tu tuong HCM

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

NHỮNG NỘI DUNG ÔN THI MÔN TƯ TƯỞNG

HỒ CHÍ MINH

Lưu ý: Đây chỉ là phần soạn của các nhóm và có sự hướng dẫn của giáo viên nhằm giúp các bạn ôn thi theo đúng nội dung, tránh ôn sai. Nếu các bạn muốn có kết quả tốt thì phải tiếp tục bổ sung tài liệu hơn nữa. Hãy dựa vào giáo trình TTHCM của NXBCTQG 2009, kết hợp với phần giảng của GV

Nội dung 1,  Những tiền đề tư tưởng lý luận

Thứ nhất, là giá trị truyền thống văn hóa dân tộc Việt Nam

Với lịc sử dựng nước và giữ nước lâu đời đã hình thành nên những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta và đó chính là chủ nghĩa yêu nước, giá trị này chính là hành trang mang theo của Hồ Chí Minh trong quá trình ra  đi tìm đường cứu nước. Chủ nghĩa yêu nước được hình thành trong quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc ta qua hàng nghìn năm lịch sử, trở thành động lực lớn cho dân tộc trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù xâm lược. Chủ nghĩa yêu nước luôn đứng đầu bảng giá trị trong truyền thống văn hóa của dân tộc Việt, “là dòng sữa tinh thần nuôi sống dân tộc Việt Nam từ thời lập quốc cho đến ngày nay và mãi mãi về sau”. Chủ nghĩa yêu nước sẽ biến thành lực lượng vật chất thực sự khi nó ăn sâu vào tiềm thức, vào ý chí và hành động của mỗi con người Việt nam. Chính vì lẽ đó Hồ Chí Minh đã đúc kết thành chân lý: “Dân ta có một lòng nồng nàn  yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”.

Cùng với chủ nghĩa yêu nước thì trong truyền thống văn hóa của dân tộc Việt Nam với  những giá trị văn hóa tốt đẹp như tinh thần kiên cường bất khuất, tinh thần tương thân tương ái, cấu kết cộng đồng, tinh thần khoan dung, nhân nghĩa thủy chung; tinh thần lạc quan yêu đời; tinh thần trọng trí thức, hiền tài…ảnh hưởng đến sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh.

 Thứ hai, Tinh hoa văn hóa nhân loại.

Hồ Chí Minh đã ảnh hưởng rất nhiều  những giá trị tinh hoa văn hóa nhân loại,trước hết là văn hóa phương Đông (như Nho gia, Đạo gia, Pháp gia, Phật giáo…) trong đó, Nho giáo là ảnh hưởng sâu đậm đối với sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh, Người đã chắt lọc những mặt tích cực hợp lý, loại bỏ những tiêu cực để xây dựng một xã hội tốt đẹp. Những mặt tích  như: Những chuẩn mực để tu dưỡng đạo đức trong xã hội của Nho giáo; Tư tưởng về một xã hội Đại đồng của Khổng Tử; Tư tưởng lấy dân làm gốc; tư tưởng hành đạo giúp đời; hay Nho giáo luôn đề cao việc học, coi trọng hiền tài…Còn những mặt tiêu cực mà Hồ Chí Minh phê phán như: Nho giáo phân chia xã hội thành những đẳng cấp khác nhau trong xã hội, người tiểu nhân và người quân tử, kẻ lao tâm và người lao lực; tư tưởng trọng nam khinh nữ; những hủ tục lạc hậu, tư tưởng trông chờ ỷ lại, tâm lý tự ti, thụ động, coi khinh lao động chân tay…

Về chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn như; Dân sinh, dân quyền và dân quốc, đó là dân tộc thì được độc lập, dân quyền thì được tư do và dân sinh thì được hạnh phúc. Đặc biệt, sau khi Lênin lãnh đạo cách mạng Tháng Mười thành công, thì Tôn Trung Sơn đã có những tư tưởng tiến bộ, ông chủ trương “Thân Nga, liên cộng, phù trợ công nông” nghĩa là thân với nước Nga Xô Viết để chống chủ nghĩa đế quốc, liên minh với Cộng sản, ủng hộ giai cấp công nông trong sự nghiệp cách mạng.

Về Phật giáo, Hồ Chí Minh đã kế thừa những mặt tích cực hợp lý và loại bỏ những yếu tố hạn chế. Về mặt tích cực như: những tư tưởng về cứu khổ cứu nạn, Phật giáo lên án sự phân chia xã hội thành các giai cấp và chủ trương thực hiện bình đẳng trong xã hội, Phật giáo phái thiền tông còn đề cao lao động chống lười biếng. Những hạn chế như những tư tưởng trong triết học Phật giáo mang tính duy tâm, khó thực hiện.

Về văn hóa phương Tây, đó là Người nghiên cứu tư tưởng của những nhà khai sáng Pháp như Rútxô, Môngtexkiơ, Vônte, Điđờrô…đó là tinh thần pháp luật, khế ước xã hội hay học thuyết về tam quyền phân lập. Những tư tưởng của các ông là nền tảng, cơ sở cho cách mạng tư sản sau này như cách mạng Anh, cách mạng Mỹ, cách mạng Pháp. Những cuộc cách mạng này đã đóng góp vào trong giá trị văn minh của nhân loại là xã hội công dân và nhà nước pháp quyền đã ra đời. Sau này khi nghiên cứu các bản Tuyên Ngôn Độc lập của cách mạng Mỹ 1776, Tuyên Ngôn Nhân quyền và dân quyền của cách mạng Pháp 1791, Hồ Chí Minh đã nhận thức được tính tất yếu về quyền con người và quyền dân tộc mà hai cuộc cách mạng đó đã xác lập.

- Về chủ nghĩa Mác – Lênin, Hồ Chí Minh nắm vững thế giới quan và phương pháp luận mà trong đó hạt nhân là phép biện chứng để vận dụng vào quá trình cách mạng. Người từng nhắc nhở chúng ta rằng, chúng ta học chủ nghĩa Mác là học cái tinh thần của phép biện chứng, chứ không phải là học thuộc lòng từng câu từng chữ. Học chủ nghĩa Mác – Lênin là phải sống với nhau cho có tình có lý, chứ không phải thuộc dăm ba câu chủ nghĩa Mác để đi lòe thiên hạ. Học chủ nghĩa Mác là để làm cách mạng, cứu dân cứu nước, để cải tạo thế giới. Đó là điều cốt lõi trong chủ nghĩa Mác – Lênin mà Hồ Chí Minh tiếp thu, vận dụng sáng tạo và phát triển ở Việt Nam.

Nội dung 2:  Độc lập dân tộc là nội dung cốt lõi của vấn đề dân tộc thuộc địa.

- Hồ Chí Minh tiếp cận quyền dân tộc từ quyền con người được xác lập từ giá trị cách mạng thế giới mang lại.

Hồ Chí Minh tiếp cận quyền con người hoàn toàn khác với các học giả tư sản và những nhà tư tưởng hay triết học của nhân loại, cách tiếp cận của Người “hoàn toàn mới mẻ và sâu sắc. Người xuất phát từ truyền thống dân tộc, từ đặc điểm của thời đại và con người hiện thực để xem xét và giải quyết vấn đề quyền con người. Với cách xem xét đó thì quyền con người ở Việt Nam chỉ có thể được giải quyết thông qua một cuộc cách mạng hiện thực”. Nhận thức về quyền con người của Hồ Chí Minh là sự kế thừa những giá trị tư tưởng trong hai bản Tuyên ngôn Độc lập của Cách mạng Mỹ 1776 và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp 1791, trong Tuyên ngôn độc lập của Mỹ khẳng định: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp khẳng định: “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi”. Như vậy, từ quyền con người mà thành tựu các cuộc cách mạng Mỹ và Pháp đưa lại, Hồ Chí Minh đã nâng lên thành quyền dân tộc, Người khẳng định: “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”. Từ lý luận về quyền con người mà hai cuộc cách mạng Mỹ và Pháp xác lập, trở thành giá trị phổ biến, khi lý luận xâm nhập vào thực tiễn, cụ thể là thực tiễn của cách mạng Việt Nam đã hình thành một khái niệm mới, đó là quyền dân tộc. Hồ Chí Minh đã nâng quyền con người lên thành quyền dân tộc là hợp với lẽ tự nhiên, vì quyền con người nằm trong quyền dân tộc, vi phạm quyền dân tộc, điều đó cũng có nghĩa là vi phạm quyền con người. Điều này nó trái với chân lý đã được khẳng định trong Tuyên Ngôn của Cách mạng Mỹ và Cách mạng Pháp.

Với cách tiếp cận này, Hồ Chí Minh đã đặt quyền con người vào trong quyền dân tộc, một bộ phận trong quyền dân tộc, muốn giải phóng con người thì phải giải phóng dân tộc, vì không thể có tự do cho mỗi con người, nếu dân tộc còn nô lệ, mất độc lập tự do; không thể có tự do hạnh phúc cho mỗi con người, nếu dân tộc còn nghèo nàn lạc hậu.

- Nội dung của độc lập dân tộc

Độc lập dân tộc đã trở thành một giá trị thiêng liêng của dân tộc Việt Nam. Hồ Chí Minh đã kế thừa những truyền thống văn hóa của dân tộc Việt Nam được hun đúc qua hàng nghìn năm lịch sử. Đó là ý thức về sự thể hiện chủ quyền của dân tộc, tiêu biểu như Bình Ngô Đại Cáo của Nguyễn Trãi đã khẳng định: “Như nước Đại Việt ta từ trước; Vốn xưng nền văn hiến đã lâu; núi sông bờ cõi đã chia, phong tục Bắc Nam cũng khác”. Hay như Lý Thường Kiệt cũng từng khẳng định tương tự: “Sông núi nước Nam vua Nam ở; Rành rành định phận ở sách trời”. Đây là những tư tưởng thể hiện ý thức độc lập tự chủ của dân tộc đã được ghi nhận. Đó là một lẽ tự nhiên.

Kế thừa những tư tưởng đó, khi Việt Nam mất độc lập, dưới sự thống trị của thực dân Pháp, Nguyễn Tất Thành đã quyết định ra đi tìm đường cứu nước giải phóng dân tộc. Trong quá trình hoạt động cứu nước tư tưởng về độc lập chủ quyền dân tộc của Hồ Chí Minh là thống nhất trước sau như một. Bao giờ cũng nung nấu một ý chí, quyết tâm để đấu tranh giành độc lập dân tộc. Đó là một khát vọng cháy bổng của Hồ Chí Minh và độc lập đã trở thành một nguyên tắc bất biến. Khát vọng đó được Người thể hiện rất rõ khi sáng lập ra Đảng Cộng sản Việt Nam 1930, Người xác định mục tiêu chính trị của Đảng là: “Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến. Làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập.

Khi trở về trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Người chủ trì Hội nghị Trung ương lần thứ 8(5.1941) và trong thư Kính cáo đồng bào, chỉ rõ: “Trong lúc này quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy. Khi thời cơ thuận lợi cho cuộc khởi nghĩa đã đến, Người đưa ra quyết tâm “Dù có phải đốt cháy cả dãy Trường sơn này cũng phải giành cho được độc lập dân tộc”. Cách mạng Tháng 8 thành công, Người khẳng định cho thế giới biết khát vọng của dân tộc Việt Nam “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”.

Đối với Hồ Chí Minh, hoà bình chân chính trong nền độc lập dân tộc để nhân dân xây dựng cuộc sống ấm no hạnh phúc cũng là quyền cơ bản của dân tộc. Hoà bình không thể tách rời độc lập dân tộc, và muốn có hoà bình thật sự thì phải có độc lập thật sự. Hồ Chí Minh đã nêu: “Nhân dân chúng tôi thành thật mong muốn hoà bình. Nhưng nhân dân chúng tôi cũng kiên quyết chiến đấu đến cùng để bảo vệ độc lập và chủ quyền thiêng liêng nhất: toàn vẹn lãnh thổ cho Tổ quốc và độc lập cho đất nước. Những tư tưởng đó đã tạo nên chân lý có giá trị lớn nhất cho mọi thời đại: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do!”.

Nói tóm lại nội dung về độc lập dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh bao gồm những vấn đề sau:

-         Độc lập dân tộc phải gắn liền với sự thống nhất toàn vẹn lãnh thổ quốc gia

-         Độc lập dân tộc phải gắn liền với các quyền tự do cơ bản

-         Độc lập dân tộc phải gắn liền với quyền tự quyết dân tộc, quyền lựa chọn con đường phát triển dân tộc mà không phụ thuộc bên ngoài

-         Độc lập dân tộc phải gắn liền với CNXH

-         Độc lập dân tộc là quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm

Nội dung 3. Quan điểm của Hồ Chí Minh về mục tiêu và động lực của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

a) Về mục tiêu của chủ nghĩa xã hội

+ Mục tiêu chung, đó là độc lập cho dân tộc, tự do hạnh phúc cho nhân dân. Tôi chỉ có một ham muốn…. Chủ nghĩa xã hội là không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, trước hết là nhân dân lao động. Hoặc không ngừng nâng cao mức sống của nhân dân. Đây là mục tiêu cao nhất của chủ nghĩa xã hội. Mục tiêu của chủ nghĩa xã hội theo quan niệm của Hồ Chí Minh đã khẳng định tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội so với các chế độ đã tồn tại trong lịch sử là chỉ ra nhiệm vụ giải phóng con người một cách toàn diện.

Quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội là lâu dài, Hồ Chí Minh cho rằng: “chúng ta phải xây dựng một xã hội hoàn toàn mới xưa nay chưa từng có trong lịch sử dân tộc ta….”, Hồ Chí Minh đã đề cập đến các mục tiêu cụ thể như:

+ Mục tiêu chính trị: Xuất phất từ việc xem chủ nghĩa xã hội là một lý tưởng chính trị - xã hội, là phong trào hiện thực là xu thế tất yếu nhằm giải phóng những người lao động ở các nước tư bản và thuộc địa. Cho nên, chế độ chính trị mà chúng ta xây dựng là chế độ dân chủ, do nhân dân lao động làm chủ, nhà nước là của dân, do dân và vì dân.

+ Mục tiêu kinh tế: Nền kinh tế xã hội chủ nghĩa với công-nông nghiệp hiện đại, khoa học - kỹ thuật tiên tiến, bóc lột bị xoá bỏ dần, cải thiện đời sống. Kết hợp các lợi ích. Sinh thời C. Mác từng khẳng định xây dựng chủ nghĩa xã hội về thực chất là có tính chất kinh tế.

+ Mục tiêu văn hoá - xã hội: văn hoá là mục tiêu cơ bản, xoá mù chữ, phát triển nghệ thuật, thực hiện nếp sống mới, nâng cao dân trí…xây dựng một nền văn hóa xã hội chủ nghĩa, kết tinh và kế thừa những giá trị của nhân loại, nhưng vẫn bảo tồn và phát huy được bản sắc văn hóa và những truyền thống nghìn năm văn hiến của dân tộc nhằm biến một nước dốt nát, cực khổ thành một nước văn hóa cao và đời sống tươi vui hạnh phúc. Theo Hồ Chí Minh không có văn hóa, thiếu tri thức, dân tộc sẽ mất đi độc lập tự cường, tự chủ và vì vậy văn hóa không chỉ là động lực mà còn là mục tiêu lớn của cách mạng.

+ Mục tiêu con người(quan hệ xã hội): Theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa xã hội là công trình tập thể của nhân dân. Do đó, nếu không có con người thì sẽ không có chủ nghĩa xã hội.

Trước hết, để xây dựng chủ nghĩa xã hội thì phải có con người xã hội chủ nghĩa, xây dựng mối quan hệ tốt đẹp giữa con người với con người. Đó là con người có lý tưởng xã hội chủ nghĩa, đấu tranh cho lý tưởng của chủ nghĩa xã hội. Con người biết hy sinh lợi ích các nhân vì tập thể. Ở giai đoạn giải phóng dân tộc về chính trị, quyền lợi dân tộc và quyền lợi các giai cấp là thống nhất(nhất trí). Sang giai đoạn giải phóng dân tộc về mặt kinh tế thì quyền lợi chính trị là thống nhất, nhưng quyền lợi kinh tế của các giai cấp lai không đồng nhất, thậm chí có khi lại còn mâu thuẫn. Muốn có sự nhất trí về quyền lợi chính trị và quyền lợi kinh tế đòi hỏi phải có thời gian để dần dần tạo ra trong nhận thức của mỗi người, mỗi giai cấp cách mạng về lực lượng xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Thứ hai, con người xã hội chủ nghĩa phải luôn gắn tài năng với đạo đức. Người quan niệm: Có tài mà không có đức là hỏng. Có đức mà không có tài thì không thể làm việc được.

b) Về động lực của chủ nghĩa xã hội

+ Phát huy các nguồn động lực về vật chất và tư tưởng cho việc xây dựng chủ nghĩa xã hội: vốn, khoa học công nghệ, con người (năng lực của con người); trong đó lấy con người làm động lực quan trọng và quyết định. “chủ nghĩa xã hội chỉ có thể xây dựng được với sự giác ngộ đầy đủ và lao động sáng tạo của hàng chục triệu người”. Nòng cốt là công – nông – trí thức.

Phát huy động lực con người trên cả hai phương diện: cộng đồng và cá nhân. Phát huy động lực của cộng đồng là phát huy sức mạnh của khối  đại đoàn kết - động lực chủ yếu để phát triển đất nước. Phát huy sức mạnh của cá nhân trên cơ sở kích thích hành động gắn liền với lợi ích vật chất chính đáng của người lao động; “phải chăm nom đến chỗ ăn, chỗ ở, việc làm của nhân dân”. “Nếu dân đói, Đảng và Chính phủ có lỗi. Nếu dân rét, Đảng và Chính phủ có lỗi”.

Hồ Chí Minh coi trọng động lực về kinh tế, phát triển sản xuất, kinh doanh, giải phóng mọi năng lực sản xuất, làm cho mọi người, mọi nhà trở nên giàu có, ích quốc lợi dân, gắn liền với phát triển kinh tế - kỹ thuật, kinh tế - xã hội. Tác động cả về chính trị và tinh thần trên cơ sở phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động và ý thức làm chủ, Hồ Chí Minh cũng quan tâm đến văn hoa, khoa học, giáo dục. Đó là những động lực bên trong, tiềm tàng của sự phát triển. Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng nhất là trong vấn đề thực hiện công bằng xã hội phải theo nguyên tắc: không sợ thiếu, chỉ sợ không công bằng. Tránh bình quân, Bác nêu khẩu hiệu 3 khoán và 1 thưởng. Thưởng phạt công minh. Khoán là một điều kiện của chủ nghĩa xã hội…. Sử dụng vai trò điều chỉnh các nhân tố tinh thần khác như: văn hoá, đạo đức, pháp luật đối với hoạt động của con người. Đó là những động lực bên trong quan trọng.

Ngoài ra Hồ Chí Minh còn nêu các động lực bên ngoài như kết hợp với sức mạnh thời đại, tăng cường đoàn kết quốc tế, sử dụng những thành quả khoa học kỹ thuật thế giới.

+ Nét độc đáo trong phong cách tư duy Hồ Chí Minh là chỉ ra yếu tố kìm hãm, triệt tiêu nguồn lực vốn có của chủ nghĩa xã hội. Đó là các lực cản:

Căn bệnh thoái hoá, biến chất của cán bộ;

Chống chủ nghĩa cá nhân; Bác coi đó là  kẻ thù hung ác của CNXH.

Chống tham ô lãng phí; Bác coi đó là bạn đồng minh của thực dân phong kiến.

Chống bè phái mất đoàn kết nội bộ; chống chủ quan, bảo thủ, giáo điều; chống lười biếng... Theo Bác các căn bệnh trên sẽ phá hoại đạo đức cách mạng, làm suy giảm uy tín và ngăn trở sự nghiệp cách mạng của Đảng, Bác gọi đó là giặc nội xâm.

Nội dung 4: Các nguyên tắc tổ chức sinh hoạt Đảng

Thứ nhất, là nguyên tắc tập trung dân chủ

Đây là nguyên tắc cơ bản nhất trong học thuyết về Đảng kiểu mới. Nguyên tắc này, vừa bảo đảm quyền chủ động, sáng tạo của mọi thành viên trong tổ chức, vừa bảo đảm thống nhất ý chí và hành động vì sự nghiệp chung. Nguyên tắc tập trung dân chủ là thiểu số phải phục tùng đa số, cấp dưới phải phục tùng cấp trên, cá nhân phải phục tùng đoàn thể để đảm bảo sức chiến đấu của toàn Đảng(tất nhiên, ý kiến cá nhân được tôn trọng và bảo lưu ý kiến). Dân chủ là cơ sở bảo đảm cho tập trung thống nhất. Tập trung dựa trên cơ sở dân chủ làm cho Đảng ta thống nhất ý chí cùng hành động trở thành một tổ chức chính trị tiên phong.

Thứ hai, là nguyên tắc tập thể lãnh đạo cá nhân phụ trách

Tập thể lãnh đạo là dân chủ, cá nhân phụ trách là tập trung. Tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách là dân chủ tập trung. Tập thể lãnh đạo, nghĩa là mọi vấn đề đều đưa ra trước chi bộ bàn bạc thảo luận để cùng nhau giải quyết, một vấn đề có nhiều ý kiến, nhiều người sẽ cho nhiều ý kiến hay. Khi đã bàn bạc đi đến thống nhất, thì giao cho một người phụ trách để tránh tình trạng trong chờ, ỷ lại làm cho công việc không trôi chảy. Lãnh đạo mà không tập thể thì dễ dẫn đến tệ bao biện, chuyên quyền độc đoán.

Thứ ba, là nguyên tắc tự phê bình và phê bình

Nguyên tắc này là vũ khí sắc bén để làm cho Đảng ta trong sạch vững mạnh, thông qua nguyên tắc này để giúp nhau cùng tiến bộ, tăng cường sự đoàn kết, Người nhắc nhở mỗi cán bộ đảng viên, hàng ngày phải kiểm điểm, tự phê bình sửa chữa như soi gương, rữa mặt hàng ngày. Được như vậy thì trong cơ thể Đảng sẽ không có bệnh mà mạnh khỏe vô cùng. Mục đích của nguyên tắc tự phê bình và phê bình là chỉ ra khuyết điểm, sữa chữa khuyết điểm để cùng nhau tiến bộ. Cho nên, khi phê bình đồng chí mình, thì trước hết phải tự nhận lấy khuyết điểm của mình trước. Hồ Chí Minh cũng đặc biệt lưu ý, khi phê bình không được thêm, không được bớt, không phải bới lông để tìm vết, để nhằm mục đích nói xấu, hay hạ bệ đồng chí mình. Để cho tự phê bình và phê bình có hiệu quả, Hồ Chí Minh yêu cầu, khi phê bình phải hợp với hoàn cảnh, phải có nghệ thuật và đặc biệt là phải có văn hóa. Phê bình phải trên tinh thần tình đồng chí, thương yêu đùm bọc lẫn nhau.

Thứ tư, là nguyên tắc kỷ luật nghiêm minh và tự giác

Đây là sức mạnh to lớn của Đảng. Kỷ luật phải do lòng tự giác của mỗi đảng viên về nhiệm vụ của họ đối với Đảng. Việc đề cao kỷ luật Đảng đối với mỗi cán bộ đảng viên từ trên xuống dưới là điều kiện tăng thêm uy tín và sức mạnh của Đảng. Hồ Chí Minh mỗi đảng viên phải phục tùng kỷ luật Đảng vô điều kiện, tất cả các đảng viên đều bình đẳng trước Điều lệ Đảng. Chấp hành kỷ luật Đảng, là tất cả mọi đảng viên đều nói và làm đúng theo Nghị quyết của Đảng.

Thứ năm, là nguyên tắc đoàn kết thống nhất trong Đảng

Đoàn kết theo Hồ Chí Minh là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân tộc ta. Người căn dặn các đồng chí đảng viên phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí trong Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình. Để thực hiện đoàn kết, Người yêu cầu phải thực hiện dân chủ nội bộ, thường xuyên thực hiện tự phê bình và phê bình thằng thắn nghiêm túc. Đối với Hồ Chí Minh, là cán bộ đảng viên, chúng ta không chỉ có nhiệm vụ đoàn kết trong Đảng mà còn phải đoàn kết rộng rãi trong xã hội và đặc biệt là phải có nhiệm vụ thực hiện đoàn kết giữa các đảng anh em trên thế giới, nối lại sự đoàn kết giữa Đảng Cộng sản Trung Quốc và Đảng Cộng sản Liên xô, trên tinh thần phê bình có tình có lý được xác lập trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lênin.

Nội dung 5: Vai trò của đại đoàn kết dân tộc trong sự nghiệp cách mạng Việt Nam

a) Đại đoàn kết dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, quyết định thành công của cách mạng.

          - Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc có những nét rất đặc sắc vì đây không chỉ là tư tưởng thuần tuý mà tư tưởng đó đã được hoá thân vào cương lĩnh, đường lối, chiến lược nên có thể gọi là chiến lược đại  đoàn kết. Vì đây là vấn đề có tinh xuyên suốt qua các giai đoạn cách mạng, lâu dài, sống còn, vì nó có tinh nguyên tắc, có hệ quan điểm, hệ giải pháp được đưa vào cuộc sống và thể hiện hết sức sinh động.

          - Đại đoàn kết dân tộc là chiến lược tập hợp mọi lực lượng có thể tập hợp được, nhằm hình thành sức mạnh to lớn của toàn dân tộc trong cuộc đấu tranh để chiến thắng kẻ thù. Với ý ngfhĩa đó, Hồ Chí Minh đã rút ra một kết luận có tính chân lý, đó là: “Đoàn kết làm ra sức mạnh, Đoàn kết làm ra sức mạnh của chúng ta. Đoàn kết là then chốt của thành công. Đoàn kết đoàn kết đại đoàn kết; thành công thành công đại thành công. Đoàn kết là điểm mẹ, điểm này mà thực hiện tốt thì đẻ ra con cháu đều tốt”. Đoàn kết của chúng ta được thể hiện rất rõ là: Toàn dân chỉ có một lòng: Quyết không làm nô lệ; một chí: quyết không chịu mất nước và cũng chỉ có một mục đích: quyết kháng chiến để tranh thủ thống nhất và độc lập cho Tổ quốc. Sự đồng tâm của đồng bào ta đúc thành một bức tường đồng xung quanh Tổ quốc. Dù địch hung tàn, xảo quyệt đến mức nào khi đụng đầu vào bức tường đó, chúng đều bị thất bại. Nhờ có sự đồng tâm hiệp lực mà với gậy tầm vong và súng hỏa mai lúc đầu, chúng ta đã liên tiếp thắng địch. Nhờ sự đoàn kết mà lần đầu tiên trong lịch sử, một dân tộc bị áp bức đã đánh bại cuộc xâm lược của một đế quốc hùng mạnh, đã giành độc lập cho dân tộc, đem lại ruộng đất cho dân cày, đưa lại quyền dân chủ thực sự cho nhân dân.

b) Đoàn kết dân tộc là mục tiêu nhiệm vụ hàng đầu của Đảng, của dân tộc

          Tư tưởng này, được Hồ Chí Minh thể hiện rất rõ trong thư gửi các bạn cùng hoạt động ở Pháp năm 1923. Mở đầu Người viết: Chúng ta phải làm gì? Đối với tôi, câu trả lời rõ ràng: trở về nước, đi vào quần chúng, thức tỉnh họ, tổ chức họ, đoàn kết họ, huấn luyện họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do, độc lập. Tư tưởng Đại đoàn kết của Hồ Chí Minh hình thành và phát triển trong những điều kiện lịch sử cụ thể, đã trở thành chiến lược Đoàn kết của Đảng ta. Sớm nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề năm 1925, Người đã thành lập Việt Nam thanh niên cách mạng đòng chí hội. Đây là tổ chức hạt nhân để sau khi về nước họ quy tụ toàn dân Việt Nam cùng tiến tới đồng tình, đồng sức, đồng lòng, đồng minh nhằm cứu nước nhà.

          Người căn dặn cán bộ rằng, chuẩn bị đấu tranh trước hết phải tuyên truyền mạnh mẽ để lôi cuốn đa số quần chúng tham gia. Chính vì vậy mà Người nói, nhiệm vụ huấn luyện của ta là, thứ nhất, là đoàn kết; thứ hai là làm cách mạng kháng chiến để giành độc lập… và điều đó được thể hiện rất rõ trong mục đích của Đảng ta là: Đoàn kết toàn dân phụng sự Tổ quốc, khi giành được chính quyền, Hồ Chí Minh chủ trương không ngừng tăng cường củng cố vững chắc hệ thống chính trị và các tổ chức xã hội làm cho mục đích cuộc cách mạng của dân, do dân và vì dân ngày càng mang lại hiệu quả thiết thực cho toàn dân, đồng thời ngày càng huy động được đông đảo nhất dân chúng, không bỏ sót một ai vào khối Đại đoàn kết toàn dân.

Nội dung 6: Xây dựng một Nhà nước thực sự do nhân dân lao động làm chủ

Nếu vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng là vấn đề chính quyền thì vấn đề cơ bản của chính quyền là ở chỗ nó thuộc về ai, phục vụ quyền lợi cho ai. Năm 1927, trong tác phẩm Đường Kách Mệnh, Hồ Chí Minh chỉ rõ: Chúng ta đã hy sinh làm kách mệnh, thì nên làm cho đến nơi, nghĩa là làm sao kách mệnh rồi thì quyền giao cho dân chúng số nhiều, chớ để trong tay một bọn ít người. Thế mới khỏi hy sinh nhiều lần, thế dân chúng mới được hạnh phúc. Sau khi giành độc lập, Người khẳng định, “nước ta là nước dân chủ, bao nhiêu quyền hạn đều của dân, bao nhiêu lợi ích đều vì dân... nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”. Đó là điểm khác nhau giữa nhà nước ta với nhà nước bóc lột đã từng tồn tại trong lịch sử.

a) Nhà nước của dân

Đó là một Nhà nước thể hiện đầy đủ tư tưởng bao nhiêu quyền hạn đều của dân, nhân dân là chủ thể của quyền lực nhà nước, nguồn gốc của quyền lực nhà nước bắt nguồn từ nhân dân. Điều 1 Hiến pháp nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (Năm 1946) nói: Nước Việt Nam là một nước dân chủ cộng hoà. Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo.

Điều 32, viết: Những việc liên quan đến vận mệnh quốc gia sẽ đưa ra nhân dân phúc quyết... thực chất đó là chế độ trưng cầu dân ý, một hình thức dân chủ đề ra khá sớm ở nước ta.

Theo Hồ Chí Minh, trong nhà nước của dân, nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình, mà trước hết là quyền bầu ra nhà nước, bầu ra chính quyền các cấp. Nhà nước chỉ là tổ chức do dân lập ra để thực hiện quyền lực nhân dân. Chủ trương tổng tuyển cử của Hồ Chí Minh thể hiện rõ tinh thần đó: “Tổng tuyển cử là một dịp để cho toàn thể quốc dân tự do lựa chọn những người có tài, có đức để gánh vác công việc nước nhà; do tổng tuyển cử mà toàn dân bầu ra Quốc hội. Quốc hội sẽ cử ra Chính phủ. Chính phủ đó thật là một chính phủ của toàn dân”[1].

Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của dân không chỉ bao hàm ý nghĩa nhà nước do dân tín nhiệm bầu ra, mà còn là dân phải kiểm soát nhà nước. Người đã từng nhắc nhở: “Chính phủ ta là Chính phủ của nhân dân, chỉ có mục đích là ra sức phụng sự lợi ích của nhân dân. Chính phủ rất mong đồng bào giúp đỡ, đôn đốc, kiểm soát và phê bình để làm tròn nhiệm vụ của mình là người đầy tớ thật trung thành, tận tụy của nhân dân ta”[2]. Nhân dân có quyền bãi miễn đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân nếu những đại biểu ấy tỏ ra không xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân.

Nhà nước của dân thì mọi người dân là chủ, người dân có quyền làm bất cứ việc gì mà pháp luật không cấm và có nghĩa vụ tuân theo pháp luật. Nhà nước của dân phải bằng mọi nỗ lực, hình thành thiết chế dân chủ để thực thi quyền làm chủ của người dân. Những vị đại diện do dân cử ra chỉ là thừa uỷ quyền của dân, chỉ là công bộc của dân.

 b) Nhà nước do dân : Nhà nước đó do nhân dân lựa chọn bầu ra những đại biểu của mình, nhà nước đó do dân ủng hộ, giúp đỡ, đóng thuế để chi tiêu, hoạt động; nhà nước đó lại do dân phê bình xây dựng, giúp đỡ. Do đó Hồ Chí Minh yêu cầu tất cả các cơ quan nhà nước là phải dựa vào dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự kiểm soát của nhân dân. Nếu chính phủ làm hại dân thì dân có quyền đuổi chính phủ nghĩa là khi cơ quan nhà nước không đáp ứng lợi ích và nguyện vọng của nhân dân thì nhân dân có quyền bãi miễn nó. Hồ Chí Minh khẳng định: mỗi người có trách nhiệm ghé vai gánh vác một phần vì quyền lợi, quyền hạn bao giờ cũng đi đôi với trách nhiệm, nghĩa vụ.

          Nhà nước do dân phản ánh mối quan hệ giữa nhân dân với nhà nước, Hồ Chí Minh khẳng định: “Không có nhân dân thì chính phủ không đủ lực lượng, còn nhân dân mà không có chính phủ thì nhân dân không có ai dẫn đường”; lực lượng bao nhiêu đều ở dân hết, công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân; sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân.

          Nhà nước do dân tức là công việc xây dựng đất nước là trách nhiệm của dân. Do đó phải phát huy được vai trò của mặt trận, các đoàn thể trong công tác quản lý nhà nước và xã hội. Nhà nước muốn điều hành quản lý xã hội có hiệu lực, hiệu quả, nhất định phải dựa vào lực lượng của dân, dựa vào sáng kiến và trí tuệ của dân. Nhà nước do dân trong tư tưởng Hồ Chí Minh là “dân tự làm, tự lo thông qua các mối quan hệ xã hội, qua các đoàn thể, chứ không phải do nhà nước bao cấp, lo thay cho dân. Chức năng của nhà nước là điều hành vĩ mô, Chính phủ chỉ giúp kế hoạch, cổ động”. CHính vì vậy mà nhà nước do dân là nhà nước tin dân và dân tin nhà nước.

c) Nhà nước vì dân

Đó là nhà nước phục vụ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân dân, không có đặc quyền đặc lợi, thực sự trong sạch, cần kiệm liêm chính. Trong nhà nước đó, cán bộ từ chủ tịch trở xuống đều là công bộc của dân.

“Việc gì có lợi cho dân ta phải hết sức làm,

Việc gì có hại đến dân ta phải hết sức tránh”

Nhà nước vì dân là nhà nước làm lợi cho dân, theo Hồ Chí Minh không chỉ làm lợi cho dân, mà còn phải yêu dân, kính dân “chúng ta phải yêu dân thì dân mới  yêu chúng ta”. Nhà nước vì dân là nhà nước mọi chủ trương chính sách, mọi quy định của pháp luật từ trung ương xuống địa phương đều phải xuất phát từ lợi ích của nhân dân , cả lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài, cả lợi ích cá nhân và tập thể và xã hội trong sự kết hợp hài hòa. Nhà nước vì dân phải “làm cho dân có ăn; làm cho dân có mặc; làm cho dân co chỗ ở; làm cho dân có học hành”. Nhà nước vì dân là nhà nước có trách nhiệm và chịu trách nhiệm trước dân, Người nói: “Nếu để dân đói, Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu để dân rét, Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu để dân dốt, Đảng và Chính phủ có lỗi”. Nhà nước vì dân là nhà nước sống trong lòng dân, đặt lợi ích của nhân dân lên trên hết.

Nội dung 7:  Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu quả

(câu này nên tham khảo thêm trong giáo trình cho đầy đủ hơn)

+ Tăng cường và khắc phục những tiêu cực trong hoạt động của Nhà nước.

Tăng cường pháp luật đi đôi với đẩy mạnh giáo dục đạo đức. Do tập quán của kinh tế tiểu nông, muốn hình thành ngay một nhà nước pháp quyền là chưa được, vì vậy một mặt phải nhấn mạnh vai trò của luật pháp, đồng thời tăng cường tuyên truyền, giáo dục pháp luật trong nhân dân nhất là giáo dục đạo đức. Đạo đức và pháp luật là hai hình thái ý thức xã hội có thể kết hợp cho nhau. Khắc phục những biểu hiện tiêu cực sau:

- Đặc quyền, đặc lợi.

- Tham ô, lãng phí quan liêu.

- “Tư túng”, “chia rẽ”, “kiêu ngạo”.

+ Tăng cường pháp luật đi đôi với giáo dục đạo đức cách mạng. Bên cạnh giáo dục đạo đức, Người kịp thời ban hành pháp luật.

Kiên quyết chống ba thứ “giặc nội xâm” là tham ô, lãng phí, quan liêu. Sức mạnh và hiệu quả của luật pháp, một mặt dựa vào tính nghiêm minh của thi hành pháp luật, mặt khác dựa vào sự gương mẫu, trong sạch về đạo đức của người cầm quyền. Bác nói: “Tham ô, lãng phí, quan liêu, dù cố ý hay không, cũng là bạn đồng minh của thực dân phong kiến,... tội lỗi ấy cũng nặng như tội việt gian, mật thám”. Mác và Ăngghen đã từng cảnh tỉnh giai cấp vô sản rằng chủ nghĩa quan liêu có thể dẫn các đảng cộng sản cầm quyền đến chỗ đánh mất một lần nữa chính quyền vừa giành được. Lênin cũng viết “... chúng ta bị khốn khổ trước hết về tệ quan liêu. Những người cộng sản đã trở thành những tên quan liêu. Nếu có cái gì sẽ làm tiêu vong chúng ta thì chính là cái đó”.

Vì vậy không thể nói đến một nhà nước trong sạch vững mạnh, hiệu quả nếu không kiên quyết, thường xuyên đẩy mạnh cuộc đấu tranh để ngăn chặn tận gốc những nguyên nhân  gây ra nạn tham ô, lãng phí, quan liêu.

Nội dung 8: Quan điểm của Hồ Chí Minh về Văn hóa giáo dục

Trong di sản tư tưởng Hồ Chí Minh, tư tưởng về giáo dục luôn có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Trong sự nghiệp đào tạo nguồn nhân lực cho công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, thực hiện mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh" ở nước ta, tư tưởng đó của Người càng có ý nghĩa thiết thực.

Có thể nói, tư tưởng giáo dục Hồ Chí Minh là sự kế thừa, tiếp thu có chọn lọc, sáng tạo và phê phán từ các tiền đề: Một là, chủ nghĩa yêu nước, truyền thống văn hoá, giáo dục và tinh thần nhân ái Việt Nam, Hai là, triết lý giáo dục phương Đông, đặc biệt là triết lý nhân sinh của Nho, Phật, Lão và Ba là, những tư tưởng tiến bộ thời kỳ cận đại. Nhưng tiền đề quan trọng nhất, cái tạo nên sự phát triển về chất trong tư tưởng giáo dục Hồ Chí Minh là chủ nghĩa Mác - Lênin. Trên cơ sở đó và cùng với quá trình hoạt động thực tiễn cách mạng sinh động, phong phú của mình, Hồ Chí Minh đã đưa ra quan điểm hết sức sâu sắc và mới mẻ về vai trò, mục đích, nội đung và phương pháp giáo dục.

- Mục tiêu của văn hoá giáo dục là thực hiện cả ba chức năng của văn hóa bằng giáo dục.

- Về vai trò và mục đích của giáo dục. Theo Hồ Chí Minh, giáo dục có vai trò hết sức to lớn trong việc cải tạo con người cũ, xây dựng con người mới. Người nói: "Thiện, ác vốn chẳng phải là bản tính cố hữu, phần lớn đều do giáo dục mà nên". Không những thế, giáo dục còn góp phần đắc lực vào công cuộc bảo vệ và xây dựng đất nước. Người kêu gọi:"Quốc dân Việt Nam!Muốn giữ vững nền độc lập, Muốn làm cho dân mạnh nước giàu,

Mọi người Việt Nam... phải có kiến thức mới để có thể tham gia vào công cuộc xây dựng nước nhà, và trước hết phải biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ".

Từ thực trạng nền giáo dục dưới sự đô hộ của thực dân Pháp, Hồ Chí Minh đã vạch trần và lên án chính sách giáo dục của thực dân Pháp là làm cho "ngu dân dễ trị". Bằng ngòi bút với lời lẽ sắc bén, Người đã chỉ rõ bộ mặt thực của cái gọi là "khai hoá văn minh" của thực dân Pháp: những người đến trường được "đào tạo nên những kẻ làm tay sai, làm tôi tớ cho một bọn thực dân người Pháp", những người không đến trường thì bị đầu độc bằng các thói hư, tật xấu như rượu chè, cờ bạc, thuốc phiện. Do vậy, theo Người, để khẳng định chính mình, mỗi người phải thẳng thắn đấu tranh với cái lỗi thời, lạc hậu và các tệ nạn xã hội. Người viết: "Phải ra sức tẩy sạch ảnh hưởng giáo dục nô dịch của thực dân còn sót lại như: Thái độ thờ ơ đối với xã hội, xa rời đời sống lao động và đấu tranh của nhân dân, học để lấy bằng cấp, dạy theo lối nhồi sọ. Và cần xây dựng tư tưởng dạy và học để phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân". Thật vậy, ngay từ những năm đầu bước vào đời, khi tham gia giảng dạy ở trường Dục Thanh, Phan Thiết, tại đây, bên cạnh việc truyền bá những kiến thức về văn hoá, Hồ Chí Minh còn đặc biệt chú trọng đến việc truyền thụ tinh thần, truyền thống yêu nước thương nòi của dân tộc.

Nhưng mục đích cao cả của Hồ Chí Minh - mục đích mà Người nguyện suốt đời phấn đấu - là mong cho dân tộc, nhân dân có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc. Bởi, đối với Người, "Nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”. Suốt đời, Hồ Chí Minh mong muốn xây dựng một xã hội mới về chất, cao hơn hẳn xã hội cũ - xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản Chủ nghĩa. Và để xây dụng chủ nghĩa xã hội, theo Người, "trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa”. Đào tạo con người xã hội chủ nghĩa không có con đường nào khác ngoài giáo dục tri thức khoa học và lý tưởng, đạo đức xã hội chủ nghĩa. Đó là nền giáo dục nhằm phát triển con người toàn diện, vừa “hồng” vừa "chuyên" trong thời đại mới. Và như vậy, "con người xã hội chủ nghĩa", con người toàn diện, "nhất định phải có học thức. Cần phải học văn hoá, chính trị, kỹ thuật. Cần phải học lý luận Mác - Lênin kết hợp với đấu tranh và công tác hàng ngày. Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến việc luyện "tài", rèn "đức" cho cán bộ. Mục đích trọng tâm và xuyên suốt tư tưởng giáo dục Hồ Chí Minh là vì con người, cho con người, là xây dựng con người mới. Nhưng do yêu cầu của mỗi thời kỳ cách mạng khác nhau, Hồ Chí Minh đã đề ra nhiệm vụ giáo dục khác nhau cho phối hợp. Ở thời kỳ chuẩn bị thành lập Đảng, Người tập trung vào việc triển khai các lớp huấn luyện tại Quảng Châu, Trung Quốc nhằm nâng cao trình độ nhận thức cho cán bộ về con đường cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới. Đến giai đoạn toàn quốc kháng chiến và xây dựng nền dân chủ, Người kêu gọi sửa đổi giáo dục cho phù hợp với việc đào tạo nhân tài kháng chiến kiến quốc. Tất cả giáo dục tập trung phục vụ kháng chiến kiến quốc. Bước sang giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, mục đích giáo dục lại gắn liền với tình hình mới. Đó là thời kỳ rất cần những con người làm chủ xã hội, làm chủ sản xuất, biết quản lý cơ quan, xí nghiệp, trường học...

- Về phương pháp giáo dục. Tuy Hồ Chí Minh không để lại cho chúng ta một tác phẩm, một hệ thống lý luận về phương pháp giáo dục, nhưng những việc làm thiết thực, những bài viết ngắn gọn, súc tích của Người đã hàm chứa các phương pháp giáo dục mẫu mực. Người lấy nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn làm nguyên tắc cơ bản cho việc xây dựng các phương pháp về giáo dục. Nguyên tắc này được Người sử dụng trong việc giáo dục cán bộ, đảng viên, thanh thiếu niên, công nhân, nông dân, bộ đội, trí thức, học sinh, sinh viên… Nó được coi như "kim chỉ nam" để lồng dẫn nhận thức, hành động và bồi dưỡng tinh thần yêu nước cho tất cả mọi người. Hơn nữa, nguyên tắc này có tính chất quyết định trong việc chuyển hướng giáo dục và trở thành đặc trưng của nền giáo dục xã hội chủ nghĩa. Người nhấn mạnh: "Học phải suy nghĩ, học phải liên hệ với thực tế, phải có thí nghiệm và thực hành. Học với hành phải kết hợp với nhau”. Để nâng cao trình độ nhận thức của người lao động, Hồ Chí Minh cho rằng cần có quan điểm dân chủ, thẳng thắn, không nhồi sọ và cần có sự đối thoại trong quá trình học tập, nhận thức. Người chỉ rõ: "Mọi người được hoàn toàn tự do phát biểu ý kiến, dù đúng hoặc không đúng cũng vậy. Song không được nói gàn, nói vòng quanh". "Khi mọi người đã phát biểu ý kiến, đã tìm thấy chân lý, lúc đó quyền tự do tư tưởng hoá ra quyền tự do phục tùng chân lý". Từ đó, Hồ Chí Minh kêu gọi cán bộ, nhà giáo phải biết tôn trọng ý kiến người khác, không nên có thành kiến đối với các ý kiến trái với ý kiến của mình.

Trong khi viết và nói, Hồ Chí Minh luôn dùng các khái niệm giản dị, dễ hiểu, nhưng văn phong vẫn trong sáng, ý tưởng phong phú. Phong cách đó làm cho mọi tầng lớp, mọi người ở trình độ khác nhau đều hiểu. Đối với Hồ Chí Minh, viết và nói là làm cho người khác hiểu, cho nên viết và nói phải biết cách. Viết và nói phải thiết thực, ngắn gọn, rõ ràng, dễ nhớ và phải xuất phát từ người đọc, người nghe. Trong giáo dục, theo Hồ Chí Minh, cần có phương pháp phù hợp với điều kiện giáo dục và đối tượng giáo dục. Giáo dục phải căn cứ vào "trình độ văn hoá, thói quen sinh hoạt, trình độ giác ngộ, kinh nghiệm tranh đấu, lòng ham, ý muốn, tình hình thiết thực của quần chúng". Cần có phương pháp tổ chức giáo dục sao cho bảo đảm được sự phù hợp giữa điều kiện, hoàn cảnh giáo dục với đối tượng giáo dục. Người viết: “công nhân, nông dân bận làm ăn, nếu dạy không hợp với người học, với làm ăn, bắt phải đến lớp có bàn có ghế là không ăn thua. Phải tuý theo hoàn cảnh làm ăn mà tổ chức học mới duy trì được lâu dài, mới có kết quả tốt".

Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng việc kết hợp các hình thức giáo dục, không tuyệt đối hoá bất cứ một hình thức giáo dục nào. Người viết: "Giáo dục dù trong nhà trường có tốt mấy nhưng thiếu giáo dục trong gia đình và ngoài xã hội thì kết quả cũng không hoàn toàn". Cuộc đời và sự nghiệp của Hồ Chí Minh luôn là tấm gương sáng cho mọi người noi theo. Trong cuộc sống, trong việc làm... Hồ Chí Minh luôn là người đi đầu. Phương pháp làm gương là một biện pháp hữu hiệu nhất trong việc thống nhất giữa lời nói và việc làm. Đối với Hồ Chí Minh, tất cả các phương pháp giáo dục như phương pháp đối thoại, phương pháp học đi đôi với hành, lý luận gắn với thực tiễn, phương pháp làm gương, phương pháp kết hợp giữa gia đình, nhà trường và xã hội..

- Cải cách giáo dục là xây dựng hệ thống trường, lớp với chương trình và nội dung dạy học thật khoa học, hợp lý, phù hợp với bước phát triển của ta. Học chính trị, khoa học - kỹ thuật, chuyên môn nghiệp vụ, lao động.

- Quan tâm xây dựng đội ngũ giáo viên có phẩm chất, yêu nghề; phải có đạo đức cách mạng, phải yên tâm công tác, đoàn kết; phải giỏi chuyên môn, thuần thục phương pháp.

Nội dung 9: Quan điểm về những chuẩn mực đạo đức cách mạng

* Trung với nước, hiếu với dân

Trong mối quan hệ đạo đức thì mối quan hệ giữa mỗi người với đất nước, với nhân dân, với dân tộc là mối quan hệ lớn nhất. Trung, hiếu là phẩm chất đạo đức quan trọng nhất, bao trùm nhất.

Trung, hiếu là những khái niệm đã có trong tư tưởng đạo đức truyền thống Việt Nam và phương Đông, xong có nội dung hạn hẹp. Trung với vua, hiếu với cha mẹ, phản ánh bổn phận của dân đối với vua, con đối với cha mẹ. Hồ Chí Minh đã vận dụng và đưa vào nội dung mới. Hồ Chí Minh đã kế thừa những giá trị đạo đức truyền thống và vượt trội. Trung với nước là trung thành với sự nghiệp giữ nước và dựng nước. Nước là của dân, còn nhân dân là chủ của đất nước. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân, bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Đây là chuẩn mực đạo đức có ý nghĩa quan trọng hàng đầu.

Trung với nước, hiếu với dân là suốt đời phấn đấu hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng. Bác vừa kêu gọi hành động vừa định hướng chính trị- đạo đức cho mỗi người Việt Nam.

Đối với cán bộ đảng viên phải suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng, đó là điều chủ chốt của đạo đức cách mạng. Phải tuyệt đối trung thàmh với Đảng, với dân, phải tận trung, tận hiếu, thì mới xứng đáng vừa là đầy tớ trung thành, vừa là người lãnh đạo của dân; dân là đối tượng để phục vụ hết lòng. Phải nắm vững dân tình, hiểu rõ dân tâm, cải thiện dân sinh, nâng cao dân trí để dân hiểu được quyền và trách nhiệm của người chủ đất nước.

Nội dung chủ yếu của trung với nước là:

- Đặt lợi ích của đảng, của Tổ quốc, của cách mạng lên trên hết.

- Quyết tâm phấn đấu thực hiện mục tiêu của cách mạng.

- Thực hiện tốt chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.

Nội dung của hiếu với dân là:

- Khẳng định vai trò sức mạnh thực sự của nhân dân.

- Tin dân, lắng nghe dân, học dân, tổ chức vận động nhân dân cùng thực hiện tốt đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước.

- Chăm lo đến đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.

* Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư

Cần là lao động cần cù, siêng năng, lao động có kế hoạch, sáng tạo năng suất cao; lao động với tinh thần tự lực cánh sinh, không lười biếng, không ỷ lại, không dựa dẫm. Lao động là nghĩa vụ thiêng liêng, là nguồn sống, nguồn hạnh phúc của con người.

Kiệm là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thì giờ, tiết kiệm tiền của của nhân dân, của đất nước, của bản thân mình. Tiết kiệm từ cái nhỏ đến cái to; Không xa sỉ, không hoang phí, không bừa bãi, theo Hồ Chí Minh Cần phải đi liền với Kiệm, cần mà không kiệm cũng giống như gió vào nhà trống, thùng không đáy, và một dân tộc biết cần, biết kiệm là một dân tộc giàu về vật chất, mạnh về tinh thần, một dân tộc văn minh tiến bộ.

Liêm luôn luôn tôn trọng giữ gìn của công và của dân; không xâm phạm một đồng xu, hạt thóc của nhà nước, của nhân dân. Phải trong sạch, không tham lam địa vị, tiền của, danh tiếng, sung sướng. Không tâng bốc mình. Chỉ có một thứ ham là ham học, ham làm, ham tiến bộ. Hành vi trái với chữ liêm là:... cậy quyền thế mà đục khoét, ăn của dân, hoặc trộm của công làm của riêng. Dìm người giỏi, để giữ địa vị và danh tiếng của mình là trộm vị. Gặp việc phải, mà sợ khó nhọc nguy hiểm, không dám làm là tham uý lạo. Cụ Khổng nói: người mà không liêm, không bằng súc vật. Cụ Mạnh nói: ai cũng tham lợi thì nước sẽ nguy.

Chính là không tà, thẳng thắn, đứng đắn. Đối với mình, với người, với việc.

Đối với mình, không tự cao, tự đại, luôn chịu khó học tập cầu tiến bộ, luôn kiểm điểm mình để phát huy điều hay, sửa đổi điều dở.

Đối với người, không nịnh hót người trên, xem khinh người dưới; luôn giữ thái độ chân thành, khiêm tốn, đoàn kết, không dối trá, lừa lọc.

Đối với việc, để việc công lên trên việc tư, làm việc gì cho đến nơi, đến chốn, không ngại khó, nguy hiểm, cố gắng làm việc tốt cho dân cho nước.

Cần, kiệm, liêm, chính cần thiết đối với tất cả mọi người. Hồ Chí Minh viết:

  Trời có bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông

   Đất có bốn phương: Đông, Tây, Nam, Bắc

   Người có bốn đức: cần, kiệm, liêm, chính

   Thiếu một mùa thì không thành trời

   Thiếu một phương thì không thành đất

   Thiếu một đức thì không thành người.

Cần, kiệm, liêm, chính rất cần thiết đối với người cán bộ, đảng viên. Nếu đảng viên mắc sai lầm thì sẽ ảnh hưởng đến uy tín của Đảng, nhiệm vụ của cách mạng. Cần, kiệm, liêm, chính còn là thước đo sự giàu có về vật chất, vững mạnh về tinh thần, sự văn minh của dân tộc. “Nó” là cái cần để “làm việc, làm người, làm cán bộ, để phụng sự Đoàn thể, phụng sự giai cấp và nhân dân, phụng sự Tổ quốc và nhân loại”.

Chí công vô tư, là làm bất cứ việc gì cũng đừng nghĩ đến mình trước, chỉ biết vì Đảng, vì Tổ quốc, vì nhân dân, vì lợi ích của cách mạng. Thực hành chí công vô tư là quét sạch chủ nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức cách mạng. “phải lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ (tiên thiên hạ chi ưu nhi ưu, hậu thiên hạ chi lạc nhi lạc). Chủ nghĩa cá nhân chỉ biết đến mình, muốn “mọi người vì mình”. Nó là giặc nội xâm, còn nguy hiểm hơn cả giặc ngoại xâm. Hồ Chí Minh viết: “ Một dân tộc, một đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”. Hồ Chí Minh cũng phân biệt lợi ích cá nhân và chủ nghĩa cá nhân. Chí công vô tư là tính tốt có thể gồm 5 điều: nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm. Bồi dưỡng phẩm chất đạo đức cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư là để vững vàng qua mọi thử thách : Giàu sang không quyến rũ, nghèo khó không thể chuyển lay, uy vũ không thể khuất phục.

* Yêu thương con người

Kế thừa truyền thống nhân nghĩa của dân tộc, kết hợp truyền thống nhân nghĩa với chủ nghĩa nhân đạo cộng sản, tiếp thu tinh thần nhân văn của nhân loại qua nhiều thế kỷ, qua hoạt động thực tiễn, Hồ Chí Minh đã xác định tình yêu thương con người là phẩm chất đạo đức cao đẹp nhất.

Tình yêu rộng lớn dành cho những người cùng khổ, những người lao động bị áp bức, bóc lột. Hồ Chí Minh chỉ ham muốn cho đất nước được hoàn toàn độc lập, dân được tự do, mọi người ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành. Chỉ có tình yêu thương con người bao la đến như vậy mới có cách mạng, mới nói đến chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.

 Nghiêm khắc với mình, độ lượng với người khác. Phải có tình nhân ái với cả những ai có sai lầm, đã nhận rõ và cố gắng sửa chữa, đánh thức những gì tốt đẹp trong mỗi con người. Người căn dặn Đảng phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau, trên nguyên tắc tự phê bình và phê bình chân thành.

Tình yêu thương con người còn là tình yêu bạn bè, đồng chí, có thái độ tôn trọng con người, điều này có ý nghĩa đối với người lãnh đạo.

* Tinh thần quốc tế trong sáng, thuỷ chung

Đó là tinh thần quốc tế vô sản, bốn phương vô sản đều là anh em. Đó là tinh thần đoàn kết với các dân tộc bị áp bức, với nhân dân lao động các nước. Đó là tinh thần đoàn kết của nhân dân Việt Nam với tất cả những người tiến bộ trên thế giới vì hoà bình, công lý và tiến bộ xã hội. Sự đoàn kết là nhằm vào mục tiêu lớn của thời đại hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.

Nội dung 10: Quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò của con người chiến lược trồng người

- Con người là mục tiêu giải phóng của sự nghiệp cách mạng

Mục tiêu của cách mạng là giải phóng con người, mang lại tự do, hạnh phúc cho con người; nhưng sự nghiệp giải phóng là do chính con người thực hiện. Với tư cách là mục tiêu của cách mạng, mọi chủ trương đường lối, chính sách của Đảng phải vì dân, vì lợi ích của dân. Bao nhiêu lợi ích cũng vì dân. Dân trước hết là giai cấp công nhân, liên minh với nông dân, trí thức cũng là một tầng lớp cần coi trọng.

- Con người là động lực của cách mạng

Với tư cách là động lực của cách mạng, cần phải tổ chức và thức tỉnh hàng chục triệu nông dân, phải thức tỉnh và tổ chức toàn thể giai cấp công nhân. Có như vậy mới tạo ra sức mạnh to lớn để có thể làm cách mạng thành công. Họ phải có trí tuệ, bản lĩnh, văn hoá, đạo đức, được nuôi dưỡng trên nền truyền thống lịch sử và văn hoá hàng ngàn năm của dân tộc. Lịch sử đã chứng minh, quần chúng nhân dân là lực lượng sáng tạo cơ bản, có dân là có tất cả. Xuất phát từ sự đánh giá đúng con người và hiểu biết con người, con người là động lực chỉ có thể thực hiện được khi hoạt động có tổ chức, có lãnh đạo. Đảng cách mạng lấy chủ nghĩa Mác-Lênin làm nền tảng tư tưởng, qua phong trào cách mạng của quần chúng, Đảng sẽ nhân sức mạnh của con người lên gấp bội lần.

 Quan điểm của Hồ Chí Minh về chiến lược trồng người

Hồ Chí Minh có quan điểm coi con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực. Con người có ý nghĩa chiến lược của sự nghiệp cách mạng ở Việt Nam.

Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có con người xã hội chủ nghĩa. Con người có hai mặt gắn bó nhau: một là, kế thừa giá trị tốt đẹp của con người truyền thống, hai là, hình thành những phẩm chất mới như: tư tưởng xã hội chủ nghĩa, đạo đức cách mạng, có trí tuệ, bản lĩnh để làm chủ, có lòng nhân ái, vị tha, độ lượng.

Hồ Chí Minh quan niệm: Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người. Con người trong thời đại mới phải có học thức, chiếm lĩnh đỉnh cao của khoa học kỹ thuật. Vì vậy chủ nghĩa xã hội mới đủ tiềm lực vật chất để chiến thắng chủ nghĩa tư bản, mới làm cách mạng thắng lợi.

Xây dựng con người mới phải toàn diện: có mục đích và lối sống cao đẹp, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có chính kiến. Xây dựng con người có ý thức làm chủ, tự lực, tự cường, gắn quyền lợi và nghĩa vụ. Luôn phấn đấu cho độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Con người có niềm tin và lạc quan cách mạng. Con người có trí tuệ, trình độ học vấn cao, ngày càng tiến bộ. Con người có sức khoẻ. Con người có lòng khoan dung, độ lượng. Để trồng người, xây dựng con người vừa có cá tính vừa có thể phát triển mọi mặt phải có nhiều biện pháp. Theo Hồ Chí Minh, giáo dục là biện pháp quan trọng nhất. Cần hiểu mối quan hệ giữa  tính người và giáo dục.

Tính người vốn thiện và ác, và đây là phạm trù được Nho giáo quan tâm. Hồ Chí Minh cho rằng tính người do giáo dục và nó gắn liền với hoạt động thực tiễn của con người.

         “Ngủ thì ai cũng như lương thiện,

Tỉnh dậy phân ra kẻ giữ, hiền.

 Hiền, dữ đâu phải là tính sẵn,

 Phần nhiều do giáo dục mà nên.”

Óc của trẻ trong sạch như tấm lụa trắng. Nhuộm xanh thì nó sẽ xanh. Nhuộm đỏ thì nó sẽ đỏ. Vì vậy sự học tập ở trong trường có ảnh hưởng rất lớn cho tương lai của thanh niên. Nghị quyết Trung ương II, khoá VIII (1996) có nêu định hướng chiến lược phát triển giáo dục và đào tạo trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá và nhiệm vụ đến năm 2000 và 2020. Cần phải đưa nghị quyết đi vào cuộc sống.

Nội dung và phương pháp giáo dục phải toàn diện, cả đức, thể, trí, mỹ, phải đặt đạo đức, lý tưởng và tình cảm cách mạng, lối sống xã hội chủ nghĩa lên hàng đầu. Đức và tài thống nhất nhau, trong đó đức là gốc, là nền tảng phát triển, Học để làm người.

Hồ Chí Minh coi trọng việc nâng cao dân trí cho toàn dân tộc. Người hướng mọi hoạt động văn hoá, giáo dục, tư tưởng vào việc rèn luyện dân tộc ta thành dân tộc cách mạng và văn minh. Hồ Chí Minh nêu khẩu hiệu : Diệt giặc đói, diệt giặc dốt. Bác đi đầu trong việc khai dân trí. Mở các lớp xoá mù chữ, các lớp bình dân học vụ. Người nói: “một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”./.

[1] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 133

[2] Hồ Chí Minh: Nhà nước và pháp luật, Nxb. Pháp lý, Hà Nội. 1985, tr. 221

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro