Phật Duyên

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Tác giả: 玄沧。(xuancang158.lofter.com)

Vài lời: Fic rất hay nhưng edit rất cực vì có rất nhiều thuật ngữ, trích dẫn, câu đối. Đam mê có thừa nhưng bút lực có hạn, mình đã cố hết sức sao cho giữ được nguyên tác mà vẫn dễ hiểu.
Nếu được thì mình mong mọi người đọc đến đâu xem chú thích đến đó để thấy được hết cái hay của tác phẩm.

______________________________

Thiếu niên nghe mưa trên lầu hát,
Nến đỏ hôn màn trướng.
Trung niên nghe mưa khách thuyền rong,
Mây thấp sông tuôn,
Tiếng nhạn vọng tây phong.

Đến nay nghe mưa trong phòng tăng,
Tóc đã phơ phơ trắng.
Buồn vui tan hợp chuyện vô tình,
Từng giọt trước hiên,
Tí tách tới bình minh. (1)

***

Lần đầu tiên ta gặp hắn là ở lầu hát ở Khuất đô.

Hôm ấy trời mưa, ta đội đấu lạp, khoác áo tơi, nhưng vạt áo vẫn bị ướt. Lần đầu ta tới Khuất đô, vốn chỉ muốn cầu Phật hỏi duyên, không ngờ lại gặp phải cơn mưa lớn như vậy. Trước mặt là phố Đông Long, một chốn để uống rượu thưởng nhạc. Ta lại là người xuất gia, sơ ý đi đến nơi này, quả thực không ổn.

Nhưng giờ không phải lúc để lo xa đến vậy.

Ta vào lầu hát gần nhất, gọi một chén trà, ngồi bên cửa sổ tránh mưa.

Tiếng mưa rơi càng lúc càng lớn, tí tách tí tách không ngừng. Mưa tuôn trên bệ cửa sổ, âm vang thanh thúy như đạn rơi, một chút lại một chút, rất dễ nghe. Ta nhắm mắt, ngón tay trên mặt bàn gõ theo nhịp mưa, tinh thần dần thả lỏng. Chợt, một tiếng đàn du dương truyền đến bên tai, như gió nổi, như mưa ngừng, trong trẻo tựa thứ âm nhạc của thần tiên, hòa trong tiếng mưa rơi lại càng cho ta cảm giác tuyệt mỹ xuất trần, ta ngẩn người, ngẩng đầu nhìn về nơi phát ra tiếng đàn.

Tiếng đàn phóng đãng, người chơi đàn cũng phóng đãng. Ngồi ở đó là một người trẻ tuổi mặc xiêm y màu xanh đen, cổ áo chỉ đóng một nửa, tóc đen như mực, hắn vuốt ve cây đàn, mắt nhắm, dáng vẻ như trong cơn say.

Ta nhìn hắn, tim bỗng lệch một nhịp.

"Thí chủ." Ta đi đến trước mặt hắn, khẽ gật đầu.

"Vị sư phụ đây có chuyện gì?" Người trẻ tuổi ngưng gảy đàn, ngồi thẳng dậy.

"Không có gì, chỉ là thấy thí chủ có Phật duyên." Ta nhẹ nhàng hít vào một hơi.

"Phật duyên? Có thể lắm." Hắn cười, nói, "Nhưng hiện giờ ta không có ý định xuất gia."

"Thế gian trăm quả, đều có nhân duyên. Chỉ là thời điểm chưa đến mà thôi." Ta chắp tay trước ngực, cúi đầu bái người trẻ tuổi trước mặt.

Hắn như có chút hiếu kỳ, bèn mời ta ngồi xuống.

"Lời này của sư phụ thật ra khá thú vị, nhưng Kiều Tùng Nguyệt ta sao, không tin vào số mệnh." Người trẻ tuổi bưng chén rượu uống một ngụm, mắt sáng như gương.

"Mệnh tuy có định số, nhưng không phải bất biến. Làm người ắt sẽ có mệnh. Mệnh số của thí chủ nằm ở chữ 'ngộ.'" Ta nhìn hắn chăm chú.

Hắn mặt mày anh tuấn, khí thế bất phàm, tuy còn trẻ nhưng đã có thể mơ hồ nhìn thấy vận khí quanh quẩn giữa đầu mày.

"Xin được lắng nghe." Vẻ mặt hắn dường như không tin, nhưng lại vẫn không khỏi tò mò.

"Ngươi và ta có duyên, ta sẽ nói cho ngươi nghe."

Mưa ngoài cửa sổ tựa hồ càng lúc càng lớn, loáng thoáng có tiếng sấm rền, sắc trời xẩm tối, mây đen cuồn cuộn.

"Gió tùng thổi đai áo, trăng núi chiếu đàn cầm (2). Ngày làm khách đã xa, tóc bạc không quay về." Ta uống trà trong tay, nhẹ nhàng lên tiếng, "Mệnh đồ ngươi lắm chông gai, tính tình tiêu sái, gặp quý nhân tương trợ, thoát được cảnh khổ. Mệnh ngươi có số kiếp, không yêu được, cũng không làm được, nhưng lại chấp nhất kiên định, nhân duyên đã đứt tan rồi lại hợp. Trong khổ gặp vui, nhưng vui lại cũng là khổ, hoàn toàn chỉ bởi một ý niệm."

"Vậy sao?" Kiều Tùng Nguyệt vuốt ve thành chén, khẽ cười, "Cảm ơn sư phụ đã giúp ta giải đáp vướng mắc."

Ta nghe, hắn dường như không quá tin, nhưng cũng không nghi ngờ. Ta không vội, chỉ lắc đầu, uống cạn chén trà trong tay.

"Không sao. Tin hay không là tùy ngươi."

Kiều Tùng Nguyệt nhìn ta, không nói gì. Rồi lại tiếp tục gảy đàn.

Tiếng đàn cất lên, khúc nhạc mênh mông tựa dòng nước chảy, giao hòa cùng tiếng mưa rơi vang vọng trong đất trời. Nến đỏ đèn trầm, màn trướng phiêu diêu, mờ mịt như khói.

Một hồi lâu sau, bên ngoài mưa còn rơi, nhưng sấm đã ngừng.

Rồi chẳng mấy chốc, mây tan mưa tạnh, trời lại xanh như gương.

"Thí chủ, bần tăng đi trước một bước."

"Sư phụ đi thong thả." Kiều Tùng Nguyệt vẫy vẫy tay chào ta.

"Không cần tiễn. Ngươi và ta có duyên, sau này sẽ gặp lại." Ta còn không quay đầu nhìn hắn, nhưng ta tin sẽ có một ngày hắn quy y Phật môn. Chỉ là thời điểm chưa tới, nhân quả khó nói.

Bước ra ngoài, gió cuốn hơi nước phả vào mặt, đất trời một mảnh trắng tinh.

***

Gặp lại Kiều Tùng Nguyệt, đã là mười mấy năm sau.

Tiền triều đã diệt, tân triều thành lập được mấy năm, quốc thái dân an. Khuất đô tưởng như không thay đổi, lại chẳng còn là Khuất đô khi xưa.

Mấy năm này ta chu du tứ xứ, đặt chân đến không ít nơi, nghe được không ít lời đồn đại. Nhưng tất thảy những chuyện đó đều chẳng liên quan đến ta.

Không vui vì vật, không buồn vì mình, thế gian không có ta, muôn nơi lại đều là ta.

Trời vừa hửng sáng, sương sớm trắng mờ lượn lờ bên bờ sông, tia nắng đầu tiên nhàn nhạt chiếu qua.

Lạnh thật, thở ra toàn khói trắng. Ta xoa xoa tay, bước lên thuyền, bảo người chèo thuyền một tiếng rồi vào khoang.

Trong khoang thuyền có một nam nhân, mắt nhắm hờ như đang suy tư, hắn tháo đấu lạp để bên người, không nói một lời.

Một lúc lâu sau, thuyền bắt đầu chậm rãi rời bến. Theo chuyển động của thuyền, ánh sáng rọi vào trong, đến khi ấy ta mới nhìn rõ mặt hắn.

Cho dù nhiều năm đã qua đi, dù người trước mắt đã thay đổi rất nhiều, ta lại vẫn nhận ra được gương mặt này.

Người thiếu niên tiêu sái từng gảy đàn trên lầu hát giờ đã bước vào tuổi trung niên, cằm lún phún râu ánh sắc xanh, hình như lâu rồi chưa cạo, tóc mai điểm bạc, búi cao đằng sau, hơi rối.

Ta thấy hắn như vậy, trong lòng khẽ thở dài.

"Vị thí chủ đây, xin hỏi đi về đâu?"

Hắn thoáng giật mình, hoàn hồn lại mới đáp: "Đi đến chân trời góc biển."

"Nếu tâm an, nơi nơi đều là nhà, nếu tâm phiền, góc biển chân trời cũng chỉ là quá giang." Ta thở dài, "Thí chủ có điều gì vướng mắc không?"

Hắn đột nhiên ngẩng đầu nhìn ta, tưởng kinh ngạc, tưởng mê man, nhưng rốt cuộc hắn lại chỉ lắc đầu, ánh mắt mù mờ, như than như oán mà nói: "Thế sự vô thường, ông trời khinh ta gạt ta, người đã đi sẽ không quay về... Bọn họ đều đã chết, đều đã chết. Để lại ta sống một mình..."

Giọng hắn nghẹn ngào, cứ như đã lâu lắm rồi chưa mở miệng.

"Phật dạy, người có bảy nỗi khổ, sinh, lão, bệnh, tử, oán tăng hội, ái biệt ly, cầu bất đắc (3). Chúng sinh mang khổ, lại không phải vĩnh viễn, ngươi phải nhớ, đau chính là ngươi đau." Ta thấy hắn như thế, trong lòng đã tỏ.

Mệnh ư, tính được, vừa gặp đã có thể nhìn ra bảy phần. Nhưng ba phần còn lại chính là mệnh số khôn lường. Hôm nay nhìn thử, vận tuy tạm được, mệnh lại không tốt.

Chẳng biết mưa tự bao giờ, mưa rơi trên mặt sông, gõ lộp bộp trên mui thuyền, vang dội lại sắc bén. Trời âm u, sương mù dày đặc, mây thấp sông tuôn.

"... Không có cách. Ta không quên được." Kiều Tùng Nguyệt thở dài, "Ta sống vì ký ức này, nếu quên mất thì ta chẳng còn gì nữa."

"Dẫu là thống khổ, cũng không quên sao?"

"Tình nguyện thống khổ, cũng không muốn quên." Hắn duỗi tay lấy đấu lạp, bên trong tay áo lờ mờ lộ ra một thoáng đỏ. Ta nhìn kỹ lại, đó là một đoạn tơ hồng đã sờn cũ.

"Độc sinh độc tử, độc khứ độc lai (4). Nhân duyên gặp nhau ắt có ly tán, luôn là như vậy." Ta nhìn Kiều Tùng Nguyệt, nhẹ nhàng nói, "Ta đã thấy rất nhiều kẻ thâm tình, nhưng đến cuối cùng đều không thắng nổi thế đời chảy trôi. Có thể khiến ngươi không muốn quên, vị cố nhân kia hẳn là rất tốt."

Kiều Tùng Nguyệt đội đấu lạp. Hắn vuốt ve sợi tơ hồng trên cổ tay, trầm mặc hồi lâu mới trả lời: "Đương nhiên. Tốt đến mức ông trời ghen ghét mà mang y đi sớm."

"Nếu đã không quên được, sao không đi theo y?"

"Y chúc ta công thành lui thân, sống lâu trăm tuổi." Kiều Tùng Nguyệt cúi đầu, kiệt quệ đáp, "Ta còn muốn đáp ứng lời hẹn thề này với y."

Tiếng mưa không ngớt, từng giọt như chuông. Nước sông dập dềnh, sóng cát mênh mông.

"Đàn của ngươi đâu?" Ta hỏi.

"Đập nát rồi."

"Vì sao?"

"..." Tiếng hắn rất nhẹ, "Tri âm chẳng còn, gảy đàn làm chi?"

Quả là một kẻ si tình.

Lòng ta khẽ nhói, nhìn khóe mắt hắn phiếm hồng.

Gió lạnh trên mặt sông ùa vào, thổi xốc tay áo Kiều Tùng Nguyệt, hắn đứng dậy đổi tư thế chắn gió rồi lại ngồi xuống.

"Thí chủ sao không nhập Phật môn, lục căn thanh tịnh (5), trăm sự không màng." Ta cúi đầu bái hắn.

Hắn chợt cong khóe môi, âm thanh như khẽ cười, trên mặt lại chẳng mang chút ý cười nào: "Sư phụ biết không? Trước đây cũng từng có người bảo ta có Phật duyên."

Hắn ngồi rất vững, nhìn ta nói, "Người vừa mới nói, tâm phiền, góc biển chân trời cũng chỉ là quá giang."

Ta trầm mặc không đáp, yên lặng nghe mưa thu.

Mưa tuy không lớn, dường như lại khiến thuyền lay động. Sương mù giăng kín mặt sông, bị nước mưa đánh tan, mái chèo xuôi quẫy mở lòng sông đen sâu thẳm.

Gió tây thổi phần phật, chốc chốc vài tiếng nhạn kêu văng vẳng qua mây. Sương mù nặng nề, nước sông như gương, phản chiếu lại dãy núi dày đặc hai bên bờ.

Chẳng biết qua bao lâu, mưa rơi nhỏ dần, mơ hồ nghe được tiếng hát người chèo thuyền. Rất nhanh đã tới bến, ta muốn xuống ngay.

Ta cùng hắn lại một lần nữa từ biệt.

Kiều Tùng Nguyệt vẫn mang vẻ mặt bình tĩnh, ánh mắt như nước.

Ta do dự trong giây lát, rốt cuộc vẫn cất tiếng.

"Thí chủ, đừng bi quá khứ, đừng tham tương lai, tâm ở hiện tại, bởi vậy an tường."

"Cảm tạ sư phụ, tại hạ thụ giáo." Ánh mắt Kiều Tùng Nguyệt dõi theo từng giọt mưa nhảy nhót.

Hắn khẽ gật đầu, nhìn ta rời đi.

Ta lên bờ, chắp tay trước ngực, nhìn con thuyền nhỏ càng lúc càng rời xa, phiêu diêu như chiếc lá rụng trên mặt sông, không khỏi nhớ tới vẻ cô tịch trong đáy mắt Kiều Tùng Nguyệt.

Hà tất phải cố chấp như vậy, chia ly vốn là lẽ thường tình.

"Ta chúc ngươi thu dư hận, miễn oán hờn, làm người mới, sửa tính tình, nước chảy đừng lưu luyến, quay đầu trong bể khổ, sớm gặp được lan nhân (6)."

***

Ta không nghĩ sẽ gặp hắn lần nữa.

Hai mươi năm nháy mắt trôi qua như một cái phất tay.

Trăng xuân đã đến, gió thanh ngày sáng. Ngày trở lại Khuất đô, ta lại cảm thấy có mấy phần thân thuộc.

Ở phía Nam Khuất đô có một ngọn núi tên Bồ Đề, thuở niên thiếu ta chu du đến đây, hóa duyên (7) ở một trạch viện trên núi, gặp một vị công tử áo xanh, cùng nhau vui chuyện. Y cùng ta ngắm đèn dầu thắp sáng vạn nhà dưới chân núi, đàm đạo về Khuất đô. Khi đó cây bồ đề chưa nở hoa, gió thổi qua, lá rừng khắp núi xào xạc rung động, hương thơm cây cỏ ngập tràn đầu mũi.

Đã nhiều năm như vậy qua đi, ta lại đến núi Bồ Đề.

Chẳng biết vị công tử áo xanh còn ở đó không? Khi xưa ta xem tướng mạo y, mờ mờ ảo ảo không nhìn rõ, mà nay nghĩ đến, lại thấy y tuy có mệnh phú quý, vận lại không phú quý.

Đường núi trơn ướt, rêu xanh trải rộng, sắc xanh nảy nở trên thềm đá, ta cẩn thận bước lên từng bước.

Già rồi, chân cẳng rốt cuộc không còn nhanh nhẹn như hồi trẻ nữa.

Lên được một lúc lâu, chưa tìm được trạch viện trong trí nhớ, lại thấy có một tăng lư (8) đơn sơ, cành lá che khuất cánh cổng gỗ mộc mạc, chỉ có độc một cây bồ đề bạc phơ đứng cô quạnh trong sân, thổi một ít sự sống vào nơi này.

Mưa lất phất nổi lên trong không trung, bụi mưa tinh mịn như dệt, đây chính là mưa xuân quý tựa dầu (9). Ta vốn muốn đi tiếp, không ngờ mưa càng nặng hạt, liền đi vào tăng lư, quỳ vái tượng Phật rồi yên vị dưới hiên chờ mưa tạnh.

Tiếng mưa rơi lúc lớn lúc nhỏ, trong sự ồn ã lại có một vẻ thanh tịnh đặc biệt, vừa hỗn độn lại vừa êm tai. Lòng ta dần tĩnh, tay cầm Phật châu, bình thản niệm Tâm kinh. Cách đó không xa có một người bung ô, lặng lẽ đi vào tăng lư. Ta mở hờ mắt, nhìn đến một bóng người áo trắng đang đứng trước cây bồ đề, nhẹ nhàng vái một cái.

Tóc hắn bạc trắng tựa sương tuyết, một thân áo trắng không nhiễm hồng trần, một tay mang Phật châu, tay kia căng ô trắng. Giống người trần mắt thịt, lại càng giống một vị Phật sư đã siêu thoát.

Ta nhìn rõ mặt hắn, còn thoáng thấy được dáng vẻ áo đẹp ngựa hung (10) thuở thiếu thời, hình bóng tang thương bi sầu thuở tráng niên, mà nay, trên gương mặt quen thuộc của hắn chỉ còn độc vẻ thong dong bình đạm.

"Thí chủ đã quy y Phật môn." Ta cất lời.

Hắn nghe thấy ta nói, xoay người lại nhìn.

"Để sư phụ chê cười rồi. Tăng lư này là ta xây, cây bồ đề này là ta trồng, nhưng rốt cuộc ta vẫn không thể cắt đứt hồng trần, phá vây gông xiềng." Kiều Tùng Nguyệt thoáng mỉm cười, nếp nhăn hiện lên trên mặt như gió thanh thổi gợn nước mùa xuân, hết mực bất đắc dĩ, cũng hết mực thanh thản.

"Buông chấp niệm, khổ hận tự tiêu tan." Ta đắm mình trong tiếng mưa, mặc cho gió lạnh táp vào mặt, "Chỉ cần thành kính, dù ở hồng trần, tâm cũng lĩnh ngộ được Phật pháp."

Kiều Tùng Nguyệt khẽ cười không đáp, duỗi tay xoa thân bồ đề. Tay áo hắn như chiếc kén, bao lấy cổ tay buộc sợi tơ hồng. Ánh mắt hắn ôn nhu, tựa hồ chạm vào cũng không nỡ. Một hồi lâu sau, hắn thu tay về, áo trắng to rộng rũ xuống che khuất cổ tay, ngỡ như chưa từng có gì xảy ra.

Hắn bước tới, thu ô, hai chúng ta cùng nhau ngồi dưới mái hiên tăng lư.

"Tháng ba." Hắn nói.

"Ngươi tới giữ lời hẹn sao." Ta thu mày.

"Hai người cùng hẹn, chỉ mình ta tới." Hắn cười, "Coi như ta tới thay y đi, nghe gió thổi, chính là y đang trò chuyện với ta."

Gió nổi lên, cây bồ đề lá phủ khẽ xào xạc, tựa lời thì thầm bên tai, tựa tiếng cười khẽ nghịch ngợm, lại tựa tiếng gọi ôn nhu. Kiều Tùng Nguyệt duỗi tay, để cơn gió nhẹ thổi qua lọn tóc mai, quấn quanh đầu ngón tay chai sần, kín đáo len vào vạt áo hắn. Hắn nghe tiếng gió, khép lại mắt.

"Ta biết y chưa từng rời đi. Y vẫn luôn bên ta, chỉ là theo cách khác mà thôi."

Hắn khẽ thở dài.

"Buồn vui tan hợp là vô tình." Ta nói, "Ngươi đã nhận thức được, vậy là tốt rồi."

Hắn lắc đầu: "Kỳ thực ta không buông được, cũng không quên được. Ta là người của y, ta không thể quên, chỉ có thể coi vạn vật trên thế gian đều là y."

"Trong lòng ngươi chứa vạn vật."

"Vạn vật đều như không." Kiều Tùng Nguyệt nói xong những lời này, dường như không muốn tiếp tục, quay đầu lẳng lặng nhìn màn mưa.

Mưa rơi không ngừng, tí tách tí tách, như đang xướng khúc biệt ly. Ta nghe thanh âm lộp độp, trong lòng tụng theo tiếng mưa.

...Chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách. Xá lợi tử, sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc, thụ, tưởng, hành, thức, diệc phục như thị... (11)

Phật dạy về nhân duyên, vạn vật đều có báo, vui khổ vô thường, đều ở một chữ "ngộ."

Ít lâu sau, Kiều Tùng Nguyệt đứng lên, bung dù bước đi vào làn mưa xuân bay bay. Hắn bái ta một bái, nói: "Sư phụ, ba lần tương phùng, đều là duyên phận, kẻ hèn này được người dạy bảo, vô cùng cảm kích."

"Không có gì." Ta đếm Phật châu, chắp tay trước ngực, nhìn hắn xoay người từ từ biến mất vào làn mưa, bỗng chợt nhớ tới điều gì.

"Thí chủ, bần tăng có một lời thỉnh cầu. Không lâu trước đây ta từng lên ngọn núi này hóa duyên, gặp được một người lương thiện. Nay tìm khắp nơi lại không gặp được, ta biết không thể cưỡng cầu. Nếu thí chủ có gặp, xin hãy hỏi thay ta."

Bóng dáng Kiều Tùng Nguyệt tựa hồ sững lại trong giây khắc, nhưng hắn không quay đầu lại, vẫn chậm rãi bước tiếp.

Phảng phất có tiếng thở dài "Được," theo gió cuốn đi, cuốn đến bên tai ta.

Ta khép hờ mắt, bên tai toàn là tiếng gió.

Mưa vẫn còn rơi, ào ào không ngớt, rơi trên mái hiên, trên bậc thềm, trên con đường lát đá. Cả đất trời đầm đìa sũng nước.

Không trung mênh mông, sắc tối nặng nề.

Lòng tựa gương sáng, chẳng nhiễm bụi trần.

——HOÀN.

_________________

(1) Bài thơ "Thính vũ" trong tập "Ngu mỹ nhân kỳ I" của nhà thơ Tưởng Tiệp thời Tống.

(2) Trích bài thơ "Thù Trương thiếu phủ" của nhà thơ Vương Duy thời Thịnh Đường. Ở đây trong hai vế thơ đều có chữ "tùng" và chữ "nguyệt."

(3) Ba nỗi khổ cuối là: Oán tăng hội – gặp thứ mình ghét, ái biệt ly – yêu mà phải chia ly, cầu bất đắc – cầu mà không được.

(4) Trích kinh Vô Lượng Thọ. Ý ở đây là: Con người vốn cô độc, sinh, chết, đi, về, đều một mình.

(5) Sáu căn là: Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Chúng là cơ sở của môi giới giữa tâm lý và vật lý, cho nên gọi chúng là sáu căn. Nói là "Lục căn thanh tịnh" bởi sáu căn này là thứ tạo ra hành vi thiện ác của con người. Người ta luẩn quẩn trong vòng sống sinh tử luân hồi chính là do sáu căn không được thanh tịnh.

(6) Trích trong vở "Tỏa Lân Nang" (túi khóa ánh sáng) – một vở hí kinh điển của Trình Nghiên Thu – một trong "Tứ đại danh đán" của Trung Quốc vào thế kỉ 20. "Nước chảy đừng lưu luyến" ngoài là chuyện quá khứ còn hiểu là đừng bi lụy tình cũ. "Lan nhân" ở đây là phép ẩn dụ cho sự kết hợp hoàn mỹ, có thể hiểu là mối lương duyên tốt, phù hợp.

(7) "hóa duyên" là một thuật ngữ Phật giáo. Theo đạo Phật, nhà sư tạo duyên bằng việc thu thập và xin đồ ăn, người nào bố thí cho sư tăng đều sẽ có duyên với Phật, bởi vậy gọi là hóa duyên.

(8) Nhà tranh của sư tăng. Chính là "phòng tăng" trong đoạn dịch thơ đầu bài.

(9) Thành ngữ Trung Quốc.

(10) Gốc là "Tiên y nộ mã," nghĩa là ăn mặc đẹp, cưỡi ngựa tốt, ý chỉ một cuộc sống phú quý.

(11) Trích Tâm kinh Bát nhã, dịch nghĩa ra:

Chiếu kiến ngũ uẩn giai không: soi gương thấy năm uẩn đều trống rỗng. Năm uẩn là chỉ năm yếu tố tạo thành con người: sắc (các giác quan), thụ (cảm giác), tưởng (nhận biết các cảm giác), hành (những hoạt động tâm lí sau khi có tưởng), thức (sáu dạng ý thức liên quan tới sáu giác quan).

Độ nhất thiết khổ ách: Vượt qua mọi gian khổ.

"Sắc" và "không": Sắc không khác không, không không khác sắc, sắc chính là không, không chính là sắc. "Sắc" là chỉ vạn vật, ý ở đây là vạn vật đều là hư vô.

Thụ, tưởng, hành, thức, diệc phục như thị: Năm căn cũng đều như vậy.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro