Tu Tuong HCM

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về

những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và

phát triển sáng tạo của chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể nước ta,

kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh

hoa văn hóa nhân loại. Đó là tư tưởng giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp,

giải phóng về con người., về độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội, kết hợp

sức mạnh toàn dân với sức mạnh thời đại, về sức mạnh của nhân dân, của khối

đại đoàn kết toàn dân tộc, về quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng nhà nước

thực sự của dân, do dân và vì dân. Bên cạnh đó, tư tưởng Hồ Chí Minh còn

góp phần xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, về phát triển kinh tế văn hóa,

không ngừng nâng cao đời sống cho nhân dân, xây dựng Đảng trong sạch vững

mạnh.

Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường chỉ lối cho cuộc đấu tranh vĩ đại của nhân

dân ta, là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta. Theo dấu chân Bác

kính yêu và để hiểu rõ hơn nữa về tư tưởng của Người, nhóm 02 chúng tôi rất

vinh dự được tìm hiểu và làm sáng rõ đề tài: "Quan điểm của Hồ Chí Minh về
xây dựng Chủ Nghĩa Xã Hội ở Việt Nam và sự vận dụng của Đảng ta trong
công cuộc đổi mới hiện nay"

L im

Ph n 1: C

A. Lí lu n chung v ch nghĩa xã h i theo quan đi m Mác – Lênin và H
Chí Minh
4
B. Quan đi m c a ch tich H Chí Minh v xây d ng CNXH Vi t
Nam
4
1. Tính t t y u khách quan v xây d ng ch nghĩa xã h i Vi t Nam
theo quan đi m c a H Chí Minh.
4
2. Cách ti p c n c a H Chí Minh v ch nghĩa xã h i
5
3. Quan đi m H Chí Minh v m c tiêu,đ ng l c c a ch nghĩa xã
h i Vi t Nam.
6
3.1 Mục tiêu
6
3.2. Động lực
7
4. N i dung xây d ng CNXH Vi t Nam theo quan đi m c a ch t ch
H Chí Minh
8
4.1. Nhiệm vụ
8
4.2. Nguyên tắc và phương châm
9
4.3. Biện pháp
10
4.4. Nội dung xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta trong thời kỳ quá độ.
10
Ph n 2: V n d ng t t
ng H Chí Minh v CNXH vào công cu c đ i

m i hi n nay

1. Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội
2. Phát huy quyền làm chủ của nhân dân, khơi dậy mạnh mẽ tất cả các
nguồn lực, trước hết là nguồn lực nội sinh để thực hiện CNH, HĐH đất
nước
3. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
4. Chăm lo xây dựng Đảng vững mạnh, làm trong sạch bộ máy nhà nước,
đẩy mạnh đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, thực hiện cần kiệm để
xây dựng CNXH.

đ u

S

LÍ LU N

Phần 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN

A. Lí luận chung về chủ nghĩa xã hội theo quan điểm Mác – Lênin và Hồ Chí
Minh

Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, chủ nghĩa xã hội là:
_ Tổng hợp các tư tưởng phản ánh các cuộc đấu tranh chống áp bức bóc lột giữa giai cấp bị
áp bức, bóc lột và giai cấp bóc lột đang là giai cấp thống trị.
_ Tổng hợp những tư tưởng phản ánh những ước mơ, nguyện vọng, mong muốn nhu cầu
của con người mà trước hết là người lao động nghèo khổ về một tương lai tốt đẹp không có
áp bức, bóc lột.
_ Tổng hợp những ( phương pháp, cách thức, con đường…) giải pháp khả thi để đi đến
những mong muốn xã hội đó.
Theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Hồ Chí Minh có quan điểm tổng quát khi
coi chủ nghĩa cộng sản, chủ nghĩa xã hội như là một chế độ xã hội bao gồm các mặt rất
phong phú, hoàn chỉnh trong đó con người được phát triển toàn diện, tự do. Người diễn đạt
quan điểm của mình về CNXH ở Việt Nam trên một số mặt nào đó của nó như chính trị,
kinh tế, văn hóa, xã hội…. Với cách diễn đạt như thế của Bác thì chúng ta không nên tuyệt
đối hóa từng khía cạnh, từng mặt của nó mà nên đặt trong một tổng thể chung. Cụ thể, Bác
nhấn mạnh CNXH trên những đặc điểm sau:
- Đó là một chế độ xã hội do dân làm chủ
- Là một chế độ xã hội có nền kinh tế phát triển cao, gắn liền với sự phát triển của
khoa học- kĩ thuật.
- Là chế độ không còn bóc lột con người
- Là một xã hội phát triển cao về mặt đạo đức, văn hóa.
Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin và của chủ tịch Hồ Chí Minh tuy có phần khác
nhau về cách diễn đạt song đều hướng tới làm rõ đặc điểm vì cuộc sống ấm no, hạnh phúc
của nhân dân lao động, đó chính là đặc trưng cơ bản nhất cuả CNXH.

B. Quan điểm của chủ tich Hồ Chí Minh về xây dựng CNXH ở Việt Nam

1. Tính tất yếu khách quan về xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam theo quan
điểm của Hồ Chí Minh.

Mác cho rằng: hình thức quá độ trực tiếp từ xã hội TBCN lên CNXH diễn ra ở các nước
tư bản phát triển nhất ở châu Âu là thực hiện cách mạng vô sản
Lê-nin cho rằng: quá độ gián tiếp không qua CNTB ở các nước tiểu nông cần có sự giúp
đỡ từ bên ngoài của một nước công nghiệp đã làm cách mạng CNXH thành công và điều
kiện bên trong phải có một chính Đảng vô sản lãnh đạo Đất nước đi theo CNXH. Sự sáng
tạo của Lênin bổ sung cho học thuyết Mác, xuất phát từ thực tiễn nước Nga, không chỉ là
quá độ về chính trị.

Hồ Chí Minh đã tiếp thu, vận dụng sáng tạo lí luận Mác-lênin về sự phát triển tất yếu
của xã hội loài người theo các hình thái kinh tế xã hội. Quan điểm của Hồ Chí Minh là: tiến
lên CNXH là bước phát triển tất yếu ở Việt Nam sau khi nước nhà đã giành độc lập theo con
đường cách mạng vô sản.
Mục tiêu giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản mà Hồ Chí Minh đã lựa
chọn cho dân tộc Việt Nam là nước nhà được độc lập, nhân dân được hưởng cuộc sống ấm
no, tự do, hạnh phúc, tức là sau khi giành độc lập, nhân dân ta sẽ xây dựng một xã hội mới,
xã hội chủ nghĩa. Ngay từ những năm 20 của thế kỉ XX , theo lí luận về chủ nghĩa cộng sản
khoa học của chủ nghĩa Mác – Lênin, Hồ Chí Minh đã khẳng định rằng: “Chỉ có chủ nghĩa
cộng sản mới cứu nhân loại, đem lại cho mọi người không phân biệt chủng tộc và nguồn
sống tự do, bình đẳng bác ái, đoàn kết, ấm no trên quả đất, việc làm cho mọi người và vì
mọi người, niềm vui, hòa bình, hạnh phúc. Nói tóm lại là nền cộng hòa thế giới chân chính,
xóa bỏ những biên giới tư bản chủ nghĩa cho đến nay chỉ là những bức tường dài ngăn cản
những người lao động trên thế giới hiểu và yêu thương nhau”.

2. Cách tiếp cận của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội

Cách tiếp cận sáng tạo, độc đáo về bản chất của CNXH cũng như các định hướng và
động lực của xây dựng CNXH là điểm nổi bật trong tư tưởng Hồ Chí Minh
Người tiếp cận CNXH theo quan điểm Mác – Lênin từ lập trường của một người yêu
nước đi tìm con đường cách mạng giải phóng dân tộc để xây dựng một xã hội mới tốt đẹp.
Bên cạnh việc tiếp thu, Bác đồng thời có sự bổ sung cách tiếp cận mới về CNXH.
Hồ Chí Minh tiếp thu lí luận về chủ nghĩa xã hôi của lí luận Mác – Lênin trước hết là từ
khát vọng giải phóng dân tộc Việt Nam. Người tìm thấy trong lí luận Mác – Lênin sự thống
nhất biện chứng giữa giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội và giải phóng con người, đó
cũng là mục tiêu cuối cùng của chủ nghĩa cộng sản theo đúng bản chất của chủ nghĩa Mác –
Lênin.
Hồ Chí Minh tiếp cận CNXH ở một phương diện nữa là đạo đức hướng tới giá trị nhân
đạo, nhân văn mácxit, giải quyết tốt quan hệ giữa cá nhân với xã hội theo quan điểm của
C.Mác và Ph.Ănghen trong bản tuyên ngôn của Đảng Cộng sản mà hai ông đã công bố tháng
2-1848: Sự phát triển tự do của mỗi con người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất
cả mọi người.
Bao trùm lên tất cả là Hồ Chí Minh tiếp cận CNXH từ văn hóa. Văn hóa trong CNXH ở
Hồ Chí Minh có quan hệ biện chứng với chính trị, kinh tế. Quá trình xây dựng CNXH ở Việt
Nam cũng là quá trình xây dựng một nền văn hóa mà trong đó có két tinh, kế thừa, phát triển
những giá trị truyền thống văn hóa thế giới kết hợp với hiện đại, dân tộc và quốc tế.
Xây dựng một xã hội như vậy theo quan điểm của Hồ Chí Minh cũng chính là nhân
dân Việt Nam đã tuân theo quy luật phát triển của dân tộc Việt Nam: độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội gắn liền với nhau. Độc lập dân tộc là tiền đề, là điều kiện tiên quyết để
xây dựng CNXH, xây dựng thành công CNXH là điều kiện đảm bảo vững chắc, đồng thời
là mục tiêu độc lập dân tộc hướng tới. Hồ Chí Minh đã thấy rõ tính tất yếu khách quan của

việc đi lên CNXH của Việt Nam ngay sau khi trở thành người cộng sản vào năm 1920 và
khẳng định điều đó trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng cộng sản Việt Nam, kiên
trì nhất quán bảo vệ và phát triển quan điểm này trong những bước đi của cách mạng Việt
Nam.

3. Quan điểm Hồ Chí Minh về mục tiêu,động lực của chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam.

3.1 Mục tiêu

Hồ Chí Minh ý thức rõ ràng được giá trị của CNXH về mặt lí luận là quan trọng, nhưng
vấn đề quan trọng hơn là tìm ra con đường để thực hiện những giá trị này. Điểm then chốt
có ý nghĩa phương pháp luận quan trọng của Hồ Chí Minh là đề ra các mục tiêu chung và
mục tiêu cụ thể xây dựng xã hội chủ nghĩa trong mỗi giai đoạn cách mạng khác nhau ở nước
ta. Thông qua quá trình đề ra các mục tiêu đó, chủ nghĩa xã hội được thể hiện bằng việc thỏa
mãn các nhu cầu, lợi ích thiết yếu của người lao động theo các nấc thang từ thấp đến cao,
tạo ra tính hấp dẫn, năng động của chế độ mới.
Ở Bác, mục tiêu chung của CNXH và mục tiêu phấn đấu của Người là một, đó là độc
lập tự do cho dân tộc, hạnh phúc cho nhân dân, đó là làm cho nước ta được hoàn toàn độc
lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học
hành.
Từ cách đặt vấn đề này, theo Hồ Chí Minh, hiểu mục tiêu của CNXH là nắm bắt nội
dung cốt lõi con đường lựa chọn và bản chất thực tế xã hội mà chúng ta phấn đấu xây dựng.
Hồ Chí Minh đã xác định các mục tiêu cụ thể của thời quá độ lên CNXH trên tất cả các lĩnh
vực của đời sống xã hội, cụ thể là:
_ Mục tiêu chính trị: Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội,
chế độ chính trị phải là do nhân dân lao động làm chủ, Nhà nước là của dân, do dân và vì
dân. Hai chức năng của nhà nước là: dân chủ với nhân dân và chuyên chính với kẻ thù của
nhân dân, phải không tách rời nhau, mà luôn đi đôi với nhau. Để phát huy quyền làm chủ của
nhân dân, Hồ Chí Minh chỉ rõ con đường và biện pháp thực hiện các hình thức dân chủ trực
tiếp, nâng cao năng lực hoạt động của các hình thức dân chủ gián tiếp, nâng cao năng lực
hoạt động của các tổ chức chính trị- xã hội của quần chúng, củng cố các hình thức dân chủ
đại diện, tăng cường hiệu lực và hiệu quả quản lí của các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư
pháp, xử lí và phân định rõ chức năng của chúng.
_ Mục tiêu kinh tế: Theo Hồ Chí Minh, nền kinh tế vững mạnh chính là cơ sở để đảm bảo
cho một chế độ chính trị ổn định. Nền kinh tế mà chúng ta đang xây dựng dựng là nền kinh
tế XHCN với công – nông nghiệp hiện đại, khoa học kĩ thuật tiên tiến, cách bóc lột theo chủ
nghĩa tư bản được bỏ dần, đời sống vật chất của nhân dân ngày càng được cải thiện.
Nền kinh tế XHCN ở nước ta cần phát triển toàn diện các ngành, trong đó những nghành
chủ yếu là công nghiệp, nông nghiệp, thương nghiệp, trong đó công nghiệp và nông nghiệp

là 2 phương châm của nền kinh tế nước nhà. Bên cạnh đó, Người đặc biệt nhấn mạnh chế
độ khoán là một trong những hình thức của sự kết hợp lợi ích kinh tế.
_ Mục tiêu văn hóa- xã hội: Theo Bác, văn hóa- xã hội là một mục tiêu cơ bản của cách
mạng xã hội chủ nghĩa. Văn hóa thể hiện trong mọi sinh hoạt tinh thần của xã hội, đó là:
xóa nạn mù chữ, xây dựng phát triển giáo dục, nâng cao dân trí, xây dựng, phát triển văn hóa
nghệ thuật…
Về bản chất của nền văn hóa XHCN Việt Nam, Người khẳng định: "Phải xã hội chủ
nghĩa về nội dung". Để có một nền nền văn hóa như thế phải phát huy vốn văn hóa quý báu
của dân tộc, đồng thời học tập văn hóa của các dân tộc khác. Phương châm xây dựng nền
văn hóa mới là nền văn hóa: dân tộc, khoa học, đại chúng. Trong khi đáp ứng mặt giải trí thì
không được xem nhẹ nâng cao tri thức của quần chúng nhân dân, đồng thời Người luôn luôn
nhắc nhở phải làm cho văn hóa gắn với lao động sản xuất.
Đặt lên cao nhất trong tất cả các nhiệm vụ, Bác luôn đề cao nhiệm vụ đào tạo con
người. Bởi lẽ mục tiêu cao nhất, động lực quyết định nhất công cuộc xây dựng chính là con
người.
Mặt khác, Hồ Chí Minh luôn luôn nhấn mạnh đến trau dồi, rèn luyện đạo đức cách
mạng, đồng thời Người cũng rất quan tâm đến mặt tài năng, luôn tạo điều kiện để mỗi
người rèn luyện tài năng, đem tài năng cống hiến cho xã hội. Tuy vậy, Bác luôn gắn tài năng
với đạo đức. Theo Người: có tài mà không có đức là hỏng, đạo đức phải đi đôi với tài năng,
nếu không có tài thì không làm được việc. Cũng như vậy, Người luôn gắn phẩm chất chính
trị với trình độ học vấn, chuyên môn nghiệp vụ, trong đó chuyên môn nghiệp vụ là thể xác,
chính trị là tinh thần. Do đó mọi người phải luôn luôn trau dồi đạo đức và tài năng, vừa có
tài, vừa có đức, vừa có hồng, vừa có chuyên.

3.2. Động lực

Mục tiêu trên muốn trở thành hiện thực thì bắt buộc phải cần đến những động lực,
nhất là những động lực bên trong, nguồn nội lực của CNXH.
Theo Bác, những động lực đó được thể hiện ở nhiều phương diện, như là: vật chất và
tinh thần, nội sinh và ngoại sinh. Người khẳng định động lực quan trọng và quyết định nhất
là con người, là nhân dân lao động, nòng cốt là công-nông-tri thức. Hồ Chí Minh thường
xuyên quan tâm tới lợi ích chính đáng của họ, đồng thời chăm lo bồi dưỡng sức dân. Đó là
lợi ích của nhân dân và từng cá nhân.
Xem con người là động lực của CNXH, hơn nữa là động lực quan trọng nhất, Hồ Chí
Minh đã nhận thấy động lực này có sự kết hợp giữa cá nhân với xã hội. Người cho rằng,
không có chế độ xã hội nào coi trọng lợi ích chính đáng của cá nhân con người bằng chế độ
XHCN.
Bên cạnh đó, Hồ Chí Minh rất coi trọng động lực kinh tế, phát triển kinh tế sản xuất
kinh doanh, giải phóng mọi năng lực sản xuất, mọi nhà trở nên giàu có, ích quốc lợi dân, gắn
liền kinh tế với kĩ thuật, kinh tế với xã hội
7

Cùng với động lực kinh tế, Hồ Chí Minh cũng quan tâm tới văn hóa, xã hội, khoa học ,
giáo dục, coi đó là động lực tinh thần không thể thiếu của chủ nghĩa xã hội.
Tất cả những động lực nêu trên là những nguồn lực tiềm tàng của sự phát triển. Vấn
đề là làm thế nào để những khả năng, năng lực tiềm tàng đó trở thành sức mạnh và không
ngừng phát triển. Hồ Chí Minh nhận thấy sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng có ý nghĩa quyết
định đối với sự phát triển của CNXH. Đây là hạt nhân trong hệ động lực của CNXH.
Ngoài các động lực bên trong, theo Hồ Chí Minh, phải kết hợp được sức mạnh thời
đại, tăng cường đoàn kết, tăng cường đoàn kết quốc tế, chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công
nhân, phải sử dụng tốt những thành quả khoa học kĩ thuật thế giới.
Bên cạnh việc một mặt chỉ ra các nguồn động lực phát triển của CNXH, Bác cũng một
mặt khác lưu ý và cảnh báo các yếu tố kìm hãm, triệt để nguồn lực vốn có của CNXH làm
cho CNXH trở nên xơ cứng, không có sức hấp dẫn, đó là tham ô, lãng phí…Đây cũng chính
là nét độc đáo trong phong cách tư duy biện chứng của chủ tịch Hồ Chí Minh

4. Nội dung xây dựng CNXH ở Việt Nam theo quan điểm của chủ tịch Hồ Chí
Minh

Trên cơ sở vận dụng lí luận về cách mạng không ngừng, về thời kì quá độ lên chủ nghĩa
xã hội của chủ nghĩa Mác – Lênin và xuất phát từ đặc điểm tình hình kinh tế của Việt Nam,
Hồ Chí Minh đã khẳng định con đường cách mạng Việt Nam là tiến hành giải phóng dân tộc
dân chủ nhân dân, tiến hành dần lên chủ nghĩa xã hội. Như vậy, quan niệm Hồ Chí Minh về
thời kì quá độ lên CNXH ở Việt Nam là quan niệm về thời kì quá độ gián tiếp, cụ thể - quá
độ từ một xã hội thuộc địa nửa phong kiến, nông nghiệp lạc hậu sau khi giành được độc lập
đi lên CNXH. Chính ở trong nội dung cụ thể này, Hồ Chí Minh đã cụ thể và làm phong phú
thêm lí luận Mác – Lênin về thời kì quá độ lên CNXH.

4.1. Nhiệm vụ

Theo Hồ Chí Minh, thực chất quá trình của thời kì quá độ lên CNXH ở nước ta là quá trình
cải biến nền sản xuất lạc hậu thành nền sản xuất hiện đại, tiên tiến. Thực chất của quá
trình cải tạo và phát triển nền kinh tế quốc dân cũng là cuộc đấu tranh gay go, phức tạp
trong điều kiện mới, khi mà nhân dân ta hoàn thành cơ bản cách mạng dân tộc dân chủ, so
sánh lực lượng trong nước và quốc tế đã có những biến đổi.
Cũng theo Người, do những đặc điểm và tính chất quy định, quá độ lên chủ nghĩa xã hội
ở Việt Nam là một quá trình dần dần, phức tạp, khó khăn và lâu dài. Nhiệm vụ lịch sử của
thời kì quá độ lên CNXH ở Việt Nam gồm 2 nội dung cơ bản sau:
Ø
Một là: xây dựng nền tảng vật chất và kĩ thuật XHCN , xây dựng các tiền đề về
kinh tế, chính trị, văn hóa, tư tưởng cho XHCN.
Ø
Hai là: cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới, kết hợp cải tạo và xây dựng, trong
đó lấy xây dựng làm trọng tâm nội dung cốt lõi, chủ chốt, lâu dài.
Bác đặc biệt lưu ý nhấn mạnh tới tính chất tuần tự, dần dần trong thời kì quá độ lên CNXH
là bởi vì mấy nguyên nhân sau:
8


Thứ nhất, đây thực sự là một cuộc cách mạng làm đảo lộn mọi mặt của đời sống
xã hội, cả lực lượng sản xuất lẫn quan hệ sản xuất, cả cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng
tầng. Nó đặt ra và đòi hỏi đồng thời giải quyết hàng loạt mâu thuẫn khác nhau.

Thứ hai: trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng, nhà nước và nhân dân
ta chưa có kinh nghiệm, nhất là trên lĩnh vực kinh tế. Đây là lĩnh vực vừa hết sức mới mẻ
đối với Đảng ta nên phải vừa làm vừa học và cũng sẽ vấp phải những thiếu sót. Xây dựng
xã hội mới bao giờ cũng khó khăn, phức tạp hơn nhiều bởi phải đánh đổ xã hội cũ đã lỗi
thời, lạc hậu.

Thứ ba, sự nghiệp xây dựng CNXH ở nước ta luôn luôn bị các thế lực phản động
trong và ngoài nước chống phá bằng nhiều cách.
Từ việc chỉ rõ tính chất của thời kì quá độ, Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở các bộ, Đảng
viên trong xây dựng CNXH phải thận trọng, tránh nôn nóng chủ quan, đốt cháy giai đoạn.
Vấn đề cơ bản là phải xác định đúng bước đi và kết hợp hình thức phù hợp với trình độ của
lực lượng sản xuất, biết kết hợp các khâu trung gian, quá độ, tuần tự từng bước, từ thấp đến
cao. Vì vậy, xây dựng CNXH đòi hỏi một năng lực lãnh đạo mang tính khoa học, vừa hiểu
biết các quy luật vân động xã hội, lại phải có nghệ thuật khôn khéo cho thật sát với tình hình
thực tế.
Bên cạnh việc nêu ra các nhiệm vụ, Hồ Chí Minh cũng thể hiện quan điểm của mình về
nội dung xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta trong thời kì quá độ.
Do công cuộc xây dựng CNXH ở nước ta là một công cuộc toàn diện, Hồ Chí Minh đã
xác định cụ thể cho từng lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hóa – xã hội. Trong mỗi lĩnh vực
nói trên, bên cạnh việc chỉ ra các mục tiêu, nhiệm vụ cụ thể, Bác đồng thời cũng vạch ra các
phương hướng, biện pháp cần tiến hành để đạt được những nhiệm vụ đó, thể hiện 2 điểm
sau:

4.2. Nguyên tắc và phương châm

Hồ Chí Minh xác định rõ nhiệm vụ lịch sử, nội dung của thời kì quá độ lên CNXH ở
Việt Nam. Để xác định bước đi và tìm ra cách làm phù hợp với tình hình nước nhà, Người
đề ra 2 nguyên tắc có tính phương pháp luận:
Một là: xây dựng CNXH là một hiện tượng mang tính quốc tế, cần quán triệt nguyên
lí cơ bản của chủ nghĩa Mác-lênin về xây dựng chế độ mới, có thể tham khảo, học tập kinh
nghiệm từ các nước anh em. Nhưng chú ý là phải học tập 1 cách tích cực, sáng tạo, tránh sao
chép, máy móc, giáo điều.
Hai là: xác định bước đi và biện pháp xây dựng CNXH chủ yếu xuất phát từ điều kiện
thực tế, đặc điểm dân tộc và khả năng thực tế của nhân dân.
Nhấn mạnh 2 nguyên tắc trên, Bác cũng không quên lưu ý cần phải luôn bám sát với
nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mác, tránh quá tuyệt đối hóa cái riêng, mà luôn phải hài hòa
giữa bối cảnh đất nước và bối cảnh thời đại.
Quán triệt hai nguyên tắc phương pháp luận vừa nêu, Hồ Chí Minh xác định phương
châm thực hiện bước đi trong xây dựng CNXH: dần dần, thận trọng từng bước một, từ thấp

đến cao, không chủ quan nôn nóng và việc xác định các bước đi phải luôn luôn căn cứ vào
các điều kiện khách quan quy định. Hồ Chí Minh nhận thức về phương châm “Tiến nhanh,
tiến mạnh, tiến vững chắc lên CNXH” không có nghĩa là làm bừa, làm ẩu, “đôt cháy giai
đoạn”, chủ quan, duy ý chí, mà phải làm vững chắc từng bước, phù hợp với điều kiện thực
tế.

4.3. Biện pháp

Cùng với các bước đi, Hồ Chí Minh đã gợi ý nhiều phương thức, biện pháp tiến hành
xây dựng CNXH. Dưới đây là một số cách làm cụ thể mà Người đã đưa ra:
_ Nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo, chống rập khuôn kinh nghiệm nước ngoài
_ Thực hiện cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới, kết hợp cải tạo với xây dựng, lấy xây
dựng làm chính.
_ Kết hợp xây dựng và bảo vệ, đồng thời tiến hành hai nhiệm vụ chiến lược ở hai miền
Nam- Bắc khác nhau trong phạm vi một quốc gia
_ Xây dựng chủ nghĩa xã hội phải có kế hoạch, biện pháp quyết tâm để thực hiện thắng lợi
kế hoạch.
_ Trong điều kiện nước ta, biện pháp cơ bản, quyết định lâu dài trong sự nghiệp xây dựng
CNXH là đem của dân, tài dân, sức dân làm lợi cho dân dưới sự lãnh dạo của Đảng cộng sản
Việt Nam.
Bác cho rằng, phải huy động hết tiềm năng, nguồn lực có trong dân để đem lại lợi ích
cho dân. Hay nói cách khác, phải biến đổi sự nghiệp xây dựng XHCN thành sự nghiệp của
toàn dân do Đảng lãnh đạo. Vai trò lãnh đạo của Đảng cầm quyền là tập hợp lực lượng, đề
ra đường lối, chính sách để huy động và khai thác triệt để các nguồn lực của dân, vì lợi ích
của quần chúng nhân dân lao động.

4.4. Nội dung xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta trong thời kỳ quá độ.

Công cuộc xây dựng CNXH ở nước ta là một sự nghiệp cách mạng mang tính toàn diện.
Hồ Chí Minh đã xác định rõ nhiệm vụ cụ thể cho từng lĩnh vực:
Ø Trong lĩnh vực chính trị
Nội dung quan trọng nhất là phải giữ vững và phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng. Đảng
phải luôn tự đổi mới và tự chỉnh đốn, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu, có hình
thức tổ chức phù hợp để đáp ứng các yêu cầu, nhiệm vụ mới. Bước vào thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội, Đảng ta đã trở thành Đảng cầm quyền. Mối quan tâm lớn nhất của Người
về Đảng cầm quyền là làm sao cho Đảng không trở thành Đảng quan liêu, xa dân, thoái hóa,
biến chất, làm mất lòng tin của dân, có thể dẫn đến nguy cơ sai lầm về đường lối, cắt đứt
mối quan hệ máu thịt với nhân dân và để cho chủ nghĩa cá nhân nảy nở dưới nhiều hình
thức.
Một nội dung chính trị quan trọng nữa là củng cố và mở rộng Mặt trận dân tộc thống
nhất, nòng cốt là liên minh công nhân, nông dân và trí thức, do Đảng Cộng sản lãnh đạo;
củng cố và tăng cường sức mạnh toàn bộ hệ thống chính trị cũng như từng thành tố của nó.
10

Ø Trong lĩnh vực kinh tế
Hồ Chí Minh đề cập trên các mặt: lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất, cơ chế quản
lý kinh tế. Người nhấn mạnh đến việc tăng năng suất lao động trên cơ sở tiến hành công
nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa. Đối với cơ cấu kinh tế, Hồ Chí Minh đề cập đến cơ cấu ngành
và cơ cấu các thành phần kinh tế, cơ cấu kinh tế vùng, lãnh thổ.
Người quan niệm hết sức độc đáo về kinh tế công – nông nghiệp, lấy nông nghiệp làm
mặt trận hàng đầu, củng cố hệ thống thương nghiệp làm cầu nối tốt nhất giữa các ngành
sản xuất xã hội, thỏa mãn nhu cầu thiết yếu của nhân dân.
Đối với kinh tế vùng, lãnh thổ, Hồ Chí Minh lưu ý phải phát triển đồng đều giữa kinh
tế đô thị và kinh tế nông thôn. Người đặc biệt chú trọng chỉ đạo phát triển kinh tế vùng núi,
hải đảo, vừa tạo điều kiện không ngừng cải thiện và nâng cao đời sống của đồng bào, vừa
bảo đảm an ninh, quốc phòng cho đất nước.
Ở nước ta, Hồ Chí Minh là người đầu tiên chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành
phần trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Người xác định rõ vị trí và xu hướng
vận động của từng thành phần kinh tế. Nước ta cần ưu tiên phát triển kinh tế quốc doanh
để tạo nền tảng vật chất cho chủ nghĩa xã hội, thúc đẩy việc cải tạo xã hội chủ nghĩa. Kinh
tế hợp tác xã là hình thức sở hữu tập thể của nhân dân lao động, Nhà nước cần đặc biệt
khuyến khích, hướng dẫn và giúp đỡ nó phát triển. Về tổ chức hợp tác xã, Hồ Chí Minh
nhấn mạnh nguyên tắc dần dần, từ thấp đến cao, tự nguyện, cùng có lợi, chống chủ quan,
gò ép, hình thức. Đối với người làm nghề thủ công và lao động riêng lẻ khác, Nhà nước bảo
hộ quyền sở hữu về tư liệu sản xuất, ra sức hướng dẫn và giúp họ cải tiến cách làm ăn,
khuyến khích họ đi vào con đường hợp tác. Đối với những nhà tư sản công thương, vì họ đã
tham gia ủng hộ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, có đóng góp nhất định trong khôi phục
kinh tế và sẵn sàng tiếp thu, cải tạo để góp phần xây dựng nước nhà, xây dựng chủ nghĩa xã
hội, nên Nhà nước không xóa bỏ quyền sở hữu về tư liệu sản xuất và của cải khác của họ,
mà hướng dẫn họ hoạt động làm lợi cho quốc kế dân sinh, phù hợp với kinh tế nhà nước,
khuyến khích và giúp đỡ họ cải tạo theo chủ nghĩa xã hội bằng hình thức tư bản nhà nước.
Bên cạnh chế độ và quan hệ sở hữu, Hồ Chí Minh rất coi trọng quan hệ phân phối và
quản lý kinh tế. Quản lý kinh tế phải dựa trên cơ sở hạch toán, đem lại hiệu quả cao, sử
dụng tốt các đòn bẩy trong phát triển sản xuất. Người chủ trương và chỉ rõ các điều kiện
thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động: làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít,
không làm không hưởng. Gắn liền với nguyên tắc phân phối theo lao động, Hồ Chí Minh
bước đầu đề cập vấn đề khoán trong sản xuất, “Chế độ làm khoán là một điều kiện của chủ
nghĩa xã hội, nó khuyến khích người công nhân luôn luôn tiến bộ, cho nhà máy tiến bộ. Làm
khoán là ích chung và lại lợi riêng…; làm khoán tốt thích hợp và công bằng dưới chế độ ta
hiện nay”.

Ø Trong lĩnh vực văn hóa

Hồ Chí Minh nhấn mạnh đến vấn đề xây dựng con người mới. Đặc biệt Hồ Chí Minh đề
cao vai trò của văn hóa, giáo dục và khoa học – kỹ thuật trong xã hội chủ nghĩa.Người cho
rằng muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội nhất định phải có học thức, cần phải học cả văn hóa,
chính trị, kỹ thuật và chủ nghĩa xã hội cộng với khoa học chắc chắn đưa loài người đến hạnh
phúc vô tận. Hơn nữa Người cũng rất coi trọng việc nâng cao dân trí, đào tạo và sử dụng
nhân tài, khẳng định vai trò to lớn của văn hóa trong đời sống xã hội.

>> Bằng lí luận sắc bén, tư duy sáng tạo, Hồ Chí Minh đã thể hiện một cách toàn diện
và sâu sắc về CNXH ở Việt Nam. Những tư tưởng quý báu ấy của Người có được là nhờ
vào trí tuệ thiên tài của chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại trên cơ sở vận dụng sáng tạo và phát
triển chủ nghĩa Mác – Lênin. Tư tưởng ấy đã trở thành ngọn hải đăng soi sáng cho con
thuyền Cách mạng xã hội của Việt Nam, đưa cách mạng xã hội của Đảng và nhân dân ta
đi tới bến đỗ thành công, mang hạnh phúc, ấm no, dân chủ về với mọi người, mọi nhà.

Phần 2: Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về CNXH vào công cuộc đổi mới
hiện nay

1. Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội

Đất nước ta đang đứng trước thời cơ và vận hội lớn, nhưng cũng chứa đựng không ít
những thách thức, nguy cơ. Do vậy để bảo đảm đưa đất nước phát triển và giữ vững định
hướng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi Đảng ta phải kiên trì chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh, tiếp tục nghiên cứu, vận dụng và phát triển sáng tạo lý luận ấy vào công cuộc đổi
mới của đất nước.

Đối với cán bộ, đảng viên học tập, quán triệt chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh là tự trang bị cho mình một năng lực nhận thức khoa học và hành động cách mạng
đúng đắn. Qua đó tu dưỡng, rèn luyện, phấn đấu cho lý tưởng tất cả vì độc lập tự do của
dân tộc vì hạnh phúc của nhân dân. Học tập, trau dồi lý luận là trách nhiệm của mỗi cán bộ,
đảng viên. Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên nhấn mạnh tầm quan trọng của lý luận đối
với thực tiễn. Theo Người, lý luận “là sự tổng kết những kinh nghiệm của loài người, là
tổng hợp những tri thức về tự nhiên và xã hội tích trữ lại trong quá trình lịch sử”. Vì vậy, “lý
luận như kim chỉ nam, nó chỉ phương hướng cho chúng ta trong công việc thực tế”. Do đó
Đảng phải có trách nhiệm tổ chức để cán bộ, đảng viên có điều kiện học tập nâng cao trình
độ lý luận.
12

Học tập, vận dụng lý luận phải quán triệt quan điểm thực tiễn để ngăn ngừa bệnh giáo
điều cũng như bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa. Nếu lý luận xa rời thực tiễn thì sớm muộn cũng
dẫn đến giáo điều, sách vở hay theo cách nói của Hồ Chí Minh là lý luận suông. Học tập,
vận dụng lý luận phải gắn liền với đấu tranh với những quan điểm sai trái, nhằm bảo vệ và
phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh. Chính vì chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
có sức mạnh to lớn đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta, do đó phải nêu
cao cảnh giác, đấu tranh không khoan nhượng với mọi quan điểm sai trái. Học tập đạo đức,
phong cách Hồ Chí Minh là noi gương cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư, đặt lợi ích của
dân tộc, của Đảng, của nhân dân, của tập thể lên trên lợi ích cá nhân. Nói đến tư tưởng Hồ
Chí Minh là nói đến lý luận cách mạng hành động, lý luận gắn chặt với thực tiễn, nói đi đôi
với làm.

Để đưa công cuộc đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa ngày càng phát
triển theo chiều sâu, đòi hỏi chúng ta phải quán triệt những quan điểm mà Hồ Chí Minh đã
nêu ra. Đó là phải dựa vào sức mạnh toàn dân, phát huy được tinh thần yêu nước, yêu chủ
nghĩa xã hội, lòng tự tôn dân tộc, ý chí thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu của mỗi người dân. Coi
đại đoàn kết toàn dân là động lực để phát triển kinh tế- xã hội. Tăng trưởng kinh tế phải gắn
liền với thực hiện công bằng xã hội. Thực hiện công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước là
nhiệm vụ trung tâm của toàn Đảng, toàn dân. Phát triển kinh tế nhiều thành phần phải đi đôi
với củng cố kinh tế nhà nước đủ sức phát huy vai trò chủ đạo để nhà nước định hướng và
điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Phát triển kinh tế phải đi đôi với phát triển văn hoá, xã hội và
đảm bảo an ninh quốc phòng. Tăng cường giáo dục đạo đức Hồ Chí Minh, xây dựng chuẩn
mực đạo đức xã hội trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Xây dựng
nếp sống xã hội tốt đẹp, gia đình văn hoá, lối sống tình nghĩa, đoàn kết, hoà hiếu. Xây dựng
cái mới phải gắn liền với cải tạo những thói hư tật xấu, đấu tranh không khoan nhượng với
căn bệnh có nguy cơ xói mòn bản chất tốt đẹp của chế độ xã hội chủ nghĩa. Để đấu tranh
hiệu quả với những căn bệnh đó đòi hỏi vai trò tiên phong gương mẫu của cán bộ, đảng
viên. Mỗi cán bộ, đảng viên phải nêu cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân,
đặt lợi ích của Đảng, của dân tộc lên trên hết thảy lợi ích cá nhân.

2. Phát huy quyền làm chủ của nhân dân, khơi dậy mạnh mẽ tất cả các nguồn
lực, trước hết là nguồn lực nội sinh để thực hiện CNH, HĐH đất nước

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là con đường tất yếu phải đi của đất nước ta. Chúng ta
phải tranh thủ thành tựu cách mạng khoa học và công nghệ, các điều kiện giao lưu, hội nhập
quốc tế để nhanh chóng biến nước ta thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại,
sánh vai với các cường quốc năm châu như mong muốn của Hồ Chí Minh.

Hồ Chí Minh đã chỉ dẫn: xây dựng xã hội chủ nghĩa là sự nghiệp của toàn dân, do Đảng
lãnh đạo, phải đem tài dân, sức dân, của dân làm lợi cho dân, nghĩa là phải phát huy mọi

nguồn lực vốn có trong dân để xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Theo
tinh thần đó, ngày nay, Công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước phải dựa vào nguồn lực
trong nước là chính, có phát huy mạnh mẽ nội lực mới có thể tranh thủ sử sụng hhiệu quả
các nguồn lực bên ngoài. Trong nội lực nguồn lực con người là vốn quý nhất.
Nguồn lực của nhân dân, của con người Việt Nam bao gồm trí tuệ, tài năng, sức lao
động, của cải thật to lớn. Để phát huy tốt sức mạnh của toàn dân tộc để xây dựng và phát
triển toàn đất nước, cần giải quyết tốt các vấn đề sau:
- Tin dân, dựa vào dân, xác lập quyền làm chủ của nhân dân trên thực tế, làm cho chế độ
dân chủ được thực hiện trong mọi lĩnh vực hoạt động của con người, nhất là ở địa phương,
cơ sở, làm cho dân chủ thật sự trở thành động lực của sự phát triển xã hội.
- Chăm lo mọi mặt đời sống của nhân dân để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
- Thực hiện nhất quán chiến lược đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh, trên cơ sở lấy
liên minh công- nông- trí thức làm nòng cốt, tạo nên sự đồng thuận xã hội vững chắc vì mục
tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

3. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.

Xây dựng chủ nghĩa xã hội phải biết tranh thủ các điều kiện quốc tế thuận lợi, tận dụng
tối đa sức mạnh của thời đại. Ngày nay, sức mạnh của thời đại tập trung ở cuộc cách mạng
khoa học, công nghê, xu hướng toàn cầu hoá. Chúng ta cần ra sức tranh thủ các cơ hội do xu
thế đó tạo ra để nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế; phải có cơ chế chính sách đúng để thu
hút đầu tư, kinh nghiệm quản lý và công nghệ hiện đại, thực hiện kết hợp sức mạnh dân
tộc với sức mạnh thời đại theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Muốn vậy, chúng ta phải có đường lối chính trị độc lập, tự chủ. Tranh thủ hợp tác phải
đi đôi với thường xuyên khơi dậy chủ nghĩa yêu nước, tinh thần dân tộc chân chính của mọi
người Việt Nam nhằm góp phần gia tăng tiềm lực quốc gia.
Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế phải gắn liền với nhiệm vụ trau dồi bản lĩnh và
bản sắc văn hoá dân tộc, nhất là cho thanh, thiếu niên - lực lượng nòng cốt của nước nhà,
để không tự đánh mất mình bởi xa rời cội rễ dân tộc. Chỉ có bản lĩnh và bản sắc dân tộc
sâu sắc, mạnh mẽ đó mới có thể loại trừ các yếu tố độc hại, tiếp thu tinh hoa văn hoá loài
người, làm phong phú, làm giàu nền văn hoá của dân tộc.

4. Chăm lo xây dựng Đảng vững mạnh, làm trong sạch bộ máy nhà nước, đẩy
mạnh đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, thực hiện cần kiệm để xây
dựng CNXH.

Thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, phát huy quyền làm chủ của
nhân dân cần đến vai trò của một Đảng cách mạng chân chính, một Nhà nước thật sự của
dân, do dân và vì dân. Muốn vậy, phải:
- Xây dựng Đảng Cộng Sản Việt Nam cầm quyền, một Đảng đạo đức văn minh. Cán bộ
Đảng viên gắn bó máu thịt với nhân dân, vừa là người hướng dẫn lãnh đạo nhân dân, vừa
hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân gương mẫu trong mọi việc.
- Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa mạnh mẽ của nhân dân, do nhân dân,
vì nhân dân; thực hiện cải cách nền hành chính quốc gia một cách đồng bộ để phục vụ đời
sống nhân dân.
- Bằng các giải pháp thiết thực, cụ thể, hình thành một đội ngũ cán bộ liêm khiết, tận

trung với nước, tận hiếu với dân; kiên quyết đưa ra khỏi bộ máy chính quyền những “ông
quan cách mạng”, lạm dụng quyền lực của dân để mưu cầu lợi ích riêng; phát huy vai trò
của nhân dân trong việc đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí; giữ vững ổn định
chính trị - xã hội của đất nước.
- Giáo dục mọi tầng lớp nhân dân ý thức biết cách làm giàu cho đất nước, hăng hái đẩy
mạnh tăng gia sản xuất kinh doanh gắn liền với tiết kiệm để xây dựng nước nhà. Trong
điều kiện đất nước còn nghèo, tiết kiệm phải trở thành quốc sách, thành một chính sách
kinh tế lớn và cũng là một chuẩn mực đạo đức, một hành vi văn hoá như Hồ Chí Minh đã
căn dặn: “Một dân tộc biết cần, biết kiệm” là một dân tộc văn minh, tiến bộ; dân tộc đó
chắc chắn sẽ tháng được nghèo nàn, lạc hậu, ngày càng giàu có về vật chất, cao đẹp về tinh
thần.

* Trong lịch sử đấu tranh cách mạng, nhất là từ khi tiến hành cuộc vận động xây dựng chính
đốn Đảng, đại bộ phận cán bộ, đảng viên đã nêu cao tinh thần tiền phong gương mẫu, rèn
ruyện phẩm chất, đạo đức, lối sống, được nhân dân tin yêu, mến phục. Tuy nhiên, như Nghị
quyết Đại hội X của Đảng nhận xét: “Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, kể cả cán
bộ chủ chốt các cấp, yếu kém cả về phẩm chất và năng lực”. Những “lầm lỗi ” mà Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã cảnh báo từ 62 năm trước nay vẫn diễn ra với mức độ trầm trọng và tinh vi
hơn, trắng trợn hơn. “ Sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống diễn ra nghiêm
trọng, tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí; bệnh cơ hội, cá nhân chủ nghĩa, tình trạng “chạy
chức”, “chạy quyền”, “chạy tội”, “chạy bằng cấp” … đã làm cho nhân dân bất bình, làm xói
mòn lòng tin của nhân dân với Đảng và Nhà nước, đã và đang là những cản trở công cuộc
đổi mới và là thách thức lớn đối với sự tồn vong của Đảng và của chế độ.

Cuộc vận động chính trị “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” là một chủ
trương đúng đắn nhằm khơi dậy và phát huy các giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp, đấu
tranh khắc phục sự suy thoái về phẩm chất, đạo đức, lối sống…Cuộc vận động đã được
nhân dân hưởng ứng và đặt nhiều kỳ vọng. Hiệu quả thực sự của cuộc vận động là ở những
ứng xử và hành động cụ thể trong cuộc sống, chứ không phải là những lời nói hoặc những
bài viết hoa mỹ. Vì vậy, điều quan trọng là trên cơ sở nhận thức về giá trị đạo đức Hồ Chí
Minh, mỗi cán bộ, đảng viên dù ở bất kỳ cương vị công tác nào, còn đương chức hay đã nghỉ
hưu cần “công bình, chính trực”, và có lòng tự trọng, dũng cảm vượt qua những trói buộc
của chủ nghĩa cá nhân, thành thật nhận ra những “lầm lỗi ” và “hết sức sửa chữa”. Mặt
khác, tổ chức Đảng, nhất là chi bộ cần có biện pháp kiểm tra, giám sát phát hiện, uốn nắn
kịp thời những lầm lỗi của đảng viên, giúp Đảng viên sữa chữa, nếu không chịu sửa chữa thì
phải kiên quyết xử lý thích đáng, “không khoan dung” như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng
căn dặn. Đó vừa là đòi hỏi bức thiết của Đảng đồng thời là mong muốn của nhân dân đối với
mỗi cán bộ, đảng viên.

>> Đã hơn 20 năm kể từ khi công cuộc đổi mới được khởi xướng ở Việt Nam, nhìn lại
những đổi thay to lớn, những thành tựu vĩ đại mà Đảng và nhân dân ta đã đạt được, mỗi

người chúng ta đều có quyền tự hào về dân tộc mình, về tinh thần chiến đấu, lao động bền
bỉ, không mệt mỏi của toàn thể nhân dân. Tư tưởng Hồ Chí Minh mãi là kim chỉ nam cho
hành động của Đảng và nhân dân ta . Tuy Bác đã đi xa song những tư tưởng cao đẹp, quý
báu ấy của Người vẫn và sẽ mãi là tài sản trí tuệ quý báu của dân tộc Việt Nam cho tới tận
muôn đời sau.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro