tumlum-lenghiabk05

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Lính

Ai đã ở A600 thì không quyên được người "anh nuôi" thật khéo tay với những món ăn dân tộc, từ nấu cơm, nấu cháo, nấu các món rau rừng cùng với thịt hộp và cá hộp... anh còn làm được cả các loại bánh như: bánh rán, bánh cuốn..., đây là chuyện thật chứ không bịa đâu nhé.

Trong 3 anh em người dân tộc ở đây thì chỉ có Quý là người biêt đọc, biết viết chữ phổ thông tuy còn rất chậm. Quý về đây cùng với đợt anh Thi, anh Đạt, về sống cùng với mọi người Quý ít chuyện trò mà chỉ hay cười. Mỗi khi cười lại lộ ra cái răng vàng làm mọi người chú ý, mọi người chú ý lại làm cho Quý xấu hổ. Quý có dáng người mảnh dẻ, mặc quần áo số 1 thì rộng quá chứ chiều dài thì vừa, làm việc gì cũng rất nhanh mà lại nhẹ nhàng. Khi A600 ổn định thì Quý làm công việc chạy dây là chính, khi rỗi thì Quý rất thích đi săn, chả thế mà ngoài khẩu AK thì Quý còn dùng cả một khẩu cacbin nữa. Để có bữa tươi cho anh em thì Quý đảm nhiệm ngay, con cày, con cáo, con gà rừng, con cheo cheo, con chim da da... hễ Quý đã băn là trúng ngay. Lần nào cũng vậy cứ mỗi khi Quý xách súng đi thì mọi người ở nhà chú ý xem có tiếng súng không, hễ có tiếng súng thì ở nhà chuẩn bị ngay nước sôi, dao, thớt ...

Người mà mình muốn nhắc tới tiếp là vợ chông anh  Phạm Song và chị Vinh . Anh là anh hùng quân đội ở Điện Biên Phủ , chị là diễn viên của một đoàn văn công thời chống Pháp. Lúc mình đang làm việc ở Cục KT binh chủng thì anh là giám đốc nhà máy TT M1 ở trên Phú Thọ, chị Vinh cũng làm việc tại nhà máy luôn . Thời KCCM anh chị cùng nhà máy đóng góp không ít công sức cho việc cung cấp và sửa chữa máy TT VTD cho chiến trường và toàn quân .

   Khi anh chị về hưu ,được BTL chia cho mảnh đất ở khu Pháo đài Láng Hà nội . Con trai anh chị là Đặng đức Đông được điều về làm việc tại Cục KT binh chủng . Vợ cậu lúc đó muốn chuyển tới làm việc tại M1 khi nhà máy được chuyển về khu vực An khánh Hà nội . Anh Hoạt

 bạn học cùng khóa với ông chồng mình đang làm giám đốc thế là mình "ra tay gạo xay thành cám " .

   Nhiều năm sau mình có đưa đoàn của BC sang TQ nghiệm thu máy mà cậu Đông này làm đoàn trưởng . Có một kỷ niệm khó quên thế này : qua mấy ngày ăn các món ăn của TQ nhiều dầu cả đoàn thèm rau luộc lắm . Bạn của anh trai mình muốn mời mình ăn cơm , trước khi đi mình dẫn Đông xuống bếp ăn và chỉ chỗ có nhiều rau . Nhìn thấy rau xanh , bọn hắn rất sướng bảo mình cứ đi đi đến bữa bọn hắn tự bảo nhà bếp luộc rau cho ăn . Khi về cả bọn chờ mình để nói chuyện . Hóa ra là bọn hắn bảo nhà bếp thế nào họ cũng không lấy nước lã để luộc rau mà nhất định cho dầu ăn vào "luộc " rau xanh cho mọi người . Tức quá cả đoàn đành ăn rau "luộc" bằng dầu .

  Năm 2009 mình lại giúp vợ chồng Đông đưa cậu con trai Đặng đình Tấn sang học ở Tây an rồi Bắc kinh . Mỗi lần gặp mình anh chị đều rất vui và nhiệt tình . Hôm gặp ở cuộc gặp của CCB TT cũng vậy .Vợ chồng Đông luôn gọi mình là cô xưng cháu và cháu Tấn gọi mình là bà. Đấy là một cách thể hiện tình thân mà mình hết sức trân trọng vì có họ hàng gì đâu ?

Thú vị chuyện “thực” của du học sinh

(Dân trí) - Một trong những vấn đề mà phần lớn du học sinh phải đối mặt là chuyện ăn uống nơi xứ người. “Có thực mới vực được đạo”, xung quanh chuyện “thực” của các du học sinh Việt tại Pháp cũng có không ít “bí mật” thú vị.

 >>  Éo le miếng ăn, chuyện ở khi đi du học

Khi tới một đất nước xa lạ, nếu ăn uống chưa hợp khẩu vị, bạn có thể “cầm cự” trong thời gian đầu bằng mỳ tôm hay đồ khô mang từ Việt Nam. Tuy nhiên, cách này cũng chỉ áp dụng trong thời gian ngắn bởi việc làm quen rồi sử dụng thường xuyên thực phẩm nơi xứ lạ là điều trước sau gì cũng phải làm.

Giải pháp lâu dài và tiết kiệm mà hầu hết du học sinh chọn lựa là tự nấu ăn. Chính vì phải đối mặt với việc “học nấu ăn để sinh tồn” mà không ít bạn du học sinh đã thay đổi và tay nghề nấu nướng tốt lên trông thấy, tới mức chính “thân chủ” còn ngạc nhiên và có nhiều câu chuyện đã trở thành giai thoại!

Nhiều người trước đây chưa bao giờ biết cầm con dao thái thịt là gì, không cắm nổi một nồi cơm hay không thể phân biệt nổi đâu là xà lách và bắp cải thì nay đã tự tin gọi điện về nhà “mẹ ơi con tự nấu được phở để ăn rồi nhé!” … dù sự thay đổi này phải đánh đổi bằng không ít thời gian, công sức và “cân nặng”.

Trong các dịp lễ, Tết, nếu không có điều kiện về nhà sum vầy bên người thân, du học sinh thường tụ tập và cùng nhau làm những món ăn truyền thống mà khi ở Việt Nam, không ít bạn không biết hoặc “quên” làm như bánh trôi bánh chay trong dịp Tết hàn thực hay gói bánh chưng, đồ xôi gấc…

Canh ngó khoai

TP - Đã qua cái rét Nàng Bân. Từ giờ trở đi chỉ có nắng mỗi ngày một nhiều hơn. Đã có những cơn mưa rào tuy chưa thật thỏa thuê nhưng nước trên các cánh đồng đã xâm xấp bờ. Bây giờ là lúc những cây khoai ngứa nảy mầm.

Những cái mầm như đầu con rắn non bò ngoằn ngoèo trên bùn đất. Đó là ngó khoai, chúng như những cánh tay của từng cây khoai ngứa vươn dài ra, bấu víu vào không gian.

Cũng là “ngó”, ngó sen được coi như sự cao quí trong nơi bùn nhơ. Ngó cần được ví như nước da trắng mịn của người con gái. Ngó khoai thì chỉ được trồng qua quýt ở những nơi góc ruộng, bờ ao, chẳng bao giờ chăm sóc hay bón tưới, khi nào thấy tốt um lên thì cắt cả loạt đem về làm thức ăn cho lợn.

Ngày xưa, vì đói, củ chuối, rau má cũng phải đào lên mà ăn thay cơm. Củ chuối, rau má hết thì ăn cả dọc khoai ngứa. Vì đói nên chẳng còn biết ngứa là gì. Những gia đình thanh bần thì có thể ăn dọc khoai ngứa như thế này: Phơi khô, cho lên gác bếp, thỉnh thoảng lấy xuống kho với cá. Tôi chưa được ăn dọc khoai ngứa kho với cá nhưng đoán chừng cũng ngon. Nhớ hồi nhỏ thỉnh thoảng ăn sung kho với cá, quả sung quắt lại, nằm trong góc nồi, bên cạnh miếng cá, thơm, bùi nghìn nghịt, ăn còn thích hơn ăn cá, vị ngon còn nhớ đến giờ. Bây giờ, nếu có nhà hàng nào làm món cá kho với dọc khoai ngứa có khi lại đắt khách chứ chưa biết chừng.

Nói đến canh ngó khoai thì nhiều người thích nhưng không phải ai cũng biết nấu. Thứ nữa nó cũng khá nhiêu khê. Nhặt mấy mớ ngó khoai đủ nấu một nồi canh cho cả nhà là đi tong buổi sáng chủ nhật. Có người luộc lên trước rồi mới nhặt, như thế nhanh hơn lại đỡ ngứa, nhưng khi nấu cái cọng thường thâm lại và ăn kém ngọt. Những ngọn khoai vừa hái ở ruộng lên hay vừa mua ở chợ về là nhặt luôn, ngắt từng đoạn, tước vỏ thật sạch. Những đoạn già già một tí thì dễ nhưng cái đoạn non nhất thì hơi khó, phải lấy dao mà cạo từng tí một. Luộc vài lần bằng nước muối cho hết ngứa rồi mới cho vào nấu.

Canh ngó khoai nấu với cá phải là cá đồng, như trắm, chép, mè, trôi. Ngon nhất là nấu với cua. Nước lọc cua đun sôi thì cho ngó khoai vào, đun nhừ là được. Phải có mẻ, mắm tôm. Thêm mấy lát cà chua cho có màu. Sắp bắc ra cho mấy cọng ngổ. Có người bảo cho lá bầu đất ngon hơn nhưng tôi thấy cho ngổ có lý hơn.

Cái khó là làm sao ngó khoai nhừ rồi mà vẫn giữ được nguyên cọng, giữ được màu xanh của rau muống luộc. Nước trong, chỉ ánh lên đôi chút sắc vàng do cà chua và gạch cua đem lại. Người ăn được cay thì cắt riêng vào bát vài ba lát ớt tươi. Những miếng ngó khoai mềm mại múa lượn từ chân răng tới hai bên bờ má. Vị ngọt của ngó khoai quyện với vị ngọt của cua đồng, mùi thơm của cua với mùi thơm chua dìu dịu của mẻ, thêm cái vị hơi hăng hăng của ngổ, một chút ngứa lăn tăn cộng chút cay tê tê.

Nấu một nồi ngó khoai dường như là cuộc phiêu lưu của cả người nội trợ lẫn người thưởng thức. Về mặt khoa học, cứ đun sôi lên là chất ngứa sẽ bị phân hủy. Nhưng đun đi đun lại mà ngó khoai dường như vẫn chưa hết ngứa. Người ta bảo trong khi nấu không được động đũa và trong khi ăn dù thấy ngứa thật cũng không được nói. Có người lại bảo là do tay người nấu. Suy cho cùng, canh ngó khoai không có vị ngứa lăn tăn, và khi ăn không có đôi chút âu lo, hồi hộp thì còn gì là canh ngó khoai.

Nhớ đứa con gái nhà tôi, hồi ba tuổi lười ăn khủng khiếp, cả bố mẹ lẫn bà nội bà ngoại phát ngán, thế mà lần đầu tiên trông thấy canh ngó khoai là đòi ăn ngay. Ăn được mấy miếng thì hình như cô nàng thấy ngứa. Nó ngừng lại, chần chừ một lúc, cuối cùng thì cái nỗi thèm ăn đã vượt qua cái ngứa, lại ăn tiếp.

Trong cái nắng đầu mùa, vào một ngày thảnh thơi, nếu ta được ngồi bên mâm cơm chỉ có một đĩa đậu rán, bát mắm tôm, chai rượu quê và bát canh ngó khoai, sẽ thấy cuộc đời mình hoá ra vẫn còn có những niềm vui.

Tuoi tho

Tuổi thơ dữ dội nhưng lại chẳng dữ dội chút nào, nhưng khi tuổi thơ đã đi qua và giờ đây trên bước đường đời những ký ức, kỷ niệm ấu thơ dữ dội tràn về. Ai trong chúng ta cũng từng có một tuổi thơ dù vui, dù buồn thì đó đều là những kỷ niệm đáng nhớ. Ấu thơ là thời gian đẹp nhất trong mỗi con người, với tâm hồn trong sáng, tính cách hồn nhiên thơ ngây.

Bồi hồi xúc động trên chuyến tàu quay về quá khứ 20 năm trước hình ảnh lại hiện về trong tôi. Điều đầu tiên làm tôi nhớ đến chính là phiên chợ quê, mỗi buổi sáng có phiên chợ (chợ quê tôi họp vào ngày lẻ theo lịch âm) là anh em tôi lại ra đường đứng nhìn về xa xăm ngóng trông mẹ đi chợ về để lấy quà. Tôi còn nhớ rõ vì thói quen này mà tôi đã phải đi học chậm mất một năm: hồi đó tôi chưa đến tuổi đi học mẫu giáo nhưng vì nhà lúc đó có 2 anh em, anh tôi hơn tôi 2 tuổi nên mẹ cho cả tôi đi học cùng anh. Ngày đầu đi học cùng anh cũng là ngày tôi khóc nhiều nhất. Hồi đó tôi mới 4 tuổi, ở quê tôi 5 tuổi mới cho đi mẫu giáo; hôm đầu đến trường ngược lại với bản tính lỳ lợm và gan dạ của ông anh thì tôi lại rất nhút nhát và đòi mẹ phải ở lại học cùng dù cho mẹ có dỗ dành đủ kiểu kết hợp với món đòn roi như thường lệ. Ngày đi học thứ hai cũng không hơn ngày đầu là mấy, tôi vẫn khóc tuy nhiên lần này được mẹ hứa là ở lại học rồi mẹ đi chợ mua bánh, hôm đó lại có phiên chợ. Thế là tôi ngoan ngoãn ở lại học cùng anh, nhưng cũng chẳng được lâu, vì trường học ở ngay cạnh đường cái nên giờ ra chơi lúc đang nô đùa cùng bạn bè thì bất chợt tôi nhìn thấy mẹ đi chợ về ngang qua. Tôi như con thiêu thân chạy theo sau xe đạp của mẹ chạy về dù cho ăn đủ đòn roi nhưng vẫn không chịu quay lại lớp. Vậy là kết thúc năm mẫu giáo bé, chỉ đi học được 2 hôm.

Lại một năm được ở nhà chơi không phải đi học nhưng rồi thời gian đó cũng trôi qua rất nhanh. Anh tôi lên mẫu giáo lớn còn mình tôi lại phải học lớp mẫu giáo bé, tuy vẫn còn khóc nhè không chịu đi học nhưng đều bị khuất phục bởi những trận đòn roi của mẹ tôi. Lúc tôi kết thúc lớp mẫu giáo bé cũng là thời điểm anh tôi lên lớp một. Ba mẹ tôi muốn hai anh em học cùng lớp cho vui và cũng dễ đưa đón nên đã cho tôi bỏ qua lớp mẫu giáo lớn và xin cho tôi lên thẳng lớp 1 cùng anh. Ngày đầu đi học mẹ tôi đưa 2 anh em đi khai giảng, những bỡ ngỡ buổi ban đầu đi học tiểu học quả thật khác xa so với học mẫu giáo. Mỗi bạn có một cặp sách, một bộ quần áo mới để đi học. Chỉ riêng hai anh em tôi, vì nhà nghèo nên ba mẹ tôi chỉ mua được có một bộ sách giáo khoa, một cái cặp cho 2 anh em học chung. Tôi cũng chẳng nhớ nổi là lý do vì sao, có thể vì không có cặp sách hoặc có thể vì đòi mẹ ở lại học cùng (ngựa quen đường cũ) mà tôi lại chỉ đi học được có 2 buổi. Sau đó lại được ở nhà chơi dài.

Ở nhà có một mình cũng chán, mỗi ngày tôi đều ra đầu ngõ đứng ngóng trông anh trai đi học về, phải nói là cảm giác chờ đợi thật là hạnh phúc.

Hồi đó nhà tôi rất nghèo, cơm ăn còn không đủ. Tôi vẫn còn nhớ mỗi bữa ăn đều có kèm theo củ chuối ghế cơm (cũng không có khoai hay dong) vì củ chuối sẵn trong vườn. Trước mỗi bữa cơm anh em tôi cùng bố ra vườn để đào củ chuối, cho vào nồi cơm và ghế. Tuy nghèo đói nhưng hầu như rất ít khi anh em tôi phải ăn củ chuối. Ba mẹ bao giờ cũng nhường cơm cho anh em tôi, và ăn phần củ chuối ghế. Nghĩ lại tôi lại càng thương yêu ba mẹ hơn. Có lẽ vì đã trải qua những hoàn cảnh khó khăn của cuộc sống như vậy nên giờ đây khi đã kiếm ra tiền những lúc đi ăn hay đi chơi tôi thường nghĩ về những khó khăn ngày xưa. Nhưng tôi lại luôn ước ao được trở về thời ấu thơ, cùng nô đùa cùng bọn trẻ con hàng xóm, cùng ăn những bữa cơm đạm bạc với gia đình đầm ấm, mỗi buổi tối lại được nghe ông nội kể chuyện ngày xưa, mỗi sáng mai lại được ra đường ngóng trông quà chợ, rồi buổi trưa trốn ngủ trưa đi câu tôm,...

Tôi luôn mong mình có một điều ước và tôi sẽ ước được trở về tuổi thơ, dù phải đánh đổi tất cả những gì quý giá nhất. Đối với tôi tuổi thơ quý giá hơn tất cả.

Ai trong chúng ta cũng đều có một tuổi thơ dữ dội. Nếu ai đọc được bài này hãy cùng chia sẻ tuổi thơ của mình để hồi tưởng lại một ký ức đẹp.

Lai lịch Trại Tò Vò

Trại tò vò là nơi tôi sinh ra, nhưng thế hệ con cháu tôi thì không còn biết đến cái tên này. Từ tháng 10 năm 1954, sau khi hòa bình lập lại ở miền Bắc, xã Hiệp Thắng được chia thành xã Chiến Thắng và xã Thắng lợi, trại tò vò cùng với ấp Nội Bông và ấp Nội Da hợp thành xóm Tam Sơn của xã Chiến Thắng (năm 1971 đổi tên thành xã Thường Thắng), huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang.

Ngày xưa, các cụ thường đặt tên cho các cụm dân cư theo đặc điểm của từng nơi như: Bờ Đầm (dải đất gần vùng đầm nước), Nội Duối (dải đất có nhiều cây duối), Nội Bông (vùng đồi có nhiều loại cỏ bông), Nội Da (vùng đồi có nhiều cây đa), Đồng Chót (đồng ở cuối làng), Đồng Đoài (đồng ở phía Tây làng)… Vùng đồi các cụ nhà tôi khai phá được gọi tên theo đặc điểm xây dựng. Các cụ sau khi trồng tre, không chỉ đắp lũy như các cụm dân cư khác, mà nhào đất (thường gọi là xéo đất) đắp tường. Tường có chân dầy 60cm đến 80cm thu dần lên cao từ 1,2m đến 1,6m tùy từng đoạn, có đoạn cao đến 2 mét nhìn từ ngoài vào. Mặt trên của tường dầy từ 20cm đến 25cm, có mũ bằng đất gắn cành tre có gai hoặc mảnh chai, mảnh sành. Nhà nọ nối liền với nhà kia thành một bức tường vây khép kín bao quanh cả cụm dân cư. Bên trong mỗi nhà lại chia vườn ra từng mảnh, đều có tường vây, tạo thành hai, ba lớp tường, lớp vườn theo độ dốc của đất vườn rồi mới đên phần sân, nhà. Mỗi nhà để một lối đi hai bên đều có tường, có hai hoặc ba lớp cổng. Đời các cụ thường hay có cướp, làm như thế để chống cướp.  Nhà khá giả thì thuê người đắp tường, nấu cơm cho người ta ăn nếu cả vợ con đến giúp, gọi là làm hộ. Nếu chỉ có một người đến làm thì được trả thêm một bát gạo hoặc một dúm khoai lang ( quê tôi gọi là dúm củ - khoai lang cuốc về, để nguyên cả dây gốc, buộc túm lại, mỗi túm khoảng một hai kg, để héo, vặt ra, rửa sạch, cho vào nồi đất (sành), đậy kín vung, không cho nước, lấy một ít rơm quây xung quanh, đổ trấu kín, đốt lửa cho cháy âm ỉ từ trưa đến tối hoặc từ tối đến sáng, khoai chín ngọt như chuối chín, ăn rất ngon, thơm, thường gọi là khoai hầm, tiếng quê tôi gọi là củ hầm). Cũng chỉ có nhà cụ Bếp Phả mượn được người làm, còn các gia đình đều tự đắp tường. Thường tranh thủ đắp vào buổi tối, nói cho đúng là đắp vào ban đêm vì ban ngày thường phải đi làm mướn. Do đó dân làng đặt cho cái tên là Trại Tò Vò. Tôi muốn ghi lại lai lịch và sự phát triển của nơi tôi đã sinh ra để con cháu tôi, những Cử nhân, Tiến sĩ ngày nay biết kị, cụ, ông bà chúng ngày xưa đã lập lên cái Trại Tò vò như thế nào, những cách làm mà chúng khó có thể tưởng tượng được.

I. Về con người

Theo quan hệ họ hàng hiện tại thì Trại Tò Vò do hai gia đình gốc khai phá cách ngày nay khoảng 160 đến 180 năm. Anh em tôi là đời thứ 5. Anh con ông bác bên ngoại của tôi, cũng là người con trai đầu của đời thứ 5, năm nay 86 tuổi, nếu tính bình quân đời nọ cách đời kia 20 năm thì cũng đã có trên 160 năm. Bà nội tôi là đời thứ 3, mất năm 1938, thọ 64 tuổi, đến năm nay cũng đã là 135 năm, cộng thêm đời cụ ngoại, kỵ ngoại tôi thì cũng có trên 175 năm. Ở đời thứ 3 này, hai gia đình gốc thông gia vơi nhau, phát triển thành 8 hộ cùng với 5 hộ khác đến sau, tổng cộng là 13 hộ. Đến đời thứ 5 chúng tôi, chỉ tính con trai của 2 gia đình gốc đã có đến 36 hộ; không tính con gái vì tất cả con gái đều đi lấy chồng ở làng khác, thôn khác. Đời thứ 5 chúng tôi chỉ có duy nhất 1 người con gái lấy chồng tại Trại. 5 gia đình đến sau, đến đời chúng tôi cũng chỉ có 4 hộ, một hộ không phát triển. Trong 36 anh em cháu bác, cháu chú, cháu dì, cháu dà của 8 hộ nội ngoại chúng tôi có 25 người đi bộ đội (24 trai, 1 gái), 1 người chống pháp hy sinh, 4 người tham gia cả chống Pháp và chông Mỹ, 19 người lớp chúng tôi tham gia chống Mỹ, hy sinh 6 người, bị thương 2 người. Riêng nhà tôi có thêm cô em út cũng đi bộ đội chống mỹ. 5 hộ đến sau có 1 người đi bộ đội chống Pháp. Tổng cộng 13 hộ của Trại Tò Vò có 26 người đi bộ đội tính từ 1948 đến năm 1972. Hiện tại Trại Tò vò có 87 hộ, không kể 20 hộ tách ra ở chỗ khác và các nơi như gia đình tôi. Số nhân khẩu thì chưa thống kê được.

II. Về kinh tế

Ngày xưa chỉ có nhà cụ Bếp Phả gọi là có dư dật, còn tất cả đều thuộc diện túng đói, phải đi làm thuê, làm mướn ở Ấp Lý Hạp tận Phú Bình. Năm 1945 có 1 người (bà Sải) chết đói ở ngay cầu xi măng ở đầu Trại khi đi làm sớm. Năm đó tôi còn bé nhưng vẫn nhớ như in hình ảnh và hương vị của cái bánh cám, bố mẹ tôi để phần cho riêng tôi, nướng bằng than rạ hơi cháy, to bằng cái chôn bát con (bằng cái bánh quy Hương Thảo bây giờ), thơm ngon có lẽ bánh quy bây giờ khó sánh được. Năm 1954 cũng bị đói, các gia đình đều phải ăn củ chuối, bầu, cà ghém thay cơm. Bố mẹ tôi thì vẫn giữ được một bữa cháo, còn là ăn bầu, cà ghém luộc, rau má, rau khúc xen với củ chuối. Thời gian đói kéo dài đến 2 – 3 tháng gì đó. Một số người đã bị phù thũng. Tôi vẫn nhớ câu hát do chúng tôi bịa ra là “ăn nhiều củ chuối nó đâm bệnh phù…” Ngày nay thì khá rồi. Con cháu chúng tôi cũng tiến kịp với sự phát tiển chung của xã hội ở nông thôn vùng đồi trung du miền núi thấp; hiện còn  hai hộ cận nghèo so với chuẩn nghèo của nhà nước. Tuy vậy, tất cả đều không phải ăn cơm độn sắn, khoai. Khoai sắn chỉ dùng để chăn nuôi. Bữa ăn đã có thịt, cá; có xe máy để đi lại (và cũng là phương tiện vận tải như một công cụ sản xuất), có tivi để xem. Đại bộ phận nhà ở đã xây bằng gạch, lợp ngói mũi, nền lát gạch men, sân cũng lát gạch; công trình phụ cũng xây bằng gạch, lợp ngói hoặc tấm lợp Pro. Có 3 cháu đời thứ 6 đã làm được nhà tầng.

III. Về văn hóa, học hành

Có thể nói gọn một câu là từ đời bố tôi về trước không ai biết chữ. Sau cách mạng tháng Tám năm 1945, từ phong trào diệt giặc dốt, một số ông và các anh tôi được học đến biết đọc, biết viết. Riêng ông Nguyễn Văn Phê biết làm toán cộng, trừ đã dậy cho chúng tôi sau này. Năm 1954, sau hòa bình xã tôi mới có trường học. Chúng tôi là lớp được đi học đầu tiên của Trại Tò Vò cũng như của xã. Trước chúng tôi chỉ có dăm anh gia đình khá giả được đi học, nhưng phải lên tận xã Đưc Thắng hoặc Phú Bình Thái Nguyên mới có trường. Phần lớn các anh sau này được học ở trong Quân đội. Đại bộ phận các bà, các chị được học bổ túc văn hóa trong các năm 1957-1960 mà chúng tôi đã trực tiếp dậy cho họ. Nhờ học lỏm rồi học bình dân học vụ mà khi có trường tôi được vào học ngay lớp 2. Cùng lớp với tôi có cả các anh hơn tôi 6 tuổi. Năm ấy tôi 12 tuổi, là một trong 2 đứa ít tuổi nhất lớp với 24 học sinh lớp đầu của xã. Lên đến cấp II thì cả xã còn được 8 người học ở trường cấp II Hiệp Hòa. Thi đỗ và học lên cấp III, cả xã chỉ có hai anh em tôi là cháu dì cháu già. Trại Tò vò thì chỉ có mình tôi. Hồi đó đi học gian nan lắm. Hè năm 1960, tôi đi đắp đê ở Yên Dũng, được chia 3,6 đồng. Đem về tôi mua được 20 con vịt, nuôi lớn, chết mất 3 con, còn 17 con, bán được 36 đồng, bố tôi mua 3 con lợn con, nuôi một tháng, bán đi một con được 23 đồng, vay hợp tác xã tín dụng 50 đồng để may quần áo, mua sách vở. Hồi đó ở Hiệp Hòa chưa có trường cấp III, tôi phải lên thị xã Bắc Giang học tại trường cấp III Ngô Sĩ Liên. Thời đó học sinh đi học được phân 13kg phiếu gạo, được mua 10kg gạo, còn 3kg phiếu phải mua độn, thường là khoai lang, 1kg phiếu được mua 3kg khoai. Củi được mua 5kg. Chúng tôi thường làm quen với các cô, các chị bán gạo, bán củi để được mua thêm một hai kg khoai mỗi lần, hoặc củi loại một thì tính loại 2, loại 3. Các chị, các cô cũng thường hay chiếu cố học sinh. Cũng may, anh cả tôi là bộ đội chuyển ngành làm công nhân nhà máy xe lửa Gia Lâm, những năm sau,mỗi tháng anh tôi cho tôi 10 đồng đủ để ăn học. Tôi phải trọ học ở làng Vĩnh Linh, cách trường gần 2km. Thường Thường mỗi tháng tôi mua cả gạo, củi, rau muối, dầu đèn hết 9 đồng rưỡi, còn 5 hào để dự phòng hoặc đi xem phim. Hai, ba tuần một lần về nhà nghỉ chủ nhật, đem thêm củi, tương để ăn. Nhớ một lần tôi mang một bó củi dong và một chai tương, đến Sen Hồ tôi gửi anh bạn đi tầu hỏa mang hộ. Tôi không có tiền đi tầu, phải đi bộ. Từ ga Sen Hồ lên Bắc Giang 10km, mất hai hào tiền tầu. Anh bạn tôi đem chai tương lên tầu, tầu chạy một đoạn, chai tương nổ tung nút, tương bắn tung lên trần tầu, văng vào mọi người xung quanh. Mọi người la mắng. Anh bạn tôi vẫn nhặt nút chai nút lại. Chai tương chỉ còn một ít, toàn nước, đủ một bữa ăn.

Kể lại một chút chuyện học hành của ngày xưa cho con cháu biết. Ngày nay thì chẳng bao giờ có cái cảnh ấy. Cũng kể lại chuyện này để nói rằng, việc con cháu  tôi đều học được hết Đại học là tôi hạnh phúc lắm. Nhất là con trai đầu của tôi, Nguyễn Ngọc Oanh đạt được bằng tốt nghiệp Tiến sĩ là điều mơ ước lớn nhất của đời tôi.

Nguyễn Ngọc Oanh cũng sinh ra tại Trại Tò vò, ngày 18/1/1965, khi tôi đã có mặt ở chiến trường Trị - Thiên – Huế được 9 tháng. Tháng 10/1966 tôi mới nhận được thư nhà và ảnh của cháu. Cái ảnh ở đầu trang BLog Trai cầu vồng Yên Thế đấy. Hồi đó có chiến tranh, mẹ cháu và ông bà nội nuôi cháu cũng khá vất vả. Sữa mẹ không đủ. Thỉnh thoảng bà ngoại làm cán bộ phụ nữ xã xin mua được hộp sữa bò lại đem cho cháu. Bữa ăn ưu tiên nhất là cháu được ăn một quả trứng vịt sào với muối, còn chủ yếu là ăn cơm với dưa, cà, cua, cá do các cô đi bắt ở đồng. Nhiêu bữa chỉ ăn cơm với muối trắng, không phải muối tinh như bây giờ đâu, mà là muối “cộ”, hạt muối to bằng hạt ngô. Lúc bé, sau thời kỳ ăn bột, trẻ con thường ăn cơm “búng”. Mẹ  (thường là bà nội), nhai độ nửa bát cơm nhiễn ra, lấy hạt muối mút một ít cho vừa rồi mớm cho trẻ. Oanh được 18 tháng thì ở nhà với ông bà nội, mẹ  được tuyển vào ngành Công an. Đó cũng là sự may mắn cho cuộc sống của gia đình sau này. Lúc 3 - 4 tuổi, có lần Oanh bị kiết lị, nhòm như con mèo hen, suốt ngày quấy khóc, bắt cô Bình bế cả ngày đêm, không cho cô được ngủ.  Năm 1972, tôi ở chiến trường ra nghỉ phép mới làm thủ tục đem cháu lên cơ quan ở với mẹ, học ở trường xã Dĩnh Trì. Cháu học cũng được và có ý thức tự lập rất sớm. Đó cũng là đặc điểm trên bước đường trưởng thành sau này, xứng đáng là con trai của Trại Tò Vò xa xưa. Hiện tại, Trại Tò Vò có 4 cháu học xong Đại học, 6 cháu học xong Cao đẳng, 4 cháu đang học Đại học  (5 cháu ở đời thứ 6 và 9 cháu ở đời thứ 7).

Ghi lại một chút để con cháu biết đến thời gian nan lúc nhỏ, mà thấy sự sung sướng bây giờ ./.

Bài học mưu sinh

Thứ tư, 25 Tháng 1 2012 14:51

Đó là những ngày tháng sau giải phóng. Tôi - một giáo sư triết đệ nhị cấp (tên gọi của nền giáo dục cũ) vừa 27 tuổi, chưa hề làm quen với công việc lao động, về sống giữa rừng Gành Hào. Gành Hào là tên một dòng sông lớn nối với sông Hộ Phòng của tỉnh Bạc Liêu đổ từ huyện Giá Rai ra cửa biển; chia một bên là huyện Đông Hải (Bạc Liêu), một bên là huyện Đầm Dơi (Cà Mau). Miền đất này thuộc vùng rừng U Minh Hạ.

Nông trường của chúng tôi nuôi tôm bán tự nhiên. Lấy nước thủy triều từ cửa biển vào vuông, khóa các van lại chờ nước mưa xuống là tôm cá tự sinh trong vuông, không cần thả con giống. Việc đầu tiên của chúng tôi là xẻ mương chính; mỗi người mỗi ngày đào ngang 3 mét, tới 3 mét, sâu xuống 1 mét. Nói chung là phải xong 9 mét khối đất.

Chúng tôi đào đất bằng lưỡi len, hình dáng như cái giá nhưng nhỏ và bén hơn. Tra vào lưỡi len một cái cán gỗ già dài cỡ 1 mét, đầu cán tra cái guốc dài cỡ 10 phân, là có một dụng cụ đào đất hoàn chỉnh. Tôi nghĩ sức mình không theo kịp anh em một ngày làm 9 mét khối đất. Tôi bèn học tư thế đào: đứng chèo chân theo hướng đất, xắn len xuống sâu và nghiêng người “bơi” cục đất lên bờ. “Học” được ba ngày, tôi đã có thể đào 9 mét khối đất trong vòng ba tiếng đồng hồ. Lao động nặng nên tôi ăn rất nhiều, mỗi bữa bốn chén cơm đầy; thức ăn thì cá tôm không thiếu.

Tiểu đội 12 anh em, có nhã ý muốn… ăn ngon. Rừng Gành Hào không thiếu cá tôm thiên nhiên. Tôi quen “nghề” câu từ khi còn ở Quảng Nam câu cá hanh, cá hồng sông Thu nên nhận cải thiện bữa ăn cho anh em. Anh em nhận “choàng” cho tôi một số công việc để tôi mưu sinh, kiếm sống cho cả tiểu đội.

Tiểu đội chỉ có 20 mét cước, một cục chì 30 gam. Tôi bắt đúng bốn con tôm, dang nắng và tra chút muối cho ươn lên. Đợi đúng lúc nước từ cửa biển vừa rong (lớn) lên, tôi ngồi ngay ngã ba sông buông câu. Tôi liệng hết dây câu theo kiểu câu ống vào một… cái lô cốt cũ chìm sâu dưới nước. Cá ngát, giống như cá trê, đánh hơi mồi bằng xúc tu. Có những con cá hoát (cá ngát đực) dài cả thước, nặng trên vài ký, rất mê mồi. Ngồi mươi phút, tôi câu được vài con. Cá ngát có cặp ngạnh rất độc. Bị ngạnh nó đâm, cánh tay sưng lên gấp đôi, đau nhức la làng cả ba ngày. Tôi chưa bao giờ dám bắt cá ngát. Đưa được nó lên bờ, một người bạn tên Nhung có nhiệm vụ “phụ tá” lấy kềm cắt hai ngạnh và làm cá. Một người bạn khác là Hoàng lặn rất giỏi, sẵn sàng lặn bất cứ khi nào dây cước hay lưỡi câu dính vào lô cốt. Cho nên, câu dính cá thì tôi gọi “Nhung ơi!” mà lưỡi mắc vào gốc thì tôi gọi “Hoàng ơi!”. Lâu lâu, tôi đổi cách câu, lấy trái mắm non câu cá dứa. Cá dứa giống như cá tra, chỉ có ở biển Nam Bộ. Thịt cá dứa béo như thịt heo. Hôm nào dính một con cá dứa, tôi nghỉ câu vài ngày bởi mỗi con cá dứa thường nặng vài ba ký. Ăn cá dứa kho lạt béo ngậy, đến nỗi câu liên tiếp được vài con, thằng nào trong mâm thấy cá dứa cũng… muốn lạy!

Tôi học thêm cách đánh lưới bén với một ông chủ trại đáy. Tiểu đội mua cước thật nhuyễn, đan cho tôi một tay lưới dài 30 mét, dạo (bề sâu) 0,5 mét, mắt lưới 5 phân. Những ngày cường triều, tôi canh nước lớn, vác lưới ra biền. Theo lời “thầy” dặn, tôi thả lưới thật dùn, nghĩa là 30 mét mà thả xuống nước chỉ còn 15 mét. Cá đối, cá bống cát, tôm xà púi… theo nước lên biền dính rẹt rẹt, quậy đùng đùng. Ba mươi phút sau, tôi cuốn lưới lên, vác về nhà cho mấy em “hậu cần” gỡ tôm cá. Trúng con nước, tôi đánh một giác lưới được trên năm ký cá là thường.

Lâu lâu, mấy cậu học trò nói “Thầy, cho tụi em ăn cua rang muối đi thầy”, tôi bèn đi móc cua. Kiếm một cây vẹt khoảng mét rưỡi, uốn thêm một cây sắt 6 ly hình chữ L tra vào là có một cây cần móc. Một em học trò đi phụ tá, mang theo cái bao cà ròn và bó dây lạt dừa. Đợi lúc con nước mồng 9 mồng 10 ròng sát, hai thầy trò đi dọc các bờ kinh, mương. Coi cái hang nào có dấu ngoe cua chạy, tôi đưa cần móc vào sâu, quậy thử. Lắng nghe tiếng đầu chữ L chạm mai cua kêu cạch cạch, tôi quay cần móc kéo “cậu” ra. Con cua ra khỏi hang, dính tù lu sình lầy. Học trò chụp cậu, lấy lạt dừa ra trói và bỏ vào bao cà ròn. Mỗi tháng chúng tôi có hai ngày ăn cua rang muối.

Tháng 10 âm lịch, cua rừng Gành Hào có gạch son. Ăn một con cua gạch chừng 300 gam, gạch son đỏ chói, bùi bùi, béo ngậy, đủ ngán.

Năm 1977, tôi về lại thành phố. Lương nhà giáo 60 đồng một tháng không đủ nuôi năm miệng ăn, tôi quyết định… đánh cá nuôi vợ con. Áp dụng những bài học mưu sinh cải thiện quý giá ở Gành Hào, tôi mua tay lưới bén đánh cá ven sông rạch, ao đầm của huyện Nhà Bè. Mắt lưới chỉ 7 phân nhưng nhờ kinh nghiệm thả lưới thật dùn, tôi vẫn bắt được cá lóc to cả ký. Cá lóc có tính nghịch ngợm, đi ngang gặp lưới bèn quậy đuôi một cái. Vậy là lưới dính vào vảy. Hoảng hốt, cậu ta lại tiếp tục quậy; lưới dính vào răng, vào mang, bó thành một cục. Tôi đưa lưới lên khỏi nước, để cái vợt phía dưới, giũ mạnh một cái là cậu ta rơi ngay vào vợt. 

Tôi vừa làm… cán bộ chỉ đạo chuyên môn (người ta phong chức như vậy) các môn khoa học xã hội, vừa đánh cá. Hai nghề này dường như mâu thuẫn quá cỡ. Đánh cá đúng mười năm, tay chân tôi đóng phèn vàng khè. Mười năm, tôi ngồi trên bờ kinh rạch, viết được đúng mười cuốn sách. So ra, tôi đánh cá giỏi hơn viết sách nhiều. Đứng xa vài chục mét nhìn giềng lưới động đậy, tôi biết được con cá gì dính lưới!

Một hôm, anh Huỳnh Bá Thành – Phó Tổng biên tập Báo Công an thành phố cưỡi chiếc Toyota chín nút, ra rạch Tân Quy nhìn dáo dác. Thấy tôi đứng dưới rạch, Thành vừa cười vừa chửi: “Thôi đủ rồi ông nội! Mời ông nội về làm báo với tôi!”. Từ đó, tôi treo tay lưới bén lên. 

Học rứa mới là học chớ!

HÀ NỘI – TUY HÒA TRONG TUỔI THƠ TÔI

Ga Hàng Cỏ xa dần rồi mất hút trong tiếng xập xình của chuyến tàu đêm ngày ấy. Mới lên 5, nhưng cũng đủ để tôi ý thức được sự nuối tiếc đến xót lòng khi phải chia tay Hà Nội, chuyển đến nơi ở mới mà không hề biết đó là đâu. Ba ngày ba đêm, hành trình vào Nam hàng nghìn cây số, đủ để tôi hoài niệm về những kỷ niệm tuổi thơ trên đất Bắc. Phải xa khu tập thể Trường Trung cấp Địa chất được xây cất bằng tranh tre, vách đất tạm bợ, trong tôi như vừa mất mát cái gì đó vô cùng lớn. Trong mớ bòng bong kỷ niệm đó, khó quên nhất là vụ cháy khu nhà tập thể cán bộ, giáo viên gây náo động cả trường, khiến anh em tôi phải chui xuống gầm giường để tránh lửa, mà thủ phạm không ai khác chính là tôi. Sau vụ cháy, cả nhà tôi phải chuyển nhà sang một khu ở mới, và sau này tiếp tục vào Nam sinh sống. Đây chính là mốc thời gian khắc ghi nhất trong đời tôi hình ảnh về Hà Nội khi đã sống gần 35 năm trên quê hương đất Phú.

Sau nhiều đêm ròng rã, cuối cùng cả nhà tôi cũng đến làng biển phường 6, TX Tuy Hòa (nay là cảng cá phường 6, TP Tuy Hòa). Trước mắt tôi là một vùng đất hoàn toàn xa lạ, với những ngôi nhà tạm bợ, có cảm giác bị bao trùm trong tiếng sóng vỗ, tiếng gió biển rít, buồn đến thê lương. Về nhà mới, nhưng phải mấy ngày sau tôi mới biết, đây là địa điểm mới của Trường Trung cấp Địa chất II, mà trước giải phóng từng là dinh tỉnh trưởng tỉnh Phú Yên, nay là Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh. Thời điểm đó, xung quanh trường vẫn còn y nguyên hàng rào chắn khá kiên cố bằng lưới B40, bên dưới là những bệ bao cát chống xói lở, ngổn ngang vỏ đạn, dây kẽm gai, thùng cô nét… Trong những ngôi nhà, nơi ở của sĩ quan ngụy trước kia, còn nhiều vết đạn găm sâu trên tường.

Do quá khó khăn nên mẹ tôi phải tận dụng bao cát vải của Mỹ - ngụy để may quần và túi đựng sách vở cho anh em tôi đi học. Mỗi buổi chiều, anh em tôi phải gánh từng thùng phân heo đi cả cây số để tưới rau muống tại một đám đất nhỏ (giờ là khu du lịch Gió Chiều), hay câu cá ngạnh dưới chân cầu Vạn Kiếp để cải thiện bữa ăn gia đình. Nhiều hôm phải ngồi từ sáng đến chiều tối dưới gầm cầu, mong sao câu nhiều cá. Có hôm bị ngạnh cá cắt ngang tay đau nhức đến khóc, nhưng rồi cũng cảm thấy mãn nguyện khi được thưởng thức món canh chua cá ngạnh trong mâm cơm đạm bạc của gia đình.

Ngày ấy, biển Tuy Hòa nước trong xanh như trời biếc, rau muống biển bao trùm dải cát trắng. Dọc bờ biển, nhiều lô cốt của Mỹ - ngụy còn nguyên hiện trạng bị rau muốn biển phủ kín. Thời gian nghỉ hè, đám trẻ thường chọn những dây rau muống già đem bện lại, giăng nhiều lớp và buộc vào bốn trụ ở khu tiền sảnh của nhà làm việc Trường Trung cấp Địa chất II làm dây đài để đấu võ, hay nhặt đế vỏ đạn cối làm bánh xe giả ô tô để trượt dốc phường 6 vào mỗi buổi chiều… Phường 6 ngày ấy, đâu đâu cũng có cây bàng lá tròn ngả bóng mát. Trưa hè, đám trẻ tinh nghịch thường trốn cha mẹ trèo hái những chùm bàng chín mọng, ngọt lịm ăn đến thỏa thích mới về nhà.

Không như bây giờ, cuộc sống thời bao cấp vô vàn khó khăn. Tuy còn nhỏ nhưng tôi cảm nhận được điều đó, vì đã có lần tự tay cầm tem phiếu xếp hàng, chờ cả buổi để mua cho được lạng thịt tại chợ Tuy Hòa. Vì tính trẻ con nên có lần tôi đã phải sử dụng “phép” luồn dưới chân người lớn, lén đặt nửa viên gạch xí chỗ và nhích lên từng cm, mong sao sớm tiếp cận được quầy hàng để mua được miếng thịt về kịp nấu bữa cơm trưa và chiều còn đi học.

Gắn bó với đất biển phường 6 được hơn hai năm, đến đầu thập niên 80, Trường trung cấp Địa chất II (Trường cao đẳng Công nghiệp Tuy Hòa) phải chuyển đến địa điểm mới tại phường 8 (TP Tuy Hòa). Lúc đó, xung quanh trường, xác xe Mỹ - ngụy còn chất ngổn ngang thành từng đống, bom đạn đầy rẫy còn sáng chói màu đồng… khiến tôi có cảm giác như chiến tranh mới vừa đi qua. Trong các khu dân cư, nhà cửa, lều quán còn khá thưa thớt, hoang sơ, đường làng, ngõ xóm gai xương rồng giăng kín, đến nỗi ít ai dám nghĩ cuộc sống nơi đây sẽ có ngày đổi thay.

Còn nhớ, mỗi khi trời chập choạng tối, cha con tôi lại gồng gánh ống trúm, bì bõm dưới ruộng sình để bẫy lươn bằng mồi cua đồng giã nát, để rồi cả đêm thao thức chờ trời sáng, mẹ đem ra chợ bán lấy tiền mua quần áo, sách vở. Những con lươn chết được nấu cháo hay kho xả ớt cải thiện bữa ăn. Mùa gặt, anh em tôi phải mót từng ghé lúa rơi, câu từng con cá rô đồng để phụ giúp gia đình… Khó khăn là vậy, song trong tôi luôn cảm thấy tự hào khi được sống những năm tháng tuổi thơ trên mảnh đất Tuy Hòa.

Bữa Cơm Trên Tàu Với Bác

Cuối tháng 3-1959, lần đầu Bác Hồ cùng đồng chí Nguyễn Lương Bằng và các đồng chí ở Trung ương về thăm quân chủng Hải quân đi thăm biển, các đảo thuộc vùng biển tỉnh Quảng Ninh, Hải Phòng. Nhiệm vụ đưa đón Bác và các đồng chí đại biểu, cấp trên tin tưởng giao cho cán bộ, chiến sĩ tàu 524. Lúc đó, không riêng gì tôi (Trần Bạch) mà tất cả cán bộ, chiến sĩ tàu 524 đều cảm thấy vinh dự và tự hào.

Hôm Bác đi thăm đảo Tuần Châu xong, Bác trở về tàu 524, đồng chí Tư Tường bàn với anh em trên tàu là sẽ mời Bác, đồng chí Nguyễn Lương Bằng và các đồng chí cùng đi ở lại ăn cơm với cán bộ, chiến sĩ trên tàu. Sau khi anh Tư Tường báo cáo nguyện vọng của anh em với Bác, Bác vui vẻ nhận lời và bảo: để Bác xem các chú nấu ăn có giỏi không?

Hôm đó tàu cử đồng chí Hiên là người khéo tay nhất làm bếp và trực tiếp nấu nướng. Tôi và các đồng chí cùng tham gia mỗi người một việc, từ vo gạo, nhặt rau… Ai nấy đều rất vui và chăm chú làm việc như muốn góp phần công sức của mình vào bữa ăn “chiêu đãi Bác”. Trong lúc anh em đang loay hoay nấu nướng thì Bác xuống bếp. Nhìn quanh một lượt, Bác khen bếp sạch, ngăn nắp. Bác đang xem ngăn để gia vị, hành tỏi, chợt quay lại bảo với Hiên:

- Chú nấu cơm khê rồi! Anh Tư Tường cũng quay lại. Hiên vội bớt lửa, rồi mở vung nồi ra kiểm tra. Khi đó anh em mới ngửi thấy mùi cơm khê. Anh Tư Tường và anh em trên tàu rất áy náy về việc nồi cơm bị khê. Tất cả không ai nói một lời và cảm thấy như mình có lỗi với Bác. Trong lúc mọi người chưa biết xử lý thế nào thì Bác bảo: Chắc các chú đói rồi, cơm hơi khê, không việc gì, ta ăn thôi.

Bác nói với giọng dịu dàng, khoan dung, làm xua tan đi nỗi băn khoăn, lo lắng của mọi người. Nghe theo lời Bác, mọi người vui vẻ cùng ngồi vào bàn ăn.

Lúc đó tôi không nghĩ mình được vinh dự ngồi ăn cơm với Bác. Khi nghe anh Tư Tường bảo: “Bạch lên cùng ăn cơm với Bác”, tôi xúc động không nói nên lời. Ngoài tôi ra còn có Trung sĩ Bùi Văn Đào là lính tín hiệu.

Hôm ấy danh nghĩa là tàu mời cơm Bác nhưng cũng chỉ có món thịt gà luộc, lòng gà xào miến và nước luộc gà nấu miến làm canh. Còn bàn ăn thì kê ngay ở mạn phải đuôi tàu. Bác ngồi ở phía ngoài, sát với cọc lan can. Nhìn Bác vui vẻ ăn, chúng tôi mới đỡ lo. Lúc đang ăn, Bác gọi xuống bếp: Thức ăn của ta đã nấu xong chưa hả chú? Đồng chí phục vụ trả lời: Thưa Bác xong rồi ạ! Mang lên đây góp cùng ăn với Hải quân. Đồng chí phục vụ Bác bê lên một đĩa bốn con cá rô phi rán. Nhìn đĩa cá, Bác bảo: ở giữa biển, Bác mời các chú ăn cá.

Sau này chúng tôi được biết bốn con cá rô phi là của đồng chí Bí thư Tỉnh ủy Quảng Ninh biếu Bác, Bác dành cho bữa ăn với anh em ở tàu. Suy ngẫm về câu nói của Bác mới hay, phải chăng Bác muốn nhắc nhở sống ở khu vực có biển phải biết giăng lưới, thả câu bắt cá để cải thiện bữa ăn cho bộ đội. Ấn tượng sâu sắc nhất đối với anh em trên tàu về bữa ăn hôm đó là khi sẻ thức ăn cho từng người, Bác bảo: Các chú ăn cơm với Bác hoặc ăn cơm phải ăn hết thức ăn, không được để thừa, thừa đổ đi thì lãng phí, để người khác ăn thừa của mình thì không được.

Thú vui câu cá đồng mùa nước lũ

M

ùa nước nổi, mùa làm ăn của bà con nghèo. Thế nhưng, đây còn là dịp để nhiều người tổ chức chuyến đi câu cá đồng cuối tuần, một thú vui dân dã thường gặp trong mùa lũ.

Những ngày cuối tuần ngang qua các trục quốc lộ, tỉnh lộ, hương lộ đều thấy nam thanh nữ tú, học sinh, sinh viên, ngồi ôm chiếc cần câu thư thả bên gốc cây để câu cá. Khi chúng tôi ghé lại xem, hầu hết đều thổ lộ, câu cá ở đây không phải để bán chát mà là giải trí sau những ngày làm việc, học hành căng thẳng...

Có thể nói, câu cá như là môn thể thao thử thách lòng kiên nhẫn của các bạn. Trong quá trình câu, ngoài việc dẫn dụ cá bằng những mồi “tủ”, người câu còn phải biết canh thời điểm cá cắn câu để giật. Câu cá cũng có lúc dính, lúc không và còn tùy theo con nước, nên người câu cần phải nắm vững quy trình cũng như mồi câu cho từng loại cá. Nhóm anh Quý có đến 5 người. Vào ngày thứ bảy, họ rủ nhau chạy xe dọc theo Tỉnh lộ 941, đến xã Cần Đăng (Châu Thành) tìm nơi để thả cần câu. Hôm gặp các anh giữa trưa, chúng tôi dừng xe lại xem xô cá mà các anh đã câu được từ sáng đến giờ, chủ yếu là cá rô khoảng trên ký.

Anh Quý cho biết: “Nhà ở Long Xuyên, vào ngày cuối tuần, anh em mua cần trúc về tóm câu rồi rủ nhau về đồng quê câu cá. Hôm nay, chúng tôi đi cả chục người, ở đây hiện có 5 người. Còn một nhóm nữa đã vào sâu trong kia chọn điểm câu rồi. Sáng giờ, anh em câu cũng được. Với mớ cá này, đem về cho mọi người chiên xù. Câu cá rất vui và thú vị. Mồi câu chủ yếu là trùn, cua lột, tép, nhện. Nãy giờ, bọn cá rô đang say mồi nên anh em giựt dính quá trời…”.

Nhớ lại hồi nhỏ ở quê, cứ vào mùa lũ là chúng tôi thường rủ nhau đi câu cá rô, cá chốt. Có hôm, cá dính nhiều mê đến nỗi quên ăn. Bây giờ, mỗi lần đi công tác hễ gặp ai câu cá là ghé lại nhìn vào thùng xem dính nhiều hay ít.

Cuối tuần rồi qua thăm Mỹ Hòa Hưng, gặp chị Phúc Diễm làm việc ở Sở Thông tin và Truyền thông đang ngồi câu cá cặp mé kênh cùng nhóm bạn. Chị nói: “Lâu lắm rồi không đi câu cá, hôm nay được mấy đứa bạn rủ sang đây chơi, sẵn tiện tóm vài chiếc cần câu ngồi câu cá cho vui. Thiệt tình mà nói, câu cá ngoài việc giúp cho mình xả tress hiệu quả mà còn trải nghiệm được giây phút dân dã của người miền quê. Từ đó, mình mới quý trọng được thành quả lao động của dân nghèo đi bắt từng con cá để đắp đổi qua ngày. Để câu được nhiều cá không dễ như mình tưởng. Ngồi cả buổi trời chỉ dính chừng chục con cá rô!”.

Lúc này, trời đã đứng bóng, cả nhóm của chị Phúc Diễm xách lỉnh kỉnh chiếc thùng nhựa đựng hơn 2kg cá rô tấp vào quán sinh thái gần đó nhờ chủ quán làm sạch để chế biến thành hai món kho tiêu và chiên xù, rồi cùng nhau thưởng thức thành quả lao động của mình trong suốt buổi sáng. Vào thời điểm này, đến rừng tràm Trà Sư ngoài việc chiêm ngưỡng cảnh đẹp thiên nhiên hoang dã, chúng ta còn dễ bắt gặp du khách ngồi ôm cần câu câu cá. Riêng đối với du khách phương xa, họ rất sành về thú vui câu cá nên thường trang bị nhiều cây cần câu máy, bình quân mỗi cây có giá vài trăm ngàn đồng. Mỗi người ôm từ 3-4 cây cần câu, họ thả câu nhiều chỗ. Hễ thấy cần này cá cắn câu thì quấn dây lên bắt cá, cứ liên tục như vậy.

Điều đặc biệt là họ không câu cá rô, cá chốt mà chủ yếu câu cá trê, cá lăng, cá vồ đém và cá ngát. Tôi đứng xem chưa đầy 1 tiếng đồng hồ mà anh Trần Hoàng Hải đã câu dính 5 con cá lăng, cá ngát độ gần 2kg.

“Các loại cá da trơn ưa nhất “mồi thuốc” nên dính dữ lắm. Đặc biệt, những con mương trong rừng tràm nước chảy xiết, cá lăng, cá ngát rất nhiều, câu giựt thấy mê. Một mặt câu cho vui, mặt khác kiếm mồi nhậu lai rai với anh em đi du lịch trong đoàn…”- anh Hải hồ hỡi.

Câu cá đồng mùa lũ, một thú vui dân dã mà tao nhã, ai cũng thích. Đặc biệt lúc cá lớn đớp mồi, dây căng, ghị đã tạo cảm hứng cho mọi người trong quá trình câu cá trên đồng.

Đổ xô câu cá kiểu hai không kiểu Đà Nẵng

Từ sáng đến khoảng 21 giờ hằng ngày, luôn có hàng chục bạn trẻ tập trung ở cầu Phú Lộc (đường Nguyễn Tất Thành, TP Đà Nẵng) để câu cá đối. Đặc tính của loài cá này thường sống chủ yếu ven bờ biển hoặc các âu thuyền, lạch sông, cửa sông.

“Mình đi theo dân địa phương. Thấy cách câu cá hơi lạ, mình cũng sắm sửa đồ nghề và rủ bạn đi cùng, trúng mối ăn không hết còn chia phần cho cả xóm trọ”, bạn Vương, sinh viên CĐ công nghệ Cao Thắng cho biết.

Ông Nguyễn Văn Lộc, quận Liên Chiểu (người có thâm niên câu cá 4 năm tại đây) cho biết người đến câu chủ yếu dân địa phương, có cả những tay câu chuyên nghiệp và đông nhất là thanh niên. Dân câu có kinh nghiệm sẵn sàng tư vấn cho người trẻ.

Câu cá đối biển hai không xuất hiện ở Đà Nẵng 5-6 năm. Ngoài cầu Phú Lộc, người dân Đà Nẵng còn đi câu tại âu thuyền Thọ Quang và dưới chân cầu Thuận Phước... Giá thành cá đối dao động 20 ngàn - 30 ngàn đồng/kg.

“Khi quăng lọ ra xa, phải tạo cho dây cước căng, để khi cá rúc vào bình, khi đầu dây rung lên, phải kéo nhanh và đều tay. Nếu có hiện tượng ủi bình, kéo nhiều lần mà không được cá, bạn nên thay bình lớn hơn để câu cá”, một dân câu có kinh nghiệm nói với bạn trẻ. Chỉ cần một một cuộn dây cước dài khoảng 30m, một vỏ chai nhựa hình trụ tròn cao 15cm, đường kính 5cm, một miếng chì nhỏ được cố định vào thành miệng chai với một đầu dây cước, bạn trẻ nào cũng có thể trở thành dân câu chuyên nghiệp. Mồi câu cũng rất đơn giản, chỉ việc bỏ bột mì vào chai khuấy đều với nước và quăng chai ra thật xa đúng vào luồng cá.

Ông Bình cho biết chịu khó bám cầu Phú Lộc cũng kiếm được hơn 100 - 200 ngàn đồng/ngày. Ông Bình là dân đi biển chuyên nghiệp, nhưng vào mùa lại đi câu cá đối và dẫn dắt không ít bạn trẻ theo nghề.

Theo chân người lớn còn có nhiều em nhỏ trình diễn những màn quăng mồi câu rất thuần thục. Cậu bé Linh (10 tuổi, sống ngay cầu Phú Lộc) kể: “Trước đây, em thường xem phim, chơi điện tử, nhưng nay đi câu cá đối thích hơn. Có ngày em câu cá đối bán được gần 70 ngàn đồng”.

Dân câu chuyên nghiệp cho biết nhiều bạn trẻ nhờ câu cá đối mà bỏ được game cũng như các trò chơi vô bổ và còn cải thiện được bữa ăn, thậm chí có thu nhập.

Nhớ bát canh cua đồng mẹ nấu

class=imglogo v:shapes="_x0000_i1025"> -

Ngày ấy, nhà tôi cũng như bao gia đình ở cái miền quê ấy đều nghèo. Nhà nào có đủ khoai, đủ ngô ăn quanh năm đã gọi là khá giả. Gia đình tôi thường thì vẫn thiếu đói vài ba tháng mỗi độ giáp hạt, vì thế mà các bữa ăn có chút cá cũng chỉ là hi hữu lắm mới thấy. Chính vì vậy mà tôi cũng như bọn trẻ trong xóm thường rủ nhau ra đồng, sau mỗi giờ tan trường để mò cua bắt cá mang về cải thiện cho bữa cơm gia đình thêm giàu chất đạm. Mẹ nấu và chế biến món nào cũng rất ngon, nhưng món canh cua có lẽ là tôi nhớ nhất vì ăn một lần, cho đến cả trăm lần đều khó lòng mà quên được cái vị thơm, ngọt đậm đà của nó. Vì là đất đồng chiêm trũng nên thứ cua đồng khá sẵn, và chỉ một loáng ra đồng là tôi có thể bắt được cả giỏ cua đầy ắp mang về nhà. Cứ hôm nào tôi ra đồng bắt cua là y như hôm đó cả nhà lại được một bữa cơm ngon lành với món canh cua là chủ đạo. Dù được thưởng thức nhiều lần và được “mục sở thị” mẹ làm món canh này thường xuyên nhưng không hiểu sao tôi không bao giờ có thể chế biến món canh cua ngon bằng mẹ được.

Cua bắt về, bao giờ mẹ cũng lựa những con bấy (cua non mới lột xác) và những con chết ra để dùng vào món cua rang muối. Những con khoẻ, già cua mẹ mới để riêng để làm món canh. Trước khi bóc tách mai, mẹ thường ngâm một chút nước muối pha loãng để cua nhả bớt lấm đất, và cũng để chúng yếu đi và không cắp vào tay khi bắt đầu bóc tách mai. Khi bóc mai cua xong, mẹ lại phải rửa lại bằng nước sạch vài lần nữa mới đảm bảo chắc chắn là số thịt cua trước khi cho vào cối giã đã không còn bẩn bùn đất! Cua giã bằng cối đá tới lúc nhuyễn, mịn màng rồi bỏ ra chậu nhỏ gạn lọc sang xoong để nấu. Gạch cua được nhể từ mai cua bao giờ cũng được chưng mỡ với hành phi thơm, đợi khi nào canh cua sôi bồng lên mới bỏ vào. Canh cua có thể được nấu theo nhiều kiểu, có thể là nấu chua với chỉ vài quả cà chua, mấy miếng tai chua hoặc quả dọc, quả me… cộng thêm chút hành hoa. Cũng có thể nấu kèm với các loại rau xanh, hoa leo như: Thiên lý, mướp, mùng tơi, rau muống, rau dút, quả bầu, dọc mùng… Nhà tôi nghèo, các loại rau quả trên không có sẵn và cũng không mấy khi có tiền để mua nên mẹ thường nấu cua với rau tập tàng- một loại rau thập cẩm với những: Sam, dền cơm, mảnh cộng, bìn bìn, vòi voi… được hái quanh ngõ đi hay vườn nhà. Tôi đã ăn món canh cua nấu với các loại rau tập tàng này nhiều lần, và tôi dám chắc là nếu ai đã một lần thưởng thức chắc sẽ không bao giờ quên được vị ngon, ngọt ngào của nó. Nhiều lần, nhà tôi có khách ngoài thành phố về chơi, ngoài khoai luộc, ngô hầm, vốn là “đặc sản” nhà quê, thì bao giờ mẹ cũng thết đãi khách bằng món canh cua nấu rau tập tàng. Khách ăn cơm, húp canh cứ tấm tắc khen ngon mãi, và có người còn hỏi “bí quyết” của mẹ tôi về cách làm món canh này ra sao…

Canh cua đồng thường chan với cơm trắng mới cảm nhận hết được vị thơm ngon ngọt ngào của nó. Vậy mà, đôi khi gặp lúc thiếu đói, nhà hết gạo, chỉ có ngô bung, sắn trộn khoai đánh xéo, mà ăn với món canh cua mẹ nấu tôi vẫn thấy ngon, thấy ngọt. Nhiều bữa, thấy chồng và các con ăn ngô, khoai sắn mãi, mẹ thương và bà đã đi vay tạm được ít tiền của nhà hàng xóm để mua cân mỳ sợi về nấu với canh cua. Được ăn món canh cua nấu mỳ sợi thì tuyệt phải biết, vì nó còn ngon hơn cả với cơm chan canh. Tôi vẫn còn nhớ như in về những lúc đói khổ như vậy, bao giờ mẹ cũng là người ăn chậm rãi nhất, thậm chí là dừng không ăn sớm nhất nhà để nhường phần cho chồng, cho các con ăn. Thấy đàn con nhao nhao ăn, ánh mắt mẹ luôn vui. Tôi thì đã đủ lớn để cảm nhận được tình cảm, sự hi sinh của mẹ vì con cái, song không hiểu sao lúc đó tôi không thể nói ra được một lời mời: Mẹ ăn nữa đi mẹ(?!), hay hành động là lấy thêm cho mẹ một bát nữa để mẹ ăn…

Trải qua biết bao thăng trầm của một thời ấu thơ, cái đói, cái nghèo cùng món canh cua đồng nấu với rau tập tàng, và cả tình thương yêu chan chứa của mẹ, của bố… đã nuôi tôi lớn khôn để hôm nay có cơ hội bước vào đời. Dù hôm nay, tôi đã có đủ đầy hơn về vật chất, cuộc sống không còn nhiều thiếu thốn, được thưởng thức nhiều món ngon, vật lạ, nhưng trong thâm tâm tôi không bao giờ quên được một quãng đời gian khó cùng mẹ ở quê nhà.

Hôm nay là một ngày cuối tuần, tôi lại trở về thăm mẹ và bao giờ cũng vậy, mẹ luôn chiều lòng đứa con xa nhà, và bà lại hăng hái ra chợ làng mua cua mang về chế biến nấu với rau tập tàng cho tôi ăn. Ôi, húp bát canh cua đồng mẹ nấu sao mà ngon, mà ngọt đến khó lòng quên được…

XÀ VI BẮT CÁ THÒI LÒI

Q

uê tôi nhiều sông, rạch và nổi tiếng với những vườn dùa bạt ngàn. Đặc trưng của những “thớt” vườn dừa nối nhau như không ranh giới nhưng thật ra luôn có những bờ ranh để phân định sở hữu chủ. Và trong một “thớt” vườn dừa có rất nhiều những con mương ngang dọc dẫn nước từ sông, rạch vào mỗi ngày theo hai đợt thủy trùy lên, xuống hay còn gọi “nước lớn, nước ròng”. Khi thủy triều lên, những con mương đầy nước, ở chỗ “đầu đùi”, nơi tiếp giáp với sông, rạch rất sâu, trẻ con bơi, tắm được. Khi thủy triều xuống, nước ròng, những con mương trơ bãi bùn cũng là lúc những đàn cá họ “thòi lòi” rời hang lang thang trên bãi bùn kiếm ăn như: kèo, bóng sao, lóc nói, thòi lòi…trong số này chỉ có lóc nói là loài cá nhỏ nhất mắt lồi, thịt cứng và tanh không ai ăn, vừa sống dưới nước vừa sống trên cạn được, chúng làm hang chi chít trên bờ mương, hoặc sát mép nước. Riêng kèo, bóng sao, thòi lòi thì làm hang trên bãi bùn, người ta có thể dùng lông đuôi ngựa làm một cái vòng để bắt kèo, bóng sao. Nhưng đặc biệt thòi lòi thì phải săn bằng chỉa khi chúng rời hang và đặt xà- vi bắt chúng khi chúng ở dưới hang.

Thòi lòi cùng họ với lóc nói nhưng to hơn, con to nhất có thể bằng cổ tay, ở thôn quê, những lúc “cực ăn” tức những hôm ngoài chợ không có cá thịt thì một đứa trẻ con có thể đi đặt xà-vi bắt cá thòi lòi về cải thiện bữa ăn gia đình. Cá thòi lòi thịt dai, nướng mọi sẽ rất thơm nhưng kho xả lại là món “hết ý” của người nhà quê. Đặc tính của loài cá này là ở hang rất sâu, hang cá thòi lòi rất dễ nhận biết vì miệng hang rất to, hình tròn bằng miệng chén ăn cơm hay miệng dĩa, xung quanh có “mà”, là những viên đất bùn do cá “đùn” lên để khi nước lớn chúng lấp miệng hang lại và sống dưới đó tới khi nước rút cạn lại”đùn” miệng hang, chui lên. Cá thòi lòi ở rất sạch, hang chúng không bao giờ ô nhiễm, nếu ô nhiễm chúng sẽ chui lên khỏi hang, tắm táp rất kỹ bằng cách đập đầu vào bờ mương cho sạch rồi bỏ đi ngay để đào hang khác.

Xà-vi làm bằng những bẹ lá dừa nước tươi kết lại thành hình phễu, miệng rộng bằng với miệng hang cá thòi lòi bẻ đầu bẹ lá dừa nước làm hom, xà-vi cao khoảng 5 tấc, chóp thắt lại bằng dây lạt dừa. Một con nước có thể đặt 20-30 cái xà-vi và nếu “trúng quả” cũng thu được chừng ấy chú cá thòi lòi cỡ 5-7 con/ký. Khi nước ròng sát mương còn trơ bãi bùn, người đặt xà –vi lội dọc mương vườn tìm hang cá thòi lòi. Muốn biết dưới hang có cá hay không cứ nhìn vào những viên “mà” cá “đùn” lên quanh miệng hang bà cẩn thật đặt miệng xa-vi xuống sao cho trùm lên miệng hang cá rồi gài chặt lại bằng những que cây cắm chung quanh. Đặt hết 20-30 cái xà-vi thì leo lên bờ mương đi dạo khắp vườn hoặc về nhà nằm vắt chân chữ ngũ thảnh thơi…ca vọng cổ hoặc ngủ một giấc canh sao con nước vừa “những lớn” bò vào mương vườn là nhanh chóng đi dở xà-vi. Vì lúc này những chú cá thòi lòi đã phóng lên khỏi miệng hang và…nằm gọn trong bẫy rập.

Không gì thú vị bằng khi dở những cái cà-vi thấy nằng nặng là biết có chú cá thòi lòi mắc bẫy. Đó là lúc bếp lửa cơm chiều của nhà nghèo đang lên khói qua mái lá, những chú cá thòi lòi béo núc được đánh vẩy sách sẽ cắt khúc ướp gia vị và xả bằm nhuyễn để kho sệt, cho chút mỡ, vị nêm vừa mặn vừa ngọt dịu, chất cay nồng, thơm thơm của xả và ớt quyện thịt cá bốc lên ngào ngạt. Bữa cơm dân giả, thức ăn đạm bạc, nhưng chắc chắn sẽ làm ta nhớ đời, dù đi đâu, về đâu, thú vui đặt xà-vi bắt cá thòi lòi kho xả ớt, hoặc nướng mọi trên than củi bếp chắc chắn sẽ là những hồi tưởng khó quên ở một góc làng quê đã xa vời vợi trong cuộc sống đầy căng thẳng và luôn biến động của mỗi người.

TÂY NGUYÊN - VÙNG ĐẤT HOA LỬA

Chị, người con gái Xê Đăng, ngoan cường như bao chiến sỹ xông pha trận mạc. Nhưng, dấu ấn chị để lại trong đồng đội, chiến sỹ, trong lòng dân và là một sự kiên trung hiếm thấy của một dũng sĩ nuôi quân giữa lửa đạn chiến trường. Và câu chuyện về "nồi cơm huyền thoại" như một "điểm son" tô thắm, thắp sáng hình ảnh nữ anh hùng Y Buông...

Ánh mặt trời miền cao nguyên đứng bóng chiều rọi trên đỉnh đầu. Làm phiền gia đình Y Buông, tôi đã thu thập tư liệu cho bài viết thâu trưa. Hai cử chỉ thân thiện như bao gia đình khác ở Tây Nguyên. Một cái chân gỗ gắn với đời chị đã 30 năm trời khiến những bước đi khượng khịu. Chồng chị làm theo thời vợ bằng giọng lơ lớ "lấy cái chân ra cho rui với ông để khỏi vướng víu", cũng là lúc những ngày tháng trận mạc, rực lửa ùa về...

Y Buông cất tiếng khóc chào đời tại làng Đăk Re, xã Đăk Na, huyện Đăk Tô vào năm 1944. Từ năm 13 tuổi, cô bé Y Buông là một "thủ lĩnh liên lạc thiếu niên" gan dạ, am tường đưa đường cho cán bộ vào vùng tạm chiếm hoạt động.

Năm 1960, Y Buông chuyển sang làm công tác nuôi quân. Thực tế lúc đó, lương thực thực phẩm cho bộ đội trăm bề thiếu thốn, Y Buông không quản ngại ngày đêm đi kiếm thêm củ rừng, bắt cua, mò ốc... để cải thiện bữa ăn cho bộ đội, ăn rau trừ bữa là chuyện thường ở cô bé Y Buông ngày đó. Hàng trăm con lợn, hàng ngàn con gà từ tay của Y Buông nuôi lớn rồi làm thịt cho đồng đội "cải thiện" trong hơn 10 năm trời giúp anh em chiến sỹ ăn no đánh thắng. Nhất là những anh em, chiến sỹ bị thương, được đón nhận từ Y Buông những bát cháo cá (bắt ở dưới suối) thì... "không lành mới là chuyện lạ" đồng đội chị kháo nhau như thế như một lời biết ơn). Năm 1965, chị được điều về nuôi quân tại Đại đội 1 - Tiểu đoàn 304 vừa mới được thành lập. Là đơn vị chiến đấu phải hành quân cơ động, di chuyển trong tầm pháo của địch bắn liên miên. Y Buông luôn bám sát đơn vị. Một mình chị đào bếp, kiếm củi, nấu cơm, tìm kiến thức ăn, gùi lên chốt chiến đấu cho anh em... cứ thế ngày này qua tháng khác theo vòng quay của chiến trường. Những trận chiến thắng có phần không nhỏ của Y Buông. Tấm Huân chương kháng chiến; hàng chục bằng khen, giấy khen; 3 danh hiệu chiến sỹ thi đua; đặc biệt là danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng (do Chính phủ cách mạng cộng hoà miền Nam Việt Nam trao tặng vào ngày 20/12/1973) được treo trang trọng trong căn nhà nhỏ, khiến chúng tôi thêm cảm phục chị. Chị cho rằng, danh hiệu lớn nhất là: "Tui được anh em chiến sĩ thương, quý, nhớ mãi vì đã làm ấm cái bụng anh em chiến sĩ để họ ngày ngày chắc tay súng".

Chẳng phải lục lọi gì lâu trong trí nhớ khi Y Buông kể rành mạch chuyện mà đồng đội cho là "nồi cơm huyền thoại". Trong một chuyến đưa cơm năm (1968) lên điểm chốt của Đại đội 1, tiểu đoàn 304, chị đang đi thì pháo địch bắn tới. Mặc cho đạn pháo của địch bắn tới tấp, chị vẫn tìm mọi cách để bảo vệ nồi cơm. Chị nhoài người lấy thân mình che cho nồi cơm, mặc cho đất đá, cành cây vùi lấp. Đến khi anh em moi được chị lên thì nồi cơm vẫn còn nguyên vẹn.

Câu chuyện đang hấp dẫn từng chi tiết, tôi xin ngắt lời chị, hỏi rằng, lúc đó phải giữ gìn mạng sống để còn nuôi quân, mất  nồi cơm này có nồi cơm khác, tính mạng con người mới quan trọng... Chị khiêm nhường giảng giải: "Tui che nồi cơm để đạn pháo, đất đá  không trúng vào nồi cơm, để còn cái nồi nấu cơm và còn cơm cho anh em ăn. Nếu đạn có trúng vào tui, dẫu có hy sinh thì còn... cái nồi, có người khác nấu cơm thay. Chứ mất cái nồi thì lấy gì nấu cho bộ đội ăn mà đánh giặc" - Rồi chị lau dòng nước mắt nhấm nhem trên gò má cao cao: "Hồi đó anh em mình khổ lắm. Có khi cả đại đội cầm cự với nhau địch nhiều ngày trên điểm chốt trong khi địch phong toả toàn bộ các con đường. Ta cứ đưa cơm lên là địch lại dùng pháo bắn, hy sinh cả người mất cả nồi, cả cơm. Đã có nhiều hôm bộ đội phải nhịn cơm, ảnh hưởng sức chiến đấu. Tui  hiểu, lúc đó nồi cơm quan trọng lắm, tính mạng mình không bằng đâu chú à"

Nồi cơm mà chị lấy thân mình che giữ ấy cuối cùng cũng đã đến được điểm chốt trong lúc anh em bộ đội đang đói lả. Nồi cơm tiếp thêm sức mạnh cho cuộc chiến đấu khó khăn, ác liệt. Trận chiến đầy cam go ấy, nhờ sự phối hợp chặt chẽ trong và ngoài, Đại đội 1 đã quyết giữ trận đại, đẩy lùi nhiều đợt phản kích của địch, tiêu diệt hàng ngàn tên, buộc chúng phải rút chạy, ta hoàn toàn làm chủ trận địa. "Nồi cơm huyện thoại" có gốc tích từ đấy.

Trong những trận chiến đấu, "nồi cơm huyền thoại" cứ như thế diễn ra hàng ngày, vì năm 1969, địch khủng bố, càn quét quyết liệt, chúng phong toả hết các đường tiếp tế từ đồng bằng lên vùng căn cứ ở Tây Nguyên. "Đánh vào cái dạ dày của Việt Cộng" mà chính sách thâm độc mà chúng thực hiện khiến công việc của Y Buông trở nên khó khăn gian khổ đến mấy cũng qua, nồi cơm (hoặc mì) Y Buông vẫn đến với anh em chiến sĩ trên chiến trường ác liệt.

Chuyện nữ nuôi quân Y Buông đánh địch ở chiến trường Tây Nguyên thời bấy giờ không còn là chuyện... lạ. Vào năm 1967, trong lúc anh em đi tải gạo gần hết, ở nhà chỉ có 6 người. Trong đó có đồng chí Hoè - Đại đội trưởng, ba anh thương binh cùng một chiến sĩ và chị Y Buông. Bỗng dưng địch tập kích vào hậu cứ. Khoảng chừng 15 tên. Khi Y Buông phát hiện chúng ở bìa rừng, chị đã lo giấu nồi cơm, xoong chảo, ba lô của anh em rồi cùng các anh chuẩn bị chiến đấu. Chúng vào gần tới nơi, đại đội trưởng Hoè ra lệnh "đánh"!. Một loạt đạn anh Hoè xả voà bọn địch. Tức thì, Y Buông ném lựu đạn khiến 3 tên chết ngay tại chỗ. Những tên còn lại quay đầu chạy thục mạng nhưng cũng ngã dưới nòng súng của Y Buông bắn theo.

Một lần khác, Y Buông cùng với hai chiến sĩ ở nhà vì đơn vị đã cắm ở trên chốt chiến đấu. Bọn biệt kích mò đến từ phía sau trong khi Y Buông đang chuẩn bị nấu cơm. Bị bất ngờ, Y Buông cùng 2 chiến sĩ vừa đánh vừa rút lui vì quân địch quá đông. Thế nhưng Y Buông vẫn không quên gùi xoong nồi, bát, đĩa... đi theo, không mất một thứ gì. Lần đó, Y Buông bị lạc đơn vị 2 ngày 3 đêm liền, không ăn uống, cắt rừng tìm đơn vị. Thương anh em không ai nấu cho ăn, thương mình đói, mệt... Y Buông bật khóc. Lúc Y Buông đã kiệt sức, rũ người cũng là lúc gặp đơn vị. Chị vui mừng không thể tả..."Có lần tui thoát chết trong hố đất lấp" - Y Buông nói về sự may mắn của mình "Đó là năm 1969, khi đơn vị hành quân từ phía Đông đường 14 qua phía Tây đường này, đến Đăk Tem thì bị ném bom. Tui lại bị vùi lấp dưới hố đất. Anh em đào bới mãi mới "moi" lên được. Thoát chết trong tấc gang."

Hoà bình lập lai, chị vẫn là chiến sỹ nuôi quân. Tây Nguyên những ngày đầu tiếp quản cực kỳ gian khó, cuộc sống anh em chiến sĩ gặp không ít khó khăn. Không còn ở dưới làn đạn  bom, quân thù, ngoài những giờ nấu cơm, chị lại ngày ngày vào rừng, lên suối để kiếm tìm món ăn, cải thiện để bữa cơm anh em được ngon miệng. Công việc luôn được hoàn thành xuất sắc bởi bàn tay của Y Buông. Năm 1976 Y Buông được bầu Đại biểu Quốc hội, được đại diện cho đông đảo bà con Đăk Tô nói riêng, Kon - Tum - Tây Nguyên nói chung nói lên những nguyện ý của buôn làng. Cũng năm đó, Y Buông và A Giấy nên duyên. Mối tình thật đẹp vì A Giấy cũng là chiến sĩ trong đơn vị thời chiến tranh, nhỏ hơn Y Buông 10 tuổi. Cảm phục "người chị nuôi quân" A Giấy "ưng cái bụng" nhưng sau hoà bình mới giám mở lời.

Năm 1997, trong một lần làm nhiệm vụ Y Buông bị vướng phải mìn khiến chị mất đi một chân, mình đầy vết thương. Cơn nguy kịch cũng qua nhờ sự chăm sóc của đồng đội và A Giấy, như lời của Y Buông - "tận tình hết nỗi". Chị xin thôi "không làm đại biểu Quốc hội" nữa vì "đi lai khó khăn". Chị năng nổ trong mọi hoạt động ngay cả lúc về hưu. 44 tuổi Đảng đã tôi luyện tính cách hiên ngang, kiên trung trước thời chiến, giản dị hoà đồng trong thời bình như một tấm gương soi cho bao thế hệ. Chị nhiều lần được các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước về thăm như một niềm vinh hạnh của đời. Trong một lần về thăm Y Buông, Tổng bí thư Nông Đức Mạnh nhắc đi nhắc lại chuyện "nồi cơm huyền thoại" với chiến sĩ, đồng bào để biểu dương tấm gương của nữ Anh hùng Y Buông.

D

ườ

ng nh

ư

có th

i, trong b

a c

ơ

m c

a chúng ta ch

có rau v

i  d

ư

a

Năm nay ngày t

ế

t d

ươ

ng l

ch lành l

nh,

Hà N

i bu

i sáng tr

i có s

ươ

ng và cũng l

nh nh

ư

Cao B

ng ,hay Hà Giang t

m mùa đông năm ngoái,tôi cũng nghe nói

H

Hoàn Ki

ế

m có tri

n lãm ph

hoa Hà N

i nh

ư

ng cũng ng

rét nên ch

ra đ

y

Sáng s

m hôm m

ng 1  v

và con tôi v

quê v

i gia đình chú em,còn m

t mình

nhà,d

y l

đ

c m

y t

báo là đ

ế

ư

a r

i.

Đ

ế

n lúc đói b

ng tôi mu

n ăn m

t tý gì đó

----------

Lâu l

Th

i tôi còn h

c l

p 10 cũng vào ti

ế

t đông ,

rét rét th

ế

này,tôi đi h

c v

,t

y quãng 1h tr

ư

a,tôi m

ch

n ra, m

tôi ph

n tôi c

ơ

m ch

có m

t đĩa d

ư

a mu

i v

t bát canh cà chua,đói b

ng tôi ng

i có 15 phút mà ăn đ

ế

n 6 bát c

ơ

m.T

i v

th

ng út nhà tôi b

tôi:

- B

a tr

ư

a anh

y ăn vèo m

t tý mà

h

ế

t 6 bát c

ơ

M

ườ

c nhiên lè l

ưỡ

i và b

ng tôi ăn th

t kh

Vào mùa hè năm

y,sau khi tôi t

t nghi

p l

p 10 tôi có gi

y g

i đi b

đ

i,lúc

y là b

ươ

ư

cân r

ưỡ

i (Lúc khám tuy

n nghĩa v

đ

t lo

i A1)

Cách đây 2 năm khi tôi cân n

ng 71 k

g ,trong m

t l

n ki

m tra s

c kh

ườ

i ta nói v

i tôi r

ng tôi b

gan nhi

và m

trong máu.Tôi cũng ng

c nhiên r

ng mình ch

bia r

ượ

u gì mà sao l

máu nh

? T

y tr

đi h

có hôm nào tôi nh

ra r

ng mình ph

i kiêng m

hay r

ượ

u thì tôi ăn c

ơ

m nh

ư

th

i v

n còn là lính

-----------

V

n nh

hôm qua

ngày 1/1/2012

i rét,tôi thèm m

a c

ơ

m rau d

ư

a th

i bao c

p,ch

t nh

trong nhà còn m

y c

khoai lang,m

t c

su hào v

tôi mua v

đ

ế

p.Và tôi t

mình ph

c v

mình

Tôi không bi

ế

t nh

ườ

ng cùng th

i v

i tôi còn nh

nh

ng bát c

ơ

m đ

n khoai,ăn d

ướ

i ánh đèn d

u th

i chi

ế

n tranh phá ho

i l

n th

nh

t không? M

t l

n nào đó các b

n ăn th

c

ơ

m đ

n khoai và ch

rau v

i d

ư

a đi nhé.. v

n còn c

m giác ngon l

mVà th

c ra bây gi

chúng ta ch

ai mu

n quay tr

v

cái c

nh ph

i ăn c

ơ

m,mà th

c ăn trong b

a c

ơ

m ch

rau d

ư

a nh

ư

th

ế

này.

Nh

ư

ng ngay bây gi

,n

ế

u có b

n nào có d

p lên biên gi

i phía b

c vào nh

ng mùa đông l

nh nh

ư

h

ế

này,các b

đ

ượ

c bi

ế

:

-Nh

ườ

i dân t

c H'mông trên nh

ng đ

nh núi cao ng

t,đ

ế

a ăn có nh

i ngày t

ế

t ,h

ch

ăn có m

t món mà ng

ườ

i ta g

i là Mèn Mén

Đ

ế

n lúc

y b

i th

y h

ế

t ý nghĩa c

a

ch

ươ

ng trình " N

i vòng tay l

n - Vì ng

ườ

i nghèo"

ch

c vào ngày 31/12/2011 v

a qua

Ch

ế

t các b

n nghĩ th

ế

nào?

Ch

n thân tôi,thì tôi th

y khâm ph

c nh

ng nghĩa c

c

a các cá nhân t

p th

đã th

hi

n trong ch

ươ

ng trình

y l

Chén mắm ruốc...

Bữa cơm ấy, vẫn như mọi lần….

Đó là thời gian mà tôi còn “tại chức” tại Trung Tâm Khoa học Thành phố vào khoảng năm 89, 90… thông thường, thì bọn chúng tôi gồm 4 người đều xa gia đình cả, tôi và Khánh là người đã có gia đình, còn Thanh thì còn độc thân, chỉ có Hòa và Lương là hai vợ chồng là người đã nấu cơm tháng cho chúng tôi… trong thời gian mấy năm trời chúng tôi công tác tại đây….

Những bữa cơm, có lẽ không có gì đáng nói… nhưng hôm ấy, Lương – vợ của Kỹ sư Hòa – là một giáo viên cấp II tại Thành phố…. Bữa cơm dọn ra hôm ấy chỉ đạm bạc có mấy món canh rau muống, chén mắm ruốc cùng với những trái cà pháo muối chua, một dĩa su su xào… chỉ ngần ấy thôi… Hòa vốn người Bắc – có thể nói là con người của “xứ rau muống” nhìn tô canh và có ý tấm tắc khen vợ biết ý chồng, còn tôi và Khánh (họa viên kiến trúc) Thanh (chuyên viên phần mềm) nhìn vào “chén mắm ruốc” và nói lên:

- Oh, lâu lắm rồi mới thấy, bữa nay chị Lương cho tôi về quê…

Lương chưa hiểu sự tình chi, cất tiếng hỏi lại:

- Sao bữa nay lại nói tôi cho chú về quê ?

Tôi nhanh nhẩu cười cười nhìn Lương và chỉ vào chén mắm ruốc mà chị Lương chế biến trông rất hấp dẫn:

- Thì nó nhìn cái chén mắm ruốc của chị Lương đấy….

Lương như “khựng lại” chưa hiểu ý…. Tôi nói tiếp:

- Chén mắm ruốc của chị Lương là chị đã “dẫn nó về với quê hương miền Trung đấy chị ạ”

Lương nhìn cả bọn và cười cười, hiểu ý:

- ah, thì ra là thế, anh Hải và mấy chú là người miền Trung mà – tôi quên mất…..

Thế rồi bữa cơm ấy – tuy dẫu là đạm bạc, nhưng chứa đựng rất nhiều không khí thân mật… trong bữa cơm mọi người kể cho nhau nghe “về cái bản chất quê hương của mình” Hòa thì kể về cái ngọn rau muống của xứ Bắc thân yêu, tôi thì nói về “chén mắm ruốc quê nhà” của người miền Trung… còn Khánh thì cười cười … trong bữa ăn như hôm ấy – cũng như những bữa ăn khác có tinh “qua ngày” để tất cả đều lo cho công việc hàng ngày của mình khi đang còn tại thành phố xa hoa này… tất cả - tất cả đều bôn ba và hình như với một công việc, một cuộc sống có tính chạy đua với sự tăng tốc phát triển của xã hội…

Khoảng trời đêm bao la ở thành phố với sức chiếu từng chùm đèn điện… không bao giờ như ở xứ quê chúng tôi, ngồi nói chuyện trước hiên nhà – chúng tôi chuyện này chuyện nọ, cái này cái kia.. nhưng tôi chợt nhớ đến “chén mắm ruốc” lúc nãy…

Hồi đó ở Đà nẵng, thời gian còn nhỏ… những ngày của mùa mưa gió, hình ảnh mẹ tôi tần tảo ngoài chợ đi về… ít có thức ăn như mùa nắng… thì chén mắm ruốc ở tại nơi ấy, anh em chúng tôi cứ dành nhau với từng chén cơm nóng… trời mưa xứ miền Trung thường kéo dài ngày, mỗi bữa cơm thì những món mắm miền trung là cái hình ảnh đặc trưng của con người xứ này… hầu như nói lên cho tất cả những tảo tần hôm sớm, của người mẹ già biết lo toan, của những món ăn dân dã và thuần túy với những lúc nhiều công việc, các loại mắm dưa, mắm nêm, mắm cà… hầu như đã nói lên tất cả những nỗi nhọc nhằn của con người miền Trung kham khổ ấy… hình ảnh những đồng lúa xanh tươi đã ấn tượng cho tôi với những lần theo bạn đi bắt cá lia thia tận mãi gần xứ hoang đã Nam Ô…. Trong những ao nước ở Ngã Ba Cai Lang… nhớ lại “mắm ruốc” vào thời điểm ấy sao nó mặn mà như chất chứa tình người miền Trung của chúng tôi vậy….

Trước thềm nhà của vợ chồng Hòa – Lương, chúng tôi chuyện trò, bàn thảo công việc… nhưng trong tôi hình ảnh chén mắm ruốc lúc nãy đã làm cho tôi nhớ về ngày tháng xa xưa của cái đất miền Trung nghèo thưở ấy… và hình như:

- Chén mắm ruốc mặn mà chất chứa tình người đã làm cho tôi nhớ lại sau câu nói của Thanh – chị Lương ngẫn ngơ qua câu nói chưa hiểu nỗi cái hàm ý quê nhà của nó…

- Chén mắm ruốc mặn mà của một bộ phận con người khi xa quê… mà chính bây giờ khi sống trên mảnh đất xa lạ này – xa đi cái tổ ấm cảu tuổi thơ, xa đi cái hình ảnh ruộng lúa, xa đi hình bóng người mẹ tảo tần sớm hôm và lo cho con cái ăn học nên người…

- Chén mắm ruốc không cao sang, không cao lương mỹ vị như “nem công chả phụng” mà cái chén nhỏ nhắn xinh xinh kia, như mời gọi cho những ai đi xa đều nhớ về cho quê mẹ, nhớ về cho những ngày mưa trên phố nhỏ, nhớ về cho những đêm về có ánh trăng, nhớ về cho những phố chiều mưa bay của xứ Đà thành có một thời cũng là hoa lệ ấy…

- Chén mắm ruốc tuy đơn sơ, mộc mạc – hiền hòa, một chút ân tình của người con miền Trung khúc ruột ân tình, để tuổi thơ ngày đó nuôi ta lớn lên cùng cái nắng cái gió – đem ta lớn lên thành người trong những cơn mưa giông bão, đưa ta về với những dòng nước mát cảu một dòng sông quê chất chứa…

- - Chén mắm ruốc của ngày xưa – mà hôm nay vô tình chị Lương đưa lại hình ảnh ấy – đã làm cho Khánh, Thanh và ngay cả chính tôi – không thể nói lên được gì khi phải chạnh lòng nghĩ về cho cái xứ miền Trung bây giờ còn mãi tận nơi đâu, sống trong thành phố xô bồ và bôn ba, chén mắm hiền hòa, chứa đựng biết bao nhiêu ân tình của những người con xa quê và chính hôm nay – đêm nay chị Lương đã…..

- - Chén mắm ruốc – tôi chỉ ngồi và nhớ về… nghĩ miên man qua làn khói thuốc mỏng manh trong đêm tối… không nói gì, không kêu ca, không than oán, không trách móc, không hờn oán gì cho một điệp khúc tháng ngày của tuổi thơ đã qua đi rồi…. qua mất rồi… và hôm nay, trong cái không gian này… không lẽ……

- Những ngày với mẹ tôi, đến hôm nay “người bạn đời trăm năm” và cũng là người yêu muôn kiếp trọn đời của tôi đôi khi cũng đã đem tôi về với hình ảnh của ngày xưa ấy… tuy “người yêu trọn đời của tôi” là người của xứ rau muống như anh Hòa… nhưng cũng đã có những lúc tảo tần công việc, vì muốn cho mau chóng… nên đã vô tình cho tôi về với hình bóng quê nhà của tuổi thơ ngày nào… đôi khi “hai vợ chồng cũng ngồi kể cho nhau về những kỷ niệm của riêng mình như thế,

- Chén mắm ruốc hôm nay của chúng tôi – hầu như cũng có phần nói lên một niềm hạnh phúc bao la trong tình nghĩa vợ chồng, của những ngày tháng còn là yêu đương thắm thiết, của những ngày đầu mới cưới cho đến tận hôm nay… chén mắm ruốc trong bữa cơm gia đình tuy rất đạm bạc, nhưng hầu như chất chứa cả một niềm hạnh phúc bao la trong đó, chất chứa cả những nụ cười “của người yêu trọn kiếp” và cũng đã có sự cảm thông cho nhau trong cái nghèo hèn, trong những thiếu thốn, trong những lo toan của đời sống tình nghĩa ấy….

Từ những nghĩ suy – câu chuyện chỉ là “chén mắm ruốc” một món ăn dân dã của con người miền Trung nghèo nàn kia – như cũng như tôi – hầu như trong đó chất chứa cả những “mặn nồng” chất chứa với những “nghĩa ân tình” , chất chứa với những niềm yêu thương pha lẫn cho nhau… cuộc sống vẫn còn muôn vàn cái khó, vẫn còn đầy dẫy những bon chen, vẫn còn chất chứa những lo toan, nhưng vợ chồng chúng tôi – chén mắm ruốc đã đưa lên với những nụ cười, và những niềm thương yêu thắm thiết, và tôi cũng đã nhớ về cái lời thề trong chính cái đêm noel của năm 1982:

Anh…. Xin nhận e….. làm vợ - và hứa sẽ tôn trọng em những lúc bệnh hoạn cũng như lúc gian nan, lúc hạnh phúc cũng như lúc đau yếu… để yêu thương và tôn trọng em mọi ngày suốt đời tôi..

Ký ức món “thịt luộc” quê nghèo

alt=In name=In align=middle v:shapes="_x0000_i1026">

alt=E-mail name=E-mail align=middle v:shapes="_x0000_i1027">

09/05/2012

        Sinh ra và lớn lên tại những vùng quê xứ Quảng và đã là người con của “đất Quảng Nam chưa mưa đà thấm” thì có lẽ từ khi còn nằm nôi đã nghe bà, nghe mẹ ầu ơ câu hát ru:

                                                                     “Ai về nhắn với nậu nguồn

                                                            Mít non gởi xuống, cá chuồn gởi lên”

        Một sự đúc kết kinh nghiệm ẩm thực từ bao đời nay để nói về một món ăn hết sức đơn giản, dân dã được chế biến từ một sản vật của miền núi và một sản vật từ biển cả, đó là: mít non và cá chuồn. Người dân quê tôi ai cũng biết cá chuồn nấu với mít non là ngon, là đúng điệu nhưng cá chuồn đâu phải lúc nào cũng có và thêm vào đó ngày xưa cuộc sống ở quê tôi còn nghèo khó, chật vật chạy từng bữa ăn nên năm khi mười hoạ mới có bữa cá tươi. Còn mít non thì từ khoảng tháng 2, tháng 3 âm lịch khi những con chim tu hú gọi bầy vang trong những khu vườn thì đồng thời trong các khu vườn của người dân quê tôi, mít đậu trái đúng mùa từ cuối năm ngoái đến nay đã thành mít non. Những trái mít tròn lẵng, gai mở vừa nhu nhú ra trái đầy từ gốc đến ngọn. Quê tôi ngày đó nhà nào cũng có ít nhất vài ba cây mít trong vườn và mặc dầu không có cá chuồn nấu kèm nhưng không vì thế mà trong những bữa ăn quê nghèo lại thiếu những món ăn chế biến từ mít non được, nào là mít non kho, mít non kho hoặc nấu canh với lá lốt, mít non trộn... Riêng đối với gia đình tôi luôn khoái khẩu với món mít non luộc chấm với mắm cái, món ăn mà anh em tôi hồi đó thường ví như là “thịt heo ba chỉ luộc”. Cái hương vị dân dã, mộc mạc của món “thịt heo” quê nghèo này cho đến tận bây giờ vẫn còn đọng mãi trong ký ức tôi về những bữa cơm gia đình tuy đạm bạc nhưng đầm ấm, bình yên và tràn đầy niềm yêu thương của một thời khó khăn, vất vả.

        Hồi đó vườn nhà tôi trồng rất nhiều mít, những cây mít cao to cành lá xum xuê nghe ba tôi bảo do ông cố trồng lâu rồi. Mỗi khi đến mùa mít thì cây nào cây nấy trái treo lũng lẵng từ gốc đến ngọn. Mẹ thường bảo anh em tôi rảo quanh vườn để hái mít non. Theo lời chỉ dạy của mẹ anh em tôi thường chọn những trái mít không quá to, vỏ mít có gai nhỏ đều để mít không quá nhiều xơ, hạt vẫn còn non, múi mít vẫn nhỏ và không dày. Hái mít xong thì tiện tay cắt thêm tàu lá chuối để mẹ lau mủ mít khi gọt vỏ.

        Mít gọt xong cắt bỏ cùi, lau sạch mủ rồi xẻ theo chiều dài của cuống mít và cắt mít thành từng miếng lớn. Bắc nồi nước sôi cho mít vào luộc chín. Mít ngon phải là loại mít có màu trắng ngà, luộc chín phải mềm. Mít luộc chín để nguội rồi xắt thành từng miếng nhỏ như xắt thịt heo rồi trang điểm vài cộng rau thơm có sẵn trong vườn như rau húng, rau răm... Mít luộc có ngon hay không, có bắt cơm hay không thì không thể không kể đến chén mắm cái để chấm. Cứ hễ đến khi nào ngoài vườn có mít non thì hủ mắm cái cá cơm, cá nục mẹ tôi muối cứ vơi dần theo từng bữa ăn của gia đình. Hũ mắm mẹ muối đã nêm nếm gia vị đầy đủ bởi vậy mỗi khi ăn chỉ cần dằm vài trái ớt hiểm, giã thêm chút gừng và thêm một ít tiêu bột là đã có ngay một chén mắm cái thơm ngon, hấp dẫn và đầy quyến rũ. Mỗi chén mắm cái mẹ múc ra từ hũ có cả cái lẫn nước hòa quyện vào nhau, con cá muối không bị nát, có màu hồng, tỏa hương thơm mời gọi, mới ngửi thấy mùi thôi mà bụng đã sôi réo rắt.

        Bới chén cơm nóng hổi vừa thổi vừa và cơm vừa nhón tay gắp miếng “thịt heo mít luộc” kẹp vài lá rau thơm rồi chấm sâu miếng mít vào chén mắm cái và bỏ vào miệng sẽ cảm nhận được vị bùi, ngòn ngọt của mít quyện với cái vị mằn mặn, đậm đà của mắm cái, vị cay nhè nhẹ nơi đầu lưỡi của ớt, của tiêu, của gừng và vị thơm của rau ăn kèm. Cứ thế rỗ mít luộc và chén mắm cái – món ăn chủ lực trên bàn – cứ vơi dần cho đến khi nồi cơm cạn đáy. Mộc mạc, bình dị và rất đỗi thân quen nhưng sao lúc nào cũng thấy lạ miệng, cũng thấy ngon đến lạ...

        Tuổi thơ anh em chúng tôi êm đềm trôi qua với những ký ức khó quên nơi quê nghèo với những bữa cơm cả nhà ngồi quây quần quanh rổ mít non luộc và chén mắm cái dậy mùi thơm do chính tay mẹ muối... Anh em chúng tôi lớn lên mỗi đứa một phương vất vả bương chải với bao toan tính đời thường. Có đôi khi trong cuộc sống hằng ngày thỉnh thoảng cũng được ăn những món được chế biến từ mít non. Và những lúc ấy ký ức ngày xưa lại ùa về, chợt quay quắt nhớ cái hương vị quê nhà phảng phất trong bữa ăn, thấy quê hương dường như gần lại...

NGÀY GIỖ MẸ

Ngày giỗ mẹ, mấy chị em xúm xít muốn làm một mâm cơm đàng hoàng . Mấy chị em có chồng xa, tranh thủ về sớm, mang về nào gà, vịt, hối hả ra chợ mua rất nhiều thịt, trái cây đủ loại. Riêng anh hai, anh ở nhà từ đường, thờ cúng ba mẹ, hôm đó anh chẳng mua gì, vác dao ra sau nhà, chặt lấy nải chuối hột còn non, cắt từng trái, rửa cẩn thận, bảo lát đem lên mâm cơm cúng mẹ. Mấy chị em ấm ức, dù không nói ra nhưng ai cũng nghĩ bụng, anh thật keo, không dám bỏ tiền mua một kí thịt cúng mẹ cho đàng hoàng. Bỗng thằng con anh thắc mắc, :

- Ba ơi! Ai lại cúng chuối hột ? Mà sao không xắt ra trộn rau, ai lại để nguyên trái bên chén mắm đục vậy ba?

Anh hai ngậm ngùi bảo:

- Ngày xưa, bà nội thích ăn cơm mắm đục với chuối hột để nguyên trái. Cứ một miếng cơm, lấy trái chuối chấm xuống chén mắm, cắn một miếng!

- Có ngon không ba?

Anh chậm rãi kể:

- Ngày xưa nhà nghèo lắm, tới bữa cơm, ba và mấy cô con luôn được một đĩa thịt, cá. Còn bà nội thì cầm trái chuối hột sống, ăn với cơm. Ba hỏi bà có ngon không, sao không ăn cá? Bà nội nói ngon hơn cá thịt. Ba liền chạy lại, giật trái chuối trên tay bà nội, chấm xuống chén mắm, cắn một miếng, hỡi ôi, nó đắng chát, nhả ra không kịp con ạ!

Nghe anh hai kể, tôi nghẹn ứ… nghĩ thương mẹ nhịn ăn nhịn mặc vì các con!...

Một buổi chiều đông đúc nhộn nhịp của chốn Sài Thành lại càng làm người con xa quê thêm ao ước, thèm thuồng cái mùi vị của quê hương. Xa xa phía sau hàng dừa nước phảng phất làn khỏi tỏa, hình ảnh người mẹ tất bật củi lửa đã dệt nên những nổi nhớ khôn nguôi trong lòng mồi người con xa xứ.

“Quê hương là chùm khế ngọt, cho con trèo hái mỗi ngày…

Quê hương nếu ai không nhớ, sẽ không lớn nổi thành người”,

Thật vậy, bữa cơm nhà nghèo vỏn vẹn là nước mắm kho quẹt cùng mớ rau luộc là đã làm cho lớp cơm cháy của mẹ không uổng phí, đó chính là món sơn hào hải vị của bọn trẻ nhà quê chúng tôi.

Miếng cơm cháy giòn thơm vừa dẻo vừa giòn bốc ra từ đáy nồi còn nóng hôi hổi, ăn hoài không thấy chán. Kho quẹt là món ăn rẻ tiền, dễ làm và rất bắt cơm.

Ngày nay khi đời sống nâng cao, nhiều người cảm thấy thừa thịt, cá lại tìm về những món ăn mang hương vị quê nhà như là một cách ăn để hoài niệm và thể hiện lòng yêu quê hương trong mỗi con người. Thế là món kho quẹt đã đàng hoàng nằm trong thực đơn của những nhà hàng sang trọng.

Cách chế biến cũng rất dễ học ,với những nguyên liệu đơn giản

Ơ bắt lên bếp đợi nóng, cho mỡ nước vào. Phi tỏi băm cho thơm rồi chế vào chừng nửa chén nước mắm, thêm chút đường bột ngọt, nêm vừa ăn. Bớt lửa liu riu, đợi nước mắm bốc hết hơi nước cô đặc thành một dung dịch màu vàng, sền sệt, rắc thêm tiêu, tóp mỡ lên bề mặt là có thể nhất ơ xuống khỏi bếp. Món kho quẹt thơm lừng đã xong.

Ngoài cách nấu bằng củi hơi quá tay để có được lớp cơm cháy dưới đáy nồi thì cũng có thể thực hiên nhanh hơn  là chọn loại gạo thơm dẻo nấu thành cơm, cơm vừa được dở từ nồi ra là cho vào chảo chiên ngay. Nói là chiên nhưng không dùng dầu mỡ, cho chừng một chén cơm vào chảo, lấy vá ép mỏng cơm sát đáy chảo thành hình tròn, rồi canh lửa liu riu đến khi lớp cơm dưới vàng đều, cứng lại và bong lên là đạt yêu cầu.

NGƯỜI QUẢNG ĂN... MẶN!

Vừa rồi, có thằng bạn người Bắc, sau khi cùng tôi thưởng thức món bún mắm, kết luận một câu đáng nhớ

“Dân Quảng mày ăn mặn bỏ mẹ. Mặn nhưng mà… ngon!”. Tôi cười khì. Thật ra, nó nói cũng chí phải. Bởi trong khẩu vị ăn uống, người Quảng khác với người Huế, người Bắc lẫn người Nam. Khác ngay trong nước chấm. Nếu người Bắc thích tương, người Huế thích mắm ruốc, người Nam bộ thích mắm pha nhiều đường thì người Quảng thích mắm cái. Mà đây là mắm cái nguyên chất, không pha loãng, và đặc biệt, phải… mặn. Cho nên, bữa cơm, dù giàu nghèo, sang hèn, thiếu gì thì thiếu nhưng không thể thiếu chén mắm. Và, tuyệt nhất, đó phải là chén mắm cái chính hiệu Quảng Nam. Các nhà nghiên cứu văn hoá cho rằng những người Quảng đầu tiên đã học được kỹ thuật chế biến mắm của người Chăm. Và, từ học hỏi, họ đã

“Việt hoá”

phương pháp chế biến mắm, nói nôm na là cách muối cá, biến nó thành một trong những nét văn hoá ẩm thực đặc sắc của người Việt.

Có lẽ, tài liệu thành văn đề cập đến mắm cái sớm nhất là những ghi chép của Cristophoro Borri, một người Ý đến Đàng Trong hồi đầu thế kỷ XVII. Theo ông, người Đàng Trong, trong đó có cư dân Quảng Nam

“chuyên chú đánh cá chủ yếu là vì họ rất ham thứ nước “sốt” gọi là balaciam làm bằng cá ướp muối cho mềm và làm nhão trong nước. Đây là một thứ nước cốt cay cay và tựa như mù tạt của ta... Vì cơm là thức ăn chung và thông thường của xứ Đàng Trong nên cần phải có rất nhiều balaciam (nếu không thì không có mùi vị) và do đó phải liên tục đánh cá”

[1]

.

Xem thế, đủ biết, người Quảng thành thạo chế biến mắm từ khá lâu. Và, nói người Quảng thích ăn mặn, tức ăn nhiều mắm. Bữa cơm nào thiếu mắm, hay ăn ít mắm, họ cảm thấy nhạt nhẽo, đôi khi vô vị. Ngư dân miền biển, nhiều người, trước khi ra khơi, lại có

“thói quen”

bưng chén mắm húp cho

“đã”. Không chỉ ngư dân, ngay cả người bình thường, ăn cơm xong, có khi cứ chan thêm chút mắm mà húp, cứ như thèm mắm lắm. Làm như vậy, theo họ, bữa cơm mới thật sự trọn vẹn, mặn mòi. Bên cạnh việc thích ăn mặn, ưa ăn mặn, người Quảng còn có thói quen ăn cay. Cho nên, bữa cơm nào thiếu ớt, nhất là ớt xanh, với họ, bữa cơm ấy không thể nói là hoàn hảo được. Không hiếm người, cứ và xong đũa cơm, lại cầm trái ớt xanh, cắn một miếng, nhai rào rạo. Cũng có người

“chấm”

trái ớt xanh vào chén mắm rồi mới cắn một miếng. Nếu nhà không sẵn ớt xanh, chí ít cũng phải có chút ớt bột thứ thiệt, cay xè, mới đúng điệu.

Từ chỗ thích ăn ăn mặn, ăn cay nên ở Quảng Nam có một món ăn dân dã, độc đáo là mắm quẹt. Ngày xưa, món ăn này khá phổ biến, nhất là trong những tháng cuối năm, trời mưa tầm tã, gió lạnh, hay những lúc bão lụt, không thể mua sắm thức ăn. Muốn chế biến mắm quẹt, trước hết, người ta đổ dầu phụng

[2]

vào chảo rồi dùng nén, hay hành khử dầu cho thật thơm. Kể cũng lạ, người Quảng thích khử dầu phụng với nén hơn là với hành. Khi dầu phụng vừa thơm, bỏ ít tép nén đã giã nát vào chảo, mùi dầu phụng bỗng chốc

dậy

lên, thơm phức, cách hàng chục mét nhiều vẫn nghe cái mùi thơm đậm đặc và có khả năng đánh thức

“khứu giác”

một cách đáng kinh ngạc.

Và, thật tự nhiên, ngửi mùi thơm quyến rũ ấy, ai mà không cảm thấy bụng mình bỗng dưng đòi cồn cào. Khi ấy, các nẹ, các chị mới đổ những

“con mắm”, tức con cá chưa rã ở hũ mắm cái đã muối chín, lên. Nhà nào không còn

“con mắm”

thì đổ mắm cái lên cũng được. Sau đó,

“rim”, tức để lửa nhỏ. Kế tiếp, bẻ một ít trái ớt xanh bỏ vào, cho thêm ít tiêu... Khi nghe chừng mắm bắt đầu hơi cô đặc lại, thơm tới, coi như đã hoàn thành món mắm kho dân dã. Xong xuôi, cả nhà quây quần quanh nồi cơm còn bốc khói, vừa ăn cơm với món mắm kho vừa mặn, thơm, vừa beo béo và đặc biệt cay xé lưỡi trong lúc ngắm trời mưa tầm tã thì quả thật cái ngon, cái thú vị dường như tăng gấp bội lần.

Còn về bún mắm, người Quảng hiếm khi ăn bún mắm bằng mắm nước mà chính là với mắm cái. Ăn với mắm nước chẳng qua ăn lấy no, khi trong nhà thiếu mắm cái. Với họ, ăn mắm nước không ngon, nếu không nói là... dở. Phải là mắm cái, cũng dằm ớt xanh thật cay, gia thêm chút tỏi, chanh... Ăn bún mắm ăn mặn mới ngon. Có người buổi sáng ăn bún mắm, chiều còn... khát nước. Mặn quá, thành ra cứ uống nước mấy cũng thấy chưa đã khát. Nhưng khát thì khát, lâu lâu, không thưởng thức bún mắm, họ vẫn thấy thèm. Và, phải ăn lại, ăn mặn giống y lần trước. Qủa thật, người ngoại tỉnh thấy người Quảng mà ăn mặn thì lắm người phục sát đất.

Món bánh tráng đập là món ăn chứa đủ hai yếu tố vừa cay, vừa mặn của người Quảng. Bánh tráng đập, còn gọi là bánh chập. Hia cách gọi đều đúng cả. Gọi bánh đập vì khi ăn, phải lấy tay... đập nhẹ để bánh

“vỡ”

ra làm nhiều phần nhỏ cho dễ ăn. Còn gọi bánh chập cũng không sai vì bánh chập gồm hai món, mì là và bánh tráng nướng dòn, chập lại với nhau. Bánh đập có thể nói là món ăn... chơi. Hiếm ai ăn bánh đập no cả. Nhưng nó món ăn phản ảnh nét đặc trưng của người Quảng là ăn cay, ăn mặn và cả chuyện ăn thứ mắm cái khoái khẩu của người Quảng. Là món ăn chơi nên bánh đập có cái thi vị riêng của nó.

Như đã nói, bánh tráng đập chế biến khá đơn giản, chỉ gồm bánh tráng nướng dòn chập với mì lá tráng mỏng rồi chấm nước mắm nêm. Mì lá cũng chỉ khác bánh ướt ở chỗ tráng như lá mì bình thường nhưng mỏng hơn, đường kính cũng nhỏ hơn. Còn bánh tráng phải là bánh tráng loại mỏng, nướng giòn đều. Mắm nêm là mắm cái đã loại bỏ hểt phần cái, chỉ còn phần nước, gia thêm chút đường, chanh, mì chính, tép mỡ, ớt thật cay... Đường chủ yếu để làm dịu bắt độ mặn của mắm nên bỏ chút chút thôi. Bỏ nhiều đường, ăn chỉ cần nghe ngọt là không đạt. Nhưng ớt thì phải thật cay. Rồi tép mỡ cho béo. Nghĩa là đủ mùi vị từ cay, mặn và béo... Không cay không ra bánh đập. Không béo, không đã. Và, cái ngon rất riêng của bánh đập, vì vậy cũng giảm đi rất nhiều.

Theo các bậc cao niên, thời trước, lúc làm đồng, nhiều người

đãi

thợ cấy, thợ cày ăn nửa buổi, nửa chiều bằng món mì Quảng chấm mắm cái, kèm theo vài cái bánh tráng nướng dòn. Sau, có người chập hai loại này lại với nhau, thành bánh đập. Người ta ăn mãi thành quen, thành ghiền. Thấy vậy, có người mới làm thứ bánh này bán thử. Nhưng, nếu làm y như mì lá, rồi bánh tráng thì lỗ vốn. Thế nên, họ mới tráng mỏng hơn. Mà càng mỏng thì càng lợi. Rốt cuộc, chiếc bánh đập không chỉ mỏng mà còn nhỏ hơn bánh thường.

Còn mắm chấm bánh tráng đập

“nguyên thuỷ”

chỉ gồm có mắm cái

gin, ớt xanh, chút đường. Sau này, người ta mới thêm mì chính, rồi những tép mỡ, ớt bột... Ăn bánh đập, phải dùng mắm nêm thật cay. Càng cay, càng khoái. Nó như kích thích vị giác của thực khách. Có người, ăn cay đến mức cứ vừa ăn vừa hít hà, mồ hôi cứ rịn ra, mới cảm thấy ngon miệng, mới

“đã đời ông địa”. Ăn xong, uống một bát nước chè nóng hổi cho

trôi bớt

chất cay thì thực khách sẽ cảm thấy khoan khoái vô ngần. Có thể nói, trong ẩm thực Quảng Nam, Đà Nẵng, bánh đập là món ăn cay nhất và cũng... ít no nhất. Và, người Quảng có thể tự hào là vùng đất có món bánh tráng đập độc nhất vô nhị, chỉ riêng về khoản cay xé lưỡi!

Giàn thiên lý đã xa

Chuyên mục:

Đo Đo qua báo chí

.

“Bà Năm Tự nấu canh rau dền rất ngon, nhưng chiều nào cũng ăn món đó, tôi đâm ngán. Tôi, cô Thịnh và chị Nhường liền chuyển sang tấn công đĩa cá rô chiên và chén đậu phộng rang dầm nước mắm…” (trang 75, Mắt biếc của Nguyễn Nhật Ánh).

rước đây, đọc những tác phẩm của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh, tôi rất thích những trang văn anh mô tả về làng quê yên ả, trong đó có những món ăn bình dị. Rồi sau này gặp anh, tôi mới vỡ lẽ những Chuẩn (Trại hoa vàng), Ngạn (Mắt biếc), Trường (Đi qua hoa cúc), Chương (Hạ đỏ) đều có “gu” ăn uống hệt như anh ngoài đời.

Đó là “gu” giản dị với những món ăn quê bình thường như mắm cái, dưa cà, canh hoa thiên lý, cá hố khô nướng dầm nước mắm hoặc kho với cà chua… Nguyễn Nhật Ánh mê những món ăn hương vị Quảng Nam, nơi có làng quê mà tuổi thơ anh trải qua với những bước chân trần. Những món anh thích như mì Quảng, canh rau dền, rau muống nấu nghêu, canh cá tràu, canh bí đỏ nấu đậu phộng, thịt bò nấu rau răm… Một vài lúc nào đó, anh cũng sẵn sàng chỉ cho người khác biết cọng rau nào mới là ngon, miếng thịt heo xắt như thế nào mới là đúng cách. Tôi trộm nghĩ, nhà văn Vũ Bằng “thương nhớ mười hai” với những món đặc sắc miền Bắc như thế nào thì Nguyễn Nhật Ánh cũng mê những món “quê kiểng” của làng quê mình như thế. Nhưng điều đó không có nghĩa là anh ăn uống qua loa, đại khái mà ngược lại, vô cùng tinh tế. Hầu như Nguyễn Nhật Ánh đều ăn cơm ở nhà, và trên bàn ăn không bao giờ thiếu chén nước mắm Nam Ô nguyên chất dầm tỏi ớt, dù có khi món ăn hôm ấy chẳng ăn nhập gì với nước mắm. Đĩa rau sống trên bàn ăn của anh tưởng là đơn giản nhưng hóa ra không phải, ấy là những thứ rau mà hương vị phải hài hòa với nhau, nó gồm các thứ rau xà lách, tần ô, chuối chát, ngò rí. Không tìm được những thứ rau ấy thì sẽ phải có một đĩa rau khác gồm cà đĩa, rau muống chẻ, húng lủi, hành lá cắt khúc. Chính vì chỉ thấy ngon miệng với những món ăn dân dã này nên nhà văn “vô cùng khổ sở” những khi đi dự tiệc hoặc đi nước ngoài. Anh bảo: “Vì tôi luôn tương tư những món ăn Việt Nam, mà lại toàn là món ăn quê”.

Món ăn là văn hóa, chính vì thế mà làng quê Đo Đo theo anh vào tận Sài Gòn, trở thành tên quán chuyên bán món ăn Quảng Nam của vợ anh. Nhưng một lần được anh đưa về thăm quê, chị mới ngỡ ngàng “hóa ra những món ăn mình nấu cho anh xưa nay lại không hoàn toàn giống món ăn mà người dân ở Đà Nẵng, Quảng Nam ăn bây giờ”. Bởi vì trong khi anh cứ nhớ về món ăn của những ngày nghèo khó, thì đời sống vật chất của người dân ngoài ấy đã khá hơn rất nhiều, những món ăn đã được chế biến công phu, cầu kỳ hơn. Ai có ngờ như thế mà lại hay, những món dân dã, bình dị của quán chợ Đo Đo lại vô cùng thích hợp với những người Quảng Nam xa xứ hôm nay.

“Có một người đi qua hoa cúc

Có hai người đi qua hoa cúc

Bỏ lại sau lưng cả tuổi thơ mình”

(Đi qua hoa cúc – Nguyễn Nhật Ánh)

Nhưng có một người đi qua hoa cúc mà không bỏ lại sau lưng tuổi thơ mình, chính là Nguyễn Nhật Ánh. Tuổi thơ với những món ăn quê nhà không chỉ theo chân anh mà còn đi cả vào những tác phẩm của anh. Đôi khi chính vì vậy anh mới… khổ. Chắc bạn đọc rất ngạc nhiên? Anh kể một trường hợp về bà Kato Sakae (dịch giả người Nhật đã dịch quyển Mắt biếc của Nguyễn Nhật Ánh sang tiếng Nhật), sau khi đọc tác phẩm của anh đã nhất quyết “bắt” Nguyễn Nhật Ánh đãi mình những món mà bà rất “mê” qua sự miêu tả của anh. Khổ một nỗi, những món ăn luôn có vẻ thơ mộng, gợi nhiều hình ảnh trên trang sách nhưng ngoài đời có khi lại cực kỳ khó kiếm.

THẰNG CHUM XỨ CÁ

Nhà nghèo

Khiêm Cung

1947

Lúc đó thằng Chum mười tuổi. Không rõ nó xấu hấy hay sợ trùng tên với ai, Bà ngoại nó đặt tên nó là Chum. Chum theo nghĩa thông thường là cái hũ lớn để đựng nước hay tương. Có lẽ bà ngoại vô tình chọn cho nó một cái tên như vậy để gọi, chớ không quan tâm gì đến ý nghĩa của chữ Chum.

Nó sanh ra trong một gia đình nghèo. Nghe nói ông bà nội nó rất khá giả, làm nghề cá mắm, nhà có rất nhiều ghe xuồng, công nhân thường được gọi cho lịch sự là “bạn”, hàng mấy mươi người. Ông bà xài toàn là mâm thau, nồi đồng, chén kiểu. Đêm đêm đèn khí đá hoặc đèn “măng xông ” tỏa ánh sáng trắng xanh rực rỡ. Mẹ nó về với cha nó lúc bà mới mười sáu tuổi, rước dâu bằng hai chiếc tàu thủy, tức là loại tàu hai từng chạy đường sông, có ống khói lớn. Nguyên nhân là ông bà nội nó đã mướn một chiếc, bà ngoại nó không hay lại mướn thêm một chiếc khác. Sau đó, vì ông bà nội vui chơi bài bạc, gia tài bị khánh kiệt.

Cha mẹ Chum nghèo ngay từ lúc được cho ra riêng, nhưng sống với nhau rất đầm ấm, sanh con đều đều, trung bình hai năm một đứa, Chum là đứa con thứ tư. Sau Chum còn thêm hai đứa nữa. Ngày xưa người ta quan niệm “bi nhiêu thì bi”, trời sanh voi trời sanh cỏ, nhà có phước mới có con đông. Phước đâu chưa thấy, mà trước mắt là cha mẹ Chum “ nghèo rớt mồng tơi, nghèo rơi nước mắt ”, chạy ăn từng bữa, con cái thay phiên nhau bịnh, có khi hai ba đứa bịnh một lượt làm ông bà điên đầu.

Cha mẹ Chum phải làm lụng thật vất vả, mướn đất để làm rẫy ruộng, trồng lúa nổi, là giống lúa nước lên đến đâu thì lúa lên cao đến đó. Có những năm nước lên nhanh quá, lúa lên không kịp, bị lút, thất mùa. Ông bà cũng làm bánh cho chị em Chum bơi xuồng đi bán khắp đầu trên xóm dưới, kiếm tiền lo cái ăn, cái mặc cho gia đình.

Thời bấy giờ, ở thôn quê miền Tây đã có nhiều người mặc quần áo may bằng bao bố. Ai mặc vải ta, dệt bằng chỉ thô, là đẹp lắm rồi. Loại vải ta thấm mồ hôi sanh ra con rận, giống như con chí, nhưng nhỏ và trắng hơn, cắn hút máu người thì thấy thân của nó ửng đỏ màu máu. Vài ngày người ta phải đem phơi nắng quần áo và lấy ve chai cà cho rận và trứng rận bể nghe rôm rốp. Đâu có xà bông để tắm giặt, chỉ giặt quần áo bằng nước tro củi chụm.

Nói về cái ăn thì chỉ lo gạo, chớ củi là nhánh cây khô, rau đủ loại như rau sam, rau dền…v.v. không thiếu gì ở ngoài đồng. Còn cá là nguồn thực phẩm bất tận từ Biển Hồ bên Miên đổ xuống:

Biển Hồ cực lắm em ơi,

Ban đêm xẻ cá, ban ngày phơi khô.

Chị của Chum thường bắt sẵn nồi cơm lên bếp, rồi mới xách cần câu xuống đầu cầu ván ở bờ sông, trong chốc lát đã được mấy con cá rô đồng đãi đạn, đủ cho một bữa cơm gia đình. Lúc nào không có cá thì mấy chị cho gia đình ăn cơm với muối xả ớt me sống, ăn cũng được cơm lắm.

Còn mẹ của Chum thường dùng cái rổ, miệng có đường kính cả thước tây, gọi là rổ bộng, dùng tay trái nhận chìm cái rổ xuống dưới mặt nước chừng một tấc, tay phải nắm mồi, quậy xộn xộn trong lòng rổ, bất ngờ mẹ Chum nhấc cái rổ lên khỏi mặt nước, rất nhiều cá lòng tong, cá thiểu đang bu lại ăn mồi bị kẹt lại trong rổ, nhảy xoi xói.

Cha của Chum hay đi nhắp hoặc câu rê cá lóc, giăng câu, đặt lờ, đặt lọp…v.v. cho gia đình dùng, khi nào dư thì đem bán để lấy tiền mua gạo. Câu rê khác với nhắp cá lóc ở chỗ nhắp thì lấy lưỡi câu móc vào đuôi 

con cá nhỏ còn sống như cá linh, thả dây nhợ câu xuống nước cho con cá mồi lội, cá lóc đớp cá mồi, mắc lưỡi câu. Còn câu rê dùng mồi giả là một mảnh thiếc nhỏ uốn hơi cong gắn vào sợi nhợ, gần lưỡi câu, thả mảnh thiếc và lưỡi câu xuống nước, di chuyển mảnh thiếc qua lại cho nhanh, cá lóc thấy mành thiếc chiếu loang loáng, tưởng là cá mồi, phóng đến đớp, mắc câu.

Trước nhà Chum có trải đáy. Người ta lấy gỗ tròn, đường kính độ 

bốn tấc, đóng cọc chận ngang con sông nhỏ, rồi lấy đăng, tức là tre đan để vừng cho cá không lội qua được, chỉ chừa một lối nhỏ để cá lội qua. Cá qua chỗ trống nầy là chui vào một cái giỏ tre dài gọi là cái đục. Cứ khoảng nữa giờ người ta kéo đục lên để bắt cá. Cha Chum thường mua cá chạch lấu của ghe đáy để  

nướng trui, chiên 

hoặc nấu cà ri cho gia đình ăn.

Mỗi năm vào mùa nước cỏ, nước trong mà đen sậm, cá tôm bị khờ, nổi lờ đờ trên mặt nước, Chum bơi xuồng, lấy rổ xúc một lát đầy xuồng.

Đôi khi cha của Chum đi phụ người ta tát đìa, Chum thích thú đi theo để khi đìa tát xong thì chủ đìa cho mót cá còn sót lại, gọi là bắt hôi. Chum lấy cái nôm chụp xuống bùn, rồi thọc tay vào nôm quậy xem trong bùn còn con cá nào thì bắt. Bùn dính đầy người, đầy mặt, nó cười, nhìn cái miệng nó người ta mới nhận ra đó là thằng Chum.

Thằng Chum sợ chồng chổng chết trôi. Có lần nọ, nó về thăm quê ngoại ở Vĩnh Lộc. Hai người chị con cậu Chum đi lưới cá trên sông cái, rủ nó đi theo chơi. Đêm không trăng. Nhìn lên trời có vài ngôi sao lấp lánh, trên mặt nước sông có những cụm lục bình trôi lờ đờ. Chum sợ điếng hồn, nó nghi đó là thây người bị giết thả trôi sông. Lúc bấy giờ có nhiều người bị cho “mò tôm” vì tội làm Việt gian.

Sợ ma mà Chum thích nghe chú Tư hàng xóm kể chuyện ma. Đêm đêm chú ngồi trước mũi chiếc xuồng ba lá với chiếc đèn bão thắp bằng dầu cá, có kiếng sơn màu đỏ che chung quanh vừa để cản gió, vừa để giảm bớt ánh sáng. Sau lái xuồng có bánh lái. Một tay chú cầm cây dầm, một tay cầm cây vợt để vớt tôm. Chú dùng tầm vong cắm mấy cây sào dọc bờ sông, rồi căng dây nhợ có buộc những cọng dây kẽm nhọn, không có ngạnh, ghim vào những miếng cơm dừa khô thòng xuống dưới mặt nước độ một gang tay. Tôm càng bu lại ăn dừa, bị vớt. Chú Tư nói có nhiều đêm chú vớt thật nhiều, nhưng sáng ra mình tôm biến đâu mất, chỉ còn lại đầu. Chuyện thật hay giả không ai biết, nhưng Chum thì tin lời chú Tư kể là thật, rồi nó lại nhớ đến đêm đêm cái đèn đỏ của chú di chuyển chầm chậm ven song, làm cho nó nổi da gà.

Chum chưa hề buồn phiền về cái nghèo khổ, vì từ nhỏ đã sống như vậy thôi, có lúc nào nó biết được trên đời nầy có một cuộc sống sung sướng hơn để mà so sánh. Cho nên nó sống vui vẻ lắm. Nhà đông con, đứa lớn trông coi đứa nhỏ. Nó giữ em, hát ru em ngủ:

Sao vua chín cái nằm chồng,

Anh thương em từ thuở mẹ bồng trên tay.

Sao vua chín cái nằm ngang,

Anh thương em từ thuở mẹ mang trong lòng.

Sao vua chín cái nằm kề,

Anh thương em từ thuở mẹ về với cha.

Nó lại nghêu ngao nhái thơ Lục Vân Tiên:

Vân Tiên cõng mẹ đi vô,

Đụng phải cái bồ cõng mẹ trở ra.

Vân Tiên cõng mẹ trở ra,

Đụng phải cột nhà cõng mẹ trở vô.

Vân Tiên cõng mẹ trở vô,…

Chị Hai nó ngắt ngang:

-

Thằng khùng, mầy hát cái gì vần lân vậy hả ?

Thằng nhỏ mất hứng, cười trừ rồi nín luôn.

Người nghèo an phận, vui với cái nghèo.

Chén cháo kí túc xá

Viết blog lâu nay mà chưa có dịp đề cập đến thời “học đại” của tôi. Gọi là học đại vì thật sự ngày xưa khi chọn con đường vào đại học sư phạm Văn tôi đã không nghĩ ngợi gì cả.

Ngày ấy, gia đình nghèo, lại mang cái tì vết con “ngụy quân ngụy quyền” nên vào sư phạm là cách tốt nhất. Theo anh tôi thì đã theo nghiệp văn chương thì chỉ có hai con đường: Một là dạy học, hai là viết lách. Mà với cái lí lịch của gia đình tôi thì nếu có trở thành nhà báo thì chưa chắc gì đã tìm được việc làm. Bởi vậy, dù muốn hay không, tui phải làm nhà giáo. Thế là vào ÐHSP Văn để “học đại”.

Quay lại chuyện chén cháo.

Hôm nay được ăn chén cháo của Chí Phèo, giờ nghe tỉnh táo hơn nhiều. Nhưng vì ăn cháo nên nhớ bạn tôi kinh khủng.

Ðã hơn hai tháng rồi không liên lạc được với nhỏ. Gọi điện thì không bắt. Còn gửi email thì cũng chưa thấy hồi âm. Tức quá nên bây giờ tôi phải lôi nó lên blog để nó ngứa lỗ tai chơi.

Hai đứa chúng tôi đều là dân Trung theo gia đình vào Nam sinh sống. Trời xui đất khiến hai đứa chui vào ÐHSP và ở cùng phòng ở kí túc xá. Ðều là con của gia đình nghèo, chưa hết tháng đã hết tiền nên mượn mỏ nhau là “chuyện thường ngày ở huyện”. Nhớ thời hai đứa nấu cơm chung hồi mới vào kí túc xá, bữa ăn của hai đứa là cơm, canh rau má và mắm ruốc. Tôi nhớ thời đó để nấu một nồi canh rau má chỉ tốn 200 đồng (khoảng năm 1991).

Mòn mỏi bốn năm đại học với canh rau má và mắm ruốc. Thi thoảng mới có chút ít thịt. Không hiểu vì ăn uống thiếu thốn hay sao mà tôi hay bị bệnh lẹt xẹt hoài. Tôi nghiệp bạn tôi những lúc như thế, nó hay nấu cháo Thị Nở với hành lá và không quên đập vào một cái trứng gà để bồi bổ cho tôi. Thật tình lúc đó chúng tôi tin là cháo trứng gà là để giải nhiệt. Bởi vậy mà mau khỏi bệnh. Ðến giờ mới biết là trứng gà có protein, ít ra có chút dinh dưỡng. Khổ nỗi là khi người ta bệnh thì không muốn ăn. Vậy mà nó ép tôi ăn cho bằng được. Không sạch chén cháo thì nó không chịu.

Thương sao cái ngày học đại. Hai đứa lang thang đạp xe xuôi ngược thành phố Sài Gòn, có bản đồ trong túi nhưng không thèm coi vì muốn để cho lạc đặng rành đường hơn. Thời đó cũng không có trùm mặt mũi đeo khẩu trang như giờ nên nắng đen thui. Mỗi lần về nhà là ba tôi nói: Ði học đại học chứ đâu phải đi kinh tế mới đâu con?

Tháng tháng chúng tôi về thăm nhà. Nói là về thăm nhà chứ thật sự là về để xin tiền. Cuối tháng rồi, đâu còn tiền mà đi xích lô ra bến xe, vậy là phải đèo nhau ra bến xe rồi hẹn ngày xuống để ra bến xe mà đón. Mệt là thế, cực khổ là thế nhưng tình cảm làm sao.

Tính tôi thì hay bốc đồng, có chuyện là nói, xử trước rồi tính sau chứ để trong bụng nó ấm ức. Những lúc như vậy bạn thường nói: Làm răng đó coi được thì làm. Nó như vậy đó, không cản cũng không xúi. Tính nó như vậy nên được lòng người khác hơn tôi. Nhớ nhiều lúc buồn phiền, hai đứa có hai giường nhưng lại dồn hai xác vô một giường để ngủ. Rồi lấn nhau, cãi nhau thiệt là vui. Hai đứa tâm sự mọi chuyện, ít khi nào nó khóc. Chỉ có một lần nó chảy nước mắt vì một người bạn của nó bỏ đi nước ngoài theo gia đình. Bởi vậy mãi đến 2004 nó mới lập gia đình. Hú hồn, tôi nói với nó: Tưởng mi ế thiệt rồi chớ. Ai dè cũng có người rước giùm, hú hồn. Bạn tôi chỉ nhìn tôi cười thật hiền.

Rồi chúng tôi ra trường, hai đứa quyết định bám lại Sài Gòn không về quê. Thế là lại ở cùng nhà thuê. Rồi trời xui đất khiến hai đứa lại xin được vào một trường bán công để dạy. Thế là xưa nay là bạn cùng phòng, học cùng lớp, thỉnh thoảng ngủ chung giường. Bây giờ là đồng nghiệp dạy chung trường...

Chúng tôi thực sự xa nhau khi tôi theo chồng qua đây. Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi. Bạn tôi vẫn ở lại Sài Gòn, đi dạy 2 trường, “cày” thiệt nhiều để sắm xe sắm nhà. Bây giờ thì nó cũng yên mồ yên mả, í lộn, yên bề gia thất. Mừng!

Bây giờ hai đứa hai nơi. Cuộc sống rẽ chia hai đứa ra hai con đường khác nhau. Mỗi đứa có hạnh phúc riêng, nỗi đau riêng, day dứt riêng. Không biết bạn tôi có còn nghĩ về tôi như tôi nghĩ về bạn. Chỉ cần nghĩ đến thời học đại là tôi nhớ đến bạn. Mong rằng mơ ước của bạn sẽ thành hiện thực. Còn nếu không, hãy vui vẻ chấp nhận mà sống, bạn nhé!

Chiều nay ăn chén cháo của Chí Phèo nấu, tự nhiên nhớ tới bạn điên cuồng.

Lộc ơi, tao thương mi, nhớ mi lắm!

BỮA CƠM NHÀ QUÊ

Ở quê, con gà được coi là dậy sớm trước mặt trời, nhưng gà không dậy sớm bằng mạ của ta. Mạ dậy rất khẽ, đi ra vườn rón rén rút rơm, tiếng rút nghe xáo xáo như gà trở ổ. Rồi mạ trở vào bếp nhóm lửa nấu cơm đầu ngày. Tinh mơ mùa xuân trời quê mình thường lạnh, một cái lạnh cắt da thịt để khứa vào lòng người nỗi xót xa day dứt. Làn khói rơm của mạ lèn qua mái tranh hoà vào sương sớm. Cả làng như được phủ khói ấm áp từ tình yêu thương của mạ. Bởi thế nên người ta hay nói Quê hương là một người Mẹ lớn. Khói rơm chạy lên nhà và ập vào giấc ngủ trẻ thơ. Tuổi thơ chúng ta được đánh thức bởi khói của mạ, sau này ai lớn lên mà không đôi lần thấy cay khi ban mai thức giấc. Tôi chạy xuống bếp, nằm gọn trong lòng mạ, cảm giác ấm áp như không còn gì trên đời ấm hơn thế. Mạ lăn một củ khoai vào trong bếp, chỗ rơm vừa cháy xong còn mun đỏ hồng. Tôi lim dim mắt trong sự ôm ấp trìu mến của mạ, như củ ngoai lim dim trong bọc rơm ngập tràn hơi ấm; củ khoai như thế gọi là khoai nướng, và giấc ngủ như thế gọi là ngủ nướng. Đến khi lớn lên đi xa, sáng mở mắt là tôi dậy ngay, không thể nào ngủ nướng được nữa, có lẽ là vì thiếu vòng tay của mạ.

Bữa sáng của người nhà quê chủ yếu là cơm, thêm chén nước mắm ớt, hoặc ít muối tiêu. Giêng hai gạo châu củi quế, cơm đơm ra mỗi người một bát lưng lưng chưng hửng, mắt lướt qua chén cơm biết là ăn không no. Thế nhưng cả nhà vẫn ăn vui vẻ. Mạ đưa chén cơm cho tôi, nói con ăn cho no rồi đi học. Rồi xới xới vát cơm đưa cho ba, nói ba mi ăn cho chắc bụng mà đi mần. Phần mạ ăn cơm cháy, có khi mạ nhịn. Hỏi răng mạ không ăn? Mạ nói lát nữa mạ ra chợ bán rau sẽ ăn sau. Thế là tôi lẫy, tôi bỏ bát xuống nói mạ sướng nhất nhà, được ăn quà ở chợ. Ba mạ nhìn nhau cười. Mạ rơm rớm nướt mắt nói thôi ăn đi con, để trưa mạ đi chợ về cũng mua bánh cho con.

Bữa trưa với bữa tối là hai bữa cơm chính. Ba đi làm đồng bắt được cá đem về thêm chất tanh. Cá tràu kho nghệ vàng ửng, cá lia thia nhỏ thì cho tất cả vào soong kho thật mặn, cá rô đem rim mỡ cháy. Vào mùa mưa đi đơm trộ ở cống hoặc thả lưới ở hố bom thì được rất nhiều cá rô. Thằng Cưng xách cái oi đầy cá rô từ ngoài đồng đi về, vừa nhảy chân sáo vừa hát:

"Ngoài đồng lắm cá rô/ Liên Xô lắm máy cày/ Trung Quốc nhiều máy bay/ Mỹ thua là Mỹ phải chạy". Tôi hỏi chạy đâu? Nó nói chạy đâu kệ Mỹ, chừ tau chạy về nhà đưa cá cho mạ tau nấu ăn cái đã.

Nhà quê rau ráng có sẵn ngoài vườn. Đến bữa ra ngắt vài ngọn ngoai lang đem vào luộc trộn với muối tiêu. Rau muống thì giầm ở đìa, hái lên luộc chấm với nước mắm. Nước luộc rau muống màu xanh trong, bỏ thêm ít muối, vắt một miếng chanh là có canh. Mùa hè, bữa trưa thường nấu canh khế với cá lóc ăn cho mát, bữa tối thì nấu canh rau chêng với chắt chắt.

Mấy thằng con nít chúng tôi thường đi bắt ốc về luộc sơ qua, moi ruột vứt, chỉ lấy cái đầu rồi đem xào mỡ; hoặc ban đêm mang ná đi bắn chim

đậu trên ngọn cây. Còn mấy đứa con gái thì hái rau me về nấu canh chua, hoặc hái rau má đem về nấu với tôm. Ở làng, trẻ con vừa học, vừa chơi và cũng sớm biết lo cho cái ăn. Những đứa bạn cùng lứa bây chừ đã lớn, đứa nào cũng chững chạc và tự lập cả. Có lẽ là nhờ sớm ý thức được cuộc sống của một đứa con làng!

Thích nhất vẫn là bữa cơm cuối ngày, ta hay gọi là cơm chiều, nhưng người quê ăn muộn nên gọi là bữa cơm tối. Cơm dọn ra giữa chiếc

nôống

cấm tròn đặt trước thềm hiên. Cả nhà ngồi vây quanh. Dăm trái ớt đỏ cho thêm vị cay. Bên mâm cơm bao giờ cũng sẵn một chai rượu trắng cho ba. Sau một ngày lao động mệt mỏi, ba rót rượu ra chén, đưa lên đánh thượt vào cổ rồi ngửa mặt nhìn trời mà khà một cái thật sướng! Dường như bao nhiêu mệt nhọc đã tiêu tan theo cái khà đó. Bữa cơm nhà quê đơn sơ đạm bạc. Ba vừa ăn vừa ngúc ngúc khen cơm ngon hè ngon hè. Mạ nói toàn rau với cá lia thia chơ có chi mà ba mi khen hoài. Ba cười nói ngon chơ, giản dị như ri mới ngon, ri gọi là "giản dị như người Quảng Trị" 

đây!

 Hồi đó chưa có điện, những hôm trăng thì bữa cơm tối cũng... nên thơ. Ăn xong dọn quéng một cái, cả nhà lại ngồi ở bậc thềm hiên uống nước. Bà con hàng xóm đến chơi, cùng ngồi nói chuyện quê kiểng dưới ánh trăng. Bữa cơm tối dài đến tận khuya. Những câu chuyện quê mùa thành ra thứ bánh tráng miệng.

Có hôm tôi thiếp ngủ đi từ chiều và thức dậy giữa khuya, đói bụng chi lạ! Mạ dậy lục nồi bê cơm ra với một chén mắm cà. Cắn một miếng cà, mặn chát. Tôi hỏi răng kho mắm mặn ri mạ? Mạ nói mắm thì kho mặn chơ răng nữa. Nói xong mạ quệt nước mắt nói nhà hết đồ ăn rồi, kho mặn ăn cho được nhiều bữa. Có một lần thức dậy giữa đêm và cắn một nhát mắm cà thấm thía, ta mới thấu hết nỗi lòng của mạ và quê hương!

Về quê ngoại ăn mắm

ần lữa mãi cuối cùng tôi cũng ra sông theo chuyến đò dọc để trở về thăm ngoại. Từ TP.Đông Hà, Quảng Trị nhỏ bé này có thể về quê ngoại theo hai đường, đường bộ thì theo chuyến xe đò mỗi sáng sớm và lúc chiều tối, còn đường thủy thì chỉ có một chuyến duy nhất lúc chiều gần buông.

Với một nguyện vọng là được về quê tắm sông và… ăn mắm, nên mới bước xuống thuyền mà lòng háo hức như được trở về với những ngày còn ở bên ngoại, nắng gió làm mặt mày đen nhẻm, tóc vàng hoe. Hàng xóm cứ đùa: “Ngoại mày bắt ăn mắm nhiều nên da mới đen và tóc mới quăn vàng thế”. Quả thật ngày xưa nhà ngoại tôi nghèo khó lắm, trong bữa ăn lúc nào cũng hiển hiện chén mắm thính với đĩa rau muống, rau khoai hay rau dền. Và chúng tôi lớn lên từ mắm, từ rau, từ con cá, con tôm ba đánh bắt được ở dưới sông. Quê ngoại nằm bên dòng sông Thạch Hãn, gần cửa biển, con sông nước lợ nên quanh năm cá mú đầy ắp. Mỗi độ tháng 10 âm lịch, khi cái lạnh bắt đầu tràn về cũng là lúc ba thả vó rớ để đánh bắt cá duội (là cá cơm còn nhỏ). Loài cá này từ cửa biển theo dòng nước lên trú ngụ ở vùng  nước lợ mỗi khi mùa đông đến. Cá duội đánh bắt được một phần mẹ đem bán, phần còn lại để bà ngoại làm mắm. Thế là sau mùa cá duội, trong nhà ngoại luôn có hơn chục hũ mắm để ăn quanh năm.

Mắm thính được ngoại làm rất đơn giản. Cá duội rửa sạch để ráo nước đem trộn với muối theo tỷ lệ nhất định (ngoại thường làm 5 bắt cá 1 bắt muối) rồi đưa vào hũ phơi nắng khoảng 7 đến 10 ngày. Sau đó lấy ra để lên cái rá nhỏ cho chảy hết nước (thứ nước này ngoại dùng làm nước mắm, đây là thứ tinh cốt của cá). Hạt ngô giã nhỏ thành bột mịn rồi đem trộn với xác cá, sau đó lại cho vào hũ để thêm thời gian là thành mắm thính. Tuổi thơ tôi quanh năm ăn mắm nên những thằng bạn hàng xóm gọi tôi là thằng Mắm, tôi đã từng đỏ mặt tía tai khi đi học lũ bạn gọi tôi như thế.

Về quê, không gian như rộng hơn, thời gian như chậm lại. Tôi ngụp lặn ở bến sông nước lợ mát rượi, dường như những gì của biển vẫn còn đọng lại trong dòng nước dù làng cách cửa biển chừng 5 cây số. Bữa cơm chiều được ngoại chiêu đãi là chén mắm thính được ngoại cất giữ rất lâu vì chú thím lâu lâu mới dùng mắm một lần, ngoài ra như hiểu được ý cháu mình, bên cạnh mắm là đĩa rau muống xanh non. Mắm thính được bà cho thêm đu đủ phơi khô ăn thật giòn, thi thoảng trong mắm bắt gặp vài miếng tóp mỡ vừa dai lại vừa béo.

Thằng bạn ở thành phố cứ tấm tắc khen món mắm của ngoại, ăn hoài mà vẫn thấy ngon. Vị cay của ớt, béo của mỡ heo, mặn của muối, một chút bùi bùi của ngô và mùi thơm nhẹ nhàng của cá tạo nên một hỗn hợp rất ngon. Giờ thì tôi mới biết vì sao làng bên, người ta luôn hết lời ca tụng tay nghề làm mắm của mẹ Mót, tên cúng cơm của ngoại tôi. Hồi nhỏ mỗi lần đi học qua sông, lên đò gặp người quen nhận ra mình, họ nói: “Thằng này là cháu mẹ Mót làm mắm ở làng trên, nhanh lớn đấy nhỉ”. Nghe thế là tôi muốn tìm chỗ nào để trốn, cứ sợ mấy đứa bạn gái biết mình là thằng Mắm, là cháu người làm mắm ngon nhất vùng. Thế mà lớn lên đi qua mấy xã lân cận chơi, nghe người ta nhắc đến mắm thính mẹ Mót là lòng đầy tự hào.

Trở lại thành phố mang theo hũ mắm của ngoại gửi cho mẹ, thằng bạn cũng được ngoại cho một hũ, nó mừng như nhận được một món quà quý. Mà nghĩ cũng phải, mắm thính ngoại làm ngon như thế ăn rồi không nhớ sao được.

Kỷ niệm về mẹ

Ngày ấy gia đình tôi sống ở vùng nông thôn, cuộc sống của thời bao cấp cái gì cũng thiếu, đơn giản nhất là muối ăn vẫn phải tiết kiệm từng hạt. Gia đình tôi có năm miệng ăn, nhưng có một mình cha tôi làm thầy giáo trường làng, đồng lương và xuất gạo, phiếu là những thứ bảo bối phòng khi mùa màng thất bát nên bữa ăn, hạt cơm phải oằn mình lên cõng mấy thanh khoai, sắn. Còn về thực phẩm thì khỏi phải nói gia đình phải tự cung, tự cấp trên mảnh vườn nhà đủ các loại rau quả mùa nào thứ ấy. Nhưng những luống rau lang thì quanh năm suốt tháng được mẹ chăm sóc xanh tốt, ngoài lấy củ ra nó còn là một nguồn rau dồi dào mà bữa ăn nào nhà tôi không bao giờ thiếu. Mỗi lần luộc rau lang sợ mấy chị em chúng tôi chê không ăn mẹ tôi nói: “Rau lang ăn tốt cho nhuận tràng và mát cho cơ thể”. Thế là bữa cơm gia đình trở nên ngon miệng mà vui. Nhưng dù thức ăn có là gì đi nữa thì mẹ tôi ăn lưng chén cơm là buông đũa, bà nói: “Cha con ông cứ ăn đi tôi ăn vậy là đủ rồi”. Cha tôi dằn giọng: “Bà nhường cho cha con tôi ăn phải không? Cái nhà này tôi nằm xuống thì không sao, nhưng bà nằm xuống thì các con khổ lắm đấy, bà đừng nhường nhịn nữa, ráng ăn để lấy sức nuôi nấng các con”. Tình cảm của cha và mẹ như vậy khiến cho mấy chị em tôi không vui sao được. Một hôm em của cha từ trên huyện ghé chơi, tôi nghe mẹ nói với cha: “Ông ạ! Chú nó về chơi mà nhà mình cạn tiền rồi, hay có con gà mái đang đẻ bắt làm thịt cho chú nó ăn?”. Cha tôi cười: “Bà nghĩ chú nó là ai? Chú nó là em mình, việc chú ghé thăm về mặt tình cảm là quý lắm rồi, ăn gì mà chả được, cả nhà còn có một con gà để cho nó đẻ”. Bữa cơm hôm ấy dọn ra có một đĩa cá cơm khô rang tẩm mắm, một bát canh rau tập tàng và một đĩa ngọn rau lang luộc cùng với chén mắm tỏi ớt. Cha sợ mấy chị em tôi tấn công vào đĩa cá cơm khô chú không có gì ăn, nên đánh tiếng: “Các cụ ngày xưa nói “Đói rau đau thuốc” cái món ngọn rau lang luộc chấm với nước mắm tỏi ớt là tuyệt chiêu đấy các con ạ! Không tin các con ăn thử xem”. Hiểu ý cha mấy chị em chúng tôi chuyển hướng tấn công sang đĩa rau lang luộc mà quả thật đúng vậy thường ngày khi cha chưa nói, tôi ăn thấy bình thường nhưng hôm nay sao ăn thấy ngon thế, béo và thơm đến lạ lùng. Chú tôi thì khỏi nói, ông không hề đụng đũa vào đĩa cá cơm. Chú nói với cha mẹ tôi: “Cái món ngọn rau lang luộc chấm mắm tỏi ớt em ăn không biết chán”. Mẹ tôi nói chữa: “Chú khéo khen, món này là món của nhà nghèo đấy chú ạ”. 

Cái khốn khó của một thời rồi cũng qua đi, chị em chúng tôi khôn lớn trưởng thành có vợ, có chồng, những năm sống ở thành phố, tôi thường nhớ về món ngọn rau lang luộc chấm với nước mắm tỏi ớt ngày ấy. Hễ mỗi lần đi chợ, tôi dạo bằng hết quầy rau ở siêu thị, tìm khắp những người bán dạo nhưng ít khi có bó ngọn rau lang, vì lâu lâu người quê mới mang lên bán. Mỗi lần ngồi vào bàn ăn có món rau lang luộc tôi nói với chồng và các con tôi: “Đây là món ăn nhà nghèo đấy”. Chồng tôi phá lên cười: “Em nhầm rồi! Đây là món ăn của nhà giàu, em biết không ngọn rau lang luộc là món ăn đặc sản của các nhà hàng khách sạn đấy”. Nghe chồng nói vậy hình ảnh mẹ lại hiện về rõ mồn một. Mỗi lần đi làm đồng về thế nào trên tay bà cũng có một bó ngọn rau lang. Sau khi làm sạch sẽ xong mẹ không cho chị em chúng tôi luộc, bà nói: “Rau này nhìn vậy nhưng kén lửa lắm, nếu lửa không to, không đều thì rau dễ bị ôi và đen, nếu luộc kỹ quá thì nó sẽ nhừ ăn vào không ra gì, chỉ luộc vừa chín tới thì ngọn rau vẫn xanh ăn vào có độ giòn ngọt, lẫn vị béo kết hợp với vị thơm của tỏi, vị cay the của ớt càng làm cho món rau càng thêm hấp dẫn”. Ngày nay cuộc sống đã no đủ không còn thiếu thốn như cái thời của cha mẹ nữa, nhưng hình ảnh mẹ lẫn vào trong món ăn dân dã mà theo mẹ gọi là món “nhà nghèo” thì nay đã trở thành hiếm và đặc sản ở chốn phố phường. Đôi khi bạn bè mời tôi đi dự tiệc nhà hàng điều đầu tiên tôi tìm trong thực đơn là món ngọn rau lang luộc nhưng không phải lúc nào cũng có.

Mẹ tôi nay không còn nữa nhưng hình ảnh mẹ và món “Nhà nghèo” luôn ngự trị trong trái tim tôi.

Hương Vị Ngày Xưa:

Kho Quẹt, Món Ngon Ngày Xưa

Viết tặng những ai còn Mẹ)

Có cha có mẹ thì hơn,

Không cha không mẹ như đờn đứt dây.

(Ca dao)

Thuở còn ở quê nhà có khi nào tôi thấy thèm mấy món ăn kho quẹt "quê mùa" ở cái xứ "nhà quê gốc lác" của tôi bao giờ đâu! Bữa nào cũng phải ăn cơm với hết tôm rang muối, đến cá kho khô , kho tiêu, kho quẹt... riết rồi phát sợ. Hôm nào đổi bữa, được cho ăn canh bầu, canh chua, bí hầm dừa ... thì mừng quýnh như được ăn đám giỗ!

Kho quẹt là kiểu kho đặc thù của người dân Lục Tỉnh, quê tôi ngày xưa. Kho quẹt có họ hàng với dòng " ẩm thực kho" như là kho mặn, kho tiêu, kho khô; trong đó kho quẹt là món ăn nghèo nhứt của nhà nghèo. Không có gì để ăn cơm nên bày ra món kho quẹt . Không biết ai nghĩ ra kiểu kho kỳ cục, độc đáo nầy; nên có nhiều người miền Nam của tôi còn chưa biết , nói gì bà con ngoài Trung, ngoài Bắc.

Cơm hai bữa cá kho, rau muống ,

Quà một chiếu, khoai lang, lúa ngô !

(Trần Tế Xương)

Kho khô,kho tiêu khác kho quẹt ở chỗ nào?

Kho khô là kiểu kho cho cạn không còn nước, làm cho nước sắc lại. Món kho khô vì thế rất mặn, dùng để ăn với món có nước như canh rau, canh bầu, canh chua . Ông bà mình ngày xưa thích ăn cháo trắng nấu nhừ với cá kho khô vào buổi sáng gọi là ăn cho nhẹ bụng và dễ tiêu. Món kho khô cũng là món để dành ăn lâu vì thời buổi đó làm gì có tủ lạnh. Món kho khô thích hợp với thời kỳ ông bà mình đi khẩn hoang, sống trong chòi, ngủ trong nớp . Giữa đồng mà có được soang cá kho để dành ăn hoài , không cần hâm nấu lại rất tiện.

Kho khô sau nầy người ta thêm gia vị cho ngon cho ngọt, cho béo, cho cay để ăn" bắt cơm". Cá kho khô cho thêm ít tiêu xay nhuyển làm cho hương vị đậm đà hơn nhiều bởi cái cay cay nơi đầu lưỡi , ai ăn cũng phải hít hà, chảy mồ hôi và, va khoái khẩu. Do vậy mà người xưa dặt cho nó cái tên là cá kho tiêu .

Các loại cá bóng như bóng kèo, cá bóng cát, bóng dừa, bóng xệ, bóng thòi lòi cũng như cá lòng tong... rất được chọn để kho tiêu. Có tiền thì dùng cá lóc, khứa ba khúc, kho tiêu, ngon còn gì bằng, và dọn ra coi rất "lịch sự" .

- Cũng là kiểu kho khô nhưng không dùng tiêu phải dùng sả ớt. Đó là món " kho sả - ớt". Cũng thời là món kho mặn nhưng không quá mặn, còn chừa lại chút nước. Con cá trắng, cá linh để nguyên con, nguyên đầu, nguyên ruột kho với sả ớt cũng là món ăn để lâu ngày, dùng đem theo ăn ngoài đồng ngoài ruộng . Kho sả ớt phải dùng nước mắm, thêm chút đường, chút mỡ thì mới đúng, và ăn kèm với cải bẹ xanh, hoặc cải xà lách chung với rau thơm ngon đáo để, không thua cá kho tiêu.

Kho sả ớt không dùng một loại cá, mà phải kho chung nhiều loại thì ngon hơn, ăn không chán . Có người còn kho chung với tép bạc, tép rong, tép mồng ăn kèm với nước mắm me non , bảo đảm không có món nào ngon hơn.Vỏ quít phơi khô nướng hơi khét,bóp nhỏ điểm vào soang cá kho sả ớt, cho ta một hương vị khác , mùi vị hấp dẫn mà chỉ có mấy ông già nhà quê mới biết ăn.

Nói gì thì nói hể muốn kho khô, kho tiêu hay kho sả ớt xin nhớ phải dùng cá đồng, cá nước lợ. Không ai dùng cá biển vì có mùi tanh, không ngọt và cũng không mềm,ăn rất vô duyên.

Trở lai món kho quẹt.

Ai cũng biết theo định nghĩa kho là nấu thức ăn với muối hay nước mắm .

Kho quẹt không phải như vậy. Kho quẹt là kho chỉ có nước mắm "ên", một mình nó mà thôi , không còn có gì khác ngoài nước mắm. Kho quẹt có thể do tiếng kho quệt nói trại ra chăng? Như quẹt/ quệt lọ nghẹ, quẹt/ quệt son lên môi,quẹt /quệt vôi lên trầu...

Tên kho quẹt nghe rất gợi hình tượng, khiến liên tưởng tới cách ăn, ăn bằng kiểu "quẹt". Dùng đũa quẹt vào soang hoặc gắp rau mà quẹt vào soang. Dân sống ở chợ, ở tỉnh thành, và ai chưa một lần ăn món kho quẹt làm sao cảm nhận được hương vị món kho quẹt ngon thế nào.

Nhớ lại hồi nhỏ , bữa nào nghe mẹ tô nói có việc phải "đi xóm" là mấy chị em tôi rầu lắm, không biết ở nhà lấy gì ăn cơm. Nói đi chợ thì biết là phải chờ mẹ về ăn cơm; còn nói đi xóm, là đi chuyện gì đó, đi xóm trên xóm dưới, có thể đi vay tiền, hẹn nợ...thế là khỏi chờ, ở nhà lo ăn cơm trước. Hồi đó theo cách nói, cách hiểu của người ở quê, ở ruộng và của mẹ tôi thì đi xóm là đi vắng nhà, mục đích không rõ, hoặc không muốn, không cần thiết cho biết. Nay ở hải ngoại lâu rồi tôi không còn nghe ai nói, ai dùng tiếng "đi xóm" nữa...

Khi mẹ đi xóm, ở nhà ba chị em tôi tự lo liệu cơm trước, có gì ăn nấy. Món kho quẹt coi như làm chuẩn, là món ăn căn bản cho những bữa cơm nghèo khi mà mẹ tôi phải đi xóm như vậy.

Nồi cơm vừa tàn hết lửa, bà chị tôi ra mé ụ nước sau nhà, tìm trên giàn úp soang chén, lựa cái soang nào bị mất quay, mẻ miêng đem vô để kho quẹt. Cho vào soang chừng nửa chén nước mắm, chụm lủa riêu riêu cho nước mắm sôi từ từ . Độ chừng vài "nắm rơm" đã thấy nước mắm nhúc nhích, nổi bong bóng phập phồng kêu lụp bụp và bắt có mù thơm, mùi khăn khẳn rồi mùi khen khét. Nhắc lẹ soang kho quẹt để xuống rế, dùng đũa khuấy cho nhanh, cho đều.Thế là có món ăn màu vàng sậm, diểm tráng như muối, mùi khẳn khẳn... được gọi tên là nước mắm kho quẹt .

Món kho quẹt xem như thế chỉ là nước mắn kho khô sắc đặc mà thành. Nước mắm sau khi kho trở màu " trăng trắng", khô, bám sát chặt vào đáy soang. Mùi vị làm kích thích mũi lưỡi và ăn với cơm nóng, hoặc cơm nguội cũng được.

Để soang nước mắm kho quẹt trên bộ ngựa, bên nồi cơm nóng bóc khói ,thế là ba chi em tôi có bữa cơm "ngon lành". Bửa nào đi mượn được muổng mỡ heo đem về trét trên cơm và quẹt với nước mắm kho quẹt là mừng lắm. Cơm nóng ăn với món kho quẹt, trét ít mỡ heo làm chảy mồi hôi, chạy ra lu nốc một tô nước mưa mát lạnh mà thấy vẫn chưa hết đả khát.

Vì nghèo không có gì để kho mà người mình bày kiểu nước mắm kho quẹt. Lâu ngày đâm ra ghiền , khiến nhớ rồi trở thành thói quen. Nay món nước mắm kho quẹt thay đổi từ nội dung đến hình thức, nhiều nhà có tiền, Việt kiều về nước cũng tim ăn.

Năm rồi được về thăm quê , được ăn lại món nước mắm kho quẹt , quẹt với rau lang luộc, ôi sao tuyệt vời!

.... Chảo trên bếp vừa nóng, cho vào ít tóp mỡ heo bầm nhuyễn, canh lửa riêu riêu đợi khi nào nghe thơm, cho thêm ít gia vị hành, tỏi, ớt . Mùi thơm của mỡ hành tỏi ớt bay khắp cả nhà. Chén nươc mắm ngon pha ít đường, bột ngọt, rót nhè nhẹ vào chảo. Âm vang reo lên cùng mùi thơm đặc biệt của nước mắm ở trạng thái đương chuyễn mình hóa thân thành mắm kho quẹt làm tôi như ngất ngây say...

Nước mắm kho quẹt khô sền sệt, kẹo sắc lại, quẹt vói đọt lang luộc , bạn mà ăn một một lần phải nhớ đời.

Lâu lắm rồi , mấy chục năm mới có được ăn bữa cơm gia dình đoàn tụ, trong niềm vui hạnh phúc, tôi chợt nhận ra rằng cách ăn cách ở của gia đình nay đã thay đổi đi nhiều, va món mắm kho quẹt của tôi cũng khác xưa nữa!Bên măm cơm , tôi như sống lại thời thơ ấu ăn cơm với món kho quẹt mỗi khi mẹ tôi " đi xóm " . Nhưng nay thì mẹ tôi đang thật sự "đi xóm"... và người không bao giờ về với tôi nữa!

GIỌT MÁU NGHỆ SĨ

QÚY THỂ

"M

ười tám nám bếp trấu”,  đầu hôm trăng chưa mọc, khoảng chín giờ tối trăng lên, trăng hạ huyền vẫn còn tròn đầy. Mùa này gió chướng thổi suốt ngày  đêm, cây lá xác xơ, bụi trắng bám đầy mặt lá ven đường. Đêm đen khô khốc tơi bời như mái tóc phơi trong nắng. Gió thổi dữ quá làm cho lòng dạ người ta ai cũng nao nao. Hai bờ sông thấp thoáng ánh đèn hiu hắt trong  mấy vườn dừa. Có tiếng chó sủa  rất dai và tiếng người hô bài chòi trong căn nhà lợp lá dừa cất trên những chiếc cọc đóng vào lòng sông. Đó là căn nhà của  lão Tốn và tiếng hô bài chòi ai oán thiết tha, giọng õng ẹo như đàn bà con gái của lão.

Tốn là con người đàn bà nằm chết trong hầm xe lửa năm xưa. Tốn mất mẹ về ở bên bà ngoại làng Vĩnh Phương.  Đến năm hai mươi tám tuổi hắn mới về phía nội làng Vĩnh Ngọc , lấy chị Thu, một người đàn bà ba mươi hai tuổi, chết chồng. Tốn là trai tơ mới lớn chịu lấy bà goá cũng chỉ vì cái vườn mấy sào toàn dừa xiêm tơ rất sai trái. Nhiều thằng con trai ưng lấy Thu nhưng  chị ta thích Tốn  vì hắn trắng trẻo, có giọng hát rất thanh tao.Về sống với  nhau, ngay đêm đầu tiên chị ta  biết vì sao nước da  hắn trắng mỏng, tiếng hát thanh, tóc đen mượt, không râu, mông nở, tướng đi lạch bạch như con vịt bầu. Đêm ấy người đàn bà rất ngạc nhiên; đây mà là thằng đàn ông sao? Hoá ra hắn là đứa bán nam bán nữ,  có đủ bộ phận của người nam người nữ, song cái nào cũng chẳng ra cái nào. Phần  người nam chỉ là một cái ống da nhỏ gấp nhiều nếp bằng ngón tay, nhăn nheo lủng lẳng. Hồi nhỏ hắn thích  để tóc dài mặc áo hoa, chơi trò đi chợ nấu ăn, ngồi bắt chí cho mấy đứa con gái. Hắn chẳng ưa phụ nữ, bọn con gái chọc “thằng lại cái”. Buổi trưa hắn thường ra bến sông tắm với mấy  thằng chăn trâu, bọn con trai trần truồng lao xuống sông vùng vẫy, còn hắn để nguyên cả bộ bà ba nhuộm nâu, dày mo, xuống nước  giỡn cợt với bọn kia. Chị vợ biết chuyện kêu về rầy la nhiều lần nhưng hắn vẫn không bỏ cái tật ấy. Người chồng trước của Thu tên là gì không ai nhớ, người ta chỉ nhớ cái biệt danh hắn là  “ Tám củi”.  Mấy chị trong làng mỗi khi nhắc  đến Tám Củi thường che miệng  cười, nói: “Cắc cớ chi đặt cho hắn cái tên Tám củi?” hắn là thằng cha tướng tá giống con dê xồm đầu đàn dê bát thảo của thằng Cược dẫn đi ăn trên Hòn Thơm. Tám làm nghề hái dừa thuê. Đi làm cả ngày về tới nhà, mồ hôi mồ kê , bụi bặm rác trên mấy  ngọn dừa còn bám đầy người bất kể sớm trưa  chiều tối đều xáp vô chị Thu, mười lần như chục. Năm đó mùa thu, mưa phùn liên tiếp nhiều ngày, trời đất ẩm ướt như đầu tóc vừa mới gội.  Nấm mốc mọc dậy lên khắp nơi. Trên mấy cây dừa lão có thứ meo xanh nõn màu đọt chuối, trơn như xà phòng. Tám  củi vuột tay rơi từ ngọn cây dừa lửa mấy chục thước xuống đất, xương cốt gảy cả, người thun lại như đứa bé. Mấy người phụ việc tẩm liệm ra thợ đặt đóng hòm, thọ mộc hỏi cao thấp, không lẽ nói trẻ con. Đành mua cái quan tài dài và rộng  về đặt lão vào lọt thỏm, đầu đuôi  thừa một khúc.  Phải lấy gối chèn vào. Thằng  chồng trước sung lắm, mụ  Thu bị nó hành suốt ngày, nay gặp anh chồng mới, không đòi hỏi chi cả, Thu nghĩ, thế cũng khoẻ. Nhưng sao lâu quá không thấy anh chồng đả động gì, buồn chán. Tốn thì suốt ngày kéo nhị, hô bài chòi, hết Lục Vân  Tiên, đến Thoại Khanh Châu Tuấn…

Hai  người sống với nhau không con cái chi cả. Thu thấy mấy con mụ khác đẻ như  gà, tủi thân, khóc thầm. Thu biết trong làng này  có  một cặp nữa cũng chậm  đường con cái là con Lai với thằng Thành bảy năm chúng sống không con. Lai bày Thu, thiên  hạ đồn cụ Luận, một ông thầy thuốc chữa bệnh hiếm muộn tài lắm, chị em mình dắt chồng tới bắt mạch hốt thuốc,  may ra… Thu về dắt Tốn đi. Tới nơi ông cụ Luận dẫn Tốn vô phòng, Thu đi theo, ông thầy  đuổi Thu ra, thầy nắm dây lưng quần hắn kéo xuống quá gối. Ông cụ mắt kèm nhem, trong buồng lại không đủ ánh sáng, chưa thấy gì. Ông xô cửa, ánh sáng ùa vào. Ông lão móm mém há cái miệng không còn  một chiếc răng cười ngất, phán:

-Có  Hoa Đà, Biển thước,  đại danh y bên Tàu tái thế  qua đây, cũng chịu.  Bà Mụ nắn lộn rồi. Tao xin bái!

Thu nghĩ lại,  bất cần số  phận, từ ấy chồng muốn làm chi thì  làm. Vợ chồng sống trong một nhà  mà tối ngày không nói với nhau một tiếng. Thu không buồn, không để ý đến nữa, chị  đi tìm cái thú vui riêng  của mình. Trước đây cũng vì mê hát Thu lấy Tốn. Nay Thu không còn mê bài chòi, thứ nghệ thuật cổ lỗ nữa, chị ta tiến lên một bước, mê hát tuống, cải lương. Có gánh hát nào về làng Thu không bỏ sót một đêm. Đôi khi  mấy chị nhà quê kéo nhau qua phố xem gánh hát giàu  diễn ở rạp lớn, khuya về, đi đường còn bàn tán chuyện mấy thằng kép đẹp trai, hát hay, trai gái ăn mặc đẹp đẽ, nói với nhau văn hoa văn vẻ, lại giỏi võ nghệ, đi mấy đường quyền tuyệt đẹp. Mấy lão trong làng nghe thế ghét lắm, nói: “Đồ cái thứ võ hát bội đó mà ăn thua gì!” Thu ra sức bênh vực, mà Tốn cũng theo vợ bênh mấy thằng kép, nói: “Võ hát bội cũng là võ. Mấy ông nói trạng, lên múa đường quyền được không?”  Mấy gánh hát chèo về hát đình, gặp mưa dầm đói meo. Tốn bảo Thu kêu cả gánh về đãi  bữa tiệc đầu heo luộc, chấm mắm nêm dằm  thật nhiều ớt xiêm ăn với bún. Tốn vì rất hâm mộ nghệ thuật, cũng lén vợ mua chai rượu trắng đãi khách. An uống no say rồi, Tốn bẽn lẽn nói: “Quí nghệ sĩ có muốn nghe khúc nhạc nhà quê không?” Ai cũng  nói muốn. Tốn lấy cây nhị treo trên cột xuống kéo và hô bài chòi khúc nói vè Vân Tiên: “Vân Tiên đầu đội kim khôi, tay cầm siêu bạc, mình ngồi ngựa ô…”. Hô xong bọn kia vỗ tay rào rào. Tốn hãnh diện và sung sướng lắm, hắn hỏi: “Quí nghệ sĩ nghe  mùi không? Như tui lên sân khấu ca  được không?”. Bọn kia vừa được vợ chồng Tốn đãi đằng chẳng lẽ nói không, đều tán dương: “Giọng anh Tốn thanh tao như giọng con gái mười tám ca vọng vổ xuống “xề” ngọt  hết ý!”. Tốn thích lắm. Khách khứa ăn  nhậu ra  về. Hôm khác bọn họ lại đến, vợ  chồng Tốn đãi đằng. Có lần Tốn để ý thấy đang ngồi ăn, một thằng chuyên đóng vai kép độc, kép lẳng, nhấp nhổm chạy lên chạy xuống. Tốn sinh nghi theo xuống bếp thấy vợ đứng nấu ăn bên bếp lửa đỏ, mặt mày hơn hở, tươi rói, còn thằng kép độc ăn uống no say rượu vào trở chứng thấy Thu người nở nang phốp pháp ngó sướng con mắt, đứng bên bếp một mình, từ sau bước tới ôm, chúi đầu vô cổ Thu, Thu không gạt ra còn cười rúc rích. Tốn bắt gặp, giả vờ không thấy nhẹ bước lui lại, đi lên nhà trên, cũng là lúc Thu và thằng kia biết Tốn đã thấy hết, lấy làm lạ sao  không thấy anh ta  phản ứng hay nhiếc mắng gì. Một lúc sau, khi khách khứa đã về, biết chồng rất thích lên sân khấu giả vờ nịnh: “Ông hô bài chòi giọng hay lắm. Bữa mô nói gánh hát họ cho lên sân khấu hô bài chòi cho bà con cô bác nghe. Không chừng thành kép, đi hát bộn tiền…” Tốn thấy nơi cổ áo vợ còn vết son của bọn kép hát. Tốn xắn  quần trèo lên cây dừa xiêm,  hái một buồng làm quà cho “quí nghệ sĩ”.

Một hôm đi về Tốn thấy nhà  cửa trống trơn, vợ vắng nhà, tưởng Thu qua hàng xóm. Tối đợi vợ mãi không thấy về, hắn đi quanh quẩn tìm vợ ở mấy nhà người quen, không thấy. Hắn về nhà, vô buồng thấy quần áo vợ lấy đi hết rồi, dở cục gạch kê dưới chân giường chỗ cất mấy chỉ vàng cũng biến mất.  Hắn liền chạy đình, nơi gánh hát diễn  mấy ngày qua. Sân đình vắng tanh, trên sân chỉ còn mớ bả mía rác rưởi, lá chuối gói bánh ú, vỏ đậu phụng, vé xem hát xả đầy và đám ruồi lằn quanh quẩn chỗ bọn gánh hát làm thịt gà, làm cá. Hắn chạy lại chỗ đoàn hát nấu cơm thấy ba hòn đá kê làm ông táo ám khói còn nóng, biết đoàn mới đi. Hắn vội  chạy ra bến đò, thấy con đò đã quá nửa sông. Hắn kêu í ới, nhảy nhót khua tay chân lia lịa như thằng điên, mọi người trên  thuyền  đều nghe thấy, song bảo ông lái đò chèo  đi luôn, không quay vào. Tốn đành buồn bã trở về. Căn nhà vắng tanh. Tốn ôm đàn ra hè ngồi kéo, hô khúc Lục Vân Tiên đi thi nghe tin mẹ chết khóc đến mù mắt.

Chừng vài tháng sau  Thu xách gói quay lại, hình dung  tiều tuỵ, áo quần xác xơ, không còn một  đồng. Tốn nhìn vợ hỏi:

-Về  đó hả?

-Ừ  về.

-Theo gánh hát hả?

-Ừ.

-Có  được lên sân khấu không?

- Được lên một  lần, bữa con đào già bị đau bụng, lên  đóng thế  vài cảnh.

-Có  được khán giả vỗ  tay không?

-Được  đôi ba tiếng. Còn  ngoài ra công việc hằng ngày là  đi chợ nấu ăn, quét sân khấu, giặt áo mão râu ria, cực lắm…

Tốn nghe xong chẳng hỏi han cũng chẳng nói một lời nặng. Thu thấy chồng ngậm câm suốt ngày, sợ    lắm, cứ theo hỏi han chuyện nọ  chuyện khia. Tốn chỉ ừ  hử. Chiều nào Tốn cũng nốc rượu say mèm, mang cây  đàn cò ra chỗ gốc dừa kéo. Thời kỳ ấy Tốn thấy Thu đi chợ chỉ mua đồ về nấu canh chua, suốt ngày quanh quẩn dưới gốc cây khế bên nhà mụ Liễu, tay cầm sào, tay cầm chén mắm ruốc. Tới bữa không động đũa vào miếng cá nào. Thời gian nầy Thu lên cân ngó thấy, quần áo mặc chật hết. Mấy mụ trong làng xầm xì đủ điều, có mụ giả vờ bênh, nói, nó có chồng thì nó có bầu chứ sao? Mụ khác cãi: “Thằng lại cái đó làm ăn chi được mà bàu với bì!”. Có bà nói xa nói gần, nói bóng nói gió. Không biết Tốn có hiểu không? Chẳng thấy hăn  nói năng chi.

Không như mọi người tưởng. Hắn biết từ  lâu và Thu cũng nói, nói một cách  vô  tư tự nhiên và  đơn giản:

-Vợ  chồng mình sống với nhau lâu rồi không không có  đứa con ẳm, buồn quá, tôi  đi kiếm con…

Tốn không chút bất ngờ:

-Kiếm con rồi hả? Lấy ai?

-Lấy nghệ sĩ.

-Con của nghệ sĩ hả?

-Ừ.

Tốn  chẳng hỏi han gì thêm, mặt hắn lạnh tanh lầm lì, Thu phát khiếp. Mấy ngày sau Tốn hỏi cái rựa  đốn tre giắt trên giàn bếp  để đâu. Thu nói, không biết, lâu nay có  ai làm chi cần đến cây rựa cùn  ấy đâu. Thu rung mình. Chị  hỏi: “Mà ông hỏi làm chi?” Tốn nói:

-Để tui mài bén… có việc.

Nghe thế Thu càng lo. Hắn ta mài cây rựa làm gì? Hắn tính chém mình hay chém thằng nghệ  sĩ trong gánh hát? Bọn kia đi xa rồi còn đâu mà  chém? Với lại biết ai?  Chắn hắn tính chém mình. Ngày mai Thu đi tìm cây rựa, tính ném xuống ao cá. Tìm mãi không thấy, ngó ra giếng thấy Tốn đang khoát nước từ miếng ghè bể lên hòn đá mài dao võng như yên ngựa, màu xanh mai cua đồng. Lưỡi rựa sáng loáng ngó phát rùng mình. Thu không dám hỏi và chiều lại kiếm  cớ qua nhà hàng xóm ngủ. Sáng hôm sau về giả lã nói chuyện. Tốn vẫn cứ lầm lì ghê rợn. Thu không dám ở nhà, cứ hết ra chợ thì vào xóm, tới chơi nhà này nhà nọ.

Một hôm Thu về nghe tiếng sạt sạt trong bụi tre, lúc sau nghe tiếng tre đổ, ra xem thấy Tốn  ì ạch kéo một cây ghe trai rất to rất dài chặt nhánh, đặt nằm giữa sân. Hắn quẹt mồ hôi trán, cởi áo ra  giũ, than:

-Ông bà ta nói quả không sai.

-Nói chi.

-“Nhất  đốn tre , nhì ve gái”.

-Ông tính ve vảng ai?

-Nói là hai cái việc khó  khăn nhất  của thằng đàn ông.

Thu muốn hỏi đốn tre làm chi song chưa dám hỏi. Mấy ngày sau thì thấy chồng  chặt cây tre dài thành nhiều khúc ngắn, chẻ tre ra làm hai, làm tư, chẻ nhỏ hơn, vót nan hì hục đan. Lúc đầu Thu  chẳng biết hắn đang cái gì. Mấy ngày sau thấy hình dạng một chiếc thúng lớn, nan thưa, hắn lận vào vành tre, không ra hình tròn mà thành  hình bầu dục, chuốt mây nứt vành, dần dần thành ra cái nôi. Hoá ra hắn  đốn tre vót nan đan nôi, một chiếc nôi lớn, đan lát rất công phu. Đan nan xong hắn lấy mấy quả dừa khô đập dập bện dây làm thành sợi thừng dài cột nôi. Tới lúc ấy Thu mới hết sợ, à thì ra anh ta thấy mình sắp sinh đan nôi. Hắn làm cái  nôi xong đưa tiền dặn vợ đi chợ mua mấy cái áo trẻ con, mũ, tất chân, găng tay  đan bằng len, cái gối dẹp thật mềm và hai cái gối chèn, mua xấp vải mỏng xé ra làm tả. Thu cười:

-Làm chi mà kĩ lưỡng rứa? Con nhà  nghèo mà sang hơn là  con nhà phú hộ.

-Không sang trọng sao  được, con của  nghệ  sĩ, con phú hộ sao bì  được !!! 

Mẹ và những ngọn rau lang

Mỗi lần đi chợ thấy người bán ngọn rau lang lòng tôi lại bồi hồi nghĩ về mẹ - người mẹ trong khốn khó đã nuôi tôi khôn lớn thành người.

Ngày ấy gia đình tôi sống ở vùng nông thôn. Cuộc sống của thời bao cấp cái gì cũng thiếu, đơn giản nhất là muối ăn vẫn phải tiết kiệm từng hạt. Gia đình tôi có năm miệng ăn, nhưng có một mình cha tôi làm thầy giáo trường làng, đồng lương và phiếu gạo là những thứ bảo bối phòng khi mùa màng thất bát nên hạt cơm phải oằn mình lên cõng mấy thanh khoai hay thanh sắn mỗi bữa ăn. Còn về thực phẩm thì gia đình phải tự cung, tự cấp trên mảnh vườn nhà đủ các loại rau quả mùa nào thứ ấy. Những luống rau lang quanh năm suốt tháng được mẹ chăm sóc xanh tốt, ngoài lấy củ ra nó còn là một nguồn rau dồi dào mà bữa ăn nào nhà tôi không bao giờ thiếu. Mỗi lần luộc rau lang sợ mấy chị em chúng tôi chê không ăn, mẹ tôi nói: “Rau lang ăn tốt cho nhuận tràng và mát cho cơ thể”. Nhưng dù thức ăn có là gì đi nữa thì mẹ tôi ăn lưng chén cơm là buông đũa, bà nói: “Cha con ông cứ ăn đi tôi ăn vậy là đủ rồi”. Cha tôi dằn giọng: “Bà nhường cho cha con tôi ăn phải không? Cái nhà này tôi nằm xuống thì không sao, nhưng bà nằm xuống thì các con khổ lắm đấy, bà đừng nhường nhịn nữa, ráng ăn để lấy sức nuôi nấng các con”. Tình cảm của cha và mẹ như vậy.

Một hôm chú tôi từ trên huyện về chơi, tôi nghe mẹ nói với cha: “Ông ạ! Chú nó về chơi mà nhà mình cạn tiền rồi, hay có con gà mái đang đẻ bắt làm thịt cho chú nó ăn?”. Cha tôi cười: “Chú nó là em mình, việc chú ghé thăm về mặt tình cảm là quý lắm rồi, ăn gì mà chả được, cả nhà còn có một con gà để cho nó đẻ”. Bữa cơm hôm ấy dọn ra có một đĩa cá cơm khô rang tẩm mắm, một bát canh rau tập tàng và một đĩa ngọn rau lang luộc cùng với chén mắm tỏi ớt. Cha tôi sợ mấy chị em tấn công vào đĩa cá cơm khô chú không có gì ăn, nên đánh tiếng: “Các cụ ngày xưa nói “Đói rau đau thuốc” cái món ngọn rau lang luộc chấm với nước mắm tỏi ớt là tuyệt chiêu đấy các con ạ! Không tin các con ăn thử xem”. Hiểu ý cha, mấy chị em chúng tôi chuyển hướng sang đĩa rau lang luộc mà quả thật đúng vậy thường ngày khi cha chưa nói, tôi ăn thấy bình thường nhưng hôm nay sao ăn thấy ngon thế, béo và thơm đến lạ lùng. Chú tôi thì không hề đụng đũa vào đĩa cá cơm mà cứ dí đĩa rau ăn. Chú nói với cha mẹ tôi: “Cái món ngọn rau lang luộc chấm mắm tỏi ớt em ăn không biết chán”. Mẹ tôi nói chữa: “Chú khéo khen, cái món này là món của nhà nghèo...”.

Cái khốn khó của một thời rồi cũng qua đi, chị em chúng tôi khôn lớn trưởng thành có vợ, có chồng những năm sống ở thành phố tôi thường nhớ về món ngọn rau lang luộc chấm với nước mắm tỏi ớt ngày ấy. Hễ mỗi lần đi chợ tôi dạo bằng hết quầy rau ở siêu thị, tìm khắp những người bán dạo nhưng ít khi có bó ngọn rau lang, vì lâu lâu người quê mới mang lên bán. Mỗi lần ngồi vào bàn ăn có món rau lang luộc tôi nói với chồng và các con tôi: “Đây là món ăn nhà nghèo đấy”. Chồng tôi phá lên cười: “Em nhầm rồi! Đây là món ăn của nhà giàu đấy, em biết không ngọn rau lang luộc là món ăn đặc sản của các nhà hàng khách sạn đấy”.

Nghe chồng nói vậy hình ảnh mẹ lại hiện về rõ mồn một. Mỗi lần đi làm đồng về thế nào trên tay bà cũng có một bó ngọn rau lang. Sau khi làm sạch sẽ xong mẹ không cho chị em chúng tôi luộc, bà nói: “Rau này nhìn vậy nhưng kén lửa lắm, nếu lửa không to, không đều thì rau dễ bị ôi và đen, nếu luộc kỹ quá thì nó sẽ nhừ ăn vào không ra gì, chỉ luộc vừa chín tới thì ngọn rau vẫn xanh ăn vào có độ giòn ngọt, lẫn vị béo kết hợp với vị thơm của tỏi, vị cay the của ớt càng làm cho món rau càng thêm hấp dẫn”. Ngày nay cuộc sống đã no đủ không còn thiếu thốn như cái thời của cha mẹ nữa, nhưng hình ảnh mẹ lẫn vào trong món ăn dân dã mà theo mẹ gọi là món “nhà nghèo” thì nay đã trở thành hiếm và đặc sản ở chốn phố phường. Đôi khi bạn bè mời tôi đi dự tiệc nhà hàng điều đầu tiên tôi tìm trong thực đơn là món ngọn rau lang luộc nhưng không phải lúc nào cũng có.

Mẹ tôi nay không còn nữa, nhưng hình ảnh mẹ và món “nhà nghèo” luôn ngự trị trong trái tim tôi.

Mùa xoài ký ức

Xóm tôi hồi ấy là một vùng nổi tiếng trồng xoài. Mỗi khi đến mùa, xe lam, xe bò nườm nượp chở xoài cho các lái vựa. Mấy đứa con nít cứ xun xoe quanh những sọt xoài, quả nào bé tin hin nhưng tròn và căng mọng thịt đều để dành cho nhóc. Tuy bé nhất nhà, còn chập chững đi nhưng thấy tôi cứ lăng xăng nên mẹ cắt cho chiếc nón lá xíu xíu đứng dưới gốc làm nhiệm vụ chụp xoài. Chốc chốc, tôi lại được quăng cho một quả trúng phóc nằm gọn trong nón, lòng mừng vui khôn xiết.

Bẵng đi một thời gian, không hiểu sao người trồng xoài cứ thưa dần. Khu vườn của ngoại cũng hẹp dần rồi bán cho người ta, chỉ để lại một cây to nhất mà trưa nào ông cũng mắc võng kể chuyện ru tôi ngủ.

Tôi lớn dần qua mỗi mùa nắng, những ký ức về vườn xoài xưa cũng phai dần, chỉ biết lúc ấy: trái xoài quý lắm. Nhà nghèo, mẹ chỉ mua dăm ba quả xoài cát dâng bàn thờ ông bà. Những đứa con nít chúng tôi ngày ấy đi qua đi lại, liếc nhìn đến khi mẹ cho phép đem xuống thì trái xoài đã nhăn nheo, teo héo như da bà già. Vậy mà lòng mừng vui chạy khoe khắp nơi cùng chúng bạn.

Bây giờ xoài được bán quanh, muốn ăn món trái cây nhiệt đới này không còn phải đợi, phải chờ cả năm như trước nữa. Nào là xoài Thái, Xoài Mã Lai, Đài Loan đủ loại, đủ hình dáng, đủ mùi vị, đủ sắc màu, mùa nào cũng thấy xoài cả. Những giống xoài này được nhân giống trồng khắp nơi thay thế cho xoài cũ. Người ta chặt bỏ hết để trồng xoài mới, nếu không phá bỏ thì ghép cây tạo giống ngọt.

Chợt nhớ trái xoài ngày xưa, chua là chua! Xoài xanh sống chấm với mắm đường dầm ớt xiêm xanh ăn mới ngọt; còn xoài canh nông hay xoài lửa mà ăn với muối ớt thì chua ê hết cả hàm răng. Mấy loại xoài đó dù chín cỡ nào cũng vẫn còn vị chua trên đầu lưỡi. Hồi đấy, mỗi lần đến mùa hè, lũ nhóc chúng tôi lại rủ nhau đi hái trộm xoài trong xóm, xoài chua cỡ nào cũng ngồi ăn ngon lành được. Dưới gốc xoài, chúng tôi ngồi tụm năm tụm bảy quay chén mắm đường, vừa chua, vừa cay mà không dám xuýt xoa thành tiếng, sợ chủ nghe thấy ra bắt.

Mùa hè, hôm nào mẹ mang về trái xoài bằm ăn với món cá chiên và mắm ớt tỏi, là anh em tôi ăn ba bốn chén cơm. Chu choa, sao mà ngon!

Nhà có hai anh em, trái xoài bổ ra mỗi đứa được một bên “má”. Tôi là út, nên được má ưu tiên cho cái “dốc xoài” (hột xoài). Trước khi gặm, tôi cầm “dốc” chạy khắp nhà, nhèm nhem tụi bạn hàng xóm. Lúc ăn lại không dám ăn nhanh, cứ nhởn nhơ nhấm nháp, liếm đỏ hết cả lưỡi, ông anh vừa nuốt nước miếng ừng ực, vừa tức nên chọc: “Mày ăn nhín nhín coi chừng bị bà Chín bẻ răng cho coi!”.

Thế nhưng, mỗi bữa cơm mẹ chỉ cho ăn một trái. Mẹ bảo ăn xoài nhiều sanh nóng, mắt đổ ghèn và mọc mụn. Tôi lơ mơ nghĩ, chắc tại xoài mắc, ăn nhiều nên … mẹ nóng ruột. Vì có lần tôi thấy nhỏ bạn bị nóng trong người sao đó cứ “mắc tè” hoài, bà ngoại nó lấy lá xoài nấu nước cho nó uống. Vài ngày sau đã thấy hết. Rồi còn biết bao nhiêu bài thuốc hay từ cây xoài như: chữa bệnh thủy thũng nè, viêm da nè, sâu răng nè hay cầm máu nữa nè… Cây xoài từ quả, hoa đến lá, cái nào cũng tận dụng làm bài thuốc cây nhà lá vườn được. Bởi vậy nên các cụ thích trong vườn nhà có cây xoài lắm!

Đến cuối mùa xoài, khi trái chín rụng khắp sân vườn. Tôi và ngoại vác thúng đi xin hàng xóm mấy quả chín nẫu về làm bánh xoài. Cả thúng xoài lớn, hai bà cháu ngồi lựa từng quả một, trái nào còn cứng thì cất để dành ăn, mấy trái mềm mềm hoặc bị sâu ăn hoặc bị chín nhũn thì để qua làm bánh. Sau khi gọt vỏ, cắt bỏ phần hỏng sạch sẽ, bà cho xoài vào xoong, bào lấy nước rồi bắc lên bếp than nấu chung với bột và đường. Tôi lăng xăng phụ bà khuấy xoong bánh cho nhuyễn, không bị vón cục, rồi lại tít mít cùng bà nặn hình bánh. Lúc là hình tròn, lúc hình vuông, có khi ngẫu hứng, tôi còn làm hình chiếc lá, trái tim … Vừa làm vừa nghe bà kể chuyện vườn xoài nhà mình ngày xưa mà tiếc hùi hụi.

Thế là cả ngày hôm đó, tôi chẳng đi đâu chơi, cứ phụ bà làm bánh, phụ bà phơi bánh, rồi cầm lá chuối phất phất đuổi ruồi mong cho bánh mau khô. Mẻ bánh đầu tiên sau ngày trời trông ngóng cũng xong, sau khi phụ ngoại xếp gọn gàng vào bịch nilon, tôi sung sướng cầm chiếc bánh chạy khắp xóm khoe với lũ bạn. Vị bánh chua chua ngọt ngọt, ăn không dính răng lại thơm thơm mùi gừng mà ngoại nói bỏ gừng ăn cho khỏi đau bụng được chúng tôi chia nhau rộn rã cả góc sân. Đặc biệt, món bánh tráng xoài này chỉ có ở Khánh Hòa, mặc dù rất nhiều nơi trồng xoài trên cả nước. Tỉnh tôi lại là một trong những tỉnh nổi tiếng về các giống xoài cũng như sản lượng xoài với hơn 5.000 ha trồng. Xoài được bày bán quanh năm. Rộn ràng đóng thùng đem đi xuất khẩu và bán khắp mọi miền Tổ quốc.

Bây giờ, tôi của ngày nào đã lớn. Xoài đã được bán khắp chợ cùng quê với giá rẻ như cho không, năm bảy ngàn đồng một kg. Trẻ con bây giờ cũng không phải ngóng đợi mùa xoài nữa. Tủ lạnh nhà ai hồi nào cũng sẵn, muốn ăn bao nhiêu cũng được. Thế mà chúng cứ ngúng nguẩy, chê ỏng chê eo, chẳng thèm đoái hoài....

KÝ ỨC CÙNG CON LỢN Ỉ

Hồi còn trẻ con, tôi ghét nhất là những người thịt gà, ghét bởi sợ người ta thịt mất con Hoa Mơ oai vệ của tôi. Lớn thêm một chút, tôi lại thích người ta thịt lợn, thích bởi vì lát nữa sẽ có quả bồ dục nấu cháo, người lớn có bát tiết canh ăn.

Thế mà có lần tôi thương mẹ tôi quá, vì bà đã khóc khi bán đi chú lợn Ỉ chưa đến ngày xuất chuồng để lấy tiền chăm tôi trong cơn bệnh hoạn. Mẹ bảo mẹ già mới sinh con, nên con hay đau ốm, khoé mắt của người đàn bà tuổi trạc năm mươi tiếc chú lợn lắm nhưng cứ cắn răng chịu, chẳng than vãn điều gì.

Cái tuổi thơ quặt quẹo ấy đã qua đi, đất nước cũng đã đổi thay. Cái bánh chưng ngày Tết giờ tú ụ thịt. Vậy mà tôi vẫn không quên được con lợn Ỉ, nhớ tiếng sục cám eng éc đầu chuồng.

Con lợn Ỉ đối với tôi thì như thế, còn với người đời thì giờ phải để ý lắm mới thấy được dấu tích của nó.

Nhớ ông tôi kể ngày xưa, làm trai phải có nghĩa vụ nuôi lợn Ỉ. Công lao này được tính trong hai năm, cuối cùng để dâng vào Lễ Chạp.

Thịt lợn Ỉ xưa quý lắm, có nơi được dân muối ăn dần, cất quanh nhà như bảo bối truyền đời. Họ giữ bởi sểnh ra là đến kỳ đói, phải lấy nếp Tích cốc phòng cơ vậy.

Bà tôi rán Tàn Quyển, nhất quyết là phải đợi cho kỳ được mẻ mỡ đầu của con lợn Ỉ, phải là lợn Ỉ mới ngon, mới thơm và ý nhị. Đến làm bánh, bà cũng phải chọn mỡ lợn Ỉ, rán lấy nước trong. Tôi không biết mỡ lợn Ỉ thế nào nhưng rõ ràng món rau xào của bà lúc nào cũng ngon tuyệt, mẹ tôi cứ nói đùa là nhờ chú Ỉ trong chuồng.

Ngó quanh ngó quẩn đến ngày nay, chỉ thấy cái hình dáng béo tròn, mắt híp qua tranh dân gian bằng giấy. Đàn lợn ấm no sung túc kiểu nhà Ỉ cứ ít dần. Nghe đâu chỉ còn có một vùng còn nuôi lợn Ỉ là Thanh Hóa. Chúng không còn được ưu ái vì hiệu quả kinh tế không cao. Bán một tá lợn không đủ cho con ăn học. Sách đỏ đã liệt chúng vào những loài có nguy cơ bị tuyệt chủng.

Vừa rồi đọc sách cứ thấy ngáo ngơ khi nghe thấy nào là Ỉ mỡ, Ỉ pha, Sống bương,... những từ chuyên môn như sắp thành một bề trầm tích. Lũ trẻ con thì mù tịt, chỉ thấy từ Ỉ trong cuốn sách Tập Đọc mà thôi. Chúng có biết đâu rằng, cha ông đã có thời đem lợn Ỉ ra thờ, ra rước (Ví như Hội rước Lợn Ỉ và đuổi Cuốc ở làng Trà Xuyên, Khúc Xuyên, Yên Phong, Bắc Ninh).

Tết vừa rồi, có họ hàng từ Lạng Sơn gửi xuống cho một túi thịt lợn Ỉ, mới biết rằng lại có thêm một địa chỉ vàng, ăn miếng thịt kho giòn ngọt, lòng vui như mở cờ rong hội.

Tết xưa: Tục “Đụng lợn” ngày Tết

- Khi cách Tết khoảng vài ba tháng, thậm chí là 4-5 tháng hầu như các hộ gia đình đều nuôi một con lợn, loại lợn ỉ, bù cu chân rện, thịt chắc, nạc và thơm ngon để ăn Tết...

Ngày trước, khi mọi thứ vật chất còn vô cùng thiếu thốn, đời sống kinh tế của hết thảy người dân còn rất nghèo nàn thì không chỉ trong cuộc sống sinh hoạt hàng ngày, mọi người mọi nhà đều tiết kiệm, mà ngay cả những ngày Tết mức chi tiêu ăn uống cũng chẳng mấy dư giả. Ở các làng quê thì ngày Tết càng như có phần “nghèo” hơn rất nhiều so với thành phố, thị xã, thị trấn, bởi tiền bạc là không hề sẵn mà nhà ai cũng phải bán ngô, lúa, khoai, sắn, gà, lợn… mới mong có tiền sắm Tết. Một cái Tết với bao chi tiêu tốn kém luôn nhắc nhở người dân quê vốn quanh năm túng thiếu phải tằn tiện…

Ngoài các thứ sản vật phục vụ cho nhu cầu Tết mà người dân bắt buộc phải mua sắm ra như: bánh kẹo, mứt, rượu, măng, miến, mộc nhĩ, nấm hương, hoa quả… thì đại đa số các loại thực phẩm khác đều do chính họ nuôi trồng và làm ra. Nào gà, nào lợn, nào gạo nếp, đậu xanh, rồi thì cá thả dưới ao bắt lên kho để ăn rè mấy ngày Tết. Ngay như thực phẩm chính mà nhà nào cũng không thể thiếu trong mấy ngày Tết, đó là thịt lợn cũng luôn được tự cung tự cấp. Khi cách Tết khoảng vài ba tháng, thậm chí là 4-5 tháng hầu như các hộ gia đình đều nuôi một con lợn, loại lợn ỉ, bù cu chân rện, thịt chắc, nạc và thơm ngon để ăn Tết. Loại lợn này nuôi lâu lớn, có khi mỗi tháng chỉ tăng thêm chưa đầy chục kg trọng lượng. Thế nhưng, với mục đích nuôi để ăn Tết nên, chứ không phải bán nên việc lỗ lãi với người dân quê là không quan trọng! Cũng có khi, mấy anh chị em trong gia đình, hay mấy người trong cùng xóm nuôi chung một con để Tết tới là “đụng” chung với nhau.

Mấy năm nay, tục “đựng lợn” ở các làng quê vào dịp Tết đã mai một nhiều do nền kinh tế thị trường hàng hoá phong phú, cộng với nhiều cửa hàng siêu thị mọc lên với quá nhiều các loại thức ăn chế biến sẵn. Thế nhưng, chỉ cách đây chừng dăm bảy năm về trước, tại hầu hết các làng quê thì tục “đụng lợn” vẫn còn rất phổ biến. Con lợn của một nhà được giết thịt khi Tết chỉ còn cách 1-2 ngày và tuỳ theo trọng lượng to, nhỏ của con lợn ấy mà gia chủ ước lượng để nhận lời cho bao nhiêu hộ “đụng”. Thường là lợn thịt cho mọi người “đụng” được xẻ thịt từ hôm 27-28 để người ta còn kịp lấy thịt gói bánh chưng. Hôm thịt lợn “đụng” gia đình nhà nào cũng có một bữa tươi trước Tết khá thịnh soạn trong đó không thể thiếu món lòng lợn, tiết canh.

Ngày còn nhỏ, nhà tôi vẫn thường hay “đụng” phần thịt lợn với một nhà hàng xóm. Nhà neo người, mà bố mẹ tôi vẫn phải tất bật ngoài đồng nên những buổi giết lợn cận Tết tôi vẫn thường được phân công đi phục vụ đun nước cạo lông và chờ lấy thịt mang về. Bình thường, mỗi nhà “đụng” đều phải cắt cử một lao động đến phục vụ. Nếu nhà ai không có người lớn thì phải có một đứa trẻ nhỏ. Khi lợn được cạo lông sạch sẽ, phanh mổ bụng là người ta pha thịt thành từng miếng to, loại nào ra loại ấy. Thịt được bày ra nong rộng, dưới lót lá chuối và tuỳ theo cách “đụng” của mỗi nhà nhiều hay ít mà chia phần sao cho đều đặn. Có khi con lợn xẻ ra chỉ chia làm 4 phần vì chỉ có 4 hộ “đụng”. Cũng có khi con lợn được chia làm 8 phần tương ứng với 8 hộ “đụng”. Ngoài phần thịt, phần xương, lòng, tiết của con lợn được chia đều cho các hộ “đụng” ra thì riêng hai lá mỡ bao giờ cũng dành phần gia chủ có công nuôi lợn. Có vài năm bố mẹ tôi nhận nuôi lợn “đụng” nên số mỡ rán ra từ hai lá mỡ của lợn thịt Tết nhà tôi ăn tới hết tháng Hai mà chưa hết. Bọn trẻ chúng tôi thường rất vui, rất tự hào vì nhà có lợn cho mọi người “đụng”. Chiếc bong bóng và cái đuôi của con lợn cũng thường được ưu ái dành cho con nhà chủ vất vả băm bèo, nấu cám. Chẳng vậy mà cứ có dịp nhà cho mọi người “đụng” lợn là tôi phải chầu chực để xí phần đuôi lợn và bong bóng.

Ở nông thôn đồng tiền không sẵn nên hình thức “đụng” lợn cũng được quy ước khá đơn giản đó là: trả bằng thóc! Nếu nhà nào bán thóc trả bằng tiền cũng được, song mọi người đều trả bằng thóc cho tiện. Gia chủ tính giá thị trường lúc đó và thoả thuận với mọi gia đình “đụng” để quy ra thóc phải trả là bao nhiêu cho phần “đụng” của mình! Mẹ tôi vẫn nói rằng, hầu như năm nào nhà cũng phải trả vài thúng thóc cho thịt lợn Tết. Đó là nhà tôi neo đơn, chỉ có 4 người, chứ mấy hộ con đàn, cháu đống thì họ phải trả thóc tới cả chục thúng cho phần lợn “đụng” ngày Tết…

Tết sắp tới và trong dòng người tấp nập mua sắm thực phẩm, hàng hoá trong siêu thị, ngoài chợ tôi lại hoài niệm nhớ về những cái Tết của ngày xưa ấy, mà ở đó hình ảnh của tục “đụng lợn” như một kỷ niệm đẹp đọng mãi trong ký ức tuổi thơ của một thời nghèo khó…

Nhớ rừng miệt thứ

SGTT.VN - Không khỏi nôn nao đôi chút khi theo cậu nhỏ địa phương trèo lên phà Tắc Cậu, chiếc phà có hành trình mà về sau mới biết “dài nhất nước”.

Bởi không chỉ băng qua sông Cái Bé, phà còn chạy theo kênh Xẻo Rô rồi vượt sông Cái Lớn, tròm trèm 2km, mất khoảng 30 phút không kể thời gian chờ phà. Cũng bởi thời gian ngồi phà lâu lắc vậy mà tôi mới có dịp ngắm thoả thích phong cảnh hai bên dòng kênh.

Rừng với bao hệ luỵ của con người

Không trù phú như nhiều đô thị khác của miền Tây, nhưng cảnh sắc từ huyện An Biên tới Cà Mau cũng tỏ ra nơi đây đã đổi đời nhiều lắm, khác hẳn ngày xa xưa, cái ngày dòng kênh Xẻo Rô nối Rạch Giá tới Cà Mau chưa được khai thông. Những chuyện về thời “muỗi kêu như sáo thổi, đỉa lội tựa bánh canh” vẫn được nhiều người kể lại, câu chuyện mang chất Sơn Nam ấy lúc nào cũng có sắc độ tiếc nuối về thời trù phú và hoang dã ở những cánh rừng U Minh vắng dấu chân người.

Lần lượt từng con kênh nhỏ chia cắt dòng kênh lớn, và tính từ ngoài vào thì kênh Xẻo Rô được tính là thứ nhất, lần lượt mười con kênh còn lại được đánh số tới 11. Càng vào sâu cuộc sống càng gợi lên đôi chút hơi hướng của thời khẩn hoang, dù chắc chắn khắp cõi Kiên Giang và Cà Mau chẳng nơi nào còn nguyên những cánh rừng ngút ngàn âm u thời xa xưa. Cuộc chiến tranh tàn khốc với hàng triệu lít thuốc diệt cỏ không diệt được rừng U Minh, nhưng việc khơi kênh chống ngập đã đưa dân vào sống tận nơi sâu nhất của rừng, cộng thêm hai lần cháy dữ dội cách đây 30 năm và những đợt rầm rộ phát động phong trào nuôi tôm đã xoá sổ không ít diện tích rừng U Minh Thượng, chỉ còn lại U Minh Hạ thuộc địa phận Cà Mau.

Dẫu biết lịch sử không thể thay đổi, song tôi vẫn mong được tận mắt thấy cánh rừng tràm có những tổ ong khổng lồ, và có những đìa khua tay xuống nước là bắt được tôm cá. Đám chúng tôi sinh trưởng trên đất Bắc, từ thuở nhỏ đã đọc văn Sơn Nam, khi xưa nhắm mắt còn mường tượng cảnh lợn lòi đánh nhau với hổ... Ôi cảnh sắc miệt thứ ngày nay làm gì có chỗ nào hoang vu như vậy nữa, khi quốc lộ 36 đã chạy suốt từ An Biên tới tận Cà Mau, băng qua chỗ nào có cầu là y như rằng có nhà dân, chợ, chùa... Trong sân chùa bên kênh thứ 3, tôi bắt gặp cô gái Khmer lui cui quét thóc phơi, hạt lúa mẩy tròn. Dưới kênh, đám thanh niên đen cháy kìn kìn khiêng bao lúa xuống ghe. Tuốt nơi xa nhất này cũng coi lúa là nguồn sống chủ đạo thì làm sao còn rừng tràm, rừng đước thâm u nữa.

Cảnh sắc đô thị kéo dài dọc quốc lộ 36, hầu hết các cụm cư dân đều bám theo quốc lộ và có hình thái giống nhau. Sự no đủ có thể hiển hiện qua đời sống của các khu chợ, ở đó sản vật địa phương được bày bán cùng hàng hoá nơi khác nhập về, nói chung không thiếu vật dụng, song sự ô nhiễm hình như không được quan tâm. Những sạp hàng sát bờ kênh thoải mái ném rác xuống nước, ghe thương hồ xuôi ngược trên kênh cũng tất nhiên quăng mọi thứ hổ lốn xuống dòng nước đã nuôi dưỡng sự sống cho cả vùng. Và tôi vẫn thầm ước giá như xưa kia người ta đừng khơi dòng kênh này, đừng đưa dân vào tới lõi rừng U Minh thì chắc hẳn ngày nay mọi sự sẽ khác nhiều lắm.

Rừng xưa như chỉ còn trong ký ức

Đôi chỗ, chất khẩn hoang Nam bộ vẫn bộc lộ, nhất là khi tôi ghé chợ ở kênh thứ 7 mua ký thịt trăn để mang vô nhà người bạn địa phương nhậu chơi. Trong chợ, thịt trăn bán cùng dê, heo, bò, chắc chắn là trăn nuôi nhưng vẫn kích thích trí tưởng tượng của khách phương xa. Nhậu trong nhà lợp lá dừa nước, thảng hoặc có chiếc ghe chạy qua rao bán cá đông lạnh, tôm đông lạnh bằng loa điện mà thấy tiếc nuối cho cả vùng U Minh ngày nào. Cuộc nhậu của chúng tôi càng xôm tụ khi ông lão hàng xóm ghé chơi, sau vài ly sừng sừng bèn kể về cái thời còn rừng, lội rừng bắt rắn, vớt cá ra sao, đi ăn ong thế nào. Những hoài niệm ấy chắc chỉ chục năm nữa là sẽ theo thế hệ cũ của vùng U Minh đi vào dĩ vãng.

Từ nhà anh bạn gốc Khmer ở kênh thứ 7, chạy hơn 40km nữa là tiếp cận tới cửa vườn quốc gia U Minh Thượng. Vô vườn, mua vé, lên ghe đi thăm rừng. Nói ra thì động chạm, nhưng quả thật thất vọng quá cỡ bởi chạy một hồi chỉ thấy cỏ lác mịt mùng, dăm ba chú chim cúm núm bay vèo qua trước mũi ghe đã được giới thiệu là hệ động vật phong phú. Và khi ghe dừng giữa vùng nước mênh mông thì hướng dẫn thông báo kết thúc hành trình để quay về. Giải thích cái nhìn trợn trừng của tôi, anh hướng dẫn viên cười cười: “Ngày trước ở đây toàn rừng, tới năm 1982 cháy dữ nhất, tiêu hết cây rồi”.

Ôi chao, chưa bao giờ thấy thất vọng như lần này, mà cũng chưa bao giờ tận mắt thấy hệ luỵ nghiêm trọng của cháy rừng như lần này. Cả địa danh U Minh Thượng mà biết bao nhiêu trái tim mơ tới giờ đây chỉ còn một vùng nước mênh mông toàn lau lác, đôi chỗ cồn nổi lên um tùm cỏ lác mọc, phóng tầm mắt bốn phía chỉ thấy trời xanh. Sau này, khi gặp một người bạn già ở Rạch Giá, nghe chuyện mới biết thật ra nếu muốn biết về U Minh thì vẫn có nơi còn rừng, nhưng phải đi xa lắm, và đi theo đường khác, không phải vô theo tuyến du lịch. Nơi đó vẫn còn nghề đi ăn ong, vẫn còn những cánh rừng bít bùng như đám lá tối trời xưa kia cố nhà văn Sơn Nam đã miêu tả.

Miệt thứ xa mà một lần đi đã cảm thấy quá gần. Nơi đó tôi có người bạn gốc Khmer gặp lần đầu đã như cố hữu, nơi đó tôi đã gặp những cảnh sắc khá đẹp của kênh rạch, ruộng lúa. Nhưng miệt thứ cũng thật tiếc đã hoá thành nơi trồng lúa, dựng nhà tấm, uống cà phê võng hệt như bất kỳ nơi nào của miền Nam...

Quả dưa vẹo vọ

:

Về nhà như một đứa trẻ, lục cơm nguội trong cái nồi nguội lạnh trong bếp, thấy vài miếng tóp mỡ ai đó rán còn lại, mới tất tả như gặp lại người quen lâu ngày, pha một bát nước mắm ớt hạt tiêu, nhất quyết là phải cho một chút cái gọi là thuốc độc trong thời bao cấp: mì chính, ăn ngon không thể tưởng tượng nổi.

Ngồi nghĩ lại những ngày trước, mặc tay mẹ xua xua ra khỏi gian bếp, đứa bé con giả bộ quay đi nhưng mắt vẫn dán vào chảo mỡ đang sôi sùng sục, nơi đó có những miếng trăng trắng, rồi đây sẽ chuyển vàng, thơm đến tận bây giờ, chứa trong mình nhiều ý nghĩa, ít nhất là cái thèm thuồng của một thời kỳ đói khổ, là cái nguyên do để ăn một lúc vài ba bát cơm.

Tóp mỡ rán nóng, giòn tan, ngậy tột đỉnh, cắn nghe cái ứa cả khoang miệng, lát nữa được chấm vào cái bát đựng thứ nước mắm rẻ tiền bán ở những cửa hàng thực phẩm thời ấy, nặng mùi, khắm lặm, chừng ấy thôi là đủ để một ông hàng xóm ghen tị, hậm hực ngó vào kết tội là hưởng thụ, là xa xỉ.

Tóp mỡ bỏ lọ, bọc vào giấy báo, gói vào nylon, đến bữa rang với muối hạt, xào với dưa, nấu canh dưa, rim với thịt, xào cà chua, hay sang trọng hơn nếu úp với mì tôm và thật nhiều cách nấu nướng có thể kể ra một dãy, sinh động, ngọt ngào và dài dằng dặc, đằng đẵng như xếp hàng, như nỗi mong chờ một miếng thịt, thật hiếm và quí lạ.

Tóp mỡ với văn nhân, ấy là kỷ niệm hồi nhỏ được chứng kiến bữa rượu chén tạc chén thù đến ba giờ đêm của ông ngoại và cụ Đào Duy Anh ở khu Tập thể Hàng Chuối, trong cái bát sắt, cạnh đĩa rau xào, đưa đẩy những chén rượu được ngâm từ thang thuốc biếu đến mấy mươi lần cho đến khi nhạt thếch, lại giúp đỡ được câu chuyện Trần - Lý, Tấn - Tần đậm đà, thú vị.

Chiều nay, về nhà như một đứa trẻ, trong bữa cơm nóng sốt, vui vẻ với gia đình, lại thấy những miếng tóp mỡ, được chấm trong bát nước mắm ngon tròn vị của thời kỳ đổi mới, cay xè ớt hạt tiêu của hàn huyên, ôn lại một thời kỳ đất nước còn khó khăn gian khổ.

Tóp mỡ là một món ăn để lại nhiều kỷ niệm. Đứa trẻ con thời bao cấp trong giấc mơ có cả những miếng tóp mỡ trắng ngà như khối bạch ngọc, đựng trong âu sành, lôi cuốn, thèm thuồng bên chiếc chảo sôi tí tách. Tóp mỡ vừa rán xong, ăn giòn tan mà ngầy ngậy, được mẹ để dành trong chiếc lọ thủy tinh, lần hồi đem ra xào nấu. Chiếc lọ ấy cứ vơi dần mỗi khi một đứa trẻ ăn vụng mở chạn.

Tôi nhớ hồi còn học đại học, thấy trên vách hàng cơm bình dân nào cũng có một túi nilon lớn đựng tóp mỡ khét lẹt, dùng để chưng với cà chua, nấu canh dưa như là một thứ xa xỉ.

Về chợ quê, có nơi tóp mỡ ê hề, khét lẹt, được trưng ra trên cái sàng đầy bụi, bám toàn muối hạt trắng xóa, bữa cơm của người nông dân có cả món ấy, mặn chát, nhưng cũng ăn dè được vài bữa.

Lâu rồi không được ăn tóp mỡ thấy thèm thèm, nhớ ngày nào mẹ đi chợ về, trong làn có miếng thịt mỡ trắng phau, lát nữa sẽ biến thành những miếng tóp mỡ nóng hổi, dính ít thịt cháy thơm thơm. Thế đấy, lúc ngồi đầy bàn cao lương mỹ vị, chỉ ước trở về tuổi thơ, ăn những thứ mà giờ ở chốn thị thành chỉ còn là dĩ vãng.

Đi ăn chay, có lần bắt gặp một miếng, rất giống tóp mỡ, cũng dai dai, ngầy ngậy, hỏi ra mới biết đó là tóp mỡ chay, làm bằng cùi bưởi rất khéo. Cùi bưởi hăng hăng đắng đắng, phải ngâm nhiều lần, biến thành ra một thứ gần như mỡ phần, các sư thầy mỗi lần nấu canh, xào rau, cho vào, rất béo và bùi lúc ngấm gia vị.

Tóp mỡ, đó là tuổi ấu thơ, là ký ức thời bao cấp, là niềm vui bỏ lọ, là sự thèm thuồng tiếc nuối. Và giờ đây, tóp mỡ chay, sự tài hoa, kết tinh trong tình yêu chay tịnh.

Giờ thì người ta chuyển sang ăn dầu, ăn dầu là văn minh, là sành điệu. Các bà nội trợ phân định đẳng cấp bằng cách hỏi nhau về dầu. Nhà nào ăn dầu xịn là nhà ấy tất phải giàu có.

Chỉ vài chục năm trước đây thôi người ta ăn mỡ, tất nhiên ở quê bây giờ vẫn có nhà ăn mỡ, đây là nói ở nơi đô hội phố phường. Một bà dạng háng ra ở giữa Hàng Ngang, Hàng Đào nấu gì cũng dùng dầu, sẵn sàng nhổ nước bọt khinh bỉ những người mà giờ vẫn còn đề cập đến mỡ. Người nông dân đi qua cổng làng, trong gánh gồng từ chợ có khi có miếng mỡ, về rán đút vào cái thẩu đất xó bếp, lúc ăn mới cẩn trọng xúc một thìa cho vào chiếc chảo không bao giờ rửa, đen ngòm, chỉ cần đặt lên lửa là đã thấy bóng nhoáng. Chả biết là ăn cái gì mới là quý tộc, cũng không quan tâm đến ăn dầu hay ăn mỡ thì nhân cách còn người ta thăng tiến ra sao, nhưng rõ ràng có những món ăn những kẻ khôn mồm cứ khăng khăng là phải dùng mỡ.

Thế kỷ 21 rồi, cũng không thấy ai sang vay gạo, mắm, mỡ nữa, thì mình lại muốn đi vay vào quá khứ một chút dư thừa, cái di sản trong xó bếp, chẳng hạn một cái hũ gốm Luy Lâu đáng giá hàng ngàn đô đựng mỡ chẳng hạn.

Còn người ăn chay thì lại khác mình nhiều lắm, không dấy lên trong quá khứ, chẳng tưởng về tương lai, cứ hằng thường trong hiện tại, nên chuyện dầu mỡ đối với sư thầy dành cho các bà vãi lo toan, đến nỗi mà chai dầu nành kia có cạn mấy hôm rồi cũng chẳng bấn loạn gì.

Bởi nhà chùa trước kia cũng chả dùng dầu, thảng hoặc có món xào thì đều dùng nước cơm cả. Rau muống sau mưa, non nõn, nhặt, rửa sạch, chần qua cho mềm, bắc chảo lên, rồi khi đến khi đủ độ nóng mới rưới nước cơm vào, đảo đều cho ngấm gia vị, ăn cũng chẳng khác xào với mỡ là mấy.

Thế mới biết đằng sau bậc tam quan nâu sồng, cũng nhiều chuyện mà người phàm tục thấy lạ. Những chuyến tàu thu từ vùng cao đem về nụ cười sơn cước, óng ánh như những quả Trám đen trong hành lý của những người con Cao - Bắc - Lạng.

Mẹ tôi hồi nhỏ có lần suýt chết chỉ vì một cây Trám cổ thụ bị mọt lâu ngày đổ gục giữa rừng xứ Lạng. Cây Trám to lắm, bản thân tôi từng nhìn thấy ở quê nội - Tam Nông - Phú Thọ những cây Trám cao ngót nghét chục mét, rộng một hai người ôm. Thoạt nhìn thế thì có vẻ thu hoạch Trám là quá khó khăn bởi cây Trám thẳng đứng, quả lại ở trên cao.

Đến mùa Trám, người ta lấy đinh hoặc đai sắt đóng hoặc đánh vào thân Trám. Thế là chỉ một đêm Trám đã rụng đầy, tha hồ lượm.

Trám ở chợ xuôi giờ cũng nhiều, cả Trám trắng Trám đen, người ăn chay mua về luộc, muối, ăn với muối vừng rất bùi, béo, dân dã mà thanh tịnh.

Sau mỗi buổi ngồi Thiền, một bát cháo trắng ăn với Trám muối là nếp thực dưỡng của những hành giả vùng cao.

BÚN KHMER

Ăn uống ở Giản Phố Trại

柬埔寨

Cambodia, nghĩa là chưa thoát khỏi vùng ảnh hưởng văn minh lúa nước, hết mắm bồ hóc rồi lại côn trùng, những đồ mới thoạt nhìn thì một người Châu Âu phải quay đi kinh tởm, nhưng ăn thì lại thấy cũng có lý. Bon chen trong cái địa bàn yêu gạo tẻ, thích cá ghét thịt này, tìm mãi mới được một cô bé nói tiếng Anh theo kiểu "Xờ ten đợt Ing Lís" (Standard English), tuy cũng thấy khốn nạn vì nhiều lúc thấy toàn Br với R, nghe rất khó, bụng nghĩ ối chao ôi thứ tiếng Anh xứ Thốt nối, ấy vậy mà cũng học được một từ khá hay, Khmer noodle, chỉ chung Kuyteav và Nom Bagnchok, tức cái mà người Việt mình gọi là Hủ tiếu Nam Vang vậy.

Kuyteav và Nom Bagnchok chế nước dùng từ xương lợn, ngọt đậm vị thịt băm, sợi hủ tiếu dai luộc qua, trộn tỏi, hành phi bỏ vào bát lớn, bày lên trên tôm, cua, mực, gan lợn, tim lợn, bầu dục, trứng chim cút hoặc trứng bồ câu, giá đỗ, hành, mùi, cần tây, hẹ, tần ô, tỏi rồi chan nước dùng đang sôi vào, vắt chanh, ăn nóng. Ngoài nước dùng bằng xương lợn,  có thể dùng canh tôm hoặc canh cua.

Kuyteav và Nom Bagnchok là nguồn sống của hàng nghìn thị dân Kampot, những người hàng ngày quần quật tay quay nước mía, miệng nói bún Khmer.

HEE CHEONG CHOOK

Người Xá

輋族

) - một chi của người Dao đã để lại dấu vết tại Hồng Kông, minh chứng cho những gì tồn tại trước đây hàng ngàn năm với các chiến cụ Bách Việt. Từ Hà Nội tới thăm vạn chài Hương Cảng khô cằn, bàn tay hằng nâng niu tiền Việt, giờ nắm chắc Dollar trong nỗ lực tìm kiếm được một nơi nào mang đậm bản sắc anh hùng, giàu có màu cổ trang, hoặc câu chuyện họ Lý đã kể những năm thập kỷ bảy.

Trong khi Hồng Kông mở liên hoan điện ảnh cho gái điếm, các cô gái làng chơi đẹp như minh tinh, tràn trề ham muốn nhục dục ở Sai Yeung Choi (

西洋菜街

 bước ra từ các bộ phim xxx kéo tay, những mong muốn thám hiểm trên lại được đền đáp bằng những bát cháo Chee Cheong Chook nóng hổi.

Có du khách nói nếu đến Hồng Kông và Tân Lang (Penang), chỉ cần một lần nếm món cháo Chee Cheong Chook thì sẽ không có thấy các món khác còn xứng đáng gọi là cháo nữa. Ở Penang, những ông chủ hàng Chee Cheong Chook liền tay, mồ hôi nhễ nhại khiến tôi nhớ đến món cháo chửi ở Hà Nội, nhất là vào khoảng hơn một giờ chiều, khi các thực khách bu kín như đèn cù.

Thực chất Chee Cheong Chook là Trư Trường Chúc

肠粥

, chính là món cháo lòng quen thuộc. Liếc nhìn những cặp môi đất khách, móc bóp cho vững lòng rồi mạnh dạn, đĩnh đạc bước vào một quán nhỏ ven đường vào một buổi chiều, chỉ mong thấy được phong vị Việt trong cái nồi đang sôi sùng sục.

Chee Cheong Chook trơn tuột trong cổ họng, cũng khúc lòng, dạ dày, lẫn bên trong vài miếng lưỡi lợn, nóng nảy giữa cái ngột ngạt, nhưng không hề gì, cả không gian nhường chỗ và e ngại khom mình trước mùi lòng rán thơm lừng.

Ở Hà Nội, ăn cháo lòng người ta ăn tiết canh, trước khi đụng đũa vào đĩa lòng tổng hợp đầy đủ, tim gan phổi phèo với lệ bộ húng quế, rau thơm. Vượt qua vị trí bình dân, cháo lòng vươn lên những buổi chiêu đãi tầm nhà nước trong các nhà hàng, khách sạn sang trọng. Trong cơ quan, giờ nghỉ trưa, có thể thấy đầy đủ trưởng phó các kiểu mặt đỏ ngừ, chém tay ở các quán cháo lòng Hai Bà, Chợ Đuổi....

Sau những phút hùng hồn, những cuộc diễn thuyết say sưa, chữ ký, các dự án mới được khóa đuôi bằng bát cháo lòng thơm phức, được một em váy ngắn đùi dài bê tới, xinh đẹp, ngon lành, cay rồ dại như ớt bột, hạt tiêu, đỏ đen, mê man bất tận.

Nhớ thời xưa đàn ông thèm lắm một bát tiết, nhà nào thịt lợn là sáng sớm đã có ông quần Pické mông thật lớn, cưỡi chiếc xe đạp Phượng Hoàng đạp nặng như cái cùm, dõng dạc đứng đầu ngõ nói vọng vào, hỏi thăm rằng tiết canh đã đánh, quả bầu dục cháu bé đã ăn chưa..., bữa liên hoan gia đình tôi thuở ấy, có những con mắt thèm khát nhòm từ ngoài vào, có những tiếng xuýt xoa, tiếng bố mắng sao mà ăn nhiều, húp cháo xùm xụp. Nhìn tấm ảnh cũ thấy thời gian đáng sợ biết bao!

Lọ mẻ

Từ thời tiền sử, bắt đầu có Nền Văn minh lúa nước. Trên dải đất hình chứ S thân yêu của chúng ta, nhất là khu vực Đồng bằng Bắc Bộ, đã hình thành những phong tục và phong tục đó ăn sâu vào đời sống cộng đồng cư dân. Một trong nhiều phong tục đẹp đó là ăn trầu vỏ và nấu dấm, chế biến các món ăn dân dã bằng mẻ cơm… Chính vì vậy mới xuất hiện hai vật dụng đi kèm là: chiếc Bình vôi và lọ Mẻ cơm trong nhà.

Tôi đã gắn bó với mảnh đất quê suốt cả quãng đời mình và đắm vào phong tục, đắm vào ca dao, dân ca, tục ngữ nên hiểu thế nào nét quê, duyên quê… Một miền quê mà tôi đau đáu cái tình, đầm đầm cái nghĩa, vợi vợi cái thương. Sắp sang xuân, người ta hay mơ đến những lề tục mới thời thượng như: mai, đào thế, quất thế…, nghĩ đến lẩu và thịt thú rừng… Tôi lại nghĩ về điều giản đơn dân dã, nghĩ đến quá vãng của mình với cái sơ giản đến dị mọ, cái bình thường vật chất mà đời sống hiện đại và dư thừa hôm nay coi là tầm thường.

Có lẽ, thế hệ tôi còn duyên nợ với quá khứ, bởi quá khứ là sợi chỉ mỏng manh nhưng bền chặt, gắn chúng tôi với cuộc đời, nếu đứt đoạn, chúng tôi như rơi vào cõi thẳm. Không có hoài niệm đau đáu về quê, tâm hồn mất đi sự đằm trong cảm xúc.

*********************

Ngày còn sống, Mẹ tôi mắng yêu mỗi khi tôi vét nồi cạo cháy, Mẹ bảo: Cái thằng Cu Tý ăn hết cả phần mẻ. Nhà tôi có vại mẻ chua làm bằng cơm chín. Vại mẻ là cái âu bằng đất nung chứa khoảng 3 lít nước, Mẹ bỏ cơm vào đấy, sau đó sang nhà Cậu tôi xin một ít mẻ đã nhuyễn về rắc lên và đậy kín vung lại rồi cho vào góc trong cùng cái chạn bát. Dăm ngày sau đem ra, có mùi chua ngái bốc lên, những hạt cơm bị “vữa ra như mẻ”… Nghiêng cái âu mẻ nhà mình ra ánh nắng, tôi thấy hàng ngàn vạn sự chuyển động li ti trên mặt, đó là vi khuẩn có ích đang hoạt động để phá vỡ kết cấu tinh bột hạt cơm, chuyển hoá từ cơm sang mẻ… Những ngày kế tiếp, mẹ giao cho tôi phụ trách việc đổ cơm “ương” mẻ… Tôi là con trai nên dùng vào việc này vì nó “chay tịnh”. Mấy chị tôi,con gái con lứa không được giao, nhất là ai có chửa và bị “bệnh tháng” là cấm múc tương hay khều mẻ. Động vào, y như “Tương kháng - Mẻ dở, cà thâm, dưa khú”… Chả ai biết can cớ ra sao nhưng đều này rất nghiệm… Kinh nghiện dân gian ấy mà, tôi biết thì thưa nên các bạn khác giới đọc điều này, thể tất đừng giận tôi. Tôi yêu phụ nữ "đạt huy chương vàng hội chợ đàn ông" đấy, nhưng thế gian vẫn có lệ không muốn gặp đàn bà đón ngõ và bao nhiêu thứ khác không cho đàn bà động vào sợ “xui”, sợ “bẩn”… Tôi chả kiêng, trái lại rất thích cái “bẩn” ấy. Đi đâu cũng thích có đàn bà đón ngõ là đằng khác.

Lại nói về vại mẻ cơm…

Sau khi vại mẻ đầy, có ngọn và sắp chạm vung, mỗi bữa, tôi đi học về, chạy ù ra bờ mương bắt dăm chục con cua, mang giậm đi làm ít cá... Đến bữa là kỳ cạch chế biến món ăn. Ngày đó đâu có mỡ và mỳ chính như bây giờ mà vẫn thấy ngon. Nồi riêu cua vàng rộm, cái váng gạch cua lờ phờ giữa nồi, mở vung có mùi chua ngậy. Nồi dấm cá với những con cá bé teo, tanh vèn vẹt, nấu hổ lốn với mẻ, kiểu cách hơn, giã tí nghệ cho đỡ “trắng như mắt ma”, đánh lừa cái miệng người ăn. Chị em tôi lắc lẻm chan húp, xì xoạp khen ngon… Nồi cơm hết veo. Mẹ tôi đứng dậy trước và dặn mấy đứa: Đừng ăn hết phần mẻ... Cái Lân hôm nọ sang xin, con bé đến đoảng, bụng chửa phê lê mà dám mở vung lọ mẻ người ta…

Rồi đình đám to trong làng. Người ta thui sọ, tai lợn bằng rơm cho vàng, sau đó bóp giềng, mẻ, mắm tôm vào làm giả cầy. Vắng mẻ bất thành cỗ ấy chứ.

Còn vô vàn món ăn phải dùng mẻ cơm mà thiếu nó không tài nào ngon cho được.

Lại nói chuyện vui về việc cho mẻ ăn: Ông Cậu tôi bày cho cách nuôi mẻ nếu bỏ đói dài ngày cũng không chết. Tôi lấy một khúc xương lợn to và rắn đã qua ninh luộc (loại này là lộc của chó nhưng chó cũng đầu hàng) rửa sạch vùi vào dưới âu mẻ. Có khi đói quá, tôi xúc vụng cơm ăn rồi đổ tội là đã nuôi mẻ. Tôi là thằng ăn hớt, ăn gian cả phần mẻ khi đói.

Ở nhà quê, ai cũng có vại mẻ và người ta cứ nhìn mẻ mà đoán vận nhà mình. Nếu mẻ ngấu đều từ vành đến giữa là “phong đăng hoà cốc” và ngược lại... Tôi có bà chị bị hen phế quản, một bận chị lên cơn cấp tính suy hô hấp và gần chết. Mẹ tôi cuống lên thắp hương bàn thờ lụp cụp lạy rồi chạy xuống bếp lôi mẻ ra soi. Mẹ bảo: Nó không chết, Mẻ nhà ta còn ngấu lắm… Vừa hay, có anh Y Sỹ ở trận địa pháo chạy vào. Anh tiêm thuốc giãn phế quản thế là khỏi và anh chị từ đấy yêu nhau… Giờ anh ấy là anh rể thứ 2 nhà tôi…

*******************

Vại mẻ đã song hành cùng cuộc sống con người nhưng có lẽ chỉ vùng nông thôn mới có… Mấy bận về thành thị, tôi ăn riêu cá, riêu cua nấu bằng quả me nên cảm thấy nó “cứng” chứ không ngon như nấu bằng mẻ cơm.

Năm hết tết đến, trưa nay tôi mơ thấy mẹ về mở vại mẻ và lặng lẽ bỏ đi… Tôi giật mình, xuống bếp xem vại mẻ… Vại mẻ vẫn đầy và ngon, lòng tôi thoáng buồn. Chỉ có 2 vợ chồng, mà tôi lại đi suốt năm tháng, lang thang cơm đường cháo chợ thì ai ăn mẻ… Ơi cái vị chua ngái! Ơi cái quá vãng đã qua! Ơi cái yên ấm năm xưa có bao giờ trở lại…

Tôi đi lượm ve chai

Trên suốt đoạn đường, tôi bắt đầu dáo dác nhìn, không phải là nhìn cây cối, đường sá, cũng chẳng phải nhìn những dòng sinh viên quần áo tinh tươm hối hả đến trường cho kịp. Chẳng hiểu sao tôi lại thầm cảm ơn những người “vô ý thức vệ sinh” khi quăng chai lọ bữa bãi. Họ quăng bừa bãi dọc đường như thế nên tôi (và những đứa nhỏ này) mới có cái để nhặt, để kiếm tiền.

Nói thì nói vậy thôi, đi gần một tiếng đồng hồ, kiểm kê lại sản phẩm tôi mới nhận thấy rằng, những chai lọ kiếm từ các sọt rác hay dọc đường ít hơn nhiều so với số chai lọ các em xin được từ các phòng trọ. Có lẽ sinh viên ở một số khu trọ khá quen thuộc với các em nên khi thấy tiếng cười đùa của các em là họ vẫy tay vào để đưa các chai lọ mà khi uống nước xong họ để lại cho các em. Bài học cảm ơn tôi dạy các em đã được các em thực hành trong những lúc này. Sau khi nhận được mớ ve chai, chúng cám ơn các anh chị rồi ra một chỗ trống để chia đều cho nhau. Cái nào dư ra thì lại oẳn tù xì. Tôi cũng được tham gia trong phần ăn chia này. Ngoài ve chai, hôm đó cũng có một sinh viên cho các em một đống sách báo cũ và giấy vụn. Những xóm trọ sinh viên dường như khá quen thuộc với tiếng chào hỏi “hôm nay có chai nào không anh?”. Đáp trả của các sinh viên là cái lắc đầu hoặc hành động đứng dậy lục lọi trong phòng xem có thứ gì không. Các em cũng dẫn tôi đi xin nước uống ở phòng trọ mà các em quen. Hơi xúc động tí xíu khi chúng xin nước rồi mời tôi uống trước trong khi môi đứa nào cũng khô ran.

Trong khi rất nhiều các bạn sinh viên bằng một hành động nhỏ bé đã giúp đỡ các em thì không ít các phòng trọ treo bảng: “Cấm ve chai đi vào”. Tôi còn nhớ hôm đó, tại một quán nước gần ngã ba Nhân văn - Tự Nhiên, một cặp sinh viên uống nước xong liền vứt chai xuống chân và đứng dậy trả tiền. Mắt tôi sáng lên và nhắm vào mục tiêu. Tôi la “Anh xí hai lon kia”. Mấy đứa nhỏ kêu: “Đừng lấy thầy ơi, cái đó của người ta, người ta chửi đó”. Tôi chẳng tin. Chắc tụi nó không xí được nên ghen tị đây mà. Vả lại tôi nghĩ đó cũng chỉ là rác bỏ đi. Tôi nhặt lại người ta không cảm ơn thì chớ, chứ chửi mắng gì. Tuy nhiên tụi nhỏ có kinh nghiệm, vả lại chắc chúng nói thật. Tôi hơi phân vân nên bước nhẹ nhẹ đến. Vừa cúi xuống nhặt cái lon chưa kịp ngẩng đầu lên thì một  tràng liên thanh nổ lên: “Cái lũ mất dạy, trưa không ở nhà ngủ lại đi rình rập ăn cắp”. Ôi trời, có nhầm không vậy? Tôi nhặt cái lon bỏ không cơ mà. Tôi ngượng quá với tiếng mắng của bà ấy nên vứt lon chạy thẳng ra mấy đưa nhỏ rồi phóng đi thật nhanh. Thì ra những người bán quán ấy sau khi bán nước cho khách xong cũng thu lại các vỏ chai để bán. Những đứa nhặt ve chai đừng hòng được đụng đến. Tôi chợt nhìn lại mình. Tôi cũng nhỏ người như đám trẻ. Da cũng đen do bắt nắng, quần áo thì bẩn do lau chùi tùm lum và cả mồ hôi nữa, nhìn cũng lem luốc lắm. Chắc lúc đó bà chủ quán không biết tôi là sinh viên nên mới mắng chửi vậy. Vậy là tôi làm thằng lượm ve chai cũng khá mà. Một nguyên tắc mà các em “quán triệt” là đi nhặt ve chai chứ không đi ăn xin, tuyệt đối không mở miệng xin tiền và không ăn cắp. Tôi trực tiếp dạy chúng học chữ cũng như lồng vào đó các bài học làm người. Chuyến đi này làm tôi tin tưởng và tự hào hơn về những đứa trẻ này. Tuy vậy, còn khá nhiều người đánh đồng các em lượm ve chai là những kẻ trộm cắp hay ăn xin. Chính định kiến ấy khiến các em bị kì thị, xa lánh thậm chí là chửi mắng nguyền rủa. Định kiến ấy xuất phát từ việc khá nhiều vụ mất trộm là do những người lượm ve chai lợi dung sơ hở ăn cắp đồ. Tuy nhiên, đánh đồng tất cả thì quả thật là thiệt thòi cho các em quá. Theo các em, mấy đứa ăn trộm đó là đám trẻ bụi đời ở Suối Tiên. Những đứa trẻ ấy đi lượm ve chai, bán vé số rồi ăn cắp hoặc xin tiền các sinh viên.

Thấy tôi khá mệt nên các em ngỏ ý về sớm. Thằng Tí đòi đi nhặt tiếp nhưng bị thằng Phi đá cho một cái vào đít. Vậy là hôm nay có mặt tôi nên chúng về sớm và không dám đi xa. Thằng Thương buộc dây kéo lê cái bao ve chai dọc đường, thằng Tí chạy theo. Thằng Phi thì vác bao trên vai. Tôi cũng khá mệt với bọc “sản phẩm” trên lưng vừa la í ới sợ hai thằng nhóc kia đụng xe. Trên đường về gặp mấy đứa anh em cùng trong đám lượm ve chai và cùng lớp, chúng đang chơi trò ném lọ. Vậy là, chúng ùa vào chơi ném lọ. Mỗi đứa đặt một lọ ở trên một cái mức, sau đó dùng dép ném, mỗi lần ném một cái, lọ nào ngả thì được lấy, ném đến khi nào hết lọ trên mức thì hết lượt. Tôi cùng bọn nhỏ chơi đến gần 4h chiều. Lúc đó thằng Tí và bé Tuyền chơi thua gần hết nên nghỉ để chừa lại mấy cái mang về. Những chai lọ lượm về sẽ gom lại. Đến khi nhiều nhiều rồi chở ra bán cho vựa ve chai quen thuộc ở ngã ba. Ngoài ra, một số đứa lớn 13, 14 tuổi còn đi đào các cây sắt ở các nhà đang đập phá. Tôi còn lại mấy chai nên chia cho mỗi đứa vài cái. Kết thúc ngày đi lượm ve chai. Kể từ hôm đó, tôi có thêm một thói quen mới, một công việc mới: đi ra đường bắt đầu chú ý hơn những sọt rác hay các chai lọ ven đường. Tôi cũng thu gom các chai lọ tại một số phòng trong kí túc xá, cuối tuần lại nhét vào ba lô mang đem cho các em. Chúng túm lại, nhận rồi chia nhau rộn ràng như một món quà thật sự làm tôi cũng vui lây. Gần ba năm gắn bó với những vui buồn của bọn trẻ. Tôi hạnh phúc khi nghĩ lại những bài học tôi dạy cho chúng và chúng dạy cho tôi. Bây giờ có lẽ chúng vẫn đang rong ruổi trong những ngõ ngách của các dãy trọ, đôi mắt chúng cũng đang dáo dác nhìn vào những thùng rác, đôi tay đang cào bới những thứ người khác bỏ đi để có cái tồn tại. Và rồi thế nào nữa…

Tết tuổi thơ

Quê mẹ ơi, con lại về đây khi những nụ đào hồng chúm chím. Chim én xập xoè trên mái ngói lô xô. Những thửa ruộng trồng màu đã nhuộm vàng hoa cải cúc. Đường làng dập dìu mùa xuân về theo những bước chân.

Tết quê mẹ, đã bao năm rồi xa xôi lắm với  đứa con gái lấy chồng xa. Để mỗi độ xuân về, khi phố xá rộn ràng, sau tấm cửa kính ánh đèn màu lấp lánh trên những cây thông, những chiếc chuông nhỏ nhỏ xinh xinh, những băng rôn đỏ chào đón năm mới, tất cả lại gợi cho con gái mẹ niềm hoài niệm về Tết quê.

ết quê mẹ, giản dị mà thân thương biết nhường nào! Nhớ thời thơ ấu, những ngày giáp Tết là những ngày chúng tôi mong mỏi. Ngày 25 chợ phiên, bọn trẻ con trong xóm í ới gọi nhau đi chơ quê sắm Tết, 1 đôi dép mới, một chiếc kẹp tóc có bông hoa đỏ xinh ... chỉ là những thứ nhỏ nhỏ xinh xinh mà cả mấy chị em cứ giữ cái niềm sung sướng mong mỏi Tết về để diện.

Những ngày nghỉ trước Tết, bọn trẻ con chúng tôi cũng rộn ràng chuẩn bị dọn dẹp, trang hoàng nhà cửa để đón Tết. Chúng tôi tỉ mẩn ngồi dán những quả cầu đỏ treo trong nhà, những chú thiên nga được xếp bằng giấy trắng để bày ở tủ trang trí, hay dán những chiếc hộp xinh xắn sặc sỡ sắc màu để bày bánh kẹo trong mấy ngày Tết. Những việc làm nhỏ bé ấy thôi ,bọn trẻ chúng tôi cũng đã mang mùa xuân vào nhà.

Đến ngày 29 thì nhà cửa đã sạch sẽ tinh tươm. Ông nội tôi cẩn thận xếp mâm ngũ quả trên bàn thờ lúc này đã đủ sắc màu. Ông tôi giảng giải rằng chuối xanh ứng với mùa xuân (hành mộc), phật thủ màu vàng tượng trưng cho hành thổ, hồng và các loại quả màu đỏ ứng với hành hỏa, các loại quả màu trắng (đào, roi…) ứng với hành kim, mận, hồng xiêm ứng với hành thủy.

Buổi sáng chúng tôi theo mẹ ra ruộng rau thơm, cắt những bó mùi già về nấu nước tắm trong hai ngày cuối năm. Men theo cả những thửa ruộng đã cày vỡ đất, chúng tôi đi nhặt những cây bánh khúc. Khúc có nhiều loại, có khúc nếp, khúc tẻ, tùy từng vùng và chất đất mà khúc có mùi khác nhau. Cái mùi của khúc hòa trộn với hương vị xôi nếp mới, có một chút đậu xanh và một miếng thịt mỡ nho nhỏ tạo cho người ta một cảm giác hấp dẫn.Mẹ tôi thường bảo , muốn xôi khúc có hương vị thơm đặc trưng nên chọn rau khúc nếp có lá bản nhỏ, dày bụ, màu bạc, được hái lúc ra hoa là tốt nhất, bởi hoa khúc càng già thì hương vị xôi càng đậm.

Sáng 30-khi trời còn tờ mờ sáng, những tiếng kêu liên hồi của những chú lợn bị chọc tiết khiến bọn trẻ con chúng tôi không thể ngủ thêm được nữa. Làng tôi có tục đụng lợn cuối năm. Bọn trẻ con chúng tôi theo bố mẹ tới chỗ giết lợn. Mấy thằng con trai theo dõi chăm chú,chờ đợi háo hức để lấy được cái bóng lợn đem phơi khô rồi thổi lên làm bóng, đá rất dai và nẩy. Hôm thịt lợn “đụng” gia đình nhà nào cũng có một bữa tươi trước Tết khá thịnh soạn trong đó không thể thiếu món lòng lợn, tiết canh. Phần tai và mũi bố tôi đem chế biến cuộn tròn bó bằng lá giềng tươi. Mẹ tôi thì chuẩn bị gói bánh chưng. Mấy chị em tôi chạy lăng xăng giúp mẹ cái này cái kia. Bánh mẹ tôi gói rất đẹp,chặt tay và vuông vắn.Năm nào mẹ cũng gói cho chúng tôi mấy chiếc bánh tí hon không có nhân đỗ vì cả mấy chị em đều chỉ thích ăn phần gạo trong bánh. Chị em tôi đứa nào cũng hớn hở, buộc những chiếc bánh vào hai đầu một chiếc gậy,gánh gánh, gồng gồng cười như nắc nẻ chạy khắp sân nhà. Bánh gói xong được mẹ xếp gọn gẽ vào một chiếc nồi khổng lồ.Cái bếp bố đắp mấy ngày trước củi lửa đã sẵn sàng.Chúng tôi đảm nhận nhiệm vụ canh nồi bánh. Mấy chị em tôi rủ thêm mấy đứa trẻ hàng xóm,kiếm thêm một cỗ tam cúc.Bên bếp bánh chưng, chúng tôi lại có một trò chơi thú vị:Trò đánh tam cúc quệt nhọ nồi. Những hình mặt mèo,những cái chán đen nhánh có hình mặt trăng giống ngài Bao Công,những nụ cười lọ lem là một mảng kí ức mà sau này mỗi khi nhớ về tôi đều bật cười một mình.Trong căn bếp lụp xụp ấm áp, mấy đứa trẻ chúng tôi mặt lem nhem nhọ nồi,hà hít thổi những củ khoai lang nóng hổi vàng tươi, ngọt lịm được nướng từ thàn bếp. Những ngày cuối năm cứ trôi đi rộn ràng với những niềm vui như thế!

Thời gian thấm thoắt thoi đưa, đã bao năm tôi tôi ao ước 1 cái Tết giản dị như Tết tuổi thơ. Lòng mong ngóng được 1 ngày không xa về với quê mẹ bên bếp lửa hồng ấm áp nồi bánh chưng để tận hưởng những hương vị ngọt ngào nhất của ngày Tết Việt theo đúng nghĩa!

Chó - L

Lợn, Bắc Lừa gọi thế. Nam Lừa gọi là heo, trẻ con xem Tam quốc hay gọi là Trư Bát Giới.

Về cơ bản lợn chỉ có hai giống là đực và caí, anh chưa từng thấy lợn pê-đê hay ô-môi bao giờ nhưng lại có nhiều loại như lợn moị, ( ta vẫn thuờng biết dưới tên lợn Muờng hoặc Mán), lợn lai( một thời có cái đuôi@ kinh tế), lợn sề ( giống chuyên dùng để đẻ)...thêm vài chủng lợn ngoại nữa, tỷ như Đức lợn, Trung quốc lợn, Úc lợn...Đấy là chưa kể thêm vài giống lợn hoang khác như lợn loì, lợn rừng, lợn meò...Thế mới hay cái giống lợn cũng đa dạng và phong phú lắm. Bàn dông dài thế để thấy sự trân trọng anh dành cho lợn đến cỡ nào.

Đại Lừa là nuớc nông nghiệp mà đặc trưng của một nuớc nông nghiệp là nguời dân phải biết chăn lợn và trồng rau. Tuy thế đã có một thời Lừa chỉ chú trọng phần trồng rau mà quên đi mất phần nuôi lợn nên mới có chuyện lấy phân nguời tuới rau là vậy. Đến khi phân nguời cũng hiếm mới sinh ra sáng kiến lấy rau làm phân, dân Lừa không gọi là phân rau mà gọi là phân xanh cho nó...cách mạng. Rồi trong bữa cơm có miếng tóp mỡ lợn cũng là điều xa xỉ. Nói như vậy là một thời nguời ta không đánh giá cao vai trò của lợn.

Thời nay, nhờ chính sách đổi mới cơ cấu nông nghiệp và phát triển nông dân mà lợn đựoc nuôi nhiều hơn, theo uớc tính Đại Lừa có đến 12 triệu lợn. Khi mà các chính sách nuôi bò thất baị, nuôi gà vịt không ăn thua lại hay dịch bệnh, nuôi chó phải xin phép, hay cắn nguời và phát daị....thì nuôi nhiều lợn kể như là phù hợp. Và trong tuơng lai, sữa lợn là nguồn thức uống chính cho các chaú, là nguồn dinh dưỡng cơ bản cho tuổi già. Lợn muôn năm.

Từ xa xưa, lợn vẫn bị gán cho tiếng xấu là tham ăn, ngu dốt và...dâm đãng. Đại Lừa ta gọi phim địt chắc là phim...con heo, có lẽ là xuất phát từ đặc trưng này của lợn chăng?

Nhớ thời xa xưa khi đang còn ở nhà quê bêu nắng, bắt chuồn chuồn, mẹ khoán cho ngoài giờ học phải chăn 2 con lợn nái ( giống lợn sề, chuyên dùng để đẻ). Khổ nhất là những khi đến kỳ 2 con lợn này huớn ( động dục) là chúng kêu rên suốt ngaỳ, phá chuồng phá cũi ghê lắm. Những khi như thế là chúng bỏ ăn, sục mõm vào cám rồi hất tưng đi, vô cùng dữ dội. Thú y xã huớng dẫn sinh sản phải khoa học để duy trì chất luợng con nên sau 1 lứa phải bỏ một lứa. Đúng kỳ, mẹ lại bắt ra hợp tác xã mua chịu của chú Tuyết bán tinh 1 lọ tinh rồi về bơm vào xi-lanh, lợn con ra đời bằng cách đó. Nhà nào không thích nhân tạo thì cũng có chú Tuyết, ngoài nghề bán tinh, chú còn có một con lợn đực to như con trâu chuyên quất đi cùng làng cuối ngõ thụ tinh rong theo lối...tự nhiên cổ truyền. Trông con lợn đực giống ấy mà khiếp, nhất là quả dái phân phối giống, dễ phải nặng đến gần một yến.

Giống lợn thuờng có tật hay đẻ vào lúc nửa đêm về sáng. Truớc khi chuẩn bị nằm ổ là chúng xục xạo vơ rác, ôm rơm. Những lúc như thế, mẹ lại sai đi xin rơm lót ổ, lại còn bắt treo một cái đèn bão ở cửa chuồng để khi lợn đẻ không xéo nhầm phải con và điều quan trọng là soi cuớp bộ nhau thai để mai bố làm nón nuớng băm viên ăn kèm bánh đa uống ruợu. Lơ mơ là chúng nó xơi mất hay ỉa phân lên thì...ăn cứt! Mỗi một lứa như thế tuỳ theo tinh tốt hay xấu, chất luợng chăm chút thế nào mà dao động ở khoảng cộng, trừ 10 con/lứa. Những con lợn chẹt quá ( coì) thì mang đem cho ông Cam đầu ngõ nấu cháo ăn dưỡng già, mấy con này mà có để nuôi thì một là chết vì yếu, không tranh bú đựoc hoặc có sống thì nuôi vạn đời vẫn cứ bằng...nắm đấm, giống này quê anh gọi là lợn...trớt cộm.

Xem đàn lợn con hồng hào rúc bú lợn mẹ mới thấy tranh Đông hồ đẹp. Các cụ nhà mình thật là nhân văn và tinh mắt.

Thuờng thì đàn lợn con chăn khoảng 2 tháng thì xuất chuồng đuợc. Nhà tuyền bán cho nguời làng ít khi phải mang ra chợ. Có nguời thì giả bằng tiền, nguời thì chịu đến mùa sau đong thóc. Ấy thế mà lắm khi mất không lợn giống cho họ vì nhiều nhẽ trong đó nhẽ phải tính đến là lợn chết. Chả đựoc ơn huệ gì còn mang tiếng xấu là bán lợn bệnh, lợn ma. Đến khỉ!

Cứ sau một lứa, cả nhà lại tập trung vào vỗ béo và phục hồi nhân phẩm cho lợn mẹ đặng mong chờ lứa sau chất luợng hơn. Chăm còn hơn chăm em bé. Mẹ, gặp phải cái thời thổ tả, quý lợn hơn nguời cũng là đuơng nhiên.

Cứ khoảng từ 3 đến 5 năm nhà anh thay nái một lần. Chăm tốt mấy thời tốt nhưng vẫn không cuỡng lại đựoc quy luật của thời gian. Lợn già thụ tinh khó đậu hơn hoặc có đậu đẻ  cũng không ăn thua là mấy, vừa ít con lại còn coì. Chắc là hết trứng. Cứ ngẫm so với cái giống nguời thấy đồng điệu lắm lắm, ít ra là về mặt sinh sản.

Thế là lại phải vỗ béo để từ lợn già thành lợn trẻ để bán cho cánh hàng xeo. Về cơ bản mà noí, trừ cái sự lê thê của cái vú sề ra thì trông cũng ngon mắt lắm. Cánh hàng xeo non kinh nghiệm còn phán xẻ thịt cũng phải đạt bảy thành ruỡi đến tám thành. Thế nhưng đám lão luyện nhìn biết ngay, thậm chí có thằng còn đọc vanh vách đã đẻ bao nhiêu lứa. Sự chuyên cần trong nghề nghiệp nó tạo ra kỹ năng. Có thằng nhìn đàn bà con gái đi ngang bấm đốt nón tay phán còn trinh hay đã hỏng đúng răm rắp. Thánh cực!

Chúng ép giá ghê quá nên nhà anh không bán. Mẹ bảo thôi gắng nuôi để đến tết mổ thịt ngoài sân kho hợp tác đổi thóc hay bán cho cả làng. Tính ra vẫn lời hơn bán cho đám hàng xeo, đã thế bộ lòng lại phần nhà mình, đổ dồi, đánh tiết canh ăn mệt nghỉ.

Mẹ anh quả toan tính như thần. Hai con xẻ thịt đúng dịp tết nhoáng cái đã hết veo, thu ngay tại chỗ cũng đuợc vài nghìn bạc cũ, sổ ghi nợ thóc thì dài đến ba trang giấy kẻ ô-li. Tết mà, nhà ai cũng phải có tý thịt treo xó bếp. Họ biết tỏng là thịt lợn nái sề, có khí dai nhưng nấu đông hay gói bánh thì dai cũng thành mềm hết. Đuợc ăn là tốt rồi!

Mẹ tiên sư hai con lợn, anh đã thoát kiếp chăm nó ấy thế mà khi nó băng hà cứu đói cho cả nhà vuỡn không chiụ tha cho anh. Qua tết, đến vụ mùa cứ đi học về hay thấy bóng dáng ở đâu là mẹ lại quát đi thu nợ. Cái thân còi quảy hai đầu thúng, nhà năm lạng, kẻ dăm cân hùng hục đi thu suốt muà. Mẹ, khổ nhọc hơn cái thời cám chấu.

Anh vẫn còn một cái sẹo to ở mông bên phải là kỷ niệm buồn cho dạo đó. Đi thu thóc nợ rồi bị chó nhà nguời ta nó cắn phaỉ. Đau đến tận giờ.

Cũng may, nhờ lợn và cái sự tảo tần có tính toán của mẹ mà anh có ngày hôm nay khi ngồi viết những chuyện naỳ cho các bạn ngửi.

Anh biết ơn mẹ và yêu lợn hơn cả Bác! 

Có lẽ sau con nguời, Chó đựoc nhắc đến nhiều nhất. Thôi thì đủ cả trong văn chuơng, thơ phú, tranh ảnh, hát hò...đấy là chưa kể đến hàng chục triệu cái mồm nguời Đại Lừa ta không ai là không nhắc đến chó 1 lần trong ngaỳ.

Cũng như lợn, chó có nhiều giống nhưng chó khác lợn là chó đến với nguời sớm hơn, bạn Gúc bảo mới anh thế. Và anh cũng đồ rằng không chừng chó còn có truớc cả nguời???

Nguời Đại Lừa ta khác với các nguời khác về sự đối đãi với chó. Tỷ như Tây, chó là bạn hay người yêu, bân bẩn như Taù, Nhật...chó còn đựoc nuôi làm cảnh, vài anh vớ vẩn khác chó còn đựoc để lên bàn thờ...Ta thì nuôi chó chỉ để dọn cứt, trông nhà và giết thịt. Thịt chó ngon, ở đời mà không được miếng thịt chó thì coi như chưa sống. Thời thổ tả một vai trò vô cùng quan trọng của chó là làm " công nhân vệ sinh" cho mỗi gia đình.

Thời đó, thức ăn của nguời là mạch, mì, sắn...độn gạo kho, muối nát. Mà muối cũng chả ra cái làm sao khi bàn tay cô mậu dịch bốc sỏi phả vào cho nặng cân. Ai ở vào thời đó nghĩ lại anh cam đoan rằng đều vãi tè hết. Đấy là  hẵng còn may đấy, khi hết những thức đó nguời lại còn ăn tranh sang phần lợn, đó là cám tốt nấu rau lang, ăn vào sít đặc cả cuống họng. Anh đã  đã từng ăn như thế!

Thức ăn cho nguời đã thế thời chó ăn gì? Thưa ngay, ăn đúng sản phẩm " quay vòng" của nguời qua đuòng hậu môn. Hay nói toẹt ra, thức ăn của chó là cứt nguời. Ấy thế mà cũng không đủ, nhiều giống chó còn nhằn cả cứt lợn, phân gà...nhưng anh chưa từng thấy chó ăn cứt chó bao giờ cả.

Với nhiều phẩm chất cao quý mà con nguời nhiều khi không có đựoc nên ở đâu Tây, Tàu hay ta, làm bạn, làm cảnh hay trông nhà, dọn vệ sinh, giết thịt...chó luôn đựoc biểu dương và tán thuởng. Nhưng cái sự biểu dương và tán thuởng ở Đại Lừa ta thì không giống ai. Nếu có hay ho thì chỉ trong văn chuơng, còn thực thì chỉ gói gọn trong 2 từ: đồ chó! Thật là đau diều!

Hồi anh còn bé tý, nhà đã nuôi chó rồi, những 2 con, một vàng, một mực và đều là đực cả. Thời đó, đâu phải nhà ai cũng nuôi đựoc chó thế nên 2 con chó nhà anh làm nhiệm vụ trông nhà cho cả xóm, dọn vệ sinh cho nửa làng. Mấy nhà bên cạnh có trẻ con, cứ đến khi xi ỉa xong là cứ tít tít, êu êu là chúng nó phi đến dọn baĩ, dọn luôn cả phần dính ở đít con trẻ. Thế mới có 1 chuyện chả biết nên cuời hay mếu khi cả 2 con tranh nhau liếm đít một thằng bé, cắn nhau ầm lên rồi xỉa ngay răng vào chym. Đi mất một nửa, may vác lên trạm xá kịp, vả lại trẻ con thời mau lành nhưng đến nay thằng kia gần 30 mà vẫn...có tật. Vợ nó trách mẹ anh mãi. Mấy đứa em ở nhà, cứ ỉa bậy ngoài vuờn xong là đỏ mặt tía tai chổng mông kêu chó đến lè luỡi liếm đít, có phần đạt đựoc khoái cảm nên cứ ư ử, thi thoảng lại ré lên nắc nẻ.

Ở đây bàn thêm một tý về sự đi ỉa thời thổ tả để thấy hết đựoc giá trị của nhà có chó. Thời đó đi ỉa bất luận ở vuờn nhà hay hố xí hợp tác xã thì chuyện chùi đít bằng giấy hay báo cũ là chuyện vô cùng xa xỉ bởi những thứ đó hiếm, có chăng cũng phải gom lại làm kế hoạch nhỏ, thi đua xyz tốt...Nếu như ở vuờn nhà thì cứ nhè gốc cây mà kịn hay lá chuối khô mà chùi nhưng đấy là nhà có cây lưu niên hay có chuối, phải nhà không thì kịn vào mõn đá hay bê đít ra ao mà cọ. Vất vả lắm lắm!

Hai con chó nhà anh sau chết mất một. Con này chết là do đoí, do tham và phần nhiều là do sự cẩu thả của con nguời. Đến phiên đánh hố xí HTX để lấy phân bón ruộng và nuôi cá bột, chả hiểu canh me thế nào để con chó nhà anh chui vào đuợc xực đẫy thứ phân gio lưu cữu của đông nguời rồi về truơng bụng lên và...chết. Cả nhà tiếc, đang tơ thế mà chết.

Con sót lại đâm ra suớng, thi thoảng lại đựoc bồi dưỡng cho tý cám, ít bột sắn nên trông khẻo khoắn và oai vệ lắm. Mà cũng phải thôi, đang kỳ chó tơ mà, có đói khổ mấy thì trông vẫn muợt cũng như khối em gái ở làng, ăn tuyền sắn độn, cám bột mà vẫn rực rỡ ở tuổi 17, 18 đấy thôi. Tạo hoá nó khéo khiến cái sự...nảy noì!

Khổ nhất là cái sự đi tơ của con chó nhà anh, lắm đêm nó bỏ đi đến sáng để tìm con caí. Nhưng khốn nạn, cả làng chả có con chó cái nào nên hồn, tuyền ốm nhách, ghẻ xù nên nó phải mò ra sau đê đi tơ chó làng khác. Kết quả là sau ít hôm, chả thấy bóng dáng đâu. Bố anh thở dài bảo thôi không nuôi nữa.

Nhà hết chó từ đó!

Bây giờ anh muốn nuôi một con lợn cảnh mới một con chó lai nhưng vợ anh không cho, bảo người đang không có chỗ chui nữa là lợn với chó. Anh buồn ngồi nói chuyện chó lợn, thế thôi@ 2005

CHẢ MỰC - ĐƯA TÔI VỀ VỚI KÍ ỨC TUỔI THƠ

Như là chỉ một mẹ thôi”…

Câu hát đưa tôi trở về tuổi thơ đầy ắp kí ức trong tình yêu bao la của mẹ. Tôi nhớ lắm… từ dáng đi, ánh mắt, nụ cười và đặc biệt là đôi bàn tay. Chính đôi bàn tay ấy đã tạo nên biết bao hương vị của quê hương trong từng

món ăn

. Để rồi hôm nay đi xa, lòng tôi nhớ mãi…

Với tôi, mẹ là người có ảnh hưởng vô cùng lớn lao trong cuộc đời. Mẹ dành trọn tình yêu thương và sự chăm sóc cho tôi. Tình yêu của mẹ giản dị lắm nhưng được ẩn chứa rất nhiều qua những món ăn tự tay mẹ

chế biến

. Với tôi, món ăn nào mẹ nấu cũng ngon, cũng đậm đà hương vị riêng. Nhưng

chả mực

vẫn là món tôi yêu thích nhất.

Để chế biến món ăn này, mẹ đã rất kì công và khéo léo. Bởi vì mực dùng để làm chả phải là mực tươi để chả thơm và dậy mùi. Để món chả mực được giòn và dai mẹ phải giã bằng tay. Khi mực đã giã nhuyễn mẹ gia thêm chút hạt tiêu và mắm, nắn thành những miếng nhỏ vừa ăn, cho vào chảo dầu sôi rán nhỏ lửa đến khi vàng ruộm.

Miếng chả tươi ngon ngay từ khi mới cho vào chảo rán đã toả ra mùi thơm nức mũi rất quyến rũ. Đảm bảo nếu ăn một lần do chính tay người mẹ yêu thương của tôi làm, bạn sẽ nhớ mãi!

Ký ức tuổi thơ với vườn dừa quê tôi

Ngày đăng bài: 

15/03/2012 - 13:35

Xóm tôi, một làng quê được bao phủ bởi một màu xanh hiền hoà, là nơi sinh trưởng của loài cây “bám đất bám rễ” từ lâu của vùng đất cù lao hạ nguồn sông Cửu Long. Cũng giống như nguồn gốc thì tên gọi “cây dừa” cũng chỉ là cái tên để phân biệt với các loại cây khác, nhưng chính vì sự sinh trưởng kỳ diệu nên cây dừa trồng trên vùng đất quê tôi ở đâu cũng đều tốt tươi và cho nhiều trái. Nói đến dừa quê tôi, làm tôi nhớ lại một vài câu hát mà thuở nhỏ tôi thường nghe Đài phát thanh Bến Tre hay phát trong chương trình thiếu nhi:

“Đố bạn biết cây gì, lá như chiếc lược ngà, thân cao cao trong trái có nước, cơm dừa trắng phau dùng để làm dầu…”

.

Nhớ về tuổi thơ, nó vẫn còn như in trong tâm trí tôi: Là chạy dọc theo những vườn dừa bạt ngàn, có những khoảng không cho lũ trẻ xóm tôi nháo nhào đùa giỡn. Cả bọn thường hay tụ  tập đi nhặt từng bông dừa rụng dưới đất để xâu lại thành chuỗi làm vòng đeo cổ, đeo tay, hay có lúc nghịch ngợm chơi trò con nít dùng nó làm trang sức cho đám cưới giả. Cũng có lúc cả bọn dùng bông dừa cột vào sợi chỉ để câu còng bằm cho gà, vịt ăn. Lại có lúc chia phe chơi chọi cầu, đá cầu, bọn con gái chơi nhảy dây, nhảy cò cò; bọn con trai săn chuột, bắn cu li…Sau những cuộc chơi thấm mệt, bọn con trai giỏi thật trèo một mạch lên tận ngọn dừa cao tít, bẻ vài trái dừa đem về nhà chặt uống nước, có hôm cả bọn “xử” ngay tại chỗ. Có lúc nhà chưa kịp làm thức ăn hoặc không có gì ăn, là chặt ngay trái dừa lấy nước bỏ vào một tí muối trắng chan vào cơm nguội để ăn. Tôi vẫn còn nhớ rõ như in “nước dừa chan vào cơm nguội ăn với muối tiêu no căng bụng luôn!” Hay những lúc khó khăn, nhà không có thức ăn, nội tôi lột trái dừa cứng cạy, rồi dùng cơm dừa xắt thành cọng dài khoảng 5 – 7cm, dùng nước mắm hay muối pha loãng vào kho khô ăn với cơm. Dừa kho khô phải nói vừa béo béo, vừa mặn mặn, khi ăn từ từ, nó ngon vô cùng tận và ăn no không thôi. Bây giờ, mỗi lúc nhớ về quê nhà, nhớ về xóm dừa quê tôi, hay những lúc về quê nhìn lại nơi kỷ niệm thuở ấu thơ, ký ức chợt quay về, tôi cứ miên man nhớ về mình thuở nhỏ. Cũng những kỷ niệm khó phai ấy, mà đến bây giờ tôi vẫn không quên đó là: Chẳng nhớ tự lúc nào, chỉ nhớ ngày xưa khi còn được bế bồng trên tay, Bà và Mẹ tôi kể lại vừa bồng tôi trên tay, vừa lấy củi dừa, vỏ dừa dụm vào dưới một cái xoong hay cái chảo to. Tôi cứ nhìn chằm chằm vào đó, chẳng biết nó là thứ gì mà lúc đầu sôi ùn ụt, về sau nó có màu đen và sôi lên lịch ịch. Lúc ấy tôi quay mặt đi chỗ khác, ôm ghì chặt vào cổ Nội hay Mẹ tôi khóc thét lên “con ghê, con sợ”. Có lẽ trông ánh mắt thơ ngây, ngơ ngác, ghê sợ đó của tôi mà Nội tôi bảo: “Cháu của Nội ngoan, đừng sợ, đừng nhõng nhẽo, để Nội thắng nước màu dừa bán lấy tiền mua gạo, mua bánh cho cục cưng của Nội ăn nha”. Cứ mỗi lần Nội hay Mẹ tôi dỗ dành như thế, tôi lại càng khóc dữ hơn, có lẽ tôi vừa sợ cái màu đen đen ấy thiệt và cũng có lẽ do nhõng nhẽo không muốn Nội và Mẹ làm gì cả, mà chỉ  bế bồng tôi thôi. Tôi đâu nghĩ rằng cái nghề thắng nước màu dừa, cái mà hồi nhỏ tôi ghê sợ ấy đó lại chính là nghề mà gia đình tôi đã đeo đuổi và ít nhiều cũng góp phần giúp cho gia đình tôi những lúc khó khăn. Và được truyền lại từ đời này sang đời khác, mà cũng chẳng ai còn nhớ rõ nó được bắt đầu từ khi nào. Thuở nhỏ dưới ánh mắt của tôi nó là màu đen, khi đã lớn tôi nhận ra nó có màu đo đỏ sậm, rất đẹp… Và cái nghề thắng nước màu dừa đã ăn sâu vào tâm trí tôi, không thể nào quên.

Phải công nhận rằng, dừa Bến Tre quê tôi nhiều vô số kể, nhất là ở vùng nông thôn, chỉ trong một xóm thôi mà hầu như nhà nào cũng trồng thành bờ dừa, vườn dừa….:

“Nhà tôi có dãy vườn hoa; có ba dãy nhãn, có ba dãy dừa”

. Và dừa cũng đã trở thành nguyên liệu phong phú trong chế biến các món ăn, thức uống, nhưng đặc biệt phải nói đến việc từ nước dừa tươi chế biến thành nước màu dừa, nó rất được thông dụng và được xem là một nguyên liệu cơ bản để ướp cá, tép, thịt, trước khi đem kho. Cái vị béo béo, thơm thơm, ngót ngót của nước màu dừa quê tôi sau khi làm ra món kho có màu vàng cánh gián óng ánh, rất hấp dẫn, nên nước màu dừa rất được ưa chuộng ở miền Nam.

Để có được nguyên liệu thắng nước màu dừa quả là vất vả, là cả một kỳ công. Thông thường ở quê tôi cứ 01 tháng bẻ dừa một lần, cách bẻ thì đơn giản, nhưng không dễ. Có nhà thì dùng “nài” để trèo lên ngọn dừa để bẻ, “nài” làm bằng dây chuối khô, dẻo, se tròn và buộc tròn vừa khoảng cách giữa hai chân với thân cây dừa. Có nhà dùng “cây sào” được làm bằng cây tre dài, thẳng khoảng 5-6 mét, một đầu dùng câu liêm cột chặt vào để giựt dừa. Sau khi dừa giựt xong phải thu gom, trái dừa nào mà rơi xuống mương thì dùng “cây chĩa” nhọn chĩa lên, cây chĩa có đầu nhọn làm bằng sắt, đầu chĩa có 02 phần (phần dùng để chĩa, phần dùng để móc), được gắn vào cây tầm vông thẳng khoảng 3 mét. Khi chĩa dừa lên bờ, có nhà dùng thúng, bội, cần xé gánh về hay thẻo một miếng nhỏ ngoài phần vỏ dừa cột chùm lại 5, 6 trái để quảy về, xách về. Vườn nào nhiều dừa thì khi giựt xong thảy xuống các mương vườn, chờ nước lớn lên xuống lùa về cùng một lúc. Tôi nhớ mỗi tháng giựt dừa xong tới đoạn gom vô nhà là ngán nhất. Chỉ mới có việc thu gom trái dừa thôi, mà cũng đã thấy vất vả vô cùng. Nếu nói đến làm ra thành phẩm nước màu dừa thì phải qua từng công đoạn, là cả một nỗi nhọc nhằn và càng kỳ công hơn nữa.

Khi đã thu gom dừa vô sân nhà xong, việc kế tiếp là lột dừa, có người dùng dao để lột dừa, nhưng lột nhiều dừa thì phải dùng “cây nầm”, một dụng cụ tách vỏ dừa (hay lột dừa) giống như cây giáo, có cán khoảng  8 - 10cm, xốc hơi xiên xuống đất để tách vỏ dừa. Sau đó đập dừa lấy nước. Đây có thể coi là công đoạn đầu của việc thắng nước màu dừa. Thường thì 100 dừa đủ đầu (120 trái) tương đương 30 lít nước dừa tươi, đem nấu thành 01 lít nước màu dừa. Điều quan trọng nhất để thắng ra nước màu dừa đạt chất lượng cao, mang cái hương vị quyến rũ, là sau khi bổ đôi dừa hứng lấy nước, phải dùng vải the lược sạch bụi đem nấu ngay, không được để nước dừa cách ngày, vì như vậy nước dừa sẽ bị chua, lên men thắng nước màu không ngon. Dùng xoong hoặc chảo lớn cho nước dừa vào nấu. Và quá trình sàng lọc kỹ lưỡng từng công đoạn sẽ cho ra đời nước màu dừa ngon, đúng độ.

Trái keo – Món ăn tu

u th

ơ

Tình c

1 l

n l

ướ

t G+, tôi th

y l

i hình

nh trái keo, m

t lo

i trái đã t

t lâu, lâu l

m tôi đã không th

y s

i c

a nó, c

trong trí nh

, m

lãng quên vô tình s

ng d

y

M

i ngày đ

ế

ườ

ng, b

n con nít chúng tôi ph

i đi b

, đi r

t xa, nh

ư

con có bi

ế

t hay n

ng nôi là gì, không có gì c

vô t

ư

vô lo c

a chúng. B

n tôi cũng th

ế

, và con đ

ườ

ng đ

ế

ườ

ng luôn h

p d

n chúng tôi. Con đ

ườ

ng đó r

t đ

c bi

t, không

ph

i nh

ư

bây gi

. Trên con đ

ườ

ng đó có r

t nhi

u hoa dâm b

t, nh

ng cây c

lau mùa hè n

, nh

ng cây b

công anh tung mình trong gió, và thu hút h

ơ

a là nh

ng cây keo đ

y gai m

c ven đ

ườ

ng v

i nhi

u trái chín m

.

Trái keo tôi cũng không bi

ế

t xu

t x

đâu, có t

khi nào, nh

ư

ng nó là m

t lo

i cây lá kim, cây cao l

m và có r

t nhi

u gai m

c d

trên con đ

ườ

ng tôi đi h

c. Trái keo ngòn ng

t, nhân tr

ng ăn th

ơ

m th

ơ

m, r

t là thú v

. Chính vì lo

i cây này r

t cao, có nhi

u gai, l

c ven đ

ườ

ng nên kh

ông th

trèo mà hái đ

ượ

c, đôi khi trèo đ

ượ

c mà b

con chó hàng xóm nào x

ng chu

ng ch

y ra ch

có n

ướ

c ng

i trên đó mà khóc. B

i v

y, cách chúng tôi hái Keo là ném đá lên cây, ném khi nào trúng  nó r

ng xu

ng thì thôi. Nh

ư

ng th

ườ

ng ném c

y ch

c l

đ

ượ

c 1 trái, nh

ư

ng đó là thành tích vô cùng đáng m

ng và vinh d

l

.

Tu

i th

ơ

c

a tôi  nh

ng mùa m

ư

a không ng

t, nh

ng đ

nhau tr

n h

c b

m trái cây, nh

ng bu

i đi long bong kh

p các khu v

ườ

n hoa qu

nhà b

n bè, và c

nh

n nh

đòn vì t

phá làng phá xóm

Ba tôi l

i là m

t công ch

c nhà n

ướ

c, khó tính vô cùng, bây gi

thì d

10 ph

i, ch

ngày tr

ướ

c, anh em tôi s

ba vô cùng, ch

i l

n ba đi làm v

là đ

a nào đ

a n

y tr

n im thin thít và gi

c

. Nh

ư

ng ông cũng là m

ườ

uy

t v

i ( tuy không ph

i là ng

ườ

i ch

.

Tôi còn nh

, nh

ng năm tôi lên 5 ho

c 6 gì đó, nhà tôi là m

t khu đ

ng, có r

t nhi

u cây d

i và thú r

ng. Và ba tôi là m

ườ

i dùng súng, bu

i ông v

các “lính” c

a mình đi săn. Ngày đó,

anh hai tôi đ

ượ

c phép đi theo, tôi thì nh

quá ch

ướ

c ngõ mà đ

i. Nh

ư

ng đôi khi đ

i chán quá, tôi th

ườ

ng vào phòng ba ngh

ch súng. Các lo

i súng thì tôi không rành, nh

ư

ng nghe đâu tên là AK hay ti

u liên hay súng l

c gì đó, cũng không bi

ế

t chính x

ác không. Băng đ

n thì tháo r

i, tôi l

y l

p vào c

ướ

p cò, nh

ư

ng không n

i, bèn l

y đ

n ra b

trên ng

n đèn d

u n

ướ

ng ch

ơ

i. ( sau này nghĩ l

ế

t trò đó là m

t trò ngu xu

n nh

i th

i đ

.

N

ướ

ng đ

ượ

c kho

ng vài giây, nghe ti

ế

ng ba v

tôi ch

y ra x

em thành tích, th

ườ

ng thì chuy

ế

n đi săn c

a h

có r

t nhi

u thú r

ng, nh

ư

th

,  gà r

ng, ch

n…( Tôi là ng

ườ

t nghi

n nuôi ch

n con). Ba đ

ư

a m

tôi c

t vào nhà b

ế

p, còn tôi thì hào h

ng khoe trò n

ướ

ng đ

n c

a mình. Khi khoe xong tôi cũng không nh

là mìn

h đã nói gì, ba tr

n tròn con m

t tát m

nh 1 cái nh

ư

i giáng vì t

i ch

ơ

i quá

ư

là ngu ng

c. M

t trò nguy hi

m, v

y mà tôi đã khoe nó nh

ư

t trò hay

.

Hình nh

ư

ngay ngày hôm sau, tôi n

nh c

tu

n. Ba tôi có ng

i c

nh, không an

i, ch

i thích cho

nghe nó nguy hi

m th

ế

nào, m

t ông v

n hung d

. Tính ba là th

ế

, và t

ngày đó tôi ghét ba l

m. Nh

ư

t th

i gian cũng quên. Tôi l

ế

c nh

ng trò ch

ơ

i riêng c

a mình

.

Cá rô kho tương khế - món quà vô giá của mẹ

Thứ ba, 19 Tháng 10 2010 08:25

Phan Thanh

Món cá rô kho tương khế nghi ngút khói với những câu chuyện kể và tình cảm của mẹ đã trở thành kỷ niệm tuổi thơ tôi.

Nem

Ngon

cuốn thủ công, giao hàng miễn phí tận nhà

Mẹ tôi không hẳn là người-truyền-thống nhưng lại rất thích các món ăn cổ truyền Việt Nam. Đặc biệt là cá rô kho khế, tương.

“Rô đồng kho với khế chua/ Chẳng thú gì bằng một món đồng quê”. Lúc làm món cá kho, mẹ tôi thường ngâm ngợi câu ca dao ấy như để nhắc nhở chúng tôi về truyền thống quê hương và gia đình.

Mẹ còn ngâm ngợi không biết bao nhiêu câu tục ngữ, ca dao, câu thơ về cá quê ngầm muốn dạy dỗ chúng tôi. Nào là “Không gì bằng cá kho tương/bỏ bông so đũa mới rành dân quê”, hay câu “cá không ăn muối cá ươn”, và câu ca dao về tình mẫu tử “Ba đồng một mớ cá tươi/cũng mua bằng được để nuôi mẹ già”...

Quê tôi – một vùng quê Bắc Bộ có truyền thống làm tương từ nhiều đời nay. Đó cũng có thể là lý do của “niềm đam mê” nấu và thưởng thức món cá rô kho tương khế của mẹ nhiều đến thế.

Mẹ vẫn kể, trong ký ức tuổi thơ của mẹ, những chú cá rô đồng vàng ươm, béo ngậy mà ngoại bắt được mỗi khi đi thuyền chở đá về là món quà vô giá. “Cả khi trời mưa lụt, ngồi trong nhà xem anh và cậu (bố/ba) rải lưới bắt cá, rồi đếm cá…” – mẹ kể. Có lẽ, đó đều là những kỷ niệm vô cùng ý nghĩa với một người đã từng trải qua bao sóng gió cuộc đời như mẹ.

Và mẹ muốn để lại cho những đứa con của mình món quà kỷ niệm thân thương ấy qua món cá rô đồng kho khế. Mỗi khi trời trở lạnh, nồi cá kho nghi ngút khói của mẹ làm chúng tôi thèm thuồng thứ không khí truyền thống gia đình, quê hương, thèm được quây quần bên gia đình, bên ông bà và các bác.

Mẹ vẫn nói, cá rô nay được nuôi công nghiệp nên không thể quý bằng hồi xưa được. Món này phải làm từ cá rô đồng mới thực ngon! Vì thế, mỗi khi vào mùa nước lớn dễ bắt cá, chúng tôi vẫn nài nĩnh mẹ nấu món này.

Vào tiết trời se lạnh tháng 10, thật khó để tìm được mớ cá rô thơm béo như dạo đầu tháng 6. Cũng có thể, điều đó khiến cho món cá rô đồng kho tương khế, ăn vào tiết trời lành lạnh trở nên giá trị hơn đối với người ta.

Nấu món cá rô kho tương khế không quá cầu kỳ nhưng lại cần sự chu đáo.

Nguyên liệu đúng như tên món ăn, có cá rô đồng, tương Bần và khế chua. Đặc biệt, để món ăn thơm lừng và thêm đẹp mắt, mẹ cho thêm chút nghệ giã nhỏ. Nghệ sẽ quện với thịt cá thơm lừng, tạo ra nước sánh vàng trông thật hấp dẫn.

Mẹ vẫn dặn, kho cá rô với tương khế tuy làm đơn giản nhưng cần nhiều thời gian hơn các món khác, cốt sao để cá nhừ, mềm và ngấm tương là được.

Không phải là món cao lương mĩ vị nào đó, chỉ là món ăn được làm từ những sản vật đồng quê nhưng với chúng tôi – những đứa con của mẹ thì món ăn chính là món quà vô giá mà mẹ dành tặng.

Và chắc hẳn, bây giờ và sau này, có đi đâu, thưởng thức những món sơn hào hải vị trong những nhà hàng sang trọng nào đó, thì mỗi khi cái se lạnh đầu đông ùa về, một đĩa cá rô kho khế ăn với bát cơm trắng cùng những câu chuyện và tình cảm của mẹ vẫn làm tôi nhớ da diết…

Nhớ mùa hoa mít quê mình

Thường thì một tuần sau khi nụ bung ra, những nhót mít đã lớn. Để trái mít nhanh lớn và khi chín sẽ ngon, ngọt hơn người quê tôi sẽ hái bớt vài nhót. Nhót mít có vị chát, nhưng lại là món quà thú vị với những đứa trẻ quê tôi.

Nhớ những ngày còn thơ bé, mỗi khi được bà và mẹ cho vài cái nhót mít tươi xanh là mấy chị em tôi mừng lắm. Đứa thì đi hái trái ớt xanh giã với một ít muối thành chén muối ớt thơm nồng. Nhót mít chấm muối ớt ăn vừa giòn, vừa thơm, vị chan chát quện lẫn với vị cay của ớt và đậm đà của muối, vừa ăn vừa hít hà, xuýt xoa.

Hay nhót mít xắt thành những sợi mảnh, dài, trộn với một ít nước mắm cá cơm than, đậu phộng rang và rau húng quế trong vườn nhà thành món nhót mít trộn thơm lừng. Món trộn này ăn kèm bánh tráng sắn nướng là món ăn ngon và lạ miệng mà chắc chắn những ai sinh ra và lớn lên nơi miền quê xứ Quảng đều đã từng được thưởng thức. Hương vị của món nhót mít trộn mắm cái cá cơm ngày ấy đến giờ vẫn mãi là dư vị đậm đà trong ký ức tuổi thơ của những người con xứ Quảng xa quê.

Mùa nhót mít cũng là mùa sứa biển. Các phiên chợ quê mùa này bán sứa biển rất nhiều và rất rẻ. Các mẹ, các chị lại khéo léo làm món gỏi sứa biển hoa mít đãi gia đình trong những ngày nắng nóng. Sứa biển mua về ngâm vào nước lá ổi nửa giờ để loại bỏ mùi tanh và giúp sứa săn lại, không bị ra nước. Rửa sứa thật sạch, xắt thành những lát vừa ăn, chần qua nước ấm. Trộn sứa với nhót mít xắt lát, hoa chuối, chuối sứ thái sợi rồi vắt nhẹ tay cho ráo nước. Cuối cùng, chế nước mắm chanh, tỏi, ớt, thêm đậu phộng rang, rau thơm trộn đều. Gỏi sứa biển hoa mít ăn kèm bánh tráng nướng với đầy đủ những hương vị mặn, chát, cay, thơm, giòn là món ăn chơi ngon miệng được nhiều người ưa thích mỗi khi mùa mít ra hoa, mùa sứa biển về.

Một mùa hoa mít nữa lại về, nơi phương xa nhìn nắng hè vàng tươi khắp nơi, người con lớn lên nơi xứ Quảng lại nhớ cháy lòng những cây mít sù xì với những chùm hoa nhỏ xinh đã gắn bó với mình trong suốt những tháng năm tuổi thơ nghèo khó. Lại thèm được về với khu vườn quê của mẹ, hòa mình vào thiên nhiên, thưởng thức những món ngon dân dã từ nhót mít giữa trưa hè oi ả cho thỏa nỗi nhớ mong.

Kho quẹt - món ăn nhà nghèo

Mấy hôm trước mẹ đọc được một bài báo giới thiệu món Kho quẹt (miền Bắc mình gọi là mắm chưng), mẹ chợt nhớ đến món mắm tôm chưng của ông ngoại, món mà đến bây giờ thi thoảng mẹ nhớ lại, vẫn còn như thấy mùi thơm của mắm tôm chưng với chút mỡ và đường, thơm và ngon đến thế.

Tuổi thơ của mẹ và rất nhiều bạn bè của mẹ, lớn lên khi đất nước vừa qua chiến tranh, cơm cũng không có nhiều mà ăn, mẹ vẫn nhớ thi thoảng có bữa cơm gạo quê gửi lên, hạt gạo trắng ngần, thơm phức (khác hẳn với cơm gạo đỏ vỡ vụn được ăn hàng ngày), mẹ và các cậu vô tư ăn hết bát này đến bát khác, chẳng cần phải có thức ăn, chỉ cơm không thôi mà thấy cơm ngọt lừ đến thế, ngon đến thế.

Bây giờ có các con, nuôi các con, mẹ chợt nghĩ lại ngày ông bà còn trẻ, hàng ngày lo cho 3 đứa con đủ cơm ăn áo mặc vất vả thế nào, thi thoảng có những đêm mất điện, mẹ ngồi quạt cho hai con, lại chạnh lòng nhớ đến những ngày mẹ còn bé, đêm hè nào ông ngoại cũng thức chong chong quạt cho mẹ và các cậu được giấc ngủ ngon, rồi nửa đêm có nước lại vác thau đi giặt giũ, và rồi sáng sớm hôm sau lại dậy đi làm.

Bây giờ mỗi lúc mẹ cảm thấy bất lực, cảm thấy hoang mang vì cuộc sống, vì những cơm áo gạo tiền, mẹ lại chợt nhớ đến thời mẹ còn bé, để mà thấy những khó khăn của mẹ ngày hôm nay, chẳng thể thấm tháp gì so với những gì mà bố mẹ của mẹ đã trải qua, để mẹ lại thêm cố gắng.

Chiều tối qua, bố thấy mẹ hì hụi thái mỡ phần thành những miếng hạt lựu nho nhỏ, bố cũng nhắc đến món mắm chưng của bà nội làm cho bố ăn ngày bé. Bà nội không làm mắm tôm chưng, mà chưng nước mắm với tóp mỡ, đó chẳng phải là món kho quẹt mà mẹ được đọc đến hay sao! Món mắm chưng có lẽ đi vào tuổi thơ khốn khó của rất nhiều người, mà đến hôm nay, vị ngòn ngọt mằn mặn đã đi sâu vào ký ức.

Mẹ, tuổi thơ và món rau bí xào tỏi

Khác với rất nhiều người trong xóm trồng bí là để lấy quả, ra tết năm nào mẹ tôi cũng trồng mấy khóm bí nhưng chỉ đợi những chồi non mập mạp bắt đầu vươn mình là mẹ đã cắt về, bởi mẹ biết món rau bí xào tỏi là món ăn tôi yêu thích nhất.

Bố thường xuyên phải đi công tác xa, nhà vì thế chỉ còn lại hai mẹ con nên vài ba cọng bí là xong bữa. Ban đầu phải ăn món rau này nhiều tôi cũng không mấy “hài lòng”. Lâu dần thành quen rồi không biết tự bao giờ tôi lại thành ra nghiện, chỉ cần đĩa rau bí xanh non đặt giữa mâm là đánh bay mấy bát cơm ngon lành. Biết thế nên hè nào mẹ cũng trồng rất nhiều bí. Mà khóm nào khóm lấy cứ xanh mơn mởn, ngọn đâm ra tua tủa, mập mạp, mỡ màng.

ây bí có thể chế biến thành nhiều món ăn khác nhau như quả dùng nấu chè, bông bí luộc, nấu canh…nhưng tôi lại chỉ ăn duy nhất món rau bí xào tỏi. Tôi còn nhớ những buổi sáng đầu hạ khi tôi bước vào mùa thi, sáng nào dậy mẹ cũng tranh thủ ra vườn cắt vài ngọn bí bỏ vào giỏ xe, đưa tôi đi học xong trở về hợp tác xã làm việc, mẹ tranh thủ tước từng cọng bí để trưa khi về nhà chỉ chạy ù vào bếp và khi ra đã mang theo đĩa rau bí còn nghi ngút khói và thơm lừng mùi tỏi. Đưa vào miệng cái đầu tiên tôi cảm nhận là vị đậm đà của gia vị, cọng bí thì giòn, nhai rau ráu đầy thích thú.

Có lần bố mời mấy cô chú cùng cơ quan về nhà chơi. Nhân dịp này mẹ mời các cô chú ở lại dùng cơm. Mẹ chuẩn bị rất nhiều món ăn ngon nào thịt, nào cá, và tất nhiên không thiếu món sở trường: rau bí xào tỏi… Khi dọn đầy một mâm, món nào trông cũng hấp dẫn. Thế nhưng lạ thay món rau bí của mẹ hết đầu tiên mà ai cũng tấm tắc khen ngon. Lúc ra về mấy cô còn xin mẹ mỗi người một bó ngọn bí non về đãi cả nhà.

Kí ức về tuổi thơ trong tôi không nhiều kỷ niệm, chỉ có thế nhưng sao thiêng liêng và gần gũi đến vậy. Nó nhắc tôi nhớ về những ngày tháng gian khổ của gia đình, cho tôi thêm sức mạnh sống tốt hơn giữa thành phố xô bồ này.

Nhớ món cá lòng tong muối chiên giòn

Viết bởi VnExpress

Thứ sáu, 06 Tháng 4 2012 04:14

Bữa cơm dân dã dọn lên, trong đó có món cá lòng tong muối chiên giòn và tô canh bầu tỏa hương thơm ngát. Gắp một con cá chiên cho vào miệng nhai chậm rãi. Vị mặn, giòn, béo của cá lan tỏa vào miệng kích thích mọi giác quan.

Nem

Ngon

 cuốn thủ công, giao hàng miễn phí tận nhà

Một hôm đi chợ bắt gặp người bán cá lòng tong để trong thau, ký ức tuổi thơ trong tôi chợt hiện về. Tôi còn nhớ căn nhà sàn của ba má bấy giờ sát mé sông. Mỗi khi nước lớn dâng lên mấp mé sàn, các bạn trong xóm thường đến nhà tôi, ra lan can phía sau nhà để câu cá.

Trước khi câu, các bạn rải cám xuống nước để dẫn dụ lũ cá bu lại ăn. Lũ cá lòng tong, cá chốt, cá he… là loại cá háo ăn nhất nên nhanh nhẹn đớp mồi. Và ngay lúc ấy, chúng tôi mới bắt đầu móc mồi thả câu. Nhìn sợi dây câu căng thẳng, chiếc phao bị ghì xuống phía dưới mặt nước, thế là chúng tôi giật lia lịa không kịp nghỉ tay. Trong vài tiếng, cả bọn thu hoạch được cả ký cá (nhiều nhất là cá lòng tong). Nhìn những con cá lòng tong mình dài cỡ ngón tay trỏ, đuôi màu vàng nhạt, vảy lóng lánh bạc nhảy xoi xói trong thùng trông thật hấp dẫn.

Cá bắt được chúng tôi hùn nhau lại và nhờ má tôi chế biến món ăn. Có khi nhờ má làm món cá kho quẹt ăn với cháo trắng. Có khi để đỡ ngán, chúng tôi đề nghị má làm món cá muối chiên giòn và ăn với cơm, món này ăn cùng với canh bầu nấu tôm khô thì tuyệt.

Để làm món nầy, má chọn những con cá lòng tong còn tươi (nên nhớ, cá càng nhỏ càng ngon vì chiên giòn ăn luôn cả xương) làm sạch, để ra rổ cho ráo. Cho cá vào đĩa ướp gia vị (muối, bột ngọt, tiêu) cho vừa khẩu vị, để ngấm khoảng 15 phút. Bắc chảo lên bếp phi mỡ cho thơm rồi cho cá lòng tong vào chiên vàng 2 mặt, vớt ra là xong...

Riêng món canh bầu nấu tôm khô, trước hết, má ngâm tôm khô vào nước cho mềm, chắt ra để ráo. Kế đến, bắc chảo lên bếp, phi dầu mỡ cho thơm rồi đổ nước vào (lượng nước vừa phải, vì bầu vốn nhiều nước) nấu sôi. Cuối cùng, má cho bầu xắt sợi vào. Đợi nước sôi bùng lên, thấy sợi bầu trong và mềm, má nêm nếm gia vị lần cuối, thêm một ít hành lá xắt nhuyễn vào, múc ra tô là xong...

Bữa cơm dân dã dọn lên, trong đó có món cá lòng tong muối chiên giòn và tô canh bầu tỏa hương thơm ngát. Gắp một con cá lòng tong chiên giòn cho vào miệng nhai chậm rãi. Vị mặn, giòn, béo của cá lan tỏa vào miệng kích thích mọi giác quan. Chan một nuỗng canh bầu ngọt thanh, thơm mát vào chén cơm nóng, lùa một hơi, thật tuyệt vời, không thể nào quên!

Khổ qua "nhà nghèo"

Thiệt tréo cẳng ngỗng! Nhà nghèo ăn thịt ba rọi còn nhà giàu ăn rau. Họ khoái đọt, lá và trái khổ qua non...”

Một đồng nghiệp thường trú ở Cần Thơ “hớt hải” gọi điện báo cho tôi như vậy. Khi cơ thể người ta bị thiếu hụt một chất gì, tự dưng họ sẽ thèm chất đó. Nhưng khi họ biết thèm đọt, lá và trái khổ qua non là thèm... khôn!

Hương  khổ qua (còn gọi là mướp đắng) nghe ngai ngái, trội vị đắng thanh và có hậu ngọt, mát. Có người còn triết lý: trong cái ngon của khổ qua ẩn chứa một bài học nhân sinh sâu sắc, con đường dẫn đến thành công vững chắc là bạn phải dày công khổ luyện.

Trong những sản phẩm từ “cây” khổ qua thì lá non, đọt và trái đèo quý hơn trái to. Khi trời trở lạnh, những thức có vị đắng, cay, ngọt rất tốt cho cơ thể, bởi chúng giúp tuần hoàn máu, ấm phổi, trợ tiêu.

Đặc biệt khổ qua là “tri kỷ” của ớt hiểm. Bạn muốn cho hai thứ này sánh đôi, phải biết cách lấy tinh dầu tự nhiên của ớt hiểm. Bằng cách, bạn nấu nước sạch thật sôi, trụng ớt hiểm vào khoảng 5 phút rồi dằm trái ớt ra. Đây là loại tinh dầu cực kỳ tốt cho cơ thể. Sau đó, bạn nêm nước này vào nước nấu món khổ qua, sẽ thơm hơn, không còn cay hỗn nữa và ngọt thanh hơn.

Các tài liệu khoa học còn cho rằng khổ qua có nhiều công dụng tốt như sau: thanh nhiệt, do chứa chất kiềm sinh vật; giúp tăng sức đề kháng vì chứa đạm và nhiều vitamin C; giảm béo hiệu quả nhờ chất đắng tự nhiên. Khổ qua tươi giúp hạ đường huyết nên rất tốt cho người bị tiểu đường. Ngoài ra, chúng còn giúp dưỡng nhan sắc bởi chứa nhiều vitamin B1, C và nhiều khoáng chất...

Tuy nhiên, Đông y khuyên rằng những người có đường huyết thấp hay hệ tiêu hóa yếu không nên ăn khổ qua, vì nó quá mát.

Ngon “bất nhơn”

Vốn thích ăn khổ qua, anh Nguyễn Văn Thân, ở Q.Phú Nhuận, trồng hơn hai mươi dây khổ qua trên sân thượng theo mô hình trồng rau sạch. Buồn thay, giàn khổ qua anh trồng cứ lo trổ hoa vàng rực mà “quên” đậu quả. Thế là anh Thân bị người nhà, bạn bè trêu chọc rằng anh chỉ có tay... mua khổ qua. Bị quê, anh Thân nảy ra sáng kiến cắt đọt khổ qua non đem xào với tép bạc, dầu hào. Không ngờ, món ngon không đủ gắp.

Còn anh Quốc Việt, ở  Tiền Giang, phát hiện ra cái ngon “tiềm ẩn” của đọt và lá khổ qua non trong một lần vào chơi nhà bạn miệt rẫy, thuộc huyện Châu Thành cùng tỉnh. Cả nhóm “binh” mồi nhậu, dư thịt cá mà thiếu rau xanh vì cà, cải, dưa, hành... ngoài “gò” chưa tới lứa. Bí đường, anh Việt thử đi cắt mớ đọt khổ qua đem  nấu canh với cá rô đồng. Không ngờ, món ngon nhiều cấp độ này giúp cả nhóm lâu say, thèm ăn, không khô cổ như những lần nhậu trước.

Mẹo của những món khổ qua nước ngon là bỏ khổ qua nguyên liệu vào sau cùng rồi nhấc xuống, sau khi đã nêm nếm gia vị vừa ăn. Cũng lạ, thịt cá đồng khi “uống” nước khổ qua thêm thơm, ngọt, béo thanh. Gần đây, “trào lưu” ăn trái khổ qua đèo ở TP.HCM đang thịnh. Thật ra, đây là những trái khổ qua non được nhà vườn tỉa bớt để những trái còn lại mau lớn hơn.

Một bữa cơm trưa văn phòng với đĩa rau non thập cẩm luộc gồm nhiều trái khổ qua non với ít rau lang, bầu non, nụ bông bí, bông mướp... bên chiếc nồi đất ám khói đựng mắm kho quẹt thơm lừng và phập phồng sôi trông hấp dẫn không kém sơn hào hải vị.

Mẹo để chế nồi mắm kho quẹt ngon xứng tầm với đĩa rau tinh nguyên kia là đầu bếp gia vào ít nước cơm chắt hoặc nước cháo gạo thơm. Tinh tế hơn, dăm miếng thịt heo ba rọi sẽ được vớt ra khi mỡ tan đi khoảng 2/3. Lúc nhấc nồi xuống, đầu bếp sẽ cho lượng thịt ba rọi này vào lại, làm vậy tóp mỡ sẽ giòn giòn, beo béo.

Bạn cặp ít tóp mỡ này với chút mặn của nước mắm kho sánh màu hổ phách, trái khổ qua non tươi xanh trước đắng, sau ngọt thanh, cắn tí ớt hiểm vừa chín... Ngon tận đỉnh! Kinh nghiệm để giữ màu xanh non và tăng độ giòn của trái khổ qua non là khi nồi nước luộc sôi già, bạn cho vào ít muối. Lúc vớt trái khổ qua ra, bạn cho vào chậu ngâm nước đá khoảng 7 - 10 phút.

Nhìn đĩa rau xanh tươi, cắn vào nghe giòn mát, không ít thực khách “thổn thức” về những mảnh vườn, thửa ruộng chốn làng quê. Có người còn “nghe” cả tiếng mẹ, tiếng chị hát ru những âm điệu thân thương: “Ầu ơ... khổ qua xanh, khổ qua trắng, khổ qua mắc nắng khổ qua đèo. Anh có thương em thì mần giấy giao kèo. Dù sanh, dù tử dù nghèo em cũng theo”.

Và phải chăng, khổ qua đèo ngon hơn khổ qua thường là giỏi chịu đựng nghịch cảnh, biết dùng tằn tiện dưỡng chất từ đất mẹ, cha trời.

Thương Hoài Rau Móp Ven Sông

Thuở ấy tôi còn là một đứa bé …ít chịu ăn rau. Nhà nghèo, không “ rau cháo” làm sao..sống qua ngày? Vì vậy, tập cho tôi ăn rau là việc ba má  phải làm thường xuyên. Thấy các loại rau tự trồng quanh nhà tôi đã “chê”, một ngày nghỉ làm, ba tôi đi xuống bờ sông hái về cả ôm “ rau lạ”.

          Lạ là vì nó chỉ là những ống tròn, dài, một đầu to, một đầu nhỏ với chót lá non màu nâu nhạt, lại có gai tua tủa quanh thân, nhìn đã sợ, vậy mà ba bảo “ Ăn ngon lắm đó con! Con mà ăn được mai mốt đi theo ba ra bờ sông, ba chỉ cho cách hái”. Không biết có phải vì muốn được đi theo ba hái rau hay không, mà tôi lại chịu ăn loài rau lạ ấy. Nhưng có lẽ lý do lớn nhất khiến tôi thích ăn là vì má tôi biết chế biến loài rau hoang dã ấy thành những món ngon nhớ lâu!

          Má tôi lấy rau rửa sạch. Một số má cắt khúc ngắn chừng 5 cm để muối dưa. Má gọi là dưa móp. Khi dưa chín, ngả sang màu vàng nâu rất đẹp. Má đem dưa trộn với chút đường, tỏi băm,  rau răm xắt nhỏ. Nếu sang hơn thì rắc thêm đậu phọng rang giã nhuyễn. Dưa móp trộn cách nầy chấm với nước tương ăn đã ngon. Hôm nào nhà có cá kho, thịt kho nước dừa để chấm thì phải nói là …tuyệt hảo. Số không làm dưa má đem xào với mỡ. Bửa nào có điều kiện thì má cho thêm chút thịt bò hoặc thịt heo bằm vào. Vị ngọt béo của thịt heo hay đậm đà của thịt bò hoà quyện với vị chát nhẹ của rau móp đem chấm với nước mắm pha tỏi ớt…thì ăn với cơm đến …quên thôi. Sau nầy nhà tôi..giàu hơn, má lại đem dưa móp trộn với thịt luộc, tôm khô …rắc thêm chút hành ngò, hay rau răm …là bửa cơm có thêm món mới, giúp ăn ngon tới cuối bửa mà không ngán chút nào.

          Vì tôi thích ăn rau móp, nên từ đó mỗi khi có dịp là ba dắt tôi ra bờ sông. Có đi hái rau với ba rồi mới thấy thương ba đến xót lòng : Những bụi rau móp ven sông với đọt rau màu nâu nhạt tua tủa gai non vô hại ấy luôn nằm giữa những thân lá già với gai sắc nhọn. Vì thế, muốn rút được đọt non thì rất khó tránh bị gai của nó đâm chi chít vào tay. Nhưng thương con gái, ba đã không ngại gì việc đi hái rau về cho má chế biến thành bao nhiêu món lạ miệng, bắt mắt. Để đến hôm nay, ba má đã về cõi vĩnh hằng rồi , tôi vẫn còn … thương hoài rau móp ven sông!

Rau m

Trong một lần đi chụp hình vào giữa Đông tôi tình cờ thấy mấy mẹ, mấy chị cạo rau Mứt ở Đá Nhảy. Tần ngần đứng hồi lâu rồi xin chụp vài tấm hình dự định viết một bài về rau Mứt. Nhiều việc quá, lại quên. Chiều nay trong bữa cơm thấy nồi canh rau mứt nấu với tôm chợt nhớ mình chưa viết bài này.

Khách thập phương thì khá lạ lẫm nhưng với người Lý Hòa có biết bao món ăn mà khi xa quê chỉ cần nghe đến tên là nhớ nhà, nhớ quê da diết. Cái tuổi thơ "chang chang cồn cát nắng trưa Quảng Bình" hẳn ai cũng có kỷ niệm thuở đi đục hàu, bơi qua cồn bắt cua, cá..., đêm đêm đốt lốp xe đạp đi xoi còng. Ôi, nhớ cái tuổi thơ quá! Mãi miên man mà quên đi chủ đề chính. Đá Nhảy được thiên nhiên ưu ái cho vẻ đẹp hiếm có mà còn bao nhiêu thứ nữa. Nào cua, cá, ốc...và rau. Có nhiều loại rau lắm chứ. Đúng ra cũng thuộc họ tảo biển cả. Chả biết nơi khác gọi tên là gì chứ cứ liệt kê đúng tên dân mình thường kêu cho gần gũi. Rau câu, ra mứt, rau Mùng Tang, rau địu  và hình như còn nhiều thứ nữa. Xưa kia, người nghèo thường lên Đá Nhảy cạo đủ thứ rau về ăn. Riêng ngày kè mà làm món thạch rau Câu thì nghèo hay giàu gì cũng...chảy nước miếng. Đúng tôi là kẻ viết chuyên lan man sang chuyện khác, thì cứ bạn chuyện rau Mứt đi đã. Mùa này ngoài chợ hôm nào cũng có bán, giá không rẻ chút nào. Nghe người nhà bảo mười ngàn được một chén rưỡi thôi, mà chén nhỏ lắm! Nói hơi quá lên thì đây thuộc một trong những loại rau đắt nhất ở chợ Lý Hòa. Nhìn mấy bà mấy chị mang ni lông ngồi cạo thấy tội lắm, không đắt sao được! 

Chờ khi nước ròng thì kéo nhau đi cạo, sóng vỗ vào đá hắt tung tóe vào người, khổ cái loại rau này thường có vào mùa đông. Ngồi tẩn mẩn cạo từng vỉa rau bám vào đá thấy mà thương. Loại rau này như là túi ni lông cắt mỏng ra rồi vò lại như vỏ bào của thợ mộc ấy. Màu xanh thẫm, hơi trong. Anh bạn tôi bảo: "nhà tau mỗi lần nấu canh này phải mua tới năm chục ngàn đấy". Đừng cho anh ta nói khoác, rau Mứt khi nấu lên nó "xìu" dữ lắm. Nhà bảy tám người chắc tới giá tiền đó rồi. Đâu thì chẳng biết, chỉ thấy người Lý Hòa chuyên nấu rau Mứt với tôm, tép, có khi là cua. 

Cái món "rau nhà nghèo" xưa kia ấy mà khối người Lý Hòa thích đáo để. Khoa học cũng thừa nhận rau mứt và nói chung là các loài họ tảo rất tốt cho cơ thể. Tôi nhớ lâu lắm rồi có đọc một bài báo nói rằng tảo biển có thể chế ra hàng trăm thức ăn bổ dưỡng. Gần đây có loại thực phẩm chức năng mà thành phần chính là tảo biển. Cái vị của rau Mứt cũng khó mà tả được, chỉ thấy ai ăn cũng khen. Nó sền sệt như nước cốt dừa, như mang cả hương vị biển vào đó. Hãy một lần ghé Về Lý Hòa, về Đá Nhảy tận tay nhổ nhúm rau Mứt, chao qua nước biển cho hết cát rồi ăn xem. Nhớ biển lắm, nhớ Lý Hòa lắm mỗi khi đi xa.

Món “nhà nghèo”

5:03 am thứ ba, ngày 16 tháng tám năm 2011

- chuyên mục

Đời Sống

Ẩm Thực

Ngày ấy gia đình tôi sống ở vùng nông thôn, cuộc sống của thời bao cấp cái gì cũng thiếu. Mỗi lần ăn cơm với rau lang luộc, mẹ nói: “Rau lang ăn rất tốt, nhuận tràng và mát cho cơ thể”.

Nhưng dù thức ăn có là gì đi nữa thì mẹ cũng chỉ ăn lưng chén cơm là buông đũa. Ba nói: “Bà nhường ba con tôi phải không? Nếu bà nằm xuống thì các con khổ lắm đấy”.

Một hôm, em của ba từ trên huyện ghé chơi, mẹ nói với ba: “Ông ạ! Chú nó về chơi mà nhà mình cạn tiền rồi, hay có con gà mái đang đẻ bắt làm thịt đãi chú?”. Ba cười: “Bà nghĩ chú nó là ai? Nó là em mình, ăn gì mà chả được, cả nhà còn mỗi con gà mái đẻ”.

 Bữa cơm hôm ấy dọn ra có một đĩa cá cơm khô rang, tẩm mắm, một bát canh rau tập tàng và một đĩa rau lang luộc cùng với chén mắm tỏi ớt. Bình thường tôi thấy không ngon nhưng hôm ấy sao ăn thấy ngon, bùi và thơm đến lạ lùng. Chú nói: “Cái món rau lang luộc chấm mắm tỏi ớt em ăn không biết chán”. Mẹ nói chữa: “Món này là món của nhà nghèo đấy chú ạ”.

Cái khốn khó của một thời rồi cũng qua đi, những năm sống ở thành phố tôi thường nhớ về món rau lang luộc chấm nước mắm tỏi ớt ngày ấy.

Mỗi lần ngồi vào bàn ăn có món rau lang luộc, tôi nói với chồng và các con: “Đây là món ăn nhà nghèo đấy”. Chồng tôi phá lên cười: “Em nhầm rồi! Đây là món ăn của nhà giàu, là món ăn đặc sản của các nhà hàng khách sạn đấy”

Mỗi lần ăn món rau lang đó, hình ảnh mẹ lại hiện về, mỗi lần đi làm đồng về trên tay mẹ thế nào cũng có một nắm rau lang. Sau khi rửa sạch sẽ, mẹ nói: “Rau này nhìn vậy nhưng kén lửa lắm, nếu lửa không to, không đều thì rau dễ bị đen, nếu luộc kỹ quá thì sẽ nát, ăn không ra gì, chỉ luộc vừa chín tới - ngọn rau vẫn xanh ăn vào giòn ngọt”.

Những lời mẹ dặn cứ ăn sâu vào tâm trí tôi. Mẹ tôi nay không còn nữa nhưng hình ảnh mẹ và món “nhà nghèo” luôn sống mãi trong trái tim tôi.

Giàu người ta ăn cơm với cá

Khó như em ăn rau má đam đồng

Dù cho chờ đợi mấy đông

Đắng cay cũng chịu, mặn nồng cũng cam.

(Dân ca

Nam

Bộ)

“Rau má”, một tên gọi thân thương và gần gũi với dân ta, là món đặc sản vùng bưng được chế biến thành nhiều thức ăn thích ứng, vừa ngon vừa bổ khỏe: Rau má nấu canh thịt, xào thịt bò, bóp gỏi, làm dưa. Ngoài ra, rau má là món giải khát bình dân rất phổ biến được đa số dân gian ưa chuộng. Còn gì sung sướng cho bằng giữa trưa hè, đi trên đường phố, dưới cái nắng chói chang, ghé vào quán giải khát kêu một ly rau má dừa xiêm, nhấp nháp từng ngụm, mới cảm thấy hết cái sảng khoái với giây phút thần tiên mát diệu cõi lòng thấm đậm đến tận chân lông kẽ tóc. Rau má còn là vị thuốc dân tộc điều trị được nhiều bệnh: tiêu chảy, kiết lỵ, thông kinh, đau bụng và lợi sữa.

Rau má đã đi vào văn học dân gian, khắc học nên những hình tượng vô cùng đẹp đẽ của đôi lứa nam nữ chân quê, mộc mạc mà thủy chung nồng nàn.

“Thiếp nguyện với chàng một sàng rau má

Chàng nguyện với thiếp một rá rau mưng

Chàng ăn, thiếp nhịn, xin đừng bỏ nhau”.

Hình ảnh một loài rau dại mọc hoang dã nơi góc ruộng, bờ đường đã từng giúp nhiều hộ nông dân nghèo ở vùng bưng chua phèn phát triển cuộc sống, gắn bó đậm đà tình nghĩa đầm thấm:

Nhà giàu bố cơm bố cá

Nhà nghèo bố rau má, khoai lang”

Hồi nhỏ, gia đình tôi rất kham khổ, cuộc sống lận đận, anh em thì đông, nên bữa ăn thiếu thốn mọi bề, thực đơn chỉ giản dị cơm là chủ yếu với rau luộc chấm nước tương. Thế mà chờ những lá rau tròn tròn xếp kế bên nhau hình mắt chim ấy đã nuôi sống anh em tôi trưởng thành bước vào cuộc đời.

Rau má có mặt khắp nơi trong vùng Đông Nam Á, mỗi quốc gia có tên gọi riêng. Trung Quốc gọi là Liên Tiền Thảo (do rau có hình tròn tựa hồ đồng tiền xếp cạnh nhau). Ta gọi bằng cái tên vừa quí trọng vừa yêu thương: “Rau má”, vì tục ngữ có câu:

Đói ăn rau, đau uống thuốc

”.

Rau má là cây rất dễ trồng, không kén đất, ít sâu rầy, chỉ bón phận đạm để rau phát triển lá. Rau má rất cần nước tưới, không thể một ngày thiếu nước nhưng nó không chịu được ngậm úng và tối kỵ nước mặn.

Trong vụ nghỉ hè năm ngoái, tôi đến thăm anh giáo Trần Văn Thứ, một đồng nghiệp đã về hưu sống ở xã Tân Thành, huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp. Anh trồng ở sau nhà 3 công chanh đã được hơn 1 năm tuổi. Với chủ trương lấy ngắn nuôi dài, lúc chanh chưa phát tán, anh bứng gốc rau má trồng thử, sau đó phát triển thành diện rộng, toàn bộ trên diện tích đất trồng chanh. Anh tâm sự: “Mình cao tuổi rồi, không thể lao động nặng nên trồng rau má cho đỡ chăm sóc”. Thế mà, chỉ non 2 tháng sau, với diện tích 1000m2

cho năng suất 1,2 tấn/vụ và 1 năm thu họach cả 6 vụ, bình quân mỗi ngày anh cắt 15kg bán giá từ 2.000-2.500đ/kg, thu họach khoảng 30.000đ/ngày liên tục cả năm nay. Do đặc tính dễ trồng, ít tốn vốn đầu tư, lại mau thu hoạch, nên cuộc sống của anh có thu nhập khá ổn định.

Nhìn 3 công vườn chanh non tơ mát mắt, phía dưới là vườn rau má như tấm thảm xanh của anh giáo. Thứ mà tôi bồi hồi nhớ lại loại rau hoang dã đã từng cưu mang anh em tôi thời thơ ấu…nay đã được chế biến thành loại nước uống giải nhiệt cho đa dố nhân dân ưa thích.

Thật quả là anh giáo Thứ biết chọn công việc lao động thích ứng cho tuổi xế chiều, ngõ hầu tạo điều kiện thu nhập phụ rất đáng trân trọng.

Những năm tháng nhọc nhằn

TTCT - Thầy Hầu dạy sử, cũng là người miền Nam hiếm hoi trong trường. Nhà thầy gần nhà Quyên, trong khu Bàn Cờ của người lao động, phố xá chật chội. Thầy ở một mình không vợ con.

Tân không thích môn sử nhưng rất mến thầy, thường tới thăm thầy nghe kể chuyện, có kẹo bánh trái cây thầy đều đem ra đãi. Thầy có lối kể chuyện ấm áp thân tình, nhớ gì kể nấy, hết chuyện này tới chuyện khác, nhiều chuyện không đầu đuôi gốc gác nhưng nghe không cảm thấy xa lạ. Thầy kể nhiều nhứt chuyện ông anh thầy, hiện đang tập kết ra Bắc.

Trước đó ông anh thầy đi kháng chiến chống Pháp, làm Việt minh, bôn ba khắp các tỉnh miền Nam. Lâu lâu hai anh em gặp nhau, thường cả năm trời, thông qua đường dây móc nối bí mật, đường đi lén lút khổ cực. Đó là những chuyến đi không thể nào quên. Thầy kể tỉ mỉ chuyện vượt sông Vàm Cỏ, sông Cửu Long, dong ghe ra ngoài biển khơi Rạch Giá, leo lên núi Cấm, vô rừng U Minh ăn ong hái đọt choại.

Sau ngày anh thầy tập kết ra Bắc gởi bưu thiếp về, thầy kể chuyện các tỉnh miền Bắc, vùng Sơn La - Lai Châu, núi Phăng Xi Păng, cao nguyên đá Đồng Văn, vùng Đông Bắc có mỏ than đá Cẩm Phả... Không hiểu sao chỉ có mấy lời ngắn ngủi trong bưu thiếp thầy kể được nhiều như vậy.

Tân đến lúc thầy đang ăn cơm. Thầy kéo ghế cho Tân ngồi rồi tiếp tục ăn, hỏi Tân đến có chuyện gì, bài vở có khó khăn gì không? Lần nào thầy cũng hỏi như vậy. Tân đáp không có chuyện gì, tới thăm thầy thôi. Thầy nói như vậy là tốt, thầy rất muốn học trò tới thăm, trò nào cũng được. Riêng hôm nay thầy có chuyện muốn nói với Tân. Tân lấy làm lạ, lâu nay không thấy thầy nói chuyện riêng tư như vậy.

Thầy ăn rất mau. Thầy ăn cơm tháng giống như bọn Tân, thêm món rau luộc tại nhà, món ăn của người già. Nhưng thầy chưa già, chưa tới năm mươi. Với bọn Tân, thầy là người già, người của thế hệ trước. Thầy ăn xong dọn dẹp, châm bình trà rót cho Tân, tách trà không bao giờ Tân đụng tới. Thầy hỏi qua chuyện học hành, chuyện nhà dưới quê, chuyện nhóm bạn đằng nhà trọ. Thầy biết tất cả, nhớ không sót đứa học trò nào, quê ai ở đâu, học hành thế nào.

Chợt thầy hỏi:

“Em làm giấy căn cước chưa?”.

“Dạ rồi”.

Tân ngạc nhiên, không hiểu thầy hỏi chuyện căn cước làm gì. Nhưng thầy bắt qua chuyện khác. Thầy vừa nhận được bưu thiếp anh thầy ở miền Bắc, đưa ra cho Tân coi tờ bưu thiếp có con dấu của Ủy ban đình chiến Hiệp định Genève. Thường thầy muốn giấu chuyện anh thầy, nhà trường có thể hạch hỏi, cảnh sát dòm ngó nhưng lại cũng muốn khoe. Anh thầy là lòng ngưỡng mộ, niềm tự hào của thầy. Học trò đến thăm, thầy nói vòng vo mãi, cuối cùng cũng nói chuyện ông anh.

Thầy nói anh thầy đã chuyển ngành, ra khỏi quân đội, hiện đang làm ở Nhà máy trà Phú Thọ. Thầy kể tiếp chuyện Phú Thọ, như thầy có ở đó, kể rành rẽ quy trình làm trà. Nói sang cả chuyện đền Hùng, cũng ở đó. Trông thầy khác hẳn, rạng rỡ, tràn ngập niềm tự hào, không biết dựa vô đâu. Thầy không nói gì về miền Bắc, về chế độ cộng sản. Thầy không biết, thầy chỉ nói về anh thầy.

Thầy trở lại chuyện ban đầu:

“Hồi nãy thầy hỏi giấy căn cước của em vì thầy lo em bị bắt lính. Có căn cước là tới tuổi đi lính. Em có muốn đi lính không?”.

“Em không biết”.

Quả thật Tân không biết, đám bạn chưa có ai bị bắt lính. Tân không hình dung bị bắt lính sẽ như thế nào.

Thầy nói tiếp:

“Theo nguyên tắc, em còn đi học, không ở lại lớp sẽ không bị bắt lính. Nhưng đó là hôm nay, không biết ngày mai thế nào. Mỗi ngày có những thay đổi. Em phải tính tới chuyện đó, không sẽ quá trễ. Chỉ có hai con đường, đi lính hoặc đi tù. Thầy nói vậy em hiểu không?”.

“Dạ hiểu”.

Nhưng Tân không hiểu gì hết. Làm sao Tân biết được chuyện chưa xảy ra? Má Tân dưới quê càng không biết, không có bà con chỉ dẫn, bạn bè cũng ngu ngơ.

Tân hỏi:

“Thưa thầy, em phải làm sao?”.

“Thầy không biết. Thầy chỉ biết dạy học. Nhưng đi lính là bắn giết, thầy không muốn mấy em lâm vô cảnh đó”.

Tân bỗng hỏi:

“Người Mỹ là sao hả thầy?”.

“Em hỏi vậy là sao?”.

“Em có điều không hiểu. Mình đuổi Tây đi rồi, đáng lẽ người Việt mình sống với nhau, người Mỹ vô đây làm chi? Có phải người Mỹ muốn chiếm nước mình không?”.

“Ai nói với em như vậy?”.

“Tụi bạn em nói”.

“Thầy không biết. Thầy cũng đang suy nghĩ. Thầy dốt về chuyện chính trị lắm”.

Thầy day trở, như tìm kiếm cái gì, rồi hạ thấp giọng nói:

“Chuyện đó em đừng nói với ai, thầy trò mình bàn với nhau thôi”.

Thầy trở lại chuyện anh thầy, thời trước đó nữa, lúc nhỏ ở dưới quê. Nhà thầy chỉ có hai anh em, anh thầy lớn hơn thầy bảy tuổi. Ba mất sớm, hai anh em sống với mẹ. Anh thầy ra đi vào những ngày đầu khởi nghĩa năm 1945, vác gậy tầm vông, trong đoàn thanh niên tiền phong. “Nóp với giáo mang ngang vai”, đi diễu hành trên đường phố Sài Gòn, rồi vô chiến khu Đồng Tháp Mười.

Thầy tự hào về anh thầy nhưng không muốn bắt chước. Thầy sợ bom đạn, không muốn người ta bắn mình, cũng không muốn bắn ai. Thầy tiếp tục học, ra trường đi dạy, suốt cuộc chiến tranh chín năm thầy chỉ có rời thành phố để đi gặp ông anh. Và trong đời thầy chỉ có những chuyến đi đó là đáng giá.

Những năm về sau này, do tuổi già, người mẹ đã chết từ lâu, chỉ còn hai anh em, những lần nhận được bưu thiếp thầy chảy nước mắt khóc. Tình máu mủ ruột thịt, hơi thở cuộc sống bôn ba của người anh truyền về, những lời ngắn ngủi trong tấm bưu thiếp biến thành đại dương bao la của những hồi ức, bản thân thầy không hiểu sao mình có được.

Tân ra về. Cuộc gặp gỡ không soi sáng được gì, chỉ thấy nặng nề thêm.

Sài Gòn vào mùa mưa dầm. Trời hửng nắng một chút lại tối sầm, mây đen vần vũ, những cơn gió thổi tới tốc lá khô rào rào trên mặt đường. Cơn mưa tiếp theo không rõ từ hướng nào, dữ dội, gió giật uốn vặn những ngọn cây sao kêu răng rắc. Rồi cũng đột ngột không báo trước, cơn mưa dứt ngang, chỉ còn bụi mưa lất phất. Rồi trời trong veo, hửng nắng, mặt cỏ trong công viên bốc làn hơi nóng mờ mờ.

Tân được thư má dưới quê. Nhà vẫn yên, không có chuyện gì. Em gái đi học, ruộng lúa không trúng không thất. Cây me già trước sân năm nay nhiều trái, chim dòng dọc làm ổ treo lủng lẳng, ong lá cũng nhiều, em gái không dám leo hái. Má dặn Tân cứ yên tâm học, không có chuyện gì không nên về. Dưới quê cũng đang bắt lính, thanh niên trai tráng tự dưng biến mất, không biết bị đưa đi đâu, làm công chuyện gì.

Gần tháng Tân không gặp Quyên, không nghe tin nhắn. Tân nằm dài trên sàn nhà học ôn các môn toán lý hóa, gấp trang sách cuối cùng mệt rã rời, thấy cần phải đạp xe đi loanh quanh, đi lòng vòng một hồi tự dưng đến nhà Quyên. Tân nhấn chuông, không thấy con chó chồm ra, trong nhà yên phắc. Tân cảm thấy có chuyện khác thường, bước sang nhà bên nhấn chuông. Đứa con gái mười hai tuổi thò đầu ra. Con nhỏ Tân đã quen mặt, Quyên thường nhờ nó đến nhắn tin cho Tân, hôm nay nhìn Tân làm mặt lạ:

“Ông hỏi ai?”.

“Tao đây mà - Tân nói - Nhà Quyên đi đâu hết rồi?”.

“Đi Tây hết rồi”.

“Quyên có đi không?”.

“Không biết”.

Con nhỏ đóng sập cửa lại. Thành phố đã lên đèn. Tân quay ra đạp xe chầm chậm, lòng rối bời. Chắc nhà Quyên đi Tây rồi, nhưng Quyên có đi không? Nếu không thì đi đâu? Sao tự dưng bỏ cả nhà cửa thế này?

Tuần sau Tân nhận được thư Quyên lý giải tất cả:

...Em không phải con đẻ trong nhà. Người em gọi là má là dì ruột em, chị ruột của má em. Còn má em chính là “người dì” em thường lên thăm ở Đà Lạt, chơi với đám em là em ruột của em. Anh đã rõ mọi chuyện rồi chớ gì? Tất cả đều ruột thịt, tình cảm em không sứt mẻ nhiều trong chuyện này.

Hai chị em - má em và dì em - là con nhà nghèo trồng rau ở Đà Lạt, cùng lấy chồng một lượt. Dì em lấy được chồng giàu ở Sài Gòn, không có con. Má em lấy chồng thầy giáo làng, đẻ ba con. Dì em nói: “Tao bắt nuôi một đứa, mày cho đứa lớn để nó làm chị hai đứa kia”. Ngay từ nhỏ em đã biết chuyện đó, không thấy chút áy náy trong lòng. Chỉ là tên gọi, và chỗ ở, còn đều máu mủ ruột thịt. Hằng tháng em về Đà Lạt thăm má, em gọi là “dì”, chơi với đám em, chúng biết hay không kệ chúng.

Nhưng giờ gia đình dì em sang Pháp, chuyện hoàn toàn khác. Em muốn trở lại là con của má em, con của người nghèo. Nước Pháp cách trở nửa vòng trái đất, hai đại dương, ngôn ngữ, phong tục tập quán khác nhau. Em mới mười chín tuổi, sau mấy mươi năm sống ở Pháp em sẽ khác, em không muốn điều đó.

Nhưng đó chưa phải là lý do chính.

Má em và dì em lấy chồng một lượt. Dượng em làm việc ở Sài Gòn, làm quan lớn. Ba em ở Đà Lạt làm thầy giáo làng, bị bắt, tổ chức vượt ngục bị bắn chết. Dì em nuôi em từ lúc em còn ẵm ngửa, ba em chết lúc em còn nhỏ ở Sài Gòn không biết gì, không ai nói cho em nghe. Tới năm em mười tuổi, sau lần gặp anh, một lần về Đà Lạt má em nói: “Con lớn rồi, phải biết chuyện này”. Rồi má em kể hết cho em nghe.

Kể từ đó, lần nào về Đà Lạt em cũng bắt má kể chuyện ba, dẫn em đi thăm mộ ba, tuy biết rằng chỉ là mộ gió. Em chưa từng biết ba, nhưng em vẫn là con của ba, máu chảy trong người em là máu của ba em. Em không biết ba em làm gì, nhưng biết ba em bị bắn chết. Giờ em đi nước ngoài bỏ ba em hay sao?

Một lần em ra nghĩa trang viếng mộ ba em. Trời chiều nắng vừa tắt. Em ngồi bên mộ một lúc bỗng thấy có người từ xa đi tới. Một người đàn ông tuổi trung niên, chắc cũng trạc tuổi ba em, bận quần áo bà ba đen, đi chân đất, tay chống gậy, vai mang chiếc túi vải. Người đó đi xăm xăm tới ngôi mộ, ngạc nhiên thấy em ở đó nhưng không nói gì, cùng ngồi xuống với em ngắm nghía bia mộ. Một lúc người đó nói: “Chú biết người trong mộ này”. Nói xong ông chống gậy ra đi, lầm lũi như lúc đến, khuất mờ trong ánh chiều...

Một lần khác vào buổi sáng, em tới nghĩa trang thấy đám lính đang quần thảo, lát sau em biết chúng lùng tìm ngôi mộ nghi là hầm núp của Việt Minh, nói sẽ khui hết các hầm mộ để tìm bắt. Em nghe vậy hoảng quá nhưng không biết làm sao, ngồi ôm ngôi mộ khấn vái cho trời Phật phù hộ ngôi mộ ba em không bị khui. Và rồi lời khấn cầu của em thấu được tới trời xanh, đám lính khui nhiều ngôi mộ nhưng không đụng tới mộ ba em...

Giờ em bỏ đi, không còn nhìn thấy mộ ba em nữa hay sao?

Cây cải về trời

Lâu lắm rồi tôi không có dịp về quê nội thăm mồ mả ông bà, ngay cả ngày tảo mộ cũng không có mặt. Năm nay, gần đến tết, nỗi nhớ quê chợt cồn cào, tôi dặn lòng thế nào cũng phải về đốt cho ông bà nén nhang. Chú Sáu nhà bên cứ càm ràm: Mày phải tranh thủ dìa nội, công việc nay làm không xong mai làm, tảo mộ thì mỗi năm chỉ có một ngày, mà có về nhớ hái cho tao nắm rau cải trời nghen! Lâu rồi không được ăn cải trời… Giọng chú sáu như chùng xuống. Tôi gật đầu hứa với chú mà chợt thấy nhoi nhói trong lòng khi nghe nhắc đến “cải trời”. Phải chăng tôi như cây cải trời đi xa rồi day dứt mãi ngày về, giống như câu nội đã hát ngày xưa: Gió đưa cây cảivề trời…?

Tôi như thấy lại mình, đứa bé nhà quê ngày nào lon ton cắp rổ loanh quanh trong những liếp chuối, bờ xoài, theo nội hái cải trời. Nhớ làm sao không khí se lạnh những ngày cuối năm, lũy tre sau nhà cứ xào xạc hoài vì những cơn gió chướng, nắng cuối năm dìu dịu, vàng trên những bờ cải xanh mút mắt, những liếp vạn thọ he hé nụ. Đó là một không gian yên bình không thể tìm được ở chốn thị thành.

Tôi còn nhớ như in lời chỉ bảo của nội: Cải trời mọc đúng vào mùa rau đắng rộ, từ khi con tu hú kêu dậy trời cũng là lúc rau cải trời non nhất. Thật vậy, thường thường vào đầu tháng chạp, khi con nước nổi rút hết để lại lớp phù sa mơn mởn, cũng là lúc các thứ rau vườn đâm chồi xanh biếc. Trên mấy liếp xoài sau nhà, hay cặp theo đường cái, bờ ruộng,… rau cải trời đều có mặt. Chúng mọc tự nhiên với sức sống mãnh liệt, mặc dù không ai bón phân, rải thuốc nhưng cải trời vẫn xanh mượt và hầu như không bị sâu rầy phá hại. Chúng mọc chen chúc nhau dưới mấy tán xoài, bít cả mặt đất, là thứ cây của nhà nghèo nhưng khó có loại rau nào sánh kịp.

Sinh thời, ông nội tôi rất thích món canh cải trời nấu cá trê hoặc cá rô đồng. Các loại cá đó nấu canh thì khỏi phải chê, nó ngọt hơn bất cứ loài thủy sản nào, lại là bài thuốc chữa được nhiều thứ bệnh, nhất là công dụng giải cảm. Những lúc thắt ngặt không có cá, bà nội tôi nấu canh cải trời với tép bạc hoặc tép lóng đâm dập, tuy không ngọt bằng nấu với cá nhưng nó cũng cho một nồi canh đặc trưng, mùi vị rất khó tả bằng lời, ngon hơn tô canh rau mồng tơi, bồ ngót. Tô canh múc ra, rắc lên một ít tiêu giã nhuyễn ăn cơm nóng với mớ tép muỗi rang mặn lúc bụng đói thì không có thứ cao lương, mỹ vị nào sánh bằng. Không biết có quá lời không, nhưng đó lại là những hình ảnh quen thuộc của gia đình tôi từ lúc tôi còn là học sinh tiểu học, tô canh nấu bằng rau cải trời đã mang lại sự đầm ấm cho cả gia đình, nhất là những ngày tụ họp cuối năm.

Trên thực tế và theo kinh nghiệm dân gian, vì lá cải trời có mùi thơm, nên thường được thu hái làm rau. “Không phải ai cũng biết cải trời không những ăn được mà còn rất ngon. Cảm giác khi đi qua đầu lưỡi có vị hơi ngai ngái và đắng nhẹ giống như cái đắng của họ hàng nhà cải từ bao đời nay. Nhưng cái ngọt của cải trời để lại dư âm lâu nhất trong miệng sau khi những âm thanh giòn đến ngạc nhiên của thứ cây bé nhỏ tan ra”.

Hiện nay có hiện tượng những gì thuộc về dân dã thì lại là hàng hiếm, mắc tiền hơn, có khi các loại rau cải cao cấp không thể sánh bằng. Rau cải trời hãnh diện có mặt trong cả nhà hàng sang trọng, các quán lẩu bò, lẩu cá thác lác trên những con đường mặt tiền. Vì nhu cầu xã hội như vậy nên đã nảy sinh ra sáng kiến trồng… rau dại. Cây cải trời cũng nằm trong số đó, được người dân miệt vườn trồng ngay trên liếp nhà, được vun phân, tưới nước đầy đủ và có mặt hầu như cả bốn mùa trong năm.

Câu hát “Gió đưa cây cải về trời” có phải nhằm để chỉ cây cải “trời cho” này không, nhưng tôi có cảm giác đây là những triết lý sống mà cha ông ta từ thuở khai hoang mở đất đã đúc kết. Rau cải trời cùng với rau càng cua, rau choại, cải tàu bay,… là những thứ dân dã miệt vườn đã làm nên những điều kỳ diệu tạo sự đoàn kết gắn bó cộng đồng, đôi khi nó là những tài sản vô giá mà con người chưa kịp nghĩ đến.

Cải trời có lẽ đã trở thành món ngon của tôi từ tuổi ấu thơ cho dù nó có đắng hay hăng hắc như thế nào. Tôi yêu quê, yêu cả loài rau hiền lành, dân dã, nhắc tới nó tôi như tìm lại được ký ức của mình. Tảo mộ này tôi nhất định sẽ về quê nội, tôi sẽ cắp rổ ra vườn hái cho chú Sáu nhà kế bên một rổ rau đầy. Mà không biết cây cải trời giờ có còn mọc um tùm trong vườn nhà mình nữa hay không?

Rau muối đồng quê

Trong cái se lạnh của đất trời chuyển mình vào xuân, ta sẽ thấy ấm áp hơn bởi hương vị đồng quê của đĩa rau muối xào trong mâm cơm đạm bạc. Cứ vào những ngày cuối đông lạnh giá đến giữa mùa xuân hàng năm chính là thời điểm rau muối mọc nhiều, đem lại cho người dân quê một món ăn dân dã, đậm đà dư vị đồng quê.

    Không bàn tay chăm sóc, không người gieo hạt ươm mầm nhưng sức sống mãnh liệt của loài rau dại này đã giúp cho nó trường tồn. Mọc lên những luống rau nhờ những hạt nhỏ li ti gửi vào đất mẹ từ mùa đông năm trước, và mọc nhiều nhất có lẽ là trên những luống khoai lang. Rau muối càng phát triển, càng non, xanh khi trời lạnh và có sương muối. Có những cây cao tới 30 – 40cm, thân mập như đầu đũa. Bấm ngập móng tay vào những chồi non mơn mởn, chỉ cần mươi phút là có thể cho mình một món rau khoái khẩu.

    Cách đây khoảng hơn 10 năm, người dân nhiều vùng quê rất nghèo, có khi gạo không đủ ăn nên những thứ rau tập tàng chính là “cứu cánh” trong những ngày đói. Rau muối rất ngon, vả lại chỉ cần ra đồng, chỗ nào cũng có thể hái được mà không phải mua bán vì nó là loài rau dại. Không ít người đã thành danh nhưng trước kia đã từng kinh qua những năm tháng hàn vi và lớn lên nhờ những con cá đồng, củ khoai lang và cả món rau đồng quê này. Với nhiều người ký ức về một thuở nghèo khó nơi đồng đất quê nhà là luôn  đáng trân trọng và khó có thể quên. Giờ đây, người nông dân đã no ấm hơn nhiều, song món rau muối thân thuộc vẫn luôn có mặt trong nhiều bữa ăn của họ. Gần đây, cứ mỗi dịp về quê, mẹ lại ra đồng hái rau muối bởi bà biết đó là món tôi ưa thích.

    Rau muối được coi là loài rau dân dã, dân dã ngay cả trong cách chế biến. Nếu rau cải, rau thiên lý ưa xào với thịt bò, thịt lợn; rau ngót thích hợp với nấu canh thịt, canh ngao; rau muống ưa xào với tỏi... thì riêng rau muối lại rất ngon khi chỉ xào không với dầu mỡ. Đến ngay cả hai loại rau gia vị thông dụng nhất là hành hoa và rau mùi cũng không hợp. Bản thân cây rau muối đã có vị mặn nên khi chế biến, người ta không cần bỏ muối. Có lẽ đó cũng chính là nguyên nhân của tên gọi “rau muối” mà dân gian đã đặt. Gần đây nhiều người dùng cả loại rau này để ăn lẩu, hương vị cũng khá hợp. Nơi phố thị ồn ào và phức tạp, nhiều người vẫn e ngại với một số loại rau có dư lượng thuốc trừ sâu, thuốc kích thích... Việc tìm về những loại rau đồng quê chính là “cơ hội” để rau muối không còn bị coi là thứ “rau nhà nghèo”...

    Bước chân tôi đã đi và đến nhiều nơi, nhưng tôi vẫn luôn nhớ bữa cơm quê nhà đạm bạc với đĩa cá kho, bát canh cua đồng, cà muối và  đĩa rau muối. Ăn một miếng cơm trắng cùng đũa rau muối xào, vị bùi và mùi thơm đặc trưng của loài cây dân dã ấy vẫn lan tỏa mãi, như át đi những hương vị của nhiều loại thức ăn hay đặc sản hàng ngày nơi phố thị. Chắc chắn ở đâu đó, có người đã tìm lại được ký ức tuổi thơ qua những bữa cơm rau muối...

Xì ke

Híc, hồi đó đơn vị có nuôi con xì ke, đặt tên là Giôn. Giôn oai hùng, là nhất xóm. Xì ke của Lục thum contop Vn (ban chỉ huy) thấy bóng là cúp đuôi! Sau đàn xì ke của các lục thum phát triển lên thành 3 - 4 con, chúng thường bâu vào đánh hội đồng Giôn. Giôn vẫn chấp. Mỗi lần có chiên sự xảy ra là cả cái xóm nhà em và xóm nhà lục lum (!) ùa ra cổ võ. Thôi rồi! Bên xóm lục thum thì đứng ra nheo mắt, miệng xịt xịt ... Bên xóm em thì gào lên: chây dô, chây dô! Cắn cho nó chết mẹ cha nó đi! Choi me xà-lách. Ha Há! Các lục lum tái mặt, cười gượng ...

Sau này, mẹ thằng cha nào không biết - nghe nói là lục phó, chơi đểu, nhè ngay lúc đại ca Giôn đang mắc ... việc với 1 nàng xì ke của các lục thum, đã lấy cây phang ngay mỏ Giôn. Từ đó hàm dưới của Giôn xộc xệch! Sức chiến đấu giảm hẳn. Và bầy xì ke lục thum lên mặt ...

Một thời gian sau, Giôn già, yếu, bỏ cơm ... anh em bàn nhau ... Lão y sĩ đông y chơi ngay 1 quả búa vào đầu Giôn (!!!) ... một đại tiệc được mở ra, mời các lục thum xuống xơi, mời luôn các lục K tới.

Miej, kinh quá đi mất, không kể nữa!

xi xì ke thì đã sao! hồi đó có thời gian, mùa khô 80 ,xì ke nó say nắng hay bị điên thật không biết?! cứ le lưỡi mắt long sòng sọc tru tréo suốt ngày, dân bạn họ kinh quá! đến năn nỉ coong tóp xử lý tử hình bọn xì ke dùm, chuyện thật đấy nhé! thế là coong tóp VN được dịp cứu nhân độ thế, mà phải lên lịch tử hình bọn xì ke từng khu vực nào đăng ký trước! hi hi! ăn riết cả tháng trời độc một món xì ke hầm ( cho chắc ăn, sợ bị lây bịnh điên của lũ xì ke! ) đến độ một hôm có thằng phát biểu trước: " sao mày hôi chó quá vậy!" thằng kia đớp lại: " mày cũng vậy mà nói tao!" hóa ra ăn riết thằng nào cũng ra mồ hôi có mùi hết, hi hi! Sau đó thì việc xử lý bọn xì ke được tăng giá! đại để tốn 1 viên AK mà không lấy thịt nữa thì phải được khuyến mãi thêm xoài, dừa gì đó cho xamaki! he he he!

Còn ở chổ em thì ngược lại....Hồi đó, tụi em bàn nhau đi kiếm 1 con trong phum. Ba thằng tụi em xách súng đi, một lát em thấy có 1 chú xì ke đang ghếch chân lên đái... OK. vô tư nhá "Pằng!" chú xì ke lăn ra! Cả bọn chưa kịp chạy tới thì gia chủ đã chạy ra! Thấy đầy tớ lăn kềnh ra đó tức mình quá liền chửi om sòm! Sau đó xách luôn xì ke lên chỉ huy bắt đền. Miẹ nó, mình bảo vệ phum nó miết mà một con chó cũng làm ầm ĩ, em phải xuống nước năn nỉ thằng chả mới nguôi! Xong rồi nó bảo  "Thôi, lỡ rồi, bộ đội VN làm thịt đi!". Mấy bác trong BCH đại đội mừng quá giục bọn em nấu nước liền....

 Sau này thì tụi em khôn hơn, không thèm dùng súng, tốn đạn, mà chuyển qua xài bẩy, mọi việc trôi chảy mà dân chẳng thể mò ra; chỉ thấy xì ke vắng dần mà thôi...

dân K rất sợ mùi thịt chó nên nếu nó biết mình mượn nồi dĩa để ăn thịt chó là nó nhất quyết không cho mượn và nếu phải cho mượn thì nó rửa đi rửa lại nhiều lần bằng nước sôi . Cũng như mình khi mượn dĩa của dân cũng phải rửa thật kỹ cho hết mùi bò hóc ;D

ôi nhắc đến chó thèm quá nhất là món cháo đậu xanh ăn mát đến nổi ngủ không cần đội nón và bắn máy bay khí thế luôn

Vậy là haanh không biết huấn luyện dân K rồi. Chổ tôi K và ta hay chiêu đãi nhau lắm. Vui vui - chiêu đãi nhau, buồn buồn - chiêu đãi nhau chứ không chờ lễ lạc chi. Nhưng đôi khi tôi bị thịt xì ke nó chơi. Đã là thịt xi ke thỉ phài dai với lại muốn ngon là phải chặc từng cục to thì nhai mới sướng. Nhiều lúc vừa mới cắn 1 cái, chưa kịp nhai gì thì mẩy lảo nâng ly chúc tụng nhau. Cục thịt to trong họng làm sao dịch? Có mà mắc dịch.

Ừ, nhắc tới làm thèm chơi. Nuốt nước m... 1 cái!

Tưởng niệm anh em tại am-leng chỉ có rượu,thuốc và trái cây,có lẻ cãm thông với ae nên con "xi-ke" của bà chủ tịch tự nguyện làm vật cúng

Nghĩ cũng lạ, khi chúng tôi dàn hàng ngang tưởng niệm vong linh liệt sĩ tử trận chiến trường Amleang thì con chờ-ke này cứ ngồi kiểu như vậy ngay chổ bày đồ cúng suốt. Tôi lúc đó đứng chung hàng với các vị kia nên không chụp được hình, chỉ có Poipet là cầm máy quay phim thu được toàn bộ cảnh con chờ-ke tự nguyện làm vật cúng cơm chú bộ đội. Lạ thật :-[

Haah, quên đi tháng 7/2010 mình đi siêm rệp xơi cầy bên đó nấu, chỉ tiếc là không có mắm tôm, chấm bằng mắm bò hóc đã chế biến ( mắm nấu sệt, xã cây bằm nhuyễn, tỏi, ớt, chút đường ) ăn không ngon bằng bên mình.

tếu táu thì được, ai đời đem thịt chó đi cúng bao giờ, cúng hương hoa bánh trái, còn khi ăn thì mới sử dụng tới món này chứ, đang thèm đây...

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro