng tạo từ đời nhà Ðường (618-907) bên Trung hoa,

qua bài phú nhan đề « Lạc lộc tử tam mệnh tiêu tức » dựa trên học thuyết ngũ hành

xuất hiện từ   đời nhà Hán (cách nay trên 2000 năm). Có thể nói không hàm hồ là toàn

bộ khoa Tứ Trụ đều xây dựng trên cơ sở âm dương và ngũ hành.

Ông dùng Can, Chi của năm, tháng, ngày, giờ sinh, chuyển qua ngũ hành, rồi theo

sinh khắc chế hoá để tiên đoán vận mệnh cho rất nhiều người, tất cả đều chuẩn xác, nên

đương thời coi ông như Thần, gọi ông là Lạc Lộc Tử.

Trọng tâm   lý luận của Lạc Lộc là Trụ Năm, nó là chúa tể của 4 mùa, 12 tháng

(nguyệt / mặt trăng), 360 ngày (nhật / mặt trời).

- Phương pháp này sau đó được LÝ hư Trung , nhà thông thái của Hoàng gia nhà Ðường,

thâm cưú, bổ túc thêm, nhưng vẫn còn dưới dạng các bài phú. Văn vần hay thơ thì dễ

học thuộc lòng, và dễ truyền bá trong dân gian.

- Ðến đời Ngũ đại (907-960), nó được TỪ Cư Dịch, tự là   Tử Bình , thường xưng là Bồng

lai tẩu, quê ở Ðông hải, ẩn cư tại Hoa sơn cùng với Lã đồng Tân, tu tiên , rất giỏi về

mệnh lý học, bình chú bài phú nói trên, viết thành sách 2 quyển «Lạc lộc tử tam mệnh

tiêu tức phú chú »    một cách có hệ thống, diễn giải lại toàn bộ thuật coi bát tự của Lạc

lộc tử. Sách này được dùng mãi đến nay, nên đời sau gọi là phương pháp Tử Bình, để

tưởng nhớ đến công lao cuả ông .

Trọng tâm   lý luận của Tử Bình là Trụ Ngày, chữ ngày viết theo chữ Hán là nhật /

mặt trời, chi phối toàn bộ vận mệnh của một người, do đó nó được gọi là Nhật nguyên,

THÂN (là TA), hay MỆNH CHỦ.

- Qua đời nhà Tống (960-1279), có hoà thượng Từ Ðạo Hồng đã quảng bá khoa này

rộng rãi ở Giang Nam. Rất nhiều người nắm vững, và lưu truyền đến ngày nay. Nó dần

dần đã vượt biên giới Trung quốc, lan truyền qua Ðài loan, Việt nam, Ðông Nam Á.

- Ðến đời nhà Minh (1368-1644), có Vạn Dục Dân, tiến sĩ, nhà thông thái, đã viết một tác

phẩm lớn, tổng hợp toàn bộ các kiến thức về xem mệnh được biết cho đến thời đó ở

Trung hoa, trọng tâm vẫn là khoa Tử Bình.

Q1-Ch01-khoa Tu-Binh                                                                                          1   02/01/2005

Nguyên lý của khoa Tứ trụ :

Khoa này không dùng Bát Quái và Kinh Dịch, ngoại trừ khái niệm Âm/Dương. Ngược lại,

nó tập trung vào ngũ hành của tứ trụ. Mỗi trụ được tượng trưng bởi 1 trong 10 Can

(Giáp, Ất,..., Nhâm, Quý , ứng với Trời / không gian, nên gọi là Thiên can),   và 1 trong

12 Chi (Tý, Sửu, Dần,...,Tuất, Hợi, ứng với Ðất / thời gian, nên gọi là Ðịa chi).

Mỗi địa chi trên các trụ có tàng chứa từ 1 đến 3 Can, gọi là Nhân nguyên, một khái niệm

rất quan trọng trong khoa Tử Bình vì nó hàm ngụ về người và sự việc có liên quan tới

mệnh : nếu xãy ra việc gì (sự việc), xãy ra cho ai (người), vào thời điểm nào ?

Tử Bình lấy CAN NGÀY làm trung tâm (gọi là mệnh chủ) , phối với các can trên trụ

khác , bất kể là lộ trên can hay tàng trong địa chi, thành 10 thần. Mỗi thần tượng trưng cho

người thân, hay việc, hay một lãnh vực nào đó cuả mệnh. Nên nhớ xem mệnh chẳng qua

chỉ là xem cho một người, và những người có liên quan thiết thân tới y mà thôi (như

vợ/chồng, cha mẹ, con cái, anh chị em). Còn việc, lãnh vực trong đời y   thì chẳng qua là

tiền tài, hôn nhân, sự nghiệp, tai nạn, sức khoẻ, v..v..của y, và của người thân cuả y.

Ðại cuộc thì như thế, nhưng để biết những diễn biến suốt cuộc đời, như một kịch bản,

một « chuyện phim đời » , nó chia đời ngươì   thành các   vận 10 năm (gọi là đại vận -

cũng giống như khoa Tử vi), rôì trong mỗi vận lại xét từng năm (còn gọi là lưu niên hay

thái tuế), cả hai đều sắp xếp theo can-chi, nên từ đó cũng phối với CAN NGÀY thành 10

thần , an trên đại vận và lưu niên, do đó ta   không phải chỉ có 4 mà  là 6 trụ (4 trụ + đại vận + lưu

niên) để luận giải . Có khi lại còn chia năm ra từng tháng, tuy rằng xuống tới tháng thì ít

khi dùng đến, nhưng cũng cùng một nguyên lý ngũ hành sinh khắc chế hoá; nó được

dùng trong trường hợp người xin đoán cần lấy những quyết định quan trọng trong một

năm nào đó.

Khoa này cũng dùng cát cát thần và hung sát tương tự trong Tử vi và Bốc phệ (bói Dịch)

để giải đoán   vận mệnh. Nhưng bọn thuật sĩ đã tạo ra quá nhiều thần sát để hù dọa

những người mê tín đặng thủ lợi, đến nỗi người đời sau không biết đâu mà mò. Chúng ta

chỉ cần khoảng 15 thần sát thường dùng là đủ. Cốt tuỷ vẫn là âm dương, ngũ hành sinh

khắc chế hoá, còn Thần sát chỉ nên được dùng để bổ túc (phụ hoạ) cho các kết luận khi

dự đoán.

Tử Bình lý giải Mệnh, Vận bám sát theo :

- Âm dương

- Ngũ hành sinh khắc chế hoá

- Ðịa chi hợp, xung, hình, hại

qua các tương tác giữa mệnh cục (tứ trụ), và đại vận, lưu niên - tức vận trình ; vì dùng

ngũ hành nên độ chính xác của thời gian ứng nghiệm cao nhất, hơn hẳn các khoa khác.

Và tuỳ khả năng thiên phú, bản lĩnh   nắm bắt được các thông tin, trình độ tổng hợp cao

hay thấp, toàn diện hay không   của người đoán...mà kết luận có thể đúng hay sai, hay

hay dở, chứ không cứ là phải hành nghề lâu năm mới giỏi, dù rằng kinh nghiệm cũng rất

cần thiết. Vậy bạn hãy cứ vững tin nơi bạn, và đừng sợ ai cả, kể cả những bậc thầy.

Q1-Ch01-khoa Tu-Binh                                                                                     2   02/01/2005

Ứng dụng của khoa Tứ trụ :

- mô tả tính tình, tướng mạo, sự nghiệp, nghề nghiệp, điạ vị xã hội, học hành, tiền bạc ,

giàu sang nghèo hèn, cát hung, thọ yểu , hôn nhân, tình duyên, bệnh tật, tai nạn , rủi ro,

tử vong, lao tù , v..v.. của một người.

- vạch ra cuộc đời của một người, từ lúc còn bé thơ, thanh niên, trung niên, đến già,

chết;

- nêu rõ những việc liên quan đến các người thân của y : tổ nghiệp (âm đức tổ tiên), ông

bà , cha mẹ, anh chị em, vợ/chồng, con cái;

- Nắm vững khoa này có thể giúp ta tìm giải pháp cho các mệnh có vấn đề.

Ví dụ   theo Ðông Y, một người sẽ bệnh nêú ngũ hành (thông qua ngũ tạng, lục phủ)

trong cơ thể không quân bình ; để định bệnh, phải xem mạch ; và để chữa bệnh, phải

dùng dược liệu, hay châm cứu ; tất cả đều dựa trên lý luận âm dương, ngũ hành, để

điều hoà ngũ hành của ngũ tạng, lục phủ. Ðó là                                               y bệnh

Ðờì một ngườì cũng vậy, nêú ngũ hành của năm, tháng, ngày, giờ sinh thông qua

Can-Chi mất quân bình thì mệnh đó có bệnh, hung nhiêù, cát ít (tai nạn, bệnh tật, rủi

ro, chết yểu ...). Phương pháp Tứ Trụ giúp ta định được các nguyên nhân, rôì có thể tìm

giải pháp cho mệnh (đó là                                                                    y-mệnh) .

- Phương pháp này cũng rất thích dụng thời nay cho việc tuyển dụng nhân viên. Thật

vậy, hiện nay ở Tây phương,  ngườì ta đã dùng các phương pháp phân tích chữ viết, chữ

ký (graphologie) , tử vi tây phương (zodiaque) trong việc tuyển người vào các xí nghiệp,

tại sao ta lại bỏ qua phương pháp Tứ Trụ, đã từng được lịch sử chứng minh trên hơn

1000 năm nay ? Ðiều này chắc chắn khoa Tứ Trụ sẽ có đóng góp nhất định.

- Trong các khoa Bát trạch - Phong thuỷ , ngoài Bát quái, thì Tứ Trụ của chủ nhà còn

giúp ta định được « hành bản mệnh                                                            (hay Dụng Thần) »   của y, rồi qua nó mới định được

hướng nhà tối ưu, theo hành đó, trong khi khoa Bát trạch (cung phi) chỉ dùng có 1 trụ

năm, nên cục bộ hơn.

- Mệnh lý học phối hợp với nhiêù phương pháp khác để vận dụng trong các việc :

* Ðầu tư, kinh doanh, theo đúng thời vận;

* hướng nghiệp ;

* So tuổi trong việc kết hôn; mướn người ; chọn người hùn hạp ;

* Xây cất nhà cửa, mua nhà hay sửa nhà.

* v…v…

Chú ý : Người xin xem mệnh phải cung cấp đủ năm, tháng, ngày, giờ sinh chính xác, và

phái tính (Nam hay nữ) . Không có đủ 4 yếu tố này (bốn Trụ),   không nên xem. Nếu bạn

không có đủ cả 4, đừng tốn tiền vô ích, bởi lẽ đó là số của người khác, không phải của

bạn.

Q1-Ch01-khoa Tu-Binh                                                                         3                   02/01/2005

Ngoài ra, phải để ý đến nơi sinh, và ở những khoảng niên đại nào. Vì sao ?

Nhiều nước trong các giai đoạn lịch sử cận đại, giờ trong ngày đã có những thay đổi do

nhà cầm quyền chính trị đương thời áp đặt, khác với giờ tự nhiên, ví dụ Việt nam đã đổi

giờ nhiều lần. Cũng như ở Âu châu sau khủng hoảng năng lượng 1973, từ 1976 để tiết kiệm nặng lượng

sưởi vào muà đông, các chính phủ đã cho đổi giờ 2 lần trong năm tuỳ muà đông hay muà hè, ngoại trừ

nước Anh, vì kinh tuyến gốc của nó chạy qua London, làm chuẩn cho giờ quốc tế GMT,   nên không đổi giờ

được. Vì thế chúng ta phải định lại giờ theo đúng giờ tự nhiên. Chúng ta sẽ trở lại vấn đề

nầy, trong mục lập tứ trụ.

Có người cho rằng phải lấy giờ Bắc kinh làm chuẩn, tất cả trên toàn thế giới phải

qui ra giờ Bắc kinh mới đoán đúng được (sic ! ). Theo tôi, đây chỉ là một thứ tinh thần

chauvin nước lớn của mấy anh Tàu !   Vì sao ? Vì Giờ giấc là do mặt trăng, mặt trời quyết

định đêm ngày (âm dương) ở chỗ người đó được sinh ra, chứ đâu phải Bắc kinh quyết

định !

Về xem quẻ theo bát quái cũng vậy, ngày giờ là ngày giờ lúc và nơi người ấy gieo

quẻ, hay muốn hỏi. Lúc đó và ở đó Âm dương, nhật, nguyệt mới ảnh hưởng trực tiếp vào

y, và tâm tư y, rồi qua sóng điện não mà ra quẻ. Ngày nay, với phương tiện truyền thông

hiện đại (điện thoại, internet…), ta có thể trả lời trực tiếp cho người hỏi, bất cứ họ ở nơi

đâu. Kinh nghiệm cho thấy tôi ở Paris mà giải đoán cho mọi người, trên khắp thế giới,

qua điện thoại hay internet, đều   luôn luôn chính xác, không khác gì họ ngồi trước mặt

tôi để xin đoán.

Q1-Ch01-khoa Tu-Binh                                                                                     4   02/01/2005

Chương 2

ÂM DƯƠNG - NGŨ HÀNH

ÂM DƯƠNG

NGŨ HÀNH

ÂM DƯƠNG

Ðịnh nghiã , phân loại :

Âm dương là 2 yếu tố quan trọng trong cuộc sinh thành tiến hoá của muôn vật. Ý nghiã tuy

trái ngược nhau nhưng trong sự sinh hoá, Âm dương   luôn luôn dung hoà lẫn nhau, tương

giao cùng nhau, bổ túc lẫn  nhau, liên kết với nhau mật thiết.

Âm dương là lưỡng nghi, sẽ phân ra làm 4 gọi là tứ tượng :

Thiếu dương : khí dương còn non;

Thái dương                                                                                      : dương cang cực;

Thiếu âm                                                                                        : âm mới sinh;

Thái âm                                                                                         : âm dày đặc.

Ðặc tính :

Dương : động, nóng, sáng, trong, nhẹ, nổi lên trên, khô ráo, cứng, mạnh, tiến đi ra,

đến mau lẹ, mở;

số lẻ, nam, ngày , trời, mặt trời, hoả, bên trái cơ thể;

Âm                                                                                              : Tĩnh, lạnh, tối, đục, nặng chìm xuống dưới, ẩm ướt, mềm, yếu, lùi trở lại,

đến chậm chạp, đóng;

số chẵn, nữ, đất, đêm, mặt trăng, thuỷ, bên phải cơ thể.

Tính tình :

Dương : bất khuất, nóng nảy , vui vẻ, bướng bỉnh, ngang ngược, quang minh chính

đại, khảng khái, hào hiệp, có lòng từ thiện, ít suy xét, giữ vững lập trường, quyết định mau

chóng, làm cái gì cũng hay quá đáng.

Âm : Chiụ đựng, mềm mỏng, lo sầu, nhịn nhục, nhút nhát, tiểu nhân, dối trá, nhỏ

nhen, a dua, nịnh hót, trục lợi, thích an nhàn, hay nghĩ ngợi, không có định kiến, thay đổi ý

kiến luôn, quyết định chậm chạp, làm cái gì cũng rụt rè sợ hãi.

Âm dương phối hợp điều hoà : quân tử, thuần hậu, cư xử đứng đắn, hành động cân

nhắc điều hoà.

Sự biến chuyển :

Trong sự biến hoá tuần hoàn : âm trưởng thì dương tiêu; dương trưởng âm tiêu; âm tăng

đến chỗ cực thịnh thì dương sẽ phát sinh và âm sẽ thoái dần; và dương tăng đến chỗ cực

thịnh âm sẽ phát sinh và dương sẽ thoái dần .

Q1-ch02-Amduong-Nguhanh                                                                         1                                                                              02/01/2005

Ví dụ : Trong 1 năm 12 tháng,

- mùa đông âm khí nhiều, khí hậu lạnh; gần cuối đông âm khí thịnh dương khí bắt

đầu sinh;

- qua mùa xuân, dương khí mới phát sinh còn non, khí hậu ấm áp;

- đến muà hạ, dương khí tăng trưởng khí hậu nóng, gần cuối hạ dương khí   cực

thịnh, khí hậu nóng bức, âm khí phát sinh;

- qua muà thu, âm khí mới sinh khí hậu mát, âm khí dần dần tăng trưởng bước qua

mùa đông ; rồi cứ thế tiếp diễn.

Trong 1 ngày 12 giờ cũng vậy : nửa đêm, sáng sớm, giữa trưa, buổi chiều, lại nửa đêm.

Giưã năm và ngày có một sự tương đồng khá kỳ lạ.

Âm dương tương giao hoà hợp

Âm dương giống như 2 cực của nam châm, cùng tính thì chống đẩy nhau, khác tính

thì thu hút lẫn nhau, nên dù ý nghiã trái ngược nhau, nhưng trong mọi vật 2 yếu tố ấy luôn

luôn dung hoà lẫn nhau, tương giao cùng nhau. Cả hai đều đóng vai trò quan trọng trong

cuộc sinh thành của muôn vật; dương có tác động gây ra mầm trước, và âm sẽ hoàn thành

sau, thiếu một cái thì không thể hình-thành được, vì "cô dương bất sinh, cô âm bất trưởng"

, nghiã là chỉ có dương thì vạn vật không sinh, và chỉ có âm vạn vật không lớn được.

Giai đoạn Âm dương của đời người

                                                                                                           dương                                             âm

Sơ sinh                                                                                      Phát dục                           trưởng   Tráng   thịnh cực   Suy                 Lão đại     tử tuyệt

                                                                                                                                thành    vượng               nhược               (già nua)

mới sinh                                                                                                                                 30      tuổi                                        lúc chết

                                                                                                           hướng vượng (tiến)                                hướng suy (thoái)

Từ sơ sinh đến 30 tuổi, cơ thể mỗi ngày một lớn mạnh nên thuộc dương; 30 tuổi là

lúc cực thịnh, nhưng rồi cơ thể sẽ dần dần suy, nên từ sau 30 tuổi đến khi chết thuộc âm.

NGŨ HÀNH

Ðịnh nghiã :

ngũ hành là 5 hành : mộc, hoả, thổ, kim, thuỷ.

Hành có nghiã là lưu hành ; 5 hành này luôn luôn vận chuyển sinh khắc chế hoá ảnh

hưởng trên vận mệnh con người.

Ngũ hành, qua can chi của 4T của 1 người, đại biểu cho :

Tính tình ;                                                                                  Nhân thể ;

Màu sắc ;                                                                                    4 mùa ;

Mùi vị ;                                                                                     phương vị ;

Q1-ch02-Amduong-Nguhanh                                                                      2             02/01/2005

đó đều là những đặc tính căn bản.

Sự sinh thành :

Khí Âm dương luân chuyển biến hoá mà tạo ra ngũ hành, 5 hành của ngũ hành được

hình thành qua 2 giai đoạn.

1) Giai đoạn sinh :

Nói về số thì : Trời 1 sinh thuỷ, đất 2 sinh hoả, trời 3 sinh mộc, đất 4 sinh kim, trời 5

sinh thổ. Vậy số 1,2,3,4,5 là số sinh của ngũ hành.

Diễn tả về ý nghiã :

- khi trời đất vừa thành lập, dương khí sinh ra nước trước nhất; thuỷ sinh ra ở lần

thứ                                                                                          1,

- dương khí sinh ra nước, âm khí sinh ra lửa đối lại nên hoả sinh ra ở lần thứ 2,

- có thuỷ hoả tất khí nóng lạnh xô xát nhau mà tạo ra gió nên mộc sinh ở lần thứ 3

(phong là gió sinh mộc) bởi dương khí,

- dương khí sinh mộc thì âm khí phải sinh kim đối lại nên kim sinh ra ở lần thứ 4;

- cuối cùng thổ sinh ra để bao dung cả 4 hành trên, nên thổ sinh ra ở lần thứ 5 bởi

dương khí.

2) Giai đoạn thành :

Ở trên là lẽ sinh của ngũ hành, nhưng đã có sinh thì phải có thành, sinh bắt đầu bởi dương

khí thì thành bắt đầu ở âm khí; Âm dương phối hợp có công dụng sinh-thành.

Nếu nói về số thì :

Trời 1 sinh thuỷ, đất 6 thành thuỷ;

đất 2 sinh hoả, trời 7 thành hoả;

Trời 3 sinh mộc, đất 8 thành mộc;

đất 4 sinh kim, trời 9 thành kim;

Trời 5 sinh thổ, đất 10 thành thổ;

vậy số 6,7,8,9,10 là số thành của ngũ hành.

Tóm lại 1,6 sinh-thành thuỷ; 2,7 sinh-thành hoả; 3,8 sinh-thành mộc; 4,9 sinh-thành kim;

5,10 sinh-thành thổ.

Phương hướng :

Mộc ở phương đông, hoả ở phương nam; thổ ở trung ương (chính giữa), kim ở phương tây,

thuỷ ở phương bắc. Ðây chính là phương vị ngũ hành trong Hà đồ.

Q1-ch02-Amduong-Nguhanh                                                                      3    02/01/2005

(Hình vẽ)

Q1-ch02-Amduong-Nguhanh   4   02/01/2005

Ngũ khí :

- Phong khí thuộc mộc;

- Thử khí (khí nóng gay gắt của mùa hạ) và nhiệt khí thuộc hoả;

- Thấp khí (khí ẩm ướt) thuộc thổ;

- Táo khí (khí khô do mát mà thành) thuộc kim;

- Hàn khí (tức khí lạnh) thuộc thuỷ.

Ngũ thường :

Là 5 đức thường của con người : nhân, nghiã, lễ, trí, tín. Tương ứng qua ngũ hành :

mộc chủ nhân, hoả chủ lễ, thổ chủ tín, kim chủ nghiã, thuỷ chủ trí.

- Con người sinh ra tính vốn bản thiện, nên mộc chủ nhân vì mộc là sơ khí.

- Ðức nhân đã có , phải học tập để biết cách cư xử cho đúng phép, hoả chủ lễ; vì

mộc sinh hoả và hoả là nhị khí;

- Hiểu lễ thì bao giờ cũng thành thực, thổ chủ tín vì hoả sinh thổ.

- Nhân lễ tín đã có, ắt hành động theo lẽ phải; kim chủ nghiã, thổ sinh kim.

- 4 đức trên đã sẵn sàng, trí sẽ nảy sinh để hiểu rõ sự lý, con người trở nên hoàn

toàn, thuỷ chủ trí vì thuỷ là chung khí.

Tạng phủ : xem bảng tổng hợp;

Biểu tượng vật chất : xem bảng tổng hợp;

Sinh khắc :

Sự sinh khắc ngũ hành là nguồn gốc của sự chế hoá trong vũ trụ; hợp với nhau là sinh, mà

sinh thì tiếp tục tăng lên; trái với nhau là khắc, mà khắc thì bị hạn chế bớt lại.

1) Tương sinh : mộc sinh hoả, hoả sinh thổ, thổ sinh kim, kim sinh thuỷ, thuỷ sinh mộc;

- đốt cây sẽ có lửa                                                                        : mộc sinh hoả

- mọi vật đem đốt cháy sẽ trở thành tro bụi trở về đất : hoả sinh thổ,

- trong đất có quặng mỏ kim loại : thổ sinh kim,

- kim loại nấu chảy thành nước                                                             : kim sinh thuỷ

- nước rất cần thiết cho sự sống của cây : thuỷ sinh mộc;

2) Tương khắc : mộc khắc thổ, thổ khắc thuỷ, thuỷ khắc hoả, hoả khắc kim, kim khắc mộc.

- trồng cây lâu đất trở nên cằn cỗi                                                        : mộc khắc thổ,

- đất lấp được sông biển ao hồ                                                             : thổ khắc thuỷ,

- nước dập tắt được lửa                                                                    : thuỷ khắc hoả,

- lửa làm chảy kim loại                                                                    : hoả khắc kim,

- dao bằng kim loại chặt đứt cây                                                           :  kim khắc mộc.

Q1-ch02-Amduong-Nguhanh                                                                    5                  02/01/2005

trên vòng tròn, 2 hành liên tục theo chiều kim đồng hồ là ngũ hành tương sinh;

cách ngôi , theo ngôi sao, theo chiều mũi tên là ngũ hành tương khắc. Ở đây, bạn chưa

cần để ý tới hình bên phải vội.

Nhưng giưã các hành, không chỉ đơn giản là tương sinh, tương khắc. Cần chú trọng mặt

thái quá và mặt bất cập của các hành :

* Kim vượng                                                                                              : gặp Hoả sẽ thành vũ khí (có ích) ;

* Hoả vượng                                                                                              : gặp Thuỷ thì trở thành cứu ứng cho nhau   ;

* Thuỷ vượng                                                                                             : gặp Thổ sẽ thành ao hồ ;

* Thổ  vượng                                                                                             : gặp Mộc  thì việc hanh thông ;

* Mộc vượng                                                                                              : gặp Kim sẽ trở thành rường cột ;

Theo Chu Dịch : "mọi việc, mọi vật trong thế gian đều thống nhất ở thái cực". Ngũ hành là

sự thể hiện rõ nhất, lớn nhất của vạn vật ; cho nên mọi việc, mọi vật thống nhất ở   âm

dương, ngũ hành.

Con người là một linh vật trong vạn vật, nên tất nhiên nó phải chịu ảnh hưởng của sự vận

động không ngừng của vũ trụ. Khoa Tử Bình dự đoán theo Tứ trụ là một khoa dự đoán có

tham vọng giải thích toàn diện về cuộc sống của 1 cá nhân - tiểu thiên địa -  nó nghiên cứu

các qui luật chi phối sinh mệnh con người, vận dụng các qui luật sinh, khắc cuả ngũ hành

để giải thích tương quan giữa con người và trời đất.

Ngũ hành trong 4T có cái thiên vượng, có cái thiên nhược.

Mặt vượng : chỉ những đặc tính lộ rõ , nổi trội ;

Mặt nhược : chỉ những đặc tính chìm ẩn hoặc yếu hơn ;

Mặt thiếu khuyết : Ta có thể bổ sung cho người đó, để hướng tới cái tốt, tránh cái

xấu ;

Ví dụ : người trong 4T không có hành Thuỷ thường thích màu đen (xe cộ, y phục, trang trí ..., và

thường bị bệnh về thận, bàng quang ; họ sẽ được bổ sung bởi màu sắc đen, phương Tây (kim, sinh thuỷ) ;

hay phương Bắc (Thuỷ vượng).

Q1-ch02-Amduong-Nguhanh                                                                                  6                                           02/01/2005

Qua sự bổ sung lý tính, hoặc qua sự lựa chọn có lợi cho sự nghiệp, nghề nghiệp, tiền đồ,

hôn nhân, tài phú, quan lộc, phúc thọ, lục thân, sức khoẻ, để cân bằng tổng hợp cho 4T,

tức là ta đã chọn sự bổ sung có lợi, không có hại.

Chữ bổ là chià khoá vàng của Khoa Tử Bình : đó là bổ khí âm dương ngũ hành, bao gồm

không gian và thời gian của vũ trụ, mà người đó nhận được lúc sinh ra.

Qua các khí của ngũ hành trong 4T ta có thể dự đoán được các mặt sau đây của 1 người :

Nhân dáng, tính tình :

Từ mệnh lý có thể đoán biết được bẩm tính, diện mạo, vóc dáng, nói năng, cử chỉ,

thiện ác . . . của con người. Nếu biết nhiều phương pháp dự trắc khác, và tổng hợp

được   với phương pháp 4T thì kết luận   càng chính xác, có thể thấy thêm được các

mặt lộ ra về âm đức, phong thuỷ, nhà cửa, di truyền.

Bản tính cuả con người là phẩm chất bẩm sinh vốn có. Tính tình con người có quan

hệ mật thiết với ngũ hành ; tuy có thể thay đổi do ảnh hưởng của hậu thiên (hoàn

cảnh gia đình, môi trường giáo dục ...), nhưng căn cứ vào sự Vượng Suy Sinh Khắc

của âm dương , ngũ hành đã được thể hiện trong tứ trụ (tiên thiên) , thì về căn bản,

thiên tính con người không dễ thay đổi.

Ngành nghề, phương vị thích hợp : cho biết ngành nghề thích hợp, và phương hướng có

lợi ;

Các bộ phận và tạng phủ : cho biết sức khoẻ ; bệnh tật có thể gặp phải.

Ngũ hành phản sinh  và phản khắc :

Tuy nhiên, trong Ngũ hành sinh khắc, nếu chúng ta chỉ biết thuần sinh và thuần khắc, mà

không biết được sự phản sinh, phản khắc thì sẽ vận dụng không tốt lý luận Ngũ hành sinh

khắc để tiến hành dự đoán các thông tin về nhân thể.

a) Tự thân vượng mà có cái khắc bớt : sẽ tốt.

Về Ngũ hành sinh khắc, trong sách "Nguyên lý phú" của Từ đại Thăng có nói :

Kim Vượng mà được Hỏa                                                                      sẽ thành vũ khí

                                                                                           Hoả Vượng mà được Thuỷ    sẽ thành cứu nhau

                                                                                           Thuỷ Vượng mà được Thổ     sẽ thành ao đầm

Thổ Vượng mà được Mộc                                                                      sẽ thành thông thương

Mộc Vượng mà được Kim                                                                      sẽ thành trụ cột.

                                                                                           Khi nói Kim Vượng mà được Hỏa sẽ thành vũ khí   là nói Nhật nguyên là KIM vượng (trong

                                                                                           tứ trụ lấy can ngày làm mệnh chủ, còn gọi là thân, hay Nhật nguyên), phải có Hỏa khắc

KIM để rèn luyện thì Kim đó mới thành vũ khí.

Q1-ch02-Amduong-Nguhanh                                                                    7                                                                                        02/01/2005

Những hành khác cũng lý luận tương tự.

Can ngày VT, đắc thời, đắc địa mới có thể làm quan đảm nhiệm trọng trách với dân với

nước , hoặc để đối chọi lại được cái Sát (khắc) tôi. Tức là   nói tổ hợp tứ trụ phải tốt thì lưu

niên, đại vận mới có thể tốt được.

b) Nếu tự thân yếu, suy mà còn bị khắc (can ngày yếu lại gặp Sát) thì tứ trụ

thiên nhược,  lưu niên, đại vận tất nhiên sẽ xấu nhiều tốt ít ;

c) Phản sinh là khắc (cái SINH quá nhiều) ;

d) Tiết khí nhiều là khắc (cái được SINH quá nhiều) ;

e) Phản khắc (cái bị khắc lại quá mạnh hay nhiều, thì chính cái đi khắc sẽ bị thiệt

hại)

Ngũ hành quá dư thưà (tự thân đã vượng lại còn được phù trợ) : thái quá bao giờ cũng

xấu.

Bảng tóm tắt  Âm dương, ngũ hành

                                                                                                       dương                                 âm

đặc tính                                                                                               động, nóng, sáng, trong, nhẹ, tiến,                                 Tĩnh,  lạnh,  tối,  đục,  nặng,  lùi,

                                                                                                       cứng, mạnh                            mềm, yếu

Tính                                                                                                   bất  khuất,  nóng  nảy,  hào  hiệp,                                 chịu đựng, mềm mỏng, lo sợ, nhút

tình                                                                                                   thích hoạt động, quyết định mau                                     nhát, quyết định chậm chạp…

                                                                                                       chóng …

số                                                                                                     lẻ                                    chẵn

Ngũ                                                                                                    mộc, hoả                              Kim, thuỷ

hành

mùa                                                                                                    Xuân, hạ                              Thu, đông

Thiên                                                                                                  Giáp, bính, mậu, canh, nhâm                                         ất, đinh, kỷ, tân, quý

can

điạ chi                                                                                                Tý, dần, thìn, ngọ, thân, tuất        sửu, mão, tị, mùi, dậu, hợi

Xem mệnh là xem tất cả mọi khiá cạnh cho một con người , bảng này cho ta một số ứng dụng về mặt tính

cách, và tính tình ;

Sách "Hoàng đế nội kinh" đã luận về âm dương như sau : "âm dương là đạo của trời

đất, là kỷ cương của vạn vật, là cha mẹ của sự biến hoá, là nguồn gốc của sự sinh sát";

"Sự hợp của trời đất gắn chặt với âm dương ngũ hành". Mọi vật trong đời này, sinh diệt,

diệt sinh cứ thế luân hồi gắn chặt với quy luật âm dương ngũ hành tương sinh tương khắc.

Người là tiểu thiên địa ; cơ thể có ngũ tạng lục phủ thể hiện qua ngũ hành; do đó ta mắc

bệnh là do âm dương ngũ hành bất quân bình gây ra ; Về điểm này, y học hiện đại ngày

nay đã chứng minh rõ.

Q1-ch02-Amduong-Nguhanh                                                                                8                                     02/01/2005

Và tứ trụ cũng vậy; nó thể hiện ngũ hành qua các can chi, con người gặp phải những

đau khổ hay tai hoạ bất ngờ cũng là do âm dương ngũ hành gây ra cả . Ðiều này có tính

cách mệnh lý.

Âm dương ngũ hành, giới triết học thường cho đó là một danh từ trừu tượng, thực ra

nó không trừu tượng, mà là một loại vật chất có lượng, có chất. Nó là "khí" nguồn gốc của

vạn vật. Khí tụ lại thành vật, vật hoá thành khí, cho nên  khí là  một loại vật chất.

Âm dương ngũ hành trong cơ thể người là một loại vật chất rất tinh vi, không những

ngày xưa mà cả ngay khoa học hiện đại ngày nay cũng chưa có máy móc nào có thể đo

được. Những khái niệm về ngũ hành, qui ngũ hành qua tạng phủ đã có cơ sở lý luận qua

đông y đông dược, châm cứu ...

Còn từ năm tháng ngày giờ sinh, mà qui ra âm dương ngũ hành, qua trung gian cuả Can -

Chi, thì quả thật chúng ta phải chấp nhận như vậy (là một bí nhiệm) nếu muốn đi xa trên

con đường tìm hiểu về mệnh lý, bói toán... Và mệnh lý chẳng qua là tương tác giưã âm

dương, ngũ hành cuả ngày giờ sinh và âm dương ngũ hành cuả vận trình (đại vận, lưu

niên, tiểu vận...)

Người xưa, để nắm vững quy luật sinh khắc biến hoá của âm dương ngũ hành trong tự

nhiên và cơ thể, đã phát minh ra mười thiên can và mười hai địa chi để biểu thị :

- bốn phương tám hướng trong trời đất để, định phương hướng;

- bốn mùa xuân hạ thu đông của một năm, để định các tiết lệnh;

- lục phủ ngũ tạng trong cơ thể, để biết khoẻ hay bệnh.

Thiên can địa chi đã chia âm dương ngũ hành ra không những có khí mà còn có sắc, có

ánh sáng và có điện, như :

- khí mộc thuộc màu xanh, sinh gió;

- khí hoả thuộc màu đỏ, sinh nhiệt;

- khí thổ thuộc màu vàng, sinh táo;

- khí kim thuộc trắng, sinh hàn;

- khí thuỷ thuộc đen, sinh thấp;

Nên cơ thể người ta có sự thay đổi về phong nhiệt táo hàn thấp; khi âm dương ngũ hành

của cơ thể không điều hoà thì lục phủ ngũ tạng mất sự thống nhất. Ngũ hành thông với

năm tạng, lục phủ thông với chín khiếu. Mười can bị khắc thuộc lục phủ, mười hai chi bị

khắc thuộc ngũ tạng. Do đó căn cứ theo sự biến hoá thịnh suy của âm dương ngũ hành

mười can, mười hai chi mà biết được sự thịnh suy của tạng phủ. Cho nên có thể đạt được

mục đích phòng bệnh, trị bệnh.

Q1-ch02-Amduong-Nguhanh                                                                     9   02/01/2005

Chương 3

ÐẠI CƯƠNG VỀ VẬN MỆNH

Mệnh vận vì sao có thể dự đoán được ?

Đề nghị cách tự học bói toán

Giới thiệu các khoa xem mệnh khác

Từ cổ chí kim, từ đông sang tây, trong nền văn minh nào con người cũng muốn nắm

vững vận mệnh của mình. Do đó họ đã sáng tạo ra nhiều phương pháp để tiên đoán,

thấy trước được vận mệnh của mình, để chế ngự nó, tránh cái xấu, và phát huy, tận

dụng cái tốt.

Tại sao vận mệnh có thể tiên đoán được, và để tiên đoán được nó, người ta đã dựa trên

những căn bản nào ?

Người Trung hoa có một nền văn minh lâu đời, xây dựng trên thuyết âm dương, thể

hiện qua Bát quái (mà Kinh Dịch là nền tảng), rồi kế đó là thuyết ngũ hành, đã có

những cống hiến xuất sắc trong lãnh vực này.

Từ đó họ sáng tạo nhiều phương pháp đoán mệnh khác nhau :

- Hoặc căn cứ trên năm tháng ngày giờ sinh và phái tính : có tử vi đẩu số, tứ trụ

(bát tự), và bát tự Hà Lạc, hay bát quái;

- Hoặc căn cứ trên chỉ tay, hay tướng mặt, tướng xương,...   mà không cần chú ý

đến năm tháng ngày giờ sinh.

Mỗi khoa có những sở trường, sở đoản, nhưng nói vận mệnh thì cuối cùng cũng phải qui

về thời gian : đó là chỉ ra cho được thời gian ứng nghiệm của những điều cát , hung.

Giản dị chỉ có thế, mà uyên thâm vô cùng cũng chỉ có thế, tùy sở đắc và bản   lãnh của

người đoán.

Ở đây, chúng tôi chỉ giới hạn sự nghiên cứu vào   phương pháp Tứ Trụ hay Tử Bình của

người Trung Hoa mà thôi.

MỆNH VẬN VÌ SAO CÓ THỂ DỰ ÐOÁN ÐƯỢC                                                      ?

Dự đoán Mệnh Vận là môn học về qui luật sinh mệnh của con người : Theo Nội kinh và

Chu Dịch ,  vũ trụ vạn vật là do vận động mà sinh ra . Vận động là vĩnh hằng. Vận động

sản sinh ra sinh mệnh. Vận động ngừng thì sinh mệnh cũng kết thúc. Ðó là ý nghiã

quan trọng của thế giới quan vạn vật là một thể thống nhất , cân bằng trong vận động :

-                                                                                        một thể thống nhất : bên trong và bên ngoài cơ thể liên quan với nhau, thống

                                                                                         nhất với nhau ;

-                                                                                        vận động : là biến hoá, thay đổi ;

-                                                                                        cân bằng : giữa các tạng phủ trong cơ thể, giữa cơ thể với môi trường đều

                                                                                         phải đảm bảo sự cân bằng nhất định, nếu không sẽ sinh ra bệnh. Tương tự,

                                                                                         người thì có người giàu sang, người nghèo hèn.

Q1-Ch03-daicuong-vm                                                                      1                                                                              02/01/2005

Khí âm dương ngũ hành mà năm tháng ngày giờ sinh thụ đắc chính là mức độ, phân

lượng, và tính chất ngũ hành (kim mộc thủy hoả thổ) được biểu thị qua các can chi. Can

chi của năm tháng ngày giờ sinh đại biểu cho âm dương ngũ hành để tượng trưng mô

hình và phản ánh kết cấu nội bộ trong cơ thể.

Duy trì sự cân bằng của âm dương ngũ hành là khâu quan trọng của chức năng sinh

mệnh. Âm dương bình ổn, gắn bó thì tinh thần còn, Âm dương tách rời nhau thì tinh

thần hết và con người sẽ chết.

Chiêm bốc chú trọng khách quan, nhấn mạnh cát hung họa phúc của con người là do

ảnh hưởng của hoàn cảnh khách quan, bao gồm thời gian, không gian và các điều kiện

cụ thể khác.

Tìm ra được điểm mất thăng bằng của khí bẩm sinh dựa trên năm tháng ngày giờ sinh

là nhiệm vụ của dự đoán, cũng giống như khám bệnh đầu tiên phải tìm ra nguyên nhân

bệnh. Ðiểm mất thăng bằng đó là căn nguyên hoạ phúc của mệnh. Nó không những

phụ thuộc vào sự biến đổi 5 khí âm dương trong vũ trụ gây ra ích hay hại cho mình -

thể hiện ở sức khoẻ tốt hay xấu, mà còn phản ánh mình rơi vào hoàn cảnh tự nhiên, xã

hội tốt hay xấu, thậm chí còn ảnh hưởng đến các thân nhân trong gia đình mình (lục

thân).

Khoa Tử Bình dùng Can-Chi đại biểu cho âm dương, ngũ hành, và khái niệm 10 thần, để

biểu thị các tổ hợp khí bẩm sinh trong, đục của 1 người , rồi qua tính toán và cân bằng

theo quy luật để nhận biết được sự phú quí, nghèo hèn, cát hung, thọ yểu ẩn tàng

trong đó, phản ánh ra Mệnh.

Rồi thông qua quá trình thuận nghịch của cuộc đời, chỉ ra mối quan hệ giữa hoàn cảnh

sống cá nhân với sự biến đổi của vũ trụ có cân bằng hay không, phác hoạ được cát

hung hoạ phúc của từng giai đoạn cụ thể, đó chính là phản ánh ra Vận.

- nếu Tứ Trụ có Ngũ hành đầy đủ, sinh khắc vượng suy hợp lý thì mệnh tốt.

- nếu Tứ Trụ có Ngũ hành lệch nhiều, thiên khô (tức là trong Tứ Trụ các tổ hợp

xấu nhiều  hơn các tổ hợp tốt), thì mệnh có bệnh. Trong trường hợp đó :

* nếu trong mệnh có thuốc                                                                      - tức là các vận có sự nhất trí với tuần hoàn

biến hoá của vũ trụ -   thì mệnh đó có cứu, cũng được xem là mệnh

tốt ;

* nếu không có cứu -   tức là các vận luôn ngược lại với khí tuần hoàn

của vũ trụ - thì đó là mệnh xấu, hoặc là mệnh yểu.

Biết mệnh là để hiểu rõ và cải thiện hoàn cảnh của mình trong sự biến đổi của vũ trụ,

để tìm được sự yên ổn trong thế giới biến đổi này. Thuận với qui luật tự nhiên là xu thế

lớn cần hướng tới.

Xem tử vi, xem tướng, xem mệnh ngày xưa thường dành cho giới nhà giàu hay quyền

quí tập trung ở kinh đô hay những thành phố lớn. Ðó cũng là nơi các vương tôn công

tử, giới lái buôn, giới giang hồ lui tới, gái giang hồ …, giới trí thức thì cũng ở những nơi

này, và giới thuật sĩ (bói toán, tử vi, xem mệnh, xem tướng) cũng kiếm ăn ở đó, còn ở

thôn quê thì không có hay ít người biết chữ, nói chi đến nắm được những tế vi của các

khoa này.

Q1-Ch03-daicuong-vm                                                                            2                                               02/01/2005

Xem các khoa nói trên, chỉ có người có tiền mới có thể trả. Thường là chuyện của kiếp

người rất "phàm tục" : một con người chỉ hiện hữu khi y có cha mẹ, có vợ chồng   con

cái, có tiền bạc, có điạ vị xã hội. Ngừơi có những cái đó được coi là bình thường, và nếu

những thứ đó tốt (vượng), thì được coi là số tốt, mệnh tốt. Vây bạn nên nhớ là đừng đi

tìm cái gì siêu việt cả trong bói toán !

Tôi không chủ ý khen hay chê giá trị tinh thần hay vật chất trong sách này (vì nhiều khi

có thực mới vực được đạo !), mà chỉ muốn nói rõ bói toán nhằm cái gì, để tránh ngộ

nhận.

Theo quan điểm phàm tục đời thường đó, người đi tu là người bất hạnh (như hoà

thượng, ni cô, cha đạo, kể cả giáo hoàng đi nữa !), vì y không có vợ / chồng (tức là trái

đạo âm dương rồi) , không tiền không bạc, không quan chức. Vậy dù có thần quyền tột

đỉnh như giáo hoàng đi nữa cũng chỉ là giá trị tinh thần, trong khi bói toán thì rất vật

chất.

Một thứ mệnh, tướng cũng thường được người ta để ý là của gái giang hồ; vì họ tập

trung ở trà lâu tửu quán, nơi mà dân có tiền thường đến mua vui, hay chiêm ngưỡng,

bàn tán. Không có chồng đã bị coi là xấu, mà cả trăm thứ chồng lại càng xấu hơn.

Người ta cũng đặc biệt chú ý đến những người tàn tật, vì thường gặp hàng ngày, khắp

nơi : cơ thể bất túc, tàn khuyết, dị dạng là mệnh xấu, khổ. Họ được chú ý xem là bị từ

bẩm sinh, hay do tai nạn. Có ý là để phòng ngừa.

Giới quyền quí thì thường tìm những thầy giỏi cố vấn, để rình các cơ hội thăng quan tiến

chức; chọn vợ chồng cho con cái, sao cho đời sau được hưng vượng; thậm chí còn chọn

đúng năm nào thì nên có con, năm nào thì nên tránh.

Giới chính trị của các nước phân tranh cũng thường để ý đến mệnh số của những người

cầm quyền phía đối phương (về dân sự cũng như về quân sự), để biết lúc nào là hưng

vận, lúc nào là bại vận của họ, mà tìm cách khắc chế, hay chớp thời cơ.

Do đó, các sách vở lưu lại thường thấy rất nhiều ví dụ về mệnh của giới quan quyền,

giới võ tướng, giới nhà giàu, giới tu hành, và gái giang hồ. Còn số mệnh những người

bình thường thì rất ít thấy.

Bạn có thể trách ! Nhưng một khi bạn bắt đầu xem số, xem mệnh, thì bạn cũng lại rất

thích thú xem cho những mệnh phi thường hay khác thường đó, vì mệnh của họ - theo

giòng đời - cũng thăng trầm, gấp khúc, biên độ rất lớn, còn những mệnh bình thường

thì nhạt nhẽo, vô vị. Cũng giống đọc tiểu thuyết, những tình tiết éo le gay cấn, những

vấn đề lớn được đề cập, được giải quyết, thì tiểu thuyết mới hấp dẫn; còn nếu sách nào

cũng chỉ là thấy sinh ra, lớn lên, lấy vợ lấy chồng, làm tình, ghen tuông, thù hận, già

chết, thì chán biết chừng nào.

Ở các nước Âu châu, nhờ an sinh xã hội quá tốt, nên những người nghèo luôn luôn

được trợ cấp để sống, lại sinh ra cả một tầng lớp lệ thuộc mới, họ có đi làm cũng chả

kiếm hơn được bao nhiêu so với ở không. Mệnh vận của họ thì chỉ như nước hồ lăn tăn;

Q1-Ch03-daicuong-vm                                                                         3   02/01/2005

còn mệnh của giới chính trị , hay giới điều khiển các cơ sở lớn, công hay tư, thì có thể

như sóng bủa ba đào.

Bạn cũng đừng có mặc cảm dấu diếm, trốn lánh, mắc cỡ   không dám nói mình đi xem

bói. Nên nhớ là trên thế giới này, ngay cả đến Tổng thống Pháp François Mitterand, hay

Tổng thống Mỹ Reagan, cũng đều có những cố vấn tâm linh là các thày bói. Những

ngày cuối đời của họ có thể nói là họ điều khiển đất nước, và thế giới (!), chỉ theo lời

của "thầy" phán.

Ðiều cần thiết là bạn đừng cả tin các lời thầy phán, mà phải biết suy xét, muốn suy xét

thì bạn nên đọc vài cuốn sách, cho có hiểu biết tổng quát, để biết đặt những câu hỏi

cho thầy bói luận quẻ, hiểu họ nói đúng hay nói sai, có lý luận hay chỉ nói dựa, hay họ

dọa nạt những người yếu bóng viá để làm tiền. Nếu bạn chỉ xem bói để có thêm thông

tin, dữ kiện cho các quyết định hay hành động của bạn, thì có gì phải ngại đâu ? Một

quyết định với nhiều thông tin phong phú không phải là tốt hơn thiếu hay nghèo thông

tin sao ? (Qua một số sách bói toán ở Trung quốc gần đây, ta thấy họ cũng xem kỹ

mệnh của Mao trạch Ðông, Tưởng giới Thạch,..., xem ngày giờ có thể nổ ra chiến tranh

vùng Vịnh , hay xem về sự sống chết của Breznev qua bát quái, để đối tác ngoại giao

giữa 2 nước).

ÐỀ NGHỊ MỘT CÁCH ÐỌC SÁCH - TỰ HỌC BÓI TOÁN

Tôi đã trải qua một thời gian dài để tự học về bói toán, qua rất nhiều sách ; nên cảm

thấy có vài kinh nghiệm cần trao đổi với các bạn, nhất là các bạn muốn tự học, để các

bạn đừng mất nhiều thì giờ và tâm lực.

Trước hết, đừng bắt đầu với những sách viết hay dịch về bói toán trước 1960 ở miền

Nam Việt nam, vì thường đó là các sách phiên âm chữ Hán ra chữ Việt, không đáng gọi

là dịch ! Ngoài ra, tiếng Việt thời ấy chưa phong phú, mà các sách ấy lại do các cụ đồ

nho, hay những người còn chiụ ảnh hưởng của Hán học (mà trình độ lại không cao

nữa !) viết ra, thì lại càng khó hiểu. Bạn có muốn mới bắt đầu đã vào mê hồn trận, để

rồi sẽ chán, sẽ bỏ ngang, hay sẽ quay lại chỉ trích …không ?

Bạn cũng không nên ngốn nhiều sách. Hãy đọc các sách có lý thuyết đi đôi với thực

hành, để học lấy cách vận dụng lý thuyết, và tránh lý thuyết suông. Vậy trước khi mua

sách, nên xem kỹ mục lục, và nếu cần, tham chiếu các bài phê bình trên báo chí nếu có.

Thông thường, sách nào cũng phải có đầy đủ những chương mục, đôi khi rất loảng đối

với người đọc. Tuy cần thiết, nhưng là những chất liệu để   dùng về sau, khi phải vận

dụng để tổng hợp. Vì thế đôi khi các chương ấy ở phiá đầu sách nhưng chỉ nên đọc kỹ

về sau, ví dụ trong sách này các mục bàn về thần sát, không vong, can hợp, chi hợp,

xung, hình, hại, phá,  ban đầu bạn chỉ cần đọc lướt qua.

Lời giải đoán chẳng khác một món ăn đã dọn lên mâm.

Người ăn có thể thưởng thức, đánh giá tài nấu nướng ngon dở của đầu bếp.

Món ăn ấy có thể làm từ nhiều thứ khác nhau (ingrédients) : thịt (nhiều loại), cá (nhiều

loại), trứng, hành tiêu tỏi ớt mắm muối, gạo, rau quả (nhiều loại).

Q1-Ch03-daicuong-vm                                                                        4   02/01/2005

Bạn có thể tìm hiểu từng thứ một, ví dụ thịt bò, từ lịch sử của giống bò, cách lai giống

bò, nuôi bò, sự sinh sản của bò, làm thịt, phân phối, các tên thịt theo từng khu vực trên

cơ thể con bò ?…, cứ thế mà miên man không bao giờ hết. Tương tự cho các thứ khác,

như cá, rau quả v..v.. Ðấy, các thứ học thuyết, lịch sử của thứ này thứ nọ, các tranh

cải, trong các sách bói toán hay triết học cũng giống như thế.

Nhưng mục đích của bạn là dùng thịt bò để nấu ăn kia mà, chứ đâu phải tìm hiểu cặn

kẽ từng thứ nguyên liệu một ? Phải nấu trong bao lâu, cho loại khẩu vị nào, với giá tiền

thù lao là bao nhiêu … vì bạn cũng phải sống nữa chứ. Vậy bạn phải lập bảng số, luận

giải, cho lời khuyên, ... trong một thời lượng nhất định. Nguyên liệu trong Tứ Trụ là âm

dương, ngũ hành, can-chi, còn thần sát, hình xung hại phá, không vong … là gia vị.

Loại khẩu vị thì trong chuyện bói toán, phải nói chuyện tài vận, công danh sự nghiệp,

tình duyên, con cái, …đó là những thứ mà người xem bói muốn biết cho một mệnh nào

đó. Tuy nhiên, có   những món ăn mà dù đầu bếp có giỏi cách mấy cũng không nấu ra

được món ngon, vì thiếu nhiều thứ nguyên liệu, ví dụ chỉ có muối, ớt, và nước, lửa

chẳng hạn. Ðó chẳng khác mệnh thiếu 2 ,3 hành là mệnh hạ cách. Cũng có những món

ăn mà dù đầu bếp tồi cũng cứ ngon, vì nguyên liệu dồi dào, và toàn là chất lượng cao.

Giống như trong mệnh thì có những loại Thân vượng , tài - quan - ấn đều có.

Tôi cố gắng viết bình dân, dễ hiểu, tránh dùng chữ Hán, hay dùng chữ Hán Việt cẩu

thả. Ðôi khi để tránh khô khan, tôi cố viết sao cho vui , nhiều khi phải viết chuyện

« dưới lưng quần (en dessous de la ceinture) , thành ngữ người Pháp thường dùng để chỉ

chuyện bá láp, hay chuyện không nghiêm chỉnh ! » , nhưng xin hiểu là cốt để bạn đọc thấy vui,

và dễ nhớ, chứ không phải tác giả « bị ẩn ức sinh lý ». Dân VN ta có thói quen ưa hài

hước, ưa chuyện tiếu lâm, và trong các chuyện ấy thì không thiếu chuyện « dưới lưng

quần », và nó được nhớ dai, truyền bá rộng rãi. Và ta cũng thích ăn nhậu ; trên đây tôi

đã viết về ăn nhậu rồi đấy.

Giới thiệu vài khái niệm về các khoa xem mệnh khác, cũng dùng 8 chữ hay ít

hơn 8 chữ :

1) Chúng ta đều biết   người ta ai cũng có một năm mệnh (đại mệnh) căn cứ trên trụ

năm (can-chi), ví dụ đại hải thuỷ, tích lịch hoả ...(xem bảng 60 hoa giáp). Các sách Tứ

Trụ đều có đề cập, nhưng rồi sau đó chỉ thấy nói sinh khắc, hoạ hoằn có một ít ứng

dụng về so tuổi 2 người, hay giữa đại mệnh và thai nguyên. .. Vẻn vẹn chỉ có thế.

Thế nhưng nếu ta đọc « chương 1 - Khoa Tử Bình", ta sẽ thấy Lạc Lộc khi phát minh

ra khoa Tứ Trụ, đã dùng trụ năm làm hạt nhân của mệnh. Các sách về các khoa khác

thì lại nói nhiều về đại mệnh, gần như phác hoạ cuộc đời một người qua đại mệnh, mà

vẫn ứng nghiệm. Vậy nên tôi dành riêng một phần phụ lục về đại mệnh, coi như là một

thành phần của khoa Tứ Trụ. Bạn có thể nhảy ngay đến phụ lục đó để đọc, biết đâu

chưa cần học hỏi gì nhiều mà cũng khái quát về mệnh của mình rồi.

2) Tương tự,   Khoa Quỷ cốc toán mệnh, hay Lưỡng đầu kiềm toán, chỉ dùng 2

chữ trong bát tự là can ngày và can giờ (2 đầu kẹp lại), nó cũng dùng thêm chi giờ

nhưng chỉ để đưa ra 4 chữ vàng mà thôi (tứ tự kim) nhưng 4 chữ vàng đó cũng khái

quát cả đời người ! Còn 2 CAN tổ hợp có 10 * 10 = 100 trường hợp, cũng tạo ra một

khoa khá chính xác .

Q1-Ch03-daicuong-vm                                                                             5   02/01/2005

Vậy cũng xin giới thiệu với bạn đọc   sách "Quỷ cốc toán mệnh" của Dương Ðình Lê thứ

Chi do tác giả tự xuất bản tại Austin, Texas, USA 1990.

3) Khoa Bát trạch, cung phi cũng chỉ dùng trụ năm và chuyển qua bát quái mà cũng

đã có những thành tựu về phong thuỷ và so tuổi trong hôn nhân.

Ðừng lầm khoa Tứ trụ với khoa Tử Vi hay Bát tự Hà Lạc là 2 khoa của Trần Ðoàn đời

nhà Tống sáng lập, tuy cùng căn cứ trên năm tháng ngày giờ sinh.

4) Khoa Tử vi dùng trên 100 sao để luận đoán. Nhưng xét kỹ, đằng sau các sao này,

cũng đều ẩn chứa ngũ hành, và luận đoán theo ngũ hành tương sinh tương khắc, mà

Ngũ hành là cốt tuỷ của khoa Tứ Trụ.

Tuy nhiên, theo thiển ý, khoa Tứ Trụ phức tạp, uyên áo, khó nắm vững hơn, vì

thế ít người biết. Vì cùng một gốc, nên dĩ nhiên cả hai có vận dụng những nguyên lý ,

hay qui luật như nhau, như can - chi, âm dương, ngũ hành, lục giáp, vòng trường sinh,

thần sát, không vong (tuần không), đại vận, phái tính, thuận nghịch, v..v…Tứ Trụ có ưu

điểm là suy luận theo ngũ hành, nên về thời gian ứng nghiệm rất chuẩn xác.

Khoa Tử vi đã được quá nhiều người viết sách, các bạn có thể tìm thấy ở các tiệm sách

hay trong internet.

5) Khoa Bát tự Hà Lạc dùng cả 8 chữ, nhưng chuyển thành bát quái, rồi cho các quái

biến thiên, dùng hào từ và quái từ của các quẻ để đoán mệnh một cách hoàn chỉnh, vì

cũng theo một lộ trình đại vận, tiểu vận như tử vi đẩu số và Tử Bình.

Các bạn có thể tìm đọc các sách của Học Năng, Xuân Cang, hay của Bùi Biên

Hoà. Xuân Cang là nhà văn, lại là hành giả , nên viết rất trong sáng, dễ hiểu, xin trân

trọng giới thiệu (***).

(***) Tôi rất kỵ các sách bói toán của những người không phải là hành giả, nó có thể làm chúng ta hiểu

sai, hay mơ mơ hồ hồ, mất nhiều thì giờ hay tâm lực, mà nhiều khi vô bổ.

6) Người ta cũng có thể chuyển 8 chữ thành số, rồi thành quẻ Bát quái, theo Mai hoa

dịch, tức là chỉ có một hào biến nên chỉ có thêm quẻ biến là 2 quẻ để phán đoán cả

cuộc đơì, nhưng khi giải đoán lại thiên về bốc phệ - tức 6 hào, bởi lẽ dễ hiểu là đoán

mệnh phải có lục thân.  Cũng khá chính xác.

Chúng tôi sẽ trở lại mục này trong một quyển sách khác.

Q1-Ch03-daicuong-vm                                                                                      6   02/01/2005

Chương 4

TỨ TRỤ LÀ GÌ ?

(HAY BÀN VỀ NĂM, THÁNG, NGÀY, GIỜ SINH)

Trụ năm

Trụ tháng

Trụ ngày

Trụ giờ

Có thể nói tất cả các khoa chiêm tinh, bói toán của các nền văn minh trên thế giới đều

xoay quanh năm, tháng, ngày, giờ.

Trong các khoa bói toán xuất xứ từ Trung hoa, năm, tháng, ngày, giờ của một thời điểm

bất kỳ là   theo âm lịch, gọi là Tứ trụ ; mỗi trụ được chỉ định bởi một cặp CAN CHI.

Chẳng hạn bói theo bát quái thường dùng « Tứ Trụ của lúc gieo quẻ ».

Vì cả khoa Tứ Trụ đều dựa trên 4 trụ này nên nó là đối tượng của cả cuốn sách. Phần chi tiết từng trụ sẽ

được đào sâu trong từng chương mục riêng liên hệ. Còn ở đây, chỉ bàn đại cương, cố tránh nói leo, nói

trước - được chừng nào tốt chừng nấy -  khi bạn chưa có đủ  những căn bản về đóan mệnh.

Ðối với khoa dự đoán theo Tứ Trụ thì đó thời điểm của năm, tháng , ngày, giờ   sinh

của một người. Do đó ta phải nắm vững ý nghiã của từng trụ, và sự tương tác, phối hợp

giữa các trụ, qua tổng hợp các cách nhìn khác nhau :

Qua CUNG                                                                                                   (Mỗi trụ là 1   Cung, ví dụ : trụ năm là cung tổ tiên, cha mẹ , trụ

tháng là cung anh em, trụ ngày là cung thân và chồng / vợ , trụ giờ là cung

con cái ;

Qua Lục thân (10 Thần / tổ tiên, cha mẹ, anh em, chồng (vợ), con cái) là SAO

(TINH) ; ý nghiã cũng gần giống như các Cung trên đây, cộng thêm tính

cách, hay nghề nghiệp ;

Qua Can, Chi ;

Qua ngũ hành ;

Qua các giai đoạn (tuổi) của cuộc đời, mỗi giai đoạn gọi là 1 hạn :

trụ năm                                                                                                    trụ tháng                                                             trụ ngày       trụ giờ

0 - 15 tuổi                                                                                                16 - 31 tuổi                                                          31 - 47 tuổi   47 - 65 tuổi

Nguyên tắc tổng quát để xem mỗi trụ là :

1- lấy Lệnh tháng để đo vượng , suy (qua bảng Trường Sinh);

2- xem quan hệ sinh khắc lẫn nhau giưã can và chi của trụ đó;

3- Cuối cùng, dựa vào sinh khắc, chế hoá của các trụ khác đối với nó để quyết định tăng

giảm độ mạnh yếu đó.

Con người có sinh ra, lớn lên, già, chết, nên người ta thường so sánh sự phân bố Tứ Trụ

(mệnh)  của một con người với một cái cây , gồm gốc rễ, cành, hoa, quả, như sau :

I -TRỤ NĂM :

Trụ năm ví như gốc-rễ cây, như nền móng của nhà; là nguồn gốc của mệnh, nên nó vô

cùng quan trọng.

Vì Gốc khô thì cây chết ; rễ sâu thì cành lá xum xuê ; nền yếu thì nhà đổ, nền chắc thì nhà vững chải ;

nguồn hết thì mệnh hết ; nguồn dồi dào thì mệnh mạnh mẽ. Do đó trong Tứ Trụ, năm được ví như gốc

cây.

Q1-Ch04-Tutrulagi                                                                                          1                                                                     02/01/2005

Trụ năm xác định « mệnh năm, hay đại mệnh, hay mệnh", ví dụ trường lưu thuỷ, đại

trạch thổ,... (xem bảng lục giáp, và phụ lục).

Năm là thái tuế, họa phúc một đời của người đó.

Trụ năm là cung chủ về ông bà, cha mẹ, tổ nghiệp, hay là cung phúc đức.

Muốn biết trụ năm mạnh hay yếu , phải :

1- lấy Lệnh tháng để đo vượng , suy;

2- xem quan hệ sinh khắc lẫn nhau giưã can và chi năm:

a- tương sinh : tốt;

- cha mẹ hoà thuận, gia đình êm ấm, thịnh vượng.

b- tương khắc (ví dụ : nhâm ngọ, giáp thân) : bất lợi cho cha mẹ,

- can khắc chi : không lợi cho mẹ;

- chi khắc can : không lợi cho cha;

Nếu trong tứ trụ không có gì chế ngự hoặc giải cứu sự xung khắc đó mà

ngược lại còn phù trợ cho lực khắc thì càng tai hại : cha mẹ chia lìa, hoặc 2

người  chết một.

c- ngang hoà, cùng khí âm dương (ví dụ mậu thìn, nhâm tý...) : phần nhiều cha

mẹ bất  hoà; việc nhà sóng gió, gia nghiệp khó khăn .

3- Cuối cùng, dựa vào sinh khắc, chế hoá của tháng, ngày, giờ đối với năm để quyết

định tăng giảm độ mạnh yếu đó.

chú ý :   sự sinh khắc ở đây phải lấy nạp âm ngũ hành của các trụ để so sánh (dùng bảng  lục

giáp), nghiã là ngũ hành được định từ cặp Can-Chi cuả trụ (ví dụ lộ bàng Thổ, tích lịch

hoả, trường lưu thuỷ, sa trung kim , v..v...), rồi mới so sánh sự tương tác với nhau.

- nếu năm được tháng, ngày, giờ đến sinh : tuyệt diệu;

* dưới sinh cho trên, làm cho can chi năm thêm bền vững, làm chủ cho sự

hưng vượng của cuộc đời.

* tổ tiên có phúc đức, được hưởng nhiều âm phúc của tổ tiên : con cháu

hiếu thuận, cha mẹ mạnh khoẻ sống lâu, bản thân người đó có

năng lực và hiển đạt.

- ngược lại, nếu năm sinh làm lợi cho tháng, ngày, giờ thì đó là sự rò rỉ tổn thất

nguyên khí (bị tiết khí), làm cho gốc yếu đi, tức tổ nghiệp sa sút, bất lợi

cho cha mẹ.

- nếu tháng, ngày, giờ hình xung , phá hại năm : không những tổ nghiệp sa sút,

bất lợi cho lục thân (cha và/hoặc mẹ mất sớm), mà bản thân cũng suốt đời khó khăn ,

mọi việc không thành và không thọ (vì gốc yếu).

Nói thêm (trước !) : Ai cũng vậy, năm 54 tuổi cũng là năm thái tuế (hay lưu niên) thiên khắc địa xung

với trụ năm, tức là với đại mệnh, nên thường xảy ra tai biến cho bản thân hay thân nhân, thậm chí tử

vong ! Ta cũng sẽ trở lại tiêu chí cực kỳ quan trọng này khi xét hành vận.

Phần này sẽ dùng lại trong chương dự đoán về CHA MẸ và TỔ NGHIỆP.

II- TRỤ THÁNG :

Ví như thân cây; thân mạnh khoẻ to lớn thì cành lá xum xuê.

Q1-Ch04-Tutrulagi                                                                                       2   02/01/2005

Trụ Tháng là cung Huynh đệ (anh, chị, em), nhưng có sách cho là trụ tháng chủ về cha

mẹ.

- Nếu can chi tháng tương sinh cho nhau; hoặc can tháng gặp vượng địa, lại

được những trụ khác (năm, ngày, giờ) đến sinh trợ, không bị xung khắc   phá hại : anh

em hòa thuận.

- nếu can tháng bị khắc; hoặc can chi tháng khắc nhau : anh chị em không

nương tựa nhau, hoặc bất hoà, hoặc mỗi người  đi một ngã.

Phần này sẽ dùng lại trong chương dự đoán về ANH EM, và CHA MẸ.

Ngoài vai trò của Cung ra, chi tháng còn có một vai trò rất quan trọng trong tất cả các

khoa bói toán của Trung hoa (tử vi, bốc Dịch, Tử Bình), vì nó ấn định muà, tiết khí, và

do đó quyết định sự VS cuả một (ngũ) hành nào đó. Trong Tứ Trụ, nó có những vai trò

sau đây :

1) Chi tháng là Lệnh tháng. Nó là tiêu chuẩn duy nhất để đo lường VS của CAN CHI

năm, ngày, giờ, và 10 Thần (Tài, Quan, Sát, Ấn, Kiêu, Tỷ Kiếp, Thương Thực). Nó là

cương lĩnh, chủ tể quyền sinh sát của cả một tháng; có thể trợ giúp cái yếu, hoặc khống

chế cái mạnh. Nó là ranh giới phân chia 1 tháng, và đôi khi 1 năm.

Lệnh THÁNG quyết định mùa, và người ta dùng ngũ hành và âm dương để miêu tả sự

cảm thụ của vạn vật đối với sự thay đổi thời tiết của các muà.

Ðặc biệt, Lệnh THÁNG nắm quyền chủ tể sinh sát của cả một tháng, nên nó vô cùng

quan trọng. Không biết được Lệnh THÁNG thì không có cách gì đo lường được sự VS

của Tứ Trụ, tức là không thể quyết đoán được sự chính xác của thông tin dự đoán.

Ðể đo lường vượng suy của tất cả những thứ trên, phải lấy Lệnh THÁNG làm tiêu chuẩn

kết hợp với CAN liên hệ, và lấy Sinh Vượng Tử Tuyệt  làm căn cứ để xác định :

( xem bảng Sinh Vượng Tử Tuyệt - gọi tắt là bảng Trường Sinh)

- đối với CAN : lấy CHI tháng + CAN (từng trụ) để đọc bảng này ;

- đối với CHI : chuyển CHI thành CAN như dưới đây, rồi lấy CHI tháng + CAN đó

để đọc bảng.

Dần : Giáp ;   Mão                                                                              : Ất ;     Thìn Tuất : Mậu ; Sửu Mùi :  Kỷ ;                Tị : Ðinh ;

Ngọ : Bính ;   Thân : Canh ;                                                                    Dậu : Tân ;  Tý                                : Nhâm       ;  Hợi : Quý.

- hoặc xem bảng CAN tàng độn trong Ðịa chi là rõ nhất (phần này sẽ có chương

chuyên đề) .

Để thuận tiện, trong thực hành, lúc ta xác định 10 Thần trên các địa chi (tất cả các

Can tàng độn), Ta lấy luôn từng can tàng độn một phối với chi tháng để đọc bảng

Trường Sinh. Sau khi phối, chữ nào (can, 10 Thần) từ  được Trường Sinh đến Đế Vượng

là mạnh (cường) ; từ Suy đến Tuyệt là yếu (nhược) ; còn Thai, Dưỡng là bình. (1)

Có thể nói không quá đáng là nắm vững được thế nào là Vượng Suy, Cường Nhược (VSCN) là đã nắm

vững được các môn bói toán trung hoa. Muốn quyết định VSCN thật không dễ chút nào !

Q1-Ch04-Tutrulagi                                                                               3                                              02/01/2005

(1) Ở đây ta chỉ nhấn mạnh đến công Dụng xem Cừơng/ Nhược của can, chi , và 10 Thần. Muốn hiểu

thêm về ý nghĩa của vòng Trường Sinh, xin xem   phụ lục liên hệ. Nếu đề cập ở đây e loảng đi ý

nghiã của Tứ Trụ.

Vì Lệnh THÁNG có vai trò quyết định sự Vượng Suy Cường Nhược   của những chữ khác

trong bát tự như thế cho nên khi dự đoán theo khoa Tử Bình, trước hết phải lấy Lệnh

tháng, sau đó mới xem nhật nguyên.

Hành chi tháng = hành can : (cực)Vượng                                                              ) được thời (được giờ, hay

Hành chi tháng  sinh  hành can : Tướng                                                              )                            được Lệnh)

Hành chi tháng  được hành can  sinh : hưu (hơi suy)                                                 )

Hành chi tháng  bị hành can  khắc : tù (đã suy)                                                                                  ) không được thời

Hành chi tháng  khắc  hành can : tử (cực suy)                                                       )                            (mất Lệnh)

2) Lệnh tháng còn dùng để xác định cách cục của mệnh.

Vì Dụng Thần - cái làm cho Mệnh Cục được quân bình - là yếu tố tối quan trọng

để dự đoán Vận Mệnh theo Tứ Trụ, cho nên muốn đoán cho một mệnh phải xác định

cho được Dụng Thần. Mà để định Dụng Thần, theo cách xưa trước hết người ta phải xác

định CÁCH CỤC. (Ngoài ra, cũng có cách khác để lấy Dụng Thần, dưạ trên sự cân nhắc toàn bộ các

trụ, chứ không đơn thuần dưạ trên lệnh tháng, dù LT vẫn luôn luôn giữ vai trò trọng yếu).

Vì phần này là tinh yếu của khoa Tứ Trụ, nên ta dành cho nó 1 chương riêng

(xem chương CÁCH CỤC và Dụng Thần).

3) Tháng là gốc cuả vận (vận nguyên) : Ðoán mệnh phải xét các hành vận (vận

trình), mà để xác định Ðại vận thì phải bắt đầu từ tháng sinh (xem mục xác định Ðại vận)

Vận   có thể   bổ sung cho những điều còn khiếm khuyết trong tứ trụ : nó có thể sinh trợ

phúc Thần, khắc chế hung Thần ; hay ngược lại có thể  trợ giúp hung Thần của tứ trụ.

Vì vậy, nó có quan hệ mật thiết với mệnh suốt cả đời người; cho nên người ta thường

gọi "mệnh vận" là do vậy.

Trong suốt cuộc đời một người, bất kỳ là nam hay nữ, vận thuận hay nghịch, thời

kỳ từ 50 đến 69 tuổi đều xảy ra việc tháng sinh - tức cương lĩnh cuả mệnh - xung khắc

với đại vận của giai đoạn ấy, do đó dễ xảy ra nhiều việc, và phức tạp, biến động nhiều :

- người   mệnh cục mạnh, nhật vượng : xảy ra ít việc hoặc vô sự, hoặc gặp điều

tốt;

- người  mệnh cục yếu, nhật suy : gặp nhiều việc có hại, hoặc thân nhân chia lià.

Nhắc lại : nên nhớ là Lệnh tháng là cương lĩnh của mệnh, không nên bị xung khắc, không được vô lễ

xung khắc nó; nếu không thì có họa, đó là lẽ thường tình;

Vì sự quan trọng của Lệnh THÁNG như vậy, nên chúng ta chỉ khái quát ở đây, và sẽ trở lại chi tiết

ở phần cuối chương, và nhắc đi nhắc lại nhiều nơi, để dễ nhớ.

III- TRỤ NGÀY :

Ví như hoa của cây; thịnh vượng thì hoa nhiều như gấm; suy nhược thì hoa ít lại không

màu.

Ta đã biết can ngày là nhật nguyên, là mệnh chủ, là Thân, là TA. Tất cả đều xoay

quanh nó để tạo ra khoa Tử Bình !

Q1-Ch04-Tutrulagi                                                                                   4                            02/01/2005

1) Từ CAN ngày (là TA) mà xác định lục thân hay 10 Thần; Lục thân do thiên can

biểu thị, và được xác định do quan hệ sinh khắc của từng can trụ (yy,mm,hh) đô'i với

CAN NGÀY; sẽ xét kỹ trong chương 10 Thần, hay lục thân.

2) CAN ngày là mệnh chủ, là TA  : ( mục này đã là một mục "nói leo" rồi đấy !)

Ngày là chủ của cả đời người, là mảnh đất cát hung họa phúc của cả cuộc đời.

Do đó sự sinh, vượng, hưu tù, suy, nhược của trụ ngày quan hệ đến vận mệnh tiền đồ

suốt cả cuộc đời .

- Nếu sinh vượng :   giống như thân thể khoẻ mạnh, có thể thắng của cải, đề

kháng sự sát hại, bảo vệ được lục thân, thông minh, tháo vát, nuôi dưỡng được gia

đình, gặp việc phần nhiều biến hung thành cát.

- Nếu suy nhược , hưu tù : giống như người   yếu, bệnh nhiều, tinh Thần bạc

nhược, không thể bảo vệ được của cải của mình; chắc chắn là xấu nhiều tốt ít, làm việc

gì cũng không thành.

- Nếu trung hoà là quý, mạnh thì tốt, yếu thì xấu (phải cân ngũ hành).

- Nhưng nếu Vượng quá hoặc yếu quá : xấu nhiều hơn.

Ðã đành nguyên lý là như vậy, nhưng muốn xác định thế nào là Thân vượng hay Thân nhược không phải

việc dễ dàng !

Phần này sẽ dùng lại trong chương dự đoán tổng quát cho một mệnh.

Then chốt của phương pháp dự đoán mệnh theo tứ trụ là phải xác định được nhật chủ

(Can ngày) vượng hay nhược, rôì nhờ đó ta mới xác định được Dụng Thần, hỷ Thần, kỵ

Thần. Ðược 3 yếu tố này, nhất là Dụng Thần, ta mới có thể kết hợp với vận trình để

phán xét các vận là tốt, xấu, hay bình thường ; tức là những điểm chính yếu (mạch

chính) của một mệnh, trước khi đi vào chi tiết rườm rà.

Khi đã nắm được mạch chính rồi thì bạn có thể dưạ vào đó mà đoán, không sợ sai; còn không nắm vững

được Vượng Suy thì vận lúc nào tốt, lúc nào xấu cũng không biết; dù bạn có nói đúng cũng chỉ là may

mắn "chó ngáp táp phải ruồi" mà thôi . OK ?

Vì sự vượng suy của Can ngày cực kỳ quan trọng trong khoa Tứ Trụ, ta sẽ đào sâu

trong một chương riêng.

3) Trụ ngày là cung hôn nhân : Can ngày là mình, chi ngày sát cánh bên can ngày,

vậy cũng là vợ (hoặc chồng) cuả TA.

- can chi cùng sinh cho nhau : vợ chồng hoà thuận;

- chi sinh can : nam lấy được vợ hiền giúp đỡ, nữ được chồng tốt giúp sức.

- can sinh chi : nam yêu vợ, nữ giúp chồng;

- can chi tương xung, tương khắc : có nguy cơ vợ chồng xa nhau; tượng hôn

nhân muộn.

- can chi tương khắc nặng :  không ly hôn cũng chết một trong hai;

- can chi có cùng (ngũ) hành : tượng bất hoà.

Q1-Ch04-Tutrulagi                                                                                     5   02/01/2005

Phần này sẽ dùng lại trong chương dự đoán về HÔN NHÂN.

IV- TRỤ GIỜ :

Ví như quả cây; nó không những chủ về vượng suy của con cái mà còn có vai trò phù

trợ cho ngày.

Trụ giờ mạnh là quả nhiều chồng chất, vừa ngon vừa đẹp.

Trụ giờ suy nhược là quả kém, thậm chí có hoa mà không có quả.

1) Trụ giờ là cung con cái,

- sinh vượng : con cái thịnh vượng, thân thể    khoẻ mạnh, đẹp đẽ, thông minh,

tiền đồ rộng mở.

- hưu tù, tử tuyệt : con cái tai nạn nhiều, hoặc chết yểu.

-Trụ giờ sinh phù trụ ngày : con nhiều mà trung hiếu, về già đựơc nhờ, bình yên,

êm ấm.

-Trụ giờ xung trụ ngày : con nhiều nhưng bất hiếu, về già cô độc, tình thân bạc

bẻo.

Phần này sẽ dùng lại trong chương dự đoán về  CON CÁI.

2) Giờ là quan tả hữu của ngày, ngày là vua, giờ là Thần :

- Ngày giờ tương sinh , tương hợp : như vua tôi hoà hợp.

- Giờ bổ trợ cho ngày ở chỗ :

1- có thể    sinh trợ cho ngày;

2- có thể    trợ giúp hỉ Thần hay Dụng Thần trong cách cục;

3- có thể    chế ngự kỵ Thần trong cách cục;

nếu không  thì không làm tròn vai trò bổ trợ.

Giờ không những có quan hệ mật thiết với các trụ của năm, tháng, ngày mà còn là chỗ

thâu tóm của tứ trụ hoặc cách cục .

Giờ nên sinh vượng, kỵ suy tuyệt. Trong cách cục, nếu trên trụ giờ :

- có hỉ Thần, nếu gặp sinh vượng thì càng thêm tốt; gặp suy tuyệt : không tốt.

- có kỵ Thần, nếu gặp sinh vượng thì càng thêm xấu; gặp suy tuyệt : không xấu.

Q1-Ch04-Tutrulagi                                                                     6   02/01/2005

Chương 5

CÁCH XÁC ÐỊNH TỨ TRỤ

Chú ý : bạn cần có :

vạn niên lịch;

bảng 60 hoa-giáp

bảng 10 can, 12 chi nếu bạn chưa thuộc;

Bạn có thể đi ngay vào việc học khoa Tử Bình với năm tháng ngày giờ sinh của 1 người

tưởng tượng, hay của một người thân của mình, hay tại sao không là của  chính mình ?

Trước hết, bạn có ngày sinh theo dương lịch, chỉ cần dùng vạn niên lịch để có năm

tháng ngày giờ theo âm lịch, mà chưa cần phải mất thì giờ học cách định năm tháng

ngày giờ âm lịch vội. Mục đích của ta là học phương pháp mà, rồi sau mới vận dụng vào

các trường hợp cụ thể.

Ngày xưa khi kỹ thuật sao chép còn sơ khai, ngay cả người đọc thông viết thạo cũng rất

hiếm, người ta mới đặt những bài vè, bài phú bằng văn vần để dễ nhớ, còn ngày nay, ta

chỉ việc photocopy, tra cứu sách vở, ngay cả lập trình, để có được 1 bảng số nhanh

chóng.

Dĩ nhiên, trong sách này, tôi sẽ trình bày cách lập tứ trụ theo bài bản.

Trong các khoa bói toán trung hoa , người ta chỉ dùng âm lịch. Năm tháng ngày giờ nào

đó cũng là một tứ trụ, dù là của một lúc bất kỳ, hay là ngày sinh tháng đẻ của một

người.

Triết lý âm dương, ngũ hành, bát quái bắt nguồn từ văn minh nông nghiệp, nên thời tiết

được theo dõi rất kỹ để có thể làm mùa. Nói âm lịch, nhưng thực ra là lịch tiết khí. Vậy

bạn hãy quên đi dương lịch, quên luôn cả âm lịch theo như ta thường thấy khi lấy năm,

tháng ngày giờ theo lịch treo tường , và ngày Tết (giao thưà) là đổi năm, mà chỉ dùng

âm lịch theo tiết khí.

Lịch tiết khí có 12 tháng, gồm 12 tiết, và 12 khí (xem bảng sau đây) :

Trong dự đoán tứ trụ và bát quái chỉ dùng "tiết", không dùng "khí ". Chúng ta không

cần nhớ ý nghiã của tiết khí, nhưng chú trọng tới mùa và ngũ hành của mùa, của tháng.

Ngày nay, chúng ta dùng dương lịch; vậy chúng ta phải chuyển từ dương lịch sang âm

lịch.

Năm tháng ngày giờ âm lịch đều gọi theo can chi, thứ tự cuả can-chi năm, tháng, ngày,

giờ đều là thứ tự của bảng 60 hoa giáp. Bảng này cứ 1 vòng 60 (năm, tháng, ngày, giờ)

thì trở lại như cũ.

Lúc mới học, bạn có thể dùng vạn niên lịch, để có tứ trụ, lập bảng số … rồi đọc sách,

học cho nhanh.

Về sau, khi cần coi mệnh thực sự, thì phải biết đổi lịch để xác định tứ trụ chính xác,

trước khi lập bảng số.

Q1-Ch05-xacdinh-4t                                                                         1   02/01/200528/09/2003

Bảng Tháng / Tiết / Khí

Tháng âm lịch                                                                                          Tên (điạ chi)   tiết                   Khí

01                                                                                                     dần             Lập xuân

02                                                                                                     mão             Kinh trập

03                                                                                                     thìn            Thanh minh

04                                                                                                     tị              Lập hạ

05                                                                                                     ngọ             Mang chủng

06                                                                                                     mùi             Tiểu thử

07                                                                                                     thân            Lập thu

08                                                                                                     dậu             Bạch lộ

09                                                                                                     tuất            Hàn lộ

10                                                                                                     hợi             Lập đông

11                                                                                                     tý              Ðại tuyết

12                                                                                                     sửu             Tiểu hàn

Nên nhớ : năm âm lịch luôn luôn bắt đầu từ tháng Dần là tháng giêng 1; rồi mão là tháng 2…, đừng lầm

với thứ tự điạ chi theo đó tý là 1, sửu là 2 …

1) Ðầu tiên phải để ý giờ sinh. 1 ngày âm lịch có 12 giờ , 1 giờ dương lịch = 2 giờ âm

lịch;   bắt đầu từ sau 23 gìờ là đã bước sang ngày hôm sau theo âm lịch rồi, vậy phải

nhớ để ý những trường hợp sinh từ 23 giờ đến 24 giờ ngày n, là đã rơi vào ngày n+1.

Ví dụ sinh lúc 23 giờ 35   ngày 15/3/2003, ta có thể coi như sinh lúc 0 giờ 35 ngày

16/3/2003 cũng không sai, vì khi chuyển sang âm lịch thì đều như nhau. Ðiểm này rất

quan trọng, vì sang giờ khác nếu là ngày bình thường thì không nói gì, nhưng nếu ngày

n+1 đó lại là ngày đổi tháng, thì cũng có thể là đổi mùa - làm ngũ hành vượng suy thay

đổi ; và khi đổi tháng, nếu là tháng 12 qua tháng giêng thì cũng là đổi năm !

Do đó nếu đổi sai là sai hoàn toàn, và mệnh của người mà bạn muốn xem không ăn

nhập gì với mệnh có ngày mà bạn tìm được; đó chỉ là một mệnh giả tưởng. Vừa là công

cốc, vừa được dịp để người ta cười cho, hay nghi ngờ khả năng của bạn.

2) Cách sắp xếp can chi trụ năm : 1 vòng hoa giáp có 60 năm, theo thứ tự từ 1 đến

60, tạm gọi là số thứ tự hoa giáp ( tạm viết tắt là shg), ví dụ giáp tý là 1, ất sửu là 2 ,

bính dần là 3 …., đến quý hợi là 60; rồi trở lại giáp tý… (xem bảng 60 hoa giáp).

Ranh giới giữa 2 năm âm lịch là thời điểm lập xuân (chứ không phải mồng 1 tháng giêng -

ngày Tết như chúng ta thường nghĩ). Nói thời điểm là nếu cần phải xuống đến giờ-phút lập

xuân  (trong vạn niên lịch), trên đây vừa nói lý do tại sao .

- Hoặc bạn lấy vạn niên lịch, tra theo năm dương lịch để có năm can-chi; ví dụ 2002 là

nhâm ngọ. Cách này là cách phổ thông; nhưng phải có vạn niên lịch;

- Hoặc bạn lấy năm dương lịch nào đó trong quá khứ mà bạn biết chắc là giáp tý; ví dụ

1924, hay 1864 làm chuẩn, rồi :

lấy năm sinh (hay năm muốn biết can chi, ví dụ trên đây là 2003 ) trừ năm   chuẩn,

cộng thêm 1 : (2003 - 1924) + 1 = 80;

Q1-Ch05-xacdinh-4t                                                                                     2               02/01/200528/09/2003

lấy modulo 60 cuả 80 (modulo a cuả b là số dư của b : a)                                       80/60 = 1 , dư           20; nếu là

chia chẵn thì coi như dư 60;

tìm số thứ tự hoa giáp (shg) = 20 trong bảng 60 hoa-giáp , ta sẽ có can chi năm của

2003 là quý mùi ; (ta cũng có ngay đại mệnh của người đó là dương liễu mộc).

Cách này là cách thích hợp cho việc lập trình; hoặc chỉ cần bảng 60 hoa-giáp ;

3) Cách sắp xếp can chi trụ tháng :

Sau khi đã có trụ năm, ta sắp xếp trụ tháng. Chi tháng ta đã có theo bảng trên đây, bắt

đầu từ tháng giêng - dần. Ðể tìm can của mỗi tháng, người xưa có bài vè "ngũ hổ độn"

(năm AL luôn luôn bắt đầu bằng tháng Dần, dần là hổ, ngũ hổ độn là bấm tay để tìm

Can cuả tháng giêng - Dần).

Ta có bảng sau đây :

Can năm                                                                                        Giáp, kỷ                 Ất, canh                                                                        Bính, tân                     Ðinh, nhâm   mậu, Quý

Can   Tháng                                                                                    Bính                     mậu                                                                             canh                          Nhâm         giáp

giêng

Khi đã có tháng can tháng giêng, ta tính tiếp can tháng 2, tháng 3 … theo thứ tự 10

can; và tháng thì theo thứ tự : dần 1, mão 2, thìn 3,…, sửu 12.

Ví dụ : năm 2003 - quý mùi, tháng giêng là giáp dần, tháng 2 ất mão, tháng 3 bính

thìn,… , tháng 12 là ất sửu.

Trường hợp đặc biệt năm có tháng nhuận : cũng cùng 1 nguyên tắc với 1 tháng bình

thường, là điạ chi của tháng cũng lấy tiết lệnh làm chuẩn; trước giao tiết thì lấy tiết lệnh

tháng trước, sau giao tiết thì lấy tiết lệnh tháng sau. Nếu sinh đúng vào ngày giao tiết

thì phải tra vạn niên lịch xem giao tiết là lúc mấy giờ để lấy trụ tháng cho chính xác.

Như vậy ta đã có can-chi trụ tháng.

3) Cách sắp xếp can chi Trụ ngày :

Trụ ngày cũng theo thứ tự can chi của 60 hoa-giáp , tức là vòng tuần hoàn 60 ngày. Vì

trong âm lịch, tháng có tháng đủ (30 ngày), có tháng thiếu (29 ngày), có tháng nhuận

hay không, nên không có qui luật nào để tìm, bạn phải dùng vạn niên lịch để định can

chi ngày , hoặc ngày nay với máy vi tính và kỹ thuật lập trình, bạn có thể chọn 1 ngày

giáp tý nào đó làm chuẩn, sức chứa và tính của máy vi tính rất lớn, cả hàng triệu năm

cũng trong nháy mắt.

gọi ngày giáp tý chuẩn là d1 (và tại sao không là ngày giáp tý trong năm giáp tý chuẩn

trên đây); và ngày bạn muốn tìm là d2.

Tính  số ngày giữa d2 và d1 : n = (d2 - d1) + 1 ;

lấy modulo 60 của n                                                                            : n/60 = x , còn dư  m                                                                                   (nếu m = 0 thì cho m = 60);

                                                                                                                        tìm trong bảng 60 hoa-giáp, shg m tương ứng với can chi gì, đó là can chi trụ

ngày. Ví dụ :

                                                                                               m = 1 : giáp tý;

Q1-Ch05-xacdinh-4t                                                                                                      3                                                                               02/01/200528/09/2003

m = 5 : mậu thìn, ….

Như vậy ta đã có can-chi trụ ngày.

4) Cách sắp xếp can chi Trụ giờ :

Chi Giờ trong ngày âm lịch luôn luôn bắt đầu bằng Tý là 1 giờ (nhắc lại : sau 23 giờ đêm là

giờ tý của ngày hôm sau rồi), rồi theo thứ tự sửu 2, dần 3, …, hợi 12.

giờ                                                                                           tý         sửu                    dần         mão          thìn       tị    ngọ   mùi   thân   dậu   tuất   hợi

AL

giờ                                                                                           23-        1-3h                   3-5h        5-7h         7-9h       9-    11-   13-   15-    17-   19-    21-

DL                                                                                            1h                                                                    11h   13h   15h   17h    19h   21h    23h

Ðã có chi giờ , Chỉ còn tìm Can giờ. Chỉ cần biết can giờ Tý rồi suy ra các can giờ khác

theo thứ tự của 10 can.

Ðể tìm can của mỗi giờ, người xưa có bài vè "ngũ thử độn" (giờ tý bắt đầu 1 ngày, tý là

chuột (thử), ngũ thử độn là bấm tay để tìm Can cuả giờ Tý) cuả một Can Ngày nào đó.

Ta có bảng sau đây :

Can ngày                                                                                      Giáp, kỷ   Ất, canh               Bính, tân   Ðinh, nhâm   mậu, Quý

Can giờ Tý                                                                                    Giáp       bính                   mậu         canh         nhâm

Có can chi giờ tý, ta tính tiếp theo thứ tự 10 can, 12 chi.

Ví dụ  ngày canh dần hay ất mão sẽ có các giờ sau đây :

Bính tý (1), đinh sửu (2), mậu dần (3), …., bính tuất (11), đinh hợi (12).

Như vậy ta đã có can chi trụ giờ.

Và như thế, ta có toàn bộ Can-Chi tứ trụ. Bạn có thể bắt đầu lập bảng số.

Q1-Ch05-xacdinh-4t                                                                            4          02/01/200528/09/2003

Chương 6

TAM NGUYÊN CỦA TỨ TRỤ

I-  THIÊN NGUYÊN (THIÊN CAN)

Thiên can tương sinh

Thiên Can tương khắc

Thiên Can ngũ hợp

II- ÐIẠ NGUYÊN (ÐỊA CHI)

Ðiạ chi lục xung

Ðịa chi lục hợp

Ðịa chi tam hợp

Ðiạ chi tam hội

Ðịa chi lục hại

Ðiạ chi tam hình

III- Nhân nguyên (Can tàng độn trong địa chi)

IV- Quan hệ giữa Can và Chi

BẢNG NẠP ÂM 60 HOA GIÁP - Ứng dụng :

So tuổi

Mệnh năm / tính tình

những ứng dụng khác

BẢNG SINH VƯỢNG TỬ TUYỆT CỦA  10 THIÊN CAN

TAM NGUYÊN là : Thiên nguyên, địa nguyên, nhân nguyên. Ðó chỉ là cách gọi khác cuả

Thiên can, Ðiạ chi, và Can tàng độn trong địa chi mà thôi.

Trong trời đất (*) thì có thiên địa nhân hợp nhất.

(*) Người ta hay nói « trong vũ trụ … », nhưng xét cho cùng, thời của Kinh Dịch, bát quái, ngũ

hành, người Trung hoa chưa thấy xa hơn khỏi Thái dương hệ, trong đó các hành tinh cũng được

qui về, đặt tên cho, như ngũ hành.

Con người là tiểu thiên địa, nên trong con người cũng có thiên điạ nhân ; tiểu thiên địa

này tương thông với đại thiên địa (trời đất) qua các luân xa (bạn nào có hứng thú thì nên tìm

đọc các sách về luyện khí hay nhân điện - trường sinh-học). Ở đây ta không bàn về thuật luyện

khí, hay châm cứu, nhưng lại xét sự thể hiện của khí ngũ hành vào số mệnh, và nhân

thể, qua tứ trụ (can-chi) . Trên mỗi trụ đều có thể hiện thiên địa nhân :

- Thiên can là Thiên nguyên                                                                               : chủ về Lộc, lộ rõ;

- Ðịa chi là Ðịa nguyên                                                                                   : chủ về Thân, về người ;

- Con người sống trong trời đất, thì tương ứng trong địa chi cũng có tàng chứa khí trung

hoà bẩm sinh của âm dương ngũ hành nhiều CAN (đất mang chở và nuôi dưỡng con

người) , gọi là Nhân nguyên : là dụng của điạ chi, ẩn dụ về người và sự việc, chủ về

Mệnh .

Dùng các chữ can, chi khơi khơi thì không thấy tính cách mệnh lý, còn dùng tam nguyên (thiên địa nhân),

tuy cũng là một cách gọi nhưng hàm ngụ mệnh lý nhiều hơn. Bạn quen dùng cách gọi nào cũng được.

Vì Tam nguyên thống nhất nên sự phán đoán tổng hợp cả 3 trong mệnh lý học có một ý

nghiã vô cùng quan trọng, nó là cơ sở qua đó ta có thể chỉ ra toàn bộ tiền đồ, cát hung,

họa phúc, thuận nghịch của cả đời người.

Q1-ch06-tamnguyen                                                                                         1                           02/01/2005

I- THIÊN NGUYÊN : là các Thiên can của Tứ Trụ .

Nguồn gốc :

Dương số hay thiên số (số lẻ) của Hà đồ là 1,3,5,7,9. Người ta lấy số 5 ở giữa các

dương số đó , gấp đôi lên để bao hàm cả âm lẫn dương, tạo ra 10 thiên can, gọi tắt là

10 can. 5 là thiên số nên đặt là thiên can; 5 là dương số nên lấy can làm tuế dương.

10 Thiên can dùng để chỉ chu kỳ tuần hoàn của mặt trời  có ảnh hưởng trực tiếp đến sự

sinh trưởng của vạn vật.

Số tt                                                                                        1                                                      2                                 3      4                                          5                                                           6                                                                                7      8     9      10

Tên                                                                                          giáp                                                   ất                                Bính   đinh                                       mậu                                                         kỷ                                                                               canh   tân   nhâm   quý

+/-                                                                                          +                                                      -                                 +      -                                          +                                                           -                                                                                +      -     +      -

                                                                                                                                                                                                                                                                                                    Tuỳ theo can dương hay can âm, và căn cứ vào đặc tính của âm dương cùng thứ tự

                                                                                                                                                    trước sau, người ta phân biệt :

                                                                                             Giáp                                                                                                                                                                                                   : là thời kỳ mầm mống của vạn vật nảy sinh bừng dậy sống; là cây lớn;

                                                                                             Ất                                                                                                                                         : khí hậu đã ấm áp, vạn vật vui hoà tươi tốt; là loài cỏ;

                                                                                             Bính                                                                                            : sức nóng nhu hun; là lửa của mặt trời;

                                                                                             Ðinh                                                                                                                                       : nóng mà không gắt; là lửa của đèn đuốc hay bếp lò;

                                                                                             Mậu                                                                                                                                        : đất cao ráo; đất ở thành quách hoặc bờ đê;

                                                                                             Kỷ                                                                                              : Ðất thấp ẩm; đất ở ruộng vườn;

                                                                                             Canh                                                                                            : khí hậu thu liễm; là đao kiếm;

                                                                                             Tân                                                                                                                                        : khí hậu trong mát; là đồ vàng bạc trang sức.

Nhâm : nước đến lẫm liệt; nước ở sông hồ;

Quý                                                                                          : ẩm thấp ướt át; nước mưa hoặc sương rơi từng giọt.

Ý nghiã của thiên can đối với con người

Trong dự đoán vận mệnh, thiên can vô cùng quan trọng. Can ngày là mệnh chủ, nên

nếu VT và không bị khắc hại thì có thể dùng nó làm tiêu chí để dự đoán tính tình của

người ấy theo ngũ hành cuả nó.

A - Tính chất của dương CAN

Cang cường, oai võ, bất khuất;

Có lòng trắc ẩn; xử thế không cẩu thả.

B - Tính chất của âm CAN

Nhu thuận, chiù thế lực của người ta;

Có lòng ích kỷ; xử thế kiêu căng, và cũng có thái độ nịnh hót; trục lợi ,

vong nghiã.

Nếu nguyên cục thiên can thuần dương (toàn là Giáp, Bính, Mậu, Canh, Nhâm) : hào

hiệp, khẳng khái, làm việc mau lẹ, thiếu suy xét; tốt thì quá tốt, xấu thì quá xấu, ít hàm

dưỡng (tự chế); mưu sự chỉ có tính về một mặt, không có lo xa phòng bị.

Q1-ch06-tamnguyen                                                                            2                                                      02/01/2005

Nếu nguyên cục thiên can thuần âm (toàn là Ất, Ðinh, Kỷ, Tân ,Quý) : âm thầm, có

nhiều mưu kế, ích kỷ hại người; làm việc chậm chạp, lo điều này, nghĩ điều kia, vô định

kiến. Ưa canh cải, thấy thế không thắng được người thì lại a tòng, nịnh hót.

Nếu nguyên cục thiên can âm dương điều hoà (2 âm, 2 dương) : được thuần hoà,

trung hậu, xử thế không ngã qua bên nào (trung dung); quang minh chính đại.

Ý NGHIÃ CỦA  CÁC THIÊN CAN

(theo sách Quần thư khảo dị)

Thiên                                                                                                     Ý nghiã                                                  Chỉ về

can

Giáp                                                                                                      mở ra                                                    vạn vật tách ra

Ất                                                                                                        kéo                                                      vạn vật lúc ban đầu được kéo lên

Bính                                                                                                      đột nhiên                                                vạn vật đột nhiên lộ ra

Ðinh                                                                                                      mạnh                                                     vạn vật  bắt đầu mạnh lên

Mậu                                                                                                       rậm rạp                                                  vạn vật xum xuê

Kỷ                                                                                                        Ghi nhớ                                                  vạn vật bắt đầu có hình thể phân biệt

Canh                                                                                                      chắc lại                                                 vạn vật bắt đầu chắc lại; có quả

Tân                                                                                                       mới                                                      vạn vật bắt đầu có sự thu hoạch

Nhâm                                                                                                      Gánh vác                                                 Dương khí  chiụ nuôi dưỡng vạn vật

Quý                                                                                                       Ðo, đoán được                                            sự vật đã có thể đo lường được

Theo đó, ta thấy 10 thiên can không có liên quan gì đến việc mọc hay lặn của mặt trời; mà chỉ có chu kỳ

tuần hoàn của mặt trời , nói cho đúng là của quả đất chung quanh mặt trời, mới có ảnh hưởng trực tiếp

đến sự sinh trưởng của vạn vật.

Sự suy đoán về thiên nguyên chủ yếu thông qua sự hoá hợp, sinh khắc   cuả can ngày

với 3 can còn lại, cũng chính là sự phán đoán sự mạnh yếu, tổn hại hay có ích của 10

thần lộ ra trên thiên can của Tứ Trụ đối với can ngày, tức là TA (xem nhật nguyên và 10

thần).

Chẳng hạn dưới điều kiện tiên quyết là sự VS mạnh yếu của Tứ Trụ  không bị phá, thì tổ

hợp các Thiên can của Tứ Trụ nếu lộ ra :

- Thực (Thương) sinh Tài, Tài sinh Quan (Sát), Quan (Sát) sinh Ấn ;

- Thực thần chế Sát, Thương Quan hợp Sát, Thương (Thực) mang Ấn.. .

thì đó thường là tổ hợp tốt - mệnh phú quý (phú quí là có Lộc, có quan chức).

- Những tổ hợp khác cần phải căn cứ vào tình hình khác nhau mà kết luận.

Giữa các Thiên can thì có thể có tương sinh, tương khắc, hoặc tương hợp, do các thuộc

tính âm dương và  ngũ hành của chúng, theo những qui tắc sau đây :

1) tương sinh

-      gần thì mạnh, xa thì yếu;

-                                                                                                         cùng tính (âm dương) thì mạnh, khác tính thì yếu hơn ;

-                                                                                                         can sinh khí bị giảm; can được sinh thì khí mạnh thêm.

2) tương khắc

Q1-ch06-tamnguyen                                                                                         3                                                        02/01/2005

10 thiên can đại biểu cho ngũ hành, chia ra làm 2 mộc, 2 kim, 2 thổ, 2 thuỷ, 2 hoả.

Kim khắc mộc,                                                                                         nên    Canh, Tân    khắc                  Giáp, Ất.

Mộc khắc Thổ,                                                                                         nên    Giáp, Ất     khắc                  Mậu, Kỷ

Thổ khắc Thuỷ,                                                                                        nên    Mậu, Kỷ      khắc                  Nhâm, Quý

Thuỷ khắc Hỏa,                                                                                        nên    Nhâm, Quý    khắc                  Bính, Ðinh;

Hoả khắc Kim,                                                                                         nên    Bính, Ðinh   khắc                  Canh, Tân.

Thiên can tương khắc là ngũ hành chiến đấu (đánh nhau).

Ảnh hưởng của Thiên can tương khắc  : 1 ví dụ để lý luận :

Canh gặp Giáp : Canh là chủ động đi khắc Giáp (tạm gọi là chủ khắc), Giáp chịu

khắc thì bại trận, nhưng Canh cũng phải tổn sức, vậy 2 hành này bị sứt mẻ. Chẳng hạn

Can năm là Canh, Can tháng là Giáp,

nếu Giáp là hỷ thần của NC thì có hại cho NC;

nếu Giáp là kỵ thần của NC thì lại tốt đẹp cho NC;

Hàng Can khắc có nặng, có nhẹ, nên được phân biệt như sau (không kể can ngày vì nó là TA, mà chỉ kể

can năm, can tháng và can giờ thôi) :

                                                                                                      Năm                 Tháng                 Giờ

1                                                                                                     Canh                Giáp                                khắc nặng, vì ở gần

2                                                                                                                         Canh Thân  Giáp Dần                 thiên khắc điạ xung : quá nặng

3                                                                                                     2 Canh              1 Giáp                              1 Giáp đã thua cho 1 Canh, nay có

                                                                                                                                                              2 Canh, cũng như đẩy cây mục vậy

                                                                                                                                                              nên khắc này là khắc nhẹ.

4                                                                                                     1 Canh              2 Giáp                              Canh phải tổn sức

5                                                                                                     Canh                                      Giáp          khắc nhẹ, vì ở xa

6                                                                                                     Canh                Nhâm                  Giáp          Kim sinh Thuỷ, Thuỷ sinh Mộc,(liên

tục sinh) không  gọi là khắc

7                                                                                                     Canh                Bính                  Giáp          Bính hộ Giáp, chuyển thành Bính Canh

tương khắc; Canh không còn khắc

Giáp nữa

8                                                                                                     Canh                Giáp                  Nhâm          Thuỷ sinh Mộc, Kim khắc Mộc : cũng

vẫn là tương khắc.

9                                                                                                     Canh                Giáp                  Bính          Canh khắc Giáp, Bính không giúp Giáp

được.

10) - nếu Can Dương gặp can dương mà có ngũ hành tương khắc thì tương khắc

mạnh, như Canh-Giáp, Giáp-Mậu, Mậu -Nhâm, Nhâm- Bính, Bính -Canh;

- nếu Can Âm gặp can Âm mà có ngũ hành tương khắc thì cũng khắc nhưng khắc

rất nhẹ, vì âm khí mềm dẽo  (xem thí dụ về mệnh của một ông Ðề đốc).

Q1-ch06-tamnguyen                                                                                     4                   02/01/2005

11) a- Can Dương gặp can Âm, hay can Âm gặp can Dương mà có ngũ hành tương

khắc,   và Can + là chủ khắc còn Can âm là bên chịu khắc, thì gọi là tương hợp chứ

không gọi là tương khắc : như Canh-Ất, Giáp-Kỷ, Bính-Tân, Nhâm-Ðinh, Mậu-Quý. 2 can

âm dương này cũng như 2 vợ chồng vậy (tham hợp vong khắc).

Vậy trước hết ta nên xem 2 Can có tương sinh không, nếu không thì xét có hợp hay không, chừng

nào không có hợp thì mới xét có khắc không.

b- Can Dương gặp can Âm, hay Can Âm gặp can Dương mà có ngũ hành tương

khắc, và Can âm là chủ khắc còn Can + là bên chịu khắc,   thì không   gọi là tương hợp

mà vẫn là tương khắc , như : Tân-Giáp, Ðinh-Canh, Quý-Bính, Ất-Mậu, Kỷ-Nhâm,

nhưng vì âm yếu dương mạnh, nên khắc nhẹ lắm.

Nên nhớ :

Hai cát thần tương khắc là hung; hai hung thần tương khắc là cát;

Hai can tương khắc  đều bị tổn thương; can bị khắc tổn thương lớn hơn.

Khắc cách Can (ví dụ giữa trụ năm và trụ giờ), mà Can ở giữa (tháng) hoá                        (giải)

cái khắc thì không gọi là khắc nữa, mà là liên tục sinh. Ví dụ :

Bính hoả Khắc cách Can Canh kim

ở giữa có can mậu hay kỷ thổ , thì Hoả sinh Thổ, Thổ sinh Kim.

Trong khắc có hợp (tham hợp vong khắc), hay cái chủ khắc bị hợp, hợp mất sự khắc

thì không còn khắc nữa. Ví dụ :

Bính hoả Khắc Canh kim, nhưng trong 4T có Tân, Bính - Tân hợp hoá Thuỷ, Thuỷ khắc hoả,

nên Bính hoả không khắc nổi Canh Kim nữa.

Can ngày bị Can khác khắc; nhưng Can khắc đó lại bị 1 Can khác chế ngự, thì Can

ngày không bị khắc nữa.

Ví dụ : can ngày Canh, bị can tháng Bính khắc, nhưng Can tháng Bính bị can năm Nhâm chế

phục. Như thế thì không gọi Bính - Canh khắc nhau, mà chỉ gọi là Nhâm - Bính khắc nhau.

Bạn có thể lý luận tương tự cho những trường hợp tương khắc khác.

3) Ngũ hợp của Thiên can

Bảng thiên can hợp hoá

Can 1                                                                                           Giáp +        ất -         Bính +      Đinh -     mậu +

Can 2                                                                                           kỷ -          Canh +       Tân -       Nhâm +     Quý -

Hành hoá ra                                                                                     thổ           kim          thuỷ        mộc        hoả

Tính chất (a)                                                                                   Trung chính   Nhân nghiã   Uy nghiêm   Dâm loạn   Vô tình

(a) xem bảng .

Ngũ hợp của 2 thiên can là sự hợp từng cặp âm dương, như nam nữ, vợ chồng.

Nếu hợp hoá   thì hành hoá ra đối với sự mạnh yếu, vượng suy của nhật nguyên có một

vai trò quan trọng : nó làm tăng thêm sự sinh phù, hay sự khắc chế đối với nhật

nguyên. Tuy nhiên, không cứ hễ có hợp thì hoá ngay.

Q1-ch06-tamnguyen                                                                               5             02/01/2005

Vậy Khi nào là hợp hoá, khi nào là chỉ hợp không hoá ?

Trong 4T, khi xét sự hợp giữa 2 Thiên can, ta chỉ xét giữa 2 can kề sát nhau mà thôi :

a) quan trọng nhất là xét Can ngày với 2 can kế bên (tháng và giờ) :

- Có Hợp hay không ?

- Nếu Hợp thì có hoá hay không ?

Có hoá khi nào hành hoá ra (x) = hành của chi tháng (m) : x = m;

nếu hợp không hoá (x <>m), xét tiếp xem nếu 3 chi còn lại (năm, ngày,

giờ) nằm trong tam hợp cục hay tam hội cục trong đó có 1 chi có hành

(x), thì  vẫn là hợp có hoá.

Ví dụ :

Can ngày là giáp ; can tháng hoặc can giờ là kỷ, hoặc

Can ngày là kỷ ; can tháng hoặc can giờ là giáp

thì Giáp-Kỷ hợp, nếu hoá thì sẽ hoá Thổ; ta xét tiếp :

- nếu Chi tháng là thìn, hay tuất hay sửu hay mùi (thổ) thì có hợp hoá (hoá Thổ);

- nếu không có chi tháng như thế, ta chưa kết luận là không hợp hoá vội, mà xem

nếu 3 chi còn lại (năm, ngày giờ) là tam hợp hay tam hội cục, và   hành hoá ra (ở ví dụ

này là thổ) là hành của 1 trong 3 chi trên, thì vẫn có hợp hoá (hoá Thổ);

- nếu hoàn toàn không có gì hết thì kết luận là  có hợp không hoá.

b) Can năm và can tháng hợp hoá ra hành (x) = hành bản khí của chi năm (y) : x = y là

có hoá.

c) Tất cả những trường hợp can hợp khác của 2 can kề nhau đều là hợp không hóa;

Ứng dụng :

hợp hoá được ứng dụng trong việc xác định cách cục khác thường (xem ngoại cách

"hoá khí ngũ cách");

Về thiên can hợp hoá, hàng cuối của bảng cho biết tên gọi, hay tính cách của các

trường hợp.

Tác động của thiên (can) hợp:

- sau khi hợp có hóa, ta lấy hành hoá ra (h) để bàn, còn 2 hành đầu đã mất tác dụng;

- nếu chỉ hợp mà không hoá thì hành hoá lý thuyết ấy (h) đứng độc lập, không có

sinh khắc đối với những can chi khác. Tuy nhiên , khi đến đại vận hay LN nào có xuất

hiện hành (h) đó thì lực  của nó được tăng lên.

Tác dụng của Thiên can hợp hoá :

Nếu là hợp hóa thật thì có thể phú quí đến bậc công hầu khanh tướng;

Nếu là hợp hóa giả thì có thể hoặc mồ côi hoặc đi tu.

Về tác dụng của Thiên can hợp hoá, xin xem phụ lục "Thiên can hợp hoá ", được sắp riêng để dễ

tra cứu, vận dụng khi dự đoán. Bạn nên xem để có khái niệm thế nào là hợp hoá thật, thế nào là

hợp hoá giả.

Q1-ch06-tamnguyen                                                                                6   02/01/2005

Nói chung 4T có can hợp thường là người kết hôn sớm; ngày nay có thể nói là có

quan hệ nam nữ sớm.

Thiên Can ngũ hợp về hiệu lực có khác biệt tuỳ 12 tiết khí (tháng). Phần này có tính cách

thâm cứu, bạn có thể đọc thêm phần phụ lục liên hệ về sau.

Bảng THIÊN CAN HỢP HOÁ

Can                                                                                         Can    Hành         Tên hợp       chủ về

(+)                                                                                         (-)    hóa

giáp                                                                                        kỷ     thổ          Trung chính   nếu ngũ hành sinh vượng thì được người tôn kính; phúc hậu;

thẳng thắn;

nếu ngũ hành vô khí (tử tuyệt) có lẫn Sát thì tính hay giận

ất                                                                                          canh   kim          Nhân nghiã    nếu ngũ hành sinh vượng thì cốt cách thanh tú; có chí tiến

thủ;

nếu tử tuyệt có lẫn Sát thì dũng cảm hiên ngang; ưa can

thiệp chuyện người

bính                                                                                        tân    thuỷ         uy nghiêm     nếu ngũ hành sinh vượng thì bề ngoài uy nghi, nghiêm túc;

được người khác nễ sợ; nhưng cũng hay nghiện ngập, ham

cờ bạc;  đa dâm (thuỷ);

nếu tử tuyệt có lẫn Sát thì hay vong ơn bội nghiã; vô tình

đinh                                                                                        nhâm   mộc          Dâm loạn      mắt sáng, thần sắc đẹp; đa tình, dễ rung động; gặp việc thì

không có chí nhưng lại thích nhan sắc; gia phong ô tạp; nặng

tính cách tiểu nhân; tham lam , lừa dối;

nếu lúc trẻ mà bán trời không văn tự thì về già lại tốt;

ngược lại nếu lúc trẻ mà tốt thì về già lại hư hỏng;

Nữ : lấy chồng già hoặc tuổi cao lấy chồng không cưới;

mậu                                                                                         quý    hoả          Vô duyên      người hoặc tốt hoặc xấu;

Can ngày là Mậu, được Quý : người đẹp đẽ, kiều diễm; lấy vợ

hay chồng đẹp;

Can ngày là Quý , được Mậu: dung nhan thô lỗ; lấy vợ hay

chồng già

Q1-ch06-tamnguyen                                                                           7      02/01/2005

Bảng tổng hợp âm dương ngũ hành, thiên can, địa chi, mùa, nhân thể,

phương vị (đầy đủ nhất)

Ngũ                                                                                                     mộc            hoả               thổ               kim        thuỷ

hành

Thiên                                                                                                   giáp           ất                Bính              đinh       mậu          kỷ     canh           tân   nhâm        quý

can

Can                                                                                                     Đinh - nhâm                      mậu - quý                    Giáp - kỷ           ất - canh                        Bính - tân

hợp

hoá

Ðịa chi                                                                                                 dần            mão               ngọ               tị         Thìn         sửu    thân           dậu   tuất        hợi

                                                                                                                                                                      tuất         mùi

Chi hợp                                                                                                 dần - hợi                        Mão - tuất                   Tý - sửu            Thìn - dậu           tị - thân

hoá                                                                                                                                      ngọ - mùi

Âm                                                                                                      +              -                 +                 -          +            -      +              -     +           -

dương

Tạng                                                                                                    gan            Tim               tỳ                phổi                    thận

                                                                                                                       Tâm-

                                                                                                                                         (lách)

                                                                                                                       bào

Phủ                                                                                                     mật            ruột  non         dạ                ruột       Bàng

                                                                                                                       tam tiêu

                                                                                                                                         dày               già        quang

Muà                                                                                                     xuân           hạ                tứ quí (18 ngày   thu        đông

vượng                                                                                                                                    cuối mỗi muà)

Phương                                                                                                  đông           nam               ở giữa            tây        bắc

vị

Bát                                                                                                     chấn tốn       ly                cấn khôn          Càn đoài                       khảm

quái

Tam                                                                                                     hợi mão mùi    dần ngọ tuất                                   Tị dậu sửu          Thân tý thìn

hợp cục

Tam                                                                                                     dần mão thìn   tị ngọ mùi                          Thân                    dậu    Hợi tý sửu

hội cục                                                                                                                                                    tuất

Ngũ                                                                                                     nhân           lễ                tín               nghiã                          trí

thường

khí                                                                                                     phong          thử, hoả, nhiệt   thấp              táo                            Hàn

vật                                                                                                     gỗ             lửa, sức nóng     đất               Vàng,                   kim    nước

chất                                                                                                                                                       loại

Xem mệnh là xem tất cả mọi khiá cạnh cho một con người ; bảng này cho ta một số ứng dụng về mặt sức

khoẻ (qua các tạng phủ); thời gian ứng nghiệm (qua các địa chi / tháng - muà - năm ); tính tình (qua

ngũ thường) ; hướng tốt, xấu (qua phương vị), chi hợp, tam hợp, tam hội, can hợp sẽ cho ta những hành

hoá, hay hành vượng … để ứng dụng vào tất cả các mặt. Ngoài ra cũng có thể ứng dụng khi dự đoán

bằng bát quái.

Q1-ch06-tamnguyen                                                                                       8              02/01/2005

II - ÐIẠ NGUYÊN : là các điạ chi trong 4T.

Nguồn gốc :

Âm số, hay điạ số (số chẵn) của Hà đồ là 2,4,6,8,10. Người ta lấy số 6 ở giữa các âm số

đó, gấp đôi lên để bao hàm cả dương lẫn âm, tạo ra 12 điạ chi, gọi tắt là 12 chi. 6 là điạ

số nên đặt là điạ chi; 6 là âm số nên lấy chi làm tuế âm.

12 địa chi   có liên quan tới sự tiêu trưởng âm dương của mặt trăng. Chu kỳ tuần hoàn

của mặt trăng ảnh hưởng đến sự sản sinh của vạn vật.

Bảng 12 địa chi

Tên                                                                                                tý        sửu                 dần   mão   thìn   tị                               ngọ                                        mùi                                              thân   dậu   tuất   hợi

+/-                                                                                                +         -                   +     -     +      -                                +                                          -                                                +      -     +      -

số tt                                                                                              1         2                   3     4     5      6                                7                                          8                                                9      10    11     12

                                                                                                                                                                                     Ý NGHIÃ CỦA  CÁC ÐIẠ CHI

                                                                                                                                                                                     (theo sách Quần thư khảo dị)

Ðiạ                                                                                                          Ý nghiã                                                                                                            Chỉ về

chi

Tý                                                                                                           Tư bổ, nuôi dưỡng                                                                                                  mầm mống của vạn vật được nảy nở nhờ dương khí

Sửu                                                                                                kết lại                                          Các mầm non tiếp tục lớn lên

Dần                                                                                                          đổi dời, dẫn dắt                                                        mầm vừa mới nứt đã vươn lên khỏi mặt đất

Mão                                                                                                đội                                              vạn vật  đội đất mà  lên

Thìn                                                                                                         chấn động                                                               vạn vật  qua chấn động mà lớn lên

Tị                                                                                                           bắt đầu                                                                 vạn vật đến đây đã có sự bắt đầu

Ngọ                                                                                                          bắt đầu toả ra                         vạn vật bắt đầu mọc cành lá

Mùi                                                                                                          ám muội                                                                 âm khí bắt đầu có, vạn vật hơi suy giảm

Thân                                                                                                         Thân thể                                                                Thân thể vạn vật đã trưởng thành

Dậu                                                                                                già                                              vạn vật đã già dặn, thành thục

Tuất                                                                                               diệt                                             vạn vật đều suy diệt

Hợi                                                                                                hạt                                                                               vạn vật thu tàng về thành hạt cứng

Ý nghiã ban đầu chỉ có thế, chứ không liên hệ gì tới 12 con vật như ta thường biết. Người xưa đã

dùng 12 con vật (cầm tinh, con giáp) để biểu thị cho dễ nhớ, trong một xã hội nông nghiệp còn sơ

khai, con người sống với gia cầm, hay gần thiên nhiên, rừng núi, và kể cả huyền thoại (thìn là

rồng ). Ở đây ta không cần phải mất thì giờ đào sâu thêm; xin xem phần phụ lục.

Khi xét các địa chi, bạn nên có đồ hình điạ chi trên bàn tay (tay trái), và nên thuộc lòng

cách sắp xếp, vị trí. Khi chưa thuộc lòng thì bạn nên có trước mặt một đồ hình

photocopy.

Q1-ch06-tamnguyen                                                                                  9         02/01/2005

Ghi nhớ trên hình bàn tay trái theo bảng dưới đây : 4 cột là                                 4 ngón tay (không kể ngón

cái ) ; các ngấn đốt ngón tay (và mút trên đầu ngón tay) tương ứng với   các điạ chi,

khởi đầu từ Tý, ngón tay áp út, theo chiều kim đồng hồ.

----------->

Tị                                                                                           Ngọ    Mùi       Thân

Thìn                                                                                         Dậu

Maõ                                                                                          Tuất

                                                                                             Dần                         Sửu             Tý   Hợi

                                                                                                                         <---------- !

                                                                                             ngón                                             ngón

                                                                                             trỏ                                                                                               út

chiều dọc                                                                                                                                     : từng ngón cho ta các cặp điạ chi tương hại ;

dần - tị; mão - thìn; sửu - ngọ; tý - mùi ; hợi - thân; tuất - dậu.

chiều ngang  : các cặp cho ta 2 chi tương hợp ;

tý -sửu ; dần - hợi ; mão - tuất ; thìn - dậu ; tị -thân ; ngọ - mùi.

đối xứng qua tâm : các cặp lục xung (dần-thân, tị hợi, thìn tuất ...)

hình bàn tay cũng giúp ta thấy ngay : tam hội, tam hợp, phương hướng và cung

bát quái.

Sắp xếp trên bàn tay còn dễ vận dụng để nhớ các cặp lục xung (đối xứng), lục hợp

(hàng ngang), lục hại (hàng dọc).

Các điạ chi được phân ra thành  âm, dương, có tính chất  khác nhau :

A-   Tính chất của dương chi (Tý , Dần, Thìn, Ngọ, Thân , Tuất) : động, cường

tráng, do đó Cát hay Hung ứng nghiệm mau lẹ; khi gặp xung sẽ có tai họa lập tức. Do

đó khi xem hành vận nên coi kỹ những địa chi này.

B-  Tính chất của âm chi (Sửu, Mão, Tị, Mùi, Dậu, Hợi) : âm thầm mềm dẽo, nên

Cát hay Hung ứng nghiệm trễ, nhưng nói chung gặp xung là không tốt.

Vì địa chi có ẩn tàng nhiều Can (xem bảng Can tàng độn trong điạ chi), nên sự xung , khắc,

hình làm nó động, và có nhiều biến hoá, nhưng luôn luôn phải lấy bản khí coi trước (là

khí gốc - đã là gốc thì phải quan trọng, và nó quyết định Hành của điạ chi đó) . Ví dụ :

chi Dần nên coi bản khí Giáp trước, rồi mới lần lượt tới Bính, Mậu.

chi Thân nên coi bản khí Canh trước, rồi mới lần lượt tới Nhâm, Mậu.

Khi Bản khí bị xung ở nguyên cục, nếu là DT thì không được kiện toàn, nên bỏ đi và tìm

chữ khác làm DT.

Q1-ch06-tamnguyen                                                                            10                          02/01/2005

Trong 12 địa chi   phân thành Âm Dương, phối hợp với bảng Trường sinh người ta chia

ra thành 3 loại :

Tứ sinh                                                                                               (TS)            : Dần, Thân, Tị, Hợi

Tứ bại                                                                                                (MD)            : Tý, Ngọ, Mão, Dậu

Tứ mộ                                                                                                 (MO)            : Thìn, Tuất, Sửu , Mùi

Giữa các điạ chi có những tương tác như : hợp, hình, xung, hại, phá, hoặc không vong.

Ðiạ Chi ở trên các trụ, mà mỗi trụ tương ứng với 1 trong lục thân (cung), vì thế nên chú

ý vai trò cuả mỗi trụ; ta sẽ thấy rõ những tương tác sẽ tác động trên lục thân, ví dụ trụ

năm là Cung cha mẹ, vậy cha mẹ có vấn đề; trụ giờ là cung con cái, vậy chú ý xem con

cái.

Tuy nhiên, ban đầu bạn chỉ nên chú trọng tìm hiểu thế nào là hợp, hình, xung, hại, phá;

trong mỗi trường hợp chúng biểu thị những vấn đề gì, mà chưa nên tìm hiểu chi tiết

ảnh hưởng của mỗi trường hợp vào vận mệnh vội. Sở dĩ trình bày luôn ở đây là vì chúng ta

đang khảo sát về chúng mà thôi, vậy phần đó bạn có thể lướt qua, và trở lại đọc kỹ về sau, khi đoán

mệnh.

1) Ðiạ chi lục xung

lục xung là : dần thân ; tị hợi ; thìn tuất ; sửu mùi ; tý ngọ ; mão dậu.

Tương xung là đối xung, hình các điạ chi trên bàn tay cho thấy rất rõ các Chi đối xung.

Tương xung có nghiã là tương khắc. Nhìn hai điạ chi ta sẽ thấy ngay đối xung; còn sao

lại nói khắc ? Bạn hãy xét các CAN tàng trong 2 điạ chi ấy sẽ thấy;

ví dụ : Tý - Ngọ xung

Tý                                                                                                    Ngọ

Quý                                                                                                   đinh  kỷ

Quý thuỷ khắc đinh hoả

Kỷ thổ khắc quý thuỷ;

ví dụ : Dần - Thân xung

Dần                                                                                                   Thân

Giáp Bính Mậu                                                                                         canh nhâm mậu

Giáp mộc khắc Mậu thổ

Canh kim khắc giáp mộc

Nhâm thuỷ khắc bính hoả

Ngoài ra, về xung khắc cũng phải hiểu rõ "xung lẫn khắc" hay chỉ "xung" mà thôi.

Ví dụ  Tý - Ngọ    tương xung : tý xung khắc ngọ; còn ngọ chỉ xung tý mà thôi;

Mão - dậu tương xung : mão xung dậu, còn dậu xung khắc mão.

Nhìn dưới khiá cạnh ngũ hành bạn sẽ phân biệt rõ; và suy luận cho các cặp lục xung

khác; ngoài ra người Việt thường nhạy cảm về tứ hành xung, nên ai cũng biết 4 cặp lục

Q1-ch06-tamnguyen                                                                                     11              02/01/2005

xung (nói tứ hành xung là xung-khắc / đó là tứ sinh và tứ bại); còn 2 cặp Thìn-Tuất,

Sửu-Mùi chỉ có xung mà không khắc, vì có cùng 1 hành Thổ (đó là tứ mộ).

Trên đây có chia lục xung  thành tứ sinh, tứ bại và tứ mộ. Ảnh hưởng như sau :

Tứ sinh : gặp xung thì nặng lắm, vì 4 chi này thuộc về sinh khí, giống như cây mới

manh nha, còn yếu, nếu xung thì phá vỡ liền.

Tứ bại (Mộc dục) : tráng kiện hơn , gặp xung nên cẩn thận, cân nhắc hành nào đắc

thời thì thắng, hành nào thất thời thì bại, rất dễ phân biệt.

Tứ mộ                                                                                        : là chỗ bế tắc, gặp xung không kỵ.

Bạn cũng nên ghi nhớ qui luật gần thì mạnh (nạn nặng), xa thì yếu (nạn nhẹ); và xung

thuận hay xung ngược. Xem 4T sau đây :

Bính ngọ                                                                                     canh tý                                                                                               ngày đinh mão                                                  kỷ dậu

Tý xung ngọ là ngược; dậu xung mão là ngược (ngược theo tôn ti giữa các trụ năm,

tháng, ngày, giờ; và xung lẫn khắc); đây là tượng không tốt; cách cục tứ xung này rất xấu,

về sau bạn sẽ gặp trong vài ví dụ điển hình.

Ðặc biệt nếu 4T có cả tý-ngọ mão-dậu mà xung thuận, lại đắc thế, đắc điạ thì đó là

mệnh đại quí cách. Nhưng cả chục triệu người chưa chắc đã có một.

Khi nghe nói Tương xung là người ta có ngay cảm tưởng không tốt, nhưng cần phân

biệt :

- nếu kỵ thần yếu, hỷ thần mạnh, xung mất kỵ thần làm cho NC được sạch sẽ

là tốt;

- nếu kỵ thần mạnh, hỷ thần yếu, xung mất hỷ thần làm cho NC xấu thêm.

vậy trong 4T gặp xung thì có cát có hung : Xung mất phúc thần (ví dụ hỷ thần, DT, hay

lộc) thì hung; xung mất hung thần (ví dụ kỵ thần, KV) thì cát.

Khi địa chi gặp xung khắc nên thật chú ý   lúc vận dụng đoán mệnh , kết hợp với vai trò

của mỗi trụ (cung lục thân).

và nên nhớ " Bị xung nhưng có không vong thì xấu hoá thành tốt; hoạ biến thành

phúc".

Hậu quả cuả xung:

- Tý Ngọ xung                                                                                : thân lúc nào cũng lo lắng, bất an.

- Sửu Mùi xung                                                                                                                                                                                     : mọi việc bê trễ, không được nhanh chóng theo ý muốn; việc

gì cũng trắc trở;

- Dần Thân xung                                                                              : đa tình đa cảm;

- Tị hợi xung                                                                                : ham làm; ham giúp đỡ người;

- Mão Dậu xung                                                                                                                                                                                     : lúc nào cũng lo buồn, thất tín bội ước; hay bội phản người

thân;

- Thìn Tuất xung                                                                                                                                                                                   : ham sắc dục; gia đình tan nát (khắc người thân, làm thương

                                                                                             tổn con cái); đau ốm; chết non; đàn bà hại chồng khắc con.

                                                                                             Chú ý : Tý-Ngọ, Mão -Dậu tương xung thì xung mạnh (vì là 4 phương chính), nên người ấy hay thay đổi

chỗ ở; còn nghề nghiệp vẫn như cũ;

Q1-ch06-tamnguyen                                                                            12                                                                                                    02/01/2005

Dần-Thân, Tị-Hợi tương xung, là xung vừa (4 hướng phụ), xung về nghề nghiệp và chỗ ở ; cả hai

đều thay đổi;

Thìn -Tuất , Sửu- Mùi tương xung : hầu như không xung; đây là xung về nghề nghiệp; nghề thay

đổi, nhưng chỗ ở không thay đổi.

- bất cứ chi trụ nào xung với ngày hoặc tháng, hay nói chung nếu 4T có xung :

không ở chung với cha mẹ được.

- hai trụ có cùng Thiên can, mà điạ chi xung nhau :  lao khổ, phá tan tổ nghiệp;

- Chi năm xung chi tháng  : sớm xa gia đình, sống tha hương; cha mẹ / anh em

có người mất sớm.

- Năm - Ngày xung  : bất hoà với người thân;

- Năm - Ngày - Giờ xung : khắc con; cha mẹ con cái bất hoà;

- Năm - Giờ xung                                                                                : bất hoà với con cái;

- Năm xung Tháng - Ngày - Giờ : tính thô bạo, hoặc hay bệnh tật

- Tháng-Ngày-Giờ , hoặc Năm-Giờ xung : tính cuồng bạo; vong ân bội nghiã; suốt

đời gặp chuyện không may; hoặc mắc bệnh hoạn;

- Chi tháng xung chi ngày : hay xúc phạm cha mẹ, anh em; người phối ngẫu với

cha mẹ / anh em của mình không hoà thuận;

- Chi ngày xung chi giờ                                                                         : khắc vợ con ; người phối ngẫu và con có người bị

mất; có thể có 2 vợ/chồng; hoặc có con dị bào; chung cuộc vẫn không tốt;

thường có tai hại về gia đình; bản thân chết bất đắc kỳ tử; chết trong tai

nạn.

- Thực thần bị xung                                                                             : sơ sinh cha mẹ đói khổ; mẹ không đủ sữa cho con

bú; xung khắc con.

- Chính quan bị xung                                                                            : tinh thần không yên, hay sợ hãi;

- Chính tài bị xung                                                                             : tâm trí phiền não;

Nữ  mệnh:

- chi ngày = Thìn; chi giờ = Tuất, hoặc ngược lại : thường sống cô quả;

- 4T có Quan hoặc Sát hay Thực, nếu có chi cùng trụ bị chi khác trong 4T xung

hoặc hình : khắc hại chồng con;

- 4T có nhiều Ấn, các Chi hình xung lẫn nhau, nếu không có Thực thần : thường

bị hãm sống trong cảnh bần cùng.

2) Ðịa chi lục hợp

Hợp là hoà hợp, Âm - Dương 2 khí tương hoà với nhau. Trong khí, số dương làm chủ,

tạo hoá cho 2 khí này tương hợp kể như vợ chồng, để phối hợp với nhau thành số.

Trong 4T nếu có 2 điạ chi hợp nhau thì có nghiã là tốt ; nhưng cần phân biệt :

1) Trong hợp có khắc : trước tốt sau xấu ; trước nóng sau lạnh ; trước hợp sau tan.

Đó là trường hợp của quan hệ bạn bè hay vợ chồng, lúc bắt đầu thì rất tốt , nhưng về

sau thì cải vã, vợ chồng ly hôn, bạn bè chia rẽ. Ví dụ :

Tý - sửu                                                                                        : thuỷ - thổ

Mão - tuất                                                                                      : mộc - thổ

tị - thân                                                                                       : hoả - kim.

                                                                                                                                                     2) Trong hợp có sinh : quan hệ bạn bè hay vợ chồng ngày càng tốt hơn. Ví dụ :

Q1-ch06-tamnguyen                                                                                                                                    13                                                                              02/01/2005

dần - hợi                                                                                                 : mộc - thuỷ

thìn - dậu                                                                                                : thổ - kim

ngọ - mùi                                                                                                 : hoả - thổ.

                                                                                                          Trong MC, gặp lục hợp nhiều là người không có đại chí, nhưng được ổn định.

Bảng điạ chi lục hợp

(đọc theo chiều dọc / cột)

chi 1                                                                                                     Tý                                                                           dần          mão    thìn   tị     ngọ

chi 2                                                                                                     sửu                                                                          hợi          tuất   dậu    thân   mùi

Hành hoá                                                                                                  thổ                                                                          mộc          hoả    kim    thuỷ   thổ (1)

(1)  có sách cho rằng ngọ là thái dương (mặt trời) , mùi là thái âm (mặt trăng), hợp nhau hoá Hoả -

chiếu sáng.

Qui tắc địa chi  hóa hợp giữa 2 chi : nếu

- không nằm sát bên mà hợp thì gọi là hợp xa, lực yếu, không đủ để thành khí ;

- kề sát bên : nếu hợp hóa ra hành (x) = hành của can lộ trên 1 trong 2 chi (y)                           :

x = y là hợp hoá;

nếu không : goị là hợp mà không hoá .

Chú ý : có sách cho rằng 2 thiên can hợp thì hoá ngay vì chỉ có 2 (ngũ) hành, còn địa chi thì hợp nhưng

không thể hoá được, vì trong địa chị có chứa nhiều thiên can, có hành khác nhau.

Tác động của địa (chi) hợp :

- sau khi hợp có hóa, ta lấy hành hoá ra (h) để bàn, còn 2 hành đầu đã mất tác dụng;

- nếu chỉ hợp mà không hoá thì hành hoá lý thuyết ấy (h) đứng độc lập, không có

sinh khắc   hoặc hình xung   đối với những can chi khác. Tuy nhiên , khi đến đại vận hay

LN nào có xuất hiện hành (h) đó thì lực hợp của nó được tăng lên.

3) Ðịa chi tam hợp

Tam hợp hoá cục gọi tắt là tam hợp cục (THC) là 3 chi Sinh, Vượng, Mộ của 1 HÀNH. Ví

dụ Hành Hoả TS ở Dần, ÐV ở Ngọ, và Mộ ở Tuất nên Dần-Ngọ-Tuất   hợp thành Hoả

cục. Những cái khác cũng tương tự.

Dần - Ngọ - Tuất                                                                                          : hoả

Hợi - Mão - Mùi                                                                                           : mộc

Thân - Tý - Thìn                                                                                          : thuỷ

Tị - Dậu - Sửu                                                                                            : kim

Khi có tam hợp hoá cục thì hành của cục rất mạnh. Tạm thời ta chấp nhận THC thì hoá

ra 1 hành nào đó ngay.

Nhưng về sau ta sẽ thấy các Ðịa chi trong 4T tam hợp tuỳ 12 tiết khí (tháng) mà có hoá hay không.

Ðể thâm cứu phần này, bạn có thể đọc phần phụ lục liên hệ, thật ra cũng không cần thiết mấy.

Q1-ch06-tamnguyen                                                                                         14                                                                           02/01/2005

12 điạ chi có 12 : 3 = 4 THC , chỉ có 4 hành Kim, mộc, thuỷ, hoả mà không có Thổ. Bạn

có thể tự hỏi tại sao ? Trường hợp này sách Tam mệnh thông hội giải thích như sau :

"Ngũ hành không nói đến Thổ mà 4 hành đều trở thành Thổ cục; vạn vật đều trở

về với đất". Nếu có cả thìn tuất sửu mùi thì đương nhiên mệnh đó có Thổ cục.

THC có cát, có hung :

1) hợp hoá sinh : tốt. Ví dụ 1 4T :

canh thân                                                                                      ất dậu                                    ngày giáp thìn   giáp tý

sinh tháng Dậu, kim vượng; Mộc ở tử địa;

chi ngày Thìn thổ khắc Tý thuỷ của giờ, nên Tý thuỷ không giúp cứu được Mộc;

can ngày và can giờ Giáp mộc, can tháng Ất mộc đều bị Kim vượng khắc, lại không

được Thuỷ sinh (bị khắc vô sinh) nên là tượng xấu.

Nhưng nhờ thân-tý-thìn tam hợp Thuỷ cục, Thuỷ lại được Kim của trụ năm (Canh) và

lệnh tháng (dậu) sinh cho; nên Thuỷ vượng sinh Mộc, vậy là điều tốt; tức là bị

khắc nhưng có cứu.

Trường hợp này gọi là hợp hoá sinh (cho Thân / TA).

2) hợp hoá khắc : xấu. Ví dụ 1 4T :

canh thân                                                                                      mậu tý                                    ngày bính ngọ    nhâm thìn

sinh tháng Tý nên Thuỷ vượng; can ngày bính hoả ở tử địa, lại bị Thuỷ vượng khắc là

tượng rất xấu;

đã thế, thân-tý-thìn tam hợp Thuỷ cục, lại đế thêm cho Thuỷ để khắc Can ngày Bính

hoả, và chi ngày Ngọ hoả;

Hoả bị khắc vô sinh, không có cứu, nghiã là đã xấu càng thêm xấu.

Trường hợp này gọi là hợp hoá khắc (Thân / TA).

Hậu quả cuả chi hợp :

Phàm những người có THC hay lục hợp thường có dáng người thanh tú, tư thế đẹp;

thần khí ổn định; lòng dạ ngay thẳng; thông minh, tháo vát, toàn diện, nhanh chóng.

Nam                                                                                            : thường thanh tú;

Nữ                                                                                             : đa dâm; nên nữ kiêng kỵ tam, lục hợp.

Nếu hợp hoá sinh : người ấy gặp việc gì cũng toại nguyện; nhiều tài năng; nói năng vui

vẻ lưu loát; không cải vã; có quí nhân thần phúc; suốt đời phúc hậu (điạ chi hợp cục là phúc

đức); nhưng đôi khi cũng hay xãy ra những việc xấu .

Nếu hợp hoá KHẮC : người ấy thường gặp hung lẫn sát; càng năng động thì càng tổn

thất; nhiều việc xấu dồn dập; có thể xãy ra tai nạn ghê gớm.

Người có tam hợp, lục hợp :

Q1-ch06-tamnguyen                                                                              15                                        02/01/2005

nếu tử tuyệt (lấy hành cuả hợp so với chi tháng ?/ hay phối hành Can Ngày với

chi cuả Hợp, theo bảng TS) : hay hành động nhưng ít thành công; tinh thần ủ

rũ, thô lậu, ít bạn bè; ý chí thấp kém; lòng dạ hẹp hòi; thích tiểu nhân không

ưa quân tử; cả đời thấp hèn;

nếu Kiến lộc (LQ) thì được phúc ngoài ý muốn;

nếu hợp với quí nhân, Chính ấn thì được phúc, có quí nhân nâng đỡ, đề bạt;

nếu Hợp với Thực thần thì y lộc phong phú;

nếu Hợp với đại hao thì là người vô lễ; nói năng thô tục; thích tiểu nhân không

ưa quân tử;

nếu có thêm hàm trì thì tư thông , gian ác, dâm loạn, tham ô, bất lương;

THC hoá Tài thì tài vượng (Tài cục);

Hoá Quan    thì     quan vượng (quan cục);

Hoá ấn                                                                                    thì                                                                   văn thư vượng (Ấn cục): khoa bảng;

Hoá Sát                                                                                   thì                                                                   sát vượng (Sát cục);

                                                                                          tóm lại hoá ra cát thì càng cát; hoá ra hung thì càng hung.

4) Ðịa chi tam hội

đó là                                                                                     3 vị trí cùng nằm về 1 phương của mỗi (ngũ) hành.

Dần - mão - Thìn                                                                                                                                                : mộc / phương đông

Tị - ngọ - mùi                                                                            : hoả                                                                 / phương nam

Thân - dậu - tuất                                                                         : kim                                                                 / phương tây

hợi - tý - sửu                                                                                                                                                  : thuỷ / phương bắc.

Khi có tam hội cục, thì hành của cục rất mạnh, còn mạnh hợn cả tam hợp cục nữa, đặc

biệt mạnh về 1 phương.

5) Ðịa chi lục hại (tương hại)

Đó là : dần - tị;                                                                         mão - thìn;   sửu - ngọ;    tý - mùi ;    hợi - thân;   tuất - dậu.

Hại là tương hại với nhau, biểu tượng cho sự đố kỵ, ghen ghét, bất mãn, chủ về làm hại

cho bản thân; cô độc; người thân trong gia đình bị tổn thất; của cải mất mát. Nữ rất kỵ

gặp.

Nếu sinh vượng thì còn đỡ;

Nếu tử tuyệt ắt có khi tự vận chết một cách thê thảm (như sao Hoá kỵ trong

khoa tử vi).

Tý Mùi hại                                                                                : anh em bất hoà, không giúp đỡ lẫn nhau ;

                                                                                          da thịt khô khan;

Sửu- Ngọ hại, Mão- Thìn hại, nếu gặp :

TS, hoặc ĐV, hoặc LQ                                                                      : tính hay giận dỗi ; làm việc không nhẫn nại, chóng

chán ;

Suy, BH, TU, TT                                                                           :  bị thương đến tàn tật ;

Dần-Tị hại                                                                                : về già bị phế tật (không làm việc được nữa); nếu

trong 4T có nhiều hành Kim thì bệnh tật đầy thân;

Q1-ch06-tamnguyen                                                                         16                                                                    02/01/2005

Dậu-Tuất hại , Thân Hợi hại                                                              : xung khắc họ hàng ; câm điếc, hoặc mặt có nhiều

nhọt độc.

Ngày Dậu - giờ Tuất                                                                      : về già có thể bị câm điếc ; đầu mặt có sẹo ;

Chi tháng hại Chi trụ khác                                                               : khắc hại vợ con anh em ; sống cô độc ; bạc mệnh;

Trong lục hại thì xấu nhất là ngày - giờ tương hại :

- về già thì tàn tật không nơi nương tưạ,

- nếu còn gặp kình dương thì có thể bị chết hay hoạ về tên, đạn hay thú dữ.

Ngoài ra tương hại cũng có nghiã là tương khắc ; ví dụ 4T :

Bính thân                                                                                ất mùi                                                                   ngày mậu tý   đinh tị

Tý - mùi                                                                                 tương hại; Mùi thổ khắc Tý thuỷ.

Tương hại đương nhiên là không tốt, nhưng phải xem nó có bị chế ngự không; nếu có

thì không sao.

6) Ðiạ chi tam hình (tương hình)

Hình là do mãn cực (đầy quá), đầy quá ắt sẽ đưa đến sự tổn haị. Giữa các địa chi có 3

hình (gọi là tam hình) :xếp vào từng cặp theo cục và phương hướng, thì có 1 hành mãn

cực, nên hình.

Hàng thứ 3 của bảng cho ta tên gọi của « hình ».

dần                                                                                      ngọ                                                                      tuất          tị        dậu           sửu    thân   tý             thìn   hợi    mão           mùi

tị                                                                                       ngọ                                                                      mùi           thân      dậu           tuất   dần    mão            thìn   hợi    tý            sửu

Trì                                                                                      tự                                                                       Vô            Trì       tự            Vô     Trì    Vô             tự     tự     Vô            Vô

thế                                                                                      hình                                                                     ân            thế       hình          ân     thế    lễ             hình   hình   lễ            ân

                                                                                         hoả mãn cực                                                                                      Kim mãn cực                 thủy mãn cực                 mộc mãn cực

6.1) Dần-Tị-Thân : hình trì thế

4T có hình này thì : Tính tình tự đắc, hay làm quá tài năng của mình cho nên công việc

làm ăn dễ thất bại;

Các trụ có chi hình nhau, lại có :

TS hay QÐ hoăc LQ, ÐV : tính tình cương nghị; khí sắc trông quang nhuận;

Tử hoặc Tuyệt : giảo hoạt thấp hèn ; hay bệnh tật hoặc gặp tai ương;

Nữ                                                                                       : phải sống cô quả.

Mệnh quí thì hiếu sát, thích công danh.

Mệnh tiện thì lời nói và việc làm trái ngược nhau; tham lam.

6.2) Sửu - Tuất - Mùi : hình vô ân

4T có hình này (hoặc gặp Tuế vận tương hình) thì :Tính tình hiểm ác, vong ân bội

nghiã, lãnh đạm, khô khan; hoặc bị người làm hại, hoặc gặp việc xấu.

Các trụ có chi hình nhau, lại có :

TS hay QÐ hoăc LQ, ÐV                                                                    : là người có tinh thần cao thượng, mày rậm mắt to,

ngay thẳng;

                                                                                         Tử hoặc Tuyệt : hiểm độc; lấy oán báo ân. Nữ mệnh : thường bị hư thai.

Q1-ch06-tamnguyen                                                                        17                                                                       02/01/2005

Mệnh quí thì thanh liêm chính trực, được người ta quí mến.

Mệnh tiện thì thường hay phạm pháp, bị hình phạt.

6.3) Tý - Mão : hình vô lễ

Tý thuộc thuỷ, Mão thuộc mộc; 2 hành này đều thuộc hàm trì, đào hoa, tính dâm dục

nên ít lễ nghiã.

4T có hình này thì :

-  Thiếu tính độc lập tự chủ; hành động có đầu không có đuôi, cố chấp, thành kiến;

thường rơi vào hoàn cảnh khó khăn; dung mạo xấu xí; nội tâm ác độc .

- Tính tình hung bạo, không biết lễ nghiã; bất hoà với mọi người; bạn bè ghét bỏ;

- Tử hoặc Tuyệt cùng trụ : bất hiếu với cha mẹ; bất đễ với anh em; khắc hại bà

con họ hàng; nông cạn; nếu nặng thì có thể bị bệnh tật.

- Nữ : khắc hại chồng con; hư thai.

Ngày sinh gặp : vợ hoặc chồng có bệnh;

Giờ sinh gặp : con cái bệnh tật, yếu đuối;

6.4) Tự hình : Thìn - Thìn; Ngọ - Ngọ; Dậu - Dậu; Hợi - Hợi.

Tự ỷ thế mạnh đồng loại tương tàn, nhưng trong NC ảnh hưởng rất ít, có khi bỏ qua

không cần luận tới.

4T có hình này thì tự tôn tự đại, nhưng tinh thần lại bất nhất; không tự quyết đoán

được việc gì; làm việc hay sửa đổi; dung mạo xấu; hay cố chấp; bụng dạ hiểm độc; coi

thường mọi người; hay lâm vào cảnh cùng khổ;

- Tử hoặc Tuyệt cùng trụ : hiểu biết nông cạn; mắc phế tật.

- Chi giờ với bất cứ chi trụ khác hình nhau                                              : con hay mắc bệnh và ốm yếu;

- Chi ngày với bất cứ chi trụ khác hình nhau : vợ (hay chồng) ốm đau luôn.

Chú ý : Trong 4T nếu có 2 loại tương hình thì cái xấu càng nặng; nhưng nếu mệnh tốt

thì ngược lại càng thêm tốt (nhắc lại : quí mệnh thì thường phải có quyền, sát, hình).

7) Tương phá :

4T có các điạ chi tương phá thì :

- Tháng-Ngày phá : khắc vợ / chồng; vợ chồng sớm chia lià;

- Chi Năm tương phá với Chi trụ khác : sớm khắc cha mẹ;

- Chi Tháng tương phá với Chi trụ khác : cuộc đời thăng trầm; có nhiều biến

chuyển bất ngờ;

- Chi Ngày tương phá với Chi trụ khác : sống cô độc, không có vợ con bên cạnh;

- Chi Năm tương phá với Chi trụ khác : đến già vẫn phải lo buồn;

Q1-ch06-tamnguyen                                                                        18                              02/01/2005

Bảng tóm tắt toàn bộ : điạ chi hợp, xung, hình, hại, phá

                                                           tý     sửu          dần    mão    thìn   tị     ngọ    mùi    thân   dậu    tuất   hợi

tý                                                                hợp                 hình                 xung   hại           phá

sửu                                                        hợp                               phá           hại    Hình                 hình

                                                                                                                  xung

dần                                                                                                 hình                 Hình                 hợp

                                                                                                                         xung                 phá

mão                                                        hình                              hại           phá                  xung   hợp

thìn                                                              phá                 hại    hình                               hợp    xung

tị                                                                             Hình                                      hợp                  xung

                                                                               hại                                       hình

                                                                                                                         phá

ngọ                                                        Xung   hại                 phá                  Hình   hợp

mùi                                                        hại    Hình                                     hợp                         Hình

                                                                  Xung                                                                 phá

thân                                                                           Hình                 hợp                                       hại

                                                                               Xung                 hình

                                                                                                    phá

dậu                                                        phá                        Xung   hợp                                hình   hại

tuất                                                              hình                hợp    xung                 Hình          hại

                                                                                                                  phá

hợi                                                                            hợp                  xung                 hại                  hình

                                                                               phá

Q1-ch06-tamnguyen                                          19     02/01/2005

III- NHÂN NGUYÊN :

Mỗi địa chi đều có chứa Can, nhưng số lượng không giống nhau ( từ 1 đến 3).

Bảng Ðịa chi tàng Can  (chứa can)

Ðịa chi                                                                               Bản khí          Trung khí                              Dư khí

tý                                                                                    quý

sửu                                                                                   kỷ               tân                                    quý

dần                                                                                   giáp             bính                                   mậu

mão                                                                                   ất

thìn                                                                                  mậu              quý                                    ất

tị                                                                                    bính             canh                                   mậu

ngọ                                                                                   đinh             kỷ

mùi                                                                                   kỷ               ất                                     đinh

thân                                                                                  canh             nhâm                                   mậu

dậu                                                                                   tân

tuất                                                                                  mậu              đinh                                   tân

hợi                                                                                   nhâm             giáp

Các ngũ hành _thể hiện qua Can mà địa chi tàng chứa_ gọi là nhân nguyên, rất quan

trọng trong dự đoán theo 4T, nó làm chủ về mệnh, nên còn gọi là thần nắm sự việc.

ứng dụng cuả nhân nguyên (can tàng trong điạ chi):

a) Các thiên can chứa trong địa chi này cũng được phối với Can ngày, để xác định 10

thần cuả địa chi cuả mỗi trụ hay của Ðại vận, theo cùng một nguyên tắc (xem bảng 10

thần). Can của bản khí chi ngày của mỗi trụ quan trọng nhất.

b) định ngũ hành KHÔ hay ẨM (thấp, ướt):

điạ chi đứng riêng không cho ta thấy khô hay ẩm (ướt), nhưng xét các can tàng, qua

ngũ hành, ta có thể biết được nó ướt hay khô. Ta có bảng sau đây :

Tý                                                                                    (Quý)            thấp                                                        (thuần thuỷ)

Sửu                                                                                   (kỷ, tân, quý)                                          thấp kim, thấp Thổ   vì có Quý                         thuỷ

Dần                                                                                                    (giáp, bính, mậu)   khô mộc, khô Thổ                        vì có Bính                        hoả

Mão                                                                                   (Ất)             trung hoà                                                   (thuần mộc)

Thìn                                                                                  (mậu, ất, quý)                                          thấp mộc, thấpThổ    vì có Quý                         thuỷ

Tị                                                                                                     (bính, mậu, canh)  khô Thổ, khô Kim                         vì có Bính                        hoả

Ngọ                                                                                   (đinh, kỷ)       khô Thổ                                                     vì có Ðinh                        hoả

Mùi                                                                                   (kỷ, ất, đinh)                                          khô mộc, khô Thổ     vì có Ðinh                        hoả

Thân                                                                                                   (canh, mậu, nhâm) thấp kim, thấpThổ                                        vì có Nhâm  thuỷ

Dậu                                                                                   (Tân)            trung hoà                                                   (thuần kim)

Tuất                                                                                                   (mậu, đinh, tân)   khô Thổ, khô Kim                         vì có Ðinh                        hoả

Hợi                                                                                   (Nhâm, giáp)     thấp mộc                                                    vì có Nhâm.

ví dụ :

Q1-ch06-tamnguyen                                                                                                                             20                                                     02/01/2005

sửu thổ và thìn thổ là đất ướt, vì nó có chứa quý thuỷ;

mùi thổ và tuất thổ là đất khô, vì nó có chứa đinh hoả.

vậy chớ vội tụng : Thổ khắc Thuỷ, vì đất ướt (sửu, thìn) không khắc Thuỷ !

IV- QUAN HỆ GIỮA CAN CHI

Trên đây ta đã xét các tương quan giữa các Can, và giữa các Chi                            (sinh, khắc,

hợp) quan hệ giữa ngũ hành cuả chúng; nhắc lại nguyên tắc căn bản là :

- gần thì mạnh, xa thì yếu;

- cùng tính (âm, dương) thì mạnh, khác tính thì yếu hơn ;

- lộ (trên Can) thì dễ bị tác động hơn là ẩn (trong điạ chi) ;

Một Can tương ứng với 1 hành, một Chi tương ứng với 1 hành, và vì thế chúng cũng

thuộc 1 phương vị nào đó  (xem bảng tổng hợp).

Nay ta xét các tương quan   giữa các Can-Chi theo một khiá cạnh khác, cũng dựa trên

quan hệ giữa ngũ hành.

Một Can hay một Chi riêng rẽ sẽ không có tác dụng gì mấy, nhưng nếu phối hợp với

nhau, sẽ nảy sinh ra nhiều điều thú vị trong mệnh lý học, vì sự tương tác sẽ làm biến

đổi quan hệ ngũ hành, do đó tác động lên mệnh vận.

1) Sự che / chở lẫn nhau của Can / Chi

Trong dự đoán theo 4T, dù là can chi của 4T, hay của đại vận, hay của LN, giữa chúng

là 1 chỉnh thể có quan hệ hữu cơ với nhau, đó là Trời che đất chở:

a) Thiên can che trùm địa chi :

Ví dụ : Nếu trong 1 mệnh có địa chi dần hoặc mão (mộc) là rất quan trọng (ví dụ nó là

dụng thần), thì các thiên can giáp, ất (cùng ngũ hành với địa chi này) hoặc nhâm, quý

(ngũ hành sinh cho địa chi này) là thiên can che trùm khiến cho dần hoặc mão được SV

; còn nếu gặp phải Canh,Tân (hành khắc hành của địa chi này) che trùm thì sẽ bị khắc

hại.

b) Ðịa chi mang chở thiên can :

Ví dụ : Nếu can ngày (mệnh chủ - rất quan trọng)   là giáp hoặc ất (mộc), và trong các

địa chi có dần, mão (mộc) chứa Giáp, Ất trợ giúp; hợi, tý (thuỷ) tương sinh cho Giáp Ất,

thì có thể khiến cho "Thân" được SV ; rất kiêng gặp những địa chi Thân, Dậu                (Kim) vì

Can ngày Mộc sẽ bị khắc thương.

Vậy mối quan hệ che hay chở có thể khiến cho 1 hành nào đó mạnh lên hoặc yếu đi.

2) Trong 4T, Các thiên can và địa chi cùng lọai thì liên quan gốc rễ với nhau

a) Thiên can thông gốc ở địa chi . Ví dụ : Giáp có trong Dần (nó là bản khí - khí gốc      -

của Dần) ; Ất có trong Mão (nó là bản khí - khí gốc                                        - của Mão).

- Trong 4T khi Giáp gặp Dần   thì khí gốc của Giáp mộc sẽ được sinh phù, gốc của thiên

can Giáp sẽ được bền chặt.

Q1-ch06-tamnguyen                                                                          21             02/01/2005

- khi Giáp gặp Mão   thì khí gốc Ất mộc   chứa trong Mão, tuy cùng loại, nhưng gốc của

thiên can Giáp sẽ không được bền chặt bằng Giáp trong Dần.

Ðịa chi khi gặp XUNG KHắC thì gốc của Thiên can dễ bị nhổ bật. Do đó khi đoán vận

mệnh phải thật chú ý đến đại vận, lưu niên xung khắc tứ trụ, vì thường đó là lúc việc xấu xảy ra.

b) Ngược lại, địa chi được sự hộ giúp ngầm của thiên can ; nếu thiên can gặp sinh phù

thì địa chi được sự hộ giúp ngầm càng mạnh ; nếu thiên can bị Khắc thì địa chi được sự

hộ giúp ngầm sẽ suy yếu ;

Mối quan hệ che / chở, có gốc / hộ giúp ngầm đối với sự cân bằng chung của 4T có một

vai trò vô cùng quan trọng trong việc luận đoán.

- Thiên can chủ về trời, chủ về động, lộ rõ ra bên ngoài, động là có hành vi.

- Ðịa chi chủ về đất, chủ về tĩnh, tàng ẩn ở phía dưới, nằm im chờ xử dụng.

- CAN chủ về một cái, còn CHI chủ về nhiều cái tàng ẩn.

Thiên can tính chất đơn thuần (vì chỉ có 1 hành), còn địa chi tính chất phức tạp (vì tàng

chứa từ 1 tới 3 hành). Vì thế Cát hung của Thiên can thì rõ ràng, dễ thấy; còn cát hung

của địa chi thì ám tàng khó thấy; ngay một lúc khó nhìn ra hoạ phúc : tuế vận đã đến

mà cát hung còn chưa rõ.

Thiên can và địa chi tương phối thì địa chi là gốc của Thiên can; Thiên can là ngọn của

địa chi. Thiên can chỉ có tác động sinh / khắc, còn Ðịa chi còn có vai trò điều động, nhất

là cần để ý khi nó bị xung, hay hình.                                                               Vậy tính quan trọng của địa chi lớn hơn Thiên can.

Cần nhớ kỹ.

* Ðịa chi trực năm là Thái tuế, chủ tể quyền sinh sát của 12 tháng ;

* Ðịa chi trực tháng là lệnh tháng, chủ tể quyền sinh sát của 1 tháng trên ngũ

hành; Trên đây khi nói về lệnh tháng đã nói về điểm này.

Thiên can không có đặc quyền đó.

Sự sắp xếp tổ hợp Thiên can , địa chi trong tứ trụ của thời điểm sinh (năm tháng ngày

giờ - tứ trụ) không những biểu thị ảnh hưởng của Âm Dương, Ngũ hành sinh khắc chế

hoá đối với con người, mà còn nói lên con người cũng giống vạn vật, đều có quá trình

sinh ra, phát triển, hưng, suy, tử vong. Quá trình này còn gọi là Vận khí.

Sự sắp xếp tứ trụ gọi là MỆNH, lấy các giai đoạn trải qua của cuộc đời gọi là VẬN. Hai

cái kết hợp với nhau gọi là MỆNH VẬN. Tất nhiên, khi muốn biết Mệnh-Vận   của 1 người

tốt hay xấu, thì vừa phải xem tổ hợp sắp xếp tứ trụ, vừa phải xem hành vận :

tổ hợp Tứ trụ tốt, hành vận cũng tốt : là tốt nhất;

tổ hợp Tứ trụ tốt, hành vận không tốt : khó khăn gặp phải là tạm thời;

tổ hợp Tứ trụ không tốt, hành vận kém : đã xấu càng thêm xấu, chẳng khác

gì trời đã tuyết lại còn thêm sương, nhà dột gặp mưa to;

tổ hợp Tứ trụ không tốt, hành vận tốt : cái tốt không bền;

Mệnh / Vận so sánh với nhau thì đương nhiên mệnh tốt là tốt nhất.

3) Mùa Vượng của 5 khí Can Chi                                                                      (xem trong bảng tổng hợp)

Q1-ch06-tamnguyen                                                                                   22                                                   02/01/2005

Ngoài ra, trong các khoa bói toán cổ của trung hoa , người ta luôn luôn phải dùng đến bảng "nạp âm 60

hoa giáp" và bảng "SINH VƯỢNG TỬ TUYỆT của 10 thiên can", đó cũng là những kết tinh của quan hệ

giữa Can và Chi, và CŨNG KHÔNG THOÁT KHỎI NGŨ HÀNH. Do đó ta cần xét kỹ 2 bảng này.

BẢNG NẠP ÂM 60 HOA GIÁP

Âm dương ngũ hành là khí,   rất trừu tượng, biểu hiện qua tương quan từng cặp CAN-

CHI _ bất cứ là năm tháng ngày hay giờ _ gọi là nạp âm, cho nên người xưa đã mượn

những hình thái rất rõ ràng của vạn vật để ví (xem các tên nạp âm trong bảng, đều

theo ngũ hành; tên này nếu là cuả cặp Can-Chi trụ năm thì gọi là đại mệnh, mệnh, hay

mệnh năm - rất quen thuộc với chúng ta, ví dụ đại hải thuỷ, sa trung kim, …).

Bảng lục giáp dưới đây có thể dùng để nạp âm cho các cặp là can chi của :

năm sinh                                                                                                : cho ta biết tên và hành của mệnh (mệnh năm, đại mệnh). Đây là

ứng dụng thông dụng nhất (*).

thai nguyên                                                                                             : nạp âm để so sánh với đại mệnh (xem mục Thai nguyên).

thai tức                                                                                                : không quan trọng lắm, ta không xét.

đại vận                                                                                                 : nạp âm để so sánh vận  với đại mệnh;

v..v...

nó nhấn mạnh mặt "nguyên thể ngũ hành" cuả mỗi trụ, hay thai nguyên, cung mệnh,

đại vận, tiểu vận, lưu niên.

(*) Bảng này lấy năm sinh trong 60 năm để phân loại mệnh theo ngũ hành : kim, mộc, thuỷ, hoả, thổ.

Mỗi hành là 1 mệnh, 2 năm liên tục có cùng một hành. Nó có tầm quan trọng đặc biệt trong các khoa bói

toán cổ đại của Trung hoa.

Q1-ch06-tamnguyen                                                                                       23                                                                02/01/2005

Bảng 60 Hoa giáp

số thứ tự

slg                 can    chi          tên nạp âm    ngũ hành   nghiã

1                   giáp   tý           hải trung     kim        vàng dưới biển

2                   ất     sửu

3                   bính   dần          lô trung      hoả        lửa ở trong lò

4                   đinh   mão

5                   mậu    thìn         đại lâm       mộc        cây trong rừng lớn

6                   kỷ     tị

7                   canh   ngọ          lộ bàng       thổ        đất bên đường

8                   tân    mùi

9                   nhâm   thân         kiếm phong    kim        vàng ở mũi kiếm

10                  quý    dậu

11                  giáp   tuất         sơn đầu       hoả        lửa đầu núi

12                  ất     hợi

13                  bính   tý           giản hạ       thuỷ       nước dưới khe

14                  đinh   sửu

15                  mậu    dần          thành đầu     thổ        đất trên mặt thành

16                  kỷ     mão

17                  canh   thìn         bạch lạp      kim        vàng trong nến trắng

18                  tân    tị

19                  nhâm   ngọ          dương liễu    mộc        gỗ cây dương liễu

20                  quý    mùi

21                  giáp   thân         tuyền trung   thuỷ       nước suối

22                  ất     dậu

23                  bính   tuất         ốc thượng     thổ        đất trên nóc nhà

24                  đinh   hợi

25                  mậu    tý           tích lịch     hoả        lửa sấm sét

26                  kỷ     sửu

27                  canh   dần          tùng bách     mộc        gỗ cây tùng bách

28                  tân    mão

29                  nhâm   thìn         trường lưu    thuỷ       nước chảy mãi

30                  quý    tị

31                  giáp   ngọ          sa trung      kim        vàng trong cát

32                  ất     mùi

33                  bính   thân         sơn hạ        hoả        lửa dưới núi

34                  đinh   dậu

35                  mậu    tuất         bình địa      mộc        cây ở đồng bằng

36                  kỷ     hợi

37                  canh   tý           bích thượng   thổ        đất trên vách

38                  tân    sửu

39                  nhâm   dần          kim bạc       kim        vàng thếp mỏng

40                  quý    mão

41                  giáp   thìn         phú đăng      hoả        lửa trong đèn

42                  ất     tị

43                  bính   ngọ          thiên hà      thuỷ       nước sông thiên hà (trên trời)

44                  đinh   mùi

45                  mậu    thân         đại dịch      thổ        đất thuộc khu lớn

46                  kỷ     dậu

47                  canh   tuất         thoa xuyến    kim        vàng làm thoa xuyến (đồ trang sức)

48                  tân    hợi

49                  nhâm   tý           tang đố       mộc        gỗ cây dâu (nuôi tằm)

Q1-ch06-tamnguyen   24     02/01/2005

50                                                                                      quý    sửu

51                                                                                      giáp   dần          đại khê        thuỷ   nước dưới khe lớn

52                                                                                      ất     mão

53                                                                                      bính   thìn         sa trung       thổ    đất lẫn trong cát

54                                                                                      đinh   tị

55                                                                                      mậu    ngọ          thiên thượng   hoả    lửa trên trời

56                                                                                      kỷ     mùi

57                                                                                      canh   thân         thạch lựu      mộc    gỗ cây thạch lựu

58                                                                                      tân    dậu

59                                                                                      nhâm   tuất         đại hải        thuỷ   nước ở biển lớn

60                                                                                      quý    hợi

Ứng dụng : Bảng 60 hoa giáp thường được dùng để so tuổi 2 người A và B, trong hôn

nhân, hay trong đối tác, hùn hạp v..v..

1- So tuổi, căn cứ trên trụ năm hay đại mệnh cuả hai người :

Về quan hệ giữa người và người , như giữa cha mẹ, vợ chồng, cha con, mẹ con ; anh

em, bạn bè hay người đối tác , … ra sao ; trường khí giữa 2   người đó là tương sinh,

tương hợp,  hay tương khắc, tương xung đều có thể thông qua đó mà thấy rõ.

Cái khó của nó là làm sao nắm được chính xác mức độ ngũ hành mạnh yếu và sinh khắc

giưã 2 tuổi đến đâu.

So tuổi được ứng dụng trong hôn nhân ,   hoặc thuê mướn nhân viên, hoặc chọn người

hùn hạp, người đối tác.

Tương sinh, tương khắc của âm dương, ngũ hành đương nhiên có ảnh hưởng rất quyết

định đến cuộc đời con người; thông thường, sinh nhiều là tốt, khắc nhiều là bất lợi.

Nhưng trong việc "xem" mối quan hệ giữa người này với người khác, đặc biệt là quan

hệ vợ chồng, ta phải cân nhắc kỹ lưỡng :

- đương nhiên năm mệnh gặp tương sinh là tốt;

- còn nếu năm mệnh gặp tương khắc thì vừa phải xem :

* khắc nhiều hay khắc ít;

* có thể khắc được không ?

* ngoài ra còn phải xem tổ hợp sắp xếp tứ trụ của 2 người, tương sinh,

tương  khắc, tương hợp ra sao,

chứ không thể cứ thấy năm mệnh gặp tương khắc đã vội cho là xấu, vì như

thế là xét không toàn diện.

Ứng dụng : muốn biết quan hệ giữa 1 người sinh năm AB   và 1 người sinh năm CD ra

sao ta phải tìm năm mệnh của 2 người rồi so sánh , nếu :

Tương sinh : có lợi, quan hệ sẽ tốt

Tương khắc : không lợi

Giống nhau  : kém hơn tương sinh

Ví dụ : muốn biết quan hệ giữa 1 người sinh năm giáp thìn (phú đăng hoả) và 1 người

kỷ dậu (đại dịch thổ) , hoả - thổ tương sinh nên tốt.

Q1-ch06-tamnguyen                                                                       25     02/01/2005

Quan hệ đó nếu là giữa đôi bên nam và nữ, hay về hôn nhân mà xét thêm thì 2 thiên

can Giáp Kỷ tương hợp ; địa chi thìn dậu cũng tương hợp ; năm mệnh hoả thổ tương

sinh, tức là phối hôn ý hợp tâm đâù ...                                                    (xem thêm mục  phối hôn).

2- xem tính tình, tính cách con người theo Năm mệnh :

Qua bảng 60 hoa giáp ta biết được năm mệnh (đại mệnh / can-chi năm sinh) thuộc ngũ

hành nào; mỗi hành đó cũng hàm chứa tính tình của người đó :

mệnh KIM :

- ăn nói nghiã khí;

- nếu tứ trụ Kim nhiều , kim vượng : tính cách cương trực, nhưng dễ bị gảy;

mệnh HỎA :

- là người lễ nghiã, đối với người khác nhã nhặn lễ độ; gặp việc hay lý sự;

- Hỏa nhiều, hoả vượng : tính gấp và nóng , dễ làm hỏng việc;

mệnh THỔ :

- trọng chữ tín; nói đến đâu làm đến đấy;

- Thổ nhiều, Thổ vượng : hay trầm tĩnh, không năng động, do đó hay bỏ mất

thời cơ.

mệnh MỘC :

- hiền từ, lương thiện, độ lượng bao dung;

- MỘC nhiều, MỘC vượng : tính cách bất khuất, đặc biệt là người mệnh tùng

bách mộc, hay tang đồ mộc thì "thà chết chứ không chịu sống quỳ ";

loại người này thích hợp với binh nghiệp, làm lính trinh sát, hoặc nhân

viên đặc biệt.

mệnh THỦY :

- là người trí tuệ, thông minh ham học; nhưng đời không bằng phẳng mà khúc

khuỷu, trải qua nhiều gian khổ (hình ảnh của giòng nước chảy);

- Thủy nhiều, thủy vượng thì tính tình nóng gắt, hung bạo, dễ gây tai họa (hình

ảnh của đại hồng thuỷ).

Bạn có thể nhảy ngay đến phụ lục "đaị mệnh : tính tình và vận mạng" để có thêm thông

tin khái quát, nhưng phong phú về các loại mệnh trên đây, tuy rằng đó chỉ là loại "ngoại

khoa" so với Tử Bình.

3- Những ứng dụng khác :

Bảng 60 Giáp Tý không những là tiêu chí thông tin của con người, mà cũng là tiêu chí

thông tin hưng suy của muôn vật, muôn việc trong tự nhiên, ngay cả đối với một quốc

gia cũng thế.

Cứ 2 năm làm thành 1 năm mệnh, tốt hoặc xấu (cát hung hoạ  phúc):

đối với vận mệnh của đất nước ;

đối với vận mệnh của con người ;

tùy theo năm nào đó (gọi là lưu niên), ví dụ năm 2003 là Quí mùi - dương liễu mộc.

Q1-ch06-tamnguyen                                                                          26                          02/01/2005

1)   đối với mệnh cuả 1 người : xem phụ lục liên hệ;

2) cho một quốc gia :  chẳng hạn năm mậu thìn 1988 :

- là năm "mộc rừng xanh" , năm mệnh của nó là mệnh mộc;

- can chi năm "mậu thìn" đều là Thổ;

- năm mệnh (mộc) khắc can chi năm (thổ) gọi là "năm mệnh tự hành tương

khắc", cho nên năm ấy ở Trung quốc xảy ra rất nhiều thiên tai .

năm 1989 (kỷ tị) cũng là năm "mộc rừng xanh", năm mệnh Mộc khắc Can năm Thổ, do đó tình hình

vẫn chưa biến chuyển tốt, tai hoạ so với năm 1988 càng thêm nghiêm trọng.

3) Khi cứu xét tương quan giữa Mệnh và   Vận của 1 người : ta                                  phải nạp âm theo 60

hoa giáp, để   tìm hành của mệnh theo can-chi năm, và hành của Vận theo can-chi Vận,

rồi xem tương sinh, tương khắc giữa 2 hành đó mà phán đoán :

  Vận sinh mệnh                                                                              : là vận tốt,

  Vận và mệnh cùng loại                                                                      : vận tốt nhất

  vận khắc mệnh                                                                              : vận không có lợi

  mệnh sinh vận                                                                              : vận không có lợi.

Ngoài ra, hành vận tốt hay xấu phải xem bảng SINH VƯỢNG TỬ TUYỆT, lấy hành cuả

DT làm chủ phối với Chi các Ðại vận, Lưu niên …. (chúng ta sẽ trở lại những vấn đề này trong

các chương mục liên hệ; ở đây bạn chỉ nên đọc lướt qua để có khái niệm thôi).

4) Tương tự, khi so sánh giữa Thai nguyên và Năm mệnh, cũng                                    phải nạp âm 2 cái

rồi so sánh :

o  Thai nguyên sinh mệnh                                                                       : là mệnh tốt,

o  Thai nguyên khắc mệnh                                                                       : không có lợi cho mệnh .

(chú ý : đây là phương pháp để ưu sinh, dùng để chỉ dẫn (giải nạn) những người

hữu sinh vô dưỡng chọn đúng tháng để thụ thai).

(xem thêm chương 12 - xác định vận trình)

5) Cũng thế, khi so sánh giữa   Cung mệnh và Năm mệnh, cũng                                    phải nạp âm 2 cái

rồi so sánh :

- Cung mệnh sinh mệnh                                                                          : là tốt cho mệnh,

- Cung mệnh khắc mệnh                                                                          : không có lợi cho mệnh.

(xem thêm chương 12 - xác định vận trình)

6) Ngoài ra, 2 cột CAN,CHI của bảng theo một thứ tự nhất định, có chu kỳ 60 lần,

cũng cho ta biết can, chi của mỗi trụ năm, tháng, ngày, giờ theo một qui luật sắp xếp

nhất định. Chúng ta sẽ trở lại dùng nó trong chương « sắp xếp tứ trụ ».

Nó nhấn mạnh mặt "can chi ".

7) Chu kỳ này nếu là ngày, thì 60 ngày chia ra 6 tuần (lục giáp), mỗi "tuần" (1) là 10

ngày, bắt đầu bằng chữ Giáp. Cách phối CAN CHI ngày ở đây lại cho ta cách xác định

Không Vong. Chúng ta sẽ trở lại dùng nó trong mục "Không vong" cuả chương HUNG

SÁT (quyển 2).

Q1-ch06-tamnguyen                                                                              27                          02/01/2005

(1) đừng lầm với tuần lễ 7 ngày chúng ta thường dùng. Chúng ta còn thấy chữ "tuần" này trong cách

chia 1 tháng AL 30 ngày thành 3 tuần : thượng , trung và hạ tuần.

BẢNG SINH VƯỢNG TỬ TUYỆT CỦA 10 THIÊN CAN (gọi tắt là bảng Trường Sinh).

TS, MD, QÐ, LQ, ÐV, SY, BH, TU, MO, TT, TH, DG   là vòng Trường sinh, gồm 12 giai

đoạn, tượng trưng cho diễn biến (tiến hoá) về "vận khí" của 12 tháng trong 1 năm đối

với (ngũ hành cuả) một CAN nào đó.

Bảng này được lập tùy theo Can dương hay Can âm :

- Can dương thì phối với địa chi theo chiều thuận, ví dụ   can Giáp , từ Hợi là TS,

đến Tý là MD, Sửu là QÐ,….

- Can âm thì phối với địa chi theo chiều nghịch, ví dụ   can Ất , từ Ngọ là TS, đến

Tỵ là MD, Thìn là QÐ,….

Lưu ý : theo thuyết Dương tử Âm sinh, ta thấy Giáp tử ở Ngọ, thì Ất sinh ở Ngọ ; và Âm

tử Dương sinh, ta thấy Canh tử ở Tý, thì Tân sinh ở Tý ; …đó là vì 2 khí âm dương khác

nhau, phù hợp với nguyên lý trong Kinh Dịch : « đạo Trời quay theo chiều trái ; đạo Đất

quay theo chiều phải ».

BẢNG TRƯỜNG SINH dùng cho Khoa TỨ-TRỤ

(có khác bảng TS theo NGŨ HÀNH dùng cho Bốc Dịch / tương đương với các Can + trong bảng này)

CAN                                                                                                 giap     binh         mau         canh   nham    at     dinh   ky     tan           quy

CHI                                                                                                 dan      ngo          thin,tuat   than   ty      mao    ti            suu,mui dau   hoi

Hành                                                                                                moc      hoa          tho         kim    thuy    moc    hoa    tho    kim           thuy

(+)/(-)                                                                                             d        d            d           d      d       a      a      a      a             a

TS                                                                                                  hoi      dan          dan         ti     than    ngo    dau    dau    ty            mao

MD                                                                                                  ty       mao          mao         ngo    dau     ti     than   than   hoi           dan

QÐ                                                                                                  suu      thin         thin        mui    tuat    thin   mui    mui    tuat          suu

LQ                                                                                                  dan      ti           ti          than   hoi     mao    ngo    ngo    dau           ty

ÐV                                                                                                  mao      ngo          ngo         dau    ty      dan    ti     ti     than          hoi

SY                                                                                                  thin     mui          mui         tuat   suu     suu    thin   thin   mui           tuat

BH                                                                                                  ti       than         than        hoi    dan     ty     mao    mao    ngo           dau

TU                                                                                                  ngo      dau          dau         ty     mao     hoi    dan    dan    ti            than

MO                                                                                                  mui      tuat         tuat        suu    thin    tuat   suu    suu    thin          mui

TT                                                                                                  than     hoi          hoi         dan    ti      dau    ty     ty     mao           ngo

TH                                                                                                  dau      ty           ty          mao    ngo     than   hoi    hoi    dan           ti

DG                                                                                                  tuat     suu          suu         thin   mui     mui    tuat   tuat   suu           thin

Chú thích                                                                                                                 d=dương            a= âm

Sau khi đã định được 1 vị trí cho 1 CAN-CHI trong vòng trường sinh, ta sẽ biết nó

vượng, suy hay bình thường như bảng dưới đây (v = vượng,   s = suy,       b = bình).

viết                                                                                                TS       MD           QÐ          LQ     ÐV      SY     BH     TU     MO            TT      TH     DG

tắt

                                                                                                    trường   mộc          quan        Lâm    đế      suy    bệnh   tử     mộ            tuyệt   Thai   dưỡng

                                                                                                    sinh     dục          đới         quan   vượng

V/S                                                                                                 v        v            v           v      v       s      s      s      s             s       b      b

Q1-ch06-tamnguyen                                                                                   28       02/01/2005

CAN trong bảng là lấy can ngày sinh (là TA, là Thân, là Mệnh chủ) làm chủ.

Ví dụ : Giáp mộc gặp Hợi là thời kỳ sinh, gặp Tý là Mộc dục; gặp Sửu là Quan đới … gặp Thìn là suy, gặp

Tị là Bệnh …,

tức là nói ngày Giáp mộc gặp đại vận hợi, năm hợi, tháng hợi, ngày hợi hoặc giờ hợi

đều là gặp sự sinh trưởng;

Ngược lại nếu gặp đại vận ngọ, năm ngọ, tháng ngọ , ngày ngọ hoặc giờ ngọ đều là gặp

tử địa. Gặp tử địa không nhất định là chết, mà phần nhiều chủ về vận khí không thuận,

hoặc có tai hoạ.

Cho nên người sinh ngày Giáp mộc, nếu năm tháng ngày giờ đều gặp Ngọ, dù   không

biết tổ hợp sắp xếp tứ trụ cuả mình thì người đó vẫn nên cẩn thận đề phòng mọi mặt,

nếu không, nhất định sẽ bị tổn thất.

Các CAN ngày khác cũng tương tự như thế.

Trong bảng, từ TS đến ÐV là có lợi (mạnh / cường); từ suy đến tuyệt là không lợi (yếu / nhược); Thai,

dưỡng chỉ chung chung (bình).

- Các địa chi trong bảng dùng để đoán thời gian cát hung, có lợi hay không có lợi;

- Và cũng báo cho biết phương vị xảy ra sự việc.

Ví dụ Giáp mộc :

- ÐV ở mão, mão ở đây là năm mão, hoặc tháng, ngày, giờ mão. Phương vị của

mão là phương đông , phương nào là so với nơi mình sinh ra.

- MỘ ở mùi, mộ   là nhập mộ , đương nhiên là không tốt, mùi ở đây là năm mùi,

hoặc tháng, ngày, giờ mùi. Phương vị của mùi là phương tây nam.

Vì vậy, Bảng SINH VƯỢNG TỬ TUYỆT là bảng tiêu chí thông tin về thời gian và phương

vị để hướng về điều may, điều tốt, tránh cái xấu :

- việc có lợi nên làm ở thời gian và nơi có lợi;

- việc không có lợi thì ở thời gian bất lợi không làm, hoặc không đi về phương bất

lợi; như thế có thể tránh được những tai nạn bất ngờ.

Ðể xác định vận trình (hành vận) của một người là tốt hay xấu, người ta lấy Can ngày

phối với chi các vận, để biết vận nào là TS, MD, QÐ,….,TH, DG.

Chú ý :

Có thuyết cho rằng Vận trình (hành vận) của một người cũng trải qua 12 giai

đọan tự nhiên, như   trong bảng SINH VƯỢNG TỬ TUYỆT. Nếu hành vận có "vận khí"

thuận theo chu kỳ này là tốt, ngược lại là không tốt. Do đó, người xưa có câu "Già sợ

ÐV, trẻ sợ Suy, trung niên sợ nhất Tử, Tuyệt, Thai" tức những cas nghịch thường so với tuổi.

Thoạt nghe, theo qui luật sinh trưởng chung của con người - sinh lão bệnh tử -

thì vận thuận với lẽ tự nhiên là tốt, nhưng đó không phải là điều cố định. Có người tứ

trụ quá vượng, gặp được vận suy bại lại có lợi, hoặc ngược lại thì nguyên lý cũng như

thế.

Q1-ch06-tamnguyen                                                                                         29   02/01/2005

Vậy chúng ta nên hiểu (đại) vận nào có "vận khí" Vượng hay Suy so với lực cuả

Can ngày, hay đúng nhất là vớI DT, để biết tốt xấu , chứ không so với tuổi tác.

Những tiêu chí TS, ĐV, .. của vòng trường sinh còn được vận dụng rất nhiều khi tổng

hợp đoán mệnh; tương tự như các Thần Sát, đôi khi còn lẫn lộn với Thần sát, như Lâm

quan là LỘC, Đế vượng là Kình dương (dương nhận), do đó chúng ta sẽ trở lại với bảng

này rất chi tiết trong quyển 2.

Nhắc lại                                                                                                  : Trong khoa TỬ BÌNH, phải dùng lệnh tháng để đo lường sự vượng suy của thiên can, địa

chi (qua can tàng độn ở   bản khí ) hay 10 thần trong tứ trụ, cũng tức là nói VS của thiên can, địa chi

trong tứ trụ phải lấy lệnh tháng làm tiêu chuẩn, và lấy SINH VƯỢNG TỬ TUYỆT làm căn cứ để xác định .

Ðịa chi thì lấy Can tàng độn ở  bản khí để xem bảng.

Nói rõ hơn là bất cứ Can nào, cũng phải lấy Can ấy phối với Chi THÁNG để đọc bảng TS,

rồi tuỳ TS,ĐV,…,Tử,Tuyệt,…mà xác định là Vượng hay Suy hay Bình.

Q1-ch06-tamnguyen                                                                                         30                                                                                       02/01/2005

Chương 7

NHẬT NGUYÊN CỦA TỨ TRỤ và 10 THẦN

NHẬT NGUYÊN

Can ngày cường vượng

Can ngày suy nhược

Thâm cứu

10 THẦN

Ứng dụng của VS của Can Ngày : tìm Dụng thần

Một ví dụ quan trọng trong lý luận tìm DT

Can ngày (là TA, là Thân, là Nhật nguyên, là Mệnh chủ) và các Can-Chi khác tương tác

tạo thành một hệ thống, đó là cơ sở của khoa đoán mệnh TỬ BÌNH. Do đó ta sẽ lần lượt

nghiên cứu kỹ vai trò cuả Can Ngày, và các cơ sở này (10 thần).

I- NHẬT NGUYÊN

Can Ngày là chủ của cả đời người, là mảnh đất cát hung họa phúc của cả cuộc đời. Do

đó sự sinh, vượng, hưu tù, suy, nhược của nó quan hệ đến vận mệnh tiền đồ suốt cả

cuộc đời .

- Nếu sinh vượng :   giống như thân thể khoẻ mạnh, có thể thắng của cải, đề

kháng sự sát hại, bảo vệ được lục thân, thông minh, tháo vát, nuôi dưỡng được gia

đình, gặp việc phần nhiều biến hung thành cát.

- Nếu suy nhược, hưu tù : giống như người   yếu, bệnh nhiều, tinh thần bạc

nhược, không thể lấy thân che của; chắc chắn là xấu nhiều tốt ít, việc gì cũng không

thành.

- Nếu trung hoà là quý, mạnh thì tốt, yếu thì xấu.

- Nhưng nếu Vượng quá hoặc yếu quá : xấu nhiều hơn.

Ðã đành nguyên lý là như vậy, nhưng muốn xác định thế nào là Thân vượng hay Thân nhược không phải

việc dễ dàng !

Cách xác định Sự mạnh yếu của CAN ngày (TA) :

Then chốt của phương pháp dự đoán mệnh theo tứ trụ là phải xác định được nhật chủ

(Can ngày) vượng hay nhược, rôì nhờ đó ta mới xác định được DT, hỷ thần, kỵ thần.

Ðược 3 yếu tố này, nhất là DT, ta mới có thể kết hợp với vận trình để phán xét các vận

là tốt, xấu, hay bình thường ; tức là những điểm chính yếu (mạch chính) của một mệnh,

trước khi đi vào chi tiết rườm rà.

Khi đã nắm được mạch chính rồi thì bạn có thể giải đoán mệnh mà không sợ sai; còn nếu không nắm

vững được VS thì vận lúc nào tốt, lúc nào xấu cũng không biết; dù bạn có nói đúng cũng chỉ là may mắn

"chó ngáp táp phải ruồi" mà thôi . OK ?

1) Can ngày cường vượng , tức là :

- được lệnh                                                                                             : can ngày vượng khi chi tháng rơi vào TS, MD, QD, LQ, ÐV.

                                                                                                        Có sách dùng VTHT : lấy hành của LT (chi tháng) so với hành CAN ngày.

                                                                                                        Được lệnh còn gọi là được thời, đắc thời;

- được đất (đắc địa) : nếu Can Ngày

Q1-ch7-nhatnguyen                                                                                       1                                                                       02/01/2005

* được các chi năm, tháng, giờ đến sinh (được lộc);

* can ngày (+) gặp được các chi còn lại (aa,jj,hh) TS ;

* can ngày gặp lộc, KD : khí gốc can tàng trong chi ngày là tỉ  hay kiếp ;

* can ngày gặp mộ kho (can dương thì có gốc, can âm vô khí là không có

gốc);

- được sinh                                                                                             : được ấn thụ (trên Can, Chi) đến sinh;

- được trợ giúp                                                                                         : gặp tỉ kiếp trên Can.

Được sinh, được trợ giúp (phù) còn gọi là được thế;

các từ được thời, được thế, đắc địa nghe giống như đi hành quân. Mà quả vậy, mệnh lý chẳng qua là một

trận chiến giữa các "phe phái ngũ hành" mà thôi.

2) Can ngày suy nhược , tức là :

- mất lệnh                                                                                              : hưu tù ở chi tháng;

- mất đất                                                                                               : hưu tù ở các chi năm, ngày, giờ.

                                                                                                        - không có trợ giúp : suy nhược, lại không có tỉ, kiếp, củng lộc, kình dương;

- không được sinh                                                                                       : không gặp ấn thụ

- bị khắc vô sinh                                                                                       : quan sát nặng quá;

- suy nhược                                                                                             : thực thương nhiều quá, can ngày bị hao tổn ;

đã vậy, nếu can ngày còn bị hình , xung , khắc , phá thì càng yếu thêm.

3) Thâm cứu cách xác định sự VS của CAN NGÀY :

(để tiện trình bày, tôi dùng những chữ viết tắt :   VV - Vượng;   RV : rất vượng;   QV : quá vượng;

TV : thân vượng; TN : Thân nhược;   BHợp : Bán hợp;   BHội : Bán Hội; ĐS : được sinh; ĐĐ : đắc

điạ;  ĐG : được trợ giúp)

1- Nếu được lệnh :

1.1-   nếu ÐS hay ÐÐ hay ÐG (được 1 trong 3) thì                                                        : VV ;

1.2-   nếu được 2 cái trong 3 thì                                                                       : RV ;

1.3-   nếu được cả 3  thì                                                                               : QV ;

2- Nếu không được lệnh :

2.1- nếu được 2  cái trở lên, những cái đó lại mạnh, giúp ích nhiêù

: VV hoặc RV ;

2.2- nếu được 1 trong 3  cái, nhưng THC hoặc THộiC là ấn cục hay tỉ cục

: VV ;

2.3- nếu chỉ được 2  cái , mà :

nếu 2 cái đó lực rất mạnh thì vẫn được xem là VV;

nếu có 1 ÐÐ mà trong đó thành phần TS, lộc, KD, mộ kho chiếm ít còn

thành phần địa chi khắc thân, làm hao tán, tiết khí thân nhiêù :   can

ngày sẽ rơi vào tình trạng nửa nhược nửa vượng (cân bằng nhau),

không dễ quyết định V/S , do đó rất khó tìm DT, và vì thế vận nào tốt

hay xấu cũng khó mà đoán được.

Trong trường hợp đó :

2.3.1- nếu ngũ hành hợp hoá của thiên can hoặc ngũ hành hợp hoá của địa

chi  sinh, trợ giúp thân                                                                                : VV ;

Q1-ch7-nhatnguyen                                                                                       2                                                                               02/01/2005

nếu ngũ hành hợp hoá của thiên can hoặc ngũ hành hợp hoá của địa

chi  khắc chế , làm hao tán, tiết khí  thân : TN ;

2.3.2- nếu BHợp cục hay BHội cục của địa chi là hành, sinh, trợ giúp ngũ hành

của thân                                                                                              : VV ;

nếu ngược lại                                                                                         : TN ;

2.3.3- nếu những khí khắc mình, làm hao tán, tiết khí mình ở vào nhược địa

(không ÐL), còn những khí sinh, trợ giúp mình ở vào vượng địa

: VV ;

nếu ngược lại                                                                                         : TN ;

2.3.4- nếu những can chi khắc mình, làm hao tán, tiết khí mình gặp xung,

hoặc bị chế phục, hoặc bị hợp mất, hoặc cách xa : VV ;

nếu ngược lại                                                                                         : TN ;

2.3.5- Ðối với thành phần các can chi "được sinh" , hay "được trợ giúp" nhiêù

hay ít  cũng lý giải  tương tự , ví dụ :

Can ngày Giáp "không được lệnh", nhưng "đắc địa" ở chi hợi, tý;

a) 4T có can Nhâm, Quý sinh cho Giáp là "được sinh";

Nhưng nếu các can chi khác gây bất lợi cho can ngày lại sinh cho nhau

nhiều hơn, và cái sinh cho can ngày lại ít hơn , thì ta phải so sánh mức độ

giữa bên sinh và bên khắc mới có thể kết luận là Thân nhược hay Thân

vượng.

b) 4T có các can Giáp (tỷ kiên), Ất (kiếp tài) là "được trợ giúp";

Ðể xem mức độ trợ giúp là bao nhiêu, ta phải xem nó bị hợp mất hay hợp

tăng , tức là cũng xem sự tăng, giảm để kết luận là Thân nhược hay Thân

vượng.

- Ví dụ về hợp mất : Can ngày Giáp, 4T có Ất và Canh; Ất - Canh hợp hoá Kim,

quay lại khắc Giáp mộc; chẳng những đã làm mất đi Ất mộc là cái trợ giúp mình, mà còn đẻ

ra cái khắc hại mình !

- Ví dụ về hợp tăng : Can ngày Canh, 4T có Ất ; Canh kim khắc Ất mộc nên lý ra

Canh bị tổn khí; nhưng vì Ất - Canh hợp hoá Kim, Kim của can ngày từ chỗ bị hao khí nay

trở thành được tăng cường;

Khi đã biết xác định thế nào là Thân vượng, thì lẽ tất nhiên, ngược lại là Thân nhược.

Nắm vững TN hay TV là khâu đầu tiên có tính then chốt nhất trong việc đoán mệnh.

Bạn phải nhất thiết nhớ kỹ. Nên đọc đi đọc lại mục này nhiều lần, và thực tập trên những 4T cụ thể.

Sự phức tạp của vấn đề là ở chỗ ngoài sự phán đoán can ngày đối với lệnh tháng ra, còn phụ

thuộc sự phán đoán tổng hợp về sức mạnh yếu , xa gần, sinh khắc, xung hợp, nhiều ít, tăng

giảm… của các can chi khác có chuẩn xác hay không.

Bản lĩnh đoán mệnh cao hay thấp, đoán  việc đúng hay sai đêù dựa vào cơ sở này.

Q1-ch7-nhatnguyen                                                                                     3        02/01/2005

II- 10 THẦN

Cách sắp xếp

Sinh khắc của 10 thần

vượng suy của 10 thần

chức năng của 10 thần

người và việc mà 10 thần đại biểu

tâm tính thể hiện qua 10 thần

Mỗi người có ngày giờ sinh ở trạng thái khác nhau của vũ trụ, nên được hưởng khí âm

dương bẩm sinh trong đục, vượng suy khác nhau, do đó có họa phúc, phú quý …tóm lại

là số mệnh khác nhau.

Phương pháp 4T lấy sự Vượng suy của can ngày sinh làm trung tâm ; những can chi

khác sẽ sinh khắc, phù trợ hay hạn chế can ngày theo sự sinh khắc chế hoá của ngũ

hành, cấu thành 1 hệ thống tượng trưng cho các đặc điểm của nhân sinh như Phú quý,

phúc hoạ … , và thông qua đó thể hiện trạng thái được chung kết lại của người đó trong

vũ trụ.

1) Cách sắp xếp 10 THẦN

                                                                                                                                                                    Các CAN đọc theo thứ tự từ 1 đến 10, CAN số lẻ là dương (+), CAN số chẵn là âm                                    (-);

                                                                                                     bảng 10 can - âm dương - ngũ hành

số tt                                                                                                1                                   2            3      4      5                                                                                6     7      8     9      10

CAN                                                                                                  Giáp                                ất           bính   đinh   mậu                                                                              kỷ    canh   tân   nhâm   quý

+/-                                                                                                  +                                   -            +      -      +                                                                                -     +      -     +      -

hành                                                                                                 mộc                                 mộc          hoả    hoả    thổ                                                                              thổ   kim    kim   thuỷ   thuỷ

Nguyên tắc xác định 10 thần là phối Can ngày và các Can khác, dù là can các trụ, can

đại vận, can tiểu vận, can lưu niên, hay can tàng trong các địa chi của Tứ Trụ, đại vận .

Tất cả đều xoay quanh tương quan gữa TA (can ngày) và các CAN khác, xét về quan hệ

Âm Dương Chính,Thiên và ngũ hành sinh, khắc (khi nói sinh khắc là theo ngũ hành,

khi nói âm dương là theo 10 can; phải dùng cả hai mới định được 10 thần) :

- Dương phối với âm, hay âm phối với dương là Chính, vì đúng đạo âm dương;

- Dương phối với dương, hay âm phối với âm là Thiên, hay Phiến (không Chính), vì trái

đạo âm dương; để giản dị, chúng ta không dùng chữ Phiến.

Cùng ngũ hành với TA là chị em : Kiếp tài là Chính, Tỷ kiên (*) là Thiên; Cả hai gọi

tắt là Tỷ Kiếp (trong bốc phệ thì dùng từ Huynh đệ).

Tỷ kiếp phù trợ, giúp đỡ ta;

(*) ngang vai với TA, do đó có sách dịch là « ngang vai » ; nhưng tôi dùng từ Tỷ kiên, lý do là vì

mọi chữ đều là Hán Việt, bổng không rơi vào 1 chữ toàn Việt, lại rất khó cho việc gọi tắt).

Sinh TA là cha mẹ, ấn thụ : Chính ấn và Thiên ấn; Thiên ấn còn gọi là Kiêu thần,

hay Kiêu (trong bốc phệ thì dùng từ Phụ mẫu);

Cha mẹ sinh ta, làm cho ta thêm mạnh lên.

Q1-ch7-nhatnguyen                                                                                    4                                   02/01/2005

TA sinh là Con cháu                                                                                         : Thương quan là Chính ; Thực thần là Thiên; Cả hai gọi tắt

là Thương Thực (Trong bốc phệ thì dùng từ Tử tôn);

Con cái làm hao mòn ta (làm ta bị tiết khí);

Khắc TA là Chính quan và Thiên quan ; Thiên quan còn gọi là Thất sát ;

Cả hai gọi tắt là Quan Sát (Trong bốc phệ thì dùng từ Quan quỉ) ;

Quan Sát cữơng chế ta, làm khổ ta, gây hoạ cho ta ;

TA khắc là Chính tài, Thiên Tài ; Cả hai gọi tắt là Tài.

(Trong bốc phệ thì dùng từ Thê tài);

Vợ ta hay Tiền tài đem lại khoái lạc, tiện nghi cho ta ; nhưng cũng làm hao tổn

tâm lực của ta.

Tổng kết lại trong một bảng để dễ nhớ khi lập bảng số, ta có các bảng sau đây

(xem trang bên).

Chúng ta đã biết :

Ngũ hành qui về tạng phủ thì cho ta biết về sức khỏe, bệnh tật ;

Can chi năm sinh nạp âm (nói nạp âm nghiã là theo 60 hoa giáp) cho ta đại mệnh, tức cũng là

một ngũ hành nào đó (ví dụ tích lịch hoả, đại hải thuỷ v..v..), nó cũng cho ta biết khái quát về mệnh của

một người, nghiã là giàu sang nghèo hèn, sức khỏe, bệnh tật, tính tình, nghề nghiệp, hôn nhân, tuy

không đầy đủ (bạn có thể tham khảo Tam Thế Diễn Cầm) ;

Thiên can , điạ chi cũng qui về nội ngũ hành hay ngoại ngũ hành , và cho ta biết những khiá cạnh

tương tự về nhân thể (nội ngũ hành : lục phủ ngũ tạng; ngoại ngũ hành : đầu, chân tay, v..v..);

Mỗi hành với các hành khác luôn luôn có những tương quan như sau : sinh ta, ta sinh ;

khắc ta, ta khắc, và ngang hoà với ta. Nếu kể 5 hành thì có tới 5 x 5 = 25 lần, rất phiền

phức. Do đó từ đời nhà Hán, Đổng trọng Thư đã nhân cách hoá thành :

sinh ta là phụ mẫu ;

ta sinh là tử tôn ;

khắc ta là quan quỉ ;

ta khắc là thê tài ;

ngang hoà với ta là huynh đệ ;

đó là khái niệm lục thân dùng trong Bốc Dịch (Bát quái).

dù cho hành nào cũng vậy, hiệu quả (vai trò) cuả lục thân cũng như nhau ; ví dụ :

hoả sinh thổ thì đối với thổ, hoả là phụ mẫu ;

kim sinh thuỷ thì đối với thuỷ, kim là phụ mẫu ;

phụ mẫu cũng có vai trò như nhau, nhưng thay vì 25 tổ hợp ta chỉ còn 5 ; Và trong

4T, vì Can có âm-dương nên có 5 x 2 = 10 thần, với cùng ý nghiã cuả lục thân.

10 thần là một cách nhìn khác của tương tác về ngũ hành , âm dương giữa can ngày và

các can khác, mỗi thần có chức năng riêng biệt , nó nhấn mạnh về đương sự, về người

thân (lục thân), về sự việc, nghề nghiệp, tính cách của người đó, và do đó chúng mới là

cơ sở cho khoa đoán mệnh Tử Bình. Ðó là trọng tâm của chương này, Vì thế, ta xét 10

thần cũng tương tự như xét ngũ hành, qua các mặt sinh, khắc, hợp :

Q1-ch7-nhatnguyen                                                                                           5                                                             02/01/2005

1) Cách sắp xếp 1 :

BẢNG SẮP XẾP 10 THẦN

(còn gọi là ÂM DƯƠNG THÔNG BIẾN BIỂU)

Lấy Can ngày trên 1 hàng của cột 1, phối với 1 Can khác trên 1 cột cuả hàng đầu bảng,

tìm tên Thần ở giao điểm của hàng và cột.

Can khác >

Can ngày  v                                                                             Giáp +   ất -         Bính +   Đinh -   mậu +    kỷ -     Canh +   Tân -    Nhâm +   Quý -

                                                                                        Tỷ       kiếp         thực     thương   thiên    Chính    thiên    chính    Thiên    chính

Giáp +                                                                                  Kiên     tài          thần     quan     tài      tài      quan     quan     ấn       ấn

                                                                                        kiếp     Tỷ           thương   thực     Chính    Thiên    chính    thiên    Chính    thiên

ất -                                                                                    tài      kiên         quan     thần     tài      tài      quan     quan     ấn       ấn

                                                                                        thiên    chính        Tỷ       kiếp     thực     thương   Thiên    chính    thiên    chính

Bính +                                                                                  ấn       ấn           kiên     tài      thần     quan     tài      tài      quan     quan

                                                                                        chính    thiên        kiếp     Tỷ       thương   thực     Chính    thiên    chính    thiên

Đinh -                                                                                  ấn       ấn           tài      kiên     quan     thần     tài      tài      quan     quan

                                                                                        thiên    chính        Thiên    thương   Tỷ       kiếp     thực     thương   thiên    chính

mậu +                                                                                   quan     quan         ấn       quan     kiên     tài      thần     quan     tài      tài

                                                                                        chính    thiên        Chính    Thiên    kiếp     Tỷ       thương   thực     chính    thiên

kỷ -                                                                                    quan     quan         ấn       ấn       tài      kiên     quan     thần     tài      tài

                                                                                        thiên    chính        thiên    chính    Thiên    Chính    Tỷ       kiếp     thực     thương

Canh +                                                                                  tài      tài          quan     quan     ấn       ấn       kiên     tài      thần     quan

                                                                                        chính    thiên        chính    thiên    chính    thiên    kiếp     Tỷ       thương   thực

Tân -                                                                                   tài      tài          quan     quan     ấn       ấn       tài      kiên     quan     thần

                                                                                        thực     thương       thiên    chính    thiên    chính    thiên    chính    Tỷ       kiếp

Nhâm +                                                                                  thần     quan         tài      tài      quan     quan     ấn       ấn       kiên     tài

                                                                                        thương   thực         chính    thiên    chính    thiên    chính    thiên    kiếp     Tỷ

Quý -                                                                                   quan     thần         tài      tài      quan     quan     ấn       ấn       tài      kiên

Q1-ch7-nhatnguyen                                                                       6        02/01/2005

2) Cách sắp xếp 2 :

BẢNG SẮP XẾP 10 THẦN

(còn gọi là ÂM DƯƠNG THÔNG BIẾN BIỂU)

lấy Can Ngày trong 1 hàng cuả cột 1, phối với 1 Can trong 1 cột nào đó cùng 1 hàng, nhìn lên đầu cột ta

sẽ có tên THẦN liên hệ.

10 Thần >                                                                                                 Tỷ     Kiếp         Thực   Thương   Thiên    Chính   Thiên   Chính   Thiên   Chính

Can ngày  v                                                                                               kiên   tài          thần   quan     tài      tài     quan    quan    ấn      ấn

Giáp

+                                                                                                         giáp   ất           bính   đinh     mậu      kỷ      canh    tân     nhâm    quý

ất

-                                                                                                         ất     giáp         đinh   bính     kỷ       mậu     tân     canh    quý     nhâm

Bính

+                                                                                                         bính   đinh         mậu    kỷ       canh     tân     nhâm    quý     giáp    ất

Đinh

-                                                                                                         đinh   bính         kỷ     mậu      tân      canh    quý     nhâm    ất      giáp

mậu

+                                                                                                         mậu    kỷ           canh   tân      nhâm     quý     giáp    ất      bính    đinh

kỷ

-                                                                                                         kỷ     mậu          tân    canh     quý      nhâm    ất      giáp    đinh    bính

Canh

+                                                                                                         canh   tân          nhâm   quý      giáp     ất      bính    đinh    mậu     kỷ

Tân

-                                                                                                         tân    canh         quý    nhâm     ất       giáp    đinh    bính    kỷ      mậu

Nhâm

+                                                                                                         nhâm   quý          giáp   ất       bính     đinh    mậu     kỷ      canh    tân

Quý

-                                                                                                         quý    nhâm         ất     giáp     đinh     bính    kỷ      mậu     tân     canh

Người ta thường viết tắt trên bảng số, để thoáng, dễ đọc; hay gọi tắt cho gọn mà vẫn

giữ được nguyên ý nghiã .

tên                                                                                                       Tỷ     Kiếp         Thực   Thương   Thiên    Chính   Thiên   Chính   Thiên   Chính

Thần                                                                                                      kiên   tài          thần   quan     tài      tài     quan    quan    ấn      ấn

viết tắt                                                                                                  Tỷ     Kiếp         Thực   Thương   T. Tài   Tài     Sát     Quan    Kiêu,   Ấn

                                                                                                                                                                               hay

                                                                                                                                                                               T.Ấn

Q1-ch7-nhatnguyen                                                                                         7      02/01/2005

2) Sinh KHẮC của 10 thần

10 thần có thể là trên các thiên can, hay của các Can tàng trong địa chi. Mối quan hệ

sinh khắc giữa chúng cũng là quan hệ sinh khắc của ngũ hành. Tuy nhiên, 10 thần chủ

về người và sự việc, còn ngũ hành phản ánh mức độ khí chất bẩm sinh của con người.

Hai cái bổ sung cho nhau, không được coi nhẹ bên nào cả. Mục này chú trọng 10 thần.

Tương sinh :

Chính tài, Thiên tài  sinh    Quan Sát ;

Quan Sát                                                                                 sinh    Ấn Kiêu ;

Ấn Kiêu                                                                                  sinh    Tỷ Kiếp ;

Tỷ Kiếp                                                                                  sinh    Thương Thực ;

Thương Thực                                                                              sinh    Chính tài, Thiên tài.

Tương khắc  :

Chính tài, Thiên tài  khắc   Ấn Kiêu;

Ấn Kiêu                                                                                  khắc   Thương Thực ;

Thương Thực                                                                              khắc   Quan Sát ;

Quan Sát                                                                                 khắc   Tỷ Kiếp ;

Tỷ Kiếp                                                                                  khắc   Chính tài, Thiên tài .

Về Sinh hoặc khắc, không phải hễ thấy sinh thì cho là tốt, khắc thì cho là xấu.

Mệnh tốt hay xấu cũng không phải lấy sinh và khắc để bàn. Ví dụ :

Thực thần sinh Tài là mệnh tốt ;

Thực thần chế (khắc) Sát cũng là mệnh tốt ;

vậy phải tuỳ khi bàn về sự việc cụ thể nào đó mà nói tổ hợp sinh hay khắc là tốt hay

xấu.

Các can âm hoặc dương đều có thể sinh, có thể khắc ; Tương sinh hoặc tương khắc

đồng tính (+/-) thì lực lớn, còn khác tính thì yếu hơn.

Giữa các thiên can không bàn đến xung, mà chỉ có sinh, khắc, hợp. Về can hợp chúng

ta sẽ bàn kỹ ở mục Hoá khí cách .

Theo 10 thần lộ ra, lực sinh khắc mạnh hay yếu là căn cứ vào sự sinh khắc, hợp hoá

của các thiên can và ngũ hành để định đoạt, và còn phải căn cứ vào sự luận đoán tổng

hợp với điạ nguyên và nhân nguyên.

Tương tự như sinh khắc của ngũ hành, giữa 10 thần cũng có qui luật về thái quá : khi 1

thần nào đó quá mạnh hay quá yếu thì cũng tuân theo qui luật « vật đến cực tất phản

(quay ngược trở lại) » : cái sinh không thể sinh, cái khắc trở thành bị khắc.

Sự sinh khắc ấy có lợi cho Thân hay dụng thần là hỷ ; có hại cho Thân hay dụng thần là

kỵ. Khi luận Vận mệnh phải nắm vững những yếu tố hỷ kỵ này của mệnh.

3) Vượng suy của 10 thần

Sự sinh khắc sẽ có tác động khác nhau tuỳ theo sự vượng suy của ngũ hành cuả CAN

(lộ hay tàng). Mà để định một hành (qua đó là một thần) là vượng hay suy, tiêu chuẩn

Q1-ch7-nhatnguyen                                                                        8                               02/01/2005

duy nhất là bảng Trường Sinh : lấy Lệnh tháng kết hợp với thiên can, đọc bảng này để

xác định. Một CAN nào đó là Vượng hay Suy, thì (10) Thần phát xuất từ đó cũng Vượng

hay Suy, vì như ta đã biết, 10 thần cũng chỉ là 1 cách nhìn khác, gọi khác cuả Can hay

Hành).

Nhắc lại : Từ TS, đến MD, QD, LQ, DV là mạnh (cường), từ Suy , đến BH, TU, MO,TT là yếu (nhược), còn

Thai, Dưỡng là bình.

Can ngày quan trọng nhất, vì dĩ nhiên không có "Thần" nào quan trọng bằng TA (xem

mệnh là xem cho TA mà ) . Vậy trước hết   phải xác định cho được là TA (thân) vượng

hay TA (thân) nhược, vì tuỳ lực của Thân mà sự tương tác của 10 thần trên nó có ảnh

hưởng khác nhau.

Cần theo trình tự sau đây :

3.1) xem hỷ kỵ của các can kề sát bên Can ngày :

- trước hết xem chi ngày, vì nó liền sát can ngày, nó phù trợ can ngày (hỷ) , hay

khống chế can ngày (kỵ) ;

- kế đến xem can tháng và can giờ là hỷ hay kỵ của can ngày ; hỷ hay kỵ đó

vượng hay nhược ; như thế mới đo lường được mức độ trợ giúp hay tác hại của chúng

đối với can ngày ;

nếu có hợp là hợp sinh hỷ hay sinh kỵ ; hợp mất hỷ hay mất kỵ.

- cuối cùng mới xét đến can chi  ở xa hơn :

* trụ tháng hay trụ giờ có thiên khắc điạ xung với trụ ngày không ;

* chi tháng, chi giờ có khống chế, hình hại chi ngày không ;

* là hỷ hay là kỵ đối với can ngày.

3.2) xem mức độ vượng suy của các can chi khác :

Lần lượt xét các can khác (năm, tháng, giờ) đối với lệnh tháng là vượng hay suy ;

xem Can từng trụ một, chi của nó, và các can bên phải, bên trái của can ấy là hỷ hay kỵ

của nó (y như xét Can ngày trên đây);

Cuối cùng tổng hợp mức độ vượng suy của Tài, Quan, Ấn, mức độ phù trợ hay áp chế

của các hỷ thần, kỵ thần đối với Can ngày.

3.3) Tiếp tục xem các mối quan hệ tổng hợp để xác định mức độ thân nhược hay thân

vượng. Ví dụ :

nếu can năm lộ ra Tài,                                                                                 nó làm hao tổn thân ;

nếu can tháng lộ ra Quan, nó áp chế thân ;

mà Tài và Quan lại tương sinh, làm cho thực lực của Quan mạnh lên, tức là sức nó

khắc nhật can tăng lên ; nếu thế của nhật can đơn bạc thì rõ ràng là Thân nhược. Cần

ước lượng xem mức chiụ đựng của nhật can như thế nào.

Xác định Thân vượng hay Thân nhược, thì sẽ dễ dàng xác định dụng thần, đó là những

cơ sở của mọi dự đoán trong khoa Tử Bình.

Rồi lý luận tương tự như với Can ngày trên đây để xét các Can (Thần) khác là V hay S.

Q1-ch7-nhatnguyen                                                                                      9                       02/01/2005

4) Chức năng của 10 thần

Ta sẽ xét vai trò, chức năng của mỗi thần. Khi nói một thần nào đó, là luôn luôn đối Can

ngày - mệnh chủ. Người ta phân biệt :

Cát (hay thiện) thần                                                                                       : gồm Tài, quan, Ấn, Thực

Hung (hay ác)  thần                                                                                        : gồm Tỷ, kiếp, kiêu, thương, thất sát.

4.1)   Chính quan : tuy là áp chế thân, nhưng nó quản những điều tốt, cưỡng chế TA

theo nghiã tốt, ví dụ nhà nước bắt dân phải đóng thuế, đi lính, luật lệ cưỡng chế về trật

tự xã hôị , như luật đi đường, cấm đoán mại dâm , ma tuý v..v..

4.2) Thất sát : khắc chế nhật can theo nghiã xấu, như tai nạn, rủi ro, bệnh tật, tù tội

…Nó chuyên tấn công nhật can, làm tổn hao Tài, sinh Ấn, công phá thân, khắc chế Kiếp.

Chú ý : khi nó bị khắc chế, tức là có Thương Thực, thì gọi là Thiên quan, nếu không thì được gọi là Thất

sát.

Thân vượng Tài yếu                                                                                         thì nó làm hao Tài ;

Thân vượng Ấn yếu                                                                                          thì nó sinh Ấn ;

Ấn yếu, Tài mạnh                                                                                           thì nó công phá thân ;

Thân vượng Kiếp yếu                                                                                        thì nó khắc chế Kiếp ;

4.3) Chính tài, Thiên tài (là cái tôi khắc chế), cả hai gọi chung là Tài :

Tài là nguồn dưỡng mệnh, ai cũng cần có, nhưng không phải ai cũng có được (trong

mệnh nó là 1 Thần, ngoài đời nó là Vợ hay Tiền tài).

Tài sinh Quan Sát, rút khí Thực Thương ; áp chế Kiêu thần ; làm hại Chính ấn.

Thân vượng, Quan Sát nhược thì                                                                             tài sinh Quan Sát;

Thân vượng, Thực Thượng nhược thì    tài rút khí Thực Thương ;

Thân vượng, Kiêu vượng thì                                                                                 Thiên tài áp chế Kiêu thần ;

Thân vượng, Chính ấn vượng thì                                                                             Chính tài làm hại Chính ấn ;

4.4) Chính ấn, Thiên ấn :

Ấn là nguồn khí của TA, như cha mẹ sinh ra TA. Thiên ấn gặp Thực thần thì sẽ bị cướp

đoạt nên gọi là Kiêu thần.

Nó sinh Thân, rút khí Quan Sát để bồi dưỡng cho TA; và chống lại Thực Thương là

những thứ rút khí TA.

Thân nhược, Quan Sát mạnh                                                                                  :                                                                                   ấn rút khí Quan Sát để sinh thân;

Thân nhược, Thực Thương mạnh :                                                                                                                                                                 chính ấn chống lại Thực Thương.

4.5) Thương quan , Thực thần :

Thương gặp Quan thì khắc ;

                                                                                                           Thực gặp Sát thì có thể chế phục, làm cho nhật can được yên ổn không có tai hoạ ;

Q1-ch7-nhatnguyen                                                                                          10                                                                                  02/01/2005

Thương Thực rút khí thân, sinh Tài, đối địch với Thất sát, làm tổn thương Chính

quan.

Thân vượng, Tài Quan nhược thì                                                            Thương Thực rút khí thân ;

Thân vượng, Tài  nhược thì                                                                Thương Thực sinh Tài;

Thân nhược, QUAN SÁT mạnh thì                                                             Thương Thực sẽ đối địch Thất sát, làm tổn hại

Quan.

4.6) Tỷ, Kiếp :

Nó giúp thân, làm hao Quan Sát, hoá Ấn (rút khí) ; cướp đoạt Tài. Nếu Thân vượng mà

còn có nó thì xấu.

Thân nhược , TK giúp thân ;

Thân nhược , TK rút khí Quan Sát;

Thân nhược có TK thì không sợ bị tiết khí ;

Thân vượng có TK sẽ đoạt được Tài.

5) Người và sự việc mà 10 thần đại biểu

Chúng ta học đoán mệnh tức là xem chuyện công danh, sự nghiệp, tiền tài, vợ/chồng

con cái,…, vậy phải căn cứ vào những cơ sở nào đó; đó chính là 10 thần.

Chính quan : đại biểu cho chức quan, chức vụ, thi cử , bầu cử, học vị, danh dự, địa vị.

Nữ                                                                                        : đại biểu cho tình cảm với chồng và đường con cái;

Nam                                                                                       : đại biểu cho tình cảm với vợ;

                                                                                          Thiên quan : đại biểu cho chức vụ về quân đội, cảnh sát, hoặc tư pháp; thi cử; bầu cử.

Chính ấn                                                                                  : đại biểu cho chức vụ, quyền lợi, học hành, nghề nghiệp; học thuật, sự

nghiệp; danh dự, điạ vị, phúc thọ.

Còn đại biểu cho  tình mẹ.

Thiên ấn                                                                                  : đại biểu cho thẩm quyền trong nghề nghiệp, như nghệ thuật, diễn xuất,

y học, luật sư, tôn giáo, kỹ thuật, nghề tự do, những thành tích trong dịch vụ.

Còn đại biểu cho  tình dì ghẻ.

Tỷ kiên                                                                                                                                                                            : đại biểu cho người giúp việc, cấp dưới, bạn bè, đồng nghiệp, người cùng

                                                                                          phe đảng; tranh tài đoạt lợi; khắc vợ, khắc cha …

Nữ                                                                                        : đại biểu cho tình chị em (cùng phái với mình);

Nam                                                                                       : đại biểu cho tình anh em (cùng phái với mình);

Kiếp tài                                                                                                                                                                           : đại biểu cho người giúp việc, cấp dưới, bạn bè, đồng nghiệp, người cùng

phe đảng;

                                                                                          Còn đại biểu cho hao tổn tài, bị đoạt tài; bị đoạt   vợ, khắc cha ; tranh dành

                                                                                          quyền lợi; lang thang …

Nữ                                                                                        : đại biểu cho tình anh em (khác phái với mình);

Nam                                                                                       : đại biểu cho tình chị em                                                               (khác phái với mình);

Q1-ch7-nhatnguyen                                                                         11                                                                                       02/01/2005

Thực thần                                                                                         : đại biểu cho phúc thọ, người mập; về hưu, có lộc.

Nữ                                                                                                : đại biểu cho tình cảm với con gái của mình;

Nam                                                                                               : đại biểu cho tình cảm với con  trai của mình;

                                                                                                  Thương quan : đại biểu việc không lợi cho người nhà, cho chồng; bị mất chức; bỏ học,

                                                                                                  thôi học; mất quyền, mất ngôi; không trúng tuyển;

Nữ                                                                                                : đại biểu cho tình cảm với con trai của mình;

Nam                                                                                               : đại biểu cho tình cảm với con gái của mình;

Chính tài                                                                                         : đại biểu cho tài lộc, sản nghiệp; tài vận, tiền lương, lợi tức của nghề

chính.

Nam                                                                                               : đại biểu cho tình cảm với vợ;

Thiên tài                                                                                         : đại biểu cho của riêng, trúng thưởng, phát tài nhanh; lợi tức không do

nghề  chính ; đánh bạc; tình cảm với cha;

Nam                                                                                               : đại biểu cho tình cảm với vợ lẻ;

6) Tâm tính thể hiện qua 10 thần :

10 thần lộ ra trên các thiên can còn biểu thị thiên tính; cũng giống như ngũ hành đại

biểu cho tính tình của con người (như mộc chủ nhân, hoả chủ lễ v..v..).

Các thần lộ hay tàng đều là những tiêu chí về sự sinh khắc của sự việc.

Trong mệnh cục , nếu (a) đã khắc được (b) thì (b) không còn lực để khắc (c), nên (c)

sẽ xuất hiện. Vì (c)   không bị khắc nữa, nên nó được sinh thoát ra ; vậy trong cân bằng

của 4t nó là bên có sức sống nhất. Khi nó xuất hiện thì sự biểu thị của nó về người, sự

việc liên hệ (xem mục 10 thần đại biểu trên đây) và tâm tính  người ấy càng rõ ràng.

Ðó là nguyên lý "quan hệ  phá thì lập".

Ví dụ : 4t có Thương quan khắc Quan , nhưng nếu Thương bị phá hại (vì có Chính ấn,

hay bị hình, hợp, xung, hại) thì Chính quan có cơ hội xuất hiện. Thương quan bị khắc

chế nên nay Chính quan sẽ đóng vai trò rất quan trọng đối với nhật can ; nó gián tiếp

hay trực tiếp quyết định sự vượng suy của nhật can. Thông thường nó có vai trò chủ

đạo cho mệnh cục là cát cách hay bại cách. Và tâm tính Chính quan lộ rõ .

Tóm tắt cho tất các thần như sau :

Ấn khắc Thương, Thương không khắc được Quan, tâm tính chính quan xuất hiện :

Chính trực, có tinh thần trách nhiệm ; đoan trang, nghiêm túc, làm việc có thứ  tự,               song    dễ

bảo thủ, cứng nhắc ; thậm chí không kiên nghị.

Kiêu đoạt Thực, Thực không chế ngự được Sát, tâm tính Thất sát xuất hiện :

Hào hiệp, năng động, tiến thủ, uy nghiêm, nhanh nhẹn ; nhưng dễ bị kích động ; thậm chí trở

thành người ngang ngược, truỵ lạc.

Kiếp tranh Tài, Tài không làm tổn thất được Ấn, tâm tính Chính ấn xuất hiện :

Thông minh, nhân từ, không tham danh lợi, chiụ đựng ; nhưng ít chí tiến thủ ; thậm chí trì trệ,

chậm chạp.

Q1-ch7-nhatnguyen                                                                                 12                                                                                     02/01/2005

Tỷ đoạt Tài, Tài không khắc được Kiêu, tâm tính Kiêu thần xuất hiện :

Tinh thông tay nghề; phản ứng nhanh nhạy; nhiều tài nghệ; nhưng dễ cô độc, thiếu tình người;

thậm chí ích kỷ, ghẻ lạnh.

Thương khắc Quan, Quan không  chế ngự được Kiếp, tâm tính Kiếp tài xuất hiện :

nhiệt thành, thẳng thắn, ý chí kiên nhẫn, phấn đấu, bất khuất; nhưng dễ thiên về mù quáng,

thiếu lý trí, thậm chí manh động, liều lĩnh.

Thực áp chế Sát, Sát không chế ngự được Tỷ, tâm tính Tỷ kiên xuất hiện :

Chắc chắn, cương nghị, mạo hiểm, dũng cảm, có chí tiến thủ, nhưng dễ cô độc, ít hoà nhập; cô

đơn.

Tài làm tổn Ấn, Ấn không khắc được Thương, tâm tính Thương quan xuất hiện :

Thông minh, hoạt bát, tài hoa, hiếu thắng, nhưng dễ tuỳ tiện, thiếu sự kiềm chế, thậm chí tự do

vô chính phủ.

Tài áp chế Kiêu, Kiêu không đoạt được Thực, tâm tính Thực thần xuất hiện :

Ôn hoà, rộng rãi với mọi người; hiền lành, thân mật, nhưng dễ bề ngoài, không thật bụng, thậm

chí nhút nhát, giả tạo.

Quan khắc Kiếp, Kiếp không phá được Tài, tâm tính Chính tài xuất hiện :

Cần cù, tiết kiệm, chắc chắn, thật thà, nhưng dễ thiên về cẩu thả, thiếu tính tiến thủ, thậm chí trở

thành nhu nhược, không có tài năng.

Sát áp chế Tỷ, Tỷ không khắc được Tài , tâm tính Thiên tài xuất hiện :

Khẳng khái, trọng tình, thông minh, nhạy, lạc quan, phóng khoáng; nhưng dễ thiên về ba hoa, bề

ngoài, thiếu sự kiềm chế, thậm chí phù phiếm.

Ví dụ 1 : can năm là Tài, can tháng là Ấn, can giờ là Thương ; Tài có lực khá mạnh nên

khắc chế được Ấn ; Ấn không có lực để khắc chế Thương nên tâm tính Thương quan lộ

rõ : thanh cao, hiên ngang, dám chửi cả quỉ thần ;

- nếu Thân vượng thì lại càng hung hăng hơn, vì Thương được Thân vượng sinh

cho ; do đó người này tính xấu, những người bề trên không dám đụng đến, kẻ tiểu

nhân thì càng sợ lánh xa. Thân vượng nên nó là hỉ   của   dụng thần ; khi hành đến vận

Tài thì phú quí tự nhiên đến ;

- nếu Thân nhược thì tính tình vẫn là tính tình của Thương quan, nhưng không

đến nỗi ghê gớm bằng ; tuy ít giận dữ hơn , nhưng khi đã giận dữ thì người non gan

phải chết khiếp.

Ví dụ 2 : Tâm tính chính tài ;

Những người này ngay khi còn nhỏ tuổi đã có bản lãnh kinh doanh bẩm sinh ; cho dù

không có văn hoá nhưng tính toán rất nhanh và rất chuẩn làm cho mọi người phải khâm

phục.

Theo mệnh lý mà nói , hễ Tài vượng thì khắc Ấn , mà ấn chỉ về học vấn, nên tài vượng

thì văn hoá ít , không ham đọc sách , « đi làm kiếm tiền » rất sớm.

Qui luật chung Tài khắc ấn là chỉ người Thân nhược.

Q1-ch7-nhatnguyen                                                                                      13   02/01/2005

Còn Thân vượng thì có thể thắng Tài; nếu Tài ít thì không thể buôn bán được, nhưng

Ấn vượng thì học giỏi nên hy vọng khắc ấn để tránh khỏi kiếp tài ;

Tài lộ thì khẳng khái ;

Tài nhiều Tài vượng thì có duyên với con gái, nên khẳng khái, phong lưu, và vì

thế mà hay tiêu phí tiền ;

Thân, Tài ngang nhau thì Tài là dụng thần.

Ngoài những trường hợp "phá thì lập" trên đây, còn có ngoại lệ "không phá cũng lập",

tức là 1 thiên can nào đó vượng, không bị khắc chế (phá hại). Ví dụ                                        : mệnh cục có nhật

nguyên gặp toàn Tỷ kiếp, mà trong mệnh không có Quan tinh để khắc chế ; thì trong

trường hợp đó, Tỷ kiếp rất vượng, tâm tính Tỷ kiên vẫn lộ rõ dù không có một quan hệ

khắc phá nào.  Ðây là trường hợp một thần "vừa độc vượng, vừa được lập".

Ngoài tâm tính ra, sự Vượng suy của 10 thần còn chủ các việc có thể xãy ra

cho mệnh. Ðó là đối tượng cuả chương 8 - luận 10 thần.

Kết hợp chức năng và độ số vượng suy của 10 thần, và xét các sự sinh khắc chế hoá

của chúng sẽ hé lộ cho ta thấy những tiêu chí của mệnh người ấy , tâm tính hay năng

khiếu sẽ dẫn đến cách hành xử, và những kết quả hay hậu quả; rồi sau đó, cũng với

những lý luận tương tự trên 10 thần của đại vận, cuả lưu niên tương tác với mệnh cục

(tứ trụ) mà ta sẽ vẽ ra được vận trình của suốt cuộc đời một người.

III-  Ứng dụng của VS của Can Ngày : Tìm Dụng Thần cuả mệnh

Vì DT là cốt lõi của mệnh, là linh hồn của khoa Tử Bình, nên ta dành riêng cho nó 1 chương (Xem chương

10 - dụng thần). Nhưng ở đây, nhân tiện xét về Thân vượng hay Thân nhược, ta đã có đủ cơ sở để lý

luận tìm DT. Vậy ta xét ngay theo phái này. Trong chương 10 sẽ trở lại, nhưng với trình độ thâm cứu hơn.

Trong mệnh lý, nếu can ngày đã yếu lại không được phù trợ, hay can ngày vốn đã

vượng lại còn được phù trợ, thì đều là nguồn bệnh. 4T đó có được bổ cứu hay không,

còn phải xem kỹ nó có hành / thần nào đóng được vai trò đó không .

Khi can ngày   yếu   nên được sinh phù; hoặc can ngày mạnh , nên bị khống chế, hao

tán, tiết khí . Nhưng 4T chỉ có 8 chữ, giống như 1 cái cân, bên Vượng là bên nặng,

bên yếu là bên nhẹ.  Cái (thần / hành / chữ nào đó) dùng để bớt bên nặng đi, bù vào

bên nhẹ, làm cho cái cân "MỆNH" được thăng bằng gọi là Dụng Thần .

Vậy DT căn cứ vào can ngày Vượng hay Nhược để định đọat . Sự phán đoán TV hay TN

và tìm DT là bước mở đầu quan trọng nhất để từ đó tiếp tục tiến lên dự đoán ở những

bước sau, cho cát hung họa phúc của cả cuộc đời; mà khi nói cả cuộc đời thì cụ thể là

các Ðại vận (10 năm) và Lưu niên (1 năm nào đó).

Vận tốt là lúc DT đến mang lại đủ vận khí để làm cân bằng ngũ hành của mệnh cục , ổn

định cán cân. Lúc gặp được DT như thế gọi là DT đắc lực; vận trình đó là thời kỳ tốt

nhất của cuộc đời.

Trong mệnh có DT thì VM gặp nhiều thuận lợi. DT có lực thì cuộc sống nhẹ nhàng, DT

yếu thì cuộc sống vất vả hơn.

Q1-ch7-nhatnguyen                                                                                          14                   02/01/2005

DT bị phá tổn thương thì gian nan càng nhiều; DT đã yếu lại còn bị khắc thì cũng chẳng

khác gì không có. Lúc đó, phải nhờ DT từng vận để bổ cứu.

Trong việc lý luận để tìm DT cho MC, ta phải dùng luôn luôn đến bảng Trường

Sinh, cần nhớ là trong dự đoán về mệnh lý, 5 can dương tính theo chiều thuận, 5 can

âm tính theo chiều nghịch của mười hai cung trường sinh.

ngũ hành của 5 can âm và 5 can dương trong bảng Trường sinh ở các cung lâm

quan, đế vượng đều rơi vào vượng địa (địa chi là lộc, kình dương), cho nên ngũ hành

vượng ở bản khí chi tháng là điều trước sau không thay đổi.

Còn những cung khác trong bảng Trường sinh , dù  cùng một ngũ hành, nhưng 5

can âm và 5 can dương phân biệt ở   vượng / suy (TS / Tử; MD / Bệnh; QÐ / Suy), nếu

5 can âm và 5 can dương là can ngày lại rơi vào lệnh tháng thì rõ ràng sẽ ngược nhau

hoàn toàn.

Vậy các sách cho rằng 5 can âm không tính theo chiều nghịch là không đúng.

Sự không phân biệt âm dương / thuận nghịch   đó sẽ dẫn đến sự phán đoán sai lầm về

thân nhược và thân vượng, tất nhiên xác định sai dụng thần, mà dụng thần lấy sai thì

toàn bộ đều sai 180 độ. Ðiều đó không những sự dự đoán sẽ   không giúp cho người ta

hướng đến cái tốt, tránh xa cái xấu, mà còn có tác dụng ngược lại, gây nên tội nghiệt

(*). Cho nên nhất định ta phải nắm vững điều mấu chốt này.

Bạn hãy dùng bảng TS có phân biệt âm dương thuận nghịch trong sách này, chỉ cần tra bảng thì không

sợ sai (xem bảng).

(*) ví dụ : vận trình người ta đang ở bại vận mà lại tưởng là đang ở vận cực thịnh, người ta hỏi có nên bỏ

vốn, mượn nợ kinh doanh không. Thay vì bảo không nên , đắp chăn nằm ngủ còn sướng hơn là trắng tay,

vợ đói con rách, lại khuyên "thời vận anh đang tốt lắm, nên làm tới đi !"                                    .   Bạn đã thấy hậu quả và tội

nghiệt chưa ?

Tương tự chuyên tình duyên , hay quan vận ,…

IV- VÍ DỤ QUAN TRỌNG VỀ PHƯƠNG PHÁP LÝ LUẬN ÐỂ CHỌN DỤNG THẦN

nhắc lại : phải luôn luôn dùng bảng TS -có phân biệt Can dương và Can âm- để định Vượng Suy : Can +

tính theo chiều thuận, can âm tính theo chiều nghịch.

Xét Mệnh NAM sau đây :

THỰC                                                                                                         ẤN                               NHẬT nguyên  SÁT

Quý mão                                                                                                      mậu ngọ                          tân sửu                                                                             đinh mùi

ất                                                                                                           đinh kỷ                          kỷ tân quý                                                                          kỷ ất đinh

tài                                                                                                          sát kiêu                         kiêu tỷ thực                                                                        kiêu tài sát

                                                                                                                                              Trước hết ta liệt kê ra sự vượng suy của các ngũ hành và của mười thần trong 4T :

                                                                                                                                              - Can ngày là tân kim, sinh ở tháng ngọ là đất "bệnh" nên không được lệnh.

Q1-ch7-nhatnguyen                                                                                            15                               02/01/2005

- Ta lại thấy can phía bên trái là mậu tức là ấn sinh thân, ở đất đế vượng nên là

được sinh. Ngày đóng ở sửu thổ, kỷ thổ trong sửu là bản khí, kỷ thổ của tháng ngọ là

lâm quan vượng địa, lại còn thêm bản khí trong mùi thổ cũng là kỷ thổ ở quan đái

vượng địa cho nên lại cũng  được sinh.

- Can ngày Tân kim trường sinh ở tý, nhưng trong tứ trụ không có tý, các thiên

can lộ ra bản khí của nó lại không có tỷ, kiếp;  tân kim trong sửu không phải là gốc của

mộ cho nên không đắc địa.

- Các thiên can không có tỷ, kiếp là không được trợ giúp.

Không được lệnh, không đắc địa, lại không được trợ giúp mà chỉ có vượng sinh thì thân

vẫn là nhược.

Tiếp theo ta so sánh sự mạnh yếu của can ngày kết hợp các yếu tố  tác động trên nó :

Can giờ bên phải trụ ngày là đinh hoả thất sát, đinh sinh vào tháng ngọ cũng là

lâm quan vượng địa, nên sát vượng. Quý thuỷ thực thần của trụ năm ở cách xa nhật

nguyên rơi vào tuyệt địa, là nhược. Chi năm Mão đóng dưới can năm, tàng độn ất, ất

trường sinh ở ngọ nên tài vượng.

Thất sát vừa có thể là cát thần sinh ấn thụ để làm cho vượng thân, nhưng cũng

có thể là sát tinh khắc thân. Thời điểm khắc thân là lúc gặp tuế vận tài tinh, vì lúc đó ấn

thụ bị Tài chế ngự, còn tài lại sinh sát, mà sát sinh không được ấn nên quay ra khắc

thân. Hơn nữa địa chi ngọ-mùi là bán hội sát khiến cho sát càng mạnh. Muốn biết có

được cứu hay không thì phải xem trong tứ trụ sát tinh gặp kỵ thần hay hỷ thần (ngọ và

mùi vì không phải là lục hợp liền kề bên cạnh cho nên cho dù có hoá xuất Thổ (sinh

Kim), cũng không thể được coi là hoá).

Do đó Thân nhược vẫn là Thân nhược. Vậy Dụng thần phải chọn là chính ấn để

bổ trợ cho Thân Nhược, kỵ thần là thiên tài .

Chú ý : Qua ví dụ trên, ta thấy tân kim (là can âm) nếu không tính theo chiều nghịch mà vẫn tính theo

chiều thuận thì trường sinh của tân kim là ở tị, tháng ngọ sẽ  không phải là nhược mà là tháng được lệnh,

như vậy lực nó rất lớn, lại còn được ấn vượng sinh thân, thất sát còn được ấn thụ hoá là hỷ chứ không

phải là kỵ, thì làm sao thân vượng sát vượng, gặp năm tài, mà lại luôn luôn gặp tai họa ?

Thực chất là vì thân nhược gặp tài nên gánh không nổi, mà Tài sinh sát lại khắc thân, nên nguyên

nhân tai hoạ là ở chỗ thân nhược. Vậy đừng bao giờ quên nguyên tắc Can + thuận, Can âm nghịch.

Bạn nên xem các thí dụ ở chương 15 để hiểu cách tìm DT và cách luận đoán.

HẾT

Q1-ch7-nhatnguyen                                                                                           16   02/01/2005

Chương 8

NGHIÊN CỨU 10 THẦN

Cách định VS cuả 10 thần

VS cuả mỗi thần chủ về việc gì ?

Luận 10 thần :

- khảo hướng 1 : xét từng thần, và thần trên các trụ;

- khảo hướng 2 : xét theo từng lãnh vực cuả mệnh.

Trong chương trước, chúng ta đã tìm hiểu nhật nguyên và 10 thần, nội dung cuả 10

thần qua các mục :

Cách sắp xếp

Sinh khắc của 10 thần

vượng suy của 10 thần (*)

chức năng của 10 thần

người và việc mà 10 thần đại biểu

tâm tính thể hiện qua 10 thần.

Trong chương này, chúng ta đào sâu tác động cuả 10 thần tuỳ theo VS (*), và theo vị

trí mà nó đóng (trên trụ nào, trên Can hay Chi) thì sẽ chủ về những việc gì ?

Định Vượng, Suy cuả 1 CAN hay 1 THẦN nào đó trong 4T

Về cách định vượng suy cuả các  Can hay Thần có 2 phái :

1) Phái thứ nhất dùng tất cả các điạ chi cuả 4T phối với  CAN ấy theo bảng TS , rồi cân

nhắc để biết CAN hay THẦN ấy là Vượng hay Suy.

Nói chung phái này cho rằng Điạ chi quyết định sự Vượng Suy cuả Thiên Can (hay

Thần).

Ví dụ 1 :

                                                                                          Can Năm   +     Chi Năm                                                               =>     TS

                                                                                                    +     Chi Tháng                                                             =>   ĐV

                                                                                                    +      Chi Ngày                                                             =>   BH

                                                                                                    +     Chi Giờ                                                               =>   Tt

                                                                                                    Chi năm và chi tháng nằm sát bên Can Năm nên ảnh hưởng mạnh hơn ; vậy Can

                                                                                                    Năm vượng. Nếu Can ấy là Tài chẳng hạn, thì người đó Tài vượng.

Ví dụ 2:

                                                                                          Can Giờ   +     Chi Năm                                                               =>     DG

                                                                                                    +     Chi Tháng                                                             =>   Tt

                                                                                                    +      Chi Ngày                                                             =>   ĐV

                                                                                                    +     Chi Giờ                                                               =>   TU

Cân nhắc thì thấy ngay Can Giờ suy. Nếu Can ấy là Quan chẳng hạn, thì người đó

không có quan, hay quan vận không được tốt. Ngoài ra trụ giờ là cung con cái,

vậy con cái cũng không thành đạt, và/hoặc sức khoẻ yếu, và/hoặc yểu !.

Tương tự như thế ta xét cho tất cả các CAN hay THẦN khác. OK ?

2) Phái thứ 2 chú trọng đến Chi THÁNG, tức LỆNH THÁNG, dù trong khoa Tứ Trụ hay

khoa Bốc Dịch, nó là cương lĩnh quyết định sự VS cuả tất cả các Can, Chi, Thần (qua

ngũ hành) dù lộ hay tàng.

Q1-ch08-luan-10than                                                                       1         02/01/2005

Phái này, tuy vậy, cũng cân nhắc tổng hợp trước khi định VS, nhất là cuả Can Ngày

(mệnh chủ). Trong sách này chúng ta sẽ có dịp bàn kỹ.

Cả hai phái đều dựa vào bảng Trường sinh. Phái thứ nhất dùng điạ chi cuả tất cả các

TRỤ, nhưng cũng không phủ nhận vai trò nổi bật cuả Chi Tháng ; phái thứ 2 tuy chú

trọng LT, nhưng cũng tổng hợp tất cả Can, Chi trước khi phán vượng hay suy. Chúng ta

nên linh động mà ứng dụng, không bỏ qua cách nào cả.

Chú ý trong khi luận giải vận trình : Dụng thần cũng là 1 Thần, 1 hành, mà là thần

trung tâm cuả mệnh, do đó sự VS cuả nó phải được xác định rõ; và khi luận hành vận,

phải kết hợp nó với Chi  ĐẠI VẬN và Chi LƯU NIÊN để biết nó Vượng hay Suy ở hành

vận đó, Vượng thì là vận tốt, Suy là vận xấu.

Lưu ý :

Trong mệnh lý học, đầu tiên phải làm rõ một thần nào đó là Hỷ hay là Kỵ của Thân, hay

cuả DT, thì mới tránh được cảnh sai 1 ly đi 1 dặm, râu ông nọ cắm cằm bà kia trong khi

phán đoán. Ví dụ :

Hỷ Quan là chỉ Thân và Quan tinh lực lượng tương đương, Thân không đến nỗi bị Quan khắc hay

áp chế, mà còn có thể thắng Quan ; Quan là lộc nên Thân có công danh.

Lực tác động của mỗi « thần » trên các thần khác tuỳ thuộc nó vượng hay nó suy.

Còn hiệu lực cuả sự tương tác có thể là :

trung tính (vô thưởng vô phạt), hay

sinh trợ , hay

phá hoại (khắc chế).

VS cuả mỗi thần chủ về việc gì ?

Trên mỗi trụ có các « thần » lộ hay tàng . Mỗi thần có ý nghiã , tính chất riêng, coi như

bạn đã nắm thật vững ở chương trước, còn ở đây sẽ nhấn mạnh về sự VS và khi Vượng

hay khi Suy chúng sẽ có những tác động gì trên mệnh. Có 2 khảo hướng :

1) hoặc xét xem nó đóng ở trụ nào thì sẽ có tác dụng ra sao, vì :

- mỗi trụ là một cung cho một lãnh vực của đời người (năm là tổ nghiệp - cha mẹ,

tháng là cha mẹ - anh chị em, ngày là mình và  hôn phối, giờ là con cái);

- mỗi trụ cũng là một giai đoạn của đời người (năm : ấu thơ - thiếu niên ; tháng -

ngày : thanh niên - trung niên, giờ : tuổi già - cuối đời),

và nếu phối hợp (sinh, khắc, hợp)   nó với các thần khác sẽ có những tác dụng

nào đối với mệnh.

Ðây là cách trình bày từng thần trên cả 4 Trụ ; ví dụ Quan trên trụ năm thì sao, trên trụ tháng

thì sao, trên trụ ngày thì sao, trên trụ giờ thì sao ... ; rồi đến Sát, Ấn, Thương ...

Cũng có thể trình bày tất cả 10 thần trên mỗi trụ ; ví Ấn trên trụ năm thì sao, Tài trên trụ năm

thì sao ; Thương trên trụ năm thì sao ; tương tự Quan, Sát,  Thực, Tỷ, Kiếp ...

rồi tượng tự trên trụ tháng, trên trụ ngày, trên trụ giờ.

Cách này rất khó nhớ, lại mau quên, dù bạn có đọc đi đọc lại nhiều lần đi nữa.

Q1-ch08-luan-10than                                                                                2   02/01/2005

2) hoặc xét trong từng lãnh vực của đời người, ví dụ hôn nhân, tài vận, quan vận

…, phối hợp nhiều thần, hình xung khắc hại, không vong, thần sát… cùng một lúc, xoáy

mạnh, tập trung vào lãnh vực nào đó khi cần luận bàn mà thôi.

Khảo hướng này cũng rất khó nhớ, tuy lý thú hơn. Cách hay nhất, và để tạo thích

thú khi học xem mệnh là kết hợp với các thí dụ minh hoạ, có bình giải.

Sách này sẽ trình bày cả hai cách, để bạn đọc dễ tra cứu tùy nhu cầu, nhưng sẽ

chú trọng đến cách thứ hai.

Chú ý :

1) Trong thuật ngữ của Tử Bình, chúng ta thường gặp 2 chữ Chính và Thiên. Cần nhớ

là :

- Chính là  quang minh chính đại ;

- Thiên là  không chính thống ;

và những chữ "Cát thần hay Thiện thần" , "Hung thần hay Ác thần" :

a) Những thần sau đây được xem là Cát Thần : Chính quan, Chính ấn, Chính tài,và Thực thần ;

Nhưng nếu tổ hợp không tốt, hoặc gặp suy, bệnh, tử, tuyệt .. thì cũng vẫn không tốt.

b) Những thần sau đây được xem là Hung Thần, hay thần phá hại : Thiên quan (Sát), Thiên ấn

(Kiêu),   Thiên tài , Tỷ kiên, Kiếp tài , và Thương quan ; Nhưng nếu tổ hợp được tốt thì có thể bổ

cứu những chỗ xấu, nên rốt cuộc vẫn là tốt.

Vậy Khái niệm tốt hay xấu theo tên các Thần như trên chỉ là cách nói thường tình và tương đối. Còn

trong Tử Bình, muốn biết một thần nào là hỷ thần hay là kỵ thần thì phải căn cứ vào tổ hợp của 4T

để xác định theo tương quan lực lượng cuả nó đối với Thân (vượng hay nhược).

2) khi nói một Thần nào trên một điạ chi cuả 4T, chúng ta nên chú trọng nhất đến Thần

tương ứng với Can Bản khí , ví dụ Dần chưá Giáp, Bính, Mậu, ta chỉ kể Thần trên Giáp

mà thôi. Bạn sẽ thấy dưới đây, khi nói thần A, thần B cùng trụ, hay Can Chi đều là thần

X ... là theo cách nhìn này.

A- Khảo hướng thứ nhất : Ta sẽ lần lượt xét sau đây 10 thần.

Vì tránh trình bày nhiều lần, nhiều nơi cùng   đề mục trong cùng 1 bộ sách, tuy rằng mỗi lần trở lại là để

nhấn mạnh một khiá cạnh khác, cho nên ở đây đã trình bày kết hợp với vòng Trường sinh, và xung hình

hại phá, do đó hơi loảng. Vậy ban đầu, bạn chỉ nên chú trọng khiá cạnh Vượng Suy, và những gì nó chỉ ra

(chủ về); còn về chi tiết, bạn nên trở lại đọc khi nghiên cứu quyển 2. Tránh làm đầu óc quá tải.

1 - Chính quan :

Là cái khắc tôi. Chính = quang minh chính đại, Quan = quản, tức là tự ràng buộc mình để làm

điều tốt.

- Chính quan lộ, nếu không có Thiên quan (sát) là thanh cao tinh tuý; nếu Thân vượng

thì rất tốt; Có sát thì hỗn tạp (chính tà lẫn lộn) nên xấu.

- Nếu Chính quan quá nhiều, tức là sự khắc chế TA quá nhiều, trói buộc TA mạnh mẽ ,

thì làm TA trở thành nhu nhược, không có năng lực;

Hơn nữa Quan nhiều là TA bị Sát, chủ về cuộc sống gia đình không đầy đủ, tiền

đồ học tập nhiều trắc trở; nếu không có   Ấn, Kiêu hoá giải nó đi hoặc cứu trợ TA thì

càng có hại (Quan sinh Ấn nên bị tiết khí, và Ấn có thể  sinh Thân) ;

Q1-ch08-luan-10than                                                                                          3   02/01/2005

- Chính quan sợ nhất gặp Thương quan                                                             : họa trăm đường bất ngờ   ập đến. Ngọai lệ :

có trường hợp Chính quan nhiều lại mừng gặp Thương quan (*) để được khắc chế bớt.

(*) Thương quan sẽ khử trừ bớt cái Quan thái quá.

xét theo vị trí + vòng TS :

Quan tinh đóng ở (**): TS, MD, QÐ, LQ, ÐV (Vượng) lại không bị hình xung không phá

: cấp quan sẽ cao, thích hợp cho những người làm công chức ;

Quan tinh đóng ở (**): SY, BH ,TU ,MO ,TT (Nhược): rất kém ; công chức không nên

gặp;

Quan tinh đóng ở (**): TH, DG (Bình): đỡ hơn ; nhưng công chức không nên gặp;

(**) ở bất cứ trụ nào, mà Can ngày phối với Chi TRỤ ấy, theo bảng TS là TS,MD,...BH,Tử ,...TH,

DG.

xét theo vị trí + theo CUNG :

Quan tinh/trụ năm:

- đựơc nhờ âm đức tổ tiên lớn,

- lúc tuổi còn nhỏ đã có ý chí, đường học hành tốt, (nghĩa là nhân tố Tiên Thiên

tốt), song phải phối hợp với các vận trình về sau, nếu vận khí không tốt thì con đường

học tập thi cử bị trắc trở , thường phải đến tuổi trung niên, thậm chí tuổi đã cao mới có

cơ hội thành đạt, đỗ đạt (Quan vận đến muộn).

Mệnh là yếu tố khách quan ; nhưng chúng ta không phủ nhận với sự cố gắng của bản thân người

ấy về sau (yếu tố khách quan) ;

- can, chi đều là chính quan, nếu không bị hợp mất, hoặc không gặp kỵ thì người

đó xuất thân trong 1 gia đình là quan chức hoặc có địa vị trong vùng ; đồng thời cũng

biểu thị chính người đó sẽ có công danh địa vị ;

Quan tinh/ trụ tháng :

- can hoặc chi có chính quan : đó là người con út được cha mẹ nuông chìu ; cuộc

đời không khó nhọc ;

- là người chính trực , có tinh thần trách nhiệm, trọng tín nghĩa, học hành   công

danh có thành tích ;

- là người có anh chị em, và họ có công danh , phúc lộc (vì trụ tháng là cung anh em).

Quan tinh/ chi ngày : thông minh, mưu lược, giỏi ứng biến ;

- nếu Thân vượng, khi gặp Tài vận thì phát đại phúc ;

- Nam : chi ngày là vợ, nên   nếu gặp hỷ quan thì tốt : vợ đoan trang hiền hậu,

nội trợ giỏi ;

- Nữ : chi ngày là chồng, nên nếu là hỷ quan thì gặp được chồng phú quý.

Quan tinh/ trụ giờ : (can giờ = con trai ; chi giờ = con gái) con cái hiếu thảo ;

bản thân cuối đời được hưởng hạnh phúc (vì trụ giờ là vận cuối đời) ;

2 - Thiên quan :

Q1-ch08-luan-10than                                                                              4                                               02/01/2005

Thường nếu trong MC có Thực thần và/hoặc Thương quan, thì Thiên quan bị chế ngự, nên gọi là Thiên

quan; nếu không có thì gọi là Thất sát. Từ nay, để tiện, trong bất cứ trường hợp nào khi gọi tắt ta sẽ

dùng chữ Sát.

Sát có chế ngự  (có Thực thần và/hoặc Thương quan ): túc trí đa mưu, có quyền uy.

Thực thần chế Sát, Thương quan   hợp Sát không nên nhiều, nhiều thì không còn

là quý mà trở thành thấp hèn; cho nên 4T có Sát thì chỉ khi Thân và Sát tương

đương nhau, Sát lại có chế  mới tốt.

Thân vượng, Sát nhược, Tài Vượng : là mệnh tốt;

Thân Nhược, Sát Vượng mà không có chế : hay ủ rũ mệt mỏi;

nếu lại gặp Tài tinh (đã yếu mà bị khắc mạnh, lại còn bị hao tổn) : nghèo đói, nhiều tai

ách; nếu trầm trọng hơn thì có thể có họa sát Thân, không gặp tai nạn thì

cũng chết yểu, hoặc cơ thể, tay chân tàn tật.

Thân Nhược, Sát Vượng : phải dựa vào Ấn Quan để hoá giải;

Thân và Sát tương đương ,

- có Ấn thì Sát Ấn tương sinh : công danh hiển đạt, sự nghiệp phát triển, văn võ

song toàn, quyền uy nổi tiếng;

- không có Ấn : là có lực mà không oai phong, nhưng trung hậu, đa tình, ít vui.

Sát (hoặc Quan) nhiều quá, Thân sẽ bị khắc nên không tốt : nhu nhược, không có năng

lực; vừa kém cỏi, vừa ít nói, lại dễ manh động.

Có Sát lại có Quan gọi là QS hỗn tạp là không nên, dễ phạm tai hoạ lao tù hoặc kiện

tụng, nghịch nhiều thuận ít; hoặc trở thành kẻ tiểu nhân;

Nam : học tập, công danh, quan chức dễ bị trở ngại ; tính tình không ổn định,

thích phong lưu ;

Nếu có Thực thần, Thương quan  hoặc chế ngự, hoặc hợp mất 1 Quan hay 1

Sát thì được cứu,  giảm bớt điều xấu, là mệnh có quyền uy :

- quan võ nên mất Quan, giữ lại Sát;

- quan văn nên mất Sát, giữ lại Quan.

Thiên quan gặp :

TS, MD, QÐ, LQ, ÐV                                                                                       : vinh hoa phú quí;

TU, Tt                                                                                                   : tiền đồ học hành trắc trở; quan lộc tổn thất;

Thiên quan / trụ năm :

                                                                                                         Thân Nhược, và Sát không có chế : xuất thân gia đình nghèo đói;

Thân vượng, và Sát có chế                                                                                : là võ chức nổi tiếng, (có thể là Tướng);

                                                                                                         Thiên quan / trụ tháng : nếu Can năm và Can giờ có Thực thần, Thương quan            (để chế

ngự) : quý mệnh.

                                                                                                         Thiên quan / chi ngày : phần nhiều có người phối ngẫu cương nghị, quật cường, tiết

tháo; tính nóng;

                                                                                                         - nếu không có Thực thần (để chế ngự) thì vợ chồng không hoà thuận;

Q1-ch08-luan-10than                                                                                      5                                                                                    02/01/2005

- nếu có Thực thần (để chế ngự)   hoặc được Thương quan hợp (để hoá khác đi)

thì có sự hoá giải.

- nếu gặp xung : thường gặp tai họa, hoặc bệnh tật.

Thiên quan / trụ giờ :

- nếu là kỵ thần, phần nhiều con cái không hiền thảo;

nhưng nếu 4T có chế thì lại sinh được quý tử;

- nếu Can giờ là Sát, Thân vượng, có Tài tinh, Ấn tinh không bị xung : là mệnh

đại phú quý; phần nhiều là quan cấp Tướng trấn ải biên cương, hoặc người uy

danh nổi tiếng khắp xa gần.

Can Chi đều Thất sát : mọi việc không thuận, tiến thì tổn thất, thoái thì bất hoà. Nam dễ

vì con mà vất vả; Nữ vì chồng mà chiụ khổ;

Thất sát, khôi canh, Kình dương đều có : là quân nhân , hay cảnh sát; và dễ lập công.

Mệnh nữ với Thiên quan :

4T nhiều Thiên quan, không có chế : dễ bị hiếp dâm; hoặc ý chí không kiên định; tính

tình hay thay đổi;

Can chi đều có Thiên quan, 4T lại có Chính quan : mệnh tái giá;

Chính quan và Thiên quan cùng trụ, 4T lại có Tỷ kiếp : chị em tranh một chồng;

QS hỗn tạp ,

- không có Thực Thương chế : làm ca kỹ hay vợ lẽ;

- có Thực Thương chế                                                                        : làm vợ chính;

                                                                                            - 4T có Can hợp hay Chi hợp : làm vợ lẽ, hoặc có 2 chồng;

4T có 5 Thất sát                                                                            : mệnh ca kỹ;

Thiên quan đóng ở :

TS, QÐ, LQ, ÐV                                                                              : chồng vinh hiển;

TU, MO, TT                                                                                  : hôn nhân gãy đỗ;

MD                                                                                          : chồng thích phong lưu;

Thiên quan đóng ở đào hoa : bạc mệnh;

Thiên quan gặp KV không có giải cứu : hôn nhân gãy đỗ;

Thiên quan ở điạ chi gặp hình : vợ chồng bất hoà;

Chỉ có 1 Thiên quan, 4T lại có Thực thần, Kình dương chế phục nó : đoạt quyền chồng;

Trụ giờ có Thất sát, ngày có Kình dương : khắc chồng, hoặc làm kỹ nữ; có chế thì

không sao.

Thiên quan cách : Tuế vận gặp Chính quan thì dễ mất trinh.

4T chỉ có 1 Thất sát và 1 Chính ấn                                                          (Sát -Ấn tương sinh): mệnh tốt.

TN, Thiên quan Vượng : mệnh cô độc;

3- Chính Ấn :

Ấn có nghiã là :

- con dấu, đại biểu cho quyền lợi, địa vị, sự nghiệp, học vị, v..v..;

- sao chỉ học thuật;

- nguồn khí cuả Thân, sinh ra Thân, phù trợ Thân.

Q1-ch08-luan-10than                                                                         6                                                           02/01/2005

Thân Nhược, QS Vượng thì mừng gặp được Chính Ấn, để rút khí cuả Quan, sinh phù cho

Thân Nhược;

Nhưng nếu Thân vượng, Ấn nhiều, lại không bị chế, là Vượng đạt đến cực đỉnh, thì đó

lại là mệnh cô hàn, hình khắc;

Chính ấn quá Vượng : là người biển lận, ít con cái (vì Ấn khắc Thương Thực - là con

cái); có gặp Tài tinh (để bị khắc chế bớt) mới có con.

Chính ấn lâm (đóng ở) :

TS                                                                                        : mẹ đoan chính, nhân từ, trường thọ;

MD                                                                                        : nghề nghiệp có nhiều biến đổi;

QÐ                                                                                        : xuất thân ở gia đình danh tiếng; cuộc đời hiển đạt;

LQ                                                                                        : có cuộc sống yên ổn (vì LQ là Lộc); có mẹ hiền;

ÐV                                                                                        : có thể làm quan đứng đầu 1 vùng (vì Ấn tượng trưng cho quyền lực, mà lại Ðế

vượng);

SY                                                                                        : có cuộc đời bình thường, gia phong nề nếp.

BH,TU,MO,TT : tình mẹ lạt lẽo; hoặc xuất thân ở gia đình tầm thường.

Chính ấn / trụ năm: nếu là hỷ ấn,   người đó sinh trong gia đình phú quý, tiền đồ học

hành tốt.

Chính ấn / trụ tháng : nhân từ, hiền hậu, thông minh, khoẻ mạnh, cuộc đời ít bệnh, an

toàn;

- nếu trong 4T có Quan, Sát có thể sinh Ấn : là người phúc hậu;

- nếu trong 4T không có Thiên tài (thì Ấn không bị khắc) : có khoa bảng;

- chi tháng có Chính ấn, nhưng xung chi ngày : gia đình cha mẹ sa cơ, suy bại,

lưu lạc xa quê.

Chính ấn / chi ngày : người phối ngẫu nhân từ, hiền hậu, thông minh; nếu là hỷ ấn thì

được người phối ngẫu trợ giúp đắc lực.

Chính ấn / trụ giờ : nếu là hỷ ấn thì con cái nhân từ, thông minh, hiếu thảo.

Thiên can thấu Ấn và Điạ chi tàng Sát : là người có bộ mặt hiền từ nhưng lòng dạ rất ác

độc.

4- Thiên ấn :

4T không có Thực thì gọi Thiên Ấn hay Ðảo Thực; Có Thực thì gọi là Kiêu (đoạt Thực);

Thân Nhược thì được nó phù trợ cho; nhưng nếu gặp Thực thần là mệnh lao dịch, vất

vả (nói nôm na Thực là cái ăn cái mặc; bị đoạt mất nên vất vả khó khăn);

Thân vượng cần có Thực để làm tiết khí bớt; nếu   trong mệnh gặp cả Kiêu và Thương

cũng không sao;

có cả Tài Quan                                                                            : phú quý;

có QS hỗn tạp                                                                             : thắng lợi nhiều, nhưng thất bại cũng lắm.

Q1-ch08-luan-10than                                                                       7                                                                               02/01/2005

Thiên Ấn quá nhiều mà không được giải (tức không có Thiên tài) thì đó là người phúc

bạc, bất hạnh, tật bệnh; hoặc con cái khó khăn (vì Ấn khắc Thương Thực - là con cái -

con cái không ra gì nên bất hạnh, vô phước).

Có cả Chính Ấn và Thiên Ấn : là người có nhiều nghề (Ấn là mẹ nuôi sống mình, cũng tức là

nghề nghiệp nuôi sống mình, có cả hai là có nhiều nghề - chính/phụ);

Thiên Ấn lâm :

TS  : ít gắn bó với mẹ đẻ (vì Chính ấn mới là mẹ đẻ, trong khi đó Thiên ấn lại vượng);

QÐ, LQ , ÐV : ít gắn bó với mẹ đẻ; dễ thành đạt trong nghề phụ;

MD : nhiều nghề;

SY, BH, TU, TT : tha phương cầu thực, ít gắn bó với cha mẹ;

MO : làm việc có đầu không có đuôi;

Thai : mới ra đời đã xa mẹ.

Thiên ấn ở :

Trụ năm: khi là kỵ thần thì phá bại tổ nghiệp, làm mất thanh danh gia đình;

không có gia giáo;

Trụ tháng : thích hợp với phát triển nghề phụ, nghề tự do, dịch vụ, nghệ thuật,

diễn xuất;

Trên trụ tháng có cả Thiên Đức, Nguyệt Đức : mệnh tốt, tính nết ôn hoà.

Trụ ngày : nếu là kỵ thần thì hôn nhân không tốt, không lấy được vợ/chồng tốt

(vì kỵ thần lại đóng ở cung hôn nhân).

Trụ giờ : nếu là kỵ thần thì không lợi cho con cái, con khó thành tài, khó nuôi dạy

(vì trụ giờ là cung con cái, mà kỵ thần lại đóng ở đó - Ấn khắc thương thực - tức tử tôn).

5- Tỷ kiên (Tỷ) : có sách dịch là ngang vai, tôi nghĩ các thần khác đều gọi theo tên hán việt, bổng

không rơi vào chữ toàn Việt "ngang vai" thì thật kỳ cục, lại khó cho việc gọi tắt (Tỷ), nên chúng ta chỉ

dùng từ Tỷ kiên !

Tỷ kiên giúp đỡ Thân khi trụ ngày suy nhược;

Thân Nhược mà gặp Tỷ kiên thì rất tốt (vì được trợ giúp); nếu Tài Quan nhiều, nhờ nó giúp

Thân để khỏi mất của;

Thân vượng, có Tỷ kiên là đã vượng còn được phù trợ nên xấu : mừng gặp Quan Sát, Thực

Thương, Tài tinh để làm giảm bớt, hao tán, tiết khí Thân Vượng;

Nếu Không có Quan tinh : ít con.

Tỷ kiên lâm Vượng địa (TS, MD, QÐ, LQ, ÐV):

- anh chị em nhiều, hiếu thắng;

- không lợi cho hôn nhân;

- không lợi cho cha;

Tỷ kiên lâm :

TU, MO,TT : tuy có anh em, nhưng sớm sống xa nhau;

Q1-ch08-luan-10than                                                                                        8   02/01/2005

Tỷ kiên khắc Tài tinh (Tài là tiền bạc, là vợ - đối với nam, và Thiên tài là cha) , nên khi Tỷ kiên

nhiều mà không có chế ngự (tức không có Quan Sát, Tài) thì :

- Tay chân, cấp dưới cạnh tranh nhau; bạn bè bất hoà;

- Vợ chồng không hoà thuận (khắc), hoặc kết hôn muộn;

- Tính tình thô bạo; không hoà hợp với cộng đồng; cứng nhắc, cố chấp; nhiều đố

kỵ.

- Khắc cha;

- Làm nhiều mà không được của.

Tỷ kiên ở                                                                                                    :

Trụ năm :   Có anh chị em hoặc là con nuôi;

Có xu hướng sống độc lập;

Nhà nghèo, vất vả từ bé.

Trụ tháng :   Có anh chị em hoặc là con nuôi;

Có xu hướng sống độc lập;

Muốn nắm của cải, hoặc có tính lý tài;

Chi ngày :      hôn nhân dễ thay đổi; muộn, hoặc tái hôn; khắc chồng hay vợ; hay

cải nhau;

gặp xung thì không lợi cho người phối ngẫu; không lợi cho đi xa ,

dễ chết nơi đất khách.

(nên nhớ là chi ngày là cung hôn nhân, mà tỷ kiên là thần khắc hôn nhân lại đóng ở đó nên

hôn nhân bất lợi).

Trụ giờ :                                                                                                    là con nuôi; hay ít con cái.

6- Vượng Suy của Kiếp tài :

Tài là của cải, là vợ (đối với nam), thiên tài còn là cha; vì tiền mà con người phải bôn ba nên Tài là Mã;

Kiếp tài là khắc Tài, là đuổi mất mã thần hoặc bại tài, gọi tắt là kiếp.

Kiếp tài Vượng hay Suy chủ về các việc cũng giống như Vượng Suy của Tỷ (xem (5)).

4T kiếp tài quá nhiều :

vợ chồng xung đột; hôn nhân có biến;

anh em không hoà thuận, phản bội, nói xấu nhau;

nếu là kỵ thần : tính tình sống sượng, ngoan cố, không phân biệt phải trái,

thường chuốc lấy sự căm ghét, đối địch, báo oán;

Nam  : khắc vợ, cướp tài của vợ, đoạt vợ người, vợ nhiều bệnh;

Nữ                                                                                                           : mất chồng, tranh chồng, hoặc hao tổn tài, khó có của;

Can chi đều là tỷ kiếp : khắc cha, khắc hôn phối;

Kiếp tài và Thiên tài cùng trụ : không lợi cho cha, tái hôn;

nếu Thương quan là kỵ thần và Kiếp tài cùng trụ : ngạo mạn, thích cờ bạc;

Trong mệnh, hỷ tài nếu bị kiếp tài là bại tài, tổn thất vợ, đói khó;

Q1-ch08-luan-10than                                                                                          9                                                         02/01/2005

hỷ kiếp nếu có Quan là bị phá : con cái phần nhiều ngỗ ngược, hoặc con cái dễ

gặp tai ách (vì Kiếp sinh Thương Thực - là con cái - mà lại bị Quan phá);

Kiếp / trụ năm: có anh em trai; hoặc có anh em cùng cha khác mẹ;

Thích lý tài, trọng nghiã khí,

Hôn nhân hay thay đổi.

Kiếp / trụ tháng : khó có của, ham đánh bạc, đầu cơ

Tính tự trọng cao;

Ưa chưng diện;

Hay bất bình, hay mắng người.

Kiếp / chi ngày : hôn nhân muộn, hay thay đổi, hoặc tái hôn;

nam : đoạt thê tài.

Kiếp / trụ giờ : đường con cái khó khăn (trụ giờ là cung con cái, mà bị kiếp);

Có Thương quan cùng trụ : tổn hại con cái.

7- Vượng Suy của Thương quan  :

Thương quan rút  khí cuả Thân.

Có sách cho rằng :

- đối với Nữ  Thương quan là sao con cái;

Can ngày + : con gái

Can ngày âm  : con trai

- đối với Nam Thương quan làm : khắc con, giáng chức mất chức, bị đuổi học, bỏ

học, thi rớt , vì    Thương quan  khắc Quan (quan vận, khoa cử).

Nếu là hỷ thần hay Thương quan  cách :

- hiếu thắng, thích biện bác;

- dễ dãi trong tình yêu (yêu dễ, bỏ dễ); làm việc theo cảm tính (thiếu cân

nhắc).

- thông minh tuấn tú; có tài nghệ;

Có Thương quan mà không có Tài tinh : tuy có trí tuệ nhưng phú quý không bền;

Thương quan  đóng ở KÌNH DƯƠNG (đế vượng) : mệnh nô tỳ;

Thương quan  đóng ở Tử : hay đố kỵ;

Nếu Tháng và/hoặc giờ có Thương quan , 4T  không có Quan nhưng có Sát (thì nó hợp với

Sát : hợp thì Thương quan   bị mất đi - bị tận- nghĩa là mất, hết), có hợp và không có hình xung

phá hại thì gọi là Thương quan   thương tận; đây là một khái niệm rất quan trọng trong

Tử Bình :

- Thương quan thương tận và Thân vượng, Tài V, Ấn V : là mệnh đại phú quý;

- Thương quan thương tận  mà không có Tài tinh thì lại bần cùng;

4T nhiều Thương quan  thì khắc con cái (thái quá thì xấu);

- tuế vận gặp Thương quan  : cực kỳ xấu, có thể bị tai ách, hay chết;

- tuế vận gặp Ấn : Ấn khắc chế Thương quan  nên là vận tốt.

Q1-ch08-luan-10than                                                                                10   02/01/2005

Thương quan ở :

- trụ năm : làm hại tổ nghiệp;

can chi đều là Thương quan  : yểu ; hoặc phú không bền;

tuế vận gặp Thương quan                                                                : có thể bị thương ở mặt (có sẹo);

- trụ tháng :

anh em xa cách, không hợp;

không kính trọng cha mẹ;

can chi đều là Thương quan  : anh em xa cách; vợ chồng xa cách.

- trụ ngày :

Nam : thương tổn con;

Nữ                                                                                     : khắc chồng, hay bắt nạt chồng (vì chi ngày là Cung chồng, nghiã là Quan,

mà Thương quan  là "làm thương tổn" Quan, tức chồng);

- trụ giờ :

Con không có hiếu; con cái gái nhiều trai ít;

Về già sống cô độc;

Trụ năm và trụ giờ đều có Thương quan  : khắc con;

Chi ngày là Thương quan, và trụ giờ có Tài tinh : vinh hiển từ bé;

Nếu Thương quan là kỵ thần đóng ở trụ nào, thì thường là cung liên hệ không tốt; nếu

là hỷ thần thì không sao.

Thân vượng:

nhiều Thương quan                                                                      : thành công trong tôn giáo, nghệ thuật, nhất là về biểu

diễn; và các nghề phụ;

Thương quan   gặp Tài tinh thì phát phúc, hiển vinh; không có Tài tinh thì nghèo

khó.

Thân Nhược :

Thương quan gặp Sát  (thì hợp Sát) : thường gặp tai ách, sóng gió.

Vì Thương quan   có nghiã là làm thương tổn cho Quan, mà đối với mệnh nữ, Quan là

chồng, nên ở đây ta đặc biệt xét riêng nó cho mệnh Nữ , nó có nghiã xấu :

- Thương quan  Vượng : khắc chồng; nếu có Tài tinh thì không sao (vì Thương quan

sinh Tài, Tài sinh Quan, tức là lợi cho chồng);

nếu trong 4T có Chính tài, Chính ấn thì ngược lại là mệnh tốt (vì Ấn khắc Thương

quan, và Tài làm hao tổn Thương quan, nên nó không tác hại nữa / đây là Thương quan

thương tận);

nếu không có cả hai : nghèo khó, khắc chồng, hôn nhân tan vỡ;

nếu Thiên ấn nhiều  : thích trêu chọc, châm biếm người khác;

- chi  ngày là Thương quan                                                             : đanh đá ; hay chửi chồng;

và nếu lại là Kình dương : chồng dễ bị tai nạn, hoặc ác tử;

- có Thương quan, không có Quan tinh : khi chồng chết thì thủ tiết (không có

Quan là không có chồng);

Q1-ch08-luan-10than                                                                    11                                                                           02/01/2005

- Thân vượng, có Thương quan  lẫn Kiếp tài : mệnh nghèo;

- Thương quan  và Thiên ấn cùng trụ : phá hại chồng, con;

- Thương quan  gặp Quan : khắc chồng, hay có chồng mà còn có nhân tình;

- 4T có Thương quan, Thực thần, và Chính quan (chính tà hỗn độn) : hay đố kỵ;

tình ái lăng nhăng;

- gặp lưu niên Thương quan                                                                      : sinh đẻ bất lợi (vậy phải coi chừng lúc muốn có thai,

phải canh tính năm lúc đẻ đừng gặp Thương quan);

- Thương quan  đóng ở Thiên đức, Nguyệt đức : con cái hiếu thảo;

- Thương quan  đóng ở Thiên ất quí nhân                                                         : con cái phú quý;

- Thương quan gặp Không vong : ưa tranh cải; hôn nhân có biến;

8- Vượng Suy của Thực thần (còn gọi là Thực / Tước tinh / Thọ tinh) :

nó rút khí Thân, sinh Tài, áp chế Quan Sát;

Can  Chính quan, chi Thực thần : phú quí;

Can chi đều Thực thần : phúc lộc dồi dào, nhưng không thích hợp cho người công chức,

mà chỉ thích hợp với những người làm việc công cộng;

Nữ có Thực thần : hay khinh rẽ chồng;

Thực nhiều là Thương (nôm na là thương tổn) : dễ thương tổn con cái, khắc chồng.

4T nhiều Thực thần : nghèo khó, thân thể yếu (thực là ăn, ăn nhiều nên nghèo, và bệnh vì ăn),

Nữ  thì sa cơ , phong trần;

nếu có Thiên ấn thì không sao (vì kiêu đoạt thực) ;

Thực nhiều, Thiên quan ít : không có con ;

Thực và Sát cùng trụ                                                                            : có dịp nắm quyền bính, nhưng dễ bị vất vả, lao khổ, tai ách,

và ít con ;

Can thực thần, Chi Tỷ kiên : là người có thân thích, bạn hữu, hoặc tay chân giúp đỡ.

Can thực thần, Chi Kiếp tài : phúc đức, giàu có ; khi gặp điều xấu lại có lợi ;

4T có thực thần, kiếp tài, Thiên ấn : yểu ; có Tài nhiều : ít diễm phúc ;

Thực thần lâm :

- vượng địa (TS, QÐ, LQ, ÐV), hoặc cát thần : phúc lộc nhiều ; phần nhiều là

phúc lộc thọ toàn diện ;

- Tử tuyệt, bệnh, MD : phúc ít, bạc mệnh ;

- Mộ : yểu.

Thực thần trên trụ :

Năm  : được âm phúc tổ tiên, sự nghiệp phát triển, cuộc sống yên ổn, phúc lộc.

Tháng : nếu Can là Thực, Chi là Quan : phát đạt, nếu là công chức thì càng tốt ;

nếu Chi tháng cũng là Thực : người béo khoẻ, ôn hoà ;

Ngày chi : người phối ngẫu to béo , tính nết ôn hoà ; cuộc sống no đủ ;

Q1-ch08-luan-10than                                                                             12                                                               02/01/2005

Giờ                                                                                                   : cuối đời có phúc;

nếu có Thiên ấn cùng trụ : cô đơn, phòng không chiếc bóng.

9- Vượng Suy của Chính tài :

gọi tắt là Tài ;Tài (bất luận Chính hay Thiên) là nguồn nuôi sống mệnh; Tài là sao

làm cho mình hao tổn (ai cũng lao tâm lao lực vì nó !) ;

Người dù Tài Vượng hay Tài Suy đều ưa nhàn, không thích lao động ; muốn của   nhiều

nhưng làm ít ; phần nhiều không ham học.

Tài nhiều mà không thuần khiết : không lợi cho đường học tập, người dốt  nát.

4T nhiều Chính tài                                                                                    : tình phá tài (nhiều vợ thì hao tài) ; không lợi cho mẹ, vì Tài khắc Ấn ;

Tài nhiều sợ Thân Nhược, dễ bị tai hoạ (vì sức yếu, không gánh nổi Tài) ;

Thân vượng, có Tài thì có thể   thắng được Tài ; nhưng Thân vượng lại sợ trong mệnh

không có Tài ;

Chỉ có Thân, Tài cân bằng mệnh mới tốt ;

Thân vượng, có Chính Tài, lại gặp Thực thần : được vợ hiền trợ giúp ;

Tài Vượng lâm Vượng điạ :

Thân vượng : giàu to;

nếu có cả Chính quan : phú quý song toàn ;

nam  : được vợ hiền, nội trợ tốt ;

Thân Nhược : không nghèo cũng gặp tai nạn; cầu tài cũng khó khăn ;

nam                                                                                                   : trong nhà vợ nắm quyền (gà mái gáy );

Chính Tài lâm Suy địa : của ít ;

Tài ẩn trong Ðịa chi : Tài phong phú (có của để dành);

Tài lộ trên can                                                                                       : khẳng khái nhưng không có của (vì hào phóng nên phung phí tiền);

Tài có kho / mộ (Thìn tuất sửu mùi tùy Can, ví dụ nếu Ất mộc là Tài thì mùi là Tài kho), khi mộ gặp

xung, cửa kho sẽ được khai mở nên sẽ phát tài (tiền của tự nhiên rót vào) ;

nam                                                                                                   : giàu nhưng tính keo kiệt.

                                                                                                      Có cả Chính Tài và Kiếp tài : trong cuộc đời dễ gặp phải tiểu nhân nên bị tổn thất tiền

bạc;

                                                                                                      Chính Tài gặp Vượng Quan, Vượng Sát : vợ hay lấn át chồng ;

Chính Tài / trụ năm                                                                                   : nếu Thân vượng là ông cha giàu có ;

                                                                                                      nếu thêm Quan / can tháng : xuất thân trong gia đình phú  quý.

                                                                                                      Chính Tài / trụ tháng : là người cần cù, tiết kiệm, cha mẹ giàu , được nhờ cha mẹ.

Q1-ch08-luan-10than                                                                                   13                                                                                        02/01/2005

Chính Tài / chi ngày : nam được vợ giúp thành giàu ; giàu lên nhờ vợ; (vậy khuyên người

này nên ổn định gia thất trước khi nghĩ đến làm giàu);

nếu gặp hình xung khắc hại : vợ chồng bất hoà.

Chính Tài / trụ giờ : con cái giàu có.

10- Vượng Suy của Thiên tài :

Cũng gọi tắt là Tài ;

Chỉ cha hoặc vợ lẻ, hoặc nguồn của cải bằng nghề phụ.

Người Thân Vượng, Tài Vượng, Quan Vượng : danh lợi đều có, phú quý song toàn ;

Thân vượng, có Thiên tài, không  có Tỷ kiếp, và/hoặc hình xung : vừa giàu vưà thọ ;

Thiên tài trên can kỵ nhất  có Tỷ kiếp : vừa khắc cha, vừa làm tổn hại vợ ;

Can, chi đều có Thiên tài : là người xa quê, tay không lập nghiệp trở nên giàu có, tình

duyên tốt đẹp (vậy nên khuyên người đó nên mạnh dạn ly hương lập nghiệp nếu có cơ hội).

Nữ Thân Nhược, kỵ gặp Tài (nhiều, V) : phần nhiều gây phiền phức, liên luỵ đến cha

đẻ.

Thiên tài  lâm :

Vượng địa (TS, QÐ, LQ, ÐV) :   hoà thuận với cha, với thê thiếp; được của nhờ

cha, nhờ vợ ; cha và vợ đều thọ, vinh hiển ;

MD : háo sắc phong lưu ;

Mộ : cha hoặc vợ chết sớm ;

Tử, Tuyệt, hình xung : cha hoặc vợ suy khốn, thậm chí gặp nạn ;

Thiên tài                                                                                   / can năm : là người xa quê, đời lận đận ;

                                                                                            nếu có Tỷ kiếp / chi năm :  cha rời xa quê hương, chết nơi đất khách ;

Thiên tài                                                                                   / can năm  và chi năm : tuổi trẻ đã làm con nuôi ;

Thiên tài                                                                                   / can năm   và can   tháng : cha nắm quyền trong nhà ; hoặc mình   từ bé đã

làm con nuôi ;

Thiên tài                                                                                   / trụ tháng

nếu có  Tỷ kiếp / trụ giờ : trước giàu , sau nghèo (gọi là Tài trước Tỷ sau) ;

Thiên tài / chi ngày : (Nam) vợ lẻ cướp quyền vợ cả ; thiên vị vợ lẻ ;

nếu toạ sao Tướng : lấy được vợ con nhà cao quý ;

Thiên tài / trụ ngày và   trụ giờ, và năm tháng không có Thiên tài, không   bị hình xung,

tỷ kiếp : trung  niên trở đi mới phát đạt ;

Thiên tài                                                                                   / can giờ và Tỷ kiếp / chi giờ : thương tổn vợ, tài sản bị phá tán ; nếu gặp

                                                                                            Thực thần, Thương quan thì không sao.

                                                                                            B- Khảo hướng thứ hai : xét theo từng lãnh vực cuả đời thường, như :

-                                                                                           tổ nghiệp, cha mẹ, anh em, vợ/chồng, con cái;

Q1-ch08-luan-10than                                                                         14                                                                             02/01/2005

-                                                                                   quan vận, tài vận, hôn nhân, tai hoạ v..v…; có tổng hợp với các Thần, Sát, và

vòng Trường sinh, tức là một cách toàn diện, theo các vận trình của đời

người.

Ðể tránh lặp lại, và sau khi bạn đã nắm vững những phần cơ bản trong quyển 1 này,

mời bạn xem tiếp khảo hướng tổng hợp trong quyển 2.

Q1-ch08-luan-10than                                                                 15                                                                              02/01/2005

Chương 9

NGUYÊN CỤC NGŨ HÀNH,

THỂ TÍNH và CÁCH CỤC CỦA TỨ TRỤ

Nguyên cục ngũ hành

thể tính

cách cục

chính cách

thành bại của chính cách

thành công

bị phá hoại

thái quá

bất cập

ngoại cách

Khoa Tử Bình xây dựng hệ thống của nó trên ngũ hành sinh khắc, qua Can-Chi Tứ trụ ,

nhưng trung tâm của nó là Can ngày và Lệnh tháng.

Về ngũ hành, trong 4t, chúng ta có khái niệm « nguyên cục ngũ hành » có những ứng

dụng khá quan trọng.

NGUYÊN CỤC NGŨ HÀNH CUẢ TỨ TRỤ

1) Ðịnh nghiã : nguyên cục ngũ hành hay toàn cục ngũ hành là tổng số khí 5 hành của

tứ trụ.

2) Cách tính : lấy 1 tứ trụ điển hình (8/6/2003 DL)

                                                                                      Quý mùi                                      Mậu ngọ                                                                                         ngày Nhâm Tý                 Giáp Thìn

                                                                                      Can : qui ra ngũ hành.

CAN                                                                                                            quý                           mậu                                                                                   nhâm           giáp

hành                                                                                                           mộc                           thổ                                                                                   thuỷ           mộc

đếm                                                                                                            1                             1                                                                                     1              1

                                                                                                                                             Chi : phải liệt kê các can tàng độn trong từng điạ chi, rồI qui chúng  ra ngũ hành.

                                                                                      năm                                          tháng                                                                                           ngày           giờ

CHI                                                                                   mùi                                          ngọ                                                                                             tý             thìn

Can                                                                                   kỷ                       ất           đinh   đinh      kỷ                                                                                    quý            mậu    quý    ất

tàng

hành                                                                                  thổ                      mộc          hoả    hoả       thổ                                                                                   thuỷ           thổ    thuỷ   mộc

đếm                                                                                   1                        1            1      1         1                                                                                     1              1      1      1

                                                                                                                                             Cộng số của từng hành ta có nguyên cục ngũ hành của tứ trụ này như sau :

kim                                                                                                                         mộc              thuỷ                                                                                  hoả            thổ

0                                                                                                              4                             3                                                                                     2              4

Q1-ch9-tim-Cachcuc                                                                    1                        02/01/2005

3) Ứng dụng : từ nguyên cục ngũ hành cuả tứ trụ người ta có thể suy ra tính tình và

bệnh tật của người ấy , nhất là một hành nào đó nhiều hay ít, mà có cùng hành với  hay

sinh, khắc hành CAN NGÀY.

Chúng ta thường nghe nói, hay đọc thấy : hoả nhiều thì …, mộc ít thì …., nhưng chỉ qua

nguyên cục ngũ hành ta mới biết được hành nào nhiều, ít, hay thiếu khuyết, và nên chú

trọng đến những cas thiếu khuyết, hay quá nhiều, hay quá ít vì đó là những dấu chỉ cuả

mệnh "có vấn đề ".

Rồi kết hợp với Thể tính (dưới đây), hay với các phương pháp xác định vượng suy,

cường nhược cuả các can như ta đã biết (dùng thời lệnh, hay bảng TS), thì ta sẽ thấy

ngay các mặt tính tình hay bệnh tật của một người.

(xin xem quyển 2, chương 12 « Bệnh , hoạ » và chương 13 « Tính cách »).

Trong ví dụ trên, người này thiếu hẳn hành kim, còn hành hoả hơi ít nhưng được cái là

sinh mùa hè nên hoả vượng. Thiếu hành Kim thì tính tình không nghiã khí (không hào

hiệp); ưa màu trắng (để bổ sung cái thiếu); về sức khoẻ thì dễ bị bệnh về phổI hay ruột

già.

Còn về tương quan giữa Can ngày và Lệnh tháng, nó cho ta nhiều tổ hợp có ứng

dụng khác nhau, trong đó có Thể tính của MC, và cách cục. Ở chương này, chúng ta

nghiên cứu sâu 2 cơ sở này; từ mỗi cái đều có thể ứng dụng để tìm Dụng thần, hay

ngay cả luận đoán mệnh khái quát.

THỂ TÍNH

Ðịnh nghiã : Thể tính, hay Thể, là bản thể ngũ hành của Can ngày sinh, phối hợp với

thời lệnh của tháng sinh (tức là muà). NgườI ta gọI tên thể tính = Muà + hành Can

NGÀY, ví dụ Thu-mộc, đông-hoả …

Thể tính giúp ta nắm bắt được nhanh chóng khái quát là Thân Vượng hay Thân Nhược

(dĩ nhiên không hoàn chỉnh).

Thí dụ : sinh ngày Giáp thân, tháng 8 (dậu). Giáp thuộc mộc; tháng 8 thời lệnh là muà

thu, vậy Thể là Thu Mộc. Muà thu Kim được lệnh nên vượng ; Giáp mộc bị Kim khắc thì

suy nên Thân nhược.

Phối thời lệnh và ngũ hành của can ngày, ta có bảng sau đây :

Mùa >                                                                                         Xuân                 Hạ                          Thu                        Ðông

Tháng                                                                                     >   Dần  Mão  Thìn            Tị    Ngọ    Mùi             Thân  Dậu Tuất              Hợi    Tý    Sửu

Can ngày    v                                                                             1   2                3   4    5                  6   7     8                9   10     11                 12

Giáp Ất                                                                                       Xuân mộc                  Hạ mộc                       Thu mộc                     Ðông mộc

Bính Ðinh                                                                                     Xuân hỏa                  Hạ hỏa                       Thu hỏa                     Ðông hỏa

Mậu Kỷ                                                                                        Xuân Thổ                  Hạ Thổ                       Thu Thổ                     Ðông Thổ

Q1-ch9-tim-Cachcuc                                                                                                      2                                                                           02/01/2005

Canh Tân                                                                                  Xuân Kim    Hạ Kim       Thu Kim    Ðông Kim

Nhâm Quý                                                                                  Xuân Thuỷ   Hạ Thuỷ      Thu Thuỷ   Ðông Thuỷ

Ứng dụng của Thể tính quan trọng nhất vẫn là để xác định VS của Can ngày, và từ đó

tìm DT (xem §1).

Các muà Xuân , Thu thì khí hậu dễ chịu, nên không cần điều hầu (*), còn Hạ và Đông

thì nóng và lạnh gay gắt, nên phải điều hầu ; đặc biệt Hạ-hoả, Đông-thuỷ cực nhiệt và

cực hàn ; bạn thấy ngay :

- người hoả quá vượng thì tính tình nóng nảy ; và dễ bị bệnh tim mạch, huyết

áp ; hay đau mắt.

- người thuỷ quá vượng thì tính tình thâm hiểm ; và dễ bị bệnh thận ; ...

- xuân mộc hay thu kim thì hành tương ứng cũng rất vượng, nhưng không gay

gắt bằng.

- tương tự , ta cũng có thể hình dung VS cuả Can Ngày qua các Thể tính khác.

(*) khái niệm này sẽ có mục chuyên đề.

Đến đây, khi đã hiểu nguyên cục ngũ hành, và Thể tính cuả mệnh, có lẽ bạn đã lĩnh hội

được ý nghiã cuả các câu : hành x nhiều thi ...., thái quá thì ...

(Bạn có thể nhảy qua đọc ngay chương 16 để tư tưởng được liên tục cho 2 mục/khái

niệm này).

CÁCH CỤC

I - Ðịnh nghiã :

Có người hỏi móc : Tứ trụ gồm 8 chữ, tổ hợp có khoảng 500.000 trường hợp, làm sao có

thể dùng để dự đoán cho hàng tỷ người ? Xin thưa khoa thống kê và thăm dò dư luận

chỉ cần một mẩu dân số (échantillon) nhỏ cũng đủ đưa ra những kết luận chính xác.

Và 500.000 trường hợp ấy đã là một "dân số" quá lớn nên phải qui gộp lại thành những

thể loại có cùng tính chất như nhau, trong khoa Tứ trụ gọi là cách cục (cách của Mệnh

cục), còn gọi tắt là CÁCH : Có những cách cục như sau :

- TA được sinh trợ;

- TA bị áp chế (khắc);

- TA bị hao tổn;

- TA bị tiết khí;

(nhắc lại : TA là Can ngày, còn gọi là Thân, hay mệnh chủ, hay  nhật nguyên)

đó là những cách chính thức (gọi là chính cách), dễ thấy, chiếm đại đa số các mệnh; còn

có những ngoại lệ như trường hợp TA quá mạnh, hay quá yếu … một cách rất khách

quan, gọi là ngoại cách thì hiếm hơn nhưng đòi hỏi chúng ta một sự chú tâm đặc biệt, ta

sẽ xét chi tiết sau .

Q1-ch9-tim-Cachcuc                                                                        3           02/01/2005

Để phán đoán nó thành hay bại, thái quá hay bất cập, trước hết ta phải xác định được

là TA thế nào cái đã, cụ thể là Vượng hay Suy, mạnh hay yếu. Vì chỉ biết được như thế,

ta mới có thể so sánh lực lượng giữa TA và các đối tác, ở đây tức là các Can Chi khác.

Ta mạnh thì cần tiết chế bớt;

Ta yếu thì cần được phù trợ;

Ta mạnh mà còn được trợ giúp thêm là làm hại ta;

Ta yếu mà còn bị khắc chế, hay tổn hao, tiết khí thêm là làm hại ta;

Kẻ làm hại ta mà  bị khắc chế thì ta được cứu, được lợi;

Kẻ giúp đỡ ta mà  bị khắc chế thì ta sẽ bất lợi;

chỉ có TA quân bình mới là tốt nhất;

Và đó cũng là ý nghiã sâu xa của Dụng thần, cái làm cho Mệnh cục được quân bình.

Từ cách cục mà ta định được Dụng thần : (chi tháng + can ngày => cách cục => Dụng thần)

Đó cũng là ý nghiã của thuyết Trung Dung của Khổng giáo, đã được vận dụng vào mệnh

lý học. Trong trường chính trị, quan trường, thương trường, hay quân sự, ngoại giao,

cũng đều như thế.

Học một mà suy nghiệm biết nhiều không phải lý thú lắm sao ? Cách lý luận trong mệnh

lý học chỉ có thế, có gì là mê tín dị đoan đâu ?!

Chúng ta sẽ lần lượt xét :

Chính cách

Ngoại cách.

I- CHÍNH CÁCH

Cách xác định :

Nói chung, phái chú trọng cách cục trong mệnh lý nhấn mạnh vai trò cực kỳ quan trọng

của Lệnh tháng trên Thân (can ngày).

(xem bảng Ðiạ chi tàng Can)

Ta đã biết mỗi điạ chi có tàng chứa từ 1 đến 3 can , gọi là chánh khí (hay bản khí),

trung khí và dư khí sắp theo thứ tự từ trái sang phải. Vì căn cứ trên Chi Tháng nên ta ở đây

chỉ xét các CAN TÀNG cuả nó .

Trước hết lấy can bản khí , xem thử có can nào của Tứ trụ giống như nó không (CAN của

Tứ trụ gọi là CAN LỘ) ; nếu có thì lấy can ngày phối với nó, thành "thần" nào (giống y như

cách tìm 10 thần), thì lấy tên thần đó làm tên cách (ví dụ chính quan cách);

Nếu can bản khí không có can lộ, và có can trung khí lộ, ta lấy can ngày phối với Can

trung khí, thành "thần" nào, thì lấy tên thần đó làm tên cách (ví dụ chính tài cách);

Q1-ch9-tim-Cachcuc                                                                             4   02/01/2005

Nếu can trung khí không có can lộ, và có can dư khí lộ, ta lấy can ngày phối với Can dư

khí, thành "thần" nào,  thì lấy tên thần đó làm tên cách;

Bạn có thể hỏi tại sao phải có Can lộ giống nó ? Xin thưa vì khi vừa có ở trên, vừa có ở

dưới, thì Thiên Can ấy thông gốc (có gốc rễ) với dưới địa chi , do đó   bền chặt hơn

những Can khác (nhắc lại : đây là quan niệm trời đất tương thông với nhau, trời che đất chở), do đó

nó được chọn.

Chú ý : dù là can tàng độn nào, nếu có ngũ hành = ngũ hành ngày can thì không lấy làm chính cách, vì

nó là tỷ kiếp, xét về mặt ngũ hành nó cũng như TA (can ngày) mà thôi .

Trong trường hợp cả 3 can tàng không có can tương ứng lộ lên Tứ trụ, thì mệnh đó

không có cách cục; phải tạm chọn một chữ nào quan trọng nhất để làm tên cách cục.

Thường đó là Can không bị khắc , hợp,  hình, xung, phá .

Nếu Chi Tháng không bị thương tổn, cả 3 can tàng đều lộ rõ thiên can, hoặc chỉ lộ rõ 2

thiên can thì chọn cái sinh vượng hoặc cái mạnh hơn làm cách cục .

Tên gọi giống như tên 10 thần, nhưng vì không kể tỷ, kiếp (vì chúng được xếp vào ngoại

cách) nên chỉ còn 8 cách (bát cách) thường gặp : Chính tài, thiên tài, chính quan, thất

sát, chính ấn, thiên ấn, thực thần, thương quan.

Có sách thì vẫn kể Tỷ, Kiếp dưới tên Kiến Lộc và Kình dương (Dương nhận) cách.

Chúng ta lấy 1 Ví dụ cho dễ thấy :

                                                                                                       Can ngày là Giáp, sinh tháng Dần; dần chứa giáp, bính, mậu theo thứ tự từ trái sang

phải là                                                                                                : Bản  khí, trung khí, và dư khí.

- đầu tiên phải xem "bản  khí" giáp mộc : nếu dần bị xung khắc, phá hại , giáp mộc sẽ

vô khí thì lấy bính, mậu để tìm cách cục ; nếu không thì xem Giáp có lộ ở trên các can

không. Nếu có thì lấy giáp làm cách cục ; bảng B cho ta cách Kiến lộc.

- nếu dần mộc không bị thương tổn, mà Giáp không lộ trên Can, thì xem trong 2 can

bính , mậu có chữ nào lộ rõ trên can không,

nếu có Bính lộ thì lấy Bính làm cách cục; bảng B cho ta cách Thực thần.

nếu có Mậu lộ thì lấy Mậu làm cách cục; bảng B cho ta cách Thiên tài.

- nếu dần mộc không bị thương tổn, cả 3 can giáp, bính, mậu đều lộ rõ thiên can, hoặc

chỉ lộ rõ 2 thiên can thì chọn cái sinh vượng hoặc cái mạnh hơn làm cách cục .

Chú ý : Có sách chỉ lấy Can BẢN khí (và không cần xét nó có Can lộ giống nó hay không) phối

với can ngày để định cách cục, mà không cần xét đến các can tàng khác. Cũng đại bộ

phận đúng, vì Lệnh tháng là cương lĩnh, ngũ hành của nó (tức của Can bản khí) vượng

nhất rồi.

Người xưa xem số đã lấy cách cục làm trọng, vì mệnh người ấy từ một đám hỗn mang,

ta đã quy về một mẩu dân số nhỏ để cứu xét. Và đây cũng là bước thứ nhất, vì   chỉ khi

Q1-ch9-tim-Cachcuc                                                                                     5                                                                                     02/01/2005

nào định được cách cục mới tìm được Dụng thần, và hỷ thần, kỵ thần của mệnh, mấu

chốt của khoa Tử Bình.

Ðể dễ nhớ, dễ lập bảng số cho nhanh, dù ta đã biết cách tìm tên cách cục, ta dùng bảng

sau đây, còn  nên dành thì giờ để thâm hiểu những hỷ, kỵ của các cách.

Về việc định cách cục, có 2 phái :

- Phái chỉ căn cứ trên lệnh tháng, tức là CHI Tháng, đúng ra là Can bản khí tàng

chứa trong Chi tháng mà thôi; dù có Can lộ giống nó hay không. Ta có bảng A;

- Phái chỉ căn cứ trên lệnh tháng, tức là CHI Tháng, nhưng dùng tất cả các Can

tàng chứa trong Chi tháng, có can lộ, tùy trường hợp. Ta có bảng B.

Cả hai phái đều dùng Can ngày phối với Can trong chi tháng đã chỉ định, y như

cách tìm 10 thần ; chỉ khác tên gọi ở 2 trường hợp : cách cục thì gọi « Kiến lộc » và

« Dương nhận » (cả hai đều là ngoại cách), còn 10 thần thì gọi là « Tỷ kiên » và « Kiếp tài».

Và vì không kể 2 cách Kiến lộc và Kình dương, nên so với 10 thần, chính cách chỉ có 8,

gọi là BÁT CÁCH.

Q1-ch9-tim-Cachcuc                                                                              6   02/01/2005

Bảng A - CÁCH CỤC

(theo Can bản khí tàng trong chi tháng)

                                          Can ngày   Giáp         Ất      Bính    Ðinh    Mậu     Kỷ      Canh    Tân     Nhâm    Quý

Tháng

1                                         Dần        Kiến                 Thiên   Chính   Thiên   Chính   Thiên   Chính   Thực    Thươg

                                                     lộc                  ấn      ấn      quan    quan    tài     tài     thần    quan

2                                         Mão        Dương        Kiến    Chính   Thiên   Chính   Thiên   Chính   Thiên   Thươg   Thực

                                                     nhận         lộc     ấn      ấn      quan    quan    tài     tài     quan    thần

3                                         Thìn       Thiên        Chính   Thực    Thươg                   Thiên   Chính   Thiên   Chính

                                                     tài          tài     thần    quan                    ấn      ấn      quan    quan

4                                         Tị         Thực         Thươg   Kiến            Kiến    Chính   Thiên   Chính   Thiên   Chính

                                                     thần         quan    lộc             lộc     ấn      quan    quan    tài     tài

5                                         Ngọ        Thươg        Thực    Dương   Kiến    Dương   Kiến    Chính   Thiên   Chính   Thiên

                                                     quan         thần    nhận    lộc     nhận    lộc     quan    quan    tài     tài

6                                         Mùi        Chính        Thiên   Thươg   Thực                    Chính   Thiên   Chính   Thiên

                                                     tài          tài     quan    thần                    ấn      ấn      quan    quan

7                                         Thân       Thiên        Chính   Thiên   Chính   Thực    Thươg   Kiến            Thiên   Chính

                                                     quan         quan    tài     tài     thần    quan    lộc             ấn      ấn

8                                         Dậu        Chính        Thiên   Chính   Thiên   Thươg   Thực    Dương   Kiến    Chính   Thiên

                                                     quan         quan    tài     tài     quan    thần    nhận    lộc     ấn      ấn

9                                         Tuất       Thiên        Chính   Thực    Thươg                   Thiên   Chính   Thiên   Chính

                                                     tài          tài     thần    quan                    ấn      ấn      quan    quan

10                                        Hợi        Thiên        Chính   Thiên   Chính   Thiên   Chính   Thực    Thươg   Kiến

                                                     ấn           ấn      quan    quan    tài     tài     thần    quan    lộc

11                                        Tý         Chính        Thiên   Chính   Thiên   Chính   Thiên   Thươg   Thực    Dương   Kiến

                                                     ấn           ấn      quan    quan    tài     tài     quan    thần    nhận    lộc

12                                        Sửu        Chính        Thiên   Thực    Thươg                   Chính   Thiên   Chính   Thiên

                                                     tài          tài     thần    quan                    ấn      ấn      quan    quan

Q1-ch9-tim-Cachcuc                        7          02/01/2005

Bảng B - CÁCH CỤC

(tuỳ Can tàng trong chi tháng được chọn)

Can tàng >

Can ngày  v                                                                               Giáp +   ất -         Bính +   Đinh -   mậu +    kỷ -     Canh +   Tân -    Nhâm +   Quý -

                                                                                          Kiến     dương        thực     Thương   thiên    Chính    Thiên    Chính    Thiên    chính

Giáp +                                                                                    lộc      nhận         thần     quan     tài      tài      quan     quan     ấn       ấn

                                                                                                   Kiến         thương   thực     Chính    Thiên    Chính    Thiên    Chính    thiên

ất -                                                                                               lộc          quan     thần     tài      tài      quan     quan     ấn       ấn

                                                                                          thiên    chính        Kiến     dương    thực     Thương   Thiên    chính    thiên    chính

Bính +                                                                                    ấn       ấn           lộc      nhận     thần     quan     tài      tài      quan     quan

                                                                                          chính    thiên                 Kiến     Thương   thực     Chính    thiên    chính    thiên

Đinh -                                                                                    ấn       ấn                    lộc      quan     thần     tài      tài      quan     quan

                                                                                          Thiên    chính        Thiên    thương   Kiến     dương    thực     thương   thiên    chính

mậu +                                                                                     quan     quan         ấn       quan     lộc      nhận     thần     quan     tài      tài

                                                                                          Chính    thiên        Chính    Thiên             Kiến     Thương   thực     chính    thiên

kỷ -                                                                                      quan     quan         ấn       ấn                lộc      quan     thần     tài      tài

                                                                                          thiên    chính        Thiên    chính    Thiên    Chính    Kiến     dương    thực     thương

Canh +                                                                                    tài      tài          quan     quan     ấn       ấn       lộc      nhận     thần     quan

                                                                                          chính    thiên        Chính    thiên    chính    thiên             Kiến     thương   thực

Tân -                                                                                     tài      tài          quan     quan     ấn       ấn                lộc      quan     thần

                                                                                          thực     Thương       thiên    chính    thiên    chính    thiên    chính    Kiến     dương

Nhâm +                                                                                    thần     quan         tài      tài      quan     quan     ấn       ấn       lộc      nhận

                                                                                          thương   thực         chính    thiên    chính    thiên    chính    thiên             Kiến

Quý -                                                                                     quan     thần         tài      tài      quan     quan     ấn       ấn                lộc

(những ô bỏ trống có sách vẫn cho là Dương nhận cách ; có sách không kể luôn Can Mậu +)

Q1-ch9-tim-Cachcuc                                                                        8        02/01/2005

Xem thế thì đủ biết cách cục có quá nhiều, lại mỗi sách một khác. Bạn phải chọn lựa cái

đơn giản, dễ nhớ nhất - chẳng hạn dùng bảng A (ban đầu không nên sa vào mê hồn trận, mất

thì giờ và dễ chán), và nhất là phải biết cách cục để làm gì. Nhắc lại cũng không thừa : để

tìm Dụng thần, nhưng tùy theo TV hay TN !

nhắc lại :

chi tháng + can ngày                                                                                      => (xác định)  cách cục

Cách cục                                                                                                  => (xác định)  dụng thần, hỷ thần, kỵ thần.

Cách định Dụng thần theo cách cục như thế nầy là cách cổ điển, không được toàn diện bằng cách xác

định Dụng thần từ Thân vượng hay Thân nhược; mà   sự   xác định Vượng , Nhược của Can ngày (Thân,

TA), phải qua sự cân bằng tổng hợp tất cả các Can-Chi Tứ trụ rất nghiêm nhặt, chứ không phải chỉ thuần

trên Lệnh tháng, dù rằng LT luôn luôn đóng vai trò chủ đạo.

Đúng ra thì ngay cả « phái cách cục » khi định Dụng thần trong khoa Tứ trụ cũng phải căn cứ trên TV hay

TN .

Trong thực hành, trước hết nên coi MC có thuộc NGOẠI CÁCH không (rất ít gặp /

ngoại trừ kình dương và kiến lộc xét riêng), nếu có thì ta chỉ xét ngoại cách, nếu không

phải ngoại cách thì nên theo thứ tự sau đây sau để định cách cục :

1) Nếu tháng chi = thìn, tuất, sửu, mùi :  dù bất cứ can ngày nào, nếu gặp các

chi tháng này đều là  tháng "tạp-khí " (vì đó là các tháng cuối cuả 4 muà, tháng giao

mùa, có trong cả 4 muà nên bị gọi là "tạp" khí, chúng có tới 3 can tàng độn, tức là 3

hành khác nhau) ; không có cách kiến lộc và cách kình dương cho các trường hợp này;

2) Những chi tháng khác :

a) xem ngay chi tháng + can ngày có cách kiến lộc và cách kình dương (là

ngoại cách) hay không :

* Chi tháng là Lộc (lâm quan)                                                                             : là cách kiến lộc;

* Chi tháng là Ðế vượng                                                                                   : là cách kình dương (**) hay dương nhận cách .

có sách nói chỉ 4 CAN dương (Giáp, Bính, Canh, Nhâm mới có cách này );

có sách nói cả 5 CAN dương (Giáp, Bính, Mậu, Canh, Nhâm mới có cách này);

cũng vì Dương (+) nên mới chỉ dùng các can dương mà thôi.

có sách nói tất các CAN ngày bất kể âm dương, miễn là chi tháng Ðế vượng cuả

nó thì đều có cách này;

(**) Theo thiển ý , dùng chữ kình dương thống nhất với tử vi đẩu số hơn nên tôi dùng

trong sách này;

b) Nếu không, xem can ngày + can tàng độn trong chi tháng như đã trình bày

trên đây.

Chính cách là 8 cách thường gặp nhất. Ta tiếp tục đi sâu vào 8 cách này để xem chúng

thành công hay bị phá hoại, thái quá hay bất cập.

Q1-ch9-tim-Cachcuc                                                                                        9                                                 02/01/2005

CÁCH CỤC THÀNH, BẠI, THÁI QUÁ, BẤT CẬP

Ðã định được cách cục, nhưng chúng ta phải xét xem cách cục đó là thành công (dĩ

nhiên là tốt) hay bị phá hoại (dĩ nhiên là xấu), thái quá hay bất cập (đều xấu), rồi từ đó

mới định được Dụng thần chính xác. Dù bị phá hoại, hay thái quá, bất cập, nhưng nếu

có thuốc chưã trong mệnh thì cũng vẫn là mệnh tốt.

Chúng ta lần lượt xét các khái niệm này trên từng cách một cuả 8 cách. Và cách tìm DT

cho từng trrường hợp sẽ đề cập ở chương sau.

1- Cách cục thành công : là ngũ hành được phối hợp quân bình, mệnh tốt.

Chính quan cách

1- TV (TS, ÐV, QÐ), có Tài tinh sinh Quan tinh.

2- TN (TH, DG, SY), Chính quan cường mạnh, có Ấn sinh Nhật nguyên.

3- Chính quan không có Thất sát hỗn tạp.

Thiên tài, Chính tài cách

1- TV (TS, ÐV, QÐ), Tài tinh cũng cường, lại gặp Quan tinh.

2- TN (TH, DG, SY), Tài tinh cường, có Ấn và Tỷ hộ Nhật nguyên.

3- TV, Tài tinh yếu, có Thương Thực sinh Tài.

Thiên ấn, Chính ấn cách

1- TV (TS, ÐV, QÐ), Ấn yếu, có Quan, Sát mạnh.

2- TV (TS, ÐV, QÐ), Ấn cường, có Thương, Thực rút khí của Nhật nguyên.

3- TV, nhiều Ấn tinh, có Tài tinh lộ và mạnh.

Thực thần cách

1- TV (TS, ÐV, QÐ), Thực thần cũng cường, lại gặp Tài tinh.

2- TV (TS, ÐV, QÐ), Sát quá mạnh, Thực thần chế ngự Thất sát nhưng không

nên có Tài tinh, nếu có mà nhược thì không sao.

3- TN, Thực thần mạnh, có Ấn sinh Nhật nguyên.

Thất sát cách

1- Thân rất Vượng (TS, LỘC, ÐV).

2- TV (TS, ÐV, QÐ), Sát càng mạnh hơn, có Thực thần chế ngự Thất sát.

3- TN, Sát mạnh, có Ấn tinh sinh Nhật nguyên.

4- Nhật nguyên và Thất Sát quân bình, không có Quan tinh hỗn tạp.

Thương quan cách

1- TV (TS, ÐV, QÐ), Thương quan mạnh, có Tài tinh lộ.

2- TN (TH, DG, SY), Thương quan mạnh, có Ấn tinh sinh Nhật nguyên.

3- TN, Thương quan mạnh, có Thất Sát và Ấn lộ.

4- TV, Sát mạnh, có Thương quan chế Sát tinh.

2- Cách cục bị phá hoại : nói chung là cái tốt bị phá, cái xấu lại được phù trợ; ta thấy

ngay mà mệnh xấu.

Có 1 điểm chung là hễ gặp hình, xung, hại thì cách nào cũng bị phá hoại.

Q1-ch9-tim-Cachcuc                                                                           10   02/01/2005

Chính quan cách

1- Có Thương quan, nhưng không có Ấn;

2- Gặp phải hình, xung, hại;

3- Có Thất sát hỗn tạp.

Thiên tài, Chính tài cách

1- TV, Tài tinh yếu, Có nhiều Tỷ Kiếp;

2- Gặp phải hình, xung, hại;

3- TN, Thất sát mạnh, Tài cũng mạnh, sinh Sát tinh hại Nhật nguyên.

Thiên ấn, Chính ấn cách

1- TN, Ấn cũng yếu, Tài tinh mạnh phá Ấn;

2- Gặp phải hình, xung, hại;

3- TN, Thất sát quá mạnh, lại có Quan tinh  hỗn tạp.

Thực thần cách

1- TV, Thực thần yếu, lại gặp Thiên Ấn;

2- Gặp phải hình, xung, hại;

3- TN, có Thực thần mạnh, lại có Tài tinh, Thất sát lộ.

Thất sát cách

1- TV, không có Ấn;

2- Gặp phải hình, xung, hại;

3- Tài tinh mạnh sinh Sát, lại không có Thương Thực chế Thất sát.

Thương quan cách

1- gặp phải Quan tinh;

2- Gặp phải hình, xung, hại;

3- TN, lại nhiều Tài tinh .

4- TV, Thương quan yếu, lạI nhiều Ấn tinh.

Ngoài việc xét cách cục thành công hay bị phá hoại , chúng ta còn phải xét thêm là nó

thái quá hay bất cập .

3- Cách cục thái quá : nhấn mạnh đến "nhiều / ít" quá.

Chính quan cách

Quan tinh mạnh lại nhiều, còn Nhật nguyên yếu;

Quan tinh mạnh, Nhật nguyên yếu, lại gặp nhiều Tài tinh;

Thiên tài, Chính tài cách

Tài tinh mạnh lại nhiều, còn Nhật nguyên quá yếu;

Tài tinh mạnh, Nhật nguyên yếu, lại gặp nhiều Thực Thương;

Thiên ấn, Chính ấn cách

Ấn tinh mạnh, Nhật nguyên yếu, Tài yếu;

Ấn tinh mạnh, Tỷ Kiếp nhiều, Thực yếu, Thương yếu, Tài Quan cũng yếu;

Q1-ch9-tim-Cachcuc                                                                      11   02/01/2005

Thực thần cách, Thương quan cách

Thực, Thương nhiều và mạnh, Nhật nguyên yếu, không có Ấn, lại có Tài

mạnh;

TV, Sát yếu, Thực Thương mạnh chế Sát thái quá, lại không có Tài tinh;

Thất sát cách

TN, Sát rất mạnh, không có Thực Thương ;

TN, Tài mạnh và nhiều, Sát nhiều.

4- Cách cục bất cập : không đủ (thiếu) cái để tạo quân bình, ngược lại có nhiều cái

làm suy yếu cách cục . Thường nhấn mạnh đến "mạnh / yếu" quá.

Chính quan cách

TV, Quan yếu, không có Tài tinh;

TV, Quan yếu, lại thêm nhiều Ấn tinh, hoặc có Thương quan khắc Quan tinh;

Thiên tài, Chính tài cách

TV, lại nhiều Tỷ Kiếp, lộc, Kình dương;

Tài tinh không gặp Thực Thương, lại có nhiều Tỷ Kiếp;

Thiên ấn, Chính ấn cách

Tài mạnh, không có Quan tinh;

Nhiều Tỷ, Kiếp.

Thực thần cách, Thương quan cách

TN, Ấn mạnh.

TN, Tài Quan nhiều.

Thất sát cách

Thực mạnh, không có Tài tinh;

TV, Ấn mạnh.

Khi luận khái quát về mệnh vận, người ta có thể luận ngay trên cách cục, vì như đã nói,

đó là 1 loại hình của mệnh.

II- NGOẠI CÁCH :

Ngoại cách có nhiều loại khác nhau , như :

- cách Kiến lộc, cách dương nhận (hay kình dương) nhấn mạnh vai trò « phù trợ»

(tỷ kiếp) cuả LT cho can Ngày, làm cho nó cực vượng.

- Chuyên vượng cách )  MC có một hành cực vượng

- Tùng vượng cách                                                                         )

- Hoá khí cách : (ngũ) hành cuả can ngày đã hoàn toàn biến thành hành khác, do

sự hợp hoá, do đó hãy quên nó đi mà luận theo hành mới.

mỗi loại lại được phân chia ra nhiều cách khác nhau. Chúng ta sẽ lần lượt nghiên cứu

từng loại một. Đọc kỹ thì tự nhiên bạn hiểu / thấy cách chọn DT.

Q1-ch9-tim-Cachcuc                                                                        12   02/01/2005

1) Kiến lộc cách : Nếu chi tháng là LQ (lộc) của can ngày theo bảng TS ; nói cách

khác, chi tháng là Tỷ kiên của can ngày. Ví dụ :

Can ngày                                                                                                  Chi tháng

Giáp                                                                                                      Dần

đinh                                                                                                      ngọ

tân                                                                                                       dậu

nhâm                                                                                                      hợi

v..v..                                                                                                    v..v..

Vì sinh trong tháng Lộc, nên Thân rất vượng (không cần các chi năm, ngày, giờ giúp sức

như các cách khác mới được Vượng). Thân vượng thì có thể điều khiển được Tài, Quan,

Thương, Thực - những yếu tố áp chế hay làm hao tổn mình. Người nào có Cách này, và

Mệnh cục được điều hoà, thì mệnh vận rất hanh thông (Kiến Lộc là Thấy Lộc, tên cách

đã chỉ rõ tiêu chí của mệnh).

2) Dương nhận (hay Kình dương) cách : Nếu can ngày là can dương (giáp , bính,

mậu, canh, nhâm) , và chi tháng là ÐV của can ngày theo bảng TS ; chỉ có các can

dương mới có cách này, chứ không phải hễ thấy chi tháng là ÐV của can ngày theo bảng

TS là có Dương nhận cách được.

Và nói cách khác, chi tháng là Kiếp tài của can ngày.

Ví dụ:

Can ngày                                                                                                  Chi tháng

Giáp                                                                                                      mão

Bính, Mậu                                                                                                 Ngọ

Canh                                                                                                      dậu

Nhâm                                                                                                      tý

- Có sách chỉ lấy 4 Can dương không phải hành Thổ (Giáp, Bính, Canh, Nhâm, không kể

Mậu).

nhắc lại :

- Có sách không chỉ dựa trên Can ngày dương (+), mà dựa theo bảng TS, hễ thấy Chi tháng là ÐV của

Can ngày (bất kể âm dương) thì có Dương-nhận cách; vì bất kể âm dương đều có dương nhận, nên để

phân biệt 2 chữ dương nầy, chữ Hán dùng chữ dương là con dê trong dương-nhận , chả thế mà có sách

dịch dương nhận (hay kình dương) là « sống dê» !.

Hai cách này, suy cho cùng, cũng là loại "chuyên vượng" như dưới đây, nhưng là Can Ngày (TA) rất Vượng

theo Chi Tháng.

Những ngoại cách dưới đây có thể nói chỉ chiếm 5% các mệnh, và thường là các mệnh rất đặc biệt. Các

bạn mới học nên bằng lòng với chính cách (85%), và dương nhặn, kiến lộc (10%). Phần dưới đây (5%) có

tính cách "thâm cứu", nên các bạn có thể lướt qua để có khái niệm; về sau nên trở lại để đọc kỹ hơn khi

bản lãnh đã cao cường. Còn lúc đầu không nên mất thì giờ quá nhiều với nó...

Ngoài ra cũng có nhiều mệnh, tuy ít gặp, chúng ta không thể định cách cục theo sự phối

hợp bản khí ngũ hành can ngày và chi tháng như 8 cách kể trên, hoặc Kiến lộc hay

Q1-ch9-tim-Cachcuc                                                                                        13          02/01/2005

Dương nhận được, vì toàn cục khí thế ngũ hành thiên vượng về một phương (mỗi

phương là 1 hành do Tam Hội Cục), hoặc về một (ngũ) hành nào đó (do Tam Hợp Cục),

phối hợp với hành cuả Muà sinh, nên Mệnh ấy hoàn toàn bị hành ấy chi phối;

nó phải nương theo hành ấy mà đi, không được nghịch lại, để tránh nạn hồng

thuỷ vỡ đê. Nguyên lý là ta phải dùng khí thế toàn cục làm chủ .

Ta có thể thấy giống như trường hợp ở Trung quốc gần đây, lúc hồng vệ binh đang hoành hành

ngoài đường phố, và ca tụng Mao chủ tịch, thì đừng có dại léng phéng chống lại họ; cách khôn

nhất của mấy anh Tàu, là cũng xuống đường … hò hét như hồng vệ binh (trong bụng anh sao là

chuyện khác);

Cũng như anh bạn tôi, mê một cô gái gia đình thiên chuá giáo. Gia đình cô ấy thì chỉ gả con cho

người có đạo, anh ta bèn xin rửa tội, theo thiên chuá giáo, và lấy được người anh yêu và cũng yêu

anh. Tôi thì biết anh ta là dân vô thần chính hiệu, nên đùa : mày bị quả báo nhãn tiền, chuá mày

cũng chê, phật mày cũng ghét, bây giờ thì…   Anh ta trả lễ : "gọi cha con cứ gọi cha, con lấy được

vợ con xa nhà thờ !". ÐM sao mày ngu thế !.

Tùy theo sự thiên vượng đó để suy ra cách cục, ta có những ngoại cách (hay biến cách)

sau đây :

- Chuyên vượng cách;

- Tùng (hay tòng) vượng cách;

- Hoá khí cách .

Tên gọi thì toàn là từ ngữ hán việt, rất khó nhớ, có khi hiểu lầm lại thành râu ông nọ cắm cằm bà kia, nên

nếu cần, tôi đề nghị tên gọi mới cho dễ nhớ, vấn đề quan trọng là hiểu rõ ý nghĩa chứ không phải câu nệ

từ ngữ.

3) Chuyên vượng cách :

Khi can ngày sinh và can chi toàn cục cùng một loại ngũ hành (h), chú ý xem các địa

chi tam hội hay tam hợp cục, ngay bán tam hội hay bán tam hợp (h)-cục cũng được, và

không có hành khác khắc (h):

Ở đây nhấn mạnh quan điểm "ngũ hành"

3.1) Nếu cùng là hành Mộc là khúc trực cách, để dễ nhớ ta gọi là Mộc cách :

Can Ngày sinh Giáp, Ất thuộc Mộc; sinh vào các tháng thuộc mùa xuân Mộc vượng; địa

chi bát tự có Dần-Mão-Thìn (tam hội đông phương Mộc cục), hoặc Hợi-Mão-Mùi (tam

hợp Mộc cục), không có can chi canh-tân, thân-dậu thuộc kim khắc Mộc.

Vì Mộc chủ về Nhân; người làm nhiều điều nhân thì thọ (ảnh hưởng của Phật giáo rất rõ ở

đây), nên mộc cách còn gọi là (khúc trực) nhân thọ cách.

Ví dụ :

Quý                                                                                                          giáp                                                ất                                                                                    kỷ

Mùi                                                                                                          dần                                                 hợi                                                                                   mão

                                                                                                                                                                 (**) 4T này là cuả Lý Hồng Chương, Tể Tướng đời nhà Thanh ở Trung hoa, thọ 79 tuổi.

hợi - mão -mùi tam hợp Mộc cục

                                                                                                             ở Tứ trụ này, hàng Can còn có Quý thuỷ dưỡng Mộc.

Q1-ch9-tim-Cachcuc                                                                                                                                               14                                                                                          02/01/2005

nhâm                                                                                      quý                                         giáp                                                                                giáp

dần                                                                                       mão                                         thìn                                                                                tý

dần - mão - thìn tam hội đông phương Mộc cục

ở Tứ trụ này, hàng Can còn có Nhâm Quý đều là thuỷ dưỡng Mộc.

3.2) Nếu cùng là hành Hoả là Viêm thượng cách, để dễ nhớ ta gọi là Hoả cách :

Can Ngày sinh Bính, Ðinh thuộc Hoả; sinh vào các tháng thuộc mùa hạ, hoả vượng xông

lên; địa chi bát tự có Tị-Ngọ -Mùi (tam hội nam phương hoả cục), hoặc dần-ngọ-tuất

(tam hợp Hoả cục), không có can chi Nhâm-Quý, hợi-tý thuộc Thuỷ khắc Hoả. Ví dụ :

đinh                                                                                      bính                                        bính                                                                                ất

tị                                                                                        ngọ                                         dần                                                                                 mùi

ở Tứ trụ này, hàng Can còn có Bính Ðinh đều là hoả trợ giúp Hoả.

3.3) Nếu   cùng là hành Thổ là Giá sắc hay Gia thích cách, để dễ nhớ ta gọi là Thổ

cách :

Can Ngày sinh Mậu Kỷ thuộc Thổ; sinh vào các tháng tứ-quý (thìn-tuất-sửu-mùi); địa chi

bát tự có 2 chữ đó trở lên, không có can chi giáp-ất, mão (1) thuộc Mộc khắc Thổ.

Ví dụ :

quý                                                                                       nhâm                                        kỷ                                                                                  canh

mùi                                                                                       tuất                                        sửu                                                                                 ngọ

trường hợp đặc biệt :

mậu                                                                                       kỷ                                          mậu                                                                                 quý

tuất                                                                                      mùi                                         thìn                                                                                sửu

ở đây mậu-quý hợp hóa Hỏa , hoả sinh Thổ, điạ chi toàn là thìn-tuất-sửu-mùi Thổ cục rất

sinh vượng.

(1) Dần tuy thuộc mộc, nhưng là TS của Thổ, chứa Mậu, nên không kể.

3.4) Nếu  cùng là hành Kim là tòng cách cách, để dễ nhớ ta gọi là Kim cách :

Can Ngày sinh Canh Tân thuộc Kim; sinh vào các tháng muà thu Kim ; địa chi bát tự có

Thân-dậu-tuất (tam hội Tây phương Kim cục), hoặc Tị-dậu-sửu (tam hợp Kim cục),

không có can chi Bính-Ðinh, Ngọ Mùi (2) thuộc Hoả khắc Kim. Ví dụ :

mậu                                                                                       tân                                         canh                                                                                ất

thân                                                                                      dậu                                         tuất                                                                                dậu

                                                                                                                                      ở đây còn thêm Canh Ất hợp hoá kim, phù trợ cho thêm cho Kim; và Can Mậu thổ sinh

Kim, nên Kim rất vượng.

mậu                                                                                       tân                                         tân                                                                                 kỷ

tuất                                                                                      dậu                                         tị                                                                                  sửu

                                                                                          ở đây còn thêm 2 Can Mậu Kỷ thổ sinh Kim.

Q1-ch9-tim-Cachcuc                                                                                                                    15                                                                                         02/01/2005

(2) Mùi tuy không phải là hoả, nhưng thuộc hoả phương, chứa Ðinh hoả nên kể vào đây; còn Tị tuy

thuộc hoả, nhưng chứa Canh kim, đã chứa là không khắc, nên không kể.

3.5) Nếu  cùng là hành Thuỷ là Nhuận hạ cách, để dễ nhớ ta gọi là Thuỷ cách :

Can Ngày sinh Nhâm Quý thuộc Thuỷ; sinh vào các tháng muà thu Ðông ; địa chi bát tự

có Hơị - Tý - Sửu (tam hội Bắc phương Thuỷ cục), hoặc Thân-Tý-Thìn (tam hợp Thuỷ

cục), không có can chi Mậu Kỷ, Mùi Tuất (3) thuộc Thổ khắc Thuỷ. Ví dụ :

nhâm                                                                                              nhâm                                 nhâm         canh

thân                                                                                              tý                                   thìn         tý

                                                                                                  ở đây còn thêm Canh kim sinh Thuỷ.

tân                                                                                               canh                                 quý          quý

hợi                                                                                               tý                                   sửu          sửu

ở đây còn thêm 2 Can Canh Tân sinh Thuỷ.

(3) Sửu Thìn tuy thuộc Thổ, nhưng có chứa Quý thuỷ nên không kể.

4) Tòng vượng cách : Khi toàn cục khí thế vượng về 1 phương (cũng là hành, thần)

thì bất đắc dĩ nhật chủ phải theo vượng khí đó mà đi, nên gọi là Tòng vượng. Vai trò của

Lệnh tháng rất quan trọng, nên nó quyết định tên gọi của Cách.

Ở đây nhấn mạnh quan điểm 10 thần.

Chữ tùng ở đây nghiã là theo.

4.1) Tùng Tài cách : Can ngày sinh yếu, 4 địa chi cũng ở tử tuyệt mộ điạ, lại sinh nhằm

tháng Tài địa; Thiên can, địa chi lại sinh Tài, tức Tài rất vượng, còn Nhật chủ không có

thần nào giúp đỡ, nên phải theo Tài mà đi. Toàn cục bị can ngày (TA) khắc.

Ví dụ :

canh                                                                                              ất                                   bính         kỷ

tuất                                                                                              dậu                                  thân         sửu

Tử /Ch.tài

Can ngày bính hoả, sinh tháng dậu là tử địa nên TN; dậu là chính tài; địa chi toàn

là thân-dậu-tuất tam hội (Tây phương) Kim - Tài cục; can Ất mộc hợp can Canh hoá Kim

(Tài) nên đã mất tính Mộc; lại có Kỷ thổ sinh Kim (Tài); Can ngày đã yếu lại không có

Hoả Mộc giúp sức, nên Hoả phải "theo"  Kim, tức Tùng Tài cách.

                                                                                                  Th.tài                                            Th.tài

mậu                                                                                               tân                                  đinh         tân

thân                                                                                              dậu                                  tị           sửu

                                                                                                  Th.tài

Q1-ch9-tim-Cachcuc                                                                                16                                   02/01/2005

Can ngày đinh hoả, sinh tháng dậu ; dậu là Thiên tài; địa chi toàn là tị-dậu-sửu

tam hợp Kim Tài cục; can Mậu sinh Tân Kim (Tài); Can ngày yếu, lại không có Hoả Mộc

giúp sức, nên Hoả phải Tùng Kim, tức Tùng Tài cách.

4.2) Tùng Sát cách : Can ngày sinh tuyệt ở lệnh tháng nên yếu, Quan sát nhiều lại

vượng thịnh;   còn Nhật chủ không có Ấn sinh, lại bị Sát khắc quá mạnh, giống như một

người yếu đuối ở trong đám cướp, phải theo bọn nó mà đi, nên gọi là Tùng sát cách.

Ví dụ :

Sát

mậu                                                                                       tân        ất           ất

tuất                                                                                      dậu        dậu          dậu

Mộ                                                                                        Tt;  Sát   Tt;Sát       Tt;Sát

Can ngày ất mộc, sinh tháng dậu là tuyệt địa nên TN; dậu là Sát, nó là Lệnh

tháng nên nắm quyền (vượng); các địa chi khác trong Tứ trụ cũng lâm mộ tuyệt, yếu

quá; Kim đã vượng lại không có gì chế ngự , Thất sát dậu kim đắc thời (được lệnh); Can

ngày Ất mộc thế cô nên phải theo Sát mà đi, tức Tùng Sát cách.

nhâm                                                                                      đinh       kỷ           ất

dần                                                                                       mùi        mão          hợi

Hợi mão mùi mộc cục; đinh nhâm hợp hoá mộc; dần mộc, ất mộc;

Toàn cục khí thế khắc ta (kỷ thổ), khí thế vượng về mộc (Sát), tức Tùng Sát cách.

4.3) Tùng nhi cách : Nhật chủ yếu, sinh cho toàn cục, hay nói cách khác tòan cục có

nhiều Thực Thương (là con của nhật chủ) , nên gọi là Tùng nhi cách.

Ngày can yếu, không có Ấn sinh; Thương Thực vượng thịnh, hay Thiên can có nhiều

Thương Thực ; địa chi hội - hợp thành thương thực cục, nhật chủ đã yếu còn bị hao khí

thái quá, nên theo Thương Thực  mà đi. Ví dụ :

đinh                                                                                      nhâm       quí          bính

mão                                                                                       dần        mão          thìn

sinh tháng Dần, mộc khí đương thịnh; dần mão thìn đông phương mộc; trong cục còn

có Đinh-Nhâm hợp hoá Mộc, không có Kim khắc chế bớt mộc và sinh cho Quí thuỷ nhật

chủ; mà nhật chủ còn phải sinh cho mộc, bị mộc rút hết nước và sẽ trở thành khô cạn,

nên phải theo hành mộc mà đi.

4.4) Tùng vượng cách (*) ta gọi là Tùng Tỷ cách : Toàn cục là Tỷ kiếp, lại thêm Ấn sinh

Tỷ kiếp; không có Quan Sát chế tỷ kiếp; Tỷ kiếp vượng thịnh thái quá, nên theo vượng

thần mà đi, nên gọi là Tùng vượng cách. Ví dụ :

Ấn                                                                                        Kiếp                    Kiếp

quý                                                                                       ất         giáp         ất

mão                                                                                       mão        dần          hợi

                                                                                          ÐV         Lộc          TS

Q1-ch9-tim-Cachcuc                                                                        17         02/01/2005

Tứ trụ này không có Tài Quan Thực Thương, nên theo vượng mộc mà đi.

4.5) Tùng cường cách (*) ta gọi là Tùng Ấn cách : Toàn cục Ấn nhiều, Tỷ kiếp cũng

nhiều, nhật chủ cũng không yếu nhược, lại không có Tài Quan Thực Thương, nên theo

luồng vượng khí mà đi, nên gọi là Tùng cường cách.

(*) có sách gộp tùng vượng và tùng cường (4.4 và 4.5 ) làm một, gọi chung là tùng vượng cách; chúng ta

đề nghị 2 tên gọi mới - tùng tỷ và tùng ấn - để tránh trùng hợp với mục (4) đã gọi chung là Tùng vượng

cách rồi, hơn nữa nó nhất quán trong tinh thần nhấn mạnh ở đây khiá cạnh thần nào vượng nhất trong 10

thần).

Ví dụ :

kiêu                                                                                                     ấn                          tỷ

nhâm                                                                                                     quý            giáp         giáp

tý                                                                                                       mão            tý           tý

ấn                                                                                                       ÐV/ kiếp       ấn           ấn

Tứ trụ này không có Tài Quan Thực Thương, nên theo thuỷ mộc mà đi.

Qua các cách Tòng vượng trên đây, ta để ý đều thấy tên cách đều lấy theo tên của (10) Thần dựa trên

"khí của ngũ hành" của toàn cục toát ra, phối với hành của CAN ngày

5) Hoá khí cách : Nếu Can ngày hợp  với can tháng hoặc can giờ ta mới xét thử có hóa

khí không. Cần nhấn mạnh là 2 Can kề sát bên Can ngày mà thôi !

Ở đây nhấn mạnh quan điểm ngũ hành, nhưng là trên                                                        hành hoá ra.

5.1) Hoá mộc cách : Ðinh nhâm hợp hoá Mộc;

Can ngày đinh, can tháng nhâm hay can giờ nhâm

Can ngày nhâm, can tháng đinh hay can giờ đinh

sinh ở những tháng hợi mão mùi / dần (TS,ÐV,Mộ / LQ ), tức là chi của tháng

vượng cho hành hóa đó (theo bảng TS), hay cách nhìn khác : chi tháng ở trong tam hợp

cục = hành hoá; Và trong 8 can chi đều không có hành Kim (khắc hành hoá ra đó), nên

hoá mộc thành công. Vậy luận Thân / TA theo hành Mộc, vì TA đã "hoá Mộc " rồi, không

còn là Hoả nưã.

Ví dụ :

quý                                                                                                      quý            đinh         nhâm

hợi                                                                                                      hợi            mão          dần

Can ngày Ðinh , Chi giờ Nhâm hợp hoá Mộc, sinh tháng hợi : thuỷ mộc hai hành

đều vượng.

5.2) Hoá hoả cách : Mậu Quý hợp hoá Hoả;

Can ngày mậu, can tháng quý hay can giờ quý

Can ngày quý, can tháng mậu hay can giờ mậu

Q1-ch9-tim-Cachcuc                                                                                       18             02/01/2005

sinh ở những tháng dần-ngọ-tuất / tị (TS,ÐV,Mộ / LQ ), tức là chi của tháng

vượng theo hành hóa đó (theo bảng TS); hay cách nhìn khác : chi tháng trong tam hợp

cục = hành hoá; Và trong 8 can chi đều không có hành Thuỷ (khắc hành hoá đó), nên

hoá hoả thành công. Vậy luận Thân / TA theo hành Hoả.

Ví dụ :

bính                                                                                  quý    mậu                                                                                  đinh

tuất                                                                                  tị     ngọ                                                                                  tị

hay

đinh                                                                                  bính   quý                                                                                  mậu

mão                                                                                   ngọ    mão                                                                                  ngọ

trong ví dụ 2, dù có can ngày = Thuỷ (khắc Hoả) nhưng toàn cục là mộc hỏa tương

sinh, nên hoá Hoả rất thuần tuý.

5.3) Hoá Thổ cách : Giáp Kỷ hợp hoá Thổ;

Can ngày giáp, can tháng kỷ hay can giờ kỷ

Can ngày kỷ, can tháng giáp hay can giờ giáp

sinh ở những tháng thìn tuất sửu mùi ; Và trong 8 can chi đều không có hành

Mộc (khắc hành hoá đó), nên hoá Thổ thành công. Vậy luận Thân / TA theo hành Thổ.

Ví dụ :

mậu                                                                                   nhâm   giáp                                                                                 kỷ

thìn                                                                                  tuất   thìn                                                                                 tuất

                                                                                             Giáp-Kỷ hợp ; sinh tháng tuất, thổ nắm lịnh; Tứ trụ không có mộc khắc thổ, nên hoá

Thổ rất thuần tuý.

bính                                                                                  ất     kỷ                                                                                   giáp

thìn                                                                                  mùi    ngọ                                                                                  tý

Giáp-Kỷ hợp ; sinh tháng mùi, thổ đương lịnh, 4T dù có giáp ất 2 mộc nhưng có bính

hoả tại can năm hoá mất Mộc, nên hoá Thổ rất thuần tuý.

5.4) Hoá Kim cách : Ất Canh hợp hoá Kim;

Can ngày Ất, can tháng Canh hay can giờ Canh

Can ngày Canh, can tháng Ất hay can giờ Ất

sinh ở những tháng tị, dậu, sửu, thân ; Và trong 8 can chi đều không có hành

Hoả (khắc hành hoá đó), nên hoá Kim thành công. Vậy luận Thân / TA theo hành Kim.

Ví dụ :

giáp                                                                                  quý    ất                                                                                   canh

thân                                                                                  dậu    sửu                                                                                  thìn

Q1-ch9-tim-Cachcuc                                                                    19     02/01/2005

Ất-Canh hợp hoá Kim, sinh tháng dậu, kim vượng; Tứ trụ không có Hoả khắc kim, nên

hoá Kim rất thuần tuý, số rất cao.

5.5) Hoá Thuỷ cách : Bính Tân hợp hoá Thuỷ;

Can ngày Bính, can tháng Tân hay can giờ Tân

Can ngày Tân, can tháng Bính hay can giờ Bính

sinh ở những tháng thân-tý-thìn, hợi; Và trong 8 can chi đều không có hành Thổ

(khắc hành hoá đó), hay có nhưng là thấp thổ (đất ướt như Thìn, Sửu) thì không khắc

Thuỷ , nên hoá Thuỷ thành công. Vậy luận Thân / TA theo hành Thuỷ.

Ví dụ :

giáp                                                                                             bính   tân                                                                                       nhâm

thìn                                                                                             tý     sửu                                                                                       thìn

                                                                                                        Bính-Tân hợp; sinh muà đông thuỷ vượng, lại có nhâm lộ lên rất tốt đẹp ; tuy có Thìn và

                                                                                                        Sửu, nhưng là đất ướt (*) nên không khắc thuỷ, nên hoá Thuỷ thành công.

(*) - xem lại khô / ẩm

ất                                                                                               giáp   bính                                                                                      tân

hợi                                                                                              thân   thân                                                                                      mão

bệnh

Can ngày bính ở tháng thân là nằm ở bệnh địa; Giáp ất mão Mộc sinh Thân Bính

hoả , nhưng bị 2 thân Kim khắc, không còn đủ sức sinh Bính hoả nữa, vậy là không được

sinh. May nhờ có Bính - Tân hợp hoá Thuỷ, Thuỷ TS ở Thân , các can chi không có hành

thổ chế ngự Thuỷ, nên hoá Thuỷ thuần tuý, thành công; đây là một mệnh hiển hách.

(Ðây là trường hợp bính hợp tân sinh (**) : là tướng nắm quyền uy chúng ta sẽ có dịp trở lại ở

phần trường hợp điển hình).

(**) luận Thân/TA theo hành hoá, nó được Trường Sinh ở LT

Ngoại cách là những cách ít gặp, và cách tìm DT vì thế cũng khác biệt.

* HẾT *

Q1-ch9-tim-Cachcuc                                                                               20     02/01/2005

Chương 10A

TÌM HIỂU TRIẾT LÝ VỀ DỤNG THẦN

Định nghiã Dụng thần :

Ta đã thấy trong Tứ trụ (Mệnh cục) Thân thì có Vượng, có Nhược, Cách cục thì có

thành, có bại, có thái quá, có bất cập. Bây giờ trong 8 chữ ấy, nếu có 1 chữ trợ giúp

cho cách cục thành công, hay cứu giải khi nó bị phá hoại, chế ngự cái thái quá, cứu

vớt cái bất cập, hoặc giúp cho Nhật nguyên quá yếu, hay chế bớt nếu nó quá mạnh

(tất cả phải xét trên nhãn quan tương tác ngũ hành), thì chữ ấy gọi là Dụng thần.

Các trường phái trong Tử Bình đều nhất trí về vai trò chủ đạo của DT trong mệnh lý

học, nhưng mỗi phái có lối xác định nó khác nhau :

- Có phái dùng cách cục để tìm Dụng thần, phái này cũng chú ý đến Thân vượng

hay hay Thân nhược, nhưng nhấn mạnh về cách cục mà thôi;

- Có phái khác dưạ trên lý luận tổng hợp để định Thân vượng hay hay Thân

nhược, rồi tổng hợp toàn bộ các sinh khắc chế hoá cuả các ngũ hành trong

4T so với THÂN mà định DT.

Vì tầm quan trọng to lớn của DT trong khoa Tử Bình, Chúng ta sẽ dành riêng cho nó

1 chương (ch10B) để lần lượt nghiên cứu cả hai phái. Ở đây chúng ta chỉ lướt sơ

những điểm chủ yếu, ÐIỀU NÊN VÀ KHÔNG NÊN KHI CHỌN Dụng thần, trên quan

điểm ngũ hành, dù là theo Can ngày hay theo Thể tính.

Nói chung tất cả đều dựa trên nguyên lý ngũ hành sinh khắc, và tương quan lực

lượng giữa chúng; đó cũng là những nhận xét bình thường của con người trong nền

văn minh Nông nghiệp, sống nhiều với (trong và giữa) thiên nhiên..

§1- so sánh tương quan lực lượng của ngũ hành Can Ngày sinh   với ngũ

hành các Can-Chi khác.

Mục này sẽ cho chúng ta một số định nghiã về các từ ngữ thường dùng trong các sách về khoa Tứ

trụ.. Bạn nên nắm vững các định nghiã này, như trong - đục, nặng - nhẹ, dày - mỏng, mạnh - yếu,

thịnh - suy; thừa - thiếu … về sau chúng ta sẽ có dịp dùng đến luôn.

Can ngày Mộc : phải làm rõ thế của Mộc là thịnh hay suy ;

nếu Mộc thịnh mà Thuỷ cũng nhiều là thế Mộc thịnh, nên lấy Kim thích đáng

làm Dụng thần để làm yếu Mộc; nếu Kim quá ít thì lấy Thổ;

nếu Mộc yếu mà Kim rất mạnh thì thế cuả Mộc sẽ suy bại, nên dùng Hoả để

làm Dụng thần để chế ngự Kim; nếu Hoả quá ít thì lấy Mộc;

nếu Thuỷ mạnh quá, Mộc sẽ bị trôi dạt, Dụng thần nên lấy Thổ, thứ nữa có

thể dùng Hoả.

nếu Thổ quá mạnh Mộc sẽ biến thành suy nhược, nên lấy Dụng thần là Mộc,

thứ nữa là Thuỷ;

nếu Hoả mạnh quá, Mộc sẽ bị đốt thiêu, Dụng thần nên chọn Thuỷ, thứ nữa là

Kim.

ch10A-trietly DT                                                                                  1   02/01/2005

Can ngày Hoả : phải làm rõ lực của Hoả là dư thừa hay thiếu;

nếu thế của Hoả mạnh, Mộc lại nhiều, đó là Hoả dư thừa : nên chọn Thuỷ làm

Dụng thần để khống chế bớt Hoả; nếu Thuỷ yếu thì chọn Kim;

nếu thế của Hoả yếu, thế của Thuỷ vượng, đó là Hoả thiếu, Dụng thần nên

chọn Thổ để chế ngự Thuỷ; nếu Thổ suy nhược thì chọn Hoả;

nếu Mộc nhiều, Hoả sẽ càng nóng, Dụng thần nên chọn là Thuỷ để khống chế

Hoả; thứ nữa là Kim;

nếu Kim quá nhiều, Hoả sẽ bị tắt, Dụng thần nên chọn là Hoả, thứ nữa là

Mộc;

nếu Thổ quá nhiều thì Hoả sẽ bị mờ; Dụng thần nên lấy Mộc; thứ nữa là

Thuỷ.

Can ngày Thổ : phải làm rõ tính chất của Thổ là dày hay mỏng.

nếu Thổ kết nặng mà Thuỷ lại ít tức là Thổ dày, Dụng thần nên lấy Mộc để

làm thưa rời Thổ; nếu Mộc quá yếu thì lấy Thuỷ;

nếu Thổ nhẹ, mà Mộc thịnh quá thì đó là Thổ mỏng, Dụng thần nên lấy Kim

để chế ngự Mộc; nếu Kim yếu quá thì lấy Thổ;

nếu Hoả mạnh quá, Thổ sẽ bị thiêu đốt, Dụng thần nên chọn là Thuỷ để chế

ngự  Hoả; thứ nữa dùng Kim;

nếu Thuỷ quá nhiều thì Thổ sẽ bị trôi, Dụng thần nên lấy Thổ; thứ nữa dùng

Hoả;

Kim nhiều, Thổ sẽ suy nhược, Dụng thần nên lấy Hoả ; thứ nữa dùng Mộc.

Can ngày Kim : Phải làm rõ tính chất Kim là cứng hay mềm;

nếu Kim nhiều, Thổ lại dày, đó là Kim cứng, Dụng thần nên lấy Hoả luyện

Kim; nếu Hoả yếu quá thì lấy Mộc;

nếu Mộc rất nặng, Kim lại nhẹ là Kim mềm, Dụng thần nên chọn Thổ để sinh

Kim; nếu Thổ yếu quá thì lấy Kim;

nếu Thổ nhiều quá, Kim sẽ bị vùi lấp, Dụng thần nên lấy Mộc; thứ nữa dùng

Thuỷ.

nếu Thuỷ nhiều quá thì Kim sẽ chìm trong Thuỷ, Dụng thần nên lấy Thổ; thứ

nữa dùng Hoả;

nếu Hoả mạnh sẽ nóng làm cho Kim bị tổn thương, nên chọn Thuỷ làm Dụng

thần; thứ nữa là Kim.

Can ngày Thuỷ : phải làm rõ thế của Thuỷ mạnh hay yếu;

nếu Thuỷ nhiều, Kim lại nặng là Thuỷ mạnh, Dụng thần nên chọn Thổ để

phòng ngự và khống chế Thuỷ; nếu Thổ yếu quá thì dùng Hoả;

nếu Thuỷ rất yếu, Thổ lại nhiều là thế cuả Thủy yếu, Dụng thần nên chọn Mộc

để chế ngự Thổ; nếu Mộc yếu quá thì lấy Thuỷ;

nếu Kim mạnh quá, Thuỷ sẽ biến thành đục, Dụng thần nên chọn Hoả; thứ

nữa dùng Mộc;

nếu Hoả mạnh quá sẽ đốt khô Thuỷ, Dụng thần nên chọn Thuỷ; thứ nữa là

Kim;

nếu Mộc nhiều quá, Thuỷ bị dồn lại, dòng chảy không thông, Dụng thần nên

lấy Kim; thứ nữa dùng Thổ.

§2 - Cách lấy Dụng thần theo Thể tính (Ngũ hành của Can Ngày, và Mùa)

ch10A-trietly DT                                                              2   02/01/2005

Ta đã biết hành của mùa tác động mạnh trên các hành của Can-Chi Tứ trụ, nhưng

quan trọng nhất là trên TA (Can ngày). Và chi Tháng - tức Lệnh tháng- quyết định

mùa trong năm.

Vậy ở đây chúng ta xét chi tiết ảnh hưởng của khí ngũ hành của 4 mùa đối với ngũ

hành Can ngày, để thấy những điều nên hay không nên trong việc chọn Dụng thần.

Chú ý : khi đọc mục này, bạn không nên "tụng" theo nghiã ngũ hành sinh khắc, hay

theo vạn vật, mà nên liên tưởng tới kiếp người, ta đang học mệnh mà ! Chẳng hạn:

Mộc bị trôi dạt thì hãy nghĩ là mệnh đó phải tha phương cầu thực, bồng bềnh

trôi nổi;

Hoả âm ỉ thì người ấy ủ rũ, không năng động;

Cây không có trái thì hãy nghĩ đến câu "bất hiếu hữu tam …"

Cây đã trơ trụi lá mùa đông, mà còn lâm Tử tuyệt thì hãy nghĩ đến cái chết,

hay mệnh yểu;

Tóm lại là "ý tại ngôn ngoại" …

Can ngày MỘC đối với 4 mùa

Mùa xuân : Mộc còn mang dư khí của cái lạnh mùa đông,

nếu gặp được Hoả để làm ấm lại mới có thể tránh được những tai hoạ

cây cành bị cong queo;

nếu găp được Thuỷ để tưới nhuận sẽ thoải mái, tươi tốt; nhưng

nếu Thuỷ quá nhiều, cây sẽ bị úng nước, hay mục nát;

nếu Thuỷ quá ít, cây sẽ bị khô héo;

do đó cần Thuỷ Hoả thích hợp mới là tốt nhất;

nếu gặp Thổ quá nhiều sẽ làm tổn hao nội lực của cây, nên đáng ngại;

nếu Thổ mỏng thì cây dễ mọc và phát triển.

nếu gặp được Kim thì Mộc sẽ thành cứng cáp, khi đó dù có gặp Hoả cũng

không đến nỗi bị tổn thương. Nếu Mộc tự thân đã rất mạnh thì dù gặp

Kim cũng không đáng sợ; nó vẫn tiếp tục phát triển như thường.

Mùa hạ :   cây từ cong queo biến thành thẳng, cành tán vươn ra. Nhưng khí nóng

làm rễ cây và lá đều rất khô;

nếu gặp được Thuỷ nhiều thì cây được tưới nhuận;

nếu gặp Hoả nhiều thì Mộc bị đốt;

nếu gặp được Thổ mỏng thì tốt, không nên gặp Thổ dày, vì Thổ dày

quá đối với Mộc là tai nạn;

nếu gặp Kim mạnh thì không hay mà chỉ nên gặp Kim yếu; vì nếu Kim

mạnh quá thì Mộc bị khống chế, như cây đã phát triển, lá hoa xum

xuê mà không kết quả được (mệnh không có con, tuyệt tự).

Mùa thu :

đầu thu trời còn nóng, Mộc mong gặp được Thuỷ, Thổ để được nuôi dưỡng

phát triển;

ch10A-trietly DT                                                                   3   02/01/2005

giữa thu, trái cây đã hình thành, mong gặp Kim cứng để hái quả;

sau tiết sương giáng thì không nên gặp Thuỷ thịnh, vì Thuỷ thịnh quá sẽ

cuốn trôi Mộc;

trước tiết hàn lộ nên gặp Hoả mạnh để sưởi ấm, làm cho Mộc bền chắc;

Mộc nhiều thì nguyên liệu tốt;

Thổ nhiều, Mộc quá dày thì Mộc không thể sinh trưởng tốt tươi được.

Mùa đông :

Mộc mong gặp Thổ nhiều để nuôi dưỡng;

Gặp Thuỷ nhiều thì Mộc bị dìm lấp (trong băng);

Kim nhiều cũng không làm Mộc tổn hại;

Hoả có tác dụng sưởi ấm cho Mộc;

Muà đông lá rụng, thế của Mộc suy yếu; nếu gặp Tử, Tuyệt thì gay go (mệnh

yểu); nếu gặp sinh, vượng thì sẽ sống.

Can ngày HOẢ đối với 4 mùa

Mùa xuân :  Mộc sinh Hoả, cả hai cùng vượng, thế lực song song;

gặp Mộc thì được phù trợ, nhưng Mộc không nên vượng quá, vì nó sẽ làm Hoả

trở thành cháy bỏng; trong trường hợp đó mong có Thuỷ để hòa Hoả;

nhưng Thuỷ cũng không nên nhiều, vì nó sẽ làm tắt Hoả;

Thổ nhiều thì Hoả sẽ biến thành âm ỉ (không sáng);

Hoả vượng quá sẽ bốc lên mãnh liệt;

Gặp Kim có thể mở rộng uy thế của Hoả; cho dù Kim rất nhiều cũng vẫn tốt.

Mùa hạ : là lúc Hoả đang có khí thế;

gặp Thuỷ để chế ngự nó thì sẽ tránh được tai nạn tự đốt (hại) mình;

gặp Mộc thì được phù trợ, tránh được mối lo chết yểu;

nếu gặp Kim sẽ càng phát đạt; ) tuy cả 2 có lợi nhưng nếu không có Thuỷ thì

gặp Thổ cũng tốt;                                                             ) Kim sẽ khô khan, Thổ bị đốt nóng; nếu còn

) thêm Hoả nữa thì thế Hoả mạnh quá dễ dẫn

) đến tổn hại.

Mùa thu : tính chất Hoả đã trầm lặng, thân thể nhàn nhã;

nếu được Mộc phù trợ thì sẽ có điều tốt (được sáng thêm lần nữa);

nếu gặp Thuỷ xung khắc thì khó tránh khỏi bị dập tắt;

Thổ quá nhiều Hoả sẽ bị che lấp (hoả mờ);

Kim quá nhiều sẽ cướp đi uy thế của Hoả;

Gặp Hoả thì sẽ làm Hoả tăng thêm độ sáng; có nhiều càng lợi.

Mùa đông : hình thể Hoả đã hao mòn, tuyệt diệt;

Mong gặp Mộc để phù trợ (thêm sức);

nếu gặp Thuỷ xk sẽ khó tránh khỏi tai ương; trong trường hợp này nên có

Thổ để khống chế bớt Thuỷ;

gặp Hoả sẽ tăng thêm sức lực; có lợi cho việc sinh tồn;

gặp Kim : Hoả mùa đông khó khắc được Kim; trong mệnh nếu không có Kim

thì cũng không bị tổn thất.

ch10A-trietly DT                                                              4                                             02/01/2005

Can ngày THỔ đối với 4 mùa

Mùa xuân : Mộc vượng, còn Thổ thế lực rất cô đơn yếu ớt;

Mong có Hoả để sinh phù;

Sợ nhất bị Mộc khắc;

Mong gặp Thổ để được phù trợ;

sợ gặp Thuỷ , Thổ sẽ bị cuốn trôi;

nếu gặp được Kim để khống chế Mộc thì Thổ sẽ có lực; nhưng nếu Kim vượng

quá sẽ làm Thổ bị tiết khí.

Mùa hạ : Thổ rất khô khan;

gặp đại Thuỷ để tưới nhuận sẽ rất tốt;

gặp vượng Hoả thì càng khô khan hơn, khó tránh khỏi tổn hại;

Mộc phù trợ thế của Hoả, cho nên Mộc và Hoả đều không thích hợp Thổ ở TS;

Kim có thể sinh Thuỷ, Thuỷ đầy đủ   sẽ khiến cho Thổ mùa hạ mạnh mẽ; lúc

đó nếu gặp Thổ phù trợ thì Thổ càng thêm mạnh; ngược lại thì bị

trắc trở không thông;

nếu Thổ mạnh quá thì nên gặp Mộc để khống chế.

Mùa thu : Thổ sinh Kim, làm mẹ suy con vượng;

Kim nhiều quá sẽ làm Thổ bị tiết khí;

nếu mộc thịnh sẽ khống chế Thổ;

Hoả dù thịnh cũng không đáng sợ;

chỉ sợ Thuỷ mạnh thì không tốt;

nếu gặp Thổ thì được phù trợ mạnh lên;

sinh tiết sương giáng thì dù không gặp Thổ cũng không còn gì đáng ngại.

Mùa đông : Thổ bề ngoài giá lạnh, nhưng trong ôn ấm;

gặp Thuỷ mạnh càng tốt cho Thổ;

nếu Kim nhiều quá, Thổ sẽ trở thành phú quý;

nếu Hoả quá thịnh sẽ làm cho Thổ thêm phồn vinh; Mộc nhiều cũng không trở

ngại;

nếu gặp Thổ thì càng tốt, vừa cường tráng lại vừa thọ;

Can ngày KIM đối với 4 mùa

Mùa xuân : Kim muà xuân, trên thân còn khí lạnh chưa hết; thân thể còn yếu, tính

cách mềm mại;

nếu gặp Hoả để làm Kim lớn mạnh , phồn vinh thì rất quí;

Thổ trợ giúp Kim ( còn mềm mại) : tốt;

Thuỷ quá nhiều, Kim sẽ thành hàn lạnh, nên từ có ích trở thành vô dụng;

Mộc quá mạnh sẽ làm Kim dễ gảy vụn; vốn cứng trở thành mềm;

gặp Kim phù trợ là tốt nhất; nhưng nếu không có Hoả (luyện Kim) thì cũng

chưa tốt lắm;

Mùa hạ : Kim mùa hạ càng thêm mềm yếu, hình thể và phẩm chất chưa trưởng

thành đầy đủ; nên rất sợ thân thể biến thành yếu đuối;

ch10A-trietly DT                                                                   5   02/01/2005

Thuỷ mạnh chế bớt Hoả nên đối với Kim mùa hạ là tốt nhất; còn hoả nhiều

thì xấu;

Gặp Kim hỗ trợ thì Kim càng mạnh;

nếu gặp Mộc là tăng điều hại cho bản thân;

Thổ dày quá sẽ vùi lấp Kim; Thổ mỏng thì có lợi cho Kim sinh trưởng.

Mùa thu : là lúc khí thế cuả Kim đang mạnh ;

gặp Hoả để luyện Kim thì mới trở thành những dụng cụ có ích ;

gặp Thổ , Kim sẽ được tư dưỡng trưởng thành (tốt) ;

nếu không gặp Thổ thì khí Kim sẽ đục, không hay ;

gặp Thuỷ thì tinh thần càng tươi đẹp ;

gặp Mộc, Mộc sẽ được điêu khắc thành có giá trị, nên rất tốt ;

gặp Kim thì càng trở nên cường tráng ; nhưng coi chừng, nếu cường tráng

quá sẽ dễ gảy ;

Mùa đông : hình thể Kim hàn lạnh, tính chất cũng lạnh giá ;

gặp Mộc nhiều cũng khó thành đồ gia dụng (hữu dụng) ;

Thuỷ vượng quá thì khó tránh khỏi tai nạn bị chìm (coi chừng chết nơi sông

nước);

Thổ - chế phục Thuỷ (mùa đông) - nên gặp Thổ thì thân thể Kim không đến

nỗi                                                                          lạnh giá ;

gặp Hoả (sinh Thổ) : cả hai đều tốt đối với Kim ;

gặp Kim : được phù trợ ; nếu còn gặp Quan Ấn (hoả, thổ) để ôn dưỡng thì

càng                                                                         diệu kỳ.

Can ngày THUỶ đối với 4 mùa

Mùa xuân : Thuỷ dầm dề;

nếu gặp Thổ thì nó bị chế ngự, tránh được tai hoạ loang chảy; không có Thổ

thì nước sẽ chảy tản mát đi.

nếu gặp Thuỷ hỗ trợ thì có thể dẫn đến nạn hồng thuỷ vỡ đê;

nên gặp Kim để được phù trợ, nhưng không nên nhiều Kim quá;

mong gặp Hoả để khống chế, nhưng Hoả không nên mạnh quá;

gặp Mộc thì Mộc được tưới nhuận, phát triển tốt;

Mùa hạ : Thuỷ bên ngoài Thực, bên trong hư; đây chính là lúc nó đang khô;

Mong gặp Thuỷ để được phù trợ;

nếu gặp Kim để sinh cho thì càng tốt;

sợ nhất gặp vượng Hoả;

Mộc vượng quá sẽ làm Thuỷ tiết khí;

Thổ vượng quá, nặng quá sẽ khắc mất nguồn của Thuỷ.

Mùa thu : Kim mùa thu sinh Thuỷ, nên cả hai cùng vượng;

gặp Kim sinh Thuỷ thì Thuỷ càng trong, tinh khiết;

gặp vượng Thổ thì Thuỷ trở thành đục;

Hoả nhiều sẽ có lợi cho Thuỷ, nhưng không nên quá nhiều, quá mạnh;

Mộc nhiều cũng khiến cho thuỷ tự mình phồn vinh; nhưng cũng chỉ nên Mộc

vừa phải mới thích hợp;

ch10A-trietly DT                                                             6            02/01/2005

gặp Thuỷ quá nhiều thì có nguy cơ tràn trề; lúc đó phải cần nhiều Thổ để

ngăn lại mới mong được an nhàn.

Mùa đông : Thuỷ mùa đông là lúc có khí thế;

gặp Hoả thì sẽ trừ được hàn khí đầy mình;

gặp Thổ thì Thuỷ sẽ bị dồn hẹp lại;

gặp Kim nhiều thì Thuỷ không còn có nghiã;

gặp Mộc nhiều thì Thuỷ hữu tình (sinh Mộc);

mùa đông nếu Thuỷ yếu thì nên có Thuỷ trợ giúp; nếu Thuỷ mạnh quá thì

cần có Thổ nhiều để làm đê chắn giữ lại.

ch10A-trietly DT                                                           7   02/01/2005

Chương 10B

DỤNG THẦN CUẢ TỨ TRỤ

Công dụng của DT

Chọn DT theo phái chú trọng cách cục.

Chọn DT theo phái lý luận cân bằng tổng hợp.

Sinh phù, áp chế                                                                                          Ðiều hầu

Thông quan

Hỷ, Kỵ của DT

Luận về sự tốt xấu cuả DT

Nhắc lại Định nghiã Dụng thần (ch10A) :

Trong Tứ trụ (Mệnh cục) Thân thì có Vượng, có Nhược, Cách cục thì có thành, có bại, có thái quá, có bất

cập. Bây giờ trong 8 chữ ấy, nếu có 1 chữ trợ giúp cho cách cục thành công, hay cứu giải khi nó bị phá

hoại, chế ngự cái thái quá, cứu vớt cái bất cập, hoặc giúp cho Nhật nguyên quá yếu, hay chế bớt nếu nó

quá mạnh (tất cả phải xét trên nhãn quan tương tác ngũ hành), thì chữ ấy gọi là Dụng thần.

Trong chương 9, ta đã nói công dụng của cách cục là để tìm DT. Ở đây, chúng ta tìm

hiểu cách xác định DT từ các cách cục đó, hay từ các cách giống giống như vậy.

Công dụng cuả DT :

Khi một người bị bệnh thì thầy thuốc khám bệnh, để tìm ra bệnh mà cho thuốc chữa.

Còn trong MC, bệnh của mệnh là trong 8 chữ vốn có sẵn mầm hại;

Nếu trong 8 chữ đó lại có cái có thể khử được bệnh thì đó là thuốc của mệnh. Thuốc để

trị bệnh của mệnh gọi là DỤNG THẦN.

Vai trò cuả thầy đoán mệnh là tìm bệnh của mệnh, và tìm ra thuốc cho mệnh. Nếu

trong MC không có thuốc thì thầy phải khuyên người ấy dùng các thuốc nhân tạo;

chúng ta sẽ trở lại vấn đề này trong phụ lục giải nạn.

4T của người ta là tổ hợp các thiên can điạ chi , âm dương ngũ hành. Có khi các tổ hợp

đó không cân bằng, mà thái quá hoặc bất cập;

thái quá là trường hợp như thân vượng mà không có cái chế ngự;

bất cập là trường hợp như thân nhược mà còn bị cái chế áp;

cả hai trường hợp là mệnh có bệnh.

Ví dụ một người có 4T thuần Thổ (thổ nhiều quá):

nếu can ngày là                                                                                           Thuỷ  là   thân nhược    Sát nặng;

nếu can ngày là                                                                                           Kim   là   Thổ nhiều   Kim bị vùi lấp;

nếu can ngày là                                                                                           Hoả   là   Thổ nhiều    làm Hoả mờ;

nếu can ngày là                                                                                           Mộc   là   Tài nhiều                     Thân nhược;

nếu can ngày là                                                                                           Thổ   là   Tỷ Kiếp quá mạnh;

vậy Thổ ở các cas trên đây đều là bệnh của mệnh, và Mộc là y mệnh (thuốc chữa mệnh,

vì Mộc khắc được Thổ).

Dụng thần là then chốt để trung hòa, cân bằng cho mênh cục, là chuẩn tắc để phán

đoán cát hung, hoạ phúc của tứ trụ. Chức năng của nó là hạn chế cái mạnh, phù trợ cái

yếu, khiến cho ngũ hành quá vượng được áp chế, rút khí , hao tán; yếu thì được sinh

Q1-ch10-dungthan                                                                                          1          02/01/2005

phù, làm cho sự mạnh yếu, vượng suy, hàn ôn của các hành hướng tới trung hòa, cân

bằng, không bị thái quá hoặc bất cập.

Luận số mệnh trong khoa Tử Bình chỉ trên một chữ này. Cách cục là phần xác (Thể),

Dụng thần là linh hồn (Dụng) của mệnh.

Dụng thần mạnh thì thành công lớn, yếu thì thành công nhỏ; còn mệnh không

có Dụng thần là hạ cách.

Ngoài ra, dù Dụng thần mạnh , nhưng cũng phải nhờ vận giúp mới hay, phú quí trước

mắt; còn nếu vận chế phá Dụng thần, thì thất bại, phá sản … cũng lập tức gặp phải.

Cho nên Dụng thần đi đôi với đại vận, lưu niên; đối chiếu cả ba sẽ thấy ngay hoạ phúc

cuả cả đời người, và biết chúng ứng nghiệm ở thời gian nào.

Ðây là tinh yếu của cuả cách luận vận hạn và thời gian ứng nghiệm , nên chúng ta sẽ

trở lại thâm cứu chi tiết vấn đề này trong 1 chương riêng.

Vì DT quan trọng như thế nên ta phải cẩn trọng trong việc xác định nó, nếu không sẽ

sai một ly đi một dặm.

I - TÌM DỤNG THẦN theo Phái Ứng dụng CÁCH CỤC

Ðể tìm DT, người xưa đã dựa vào cách cục (tuỳ chính cách hay ngoại cách), lý do

là vì như ta đã biết : cách cục căn cứ trên tương quan giữa lệnh tháng và Can ngày; mà

LT là yếu tố quyết định vượng hay suy cuả can ngày (và cuả vạn vật nói chung, qua

mùa); thêm nưã, Can tàng trong Chi tháng phải có Can lộ tương ứng, nghiã là gốc rễ

bền chặt (vậy xét cách cục đã nghiêm túc lắm rồi). Cái nào tác hại lên nó là mầm bệnh, là

bệnh.

Nguyên tắc cơ bản để định DT là : Bệnh là cái (x) làm hại cho Cách cục (như khắc, làm

hao tổn hay rút khí) ; Thuốc (DT) là cái khử trừ  cái (x) ấy.

Ta có bảng tóm tắt sau đây :

Cách cục                                                                                    bệnh                   dụng thần (thuốc)

Thương quan, hay                                                                            Ấn, Kiêu               Chính tài, Thiên tài

Thực thần

Tỷ, Kiếp                                                                                    Quan, Sát              Thương, Thực

Chính tài, Thiên tài                                                                        Tỷ, Kiếp               Quan, Sát

Ấn, Kiêu                                                                                    Chính tài, Thiên tài   Tỷ, Kiếp

Quan, Sát (*)                                                                               Thương, Thực           Ấn, Kiêu

(*) Ví dụ : sinh ngày Giáp (mộc) tháng 8 Dậu (mùa Thu) là Chính quan cách; thể tính là

Thu mộc; Cách cục và Thể tính đều là Kim khắc mộc; Can ngày sinh Nhược (Giáp Thai ở

Dậu), lại bị khắc, vậy phải dùng Ấn để hoá Quan đi, và sinh Thân, hoá địch thành bạn,

thông quan, thành liên tục sinh (Quan sinh Ấn, Ấn sinh Thân) , nên Ấn là Dụng thần.

Đó là những trường hợp thông thường. Nhưng trong thực tế, khi chọn DT, ta thường

găp trường hợp bệnh nặng thuốc nhẹ, hay ngược lại bệnh nhẹ thuốc nặng. Khi đó cần

phải dựa vào Cung mệnh, hay vận trình (đại vận, lưu niên, tiểu vận) để xem có bổ cứu

Q1-ch10-dungthan                                                                            2                      02/01/2005

được không; tức là phải xem các Thiên can cuả các vận trình trên là (10) thần gì, có

phải là DT ta cần không.

Nếu gặp được vận như thế thì rất tốt; đó là những vận tốt nhất trong đời của đương số.

Có lúc DT là hành cần tìm lại vắng bóng trong MC thì chúng ta vẫn có thể dùng DT nhân

tạo để bổ sung cho hành đang thiếu đó. Ví dụ :

Trong 4T các Thiên can đều là Mộc, còn các điạ chi thì có Thuỷ, Hoả , Thổ, nhưng không có Kim.

Mộc thái quá nên phải lấy Kim làm DT, nhưng Kim lại không có thì làm sao ? Lúc đó phải cần nhờ

sự tác động nhân tạo, như đến sinh sống, làm việc ở phiá Tây nơi sinh của CHA mình, hoặc đặt

tên có thêm các bộ Kim.

Ngoài ra, cũng có thể dùng Hoả làm DT, vì Mộc phải sinh Hoả, nên bị tiết bớt vượng khí đi, không

còn tác hại mệnh chủ nữa.

Cái quý trong 8 chữ là sự trung hoà. Tức là trong 4T âm dương ngũ hành đều đủ cả, và

sinh khắc giưã chúng được cân bằng. Sách mệnh lý thám nguyên có viết :

bệnh nặng mà được thuốc là đại phú đại quí;

bệnh nhẹ mà được thuốc là tiểu phú tiểu quí;

không có bệnh và không có thuốc là người không phú không quí vậy.

Tuy nhiên, cần chú trọng thể tính cuả MC ; nếu sinh vào muà hạ hay muà đông, mà hoả

hay thuỷ quá vượng thì phải « điều hầu » (xem phái kia).

Cách cục có chính cách và ngoại cách; chúng ta lần lượt xét cách tìm dụng thần cho tất

cả các CÁCH đã được biết ở chương 9.

CHÍNH CÁCH

Chính quan cách

TN, Tài mạnh, nên lấy Tỷ Kiếp làm Dụng thần; không có thì lấy Ấn;

TN, Thương Thực nhiều, lấy Ấn làm Dụng thần;

TN, Quan Sát mạnh, lấy Ấn làm Dụng thần;

TV, Tỷ Kiếp nhiều, lấy Quan tinh làm Dụng thần                                                     (cách cục tương kiêm);

TV, Ấn nhiều, lấy Tài làm Dụng thần;

TV, Thương Thực nhiều, lấy Tài làm Dụng thần;

Thất sát cách

TN, Tài nhiều, nên lấy Tỷ Kiếp làm Dụng thần;

TN, Thương Thực nhiều, lấy Ấn làm Dụng thần;

TN, Quan Sát mạnh, lấy Ấn làm Dụng thần;

TV, Tỷ Kiếp nhiều, lấy Ấn làm Dụng thần ;

TV, Ấn nhiều hay mạnh, lấy Tài làm Dụng thần;

TV, Quan Sát mạnh, lấy Thương Thực làm Dụng thần;

Thiên tài, Chính tài cách

TN, Thương Thực nhiều, lấy Ấn làm Dụng thần;

TN, Tài mạnh quá, nên lấy Tỷ Kiếp làm Dụng thần;

TN, Quan Sát nhiều, lấy Ấn làm Dụng thần;

Q1-ch10-dungthan                                                                                   3                        02/01/2005

TV, Tỷ Kiếp nhiều, lấy Thương Thực làm Dụng thần;

TV, Ấn nhiều, lấy Tài làm Dụng thần (cách cục tương kiêm);

Thiên ấn, Chính ấn cách

TN, Quan Sát nhiều, lấy Ấn làm Dụng thần (cách cục tương kiêm);

TN, Thương Thực nhiều, nên lấy Ấn làm Dụng thần (cách cục tương kiêm);

TN, Tài tinh nhiều, lấy Tỷ Kiếp  làm Dụng thần;

TV, Tỷ Kiếp nhiều, có Quan hay Sát, lấy Quan, Sát làm Dụng thần; nếu không

có thì lấy Thương Thực ;

TV, Ấn đắc điạ hay vượng thịnh, lấy Tài làm Dụng thần.

TV, Tài tinh mạnh, lấy Quan hay Sát  làm Dụng thần.

Thương quan cách

TN, Quan Sát nhiều, lấy Ấn làm Dụng thần ;

TN, Tài tinh mạnh, nên lấy Tỷ Kiếp  làm Dụng thần ;

TN, Thương Thực nhiều, lấy Ấn  làm Dụng thần;

TV, Tỷ Kiếp nhiều, lấy Thất sát làm Dụng thần ;

TV, Ấn nhiều, lấy Tài làm Dụng thần.

Thực thần cách

TN, Quan Sát nhiều, lấy Ấn làm Dụng thần ;

TN, Tài tinh mạnh hoặc nhiều, nên lấy Tỷ Kiếp  làm Dụng thần ;

TN, Thương Thực mạnh, lấy Ấn  làm Dụng thần;

TN, Ấn mạnh, lấy Tài  làm Dụng thần.

TV, Tỷ Kiếp mạnh, lấy Thương Thực làm Dụng thần ;

TV, Tài tinh mạnh hoặc nhiều, lấy Quan hay Sát làm Dụng thần.

NGOẠI CÁCH

Nhận định về NGOẠI CÁCH :

- Cách Kiến Lộc : vì sinh trong tháng LỘC nên Nhật nguyên đã rất mạnh (không phải

như các CHÍNH cách trên, phải nhờ các chi năm, ngày, giờ giúp - nếu có - mới được

mạnh), nó có thể điều khiển được TÀI, QUAN, THỰC, THƯƠNG, nếu Mệnh cục phối hợp

điều hoà thì thành công dễ dàng (thấy Lộc !).

- Cách Kình dương (Dương Nhận) :

Cách cục này CHI tháng là   KIẾP nên nhật nguyên đã quá vượng thịnh; nếu Mệnh cục

có nhiều Tài, Sát   để chế áp hay làm hao tổn bớt vượng khí của Thân đi thì cách cục rất

hoàn mỹ.

Nói chung, hai cách Kiến Lộc và Kình dương vì có vượng khí bởi chi tháng, Nhật nguyên

đã được SV, nên chế bớt đi ; Dụng thần phải chọn phải có vai trò chế bớt vượng khí

này.

Q1-ch10-dungthan                                                                           4   02/01/2005

- Các cách Mộc, Hỏa, Thuỷ, Kim, Thổ theo thuật ngữ Việt hoá cuả chúng ta (tên

chính thức là Khúc trực, Diêm thượng, Nhuận hạ, Tùng cách , Gia thích) : vì địa chi của tháng lại

gặp Tam Hợp Cục   hay Tam Hội Cục (phương vị) nên hành (của chi tháng) ấy đã rất

vượng, lại không có Thần khác chế ép, thì nên theo ngũ hành của Cục mà "xuôi giòng"

, chẳng khác nước đang chảy quá mạnh, không nên ngăn (đúng ra là không có cách

nào ngăn nổi) mà nên xuôi theo (tránh voi chả xấu mặt nào !). Hành này nếu bị hành của

Vận khắc chế thì Vận đó không tốt.

- Các cách Tùng Tài, Tùng Sát, Tùng Quan, Tùng Nhi, Tùng Vượng, Tùng

Cường : Tứ trụ có 1 hành SV, còn các hành khác hoặc không có, hoặc tuy có nhưng lực

quá yếu - nói cách khác là ngũ hành thiên khô, nên phải thuận theo hành mạnh đó mà

đi, nếu nghịch thì bị họa ngay.

- Các Hóa khí cách :   Can ngày gặp hợp hoá, nên tính chất ngũ hành của nó đã biến

hoá, phải chuyển qua hành hoá ra đó - coi như hành của Can NGÀY - mà đoán số

mệnh. Ví dụ Can ngày Ðinh hoả gặp Can tháng hay Giờ Nhâm thuỷ, theo lẽ là thuỷ hoả

bất tương dung là xấu, nhưng 2 Can này hợp hoá thành hành Mộc, không còn thuỷ hoả

gì nữa, mà phải luận theo như can ngày là hành Mộc.

Chú ý :

- Trường hợp đặc biệt : nếu Can ngày là Kỷ thổ, thì Tân kim = Thực thần, Bính hoả =

Chính ấn ; nếu về Can Ngày và Can Giờ ta có Giáp hợp Kỷ hoá Thổ, thì tương tự Bính-

Tân cũng hợp hoá ra Thuỷ, không còn là Ấn và Thực thần nữa mà đã chuyển thành Tài

tinh . Tương tự, các hoá khí cách khác phải biến như vậy mới đúng cách. Ví dụ :

Năm                                                                                                 tháng   ngày          giờ

Trước khi nói hợp hoá :

Bính                                                                                                Tân     Kỷ            Giáp

Ấn                                                                                                  Thực    nhật nguyên   Quan

Sau khi xét hợp hoá (ở đây là Can Năm và Can Tháng , can ngày và can giờ), ta có :

Tài                                                                                                 Tài     TA (Thổ)      Tỷ

- Trên Thiên can gặp Ngũ hợp thì hoá ngay, còn địa chi gặp Lục hợp thì không hoá

được, vì trong Chi ẩn tàng nhiều Thiên can, cho nên không hoá được.

Sau đây là cách xác định DT theo các ngoại cách (chúng ta dùng một số thuật ngữ đã

đề nghị để dễ nhớ và/hoặc tránh trùng lặp) :

1) Chuyên vượng cách :

Nguyên tắc là vượng hành nào thì lấy hành đó làm Dụng thần, không có thì lấy hành

sinh nó; không có nữa thì lấy hành nó sinh; cuối cùng mới lấy hành nó khắc.

Mộc cách

lấy hành Mộc làm Dụng thần; rất kỵ KIM;

gặp Thuỷ cũng tốt;

Q1-ch10-dungthan                                                                                    5       02/01/2005

gặp Hoả càng hay;

nếu gặp Thổ thì Mệnh cục nên có hành Hoả .

Hoả cách

lấy hành Hoả làm Dụng thần; rất kỵ Thuỷ;

gặp Mộc cũng tốt;

gặp Thổ càng hay; có Thổ mà Mệnh cục có hành Kim (Tài tinh), sẽ rất tốt .

Thổ cách

lấy hành Thổ làm Dụng thần; rất kỵ Mộc;

gặp Hoả cũng tốt;

gặp Kim càng hay; có Kim mà Mệnh cục có hành Thuỷ (Tài tinh), sẽ rất tốt .

Kim cách

lấy hành Kim làm Dụng thần; rất kỵ Hoả;

gặp Thổ cũng tốt;

gặp Thuỷ càng hay (thuỷ chủ trí nên thông minh lỗi lạc); có Thuỷ mà mệnh

cục có hành Mộc (Tài tinh), sẽ rất tốt .

Thuỷ cách

lấy hành Thuỷ làm Dụng thần; rất kỵ Thổ (Mậu, Kỷ, Mùi , Tuất);

gặp Kim cũng tốt;

gặp Mộc càng hay (thuỷ chủ trí nên thông minh lỗi lạc); có Mộc mà Mệnh cục

có hành Hoả (Tài tinh), sẽ rất tốt .

2) Tùng vượng cách : nguyên tắc là Tùng cái gì thì lấy cái đó làm Dụng thần, không

có mới lấy cái sinh nó, cuối cùng mới lấy cái nó sinh.

Có cái nó khắc thì xấu (kỵ); có cái khắc nó là tối kỵ (tai hoạ).

Tùng tài cách

Nên lấy Tài làm Dụng thần; kỵ Tỷ Kiếp và Ấn;

Nên có Thương Thực sinh Tài càng tốt;

gặp Quan Sát cũng không ngại.

Tùng sát cách

Nên lấy Sát làm Dụng thần; kỵ Tỷ Kiếp và Ấn;

Nên có Tài sinh Sát càng tốt;

Rất kỵ Thương Thực kháng Sát.

Tùng nhi cách

Nên lấy Thương Thực làm Dụng thần; kỵ Quan Sát vì chúng là địch, hại nhau;

Nên có Tài càng tốt;

gặp Tỷ Kiếp cũng được, vì Tỷ Kiếp sinh Thực Thương;

Tối kỵ gặp Ấn, vì Ấn khắc chế Thương Thực, phá cục.

Tùng tỷ cách (tức Tùng vượng cách)

Nên lấy Tỷ Kiếp làm Dụng thần; kỵ Quan Sát phá cục;

Tối kỵ gặp Tài, vì nếu có thì Tỷ Kiếp tranh Tài, cực kỳ nguy hiểm (mệnh yểu);

Q1-ch10-dungthan                                                                     6   02/01/2005

Tùng ấn cách  (tức Tùng cường cách)

Nên lấy Tỷ, Ấn làm Dụng thần;

rất kỵ những hành Tài Quan Thực Thương phá cục; nếu gặp phải 1 trong

những hành trên thì tai hoạ sẽ xảy ra ngay;

3) Kiến lộc cách

(chi tháng là Tỷ kiên của Can ngày; là lộc - tức lâm quan - của can ngày nên nhật nguyên rất vượng

thịnh).

Nếu Tài quá nhiều, nên lấy Tỷ Kiếp làm Dụng thần;

Nếu Tài  nhiều, mà nhật nguyên có nhiều Tỷ Kiếp trợ giúp, nên lấy Quan Sát

làm Dụng thần;

Quan Sát nhiều, quá mạnh, nên lấy Ấn làm Dụng thần;

Quan Sát nhiều,  nên lấy Tài làm Dụng thần;

Thương Thực nhiều, Quan Sát nhiều, nên lấy Ấn làm Dụng thần;

Thương Thực nhiều, không có Quan Sát , nên lấy Tài làm Dụng thần;

Tỷ Kiếp nhiều, tức nhật nguyên quá vượng , nên lấy Quan Sát  làm Dụng

thần;

Ấn nhiều, tức nhật nguyên quá vượng , nên lấy Tài  làm Dụng thần;

4) Kình dương cách (hay Dương nhận cách)

(chi tháng là Kiếp tài của Can ngày; là Ðế vượng của can ngày nên nhật nguyên quá vượng thịnh).

Nếu Tài quá nhiều, nên lấy Quan Sát làm Dụng thần;

Quan Sát nhiều, nên lấy Tài làm Dụng thần;

Thương Thực nhiều, nên lấy Tài làm Dụng thần;

Tỷ Kiếp nhiều,  nên lấy Quan Sát  làm Dụng thần;

Ấn nhiều, tức nhật nguyên quá vượng , nên lấy Tài  làm Dụng thần;

Nếu Tài Quan Thương Thực nhiều, hổn tạp, nên lấy Ấn làm Dụng thần;

Vài ví dụ về việc xác định DT theo cách cục :

1) 4T của Tưởng giới Thạch : Nam

Kim thần

Kiêu                                                                                                 Thương      nhật nguyên   Thương

Ðinh mão                                                                                             canh tuất   ngày Kỷ tị    canh ngọ

Mậu đinh tân

Tháng tuất thuộc muà Thu; Can ngày Kỷ Thổ, vậy Thể tính là "thu thổ " .

Chi tháng Tuất tàng 3 can Mậu Tân Đinh; Mậu không có can Lộ; Đinh có; nhưng chọn

Tân Kim vì có 2 can lộ là Canh kim - phù hợp với Thể tính - nên là Thổ-Kim thương

quan cách.

Ngọ - tuất bán hợp hoả, Có Ðinh lộ trên can năm,  là Thiên ấn ;

Sinh muà thu Kim nắm lệnh, Thổ vượng , Kim thần (trụ ngày) mạnh; vậy Kim quá

mạnh. Nhờ có Đinh hoả và Hoả cục chế ngự bớt Kim (tức Thương quan có chế), nên lấy

đinh hoả làm DT. Như thế gọi là « Kim thần nhập hoả, quyết chủ võ quí », con người

quyền uy, nhưng cũng ưa sát phạt ; lại chuyên đoán.

2) 4T một chủ tịch tỉnh cuả Trung quốc: Nam

Q1-ch10-dungthan                                                                                     7           02/01/2005

Thương                                                                                   Ấn              nhật nguyên      Thực

Mậu thìn                                                                                 Giáp dần        ngày Ðinh mão    Kỷ dậu

                                                                                         Giáp bính mậu                    Tân

Tài

Đinh hoả sinh tháng 1, nên Thể tính "xuân hoả " .

Dần-mão-thìn tam hội đông phương Mộc cục. Giáp tàng trong Dần, lộ ra thành Ấn, nên

là cách Chính ấn. Mộc nhiều nên Hoả bị đè nghẹt, nên lấy Kim là Tài tinh trên trụ giờ

làm DT, để làm hao tổn Ấn.

Người này vào vận Canh thân, Tân dậu thì DT Kim đắc điạ nên được thăng lên làm chủ

tịch tỉnh.

3) 4T một viện trưởng viện nghiên cứu : Nam

Kiếp                                                                                     Quan            nhật nguyên      Thực

Ðinh mão                                                                                 Quý sửu         ngày Bính thân   Mậu tý

Kỷ Tân Quý

Thể tính : đông hoả.

Giờ tý, ngày thân bán hợp Thuỷ cục; Quý thuỷ trong Sửu lộ, là Quan nên là Chính quan

cách;

Mão mộc trong 4T tuy hàn nhưng có Ðinh hoả sưởi ấm.

Quý thuỷ tuy khắc Ðinh hoả, nhưng được Mậu thổ hợp mất, nên không khắc Ðinh hoả;

Hoả dù sao vẫn SUY , nên lấy Ấn tinh Mão mộc làm DT; để sinh Bính hoả.

Ấn là DT , lại được sinh trợ nên khoa bảng , chức quyền cao; làm viện trưởng viện

nghiên cứu.

4) 4T một mệnh đại phú quí  : Nam

QN                                                                                       QN                               QN

Sát                                                                                      Tài             nhật nguyên      Thực

Canh dần                                                                                 Mậu dần         ngày Giáp tý     Bính dần

Giáp Bính Mậu

Thể tính : Xuân mộc. Ðầu xuân Mộc còn đang mầm đã được Bính hoả sưởi ấm, nên lấy

Bính hoả làm DT.

Giáp Bính Mậu   trong Dần, cả 3 đều lộ Can, là trời che đất chở, trên dưới có tình với

nhau;

Tý và Dần củng Sửu là củng quí; Tứ trụ có Tam kỳ (Giáp-Mậu-Canh; có sách đòi hỏi

phải phải theo đúng thứ tự Năm tháng ngày, hay tháng ngày giờ / xem chương "Cát

thần" trong quyển 2), và lại có 3 Quý nhân.

Thực thần chế Sát, Thực thần sinh Tài …toàn là tiêu chí của mệnh đại phú quí.

5) 4T cuả Long tế Quang : Nam

Kiếp                                                                                     Tỷ              KD               nhật nguyên    Sát

Ðinh mão                                                                                 Bính ngọ                         ngày Bính tý   Nhâm thìn

Q1-ch10-dungthan                                                                         8               02/01/2005

Ất                                                                                                          Ðinh Kỷ       Quý          Mậu Quý Ất

Ấn                                                                                                          Kiếp Thương   Quan         Thực Ấn Quan

Thể tính "hạ hoả ";

Ngày Bính tháng Ngọ là Kình dương (Dương nhận) nên là cách Kình dương hay Dương

nhận cách;

Hoả vượng thái quá, lại có cả 3 Can là Bính Ðinh thuộc hoả nên hoả rất mãnh liệt, cần

có Thuỷ để chế bớt đi.

Trong 4T có Tý-Thìn bán hợp Thuỷ cục, và Nhâm thuỷ chế hoả. Nhâm thuỷ trên Can

được dùng để chế nhật chủ hoả vượng. Vậy chọn Nhâm tức Sát làm DT; vì thế còn gọi

là Sát nhận cách.

Ðây là mệnh phát về võ cách. Sát có Kình dương nên uy quyền cao (làm tướng). Long

tế Quang làm Tuần duyệt sứ nắm binh quyền đất Lưỡng Quảng (Quảng đông và Quảng

tây - Trung quốc). Ðấy là một quân phiệt khét tiếng hung sát; năm 1913 đã từng bắt

giữ Phan bội Châu với ý định bán lại cho Pháp.

Về DT lấy theo CÁCH CỤC bạn có thể xem các thí dụ ở chương 13 để quen với việc

chọn DT và luận giải mệnh vận.

Phê bình công dụng của cách cục :

Cách cục (các cách cục phổ thông được xác định theo Lệnh tháng + can ngày)

dùng để xác định mệnh là giàu sang hay nghèo hèn : tuy có chỗ đúng, nhưng không

đầy đủ, nhiều khi mâu thuẩn ;

Nên nhớ rằng khi bàn về Mệnh, là luôn luôn lấy Nhật can làm chủ. Nó mạnh hay

yếu là tuỳ sự cân bằng tổng hợp tất cả các can chi trong tứ trụ. Còn nếu chỉ đo lường

nó đơn thuần dựa vào Lệnh tháng, mà không đắc lực, không được trợ giúp, không được

sinh phù, thì thực chất là có khí mà không có lực, thì vẫn là yếu.

Luận đoán Mệnh cục là phải bàn 1 cách toàn cục, nếu chỉ dựa vào cách định theo

chi tháng thì tứ trụ sẽ mất đi ý nghiã ; dự đoán như thế là không toàn diện, thiếu trách

nhiệm.

Giàu sang, nghèo hèn, cát hung, thọ yểu đều phải căn cứ vào cách cục (hiểu

theo nghiã "cân bằng tổng hợp" trên đây) mà định đoạt. Cách nhìn tổng hợp toàn diện

này rất hay, nhưng rất khó nắm vững. Nó đòi hỏi một trình độ lý luận rất cao, căn cứ

trên Thân nhược hay Thân vượng, và các tương quan lực lượng trong Tứ trụ. Nắm vững

được khái niệm hay kỹ thuật nầy thì ta không còn bị lệ thuộc vào từ ngữ, tên gọi lung

tung của cách cục nữa.

Đó cũng là ưu điểm của phái này, và chúng ta sẽ nghiên cứu trong mục kế tiếp.

II- CÁCH CHỌN DỤNG THẦN DƯẠ TRÊN LÝ LUẬN CÂN BẰNG TỔNG HỢP ÐỐI

VỚI THÂN VƯỢNG HAY THÂN NHƯỢC :

Vì căn cứ trên Thân VƯỢNG hay Thân NHƯỢC nên trước hết bạn phải định cho được tiêu chí này. Ta

đã biết TV hay TN đều là do tổ hợp cuả toàn thể Can-Chi trong 4T, vậy đó là cơ sở hợp lý nhất để lý luận.

Q1-ch10-dungthan                                                                                            9             02/01/2005

Về phái này, trong chương 7 - khi bàn về Thân vượng hay Thân nhược, chúng ta đã

trình bày cách tìm DT. Nay ở đây, chúng ta thâm cứu thêm, và sau đó các bạn nên xem

các thí dụ ở chương 15 để hiểu cách tìm DT và cách luận đoán.

Cách chọn DT không ngoài ba nguyên tắc : sinh phù - áp chế; làm cho thông suốt

(thông quan) và điều hầu (bổ) .

1. Sinh phù, áp chế :

Nhật can là một trong mười thần, nó lấy trung hòa, cân bằng làm chính, nếu thái quá

hay bất cập đều là mệnh cục không tốt. Sinh TA là ấn tinh, phù trợ TA là tỷ kiếp; áp

chế, khắc TA là quan tinh;  thực thần làm tiết khí TA, tài tinh làm hao tổn TA.

Tùy trường hợp mà TA cần được sinh phù hay áp chế để hướng tới sự bình hòa. Tất

cả đều căn cứ trước hết trên Thân vượng hay Thân nhựơc.

1.1/Thân nhược thì cần được sinh phù. Cần căn cứ trong Tứ trụ có bao nhiêu kị

thần (nhiều hay ít) để chọn dụng thần:

- nhiều quan sát : có ấn thì lấy ấn tinh làm dụng thần để rút khí quan sát, sinh thân.

Nếu không có ấn tinh thì lấy tỉ kiếp, để làm hao tổn Quan và trợ giúp thân.

- nhiều tài tinh : có tỷ kiếp thì lấy tỷ kiếp làm dụng thần để áp chế tài tinh, trợ giúp

tôi. Nếu không có tỉ kiếp thì lấy ấn tinh, làm hao tổn tài và sinh thân .

- nhiều thực thương : có ấn thì lấy ấn tinh làm dụng thần để áp chế thực thương,

sinh thân. Nêú không có ấn tinh thì lấy tỉ kiếp để bổ trợ thân bị rút khí .

1.2/Thân vượng thì cần áp chế để làm hao tổn, làm tiết khí Thân; cũng căn cứ

bao nhiêu kị thần (nhiều hay ít) để chọn dụng thần.

- nhiều ấn tinh : có tài thì lấy tài tinh làm dụng thần để áp chế ấn tinh, làm hao tổn

thân; nếu không có tài tinh thì lấy quan sát, áp chế thân; hoặc lấy thực thương để rút

khí thân, làm hao tổn ấn.

- nhiều tỷ kiếp : có quan sát thì lấy quan sát làm dụng thần để áp chế tỉ kiếp, áp chế

thân vượng, Nếu không có quan sát thì lấy thực thương để rút khí tỉ kiếp, rút khí thân

vượng. Nếu không có cả hai thì lấy tài tinh để làm hao tổn tỉ kiếp, hao tổn thân vượng.

Ta có thể tóm tắt tất cả những trường hợp trên trong bảng sau đây :

BẢNG LẤY DỤNG THẦN  tuỳ THÂN VƯỢNG VÀ THÂN NHƯỢC.

Nhật can                                                                                   Mệnh cục         Dụng thần             nếu Không có dụng   Không  có  hỉ

(Thân)                                                                                                      (1)            thần   (2)                 thần (3)

nhược                                                                                      Quan sát nhiều   Chọn ấn tinh          Chọn tỉ kiếp

nhược                                                                                      Tài tinh nhiều   Chọn tỉ kiếp          Chọn ấn tinh

nhược                                                                                      Thực   thương    Chọn ấn tinh          Chọn tỉ kiếp

                                                                                           nhiều

Q1-ch10-dungthan                                                                           10               02/01/2005

vượng                                                                                        Ấn tinh nhiều   Chọn tài tinh   Quan    sát,    thực

thương

vượng                                                                                        Tỉ kiếp nhiều   Chọn quan sát   Chọn thực thương       Chọn tài tinh

2. Thông quan (làm cho thông suốt)

Khi hai loại ngũ hành trong mệnh cục đối lập nhau (cách ngôi thì khắc nhau), và thế

lực ngang nhau thì hai cái đều tổn thất, đó là mệnh cục có bệnh. Cần chọn một ngũ

hành khác để khiến cho hai ngũ hành đó sinh hoá bình thường cho nhau, làm cho khí

thế của mệnh cục được lưu thông, nên gọi là thông quan.

Ví dụ : thuỷ hỏa không dung hòa nhau thì lấy mộc làm dụng thần; Mộc sẽ làm rút khí

thuỷ và sinh hỏa, trở thành liên tục sinh (còn thuỷ hỏa cách ngôi là tương khắc). Mộc đã

hóa sự vô tình thành hữu tình, hóa sự đối địch thành bạn hữu, nên nó là dụng thần.

- Hỏa kim tương tranh, lấy thổ làm dụng thần ;

- Mộc thổ tương tranh, lấy hoả làm dụng thần ;

- Thuỷ hỏa tương tranh, lấy mộc làm dụng thần ;

- Kim mộc tương tranh, lấy thuỷ làm dụng thần ;

- Thổ thuỷ tương tranh, lấy kim làm dụng thần ;

3. Điều hầu (bổ là thêm vào cái thiếu để làm cho điều hoà) :

Đạo trời có ấm lạnh, đạo đất có khô ẩm, người hấp thụ khí của trời đất nên chịu ảnh

hưởng rõ ràng của quy luật ấy. Mệnh con người lấy ngày sinh làm chủ, lệnh tháng làm

đề cương, và dựa vào ngũ hành của nhật can và chi tháng để bàn đến sự ấm lạnh, khô

ẩm (còn gọi là thể tính *) của mệnh cục. Giống như đông y, lạnh quá thì dùng thuốc

nhiệt, nóng quá thì dùng thuốc hàn, khiến cho MC quân bình thì gọi là điều hầu.

(*) xem mục liên hệ;

- tháng sinh trong mùa hạ, cho dù ngũ hành can ngày là gì vẫn ấm quá nên táo (khô)

nhiều, tứ trụ phải dùng hàn thấp là hành thuỷ để điều hầu.

- tháng sinh trong mùa  đông, cho dù ngũ hành can ngày là gì vẫn bị hàn thấp mạnh,

nên tứ trụ phải điều hầu bằng ôn táo là hành hỏa.

Ví dụ : can ngày sinh là canh kim, sinh vào tháng đông, mà tứ trụ không có hỏa ấm

thì sẽ rơi vào kim hàn, thủy lạnh. Canh chủ về gân cốt, ở tử địa nên khí huyết không

thông, sinh bệnh tật, thậm chí bị tàn tật. Nếu trong tứ trụ không có hỏa thì phải   điều

hầu (nói nôm na cho dễ nhớ là bổ cứu cho điều hoà): Thiếu thì phải bổ; nếu bổ cứu được thì

vẫn hanh thông, chẳng hạn đến phương nam (đất hỏa) sống thì người đó không những

có lợi cho thân thể mà đối với vận mệnh cũng sẽ tốt hơn; đó là một cách giải nạn.

- sinh vào mùa xuân hoặc mùa thu thì hàn ôn, táo thấp vừa phải, nên không nhất

định phải điều hầu bằng thủy hỏa, mà chỉ cần xét sự sinh khắc chế hóa giữa các ngũ

hành trong tứ trụ là được (dùng sinh phù hay áp chế trên đây).

Q1-ch10-dungthan                                                                             11              02/01/2005

- sinh vào cuối bốn mùa (tức các tháng thìn, tuất, sửu, mùi - 3,6,9,12 AL) cũng có sự

phân biệt về hàn, ôn, táo, thấp : Sự hưng vượng của ngũ hành có thời gian nhất định

(vượng theo mùa), riêng hành Thổ ở trung ương quán xuyến cả tám phương, không cố

định ở một phương nào, trong 18 ngày trước lập xuân, lập hạ, lập thu, lập đông, nó

vượng.

Thí dụ về điều hầu : Nam

ChTài                                                                                    Ch.Ấn       nhật nguyên    Thực

Bính thân                                                                                canh tý     ngày quý sửu   ất mão

TH                                                                                       TU    Lộc   LQ             BH         ất

Kiến lộc cách; Thể tính "đông thuỷ ".

4t tuy có đủ ngũ hành; nhưng vì sinh muà đông nên thuỷ lạnh, mộc hàn, thổ đông

cứng, hoả bị tù hãm; vậy lấy hành gì làm DT ?

Mùa đông rét lạnh, không lợi cho sự sinh trưởng của vạn vật, vậy phải dùng Hoả để giải

hàn, nhưng ở đây Bính hoả hưu tù vô lực. May thay, nhờ sinh sau ngày tiết lập đông

nên Ất Mộc trên trụ giờ có khí mà sinh Bính hoả; Bính hoả nhờ vậy cháy bùng lên, xua

tan hàn lạnh, sưởi ấm mọi hành. Vậy chọn Bính hoả (Chính tài) làm DT. Ðây là trường

hợp "thực thần sinh Tài, phú quí tự nhiên đến".

Ngoài trường hợp điều hầu chúng ta cũng phải linh hoạt suy luận theo tương quan lực

lượng trong các trường hợp thái quá hay bất cập (ngay cuả chính cách cục), chứ không

nên cứng nhắc dùng bảng "định DT theo cách cục" nói trên. Ví dụ :

Tới đây, tương đối bạn đã có đủ mọi yếu tố để tìm DT. Thường thì người ta dùng

sinh phù hay áp chế, chỉ trường hợp đặc biệt mới dùng đến thủ pháp thông quan hay

điều hầu. Hai thủ pháp sau có tính cách thâm cứu, tạm thời bạn có thể bỏ qua, và trở

lại đọc về sau.

III - HỶ, KỴ CỦA DỤNG THẦN :

Mỗi tứ trụ có một mệnh cục. Mệnh cục lấy dụng thần làm hạt nhân, nó đại diện cho

mệnh cục, cho ta biết MC tốt hay xấu, theo một vận trình nào đó, giống như một "sinh

vật" có một đời sống; vậy ta phải biết nó như thế nào.

Dụng thần kiện toàn, có lực hay không ảnh hưởng đến cả cuộc đời. Dụng thần có tác

dụng bổ cứu hay không ảnh hưởng đến các vận của cả đời người. Cho nên dụng thần

không những không thể bị tổn thương mà còn cần phải được sinh trợ mới tốt.

Đối với những tứ trụ mà ngũ hành của mệnh cục sinh vượng, dụng thần có lực thì

người đó sẽ phú quý đều đều là chắc chắn, cho dù chức cao cũng không bị họa lớn,

đường thanh vân bằng phẳng đi lên; đó là mệnh phú quý chân chính. Có người tuy sự

phú quý không đến mức tướng soái nhưng cũng là bậc phú hào, hoặc quan đứng đầu

một vùng, cuộc đời bằng phẳng, không gặp những thất bại lớn; song loại tứ trụ này rất

ít gặp.

Q1-ch10-dungthan                                                                         12          02/01/2005

1) Hỉ thần :

Khi lực dụng thần không đủ, nếu trong tứ trụ có cái sinh trợ cho nó, hoặc những cái

hình, xung, khắc, hại để hóa mất hay hợp mất hung thần thì đó là cái cứu ứng cho dụng

thần, gọi là hỉ thần.

Đối với những tứ trụ khuyết thiếu dụng thần thì hỉ thần của tứ trụ sẽ có tác dụng

làm cho mệnh như cây khô gặp nước, mầm non gặp mùa xuân. Mối quan hệ chặt chẽ

như môi với răng, nó bổ trợ và cứu ứng cho dụng thần. Những mệnh cục không có

dụng thần, tất hỉ thần phải gánh trọng trách của dụng thần trong việc cân bằng cho tứ

trụ; ngoài ra nếu được bổ cứu của tuế vận thì càng tốt.

Cho nên, việc tìm đúng dụng thần cho tứ trụ là rất quan trọng. Tìm được dụng thần

thì hỉ thần cũng dễ nhận ra. Còn muốn biết mức độ dụng thần sinh phù hay khắc chế

hung thần được bao nhiêu thì còn phải xem dụng thần có lực hay không.

2) Kỵ thần : Một   thần nào đó sẽ là kị thần nếu nó hình, xung, khắc, hại, hoặc hợp

mất dụng thần, hoặc làm tổn hại hỷ thần. Kị thần trong mệnh cục gây tai hoạ càng lớn

khi gặp tuế vận vì đó là "thời" của nó để nó hoành hành, đồng thời dụng thần tuy xuất

hiện như vô lực. Nếu kị thần có lực thì sự khắc hại của nó đối với dụng thần còn lớn gấp

bội. Tứ trụ như thế không tốt.

3) Công dụng cuả Hỷ thần và Kỵ thần :

khi luận đoán mệnh, cần phải kết hợp DT, Hỷ thần và Kỵ thần với tuế vận, lưu niên

mới xác định chúng chủ về việc gì, cho ai, và   lúc nào ứng nghiệm; nghiã là vai trò DT,

Hỷ , kỵ khi gặp tuế vận có tên như nó (ví dụ chính quan gặp tuế vận chính quan, kiếp tài gặp tuế

vận Kiếp tài chẳng hạn), là "thời" của nó, lúc đó nó mạnh nhất trong việc tác oai hay tác

phúc. DướI đây nên hiểu DT cũng như Hỷ thần, nhưng hiệu lực mạnh và rõ hơn nhiều.

-                                                                                                  Chính quan hoặc thiên quan :

là hỉ của dụng thần : được quý nhân cất nhắc, thăng quan tiến chức, thi đỗ

đạt, ứng cử được trúng tuyển, uy quyền tăng rõ rệt.

là kị thần : quan vận bị hình khắc, dễ bị tù ngục, danh dự tổn thất, bị khống

chế, liên lụy.

-                                                                                                  Chính ấn hoặc thiên ấn :

là hỉ của dụng thần : công thành danh toại; lên chức được quyền, học thuật

tiến bộ, thi cử đỗ đạt.

là kị thần : thân thể mệt mỏi, mất chức mất quyền, danh dự tổn thất, thi hỏng.

-                                                                                                  Tỷ kiên hoặc kiếp tài :

là hỉ của dụng thần : được lợi, được của, được tay chân giúp sức, đường tình

duyên hôn nhân tốt đẹp, bệnh tật mau lành.

là kị thần : có tổn thất về thê tài, không có lợi cho cha, anh em bất hòa, bạn bè

gây cản trở.

-                                                                                                  Thực thần hoặc thương quan :

Q1-ch10-dungthan                                                                                                                  13   02/01/2005

là hỉ của dụng thần : gặp tin mừng, thêm con cháu, thêm tuổi thọ, cháu con

vinh hiển, tài hoa phát triển, chức lộc đều đạt.

là kị thần : bị con cháu gây liên lụy, cản trở; thân nhược bệnh nhiều, giáng chức

mất chức, học hành dở dang, thất nghiệp.

-                                                                                                 Chính tài hoặc thiên tài :

là hỉ của dụng thần :   hôn nhân thuận lợi, tài lợi đều được, được hưởng âm

đức , di sản của cha mẹ ông bà; được vợ con giúp đỡ; sự nghiệp mở mang.

là kị thần : tài nhiều thân nhược, không được sự giúp đỡ của cha mẹ vợ con,

làm ăn quẫn bức, được không bằng mất.

Hỉ thần - kị thần, hay cát-hung là căn cứ vào sự tổ hợp của tứ trụ của mỗi người khác

nhau để mà xác định, chứ không thể nói chung chung theo thường tình, như :

Quan, Ấn, Tài, Thực là cát thần;

Những thần khác là hung thần.

IV - Luận về sự tốt xấu cuả DỤNG THẦN

Vì DT thần chẳng qua chỉ là một trong 10 thần, hay 1 trong 5 hành; nên cũng có cái

sinh nó, cái khắc nó, cái nó khắc, cái nó sinh, cái ngang hoà với nó.

DT cũng chỉ là một CAN (thần) nào đó, như Can ngày, nên nó cũng có những nhu cầu

tương tự. Ta có thể dùng cách lý luận như cho Can ngày ;

Về DT, ta thường gặp trong các sách các từ ngữ sau đây nên hiểu rõ:

- hỷ thần : là cái sinh, phù , là tốt thêm cho DT ;

- kỵ thần :  là cái khắc chế, làm tổn hại cho DT;

- vệ thần : là cái được DT sinh ; ví dụ : Tài sinh Quan , Quan bảo vệ Tài, vậy

Quan là vệ thần của Tài (nói nôm na là  ăn cây nào rào cây ấy);

- DT có tình, có lực / không có lực, đoàn kết, đẹp ...

* Có tình : DT đối với Thân (Nhật nguyên) rất quan trọng, nên khi trong MC cần

có DT (x), mà trong 4T lại có ngay (x) thì gọi là có tình; ví dụ :

- 4T có quá nhiều Thổ, muốn chiết giảm bớt Thổ cần có Mộc; nếu có Giáp

Mộc làm DT thì gọi là có tình (với MC) !

- Thân vượng, lại còn có nhiều Thiên ấn sinh cho, thì rất tai hại (chẳng khác

người huyết áp cao mà còn được bổ máu, hay cho uống rượu mạnh !); vậy cần phải tiết

giảm Thiên ấn. Thiên tài có công dụng này, vì một mặt nó khắc chế Thiên ấn,

một mặt nó làm hao Thân, vậy có nó ngay trong mệnh cục để làm DT là có tình .

(Chẳng khác một người đẹp đang tìm người yêu, cô ấy lại có cha mẹ hay bệnh, có nhiều anh

chàng ứng cử viên, mà trong đó có một anh bác sĩ lại lù lù đến tán tỉnh thì không gì hay bằng !

Ðùa một chút cho bạn dãn tinh thần và dễ nhớ).

* Có lực / vô lực :

Đã nói DT cũng chỉ là 1 hành, 1 thần trong MC, nên nó cũng như Can ngày mà ta đã xét

kỹ về Vượng hay Nhược, qua các khái niệm được lệnh, đắc địa, được sinh, được trợ

Q1-ch10-dungthan                                                                                  14                           02/01/2005

giúp. Nay bạn hãy  áp dụng những khái niệm VS ấy cho DT : nếu DT không bị khắc phá,

lại được lệnh, đắc địa, được sinh, được trợ giúp thì có lực; ngược lại là vô lực.

Ví dụ như Giáp mộc làm DT thích mùa Xuân; nếu sinh tháng muà xuân thì được lệnh , có lực;

* Có thế : tức là có trợ giúp (có Tỷ kiếp, Ấn của nó) ; ví dụ DT là Giáp mộc, 4T lại

có Ất mộc, và/hoặc Quý thuỷ thì nó được trợ giúp; (có thể gộp chung với "có lực").

* Ðoàn kết : tức là ở gần Can ngày (mệnh chủ), tức là can tháng, chi ngày và

can giờ; những trường hợp khác gọi là DT ở xa. Ðây là nguyên lý gần / xa mà ta đã đề

cập đến nhiều lần (bà con xa không bằng láng giềng gần, huống chi láng giềng lại là DT !).

* Ðẹp : Nếu DT có cả Hỷ thần và Vệ thần thì gọi là đẹp, là mệnh tốt. Ví dụ Chính

ấn là DT, MC có Chính quan là có hỷ thần, và có Kiếp tài là vệ thần thì Chính ấn là DT

đẹp. Ngược lại, nếu không có cả hai, mà tuế vận lại xung khắc DT là mệnh xấu.

Tổng kết, nếu MC có DT có tình, có lực, đoàn kết , đẹp và trung hoà là mệnh phú quý;

ngược lại là ít phú quí.

Sau khi xác định 1 chữ nào (trong 8 chữ) là DT thì nó có thể là ở thiên can hay địa chi :

DT ở Thiên CAN  :

- nên đắc khí , có Gốc, tức DT là can lộ mà có can tàng cùng ngũ hành : ví dụ  DT

là Giáp mộc, có Ðiạ chi Dần Mão ;

- không nên bị khắc chế hoặc bị hợp đi; ví dụ DT Giáp không nên có Canh khắc,

hay bị Kỷ hợp;

DT tại CHI :

- nên được Thiên Can sinh trợ; ví dụ DT Tị hoả được Giáp mộc sinh, hay có Bính

hoả trợ giúp.

- không nên gặp Hình, Xung ,Hại, Hợp. Ví dụ DT là Tị Hoả không gặp Hợi (xung),

Dần (Hình), Thân (Hợp).

DT đã gặp Hình, Xung, Khắc, Hại mà được THẦN khác cứu giúp giải trừ thì

không còn xấu nữa. Ví dụ :

- DT ở   CAN : Giáp Mộc DT bị Canh khắc, nhưng có Ất Mộc cũng lộ trên CAN ,

hợp chữ Canh đi thì CANH sẽ không khắc Giáp nữa;

Nếu không có Ất mà có Bính, thì Bính Hỏa khắc CANH kim để cứu giúp

Giáp Mộc.

- DT ở Ðiạ chi : DT Tị bị Hợi xung, nếu  có Dần hợp Hợi thì Xung được giải trừ.

Tóm lược về sự tốt , xấu cuả DT :

A) Sự tốt, xấu, hữu dụng hay vô dụng của DT (NHU YẾU của DT)  tuỳ thuộc nó:

1-                                                                                           Có thế, có sức mạnh : như Giáp mộc làm DT thích mùa Xuân;

2-                                                                                           Có trợ giúp (có tỷ kiếp, Ấn cuả nó);

3-                                                                                           CAN nên đắc khí , có Gốc : can lộ có can tàng cùng ngũ hành : ex DT là Giáp

mộc, có Ðiạ chi Dần Mão ;

Q1-ch10-dungthan                                                                             15                                                                            02/01/2005

4-                                                                                   DT ở Thiên CAN : không nên bị khắc chế, hoặc bị hợp đi, ex : DT GIÁP, không

                                                                                     có CANH và KỶ ;

5-                                                                                   DT ở CHI , được Thiên CAN sinh trợ : Tị có GIÁP (ấn), hay BÍNH (tỷ kiếp) ;

6-                                                                                   DT ở CHI không gặp phải hình xung hại hợp;

7-                                                                                   Có cứu.

B) Những trường hợp đặc biệt của DT :

1) Kiện toàn : DT mạnh, không gặp phải khắc, hợp, hình, xung, hại : được phú quý

vĩnh cữu ;

2) Hỷ thần (còn gọi là Tướng Thần) :

DT yếu, nhưng có một chữ khác tương trợ;

DT bị hình, xung, phá hại, nhưng được 1 chữ khác cứu giải;

thì chữ đó gọi là hỷ thần;

3) Cách cục tương kiêm : tức là cách cục cũng là DT (cùng tên), nên ảnh hưởng rất

mạnh lên mệnh, và tức khắc khi gặp hành vận . Ví dụ Tài cách và DT là Tài, thì khi

tốt (gặp hành vận Tài) sẽ tiền rừng bạc biển; khi bị phá hại (gặp hành vận Tỷ

Kiếp), sẽ bị phá sản ngay.

HẾT

Q1-ch10-dungthan                                                                     16                                                                            02/01/2005

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#anhhung96