TUỲ BÚT-TRUYỆN NGẮN-LENGHIA

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

CHUYỆN ĐƯỜNG RỪNG- CỌP THỜI KHẨN HOANG

Nguyễn Kim

   Thử hình dung vùng đất phương Nam bao la, phì nhiêu màu mỡ bây giờ và nghe lại, xem lại những lời truyền khẩu, những ghi chép giản dị về cuộc đấu tranh mở đất và sinh tồn của ông cha ta đôi ba trăm năm về trước, thật khó mà cảm nhận dù chỉ một phần gian khổ ấy. Câu chuyện này không phải là sự tra cứu chi tiết thực hư, chỉ là thu thập nối tiếp từ những chuyện giống như truyền thuyết cần lưu giữ. Từ quyển “Gò Công cảnh cũ người xưa” của cụ Việt Cúc, một thầy thuốc, một nhân sĩ đáng kính và lời kể thêm của những vị cao tuổi sống miệt Bình Thành, Bình Xuân…mà thêm thắt vào đây.

   Thuở xưa, quãng đường từ Chợ Lớn về tới Cần Đước khoảng năm chục cây số đã là gian nan lắm. Những lúc quan viên cần đi lại, giấy tờ công văn cấp bách… phải dàn lính tráng sắp đặt mở đường và phòng ngừa cướp bóc liều lĩnh hoành hoành. Lặn lội đường xa diệu vợi chỉ nhờ vào đôi chân cứng cáp, dẻo dai, đi và về có nhanh cũng mất hơn nửa tháng trời. Sợ nhất là khi vượt sông Bao Ngược để vào địa phận Gò Công, vùng hoang vu nê địa mới mẻ đầy bất trắc. Hãi hùng sóng to gió lớn, lòng lạch sâu, nước chảy mạnh…cho nên tai nạn ghe thuyền là thường xuyên. Sắp qua sông thì khách thương hồ bày cúng cầu may, thoát lo cũng một mâm tạ lễ. Có câu hò xưa nghe rất đoạn trường “Anh đi chuyến gạo Gò Công/ Anh về Bao Ngược bị giông đứt buồm…/ Anh ơi!/ Thuyền anh cao nhưng sóng cả nhận chìm/ Em trông sông bao nhiêu khúc…nỗi niềm ruột đau…hò ơ…Phía bên kia sông thuộc về Gò Công, miệt Bình Xuân, Bình Thành…toàn rừng và rạch, không cây to chớn chở như miền trên, chỉ lùm bụi cây lúp xúp nhưng chằng chịt, um tùm. Những con rạch nhỏ như rạch Rô, rạch Lá, rạch Băng…nối liền nhau và ăn thông ra sông Tra. Rạch hẩm sâu, tăm tối bởi tàng lá dừa nước sum suê ken dày cùng cây hoang dại che lấp hai bên bờ. Đây cũng là lãnh địa của cá sấu, chúng ngang dọc tung hoành bắt thú, bắt người ăn thịt. Có một anh gốc người Cà Mau vì thời thế sao đó mà chống xuồng cùng đứa con trai chừng sáu tuổi về cất chòi bên đoạn rạch Rô, lần hồi đốn củi đổi gạo. Sơ sẩy, đứa nhỏ bị sấu bắt lặn chìm mất, người ta thấy mà không biết làm sao cứu kịp, kêu trời đề quyết là con sấu mũi đỏ hung dữ nhất bầy. Người cha không khóc, ngày đêm cặm cụi mài mác dài, mác ngắn, đánh bện dây thừng, dây chão, không ai biết làm chi. Ba ngày sau, đầu đứa nhỏ tấp mé, anh bọc áo ôm vào lòng rớt nước mắt một hồi rồi đem chôn. Gần một tháng trời, anh theo dõi thói quen kiếm ăn của bầy sấu, chú ý nhất là con mũi đỏ. Tối nọ, bạn làm nghề nghe tiếng vẫy vùng ngoài rạch liền vác rìu, xách chĩa ra xem. Một vùng nước ngầu bọt xoáy, cuộc đấu tranh sinh tử đang diễn ra. Anh người Cà Mau bám chặt mình con sấu lớn đã bị trói hai chân trước, trồi lên hụp xuống giữa ánh đuốc cùng tiếng hò la trợ lực. Lúc lâu sau thì im lặng, anh ta gắng lết vô bờ thì ngất xỉu. Đám bạn lớp lo hơ ấm, xoa bóp thuốc rượu cho anh, lớp hì hục cột dây kéo con sấu mũi đỏ về nơi lều trại. Sáng ra, mọi người lột da xẻ thịt con sấu, còn anh giết sấu chỉ hứng chén máu ra rưới lên mảõ con trai, đối nén nhang khấn vái. Uống cùng anh em ly rượu, anh bùi ngùi chia số củi đã đốn còn lại cho anh em rồi từ giã, chẳng ai biết người cha thương con và đầy lòng can đảm kia sẽ trôi giạt về đâu?. Lại có chuyện ngôi miễu xưa  bên kia rạch Gò Công còn di tích cái vỏ lúa trông tựa vỏ bầu khô, màu xám mốc, tồn tại gần…hai trăm năm. Tới chuyện con cá bống mú lớn đào hang mé rạch, bề hoành ước chừng nhĩnh hơn cái mái chứa nước, gặp người sơ ý là táp nuốt luôn. May mà một thời gian sau nó đi đâu mất, ông già bà lão cho rằng nó theo hang thông ra sông lớn, biển rộng.  Dưới sông, dưới rạch là vậy, còn trên bờ thì nạn tai rình rập tứ phía; sự né tránh hay chống cự chuyện “sấu tha hùm bắt” quả khó nhọcvô cùng!

   Dân tứ xứ tụ về lập trại, dựng lều nơi gò nổng mà ở, phần nhiều là người lỡ cơ thất chí hoặc nghèo túng, trốn xâu trốn thuế, gọi chung là “dân lậu”.. Họ thường chọn nơi xa xa sông rạch một chút, có việc cần - mà cũng hiếm- vượt qua thì mượn xuồng hoặc nhiều người liều mạng lội nhanh qua. Còn trên bờ thì hùm beo, heo rừng, rắn rít…lúc nào cũng lấp ló chực chờ giáp mặt để nhe nanh, nhả nọc. Anh em hợp sức dầu dãi nắng sương khai khẩn đất, đốn cây rừng bán, dựng lều gần nhau để cùng làm ăn ma ødễõ bề tương trợ, hồi đó gọi chung họ là “bạn rìu”. Lều lợp lá dừa nước, dựng rào bao bọc hai ba lớp bằng cây cóc, cây chà là…vạc nhọn. Aên uống kham khổ, mắm muối qua ngày, có điều sự bao bọc nhau để chống trộm cướp, thú dữ thì họ cùng một lòng. Vùng nhiều cây rừng, đất phì nhiêu cách bến vượt sông Bao Ngược cỡ ba ngàn mét, xưa gọi Truông Cóc vì loại cây này chen chúc dày đặc bao đời. Một nơi hiểm địa mà lôi cuốn anh em lang bạt, gan góc tụ về khai thác làm ăn, dựng nên làng xóm phồn thịnh sau này. Cũng có con đường mòn đất, đường Truông, chạy ngoằn ngoèo, người ta dọn cây cấy lúa, nhà cửa tuy thưa thớt mà ít lo lắng. Rừng truông Cóc trải rộng xa bốn hướng, cây bịt bùng ngút mắt, các loại thú rừng chia nhau mà ở. Đặc biệt, truông rất nhiều cọp, lại ưa lai vãng cùng người. Chiều chiều, nhóm bạn rìu ngó ra mé rừng thấy cọp nối đuôi nhau đi lòng vòng kiếm ăn. Thấy thì bấm nhau nhìn, không ai dám nói đùa, nói xóc bởi tin rằng cọp rất thính tai. Mỗi sáng, chờ mặt trời lên cao mọi người mới hè nhau xách mang dụng cụ đi làm một lượt. Tới nơi thì việc ai nấy làm, lâu lâu ngó chừng sau lưng cho nhau. Bữa nọ, họ đang lui cui đốn củi thì  hai con cọp nhẹ nhàng theo những lùm bụi lại gần. Một anh chợt thấy liền hốt hoảng la to “Cọp…Cọp! anh Móm ơi…chạy cho lẹ!”. Con cọp đi đầu nhảy bổ chụp phủ lên đầu anh Móm định nhận xuống. Anh giỏi võ, vung hai tay lên bấu xiết cổ cọp khiến nó hỏng cả hai chân trước lên. Rồi anh lách mình ra, thúc đầu gối vô hông cọp thật mạnh, nó xiẻng liểng dội ngược. Con cọp kia nhảy chụp, anh né kịp, hai tay liên tiếp tung những cú đấm, đạp vào vai, bụng, nó phải dang ra xa. Anh Móm vừa thủ thế vừa lùi dần lại, chụp rìu, rút lưỡi, cầm đoạn cán chờ đợi. Hai con cọp lườm lườm xoay vòng quanh rồi hè nhau tấn công. Anh xoay trở, tiến thoái lẹ làng, dùng cán rìu nện cho đôi cọp những đòn đau điếng vào vai, lưng, chân…Coi bộ khó thắng, hai con cọp bị no đòn dạt từ từ rồi len lét phóng chạy mất. Anh em bạn rìu nãy giờ chạy núp, giờ ra mừng và hết lời khen tặng anh Móm. Cả khoảng đất là đấu trường quần thảo ác liệt giữa người và mãnh thu, cây cỏ liệt địa, lông cọp rụng rơi tơi tả. Thuở giờ gặp cọp là chạy trốn hoặc bậm môi gõ phèng, hò hét cho nó sợ mà bỏ đi, ai dám đương cự?. Anh Móm dặn thêm là tánh cọp thù dai, mai mốt nó có tới nữa thì anh em chạy tránh đi, để mình anh đối địch. Sau chuyện này đồn đãi lan xa, người tạ nể trọng gọi là ông Móm!

   Nghỉ ngơi hai, ba hôm, ông Móm rủ mọi người vào rừng, ai nấy còn quá sợ cọp nên không đi cùng, chỉ một anh can đảm chịu theo. Ông không nói gì, nai nịt gọn gàng rồi soạn lấy cây côn hồi còn học võ dắt lưng, vô rừng đốn củi như lệ thường. Chừng giữa buổi, nghe mùi khen khét tanh tanh, tiếng ầm ừ trầm trầm, ông Móm kêu người bạn bò lần ra rẫy nấp kỹ, để anh đối phó. Ngó ra bìa rừng thấy bầy cọp bốn, năm con dàn ngang hầm hừ, anh biết chuyện đánh nhau là không tránh khỏi. Nhưng bới bản tánh can trường, biết võ nghệ, muốn đánh đuổi thú dữ cho anh em, bà con an tâm làm ăn, lập ấp,,,;ông Móm quyết ăn thua đủ trận này cho chúng sợ. Con cọp lớn nhất xăm xăm đi đầu, hai mắt ngó ông chằm chằm. Ôâng bình tĩnh chống côn đứng tấn chờ đợi. Cọp đập đuôi, giương móng vuốt nhằm cổ ông mà chụp. Ông sụp xuống, chịu cây côn chống thốc vô hàm cọp khiến nó mất trớn. Rồi ông múa côn đánh liên hồi vào đầu, vai, lưng…con vật kém thế. Nó rụng rời quay ngang, ông nện thêm hai côn vào chân. Con cọp bươi bươi chân trước thối lui, mắt cụp xuống chịu thua. Ba con cọp kia phóng vô tiếp ứng, ông Móm càng đánh càng hăng, lúc sau chúng cũng đành hậm hực quay về bìa rừng, lặng lẽ đi khuất. Gọi người bạn nấp ở rẫy ra, ông Móm nhác thấy một con cọp khác đứng xa xa nhìn rồi chậm chạp quay đầu, chân sau đi khập khiễng, gượng gạo. Ôâng biết ngay là con cọp bị đòn hôm trước, giờ kéo đồng bọn tới trả thù, còn bản thân thì đã sợ ông một nước!

   Anh em đốn củi, phát rẫy nhờ ông Móm mà bớt phần lo sợ, thức khuya dậy sớm ra sức mở đường, trồng trọt, phá rừng lần hồi cho quang đãng. Bọn cọp giờ chỉ rình mò thấp thoáng trong sâu. Dân nghèo tứ xứ tha phương nghe tiếng ông, bàn nhau đến truông Cóc tính thế sinh nhai yên ổn. Những khi ông Móm không đi vào rừng thì bạn rìu, bạn rẫy mượn cái áo, cái quần cũ của ông đem máng treo chỗ làm, cọp nghe hơi chẳng dám léo hánh gây chuyện rồi thời gian sau chúng bỏ đi biệt dạng. Một vùng truông Cóc gian nguy hiểm trở nhờ sự dũng cảm đối đầu của ông Móm cùng bao thế hệ, hiến dâng mồ hôi, xương máu mà dần được khai hoang, trù phú, lập làng lập ấp sống an vui. Những bậc cao niên giờ cảm khái vật đổi sai dời, chuyện xưa còn đó mà bóng cũ tiền nhân lu mờ, ngùi ngùi nhắc mấy câu thơ “Ruộng cò bay dặm dài Truông Cóc/ Cháu con ông Móm lăn lóc cơ hàn/ Ai xui khiến cảnh điêu tàn/ Mồ ông còn đó, họ hàng chẳng thấy viếng thăm…

   Đất đai, rừng, rạch, doi, bàu…thuở xưa gọi bằng các địa danh liền lạc với nhau, gần như chưa phân định địa giới rõ ràng, nhưng ai cũng hiểu và hình dung ra được đường đi lối lại. Như Giồng Găng là một khu rừng nhỏ mọc toàn cây găng, phía dưới Bàu Sấu một chút và lọt thỏm trong vùng rừng Cóc, cách ngoài độ hai ngàn mét về hướng đông bắc Gò Công. Cây găng cao lớn như cây trâm bầu, gai mọc trong thân, lú ra ngoài giống cựa gà. Hơn 150 năm về trước, một số gia đình kéo tới quần tụ lập ấp rồi thì sở rừng nhà ai nấy khẩn để cấy lúa. Đợi mặt trời lên, cả ấp mới cùng đi đốn củi, chặt cây, đỡ đần nhau chuyện hùm beo, cá sấu, rắn độc…quẩn quanh gần đo. Sáng nọ có hai cậu cháu tên tám Nghề và hai Sến cùng phát chung sở ruộng. Bất thình lình, cọp rình sẵn nơi lùm bụi nhảy bổ chụp ngay đầu hai Sến ghì xuống. Anh kịp la lên “Ôái…bớ cậu Tám…cứu cháu với!”. Đang dốn củi gần bên, ông Tám  cầm rựa nhào lại chém thẳng ngay lưng cọp. Nó oằn mình buông nạn nhân ra, chờn vờn chụp đè ông Tám, mắt long lên hung tợn. Người cháu chỏi dậy lấy rựa chém nhiều nhát vào hai đùi cọp. Con mãnh thú sụm xuống lết dần ra mé rừng bị ông Tám chạy theo bồi rựa thêm vào chỗ hiểm, nó mới chịu chết. Bà con xúm lại lo cầm máu, khiêng anh Hai về ấp trị vết thương đầu khá nặng, ông Tám thì rách thịt chỗ ngựcsơ sài. Báo tin về Gò Công, quan có lời khen và thưởng cho hai cậu cháu một số tiền lớn. Vết thương cọp vồ của anh Hai phải đắp thuốc, nghỉ ngơi gần ba tháng trời mới khỏi hẳn. Về già, ông Hai thường chỉ cái thẹo to trên trán mà nói khoe với đám thanh niên “Gặp cọp bây đừng sợ, phải hè nhau mà đánh…Nó sợ tao nên để cái dấu này cho cháu con nhơ…mà tránh mặtù!”.

   Những loài động vật hoang dã từ mạnh mẻ cho đến yếu ớt đều phải tìm cách sinh tồn thích hợp là lẽ đương nhiên. Tuy nhiên, hung bạo như loài cọp cũng có lúc xui rủi gặp nạn, chịu chết dưới tay con người. Thuở xưa, tên rạch, gò, bàu, vàm, giồng…hay lấy tên người tiêu biểu hoặc dựa vào đặc điểm riêng địa phương mà gọi. Như Rạch Lá, Rạch Bần, Gò Gừa, Giồng Tháp…Nguồn gốc tên Rạch Chốt (Bình Thành) thuộc vùng rừng và rẫy sình lầy, cỏ lác um tùm, dừa nước ngút mắt, mương xẻo ngang dọc mà cá tôm nhiều vô số. Cá chốt lúc nhúc dưới rạch, tràn cả lên rẫy dẫy đầy, dân xúc phơi khô, làm mắm ăn quanh năm không xiết. Cá có ngạnh nhọn, đâm nhức, bâu nhau đen cả mặt rạch Chốt trông giống bàn chông thiên nhiên, không ai dám lội xuống. Hai anh em nhà nọ bơi xuồng tìm xẻo đặt lọp bắt tôm tép, chợt thấy trong lùm cây lộ cái lưng cọp, lông vằn vện phát khiếp. Thất kinh hồn vía, hai anh bấm nhau rút êm về ấp cho mọi người hay. Trai tráng mấy chục người xôn xao xách côn, mác, rìu… chia  làm ba cánh truy lùng: hai  cánh hai bên, một cánh dùng xuồng đi dưới rạch. Họ im lặng, hồi hộp dò từng bước tới chỗ hai anh em thấy cọp lúc nãy thì không vét tích gì. Nghe bên kia rạch ra ám hiệu, liền tìm cách vượt qua tiếp sức. Một con cọp to nằm gần mé rạch, bụng thở phập phồng mà hai mắt nhắm nghiền, không để ý chi tới số đông người đang dọ dẫm lại gần. Đứng bao quanh cách quãng xa một hồi không thấy con cọp phản ứng, ai cũng lấy làm lạ. Bữa nay nó no mồi hay…ăn chay?. Một anh làm liều, nhẹ bước tới nện côn thẳng tay vô đầu cọp. Sau cú đánh khơi mào này, ai cũng chen nhau đâm, chém, đập con cọp ráo riết. Chừng thấy nó không cục cựa, biết đã chết mới dám xúm nhau cột bốn chân, lấy đòn khiêng về. Quan sát miệng con cọp ọc nhiều nước, bên kẹt tai còn dính mấy con cá chốt, họ bàn tán nghi hoặc. Có lẽ con cọp gắng lội qua rạch Chốt, uống nước đầy bụng kiệt sức, nằm yên cho con người hạ thủ dễ dàng, chớ lý nào nó cam chịu trận, không mảy may chống cự?

   Thời khai phá, vùng rừng miền Đông, miền Tây Nam bộ nơi nào cũng nhiều mãnh thú, đáng sợ nhất là cọp. Tuy nhiên, với bản lĩnh can trường, sự khôn ngoan, mưu trí, các bậc tiền nhân cũng tìm mọi cách khắc phục, gầy dựng cuộc sống bình yên cho làng xóm. Những chuyện truyền khẩu về cọp thì rất nhiều, chỉ ghi lại vài mẫu nhắc nhớ mà thôi…

*Nguyễn Kim

CHA VÀ CON

 …Ông già lắt lĩu gánh trên vai, tần ngần đẩy nhẹ cánh cửa khép hờ, ngó vô. Hai thanh niên mình trần, quần đùi đang nằm trên giường tán gẫu giật mình nhổm dậy. Một cậu nhảy vội xuống cầm tay ông già, giọng mừng rở thảng thốt:

  - Ba…ba mới lên… Ủa! sao ba tìm được ngay chỗ con hay vậy?

   Cậu thanh niên kia đứng lên nhấc cái ghế đẩu thấp, tay phủi bụi, miệng lí nhí chào:

  - Dạ…thưa bác..mời bác ngồi nghỉ mệt…Mày hổng lo giúp bác để đồ chỗ này này, nặng gần chết!

  Gật gật đầu ra ý cảm ơn bạn con trai mình, ông già xoay người nặng nhọc đặt hai cái giỏ đệm lớn quảy bằng đoạn cây tràm non xuống góc phòng, tay bóp bóp vai, mắt ngó lên trần nhà, nhăn mặt:

  - Chà chà…trưa nắng mà nằm trong mái tôn này giống như sắp lớp lò bánh mì. Vậy mà tụi bây sống đuợc, hay thiệt!

   Đưa cha ca nước mát, người con trai ngồi bệt bên chân ông, vân vê ống quần nhăn nheo, nhỏ nhẹ:

  - Đã con biểu ba đừng lên chi cho cực…Tháng rồi ít việc ít tiền nên con không về, tính tháng sau…

  - Biểu biểu thằng cha mày! Nhớ mày chớ bộ nhớ tiền sao? Má mày trông ngóng gần hai tháng trời bặt tăm hơi, bả cằn nhắn thúc tao lên coi mày có thiếu hụt hay bệnh hoạn gì không? Bả hiểu tánh mày từ nhỏ, thằng con trai ương bướng, quen chịu đựng mình ên. Ờ mà già cả rồi ưa nghĩ mông lung chuyện không hay…

   Nhìn quanh gian phòng đơn sơ, chắp vá bằng những mảnh thiếc, bìa giấy cứng… loang lổ ố vàng, góc trống cạnh giường là cái bếp dầu hoen rỉ, tô chén ngổn ngang, vung vãi bao giấy mì gói; ông già thở dài:

  - Chỗ bây ở còn thua cái…chuồng trâu ông nội mày hồi xưa! Má mày thức khuya soạn sành, gói ghém chút đồ đem lên đây, anh em chia sớt nhau ăn lấy cái tình nghen con!

  - Dạ…ba gánh gồng chi đủ thứ cho cực…Mà từ bến xe tới đây ba đi bằng gì?

  - Tao đi bộ riết cũng tới, bây thấy rồi đó. Thằng cha xe ôm chắc biết tao nhà quê lên, nó dụ khị chở hai chục ngàn, tao ngó lơ, nó lầm bầm chửi thề, tao giả điếc. Má mày lâu lâu cấy giặm lúa mướn cả ngày, đêm nằm nhức xương nhức cốt cũng được nhiêu đó thôi. Già làm công rẻ mà con!

   Người con trai dụi dụi mắt, im lặng ngó xuống soạn hai giỏ đồ. Ôâng già chỉ vào từng món, hứng khởi giải thích:

  - Nè…mớ khô cá lóc, cá sặt coi nhỏ chớ phơi đặng nắng ngon lắm nghen con! Ba hủ mắm tép tao vó từng mớ, má mày làm trước sau có xé lá chuối khô ghi dấu cho biết cũ mới, liệu mà ăn. Ờ…ba đem lên năm ký sơ-ri, quảy gánh tới đầu hẻm khu nhà trọ có mấy đứa con gái chắc cũng làm công ty xúm lại bao vây. Tụi nó biết rành mày, có đứa nhí nhảnh kêu tao bằng tía, đòi về quê làm dâu ! Mày ở đây lâu chắc cũng dàng trời, ba cấm bậy bạ nghen con. Thấy thương thương, ba hốt cho phân nửa bịch sơ-ri. Có con nhỏ kẹp tóc hỏi thăm, đòi ba kể chuyện ruộng vườn, đồng áng ;nghe ba nói đôi câu, tay nó bụm mớ sơ-ri ma…mít ướt, nước mắt chảy dài trên má…tội nghiệp quá chừng! Thiệt tình ba từng tuổi này mà phải ráng dằn lòng…

  Cậu bạn đứng lên giường kiễng chân gọi nhỏ qua phòng bên rồi trở xuống bỏ nhúm trà vô ly, chế nước sôi réo từ cái ấm nhôm đen thui vào, hai tay bưng lại chỗ ông già, ngượng nghịu nói:

  - Dạ…bác uống trà cho khỏe!

   giơ tờ báo quạt phành phạch, ông già cười, đuôi mắt nheo nheo thân thiện:

  - Cảm ơn cháu…à…quê cháu đâu ? cha mẹ còn khỏe không vậy?

   Một thoáng như lúng túng, cậu bạn ngập ngừng:

  - Dạ…cháu quê Đồng Tháp, ba cháu mất vừa giáp năm. Xin phép bác, cháu ra ngoài chút!

  Chần chừ ngoái nhìn lưng áo bạc thếch mồ hôi của cha bạn, cậu ta khép nhẹ cửa ngồi ở bậc thềm. Người con trai ôm vai, ghé sát tai cha:

  - Nó ở Xẻo Quít đồng nước mênh mông, nhà nghèo xơ xác…Có đứa em gái vừa bỏ học nên nó buồn lắm, ba đừng hỏi thêm…

  - Ờ thôi…Lúc vô đây ba thấy mấy con diều vướng dây điện vật vã nhào lộn coi não nề quá. Mùa này dưới mình, tụi nhỏ ra đồng đánh trổng, thả diều mịt trời. Ai đời đánh trổng hoài, ông trời làm sao sa mưa cho được? ba rầy hoài hổng chịu nghe, bỏ luôn!

  - Quên, má khỏe hôn ba?

  - Chà..nãy giờ đợi mày hỏi! Tao tính không nói, bả đi đám giỗ về ngang rào ông Sáu-câu-rê vướng nhánh tre gai de ra đường té sưng đầu gối, đắp muối nay bớt rồi, mày chớ lo. Bả tiếc cái khăn đội đầu mày mua cho hồi tết giờ bị rách, than thở cả đêm. Tao giận, khuya sớm xách rựa ra chặt tỉa gần nửa bụi tre cho hả. Cha Sáu cự nự tao một chập, chiều đem mớ cá trắng xào sả qua nhậu, huề ! Ờ, tụi con làm công ty đây êm không?

   Ánh mắt người con trai  lắng đọng, man mác, rồi ngước nhìn cha khẽ cười gượng gạo:

  - Dạ êm…mà sắp tới con tính xin việc chỗ khác lương khá hơn. Với lại…

   Cầm chặt tay con, ông già giọng nghèn nghẹn :

  - Mày đừng giấu ba…Tao hỏi dò mấy đứa đầu hẻm, biết công ty mày làm giải thể rồi. Tụi bây thất nghiệp nằm chèo queo cả tuần nay, phải không ? Nói!

   Cậu bạn dợm bước vô, nghe loáng thoáng câu chuyện hai cha con, rụt rè thối lui. Người con trai ngó vô vách, giọng rầu rầu:

  - Nghỉ chỗ này thì xin làm chỗ khác, ba má thương…thiệt bụng con hổng muốn về quê. Bao nhiêu năm nay có thay đổi gì đâu ba ?

   Chậm rải quơ hai cái giỏ đệm không bó vào đoạn tràm, ông già chống gối đứng lên, giọng ráo hoảnh:

  - Trai tráng bây giờ ăn học cao, nhưng suy nghĩ khác thời ba nhiều, nhiều lắm. Ba không chấp, nhớ một điều ba muốn nhắc con rằng có những thứ thay đổi mà ba mày, má mày, bà con làng xóm mình hổng ham, hổng cần. Con nằm đêm mà ôn lại, nghĩ lại lời ba, vậy thôi…Giờ ba phải về cho kịp xe, má mày trông..Coi khó khăn quá thì về liền nghen con!

   Nói vài lời chân tình, an ủi cậu bạn con mình xong, ông già ra cửa, vói lại một câu:

  - Ba kẹp hai trăm ngàn trong gói chuối khô, để dành ăn tiện tặn…

   Người con trai đứng nhìn theo cha, đôi bàn chân trần lam lũ giẵm trên đường nhếch nhác. Cậu bạn ngồi lặng lẽ trên giường, đôi mắt đỏ hoe…

********

 …Những nhát cuốc lật đoạn liếp đến cuối bờ vừa xong, ông già mệt nhọc rã rời, buông cuốc ngồi bệt. Nghỉ một lúc lại sức, ông tặc lưỡi nhặt nhạnh những ánh gừng đầy đặn  chưa tới lứa cho vô bao. Chẳng đáng gì, nhưng bỏ lại thì nay mai người ta cũng tới xới tung lên, rồi đầm nện, rồi xây dựng; tội cho đám gừng non nớt. Bần thần nhìn mảnh ruộng vuông vức đẹp mắt, quen thuộc từng chỗ bùn, chỗ cạn, ông thắm thía nỗi buồn chia biệt đất đai cồn cào gan ruột. Mấy tháng nay, cả xóm ấp này đôn đáo loay hoay, thấp thỏm họp hành, bàn tán quanh dự án khu công nghiệp đã triển khai. Rồi thì  giải thích, đo đạc, biên bản chung, ký tên từng hộ chấp nhận đền bù, mọi việc coi như xong. Nghe nói có địa phương tỉnh bạn còn thu hồi cả vùng đất ruộng mầu mỡ để làm sân gôn, sân banh cho người nhiều tiền vô chơi giải trí, đây còn đỡ xót xa lấn cấn hơn.  Giờ ruộng cỏ mọc đầy chẳng ai  tới lui làm chi, phần đông nhăm nhe số tiền đền bù để tính toán chuyện cất nhà, sắm xe máy, truyền hình màu…Những người lớn tuổi thì dàu dàu nét mặt, lo mai này sống sao đây khi cây rơm bồ lúa, căn bản gốc quê đã mất. Cũng có chương trình hướng dẫn chuyển đổi, dạy nghề mới…nhưng so với cái thiệt thòi của người nông dân thì đố ai bù đắp tương xứng được. Đành vậy thôi, thời đại tiến bộ công nghiệp mà! Ông già nhẫm tính, hai mươi sào ruộng của mình được chừng tám mươi triệu, nó là nhiều hay ít đây? Miệng mồm khô khốc, ông nhai nhai đọt cỏ đắng chát, thở ra “Không khéo xáo trộn lắm chớ hổng chơi !”. Chợt nhớ, ông lần túi áo bà ba lấy tờ thơ thằng con trai gởi hồi tháng rồi ra coi lại. Mừng cho nó có việc làm ở một công ty lắp ráp điện tử ở  Bình Dương, thôi cũng tốt rồi. Ông chịu đoạn này “…ngày nghỉ con học thêm chuyên môn cho giỏi hoặc tới các trại cây giống, nhà vườn tìm hiểu kinh nghiệm về đất đai, trồng trọt. Biết đâu chừng sau này là lợi ích cho mình. Con mới biết một giống tre tàu mới, dễ trồng, năng suất cao, đặc biệt là không kén đất. Mai mốt nghỉ lễ con đem ít cây giống về, ba thấy là ưng bụng liền…”. Thằng còn tiềm tàng máu nông dân như  ông cha, vậy được. Mặt sau thơ, nó viết thêm “ Con nhỏ kẹp tóc ba cho sơ-ri lần lên con, giờ làm ở Khu chế xuất Tân thuận, tụi con liên lạc thường và…khá thân nhau. Chừng về thăm ba má, chắc có nó cùng đi cho biết quê mình…” Ông già bật cười, lòng cảm thấy dễ chịu hơn. Nhắc tới cây tre chợt nhớ gần mươi năm trước, dịp đi miệt Bảy Núi thấy tre bạt ngàn xanh thẵm phát ham. Cũng ngộ, khoảng tháng mười trở đi thì lứa tre già đổi màu vàng nhạt, cằn cỗi, rụng lá trơ trụi, chỉa ngọn lên trời rồi…ra bông từng chùm màu đất, cam chịu lụi tàn. Lần đầu tiên ông cảm nhận cụ thể cái vòng đời tre tàn măng mọc, sự tiếp nối mạnh mẽ như những đời người, những thế hệ. Dõi mắt bao quát một vùng đất rộng chạy dài tới rặng cây mé sông, tương lai sẽ là cầu cảng, ông mường tượng đến viễn cảnh nhộn nhịp, kinh tế sáng sủa hơn. Nhà còn miếng vườn với vài chục cây dừa lão ít trái, đợi con trai về cùng bàn chỉnh đốn, sửa sang lại cho ổn định, rồi lựa thế đặt cái nò mé rạch… Thôi, mình tâm niệm vì cái chung và biết tính toán căn cơ, liệu cơm gắp mắm, không đua đòi…có lẽ cuộc sống thanh thản hơn, ông già nghĩ thế. Trời về chiều, từng đàn chim nhịp nhàng bay theo nhóm hình rẻ quạt như giục ông đứng lên. Cột bao gừng chặt vào cán cuốc, ông quảy lên vai, bước đi vững chãi. Ở xa xa, thấp thoáng bóng người phất phất khăn ra hiệu, làn khói bếp mờ nhạt lững lờ theo gió. Không dừng chân, ông già che mắt nhìn, miệng bỗng cười bâng quơ…

XÓM  NGHÈO

                                Nguyễn Kim

   Sống ở xóm lao động nghèo này tuy có phần phức tạp, vài hôm lại cãi vả chuyện nhỏ chuyện to, nhưng đôi khi cũng vui đáo để. Mới khuya sớm tuần trước, khi mọi người  đang say giấc thì…có chuyện xảy ra. Tôi còn mơ màng nghe con gà trống của thím Năm bán xôi vò nhà bên gáy chập đầu, chợt nhớ mấy câu ca dao thuộc lòng hồi nhỏ “Cám ơn bụi chuối bờ ao - Nửa đêm gà gáy có tao có mày – Cám ơn cái cối cái chầy - Nửa đêm gà gáy có mày có tao”. Đang thả hồn về tuổi thơ quê cũ, bỗng dưng từ hướng lò bún vang tiếng la bài hãi đúng giọng vợ Tư Xe :

  - Bớ…bớ bà con làng xóm ơi ! tới phụ giùm tui…bớ…

   Tôi vội tung chăn chạy ra cửa gặp ngay chú Bảy đội trưởng dân phòng, mình trần, chân mang đôi giày ống lệt bệt, tay xách đôi thùng thiếc dùng đựng  nước; hốt hoảng  hỏi liền miệng :

  - Cháy đâu? cháy đâu? cháy nhà ai?

   Anh thợ mổ heo vừa đạp xe ngang, phì cười :

  - Chú Bảy lộn đài rồi ! vợ cha Tư Xe nghi ngờ cô Búp lò bún tò tí với chồng mình nên la toáng lên vậy thôi. Ôi…chuyện thường ngày!

   Vỡ lẽ, chú Bảy hơi tẽn tò bèn đặt đôi thùng ngay cửa rồi kéo tay tôi tức tốc vô thẳng chỗ lò bún để nắm bắt tình hình. Tôi vì tò mò mới đi luôn chứ thừa biết mấy vụ việc loại này nếu tới chứng kiến cũng kỳ cục thật. Đến “hiện trường”, tôi ngờ có sự hiểu lầm gì đây bởi thấy Tư Xe ngồi xếp bằng trên chiếc giường tre, hút thuốc phà khói tỉnh queo. Mặc ánh đèn sáng choang, người hiếu kỳ bu chật cửa, anh nói giọng láu lỉnh như thường khi :

  - Ông trời ngó xuống ! vợ tôi vẫn tật…trông gà hóa cuốc báo hại bà con hàng xóm mất ngủ. Chuyện ghen tuông hồ đồ của bà, ai lạ gì ? Chạy xe riết dãn gân dãn cốt, nội chuyện…phục vụ bà tôi cũng ứ hự, hơi sức đâu tòm tem thêm? Cực kỳ phi lý!

   Chị vợ nổi sùng nhảy đong đỏng :

  - Già mồm đạo đức giả! Nửa tháng nay sanh chứng đòi…ngủ riêng, tui đã ngờ ngợ. Nửa khuya này,  ngó thử khe cửa nhà sau thấy cái mền trùm kín trên giường…vun lù một đống. Tui lộn gan xô cửa, ai dè thằng chả gian giảo…móc chốt trước. Chừng tui cạy ra được thì…

   Có ai đó vọt miệng :

  - Chắc mất tang chứng chớ gì? tánh anh Tư cẩn thận lắm…

   Tư Xe cười khì :

  - Ờ…tánh tôi kỹ lưỡng, thùng đồ nghề để ngoài xe hổng an tâm nên tôi đưa …lên giường trùm mền lại, hỏi có mắc mớ ai đâu? Bốn đứa con lo chưa xong, nằm chung với bả lỡ…nổi máu cáng khổ thêm. Bà con thấy ai đúng ai sai?

   Biết mình hơi yếu lý, chị vợ chuyển qua hướng khác :

  - Tui mà nắm được đầu con quỉ cái ham hố đó, tui xé nát…Hổng hiểu bên lò bún chứa chi…đồ yêu nữ, trôi sông lạc chợ ấy?

   Một giọng phụ nữ bên ngoài trả đũa ngay :

  - Nè…chị Tư ám chỉ ai? Cả lò bún làm công cả chục người, chỉ có tôi là đàn bà. Chị mắng bậy, tôi hổng nhịn đâu nghen!

   Tôi nhận ra cô Búp bên hè đang vấn lại tóc, mặt bừng bừng sắc giận. Cô người xứ khác, không chồng con về đây gặp dì Hai Hạnh chủ lò bún thương cho vào làm hơn ba tháng nay. Tính cô cởi mở, ăn nói có duyên nên cánh đàn ông trong xóm khoái bóng gió thả câu, nhưng tiến sâu hơn thì chắc chưa ai dám. Trong lúc hai người đôi co, tôi lại nghĩ về Tư Xe. Vợ bán vé số dạo, anh đạp xích-lô nuôi bốn đứa con nhỏ, nhà cửa ọp ẹp, cuộc sống còn thiếu thốn. Chuyện này chẳng biết thực hư? Không lẽ chỉ vì mấy câu vọng cổ, điệu Nam Xuân, khúc Phượng Hoàng… nghêu ngao mỗi chiều của anh mà làm xiêu lòng cô Búp, người đàn bà mới ngoài ba mươi tuổi mà tôi thầm đoán có lẽ khá dày dạn cuộc đời? Tôi tự…an ủi, bằng lòng với ý nghĩ “Không có lửa sao có khói! cha này chắc tình ngay lý gian thôi…”

   Trời hừng sáng, cuộc đấu khẩu diễn ra khá gay gắt. Vợ Tư Xe cao giọng :

  - Đời hết đàn ông hay sao mà đụng ai cũng quơ quào? Không biết nhục…

   Chiếc xích-lô vừa đẩy ra chợt khựng lại, Tư Xe nổi giận xắn tay áo:

  - Tôi biểu im! đơm đặt vậy là nói xấu, xúc phạm người ta đó nghe chưa? Không lo đi bán, đói nhăn răng!

   Cô Búp tức nghẹn cổ, vỗ tay bình bịch vào bộ ngực đầy đặn, chồm tới bên rào:

  - Nhục là sao? tôi ưng người nào thì lấy người đó, sợ gì ai? Tôi đâu có ngửa tay nhận tiền bán xác thân làm sao phải nhục? Xấu hỗ là mấy con mụ xuống sắc, ỏn ẻn mồi chài, ngon ngọt từ đứa trai mới lớn tới ông già bảy mươi để…để

…anh ơi mua giúp em ít tờ vé số…xổ liền nè!

  - À…con này dám đụng chạm, bôi bác  nghề nghiệp lương thiện của tao. Tui yêu cầu chú Bảy trục xuất con quỉ cái này ra khỏi địa phương!

   Ngó xung quanh thấy bà con  tản về bớt để lo việc mưu sinh và liệu chừng vợ mình đã nấu xong nồi cháo huyết bán đầu hẻm, chú Bảy dùng lời giảng hòa nhẹ nhàng mà cương quyết:

  - Tôi không bênh ai bỏ ai, nhưng mấy bà phải biết bình tĩnh suy xét, cãi cọ om sòm bị phạt hành chính đừng than nghen! Chuyện lờ mờ không đâu ra đâu, vợ thằng Tư chẳng nên đề quyết, bỏ qua đi! Còn cô Búp cần ý tứ  trong quan hệ…coi chừng phạm luật đấy! Hàng xóm ra vô gặp mặt, một câu nhịn chín câu lành…

   Thấy Tư Xe rón rén thót nhanh lên yên, chú Bảy gọi lại:

  - Tao sẽ nói chuyện với chú mày sau, hiểu chưa? Chiều nay về  rào kín chỗ vách trống này cho yên, khỏi đắp mền…thùng đồ nghề. Tối làm ơn ngủ nhà trước với vợ cho ấm, đừng léng phéng ra sau nghen!

   Lời nói chú Bảy tuy êm dịu, nhưng những người trong cuộc đều nghe theo bởi gia đình chú sống mẫu mực, tốt bụng, được bà con chòm xóm trọng nể. Cô Búp ngoe nguẩy về lo nhiệm vụ cân bún giao mối, vợ Tư Xe còn cắn nhằn đôi câu rồi cũng rút vô nhà. Chú Bảy cười hóm hỉnh, kéo tôi về để còn kịp ra quán cà phê quen thuộc nghe mấy ông bạn gìa hưu trí bàn chuyện thời sự, hoa kiểng…

   Tôi có việc phải đi xa gần tuần lễ, khi về nghe tin cô Búp gặp tai nạn. Chiều kia phụ đám thanh niên ép, vớt bún từ nồi nước lớn đang sôi, có lẽ vì nền đất trơn trợt nên cô vô ý ngã, phỏng cánh tay trái. Dì Hai Hạnh vội đưa cô vô bệnh viện, tận tình lo thuốc men và để một cậu nhỏ túc trực ngày đêm ở đó. Khi hoạn nạn mới thấy nghĩa tình của người dân xóm lao động này, gây gỗ ồn ào mà không ác ý, thù dai. Hầu như ai cũng đến thăm và có chút quà cho cô Búp. Cả vợ Tư Xe mới khẩu chiến nóng hổi hôm trước, nay cũng xởi lởi cầm hộp sửa bò vào thăm, rù rì tâm sự cả giờ đồng hồ. Và điều khiến chị bán vé số nhẹ lòng hơn khi  chiều hôm sau tới tình cờ gặp một người đàn ông tóc hoa râm, vẻ mặt hiền lành đang ngồi ghế cạnh giường cô Búp, tỉ mỉ lột từng múi cam. Thấy người lạ, ông ta ngượng ngùng đứng lên chào xã giao vài câu rồi xin về trước. Ông ngập ngừng cúi xuống nói nhỏ bên tai Búp, cô thoáng suy nghĩ rồi nhìn thẳng người đàn ông như đang bồn chồn chờ đợi , khẽ mỉm cười, gật nhẹ đầu. Nhìn nét tươi vui của hai người, chị Tư Xe với bản năng phụ nữ thầm hiểu rằng họ đang…hạnh phúc. Chuyện này tôi nghe được từ quán cháo huyết của thím Bảy, một dạng thông tấn xã…vĩa hè khá nhanh nhạy!

   Chiều nay, chú Bảy sang tôi chơi và cho biết nhiều tin mới do cô Búp nói ra lúc chú tới thăm. Mồ côi cha mẹ, cô sống cùng bà ngoại đến trưởng thành thì ngoại mất. Đụng thằng chồng say xỉn, cờ bạc, hư đốn…nó hành hạ, ngược đãi chán chê tới mức cô không chịu nổi, đành đường ai nấy đi. Duyên phận lỡ làng lại có chút nhan sắc nên bướm ong mặc tình ve vãn. Vài cuộc tình hờ với những gã đàn ông chỉ thích qua đường càng khiến lòng cô chán chường, trống vắng. Dư luận nghiệt ngã lại hay xét đoán theo chiều hướng xấu cho người đàn bà sống một mình. Cô bán nhà, trôi nổi làm ăn khắp nơi rồi về đây trú trong lò bún xóm lao động này vẫn không thoát khỏi sự nghi kỵ của những người đủ đôi đủ bạn. Ông khách đến thăm cô Búp mà chị Tư Xe gặp ở bệnh viện là người cùng quê cô, đã qua một đời vợ không con, gia sản khá, từ lâu đã ngỏ lời chắp nối xây dựng gia đình, nhưng cô còn lưỡng lự. Tai nạn bất ngờ khiến cô nghĩ lại, chẳng lẽ sống đơn độc mãi hay sao ? Và hôm ấy, cô đã bằng lòng. Hai người hẹn nhau khi cô xuất viện sẽ trình bày mọi việc với dì Hai Hạnh để xin tổ chức bữa tiệc chia tay chòm xóm trước lúc cùng về quê …

   Chúng tôi đang nói chuyện thì nghe phía dãy nhà sau gần lò bún vang rõ tiếng vợ Tư Xe chì chiết chồng :

  - Tui dò hỏi kỹ rồi mới biết tâm địa của ông! Đêm tôi tưởng lầm cô Búp, chính là ông hẹn hò với…với con Út hột vịt lộn phải hông? Cô Búp có thấy, nhưng tự ái không thèm nói ra. Ông đừng chạy chối nữa, tôi biết hết…Trời ơi! ăn ở bốn, năm mặt con còn sanh tâm đèo bồng. Đồ đàn ông…bội bạc!

   Lần này Tư Xe không bình tĩnh cười khì nữa mà quát to:

   - Câm họng ! nghe ai nói ? nghe ai nói?

   - Bà Sáu bánh canh nói đó! bả là người dưng mà thấy con người ông tàn nhẫn còn hổng nhịn được, biểu tui khai huỵch toẹt luôn. Ai đời con cái đi học sáng đói rã ruột, xin tiền ăn gói xôi…ông chẳng cho. Ông chạy xe giấu bớt tiền để tối tối lẻn ra chỗ con Út…ca vọng cỗ làm trò cười thiên hạ, dám giựt le bao giàn hột vịt ế mấy chục trứng mà! Hào hoa quá…nghệ sĩ quá…áo vá te tua! Tui mới hỏi chận con Út, nó khai thiệt hết rồi…

   Nói dài hụt hơi, chị ta dừng lại thở rồi tiếp tục “tố cáo” chồng:

  - Chuyện này nữa! người ta đồn  bữa nào ông xỉn xỉn thì ra ngồi đầu cầu Mới rên rĩ hoài hai câu.. “Con cá lý ngư sầu tư biếng lội…Con chim trên cành sầu cội biếng bay…” Ông sầu ai? sầu tui hả?

   Giọng Tư Xe nghe như than thở, đượm buồn:

  - Hồi xưa nhờ đờn ca tôi mới gặp bà…Tình nghĩa tôi thề không quên, nhưng giờ làm lụng cực nhọc kiếm cái ăn cũng rầu bụng lắm. Lâu lâu hứng thú vui vầy anh em, bông lơn hát hò cho đỡ nhớ…Bà chửi  thì… tôi nghe!

   Im lặng một lúc rồi vợ Tư Xe lại thút thít kể lể có văn có vần, nhưng coi bộ hòa huỡn hơn. Ai đó đi ngang gọi to:

  - Chú Bảy ơi! nhà Tư Xe có tiết mục mới, chú không phân xử à? Hay lại cháu chơi, có nồi cầy hon bén lắm!

   Khoát tay từ chối, chú trả lời :

  - Cảm ơn cháu! Chuyện trong nhà ngoài phố nhỏ nhặt, nó tự phát tự yên thôi. Mệt!

   Trời tối dần, tiễn chú Bảy ra về, tôi còn đứng hồi lâu nhìn dọc con hẻm san sát những túp nhà xây cất bằng đủ thứ vật liệu tạm bợ. Từng nhóm phụ nữ ngồi túm tụm nói cười hể hả như để tạm quên đi nỗi vất vả cơm áo một ngày. Đám đàn ông rảo bước vào quán cà phê để chụm đầu bên bàn cờ tướng hoặc lai rai vài xị đế ở điểm bán lòng bò bình dân. Còn thú vui nào cho họ, những người lao động nghèo? Buồn đấy, vui đấy, hơi ảm đạm một chút nhưng thân thiết lắm bởi xóm nghèo này cũng có một phần cuộc sống tâm hồn tôi.

ĐÊM  QUÊ

Nguyễn Kim

   Từ khu du lịch vườn cò Bằng Lăng bước ra, trong lúc chờ Phong lấy xe, tôi thích thú ngắm từng đàn cò trắng xoãi cánh nhịp nhàng về tổ. Thiên nhiên ưu đãi, lòng người phóng khoáng đã tạo cho vùng đất này một môi trường sinh thái hài hòa, thu hút nhiều khách tham quan. Chiều xuống dần cùng những cánh cò phấp phới ca dao. Chiếc xe Honda 50 đưa tôi và Phong rời bờ đất đỏ ra đường lớn. Chậm tay ga, Phong cười khà :

  - Đêm nay dám ngủ bụi không ?

   Tôi hứng khởi bấm vai bạn :

  - Tại sao không ? ở đâu ?

  - Chỗ bác Tư của vợ mình, cũng dân xã Thới Thuận, Thốt Nốt này thôi…Bác rất thương mình và tính mến khách lắm. Năm nay ông già nhẹ thở nhờ trúng lúa, đang thu hoạch vụ mè trồng chơi mà ăn thiệt. Thêm hầm cá sắp tới lứa, hơi lo vì giá cả biến động trồi sụt thất thường…

   Phong cùng quê và thân thiết với tôi từ bé. Cho tới khi cuộc mưu sinh đưa đẩy anh trôi giạt tận đây, sau đó cưới vợ ở Thơm Rơm (cái tên nghe thật mộc mạc, trữ tình !}. Phong khỏe mạnh, có kiến thức, chịu làm lụng, lại may gặp cô vợ nề nếp, siêng năng nên chỉ sau 5 năm đã mua được cuộc đất tại xã này và đang chuẩn bị ra riêng. Hai vợ chồng mới có một con trai, kinh tế gia đình ổn định thì xem như hạnh phúc trong tầm tay. Lần này Phong rảnh rỗi hẹn tôi lên đưa đi chơi vùng quê một ngày đêm để cho biết phần nào phong cảnh cùng tính cách người miền Tây…

   Vòng vèo đường quê, cầu ván gần tiếng đồng hồ tới lúc mặt trời lặn mất tăm lại gặp một cây cầu khỉ chông chênh bắc qua con rạch cạn. Thấy chúng tôi tần ngần, mấy cô gái làm đồng về muộn cứ đứng nhìn rồi che miệng cười khúc khích. Một cô bạo dạn góp ý :

  - Hai anh tìm nhà ai vậy ? Xe đi đường này không qua cầu được đâu, gởi nhờ hàng xóm gần đây cho tiện…

   Phong gật đầu đồng ý:

  - Chắc phải vậy thôi…Tụi anh định qua nhà bác tư Trí…

   Cô gái dợm bước lên cầu, ngoái lại nói :

  - Tưởng ai, bác Tư tụi em biết. Tối nay bác còn ở lại ruộng mè, chưa về nhà đâu anh ơi!

  Nhìn các cô gái thoăn thoắt bước qua cầu trông rất dễ dàng, tôi lo tới lượt mình sẽ trượt chân rơi xuống rạch thì thật khó coi. Nhưng…chậm mà chắc, dù mướt mồ hôi tôi cũng qua được. Ghé nhà thăm bác Tư gái xong, tôi và Phong thẳng ra ruộng luôn. Đêm mùa hè sao sớm lấp lánh, mờ nhạt ánh trăng non đủ thấy đường đi. Từ xa đã thấy bập bùng ánh lửa gợi nớ những đêm cắm trại ngày còn đi học. Những thân mè xếp gọn, chất đống cao trên những tấm bạt nhựa. Nốp, đệm rải rác trên khoảng đất trống cạnh những nông cụ. Phong lăng xăng giới thiệu từng người với tôi trong không khí thân tình, cởi mở. Bác tư Trí, một lão nông quá tuổi 70, thấp người mà rắn rỏi, thân mật vỗ mạnh vai tôi:

  -Thằng Phong nhắc bây hoài, riết rồi tao cũng nghe quen. Coi như người trong nhà, vậy nghen!

   Tôi vui vẻ ngồi bệt xuống xem bác cắt tiết hai con gà mái vàng to béo. Liếc xoèn xoẹt con dao nhíp vào khu tộ, bác phân công:

  - Thằng Cuôi nhồi đất cho dẻo vừa, đừng nhão. Hai đứa Tùng, Út ôm mớ rơm. Còn chú Bảy chờ tui khui bụng làm bộ lòng, chú lấy sả quấn nùi bánh rế để sẵn…

   Mũi dao bén cắt khéo một vòng bụng dưới hai con gà. Bác xách tất cả ra con kinh một lúc rồi tất tả trở vô. Dồn bộ lòng đã làm xong vào bụng gà, bác lấy nùi sả ém kỹ, luôn vết cắt nơi cổ. Từng động tác tréo cánh, trét đất sét sát thân gà, cuối cùng vo thành khối tròn to, nhỉnh hơn trái dừa bung. Tôi chợt liên tưởng đến hai quả đạn Thần công thời xưa, loại quá cỡ. Lót tấm tôn dày bên dưới, đặt hai “tác phẩm” lên, phủ rơm kín gọn, bác Tư quay sang tôi hất hàm ra hiệu:

  - Cho thằng cháu này quyền…khai hỏa đó!

   Được Phong và mọi người hưởng ứng, tôi bật quẹt giáp vòng. Rơm khô, cháy bùng soi sáng một góc ruộng. Anh Cuôi dùng đoạn trúc xanh chốc chốc lại tém vun rơm vào gọn gàng. Hơi nóng tỏa ra, tôi rút lui ra phụ anh em lặt rau. Đủ loại rau vườn: răm, quế, om, cải trời, lá chanh, ớt hiểm…Phong thì cắt mấy tàu lá chuối bày sẵn chỗ đất phẳng. Thời gian chờ gà chín, mọi người chuyện trò về thời tiết, kinh nghiện sản xuất, lan man qua cả vấn đề…chất lượng nón bảo hiểm. Tôi phải công nhận rằng mọi người khá quan tâm và am hiểu về thời sự. Điều băn khoăn nhiều nhất là giá cả nông sản trên thị trường luôn bất lợi cho giới nông dân, cả khoản đóng góp cho địa phương cũng có hơi…quá tải. Tự chọn lựa, thay đổi giống cây trồng trên chính mảnh ruộng của mình, may rủi tùy thuộc vào nhu cầu thị trường; nghe rồi mới thấy thực tế quá bấp bênh. Có hướng dẫn đấy, nhưng khi thiệt hại thì ai đứng ra bù đắp đây?. Những cái nhíu mày, tặc lưỡi trên các khuôn mặt chất phác, khắc khổ bởi lao động một nắng hai sương, lòng nào mà không cùng san sẻ?. Nhưng rồi những câu đùa vui, tiếng cười lạc quan lại rộn rã như tin tưởng vào đổi thay từng bước không xa. Quấn điếu thuốc rê, bác Tư chợt hỏi qua chuyện khác :

  - Con gái út chú Bảy giờ chắc ổn rồi hả ?

   Chú Bảy trạc tuổi 60, tay bó gối ngập ngừng:

  - Nghĩ lại mình là cha mẹ mà vì…đất đai eo hẹp nên hổng lo nổi cho con. Thương cho con nhỏ thấy gia đình quá nghèo, dại dột nghe lời người ta. May là tui chạy lên Sài Gòn thúc ép rước về kịp, có rối rắm nhưng nhờ công an giải quyết xong rồi…Giờ phải liệu cho nó học lại, thầy cô trong trường tới thăm biểu vậy !

   Một anh ngó đống lửa rơm âm ỉ tro hồng, giọng lửng lơ:

  - May mắn lấy được thằng chồng Đài Loan cũng đỡ khổ chớ…chú Bảy?

   Bác Tư trợn mắt nạt đùa :

  - Nói bậy! Nó thí cho mươi triệu bạc là xong. Còn con cháu mình sống xứ lạ quê người, phong tục, ngôn ngữ bất đồng, tình thương hổng có, bà con họ hàng thì xa lắc xa lơ…mày thấy sướng hả?. Con nhỏ đi học lại, tao mừng, có chữ nghĩa mới không thua sút người ta. Mai mốt chú Bảy qua tui bàn tính chuyện này nghen…Thôi, bỏ dứt vụ này, đừng nhắc nữa!

   Mọi người yên lặng như để chuyện không may vừa qua lắng xuống. Tôi và Phong cũng rôm rả chuyện cây giống, quy hoạch này nọ khá trơn tru, có điều là nói theo… sách báo. Cái họ nghe được, cái không đồng tình, thêm những đề xuất tuy bâng quơ, táo bạo nhưng mang tính thực tế và hay nhất là không dài dòng như những bài phát biểu ngắc ngứ về nông nghiệp tôi đã nghe ở cấp xã phường địa phương mình. Đa phần sáo rỗng, hình thức bao la…

   Lăn hai khối đất sét…nhân gà vào giữa tàu lá chuối, anh Cuôi chất thêm mấy gộc củi vào đống lửa cho sáng rực lên. Khéo léo gỡ từng mãng đất khô trắng, nóng bỏng, dính từng túm lông gà vất ra bờ ruộng; bác Tư xuýt xoa với hai con gà trần trụi, chín múp, tươm mỡ ướt tay…Bảy người quây quần chuyền tay chén rượu, xé thịt gà đưa cay. Trời về khuya gió se se lạnh, men rượu càng nồng nàn. Món ăn ngon tuyệt bên ánh lửa lung linh với nhửng người dân quê thật thà chân đất. Cảm giác khó tả bằng lời mà lay động, rất lay động tâm hồn. Những mẫu chuyện làng xóm, vui có, buồn có…bàng bạc nét thuần hậu. Hai anh Tùng, Út thay nhau ca các bài bản vọng cổ xưa, thời nghệ sĩ Út Trà Ôn, Phương Quang, Minh Cảnh…đệm bằng nhịp song loan giòn giã của bác Tư. Giọng ca, tiếng đàn rỉ rả vấn vương, tôi nghe thấm thía hơn hẵn những “sao” mượt mà, uốn éo, chán ngắt trên tivi. Tiếng ếch nhái vang rân trong thanh vắng nhắc chúng tôi rằng đã nửa đêm về sáng…

   Nằm trên đệm rơm, cuộn mình trong nóp tôi còn thao thức cạnh đống un xua muỗi, tâm trí miên man nghĩ về cuộc sống nông thôn và thành thị. Tuy đời sống vật chất  còn quá cách biệt, nhưng tôi chắc một điều nếu giới nông dân được quan tâm, thật sự quan tâm thì về tinh thần, nền tảng đạo đức, cội nguồn sẽ mãi là giá trị mẫu mực cho đời sau. Tôi yêu những đêm như đêm nay…

DẶM CÙ XÚC CÁ LIA THIA

Nguyễn Kim

   Ở thôn quê, người nông dân có nhiều phương thức tìm kiếm các sản vật thiên nhiên như tôm cá, ếch nhái, cua còng…ngay trên kinh rạch, đồng bưng. Nào là giăng lưới, đặt lọp, cắm câu, thả vó…được ít để dùng trong gia đình, nhiều thì mang ra chợ bán bớt. Vào khoảng tháng giêng, hai âm lịch, khi những đám mây xám xịt còn vần vũ xa xa cũng là lúc cá lia thia kéo bầy, nhả bọt, đẻ trứng trên các dòng kinh năng, bàu lát. Vậy là nông dân các xã Mỹ Thạnh Đông, Mỹ Quý Tây (huyện Đức Huệ - Long An) hoặc bà con nghèo huyện Tân Phước (Tiền Giang) lại có dịp lấy từ giàn bếp xuống cái rổ “xoay (xây) cù” rủ nhau đi xúc cá lia thia. Loại rổ đặc biệt này đan bằng trúc già rất công phu, người làm giỏi phải mất cả tuần lễ. Vót từng rẽ nan tròn cạnh để đan rồi “nứt” vành bằng hai miếng nẹp tre chắc chắn. Đường kính của rổ xoay cù khoảng 1,6 mét, đáy bằng phẳng như đáy thúng và dễ rút nước. Chịu khó ngồi tê chân, phồng rộp ngón tay mới tạo nên cái rổ xúc cá có tuổi thọ hàng chục năm trời và nó cũng bền bỉ  theo bước chân người dân quê vào mùa dặm cù…

   Khác với kiểu dặm cù có quy mô lớn với nhiều người nhằm bắt chuột, rắn, rùa…Dặm cù bắt cá lia thia chỉ một người với cái rổ xúc và kéo theo cái thau đựng cá cột dây ngang thắt lưng. Trên kinh, bưng đầy năng, lát; đặt nghiêng rổ xúc ngập nửa vành rồi cứ thế xoay vòng chu vi cỡ miệng rổ, chân dậm đuổi cá dần thu hẹp rồi gom vào giữa xúc gọn. Mỗi lần xúc trúng có thể được khoảng trên dưới một chén cá lia thia, bả trầu…Tùy địa hình nước sâu, cạn hoặc rộng, hẹp mà thay đổi cách dặm cù, dặm hai bên mé hay dặm thụt lùi, miễn sao đưa được cá vào rổ. Nơi cá nhiều, dặm cù vài ba giờ đồng hồ dám được cỡ ba ký lô, chỗ ít cá cũng kiếm hơn ký về cải thiện bữa cơm gia đình.

  Cá lia thia trồng là loại cá đá nhau rất hăng, bọn trẻ rất thích chọn vài con có mang đỏ, kỳ, vây đều đặn, màu sắc đẹp đẻ để chơi. Xúc về, cho cả vào thau nước lựa bỏ rong rêu, con chôm chôm, bà mụ…không ăn được, chỉ để lại cá, tép mòng, điên điển, cà cuống, bù niểng…Cá lia thia dùng làm mắm chua, kho tiêu, kho sả ớt, kho tộ tóp mỡ, nấu canh rau, kho mắm, chiên giòn, hấp lá gừng, um nước cốt dừa, chấy mỡ hành cuốn bánh tráng…Ngày trước, đến mùa xúc thường vào mỗi buổi chiều quanh làng xóm đều có người quảy gánh rao bán cá lia thia, đong bằng tô, chén. Một món ăn dân dã, rẻ tiền mà ngon miệng, bổ dưỡng. Bây giờ, những đồng bưng hoang hóa cũng được người dân khai phá làm đất sản xuất, đàn cá lia thia trở nên hiếm hoi bởi không còn môi trường thiên nhiên thích hợp. Chỉ huyện Thủ Thừa, Đức Huệ (Long An) là còn khá sôi động vào mùa xúc cá lia thia từ tháng 12 đến tháng 4 âm lịch và một số xã hình thành cả một đội ngủ xúc cá lia thia chuyên nghiệp. Chịu ngâm mình trong nước, vất vả là thế, nhưng cuộc mưu sinh nghèo buộc họ phải chấp nhận. Giá 1 ký cá lia thia trung bình 30 ngàn đồng, sau hơn một buổi dặm bắt cá ít nhất cũng kiếm được 50 ngàn. Người nông dân cần mẫn tạm dễ thở trong mùa xúc cá kéo dài tới 5 tháng này. Nhưng với tình hình ô nhiễm nước thải hóa chất lan rộng có hệ thống từ các nhà máy hiện nay thì ai cũng đoán được tương lai bấp bênh của nghề xúc cá…

   Con cá lia thia bé nhỏ ngoài việc giúp một số nông dân giảm bớt sự khó khăn, còn có vị trí rất dễ thương trong câu ca dao trữ tình hầu như mọi người đều thuộc nằm lòng “Chim quyên ăn trái nhãn lồng / Lia thia quen chậu, vợ chồng quen hơi”…

NGỌC THỰC – KÝ ỨC MIỀN QUÊ

   Được xem những bài luận văn của các em học sinh tả cảnh thu hoạch mùa màng, thường chỉ thấy không khí vui tươi, lao động phấn khởi, rộn rã tiếng cười, ít khi đọc được vài dòng nhắc nhỡ đến nỗi vất vả của người làm ra hột lúa. Người nông dân trước đó phải dọn ruộng, đắp bờ, ủ gieo giống, dầm nước nhổ mạ cấy trồng. Rồi còn bao lo toan, trông trời trông nắng trông mưa, một nắng hai sương, thấp thỏm không yên giấc đêm mưa giông bảo táp cho tới ngày sân phơi đầy lúa óng vàng, quây bồ đón hạt ngọc của trời; thành quả từ những giọt mồ hôi đổ ra trong nắng cháy, những cơn mưa lạnh tím môi. Biết bao câu ca dao, tục ngữ ngàn xưa đã nói về sự làm việc cần mẫn của nghiệp nhà nông. Bởi vậy, có thể nói chắc một điều là người ở nông thôn từ trong máu thịt đã biết tiềm tàng, quí trọng, dè xẻn hột gạo hơn hẳn người sống nơi thành thị…

   Bà ngoại tôi cả đời sống ở quê, đạm bạc, hồn hậu, thương con thương cháu. Những lần nghỉ hè về chơi, anh em chúng tôi tha hồ leo trèo, tắm rạch, bày đủ thứ trò chơi dân dã. Vận động nhiều nên mau đói bụng, nhưng thuở đó dâu có nhiều quà bánh, hàng quán như bây giờ. Biết ý, bữa nào ngoại cũng nấu cơm vun nồi, ăn cơm chiều rồi mà cơm trong nồi vẫn còn. Khuya sớm, ngoại lụm cụm thức dậy nấu nồi cháo trắng bằng cơm nguội cho chúng tôi lót dạ với tép rang, khô mặn. Trời nóng nực, cơm hay bị “đổ mồ hôi” thì ngoại nấu nồi nước sôi cho cơm ấy vào chắt nước gút ráo. Một lần tôi chê cơm nhạt, lén bưng cả chén cơm trắng đổ mé hè nhà. Ngoại biết mà không rầy, nhưng lúc sau tôi thấy ngoại ngồi tẩn mẩn nhặt kỳ hết chén cơm tôi vừa đổ rồi trút vào mo cau cho vịt ăn. Chuyện đó làm tôi ân hận, tới giờ vẫn chưa quên. Cơm đáy nồi hơi già lửa, ngoại rưới nước bóp rời, rải ra nia phơi khô cất vào giỏ đệm treo cạnh giàn bếp để dành. Kể ra như vậy, tôi càng cảm nhận tính ngoại rất cần kiệm, không bao giờ lãng phí hột gạo cho dù lúa trong bồ đầy ắp. Những đêm thức khuya chờ các cậu đi soi cá, cắm câu về, ngoại xúc tô cơm khô rang với đường cho anh em chúng tôi ăn. Nhai thong thả để nghe được tiếng giòn cốm hòa cùng vị thơm ngọt cơm đường như tẩm mật. Giống tính ngoại, mẹ tôi cũng rất tằn tiện. Cơm nguội thì hấp lại hoặc chiên mỡ cho các con ăn sáng chắc bụng trước khi đến lớp. Qua nhiều năm sau này lớn khôn, kỷ niệm đó vẫn còn sống trọn vẹn trong ký ức, trong tâm hồn anh em chúng tôi. Hồi nhỏ, có lần được mẹ hứa dẫn đi Sài Gòn thăm ba, tôi rất mừng nên đêm đó cứ trằn trọc mãi. Mẹ dậy sớm chuẩn bị xong xuôi mới đánh thức tôi cùng ra bến xe, thời ấy có đâu chừng bốn, năm chiếc thôi. Bóng đèn vàng quạch trong xe soi những khuôn mặt lộ vẻ sốt ruột bởi chú lơ è ạch quay ma-ni-ven cả chục lần…hết cơm trong bụng, máy mới chịu nổ. Tôi thiu thiu ngủ cho tới Cần Giuộc thì tỉnh giấc và kêu đói bụng. Mẹ tôi mở giỏ xách lấy ra gói lá chuối bọc cơm nắm với ít tôm rang mặn. Ánh mắt mẹ trìu mến nhìn tôi, đứa con háu đói ăn ngon lành cùng hơi ấm nắm cơm còn đó, miếng lá chuối thì mềm tái đi như sự chịu đựng, đùm bọc không vơi của người mẹ. Điều ấp ủ từ gói cơm nắm ấy về sau tôi mới hiểu, mà chắc chắn cả đời vẫn không đền đáp được. Mẹ già đâu có sống đời với con !

   Lớn lên lập gia đình ở riêng, ký ức nếp sống ngày xa thỉnh thoảng lại quay về tâm tưởng. Những lúc bị cúp điện cả ngày, các con tôi hí hửng vì sẽ được ăn cơm nấu bằng… lửa củi. Chắc mẫm là ý chúng muốn dặn thêm “Ba nấu thay mẹ để tụi con có..cơm cháy ăn !”. Không ai nói ra, nhưng mấy đứa nhỏ thừa biết rằng tôi cũng có sở thích…giống hệt. Cơm nấu hơi khô một chút, để than đượm, chừng nghe mùi thơm bốc lên thì nhấc nồi xuống. Ăn lưng lững bụng, tôi dùng đũa bếp lấy gọn khoanh cơm cháy vàng thơm tròn như vầng trăng mười sáu, lật úp vào dĩa rồi rưới mỡ, tóp mỡ lên trên. Mấy cha con dùng tay bẻ từng miếng cơm cháy âm ấm rắc chút muối tiêu hoặc nước mắm ngon tùy khẩu vị, cùng nhai rau ráu tận hưởng niềm thú vị rất đổi bình dân thấm vào cả ngũ quan. Mẹ chúng đùa “Ăn cơm cháy thì khỏi… về Tàu !”. Thằng con út tay dính mỡ, miệng nhồm nhoàm trả lời “Cho con ăn hoài cũng được vì con là người Việt chính tông mà mẹ !”. Cả nhà cùng cười, vui biết mấy !.

   Trời lạnh mau xót ruột, nhất là vào đêm mưa. Những lúc như vậy, vợ tôi thử “đặt vấn đề” nấu nồi cháo trắng thì ai cũng hoan nghênh. Thức ăn kèm theo không kén: vài khứa cá lóc, cá ngừ hoặc chén tép rang sả bữa chiều còn lại. Cho tất cả vào ơ đất cùng nước mắm xâm xấp, tiêu bột…kho lửa riu riu tới khi quéo rặt, nổi muối lách tách thơm lừng, thêm muỗng tóp mỡ là xong…sản phẩm. Nhìn những người thân yêu trong gia đình quây quần bên nồi cháo nóng, ngoài trời thì mưa lâm râm, có lẽ ai cũng có cảm giác êm đềm, ấm cúng ngập lòng như tôi…

   Trong bữa cơm gia đình họp mặt đầy đủ, thể hiện rất rõ nếp nhà hòa thuận, chăm sóc lẫn nhau. Và từ lúa gạo, hạt ngọc-thực thấm đẫm tình đất, tình người, cội nguồn của tình yêu quê hương; mấy ai không khi chạnh lòng khi nhớ lại câu “Ai ơi bưng bát cơm đầy - Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần” hoặc bâng khuâng với giọng ngâm nga “…Nghe tiếng cơm sôi cũng nhớ nhà…” bên khu nhà trọ người-của-bốn-phương khi trời vừa nhạt nắng !

TRẬN GÀ CUỐI NĂM

   Giờ phút con sáo thân thương sắp sang sông, Tùng mới cảm nhận được ba tiếng “thương đứt ruột!” mà lúc còn sống ba anh hay bồi hồi thốt ra mỗi khi có người vô tình nhắc nhớ lại chuyện con bò nhà chết bệnh. Thuở ấy nhà Tùng nuôi đôi bò kéo xe bánh gỗ dùng chở nông sản của gia đình hoặc giúp hàng xóm mỗi mùa thu hoạch. Gần gũi mấy năm trời quen hơi quen nết, cả nhà Tùng thương yêu, chăm sóc hai con vật này hết mực. Chiều cho tắm mát, ăn no về chuồng, un rơm xua muỗi…cũng chính tay ba Tùng làm, ông bảo vậy mới  yên bụng. Và còn nói thêm rằng con trâu thường chỉ cực mùa ruộng, còn con bò thì quanh năm suốt tháng phải mang cái ách trên vai, tội nghiệp hơn. Một ngày cuối năm, sau khi chở được sáu chuyến xe đất đắp bờ lộ xóm, một con bò bỗng nhiên khuỵu chân xuống không gượng nổi, bụng to dần lên như trống đình. Ba Tùng luống cuống hết đổ nước chanh tới rượu gừng xoa ấm, nó vẫn nắm đó với hai mắt mở to cam chịu, long lanh ngấn nước, hàm cứng lại. Những người hàng xóm lo lắng cho đó là bệnh trướng hơi, khó qua khỏi. Quả đúng, vài giờ sau con bò đáng thương ngoẹo đầu sùi bọt mép, tắt thở. Cả nhà buồn khôn xiết, riêng Tùng nhớ hoài hình ảnh cha mình ngồi thụp bên xác con vật, bàn tay chai sần cứ vuốt ve cái mõm bắt đầu lạnh giá. Mồng ba Tết năm ấy, ông tẩn mẫn dán giấy vàng bạc vào cặp sừng con bò còn lại rồi cứ vào ra trước sân nhà, mắt đăm đăm ngoài ngõ như trông ngóng điều gì. Hai cây mai vàng hồi tháng chạp bỏ quên không vặt lá , tưới nước đúng kỳ, tới ra giêng còn trổ bông muộn…

   Mang tâm trạng mất mát giống cha, Tùng nhớ lại con chim sáo nghệ nuôi từ lúc mới ra ràng. Anh tập cho nó ăn tôm tép, cá nướng chín và chút ớt, hy vọng sau này lột lưỡi, dạy sáo học tiếng người. Chăm chút mấy tháng trời, con sáo đã quen và nhận biết được Tùng mỗi khi anh huýt sáo gọi. Cứ nghĩ rằng theo thời gian, con vật khôn ngoan này đã chấp nhận sự thuần dưỡng. Nhưng thiên nhiên tự do rộng mở cùng tập tính giống nòi mạnh hơn, con sáo nhà Tùng bị sự quyến rũ của con sáo mái hoang dã để rồi giả từ anh mãi mãi. Mới đầu đôi chim lượn vòng khu vườn rồi con trống để bạn tình đậu trên cành nhãn, nó chần chừ bay đáp xuống gần chủ cách mươi bước chân. Anh đứng yên lặng nhìn, chờ đợi. Nghiêng nghiêng cái đầu nhỏ nhắn với đôi mắt tròn xoe, nó bỗng bay vụt lên cạnh bạn. Đôi chim cất tiếng hót thánh thót xao lòng như vĩnh biệt Tùng rồi chớp cánh bay xa sau rặng tre lay lay bóng nắng…

   Tùng chưa nguôi ngoai nỗi buồn mất con sáo nghệ, giờ may mắn được con gà chọi rặt nòi của ông Sáu Bình nổi danh “thầy gà” một thời. Là chỗ bạn từ lúc còn trai trẻ với ba Tùng, ông tặng anh con gà giò lông điều và dặn kỹ :

  - Nhớ chăm sóc cẩn thận, nuôi để nghe tiếng gáy hoặc thích thì vào dịp lễ tết  cáp độ, bịt cựa đá cho bà con xem chơi thôi. Đừng bày đặt cá độ ăn tiền như hồi xưa, vi phạm pháp luật đó nghen cháu !

   Tưng tiu con gà trên tay, Tùng nói với ông :

  - Cháu chịu nhất là giấc khuya sớm còn nằm trên giường nghe tiếng gà gáy văng vẵng, tự dưng nó khiến lòng mình man mác gợi nhớ đâu đâu…Cháu hứa nghe theo lời bác !

   Như vừa ý, ông Sáu Bình cười khà khà rồi bỡn cợt ngâm nga :

  - Cảm ơn bụi chuối bờ ao…Nửa đêm gà gáy có tao có mày…Cảm ơn cái cối cái chầy…Nửa đêm gà gáy có mày có tao !

 …Nuôi được ba tháng, con gà điều trổ mã óng mượt, mồng thẳng oai phong, cựa nhú hột bắp. Tùng cắt tít, tỉa lông, bôi rượu nghệ cho săn da đúng bài bản. Mỗi sáng anh chịu khó đưa nó ra bãi cỏ quần chân, ngoài thóc tốt còn bồi dưỡng thêm chuối, cá bống tươi…Sung mãn, con điều hay tút…tút…gọi mái theo bản năng. Nhờ câu “tốt mái hại trống”, Tùng làm cái rào chắn giữ cho nó luôn bền vững phong độ một chiến binh tưong lai. Ngày lại ngày, với đôi cựa mọc dài, dáng bệ vệ, con điều vỗ cánh, vươn cao cổ cất tiếng gáy dài hơi như khoe sức lực cần phát tiết. Ông Sáu Bình tới coi, khen con gà đồng thân đồng thủ, có các vảy tốt như An thiên, Liên giáp nội…đáng gọi là quí kê. Tùng nghe chưa hiểu nhiều, nhưng trong bụng khoái như mở cờ. Đời gà chọi, chuyện đến phải đến. Trận thử sức đầu tiên giữa con điều với con nhạn nổi tiếng của Tư Muôn ở xóm Gò vào dịp cuối năm dương lịch rất gay cấn. Nhớ lời ông Sáu dặn, Tùng nhất định không cá cược bằng tiền mà đưa đề nghị treo giải 5 lít rượu nếp, cặp vịt xiêm để sau trận gà mời anh em bè bạn uống chơi, đương nhiên là bên thua chịu. Tư Muôn lưỡng lự rồi cũng đồng ý điều kiện trên cùng sự tự tin ra mặt. Cuộc chơi không theo lệ xưa tính thời gian từng “ôm”, từng hiệp bằng đồng xu cột sợi chỉ treo, phân đoạn nhang cháy..mà cứ thả gà đá thẳng cẳng với đôi cựa bịt kỹ. Vòng trong vòng ngoài gần hai chục người khom lưng trầm trồ, cổ vũ theo từng cú đá, cú nhảy của hai con gà hăng tiết. Tư Muôn hào hứng vung tay hét toáng lên :

- Ráng lên con ! Ai chịu chôi, thằng này bắt bạc ăn tám !

   Tùng lừ mắt gạt ngang :

  - Bỏ thói cá độ đi ! Bộ muốn tui với ông…ra tòa hả ?

  Con điều ít chịu so cựa, nó hay áp sát địch thủ cao to như đợi dịp ra đòn quyết định. Tùng sốt ruột ngó con gà nhà xà quần lòn cánh con nhạn tìm thế, ai nấy im lặng chở diễn biến sắp tới. Bất ngờ con điều lách ra và nhanh như chớp nó xoay ngang cái mỏ sắc nhọn túm chặt đầu đối thủ tung hai chân đá thốc vào ức con nhạn. Thêm hai đòn nữa ngay cổ cúp, địch thủ đứng không vững, kêu ré một tiếng đau đớn rồi bỏ chạy khỏi vòng đấu. Con điều không đuổi, cất tiếng gáy đắc thắng giữa những tràng pháo tay phấn khích. Tư Muôn bỏ con gà thua vào giỏ đệm, nhăn nhó bảo Tùng :

  - Con điều của ông lì đòn mà xuất chiêu “vô dĩa” độc quá !

   Tùng cười hân hoan :

  - Nhờ may mắn thôi…bạn ơi ! Về bắt cặp vịt xiêm cho sớm, anh em đang chờ…

 …Thắm thoát đã gần tết Nguyên đán, vì bận nhiều việc nhà và cũng ngại mang tiếng mê đá gà nên Tùng luôn từ chối các lời đề nghị so cựa với con điều. Cuối năm, rộn rịp nhất khu vực gân bến ghe là nơi tập trung hoa kiểng từ các địa phương Đồng Tháp, Long An…dổ về. Thiên tuế, cau đỏ, cau vàng, sứ Thái, mai vàng, hoa tươi rực rở, bonsai xinh xắn…chưng bày theo loại, người mua kẻ bán tấp nập. Trưa ngày hăm ba tháng chạp, Tùng rỗi việc đi vòng quanh phố rồi thuận chân thả ra bến chơi. Các ghe thuyền lớn nhỏ neo đậu san sát, sinh hoạt thương hồ có nét riêng của những người quen lênh đênh sông nước. Dừng bên chiếc ghe chất cau kiểng, mai gốc…Tùng chú ý đến con gà nòi đen tuyền sắc trong lồng kẽm sau lái. Thấy khách có vẻ quan tâm, người chủ ghe trạc tuổi bốn mươi như thỏa ý, niềm nở :

  - Mời anh xuống coi con gà chơi, giống gà Cao Lãnh này hổng tệ đâu ! Con trai tôi nuôi từ hồi nhỏ đó…

   Không khách sáo, Tùng xuống ghe cùng ngồi trên mui uống trà chuyện vãn. Bằng giọng hiền lành chơn chất, anh chủ ghe chậm rãi nói :

  - Coi bộ anh cũng khoái gà nòi ? Tôi ưa lâu lâu coi đá một trận, nhưng thằng nhỏ nhà tôi không chịu, nó cưng con ô này lắm. Nó mới học lớp sáu, xin cô giáo cho nghỉ trước ít bữa theo tôi bán buôn chút đỉnh kiếm tiến ăn Tết. Năm nay lúa trúng mà giá cả rẻ rề…

   Đến lượt Tùng khoe về con gà của mình, vui miệng kể luôn về trận thắng con nhạn của Tư Muôn xóm Gò với nụ cười tự đắc. Mắt anh Bảy, người chủ ghe sáng lên rồi dịu xuống ngay :

  - Chà…phải chi có dịp cho con ô này đụng con điều của anh, coi giò cẳng sướng mắt. Ngặt nỗi thằng Hậu thương gà, thấy ai bày cho chúng đá nhau đổ máu là sợ, là ghét. Nó nói sung sướng gì mà xem cảnh xung đột, giết chóc lẫn nhau, như vậy quá độc ác !

   Tùng đăm chiêu ngó con ô đi vòng quanh cái lồng chật hẹp, chậm rãi nói :

  - Con anh có phần đúng, nhưng mình chỉ giải trí thôi. Nếu được, chiều nay khoảng ba giờ tôi ôm con điều ra thử sức giống ô Cao Lãnh một phen!

   Anh Bảy tần ngần giây lát rồi gật đầu :

  - Được ! đúng hẹn nghen anh…Thằng Hậu con tôi đã theo xe ba-gác chở cau giao cho vựa xa, có lẽ chiều mới về tới. Chờ bến vắng, mình làm ẩu một độ thôi !

 …Nhanh tay cùng Tùng dọn dẹp các giỏ cần xé lấy khoảng đất trống xong xuôi, anh Bảy nhìn đồng hồ, sốt ruột hỏi những người đang bịt cựa gà :

  - Ngon lành chưa mấy huynh ? Tụi tui thả gà sớm để thiên hạ kéo tới rần rần sinh chuyện…

   Hai người ôm gà nhữ nhữ rồi cùng lúc buông tay. Đôi gà lúc lắc đầu gườm gườm thăm dò rồi hăng máu sấn vào tung đòn liên tục, tám lạng nửa cân. Người xem ngồi xổm thành vòng tròn tặc lưỡi xuýt xoa và lúc lúc lại dãn ra nhường chỗ cho hai đối thủ tranh tài. Phải nhìn nhận con ô của anh Bảy rất nhanh, cái mỏ linh hoạt của nó bấu bất cứ chỗ nào trên mình con điều cũng đá được, có điều kém hiệu quả. Cuộc đấu kéo dài giống như đá gà đòn do cựa đã bịt kín không gây sát thương. Có vẻ thấm mệt, hai con gà tựa vào nhau xà quần quanh bãi. Con điều lừa thế mững cũ lòn vào cánh đối thủ, xoay xoay tìm miếng ra đòn. Một ông già nhìn xuống rồi hốt hoảng la to :

  - Con điều sút vải bịt cựa…Chủ vô ôm gà mau lên !

   Tùng vừa nhổm dậy chưa kịp phản ứng thì con điều đã nhoài ra ghì đầu con ô kéo lại, tung cú đá hiểm vào ức. Trúng đòn, con ô sặc máu và hứng thêm vết đâm lút cựa vào bầu diều rách toạt, nhúm thóc ươn ướt vãi ra sân. Nó nghèn nghẹn khàn khàn kêu lên, quáng quàng thu tàn lực đập cánh bay qua vòng người rơi tuốt mé sông. Một đứa bé vừa đến kịp chứng kiến cảnh bi thương trên, nó để cả quần áo lao xuống sông vớt con gà ô đặt trên bờ. Anh Bảy thẩn thờ ngồi cạnh đứa nhỏ, đưa cái khăn lông cho nó, thở dài buồn bã :

  - Hậu…ba tính đá chơi chút thôi, ai dè…Để ba coi con ô còn sống, còn dưỡng được không con ?

   Hậu không ngước lên, nó trải cái khăn đặt nhẹ con gà thoi thóp lên, bàn tay nhỏ nhắn áp sát vết thương chí mạng đầy máu. Con gà ướt sũng nước, màu lông đen như đen thêm, mắt nhắm nghiền, co giật vài lần rồi duỗi thẳng hai chân. Nó chết trong sự thờ ơ của những người hiếu kỳ vây quanh. Anh Bảy đưa tay vuốt tóc con, giọng như người hụt hơi :

  - Lỗi tại ba hết…kỳ này về ba hứa tìm cho con gà khác tốt hơn. Đừng buồn nữa con ơi !

   Đứa nhỏ đưa ồng tay áo quệt ngang mắt, nghẹn ngào :

  - Thôi…con không muốn…Từ giờ con không nuôi gà nòi, gà đá nữa đâu…con ô chết rồi còn gì !

   Tùng bỗng nghe như con điều trên tay mình nặng trĩu, lòng anh chán chường với cái chiến thắng tàn nhẫn này, cho dù là rủi ro. Không khí bãi gà mới đây còn náo nức căng thẳng mà giờ trống vắng như tâm hồn Tùng. Anh nhìn hoài hai cha con anh Bảy lầm lũi bước bập bênh trên cây đòn dài dẫn xuống ghe, ở đó có cái lồng úp gà rỗng không, lạnh lẽo. Dãy quày sạp đàng kia chất đầy bánh mứt với đủ giọng rao mời lanh lảnh nhắc Tùng nhớ hôm nay là hăm ba tháng chạp, ngày đưa ông Táo về trời. Có lẽ từ cái Tết này, anh sẽ có cùng ý nghĩ như con trai anh chủ ghe là không muốn thấy lần nữa cảnh hai con gà chung nòi giống lăn xả, tung những cú đá quyết liệt, bật máu hằn thù vào nhau. Bất giác, nét trầm tư của cha Tùng cùng tiếng thở dài áo não “thương đứt ruột !” ngày xưa lại hiện về trong tâm tưởng…

NẢI CHUỐI VÀNG

Nguyễn Kim

   Ở cái ấp xa xôi thuộc huyện Đông này, từ người già cho tới đứa con nít ai cũng biết anh Tư Đờn. Chẳng phải nổi tiếng do tên cúng cơm  cha anh vì yêu nghề kéo đờn đám tang đặt mà bởi tính tình và hình dạng anh hơi khác người. Tuổi tác chưa tới năm mươi mà chuyên mặc bà ba trắng, ưa đi guốc vông, đặc biệt trên đầu để một búi tó nhõng nhảnh cỡ củ tỏi trông thật lạ lùng. Tư Đờn thích nghe những chuyện thuộc loại huyền bí, tâm linh, hoang đường và rất tin tưởng vào các thầy bói toán tìm tài vật. Quan hệ chòm xóm tốt, gia đình tưong đối êm ấm tuy anh có máu gia trưởng một chút, một chút thôi…

   Như thường lệ, khoảng gần 5 giờ sáng là quán bà Năm đã đông khách, chủ yếu người trong xóm uống cà phê tán gẫu, tranh thủ thời gian còn ra làm việc ngoài đồng. Tư Đờn lửng thững bước vào, xa xa trông anh giống hệt một lão già với dáng đi khệnh khạng, lừng khừng. Qua ngạch cửa vấp phải ông Địa, ông Thần tài kê trên mấy cục gạch đau điếng, anh đổ quạu  lớn tiếng:

  - Bà Năm ơi! Linh tại ngã bất linh tại ngã…Mai ngày tốt bà thỉnh mấy ổng xê vô trong tránh đường đi, nhớ để dưới đất mới đúng sách!

   Nghe loáng thoáng khách đang bàn tán về chuyện Mười Tròn ấp bên vừa mở trại mộc lớn, Tư Đờn gọi nhanh ly cà phê rồi ngồi xuống đưa tin sốt dẻo:

  - Biết vì sao Mười Tròn phất lẹ không bà con? Tiểu phú do cần, còn Đại phú do thiên. Hắn ta đào giếng may mắn vớ được cái cơi đựng trầu bằng vàng ròng, đường kính cỡ gang tay…

   Mọi người nhìn nhau ngạc nhiên, nhao nhao hỏi tới:

  - Anh Tư có tận mắt thấy không?

  - Sao tui nghe Mười Tròn trúng số cặp mà?

   Tự ái dồn dập, Tư Đờn nổi gân cổ:

  - Mấy quí vị chưa biết từ ngàn xưa tới giờ qua bao triều đại vua chúa, chiến tranh, biến động lịch sử khiến cung điện thành quách cùng ngọc ngà châu báu vùi chôn dưới lòng đất vô số kể. Bên phương Tây, người ta tra cứu sách vở rồi ra tận đại dương dò tìm, trục vớt hàng hà sa số báu vật. Mình thì gốc nông dân, cho nên ai có phúc dày đức lớn trời sẽ cho…

   Thấy bà Năm chăm chú nghe, anh hạ giọng:

- Mười Tròn nhờ may mắn sống gần di tích chùa ông Lục, hai trăm năm trước người Khơ-me sinh sống tại đó nhiều lắm. Loạn lạc binh đao, họ chán ngán rút hết về xứ, đồ thờ cúng vàng bạc tạm chôn giấu lại. Rồi vì thời cuộc nhiễu nhương, họ bỏ luôn…

   Bác Sáu hưu trí cười khì:

  - Cứ cho là có thật, nhưng trong cuộc sống thực tế cũng chớ nên mơ màng viễn vông quá mà hại trí não mình. Có câu Nhân định thắng thiên, nghĩa là…

   Bác ngừng lời khi có một thanh niên tay cầm bó cần câu cắm cùng xâu ếch bước vào, miệng oang oang :

  - Chào bác Sáu cùng chư vị! à…có chú Tư-nho-chùm đây rồi. Nghe nói bên ấp Rạch Rô có cha thầy ngoại cảm nào đó chuyên tìm hài cốt, tay trong chỉ điểm trật lất, xúi gia chủ đào xới đã đời được…nửa chiếc xuồng bể. Họ giận rượt chạy có cờ!

   Nhịp tay xuống bàn, Tư Đờn lắc đầu khinh thị:

  - Thằng Tèo mày biết một mà hổng biết hai! Thầy bà phải nắm rõ tử vi, đẩu số, bát tự, lục nhâm…mới linh ứng, còn đồ bập bẹ đó nói làm gì? Nhân bất học bất tri lý! Bà Năm ghi sổ giùm ly cà phê. Thôi, tui về trước nghen bà con!

  - Ủa..chú Tư ở lại kể tiếp chuyện ma gà, ma gáo hồi qua nghe chơi!

  Hứ một tiếng, Tư Đờn lộc cộc đôi guốc gỗ đi thẳng…

 …Ngày rằm tháng sau, Tư Đờn đi Châu Đốc cúng vía Bà và sẵn trớn viếng núi Ba Thê luôn. Nhát gan như anh cũng dám thuê xe ôm chạy vòng vèo lên tận ngọn, gặp những cua dốc đứng anh nhắm tít mắt, trống ngực dồn dập, miệng lâm râm bài kinh cứu nạn. Thắp nhang chỗ di tích Thạch đại đao xong, ngắm cảnh một lúc anh lột guốc cầm tay lò dò leo lên ngọn Ông Tà. Anh thành kính khấn vái ơn trên độ trì mạnh giỏi và mau…giàu có bằng của hoạnh tài. Trở xuống gần tới chân núi, tình cờ gặp một vị “tu sĩ ẩn cư” xương xẩu ngồi tham thiền bên hốc đá, lạnh lùng đưa tay ngoắc, anh giật mình kinh sợ riu ríu nghe theo. Quan sát cảnh rêu phong cùng những dòng chữ Tây Tàu lộn xộn, hình thù kỳ quái vẽ trên các tảng đá hùng vĩ, Tư Đờn choáng váng cho rằng mình đã gặp kỳ nhân. Hỏi kỹ tuổi tác, gia cảnh cùng hướng nhà anh, thầy bấm đốt tay ngẫm nghĩ rồi kêu lên sững sốt :

  - Ngũ thập tri thiên mệnh ! Giáp lộc tại Dần…Ất tại Mão…Bính…Mậu lộc Tỵ…Chu choa…phong sinh, thủy khởi hảo vận lai. Trời sắp cho thí chủ hưởng lộc lớn, rõ chưa?

   Lùng bùng hai lỗ tai, Tư Đờn buông rơi đôi guốc, miệng lắp bắp:

  - Lộc lớn…mà nơi đâu vậy thầy?

   Lim dim mắt, thầy thủng thẳng nói:

  - Thiên cơ bất khả lậu! thí chủ hỏi nhiều quá. Thổ sanh Kim. Chuyện này do tiền định, nhỏ nhặt như cái ăn cái uống cũng phải theo vậy. Nhất ẩm nhất trác giai tiền định!

   Hiểu được chút ít, Tư Đờn lòng mừng khấp khởi xá sâu thầy một xá:

  - Dạ…nếu nay mai có người thành tâm rước thầy vân du một chuyến thì thầy nghĩ thế nào?

  - Hữu thỉnh hữu lai! tiền tài như phấn thổ, nhân nghĩa tợ thiên kim…

   Ngó mặt trời gần đứng bóng, Tư Đờn đứng lên móc túi lấy hai tờ bạc 100 ngàn đặt nhẹ vào cái dĩa cáu bẩn. Liếc thầy hơi cau mặt, anh vội nhón thêm một tờ nữa đặt chung rồi lí nhí nói lời từ giã. Gật nhẹ đầu, thầy lẩm bẫm:

  - Còn cơ duyên…hẹn ngày tái ngô! Thí chủ hồi gia bình an…

   Trên chuyến xe khách vượt quãng đường xa trở về nhà, lòng Tư Đờn rộn rã niềm vui vì đã gặp bậc cao nhân thông thiên bác học !

 …Rằm tháng sau, Tư Đờn bí mật đi chuyến xe 2 giờ sáng lên núi Ba Thê rước thầy “Thông thiên cư sĩ”, tục danh Hai Đạo. Không mặc chiếc áo dài cũ màu dà, thầy chơi cái bành-tô, quần ka ki lững, giày ba ta và kèm theo thằng đệ tử chừng 15 tuổi, gầy nhom chẳng kém thầy. Chiều về tới nhà, trong lúc Tư Đờn hối vợ con chuẩn bị tiếp đãi thì thầy chắp tay sau lưng đi từ trước ra sau, vào cả buồng ngủ theo bản năng nghề nghiệp. Ngồi vào bàn nước, thầy gục gặt:

  - Bàn thờ liệt tổ liệt tông, Cửu thiên huyền nữ…đâu ra đó, tốt! Ái chà…thân phụ, thân mẫu của hai vợ chồng sao lại thờ chung? phải tách riêng họ ra!

   Vợ Tư Đờn lo lắng bước lại gần thầy:

  - Dạ…hồi còn sống sui gia hòa thuận, gần gũi. Sao bây giờ…

  - Cõi âm dương cách biệt, xuống dưới đó làm sao em…à thím biết được?

  Tư Đờn chen vào:

  - Bà nên nghe lời thầy, đừng hỏi. Ra sau bắt cặp vịt nấu cháo trước cúng sau dùng. Thầy theo phái hòa đồng đời với đạo, chay mặn gì cũng…độ được hết!

   Dọn bàn giữa nhà, thầy soạn trong tay nãi ra bộ đồ nghề chuông, mõ, xấp giấy hồng điều, vài hình tượng lòe loẹt. Đang mím môi gò từng chữ ngoằng ngoèo, thằng Phú con Tư Đờn tò mò sờ nắn những hình nhân. Ngước lên thấy, thày giật mình ngăn lại:

  - Đừng ! ba thằng âm binh này yểm bùa rồi, con giỡn mặt rủi nó lên cơn khùng vật cổ chết tươi chớ hổng chơi!

   Thằng nhỏ sợ hãi, đứng tiu nghĩu. Đệ tử thầy đang sốt ruột xoa xoa bụng, nhân cơ hội liền khều tay nó cùng ra sau.

   Cúng vái xong xuôi, thầy bấm tay nghiêm mặt bảo vợ chồng gia chủ:

  - Mai mười sáu âm lịch, mười hai giờ khuya ra vườn tìm tài vật. Thầy vừa nhận được “điển” của các chức sắc cao cấp cho thông tin chính xác là dưới nền đất vườn có…nải chuối vàng nặng hơn chục ký lô, in như nó…chạy từ Giồng Tháp qua!

  Trống ngực đập thình thịch, Tư Đờn nghẹn giọng :

  - Năm rồi, thầy Tám ở vàm Cá Chốt cũng tới coi biểu đào chỗ bàn thiên được có nửa cái…cối đá. Thầy làm ơn coi kỹ…

  - Hừ…chưa đạt huyền cơ diệu toán tìm trăm năm sói đầu chưa gặp. Vận qua thì vàng mất màu, thời đến sắt gĩ cũng tỏa sáng mà!

   Vợ Tư Đờn mừng quýnh chẳng cần ý tứ, chồm sát vai thầy run run hỏi :

  - Dạ…chuối thì có nhiều loại, còn đây là chuối gì thầy cho em…ý quên cho con biết!

  Cười dễ dãi, thầy Hai Đạo thì thàm kề sát tai vợ Tư Đờn :

  - Đừng xưng con, thầy tổn thọ, cứ xưng…em cho thân mật, thầy cho phép! Chuối cúng mấy thế kỷ trước là…chuối ngự, trái to cỡ bắp tay thầy nè…em !

   Tư Đờn trầm ngâm lẩm bẫm :

  - Phải chi chuối vàng mà được…cả quày thì ngon biết mấy!

  - Họa phúc tự thân, trời cho bao nhiêu hưởng bấy nhiêu. Đệ tử đâu? đốt mấy đạo bùa này cho thầy!

  Thằng đệ tử từ sau bếp bước lên, tay bưng tô cơm nguội với con khô mặn ăn dỡ, vẻ mặt sượng sùng. Thầy Hai Đạo đổi sắc giận, ngó lơ không nhìn. Biết ý thầy sĩ diện, vợ chồng Tư Đờn vội dọn nhanh mâm rựou thịt ra bàn lớn…

   Chiêu đãi, hầu hạ thầy qua ngày hôm sau,vào buổi chiều Tư Đờn nhờ thằng Tèo chiêu mộ tám thanh niên có sức vóc tới theo yêu cầu của thày. Trải ba chiếc đệm ngoài sân bày nồi cháo cá, lươn um, sò nghêu…ê hề cùng can rượu nếp, gia chủ an tâm trước giờ khai quật nải chuối vàng, mà có khi…vài nải chưa biết chừng! “Thông thiên cư sĩ” tuyên bố lý do rất long trọng và buộc những anh em làm thuê thề không tiết lộ thông tin này cho bất kỳ ai biết. Lúc đầu ai cũng dè dặt, nhưng sau thấy thầy ăn nói bình dân và hơi..bạt mạng nên anh em rốt cũng đồng tình. Thầy đùa vui cùng Tèo :

  - Tuổi này sao chưa lấy vợ? Nam đại bất hôn như liệt mã vô cương. Thầy ở núi Ba Thê thân chủ tới viếng liên tục, có nhiều cô nhiều bà được thầy khoán bùa, điểm huyệt dứt bệnh rồi mà còn ghé cho ăn hoài, thầy phát ngán!

   Một anh ngó thầy lom lom :

  - Xin hỏi thiệt thầy…Núi non chắc phải có đá quý, thầy hổng xủ vài quẻ kiếm ba mớ đủ sướng đời, tội chi…giang hồ xơ xác vầy?

 - Chú mày đội mũ làm sao nhìn thấy trời? Cái thiên mệnh nó định số thầy không có miếng ngói che đầu thì phải làm theo, dám kháng chỉ là chết, hiểu chưa? Thà rằng sống đời phiêu diêu tự tại “Ra đi gặp vịt cũng lùa…gặp duyên cũng kết, gặp chùa cũng tu”. Nào…vô vô!

  Nhậu nhẹt tới gần 10 giờ, thầy ngà ngà say bảo cần dưỡng thần, tập trung nguyên khí. Dìu thầy vô buồng xong, Tư Đờn còn nghe tiếng thầy nhừa nhựa a lô bằng cái ĐTDĐ cũ mèm dắt bên thắt lưng :

  - A lô ! chú Mười đầm tôm hả? đầu tháng sau tôi mới về cúng giải hạn cho vợ chú được…vụ đó phải cử kiêng tuyệt đối nghen. Ừ…cho xe con lên am đón thầy. Cáo lỗi giùm quý huynh đệ ở Hà Nội là thầy không ra được…dị ứng máy bay ấy mà…A lô…bái bai!

   Còn đang tần ngần tận hưởng sự ngưỡng mộ thầy, lúc quay ra Tư Đờn bắt gặp thằng đệ tử thầy đứng bụm miệng khúc khích cười. Chẳng hiểu ra làm sao, anh thấp giọng:

  - Ăn no bụng chưa? vô đấm lưng, quạt mát cho thầy ngủ…

   Ngó quanh quất, anh có hơi bực bội:

  - Vợ mình mới thấy xà quần đây, giờ biến đâu rồi ta?

 …Mười hai giờ đêm, lễ vật cúng bái bày ra khu vườn, khói nhang lập lòe, đèn cầy cắm xung quanh. Thầy mặc chiếc áo dài màu dà, vấn khăn đỏ trên đầu, hai tay hai bó nhang cháy đỏ, miệng đọc chú, chân bước dọc ngang trong vườn. Định vị cho đệ tử cắm cọc làm dấu, thầy gạt mồ hôi trán ra lệnh :

  - Đào sâu một thước tám, không dư thiếu một phân. Cấm đùa giỡn, nói bậy nói bạ!

  Tám thanh niên lẵng lặng làm theo, hì hục vung cuốc xẻng bứng cây, xới đất. Vợ chồng Tư Đờn chong mắt phập phồng chờ đợi điều kỳ diệu. Thầy tựa lưng gốc xoài, phe phẩy quạt, nhâm nhi ly rượu coi đây như chuyện bình thường. Thằng đệ tử ngồi chồm hổm bưng tô cơm ăn vồ vập như người nhịn đói lâu ngày, mặc kệ ánh mắt soi mói khó chịu của sư phụ. Con trai gia chủ thì soi đèn pin mò nhặt phế liệu lẫn trong đống đất càng lúc càng vun cao. Nghe báo cáo đã đào hơn một thước tám chẳng gặp gì, thầy lại thắp nhang, đốt bùa, gieo quẻ định vị thêm…bốn chỗ nữa, lệnh tiếp tục đào. Vợ Tư Đờn bấm chồng nói khẽ:

  - Mấy cái hố này đào sâu như hầm…bẫy cọp, tui đếm thử tiêu tùng hết mười cây cam, năm cây sầu riêng, chưa kể bể đường ống thoát nước…

   Nghe loáng thoáng, thầy Hai Đạo an ủi:

  - Chén cơm ăn có khi còn đổ, vệ tinh bay trên trời vẫn gặp trục trặc đứng máy mà…em! Chỉ cần một cái…vỏ chuối vàng cũng dư sức bù đắp những thiệt hại nhỏ này. Ăn thua mình có lòng tin, đã đốt hương thì đừng sợ khói, thầy lo tất !

   Chợt có tiếng thằng Phú hét to :

  - Vô mánh!

   Ai nấy nhảy nhỗm chạy lại hố đào rồi thất vọng khi con trai gia chủ đưa ra đoạn máng xối thiếc cong queo. Tư Đờn thở dài:

  - Sanh tử bất sanh tâm…Sanh ngưu vô sanh giác. Thằng ôn dịch phá đám, làm mừng hụt!

   Năm giờ sáng. Khi đám thanh niên chặt cây mít  rồi đào sâu đâu chừng một thước tây thì thầy thở dài ra lệnh ngưng tay, nghiêm mặt phán:

  - Các “điển” thầy nhận được bị những vong chết bờ chết bụi làm nhiễu sóng. Hoặc do thầy chủ quan không ra chiêu “Tiên phát chế nhân” khống chế trước, nải chuối vàng nó thừa cơ quanh co né tránh. Thôi để lần sau thầy thỉnh thị sư phụ thì chắc chắn trục được, trăm phần trăm ! Các huynh đệ nghỉ tay…

   Trong lòng thất vọng, vợ Tư Đờn gượng chắp tay trước ngực:

  - Dạ..mời thầy vô rửa ráy rồi dùng bữa sáng. Thua keo này bày keo khác!

   Đợi thầy đi khuất, Tư Đờn rầu rĩ đi vòng quanh khu vườn bị đào xới hoang tàn, cây trồng nằm rũ rượi như sau trận bão dữ. Lòng như lửa đốt, anh gọi đám thanh niên lại dặn dò:

  - Tao thanh toán tiền công sòng phẳng, nhưng cấm hé môi chuyện này nghen bây! Nhất là thằng Tèo, ra quán bà Năm mà bép xép tao xử tại chỗ liền…

 …Mặt trời lên cao khoảng giữa bụi tre, không gian vắng lặng. Rót cho thầy ly nước trà nguội, Tư Đờn đắn đo lên tiếng:

  - Dạ…thầy tính lộ phí là bao nhiêu, xin cứ nói…

   Thằng đệ tử hích vai ba lần, thầy mới ngập ngừng :

  - Nhà đại gia khác, đây khác. Hai thầy trò xin nhận tượng trưng…hai triệu thôi!

   Vợ Tư Đờn thảng thốt kêu lên :

  - Thầy…thầy nói bao nhiêu ? có hai triệu thôi à ? đào xới tanh bành mà chưa…

   Thằng Phú đang ngồi ở ngạch cửa khoái chí với bao phế liệu, nghe mập mờ tưởng hỏi mình vội chạy vô nói lớn :

  - Dạ…tổng cộng mười hai ký bốn trăm gờ ram sắt vụn, kẽm gai, tám trăm gờ ram nhôm với lại..

   Thầy Hai Đạo ho khan một tiếng, cúi xuống cột dây tay nãi. Tư Đờn đổ quạu lột chiếc guốc ném thằng con trai ăn nói trật chìa, nó né trái chạy mất. Gầm mặt mở tủ lấy đủ tiền đưa thầy, anh tiễn ra cổng không nói một lời nào. Xá ba xá chào gia chủ, thầy ân cần dặn thêm:

  - Bữa nay mười bảy, có rước thầy thì khoảng ba mươi tốt ngày. Kỳ tới thuê đại chiếc tắc xi đi cho êm, ngồi xe đò nhức mình quá cũng hại cái thần khí tản mát. Bần đạo xin kiếu vợ chồng gia chủ!

   Vợ Tư Đờn ngồi bó gối ở bậc thềm chẳng buồn đứng lên đáp lễ. Tư Đờn đi vòng ra vườn thẩn thờ ngó quanh rồi như điên tiết anh vung chân đá phăng cái bàn cúng, hũ sành cắm nhang lăn long lóc xuống cái hố sâu hoắm. Tiếng bác Sáu hưu trí vọng bên rào khiến anh giật thót người:

- Sao bữa nay hổng ra quán uống cà phê vậy Tư Đờn ? Ủa…vườn tược bị…voi rừng về quậy phá hả?

NGƯỜI NGHỆ SĨ MÙ

   Tôi gặp anh mù hát dạo ấy cũng là dịp tình cờ. Chiều hôm nọ, đang ngồi chờ trong tiệm hớt tóc chợt nghe tiếng đàn ca ở quán cà phê bên kia đường, tôi nhìn sang thấy một người đàn ông tuổi trung niên mang kính đen ôm đàn cúi gầm đầu mãi mê đàn hát, cái micrô mang lủng lẳng trước ngực. Cạnh bên là đứa bé trai trạc mười hai, mười ba tuổi vai mang cái giỏ đệm lớn, tay cầm loa. Ở vùng quê này cuộc sống không được sung túc cho lắm, nên các quán cà phê thường không ồn ào. Mấy khi có dịp nghe nhạc, mà lại là nhạc “sống” hẳn hoi nên khách khoái lắm, cả trẻ con cũng bâu lại xem, tiếng vỗ tay cổ vũ, lời yêu cầu bài này bản nọ râm tan. Anh mù đàn và hát tân nhạc theo yêu cầu của số đông, thường là các bài nhạc trước năm bảy lăm, như Mưa rừng, Căn nhà ngoại ô, Hai mùa mưa…Lúc sau, có lẽ thấm mệt , anh ngừng đàn, tháo micrô ra cho đứa bé bỏ vào giỏ đệm cùng loa, bình ắcquy. Một số khán giả bình dân hỏi thăm anh ít câu rồi cho tiền đứa bé, nó luôn miệng cảm ơn và xếp những tờ giấy bạc cho phẳng, cúi chào mọi người rồi cầm tay anh mù hát dạo. Hai người dắt nhau đi, bóng đổ xiêu xiêu trong nắng chiều vàng vọt…

   Hớt tóc xong, tôi ghé quán mua ít rau thơm, hành ớt…, đạp xe về. Tới cổng nhà, tôi hơi ngạc nhiên khi thấy anh mù hát dạo đang đứng thơ thẩn trước chòi lá của bà Tư cháo huyết đã nghỉ bán từ lâu. Đứa bé nhìn tôi rồi kề tai anh nói nhỏ điều chi đó. Nhìn cử chỉ thân mật, tôi độ chừng đấy là hai cha con. Anh mù nói giọng ngập ngừng :

  - Anh làm ơn cho cha con tôi nghỉ đỡ ở đây một đêm. Sáng mai giang xe lam về thị xã sớm, không dám phiền gì anh đâu…

   Cách ăn nói, xử sự mềm mỏng của anh dễ gây cảm tình. Tôi vui vẻ thật lòng:

  - Tôi đã gặp cha con anh ở quán cà phê lúc nãy, giờ làm gì phải ngủ ở đây? Vào nhà tôi mà ngủ cho ấm, chỉ có mình tôi, anh đừng ngại gì cả!

   Nói đôi ba lần, cha con anh mới chịu bước vào nhà. Đưa nước, khăn cho họ rửa mặt xong, tôi qua mời chú Bảy cùng hai ông bạn hàng xóm. Chẳng là hai ngày nay tôi có nhờ phụ giúp đánh mương, đắp nền, lợp sửa lại cái chuồng heo mới vừa xong trưa này, nói thế nào họ cũng không chịu tính công. Bởi lý do ấy, tôi nấu cháo hai con vit để tạ ơn công khó láng giềng. Trời sụp tối, tôi trải đệm ngoài sân cho mát, ngọn đèn măngxông treo bên cây mít cũng đủ sáng cho cuộc vui chơi. Nồi cháo nóng thơm phức, hai dĩa thịt vịt vun ngọn, rau ghém…cùng hai lít rượu thuốc. Vùng quê xa xôi, thỉnh thoảng bày chuyện nhậu nhẹt, chuyện trò làm vui thôi. Tề tựu đủ mặt, tôi múc tô cháo nhiều thịt cho đứa bé ăn rồi mời anh hát dạo cùng ngồi. Tội nghiệp, anh từ chối hoài, tôi phải nói hết lời. Trong lúc chúng tôi nói chuyện mùa màng, thóc lúa, anh chỉ lặng lẽ nghe, hai hố mắt sâu thẳm đăm đăm hướng ra ngoài bóng tối. Tôi rót mời anh ly rượu và gợi chuyện:

  - Quê gốc anh ở đâu? Theo nghề đàn hát này lâu chưa?

   Anh cười hiền hậu:

  - Tôi người Cần Thơ, đi rong ruỗi hò hát…xin tiền thiên hạ gần bảy, tám năm nay…

   Chú Bảy đưa cái đùi vịt tận tay anh, nhướng mắt:

  - Xin tiền thiên hạ sao được? chú mày bỏ công sức ca hát cho người ta nghe, họ thưởng tiền là phải lý, cũng giống như…mua vé vô rạp hát. À..chú tên gì?

  - Dạ…cháu tên Trí, thứ tư…

   Anh ba Cao hỏi thêm:

  - Xin lỗi, anh mù lâu chưa? Tôi thấy vết thẹo còn lam nham ở gò má, chắc bị…

   Anh tư Trí hơi nhíu mày đắn đo rồi bóp hai tay vào nhau, thấp giọng:

  - Chú Bảy, anh chủ nhà với hai anh đây không coi rẻ tôi mà còn hỏi thăm, tôi cũng thú thật. Trước đây chừng mười năm, tôi và vợ tôi còn sống ở Cần Thơ với thằng nhỏ này…

   Trìu mến vuốt tóc đứa bé ăn đã no, quấn mền nằm ngủ say sưa kế bên, anh nghẹn lời:

  - Tôi cuốc bờ ruộng nhằm trái nổ sót lại, nổ mù cả hai mắt. Vợ tôi bán ruộng lo thuốc thang cho tôi, hết bệnh về nhà tôi sống vật vờ, vô ra như cái bóng. Thương cho vợ tôi cực nhọc, tảo tần lo lắng không nổi cả gia đình. Sau đó…sau đó có người rù quến ngon ngọt nên nó…bỏ cha con tôi đi luôn!

   Chú Bảy lắc đầu dợm nói chi đó, nhưng nghĩ sao chỉ cầm ly rượu đầy ngửa cổ uống cạn. Anh tư Trí cười buồn:

  - Tôi nghe nó…tay đó góa vợ, nhà cửa đâu tận Long Khánh, có vườn đất khá giả. Thôi, vái trời cho vợ tôi được sung sướng, chớ tuổi còn trẻ mà ở với tôi hoài thêm tội, thân tôi giờ…Chỉ thương thằng nhỏ nhớ mẹ khóc hoài…

   Đưa chén cháo tận tay anh hát dạo, chú Bảy thấp giọng:

  - Chú cứ ăn tự nhiên! Tình đời thường là vậy, tao thương hai cha con phải sống lang thang, dãi dầu mưa nắng như vầy mà bụng dạ không trách con đàn bà bội bạc. Càng nghĩ càng giận!

   Nãy giờ ngồi nghe chuyện, Út Thêm lên tiếng:

  - Anh Tư trước có hát ở bến bắc Mỹ Thuận, Vàm Cống không? Khách qua lại nhiều, chắc khá hơn về quê…

   Cầm ly rượu tôi đưa, anh tư Trí lại cười nhỏ:

  - Được một thời gian, cầu Mỹ Thuận làm xong, tôi về bến phà Rạch Miễu cũng tạm sống được. Rồi bến phà ngưng hoạt động vì đã có cầu. Kiếm miếng ăn thiệt khó, thằng con tôi dẫn đường, tránh xe cộ qua lại muốn đừ, còn khách ngược xuôi thì đâu huỡn nghe mình hát. Ế như…gánh cải lương gặp bão. Về vùng quê coi vậy mà bà con thương…

   Mọi người cùng cười vui khiến buổi rượu thêm đậm đà. Uống ngà ngà, anh ba Cao gợi ý:

  - Hổng dám nào, sẵn dịp anh Tư cho nghe vài bản ruột được không?

   Tôi dè chừng:

  - Bỏ qua vụ nghề nghiệp, anh Tư coi như hát cho chú Bảy cùng bạn bè đây cùng thưởng thức chơi…

   Ôm đàn, đổi thế ngồi cho thoải mái, anh tư Trí nghiêng đầu qua phía chú Bảy:

  - Dạ…tôi đêm nay gặp trường hợp này cũng đặc biệt may mắn. Xin hát vài bài tôi thích từ hồi năm mười tám, hai mươi tuổi. Tặng chú Bảy với mấy anh để mai này còn nhớ chút tình nghĩa!

   Tiếng đàn, lời hát vừa đủ nghe như đưa tôi vào nỗi buồn man mác chẳng biết vì đâu. Quyện chặt tâm sự, cuộc đời của một người bất hạnh sống tha phương, mà tôi có thể gọi là nghệ sĩ. Người nghệ sĩ mù. Sống như anh đâu có phí hoài, đem sự đàn hát đổi lấy chén cơm lương thiện cũng đáng trân trọng lắm chứ. Không hoan hô, không xưng tụng…nhưng tôi, chú Bảy và hai anh bạn có lẽ sẽ nhớ mãi kỷ niệm này cùng anh tư Trí. Người nghệ sĩ mù đang thổn thức với Đêm đông, Giọt mưa thu, Con thuyền không bến…Những bài hát của riêng anh!

NGƯỜI MANG CUNG NÔ-BỘC

   Những người lớn tuổi sống lâu năm ở xóm nhỏ này mỗi khi nghe ai đó tỏ vẻ ái ngại về tình trạng “chồng chúa vợ tôi” trong gia đình anh Tư Tượng thì hay bần thần nhắc lại chuyện cũ…

  “Cách đây hơn hai mươi năm, hồi thằng Tượng độ mười tuổi, ba má nó còn sống. Có ông thầy bói người Tàu bán thuốc gia truyền mà rát tinh thông quẻ số, dịch lý…nhân ghé vô nhà xin gáo nước uống. Có lẽ thấy gia đình đối xử tử tế nên cao hứng xem tướng, xem tay thằng Tượng rất kỹ và nói chắc như đinh đóng cột rằng duyên số nó sau này không tốt, lại thuộc vào cung…Nô bộc, tương lai chỉ làm mọi vợ mà thôi. Nhưng kiểm chứng thực tế thì thật trái ngược!”.

   Tư Tượng mồ côi cha mẹ sớm, được ông bác họ thương tình đem về nuôi dưỡng và khi lớn lên cũng có vợ cưới hỏi đàng hoàng. Tính anh nóng nảy, mỗi lần nhậu nhẹt say sưa về là kiếm chuyện gây gổ, đày đọa vợ cho hả hơi hèm. Na, vợ anh càng nhẫn nhịn, anh càng lấn lướt làm tới. Khi chồng kéo đám bạn bè lưu linh về uống rượu, văng tục bét nhè đã đời, Na biết thân lẳng lặng dọn dẹp thế nào anh cũng không vừa ý, bắt bẻ từng ly từng tí đến mức thậm vô lý. Hàng xóm nghe chuyện, mười người như một ai cũng ức lòng giùm chị. Tư Tượng thiếu nợ quán ắp lẫm và quá lâu, người ta tới đòi thì anh lôi vợ ra mắng với lý do làm xấu mặt chồng, mặc dù tiền bạc chẳn lẻ trong nhà một tay anh nắm giữ. Na đi làm đồng về muộn, anh nổi ghen cật vấn từ chiều tới nửa đêm chưa dứt và kết thúc bằng màn thượng tay hạ chân để “đối tượng”…thật thà khai báo. Hai nhà sát vách rất bất bình, muốn công khai đưa chuyện bạo hành này ra đoàn thể phụ nữ nhờ can thiệp, nhưng rối lại sợ anh ta nhỏ nhen thù vặt, gây rắc rối thêm. Họ chỉ dám gởi cái đơn trình báo với đầy đủ chi tiết và không ký tên. Hôm rằm, chùa Ông cúng lớn như thường năm, người đến dự đông đúc, heo quay, bánh hộp, rượu bia, trái cây…chồng chất đầy một góc gian thờ. Vàng mã, nhang trung, nhang đại thi nhau đốt búa xua, khói bay mù mịt cuồn cuộn hộc tốc cố thoát ra ngoài bằng mấy cái cửa sổ bé xíu. Sinh hoạt tiệc tùng linh đình kéo dài tới khuya. Xong lễ, qua sáng hôm sau những người phục vụ tập trung quét dọn cho sạch sẽ. Nhiều nhất là các loại nhang vun đống bên lề đường, xe ba-gác hốt đổ hai chuyến vẫn chưa hết. Na tình cờ đi ngang, quen tính tằn tiện nên chị sà vào hối hả lựa số nhang còn tốt nguyên rồi khệ nệ mang về nhà một giỏ đầy. Chạm mặt Tư Tượng đang say xỉn, anh nhừa nhựa hỏi:

  - Nhang của người ta cúng bái thanh thần xin lộc, họ đã vứt đi như rác rưỡi. Cô lại dại dột rước về để đốt ngày đốt đêm trù rủa…”lão gia đại nhân” này sớm qui tiên hả ? Cung khai…âm mưu tạo phản ngay!

   Vuốt mồ hôi trán, Na ngơ ngác chẳng biết “lão gia đại nhân” là cha căng chú kiết nào, chị ngập ngừng nói:

  - Hương khói đình chùa bỏ rơi rớt mang tội, em tiếc nên nhặt nhạnh một ít về tối đốt ở bàn thiên. Mình nhà nghèo, chưa con cái, có lòng thành kính may ra…

   Tư Tượng đập bàn cái rầm khiến Na run bắn người. Anh trợn mắt, nghiến răng:

  - May ra được…cái mốc xì! Có lễ lộc, cúng bái long trọng chi đâu mà mong hưởng ơn trên, phước dưới? Nhà giàu họ bao lô, cung thỉnh trọn gói rồi, biết chưa? Dẹp cho khuất mắt…lão gia!

   Thấy chồng giận dữ nắm chặt chai rượu trong tay dọa ném, Na sợ hãi kéo lê giỏ nhang ra sau vườn, trong lòng mang máng hiểu “lão gia đại nhân” oai phong hách dịch ấy là ai rồi !

 …Cuộc sống đầy dằn vặt, đau khổ ấy đè nặng lên thể xác và tinh thần Na gần hai năm. Nhìn chị gầy gò, hốc hác, thui thủi trên mảnh ruộng bạc màu, ai cũng cảm thương. Đi đường gặp người quen, Na thường cúi mặt che giấu những vết thâm tím trên mắt, trên gò má từ các trận đòn do Tư Tượng gây ra. Cuối tháng, chị em phụ nữ họp kiểm điểm anh chồng vũ phu. Tuần sau anh lại tái phạm dù đã trước sau viết gần chục tờ cam kết không làm mất trật tự và ngược đãi vợ. Lần này Na phải đi trạm xá xã cấp cứu, nằm lại hai ngày nhưng rồi chẳng dám về nhà mà phải tạm trú tị nạn nhà vợ chồng chú Hai Hổ, thầy dạy võ dân tộc. Cha Na hay tin vội vượt đường xa thăm con gái, đồng thời nén sự hồi hộp để gặp ông rể quí nói chuyện phải quấy. Chưa đầy nửa giờ sau, nghe tiếng om sòm quát tháo đàng nhà Tư Tượng, người ta đổ xô tới kịp thấy cha Na mặt mày xanh tái, đang quày quả bước nhanh ra vì giận và vì…sợ. Lấp ló nhìn vào thấy Tư Tượng sặc sụa mùi rượu huơ tay múa chân giữa nhà, miệng lè nhè chửi đổng. Cây rựa bén ngót ghim chặt vào cột nhà đủ khiến mọi người chùn chân, lui bước và tự trấn an…tránh voi chẳng xấu mặt nào. Sự việc đến nông nỗi này, Na thu hết can đảm quyết định nộp đơn xin ly hôn. Và sau những cuộc hòa giải không thành, Na đã được tự do, gần như…bỏ của chạy lấy người để trở về quê làm lại cuộc đời mới!

  …Chưa đầy ba tháng, Tư Tượng rà rẫm gá nghĩa với chị Mẹo bán cá ở chợ, ăn nói rổn rảng nhưng thẳng thắn, lớn hơn anh gần chục tuổi. Lúc mới giai đoạn hẹn hò tình tự, anh thường tự đắc ngâm nga “Chồng già vợ trẻ là tiên…Vợ già chồng trẻ là duyên ba đời”. Nhưng như ông bà ta nói “Đời có vay có trả”. Từng bước thầm lặng trấn áp, khắc chế ông chồng bê tha, chị Mẹo đã đạt kết quả ngoài mong đợi. Tư Tượng giờ sợ bà vợ mới thật đúng phép. Anh đang gân cổ nhậu nhẹt cùng bạn bè, chị hét giải tán là răm rắp thi hành ngay, chần chừ thì ly vỡ bình tan, hoang tàn đổ nát, không cần nhân nhượng một ai. Dần dần các bạn rượu đâm ngán chị Mẹo không dám lai vãng rủ rê và từ hai mủi giáp công chặt chẽ đã đưa Tư Tượng vào thế bị chiếu bí, cấm vận tuyệt đối. Những kế sách, mưu đồ vùng lên phản kháng của anh cũng sớm bị dập tắt ngay khi vừa nhen nhúm manh động. Dùng vũ lực ư ? Có mà mơ ! sức vóc chị Mẹo dềnh dàng to khỏe, từng mấy lần quật anh chồng ngã dúi xuống kinh trong lần anh mượn rượu làm gan đôi co trả treo. Con heo nhà hơn năm chục ký lô sổng chuồng ủi Tư Tượng nhào xuống ao cá tra, chị lừa thế túm được xốc bên hông mang về gọn bân; anh có dại mới dám chống ! Đành tự an ủi rằng “Vợ mình sung sức. làm ăn giỏi giang, nhà cửa đàng hoàng là của hiếm, trong nhà nó xử sao mình cũng…chìu !”. Bây giờ thời gian biểu kỷ luật trong ngày của Tư Tượng rất khít khao. Sáng sớm đưa vợ ra chợ bán. Nhìn dáng anh bơ phờ, mồ hôi nhễ nhại, gồng mình đạp xe chở chị vợ béo phục phịch với trọng lượng cơ thể gần gấp đôi anh mà chạnh lòng nuối tiếc cho cái thời làm…bạo chúa gia đình. Đám thanh niên trước đây e dè, ngưỡng mộ anh, nay mạnh miệng bình phẩm xỏ xiên:

  - Ái chà…cảnh này được chụp ảnh đưa lên báo, chú thích là “cá bống đeo bập dừa” hoặc “người gầy cũng khổ” thì độc giả hoan nghênh biết mấy !

  - Gà chọi dữ dằn gặp độ kỵ vãy, kỵ mồng cũng…tiêu tùng !

   Tư Tượng lầu bầu rủa thầm:

  - Mẹ nó ! thiên hạ sợ vợ…cùng trời chớ bộ mình tao sao bây cười !

   Than ôi ! thời oanh liệt nay còn đâu ?

   Hào hển đạp xe trở về, anh ăn vội chén cơm nguội rồi vác cuốc ra ruộng để đắp bờ, nhổ cỏ lúa…Thèm rượu quá, anh tranh thủ cho xong phần việc qui định rồi len lén ghé quán cóc vắng vẻ uống vội uống vàng xị rượu trắng mà trong bụng cứ nơm nớp lo vợ về bất ngờ hay gặp thằng thối mồm mách lẻo. Mừng nhất là những dịp được mời dự đám tiệc, Tư Tượng lấy cớ anh em mời ép để vui chơi thỏa nỗi khát khao. Về nhà, anh nằm im thin thít như một triết gia trùm mền sầu nhân thế, đố dám ho he nửa lời. Hôm bà con nông dân tổ chức diệt chuột cắn lúa, Tư Tượng hồ hởi tham gia đào hang, hun khói, xua chó đuổi bắt tích cực tới xế chiều thì nghỉ. Anh phấn khởi bí mật khều nhẹ vài bợm nhậu cùng cảnh ngộ xách xâu chuột đồng tìm điểm lùm bụi kín đáo nấu nướng, bày cuộc ăn nhậu tới gần nửa đêm mới tàn. Sự rượu chè cũng ngộ, uống đủ đô, tới bến rồi thì gan nở lớn, tim đập mạnh, máu dồn lên đầu…coi vợ, coi trời bằng vung. Khật khưỡng về đụng cổng nhà, Tư Tượng đuối sức ngã lăn quay cạnh bụi tre, theo quán tính miệng gào lên chửi…đời, chửi đám bạn chẳng đứa nào động lòng cám cảnh cho mình. Hàng xóm ra khuyên can, dỗ dành, anh làm nư với khí phách cao vòi vọi, nhất định không đứng lên. Chị Mẹo bật đèn bước ra, tay chống nạnh, tay cầm gáo nước tạt thằng vào mặt chồng, cất giọng lanh lảnh:

  - Anh lén tôi uống rượu hay uống thứ gì mà về quậy quạng vậy? Không lo gia đình mà còn làm phiền hà bà con lối xóm, đáng tội chưa ? Sáng mai  biết tay tôi, con này dư kinh nghiệm xử lý loại chồng say xỉn bét nhè. Đứng lên ngay ! Trăm voi chẳng được bát nước xáo, đừng nói chi…”bốn con voi” nhà anh !

   Như bị điện giật, Tư Tượng lồm cồm ngồi dậy, gắng gượng vịn rào, gầm mặt đi vô nhà một nước

   Câu chuyện tạm kết thúc tại quán cà phê thời sự đầu xóm vào năm giờ sáng. Mọi người ngạc nhiên lẫn thương hại khi thấy Tư Tượng quần áo xốc xếch, một bên mắt sưng húp, bộ dạng thật thê thảm. Không ngồi xuống ghế, anh hớt hải, lắp bắp hỏi bác Tư :

  - Máy bơm nước của thằng Tuấn nhà bác có cho ai thuê chưa ? Chiều qua cháu quên dặn trước…

   Châm bẩm ngó anh, bác Tư lắc đầu:

  - Nó đi từ khuya rồi, mấy chủ ruộng thuê bơm tới tối chưa chắc xong!

   Tư Tượng bối rối vò đầu :

  - Mình chết chắc ! giờ biết tính sao đây ? Bác Tư nhắm còn ai cho thuê máy bơm không ? giá cả sao cũng được, họ có đòi trả bằng công đào ao, vác đất chi cháu cũng chịu mà. Vợ cháu  biểu…

  - À…còn chú Tùng có máy “kô-le”, nhưng ông này khó tính, nhà lại xa lắc xa lơ. Mày liệu khiêng vác nổi không ?

  - Dạ…vợ cháu biểu làm gì cũng phải cố gắng cho được việc. Bận lợp cái chuồng heo, sơ ý để ruộng khô nước hai ngày nay, vợ cháu kiểm tra về, chửi tanh bành té bẹ. Nó lệnh miệng rằng trong ngày nay ruộng không ngập nước thì…gói quần áo đi cho khuất mắt. Người lúc hiền, lúc dữ, quay mình như chong chóng, chẳng biết đâu mà…rờ ! Quên, xin bà con cô bác đừng nói lại lời tui nghen !

   Nghe câu trần tình đầy vẻ chân thật và cam chịu của Tư Tượng, ai nấy cười rần. Anh cũng ngượng nghịu cười theo, dợm bước ra. Bác Tư chợt cau mày :

  - Con mắt mày đổi màu giống trứng vịt cà cuống hồi nào vậy Tư ?

   Tư Tượng lúng túng gãi đầu đáp nhỏ :

  - Dạ…cái bậc cửa nhà cháu hơi cao, tối qua vợ cháu biểu nấu nước nóng cho bả tắm, trở vô lỡ vấp té một cái quá mạng. Thôi, cháu đi…

   Nháy mắt với những người trong quán đang tủm tỉm ngó theo Tư Tượng bươn bả bước như chạy trên bờ ruộng, bác Tư cười hóm hĩnh :

  - Tội nghiệp ! hồi đó con Na vợ trước thằng Tư Tượng cũng thường vấp cái…bậc cửa hơi cao ấy, có điều nhiều lần hơn nó. Ông thầy Tàu bán thuốc dạo ngày xưa bảo số mệnh nó ở vào cung Nô bộc, ngẫm nghĩ có lẽ đúng, phải không bà con ?

Nguyễn Kim

CON GẦN – CON XA

   Bà Năm nằm duỗi chân trên võng, bình thản hứng cơn gió mát thổi nhè nhẹ  từ hướng bờ kinh. Từng đàn chim bay nhanh theo đội hình rẻ quạt như nôn nóng về tổ trước khi bóng đêm ập xuống. Một thoáng cảm giác êm đềm, thơ thới của tuổi già. Bất giác bà ngắm nhìn chăm chú hai bàn tay mình, những vết chai sần, khe nứt không liền da gợi nhớ quãng thời gian dài mấy mươi năm dầm sương dãi nắng trên ruộng đồng, kênh rạch để kiếm sống cho mình và ba đứa con nhỏ dại. Bà móm mém cười buồn tự ví bàn tay mình giống như nhánh gừng cong queo, à mà không phải, nó giống củ khoai từ háp nắng thì đúng hơn. Ông Năm hiền lành, thương vợ thương con mà mất đi thiệt đột ngột quá chừng. Lúc con út Hậu được hai tuổi thì phát nóng sốt ba ngày không dứt. Ông nóng ruột chống xuồng vượt sông Cái tìm thầy hốt thuốc, mặc cho bà can ngăn bởi lo dòng nước lũ tháng mười còn cuồn cuộn ngoài kia. Lúc trở về, xuồng lật úp và tới chiều bà con mới tìm thấy xác ông vứơng vào gốc bần già  đầu vàm, tay còn ghì chặt cái giỏ đệm đeo bên hông, trong đó ướt sũng  ba thang thuốc Nam gói trong giấy báo. Thương tâm đến vậy là cùng !

   Mãi theo dòng suy nghĩ, út Hậu đến bên cạnh bà lúc nào không hay :

  - Má nằm ngoài này gió máy quá chừng…

   Cầm tay con gái, bà Năm đăm chiêu:

  - Hổng sao! chà…tới Tết này mày cũng ba mươi rồi, má giờ còn lo mỗi mình con, liệu coi nơi nào…

   Hậu cúi xuống nói cho qua chuyện:

  - Con có chồng rồi má sống với ai ? Má bỏ chuyện đó đi…à má ơi ! tuần sau giỗ ba có vợ chồng anh Hai với anh Ba về, phải cúng kiến cho tươm tất một chút…

  - Ờ…nhưng liệu vừa sức thôi…Mấy đứa cũng tệ, nói thì khoe khoang giàu có đủ thứ cùng thiên hạ mà gần tới giỗ cha chẳng phụ lấy một đồng. Má nuôi con biết tính ý từng đứa mà !

  - Má đừng nói mấy ảnh nghe được lại ghét con,  ai biết bổn phận thì biết…Con mới  lãnh tiền dạy kèm ngoài giờ, mình làm khéo khéo chừng hai mâm mời chòm xóm cho có qua có lại…Thôi, con vô hâm nóng lại xoong cháo, chút má ăn !

   Nhìn theo cô gái út bằng ánh mắt thương yêu, bà Năm cảm thấy mình được an ủi rất nhiều…

  …Chín giờ sáng, vợ chồng anh Hai đi xe con từ Sài Gòn ngang Long An rước luôn anh Ba cùng về dự đám giỗ cha. Bà Năm vui mừng lẫn chút hãnh diện với những người hàng xóm đến phụ nấu nướng. Hậu ra chào anh chị, sắp xếp bánh trái lên bàn thờ rồi trở ra sau bếp. Bà Năm săm soi chiếc áo ấm con dâu mua cho, tần ngần nhìn dòng chữ ghi đậm ở lai áo, ngước lên dò hỏi. Anh Hai cười thản nhiên :

  - Con viết “áo này tặng riêng cho má” đó mà !

   Anh Ba bỗng dưng cười khan. Bà mẹ lắc đầu vẻ không bằng lòng :

  - Con ghi vậy hơi kỳ, hổng lẽ con sợ…ai đó lấy áo này xài hay sao ?

   Không ngờ phản ứng của mẹ, anh Hai hơi lúng túng phân trần :

  - Dạ…tánh con quá cẩn thận, thành ra…

  - Thôi, bây lo phụ một tay sắp bàn ghế sẵn…Con Hậu nó thức từ bốn giờ sáng làm gà vịt cực vàng trời, nãy giờ nhờ bà con chắc sắp dọn cúng được rồi ! À…sao thằng Hai không cho sắp nhỏ về chơi ?

    Cô con dâu nhỏ nhẹ trả lời :

  - Dạ…nghỉ hè nhưng tụi nó học sớm học chiều, về đám giỗ đây cũng phải tranh thủ thời gian lắm. Nhờ chị giúp việc giỏi giang đưa rước, bằng không vợ chồng con có lẽ khó mà về được…

   Anh tài xế ngồi gần nói xen vào :

  - Bác Năm thấy đất Sài Gòn làm ăn bon chen, công việc anh chị Hai đây dồn dập bất kể giờ giấc…

   Bác Năm thở dài, buông thỏng một câu:

  - Ờ…ngẫm ra người ta bị lệ thuộc nhiều cũng vì ba cái đồng tiền, đời nào cũng vậy !

 …Hai anh em trầm ngâm đi quanh miếng đất cạnh gian nhà trồng chừng hai chục gốc dừa và cái ao nhỏ. Anh Hai chỉ tay vào nhà, giọng tự hào :

  - Chú thấy tôi bỏ ra hai chục triệu sửa lại căn nhà, xây tường khang trang cho má dưỡng già có xứng đáng không ? Lúc trước nhà vừa thiếc vừa lá coi thiệt tệ…Con út Hậu vậy mà có phước, sẵn ổ…

   Coi bộ khó chịu, anh Ba chậm bước :

  - Anh cho tôi nói lại…Trước đây là nhà tình thương do phòng giáo dục vận động những người từ tâm giúp đỡ xây cất. Anh chê xấu, bỏ tiền ra cất lại cho má sinh hoạt thuận tiện là từ lòng hiếu đạo. Tôi nghèo nên,,bó tay. Nhưng má cũng có chút buồn và khó xử mỗi khi chạm mặt bà con trong xã cho dù họ chẳng nói chi. Giá như anh tính sớm một chút, nhường suất nhà tình thương đó cho bà con nghèo khác thì tốt  biết bao…

   -Ờ…tôi quên nghĩ tới chuyện ấy…Thôi, mình vô đốt nhang cho ba !

   Đám giỗ chỉ có hai mâm mà không khí thật ấm cúng, cởi mở giữa tình láng giềng. Xong tiệc, cả nhà quần tụ nói chuyện ở bộ ván trước sân. Cô út bưng mấy thúng chén dĩa ra cầu ao rửa nên không có mặt. Bà Năm dè dặt mở lời :

  - Chính quyền sắp làm lộ lớn tráng nhựa, hổm rày đo đạc, vận động những nhà hai bên đường. Đất mình thụt vô mất đâu chừng sáu chục mét vuông, má không xin đền bù…

   Anh Hai cắt ngang lời :

  - Uổng ! tấc đất tấc vàng…Con ở thành phố…

   Bà Năm bình thản cười :

  - Trên con khác, đây đất rẻ rề…Với lại, đường mở rộng thì dân mình có lợi trong chuyện đi lại, làm ăn, má ký tên rồi. Sẵn dịp, người ta làm giấy nhà đất cho má luôn. Má định cho con Hậu đứng tên cho nó an tâm, tội nghiệp…

   Lấy cớ phụ Hậu, vợ anh Hai bước ra ngoài. Anh Ba đốt điếu thuốc, phà khói thờ ơ :

  - Má tính vậy cũng phải, nó đơn chiếc mà có công gần gũi, chăm sóc má. Tụi con vì hoàn cảnh sống xa xôi…

   Anh Hai trầm ngâm :

  - Hay má sang tên cho nó cái nhà này thôi, còn cuộc đất kế bên để con với chú Ba…

   Anh Ba lắc đầu :

  - Tôi lập nghiệp bên vợ, má đã cho miếng ruộng bán lấy tiền làm vốn rồi, giờ tôi không muốn đòi hỏi gì nữa !

   Có vẻ bằng lòng, bà mẹ nói thêm :

  - Má suy nghĩ nhiều lắm…Trong nhà có thằng Hai được cho ăn học tới nơi tới chốn, sau này làm ăn thành đạt. Hồi đó, cả nhà chịu cực khổ, lam lũ, dành dụm cho con an tâm học hành không thua sút bạn bè. rồi còn lo vợ cho bây. Ông bà nói giàu út ăn, nghèo út chịu, má nghèo thì con Hậu chịu. Giờ má mới nói, hồi nó học Cao đẳng sư phạm ở trên tỉnh, thấy eo hẹp quá má tính hỏi xin thằng Hai hàng tháng giúp phần nào, con Hậu khăng khăng không đồng ý. Chừng má lên thăm, biết nó làm thêm kiếm tiền học ở siêu thị thương mại. Tan trường phải hối hả đi làm, đứng bán hàng từ sáu giờ chiều tới mười giờ đêm, nó chịu đựng mà chưa hề mở miệng trách ai. Ngồi xe đò về nhà, má khóc suốt…

   Anh Hai chớp chớp mắt ngó mong xa xa. Anh Ba bóp nhẹ đôi tay gầy của mẹ, khóe mắt như rưng rưng. Ngó kỹ khuôn mặt hai con trai, bà Năm chợt cười :

  - Tóc bây cũng bạc nhiều rồi, mau thiệt ! Má thương con Hậu, mấy đám đánh tiếng hỏi mà nó hổng chịu ai, cứ biểu ở vậy để lo lắng, ủi an má. Riết má phát giận nó. Năm rồi má bệnh, tụi con về thăm rồi đi. Suốt hơn nửa tháng trời, con Hậu không an giấc để trông chừng má, chuyện dơ dáy cũng một tay nó. Em con dạy học trường xã, lương có là bao mà chậm trể hoài, phải may vá thêu thùa thêm. Không phải má trách, nhưng lỡ mai đây má có mệnh hệ gì chưa chắc tụi con kịp vuốt mắt mà chỉ có em con kề cận thôi. Chung núm ruột thì cùng xót cùng đau con ơi !…Chuyện đất đai nếu đứa nào buồn vui thì má sẵn sàng chia cho liền, má không muốn anh em hờn giận nhau. Tài sản riêng mình có nở thêm một ít mà để em mình khổ, má mình buồn thì có đáng không ?

   Hậu khệ nệ kéo quày dừa xiêm từ nhà sau lên, cười vui :

  - Biết mấy anh ưa uống nước dừa, hồi qua em nhờ người ta hái sẵn…Tiện xe, chừng về chở hai bao dừa em đã lột vỏ cho tụi cháu…Ý ! em quên lấy ly…

   Cổ họng anh Hai như nghẹn thắt, lòng anh xốn xang thương cảm. Anh Ba bỏ ra ngồi tán chuyện cùng anh lái xe nằm võng tòng teng ngoài vườn. Người con dâu khoác chiếc áo ấm cho mẹ chồng. Bà Năm cài nút, vô tình lật lai áo lên thấy hàng chữ ghi tặng đã được xóa sạch. Ôm vai mẹ, anh Hai thấp giọng :

  - Giấy tờ nhà đất, má nhắc út Hậu làm luôn cái sở hữu nhà nghen! Lệ phí trước bạ này nọ để con lo giúp cho…Con xin lỗi má…

   Vui theo tâm trạng của chồng, vợ anh chỉ tay ra hàng dừa nhắc nhỡ :

  - Trời giông gió má đừng đi ra đó nguy hiểm lắm…

   Hậu nắm tay anh Ba lại chỗ quày dừa. Ngước lên nhìn người anh cả thấy thoáng nét cười trong cái gật đầu, anh Ba vung vài  nhát dao bổ dừa, miệng reo lên :

  - Vừa ăn quá ! con Hậu giỏi thiệt…

   Ánh mắt bao dung nhìn các con rồi lướt qua bàn thờ chồng, bà Năm cảm thấy mãn nguyện với cảnh gia đình đoàn tụ…

TRÒ CHƠI CUỘC ĐỜI

Nguyễn Kim

   Ngẫm ra, ông Hai Đồng vào đời kiếm sống cũng khá vất vả trước khi gầy dựng được sự nghiệp lớn lao hiện nay. Thuở thanh niên ông làm lơ xe dọc đường gió bụi miền Trung, rồi liều lĩnh nhập băng vận chuyển gỗ lậu. Có khá vốn, ông về một xã thuộc huyện Cần Giờ đầu tư khai thác nghề ruộng muối gần năm mẫu đất. Ông mạnh dạn trút hết vốn liếng mua vật liệu, thuê nhân công tổ chức đắp đập các xẻo rạch để nuôi tôm. Vào thời kỳ xuất khẩu mạnh, giá cả tăng cao đột biến, ông trúng lớn. Hai Đồng giao người quản lý tâm phúc coi sóc, để đi tìm mua nhà tại chợ thỉ xã rồi tìm cách đặt điểm thu mua hải sảm tận Vũng Tàu. Và theo quy luật cung cầu, Hai Đồng điều tiết nguồn hàng thật ăn khớp. Thế mạnh của ông gần như độc quyền, đố ai dám dẫm chân vào chuyện làm ăn béo bở ấy. Với những đối thủ mon men cạnh tranh, Hai Đồng “dập tắt” không thương tiếc. Về mặt ăn chơi, ông chủ trương có tiền phải thụ hưởng và hay nói câu “đời là một cuộc chơi” để biện minh cho thói trăng hoa. Vợ con ông sống trong tiện nghi, vật chất đủ đầy, có phàn nàn thì ông bẻ lại:

             - Ngày nào nghèo thì khác, bây giờ bà phải cho tôi ngoại giao rộng để gây thêm uy thế chứ, mất mát gì nào ? Bà tưởng tôi không uốn mình chung chi cho “chúng nó” mà yên được à?

   Những cô gái má phấn môi son, lả lợi khêu gợi trong ánh đèn mờ ảo ở các quán bia sang trọng, dần dần làm ông phát ngợp mà đâm ra thích cảm giác lạ. Hai Đồng vung tiền ra mua chuộc và phá hại biết bao đời con gái từ quê lên thị xã kiếm sống. Có lần ông chấm một bé gái bán vé số thơ ngây, mũm mĩm chừng mười bốn, mười lăm tuổi. Chỉ sau ba lần mua vé số hào phóng, Hai Đồng kín đáo đưa con bé vào phòng trọ quen để thỏa mãn dục vọng thấp hèn. Tối mịt, con bé lủi thủi về nhà nằm khóc vùi. Hàng xóm có người biết chuyện, căm phẫn giục bà mẹ khốn khổ của nó phát đơn kiện tên cưỡng dâm. Thế nhưng bọn tay em Hai Đồng dàn xếp đến lần thứ hai thì mọi việc kết thúc. Thủ đoạn dọa dẫm, gây sức ép bằng tiền đã đạt hiệu quả. Bà mẹ nghèo ôm con vào lòng, rưng rưng nước mắt cầm xấp tiền trả giá cho sự tổn thương thể xác và tinh thần của đứa con gái mồ côi cha!

  …Nghe đàn em báo tin khuya này ngoài chợ cá có vợ chồng một anh người miền Bắc từ Vàm Nai lên đổ cá biển gần ba tấn, Hai Đồng trực tiếp đến gặp, gằn giọng bảo người chồng :

            - Rừng nào cọp nấy! chú không tranh nổi với tôi đâu..Liệu cuốn xéo đi!

  Hậu, tên anh ta, mềm mỏng xuống nước nhỏ:

            - Anh Hai thương vợ chồng em lấy công làm lời..Giá cả tùy anh…

   Liếc nhanh cặp mắt sắc qua cô vợ Hậu, Hai Đồng bỗng sững sờ tặc lưỡi nghĩ thầm “Trắng trẻo, xinh đẹp quá, tiếc là đã có chồng. Nhưng không sao…”. Ông phẩy tay:

            - Thôi được, chú làm sao thì làm!

   Hương, vợ Hậu mừng rỡ cười khoe lúm đồng tiền :

            - Dạ…tụi em cảm ơn anh Hai nhiều. Mai mốt tụi em tính phải quấy…

   Hai vợ chồng gọi mấy người bốc vác kéo từng giỏ cần xé cá ướp nước đá đổ ra tìm mối bán. Hai Đồng đứng nhìn một lúc rồi cười nhạt bước sang chổ mấy mụ đầu nậu, dặn nhỏ:

            - Mấy bà xem nó kêu giá bao nhiêu từng loại, vựa nhà mình cứ sụt từ mười tới hai mươi phân cũng được. Ai dám cân cá của nó thì xiết nợ cũ liền cho tôi. Mẹ kiếp ! coi thằng này cứng đầu, cứng vốn cỡ nào…

   Chuyến đầu tiên, số cá của Hậu chỉ bán lẻ hơn tấn, còn lại phải vô giỏ chần nước đá qua sớm ngày sau bán tiếp. Những đầu mối lớn, phần ngại mếch lòng Hai Đồng, phần giá cả của vựa ông bỗng nhiên xuống thấp gần như chịu lỗ chi phí nên họ xúm vào mua. Cuộc tranh chấp, đúng hơn là sự chèn ép diễn ra ngấm ngầm kéo dài được hơn một tháng thì vợ chồng Hậu thua trắng tay và còn nợ lại các chủ ghe cào, ghe đáy ở Vàm Nai gần 20 triệu bạc. Trở về thế độc quyền, Hai Đồng lệnh cho đám đầu nậu nâng gia cá lại để gỡ số hao hụt vừa qua. Đồng tiền lớn đã thắng. Trước tình thế này, Hậu bàn với vợ chuyển hướng thu gom cá đồng, tôm ruộng mang lên Sài Gòn bán. Đến ngày thứ năm, các xe ba gát chở cá đồng từ quê lên đều quẹo thẳng vào vựa Hai Đồng, ở đó có người túc trực gom cân chia các mối lẻ. Đứt đường vợ chồng Hậu lần nữa!. Buổi chiều, gặp vợ Hậu đang lặng lẽ cùng đứa con gái trạc mười hai, mười ba tuổi chất các giỏ cần xé cũ vào góc chợ, Hai Đồng thản nhiên cười hỏi :

            - Ủa ! mai không mua cá đồng nữa à ?

   Nén giận, Hương nói một câu đôi ý :

            - Dạ thôi! ai đó ngăn chận mối mang vợ chồng tôi rồi…Chắc phải tìm nơi khác đàng hoàng hơn mới sống được!

   Hai Đồng vỗ nhẹ bàn tay đeo chiếc lắc vàng vào ngực mình, thấp giọng :

            - Biết điều với tôi một chút là xong thôi, chẳng những sống được mà còn khá lên mấy hồi. Suy cho cùng thì…đời là một cuộc chơi. Người đẹp như…em chắc sớm hiểu điều đó, chỉ cần…

   Hương đỏ bừng mặt, đưa tay chặn bộ ngực phập phồng dưới làn áo mỏng tránh cặp mắt hau háu đầy thèm khát của ông chủ vựa nhiều uy lực. Ngó con gái Hương đã đi xuống bến nước, Hai Đồng khéo léo dúi xấp tiền vào tay Hương, ngọt ngào:

             - Tôi đã nói với mấy ông chủ ghe ở Vàm Nai, họ không tính lãi số nợ của vợ chồng em đâu. Còn tụi lâu la làm ngặt, tôi biết, nhưng lỡ rồi. Em cứ nhận số tiền này, tạm bù lỗ phần nào. Chờ dịp mình gặp riêng, tôi tính khác!

   Có lẽ để tránh sự ngượng ngập, từ chối của Hương, ông quay ra chiếc Attila chạy thẳng…

   Thương con, thương chồng, Hương liều lĩnh lén gặp Hai Đồng lúc ở điểm hẹn kín, lúc vào nhà trọ ngoại ô. Được gần gũi, ôm ấp người đàn bà một con có sức quyến rũ lạ lùng, ông chủ vựa rất hài lòng và tỏ ra giúp đỡ rộng rãi. Hậu không nghi ngờ gì, còn bớt phần lo nghĩ bởi việc làm ăn ít gặp xáo trộn như trước. Có lúc anh cười bảo vợ :

            - Ngày dài tháng rộng, từ từ Hai Đồng thấy vợ chồng mình buôn bán nhỏ, chịu nhún nhường nên cũng nương tay. Sông có khúc, người có lúc !

   Hương kín đáo thở dài, tay hửng hờ vuốt mái tóc dài óng ả, mắt nhìn xa xăm…

  Một đêm, Hương nói với chồng là phải đi thu tiền nợ đôi ba chỗ, khoảng mười một giờ sẽ về. Hậu thong thả lại bàn lấy quyển sổ ra tính toán, anh mừng thầm bởi số nợ cũ trả lần hồi gần xong. Chuyện làm ăn thuận lợi, chừng đôi tháng nữa hết mùa anh sẽ rời đây để tìm nghề khác tương đối ổn định hơn. Thâm tâm anh cứ ngài ngại Hai Đồng, kẻ có đôi mắt cú vọ giảo quyệt khó quên, nghĩ mãi không ra căn do cụ thể. Vừa gấp sổ lại thì có anh bạn thân đến thăm, rủ ra quán uống vài chai bia. Rảnh rỗi chẳng biết làm gì, Hậu nhận lời sau khi dặn dò con gái trông nhà. Quán bia khá xa, được cái yên tĩnh và thức ăn ngon. Hậu tỏ ra phấn chấn khi người bạn gợi ý nhờ trông coi cơ sở nước đá vừa thành lập, còn bảo đưa vợ con đến đó ở luôn, đỡ tốn khoản tiền nhà trọ. Hậu chưa hỏi ý vợ nên hẹn chiều mai trả lời bạn. Cả hai vui vẻ nâng ly mời nhau trong không khí thân mật. Uống đến chai bia thứ ba, Hậu rời bàn đi toa-lét. Ngang dãy nhà trọ, thấy cửa sổ một phòng chưa khép hẳn và có tiếng phụ nữ cười rúc rích nghe giọng…quen quen, Hậu tò mò ghé mắt nhìn vào. Ánh đèn ngủ màu hồng mát dịu đủ cho anh nhận rõ Hai Đồng trần trùng trục đang âu yếm đùa cợt cùng một người đàn bà trên giường, chính là…Hương, vợ anh. Đau đớn, uất nghên tột cùng, Hậu gào lên:

            - Trời ơi ! Hương…khồn nạn…thằng Đồng mày…

   Anh vòng lối cửa chính chạy vào thì bị mấy tên bảo vệ quán chặn lại, khòa chặt tay. Bất lực vùng vẫy, chửi bới loạn xạ để rồi qua dòng nước mắt tủi nhục, Hậu kịp nhìn Hương từ căn phòng ấy vụt nhanh ra cửa sau băng vào bóng tối. Hai Đồng xốc lại cổ áo, khinh khỉnh vẹt anh sang bên đi thẳng. Hậu điên cuồng lao theo để nhận lãnh trận mưa đòn của đám thuộc hạ gã chủ vựa. Khi người bạn anh báo công an đến giải vây thì chỉ còn Hậu nằm lại, oằn oại trong cơn đau…

 ---Thời gian sáu năm trôi qua, Hai Đồng giờ không mặn mà những chuyện làm ăn mang tính cạnh tranh quyết liệt nữa mà muốn tạo vỏ bọc doanh nghiệp “sạch” với hai ghe cào biển, ba căn phố cho thuê và một cửa hàng mua bán nữ trang do cô con gái út đứng tên. Đứa con trai duy nhất sau khi thụ án ba năm tù về tội tham gia hiếp dâm đã chết thê thảm trong cuộc đua xe đường quốc lộ 50. Nhiều người bạo miệng nguyền rủa là sự báo ứng, nhân quả nhỡn tiền. Một ngày cuối năm, Hai Đồng đi Sài Gòn dự tiệc mừng sinh nhật cháu vợ một vị chức quyền. Nhà hàng đông nghịt với số khách mời hơn trăm người, họ lần lượt kéo nhau ra sàn nhảy quay cuồng trong điệu nhạc, bia rượu không lúc nào ngớt. Hai Đồng cầm tay ly rượu đứng nhìn những khuôn mặt phởn phơ lướt qua, quen có, lạ có. Một người đàn ông dáng cao gầy vừa bước nhanh ra, Hai Đồng thoáng giật mình, ngờ ngợ mình đã từng tiếp xúc, từ…hình như lâu lắm. Ba Đen cai ruộng muối chăng? không phải, thắng nghiện ấy giờ chắc đang ngáp ruồi ở một xó xỉnh nào đấy. Hùng Cầu Muối, tên bán sức mạnh cơ bắp theo hợp đồng? cũng không nốt! nó đã về với ông bà ông vải trong cái hầm sập ở bãi vàng Quảng Nam rồi mà. Vậy chính xác…hắn là ai?. Ôi…bận tâm, nhọc trí quá! Hai Đồng lửng thửng lại gợi chuyện cùng một cô bé độ mười tám tuổi ngồi bàn một mình, vẻ mặt xinh xắn nhưng hơi buồn. Với sự khéo léo của người đàn ông từng trải nghề…câu gái, ông được biết cô đang giận người tình lỗi hẹn. Sau ly rượu mời, cô đồng ý đi dạo mát cùng ông cho khuây khỏa. Mười hai giờ khuya, từ nhà hàng ở bến tàu ra, Hai Đồng dễ dàng đưa cô gái lúc này đã thấm rượu vào một khách sạn. Đúng loại gái “yêu cuồng sống vội”, cô ta chiều chuộng, đáp ứng các đòi hỏi của Hai Đồng thật nồng nhiệt. Bốn giờ sáng, ông lăn ra ngủ say như chết !

   Giật mình thức dậy, quờ tay không thấy cô gái đêm qua, Hai Đồng xem đồng hồ đã hơn bảy giờ sáng. Ông lim dim mắt mỉm cười “Chắc em đi đâu đó, chút quay lại…xin chút tiền chứ gì? Mọi thứ quí giá mình đã gởi quầy tiếp tân cả, cẩn thận vẫn hơn. Đời là một cuộc chơi, quan trọng ở chỗ thằng nào ngờ nghệch hay thấu đáo thôi!”. Thấy lá thư dằn trên bàn ngủ, ông ngạc nhiên mở ra xem, mặt biến sắc dần, mồ hôi rịn trán. Đoạn cuối thư như xoáy vào tim ông nhói buốt “…Tôi mang nỗi ân hận là không đủ độ lượng để tha thứ cho người vợ nhẹ dạ bởi thương chồng, thương con, chịu khổ cực mười mấy năm trời. Không chịu nỗi sự dằn vặt, vợ tôi bỏ đi và tới lúc đó tôi mới ân hận đưa con đi tìm khắp nơi trong vô vọng. Đến lượt con gái tôi lớn lên cũng bị những thằng đốn mạt như ông dồn vào vũng lầy, rồi lại ra đi. May mắn là tôi gặp được nó trong thể xác mục ruỗng, tâm hồn hư hỏng. Đứa con gái bé bỏng, ngây thơ ngày nào giờ mang đầy thù hận như cha nó. Và tôi đã tốn bao công sức theo sát ông cho đến nay. Những hình ảnh trong đêm, tôi đã thuê người ghi vào ống kính và sẽ gởi cho gia đình hôn phu con gái cùng thân hữu của vợ chồng ông. Tội nghiệp con gái tôi vừa tháng trước có kết quả xét nghiệm…nhiễm vi-rút HIV. Đừng tìm cha con tôi vô ích. Đủ sáng suốt để hiểu chuyện rồi chứ Hai Đồng?...Hậu.”

KIẾM SỐNG TRÊN RUỘNG ĐỒNG

Nguyễn Kim

Trong việc kiếm sống, kiếm ăn của bà con vùng nông thôn từ kinh nghiệm tích lũy bao đời đã sáng tạo, cải tiến rất nhiều cách thức, phương tiện đánh bắt cá tôm, sản vật sao cho thích nghi với địa hình sông rạch phức tạp. Tận dụng những vật liệu thiên nhiên có sẵn như: tre, trúc, lau, sậy, lạt dừa, sống dừa…họ đã làm ra nhiểu sản phẩm tiện ích: gàu, đăng, đó, lọp, lờ, nôm, rổ xúc…Nói về chuyện tát đìa tát ao khá đơn giản thường diễn ra vào lúc giáp tết, khi nước rọt và bà con thu hoạch vụ lúa mùa xong. Thời điểm ấy đồng cạn, tôm cá buộc phải rút xuống ao đìa còn nước để ẩn sinh tồn. Sáng sớm, dùng gàu sòng, gàu dai thay phiên nhau tát đến cạn. Dàn ngang bắt cá, tôm, ếch, rắn, ốc…rồi cặm chà, xổ nước ngập trở lại. Thường các sản vật lớn, ngon thì đem ra chợ bán, chỉ để lại chút ít chia nhau ăn. Với nguồn thu nhập thấp nên người nông dân phải tiện tặn lắm mới đủ chi dụng trong nhà.

Những gia đình sống gần kinh rạch nhỏ thì thường khai thác bằng nò. Lúc nước ròng chảy xiết, cá tôm lọt vào không sót con nào. Hoặc sử dụng vó, nhữ mồi bằng cám rang bắt tép, mỗi lần kéo vó được chừng lưng chén. Còn lờ, lọp chỉ đặt trên ruộng vào mùa nước, chỉ bắt được cá rô, sặt loại nhỏ. Với các mương vườn vào thời điểm nước kém (từ mùng 8-11 và 22-25 âm lịch), hợp sức đắp bờ đất chận đầu mương, quậy nổi sình lên cho các loại tôm tép, cá trắng, lòng tong, bống cát…xốn mắt nổi lờ đờ, dùng rổ vớt. Cá lóc chúi sình rất kỹ, phải mò sát tay hay dùng nôm theo dấu mà chụp bắt. Cá trê thường ở hang bọng, mỗi ổ có khi bắt tới mười mấy con lớn nhỏ. Thơ thẩn thăm đồng gặp bầy cá lòng ròng bằng đầu đũa, chúng lăng xăng trồi lên hụp xuống trông rất khoái mắt. Người lớn dùng cần tre, túm lưỡi câu dưới chân con vịt mồi để nhữ bắt cá lóc mẹ. Bị phá bầy, cá mẹ bảo vệ con rất hung tợn quẫy táp vài lần, sau cũng dính câu. Bọn trẻ thì rủ nhau lấy rổ xúc bao vây tóm gần hết bầy lòng ròng về kho lạt sả ớt cuốn bánh tráng, rau sống ăn cho khoái khẩu. Nghĩ mà tội nghiệp đàn cá chưa kịp trưởng thành để góp phần vào nguồn thức ăn thiên nhiên phong phú. Khi đồng bưng đầy nước, các loại cá nhỏ khác như: hủn hỉn, bạc đầu, bãi trầu, lia thia…sinh sôi, nảy nở nhiều. Người ta dùng rổ xúc loại to đan khít bằng trúc, đường kính có tới 1,2 mét. Đặt rổ xuống nước ngập vành, vừa đạp đám cỏ năng, lác ngã rạp, vừa bước quanh thu hẹp dần vòng tròn cho đàn cá tạp bị đánh động tập trung vào miệng rổ thì xúc cho nhanh gọn. Vào mùa xúc cá, chiều chiều có những người bưng thúng cá lia thia đậy lá chuối rảo quanh xóm rao bán. Họ đong bằng chén, giá cả rẻ vừa túi tiền người mua, cùng là hàng xóm. Bọn trẻ thích lựa những con lia thia sống xoi xói, màu sắc tươi đẹp về nuôi trong lọ thủy tinh để cáp độ đá nhau. Một trò chơi tuổi thơ rất dễ thương. Tháng nắng, những mảnh ruộng nước còn chừng hơn gang tay, cá bống kèo nổi lờ đờ. Dùng sợi lông đuôi ngựa thắt vòng, khéo tay thả tròng qua đầu giật cũng kiếm được nồi cá kho tiêu trong bữa cơm. Hoặc ra bãi sông nước ròng, chận ngách bắt cá bống sao về um nước dừa, đọt mì, ăn rất ngon miệng. Ruộng lên mô, còng làm hang lổ chổ, bọn trẻ chịu siêng bắt một lúc cũng dư kho mặn, nấu nồi canh chua chấm mắm ruốc. Mùa mưa đến, ruộng đồng nổi nước. Lại hú gọi nhau xách giỏ đụt bắt cua đồng về nấu canh rau chùm ngót,  xào mặn tóp mỡ hay rang ăn chơi cùng bần chua xắt lát cũng chẳng ai chê. Người có tay nghề “nhủi” cá thì chuẩn bị loại dụng cụ khá công phu làm bằng tre. Tre vót nhẵn cỡ cây nhang, dài khoảng 1,5 mét, kết lại bằng dây gân hoặc kẽm, khe hở nhỏ đủ nước lọt qua.Khung nhủi làm bằng cây tầm vông bắt tréo, tra vào hai lổ ở miệng nhủi tấm gỗ to dày, rộng cỡ 60 cm. Cầm gọng nhủi chúc xuống, chạy lúp xúp trên ruộng nước một hơi rồi giở lên. Cá rô, cá sặt non, cua con, ốc, tép, cà cuống, bù niểng…chen lẫn rều rác, phải chịu khó lựa kỹ. Nhủi cá đòi hỏi nhiều sức lực, dầm nước móp tay mới kiếm đủ thức ăn trong nhà, may dư chút đỉnh bán xây xài. Những sinh vật thập cẩm này dùng kho tộ sả ớt, càng hâm nhiều lửa càng thơm ngon.

“Xà di bắt cá thòi lòi/Ăn lươn đặt trúm, vó mồi kiếm cua”. Đơn giản hơn thì có những ngón nghề: móc cá chạch, giật cá kèo, vét hầm cá nhảy, soi ếch, mò tôm, cá bống dừa…Câu cá cũng nhiều kiểu: câu rê, câu giăng, câu cắm, câu nhắp…với mồi nhữ riêng biệt để bắt cá rô, cá lóc, cá ngát, cá chốt…tùy thời điểm, môi trường, địa hình. Nếu có điều kiện thì chọn chỗ mé sông đáy bằng, lúc nước ròng không quá cạn để gài chà bần, tre buộc lỏng từng bó cao hơn mặt nước. Phải bảo đảm chà không bị nước cuốn trôi và để yên tĩnh cho cá tôm trú ngụ. Khi thu hoạch, canh con nước lớn giựt ròng, xổ đăng bao kín, dỡ chà bỏ lên bờ. Cho xuồng cặp mé đăng để hứng những con cá to nghe động phóng ra. Khép đăng, dùng rổ lớn xúc bắt cá tôm, đôi khi có cả cua, tôm càng, cá nâu…Vào mùa nắng. đồng khô, người ta còn tổ chức săn chuột, vừa có món ăn lạ, ngon, vừa góp phần bảo vệ mùa màng. Dùng đăng bện bao chữ V với diện tích rộng. Đặt rọ nơi đầu hẹp rồi đốt đồng, cà đàn chuột hoảng loạn chạy tháo thân để rồi cùng chui vào rọ. Chuột ăn lúa, dừa nên con nào cũng béo tròn. Thịt chuột chế biến được rất nhiều món: rô ti nước dừa, luộc hèm rượu xé trộn rau răm, ướp nướng sả ớt, nấu chua cơm mẻ, kho mắm, quay lu…và đặc biệt miệt Hậu Giang nghe nói có cả món bánh ít trần nhân thịt chuột…

Cuộc sống nông thôn dù còn nghèo, nhưng người nông dân với sự suy nghĩ, tìm tòi, tận dụng các phương tiện thô sơ, dễ tìm ở địa phương cùng đôi tay quen lao động để kiếm được nhiều món ăn ngon, bổ dưỡng tạo thêm sức lực đồng áng. Bữa cơm gia đình với tô canh rau tập tàng, đọt lang, đọt bí luộc cạnh cái ơ đất tép rong, cá trắng, cá rô hột bí kho mặn…chẳng là đậm đà, đầm ấm hay sao?, Ngoài câu “Râu tôm nấu với ruột bầu/Chồng chan vợ húp gật đầu khen ngon” mà ta vẫn thường nghe, xin thêm vào một câu đầy khẩu vị…tình cảm gia đình “Cá rô kho tộ thêm gừng/Ăn rồi còn lại xin đừng đổ đi” hoặc chơn chất, thấm thía hơn “Tay bưng dĩa muối chấm gừng/Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau” !.

ĐỒNG TIỀN HAI MẶT

Nguyễn Kim

  Dịp đi Thốt Nốt năm rồi, tôi ghé thăm chú ba Cương, cựu viên chức phòng địa chính nay đã về hưu vui thú điền viên cùng vườn cây ăn trái. Đến nơi trời đã xế chiều, thấy chú đang ngồi ngắm mấy chậu hoa kiểng với vẻ say mê, tôi vờ tằng hắng. Chú ngẩng lên nheo mắt nhìn rồi vụt đứng lên cười rạng rỡ:

  - Ôi chao! gởi mấy cái thư nhắn mày lên chơi, trông gần hụt hơi. Vô nhà tắm rửa, uống nước cho bớt mệt rồi tính sau. Đường sá xa xôi, được cái là xe cộ thuận lợi hơn xưa nhiều. Gia đình dưới đó mạnh giỏi hết hả?

   Tôi đứng lặng nhìn chú, lòng cảm động bởi sự nhiệt tình của chú qua bao năm vẫn không thay đổi. Ngồi hàn huyên tâm sự chưa nóng chỗ, chú đứng lên nói:

  - Mày phải ở đây chơi với chú vài ba ngày, đây là…lệnh, nghe chưa? Tụi sắp nhỏ với mẹ nó đi Sài Gòn thăm bà con có việc, nhà vắng cũng buồn. Trời khiến hôm qua tao bắt được con rắn ri voi bự chảng còn rộng lại, có lẽ nó đợi mày đó!

   Dẫn tôi ra sau, chú đặt trước ấm nước lên bếp rồi xách con rắn mập tròn, chắc nịch cho tôi xem, ước nặng gần hai ký lô. Thảy con rắn sống vào thùng thiếc, chú nhanh tay tưới nước sôi và đậy kín chờ cho nó chết hẳn. Nhìn bàn tay chú thoăn thoắt cạo da, mổ ruột, lấy gan, trứng, mỡ để riêng rồi chặt từng khúc ngắn xẻ dọc sống lưng gọn gàng, tôi phải thầm khen. Xào xong chảo thịt rắn phi mỡ tỏi thơm lừng, chú Ba vỗ vai tôi:

  - Đợi nước sôi thì cho hết vô cùng mớ sả ớt đập dập, ít củ cải, củ hành…coi như hoàn thành sản phẩm. Tao ra ngã ba gần đây kiếm rổ bún, rau..nhậu no luôn!

   Tôi ngồi canh nồi rắn hầm chừng đọc hết tờ báo thì chú Ba về tới, theo sau là một anh trạc tuổi tôi, vẻ mặt xương xương láu lĩnh. Được giới thiệu anh tên Lộc, nhà bán quán cà phê bên kia đường và mỗi khi rảnh rổi vẫn lai rai ba sợi cùng chú, tôi thêm vui vì uống rượu tay đôi như giao bóng qua lại hoài kém hứng thú. Chúng tôi sốt sắng dọn bàn ra sân cạnh hòn non bộ. Sau hai vòng rượu và vui vẻ kể những cách bắt và chế biến những món ăn ngon từ rùa, lươn, chuột…,chú Ba chợt hỏi tôi:

  - Mày cũng dân văn nghệ, thử nhận xét hòn non này ra sao đây?

   Dưới ánh đèn soi sáng mặt nước hồ trong vắt, tôi mê mãi ngắm cặp cá tai tượng to cỡ bàn tay xòe đang thong thả bơi lượn quanh các gộp đá khéo léo tạo nét thiên nhiên, bên dưới mấy chú rùa nhỏ rụt đầu trầm mặc. Tôi ngờ nghệch buột miệng:

  - Chà…cặp cá này mà đem chưng…

   Suýt chút nữa tôi thêm chữ “tương” tiếp theo thì hỏng bét, may mà kịp ứng biến:

  - Đem chưng vào lồng kính thì đẹp lắm. Còn hòn non bộ trông giống… giống…

   Chú Ba cạn ly rượu, ngó tôi thở dài:

  - Giống…đống đá chất bừa cho vun ngọn phải không? hừ…thằng này chẳng biết chút gì về nghệ thuật tạo hình. À..Lộc, cây sung kiểng trĩu quả của tao hôm triển lãm được chấm giải ba cũng khá quá chớ bộ!

   Gắp khúc thịt rắn cho vào chén, Lộc cười dè dặt:

  - Còn thua ông Tư Bè với Tám Vinh, giải nhất nhì hai ổng ẳm gọn. Đời này, thiên hạ chỉ hơn thua nhau cái kết quả chung cuộc…

   Chớp mắt nhìn ra sân, chú Ba lắc đầu ngắt lời:

  - Tao quan niệm chơi nghệ thuật lấy công phu, học hỏi, sáng tạo làm chính. Còn mấy ông nhà giàu bỏ khối tiền ra lặn lội tứ xứ tìm mua về khoe khoang, dự triển lãm lấy cái danh. Mình chơi theo kiểu tự tạo, bình dân, tranh đua với những người ấy được gì nào?

   Câu chuyện bên bàn rượu xoay quanh vấn đề tiền bạc, giàu nghèo, số mạng và bỗng dưng rẽ ngoặt sang…vé số kiến thiết. Lộc cao hứng móc xấp vé số trong túi ra khoe, giọng nhừa nhựa:

  - Ngày nào tôi cũng mua cầu may từ năm tới mười tờ vé số, trời ngó lại là đổi đời. Có tiền là có tất cả, phú quí còn sinh ra được lễ nghĩa mà chú Ba! Tôi khoái cặp thiên tuế của ông Đốc Lân kêu giá hai triệu, tôi trúng độc đắc là rước về tức thì!

   Trầm ngâm một lúc, chú Ba tặc lưỡi đưa đẩy qua chuyện thời tiết, mùa màng và tuyệt nhiên không bàn đến đề tài hoa kiểng cho tới khi dứt tiệc rượu. Đêm đã khá khuya, nhưng bên quán cà phê của Lộc vẫn còn vang tiếng nhạc xập xình hoà lẫn tiếng xe máy thỉnh thoảng lại gầm rú chói tai…

   …Tôi về nhà gần hai tháng thì nhận được thư chú Ba Cương gởi. Trong thư có đoạn viết”…Mày nhớ thằng Lộc nhậu chung với mình không? Sau lần mày ghé, nó đi Sài Gòn thăm bà con, lúc ra bến xe có mua chục tờ vé số cặp, về nhà tặng ông anh vợ một vé. Trời cho trúng ngay giải đặc biệt, lãnh cả tỉ bạc. Trước đó nó vay mượn ông anh vợ hai chục triệu, giờ cho rằng mình đã tặng một vé số trúng nên phớt lờ không trả. Báo hại sau đó chị dâu nó kéo một đám mặt rằn tới nhà quậy đục nước, cuối cùng phải móc tiền ra giải quyết mới êm. Hiện nay thằng Lộc mua thêm đất mở quán nhậu đèn mờ, thuê tiếp viên chuyên nghiệp gần chục đứa, giao vợ quản lý. Riêng nó tha hồ bồ bịch, ăn chơi trác táng, giao du toàn bọn điếu đóm, đầu có sạn…Tao nghĩ sớm muộn gì thằng này cũng lâm vào cảnh thảm hại…”. Tôi bần thần nghĩ ngợi một lúc về mảnh lực hắc ám của đồng tiền từ việc trúng số, đền bù giải tỏa…đã từng xảy ra. Nó dễ dàng thúc giục một số người thay đổi tâm tính, mối quan hệ theo chiều hướng xấu và đến lúc nào đó thường sẽ kết thúc không có hậu. Hy vọng người hàng xóm của chú Ba chẳng đến nỗi nào!

 …Năm nay, vừa qua Tết tôi đi Cần Thơ gặp người bạn có việc cần. Xong xuôi, tôi chủ ý dành một ngày tới thăm chú Ba Cương. Vừa chạm mặt, chú càu nhàu trách tôi quá lâu không lên chú chơi. Rồi cũng hề hà lấy xe chở tôi ra đầu cầu Bằng Lăng uống cà phê, trò chuyện. Một hồi, chợt nhớ ra tôi hỏi thăm về Lộc thì chú sững người, giọng buồn buồn:

  - Nó…sụm rồi! giờ đi làm mướn cho lò đường bên cù lao, con vợ xâm mày xâm môi ngồi bán thuốc lá, vé số ở ngã ba lộ lớn…

   Tôi cũng bàng hoàng trước tin ấy nên hỏi thêm:

  - Năm kia thấy anh ta sống tương đối ổn, có được số tiền lớn sao xuống dốc nhanh quá vậy chú Ba?

  - Mày nghĩ xem, thằng Lộc có tiền không chịu sửa sang vườn đất hay tính thế làm ăn căn cơ như người ta, lại mở quán bia, nuôi em út ỏng ẹo giao vợ con trông coi. Nó chân ướt chân ráo lên Sài Gòn thuê nhà sống chung với một con nhỏ giang hồ mới ngoài hai mươi tuổi, nghe nói nghiện nặng. Dại gái, tiêu xài phung phí, bao biện xa hoa như vậy thì núi tiền cũng lở, huống hồ vài trăm triệu nhằm nhò chi?

   Đốt điếu thuốc rít liền mấy hơi, chú nhìn theo làn khói rồi thấp giọng như để riêng mình nghe:

  - Kệ thây vợ chồng nó, tao chỉ tội nghiệp con Hồng Dung, đứa con gái lớn mười bày tuổi của thằng Lộc. Sống trong môi trường ăn chơi nhơ nhớp, đêm ngày tiếp xúc bọn thừa tiền rững mỡ vô đạo đức. Lại thường xuyên chứng kiến cảnh đám gái làm tiền đem thân xác mồi chài khách, hỏi sao đứa con gái mới lớn không bị tiêm nhiễm, hư hỏng?

   Đập tay xuống bàn, chú quắc mắt giận dữ:

  - Con Hồng Dung non nớt dại dột hẹn hò đi chơi cùng thắng lái gạo nào đó, bị gài thêm hai thằng nữa ăn ké. Tụi nó đưa vô cái nhà kho cũ, tới mờ sáng mới về được tới nhà. Pháp luật xử lý đã đành, nhưng với cuộc đời trong trắng của con nhỏ thì trách nhiệm thuộc về ai đây? Nợ nần chồng chất, quán đóng cửa, giờ gia đình thắng Lộc còn tệ hơn hồi chưa trúng số…

   Trước sự bức xúc ấy, tôi chỉ im lặng theo chú rời quán. Xe chạy một quãng, chú bình tâm quay sang nhắc:

  - Tối nay tao đùm lá chuối nướng hai con chạch lấu chấm nước mắm me, rủ thắng Lộc qua chơi. Chuyện tao kể cho mày nghe thôi, lựa lời nói để đừng vô tình khơi lại nỗi khổ tâm của nó nghen. À quên, nó mua cặp thiên tuế của ông Đốc Lân hai triệu bạc, giờ rao rát họng năm trăm ngàn, hổng ai thèm ngó tới!

   Gió chiều mát rượi. Phía vườn cò Bằng Lăng, từng đàn cò sau một ngày đi xa kiếm ăn lần lượt về tổ, cánh trắng chấp chới nhịp nhàng trên bầu trời vùng quê yên bình…

CON  TIN

Nguyễn Kim

   Cái công viên gần chợ thị xã có lẽ được xây dựng một cách tùy tiện, cẩu thả nên sau gần ba năm nghe bàn dân thiên hạ phản ảnh, dè bỉu, rốt cuộc cũng được khai tử bằng quyết định san bằng. Trong khi chờ đợi một sáng kiến chuyển đổi tối ưu hoặc một công trình tâm huyết nào đó bung ra sử dụng thì mảnh đất trống hơn 600 mét vuông ấy được giới bình dân tận dụng triệt để. Xe cháo lòng, gánh bún chả, bàn giải khát…tha hồ bày binh bố trận, khỏi lo chuyện vi phạm trật tự lòng lề đường. Đối tuợng phục vụ là các bác xe ôm, nhân công bốc xếp, vé số dạo…và một thành phần lao động phổ thông mới xuất hiện, đa số từ vùng nông thôn ra. Dân tìm việc làm rất dễ nhận biết: kè kè túi xách, mặt dàu dàu, mắt ngó quanh quất. Sự chờ đợi, hy vọng chỉ kéo dài từ sáng sớm tới quá trưa là tàn lụi. Những người bị rảnh rỗi bất đắc dĩ gượng gạo chia tay nhau tìm chỗ tạm trú đề sớm sau lại đóng tiếp vai chờ việc…

   Tư Bảnh gia nhập đạo quân “bó gối” ấy gần tuần lễ nay bởi tình thế quá ngặt. Quê biển anh năm nay gặp vận xấu, ảnh hưởng đến biết bao người làm thuê mướn kiếm sống dạng thời vụ như anh. Hai cơn bão liên tiếp nhau, mấy ông chủ ghe tàu đánh bắt ở xã cứ trông trời thở vắn than dài. Ruộng lúa đã năng suất thấp lại vướng dịch sâu rầy nặng, vô phương cứu chữa, thất trắng. Các sân bãi nuôi nghêu sò bỗng dưng bị bùn sình lấp kín, chết từng đám thúi hoắc, ai cũng méo mặt. Tư Bảnh trước nay vẫn bán sức lao động cho những công việc trên để lấy đồng tiền phụ vợ nuôi  bốn đứa con đang sức lớn, miệng ăn như xáng xúc. Sản xuất đình đốn, hỏi ai còn thuê mướn nhân công làm gì?. Bàn tới bàn lui với vợ xong, anh nhảy xe ôm lên thị xã mong kiếm được chân cu-li, móc cống, đào mương chi cũng được, cho qua hồi bĩ cực này…

   Quấn điếu thuốc rê hút chưa tàn, Tư Bảnh ngáp dài uể oải ngó mặt trời lên khá cao, chắc cỡ chín giờ chứ chẳng ít. Chợt mắt anh sáng lên, đứng bật dậy dợm bước lại chỗ ông khách ăn mặc bảnh bao đang chống tay cạnh sườn nhìn quanh dò xét. Bảy, tám người thất nghiệp nhanh chân vây kín ông khách hỏi han, chào mời. Ông ta thờ ơ lắc đầu, vẹt đám đông đến thẳng chỗ Tư Bảnh. Có lẽ dáng vẻ rầu rỉ, chịu đựng của anh đã gợi lòng trắc ẩn trong ông chăng?. Ra hiệu cùng vào quán nước bên kia đường, gọi thức uống cho hai người xong, ông hỏi vài câu rồi vô đề luôn:

  - Tôi tên Phước, chú gọi anh Ba được rồi…Nhà ở  gần đây thôi. Tôi đang cần người bố trí lại các chậu cây cảnh vườn và tạo dựng một cái thảo bạc như ý để có chỗ thích hợp, đại khái là tạo không gian tĩnh lặng cho các bạn thơ họp mặt xướng họa, ngâm vịnh. Chú liệu cáng đáng được không? Công việc kéo dài cũng khá lâu đấy!

   Mừng rơn, Tư Bảnh lắp bắp trả lời:

  - Dạ…anh Ba có lòng giúp đỡ, em làm được hết mọi chuyện. Ở quê, em chuyên thiết kế, thi công…chuồng trại, hầm bi-ô-ga rất mỹ quan, ai cũng khen!

   Đưa tay ngăn lại, Ba Phước nói rành mạch:

  - Một ngày công tôi trả chú tám mươi ngàn, thêm tiền ăn trưa. Chấp nhận hay không chấp nhận?

   Tim đập thình thịch, Tư Bảnh gật đầu lia lịa:

  - Dạ…anh Ba cho vậy là quý lắm, em xin chịu ạ!

   Ngồi sau xe ông khách, Tư Bảnh còn chưa hết vui mừng vì vận may bất ngờ này. Đồng tiền lúc này kiếm được rất vất vả, nay làm một ngày công được hơn giạ lúa thì còn gì bằng?. Cho xe chạy chầm chậm qua các dãy phố sàm uất, Ba Phước vui miệng giải thích cho anh chàng tìm việc ngờ nghệch về giá cả đất đai, giá vàng, giá đô la, thị trường kinh đoanh các mặt hàng điện tử, xe máy…Nghe thì nghe chứ thật ra Tư Bảnh chẳng hiểu và chẳng cần hiểu chi về những vấn đề quá xa lạ với anh. Chỉ một nhận xét rằng ông lịch sự này chắc mẫm là tay tổ làm ăn lớn trong thị xã. Đến trước một ngôi nhà bề thế khóa kín cổng, nền cao, kiến trúc hiện đại với mảnh sân rộng đầy hoa cảnh xanh tốt, Ba Phước dừng xe mò mẫm các túi áo quần rồi sửng sốt kêu lên:

  - Ý trời! bỏ quên chìa khóa ở cửa hàng rồi, làm sao đây ta?

   Đang chăm chú ngó tấm bảng đính trước cánh cổng lớn vẽ đầu con chó ngoại to sủ lè lưỡi, nhe răng đe dọa, Tư Bảnh rụt rè hỏi:

  - Dạ…cửa hàng nào anh Ba?

   Chưa vội trả lời, Ba Phước ngẫm nghĩ rồi tươi ngay nét mặt như đã tìm ra giải pháp. Ông móc điện thoại di động gọi đâu đó một hồi, búng tay đắc ý:

  - Ô-kê! giải quyết nhanh gọn, mọi lúc mọi nơi. Tôi với chú lại quán ngoại ô súc miệng vài lon chơi. À quên nói chú biết, bây giờ mà trờ lại shop thời trang Toàn Cầu của vợ tôi để lấy chìa khóa sẽ bị sạc một trận. Đành gọi con bé giúp việc về mở cổng cho tiện đôi bề. Người làm thơ hay đãng trí lắm chú ơi!

   Bụng đói sôi ùng ục, nhưng đang lềnh bềnh sóng nước, bám được mảnh ván bự thì phải đeo tới cùng, Tư Bảnh tặc lưỡi nghĩ bụng: “Sếp này phóng khoáng, chịu chơi đúng phong cách…nhà thơ. Thây kệ, nhậu tới đâu hay đó, mình có gì để mất đâu!”.

   Lần đầu tiên vào một quán ăn sang trọng, Tư Bảnh hơi choáng ngợp và tự ti cho sự quê kệch của mình. Ngược lại, Ba Phước tỏ ra lịch lãm, đĩnh đạc gọi vài món nướng đặc sản, tiếp viên nữ tươi cười bâu quanh, lăng xăng bật bia bôm bốp. Thấy Tư Bảnh lúng túng né người khi được cô tiếp viên mập trắng thân mật choàng vai lau mặt bằng chiếc khăn lạnh thơm phức, Ba Phước cười phá lên khoái trá, nói nửa đùa nửa thật:

  - Cậu em tôi ở quê mới thu hoạch đầm nuôi tôm hùm được có vài trăm triệu, lên đây chơi còn lạ nước lạ cái. Mấy em tận tình phục vụ sẽ được thưởng xứng đáng đấy!

   Nạp được ba lon Tiger, với cái đầu lâng lâng men bia trộn chút phấn khích, lên gân giả tạo, Tư Bảnh không cải chính mà chỉ cười vô tư và “phát hiện” rằng trong quan hệ giữa ông chủ và người làm vẫn có thể cởi mở, ân cần cùng nhau. Liếc xéo anh chàng bạo gan vuốt má, nựng nịu một cô, Ba Phước gù gật chùng giọng triết lý:

  - Đời lắm việc lạ lùng! Tôi gặp chú chẳng qua như mây trôi gió thoảng, nhưng cơ trời xui khiến tôi mến chú hiền lành, thiệt thà. Ờ…giàu có nứt tường nứt vách như tôi để làm gì nếu không biết…trải lòng ra cùng thiên hạ? Vô trăm phần trăm!

   Chuông điện thoại di động réo rắt khúc nhạc. Ba Phước nghiêm mặt lắng nghe rồi hỏi lại liên tục:

  - Sao? nhà thơ Địa Phủ tới thăm à? Ôi trời! có cả cây búa lý sự phê phán Thăng Thiên nữa thì còn gì hân hạnh bằng. Mấy huynh đệ tệ quá, cứ mời vào nhà giúp tôi. Chà…chỗ thi hữu với nhau cũng bày đặt sĩ diện hão! Nô…nô…tập  thơ “Mặt trời và Sao chổi”, nhà xuất bản họ trả dưới mười triệu thì tôi không liên kết đâu!

   Lắng nghe thêm vài giây, Ba Phước cười khà khà:

  - Ờ…tôi đang bay bổng ở quán Bồng Lai đây! Nhà còn cặp uýt-ky sì-cốt để tính sau, giờ chơi bia trước nghen quý vị. Tôi về ngay…Bai!

   Chưa đầy năm phút sau, một thanh niên áo thun, quần lửng, bắp tay đầy hình xăm gớm ghiếc phóng chiếc Wave  đậu xịch cửa quán chờ đợi. Quay sang Tư Bảnh cùng hai cô tiếp viên đang nhìn mình với ánh mắt kính nể, ngưỡng mộ, Ba Phước nói như ra lệnh:

  - Các em vô lấy 4 thùng Tiger, nửa cây ba số và ít mồi nhắm đặc biệt cho anh đãi khách quý. Còn chú Bảnh chút nữa theo tôi về nhà chơi tiếp, lại được may mắn diện kiến các nhà thơ lớn. Đừng lo vấn đề tôi nhờ chú khi nãy, mai làm cũng được…

   Cùng gã mới đến chất tất cả lên hai xe xong, Ba Phước trờ vào. Tớ hóa đơn được đưa ra, ông chủ shọp thời trang Toàn Càu kiêm nhà mần thơ bĩu môi, dõng dạc từng tiếng:

  - Gấp lắm rồi! tôi phải mang bia về trước kẻo chư vị thi sĩ cổ thụ giận thì khổ. Chú Bảnh ngồi đây, ba mươi giây sau tôi quay lại thanh toán, puốc-poa hai em gái rồi rước chú đi luôn. Ô-kê…ông chủ đầm tôm?

   Sáu chai bi chứa trong cái bao tử lép kẹp quần đảo Tư Bảnh muốn quên hết sự đời để hưởng thụ niềm vui từ trên trời rơi xuống. Anh vỗ tay lên bàn, giọng nhừa nhựa:

  - Ô thì ô! Ông chủ…à quên…anh Ba cứ yên trí đi cho nhanh, để đây em. Thằng này dư sức qua…cầu khỉ mà!

   Ngó hai chiếc xe xa dần, hai cô tiếp viên trầm ngâm, nghi ngại liếc chừng “con tin” bèo nhèo, đờ đẫn từ từ gục xuống bàn…

   Mặt trời đứng bóng. Ông chủ quán Bồng Lai to béo, mặt đỏ gay như gà chọi, phục phịch tới chỗ Tư Bảnh, hầm hầm xòe bàn tay hộ pháp kéo cổ anh lay tỉnh. Ông hất hàm sẳng giọng:

- Nào…anh bạn làm ơn trả tiền cho tôi còn dọn dẹp!

Tư Bảnh dụi mắt ngáp dài, bàng hoàng nhớ lại diễn biến từ sáng tới giờ rồi hốt hoảng:

  - Anh…ông Ba Phước chủ “sốp” Toàn Cầu chưa đến thanh toán sao? Ổng bảo về gặp các nhà thơ…

   Chủ quán cau mày vung nắm đấm lên, gầm gừ:

  - Thơ với thẩn! cả mấy phường xã quanh đây chẳng ai biết tên cha căng chú kiết Ba Phước nào cả…Xùy tiền ra rồi mặc sức đi tìm hắn!

   Bủn rủn tay chân, tâm trí rối bời, Tư Bảnh luống cuống mở bung giỏ đệm ra, phân trần:

  - Ông chủ thông cảm! tôi đi làm thuê rồi được mời vô đây nhậu, đâu biết ất giáp gì? ổng có cái biệt thự vẽ hình đầu chó…

   Trợn trừng cặp mắt ốc nhồi, ông chủ quán thô bạo ấn vai anh buộc ngồi xuống, quát to:

  - Hừ…biệt thự cóc khô! Loại hợp đồng chơi quỵt này còn dám mạo nhận chủ đầm tôm để cọ vai, vuốt má tiếp viên, thiệt ứa gan. Định giả ngây giả dại tìm cơ hội đánh bài chuồn theo hử? Ngồi yên đấy, tao sẽ mời công an tới xử lý. Nằm nhà đá vài tháng cho biết thân!

   Mồ hôi lạnh túa ra sống lưng,  giỏ đệm tuột khỏi tay Tư Bảnh xổ ra nền gạch bộ quần áo cũ, cái ca nhựa sứt quai cùng mớ vật dụng linh tinh. Anh rơm rớm nước mắt tự trách mình ngây ngô, dại dột đến nỗi bị lừa một vố đau điếng, nhận lãnh tất cả hậu quả đắng cay. Biết làm sao đây nè trời? Liếc ông chủ quán quạu quọ đặt mạnh ống điện thoại xuống cái cộp như…hồi chuông báo tử, Tư Bảnh giật mình thót ruột, lầm bầm: “Ba Phước ơi! Tôi với ông như mây trôi gió thoảng, không nợ nần nhau, sao lại nỡ trải lòng…gài tôi dính độ ngặt nghèo như vầy? Hai mươi sào ruộng, một vụ mùa chưa chắc đủ chi trả cho món nợ đời này, rồi còn tiền cơm ghe bè bạn..thăm nuôi nữa. Trước lúc lên đây, vợ mình đã dặn mẻ răng là bôn ba giữa chốn xô bồ thị phi nên cẩn trọng…Thạch Sanh thì ít, Lý Thông thì nhiều…Giờ hiểu ra đã muộn!”.

BỘ XƯƠNG HỔ

Nguyễn Kim

   Trí đang cào gom đậu giống phơi trước sân nhà cho vô bao thì một thanh niên trạc ba mươi tuổi dừng xe máy bước vào. Anh ta gật đầu chào chủ nhà rồi tự nhiên ngồi xuống bậc thềm, cười thân thiện :

  - Tôi tên Thức ở huyện bên, có con trăn khá lớn cần bán gấp nhưng chưa gặp mối. Nếu được thì anh lấy giúp, tôi để giá rẻ cho…

   Trí ngừng tay ngẩng lên quan sát người khách dáng dấp linh lợi, đắn đo:

  - Thật ra vùng này thỉnh thoảng cũng có người mua bán thú rừng, nhưng từ khi có lệnh cấm và kiểm lâm tuần tra thường xuyên thì họ vắng bớt. Tôi chỉ làm rẫy, mua trăn làm gì đây?

   Người thanh niên tên Thức cố thuyết phục:

  - Tôi biết anh có điều kiện thuận lợi nên mới tìm hợp tác. Bước đầu anh cho tôi gởi con trăn lại đây, định giá là 400 ngàn, anh hưởng 10%. Ai trả cao hơn, tiền chênh lệch thuộc về anh luôn. Tôi bảo đảm anh có lợi mà chẳng tốn công sức gì hết!

   Trí suy nghĩ một lúc, dè dặt hỏi lại :

  - Lỡ kiểm lâm kiểm tra, liệu tôi có vi phạm pháp luật không?

   Thức cười đáp chắc nịch :

  - Trăn nhà có một con chứ nào phải anh tàng trử hoặc vận chuyển số lượng lớn không nguồn gốc mà lo xa…

   Ra xe vác bao tải đựng con trăn to cỡ bắp chân thả vào chuồng thỏ bỏ trống của Trí xong, Thức bắt tay chủ nhà:

  - Cảm ơn anh! vài hôm tôi quay lại, nếu được mình tính tiếp chuyện lớn hơn…

   Xe chạy xa dần, Trí ngó con trăn đang nằm khoanh tròn, lẩm bẩm:

  - Cũng tốt, mình chẳng mất mát chi trong chuyện này!

 …Vận may như mỉm cười với Trí. Ngay trưa hôm sau, một ông khách mang ba lô dáng vẻ phong trần, ngoài 50 tuổi, ghé vào nhà xin nước uống tình cờ thấy con trăn liền hỏi mua. Nhớ lời Thức dặn, Trí hờ hững kêu giá 600 ngàn đồng. Cò kè thêm bớt một hồi, ông khách đồng ý mua con trăn giá 550 ngàn. Tất nhiên Trí chịu ngay sau vài phút giả vờ tiếc rẻ. Trả tiền xong, ông khách kề tai anh dặn nhỏ :

  - Mua bán thú rừng là nghề của tôi mười năm nay. Gặp những thứ  thế này hoặc cao cấp hơn như mật gấu, bao tử nhím, xương khỉ, xương cọp…, chú gọi cho tôi theo số di động là…Làm ăn với tôi, chú an tâm có lãi nhiều mà khỏi lo bị ép giá. Nhưng phải tuyệt đối kín miệng!

   Mua bán sòng phẳng, nhanh chóng lại được sự tin cậy của ông khách dễ mến, Trí càng thấy vai trò trung gian của mình vừa ít tốn công sức, chẳng cần vốn liếng mà hưởng tiền huê hồng, chênh lệch ngon lành thì còn gì bằng!

   Mấy ngày sau, khi Thức đến nghe Trí báo cho biết đã bán được con trăn, anh ta reo lên:

  - Tin lời tôi chưa? Anh gởi lại tôi 350 ngàn thôi, y như giao kết. Mua bán suôn sẻ có lẽ do mình hợp mạng nhau, cứ làm tới tới thì khá lên mấy hồi. À…chẳng biết tôi có nên nói ra việc này với anh không?

   Trí phấn khởi hối thúc :

  - Sao lại không? đã có sự tin cậy nhau rồi…

   Ngó trước ngó sau, Thức mở túi vải đeo bên thắt lưng lấy ra một vật, nâng niu cẩn thận, thì thầm :

  - Đây là…sừng tê giác châu Phi, chắc xưa nay anh chưa từng thấy. Tiếc là sừng hơi non nên giá trị không được cao, chỉ 8 triệu bạc thôi. Người ta đang săn lùng loại này ráo riết lắm. Anh cứ kêu giá lên, chuyện thanh toán như cũ…

   Nhìn đoạn sừng đen nhánh dài chưa đầy gang tay, Trí thắc mắc:

  - Nó công dụng chi mà giá tới 8 triệu?

   Thức lắc đầu cười xòa, kiên nhẫn giải thích:

  - Trong y học, sừng tê giác trị các chứng bệnh nan y bằng cách mài lấy ít bột pha chế thành dược liệu, hiệu quả như…thuốc tiên. Nhưng nếu dùng không đúng phương pháp sẽ..tẩu hỏa nhập ma, tâm cuồng vọng động hoặc tàn phế suốt đời đấy. Anh chưa biết loại rượu Thái Hòa cao tửu, Càn Long đại bổ tửu, Khang Hy bách giao tửu…ngày xưa các vị vua chúa uống, ngoài bào ngư, mật gấu, sâm nhung, nhất thiết phải có thêm bột sừng tê giác, nếu thiếu nó thì coi như bỏ đi. Giá sừng tê giác loại một hiện nay có thể lên đến hàng chục ngàn đô la Mỹ là thường. Cái này bán giá rất hời, tôi quí anh thật thà nên mới dám giao. Anh nhận không?

   Nghe nói bùi tai, Trí nhanh chóng đồng ý. Thức vừa đi, anh ra bưu điện xã gọi theo số di động của ông khách mua trăn lúc trước để thương lượng. Hai ngày sau, ông ta đến xem kỹ cái sừng tê giác rồi trã 9 triệu với sự mừng rỡ ra mặt…

 …Cầm số tiền 7 triệu đút túi, Thức lại gởi Trí bao xương khô quắt mà anh ta gọi là xương hổ. Lần này Thức trầm ngâm nói:

  - Mười tám ký xương hổ này, tôi định giá 5 triệu cho một ký, vốn làm ăn khá lớn đấy. Thời giá thị trường phải trên 7 triệu, tôi thì chủ trương ăn ít no lâu nên độ rày ít ra mặt mua bán. Anh định thế nào? tôi không ép. Có điều , sáng mai tôi có hẹn mua một số hàng đặc biệt, ngoài tiền đặt cọc còn thiếu khoảng 80 triệu. Gán lại bao xương này hoặc khất nợ cũng dễ dàng, nhưng tính tôi trọng chữ tín. Nói thật, anh lo giúp tôi khoản này, nay mai tôi chơi đẹp cho anh…hết hồn chơi!

   Ngẫm nghĩ, chỉ hơn tuần lễ mà mình đã lợi hơn hai triệu bạc, Trí tin tưởng giải quyết xong vụ xương hổ sẽ được nhiều hơn. Để ăn chắc, anh kiếm cớ bảo Thức ngồi đợi rồi vọt xe nhanh ra xã điện hỏi ông khách quen đã qua hai lần tiếp xúc. Sốt ruột chờ ông giao dịch mối lái cả 15 phút, sau đó ông điện lại giao hẹn trong ngày mai sẽ đến mua toàn bộ số xương hổ với giá 6 triệu đồng một ký. Nghe mà lùng bùng lổ tai, Trí nhẩm tính mình sẽ hưởng tiền huê hồng cùng chênh lệch gần…30 triệu bạc chỉ trong thới gian ngắn, có mơ còn chưa được ! Anh chạy đến nhà những người họ hàng thân thiết nói khéo vay được 30 triệu nhập vào tiền dành dụm xây nhà là vừa đủ số Thức đang cần gấp. Tất nhiên, anh chẳng dại gì nói mình mua…xương hổ. Nhận tiền, Thức còn ngồi lại uống vài ly rượu với chủ nhà, kể những chuyện đường rừng kỳ bí đầy thú vị mà Trí chưa từng nghe. Lên xe, Thức không quên nhắc nhở:

  - Hổ thuộc động vật cầm săn bắt gất gao nên giờ cũng không còn nhiều nữa! Bọn lái dụ ngọt cỡ nào, anh cứ lừng khừng hét giá cao là vô mánh ngay…Lạ thật! mới quen anh mà tôi cảm thấy chuyện mình gặp nhau làm ăn toàn thuận lợi, cơ trời sắp đặt chăng ? Chuyến sau tôi sẽ tặng anh cái móng cọp Lào lấy hên…

 …Khách đi rồi, xem lại bao xương hổ, Trí rùng mình bởi từ mớ lổn ngổn xông lên mùi mốc meo, khai nồng. Ôi! vậy mà đã một thời lừng lẫy danh tiếng chúa sơn lâm. Nhớ lại, anh đã thấy có người mua một cục cao xương hổ bằng ngón tay cái giá 300 ngàn, bao nhiêu xương đây giá 80 triệu quá rẻ! Thăm thử thùng đậu giống ủ đã nẩy mầm, Trí tặc lưỡi chần chừ… “dể trót lọt vụ này rồi gieo tỉa hẳn chưa muộn!”. Mai mốt mình phải sắm cái a lô di động, cơ hội làm ăn còn dài dài mà thiếu phương tiện thông tin thì quả là yếu pin. Cuối tháng này, vợ con lên thấy mình…lột xác chắc phải vỗ tay bái phục!

   Trông ngóng ông khách “uy tín” đến héo ruột héo gan, gọi điện mỗi ngày mấy lượt vẫn không gặp, Trí bắt đầu lo lắng. Muốn liên lạc với Thức cũng vô phương, anh ta nào cho biết số máy hoặc địa chỉ. Chẳng lẽ họ đều gặp…tai nạn giao thông hay bị…thần rừng vặn cổ chết hết hay sao? Ngoài vốn nhà, số tiền 30 triệu là mượn tạm, chủ nhật tới phải trả cho người ta xoay xở chi phí phân bón, công xá rẫy nương. Cù cưa lơ mơ hoài, có khi…chết cả chùm!

 …Nửa tháng trôi qua, Trí mất ăn mất ngủ, hốc hác chạy đôn đáo khắp xã, khắp huyện để truy tìm hai kẻ gian manh, giờ như bóng chim tăm cá. Anh bàng hoàng nhận ra mình hoàn toàn chẳng biết chút gì về nhân thân của họ. Nợ đòi ráo riết, Trí bí thế đành viết cái đơn rồi vác bao “xương hổ” lên công an xã trình báo sự việc. Cùng trường hợp tương tự trên, huyện bên cũng có một số người mất tiền, không ai dưới 30 triệu đồng. Rõ ràng là tên gởi hàng và lão khách mua đã thông đồng sắp đặt “kịch bản” nhiều tập, khéo léo dẫn dắt từng bước những ai nhẹ dạ, hàm lợi vào cái bẫy ngọt ngào…

   Gằm đầu ngồi sầu đời bên chai rượu, cầm trên tay xấp đơn từ, giấy mượn nợ, giấy triệu tập, lòng Trí rối bời. Anh chợt giật mình khi nghe tiếng vợ ngoài cửa :

  - Ủa! sáng nay anh không ra rẫy sao? bộ mệt trong mình hả?

  Giọng thằng con trai liến thoắng tiếp theo:

  - Ba mệt gì mà mệt! ngồi thong dong uống rượu thì chắc có chuyện vui lắm…Má ơi ! dám ba gặp may bẫy được thú rừng chồn, mển…làm mồi nhậu, sướng thiệt nghen !

   Bỗng dưng Trí nhếch mép cười, cái cười tê tái chạnh lòng

NGƯỜI GIÀ CŨNG KHỔ!

NGUYỄN KIM

   Chống gậy đi men theo lề đường, ông Hai cứ lắc đầu quầy quậy để từ chối những lời đon đả mời chào của các chú xe ôm đậu ngang dọc búa xua. Tới ngã tư, ông Hai đứng chỗ vạch sơn dành cho bộ hành rồi thừ người ngó dòng xe cộ tấp nập, họ vặn vẹo lạng lách, rít thắng, tăng ga…cứ như ai cũng có việc cực kỳ khẩn cấp. Nhà họ bị động đất hay…bồ nhí bị ốm? Làm sao băng qua đây nè trời? Thời may chiếc xe ba gát chở hàng cao nghễu nghện bị sự cố đứt dây khựng lại, ông nhân đó rình rình nép theo vượt được một phần ba đường rồi bế tắc, đành đứng chịu trận như cái thí điểm bùng binh sống. Xe tài, xe con chạy phần đường bên kia vùn vụt, còn bên này xe gắn máy mặc tình lao ào ào; chẳng ai chịu nhường ai. Một chiếc Wave quẹt mạnh vào giỏ đệm xách trên tay, ông Hai loạng choạng xoay người nửa vòng và kịp nghiêng đầu nhảy trái, tránh kịp hai thằng ôn dịch chạy xe phân khồi lớn định vổ lấy cái nón cối của ông. Thằng ngồi sau còn quay lại lè lưỡi, nhe răng cười hô hố. đúng loại…quái tượng!. Đang tình thế tiến thối lưỡng nan thì một cô gái xinh đẹp, mắt xanh môi đỏ, mặc váy ngắn cực kỳ…không biết từ đâu “hiện” ra đứng sát ông, cười tươi tắn:

  - Ông già…Hai! (hi)..

   Ngó trân trối cô gái, ông thầm nghĩ “Con nhỏ..dễ thương mà lễ phép quá…Ủa! nó con cháu nhà ai mà biết mình thứ Hai vậy ta?”. “Con nhỏ dễ thương” ỏn ẻn tiếp:

  - Bác để cháu đưa giúp qua đường…Thanh niên ngồi uống cà phê, tán gẫu đầy quán chỉ biết chong mắt ngó, chẳng một ai biết thương lấy…thân già!

   Một tay ân cần choàng qua hông ông Hai, tay kia xách giỏ đệm nặng trịch trái cây vườn, cô gái dìu ông từng bước, từng bước tránh xe. Cũng ngộ thiệt, xe cộ như có con mắt nhìn, biết nhường đường người đẹp. Ông Hai cảm động móc khăn lau mồ hôi trán, thổn thức trong lòng “Đi xe buýt nhồi nhét quá tải tới điểm dừng, thằng lơ thiếu điều đạp mình xuống. May là đời còn có quới nhơn, tiên nữ…thế thiên hành đạo!”. Mùi nước hoa thơm phức đưa vào mũi khiến ông Hai khỏe ra. Chưa qua hết đường, chợt cô gái buông giỏ đệm xuống và nói cộc lốc:

  - Xong rồi! ông già chịu khó bươn chãi một mình nghen…Bảo trọng!

   Cô ngồi lên yên một chiếc Nouvo trong đoàn xe gần chục chiếc vừa trờ tới, ai cũng ăn mặc rất “mốt”, có mấy người ngồi ngược sau xe, vai vác Camera với vẻ mặt nghiêm trọng. Một ông đưa ngón tay cái lên, hét to:

  - Cưng diễn đoạn này rất đạt, cảm xúc đấy! Thôi…gô…gô…

   Những chiếc xe vụt nhanh, xả khói mù mịt. Ông Hai đứng ngẩn ngơ ngó mấy trái cam trong giỏ đệm lăn ra bị cán nát, nghe loáng thoáng tiếng ai đó nói:

- Ê kíp làm phim quảng cáo đấy…Cô người mẫu X. diễn xuất trông dịu dàng, khả ái quá. Còn ông già đóng vai phụ…dở ẹt!

TRÚNG SỐ ĐỘC ĐẮC – NIỀM VUI VÀ NỖI BUỒN

NGUYỄN – KIM

   Với chuyện mua vé số, ai cũng nuôi hy vọng ông Thần tài chiếu cố một phát ngon lành để có cơ hội đổi đời, Còn đổi đời như thế nào, theo hướng đi lên hoặc đi xuống lại là vấn đề khác. Lúc trước, vé số giá 2000 đồng/1 vé coi bộ thích hợp với túi tiền của người lao động, nông dân…để có cái chiều chiều dò tới dò lui, xuýt xoa tiếc rẽ hay vui mừng cho dù chỉ trúng giải hai con số thôi. Nay có lẽ vì đồng tiền mất giá nên vé số lên 5000 đồng/1 vé và hiện nay các công ty xổ số phát hành thêm loại vé 10.000 đồng. Ngoại trừ giới thừa tiền cho là gọn nhẹ, bớt phải lấy “cặp” nặng túi, giới bình dân có phần ngại ngấn. Chỉ đắn đo, ngần ngại được một thời gian rồi đâu lại vào đấy bởi với suy nghĩ thỉnh thoảng nhín mua một đôi vé cho có với thiên hạ, như mua sự may mắn ấy mà. Căng thẳng, hồi hộp giây phút, lỡ trật thì tự nhủ cũng vào công quỹ, phúc lợi chung. Mua số riết rồi quen, ngày nào không mua thấy như thiếu thiếu chi đó. Nghe các bà, các chị em bán vé số kháo nhau “hôm nay có giải đặc biệt về…” thì nôn nao, tiếc nuối, mường tượng rằng ông Thần tài có khi đã “chấm”, mà mình vô tình bỏ qua cho…người khác hưởng lộc. Ai trúng số độc đắc cũng hả hê vui mừng bốc trời, nhưng thời gian tiếp theo việc sử dụng đồng tiền trời cho ấy như thế nào mới là vấn đề đáng nói…

   Anh tư C. hành nghề chạy xe honda ôm nhiều năm nay tại TX.Gò Công (Tiền Giang). Khách ít mà đồng nghiệp lại nhiều, chiếc SanYang của anh thì quá bèo nên khách thường chê. Ế ẫm, nợ nần linh tinh nên anh đành gửi phương tiện mưu sinh vào tiệm cầm đồ, tính toán tìm việc khác làm. Tới tháng chưa có tiền trả lãi, trưa nọ anh lang thang vào một quán cóc ngồi ngẫm sự đời. Đứa nhỏ bán vé số ở gần nhà tới kỳ kèo anh mua giúp 3 tờ vé số cặp còn lại. Bảo rằng chỉ còn đủ tiền trả ly cà phê, đứa nhỏ cứ nài ép anh mua thiếu cho bằng được, đành nhận. Chưa đầy hai giờ sau, anh như lên mây vì 3 tờ số ấy trúng ngay giải đặc biệt, được hơn 300 triệu. Bình tĩnh, anh C. lại đại lý đổi số thành tiền rồi đến cửa hàng xe máy rước chiếc Wave Alpha mới cáu thong dong chạy về nhà. Chị vợ vừa mở miệng cằn nhằn “Đi chơi còn bày đặt mượn xe người ta, không khéo để mất thì…bán nhà trả nợ !”. Anh cười khà khà, thảy chìa khóa xe cùng túi tiền nặng trịch lên bàn trước cặp mắt thất thần của vợ. Sau đó, anh mở một gian hàng bán tạp hóa nhỏ cho vợ trông, riêng anh cho tới bây giờ vẫn theo nghề chạy xe ôm. Hỏi thì anh cười trả lời “ Vợ mình giữ cái hậu cần là an toàn rồi. Phần mình quen nghề xe ôm, qua nghề khác mà chẳng rành rẽ thì…chết chắc !”.

   Có người thích ngồi quán cà phê chọn mua vé số của các chị em, quen mặt thành “mối”. Có người chỉ mua ở quầy số cho kín đáo và vì không chịu được sự quấy rầy, mời mọc dai dẵng của một thành phần trong đạo quân bán vé số.

Không ít người  ghi lại số bán để nhớ, biết tin khách nào trúng thì tới ngay nhà báo tin để được thưởng. Cũng là sự bình thường, nhưng phiền nỗi gặp phải các bà chị ưa phóng đại, thêm thắt ly kỳ quanh mấy tờ số trúng lớn. Rồi từ cái “thông tấn vĩa hè” đó, nhanh chóng được cập nhật từ ít thành nhiều, đôi khi gây lắm điều rắc rối. Chuyện vợ chồng một ông ở xã LB (huyện GCT-TG) đang trong giai đoạn hòa giải, nếu không thành sẽ đưa nhau ra tòa là một minh chứng. Ông trúng giải độc đắc 3 vé (loại 5000/1 vé) được hơn 300 triệu, thưởng cho người bán 300 ngàn đồng. Có lẽ chị ta chê ít hay sao đó mà rêu rao đầu làng cuối xóm rằng ông ấy trúng tới 10 vé, tức là hơn 1 tỉ bạc, người quen ai cũng tin thật kéo tới nhà chúc mừng liên tục. Bà vợ lúc đầu không tin mấy, nhưng sau hồ nghi cật vấn mãi khiến ông đổ quạu đính chính lộn xộn đầu đuôi. Ngày qua ngày, đinh ninh ông chồng giấu diếm…7 vé trúng, bà vợ lu loa mắng nhiếc, bêu xấu càng làm ông rối trí, bực bội rồi nổi giận kiếm chuyện trả đũa bởi sự không tin tưởng nhau. Kết cuộc thì gia đình này có nguy cơ tan đàn xẻ nghé vì…trúng số độc đắc !

   Tôi biết anh H. sống ở vùng quê thuộc xã P.T (TG) theo nghề mua bán gà vịt con. Chuyện làm ăn không thuận lợi, vợ chồng anh mang số nợ gần 20 triệu, thuộc dạng nợ khó đòi. May mắn là trong lần lên TP.HCM thăm người thân bệnh, ra bến xe anh bấm bụng mua 6 tờ vé số, về tới nhà dò trúng giải đặc biệt, mỗi vé 125 triệu. Bà con khuyên anh nên liệu cất lại nhà cho an tâm bởi căn nhà lá cũ sắp hư. Anh không nghe, tậu hai xe ép nước mía, bàn ghế và thuê hai cô gái “coi được” trong ấp ra bán, lương tháng trả hai người hơn triệu rưỡi  bạc. Địa điềm nơi này ít khách, ngày bán được hai chục ly là mừng. Chơi nổi sắm chiếc Nouvo, trang bị ĐTDĐ đời mới, anh kết giao bạn bè tập tành ăn chơi. Tội nghiệp vợ anh quá hiền lành, thụ động, tới nỗi bà con bức xúc khuyên chị nên cứng rắn nhắc nhỡ chồng lo làm ăn, giữ tiền nuôi con ăn học. Lúc đầu chị còn ừ hữ, sau tỏ vẻ khó chịu và không thèm nghe ai nói nữa. Rồi tiếp theo, anh làm áp lực buộc chị bằng lòng cho một cô bán nước mía “lỡ thương” cùng ăn ở tại nhà. Ăn chơi, bao biện như vậy đến núi vàng cũng sụp, không sớm thì muộn. Một năm rưỡi sau, anh bán dần tài sản để trả nợ. Vợ anh héo hắt, nằm bệnh viện mấy lượt. Căn nhà lá thì xiêu vẹo, sắp sập tới nơi. Lần sau cùng, tôi gặp anh đầu đội nón lá rách bươm, tay cầm cây sào chăn bầy vịt giữa đồng, trời nắng chang chang; trông thật cám cảnh. Sáu tờ vé số trúng giải đặc biệt được giải quyết khá nhanh!

   Những người mua vé số dạng bất kỳ thường không hay chọn lựa số. Họ quan niệm “số tìm người” chớ làm sao nắm bắt được “vòng quay định mệnh”. Nhiều trường hợp tình cờ, ngẫu nhiên đã xảy ra. Năm rồi, ở xã T.P (huyện GCĐ) có một cặp số hơn 50 vé ế ẫm từ TX.Gò Công đưa về bán lẻ tẻ. Chiều đó, người dân trong xã xôn xao vì có hơn 20 người trúng giải đặc biệt. Ai cũng cho là đáng mừng đối với những người nông dân có thu nhập thấp. Rồi chuyện một đứa bé nhà nghèo  ngoài giờ học phải đi bán vé số. Gần giờ xổ, nó mang về nhà 2 vé không bán được bởi khách chê số xấu. Người cha đang mắng con mê chơi thì bà mẹ cầm vé số ra chợ dò cầu may. Lúc sau hớt hãi chạy về, mặt mày tái xanh báo tin trúng độc đắc 250 triệu đồng. Đúng là trời ngó xuống !

   Tại một quán cà phê trên đường T.Đ (TX.Gò Công-TG) tôi tận mắt chứng kiến một trường hợp khá hy hữu. Hai anh bạn ngồi chung bàn cà phê sáng, chị bán vé số mời mua với hai cặp số trên tay, mỗi cặp trên 50 vé'. Một anh rút 2 tờ số đài Vũng Tàu mà không cần xem số. Anh kia  nghe bạn xui mua số cùng cặp với mình thì cười ra vẻ sành sõi :

  - Mua số như bồ chỉ phí tiền ! Giải đặc biệt đài Vũng Tàu vừa ra chưa đầy mươi ngày, giờ…hết cửa rồi !

  Rồi anh chọn lấy 5 tờ số đài khác, lòng đầy hy vọng. Chị bán vé số mời khắp các bàn khách trong quán, nhưng chẳng một ai mua nữa. Bước ra, chị trượt chân xây xước nên đem tất cả vé số trả lại đại lý. Đại lý chia số cho mấy đứa nhỏ bán lẽ khắp nơi. Buổi chiều, đài Vũng Tàu ra số giải độc đắc và anh mua 2 vé lúc sáng trúng được 250 triệu. Anh bạn mua 5 vé đài khác trật, tiếc hùi hụi. Thế mới biết của hoạnh tài không cứ ai mong mà được !

  Gần khu phố tôi ở có một chị chuyên nghề mua ve chai, phế liệu gần 20 năm nay. Cuộc sống vẫn bình thản trôi qua nếu như năm kia chị không trúng số được gần 200 triệu. Sửa lại nhà 30 triệu, tiền còn lại chị cho nhiều chị em bạn ngày trước vay mượn mỗi khi nghe họ than vãn. Và tai hại hơn, chị bày ra “dịch vụ” bán hàng trả góp từ gói bột ngọt cho tới cái tủ, giường, tivi, tủ lạnh…Chữ nghĩa ít ỏi, tính toán không thông, thời gian sau chị phải vất vã ngày đêm thu nợ vét mót, vừa cực thân vừa khổ tâm, theo lời chị kể. Bây giờ, hàng ngày chị tiếp tục quang gánh trên vai, bao ưu tư lo buồn cố bỏ hết, không muốn ai nhắc đến  chuyện”năm kia trúng số” làm chi cho thêm giận mình !

   Dịp gần tết vừa qua, dư luận TX.Gò Công xôn xao bàn tán về một chuyện trúng số giải đặc biệt khá lý thú, số tiền thưởng hơn…10 tỉ đồng. Nghe kề lại (chỉ nghe thôi) rằng trong bàn nhậu cuối tuần giữa những người bạn thân, chị bán vé số đến mời mua một cặp số 95 vé, mỗi vé 5000 đồng. Tính ra số tiền lớn, ai cũng lắc đầu. Một anh xem số chê số 0 đầu…không thích, nhưng mượn số dò và nói “ Nếu tôi trúng đủ tiền sẽ lầy nguyên cặp giúp chị”. Bất ngờ trúng được 2 triệu, anh giữ lời mua 95 vé và chợi đẹp tặng các bạn tổng cộng 30 vé, còn 65 vé giữ lại. Chiều đó, tin “sét đánh ngang tai” đến. Cặp 95 vé số ấy trúng ngay giải đặc biệt, mỗi vé 125 triệu đồng. Anh chàng số đỏ tặng ngay chị bán vé số 1 vé để làm vốn, một cử chỉ hào phóng mà chưa chắc ai cũng làm được. Đúng là số tìm người !

   Đồng tiền không làm nên tất cả, nhưng không có đồng tiền thì cũng…chẳng làm được điều gì, cho dù nhỏ nhặt. Mua số để nuôi hy vọng trúng số độc đắc là ước mơ chính đáng và…lương thiện, nhưng công bằng mà nói  đó cũng là một dạng…trò chơi có thắng có thua với rất nhiều người tham gia. Mà bất cứ trò chơi nào mất đi ý nghĩa ban đầu, đặt giải trúng bằng tiền với mức độ ngày càng cao thì sự tham gia, đam mê đến quá độ đều không tốt. Một ông cụ tuổi gần đất xa trời chiều nào cũng mua 1 tờ vé số đã nói “ Qua già rồi, con cháu nuôi ăn hổng thiếu. Mua chơi một tờ cái chính là cho người bán mừng, có trúng cũng đưa con cháu hết, để làm gì ?”. Tôi chợt nhớ một đoạn trong bài thơ “Người bán ước mơ” (của Võ Tấn Cường) :

          “ Người mua ai cũng nghĩ mình trúng số

             Người bán ước mơ bao giờ dám mua vé số

             Họ kiếm tiền mua ước mơ còm cõi

             Ngày hai bữa cơm…”

   Tờ vé số là phương tiện kiếm sống của biết bao gia đình, đồng thời là hy vọng của người mua. Biết sao được “vòng quay định mệnh”, ngày mai mình có thể sẽ…trúng số độc đắc!

QUÁN KHUYA

Nguyễn Kim

                                                                                                                    (tay cắt tay bao nỡ

                                                                                                                      ruột cắt ruột sao đành…)

   Tôi không biết cái quán nhỏ ven đường của dì Ba, người hàng xóm được dựng lên từ khi nào, chỉ biết rằng lúc đến tuổi biết cầm tiền mua quà thì tôi đã thấy nó có sẵn rồi. Quán bán các món ăn chơi bình dân vặt vãnh mỗi thứ một ít: mía, cóc, ổi, khoai, trứng lộn, khô mực, khô đao…và dù bán ế hay đắt thì tới khoảng nửa đêm dì mới dọn về nhà. Tôi nhớ hai đứa con dì- thằng Minh, Mẫn- lúc nào cũng lẽo đẽo bên mẹ. Quán gần trụ đèn, dì Ba tính hiền nên bọn trẻ chúng tôi mến, thường đêm hay tụ tập ở đó để chơi. Người lớn rảnh rỗi cũng ra đây để chuyện trò, ăn vặt. Hồi ấy, đường sá chưa mở rộng như bây giờ nên cái sinh hoạt nhỏ nhoi, thân tình này rất quen thuộc, gần như cần thiết và không thể thiếu trong bất kỳ cái xóm nhỏ lao động nào. Tiếng búa đập khô, tiếng dao chặt mía, tiếng cười đùa…,những âm thanh đều đều theo năm tháng. Hai đứa con dì Ba thường bó gối ngồi gù gật ngủ đợi mẹ dọn quán để cùng về. Chồng dì làm nghề bốc vác cho một chành gạo ở Chợ lớn, chừng tuần lễ giang xe về thăm nhà một bữa, thường vào chập tối. Ông ghé quán để xoa đầu đứa này đứa kia, thân thiện. Tôi nhớ ông có vẻ mặt khắc khổ, buồn buồn, mái tóc hầu như lúc nào cũng trắng đục màu cám gạo. Một đêm đầu hè người ta đưa ông về, mặt mày xanh xao, hốc hác. Nghe người lớn nói ông bị ngã từ đòn dài xe tải xuống khi đang vác gạo, loại gạo bao trăm ký. Ông thổ huyết, sức khỏe suy kiệt nên dì Ba giữ luôn ở nhà chăm sóc. Bà con chòm xóm thương nên cũng thường xuyên qua lại giúp đỡ ít nhiều. Năm sau ông mất, đám tang nhà nghèo thật ảm đạm, thưa thớt. Tôi cùng đám bạn theo chiếc xe tang ra tới nhị tỳ, hổng biết sao trong cảnh ấy đứa nào cũng chảy nước mắt. Những đêm sau đó, hình như tiếng búa đập khô của dì Ba nghe rời rạc cầm chừng hơn. Chắc là do tôi hay suy tưởng vẩn vơ chăng?

   Nhà dì trong hẻm ngay sau nhà tôi nên mọi sinh hoạt bên nhau thường nghe biết được. Thằng Minh học sau tôi hai lớp, nó vẫn qua tôi chơi và đôi khi buột miệng than phiền về sự không…công bằng của dì Ba đối với hai anh em. Má tôi có lần nói khéo cùng dì:

  - Tụi nhỏ giờ mồ côi cha, dì nên thương đồng đều. Đừng để sau này lớn lên, đứa này lấn lướt, đứa kia tủi thân…tội nghiệp lắm!

   Dì vuốt mái tóc chớm hoa râm, giọng thật thà:

  - Biết vậy, nhưng tôi hổng biết lý do gì mình thương thằng Mẫn hơn. Hay lúc sinh nó khó khăn, bệnh hoạn rề rề, tôi ôm ấp riết mà ra?

   Vậy đó, quán dì Ba như cái trạm gác chứng kiến đủ các cảnh chia ly, sum họp, xe hoa, xe tang…thoáng qua rồi lắng đọng, lãng quên theo nhịp sống. Cơ cực là thế, nhưng dì giống cây tre cứng cỏi nghiêng ngã trước gió cho mầm măng nương tựa, tiện tặn nuôi hai con ăn học chẳng hề than vãn. Thời gian dần trôi, khi tôi đang theo năm cuối bậc trung học thì Minh xin nghỉ học để theo người chú họ lên Long Khánh vỡ đất hoang làm rẫy. Dì Ba rầy rà trách mắng cả đêm, sau cũng bằng lòng. Từ lúc ấy, tình thương người mẹ dồn hết cho Mẫn. Má tôi nói tính thằng này thâm trầm, chí cầu tiến nên dì Ba ngầm có kỳ vọng về nó. Học hết bậc trung học, Mẫn chuyển sang trường Kỹ thuật, ngành cơ khí. Minh thỉnh thoảng về, giúp mẹ chút tiền, ở nhà chơi đôi ngày lại đi, trông chững chạc cứng rắn hơn. Đến tuổi làm nghĩa vụ, Minh trúng tuyển và phục vụ tại một đơn vị lao động quốc phòng. Ngày tiễn con, như thường tình bao bà mẹ khác, dì Ba rưng rưng nước mắt. Mang hành trang lên vai, Minh cầm tay em xúc động:

  - Bổn phận thanh niên thì ai cũng phải vậy, tránh sao được,,,Em ráng học, sau này có việc làm ổn định giúp má!

   Tôi và có lẽ cả dì Ba hơi ngỡ ngàng khi Mẫn rụt nhanh tay và trả lời:

  - Tôi biết, anh khỏi nói…Thôi, anh đi cho sớm!

   Hai năm sau, Mẫn ra trường, nhận việc tại trung tâm dạy nghề huyện. Rồi Minh cũng xuất ngũ, lấy vợ. Vợ anh là cô gái nghèo bán sạp hàng rau cải ở chợ. Cuộc sống tuy khó khăn, nhưng dì Ba đỡ phần vất vã nhờ Mỹ, cô con dâu giỏi giang. Gánh hàng đêm đêm dọn ra, dọn về được chuyển từ đôi vai gầy gò sang đôi vai cứng cáp của Mỹ. Thái độ Mẫn đối với anh mình bỗng trở nên hời hợt, xa cách. Khi Mẫn gợi ý mẹ hỏi cưới Linh, cô gái con nhà khá giả ở thị xã thì dì Ba đắn đo và bộc lộ cùng má tôi:

  - Bên đàng gái biết nhà tôi nghèo, nhưng vẫn bằng lòng chắc vì thấy tụi nó thương nhau, tôi cũng mừng. Chỉ e rằng hai anh em đều có vợ mà sống chung một mái nhà, tránh sao khỏi sự va chạm, xích mích…

   Má tôi an ủi dì đừng quá băn khoăn, mai này trong nhà nên lấy tình ruột rà, đùm bọc mà đối xử nhau. Nhưng điều lo lắng của dì Ba thật đúng…

   Sau đám cưới, Linh càng ngày càng gây khó chịu cho những người xung quanh bởi tính ích kỷ, nhỏ nhen đến quá quắt. Nói chuyện với mẹ chồng, cô thường nói trổng, cộc lốc, thiếu tôn trọng. Tôi nghĩ có lẽ vì bản thân cô được gia đình chiều chuộng, bảo bọc và ỷ lại chồng có việc làm, đồng lương ổn định. Chiều nọ, đang sửa lại hàng rào sau nhà, tôi vô tình nghe Linh bực tức lớn tiếng cùng chồng:

  - Tôi dặn anh làm chủ quyền nhà cho xong, mai này mình có con rồi tranh chấp, thưa kiện phiền phức lắm. Với lại tôi muốn từ mai…”họ” dọn bếp riêng, ăn riêng, cứ chung đụng ràng buộc hoài hay sao?

   Mẫn bối rối, càu nhàu giọng yếu xìu:

  - Em nói nhỏ nhỏ, chuyện đó để từ từ tôi dàn xếp…Mà má có…chết ngay đâu, sao em vội vàng quá vậy?

  - Tôi lo vợ chồng ông Minh kia…Má thì nhằm nhò gì?

   Ngó ngoái qua thấy tôi, Mẫn như ngượng ngùng bỏ vào trong…

   Biết em mình hay nghe và bênh vực vợ bất kể đúng sai, nên những lúc nghe Linh xúc phạm mẹ, Minh dằn lòng lựa lúc thích hợp nhắc khéo Mẫn. Lời anh chẳng có tác dụng uốn nắn, chỉ khiến Mẫn từ chỗ hổ thẹn sinh ác cảm. Một đêm, dì Ba cùng Mỹ dọn hàng về đã hơn mười một giờ khuya thì Mẫn do tác động của vợ đã cố tình gây chuyện. Việc gạo tiền, bếp núc, sinh hoạt…được kể lể, chì chiết thêm vào bằng giọng the thé, chanh chua của Linh. Dì Ba bó gối bên hè nhà, buồn rầu, mệt mỏi:

  - Nhà mình hoàn cảnh nghèo thì anh em phải ráng chịu đựng, chia sẻ nhau…Hai con biểu má tính sao đây?

   Mẫn nóng nảy nói thẳng ra điều vợ mình nhồi nhét bấy lâu nay:

  - Tôi là con út, ở nhà này là đúng lý! Ai đó phải bươn chải chứ sống chung đụng, bám víu hoài biết chừng nào khá lên được. Sẵn đây tôi muốn má dẹp phứt chuyện bán quán khuya này cho xong. Có đói đâu mà má lo!

   Nghe không vừa ý, Minh hỏi lại em:

  - Mày suy nghĩ thiệt bụng điều vừa nói chưa?

   Dì Ba lắc đầu thở dài:

  - Cái quán nhỏ mấy chục năm nay, nhờ nó mà nuôi được anh em bây khôn lớn. Nghỉ bán má buồn lắm, dù gì cũng có đồng ra đồng vô. Đừng nặng nhẹ, chia rẽ với anh con, Mẫn ơi!

   Cuộc tranh cãi giữa hai anh em rất căng thẳng. Sáng hôm sau vì tự ái nên vợ chồng Minh cùng đứa con nhỏ rời nhà lên Long Khánh tá túc trên đất người chú họ, mang theo dòng nước mắt đau xót của bà mẹ. Tụi nhỏ trong xóm cỡ tuổi tôi ngày xưa cũng ít tụ tập ở quán. Chúng nó thích ăn những quà bánh ở các tiệm lớn và có thú vui mói mẻ hơn. Quán khuya bán thất thường được chửng ba tháng thì nghỉ hẳn. Vợ Mẫn sang một gian hàng tạp hóa ngoài chợ, bận bịu mua bán suốt ngày. Năm giờ sáng, dì Ba ra đứng trông hàng phụ tới trưa về nhà lo việc cơm nước. Tuổi già chậm chạp, bà mẹ chồng thường bị cô con dâu gay gắt từng lời đến mức khinh miệt. Chuyện ầm ĩ hàng ngày, hết nghe Mẫn quát tháo:

  - Trưa quá rồi sao má không lo đem cơm cho con Linh ăn…Nó đói bụng, quạu quọ chửi…ráng nghe đó!

   Lại tới Linh tàn nhẫn cạnh khóe:

  - Người già ít ai ngủ nhiều, tui thấy bà ăn no ngủ kỹ quá! Trời ngó xuống mà coi, tui thừa hưởng vàng bạc gì nhà này mà phải hầu hạ, nuôi báo cô riết!

   Một năm hai lần, vợ chồng Minh về thăm mẹ chưa đầy buổi rồi đi ngay cùng nỗi buồn cốt nhục xung khắc. Từ chợ về nhà ngang quán cũ ven đường đã rệu rã gần sập, dì Ba có thói quen dừng lại ngồi nghỉ chân một lúc. Đôi mắt dì buồn rầu, xa xăm như hồi tuởng những đêm khuya ngồi bán có hai con thơ cận kề, ấm cúng. Ngày xưa tuy nghèo nàn, bận rộn, thiếu hụt mà êm ấm. Hình ảnh đó cùng hoàn cảnh hiện tại của dì khiến tôi thật xúc động…

   Bận việc đi xa gần tháng, lúc trở về tôi mới biết tin dì Ba đã mất trước đó một tuần. Nghe kể lại lúc dì bệnh không ai ngó ngàng tới, chỉ nhờ bà con hàng xóm tốt bụng săn sóc hàng ngày. Bệnh dì trờ nặng, Mẫn đưa vào bệnh viện khu vực và được bác sĩ đề nghị chuyển lên bệnh viện tình điều trị. Nhưng vợ Mẫn nại lý do bận mua bán để trì huỡn, nhẫn tâm hơn là không cho chồng nhắn tin Minh biết. Qua ba ngày sau thì dì Ba mất, lặng lẽ giữa khuya. Minh đưa vợ con về chịu tang mẹ, khi việc hiếu đạo xong thì đi liền. Anh chỉ mang theo chiếc đòn gánh cong oằn bị vứt bỏ bên hè nhà, đó chính là gánh nặng thời gian, cơm áo của người mẹ suốt đời tần tảo, hy sinh vì con. Và tôi nghĩ thêm rằng, trong ký ức của Mẫn có lúc nào lắng đọng để nghe âm vang tiếng búa đâp khô, tiếng dao chặt mía, tiếng cười đùa…cũa quán khuya ngày xưa chăng?

NGUYỄN KIM

MỘT ĐÊM NHÀ TRỌ

NGUYỄN KIM

   Có một việc khá cấp bách buộc tôi phải qua đêm ở thành phố này để sớm mai còn kịp đón chuyến xe tốc hành về miền Tây. Đành vậy, đây cũng là thời gian thư giãn hiếm hoi sau những ngày tất bật. Đường phố lên đèn, tôi ngồi quán cà phê bờ sông nhìn sang bên kia cù lao, một điểm du lịch khá nổi tiếng. Ánh đèn lấp loáng mặt nước, ghe đò xuôi ngược đông vui. Tôi không vội tìm thuê chỗ nghỉ vì khi nghe hỏi thăm, chị chủ quán đã trấn an tôi bằng một câu thật dễ chịu:

  - Anh đừng lo! Cuối dãy phố ăn uống của người Hoa có căn nhà ngăn phòng cho thuê, dân ở đây thường gọi là phòng ngủ “năm mươi” vì giá bình dân, chỉ tốn năm chục ngàn là…thoải mái! Có điều sợ anh lạ chỗ…

   Rồi chị ngó tôi định nói thêm điều chi đó nhưng rồi chỉ cười, nét cười như đắn đo mà phải sau đêm này tôi mới loáng thoáng hiểu ý nghĩa. Xem đồng hồ đã gần chín giờ tối, tôi thả bộ đi theo lời chỉ dẫn lúc nãy. Một căn nhà khá rộng, xây cất kiểu xưa, vòm mái cầu kỳ, nay được tân trang lại coi khá kệch cỡm, lạ mắt. Trụ đèn phía trước tỏa ánh sáng nhạt nhòa dọi vào cánh cửa sắt kéo đóng kín. Tôi e dè gọi mấy tiếng rồi đứng đợi. Hút gần nửa điếu thuốc mới có người ra tiếp. Một bà cụ già, dáng thấp bé gầy gò, mặt trắng bệch, tóc xỏa trắng lù lù xuất hiện, khẽ đưa tay ra hiệu mời vào khiến tôi chợt có cảm giác như hoảng hốt. Bà cụ rất ít lời, làm thủ tục xong, ho vài tiếng rồi khào khào dặn:

  - Lên gác, phòng bên trái…Nhà vệ sinh dùng chung, tối ngủ nhớ khóa cửa, mất đồ đây không chịu!

   Đi được vài bước, tôi quay lại:

  - Chừng năm giờ bà mở cửa giúp cho cháu đi…

   Bà cụ chỉ nhìn tôi, không trả lời. Đường lên cầu thang tối om, ngõ ngách lung tung, đột ngột tôi nhận ra một bàn thờ với di ảnh phóng to một người lớn tuổi, lông mày rậm, má hóp; chắc là ông cụ nhà. Ngọn đèn bóng nhỏ hiu hiu, cây nhang điện cùng màu đỏ tươi, vài tấm giản tang chế treo xập xệ bên trên. Tôi như giật mình chao đão, nhìn hoài đôi mắt người quá cố lạnh lùng, nghiêm khắc. Tiếng bà cụ từ đâu vọng lại làm tôi giật mình:

  - Sao không đi còn đứng đó làm gì?

   Đi được nửa thang gác, tôi lại tò mò quan sát phía hành lang sau. Bóng đèn tròn vàng oạch cho thấy một chiếc ghế bố thấp tè, mùng giăng trắng toát xập xòa. Mấy con chuột cống chạy khua lạch cạch chén dĩa ngỗn ngang dưới chân ghế. Từ mớ hỗn độn ấy, giọng người mê ngủ ú ớ nói sãng, đậm đặc trong cổ họng vang lên ồm ồm. Bà cụ lê dép lệt sệt, đay nghiến:

  - Thằng khùng báo đời! Mày chết theo cha mày luôn cho tao yên thân…Đồ oan gia nghiệp báo!

   Tôi thoáng sợ hãi bước nhanh lên phòng, bật đèn ngó quanh cho quen chỗ rồi tắt. Có lẽ nghĩ trong bóng tối không ai thấy ai mà tôi an tâm hơn. Cái không khí ngột ngạt, lạ lẫm, âm u pha chút gì như ám ảnh, lẩn khuất bao trùm khiến tôi không sao ngủ được; chỉ mong trời mau sáng. Giường nhỏ lót tấm nệm mỏng nhàu nhè, hai gối, một chăn bốc mùi, không mùng, muỗi kêu vo ve. Nhà trọ này im ắng, ít khách hay người ta vào là ngủ ngay, không như tôi. Ánh trăng hạ tuần lờ mờ bên ngoài cánh cửa kính trông ra ban-công thôi thúc tôi ra ngoài hút điếu thuốc. Nhưng cánh cửa gài chốt, bóp bằng ổ khóa nặng trịch làm tôi thất vọng. Nghĩ dại, nếu nhà dưới xảy ra hỏa hoạn, tôi chỉ còn nước cam chịu cảnh bị thiêu sống mà thôi. Trần nhà chẳng đóng la-phông, những thanh sắt tròn đen kịt làm sườn có lẽ từ thời Tây thì phải. Nhà trọ kiểu gì mà khách ở chẳng khác tù nhân! Tôi nằm trằn trọc nghe tắc kè tặc lưỡi buồn nản, đếm thử ba lần toàn là số lẻ. Hình như tôi mơ màng khá lâu, xem đồng hồ mới hơn hai giờ sáng. Nghe tiếng công nhân vệ sinh làm việc dưới đường, tiếng xe rú ga ầm ỉ…tôi thèm được hít thở khí trời trong lành như họ quá. Phía dưới cầu thang bật lên giọng ê a dọc kinh cầu siêu phát bằng máy, âm thanh đều đều vô cảm hòa tiếng mõ lốc cốc trầm buồn, u linh xa thẳm. Bà cụ thức suốt đêm chắc? Gã nằm ghế bố chợt cười sằng sặc, cười nghẹn ngào rồi ho sù sụ, giữa khuya nghe nổi gai ốc. Con trai bà có thật khùng như lời bà mắng? Lạy trời hắn đừng nổi…cơn điên bất chợt!.Tôi lò mò xem lại chốt cửa, chặn thêm cái ghế sắt rồi nằm sát mép tường. Đầu óc tôi cố bận bịu suy nghĩ về những khó khăn, phức tạp trong công việc của mình để quên đi chuyện nhìn cây kim đồng hồ di chuyển è ạch. Sau một lúc tự trách mình để sa vào hoàn cảnh không thoải mái này, tôi nảy ra một ý nhỏ nhen là cái thực tại, cái trước mắt mới là đáng quan tâm nhất. Qua khe hở, tôi thấy quán cà phê xéo nhà trọ lục tục dọn bàn ghế, đun nước. Thở phào nhẹ nhõm, tôi mang túi xách lên vai, mở cửa, nhìn lần cuối gian phòng tù túng và thề rằng không bao giờ gặp lại. Bước xuống nhà, bất giác tôi đứng lại nhìn bàn thờ leo lét đèn, nhang, ánh mắt ông cụ khiến tôi rùng mình. Không hiểu sao tôi lùi chỗ hành lang nhà sau xem kỹ hơn. Một cái đầu bù xù thòi ra khỏi mép mùng ngó tôi, hai con mắt trô trố, miệng nhe răng như cười cợt kẻ yếu bóng vía. Sợi dây xích khóa chân hắn ta kéo căng, nối liền với cột nhà, thật khiếp! Đèn phòng ngoài bật sáng, giọng bà cụ gắt gỏng:

  - Cậu dặn năm giờ, mới bốn rưỡi mà đi đâu? bộ gấp lắm sao?

  - Dạ…bà thông cảm, cháu không ngủ được nên…

   Mở hai lần khóa, bà kéo cửa sắt vừa đủ cho tôi lách ra rồi lúi húi bóp khóa, tắt đèn ngay. Tôi còn đứng chỗ cột đèn để tận hưởng sự mát mẻ, thông thoáng của buổi sớm đầu ngày một lúc mới bước sang quán cà phê đã có vài ba người khách…

   Ngồi cùng bàn với hai ông già ngoài bảy mươi, tôi hớp ngụm cà phê thơm nóng và tỉnh táo tức thì. Rút điếu thuốc tôi mời, một ông gợi chuyện, hỏi thăm này nọ. Ông kề bên góp lời:

  - Chú em đây mới ngủ đêm ở nhà trọ “năm mươi” hả? Anh Tư thấy đó…

   Tôi còn đang ngạc nhiên vì câu hỏi sau thì ông già kia chậm rãi nói:

  - Có chỗ ngã lưng là tốt rồi…Chuyện xưa giờ mấy người biết…

   Lại tính tò mò thôi thúc tôi hỏi tới cho bằng được. Nhìn ông bạn gật gật đầu, bác Tư ngó hướng nhà trọ, miệng lầm rầm như độc thoại…

  -…Hồi trước tôi sống ở xã Đồng Lợi, gốc gác cơ ngơi của ông bà Xồi, cha mẹ bà Bang Chót, chủ nhà trọ “năm mươi” bây giờ. Hai ông bà chuyên nghề cho vay, thế đồ lấy lãi suốt mấy chục năm, giàu lớn trong vùng. Họ cầm thế đủ thứ, vòng vàng, đất đai, bằng khoán…tiền lãi cao mà khắc nghiệt lắm. Tất nhiên thời đó phải cấu kết hương chức làng xã đỡ đầu mới đè nén, triệt hạ được đám dân nghèo túng hụt mà ngang ngạnh. Thiếu nợ tới hạn chưa có tiền trả, bả mà giận thì tủ thờ, lư hương, bộ ngựa…cũng thị thiềng cho tụi lưu manh em út tới dọn sạch, làng nước giả bộ ngó lơ. Suốt một thời gian dài, ông bà Xồi thao túng, dân tình riết kiệt quệ vì nợ nần. Nói nào ngay, bọn cầm quyền thả lỏng cờ bạc, đá gà, hút xách…cho dân mình sa đà, hư hỏng, vừa bớt chống báng vừa dễ cai trị. Nghe tía tôi kể lại, hồi đầu năm bốn lăm, vợ tên Cai tổng đi thu lúa ruộng và chỉ điểm cho một toán lính Lê dương vô xóm Chủ cướp bóc, giết chóc hơn bốn chục người dân. Sau đó, tên Cai tổng bị tổ chức hội kín lên án tử hình, bắt đem xử chém tại xóm Chủ, vợ hắn trốn thoát. Đám hội tề, địa chủ…sợ khiếp vía, không dám hống hách như trước nữa. Từ sự kiện trên, cha mẹ bà Bang Chót biết thân gom góp của cài về phố chợ cất lên cái nhà lớn, giờ làm nhà trọ như chú em biết. Hồi đó vật liệu, chuyên chở khó khăn nên nhà xây hơn một năm mới xong. Trước bữa ăn tân gia, hai ông bà dẫn nhau đi lên lầu coi thử. Rồi hổng biết sao mà cùng nhào đầu từ ban công xuống đất, chết tươi…Chú Sáu chắc biết…

   Bác Sáu ngẩng lên, móm mém trả lời:

  - Sao mà quên được? Đám ma lớn lắm, chuyện kỳ lạ là có bầy quạ đen từ đâu bay về đậu kín mấy cây bàng trước mặt đường, dáo dác kêu la inh ỏi suốt ngày đêm, tới chừng hạ huyệt thì tản mất. Mấy ông làm nhựt trình ở Sài Gòn có xuống chụp hình đăng báo…

   Vân vê chòm râu bạc ngắn ngủn, bác Tư ngước nhìn tôi:

  - Có nhân quả báo ứng hay không, tôi chưa biết, nhưng chuyện còn nhiều lạ lùng…Bà Bang Chót cũng theo nghề cha mẹ, có phần tàn nhẫn, gian giảo hơn. Tôi nhớ chuyện một ông nông dân nghèo ở xóm Rạch Cùng, vợ chết để lại đứa con gái chừng mười tuổi, tới năn nỉ bà cầm rẻ đôi bông tai mù u vợ để lại lấy tiến chữa bệnh thương hàn cho đứa nhỏ. Không may nó vắn số, mấy tháng sau đó ông ta chạy tiền tới chuộc đồ thị bị bà trưng bằng chứng, kêu làng lính tới bắt trói rồi lập biên bản buộc con người khốn khổ nọ phải ký tên lãnh nợ, bằng không sẽ vô tù. Kêu oan chẳng thấu trời, ông nông dân uất ức thét gào rồi mặc hai tay bị trói thúc ké mà lao đầu vô cột đèn sắt chết tức thì, máu me lênh láng. Cây cột đèn đó từ thời Tây, còn nằm xế cửa nhà trọ “năm mươi”. Chuyện đó rồi cũng dàn xếp êm, thời thế kẻ có tiền là có quyền mà!. Bà Bang Chót thừa hưởng tài sản cha mẹ, có ông chồng ăn chơi, hút xách, trác táng cho tới già cũng vậy, phá của lần hồi mà trời khiến bà sợ lão ta một nước. Đi nhậu về chưa đã, lôi vợ ra đánh, hút chưa đủ cữ, xô bàn đập ghế…ai sống đây lâu năm đều biết tính hắn, ít ai dám giao du…Chú Sáu nói tiếp cho chú em đây nghe biết chuyện đời vay trả…

   Trời rạng sáng, người xe ngoài đường khá nhộn nhịp, quán thêm mấy người khách tập thể dục ghé vào. Bác Sáu kéo ghế xích lại gần tôi, giọng vừa đủ nghe:

  - Hôm kia mới cúng bốn mươi chín ngày cho Bang Chót…Lão đi đám giỗ về, uống say nhừ tử rồi lao chiếc xe đạp điện vô thẳng cột đèn, ngay chỗ ông nông dân ngày xưa tự vận. Chết không một lời trăn trối, mà kể như dòng họ tuyệt tự. Để lại thằng con trai duy nhất năm nay chắc cũng ba mươi mấy tuổi, khùng khịu ngày càng nặng. Nửa năm nay nó bị xích chân cho khỏi quậy phá, ăn uống, vệ sinh tại chỗ, một tay bà Bang Chót lo liệu. Ngẫm nghĩ cũng thấy tội, thấy thương xót cho họ!

   Trầm ngâm nhịp ngón tay lên bàn, bác Tư thờ dài:

  - Con người sống thì phải tranh đấu cho cái ăn, cái mặc, nhưng quá tham lam đến nổi chèn ép, chà đạp dồng loại để thu lợi về mình thì thời nào cũng không nên. Hậu quả tương xứng sẽ đến, không sớm thì muộn, tôi nghĩ vậy thôi. Sáng rồi, mình về chú Sáu ơi…Chú em chút đi mạnh giỏi nghen!

   Hai ông khách già đi rồi, tôi cũng đứng lên bước ra nhìn qua nhà trọ “năm mươi”. Những mái vòm sắt màu đen hình bán nguyệt xưa cũ trên gác chợt khiến tôi hình dung ra những con mắt trợn trừng, oan khuất qua mấy thế hệ, nhân quả cuộc đời…

CHUỘT

NGUYỄN KIM

   Không hiểu vì sao Tùng luôn bị ám ảnh, bận rộn bởi loài chuột. Cũng chẳng phải thường xuyên kiểu lệch lạc tâm trí, nhưng bất chợt trong lúc rảnh rang hoặc có gì đó gợi liên tưởng là anh nhớ đến nó. Có lẽ vì anh sống nhiều năm ở xóm lao động nghèo, ẩm thấp này, đi về chung đụng bọn chuột như với cộng đồng hàng xóm khó chịu, chuyên sống bằng sự bòn rút bản năng nên…bất đắc dĩ mà quen chăng?

   Xóm nhà ven sông dựng lên từ lâu, không theo một quy tắc nào, quan trọng là xoay sở chắp vá sao cho có mái che mưa nắng là được. Con đường duy nhất ra phố quá ngoằn ngoèo nên mọi người hay đi tắt ngả chợ cá, nhớp nhúa sá chi. Chiều tối chợ vắng biến thành nơi tụ họp tán gẫu, nhậu nhẹt dưới ánh đèn vàng tù mù, quen rồi cũng lắm điều thú vị. Tùng hay ra đó vì anh chưa có điều kiện thay đổi nếp sinh hoạt, tự an ủi rằng sự thay đổi chưa hẳn là tốt, có khi lại tệ hại hơn thì sao? Cứ mặc xác dòng đời bình thản cuốn trôi, cả son phấn và rác rưởi, thơm tho và  hôi thối…Ngồi bên bàn nhậu anh ít nói, chăm chú nhìn những con chuột cống đen đúa, mập lút, lầm lì mà tinh quái tranh nhau lôi kéo, giằng xé đùm ruột cá nhầy nhụa, tanh tưởi. Có mấy con chuột già, da lỡ lói trắng hếu, co hai chân trước như ngồi chồm hổm một góc quan sát, thỉnh thoảng mắt bắt ánh đèn lóe lên, thờ ơ nhìn đồng loại, nhìn bọn người lam lũ đang gục gặt bên chai rượu trắng. Vài đứa trẻ lang thang dùng ná thun rình mò bắn những mục tiêu thập thò di động. Chuột cống tranh ăn dữ tơn như cá mập, cắn lẫn nhau, xô đẩy nhau lăn tỏm xuống cống rồi lục ục, lóp ngóp bò lên, tiếp tục. Đều đều khoảng hai giờ sáng, xe ba gát chở cá, chở heo mổ sẵn sắp lớp, phanh lồng ngực thịt xương đỏ hỏn chạy vào thớt để phân phối, nuôi sống con người. Những con chuột hay gầm mặt xuống thường vắn số, sức nặng mấy tạ của bánh xe lạnh lùng lướt qua, bụp một tiếng máu me ruột gan tung tóe. Miếng ăn ngang bằng sự sống, cuộc đổi chác nghiệt ngã của các loài động vật?.Nhà Tùng cạnh bờ sông, chuột cống ít vãng lai, chuột lắt khá nhiều. Chúng loắt choắt, chạy nhảy như làm xiếc, vừa từ nồi cơm phóng qua chảo cá đã xô ngã chai nước tương, lọ muối… Tùng ném cái nắp soong khua rổn rảng, bọn láu cá vụt biến ngay, chưa đầy một phút sau lại xuất hiện, lấp ló hai con mắt tròn xoe khinh thị, ngúc ngoắc những sợi ria, ngó chủ nhà trêu cợt, thách thức. Mua bẫy kẹp về gài dính được hai con rồi thôi, sau đó lâu lâu tóm được chú chuột xạ hôi rình chẳng bỏ công, Tùng đâm chán. Một lần anh chứng kiến chừng mươi con chuột lắt cắn đuôi nhau xoay ba vòng ở gian bếp rồi đi thẳng, cuộc biểu diễn hiếm hoi. Hồi nhỏ nghe kể chuyện chuột lấy cắp trứng ôm vào lòng cho đồng bọn kéo đi, việc ấy anh chưa hề thấy. Đám chuột xạ ít phá mà gây phiền không ít. Ban ngày ban mặt cứ chít chít cái mõm sát đất, lừ lừ ngang dọc khắp nhà, Tùng không ghét mà bực mình thói trêu ngươi, bất cần thiên hạ của chúng. Tìm cách tận diệt không được, anh đành giả phớt lờ cho bình an vô sự đôi bên. Nghĩ cũng lạ tính ý con người, nhiều lần Tùng nằm võng nhìn con chuột xạ quanh quẫn đánh hơi lòng vòng rồi ngước cái mõm lông lá hướng phía anh chít chít liên tục. Anh tặc lưỡi thương hại, vất cho cục cơm nguội nhỏ, nó nhẩn nha ăn hết sạch rồi chít chít lại gần chân con người độ lượng hiếm thấy. Khác với chuột lắt, giống chuột xạ gan dạ trong ngu muội. Anh rón rén lấy dép cầm tay định đập một phát, nhưng rồi lắc đầu ngán ngẫm xua cho nó bỏ đi. Một đêm anh nằm mơ thấy mình là anh chàng thổi sáo lão luyện trong truyện cổ tích, có tài dẫn dụ tất cả chuột thành phố đi theo. Đi hoài, đi hoài đến kiệt sức mà không thấy sông hay biển để đưa chúng xuống, anh cuống cuồng sợ hãi, la hét và thức giấc, mồ hôi đẫm mặt. Chuột ở khắp xóm, mọi nhà mọi nơi, sục sạo tìm cơm thiu canh cặn riết quen mắt. Chị Ba bán bánh ú tuổi chưa tới hàng tư, thôi chồng, có một con gái, mỡ màng khá đầy đặn khiến nhiều cha sồn sồn mượn rượu ởm ờ gạ gẫm, chỉ uổng công tội nghiệp bởi chị đang trong giai đoạn chán chường, chặt dạ. Đêm nọ chị ngủ hớ hênh sao đó bị con chuột- chắc là chuột sắp thành tinh- cắn cho hai vết ở đùi trong phải đi chích ngừa. Cánh đàn ông mồm mép lén vợ tới hỏi thăm, cho sữa cho đường mà dặn chị đừng nói ra. Nắm bắt cơ hội từ con chuột đưa đến, cứ bày tỏ tình cảm, đời biết đâu được…

   Con hẻm mở rộng trông khá khang trang. Những nhà may mắn được đền bù, hỗ trợ, thêm tiền dành dụm xây lại cho có bộ mặt sáng sủa với người ta. Khi dở mái nhà lá, có người bắt được mấy ổ chuột lắt con đem cho ông Ba mài kéo cuối hẻm ngâm rượu. Những con chuột trắng hồng chưa mở mắt, lộ cả gân máu, ngo ngoe lọt tỏm vào hũ rượu ngâm đủ thứ hầm bà lằng. Tùng vẫn nhà nền đất, trừ phần trên lót gạch tàu, định năm tới dời đi nơi khác. Một sáng sớm uống cà phê về, anh đang xoay trần ngồi viết thì chợt phát hiện chỗ ngạch cửa đùn lên một đống đất lổn nhổn to tướng: chuột cống làm hang. Tùng bỗng dưng nổi giận với ý nghĩ rằng nơi định cư nhiều năm, ổn định và coi như có…chủ quyền của chúng là hệ thống cống khu chợ cá, can cớ chi mà lần mò tới đây?. Anh dồn tất cả số đất ấy xuống, tọng thêm vài cục đá xanh, lấy khúc gỗ to nện kỹ, chắc mẫm sẽ đuổi được những tên lấn chiếm. Ba ngày vắng nhà, khi trở về Tùng sửng sốt: đất đùn lên nhiều hơn trước, có cả mớ bao nhựa, giấy vụn, vài lon cá hộp rỗng…Như cuộc chiến đấu thật sự, Tùng hì hục nấu nồi nước sôi đổ xuống hang, ém chặt đất đá rồi dằn cái cối xay bột bên trên. Phen này thắng hay thua biết liền!.

   Nửa tháng trôi qua, trận địa hang chuột êm ắng, Tùng thầm lặng hả hê với thành công khá dễ dàng trên. Nghe vài người quen ở bàn nhậu chợ cá than thở tình hình chuột lộng hành làm hang, làm ổ. Họ cho rằng hiện trạng nhà ở trước đây giống nhau, chuột phân bố đều khắp, nhưng chủ yếu tập trung khu chợ cá. Nay nhiều nhà xây cất lại kín đáo, cống cũ bắt đầu san lấp để làm mới nên binh đoàn chuột phân tán, chọn chỗ đào hang cho bầy đàn thê tử. Tùng phổ biến kinh nghiệm lấp hang chuột, ai nấy nhìn anh cười khì, không tin tưởng. Quả đúng vậy thật! Chủ nhật sau anh dọn bếp, thở dài sườn sượt khi thấy phía sau bếp gas xuất hiện một đống đất mới. Anh hơi hoảng, hình dung ra các ngõ ngách liền lạc nhau bên dưới của loài gậm nhấm, sự kiên nhẫn của chúng và quyết định hốt đổ hết số đất trên, dời bếp và không thèm lấp hang. Một thời gian dài, quên thì thôi, khi nhớ lại bùng lên cảm giác bị bao vây, bị buộc thỏa hiệp nhượng bộ bọn chuột cống, thiệt tệ! Tùng cố gạt chúng ra khỏi suy nghĩ, dù đôi khi bắt gặp đôi chuột cống to xù đủng đỉnh vào ra hang. Một xã hội chuột linh hoạt, thích ứng mọi bất trắc, mọi hoàn cảnh để ăn, để sống, ai làm gì được ai nào?...

   Tùng bỏ ra hai ngày để thu dọn, sắp xếp, đóng gói sách vở chuẩn bị dọn đi. Anh bần thần khi sắp rời xa nơi mình quen hơi quen tiếng ba năm trời, cái xóm lao động nghèo mà sự việc cùng con người ngồn ngộn chất liệu, đầy ắp suy tưởng trong tâm hồn. Ở nán lại đến cuối tuần, anh chủ ý theo dõi cái hang chuột, không động tịnh. Buổi sáng ra đi, vừa bóp khóa cửa thì Tùng nghe giọng hô hoán lên bên hàng xóm:

  - Ôi trời ơi! chuột đào hang đây nè bà ơi! Nấu cho tui nồi nước sôi…

  - Hèn gì mấy đêm nay nó cứ rùng rục, đồ quỷ!

  - Bà bớt mồm bớt miệng một chút, chửi nó nghe lại thù vặt cắn bấy bá quần áo thì sao?

   Đẩy xe ra ngoài, Tùng hơi mỉm cười, lẩm bẩm “Không lẽ bọn chuột biết mình sắp đi nên cũng chuẩn bị nơi ở mới, sống chung với người…cho vui?”. Nổ máy xe, anh chầm chậm ra khỏi con hẻm, tâm trạng không buồn không

vui…

CHUYỆN Ở MỘT VÙNG QUÊ

NGUYỄN KIM

   Xã Bàu Láng năm nay trúng lớn vụ lúa. Vào đợt thu hoạch, ở những cánh đồng mênh mông màu vàng lúa chín không lúc nào ngớt tiếng người í ới , tiếng máy rền vang. Thường thì vào buổi chiều mới thấy hết cảnh lao động tất bật, hối hả của nông dân. Cánh phụ nữ ngưng tay cắt lúa, thu dọn quang gánh, nồi niêu… chuẩn bị về lo việc nhà. Đám đàn ông mồ hôi nhễ nhại vác từng bó lúa to, đi như chạy đến máy suốt, tranh thủ thời gian cuối ngày. Bọn trẻ con vô tư, cười đùa mừng rỡ mỗi khi bắt được mấy con cá sót lại trong các vũng nước đọng ở chân ruộng. Đến lúc mặt trời lặn chỉ còn những người chủ lúa và thợ máy suốt ở lại. Họ bắt đầu cuộc sinh hoạt riêng quanh các bao lúa chất chồng chưa kịp chuyển về nhà. Đâu đó khói rơm bốc cao, lan xa mùi thơm cá nướng mở màn cuộc nhậu lai rai cho… dãn gân! Trời chạng vạng tối, thấp thoáng bóng mấy cô gái mặc đồ mỏng đi vẩn vơ, nhìn kỹ mặt thì không phải dân vùng này. Vài ông đã vô men, bạo dạn mời vào nói chuyện cho vui, các cô ấy cũng tự nhiên nhập cuộc. Từ những buông thả trên, phát sinh nhiều chuyện oái oăm trên cánh đồng mùa thu hoạch khi có sự xuất hiện của các bóng hồng lưu động!

  Bà Hai bước vào nhà, ngồi xuống ghế rồi nhìn bồ lúa đầy ắp gian bên, miệng hỏi:

  - Kêu tao qua có chuyện gì gấp vậy con? Lúa vô bồ rồi, vợ chồng bây khỏe quá hả Mận?

   Chị Mận châm nước bình trà, bày ly tách ra và nhỏ nhẹ đáp:

  - Dạ… xong xuôi cũng mừng, nhưng hơi lo bởi chồng con không chịu nghỉ ngơi mà cứ nằng nặc đòi đi cắt lúa mướn tận ấp trên. Biểu làm gần gần thì không chịu!

   Vẻ ngạc nhiên, bà Hai gặng lại:

  - Bây nói kỳ cục! Được thằng chồng siêng năng mà giận hờn, thiệt tao hổng hiểu nổi…

   Chưa kịp trả lời, chị Mận nhìn ra cửa thấy mấy người đàn bà vội rối rít kêu lên:

  - Mời cô Bảy, dì Tư, chị Út vô luôn để bàn tính cho xong chuyện này!

   Đợi mọi người ngồi vào bàn xong, chị Mận bằng giọng không vui nói về sự bất bình của mình trước việc đám gái làm tiền đổ xô về đây đúng vào mùa thu hoạch lúa để… xâm canh. Đám đàn ông ngủ đêm giữ lúa, cắt lúa mướn… uống rượu sần sần, gió mát hữu tình mà đụng loại gái chuyên nghiệp này thì… trời gầm hổng buông! Hại là hại gia đình xào xáo, lỡ vướng chứng bệnh quái quỷ nào đó lại khổ vợ con. Bà Hai gật nhẹ đầu, chăm chú nghe chị Mận nói tiếp:

  - Chú Ba Chai với thằng con trai lớn ngủ ruộng mấy đêm, khuya hôm qua lén vác lúa nhà bán trả nợ mấy con yêu nữ ấy… Trời xui khiến cha con đụng đầu nhau… tẻn tò. Mấy bà tính kế nào chớ tôi chướng mắt quá!

   Cô Bảy nóng nảy chặn ngang:

  - Tôi nghe nói bên chính quyền điều động dân quân trục xuất đám… gà móng đỏ ấy. Tụi nó mồm miệng cãi là thân gái nghèo khổ phải đi làm mướn, đáng lẽ phải… thương yêu hơn, sao lại đuổi? Chà… nghèo khổ làm mướn mà dầu thơm, son phấn như đi ăn đám cưới vậy! Phụ nữ mình nhất định đứng lên chống lại tệ nạn này, khỏi cần ai giúp hết!

   Nhíu mày bồn chồn, bà Hai chép miệng:

  - Ông nhà tao già cả rồi mà tối kia cũng lần mò ra chỗ suốt lúa, mắc mớ chi đâu? Đi tới mười một giờ khuya mới về, tao cự nự thì ổng biểu là đi nghe tụi thanh niên đờn ca để nhớ thời trai trẻ đầy hưng phấn, tin nổi hông? Tình hình này kéo dài chắc… loạn!

  - Ý kiến chị Út ra sao?

  - Tôi thấy mình phải có biện pháp mạnh mới được. Chị em kết hợp, tối tối chịu khó tuần tra, hễ gặp đám… gà mái ấy là dằn mặt sơ sơ rồi… trói giải lên xã luôn!

   Cả bàn nhao nhao tán thành, riêng chị Mận hơi băn khoăn:

  - Rồi còn… còn gà trống tính làm gì?

  - Nếu cần thì… trói luôn đủ cặp cho mấy ổng xấu hỗ chừa dứt. Dĩ độc trị độc!

   Bà Hai cười ngất:

  - Cái này kêu là… đội săn bắt gà móng đỏ tự phát. Chừng nào ra quân vậy bây? Ít quân không làm xuể đó nghen!

   Dì Tư đứng len vung cánh tay phốp pháp, giọng đầy khí thế:

  - Ngay đêm nay ra quân! Tui kêu thêm ít đứa nữa, chuẩn bị đòn gánh, dây cộ sẵn. Mình quần vài trận là mấy ổng ê nanh, xuôi xị, rả đám liền!

   Mọi người lục tục kéo nhau về, ra tới bờ kinh còn hăng say bàn tán…

   Qua mấy đêm “bố ráp” tích cực, chị Mận cùng mấy bà bạn bắt quả tang và đã dẫn giải lên xã được bốn cô gái làm tiền cùng hai đấng mày râu trong tình trạng say xỉn. Với chứng cứ rõ ràng kèm vật dụng “hành nghề”, các cô bị lập biên bản và đưa về trên xử lý. Hai ông ham của lạ phải viết tờ cam kết, đóng phạt ngay sáng hôm sau. Riêng trường hợp anh Út thị thật éo le, cười ra nước mắt. Thay vì nương nhẹ, chị Út kiên quyết ôm đống quần áo của chồng rồi … la làng cho cả xóm đến xem. Sau đó, suốt mấy ngày anh không nói tiếng nào với chị và vào một buổi sáng, anh lạnh lùng buông câu ngắn gọn:

  - Tôi thề không chung sống cùng cô nữa, cô vừa lòng chưa?

   Mặc đứa con gái lên bốn mếu máo kéo tay, anh Út mang túi hành lý lên vai, ra lộ lớn đón xe khách đi luôn, chẳng biết thật hay vờ? Chị Út ray rức, ân hận việc đối xử quá đáng với chồng nên lẳng lặng né tránh tham gia những đêm… săn bắt gà móng đỏ, dù trong lòng vẫn còn hứng thú!

   Thêm một việc rắc rối khá tai hại nữa xảy ra. Số là lúc trời sụp tối, cô giáo xã bên có việc đi ngang “khu vực quan sát” bị cô Bảy phát hiện, xông ra túm chặt xe đạp. Bà Hai vừa sấn sổ chụp tay cô giáo, lôi cuộn dây thừng ra thì biết mình nhầm to vội hết lời xin lỗi mong cô bỏ qua. Chuyện tới tai ông Chiến hội nông dân ấp, ông hoảng kinh gọi cả “tổ” tới trách móc:

  - May là gia đình cô giáo thông cảm, chớ mấy bà làm không coi trước coi sau coi chừng xúc phạm nhân phẩm, thân thể người khác là vi phạm pháp luật đấy! Ráng giám sát, nhắc nhở chồng con mình cho khéo thôi!

   Trên đường về, chị Mận lại thì thầm cùng nhóm:

  - Ông xã tôi bữa nay về đàng má tôi mời đám giỗ, rảnh tay lắm! Chừng bảy giờ tối, mình xuống đám ruộng rẫy vừa cắt cạnh bến ghe, tôi nghe đồn điểm ấy cũng… nóng lên rồi!

 … Chồng chị Mận cột dây mũi ghe vào gốc bần xong, bật quẹt soi cho cô gái đi cùng bước lên. Vừa lúc có tiếng hét to như xung trận:

  - Chị em ơi! vây chặt đừng cho tụi nó chạy nghen!

   Anh chưa kịp hiểu chuyện gì thì vợ anh từ bụi rậm lao ra ghì cứng lấy hai tay, cố giữ không cho anh phản ứng. Cô gái nọ bị ba bà quất bằng chổi, dồn sát mé rạch.

Cô uất ức kêu vang:

  - Trời ơi! mấy người làm gì đánh tôi… Anh Hai ơi… cứu em với!

   Chị Mận nghe tiếng quen quen, giật mình buông vội chồng ra để đứng chen vào cuộc tấn công, miệng lắp bắp:

  - Đào… con Đào em tôi… Mấy bà ơi… mình đánh lầm rồi!

   Ngọn đuốc lá dừa được đốt lên, ánh sáng soi tỏ cô em gái chị Mận mặt mày xây xước, quần áo bê bết bùn nước. Đào nghẹn ngào ngồi thụp xuống đất, ôm mặt khóc thút thít. Chồng chị Mận bực tức đay nghiến vợ:

  - Sẵn xuồng, tôi đưa em bà về sớm để phụ lo đám giỗ cha. Ghen tuông hồ đồ kiểu này, tôi còn mặt mũi nào mà ngó ai? Đào là con gái chưa chồng, rồi đây thiên hạ đồn đãi rùm trời, thêm mấy tay tổ xấu miệng thêu dệt mắm muối cho mang xấu! Bà thấy bà bậy chưa? Tức cái là phải chi tôi có…

   Mấy bà kia biết quấy nên xúm lại an ủi Đào cho nguôi ngoai rồi ân cần đưa cô về. Vợ chồng Đào lầm lũi đi phía sau, cách nhau một khoảng xa…

 … Cánh đồng xã Bàu Láng sau đợt thu hoạch hoàn tất, giờ chỉ còn trơ gốc rạ đợi mùa sau. Đám gái má phấn môi son như… bốc hơi mất biệt trong cái nắng gay gắt đầu hè. Tổ… săn bắt gà móng đỏ xâm nhập nông thôn cũng tự giải tán êm thắm, để lại bao kỷ niệm buồn vui lẫn lộn!

CHUYỆN PHIẾM VỀ RƯỢU

 NGUYỄN KIM

   Tôi tình cờ nghe được ba mẩu chuyện ở nhà hàng xóm. Nghe cũng vui vui nên ghi lại xem chơi, hoàn toàn không ẩn ý gì!

  Chuyện thứ nhất:

   Tiệc nhậu có bốn người đang đến hồi “bốc”. Họ ăn nói bạt mạng, nhạo báng cả Trời. Trời nghe rất giận, sai Thiên Lôi xách búa bay xuống trần gian… thi hành án. Mưa gió, sấm chớp ì ầm để hỗ trợ khí thế cho Thiên Lôi cả giờ rồi cũng phải tạnh. Thấy Thiên Lôi cầm búa bay về, mặt mày ỉu xìu, lắc đầu chán nản, Trời hét lên:

  - Xong việc chưa? Sao yếu xìu vậy?

   Thiên Lôi tâu:

  - Bẩm trời! Đánh bọn người phạm tội vô lễ ấy không được vì có một người ngồi chung chỉ biết cắm đầu ăn, không uống rượu và chẳng nói câu nào xúc phạm Trời. Thần đánh sét vào bàn nhậu sợ chết oan người ấy!

   Trời lẩm bẩm:

  - Ừ… đành chịu! Nhưng ta không hiểu ở chỗ ăn nhậu say sưa, nói năng tục tằn, mình không uống rượu thì ngồi vô làm gì? Muốn ăn thì về nhà kêu vợ nấu  ăn cho đã thèm! Chẳng lẽ nó ngồi đợi ba đứa kia say, ói mữa lênh láng để hốt dọn giùm?

  Chuyện thứ hai:

   Sò đang nằm trên bờ cát thấy Cò kiếm ăn gần đấy mới than thở rằng:

  - Anh Cò ơi! anh bay đây bay đó biết trời rộng sông dài, cảnh đẹp núi non. Còn tôi suốt đời sống thui thủi…

   Cò vui vẻ gợi ý:

  - Khó gì! anh hé niệng gắp vào chân tôi bay ít vòng cho anh tha hồ xem…

   Sò mừng lắm, ngoạm kỹ chân Cò. Bay được một vòng, Sò thích chí nghiến chặt chân Cò. Đau quá, Cò kêu lên:

  - Vừa thôi! Anh cứ gắp… gắp… gắp mãi, tôi nổi xung… buông anh một phát là bỏ mạng đấy!

Chuyện thứ ba:

   Một người vốn không uống rượu nhưng rất… tham ăn, cùng bạn đến chơi nhà nọ. Chủ nhà biết ý, nhưng vẫn bày cuộc nhậu. Ông biểu đứa con nhỏ xách chai mua rượu cùng gói thịt quay, ba người ngồi đợi. Đứa bé đi một lúc, khệ nệ ôm chai rượu về. Chủ nhà ngạc nhiên hỏi:

  - Sao con không cầm thịt về luôn thể? Cha với hai bác nhắm mồi gì đây?

   Đứa bé thản nhiên trả lời:

  - Dạ… Con sợ vỡ chai rượu nên để gói thịt quay ngoài ngõ, mang rượu về trước…

   Chủ nhà trừng mắt mắng con:

   - Mày khờ quá! Sao không mang thịt về, để rượu ngoài ngõ? Để thịt ngoài đó, lỡ ra… chó nó ăn thì sao? Còn để rượu ngoài ngõ thì được vì… vì đâu có… con gì uống?

BI KỊCH GIA ĐÌNH

NGUYỄN KIM

   Người điên ấy đứng ngay vạch phân đường ngã ba vào chợ, tóc xỏa rũ rượi, quần áo xốc xếch, tay cầm cái que tre xỉa xói vào khoảng không cùng những lời lảm nhảm. Đó là một người đàn bà trạc 27, 28 tuồi, nhưng nắng mưa sương gió làm chị héo úa, già đi nhiều so với tuổi.

   Tôi ngồi bên quán cà phê bên đường nhìn ra, tò mò lẫn thương hại. Bỗng chị buông cái que tre, bứt hàng nút áo phô bộ ngực trần rồi làm điệu bộ như đang ru con, miệng khe khẽ hát. Ánh mắt ngây dại của chị trở nên dịu dàng, thể hiện tình mẫu tử thiết tha. Bọn trẻ đứng vây quanh chừng như đã quen mắt nên bày trọ nghịch ngợm, chúng nhặt đá vụn trên đường ném vào người chị khiến người đàn bà điên sợ hãi, hai tay ôm đầu khóc tấm tức như trẻ con. Ông cụ ngồi cùng bàn tôi, dáng vẻ quắc thước, đặt tách cà phê xuống, cau mày bước ra. Ông ôn tồn mà nghiêm khắc bảo bọn trẻ:

  - Tội nghiệp người ta mất trí, các cháu không nên làm vậy. Điên khùng đã đủ khổ rối các cháu ơi!

   Những người qua đường thấy vậy cũng góp vào vài câu khiến lũ trẻ cụt hứng tản đi. Ông cụ bước lại sạp hàng gần đấy mua hai ổ bánh mì, nải chuối. Cho vào túi nylon đưa tận tay người điên, giọng ông rành rọt, hiền lành:

  - Kiếm chỗ nào vắng, ăn rồi ở đó thôi, đừng đi lang thang nữa. Biết ông không? là ông Bảy ở xóm Ngang, nhà kế ao làng… ông Bảy… nội con Hiền!

   Ôm chặt túi đồ vào lòng, người đàn bà điên nhìn chằm chằm vào cụ với đôi mắt sâu thẳm như lóe sáng, môi mấp máy:

  - Ông… ông Bảy nội con Hiền. Còn… bé Hiếu đâu? bé Hiếu con tôi ơi!

   Đột ngột chị quay ngoắt người, vừa khóc vừa lửng thửng đi thẳng đường ra bến ghe. Ông cụ ái ngại nhìn theo một lúc rồi trở vào quán cà phê với vẻ mặt buồn buồn. Nghe tôi hỏi về lai lịch người đàn bà điên ấy, ông cụ trầm ngâm rồi bắt đầu kể…

   Cách đây độ bảy năm, Thơm- tên chị- yêu một người trai cùng xóm tên Cảnh và sau thời gian tìm hiểu hai người đi đến hôn nhân. Khi Thơm sinh đứa con gái đầu lòng thì cuộc sống gia đình bắt đầu thiếu thốn vì bận bịu con thơ. Cảnh đang là giáo viên trường xã với đồng lương ít ỏi, anh quyết định nghỉ việc, bán cả ruộng đất gom góp tiền bạc đưa vợ con về tận Cà Mau. Lập nghiệp theo sự hướng dẫn tận tình của người bạn thân đi trước. Quyết chí làm giàu, anh đầu tư vốn liếng, học hỏi kinh nghiệm và kỹ thuật nuôi tôm. Đất cũ đãi người mới, chỉ năm đầu vợ chồng anh đã trúng lớn mùa tôm nhờ được giá, nhà có của ăn của để. Dần dà, Cảnh bộc lộ tánh đua đòi ăn chơi và trong thâm tâm anh bắt đầu xem thường người vợ ít học đã từng vất vả lo toan cơm áo gia đình. Anh hùn hạp làm ăn, sắm xe, tậu ghe…, tuỵệt nhiên chẳng cho Thơm dính dáng vào. Những lần lên thị xã chơi, Cảnh đã mê đắm một cô gái tuổi mới đôi mươi, nhưng lỏi đời trong nghề mồi chài đám đàn ông hảo ngọt. Và thế là Cảnh sa ngã trong cạm bẫy tình trường. Nghe phong thanh việc của chồng, Thơm tìm đủ cách ngăn chận và từ đấy Cảnh xem vợ con là gánh nặng cho mình. Sự tàn nhẫn, vô trách nhiệm của Cảnh nào ai ngờ được? Thua hoạch mùa tôm sau, anh âm thầm sang bán tất cả những gì sắm sửa được trong ba năm qua và bỏ đi thành phố cùng cô gái làng chơi lão luyện. Trắng tay, Thơm gạt nước mắt bế con tìm về quê cũ. Đành phải cất tạm túp lều trên phần đất của người em trai. Ngày ngày, chị đi làm thuê từ việc gánh mạ, nhổ cấy lúa… lấy tiền nuôi con, nuôi thân và nuôi niềm hy vọng chồng hồi tâm quay về. Đứa con gái nhỏ mà chị hết lòng thương yêu đã vào lớp mẫu giáo. Tưởng rằng dòng đời cứ thế êm trôi, nào ngờ niềm vui mẫu tử của chị cũng chẳng cầm giữ được lâu. Ngay trước cổng trường, bé Hiếu bị xe tải tông phải khi vội vả băng qua đường gặp mẹ vào buổi chiều tan lớp. Đau đớn chôn con trong cảnh đói nghèo, chị ngã bệnh hơn tháng trời và bị đứa em ruột, em dâu rẻ rúng, khinh miệt ra mặt. Bơ vơ, lẻ sống không còn, Thơm suy kiệt tinh thần và bỏ chốn nương thân đi lang thang đầu đường xó chợ…

   Dứt câu chuyện, ông cụ thờ dài:

  - Nó mất trí từ đó! Đau khổ, tuyệt vọng đến vậy thì làm sao chịu nổi!

   Tôi nhẹ gật đầu, nhớ tới hình ảnh người đàn bà điên lúc nãy và chua xót nghĩ thầm: “Cuộc sống nhỏ nhen, ích kỷ và độc ác đã tác động tới số phận một con người…, ghê gớm quá!”. Không muốn nghĩ thêm, tôi hớp ngụm cà phê nguội mà lòng nghe như đắng chát…

CẢNH ĐỜI ÔNG CỐNG

NGUYỄN KIM

   Ông Tư Cống tay xách giỏ, nhón đôi dép mòn lẳng đi vào khu chợ cá nhớp nhúa nước bẩn. Bữa nay nhằm con nước kém nên dãy sạp hàng thưa thớt hẳn. Ngang vựa thu mua cá đồng thấy thau cá rô mề mập tròn tươi roi rói, ông buột miệng hỏi:

  - Chà… cá rô tát đìa đây! Bao nhiêu một ký lô vậy cô?

   Người đàn bà vén nón lá lên, nói cộc lốc:

  - Cá rô loại một, giá đắt lắm… ông già ơi! Ủa, ai như chú Tư?

   Nhận ra người quen cũ, ông Cống hơi lúng túng gật đầu:

  - Ừ… tôi hỏi chơi cho biết thôi, tiền đâu mà mua. Lúc rày bán khá hông cô Bảy?

  - Dạ… cũng đỡ hơn hồi chú còn làm ban quản lý chợ. Xin lỗi chú nghen, cá này chờ lái vô cân đem lên nhà hàng thành phố, chú muốn ăn cũng không được. Ờ quên, chú giờ… công tác cơ quan nào? Lên được chức gì rồi?

   Liếc qua mấy bà cô rỗi việc ngồi túm tụm quanh đó đang ngó mình với ánh mắt tò mò, ông Cống gượng gạo nở nụ cười méo xệch trên cái miệng móm xọm:

  - Gần bảy mươi rồi, công tác gì nữa cô? Thôi, tôi đi!

   Vòng ra cuối chợ chồm hổm mua chén tép, bịch dưa mắm xong, ông lửng thửng về nhà. Chân mỏi, lưng đau, vừa đi ông Cống vừa lẩm bẩm oán trách cái số mình hậu vận không tốt. Hai bà vợ, chín đứa con mà gần xuống lổ lại thui thủi một mình, tự lo cơm nước, nghĩ chán mớ đời! Mười mấy năm về trước, lúc ông còn chức trợ lý trưởng ban quản lý chợ, oai phong ra phết chứ có đâu rụt rè, ngượng nghịu như lúc nãy. Mỗi khi “vi hành”, sau lưng ông là hai anh trật tự viên lực lưỡng, tay mang pa-sa, mặt lên gân quạu đeo. Rồi thì cá to, tôm lớn, cua gạch… thường được biếu không cho ông, tặng thêm nụ cười khô cứng, câu nói lấy lòng của những người biết điều. Còn việc bánh sáp đi, bánh quy lại là lẽ tất nhiên. Bằng quyền hạn của mình, ông Cống dành chỗ buôn bán tốt, bỏ qua việc lùi lậu, gian lận cho họ khá dễ dàng. Cứ tưởng thời gian lều bều như lục bình trôi xuôi gió thuận dòng, ngờ đâu trong dịp bầu lại thành phần ban quản lý chợ, ông rớt chức trợ lý thật thảm hại với chín phiếu chống, chỉ một phiếu ủng hộ của mình ông; cuộc lật đổ chóng vánh. Chẳng lẽ lại xuống làm anh trật tự viên để hò hét, xô đẩy, đôi co với mấy mụ già mồm, nanh nọc, cân già cân non, chuyên lấn chiếm lòng lề đường? Làm nư hai tháng, ai cũng làm lơ. ông đành hậm hực nộp đơn xin nghỉ việc, về với ao cá, ruộng vườn cho khỏe xác!

   Bà Hai, bà Ba được ông chia đều cơ ngơi từ trước để tự túc làm ăn sinh sống. Riêng ông vẫn ở cái nhà hương hỏa lợp ngói âm dương đã xuống cấp, đêm nằm nghe tiếng mối mọt tỉ tê. Không bà nào, kể cả những đứa con chịu về cùng ông chia sớt nỗi buồn cô độc…

   Lật quyển sổ tiết kiệm xem lại số tiền dư ít ỏi, ông Cống thở dài ngao ngán. Buổi trưa vắng lặng, nghe rõ tiếng tàu lá dừa khua rọt rẹt trên mái nhà. Việc chi tiêu ông rất dè xẻn, nhưng tốn hao quá nhiều với mười một cái “khẩu” lớn nhỏ kia. Bình thường nào thấy mặt ai, khi hữu sự thì tới kêu réo, tiền dựng vợ gả chống mấy đứa lớn, hai bà thay nhau lên ca cẩm, rỉa rói ông và chỉ chịu rút lui khi đã được đáp ứng yêu cầu. Phận làm chồng, làm cha, ông Cống đành bấm bụng chạy lo kẻo thiên hạ nghe được rồi cười. Tính ông lại sĩ diện nên cố bảo vệ sự đề huề gia đình bằng các lần đến ngân hàng rút dần số tiền dành dụm. Định mua cái thọ dưỡng sanh từ ba năm trước, tới giờ cũng chưa thực hiện được. Nghe xúi, ông làm thủ tục xin vào hội Nông dân, hy vọng lúc chết may mắn được cái hòm xi măng cũng ổn. Ngữ này có lẽ phải thế chấp nhà đất rồi tính sau!

   Quẳng cái nón lá lên bàn đánh xoạch, bà Hai kéo chéo khăn lau mồ hôi trán, giọng bực dọc:

  - Ông lên xã làm giấy cam kết bảo lãnh cho thằng Quý chưa?

   Ông Cống phe phẩy quạt, chậm rãi đáp:

  - Rồi… đóng phạt hết một trăm ngàn, ý là họ tha bớt. Bà nói với nó là còn rượu chè quậy quạng lần nữa là đi cải tạo đó. À… vụ con Nết bà tới gia đình thằng “tác giả” giải quyết ra sao? Để lâu lâu… bụng vượt mặt giấu ai được nữa đây?

   - Thằng bồ ruột con Nết chối phắt trách nhiệm, cả nhà nó lại về hùa gây gỗ với tôi om sòm. Họ quả quyết con gái mình quan hệ nhiều đứa, có bằng chứng hẳn hoi nên không chịu nhìn nhận, nói gì tới cưới hỏi. Kẹt cái là họ… nói đúng!

   Ngẫm nghĩ một lúc bí thế, ông cau mày:

  - Bà liệu đưa nó lại bệnh viện khắc phục hậu quả được không?

   Bà Hai trừng mắt:

  - Tháng thứ tư rồi, làm liều rất nguy hiểm, đành vậy thôi. Con gái nhờ đức cha mà ông thì đèo bồng, ham hố…

  - Chuyện xưa như trái đất, bà xếp lại cho tôi nhờ. Biểu thắng Phúc hay thằng Sang tới đây đưa tôi đi khám bệnh. Cả bầy con chẳng nhờ cậy được đứa nào sao… hở trời? Hổm rày mất ngủ, bụng lại đau âm ỉ, trong người khó chịu quá. Có người cho là tôi bị ruột dư hay biến chứng gan, hổng lo trị sớm e rằng…

   Chỉ tay vào gói giấy dưới chân bàn, bà Hai đứng lên lắc đầu từ chối:

  - Tụi nó bận làm thuê, làm mướn kiếm ăn, đâu ai rảnh mà qua đây phục vụ. Ông uống đỡ gói thuốc Nam tôi mới thỉnh trên chùa, giải nhiệt tốt lắm. Trời nóng nực nên vậy chớ quan trọng chi đâu!

   Ông Cống im lặng ngó theo bà vợ lớn ra tới cửa còn quay lại nói thêm một câu làm ông thót ruột:

  - Ráng lo cho tôi chừng triệu bạc bắt cặp heo giống bên nhà cô Chín. Mùng mười người ta rã bầy, tôi sai con Nết qua lấy tiền nghen!

 … Run run mở nồi cơm nguội ra, ông Cống ngửi ngửi, ngần ngừ rồi đậy lại. Trong người ông bần thần, miệng đắng ngắt thì nuốt làm sao vô? Bỗng dưng ông nghe thèm chén cháo trắng hành lá nhấm nháp với cá kho tiêu. Mong muốn tuy nhỏ nhoi mà xa vời quá, ít ra là trong lúc này. Vợ con… có thừa mà khi bệnh hoạn cần bàn tay chăm sóc thì ai cũng lánh xa. Mối tị hiềm ngấm ngầm giữa hai bà với nhau đẩy cái nghĩa tình ngày càng lạt lẻo. Ba ngày nay ông Cống uể oãi nằm vùi không bước chân ra cửa lấy một lần, đắm mình trong cay đắng âm thầm…

  Bà Ba tay dắt đứa con gái nhỏ bước vào, hỏi chiếu lệ với nét mặt dửng dưng:

  - Ông khỏe chưa? Già cà thì thường cảm mạo sơ sơ vài bữa là… tự khỏi chớ gì!

   Ông Cống không trả lời, ngồi tựa lưng bên vách ngoắc đứa nhỏ đứng xớ rớ cạnh mẹ:

  - Giàu… lại đây con! Cha cho tiền ăn bánh nè!

   Con bé tóc ngắn củn cởn, đôi mắt e dè, ngập ngừng bước gần ông nhận tờ giấy bạc nhét vội vào túi. Ông đưa tay định làm một cử chỉ âu yếm, nó đã vụt lùi nhanh ra khiến bàn tay ông hụt hẫng dừng ở khoảng không, đôi mắt ưu tư mệt mỏi. Câu chuyện rời rạc giữa ông với bà vợ một thời khắn khít sớm kết thúc. Bà Ba đưa con ra cửa và nhẹ giọng:

  - Ông đừng trách tôi, việc con Tình lên thành phố phụ bán cà phê là bất đắc dĩ, hư hay nên nhờ trời! Nó còn hai đứa em đang học hành, tốn kém đủ thứ. Đám ruộng lại bị chuột cắn phá dữ dội, mùa này kể như mất trắng. Ông ráng giúp tôi phần nào cho bớt khổ!

   Nằm co quắp trên chiếc sạp tre, ông Cống rên nhỏ mấy tiếng như để vơi bớt nỗi đau từ thể xác đến tâm hồn. Nắng chiều xuyên qua kẻ vách rọi ngay mái đầu bạc trắng, rũ rượi của ông…

 … Anh hàng xóm nhìn mặt trời lên khá cao rồi ái ngại nhìn cửa nhà ông Cống còn đóng kín. Đẩy cánh cửa liếp, anh gọi to:

  - Bác Tư ơi! có đoàn y tế huyện xuống xã khám bệnh miễn phí. Cháu tới đưa bác đi nè… bác Tư ơi!

   Không nghe lời đáp, anh sốt ruột bước lại chiếc sạp kéo tấm màn che. Ông Cống nằm mở mắt trừng trừng, hai tay nắm chặt trước bụng, xem ra đã chết từ lâu. Tờ giấy nợ quá hạn của ngân hàng rơi xuống đất cạnh quyển sổ tiết kiệm nhầu nát. Anh hàng xóm rùng mình kinh hãi nhảy ba bước ra ngoài sân, gào đến lạc giọng:

-         Bớ… bà con làng xóm ơi! ông Cống chết rồi… Bớ bà con… ông Cống hui nhị tì rồi!

NHỚ HÀNG BẦN VEN SÔNG

NGUYỄN KIM

   Vùng Tiền Giang, Gò Công quê nội tôi có rất nhiều kinh rạch, nét đặc trưng của miền Tây Nam bộ. Hệ thống sông ngòi thuận lợi cho giao thông, điều tiết nguồn nước sản xuất, sinh hoạt… Đó là nói chung về kinh tế, còn về cảm xúc tâm hồn lắng đọng trong từng con người thì có lẽ trong ký ức ai cũng có một dòng kinh, một khúc sông đầy kỷ niệm. Người Tiền Giang xa quê, mỗi lúc hồi tưởng nơi chôn nhau cắt rún chắc không quên được những bến đò ngang quen thuộc có bóng mát cây cao, có ghe xuồng xuôi ngược sông nước hiền hòa…

   Nhà tôi ở bên này sông Gò Công, phía dưới cầu Long Chánh thị xã một chút, bên kia gọi là xóm Đạo. Thuở ấy nhà cửa không nhiều, bến sông rộng có cây cầu ván cho bà con gánh nước về sử dụng. Đó cũng là nơi bọn trẻ chúng tôi thường ra chơi, tắm sông hoặc câu cá. Chỉ với vỏ lon sửa bò quấn cuộn dây nhợ có miếng chì nhỏ, lưỡi câu và mớ mồi trùn, ngồi câu đôi giờ là giật được khá nhiều cá chốt, cá mang ếch… Xách giỏ cá về nhà, thấy con mình mẩy hôi bùn má rầy đôi câu rồi thôi. Chiều ăn cơm có món cá chốt kho sả, má gắp bỏ vào chén con những cặp trứng cá vàng thơm như để thưởng công. Giờ má mất rồi, mỗi lần nhìn dòng sông lại nhớ dáng má đứng trông con bên hè nhà. Có khi hẹn nhau lúc nước đứng lớn, bọn tôi tắm sông lặn hụp chán chê lại thả trôi theo dòng lên phía Kinh Hàn từ thời Tây, nay không còn sử dụng. Mấy ông chài lưới thỉnh thoảng lặn xuống mò nơi kẹt đá bắt tôm càng nướng nhậu. Phía bên này có một bãi bồi khá rông, các loại cây chịu mặn như bần, mắm mọc vươn cao, chen chúc dưới gốc là cốc kèn, ô rô, mái dầm… Chơi trốn tìm trong lùm bụi hoang sơ rồi bắt vọp, bắt còng cho tới lúc lạnh gần tím môi mới kéo nhau về. Thường thì mười đứa phải ít nhất năm đứa bị đòn vì tội tắm sông không có người lớn trông chừng.

   Bần mọc ven sông nhiều lắm, có những cây cao hơn mười mét, trái lớn trái nhỏ lủng lẳng đầy cành. Bông bần, búp bần mới hé nhị xinh xinh, màu trắng pha chút hồng phấn, nhụy hoa xòe ra phơ phất những sợi li ti trắng bạc theo gió rơi đầy mặt sông. Bần chín rụng thơm lạ lùng, mùi hương phảng phất cả không gian bãi bồi vắng vẻ. Lội bùn lòng vòng, ngó quanh quất chọn những trái bần thật to bằng miệng chén, xanh mướt và nặng trịch để trèo lên hái về khoe cùng chúng bạn. Chấm muối ớt ăn vị chua thanh thanh, nhai cùng hạt hơi chát, vừa đủ ê răng…

Lên trung học dám lội sông xa hơn, ra tới ngã ba cặp mé tránh chỗ xoáy nước rồi bám vào chân Cầu Cây để vớt rạm. Khoảng tháng 9, tháng 10 âm lịch từng đàn rạm trôi xuôi dòng nước, bọn tôi dùng rổ, dùng vợt lưới đón bắt. Cũng phải nhanh tay bởi chúng lặn hụp, né tránh rất tài tình. Rạm nhỏ hơn cua đồng, mình dẹt, vỏ mỏng, không hung hăng như còng. Con đực nhiều thịt, mỡ trắng đục, béo. Con cái thì mai đầy gạch son, hấp dẫn hơn. Rạm làm được nhiều món như rang mỡ hành, nấu canh chua lá me, nướng than, chiên giòn… Nhưng chúng tôi chỉ khoái rang với chút muối ớt, ăn kẹp cùng bần chua xắt lát, đơn giản mà lại gọn gàng. Thêm vài năm sau, lớn thêm một chút, đôi khi ra mé sông tôi có chú ý tới một… cô gái ở bờ bên kia, có lẽ trạc tuổi, nhìn không rõ mặt. Cô hay mặc chiếc áo màu hoa cà, tóc kẹp dài, ngồi rửa chén hay giặt giủ chi đó. Những cây bần ven bờ tôi nhìn quen mắt, cảm thấy gần gũi lạ lùng. Riết rồi cô gái ấy cũng biết có kẻ xa lạ trộm nhìn, tôi ngó qua chừng một lúc thì cô đứng lên thu dọn đồ rồi… quay lưng. Tôi mơ mộng vẩn vơ chưa tới khai trường thì cô vắng biệt, sau mới biết nhà cô dọn đi xa. Tới giờ vẫn chưa biết tên, chưa nhìn tận mặt mà lâu lâu lại nhớ. Chắc tình cảm đầu đời hay vấn vương, ít nhạt phai chăng?

   Dòng sông giờ cũng còn, nhưng khác xưa nhiều lắm. Nước đục lờ màu uế tạp, lục bình dày đặc ngoi tìm chút nắng, cống đập ngăn dòng không biết được đang ròng hay lớn. Bãi bồi bị lấn chiếm để xây cất nhà ở, hàng cây bần, cây mắm… biến mất dần. Kỷ niệm cũ chắp vá trong cơn mơ thảng thốt, đứt đoạn mà thôi. Lục tìm những câu ca dao, đọc thầm cho riêng mình nghe… “Chiều chiều xuống bến ba lần/ Trông em không thấy, thấy bần xơ rơ”. Rồi tự thấm thía lời ủi an ngọt dịu “Lẻ đôi em chịu lẻ đôi/ Hoa tàn em cũng đợi, bần trôi em cũng chờ”. Bên kia sông nhà cửa san sát, bến nước cùng những cây bần quen mắt không còn nữa. Lại thì thầm câu ca dao đầy xót xa, thương cảm “Neo ghe vô dựa gốc bần/ Em thương anh nói vậy chớ biết mình đặng gần hay không?”…

MẢNH VƯỜN QUÊ

NGUYỄN KIM

   Sau năm 1975, gia đình tôi gặp nhiều khó khăn như biết bao người khác, cho nên khi được ông bác hào phóng nhường cho miếng đất ở quê, ba tôi mừng lắm. Mừng, vì tính người thích sống nơi thôn dã, ở chợ khó mà tìm được nơi thoáng đãng, tự nhiên. Việc trước hết là cất một căn nhà lá nhỏ đủ để sinh hoạt, sau đó ba tôi chuyển ít vật dụng cần thiết lên rồi ngày ngày dọn dẹp, đốn bỏ những cây tạp, gai góc chung quanh. Việc này cũng chẵng dễ dàng gì bởi hơn hai mươi năm trong quân đội rồi giải ngũ sống bằng lương hưu, ba tôi chưa quen công việc đời thường. Mấy anh em chúng tôi dù không thường xuyên cũng tranh thủ tuần lễ đôi ngày lên phụ giúp vét ao, bang đất. Những bụi lức, dây mây… um tùm dần được chặt bứng cho trống trải. Ba tôi đặt dừa cách khoảng dọc theo ranh đất, đánh mương giữ nước và ngăn rễ ăn sâu vào trong. Vuông đất bằng phẳng, người trồng bắp, mía, đu đủ, chuối… mỗi loại một ít, chủ yếu cho con cháu lên thăm có cái để ăn chơi vui. Cặp bên hông nhà, má tôi dùng lá dừa xé đôi ken lại làm một cái bồ đổ đất trồng rau. Đó vừa là niềm vui tinh thần, vừa là lợi ích thiết thực trong bữa cơm quê…

   Đất trong bồ là lá lợp nhà nát mục trộn cùng phân hố ủ, màu đen xốp, rất tốt. Má tôi trồng rất nhiều thứ, nào là bạc hà, rau thơm, hành lá, vài cây ớt, bụi gừng, bụi sả… Hàng ngày má tưới nước, vun gốc, chăm sóc từng cây, từng gốc một. Tôi hiểu đó là sự thanh thản, niềm vui trong lao động của người già. “Vườn rau” của má ngày thêm xanh tốt nhờ sự cần mẫn đó. Cải trời, rau dền… mọc lưa thưa, má chịu khó bứng trồng gom một chỗ, bảo: “Rau thiên nhiên bổ dưỡng có lúc cần, bỏ đi uổng lắm!”. Thấy hàng rào tre, má cũng nghĩ ra chuyện tìm dây lá sâm, hột mồng tơi ươm trồng. Chừng đôi tháng có lá mồng tơi nấu canh cua ăn mát miệng. Bọn tôi hái lá sâm vò lược lấy nước đông đặc cả thau, ba nói đùa là món “hương đào” tức… hao đường. Má ưa bông điệp, trồng được một cây cao gần bằng đầu người, bông trổ quanh năm. Lại đặt cây chanh sau vài năm rất sai quả, hàng xóm cần qua nói một tiếng thì cứ hái quả, cắt rau mà không ai ngại. Má nói: “Cây trồng có cực khổ gì đâu, cũng bà con mình dùng chớ ai vô đó!”. Tôi nhớ sát vách nhà có cây ớt hiểm mọc hoang, để riết cao lớn đến kinh ngạc, trái chi chít đầy cành, lả ngọn phủ lên mái lá, ai thấy cũng trầm trồ. Hồi chưa đấp đập, sau nhà có con rạch mát bóng hai hàng bần cao vút. Ba tôi làm ít vó cua, giăng mươi thước lưới bén… vậy mà có thức ăn hàng ngày, không thiếu. Anh em tôi hay ra rạch tắm thỏa thê rồi qua bên kia ruộng mô để bắt còng, nghe động còng lửa chạy rạng đất. Bắt nhiều đem về, má làm sạch rồi  ra mé ao hái rau muống nấu canh chua với lá me non hoặc bần chín, rang mặn sả ớt, rau thơm vườn nhà có sẵn khỏi mua. Bờ ao ẩm ướt, má tận dụng trồng vài gốc lá dứa thơm, sau này cây chị cây em thi nhau mọc sum suê, xanh mướt. Giã nhuyễn lá dứa lấy nước trộn bột làm bánh đúc, bánh lọt, để vào nồi cơm cho thơm… dùng hoài không hết, má nhổ bớt cho những nhà gần bên trồng. Cặp quanh bồ rau, má cặm cụi đào lổ trồng khoai môn loại củ nhỏ. Chừng mùa nắng, chiều chiều má đào lấy củ nấu chè cho cả nhà ăn. Củ khoai môn không lớn, nhưng ăn rất thơm, bùi, khác xa củ môn to bằng trái cam bán ở chợ, ăn thấy nhàn nhạt làm sao…

   Trưa trưa nằm võng chái hè nhà, nhìn tàu lá dừa đong đưa, cây chanh vươn tán lá rộng, cành bông điệp màu vàng cam tươi tắn… để ngẫm nghĩ về hai chữ hương quê. Chiều chiều ngồi cạnh má nhổ cỏ, bắt sâu ở mảnh vườn nho nhỏ mà lòng thấy đầy ắp những tình cảm. Má già yếu, thời gian gần gũi các con tới ngày xế bóng, buồn đau đáu hỏi được bao lâu? Vườn rau của má bây giờ còn đây, mai này sẽ ra sao?. Thôi thì hãy chắt lọc tận hưởng hạnh phúc gia đình, ấp ủ thương yêu bên vườn rau của má…

Tấm Lòng Cậu Chó

Tràm Cà Mau

(Có một truyện dài tên Cậu Chó mà tôi chưa được thưởng thức, chỉ nghe bàn tán xôn xao một thời . Câu chuyện sau đây chẳng có liên hệ chi với chuyện dài đó .)

Không biết vì lý do nào, nó bị chủ sa thải, và rơi vào nhà tôi. Nó là một con chó loại nhỏ bằng bắp chân. Hình dáng y hệt một con nai tý hon có khuôn mặt con chồn. Hai mắt tròn, to, long lanh sáng như hai viên bi chai ướt át. Hai tai vểnh lên cao, chân dài, thân hình thon nhỏ cân nặng chưa được ba ký lô. Nói theo ông anh tôi, thì chưa đủ một tô rựa mận.

Nó gia nhập gia đình tôi một cách tình cờ, vì thực sự tôi cũng chưa có ý định nuôi chó, mà chồng tôi thì có vẻ ớn và ngán loài chó một cách rõ ràng. Anh nại lý do là cả đời chó không bao giờ đánh răng, mà cứ thích liếm tay, liếm mặt người khác, bao nhiêu là vi khuẩn, vi trùng có dịp xâm nhập. Cứ thử nghĩ, có một giai nhân lộng lẫy như tiên , mà cả tháng chưa đánh răng, thì có anh chàng điên nào đủ can đảm dám ghé môi hôn chăng? Hơn nữa, loài chó thường làm trung gian mang bọ chét, rận, chấy, dễ lây lan qua cho người, rất khó tránh. Như thế thì có thể vô tình đem bệnh hoạn đến cho con người. Nhưng lý do chính, anh không nói ra, mà tôi biết rõ, là anh kỳ thị và có định kiến với loài chó. Bởi vì , thời anh mới chín mười tuổi, đã chứng kiến cảnh cô bé bảy tuổi hàng xóm lên cơn dại chó, gầm gừ và chết thảm thiết. Cô bé nầy thường hay ôm ấp vuốt ve con chó nhà láng giềng. Một hôm chó phát bệnh dại, thè lưỡi chạy chầm chậm ngoài đường, táp hụt nhiều người bộ hành. Lũ học trò nhỏ đi học về sợ hãi, rú lên, xô nhau chạy tán loạn. Bác cảnh sát phải nạp đạn hai lần, đến gần con chó khoảng một thước, bắn hơn cả hơn chục phát đạn mới trúng một viên, con chó quay mòng mòng và ngã lăn ra chết. Cả phố cười vang vì phục cái tài thiện xạ của bác cảnh sát. Mặt bác cảnh sát đỏ gay vì xấu hổ và leo lên xe đạp đi một nước, chẳng nói năng gì. Ngoài ra, chồng tôi cũng bị chó cắn đôi lần khi còn bé, nên có thành kiến về chó là phải.

Khi anh tôi đem con chó về, thì chồng tôi cũng không phản đối, mà cũng chẳng tán thành. Lần đầu tiên con chó gặp chồng tôi, nó vẫy đuôi chào mừng, anh chỉ mĩm cười nửa miệng rồi quay đi, không thèm ban cho nó một cái vuốt ve, một tiếng huýt sáo. Thế mà sau một tuần, tôi thấy chồng tôi lể mể ôm về một bao thức ăn cho chó, loại ngon nhất, đắt nhất, và kèm thêm thức ăn trong hộp .Tôi không biết làm sao mà con chó chinh phục được cảm tình của chồng tôi mau lẹ thế. Bởi không ai hiểu chồng bằng vợ, khi đã có thành kiến về cái gì, thì khó ai mà lay chuyển anh nỗi. Ban đầu, chồng tôi gọi con chó là nó, rồi gọi là em nó, sau nữa, gọi là cậu chó, thăng chức cho có. Tôi và anh tôi, thấy cách xưng hô lạ, hay, cũng kêu bằng danh từ cậu chó. Từ không quen biết, cậu chó đã chinh phục mau lẹ cảm tình của cả ba người trong nhà . Phải công nhận cậu có tài, vì ông anh tôi cũng không phải là loại người yếu lòng, dễ lung lạc, va thường không ưa chăm sóc ai, cũng không ưa ai chăm sóc mình. Thế mà mỗi sáng, mỗi chiều, ông cẩn thận lấy mấy cục bò viên, gói vào giấy ni lông, bỏ vào lò hâm cho ấm, để lên cái dĩa sành nhỏ, lễ mễ bưng ra cho cậu xơi Cậu chó nằm dài trên tấm thảm chà chân mà thong thả nhai và thưởng thức vị béo, ngọt của thịt bò vò viên. Đôi mắt cậu long lanh ướt át, đẹp hơn cả mắt các cô thiếu nữ đương thì. Những khi anh tôi nằm trên ghế dài đọc sách, thì cậu phóng lên, nằm kê mõn trên chân anh. Cả hai đều im lặng, anh tôi thì chăm chú đọc, cậu thì lim dim mắt, thỉnh thoảng nhúc nhích vành tai, như lắng nghe tiếng huyền diệu xa xôi nào đó trong không gian. Thường thường, khi thấy cảnh ấm cúng hạnh phúc đó, chồng tôi cười mà trêu anh tôi: "Cậu chó sướng quá nhỉ! Có khối cô mong được kê cái đầu lên chân đó để lim dim mắt mà không được . Phước phần nào tổ tiên để lại cho cậu thế?". Người và chó, cả hai trông hạnh phúc phát tiết ra ngoài mặt.

Có những lúc cậu chó đang ăn, vội chổng tai lên, rồi bỏ ăn mà chạy ra hướng cửa . Tôi ngạc nhiên không biết tại sao, thì chỉ liền mấy phút sau đó, thấy xe anh tôi về đậu trước cỗng . Thì ra cậu nhận được tiếng máy xe từ rất xa, cách đến mấy ngã tư đường , biết anh tôi về, vội bỏ ăn, chạy ra chào mừng. Cái hành động nầy, được chồng tôi khôi hài ví với chuyện các bậc minh quân bên Tàu đời xưa, đang ăn mà nghe có người hiền đến, thì vội nhả thức ăn, chạy chân đất ra mà tiếp đón .Mỗi ngày, anh tôi ra vườn ngồi nhả khói thuốc lên trời cao, cậu đến bên cạnh, cạ mình vào anh tôi, đuôi ve vẫy, hình như cả hai đang mơ mộng, đang vui với trời đất, vui với một ngày bình an, thanh thản.

Cậu chó thường ngủ trong một cái chuồng nhỏ, đặt trong buồng anh tôi. Đã thành thói quen, mỗi đêm, khi anh tôi mở cửa buồng, thì cậu biết đã đến giờ đi ngủ, phóng vội vào chuồng và nằm yên lặng cho đến sáng. Khi anh tôi dậy, mở cửa thì cậu vội vã phóng ra vườn làm vệ sinh . Có khi đã vào trong chuồng mà cậu chó kêu ư ử nho nhỏ như mốn đòi hỏi chuyện gì đó, anh tôi tằng hắng một tiếng, cậu im rơ, nằm yên cho đến sáng .

Mỗi khi anh tôi đi về khuya, thấy cậu chó cứ dương mắt nhìn ra ngoài chờ đợi, tôi nhốt vào chuồng cho cậu ngủ, cậu chỉ nằm yên chừng năm phút, rồi nhè nhẹ lén đi ra, ngồi trước cửa, buồn rầu chờ đợi anh tôi. Cậu nhất định không đi ngủ, nếu anh tôi chưa về. Anh tôi vốn là người rong chơi ngày tháng rộng, lang bạt giang hồ, đố ai biết anh đêm nào ngủ ở đâu, ngày nào rong chơi miền thảo dã nào, thế mà vì cái đợi chờ của cậu chó, mỗi đêm phải ra về, về sớm, không thì sợ cậu đợi chờ tội nghiệp. Như là sợ con mọn lo, sợ người vợ hiền mòn mõi trông chồng, anh phải về. Về cho cậu chó đi ngủ. Anh tôi thương mến cậu chó, như cha thương con, chăm sóc từng bữa ăn giấc ngủ. Chồng tôi trêu rằng, anh tôi là nghiêm đường của cậu chó. Cậu chó rất lể phép, khi nào cũng đi sau lưng anh, không bao giờ cậu dám đi trước mặt anh. Chồng tôi nói rằng  cậu chó “vừa kính, vừa thương” ông anh tôi

Mỗi khi tôi đi làm về, cậu chó chồm lên, ôm lấy chân tôi, đuôi quẫy lia lịa và kêu ưng ửng trong cổ họng. Không phải cậu nịnh tôi, để tôi cho ăn, cậu vui mừng, tỏ tình thương, tỏ cái lòng chân thật, cậu không cầu mong gì cả. Nếu tôi cúi xuống vuốt lên lưng cậu, thì cậu nằm dài ra, chổng bốn chân lên, nhõng nhẽo, nũng nịu.

Chồng tôi thường hay cho cậu ăn chút chút, khi thì cục xương gà, khi thì tép bò khô, khi thì miếng thức ăn thừa trong tủ lạnh. Bởi vậy, mỗi khi thấy chồng tôi, thì cậu chó thè lưỡi ra, liếm láp quanh mồm lia lịa, rồi nhảy cỡn lên, như hân hoan sung sướng lắm. Chồng tôi nói rằng, chắc cậu cũng chẳng có tình nghĩa gì đâu, chỉ hy vọng được ăn thôi, cứ nhìn cái lưỡi cậu liếm láp lia lịa thì rõ lòng dạ cậu. Thỉnh thoảng, chồng tôi cũng bỏ thì giờ ngồi vuốt ve cậu , nói chuyện triết lý với cậu, như nói cho một người hiểu biết nghe. Tôi rình nghe mà cười.

Nhiều lần thấy tôi tắm cho cậu chó, chồng tôi nói lớn: “Thế mới biết em thương anh không bằng thương cậu chó. Lấy nhau mấy chục năm nay, mà có khi nào em tắm cho anh đâu?”. Lần tôi đem cậu chó đi chích ngừa bệnh, mua thuốc cho cậu uống, anh tôi vuốt ve cậu mà nói : “Cậu mầy hơn ta rồi đấy, mấy chục năm nay, ta đâu có chích choác gì , đâu có thuốc phòng bệnh chống bệnh gì. Cậu mầy ngon quá mà”.

Cả nhà không ai nói ra, nhưng ai cũng dành cho cậu một khoảng ấm áp trong tim. Ngay cả việc tình duyên của cậu, cũng được lo lắng lưu ý đặc biệt. Cậu được mai mối cho một nàng chó của ông bà Mỹ già ở thành phố kế cận . Nàng chó nầy, nhỏ thon, lông trắng như bông, môi mũi hồng hào, mắt tròn xoe, sáng đẹp đẽ . Nàng chó nầy xinh xắn như cô tiên, được chủ cưng chiều như một tiểu thư đài các . Về mặt ngoại hình, thì cậu chó nhà tôi, với nàng chó nầy như đôi đũa lệch, như thằng bán than mà đèo bòng công chúa. Ông bà già Mỹ chưa thấy dung nhan cậu chó . Chồng tôi sợ cậu bị nhà vợ chê, nên đặt kế hoạch làm đẹp cho cậu, mua thuốc nhuộm tóc màu vàng và màu đen, định tô cho đậm hẵn những vệt vàng và vệt đen có sẵn trên thân cậu, xóa những vệt lem luốc không rõ vàng, không rõ đen. Nhưng tôi và anh tôi phản đối . Tôi bảo không muốn lừa dối ai bằng cách nhuộm chó. Chồng tôi hỏi tại sao đàn bà bôi xanh bôi đỏ được, nhuộm tóc được, sửa mắt sửa mũi, hút mỡ, độn ngực được, mà cậu chó nhà mình không có quyền trang điểm một chút cho ra vẽ hào hoa hơn ? Nếu nhà gái chê, lỡ duyên của cậu, thì ngàn năm một thuở, cậu đành ngậm ngùi làm kiếp trai già còn tân. Còn anh tôi thì vì “thương con mà thành mù quáng”, anh thấy cậu chó đẹp lắm, cho là một loài hiếm, vì có lông vằn từng vệt đen vàng xen kẻ, như bộ da ông cọp . Bỡi thế, mà cậu chó còn có bí danh là Tiger (ông cọp). Khi ông bà Mỹ già nhắn đem cậu chó đến làm rể, thì chồng tôi tiếc cho cậu, chưa được trau chuốt lại cái dung nhan lem luốc, cho đỡ mang vẽ bần hàn con nhà ruộng, con nhà núi . Tôi chỉ vội vã đem cậu đi tắm cho sạch sẽ, để đi cưới vợ, mà cậu sợ nước, bỏ chạy trốn . Tắm xong, tôi sấy khô lông, và bôi chút nước hoa thoang thoảng lên đầu cậu.

Chồng tôi nằm nhà thở dài chờ tin buồn, là cậu bị từ hôn . Tôi và anh tôi cắm hai đóa hoa hồng bên cửa xe, dẫn cậu ra đi. Xem bộ cậu hí hững lắm. Không biết cậu có linh tính chi không. Khi dẫn cậu vào nhà, hai ông bà Mỹ cười, và vì lịch sự, nói rằng : “Không đến nỗi tệ, không đến nỗi tệ”.

Vừa thấy cậu, thì nàng tiểu thư chó vẫy đuôi, mắt sáng rạng rỡ nhìn cậu đắm đuối và liếm mép . Cậu thì tỉnh bơ, như không thấy người đẹp trước mắt, cứ nhìn dáo dác và đứng khép nép bên chân anh tôi . Cậu ngượng chăng ? Tưởng cậu e thẹn với người lớn, anh tôi bèn giả vờ đi ra ngoài cho đôi trẻ tự do làm ăn. Thấy anh tôi bước ra, cậu vội vã cong đuôi chạy theo. Tôi ẵm cậu quay trở lại để gần nàng tiểu thư chó đang làm điệu bộ, muốn làm quen . Tôi vuốt ve trên lưng cậu chó, cậu lại nằm chổng cẳng ra nhõng nhẽo . Có ai đi hỏi vợ mà như thế nầy bao giờ ? Nàng chó thích thú đến gần và hôn nhẹ vào lưng cậu, rồi nàng liếm trên mặt cậu . Một lúc sau, hai bên làm quen, hôn hít nhau tự do trước mặt hai họ. Nàng chó nằm ép bụng xuống, hai chân cào lia lịa trên mặt thảm, kêu ư ử trong họng, thân mình uốn éo, mắt nhìn cậu đắm đuối, rồi đưa mông về hướng cậu, như thúc dục , như gọi mời . Anh tôi thấy cậu tỉnh khô, chẳng làm ăn gì, bực mình mắng một câu: " Đúng là ngu như chó. Không biết cái chó gì cả". Nhưng rồi cuối cùng, mọi việc đều êm xuôi, cậu ban cho nàng tiểu thư chó hai lần ơn mưa móc. Nàng tiểu thư chó xoắn xít lấy cậu . Ông cụ Mỹ khen cậu là bé ngoan (good boy). Xong cuộc tình, cậu đứng thở dốc, anh tôi xót con, muốn đem cậu về, sợ cậu ở đây thì còn hao mòn thân xác hơn nữa . Ông bà cụ Mỹ đề nghị cho cậu chó ở rể một tuần, anh tôi không chịu . Tiểu thư chó đến bên cậu thè lưỡi âu yếm chăm sóc chồng, liếm lên mặt, lên vai . Cậu thừ người đứng yên lặng nhìn anh tôi như dọ hỏi . Khi anh tôi bước ra cửa, cậu vùng chạy theo, không thèm chia tay người đẹp chó, nàng chạy theo chàng ra đến tận cửa xe, cậu nhảy thốc lên ghế ngồi, không thèm ngó lại nàng đang vẫy đuôi cuống quýt . Anh tôi mắng :“ Bạc tình đến thế kia à ?". Sau đó, ông bà già vợ của cậu còn nhắn nhe nhiều lần, nhưng anh tôi thương cậu, sợ cậu mất sức, hẹn qua năm sau cho chúng gặp lại. Chồng tôi thì khuyên anh tôi cho cậu đi ở rể vài tháng cho sướng thân cậu, mấy khi cậu được cái hạnh phúc yêu đương, đời mà không tình yêu, thì cũng xem như chết rồi mà chưa chôn vậy.

Về mặt tình, thì cậu chó nhà tôi quả thật tệ, nhưng về phương diện thu phục lòng người, thu phục tình thương, thì cậu là thượng thặng. Cậu đã thu phục tình thương của ba anh em chúng tôi cấp kỳ, dễ dàng, tài tình. Tôi nghiệm ra, nếu mình chân thành thương yêu ai, thì tình thương được đáp lại ngay. Trong tình thương cũng phải bày tỏ ra bằng cử chỉ hàng ngày, chứ không phải thâm trầm che dấu bên trong . Che dấu tình thương, dễ bị hiểu lầm là lạnh nhạt . Những câu nói rất thường của những kẽ mới yêu nhau, nhưng không bao giờ chán tai người nghe, những cử chỉ lập đi lập lại, nhưng vẫn làm người nhận vui thích và cảm thấy lòng ấm áp.

Cậu chó không bao giờ tranh đua với ai, không ganh tị, không trách móc, không giận hờn ai trong gia đình . Ngay cả khi chồng tôi vô tình dẫm lên đuôi cậu, cậu kêu la, bỏ chạy, nhưng ngay tức thì sau đó, cậu vẫy đuôi, quên giận hờn, quên đau. Thế thì ai mà không thương cho được?

Ngày xưa, khi các cụ đồ đi thi bị rớt quay về nhà, thì chỉ có con chó ra vẫy đuôi chào mừng mà thôi. Cụ ông đem so sánh, cụ bà bảo rằng: “Con chó nó có thức khuya dậy sớm, tần tảo nuôi ông ăn học đâu mà nó thấy buồn”. À thì ra loài chó còn là thứ quân tử, không màng đến bã công danh.

Loài chó, như mọi người biết, chủ có nghèo khó đói khổ đến đâu, cũng không bao giờ bỏ chủ. Trong lúc đó, con người, ngay cả vợ chồng, khi sa cơ thất thế còn có kẽ bỏ nhau, khi giàu sang có thể thay chồng đổi vợ .

Cái tài chinh phục lòng người của cậu chó cho tôi bài học quý báu. Tôi bắt chước cậu, bày tỏ tình thương với chồng tôi. Thỉnh thoảng tôi dúi đầu vào ngực chồng thật lâu, hít thở cái mùi thân thiết, và đem hết cái âu yếm tỏa ra trong mình, gắng truyền qua tấm ngực ấm áp của chồng. Chồng tôi vuốt ve trìu mến trên lưng, trên tóc tôi. Tôi có cảm giác như thời mới biết nhau, mới quen, mới thương nhau. Sung sướng hạnh phúc tràn đày .Tôi cũng bắt chước cậu chó, cho tình thương đi mà không đòi hỏi, không trách móc, không giận hờn. Tôi bỗng thấy nhận lại được tình thương nhiều vô tận. Hạnh phúc trong gia đình tràn đầy như nước triều dâng. Chồng tôi cũng cảm nhận được những thay đổi trong gia đình, những vui sướng, những ấm êm, những an bình. Tôi thầm cảm ơn cậu chó, đã cho tôi bài học vun xới tình thương tuyệt vời, mà sách vở chỉ là thứ lý thuyết suông, như nước chảy qua cầu, như ảnh hình nhìn xuyên qua cửa sổ con tàu. Bài học của cậu chó thực tiển, tận mắt, đơn sơ, nhưng hiệu quả vô cùng. Bây giờ tôi mới nghiệm ra, tại sao những cao thủ võ lâm thời xưa, nhìn động tác chiến đấu của loài vật mà bắt chước, sáng chế ra các chiêu thức như hầu quyền, hổ quyền, xà quyền v.v... Có lẽ cái khôn ngoan và sinh hoạt của giống thú cũng có rất nhiều điều đáng cho con người học hỏi.

Cậu chó nhà tôi, và cả họ hàng nhà chó gần khắp nơi trên thế giới, (trừ các nước tự xưng là xã hội chủ nghĩa) chẵng cần lao động mệt nhọc chi cả, mà lại có đời sống ấm no, cơm bưng nước rót, chẳng hề nghĩ đến sinh kế, không sợ thị trường chứng khoán trồi sụt, không cần biết đến chỉ số Dow Jones, Nasdaq mỗi ngày, không cần biết đến chu kỳ kinh tế thăng trầm, suy thoái, cũng không cần lo, cần biết đến những chính sách đối ngoại đối nội của chính phủ, cứ phè cánh ra mà được thương yêu, cưng chìu , bảo bọc, an nhàn. Có những người giàu bạc tỉ, có kẽ quyền uy ngất trời, danh vọng ngút ngàn, cũng không mua, không có được cái an nhàn sung sướng hạnh phúc của cậu, trong lúc cậu không có một đồng xu lận lưng, không có một chương mục ngân hàng, không một tư hữu nào cả . Cậu vốn thất học, mù chữ, chẳng hề biết đến một trang sách học làm người, một chữ trong sách thánh hiền, mà cậu sành tâm lý, biết cách lung lạc lòng người hiệu quả. Toàn cả gia đình tôi đem hết tình thương ra mà hậu hĩ đãi cậu.

Ban đầu, chồng tôi gọi cậu chó bằng nó, với thái độ miệt thị, xem thường. Nhưng khi bị cậu chinh phục, bắt đầu thương yêu, thì gọi là em no ù. Đến khi cảm cái tài, cái đức của cậu, thì gọi bằng cậu chó. Anh thấy học được của cậu nhiều điều hay, lạ , bổ ích, hiệu nghiệm. Rồi anh nghiệm ra,  những điều học hỏi từ cậu có thể còn đúng, còn có giá trị muôn đời,  làm cho gia đình hạnh phúc hơn, làm cho mọi người chung quanh thương mến nhau hơn, thì bèn tôn sư, kêu cậu bằng …ông thầy.

Một hôm đi chợ về, tôi thấy sau vườn khói um mù, chồng tôi vừa đi vừa nhảy nhót quanh một cái thùng sắt lửa nghi ngút, như dáng múa của người da đỏ đang hành lễ. Theo sau là cậu chó vẫy đuôi chạy loăng quăng. Thỉnh thoảng anh quay lại vái cậu chó mấy cái và gọi cậu là ngài . Cậu thơ ngây vẫy đuôi gục gặc đầu chí thú, kêu ư ử trong cổ họng. Tôi nhìn vào thùng xem chồng tôi đốt gì, thì thấy cả mấy chục cuốn sách triết lý đang cháy . Nào là Khổng tử, Mạnh tử, Lão tử, Trang Tử, Platon, Descarte, Hegel, Jean Paul Sartre... và cả mấy chục cuốn sách thuộc loại nhức đầu khác nữa. Toàn là loại sách triết học đông tây kim cổ mà thường ngày anh quý như vàng ròng, trân trọng dìn giữ. Tôi vốn không lạ gì với hành động đôi khi gàn dở của chồng, vì anh bị nhiễm nặng các tư tưởng triết lý, đạo giáo . Nhưng hôm nay tôi ngạc nhiên, không hiểu tại sao anh đem những cuốn sách quý báu đó ra hỏa thiêu và tôn cậu chó lên chức ngài . Tôi hỏi lý do. Anh đáp rằng :" Mấy chục cuốn sách triết học đông tây kim cổ nầy, chẳng ích lợi thiết thực chi cho hạnh phúc gia đình, cho cuộc sống nhân sinh bằng cái triết lý tình thương chân thật của ngài chó đây. Ngài là một bực tuyệt khôn, đại trí. Loài người thường kiêu hãnh tưởng mình khôn ngoan nhất, nhưng biết đâu loài chó nó cười cho thối đầu . Khôn hơn sao phải lao động cực khổ để cung phụng, thương yêu, phục vụ kẽ ăn rồi nằm không? Loài chó chỉ ban cho loài người chút tình thương thôi, rồi phè ra mà sung sướng một đời. Thế thì ai khôn hơn ai ?"

Chồng tôi xá thêm cậu chó mấy cái cung kính lắm . Bao nhiêu sách triết lý đều thiêu thành tro bụi, tàn bay lả tả .

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro