tu tuong general

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

 

Câu 5:

Trình bày quan điểm về những đặc trưng bản chất về bước đi và biên pháp xây dựng CNXH của HCM. Đảng ta đã vận dụng những quan điểm đó vào công quộc đổi mới như thế nào?

Trả lời:

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (năm 1991) đã thông qua "Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ” trong đó khẳng định: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động". Đây là kết luận rút ra từ kết quả tổng kết sâu sắc thực tiễn lịch sử của Đảng và của cách mạng Việt Nam trong suốt quá trình cách mạng từ khi thành lập Đảng đến nay. Đó là một quyết định có tầm lịch sử quan trọng thể hiện bước tiến trong tư duy lý luận của Đảng ta.

Hơn 70 năm qua, chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đã dẫn dắt dân tộc ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Tổng kết 15 năm đổi mới ở nước ta, Đảng đã rút ra những bài học kinh nghiệm chủ yếu, trong đó bài học hàng đầu là phải kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.

Từ thực tiễn phong phú và những thành tựu to lớn đã đạt được, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng khẳng định: “Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh".

Vì vậy, việc nghiên cứu, học tập để nắm vững, biết vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nhiệm vụ và trách nhiệm hàng đầu của mỗi cán bộ, đoàn viên và thanh niên Việt Nam.

 

Tư tưởng Hồ Chí Minh trong thời kỳ xây dựng Nhà nước kiểu mới

Chủ tịch Hồ Chí Minh là người khai sinh ra nước dân chủ cộng hoà, Nhà nước của dân, do dân và vì dân, xuất hiện lần đầu tiên trong lịch sử dân tộc và đây cũng là Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á.

Chính Người đã trực tiếp thiết kế, xây dựng bộ máy nhà nước đó, gắn với yêu cầu trong sạch, vững mạnh. Tìm hiểu bản chất của Nhà nước ta, Nhà nước do Hồ Chí Minh sáng lập thì nội dung đầu tiên cần phải làm rõ đó là tính chất của dân, do dân và vì dân của bộ máy Nhà nước.

Thứ nhất: Nhà nước ta là Nhà nước của dân.

Nói đến Nhà nước, thì bao giờ cũng là Nhà nước của một giai cấp trong mỗi chế độ xã hội cụ thể. Nhà nước ta cũng vậy, nó mang bản chất giai cấp công nhân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong đó lợi ích của Đảng của giai cấp, của dân tộc là thống nhất. Vì vậy, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước ta là Nhà nước của dân. Quan niệm trên là nội dung cơ bản nhất của tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước, nó phản ánh tư tưởng đại đoàn kết của Người, đồng thời phản ánh chính xác lý luận về vai trò quần chúng nhân dân trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta.

Nội dung cụ thể đầu tiên về Nhà nước của dân là thực hiện quyền dân chủ của nhân dân, dân bầu ra Nhà nước bầu ra chính quyền các cấp. Ngay sau khi thành lập nước, Bác Hồ đã sớm đề nghị Chính phủ tổ chức, "tổng tuyển cử, với chế độ phổ thông bầu phiếu". Cùng với việc nhân dân bầu ra Nhà nước, là việc nhân dân thực hiện quyền  kiểm soát Nhà nước, Bác Hồ nói: "Chính phủ ta là Chính phủ của nhân dân, chỉ có một mục đích là ra sức phụng sự lợi ích của nhân dân. Chính phủ rất mong đồng bào giúp đỡ, đôn đốc, kiểm soát và phê bình để làm tròn nhiệm vụ của mình là người đầy tớ trung thành và tận tuỵ của nhân dân". Hồ Chí Minh khẳng định: "Nạn lãng phí, tham ô là do bệnh quan liêu, mệnh lệnh trong công tác của các cấp lãnh đạo ở các cơ quan Nhà nước gây ra... Đồng bào có oan ức mới khiếu nại, ta giải quyết tốt các khiếu nại, đồng bào thấy Đảng và Chính phủ được củng cố tốt hơn".

Thứ hai: Nhà nước do dân, mọi quyền lực thuộc về nhân dân.

Hồ Chí Minh cho rằng: "Chế độ kinh tế và xã hội ta nhằm thực hiện ngày càng tốt hơn quyền làm chủ của nhân dân, trong đó nhân dân có vai trò và điều kiện tham gia quản lý Nhà nước. Người xác định: "Bao nhiêu quyền hạn đều của dân, xây dựng đất nước là trách nhiệm của nhân dân". Như vậy nói: "Nhà nước do dân" là khẳng định vai trò làm chủ của nhân dân, trong đó mỗi công dân đều có quyền làm chủ ở tất cả các quan hệ xã hội; làm chủ thông qua nhiều tổ chức mà tổ chức cao nhất là Nhà nước. Yêu cầu thực hiện "Nhà nước do dân" còn được Người chỉ rõ: "Làm việc gì cũng phải có quần chúng, không có quần chúng thì không thể làm được... Cho nên việc gì có quần chúng tham gia bàn bạc khó mấy cũng trở nên dễ dàng và làm được tốt...

Thứ ba: Nhà nước vì dân, toàn tâm toàn ý phục vụ Nhà nước nhân dân.

Với tinh thần yêu nước, thương dân vô hạn, chỉ hơn một tháng sau khi thành lập nước, trong một bức thư gửi các cơ quan từ Trung ương đến cơ sở, Bác Hồ với tư cách người đứng đầu cả nước đã nhắc nhở cán bộ: "Chúng ta phải hiểu rằng các cơ quan của Chính phủ từ toàn quốc cho đến các cơ làng đều là đầy tớ của dân, nghĩa là để gánh vác chung cho dân, chứ không phải để đè đầu dân như trong thời kỳ dưới quyền thống trị của Pháp - Nhật.

"Việc lợi cho dân, ta phải hết sức làm

Việc gì hại cho dân, ta phải hết sức tránh".

Bản thân Bác suốt đời là một tấm gương trong sáng phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân, Người nói: "Cả đời tôi chỉ có một mục đích là phấn đấu cho quyền lợi của Tổ quốc và hạnh phúc của nhân dân. Những khi tôi phải ẩn nấp nơi núi non, hoặc ra vào chốn tù tội, xông pha sự hiểm nghèo, là vì mục đích đó. Đến lúc nhờ quốc dân đoàn kết, tranh được chính quyền, uỷ thác cho tôi gánh vác việc Chính phủ, tôi lo lắng đêm, ngày, nhẫn nhục, cố gắng vì mục đích đó...".

Hồ Chí Minh yêu cầu mọi chủ trương, chính sách, mọi quy định đều phải thật sự vì dân. Cán bộ, nhân viên phải thật sự gương mẫu; phải biết "Tiên ưu, hậu lạc"; Phải nêu cao tinh thần "Cần, kiệm, liêm, chính". Ngay trong buổi đầu xây dựng Nhà nước cách mạng non trẻ, Người đã xác định mục tiêu hoạt động của Nhà nước là:

"1. Làm cho dân có ăn

2. Làm cho dân có mặc

3. Làm cho dân có chỗ ở

4. Làm cho dân có học hành"

Người giải thích: "Chúng ta đã hy sinh phấn đấu, để giành độc lập... chúng ta tranh được độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét, thì tự do độc lập, cũng không làm gì".

Trong những năm gần đây Nhà nước và nhân dân ta đã thu được những thành công nhất định trong lĩnh vực kinh tế và chính trị. Chính phủ đã ra nhiều nghị quyết, chương trình nhằm đẩy mạnh việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tiếp tục xây dựng Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong sạch, vững mạnh. Đó chính là đường hướng nhằm quán triệt sâu sắc hơn, đầy đủ hơn tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước trong thời kỳ đổi mới.

 

Câu 6:

Nêu nguồn gốc tư tưởng HCM ?

Tư tưởng Hồ Chí Minh là gì?

Trả lời:

Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng nhiệt huyết, hết lòng vì nước, vì dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại một di sản tinh thần hết sức sâu sắc, cao cả không chỉ góp phần to lớn và quyết định vào thắng lợi của dân tộc trong những năm qua mà còn có ý nghĩa chỉ đạo lâu dài cho sự nghiệp cách mạng của Đảng ta, nhân dân ta. Tổng hợp những giá trị tinh thần đó là tư tưởng Hồ Chí Minh.

Vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh là gì? Trong Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương tại Đại hội IX của Đảng đã nêu rõ:

"Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại. Đó là tư tưởng về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người; về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; về sức mạnh của nhân dân, của khối đại đoàn kết dân tộc; về quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng Nhà nước thật sự của dân, do dân, vì dân; về quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân; về phát triển kinh tế và văn hoá, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; về đạo đức cách mạng, cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư; về chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau; về xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, cán bộ, đảng viên vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân…

Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành thắng lợi, là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta".

Định nghĩa về tư tưởng Hồ Chí Minh như trên thể hiện bốn nội dung chủ yếu cần nắm vững:

- Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, từ cách mạng dân tộc dân chủ đến cách mạng xã hội chủ nghĩa.

- Tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam.

- Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự kế thừa và phát huy giá trị truyền thống của dân tộc Việt Nam và tinh hoa văn hoá nhân loại.

- Tư tưởng Hồ Chí Minh là ngọn cờ thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong hơn 70 năm qua, tiếp tục soi sáng con đường cách mạng Việt Nam trong thời gian tới.

 

Nguồn gốc, quá trình hình thành và phát triển của tư tưởng Hồ Chí Minh?

Trả lời:

1. Nguồn gốc:

Tư tưởng Hồ Chí Minh được hình thành từ những nguồn gốc chủ yếu sau:

a. Chủ nghĩa Mác-Lênin là nhân tố ảnh hưởng và tác động quyết định đến quá trình hình thành và phát triển của tư tưởng Hồ Chí Minh.

Đó là cơ sở hình thành thế giới quan và phương pháp luận khoa học của Hồ Chí Minh, nhờ đó mà Nguyễn ái Quốc - Hồ Chí Minh đã có bước phát triển về chất từ một người yêu nước trở thành một chiến sĩ cộng sản lỗi lạc, tìm ra con đường cứu nước đúng đắn. Chính trên cơ sở của lý luận Mác-Lênin đã giúp Người tiếp thu và chuyển hoá những nhân tố tích cực, những giá trị và tinh hoa văn hoá của dân tộc và của nhân loại để tạo nên tư tưởng của mình phù hợp với xu thế vận động của lịch sử. Vì vậy, trong quá trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh thì chủ nghĩa Mác-Lênin có vai trò to lớn, là cơ sở, nguồn gốc chủ yếu nhất.

b. Tư tưởng Hồ Chí Minh kế thừa và phát triển những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc:

Trải qua mấy ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước đã hun đúc, tạo lập cho dân ta một nền văn hoá phong phú, đa dạng và thống nhất bền vững với những giá trị truyền thống tốt đẹp, cao quý, trong đó chủ nghĩa yêu nước Việt Nam là nấc thang cao nhất của văn hoá Việt Nam.

Đây là tài sản có giá trị nhất trong hành trang của Chủ tịch Hồ Chí Minh, là cơ sở xuất phát, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của Người, là động lực giúp Người vượt qua mọi gian nan thử thách, hiểm nguy. Đây là nguồn gốc, là một cơ sở quan trọng để hình thành nên tư tưởng Hồ Chí Minh.

c. Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại.

Hồ Chí Minh đã tiếp thu có chọn lọc những yếu tố tích cực của văn hoá phương Đông trong Nho giáo và Phật giáo, như lòng vị tha, tư tưởng từ bi bác ái, tình yêu thương con người; triết lý hành đạo giúp đời, tu thân dưỡng tính, truyền thống hiếu học…

Tư tưởng tự do, bình đẳng, bác ái, dân chủ và phong cách dân chủ, nhân quyền của văn hoá phương Tây…

Như vậy, trên con đường hoạt động cách mạng Người đã làm giàu trí tuệ của mình bằng trí tuệ của thời đại: Đông, Tây, kim, cổ…, vừa thu hái, vừa gạn lọc, suy nghĩ và lựa chọn, kế thừa, vận dụng, phát triển góp phần làm phong phú, tạo nên tư tưởng của Người.

d. Những nhân tố chủ quan thuộc về phẩm chất cá nhân của Hồ Chí Minh.

Trước hết, đó là tư duy độc lập tự chủ, sáng tạo cộng với đầu óc phê phán tinh tường, sáng suốt trong việc nghiên cứu, tìm hiểu và vận dụng, phát huy tinh hoa văn hoá nhân loại. Đó là sự khổ công học tập nhằm chiếm lĩnh vốn tri thức phong phú của thời đại và kinh nghiệm hoạt động thực tiễn qua các phong trào đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động quốc tế. Đó là tâm hồn, ý chí của một nhà yêu nước, một chiến sĩ cộng sản nhiệt thành, một trái tim yêu nước thương dân, thương yêu con người, sẵn sàng chịu đựng những gian khổ hy sinh vì độc lập của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân.

Chính những phẩm chất cá nhân hiếm có đó đã quyết định việc Hồ Chí Minh tiếp nhận, chọn lọc chuyển hoá, phát triển những tinh hoa của dân tộc và của thời đại thành tư tưởng đặc sắc của Người.

2. Quá trình hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh.

Tư tưởng Hồ Chí Minh không phải đã hình thành ngay một lúc mà trải qua một quá trình tìm tòi, xác lập, phát triển và hoàn thiện gắn với quá trình hoạt động cách mạng phong phú của Người, gồm 5 giai đoạn sau:

- Giai đoạn hình thành tư tưởng yêu nước và chí hướng cách mạng (từ năm 1890 - 1911).

- Giai đoạn tìm tòi, khảo nghiệm (1911 - 1920).

- Giai đoạn hình thành cơ bản về con đường cách mạng Việt Nam (1921 – 1930).

- Giai đoạn vượt qua thử thách, kiên trì con đường đã xác định của cách mạng Việt Nam (1930 - 1941).

- Giai đoạn phát triển và hiện thực hoá tư tưởng Hồ Chí Minh (1941 - 1969).

 

Nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh gồm những vấn đề nào?

Trả lời:

Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam. Đó là:

1. Tư tưởng về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người.

Toàn bộ cuộc đời hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh và mong muốn của Người là mục tiêu giành độc lập, tự do cho đất nước, đem lại hạnh phúc cho nhân dân, làm cho nhân dân "ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành". Để thực hiện mục tiêu đó cần thực hiện sự giải phóng triệt để: Đó là giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Chính vì mục tiêu cao cả đó, Người đi tìm đường cứu nước và đã tìm ra con đường cứu nước đúng đắn cho cách mạng Việt Nam, đóng góp quan trọng vào sự nghiệp giải phóng nhân dân lao động trên toàn thế giới.

2. Tư tưởng về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.

Người đã chỉ ra rằng: "Muốn cứu nước, giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản". Người đã giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc và giai cấp, quốc gia và quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại. Những tư tưởng quan trọng này xuất phát từ một đòi hỏi thực tiễn bức xúc: Phải chống chủ nghĩa thực dân, phải gắn liền cách mạng thuộc địa với cách mạng ở chính quốc. Con đường để giữ vững độc lập, tự do, hạnh phúc, ấm no cho dân tộc là con đường đi lên xã hội chủ nghĩa, phải tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên mọi lĩnh vực. Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là tư tưởng chủ đạo trong toàn bộ di sản lý luận Hồ Chí Minh.

3. Tư tưởng về sức mạnh của nhân dân, của khối đại đoàn kết dân tộc.

Thấm nhuần quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin: Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, Hồ Chí Minh đã đưa vai trò của nhân dân lên tầm cao mới: Nhân dân là chủ thể sáng tạo ra lịch sử, là người chủ thực sự của đất nước; coi nhân tố con người là nguồn lực cơ bản tạo nên sức mạnh vô địch để kháng chiến, kiến quốc. Người thường nói: Dễ trăm lần không dân cũng chịu; khó vạn lần dân liệu cũng xong. Sức mạnh của nhân dân được nhân lên gấp bội khi thực hiện được khối đại đoàn kết toàn dân tộc, trên nền tảng liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng tạo nên sức mạnh vô địch của cách mạng Việt Nam. Người khẳng định: "Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công"..

4. Tư tưởng về quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng Nhà nước thật sự của dân, do dân, vì dân.

Dân chủ là bản chất của chế độ XHCN. Dân chủ là mục tiêu, là động lực của cách mạng XHCN. Thực hành dân chủ rộng rãi trong Đảng, trong nhân dân là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của Đảng và Nhà nước ta. Nhà nước là công cụ chủ yếu để nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình. Do đó, Hồ Chí Minh coi trọng việc xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh, của dân, do dân, vì dân. Nhà nước ta mang bản chất giai cấp công nhân, có tính dân tộc và nhân dân sâu sắc do Đảng lãnh đạo, hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ, thống nhất quyền lực; đội ngũ cán bộ Nhà nước phải có đức, có tài, phải thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư, là công bộc của nhân dân, vì nhân dân mà phục vụ. Để xây dựng Nhà nước của dân, do dân, vì dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn chỉ rõ phải kiên quyết đấu tranh chống tham ô, lãng phí, quan liêu. Coi tham ô, lãng phí, quan liêu là ba thứ "giặc nội xâm" rất nguy hiểm.

5. Tư tưởng về quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân.

Vận dụng sáng tạo tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin về bạo lực cách mạng, Hồ Chí Minh luôn coi bạo lực cách mạng là sức mạnh tổng hợp của nhân dân, bao gồm các hình thức: Chính trị, quân sự và sự kết hợp giữa chính trị và quân sự. Trong quá trình đấu tranh giành và giữ chính quyền, giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc, bên cạnh việc chăm lo xây dựng lực lượng chính trị, phải chăm lo xây dựng, củng cố lực lượng vũ trang, xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân, thực hành chiến tranh nhân dân với sức mạnh tổng hợp. Người nhấn mạnh: Quân sự phải phục tùng chính trị, lấy chính trị làm gốc. Quân đội ta là quân đội nhân dân, từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà phục vụ, quân đội ta là đội quân chính trị, đội quân chiến đấu, đội quân công tác. Lực lượng vũ trang nhân dân đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng.

6. Tư tưởng về phát triển kinh tế và văn hóa, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.

Suốt đời Hồ Chí Minh phấn đấu cho độc lập dân tộc và hạnh phúc của nhân dân. Người chỉ rõ: Nước độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng chẳng có ý nghĩa gì! Trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: "Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân".

7. Tư tưởng về đạo đức cách mạng, cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư.

Hồ Chí Minh luôn chăm lo giáo dục, rèn luyện cán bộ, đảng viên và mọi người dân về phẩm chất đạo đức cách mạng. Người đặt lên hàng đầu tư cách "Người cách mệnh" và bản thân Người cũng là một tấm gương sáng về đạo đức cách mạng, cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư. Người coi đạo đức như là gốc của cây, là nguồn của các dòng sông. Người cộng sản mà không có đạo đức thì dù tài giỏi đến mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân. Cốt lõi của đạo đức cách mạng trong tư tưởng Hồ Chí Minh là trung với nước, hiếu với dân, suốt đời phấn đấu hy sinh vì độc lập tự do, vì CNXH.

8. Tư tưởng về chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau.

Người coi bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết "Vì lợi ích mười năm trồng cây; vì lợi ích trăm năm trồng người". Người nói: Đảng cần phải chăm lo, giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng CNXH vừa "hồng" vừa "chuyên".

9. Tư tưởng về xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.

Theo Hồ Chí Minh, muốn làm cách mạng trước hết phải có Đảng cách mạng, Đảng có vững cách mạng mới thành công. Đảng muốn vững phải có chủ nghĩa chân chính làm cốt, chủ nghĩa như trí khôn của người, như la bàn của con tầu. Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của cả dân tộc. Muốn vậy, Đảng phải trong sạch, vững mạnh về mọi mặt: Chính trị, tư tưởng và tổ chức, kiên định mục tiêu, lý tưởng; có đường lối cách mạng đúng đắn; thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ, thực hành tự phê bình và phê bình; thực sự đoàn kết nhất trí; mỗi đảng viên phải không ngừng rèn luyện đạo đức cách mạng, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ để thật sự xứng đáng là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, xứng đáng với niềm tin yêu của quần chúng nhân dân.

Như vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh có nội dung rất phong phú, toàn diện và sâu sắc về những vấn đề rất cơ bản của cách mạng Việt Nam, đã và đang soi đường cho thắng lợi của cách mạng Việt Nam.

Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam, cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Dưới ngọn cờ tư tưởng Hồ Chí Minh, cách mạng Việt Nam đã vững bước tiến lên giành những thắng lợi lịch sử có ý nghĩa thời đại sâu sắc.

Hiện nay, đất nước ta đang thực hiện đổi mới, mở cửa và hội nhập, công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Bên cạnh thuận lợi, chúng ta cũng có nhiều khó khăn, do đó mỗi người cần nghiên cứu, học tập, nắm vững chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nắm vững đường lối, quan điểm của Đảng và pháp luật của Nhà nước để kiên định mục tiêu lý tưởng cách mạng: Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, như Bác Hồ hằng mong muốn.

 

Câu 7:

Quá trình hình thành và phát triển tư tưởng HCM?

Trả lời:

Tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống quan điểm lý luận cơ bản về chiến lược, sách lược, phương châm, phương pháp của cách mạng Việt Nam từ giải phóng dân tộc đến CNXH. Đó là sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam. Tư tưởng Hồ Chí Minh được hình thành do yêu cầu khách quan nhằm giải đáp những đòi hỏi bức thiết của cách mạng Việt Nam đặt ra hồi đầu thế kỷ 20 trong những điều kiện lịch sử - xã hội sau đây:

1.Sau khi vua quan nhà Nguyễn đầu hàng thực dân Pháp, nhân dân ta vẫn tiếp tục chiến đấu chống ngoại xâm trong hoàn cảnh rất khó khăn. Các phong trào yêu nước, các cuộc nổi dậy đều bị kẻ thù dìm trong biển máu. Nguyên nhân của những thất bại nêu trên là do chưa tìm được đường lối rõ ràng, đúng đắn.

2.Chủ tịch Hồ Chí Minh sinh ra trong một gia đình nhà nho yêu nước. Quê hương của Người (tỉnh Nghệ An) là mảnh đất giàu truyền thống bất khuất, cần cù lao động, hiếu học... nơi đã sản sinh ra nhiều anh hùng nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam. Ngay từ nhỏ, Người đã được ảnh hưởng bởi những truyền thống quý báu đó.

3.Thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga mở ra thời đại mới trong lịch sử loài người. Vào thời điểm ấy, sau khi bôn ba qua nhiều nước để tìm đường cứu dân, cứu nước, Hồ Chí Minh đến Thủ đô nước Pháp. Tại đây, sau khi đọc bản Luận cương về Dân tộc và Thuộc địa của V.I.Lênin, Người coi đây chính là cái “cẩm nang thần kỳ” cho sự nghiệp cứu nước và giải phóng các dân tộc thuộc địa, khẳng định thêm con đường mà Người đã chọn.

Có thề chia thành các giai đoạn là:

1.Giai đoạn tìm tòi, khảo nghiệm (từ 1911 đến 1920). Trong giai đoạn này Nguyễn Ái Quốc bôn ba qua các châu lục để tìm hiểu cuộc sống của người lao động tại các nước tư bản, tìm hiểu các cuộc cách mạng lớn trên thế giới. Năm 1920, sau khi nghiên cứu Luận cương của Lênin, Nguyễn Ái Quốc tán thành gia nhập Quốc tế thứ ba, tham gia sáng lập Ðảng cộng sản Pháp. Sự kiện này đánh dấu bước chuyển biến về chất trong tư tưởng Nguyễn Ái Quốc, từ giác ngộ dân tộc đến giác ngộ giai cấp, từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa Lênin.

2.Giai đoạn hình thành cơ bản ( từ 1921 đến 1930). Ðây là giai đoạn hoạt động cực kỳ sôi nổi của Nguyễn Ái Quốc. Người sáng lập Hội Liên hiệp thuộc địa, xuất bản báo “Người cùng khổ” ( Le Paria), hoạt động trong quốc tế cộng sản ở Matxcơva; sáng lập ra tổ chức Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội, xuất bản báo Thanh Niên; mở lớp huấn luyện chính trị cho thanh niên trong nước ở Quảng Châu; sáng lập Ðoàn Thanh Niên cộng sản gồm 8 đồng chí đầu tiên; Chủ trì hội nghị hợp nhất, thành lập Ðảng Cộng sản Việt Nam; viết các tác phẩm “Bản án chế độ thực dân Pháp” ( 1925); “Ðường Kách mệnh” ( 1927) và các văn kiện tại hội nghị thành lập Ðảng.

3.Giai đoạn thử thách và thắng lợi ( từ 1930 đến 1945). Thời gian từ năm 1931 đến năm 1940, Nguyễn Ái Quốc hoạt động cách mạng ở nước ngoài đồng thời chỉ đạo phong trào trong nước. Người bị bắt giam một năm trong nhà tù của đế quốc Anh. Sau đó Người sang Liên Xô học tập, nghiên cứu chủ nghĩa Mác – Lênin. Những quan điểm của Người về mối quan hệ giữa giai cấp và dân tộc, sách lược và chiến lược cách mạng Việt Nam... đã được thực tiễn kiểm nghiệm là đúng đắn, nhất là dưới ánh sáng của nghị quyết Ðại hội VII Quốc tế cộng sản năm 1935.

Ðầu năm 1941, Nguyễn Ái Quốc về nước, trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên trên và trước hết. Người sáng lập Mặt trận Việt Minh và cùng Trung ương Ðảng ta lãnh đạo thắng lợi cuộc Cách mạng Tháng Tám lịch sử trong cả nước.

4.Giai đoạn phát triển và toả sáng ( từ 1945 đến 1969). Ðây là giai đoạn toàn Ðảng, toàn dân ta tiến hành hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, vừa xây dựng CNXH ở miền Bắc vừa đấu tranh giải phóng miền Nam. Thắng lợi của hai cuộc kháng chiến đã đưa Việt Nam lên hàng các dân tộc tiên phong trên thế giới, đồng thời chứng minh tính khoa học, sáng tạo của tư tưởng Hồ Chí Minh. Những biến động chính trị diễn ra trong những năm gần đây càng khẳng định giá trị dân tộc và giá trị toàn nhân loại của tư tưởng Hồ Chí Minh.

Những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc:

Đoàn kết là sức mạnh đoàn kết là thành công:

Tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh là một hệ thống luận điểm, nguyên tắc, phương pháp và cách thức giáo dục, tổ chức, hướng dẫn, hành động của các lực lượng cách mạng. Nhằm phát huy đến mức cao nhất, sức mạnh dân tộc, sức mạnh quốc tế trong sự nghiệp đấu tranh vì độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghãi xã hội tư tưởng đại đoàn kết - Hồ Chí Minh định hướng cho việc xây dựng và củng cố, mở rộng, tăng cường lực lượng cách mạng trong sự nghiệp đấu tranh nhằm giải phóng, dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người.

Trong tác phẩm của mình Hồ Chí Minh có tới 405 bài nói về đoàn kết nổi bất là:  “Đoàn kết là sức mạnh”, “ Đoàn kết là sức mạnh của chúng ta”,“Đoàn kết là sức mạnh, Đoàn kết là thắng lợi”,“Đoàn kết là sức mạnh, là then chốt của thành công”,“Đoàn kết” là điểm mẹ “ Điểm này mà thực hiện tốt thì đẻ ra con cháu đều tốt”.

“Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết; thành công, thành công, đại thành công”. Đặt trong một nước nghèo nàn, lạc hậu tư tưởng đoàn kết làm nên sức mạnh của người có ý nghĩa chiến lược, không chỉ trong sự nghiệp giải phóng dân tộc mà cả trong xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc..

Đại đoàn kết dân tộc là một mục tiêu, một nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng:

- Đại đoàn kết dân tộc phải được quá triệt trong mọi đường lối, chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước.

Ngày 03/03/1951, trong lời kết thúc buổi ra mắt của Đảng lao động Việt Nam, Hồ Chí Minh thay mặt Đảng tuyên bố trước toàn thể dân tộc: “Mục đích của Đảng lao động Việt Nam có thể gồm trong 8 chử là: “ Đoàn kết toàn dân phụng sự tổ quốc”. Đoàn kết toàn dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu của giai đoạn cách mạng.

Ngày 31/8/1963 nói chuyện với cán bộ tuyên huấn miền núi về cách mạng xã hội chủ nghĩa, Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Trước cách mạng tháng Tám và trong kháng chiến thì nhiệm vụ tuyên huấn là làm sao làm cho đồng bào các dân tộc hiểu được mấy việc: một là đoàn kết, hai là làm cách mạng hay kháng chiến để đòi độc lập, chỉ đơn giản thế thôi”. Bây giờ mục đích tuyên truyền huấn luyện là:“Một là đoàn kết, hai là xây dựng chủ nghĩa xã hội; ba là đấu tranh thống nhất nước nhà”, đại đoàn kết dân tộc còn làm mục tiêu, mục đích, nhiệm vụ hàng đầu của cả dân tộc.

Như vậy: Đại đoàn kết dân tộc chính là đòi hỏi khách quan của bản thân quần chúng nhân dân trong cuộc đấu tranh tự giải phóng, là sự nghiệp của quần chúng, do quần chúng, vì quần chúng. Đảng có sứ mệnh thức tỉnh, tập hợp hướng dẫn chuyển những đòi hỏi khách quan, tự phát của quần chúng đòi hỏi tự giác thành hiện thực, có tổ chức, thành sức mạnh vô địch trong cuộc đấu tranh vì độc lập dân tộc, tự do hạnh phúc của nhân dân.

Đối tượng đoàn kết dân tộc đó là toàn dân:

Khái niệm dân, nhân dân trong tư tưởng Hồ Chí Minh có nội hàm rất rộng, vừa là tập hợp đông đảo, quần chúng, vừa là mỗi con người Việt Nam cụ thể cả hai đều là chủ thể của đại đoàn kết dân tộc. Đó là:“ mội công dân Việt Nam”,“mỗi một người con rồng cháu tiên” không phân biệt dân tộc, tín ngưỡng “già, trẻ, gái, trai, giàu, nghèo, quý, tiện”.

Đoàn kết dân tộc là tập hợp được mọi người dân vào cuộc đấu tranh chung Hồ Chí Minh nhiều lần nêu rỏ: “Ta đoàn kết để đấu tranh cho thống nhất và độc lập của Tổ Quốc; ta còn phải đoàn kết xây dựng nước nhà, ai có tài, có đức, có sức, có lòng phụng sự Tổ quốc và phục vụ nhân dân thì ta đoàn kết với họ”.

- Muốn đại đoàn kết toàn dân thì phải kế thừa truyền thống yêu nước, nhân nghĩa, đoàn kết của dân tộc phải có tấm lòng khoan dung, đại độ với con người.

Hồ Chí Minh tha thiết kêu gọi tất cả những người thật thà yêu nước, không phân biệt tầng lớp nào, tín ngưỡng nào, chính kiến nào và trước đây đứng về phe nào; chúng ta phải thật thà cộng tác vì dân, vì nước. Người căn dặn: Cần xóa bỏ hết thành kiến, cần phải thật thà đoàn kết với nhau giúp đở nhau cùng tiến bộ để phục vụ nhân dân.

Đại đoàn kết dân tộc dựa trên nền tảng của khối liên minh công nông.

Hồ Chí Minh viết“ Lực lượng chủ yếu trong khối đoàn kết dân tộc là công nông cho nên liên minh công nông là nền tảng của mặt trận dân tộc thống nhất”. Sau nầy,  Hồ Chí Minh nêu rõ: nền tảng đại đoàn kết dân tộc là liên minh - công nông - lao động trí óc.

Đại đoàn kết trong mặt trận dân tộc thống nhất:

Mặt trận dân tộc thống nhất phải được xây dựng theo những nguyên tắc:

Trên nền tảng liên minh - công nông (sau thêm lao động trí óc) dưới sự lãnh đạo của Đảng.

+ Mặt trận hoạt động theo nguyên tắc hiệp thương, dân chủ lấy việc thống nhất lợi ích của tầng lớp nhân dân làm cơ sở để cũng cố và không ngừng mở rộng.

+ Đoàn kết lâu dài, chặt chẽ, đoàn kết thực sự, chân thành, thân ái giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Phương châm đoàn kết các giai cấp, các tầng lớp khác nhau của Hồ Chí Minh là:“Cầu đồng tồn dị”...

Tư tưởng đoàn kết của Hồ Chí Minh là đoàn kết bao gồm: đấu tranh, đấu tranh để đoàn kết tốt hơn. Người viết “ Đoàn kết thật sự nghĩa là mục đích phải nhất trí và lập trường cũng phải nhất trí, đoàn kết thực sự nghĩa là vừa đoàn kết, vừa đấu tranh học những cái tốt của nhau, phê bình những cái sai của nhau và phê bình trên lập trường thân ái, vì nước, vì dân”.

Trong quá trình xây dựng củng cố và phát triển Mặt trận dân tộc thống nhất, Đảng ta luôn luôn đấu tranh trên 2 mặt trận chống khuynh hướng cô độc, hẹp hòi coi nhẹ việc tranh thủ, tất cả những lực lượng có thể tranh thủ được đồng thời chống khuynh hướng đoàn kết một chiều, đoàn kết mà không đấu tranh đúng mức trong nội bộ mặt trận.

Đảng Cộng Sản vừa là thành viên của mặt trận dân tộc thống nhất, vừa là lực lượng lãnh đạo mặt trận, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân ngày càng vững chắc:

Hồ Chí Minh khẳng định: Đảng Cộng sản Việt nam vừa là giai cấp công nhân, vừa là của nhân dân lao động, vừa của cả dân tộc, vì vậy: đại đoàn kết dân tộc ... thành máu thịt của Đảng.

Muốn qui tụ được cả dân tộc Đảng Cộng sản Việt Nam phải “ vừa là đạo đức, vừa là văn minh, Đảng Cộng sản phải tiêu biểu cho trí tuệ, danh dự lương tâm của dân tộc và thời đại”, “Đảng phải thật sự đoàn kết nhất trí”: được nhân dân đón nhận. Người viết “ Đảng không thể đòi hỏi mặt trận thừa nhận quyền lãnh đạo của mình, mà phải tỏ ra là một bộ phận trung thành nhất, hoạt động nhất và chân thành nhất chỉ trong đấu tranh và công tác hàng ngày khi quần chúng rộng rãi thừa nhận chính sách đúng đắn và năng lực lãnh đạo của Đảng thì Đảng mới giành được vị trí lãnh đạo”.

Đảng lảnh đạo mặt trận trước hết bằng việc xác định chính sách mặt trận đúng đắn phù hợp với từng giai đoạn, thời kỳ cách mạng.

Đảng lảnh đạo mặt trận thật sự theo nguyên tắc. Mặt trận hiệp thương dân chủ, phải dùng phương pháp vận động, giáo dục, thuyết phục, nêu gương lấy lòng chân thành để đối xử, cảm hóa, khơi gợi, tinh thần tự giác, tự nguyện. Người viết: “ phải thành thực lắng nghe ý kiến của người ngoài Đảng, cán bộ và Đảng viên không được tự cao, tự đại cho mình là tài giỏi hơn mọi người; Trái lại phải học hỏi điều hay, điều tốt của mọi người cán bộ Đảng viên có quyết tâm làm như thế thì công tác mặt trận nhất định sẽ tiến nhiều”

Đại Đoàn kết dân tộc phải gắn liền với đoàn kết quốc tế:

Hồ Chí Minh khẳng định: Yêu nước chân chính phải gắn liền với chủ nghĩa quốc tế trong sáng của giai cấp công nhân. Khi chuẩn bị thành lập Đảng Hồ Chí Minh xác định “ phải có Đảng cách mệnh để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi”.

Hồ Chí Minh luôn luôn khẳng định: “Cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế  giới”, “Cách mạng Việt Nam chỉ giành được thắng lợi khi đoàn kết chặt chẽ với phong trào cách mạng thế  giới” Người là hình mẫu của hoạt động không mệt mỏi vì sự đoàn kết của giai cấp công nhân, Đảng Cộng sản và các dân tộc trên thế giới.

 

Hồ Chí Minh - lãnh tụ thiên tài của nhân dân Việt Nam, nhà văn hoá lớn của thế giới. Người không chỉ truyền bá, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin trong điều kiện cụ thể của Việt Nam, đưa Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, mà Người còn phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin lên một tầm cao mới.

1.Khi phân tích những mâu thuẫn của CNTB, C.Mác và Ph. Ăngghen đã tiên đoán khả năng cách mạng nổ ra trước tiên ở các nước tư bản phát triển nhất, nơi những tiền đề vật chất của CNXH đã đạt đến độ chín muồi nhất định. Mới đầu các ông cho rằng cách mạng sẽ nổ ra ở Anh, Pháp, sau đó là Đức. Theo các ông, giữa xã hội tư bản và xã hội cộng sản là một thời kỳ cải tiến cách mạng từ xã hội nọ sang xã hội kia, thích ứng với thời kỳ ấy là một thời kỳ quá độ chính trị và Nhà nước của thời kỳ ấy là nền chuyên chính cách mạng của giai cấp vô sản. Nhưng đến năm 1877, hai ông lại cho rằng cách mạng sẽ nổ ra ở phương Đông mà Nga là nước tiên phong. C.Mác tán thành ý kiến của Sécnưsepxki cho rằng nước Nga có thể không cần phải trải qua những đau khổ của chế độ tư bản mà vẫn chiếm đoạt được mọi thành quả của chế độ ấy. Như vậy, về cơ bản, lý luận của hai ông đều cho rằng các nước tư bản phát triển có thể đồng loạt tiến lên XHCN. Tuy nhiên, các ông cũng dự báo khả năng phát triển rút ngắn như nước Nga.

Thời C.Mác và Ph. Ăngghen, hệ thống thuộc địa của CNTB đã được mở rộng, nhưng cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc chưa phát triển mạnh, bởi vậy, theo các ông, vận mệnh loài người, tương lai của cách mạng giải phóng dân tộc vẫn phần lớn phụ thuộc vào thắng lợi của cách mạng vô sản ở các nước tư bản chủ nghĩa phát triển.

Sang thời Lênin, khi phân tích CNTB ở giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, ông cho rằng CNXH có thể thắng lợi thậm chí trong một nước tư bản tách riêng (một mắt xích trong sợi dây truyền), và ông nêu ra tư tưởng trong những điều kiện lịch sử nhất định, những nước lạc hậu có thể phát triển rút ngắn, bỏ qua, không phải trải qua giai đoạn phát triển TBCN. Những điều kiện đó là gì?

a) Phương thức sản xuất bị bỏ qua đã tỏ ra lỗi thời về mặt lịch sử.

b) Có sự giúp đỡ của giai cấp công nhân đã giành được thắng lợi ở nước tư bản phát triển hơn.

c) Có đội tiên phong chính trị của giai cấp công nhân với đầy đủ kinh nghiệm và quyết tâm cùng toàn dân làm cuộc cách mạng giành được chính quyền về tay mình.

Thời Lênin, cách mạng giải phóng dân tộc đã trở thành một bộ phận của cách mạng vô sản, nên ông cho rằng cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản ở chính quốc cần phải liên minh với cuộc đấu tranh của các dân tộc bị áp bức ở các thuộc địa. Bởi vậy, thay thế cho khẩu hiệu thời C.Mác "Vô sản tất cả các nước liên hợp lại", ông đưa ra khẩu hiệu: “Vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại".

Hồ Chí Minh trên góc độ của người thuộc địa, góc độ của các dân tộc bị áp bức đã phê phán một cách có căn cứ và hết sức sâu sắc chủ nghĩa đế quốc và đã chỉ ra rằng sức sống của chủ nghĩa đế quốc một phần quan trọng nằm ở thuộc địa. Người nói: "Hiện nay nọc độc và sức sống của con rắn độc tư bản chủ nghĩa đang tập trung ở các nước thuộc địa hơn là ở chính quốc". Đây là điều quan trọng mà Hồ Chí Minh bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin. Từ đó, Người viết: "CNTB là một con đỉa có một cái vòi bám vào giai cấp vô sản ở chính quốc và một cái vòi khác bám vào giai cấp vô sản ở các thuộc địa. Nếu người ta muốn giết con vật ấy, người ta phải đồng thời cắt cả hai vòi. Nếu người ta chỉ cắt một vòi thôi, thì cái cái vòi kia vẫn tiếp tục hút máu của giai cấp vô sản, con vật vẫn tiếp tục sống và cái vòi bị cắt đứt sẽ lại mọc ra". Tư tưởng này là sự cụ thể hoá và chứng minh cho quan điểm của Lênin về sự đoàn kết giữa giai cấp vô sản của các nước thuộc địa và các dân tộc bị áp bức để tiêu diệt CNTB - con đỉa có hai vòi. Người cho rằng cách mạng vô sản ở các nước tư bản và cách mạng giải phóng dân tộc như đôi cánh của một con chim. Từ đó Người đi đến kết luận: "Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác ngoài cách mạng vô sản", và Người đã gắn cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân với cách mạng vô sản, gắn giải phóng dân tộc với CNXH, mang lại sự giải phóng triệt để cho con người Việt Nam.

2.Chủ nghĩa Mác-Lênin đề cao vấn đề giai cấp, còn ở Hồ Chí Minh, vấn đề giai cấp gắn bó mật thiết với vấn đề dân tộc, không có giai cấp chung chung đứng ngoài dân tộc, hai cái đó liên hệ với nhau một cách uyển chuyển và biện chứng. Trong hoàn cảnh mất nước thì quyền lợi dân tộc được đặt lên trên quyền lợi giai cấp, vì có giải phóng dân tộc mới giải phóng được giai cấp, giải phóng dân tộc đã bao hàm một phần giải phóng giai cấp, tạo tiền đề, điều kiện thuận lợi để giải phóng giai cấp. Theo Người, nếu không giải quyết được vấn đề giải phóng dân tộc, không đòi được tự do cho dân tộc thì chẳng những quốc gia dân tộc còn chịu mại kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận giai cấp đến vạn năm cũng không lại được. Không nên thấy người ta làm thế nào mình cũng làm như thế, người ta nói giai cấp đấu tranh, mình cũng ra khẩu hiệu giai cấp đấu tranh. Ngoài ra, trên cơ sở phân tích xã hội phương Đông, Người còn cho rằng đấu tranh giai cấp ở các nước phương Đông không quyết liệt như ở phương Tây, còn ở Việt Nam, chủ nghĩa dân tộc là một động lực lớn của lịch sử. Bởi vậy, theo Người, "cần phát động chủ nghĩa dân tộc bản xứ nhân danh Quốc tế cộng sản, đó là một chính sách mang tính hiện thực tuyệt vời, vì người ta sẽ không thể làm gì được cho người An nam nếu không dựa trên động lực vĩ đại và duy nhất của họ. Khi chủ nghĩa dân tộc của ta thắng lợi, phần lớn thế giới sẽ Xô viết hoá và lúc đó chủ nghĩa dân tộc ấy sẽ biến thành chủ nghĩa quốc tế, còn sự nghiệp của người bản xứ gắn mật thiết với sự nghiệp của vô sản toàn thế giới . Như vậy, ở Hồ Chí Minh, dân tộc và giai cấp liên hệ mật thiết với nhau, không tách rời nhau, có điều ở mỗi thời điểm lịch sử cụ thể thì cái nào nổi trội hơn nhằm đạt đến mục tiêu chiến lược và sách lược cụ thể. Thực tiễn cách mạng 75 năm qua đã chứng minh cho sự đúng đắn của quan điểm này.

3.Nếu như C. Mác tán thành quan điểm của Sécnưsépxki cho rằng nước Nga có thể bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, thì Lênin cho rằng: "So với những nước tiên tiến, thì đối với nước Nga, bắt đầu cuộc đại cách mạng vô sản là một điều dễ dàng hơn, nhưng tiếp tục cuộc cách mạng đó đến thắng lợi cuối cùng… lại là một điều khó khăn hơn" . Như vậy, theo Lênin, so với những nước tư bản tiên tiến, Nga làm cách mạng vô sản dễ hơn nhưng để đi đến thắng lợi cuối cùng thì lại khó khăn hơn. Khó đến mức mà hiện nay nước Nga xã hội chủ nghĩa là không còn nữa. Nghiên cứu tình hình cụ thể các nước phương Đông, Hồ Chí Minh cho rằng với những lý do lịch sử cho phép chủ nghĩa cộng sản thâm nhập dễ dàng vào Châu Á, dễ dàng hơn là ở Châu Âu”. Như vậy, theo Bác, chủ nghĩa cộng sản thâm nhập vào Châu Á dễ dàng hơn Châu Âu. Điều này hoàn toàn có căn cứ, có cơ sở khoa học.

Như chúng ta đã biết, điểm khác biệt giữa Á với Âu, Đông và Tây là ở chỗ ảnh hưởng của cái gọi là phương thức sản xuất Châu Á lâu dài, dai dẳng, đã tạo nên một đặc điểm đặc trưng của phương Đông là việc không có sở hữu tư nhân về ruộng đất, cái mà C.Mác gọi là cơ sở, còn Ph.Ăngghen gọi là chiếc chìa khoá để hiểu toàn bộ phương Đông. Trong Kinh Thư có ghi: "Phổ thiên chi hạ mạc phi vương thổ, suất hải chi tân mạc phi vương thần" nghĩa là đất đai dưới trời đâu chẳng là của vua, người trên đất đai ấy ai chẳng phải là thần dân của vua. GS. Trần Đình Hượu cho rằng cùng với chế độ "'lãnh hữu” chứ không phải "sở hữu” và ruộng đất các nước phương Đông để tiến lên CNXH, hơn CNTB.

Nhưng để tiến lên CNXH và xây dựng thành công CNXH là hai việc khác nhau. Cái thứ nhất suy cho cùng nghiêng về tiền đề, cái thứ hai mới là mục đích Hồ Chí Minh cho rằng thắng đế quốc và phong kiến là tương đối dễ, thắng bần cùng và lạc hậu còn khó hơn nhiều, rằng cách mạng xã hội chủ nghĩa là cuộc cách mạng vĩ đại, vẻ vang nhất nhưng là cuộc cách mạng gay go nhất, phức tạp, khó khăn nhất, là cuộc chiến khổng lồ chống lại những gì cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi. Qua thực tiễn xây dựng CNXH ở nước ta trong những năm qua, chúng ta càng thấm thía tư tưởng của Người.

4.Chủ nghĩa Mác - Lênin qua lăng kính của Người trở thành một cái gì đó cực kỳ dễ hiểu, giản dị, dung dị, gần gũi đối với tất cả mọi người. Chẳng hạn, quan hệ giữa cán bộ, Đảng, Nhà nước và nhân dân được người mô tả bằng hình ảnh vô cùng quen thuộc: dân là nước, cán bộ là cá, Nhà nước, cách mạng là thuyền, đường lối là la bàn, Đảng như người cầm lái (hay trí tuệ con người cầm lái). Như chúng ta thấy, cá tách khỏi nước sẽ chết. Nước có thể chở thuyền nhưng cũng có thể lật thuyền. Thuyền không có la bàn không biết đi đâu. Thuyền không có người cầm lái thì không chuyển động. Như vậy, thật vô cùng dễ hiểu, không có dân là không có tất cả, dân là gốc, là cơ sở, nước ấy dân làm gốc.

Gốc có vững cây mới bền

Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân

Từ đó Người đưa ra tư tưởng dân là chủ, Chính phủ là đầy tớ của dân và xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân. Người cho rằng thực hiện dân chủ là chìa khoá vạn năng có thể giải quyết được mọi khó khăn. Hay một hình ảnh nữa, đoàn kết hay không đoàn kết, được Người ví như một bó đũa và một chiếc đũa đơn lẻ. Từ đó Người cho rằng đoàn kết tạo nên sức mạnh, đoàn kết là thắng lợi, là thành công.

Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết

Thành công, thành công đại thành công

Bởi vậy, chủ nghĩa Mác- Lênin trở nên gần gũi với những người dân lao động bình thường. Bác giải thích thế nào là chủ nghĩa Mác -Lênin, tsách vở mà sống không có tình, có nghĩa thì sao gọi là hiểu chủ nghĩa Mác-Lênin được, hay hết lòng, hết sức phụng sự nhân dân, phụng sự Tổ quốc, đó là chủ nghĩa Mác-Lênin. Bác cho rằng muốn giữ gìn sự trong sáng của chủ nghĩa Mác –Lênin thì trước hết tự mình phải trong sáng.

5.Chủ nghĩa Mác-Lênin có bàn đến đạo đức giai cấp vô sản và giai cấp tư sản. Mặc dù đã vạch ra được những nguyên lý nền tảng của đạo đức nhưng vẫn còn khá chung chung, chưa thật cụ thể.

Giống như C.Mác phê phán Hêghen, Người cho rằng đạo đức cũ như người đầu ngược xuống đất, chân chổng lên trời. Đạo đức không phải từ trên trời rơi xuống, nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển. Đạo đức là nền tảng của người cách mạng, nó giống như gốc của cây, ngọn nguồn của sông suối. Hồ Chí Minh đã nhìn ra đạo đức có thể nhân gấp 10 lần sức mạnh con người, đã nhìn ra ở phương Đông một tấm gương có giá trị gấp trăm bài diễn thuyết, bởi vậy, Người chú trọng vấn đề đạo đức, đặc biệt xây dựng mẫu người toàn diện cả đức lẫn tài, cả tâm hồn lẫn trí tuệ và sức khoẻ, phải trung với nước, hiếu với dân, phải thương yêu con người, phải cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư, phải có tinh thần quốc tế trong sáng. Đối với Người, nói là phải đi đôi với với làm, phải làm gương "Đảng viên đi trước, làng nước theo sau” xây đi đôi với chống và phải tu dưỡng đạo đức suốt đời giống như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong.

6.Trên cơ sở phân tích tình hình xã hội phương Đông nói chung và Việt Nam nói riêng, Người cho rằng cuộc đấu tranh giai cấp ở đây không diễn ra giống như ở phương Tây. Vậy không giống ở điểm nào? Người cho rằng về phía Việt Nam người lao động, đó là sự không giác ngộ, sự nhẫn nhục và vô tổ chức, còn về phía bọn chủ thì không có máy móc, ruộng đồng thuộc sở hữu của những địa chủ hạng trung, hạng nhỏ và những kẻ ở đó được coi là đại địa chủ thì chỉ là những tên lùn tịt bên cạnh những người trùng tên với họ ở Châu Âu và Châu Mỹ, không có tỷ phú người An Nam. Những tên trọc phú ở đó thì ở đây chỉ là những kẻ thực lợi khá giả thôi. Cho nên, nếu nông dân chỉ sống bằng cái tối thiểu cần thiết thì đời sống của địa chủ cũng chẳng có gì là xa hoa, nếu thợ thuyền không biết mình bị bóc lột bao nhiêu thì chủ lại không hề biết công cụ để bóc lột của họ là máy móc, người thì chẳng có công đoàn, kẻ thì chẳng có Tơrớl. Người thì nhẫn nhịn chịu số phận của mình, kẻ thì vừa phải trong sự tham lam của mình, sự xung đột về quyền lợi của họ được giảm thiểu. Điều đó không thể chối cãi được. Từ đó Người kết luận: "Xã hội Đông Dương, Ấn Độ hay Trung Quốc về mặt cấu trúc kinh tế, không giống các xã hội phương Tây thời trung cổ, cũng như thời cận đại, và đấu tranh giai cấp ở đó không quyết liệt như ở đây".

Từ phân tích về giai cấp xã hội các nước phương Đông và Việt Nam, Hồ Chí Minh đã đi gần đến cái mà C.Mác gọi là phương thức sản xuất Châu Á vốn coi trọng là tính tự trị độc lập, biệt lập của công xã. Cái đặc trưng này theo Người dẫn đến sự thiếu tin cậy lẫn nhau, từ đó là nguyên nhân gây ra sự suy yếu của các dân tộc phương Đông. Người viết: "Nguyên nhân đầu tiên đã gây ra sự suy yếu của các dân tộc phương Đông, đó là sự biệt lập. Họ hoàn toàn không biết đến những việc xảy ra ở các nước láng giềng gần gũi nhất của họ, do đó họ thiếu sự tin cậy lẫn nhau, sự phối hợp hành động và sự cổ vũ lẫn nhau.

Với tính cách đặc thù đó, Người đã đặt ra một vấn đề hoàn toàn chính xác khi cho rằng C.Mác cho ta biết sự tiến triển của các xã hội trải qua ba giai đoạn: "Chế độ nô lệ, chế độ nông nô, chế độ tư bản, và trong mỗi giai đoạn ấy, đấu tranh giai cấp có khác nhau. Chúng ta phải coi chừng! Các dân tộc Viễn Đông có trải qua hai giai đoạn đầu không?". Bởi lẽ, ở phương Đông do ảnh hưởng của cái gọi là phương thức sản xuất Châu Á kéo dài dai dẳng từ sau khi tan rã của công xã nguyên thuỷ cho đến tận những năm đầu của thế kỷ XIX, nên xã hội ở phương Đông và Việt Nam không thật điển hình như ở phương Tây (nếu theo hệ quy chiếu phương Tây). Một số học giả khác lại cho rằng Việt Nam, Mông Cổ và cả Nga không trải qua chế độ nô lệ, thậm chí có người còn cho rằng Việt Nam không có chế độ phong kiến. Từ đó Hồ Chí Minh cho rằng tùy hoàn cảnh mà các dân tộc phát triển theo con đường khác nhau "Ta không giống Liên Xô... ta có thể đi con đường khác để tiến lên CNXH”. Hồ Chí Minh cho rằng không thể cấm bổ sung “cơ sở lịch sử” của chủ nghĩa Mác bằng cách đưa thêm vào đó những tư liệu mà C.Mác ở thời mình không có được. Người cho rằng “xem xét lại chủ nghĩa Mác về cơ sở lịch sử của nó, củng cố nó bằng dân tộc học phương Đông, đó chính là nhiệm vụ của các Xô viết”. Tại sao lại như vậy? Theo người: “C.Mác đã xây dựng học thuyết của mình trên một triết lý nhất định của lịch sử, nhưng lịch sử nào? Lịch sử Châu Âu. Mà Châu Âu là gì? Đó chưa phải là toàn thể nhân loại”. Qua đây ta đã thấy Người đã phát triển chủ nghĩa Mác trong điều kiện cụ thể của các nước phương Đông và Việt Nam như thế nào. Điều này hoàn toàn xa lạ với cái gọi là khuynh hướng xét lại chủ nghĩa Mác.

Ngày nay trong công cuộc CNH-HĐH, thiết nghĩ những người giảng dạy và nghiên cứu chủ nghĩa Mác-Lênin học tập tinh thần phát triển sáng tạo ở Người để góp phần nhanh chóng đưa nước ta đến mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh.

 

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro