Tuyen tap cac truyen ngan- vuquocviet 01678668122

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Tầu Đã Đến Ga Font Size: Tác Giả: Phạm Văn Khôi Tìm Kiếm bằng Tựa Đề:

     Tôi tình cờ gặp nàng trên sân ga Hà Nội vào một đêm mùa đông. Thực tình mà nói,trước đây chúng tôi cũng chưa hề nói với nhau một lời.Chưa cận kề nhau một phút. Nhưng nàng đã ở trong tôi gần hai mươi năm nay. Có thể,trong trái tim của nàng ngày ấy có hình bóng tôi !? Tôi luôn cảm thấy như vậy.

    ...

    Tôi xin đi làm từ khi hàng xóm vẫn gọi tôi là cậu bé. Hồi đó tôi vừa tròn mười bảy tuổi. Tôi muốn làm việc để bớt đi một gánh nặng cho gia đình hơn là sự nôn nóng muốn làm người lớn. Tính tôi vốn nhút nhát và đa cảm. Khái niệm về tình dục với tôi hồi đó thật mơ hồ. Có thể,sự kìm hãm về trí tuệ,luân lí đã làm lạnh đi những ham muốn sinh lí. Thỉnh thoảng,tôi bỗng cảm thấy thèm một điều gì đó. Nhưng tôi không biết phải làm gì và như thế nào để sưởi ấm con tim lạnh lẽo. Tôi chỉ cảm thấy răng...tôi cô đơn,rằng... ngoài những mối quan hệ gia đình và người thân ra chắc còn phải có một mối liên hệ thần bí nào đó? Sau này,tôi mới biết. Cái thần bí muôn thủa đó là: Tình yêu !

    Tôi hào hứng làm công việc của tôi cho dù chỉ là thợ đốt lò. Ca sáng từ sáu giờ đến mười bốn giờ. Ca chiều từ mười bốn giờ đến hai mươi hai giờ. Mỗi tuần lễ đổi ca một lần. Thường thường,nếu tôi làm ca sáng thì cứ khoảng sáu giờ kém mười năm phút là lúc tôi đi qua cửa số 1 sân vận động Hàng Đẫy. Sự đột biến làm tâm hồn tôi bâng khuâng bao nhiêu năm nay xảy ra chính tại đấy ! Ở trước cửa số 1 sân Hàng Đẫy ấy ! Vào khoảnh khắc sáu giờ kém mười năm ấy...Một cô gái đi ngược chiều với tôi bên kia đường mà chỉ ngay hôm sau tôi phát hiện ra,cô cũng đi làm vào giờ ấy. Người con gái đó chính là nàng ! Hôm ấy,chúng tôi tình cờ nhìn vào mắt nhau...để rồi,hàng trăm ngày sau vẫn say đắm nhìn nhau. Có lẽ,trong những ngày đam mê ấy...cả hai chúng tôi chỉ mong ước những giây phút thoáng qua ấy. Có thể,ngay cái nhìn đầu tiên,tôi đã bị chinh phục bởi ánh mắt của nàng.

    Nàng không đẹp lộng lẫy nhưng xinh xắn và gợi cảm. Vẻ mặt nàng thường đăm chiêu với đôi mắt mơ mộng chân thành. Gò má và đôi môi của nàng luôn bừng lên khát vọng...những khát vọng được vuốt ve,được ôm ấp...Cái khát vọng bằng sự run rẩy thầm kín của con tim e ấp và kiêu hãnh. Gặp nàng,tôi có cảm giác rằng...

    tất cả những gì trên thân thể đang đậy thì kia...đang toát ra,bao trùm không gian quanh tôi một mùi hương đam mê ngây ngất. Mùi hương đó mê hoặc các giác quan,không một loài hoa nào trên đời này có thể sánh được.

    Hàng năm trời,tôi và nàng chỉ nhìn nhau như vậy. nhưng từ những ánh mắt ấy,tôi tự đoán ra những vui buồn của nàng,tình cảm của nàng. Mùa hè,nàng hay mặc áo màu thiên thanh. Mùa Thu màu tím. Mùa đông màu huyết dụ,còn mùa xuân

    nàng mặc áo màu hoàng yến.

    Có một lần,tôi cảm thấy môi nàng mấp máy như định nói với tôi...Nhưng cái khoảng thời gian thoáng gặp nhau quá ngắn ngủi làm tôi câm lặng,tôi không đủ can đảm để hỏi nàng dù chỉ một câu. Nàng nhíu cặp mày thanh tú như tỏ vẻ trách móc...(Sau này tôi mới thấy hối tiếc)

    Vài ngày sau đó,nàng có vẻ buồn. Khuôn mặt thiên thần đã gợn lên chút xao xuyến. Bẵng đi nửa tháng,tôi không gặp được nàng. Tôi nhớ,tôi lo nàng bệnh,tôi như bị ốm tương tư. Tôi đưa hình hài của nàng vào trái tim tôi,giấc mơ của tôi. Những ngày này,đất dưới chân tôi như sóng biển,mặt trời như một ông già cáu bẳn.

    Ngày thứ mười sáu. Chúng tôi lại gặp nhau vào giờ ấy,chỗ ấy. chúng tôi nhìn nhau âu yếm giữa khoảnh khắc nghiệt ngã của sự ngược chiều. Không hiểu sao,lần này chúng tôi bỗng đi chậm lại như đi viếng một linh hồn?!...Tôi thấy từ trong đôi mắt thiên thần của nàng long lanh nước mắt...Rồi nàng bỗng vụt chạy như thể nàng sợ tôi thấy nàng khóc hơn là nàng là nàng chạy chốn tôi...Tôi hiểu rằng nàng đã lấy chồng. Và mười năm ngày khốn khổ của tôi chính là quãng hạnh phúc của nàng. Mặc dù vậy,những lần gặp nhau sau đó,nàng vẫn ban phát tình yêu cho tôi qua ánh mắt. Có lẽ,nàng vẫn thèm được hưởng thụ tâm hồn tinh khiết của một chàng trai nhút nhát của tôi? Tôi nhận thấy,ánh mắt của nàng đã mất đi vẻ hồn nhiên?! có chăng chỉ còn sự mệt mỏi và nuối tiếc. Nhưng dù có thế nào đi chăng nữa thì tôi vẫn yêu nàng ! Yêu say đắm,yêu mãi mãi. Tất cả những gì đẹp nhất,trong vắt nhât của nàng đã ở trong tâm khảm tôi. người đàn ông nào cưới nàng cũng chỉ là kẻ xấu số mà thôi. Để dáng hình nàng còn nguyên vẹn như buổi gặp đầu tiên,khi thấy nàng có bầu,tôi đi vòng đường khác.

    ...

    Tôi tay xách nách mang,nàng cũng vậy. Gần hai mươi năm không gặp nhau,nàng và tôi đều có những thay đổi. Nàng vẫn đẹp ! Một vẻ đẹp bí ẩn và sầu thảm. Còn tôi,đã hai thứ tóc trên đầu. Chúng tôi lại trìu mến nhìn nhau. Sống lại như những ngày đã có. Lần này, Thời gian đã giúp tôi có đủ can đảm để lên tiếng.

    Tôi hỏi nàng:

    - Tết nhất đến nơi rồi,em đi đâu vậy?

    - Em đi thăm chồng ở trại cải tạo Phố Lu !

    Tôi ngạc nhiên vì sự trùng lập của tôi và nàng...chẳng lẽ,số phận cứ bám lấy chúng tôi để gieo những nỗi buồn?! Tôi lại hỏi:

    -Chồng em phạm tội gì?

    Nàng thản nhiên trả lời tôi như với một thân:

    - ăn trộm !

    Tôi chợt nhận ra rằng,đằng sau cái tự nhiên kia là sự ngơ ngác và khổ ải. Đột nhiên,nàng hỏi tôi:

    - Còn anh...đi đâu mà cũng lủng củng đồ đạc thế kia?

    - Cũng như em thôi,đi tiếp tế cho vợ...trại Phố Lu !

    Nàng ngạc nhiên nhìn tôi với ánh mắt dịu hiền và đồng cảm. Nàng hỏi:

    - Vợ anh phạm tội gì?

    Nếu như người khác hỏi tôi câu này,tôi sẽ không trả lời. Nhưng với nàng,tình yêu của tôi,ánh sáng của tôi. Nếu nàng biết được nỗi khổ của tôi,chắc cũng bớt cho tôi nhiều lắm,tôi nói:

    - Vợ anh phạm tội làm điếm !

    Đây là câu trả lời thật thà đầu tiên của tôi từ ngày vợ tôi bị bắt. Đây cũng là nỗi cay đắng nhất đời của một người làm chồng. Nó nhục nhã cả trong giấc ngủ. Tôi thanh minh với nàng rằng...vợ tôi làm điếm với một tâm trạng rã rời cùng với tấm lòng cao thượng bản năng. Cô ta cố níu giữ cuộc sống của bố con tôi. Cô ta xấu xa để con tôi có tiền ăn học,để tôi tồn tại và trong sạch. Cô ta giấu tôi khéo léo đến nỗi khi công an đến bắt tôi mới ngã ngửa người ra...Kể đến đây,tôi đau khổ im lặng. Chợt nàng cầm lấy tay tôi. Tôi rùng mình và cảm thấy từ bàn tay mềm mại và ấm áp của nàng đang âm ỉ truyền sang tôi một nguồn năng lượng lạ lùng. Chưa bao giờ và chưa ở đâu tôi có cảm giác như vậy. Và...tất cả những kỉ niệm về nàng bỗng ùa đến bao trùm lấy tôi như một giấc mơ.

    Còi tẩu rú lên rồi đoàn tầu rùng mình lăn bánh. Nó mang vào trong đêm những toa nặng trĩu lo âu và chờ đợi. Tôi và nàng đang đến một nơi mà không ai mong đến. Ngoài trời tối đen,trong toa tầu hôi hám cũng đen tối. Tôi và nàng ngồi cạnh nhau như một cặp vợ chồng. Hành khách có vẻ tin là như vậy. Cách đây nhiều năm,khi gặp nhau,chúng tôi thường im lặng. Bây giờ cũng thế. Có lẽ,chưa bao giờ tôi thấy giá trị của sự im lặng như trong lúc này. Bàn tay phải của tôi bỗng nắm chặt lấy bàn tay trái của nàng. Mười ngón tay vuốt ve nhau,truyền cảm sang nhau. Chúng tôi cứ nắm tay nhau như vậy và cùng chung một hoài niệm thiêng liêng vượt bay ra khỏi mọi ràng buộc tầm thường. Trong bâng khuâng,tầm mắt bị khống chế bởi một màu đen nhợt nhạt...Tôi bỗng giật mình khi chợt nghĩ đến một thứ tình ma quỉ...đó là quan hệ vợ - chồng?! Những kẻ xa lạ khác giới tình cờ gặp nhau. quen nhau,yêu nhau,lấy nhau,cãi nhau,đánh nhau,bỏ nhau,thành kẻ thù của nhau...có khi còn giết nhau...thật kinh khủng??? Tôi rùng mình để rũ bỏ những suy nghĩ đen tối ấy đi...Rồi tôi âu yếm hỏi nàng:

    - Em dựa vào anh mà ngủ !

    - không anh ạ,em ngủ gần hết đời rồi. Cơ hội để được ngồi bên anh chắc không

    bao giờ có nữa...ôi, số kiếp con người !

    - Chồng em bị tù mấy năm?

    - Hai năm ! và cũng là lần thứ hai rồi anh ạ.

    trong đầu tôi bỗng hình dung ra một thằng trộm chuyên nghiệp với một bộ mặt khả ố...Nàng vẵn thủ thỉ:

    - Anh ấy tốt với em lắm,nói ra chẳng ai tin !

    - Tốt mà để em khổ thế này sao?

    - Hiện tại anh ấy đang khổ hơn em...cũng chỉ vì mỗi lần em sắp sinh con,kinh tế gia đình em lại rơi vào cảnh túng quẫn. Cho nên anh ấy lại phải liều đi ăn trộm.

    Tôi bắt đầu thay đổi nhận định về người chồng khốn khổ của nàng và ngạc nhiên với kiểu ăn trộm như vậy...hai đứa con,hai lần đi ăn trộm,hai lần ngồi tù !

    Nàng thở dài nghe não ruột hơn cả tiếng gió lạnh rít ngoài thân tầu. Tôi thầm nghĩ,những đứa con của nàng sống được cũng nhờ vào tiền của "Đồng bào". Và những khổ chủ của chồng nàng cũng không thể ngờ rằng...chính sự mất mát của họ lại là điều làm phúc tốt đẹp. Tôi ngập ngừng hỏi:

    - Hồi ấy mà anh mạnh bạo ngỏ lời yêu em,liệu em có chấp nhận không?

    - Hàng năm trời,em chỉ chờ mong điều đó !

    Tim tôi quặn lại và tôi thốt lên:

    - Trời ơi ! Anh thật ngu ngốc ! Thật nhút nhát !...

    - Anh ơi...Thế lại hóa hay !

    - Sao...chả lẽ em...

    - Bây giờ trong em chỉ còn tình yêu của những năm về trước...cũng may hồi đó

    anh nhút nhát...lấy anh làm chồng thì chắc chết !

    Tôi bối rối không hiểu nàng nói đùa hay nói thật.Tôi hỏi:

    - Tại sao lấy anh làm chồng lại...chắc chết?

    - Bởi vì anh quá lương thiện ! Lương thiện đến ngu ngốc !

    Nói xong câu đó,nàng nhè nhẹ dựa vào vai tôi...êm đềm như để ngủ. Còn tôi,bất ngờ vì câu trả lời của nàng và tôi tự hỏi mình ; Chẳng lẽ sống lương thiện là "chắc chết" thật sao? Chẳng lẽ phải đi ăn trộm,làm điếm...mới chắc sống? Những câu hỏi cứ lởn vởn trong đầu tôi suốt cuộc hành trình. Tôi không làm sao giải đáp nổi...

    Hơi thở của nàng vẵn đều đặn. Có lẽ nàng đang chập chờn ngủ...Không hiểu sao,

    mùi hương của nàng,người đàn bà hai con ấy vẫn làm tôi ngây ngất ! Ôi,những kỉ niệm tinh khiết của Tình yêu !

    Ngày mai,tôi và nàng,hai sinh linh lương thiện sẽ gặp chồng và vợ của mình. Họ là một tên trộm và một con điếm. Thực ra,đã là chồng và vợ của đĩ và bợm thì những người lương thiện như tôi và nàng cũng chẳng hơn gì họ. Một nửa chịu cảnh ngục tù,một nửa nhục nhã...Nghĩ đến đây,đột nhiên tôi thấy thương hại tất cả,tôi bật khóc...

    Trong không gian im lặng của vùng rừng núi cô quạnh chợt vang lên giọng nói ngái ngủ và khê nồng khói thuốc của nhân viên hỏa xa:

    - Tầu đã đến ga...

Cảm Nghĩ Của Một Người Đàn Bà Mỹ Về Ngày Tết Việt Nam. Font Size: Tác Giả: Helen Coutant Tìm Kiếm bằng Tựa Đề:

     Mùa đông lại về trên thị trấn Stonevale. Củi chụm lại được chất đầy kho; khu vườn lại được chuẩn bị để đón cái gió lạnh giá buốt thổi qua thung lũng mang theo băng tuyết. Những cánh đồng bây giờ toàn một màu xám nên trông càng thênh thang hơn là vào mùa hè. Những gốc rạ kêu răng rắc dưới chân và đất cứng đến nỗi làm đau tay tôi. Ở một nơi không ai nghĩ đến và vào khoảng thời gian nầy, khoảng thời gian lạnh nhất trong năm, chồng tôi, một người Việt Nam, con của chúng tôi và tôi, một người đàn bà Hoa Kỳ, chúng tôi cùng quây quần đón Tết.

    Tết là ngày lễ quan trọng nhất trong năm đối với người Việt Nam. Tết tương xứng với ngày lễ đầu năm dương lịch, tuy nhiên nó lại giống cả ba ngày lễ Giáng Sinh, lễ Phục Sinh và ngày lễ Độc Lập 4-7 hơn là ngày đầu năm dương lịch. Ðối với người Việt Nam, Tết có nghĩa là ngày khởi đầu một năm âm lịch, vừa là ngày bắt đầu mùa xuân. Hơn thế nữa, đó là dịp để mọi người, bằng mọi cách, trở về dưới mái ấm của gia đình và là dịp để mọi người nhớ đến Tổ Tiên. Phải xa cha mẹ, xa anh chị em, xa bà con thân thuộc trong ngày Tết, thật là một điều đau buồn!

    Bạn có lý khi tự hỏi Tết có nghĩa gì đối với một người Mỹ chưa hề đặt chân đến Việt Nam bao giờ, và bạn sẽ cảm thấy tức cười khi biết rằng mỗi khi nghĩ đến Tết là tôi liên tưởng đến tuyết và băng, đến bầu trời ảm đạm và đến màu nắng vàng vọt buồn thảm nhất thay vì đến sự ấm áp, đến hoa đào nở và những cành cây xanh tốt. Nhưng từ khi ngày Tết Việt Nam đi vào đời tôi, tôi chưa bao giờ ăn một cái Tết Mỹ thật sự. Tết Việt Nam đã trở thành ngày "Tết" của tôi.

    Tết khởi đầu với tôi vào một buổi sáng trung tuần tháng giêng khi chồng tôi bước vào nhà, mặt và tay đỏ vì lạnh, khệ nệ mang ba bốn nhánh anh đào anh cắt ở một vườn cây ăn trái gần nhà. Những cành đào được để vào một cái chậu đem đặt trong một gian phòng có nắng. Chúng tôi theo dõi và nuôi dưỡng những nụ hoa một cách trìu mến. Cuối cùng sự kiên nhẫn của chúng tôi cũng được tưởng thưởng bằng một hai nụ hoa anh đào màu hồng chen lẫn trong đám nụ xanh.

    Những nụ này sẽ trở thành hoa. Chỉ một nụ thôi cũng đủ cho chúng tôi rồi, cũng đã là một gia tài qúy báu, một đại hội cho cặp mắt của chúng tôi. Những cành anh đào nầy, chín mùi và diễn tả sự ao ước mùa xuân của chúng tôi sẽ được đặt lên bàn thờ gia tiên.

    Trong một ngôi nhà Việt Nam, bàn thờ luôn luôn chiếm vị trí quan trọng nhất. Đó là nơi tập trung mọi sinh hoạt ngày Tết. Nơi đó, mọi người trong gia đình sẽ đón và cúng ông bà. Đối với người xuất thân từ Huế như chồng tôi chẳng hạn, thì bao giờ trên bàn thờ gia tiên cũng có một bình mai vàng, nhưng tại miền bắc nước Mỹ không thể tìm ra loại hoa nầy được cho nên chúng tôi thay thế bằng hoa anh đào.

    Thông thường thì một tuần lễ trước Tết, vào một buổi sáng thứ bảy, tôi thấy chồng tôi đem tất cả đồ trên bàn thờ xuống. Cặp chân đèn bằng đồng to tướng, cái lư hương bằng đồng cong cong nhặt được trên đường phố Huế hồi Tết Mậu Thân 1968 mà cha mẹ chồng tôi đã tặng cho anh nhân chuyến về thăm nhà ngắn ngủi của anh vào năm 1974, cái chén bằng đồng đựng tràng hạt màu hổ phách - tất cả phải được đánh thật bóng. Cái bát nhang bằng sứ xanh được thay gạo mới.

    Và cành hoa anh đào cũ trang trí bằng bông hoa và lá bằng giấy, để trên bàn thờ suốt cả năm qua, được đem xuống và thay bằng cành anh đào mới của chúng tôi.

    Sau đó, chồng tôi đem trong phòng làm việc ra hai tờ giấy dài màu đỏ trên đó, viết bằng thủ bút của anh, là hai câu đối của một vị thiền sư Việt Nam đồng thời cũng là một trong những ngưòi bạn thân nhất của anh.

    Và mỗi năm tôi lại được dịp đọc lại hai câu thơ sau đây:

    Xuân đáo tha hương,

    Bất kiến hoàng mai sầu việt điểu.

    Tâm hoài cố quận,

    Thường chiêm bạch tuyết mộng Nam chi.

    Cuối cùng ngày 30 Tết đã đến. Chúng tôi tụ tập trong nhà bếp với một con vịt đang tan đá trên bàn, phía sau là mấy hũ dưa món, một loại dưa chua chúng tôi đã ra sức làm mấy ngày trước đó. Trong tủ lạnh có món thịt đông, một loại giò thủ Việt Nam. Nếp và đậu xanh đãi vỏ được ngâm suốt đêm. Thịt heo cắt miếng to được ướp nước mắm, củ hành và tiêu đen. Tôi lấy trong ngăn kéo hai cái khuôn bánh chưng do chồng tôi làm và mấy mẹ con tôi bắt đầu vào việc. Chúng tôi sẽ gói khoảng 20 đến 25 cái bánh chưng, những cái bánh vuông làm bằng gạo nếp, đậu xanh và thịt heo. Bánh được gói trong lá rong, ngoài bọc giấy bạc và giấy nhựa để giữ cho được khô ráo trong suốt 12 tiếng đồng hồ nấu bánh. Trong khi làm việc, đổ nếp và đậu vào khuôn, gói bánh lại, cột dây, tôi không khỏi nghĩ đến những người đàn bà Việt Nam thật kiên nhẫn và vui tính đã dạy cho tôi làm những món ăn đặc biệt của ngày Tết. Tôi yêu quý ngày Tết Việt Nam phần lớn là cũng nhờ họ, vì chính họ, cũng như chính chồng tôi, đã biến tôi thành một người tham dự ngày Tết vậy.

    Chúng tôi đếm bánh trước khi thả vào nồi nấu khổng lồ. Bánh nhiều, dư để chia cho bạn bè, dư để chúng tôi thưởng thức hàng ngày nguyên cả tuần lễ Tết. Tôi sẽ còn giấu một vài chiếc trong tủ đông lạnh để đem ra thưởng thức trong tháng ba hay tháng tư nữa.

    Đêm xuống nhanh, vì dù sao đi nữa, bây giờ cũng là giữa mùa đông. Đêm nay, đêm giao thừa, một bầu không khí trang nghiêm và buồn bao trùm căn nhà của chúng tôi. Cặp chân đèn bằng đồng và cái lư hương sáng choang trên bàn thờ. Vài bông hoa anh đào nở lấp lánh tựa những vì sao rơi rụng li ti.

    Con vịt quay đã được chặt ra, một cái bánh chưng được mở, hai đôi đũa đỏ và hai cái chén đỏ được đặt lên hai cái mâm. Tiếp đó, chúng tôi xếp đồ lên mâm để cúng ông bà: nào là thịt đông, nào là vịt quay, dưa món, bánh chưng. Hai mâm được đặt trước bàn thờ và chồng tôi bắt đầu thắp nến. Giờ phút cúng ông bà đã đến. Đối với người Việt Nam đó là lúc khấn vái Ông Bà, đối với tôi đó cũng là lúc khấn nguyện và là lúc tĩnh tâm thật êm đềm.

    Căn phòng nhỏ bé chẳng mấy chốc đã ngạt ngào mùi nhang thơm. Tôi tưởng tượng làn khói thơm ngát đó sẽ len lỏi qua khe cửa, tràn ngập khu vườn để khiến cho tổ tiên Việt Nam của chúng tôi biết nơi đây mà tìm đến, nơi triền núi trơ trụi của vùng Bắc Maryland này. Cái chuông nhỏ treo trên cành cây mimosa trong khu vườn trước nhà khẽ rung lên một hai tiếng. Đó có thể là một phép lành, một lời chúc đẹp. Chúng tôi đứng cúi đầu, mọi người chờ đến phiên để đốt một cây nhang và khấn nguyện. Trong khoảnh khắc vài phút, chúng tôi như sống ngoài sự ràng buộc của thời gian và không gian. Chúng tôi hiểu được rằng đây là giây phút của sự kết hợp giữa quá khứ và tương lai. Nơi đây và bây giờ, sự trường cữu đang hiện hữu. Tôi chăm chú nhìn con gái út đang khấn vái. Con tôi cầm chặt cây nhang trong tay và khấn nguyện thật lâu. Sau đó chúng tôi ngồi im lặng chờ cho tàn nén hương cuối cùng.

    Sáng mồng một Tết, chồng tôi mặc áo choàng và ra khỏi nhà trước lúc điểm tâm.

    Anh trở về và gõ cửa để vào nhà làm người "khách đầu tiên. Theo phong tục Việt Nam, người khách đầu tiên ngày Tết rất quan trọng, phải là một người bạn được kính mến. Nơi đây, giữa rừng núi bốn bề, thật khó đoán ai sẽ là người đến gõ cửa đầu tiên, vì vậy chồng tôi không muốn lệ thuộc vào may rủi. Một khi người "khách của chúng tôi đã vào nhà, chúng tôi lại đốt nhang khấn nguyện.

    Sau cùng chúng tôi nếm chiếc bánh chưng đầu tiên. Trước giờ ngọ không lâu các con tôi xếp hàng để mừng tuổi nhận bao lì xì. Đây là một phong tục Việt Nam cho trẻ em một ít tiền bỏ trong phong bì đỏ vào ngày mồng một Tết. Khi mọi sự nô nức đã qua, tôi ra đứng bên cửa sổ cạnh chồng tôi. Tôi biết anh đang nghĩ đến gia đình ở Việt Nam, đến cha mẹ già, đến anh chị em và nhớ đến thuở ấu thơ của anh khi còn ở quê nhà. Nhìn ra khu vườn của chúng tôi không biết anh ấy có trông thấy cả một thời xa xưa với những phong tục tập quán, sự quý phái nho nhã, sự tận tụy và những lời khấn nguyện hay chăng? Trong thế giới đó, có những cơn mưa nhẹ trên những cành cây bao giờ cũng xanh tốt; hương thơm của nhang bốc lên thành khói lan từ nhà này sang nhà khác có giống như một lời khấn nguyện âm thầm hay chăng; anh có nghe tiếng mẹ anh tụng kinh hay giọng trầm ấm của cha anh gọi hay không? Tôi khẽ nắm tay anh và anh cúi nhìn tôi. Mọi năm Tết đến và đi cũng như mọi ngày lễ khác. Tuy nhiên đối với chúng tôi Tết không chỉ là một tuần lễ nhất định vào giữa mùa đông.

    Vào mùa xuân, mùa hè, mùa thu, mỗi khi mưa phùn rả rích và thời tiết khoảng chừng mười tám đến hai mươi độ thì chồng tôi lại ra đứng tựa cửa sổ, miên man nghĩ ngợi. Tôi biết anh nghĩ gì - trời hôm nay sao giống ngày Tết Việt Nam ở Huế nơi anh sinh trưởng quá. Bởi vì kể từ ngày chúng tôi lấy nhau, kể từ ngày chồng tôi xa quê hương, chưa bao giờ anh được ăn một cái Tết với mưa phùn lất phất tựa như một màn sương, một cái Tết với đầy đủ gia quyến, với tiếng trẻ con chơi đùa những trò chơi Việt Nam. Mặc dầu vậy, tôi vẫn tin chắc rằng sẽ có một ngày anh ấy lại được hưởng một cái Tết như xưa.

     Kết Thúc (END) Người Bán Chụp Đèn Font Size: Tác Giả: Allen Woodman Tìm Kiếm bằng Tựa Đề:

    Lời Người Dịch: Allen Woodman sinh ra và lớn lên ở Alabama. Tuyển tập truyện của ông Saved by Mr. F. Scott Fitzgerald, xuất bản năm 1997. The University of West Alabama’s Livingston Press (Station 22, Livingston, AL 35470), đã xuất bản tuyển tập này trong bộ Nhà Văn Đương Thời, Contemporary Writers Series. Woodman cũng hợp tác với các tác giả khác xuất bản truyện của trẻ em, trong đó có tác phẩm rất được yêu chuộng The Cows Are Going To Paris (Đàn Bò Đi Ba Lê). Ông đang sống ở Flagstaff, Arizona, nơi ông làm chủ nhiêm bộ môn Sáng Tác Văn Học ở trường Đại Học Northern Arizona.

    Ngày nào cũng thế. Cửa đang mở. Trời đang mùa hè. TV đang mở.

    Một người đàn ông tóc bạc mặc toàn đen và cái áo khoác đuôi tôm đã sờn, đến cửa bán rong chụp đèn. Ông có vẻ đàng hoàng trang trọng và hai bàn tay của ông bị cụt đi càng làm tăng vẻ nghiêm trang của ông. Ông cầm một cái chụp đèn bằng một cái bàn tay giả bằng kim loại. “Tôi có thể bán cho ông một cái chụp đèn mới không?”

    “Tôi không thích chụp đèn. Tôi chẳng bao giờ quan tâm ngó ngàng đến mấy cái chụp đèn tôi đã có. Tôi tự hỏi không biết vì sao mà ông ta bị cụt mất cả hai bàn tay. Tôi cố gắng trò chuyện. “Có một người gõ cửa nhà tôi hôm qua để bán chổi. Ông có biết ông ta không?”

    Ông ta đặt cái chụp đèn xuống cái xe đẩy tay của ông ta. “Không có liên hệ. Tôi bán chụp đèn. Ông có muốn mua một cái không?”

    Tôi luôn luôn yêu thích những hoạt động của con người khi họ chuẩn bị ra về. Tôi hỏi ông ta đi bán chụp đèn đã bao lâu rồi.

    “Mười lăm năm trước, tôi có một chương trình biểu diễn nhỏ ở một hội chợ to. Một gánh xiệc ruồi. Nhưng tôi bị lỗ nặng tại vì vi phạm vệ sinh và làm giảm cái ngon của thức ăn.”

    “Tôi có xem gánh xiệc ruồi một lần, nhưng chẳng ai chịu tin tôi cả,” tôi nói. “tôi chỉ giữ riêng mình tôi biết. Nhưng tôi thề tôi nhớ một cái đám cưới ruồi nhỏ tí nị và một con ruồi đang chạy xe đạp.”

    “Tôi có một cái bàn nhỏ được dùng làm sân khấu, và tôi chỉ cho phép đặt vài cái ghế dành cho khán giả. Tôi có một chương trình gồm có múa ba lê, biểu diễn đi trên dây, và đua kéo toa xe lửa. Điều bí mật là tất cả những cuộc biểu diễn này đều bằng nhân lực ruồi. Chỉ có chúng mới có sức mạnh cần thiết để vừa kéo vừa đẩy bằng những cái chân sau của chúng. Đàn ruồi của tôi thì không thể nào tưởng tượng nỗi. Chúng rất dai sức. Chúng có thể biểu diễn hàng trăm buổi diễn trong một ngày và tiếp tục làm như thế trong nhiều tuần. Và cứ mỗi khi kết thúc chương trình, tôi xắn tay áo lên và mời diễn viên ăn tối.” Người đàn ông giơ hai cái tay giả hình cái móc bằng kim loại bóng loáng lên không trung.

    “Tôi đọc tin ở Mễ Tây Cơ, Nhà Thờ ủng hộ nghệ thuật ruồi,” tôi nói. “Các nữ tu làm và bán những cái thánh giá nhỏ nhắn làm bằng xác ruồi và kim loại vụn. Xác ruồi được dùng để họ không phải điêu khắc hình tượng người.”

    “Tôi có một con ruồi,” ông ta nói bằng một giọng rất thâm trầm. “Tôi nuôi nó như người ta nuôi thú vật thân thiết trong nhà. Đó là con ruồi duy nhất mà tôi cho phép nó hút máu trong lòng bàn tay tôi. Tôi cột nó vào một sợi dây chuyền vàng chiều dài cỡ bằng ngón tay của ông. Rồi tôi cột vào sợi dây chuyền vàng vào một cỗ xe cũng toàn bằng vàng rất đẹp để cho con ruồi kéo.”

    Tôi tưởng là tôi đã nhìn thấy tất cả mọi chuyện trên đời. Nhưng cái cách ông nói về con ruồi ông nuôi như gia thú và cái toa xe bằng vàng thật toàn hảo làm tôi suy nghĩ. “Vâng,” tôi nói to lên, “ông có thể kể cho tôi nghe chuyện này được không?”

    Ông ta nhìn tôi chằm chặp. “Không,” ông nói có vẻ đắn đo. “Nhớ lại câu chuyện này rất khó khăn.”

    Tôi cố gắng nghĩ cho ra một câu trả lời thích hợp. Ngần ngừ một hồi lâu, tôi nói, “Tôi hiểu.”

    Ông ta dùng cái bàn tay giả bằng kim loại gãi gãi lớp da dưới cằm. “Chờ tôi một phút,” ông nói. “Lấy cho tôi cái gì đó để tôi viết.”

    Ông nhặt một cái chụp đèn màu trắng trơn. Tôi đặt cây bút vào cái bàn tay giả bên trái của ông. Đó là một cây bút đầu mềm tôi quên trả lại cho người thư ký lúc tôi viết một cái chi phiếu ở tiệm A&P [i].

    Ông ấy vẽ toàn thể gánh xiệc lên trên cái chụp đèn, đám cưới, môn xiệc đi trên dây, và màn khiêu vũ ba lê. Ông ta vẽ cả những cảnh mà ông ta chưa kể. Cuối cùng ông vẽ cái mà tôi biết đó là con ruồi cột bằng sợi dây chuyền bằng vàng, bởi vì nó nằm trong lòng của một bàn tay. Bàn tay thật hoàn toàn.

    Thỉnh thoảng tôi cố giải thích cho mọi người lý do tôi mua cái chụp đèn. Sau nhiều lần như thế, tôi mang cái đèn để cạnh giường của tôi và đóng cửa phòng ngủ lại.

    Chú thích:

    [i] một cửa hàng siêu thị có nhiều chi nhánh trên toàn Hoa Kỳ Kết Thúc (END) Một Đám Mây Nhỏ Font Size: Tác Giả: James Joyce Tìm Kiếm bằng Tựa Đề:

    James Joyce (1882-1941) là một tác giả nổi tiếng người Ái-Nhĩ-Lan. Người ta thường hay gặp ông, khi còn thanh niên trong các quán rượu thành Dublin. Ông tới đó để nhận xét, với một vẻ lãnh đạm kỳ lạ, những con người cô đơn mà ông gặp ở đó. Đó là một trong những đặc điểm chính phải ghi nhận trong những truyện đầu tiên ông viết trước khi ông 20 tuổi và xuất bản dưới nhan đề “Những người dân thành Dublin”, “Một đám mây nhỏ” là một truyện trích trong đó.

    Đối với “Bé Chandler”, con người mà các bạn sẽ gặp trong truyện dưới đây, bữa đó bình minh thật tươi sáng, và chàng đón chào ngày ấy với tất cả tấm lòng trìu mến. Nhưng rồi một đám mây nhỏ xuất hiện và che khuất hẳn ánh mặt trời.

    Tám năm trước chàng đã đi tiễn đưa người bạn tại North Wall và chúc bạn thượng lộ bình an. Và Gallaherđã thành công trong sự nghiệp. Đều đó người ta có thể thấy ngay ở bộ dạng của một người đã đi du lịch nhiều, ở bộ đồ len cắt đẹp và và giọng nói hùng hồn của anh. Ít kẻ có tài như anh và còn ít hơn nữa những kẻ còn giữ được trong trắng sau khi đã thành công như anh. Gallaher đặt tình cảm đúng chỗ và anh thành công là xứng đáng. Có một người bạn như anh thật là một điều đáng kể.

    Từ sau bữa trưa, tư tưởng của “Bé Chandler” chỉ hướng về cuộc gặp gỡ với Gallaher, về lời mời của Gallaher và đại đô thị Luân-đôn nơi mà Gallaher ở. Chàng được người ta gọi là Bé Chandler vì tuy chàng chỉ nhỏ bé hơn vóc trung bình một chút, nhưng chàng khiến người ta có cảm tưởng chàng là một cậu bé. Bàn tay chàng trắng và nhỏ, thân hình mảnh khảnh, tiếng nói bình tĩnh và cử chỉ tế nhị. Chàng hết sức chải chuốt mái tóc và bộ râu mép vàng tơ, và chàng chỉ dùng nước hoa một cách kín đáo rỏ vào khăn tay. Vành móng tay chàng cũng chải chuốt và khi cười chàng để lộ hàm răng trắng như răng sữa.

    Ngồi trước bàn giấy nhà hàng King, chàng nghĩ lại những đổi thay trong tám năm gần đây. Người bạn chàng quen biết khi người ấy còn có một bộ dạng nghèo khổ túng thiếu, nay đã thành một nhân vật nổi tiếng trong làng báo Luân-đôn. Chàng luôn luôn ngừng công việc viết lách mệt mỏi để xoay ra ngước mắt nhìn qua cửa sổ văn phòng. Ánh tà dương cuối thu đã bao trùm bãi cỏ và lối đi. Tia nắng vàng hoe như tung một đám mây bụi lên mấy cô y-tá chải chuốt và mấy ông già lụ khụ ngồi ngủ gật trên những chiếc ghế dài. Ánh nắng lung linh trên những hình dáng linh động - những bầy con trẻ vừa chạy vừa hò hét trên con đường sỏi và tất cả những ai qua lại trong vườn. Chàng ngắm cảnh và nghĩ tới sự đời và (cứ khi nào chàng nghĩ tới sự đời thì y như rằng) chàng cảm thấy buồn…Một nỗi buồn man mác chiếm đoạt tâm hồn. Chàng cảm thấy cưỡng lại số mệnh là vô ích. Đó là gánh nặng của lịch duyệt mà năm tháng đã di truyền lại cho chàng.

    Chàng hồi tưởng lại những tập thi phẩm trên giá sách ở nhà. Chàng đã mua những tác phẩm đó trong những ngày còn sống độc thân và có những buổi chiều, khi chàng ngồi trong căn phòng nhỏ cách xa căn phòng lớn, chàng đã có ý muốn lấy xuống một cuốn và đọc hết một đoạn nào đó cho vợ chàng nghe. Nhưng tính nhút nhát bao giờ cũng cản chàng lại và cứ như thế, sách vẫn ở trên giá. Đôi khi chàng nhẩm lại vài giòng và điều đó an ủi chàng.

    Khi đồng hồ điểm, chàng đứng dậy và trịnh trọng từ giã bàn giấy và các bạn thư ký đồng sự. Chàng ra khỏi cổng kiến trúc theo hình cánh cung thời Trung Cổ của nhà hàng King, dáng người chàng chải chuốt nhưng nhã nhặn, và chàng rảo bước xuống phía dưới đường Henrietta. Ánh nắng vàng của mặt trời lặn đang xuống dần và không khí trở nên giá buốt. Một bầy trẻ dơ dáy chơi đầy ngoài phố. Chúng đứng hay chạy trên lộ và bò lên những bực thềm trước những cửa hé mở, hay ngồi xổm như bầy chuột trên ngưỡng cửa, Chandler không nghĩ gì tới chúng. Chàng khéo léo lựa bước đi giữa đám sinh vật nhỏ bé như sâu kiến này, và dưới bóng những lâu đài hoang vắng như bóng ma trong đó phe quý tộc lâu đời thành Dublin đã từng sống một cuộc đời tưng bừng rộn rịp. Không một kỷ niệm cũ nào làm bợn lòng chàng vì tâm hồn chàng tràn ngập nỗi hân hoan hiện tại.

    Chàng chưa hề đặt chân vào quán Corless bao giờ, nhưng chàng đã nghe danh và biết giá trị của quán đó. Chàng biết người ta tới đó sau khi tan hát để ăn sò và uống rượu ngọt, và chàng có nghe nói bồi bàn tại tiệm đó nói tiếng Pháp và tiếng Đức. Ban đêm đi thoáng qua chàng đã thấy xe ngựa đậu thành hàng trước cửa và các bà ăn mặc sang trọng, có bạn trai đi kèm, bước xuống xe rồi vội vã bước vào. Họ bận những bộ đồ kêu sột soạt và nhiều áo hoặc khăn choàng. Mặt họ đánh phấn và họ vén tà áo mỗi khi họ đặt chân xuống đất như những nàng nữa quái kiệt Atalantas trong truyện cổ tích Hi-lạp ngày xưa, khi sợ hãi. Bao giờ chàng cũng đi qua không ngoái cổ nhìn lại. Chàng có thói quen bước mau ở ngoài phố ngay cả ban ngày, và mỗi khi chàng ở ngoài phố đêm khuya, chàng bước vội vã với một vẻ sợ sệt và xao xuyến. Tuy nhiên đôi khi chàng lại đùa cợt với những nguyên nhân sợ hãi của chàng. Chàng chọn những phố tối tăm chật hẹp nhất và trong khi chàng mạnh dạn tiến bước, sự im lặng lan tràn chung quanh bước chân chàng làm cho chàng sinh lo ngại, những hình người lang thang và yên lặng làm chàng bối rối, và có khi một tiếng cười nhỏ thoáng qua làm chàng run lên như tàu lá.

    Chàng rẽ sang tay phải để tới đường Capel. Ignatius Gallaher ở trên báo chí ở Luân-đôn! Ai có thể tưởng tượng được điều đó cách đây tám năm? Tuy nhiên bây giờ sau khi nhìn lại quá khứ, Chandler có thể nhớ lại nhiều dấu hiệu cho thấy bạn chàng sẽ có một tương lai huy hoàng. Người ta thường hay nói Ignatius Gallaher quá phóng đãng. Dĩ nhiên, anh ta đã chung đụng với một nhóm bạn bè trụy lạc thời đó, rượu chè be bét và vay mượn lung tung. Cuối cùng anh đã liên can tới một câu chuyện, một vụ buôn tiền nào đó, điều này ít ra là một lời giải thích việc anh đào tẩu. Nhưng không ai chối cãi tài của anh. Bao giờ cũng có một cái gì, một điều gì đó ở Ignatius Gallaher gây một ấn tượng cho người ta, dù muốn hay không. Ngay cả khi anh lâm vào cảnh nghèo xơ xác và nghĩ nát óc không ra cách kiếm tiền, anh cũng vẫn giữ được vẻ mặt mạnh dạn. Chandler, nhớ lại (và kỷ niệm đó khiến má chàng ửng đỏ vì kiêu hãnh) một trong những câu nói Ignatius Gallaher khi chàng gặp tình thế khó khăn.

    “Đã nửa đời người rồi các bạn ơi”, anh thường vui vẻ nói. “Tôi phải suy tính làm chuyện gì mới được.”

    Đó là tất cả niềm tâm sự Gallaher và khốn nỗi, người ta không thể không khâm phục anh về điểm đó.

    Chandler rảo bước. Lần đầu tiên trong đời chàng cảm thấy chàng hơn những người chàng đi qua. Lần đầu tiên, tâm hồn chàng bất mãn với vẻ thô sơ buồn tẻ của đường Capel. Không còn phải nghi ngờ gì nữa; nếu bạn muốn thành công, bạn phải đi xa. Bạn không thể làm gì nên chuyện được tại Dublin. Trong khi chàng đi qua Cầu Grattan chàng nhìn xuống dòng sông về phía những bến ở phía dưới và cảm thấy thương cho những căn nhà nghèo khổ lụp xụp. Đối với chàng, những căn nhà đó có vẻ là một đoàn du thủ du thực chen chúc nhau dọc theo bờ sông với những chiếc áo cũ kỹ phủ đầy bụi và bồ hóng, ngơ ngác trước cảnh mặt trời lặn và chờ luồng khí lạnh đầu tiên của ban đêm để thúc giục họ đứng dậy, chuyển mình và ra đi. Chàng tự hỏi không biết chàng có thể viết được một bài thơ để phô diễn tư tưởng của chàng không. Có lẽ Gallaher có thể đăng giúp chàng trên một tờ báo nào đó ở Luân-đôn. Chàng có thể viết được bài nào độc đáo không? Chàng không biết chắc chàng muốn diễn tả tư tưởng gì, những ý nghĩ rằng một giây phút thơ mộng đã đến với chàng đã thành hình trong lòng chàng như một niềm hy vọng mới manh nha. Chàng mạnh bạo tiến bước.

    Mỗi bước chân lại đưa chàng đến gần Luân-đôn hơn, xa đời sống điều độ thiếu mỹ thuật của chàng. Một ánh sáng bắt đầu rung rinh ở chân trời của tâm hồn chàng. Chàng chưa đến nỗi già lắm: 32 tuổi. Tính khí chàng có thể nói chỉ vừa mới tới độ trưởng thành. Biết bao nhiêu tâm trạng và cảm tưởng chàng muốn phô diễn qua những vần thơ. Chàng cảm thấy những điều đó ở trong con người chàng. Chàng thử cân nhắc tâm hồn chàng xem có phải là một tâm hồn thi sĩ không. Nỗi u buồn là điểm chính của tâm trạng chàng, chàng nghĩ, nhưng là một cái buồn có đượm lòng tin tưởng, tính nhẫn nại và niềm vui vẻ thô sơ. Nếu chàng có thể diễn tả tâm trạng đó trong một tập thơ, có lẽ người ta sẽ nghe theo. Chàng sẽ chẳng bao giờ nổi tiếng, chàng biết vậy. Chàng không thể chinh phục được quần chúng nhưng chàng có thể lôi cuốn được một giới nhỏ những tâm hồn đồng điệu. Những phê bình gia người Anh có lẽ sẽ công nhận chàng là một thi sĩ thuộc môn phái Xen-tích (Celtic) vì giọng buồn của những bài thơ của chàng; ngoài ra chàng còn thêm những ngụ ý. Chàng bắt đầu nghĩ ra những câu và những từ ngữ thể hiện sự chú ý của người ta đến tác phẩm của chàng. “Ông Chandler cò tài làm những vần thơ lưu loát và duyên dáng…” “Một nỗi buồn khao khát thấm thía những bài thơ này…”, “Âm điệu Xen-tích…”. Tiếc rằng tên chàng không có vẻ Ái-nhĩ-lan hơn. Có lẽ nên ghi thêm tên thân mẫu trước biệt hiệu của chàng: Thomas Malone Chandler, hay hơn nữa: T. Malone Chandler. Chàng sẽ nói chuyện đó với Gallaher.

    Chàng hăng say để tâm hồn theo đuổi giấc mơ đến nỗi chàng đã đi qua khỏi phố và chàng quay trở lại. Khi chàng tới gần nhà hàng Corless, niềm xúc động lúc ban đầu lại chiếm đoạt chàng và chàng lưỡng lự dừng lại trước cửa. Cuối cùng chàng mở cửa bước vào.

    Ánh sáng và tiếng ồn ào trong nhà khiến chàng dừng lại ở cửa trong giây lát. Chàng nhìn chung quanh nhưng chỉ thấy lờ mờ vì ánh sáng chói của nhiều ly rượu vang xanh đỏ. Hình như nhà hàng đông nghẹt và chàng cảm thấy khách hàng đang tò mò quan sát chàng. Chàng đưa mắt nhìn hai bên (chàng hơi cau mày một chút để làm cho mục đích nhìn của chàng có vẻ đứng đắn), nhưng khi mắt chàng đã nhận rõ, chàng không thấy ai quay lại ngó chàng; và kia kìa Ignatius Gallaher đang đứng dựa lưng vào quầy, hai chân dang ra.

    “Ê, bồ, con người anh hùng thủa xưa, mãi bây giờ mới thấy anh! Ta phải làm gì đây? Anh uống gì? Tôi dùng whisky đây: rượu uống không pha ngon hơn là pha nước. Anh dùng sôđa hay Lithine? Anh không dùng nước suối à? Tôi cũng thế. Nó làm mất hương vị rượu đi. Này, bồi, mang hai ly nhỡ whisky lại đây, lẹ lên nhé… Nào, công việc anh ra sao từ khi gặp anh lần chót? Trời, chúng ta già đi nhiều quá! Anh có thấy tôi già đi không? Hừ, cái gì? Tóc đã hoa râm và thưa trên đỉnh đầu - hả?”

    Ignatius Gallaher lật mũ ra và cho thấy một cái đầu to, tóc hớt ngắn. Mặt anh nặng, xanh xao và mày râu nhẵn nhụi. Đôi mắt anh màu xanh đá làm cho anh bớt vẻ xanh xao ốm yếu và sáng ngời trên chiếc cà vạt màu da cam tươi anh đeo. Giữa những nét nghịch nhau này, môi anh có vẻ trễ ra không thành hình thù gì và lợt lạt. Anh cúi đầu xuống và hai ngón tay anh sờ một cách đầy thiện cảm mớ tóc thưa trên đỉnh đầu. Chandler lắc đầu tỏ vẻ phủ nhận. Ignatius Gallaher đội mũ lại.

    Anh nói: “Đời sống ký giả, nó làm người ta suy nhược đi. Lúc nào cũng vội vàng tất tả, tìm kiếm bản thảo và nhiều khi không thấy; và rồi, bao giờ cũng phải có cái gì mới mẻ cho tờ báo. Anh này, tôi bất chấp cả bài chữa và thợ in trong vài hôm. Tôi thấy rất khoan khoái, được về quê hương cũ. Được nghĩ vài ngày là một điều hay. Tôi cảm thấy cực kỳ sung sướng từ lúc tôi đặt chân lại trên đất Dublin dơ bẩn này… Và mong bồ mãi, thì đây rồi. Anh muốn thêm nước à? Hễ thôi thì bảo nhé!”

    Chandler để cho pha whisky thật loãng.

    “Anh không biết thế nào là vừa uống cho anh à?” Gallaher nói.

    “Tôi uống nguyên chất” Chandler nói, một cách khiêm tốn” “Thường thường tôi uống rất ít. Thỉnh thoảng uống một nửa ly khi gặp một người trong nhóm bạn cũ; có thế thôi.”

    Gallaher mừng rỡ nói: “Đây là để mừng chúng ta, mừng những ngày xa xưa và tình bạn cũ.”

    Họ chạm ly và uống chúc mừng nhau.

    Ignatius Gallaher nói: “Hôm nay tôi đã gặp mấy đứa trong tụi cũ. O’Hara hình như đang gặp khó khăn. Nó làm gì thế?”

    Chandler nói: “Chẳng làm gì cả. Nó đang bị sa sút.”

    “Nhưng Hogan có địa vị khá phải không?”

    “Phải, nó ở trong Ủy-ban Điền-địa.”

    “Tôi có gặp nó một đêm tại Luân-đôn và nó có vẻ làm ăn phấn chấn lắm… Tôi nghiệp cho O’Hara! Chắc nó rượu chè be bét?”

    “Còn nhiều cái khác nữa,” Chandler nói vắn tắt.

    Gallaher cười rộ. Anh nói:

    “Tôi thấy anh không thay đổi mẩy may. Anh vẫn là con người đứng đắn hay thuyết pháp tôi những buổi sáng chủ nhật ngày xưa, khi tôi nhức đầu hay đắng miệng vì hôm trước uống rượu nhiều quá. Rồi anh sẽ thích du lịch đó đây trên thế giới. Anh có đi tới đâu bao giờ không?”

    “Tôi đã tới đảo Man (gần Dublin)”, Chandler trả lời.

    Gallaher cười rộ:

     “Đảo Man! Anh phải đi Luân-đôn hay Paris; lựa Paris hơn. Đi Paris sẽ giúp ích cho anh nhiều lắm.”

    “Anh đã thấy Paris chưa?”

    “Phải nói rằng tôi đã thấy Paris rồi. Tôi có qua đó một thời gian ngắn.”

    “Paris có thật đẹp như người ta nói không?” Chandler hỏi. Chàng nhấp một chút rượu trong khi Gallaher mạnh dạn uống cạn ly của mình.

    “Anh hỏi có đẹp không à?” Gallaher nói rồi ngừng lại như thưởng thức câu đó và hương vị của rượu. “Không đẹp lắm, anh ạ. Cố nhiên đẹp… Nhưng đời sống ở Paris; đó mới là điều đáng kể. Hừ! Không có một thành phố nào có thể sánh được với Paris về vui vẻ, hoạt động và nhộn nhịp…”

    Chandler uống cạn ly rượu và sau một vài phút bối rối, chàng ra hiệu được cho bồi bàn trông thấy. Chàng bảo mang lại cũng thứ rượu đó.

    “Tôi đã vào nhà hàng Moulin Rouge”, Gallaher tiếp tục câu chuyện, khi bồi bàn đã dọn ly, “và tôi đã vào tất cả các quán cà phê của khách giang hồ. Họ vui nhộn lắm. Đó không phải là chỗ dành cho một người ngoan ngoãn như anh đâu.”

    Chandler làm thinh cho tới khi bồi bàn mang hai ly trở lại: chàng chạm cốc nhè nhẹ với bạn và nâng ly chúc mừng lại bạn. Chàng bắt đầu cảm thấy thất vọng đôi chút. Giọng của Gallaher và cách ăn nói của anh làm chàng không thích. Có một vẻ gì tầm thường ở bạn chàng mà chàng không nhận thấy trước kia. Nhưng có lẽ đó chỉ là kết quả của cuộc sống ở Luân-đôn giữa sự bận rộn và cạnh tranh trong làng báo. Vẻ hấp dẫn của anh khi xưa hãy còn đó dưới cử chỉ lố lăng mới mẻ này. Và, dù sao chăng nữa, Gallaher đã từng sống nhiều, anh đã biết đó biết đây. Chandler nhìn bạn với con mắt thèm muốn.

    “Ở Paris, cái gì cũng vui,” Gallaher nói. “Người ta tin rằng phải vui hưởng cuộc đời, và anh có thấy họ nghĩ như vậy là phải không? Nếu anh cũng muốn hưởng thú vui ở đời cho đúng nghĩa, anh phải đi Paris. Và anh phải biết rằng ở đó họ có nhiều cảm tình với người Ái-nhĩ-lan. Khi họ nghe nói tôi từ Ái-nhĩ-lan đến, họ như muốn nuốt chửng tôi, bồ ạ.”

    Chandler nhấp ly rượu bốn năm lần. Chàng hỏi:

    “Anh cho tôi hay, có thật Paris là một thành phố phóng đãng lắm như người ta nói không?”

    Ignatius giơ tay phải lên làm dấu thánh giá.

    “Nơi nào mà không phóng đãng”, anh nói. “Cố nhiên, người ta thấy có nhiều món lạ ở Paris. Chẳng hạn, anh đi dự một trong những buổi khiêu vũ của sinh viên. Thật là sống động, nếu anh thích, khi các cô ả bắt đầu không giữ gìn gì nữa. Tôi chắc anh biết các cô ả đó là ai rồi chứ?”

    “Tôi có nghe nói tới họ,” Chandler nói.

    Ignatius Gallaher uống hết whisky và lắc đầu. Anh nói:

    “Ừ, anh muốn nói gì thì nói. Không có người đàn bà nào sánh được với gái Paris về phương diện lịch sự và sinh lực.”

    “Vậy thì Paris là một thành phố trụy lạc rồi,” Chandler nói và rụt rè nhấn mạnh vào điều đó. “Tôi muốn nói so sánh với Luân-đôn hay Dublin”

    “Luân-đôn à?” Gallaher nói, “Thì cũng là nửa nọ nửa kia, chứ không kém. Cứ hỏi Hogan thì rõ bồ ạ. Tôi đã cho y biết một chút về Luân-đôn khi y qua đó. Y sẽ mở mắt cho anh… Này, bồ đừng nhấp hớp một whisky, uống cạn đi.”

    “Không, chịu thôi…”

    “Ồ, cố lên, một ly nữa không có hại gì cho anh đâu. Anh uống gì? Cũng lại thứ ấy hẳn?”

    “Ừ… thôi được.”

    “François, cũng thứ đó… Anh hút thuốc không?”

    Gallaher đưa ra hộp xì gà. Đôi bạn châm thuốc và yên lặng hút cho tới khi bồi đưa rượu tới.

    Nhô ra khỏi đám khói mịt mù bao quanh người anh một lúc, Gallaher nói: “Tôi sẽ cho anh hay ý kiến của tôi. Thế giới này kỳ quặc lắm. Nói tới trụy lạc! Tôi đã nghe nói tới những trường hợp – tôi đã nói gì nhỉ?- đúng hơn là tôi biết rõ những trường hợp trụy lạc…”

    Gallaher hút điếu xì gà một cách suy tư, và sau đó bằng một giọng bình tĩnh như một sử gia, anh bắt đầu mô tả cho bạn thấy mấy cảnh trụy lạc thông thường ở ngoại quốc. Anh tóm tắt những xấu xa của nhiều thủ đô và có vẻ muốn tặng giải quán quân cho Bá-linh. Có những chuyện anh không bảo đảm xác thực (bạn anh đã kể cho anh nghe), nhưng về các chuyện khác thì anh có kinh nghiệm bản thân. Anh không nể nang địa vị hay giai cấp nào. Anh tiết lộ những bí mật của nhiều tu viện trên lục địa và tả những lề lối hợp thời trang trong giới thượng lưu và chấm dứt bằng một câu chuyện về một bà quận công người Anh, câu truyện mà chàng biết là có thực. Chandler sửng sốt.

    “Ừ”, Gallaher nói: “Thì ra chúng ta đang sống ở thành Dublin tẻ ngắt, nơi mà không ai hay biết gì về những chuyện đó.”

    “Sau khi đã đi thăm tất cả những nơi khác,” Chandler nói, “Chắc anh phải thấy đây buồn tẻ lắm.”

    “Thật ra”, Gallaher nói, “Anh biết, về đây là để nghỉ ngơi. Và dù sao, đây cũng là quê hương bản quán như người ta nói, phải không. Mình không thể không có chút cảm tình với quê hương. Bản chất con người mà… Nhưng này anh hãy kể cho tôi nghe chuyện về anh đi. Hogan bảo tôi rằng anh đã… hưởng vui thú hạnh phúc gia đình. Đã hai năm rồi, phải không?”

    Chandler đỏ mặt và mỉm cười, chàng nói:

    “Phải, tôi cưới tháng Năm năm ngoái, đã được mười hai tháng.”

    “Tôi mong hôm nay tôi chúc anh cũng không quá muộn,” Gallaher nói: “Tôi không biết địa chỉ của anh, nếu không tôi đã gởi lời chúc mừng anh khi đó.”

    Anh chìa bàn tay và Chandler nắm lấy.

    “Tôi chúc anh và chị mọi sự vui vẻ, bồ ạ, và phát tài và bách niên giai lão. Và đây là lời chúc mừng của một người bạn chân thành, một người bạn cố tri. Anh biết chứ?”

    “Tôi biết,” Chandler nói.

    “Có cháu nhỏ nào chưa?” Gallaher hỏi.

    Chandler lại đỏ mặt. Chàng nói:

    “Chúng tôi có một cháu.”

    “Trai hay gái?”

    “Trai.”

    Gallaher vỗ đánh đét một cái vào lưng bạn.

    “Hoan hô,” anh nói, “Tôi thật sự tin tưởng ở anh.”

    Chandler mỉm cười, thẹn thùng nhìn ly rượu và cắn môi dưới với ba chiếc răng cửa trắng như răng sữa.

    “Tôi mong anh sẽ đến chơi với chúng tôi một buổi tối,” chàng nói, “trước khi anh về Luân-đôn. Nhà tôi sẽ vui mừng được gặp anh. Chúng ta sẽ nghe nhạc và…”

    “Cám ơn bồ nhiều lắm,” Gallather nói, “tiếc rằng không gặp nhau sớm hơn. Nhưng tối mai tôi phải đi rồi.”

    “Có lẽ tối nay được chăng…?”

    “Rất tiếc, anh biết rằng tôi về đây cùng với một bạn khác, anh ấy cũng thông minh và trẻ như anh và chúng tôi đã sắp đặt đánh bài. Tuy nhiên, đối với…”

    “Ồ, nếu vậy thì…”

    “Nhưng biết đâu?” Gallaher nói một cách dè dặt. “Sang năm tôi có thể lại về chơi sau khi tôi đã về thử một lần. Thôi chúng ta đợi dịp khác vậy.”

    “Tốt lắm,” Chandler nói, “lần sau anh về chúng ta phải đi với nhau suốt buổi tối. Anh đồng ý chứ?”

    “Đồng ý,” Gallaher nói, “sang năm nếu tôi về, xin lấy danh dự thề như vậy.”

    “Và để kết thúc,” Chandler nói, “chúng ta uống với nhau một ly nữa.”

    Ignatius Gallaher lấy chiếc đồng hồ vàng lớn ra và xem giờ.

    “Có phải là ly cuối cùng đấy không? Vì anh biết, tôi có hẹn.”

    “Nhất định là ly cuối cùng chứ.

    “Vậy thì được, chúng ta uống thêm một ly nữa, deoc an doruis - tiếng Ái-nhĩ-lan mình là một ly rượu whisky nhỏ phải không anh?”

    Chandler gọi rót rượu. Mặt chàng lúc trước bừng đỏ bây giờ đỏ hẳn. Một chuyện không đâu cũng làm chàng đỏ mặt bất cứ lúc nào; và bây giờ, chàng thấy nóng bừng và bồn chồn. Ba ly nhỏ whisky đã bốc lên đầu chàng và điếu xì-gà nặng của Gallaher đã làm cho trí óc chàng mất sáng suốt, vì người chàng vốn yếu và không quen uống rượu và hút thuốc. Tình cờ gặp Gallaher sau tám năm xa cách và ngồi cùng với Gallaher trong nhà hàng Corless giữa ánh đèn và tiếng ồn ào, nghe chuyện của Gallaher và được góp phần dù chỉ là một lúc thôi vào đời sống phiêu bạt lẫy lừng của Gallaher, bấy nhiêu điều đã làm đảo lộn thế quân bình của bản chất dễ xúc cảm của chàng. Chàng cảm thấy một cách sâu sắc sự khác biệt giữa đời chàng và đời bạn, và chàng cảm thấy điều đó bất công. Gallaher kém chàng về gia thế giáo dục. Chàng tin chắc rằng chàng có thể làm được một việc gì hay hơn những gì bạn chàng đã làm hay sẽ làm, một điều gì cao quý hơn là nghề làm báo chí hào nhoáng bề ngoài, nếu chàng gặp may mắn. Cái gì đã cản bước đường của chàng? Chàng muốn bênh vực cho mình bằng cách nào đó để tỏ rõ tính cách trượng phu của chàng. Chàng nhìn rõ ý nghĩa của việc Gallaher từ chối lời mời của chàng. Gallaher tỏ tình thân thiện với anh chỉ để mà lên mặt kẻ cả cũng như Gallaher tỏ ra là kẻ cả khi về thăm Ái-nhĩ-lan.

    Bồi bàn mang rượu lại. Chandler đẩy một ly lại phía bạn và chàng mạnh bạo nhấc ly kia lên.

    “Biết đâu,” chàng nói, trong khi hai người nâng cốc, “sang năm khi anh trở lại, tôi lại không được hân hạnh chúc anh chị Ignatius Gallaher hạnh phúc và bách niên giai lão.”

    Vừa uống rượu Ignatius Gallaher vừa ý nhị nhắm một mắt ở bên trên miệng cốc. Khi uống xong anh chép miệng một cách cương quyết, đặt ly xuống và nói:

    “Khỏi sợ lắm về điều đó, bồ ạ. Tôi sẽ tự do ăn chơi theo sở thích và nếm mùi đời rồi hãy chui đầu vào tròng nếu có bao giờ tôi đưa đầu vào tròng.”

    “Một ngày kia anh sẽ làm việc đó,” Chandler bình tỉnh nói.

    Gallaher nắn lại cà-vạt màu cam tươi và cặp mắt xanh màu đá nhìn thẳng vào bạn.

    “Anh nghĩ vậy à?” Anh nói.

    “Anh sẽ đưa cổ vào tròng,” Chandler nhắc lại một cách mạnh mẽ, “Cũng như tất cả mọi người khác nếu anh tìm được ý trung nhân.”

    Chàng hơi dằn giọng nói và chàng biết rằng chàng đã tự thú, nhưng tuy mặt chàng bừng đỏ hơn nhưng chàng không có vẻ bối rối trước cái nhìn của bạn, Ignatius Gallaher nhìn chàng một lúc rồi nói:

    “Nếu có bao giờ chuyện đó xảy ra thì anh có thể cá bao nhiêu tiền tôi cũng cá là tôi sẽ không mất thì giờ nhiều hay yêu đương gì hết. Ý định của tôi là đào mỏ. Nàng sẽ có một trương mục lớn tại ngân hàng nếu không là không xong với tôi.”

    Chandler lắc đầu.

    Gallaher hăng say nói: “Anh có biết chuyện gì không? Tôi chỉ cần nói lên một tiếng là ngày mai tôi có thể có vợ và tiền. Anh không tin? Phải! Tôi biết mà. Có hàng trăm, hàng nghìn chứ chả phải hàng trăm, cô người Đức và Do-Thái, giàu nức đố đổ vách không mong muốn gì hơn là… Rồi anh sẽ thấy. Anh sẽ thấy tôi đánh ván bài có đúng không. Khi tôi làm một việc gì là tôi tính chuyện có tiền, tôi nói cho anh hay. Anh cứ chờ xem.”

    Anh đưa ly rượu lên môi, uống cạn ly và cười rộ. Rồi anh suy nghĩ nhìn về trước mặt và nói bằng giọng bình tĩnh hơn:

    “Nhưng tôi không vội gì. Cứ để cho họ chờ đợi. Tôi không thích trói buộc mình vào một người đàn bà, anh biết chứ.”

    Miệng anh bắt chước cử chỉ của người nếm đồ ăn và anh nhăn mặt lại.

    “Tôi nghĩ rằng một món ăn mãi chắc phải hơi ngấy.”

    ***

    Chandler ngồi trong phòng cách xa căn lớn, hai tay ẵm một đứa bé. Vì muốn tiết kiệm, họ không mướn người giúp việc, nhưng em gái của Annie, cô Monica tới giúp chừng một giờ buổi sáng và cũng chừng một giờ buổi chiều. Nhưng Monica đã về nhà từ lâu rồi. Lúc đó là 9 giờ kém 15 rồi. Chandler về nhà uống trà muộn, ngoài ra chàng quên không mang về cho Annie gói cà phê từ tiệm Bewley. Dĩ nhiên nàng cáu kỉnh và trả lời chàng gióng một. Nàng nói nàng sẽ không uống trà hôm đó nhưng khi nhà hàng góc phố gần tới giờ đóng cửa, nàng quyết định chính nàng đi mua nửa cân trà và một cân đường. Nàng khéo léo đặt đứa bé đang ngủ vào tay chàng và nói:

    “Này. Đừng đánh thức nó đấy.”

    Một cây đèn nhỏ có chụp đèn bằng sứ đặt trên bàn và ánh sáng chiếu lên một bức hình lồng trong một tấm khung bằng sừng ép. Đó là ảnh Annie. Chandler ngắm bức ảnh, mắt chàng dừng trên đôi môi mỏng mím chặt. Nàng mặc chiếc áo dài mỏng, màu xanh da trời nhạt chàng mua tặng nàng một hôm thứ Bảy. Chàng phải trả cái áo đó 10 shilling 11 xu, nhưng áo đó còn làm cho chàng ức đến chết đi được. Hôm đó chàng phải khổ sở như thế nào, đợi ngoài cửa cho tới khi trong nhà vãn khách, đứng tại quầy hàng và cố gắng tỏ ra không nóng nảy trong khi cô bán hàng chất những chiếc áo dài đàn bà lên thành đống trước mặt chàng, trả tiền tại quầy mà quên không lấy đồng xu người ta trả lại rồi được người thâu ngân gọi lại, và cuối cùng khi ra khỏi tiệm cố gắng che dấu nỗi thẹn thùng đỏ mặt bằng cách xem lại gói áo xem có buộc kỹ không. Khi chàng mang áo về nhà, Annie hôn chàng và nói áo đẹp và hợp thời trang lắm, nhưng khi nghe nói tới giá tiền thì nàng ném chiếc áo lên bàn và nói rằng tính chiếc áo giá 10 shilling 11 xu thì thật là lường gạt trắng trợn. Mới đầu nàng muốn mang áo trả lại, nhưng khi nàng thử áo, nàng thích quá, nhất là vì tay áo cắt khéo, nàng hôn chàng và nói là chàng tử tế quá vì đã nghĩ tới nàng.

    Hừ!

    Chàng lạnh lùng nhìn cặp mắt trong bức ảnh và cặp mắt lạnh lùng nhìn lại. Chắc chắn cặp mắt đẹp và chính khuôn mặt cũng đẹp. Nhưng chàng thấy có một vẻ gì tầm thường trong đó. Tại sao khuôn mặt đó lại có vẻ không có hồn và có vẻ đàn bà như thế? Vẻ thản nhiên của đôi mắt làm cho chàng tức tối, đôi mắt đó hắt hủi chàng và khiêu khích chàng: đôi mắt không tình yêu, không say mê. Chàng nghĩ tới hững điều mà Gallaher đã nói về những cô gái Do-Thái giàu có. Những cặp mắt đen của người Đông-phương, chàng nghĩ, chan chứa say mê và niềm khao khát tình dục… Tại sao chàng lại cưới người có cặp mắt trong bức ảnh?

    Tới câu hỏi đó chàng dừng lại và đưa mắt nóng nảy nhìn quanh phòng. Chàng thấy có một cái gì nhỏ nhen trong những đồ gỗ đẹp mà chàng mua bằng cách trả góp. Chính Annie đã lựa chọn những đồ đạc này và điều này làm chàng sực nhớ tới nàng. Đồ đạc cũng đẹp kiểu cách. Một nỗi uất ức chán đời nẩy nở trong lòng chàng. Chàng không thể thoát khỏi căn nhà nhỏ bé của chàng được sao? Đối với chàng thử cố gắng sống can đảm như Gallaher có muộn quá không? Chàng có thể đi Luân-đôn được không? Còn phải trả tiền đồ đạc đã. Nếu chàng có thể viết một cuốn sách và xuất bản được thì may ra có thể hy vọng.

    Một tập thơ của Byron để trên bàn trước mặt chàng. Chàng cẩn thận mở sách bằng tay trái để khỏi đánh thức thằng bé và chàng bắt đầu đọc bài thơ đầu tiên trong cuốn sách:

    Gió im bặt và bóng tối ban chiều yên lặng.

    Không có lấy một cơn gió nhẹ thoáng qua những nấm mồ,

    Trong khi tôi trở lại viếng mộ Margaret thân yêu của tôi,

    Và rắc hoa lên đám bụi mà tôi yêu.

    Chàng dừng lại. Chàng cảm thấy âm điệu của vần thơ quanh chàng trong phòng. Nó mới buồn làm sao! Chàng có thể viết như thế được không? Có nhiều điều chàng muốn diễn tả: cảm xúc của chàng mấy giờ trước đây tại cầu Grattan, chẳng hạn. Nếu chàng có thể trở lại tâm trạng đó…

    Đứa bé tỉnh dậy và bắt đầu khóc. Chàng lật trang giấy và thử làm cho nó nín, nhưng nó không chịu nín. Chàng bắt đầu ôm nó đưa qua đưa lại nhưng tiếng khóc oe oe lại trở nên gay gắt hơn… Chàng lắc lư đứa bé mau hơn trong khi đó mắt chàng bắt đầu đọc đoạn thứ hai:

    Xác nàng nằm trong căn mồ nhỏ hẹp này,

    Cái xác mà ở đó đã có lần…

    Vô ích. Chàng không thể đọc được. Chàng không thể làm gì được. Tiếng khóc oe oe như đâm vào màng nhĩ tai chàng. Cánh tay chàng run lên vì tức giận và bất thình lình chàng cúi vào mặt đứa bé và hét lớn:

    “Câm mồm đi!”

    Đứa bé nín một lúc, giật mình vì sợ, rồi lại bắt đầu hét. Chàng chồm lên khỏi chiếc ghế và vội vàng đi đi lại lại trong phòng tay ôm đứa bé. Nó nức nở khóc thật đáng thương, hết hơi nín đi trong bốn năm giây, rồi lại òa lên. Những bức tường mỏng của căn phòng làm tiếng khóc dội lại. Chàng cố gắng dỗ nó, nhưng nó lại quằn quại và nức nở khóc nhiều hơn. Chàng nhìn vào nét mặt co quắp và run rẩy của thằng bé và bắt đầu hoảng sợ, chàng đếm được bảy tiếng nức nở liên tiếp và sợ hãi ghì chặt thằng bé vào lòng. Lỡ nó chết thì sao?

    Cánh cửa bật tung ra và một thiếu phụ hổn hển chạy vào.

    “Gì thế? Gì thế” nàng hỏi.

    Đứa bé, nghe tiếng mẹ lại nức nở khóc òa lên.

    “Không sao đâu, em không sao đâu… Nó bắt đầu la…”

    Nàng ném những gói xuống đất và giằng lấy thằng bé khỏi tay chàng.

    “Anh làm gì nó thế?” nàng nhìn thẳng vào mặt chàng và hét lên như vậy.

    Chandler chịu đựng một lúc cái nhìn của vợ và lòng chàng se lại khi chàng thấy vẻ căm hờn trong cặp mắt đó. Chàng bắt đầu ấp úng:

    “Có gì đâu… Nó… nó khóc… Anh không thể… Anh có làm gì đâu… Sao?”

    Không thèm để ý tới chàng, nàng bắt đầu đi đi lại lại trong phòng, tay ghì chặt thằng bé và lẩm nhẩm:

    “Con yêu của mẹ, con yêu của mẹ ơi! Con sợ ư, cưng? Thôi nào, cưng thôi nào… Cưng ơi! Thằng cu yêu quý nhất đời của mẹ ơi! Nín đi nào.”

    Chandler cảm thấy má chàng nóng bừng bừng vì hổ thẹn và chàng lùi lại khuất sau ánh đèn. Chàng lắng tai nghe trong khi tiếng gào nức nở của con chàng giảm xuống dần dần và giọt lệ hối hận trào lên mi mắt chàng.

     Kết Thúc (END) Nắng Hoàng Hôn Font Size: Tác Giả: Kim Lê Tìm Kiếm bằng Tựa Đề:

    ÔngThân bước vào quán café Hoàng Hôn. Không gian tĩnh lặng khác hẳn với cái nhộn nhạo, bon chen xô bồ bên ngoài. Ông đến bên chiếc bàn mọi khi ông thường ngồi, cô nhân viên có cặp mắt thiếu ngủ lờ đờ nhận ra khách quen, nở nụ cười nhẹ gật đầu chào ông. Quán vắng khách. Bản nhạc Trịnh mở nhỏ như ve vuốt những trĩu nặng âu lo thường nhật.

    Ông Thân và vợ vào thành phố Hồ Chí Minh đã được tuần lễ. Vào thăm cậu em vợ bị tai nạn ô tô gẫy chân phải bó bột. Ông nhâm nhi cốc café ,lòng bải hoải trống rỗng. Đôi mắt vô hồn nhìn bức tranh tĩnh vật vẽ mấy cái lọ cổ lăn lóc. Ông nghỉ hưu đã được dăm năm. Thời gian như những con mọt gặm dần, gặm dần quãng đời còn lại của ông. Chúng ken két, kẽo kẹt ngày đêm , chúng nhẫn nại bền bỉ không buông tha, dù chỉ là những phút giây ông quên đi những thanh âm lạnh rít tàn nhẫn. Để đến một lúc nào đó ông trở nên khô khốc, tàn lụi và đổ ập xuống như một đống mối đùn.

    Tiền của ông không thiếu. Toà biệt thự năm tầng như một ốc đảo luôn thiếu vắng tiếng người. Ở trong đó ông luôn cảm thấy ngột ngạt bức bối với căn bệnh đau tim và máu nhiễm mỡ của ông. Vật vờ bên cạnh là bộ mặt bèn bẹt, được trát bự phấn mốc lên của bà vợ, luôn rên rỉ vì bệnh đái tháo đường.

    …Những năm tháng nhũng loạn quay cuồng. Ông như lọt vào giữa cơn lốc xoáy. Chúng vầy vò khiến thể xác ông nhão ra, bết lại.

    Thằng Tuấn. Con trai ông nghiện heroin nặng. Nó cầm con dao nhọn chỉ vào mặt bố , răng nghiến lại: Ông có đưa tiền cho tôi không? Nếu không, đừng có trách !- Ông tối sầm mặt, cơn đau tim co thắt ngực, lảo đảo ngã quỵ xuống. Nó sấn sổ giằng chiếc cặp da trên tay ông, phong bì “lại quả” văng ra, tiền Đô tung toé. Nó cúi xuống vơ vội lên, cười nhăn nhở: Biết điều ngay từ đầu có hơn không ! Cứ phải để dùng “cảm giác mạnh” !

    Dạo đó, ông còn đương chức đương quyền. mải mê với những ham muốn không có giới hạn về quyền lực và vật chất, việc quản lý giáo dục con cái ông giao hết cho bà vợ. Vợ ông, một người đàn bà được nuông chiều từ bé, con gái của một quan chức đầu tỉnh. Ông lấy bà để dựa vào uy thế của nhạc phụ, mặc dù nhan sắc của bà có phần kém cỏi, lưng bà dài nhưng chân tay lại ngắn, nó cũn cỡn như chim cánh cụt, khuôn mặt bèn bẹt với nước da bì bì mai mái…Nhưng, không sao! Đối với ông, “thẩm mỹ” là chuyện vặt. Sự nghiệp phải đặt lên trên tất cả! Ông sẵn sàng chấp nhận mọi thứ.

    Thằng Tuấn đì đẹt mãi mới qua hết phổ thông, ông cho nó sang Anh quốc du học. Với cái đầu đặc sệt những ăn chơi phóng đãng của nó, còn đâu chỗ để nhồi nhét kiến thức. Nó tụ tập với mấy đứa con nhà đại gia , lê la khắp các quán bar, vũ trường , với những cuộc truy hoan thâu đêm suốt sáng, với những vỉ thuốc lắc gây ảo giác cuồng loạn coi cuộc đời chỉ bằng một mắt kính Gucci và tiền Đô không hơn gì tờ bạc âm phủ. NhữngVòng xoáy cứ thu nhỏ dần, nhỏ dần rồi hút nó xuống những hang hốc của ma tuý lúc nào không biết. Một lần, tranh giành gái gú ở quán bar, nó đã choảng một thanh niên sở tại bươu đầu sứt trán, bị bắt vào đồn cảnh sát và bị tống cổ về nước.

    Sau cái lần nó dí dao vào mặt ông đòi tiền, cực chẳng đã ông đã phải tống nó vào trại cai nghiện. Ở trong trại nó được hưởng tiêu chuẩn đặc biệt, Được hơn một năm tưởng đỡ, nào ngờ khi ra nó lại nghiện nặng hơn. Ông tống nó đi cai lần thứ hai, lần này không đươc hưởng ưu đãi gì hết. Thiếu thuốc người nó quắt lại như bộ xương khô. Vợ ông rít lên, gầm lên bảo ông không thương con, bà vẫn lén lút gửi thuốc vào cho nó. Ban quản lý trại quá nể bà.

    Một lần sốc thuốc nó đã bị chết trong trại. Nhận được tin báo, ông bà đánh xe con vào. Khi lật tấm ráp phủ, thằng con quắt queo xám ngắt. Ông chết đứng, nước mắt ngược vào trong xót xa quặn thắt lại. Cũng là nỗi đau một lúc còn hơn. Âu cũng là thoát cái nợ đời.

     Ông bà có trần một mống con. Cứ như cái cây, bói được mỗi một quả mà lại là quả chua, quả đắng, quả thối. Ông buồn chán đi tối ngày, khi về người nhão ra vì những buổi tiệc tùng chiêu đãi. Quẳng cho vợ những phong bì dầy cộp, ông đổ xuống giường mê man mộng mị.

    Ông buồn chán tất cả. Nhà lầu xe hơi để làm gì !? Địa vị danh vọng để làm gì…!? Trước mắt ông chỉ còn một màu không sáng, không tối, nó nhạt toẹt luễnh loãng như nước hến luộc để lâu ngày.

    Tuổi trẻ của ông luôn đầy ắp ước mơ hoài bão. Mối tình đầu của ông, trong sáng, thánh thiện. Ông đã để vuột mất tình yêu thiêng liêng ấy, đuổi theo một hình bóng ảo ảnh rực rỡ chói chang, khiến ông không mở nổi mắt. Ông như kẻ mù loà sờ sẫm…cứ ngỡ tưởng mình đang đi trên thảm đỏ đầy hoa.

    Từ hôm ông vào thăm cậu em, sáng nào ông cũng ra đây ngồi. Ngoài tiền cốc café , bao giờ ông cũng boa cho cô nhân viên mười ngàn, gọi là trả thêm cho cái không gian yên tĩnh ông đã ngồi hàng tiếng đồng hồ. Ông ghét sự ồn ào. Hay là cuộc sống của ông trước kia đã quá nhiều ồn ào. Những ồn ào thơn thớt không thực lòng, đầy toan tính và đối phó.

    Ngoài trời đổ cơn mưa rào. Những cơn mưa bất chợt của đất Sài Gòn. Vài tia nắng còn sót lại vống lên qua những làn mưa xiên xiên. Ông lơ đãng nhìn trời mưa,bất động im lìm như một pho tượng bị thời gian phủ rêu. Trước đây, ông cô đơn giữa đám đông người, bây giờ hết thời đám đông tản ra, ông càng thấy cô đơn hơn, nhưng là một sự cô đơn dễ chịu. Ông chấp nhận sự cô đơn ấy. Tìm một người thực sự đồng cảm với mình đâu phải chuyện dễ.

    Lắm lúc ông tự hỏi: Niềm vui còn lại của mình là gì?

    Ăn ư? Chơi ư? Ăn thì được bao nhiêu với bệnh máu nhiễm mỡ của ông. Mà cũng chả thiết! Của ngon vật lạ ông đã nếm cả, hỏi còn thiếu thứ gì? Chơi ông càng ngán! Ông đã từng công du Tây-Tàu đủ cả. Những trò du hí trên cõi đời trần tục này ông đều trải qua. Bây giờ sức tàn lực kiệt với bệnh tim mạch còn ham hố nỗi gì!? Thi thoảng mấy ông bạn già gặp nhau, ông cười đấy, nói đấy nhưng trong lòng luôn trĩu nặng nỗi buồn.

     Khi máy bay chuẩn bị đáp xuống Tân Sơn Nhất, ở trên nhìn xuống, xe hơi nhà lầu hệt như đồ chơi con nít, dòng người bé tí tẹo giống như đàn kiến lăng xăng đi lại. Ông thấy cợn lên trong lòng. Trái đất quá nhỏ bé. Kiếp người quá nhỏ bé. Thế mà còn chiến tranh, bão lụt, sóng thần, động đất, rồi bon chen, giành giật, kèn cựa, ghen ghét…Để mà làm gì? Để mà làm gì khi ta không có được tí ti của lòng nhân ái? Để suốt đời ta phải đeo đẳng một cái tâm bấn loạn cho đến lúc trở về cát bụi.?

    Tai ông ong ong như ngàn đám côn trùng rả rích.Những âm thanh rít lên của bà vợ: “ Chị Tư gọi điện bảo. Lô đất ở Đ. Ông đã nhận rồi, sao bây giờ lại trả lại?”-“Không nuốt trôi được thì phải nhả ra chứ sao!”- “Tại sao lại không trôi!?”-“Dân người ta kiến nghị, tương cả lên báo rồi kia kìa!”.Bà thở dài đánh thượt, môi trề ra: “Đúng là vừa đái vừa nhòm. Vụ ở H., ở Y., dân nó kiến nghị ầm ầm, có sao đâu! Chó sủa việc của chó. Mình đi việc của mình!”. Đúng là đồ đàn bà, đái không qua nổi ngọn cỏ. Ông gắt lên: “Bà cứ ngồi đấy mà phán. Chuẩn bị kiểm kê tài sản từ cấp huyện ngược lên. Lo chống đỡ đi là vừa.”

    Bà vẫn lải nhải. Cái giống đàn bà nói dai. Nào là bảo ông không thức thời, không nhanh nhậy, không biết đường tranh thủ…Bà vẫn lải nhải những âm thanh nghe mòn vẹt cả tai. Đầu ông ong ong như cả đám côn trùng rả rích.

    Trời tạnh mưa. Ông rời quán café bước ra đường. Không khí đẫm hơi nước. Thấy còn sớm, ông thủng thẳng bước đi dạo phố. Sài Gòn lộng lẫy nhưng cuộc sống gấp gáp. Ông cảm thấy dư thừa đi nép vào bên hè. Bước chân vô định cứ đưa ông đi hoàn toàn không ý thức…

    Khi đi qua một ngôi chùa có đông người ra vào, ông hỏi người bán hoa ở cổng, được biết hôm nay là ngày Phật đản. Ông rẽ vào trong chùa. Không gian ngát mùi hương, tiếng mõ đều đều trộn lẫn tiếng rầm rì đọc kinh của các tín đồ. Ông vịn tay vào đôi rồng đá nhìn lên. Cánh cửa Tam Bảo dán tờ giấy ghi rõ lời Phật dạy “Cuộc đời không sẵn tội lỗi khổ đau. Chỉ có con người tạo ra khổ đau tội lỗi.” Điều này không lạ đối với ông. Nhưng ở đây, giữa không gian từ bi hỉ xả của Phật Thích Ca, Phật Bà Quan Âm và các vị Bồ Tát, của Ông Ác , Ông Thiện, của thập điện Diêm Vương với những khuôn mặt thành kính của các tín đồ đang sám hối đầy vẻ hướng thiện. Ông thấy triết lí nhà Phật mới đúng làm sao ! Ông đứng lặng người đi…

    Từ trong Tam Bảo, người đàn bà mặc áo màu gụ bước ra. Trông bà ta quen quá. Ông định thần nhìn lại. Đúng rồi! Cặp mắt ấy…khuôn mặt ấy…Khi bà ta đến gần, ông bàng hoàng, sững sờ, miệng lắp bắp: Huệ…! Có phải Huệ không !? Bà ta ngước lên nhìn ông, thoáng chút ngỡ ngàng, rồi lạnh lùng: Ông nhầm rồi…, tôi không phải là Huệ! Bà quay người rảo bước, ông nhoài theo nắm cổ tay bà: Huệ…! Tôi đây mà...Thân đây ! –Bà hất nhẹ tay ông. Ông lảo đảo, ngực đau thắt lại, tai ù đi, người run lẩy bẩy. Người đàn bà thấy vậy quay lại, dìu ông đến ghế đá ở góc chùa.

    Qúa khứ cách đây hơn 30 năm bà đã chôn vùi nay sống lại…

    Hồi đó bà là một thiếu nữ ngoài 20 tuổi. Tuổi thanh xuân tràn đầy nhựa sống. Huệ là nhân viên phòng y tế Huyện. Thân là bộ đội xuất ngũ, làm cán bộ chuyên trách. Cô thanh niên xung phong dáng người thon lẳn, mái tóc ngang vai, khuôn mặt luôn sáng lên vì nụ cười. Anh cán bộ đẹp trai nhanh nhẹn, dáng dong dỏng, mũi cao và cặp lông mày đậm. Hai người yêu nhau. Tình yêu trong sáng của mối tình đầu luôn thánh thiện như vườn hoa thơm đầy ắp tiếng chim. Thời gian ríu rít trôi, xuân qua hạ tới.

    Được hơn một năm, Thân chuyển công tác lên tỉnh. Trước khi đi, đêm đó Huệ nép vào người Thân trên chòi đê lộng gió, nghe rõ tiếng lòng nhau thổn thức cùng dư âm của dòng sông như hoà quyện thành bản giao hưởng tình yêu giữa miên man trời đất……

    Hai tháng sau, Huệ thấy trong người khang khác. Gọi điện báo cho Thân biết. Anh bảo, nếu trót bị, em phải đi giải quyết hậu quả. Huệ len lén đến bệnh viện phụ sản. Bà bác sĩ khám rồi bảo “Cô có vấn đề về buồng trứng. Nếu nạo hút sau này sẽ vô sinh!”. Huệ bàng hoàng chới với. Cô đã ngược lên Tỉnh, tìm đến cơ quan của Thân. Anh đã lần khân , chần chừ, mãi mới ra gặp cô. Hai người ra quán café ngồi. Mặt Thân sưng lên:

    -Đã bảo ở nhà “giải quyết”! Tiền nong mượn tạm anh Tư. Còn mò lên đây làm gì!?

    Huệ cố nuốt cục nghẹn vào trong:

    -Em đã đến bệnh viện…Bác sĩ bảo… nếu nạo sau này sẽ không có con…

    Thân thấy người gai lên. Một lúc sau, khẽ gắt:

    - Hoàn cảnh bây giờ không cho phép. Bắt buộc phải cho ra thôi! Sau này…sau này khoa học phát triển. Tình hình sẽ khác…

    Huệ cúi gằm mặt. Thút thít khóc. Thân rít lên qua kẽ răng:- Trời ạ! Lại còn khóc nữa. –Anh móc ví lấy tiền- Em cầm lấy, về giải quyết ngay! Chuyện con cái tính sau!

    Huệ ngẩng lên, nhìn thẳng vào khuôn mặt vô cảm của Thân. Cũng khuôn mặt ấy, cô đã từng ôm ấp tin tưởng nay tanh lạnh hững hờ.

    Huệ vung tay hất mạnh, mấy đồng bạc văng ra. Cô đứng thẳng dậy, ném cái nhìn khinh bỉ vào mặt Thân.

    Cô không thể chấp nhận thái độ tàn nhẫn này được. Nó sẽ cướp đi cái quyền làm mẹ của cô. Cái quyền bất kỳ người phụ nữ nào trên đời này đều mong muốn. Dù có phải hứng chịu những xỉ vả lăng nhục của dư luận và muôn vàn thách đố nghiệt ngã của mưu sinh.

    Huệ quay phắt người , bước ra khỏi quán.

    Cô đã lang thang suốt đêm với hai dòng nước mắt hoà lẫn vào cơn mưa phùn cuối đông.

    Huệ đã ốm bệt cả tuần lễ. Cả tuần lễ cũng không hề có tin tức gì của Thân. Đã có lúc Huệ nghĩ đến quên sinh. Chỉ một vốc thuốc ngủ thôi , cô sẽ vĩnh viễn ra đi khỏi cõi đời bạc bẽo này…

    Huệ đã đáp chuyến tàu tốc hành vào thành phố Hồ Chí Minh, nơi bà dì ruột cô đang ở. Nhà dì có hai mẹ con. Chồng dì đang học tập cải tạo.

    Hàng ngày Huệ đi thu lượm ve chai, bán nước sinh tố, bán bánh mỳ dạo. Bụng chửa vượt mặt vẫn bươn trải, lê mòn gót trên vỉa hè Sài Gòn. Đến nỗi bà dì phải bảo:- Bụng to thế, nghỉ ở nhà đi cháu. Mắc mớ gì mà phải lặn lội, nhỡ ốm ra đấy thì khổ. Huệ bảo:- Cháu nghỉ ở nhà lại ốm thêm. Đi lại cho dễ sinh. Bà dì nhìn cháu ái ngại:- Tổ cha cái thằng Sở Khanh…-Huệ ngắt lời dì, thảng thốt:- Người ta lỗi một, thì cháu lầm mười dì ơi.

    Đến ngày đến tháng. Huệ đã sinh nở một bé trai kháu khỉnh.

    Khi con lớn khôn có hỏi về bố. Huệ giấu nước mắt vào trong, bảo bố đã chết khi con còn trong bụng mẹ. Huệ đã đào sâu chôn chặt. Và thực lòng, cô cũng coi Thân như không có trên đời.

    Thằng con phận nghèo nhưng được cái sáng dạ. Học giỏi, lại chịu thương chịu khó. Ngoài giờ học, nó phụ giúp mẹ đẩy xe hàng khắp hang cùng ngõ hẻm. Những lúc Huệ trái nắng giở giời, nó thay mẹ đi bán bánh mỳ dạo, lóc cóc đạp xe đi thu mua phế liệu. Nó là niềm an ủi duy nhất của Huệ. Trái tim cô đã khép kín để dồn tất cả hơi ấm còn lại cho con.

    Năm tháng vật vã mưu sinh…

    Chẳng mấy chốc con trai Huệ đã học hết lớp 12. Nó học một lèo không bị đúp năm nào. Được vào thẳng đại học. Nó đã tốt nghiệp đại học Luật với bằng ưu. Hiện đang là luật sư cho một công ty nước ngoài.

    Cho đến hôm nay. Gặp lại Thân trong lễ Phật đản giữa đất Sài Gòn này. Mái tóc của ông đã ngả sang màu sương bạc. Khuôn mặt bà đã hằn rõ vết nhàu nhĩ của thời gian. Cuộc gặp bẽ bàng bà không hề mong đợi. Ông nhìn bà, đôi mắt nghèn nghẹn, nói như hụt hơi:

    -Tình hình của Huệ…Huệ bây giờ ra sao...? Tôi…tôi đã dò tìm…

    - Tình hình gì cơ?- Bà lơ đãng hỏi lại.

    - Tình hình…- Ông thấy như nghẹt thở, húng hắng ho, rồi tiếp- Dạo ấy…ấy…Huệ có đi…đi “ giải quyết” không..?

     Bà lặng thinh. Trong lòng nhói đau. Nếu nghe lời Thân thì không hiểu bây giờ mình thế nào? Có thể sẽ lấy một ông chồng khác. Có thể cuộc sống sẽ nhàn hạ hơn, sung sướng hơn. Nhưng cô độc! Nỗi cô độc khủng khiếp của người đàn bà không con cái! Tất cả những đùa cợt của số phận bà đã chấp nhận. Bà đã chấp nhận nuôi con một mình mà không hề có một tình yêu thứ hai. Bà đã quên ông từ lâu. Mà cũng chẳng phải nhớ làm gì…

    Nhưng bây giờ gặp lại. Khi cả hai đã vào tuổi xế chiều, bóng bảng lảng của hoàng hôn chẳng mấy chốc sẽ vụt tắt. Bà như cảm thấy còn một sợi dây vô hình chằng chéo giữa hai người. Sợi dây ấy càng thít chặt hơn giữa ông và thằng con, tuy mỏng manh nhưng dù sao vẫn là tình phụ tử, vẫn là giọt máu của ông để lại.

    Khi ông cất tiếng gọi. Bà đã tảng lờ quay đi. Nhưng thấy ông lảo đảo muốn ngã, lòng trắc ẩn trong bà không đừng được. Vẻ mặt u uẩn và cặp mắt hùm hụp già nua của ông không dấu nổi nỗi buồn chán. Nếu dấu ông. Bà sẽ không được thanh thản khi về nơi chín suối…

    Ông lập cập ngồi bên cạnh bà. Người rũ xuống và đôi mắt mù sương.

    Tự nhiên lòng bà se lại. Từ trong sâu thẳm trĩu nặng tuôn trào ra những giọt nước mắt.

     Kết Thúc (END) Chuyện Hắn Font Size: Tác Giả: Đồng Chuông Tử Tìm Kiếm bằng Tựa Đề:

    Sarađôn

    1.

    Mọc lên từ xứ sở của nắng. Xứ sở của những bông hoa nở trong khô hạn quanh năm. Những bông hoa xum xuê huyền thoại. Gai góc và nhói trong kí ức của thời tiết. Hắn đep như một bài ariya buồn.

    Trôi, một định phận của thế giới. Hắn trôi trong định phận của chính mình. Cũ và mới. Trôi trừu tượng và hiện thực. Hắn bỗng thành sông Lu. Mát lạnh và phiêu lãng những đồi vực.

    Trôi đi là để trở lại. Rực rỡ và thơm mùi ánh sáng chín.

    2.

    Rija Nưgar hắn như chim

    Bay về Chakleng mừng vui đậu hót

    Líu lo sướng trời

    Tôi thấy hắn giống cá thì đúng hơn

    Hắn thích bơi lội và búng mình ngắm ngía

    Bầu trời mây, gió và mưa trần gian lòa xòa

    Thỉnh thoảng hắn tràn mùa thu phương phước

    Đắm đuối rụng lá và rần rần bay ướt

    Trần truồng những lời lũ lụt trong xanh.

    3.

    Hắn có nhiều bí mật trồi gas như chai bia Sài Gòn đỏ. Tôi đã khui bên dòng kênh Nhiêu Lộc đen sì.

    Có thể hắn là đàn ông Chăm đầu tiên massage nhiều nhất Việt Nam.

    Có thể hắn là đàn ông Chăm mê hát cải lương nhất nhì Nam bộ.

    Nhiều lúc tôi tự nghĩ, sẽ hay hơn nếu hắn trở thành nghệ sĩ cải lương. Đẹp trai, phong độ, hào hoa. Thiệt cũng lạ cho đời hắn.

    Giờ hắn đã là một luật sư. Hắn mới vừa được vợ cưới một tuần lễ. Nghĩ mừng thầm cho đời hắn.

    Nhưng tôi đã vật nhau với hắn trong đêm say túy lúy ở gần ngã tư Bình Triệu, vì cái tội lớn lao, hắn không cắn vỡ nổi một chữ K Chăm mình. Kết Thúc (END) Bàn Vuông Luận Font Size: Tác Giả: Đức Trí Quế Anh Tìm Kiếm bằng Tựa Đề:

    Trong khoảng không bất định, họ, bốn vĩ nhân của mọi thời đại, an tọa tại bàn vuông và cùng luận …

    Bốn Mặt Cuộc Sống

    Mùa xuân đang nảy lộc trên bề mặt địa cầu. Darwin thoải mái ngồi tại bàn vuông, ngắm nhìn đàn khỉ nô đùa và rửa các trái cây nhặt được trên bờ sông. Một người đàn ông với bộ râu rậm rạp và ánh mắt siêu nhân tiến về phía Darwin. Darwin đang cao hứng nên cất tiếng gọi:

    Darwin: Này, Nietzsche. Anh có bao giờ nghĩ con khỉ kia có thể là họ hàng của anh không?

    Nietzsche: Ông Tiến Hóa ơi, ông vẫn còn tin là con người xuất phát từ loài khỉ đột?

    Darwin: Sao không? Anh không thấy nhiều khoa học gia vẫn còn tin vào thuyết của tôi?

    Nietzsche: Tuy là họ tin nhưng loài khỉ có được đối xử như con người đâu.

    Darwin: Đó là vì con người vẫn mang nặng đầu óc tự tôn của anh nên luôn cho là họ vượt hẳn các loài vật khác và siêu nhân như anh.

    Nietzsche: Tại sao không? Con người vẫn đang thống trị thế giới với đầu óc siêu phàm. Mỗi con người đều phải phấn đấu để thông hiểu tất cả, ông à. Vả lại, con người nên tự tạo ra triết lý sống cho mình hơn là theo khuôn mẫu xã hội.

    Darwin: Chính Phật và Chúa mới thông hiểu tất cả.

    Nietzsche: Ông mà tin vào Thượng Đế, đấng tạo hóa vô hình sao? Hậu duệ ông nhiều người đã không tin như thế.

    Darwin: Tôi có bao giờ chống Thượng Đế đâu, chỉ có anh thôi. Hẳn anh nghĩ Thượng Đế đã chết, đúng không?

    Nietzsche: Đúng. Ông nên nghe tôi giải thích đây. Có bao nhiêu người thật sự trông thấy Thượng Đế khi họ còn sống? Chẳng bao nhiêu người. Chỉ có tâm linh của họ nhìn thấy Thượng Đế, nghĩa là họ đã bị chính tâm thức lừa dối. Tôi muốn họ phải tin vào chính mình như thể Thượng Đế đã chết.

    Darwin: Ồ, Thượng Đế chưa chết đâu. Thượng Đế ơi! Ngài đâu rồi? Giúp chúng tôi với. Siêu Nhân của tôi muốn ngài chết.

    Phật và Chúa Kitô hiện ra cùng lúc với nụ cười thanh thoát. Phật vẫn chấp hai tay như thường lệ, trong lúc Chúa dang rộng tay:

    Chúa: Chúa ở cùng anh em.

    Darwin (cười): Thấy chưa, quả là có Chúa! Những vĩ nhân của tôi! Cám ơn các ngài đã xuất hiện, Nietzsche cần sự giúp đỡ, anh ta không tin vào thuyết của tôi, thượng đế hoặc bất cứ cái gì. Nietzsche, theo anh, ai tạo ra sự sống và loài người?

    Nietzsche: Tôi không muốn tranh cãi về nguồn gốc sự sống. Tôi chỉ muốn nhấn mạnh là làm sao con người có thể đạt được tự do trong suy nghĩ. Như thuyết Chọn Lọc Tự Nhiên của Darwin, chỉ có con vật mạnh mới sinh tồn được. Thuyết của tôi cũng vậy. Tự làm chủ là chìa khóa trong cuộc đời mỗi người. Điều này sẽ giúp cho con người trong xã hội hiện đại thoát khỏi hỗn loạn tư tưởng.

    Chúa: Nếu con người không thể tự làm chủ thì sao?

    Nietzsche: Thì kẻ đó không thể sinh tồn. Cuộc sống chỉ dành cho kẻ mạnh với khả năng sinh tồn. Con người là động vật biết suy nghĩ và vốn không có bình đẳng giữa con người. Ngay cả Darwin cũng đã nói vậy trong thuyết của ông. Bất cứ trong hoàn cảnh nào, con người vẫn phải biết anh ta làm gì và ở đâu hơn là trông cậy vào Thượng Đế.

    Chúa: Thế con người có thể sáng tạo ra Thượng Đế sao?

    Nietzsche: Chắc chắn, cả ngài cũng được sinh ra bởi con người và mang hình hài con người.

    Chúa: Tuy nhiên, con người không thoát khỏi tội lỗi và sự chết. Họ vẫn cần tình yêu và mầu nhiệm trong cuộc sống, và ta mang sự mầu nhiệm đến cứu rỗi con người. Cuộc sống quả thật là mầu nhiệm. Tự chủ cuộc sống không có nghĩa là anh tự tôn giá trị của anh mà quên đi sự hiện hữu của Thượng Đế. Nếu ai tin vào Thượng Đế thì sẽ được an bình, và người ấy có thể mang hạnh phúc đến cho mọi người.

    Nietzsche: Nói như vậy, ngài cũng muốn là siêu nhân?

    Chúa: Dù ta có xuất hiện như một siêu nhân cũng không phải ý ta. Sứ mạng của ta là cứu rỗi loài người, không phải để trở thành "thượng đẳng". Ta không ngại phải vác thánh giá lần nữa. Rồi anh sẽ thấy ta trở lại địa cầu trong nay mai thôi. (quay sang Phật) Theo Thích Ca thì cuộc sống con người là gì?

    Phật: Cuộc sống con người là sự khổ. Để thoát khỏi khổ nghiệp, trước tiên phải trí tịnh thân bình. Sau đó phải hiểu cái ngã của mình. Muốn hiểu ngã thì phải diệt ngã. Diệt ngã thì sẽ giác ngộ. Giác ngộ là giải thoát khỏi thân và trí.

    Darwin: Nếu Phật cho rằng đời sống con người là sự luân hồi, thì con người có thể được đầu thai từ khỉ, và vân vân… À, giờ tôi đã thấy mối liên hệ giữa thuyết của tôi và Phật học.

    Nietzsche: Nếu Phật nghĩ rằng con người có thể tự chủ bản ngã, suy nghĩ và hành động, thì thuyết siêu nhân của tôi cũng đúng. Con người có thể là Thượng Đế của chính mình.

    Phật: Cả hai anh đều không sai. Nhưng Chúa muốn nhấn mạnh là con người vẫn cần tình thương. Khi tham sân si là nguồn gốc của tội lỗi, tình yêu của Chúa rất cần để cứu vãn thế giới. Nếu anh không có duyên để tham tường triết học nhà Phật, anh có thể theo tiếng gọi của Thiên Chúa. Người nào không tin vào Thiên Chúa có thể thỏa mãn với triết thuyết của anh, Nietzsche à. Cũng như những người yêu thích khoa học sẽ đồng ý với Darwin. Tuy nhiên, không phải ai cũng có tư tưởng của siêu nhân. Những người tinh thần yếu đuối sẽ cần giúp đỡ. Hãy nhớ rằng, thế giới này không chỉ cho những người "thượng đẳng", mà cho tất cả. Mọi người đều bình đẳng và có quyền tịnh để đạt tới cảnh giới của sự giác ngộ trong nhiều ngả đường cuộc sống.

    Nietzsche: Sao ngài không trở thành con chiên của Chúa?

    Phật: Ta đã giác ngộ trước khi Kitô sinh xuống trần. Tự đả thông tư tưởng có thể dẫn anh đến hạnh phúc và giúp anh thoát khỏi vòng luân hồi. Chúa cũng nghĩ như vậy. Chúa có thể giúp anh tự thiền tịnh. Người đời đã hiểu lầm Chúa khá nhiều. Chúa không muốn anh trở thành cuồng tín mà chỉ muốn anh khỏi vướng tội để trở thành người tốt. Nhưng con người không phải ai cũng giống ai. Có người cần Chúa giúp và có người không, nhưng Chúa lúc nào cũng sẵn sàng để giúp mọi người. Chúa và Ta đã chia sẻ nhiều suy tưởng tương đồng về sự sống. Đối với Chúa, cánh cửa Thượng Đế luôn mở rộng nếu anh không thể tự đạt đến cảnh giới giác ngộ.

    Darwin: Ngài Siêu Nhân ơi, ngài chịu thua chưa? Phật và Chúa nói rất có lý. Cả hai thật sự là vĩ nhân mà tôi đã từng gặp. Triết lý của họ đều giống nhau, Nietzsche ạ, người đời nghĩ rằng họ khác nhau, nhưng cả hai đều đưa con người đến hạnh phúc. Anh muốn nhìn thế giới với con mắt siêu nhân là tùy anh.

    Nietzsche: Xin đừng hiểu lầm tôi. Tôi vẫn kính trọng Chúa và các môn đồ của ông. Tuy nhiên, triết học nhà Phật đối với tôi có lý hơn trong việc "giác ngộ."

    Darwin: Không chống Chúa, nhưng anh kính trọng một cách miễn cưỡng. Tôi nghĩ anh vẫn có thể theo ông ta và không cần phải biết đến Kinh Thánh và các môn đồ của ông.

    Chúa: Ta chưa hề viết Kinh Thánh hay dựng nên nhà thờ. Thiên Đàng hay Địa Ngục ở ngay trong tư tưởng của các anh em. Anh em có quyền lựa chọn. Người đời có thể hiểu lầm ta, nhưng vẫn phải cần sự giúp đỡ của ta.

    Phật: Nietzsche và Darwin, đã đến lúc hai anh nên cùng nhau tìm giải pháp sống an bình và hạnh phúc cho con người. Mọi sự là một và một là mọi sự, phải không người anh em Kitô của ta?

    Chúa: Đúng vậy, người anh triết gia. Chúng ta hãy cùng đi cứu nhân loại.

    Darwin: Nietzsche, anh đã hài lòng với các câu trả lời của hai vị chưa? Này, giúp tôi tìm hiểu xem các con khỉ kia có liên hệ gì với đám kiến này không?

    Nietzsche: (hơi nhăn mặt) Được thôi.

    Và rồi cả hai cùng ngồi nhìn đàn khỉ nô đùa trên bờ sông trong khi được gió xuân vuốt ve.

     Kết Thúc (END)

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro