Tuyển tập truyện giả tưởng của Conan Doyle II

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Hang Blue John

(The tevror of Blue John Gap)

Câu chuyện được kể ra dưới đây đã được tìm thấy trong những giấy tờ của bác sỹ Jaines Hardcastle, người đã chết vì bệnh lao phổi ngày 4 tháng 2 năm 1908 tại số 36 ở khu nhà Upper Country South Kesington. Những bè bạn thân thiết của ông đã không chịu bày tỏ một ý kiến nào về sự giao dịch có tính cách đặc biệt giữa ông và họ, nhưng họ đã nhất trí nói rằng người bạn quá cố ấy có một tinh thần khoa học và điềm đạm, ông không có vẻ gì là một người giàu trí tưởng tượng và không thể bịa đặt những chuyện ly kì ra ngoài sự bình thường. Tập truyện được để trong một phong bì bên ngoài có hàng chữ như sau: "Bản lược thuật những sự cố đã xảy ra tại vùng lân cận trang trại của cô Allerton, ở Derbyshire miền tây bắc vào mùa xuân năm trước". Phong bì có dấu niêm kín. Ở mặt sau có những dòng chữ bằng bút chì.

"Bạn Seaton thân mến,

"Chắc chắn bạn sẽ thấy thích thú, có lẽ đôi chút sợ hãi, là sự hoài nghi của bạn khi tiếp nhận câu chuyện của tôi, đã làm tôi không dám nói tới vấn đề này. Do đó tôi để tài liệu này trong các giấy tờ của tôi, sau khi tôi chết rồi không chừng những người xa lạ sẽ bày tỏ sự tin tưởng về tôi còn hơn là bạn của tôi?

Những sự sưu tra được thực hiện để tìm ra nhân vật Seaton đó đều vô hiệu. Tôi xin phép được nói thêm rằng thời gian cư ngụ của người quá cố tại trang trại Allerton cũng như sự mô tả đại cương về các tình huống (tôi không nói tới sự giải thích của ông về vụ này) đã được kiểm chứng rõ ràng. Tôi xin ngưng lời mào đầu ở đây để ghi lại câu chuyện đúng như nó đã được phát hiện.

17 tháng tư - Tôi đã cảm thấy ngay sự bổ ích mà không khí kỳ diệu của vùng cao nguyên mang lại cho tôi. Trang trại nhà Allerton tọa lạc ở độ cao năm trăm thước bên trên mặt biển do đó khí hậu rất lành mạnh. Ngoài những cơn ho thường lệ vào buổi sáng, tôi không cảm thấy một điều gì khó chịu cả. Với sữa tươi và thịt cừu trong vùng, có thể là tôi sẽ lên cân. Tôi tin rằng Sauderson sẽ hài lòng.

Hai cô con gái nhà Allerton đều có vẻ độc đáo và đáng yêu một cách quý phái; cả hai cô đều là gái lớn tuổi, cùng nhỏ bé, nhưng cần mẫn như nhau, họ sẵn sàng dành cho một người bện xa lạ tất cả tấm lòng mà họ có thể hiến dâng cho người thân yêu của họ. Đúng thật, các cô gái già là những người rất hữu ích! Đó là một trong những sức mạnh mà xã hội gìn giữ để dự phòng... nguời ta hay có thiện kiến coi các cô gái già như những người đàn bà vô dụng nhưng nếu không có sự giúp đỡ tận tâm của họ thì một gã đàn ông khốn khổ vô dụng sẽ làm được việc gì? Trở lại câu chuyện, các cô rất mau chóng để lộ ra qua thái độ giản dị cái lý do mà Saunderson đã giới thiệu tôi tới nhà họ. Vị giáo sư là người tự lập thân, hồi trai trẻ đã làm thuê cho các trang trại ở quanh vùng này.

Nơi đây rất hẻo lánh; những cuộc dạo chơi không thiếu gì cảnh đẹp. Trang trại có những đồng cở nằm sâu trong một thung lung lũng lởm chởm đá. Ở hai bên đường có những quả đồi đá vôi kỳ ảo; những tảng đá ở đó rất mềm đến nỗi ta có thể dùng tay bóp vỡ chúng.

Tất cả vùng quê này đều có vẻ như trống rỗng. Nếu tôi có thể đập vào nó bằng một cái búa khổng lồ, chắc nó sẽ vọng lên như một cái trống, nếu nó không tan vụn ra và để lộ một cái biển ngầm dưới mặt đất. Đúng, chắc chắn phải có một cái biển ngầm lớn, vì ở khắp mọi phía đều có những con suối uốn khúc quanh sườn núi, rồi biến mất trong lòng đất, không bao giờ xuất hiện lại nữa. Ở khắp mọi nơi giữa các tảng đá đều có những hang động. Nếu đi vào đó, người ta sẽ vào trong những hang động lớn xuyến sâu vào tận lòng trái đất với vô số khúc quanh. Tôi có một cái đèn nhỏ; và với tôi đó là một sự vui thú lớn khi mang nó theo trong những nơi hoang vắng kỳ bí này và được ngắm nhìn các hiệu ứng của màu đen và màu trắng khi chiếu ánh đèn lên những nhũ đá che phủ các khung vòm cao khi tắt đèn đi; ta đang đứng trong những màn đêm tối tăm nhất. Đốt đèn lên đó là một cảnh tiên trong truyện ngàn lẻ một đêm.

Một trong các hang động kỳ quái này làm tôi đặc biệt quan tâm vì nó là một tác phẩm của con người chớ không phải là của tạo hóa. Trước khi đặt chân đến nơi này, chưa bao giờ tôi nghe thấy người ta nói tới Blue John. Đây là một cái thên đặt cho một thứ kim loại có màu tía rực rỡ, mà người ta chỉ tìm thấy ở hai hoặc ba vùng trên thể giới. Nó quý hiếm đến nỗi một cái bình tầm thường bằng Blue John cũng có giá rất đắt. Với bản năng kỳ lạ của họ, người La mã đã tìm ra kim loại đó trong thung lũng này và họ đã đào một cái hầm xuyên ngang rất sâu trên sườn núi. Cái hầm mỏ của họ được đặt tên là hang Blue John: một vòm cầu đục vào vách núi dùng làm lối ra vào; những bụi cây rậm đã phủ kín miệng hang. Những thợ mỏ La mã đã khoét một hành lang đẹp đẽ chạy xuyên qua những hang động lớn đã bị nước xói mòn đến nỗi nến người nào đi sâu vào hang Blue John, thì tốt hơn hết là nên đánh dấu các tiêu điểm và phải mang theo rất nhiều nến; bằng không sẽ có sự rủi ro rất lớn là có thể không bao giờ còn lại nhìn thấy ánh sáng mặt trời nữa. Tôi chưa dám mạo hiểm; nhưng hôm nay tôi dừng lại ở lối vào của cửa vòm, và đưa mắt nhìn kỹ vào các ngõ ngách tối tăm mà tôi thấy lờ mờ ở phía trong. Tôi tự hứa hẹn rằng ngay sau khi bình phục, tôi sẽ dành những ngày nghỉ để thám hiểm những bí ẩn dưới mặt đất để xem những người La mã đã vào tới độ sâu bao nhiêu trong các ngọn đồi ở Derbyshire này.

Những người dân quê dị đoan quá chừng! Tuy vậy chàng thanh niên Armitage đã gây cho tôi một ấn tượng tuyệt vời! Anh ta có nghị lực và có học vấn; tôi đã đặt anh ta cao hơn vị trí xa hội thực sự của anh ta. Và trong khi tôi dừng bước trước hang Blue John, thì anh ta đi qua đồng cỏ đến nơi và nói với tôi.

- Chào bác sỹ, ông không sợ à, ít ra ông cũng biết sợ chứ?

- Sợ à? Và tôi sợ cái gì cơ chứ?

- Sợ nó đó, anh ấy trả lời tôi và lấy ngón tay cái chỉ vào cái vòm đen sì. Sợ con quái vật sống trong hang động Blue John đó!

Sự dễ tin khiến các chuyện hoang đường được loan truyền trong một vùng hẻo lánh thật không thể ngờ được! Tôi hỏi anh ta về nguồn gốc của sự xác quyết ấy. Hình như ai cũng biết rằng thỉnh thoảng có những con cừu đã mất tích trong đồng cỏ. Armitage quả quyết rằng chúng đã bị bắt đi. Anh ta nhất định không chịu tin là chúng đã bỏ đi lang thang, và bị lạc trong núi. Một lần người ta đã tìm thấy một vũng máu và một vài búi lông. Nhưng tới đó người ta vẫn phải chấp nhận một lối giải thích khá tự nhiên. Hơn nữa, nhũng con cừu mất tích chỉ vào những đêm không có trăng, trời tối đen như mực; tôi phản đối, ai cũng biết rằng một tên ăn trộm bắt gà bắt vịt tầm thường cũng thích chọn những đêm tối mịt để hành nghề nữa là, một lần khác, một lỗ hổng đã được khoét ở một bức tường, và những hòn đã đã bị khuân đi bỏ vương vãi tại một khoảng cách khá xa; theo ý tôi thì đây là công việc của một hay nhiều người. Cuối cùng, Armitage đã tóm tắt tất cả lập luận của anh ta bằng cách kể lại cho tôi nghe rằng anh ta đã nghe rõ ràng tiếng con quái vật và bất cứ ai cũng có thể nghe tiếng của nó, với điều kiện là phải đứng rình khá lâu ở gần hang. Đó là một tiếng gầm xa xôi, với một sức mạnh khủng khiếp. Tôi chỉ có thể mỉm cười vì tôi biết những tiếng vòng kỳ dị phát ra bởi luồng nước ngầm dưới mặt đất chảy quanh co trong các hang sâu đước kết tạo bằng đá vôi. Thái độ không tin của tôi làm Armitage bực bội, và anh ta đã từ giã tôi một cách hơi vội vã.

Nhưng đây là một việc kinh dị nhất trong chuyện này. Tôi vẫn đứng yên ở lối vào hang, và tôi đang ngẫm nghĩ tới tất cả những lời giải thích mà các sự kiện do Armitage kể lại có thể chấp nhận được thì bỗng nhiên từ đáy sâu của hang dội lên một tiếng động hết sức kỳ quái. Biết mô tả nó ra sao đây? Trước hết, nó có vẻ như vọng tới từ một nơi rất xa, phát ra ngay trong ruột của quả đất. Hai là, mặc dù sự xa xôi đó, chắc chắn là rất mạnh. Sau hết, đây không phải là tiếng nổ ầm ầm, cũng không phải tiếng khối băng tan tức khắc gây ra một thác nước hay sự sụp lở các tảng đá; đó là một thứ tiếng rên rỉ chói tai, rung đông, ngâm nga, giống như tiếng hí của một con ngựa. Không còn chối cãi được nữa, tôi thấy mình đang đứng trước một điều gì hết sức đặc biệt, và tôi phải đặt một ý nghĩa mới vào những lời nói của Armitage. Tôi đợi trong một nửa giờ trước cửa hang Blue John, nhưng tôi không nghe thấy gì nữa; do đó tôi quay về trang trại, lòng rất băn khoăn vì sự việc xảy ra. Tôi quyết định sẽ thám hiểm cái hang này khi đã phục hồi sức khỏe! Chắc chắn là sự giải thích của Armitage quá mơ hồ, không đáng bàn luận; nhưng nó cũng không ngăn cản được sự thật là tiếng động kia rất quái dị. Nó vẫn còn vọng trong tai tôi khi tôi viết những dòng này.

20 tháng tư- Trong ba ngày vừa qua, tôi đã thực hiện vài chuyến dạo chơi chung quanh hang Blue John, tôi đã đi vào cả phía bên trong, nhưng không vào quá xa vì cái đèn của tôi không được sáng lắm. Tôi muốn tiến hành một cuộc thăm dò kỹ lưỡng. Tôi không nghe thấy một tiếng động nào giống như tiếng mà tôi tình cờ nghe thấy hôm nọ, đến nỗi tôi phải tự hỏi rằng có phải tôi đã là nạn nhân của bệnh ảo giác có lẽ được gây ra bởi buổi nói chuyện với Armitage? Chắc chắn là ý nghĩ của anh ta không đứng vững được! Tuy nhiên tôi phải nhìn nhận rằng các bụi cây một phần nào lấp kín cửa hang có vẻ như đã bị rẽ ra và bị dẫm nát bởi một con vật to lớn. Tôi bắt đầu thích thú. Tôi không hé một lời với các tiểu thư nhà Allerton: các cô gái đã quá dị đoan rồi! Nhưng tôi mua những cây nến và đơn độc một mình mở cuộc điều tra.

Sáng hôm nay, tôi nhận thấy trong số rất nhiều búi lông cừu rải rác trên các bụi cây ở gần cái hang có một búi nhuốm máu. Tất nhiên là lý trí của tôi bảo tôi rằng nếu những con cừu mạo hiểm vào những nơi thế này, chúng rất dễ bị thương tích vì các tảng đá gồ ghề. Tuy nhiên, khi nhìn thấy những vết máu đỏ thẫm này, tôi run lên và kinh hoàng lùi lại, một luồng hơi hôi thối hình như bốc lên từ những khoảng sâu tăm tối mà tôi cố căng mắt thăm dò một lần nữa. Thật sự có thể có một con vật không có tên, khủng khiếp ẩn nấp trong đó không? Vào lúc hoàn toàn mạnh khỏe, chắc hẳn tôi không thể nào có được loại cảm giác này, nhưng khi ta bị yếu kém về sức khỏe, ta trở nên nhút nhát hơn và óc tưởng tượng gây ra sự quái dị.

Lúc đó, quyết tâm của tôi yếu đi và tôi cảm thấy sẵn sàng từ bỏ việc thám hiểm cái hầm mỏ cũ, và nhìn nhận rằng cái hầm mỏ đó có một điều bí mật. Nhưng chiều hôm nay tôi lấy lại sự hăng hái, những dây thần kinh của tôi đã bình tĩnh lại. Tôi hy vọng là ngày mai tôi sẽ đi sâu hơn vào vấn đề này.

22 tháng tư - Tôi phải dùng cách viết ra giấy để kể lại chính xác tối đa cuộc mạo hiểm ly kỳ của tôi ngày hôm qua. Tôi đã khởi hành vào buổi chiều và đi tới hang Blue John. Tôi xin thú thật rằng những điều linh cảm của tôi lại hiện ra; khi thăm dò những chỗ sâu thẳm của cái hang, đúng ra tôi nên phải có một người bạn đồng hành trong cuộc thám hiểm. Nhưng tôi đã lấy lại sư can đảm, tôi thắp nến lên, vượt qua hàng rào cản của những bụi cây và đi vào bên trong hang.

Trong khoảng chừng hai mươi thước, hang hơi dốc thoai thoải; mặt đất phủ đầy những đá vụn. Tiếp theo là một lối đi dài chạy theo chiều ngang được khoét vào đá kiên cố. Tôi không phải là nhà địa chất học nhưng chắc chắn là cái vòm cong phia bên trong đã được cấu tạo bằng một chất cứng hơn đá vôi; đó đây, ở một vài chỗ, tôi còn nhìn rõ thấy dấu vết của những dụng cụ do những thợ mỏ thời xưa bỏ lại khi họ đào cái hầm này, các dấu vết còn rất rõ ràng và nguyên vẹn như mới có ngày hôm qua, tôi đi chập choạng từng bước một trong cái hành lang cổ xưa như trái đất; ngọn lửa yếu ớt của cây nến chỉ tỏa ra một vòng ánh sáng mập mờ quanh tôi, vào nó còn làm cho bóng tối đen đặc hơn, đáng sợ hơn. Cuối cùng, tôi đi tới một chỗ mà cái hành lang của người La mã đưa tới một cái hang rộng mênh mông do bị xói mòn, với những nhũ đá vôi tích tụ lại trông như cây nến dài. Từ căn phong trung tâm này, tôi nhận ra một cách mơ hồ rằng có nhiều hành lang do các suối ngầm tạo ra đã ăn sâu vào trong lòng trái đất. Tôi lưỡng lự: tôi nên quay trở lại hay cứ liều mạng bước tới trong cái mê cung hiểm nghèo này? Bỗng nhiên tôi cảm thấy dưới chân có một điều gì khác thường.

Một phần lớn mặt đất trong hang được phủ những cục đá hay những tảng vôi. Nhưng ngay ở chỗ tôi đứng, cái vòm rất cao có nước nhỏ xuống làm thành một lớp bùn nhão. Và ở giữa lớp bùn này, tôi phát hiện ra một vết hằn sâu có bề mặt khá lớn; một vết hằn trong một vũng bùn hình thể không rõ ràng, sâu, rộng không đều đặn như kiểu một tảng đá lớn đã rơi xuống nơi này. Nhưng không có một tảng đá nào nằm quanh nơi này và tôi cũng không trông thấy điều gì có thể cho tôi biết về nguyên ủy của vết hằn. Nó rộng qua không thể do một con vật nào gây ra được; hơn nữa, nó là một vết duy nhất, cái vũng bùn không thể bằng một bước mà vượt qua được. Sau khi xem xét kỹ càng, tôi quay ra tìm hiểu bóng tối đen đặc vây quanh tôi, và tôi phải thú thật là trong một vài khoảnh khắc tim tôi đã đập nhanh hơn, và mặc dù tôi đã cố gắng giữ, cây nến vẫn cứ run lên trong bàn tay tôi.

Sau đó, tôi lấy lại ngay can đảm, trong khi nghĩ ngợi rằng vết hằn này, cú theo hình dạng và tầm cỡ phi thường của nó, không thuộc về một con vật quen thuộc nào; ngay cả nó cũng quá lớn để cho là do một con voi đã gây ra. Do đó tôi quyết định là những nỗi lo sợ vu vơ không thể ngăn cản được việc tiếp tục cuộc thám hiểm của tôi. Trước khi đi vào xa hơn, tôi đã thận trọng ghi nhận một gờ đã được hình thành một cách kỳ lạ trên vách đá, gờ đá này sẽ giúp tôi nhận ra cửa vào của cái hành lang của người La mã. Đây là sự thận trọng cần thiết, vì cái hang lớn là giao điểm của rất nhiều hành lang. Sau khi đã ấn định các tiêu điểm, tôi kiểm soát lại số nến và diêm mang theo, và khi đã vững bụng, tôi thong thả tiếp tục tiến bước trên bề mặt gồ ghề lởm chởm đá của cái hang.

Và bây giờ thì tôi gặp một trở ngại làm tôi vất vả, một con suối rộng chừng năm hay sáu thước chảy ngang qua đường đi của tôi; thoạt đầu tôi đi dọc theo nó trong ít lâu để cố tìm ra một chỗ đi qua nó mà không phải lội. Cuối cùng tôi đã nhìn thấy một tảng đá phẳng làm thành một chỗ cạn mà tôi có thể nhảy một bước là tới. Nhưng tảng đá đứng gập ghềnh trong dòng nước chảy đã nghiêng đi khi tôi đặt chân lên và tôi đã ngã xuống nước lạnh như băng. Cây nến tắt ngúm; tôi phải mò mẫm, bì bõm trong khoảng tối tăm mù mịt.

Tôi đã đứng lên được, lòng thấy vui thích hơn là hoảng sợ vì sự rủi ro này. Cây nến đã tuột khỏi tay và bị nước suối cuốn đi. Nhưng tôi còn hai cây khác trong túi áo. Sự cố không có gì quan trong cả. Tuy nhiên, tới lúc tôi muốn châm cây nến thứ hai tôi mới cảm thấy hết sự khó khăn của hoàn cảnh này. Bao diêm đã ướt sũng sau khi tôi ngã xuống nước. Không thể đánh một que diêm nào ra lửa.

Tôi có cảm giác như có một bàn tay bằng đá đề nặng lên trái tim tôi. Bóng tối đục mờ một cách khủng khiếp. Với sự cố gắng lớn lao, tôi tự trấn tĩnh và pháchọa lại trong ý nghĩ hình thể mặt đất của cái hang như tôi vừa nhìn thấy. Hỡi ôi, các tiêu điểm mà tôi có trong đầu lại ở khá cao trên các vách đá và tôi không thể tìm ra chúng bằng cách lấy tay sờ soạng. Tôi nhớ khá rõ ràng vị trí các vách của hành lang; do đó tôi hy vọng là bằng cách lần mò tôi cũng sẽ tới được lối vào hành lang của người La mã. Tôi bắt đầu cất bước di chuyển rất chậm chạp, luôn luôn va vào các vách đá.

Tôi đã mau lẹ hiểu rằng cách thức này sẽ chẳng lợi ích gì. Trong bóng tối dày đặc của màn đêm, tôi đã mất hết mọi ý niệm về phương hướng. Sau khi đi chừng mười bước, tôi không còn biết mình đang ở chỗ nào. Tiếng nước vỗ ì oạp là âm thanh duy nhất tôi nghe thấy, nó chỉ rõ cho tôi biết con suối chảy nơi nào, nhưng từ lúc rời khỏi bờ suối tôi đã bị lạc đường. Tôi phải từ bỏ việc tìm đường trong bóng tối dày đặc.

Tôi ngồi trên một tảng đá lớn và ngẫm nghĩ về cảnh ngộ nguy nan này. Không có ai biết về dự định cuộc thám hiểm của tôi, do đó có rất ít cơ hội để có một toán cứu hộ mạo hiểm vào trong hang Blue John. Tôi chỉ còn trông cậy vào khả năng của chính mình.

Khi tôi bị ngã xuống nước, chỉ có một nửa người tôi bị ướt thôi. Bên vai phải của tôi nằm trên mức nước nên vẫn khô. Tôi cầm lấy bao diêm và tôi đặt nó vào nách bên trái. Tác động của không khí ẩm ướt trong hang có thể đựợc hóa giải bằng hơi nóng thân thể tôi. Nhưng ngay cả trong trường hợp này, tôi cũng vẫn không có ánh sáng trong vài giờ đồng hồ. Tôi chỉ còn cách là phải đợi.

May mắn là tôi đã nhét mấy cái bánh bích quy vào túi trước khi rời khỏi trang trại. Tôi nhai ngấu nghiến chúng bằng cách làm cho chúng ẩm đi với một ngụm cái thứ nước chết toi nàym vốn là nguyên nhân của tất cả mọi khốn khổ của tôi. Rồi tôi tìm ra một chỗ ngồi thoải mái hơn tỏng số các tảng đá. Sau khi lầnmò một lúc, tôi đã tìm thấy một chỗ mà tôi có thể dựa lưng vào. Tôi ngồi xuống và duỗi chân ra. Bị ướt đẫm và lạnh cứng người, tôi cố tự trấn an bằng cách nghĩ rằng khoa học hiện đại đã quy định cho căn bệnh của tôi những cửa mở bao gồm những cuộc tản bộ trong mọi thời tiết. Được ru ngủ bằng tiếng rù rì buồn tẻ của con suối, bị mệt lử vì màn đêm đen đặc, tôi đã đắm chìm vào một giấc ngủ đầy lo âu sợ hãi.

Tôi đã ngủ bao lâu rồi? Tôi không biêt gì cả. Có lẽ là một giờ, có lẽ là nhiều giờ. Bỗng nhiên tôi ngồi nhỏm dậy, thần kinh căng thẳng và các giác quan tỉnh táo. Không còn nghi ngờ gì nữa, tôi đã nghe thấy một tiếng động. Một tiếng động hoàn toàn khác hẳn tiếng rù rì của nước. Tiếng động đã ngừng, nhưng tôi vẫn còn thấy âm vang trong tai tôi. Có phải đó là một toán cứu hộ không? Chắc hẳn là họ đã gọi lên; nhưng cái tiếng mà tôi vừa nghe, dù rất mơ hồ, không phát ra từ con người. Tim tôi đập thình thịch, tôi không dám thở mạnh... Lại tiếng động đó! Và lại nó nữa! Và lúc này nó trở nên liên tiếp. Có tiếng chân bước. Đúng, chắc chắn là tiếng chân bước của một sinh vật! Nhưng tiếng bước chân kỳ dị làm sao! Nghe tiếng bước chân này, tôi có cảm tưởng là một khối lượng đồ sộ được chống đỡ bằng những bàn chân xốp nhẹ nên sự di chuyển chỉ phát ra một tiếng động tắc nghẹn. Trong bóng tối mịt mùng, tiếng bước chân vẫn đều đặn rõ ràng. Và chắc chắn là nó đang hướng về phía tôi.

Tôi thấy rợn tóc gáy, toàn thân tôi lạnh như băng. Vậy là có một con quái vật sống trong cái hang động lắm ngõ ngách này? Với sự mau lẹ trong bước đi của nó, chắc chắn là nó nhìn thấy trong đêm tối cũng rõ như lúc ban ngày. Tôi ngồi co rúm lại trên tảng đá. Tôi muốn làm cách nào chui sâu vào trong tảng đá. Những bước chân đi tới gần. Tôi nghe thấy chúng dừng lại. Rồi tôi đoán phỏng chừng rằng con vật dừng lại để uống nước trong suối. Rồi sự yên lặng trở lại, nó chỉ bị ngắt quãng bởi những tiếng khụt khịt và tiếng thở phì phò khủng khiếp. Con quái vật có ngửi thấy tôi không? Lỗ mũi tôi đã bắt đầu ngửi thấy một mùi nặng nề hôi thối độc hại. Những bước chân lại vang lên trong bóng tối, lần này thì ở mạn bờ suối mà tôi đang ngồi. Cách chỗ tôi vài thước, những hòn đá lăn đi, bị nghiền vỡ và kêu lách cách. Không dám thở mạnh nữa, tôi cố thu nhỏ thân mình lại được chừng nào hay chừng ấy. Rồi những bước chân xa dần. Tôi nghe thấy những tiếng ì oạp lớn của nước khi con vật lội qua suối, sau đó những bước chân im bặt trong khoảng xa ở hướng mà chúng đã vọng lên.

Tôi đã ngồi rất lâu trên tảng đá, bị kinh hoàng đến nỗi không nhúc nhích được. Tôi nghĩ tới tiếng động phát ra từ những hố thẳm của cái hang, tới sự sợ hãi của Armitage, tới vết hằn trong vũng bùn. Sau hết, tôi đã có chứng cớ hẳn hoi là có một con quái vật ngoài sức tưởng tượng sống trong hang, nó không giống bất cứ một con vật nào mà ta biết trên mặt đất; và nó ẩn náu trong lòng núi. Nói về tính chất hay hình dạng của nó, tôi không thể hình dung được nó thế nào; tôi chỉ biết rằng con vật khổng lồ này có những bước chân nhẹ nhàng. Giữa lý trí và các giác quan của tôi đã có một cuộc đấu tranh. Lý trí của tôi nói rằng, những con quái vật loại này không thể có trên đời và các giác quan của tôi lại nói rằng những con vật đó có thật hòan toàn. Rút cục lại, tôi cảm thấy sẵn sàng chấp nhận rằng chuyến mạo hiểm này chỉ là một cơn ác mộng và cho rằng tình trạng bệnh hoạn của tôi có thể gây ra một ảo giác. Nhưng một sự cố sau cùng đã sớm xua tan ngay khỏi tâm trí tôi mọi khả năng nghi ngờ.

Tôi lấy những que diêm trong nách ra, sờ tay vào thấy chúng đã khô hẳn. Tôi cúi xuống chỗ khe hở giữa các tảng đá và bật thử một que. Trước nỗi vui mừng của tôi, nó đã bật thành lửa ngay nhát quẹt thứ nhất. Tôi đốt một cây nến, không khỏi nhìn về sau lòng đầy kinh hãi, tôi vội vàng bước về phía hành lang của người La mã. Trên đường đi, tôi đứng lặng người đi, không phải chỉ có một vết thôi, mà những ba vết. Ba vết lõm giống nhau, cùng một kích cỡ khủng khiếp, cùng một đường nét không rõ ràng, cùng một chiều sâu chứng tỏ cái khối nặng đã tạo ra chúng. Một sự kinh hoàng khó tả tràn ngâp lòng tôi. Cúi gập người xuống, lấy bàn tay che cây nến, tôi chạy thẳng đến bậc thềm cửa hang Blue John. Mệt đứt hơi, tôi nằm vật xuống đám cỏ tươi, dưới ánh sáng thân thương của những ngôi sao. Khi tôi về tới trang trại thì đã ba giờ sáng. Hôm nay, tôi vẫn còn run rẩy toàn thân. Tôi không nói gì cả. Tôi phải xử sự một cách dũng cảm. Nếu tôi kể lại cuộc mạo hiểm của tôi cho những người đàn bà yếu đuối cô đơn hay cho những người nông dân quê mùa thì có trời mới biết được là họ sẽ phản ứng ra sao? Tôi chỉ nói với người nào có thể hiểu được tôi thôi.

25 tháng tư - trong hai ngày liền tôi đã không rời khỏi giường nằm, một cuộc mạo hiểm không thể tin được. Tôi dùng tính từ này là có dụng ý. Từ sau chuyến đi thám hiểm hang Blue John tôi đã trải qua một kinh nghiệm cũng khiến cho tôi hoang mang gần như việc phát hiện ra con quái vật vậy. Tôi đã nói là tôi sẽ tim quanh quẩn nơi đây, một người nào có thể hiểu được tôi và giúp đỡ ý kiến cho tôi. Có một ông bác sĩ đang hành nghề cách đây vài cây số tên là Mark Johnson, và giáo sư Saunderson đã giới thiệu tôi với ông. Khi cảm thẩy đủ khỏe khoắn để thực hiện một chuyến đi bằng xe hơi, tôi liền tới nhà ông và kể cho ông nghe tất cả câu chuyện của tôi. Ông đã nghe tôi nói với sự chăm chú đặc biệt. Sau đó ông đã khám bệnh hết sức kỹ càng cho tôi, nhưng chỉ đưa cho tôi tấm danh thiếp của một ông Picton nào đó ở Castlenton, khuyên tôi nên tới gặp ông đó ngay tức thì, và bảo tôi hãy thuật lại chính xác những sự việc mà tôi vừa mô tả xong. Theo ý ông bác sĩ này thì ông Picton mới thực sự là người mà tôi cần tới. Thế là tôi đi theo hướng nhà ga và đi xe lửa tới cái thành phố nhỏ cách xa chừng mười lăm cây số. Chắc là ông Picton phải có một địa vị rất quan trọng, vì tấm biển đồng của ông ấy được gắn trên cái của một tòa nhà lớn ở ngoại ô thành phố. Tôi đang sắp bấm chuông thì một linh cảm đã ngăn bàn tay tôi lại. Tôi đi sang bên kia đường, và hỏi thăm một người bán hàng. Tôi hỏi ông ta: "Ông có thể vui lòng cho tôi biết ông Picton là ai không ạ?" - "Được chứ! Đó là một bác sĩ tâm thần hay nhất ở Derbyshire, và ông ấy trông coi cái nhà thương điên mà ông nhìn thấy kia kìa", người bán hàng trả lời tôi. Chắc ai cũng đoán được là tôi đã vội vàng rời khỏi Castleton như thế nào. Tôi quay về trang trại, dọc đường không khỏi chửi thầm những gã bụng đầy chữ nghĩa nhưng thiếu óc tưởng tượng, không thể quan niệm được trong thiên nhiên một thứ gì khác ngoại những vật mà chính họ nhìn thấy bằng cặp mắt thiển cận của họ. Dù sao lúc này tôi cũng đã bình tĩnh hơn, tôi nhận thấy là bác sĩ Johnson đã không dành cho tôi một niềm tin lớn hơn niềm tin mà tôi đã dành cho Armitage.

27 tháng tư - Khi còn là một sinh viên tôi đã nổi tiếng là can đảm và liều lĩnh. Tôi nhớ trong một lần đi rình ma ở Coltbridge, chính tôi đã tự ý ở lại trong cái nhà có ma. Có phải tại vì tôi đã có tuổi (tuy nhiên tôi mới có 35 tuổi) hay vì tôi bị đau ốm khiến cho các đức tính thuở xưa bị cùn nhụt? Nói tóm lại, chỉ nguyên việc nghĩ tới cái hang khủng khiếp ở trong núi và khi tôi tự nhủ rằng cái hang đó có một con quái vật là tim tôi đã ngừng đập rồi. Tôi sẽ làm gì đây? Không một giờ phút nào mà tôi không tự đặt ra câu hỏi này. Nếu tôi không nói gì thì sự bí ẩn cứ còn nằm nguyên đó. Nhưng nếu tôi nói ra thì tôi sẽ bị đặt trước hai khả năng, một là người ta sẽ cho tôi là một thằng điên và người ta sẽ nhốt tôi lại, hai là tôi sẽ làm cho cả vùng quê kinh động. Nói tóm lại, tôi nghĩ tốt hơn hết là tôi hãy chờ đợi, và chuẩn bị một chuyến thám hiểm có chuẩn bị kỹ hơn và cũng hữu hiệu hơn lần trước. Những việc thu xếp đầu tiên đã đưa tôi tới Castleton, tôi mua sắm những vật dụng cần thiết: một cái đèn khí đá tốt và một khẩu súng săn hai nòng lớn. Tôi đã thuê khẩu súng này, nhưng đã mua hơn một chục viên đạn để săn thú lớn, những viên đạn này bắn chết được cả tê giác. Bây giờ tôi cảm thấy đã sẵn sàng để đương đầu với anh bạn quái vật trong hang sâu. Nếu tôi có sức khoẻ tốt hơn và nếu tôi có một sự đột khởi về nghị lực, chắc tôi sẽ mau chóng kết thúc được vụ này. Nhưng vụ này liên quan tới ai, hay tới cái gì đây? À, đây là một vấn đề làm tôi không ngủ được. Bao nhiêu là giả thuyết đã hiện ra trong đầu tôi và tôi đã gạt đi hết cái này tới cái nọ. Tất cả đều không thể xảy ra được! Nhưng cái tiếng kêu, cái vết hằn lõm những bước chân trong hang, tôi buộc lòng phảI nhìn nhận chúng là những sự thật. Tôi nghĩ tới những con rồng trong huyền thoại cổ xưa. Phải chăng, những con quái vật đó tồn tại ở những nơi khác bên ngoài truyện thần tiên? Có thể nào mà tôi, một người trong giữa muôn người, lại được số mệnh định cho việc phát hiện ra sự sinh tồn có thực của chúng?

3 tháng năm - Tôi nằm ỳ trên giường trong nhiều ngày vì những biến chuyển thất thường của mùa xuân ở nước Anh, và trong thời gian đó một vài sự cố đã xảy ra; ngoài tôi ra không ai có thể cảm nhận được bản chất thật sự của nó. Tôi xin nói thêm rằng, chúng tôi đã có những đêm đầy mây mù và không có trăng; và theo điều người ta nói với tôi thì trong những đêm ấy, những con cừu đã biến mất dạng. Đúng thế, những con cừu đã hoàn toàn biến dạng. Hai con thuộc về chị em nhà Allerton, một con là của ông già Pearson, và một con khác là của bà Mourton. Bốn con trong ba đêm. Chúng không để lại một dấu vết nào cũng không nơi nào người ta thấy những gã bụi đời và những tên ăn trôm gia súc. Nhưng còn việc quan trọng hơn nữa - Anh thanh niên Armitage cũng mất tích luôn. Khoảng chập tối hôm thứ tư, anh ta rời khỏi nhà ở ngoài cánh đồng và từ đó không ai nghe thấy nói tới anh ta nữa. Vì đó là một người không có họ hàng thân thích nên sự mất tích của anh ta chỉ khơi lên một nỗi xúc động vừa phải. Những kẻ lắm chuyện thì nói rằng anh ta mắc nợ, đã kiếm được việc làm ở nơi khác và sẽ mau chóng cho biết tin về mình, dù là chỉ để thu nhặt những thứ còn bỏ lại trong ngôi nhà cũ. Nhưng tôi thì lại có những linh cảm khác đáng sợ hơn. Rất có thể là sự mất tích của những con cừu đã thúc đẩy anh ta lao mình vào một cuộc mạo hiểm gây ra sự mất tích của anh ta. Chẳng hạn như anh ta đã rình con quái vật và nó đã bắt được anh ta, lôi anh ta tới một xó xỉnh hóc hiểm trong đáy sâu của dãy núi thì sao? Thật là một số phận không thể tưởng tượng được cho một người dân văn minh của nước Anh ở thể kỷ hai mươi này! Không thể tưởng tượng đựoc nhưng tôi thì đoán rằng nó có thể xảy ra và ngay cả nó đã là một sự thật, trong vụ này chỉ có một điều là tôi phải chịu trách nhiệm đến bao nhiêu về cái chết của anh ta? Tôi sẽ chịu trách nhiệm đến mức độ nào về sự bất hạnh khác có thể sắp xảy ra? Tôi không được phép nghi ngờ nữa; ý thức được những điều mình đã biết, tôi không thể lảng tránh; bổn phận của tôi là phải tự đảm bảo với mình rằng phải làm một điều gì đó và nếu cần thì chính bản thân tôi sẽ làm việc này được rồi. Tôi không còn sự lựa chọn nào khác. Sáng hôm nay tôi tới Ty cảnh sát để thuật lại câu chuyện của tôi. Viên thanh tra đã ghi chép vào một quyển sổ lớn, ông ta đã chào tôi một cách vô cùng trịnh trọng; nhưng ngay sau khi tôi khép cửa lại thì tôi đã nghe thấy những tiếng cười lớn. Chắc hẳn ông ta đã chế nhạo sự ngây thơ của tôi. Tôi sẽ tự xoay sở một mình vậy.

10 tháng sáu - Tôi viết tiếp cuốn nhật ký này trên giường nằm, sau sáu tuần ngưng viết. Tôi đã bị một cú sốc khủng khiếp cả về tinh thần lẫn thể xác, sau một cuộc mạo hiểm mà người ta rất hiếm khi phải trải qua. Nhưng ít nhất tôi cũng đã đạt tới mục đích mà tôi tự đặt ra cho mình. Sự hiểm nguy phát sinh từ con quái vật ở hang Blue John đã được loại trừ vĩnh viễn. Đây là một việc mà tôi, một kẻ tật bệnh sắp hết hơi, đã hoàn thành cho xã hội. Tôi xin thuật lại một cách hết sức rành mạch những điều đã xảy ra.

Hôm thứ sáu., mồng 3 tháng năm, đêm tối như mực. Đây là một đêm lý tưởng cho sự xuất hiện của con quái vật. Vào lúc mười một giờ đêm, tôi rời khỏi trang trại, mang theo cái đèn khí đá và khẩu súng, sau khi để lại trên bàn trong phòng một mảnh giấy ghi lại là nếu sự vắng mặt của tôi kéo dài thì phải tìm tôi ở hang Blue John. Tôi đi tới lối vào của cửa vòm kiểu La mã. Tôi khôm mình trên một tảng đá dốc nghiêng chỗ lối vào, tôi tắt đèn đi và ngồi rình, khẩu súng đã nạp đạn cầm sẵn trong tay.

Một phiên gác buồn nẫu ruột! Trên các sườn đồi, tôi nhận ra những ánh đèn của các trang trại rải rác ở đó đây. Chuông của giáo đường Chapel - le - Dale điểm từng giờ một cách yếu ớt. Những biểu hiện sự có mặt ở xa xôi của các đồng bào của tôi chỉ làm tăng thêm cảm giác cô đơn thay vì thúc ép tôi phải khắc phục nỗi kinh hoàng làm cho tôi muốn quay về trang trại và dứt khoát từ bỏ việc này. Nhưng mỗ người chúng ta đều có lòng tự trọng nằm sâu trong tâm khảm, lòng tự trọng này chống lại việc bỏ dở một công cuộc vừa mới bắt đầu. Cảm nhận về lòng kiêu hãnh cá nhân đã giúp đỡ tôi rất nhiều, chỉ nhờ vào một mình nó mà tôi đứng vững được trong khi tất cả mọi bản năng của tôi đều xui tôi bỏ trốn. Lúc này tôi rất sung sướng đã có được sức mạnh ấy. Bất kể những gì nó bắt tôi phải trả, phẩm cách người của tôi đã không có gì để phải xấu hổ.

Chuông đã điểm nửa đêm. Rồi một giờ. Hai giờ. Đây là lúc tối nhất của một đêm. Những đám mấy thấp bay bên trên mặt đất. Trên trời không có một ngôi sao. Ở một nơi nào đó trên các ghềnh đá, một con cú rúc lên, tiếng thở dài êm dịu cách quãng của gió là tiếng động duy nhất mà tai tôi thu nhận được, rồi thì bỗng nhiên tôi nghe thấy nó! Từ đằng xa, ở phía dưới, trong cái hang vang lên tiếng chân như bị tắc nghẹn của con vật, bước chân vừa nhẹ nhàng vừa nặng nề. Tôi cũng nghe thấy tiếng những hòn đá lăn đi khi con quái vật dẫm chân lên. Những bước chân đã tới gần. Con vật đã tiến tới rất gần chỗ tôi. Tôi nghe thấy tiếng các bụi cây kêu lắc rắc khi bị con vật rẽ ra và làm gãy nát chung quanh lối vào; rồi một cách lờ mờ trong bóng tối tôi nhận ra một khốI đồ sộ một loại thú không ra hình dạng gì, kỳ quái, từ trong hang chui ra một cách mau lẹ và yên lặng. Sự sợ hãi và kinh hoàng làm tê kiệt cả người tôi. Tuy là tôi đã ngồi rình rất lâu, nhưng đứng trước con quái vật, tôi trở thành bất động, không còn chút sức lực nào. Con vật cứ tiến tới, nó đi qua gần sát chỗ tôi và nó đã biến mất trong màn đêm. Tôi chuẩn bị hết can đảm để đợi lúc nó trở về. Trong làng quê đang ngon giấc ngủ, không một tiếng động nào phát lộ sự hiện diện của nó. Tôi không tài nào ước tính được khoảng cách mà nó đang đứng hay đoán được nó đang làm gì, hay tính được giờ phút nó trở về hang. Nhưng tôi đã thề là cân não của tôi sẽ không chùn lại lần thứ hai tôi đặt khẩu súng đã nạp đạn lên trên các tảng đá.

Thế mà suýt nữa tôi đã để dịp may qua khỏ. Tôi đã hoàn toàn không nghe thấy tiếng con vật đi qua đồng cỏ. Bốn nhiên tôi nhận ra thân hình đò sộ của nó đáng đi về phía cửa hang. Một sự suy giảm lần nữa về ý chí đã ngăn cản tôi bóp cò súng, tôi phảI cố gắng hết sức mình đề động đậy ngón tay trỏ. Trong khi các bụi cây đang bị dập nát bởI bước chân của con vật (nó đã lẫn lộn với bóng tối của lỗ hang) thì tôi nổ súng. Dưới tia sáng loè của phát súng, tôi nhìn thấy một khối lớn có lông dài rậm rạp, màu xám của lông chuyển thành màu trắng ở phần bên dưới thân mình nóm phần này tận cùng bằng những cái chân cong queo, to lớn. Tôi chỉ nhìn thấy nó trong khoảng khắc một ánh chớp. Rồi nghe thấy tiếng những hòn đá lăn lộc cộc, con quái vật rút lui vào trong hang ổ của nó. Ngay tức thì, bởi một sự chuyển biến phấn khởi trong tâm trạng, tôi gạt bỏ được hết nỗi sợ sệt, gỡ tấm che chiếc đèn khí đá ra, tôi nhảy ra khỏi tảng đá và khẩu súng lăm lăm trong tay, tôi tiến sâu vào hành lang của người La mã, đuổi theo con quái vật.

Cái đèn khí đá chiếu ra trước mặt tôi một tia sáng mạnh không thể so sánh một chút nào với ánh lửa vàng lập loè của cây nến đã dẫn đường cho tôi mười hai ngày trước đây trong cùng một vòm cong này. Trong khi tôi chạy, tôi nhìn thấy con quái vật đang lảo đảo trốn tránh; cái thân mình đồ sộ của nó choán hết chỗ trống giữa các vách đá, lông nó giống như dây gai thô và rủ suống từng búi lớn xoắn vào nhau và đung đưa theo mỗi bước chân; ta có thể nói là bộ lông không bị cắt xén của một con cừu khổng lồ, nhưng rõ ràng là nó lớn như một con voi và nó có vẻ vừa to vừa cao. Tôi vẫn còn sững sờ khi tôi nghĩ rằng tôi đã dám săn đuổi một con quái vật như thế này vào tận lòng trái đất; nhưng khi máu đã nóng lên và khi con mồi đang tìm cách tẩu thoát thì cái bản năng cố hữu của người thợ săn đã trỗi dậy và xin chào giã biệt sự khôn ngoan! Thề là với khẩu súng trong tay, tôi chồm theo con quái vật với hết cả tốc độ của đôi chân.

Tôi nhận thấy nó nhanh nhẹn dị thường. Nhưng rồi tôi cũng nhận thấy một cách băng khoăn lo ngại là nó không kém phần quỷ quyệt. Tôi tưởng là nó chạy trồn vì bị kinh hoàng và bây giờ tôi chỉ việc đuổi theo thôi. Không một giây phút nào mà tôi không nghĩ là nó có thể quay lại và lao vào tôi. Ở đoạn trên, tôi đã nói rõ là cái hành lang của ngườI La mã dẫn tới một cái hang lớn chính giữa. Tôi vội vã chạy tới đó, đầu óc bị lởn vởn nỗi lo sợ làm mất dấu vết con quái vật. Nhưng con quái vật đã quay lại, và tôi với nó đứng đối mặt nhau.

Cảnh tượng này được soi sáng một cách mãnh liệt bởi ngọn đèn khí đá, nó sẽ còn mãi mãi khắc sâu trong ký ức của tôi. Con quái vật đứng thẳng lên bằng hai chân sau như một con gấu và nó khom xuống phía trên đầu tôi, to lớn và đầy đe dọa; không một ác mộng nào có thể hình dung được nó. Tôi đã nói là nó khom xuống như một con gấu, thật sự trong dáng vẻ của nó cũng có một vài nét của con gấu (khi ta chấp nhận rằng có thể có một loại gấu mười lần lớn hơn một con gấu thường), trong những cái bàn chân trước quắp lại với những cái móng trắng như ngà của nó, trong bộ lông bù xù trong cái mõm đỏ há hốc ra lởm chởm những cái răng gớm ghê. Chỉ có một điểm làm nó khác với con gấu hay bất kể một con vật nào sống trên mặt đất, khi phát hiên ra điều này, tôi run rẩy khắp tứ chi, cặp mắt long lanh trước ánh đèn của tôi là những cục tròn lớn, lồi ra, trắng bệch và không có thị giác. Trong một vài giây, nó lắc lư những bàn chân to lớn của nó trên đầu tôi. Rồi ngã về phía trước đè lên người tôi, cả tôi và cái đèn đều bị đè gí trên mặt đất và tôi không còn nhớ được gì nữa.

Khi tôi tỉnh lại thì thấy mình đang ỏ trong trang trại của gia đình Allerton. Hai ngày đã trôi qua kể từ cuộc mạo hiểm khủng khiếp của tôi trong hang Blue John. Hình như tôi đã nằm bất tỉnh suốt đêm trong cái hang, sau vụ chấn thương với những chỗ gãy nguy hiểm ở cánh tay trái và hai cái xương sườn. Sáng ra, hai chị em nhà Allerton phát hiện ra mảnh giấy của tôi, độ hơn một chục tá điền đã họp nhau lại, lần theo dấu vết của tôi và tôi đã được đưa về phòng mình trong cơn mê sảng dữ dội. Họ không tìm thấy một vết tích nào chứng tỏ sự hiện diện của con quái vật, họ không tìm thấy vết máu chứng tỏ rằng viên đạn của tôi đã bắn xuyên qua mình nó. Ngoài các thương tích của tôi và những hằn sâu trên vũng bùn, không có gì chứng minh cho những lời nói của tôi.

Sáu tuần lễ đã trôi qua, và tôi đã có thể đi ra bên ngoài ngồi phơi nắng. Ngay trước mặt tôi là một cái sườn đồi màu xám xịt, và tôi phân biệt được cái khe hở đen làm dấu cho miệng hang Blue John. Nhưng lỗ hang này không còn là nguồn gốc sự kinh hoàng nữa. Không bao giờ còn con quái vật từ cái hành lang gơm ghiếc này xông ra thế giới của con người, nhưng đầu óc trí thức, những nhà bác học, bac sĩ Johnson và rất nhiều người khác chắc sẽ mỉm cười khi đọc bài tường thuật của tôi. Nhưng các dân quê vùng lân cận không bao giờ nghi ngờ sự thật của câu chuyện này. Sau khi tôi có thể nói được một ngày, họ đã tụ tập vài trăm người chung quanh hang Blue John. Tôi đọc tờ báo Castleton Courier.

"Đặc phái viên của chúng tôi và các vị có nhiệt tâm tới từ Matloc Buxton, v.v..., đã hoài công tự hứa là sẽ đi xuống cái hang để thám hiểm đến nơi đến chốn, với ý định là kiểm chứng sự xác thực của câu chuyện giật gân của bác sỹ James Hardcastle. Những người trong khu vực đã đảm đương vụ này và ngay từ lúc sáng tinh mơ họ đã làm việc một cách cực nhọc để lấp kín cái hang Blue John. Cái hang chạy vào một hành lang dốc và những hòn đá lớn được một số đông người tình nguyện chở tới đã được quăng vào bên trong cho tới khi miệng hang bị bít kín. Đó là chương cuốI cùng của câu chuyện đã làm say mê cả nước. Dư luận ở địa phương vẫn còn bị chia rẽ kịch liệt. Ở một bên thì có nhiều người nêu lên tình trạng sức khoẻ yếu kém của bác sỹ Hardcastle và họ nói rằng, các vết thương trong não bộ có nguồn gốc từ bện lao đã có thể sinh ra những ảo giác kỳ quái, cũng theo các giới chức này, một ý tưởng mạnh mẽ đã có thể dẫn dắt vị bác sỹ đi vào trong hang, và chỉ một cái ngã mạnh cũng thành nguyên nhân các vết thương của ông. Về phía bên kia thì cái truyền thuyết về con quái vật sống trong hang đã được lan truyền rất lâu trước khi bác sĩ Hardcastle tới vùng này, những tá điền cho rằng truyền thuyết này được làm vững thêm bởi câu chuyện của vị bác sĩ cũng như bởi các vết thương của ông, Sự việc này sẽ còn nguyên ở chỗ đó, vì người ta không biết làm thế nào để có một giải pháp dứt khoát vào lúc này.

Trước khi bài báo này được ấn hành, lẽ ra tờ báo ấy phải khôn ngoan một chút để gởi thông tín viên của họ tới gặp tôi. Tôi đã suy nghĩ về vụ này nhiều hơn bất cứ ai khác, và không nghi ngờ gì lẽ ra tôi đã có thể làm sáng tỏ một cách có khoa học sự bí mật vẫn còn tồn tại trong dân chúng. Ở đây, tôi chỉ đưa ra lời giải thích duy nhất mà tôi thấy là có thể làm sáng tỏ được tất cả mọi việc. Giả thuyết của tôi có thể có vẻ không xảy ra được dù sao thì cũng không có ai lại liều lĩnh mà cho rằng nó không thể xảy ra.

Tôi tin rằng (và tờ báo cũng vạch ra rằng quan điểm của tôi đã được hình thành từ trước lúc khởi sự các cuộc mạo hiểm cá nhân của tôi) trong phần đất này của nước Anh có một cái biển ngầm tiếp nhận nước từ vô số những con suối chảy lòng vòng và biến dạng trong núi đá vôi nơi nào có khối dự trữ mưốc quan trọng thì cũng sinh ra sự nước bốc thành hơi, và có sương mù hay mưa; do đó có khả năng sinh ra cây cỏ. Lập luận này lại gợi ý rằng một đời sống động vật có thể phát sinh theo kiểu đời sống thực vật, những dòng giống và những chủng loại xuất hiện lúc khởi đầu lịch sử thế giới, khi sự giao tiếp với không khí bên ngoài còn dễ dàng hơn. Do đó ở nơi này, những động vật và thực vật đặc biệt đã phát sinh, bao gồm cả những quái vật mà tôi đã nhìn thấy: có thể là một con gấu già ở các hang động đã đượclàm to hơn và biến đổi hình dạng rất nhiều vì môi trường mới của nó. Trong những khoảng thời gian dài vô tận, hai loại sinh vật, một loại ở bên trong và một loại ở bên ngoài đã sống riêng biệt sinh trưởng một cách đều đặn ở cách xa nhau. Rồi một khu vực nào đó đá xuất hiện trong đáy sâu thẳm của núi, khe nứt này đã để cho một trong số các con quái vật đó leo lên phía mặt đất, và nhờ vào các đường hầm của người La mã thở hít được không khí trong lành. Giống như tất cả các loài sinh vật sống bên dưới mặt đất, con quái vật cũng mất thị giác, nhưng sự tật nguyền này chắc chắn đã nhận được của tạo hóa những đền bù ở các phương diện khác. Nhất định là nó đã có một phương tiện để định hướng đi và để săn bắt những con cừu trên các sườn núi. Còn về cái sở thích của nó đối với các đêm tối mịt, thì giả thuyết của tôi cho rằng ánh sáng đã làm cho nó rất đau đớn và con quái vật chỉ thích hợp với một thế giới tối đen như mực. Có lẽ cái đèn khí đá của tôi đã cứu sông tôi khi tôi và nó đứng đối mặt nhau. Đây là cách thức mà tôi giải bài toán hiểm hóc. Tôi trao lại các sự kiện này cho hậu thế; nếu bạn có thể giải thích được các sự kiện này, xin đừng bỏ qua chúng; nếu bạn nhún vai cũng không sao. Cả sự hoài nghi lẫn sự tán thành của bạn đều chẳng thay đổi được các sự việc và càng không thể gây ảnh hưởng tới một người mà sứ mệnh trên cõi đất này đã sắp chấm dứt.

Đó là câu chuyện ly kỳ của bác sĩ James Hardcestle.

Hết

Cái thang máy

(The Lift)

Ông phi đội trưởng Stangate đã có đủ mọi thứ để trở thành một người sung sướng. Ông đã ra khỏi cuộc chiến tranh yên lành và khỏe mạnh, với cái danh tiếng vững bàn đạt được trong một binh chủng có nhiều vị anh hung nhất. Ông vừa mới được ba mươi tuổi, một sự nghiệp lớn lao và hoàn mỹ đang mở ra trước mắt ông. Và nhất là mỹ nhân Mary MacLean đang đi vịn vào cánh tay ông và nàng đã hứa với ông rằng suốt cả đời này sẽ ở bên cánh tay đó. Tuy nhiên, một mối lo buồn đang đè nặng lên trái tim ông.

Ông đã không thể tự giải thích điều đó cho ông, và ông đã cố gắng tìm cách lý giải để rũ bỏ nó đi. Bên trên đầu ông, bầu trời xanh thẳm, cũng như mặt biển phía trước ông xanh thẳm, và khắp chung quanh trải ra những những khu vuờn đẹp đẽ cùng với một đám đông những khách nhà du hân hoan vui thú. Và nhất là bộ mặt dịu hiền đang quay về phía ôngvới một sự khẩnkhoản đầy vẻ thắc mắc, Tại sao ông không thể tham gia vào một cảnh quanvui tươi như thế? Ông đã đưa ra nhiều cố gắng nhưng chúng vẫn chưa đỉ để dụ hoặc cái bản năng cấp táo của một tình nương.

- Có việc gì vậy, Tom? Nàng hỏi ông với sự bồn chồn lo lắng. Em nhận thấy có điều gì làm anh buồn bã. Hãy nói cho em biết xem em có thể giúp đỡ anh bằng cách nào đó chăng.

Ông bật cười lớn, đôi chút mắc cỡ.

- Thật là một tội lỗi khi làm hỏng cuôc du ngoạn nhỏ của chúng ta đó! Ông nói. Khi anh nghĩ tới điều này, anh lại muốn tự đánh đòn mình. Em cớ lo sợ, em cưng ạ, vì anh biết những đám mây mù của anh sẽ tan đi trong chốc lát. Anh tìn rằng anh còn đầy đủ khí lực, hình như nghề phi hành đã bẻ gẫy mọi khí lực hoặc đã bảo đảm cho chúng ta đến suốt đời.

- Vậy là không có gì là dứt khoát à?

- Không. Không có gì là dứt khoát cả. đó chính là điều tệ hại. Nếu điều này là đúng, anh sẽ có thể chiến đấu một cách dễ dàng hơn. Đúng là một sự trầm cảm nặng nề ở đây, ở trong ngực và ở trong đầu. Em yêu của anh, anh xin lỗi nhé! Anh là một kẻ thô bạo đã làm em u buồn với những sự ngu ngốc như vậy

- Nhưng em lại muốn được chia sẻsự bực bội nhỏ bé nhất của anh mà!

- Này, nó đã đi khỏim biến mất tàn lụi rồi. Chúng ta không nên nói tới nó nữa.

Nàng ném cho ông một cái nhìn thấu tận tim gan.

- Không, Tom, chỉ cần nhìn vào anh thôi. Hãy nói với em đi, có phải anh thường tự cảm thấy như vậy không? Thật sự anh không có vẻ khỏe mạnh lắm. Anh hãy ngồi xuống đây, anh yêu quí, dưới bong mát và nói cho em biết anh lo buồn về chuyện gì.

Họ cùng ngồi xuống dưới bóng của cây Tháp lớn cao hai trăm mét ở bên cạnh họ.

- Anh có một năng khiếu kỳ cục, ông nói. Anh không nghĩ rằng anh đã nói điều này với bất kỳ một ai. Nhưng khi một sự hiểm nguy tức thì đe dọa anh thì anh bị bao vây bởi những linh cảm kỳ lạ. Chắc chắn là hôm nay, thật kỳ cục. Em hãy nhìn kìa, cái gốc cây thật hiền hòa... Tuy nhiên đây là lần thứ nhất mà sự bực bội này đưa anh tới chỗ nhầm lẫn

- Anh đã cảm nhận thấy nó lúc nào trước đây à?

- Khi anh còn là đứa trẻ con, anh đã cảm thấy nó vào một buổi sáng: suýt nữa anh bị chết đuối vào buổi chiều. Anh đã cảm thấy nó khi một tên trộn lẻn vào Morton Hall và khi cái áo dài của anh bị một viên đạn xuyên qua. Rồi trong cuộc chiến tranh anh đã cảm thấy nó hai lần trước khi bị tập kích thình lình và đã thoát nạn một cách thần kỳ; nó đã nhập vào anh trong lúc anh đang leo lên máy bay của anh. Rồi nó tan biến một cách đột ngột, tựa như một đám sương mù trước ánh nắng mặt trời. Em này, nó đi đó, nó đá đi khỏi rồi! hãy nhìn vào anh! Có thật vậy không?

Đúng thật vậy. Trong vòng một phút, bộ mặt bơ phờ đã biến thành bộmặt trẻ con cười toe toét. Mary bật cười lớn. Rõ ràng là trong tâm hồn của Tom nay chỉ còn sự hoan lác sinh động của tuổi thanh xuân.

- Tạ ơn thựong đế! Ông kêu lên. Mary này, chính là đôi mắt than thương của em đã chữa khỏi bệnh cho anh. Anh không còn có thể chịu dược sự u buồn sầu mông trong cai nhìn của em. Thật là một cơn ác mộng xuẩn ngốc là sao! Bây giờ thì anh sẽ không bao giờ còn tin vào những sự linh cảm của anh nữa. Em yêu quý, chúng ta chỉ còn vừa đủ thì giờ để đi dạo một vòng trước bữa điểm tâm. Chúng ta sẽ đi xem một trò vui trong chợ phiên hay đi xem quay bánh xe lớn hay trên tàu thủy bay, hay xem gì đây?

- Anh nghĩ thế nào về cái Tháp? Nàng hỏi trong khi ngẩng cái mũi xinh đẹp lên. Cái không khí tuyệt diệu ở đó và cái toàn cảnh từ trên cao nhìn xuống chắc chắn sẽ xua đuổi những đám mây cuối cùng ra khỏi tâm trí anh.

Ông nhìn đồng hồ của ông.

- Đã quá trưa rồi nhưng anh nghĩ là chúng ta có thể làm việc đó trong một giờ đồng hồ. Này thang máy không vận hành. Anh bán vé, chuyện gì xảy ra vậy?

Người nhân viên lắc đầu gtrong khi chỉ vào một toán nhỏ đang tập hợp trước lối vào.

- Họ đang đợi, thưa ông. Thang máy bị hỏng, nhưng lúc này thì bộ phận máy móc đang được kiểm tra lại và tín hiệu sẽ được phát ra trong một vài phút. Nếu ông nhập bọn với những người khác, tôi xin hứa việc đó sẽ không lâu đâu.

Khi họ vừa chiếm được chỗ đứng trong nhóm người thì cái vách thép của thang máy lướt đi trên cái cạnh. Thế là đã có hy vọng cho tương lai gần cận. Các du khách ùa vào chỗ mở ngỏ và chờ đợi trên sân. Họ cũng không đông lắm vì đám đông thường xuất hiện nhiều nhất vào buổi chiều, nhưng đó là những người miền Bắc khả ái và vui vẻ, họ sống những ngày nghỉ ỏ Northam. Tất cả bọ họ đều nhìn lên không, và theo dõi một cách chăm chú một người đàn ông đang tụt xuống dọc theo cái sườn bằng thép. Đây không phải là một trò chơi của trẻ con, nhưng nếu anh ta đi cũng nhanh như một người thế tục bình thường trên các bậc của một cái cầu thang.

- Trời oi! Người bán vé nói khi chính anh ta cũng ngẩng đầu lên nhìn. Sáng hôm nay Jim đã làm việc gấp gáp.

- Người đó là ai? Thiếu tá Stangate hỏi.

- Thưa ông, đó là Jom Barnes, người thợ giỏi nhất đã từng leo lên một cái sàn. Anh ấy gần như lúc nào cúng sống ở trên đó. Tất cả những trôn đinh ốc, những đinh con tán đều nằm dưới sự coi sóc của anh ấy. Anh chàng Jim này là một thứ người làm cho ta cảm kích.

- Nhưng chớ có tranh luận về tôn giáo với anh ta. Một người nào đó trong nhóm nói.

Người nhân viên bật cười lớn.

- À, vậy là ông có biết anh ta hả? Người ấy nói. Không, tốt nhất là ông đừng bàn cãi về tôn giáo với anh ta.

- Tại sao? Viên sĩ quan hỏi.

- Bởi vì anh ấy coi những câu chuyện về tôn giáo là rất nghiêm trọng. Anh ấy là ánh sáng của giáo phái của anh ấy.

- Không có gì là khó khăn trong việc đó. Người vừa nói xong lại cất tiếng nói. Người ta bảo tôi rằng trong giáo hội của anh ta chỉ vỏn vẹn có sáu người. anh ta tưởng tượng rằng bầu trời không lớn hơn cái nghị hội của riêng anh tam và anh loại ra ngoài tất cả những nghị hội khác.

- Tốt nhất là đừng nói với anh ta trong khi tỏng tay anh ta đang cầm cái búa kia. Người bán vé thì thầm. Chào Jim, sáng nay có khỏe không?

Người đàn ông lướt nhanh dọc theo quãng mười mét cuối cùng rồi y lấy thăng bằng đứng yên trên một thanh ngang để nhìn xuống nhóm nhỏ người trong thang máy. Với cách y đứng ở đó, trong bộ quần áo bằng da, với những cái kìm và các dụng cụ khác đeo lủng lẳng ở cái dây thắt lưng nâu. Y vẫn giữ được cái nhìn của một tay nghệ sĩ. Rất cao, rất gầy, chắc là y phải có sức vóc của một anh khổng lồ. Y có những chân tay dài, mềm dẻo, một bộ mặt đẹp trai, vừa cao quý, vừa khắc khổ, cặp mắt và mái tóc đen sậm , một cái mũi cong, một chòm râu sậm. Y giữ chắc thăng bằng bằng một bàn tay gân guốc, trong khi bàn tay kia làm lắc lư trên đầu gối y một cái búa bằng thép.

- Mọi sự đều sẵn sàng ở trên đó, y nói. Tôi sẽ đi lên cùng quý vị.

Y nhảy từ cái thanh ngang xuống và nhập bọn với các du khách trong cái thang máy.

- Tôi nghĩ rằng lúc nào ông cũng đang canh chừng chúng phải không? Mary MacLean nói.

- Thưa cô, chính vì việc đó mà tôi được trả lương. Từ sáng tới tối, và thường khi từ tối tới sáng, tôi phải ở đây. Có nhiều lần, tôi cảm thấy hình như tôi không phải là một con người mà là một con chim trời. Những con chim bay quanh tôi, những đồ súc vật, khi tôi đứng trên những giàn đỡ và chúng kêu với tôi hàng đống tiếng cho tới khi ngay chính tôi cũng bắt đầu kêu lên như chúng.

- Đây là một công việc rất quan trọng! Viên thiếu tá nói lẩm bẩm trong khi nhìn mặt nghiêng bằng thép của cái Tháp đang nổi bật lên rõ ràng trên bầu trời xanh

- Đúng vậy, thưa ông. Và không có một đinh vít hay một trôn ốc nào mà không nằm dưới sự trách nhiệm của tôi. Đây là cái búa của tôi để làm cho chúng kêu lên rõ ràng và cái mỏ lết vặn đinh ốc để xiết chặt chúng lại. Giống như vị chúa tể trên mặt đất, tôi là, phải, tôi là chúa tể của cái Tháp với đủ quyền sinh sát. Mà đúng vậy, quyền sinh sát!

Động cơ thủy lực đã bắt đầu chạy, cái thang máy chuyển động rất chậm chạp và bắt đầu đi lên. Toàn cảnh huy hoàng của bờ biển phơi bày ra mỗi lúc một rõ ràng. Những hành khách đã quá mải mê đến nỗi không một mảy may nhận thấy là cái thang máy đã đột ngột dừng lại giữa những đầu thang ở khoảng một trăm sáu mười mét bên trên mặt đất. Barnes, người thợ máy làu bàu rằng chắc đã có gì trục trặc ở trên đó, y nhảy như một con mèo vào cái lỗ hổng toang hoác ngăn cách họ với tấm lưới sắt của cái sườn bằng kim loại, và y biến dạng trong khoảng không. Nhóm người nhỏ bị treo lơ lửng giữa trời và mắt đất đã mất đi đôi chút tính em lệ của dân Anh, khi gặp những tình huống như thế, và các du khách bắt đầu trao đổi cảm tưởng của họ. Một cặp trai gái tên là Billy và Dolly nói với các bạn đồng hành rằng họ là những minh tinh của chương trình tại trường đua ngựa và họ làm khuây khỏa những người đứng bên bằng sự lém lỉnh của họ, một người đàn bà tươi mát, tròn trĩnh, đứa con trai của bà, hai cặp vợ chồng làm thành nhóm thính giả say mê của họ.

- Cháu thích làm thủy thủ anh? Billy, nhà hài kịch hài hước nói khi trả lời một nhận xét của đứa bé. Coi chừng đó, đồ nhóc con, cháu sẽ là một xác chết đẹp nếu cháu không đề phòng. Cháu hãy nhìn y đứng trên cái rìa kia kìa! Vào một giờ phút như thế, tôi không thể chịu đựng được việc trông thấy cảnh đó.

- Từ giờ nào trở đi thì ông mới có thể chịu đựng được? Một người đi chào hàng cao lớn hỏi.

- Trước lúc buổi trưa thì các khí lực của tôi chẳng ra trò trồng gì. Thật tình khi tôi nhìn xuống bên dưới và khi trông thấy mọi người giống như các chấm đen nhỏ li ti thì tôi sợ hãi vô cùng. Trong gia đình tôi, tất cả mọi người đều giống nhau, vào buổi sáng.

- Tôi có cảm tưởng rằng, Dolly nói, nàng là một phụ nữ trẻ da dẻ hồng hào, tất cả bọn họ đã giống nhau lúc tối hôm qua.

Mọi người đều cười lớn.

- Billy bị đo ván rồi. Chàng kịch sĩ hài hước tuyên bố. Nhưng nếu người ta chế nhạo gia đình tôi, tôi sẽ rời khỏi phòng.

- Thực sự đúng là đã tới giờ mà chúng ta rời khỏi căn phòng, người đi chào hàng nói, ông ta có vẻ bực bội. Thật là xấu hổ cho cái kiểu mà họ giữ chúng ta trên không thế này! Tôi sẽ viết thư về công ty.

- Cái nút bấm chuông ở đâu? Billy hỏi. Tôi sẽ bấm chuông.

- Và gã ... gã con trai? Mary MacLean hỏi.

- Người bán vé, người tài xế, người... tôi không biết ai đã làm cho chiếc ô tô buýt cũ kỹ này lên xuống? Có phải họ bị trục trặc về xăng? Có phải họ bị gãy lò xo lớn? Hay là cái gì đây?

- Dù sao đi nữa thì cảnh quan cũng rất đẹp! Viên thiếu tá nói.

- Xin thú thật về cảnh quan thì tôi đã có khá nhiều rồi! Billy nói. Tôi chỉ muốn đi xuống thôi!

- Tôi đã bắt đầu cảm thấy bực bội rồi đó! Người đàn bà tươi mát và tròn trĩnh lêu lớn. Tôi hy vọng là không co gì bị gãy trong cái thang máy.

- Dolly, hãy nắm lấy vạt áo của tôi! Tôi sẽ nhin bên trên cái rìa. Ôi, lạy Chúa, tôi phát ốm lên đây, tôi buồn nôn đây! ở phía dưới có một con ngựa, nó không lớn hơn một con chuột. Và tôi không trông thấy người nào quan tâm tới chúng ta. Cái ông già tiên tri cùng lên với chúng ta đó đâu rồi?

- Ông ấy đã để cho chúng ta rơi xuống khi ông ấy biết trước là chúng ta sẽ có sự truc trặc.

- Vậy thì hãy nói đi, Dolly nói xen vào, nàng có vẻ bối rối, tôi không thấy chuyện này là dễ chịu đâu! Chúng tta đang ở một trăm sáu mươi mét trên không trung, tôi có cảm tưởng là chúng ta sẽ chịu thế này suốt cả ngày. Tôi đang được chờ đợi cho cuộc trình diễn buổi sảng ở Trường Đua ngựa. Nếu tôi không có mặt khá sớm ở dưới đó thì mặc kệ công ty. Tôi đã được dán quảng cáo trong khắp cả thành phố cho một bài hát mới.

- Một bài hát mới à? Bài nào vậy hả Dolly?

- Một chậu gừng chính cống, tôi đoán chắc là thế! Bài đó có tên là "Trên đường tới Ascot". Để hát bài này tôi đã có một cái mũ đường kính một thước hai.

- Vậy thì Dolly này, hãy làm cuộc tổng diễn tập trong khi chúng ta chờ đợi!

- Không! Vị cô nương trẻ kia không hiểu đâu.

- Tôi rất thích thú được nghe hát bài đó! Mary MacLean nói lớn. Nhất là cô đừng thấy khó chịu vì tôi!

- Những lời hát được viết trên cái mũ. Tôi không thể hát những câu thơ mà không có cái mũ, nhưng có một điệp khúc thú vị:

"Nếu bạn muốn có một bùa hộ thân nhỏ bé

khi bạn đi trên đường tới Ascot

hãy sờ mó vào người đàn bà có cái mũ to như bánh xe bò..."

Nàng có một giọng dịu dàng và ý thức về vần điệu.

- Bây giờ mời tất cả mọi người cùng hát! Nàng nói lớn.

Và cái nhóm nhỏ những người tình cờ hội ngộ đó ráng hết hơi sức hát theo nàng.

- Chác là chúng ta sẽ phải đánh thức một người nào đó dậy! Billy nói. Không nên à? Vậy thì tất cả chúng ta cùng la lên!

Sự cố gắng thật là mạnhmẽ, nhưng vô hiệu quả. Không có tiếng trả lời từ bất cứ nơi nào. Ban quản trị ở bên dưới hoặc là không biết hoặc là bất lực.

Các hành khách bắt đầu lo sợ. Người đi chào hàng to lớn đã mất hết sắc diện hồng hào. Billy vẫn còn gắng gượng nói bông đùa, nhưng không thành công. Viên sĩ quan y phục màu xanh nước biển tức thì thay thế anhvới tư cách trưởng nhóm. Tất cả mọi người đều nhìn ông ta, cầu cứu ông ta.

- Thưa ông, ông khuyên chúng tôi nên làm gì? Ông không nghĩ rằng có sự hiểm nguy là bất thần bị rơi xuống phải không?

- Không một chút nào! Nhưng dù sao thì cũng rất khó chịu khi cảm thấy bị kẹt ở đây. Tôi nghĩ rằng tôi sẽ có thể nhảy một cái vượit qua khoảng không này để đứng lên giàn đõ rồi xem cái gì bị trục trặc...

- Không, Tom? Vì lòng kính Chúa, cin đừng rời bỏ chúng tôi.

- Có những người có lòng dũng cảm vững vàng! Billy nói, nhảy qua trên một khoảng trống mổttăm sáu mươi mét.

- Tôi tin rằng trong thời chiến tranh, vị trượng phu này đã làm những việc còn tệ hại hơn thế.

- Nhưng tôi, tôi sẽ khôngl àm việc đó! Ngay cả nếu họ dán cho tôi những chữ to như thế này trên những tấm bích chương của họ. Đó là công việc của lão thày bói già. Tôi không muốn làm lão ta bị thất nghiệp dù tôi chắng tốn kém gì.

Ở ba mặt cái thang máy có những vách bằng gỗ với những cửa sổ để ngắm phong cảnh. Mặt thứ tư nhìn ra biển thì được mở ngỏ. Satangate cúi mình xuống chỗ đó để nhìn ra khoảng không. Từ trên chỗ cao hơn lọt tới tai ông một tiếng động khô khan, đặc biệt âm vang của kim loại, như thể một sợi dây đàn rất căng vừa được đẩy lên. Một khoảng cách nào đó phía trên ông, có lẽ chhừng ba mươi mét, ông chợt trông thấy một cánh taydài, nâu, đầy bắp thịt đang vung vẩy một cách điên cuồng giữa những sợi dây cáp. Ông không trông thấy cáiđầu của người đó nhưng ông đã bị mê hoặc bởi cái cánh tay trần đang kéo, víu và đẩy.

- Mọi việc đều tôt đẹp, ông loan báo. Có một người nào đó đang làm việc trên đó để xếp đặt lại mọi sự đâu vào đó.

Mọi người đều thở phào nhẹ nhõm.

- Đó là ông thầy bói già Isaie, Billy vừa nói vừa uốn éo cái cổ. Tôi không trông thấy lão ta nhưng cái cánh tay của lão thì có thể nhận ra trong hàng ngàn cái cánh tay. Lão ta có cái gì trong tayvật? Người ta sẽ nói là một cái tuốc-nơ-vít... Không, lạy Chúa, đó là một cai dũa!

Trong khi anh ra nói thì một tiếng động khô khan và âm vang nữa vang lên trong khoảng không, vầng trán của viên sỹ quan nhăn lại.

- Thật kỳ quái, người ta có thể nói đúng là tiếng động giống như tiếng động mà sợi dây cáp bằng thép của chúng tôi phát ra khi nó đứt hết sợi này đến sợi khác ở Dixmude. Cái thứ này sẽ bi thảm đến thế nào? Ơ kìa! Các ông định làm gì đây?

Người đàn ông đã làm xong công việc; y thong thả đu xuống dọc theo cái sườn bằng sắt.

- ... Y tới kìa, Stangate loan báo cho các bạn đồng hành đang ngỡ ngàng của ông, mọi sự đều tôt đẹp, Mary ạ! Các ông, các bà đừng sợ sệt! Thật là xuẩn ngốc để nghĩ rằng y tìm cách là yếu sợi dây đang nắm giữ chúng ta.

Ở trên không xuất hiện một đôi giày. Rồi tới cái quần bằng da, cái thắt lưng với các dụng cụ đeo lủng lẳng, cái thân mình nổi vằn các bắp thịt, và cuối cùng là bộ mặt hung hãn, sạm đen của anh công nhân. Y đã cởi bỏ áo ngoài, và cái áo sơ mi không ài cúc phơi trần cái thân mình đầy lông lá. Ở trên cao một tiếng rung động nữa vang lên, cũng vẫn khô khan, cũng vẫn giống như một tiếng lách cách. Người đàn ông đó tụt xuống không vội vã. Y lấy thế thăng bằng đứng trên cái giàn đỡ chặn ngang, tựa vào cái sường và đứng yên ở đó, hai tay khoanh lại, chằm chằm nhìn các hành khách chen chúc trên sàn đứng của thang máy.

- Ê này! Stangate gọi. Có sự cố gì vây?

Người đàn ông vẫn vô cảm và im lặng, cái nhìn trừng trừng của y có một vẻ gì có tính đe dọa.

Viên phi công nổi giận

- Anh trở nên điếc rồi anh? Ông quát lên với y. Anh định để chúng tôi phải treo ở đây bao lâu nữa đây?

Người đàn ông đó vẫn không nhúc nhích. Y có điệu bộ của một con quỷ dữ.

- Anh con trai này, tôi sẽ khiếu nại về anh đó! Billy nói với một giọng run rẩy. Sự việc sẽ không nằm yên ở đó đâu, tôi hứa với anh điều này!

- Hãy nghe tôi nói đây! Viên sĩ quan quát lớn. Chúng tôi có mang theo các phụ nữ và anh đang làm cho họ sợ hãi. Tại sao chúng tôi lại bị kẹt ở đây? Có phải thang máy bị hỏng không?

- Các ông ở đây, bởi vì tôi đã chêm một cái đòn cân vào sợi dây cáp phía trên các ông.

- Anh đã làm nghẽn đường dây hả? Tại sao anh lại dám làm một việc như thể? Có phải đó là một sự đùa cợt hay là cai gì? Rút ngay đòn cân đó ra nếu không thì mặc kệ anh...

Người đàn ông không trả lời gì cả

- ... Anh có nghe thấy lời tôi nói không? Tại sao anh không trả lời? chúng tôi đã chịu đựng khá nhiều rồi, tôi đoan chắc với anh về điều đó!

Bị một cơn hoảng hốt độe ngột, Mary MacLean nắm lấy tay vị hôn phu của nàng.

- Ôi, Tom! Nàng kêu lên. Hãy nhìn mắt y kìa! Hãy nhìn cặp mắt khủng khiếp của y! Đó là một thằng điên!

Người công nhân đột nhiên phục hồi khả năng nói của y. Bộ mặt u ám của y đã thay đổi dưới sự bùng nổ của cơn cuồng nộ. Cặp mắt y sáng rực lên như những cục than hồng, y vung vẩy một cánh tay.

- Xem đây! Y quát lên, những người bị coi là điên dại đối với lũ trẻ con ở đời này thật sự là những đứa con của Chúa và là những cư dân của miếu đường trong nội tâm. Ta là người sẵn sàng đứng ra làm chứng ở cấp độ tối cao, vì thật ra bây giờ đã tới ngày mà người hèn mọn sẽ được xưng dương và kẻ ác bị loại trừ trong tội lỗi của nó!

- Mẹ! Mẹ! Thằng con trai nhỏ phát điên khùng kêu lên.

- Kìa, mọi việc đều tốt đẹp, Jack ạ! Người phụ nữ tươi mát và tròn trịa nói. Tại sao anh lại muốn làm cho đứa bé này phải khóc? À, anh là một kẻ dị hợm bảnh bao, đúng thế!

- Thà để cho nó khoc bây giờ còn hơn là phải khóc ở màn đêm tăm tối bên ngoài. Hãy để cho nó tìm sự cứu rỗi trong khi hãy còn đủ thì giờ!

Viên sĩ quan đo lường khoảng trống bằng một con mắt lão luyện. Nó phải tới hai mét rưỡi, và gã điên kia sẽ có thể làm cho ông chao đảo trước khi ông có đủ thì giờ đặt chân lên. Đây sẽ là một ý định vô vọng. Ông co nói một vài lời có tính cách xoa dịu.

- Này cậu trai trẻ của ta, cậu đã đưa sự đùa cợt quá xa rồi đó! Tại sao cậu lại muốn làm hai chúng ta? Hãy leo lên trên ấy đi và rút cái nêm ra. Chúng ta sẽ không nói tới chuyện này nữa...

Một tiếng động khác của sự rách đứt laịiphát ra từ trên cao.

- ... Lạy chúa, sợi dây cáp sắp đứt rồi! Stangate la lớn. Này! Hãy đứng sang một bênm tôi sẽ leo lên để xem việc gì đang xảy ra.

Anh công nhân đã rút cái búa ra khỏi thắt lưng y và y vung vẩy cái búa một cách điên cuồng.

- Hãy lùi lại đó, anh trai trẻ! Lùi lại đi! Nếu anh nhảy lên anh sẽ chỉ làm cái chết của anh tới mau hơn thôi!

- Tom, nhân danh Chúa, đừng có nhảy lên! Cấp cứu! Cấp cứu! Các hành khách đồng thanh la hét. Gã đàn ông đó mỉm cười vẻ hung ác.

- Không có ai sẽ tới cứu giúp các người đâu. Nếu họ có muốn tới giúp đỡ các người thì họ cũng sẽ không htể tới được. Các người sẽ tỏ ra khôn ngoan hơn khi xét lại lưông tâm mình để khỏi bị ném vào hỏa ngục muôn đời. Đúng, hết sợi này tới sợi nọ, sợi dây cáp treo các người đang giãn ra. Nghe đây. Lại một sợi nữa bị đứt đó! Mỗi khi có một sợi bị đứt, sự căng lại gia tăng lên những sợi khác. Các người còn đủ số sợi cho năm phút nữa và sau đó là cõi vĩnh hằng.

Một tiếng rên rỉ kinh hoàng nổi lên từ nhóm các tù nhân của cái thang máy. Stangate cảm thấy một lớp mồ hôi lạnh trên trán ông khi ông luồn cánh tay quanh thân mình người thiếu nữ đang lảo đảo. Nếu ông có thể làm cho con quỷ chứa đầy thù hận này sao lãng đi chỉ trong một lát thôi thì ông sẽ nhảy lên và đánh liều với số mạng trong một trận cận chiến.

- Nghe đây, anh bạn! Leo lên đi và hãy cắt đứt sợi dây cáp nếu anh muốn! Ông la lên. Chíng tôi không thể làm được điều gì. Anh là kẻ mạnh nhất. Leo lên đi! Và mong rằng mọi chuyện sẽ chấm dứt!

- Để anh có thể nhảy lên đây mà không gặp nguy hiểm hả? Gã đàn ông cưồi khẩy. Ta đã làm chấn động tất cả rồi, ta chỉ còn phải chờ thôi.

Sự phẫn nộ tràn đầy tâm trí viên sĩ quan trẻ tuổi.

- Đồ đạo tặc! Ông hét lên với y. Tại sao người còn đứng đất nhe răng ra cười. ta sẽ cho ngươi một vật nào đó để cười, chính ta đây. Đưa cho tôi cái ba-toong của người nào đó!

Gã đàn ông vung vẩy cái búa của y.

- Tới đây, vật thì hãy tới đây! Hãy trình diện trước vị quan tòa của anh!

- Y sẽ giết anh, anh Tom! Ồ không, toi van xin anh, nếu chúng ta phải chết thì ít nhất là sẽ cùng chết với nhau!

- Thưa ông, ở vào địa vị ông thì tôi sẽ không mạo hiểm trong việc này! Billy nói. Y sẽ đập lên đầu ông trước khi ông đặt được chân lên. Cố chịu đựng đi, Dolly! Sự ngất xỉu sẽ không dàn xếp được việc gì cả. Thưa cô, cô hãy nói với ông ấy đi. Có lẽ ông ấy sẽ nghe lời cô.

- Tại sao anh muốn làm hại chúng tôi? Mary hỏi. Chúng tôi đã làm gì hại anh bao giờ? Tôi tim chắc rằng anh sẽ phải tội sau đó, nếu sự bất hạnh xảy ra cho chúng tôi. Bây giờ anh hãy tỏ ra tử tế và biết điều, và giúp cho chúng tôi đi xuống.

Trong một vài khoảnh khắc, cặp mắt hung tợn của gã đàn ông dịu đi trước bộ mặt dịu hiền đang nhìn y. Rồi diện mạo y lại trở nên cứng rắn.

- Bàn tay ta là dành cho công việc này, hỡi người đàn bà kia. Không phải việc của người đầy tớ là bỏ bê nhiệm vụ của mình.

- Nhưng tại sao đó lại là nhiệm vụ của anh?

- Bởi vì một tiếng nói, trong đáy lòng ta xác nhận điều đó. Ta đã nghe thấy tiếng nói đó lúc ban đêm, và cả lúc ban ngày nữa. Khi ta nằm một mình trên giàn đỡ và khi ta trông thấy bọn gian ác bên dưới chân ta, trong các đường phố, kẻ nào cũng hối hả trong một mục đích xấu xa. "John Barnes, John Barnes, tiếng nói bảo ta, mii ở đây để phát một tín hiệu cho cái thế hệ của những kẻ tội lỗi! Một tín hiệu để chỉ cho chúng thấy rằng chúa đã nhìn thấy và kẻ có tội lỗi sẽ bị phán xét". Ta là ai mà dám bất tuân lời nói của Chúa?

- Tiếng nói của quỷ dữ, Stangate đính chính. Cô thiếu nữ này đã mắc những tội lỗi gì để bắt buộc người phải phàm cho họ chết?

- Anh cũng giống như những người khác. Không tốt, mà cũng không xấu. Suốt cả ngày, họ đi trước mặt ta, hết toán này đến toán khác, với những tiếng la lối ngu xuẩn, những bài hát điên khùng và những lời nói lảm nhảm vô ích của họ. Tư tưởng của họ bị cột chặt vào những mục đích của xác thịt. Đã quá lâu rồi ta đã đứng tách ra, đã quá lâu rồi ta không thèm biểu lộ! Nhưng bây giờ thì ngày cuồng nộ nó đã tới và sự hiến tế đã sẵn sàng. Chớ tưởng rằng một giọng lưỡi của đàn bà sẽ làm ta từ bỏ bổn phận của ta!

- Tất cả đều vô ích thôi! Mary kêu lớn. Vô ích! Tôi trông thất sự chết trong mắt y!

Một sợi nữa của dây cáp lại đứt.

- Các người hãy sám hối đi! Gã điên quát lên, còn một sợi nữa và đó là sự kết thúc!

Thiếu tá Stangate có cảm tưởng là ông đang sống trong một cơn ác mộng ly kỳ, khủng khiếp. Có thể nào là sau bao lần thoát chết trong cuộc chiến tranh, mà luc này ở giữa nước Anh thanh bình, ông lại phải nằm dưới quyền sinh sát của một thằng điên, và vị hôn thê của ông, người mà ông mong được bảo vệ chống lại ngay cả cái bóng của sự hiểm nguy lại là nạn nhân của gã điên khùng khủng khiếp này? Tất cả lòng dũng cảm, tất cả sự cường tráng của ông đều căng thăng trong một nỗ lực siêu phàm.

- A, chúng ta sẽ không chết như những con cừu trong lò sát sinh! Ông hét lên trong khi lao hết trọng lượng của ông vào một trong các bức vách gỗ của thang máy và lấy chân đạp lên phía trên. Hãy xông tới đi các bạn! Đạp lên trên! Đó chỉ là sự ghép lại của các tấm ván. Nó lung lay rồi, làm cho tấm ván đổ xuống! Được rồi. Tất cả mọi người cùng làm một lần nữa! Đó! Bây giờ tất cả cái vách! Đẩy sập nó xuống! Tuyệt diệu...

Cái vách ngang của căn phòng nhỏ đã bị đẩy sập và bung ra những mảnh gỗ bay vào khoảng không. Barnes nhón một bước vũ điệu trên giàn đỡ, cái búa ở trên không.

- Chớ có vượt qua! Y hét lớn. Không làm gì được đâu! Chắc chắn là ngày ấy đã tới!

- Từ chỗ này tới giàn đỡ không quá sáu mươi phân. Viên sĩ quan quát lên. Hãy bước qua đi! Mau lên! Mau lên! Tất cả mọi người! Tôi sẽ khống chế con quỷ này!

Ông giật lấy cái ba-toong kếch xù của người chào hàng và ông đứng đối diện với gã điên khùng, thách y nhảy xuống.

- Bây giờ đến lượt ngươi đó, anh bạn! Ông rít lên, tới đây, ngươi và cái búa của ngươi. Ta đợi ngươi đó!

Ở phía trên đầu ông, ông nghe thấy một tiếng lách cách khô khan nữa và cái sàn đứng mảnh mai bắt đầu chao đảo. Ông liếc mắt về phía sau, các bạn đồng hành của ông tất cả đều bình yên và mạnh khỏe trên cái giàn đỡ ngang. Trông họ giống như một hàng những người bị đắm tàu đang kinh hoàng. Họ bám lấy tấm lưới thép. Nhưng chân họ thì ở trên tấm giàn đỡ bằng sắt. Với hai bước chân và một cái nhảy, ông đã tới bên cạnh họ, cũng trong lúc đó, tên tội phạm vung vẩy cái búa, nhảy xuống sàn đứng của thang máy. Họ trông thấy y ở đó, nét mặt dúm dó, hai mắt tóe lửa đang cố đứng vững trên cái sàn lắc lư. Một giây đồng hồ sau đó, họ không còn trông thấy gì nữa, trong một tiếng lách cách hung bạo, cái thang máy và y đã biến dạng. Một sự yên lặng dài, rồi tới một tiếng động nặng chịch và tiếng loảng xoảng vỡ của một sự rơi khủng khiếp ở mãi xa.

Mặt trắng bệch ra vì sợ hãi, những người được thoát nạn còn bám chặt lấy những thanh thép lạnh lẽo và nhìn xuống đáy của cái hố sâu toang hoác. Viên thiếu tá phá tan sự im lặng.

- Bây giờ họ sẽ tới kiếm chúng ta! Chúng ta đã được cứu thoát! Ông nói lớn trong lúc lau mồ hôi trên trán nhưng nhờ ơn Chúa, chúng ta đã thoát nạn rồi.

Người dịch: Kim Lương

Hết

Chiếc phễu bằng da

(The Leather Funnel)

Người bạn của tôi là Lionel Dacre cư ngụ ở đại lộ Wagram, thủ đô Paris, trong một căn nhà nhỏ có hàng rào lưới sắt và một thảm có khiêm nhường nằm trên hè phố bên trái khi ta đi từ Khải hoàn môn xuống. Tôi cho là căn nhà này đã có từ lâu trước khi đại lộ được kiến thiết, vì đã có rêu mọc trên các hòn ngói màu xám và những bức tường mốc meo phai màu. Từ ngoài phố nhìn vào, nó có vẻ nhỏ bé: năm cửa sổ ở mặt tiền, nếu tôi nhớ đúng; nhưng tại nó kéo dài ra phía sau bằng một căn phòng dài tại đó Dacre đã xếp đặt bộ sưu tập các sách về khoa học của anh và thu thập những món đồ vặt vãnh hay những vật kỳ dị vốn là sở thích của anh và là những thứ làm khuây khỏa các bạn hữu của anh. Là một người giàu có, tao nhã, cổ quái, anh đã giành một phần đời của anh và tài sản của anh để quy tụ một bộ sưu tập riêng độc nhất vô nhị các tác phẩm nói về Do Thái Pháp điển và về ma thuật, trong đó có nhiều vật hiếm có và rất đắt. Các sở thích của anh đã làm cho anh thiên về phía những sự kỳ diệu và quái đản, người ta đoan chắc với tôi rằng các kinh nghiệm của anh hướng tới thế giới xa xăm vượt qua mọi ranh giới của nền văn minh và các nghi thức.

Với những be bạn người Anh, anh không hề thốt ra một tiếng về công việc đó nhưng một người Pháp, người có cùng sở thích với anh xác nhận với tôi rằng những sự thái quá tệ hại của những buổi lễ quỷ quái đã từng được thực hiện trong văn phòng lớn này có bày biện sách vở và các tủ kính.

Khía cạnh thể chất của Dacre đã bộc lộ tính chất sự chú tâm mà anh giành cho các vấn đề tâm linh trước hết là phương diện trí tuệ. Bộ mặt nặng nề của anh không có một chút gì của con người khổ hạnh cả, nhưng cái hiếm hoi của anh như là một chỏm núi bên trên một khu rừng thông, đã làm cho ta thấy một sức mạnh đáng kể về tinh thần. Các kiến thức của anh nhiều hơn sự khôn ngoan của anh một cách rõ rệt, những con mắt nhỏ, sáng của anh nằm sâu trong bộ mặt nung núc thịt long lánh vẻ thông minh và một sự tò mò không bao giờ thỏa mãn, nhưng đó là những con mắt của một kẻ đầy nhục cảm và tự kỷ trung tâm. Nói về anh ta như vậy là khá đủ rồi, vì ngày nay anh đã chết rồi, cái con quỷ xấu số đó: chết ngay đúng vào lúc mà anh tin rằng cuối cùng anh đã khám phá ra nước thuốc trường sinh, ngoài ra tôi không có ý định nói với các bạn về tính tình phức tạp của anh; tôi muốn kể lại với các bạn một sự việc không thể giải thích được đã xảy ra trong một lần tôi đến thăm anh hồi đầu xuân năm 1882.

Tôi biết Dacre ở Anh quốc vì tôi đã bắt đầu các việc sưu tầm của tôi trong căn phòng về Assyrie tại viện bảo tang Anh quốc vào thời kỳ mà anh đang cố gắng gán một ý nghĩa thần kỳ và bí truyền cho các biển của Babylon và sự cùng chung quan tâm này đã đưa chúng tôi lại gần nhau, những ý kiến ngẫu nhiên đã đưa tới những cuộc tranh luận hàng ngày và rút lại chúng tôi đã kết bạn với nhau. Tôi hứa với anh rằng tôi sẽ tới thăm anh trong chuyến qua Paris sắp tới của tôi, ngay cả khi tôi sắp thực hiện lời hứa, tôi cũng ở trọ tại Fontainebleau, vì thường không có các chuyến xe lửa buổi chiều nên anh mời tôi ngủ lại đêm ở nhà anh.

- Tôi chỉ có cái giường này để mời anh, anh nói với tôi trong khi chỉ một cái đi-văng lớn trong căn phòng rộng của anh. Tôi hy vọng rằng dù sao anh cũng sẽ có thể ngủ một cách thoải mái ở đó.

Thật là một căn phòng đặc biệt để người ta nằm ngủ, căn phòng với những bức tường cao được che phủ khắp nơi bằng những cuốn sách màu nâu! Nhưng với một người ham mê sách cũ như tôi, lối trang trí này rất thích thú và tôi quý trọng cái mùi thanh thoát bốc ra từ một cuốn sách cũ. Tôi trả lời anh rằng tôi không ước muốn một căn phòng nào vui mắt hơn thế này cũng không mong ước một khung cảnh nào có nhiều cảm tình hơn thế này.

- Nếu sự thiết trí này cũng kém vẻ thực tế như kém tính chất ước lệ. Ít nhất nó cũng bắt tôi phải trả một cái giá đắt, anh nói với tôi trong khi đảo mắt nhìn một vòng trên các ô tủ của anh. Tôi đã tiêu tốn tới một phần tư triệu để có được tất cả những thứ ở chung quanh anh. Những quyển sách, những khí giới những viên đã quý và những bức điêu khắc, những tấm thảm, những bức họa... mỗi vật đều có lịch sử riêng của nó và thường là một lịch sử thú vị.

Anh ngồi ở một bên lò sưởi và tôi ngồi một bên khác cái bàn mà anh dung làm mắt giấy thì ở về mạn tay phải của anh, trên bàn là một ngọn đèn rất mạnh tở ra một vòng ánh sáng vàng óng, một tấm da mới trải ra một nửa nằm ở giữa bàn, vây quanh bởi những thứ linh tinh chỉ đáng làm đồ lạc soong. Trong đám những đồ này nọ có một cái phễu như là thứ phễu mà ta thường dung để đổ rượu vang vào đầy các thùng, nó có vẻ như bằng gỗ đen và nó được đánh đai chung quanh bằng một khoạn trên bằng đồng đã phai màu.

Tôi nói với anh:

- Đây là một vật kỳ dị. Lịch sử của nó ra thế nào?

- A! đó chính là câu hỏi mà tôi đã nêu lên nhiều lần, xin anh hãy cầm lấy nó trong bàn tay và xem xét nó...

Tôi làm theo những gì anh bảo và tôi thấy rằng cái phễu không phải bằng gỗ mà bằng da nhưng bị thời gian là cho khô đi tới một mức đô quá thái. Nó khá lớn; khi đổ đầy nó phải chứa được một lít chất lỏng. Chiếc khoen đồng bao quanh cái phần lớn nhất nhưng phía dưới cổ phễu cũng có một vòng kim loại.

- ...Anh nghĩ sao về cái phễu này? Dacre hỏi tôi

- Tôi cho là nó thuộc về một anh hàng rượu hoặc một anh làm kẹp mạch nha thời trung cổ, ở Anh quốc, tôi đã nhìn thấy những cái chai phình bụng rất lớn bằng da có từ thế kỷ thứ mười bảy: người ta gọi chúng là những cái "roi bọc da", những cái vồ đập chết trâu chúng cũng cùng một màu và cùng một sức to bền như cai phễu này.

- Tôi nghĩ rằng cái phễu này chắc cũng có vào khoảng cùng một thời kỳ đó, người chủ của cái phễu trả lời tôi và chăc chắn là nó được dung để đổ đầy một cái lọ. Nhưng trừ khi có sự lầm lẫn về phần tôi, đây là một nhà buôn rất đặc biệt đã dung cái phễu này để đổ đầy một cái thùng cũng không kém phần đặc biệt. Anh không nhận thấy gì khác thường ở phía dưới cổ phễu à?

Tôi nhìn cái phễu dưới ánh sáng của cây đèn và lúc đó tôi nhận thấy ở một chỗ phía trên cái khoen đồng nhỏ độ mười phân, cỏ phễu bị sây sát, có rạch, như đã bị một người nào cắt khía với một con dao cùn, chỉ có tại chỗ đó cái bề mặt đen mới mất vẻ xù xì

- Một người nào đó định cắt cái cổ phễu

- Cắt nó, anh nghĩ vậy à?

- Hình như nó bị xé rách ra. Bất kể người ta dùng một khí cụ nào, phải có sức mạnh mới gây được các vết tích này lên một vật cứng như vậy! Nhưng về phần anh, ý kiến anh ra sao? Tôi tin rằng anh đã biết nhiều hơn là điều mà anh đã nói.

Decre mỉm cười và cặp mắ nhỏ ranh mãnh của anh ta đã tiết lộ cho tôi thấy là tôi không lầm.

Anh hỏi tôi:

- Trong các cuộc nghiên cứu về triết học của anh , anh có quan tâm tới môn tâm lý học về các giấc mơ không?

- Tôi không biết là đã có một khoa tâm lý học về loại này.

- Quan ngài quý mến của tôi, anh có trông thấy cái ngăn ở phía trên tủ kính đựng các đá quý không? Nó chứa đầy ắp các sách từ thời Albert le Grand (một nhà thần học và triết gia ở thế kỷ thứ mười ba) nói về chủ đề này, môn tâm lý học về các giấc mơ là một khoa học giống như các môn khoa học khác.

- Một khoa học của các tay phương sĩ ảo thuật!

- Nhà phương sĩ bao giờ cũng là người tiền đạo. Từ nhà chiêm tinhđã nảy sinh ra nhà thiên văn học, từ nhà luyện đan, nảy sinh ra nhà hóa học, từ nhà chữa bệnh bằng khoa thôi miên nhân điện nảy sinh ra nhà tâm lý học kinh nghiệm, nhà phương sĩ ảo thuật ngày hôm qua là giáo sư của ngày mai. Sẽ có một ngày mà cả những điều tế vi không thể sờ mó được mà chúng ta gọi là những giấc mộng sẽ được xếp loại, chia ra từng bộ, hệ thống hóa. Tới ngày đó, những sự sưu tầm của những người bạn của chúng ta đang nằm choán tất cả cái ngăn này, sẽ không còn là một đề tài mua vui cho người thích chuyện thần bí mà sẽ là nền tảng cho một môn khoa học.

- Cho rằng sự việc là như vậy đi thì khoa học về các giấc mơ có dính líu tới một cái phễu lớn bằng da có đánh đai đồng?

- Tôi sẽ nói với anh về chuyện đó. Anh biết rằng tôi đã trả lương cho một nhân viên, người này lúc nào cũng theo dõi những đồ hiếm có và kỳ lạ giành cho bộ sưu tập của tôi, cách đây vài ngày ông ta được biết tin một lái buôn ở các bến tàu mới mua được một số cổ vật, các cổ vật này được tìm thấy trong tủ tách chén căn nhà cổ tọa lạc chỗ tận cùng một phố của Khu phố La tinh. Phòng ăn của căn nhà đã được trang hoàng một tấm biển huy chương với các huy hiệu: những hình chữ V và gạch đỏ trên nền bạc, một cuộc sưu tra nhanh chóng chứng tỏ rằng đó là huy chương của Nicolas de la Reynie, một trong những quan chức cao cấp của vua Louis thứ XIV. Không ai được phép nghi ngờ điêu gì nữa: những cổ vật khác trong tủ tách chén đã có từ lúc khởi đầu triều đại Đức vua Mặt trời. Do đó, tôi suy đoán rằng tất cả các cổ vật này đều thuộc về ông Nicolas de la Reynie đó, ông là sĩ quan cảnh sát trưởng do đó phụ trách sự áp dụng và đôn đốc việc thi hành các luật lệ khắc nghiệt của thời đó.

- Và sao nữa?

- Bây giờ xin anh hãy cầm lấy cái phễu và xem kỹ cái khoen đồng ở phía trên. Anh không nhìn thấy một cái gì giống như một chữ à?

- Chắc chắn là đã có những bế trầy trên cái khoen bằng đồng, thời gian đã gần như xóa nhòa chúng. Đúng, xó thể thật sự đã có những chữ, chữ cuối cùng có vẻ phảng phất giống chữ B.

- ... Anh có phân biệt rõ một chữ B không?

- Có.

- Tôi cũng vậy, ngoài ra tôi tin chắc đó là một chữ B.

- Nhưng quý nhân mà anh nói tới đã có một cái tên bắt đầu bằng chũ R?

- Đúng thế! Đó là chỗ ly kỳ của câu chuyện. Ông ấy sở hữu vật kỳ lạ này, vậy mà vật đó lại mang những chữ bắt đầu bằng tên của một người nào khác, tại sao?

- Tôi không biết chút gì về việc này cả. Còn anh?

- Chúng ta hãy cố đoán xem, ở xa hơn một chút trên cái khoen đồng, anh không nhìn thấy một thứ hình vẽ à?

- Có một cái mũ phải không?

- Đó là một cái mũ, không chối cãi được, nhưng nếu anh nhìn nó lúc ban ngày, anh sẽ thấy đó không phải là một cái mũ thường. Đó là một cái mũ có huy hiệu, biểu trưng cho một địa vị xã hội, nó được cấu tạo bằng sự xen kẽ của bốn viên ngọc trai và những lá dâu, đó là mũ của một vị hầu tước. Do đó, chúng ta có thể suy luận ra rằng người mà chữ tắt cuối cùng là một chữ B đã có quyền đặt cái mũ nhỏ này.

- Vậy là cái phễu da vô tích sự này đã thuộc về một vị hầu tước à?

Decre mỉm cười.

- Hay thuộc về một người trong gia đình một hầu tước, chúng ta đã suy diễn tất cả mọi việc đó từ chiếc khoen được chạm trổ này.

- Nhưng một lần nữa, có liên quan gì với những giấc mơ? Liệu tôi có nên gán một cảm giác đột ngột của sự ghê tởm, sự kinh hãi vô lý đang xâm chiếm người tôi, lúc đó cho một cái nhìn mà tôi tưởng là tôi đã phát hiện ra ở Decre hoặc cho một cái gì mà tôi không biết rõ đã ngấm ngầm trong thái độ của anh.

- Đã hơn một lần, tôi nhận được những thông tin rất quan trọng qua một giấc mơ, anh bạn trả lời tôi với cái giọng thầy giáo mà anh ưa thích. Bây giờ tôi đã đặt thành quy luật là mỗi khi tôi ngần ngại về một chi tiết vật chất thì tôi đặt cái vật đó bên cạnh tôi trong khi tôi ngủ và nhất quyết hy vọng một sự thiên khải. Đối với tôi, phương pháp này không có vẻ tối tăm lắm, mặc dù nó không được sự tán thưởng của khoa học chính thức vào thời buổi này, theo giả thuyết của tôi, bất kể vật nào có liên hệ mật thiết với bất kỳ một sự xúc động cao độ nào đó của con người, dù vui vẻ hay đau khổ, đều lưu giữ được một không khí hay một sự thấm nhiễm có thể truyền thông cho một tâm hồn bén nhạy và dễ cảm thụ. Với những tâm hồn bén nhạy, tôi tuyệt nhiên không có ý định nói tới một tâm hồn bình thường, tôi chỉ nói tới một tâm hồn có rèn luyện và có học vấn, như anh hay tôi là những người đã có một tâm hồn như vậy.

- Thí dụ ý anh muốn nói là nếu tôi nằm ngủ bên cạnh thanh gươm cổ treo ở trên tường này thì tôi có thể nằm mộng thấy một vụ đổ máu mà thanh gươm đã tham dự vào à?

- Anh đã rất khéo chọn ví dụ của anh! Quả thật tôi đã dùng phương pháp mà tôi vừa nói với anh đối với thanh gươm này và trong một cơn mộng tôi đã chứng kiến cái chết của người chủ của nó; ông ta đã chết trong một cuộc giao tranh nhỏ mà tôi không thể biểt rõ rệt là ở nơi nào, nhưng nó đã xảy ra vào thời chiến tranh "Bắn nhau bằng các hòn đá". Nếu muốn suy ngẫm kỹ càng, một vài tín ngưỡng trong dân gian đã chứng tỏ rằng tổ tiên chúng ta cũng đã nhìn nhận sự thật này, mà với sự khôn ngoan của chúng ta, nay chúng ta đã liệt vào loại các dị đoan.

- Thí dụ?

- Chẳng hạn khi người ta đặt chiếc bánh hôn lễ bên dưới gối để cho người ngủ có được những giấc mơ vui thích. Anh sẽ tìm thấy nhiều trường hợp tương tự khác trong một tập sách nhỏ mà tôi đang viết. Nhưng xin quay về với vấn đề lớn của chúng ta, một đêm tôi đã nằm ngủ với cái phễu này ở bên cạnh mình và tôi đã có một cơn mộng chiếu một ánh sáng kỳ lạ vào nguồn gốc và công dụng của nó.

- Anh đã nằm mộng thấy gì?

- Tôi đã mộng thấy...

Anh ngừng lại và anh đột nhiên có vẻ rất chú tâm.

- ...Lạy Chúa, đây là một ý kiến mà tôi tin là tốt, anh nói tiếp, thật sự đây là một cuộc thí nghiệm rất bổ ích. Anh là một người thiên về tâm linh, anh có những giây thần kinh phản ứng cấp kỳ được với bất cứ một cảm giác nào...

- Tôi chưa bao giờ thực hiện những cuộc thử nghiệm kể trên.

- Được, chúng ta sẽ thử nghiệm anh tối hôm nay! Liệu tôi có thể yêu cầu anh coi như anh giúp tôi một việc lớn, vì anh sẽ ngủ ở đây tối hôm nay, nằm ngủ với chiếc phễu cũ kỹ này để bên cạnh gối của anh không?

Đối với tôi, lời thỉnh cầu có vẻ vô lý, buồn cười, nhưng một trong những mặc cảm của tôi là sự khao khát vô biên về tất cả những gì liên quan tới sự kinh dị và kỳ lạ. Tôi không tin ở thuyết của Decre tí nào và tôi không nghĩ gì tới sự thành công trong cuộc thí nghiệm của anh, tuy nhiên không co gì làm tôi bực bội khi đem làm thử cuộc thí nghiệm này. Với vẻ nghiêm trọng, Decre đem tới đầu đi-văng của tôi một cái ghế đẩu trên đó được đặt cái phễu. Chúng tôi còn truyện trò ba hoa một lúc, rồi anh chúc tôi ngủ ngon và để tôi một mình.

Tôi còn ngồi lại một lát bên bếp lửa để hút một điếu thuốc lá và tôi suy ngẫm tới cuộc nói chuyện của chúng tôi. Tôi thấy mình hoài nghi quá, đã có một cái gì lúng túng trong sự vững lòng của Decre; tôi cảm thấy xúc động vì khung cảnh hơi khác thường mà tôi đang sống vì căn phòng rộng mênh mông chứa các đồ vật rất lạ lùng và đôi khi quái gở này. Sau cùng tôi cởi bỏ quần áo, tắt đèn và nằm xuống. Sau nhiều lần trằn trọc trở mình, tôi ngủ thiếp đi. Xin các bạn cho phép tôi cố sức mô tả với một sự chính xác nhất khả dĩ có được về giấc mộng mà tôi đã thấy; những tình tiết của nó tồn tại trong ký ức của tôi rõ ràng hơn bất cứ một cảnh trí nào mà tôi thực sự tham dự.

Về khung cảnh thì nó là một căn phòng vòm cong. Ở những góc, bốn cổng tường leo tới một cái mái có cạnh sắc. Lối kiến trúc thô kệch nhưng vững chắc là căn phòng này thuộc về một tòa nhà đồ sộ.

Ba người đàn ông mặc đồ đen, đội những cái mũ nhung đen có vẻ nặng nề ngồi xếp hàng trên một cái bục có trải thảm đỏ. Họ có vẻ rất nghiêm trang, rất buồn bã. Phía bên trái, hai người đàn ông mặc áo dài, mỗi người cầm một cái ví nom như nhét đầy giấy tờ. Phía bên phải, một người con gái bé nhỏ tóc nâu với cặp mắt kỳ dị màu xanh trong sáng, những con mắt của trẻ con đang nhìn về phía tôi. Cô không còn trong tuổi hoa niên nữa, nhưng cô vẫn còn trẻ, người mập, tròn trĩnh, cô có một phong cách kiêu hãnh vững vàng, khuôn mặt tái xanh nhưng tinh khiết. Khuôn mặt kỳ dị, dễ thương với một cái gì có vẻ giả dối như một đôi chút tàn độc trên cái miệng mỏng và thẳng và cái cằm đầy thịt. Cô quấn mình trong một thứ áo dài rộng và trắng. Bên cạnh cô một tu sĩ gày guộ đầy nhiệt tình đang nói nhỏ vào tai cô, co quay đầu đi và nhìn một cách chăm chú, ngoài tầm cây thánh giá, ba người đàn ông mặc đồ đen mà tôi cảm thấy hẳn là các vị quan tòa xử cô.

Ba người đàn ông đứng dậy và nói một vài tiếng mà tôi không nghe rõ, đó là người đàn ông ngồi giữa nói. Rồi họ đi ra khỏi căn phòng, hai người đàn ông mang ví đi theo họ. Ngay cùng lúc đó nhiều người mặc quần áo chẽn đi vào trong phòng, cuốn tấm thảm đỏ rồi tới những tấm ván là thành cái bục, nhanh chóng thu dọn gọn gàng. Khi màn cảnh đó biến mất rồi, tôi nhận thấy sự hiện diện của những đồ vât kỳ dị; một thứ nom giống như một cái giường với những bánh xe nhỏ bằng gỗ ở hai đầu và một cái cân quay tay để điều chỉnh chiều dài, một thứ khác là một con ngựa gỗ; cũng có cả những dây thừng treo lủng lẳng bên trên các bánh xe lăn, người ta có thể nói đó là một phòng tập thể dục tối tân.

Khi căn phòng được chuẩn bị sẵn sàng, một nhân vật mới xuất hiện trong khung cảnh đó. Đó là một người đàn ông lớn và gầy gò, mặc toàn màu đen. Khuôn mặt xương xẩu và khắc khổ của ông ta làm tôi phát run lên. Quần áo của ông lóng lánh chất mỡ và đầy những vết bẩn. Ông đi đứng với một vẻ đường bệ, mực thước, oai nghiêm, như thể từ lúc bước vào căn phòng ông đã nắm quyền điều khiển mọi công việc. Bất kể tới cái dáng điệu thô vụng và những y phục bẩn thỉu của ông, lúc này là phần vụ của ông, căn phòng này là của ông và chính ông là người ra mệnh lệnh. Cánh tay trái của ông mang một cuộn dây thừng nhỏ người đàn bà nhìn ông với một cái nhìn dò xét, nhưng sắc diện của cô ta không hề thay đổi chút nào, chỉ có đôi chút thách thức phụ thêm vào vẻ tự tin vững vàng. Về phần vị tu sĩ thì mặt ông tái đi, tôi nhìn thấy mồ hôi nhỏ giọt trên vầng trán cao và gồ của ông. Ông chắp tay cầu nguyện, ông luôn luôn cúi xuống người đàn bà để thì thận với cô ta những lời khích lệ.

Người đàn ông mặc đồ đen tiến lên, cầm một trong những sợi dây thừng nhỏ và buộc hai bàn tay người đàn bà lại với nhau. Cô ta dịu dàng chìa hai tay cho ông. Rồi ông nắm lấy vai cô ta một cách hung bạo và ông đưa cô ta tới trướccon ngựa gỗ, con ngựa gỗ cao hơn thân mình cô một chút. Ông nhấc bổng cô lên trên, đặt cô nằm dài lên lưng con ngựa, cô nhìn lên trần nhà. Vị tu sĩ tứ chi run rẩy, chạy ù ra khỏi phòng, cặpmôi của người đàn bà mấp máy một cách mau lẹ; tôi không nghe thấy gì cả nhưng tôi biết cô đang cầu nguyện, hai chân cô bỏ thõng ở hai bên mình con ngựa, tôi trông thấy những tên phụ việc mặc quần áo chẽn đã cột các cổ chân cô và buộc đầy dây thừng vào những cái khoen sắt gắn ở ván lót nền phòng. Tim tôi se lại trước những sự chẩn bị hiểm ác này. Tuy nhiên bị đờ đẫn ra vì sự kinh hoàng, tôi không thể quay mắt đi khỏi hoạt cảnh này, một người đàn ông đi vào, mỗi tay xách một thùng nước. Đến lượt người thứ nhì đi vào với một thùng nước thứ ba. Họ đặt những cái thùng bên cạnh con ngựa gỗ, người đàn ông thứ nhì cũng mang một cái chậu nhỏ bằng gỗ có cái cán thẳng. Y đưa cái chậu gỗ nhỏ này cho người đàn ông mặc đồ đen. Cùng trong lúc đó, một trong những tên đầy tớ tiến lại gần, hắn cầm một vật sẫm màu mà vừa nhìn thấy, dù là trong giấc mơ của tôi, nó đã nhắc tôi nhớ tới một cái gì. Đó là một cái phễu bằng da. Với một sức mạnh đầy tội lỗi, hắn cắm sâu cái phễu... Nhưng tôi không thể chịu đựng cảnh này nhiều hơn nữa. Tóc tôi dựng đứng lên vì kinh hãi. Tôi co quắp người lại, tôi giãy giụa, tôi làm đứt đoạn giấc ngủ của tôi và tôi tỉnh dậy kêu lên một tiếng lớn...

Tôi tỉnh lại kinh hoàng trong cái thư viện rộng lớn mắt trăng trải anh sáng xanh xao qua cửa sổ và chiếu ra những lằn màu đen và màu bạc trên bức tường đối diện. Ôi , thật là khoan khoái biết bao khi cảm thấy được trở lại thể kỷ XIX, khi nhận ra tôi đã rời bỏ căn phong của thời trung cổ đó để trở về một thế giới mà những cư dân đã có một trái tim khả dĩ gợi ra cho họ những tình cảm của con người! Tôi ngồi trên đi-văng, người vẫn còn run rẩy, tâm thần pha trộn giữa sự tri ân và nỗi kinh hoàng. Nghĩ ngợi tới những việc như vậy đã được thực hiện, đã có thể thực hiện được mà đấng thượng đế không trừng phạt những kẻ vô lại đã thi hành các việc đó! Phải chăng, đó là một truyện giả tưởng nảy sinh ra bởi trí tưởng tượng của tôi, hay đó là một sự việc đã thật sự xảy ra trong những ngày u ám độc ác của lịch sử thế giới. Tôi gục đầu vào hai bàn tay run rẩy của tôi. Và rồi bỗng nhiên tim tôi ngừng đập và ngay cả tôi không thể cất tiếng kêu lên được khi mà tôi kinh khiếp quá. Qua bóng tối của thư viện, có một người nào đó đang tiến lại chỗ tôi. Sự kinh hoàng được chồng chất thêm làm tiêu hủy lí trí con người. Không còn đủ sức để suy luận, để cầu nguyện, tôi chú mục nhìn cái bóng người đen sẫm đang bước tới gần. Cái bóng đen đó vừa đi qua một tia ánh trăng; lúc đó tôi lấy lại được hơi thở. Đó là Decre, trên mặt anh tôi thấy rằng anh cũng kinh hãi như tôi.

- Có phải anh đấy không? Nhân danh thượng đế, việc gì xảy ra thế? Anh nói với tôi với một giọng nói hốt hoảng.

- Ồ, anh Decre! Tôi sung sướng được thấy anh! Tôi mới xuống địa ngục, thật là khủng khiếp!

- Vậy chính anh mới kêu lên đó anh?

- Tôi nghĩ là vậy.

- Tiếng kêu vang dội khắp căn nhà. Bọn đầy tớ bị kinh hoàng...

Anh bật một que diêm và đốt đèn lên.

- ... Tôi nghĩ rằng chúng ta có thể nhóm lại lửa...

Anh quăng một vài khúc củi lên đống than hãy còn đỏ hồng.

- ... Trời ơi, anh có vẻ xanh xao quá này, anh bạn quý. Người ta sẽ nghĩ là anh vừa mới nhìn thấy ma.

- Tôi đã nhìn thấy ma... nhiều ma!

- Vậy là cái phễu da đã đóng vai trò của nó?

- Dù cho tôi tất cả vàng trên thế giới tôi cũng không muốn ngủ một lần bên cạnh vật quỷ quái này.

Decre bật ra một tiếng cười nhỏ. Anh nói với tôi.

- Tôi đã trù liệu rằng anh sẽ có một đêm nơi náo động, nhưng anh đã trả thù rồi, vì tiếng la hét của anh không phải là rất êm ái để mọi người nghe vào lúc hai giờ sáng, theo lời anh nói, tôi tưởng tượng là anh đã nhìn thấy tất cả sự việc khủng khiếp đó phải không?

- Sự việc khủng khiếp gì?

- Sự hành tội bằng nước. "vấn đề dị thường"như người ta đã nói dưới thời Vua Mặt trời. Anh có chịu đựng được cho tới cùng không?

- Không, lạy chúa tôi! Tôi đã thức dậy trước khi việc đó khởi sự.

- À, càng hay cho anh, tôi thì tôi đã cầm cự tới thùng nước thứ ba. Dẫu sao thì đó cũng là câu chuyện từ cổ xưa, những vị anh hùng giờ đây đã bị chôn vùi dưới đất rồi! Chắc chắn là anh không có một chút ý kiến gì về cái quang cảnh mà anh đã chứng kiến phải không?

- Việc hành tội môt nữ phạm nhân nào đó. Hẳn cô ta đã phạm những trọng tội ghê gớm nên mới phải chịu một hình phạt như vậy!

- Việc đáng kể là chúng ta đã có được sự an ủi nhỏ nhoi này, Decre trả lời tôi, trong khi cuộn mình trong chiếc áo ngủ và bước lại gần lò sưởi, những tội ác của cô ta tương xứng với hình phạt của cô ta. Ít nhất nếu tôi không lầm về lý lịch của người đàn bà này.

- Làm thế nào mà anh có thể khám phá ra lý lịch của cô ấy.

Thay cho câu trả lời, Decre lấy từ kệ tủ ra một cuốn sách cổ.

- Hãy nghe điều này! Anh bảo tôi. Anh sẽ tự mình phán đoán xem có phải tôi đã tìm ra lời giải đoán của việc bí ẩn. "Người nữ tù nhân bị đem ra xét xử trước Đại Pháp Viện của Tối Cao Pháp Viện họp tại tòa án với tội danh là đã ám sát ông Dreux d'Anbray, thân sinh ra cô và hai anh trai cô, các ông d'Anbray, một người là tài phấn dân sự và người kia là Ủy viên Tối Cao Pháp Viện. Hình như khó mà tin rằng cô là thủ phạm của những tội ác quái gở như vậy, vì cô có vẻ dịu hiền, cô người nhỏ nhắn, cô có một màu da nâu và những con mắt màu xanh. Tuy nhiên tòa án đã phán quyết cô là thủ phạm, buộc cô phải chịu sự thẩm vấn thường và sự thẩm vấn đặc biệt ngõ hầu bắt cô phải khai tên tuổi những kẻ đồng lõa, rồi bị dẫn giải bằng xe bò tới công trường Genève, ở đó cô sẽ bị chém đầu, xác cô sẽ bị thiêu và tro tàn bị trải tung cho gió cuốn"

"Ngày tháng của sổ đăng lục này là ngày mười sáu tháng bảy năm 1676"

- Thú vị đó! Tôi trả lời. Nhưng không đủ sức thuyết phục. Làm thế nào anh chứng minh được rằng là đó là cùng một người đàn bà này?

- Tôi chứng minh được, câu chuyện kể lại thái độ của người đàn bà trong cuộc thẩm vấn: "Khi kẻ hành tội đến gần cô, cô nhần ra hắn ta vị những dây thừng nhỏ mà hắn ta cầm trong tay và ngay tức thì cô chìa những bàn tay cô cho hắn trong khi mắt nhìn hắn từ đầu tới chân mà không thốt ra một câu nào". Có đúng vây không?

- Đúng.

- "Cô thản nhiên nhìn con ngựa gỗ và những khoen là những thứ đã vặn gãy rất nhiều tay chân và những tiếng kêu đau đớn. Khi mắt cô nhìn tới ba thùng nước đã được chuẩn bị sẵn, cô mỉm cười nói: "Tất cả số nước này được mang tới đây với dụng ý làm tôi chết chìm, thưa ông. Tôi cho rằng ông không nghĩ tới việc bắt một người nhỏ bé như tôi phải nuốt hết chỗ nước này chứ?". Tôi có cần đọc cho anh nghe những chi tiết của sự hành tội không?

- Không, vì lòng lành của Thượng đế!

- Đây là một câu chứng tỏ cho anh thấy rằng những gì được kể trong quyển sách này đúng là cái cảnh mà anh đã chứng kiến hôm nay: "Đạo sư Piror hiền hậu không thể đứng nhìn những sự đau khổ mà người đàn bà bị hành tội sắp phải chịu đựng, đã bước vội ra khỏi căn phòng". Điều này có thuyết phục anh không?

- Hoàn toàn thuyết phục. Không còn nghi ngờ gì, đây đúng là cùng một việc, nhưng như vâỵ thì cái người đàn bà rất duyên dáng này là ai mà phải chịu một kết cục quá khủng khiếp như thế?

Decre bước lại gần tôi và anh đặt cây đèn nhỏ trên cái bàn ở đầu giường, cầm nâng cái phễu chết tiệt lên, anh quay cái khoen bằng đồng lại để cho ánh sáng soi rõ nó. Khi nhìn như vậy tôi thấy những hình chạm rõ hơn là vào buổi tối.

- Chúng ta đã nhận xét rằng đây là biểu trưng của một vị hầu tước hay là một nữ hầu tước, chúng ta đã xác định rằng chữ cuối cùng là một chữ B.

- Đúng, không thể chối cãi được.

- Bây giờ tôi chưa đưa ra một ý kiến, những chữ khác từ trái qua phải, không phải là một chữ M, một chữ M nữa và một chữ d nhỏ, một chữ A, một chữ d nhỏ rồi một chữ B tận cùng hay sao?

- Đúng, tôi nghĩ rằng anh nói có lý. Tôi nhận ra hai chữ d nhỏ một cách hoàn toàn rõ ràng.

- Những gì mà tôi vừa đọc cho anh nghe, Decre tuyên bố, là sự ghi chép chính thức về vụ án Marie Madeleine d'Anbray, nữ hầu tước đất Brinvillien, một trong những người đàn bà can tội đầu độc chứ danh nhất của mọi thời đại.

Tôi đứng yên không nói được lời nào. Tôi bị choáng váng vì tính chất kỳ dị của sự việc và vì tính cách hình thức của bằng chứng mà Decre đã cung cấp cho tôi. Tôi nhớ lại một cách mơ hồ một vài chi tiết về sự nghiệp của người đàn bà này, sự trụy lạc buông thả của cô ta, những sự hành hạ có tính toán và cố ý mà cô đã bắt ông bố ốm đau của cô phải chịu; việc ám sát hai người anh trai của cô vì những lý do quyền lợi trong nhà. Tôi cũng nhớ tới sự dũng cảm mà cô đã biểu lộ vào những giờ phút cuối cùng của cô và sự dũng cảm mà cô đã chuộc lại một phần những tội ác của cô, cũng như mối cảm tình mà tất cả thành phố Paris đã bày tỏ với cô lúc cô bị hành hình; một vài ngày sau khi chửi rủa cô là kẻ đầu độc, những người dân thành phố Paris lại thực sự tôn sùng cô như là một vị thánh tử vì đạo. Có một điều phản đốii và một điều thôi đã nói lên trong đầu tôi:

- Làm thế nào mà các chữ viết tắt của tên cô và huy hiệu của cô lại có thể được khắc trên cái phễu? Tôi nghĩ rằng người ta không đưa sự sùng kính thời trung cổ đối với các bậc quý phái tới mức phải đi trang hoàng các dụng cụ để hành tội họ với các danh vị của họ, phải vây không?

- Điều này đã làm tôi suy nghĩ, Decre công nhân, nhưng nó chỉ có thể có một sự giải thích. Thời đó, vụ này đã gây ra một mối quan tâm đáng kể, không có điều gì tự nhiên hơn là cái việc ông La Raynie, vị phán quan về cảnh sát đó, đã giữ lại cái phễu làm kỷ niệm. Việc một nữ hầu tước của nước Pháp phải chịu cuộc thẩm vấn đặc biệt đâu phải là chuyên thường xảy ra. Chắc chắn ông đã sai khắc lên trên những chữ bắt đầu của từ Brinvillien để thỏa mãn những kẻ tò mò; hẳn là ông ta có thói quen làm những thể thức đó.

- Và còn cái này? Tôi hỏi và chỉ vào những dấu vết trên cổ cái phễu.

- Cô La Brinvillien là một con cọp cái hung ác, Decre vừa trả lời tôi vừa bỏ đi ra. Tôi nghĩ rằng cũng như những con cọp cái khác, cô ta có những cái răng nhọn và cứng.

Hết

Bàn tay nâu

Ai cũng biết ngày Dominic Hulden, một y sĩ danh tiếng tại Ấn Độ, đã chọn tôi làm người thừa kế của ông; và cái chết của ông sẽ biến đổi một anh y sĩ nghèo nàn, vất vả thành một ông chủ giàu sang, mọi người cũng đều biết rằng ít nhất có năm người cũng có thể ngấp nghé vào việc thừa kế ấy như tôi và rằng sự lựa chọn của ngài Dominich đã tỏ ra với một vài người là quá độc đoán và kỳ cục. Mặc kệ! Về phần tôi, tôi xác nhận rằng ngài Dominich đã có những lý do rất vững vàng để bày tỏ lòng ưu ái đối với tôi, mặc dù tôi chỉ mới biết ông trong những năm cuối cùng của đời ông . Tôi cũng dám nói rằng những điều tôi đã làm cho ông chú tại nước Ấn Độ này chưa bao giờ có ai từng làm được cho một người khác . Tất nhiên là tôi không thể hy vọng là người khác tin ở lời tôi, khi câu chuyện của tôi không phải là thứ truyện tầm thường . Nhưng tôi có cảm tưởng rằng tôi sẽ không làm tròn bổn phận nếu tôi không kể lại câu chuyện đó . Vậy thì sau đây là câu chuyện đó . Các bạn có tin ở tôi hay các bạn sẽ không tin tôi, đó là tùy ý các bạn .

Ngài Dominic là hội viên của Hội Ordre du Bain, có Huy Chương Ấn Độ Bội Tinh ... lúc sinh thời là một vị y sĩ cực kỳ lỗi lạc, ông đã từ giã quân ngũ để định cư tạI Bombay và mở phòng mạch chữa cho các con bệnh thường dân . Ông thường được mời đi thăm bệnh; ông đã đi tới tất cả các tỉnh của Ấn Độ . Tên tuổi ông được gắn liền mãi với bệnh viện Đông Dương mà ông đã tạo lập và khai triển . Vào một thời điểm nào đó, cái cơ thể vững như thép của ông đã biểu hiện những dấu hiệu của sự mệt mỏi, tiếp theo sự căng thẳng quá độ lâu năm mà ông đã bắt nó phải gánh chịu . Các đồng nghiệp của ông (có thể là không hoàn toàn bất vụ lợi trong trường hợp này) đã khuyên ông trở về Anh . Ông vẫn cố chịu đựng cho tới khi các triệu chứng thần kinh xuất hiện rõ ràng một cách đáng sợ . Lúc đó ông mới trở về cố hương Wiltshire của ông, tâm trí rất chán chường . Ông mua một tài sản đẹp đẽ, với một trang trại cũ, gần cánh đồng Salisbury và ông giành những ngày tàn của ông cho việc nghiên cứu môn so sánh bệnh lý học; môn học này đã là lý tưởng của một đời ông và ông đã đạt được một sự lừng danh bất khả tranh biện về nó .

Là những người trong gia đình ông, như các bạn đã thấy, chúng tôi rất xôn xao khi nghe tin ông chú giàu có và không có con cái này trở về Anh . Mặc dầu không tỏ ra có tính hiếu khách hào sảng, ông vẫn biểu lộ một đôi chút ‎ý niệm về các bổn phận đối với gia tộc ông; lần lượt từng người một, bọn chúng tôi đã được mời tới thăm ông .

Cứ tin ở lời năm người anh em họ của tôi đã tới thăm ông trước tôi thì chuyến đi về vùng quê này chả có gì là vui thích cả . Như vậy là với những tình cảm lẫn lộn, cuối cùng tôi đã nhận được một lá thư bảo tôi tới Rodenhurst. Vợ tôi đã bị gạt ra khỏi danh sách một cách quá cẩn thận khiến cho hành động đầu tiên của tôi là khước từ lời mời; nhưng liệu tôi có quyền lợi cùng với những quyền lợi của lũ con tôi không ? Với sự đồng ý của vợ tôi, một buổi chiều tháng mười tôi di Wiltshire . Tôi đã không có chút tưởng tượng nào về các hậu quả của chuyến du hành này .

Tài sản của chú tôi tọa lạc ở một nơi mà những khỏanh đất canh tác được của cánh đồng bắt đầu nhỏ về hướng các vách đá vôi, một nét đặc thù của lãnh địa . Ngồi xe từ nhà ga Đinton vào lúc hoàng hôn của một ngày mùa thu đó, tôi đã bị trấn áp một cách kinh khủng bởi những dấu tích đồ sộ của đời sống tiền sử đến nỗi hiện tại hình như chỉ là một giấc mộng ở bên cạnh những sự thật ngạo nghễ, đầy sức ám ảnh của quá khứ . Con đường vạch ra những lối ngoằn nghèo trong các thung lũng được bao quanh bởi từng dãy đồi liên tiếp nhau và chóp đỉnh của tất cả những trái đồi này đều được đẽo gọt thành những công sự khá phức tạp, hình tròn hoặc hình vuông, những công sự này đã đứng ngạo nghễ trước gió và mưa hành bao nhiêu thế kỷ . Nhiều người nói chúng là của người La Mã, nhiều người khác bảo rằng chúng là của người Anh . Thật ra, nguồn gốc chân thật của chúng không bao giờ được làm cho sáng tỏ cả, cũng như các lý do tại sao trong cả các nơi, miền này lại có nhiều thành lũy như vậy . Rải rác đây đó, trên những triền xanh ô liu kéo dài và phẳng phiu, nổi cao lên những mô đất nhỏ, tròn trĩnh . Những ngôi mả này chứa đựng tro tàn của những người đã đào sâu những ngọn đồi, những bình đựng đầy tro bụi, đó là tất cả những gì còn lại của những người xưa kia đã lao động dưới ánh mặt trời .

Chính là phải đi qua miền quê bí hiểm này mà tôi đã tới gần Rodenhurst, nơi cư ngụ của chú tôi; ngôi nhà rất hòa điệu với những khung cảnh chung quanh . Hai cây cột bị đổ và lem luốc vì tuổi tác, trên mỗi cây đều có một tấm huy hiệu đã bị sứt mẻ, chúng đỡ lấy một tấm lưới mở ra trên một lối đi được chăm sóc một cách cẩu thả . Một cơn lạnh lẽo rít lên trong đám cây du thụ mọc bên cạnh lối đi . Không khí xào xạc những lá bay lả tả . Ở cuối lối đi, dưới một mái cây uốn cong, một ánh sáng vàng vọt lóe ra . Trong cái ánh sáng của giờ giấc này giữa lúc chạng vạng tối, tôi nhận ra một tòa kiến trúc dài và thấp xòe ra đôi cánh không cân đối, nóc nhà thoai thoải có những mái chìa ra ngoài, những xà nhà theo kiểu thời Tudor bắt chéo nhau trên các đầu tường . Một ngọn lửa ấm cúng nhảy múa phía sau bức cửa sổ lớn hình lục lăng ở bên trái cửa lớn ra vào; nó chỉ cho thấy nơi kê bàn giấy của chú tôi; và đó là nơi mà người quản gia đưa tôi tới để ra mắt ngài Dominic .

Chúng tôi đã ăn xong bữa, những kẻ hầu hạ đã rời khỏi phòng sau khi mang cho chúng tôi một ly porto, khi cuộc trò chuyện của chúng tôi quay sang một đề tài làm nẩy sinh một kết quả bất ngờ cho các vị chủ nhà của tôi . Tôi không còn nhớ làm thế nào mà chúng tôi đã đi tới chỗ đề cập tới vấn đề siêu nhiên; đại khái là tôi chỉ cho họ thấy là trong các cuộc thí nghiệm về tâm linh, sự bất bình thường là một vấn đề mà tôi, cũng như nhiều bác sĩ thần kinh học, đã giành rất nhiều sự chú tâm và tôi kết luận bằng cách kể lại một kinh nghiệm bản thân: với tư cách hội viên của Hội nghiên cứu Tâm linh, tôi đã tham dự một ủy ban để ngủ lại qua đêm tại một căn nhà có ma; mặc dù câu chuyện chẳng có gì là say mê, cũng chẳng có sức thuyết phục, cuộc mạo hiểm của tôi cũng khiến cho các vị thính giả của tôi chú ý với mức độ rất cao . Họ nghe tôi nói mà không bao giờ ngắt lời tôi . Tôi bắt gặp giữa họ có một vẻ gì về sự đồng lõa mà tôi không biết giải thích như thế nào . Bà Holden đứng dậy và để bọn tôi ở lại một mình .

Ngài Dominic đẩy một hộp xì gà về phía tôi . Chúng tôi yên lặng hút thuốc trong một lúc . Khi ông để điếu xì gà lên miệng, bàn tay xương xẩu to lớn của ông run rẩy . Những dây thần kinh của ông chắc chắn phải rung lên như những sợi dây đàn . Linh tính của tôi báo trước cho tôi biết rằng ông đang sắp sửa có điều gì thổ lộ tâm can và tôi định bụng không nói gì cả, sợ làm ông cụt hứng . Cuối cùng ông quay lại phía tôi với một cử động mau lẹ của một người vừa rủ sạch được nỗi áy náy sau cùng .

- Bác sĩ Hardane ạ, chú ít biết về cháu, ông bắt đầu nói . Tuy nhiên, đối với chú hình như cháu mới đúng là người chú muốn gặp .

- Thưa chú, hẳn chú thấy cháu rất sung sướng về điều chú nói .

- Chú có cảm tưởng cháu là người bình tĩnh và cháu có can đảm . Cháu đừng nghĩ rằng chú tìm cách phỉnh phờ cháu, vì hoàn cảnh rất trầm trọng khiến cho chú không thể làm thiếu đi bất cứ một chút gì cho sự thành thực . Cháu đã nắm vững một vài quan điểm của một triết gia, điều đó đã làm cho cháu tránh được một sự kinh hoàng tầm thường . Chú giả thiết rằng cảnh ma quỷ xuất hiện sẽ không làm cháu hoảng sợ quá mực .

- Thưa chú, cháu không nghĩ là cháu sẽ hoảng sợ .

- Và thậm chí có thể nó còn làm cho cháu thích thú nữa ?

- Cháu rất thích thú .

- Vốn là một quan sát viên về tâm linh, chắc chắn là cháu đã nghiên cứu về vấn đề đặc biệt này một cách khách quan cũng như một nhà thiên văn học nghiên cứu ngôi sao chổi bay ở trên trời chứ ?

- Vâng, đúng hệt như vậy .

- Ông bật lên một tiếng thở dài .

- Hãy tin ở chú, bác sĩ Hardane ạ, đã có thời chú có thể nói chuyện với cháu như cháu đang nói chuyện với chú lúc này . Ở Ấn Độ, sự dũng cảm của chú đã trở thành chuyện truyền khẩu . Ngay cả cuộc binh biến lớn lao cũng không làm suy yếu lòng dũng cảm của chú một phút nào . Tuy nhiên, cháu nhìn thấy ngày nay chú đã hóa thành một thứ đồ phế thải như thế nào: chú đã trở thành một kẻ nhút nhát nhất trong khắp vùng Wiltshire . Cháu chớ có ngổ ngáo quá trong lãnh vực này; nếu không có khi cháu sẽ bị vướng vào một cuộc thử thách lâu dài giống như cuộc thử thách mà chú đang vướng phải . Một cuộc thử thách chỉ sẽ chấm dứt trong một nhà thương điên hoặc trong nấm mồ .

Tôi cố kiên nhẫn chờ ông quyết định đi ngay vào điểm chính của mối bận tâm của ông . Khỏi cần phải nói thì ai cũng biết lời mở đầu của ông đã làm tôi say mê .

- ... Từ một năm nay, ông nói tiếp, đời sống của chú và đời sống của thím bị buồn phiền . Nguyên nhân rất kỳ cục khiến người ta muốn bật cười . Tuy nhiên tính cách quen thuộc của nó khiến cho người ta không thể chịu đựng được . Trái lại, ngày tháng qua đi, các giây thần kinh của chú càng suy mòn một cách thảm thương . Nếu cháu không bị nỗi lo sợ về thể chất, bác sĩ Hardane ạ, thì chú rất sung sướng được nghe ý kiến của cháu về cái hiện tượng đã làm chúng ta mâu thuẫn nhau rất nhiều .

- Ý kiến của cháu, dù nó có giá trị thế nào đi nữa, xin đặt tùy quyền định đoạt của chú . Cháu có thể hỏi chú về bản chất của hiện tượng đó không ?

- Chú nghĩ rằng kinh nghiệm của chính cháu sẽ hữu ích hơn nếu cháu không biết trước những gì mà có thể cháu sẽ khám phá ra . Chắc cháu đã hiểu sự hoạt động của não bộ và những cảm nghĩ chủ quan đã bao hàm một sự mập mờ khó hiểu như thế nào . Chú nghĩ tốt hơn hết là cháu nên tránh điều đó .

- Vậy thì bây giờ cháu phải làm gì ?

- Chú sẽ nói cho cháu nghe . Cháu có vui lòng theo chú lại chỗ này không ?

Rồi ông dẫn tôi ra khỏi phòng ăn, đi vào một hành lang tới cái cửa . Sau tấm cửa này là một căn phòng lớn không bày biện đồ đạc gì, được trang bị thành phòng thí nghiệm, với một số dụng cụ khoa học và nhiều chiếc bình . Trên một mảnh xích đồng đặt dọc theo mặt tường, có một dẫy xếp đầy những bình đựng các mẫu về bệnh lý học và các bộ phận được giải phẫu .

- ... Cháu thấy là chú không xao lãng công việc cũ của chú, ngài Dominic nói . Những bình này chỉ là phần còn sót lại của những gì mà trước đây đã là một bộ sưu tầm quý giá . Bất hạnh thay chú đã đánh mất phần lớn cac mẫu này trong vụ hỏa hoạn làm cháy tiêu tan căn nhà của chú ở Bombay nay 1892 . Trong nhiều phương diện vụ cháy tai hại này đã làm chú thiệt thòi quá nhiều . Chú đã có những loại mẫu rất hiếm và bộ sưu tầm của chú về bộ phận lá lách có thể coi là bộ duy nhất trên thế giới . Đây là những thứ đã cứu vãn được ...

Tôi đảo mắt nhìn, khá đầy đủ để cho ta thấy rằng quả thực chúng có một giá trị rất lớn và trên phương diện bệnh lý học, đó là những thứ cực kỳ hiếm thấy; các cơ quan tụ đặc lại, các nang thũng rộng ngoắc, các mảnh xương biến dạn, những ký sinh trùng đáng ghét, tóm lại một cuộc trưng bày độc đáo về các sản phẩm của Ấn Độ .

- ... Như cháu đã nhìn thấy, ở đây còn có một ghế tràng kỷ, ông chú tôi nói tiếp . Chú không hề nghĩ tới việc giành cho một vị khách một tiện nghi xoàng xĩnh như thế này . Nhưng qua cuộc nói chuyện của chúng ta, chắc cháu sẽ rất vui lòng chấp nhận việc ngủ qua đêm trong căn phòng này . Chú xin cháu đừng ngần ngại gì, mà cứ nói đi nếu lời đề nghị của chú làm cháu phật ý .

- Không có gì phật ý cả, tôi đáp lại . Điều này rất dễ chấp nhận .

- Phòng của chú là căn thứ nhì về bên trái . Trong trường hợp cháu thấy cần có người bầu bạn, cháu chỉ việc gọi chú . Chú sẽ tới ngay tức khắc .

- Cháu hy vọng rằng cháu sẽ không bị buộc lòng phải quấy phiền chú .

- Khó có chuyện là chú ngủ được . Chú không ngủ nhiều được nữa . Cứ gọi chú, chớ ngần ngại gì .

Thế là chúng tôi đã thỏa thuận với nhau, chúng tôi đi ra gặp lại bà Holden trong phòng khách và chúng tôi nói chuyện về những đề tài dí dỏm hơn .

Tôi công nhận không một chút màu mè nào rằng viễn ảnh của cuộc mạo hiểm này làm tôi vui thích . Tôi không muốn tỏ ra can đảm hơn những người ở bên cạnh tôi, nhưng khi người ta đã quen thuộc với một vấn đề, người ta coi thường những nỗi sợ hãi vu vơ và mập mờ đã làm kinh động một bộ óc giàu tưởng tượng . Bộ óc con người chỉ có thể tiếp nhận một cảm xúc mạnh trong một lúc nào đó : nếu nó đang nôn nóng vì tò mò hay nhiệt tình khoa hoc, thì sợ hãi không còn chỗ trong nó nữa . Đúng thật ông chủ tôi đã nói rằng lúc mới đầu ông cũng đã chia sẻ quan điểm của tôi; tôi nghĩ rằng sự suy sụp hệ thần kinh của ông có thể là do bốn mươi năm ông đã sống ở Ấn Độ, cũng như do bất cứ một cuộc mạo hiểm tâm linh nào . Còn về phần tôi, ít nhất tôi cũng vững vàng, nói về phương diện thần kinh và tâm lý; đó là lý do tại sao tôi đã cảm thấy sự hồi hợp dễ chịu mà người thợ săn thường cảm thấy khi ngồi rình gần tổ con mồi, khi tôi đóng sập cánh cửa phòng thí nghiệm sau lưng tôi . Tôi cởi bỏ một phần quần áo, rồi tôi nằm dài trên ghế trường kỷ trải những tấm da thú .

Nếu là một phòng ngủ thì khung cảnh không phải là lý tưởng . Không khí nặng trĩu mùi hóa chất, trong đó mùi cồn chín mươi sặc sụa nhất . Hơn nữa, cách trang trí không có chút gì làm người ta muốn ngủ . Cái dẫy những bình bày trong đó nổi lập lờ các vết tích của những bệnh tật và những sự đau đớn, đang phơi bày ra ngay trước mặt tôi . Trên cửa sổ không có cánh cửa, cũng không có màn che; một vầng trăng khuyết tuôn ánh sáng xanh xao vào căn phòng và vạch ra trên bức tường đối diện một hình vuông màu bạc, trong đó những hình lục lăng chồng chéo lên nhau . Khi đã có một vẻ huyền hoặc và rối rắm . Một sự yên lặng hoàn toàn chiếm ngự tất cả căn nhà cũ kỹ; tiếng xào xạc nhẹ nhàng của các cành cây ngoài vườn lọt tới tai tôi một cách dịu dàng . Phải chăng đó là lời ru ngủ của những tiếng rì rầm liên tục ? Hay đó là sự mệt mỏi của một ngày qua ? Tôi đã cố chống cự để gìn giữ tất cả sự tỉnh táo cho các giác quan của tôi, tôi đã ngủ một giấc ngủ say sưa .

Một tiếng động trong phòng thí nghiệm làm tôi thức giấc . Ngay tức thì tôi chống khuỷu tay ngồi nhỏm lên . Chắc tôi đã ngủ được một vài giờ đồng hồ, vì vệt sáng hình vuông trên tường đã di chuyển chếch xuống phía dưới và lúc này nó nằm nơi chân ghế trường kỷ của tôi . Phần còn lại của căn phòng bị chìm sâu trong bóng đêm tối sầm . Mới đầu tôi không thể phân biệt được chút gì cả rồi mắt tồi làm quen với bóng tối, rồi thì tôi nhận ra, với một cảm giác ớn lạnh, rùng mình mà các thói quen thiên về khoa học của tôi đã tỏ ra bất lực không thể kìm hãm được, đó là một vật gì đó đang di chuyển thong thả dọc theo bức tường . Thính giác trở nên bén nhạy hơn của tôi ghi nhận thấy một tiếng động nhẹ vừa tắt đi, tiếng động của những chiếc giày vải kéo lê trên mặt đất và tôi phân biệt ra một cách mơ hồ một bóng người bước đi một cách lén lúc; bóng này từ phía của ra vào đi tới; bóng đó nhô ra trong phần được chiếu sáng bởi ánh trăng và tôi đã nhìn thấy nó rõ ràng . Đó là một người đàn ông nhỏ và thấp, mặc một thứ áo dài màu xám đậm, dài thẳng từ hai vai tới chân . Ánh trăng soi sáng một bên mặt hắn ta, tôi nhận thấy da mặt màu sôcôla và hắn ta có một búi tóc đen phía sau đầu . Hắn ta đi thong thả, mũi ngẩng lên trời, hướng về cái xích đông nơi có những bình chứa đựng các mảnh vụn của những người đã chết . Hắn có vẻ xem xét tỉ mỉ từng bình một . Khi hắn xem xét xong, ngay chỗ cuối giường tôi, hắn dừng lại, quay mặt về phía tôi, giơ hai bàn tay lên một vẻ tuyệt vọng và biến mất .

Tôi nói rằng hắn giơ hai bàn tay lên; lẽ ra tôi nên viết rằng hắn giơ hai cánh tay lên, vì khi hắn ta làm dáng điệu tuyệt vọng đó, tôi nhận thấy một điều đặc biệt: hắn chỉ có một bàn tay! Khi những ống tay áo tụt xuống dọc theo những cánh tay giơ lên của hắn, tôi nhìn thấy rõ ràng bàn tay trái, nhừng còn bàn tay phải chỉ là một cái cùi tong teo gớm ghiếc . Ngoài cái bàn tay cụt đó ra, hắn ta có vẻ rất bình thường, tôi đã nhìn thấy hắn và nghe hắn một cách rất rõ rệt đến nỗi tôi tự hỏi có phải hắn là một trong những tên đầy tớ người Ấn Độ của ngài Dominic tới kiếm một vật gì trong phòng thí nghiệm không . Nhưng sự biến mất thình lình của hắn gợi ra cho tôi một sự giải thích thiếu bình thường . Tôi đứng bật dậy, thắp nến lên và xem xét tỉ mỉ căn phòng . Vì tôi không tìm thấy một dấu vết nào của người khách của tôi, tôi phải chấp nhận rằng sự hiện diện của hắn đã một phần nào vượt ra ngoài khuôn khổ các qui luật tự nhiên . Tôi không ngủ lại nữa; nhưng đêm qua đi mà không có một sự cố nào khác .

Bao giờ tôi cũng dậy sớm; nhưng ông chú tôi đã dậy sớm hơn tôi: ông đang đi bách bộ trên thềm cỏ trước nhà; khi ông thấy tôi đứng trên bực cửa, ông chạy lại .

- Thế nào ? ông nói lớn . Cháu có thấy hắn không ?

- Một gã Ấn Độ chỉ có một bàn tay ?

- Đúng .

- Vâng, cháu đã thấy hắn .

Tôi kể lại cho ông nghe những việc đã diễn ra . Sau đó, ông dắt tôi vào phòng làm việc của ông .

- Chúng ta có đôi chút thời giờ trước khi ăn điểm tâm, ông nói với tôi khoảng thời gian đó đủ để cho cháu nghe một cách giải thích về sự việc dị thường này, theo như chỗ chú có thể giảng nghĩa cho cháu một điều mà thật ra không thể nào giải thích được . Trước hết khi chú nói cho cháu hay rằng từ bốn năm nay không bao giờ chú ngủ được trọn vẹn một đêm, dù là ở Bombay, dù là ở trên tàu thủy, dù là ở nước Anh, mà không bị quấy rầy trong giấc ngủ bởi con người đó, cháu sẽ hiểu tại sao chú lại trở thành con người tàn tạ . Chương trình của hắn ta không thay đổi . Hắn hiện ra bên cạnh giường chú, lay mạnh vào vai chú, đi từ phòng chú vào phòng thí nghiệm, đi thong thả trước dãy bình của chú, rồi biến mất . Ít nhất hắn đã làm như vậy hàng ngàn lần .

- Hắn đòi hỏi gì ở chú ?

- Bàn tay hắn .

- Bàn tay hắn à ?

- Ừ, khoảng độ 10 năm trước, chú được mời tới khám bệnh ở Pessawa; trong chuyến công tác của chú, người ta yêu cầu chú xem bàn tay một người bản xứ đi qua thành phố cùng với một đoàn xe của người Afghanistan . Hắn ta gốc gác ở một bộ lạc sơn cước sinh sống ở từ xa, phía bên kia dẫy núi Kafiristan và hắn nói một thổ ngữ gần như không ai hiểu được . Hắn bị bệnh sưng phù biến nhan ở một trong các khớp xương bàn tay và chú cố sức nói cho hắn ta hiểu là hắn chỉ có thể cứu lấy mạng sống bằng cách hy sinh bàn tay của hắn . Phải vất vả lắm chú mới thuyết phục được hắn ta; sau hết hắn đồng ý việc giải phẫu . Ngay khi việc giải phẫu xong xuôi, hắn ta hỏi chú là hắn phải trả bao nhiêu tiền . Thằng quỷ khốn khổ đó gần như một tên ăn xin, nên chú không lấy tiền của hắn . Nhưng chú trả lời hắn với sự bông đùa rằng chú bằng lòng lấy bàn tay của hắn và rằng chú có ý định lấy bàn tay đó để thêm vào bộ sưu tập về bệnh lý của chú .

"Trước sự kinh ngạc vô cùng của chú, hắn ta đưa ra nhiều lý lẽ để phản đối . Hắn ta cắt nghĩa cho chú thấy là theo tôn giáo của hắn, thật là tối quan trọng việc thể xác phải hợp nhất lại sau khi người ta chết, để dùng lam nơi trú ngụ hoàn hảo cho linh hồn . Như cháu đã biết, sự tín ngưỡng này đã có từ rất lâu đời và những xác ướp của người Ai Cập cũng xuất phát từ một mối dị đoan tương tự . Chú hỏi hắn ta là hắn ta làm cách nào để bảo tồn nó . Hắn nói hắn sẽ cho ngâm nó vào nước muối và hắn sẽ luôn luôn mang nó bên mình . Chú bảo hắn rằng chắc chắn là nó sẽ được an toàn ở nhà chú hơn là ở trong người hắn và rằng chú có sẵn những chất liệu tốt hơn để bảo tồn nó . Khi hắn hiểu rằng chú thực bụng muốn bảo toàn bàn tay ấy, sự chống đối của hắn chấm dứt hình như với sự hoan hĩ . "Nhưng xin ông nhớ rằng, ông quan thầy, hắn nói với chú, rằng tôi sẽ trở lại tìm nó khi tôi chết ." Chú bật cười và sự việc đã kết thúc . Chú quay về với các thân chủ của chú và chắc hắn có thể tiếp tục lên đường đi Afghanistan .

"Như chú đã nói với cháu về việc đó chiều hôm qua, nhà của chú ở Bombay hầu như bị cháy rụi hoàn toàn . Cùng với nhiều đồ vật khác, bộ sưu tầm về bệnh lý học của chú đã bị thiêu hủy gần như hoàn toàn, trong đó có cả cái bàn tay của anh chàng người sơn cước đó . Việc đó xảy ra đã sáu năm rồi ."

"Ngay lúc đó chú không nghĩ tới việc thương tiếc cái bàn tay đó . Nhưng hai năm sau vụ hỏa hoạn, một đêm chú đã bị đánh thức dậy bởi một kẻ nào đó, hắn giật ống tay áo của chú một cách giận dữ . Chú ngồi dậy, nghĩ rằng con chó cưng của chú muốn làm chú thức giất . Thay vì con chó, chú đã nhìn thấy anh chàn bệnh nhân người Ấn Độ thưở trước, mặc một cái áo dài màu xám, là bộ y phục dân tộc của anh ta . Hắn ta hua cái cùi tay cụt lên va nhìn chú với một vẻ trách móc . Sau đó hắn đi tới phía những bình của chú, mà khi đó chú giữ ở trong phòng của chú; hắn xem xét những bình này một cách chăm chú; rồi hắn đưa ra một điệu bộ giận dữ và biến mất . Chú đoán rằng hắn ta vừa mới chết và hắn ta tới nhắc lại với chú lời hứa của chú và đòi lại bàn tay của hắn ."

"Như vậy đó ! Cháu đã biết tất cả, bác sĩ Hardane ạ . Mỗi đêm, cứ vào giờ đó, từ bốn năm nay, cái cảnh đúng hệt như vậy cứ diễn ra . Nó làm chú mòn mỏi đi như một hòn đá bị mòn đi vì một giọt nước cứ đều đặn rơi xuống hoài . Nó đã mang tới cho chú sự mất ngủ, vì chú không thể nào ngủ được, chú chờ đợi sự xuất hiện của thằng cha người Ấn Độ . Việc này đã đầu độc những ngày tàn của chú và những ngày tàn của vợ chú là người cũng dự phần vào nỗi lo âu lớn này . Nhưng chú vừa nghe tiếng kẻng của bữa điểm tâm; chắc bà ấy nôn nóng muốn biết đêm qua cháu ngủ nghê như thế nào . Chú thím rất cảm ơn cháu về sự độ lượng của cháu, vì việc được chia sẻ điều bất hạnh của chú thím với một người bạn, dù chỉ là một đêm thôi, cũng làm cho chú thím được thư thái đôi chút; và đã làm vững lòng chú thím trên sự quân bình về tâm thần mà đôi khi chú thím đã có ý nghi ngờ ."

Đó là câu chuyện kỳ lạ mà ngài Dominic đã tâm sự với thôi, chắc chắn là nhiều người có thể cho đó là một câu chuyện lố bịch không đúng với sự thật; nhưng tôi đã thừa đủ kinh nghiệm đêm hôm trước và tôi đã quen thuộc từ lâu rồi với những vấn đề như vậy, tôi sẵn sàng chấp nhận chuyện đó như một việc hiển nhiên . Tôi cầu cứu tới tất cả những việc nghiên cứu của tôi và tất cả những ký ức của riêng tôi và sau bữa điểm tâm tôi đã làm cho các vị chủ nhà của tôi sửng sốt khi báo tin cho họ biết rằng tôi sẽ trở về London bằng chuyến tàu sớm nhất .

- Cháu bác sĩ thân mến của chú, ngài Dominic kêu lên, vẻ bối rối, như thế là cháu làm cho chú hiểu rằng chú đã thất thố một cách nặng nề về các qui luật của sự tiếp đãi khách bằng cách lôi kéo cháu dính vào cái việc vất vả này . Lẽ ra phải một mình chú mang lấy gánh nặng .

Tôi đáp lại:

- Trái lại, chính vi việc của chú mà cháu trở về London . Nhưng có lẽ chú đã lầm khi tưởng rằng việc mạo hiểm đêm qua đã làm cháu khó chịu . Ngược lại, cháu còn xin phép chú được trở lại đây chiều nay và được ngủ lại một đêm nữa trong phòng thí nghiệm của chú . Cháu rất khao khát muốn gặp lại người khách của chú .

Ông chú tôi rất muốn biết tôi toan tính làm điều gì, nhưng vì e ngại ông sẽ có những hi vọng sai lầm, tôi không muốn nói gì cả . Sau bữa ăn trưa, tôi về tới phòng mạch của tôi, nơi đó tôi bồi bổ ký ức bằng cách đọc lại một vài đoạn quyển sách mới xuất bản nói về khoa học huyền bí .

"Trong trường hợp những linh hồn bị ràng buộc vào trái đất, tác giả nói, chỉ cần một ý nghĩ nào ám ảnh họ vào giờ phú lâm tử cũng đủ để giữ họ lại trong thế giới vật thể của chúng ta . Họ là những lưỡng thể của cõi đời này, cõi đời sau, họ có thể đi từ đời này sang đời khác giống hệt như con rùa đi từ nước lên đất liền . Những nguyên nhân kết nối một cách vững vàng một linh hồn vào một đời sống mà thể xác của linh hồn đó đã từ bỏ là những cảm xúc dữ dội . Tính keo kiệt, sự trả thù, sự lo âu, tình yêu, lòng thương là những điều mà ta đều biết dể gây nên sự linh hiển này, một sự việc thường xảy ra từ một ý nguyện chưa được hoàn thành . Khi ý nguyện đã được thành toàn, mối dây nối liền với vật thể sẽ nới lỏng . Người ta ghi chép nhiều trường hợp nêu rõ sự bướng bỉnh đặc biệt của những vị khách này; và cả sự biến đi của họ khi những ý nguyện của họ đã được thành toàn, hoặc đôi khi một sự giàn xếp ổn thỏa được đạt tới ."

Một sự giàn xếp ổn thỏa ... Đây chính là những từ mà tôi đã tìm kiếm suốt một buổi sáng và bây giờ tôi mới thấy trong bài viết . Ở Rodenhurst, không thể có vấn đề một sự tu chỉnh thực sự; nhưng một sự giàn xếp ổn thỏa ! Không để mất một phút nào, tôi đi tới bệnh viện Chartwell của hải quân, nơi mà viên y sĩ giải phẫu tại chức là anh bạn cố tri, Jack Hewell của tôi . Không cần giải thích tình thế với anh, tôi nói với anh điều mà tôi muốn .

- Một bàn tay đàn ông màu nâu ! Anh nhắc lại với một vẻ kinh ngạc . Đồ quỷ quái, tại sao anh lại muốn có một bàn tay màu nâu ?

- Xin chớ tìm hiểu . Hôm khác tôi sẽ nói chuyện đó với anh . Tôi biết rằng anh có những người Ấn Độ chật ních các phòng của anh .

- Thật vậy ! Nhưng mà một bàn tay ...

Anh suy nghĩ một lát rồi bấm chuông .

- ... Taverne, anh bảo một người y tá, những bàn tay của anh thủy thủ mà chúng ta đã cắt hôm qua bây giờ ra sao ? Tôi nói cái anh chàng ở bến cảng Đông Ấn đã bị cuốn trục quay chạy hơi nước đó .

- Chúng hiện ở trong phòng giảo nghiệm, thưa ngài .

- Lấy cho tôi một chiếc, để nó vào các hộp khử trùng và trao nó cho bác sĩ Hardane .

Tôi về tới Rodenhurst trước bữa ăn tối với cái gói nhỏ của tôi . Tôi không nói gì với ngày Dominic cả nhưng tôi đóng cửa phòng lại để ngủ đêm trong phòng thí nghiệm và tôi để cái bàn tay của người thủy thủ vào một trong những cái bình ở cuối giường tôi .

Kết quả cuộc thí nghiệm này làm tôi say mê đến mức tôi không thể nào ngủ được . Ngồi yên với một ngọn đèn được che kín đặt bên cạnh, tôi chờ đợi người khách của tôi . Lần này tôi nhìn thấy hắn ta một cách rõ ràng từ lúc bắt đầu . Hắn hiện ra bên cạnh cửa lớn, nom lờ mờ trong vài ba phút, rồi hình dáng hắn tụ đặc lại và trở thành vững chắc nom như hình dáng của một người sống vậy . Đôi giày vải đỏ của hắn lê đi dưới tấm áo dài màu xám của hắn . Cũng như đêm hôm trước, hắn đi kiểm soát dẫy bình một cách thong thả và hắng dừng lại trước cái bình có đựng cái bàn tay . Hắng đứng nhón người lên trên các đầu bàn chân; mặt hắn run run vì sự thèm muốn; hắn cầm lấy cái bình, xem xét nó, nhưng mặt hắn co rúm lại vì điên cuồng và thất vọng và hắn quăng cái bình xuốn đất . Tiếng loảng xoảng của chất thủy tinh bị bể vang dội lên khắp căn nhà . Gã Ấn Độ cụt tay biến mất như bởi sự bùa chú . Cửa mở ra và ngài Dominic chạy vội vào phòng tôi .

- Cháu không bị thương chứ ? Ông kêu lên .

- Không, nhưng thành thực là bị thất vọng .

Ông nhìn một cách sững sờ những mảnh thủy tinh vỡ và cái bàn tay màu nâu nằm trên mặt sàn nhà .

- Lạy chúa tôi ! Ông kêu lên . Thế là thế nào ? ...

Tôi nói cho ông biết về ý nghĩ của tôi và về kết quả hẩm hiu của nó . Ông chăm chú nghe tôi nói nhưng ông lắc đầu .

- ... Lý luận như thế là đúng lắm, ông nói với tôi . Nhưng chú sợ rằng những nỗi đau khổ của chú không chấm dứt một cách giản dị như vậy đâu . Ngược lại, chú tuyệt đối nhấn mạnh tới một điểm . Bất cứ vì lý do nào, cháu cũng sẽ không được ngủ ở đây nữa . Nỗi lo sợ mà chú trải qua lúc nãy khi nghĩ rằng có điều gì xảy ra cho cháu, lúc nghe tiếng loảng xoảng đó đã là sự kinh hoàng rùng rợn nhất mà chú từng biết . Chú sẽ không muốn chịu đựng một lần thứ hai .

Tuy nhiên ông vẫn cho phép tôi ngủ nốt đêm đó trong phòng thí nghiệm, nơi mà tôi nằm bực bội nghĩ về sự thất bại của tôi . Những tia sáng đầu tiên của bình minh rọi tới soi sáng cái bàn tay của người thủy thủ còn nằm trên sàn nhà; tôi nhìn nó một cách máy móc ... Và một ý nghĩ đột ngột xuất hiện trong đầu tôi .

Tôi nhảy xuống khỏi ghế trường kỷ và tôi cầm lấy cái bàn tay màu nâu lên . Đúng, tôi đã có lý ! Đó là chiếc bàn tay bên trái của người bị cắt cụt tay .

Tôi trở về London bằng chuyến tàu sớm nhất và vội vã tới bệnh viện hải quân . Tôi nhớ rằng người thủy thủ trong câu chuyện nó bị cắt cụt cả hai tay, nhưng tôi cứ thấp thỏm lo sợ rằng cái bộ phận quý giá khiến tôi đến đây để tìm đã bị quăng vào lò thiêu rồi . Nỗi lo sợ của tôi sau đó được xua tan: bàn tay phải còn nằm trong phòng giải nghiệm . Thế là tôi lại đi Rodenhurst ngay buổi chiều hôm đó, nhiệm vụ của tôi đã hoàn tất và cái bàn tay nâu thứ hai nằm trong túi tôi .

Nhưng ngài Dominic không muốn nghe gì cả khi tôi loan báo tôi sẽ ngủ một đêm thứ ba trong phòng thí nghiệm . Ông cứ làm ngơ trước lời thỉnh cầu của tôi . Lòng hiếu khác của ông bị thương tổn: ông tỏ ra không gì lay chuyển được . Thế là tôi phải để cái bàn tay phải vào một cái bình, như tôi đã để cái bàn tay trái đêm hôm qua và tôi đi vào nằm trong một căn phòng rất đầy đủ tiện nghi ở đầu bên kia của căn nhà .

Nhưng số trời đã định rằng giấc ngủ của tôi vẫn cứ bị phá rối . Vào lúc nửa đêm, vị chủ nhà của tôi chạy xộc vào phòng tôi . Ông quấn người trong một chiếc áo choàng và với thân hình đồ sộ của ông, có lẽ ông sẽ làm cho một người yếu bóng vía sợ hãi ông hơn là con ma người Ấn Độ . Nhưng không phải sự xuất hiện của ông làm tôi kinh ngạc: nhưng đó là vẻ mặt và một dáng điệu mà tôi chưa từng thấy có ở ông . Trông ông trẻ ra tới hai mươi tuổi, hai mắt ông sáng ngời, diện mạo ông rạng rỡ sự vui thích . Ông vung vẩy một tay bên trên đầu ông, với một vẻ chiến thắng . Tôi ngồi dậy, thấy lo sợ một cách mơ hồ, lời nói của ông làm tôi thức tỉnh hoàn toàn .

- Thế là xong rồi ! Chúng ta đã thành công ! Cháu Hardane thân yêu của chú, chú làm thế nào để đền ơn cháu cho đủ ?

- Hẳn chú không muốn nói là mưu mẹo đã trót lọt ?

- Trót lọt chứ ! Chú tin chắc rằng cháu sẽ không giận chú nếu chú đánh thức cháu dậy để báo cho cháu biết một tin tốt đẹp như vậy .

- Giận chú ư ? Thật tình cháu không nghĩ tới chuyện đó . Nhưng chú có chắc vậy không ?

- Chú không có một mảy may nghi ngờ, cháu thân mếnt của chú ạ, chú là người mắc nợ cháu, từ trước không bao giờ chú mắc nợ bất cứ một ai và chú cũng không mong mắc nợ ai ! Không biết chú có thể làm gì để xứng đáng với công việc mà cháu vừa làm cho chú ? Đúng là trời đã xui khiến cháu tới giúp chú . Cháu đã cứu vãn cả linh hồn và đời sống của chú . Và vợ chú nữa ! ... Bà ấy chết dần, chết mòn ở trước mắt chú . Chưa bao giờ chú dám nghĩ rằng một con người lại có thể gỡ cho chú thoát khỏi gánh nặng đó .

Ông nắm lấy tay tôi và xoắn chặt nó trong hai bàn tay ộng

- Đó chỉ là một cuộc thí nghiệm, một sự mạo hiểm lúc tuyệt vọng, tôi nói nhưng trong thâm tâm, tôi rất vui thích là công việc đã thành công . Làm thế nào chú biết rằng mưu mẹo đã trót lọt ? Chú đã nhìn thấy những gì ?

Ông ngồi xuống cạnh giường tôi .

- Chú đã thấy đầu đủ, ông đáp lại . Khá đủ để tin chắc rằng từ nay chú sẽ không bao giờ còn bị quấy nhiễu bởi anh chàng Ấn Độ đó . Chú sẽ nói cho cháu rõ những gì đã xảy ra . Đêm hôm qua, hắn ta cũng tới vào giờ thường lệ của hắn ta và hắn lay chú một cách dữ dằn hơn mọi khi . Chú đoán rằng sự thất vọng của hắn đêm qua đã làm tăng thêm sự nóng giận của hắn . Sau khi nhìn chú một cách hung bạo, hắn lại ra đi trong cuộc dạo chơi mỗi đêm của hắn . Nhưng sau một vài phút, hắn quay lại phòng chú . Đây là lần đầu tiên từ khi bắt đầu sự quấy nhiễu của hắn, hắn mỉm cười . Chú nhìn thấy những chiếc răng trắng của hắn sáng long lanh . Hắn đứng trước mặt chú, ở cuối giường, rồi hắn cúi đầu rất thấp ba lần, đây là một kiểu chào kính cẩn của người Đông Phương, một cách chào từ biệt đầy vẻ trang nghiêm, lần cúi thứ ba, hắn đã giơ cả hai tay lên khỏi đầu, chú nhìn thấy hai bàn tay hắn . Và hắn biến mất, theo chú nghĩ, có lẽ sẽ vĩnh viễn biến mất .

Đó là cuộc phiêu lưu kỳ lạ đã khiến cho tôi chiếm được lòng cảm mến và sự biết ơn của ông chú tôi, vị y sĩ nổi danh tại Ấn Độ . Các điều dự đoán của ông đã thể hiện : không bao giờ ông còn bị quấy nhiễu bởi anh chàng người sơn cước lang thang đi đòi lại cái bàn tay bị mất của hắn ta . Ngài Dominic va phu nhân Holden đã hưởng một tuổi già sung sướng, không bị bận tâm bởi một chuyện nhỏ nhặt nào và họ đã qua đời trong thời bệnh dịch cúm hoành hành, mỗi người chết cách nhau vài tuần lễ . Khi ông còn sống, ông luôn luôn hỏi ý kiến tôi để tiếp thu những lời khuyên về cách xử sự của người Anh mà ông biết rất ít; tôi cũng giúp ông trong việc khai thác tài sản của ông . Từ lúc đó còn gì mà tôi phải ngạc nhiên với việc tôi đã vượt qua đầu năm ông anh họ đang giận dữ và trở thành chủ nhân của một lãnh địa lớn tại Wiltshire ? Dù sao thì tôi cũng có lý do để tôn kính cái ký ức về con người có bàn tay bị cắt cụt và cái ngày mà tôi có được sự may mắn giải thoát Rodenhurst khỏi sự hiện diện phiền toái của hắn ta .

Con mèo Brasil

Với một người trẻ tuổi, thật là một sự khổ cực khi mang vào mình những sở thích xa hoa, những ước vọng lớn lao, những phong độ quý phái trong gia đình, nhưng lại không có một đồng xu dính túi, cũng chẳng có nghề nghiệp gì khiến cho người đó kiếm ra tiền. Thế mà cha tôi, một người vô tư lự, đã đặt lòng tin quá mạnh vào sự giàu có và lòng tử đến của Lord Southerton, anh cả của cha tôi (ông này sống độc thân) đến nỗi ông cứ đinh ninh rằng tôi, đứa con duy nhất của ông không bao giờ phải làm việc để mưu sinh cả. ông cứ tưởng tượng rằng nếu không có chỗ làm cho tôi ở các hội đồng hành chánh của các cơ sở Southerton thì chắc chắn người ta sẽ mời tôi vào một chức vụ trong các cơ sở ngoại giao là những ngành vẫn còn là các đặc hữu của giai cấp được ưu đãi của chúng tôi. Cha tôi đã chết quá sớm nên ông không thể đo lường được sự sai lầm trong các tính toán của ông. Cả ông bác tôi lẫn nhà nước chả ai thèm bận tâm đến tôi một chút nào. Thỉnh thoảng có một cặp trĩ hoặc một lồng thỏ, đó là tất cả những thứ tới tay tôi để nhắc cho tôi nhớ rằng tôi được thừa hưởng tài sản Otwell, một trong những tài sản lớn nhất ở Anh quốc. tôi còn độc thân, tôi sống tại Luân Đôn, tôi ở một căn hộ trong khu nhà Grosvenor, và suốt ngày tôi đi bắn chim bồ câu và chơi pô lô ở Hurlingham. Hết tháng này sang tháng khác, các khó khăn về tài chính của tôi cứ chồng chất lên. Sự suy thoái đang rình rập tôi; mỗi ngày nó càng hiện rõ hơn; nó là điều hoàn toàn không thể tránh khỏi.

Tôi cũng căm hận sự nghèo khổ của tôi như là sự sung túc trong gia tộc tôi, ấy là không nói tới sự giàu sang vô tận của Lord Southerton. Sau ông bác tôi thì người có họ gần nhất là Edward King, cháu của cha tôi và là anh em con chú con bác với tôi người đang sống một cuộc đời phiêu lưu ở Brasil và vừa trở về nước Anh để hưởng thụ sự giàu có. Không bao giờ chúng tôi biết là ông ta đã kiếm tiền bằng cách nào, nhưng hẳn là ông ta phải có rất nhiều tiền, vì ngay sau khi về nước, anh ấy đã mua tài sản của gia đình Greylands ở gần Clipton-on-the-Marsh, trong vùng Suffolk. Trong năm đầu tiên ở Anh quốc, ông ta chẳng quan tâm gì đến tôi hơn là ông bác keo kiệt của tôi; và rồi một buổi sáng mùa hè, tôi nhận được mộtlá thư mời xuống chơi lâu đài Greylands ngay ngày hôm đó. Trong khi tôi đang băn khoăn về sự phá sản sắp tới của tôi, lời mời này đối với tôi thật sự là sự hiện thân của một ân huệ của Thượng đế. Chỉ cần tôi tạo được những giao tình tôt đẹp với ông anh họ chưa biêt mặt này, tôi sẽ moi được chút đỉnh đây; vì danh dự của gia tộc, ông ta sẽ không để tôi suy sụp. thế là tôi sai anh hầu phòng sửa soạn hành trang và buổi chiều thì tôi khởi hành đi Clipton-on-the-Marsh.

Sau khi sang xe ở Ipswich để lên một chuyến xe lửa chạy trong vùng, tôi xuống một ga nhỏ vắng hoe, nằm giữa những đồng cỏ lởm chởm, với một con song chảy uể oải giữa các bờ cao lầy bùn uốn khúc quanh co trong thung lũng; thủy triều đã chứng tỏ ảnh hưởng của nó tới tận nơi này. Không có một cái xe nào đón tôi cả (sau đó tôi mới biết rằng điện tín của tôi đã bị trễ). Tôi đành phải thuê một cái xe ở quán trọ gần đó. Trên đường đi, anh đánh xe, một kiểu người mạnh bạo, không ngừng tán tụng người anh họ tôi, và do đó, tôi được biết là Edward King đã trở thành một người có thế lực ở trong vùng này; ông ta tổ chức một ngày hội cho các học sinh, đã mở cửa trang trại tiếp khách, đã góp tiền vào các công cuộc từ thiện. Tóm lại, anh đánh xe chỉ giải thích sự hào phóng đó bằng giả thuyết là ông anh họ tôi muốn được bầu làm dân biểu.

Sự chú ý của tôi bị mang đi khỏi những lời tán tụng đó vì sự xuất hiện của một con chim rất đẹp đậu trên một cột dây thép ở bên đường. Thoạt mới nhìn, tôi tưởng đó là một con chim cà cưỡng nhưng nó to hơn nhiều và lông nó sáng hơn. Người đánh xe nói rằng con chim đó là của anh họ tôi, một người có tật kỳ cục là thích thuần hóa các thú vật lạ. Ông đã mang từ Brasil về những con chim và những con thú mà ông cố gắng nuôi ở Anh quốc. Khi đã vượt các hàng rào song sắt của công viên Greylands, tôi mới nhận thấy là người đánh xe không nói dối tôi. Những con hươu nhỏ bé, một con lợn rừng kỳ quái mà tôi nghĩ có tên là dã trư, một con hoàng oanh có bộ lông tuyệt đẹp, một con vật họ hàng của giống trút, và một loại chồn rất lớn, nhô ra trong khi bọn tôi chạy xe trên lối đi vào.

Ông Edward King đứng ở thềm của và đã trông thấy chúng tôi từ đằng xa và đã đoán ra tôi là ai rồi. Ông có phong cách khả ái, tử tế; người lùn và khỏe mạnh, ông khoảng bốn mươi lăm tuổi, đầu ông tròn vì bị thiêu đốt bởi nắng vùng nhiệt đới nên nổi lên hàng ngàn vết nhăn li ti. Theo kiểu các nhà trồng tỉa, ông mặc một bộ quần áo bằng vải trắng. Với điếu xì gà trên môi và cái mũ rơm lớn hất về phía sau, giá kể ông đứng ở trước một cái nhà nghỉ mát có hàng hiên thì đúng hơn là đứng trước ngôi nhà lớn của người Anh đã có từ thời Georges.

"Mình ơi!" Ông quay người lại và kêu lên. "Người khách của chúng ta đây rồi. Chú rất được hoan nghênh ở Greylands, chú em họ Marshall ạ! Tôi rất hài lòng được biết chú, và tôi coi sự có mặt của chú ở nơi thôn quê nhỏ bé cô quạnh này là một lời chúc tụng chú đã dành cho tôi"

Sự đón tiếp nồng nhiệt của ông làm cho tôi khoan khoái ngay tức thì. Nhưng tất cả sự thân mật đó đã không đủ để bù lại sự lạnh nhạt, tôi có thể nói là sự vô lễ mà bà vợ của ông tỏ ra với tôi. Người to lớn, và gầy ốm, tôi nghĩ rằng bà ta là dân gốc Brasil, dù bà nói tiếng Anh rất giỏi. Thoạt đầu, tôi cho rằng bà có thái độ đó là vì không biết phong tục của chúng tôi. Thật ra và ta không tìm cách che giấu tôilà sự có mặt của tôi ở lâu đài Greylands không làm bà vui thích chút nào. Lời lẽ lúc nào cũng nhã nhặn nhưng bà có một cặp mắt đen có sức biểu lộ đặc biệt, nhìn mắt bà tôi thấy ngay rằng bà hết lòng mong mỏi tôi trở về Luân Đôn càng sớm càng hay.

Tuy nhiên những món nợ của tôi đang quá khẩn cấp và những dự kiến mà tôi xây dựng trên sự hào phóng của ông anh họ giàu sang này lại quá quan trọng, dễ gì cái tính xấu của bà King làm thay đổi được các kế hoạch của tôi. Tôi làm ra vẻ không nhận thấy sự lạnh nhạt của bà vợ và khi nói chuyện với người chồng, tôi đáp lại với sự thân mật không kém sự thân mật của ông. Ông dành mọi thứ để làm cho tôi được thoải mái, dễ chịu. Căn phòng của tôi rất đẹp. Ông bảo tôi cứ nói rõ cho ông biết tất cả những thứ gì có thể cần thêm cho tiện nghi của tôi. Tôi đã toan trả lời rằng một tấm ngân phiếu để trống sẽ thỏa mãn đủ các nguyện vọng của tôi, nhưng chắc chắn sự thật thà như vậy là hơi hấp tấp vì chúng tôi vừa mới quen nhau mà. Bữa ăn tối thật là sang trong. Sau đó chúng tôi cùng ngồi hút thuốc lá Havane và uống cà phê. Ông nói với tôi là cả thuốc lá và cà phê đều từ các đồn điền của ông mang tới. Đúng thế, tất cả những lời tán tụng của người đánh xe tôi thấy hình như đã được chứng minh; chưa bao giờ tôi gặp được một người hiếu khách hơn.

Tuy vậy lòng hào hiệp và tính khả ái bẩm sinh của ông cũng không ngăn cản được ông có một ý chí và một khí chất rất hung hăng. Tôi đã có một thí dụ ngay buổi sáng ngày hôm sau. Vào lúc ăn điểm tâm, sự ác cảm kỳ quái của bà Edward King đã đi tới những mức độ gần như nhục mạ. ngay sau khi ông chồng rời khỏi phòng ăn, bà không tự kiềm chế được nữa. Bà nói với tôi:

- Chuyến tàu ban ngày tốt nhất khởi hành vào mười hai giờ mười lăm phút buổi trưa.

- Nhưng tôi không nghĩ rằng tôi đi hôm nay! - tôi trả lời với tất cả sự thành thật.

Sự thành thật có kèm theo một chút thách thức, vì tôi đã nhất quyết không để cho mụ đàn bà này đuổi tôi ra khỏi cửa.

- Ồ, cái đó là do chú quyết định...

Rồi bà quay gót đi trở vào nhà.

Sự nhục mạ thật là hỗn xược và thô bạo quá khiến tôi đứng lặng người. tôi cứ bất động như vậy cho đến khi ông chủ nhà đi tới. Ông đã vui vẻ trở lại nói với tôi.

- Tôi hy vọng là vợ tôi đã xin lỗi chú về những lời nói ngu ngốc của bà ấy?

- Vâng, vâng! Đã nói rồi!

Ông ấy nắm lấy tay tôi và chúng tôi cùng đi bách bộ trên sân cỏ. Ông khẩn khoản.

- Chú đừng để bụng chuyện đó. Tôi sẽ buồn phiền không tả được nếu chú cắt ngắn chuyến ở chơi một giờ đồng hồ thôi. Sự thể là bà vợ thân yêu của tôi có tính hay ghen không thể tưởng tượng được (không có lý do gì để chúng tôi chơi trò ú tim giữa họ hàng với nhau) bà ấy không thích một người nào, bất kể đàn ông hay đàn bà xen lẫn vào giữa hai vợ chồng chúng tôi dù trong một chốc lát. Lý tưởng của bà ấy là một đời sống vĩnh cửu bên nhau trên một hoang đảo. Đó là lý do của một vài phản ứng mà tôi xin thú nhận với chú là gần giống như một sự điên rồ, chú hãy hứa với tôi là chú không nghĩ tới chuyện đó nữa nhé!

- Đồng ý! Tôi sẽ không nghĩ tới chuyện đó nữa.

- Vậy thì hãy hút điếu xì gà này, tôi sẽ cho chú xem vườn thú nhỏ bé của tôi.

Suốt cả buổi sáng được dành cho cuộc thăm thú này; ông cho tôi xem những con chim những con thú và cả những con rắn Mary ông đã mang từ nước ngoài vào. Có những con được thả tự do, nhiều con khác bị nhốt trong chuồng, một vài con được ở trong nhà. Với sự hứng khởi, ông nói với tôi về những thành công và những thất bại của ông, những vụ thú vật sinh đẻ và thú vật bị chết; khi chúng tôi tới gần thì một con chim sặc sỡ cất cánh bay lên hay khi một con vật kỳ lạ chạy ra, nếu ông không reo lên vui mừng như một cậu học trò thì cũng đúng lẽ thôi. Sau chót, ông dẫn tôi vào một hành lang dài chạy suốt một chái nhà và tận cùng ở một cái cửa nặng nề có cánh kéo ra kéo vào được. Bên cánh cửa, một cái cần để quay tay bằng sắt nối liền vào một cái bánh xe và một cái trục quay nhỏ ra khỏi tường, một hàng chấn song kiên cố ngang qua hành lang.

- Tôi sẽ cho chú xem một vật quý hiếm trong bộ sưu tập của tôi, - ông nói với tôi. Hiện nay con nhỏ ở Rosterdam đã chết rồi, ở châu Âu chỉ còn một con nữa thôi. Đó là một con mèo Brasil".

- Nó khác với một con mèo khác thế nào?

Ông cười và trả lời tôi.

- Rồi chú sẽ thấy. Chú có muốn đẩy cái cửa ra và nhìn vào bên trong không?

Tôi đồng ý. Tôi trông vào một căn phòng lớn, trơ trụi được lát đá, có những cửa sổ nhỏ có chấn song sắt ở trên bức tường trước mặt. Ở giữa căn phòng này, một convật rất lớn cỡ một con hổ,nhưng kông đen và bóng nhoáng như gỗ mun đang nằm dưới một tia nắng. Đó là một con mèo khổng lồ được chăm sóc rất cẩn thận. Nằm cuôn tròn mình lại, nó tự sưởi ấm một cách bình thản như bất cứ một con mèo nào. Trông nó thật đài các, thật khỏe mạnh, thật đẹp đẽ, thật quỷ quái một cách cao ngạo khiến cho tôi phải dừng lại ở trước cái cửa một lúc lâu để ngắm nghía nó.

- Trông nó có kỳ không? - Ông chủ nhà hỏi tôi với một vẻ hứng khởi.

- Tuyệt diệu! Tôi chưa bao giờ thấy một con vật đẹp hơn.

- Đôi khi người ta gọi nó là con cọp đen, nhưng thật ra nó không phải là một con cọp, từ đầu tới đuôi nó đo được ba thước rưỡi. Bốn năm trước đây nó chỉ là một nắm tròn phủ kín lông đen, để lộ ra đôi con mắt vàng thôi. Người ta đã bán ngay cho tôi sau khi nó được sinh ra ở một vùng hoang vu gần những con suối tai Rionegro. Mẹ nó đã bị hạ sát bằng những nhát giáo vì nó đã giết chết khoảng một chục người dân địa phương.

- Vậy chúng là loại thú dữ anh?

- Những con vật khát máu nhất và phản phúc nhất trong các con vật sống trên trái đất! Hãy nói về một con mèo Brasil với một người da đỏ ở vùng cao nguyên và chú sẽ thấy hắn giật nảy người lên... Những con mèo Brasil thích thiẹt người hơn là bất cứ con mồi nào. Con mèo này chưa được nếm máu một sinh vật nào. Nhưng ngày nào nó được nếm thì nó sẽ trở thành một nỗi khủng khiếp. Hiện bây giờ nó không chịu cho một người nào ngoài tôi ra vào trong chuồng của nó. Ngay cả Baldwin là người coi chuồng cũng không dám đến gần nó. Nhưng tôi, tôi vừa là bố nó, vừa là mẹ nó.

Vừa nói ông vừa mở phăng cái cửa ra, trước sự kinh ngạc lớn lao của tôi và ông bước vào bên trong sau khi đóng sập ngay cửa lại ở phía sau ông. Nghe tiếng ông nói, con vật kếch xù mềm mại đứng lên, ngáp và cọ cái đầu tròn và đen của nó một cách âu yếm vào chủ nó, khi ông vuốt ve nó.

- Tommy, bây giờ vào chuồng đi!

Con mèo quái dị bước về một góc của gian phòng và nằm xuống duới một cái lưới sắt. Edward King đi ra và ông bắt đầu quay cái cần quay tay bằng sắt mà tôi đã nói tới. Lúc đó, hàng song sắt của hành lang bị chuyển động và trượt qua một kẽ hở trong tường để đóng kín mặt trước của lưới sắt. Khi cái chuồng di động này được khép kín rồi, ông mở cửa ra và mời tôi đi vào căn phòng trong đó không khí nặng nề nồng nặc mùi đặc biệt của những loại thú lớn ăn thịt sống.

Ông nói với tôi.

- Đó là cách thức mà chúng tôi làm việc. Chúng tôi để cho nó được sử dụng căn phòng để nó vận động, đi lại; nhưng buổi chiểu thì chúng tôi nhốt nó vào chuồng. Chúng tôi có thể cho nó đi ra bằng cách quay cái cần quay tay ở hành lang hoặc là chúng tôi có thể cũng bằng cách đó nhốt nó lại, như chú vừa thấy đó. Không, không, đừng làm như vậy!...

Tôi vừa cho bàn tay qua các song sắt để vuốt ve cái hông bóng loáng của con vật. Ông ấy giật bàn tay tôi lại phía sau.

- Tôi đoán chắc với chú rằng cần phải đề phòng. Chú đừng tưởng rằng vì tôi gần gũi được với nó mà bất cứ ai cũng có thể tự cho mình cái quyền thân mật với nó. Nó rất khó tính trong sự lựa chon bạn bè, phải không, Tommy? À, nó biết là bữa ăn sáng của nó đang tới! Hả, con trai của ta?...

Một bước chân vang lên trong hành lang lát đá; con mèo Brasil đứng vụt dậy cặp mắt nó long lanh, cái lưỡi nó lia đi lia lại trên những cái răng trắng ớn và sắc nhọn, nó bắt đầu đi đi lại lại trong cái chuồng chật hẹp. Một anh coi chuồng đi vào với một đùi thịt đặt trên một cái mâm và quăng đùi thịt qua lớp chấn song cho nó. Con vật đớp lấy miếng thịt đang bay tới rồi mang vào một góc; tại đó nó cặp đùi thịt vào các móng chân và xé vụn từng mảnh, thỉnh thoảng lại ngẩng cái mõm dính đầy máu lên nhìn chúng tôi. Thật là một cảnh tàn bạo nhưng hấp dẫn.

- Chú không còn ngạc nhiên nữa khi thấy tôi yêu nó lắm phải không? - ông anh họ nói với tôi khi chúng tôi rời khỏi căn phòng - Chính tôi đã nuôi nấng nó. Đem nó từ vùng đất ở giữa Nam Mỹ về đây không phải là một chuyện nhỏ! Nhưng cuối cùng thì đây này, nó vẫn khỏe mạnh, yên lành, như tôi đã nói với chú, nó là con vật đẹp nhất ở Âu châu! ở sở thú, người ta thèm chết đi được để mua nó, nhưng thực sự tôi không có can đảm rời xa nó. Thôi, tôi nghĩ là tôi đã làm chú bận tâm khã nhiều về những tính kỳ cục của tôi; tốt hơn hết là ta hãy bắt chước con Tommy, đi điểm tâm đã.

Người anh em vùng Nam Mỹ của tôi quá say mê với rang trại và những con vật kỳ dị của ông khiến tôi không nghĩ rằng ông còn có thể quan tâm tới một điều gì khác. Nhưng rồi tôi biết ngaylà mình đã lầm; ông ta tiếp nhận rất nhiều điện tín, điều này có nghĩa rõ ràng là ông co những công việc khác, và đó là những công việc khẩn cấp. Những bức điện tín tới bất cứ vào giờ nào; bao giờ ông cũng là người mở chúng ra và ông giải mã chúng với sự thích thú. Việc làm ăn của ông có phải là trường đua ngựa, hay Sở hối đoái không? Trong mọi tình huống, chúng không có một sự liên quan nào với các khu đồi trọc ở Sussex. Trong thời gian sáu ngày tôi sống ở Greylands không ngày nào mà ông nhận dưới ba hay bốn bức điện tín; thường thường là bảy đến tám bức.

Trong sáu ngày đó, tôi đã hành xử rất khôn khéo, khiến cho các liên hệ của tôi với ông anh họ đã trở nên cực kỳ thân thiết, mỗi buổi tối, hai chúng tôi đều thức rất khuya trong phòng chơi bida, và ông đã kể cho tôi nghe những chuyến mạo hiểm kinh dị nhất của ông ở châu Mỹ: những câu chuyện của ông quá rùng rợn, quá khủng khiếp, mà ông kể lại với một vẻ vô tư quá đỗi khiến cho tôi khó mà tin được rằng người anh hùng trong các câu chuyện đó lại là con người nhỏ bé, má phính đang ngồi bên cạnh tôi. Để đánh đổi lại, tôi cũng nỏia từ trong ký ức vài mẩu giai thoại về cuộc sống ở Luân Đôn; những giai thoại này làm ông thích thú đến nỗi ông hứa rằng sẽ tới Luân Đôn thăm tôi và sẽ ở lại nhà tôi ở khu nhà Grosvenor. Ông rất muốn được hội nhập vào cái thế giới của những cư dân của thủ đô; ông còn có thể nhờ vào người hướng dẫn nào thành thạo hơn nữa, tuy nhiên tôi phải đợi tới ngày cuối cùng mới đề cập tới vấn đề chính yếu của tôi. Tôi thành thật kể cho ông rõ những điều phiền phức về tai chánh của tôi và sự suy sụp đang rình rập tôi; sau đó, tôi hỏi ý kiến của ông, trong lòng hy vọng một điều gì cụ thể hơn. Ông lắng nghe tôi nói, miệng luôn phì phèo điếu xì gà.

Rồi ông hỏi tôi:

- Nhưng mà này, chú chính là người thừa kế của ông bác chúng ta, Lord Southerton, phải không?

- Tôi cũng nghĩ như vậy, nhưng không bao giờ ông ấy cho tôi môt xu.

- Tôi có nghe nói về tính keo kiệt của ông ấy. Chú Marshall khốn khổ ơi! Chú gặp cảnh quá khó khăn đó! Nhân nói về chuyện đó, chú có nhận được tin tức mới nào về sức khỏe của Lord Southerton không?

- Từ khi tôi còn nhỏ tý ty, lúc nào ông ấy cũng đau ốm, không nhiều thì ít.

- Đúng thế, sự thừa kế của chú còn có thể chậm trễ lâu hơn nữa. Lạy Chúa, nhưng hoàn cảnh của chú thật kỳ cục!

- Thưa anh, tôi hy vọng là anh đã biết rõ các sự việc và anh có thể vui lòng giúp cho tôi...

- Đừng nói thêm gì nữa, chàng trai thân mến của tôi! - Ông kêu lên với sự nồng nhiệt - Ta sẽ nói về chuyện này tối hôm nay và tôi hứa với chú là tôi sẽ làm tất cả những gì trong khả năng của tôi!

Tôi không thấy có gì phật ý khi thấy những ngày lưu lại đây của tôi sắp kết thúc, vì không có gì khó chịu bằng việc cảm thấy mình kothích hợp với và chủ nhà. Nét mặt vàng nhạt và cặp mắt lạnh như băng của bà King càng ngày càng trở nên đáng ghét đối với tôi. Bà không còn tỏ ra công khai vô lễ nữa; bà quá sợ ông chồng nên không dám có thaid độ hỗn xược. Nhưng bà đẩy tính ghen tuông ngu xuẩn của bà tới chỗ là làm lơ tôi đi; không bao giờ bag nói với tôi một lời; và bà nghĩ mọi cách để làm cho sự lưu ngụ của tôi tại Greylands trở nên cực kỳ buồn tẻ. Nhất là vào ngày cuối cùng, bà tỏ một thái độ quá trắng trợn khiến tôi tính bỏ đi ngay tức thì, nếu tôi không đặt nhiều hi vọng vào cuộc hội kiến mà tôi cần phải có trong buổi tối.

Cuộc hội kiến này diễn ra rất muộn. Ông anh họ tôi đã tiếp nhận trong lúc ban ngày nhiều bức điện tín hơn là thường lệ và sau bữa ăn ông đã tự nhốt mình trong văn phòng; ông chỉ bước ra khi nọi người trong nhà đã đi ngủ. Tôi nghe thấy ông đi vòng quanh nhà để khóa các cửa ngõ, theo như thói quen của ông. Sau cùng, mình choàng một cái áo ngủ và chân đi đôi giày đỏ hở gót, ông tới gặp tôi trong phòng chơi bida. Ông ngồi phịch xuống cái ghế bành bà tự tay rót một cốc Whisky Soda; tôi không thể làm gì khác hơn là nhận thấy lượng Whisky nhiều hơn là nước soda.

Ông thở dài:

- Trời! Một đêm thật dễ sợ!...

Thật vậy, gió gào thét, rên rỉ khắp chung quanh căn nhà; những cửa sổ kêu răng rắc và cọt kẹt làm như chúng sắp bị phá vỡ tung. Ánh sáng của những ngọn đèn và mùi thơm xì gà của chúng tôi đã tạo ra một khung cảnh thoải mái hơn.

- ... Bây giờ, chàng trai của tôi ơi, - ông chủ nhà nói tiếp - cả ngôi nhà và bầu trời đêm đều thuộc về chúng ta. Chú có muốn chỉ cho tôi thấy một cách chính xác tình trạng công việc của chú không? Tôi sẽ xem làm cách nào để chỉnh đốn chúng lại. Cho tôi biết mọi chi tiết đi.

Sau khi được khích lệ nhu vậy, tôi lao mình vào một bài thuyết trình đầy đủ trong đó có tên tuổi tất cả những người bán hàng và chủ nợ của tôi, từ ông chủ nhà cho tới anh hầu phòng. Tôi lập cho ông một bản kết toán mà tôi tự hào là một kiểu mẫu trong loại này. Nhưng tôi hơi bực bội khi thấy rằng người bạn của tôi có một cái nhìn trống rỗng của một kẻ mà sự chú tâm đang để ở mãi đâu đâu. Mỗi lần khi ông ngắt lời tôi chỉ là để đưa ra một nhận xét hời hợt chẳng ăn nhằm vào đâu; tôi tin chắc là ông chẳng theo dõi những lời giải thích của tôi một chút nào. Thỉnh thoảng ông ngồi ngay ngắn người lại, hình như tự làm cho tỉnh táo lại, ông bảo tôi nhắc lại một số câu hay bổ sung câu đó bằng một sự chính xác phụ thêm, rồi lại đắm chìm trong các suy tư riêng rẽ của ông. Cuối cùng, ông đứng lên và quăng điếu xì gà vào ống khói. Ông nói với tôi.

- Tôi xin thú thật với chú một vài điều, chàng trai của tôi ạ. Từ xưa không bao giờ tôi giỏi về tính nhẩm và tôi rất tiếc điều đó. Chú phải viết tất cả những việc đó lên giấy và làm con tính cộng của chú bằng cách viết ra. Tôi sẽ hiểu các con số khi tôi đọc trên giấy trắng mực đen...

Lời đề nghị không có gì là quá đáng cả. Tôi hứa là tôi sẽ thực hiện.

- Và bây giờ là lúc chúng ta đi ngủ. Ồ, đã một giờ rồi!

Tiếng chuông đồng hồ ở phòng ngoài đã chế ngự được sự ồn ào của bão táp trong giây lát.

- Tôi phải đi xem con mèo của tôi trước khi lên lầu đi ngủ. Một cơn gió lớn cũng làm nó bực bội. Chú có muốn đi với tôi không?

- Nhất định rồi.

- Vậy thì hãy đi nhẹ nhàng và đừng nói chuyện vì mọi người đang ngủ.

Chúng tôi lặng lẽ đi qua phòng ngoài, rồi qua cái cửa mở và hành lang lát đá ở cuối chái nhà. Tất cả đều tối tăm, nhưng có một ngọn đèn lồng ở chuồng ngựa được treo vào một cái móc. Ông anh họ tôi cầm lấy và đốt lên. Những chấn song sắt không nhìn thấy được trong hành lang; vậy là con vật đang nằm trong chuồng.

Ông anh họ tôi mở cửa và nói với tôi.

- Vào đi!

Một tiếng gầm gừ dữ dội báo cho chúng tôi biết con vật đang rất giận dữ vị thời tiết xấu. Dưới ánh sáng chập chờn của cái đèn lồng, chúng tôi nhìn thấy nó. Cái khối đen kếch xù đang co rút lại trong một góc ổ của nó, chiếu ra một cái bóng lùn tịt trên bức tường quét vôi trắng; đuôi nó đập xuống nệm rơm một cách tức tối.

- Con Tommy khốn khổ không được hài lòng lắm. Edward King nói và giơ cao đèn lồng lên để nhìn nó. - Trông nó giống như một con hắc quỷ lắm phải không? Tôi sẽ cho nó ăn tối để cho nó dịu đi. Chú cầm hộ tôi cái đèn lồng một lát được không?

Tôi cầm lấy cái đèn này từ tay ông đi tới chỗ cái cửa.

- Tủ thức ăn của nó để ở bên cạnh. Chờ tôi một chút có được không?

Ông đi ra và cánh của khép lại sau lưng ông với một tiếng lanh canh của kim loại. tôi rùng minh. Một nỗi kinh hoàng mơ hồ đột nhiên tràn ngập lòng tôi. Ý nghĩ hoang mang về một sự phản trắc đầy tội lỗi làm máu tôi lạnh buốt như băng. Tôi chồm lên cánh của nhưng ở phía trong không có chốt cài.

Tôi kêu lên.

- Này! Cho tôi ra đi!

Từ ngoài hành lang ông anh họ tôi đáp lại.

- Đừng la om sòm lên! Chú có cái đèn lồng mà, phải không?

- Vâng, nhưng tôi chẳng có thích thú nào khi bị nhốt một mình như thế này.

- Thế nào? Chú không thích bị nhốt một mình à?

Tôi nghe thấy tiếng cười đùa cợt nhả của ông ấy.

- ... Chú sẽ không phải ông đó một mình lâu đâu, tôi hứa với chú điều này!

- Này, ông anh, hãy để tôi ra đi! - tôi giận dữ nhắc lại - Tôi đoan chắc với anh rằng tôi không phải là hạng người dễ bỏ qua những lối đùa cợt như thế này.

- Những sự đùa cợt thật đúng lf danh từ thích hợp! - Ông đáp lại với một tiếng cười nhỏ nữa.

Và bỗng nhiên, giữa sự ồn ào của bão tố tôi nghe thấy tiếng kèn kẹt và tiếng rè rè của cái cần quay tay, và tiếng các chấn song sắt bắt đầu trượt vào kẽ hở. Trời ơi, ông ấy đag thả con mèo Brasil ra!

Dưới ánh sáng của cái đèn lồng, tôi nhìn thấy các chấn song sắt từ từ di chuyển. Đã có một khoảng trống rộng ba mươi centimet ngăn cách chúng với bức tường ở phía bên kia. Hét lên một tiếng lớn, tôi rúc vào cái song sắt cuối cùng và tôi kéo nó với sự điên cuồng của một kẻ mất trí. (Đúng là tôi đã trở nên điên dại vì nóng giận và kinh hoàng). Trong khoảng chừng hai phút, tôi giữ cái song sắt đứng yên. Tôi biết rằng ông anh họ tôi đang dùng hết sức lực đè vào cái cần quay tay, và cuối cùng thì sức mạnh đòn bẩy sẽ đánh bại sự chống cự của tôi. Tôi chỉ lùi từng centimet một; bàn chân tôi trượt đi trên nền lát đá, nhưng tôi vấn không ngừng nài nỉ tên quái vật vô nhân đạo hãy tha cho tôi khỏi một cái chết tàn bạo như thế này. Tôi cầu khẩn ông ta với danh nghĩa họ hàng của chúng tôi. Tôi kêu gọi lòng hiếu khách của ông. Tôi nài nỉ ông nói cho tôi biết là tôi đã bao giờ làm điều gì tệ bạc với ông chưa! Nhưng câu trả lời duy nhất của ông là những chấn động mà ông đặt vào cái cần quay tay; trong khi đó, cứ mỗi lần chấn động thì lại có một song sắt nữa biến mất vào khe hở. Cứ như thế tôi tự để cho mình bị kéo lê đi dọc theo cái chuồng, cho tới lúc cuối cùng, hai cổ tay đau nhừ, những ngón tay đẫm máu, tôi đành phải bỏ cuộc trong trận đấu không cân bằng này. Khi tôi thả tay ra, bức tường của các song sắt hoàn toàn mất dạng. Một lúc sau đó, tôi nghe tiếng đôi giày đỏ hở gót đi xa dần trong hành lang; cánh cửa ở cuối hàng lang đóng lại một cách nhẹ nhàng. Bây giờ tất cả đều yên lặng.

Trong lúc này, con vật không động đậy, nó nằm trên nệm rơm; đuôi nó đã thôi không vùng vẫy nữa. Cái cảnh tượng một người bị dính chặt vào các song sắt và bị kéo lê trước mặt có vẻ đã làm cho nó khiếp sợ. Tôi trông thấy đôi mắt lớn của nó trừng trừng nhìn tôi. Tôi đã để cái đèn lồng xuống đất khi tôi muốn bám chặt vào các song sắt vì nó vẫn còn đang cháy, tôi muốn cầm lấy nó, với ý nghĩ là ánh sáng có thể che chở cho tôi thì con vật gầm lên một tiếng khủng khiếp. Tôi dừng lại và đứng bất động, với sự kinh hoàng. Con mèo (khi chấp nhận rằng ta có thể gọi một con vật khủng khiếp như vậy bằng cái tên khả ái) ở cách xa tôi không quá ba mét. Cặp mắt nó sáng như hai cục lan tinh tròn trong đêm tối. Trông chúng như có phép thôi miên. Tôi không thể rời mắt khỏi chúng. Trong những giây phút căng thẳng thế này, tạo hóa đã đùa với chúng ta những trò kỳ lạ; các tia sáng này cứ tăng lên và giảm đị theo một nhịp độ đều đặn. Lúc thì chúng giống như hai điểm bé xíu với một ánh sáng cực mạnh, như những tia điện lóe lên trong mộtcăn phòng tối mịt, lúc thì chúng tỏa rộng ra và lớn lên cho tới lúc tất cả cái góc phòng mà con vật ngồi đều tràn đấy cái ánh sáng ma quỷ ấy. Rồi chúng tắt đi một cách đột ngột.

Con vật đã nhắm mắt lại. Tôi không biết có một sự thật nào không trong cái ý nghĩ cổ xưa về uy lực của cái nhìn của con người, do đó con mèo Brasil có thể đã ngủ. Có vẻ như thay vì biểu lộ một ý định hung hăng, thì nó lại tỳ cái đầu đen và óng ánh của nó lên hai bàn chân trước kếch xù và có vẻ như muốn ngủ. Tôi không dám nhúc nhích, sợ rằng sẽ làm thay đổi thái độ của nó, nhưng ít ra tôi cũng có thể suy nghĩ vì cặp mắt khủng khiếp của nó không nhìn tôi nữa. Thế là tôi đã bị nhốt một đêm với con dã thú này. Bản năng của tôi kết hợp với những lời nói của tên đểu cáng đã lừa tôi vào bẫy cảnh báo rằng tôi đang phải đương đầu với một con vật cũng tàn bạo như chủ của nó. Làm thế nào để tránh khỏi sự nguy hiểm cho tới sáng? Về phía cái cửa, không có một hy vọng nào; còn về các cửa sổ, chúng rất hẹp và có song sắt. Không ở chỗ nào có một nơi lánh nạn, một chỗ trú ẩn trong căn phòng trần trụi này. Gọi cầu cứu cũng là vô bổ; tôi biết rằng cái hang dã thú này là một căn phòng phụ thuộc và cái hành lang nối liền nó với chái nhà của ngôi nhà dài tới ba mươi hay bốn mươi mét. Ngoài ra, với giông bão đang hoành hành bên ngoài, những tiếng kêu của tôi sẽ không ai nghe thấy. Tôi chỉ còn có thể trông cậy vào lòng can đảm và sự khôn khéo của tôi mà thôi.

Hỡi ôi, một lớp sóng tuyệt vọng mới đã nhận chìm tôi! Trong mười phút nữa, cái đèn lồng sẽ tắt ngúm. Tôi chỉ còn có mười phút để hành động. Tôi tự biết rằng tôi không còn khả năng tự vệ nếu tôi ở trong đêm tối mịt mù cùng với con dã thú này. Nghĩ tới chuyện này, tôi như tê liệt toàn thân. Cặp mắt hoảng sợ của tôi nhìn một vòng quanhcăn phòng nhốt tử tội này; chúng dừng lại ở một nơi duy nhất tuy không hứa hẹn cho tôi một sự an toàn trọn vẹn nhưng ở đó tôi sẽ đỡ bị lộ ra hơn là ở trên sàn nhà trơ trụi.

Cái chuồng có một cái mái, và cũng có một cái mái ngoài; cái mái này vẫn nằm ngang khi cái mái ngoài được kéo tuột vào trong kẽ hở. Khung sườn của nó được làm bằng những thanh sắt đặt cách nhau độ vài centimet và được phủ bằng một lớp lưới dây thép, nó được dựng ở mỗi bên một cái trụ rất lớn. Trông nó giống như một cái lọng lớn được căng ra, bên trên cái bóng mờ nằm trong góc phòng. Giữa cái dàn bằng sắt này và trần nhà là khoảng bảy mươi hay tám mươi centimet. Chỉ cần tôi có thể lên được đó và ngồi gọn vào giữa các song sắt và trần nhà thì tôi sẽ chỉ còn bị nguy hiểm ở một phía thôi, sự an toàn của tôi được bảo đảm ở phía dưới, ở đằng sau, ở đầu và hai chân. Tôi chỉ có thể bị tấn công ở mặt bị bỏ ngỏ phía trước thôi. Ở phía này thật tình tôi sẽ không lợi dụng được một sự che chở nào. Ít ra tôi cũng không phải đứng trên lối đi của con vật khi nó đi vòng trong hang ổ của nó. Muốn vồ được tôi, nó phải thay đổi các thói quen của nó. Nhưng nếu tôi muốn hành động thì phải làm ngay bây giờ, nếu không chẳng bao giờ làm được nữa, vì một khi cái đèn lồng đã tắt, tôi sẽ không còn khả năng để làm gì nữa. Với một sự nôn nòng hồi hộp ứ lên tận cổ họng, tôi tung mình lên. Tôi bám lấy cái mép sắt của mái chuồng và thở hổn hển, tôi cố lấy lại sức để đu người lên phía trên. Tôi nằm sấp xuống một cách nhẹ nhàng để nhận thấy rằng cái nhìn của tôi chiếu thẳng vào cặp mắt khủng khiếp của con mèo. Nó phì vào mặt tôi hơi thở hôi hám của nó, tôi có cảm tưởng là mình đang nằm bên trên một cái nồi nấu những thứ ô uế ghê tởm.

Tuy nhiên, nó có vẻ kinh ngạc hơn là tức giận. Nó duỗi tất cả bề dài của cái lưng đen xì của nó ra, đứng dậy, vươn vai và ngáp dài; sau đó nó đứng thẳng ên trên hai chân sau, chống một chân trước vào tường và giơ chân kia lên, lấy móng quơ vào những sợi dây thép của mạng lưới mắt cáo mà tôi nằm trên. Một cái móng trắng nhọn hoắt xé rách quần tôi (tôi vẫn còn mặc bộ quần áo dạ hội) và để lại một vết xước dài trên đầu gối tôi. Nói đúng ra thì đó không phải là một sự tấn công, nhưng chỉ là một sự thăm dò. Quả tình là tôi đã để thốt ra một tiếng kêu đau nhỏ và con thú lại ngã ra phía sau, đứng trên bốn chân. Nó bước một cách nhẹ nhàng bắt đầu đi vòng quanh căn phòng, thỉnh thoảng lại ngẩng đầu lên nhìn về phía tôi. Tôi cố sức lùi vào để áp lưng vào bức tường. Tôi càng ngồi xa cái mép bao nhiêu thì nó càng khó tấn công tôi bấy nhiêu.

Từ lúc bắt đầu cử động, nó có vẻ bực bội hơn. Nó bước nhanh hơn và lặng lẽ vòng quanh căn phòng, đi qua, đi lại dưới chỗ ẩn náu của tôi. Thật là tuyệt diệu, khi được thấy một khối thịt đồ sộ như vậy đi lại như một cái bóng mag không co một tiếng động nào khác ngoài tiếng đập trầm, nhẹ nhàng của những bàn chân bọc nhung của nó! Ánh lửa của cái đèn lồng đã gần như không còn nhìn thấy được nữa; tôi khó mà nhìn rõ con vật. Và rồi sau một tia sáng cuối cùng, ngọn đèn tắt ngúm. Còn lại một mình với con thú dữ trong cảnh tối tăm.

Khi người ta biết rõ là mình đã làm hết sực lực và ngaycả đã làm những điều không thể làm được thì người ta sẽ đương đầu với sự hiểm nguy một cách tốt đẹp hơn: ta chỉ còn có việc chờ đợi một cách thanh thản tiếp diễn của các sự việc. Trong tình huống hiện thời, tôi đã chiếm cứ được một chỗ duy nhất để đảm bảo cho tôi một sự an toàn tương đối. Do đó, tôi nằm duỗi thẳng người ra và tự để cho mình được vỗ về bởi cái hi vọng là con vật có thể quên đi sự có mặt của tôi, nếu tôi không làm điều gì để nhắc nhở nó việc đó. Tôi tính nhẩm là chắc đã tới hai giờ sáng. Tới lúc bốn giờ, trời sẽ sáng. Phải chò đợi hai giờ đồng hồ nữa!

Ở bên ngoài, giông bão vẫn còn dữ dội, và mưa đập mạnh vào các cửa sổ nhỏ. Ở bên trong thì không khí hôi hám. Tôi không thể trông hay nghe thấy con mèo. Tôi có không nghĩ tới nó nữa. Chỉ có một điều có thể làm tôi xao lãng tình thế khủng khiếp của tôi lúc này, đó là sự phản phúc của người anh họ tôi, sự đạo đức giả không gì so sánh được của ông ta, sự hận thù quái ác của ông ta đối với tôi. Dưới cái mặt nạ phúng phính, vui vẻ đã ẩn núp linh hồn của một kẻ sát nhân thời trung cổ. Nghĩ lại chuyện đó, tôi đã nhìn thấy rõ ràng hơn cách thức ông ta chuẩn bị cho kế hoạch của mình như thế nào. Bề ngoài thì rõ ràng là ông ta đã lên lầu đi ngủ cùng một lúc với mọi người khác, chắc chắn là ông ta sẽ có những người làm chứng để xác nhận việc này, rồi ông ta lẻn xuống nhà, dẫn dụ tôi vào cái hang thú này và bỏ mặc tôi trong đó. Câu chuyện ông ta bịa ra cũng sẽ đơn giản thôi. Ông ta sẽ nói rằng ông ta để tôi ngồ lại trong phòng chơi bida hút nốt điếu xì gà, rằng tôi đã tự ý đi xem con mèo một lần chót, rằng tôi đã đi vào trong phòng mà không nhận thấy cái chuồng đã mở ra, và rằng tôi đã bị ăn thịt. Làm thế nào mà một vụ án như thế lại có thể đổ lỗi cho ông ta được? Có thể là người ta sẽ nghi ngờ ông ta; nhưng lấy bằng chứng nào để buộc tội ông ta? Không có một bằng chứng nào cả.

Hai giờ đó mới chậm chạp làm sao. Có một lần tôi nghe thấy một tiếng chà xát; tôi độ chừng là con vật đang liếm lông của nó. Có nhiều lần, cặp mắt xanh lè của nó quay về phía tôi, nhưng không bao giờ nhìn chăm chú vào tôi. Tôi bắt đầu hy vọng là thật sự nó đã quên tôi, hoặc nó muốn lơ tôi đi. Cuối cùng, ánh sáng đầu tiên của bình minh đã lọt qua cửa sổ. Thoạt đầu tôi nhìn thấy hai ông vuông màu xám trên bức tường đen rồi màu xám trở thành màu trắng; lúc đó tôi lại nhìn thấy rõ ràng người bạn cùng phòng khủng khiếp của tôi. Nhưng than ôi, chính nó cũng có thể nhìn thấy chỗ tôi nằm!

Ngay tức khắc, tôi đoán ra rằng tính nết nó còn hung hăng hơn nhiều, còn nguy hiểm hơn nhiều. Cái lạnh buổi ban mai làm cho nó cáu kỉnh, và chắc là nó đã đói bụng. Nó gầm gừ không ngừng và đi qua đi lại ở phía căn phòng đối diện với tôi và là chỗ cách xa nơi ẩn núp của tôi nhất. Râu nó dựng đứng lên, đuôi ve vẩy một cách giận dữ, khi nó xoay bước ở các góc phòng, cặp mắt dữ tợn của nó ngước lên về phía tôi. Tôi nhìn trong mắt nó thấy rõ ràng một sự đe dọa khủng khiếp nhất; tôi biết là nó muốn giết tôi. Tuy nhiên, ngay cả vào lúc đó tôi cũng không thể ngăn cản mình khỏi cảm phục dáng bộ uyển chuyển của con vật quỷ quái này, những bước đi dài và mềm mại của nó, màu lông óng ảnh ở hai bên hông nó, sự động đậy của cái lưỡi đỏ lắt lẻo dưới cái mõm đen xì. Nó gầm gừ mỗi lúc một lớn hơn. Hết phút này qua phút khác, tôi chờ đợi sự tấn công của nó.

Thật quá buồn thảm khi phải chết như thế này! Tôi thấy lạnh, tôi run lập cập trong bộ quần áo dạ hội mặc lúc chiều tối, tôi đau đớn một cách tuyệt vọng trên cái lưới sắt cực hình của tôi. Tôi cố sức nâng cao tâm hồn tôi lên trên cái số phận đang chờ đợi tôi, nhưng đồng thời với sự tỉnh táo vốn là đức tính đặc biệt của một người đã sẵn sàng chập nhận nọi chuyện. Tôi đảo mắt tìm xem liệu có vật gì có thể giúp cho tôi thoát khỏi con vật. Lúc đó tôi nhận ra rằng nếu cái khung sườn các song sắt làm thành mái trước của cái chuồng quay trở lại chỗ cũ như trướclúc gã anh họ tôi chuyển động cái cần quay tay, tôi sẽ có thể tự nhốt mình vào trong cái chuồng và kiếm được chỗ ẩn náu sau hàng song sắt. Nhưng làm cách nào để kéo các song sắt mà không gây ra sự chú ý của con vật? Và ngay cả làm sao tôi có thể di chuyển các song sắt mà không có sự giúp đỡ của cái cần quay tay ở bên ngoài? Một cách rất thong thả tôi chìa ra một bàn tay và tôi đặt nó lên cái song sắt cuối cùng chưa tụt vào trong tường. Tôi thấy rất kinh ngạc khi nhận ra rằng cái khung chấn song sắt đã dễ dàng tuân theo sức kéo của tôi. Tất nhiên là có sự bất tiện nếu kéo nó ra vì tôi đang bám vào nó. Tuy nhiên tôi cứ kéo từng nấc nhỏ, từ trong bức tường đã chồi ra mười centimet của mái trước của cái chuồng. Chắc chúng đã được gắn trên các bánh xe nhỏ. Tôi kéo nữa. Và bất thần con mèo chồm lên.

Cái nhảy chồm này quá nhanh, quá đột ngột đến nỗi thực sự tôi không nhìn thấy. Tôi chỉ nghe thấy một tiếng gầm man rợ và ngay sau đó những con mắt màu vàng lóe sáng, cái đầu đen với cái lưỡi đỏ hoét và những cái răng trắng nhởn của nó đã ở sát tầm bàn tay của tôi. Sự va chạm làm rung động tấm lưới sắt mà tôi đang nằm ở trên; tôi tưởng rằng nó sẽ sụm xuống. Bám lủng lẳng ở ngoài mép bằng hai chân trước, con mèo bắt đầu đu đưa thân mình; mõm và các móng vuốt của nó gần chạm tới người tôi; hai chân sau của nó quắp lấy lưới mắt cáo để cố tìm một điểm tựa. Hơi thở của nó làm tôi muốn nôn ọe. Nhưng nó đã tính lầm bước nhảy và không thể giữ cho thân mình cân bằng được. Nó nhăn nhó điên cuồng cắn vào những song sắt, đu đưa về phía sau trước khi rơi xuống sàn nhà một cách nặng nề. Nó vừa gầm gừ vừa quay lại ngay tức khắc và lấy sức để chồm lên lần thứ nhì. Tôi biết rằng số phận tôi sẽ được định đoạt trong những giây sắp tới. kinh nghiệm lần đầu đã dạy khôn cho con vật. Nó sẽ không sai lầm lần thứ hai, khi cần tôi phải hành động nhanh chóng và liều lĩnh, nếu tôi muốn có cơ hội để sống còn. Tôi đã có một ý nghĩ: tôi cởi áo vét của tôi ra và tôi quăng nó lên đầu con vật. Cùng lúc đó tôi để mình rơi xuống qua mép mái chuồng, tay nắm chặt lấy cái khung chấn song sắt của mái hiên và dùng hết sức kéo vào phía bên trong.

Cái khung song sắt trượt đi một cách dễ dàng hơn là tôi đã nghĩ. Tôi đi ngang qua tất cả chiều rồng của căn phòng kéo cái khung song sắt đằng sau tôi. Nhưng có sự nhầm lẫn chết người nữa, tôi lại đang đứng bên ngoài của song sắt! Nếu tôi đứng ở bên trong thì tôi sẽ thoát nạn không hề hấn gì. Vậy mà tôi lại đang đứng bên ngoài của song sắt. Vậy là tôi phải dừng lại một lát để lách qua khe hở mà tôi còn để ngỏ giữa bức tường và song sắt. Khoảng khắc này cũng đủ để làm cho con vật vuột ra khỏi cái áo vét mà tôi đã chùm lên đầu nó và để cho nó chồm lên. Tôi len qua khe hở và tôi đẩy các song sắt nhưng trước khi tôi có thể đẩy hết các song sắt và tới bức tường bên kia thì con mèo Brasil đã tấn công vào một chân tôi. Một cú vồ của cái chân khổng lồ của nó đã xé rách một cách tàn bạo bắp chân của tôi. Người be bét máu, kiệt sức vì xúc động, tôi ngã vật xuống cái đệm rơm hôi hám; một dãy song sắt đầy thiện cảm đã ngăn cách tôi khỏi con dã thú, trong khi nó điên cuồng tới tấp nhào vào các song sắt một cách uổng công.

Quá đau đớn không còn động đậy được nữa, quá yếu ớt không còn cảm thấy sợ hãi nữa, tôi chì còn có thể nằm dài ra, có nhiều phần chết hơn là phần sống, và dòm chừng kẻ thù. Nó lấy cái ngực lớn den xì đè vào các song sắt và cố tìm cách móc tôi ra bằng những bàn chân cong lại của nó, như cách những con mèo nhỏ thường làm trước một cái bẫy chuột! Nó quào vào quần áo của tôi, nhưng nó không thể chạm tới người tôi. Tôi có nghe tới hậu quả kỳ cục của sự tê cứng sinh ra bởi các vết thương do các thú dữ lớn gây nen; tôi sẽ kiểm chứng thuyết này; thật vậy tôi dần dần mất hết mọi giác quan của con người, và tôi theo dõi các ý định của con mèo như thể tôi không phải là con mồi, nó đang rình rập. Rồi thì đầu óc tôi hôn mê dần dần trong những giấc mộng hỗn độn ở đó luôn hiện ra cái đầu đen xì và cái lưỡi đỏ loét của nó. Cuối cùng, tôi chìm vào cõi nát bàn của sự hôn mê, sự thanh thản thánh thiện mà tạo hóa dành cho những kẻ bị đặt vào một thử thách quá phũ phàng.

Sau đó, ôn lại trong đầu trình tự các diễn biến, tôi đi tới kết luận là tôi đã phải ngất đi trong hai giờ đồng hồ. Điều làm cho tôi ra khỏi cơn hôn mê là tiếng kim loại lanh canh của ổ khóa mà từ đó bắt đầu cuộc mạo hiểm của tôi. Trước khi tôi tỉnh lại hẳn hoi để có một cảm nhận rõ ràng về các sự vật, tôi nhìn thấy bộ mặt tròn trịa và phúc hậu của ông anh họ tôi, ông ta đang nhìn qua cái cửa mở ngỏ. Hẳn là cảnh tượng trước mắt đã làm ông ta kinh ngạc. Con mèo nằm dài dưới đất, còn tôi thì ở trong chuồng, đang nằm ngửa, mặc sơ mi trần, quần áo rách tả tơi, người đầm đìa máu me. Tôi còn nhìn thấy vẻ kinh hoàng của ông ta vì ông ta được ánh nắng soi sáng rất rõ. Ông ta nhìn về phía tôi, nhìn nhiều lần. Rồi ông ta đóng cửa ở phía sau lại tiến tới cái chuồng để xem tôi đã chết hẳn chưa.

Tôi không thể nói chính xác được những việc đã xảy ra. Tôi không ở một trường hợp để dùng một nhân chứng. Tôi chỉ xác nhận được rằng tôi biết là ông ta quay lưng về phía tôi để đối diện với con vật.

Rồi ông ta kêu to:

- Tommy ngoan ngoãn của ta! Hỡi Tommy già dũng cảm!...

Ông ta bước giật lùi tới gần cái chuồng và quát lớn:

- Bỏ chân xuống, con vật ngu ngốc! Nằm xuống! Mày không nhận ra chủ của mày nữa à!

Và lúc đó, trong tâm trí mơ hồ của tôi, một ký ức bừng lên. Ông ta có nói với tôi rằng mùi máu tươi sẽ biến con mèo này thành một con ác quỷ, máu tôi đã chảy và ông ta sẽ phải trả giá cho máu của tôi.

Ông ta hét lên.

- ... Cút đi! Cút đi, đồ ác quỷ! Baldwin! Baldwin! Ối, trời ơi.

Tôi nghe thấy tiếng ông ta ngã, ông ta đứng dậy rồi lại ngã nữa. Tôi cũng nghe hình như có tiếng vải bị xé rách. Tiếng la hét của ông ta yếu đi, nghẹn lại rồi tắt lịm trong tiếng gầm thét hung dữ của con mèo. Tôi nghĩ là ông ta đã chết. Nhưng tôi trông thấy như trong một cơn ác mộng một hình thù con người chẳng còn hình dạng, tơi tả máu chảy đầm đìa, chảy một cách điên dại khắp quanh gian phòng. Đó là hình ảnh cuối cùng mà tôi nhận được trước khi tôi lại bị ngất đi.

Tôi phải mất nhiều tháng trời mới bình phục được. Thực ra tôi không thể nói là tôi đã bình phục vì tôi sẽ phải chống gậy để đi cho tới hết đời, để kỷ niệm cái đêm mà tôi sống với con mèo Brasil đó. Baldwin anh coi chuồng thú và những người làm khác không thể giải thích được việc đã xảy ra, khi họ bị lôi cuốn bởi những tiếng kêu thảm khốc của chủ nhân họ. Họ đã thấy tôi ở phía sau các song sắt trong khi những mảnh còn lại của người anh họ tôi (chỉ mãi sau đó họ mới phát hiện ra rằng đólà những mảnh còn lại của ông ta) nằm vương vãi dưới móng vuốt của con dã thú mà ông ta đã nuôi dưỡng. Họ dồn con mèo vào một góc bằng những thanh sắt nung đỏ đến trắng toát lên rồi họ đánh ngã nó qua cái ô nhỏ trên cánh cửa lớn; chỉ tới lúc sau đó họ mới có thể mang tôi ra khỏi cái chuồng. Tôi được khiêng vào phòng của tôi, và ở đó, dưới mái nhà của kẻ đã quyết tâm sát hại tôi, tôi đã trải qua nhiều tuần giữa cái sống và cái chết. Được săn sóc bởi một y sĩ ở Clipton và một nữ điều dưỡng ở Luân Đôn, sau một tháng tôi đã có thể được đưa về lâu đài Grosvenor.

Từ cơn bệnh này, tôi giữ được một hình ảnh có lẽ nó cũng góp phần nào vào cơn mê sảng, trong đó đầu óc tôi đang giãy giụa. Một buổi chiều, trong khi cô nữ điều dưỡng vắng mặt, cửa phòng tôi mở ra, một người đàn bà cao lớn mặc tang phục lặng lẽ bước vào chỗ tôi. Khi bà ta cúi bộ mặt vàng khè trên giường tôi, tôi nhận ra đó là người đàn bà Brasil mà ông anh họ tôi đã cưới làm vợ. Bà nhìn tôi ới một vẻ mặt rất khả ái.

Bà hỏi tôi.

- Chú đã tỉnh lại hẳn chưa?

Tôi trả lời bằng một cái gật đầu nhẹ vì tôi còn rất yếu

- ... Này, tôi chỉ muốn làm cho chú nhìn nhận rằng những việc xảy ra cho chú là lỗi của chú. Tôi đã chẳng làm tất cả những gì tôi có thể làm cho chú đấy ư? Ngay từ lúc đầu tôi đã cố sức làm cho chú bỏ đi. Bằng mọi cách kể cả sự đánh liều phản bội chồng của tôi, tôi đã hết sức cứu chú. Tôi biết là ông ta có một lý do mạnh mẽ để mời chú tới Greylands. Tôi biết ông ta sẽ không bao giờ để cho chú trở về. Không ai biết ông ta hơn tôi, tôi là người đã đau khổ rất nhiều vì ông ta, tôi đã không dám nói chuyện ấy với chú. Ông ta đã toan giết chết tôi. Nhưng tôi không thể tự trách mình một điều gì. Tôi đã coi chú là ngu ngốc, mà quả thật chú đã xử sự như một thằng ngốc!

Nói tới đó, người đàn bà kỳ quái này đi ra khỏi phòng tôi. Tôi không bao giờ còn gặp lại bà nữa. Với số tiền mà bà lấy được từ tài sản của ông chồng, bà trở lại cố hương; sau đó tôi được tin là bà đã vào nhà tu ở Pernambone.

Sau khi tôi trở về Luân Đôn được ít lâu, các bác sĩ cho phép tôi được tiếp tục các công việc thường ngày. Sự cho phép đã không làm cho tôi thích thú chút nào, vì tôi sợ rằng sau đó sẽ là một đám chủ nợ của tôi. Nhưng người khách đầu tiên mà tôi tiếp lại là Summers, viên quản lý văn khế của tôi.

Ông ta mở đầu câu chuyện.

- Tôi rất sung sướng nhận thấy ngài đã khỏe mạnh rất nhiều! Tôi đã chờ đợi rất lâu trước khi trình lên ngài những lời chúc tụng của tôi.

- Ông muốn nói gì thể, ông Summers? Bây giờ không phải là lúc nói đùa, ông tin tôi chứ?

- Tôi muốn nói một cách chính xác điều mà tôi đã nói. Từ sáu tuần lễ nay, ngài đã là Lord Southerton; nhưng chúng tôi sợ rằng tin này sẽ làm trở ngại cho sự bình phục của ngài.

Lord Southerton! Một trong những nhà quý tộc giàu nhất nước Anh! Tôi không thể tin được tai mình về chuyện đó. Rồi thì bỗng nhiên tôi nghĩ tới khoảng thời gian đã trôi qua từ ngày ông ấy qua đời.

- Thế là Lord Southerton đã chết gần với thời gian tôi gặp nạn à?

- Ông ấy chết cùng ngày hôm đó...

Summers chằm chằm nhìn tôi. Là người rất sắc sảo, chắc chắn ông ấy đã đoán ra tính chất thật sự của cái "tai nạn" của tôi. Ông ấy ngừng lại một lát, hình như ông ấy đợi chờ một sự thổ lộ của tôi, nhưng tôi không thấy được lợi lộc gì để làm rùm beng một vụ tai tiếng trong gia đình.

- ... Vâng, thật là một sự trùng hợp kỳ lạ! - ông ấy nói tiếp với cái nhìn soi mói - Tất nhiên ngài cũng biết rằng ông anh họ Edward King của ngài là người đứng sát ngay sau ngài trong thứ bậc thừa kế. Vậy thì nếu ngài đã bị nhai ngấu nghiến thay cho ông ấy bởi con hổ đó hoặc một con vật hung dữ nào tôi không rõ, thì hẳn là ông ấy hôm nay đã trở thành Lord Southerton chớ không phải ngài.

- Chắc chắn là vậy!

Ông Summers nói thêm:

- Nhất định là cái viễn tưởng đó đã làm ông ấy quan tâm rất nhiều. Tình cờ tôi được biết rằng tên đầy tớ của người quá cố Lord Southerton là tay sai cho ông ấy, và y thường xuyên gởi điện tín cho ông ấy mỗi ngày nhiều lần để báo cho ông ấy biết về tình trạng sức khỏe của con bệnh. Việc này xảy ra vào thời kỳ mà ngài đang ở Greylands; không phải là kỳ cục hay sao khi ông ấy mong mỏi được tin tức đến như vây, vì ông ấy đã biết rằng ông ấy không phải là người thừa kế trực tiếp?

Tôi trả lời.

- Rất kỳ cục! Và bây giờ, ông Summers ạ, xin ông vui lòng mang lại cho tôi tất cả biên lai và một quyển chi phiếu mới, chúng ta sẽ có thể bắt đầu chỉnh đốn lại công việc của tôi.

Hết

Chơi với lửa

Tôi không có ý định nói về những gì đã xảy ra một cách chính xác ngày mười bốn tháng tư vừa qua tại số nhà 17 đường Badderly Gardens. Khi viết ra trên giấy trắng mực đen, các giả thiết của tôi có vẻ quá lố bịch để được mọi người coi là truyện đứng đắn. Tuy vậy đúng là có truyện gì đó đã xảy ra: một truyện quá lạ lùng khiến chúng tôi phải nhớ tới cho tới khi chết; câu chuyện này chắc chắn đáng tin cũng như có sự chứng nhận của năm người. Tôi sẽ không để mình bị lôi kéo vào những cuộc tranh luận hay những sự suy diễn. Tôi chỉ xin đưa ra một kiểu lời khai mà tôi đã đưa cho John Moire, cho Harver Deacon và bà De la Mer xem qua; tôi chỉ công bố lời khai này sau khi được họ công nhận từng chi tiết trong đó. Tôi buộc phải bỏ qua sự chấp nhận của Paul Le Duc vì ông đã rời khỏi nước Anh.

Chính John Moire, hội viên thứ nhất của công ty Moire, Moire và Sanderson là người đầu tiên đã lôi kéo sự chú ý của chúng tôi tới các vấn đề của khoa học huyền bí. Giống như nhiều thương gia rất cương quyết và thực tế, ông có một khía cạnh huyền bí, chính khía cạnh này đã đưa ông tới sự khảo sát và chấp nhận, khi có cơ hội, các hiện tượng huyền

hoặc mà người ta đã gói ghém lại cùng với nhiều điều ngu xuẩn và giả trá dưới nhãn hiệu thông linh học. Ông đã bắt đầu các cuộc nghiên cứu với một tinh thần tự do, chẳng mấy chốc những nghiên cứu đó đã mang bộ mặt của các giáo điều; lúc đó ông cũng trở nên tích cực và cuồng tín như một người sùng đạo mù quáng. Trong nhóm người nhỏ bé của

chúng tôi, ông tiêu biểu cho những người huyền bí đã tạo lập một tôn giáo mới dựa theo các hiện tượng lạ lùng này.

Bà De la mer, bà đồng của chúng tôi, là em gái ông và cũng là vợ của nhà điêu khắc De la mer. Kinh nghiệm đã cho chúng tôi thấy rằng đụng tới những vấn đề này mà không có người ngồi đồng thì chỉ uổng công, cũng như một nhà thiên văn muốn tiến hành quan sát mà lại không có kính viễn vọng vậy. Mặt khác không bào giờ chúng tôi muốn đưa vào

nhóm chúng tôi một bà đồng chuyên nghiệp; các bà này rõ ràng chỉ cốt moi tiền chúng tôi nên mới làm việc đó và dễ quay ra lừa bịp; làm sao chúng tôi có thể tin được những hiện tượng được tạo ra với giá biểu một đồng bạc một giờ?

May mắn thay, Moire đã khám phá ra rằng cô em gái ông có khả năng lên đồng, nói theo cách khác bà ta là một cục pin của năng lượng nhân điện, hình thức năng lượng duy nhất khá tế nhị để có thể vận dụng hữu hiệu trên bình diện tinh thần cũng như trên bình diện vật chất của chúng ta. Tất nhiên khi nói đến điều này tôi tuyệt đối không có ý khẳng định

những gì liên hệ tới vấn đề là xác thực: tôi chỉ nhắc tới các lý thuyết nhờ vào đó chúng tôi đã giải thích, có thể là sai mà cũng có thể là đúng, những điều chúng tôi đã nhìn thấy. Bà đồng này đã tới, tuy không hoàn toàn được ông chồng đồng ý. Dù không bao giờ bà cho ta có cảm tưởng bà có một sức mạnh rất lớn về tâm linh, chúng tôi vẫn thấy những kiểu thần giao cách cảm theo thói quen vừa ngây thơ ấu trĩ vừa không thể giải thích được. Chiều chủ nhật nào cũng vậy, chúng tôi gặp nhau tại phòng làm việc của Harver Deacon ở Bedderly Gardens trong căn nhà ở góc đường Merton Park. Đầu óc giàu tưởng tượng của Harver Deacon đã phung phí trong nghệ thuật của ông làm bất cứ ai nhìn thấy cũng

phải coi ông là một tay chơi tài tử rất hăng say về tất cả những gì kỳ quái và dễ gây xúc động. Chắc chắn sự ngoạn mục trong việc nghiên cứu các khoa học huyền bí đã lôi cuốn ông lúc khởi đầu; nhưng rồi sự chú tâm của ông đã nhanh chóng chuyển sang một vài hiện tượng mà tôi vừa nói tới, và ông đã đi tới kết luận rằng những điều ông từng coi là một cuộc mạo hiểm lãng mạn để chơi đủa, như một sự giải trí trong lúc trà dư tửu hậu, thật ra là một sự thực rất đáng sợ. Vốn có bộ óc thông minh và duy lý nổi tiếng, trong cái thế giới nhỏ bé của chúng tôi ông là hình ảnh của một phần tử hay phê phán, một người không có thành kiến lúc nào cũng sẵn sàng theo dõi các sự việc đúng như ông nhìn thấy chúng và luôn khước từ việc đưa ra trước một lý thuyết về những thông tin của ông. Sự khôn ngoan của ông đi ngược lại ý của Moire, giống hệt như chuyện đức tin mạnh mẽ của ông này làm trò cười cho Deacon. Nhưng theo cách của họ, cả hai đều là những kẻ loạn trí.

Còn tôi? Tôi có thể tự coi mình là người thế nào đây? Tôi không phải là người mộ đạo. Tôi cũng không phải là một người phê bình theo lối khoa học. Cứ cho rằng tôi là một anh thị dân có tính tài tử, thích được thấy mình trong một trào lưu thời thượng, biết ơn tất cả những cảm xúc mới làm tôi say mê và mở cho tôi những hướng đi mới về đời sống. Bản

thân tôi không phải là người có nhiệt huyết, nhưng tôi thích giao du với những người có nhiệt huyết. Những ý kiến của Moire cho tôi cảm tưởng chúng tôi đã có một giấy thông hành đặc biệt để mở cánh cửa của cõi chết, và làm tôi hoàn toàn mãn nguyện. Tôi thấy rất thoải mái với bầu không khí ấm cúng của buổi họp mặt dưới ánh sáng mờ ảo. Nói tóm lại, chuyện này làm tôi thích thú. Đó là lý do tại sao tôi đã có mặt tại đó ngày 14 - 4, để chứng kiến một cảnh rất kỳ lạ mà tôi sẽ thuật lại ngay bây giờ.

Trong số đàn ông thì tôi là người tới trước nhất, nhưng bà De la mer đã có mặt trong phòng làm việc của Deacon rồi, vì bà đã uống trà với bà Deacon. Hai bà và ông Deacon đang đứng trước một bức hoạchưa hoàn tất đặt trên giá. Tôi không phải là người sành sỏi về hội hoạ và không bao giờ dám nói là hiểu ý nghĩa các bức hoạ của Deacon. Tuy nhiên

trong trường hợp nay, tôi thấy bức hoạ tuyệt đẹp, rất kỳ ảo, thấm đượm vẻ thần tiên, chứa đầy các loài vật và những hình ảnh tượng trưng đủ loại. Các bà ngợi khen ông hết lời, hiệu lực của màu sắc quả là tuyệt mỹ.

- Ông nghĩ thế nào, ông Markham? Ông ta hỏi tôi.

- Thú thật điều này vượt quá mức hiểu biết của tôi! Tôi đáp lại. Những con thú này... Đó là những con gì vậy?

- Những con quái vật trong thần thoại, những con vật tưởng tượng, các kiểu huy chương. Một đám rước kỳ dị, bí ẩn.

- Với một con ngựa trắng đi đầu!

- Đó không phải là một con ngựa!

Ông đã phản đối lại với một giọng nghiêm nghị, điều làm tôi kinh ngạc vì ông vốn có tính tình rất tốt và không bao giờ tỏ ra quá trang nghiêm.

-Vậy đó là cái gì?

-Ông không trông thấy cái sừng trên trán nó à? Đó là một con kỳ lân. Tôi đã nói với ông đó là những con thú tưởng tượng. Ông không thể nhận ra con nào cả sao?

-Tôi thấy thất vọng, ông Deacon ạ!

Có vẻ như ông đã bị xúc phạm dữ dội, nhưng ông bật cười lớn.

-Hãy tha thứ cho tôi, ông Markham ạ! Ông nói với tôi. Thật ra tôi đã làm một công việc điên rồ với con thú này. Suốt cả ngày tôi vẽ nó, vẽ đi vẽ lại, cố tưởng tượng xem nếu như có một con kỳ lân sống thì nó giống cái gì. Sau cùng tôi tin rằng tôi đã thành công. Ít nhất tôi cũng đã hy vọng vậy, nhưng khi ông không nhận ra nó, tôi thấy bị chạm tự ái dữ dội.

-Chắc chắn đó là một con kỳ lân! Tôi kêu lên với vẻ tin tưởng, vì tôi thấy ông bực bội bởi sự mù tịt của tôi. Tôi phân biệt rất rõ cái sừng, nhưng chưa bao giờ tôi nhìn thấy kỳ lân cả, ngoài những thứ được vẽ trên các huy hiệu hoàng gia, và tôi tuyệt đối không tin là có con thú này. Những con thú khác là những con quái vật đầu sư tử, những con mãng xà và

rồng đủ loại, có phải thế không?

-Vâng, với những con này tôi không gặp một khó khăn nào. Chỉ có con kỳ lân này là làm cho tôi bực mình. Thôi, thế cũng tạm đủ cho tới ngày mai.

Ông quay lật bức hoạ lại ở trên giá và chúng tôi chuyển câu chuyện sang đề tài khác.

Chiều hôm đó ông Moire tới trễ. Chúng tôi ngạc nhiên khi thấy ông đi cùng một người Pháp thấp nhỏ và khoẻ mạnh, mà ông giới thiệu với chúng tôi dưới cái tên là Paul Le Duc. Tôi nói rằng chúng tôi ngạc nhiên, vì chúng tôi giữ quy luật là một sự xâm nhập vào nhóm thông linh học của chúng tôi sẽ làm xáo trộn tình thế và đưa vào một phần tử khả nghi.

Chúng tôi biết có thể tin cậy lẫn nhau, nhưng tất cả kết quả của chúng tôi sẽ có nguy cơ bị hoài nghi bởi sự hiện diện của một người ngoài cuộc. Tuy nhiên, ông Moire đã mau lẽ trấn an chúng tôi. Ông Paul Le Duc là một môn đồ danh tiếng của khoa thần bí học. Ông du lịch tới nước Anh mang theo một thư giới thiệu của ông chủ tịch hội Huynh đệ những người dân Paris của giáo phái Rose-Croix gửi cho ông Moire. Như vậy thật hoàn toàn bình thường khi ông được mời tới dự cuộc ngồi đồng của chúng tôi; chúng tôi còn thấy vinh dự về sự có mặt của ông.

Như tôi đã nói, ông ta nhỏ bé và khoẻ mạnh, nom bề ngoài không có gì đặc biệt. Trên khuôn mặt lớn được cạo nhẵn của ông chỉ có đôi mắt to màu nâu là đáng kể mà thôi. Ông ăn mặc lịch sự, có điệu bộ của một người thượng lưu và nói tiếng Anh bằng một giọng khiến các bà tủm tỉm cười. Bà Deacon vốn không muốn tắt bớt đèn đi như thường lệ và

chúng tôi kéo nhích ghế lại gần chiếc bàn vuông bằng gỗ bạch đàn được kê ở giữa phòng. Ánh sáng yếu ớt nhưng cũng đủ để chúng tôi nhìn thấy nhau rất rõ ràng. Tôi nhớ là tôi còn có thể nhìn thấy rõ ông người Pháp có hai bàn tay nhỏ nhắn mũm mĩm với những ngón tay vuông.

-Thật vui nhỉ! Ông nói với chúng tôi. Đã từ nhiều năm nay tôi không ngồi dự theo lối này, tuy nhiên tôi rất thích việc này. Bà là bà đồng đúng không? Có phải bà hành nghề lên đồng không?

-Không hoàn toàn đúng, bà De la mer đáp lại. Nhưng bao giờ tôi cũng cảm thấy một sự chập chờn nửa thức nửa ngủ.

-Đó là giai đoạn đầu. Chỉ cần thúc đẩy thêm là nó tới chỗ đồng nhập. Khi đồng nhập rồi thì linh hồn bé nhỏ của bà bay đi và một linh hồn khác tới thế chỗ của nó, do đó mà bà đã có giọng nói và tuồng chữ tự động phát sinh. Bà đã để cho người khác nằm quyền điểu khiển cơ thể của bà, phải vậy không? Nhưng những con kỳ lân thì có gì dính líu tới chúng

ta?

Harver Deacon giật nảy người lên. Ông người Pháp từ từ quay đầu lại và chăm chú nhìn vão những bức màn tối sẫm che phủ các bức tường.

-Nom có vẻ ngồ ngộ! Ông ta lẩm bẩm. Luôn luôn là những con kỳ lân. Ai đã nghĩ tới một đề tài kỳ cục như vậy với một cường độ mạnh như thế?

-Thật là kỳ diệu! Deacon kêu lên. Suốt cả ngày tôi đã cố sức vẽ ra một con. Tại sao ông lại biết được?

-Ông đã nghĩ tới những con kỳ lân trong căn phòng này à?

-Chắc chắn là thế!

-Những tư tưởng là vật thể đó ông bạn ạ! Khi ông tưởng tượng tới một vật gì là ông đã tạo ra vật đó. Ông không biết như thế à? Nhưng tôi có thể nhìn thấy những con kỳ lân của ông và không phải chỉ có thể nhìn bằng mắt thôi đâu.

-Có phải ông muốn nói rằng tôi đã tạo ra một vật chưa bao giờ có thật cả chỉ bằng cách nghĩ đến nó thôi à?

-Rõ ràng là thế. Đó là một sự kiện nằm trong tất cả mọi sự kiện khắc. Đó là lý do tại sao một ý nghĩ xấu cũng là một sự nguy hiểm.

-Tôi lại nghĩ đó là trên bình diện siêu nhiên chứ? Ông Moire hỏi lại.

-À, đó chỉ là những từ thôi, ông bạn ạ! Những con vật đó ở kia kìa, tại một nơi nào đó, tại khắp mọi nơi, tôi không thể nói rõ được. Tôi nhìn thấy chúng. Tôi có thể sờ mó vào chúng.

-Ông không thể làm cho chúng tôi nhìn thấy chúng được à?

- Chỉ cần làm cho chúng trở thành hiện thực. Xin các ông chú ý lắng nghe, đây sẽ là cuộc thí nghiệm. Nhưng cần phải có quyền uy. Trước hết hãy đo lường quyền uy mà chúng ta có được, sau đó chúng ta sẽ thấy chúng ta có thể làm gì. Các vị có thể cho phép tôi được xếp cho ngồi cho quý vị theo ý muốn của tôi không?

-Chắc chắn ông là người thành thạo hơn chúng tôi, Deacon trả lời. Tôi mong rằng ông sẽ điều khiển mọi việc.

-Có thể các điều kiện không được hoàn hảo nhưng chúng ta sẽ làm những gì có thể làm. Xin bà cứ ngồi yên tại chỗ cũ, tôi sẽ ngồi cạnh bà ấy và quý ông đây sẽ ngồi bên tôi. Ông Moire sẽ ngồi cạnh bà, vì sự xen kẽ giữa màu nâu và vàng nâu là rất tốt. Vậy là được rồi. Và bây giờ xin quý vị cho phép tôi tắt hết đèn đi.

-Bóng tối thì có lợi ích gì? Tôi hỏi.

-Xung lực mà chúng ta liên hệ tới là một sự rung động của ête, giống hệt như ánh sáng vậy.Bây giờ chúng ta có những sợi dây liên lạc đặc biệt riêng của chúng ta, các vị hiểu không? Thưa bà, bà sẽ không thấy sợ hãi trong bóng tối chứ? Một buổi lên đồng như thế này thật rất vui!

Mới đầu chúng tôi thấy hoàn toàn tối mịt; nhưng sau một vài phút mắt chúng tôi quen dần với bóng tối: chúng tôi có thể nhận ra bóng của chúng tôi một cách rất mơ hồ và rất lộn xộn, tôi phải thừa nhận như vậy. Tôi không thể nhìn thấy những đồ vật khác trong phòng làm việc. Cả bọn chúng tôi đều trang nghiêm hơn rất nhiều so với những lần trước.

- Xin quý vị hãy đặt bàn tay ra trước mặt quý vị. Chúng ta không có cơ hội nào để đụng chạm vào nhau vì chúng ta quá ít người quanh một chiếc bàn kích thước lớn như vậy. Thưa bà, xin bà hãy chuẩn bị. Nếu cơn buồn ngủ kéo tới xin bà đừng cưỡng lại. Còn bây giờ chúng ta hãy ngồi yên lặng và chờ đợi.

Vậy là chúng tôi đều ngồi yên lặng chờ đợi trong khi phải nhìn xoi mói vào bóng tối trước mặt mình. Ngoài hành lang, tiếng đồng hồ kêu tích tắc. Xa xa một con chó sủa lên từng hồi. Hai hay ba lần có tiếng xe ngựa chạy lạo xạo ngoài phố, ánh sáng chập chờn từ những ngọn đèn của chúng lọt qua kẽ mành đã tạo nên một vài khoảng ấm cúng trong

buổi thức thâu đêm của chúng tôi. Tôi cảm thấy các triệu chứng về thể xác đã trở thành quen thuộc qua các buổi lên đồng trước đây: đôi bàn chân giá buốt, bàn tay như bị kiến bò, một cảm giác ấm áp dịu dàng ở lòng bàn tay và một luồng gió lạnh lẽo trên lưng, những cơn đau nhức nhỏ, kỳ lạ nhất là ở hai cánh tay (đặc biệt là ở cánh tay trái, cánh tay gần vị khách của chúng tôi nhất). Những cảm giác này chắc chắn là do sự lộn xộn của hệ thống thần kinh mạch, nhưng dù sao cũng đáng lưu ý. Đồng thời tôi cảm thấy một cảm giác căng thẳng của sự nôn nóng chờ đợi, một cảm giác gần như đau đớn vậy. Cứ xét qua sự im lặng nghiêm ngặt tuyệt đối của các bạn tôi thì đủ biết họ cũng có các dây thần kinh

căng thẳng như tôi.

Rồi đột nhiên một tiếng động nổi lên từ bóng tối: một tiếng rít trầm trầm. Đó là tiếng thở nhanh và nhẹ của một người đàn bà, càng lúc càng nhanh hơn, càng lúc càng nhẹ hơn, như thể hơi thở lọt qua hai hàm rằng nghiến chặt; rồi chúng tôi nghe thấy một tiếng nấc cụt khá mạnh, kèm theo một tiếng sột soạt của vải.

- Cái gì vậy? Có bình thường không? Một người hỏi trong bóng tối.

- Hoàn toàn bình thường, ông người Pháp trả lời. Đó là tiếng thở của bà ấy. Bà ấy đã nhập đồng. Thưa quý vị, bây giờ nếu quý vị vui lòng chờ đợi một cách bình thản, quý vị sẽ thấy một vật mà tôi tin sẽ làm quý vị vô cùng thích thú.

Vẫn còn tiếng tích tắc ngoài hành lang. Vẫn còn hơi thở, nhưng lúc này sâu hơn, dài hơn, của bà đồng. Vẫn còn những tia sáng chập chờn của những ngọn đèn xe ngựa, nhìn thấy rõ hơn bao giờ hết. Chúng tôi đang lấp đầy một cái vực thẳm gớm ghê ! Ở một bên là bức màn của sự vĩnh hằng đã hé lên một nửa, bên kia là những xe cộ của thành phố London. Chiếc bàn rung lên một nhịp thở mạnh mẽ. Nó lắc lư một cách đều đặn, nhịp nhàng, nó tự nâng lên, hạ xuống một cách nhẹ nhàng bên trong những thớ gỗ của nó; ta có thể nói đó là tiếng một bó củi đang nổ lách tách trong lò sưởi vào một đêm đông.

- Có rất nhiều quyền uy! Ông người Pháp lẩm bẩm. Các vị hãy nhìn trên bàn kìa!...

Tôi đã tưởng tôi là một kẻ làm trò cười cho ảo giác của riêng mình, nhưng tất cả mọi người đều nhìn thấy một thứ như tôi. Một thứ ánh sáng lân tinh màu vàng hơi xanh nhạt (có lẽ tôi nên gọi là một thứ hơi nước có ánh sáng hơn là một thứ ánh sáng!) trụ lại trên mặt bàn. Nó lăn đi, uốn éo, xoắn lại thành những nếp lập loè mờ ảo xoay quanh và tự xoay tròn như những đám mây khói. Qua ánh sáng kỳ diệu đó tôi có thể nhìn thấy hai bàn tay trắng trẻo và những ngón tay vuông của ông người Pháp.

- Tuyệt diệu! Ông ta kêu lên. Thật là thích thú.

- Ta có nên đòi các mẫu tự không? Ông Moire hỏi.

- Không! Chúng ta có thể đạt được những điều tốt hơn nhiều. Vị khách của chúng tôi đáp. Làm cho cái bàn lúc lắc ở mỗi chữ trong bảng chữ cái chỉ là trò trẻ con; với một bà đồng như quý bà đây, chúng ta phải làm được hơn thế.

- Vâng, các vị sẽ làm được nhiều hơn, một tiếng nói cất lên.

- Ai nói vậy? Có phải ông đấy không, ông Markham?

- Không, không phải tôi nói.

- Đó là bà đây đã nói.

- Nhưng không phải tiếng của bà ấy.

- Có phải bà không, thưa bà De la mer?

-Không phải là bà đồng đâu nhưng đó là quyền uy đã sử dụng cơ thể của bà đồng, tiếng nói trầm trầm xa lạ đáp lại.

-Bà De la mer đâu rồi? Tôi hy vọng rằng điều này sẽ không làm gì hại tới bà phải không?

- Bà đồng rất sung sướng trong một bình diện khác của đời sống. Bà đã ngồi vào chỗ của tôi, cũng như tôi đã ngồi vào chỗ của bà.

- Ông là ai?

- Điều đó không có gì quan trọng với ngài. Tôi là một người đã từng sống cũng như ông đang sống bây giờ và đã chết cũng như ông sẽ chết một ngày nào đó.

Chúng tôi nghe thấy tiếng ken két của bánh xe ngựa dừng lại trước cửa một ngôi nhà bên cạnh. Bên ngoài, người ta đang cãi nhau về giá cả chuyến xe, và vừa đánh xe đi bác đánh xe vừa càu nhàu một câu tục tĩu. Đám mây màu vàng xanh vẫn còn xoay tròn trên mặt chiếc bàn, lờ đờ trên toàn bộ bề mặt của nó, trừ một tia sáng yếu ớt; như thể nó dồn cả vào trước mặt bà đồng. Tim tôi như đóng băng vì lạnh và sợ hãi. Hình như chúng tôi đã khinh suất và dại dột đi tới gần sự thiêng liêng thực tại nhất và cao cả nhất; sự cảm thông với những người chết mà các cha của Giáo hội đã nói tới.

- Các ông không thấy rằng chúng ta đã đi quá xa à? Có lẽ chúng ta phải cắt đứt buổi lên đồng này đi thôi. Tôi kêu lên.

Nhưng những người khác rất muốn được coi tới phút chót. Sự áy náy của tôi làm họ bật cười.

- Tất cả mọi quyền uy đều được tạo ra cho người ta sử dụng, Harver Deacon trả lời tôi. Nếu chúng ta có thể sử dụng được thì chúng ta phải sử dụng. Tất cả những điểm xuất phát mới của tri thức đều đã bị coi là bất hợp pháp vào lúc khởi đầu. Đó là một điều đúng và hợp lý khi chúng ta tìm hiểu về bản chất của cái chết.

- Đó là đúng và hợp lý, tiếng nói tiếp lời.

- Đó! Ông còn muốn đòi hỏi gì hơn nữa? Ông Moire kêu lên, vẻ rất xúc động. Ta hãy làm một trắc nghiệm. Ông có vui lòng cho chúng tôi một bằng chứng rằng ông thật sự có mặt ở nơi đây không?

- Ông muốn thử nghiệm như thế nào?

- Đây này... Tôi có một ít tiền lẻ trong túi. Ông có thể nói cho tôi biết là bao nhiêu không?

- Chúng tôi tới đây với hy vọng là để giáo dục và giác ngộ, chứ không phải để giải đáp những câu đố trẻ con.

- A, a, ông Moire ơi, đó lả ông đã bị chỉnh rồi đó. Ông người Pháp kêu lên. Nhưng lời chỉ trích hoàn toàn đúng.

- Đây là một tôn giáo chứ không phải là một trò chơi, tiếng nói lạnh lùng và cứng rắn lại cất lên.

- Đúng thế. Tôi cũng có ý kiến như vậy. Ông Moire nói lớn. Tôi rất tiếc đã đặt ra một câu hỏi như vậy. Ông không thể vui lòng cho chúng tôi biết ông là ai à?

- Việc đó có liên quan gì tới ông?

- Chắc ông phải là một hồn ma từ lâu lắm rồi phải không?

- Vâng.

- Bao lâu rồi?

- Chúng tôi không tính thời gian như các ông. Hoàn cảnh đời sống của chúng tôi khác hẳn.

- Ông có sung sướng không?

- Có.

- Chắc ông không muốn trở lại trái đất nữa?

- Không. Chắc chắn là không.

- Ông có bận rộn lắm không?

- Chúng tôi sẽ không thể sung sướng được nếu chúng tôi không rất bận rộn.

- Ông làm việc gì?

- Tôi đã nói rằng hoàn cảnh của chúng tôi hoàn toàn khác biệt mà.

- Ông có thể cho chúng tôi một ý niệm về công việc của ông không?

- Chúng tôi làm việc cho sự tiến bộ của chính chúng tôi, cho sự thăng tiến của những người khác.

- Ông có thích tới đây chiều hôm nay không?

- Tôi thấy sung sướng được tới nếu sự tới thăm của tôi có thể làm được điều thiện.

- Vậy thì mục đích của ông là làm điều thiện à?

- Đó là mục đích của đời sống trên mọi bình diện.

- Ông Markham, ông thấy đó; đây là câu trả lời cho sự áy náy của ông.

- Đúng thật vậy. Những mối nghi ngờ của tôi đã tan biến: tôi đã thích thú một cách kỳ diệu.

- Ông có gặp những sự đau đớn trong cuộc sống của ông không? Tôi hỏi.

- Không. Sự đau đớn là một việc của thể xác.

- Ông có những điều đau khổ vè tinh thần không?

- Có. Bao giờ người ta cũng có thể buồn rầu hoặc lo lắng.

- Ông có gặp những bạn hữu mà ông đã bỏ lại trên trái đất không?

- Một vài người.

- Tại sao lại chỉ có một vài người?

- Chỉ gặp những người nào có cảm tình thôi.

- Những người chồng có gặp lại vợ họ không?

- Những ngưởi nào yêu họ một cách chân thực.

- Còn những người khác?

- Họ chẳng là cái gì đối với nhau cả.

- Liệu có một sợi dây liên hệ tinh thần không?

- Chắc chắn là có!

- Những điều chúng tôi làm có tốt không?

- Nếu các ngài làm điều đó với tinh thần thiện hảo.

- Vậy cái gì gọi là tinh thần xấu xa?

- Sự tò mò và sự khinh xuất.

- Như vậy có thể đưa tới điều gì tai hại không?

- Rất nhiều điều tai hại.

- Tai hại như thế nào?

- Các ông có thể làm nảy sinh những sức mạnh mà các ông không thể chế ngự được.

- Những sức mạnh tồi tệ à?

- Những sức mạnh không được khai hoá.

- Ông nói rằng chúng rất nguy hiểm. Nguy hiểm cho thể xác hay cho linh hồn?

- Đôi khi cho cả hai.

Một sự im lặng bao trùm. Bóng tối hình như sẫm hơn, trong khi đám sương mù màu xanh quay cuồng trên mặt bàn.

- Ông có muốn đưa ra câu hỏi nào nữa không, ông Moire? Harver Deacon hỏi.

- Một câu thôi: Trong thế giới của ông, ông có cầu nguyện không?

- Người ta phải cầu nguyện trong mọi thế giới.

- Tại sao vậy?

- Bởi vì đó là cách để biết những sức mạnh ở bên ngoài chúng ta.

- Ở đó các ông theo tôn giáo nào?

- Chúng tôi theo nhiều tôn giáo, giống như các vị vậy.

- Ông không có sự hiểu biết chắc chắn?

- Chúng tôi chỉ có đức tin thôi.

- Những vấn đề tôn giáo này sẽ được sự quan tâm của người Anh là những người trang nghiêm, nhưng chúng tôi không phải là thứ giải trí đâu. Tôi thấy rằng với quyền uy hiện hữu ở đây, ta có thể đạt được lợi ích từ một kinh nghiệm lớn, phải không? Về một điều gì đó mà ta có thể nói.

- Nhưng không có gì thích thú hơn điều đó! Moire chống lại.

- Nếu ông nghĩ được như vậy, được rồi, rất tốt. Ông người Pháp đáp lại với giọng bực bội. Về phần tôi, trước đây tôi đã nghe điều đó rồi và tôi tưởng chiều nay ta nên thử làm một việc khác, nhờ tất cả những quyền uy mà chúng ta được ban cho. Nhưng nếu ông có những câu hỏi khác, xin ông cứ đưa ra đi. Khi nào ông hỏi xong, chúng ta sẽ thử làm

chuyện khác.

Hỡi ôi, sự say mê đã bị đứt đoạn. Chúng tôi hỏi, hỏi mãi mà không có kết quả: bà đồng ngồi yên lặng trên ghế. Chỉ có nhịp thở sâu, đều đặn của bà chứng tỏ bà còn ngồi ở đó. Đám sương mù vẫn còn quay tròn trên mặt bàn.

- Ông đã huỷ diệt sự hoà điệu. Bà ấy không muốn trả lời.

- Nhưng chúng ta đã biết được tất cả những gì bà có thể nói với chúng ta, phải không? Về phần tôi, tôi muốn thấy một cái gì đó mà chưa bao giờ tôi được thấy.

- Cái gì vậy?

- Ông có vui lòng để tôi thử làm không?

- Ông muốn làm điều gì?

- Tôi đã nói với ông rằng những ý nghĩ là những sự việc, những vật thể. Bây giờ tôi muốn chứng tỏ điều đó với ông và chỉ cho ông thấy cái vật vốn chỉ là một ý nghĩ. Vâng, tôi có thể làm việc đó và các vị sẽ thấy. Bây giờ tôi xin các vị hãy giữ im lặng, không nói gì cả và cứ đặt bàn tay của quý vị lên mặt bàn.

Căn phòng càng tối tăm hơn, lặng lẽ hơn bao giờ hết. Cũng cái cảm giác lo sợ ấy đã đè nặng lên tôi lúc bắt đầu buổi lên đồng lúc này lại dằn vặt trái tim tôi. Tôi thấy rờn rợn ở các chân tóc như có kiến bò.

- Được rồi đó! Ông người Pháp nói lớn.

Đám sương mù có ánh sáng từ từ rời xa chiếc bàn; nó vẫn bay chập chờn uốn éo trong phòng làm việc. Nó bay tới một góc tối tăm nhát, nơi đó nó tụ lại và phát ra một tia sáng, rồi thì nó đông đặc lại thành một cái nhân sáng và rõ ràng thành một vệt tia sáng đang tìm đường lẩn trốn, không soi sáng và không phát các tia sáng vào bóng tối, màu sắc của

nó chuyển từ màu vàng xanh nhạt sang một màu đỏ lờ đờ hơi nâu đen nhạt. Chung quanh cái nhân này, một chất tối sẫm, mờ mờ như khói cuốn thành vòng và cứ dày đặc mãi lên, mỗi lúc một đặc thêm và đen kịt. Rồi ánh sáng tắt ngúm, như bị bóp nghẹt bởi cái vật mà nó bao quanh.

- Hắn đi rồi.

- Suỵt! Có một vật gì đó trong căn phòng.

Cái vật đó, chúng tôi nghe thấy nó ở góc phòng mà ánh sáng đã chuyển tới. Một vật gì thở phì phò và cựa quậy.

- Cái gì vậy? Ông Le Duc, ông đã làm gì vậy?

- Tốt đẹp cả. Sẽ không có gì tệ hại xảy ra đâu.

Tiếng nói của ông người Pháp run run vì xúc động.

- Trời đất ơi, ông Moire, có một con vật lớn kếch xù trong căn phòng. Nó đây này. Nó tựa vào ghế của tôi đây này. Cút đi! Cút đi!

Đó là tiếng nói của Harver Deacon; rồi thì chúng tôi nghe thấy một cái gì đó rơi trên một vật rắn. Rồi thì ... Rồi thì ... Biết nói thế nào với các bạn về những gì xảy ra! Một con vật kếch xù chạy xông lại chỗ chúng tôi trong bóng tối. Một con vật gì đó đứng chồm hai chân trước lên, nó dậm chân, nó nhảy, nó thở phì phì, nó có thể dẫm nát tất cả mọi thứ trên đường đi của nó. Chiếc bàn bay tung lên thành từng mảnh. Chúng tôi chạy tản mác ra mọi hướng. Con vật đó gầm lên một tiếng kinh hồn, xô đẩy chúng tôi, xông hết góc này tới góc khác của căn phòng với một sức mạnh tàn bạo. Tất cả chúng tôi gào lên vì hoảng sợ, chúng tôi quỳ rạp xuống bốn chân để cố né tránh sự tấn công của con vật đó. Tôi không rõ cái gì đó dẫm lên bàn tay tôi, tôi cảm thấy những đốt xương của tôi gãy rau ráu dưới sức nặng.

- Thắp đèn lên! Một người nào đó kêu.

- Ông Moire, ông có diêm đấy chứ? Diêm?

- Không, tôi không có diêm. Ông Deacon, diêm để ở đâu? Diêm, lạy chúa tôi!

- Tôi không thể tìm thấy chúng. Này, ông, ông người Pháp, hãy chặn nó lại!

- Điều này nằm ngoài quyền năng của tôi. Ôi, lạy chúa tôi, tôi không thể ngăn chặn được cái gì cả! Cửa ra vào! Cửa ra vào ở đâu?

Tình cờ tay tôi đụng phải nắm đấm của cửa ra vào trong khi tôi quờ quạng trong bóng tối. Con vật có hơi thở phì phò xông tới bên cạnh tôi và va đập vào bức vách gỗ với một tiếng động khủng khiếp. Tôi vặn nắm đấm và tất cả chúng tôi chạy ra ngoài, đóng cánh cửa lại phía sau chúng tôi. Ở bên trong sự ồn ào khủng khiếp cứ tiếp tục không ngừng.

- Con gì vậy? Lạy chúa tôi, con vật đó là con gì vậy?

- Một con ngựa. Tôi đã nhìn thấy nó khi cửa được mở ra. Nhưng còn bà De la mer?

- Chúng ta cần phải quay vào tìm bà ấy. Vào đi, Markham, chúng ta càng đợi lâu thì càng nguy hiểm.

Ông mở rộng cánh cửa và chúng tôi chạy xổ vào phòng làm việc. Bà De la Mer nằm lịm trên mặt đất giữa đống mảnh vụn của chiếc ghế của bà. Chúng tôi nắm lấy bà, nhanh chóng lôi bà ra ngoài. Sau khi đã bước tới ngưỡng cửa, tôi ngoái lại nhìn phía sau. Trong bóng tối hai con mắt kỳ lạ nảy lửa lên khi nhìn chúng tôi; tôi chỉ có đủ thì giờ đóng sập

cửa lại. Phía bên kia tiếng động khủng khiếp vang lên, cánh cửa bị chẻ đôi từ trên xuống dưới.

- Nó sắp đi qua cửa! Nó đây này!

- Chạy đi! Chạy đi nếu quý vị còn muốn sống! Ông người Pháp la lớn.

Một tiếng động khủng khiếp khác vang lên trước khi một vật gì đó lao xuyên qua khe nứt của cánh cửa. Đó là một chiếc sừng trắng, dài, long lanh dưới ánh sáng. Trong chốc lát, con vật đứng ngay trước mặt chúng tôi, rồi với một tiếng động khô khan nó biến mắt.

- Mau lên! Mau lên! Lại đây! Harver Deacon kêu lên. Khiêng bà ấy lại đây! Mau lên!

Chúng tôi ẩn náu trong phòng ăn và đóng chặt cánh cửa nặng nề bằng gỗ sến lại phía sau chúng tôi. Chúng tôi đặt người đàn bà bất tỉnh nằm dài trên ghế tràng kỷ. Moire, con người của công việc có sức khoẻ bền bỉ, ngã gục ngất xỉu đi trên tấm thảm trải nhà. Harver Deacon, trắng bệch như một xác chết, co rúm lại và nhảy lên như một kẻ động

kinh. Trong một tiếng đổ vỡ kinh hoàng, cánh cửa phòng làm việc bắn tung lên thành những mảnh vụn; chúng tôi nghe thấy tiếng dậm chân và tiếng hí ở hành lang, tiếng đi đi lại lại, căn nhà rung chuyển dưới cơn thịnh nộ đó. Ông người Pháp, hai tay ôm lây đầu, khóc nức nở như một đứa trẻ đang khiếp sợ.

- Ta phải làm gì? Tôi hỏi ông ta đồng thời lắc mạnh hai vai của ông. Trong trường hợp thế này, một khẩu súng có thể có ích không?

- Không! Nhưng quyền uy sẽ biến đi. Rồi sẽ hết.

- Ông là một người điên kỳ quái, suýt nữa ông đã giết chết tất cả chúng ta với những thử nghiệm ma quỷ của ông.

- Tôi không biết. Làm sao tôi có thể đoán trước được nó lại bị khiếp sợ như vậy? Nó đã điên cuồng vì kinh hoàng? Tất cả đều do lỗi của nó mà ra, nó đã đánh con vật ấy.

Harver Deacon nhảy cẫng người lên.

- Lạy chúa tôi!

Một tiếng gào lớn vang dội khắp căn nhà.

- ... Đó là vợ tôi! Tôi đây này! Tôi ra đó! Dù ma quỷ hiện hình cũng không ngăn cản được tôi ra!

Ông mở cửa và chạy bổ ra hành lang. Ở chân cầu thang, bà Deacon nằm bất tỉnh, quá kinh khiếp vì những gì bà nhìn thấy. Nhưng ngoài ra không còn ai khác nữa. Với những con mắt đờ ra vì kinh hoàng, chúng tôi nhìn chung quanh, nhưng tất cả đều hoàn toàn yên tĩnh. Tôi đi tới gần ô vuông đen sì của khung cửa phòng làm việc; cứ từng bước một

tôi chờ đợi nhìn thấy một bóng mờ kinh khủng vọt ra. Nhưng không có gì vọt ra cả. Phía trong căn phòng hoàn toàn yên tĩnh. Với sự đề phòng, chúng tôi tiên tới phía ngưỡng cửa, chúng tôi lục tìm trong bóng tối. Hoàn toàn yên lặng; nhưng trong một góc ngoài bóng tối còn có một vật gì khác nữa, một đám mây có ánh sáng màu đỏ nhạt với một tấm diềm

sáng rực bập bềnh; các vành cạnh của nó lờ mờ không rõ rệt; hình thể của nó cứ mỏng dần và tan loãng; rồi thì ở tại góc đó chỉ còn có bóng tối dày đặc, êm mướt như nhung lan tràn khắp căn phòng. Khi tia sáng cuối cùng đã tắt, ông người Pháp thốt ra một tiếng kêu vui thích.

- Thích thú biết bao! Không ai bị nguy hại gì: chỉ có một cánh cửa bị phá huỷ và các bà bị sợ hãi. Nhưng các bạn ạ, chúng ta đã làm được điều từ trước tới nay chưa ai làm được bao giờ.

- Và trong quyền hạn của tôi, chúng ta sẽ không bao giờ tái diễn nó nữa, ông Harver Deacon nói.

Đó là những gì đã xảy ra ngày 14 tháng 4 tại số nhà 17 đường Badderly Gardens. Ở đoạn trên tôi đã nói thật là kệch cỡm khi ta cổ vũ cho những gì đã thực sự xảy ra. Nhưng tôi đã trình bày các cảm nghĩ của tôi, các cảm nghĩ của chúng tôi ( vì chúng tôi có những cảm nghĩ như vậy, Deacon, Moire và tôi), về những điều mà các cảm nghĩ ấy đáng được

trình bày. Nếu các bạn muốn, các bạn có thể tưởng tượng rằng chúng tôi đã là những nạn nhân của một sự huyền hoặc phức tạp và dị thường. Hoặc các bạn cũng có thể nghĩ như chúng tôi rằng chúng tôi đã trải qua một kinh nghiệm rất thực tế và rất kinh khủng. Nhưng có thể là các bạn còn biết về vấn đề này nhiều hơn chúng tôi và liệu các bạn có thể thông báo cho chúng tôi rõ về những cuộc mạo hiểm tương tự không? Trong trường hợp này một lá thư gửi cho William Markham, Albany, sẽ giúp chúng tôi thấy rõ thêm những gì còn rất tối tăm đối với chúng tôi.

Hết

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro