Tuyen tap truyen ma

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Hai ngày kinh hoàng

Nhà của bạn tôi nằm hơi xa thành phố, chung quanh là những cánh rừng hoang vu ít người lui tới. Vì có công việc phải đi xa và không có bà con thân thuộc ở gần nên anh đã nhờ tôi đến trông chừng vài ngày. Căn nhà này được xây vào khoảng năm 1998 nằm trên một ngọn đồi gần West Union Ohio. Tôi đến đó trời đã sụp tối. Khi vừa vào nhà là bạn tôi đã gọi về căn dặn tôi phải làm gì trong những ngày anh ta vắng mặt... Vừa nói chuyện xong gác điện thoại xuống, tôi nghe có tiếng cọc cọc nhỏ như tiếng gõ cửa. Có lẽ là cô hàng xóm ở cách đây gần một cây số, vì tôi nghe người bạn nói rằng cô ta thường đi đến từng nhà để nói chuyện ngẫu nên tôi nghĩ như vậy. Nhưng khi mở cửa tôi không thấy ai, chắc là tiếng của những con thú rừng quanh đây hay là những con chim làm tổ trên cây lâu lâu nó lấy cái mỏ mổ vào thân cây và gây ra tiếng cọc cọc; tôi nghĩ vậy rồi đóng cửa lại. Sau đó có tiếng gõ cọc cọc ba lần như vậy, khi mở cửa ra tôi lại không thấy ai. Có lúc tôi khép hờ cửa chừa khoảng một gang tay và núp ở đằng sau cánh cửa xem có ai đến gõ không, tiếng gõ cửa lại đến nhưng không có ai gõ, hình như tiếng cọc cọc đó phát ra từ cánh cửa. Lúc đó tôi không có sợ mà chỉ cảm thấy hơi lạ thôi. Rồi không còn để ý đến cái tiếng cọc cọc đó nữa, tôi ngồi trên ghế sa lông mở tivi lên xem chương trình khoa học thì bỗng dưng, lúc đó đúng mười giờ hai phút, cái máy hâm đồ ăn trong bếp tự động mở lên. Tôi vội đứng dậy, lúc này trong bụng hơi lo vì sợ có người khác đang ở trong nhà với mình; tôi nhìn xung quanh nhà bếp xem xét không thấy ai nên tôi đến cái máy hâm đồ ăn bấm cái nút clear rồi trở ra phòng khách xem tivi tiếp. Chìm vào giấc ngủ lúc nào cũng không hay cho đến khi tôi nghe một tiếng còi hụ lớn khủng khiếp đánh thức dậy. Khi mở mắt ra tôi thấy xung quanh mình tối om mặc dù tôi nhớ khi đi ngủ cái tivi còn mở, và bên cạnh đó còn có cây đèn màu vàng mà tôi đã mở lên từ khi mới bước vào nhà. Nhưng tiếng còi hụ đã ngưng khi tôi vừa tỉnh dậy. Bây giờ, mọi thứ đều tối thui làm tôi cũng hơi giật mình một chút nhưng vì vẫn còn buồn ngủ nên ráng mò từng bước vào phòng mà bạn tôi đã dành riêng cho tôi. Khi dò dẫm từng bước vào phòng ngủ, tôi đi ngang qua một cái đồng hồ bằng điện tử treo trên tường, lúc đó tôi thấy đồng hồ chỉ 1:15 am. Ngày hôm sau mọi chuyện đều diễn ra bình thường và tối đó tôi đã đánh một giấc cho đến sáng. Nhưng ngày thứ ba, đúng 3:12 chiều, tôi vừa về (tôi ra ngoài để những làm công việc mà bạn tôi đã nhờ) tới nhà tiếng cọc cọc lại trỗi lên. Tôi cố gắng không để ý đến nó cho đến khi chịu hết nổi, tôi mở cửa ra và lấy cục đá chận nó lại lúc đó tiếng cọc cọc mới chịu ngưng. Ðến 5 hay 6 giờ khi cánh cửa bỗng dưng tự động đóng cái rầm một cái và tiếng cọc cọc lại vang lên. Tôi không thể chịu đựng được cái tiếng này nữa nên bỏ đi ra ngoài tìm một nhà hàng ở gần vùng đó để ăn cho đã đời. Khi trở về thì đã 8 giờ đêm, tôi không còn nghe gì nữa, cái tiếng cọc cọc hình như đã ngưng rồi, có lẽ nó đang nghĩ giải lao. Khoảng 10:O2 cái máy hâm đồ ăn lại tự động mở lên. Tôi xuống nhà bếp tắt cái máy rồi suy nghĩ không biết cái máy này có để giờ tự động không, hễ cứ 10:02 là nó mở lên.

Khoảng 12 giờ khuya là giờ kinh hoàng nhất. Trước tiên là những cây đèn trong nhà bỗng dưng tắt hết một lượt. Rồi kế tiếp là tiếng cọc cọc vang lên không những ở nơi cánh cửa mà nó còn vang lên chung quanh nhà nữa. Ồ! Lúc đó tôi sợ run lên nên vội nhấc điện thoại lên gọi cảnh sát và gọi luôn cả người hàng xóm. Tôi nói với người hàng xóm của tôi rằng có cái gì đó ở ngoài nhà của thằng bạn, nó đã làm tôi sợ muốn chết. Người hàng xóm nói với tôi rằng ông ta sẽ đến nhưng phải mất 20 phút. Trong khi tôi đang nói chuyện với người hàng xóm thì tiếng cọc cọc đó từ từ lớn dần đến nỗi người đầu dây bên kia cũng có thể nghe được. Tiếng động đó thay đổi liên hồi giống như có nhiều người đang đứng ở ngoài đánh mạnh vào tường. Những tiếng rầm rầm có khi thay đổi nhịp và lâu lâu nó ngừng lại một vài giây. Còn những cây đèn và đồ điện ở trong nhà cứ tự động mở và tắt. Tôi mở đèn lên vào nhà bếp lấy một con dao và ngồi ở dưới sàn nhà bếp đợi cảnh sát và người hàng xóm của tôi đến. Ngay lúc đó máy hâm đồ ăn lại mở lên, rồi đến tivi, và ngọn đèn ở phòng khách tất cả cùng bật lên một lượt, ngay lúc này tim tôi đập thình thịch mặc dù ngày xưa không bao giờ tin vào ma quỷ nhưng bây giờ tôi cũng phải run sợ dưới những sự kiện lạ lùng này. Khoảng 15 phút sau tôi thấy ánh đèn xe bên ngoài có lẽ là cảnh sát cho nên đi thẳng đến cánh cửa chính và cầm cái nắm cửa từ từ mở ra. Khi mở cửa ra, tiếng động chợt ngưng hẳn, nhưng đèn trong nhà vẫn còn chớp tắt. Lúc đó tôi thấy ông cảnh sát đang đi đến, ông ta mới hỏi tôi chuyện gì đã xảy ra, và tôi kể hết mọi sự cho ông ta biết. Sau khi nghe xong, ông ta nhìn tôi với cặp mắt kỳ quặc rồi đi xung quanh nhà xem xét. Sau vài phút người bạn hàng xóm của tôi lái xe đến, trên tay còn cầm một cây súng. Ông cảnh sát thấy vậy mới nói rằng "không cần đến nó đâu"... Rồi ông cảnh sát hỏi tôi tại sao lại ở đây? Tôi đến đây để làm gì v.v.... Tôi kể vắn tắc câu chuyện là người bạn đi xa nhờ tôi đến đây coi chừng nhà dùm. Khi tôi vừa mới dứt lời thì tất cả đèn trong nhà đều chớp một cái rồi tắt trong nhà trở thành tối om. Lúc đó những tiếng động lại bắt đầu trỗi dậy và tiếng còi hụ lạ lùng vang lên từ trong khu rừng gần bên. Ông cảnh sát cũng hơi giật mình vì những tiếng động quái lạ đó vì vậy ông nói với tôi nên đi theo ông vào thành phố. Tôi không cần suy nghĩ gì thêm đi đến đóng sầm cái cửa lại và cũng không thèm khóa vội đi theo ông cảnh sát. Sáng hôm sau, tôi gọi điện thoại cho người bạn và kể hết cho anh ta nghe những chuyện đã xảy ra cho tôi trong mấy ngày nay. Sau khi nghe xong anh mới nói với tôi rằng anh ta cũng nghe những tiếng cọc cọc như vậy ngoài những tiếng cọc cọc đó ra không còn chuyện gì kỳ lạ xảy ra nữa, cái máy hâm đồ cũng không có tự động mở lên. Tối hôm đó anh ta trở về, tôi cùng anh ta về căn nhà đó. Anh ta mở khóa nhưng không đẩy cửa vào được nên hai đứa tôi phải dùng sức phá cánh cửa cho nó sập xuống. Sau khi cánh cửa sập xuống chúng tôi đều hết sức kinh ngạc vì những cái ghế, cái bàn... kể cả cái máy hâm đồ... đều nằm ngay phía sau cánh cửa. Khi thấy cảnh tượng này anh ta không dám ở đó thêm một ngày nào nữa nên vội dọn đồ đạc ra khỏi nhà và đề bảng bán. Nhưng đến bây giờ căn nhà đó vẫn chưa có ai mua.

Ba chàng sinh viên trong căn nhà ma

Thưa các bạn vụ án ma quái: "TÔI BỊ TAI HỌẠ.." coi như đã kết thúc. Vì anh Minh Nguyễn ra đi qúa đột ngột, chúng tôi đã không làm gì kịp để cứu ảnh. Thành thật chi a buồn (Nếu các bạn có lời an ủi thì xin gởi về cho cô Mỵ Lan) Nhưng không vì vậy mà chúng tôi nản chí. chúng tôi vẫn tiếp tục điều tra thêm những vụ án khác. Diều-tra-viên "000000" tui vừa mới điều tra xong một vụ án ma quái nữạ Vụ án này có tên là " BA CHÀNG SINH VIÊN TRONG NGÔI NHÀ MA". Hiện giờ tôi đang chuẩn bị bản tường trình cho vụ án mới nàỵ Các bạn có yêu cầu một "format" đặc biệt nào cho bản tường trình này thi xin đề nghị Tôi phải trình bày bảng tường trình như thế nàọ Hình ảnh, tang chứng... chúng ta có nên đưa ra cho bạn đọc cùng xem hay là không? v.v Mong các bạn góp ý Ghost story 1 Truyện này viết theo lời kể của một vị sỹ quan thuộc sư đoàn 21 BB, Quân Lực VNCH. Sự việc này xảy ra tại xã Phú Hữu, quận Phong Thuận , tỉnh Cần Thơ vào một đêm cuối mùa Thu năm 1974. Tôi xin ghi chú một vài danh từ được dùng trong bài viết, vì có thể một số bạn không hiểu nghĩa của các từ này . _ Ông thày: lính và hạ sỹ quan dùng danh từ này để gọi cấp chỉ huy của họ (thường là hàng Sỹ Quan) . _ Ngọn : nơi phát xuất con sông . _ Vàm: nơi con sông đổ vào con sông khác lớn hơn, hay chổ con sông đổ ra biển . _ Lều poncho : lều căng bằng áo mưa của lính (gọi theo tiếng Mỹ) _Ta lọt: người lính được cắt đặt để lo việc cơm nước và chổ ngủ cho cấp chỉ huy của anh ta . _ Quán cóc: Quán nhỏ bên đường hay cạnh các bờ sông , thường bán cà fê hay đồ nhậu . _Cát Tê : là một loại bài mà con lớn hơn thì thắng con nhỏ hơn nếu trong cùng một nước bài ( thí dụ con già Bích thì ăn con bồi Bích ). _ Đi tiền đồn: đi kích ở một vị trí trong vùng địch , thường là do một tiểu đội hay một trung đội đảm trách . Thường được coi là nhiệm vụ nguy hiểm . Lúc đó tôi là một sỹ quan trẻ, giữ chức vụ đại đội phó cho một đại đội tác chiến của sư đoàn 21 bộ binh! Vào một ngày cuối mùa Thu năm 1974, tiểu đoàn tôi được lệnh tấn công vào một vị trí cố thủ của một tiểu đoàn địch trong "ngọn"

Rạch Muỗi ! Sau một ngày ác chiến kịch liệt, chúng tôi vẫn chưa chiếm được mục tiêu! Đơn vị chúng tôi được lệnh rút ra ngoài "vàm" để nghỉ qua đêm, đồng thời tảI thương và đợi nhận thêm tiếp tế để sửa soạn cho cuộc tấn côngmới vào ngày hôm sau . Trực thăng xuống tải thương nhưng không còn chổ nên xác của một binh sỹ tử trận đành phải bỏ lại để chờ được di chuyển bằng tàu tiếp tế vào ngày mai! Thế là ngoài việc canh gác bên ngoài, chúng tôi phải cắt thêm người trông chừng cái xác chết được đặt trên bộ ván ngựa trong căn nhà lá bỏ hoang gần đó! Dưới ngọn đèn dầu mù mờ trên chiếc bàn vuông giữa nhà, bốn chúng tôi ngồi đánh bài Cát Tê để giết thì giờ! Tôi ngồi quay lưng lại bộ ván ngựa còn ba người kia ở vị thế có thể nhìn thấy cái tử thi ! Đến quá nửa đêm, người ngồi đối diện tôi bổng đứng dậy nói buồn đi cầu rồi bước ra không thấy trở lại . Chừng mười lăm phút sau, người bên trái tôi cũng đứng lên nói là đi tiểu rồi mất tăm luôn ! Năm phút sau, người bên phải tôi cũng rời bàn nói là ra ngoài hit' thở chút không khí trong mát ngoài trời và cũng chẳng thấy tăm hơi đâu ! Tôi ngồi chờ bọn họ trở lại, nhưng mắt tôi díu lại vì buồn ngủ ! Tôi đứng dậy mở cửa bước ra ngoài, rồi tiện tay kéo đóng cánh cửa lại . Ngay lúc đó tôi nghe một tiếng "BỊCH" phía trong nhà ! Hơi ngạc nhiên vì tôi là người cuối cùng ra khỏi nhà , nhưng tôi nghĩ có lẽ chiếc ba lô treo trên vách rớt xuống đất nên cứ một mạch đến cái "lều poncho" mà người "tà lọt" đã căng sẵn cho tôi . Quá buồn ngủ tôi làm một giấc tới sáng, tôi chỉ tỉnh dậy khi tiếng ồn ào của các người lính khiêng đồ tiếp tế lên từ tàu . Tôi đợi khi tất cả đồ tiếp liệu được khuân lên hết rồi mới gọi mấy anh lính theo tôi lên chiếc nhà lá để khiêng cái xác xuống tàu . Tôi đẩy cửa vào nhưng có vật gì cản phía trong ! Một anh lính phụ tôi đẩy mạnh cánh cửa . Tôi nhảy bật ra ngoài vì cái vật cản cái cánh cửa lại chính là cái xác chết mà chúng tôi đã đặt trên bộ ván !! Lấy lại bình tỉnh tôi la lớn: _ (DM) Thằng nào chơi trò này ! Tao mà biết tao đá cho lọi giò luôn ! (DM) tới người chết mà tụi mày chẳng tha nữa hả !!! Không một ai lên tiếng! Cuoíi cùng rồi thì cái xác cũng được mang xuống tàu chở về bệnh viện tỉnh Cần Thơ để chờ thân nhân đến lãnh về mai táng !! Suốt mấy tháng trời tôi vẫn để tâm theo dõi xem tên nào chơi trò nghịch ngợm đó, nhưng không sao tìm ra manh mối ! Cho đến một ngày kia, tình cờ tôi và ba người canh xác bữa đó ngồi nhậu cùng nhau trong một "quán cóc" bên đường. Sau vài xị tôi mới nhắc lại sự việc xảy ra đêm hôm đó . Lúc này người bỏ đi đầu tiên mới rụt rè lên tiếng: _ Tui nói thiệt với "ông thày" chứ bữa đó tui sợ muốn té đái ra quần luôn vậy đó !! _ Sao vậy ?! Tôi hỏi với giọng nhạc nhiên! _ Không biết bữa đó tui có bị hoa mắt hông! Chứ thiệt tình thì tui thấy cái xác chết dơ tay lên để tay xuống mấy lần ở trên bộ ngựa! Tui sợ quá phải nói dóc là đi cầu để trốn ra ngoài! Tui sợ bị cười là nhát nên không dám nói cho ai biết về chuyện này hết !! Đến đây người bỏ ra thứ nhì đằng hắng rồi lên tiếng:

_ Tui cũng thấy y chang như vậy đó ! Lúc đầu tui nghĩ là do buồn ngủ quá nên mờ mắt . Tui thấy nó dơ tay lên bỏ tay xuống tới mấy lần lận ! Trong bụng tui niệm Phật liên hồi ! Nhưng vẫn còn run , tui phải viện cớ để chuồn ra ngoài rồi không dám trở vô nữa ! Thiệt ra tui đâu có dám ngủ đâu! Chỉ sợ nó bò ra chổ tui thì chắc chết luôn quá ! Lúc này người thứ ba cũng phụ họa: _ Tui thề với Trời Phật là bữa đó tui cũng thấy rỏ ràng là nó ngồi lên rồi nằm xuống hai lần ! Tui sợ muốn đứng tim luôn! Nhưng mang tiếng là lính mà chạy ra kêu là bị ma nhát thì thiên hạ cười chết! Tui đành lủi lẹ ra ngoài luôn! Sở dĩ tui không nói cho "ông thày" biết là vì tui nghĩ ông có đạo (Thiên Chúa) nên nó không nhát ông . Nó chỉ nhát tụi tui thôi! Lúc đó tui nghĩ là nó chỉ nhát một mình tui thôi, ai dè nó nhát luôn cả hai người này nữa !! Bây giờ nghĩ lại tui vẫn thấy nổi da gà !! Tởn tới già luôn! Tui không bao giờ dám lãnh cái việc coi xác chết nữa đâu! Lần sau ông có đày tui đi "tiền đồn" một tháng thì cũng đành chịu thôi ! Xin "ông thày" tha cho cái việc đó đi ! Qua lời họ tôi suy ra cái tiếng động mà tôi nghe đêm hôm đó không phải là do cái ba lô rớt xuống mà là do cái xác chết ngã xuống (khi đuổi theo tôi) vì va vào cái cánh cửa do tôi vô tình kéo đóng lại khi bước ra ! Tôi cũng rởn tóc gáy khi nghĩ việc gì đã xảy ra nếu như tôi không đóng cái cửa lại!! Có lẽ cái tử thi đó đã chụp được tôi từ phía sau lưng rồi !! Thật là hú hồn !!! (Chuyện này của Tam Tang. Tui lấy cho các bạn đọc dỡ buồn. Nếu được xin các bạn phân tích hoặc giải thích hiện tượng này) Hello, Phần cuối cùng làm tui hơi rợn tóc gáy một chút. Theo tui nghĩ thì có lẽ mấy người thức đêm canh buồn ngủ bị hoa mắt, hoặc họ ở trong trạng thái nửa tỉnh nửa mê, họ nghĩ là tử thi cử động cho nên nó... cử động thiệt. Còn phần tử thi tại sao lại đi theo người cuối cùng thì tui nghĩ chắc lúc đó có con mèo nhảy qua xác chết truyền điện vào xác chết làm xác chết đứng dậỵ Tình cờ lúc đó người cuối cùng đứng dậy đi ra ngoài, xác chết bị hút theo cử động của người nàỵ Cũng may người này tiện tay kéo cửa lại, không sẽ bị xác chết đi theo cho tới khi nó hết điện trong ngườị Có người đã bị chết vì người chết đứng dậy đi nàỵ Mèo nhảy qua, người chết bật đứng dậy, người canh xác chết sợ quá bỏ chạỵ Điện trong người sống hút theo người chết làm người chết... rượt theọ Chạy một hồi người sống vấp té, người chết chạy tới vướng vào rồi té đè lên ngườị Người sống kinh khủng quá, đứng tim... thành người chết luôn. Nhân đọc chuyện ma quái, tui xin góp ý một chuyện... có thiệt qua lời kể lại của người anh: Bạn của anh tui đi buôn lậu bằng xe lửa từ Sàigòn ra miền Trung, tạm gọi anh T.. Xe lửa ở VN chật chội, rất hầm, cho nên có một số người leo lên mui nằm dài ra ngủ.

Lúc đang ngủ anh T. tự nhiên nghe tiếng gọi í ới "Tới rồi, tới rồi!". Ảnh bật ngồi dậy và va vào vách đá của đường hầm - xe lửa sửa soạn đi vào đường hầm. Bị va vào đầu, anh T. văng té xuống đất ngất xỉụ Người gác nơi cổng xe lửa đi kiểm tra nghe được tiếng rên rỉ của anh T.. Ông ta tới chỗ anh T. nằm, anh kể lại sự kiện và hỏi xin miếng nước. Người gác đi về nhà lấy nước uống, khi trở lại chỗ anh T. thì anh đã chết rồi! Người ta báo tin về gia đình. Khi anh của anh T. lên nhận xác để đem chôn, người gác cổng xe lửa kể lại rằng khúc này rất nhiều người bị chết vì... nghe tiếng gọi tới rồi đúng ngay lúc xe lửa bắt đầu đi vào đường hầm. Các bạn có nghĩ rằng người đã chết rồi muốn đi đầu thai, nên đánh thức người sống đang ngủ dậy để chết thế mạng không? Hm, số anh T. đáng lẽ chưa chết nếu VN kỹ thuật tân tiến chẳng hạn như có điện thoại gọi xe cấp cứu như 911 bên Mỹ vậỵ Nếu vậy thì... chẳng có chuyện kể hôm nay, phải không?

Ánh Lửa Ma

Ma quỉ đã có từ đời thượng cổ, và ở bất cứ nơi nào trên thế giới, những câu chuyện ma thường được kể vào những buổi tối mà thính giả luôn luôn là một lũ trẻ con ngồi trên giường với những đôi chân nhỏ bé rút lên vì sợ. Mà sợ cái gì? Sợ giữa lúc đang say sưa nghe chuyện, lỡ một bàn tay lạnh buốt nào đó từ trong gầm giường thò ra nắm chân lôi xuống thì lôi thôị.. Ở Âu châu, đã có một thời, người xứ Wales tin tưởng mãnh liệt vào "ánh lửa ma" và đã có rất nhiều câu chuyện về loại lửa này được kể đi kể lạị Ánh lửa ma có hình dạng một ngọn lửa nhỏ xuất hiện trên đường đi của đám tang. Những người có đủ can đảm tới gần ánh lửa ma sẽ có thể thấy mặt người sắp chết. Lửa xanh báo hiệu cái chết của trẻ con và lửa vàng dành cho người lớn. oOo Một ngày vào đầu thế kỷ trước, trong một ngôi làng nhỏ ở miền Bắc xứ Wales, có hai cậu bé bà con gần tên là Tom Llewellyn và Evan Pugh ở hai trang trại cận kề và là đôi bạn thiết. Khi Tom 18 và Evan 16, hai người phải chia tay khi gia đình Evan dọn tới một ngôi làng khác cách ngôi làng cũ khoảng 10 cây số. Đã từ bao năm qua, đôi trẻ vẫn luôn chơi đùa bên nhau, nên bây giờ khi phải chia tay, cả hai cảm thấy như bị mất mát một cái gì rất quan trọng, họ cảm thấy rất nhớ nhau dù cả hai bà mẹ đều hết lời khuyên giảị Một thời gian sau, hai cậu đã tìm ra một giải pháp: Cứ mỗi cuối tuần, hai cậu lại thay phiên tới thăm nhaụ Một ngày cuối tuần vào cuối mùa thu, đến lượt Evan tới thăm Tom. Sau một ngày chơi đùa thỏa thích trong hai ngày trời mát dịu, giữa vẻ đẹp hiền hòa của miền quê, trong cái nắng trong vắt như pha lê, cuối cùng đôi bạn cũng phải chia taỵ Theo tục lệ xứ Wales, chủ nhà thường tiễn khách một đoạn đường và Tom lấy một cái khăn quàng thật dầy quấn quanh cổ, đưa tiễn Evan trên con đường làng, vừa đi cả hai vừa thảo luận cho chương trình tuần sau, khi đến lượt Tom tới thăm Evan. Đi được một đoạn thì trời nhá nhem. Evan nói với bạn: - Cậu đã tiễn tôi hơn ba cây số rồị Thôi cậu về đị Tom đáp: - Ờ, tới chỗ nhà thờ thì tụi mình chia taỵ Trên đường tới nhà thờ, cả hai đi ngang một nghĩa trang lạnh lẽo, bao quanh

bằng những hàng cây gầy guộc. Đột nhiên không hiểu tại sao, Evan bỗng rùng mình run lẩy bẩỵ Thấy thế Tom bảo bạn: - Nếu lạnh, cậu lấy cái khăn choàng này của tôi đị Evan lắc đầu: - Không, tôi không lạnh, nhưng hôm nay tự nhiên sao tôi cảm thấy sợ hãi lạ lùng. Có thể vì nghĩa trang này! Nhưng tụi mình đã đi ngang đây nhiều lần mà chưa bao giờ tôi có cảm giác hãi hùng nàỵ Tom liếc nhìn bạn với vẻ tinh nghịch: - Ờ, có lẽ vì mấy cành cây khẳng khiu này trông giống những cánh tay ma đang vươn ra tính chụp lấy cậu đó. Nói rồi, Tom quơ quơ hai tay trên đầu bạn, miệng giả bộ rên la như tiếng ma kêu quỉ khóc. Evan bật cười đưa tay chụp lấy tay Tom, nhưng Tom đã lanh lẹ rụt lại rồi phóng mình chạy về phía hàng cây bao quanh nghĩa địạ Trong bóng tối mịt mù, bóng Tom khi ẩn khi hiện, Evan chỉ nhắm hướng và nghe tiếng chân bạn mà chạy theọ Khi vừa chạy tới thảm cỏ mịn màng bên ngoài hàng cây, chợt Evan bị một bàn tay lạnh buốt chụp lấy và nghe thấy một giọng nói thì thầm bên tai: - Evan! Đứng thật yên. Coi kìa! Phía bên kia nghĩa trang lạnh lẽo chập chờn một ánh lửa mạ Khi hai cậu bé chăm chú nhìn, ánh lửa như bùng lên. Evan nuốt nước miếng một cách khó khăn, thì thầm hỏi bạn: - Cái gì đó Tom? Giọng nói của Tom đầy khích động: - Ánh lửa ma! Nó chỉ xuất hiện để báo tin cho người sắp chết. Tóc gáy Evan đột nhiên dựng đứng. Cậu ráng thều thào hỏi bạn: - Ai đang cầm ngọn lửa đó. - Không ai hết. Nhưng ngọn lửa có hình khuôn mặt người sắp chết. Ánh lửa chập chờn vẫn chậm chạp di chuyển giữa những ngôi mộ im lìm. Evan lập cập nói với Tom: - Đi đi, lẹ đi Tom! Nó đang tiến về phía tụi mình. Tom nắm chặt tay bạn: - Không, cứ ở đây đị Nó không làm gì được tụi mình vì nó chỉ di chuyển trên đường đi của người chết.

Yên lặng một chút, Tom nói tiếp: - Tôi muốn biết người sắp chết là aị Cậu có muốn đi với tôi không? Evan cảm thấy hết sức hãi hùng, toàn thân run lẩy bẩỵ Cậu chỉ muốn chạy về nhà thật lẹ tìm một nơi ấm cúng giữa những người thân nên cậu ú ớ: - Không... không... Tôi không đi đâụ Tom hoàn toàn không có vẻ gì là sợ sệt: - Cậu đừng sợ. Coi kìa, nó đâu có tiến tới phía tụi mình. Đây là lần đầu tiên tôi thấy nó dù vẫn nghe lão già Price thường xuyên nhắc nhở. Đi! Nếu mình tới trước cửa nhà thờ trước khi ánh lửa tiến vào bên trong, mình có thể thấy được khuôn mặt của người sắp chết. Cậu có đi với tôi không? Evan không nói nổi nữa mà chỉ rên rỉ: - Không... không... Tôi không muốn biết ai sắp chết... Tôi không muốn thấy ngọn lửa mạ.. Tôi không muốn thấy gì hết... Tom nhún vai: - Được rồi! Nếu cậu cứ run rẩy như con gái thế này thì tôi đi một mình. Evan nắm tay bạn: - Tom, đừng đị Tôi sợ quá! Tụi mình rời khỏi nơi này ngay đị Tom có vẻ náo nức: - Đừng sợ! Tôi không thể bỏ qua dịp may hiếm có nàỵ Tôi không tin lão Price và lần này tôi sẽ có thể chứng minh được là lão ta nói láọ Tôi hỏi cậu lần chót, cậu có đi với tôi không? Evan vẫn run lẩy bẩy: - Không! Đó chỉ là loài ma quái mà tụi mình nên tránh xạ Không, tôi không đi và cậu cũng đừng đị Tom cả quyết: - Nếu không muốn đi, cậu lên chờ tôi trên đường. Coi xong mặt xác chết tôi chạy lên với cậu ngaỵ Dứt lời, Tom chạy thẳng về phía nhà thờ đứng chờ ngọn lửa ma trong khi Evan lập cập chạy ngược lại, nhẩy qua mấy bụi cây ven dường rồi ngồi run rẩy trên thảm cỏ chờ bạn mà tim đập liên hồị Trong nghĩa trang, Tom vừa chạy vừa theo dõi ánh lửa ma vẫn đang từ từ di chuyển giữa những tấm mộ bia lạnh lẽọ Cậu không hề sợ hãi mà chỉ cảm thấy

tò mò. Khi tới gần cửa nhà thờ, cậu ngạc nhiên khi thấy hai cánh cửa mở rộng. Tom tự hỏi không biết có nên bước vào hay không, nhưng rồi cậu quyết định đứng núp sau một thân cây nhỏ bên ngoài chờ đợi, vì tuy không nhát gan, cậu cũng hơi mê tín. Biết rằng Thánh David chỉ dùng ngọn lửa để báo hiệu một cách thân thiện, giúp những ai sắp về với Chúa biết trước để dọn mình chứ Thánh David không bao giờ làm hại ai, và cũng nghĩ rằng một ánh lửa cỏn con không thể làm hại được mình, nhưng những câu chuyện truyền kỳ về ngọn lửa ma luôn luôn là những câu chuyện kinh hoàng khiến Tom cảm thấy ở bên ngoài dầu sao cũng vẫn an toàn hơn. Nếu bước vào trong, lỡ hai cánh cửa đột nhiên đóng sập lại rồi đèn nến bên trong đột nhiên tắt ngóm và ánh lửa chợt biến thành một cái gì khủng khiếp thì quả là hết thuốc chữạ Đang suy nghĩ miên man, Tom thấy ánh lửa ma đã tới thật gần. Nó lập lòe vượt qua tấm mộ bia cuối cùng và chậm chạp tiến về phía cửa giáo đường. Tom nín thở đợi chờ và đột nhiên cậu cảm thấy toàn thân lạnh ngắt... Ánh lửa vẫn chập chờn tiến tớị.. Tom nhìn trừng trừng như bị thôi miên. Khi ánh lửa tới gần hơn nữa, Tom nhận thấy thoạt tiên nó chỉ là một đốm xanh lập lòe, rồi đột nhiên biến thành khuôn mặt trắng bệch của một xác chết, khuôn mặt mà Tom biết nhưng không thể gọi tên. Tới sát bên Tom, khuôn mặt của xác chết chợt mở bừng đôi mắt đỏ ngầu, nhìn cậu bằng một ánh mắt ma quái, hai khóe miệng đầy nhớt rãi nhếch lên thành một nụ cười khủng khiếp... Tom la lên một tiếng hãi hùng làm vang động cả nghĩa địa im lìm như muốn đánh thức tất cả những hồn ma đang nằm yên dưới đáy mộ. Rồi cậu phóng chạy giữa những mộ bia như bị ma đuổi, té lên té xuống nhiều lần để cố tránh thật xa khuôn mặt của xác chết và nụ cười ma quáị Khi nghe tiếng bạn la, Evan đã đứng bật dậy lo lắng đợi chờ. Khi Tom xốc xếch chạy tới như kẻ mất hồn, Evan vội vàng hỏi bạn: - Cái gì thế? Cậu thấy cái gì thế? Có điều gì ghê gớm đã xẩy ra phải không? Mặt tái ngắt không còn hột máu, Tom thở hổn hển: - Không... Không có gì hết... Có điềụ.. lão già Price chỉ là một thằng điên! Evan nắm tay bạn, mặt đầy vẻ lo âu: - Không có gì hết? Thật không? Tại sao cậu lại la hét thất thanh như vậỷ - La hét? Tôi có la hồi nào đâu! Mà có hay không... tôi cũng... không biết nữa! Evan vẫn thắc mắc: - Cậu nhìn thấy cái gì? Cậu thấy khuôn mặt người chết qua ánh lửa ma phải không? Tom run lẩy bẩy:

- Không... tôi không thấy gì hết... Thôi, cậu về đi, về ngay đi kẻo trễ quá rồị Evan hỏi tiếp: - Cậu thấy khuôn mặt của aỉ Có quen biết với tụi mình không? Tom vẫn run lẩy bẩy, cố gắng trả lời bạn một cách khó khăn: - Không... không có gì hết... không có ai hết.... trễ quá rồị.. cậu về đị Evan nhìn bạn lo lắng: - Ừ, trễ thật rồi, nhưng cậu có sao không? Tôi lo quá! Tom cố trấn an bạn: - Không, tôi không sao đâụ Thôi cậu về đi, tuần tới tụi mình gặp lạị Evan nói một cách miễn cưỡng: - Thôi được! Tôi về. Tuần tới tụi mình gặp lạị Rồi Tom và Evan chia taỵ Trong khi Evan rảo bước về ngôi làng của cậu thì Tom vẫn chưa hết vẻ kinh hoàng, vừa đi vừa run lẩy bẩỵ Khi cậu về tới nhà, mẹ cậu nhìn con hỏi bằng một giọng đầy kinh ngạc: - Tom, con có sao không? Sao mặt con xanh mướt như vậỷ Tom như chợt tỉnh, nói với mẹ: - Dạ không, con không sao hết. Có lẽ tại trời hơi lạnh và con hơi mệt. Đêm hôm đó, Tom thao thức mãị Khuôn mặt ma quái mà cậu nhìn thấy buổi chiều lúc nào cũng như đang trừng trừng nhìn cậu trong đêm tốị Cậu cố xua đuổi khuôn mặt của xác chết và nụ cười ma quái, nhưng khi chỉ vừa chợp mắt, cậu thấy mình đang đi trong nghĩa địa và khuôn mặt trắng bệch của xác chết lại xuất hiện qua ánh lửa, nhìn cậu nhếch mép cười khiến cậu la lên một tiếng hãi hùng, mở bừng mắt, mồ hôi toát ra như tắm. Mấy ngày sau đó, mọi việc diễn ra một cách bình thường. Tom đã có vẻ phục hồi sau cơn xúc động, tuy những gì cậu nhìn thấy trong nghĩa trang hoang vắng không thể nào rời khỏi đầu óc cậụ Nhiều khi trong lúc đang làm việc, Tom ngưng lại, nhìn trừng trừng về phía trước thật lâu cho tới khi cha cậu thúc cậu, cậu mới như chợt tỉnh tiếp tục làm việc. Tới sáng thứ sáu Tom cảm thấy vô cùng mệt mỏi, chân tay cậu như rã rờị Thường thường mỗi chiều thứ sáu sau khi làm việc, Tom và Evan lại gặp nhaụ Tuần này, đáng lẽ Tom chạy sang nhà Evan, nhưng tới buổi chiều, cậu bị ngất xỉu cả thẩy ba lần. Lần cuối, sau khi té xỉu trong phòng khách, Tom không còn

đứng dậy được nữạ Mẹ cậu rờ trán cậu: - Con nóng quá! Cái thời tiết quái gởn ày làm cho con tôi bị cảm lạnh rồị Thôi, con về phòng nằm nghỉ đị Tom gắng gượng phản đối: - Tuần này con phải đi thăm Evan. Mẹ cậu lắc đầu: - Con yếu quá đi làm sao được. Thôi, con cứ nghỉ ngơi cho khỏe đi cái đã. Tuần này con không đi thăm nó được rồị Tom im lặng vì biết mình không đi nổị Cha cậu phải bồng cậu vào giường. Nằm trên giường, đôi mắt Tom mở trừng trừng như muốn nhìn xuyên qua cái trần nhà trắng xóạ Nhiều lần cậu muốn nói với mẹ về những gì cậu nhìn thấy trong nghĩa địa vào tuần trước nhưng lại thôị Mẹ cậu đem vào cho cậu một tô cháo nóng hổi nhưng cậu không thể nào nuốt nổị Cuối cùng, cậu thều thào nói với mẹ: - Mẹ ơi! Con muốn gặp Evan. Mẹ làm ơn gọi nó đến đây cho con. Mẹ cậu lắc đầu: - Không được đâu con. Con không được khỏe, gọi nó tới làm gì. Thôi, con chịu khó nghỉ ngơi tĩnh dưỡng vài ngày cho khỏe đi đã, rồi cuối tuần tới Evan sẽ tới gặp con chứ có lâu la gì. Tom cố năn nỉ mẹ bằng một giọng nói đứt quãng: - Mẹ làm ơn... gọi nó tớị.. tới đây cho con... Con phải gặp nó... ngay tối naỵ.. Con không thể... chờ... lâụ.. hơn... nữạ.. Mẹ Tom cương quyết: - Con mệt quá rồị Con cần phải nghỉ ngơị Con đang bệnh, nếu Evan tới đây nó cũng chẳng làm gì được cho con. Thôi con cứ nghỉ cho khỏe đi đã, sáng mai mẹ sẽ nhờ người nhắn lại với nó, chắc chắn nó sẽ thông cảm. Mẹ nghĩ rằng ngày mai nó sẽ có thể tới thăm con. Nước mắt dâng ngập đôi mi, Tom muốn gặp Evan ngay nhưng cậu không thể cãi mẹ, vì dù có muốn cãi, cậu cũng không thể nói nên lờị Cuối cùng, cậu gắng gượng thều thào: - Mẹ... mẹ.. làm ơn... Rồi Tom lại ngất xỉụ Mẹ cậu vội gọi chồng lấy nước lạnh lau mặt cho cậụ Đứng nhìn khuôn mặt trắng bệch và đôi mắt sâu hoắm của con, bà Llewellyn cảm

thấy thương xót vô cùng. Bà nghĩ thầm, biết đâu khi gặp Evan con bà lại chả khá hơn. Bà bèn nói với Tom: - Thôi được. Để mẹ nhờ ba sang đón Evan. Bây giờ, con phải ráng ngủ một chút nghe không. Cha của Tom vội lấy xe ngựa sang đón Evan. Đang nóng ruột không biết tại sao trời đã tối mà Tom chưa tới, vừa thấy chiếc xe ngựa thoáng hiện bên ngoài trang trại, Evan vội vã phóng rạ Khi được cha của Tom cho hay tự sự, Evan bèn xin phép cha mẹ, lấy vài món đồ cần thiết bỏ vào cái túi nhỏ, nhảy lên xe ngựạ Từ giã cha mẹ Evan, cha Tom đánh xe chạy về nhà thật lẹ. Chỉ độ trên dưới nửa tiếng đồng hồ, xe ngựa đã về tới nơị Evan nhảy xuống, chạy thẳng vào phòng ngủ của bạn. Vào tới nơi, Evan vô cùng kinh ngạc vì người nằm trên giường trông không giống người bạn thân của cậu chút nàọ Thân thể Tom co rúm lại như chỉ còn một nửạ Con người đầy sinh lực của Tom dược thay thế bằng một thể xác ốm yếu tong teọ Khuôn mặt tươi vui hồng hào của Tom bị thay thế bởi một khuôn mặt hốc hác, tái mét của một người lạ mặt. Evan bước tới bên giường cầm tay bạn. Cậu cố nén lòng nhưng nước mắt vẫn trào rạ Đôi mắt Tom nhắm nghiền dù mí mắt có hơi lay động. Evan bóp chặt tay bạn và bắt đầu khóc rấm rứt. Đột nhiên Tom mở mắt nhìn Evan chăm chăm. Evan hỏi: - Tom, cậu có nhận ra tôi không? Evan đâỵ Đôi mắt Tom vẫn nhìn Evan trừng trừng. Một lát sau, Evan thấy đôi môi bạn mấp máy nhưng không thành tiếng. Evan quì xuống, ghé tai sát vào miệng bạn. Trong sự yên lặng nặng nề của căn phòng nhỏ, Evan nghe bạn thều thào: - Evan... cậụ.. ánh lửạ.. nghĩa trang.... Chỉ nói được mấy tiếng, Tom ngưng lại thở một cách mệt nhọc. Evan siết chặt tay người bệnh như muốn truyền thêm sinh lực. Cậu nói nho nhỏ: - Tom, nếu cậu mệt thì cứ nghỉ đị Tôi ở lại đây với cậu trong dịp cuối tuần này mà. Cậu nhắm mắt lại ngủ cho khỏe đị Tom vẫn nhìn bạn bằng đôi mắt vô hồn: - Không... tôi phải nóị.. Evan... hãy hứạ.. giữ... bí mật... đừng nóị.. vớị.. aị.. Nói tới đây, đôi mắt Tom như lạc thần khiến Evan hoảng hốt lắc mạnh tay bạn: - Tom, Tom, cậu có sao không? Tom lắc đầu thật nhẹ, cố thều thào: - Evan... cậu hỏi tôị.. thấy gì... tôi thấỵ.. mặt... người chết... Nói tới đây, đầu Tom hơi nghiêng sang một bên khiến Evan vội buông tay bạn,

rồi dùng cả hai tay đặt đầu Tom lại trên gối cho ngay ngắn. Tom tiếp tục thều thào: - Lúc đó... tôi không... nhận rạ.. nhưng đó là... khuôn mặt... củạ.. tôị.. Dứt lời, đầu Tom ngoẻo sang một bên. Giọng nói Tom tắt lịm. Hơi thở yếu ớt của Tom cũng tắt theọ Evan bàng hoàng đứng dậy nhìn thẳng vào Tom. Trước mắt cậu là xác chết của một người trông hoàn toàn xa lạ, người đã nhìn thấy khuôn mặt chết chóc của chính mình qua ánh lửa ma. Nguyễn Đình Khánh

Bạch Bình

Phủ Diên Bình có người học trò tên là Lâm Ðạm Nhân, dáng vóc nhỏ nhắn , da dẻ nõn nường, xinh đẹp như gái dậy thì. Ai mới gặp chàng, đều bị cái vẻ bảnh trai của chàng hấp dẫn thu hút. Thậm chí, còn có người cứ đứng ngẩn ra nhìn, cho đến lúc chàng đi khỏi thật xa mới buông lời tán thán: "Người đâu mà đẹp trai đến thế là cùng!" Thời đó, vùng Phúc Kiến thường có tục sùng thượng và yêu quí nam sắc. Duy có mình Lâm, vẫn cứ giữ gìn thân thể như một nàng xử nữ, không hề dám để lộ một chút da thịt nào cho người ngoài thấy bao giờ. Tuy đã mười chín tuổi, Lâm vẫn không chịu lấy vợ. Gặp kỳ thi sắp tới, chàng bèn thuê một căn phòng trong một ngôi vườn bỏ phế của một người họ Dư ở phía Bắc thành để làm chỗ ôn tập bài vở. Trong vườn này trồng toàn một giống kiều mộc , cây lá xúm xuê. Ðằng trước cửa vườn, có một con suối nhỏ chạy ngang, cảnh trí càng thêm u nhã tĩnh mịch. nên ít có người qua lại. Một hôm , tiết trời oi ả, đang giữa mùa hè oi bức nóng nẩy, lại thêm một ngày học hành mệt mỏi. Lâm bèn bỏ sách vở nghiên bút để ra ngoài làn bộ hóng mát ở bên bờ suối . Chàng nhìn mặt nước lăn tăn trong vắt, lòng cảm thấy thư thái, dễ chịu. Bèn tìm một tảng đá ngồi rửa chân . Chính lúc Lâm đang mải mê vui đùa với dòng suối, chợt nghe có tiếng đàn bà con gái cười khúc khích, từ phía bên kia bờ vọng sang. Chàng hết sức ngạc nhiên, nghĩ thầm nơi đây dù một bóng đàn ông chẳng có, huống hồ là khách phòng the. Chàng ngửng đầu lên nhìn. Chỉ thấy một người con gái , còn rất trẻ, dung mạo diễm lệ tuyệt luân, đang từ phía bên kia bờ, lướt trên mặt suối mà sang. Ðiều lạ lùng là gót chân nữ lang không hề dính một hạt nước, tựa hồ như có khí công vậy. Lâm bỗng buột miệng tán thưởng: - Thật là hảo công phu . Vốn chỉ là một kẻ phàm phu tục tử, bề ngoài được cái bảnh mã đẹp trai, nhưng bên trong lòng thì rụi dè nhút nhát nên khi thấy gái đẹp, Lâm chẳng những không vui, lại còn tỏ ra ngờ vực e ngại. tưởng nàng là yêu quái. Bèn lớn tiếng mắng: - Loài ma quỉ kia ! Ở đâu mà dám cả gan đến gần người ta thế này ? Nữ lang chỉ khe khẽ mỉm cười, đùa bảo với chàng:

- Úi chào? Còn sống mà đã được trông thấy ma, hẳn phúc phận của cậu to lắm đấy . Lâm nghe nàng nói thế lại càng hoang mang, nghi ngại. Vội vã lau sạch chân , đi vào hài, rồi ẩy nữ lang vào một gốc cây. Dương mắt chăm chú quan sát nàng từ đầu đến chân như người ta xem xét một món hàng mới mua . Nữ lang ngồi bệt xuống một phiến đá, tủm tỉm cười hỏi : - Này cậu ơi ? Hãy nhìn em cho kỹ đi. Giả sử em mà là yêu quái thì cậu sao lại dám đến gần. Thế chẳng sợ em , cắn cho một miếng à . Lâm vẫn tõ vẻ lạnh lùng: - Nếu cô em chẳng phải ma, thì cớ sao có thể đi trên nước mà áo quần, hài vó không hề bị ướt ? Nữ lang không sờn lòng, đáp lại: - Thế cậu không nghe người ta nói rằng bậc thánh nhân đi trên nước, thì không để lại vết, còn kẻ thường dân đi trên sương thì để dấu chân lại đó. Riêng em, chẳng những có tài sống ở dưới nước cả năm, huống hồ cái trò vặt thủy thưọng phi này. Lâm bị nữ lang cả vú lấp miệng em, không đối đáp được, chỉ u ơ ậm ực, rồi lắc đầu nói: - Thôi , dẹp cái chuyện đi nước về non của cô em đi! Có điều kỳ quặc là ở đây vắng vẻ không người, ta lại là kẻ trai tơ chưa vợ , vậy cô em đến đây với ta có mục đích . Nữ lang ứng thanh đáp: - Chu choa! Em vì tuổi trẻ, ham thích ngao du, chẳng tiện bẩm bạch , khiến cho cậu phải đem lòng ngờ vực, nếu chẳng nói rõ ra e còn bị cậu coi là con ma chín đầu nữa chưa biết chừng . Hôm nay ra ngõ không gặp được kẻ tri âm, thật là bất hạnh, chẳng khác gì như tấm gương trong bị bụi trần che phủ, biết đem tâm tình này ngỏ cùng ai đây . Ðau ơi đau? Sót sao là sót! Câu nếu chẳng phải là người hiểu biết nhân tình , thôi thì đường ai nấy đi, can gì mà hỏi vắn hỏi dài thêm mãi . Nói xong thì nước mắt lưng tròng, dựng châu lã chã, bi thiên như không thể cầm lòng được. Lâm thấy nữ lang khóc thì lòng càng bối rối, cử chỉ lúng túng, miệng lưỡi như biến mất, chỉ ấp úng nói:

- Xin cô em đừng khóc nữa, hãy vào trong nhà nghỉ ngơi rồi ta cùng nhau đàm đạo. Rồi chàng mời nữ lang theo mình về thư phòng. Tuy thế, trong lòng vẫn sợ sệt, nỗi nghi hoặc nàng là hồ ly vẫn còn phảng phất, hầu như chưa tan hết. Nữ lang thấy thái độ của Lâm như vậy, không khỏi bật cười, bảo với chàng: - Em thấy cậu nói năng thì lưu loát như chim hót, mà sao gan dạ nhút nhát, nhỏ bé như chuột vậy. Cậu không sợ đàn bà con gái người ta cười cho sao? Lâm bị nữ lang nói đúng bệnh căn, không khỏi xấu hổ, nhưng vẫn cứ sóng đôi với nàng mà đi. Hai người về đến gốc cây ở trước cửa vườn. thì gặp thằng ở của Lâm từ trong đi ngược ra. Nó bảo với Lâm: - Công tử đi đâu lâu quá, để nước lắm cháu đun nguội mất cả rồi! Nữ lang nấp đằng sau Lâm , lẻn vào trong nhà, cười khúc khích. Lâm cũng cố nhịn cười bảo với thằng ở: - Người cứ để nước đấy, ta sẽ tự lo liệu lấy ngươi khỏi phải trở lại nữa. Hôm nay ta mệt, cần nghỉ ngơi sớm. Sau khi thằng ở đi khỏi. Lâm đóng hết tất cả cửa nẻo lại rồi vào trong thư phòng cười bảo nữ lang: - Cô em linh lợi mẩn tiệp thế này, ắt hẳn là quen cái thú hò hẹn gió trăng nhiều lần rồi phải không ? Nữ lang nguýt nhìn Lâm một cái thật dài , rồi cong môi chống chế : - Chàng chỉ được cái vu oan đổ quảy cho người! Em là gái khuê các phòng the, hoa còn phong nhụy , chàng nỡ đem ví với loài bìm bịp mọc bên bờ bụi. Vả chàng là khách mày râu mi thanh mục tú , lẽ nào lại tự sắp cùng hàng với bọn giặc yếm đội khăn. Như thế, há chẳng phải là tự coi khinh mình lắm ru ? Lâm vốn tính cả thẹn, nên những gì chàng nghĩ ở trong lòng thì rất minh bạch nhưng phải phát biểu ra ngoài thì lại ngượng ngùng lúng lúng. Hôm nay bất ngờ đề cập đến chuyện trai gái khiến Lâm mặt đỏ bừng bừng, nói năng lắp bắp nhất là lại phải đối đáp với một người con gái đẹp và lưu loát như nữ lang này . Nàng cũng nhận thấy Lâm có những thái độ và cử chỉ ngượng ngùng và e thẹn, nên chẳng tiện biện bạch gì nữa, ra đứng bên cửa sổ , rồi khép cửa lại , đi vào châm đèn, sắp gọn sách vở bút nghiên của Lâm , xong đến ngồi đối diện với chàng , cùng chàng duyệt lãm thơ văn , sưu tra điển tích , tác thi làm phú. Tay chân không lúc nào ngơi.

Vô tình nữ lang chợt thấy trên giá sách có bàn cờ, bèn đem xuống, muốn so tài với Lâm. Chừng cờ vừa bày xong thì nàng lại lấy tay xóa loạn đi , bảo: - Chơi cờ chỉ tận tâm mệt óc không phải là thú vui, đôi khi còn làm cho ngươi ta tức hộc máu. Nói xong, ngôi xếp chân lại, rỡn đùa với Lâm. Nàng hỏi Lâm : - Chàng có lửa nước được không đấy , Lâm đáp: - Tửu lượng của ta thấp lắm ! Nữ lang cầm cán quạt khe khẽ đập nhẹ vào vai Lâm, hỏi: - Tửu lượng thấp có nghĩa là không uống được nhiều thì cũng uống được ít chứ gì? Nào, hai ta hãy khai hoài sướng ẩm, chẳng thú hơn là ngồi nhe răng mà nhìn nhau. Sau đó khẽ "hô" một tiếng, tay vén màn bếp, bưng ra một mâm đầy rượu thịt, toàn một thứ sơn hào hải vị hiếm hoi, thập phần khả khẩu. Lâm lấy làm lạ, hỏi: - Những thứ này nàng lấy ở đâu ra vậy ? Nữ lang chậm rãi đáp: - Thiếp đều dự bị trước cả. Mời chàng cứ ăn uống no say đi . Hà tất phải hỏi duyên do làm gì. Lâm trong lòng cho là quái dị. Nhưng trước một giai nhân kiều diễm như nàng, thì bao nhiêu ngờ vực, sợ hãi lúc đầu đã biết đi hết Rồi đó cùng nàng mời mọc. Kẻ rót , người châm , đàm đàm thuyết thuyết, tình ý hết sức là thắm thiết. Nữ lang kể với Lâm: - Thiếp họ Dư tên Bạch Bình, chủ nhân ngôi vườn này là chủ cũ của thiếp. Cả gia đình người chủ đã dọn vào ở trong thành hết. Còn lại chỉ có mình thiếp lưu lại đây thôi , cũng đã mười sáu mười bảy năm rồi. Cha mẹ ,chị em, anh em của thiếp đều đã bị phiêu bạt tha hương cả. Một mình thiếp cô khổ linh đinh sầu muộn , không biết nương dựa vào ai. May hôm nay gặp được chàng đây , nếu chàng có lòng thương đoái tưởng, thiếp nguyện xin làm kẻ hầu hạ chiếu chăn. Lâm nghe nói thế mừng lộ ra mặt, đáp: - Ta cũng chưa lập gia thất, được cùng khanh kết tóc xe tơ, còn gì hạnh phúc

bằng ! Nữ lang vừa mừng vừa thẹn. Hai má thoang thoáng ửng hồng. Rượu mỗi lúc một nông, tình càng lúc càng đượm. Lâm vốn không phải là thứ sâu rượu. Mới chừng vài chén mà trời đất ngả nghiêng. Bạch Bình bèn thừa gió bẻ măng, bồng Lâm vào lòng, đặt lên giường. Sau đó, cùng chàng mây mưa điên đảo. Lâm tuy đã trưởng thành, nhưng vật riêng lại nhỏ. Bạch Bình bông đùa bảo chàng: - Cũng may là chàng chưa có vợ, bằng không, chắc chẳng đủ lo việc gối chăn. Lâm càng xấu hổ thêm. Bạch Bình tiếp: - Chàng đừng lấy thế mà buồn làm gì. Ðể rồi thiếp chữa cho. Rồi nàng đứng dậy , khêu đèn cho sáng thêm, lần tay trong đẫy lấy ra một tễ thuốc , hòa với nước bọt thành một viên hồng hoàn , trao cho Lâm. bảo chàng nuốt vào trong bụng, xong lên giường nằm đắp chăn. Lâm cảm thấy thuốc vừa xuống đến bụng, đã thấy người nóng ran như lửa, thân hình mệt mỏi, ngủ thiếp đi , chừng trống điểm canh tư thì Lâm chợt tĩnh giấc . Chàng cảm thấy vật dưới khố ngo ngoe cử động. Lấy tay rờ thử. Vật bạo phát. Khác hẳn lúc thường. Chàng hoảng hốt, sợ hãi, báo cho Bạch Bình biết. Nàng cười, bảo Lâm: - Chàng đổi nhỏ lấy lớn, tu mấy kiếp mà được như vậy . Há chẳng là điều tuyệt diệu sao ! - Diệu thị diệu, nhưng trông xấu, khó coi quá? Vật tuy xấu, nhưng lại tăng giá cái vẻ đẹp trai bề ngoài của chàng. Hà tất phải lo nghĩ nhiều làm chi ? Rồi cùng nhau tận hưởng hoan lạc. Từ đấy, đêm nào Bạch Bình cũng lần đến với Lâm, ân ái keo sơn, chẳng có phút nào ở không. Duy có điều khiến cho hai người phải lo ngại, đó là sự hiện diện của thằng ở.

Bạch Bình bèn bàn với Lâm: - Thiếp thấy thằng ở có vẻ thông minh lanh lợi, lại là đứa tâm phúc của chàng, nói cho nó biết việc của chúng mình đâu có hại gì. Lâm cũng cho là phải, bèn gọi đứa ở đến. Nó lấy lễ chủ tớ mà bái kiến Bạch Bình. Nàng cho nó biết rõ sự tình và dặn kín miệng, đừng để cho bất cứ ai biết chuyện. Thằng ở dạ dạ vâng vâng rồi lui vào trong. Nhân thế, Bạch Bình không còn gì phải kiêng kỵ chi nữa. Ban ngày cũng thường có mặt trong thư phòng của Lâm. Ðược ít lâu, Lâm lên kinh ứng thí, hơn một tháng sau mới trở về. Bạch Bình bèn làm một bữa cơm thịnh soạn để cho Lâm tẩy trần và mừng ngày tái ngộ. Hai người ăn uống, hàn huyên sau ngày xa vắng lại càng nồng nàn thắm thiết. Chừng Lâm đem đề lại đã làm ra cho Bạch Bình coi, thì chẳng bài nào nàng được vừa ý. Chàng lấy thế làm lo lắng, nét mặt có vẽ âu sầu ủ rủ. Bạch Bình khuyên nhủ , nói: - Chàng đừng có buồn. Từ xưa đến nay học tài thi phận, chàng nhỏ âm đức ông bà, thể nào cũng đậu cao. Và quả nhiên, đến ngày kéo bảng, Lâm đậu hạng chín. Tên tuổi chàng đồn vang, lừng lẫy một vùng. Lâm có người bạn lên là Phù Sinh cháu nội một viên Thái Thú khác, cũng vào hàng mỹ mạo thiếu niên, từng chơi với Lâm từ lúc còn để chỏm, nay lại đậu đồng khoa với chàng . Phù tính tình phóng khoáng, không chịu câu thúc, nay thi đậu lại càng hứng chí, bèn mở tiệc ăn mừng, viết thơ mời Lâm đến dự, nhưng chàng từ chối. Phù phải đích thân mang kiệu đến hoa viên nhà họ Dư để cố mời cho được chàng . Lúc đến nhà Phù, Lâm thấy đã có năm sáu người ngồi sẵn ở bàn tiệc rồi. Tất cả đều mới đăng khoa và là bằng hữu cũ của Lâm cả. Chàng nhập tiệc cùng ho ăn uống, vui đùa, mãi cho đến nửa đêm mới tan thì ai về nhà nấy.

Riêng Lâm bị Phù giữ lại, không cho về. Lúc đó, Phù cũng đã ngà ngà hơi men, lè nhè bảo Lâm rằng: - Ðệ biết huynh là người bình nhật thủ thân như ngọc. Ðến nhà ai ngủ thường giữ nguyên quần áo. Ngày nay, huynh đã đậu Hiếu Liêm, lại sắp sửa làm quan, lẽ nào lại khư khư giữ mãi cái thói đàn bà con nít ấy. Ðêm nay , đễ xin được cùng huynh gát chân lên nhau nằm mà tâm sự. Như vậy có được chăng ! Lâm từ chối , xin ngủ một giường khác. Phù nói: - Rất tiếc là trong lúc gấp gáp, đệ lại không chuẩn bị trước. Rồi đưa mắt làm hiệu cho hai đứa tiểu đồng xúm lại, dùng sức cởi áo quần của Lâm ra. Lâm bị men rượu, cũng đã chếnh choáng lờ đờ, vùng vẫy chống trả, nhưng không địch nổi. Chừng khi hai đứa tiểu đồng lột xong chiếc khố của Lâm, thì vật riêng của chàng thình lình bị lộ ra ngoài, trông thô kệch và khiếm nhã như Lao Ái vậy. Phù thấy thế cũng không khỏi giật mình kinh ngạc, hỏi Lâm: - Ðây là cố vật của huynh sao ? Lâm xấu hổ, lẩn tránh không đáp. Phù cũng cảm thấy khó coi, bèn trao áo quần lại cho Lâm, ra sập nguôi nghỉ, rồi đuổi hai đứa tiểu đồng đi đóng cửa lại. Ðến bên cạnh Lâm gặng hỏi cật vấn chàng. Nhưng Lâm chỉ đỏ mặt tía tai , lặng thinh không nói một lời. Phù nghiêm sắc mặt bảo: - Ðệ với huynh là chỗ bạn bè từ nhỏ, lẽ nào lại dám để lộ việc của huynh ra. Như huynh chẳng nói thật cho đệ . Ðệ sẽ kể lại cho bạn bè để họ sẽ cùng chế diễu huynh. Lâm bị Phù ép, quẫn quá, phải đem hết thực tình việc đi lại giữa chàng và Bạch Bình thuật lại cho Phù biết, cũng căn dặn: - Việc này xin huynh đừng nói cho ai biết nhá! Phù nghe chuyện xong, ngạc nhiên hỏi: - Ðây chẳng qua là huynh quan cư một mình, nên bị chồn ám. chết ngày nào không biết. Tuy nhiên, vẫn còn cách chữa. Huynh nên sớm sớm nghĩ đến việc lập gia đình đi, thì may ra có thể thoát nạn. Ðệ có cô em gái vợ, tuổi vừa mười tám , tính tình hiền thục, lại sắc sảo mặn mòi. Nếu huynh không chê , đệ xin nhận đầu heo đứng ra làm mối cho. Lâm sớm không còn cha mẹ, chú bác, anh em gì. Việc gì cũng đều do chàng tự

quyết định cả. Vả, từ lâu, Lâm vẫn thường nghe đồn là Phù có cô em vợ mỹ lệ xinh đẹp, lại con nhà phú gia cự tộc. nên khi nghe Phù đề nghị, Lâm nhận lời ngay. Sáng sớm hôm sau, Phù vào nhà bảo cho vợ biết. Vợ Phù được tin cũng rất vui mừng, trở về nhà thuật lại cho cha mẹ biết. Cha vợ của Phủ vốn có lòng quí mến Lâm, nên đồng ý ngay. Từ đấy , Lâm không hề đặt chân trở lại ngôi vườn hoang của nhà họ Dư nữa. Chàng chọn ngày lành tháng tốt để đem sính lễ đến dạm ngõ. Chừng đến ngày cưới, quả nhiên cô dâu là người sắc nước hương trời. Theo tục lệ, ba ngày sau vợ chồng Lâm trở về ăn cỗ ở nhà nhạc gia. Họ hàng, anh em thân tộc nam nữ đến dự tiệc đông chật ních cả sảnh đường. Giữa lúc mọi người ché chén ồn ào , thình lình có một nữ lang, dáng điệu tha thướt , từ ngoài cũng đi vào Mọi người đều lấy làm lạ, đứng lên coi, chẳng ai là không thán phục cái vẻ đẹp như tiên nữ của nàng. Duy, đều chưa hề gặp nàng bao giờ. Bọn nô bọc vội vã chạy vào trong nhà thông báo cho Lâm. Chàng cũng hốt hoảng đi ra ngoài khách sảnh để coi . Té ra, chính là Bạch Bình. Thấy nàng, Lâm vừa kinh ngạc vừa sợ hãi, đứng khứng lại, miệng đơ ra không nói được lời nào. Bạch Bình giận dữ trách móc: - Bạc tình lang! Thiếp ăn ở nào có phụ chi chàng , sao nỡ bỏ thiếp như cỏ hoang bèo dải vậy ? Lâm chỉ cúi đầu ngậm tăm, không đáp. Giữa lúc đó thì Phù ra tới. Vừa trông thấy Bạch Bình, Phù cũng ngạc nhiên sững sờ trước sắc đẹp như thần, như tiên của nàng. Trong khi khách khứa còn đang ồn ào bàn tán, thì Bạch Bình đã biến mất. Chẳng ai biết được nàng là tiên hay là yêu nữ. Riêng có mình Phù là hiểu rõ căn do. Trong lòng không khỏi âm thầm lo lắng, gật gù, suy nghĩ mong lung. Sau đó nửa tháng, Lâm đến ăn ở nhà một người bạn, mãi đến lúc trống điểm canh ba, chàng mới dời nhà bạn, theo lối cửa Bắc để trở về nhà. Trên đường: chàng cảm thấy như có hai người đi theo ở đằng sau. Thoạt đầu , còn cho đó là bọn tráng đinh đi tuần , nên chốc chốc lại ngảnh lại nhìn. Chừng hai người đến gần, Lâm mới nhận rõ, đó là hai con a hoàn.

Bọn chúng xấn lại nắm lấy tay áo của chàng, nói: - Dư cô nương có lời mời công tử, xin chớ từ chối! Lâm cố dằng ra mà không được. Hai con a hoàn cũng không chịu để cho chàng tiếp tục đi tới nữa. Bất đắc dĩ, Lâm đành phải đi theo chúng . Trời về khuya , con trăng sáng vằng vặc. Ba người rẽ vào một con đường tắt chừng ba bốn dặm thì đến gần ngôi vườn hoang nhà họ Dư. Lâm trong lòng xấu hổ dừng bước không muốn đi tới nữa. Hai con a hoàn cứ xốc nách chàng mà kéo đi , chàng mới chịu đi thêm vài bước nữa, rồi nhất định đứng lại. Chàng thấy Bạch Bình ngồi trên một phiến đá , mày ngài ủ dột, nét hoa hờn oán , đang lấy vạt áo mà lau nước mắt. Hai con a hoàn kéo Lâm quì xuống đất, rồi hướng về Bạch Bình , bẩm: - Chúng con đã được gã bạc tình về đây, xin cô nương phát lạc . Bạch Bình chưa kịp lên tiếng, thì Lâm đã vội vã cúi đầu, vái nàng ba vái , rồi tự trách: - Ta cũng đã thầm hiểu lỗi lầm của mình, khanh lẽ nào không nhớ đến chút tình xưa ân ái Bạch Bình mắng: - Hừm ? ân ái ! ái ân ! Trí nhớ của chàng sao mà bền bỉ thế. Riêng thiếp thì đã đổ xuống sông, xuống biển cả rồi, không còn gì nữa. Chàng ăn ở bạc bẽo còn hơn cả Vương Khôi , Lý Ích. Ðiều đáng tiếc nữa là, chàng lại bỏ ngọc phật mà đi mê đá cuội. Tấm thân trong ngọc trắng ngà này đã vì chàng mà hoen ố mờ phai. Càng nghĩ càng bầm gan tím ruột. Hận này không thể một sớm một chiều mà tan ngay được. Nay chàng tự dẫn xác đến đây, như cá mắc cạn , lại còn ỉ ôi van lạy có ích gì ? Ðối với con người bạc bẽo như chàng , phải cho nếm mùi nhục nhã , để bớt ngông cuồng đi . Sở dĩ không giết chàng ngay là vì âm đức của cha ông chàng để lại, cho chàng được hưỡng một tương lai tươi đẹp sau này. Bằng không, dù có băm vằm chàng ra trăm mảnh, cũng không bù được tấm tình yêu chân thành của thiếp. Nói xong, sai hai con a hoàn lột hết quần áo của Lâm ra, lấy cành liễu thẳng lay vụt tới tấp vào người chàng, cả hàng chục roi, rồi lấy cát dưới dòng suối trét đầy âm kinh của chàng, đoạn cùng hai con a hoàn bỏ đi , để mặc cho Lâm nằm tênh hênh một mình trên một phiến đá. Lúc Lâm bị Bạch Bình đánh , chàng chỉ cảm thấy tựa hồ như trong một cơn mê sảng. Xoay sở, cử động đều không tự chủ được.

Sáng hôm sau, lúc mặt trời mọc , Lâm mới ngồi dậy được . Chàng lết người lần về nhà , kín đáo bảo cho Phù Sinh biết. Phù Sinh nghe Lâm kể cũng ớn lạnh xương sống, mồ hôi ra ướt đẫm áo. Từ đó, Phù không bao giờ dám bén mảng đi qua ngôi vườn hoang của người họ Dư nữa. Sau trận đòn của Bạch Bình. Lâm bị chứng liệt dương, vật riêng của chàng thun nhỏ lại như con tầm. Thuốc thang chữa chạy thế nào cũng không cử động được nữa Người vợ mới cưới, mất chỗ hoan lạc , tránh sao khỏi được chuyện ăn vụng ở ngoài. Lâm nhờ được vẻ thiếu niên anh tuấn, âm đức còn vương , quan thăng đến Thượng Thư, sau đó nhận một đứa con của Phù làm con nuôi. Câu chuyện này ta được người bạn là Lý Chi thường cho nghe.

Bàn tay khỉ

Ngoài trời, đêm lạnh và ướt, nhưng trong biệt thự Lakesnam màn bỏ bốn bề, và lửa cháy sáng rực trong lò. Hai cha con ông White đang say mê đánh cờ. Người cha thua hai bàn nên có hơi bực. Bà vợ ngồi gần bên ôn tồn bảo: - Ông đừng nóng, có thể bàn sau ông sẽ thắng. Ông chồng vừa ngẩng đầu lên đúng lúc để nhìn thấy một cái nhìn đồng loã giữa hai mẹ con... Ngay lúc đó có tiếng động cửa bên ngoài và có tiếng chân bước về phía cửa. Ông White đứng lên mở cửa. Chủ và khách chào hỏi nhau rồi bước vào trong. Khách lạ là một người cao lớn vạm vỡ, mắt nhỏ và sáng, mặt đỏ gay. Ông tự giới thiệu: - Trung sỹ Morris. Khách bắt tay những người trong nhà rồi ngồi xuống bên cạnh lò sưởi trong khi chủ rót rượu mời khách. Đến ly thứ ba, đôi mắt khách lạ bừng sáng và ông ta bắt đầu nói chuyện. Gia đình nhỏ bé của chủ nhà gồm có ba người, quây quần chung quanh để nghe ông khách lạ từ phương xa kể nhiều chuyện kỳ quái. Ông White gật gù nói với bà vợ và cậu con: - Hai mươi mốt năm qua, khi cậu này ra đi lưu lạc giang hồ, cậu chỉ là một thiếu niên giúp việc trong kho hàng của mình. Bây giờ nhìn xem, cậu đã trưởng thành tốt đẹp! Bà vợ góp ý: - Cậu Morris có vẻ nhàn lắm. Ông chồng: - Tôi cũng muốn đi chu du thiên hạ, muốn ghé qua ấn Độ để cho biết với người ta. Trung sỹ lắc đầu, bảo: - Tôi nghĩ rằng ai ở đâu nên ở đó là tốt hơn hết.

Rồi đặt ly rượu xuống, ông khẽ thở dài rồi lại lắc đầu. Ông White vẫn tiếp tục nói lên ý nghĩ của ông: - Tôi muốn thấy những đền đài cổ, những ông phù thủy và những tay thuật sỹ. À, hôm trước cậu có nói sơ qua về câu chuyện bàn tay khỉ, cậu có thể kể thêm cho chúng tôi nghe không? Trung sỹ vội gạt ngang: - Thôi bỏ qua đi. Chuyện đó không đáng nói. Toàn nhảm nhí. Nhưng bà White tò mò hỏi: - Chuyện bàn tay khỉ? Chuyện đó ra sao? Trung sỹ giải thích sơ qua: - Đó là một câu chuyện có thể gọi là huyền bí. Ba thính giả chồm tới lắng nghe. Ông khách mơ màng nốc cạn ly rượu rồi đặt xuống bàn. Ông White châm rượu vào ly. Trung sỹ mò trong túi áo lấy một vật, đưa ra: - Đây, bàn tay khỉ đây! Nó cũng chẳng có gì lạ. Người ta đã phơi khô nó tự bao giờ. Bà White ngả người ra sau, le lưỡi. Nhưng cậu con ngắm nghía cẩn thận. Ông White hỏi: - Cái này có gì đặc biệt không? Trung sỹ Morris tiếp tục nói: - Bàn tay khỉ này có một phép màu do một vị phù thuỷ đại tài ban cho nó. Vị phù thuỷ này muốn chứng tỏ là con người ở đời ai cũng có số mệnh, và kẻ nào toan cải đổi số mệnh sẽ bị tai nạn buồn phiền. Bàn tay khỉ này có phép màu. Ba người ở đây có thể xin mỗi người một điều ước. Thái độ của khách lạ rất trịnh trọng nên thính giả không cười nữa. Cậu Herbert hỏi: - Tại sao ông không xin ba điều ước đó? Trung sỹ nhìn cậu thanh niên với đôi mắt của kẻ lớn tuổi dành cho kẻ hậu sinh. Rồi ôn tồn đáp, gương mặt tái hẳn:

- Tôi đã có xin rồi! Rồi nâng ly rượu lên nốc cạn. Bà White hỏi thêm: - Còn có ai khác xin nữa không? Trung sỹ đáp: - Người đầu tiên được cả ba điều ước. Tôi không rõ hai điều trước là gì. Nhưng điều thứ ba là chết. Nhờ người đó chết nên tôi mới có vật này. Giọng nói của ông ta rất trầm buồn, nghiêm nghị thành thử mọi người trở nên im lặng. Ông White nói: - Nếu cậu đã được ba điều ước rồi thì vật này không còn giá trị đối với cậu nữa. Tại sao cậu lại giữ nó để làm gì? Trung sỹ lắc đầu: - Tôi có ý định bán nó, nhưng nghĩ lại tôi không muốn. Vì nó đã gây tai nạn cho biết bao người rồi. Vả lại không ai mua đâu, không ai tin chuyện tôi nói. Họ nghĩ thời buổi này làm gì có những chuyện hoang đường như thế. Vài người đòi thử trước rồi mới trả tiền sau. Ông White lại hỏi: - Nếu cậu được phép xin thêm ba điều khác, cậu có muốn không? Trung sỹ lắc đầu: - Tôi không biết, tôi không nghĩ tới vấn đề đó. Y cầm bàn tay khỉ lên xoay qua xoay lại giữa mấy ngón tay rồi bỗng ném nó vào lửa. Ông White kêu lên một tiếng, cúi xuống kéo nó ra thật nhanh. Trung sỹ trịnh trọng: - Nên đốt nó đi là hơn. Ông White lắc đầu: - Nếu cậu không muốn giữ nó thì cậu cho tôi. Trung sỹ lắc đầu:

- Không được. Tôi ném vào lửa. Nếu ông tiếc mà giữ nó lại thì có chuyện gì xảy ra, ông đừng phiền tôi. Ông nên ném vào lửa đi cho được việc. Ông White lắc đầu, chăm chú ngắm vật mà ông vừa làm chủ. Một lúc sau ông hỏi: - Muốn ước, phải làm thế nào? Trung sỹ: - Nắm vật này trong tay mặt và lớn tiếng nói rõ những điều ước. Nhưng tôi khuyên ông hãy suy nghĩ cẩn thận lại. Nên thấy rõ những hậu quả của hành động của ông. Bà White kêu lên: - Giống như chuyện Ả Rập "Ngàn lẻ một đêm". Bà đứng lên lo buổi ăn tối, nói đùa: - Đâu, ông ước cho tôi có bốn tay để làm công việc nhà nhanh chóng. Ông chồng lấy bảo vật trong túi ra, và cả ba người trong gia đình bật cười khi trung sỹ hốt hoảng nắm tay ông lại, dặn dò thêm: - Nếu ông cương quyết xin ba điều ước thì nên xin sao cho hợp lý. Ông White bỏ lại vật vào trong túi, kéo ghế mời trung sỹ ngồi xuống bàn. Trong khi ăn, người ta quên câu chuyện bùa chú, nhưng sau lúc ăn cả ba người ngồi quây quần bên anh quân nhân để nghe chuyện kỳ thú ở ấn Độ. Ông khách cáo từ, Herbert tiễn ông ra cửa rồi quay vào ngay nói với cha mẹ cậu: - Nếu câu chuyện huyền hoặc về cái bàn tay khỉ là chuyện bịa đặt cũng như các câu chuyện phiêu lưu mạo hiểm mà ông ta vừa kể cho mình nghe thì mình có bảo vật đó cũng chẳng ích gì. Bà White nhìn chồng chăm chú rồi hỏi: - Ông có trả cho cậu đó chút đỉnh gì không? Ông chồng: - Của chả đáng gì. Cậu ta không thèm nữa, ném vào lửa. Tôi lượm mót, cậu ta lại khuyên tôi vứt đi.

Cậu Herbert vẻ tin tưởng: - Đâu mình thử ước xem. Nếu linh ứng thì gia đình mình sẽ giàu có, tên tuổi, hạnh phúc. Ba hãy ước được làm vua. Và trước khi làm vua, ba sẽ không... thờ bà. Nói xong cậu chạy quanh bàn ăn vì mẹ cậu đuổi theo toan "ký" vào đầu cậu về câu nói phạm thượng đó. Ông White lại móc túi lấy bùa ra, nhìn nó với vẻ bán tín bán nghi, lẩm bẩm: - Tôi chưa biết phải ước gì đây? Kể ra thì đời tôi đầy đủ, chẳng thiếu thứ gì. Cậu con đến bên cạnh cha, nói: - Bây giờ nếu có thêm một ít tiền xài chơi chắc ba thích lắm. Vậy ba nên ước có hai trăm bạc. Người cha cười dễ dãi, như tự tha thứ tánh dễ tin của mình rồi cầm bàn tay khỉ đưa lên cao, vẻ trịnh trọng. Ông nheo mắt về phía bà vợ đang ngồi sau chiếc dương cầm. Bà đánh lên mấy nốt nhạc thật mạnh. Ông chồng dõng dạc nói to lên: - Tôi muốn có hai trăm bạc. Bà White đánh thêm mấy nốt nhạc như để phụ hoạ với lời ước ao của chồng. Nhưng liền sau đó ông White kêu lên: - Ý trời đất ơi! Nó nhúc nhích! Vừa lạ, ông vừa nhìn cái bàn tay khỉ đang cử động trên sàn. Ông nói tiếp: - Khi nãy tôi có ước là trông thấy bàn tay này nhúc nhích trong bàn tay tôi như một con rắn. Rõ ràng là điều tôi ước đã được ứng nghiệm. Cậu con cầm bàn tay khỉ lên, đặt trên bàn, nói: - Nhưng con chưa thấy có tiền, và con cam đoan là số tiền đó sẽ không bao giờ đến với ta. Bà vợ hoang mang bảo chồng: - Ông ước chuyện không hay! Ông chồng lắc đầu: - Chỉ là trò đùa thôi. Bà đừng thắc mắc. Dù sao chuyện này cũng làm cho tôi

kinh sợ. Cả gia đình ngồi bên lò sưởi. Hai cha con ông White ngồi hút ống điếu. Bên ngoài gió gào dữ dội hơn bao giờ hết, cánh cửa trên lầu bị gió đập kêu rầm rầm, tiếng động đó khiến ông White lo sợ không đâu. Bầu không khí lạ thường bao trùm gia đình cho đến khi họ đi ngủ. Cậu Herbert nói: - Con hy vọng ba sẽ nhận được số tiền hai trăm bạc mà ba ước trong một túi lớn đặt trên giường của ba và sẽ có một cái gì ghê gớm ngồi trên nóc tủ chứng kiến lúc ba nhận số tiền đó. II Sáng hôm sau trời trong sáng, Herbert mỉm cười trước những điều lo sợ hoang đường trong đêm. Bàn tay khỉ bỏ lăn lóc trên mặt bàn trong phòng. Điều này cho thấy là báu vật lúc này không được người ta tín nhiệm, tưng tiu như trong đêm. Bà White nói: - Tôi nghĩ ông quân nhân nào cũng vậy. Họ mê tín dị đoan lắm. Vậy mà chúng mình cũng chịu khó lắng nghe. Thật là vô lý. Vào thời buổi này làm gì có những chuyện ước nguyện như vậy! Và nếu như chuyện này có thật thì số bạc hai trăm đến tay ông bằng cách nào? Cậu Herbert xen vào: - Chắc là từ trên trời rơi xuống! Ông White nói: - Cậu Morris quả quyết là các điều ước ứng nghiệm một cách tự nhiên khiến người ta nghĩ đó là sự ngẫu nhiên. Sau khi ăn xong, Herbert đứng lên: - Nếu có tiền thật thì ba hãy giữ nguyên trước khi con về. Con chỉ sợ số bạc đó sẽ biến ba thành một người hà tiện và má với con phải giữ số tiền đó cho ba. Bà mẹ cười trước câu nói đùa của con. Bà theo Herbert ra cửa rồi quay trở về bàn ăn. Bà có vẻ vui tươi trước thái độ dễ tin của ông chồng. Dù vậy khi nghe người phát thư gõ cửa, bà cũng chạy nhanh ra hy vọng có tiền. Nhưng bà chỉ nhận được giấy đòi tiền Herbert may quần áo của ông thợ may.

Đến bữa ăn chiều, vẫn không có gì mới lạ. Bà mẹ lẩm bẩm: - Chốc nữa đây thằng Herbert về, nó sẽ chế nhạo ông nhiều nữa cho mà coi! Ông White rót bia vào ly nói: - Có một chuyện lạ là bàn tay khỉ cử động khi tôi nắm nó trong tay. Bà vợ cười: - Đó là tại ông giàu óc tưởng tượng. Ông chồng nhấn mạnh: - Tôi không nghĩ mà tôi biết rõ ràng nó cử động... Bà vợ không đáp, bà đang nhìn một người bên ngoài đang có những cử chỉ khác thường. Ông này nhìn đăm đăm vào nhà, nhưng do dự nửa muốn vào nửa muốn không. Bà White thấy kẻ lạ ăn mặc đàng hoàn, đầu đội nón thật mới. Ba lần y đứng lại trước cổng rồi tiếp tục đi. Đến lần thứ tư y đứng lại, đặt tay lên cổng rồi bỗng nhiên cương quyết đẩy cửa cổng bước vào con đường đưa tới trước cửa nhà. Bà White vội vàng cởi khăn choàng trước ngực giấu dưới nệm. Bà đưa khách lạ vào phòng. Ông này có vẻ không được tự nhiên. Ông thường nhìn trộm bà và lơ đãng nghe bà giải thích vì sao phòng khách không được ngăn nắp như thường ngày. Bà White không dám hỏi ngay lý do cuộc viếng thăm của khách lạ. Sau cùng ông khách mới nói: - Thưa bà, tôi được người ta nhờ đến đây để... Khách im lặng một lúc rồi tiếp: - Tôi từ Maw và Meggins tới đây. Bà White giật mình, hổn hển nói: - Có việc gì không? Herbert có chuyện gì? Ông chồng xen vào: - Bà nên bình tĩnh. Mời ông ngồi. Chúng ta nên thong thả. Tôi nghĩ ông không mang tin dữ đến cho chúng tôi, phải vậy không? Vừa nói ông vừa nháy mắt với khách lạ.

Ông khách ấp úng: - Tôi rất tiếc... Bà White vẫn không an tâm: - Con tôi bị thương? Khách lạ gật đầu, ôn tồn nói: - Dạ phải, cậu Herbert bị thương nặng. Nhưng cậu cảm thấy không đau đớn gì hết! Bà mẹ chắp hai tay lại kêu lên: - Cám ơn Chúa đã giúp con tôi. Chúa đã... Bà chưa dứt lời, bỗng thấy khuôn mặt buồn thảm của khách lạ, bà bấm bàn tay chồng để giữ bình tĩnh. Im lặng một lúc thật lâu, khách lạ nói thật nhỏ: - Cậu Herbert bị kẹt trong guồng máy! Ông White lặp lại câu đó như một tiếng vang: - Kẹt trong guồng máy! Rồi ông nhìn ra ngoài cửa sổ, siết chặt bàn tay vợ. Ông nói với khách lạ, giọng thật buồn: - Herbert là đứa con duy nhất còn lại của chúng tôi. Nó chết rồi, chúng tôi thật là bơ vơ. Khách lạ ho mấy tiếng, đứng lên từ từ bước về phía cửa sổ. Ông nói: - Công ty phái tôi đến để tỏ lời phân ưu với ông bà về tai nạn đáng tiếc vừa qua. Khách nói một hơi không nhìn đôi vợ chồng già, tiếp tục: - Tôi chỉ là nhân viên của công ty, xin ông bà hiểu cho tình thế của tôi. Không ai trả lời. Gương mặt bà vợ tái xanh, đứng tròng và hơi thở của bà chỉ còn thoi thóp. Còn ông thì có vẻ xa vắng. Khách lạ nói tiếp:

- Công ty Maw và Meggins không nhận trách nhiệm trong tai nạn này. Nhưng vì cậu Herbert đã giúp việc lâu năm cho công ty nên công ty quyết định gửi đến cho ông bà món tiền gọi là... Ông White buông bàn tay của bà vợ mà ông đang nắm, nhìn khách lạ với đôi mắt đầy kinh hãi: - Bao nhiêu? - Hai trăm bạc. III Trong nghĩa địa mới lập, rộng thênh thang, cách nhà độ hơn dặm, hai vợ chồng già chôn cất đứa con duy nhất. Họ trở về nhà sống âm thầm như hai chiếc bóng. Chuyện xảy ra quá nhanh chóng khiến họ ý thức được tầm quan trọng của vấn đề. Họ vẫn ở trong tình trạng chờ đợi, hy vọng một cái gì xảy ra để cho họ nhẹ bớt được phần nào gánh nặng sầu đau, quá nặng đối với hai vợ chồng già. Nhưng ngày lại ngày thấm thoát qua và niềm hy vọng mơ hồ của họ trở thành tuyệt vọng. Họ sống âm thầm. Cả ngày không trao đổi với nhau một lời, vì họ chẳng còn gì để nói. Cho nên ngày tháng đối với họ thật dài, dài không chịu nổi. Một tuần sau, ông White giật mình thức giấc vào lúc nửa đêm. Ông dang cánh tay ra và chỉ thấy một mình trên giường. Gian phòng tối đen, chỉ có tiếng khóc nghẹn ngào bên cửa sổ. Ông ngồi dậy, lắng nghe một lúc rồi bảo: - Bà ơi! Bà vào đây, ở đó coi chừng trúng sương, trúng gió. Bà vợ khóc òa lên: - Nhưng con tôi còn lạnh hơn tôi nhiều! Ông chồng vẫn còn mê ngủ, ông nằm xuống chiếc giường ấm êm, nhắm mắt lại. Ông đang mơ màng thì nghe tiếng bà vợ hét lên thật hãi hùng. Ông lồm cồm bò dậy thì nghe tiếng bà vợ la tiếp: - Cái bàn tay khỉ! Cái bàn tay khỉ! Ông chồng hỏi: - Ở đâu? Để làm gì?

Bà vợ thất thểu tiến về phía ông nói: - Tôi muốn thấy cái bàn tay khỉ! Ông đã thiêu hủy nó chưa? - Chưa. Tôi để nó ở ngoài phòng khách, trên giá đàn. Nhưng để làm gì? - Mình mới chỉ ước có một điều, còn hai điều nữa. Ông chồng kêu lên giận dữ: - Trời ơi! Bấy nhiêu đó còn chưa đủ sao? Bà vợ cũng to tiếng không kém: - Chưa! Tôi còn có thể ước thêm một điều nữa. Ông xuống dưới lấy lên đây. Nhanh, nghe không? Và ước cho thằng Herbert sống lại. Ông White ngồi dậy, vứt mền sang một bên, hoảng hốt: - Trời đất! Bà có điên không? Nhưng bà vợ vẫn cương quyết: - Ông đi lấy ngay đi. Và ước cho thằng Herbert sống lại. Ông chồng quẹt lửa thắp ngọn nến, bảo: - Bà nên đi ngủ đi, bà không biết bà đang nói gì. Bà vợ vẫn không chịu thua: - Chúng ta đã có điều ước thứ nhất, tại sao lại không có điều ước thứ hai? Ông chồng lẩm bẩm: - Đó là một sự ngẫu nhiên. Bà cụ ré lên: - Ông có đi nhanh không! Và ước y như tôi nói. Ông chồng đành đi xuống lầu trong đêm tối, mò mẫm vào phòng khách. Đến bên lò sưởi ông thấy bảo vật vẫn nằm ở chỗ cũ. Một sự lo sợ xâm chiếm lấy hồn ông. Ông sợ ước cậu con sống lại, cậu sẽ bị tật nguyền suốt đời. Với sự lo sợ đó ông toát mồ hôi, lò mò mãi mà không trở lên lầu được. Nét mặt của bà vợ đổi sắc khi ông White bước vào phòng ngủ. Ông cảm thấy sợ cả bà vợ của ông.

Bà vợ kêu lên: - Ước đi! Ông ấp úng nhưng bà vợ lại quát: - Ước đi! Ông White nắm tay đưa lên: - Tôi ước con tôi sống lại! Cái bàn tay khỉ rơi xuống sàn. Ông thấy nó nhúc nhích. Hai vợ chồng già chăm chú nhìn bảo vật một lúc, tâm trí như đặt hết tin tưởng vào phép lạ. Một lúc sau bà vợ tiến đến bên cửa sổ, vén màn lên. Bà đứng đó, nhìn ra ngoài chờ đợi cậu Herrbert sống dậy trở về. Ông chồng ngồi bất động trên ghế. Ông cảm thấy khí lạnh thấm vào cơ thể, nhưng vẫn ngồi yên, thỉnh thoảng liếc về phía bà vợ đang nhìn lom lom ra phía ngoài đường. Ngọn nến đã tàn, ném những mảnh ánh sáng chập chờn lên trần, lên tường. Cuối cùng, khi tim nến đã lụi, đốm lửa bỗng loé lên lần chót rồi phụt tắt. Ông White thấy nhẹ người khi bảo vật không đem lại lời ước thứ hai của ông. Ông trở về giường nằm. Một hai phút sau bà cụ cũng đến ngồi bên ông. Không ai nói với ai lời nào, cả hai nằm trong tiếng tích tắc của đồng hồ. Trong sự yên lặng của đêm, dường như có tiếng răng rắc xuất phát từ thang lầu, tiếng chuột chạy sát chân tường. Bóng tối như đè lên người khiến ông cụ ngột ngạt, khó chịu. Sau khi nằm ráng một chút để lấy can đảm, ông cụ lấy hộp quẹt, bật lửa lên, đi xuống lầu để tìm một cây nến khác. Đúng vào lúc đó có tiếng gõ cửa thật nhẹ, lén lút cho nên tiếng động rất nhỏ, gần như đủ lớn để cho người nghe thấy. Hộp quẹt rơi khỏi bàn tay ông White. Ông đến chết sững, hơi thở của ông ngưng lại cho đến khi tiếng gõ cửa lại vang lên lần nữa. Bấy giờ ông mới quay lưng lại để chạy về phòng ngủ, đóng cửa thật nhanh. Một tiếng gõ cửa thứ ba vang động khắp nhà. Bà cụ giật mình kêu lên: - Cái gì vậy? Ông chồng run run đáp: - Chuột, một con chuột chạy lên thang lầu, suýt dẫm lên chân tôi.

Bà cụ ngồi trên giường lắng nghe. Lại một tiếng động vang lên khắp nhà. Bà kêu lên: - Herbert về! Chính Herbert về. Bà chạy về phía cửa, nhưng chồng bà đã tới trước bà. Ông nắm tay níu bà lại, hỏi: - Bà định làm gì? Bà cụ kêu lên: - Herbert về! Nó là con tôi. Ông phải để tôi mở cửa cho nó vào. Buông tôi ra! Ông cụ run rẩy, van nài: - Không! Bà không nên cho nó vào! Bà cụ bất bình: - Coi kìa! Ông sợ cả con ông nữa sao? Hãy buông tôi ra. Để tôi mở cửa cho nó vào. Rồi bà nói to: - Má đây! Herbert, chờ má một chút! Lại thêm một tiếng, rồi hai tiếng gõ cửa. Bà vợ vùng khỏi tay chồng, chạy ra khỏi phòng. Ông chồng theo bà tới cầu thàng, dang tay bất lực gọi với theo, nhưng bà lao xuống đến tầng dưới. Ông nghe tiếng mở khoá và tút chốt thật khó khăn. Thế rồi tiếng bà vợ hổn hển kêu to: - Còn cái chốt! Ông mau xuống mở giùm đi! Trên lầu, ông chồng đang quỳ xuống sàn mò kiếm cái bàn tay khi. Ông cố kiếm được nó trước khi kẻ gây ra tiếng gõ cửa bước vào nhà. Trong khi đó tiếng gõ cửa vang dội liên tiếp như một loạt súng. Ông nghe tiếng kéo ghế mà bà vợ đặt ngay trước cửa. Ông nghe tiếng chốt cửa khua lên. Cũng trong lúc đó ông tìm được cái bàn tay khỉ. Hổn hển, ông nắm nó vào bàn tay, đưa lên cao nói lên lời ước thứ ba và cũng là lời ước cuối cùng. Đột nhiên tiếng gõ cửa ngưng ngay tức khắc, mặc dầu những tiếng động trước đó vẫn còn vọng dội vào trong nhà. Cùng lúc ông nghe tiếng ghế kéo ở phía cửa và cánh cửa mở toang. Gió lạnh lùa vào, thổi tạt lên tận cầu thang...

Tiếng rên đầy đau đớn thất vọng của bà vợ khiến ông White có thêm can đảm để chạy xuống bên cạnh bà. Rồi như còn quán tính, ông chạy thẳng ra cổng bên ngoài. Ngọn đèn đường lù mù đối diện với ngôi nhà toả ánh sáng yếu ớt xuống con đường im vắng, không một bóng người...

Bành Hải Thu

Nho sinh ở Lai Châu, là Bành Hiếu Cồ, học ở cơ ngơi khác cách nhà khá xa. Trung thu không về kịp, một mình hiu quạnh, nghĩ trong thôn chẳng có ai trò chuyện được. Chỉ có chàng thư sinh họ Khâu là danh sĩ trong huyện, nhưng vốn có tật kín, Bành thường khinh bỉ. Trăng lên, càng thấy buồn tênh, cực chẳng đã đành viết thiếp mời Khâu. Rượu nửa chừng, có một người gõ cửa lạch cạch, tiểu đồng chạy ra xem thì là một thư sinh muốn yết kiến chủ nhân. Bành đứng lên cung kính mời khách vào. Vái chào xong, cùng ngồi quanh chiếu rượu, hỏi họ hàng quê quán, khách đáp: - Tiểu sinh người Quảng Lăng, cùng họ với ngài, tên chữ là Hải Thu. Gặp đêm trăng đẹp thế này, ở nhà trọ càng buồn khổ. Nghe tiếng ngài là bậc cao nhã, bèn đường đột yết kiến. Nhìn xem, người ấy áo vải mà sạch sẽ chỉnh tề, nói cười phong lưu. Bành mừng lắm nói: - Vậy ra là người đồng tông với tôi. Ðêm nay là cái đêm gì mà gặp được khách quý thế này. Liền sai rót rượu, khoản đãi như bạn thân từ trước. Xem, khách dường như cũng rất khinh Khâu, Khâu ngẩng lên bắt chuyện, thì ngạo mạn không đáp lễ. Bành thẹn thay cho Khâu, bèn đánh lảng câu chuyện, xin hát trước một khúc dân ca cho vui. Rồi ngửa mặt dặng hắng lần nữa, hát khúc Hào Sĩ Phù Phong, cùng nhau vui cười. Khách nói: - Tiểu sinh không biết hát, không lấy gì đáp lại khúc dương xuân của ngài. Xin nhờ người hát thay được chăng? Bành đáp: - Xin vâng. Khách hỏi: - Ở thành Lai Châu này có danh kỹ nào không? Bành trả lời: - Không có. Khách nín lặng hồi lâu rồi bảo tiểu đồng: - Ta vừa gọi một người đến ở ngoài cửa, hãy ra dẫn vào đây!

Tiểu đồng đi ra, quả thấy một cô gái đang loanh quanh ngoài cửa. Nàng khoảng đôi tám, xinh đẹp như tiên. Bành ngạc nhiên hết sức, kéo nàng cùng ngồi. Cô gái mặc áo màu lá liễu, choàng khăn màu vàng, hương thơm sực nức bốn bên. Khách an ủi: - Lặn lội ngàn dặm tới đây, thật phiền nàng quá! Cô gái mỉm cười vâng dạ. Bành lấy làm lạ, gạn hỏi, khách đáp: - Quê quán khổ nỗi không có giai nhân, tiểu nhân vừa phải gọi cô này trên thuyền ở Tây Hồ đến đây. Ðoạn bảo nàng: - Khúc Chàng Bạc Tình cô vừa hát ở trên thuyền hay lắm, xin hát lại lần nữa. Cô gái hát rằng: Chàng bạc tình, Tắm ngựa ao xuân nọ, Tiếng người xa, Tiếng ngựa bỏ. Trời sông cao, Trăng núi nhỏ, Ngoảnh đầu đi không về, Trong sân trời rạng tỏ. Chẳng oán xa nhau nhiều, Sầu hội vui ít có, Ngủ nơi nao? Ðừng như bông theo gió. Cho dù chẳng phong hầu, Chớ về Lâm Cùng đó! Khách lấy cây sáo ngọc dắt trong tất ra hoà theo tiếng hát, hết khúc thì sáo cũng dừng. Bành sửng sốt khen mãi không thôi, rồi hỏi: - Từ Tây Hồ đến đây đâu chỉ ngàn dặm? Thế mà trong phút chốc vời đến được, chẳng là tiên hay sao? Khách đáp: - Ðâu dám nói đến tiên, nhưng có thể coi muôn dặm gần như ngoài cửa. Ðêm nay trăng gió trên Tây Hồ đẹp hơn mọi khi nhiều, không lẽ không đến xem một chuyến? Ngài theo chơi được chăng?

Bành đang để tâm xem sự lạ liền nhận lời đáp: - Rất hân hạnh. Khách hỏi: - Ngài đi thuyền hay cưỡi ngựa? Bành nghĩ ngồi thuyền nhàn nhã hơn bèn nói: - Xin cho đi thuyền. Khách bảo: - Nơi đây gọi thuyền hơi xa, trên sông Ngân hẳn có người chở đò. Bàn giơ tay vẫy lên không, gọi: - Thuyền ơi! Thuyền xuống đây! Bọn tôi muốn đến Tây Hồ, không sẵn tiền thưởng đâu. Lát sau, một chiếc thuyền hoa từ trên không lướt xuống, khói mây quấn quýt. Họ cùng lên thuyền. Thấy một người cầm bơi chèo ngắn, đoạn cuối gài kín lông chim dài, hình dáng như cái quạt lông, phẩy một cái là gió mát vi vu. Thuyền dần dần lên tít mây xanh, nhằm hướng Nam lướt tới, vùn vụt như tên. Khoảnh khắc thuyền đã hạ xuống nước. Chỉ nghe sáo đàn rộn rã, chiêng trống vang lừng. Ra khỏi khoang nhìn, trăng in khói sóng, thuyền chơi họp chợ, người lái buông chèo, mặc thuyền tự trôi. Nhìn kỹ, quả là Tây Hồ thật. Khách lấy ra từ sau khoang món nhắm lạ và rượu ngon, vui vẻ đối ẩm. Lát sau, một chiếc thuyền lầu tới gần rồi đi sát ngay bên cạnh. Nhòm qua song cửa thấy trong thuyền có hai người đang cười rộ bên bàn cờ. Khách đưa chén rượu mời cô gái, nói: - Cạn chén, rồi đưa cô về. Trong lúc cô gái nâng chén, Bành bịn rịn bồi hồi, chỉ sợ nàng đi mất, bàn lấy chân bấm khẽ. Nàng đưa mắt liếc ngang, Bành càng xao xuyến, xin hẹn ngày gặp lại. Cô gái nói: - Nếu chàng có lòng thương, cứ hỏi tên Quyên Nương là ai cũng biết. Khách lấy ngay khăn lụa của Bành trao cho nàng, bảo: - Tôi thay ông ấy đính ước lời hẹn ba năm sau.

Ðoạn khách đứng lên, đặt cô gái trên lòng bàn tay nói: - Tiên chăng! Tiên chăng! Rồi kéo cửa sổ thuyền bên, bỏ cô gái sang. Mắt cửa chỉ bằng cái đĩa nàng ép mình trườn vào, không cảm thấy bị chật hẹp chút nào. Lát sau nghe thuyền bên có tiếng nói: - Quyên Nương tỉnh rồi! Tức thì thuyền ấy chèo đi ngay. Xa trông thuyền nọ đã ghé bến, người dưới thuyền kéo cả lên bờ, Bành bỗng mất hứng chơi, bèn nói với khách muốn lên bờ cùng xem qua đây đó. Vừa mới thương lượng, thuyền đã tự cập bờ, nhân đó bỏ thuyền lên bộ dạo quanh chừng hơn một dặm. Khách đến sau, dắt một con ngựa, bảo Bành giữ lấy. Rồi khách lại đi ngay, dặn rằng: - Ðợi tôi mượn thêm hai con ngựa nữa. Mãi không thấy khách đến, đường đã vắng người, ngìng trông trăng đã xế về Tây, trời đã sắp rạng. Khâu cũng không biết đi đường nào. Bành dắt con ngựa tới lui, không biết nên đi hay ở. Khi gióng cương cho ngựa tới nơi đậu thuyền thì cả người lẫn thuyền đều chẳng thấy đâu. Bành nghĩ lưng túi rỗng không, càng thêm lo sợ. Trời đã sáng rõ, thấy trên mình ngựa có một túi nhỏ, thò tay xem, được ba bốn lạng bạc, bèn mua thức ăn rồi cứ đợi, bất giác gần trưa. Bành tính chi bằng hỏi thăm Quyên Nương dần dà sẽ hỏi được tin Khâu nhưng khi hỏi đến tên Quyên Nương thì chẳng một ai biết cả. Bành cụt hứng buồn tênh, hôm sau lên đường. Ngựa chạy tốt, may không liệt nhược, nửa tháng về tới nhà. Lúc ba người cưỡi thuyền bay lên, tiểu đồng về báo: - Ông chủ đã lên tiên rồi! Cả nhà đau buồn khóc lóc, nghĩ rằng không về nữa. Bành về tới nhà, buộc ngựa bước vào, người nhà sửng sốt mừng rỡ, xúm lại hỏi han, bấy giờ Bành mới kể hết những sự lạ. Nhân nghĩ chỉ một mình về quê quán, e bên nhà Khâu nghe tin sẽ đến gạn hỏi, bàn răn người nhà chớ nói rộng ra. Trong lúc chuyện trò, Bành kể đến lai lịch con ngựa. Mọi người nghe nói của tiên cho bàn kéo cả ra chuồng xem. Tới nơi chẳng thấy ngựa đâu, chỉ thấy chàng Khâu bị buộc cạnh chuồng ngựa bằng dây cương cỏ. Ai nấy kinh hãi quá sức, gọi Bành đến xem. Thấy Khâu gục đầu dưới máng cỏ, mặt mày xám ngắt, hỏi không nói, duy hai mắt lúc nhắm lúc mở mà thôi. Bành thấy bất nhẫn quá, sai người cởi dây cương vực lên giường. Khâu như người mất hồn, đổ nước cháo nóng cho, nuốt được chút ít, giữa đêm hơi tỉnh vội đòi ra nhà tiêu. Xốc nách nách đưa đi. Khâu xón ra được mấy cục phân ngựa. Lại cho ăn uống tí chút, bấy giờ mới nói được, Bành đến bên giường hỏi han, Khâu kể:

- Sau khi rời thuyền, hắn dẫn tôi đi nói chuyện phiếm. Ðến chỗ vắng, hắn vỗ đùa vào gáy, tôi liền mê mẩn ngã lăn ra. Nằm phục giây lát, nhìn lại thấy mình đã hoá ngựa. Tâm trí vẫn tỉnh táo nhưng không nói được. Thật là chuyện vô cùng nhục nhã, không sao nói với vợ con được. Xin bác chớ tiết lộ. Bành nhận lời, sai người hầu thắng ngựa đưa Khâu về. Từ đấy Bành không sao quyên được Quyên Nương. Ba năm sau, vì có người anh rể làm chức quan Phán ở Dương Châu, Bành nhân đến thăm. Châu này có Lương công tử là chỗ thân quen với Bành, mở tiệc mời chàng đến uống rượu. Trong tiệc có mấy đào hát đều đến vái chào. Công tử hỏi đến Quyên Nương, người nhà thưa là bị ốm. Công tử giận dữ nói: - Con tiện tỳ cao ngạo thanh giá, hãy mang thừng trói đem đến đây! Bành nghe đến tên Quyên Nương, giật mình hỏi là ai. Công tử đáp: - Nó là con hát số một ở Quảng Lăng. Cậy có chút tiếng tăm mới dám kiêu căng vô lễ. Bành ngờ tên họ ngẫu nhiên trùng nhau, nhưng lòng vẫn xúc động hồi hộp, chỉ mong được thấy mặt ngay. Lát sau, Quyên Nương đến, công tử hầm hầm kể tội. Bành nhìn kỹ, quả là người đã gặp trong tiết trung thu, bèn thưa với công tử: - Cô này là chỗ tôi quen biết cũ, mong ông tha thứ. Quyên Nương đưa mắt ngắm Bành, dường như cũng ngạc nhiên. Công tử chưa vội hỏi kỹ đã sai người mời rượu. Bành hỏi: - Khúc Chàng Bạc Tình nàng còn nhớ chăng? Quyên Nương càng kinh hãi, chăm chú nhìn Bành rồi mới hát khúc xưa. Lắng nghe, đúng là tiếng hát đêm trung thu năm ấy. Rượu tàn, công tử sai nàng chăn gối hầu khách. Bành nắm lấy tay nàng hỏi: - Lời hẹn ba năm hôm nay mới thực hiện được chăng? Quyên Nương đáp: - Năm xưa theo người đi chơi thuyền Tây Hồ, em uống chưa được mấy chén đã như say. Trong lúc choáng váng bị một người nhấc đem đến một thôn nọ. Một tiểu đồng dẫn em vào nhà trên chiếu rượu có ba người, chàng là một trong số

đó. Sau lại đi thuyền đến Tây Hồ, người ta mới đưa em về thuyền cũ qua mắt cửa sổ. Mỗi khi nhớ lại lúc cầm tay ân cần, cứ bảo là mộng ảo. Nhưng khăn lụa còn đây, em vẫn gói kỹ cất đi. Bành kể nguyên do rồi cùng nhau than thở. Quyên Nương ngả mình vào lòng Bành, nức nở nói: - Tiên đã làm mối, xin chàng đừng cho em là kẻ phong trần đáng vứt bỏ mà thôi không nghĩ đến người đang ở trong bể khổ này. Bành đáp: - Lời hẹn trên thuyền chưa ngày nào tôi lãng quên. Nếu nàng có đó, dù có phải dốc túi bán ngựa, tôi cũng không từ. Sáng hôm sau, thưa chuyện với công tử, lại vay mượn quan Biệt giá ngàn vàng, xoá sổ cho nàng rồi đưa nhau về quê. Tình cờ đến cơ ngơi nọ, nàng vẫn nhận ra nơi uống rượu năm nào.

Bành Hải Thu

Nho sinh ở Lai Châu, là Bành Hiếu Cồ, học ở cơ ngơi khác cách nhà khá xa. Trung thu không về kịp, một mình hiu quạnh, nghĩ trong thôn chẳng có ai trò chuyện được. Chỉ có chàng thư sinh họ Khâu là danh sĩ trong huyện, nhưng vốn có tật kín, Bành thường khinh bỉ. Trăng lên, càng thấy buồn tênh, cực chẳng đã đành viết thiếp mời Khâu. Rượu nửa chừng, có một người gõ cửa lạch cạch, tiểu đồng chạy ra xem thì là một thư sinh muốn yết kiến chủ nhân. Bành đứng lên cung kính mời khách vào. Vái chào xong, cùng ngồi quanh chiếu rượu, hỏi họ hàng quê quán, khách đáp: - Tiểu sinh người Quảng Lăng, cùng họ với ngài, tên chữ là Hải Thu. Gặp đêm trăng đẹp thế này, ở nhà trọ càng buồn khổ. Nghe tiếng ngài là bậc cao nhã, bèn đường đột yết kiến. Nhìn xem, người ấy áo vải mà sạch sẽ chỉnh tề, nói cười phong lưu. Bành mừng lắm nói: - Vậy ra là người đồng tông với tôi. Ðêm nay là cái đêm gì mà gặp được khách quý thế này. Liền sai rót rượu, khoản đãi như bạn thân từ trước. Xem, khách dường như cũng rất khinh Khâu, Khâu ngẩng lên bắt chuyện, thì ngạo mạn không đáp lễ. Bành thẹn thay cho Khâu, bèn đánh lảng câu chuyện, xin hát trước một khúc dân ca cho vui. Rồi ngửa mặt dặng hắng lần nữa, hát khúc Hào Sĩ Phù Phong, cùng nhau vui cười. Khách nói: - Tiểu sinh không biết hát, không lấy gì đáp lại khúc dương xuân của ngài. Xin nhờ người hát thay được chăng? Bành đáp: - Xin vâng. Khách hỏi: - Ở thành Lai Châu này có danh kỹ nào không? Bành trả lời: - Không có. Khách nín lặng hồi lâu rồi bảo tiểu đồng: - Ta vừa gọi một người đến ở ngoài cửa, hãy ra dẫn vào đây!

Tiểu đồng đi ra, quả thấy một cô gái đang loanh quanh ngoài cửa. Nàng khoảng đôi tám, xinh đẹp như tiên. Bành ngạc nhiên hết sức, kéo nàng cùng ngồi. Cô gái mặc áo màu lá liễu, choàng khăn màu vàng, hương thơm sực nức bốn bên. Khách an ủi: - Lặn lội ngàn dặm tới đây, thật phiền nàng quá! Cô gái mỉm cười vâng dạ. Bành lấy làm lạ, gạn hỏi, khách đáp: - Quê quán khổ nỗi không có giai nhân, tiểu nhân vừa phải gọi cô này trên thuyền ở Tây Hồ đến đây. Ðoạn bảo nàng: - Khúc Chàng Bạc Tình cô vừa hát ở trên thuyền hay lắm, xin hát lại lần nữa. Cô gái hát rằng: Chàng bạc tình, Tắm ngựa ao xuân nọ, Tiếng người xa, Tiếng ngựa bỏ. Trời sông cao, Trăng núi nhỏ, Ngoảnh đầu đi không về, Trong sân trời rạng tỏ. Chẳng oán xa nhau nhiều, Sầu hội vui ít có, Ngủ nơi nao? Ðừng như bông theo gió. Cho dù chẳng phong hầu, Chớ về Lâm Cùng đó! Khách lấy cây sáo ngọc dắt trong tất ra hoà theo tiếng hát, hết khúc thì sáo cũng dừng. Bành sửng sốt khen mãi không thôi, rồi hỏi: - Từ Tây Hồ đến đây đâu chỉ ngàn dặm? Thế mà trong phút chốc vời đến được, chẳng là tiên hay sao? Khách đáp: - Ðâu dám nói đến tiên, nhưng có thể coi muôn dặm gần như ngoài cửa. Ðêm nay trăng gió trên Tây Hồ đẹp hơn mọi khi nhiều, không lẽ không đến xem một chuyến? Ngài theo chơi được chăng?

Bành đang để tâm xem sự lạ liền nhận lời đáp: - Rất hân hạnh. Khách hỏi: - Ngài đi thuyền hay cưỡi ngựa? Bành nghĩ ngồi thuyền nhàn nhã hơn bèn nói: - Xin cho đi thuyền. Khách bảo: - Nơi đây gọi thuyền hơi xa, trên sông Ngân hẳn có người chở đò. Bàn giơ tay vẫy lên không, gọi: - Thuyền ơi! Thuyền xuống đây! Bọn tôi muốn đến Tây Hồ, không sẵn tiền thưởng đâu. Lát sau, một chiếc thuyền hoa từ trên không lướt xuống, khói mây quấn quýt. Họ cùng lên thuyền. Thấy một người cầm bơi chèo ngắn, đoạn cuối gài kín lông chim dài, hình dáng như cái quạt lông, phẩy một cái là gió mát vi vu. Thuyền dần dần lên tít mây xanh, nhằm hướng Nam lướt tới, vùn vụt như tên. Khoảnh khắc thuyền đã hạ xuống nước. Chỉ nghe sáo đàn rộn rã, chiêng trống vang lừng. Ra khỏi khoang nhìn, trăng in khói sóng, thuyền chơi họp chợ, người lái buông chèo, mặc thuyền tự trôi. Nhìn kỹ, quả là Tây Hồ thật. Khách lấy ra từ sau khoang món nhắm lạ và rượu ngon, vui vẻ đối ẩm. Lát sau, một chiếc thuyền lầu tới gần rồi đi sát ngay bên cạnh. Nhòm qua song cửa thấy trong thuyền có hai người đang cười rộ bên bàn cờ. Khách đưa chén rượu mời cô gái, nói: - Cạn chén, rồi đưa cô về. Trong lúc cô gái nâng chén, Bành bịn rịn bồi hồi, chỉ sợ nàng đi mất, bàn lấy chân bấm khẽ. Nàng đưa mắt liếc ngang, Bành càng xao xuyến, xin hẹn ngày gặp lại. Cô gái nói: - Nếu chàng có lòng thương, cứ hỏi tên Quyên Nương là ai cũng biết. Khách lấy ngay khăn lụa của Bành trao cho nàng, bảo: - Tôi thay ông ấy đính ước lời hẹn ba năm sau.

Ðoạn khách đứng lên, đặt cô gái trên lòng bàn tay nói: - Tiên chăng! Tiên chăng! Rồi kéo cửa sổ thuyền bên, bỏ cô gái sang. Mắt cửa chỉ bằng cái đĩa nàng ép mình trườn vào, không cảm thấy bị chật hẹp chút nào. Lát sau nghe thuyền bên có tiếng nói: - Quyên Nương tỉnh rồi! Tức thì thuyền ấy chèo đi ngay. Xa trông thuyền nọ đã ghé bến, người dưới thuyền kéo cả lên bờ, Bành bỗng mất hứng chơi, bèn nói với khách muốn lên bờ cùng xem qua đây đó. Vừa mới thương lượng, thuyền đã tự cập bờ, nhân đó bỏ thuyền lên bộ dạo quanh chừng hơn một dặm. Khách đến sau, dắt một con ngựa, bảo Bành giữ lấy. Rồi khách lại đi ngay, dặn rằng: - Ðợi tôi mượn thêm hai con ngựa nữa. Mãi không thấy khách đến, đường đã vắng người, ngìng trông trăng đã xế về Tây, trời đã sắp rạng. Khâu cũng không biết đi đường nào. Bành dắt con ngựa tới lui, không biết nên đi hay ở. Khi gióng cương cho ngựa tới nơi đậu thuyền thì cả người lẫn thuyền đều chẳng thấy đâu. Bành nghĩ lưng túi rỗng không, càng thêm lo sợ. Trời đã sáng rõ, thấy trên mình ngựa có một túi nhỏ, thò tay xem, được ba bốn lạng bạc, bèn mua thức ăn rồi cứ đợi, bất giác gần trưa. Bành tính chi bằng hỏi thăm Quyên Nương dần dà sẽ hỏi được tin Khâu nhưng khi hỏi đến tên Quyên Nương thì chẳng một ai biết cả. Bành cụt hứng buồn tênh, hôm sau lên đường. Ngựa chạy tốt, may không liệt nhược, nửa tháng về tới nhà. Lúc ba người cưỡi thuyền bay lên, tiểu đồng về báo: - Ông chủ đã lên tiên rồi! Cả nhà đau buồn khóc lóc, nghĩ rằng không về nữa. Bành về tới nhà, buộc ngựa bước vào, người nhà sửng sốt mừng rỡ, xúm lại hỏi han, bấy giờ Bành mới kể hết những sự lạ. Nhân nghĩ chỉ một mình về quê quán, e bên nhà Khâu nghe tin sẽ đến gạn hỏi, bàn răn người nhà chớ nói rộng ra. Trong lúc chuyện trò, Bành kể đến lai lịch con ngựa. Mọi người nghe nói của tiên cho bàn kéo cả ra chuồng xem. Tới nơi chẳng thấy ngựa đâu, chỉ thấy chàng Khâu bị buộc cạnh chuồng ngựa bằng dây cương cỏ. Ai nấy kinh hãi quá sức, gọi Bành đến xem. Thấy Khâu gục đầu dưới máng cỏ, mặt mày xám ngắt, hỏi không nói, duy hai mắt lúc nhắm lúc mở mà thôi. Bành thấy bất nhẫn quá, sai người cởi dây cương vực lên giường. Khâu như người mất hồn, đổ nước cháo nóng cho, nuốt được chút ít, giữa đêm hơi tỉnh vội đòi ra nhà tiêu. Xốc nách nách đưa đi. Khâu xón ra được mấy cục phân ngựa. Lại cho ăn uống tí chút, bấy giờ mới nói được, Bành đến bên giường hỏi han, Khâu kể:

- Sau khi rời thuyền, hắn dẫn tôi đi nói chuyện phiếm. Ðến chỗ vắng, hắn vỗ đùa vào gáy, tôi liền mê mẩn ngã lăn ra. Nằm phục giây lát, nhìn lại thấy mình đã hoá ngựa. Tâm trí vẫn tỉnh táo nhưng không nói được. Thật là chuyện vô cùng nhục nhã, không sao nói với vợ con được. Xin bác chớ tiết lộ. Bành nhận lời, sai người hầu thắng ngựa đưa Khâu về. Từ đấy Bành không sao quyên được Quyên Nương. Ba năm sau, vì có người anh rể làm chức quan Phán ở Dương Châu, Bành nhân đến thăm. Châu này có Lương công tử là chỗ thân quen với Bành, mở tiệc mời chàng đến uống rượu. Trong tiệc có mấy đào hát đều đến vái chào. Công tử hỏi đến Quyên Nương, người nhà thưa là bị ốm. Công tử giận dữ nói: - Con tiện tỳ cao ngạo thanh giá, hãy mang thừng trói đem đến đây! Bành nghe đến tên Quyên Nương, giật mình hỏi là ai. Công tử đáp: - Nó là con hát số một ở Quảng Lăng. Cậy có chút tiếng tăm mới dám kiêu căng vô lễ. Bành ngờ tên họ ngẫu nhiên trùng nhau, nhưng lòng vẫn xúc động hồi hộp, chỉ mong được thấy mặt ngay. Lát sau, Quyên Nương đến, công tử hầm hầm kể tội. Bành nhìn kỹ, quả là người đã gặp trong tiết trung thu, bèn thưa với công tử: - Cô này là chỗ tôi quen biết cũ, mong ông tha thứ. Quyên Nương đưa mắt ngắm Bành, dường như cũng ngạc nhiên. Công tử chưa vội hỏi kỹ đã sai người mời rượu. Bành hỏi: - Khúc Chàng Bạc Tình nàng còn nhớ chăng? Quyên Nương càng kinh hãi, chăm chú nhìn Bành rồi mới hát khúc xưa. Lắng nghe, đúng là tiếng hát đêm trung thu năm ấy. Rượu tàn, công tử sai nàng chăn gối hầu khách. Bành nắm lấy tay nàng hỏi: - Lời hẹn ba năm hôm nay mới thực hiện được chăng? Quyên Nương đáp: - Năm xưa theo người đi chơi thuyền Tây Hồ, em uống chưa được mấy chén đã như say. Trong lúc choáng váng bị một người nhấc đem đến một thôn nọ. Một tiểu đồng dẫn em vào nhà trên chiếu rượu có ba người, chàng là một trong số

đó. Sau lại đi thuyền đến Tây Hồ, người ta mới đưa em về thuyền cũ qua mắt cửa sổ. Mỗi khi nhớ lại lúc cầm tay ân cần, cứ bảo là mộng ảo. Nhưng khăn lụa còn đây, em vẫn gói kỹ cất đi. Bành kể nguyên do rồi cùng nhau than thở. Quyên Nương ngả mình vào lòng Bành, nức nở nói: - Tiên đã làm mối, xin chàng đừng cho em là kẻ phong trần đáng vứt bỏ mà thôi không nghĩ đến người đang ở trong bể khổ này. Bành đáp: - Lời hẹn trên thuyền chưa ngày nào tôi lãng quên. Nếu nàng có đó, dù có phải dốc túi bán ngựa, tôi cũng không từ. Sáng hôm sau, thưa chuyện với công tử, lại vay mượn quan Biệt giá ngàn vàng, xoá sổ cho nàng rồi đưa nhau về quê. Tình cờ đến cơ ngơi nọ, nàng vẫn nhận ra nơi uống rượu năm nào.

Bóng ma trôi theo tàu

Vào tháng Giêng năm 1925, một chiếc tàu dầu mang tên Watertown đang xẻ sóng vượt Thái Bình Dương để đến kênh đào Panama. Khi ấy, trên tàu đang có một buổi thủy táng. Chiếc tàu đang đi với tốc độ chậm để buổi lễ được tiến hành tiễn đưa hai thủy thủ đoàn tên là James Courtney và Michael Meehan. Họ đã ngửi phải mùi ga độc trong lúc đang lau chùi các thùng hàng cargo trên tàu, và họ đã bị chết ngạt. Thuyền trưởng và tất cả thủy thủ đoàn đều có mặt trên boong tàu để làm lễ tiễn đưa hai người bạn vừa ra đi. Viên thuyền trưởng đọc những lời cầu nguyện cuối cùng dành cho người quá cố, rồi sau đó hạ lệnh cho hai người thủy thủ khác của mình thả thân xác của những người bạn đồng nghiệp bất hạnh xuống nước. Hai người thủy thủ kính cẩn thả xác bạn mình mà trước đó đã được tẩm liệm một cách cẩn thận trong những tấm vải buồm chắc chắn xuống biển. Hai vạt nước bắn toé lên đánh dấu sự ra đi vĩnh viễn của hai người thủy thủ dưới lòng đại dương. Sau buổi thủy táng, tất cả thủy thủ đoàn đều trở lại với công việc thường lệ của mình. Khắp tàu, những lời tiếc thương cho người bạc mệnh cũng có, mà cảm thông cũng có. Những chuyện hiểm nguy xảy ra trên biển là thường, và mỗi người thủy thủ đều biết và chấp nhận những điều không may có thể xảy đến với mình. Vài ngày sau buổi lễ an táng, vài người thủy thủ của đoàn đến gặp viên thuyền trưởng để kể lại một sự việc lạ lùng. "Thưa thuyền trưởng, đó là Courtney và Meehan. Họ đang theo tàu chúng ta. Tất cả chúng tôi đều nhìn thấy. Cứ mỗi chiều hoàng hôn chạng vạng là chúng tôi đều thấy họ. Họ bơi theo tàu chúng ta". Một người thủy thủ kể lại với giọng hơi ngập ngừng pha chút sợ sệt. Viên thuyền trưởng nhìn những người thủy thủ của mình một hồi, rồi phá lên cười. Rõ ràng là những người thủy thủ này đã để cho trí tưởng tượng của họ đi quá xa. Ông nói với họ như vậy. Sau đó, những người thủy thủ rời khỏi cabin của vị thuyền trưởng và cảm thấy mình hơi ngớ ngẩn đôi chút. Biết đâu vị thuyền trưởng của mình nói đúng thì sao. Họ nghĩ thầm như vậy và nhún vai, có thể mình đã nhìn lầm. Nhưng những ghi nhận của thủy thủ đoàn về hai bóng ma trên biển ngày càng tăng. Tất cả các bản báo cáo đều giống nhau. Những bóng ma chỉ có thể thấy được cách tàu khoảng chừng hơn 20 mét (25 yard Mỹ) và ngay bên hông của tàu nơi mà họ được thả xuống trong buổi lễ thủy táng. Hai cái đầu nổi nhấp nhô trên mặt nước khi ẩn khi hiện trên làn sóng biển được nhiều người trên tàu nhìn thấy cùng một lúc. Mọi người đều đồng ý cho rằng dường như hai bóng ma ấy đang bơi theo tàu. Sau khi nhiều vị sĩ quan trên tàu nhìn thấy những bóng ma, viên thuyền trưởng phải bắt buộc chú ý đến và hành động. Khi con tàu Watertown đậu lại ở New

Orleans, viên thuyền trưởng liền báo cho những sở hữu chủ của chiếc tàu hay về sự việc ấy. Vị chỉ huy trưởng của công ty sở hữu của chiếc tàu hiếu kỳ vì câu chuyện nên liền gọi viên thuyền phó của chiếc Watertown đến. Ông ta đưa cho viên thuyền phó một chiếc máy chụp hình và một cuộn phim mới đã được niêm phong kỹ càng và dặn dò phải cất cẩn thận và nhớ đưa tận tay cho viên thuyền trưởng của tàu. Khi cần đến, viên thuyền trưởng sẽ lấy ra để chụp những bóng ma kia nếu như chúng xuất hiện lần nữa. Sau đó con tàu Watertown hoàn thành công việc ở cảng New Orleans, nó phải đi qua kinh đào Panama, và hướng về Thái Bình Dương một lần nữa. Khi chiếc tàu dầu đến gần điểm mà James Courtney và Michael Meehan được chôn, những bản báo cáo về các bóng ma kia lại tăng dần. Cho đến lúc này viên thuyền trưởng vẫn chưa chứng kiến tận mắt những hình thù mà thủy thủ đoàn của ông cho là những bóng ma. Một buổi chiều, viên thuyền trưởng liền xé dấu niêm phong của cuộn phim và bỏ vào trong máy camera. Ông đi đến cạnh sườn tàu, chờ đợi để được thấy bóng dáng của những con ma biết bơi kia. Một hồi lâu đợi chờ cũng chẳng có gì xảy ra. Khi ấy, hoàng hôn đã bắt đầu buông xuống và hai cái đầu ma quái lại xuất hiện trên làn sóng! Với hai bàn tay run rẩy, viên thuyền trưởng cố gắng bấm thật nhanh sáu "pô" hình của hai bóng ma kia. Sau đó ông đem chiếc máy ảnh về phòng riêng của mình và khóa lại trong ngăn bàn của mình, nơi mà chiếc máy ảnh còn nằm nguyên vẹn trong ấy suốt cuộc hành trình cho đến khi con tàu trở lại cảng New Orleans. Vừa đến nơi, viên thuyền trưởng liền trao chiếc máy ảnh cho công ty sở hữu của tàu. Công ty này đưa cuộn phim cho một người thợ chụp hình thương mại để rửa. Người thợ chụp ảnh này hoàn toàn không biết gì về câu chuyện lạ. Khi cuộn phim được rửa xong và những tấm phim được nghiên cứu kỹ lưỡng. Năm trong số sáu tấm phim chẳng có gì lạ ngoài cảnh chụp nước biển. Nhưng tấm phim thứ sáu rõ ràng cho thấy hai cái hình đầu người hơi nhạt đang nổi bồng bềnh trên con sóng! Công ty sở hữu của chiếc tàu liền bảo người thợ chụp ảnh phóng lớn tấm hình từ tấm phim thứ sáu ra. Khi tấm hình được phóng cỡ lớn xong, hai khuôn mặt của hai người thủy thủ đã chết đang nổi trên mặt nước như thể hai người đàn ông đang bơi trên biển! Mọi người đều biết rằng điều này không thể nào xảy ra. Hai người đàn ông đã chết và được thủy táng cách đây đã mấy tuần lễ. Nhưng không ai có thể bàn cãi được tấm hình bằng chứng kia. Chẳng có người nào có thể đưa ra một lời giải thích thật thỏa đáng. Nếu như mấy cái xác có còn nổi trên mặt nước, như một người đưa ra ý kiến, hai cái xác

ấy cũng sẽ bị dòng đại dương đưa đi nơi khác. Chúng đâu thể nào bám theo tàu ngày này qua ngày kia được như thể là chúng giữ một khoảng cách và tốc độ với con tàu. Và chúng còn được bó chặt trong nhiều bọc vải buồm nữa. Còn nếu như mấy cái xác vì lý do nào đó mà tuột ra khỏi mấy lớp vải bọc chắn chắn kia đi nữa, chúng cũng không thể nào nổi bồng bềnh với chỉ hai cái đầu ló lên khỏi mặt nước! Khi một xác chết nổi trong nước, toàn bộ cơ thể của cái xác sẽ trải dài ra và nhìn giống như một cái xác người chết trôi. Công ty sở hữu của chiếc Watertown có hỏi ý kiến của một vị bác sĩ người Mỹ chuyên nghiên cứu về tâm linh học và những hiện tượng lạ rất nổi tiếng thời bấy giờ, Dr. Hereward Carrington. Sau khi xem xét kỹ lưỡng các tấm hình, bác sĩ Carrington xác nhận rằng một hiện tượng siêu nhiên đã xảy ra. Ông ta còn thêm rằng: "Không có thể nghi ngờ một trong hai khuôn mặt là một chân dung thật sự của một trong những người đàn ông đã chết." Công ty sở hữu của chiếc tàu dầu đã rất tự hào về sự việc trên!(?) Công ty này đã cho in một tấm ảnh thật lớn hơn nữa và tấm ảnh có một thời gian được trưng bày ở các văn phòng Cities Services offices (tên của công ty của tàu dầu Watertown) tại Nữu Ước, địa chỉ 70 Pine Street, New York. Cho đến nay vẫn không có ai có thể giải thích được hiện tượng lạ lùng đó.

Bức Họa Trên Tường

Mạch Long Ðàm, người Giang Tây, với hiếu liêm họ Chu đều là khách trọ ở kinh đô. Ngẫu nhiên cùng dạo chơi một cảnh chùa. Ðiện Phật, giải vũ, phòng tăng đều không lấy gì làm rộng rãi. Chỉ có một vì sư già trụ trì trong đó, thấy khách vào bèn xốc áo ra đón, rồi dẫn khách đi xem khắp đó đây. Trong điện có tô tượng Chí Công, hai bên tường đều vẽ vời rất tình xảo, nhân vật thảy đều như sống thật. Tường bên Ðông vễ bức "Thiên nữ rắc hoa", ở trong có một thiếu nữ buông mái tóc thề, tay cầm bông hoa, miệng hé cười, đôi môi anh đào muốn nhấp nháy, làn sóng mắt dường như đung đưa. Chàng Chu chú mục giây lâu, bất giác như bị mất hồn, bàng hoàng thờ thẫn. Rồi thân thể bỗng nhiên phơi phới, như cưỡi trên mây mù, thoắt cái đã bay lên đến bức tường. Nhìn thấy lầu gác trùng trùng không phải là cõi trần. Một vị sư già đang thuyết pháp ở trên tòa, những người mặc áo hở vai vây xung quanh đông vô kể. Chu cũng đứng lẫn vào trong số đó. Một chốc, tựa như có người ngầm kéo vạt áo, quay lại thì ra cô thiếu nữ có mái tóc thề, đang vừa cười vừa quay đi. Chàng lập tức trở gót bước theo. Qua những hành lang quanh co thì có môt căn phòng nhỏ. Chu ngập ngừng không dám tiến nữa nhưng thiếu nữ đã quay đầu lại, đưa bông hoa trong tay lên vẫy gọi, chàng liền bước theo vào. Trong phòng tịnh không có người, chàng vội ôm chầm lấy, nàng cũng không kháng cự gì lắm, bèn cùng nhau giao hoan thỏa thích. Xong rồi nàng đóng cửa ra đi, dặn Chu đừng hỏi. Ðến đêm lại đến. Cứ thế được hai hôm, các bạn gái nàng biết được, cùng nhau tìm thấy chàng, liền trêu trọc nàng rằng: - Cậu bé trong bụng đã lớn tướng mà con để mái tóc bồng bồng, cũng học đòi làm gái còn son ư? Rồi bảo nhau đưa cho nàng nào trâm, nào hoa tai, bắt nàng cuốn ngược tóc lên. Cô gái thẹn thùng, không nói lời nào. Một nàng bảo: - Chị em ơi, tụi mình đứng đây lâu, kẻo người ta mất vui. Cả bọn liền cười và bỏ đi. Chàng nhìn lại nàng, thì tóc mây đã búi cao lên, vành tóc phượng buông thấp xuống, so với cô gái để tóc thề lúc trước lại càng xinh đẹp gấp bội. Nhìn quanh không có ai, bàn dắt nhau bước vào cuộc ân ái.

Hương lòng rạo rực, lạc thú đang nồng, thì bỗng đâu nghe tiếng ủng da cồm cộp rất dữ, dây xích và khóa kêu loảng xoảng, cộng thêm tiếng quát tháo, tiếng cãi cọ huyên náo. Nàng kinh hoàng nhỏm dậy, cùng với chàng đều ghé mắt nhìn trộm ra ngoài, thì thấy một vị sứ giả mặc áo giáp vàng, mặt đen như sơn, tay cầm khóa, tay nắm chùy, đám thiếu nữ xúm xít xung quanh. Sứ giả nói: - Ðã đủ chưa? Có tiếng đáp: - Ðủ cả rồi. Sứ giả lại nói: - Nhược bằng có chứa chấp người hạ giới thì lập tức bảo nhau cùng khai ra, chớ để phải hối về sau. Cả bọn đồng thanh đáp: - Không có đâu! Sứ giả quay người, đưa cặp mắt cú vọ nhìn quanh, tựa hồ tìm ra kẻ đang nấp. Cô gái cả sợ, mặt xám như tro, thảng thốt bảo chàng: - Mau trốn xuống gầm giường. Rồi mở cánh cửa ngách bên tường lẻn đi mất. Chu nằm bẹp xuống, không dám thở. Giây lát nghe tiếng ủng đi vào trong phòng rồi lại đi ra. Chẳng bao lâu tiếng huyên náo xa dần, bụng đã yên, nhưng ngoài cửa vẫn có tiếng người qua lại bàn bạc. Chu cứ thấp thỏm như thế giờ lâu, đến lúc bên tai như có tiếng ve kêu, trong mắt nẩy đom đóm, tình trạng ngỡ không chịu nổi nữa, chỉ còn cố lắng tai để đợi nàng về, cuối cùng cũng không còn nhớ thân mình từ đâu mà đến đây. Bấy giờ Mạnh Long Ðàm đang đứng trước điện thờ chớp mắt đã không thấy Chu đâu, ngờ vực hỏi Nhà Sư. Vị sư cười đáp:

- Ði nghe thuyết pháp rồi. Mạnh Long Ðàm hỏi: - Ở đâu? Nhà Sư đáp: - Không xa. Một chốc Nhà Sư bèn gõ ngón tay lên tường mà gọi to lên rằng: - Ông đàn việt họ Chu, đi chơi lâu thế, sao chẳng quay về? Liền thấy giữa bức họa trên tường có hình của Chu, đang đứng nghển cổ lắng tai, chừng như nghe ngóng. Nhà Sư lại gọi tiếp: - Ông bạn cùng đi đợi lâu rồi đấy. Thế rồi Chu bồng bềnh từ trên tường bay xuống, lòng lạnh như tro, người cứng đờ như gỗ, mắt trừng trừng, chân bủn rủn. Mạnh đâm hoảng, sẽ sàng hỏi han. Thì ra lúc đó Chu đang núp dưới giường, bỗng nghe tiếng gõ vang như sấm, vội chui ra khỏi phòng để nghe ngóng tình hình. Cả hai cùng ngước nhìn cô gái nhón hoa thì mái tóc vặn hình ốc đã cuốn cao lên, không còn xõa tóc nữa. Chu khiếp sợ, vái vị sư già mà hỏi duyên cớ. Nhà Sư cười đáp: - Ảo là do mình sinh ra, bần đạo làm sao giải thích được! Chu ỉu xìu mất cả khí thế. Mạnh sợ hãi không còn tự chủ nổi, vội đứng dậy lần bậc thềm ra về.

Bụi tre đầu làng

Gió thổi từng cơn, mang theo hơi ẩm của cơn mưa mùa hạ. Tôi ngồi trước thềm nhà vànhớ lại câu chuyện, bác Bãy gặp mạ Bác Bãy là người chuyên di bắt ếch, nhái vào ban dêm. Trời càng khuya thì càng tốt. Có nhiều khi Bác ấy di dến gần 2 giờ sáng mới về. Những cơn mưa, dầm dề, dến hai hoặc ba ngày liền. Dó là những dịp may nhất mà bác Bãy hằng mong dợị Có một dêm, mưa gió rất lớn. Tôn trên nóc nhà dập lên, xuống như muốn vỡ luôn cả nóc nhà ra ... Thế nhưng bác Bãy lặng lẽ rời khỏi nhà với chiếc dèn "măn-xông" và cái thùng mủ có nắp. Bác mãi mê tìm kiếm Ếch, Nhái cho tới 1 giờ sáng. Chỉ có vài con trong thùng. Vừa buồn, chán lại thêm phần mệt, mõị Bác bãy dã từ từ di trỡ về tới dầu làng. Mưa dã bớt dần, nhưng gió thì không ngớt. Bác Bãy vừa thấy bụi tre thì chợt nhớ ra mình cần phải di tiễụ Nghĩ tới dó thì chân bác Bãy dã dẫm lên trên những lá tre rồị Bác vội bõ chiêc dèn và thùng Ếch, Nhái xuống. Cứ như vậy, mà bác Bãy tha hồ "trúc bầu tâm xự" lên cây trẹ Bỗng nhiên, gió thỗi mạnh làm bụi tre nghiêng ngã. Thân những cây tre cọ xát vào nhau, tạo thành những tiếng kiêu:"kòke,kót két,kòke,kót két..." ơn' lạnh cả ngườị Bác Bãy vừa tiễu xong, thì nghe tiếng mẹ ru con phát ra từ trên những ngọn cây tre " Oa,Oa,Oạ..Ầu ơ nín di, nín di con dễ mẹ xuống, xem trong thùng có Ếch không. Mẹ bắt lên cho con nha". Bác Bãy vừa nghe thì vội vàng nhìn chung quanh xem thử ai vữa nóị Bác Bãy chẵng thấy một ai cã. Bác lẫm bẫm một mình " Xuống dây, lấy 'con-ccc...' lên cho con mầy nè". Nói vừa dứt lơì thì Bác bước ra về. Trong lòng có phần hồi hợp. Bác cố tạo ra vẽ mạnh dạng,trong những bước chân của mình. Ai ngờ, lại những tiếng ru hôì nãy vang lên. Có tiếng, người mẹ nói lớn hơn và nhấn mạnh từng câu một :" Âu ợ..nín di con, dễ mẹ xuống dưới cắt "con-ccc" cua ỗng lên cho con nhạ Lúc này thì hồn vía của bác Bãy di chơi dâu rồị Bác không còn biết chi, ngoài việc co giò chạy thẳng về nhà. Sau ba ngày nằm bệnh trên giường. Bây giờ bác Bãy mới bắt dầu từ từ kể lại cho mọi người ngồi chung quanh nghẹ.. Bây giờ mưa dã tạnh, bầu trời cũng sáng rực lên rồị Trên cây chỉ còn lại những hạt nước to,bự long lanh trong tia nắng. Khắp làng dã bi nước ngập lên tới" mắc cá" chân.

Bút máu

Lương Sinh người ở Mãn Châu, con nhà thế phiệt, nổi tiếng thông minh đỉnh ngộ từ khi tóc để trái đào. Lên tám đã giỏi thơ ca, từ phú, ai cũng ngợi khen là bậc thần đồng. Năm lên mười hai, gặp thời loạn ly, cha mẹ đều bị giặc giết. Sinh sầu thảm mấy tháng liền, mất ăn, mất ngủ, lại thêm căn tạng yếu đuối nên lâm bệnh nặng, thần kinh hốt hoảng, luôn luôn giật mình, nằm mơ thấy toàn là máu lửa, sọ xương. May có người cậu đem về săn sóc đêm ngày. Sau nhờ đạo sĩ họ Trình ở núi Hoa Dương dùng biệt dược trị liệu nên được lành bệnh, tâm thái trở lại an tĩnh điều hòa. Khi lên mười lăm, Sinh được người cậu gởi đến Lã Công, một quan thủ hiệu bãi chức từ lâu ở nhà mở trường dạy võ. Sinh học rất chóng, nửa năm đã làu thông cả mười hai môn võ bí truyền của nhà họ Lã. Lã Công quý mến, một hôm lấy thanh bảo kiếm của mấy mươi đời họ Lã lập công trao cho Sinh luyện tập. Giữa buổi Sinh đang múa kiếm, bỗng dừng phắt lại, đưa kiếm lên ngửi rồi cau mày, kêu lên: - Máu người tanh quá! Ðoạn đem thanh kiếm nộp trả, cáo từ mà về. Ðến nhà, lạy cậu thưa lên: - Võ nghệ không phải là con đường cháu nên theo. Máu người chảy trong cơ thể quý vô cùng nhưng dính ra ngoài lại quá hôi tanh. Kẻ cầm lưỡi dao trọn đời sao cho khỏi đổ máu người! Ðiều tàn nhẫn ấy cháu không làm được. Người cậu giận lắm, bảo rằng: - Mày thực cạn nghĩ, phụ cả lòng ta trông đợi lâu nay. Ðành rằng máu người là quý, nhưng để máu ấy chảy trong đầu bọn ác nhân thì càng có hại cho người, lại càng có tội! Lương Sinh cúi thưa: - Ai cũng cho mình là phải, lấy đâu để nói tốt xấu rõ ràng? Làm thiện một cách hăm hở mà không ngờ rằng đấy là điều ác, lại càng có tội vì đã lừa mình, lừa người. Trộm nghĩ binh đao là điều dứt khoát, cháu chưa dứt khoát trong người, tự thấy không dám theo đuổi. Cậu nói: - Hoài nghi như thế, e rồi không khéo mày tự mâu thuẫn với mày. Không phân biệt được giả, chân, thiện, ác, làm sao có thể tự tin mà sống trên đời! Xã hội chưa đâu có thể gọi là chốn thiên đường, bên cạnh nhà trường còn có nhà ngục, bên cạnh ngòi bút còn có lưỡi dao, không thể chỉ lấy một chiều, chỉ yêu một cạnh. Vị tất nhà trường đã không tội lỗi, ngòi bút đã không oan khiên! Ta không có con, từ lâu kỳ vọng nơi mày, nhân thời tao loạn, những mong cho

mày múa gươm trận địa hơn là múa bút rừng văn. Bây giờ, thế thôi là hết. Từ nay tùy mày định lấy đời mày, ta không nói nữa. Từ đấy, Lương Sinh sẵn có nếp nhà giàu đủ, chuyên nghề thơ văn, tiêu dao ngâm vịnh tháng ngày. Lời thơ càng gấm, ý thơ càng hoa, tiếng đồn lan xa, lan rộng như sóng trên biển chiều nổi gió. Quan lệnh trấn mới đổi đến địa phương vốn người hâm mộ văn chương, cho vời Sinh đến. Thấy Sinh tướng mạo khôi ngô, lòng cảm mến, tiếp đãi hết sức trọng hậu. Sau đó, quan lệnh mượn những thi tuyển của Sinh trong một tháng trường. Khi quan giao trả, Sinh thấy có những bài thơ hay họa lại những bài đắc ý nhất của mình dưới ký tên Tuyết Hồng, con gái của viên quan. Sinh vui mừng nghĩ rằng gặp được người hợp ý. Sau quan lệnh ngỏ lời kén Sinh làm giai tế. Sinh sung sướng nhận lời. Sau lễ hôn phối, Sinh mới ngỡ ngàng biết rằng Tuyết Hồng không đẹp, cũng không biết làm thơ. Càng ngày Sinh càng chán nản khôn khuây, ảo tưởng vỡ tan, tưởng như tuyệt vọng tình đời. Thiếu thốn hình ảnh giai nhân, cuộc sống tự nhiên cằn cỗi. Nhân tết nguyên đán, Tuyết Hồng về thăm song thân, Sinh bèn thừa dịp, noi gương Tử Trường ngày xưa phiếm du xuân thủy. Sinh chọn đường ven theo suối đẹp, đi mãi đã mười ngày, tiền lương muốn cạn, ý thơ chừng đầy, chợt đến một miền tiêu điều, dân cư thưa thớt, Sinh chán nản định quay về, nhưng ruột đói lưỡi khô, bèn đi tìm một tửu quán nghỉ chân. Qua ba dặm đồng trơ trọi vẫn chưa thấy bóng một người để hỏi thăm nơi. Bỗng nghe phảng phất tiếng trống, tiếng chuông lẫn tiếng reo cười. Dò theo âm thanh vọng lại, lần bước đến nơi, thấy đám hội trước chùa, bèn vào quán nhỏ gần đấy ăn uống. Chủ quán cho biết, đã mấy năm rồi ở đây mới có một ngày hội lớn, vì quan khâm sai triều đình sắp về địa phương nên quan tổng trấn họ Lý bày ra trò vui để cho dân chúng thỏa thuê ít bữa. Chợt có tiếng hò hét và mọi người sợ hãi dạt ra, từ xa là chiếc kiệu hoa của tiểu thư Lý Duyên Hương, con quan Tổng Ðốc. Người đẹp vừa kiêu hãnh vừa sắc sảo khiến Sinh ngây ngất, nhìn đến quên ly rượu trong tay rơi xuống vỡ toang. Người đẹp quay nhìn thấy, nhoẽn miệng cười. Nụ cười lộng lẫy như hé sáng một trời tình. Sinh lảo đảo đứng lên trả tiền rồi theo chiếc kiệu chen vào chùa. Vào trong thấy Lý tiểu thư thành kính đàm đạo với mấy vị Tăng già rồi lên chánh điện lễ Phật. Sinh đến phòng kế lấy bút và giấy hoa tiên theo phỏng mấy câu: Tiên hoa gài mộng, vấn vương đền Phật bâng khuâng Ðông biếc, thoáng cười tiên nữ Mặt nước hồ in, xao động bốn mùa sóng gió Bóng đêm hang thẳm, long lanh một vẻ giai nhân. Rồi bẻ cành hoa kẹp vào. Khi Lý tiểu thư lễ xong, khoan thai xuống thềm, mọi người sợ hãi bật ra hai bên thì Sinh vội vã đi theo. Ðến lúc nàng vừa lên kiệu, Sinh ném cành hoa lên chỗ nàng ngồi. Lính hầu thoáng thấy kêu lên: - Có người ám hại tiểu thư. Lập tức mười lưỡi gươm dài vung lên, lính hầu vây lấy Lương Sinh. Những người xem hội thất sắc lùi lại, dồn dập đẩy vào nhau kêu la náo động. Tiểu thư

ngồi trên, vén rèm nhìn xuống không nói một lời. Vẻ mặt hết sức kiêu kỳ. Lương Sinh đã toan mở lời khống chế, nhưng lính xông vào trói chàng. Ðám đông có tiếng thì thào. - Anh ta chỉ ném một cành hoa thôi đấy. - Bấy nhiêu cũng đủ héo cuộc đời rồi. - Qua dinh Tổng trấn không lấy nón xuống đã là bay đầu, nói chi xúc phạm đến tiểu thơ vàng ngọc! Về đến nha môn, lính dẫn Lương Sinh nhốt vào trại giam, rồi tâu trình lên Tổng trấn. Lương Sinh nằm rầu rĩ trong bốn bức vách đá, e phải mang nhục phen này. Ðang mơ màng về thế giới bên kia, chợt nghe tiếng người gọi dậy, lập tức được lính dẫn đến công đường. Tổng trấn ngồi giữa, vóc dạng phương phi, hàm én râu hàm, trên tay còn cầm tang vật là mảnh hoa tiên. Sinh cúi đầu thi lễ, toan tìm lời kêu oan gỡ tội thì quan ra lệnh mở trói. Trước sự kinh ngạc của Sinh, quan bước xuống thềm, dắt Sinh vào trong, kéo ghế bảo ngồi, Sinh từ chối hai ba lần không được. Quan nói: - Ta thường ước ao gặp được một người tài đức, nay biết người là danh sĩ nên thực hết lòng hâm mộ. Lính hầu sơ xuất phạm điều vô lễ vừa rồi, ta sẽ nghiêm trị. Gác đằng thuận nẽo gió đưa, người hãy cùng ta ở đây hưởng mấy ngày xuân vui câu xướng họa, cho thỏa tình ta khao khát lâu nay. Ðoạn truyền đem rượu ngon thịt béo ra thết đãi nồng hậu. Lương Sinh thích thú uống rượu ngâm thơ suốt ngày Tổng trấn có vẻ đặc biệt kính trọng tài năng của Sinh. Ðộ chỉ hôm sau, quan tổ chức cuộc du xuân, đưa Sinh đi xem cảnh trí trong miền. Nơi nào quan cũng cho thấy kỳ công đại lực của quan tạo lập cho dân: Kia là dòng suối quanh co quan đã khai thông để để dân lấy nước cày cấy, nọ là đồng ruộng bao la trước kia toàn là rừng rậm hoang vu quan đã tốn công khai phá cho dân trồng trọt. Ngồi trên kiệu cao, Sinh nhìn theo ngón tay quan trỏ phía xa xa, mơ hồ thấy suối thấy đồng nhiều vẽ khác màu miệng không ngừng tán tụng. Hơi men nồng nàn, lòng Sinh chứa chan nhiệt tình đối với những bậc "Dân chi phụ mẫu" mà xưa nay Sinh thường tỏ ý rẻ khinh. Ðến đâu quan cũng xin Sinh lưu bút để cho khắc vào bia đá, cột đồng. Sinh phóng bút thao thao bất tuyệt. Mực thơm bút quý, lời lời châu ngọc, hàng hàng gấm thêu. Trước khi giã từ, Sinh còn lưu lại bài tán tổng kết công đức của quan để khắc vào chốn công đường và bài minh, ký để ghi tạc vào mấy cổ hồng chung tại các tháp đền quy mô trong hạt. Quan ân cần tiễn Sinh ra khỏi nha môn, đưa tặng một cỗ ngựa bạch, mấy nén vàng, nhưng Sinh một mực từ chối từ không nhận để giữ vẹn lòng thanh khiết. Giữa mùa xuân ấy Sinh lâm bệnh nặng, nằm liệt suốt một tháng liền, Tuyết

Hồng hết sức săn sóc thuốc thang, nhiều đêm không ngủ. Bệnh cũ như muốn tái phát, thần kinh rạo rực không yên, giấc ngủ chập chờn ác mộng. Mấy lần chống tay ngồi dậy, nhưng lại bủn rủn nằm xuống, hơi thở nóng ran như lửa. Một sớm đang nằm, nghe tiếng chim hoàng anh hót ngoài vườn vụt tắt, thấy một tia nắng lọt qua khe cửa chợt tàn. Sinh hốt hoảng tưởng chừng mùa xuân bỏ mình mà đi, bèn gượng ngồi lên xô mạnh cửa sổ. Mấy nụ hoa thắm cười duyên trước thềm, lá xanh tươi màu nhựa mới. Sinh gọi đem nghiên bút và tập hoa tiên. Vừa cầm bút lên, Sinh bỗng kinh ngạc. Nghiên mực đỏ tươi sắc máu. Thử chấm bút vào, lăn tròn ngọn bút đưa lên, bỗng thấy nhỏ xuống từng giọt, từng giọt thắm hồng như rỉ chảy từ tim. Khiếp đảm, Sinh ngồi sửng sờ, tâm thần thác loạn. Cố viết đôi chữ lên giấy, nét chữ quánh lại, lợn cợn như vệt huyết khô trên cát. Sinh vội buông bút, tưởng chừng bàn tay cũng thấm máu đầy. Ðưa lên ngang mũi, mùi tanh khủng khiếp. Quệt tay vào áo, đau nhói trong người. Sinh nằm vật xuống mê man bất tỉnh. Sau mấy ngày, Sinh tỉnh dậy, lòng lại khao khát cầm bút. Nhưng nhớ hình ảnh vừa qua, tự nhiên đâm ra e ngại . Sinh cố tập trung thần lực, men đến án thư vừa cầm bút lại thấy lãng vãng sắc máu, không sao có đủ can đảm vạch được nét nào. Sinh ném bút, hất giấy, vô cùng khiếp sợ, tưởng như xôn xao chung quanh vô số hồn oan đòi mạng. Từ đó Sinh gầy rạc hẳn, liệu không sống thoát. Người cậu của Sinh từ lâu đã vào trong núi Hoa Dương ở với đạo sĩ họ Trình, một hôm tạt về thăm nhà thấy cháu suy nhược, rất là lo lắng. Sau khi nghe Sinh thuật hết những điều quái dị vừa qua, ông suy nghĩ hồi lâu rồi nói: - Ta từng bảo cháu ngòi bút không phải không có oan khiên. Lưỡi gươm tuy ác mà trách nhiệm rõ ràng, lỗi lầm tác hại cũng trong giới hạn. Mượn sự huyển hoặc của văn chương mà gây điều thiệt hại cho con người, tội ác của kẻ cầm bút xưa nay kể biết là bao, nhưng chẳng qua vì mờ mịt hư ảo nên không thấy rõ hay không muốn rõ mà thôi. Làm cho thiếu nữ băn khoăn sầu muộn, làm cho thanh niên khinh bạc hoài nghi, gợi cho người ta nghĩ vật dục mà quên nhân ái, kêu cho người ta tiếc tài lợi mà xa đạo nghĩa, hoặc cười trên đạo nghĩa của tha nhân, hát trên bi cảnh của đồng loại, đem sự phù phiếm thay cho thực dụng, lấy việc thiển cận quên điều sâu xa, xuyên tạc chân lý, che lấp bần hàn, ca ngợi quyền lực, bỏ quên con người, văn chương há chẳng đã làm những điều vô đạo? Tội ác văn chương xưa nay nếu đem phân tích biết đâu chẳng dồn thành ngàn dãy Thiên Sơn! Thần tạng của cháu kinh động thất thường, nhưng mà bản chất huyền diệu có thể cảm ứng với cõi vô hình, chắc cháu làm điều tổn đức khá nặng nên máu oan mới đuổi theo như vậy. Hãy xem có lỡ hứng bút đi lệch đường chăng? Soát lại cho mau, soát lại cho mau, chớ để chậm thêm ngày nào! Lương Sinh nghe xong bồi hồi tấc dạ, trí tuệ xem như minh mẫn hơn nhiều, cơn bệnh do đó lui được khá xa. Sinh đem mấy tập thi tuyển của mình đọc lại từng câu, dò lại từng chữ, thấy toàn là ý bướm tình hoa, phát triển cảm xúc mà xao lãng trí tuệ, tán tụng thiên nhiên mà bỏ mất cảnh đời, trốn tránh thực tại, từ chối tương lai, nhưng nghĩ kỹ vẫn chưa dò được lối máu từ đâu. Bỗng sực nhớ đến những lời phóng bút viết cho quan Tổng trấn, không ghi lại trong thi tuyển, tâm não trở nên bàng hoàng. Ðồng thời bao nhiêu gương mặt hốc hác

trong ngày hội chùa lại hiện rõ, mấy cánh đồng trơ trọi, những tiếng thì thầm hai bên kiệu hoa, vẻ người nhớn nhác sợ hãi, những đòn dây trói, mấy dãy nhà giam, lần lượt như sống lại trước mắt. Những cảnh ấy thật trái ngược với những bài tán bài mình đã viết. Mồ hôi toát ra như tắm, Sinh đứng lên được, quyết định trở lại chốn cũ để tìm hiểu sự thật. Sinh đến chốn cũ vào một buổi chiều nắng vàng thê lương phủ trên cảnh vật tiêu điều xơ xác. Qua khỏi dòng suối cạn, Sinh bước vào một thôn trang vắng vẻ, thưa thớt những mái tranh nghèo, không một bóng người thấp thoáng. Ðến một gò cỏ úa héo chợt thấy một người nông phu ủ rủ trước nấm mộ mới hiu hiu mấy nén hương tàn, Sinh dừng bước, lại gần ngồi một bên, khẽ hỏi: - Bác khóc thương thân quyến nào vậy? Người kia ngước lên không nói, ngắm nhìn lại bụi đường trường bạc thếch trên quần áo của Sinh, dịu đôi mắt xuống: - Người nằm dưới mồ không phải là bà con quen thuộc của tôi. Sinh nghĩ: "Chẳng lẽ người này cũng là một kẻ thi nhân khóc thương cho kiếp hồng nhan bạc mệnh nào chăng?" Chưa kịp dò ý, người kia chợt hỏi, ra vẻ hoài nghi: - Ông từ đâu mà đến đây? - Tôi ở chốn xa, nhân bước đường phiêu lưu ghé tạt qua thôi. Buồn thấy miền này có vẻ tiêu điều hơn các nơi khác. Người nông phu bỗng long lanh đôi mắt như không dằn được tấm lòng dồn nén bật lên những tiếng căn hờn: - Nói cho muôn ngàn khách qua đường cũng chưa hả được dạ này. Ví dù phải chết ngày nay thân này chẳng tiếc, miễn sao bộc bạch cho được sự thật uất hận từ lâu. Ðã bao năm rồi, sống dưới nanh vuốt của tên Tổng trấn họ Lý độc dữ hơn hùm beo, đồng ruộng gầy khô, dân làng đói rách. Ðầu xuân này có khâm sai đi về, cụ thôn trưởng của chúng tôi, mặc dù già yếu cũng quyết vì dân làm bản trần tình, cản đầu ngựa, níu bánh xe mà tỏ bày sự thật. Thế nhưng khâm sai đi khắp mọi nơi, chỗ nào cũng thấy bia đá cột đồng đầy lời hoa mỹ tán dương công đức Tổng trấn của thằng danh sĩ đốn mạt nào đó nên ném bản trần tình, không xét, bảo rằng: "Muôn ngàn lời nói của lũ dân đen vô học đâu bằng mấy vần từ điệu cao xa của kẻ danh nho. Danh sĩ bao giờ cũng biết tự trọng. Tổng trấn đã được hạng ấy tôn xưng, hẳn không phải bất tài". Thế đã thôi đâu, khâm sai đi rồi. Tổng trấn phái sai nha về tróc nã những người đã đầu đơn tố cáo nó. Bao người phải chết vì nỗi cực hình thảm khốc, vợ góa con côi, một trời nước mắt, ruộng đồng từ đây dành để nuôi loài cỏ dại mà thôi! Sinh chết điếng cả người, giây lát mới gượng gạo hỏi.

- Chẳng hay bác có biết... danh sĩ ấy tên gì không? Người nông phu trợn trừng cặp mắt, gào lên: - Làm gì mà biết! Mà biết làm gì? Những hạng hiếu lợi hiếu danh, trốn trong từ chương để tiếp sức cho kẻ ác mà cứ tưởng mình thanh cao, hạng ấy thì đâu chẳng có! Dân làng đây ai cũng nguyền rủa hắn mà hắn nào có biết đâu! Nghĩ thương cho cụ trưởng tôi mấy lần đứng ra chịu nhận tội để cứu bao người mà bọn chúng chẳng chịu tha, cứ việc tàn sát thẳng tay, lôi đi lớp người này rồi đến lớp người khác, nên khi bị dẫn qua đây cụ tự móc họng cho trào máu ra mà chết để khỏi bị đày đọa. Trước khi nhắm mắt cụ còn gượng nói: "Ðược chết trên cánh đồng đã đẫm mồ hôi ta, thế là quý rồi. Chôn ta ở đây cho ta gần gũi với các người". Hơi thở gần tàn cụ nói tiếp: "Tội ác là ở lũ vua quan. Tên danh sĩ kia chỉ là cái cớ để chúng vịn vào mà che lấp sự thật. Ðừng oán hờn tên danh sĩ. Ðáng thương cho nó!". Người nông phu dừng lại nghẹn ngào nói tiếp: -Nhưng bao nhiêu người khổ ở đây, bao kẻ chết nơi kia, nghĩ còn đáng thương xót gấp trăm ngàn lần! Ðoạn gục đầu trước mồ khóc thảm thiết.Sinh cũng sụp xuống hòa tiếng khóc theo. Bóng đêm xóa nhòa, gió lạnh như từ cõi âm thổi về rung động bờ lau bụi cỏ. Sinh có cảm giác như theo cơn gió, oan hồn của người đã khuất hiện về chứng kiến cho những giọt lệ chảy ra từ một tấm lòng hối hận chân thành.

Cái đầu Con Rối!

Nếu nói đến tên đoàn xiệc "ĐẠI THẾ GIỚI" thì hầu hết những người sống trong thập niên 50 và 60 ở miền Nam VN đều biết đến tiếng của nó! Ddoàn này thường đi lưu diễn quanh năm từ tỉnh này qua tỉnh khác! Vào dịp Tết đoàn thường đóng đô ở vùng gần chợ Bà Chiểu Gia Ddịnh để biểu diễn cho bà con thưởng ngoạn trong dịp xuân về ! Các diễn viên của đoàn đã từng làm mê mệt biết bao khán giả thiếu nhi qua những năm dài lưu diễn! Các màn đu giây không lưới an toàn đã làm hàng triệu người hồi hộp nín thở khi nhìn các cú nhào lộn, chuyền tay cầm của các tay cự phách giỡn mặt với tử thần này! Các cô cậu bé cũng xanh máu mặt khi thấy các cô nàng nhỏ nhắn bước vào chuồng cọp để khuất phục mấy chàng chúa tể sơn lâm! Tiếng reo hò vui vẻ khi các con chó và mấy chú khỉ làm trò trên sân khấu! Các cặp mắt mở to kinh ngạc vì sự đồ sộ của các chú gấu chú voi! Chúng tuy to mà phải làm theo lệnh của mấy anh nài răm rắp! Họ tài thiệt mà! Các chú hề mặt sơn xanh đỏ với lỗ mũi như quả cà chua cũng làm cho nhiều người cười ra nước mắt vì các câu diễu và cử chỉ của họ! Ddoàn đi đến đâu cũng được khán giả hoan nghênh nhiệt liệt! Tới diễn nơi nào thì nơi đó như ngày lễ hội! Người đi xem nườm nượp chật cả khu vực diễn! Tuy khán giả đều thích các màn biểu diễn của đoàn, nhưng có một màn đặc biệt do diễn viên Tuấn Ddăng biểu diễn vào cuối mỗi buổi diễn là được mọi người trông đợi hơn cả! Tuấn Ddăng là diễn viên biểu diễn với con rối! Chàng ta và con rối đối đáp rất đỗi là khôi hài và dí dỏm! Cả hai đã làm khán giả cười đau cả ruột, cười chảy cả nước mắt mà vẫn không nín được cười! Vì thế mà Tuấn Ddăng rất nổi tiếng! Chủ đoàn ký hợp đồng với chàng với giá rất cao! Chàng được cấp riêng một toa xe để làm chổ ở khi đi lưu diễn các vùng xa! Ddiều này đã làm nhiều diễn viên khác tỏ ý ganh tị! Người tài được nhiều ưu đãi hơn là lẽ thường mà! Tuấn Ddăng có một thân hình cao lớn tráng kiện, một khuôn mặt bảnh trai với mái tóc bồng bềnh luôn được chăm sóc kỹ lưỡng! Giọng chàng ấm cúng và luôn nhã nhặn với mọi người! Con rối của chàng có khuôn mặt rất thật, và giống chàng như đúc, trông như là hai anh em sinh đôi! Nó trông sống động như người thật, không giống như các con rối mà ta thường thấy của các diễn viên khác! Trên sân khấu khi nó và Tuấn Ddăng đấu khẩu với nhau, người ta cứ nghĩ là hai con người thật đang dùng tài trí mà đấu hài với nhau! Thật là sinh động vô cùng! Nó còn dùng nét mặt để diễn tả các tiết tấu, biểu lộ tình cảm như là người thật vậy! (Tôi xin mở ngoặc ở đây để nói sơ về màn biểu diễn con rối: Thường thì người diễn viên xỏ tay từ phía sau vào trong đầu con rối; khi nói với con rối họ dùng giọng thật của mình, còn khi con rối trả lời họ dùng giọng bụng nói qua cuống cổ nên không thấy họ nhép miệng, đồng thời họ dùng tay nhép miệng và xoay đầu con rối để ăn khớp với giọng bụng mà họ nói! Nếu bạn ở Mỹ có lẽ bạn rất quen thuộc với màn trình diễn này!) Khán giả khắp nơi và ngay cả nghệ sĩ lão luyện trong nghề đều thán phục tài nghệ diễn xuất của Tuấn Ddăng! Cả về những câu đối thoại lẫn tài diễn xuất của chàng, và tài điều khiển con rối một cách tài tình mà có lẽ chưa một ai trên thế giới này có thể làm được! Họ thấy chàng điều khiển con rối làm nó sống động như một con người thật sự! Những cái nheo mắt khôi hài và tự nhiên, những nụ cười lúc thì diễu cợt lúc thì chua cay, những cái nhăn trán, những cái

nhíu mày thật đúng lúc đồng thời diễn tả đúng những diễn tiến đang xảy ra trong cuộc đối thoại ! Chưa từng ai trên đời này có thể điều khiển con rối tài tình như vậy! Khán giả và đồng nghiệp còn thán phục tài hoá trang cho con rối của chàng! Không một nghệ sĩ hóa trang nào có thể biến một con rối giống như một sinh vật thật và sống động như vậy! Người xem cứ ngở như mình đang xem một con người thật đối thoại với Tuấn Ddăng chứ không phải như giữa một con người và một con rối! Các nữ khán giả ngưỡng mộ chàng như một thần tượng! Mỗi lần chàng bước ra sân khấu là tiếng huýt sáo, tiếng la hét điên cuồng vang lên như muốn vỡ cả lều xiệc! Thư từ các khán giả mộ điệu gửi về cho chàng hàng ngàn bức mỗi tháng! Một điều lạ là Tuấn Ddăng ít khi đi chơi la cà đây đó như uống rượu, hay đánh bida sau buổi trình diễn hay trong những ngày nghỉ như các nghệ sĩ thường làm! Chàng thường nhốt mình trong cabin, hay trong phòng khách sạn nơi đi lưu diễn! Họa hoằn người ta gặp chàng đứng một mình nơi chổ vắng, và như nói chuyện một mình với con rối chàng cầm trên tay! Một cái bí mật mà mọi người luôn thắc mắc là đi đâu chàng cũng kè kè mang theo con rối bên mình! Không khi nào để nó ở nhà cả ! Có người cho là chàng sợ kẻ gian trộm mất nó! Người thì nói Tuấn Ddăng bị bịnh về tâm lý, nghề nghiệp luôn ám ảnh trong đầu nên đi đâu cũng mang theo con rối để trò truyện như là kẻ bị tự kỷ ám thị vậy! Kẻ dễ tính hơn cho là chàng muốn trau dồi nghề nghiệp cho vững mạnh hơn nên mang theo con rối để tập dượt trước các cuộc đối thoại trước các buổi trình diễn! Mặc cho thiên hạ xì xầm, Tuấn Ddăng không bao giờ trả lời, hay đính chính việc đó cả ! Hình ảnh chàng và con rối lúc nào cũng bên nhau rồi cũng quen đi dưới mắt mọi người! Miễn sao chàng và con rối mang đến cho họ những trận cười thoải mái là họ mếm mộ rồi! Ông bầu và các đồng nghiệp cũng quá quen thuộc với hình ảnh này nên không ai buồn để ý hỏi đến cả! Nghệ sĩ mà! Họ ít để ý đến đời tư của người khác lắm! Một đêm kia sau giờ trình diễn, nghệ sĩ ai nấy đều tắm rửa và ăn uống xong! Họ đã trở về phòng của mình và sửa soạn đi ngủ! Ông bầu sai bà giúp việc đến cabin của Tuấn Ddăng, mời chàng đến để bàn việc ký lại hợp đồng cho năm tới! Bà ta ra đi rồi chẳng thấy trở về! Nửa tiếng sau, ông bầu phải kêu người khác đi gọi chàng, và luôn tiện xem bà giúp việc đi đâu! Anh ta ra đi và rồi tiếng la hoảng ngay trước phòng của Tuấn Ddăng vang lên! Mọi người chạy lại xem việc gì! Bà giúp việc nằm cứng đơ ngay trước cửa phòng! Họ chở bà đi nhà thương nhưng không cứu kịp nữa! Bác sĩ nói bà bị lên cơn đau tim đột xuất mà chết! Thế rồi hôm sau bầu đoàn phải lo an táng cho bà ta! Mọi việc rồi cũng êm xuôi! Không ai bàn tán gì về cái chết cả! Bà ta quá mập nên lên cơn đau tim đột xuất là chuyện thường! Duy chỉ có Tuấn Ddăng là lộ vẻ băn khoăn trên nét mặt cả tuần lễ sau ngày bà ta lìa đời! Rồi bận rộn với các buổi diễn xóa đi nỗi băn khoăn đó! Nhưng từ đó người ta ít thấy chàng ra ngoài hơn! Chỉ thấy mặt khi diễn xuất! Cơm nước chàng đi lấy rồi về phòng ăn một mình! Trước kia chàng đã sống cô độc thì bây giờ lại còn cô độc hơn! Mọi người trong đoàn đã quen cuộc của chàng nên chẳng ai để ý! Họ biết chàng không thích bị làm phiền nên luôn để chàng yên! Có tài thì có tật, họ nói vậy! Mùa xuân 1966, như thường lệ đoàn đang diễn Tết tại vùng chợ Bà Chiểu! Tuấn Ddăng nhận được một lá thư của một cô gái sống ngay tại nơi này, trong thư nàng tự giới là một người ái mộ tài năng của chàng và muốn được hân hạnh làm quen nếu chàng đồng ý! Lá thư khá dài với nét chử tròn trịa mềm

mại trên nền giấy xanh! Ddặc biệt trong thư có kèm theo một tấm ảnh của nàng! Trong hình là một cô gái chừng 18, da trắng với đôi mắt bồ câu, mũi dọc dừa và cái miệng nho nhỏ với đôi môi trái tim cùng nằm cân đối trên khuôn mặt trái soan xinh xắn! Sống cô độc đã lâu, Tuấn Ddăng tưởng chừng tâm hồn mình đã thành sỏi đá! Mà thiên hạ cũng đồn là chàng quá khô khan nguội lạnh vì chẳng ai thấy chàng có bồ hay nói chuyện về việc này cả ! Tuấn Ddăng cảm thấy như mình đã có duyên nợ với người trong ảnh từ kiếp nào rồi! Vừ a đọc thư xong và nhìn hình nàng chàng đã bị tiếng sét ái tình đánh ngay vào tim! Ddây không phải là lần tiên Tuấn Ddăng nhận được thư tỏ tình hay làm quen! Hàng ngàn cô gái ái mộ đã gửi thư cho chàng, nhưng chàng vẫn thờ ơ không trả lời! Ddây là lần đầu tiên chàng thấy lòng bồn chồn, xao xuyến vì một lá thư và một tấm ảnh! Ddịa chỉ trên bao thư cho biết nhà Lan cách chổ chàng diễn chẳng bao xa! Nhà ở trên đường Hoàng Hoa Thám gần ngã ba chợ Cây Quéo! Tuấn Ddăng biết nơi ấy vì chàng đã có lần ghé thăm đền thờ Hai Bà Trưng nằm trên con đường này! Tuấn Ddăng viết mấy dòng trả lời, chàng nhận lời làm quen của Lan và hẹn đến chơi tại nhà nàng vào trưa Thứ Hai! Chàng cũng nhờ nàng báo trước cho cha mẹ nàng về điều này! Tuấn Ddăng đến thăm Lan như lời hẹn, chàng nói chuyện và ăn cơm gia đình với mọi người trong nhà ! Chàng còn biểu diễn vài câu với con rối mà chàng mang theo để làm hài lòng hai cậu em trai của Lan! Cuộc gặp gỡ rất tốt đẹp! Người nhà Lan đều mến mộ , và yêu mến cách cư xử lịch sự cũng như lời nói nhả nhặn của một nghệ nhân nổi danh như chàng! Sau vài lần gặp gở, sau đó người ta lấy làm ngạc nhiên khi thấy Tuấn Ddăng tới nhà Lan một mình! Chàng bỏ con rối ở nhà! Một điều chưa ai từng gặp trước đây! Chàng đeo đôi bao tay màu da người mỏng, nhìn từ xa không ai biết là chàng có bao tay cả! Người ta xì xào là tình yêu làm chàng thay đổi các thói quen của mình! Thật thế, Tuấn Ddăng tươi cười hơn, gương mặt luôn tươi vui, và chào hỏi mọi người niềm nở hơn! Cái Tết năm đó là cái Tết vui nhất trong đời chàng! Chàng đã xin phép ông bầu chỉ diễn vào các xuất đêm trong ba ngày Tết thôi !Tuấn Ddăng đến nhà Lan dự cúng giao thừa! Mồng Một chúc Tết cha mẹ Lan, lì xì cho các cậu em trai , rồi cùng Lan đi dạo phố Xuân! Họ đến Lăng Ông xin xăm và khấn nguyện cho cuộc tình của lứa đôi! Tuấn Ddăng chưa bao giờ có được niềm vui và hạnh phúc lớn lao như thế! Hôm Mồng Hai họ đi lên Saigon, thăm Thảo Cầm Viên (Sở Thú), dạo dọc Bến Chương Dương và vài nơi khác! Chiều tối chàng đưa nàng về và hẹn sẽ cùng nhau đi Thủ Ddức ngày mai! Sáng Mồng Ba, khi Tuấn Ddăng đang sửa soạn đi đến nhà nàng thì nghe xe cảnh sát hú còi trước liều rạp! Bốn vị cảnh sát ùa vào văn phòng, sau đó họ tiến đến cabin của Tuấn Ddăng và đưa trát tòa bắt chàng vì tội sát nhân! Mọi người trong đoàn hết sức ngạc nhiên vì Tuấn Ddăng là một người hiền hậu, tốt với tất cả mọi người thì lẽ đâu lại là một tên sát nhân cho được! Cảnh sát chở chàng về bót! Rồi tin được đồn ra, Tuấn Ddăng bị tình nghi là giết chết người tình trong đêm qua! Cảnh sát cho biết Lan bị giết trong đêm qua! Trên người có nhiều vết cắn và dấu bầm tím trên mặt! Cở tay nàng bị cắn đứt động mạch và do ra máu quá nhiều mà chết! Dù là Mồng Ba Tết, cảnh sát không bỏ phí thì giờ và mở ngay cuộc điều tra tại nhà Lan và thẩm tra Tuấn Ddăng tại văn phòng cảnh sát Bà Chiểu! Tuấn Ddăng với gương mặt thiểu nảo, đau khổ ngồi

trầm ngâm trước mặt nhân viên điều tra! Chàng từ tốn trả lời từng câu hỏi do người này đặt ra, rồi cuối cùng chàng đưa lòng bàn tay phải cho anh ta xem và chậm rãi kể cho điều tra viên về cuộc đời chàng: "Anh xem lòng bàn tay phải của tôi và có thể tin những điều tôi sắp nói ra là sự thật từ thâm tâm mà tôi đã giữ kín trong lòng suốt hai mươi mấy năm nay!" viên cảnh sát nhìn trong lòng bàn tay Tuấn Ddăng thấy có 9 vết dài hằn sâu vào da như những cái thẹo do vết thương để lại, nhưng lằn hằn đỏ vẫn còn tươi rói trên những vết thẹo này! Trên cổ tay chàng có dán một miếng băng keo như che đi một vết thương nào đó! Tuấn Ddăng tháo miếng băng ra để lộ 2 lổ như kim đâm vào chổ động mạch và tỉnh mạch trên cổ tay! Ddiều tra viên buột miệng hỏi: "anh chích xì ke phải không ?!" "Không!" Tuấn Ddăng trả lời rồi với giọng trầm trầm chàng tiếp: "Cha mẹ tôi là người khá giả ở miệt vườn Lái Thiêu, nên khi sinh tôi cha tôi cho mời bà mụ đến tận nhà để đỡ đẻ ! Tôi từ lúc mới sinh ra đã không phải là một đứa trẻ bình thường! Bà mụ khi đỡ tôi ra đã té xỉu và rơi vào hôn mê rồi qua đời vài ngày sau đó ở nhà thương! Cái bí mật của tôi vì thế chẳng ai biết đến cả ! Thật ra mẹ tôi đã sinh đôi! Tôi và người em trai! Nhưng cái làm cho ba mẹ tôi đau buồn và cũng là nguyên nhân gây ra cái chết của bà mụ, đó là, em của tôi! Nó giống tôi như hai giọt nước! Nhưng than ôi! nó là một quái thai không mình! Nó chỉ có mỗi cái đầu thôi! Dưới đầu là một chùm tua như những ngón tay của con bạch tuột! Tôi với nó sinh ra cùng một lượt với nhau! Vì nó bám vào lòng bàn tay phải của tôi! Chúng tôi tuy hai mà như một! Ddầu em tôi có đầy đủ cơ phận như một cái đầu bình thường! Cổ nó có một trái tim nhỏ xíu đủ để bơm máu nuôi dưỡng cái đầu nó trong vài ba bữa! Vì không có phần dưới nó cần có máu của tôi để cung cấp năng lượng và dưỡng khí cho nó! Không có tôi nó chỉ sức sống trong ba ngày là cùng vì kiệt sức và thán khí tích tụ trong máu nó! Anh thấy đó em tôi dùng bàn chân chín ngón của nó để sống bám vào tôi! Chín cái thẹo trên lòng bàn tay tôi là do vết bám của chân nó trong hai mươi mấy năm mà thành! Ở cái chân thứ 9 chín của nó _ mà ta có thể gọi là vòi cũng được _ có mọc thêm hai sợi gân cứng như hai cái kim! Nó dùng những cái kim này để luân chuyển máu đỏ từ tôi sang nó và máu đen từ nó sang tôi! Nó như là con ký sinh trùng sống bám vào tôi! Không có tôi nó sẽ chết! Nhưng dù nó có là quái vật đi chăng nữa thì nó vẫn là em của tôi! Tôi vẫn thương nó với tình thương của anh dành cho em! Có lẽ còn hơn thế nữa vì nó còn rất đáng thương mà! Tuy nó có thể rời khỏi tay tôi và nhảy đi bằng các cái chân của nó như những con nhện, nhưng nó thích bám dính trong lòng tay tôi! Nó khóc lóc, năn nỉ, than thở rất thảm thương mỗi khi tôi muốn nó rời tay tôi để cho tôi được tự do một lúc! Vì thương em tôi cũng chiều ý nó! Và cứ thế cuộc đời chúng tôi gắn liền với nhau! Tôi với nó thường đối thoại với nhau! Nó rất linh lợi và thông minh! Cả hai chúng tôi thích nói chuyện tếu và dùng đề tài này để đối đáp nhau! Rồi thành thói quen hằng ngày! Tài đối đáp giữa tôi và nó phát triển từ những câu đối đáp dí dỏm này! Năm 18 tuổi chúng tôi xin phép ba mẹ để tìm việc làm ở các đoàn xiệc để đúng với khả năng mình! Và cũng đáp ứng với khát vọng được chu du khắp miền đất nước của hai anh em chúng tôi! Chúng tôi đồng ý với nhau để diễn trò con rối! Tôi là người điều khiển còn em tôi đóng vai con rối để cùng thủ diễn với nhau! Tôi đến xin việc tại đoàn "ĐẠI THẾ GIỚI" và được đón nhận ngay vì tài diễn xuất của mình! Mọi người đều lầm tưởng em tôi là con rối thật, ngay cả anh chị em nghệ sĩ trong đoàn cũng không biết được sự bí mật này! Chúng tôi không phụ lòng tin của ông bầu và cũng đã làm hài lòng

khán giả mộ điệu khắp nơi! Tuy thế, sự rắc rối bắt đầu xảy ra từ năm ngoái, khi người giúp việc trong đoàn chết trước cửa phòng của tôi! Mọi người cho đó là tai nạn, còn tôi, trong thâm tâm nghĩ là vì tình cờ bà này nghe hoặc thấy được cái đầu trần truồng không che đậy với cái thân hình giả tạo phía dưới đang nói chuyện với tôi trong phòng lúc bà tới kiếm! Nhưng rồi theo thời gian lương tâm tôi cũng bớt cắn rứt đi! Cho tới hôm tôi nhận được lá thư của cô Lan, thì rắc rối bắt đầu xảy ra giữa tôi và cái đầu em tôi! Ngày ấy là một bước rẽ lớn làm thay đổi cả đời tôi! Suốt cuộc đời hai mươi mấy năm nay tôi chỉ sống cô độc với đứa em quái dị của mình! Trao đổi tâm sự với nó, chia sẽ vui buồn với nhau! Tôi chưa hề biết đến phụ nữ! Thỉnh thoảng vui miệng tôi có đề cập đến vấn đề này, nó không vui và giận dữ ngắt ngang đi! Nó không muốn tôi vì đàn bà mà bỏ rơi nó! Nó coi tôi như thân thể của nó vậy! Thương em tôi chiều ý nó và vẫn cu ki cho đến bây giờ! Nhưng với Lan, hình như tôi với nàng đã có duyên nợ từ kiếp nào! Ddọc thư và nhìn ảnh tôi đã yêu nàng ngay! Trong vài lần gặp gở đầu đều có sự hiện diện của em tôi! Không ai phát hiện ra cả vì họ cho tôi là có thói quen luôn kè kè con rối theo mình khắp mọi nơi! Nhưng khi về nhà thì chiến tranh mới bùng ra! Tôi và nó cãi nhau vì Lan rất nhiều lần! Nó bắt tôi chấm dứt mối tình và cắt đứt sư giao du với nàng! Tôi tìm đủ cách để biện hộ cho mình, từ nói lý rồi đến cả năn nỉ mà nó chẳng từ bỏ ý định của mình! Ngay cả việc tôi nói là sẽ tìm cách cho Lan biết sự thật, và xin nàng chấp nhận tình trạng giữa anh em chúng tôi, và nếu nàng không đồng ý tôi sẽ chiều theo ý em tôi để đau đớn đơn phư*ơng chấm dứt cuộc tình của mình ! Nhưng nó nằng nằng bác bỏ ! Có lẽ nó nhận ra tình cảm giữa tôi và Lan đã quá thắm thiết không có gì có thể ngăn cản được nữa rồi! Sau cùng tôi đưa đến một quyết định cho riêng mình! Tôi không thể bỏ tình yêu của mình được! Tôi đã yêu Lan quá sâu đậm rồi! Sau một buổi trình diễn, trong khi mọi người đang dọn dẹp và ăn uống, tôi viện cớ nhức đầu và lẻn vào phòng y tế để lấy thuốc uống! Tôi lén lấy một bình xịt thuốc mê bỏ vào túi không cho em tôi thấy! Y tá dùng thuốc này gây mê các con thú nhỏ khi muốn khám bệnh hay chích ngừa cho chúng! Vì mỗi lần đi chơi với Lan tôi đều phải mang theo đứa em mình và mỗi lần về là có tranh cãi! Nó cũng không chịu để tôi đi một mình với Lan! Nó sợ sau này sẽ bị chia cách với tôi! Và nhiều khi tỏ ra như là ghen tương với nàng! Cho nên mấy lần sau này trước khi đến nhà Lan, tôi thường lén xịt hơi mê vào đứa em mình, làm nó mê đi và tôi gở nó ra khỏi bàn tay mình để được tự do đi chơi với Lan! Thuốc mê có hiệu ngiệm khoảng 3 giờ đồng hồ! Tôi luôn sắp xếp cuộc đi chơi để về nhà trước khi thuốc hết công hiệu !Tôi gắn nó trở lại tay tôi và lên giường nằm ngủ cùng với nó như không có gì xảy ra cả ! Những ngày đi chơi lâu tôi phải xịt nhiều hơn vào mũi nó để nó không thể tỉnh dậy trước khi tôi về được! Nhưng hôm qua, mồng Hai Tết, tôi và Lan vui chơi quá lâu! Tôi quên mất là em mình có thể tỉnh lại ở nhà! Khi về đến nhà thì cái đầu em tôi đã biến đi đâu mất rồi! Tôi về trể hơn hai tiếng! Nó đã tỉnh dậy và biết được sự ma mãnh của tôi! Nó đã biết tôi lừa nó trong thời gian gần đây! Tôi lo ngại cho nó và cố tìm nó vòng vòng chung quanh gánh xiệc, nhưng không thấy đâu! Tôi phải xin phép ông bầu hủy bỏ tiết mục của tôi, việc cớ là bị bịnh! Thật ra, tôi làm sao diễn được mà không có nó đây! Tìm kiếm nó khắp các phòng, các chuồng thú, các xe chở đồ nghề... cũng chẳng thấy bóng dáng nó đâu! Tôi mệt mỏi về phòng nằm nghỉ! Tôi tự trấn an

mình là nó sẽ trở về, nó không thể sống mà không có tôi! Nó cần máu tôi để sống mà! Nó không cho tôi liên hệ với phụ nữ nhưng nó vẫn yêu thương tôi lắm! Quá mệt mỏi tôi thiếp đi lúc nào không biết! Sáng dậy tôi vẫn chưa thấy nó trở về! Tôi mặc quần áo định sang nhà Lan để đưa nàng đi Thủ Đức chơi và quyết định cho nàng biết sự thật! Sau đó chúng tôi sẽ kiếm em tôi để tr'inh bày với nó! Chưa kịp đi thì các anh tới bắt tôi về tội giết Lan! Tôi nghe mà như chừng trời sụp xuống trên đầu! Người yêu dấu mà tôi nguyện suốt đời gắn bó đã không còn mà tôi còn bị nghi can là kẻ đã ra tay! Ddứa em mà tôi không rời nửa bước cũng bặt hơi tăm cá! Tôi thật sự không biết điều gì đã xảy ra cho Lan! Ai giết nàng tôi thật tình không biết! Tôi đã vỡ hết các mộng ước mà tôi xây trong đầu mấy tuần nay rồi! Tôi quá chán cho cái đời vô phước của tôi lắm rồi! Các anh cứ việc điều tra và hỏi các điều mà anh muốn tôi sẽ trả lời thêm cho các anh để làm nhiệm vụ!" Họ hỏi thêm vài chi tiết khác như lúc nào anh về nhà, có ai làm chứng cho anh không! Và tuy bán tín bán nghi về câu chuyện cái đầu con rối họ cũng hỏi thêm một số chi tiết của nó, ghi vào hồ sơ để điều tra sau này! Trong khi chờ đợi cuộc điều tra tiến hành, cảnh sát nhốt Tuấn Ddăng trong nhà giam tạm tại Ty Cảnh Sát Gia Ddịnh để chờ kết quả và ngày ra tòa! Ddêm đó anh cảnh sát viên trẻ ngồi canh gác phòng giam! Anh ta mới gia nhập cảnh sát được vài tháng thôi, mặt vẫn còn nét của một anh học sinh trung học! Anh ta có nghe đến chuyện cái đầu con rối truyền ra từ các người điều tra! Họ cho đó là điều diễu cợt, và cho là Tuấn Ddăng đặt ra để chạy tội thôi! Nhưng với anh cảnh sát trẻ tuổi này thì đó có thể có thật lắm! Anh là một trong những kẻ ái mộ Tuấn Ddăng từ lâu! Anh ta kéo ghế ngồi trước song sắt nói chuyện với thần tượng của mình, dù bây giờ thần tượng đó chỉ là một tù nhân! Anh chẳng coi đó là quan trọng! Ddến nửa đêm, Tuấn Ddăng về nằm trên cái giường bố trong phòng giam, còn anh cảnh sát ra ngồi gác trên ghế ở phòng ngoài! Anh ta ngủ gà ngủ gật trên ghế! Nằm nhìn lên trần nhà nghĩ về tình trạng của mình, đến cái chết của người yêu dấu, về đứa em thân thuộc của mình! Chợt Tuấn Ddăng nghe tiếng gọi nhè nhẹ của người em mình! Nhìn ra song sắt chàng thấy nó đang bám trèo lên các song sắt cửa! Miệng nó ngậm một chùm chìa khóa! Nó cố lách vào trong phòng nhưng không thể được vì các kẻ giữa các song sắt quá hẹp! Nó gọi chàng giúp nó vào trong! Mắt nó nhợt nhạt và mệt mỏi, da mặt hơi xậm màu tím! Nó sắp kiệt lực vì thiếu máu tươi và năng lượng mà thường ngày nó được tiếp qua máu của chàng! Tuấn Ddăng bước tới gần nhìn nó với ánh mắt như đặt câu hỏi "có phải em là kẻ giết Lan không?!" Cái đầu nhìn chàng và hiểu cái gì Tuấn Ddăng muốn biết! Nó thì thào "Anh tha tội cho em! Em đã gây tổn thương cho anh! Em rất hối lỗi về việc làm của em! Hãy cầm cái chìa khóa này, em lấy được của anh cảnh sát ngủ gục ngoài kia! Hãy mở cửa rồi anh em mình trốn đi một nơi nào đó để sống nghe anh!" Tuấn Ddăng ôm đầu bật khóc nức nở! Ddiều mà chàng nghi ngờ đã thành sự thật rồi! Ddứa em mình vì quá ích kỷ mà trở thành kẻ sát nhân! Chàng còn có thể nào sống và gắn bó với nó được nữa không ?!?! Mà có trốn đi nữa, thì suốt đời chàng sẽ mang tiếng giết người và là kẻ đào vong suốt kiếp! Cũng chẳng biết có được lâu không vì trên đất nước này chẳng mấy ai mà không biết đến mặt chàng _nghệ sĩ lừng danh Tuấn Ddăng của đoàn xiệc "ĐẠI THẾ GIỚI" này !!

Quá đau khổ vì sự thật phủ phàng, chàng khóc rống lên to hơn trước! Tiếng khóc làm anh cảnh sát tỉnh thức và bước lẹp xẹp vào xem việc gì xảy ra! Cái đầu nghe tiếng chân vào vội thả chân rơi xuống nền nhà, chùm chìa khoá chạm xuống nền xi măng kêu loảng xoảng! Nó nhún chân phóng như nhện ra ngoài với chùm chìa khóa vẫn cắn chặt trong miệng! Anh cảnh sát chạy vội vào chỉ thoáng thấy một bóng nhỏ vọt qua khe cửa ra ngoài và tiếng leng keng của chùm chìa khoá ! Anh ta soát lại túi quần thì chùm chìa khóa các cửa đà biến mất tiêu rồi! Lúc này anh ta thật tin tưởng vào câu chuyện cái đầu con rối của Tuấn Ddăng rồi! Vì trong đêm khuya va ' trong giờ anh gác, anh ta không giám đi về văn phòng để báo cáo vì nhà giam cách phòng của sĩ quan trực khoảng hơn 300 mét, và anh sợ cái đầu sẽ lợi dụng thời gian anh vắng mặt để giải cứu Tuấn Ddăng! Nếu tù nhân trốn mất chắc anh sẽ bị kỷ luật nặng lắm! Tù tội cũng nên! Anh quyết định khóa cửa phòng và ngồi trước song phòng giam để gác và chờ sáng! Không khí trong phòng thật căng thẳng! Tuấn Ddăng vẫn ngồi ôm đầu âm ỷ khóc! Anh cảnh sát mắt nhìn đăm đăm ra cửa phòng! Không ai nói với ai một lời!! Chừng hai tiếng đồng hồ sau, anh cảnh sát nghe tiếng lịch kịch phía ngoài cửa, tiếng cào cào vào cánh cửa, tiếng chạm leng keng của chùm chìa khóa! Rồi cái nắm vặn nhúc nhích! Tuấn Ddăng cũng tỉnh hẳn người! Cả hai chăm chú nhìn vào tay nắm cửa! Anh cảnh sát trẻ còn quá non nơ*'t trong nghề, thần kinh anh căng thẳng quá độ, như kẻ mất hồn tay anh rút cây súng ru-lô ra, bật khóa an toàn, nhắm về hướng cửa! Tuấn Ddăng la lên "Ddừng! Ddừng! Ddừng bắn! Em ơi, hãy chạy đi! chạy đi em ơi! Hu hu hu! Trời ơi! Cứu chúng tôi với!" Tiếng cái đầu vọng vào yếu ớt hơn "Không! Không! Em không đi đâu hết! Em vào tạ tội với anh! Xin anh tha tội cho em!" Và tiếng chìa khóa đút vào ổ, vặn lắc cắc, và tay nắm xoay vòng! Anh cảnh sát nhắm mắt bắn về phía ấy cả 6 viên đạn trong băng! Khi tiếng súng yên một hai phút, có tiếng một vật rụng xuống sàn! Rồi có tiếng la hét, tiếng kẻng báo động, và tiếng chân rầm rập của người chạy đến! Tiếng la hoảng sợ của vài người phía ngoài! Khi anh cảnh sát mở cửa ra, đã thấy cả chục người đang vây quanh một chiếc đầu nằm hấp hối trên sàn, một viên đạn xuyên xéo qua má nó! Nó thì thào "Xin mang tôi vào gặp mặt anh tôi lần cuối! Xin các ông làm phước!" Tiếng khóc rống thảm thiết của Tuấn Ddăng vang lên làm xốn động lòng mọi người! Không ai lên tiếng, một phần vì sợ hãi, một phần vì kinh hoàng trước sự kiện trước mặt mình! Rồi một người cảnh sát trung niên, có lẽ là sĩ quan trực, cúi xuống bưng cái đầu trên tay, mang vào trước phòng giam! Cái đầu thều thào "Anh tha tội cho em! Xin anh hãy tha tội cho em! Xin anh hãy nói lên lời thứ tội trước khi em nhắm mắt lìa bỏ cỏi đời này!!" Tuấn Ddăng cầm lòng không đậu nữa! Chàng thò tay ra ôm lấy cái đầu, hôn lên mái tóc xơ xác của nó, nói qua tiếng nức "Anh không bao giờ bắt tội em đâu! Em là em của anh mà! Ddừng bỏ anh mà đi! Có tù tội gì thì anh em ta cùng gánh em ơi! Ddừng bỏ anh nghe em!" Cái đầu thủ thỉ "Anh tha tội là em mãn nguyện rồi! Em chúc anh gặp may mắn trong quảng đời còn lại!" Quay sang viên sĩ quan cảnh sát nó nói "Mọi việc đều do lòng ích kỷ của tôi mà ra! Tôi đã giết chết cô Lan! Tối Mồng Hai tôi lẻn vào phòng cô ta đợi đến khuya mới lộ diện, cô ấy thấy cái đầu tôi liền ngất xỉu! Tôi với sự ganh tị đầy đầu đã cắn đứt mạch máu tay để cô mất máu mà chết! Chưa hả lòng tôi còn cắn, và đập nhiều chổ trên thân thể cô cho hả lòng thù hận! Tôi nhận hết

mọi tội lỗi! Anh tôi hoàn toàn vô tội trong vụ này! Hãy thả người vô tội!" Cái đầu quá kiệt sức vì vết thương ở đầu, máu chảy ra nhiều quá! nó nhắm mắt lại! Tuấn Ddăng gào lên "Ddừng bỏ anh nghe em! Mở mắt ra đi! Ddừng bỏ anh mà!" Chàng cuống quít gắn các vòi của người em vào bàn tay phải mình! Gắn cái vòi có kim vào mạch máu mình với hy vọng cứu được người em khốn khổ của mình! Cái đầu mở mắt ra nói lời cuối "Trể quá rồi! Em không sống nổi nữa đâu anh! Em thương anh lắm! Vẫn thương như ngày chúng ta còn vui vẻ bên nhau! Nay hết rồi! Em vỉnh biệt anh!" Nó nhắm đôi mắt đã mất thần lại! Tuấn Ddăng rống to lên và ngất đi! Ngày hôm đó, cảnh sát duyệt lại hồ sơ! Kêu các cảnh sát viên lên lấy lời chứng rồi làm biên bản kết thúc cuộc điều tra! Chiều tối họ đến thả Tuấn Ddăng ra với vài lời xin lỗi và an ủi! Tuấn Ddăng trở về đoàn xiệc, thu xếp hành trang! Hôm sau chàng xin xác cái đầu em mình, bỏ vào một cái hộp gỗ! Sau đó chàng xin phép giả từ đồng nghiệp rồi ra đi! Với số tiền chàng dành dụm được trong 8 năm qua cũng đủ cho chàng lập nghiệp ở một nơi nào đó! Từ đó không ai biết chàng đi đâu, làm việc gì! Có lẽ Tuấn Ddăng đã kiếm một nơi hoang vắng nào đó để sống cho qua quảng đời đau khổ này, để tưởng nhớ đến cuộc tình ngắn ngủi của mình, và cũng có khi để thương xót đến người em xấu số và bạc mệnh! Cũng có thể chàng đã lập gia đình với một người phụ nữ nào đó và sống một cuộc đời bình thường như những người bình thường trên thế gian này! Nếu tình cờ bạn thấy một người đàn ông nào có chín cái thẹo dài trên lòng bàn tay phải! Người đó chính là nghệ sĩ Tuấn Ddăng, người đã từng nức tiếng một thời! Hy vọng bạn là người đầu tiên may mắn gặp chàng, và bạn có thể hỏi chàng chi tiết hơn về cuộc đơi mà con người nghệ sĩ đáng thương đó đã trải qua! Chúc bạn may mắn!!

Cái đầu lâu

Chiều hôm đó, tôi ngồi chơi với Ngô Đàm trong phòng sách của anh ta. Sau một hồi chuyện phiếm, bạn tôi lấy ra một cái hộp gỗ trắng đem khoe tôi: - Tôi mới mua được cái này hay lắm. - Cái gì? - Rồi anh sẽ biết. Nắp hộp mở, anh lấy ra một cái đầu lâu lớn, nương nhẹ đặt lên bàn, rồi nhìn tôi mỉm cười. Tôi hỏi: - Anh mua vật này làm gì? Đàm không trả lời ngay, lim dim mắt, gạt tàn thuốc lá và thong thả nói: - Cái đầu lâu là biểu hiện sự chết, là một vật mà các nhà hiền triết hoặc tu hành bên Âu châu thường bày trước mặt, bên những chồng sách đầy bụi bám để suy nghiệm về những lẽ huyền bí của "đời sau". Đối với một nhà thông thái thì đó là một vật khảo cứu cũng như viên đá lạ, một chất hóa học hay một ống cấy vi trùng. Tôi không phải là nhà hiền triết, không phải là nhà tu hành hay nhà thông thái, nên cái đầu lâu đối với tôi là một thứ bài trí ghê gớm, một thứ đồ... "mỹ thuật" của người hiếu kỳ như tôi. Nhưng có lẽ trong những lúc đọc sách ở nơi tĩnh mịch này, trong những khi suy xét về những điều bí hiểm của sự chết, của đời người, thứ đồ "bài trí" kia sẽ là một vật kích thích cho trí tưởng tượng của tôi... Biết đâu bạn anh sẽ chẳng là một nhà tư tưởng trầm mặc như nhà hiền triết, nhà tu hành? Câu nói văn hoa, nửa nghiêm trang, nửa đùa cợt của Đàm khiến tôi hơi ngạc nhiên, nhìn bạn. Bỗng cửa phòng bật mở, một người thiếu niên mặc âu phục bước vào, chưa kịp nói gì đã trông thấy cái đầu lâu, rồi đứng đực ra đó. Đàm hỏi: - Kìa, anh Chung, sao hôm nay trông kỳ khôi thế? Lúc ấy, Chung mới ngoảnh lại sẽ gật đầu chào tôi, rồi lại trân trân nhìn cái đầu lâu trên bàn, mãi mới nói: - Ồ anh Đàm! Anh cũng có cái này ư? - "Cũng có?" Thế ra tôi không thể có một cái đầu lâu được sao? - Ồ, thế anh không thấy gì lạ chứ? Anh không thấy gì ư? Chung ngồi xuống, đưa tay vuốt tóc, mặt hãy còn vẻ lo lắng, nhìn hết tôi đến Đàm rồi đến cái đầu lâu. Anh nói:

- Sao lại có sự ngẫu nhiên lạ thường đến thế? Tôi đến đây cũng định thuật cho anh nghe về cái đầu lâu ở nhà tôi... thì lại gặp ngay chính vật này... Chính cái đầu lâu này. Tôi đã tưởng nó đang ở nhà tôi biến lại đây, nên tôi mới sửng sốt đến thế. Để tôi kể đầu đuôi câu chuyện các anh nghe. Chung lấy chén nước uống cạn một hơi, lóng cóng châm điếu thuốc lá rồi nói tiếp: "Trước kia tôi vẫn ở trên Hàng Bông như anh đã biết. Nhưng cách đây nửa tháng, anh Lịch là người học trường Mỹ thuật mới ra năm nay, tìm được một cái nhà ngói ở ngoại ô để làm phòng vẽ. Nhà ấy một tầng chia làm hai căn rộng. Lịch ở một căn còn một căn gọi anh Thao học năm thứ hai trường thuốc với tôi đến ở cho vui và chịu đỡ Lịch ít tiền thuê nhà. Chỗ này ở xa thành phố, chung quanh toàn bãi cỏ, một mặt ngoảnh ra phía đường cái. ở chỗ yên tĩnh như thế để học hành, lại rẻ tiền nhà, mà có hai người bạn cùng nhã nhặn tử tế cả thì còn gì dễ chịu hơn. Tôi không bao giờ phàn nàn nếu trưa hôm kia anh Thao không có cái ý kiến kỳ quặc đem về nhà một cái đầu lâu. Đầu lâu thì tôi không lạ gì. Hồi còn học trường Bưởi, tôi đã được trông thấy nhiều lần ở phòng thí nghiệm. Nhưng cái mà anh Thao lấy ở nhà thương về lại là của một tên tù mới chết, trông còn mới, trắng hơn cái này nhiều, mà xương chưa được khô lắm. Thao xem ra quý hóa cái vật quái gở ấy lắm. Tôi thì không. Tôi thoạt trông thấy nó bỗng ghê rợn cả người... Có lẽ vì tôi thoáng nghĩ đến cảnh hiu quạnh chung quanh nhà của chúng tôi, hay có lẽ tôi vừa mới đọc xong những truyện linh hồn hiển hiện anh cho mượn ngày trước... Cái đầu lâu đặt trên bàn học anh Thao kê gần cửa sổ lúc nào cũng như chăm chú nhìn tôi bằng hai con mắt đen và rỗng, mà hai hàm răng thì nhe ra một cách chế giễu độc địa. Tôi có cái cảm giác khó chịu hình như "nó" biết cả những điều tôi nghĩ thầm. Tôi sinh ác cảm với "nó" và chắc hẳn "nó" cũng không ưa gì tôi. Cái vật trơ trơ kia không ngờ lại làm tôi băn khoăn đến thế. Tôi lấy đủ các nhẽ để tự nhủ mình cũng không xong, mà nỗi lo ngại của tôi mỗi lúc một thêm nặng nề như đè nén mãi lòng mình. Tối hôm ấy, thấy bứt rứt trong người, để Thao ngồi học một mình, tôi đi nằm trước. Anh Lịch ở phòng bên cạnh vào nói mấy câu chuyện rồi lại ra ngay. Tôi nằm đó chừng đến hơn một giờ đồng hồ mới ngủ đi được. Nhưng cả trong giấc ngủ, tôi vẫn bị cái đầu lâu kia ám ảnh hoài. Tôi nằm mơ toàn thấy những đầu lâu với xương người, hay những cái ghê sợ hơn thế. Một lần tôi hốt hoảng thức dậy thì ngọn đèn cây trên bàn học anh Thao đã tắt, trong nhà tối đen như bưng lấy mắt, bên ngoài cũng vậy, vì tôi cố tìm cái cửa sổ chấn song sắt cũng không trông thấy đâu. Bên cạnh tôi anh Thao chừng đã ngủ say, tiếng thở đều và thong thả. Thỉnh thoảng một tiếng ngáy ở buồng anh Lịch lại đưa sang. Mọi vật quanh nhà đều im lìm. Không một tiếng lá bay, không một hơi gió thoảng. Tôi muốn quên mà không thể quên cái đầu lâu kia được. Tôi thấy hình như nó có tri giác, nó "vẫn còn thức" và trong bóng tối, đang nhăn răng tráo mắt nhìn sự kinh khiếp của tôi.

Bỗng nhiên tôi thấy lạnh tái người đi. Từ phía bàn giấy anh Thao, tôi chợt nghe thấy những tiếng ken két như hai hàm răng nghiến vào nhau. Tiếng ấy nghe mỗi lúc một rõ dần, mà lâu đến gần một phút. Trước tôi còn muốn tin là tiếng anh Thao nghiến răng trong mơ. Nhưng Thao nằm bên cạnh tôi, mà tiếng kia thì rõ ràng ở bàn giấy đưa lại. Tiếng nghiến răng vẫn không dứt, nghe ra giận dữ và ghê gớm hơn lên... Tôi vội nắm lấy cánh tay anh Thao, hết sức lay. Thao thức dậy hỏi thì tiếng nghiến răng lại ngừng bặt. Tôi ghé tai Thao nói rất nhỏ: - Này Thao ạ, tôi vừa thấy một việc lạ quá! - Ở đâu? - Ở cái đầu lâu. - Có lẽ nào? - Cứ để yên mà nghe. Rồi chúng tôi không nói gì thêm, lắng tai nghe ngóng một lúc thì lại thấy như trước, tiếng nghiến răng cứ trước nhỏ, sau to dần. Thao liền đứng phắt lên, chạy lại bàn đánh diêm thắp đèn: cái đầu lâu vẫn nguyên chỗ cũ, nhưng lúc ấy ngoảnh mặt nhìn về phía giường tôi nằm. Chúng tôi nhìn khắp nhà một lượt. Không có gì lạ. Cửa sang phòng anh Lịch vẫn đóng kín. Của sổ tuy không có cánh, nhưng có chấn song sắt, mà cái bàn giấy của Thao kê xa đó những năm sáu bước, áp vào bức tường đối diện với giường của chúng tôi. Thao bảo tôi rằng những tiếng vừa rồi là tiếng chuột gặm, nhưng chính anh cũng biết nhà chúng tôi không có qua một con chuột nào. Và cái tiếng lúc nẫy nghe to, nghe rõ một cách khác thường lắm. Thao thấy tôi lo ngại cũng không bình tĩnh được, nhưng anh cố tìm lời an ủi tôi. Chúng tôi để đèn rất lâu chờ xem, song không thấy gì. Nhưng khi tắt đèn lên giường nằm chưa đầy nửa giờ, thì cái tiếng nghiến răng lúc nãy lại bắt đầu, mà lần này thêm dữ dội. Lúc ấy, cây đèn để ngay cạnh giường ngủ. Tôi chập ba que diêm làm một bật lên thắp. Trông sang bàn giấy thì cái đầu lâu đang lắc lư như thằng phỗng nhựa của trẻ con chơi! Ngô Đàm bỗng phì cười lên thì Chung có ý không bằng lòng. "Quả thế, cái đầu lâu cứ nhăn nhở, lắc lư đến nửa phút. Mà chả có gì đáng cười hết. Chính anh Thao là người không sợ gì cả, lúc ấy cũng phải kinh ngạc mà nhìn tôi.

Suốt đêm ấy, chúng tôi không ngủ, cứ để đèn ngồi rình thì lại không thấy xảy ra việc gì nữa. Sáng hôm sau (tức là hôm qua) chúng tôi nói chuyện ấy cho anh Lịch nghe thì anh cũng không tin. Sau thấy tôi nhất định nài anh Thao đem cái đầu lâu vứt đi, Lịch mới cho là chuyện có thực. Nhưng anh nói: - Đã thế thì để đêm nay tôi cũng rình xem, rồi có thế nào vứt đi cũng không muộn. Thì đêm qua cũng lại giống đêm trước. Cứ tắt đèn được một lúc lại thấy cái đầu lâu nghiến răng ken két mà thắp đèn lên lại thôi. Tôi nhân đọc các sách anh cho mượn và gần đây lại được đọc một đoạn dật sử về hồi đại cách mệnh Pháp, thấy kể chuyện những thủ cấp sau ba, bốn giờ vẫn còn sống được, nên tôi càng cho việc cái đầu lâu kia nghiến răng là một việc phi thường. Bây giờ thì tôi tò mò hơn là khiếp sợ. Tôi bảo Thao cứ để yên cái đầu đấy và đến rủ anh ngủ ở nhà chúng tôi một tối xem. Tôi vẫn biết anh hay để ý đến những thứ chuyện kỳ dị này lắm".

** *

Ngô Đàm vui lòng nhận lời. Tôi cũng ngỏ ý muốn đi với anh ta một thể và cùng hẹn đến tối sẽ có mặt ở nhà anh Chung. Lúc Chung ra khỏi, Đàm xoa tay mỉm cười một mình. Tôi hỏi ý anh về chuyện vừa rồi ra sao, thì Đàm chỉ nhún vai, nói: - Tôi sợ không gặp được cái ly kỳ như anh Chung nói, không khéo lại chỉ là một câu chuyện buồn cười thôi. Nhưng dẫu sao, ta cứ đi xem, không biết đâu mà nói trước được. Bẩy giờ rưỡi hôm ấy chúng tôi đến nhà thì các anh Thao, Chung và Lịch đang ăn cơm ở phòng vẽ của Lịch. Đàm đứng xem mấy bức vẽ than của Lịch được chừng năm phút thì các anh ăn xong. Chúng tôi sang cả phòng bên kia nói chuyện. Trước hết, Đàm đi lại bên bàn cầm cái đầu lâu ngắm nghía mãi. Mặt anh có vẻ nghiêm trang như nhà thông thái đang khảo cứu, nhưng đôi mắt tươi cười một cách hóm hỉnh. Bỗng anh quay lại hỏi Lịch: - Anh có thấy gì lạ ở cái đầu lâu này không? - Không. - Giá lúc anh cầm nó lên xem, anh chú ý chút nữa, thì thấy bốn chiếc răng trong cùng hà gần một nửa.

Lịch ngạc nhiên hỏi: - Nhưng sao anh lại biết tôi đã cầm lên xem? - Có gì là lạ. Anh cầm lên xem cẩn thận lắm, nhưng lúc chực bỏ cái quai hàm dưới ra để xem bộ răng thì trượt tay suýt đánh rơi xuống bàn. Có phải không? - Phải. Nhưng sao anh biết? - Tôi thường đọc sách của Conan Doyle, nên cũng tập được một đôi chút tỉ mỉ. Những vết đen này là bởi than vẽ ở ngón tay anh ra... Chỉ cần để ý một chút cũng thấy được. Anh đang vẽ ở phòng ngoài chắc chợt nghĩ đến cái đầu lâu, nên vào xem thử chứ gì? Rồi Đàm đi khắp gian nhà, cúi nhìn các chân tường một cách cẩn thận như người đi tìm một vật quý đánh rơi. Anh lại nhờ Lịch cầm đèn ở phòng bên sang, còn tự anh cũng cầm cây đèn bên cạnh cái đầu lâu, và bảo dẫn đi xem chung quanh nhà. Bên ngoài tối như mực. Trên trời mây ám không có một ánh sao nào. Ngoài một hàng dóc rào mau, xa xa thấy một đám sáng chiếu lên: đó là thành phố Hà Nội. Sau một cuộc tìm xét rất kỹ càng, nhưng rất vô ích, Đàm đạo mạo như một nhà trinh thám, bước vào trong nhà rồi xoa hai tay vào với nhau. Thốt nhiên, như sực nghĩ ra điều gì, anh nói: - Tôi khờ quá, không đem cái đèn bấm ở nhà tôi lại. Thao nói: - Hay để tôi lên phố mượn? - Anh chắc có mượn được không. Thôi để tôi về nhà lấy vậy. Phiền thực, nhưng thế chắc chắn hơn. Lúc Đàm trở lại thì đã gần mười một giờ: anh đi nửa đường thì xe đạp nổ bánh. Chúng tôi để sẵn diêm với đèn gần tầm tay. Cái đèn bấm Đàm trao cho Chung, còn anh ta thì ngồi ở một cái ghế thấp bên cạnh cửa sang phòng anh Lịch. Trước khi tắt đèn, Đàm dặn chúng tôi không ai được làm gì, nếu không có lời anh ấy bảo. Đèn tắt. Bóng tối dầy đặc trong nhà. Tôi đưa tay lên tận mắt cũng không trông thấy. Thao với Lịch nằm sát vách, còn Chung và tôi thì ngồi ở mép giường. Không ai nói qua một lời. Tôi nghe hơi thở của Chung thì biết anh ta hồi hộp lắm. Cái lo ngại dần dần ám đến. Mà sự yên lặng ở gian phòng có nhiều người này lại càng có vẻ khác thường. Chúng tôi cùng hết sức lắng tai, tiếng đồng hồ đeo

ở tay anh Lịch nghe rõ mồn một. Tôi đếm tiếng tích tắc để biết thời giờ, nhưng mãi cũng sinh chán, và trong lòng lúc ấy thấy nôn nao một cách lạ. Tâm linh hình như bị kích thích và hình như báo cho tôi biết trước có một điều ghê gớm sắp xẩy ra... Có lẽ chúng tôi ngồi đó đã ngót một giờ, có lẽ lâu hơn nữa; mà tịnh không thấy một tiếng động nào hết. Hai anh Thao và Lịch chừng như đã ngủ, tôi đưa tay định xem họ còn thức không thì bỗng Chung nắm chặt lấy cánh tay tôi, nói khẽ quá đến nỗi tôi phải đoán ra chứ không nghe rõ: "Im! Nghe!" Tôi chú ý nghe thì quả nhiên thấy có tiếng ken két nghiến răng thực. Lúc ấy tôi mới hiểu cái khiếp sợ của Chung. Lúc ấy tôi mới thấy rõ ràng cái ghê rợn của người gặp ma quái. Tay Chung vẫn nắm chặt lấy cánh tay tôi, nhưng hơi run run. Còn tôi thì cứ muốn quát to lên, quát rất lớn để phá tan cái yên lặng ghê gớm lúc đó. Thấy hơi nóng ở sau gáy, tôi biết hai anh Thao và Lịch đã ngồi dậy. Tôi tráo mắt nhìn bóng tối đen đặc và mỗi lúc tưởng thấy hình thù dị thường hiện lên. Tiếng nghiến răng càng lâu càng rõ thêm. Thỉnh thoảng ngừng lại một giây rồi lại nghiến nữa. Đàm ngồi trên chiếc ghế gần đó có lẽ cũng sinh nát đảm: chúng tôi không trông thấy anh, mà đợi mãi cũng không thấy anh bảo sao. Hốt nhiên, từ phía đầu lâu, một tiếng quái gở gào lên trong những tiếng cười nghe sởn tóc gáy. Mọi người đều vùng dậy, tôi không đợi anh Đàm nữa, vớ lấy diêm đánh, mà Chung cũng bật đèn bấm lên. Cái đầu lâu lắc lư như điên cuồng, và ngay cạnh đấy, một vật đen ngòm đang giẫy giụa. Mắt chúng tôi khi đã đỡ chói thì nhận ra đó là một con mèo đen bị giữ trong tay Đàm. Đám lúc ấy, tay thì giữ mèo trên bàn, nhưng người thì ở dưới gầm bàn. Anh cả cười lách chui ra, vừa gặp lúc chúng tôi ồ cả lại. Con mèo giương mắt kinh hãi nhìn chúng tôi. Một con mèo to, đen, mà gầy, lông mọc xờ xạc không đều và không mượt. "Đấy (lời Đàm nói) cái quái dị mấy hôm chỉ là ở con vật đói khốn nạn này mà ra cả. Các anh nên nhớ rằng cái đầu lâu vô tri giác kia còn mới, mới luộc xong, vẫn còn hơi thịt... Từ lúc anh Chung mới kể chuyện, tôi đã ngờ thế... Đến lúc xem lại cái đầu lâu với cái cửa sổ không có cánh này, thì tôi đã hơi chắc. Mà bây giờ thì đã nắm được, hì! Đã nắm được "điều huyền bí" ở trong tay". Sự lo sợ của chúng tôi bấy giờ lại đổi ra sự kinh ngạc. Vì có ngờ đâu câu chuyện kỳ quái ấy chỉ gây nên bởi một con mèo.

Cái mặt lạ của thần Rhe

Note: Chuyện này được viết theo lời kể của một người quen ở Massachusetts (trước kia sống tại Ban Mê Thuột, VN.) Và cũng được gợi hứng từ phim "MASK" của Mỹ ! Tôi xin mạn phép ghi chú mấy từ địa phương mà có lẽ các bạn sống ở thành thị hay vùng đồng bằng ít quen thuộc! _Bao cát: Bao dùng để đựng cát. Dùng để đắp bờ chống lụt ở Mỹ! Các người lính cũng dùng các bao này để làm các công sự phòng thủ (bunkers) _Lán: Căn nhà rất dài lợp tranh, dùng làm chổ ở tập thể cho các công nhân hay thanh niên đi công trường (Mỹ gọi là barrack.) _Nhà Giàng: Nhà sàn dài trong buôn Thượng được dành để các dụng cụ và đồ trang sức và vật thờ cúng. Người Thượng hàng năm tổ chức các cuộc nhảy múa cúng Giàng (Trời, Thần) trong căn nhà này ! _Cúng Giàng: Cúng Trời và các Vị Thần Thánh của buôn . Trong các cuộc cúng Giàng, các thanh niên thiếu nữ vẽ mặt mày, hay đeo các mặt nạ để nhảy múa để triệu hồn các vị Thần về chứng giám buổi lễ ! _Chúa làng: Trưởng làng, thường là cha truyền con nối và có uy quyền nhất trong Buôn (như Tù Trưởng của các bộ lạc Da Đỏ bên Mỹ) _Rượu cần : Rượu được làm bằng cách lấy một loại lá cỏ cho vào hủ đất (khá to và cao) rồi cho một vài chất mà người Thượng dùng để lên men rượu! Rượu này chua chua chứ không giống như rượu đế của người Kinh ta! Khi uống rượu này, người dân tộc dùng các ống dài (long straws) bỏ vào hủ để hút uống vì thế được gọi là rượu cần ! ************************************** Vào mùa hè năm 78, anh tôi cũng như các thanh niên cùng lứa tuổi phải đi "Thanh Niên Xung Phong" cho nhà nước 3 năm. Chổ anh tôi làm công trình thủy lợi gần một Buôn Thượng. Buôn này thuộc huyện Lạc Thiện, huyện này cách TP/BMT khoảng gần 50 cây số về hướng Tây Nam. Thỉnh thoảng anh về thăm nhà vài bữa rồi lại đi . Một lần kia, anh tôi mang về khoe mọi người trong gia đình một cái mặt nạ bằng gỗ đen sì sì, trông rất gớm ghiếc và dữ tợn! Trong nhà chẳng có ai tỏ ra thích nó cả, chỉ riêng anh ấy là có vẻ hảnh diện vì nó lắm! Anh tôi để nó trong ngăn kính của tủ buffet như để khoe với các khách lạ đến nhà chơi về cái mặt nạ kỳ bí của mình! Chúng tôi thấy nó quá xấu xí nên không ai muốn rờ mó gì đến nó hết! Còn anh tôi thì một năm chỉ về nhà chơi vài lần ! Cái mặt nạ nằm chình ình trong đó không ai màng chú ý đến! Chừng gần một năm sau đó, một người bà con xa ở quê lên phố ghé nhà tôi chơi, thấy cái mặt nạ trong tủ bèn tới lấy ra ngắm nghía và hỏi mẹ tôi về nó . Mẹ tôi nói là do anh tôi lấy ở một Buôn Thượng về! Ông ta ở chơi đến chiều rồi

ra chợ đón xe về! Hôm sau có người ra báo cho gia đình tôi là ông ấy bị lật xe chết chiều hôm qua ! Gia đình tôi xuống chia buồn và dự lễ an táng! Ai cũng nghĩ đó là tai nạn xui xẻo thôi! Chừng hai tuần sau đó, một anh công an khu vực ghé vào nhà tôi chơi ! Anh ta nói là sắp về thăm quê ngoài Bắc, và nói manh mánh để xin ít tiền làm lộ phí! (Chả là mẹ tôi buôn bán ngoài chợ nên có đồng ra đồng vào nên công an khu vực thường tới xin xỏ, và vì muốn yên thân mẹ tôi cũng như các người buôn bán khác thường phải biếu xén cho khỏi bị phiền hà!) Khi sắp ra về, anh ta thấy cái mặt nạ trong tủ bèn cầm xem và xin nó mang về Bắc làm kỷ niệm ! Mẹ tôi từ chối và nói đó là của anh tôi, mẹ tôi không có quyền lấy cho ai cả ! Anh ta kiếu từ ra về ! Hôm sau, mọi người trong phường nghe tin anh ta bị đạn nổ chết trong lúc lau súng ở trong phòng anh ta ! Trong nhà tôi cũng chẳng ai để ý đến sự trùng hợp đó cả _ Hai người đến chơi nhà tôi khi về thì bị chết _ Mọi người đều cho đó là tai nạn rủi ro ! Nhưng trong tháng đó, tự dưng tiền điện nhà tôi lên đến gần cả 400 đồng! Lúc đó điện nước đều bị hạn chế, xài nhiều là bị phạt, và còn có thể bị cúp nữa ! Gia đình tôi chỉ giám xài theo mức hạn chế của nhà nước mà thôi, thế sao tiền điện lại cao như vậy kìa! Không ai biết cả ! Trong nhà có một bàn ủi điện, một cái bếp điện hai lò tư trước 75 còn lại, nhưng bố mẹ tôi đâu cho ai dùng các thứ xa xỉ này! Tôi lấy làm thắc mắc về việc này lắm ! Một đêm kia, khi tôi xuống bếp để lấy ly uống nước. Tôi xanh mặt vì thấy hai cái lò trên cái bếp điện cháy đỏ rực! Tôi chạy lại định vặn công tắc để tắt nó đi! Nhưng cái nắm vặn vẫn ở vị thế OFF! Tôi không biết làm sao kỳ lạ vậy nữa! Tôi bèn cúi xuống gầm bếp nắm sợi giây điện kéo cái phích ra khỏi ổ cắm, rồi chạy lên nói với bố tôi về việc này, và đoán chắc tiền điện lên là do cái bếp điện mà ra! Bố tôi đoán là cái bếp điện bị chạm hay hư nên có tắt mà vẫn bị chạm hồng lên ! Mẹ tôi lên tiếng! Nếu nó chạm thì cũng chỉ mới hôm nay thôi chứ lâu thì mẹ tôi đã thấy khi nấu nướng rôì ! Cái bếp đó chỉ để làm kiểng chứ có ai dám nấu nướng bằng nó đâu! Tiền điện quá cao giống như ngày nào cũng nấu bằng bếp điện vậy ! Bố tôi liền xuống bưng cái bếp điện đem cất vào nhà kho ! Hôm sau, bố tôi dẫn cái xe Honda ra để đi xuống rẫy, ông đạp hoài mà chẳng làm sao cho nó nổ máy được ! Bố tôi xem lại xăng nhớt, mọi thứ đều còn đầy ! Ông tháo lau bugi, đạp thử để xem lửa! Lửa bắn rất mạnh! Nhưng khi ráp bugi vào rồi đạp cũng chẳng làm nổ nổi cái xe! Bố tôi dắt xe ra tiệm đầu phố để nhờ anh thợ sửa xe xem hộ ! Anh thợ máy xem xét mọi thứ và nói là không có gì hư cả ! Lạ là ngay cả anh ta cũng chẳng làm sao đạp nổ máy được ! Bố tôi đành chịu thua, dẫn xe về và phải ở nhà hôm đó ! Đến tối bố tôi bổng bị sốt nặng! Mẹ tôi đi mua thuốc cảm sốt của mấy bà bán chợ đen về cho bố tôi uống, nhưng bệnh mỗi ngày một nặng thêm! Mấy hôm trước bố tôi vẫn còn khoẻ như voi mà bây giờ ông nằm liệt giường như là người ốm nặng cả năm rồi! Mẹ con tôi lo lắng lắm, cứ sợ bố tôi chết thì không biết xoay sở ra sao trong cái thời buổi khó khăn này !!

Cả nhà đang lo lắng thì anh tôi lại về, vẻ lo lắng hiện trên nét mặt! Mới vào đến nhà, anh tôi hỏi mọi người trong nhà đều bình yên cả chứ! Và khi nghe mẹ nói bố tôi bị đau nặng đột ngột mấy hôm nay, anh ấy nhào ngay về phía tủ trà buffet, mở lấy cái mặt nạ bỏ vào cái ba lô anh đang xách trên tay! Xin mẹ 200 đồng (lúc này 200 đồng rất lớn) nói là có việc khẩn cấp phải dùng nó, xong anh ấy phóng ra cửa đi một mạch chẳng ai kịp hỏi lấy thêm một lời nào cả ! Sáng hôm sau bố tôi ngồi dậy, tỉnh táo như chẳng có một tí gì là bệnh hoạn hết ! Cả nhà đều ngạc nhiên ! Mẹ tôi hỏi bố cảm thấy trong người thế nào! Ông nói là rất khoẻ khoắn chẳng cảm thấy mệt mỏi hay bệnh hoạn gì cả ! Chiều hôm đó anh tôi lại trở về nhà , mặt lộ vẻ hân hoan vui vẻ chứ không hốt hoảng như hôm qua! Tối đó sau khi tắm rửa, ăn uống xong, cả nhà tôi quây quần trong phòng khách và anh tôi bắt đầu kể chuyện: "Vào một ngày Chủ Nhật khoảng 10 tháng trước đây, tụi con được nghỉ nên rủ nhau vào Buôn Thượng chơi . Uống rượu cần và hút thuốc vấn với mấy người dân tộc ở trong buôn! Tối về, một thằng bạn con móc ra từ bao cát một cái mặt nạ bằng gỗ khoe với mọi người trong lán. Tụi con hỏi nó lấy được ở đâụ Nó nói là nó đã lẻn vào "Nhà Giàng" của Buôn, và chôm cái mặt nạ này! Nó khoe là có rất nhiều mặt nạ khác nhau ở đó, nhưng thấy cái này có vẻ kỳ lạ nên lấy về chơi! Nó để cái mặt nạ này ở đầu giường của nó ! Bẳng đi cả tháng chẳng còn ai để ý đến cái mặt nạ đen thui đó nữa! Hôm con về phép nó nhờ con tới nhà nó để xin mẹ nó ít đồ tiếp tế, và để trả công trước, nó cho con cái mặt nạ đó, và lần đó con mang về để chưng trong tủ buffet! Đầu tháng rồi, thằng bạn cho con cái mặt nạ đang đứng trên bờ mương thủy lợi thì bị trượt chân té đập đầu vào cục đá to ở đáy mương chết liền tại chổ . Mấy thằng thanh niên Thượng trong toán con nói là nó bị Thần Rhê vật chết ! Bọn con không tin, nhưng bọn dân tộc này nói với giọng rất là nghiêm trọng lắm làm tụi con cũng không dám giỡn thêm! Tối đó về tới lán, tụi con hỏi ai là Thần Rhê vậy, tụi nó mới kể lại là tuần trước đây trong Buôn có cúng Giàng và họ khám phá ra là bị mất cái mặt nạ của Thần Rhê (Đó là tên của Thần Núi Lửạ) Trong buổi cúng đó, họ cầu thần hãy giết bọn trộm vật đại diện cho Thần! Và người đầu tiên bị Thần giết là thằng đã lẻn vào ăn cắp cái mặt nạ trong Nhà Giàng! Tụi con hỏi thế thì có thể làm gì để Thần tha cho không, bọn nó nói phải mang cái mặt nạ về giao trả cho Chúa Làng và xin dân làng làm lễ cầu Thần tha tội thì mới xong! Con lo lắm vì cái mặt nạ nằm trong nhà mình! Con muốn về để mang nó trả lại cho Buôn, nhưng bố mẹ biết đó đâu phải con muốn về lúc nào là về được đâu! Con đành phải đợi cơ hội mới xin phép về được! Hôm qua con về đến và biết bố bị bệnh nặng đột ngột là con biết không xong rồi! Con mang cái mặt nạ vào Buôn đưa cho Chúa Làng và nhờ thằng bạn người

Thượng giải thích cho ông ta biết là do đâu con có được nó, rồi đưa cho ông ấy 200 đồng xin ông và dân làng làm lễ cúng Thần cho con! Ngay chiều tối ấy họ làm lễ cúng có con ngồi xem tận mắt ! Trông họ la múa, trống chiêng con cũng thấy rợn người! Đến khi tan buổi lễ con mới về sau khi đã được Chúa Làng trấn an là mọi chuyện sẽ êm xuôi, đừng sợ gì nữa cả vì Thần đã hứa tha rồi! Hôm nay về nhà thấy bố tự nhiên hết bệnh, có lẽ ông Chúa Làng nói đúng! Và nhất là sau khi biết các việc xảy ra trong vòng một tháng nay, cái chết của thằng bạn, của bác Bảy, của anh công an khu vực, và các sự lạ xảy ra trong nhà mình, con nghĩ rằng đúng là cái mặt nạ đó đã mang lại các điều xui xẻo cho người nào cầm nó ! Con và bố may mắm là chưa bị Thần Rhê làm chết !! Từ giờ trở đi con tởn tới già không giám nhặt ba cái vật kỳ quái hay dị hợm về nhà nữa đâu ! " Nói là làm, anh tôi chẳng bao giờ mò vào các Buôn Thượng nữa! Sau này khi đã sang Mỹ rồi mà trong những kỳ đi chơi ở các thác hay vùng núi, mọi người đua nhau nhặt các viên đá đẹp, các hòn có hình dáng kỳ lạ giống mặt người về làm kỷ niệm thì anh tôi dửng dưng như không! Ai hỏi tại sao, anh ấy chỉ trả lời là không thích chơi nghịch các hòn đá thôi ! Nhưng tôi biết ngay rằng anh ấy vẫn bị ám ảnh bởi cCái rương Ấn Độ

Người bán đồ cổ vừa xoa xoa hai lòng bàn tay vào nhau vừa nói: - Thưa ông, chính cái rương này từ Ấn Ðộ gửi qua. Ðây là loại gỗ quý, gỗ này thật đặc biệt hiếm. Maax nói với giọng hơi ngập ngừng: - Ðược rồi! Tôi sẽ mua vật này mà! Chính lúc bước chân vào tiệm, Maax đã để ý đến cái cái rương này, cái rương làm toàn bằng gỗ một màu đen nhánh, lại có những đường gân trắng nổi lên, rất đặc biệt. Mặt rương nổi lên màu sắc địa phương của nó. Hơn nữa, kích thước của nó rất vừa ý Maax. Rương rộng lối sáu tấc, dài mười tám tấc, cao lối chín tấc. Khi Maax đoán biết chủ tiệm sẵn sàng bán rương với giá mười hai đô la thì ý muốn của chàng là xỉa tiền mua ngay vật quý này. Tuy nhiên, Maax lại lưỡng lự, vì theo ý của chàng giá bán sao quá rẻ, hơn nữa, khi giá cả đã ngã ngũ, trông mặt mày chủ tiệm có vẻ thoải mái thấy rõ. Phải chăng loại gỗ đóng rương không phải là gỗ quý? Hay là cái rương này có điểm nào tệ đây? Nhưng rồi...việc mua bán đã xong xuôi, tiền đã giao, qua ngày mai dù Maax có đổi ý thì sự việc cũng quá trễ rồi. Trông mặt gỗ rất bóng, không một đường rạn nứt nào cả. Nhìn chung, cái rương trông rất đẹp. Nắp rương đậy kín. Cái chìa khoá lớn dùng để mở trông rất gọn và lúc mở cũng không nghe tiếng động lớn. Maax tỏ ý vừa lòng. Mỗi ngày chàng để ý lau chùi bụi bậm bám trên mặt rương. Ðem về nhà, chàng đặt rương vào góc phòng. Maax nghĩ thầm khi phải dọn nhà, đồ vật này đối với chàng rất là tiện lợi. Vả lại trong lúc này, chính cái rương quý này làm cho căn phòng của Maax giá trị thêm lên. Nhiều tuần lễ trôi qua. Thỉnh thoảng Maax lại đưa mắt ngắm cái rương quý. Nhưng về sau, lâu ngày Maax ít để ý đến. Một tối nọ, một sự việc bất ngờ khác lạ xảy đến làm cho Maax suy nghĩ rất nhiều. Trong lúc ngồi vào chiếc ghế bành, im lặng đọc sách, không vì lẽ gì, Maax đưa mắt ra khỏi trang sách nhìn về phía góc phòng, nơi đặt rương. Một ngón tay dài, xanh xao thò ra khỏi nắp rương. Maax ngồi lặng thing trong chiếc ghế bành, tâm trí như bị tê liệt vì quá sợ hãi,

trong thời gian lâu từ hai đến ba phút, cặp mắt không rời khỏi mặt rương. Rõ ràng là một ngón tay dài, xanh xao, lóng tay không được suôn sẻ, đầu ngón tay là cái móng bầm đen. Qua những phút sợ hãi, lúc này đến phút giận dữ. Ngón tay đó vẫn đứng yên. Hiện tượng ấy thật kỳ quái. Buổi tối yên lặng của chàng bỗng nhiên bị phá tan bởi sự xuất hiện của ngón tay dị kỳ đó. Maax lên tiếng chửi thề và cầm cuốn sách vất mạnh về phía chiếc rương. Ngón tay biến mất. Maax không còn trông thấy gì nữa. Chàng đưa cao ngọn đèn dọi ánh sáng về phía góc phòng rồi bước mau về phía cái rương, đột ngột mở nắp rương. Bên trong không có gì cả! Chàng đậy nắp rương lại, lượm cuôn sách cầm tay, trở về chỗ cũ, ngồi vào ghế. Phải chẳng trong mấy ngày qua chàng đọc sách quá nhiều nên bị hoa mắt? Chàng giả vờ tiếp tục đọc sách nhưng chốc chốc chàng lại đưa mắt về phía góc phòng cho đến khi không nhận thấy có gì kỳ lạ xảy ra, lúc đó chàng mới lên giường đi ngủ. Nhưng suốt ba, bốn ngày sau đó, hiện tượng kỳ quái kia cứ ám ảnh mãi trí óc Maax. Chàng không dám về khuya và cũng bắt đầu ít đọc sách lại. Trong tuần lễ đâu, chàng đinh ninh là mắt chàng bị quá mệt nên làm cho chàng nhìn ra hiện tượng kỳ lạ đó. Bắt đầu tuần lễ thứ hai, nghĩ rằng thị giác đã được nghỉ ngơi vừa sức, chàng mua về nhà nhiều tạp chí và bắt đầu mải mê đọc. Ðọc được vài trang, Maax ngước mắt về phía chiếc rương nhưng cũng không thấy gì lạ xảy ra. Ngồi vững vàng vào chiếc ghế bành, Maax chăm chú đọc suốt cả tiếng đồng hồ. Ðọc hết một cuốn định đọc qua cuốn khác, chàng đưa mắt về phía chiếc rương... Cái ngón tay dài xuất hiện, bất động, lóng tay không được suôn sẻ, móng tay màu bầm đen. Maax cố ý cưỡng lại ý muốn chạy sang phòng bên cạnh, đưa tay về hướng chiếc bàn đặt gần chiếc ghế bành, sờ soạng tìm lấy cái gạt tàn thuốc, nhưng cặp mắt chàng vẫn không rời khỏi chiếc rương. Bàn tay chàng đã nắm được cái gạt tàn thuốc, lúc này, chàng từ từ đứng dậy nhẹ nhàng đi tới góc phòng. Lúc chàng bước tới cái rương với khoảng cách chừng một thước thì ngón tay kia cũng biến mất. Maax mở nắp rương ra.

Bên trong rương, vẫn không có gì cả! Trí óc Maax đảo lộn. Chàng trở về chỗ cũ, ngồi vào ghế. Tuy lúc này cái ngón tay quái dị kia không xuất hiện nữa nhưng chàng cũng không xua đuổi khỏi trí óc được hình ảnh ghê rợn lúc này. Trước khi lên giường ngủ, một ý nghĩ mới đến trong óc chàng: sẽ tìm cách thủ tiêu cái rương này. Maax vẫn khoẻ mạnh. Thật ra hiện tượng kỳ quái đó không phải xuất phát từ thị giác của Maax mà chính là ở cái rương kỳ dị kia. Chàng nhớ lại những chuyện đã qua. Trước hết là cái rương đã bán với giá quá rẻ. Thứ hai là chủ tiệm đã tỏ ra vui mừng khi bán được món hàng mà hắn ta khoe là rất hiếm, rất quý. Nhưng Maax vẫn tin mình. Chàng tự hỏi không hiểu chàng có bị rối loạn thần kinh không? Sáng hôm sau, trước khi đi làm việc, chàng nhờ chủ nhà cho người chở nó đi, vất nó vào nơi chứa đồ phế thải, thủ tiêu bằng cách hoả thiêu nó. Nhưng buổi chiều hôm ấy, khi trở lại phòng trọ, vật đầu tiên trong căn phòng đập vào mắt chàng lại là cái rương ma quái đó. Vừa sợ hãi vừa tức giận, Maax vội vàng tìm chủ nhà tra hỏi lý do nào mà bà ta không chịu nghe lời chàng. Bà chủ nhà ôn tồn giải thích cho chàng nghe là cái rương còn tốt quá, lại bằng gỗ quý, đem rương bỏ vào chỗ chứa đồ phế thải, uổng phí quá. Hơn nữa không có một bác phu rác nào mất trí đến nỗi đang tay châm lửa đốt một chiếc rương trông đẹp như vậy được. Nghe lời giải thích đó, Maax xin lỗi bà chủ nhà, trở về phòng. Chàng ngồi vào chiếc ghế bành và bắt đầu nhìn không chớp mắt vào chiếc rương. Chàng thầm nghĩ là nếu không còn có một việc gì xảy ra nữa thì chàng vẫn giữ lại chiếc rương, còn trái lại, lần này Maax sẽ cương quyết tìm cách thủ tiêu nó. Tối hôm đó, Maax định dự một buổi hoà nhạc nhưng một trận mưa giằng giai giữ chân chàng ở lại trong căn phòng của chàng. Trước khi ngồi vào ghế đọc sách, Maax bước lại góc phòng lấy chìa khóa trong túi áo, khoá rương lại. Cuộc thí nghiệm lần này sẽ quyết định dứt khoát cho ý định của chàng. Trong lúc đọc sách, chốc chốc chàng lại liếc mắt về góc phòng, nhìn lên cái rương. Nhưng không có gì xảy ra trước mười một giờ đêm cả. Ðến lúc chàng đặt sách xuống, chàng liếc mắt về góc phòng, nhìn lên cái rương: Ngón tay kỳ lạ kia lại xuất hiện.

Vẫn ngón tay dài, xanh xao, thay vì bất động lần này dường như ngón tay đó đang cử động. Ngón tay run run tuồng như đang cào vào mặt gỗ với cái móng đen bầm của nó. Maax tập trung tất cả can đảm cầm cái gạt tàn và bước lại góc phòng. Ngón tay ma quái bỗng biết mất đúng vừa lúc chàng đưa tay định ném thật mạnh cái gạt tàn thuốc vào rương. Tim chàng đập thình thịch. Chàng mở nắp rương. Bên trong vẫn trống không. Lúc này chàng nghĩ đến cái chìa khoá chàng để ở túi áo. Một cảm giác ghê rợn đến dựng tóc gáy. Cái chìa khoá để trong túi áo đã biến mất nhưng lại thấy nằm ở ổ khoá. Chàng lẩm bẩm nghĩ có lẽ chàng đã mất trí. Maax lại khoá chặt rương lần nữa trở lại ngồi vào ghế, nhìn chằm chằm vào chiếc rương ma quái cho mãi đến hai giờ sáng. Cuối cùng, vì quá mệt mỏi, trí óc bị đảo lộn, Maax lên giường ngủ. Trước khi tắt đèn chàng để ý là nắp rương đã được đậy kín và được khoá kỹ. Khi chàng đã thiu thiu ngủ, bỗng một cơn ác mộng chợt đến. Trong giấc ngủ chàng nghe như có tiếng cào gỗ làm cho chàng thức dậy. Thắp một cây nến, chàng đưa mắt về phía chiếc rương. Cái ngón tay dài lại hiện lên ở mặt rương và đang cựa quậy mạnh. Ngón tay đó lúc lắc thật mạnh, cào lên mặt rương, với chiếc móng bầm đen. Nhưng dường như nó thấy sự xuất hiện của chàng nên bỗng nhiên nó dừng lại. Và... từ từ, ngón tay đó ra hiệu cho Maax lại gần. Quá sợ hãi, Maax không thể không vâng lời được. Chàng đặt cây nến xuống bàn và chân bắt đầu bước giống hệt như một người máy. Ngón tay kỳ dị đó như kéo chàng lại gần, chàng giống như một thỏi nam châm hút. Ðúng vừa lúc Maax bước lại gần chiếc rương thì ngón tay kỳ dị đó rút vào, và nắp rương tự nhiên mở lên. Maax lúc này như bị một sự sợ hãi quá sức thôi miên, chàng bước vào lòng rương, ngồi khom mình, đầu gối chống cằm rồi ngả cả thân mình xuống lòng rương. Nắp rương tự nhiên đóng sập mạnh và...chiếc chìa khoá tự động quay một vòng trong ổ khoá... Maax hoảng hốt thức dậy thét lên một tiếng ghê rợn. Chàng ngồi thẳng người trên giường, mồ hôi chảy dầm dề trên trán. Maax sợ quá vội trùm cả chăn lên đầu rồi nằm như vậy cho đến sáng. Trời sáng tỏ, lấy lại bình tĩnh, Maax rời khỏi căn phòng đi pha cà phê uống. Hôm ấy, chàng không đến sở mà lại tìm đến nhà một phu đổ rác mà lâu nay chàng từng nhờ cậy người này giúp trong nhiều công việc. Chàng dặn dò bác phu thật kỹ về những điều chàng muốn thực hiện. Chàng trao cho bác phu số tiền mười đô la và còn hứa sẽ trao số tiền tương xứng khi công việc đã xong xuôi. Ðoạn, chàng đi ăn cơm trưa, đến sở làm việc, tâm trí lúc này ít nhiều được thảnh thơi hơn trước. Buổi chiều hôm ấy, Maax trở lại căn phòng riêng của chàng, lòng rất tự tin, nhưng vừa bước vào căn phòng, chàng cảm thấy quả tim mình thoát ra khỏi

lồng ngực. Trái với lời dặn của chàng, bác phu đổ rác vẫn chưa chịu khiêng cái rương đi vứt bỏ. Lần này, Maax tỏ ra vô cùng thất vọng hơn là nổi cơn giận lôi đình. Chàng bước ra ngoài gọi điện thoại liên tục cho bác phu đổ rác. Ông này lựa lời xin lỗi, lấy cớ là chiếc xe của ông bị hỏng máy đúng vào lúc ông chuẩn bị đi làm phận sự. Ông đã phải bỏ cả ngày để sửa chữa xe và xin hứa qua ngày hôm sau sẽ đến sớm để lo tròn công việc. Maax không biết làm gì hơn, buông thõng hai tiếng "Cám ơn" và đặt ống nói xuống. Chàng không muốn trở lại căn phòng riêng của mình mà tạt vào một quán trong khu phố ăn trưa rồi đi xem chiếu bóng luôn. Ở rạp chiếu bóng ra, Maax lại tạt vào một quán cà phê, ngồi cà kê mãi cho đến nửa đêm mới về căn phòng của chàng. Cơn ác mộng đêm hôm trước vẫn còn ám ảnh trí óc nên dù đêm qua ngủ rất ít nhưng đêm nay chàng vẫn chưa nhắm mắt được, vì thế, chàng cảm thấy rất mệt mỏi. Sau khi xem xét kỹ là nắp rương được đóng kín, Maax cẩn thận đặt chìa khoá ở dưới gối nằm và nhắm mắt ngủ. Vài giờ sau đó, Maax bỗng thức dậy, ngồi lên một cách tỉnh táo. Tim chàng đập mạnh hơn lúc nào hết. Trong một phút định thần, chàng tự hỏi vì sao chàng lại ngồi dậy như thế này. Có tiếng cào lên mặt gỗ nghe rõ mồn một ở phía góc phòng. Tay chân của chàng run rẩy, chàng nhảy xuống giường, đưa tay ấn nút mở sáng chiếc đèn làm việc ban đêm, đặt trên bàn. Không có ánh sáng toả ra. Bóng đèn bị cháy hay dòng điện bị cắt đứt? Chàng mở hộc bàn đưa tay quờ quạng tìm cây nến. Trong lúc chàng sờ soạng tìm nến và diêm thì tiếng động tăng lên gấp đôi, gấp ba đến nỗi nghe tưởng chừng như vang dội hết cả căn phòng. Toàn thân Maax run rẩy, mỗi sợi lông trên thân mình như đứng lên nhưng chàng cũng lấy hết can đảm, tay cầm đèn cầy và nhẹ nhàng bước tới phía chiếc rương. Ngón tay kỳ lạ đó càng dài ra và gõ liên hồi trên nắp rương. Với nhịp điệu dồn dập, tiếng gõ vang ra hết cả mặt rương, có khi cái móng tay bầm tím đó lại cào mạnh lên mặt gỗ. Khi Maax bước lại gần, ngón tay kỳ lạ đó bỗng đứng yên rồi nằm dài theo mép rương. Maax kinh hoàng khi nghĩ rằng ngón tay ma quái đã trông thấy chàng

nên mới ngừng hoạt động và ngón tay đó đang nhìn chằm chằm vào chàng. Và khi Maax đã đứng giữa căn phòng, lạ lùng thay, ngón tay đó giơ lên và hình như đang ra dấu hiệu cho chàng lại gần hơn. Maax quá kinh sợ khi nhớ lại cơn ác mộng chàng vừa trải qua. Lúc này chính chàng không chịu đựng nổi sự sợ hãi đó nữa. Chàng vẫn bước tới trước, cử chỉ, hành động giống như một người mắc bệnh mộng du. Sáng sớm hôm sau, hai người phu đổ rác bước theo chủ nhà của Maax vào phòng chàng. Maax đã rời khỏi phòng từ lúc nào, có lẽ chàng đi làm việc, nhưng hai người phu đổ rác đã biết rõ công việc của họ sẽ phải làm. Chiếc rương được khoá kỹ vẫn nằm ở góc phòng, không có chìa khoá nằm trong ổ khoá. Bên cạnh rương người ta thấy dấu vết một cây đèn cầy đã cháy rụi. Người chủ nhà tỏ ý không hài lòng. Bà ta lên giọng tỏ ra bực bội: - Ðấy, hành động đó chỉ nhằm đốt nhà người ta. Tôi sẽ nói cho ông Maax biết về sự sơ xuất đó. Quả thật đáng trách. Hai người phu đổ rác hì hục khiêng chiếc rương không để ý đến lời nói của bà chủ nhà. Một người than: - Bộ cái rương này bằng chì hay sao? Từ trước tới nay tôi chưa bao giờ khiêng một cái rương nặng như thế này. Bà chủ nhà nói dặn thêm: - Ấy, cái rương này được làm bằng một loại gỗ rất chắc... Khi chiếc xe chạy tới ven đê, đúng nơi vứt bỏ những đồ phế thải, một người phu nói: - Tôi không hiểu vì sao cái thằng cha này lại đem bỏ đi một cái rương đẹp như thế này? Bạn của anh ta trả lời: - Tôi thì biết rõ đầu đuôi sự việc. Chẳng là anh chàng mua cái rương này của Jason Kinkle mà Kinkle thì lại chẳng bao giờ kể rõ lai lịch cái rương cho chàng ta biết... Vì lẽ đó, mà chàng ta không muốn giữ cái rương này trong căn phòng của mình nữa.

- Nhưng lai lịch cái rương đó ra sao? Anh có biết không? Anh phu đổ rác tự cho mình biết rõ câu chuyện không thèm trả lời cho bạn ngay lúc đó, nhưng khi cái rương đã được đẩy xuống đất chàng mới chậm rãi: - Cái rương này được đem bán ở tiệm bán đồ cũ. Người chỉ của nó trước tiên là Stubberton... Vừa nói đến đây, người phu đổ rác thứ hai cướp lời: - Stubberton! Có phải anh chàng bị giết bằng cách bỏ... - Phải rồi! Bằng cách bị đem nhốt vào rương. Ðúng vậy, chính cái rương mà chúng ta vừa mới chở trên xe đó. Cả hai im lặng một hồi lâu. Họ lại tiếp tục tìm cách xê dịch cái rương lại gần một cái giếng không còn dùng nữa, thành giếng đã bể nát, đáy giếng chứa đầy một thứ nước bẩn. Người phu đổ rác đưa tay lau mồ hôi đổ giọt trên trán, đoạn nói tiếp: - Lúc người ta cậy cái rương ra thì xác nạn nhân trông đen, xám xịt lại. Người ta thấy một ngón tay mắc kẹt ở nắp rương, gần nơi ổ khoá - nhưng ngón tay ấy cũng không cứu được mạng sống của nạn nhân. Nghe bạn kể câu chuyện ma quái đó, người phu đổ rác thứ hai tỏ ra sợ hãi, nói lớn: - Thôi, phải thủ tiêu nó gấp, cái thứ này chỉ có mang xui xẻo đến cho chúng ta mà thôi! Người kia đáp nhanh: - Ðồng ý! Giúp tôi một tay mau lên! Hai người lấy hết sức lực đẩy rương xuống đáy giếng. Cái rương trong phút chốc rớt xuống mặt nước đen sì làm tung một ngọn nước lên cao gần miệng giếng... Một người lên tiếng: - Thế là yên chuyện! Chúng ta lại được thêm mười đô la! Nhưng rồi... một sự việc lạ lùng xảy ra. Hai người phu đổ rác không bao giờ hy vọng nhận thêm số tiền mười đô la đó nữa vì kể từ ngày hôm đó Maax bỗng biệt tích, không ai gặp chàng mà cũng không có ai nhắc đến tên chàng nữa.

ái mặt nạ ghê gớm ngày xưa đó !!Căn nhà ma

Khi còn học ở đại học 4 năm, Tuấn sống với bố mẹ tại một thành phố thuộc vùng Đông Bắc Hoa Kỳ ! Sáu tháng trước khi tốt nghiệp cử nhân khoa học về Tin Học (BS in Computer Science,) Tuấn đã gửi đơn xin việc đến một số các hảng về điện tử (hardware) hoặc về phần mềm (Software) để xin việc ! Lúc này đang trong thời kinh tế thịnh vượng nên trong vòng vài tháng Tuấn đã được bốn công ty thâu nhận ! Chàng chọn một công ty làm về phần mềm ở thành phố North Andover thuộc tiểu bang Massachusetts vì việc làm đúng khả năng của Tuấn, và chỉ cách chổ bố mẹ chàng chừng một giờ rưỡi lái xe thôi! Sống ở vùng Đông Bắc này đã lâu nhưng Tuấn vẫn ngại lái xe trong trời tuyết mùa Đông! Nên khi chấp nhận nhận việc Tuấn phải lo kiếm nhà để thuê cho gần nơi mình làm, hơn nữa không sống chung với bố mẹ bao giờ cũng được tự do và thoải mái hơn! Ngặt một nỗi là nhà cửa ở thành phố này rất đắt và khó kiếm ! Đa số là dân trung lưu trở lên và hầu hết dân cư là Mỹ trắng! Đọc báo tìm nhà để thuê cả gần hai tuần mà Tuấn chưa kiếm ra một căn nào vừa ý cả ! Thời gian nhận việc đã gần kề nên Tuấn hơi lo là chắc hàng ngày phải lái xe cả gần 100 miles đi tới sở làm! May mắn cho chàng là chỉ một tuần trước ngày vào làm Tuấn thấy báo đăng có một nhà cho thuê phòng (share room!) Mừng quá chàng vội gọi điện thoại xin đến coi phòng ngay! Thật ngoài sức tưởng tượng của chàng, bà già chủ nhà cho Tuấn hoàn toàn tự do trên lầu hai của căn nhà! Trên đó có đầy đủ tiện nghi như một căn nhà riêng biệt, gồm hai phòng ngủ, bếp, nhà tắm, và phòng khách! Chỉ một điều bất tiện nhỏ là phải dùng cầu thang để xuống nhà dưới mới ra ngoài được! Đó chỉ là chuyện nhỏ nên Tuấn bằng lòng thuê ngay không cần do dự gì!! Căn nhà này chỉ cách chổ làm khoảng 15 phút lái xe thôi! Thật là tuyệt, dù có bão tuyết Tuấn cũng chẳng lo!! Tiền thuê cũng quá rẻ nếu so với các nhà khác ở vùng này! Hơn nữa nhà chỉ có một bà lào già gần 80 tuổi ở thôi! Bà chủ nhà ở một mình tầng dưới với một con mèo làm bạn ! Người già ít nói và bà này trông có vẻ hiền hậu nên Tuấn không có gì phải lo nghĩ cả ! Căn nhà cổ này chắc cũng phải dựng trên 100 năm rồi! Nhà kiểu Colonial, tường gạch, mái thì lợp lại bằng giấy dầu! Chung quanh nhà là một vườn rộng như một khu rừng với toàn là cây thông và cây maple nên trông có vẻ âm u lắm! Tuấn rất thích cảnh yên tịnh này! Ở một nơi mà không phải nghe tiếng ồn của xe cộ, tiếng la hét của trẻ con trước nhà thì đâu phải là dễ trên cái đất Mỹ này! Tuấn mượn đỡ tiền bố mẹ mua sắm các thứ cần thiết cho cái "nhà riêng" của mình! Chàng dọn nhà vào ngày thứ Bảy ngay trước tuần đi làm. Ngày đi làm, chiều về nấu đại món gì để ăn! Làm biếng thì mì gói, còn lười hơn thì trên đường về ghé vào nhà hàng Tàu ăn xong rồi về! Tối đến mở TV xem vài chương trình hài (comey shows) rồi đi ngủ ! Thứ Bảy đi giặt quần áo và đi chợ, còn Chủ Nhật lái xe về thăm bố mẹ, tiện thể đi lễ VN và được ăn hai bữa cơm đàng hoàng với gia đình! Tuấn chưa có người yêu nên chàng chẳng tốn thì giờ cho việc hẹn hò!

Tuấn cũng như các chàng thanh niên khác, làm việc, ăn, ngủ và it' để ý đến gì chung quanh mình! Tối lên giường một chút là ngủ say ngay! Trên này có hai phòng ngủ, Tuấn chọn phòng rộng hơn và cửa mở ngay ra phòng khách để làm nơi ngủ ! Tuấn có thói quen đóng cửa phòng khi ngủ nên dù sống một mình trên lầu chàng vẫn đóng cửa khi lên giường! Một sáng thức dậy Tuấn ngạc nhiên khi thấy cửa phòng bị mở toang ra và càng ngạc nhiên hơn nữa là cái "TV's remote control" lại nằm ở cuối giường chàng! Tuấn không bao giờ mang nó vào phòng ngủ cả và chàng nhớ là đã đóng cửa khi bước vào phòng đêm qua rồi! Nhưng phải sửa soạn đi làm nên Tuấn không để ý lâu đến việc này! Nhưng sáng hôm sau chàng lại thấy cái remote control ở cuối giường và cửa phòng cũng lại bị mở ra! Chắc có điều gì lạ đây, Tuấn nghĩ, vì sự việc này xảy ra hai ngày liên tiếp rồi! Tuấn tắm gội, thay quần áo, ăn sơ sài rồi đi làm! Nhưng chàng bắt đầu để ý đến việc lạ này! Nói là để ý nhưng Tuấn vẫn ngủ say và hôm sau sự việc lại đã xảy ra đúng như hai hôm trước! Cái remote control vẫn nằm ở cuối giường, cửa phòng vẫn bị mở ra! Đêm hôm sau, Tuấn cố thức để rình xem động tỉnh! Đến nửa đên chàng nghe có tiếng bước chân từ nhà dưới lên cầu thang, rồi tiếng lịch kịch trong phòng khách! Tiếng bước chân tới lui trong phòng! Rồi yên lặng một hồi! Tiếng bước chân lại vang lên đi xuống cầu thang! Đợi một lúc không nghe thấy gì nữa, Tuấn ra phòng khách bật đèn rồi nhìn xuống nhà dưới! Bên dưới tối om om chẳng thấy gì ! Chàng tắt đèn và trở về phòng và rơi vào giấc ngủ lúc nào không biết! Lúc thức dậy lại thấy cái remote control đã nằm chình ình ở cuối giường từ bao giờ! Cửa phòng vẫn bị mở ra như các hôm trước! Tuấn nghĩ ngay đến bà già chủ nhà! Tiếng bước chân không có vẻ nặng nề, và từ dưới nhà dưới đi lên rồi lại trở xuống thì còn ai khác vào đây nữa nếu không phải là của bà già chủ nhà này! Khi đi làm, Tuấn thấy bà già đang ăn sáng bèn hỏi: _ Đêm qua Bà có lên lầu làm gì không ? _ Tôi đâu lên đó làm gì ! Trên đó tôi đã dành cho cậu mà ! _ Bà lão trả lời và Tuấn không hỏi thêm gì nữa ! Cuối tuần đó Tuấn về nhà bố mẹ chơi và thuật lại sự việc đã xảy ra cho mọi người nghe! Anh em trong gia đình nói chắc là ma đó! Bố mẹ chàng gạt phăng cái giả thuyết đó đi va ' cho rằng bà già chủ nhà vì già nên khó ngủ cho nên đi lại trong đêm cho đỡ buồn thôi ! Anh của Tuấn đưa ra giả thuyết nữa: "Có khi bà già bị bệnh mộng du, nên đêm đêm đi lang thang trong nhà đó! Em coi chừng đó nghe! Anh thấy trên TV họ nói là có khi những người mộng du giết người mà chẳng biết gì hết, và họ cũng không bị kết tội gì đâu vì là bệnh mà!" Tuấn nghe cũng hơi ngán! Không chừng bà già mắc bệnh đó cũng nên! Đều làm Tuấn run hơn là bà ta đêm nào cũng vào phòng chàng và để lại cái remote control ở cuối giường! Lỡ hôm nào bà ta mang theo con dao vào thì thật là họa

lớn! Tuấn quyết định tìm cho ra lẽ việc này! Trở về mhà, đêm đó chàng uống mấy ly cafe thật đậm với dụng tâm thức tỉnh để rình! Tuấn khép hờ cửa và nằm giả vờ như đang ngủ. Đến khoảng 11:30PM chàng nghe tiếng cửa bị đẩy từ từ mở ra! Một làn hơi lạnh chạy rần trên xương sống của Tuấn! Tuy run chàng vẫn hướng mắt về phía cửa! Cánh cửa mở ra chừng 3 tấc rồi ngừng tại vị trí đó! Tuấn cố nhìn nhưng không thấy ai cả ! Tuấn vẫn nằm yên hồi hộp chờ đợi coi việc gì sẽ xảy ra! Nhưng trong phòng vẫn yên ắng! Quá căng thẳng Tuấn ngồi bật dậy! Tuấn hoảng hốt khi thấy một bóng đen nhỏ phóng vụt ra ngoài qua khe cửa, và có tiếng kêu tiếng kêu "Meo, meo!" vang lên! Thì ra là con mèo mun của bà chủ nhà lẻn vào! Tuấn đã làm nó hoảng hốt cũng như nó làm chàng xanh cả mặt mày! Tuấn định thần và thở phào nhẹ nhỏm, miệng lẩm bẩm một mình: "Con mèo quỷ, làm tao hết hồn!" Tuấn ra đóng cửa lại rồi nằm nghe ngóng tiếp nhưng không thấy gì, và chàng rơi vào giấc ngủ lúc nào chẳng biết! Sáng dậy, cửa phòng vẫn bị mở toang ra và cái remote control lại đã nằm ở chổ cũ từ bao giờ! Đúng không sai rồi, bà già và con mèo của bà ta hàng đêm vào phòng Tuấn chứ chẳng còn ai vào đây nữa! Điệu này chắc phải đi tìm nhà khác thuê thôi! Ở đây biết đâu có ngày bà già xách dao lên lụi thì uổng mạng ! Bị ám ảnh với cái tâm trạng đó Tuấn hơi hoang mang trong lòng! Đêm sau lúc đang nằm mơ mơ màng màng Tuấn nghe tiếng chân bước lên cầu thang, rồi tiếng mở cửa phòng! Chàng nhìn ra thì thấy bà già đang từ từ bước tới giường với dáng điệu của kẻ vô hồn! Đến bên giường bà lão giơ cao con dao trong tay lên rồi đâm phập xuống ngực Tuấn!! Tuấn thất thanh la lớn lên và bật ngồi dậy!! May thay đó chỉ là một cơn ác mộng! Tuy thế Tuấn cũng toát mồ hôi lạnh khắp người!! Trong khi để ý tìm nhà mới, hàng đêm trước khi đi ngủ Tuấn dùng cái ghế chèm dựa vào tay vặn của ổ khóa để người ngoài không thể mở đẩy cửa vào được! Tuấn vẫn nghe tiếng chân lên xuống cầu thang hàng đêm, và có một một điều lạ là dù cửa phòng không bị mở ra nhưng mà cái remote control vẫn nằm ở nơi cuối giường mỗi sáng. Bà già dù có bị mộng du đi nữa cũng không có thể nào vào phòng Tuấn rồi trở ra được mà không gây ra tiếng động được! Đàng này cái ghế vẫn ở nguyên vị thế khi Tuấn gài lúc đi ngủ ! Tuấn tìm trong cái tủ (closet) xem có cái cửa bí mật nào thông với phòng khác không! Không có cái nào cả! Bà già không thể nào mò vào phòng bằng cách xuyên qua tường được ! Chắc là do ai đó! Mà ai đó có thể xuyên qua cửa đóng để vào thì không

thể là người thường được! Tuấn tránh không nói đến từ "MA" để khỏi tự hù chính mình! Ít ngày sau, trong một đêm mưa gió mịt mùng ngoài trời! Tuấn lên giường trể sau khi xem một trận bóng rổ giữa hai đội LA Lakers và Chicago Bulls! Đang nằm mơ màng thì linh tính như báo cho chàng biết có ai đang nhìn mình! Tuấn mở mắt ra và thấy một bóng dáng nhỏ nhắn mờ mờ đứng phía cuối giường! Bóng của một bé gái khoảng 12 hay 13 tuổi, mặc bộ đầm xanh lá cây có in các hoa hồng to, áo kiểu thời thế kỷ 19! Cô bé nhìn Tuấn với đôi mắt buồn buồn, tay cô cầm cái remote control đang định đặt xuống giường! Tuấn hoảng quá thét to lên! Bóng cô bé từ từ mờ dần rồi biến mất! Cái remote control rơi xuống sàn gây ra một tiếng động khô khan! Tuấn phóng xuống giường chạy bay ra cửa , kéo ghế mở cửa ra, và nhào xuống tầng dưới đập cửa phòng bà già cầu cứu! Bà già chủ nhà mở cửa mắt còn chớp chớp cho tỉnh ngủ : _ Cái gì thế ? _ Baaà aaà ! Cháu thấy có người trong phòng cháu !! _ Tào lao nè ! Ai mà vào đây làm gì !! Thôi đi ngủ đi !! Trai tráng gì mà nhát gan quá vậy !?!?!? Tuấn không biết nói gì hơn đành trở lên lầu, bật đèn sáng trưng và coi TV chờ sáng! May cho chàng vì hôm sau là thứ Bẩy không phải đi làm Sáng đến, Tuấn lái xe về và thuật lại chuyện cho mẹ chàng nghe! Mẹ chàng nghiêm giọng nói: _ Đúng là ma rồi không sai vào đâu nữa ! Hãy dọn tạm về đây ở đi, đợi khi kiếm được nhà mới rồi dọn đi nghe con! _ Con cũng tính vậy đó ! Con ngán ở lại cái nhà đó quá ! Thế là Tuấn về lấy các thứ cần dùng và báo cho bà chủ là chàng sẽ dọn nhà đi vào cuối tháng này! Đầu tuần sau khi vào sở Tuấn mang chuyện này nói với các bạn đồng nghiệp. Có mấy người lớn tuổi là dân kỳ cựu ở vùng này! Họ hỏi: _ Có phải cái nhà cổ xưa nằm một mình trong khu rừng thông, và chủ nhà là một bà già không ?

_ Đúng đó ! Tôi ở đó mới được gần một tháng thôi ! _ Nhà đó có ma ! Ai ở vùng này đều biết hết ! Vì thế bà ta cho thuê rẻ rề mà cũng chẳng ai giám ở cả ! Công nhận cậu gan thiệt đó nghe chưa ! _ Họ diễu tôi rồi cùng nhau cườị _ Tôi đâu có biết gì đâu! Thấy nhà rẻ mà rộng rãi nên thuê ngay thôi! _ Giỡn chơi với cậu thôi! Nhà đó bị ma ám lâu lắm rồi! Người ta đồn là năm 1886, cô bé gái con của người chủ nhà bị đạn lạc qua cửa sổ chết ở trong một phòng ngủ trên lầu! Từ đó cô ta hay hiện về đi lên đi xuống cầu thang! Cô ấy tuy chẳng nhát chết một ai nhưng mà cứ nghe tiếng chân lên xuống cầu thang trong đêm tối cũng đủ làm người ta kinh hoàng rồi! Hình như cô ấy vẫn lưu luyến căn nhà hay cỏi trần này thì phải! Cả trăm năm rồi mà vẫn cứ ở trong căn nhà đó! Căn nhà đó được truyền cho con cháu trong nhà và không thấy họ than phiền gì cả ?! Có lẽ họ quen rồi và cô bé cũng không chọc phá gì họ chắc ! _ Tôi dọn về nhà bố mẹ tôi ở tạm rồi! Đợi thuê được nhà mới sẽ dọn đồ đi ! Cuối tháng đó Tuấn dọn đến căn nhà mới thuê, một cái town house gần phố, tuy phải trả tiền thuê gấp đôi so với căn nhà cũ nhưng nơi này yên ổn chẳng có ma quỷ gì hiện ra hết! Đến bây giờ mỗi khi có dịp lái xe qua căn nhà cổ đó Tuấn vẫn thấy có một hơi lạnh chạy dài theo xương sống của chàng ! Tam Tang PS: Truyện này được viết theo một truyện có thật đã được show "Extra" điều tra và cho phát hình trên TV vào tháng Hai/ 2000. Họ chỉ nói sơ về chi tiết và chiếu trong vài phút thôi, nên tôi thêm thắt các nhân vật và chi tiết vào để cho thêm phần hấp dẫn !! Chỉ có căn nhà và cô bé ma là có thật trong show (tại tiểu bang West Virginia,) còn các nhân vật và chi tiết khác là do tôi tưởng tượng ra .

Căn phòng đủ tiện nghi

Một số người sống trong một quận gạch đỏ dưới phía đông của thành phố luôn luôn thiếu ổn định, mãi trôi giạt, lang thang. Tuy vô gia cư, họ vẫn có hàng trăm chỗ ở. Họ nhảy từ phòng cho thuê này qua phòng khác (phòng nào cũng đủ tiện nghi nội thất), luôn trong cảnh lông bông, lông bông về chỗ trú ngụ, lông bông về tâm hồn và tư tưởng. Họ ca hát "Tổ ấm gia đình" trong điệu dân ca Mỹ rộn ràng, họ mang đồ tế nhuyễn trong một cái thùng đáng lẽ chỉ để đựng đồ linh tinh, dây leo làm cảnh quấn quanh cái mũ rộng vành ta thường thấy trong các bức họa, một cái cây nhỏ là cây bóng mát. Vì thế, những ngôi nhà của quận này, với hàng nghìn nhân khẩu, có hàng nghìn câu chuyện để kể, đương nhiên, phần lớn đều vô vị, nhưng sẽ là điều lạ lùng nếu ta không thể tìm ra một vài bóng ma trong đám dân cư lông bông này. Một buổi tối, một thanh niên lượn vòng, bấm chuông những toà nhà màu đỏ đổ nát này. Đến toà nhà thứ mười hai, anh đặt túi hành lý lép kẹp trên bậc thềm, lau cái trán đã lấm đầy bụi. Cái chuông phát ra âm thanh khe khẽ và xa xôi trong những chiều sâu nào đấy hun hút, trống rỗng. Một người đàn bà đi ra cửa. Bà làm anh liên tưởng đến một con sâu bệnh hoạn, háo ăn háo uống đã đục khoét cả một cái quả chỉ chừa lại vỏ cứng và bây giờ đang lo kiếm khách trọ nào đấy có thể xơi được, để lấp đầy chỗ hổng. Anh hỏi bà có phòng trống cho thuê hay không. Bà trả lời, tiếng phát ra từ cổ họng, cổ họng dường như được lót lông thú: - Mời vào. Tôi có tầng ba, phía sau, đã trống một tuần nay. Anh muốn xem không? Người thanh niên theo bà đi lên cầu thang. Một luồng ánh sáng nhợt nhạt không rõ phát ra từ đâu lắp bớt những khoảng tối trong các hành lang. Họ bước không một tiếng động nào trên một tấm thảm mà cái khung cửi dệt của nó hẳn phải không dám nhìn nhận nó nữa. Dường như tấm thảm đã trở nên một loài thực vật, trong bầu không khí nặng không hề có ánh mặt trời, nó đã bị thoái hoá thành một lớp địa y lùm xùm hay rêu lan tràn mọc từng mảng đến tận cầu thang, nó trơn nhớt dưới chân như là một chất hữu cơ. Ở mỗi chỗ ngoặt của cầu thang là những hốc lõm trên tường. Có lẽ một loại cây cỏ nào đó đã từng mọc trong đấy. Nếu đúng thế, hẳn mấy cây cỏ đó đã tàn lụi trong bầu không khí hôi hám. Có thể có những bức tượng của các vị thánh đã được đặt ở đấy, nhưng ta có thể suy luận dễ dàng là ma quỷ đã lôi họ qua bóng tối xuống những vực sâu có trang bị đồ đạc trần tục ở phía dưới. Bà chủ nói qua cổ họng được lót lông thú: - Phòng này đây. Phòng này tốt lắm. Ít khi trống. Mùa hè vừa rồi có người đứng đắn thuê - không gây rắc rối gì cả, lại còn trả tiền trước. Nước ở cuối hành lang. Sprowls và Mooney đã thuê ở đây ba tháng. Họ diễn trên sân khấu

văn nghệ tạp kỹ. Cô B'retta Sprowls - chắc ông có nghe nói đến cô ấy - À, mà đấy chỉ là tên sân khấu - trên tủ quần áo ngay đây là nơi họ treo giấy hôn thú, có đóng khung đàng hoàng. Vòi ga ở đây, có nhiều tủ quần áo, ông thấy đấy. Ai cũng thích phòng này. Không mấy khi trống. - Bà có nhiều nghệ sĩ sân khấu thuê phòng ở đây không? - Họ đến rồi đi. Giới sân khấu có thuê một số phòng ở đây. Đúng thế, ông ạ, nơi đây là quận sân khấu. Mấy diễn viên không bao giờ ở lâu một chỗ nào cả. Một số có thuê ở đây. Vâng, họ đến rồi đi. Anh thanh niên nhận thuê phòng, trả trước một tuần. Anh bảo anh cảm thấy mệt và muốn nhận phòng ngay. Anh đếm tiền. Bà chủ bảo phòng đã sẵn sàng, ngay cả khăn lau và nước đều sẵn sàng. Khi bà chuẩn bị ra ngoài, anh thanh niên hỏi câu hỏi anh đã có trên đầu môi cả nghìn lần: - Có một cô gái trẻ - Cô Vashner, cô Eloise Vashner - bà có nhớ cô đã đến thuê ở đây không? Rất có thể cô hát trên sân khấu. Da trắng, tầm vóc trung bình, với tóc vàng kim đo đỏ và một bớt sẫm gần lông mày bên trái. - Không, tôi không nhớ tên. Giới sân khấu thay đổi tên liên tục cũng như họ thay đổi phòng. Họ đến rồi đi. Không, tôi không nhớ tên này. Không. Luôn luôn là không. 5 tháng điều tra liên tục rồi không tránh khỏi vô vọng. Bỏ rất nhiều thì giờ ban ngày để hỏi han mấy ông bầu, nhân viên đại diện, trường kịch nghệ, ban hợp xướng. Ban đêm trà trộn trong số khán giả của các sân khấu từ những nhà hát đầy ngôi sao đến các phòng ca nhạc hạ cấp. Anh, người yêu cô nhất trần đời, đã cố công tìm kiếm cô. Anh chắc chắn là từ khi cô biến khỏi nhà, thành phố thênh thang bao quanh toàn là nước này chứa chấp cô ở đâu đấy, nhưng nó như là một vũng lầy khủng khiếp, luôn luôn xoáy động, không có nền chắc chắn, các vật thể nổi hôm nay bị chìm lấp ngày mai trong bùn nhớt. Căn phòng đủ tiện nghi nội thất đón người khách mới nhất với tia sáng đầu tiên của lòng hiếu khách giả tạo, một thái độ chào đón tất bật, hốc hác, máy móc như là nụ cười đặc biệt của một ả giang hồ. Sự thoải mái hiện đại đến từ ánh sáng phản chiếu từ đồ nội thất rã mục, tấm nệm thêu xơ xác của cái phô-tơi và hai chiếc ghế, tấm gương soi toàn thân rẻ tiền đặt giữa hai cửa sổ, từ một hai khung ảnh sỗ sàng và khung giường bằng đồng đặt ở góc phòng. Người khách trọ ngồi ngả người trên ghế, bất động, trong khi căn phòng, hoang mang trong ngôn từ như thể là một phòng trọ trong Tháp Babel, cố gắng thuyết minh về chức năng cho thuê đa dạng của nó. Cái tấm thảm với lắm mùi khác nhau, hình chữ nhật thêu hoa, giống như hòn đảo vùng nhiệt đới bao quanh bởi một vùng biển là tấm lót sàn vấy bẩn, phồng lên chỗ này, tọp xuống chỗ nọ. Trên bức tường dán giấy màu tươi sáng là những tấm hình đi theo những người vô gia cư từ nhà này đến nhà nọ. Những

góc cạnh đạo mạo một cách khắc khổ của cái bệ lò sưởi bị che phủ một cách tồi tệ trong cái màn cửa theo mốt thời trang, bị kéo xệch dúm dó về một bên cứ như là tấm vải choàng của vũ nữ ba lê vùng rừng già Amazon ở Nam Mỹ. Trên cái bệ là xác một con tầu chỏng chơ được mang vào bờ khi một cánh buồm may mắn mang chúng đến bến cảng tươi mát - một hai bình hoa vô duyên, ảnh của mấy diễn viên, một lọ thuốc, vài lá bài tây lạc lõng khỏi cỗ bài. Khi bản mật mã trở nên rõ ràng từ chữ này qua chữ khác, những dấu hiệu nhỏ nhoi còn sót lại sau cuộc diễu hành của những người khách trọ trong căn phòng đủ tiện nghi nội thất trở nên có ý nghĩa. Cái khoảnh tấm thảm xơ xác trước cái bàn phấn bảo rằng những người phụ nữ dễ thương đã đến hàng đoàn. Những dấu tay bé tí trên bức tường nói đến những tù nhân nhỏ tuổi cố lần mò tìm đường ra ánh nắng và không khí. Một vết bẩn vương vãi, toả ra như cái bóng của một bom bùng nổ, là chứng tích của một cái cốc hay chai va vào, tung toé ra lên tường chất đựng bên trong. Trên mặt gương soi toàn thân là tên người "Marie" viết nghệch ngoạc bằng kim cương. Dường như lần lượt những khách trọ trong căn phòng đủ tiện nghi đã trút ra cơn giận dữ - có lẽ không thể chịu nổi vẻ lạnh lùng hào nhoáng rẻ tiền của nó - và đem tất cả cuồng nhiệt ra phá phách. Bàn ghế tủ giường bị đẽo gọt và trầy trụa, cái ghế bành bị móp méo vì mấy lò xo bung ra, trông như là con quái vật khủng khiếp đã bị sát tử trong cơn quằn quại loạn cuồng. Một cơn quấy động nào đấy lộ liễu hơn đã sớt cái bệ lò sưởi đi một lát lớn. Mỗi thanh gỗ sàn tạo một mảng riêng rẽ và kêu thét như là trong cơn đau đớn riêng biệt của từng cá thể. Có vẻ khó tin là những người có thời từng gọi căn phòng này là "nhà" lại có ác ý gây ra bao đau thương như thế cho căn phòng. Và tuy nhiên, có thể là bản năng do ý niệm về "nhà" bị lừa gạt - vốn đã tồn tại một cách đui mù sau cơn giận dữ đầy bất bình đối với cơn phẫn nộ của những người ở trọ. Nếu ta là chủ một túp lều, ta vẫn quét dọn, trang hoàng và giữ gìn nó. Anh khách trẻ ở trọ, gọn người trong ghế, để những ý tưởng như thế lướt qua êm ái trong đầu anh, trong khi những âm thanh và những mùi hương - đều có đủ tiện nghi nội thất - lan toả vào căn phòng. Anh nghe trong một căn phòng tiếng khúc khích và chuỗi cười vang buông thả không kiềm chế, trong những phòng khác một giọng độc thoại trách mắng, tiếng xúc xắc lanh canh, tiếng ru con và một tiếng khóc sụt sùi, tầng trên là tiếng đàn banjo gầy đầy nhiệt tình. Ở đâu đấy có những cánh cửa đóng sầm; cái thang máy kêu thét không ngừng, một con mèo rên rỉ thảm hại trên hàng rào sân sau. Và anh thở hơi thở của toà nhà - hương vị ẩm lạnh hơn là một mùi - vị nồng nồng lạnh lẽo, mốc meo như thể từ những hố ngầm dưới đất pha trộn với hương sực nức của véc-ni và đồ gỗ mục nát đã lên nấm mốc. Và thình lình, khi anh ngả người như thế, mùi hoa mignonette ngọt dịu tràn ngập căn phòng. Mùi hương dường như đến theo một cơn gió thoảng, với sự chắc chắn, thơm tho và khẳng định thành một hương vị khác có sự sống. Và người con trai thốt lên: "Gì thế, hở em yêu?" như thể là có tiếng gọi anh, rồi anh đứng bật dậy, nhìn chung quanh. Mùi hương nồng nàn bám lấy anh và bao quanh lấy anh. Anh dang cả hai tay ra đón nó, mọi tri giác của anh trong nhất thời đều bị hoang mang, trộn lẫn. Làm thế nào một mùi hương có thể gọi được anh? Chắc chắn, đấy phải là một linh hồn. Nhưng mà, có phải đấy là một âm

thanh đã chạm đến anh, đã ve vuốt anh? "Nàng đã ngụ ở phòng này", anh thốt lên và bật người ra để níu lấy một ít, vì anh biết anh có thể nhận ra cái gì đấy dù nhỏ nhặt nhất thuộc về nàng hay cái gì đấy nàng đã chạm tay đến. Mùi hương mignonette này, mùi hương nàng vẫn yêu thích và biến thành mùi của riêng nàng, đã từ đâu đến? Căn phòng đã được dọn dẹp một cách cẩu thả. Vương vãi trên chiếc khăn mỏng dính đậy cái bàn phấn là khoảng nửa tá kim cài tóc - những người bạn thầm kín, khó phân biệt nhau của giới phụ nữ, thuộc phái yếu, với cảm hứng vô hạn và một thể ngôn ngữ không thể truyền thông được. Anh bỏ qua những món này, hiểu rõ chúng hoàn toàn thiếu khả năng chứng minh ai là ai. Khi lục lọi trong mấy ngăn kéo của cái bàn phấn, anh tìm thấy một khăn tay nhỏ bị vứt bỏ, nhàu nát. Anh áp nó vào mặt mình. Nó có mùi cây vòi voi nồng nặc xấc xược, anh ném nó xuống sàn nhà. Trong một ngăn kéo khác anh tìm ra vài cúc áo, một tờ chương trình nhà hát, một thẻ cầm đồ, hai mẩu kẹo đường, một lô cuốn sách nói về cách đoán mộng. Trong ngăn kéo cuối cùng là một kẹp tóc bằng vải sa-tanh đen, khiến anh dừng tay, vội bốc lấy nó, giữa băng giá lạnh và lửa nóng cháy. Nhưng cái kẹp tóc cũng chỉ là loại trang sức của nữ giới, khiêm tốn, thông thường và vô nhân cách, không nói lên được điều gì. Và rồi anh lùng sục khắp phòng như con chó săn đánh hơi con mồi, lướt qua bức tường, bò trên hai chân và hai tay để xem xét từng góc kẹt của tâm trải sàn phập phồng sục sạo cái bệ lò sưởi và mấy cái bàn, màn cửa, màn treo, cái tủ nhỏ ở góc phòng, để tìm kiếm một dấu vết sinh động, dù anh không thể nhận ra là nàng đã ở bên anh, xung quanh anh, tựa vào anh, ở trong anh, bên trên anh, bám lấy anh, âu yếm với anh, gọi anh qua mọi cảm nhận tính tế hơn, đến nỗi ngay những giác quan đơn sơ nhất của anh cũng nhận được tiếng gọi. Một lần nữa, anh trả lời: "Vâng, em yêu!", và quay người, đôi mắt rừng rực, để nhìn vào khoảng không, vì lẽ anh không thể nhận ra bóng hình, màu sắc tình yêu và đôi vòng tay mở rộng trong mùi hương của hoa mignonette. Ôi, Chúa ơi! mùi hương ấy đến từ đâu và từ bao giờ mùi hương có tiếng nói để kêu gọi? Thế là anh lần mò xung quanh. Anh vùi mình trong các kẽ ngách và góc kẹt và tìm thấy nút chai và những điếu thuốc lá. Anh bóp chúng bẹp gí trong khinh rẻ. Nhưng có lúc anh tìm thấy trong một nếp gấp của tấm trải sàn nhà một điếu xì-gà đã hút dở và anh lấy chân chà nó với tiếng càu nhàu sắc lạnh. Anh sàng lọc cả căn phòng từ đầu này sang đầu kia. Anh tìm thấy những chứng tích lặt vặt đáng chán và hạ cấp của nhiều khách trọ lãng tử, trong khi không thấy dấu vết nào của một người có thể đã thuê phòng ở đây, người mà linh hồn dường như lảng vảng quanh đây. Và rồi anh nghĩ đến bà chủ nhà. Anh chạy từ căn phòng bị ma ám xuống mấy bậc thang, đến một cánh cửa có khe nứt toả sáng ra ngoài. Bà chủ nhà ra mở cửa. Anh cố gắng trấn áp nỗi xúc động. Anh van nài: - Bà có thể cho tôi biết, ai đã thuê căn phòng đó trước khi tôi đến?

- Vâng, thưa ông. Tôi có thể cho ông biết lần nữa. Đấy là Sprowls và Mooney, như tôi đã nói. Tôi nói cô B'retta Sprowls trình diễn ở các nhà hát, nhưng thực ra là bà Mooney. Nhà của tôi nổi tiếng là đứng đắn. Giấy hôn thú, có đóng khung, treo vào cái đinh bên trên. - Cô Sprowls là người như thế nào? Ý tôi muốn nói về ngoại hình? - Sao cơ? Tóc đen, thưa ông, thấp người, tròn trĩnh, với khuôn mặt trông khôi hài. Họ đã đi ngày thứ ba tuần rồi. - Và trước họ, ai đã ở đấy? - Sao cơ? Đấy là một ông làm nghề khuân vác. Ông ta đi mà còn thiếu tiền thuê phòng một tuần. Trước ông là cô Crowder và đứa con của cô ấy, họ ở bốn tháng. Trước nữa là ông Doyle, tiền phòng do các đứa con trả. Ông thuê trong sáu tháng. Đấy là một năm nay, trước nữa thì tôi không nhớ. Anh cảm ơn bà và lủi thủi trở về phòng. Căn phòng đã chết. Hương thơm cho nó sự sống đã không còn nữa. Mùi hương hoa mignonette đã ra đi. Thay vào đấy là mùi cũ kỹ, nặng nề của đồ đạc lên mốc meo, của bầu không khí ngột ngạt như là trong kho hàng. Hy vọng tàn rụi đã làm cạn kiệt mọi niềm tin của anh. Anh ngồi nhìn chăm chăm ngọn đèn ga vàng vọt. Rồi anh đi đến cái giường và xé tấm vải giường ra thành từng dải nhỏ. Dùng cái sống của một con dao, anh nhét từng dải vào từng khe hở của các cửa sổ và cánh cửa chính. Khi mọi chỗ đã được lèn chặt, anh tắt ngọn lửa, mở vòi ga hết mức, rồi lên nằm một cách thoải mái trên giường.

***

Đấy là đêm bà McCool cảm thấy thèm bia. Thế là bà đi lấy một lon đến ngồi bên bà Purdy, tại một góc cô tịch dưới tầng hầm nơi các bà chủ nhà tụ họp và nơi con sâu tham lam ít khi chết đói. Bà Purdy nói, qua một vòng tròn bọt bia li ti: - Tối nay tôi đã cho thuê được căn phòng trên tầng ba. Một anh thanh niên đến thuê. Anh ta đi ngủ cách đây hai giờ rồi. Bà McCool nói với lòng thán phục: - Thật à, bà Purdy? Bà tài lắm mới có thể cho thuê loại phòng như thế. Và McCool thì thầm, đầy vẻ bí ẩn, thêm câu hỏi: - Thế thì bà có nói cho anh ta biết không?

Bà Purdy nói, cổ họng càng như được lót thêm lông thú dày nhất: - Có phòng là phải trang bị để cho thuê. Tôi không nói cho anh ấy biết bà McCool ạ. - Bà nói đúng lắm, có cho thuê phòng thì những người như chúng ta mới sống được. Bà có đầu óc kinh doanh độc đáo lắm. Nhiều người có thể từ chối căn phòng đó nếu họ biết là đã có khách tự tử và nằm chết trên cái giường trong đấy. - Như bà nói, chúng ta phải lo kiếm sống. - Thật vậy bà ạ. Đúng một tuần trước tôi đã giúp bà trải lại tấm lót sàn. Một cô gái xinh xắn mảnh dẻ tự tử bằng ga thắp đèn - cái cô có khuôn mặt nhỏ nhắn đấy, bà Purdy. Bà Purdy đồng tình nói nhưng pha chê bai: - Cô ấy có thể được xem là đẹp, như bà nói, nếu không có cái bớt trên lông mày bên trái. Dùng thêm bia đi, bà McCool.

Canh bạc

Trời nắng như đổ lửa, ánh nắng cháy bỏng phủ trên hòn đảo đơn độc giữa biển. Hắn không biết mình đang ở đâu. Hắn chỉ biết mình vừa thoát chết. Con tàu chìm mau sau khi va phải đá ngầm đêm qua. Thuyền cấp cứu và phao cấp cứu được thả nhanh xuống biển nhưng quá nhiều hành khách kinh hoảng nên sự hỗn loạn diễn ra, hậu quả là đa số thuyền cấp cứu bị lật. Có lẽ hắn là người duy nhất còn sống sót. Hắn văng xuống biển khi thuyền cấp cứu của hắn bị lật. Hắn bơi rất giỏi. Nhưng bơi giỏi đến mấy thì phỏng ích gì khi ở giữa biển? Hắn kiệt lực khi trời tờ mờ sáng. Khi mọi hy vọng, mọi nỗ lực đã tàn, chỉ còn lại cảm giác rã rời cả thể xác lẫn tinh thần, hắn chỉ muốn nhắm mắt buông xuôi cho thân xác chìm xuống biển, hắn chỉ thèm được nghỉ ngơi, thư giãn, chỉ khao khát được yên nghỉ. Cái chết lúc bấy giờ chẳng có gì đáng sợ như người ta vẫn thường nói. Ngay lúc đó, một vật gì chạm vào tay hắn. Một cái phao! Có lẽ nó là một trong những cái phao cứu sinh của con tàu đó. Hy vọng sống còn lại trỗi dậy trong hắn. Hắn chụp lấy nó, ôm chặt. Hắn trôi trên biển đến trưa. ánh nắng gay gắt chói chang. Những cuộn sóng ập đến, nhấc bổng hắn lên rồi ném xuống... nước biển mặn chát trong miệng hắn. Hắn không dám mở miệng ra nữa. Cổ họng khô đắng, hắn bắt đầu thấy chóng mặt. Bỗng hắn thấy một chấm đen ở phía chân trời. Hắn mở to mắt... môt con tàu! Hắn đập chân như điên, cố bơi về hướng đó, một tay giữ cái phao, một tay quơ lia lịa trong không khí, miệng gào to. Chiếc tàu lớn dần rồi nó quẹo sang hướng khác. Hắn cuống cuồng bơi theo một cách tuyệt vọng. Hắn kêu gào, hắn khóc rống lên, tay quơ điên dại. Con tàu từ từ mất dạng. Hắn không bơi nữa, không la hét nữa mà chết lặng, mắt ngây dại như vừa trông thấy một ảo ảnh. Rồi hắn bật khóc, khóc nức nở. Hắn mặc cho sóng đưa đẩy, lênh đênh trên biển. Đêm xuống. Đêm trên biển lạnh buốt. Hắn không còn bao nhiêu sức lực nữa. Hắn chỉ biết bám chặt lấy cái phao, đầu óc trống rỗng. Một cuộn sóng lớn ập xuống, hất văng cái phao khỏi tay hắn. Chới với trong tuyệt vọng, trong màn đêm dày đặc, giữa sóng nước mênh mông, hắn nghĩ thầm "Thế là hết". Hắn muốn buông xuôi tay nhưng bản năng đòi quyền sống. Hắn nổi người trên biển, sóng đưa hắn đi. Cuối cùng, cái gì đến phải đến. Hắn kiệt lực hoàn toàn và vào đúng lúc hắn sắp để mặc cho thân xác chìm xuống biển thì một bên vai hắn chạm vào cái gì cứng như đá. Hắn quơ tay sờ soạng. Đúng, tay hắn chạm mặt đá cứng! Đất liền à ? Hắn không rõ. Hắn leo lên, loạng choạng. Hắn ngồi xuống. Đến giờ phút này, cái mệt rã rời ập đến, bản năng đòi hỏi được đền đáp. Hắn ngất đi.

Hắn tỉnh lại khi ánh nắng chói chang rọi trên mặt hắn. ánh nắng rát bỏng. Cổ họng hắn khô đắng, người hắn bừng bừng như lên cơn sốt. Gượng đứng dậy, hắn lảo đảo bước đi, nhìn quanh. Nước mênh mông. Hắn đang ở trên một hòn đảo nhỏ, đường kính khoảng hơn ba mươi mét. Có lẽ đây là ngọn một quả núi dưới biển. Trên đảo không có cây cối, vài chỗ có đất, còn toàn là đá, mặt lồi lõm, rải rác những tảng đá lớn nhỏ... Không chết dưới biển cũng chết ở đây. Hắn nghĩ thầm, mà cái chết này có lẽ còn ghê gớm hơn. Hắn thất thểu bước đi. Sau khi xem xét hòn đảo nhỏ, hắn hoàn toàn tuyệt vọng. Liệu người ta có tìm đến đây không ? Nơi này có trên bản đồ hàng hải không ? Những người đi tìm dấu vết con tàu đắm đêm kia có ngờ rằng có người trôi giạt đến đây không ? Nơi đây cách chỗ đắm chừng bao xa ? Nhiều ý nghĩ quay cuồng trong đầu óc bừng bừng của hắn. Hắn thấy đói cồn cào và khát, khát ghê gớm. Có thể sẽ có người đến đây nhưng bao giờ ? Ngày mai, tuần tới, tháng tới ? Hắn lấy gì ăn ? Lấy gì uống ? Làm thế nào sống đến lúc có người xuất hiện ? Mà người ta đến đây làm gì chứ ? Hắn lại thấy đói, cái đói cồn cào, nhộn nhạo trong bụng hắn. Đã gần hai ngày đêm không được ăn gì, chỉ uống mà lại uống toàn nước biển! Hắn nghĩ thầm "Tình trạng này mình sống được bao lâu ?" Ánh mắt thẫn thờ của hắn vô tình trông thấy một cái gì nổi trên mặt biển. Hắn nhìn kỹ... hình như một cái thùng gỗ. Hắn đứng dậy, bước tới để nhìn cho rõ. Sóng đang đưa nó vào bờ. Đúng rồi, một cái thùng gỗ. Thùng gì vậy ? Hắn bước tới nữa, sát mép hòn đảo. Sóng đánh nước bắn lên chân hắn. Cái thùng đã đến vừa tầm tay hắn, hắn nắm lấy nó, hai tay nhấc lên. Đó là một cái thùng gỗ hình vuông mỗi cạnh độ sáu mươi phân. Nắp thùng có then cài. Hắn mở ra. Trong thùng có một cái hộp bằng giấy dầu, khá dày và một cái can bằng nhựa. Nước chỉ mới lọt vào độ một phân. Hắn mừng muốn hét lên vì hắn thấy thủy thủ trên tàu dùng những cái can như vậy để chứa nước ngọt. Hắn mở nắp cái hộp giấy dầu... hơn nửa hộp bánh bích quy! Hắn mở can nước, nếm thử... đúng là nước ngọt! Hắn dốc vào miệng... nước! Trời ơi, nước ! Nước không màu không mùi sao lúc này lại ngon thế ! Đặt can nước xuống, hắn bốc bánh ăn ngấu nghiến. Ăn được mươi cái, hắn sực nhớ. Không, không được phí phạm! Phải nghĩ đến những ngày tới. Hắn nhìn can nước, còn nhiều, ít nhất phải tám lít. Hắn đếm bánh... còn bảy mươi lăm cái. Hắn tính nhẩm "mỗi ngày ăn mười cái thì được hơn bảy ngày, không, vậy thì phí quá, sáu cái thôi, sáng trưa và tối, mỗi bữa hai cái và một ngụm nước... như thế sẽ được hơn mười hai ngày... Rất có thể trong thời gian đó sẽ có tàu, thuyền đi ngang qua đây. Có thể lâu hơn... mình phải ăn bớt đi, một ngày bốn cái thôi... nhưng như vậy làm sao sống nổi ?... Không sao, người ta có thể nhịn đói lâu hơn nhịn khát, mình phải thật tiết kiệm nước...". Hắn xếp tất cả chỗ bánh vào hộp giấy dầu, vặn chặt nắp can nước, bỏ tất cả vào thùng gỗ, đóng nắp cài then cẩn thận rồi đi quanh đảo, nhìn tứ phía. Không có bóng dáng một chiếc tàu nào, chỉ nước mênh mông. Trời bắt đầu tối. Hắn tìm một chỗ khá bằng phẳng để nằm, đặt cái thùng gỗ bên cạnh. Người hắn vẫn hâm hấp như sốt. Hắn nghĩ thầm "Có lẽ cái thùng

này rơi từ một trong những chiếc thuyền cấp cứu đêm kia... không biết nó sẽ cứu mình hay chỉ kéo dài cái chết của mình ?" Suy nghĩ miên man và hắn thiếp đi. Khi hắn tỉnh giấc, mặt trời đã lên. Hắn mở thùng gỗ, lấy ra hộp bánh và can nước. Hắn ăn hai cái, không dám ăn nhiều hơn. Hắn nhâm nhi từng chút hương vị ngọt ngào của đường, trứng, sữa và bơ. Chưa bao giờ hắn thấy bánh bích quy ngon như thế. Ăn xong, hắn uống nước, chỉ dám uống một ngụm rồi cẩn thận xếp hộp bánh và can nước vào thùng gỗ. Người hắn vẫn như trong cơn sốt. Ánh nắng bắt đầu gay gắt. Vậy là đã bốn ngày trôi qua, hai ngày trên biển, hai ngày trên đảo. Liệu hắn có còn trông thấy đất liền không ? Có còn gặp lại gia đình, người thân không? Hắn là nhà sưu tập tem. Hắn đi từ lúc đến nhiều nước để xem những con tem quý mà người ta báo cho hắn đến coi... hắn không đem theo nhiều tiền mặt, chỉ có ngân phiếu. Tập ngân phiếu đã chìm theo con tàu. Hắn bỗng sực nhớ, thò tay vào túi. Nó vẫn còn. Hắn lấy ra một tờ giấy năm mươi đô-la nhầu nát và một cái kính lúp khá lớn. Cái kính dùng để coi tem. Cái bật lửa nạm vàng ở túi kia đã rơi mất. Nhưng những thứ còn lại này sẽ giúp gì được cho hắn ? Hắn bỏ tờ giấy bạc và cái kính lúp vào túi áo rồi ngồi thừ người, nghĩ ngợi mông lung. Tối hôm đó, hắn ăn hai cái bánh và uống một ngụm nước rồi nằm ngủ. Ngày nóng như thiêu, đêm lạnh cắt thịt, lại không chỗ trú, thế là hắn ốm, hắn lên cơn sốt dữ dội. Hắn rên rỉ trong cơn nhức đầu ghê gớm, trong cái lạnh của đêm trên biển, trong cơn đói khát... hắn ngủ hay ngất đi lúc nào không hay. Sáng hôm sau hắn vẫn thấy trong người bừng bừng và cơn nhức đầu mới càng ghê gớm. Hắn ăn hai cái bánh rồi uống một ngụm nước. Cổ họng khô khốc, hắn muốn uống thêm một ngụm nữa nhưng không dám. Hắn đứng dậy, lảo đảo đi quanh. Lát sau, hắn trở lại bên thùng gỗ. Ngay khi sắp ngồi xuống thì hắn thấy thấp thoáng hình dáng một con tàu xa mãi phía chân trời. Hắn đứng bật dậy, quên cả đói khát, mệt mỏi. Cơn nhức đầu cũng biến mất. Chạy nhanh đến mép hòn đảo, hắn giơ tay vẫy một cách điên cuồng. Con tàu từ từ mất dạng. Hắn quỵ xuống, gục mặt khóc nức nở. Thế là hết ! Khóc chán, hắn đứng dậy trở về chỗ cái thùng. Bỗng trong đầu hắn nảy ra ý nghĩ "ừ, sao mình không nghĩ ra nhỉ ? Sao mình ngu quá vậy ?" . Hắn bước đến bên cái thùng gỗ, mở nắp lấy hộp bánh và can nước ra ngoài. Hắn giơ cao cái thùng gỗ, đập mạnh xuống đất. Lát sau, hắn gom tất cả mảnh vụn lại thành một đống. Cầm cái kính lúp trong tay, ngắm nghía thầm nghĩ "ánh nắng xuyên qua mặt kính hội tụ đủ để làm bắt lửa... nếu có tàu đi ngang qua mình sẽ đốt ... họ sẽ thấy khói ..." . ý nghĩ khác bỗng đến: "Nếu có tàu đi ngang qua ban đêm thì sao, lúc mình đang ngủ ?" . Lắc đầu chán nản. Tuy thế, hắn vẫn hy vọng. Cơn nhức đầu trở lại. Miệng hắn đắng nghét. Ánh nắng bắt đầu thiêu đốt thân xác khốn khổ của hắn. Nheo mắt nhìn ra biển... có cái gì... một cái thùng gỗ nữa ! Hắn đứng bật dậy, chạy tới. Nó đang tấp vào bờ. Ngay sau đó, hắn nhận ra đó là một cái thùng rỗng, không có nắp. Định quay đi thì hắn sực nhớ "Ô... phải có thật nhiều khói...". Hắn đến bên mép đảo, cái thùng vừa đến đúng tầm với của hắn. Nó lớn hơn cái thùng kia, gần gấp đôi. Hắn lại đập nát nó ra, chất thêm vào đống gỗ trước. Bây giờ thì chỗ gỗ ấy đủ để quay chín một con heo.

Xế chiều, hắn ăn hai cái bánh và uống một ngụm nước. Hắn vẫn sốt, cơn nhức đầu vẫn không giảm. Đêm xuống, hắn mệt nhọc thiếp đi... Sáng hôm sau, hắn thức giấc trong cảm giác kỳ lạ. Cơn sốt vẫn còn nhưng đỡ nhức đầu một chút. Hắn thấy hình như có cái gì khác thường trên đảo. Nặng nhọc, hắn đứng dậy nhìn quanh và hắn thấy... Cách hắn độ bảy, tám thước, một con chuột khá to đang đứng trên một tảng đá lớn. Nó dáo dác nhìn quanh. Hắn sững người giây lát rồi cười chua chát " mày cũng sẽ chết khô trên hòn đảo này như tao thôi!" . Có lẽ nó cũng ở trên con tàu đó, trong hầm chứa lương thực, trôi giạt đến đây. Hắn bỗng thấy thích thú vì không phải chỉ có mình hắn trên đảo này. Hắn có bạn ! Con chuột nhảy xuống và biến mất sau những tảng đá. Không nghĩ đến nó nữa, hắn mở hộp lấy ra hai cái bánh nhấm nháp từng chút. Nửa giờ sau, hắn ăn hết cái bánh, không để rơi vãi đi đâu một chút nào. Uống một ngụm nước rồi hắn đứng dậy đi quanh đảo. Vẫn trên trời dưới nước, nước mênh mông, không một bóng tàu thuyền nào. Hắn đi quanh, nhìn về phía xa hút tầm mắt, hy vọng, trông mong... Lát sau, khi đã mệt, hắn trở lại chỗ cũ. vừa ngồi xuống thì hắn nghe có tiếng động. Hắn lắng tai. Cái gì vậy ? Tiếng động lại phát ra, ngay bên cạnh hắn, trong hộp bánh. Hắn mở to mắt. Một lỗ thủng bên thành hộp. Con chuột ! Hắn chụp lấy cái hộp và nhanh như cắt, con chuột thò đầu ra, nhảy xuống, chạy mất trước khi hắn kịp có phản ứng. Nó ăn bánh của mình. Đồ khốn ! Hắn lấy hết bánh ra và đếm lại. Hắn đã ăn mười cái thì phải còn sáu mươi lăm cái, bây giờ chỉ còn bốn mươi cái nguyên vẹn, mười cái bánh vỡ và vụn bánh... nó ăn hết gần mười ngày lương thực quý giá của hắn. Mắt hắn tóe lửa nhìn quanh, không thấy nó đâu cả. Nhưng làm sao giết được nó? Hắn cởi áo khoác, đặt tất cả bánh nguyên và vỡ vào rồi cuộn lại. Hắn vét tất cả vụn bánh, để dành cho bữa chiều. Từ bây giờ hắn sẽ không rời gói bánh quý giá này nữa. Xẩm tối, sau khi ăn xong chỗ vụn bánh, uống một ngụm nước, hắn lại thấy nhức đầu. Hình như cơn sốt tăng thêm. Hắn nằm xuống, hai tay ôm gói bánh và mau chóng rơi vào giấc ngủ mê mệt. Sáng hôm sau, khi thức giấc, hắn hốt hoảng khi thấy vụn bánh rơi vãi đầy trên ngực hắn và trên mặt đất, đá, cạnh hắn. Cái áo rách một lỗ lớn. Nó cắn thủng áo mình để ăn bánh! Điên cuồng, hắn giở tung cái áo ra. Chỉ còn hai mươi cái nguyên vẹn, chỗ còn lại là bánh vỡ và vụn bánh. Hắn ngồi đờ người một lúc rồi đứng dậy "Nó phải chết!". Hắn gói chỗ bánh lại và xách đi. Hắn đi tìm con chuột. Chẳng thấy nó đâu cả. Lát sau, nhức đầu và mệt lả vì cơn sốt và đói khát, hắn ăn hết chỗ vụn bánh rồi trở lại chỗ cũ để can nước. Hắn uống một ngụm nước rồi vặn nắp can thật

chặt trong khi đầu óc nghĩ cách bắt con chuột. Làm thế nào để bắt nó bằng hai tay ? Hắn lại đi tìm nó. Vẫn không thấy bóng dáng nó đâu cả. Thất thểu quay trở về, hắn đi men theo mép đảo. Đi ngang một tảng đá lớn hình bầu dục, một đầu bẹt, chìa ra biển như một cái cầu nhảy ở hồ bơi, nửa dưới nước, nửa trên cạn. Con chuột đang bơi ở đó. Hắn đứng lại. Nó đã thấy hắn. Nó giương đôi mắt tròn xoe nhìn hắn như trêu chọc. Hắn bước đến. Ngay lập tức, nó lặn xuống và mất hút. Hắn đứng chờ và chỉ chút xíu sau, hắn thấy nó nổi lên ở đằng kia, cách hắn vài mét, nó nhảy lên bờ. Hắn mới bước được hai bước thì nó đã biến mất sau những tảng đá. Cơn giận cùng cơn sốt làm hắn ngây ngất cả người. Hắn không biết phải làm gì. Ánh nắng lại tiếp tục thiêu đốt da thịt hắn. Hắn chợt nghĩ ra một cách để giấu bánh. Trên đảo có vài chỗ có đất. Hắn đến đó, dùng cái cán của chiếc kính lúp để đào đất. Hắn đào từng chút, từng chút. Khi mồ hôi đã ướt đẫm áo sơ mi thì cái hố cũng vừa xong. Hắn đặt gói bánh vào đó, lấp đất lại, kiếm một tảng đá chận lên trên. Vậy là yên trí. chỉ có hắn mới biết chỗ giấu bánh và chỉ có hắn mới có thể lấy được mà thôi. Suốt buổi chiều, hắn ngồi chịu trận cho cái nắng ác độc hành hạ thịt da. Cơn sốt vẫn đeo đẳng, đầu nhức dữ dội. Trời tối, hắn đào đất, lấy gói bánh và chỉ dám ăn một cái, uống một ngụm nước. Hắn lấp đất và chặn tảng đá lại như cũ. Đêm đó hắn ngủ ngon. Sáng hôm sau, hắn quan sát bốn phía mặt biển một lúc rồi quay trở lại chỗ chôn bánh. Lật tảng đá, đào đất lên để rồi hắn bật khóc. Cái áo rách tung. Có một lỗ ngầm bên dưới chỗ giấu bánh. Hắn mở cái áo rách bươm để nhìn thấy cảnh đau lòng. Chỉ còn chín cái nguyên vẹn, vài cái bánh vỡ và ít vụn bánh. Hắn vừa khóc vừa quỳ xuống liếm hết chỗ bánh vụn. Hắn gói chỗ bánh còn lại vào cái áo rách nát rồi nặng nề đứng dậy, trở lại chỗ để can nước, ngồi thẫn thờ nhìn ra biển. Lại một ngày cực hình. Ánh nắng hành hạ hắn không chút xót thương, cái nắng ghê hồn làm da thịt hắn như bốc khói. Cơn sốt vẫn không giảm. Đầu hắn nhức như búa bổ. Đêm xuống, hắn ăn một cái bánh, uống một ngụm nước rồi đi nằm. Trải cái áo rách trên đất, hắn đặt tất cả bánh lên đó rồi nằm đè lên. Bánh vỡ cũng được miễn con chuột không thể ăn trộm... Hắn giật mình thức giấc lúc nửa đêm. Hình như có tiếng động. Ở đâu ? Có cái gì động đậy dưới lưng hắn. Hắn ngồi dậy. Ánh trăng soi rõ cảnh không thể tin được. Con chuột đào một lỗ trên mặt đất, cách hắn vài tấc, đi ngầm dưới đất đến dưới lưng hắn. Chỉ còn ba cái bánh! Như hóa điên, hắn đứng dậy nhìn quanh. Ánh trăng tuy sáng nhưng không đủ để thấy nó, mà có lẽ nó cũng đã chạy mất rồi. Hắn không ngủ được nữa. Hắn ngồi đến sáng. Khi mặt trời đã lên cao, hắn ăn nửa cái bánh rồi không chịu nổi, hắn ăn hết

nửa còn lại. Bây giờ chỉ còn hai cái. Hắn uống một ngụm nước rồi nghĩ ngợi trong cơn nhức đầu lẫn chóng mặt. Sau hai ngày nữa, hắn sẽ ăn gì ? Hắn không dám nghĩ nữa. Nặng nhọc đứng dậy, hắn bước quanh, dõi mắt ra xa mong gặp bóng dáng một con tàu. Vẫn trời nước mênh mông... tuyệt vọng, hoàn toàn tuyệt vọng. Một ngày nữa trôi qua, hắn không thấy bóng dáng con chuột đâu cả. Đêm đó hắn ăn một cái bánh, uống một ngụm nước rồi ngủ. Hắn thức giấc trong cơn sốt hầm hập và cơn khát cháy cổ. Lại cái nắng cay nghiệt đang hành hạ hắn. Có lẽ hắn ngủ mê vì cơn sốt và đói khát. Gượng ngồi dậy, hắn với tay lấy can nước. Can nước bổng lên, nhẹ tênh! Ánh mắt ngây dại của hắn nhìn sững cái can nhựa. Chỉ còn một chút nước đọng ở đáy can. Gần đáy can, có một lỗ thủng nhỏ, vết răng chuột gặm... Hắn ngất đi. Khi hắn tỉnh lại thì mặt trời đã đứng bóng. Hắn không nghĩ ngợi được gì nữa. Hắn ăn nốt cái bánh còn lại rồi tiếp tục ngồi hứng ánh nắng trừng phạt. Đêm đó hắn nói sảng nhiều trong giấc ngủ. Sáng hôm sau, hắn uống một ngụm nước khi vừa thức giấc. Chả còn gì để ăn. Gắng gượng ngồi dậy, đi quanh nhưng đầu gối hắn cứ muốn khuỵu xuống. Lát sau, không thể đi nổi nữa, hắn xách can nước còn lại một chút trở về chỗ cũ. Con chuột đâu nhỉ ? Một ý nghĩ chợt lóe trong đầu hắn. "Tại sao mình không ăn nó? Nó là món thịt tươi duy nhất trên đảo này... ít ra mình cũng sống được thêm vài ngày nữa..." Hắn đi tìm con chuột và thấy nó. Nó đứng lấp ló sau một tảng đá gần đó, đôi mắt tròn xoe tinh quái như trêu chọc, thách thức hắn. Giả như hắn còn mạnh khỏe thì cũng chưa chắc bắt được nó, giờ đây hắn quá yếu. Biết rằng không thể nào bắt được nó, hắn chán nản ngồi xuống. Chợt hắn nghĩ ra một cái mẹo. "Giả chết ! Nó sẽ đến gần mình, bò lên người mình, có thể nó sẽ bò lên tay, ngay bàn tay mình..." Thế là hắn nằm xuống trong ánh nắng hỏa ngục. Hắn không biết mình sẽ chịu đựng được bao lâu. Mắt hắn nhức nhối tuy đã nhắm chặt. Đúng lúc hắn sắp bỏ cuộc thì nó đến. Quả nhiên nó mắc bẫy hắn thật. Nó bò lên chân hắn, đến đùi, bụng rồi nhảy xuống. Hắn tưởng nó bỏ đi nhưng không, nó lại nhảy lên, bò trên ngực hắn. Hắn chờ mong nó bò xuống tay hắn nhưng nó đứng im. Hắn không thể chờ đợi lâu hơn nữa. Thu hết sức lực, hắn chụp mạnh và ngồi bật dậy, mắt hắn hoa lên vì ánh nắng. Hắn không nhanh bằng nó, nó chạy mất. Đêm đó, cơn sốt vẫn hành hạ hắn. Sáng hôm sau, hắn không còn sức lực để đứng dậy nữa. Hắn đã uống hết những giọt nước cuối cùng.

Trưa hôm đó, hắn thấy các ngón tay bắt đầu tê dại. Hắn biết đó là triệu chứng đầu tiên của sự thiếu nước trong cơ thể. Chiều hôm đó, cảm giác tê dại lan dần trên cánh tay. Sáng hôm sau, cảm giác tê dại đã ở mặt. Hắn biết đã đến những giờ phút cuối cùng của cuộc đời hắn. Không còn hy vọng gì nữa. Hắn cố gượng ngồi dậy nhưng lại gục xuống. Hắn nằm nghiêng một bên và trông thấy con chuột. Nó đứng cách hắn khoảng bốn, năm mét, đang nhìn hắn. Không có nước thì sao mà sống được nhỉ ? Không có nước thì sao cứ nhởn nhơ thế kia ? Lại có vẻ mập mạp nữa. Hắn chợt hiểu. Trên đảo có những hốc đá giống như hang chuột mà tay hắn không thể cho vào lọt, ban đêm rất lạnh, ban ngày nóng, quá nóng nên nước bốc hơi, hơi nước đó bám vào bờ đá như một thứ nước cất không còn muối. Nó liếm lớp nước đó. Vậy là nó may mắn hơn mình. Hắn thấy tức tối. Nó hại mình, nó sống lâu hơn mình. Hắn nhìn nó, nó vẫn nhìn hắn. Nó bước tới vài bước, nghe ngóng. Thấy hắn nằm im, nó bước tới bước nữa, nữa ... hai thước, một thước, nửa thước. Hắn vung tay ra nhưng cánh tay hắn run rẩy rồi rũ xuống. Con chuột chạy mất. Đầu hắn nhức dữ dội, hắn ngất đi. Hắn tỉnh lại khi mặt trời đã hơi chếch bóng, có lẽ khoảng một giờ trưa. Không phải tự nhiên hắn thức tỉnh mà có cái gì chạm vào tay hắn. Con chuột ! Nó đang gặm tay hắn ! Nó ăn hắn ! Hắn không ngờ đến chuyện này. Hắn định ăn nó và giờ đây nó ăn hắn ! Hắn rụt tay lại, con chuột chạy mất. Cái đói khát, mệt mỏi bỗng biến đâu mất. Không ! CANH BẠC này hắn phải thắng, con chuột sẽ không ăn được hắn, hắn không để nó được toại nguyện. Hắn rùng mình giữa cái nắng ghê gớm khi nghĩ rằng con chuột sẽ ăn dần thân thể hắn, mỗi ngày một chút : tay chân, ruột gan... xác hắn sẽ nuôi nó trong nhiều ngày và hắn sẽ phải chết một cách đau đớn... Không, hắn phải thắng ! Ý nghĩ ghê gớm đã hình thành trong đầu hắn. Hắn sẽ dùng cái kính lúp để đốt đống gỗ và hắn sẽ nằm trong đó, ngọn lửa sẽ thiêu xác hắn ra to, nó sẽ không ăn được tí gì của thân thể hắn. Nhưng chỗ củi đó liệu có đủ để thiêu hắn ra tro không ? Hắn chua chát nghĩ thầm, có lẽ không đủ. Nhưng ít ra mình cũng đã chết để không thấy nó ăn thịt mình. Hắn không thể chịu nổi ý nghĩ bị ăn sống. Gom hết tàn lực, hắn gượng ngồi dậy, lết dần đến đống gỗ. Chỉ độ tám thước thôi sao mà hắn thấy xa quá. Cuối cùng hắn cũng đến nơi. Nghỉ một chút rồi hắn lấy cái kính lúp ra. Mặt trời hơi nghiêng, có lẽ khoảng hai giờ. Tay hắn run quá, không cầm vững được cái kính. Hắn xoay sở và sau cùng đặt gác nó lên một cục đá nhỏ. Ánh nắng gay gắt xuyên qua mặt kính hội tụ, chưa đầy một phút sau, trên mặt một tấm ván đã nám đen, bốc khói. Đống ván đã quá khô vì nhiều ngày phơi nắng ... một đốm lửa đỏ xuất hiện trên mặt miếng ván, khói bốc nhiều hơn, vết cháy đen loang rộng. Ngay lúc đó, hắn thấy con chuột bên kia đống ván, lưng quay về phía hắn. Nó

đang ngậm trong miệng một con cá nhỏ. Con cá chỉ bằng hai ngón tay. Hắn chợt thấy đói cồn cào, quên cả việc đang làm, vừa bò vừa lết lại chỗ con chuột. Nó vừa nhả con cá ra, có lẽ nó bị sóng đánh văng lên bờ. Con chuột nghe tiếng hắn, nó ngoạm lấy con cá và chạy mất. Đầu óc hắn quay cuồng vì cố gắng quá sức, hắn quỵ xuống. Rủi thay, đầu hắn va phải một cục đá, hắn suýt ngất đi, nhưng không, hắn vẫn tỉnh, cảm thấy một luồng hơi nóng hắt tới từ phía sau lưng. Chậm chạp quay đầu lại, hắn thấy ngọn lửa đã bừng lên, đống gỗ khô nẻ bắt cháy nhanh chóng. Hắn đang nằm cách đống lửa khoảng sáu, bảy thước. Hắn cố lết lại. Cơ thể hắn không còn chút sức lực nào. Hắn ước sao mình được nằm trong đống lửa đó. Hắn cố nữa, cố nữa, nhưng chỉ được nửa thước. Hơi nóng hắt vào mặt hắn, lên người hắn. Hắn chợt ân hận "sao lúc nãy mình không ráng lăn xuống biển nhỉ ? ... Mà không biết có nổi không ? ...". Hắn ngất đi. Khi tỉnh lại hắn thấy trời chưa tối hẳn, ánh nắng hoàng hôn còn trên đảo. Đống gổ đã cháy hết, chỉ còn đống than hồng đang tàn. Những cuộn khói trắng bốc cao trên nền trời màu cam. Giờ thì hoàn toàn tuyệt vọng. Từng thớ thịt trong cơ thể hắn đau nhức rã rời. Màn đêm xuống dần. Hắn vẫn thức, vẫn tỉnh và biết con chuột đã đến. Nó đang cắn ngón chân của hắn. Hắn không thấy đau, chỉ thấy nhột vì cơ thể hắn giờ đã tê dại. Hắn không sợ, không kinh hoảng vì sắp bị ăn sống nữa mà chỉ thấy chua chát. Mình đã thua ! Hắn không thể cử động dù chỉ một đốt ngón tay. Hắn nhắm mắt lại. Con chuột vẫn gặm ngón chân hắn. Hắn bỗng thấy ngứa ngáy khắp người và ngay sau đó hắn nghe có tiếng động. Tiếng xích sắt loảng xoảng và tiếng người lao xao : - Đây rồi, có một người ở đây! - Tôi đã nói mà... rõ ràng có khói ... - Kìa, đống than đang tàn kìa ... - Anh ta còn sống không ? - Không biết, để tôi coi... Họ đặt hắn lên một cái băng-ca, khiêng ra ca-nô để chuyển lên tàu. Lúc đến mép hòn đảo, hắn sực nhớ, hắn mấp máy môi. Qua ánh đèn măng-sông sáng rực, một người trông thấy, cúi xuống hỏi : - Anh muốn nói gì ?

Hắn thì thào, yếu ớt : - Trong túi ... áo tôi ... có năm mươi ... đô-la ... lấy ra ... Người đó làm theo lời hắn và hỏi: - Để làm gì ? - Trên tàu ... có bánh ... bích quy không ? - Có. - Có nước ... ngọt không ? - Có. - Bán cho tôi... năm mươi đô-la... cả bánh và... nước... bỏ lên đảo cho tôi... tôi đã thắng... Người đó nói lại cho những người kia nghe. Họ nghĩ hắn mê sảng. Nhưng có một người nói : - Chắc có chuyện gì đấy, cứ làm theo lời anh ta và lấy tiền đi. Hắn gắng gượng cho đến khi thấy họ mang hai thùng bánh rất to và hai thùng nước bỏ lên đảo, lúc đó, một màn đen phủ chụp lấy người hắn. Con tàu không nhổ neo cho đến sáng hôm sau. Họ tiếp nước biển và tiêm thuốc hồi sức cho hắn. Họ muốn biết chuyện gì đã xảy ra với con tàu, với những hành khách... Dù rất yếu, hắn vẫn đủ sức cho họ biết có lẽ hắn là người duy nhất sống sót. Hắn hỏi mượn một cái ống dòm, nhìn về hòn đảo. Hắn thấy con chuột đang đứng trên thùng bánh, hai chân trước cầm một cái bánh, gặm ngon lành, cặp mắt dáo dác nhìn quanh ...

Cánh bướm trắng

Vào khoảng thập niên 1940 lúc phong trào kháng Pháp đang lên cao độ, tại một thị trấn nhỏ có một cặp vợ chồng trẻ vừa mới cưới, thương yêu nhau rất đậm đà, chồng là tài xế hỏa xa còn cô vợ buôn bán nhỏ qua ngàỵ Ngay đêm vợ đau nặng chàng nhận lệnh phải lái chuyến tàu hỏa tốc về Hà Nội, không muốn ra đi nhưng dưới ánh mắt trấn an của người vợ trẻ, chàng đành bấm bụng khởi hành. Ðoàn tàu dục tốc tiến về Hà Nội, càng về đêm lòng chàng trai càng bồi hồi khôn tả, nổi lo cho trọng trách khó khăn, lòng thương người vợ hiền đang nằm trên giường bệnh. Bâng quơ anh tài xế nhìn vào bóng đêm trước cửa phòng lái ... lo lắng vu vơ, tâm trạng bồn chồn ... chập chờn một cánh bướm đêm ... cánh vổ nhịp nhàng, lúc chậm lúc mau ... chập chờn cánh bướm trắng ... bất chợt chàng trai dụi mắt nhìn kỷ đôi cánh trắng, lúc nhanh lúc chậm ... lúc nhanh lúc chậm ... dừng lại ... dừng lại ... theo tín hiệu Morse tích tích te ...Ngạc nhiên chàng chú ý nhìn thật kỷ, rỏ ràng đôi cánh của con bướm đang lập đi lập lại tràng tín hiệu ... dừng lại ... dừng lại ... nguy hiểm ... nguy hiểm . Tin vào đôi mắt mình nhưng đây là chuyến tàu tốc hành, đâu thể nào dừng lại vô cớ được . Ðoàn tàu cứ tiến nhanh về phía trước, cánh bướm chập chờn mỗi lúc một gấp rút hơn ... đoàn tàu cứ băng băng tiến ... Bất chợt văng vẳng bên tay chàng nghe một giọng người hớt hải ... dừng lại ... dừng lại đi anh ... vẳng vẳng bên tay giọng la thất thanh của người vợ thân yêu ... nguy hiểm lắm, dừng lại đi mình ơi ... tàu càng chạy nhanh, tiếng la vang càng hớt hải, chuyển thành giọng van xin ... dừng lại đi mình ơi, yêu yêu mình lắm ... dừng lại, nguy hiểm lắm chàng ơi ... Không dừng được chàng tài xế thò tay kéo mạnh chiếc phanh ... két ... két ... chuyến xe tốc hành thắng gắp, người người lăn lộn, hành lý đổ ngả tứ tung ... - Chuyện gì thế ? - Trưởng tàu hỏi lớn . - Không biết, có chuyện gì phía trước đây - Chàng ngập ngừng đáp trả . Cầm ngọn đèn bảo họ đi từng bước thăm dò về phía trước ... bóng đen phủ kín màng đêm, lá rừng xào xạt ... hải hùng cả bọn dừng chân, miệng há hốc họ bàng hoàng ... Phía trước mặt chiếc cầu bị Việt Minh đặt mìn giật sập ... Lầm lủi chàng thanh niên trở về khoang lái, bỏ lại sau lưng nhưng tràng hỏi tại sao anh biết ... Nhặt cánh bướm trắng bướm trắng đã gục chết bên buồng lái, chàng trai linh tính một chuyện chẳng lành ... Xong nhiệm vụ chàng hối hả quay lại quê nhà ... ngay đêm ấy người vợ thân yêu đã trở bệnh qua đời ... giờ nàng tắt thở đúng vào lúc cánh bướm trắng chập chờn báo hiệu ... hồn người vợ thân yêu đã theo theo chồng trước giờ lâm tử . P.S : Truyện này tại hạ đọc hồi còn có chút tẳng thôi, nhớ sao kể vậy để ra mắt Cốc Tiểu Thơ .

Cây Chổi Yêu Tinh

Lâu ngày thành yêu, vật nào cũng thế, không những chỉ có vàng và ngọc... Như trong vườn hoang ở một ấp kia có một tòa miếu cổ xây bằng gạch. Ðằng trước có một cửa nhỏ, chỉ vừa một người ra vào, bên trong chỉ rộng bằng một chiếc chiếu. Trên đặt bái hương và một cây đèn bằng gỗ. Mỗi năm có hai lần người trong ấp đến lễ bái thì mở cửa mà vào, quét miếu thắp hương. Xong việc lại ra, đứng bên ngoài khép cửa lại, còn người dưng thì không ai bước tới. Trong miếu có một cái chổi rễ kết bằng những mảnh tre nhỏ. Khi vào cúng bái, dùng để quét, quét xong lại dựng trong góc miếu. Tương truyền là chổi rễ ấy dùng đã lâu ngày mà lúc nào cũng vẫn thấy như mới. Người trong ấp thường thấy có ma hiện ra. Khi ấy có người học trò quẩy tráp đi học, đến ấp thuê nhà ở gần đó để tiện đến nhà thầy nghe giảng. Ở trọ được ba tháng. Bỗng một đêm khuya thấy người con gái đẹp đứng ngoài cửa sổ ném một bài thơ vào: Thiếp vốn sao trời xuống dưới trần, Trên cùng Cơ Vĩ vốn cùng thân. (Hai câu này nói bóng là hình cây chổi) Thường đem quét tước trần ai sạch, Muốn kết ái ân Chu với Trần. Người học trò nhặt bài thơ xem, ngồi im lặng hồi lâu. Người con gái nhìn vào cửa sổ cười rằng: - Thế gọi là "văn cùng" đó. Người học trò thấy cô gái có nhan sắc đẹp, cùng nhau ngâm họa rồi lân la gần gũi. Ðến gà gáy, ả vội đứng dậy từ biệt. Người học trò muốn giữ lại, ả nói: - Thiếp là con gái quan nội triều (chữ triều ở trong là chữ miếu) ở trong ấp này, ở không đã lâu, nhưng tính cha mẹ nghiêm ngặt, quanh năm không cho ra khỏi cửa, người trong ấp chưa ai trông thấy mặt. Vì thế, thiếp chưa có gia thất. Hôm qua, ngẫu nhiên nhìn qua khe cửa, thấy chàng đi qua. Ðã ưa người đẹp, lại mến tài cao. Cho nên chui lối ngạch đi ra, quên cả hổ thẹn. Nếu mãi vui, có người biết được, thì không những mang tiếng chê bai, suốt đời không ai dám hỏi nữa, mà lại còn điếm nhục cả đến gia thanh, để lo buồn cho cha mẹ, đến phải tự tử mà chết mất. Nếu chàng có lòng yêu thiếp phải nói dối kẻ trên để lén lúc đợi đêm tối sẽ đến, dần dần ta sẽ kết duyên giai lão, như thế có hơn không? Giữ thiếp ở lại làm gì? Nhưng điều này nên giữ kín, nhất thiết không nên nói chuyện này với ai. Nàng nói xong thì vội vàng ra đi. Người học trò từ đó học hành chểnh mảng. Ngày thì ngủ say, đêm thì vui đùa với con yêu nữ. Ðã hơn một tháng, thầy không thấy anh ta đến học, sai người đến nhà trọ hỏi duyên cớ và bảo anh ta đến gặp thầy. Người học trò thấy thầy

gọi, liền đi theo người đến. Thoạt trông thấy anh, thầy giật mình hỏi rằng: - Mới qua một tin hoa nở mà nhan sắc xanh xao, tinh thần sút kém đến như vậy. Ngươi mắc bệnh gì thế? - Thưa, con không bệnh gì. Thầy nói: - Không bệnh gì mà hình dung thế kia à? Ðúng là bị gái hư nào làm mê hoặc rồi. Nếu không, can chi vóc người sút hẳn đi như thế? Người học trò trước còn giấu diếm, sau bị thầy hỏi vặn đến cùng bấy giờ anh mới nói rõ đầu đuôi câu chuyện. Thầy nghĩ hồi lâu nói: - Bên nhà ngươi trọ, có cây cổ thụ không? Có đầm sâu hay là có miếu cổ nào không? Người học trò nói: - Trong vuờn hoang có ngôi miếu cổ, không biết làm từ đời nào. Cảnh miếu vắng vẻ, cách nhà con trọ độ năm trăm thước, hàng ngày con đi học thường phải qua đó. Thầy nói: - Ðứa con gái ấy tất là con yêu trong ngôi miếu cổ. Ngươi không nói sớm, chỉ ba tháng nữa là chết. Anh ta sợ quá, lạy phục trước giường xin thầy bảo cho phép trừ yêu. Thầy nói: - Xem lời lẽ bài thơ, trong lúc vội vàng, chưa có thể đoán được tà yêu. Hãy để xét nghiệm dần dần xem nó là yêu gì mới có thể trừ được. Nói xong thầy lấy một cái khăn vuông lụa đỏ đốt hương thư phù vào mặt khăn, rồi đưa cho anh học trò và dặn rằng: - Nó đã là yêu thì những câu gì ta nói với ngươi, tất nhiên nó cũng biết. Ðêm nay con yêu đến, nếu nó có hỏi đi hỏi lại, phải kiên quyết nói là không. Nếu nói lộ ra thì kế ta không thể thi hành được, nhà ngươi tất phải chết. Nên làm thơ tự tình gấp hai mọi ngày. Ðợi khi gà gái con yêu sắp dập từ biệt, cầm khăn hồng này tặng nó và nói: "Tình nương, tình nương của ta, có yêu hàn nho không? Có định cùng ta kết làm vợ chồng không? Chúng ta nguyền ước ba sinh, há lại không có một vật gì làm tin ư? Vuông khăn hồng này, khi ta mới

sinh, có một ông quan trông ấp mừng cho. Cha mẹ lấy làm quý báu cất kỹ để dành. Nay ta đem tặng này, xin đừng khinh thường. Nàng nên buộc nó vào dây lưng, như vậy thì suốt ngày, như có ta ở bên cạnh. Ðợi khi thành hôn, ta với nàng lau chung với nhau, có sung sướng hơn không? Bảo nó như vậy, nếu con yêu nhận lấy chiếc khăn là phúc cho nhà ngươi: Anh học trò bỏ khăn vào túi áo, lạy hai lạy rồi ra về. Ðêm hôm ấy con yêu vừa đến đã hỏi ngay rằng: - Lang quân! Lang quân! Hôm nay đi đâu thế? Anh học trò trả lời: - Không! Con yêu nói: - Thiếp ở trong cửa thấy lang quân đi qua. Thiếp đi theo sau đến chỗ cổng nhà thầy, thiếp muốn theo vào, nhưng thấy khí văn bốc lên cao vút, lởm chởm trông rất sợ. Thiếp đứng nấp ngoài cổng để đợi lang quân. Một lát lang quân ra, thiếp lại theo về. Sao lại nói là không đi đâu? Hay là đã có đám nào đấy chăng? Có lẽ đúng. Ngạn ngữ có câu: "Vợ chồng mới cưới nói ba phần thật, Chưa thể bày ra cả tấm lòng." Câu nói ấy đúng tâm lý lang quân lắm đấy! Anh học trò nói: - Cũng là ngày đi học đấy thôi! Con yêu im lặng, rồi lại vui cười như trước. Ðến lúc từ biệt, anh ta theo lời thầy, đưa tặng khăn hồng và nói rất thiết tha. Con yêu nhìn khăn hai ba lần, xem mặt trên rồi mặt dưới, tựa hồ có ý sợ hãi, nghĩ ngợi rồi thở dài, nói rằng: - Ai đưa vật này cho chàng? Ðây là một vật làm cho vợ chồng ta lìa nhau. Không thế thì sao bây giờ mới có, trước kia lại không? Anh học trò nói thác cớ là cha mẹ vừa mới gửi đến. "Thương nàng, yêu nàng, ta không tặng nàng, thì tặng ai? Ðã khăng khít với nhau như liền khúc ruột, sao nỡ đem lòng ngờ vực như thế?". Anh ta giả đò giận. Con yêu mới lấy khăn rồi ra về. Sáng hôm sau thầy đến hỏi chuyện, biết là con yêu mang khăn về rồi, liền bảo

anh đi xét trong miếu cổ. Quả nhiên thấy vuông khăn hồng vắt trên cái chổi rễ bằng tre. Thầy trỏ vào cái chổi nói rằng: - Ðúng là cái chổi này thành yêu. Thầy bảo đem chổi về đốt, thì nghe trong ngọn lửa có tiếng kêu khóc. Từ đó con yêu chổi không còn đến quấy rầy anh học trò nữa..

Chài

Chúa Nhật tôi hay lái xe về chổ bố mẹ tôi cư ngụ, nơi đó có đông người Việt sinh sống hơn! Bố tôi quen một số người mới qua (5 năm trở lại) theo diện HO! Họ hay tới nhà bố tôi chơi, ăn uống và kể chuyện đờị Trong đó có những chuyện về đời lính) Tôi rất thích nghe những mẫu chuyện vui buồn này của họ, và nhiều khi viết lại và đăng lên đây để chia sẻ với các bạn ! Trong thâm tâm tôi, những người xứng đáng nhất để được định cư tại Mỹ này chính là những người đi theo diện HO này ! Họ đã chiến đấu khi xưa, bị bỏ rơi không thương tiếc! Và sau cuộc chiến 75, họ bị tù đày bao năm trong ngục tù CS! Hầu hết thì rất nghèo làm gì có tiền đi vượt biên như những người khác ! Họ là kẻ ngậm đắng nuốt cay suốt gần hai chục năm nay!! Tôi rất khâm phục họ ! Có những kẻ nhờ thời thế, nhờ tiền bạc v.v. có được cơ hội qua đây trước, nhìn những người HO với con mắt khinh thường, coi họ là kẻ nghèo hèn hơn mình! Họ nói đến từ HO với một giọng chứa đầy vẻ miả mai! Họ có biết đâu nếu những người HO này có cơ hội qua đây sớm thì họ cũng đâu thua gì ai! Mà có lẽ còn hơn nữa kià vì đa số hàng sĩ quan đều có bằng Tú Tài khi xưa ! Tôi tin chắc là với căn bản sẳn có như vậy, nếu có cơ hội họ sẽ dễ dàng thành công trong việc học vấn ở bên này! Vì qua đây quá trể nên đa số đã lớn tuổi, họ đành phải hy sinh bản thân mình cho gia đình, bám vào các nghề với đồng lương thấp kém với hy vọng con cái của họ sau này có cơ hội may mắn hơn họ ! Hãy nhìn những người HO với con mắt thán phục và biết ơn hơn, vì sự hy sinh của họ cho đất nước và cho cả chúng ta (những kẻ may mắn hơn họ, nhưng thường thì vô ơn !!) Bài sau đây tôi viết theo lời kể của một người lính thuộc tiểu đoàn 21 Biệt Động Quân đồn trú tại tỉnh Đarlac (nay gọi là Đắc Lắc mà nhiều người chỉ biết nó qua cái tên quen thuộc hơn Ban Mê Thuột ) Tam Tang Sau năm 73 khi lính Mỹ rút khỏi VN thì các căn cứ biên phòng dọc biên giới Việt Lào và Miên Việt được giao lại cho quân đội VNCH trấn đóng! Và Biệt Động Quân là lực lượng được giao phó cho trách nhiệm này! Tiểu đoàn 21 BDQ của tôi trấn giữ một đồn biên phòng sát vùng Tam Biên (Việt Miên Lào) gần Buôn

Đông tỉnh Đarlac! Buôn Đông là một nơi bị cô lập với thế giới bên ngoài! Chỉ có một con đường đất đỏ nối với Ban Mê Thuột, nhưng đã bị CS phá nát và gài mìn bẫy! Binh lính CS lại thường phục kích trên con đường này nên mọi phương tiện ra vào, tiếp tế v.v... đều được thực hiện bằng phi cơ trực thăng ! Nhưng vì viện trợ Mỹ đã bị cắt xén thê thảm cho nên việc tiếp tế chỉ thu hẹp lại một tháng một lần mà thôi ! Ngay cả việc tiếp tế lương thực, thuốc men, đạn dược, tải thương, phát lương, đi phép v.v. cho đồn chúng tôi cũng chỉ có một lần cho mỗi tháng !! Vùng này rừng núi âm u, chung quanh chỉ thấy mây mù và cây cối trùng trùng điệp điệp ! Ngày ngày chỉ nghe tiếng vượn hú quanh đồn! Tiếng chim "bắt cô trói cột" kêu buồn thảm trong các buổi chiều u ám! Cách đó mấy cây số có một làng người Thái, họ đã được ông Diệm đưa lên đây lập nghiệp sau khi họ di cư vào Nam năm 54 ! Cũng có vài buôn làng của các dân tộc khác như Ra Đê, Mơ Nông, Lào v.v. Nhưng họ ở xa đồn hơn mà chúng tôi không có dịp đặt chân tới! Nhiệm vụ của chúng tôi là ngăn chận đường xâm nhập của quân chính qui CS từ bên kia biên giới sang! Vì thế Tiểu Đoàn Trưởng của chúng tôi thường phái các toán quân nhỏ đi hành quân tảo thanh, đi tiền đồn với một công hai chuyện: Bảo vệ cho đồn biên phòng và phát hiện quân CS, rồi báo cáo về xin phi cơ dội bom các nơi đóng quân của địch! Tôi là trung đội trưởng của một trung đội thuộc đại đội 3, nên cũng thường được phái dẫn trung đội đi thi hành các nhiệm vụ này! Tôi thường tránh cho binh lính đi vào các bản làng ! Một là tránh bị phát hiện, hai là đề phòng việc các phần tử xấu gây thiệt hại cho dân chúng ! Ta thường nghe nói: "Bạc như dân, bất nhân như lính! Nên đề phòng thì vẫn tốt hơn! Trong một cuộc hành quân an ninh vòng đai như thường lệ , tôi dẫn trung đội băng rừng về hướng Tây của đồn cố giữ bí mật với hy vọng sẽ phát hiện được dấu vết của bọn CS để lại khi chuyển quân ! Nhưng gần cả ngày vất vả chúng tôi không tìm được gì ! Quá trưa tôi ra lệnh rút về đồn, khoảng hai tiếng sau chúng tôi băng qua khu rừng gần làng Thái ! Tôi ra lệnh bố trí nghỉ mệt, hầu như mọi người đều đã uống cạn bi đông nước của mình ! Hai người lính xin tôi vào làng xin mấy nón sắt nước cho mọi người cùng uống! Tôi ngại lắm nhưng rồi cũng phải bằng lòng vì đồn vẫn còn cả 5 cây số nữa và nước suối vùng này rất độc không thể uống bậy được! Khoảng 20 phút sau hai người lính trở ra với bốn nón sắt nước, mọi người chia nhau uống rồi tiếp tục lên đường về đồn ! Thế nhưng chuyện lạ đã xảy ra ! Một người lính của tôi đâm ra đau bụng thảm thiết! Mà anh này lại là một trong hai người đã đi xin nước bữa trước ! Rồi bụng anh ta một ngày một lớn ra! Anh ta rên la thảm thiết, y tá cho uống thuốc giảm đau cũng chỉ tạm thời dịu bớt mà thôi ! Xui cho anh ta là lúc ấy chỉ là khoảng mười mấy tây thôi, chúng tôi phải đợi đến gần cuối tháng mới có chuyến trực thăng vào ! Thời cuối cuộc chiến lúc đó rất khó mà xin được phương tiện cho nhu cầu mình muốn !! Anh ta bỏ cả ăn

uống, rên la kêu vợ kêu con thảm thiết lắm mà chúng tôi đành đứng nhìn thôi ! Tôi không biết việc gì đã gây cho anh ta bịnh đó, hay là trong nước có độc! Nhưng các người khác không sao mà ! Tôi muốn hỏi anh ta nhưng anh ta mê man, lên cơn sốt liên miên đâu có tỉnh táo đâu để mà hỏi ! Tôi bèn kêu người lính cùng đi xin nước với anh ta lại hỏi cho ra đầu đuôi ! Anh lính trả lời: _ Tui thiệt tình không rỏ lắm! Tui vào một nhà ở đầu làng và xin nước, bà già chủ nhà đồng ý và tui ra giếng kéo nước đổ vào bốn cái nón sắt ! Trong khi đó thằng Hải (tên người lính kia) nói là để nó đi vòng vòng xem có gì lạ không và đồng thời bảo vệ an ninh cho tui trong khi lấy nước ! Khi lấy nước xong tui kêu với nó! Nó chạy ra từ một căn nhà gần đó, miệng còn nhồm nhoàm nhai! Trên đường ra nó nói với tui : "Tao vào cái nhà đó lên tiếng gọi, không có ai ở nhà hết ! Tao thấy ba trái bắp luộc để trong cái rổ trên bàn, đang đói bụng tao dớt hết trọi! Mà lạ một điều là nhà không có ai mà mỗi khi tao ăn một trái là tao nghe có tiếng đếm mày à ! Cả thảy là ba cho ba trái bắp tao ăn đó! Tao cũng hơi teo teo nhưng đói quá tao làm hết trơn ba trái luôn! Êm cái bụng cho tới chiều rồi !" Tui chửi nó là đồ tham ăn, không biết để dành cho tui một trái ! Nó cười trừ hề hề ! Không biết có phải là do nó ăn mấy trái bắp mà bị sình bụng hay trúng thực không nữa ! Mấy hôm sau có máy bay vào đồn tiếp tế, chúng tôi cho tải anh ta về Quân Y Viện để chửa trị ! Ba ngày sau chúng tôi nhận được điện gọi vào từ hậu cứ cho biết là anh ta đã chết ! Trong bệnh án ghi là chụp quang tuyến X thấy đương sự nuốt ba cây đinh 10 phân vào trong bụng, bị nhiễm trùng rất nặng, đã lây lan qua gan, phổi! Quá trể nên bị chết vì nhiễm trùng! Đêm đó tôi qua chổ thằng bạn chơi, ngồi uống cà fê đen và kể chuyện đời với nhau ! Tôi kể cho nó nghe về chuyện của người lính vừa chết ! Người trung sĩ trung đội phó của nó cũng ngồi đó nghe chuyện, anh ta là một người thượng Ra Đê! (Lính trên vùng cao nguyên này hơn một nữa là dân thiểu số rồi!) Nghe tôi kể xong anh ta chậm rãi lên tiếng: _ Nó bị chài rồi! Mấy cái người Thái đó bùa ngãi đữ lắm! Nó đã bị ma xó đếm rồi ! Không biết thì chỉ có nước chết thôi ! Tôi ngạc nhiên hỏi: _ Cái gì là ma xó! Tôi chưa hề nghe qua loại ma này lần nào hết !?!?! _ Một số người Thái thờ ma xó trong nhà để giữ của ! Ai vào lấy cái gì mà không được phép chủ nhà thì ma xó sẽ đếm ! Cứ mỗi thứ thì nó đếm lên một,

và tùy loại ma xó mà nó sẽ chài đinh hoặc đá, hay khúc gỗ vào bụng của kẻ ăn trộm đó! _ Thế là không có cách gì cứu à ???! _ Tôi hỏi lại ! _ Nếu biết sớm thì lại xin chủ nhà trả lại đồ, hay thường bồi thiệt hại thì may ra chủ nhà sẽ xin ma xó tha cho ! Nếu mà tui biết anh ta ăn mấy trái bắp của người Thái thì có lẽ tui đã đoán ra và kêu ông cho người tới nhà đó xin để cứu nó rồi !Để lâu quá thì ma xó cũng không cứu lại được người nó thư đâu! Vì cái bụng cái gan cũng bị sình thúi hết rồi! Tội nghiệp cho nó quá ! _ Nói cho tôi biết ma xó là thứ ma gì mà người Thái lại thờ vậy ?! Dân tộc các anh có thờ nó không vậy ?! _ Khi gia đình người Thái nào muốn thờ ma xó thì khi gia đình họ có ai chết, họ chặt một khúc cây to, xong khoét bọng bên trong rồi nhét kẻ chết vào đó rồi bít kín lại ! Họ làm lễ tế phù phép gì đó rồi để khúc gỗ đó ở chổ kín trong góc nhà !! Và kẻ chết trở thành ma xó coi nhà cho gia đình ! Chỉ họ mới biết cách biến người chết thành ma xó mà thôi, đó là bí quyết của người dân tộc ở biên giới Việt Hoa! Còn các dân tộc ở Cao Nguyên này không biết được cái bùa phép này ! Nhiều người Thái còn cho ma xó giữ nương rẫy của họ nữa kìa! Cho nên các dân tộc khác ở vùng này không ai dám lấy trộm cái gì trên rẫy của người Thái hết ! Ông nên nói cho mấy người lính của ông biết để họ đừng có động đến các thứ gì của người Thái sau này ! Tôi bán tín bán nghi, không biết người trung sĩ thượng này có đúng không !!! Nhưng thường thì những người thượng chất phát này không nói dối! Để đề phòng sự việc có thể tái diễn, các lần đi hành quân sau này tôi luôn dẫn lính tránh xa các bản làng, không riêng gì một mình làng Thái ! Biết đâu các dân tộc khác lại có thứ buà ngãi khác của riêng dân tộc họ thì sao ! "Cẩn tắc vô áy náy" mà, từ đó cho đến tháng 3/75 đơn vị tôi không thấy có trường hợp nào tương tự xảy ra nữa ! Cho đến bây giờ tôi cũng không biết có đúng là người Thái có thờ ma xó thật không nữa vì tôi chưa từng trực tiếp tiếp xúc với một người Thái trắng nào cả !!!

Chiê'c Vòng Cẩm Thạch

Hôm nay là một ngày thật đặc biệt, một ngày vui mừng, ngày đám hỏi của Dung. Tối hôm qua, Dung không ngủ được, cô nôn nóng chờ ngày này đã mấy tháng nay rồi, kể từ lúc Ddức cầu hôn với cộ Ngồi trước gương, Dung ngắm đôi mắt hơi sưng, chậm một lớp phấn hồng lên má, cô mỉm cười nhớ đến Ddức. Chắc giờ này anh cũng hồi hộp như mình thôi, nhiều lúc Dung thấy Ddức thật giống như con nít. Ở nhà ngoài, tiếng ba Dung đang oang oang hối mấy đứa em cô dọn dẹp nhà cửạ Dung đứng lên, vuốt nhẹ lên thân áo dài, hình như Ddức và ba má anh đã tớị Nhóc Hùng hé cửa phòng, ló đầu vô nháy mắt: -Chị Dung ơi, ba kêu chị ra kìa! Dung ngoắc Hùng: -Chị run quá, em coi chị có được không? Hùng kéo lại chiếc cà vạt nghiêng thắt dở: -Chị đừng lo, bộ chị sợ anh Ddức ảnh đổi ý hay saỏ Nói xong, nó cười hi hi, lè lưỡi ra rồi bỏ chạy trước khi Dung kịp ký đầu nó. Bên ngoài phòng khách mọi người đều im lặng khi Dung bước ra, cô cảm thấy thẹn thùng, hai bàn tay thừa thãị Trong tiếng cười của mọi người, có tiếng lách cách và ánh sáng chớp lên của những cái máy chụp hình. Ddức lại gần Dung, nắm lấy tay cô và kéo đến trước mặt mẹ anh. Mẹ Ddức là một người đàn bà đẫy đà có gương mặt phúc hậu, bà mỉm cười: -Từ hôm nay con có thể kêu bác là mẹ như Ddức, mẹ có quà này cho con. Mẹ Ddức trịnh trọng lôi một chiếc hộp gỗ trong ví ra, bà mở nắp hộp, cầm lấy tay Dung, vừa đeo lên tay cô vừa nói: Đdây là quà của một người bạn thân tặng cho mẹ, mẹ chưa dùng bao giờ vì đeo không vừa, nhưng đây là một vật vô giá, mong rằng con sẽ thích... Dung cẳm động lí nhí cám ơn, chiếc vòng mầu đỏ mát lạnh vừa khít với cổ tay nhỏ nhắn của cô và nổi bật trên nền da trắng mịn. Thủ tục sau đó là đeo bông tai, đeo kiềng, nhẫn, lỉnh kỉnh, nhưng mọi người ai cũng trầm trồ khen chiếc vòng đặc biệt. Theo như bàn tính của hai nhà, một năm sau Dung và Ddức sẽ làm đám cướị Mãi tới chiều Ddức mới có một ít thời gian nói chuyện riêng với Dung. Anh nâng cổ tay người yêu, hôn lên chiếc vòng, hỏi Dung: -Em có thích không? -Thích chứ, cho dù là vòng giấy em cũng thích... Trời hôm nay nóng nực nhưng chiếc vòng vẫn mát, bỗng nhiên Dung rùng mình, cô cảm thấy lạnh, Dung cúi xuống lau nhẹ chiếc vòng, thấp thoáng chỗ lạt chỗ đậm của màu đỏ như máu là một đường gân đỏ mới xuất hiện. Theo như lời Ddức kể lại, chiếc vòng là do một người bạn của bố mẹ Ddức mang về tận bên Ai Cập. Không biết xuất xứ chiếc vòng từ đâu nhưng chắc chắn đó là một món đồ cổ lâu đời rồị Nghe nói là vòng cẩm thạch ngừa được cảm mạo phong hàn cho người mang nó. Mẹ Ddức vẫn cất giữ kỹ nói là để tặng cho con dâu tương laị Nửa đùa nửa thật, Dung trêu Ddức: -Chiếc vòng này là đồ cổ, chắc mắc tiền lă'm hả anh, sau này anh mà không nuôi em nữa, em đem bán cũng đỡ khổ. Ddức làm mặt nghiêm: Đdây là đồ kỷ niệm, quà cưới của chúng mình, em phải đeo không được cởi ra, sống đeo, chít mang, vật còn người còn... -Anh nói gì thấy ghê, bộ muốn trói em suốt đời sao, đừng có hòng. -Anh không nói giỡn đâu, anh nghe mẹ anh nói, đây là vật có linh khí, cẩm thạch mang tính âm nên có màu xanh, người xưa họ mang chôn chung với xác chết để lấy thêm khí âm, chôn lâu ngày vòng biến thành màu đỏ, gân đỏ trên vòng là linh khí của nó đó. Dung rú lên, đấm thùm thụp vô vai Ddức: -Anh đã biết em sợ ma mà còn hù em hả, không thèm nói chuyện với anh...năm phút. Ddức cười lớn, anh giữ tay Dung lại: -Em dữ như vậy chỉ có anh là chịu nổi em thôi, ma nào dám nhát...đừng la nữa, trong nhà ba má nghe thấy giờ. À, tuần sau làHalloween rồi, nhà bạn anh có tổ chức mặc đồ hoá trang, em có muốn đi

không? -Em hông sợ ma giả đâu, coi ai sợ ai cho biết, mà anh tính làm ma gì vậỷ Ddức nháy mắt chọc tức Dung: -Tới ngày đó anh mới cho em haỵ Tụi mình hẹn gặp nhau ở đó, nếu em nhận ra được anh, sẽ có thưởng. Dung nguýt Ddức một cái dài cả thước: -Xí, ai mà thèm....... Ngày Halloween Dung chuẩn bị thật kỹ, cô vẽ mắt bằng viết chì đen thật đậm, môi cũng thoa son đen. Cả tuần nay cô bị mất ngủ, nếu ngủ được lại mơ thấy toàn ác mộng, cặp mắt cô hiện lên hai cái vòng đen, Dung chép miệng nghĩ thầm: -Như vậy càng hay, càng giống ma chứ saọ Nhìn đồng hồ, đã hơn 7 giờ tối rồi mà Ddức vẫn chưa kêu điện thoại cho cô, Dung bực mình, bụng cô bắt đầu kêu réo, đói quá rồi mà. Chạy xuống bếp, lục tủ lạnh, Dung bốc vội miếng bánh, vừa ăn cô vừa ngẫm nghĩ: -Hay là mình đi trước để hù anh ấy cho vui, ngồi nhà cũng vậy thôị Khi Dung ra khỏi nhà, đường phố đã bắt đầu lên đèn, ngoài đường người đi bộ phần lớn là con nít. Dung cố gắng lái xe chầm chậm, lỡ không gặp ma mà đụng nhằm người sống mới là xui xẻọ Thỉnh thoảng có những tà áo đen chạy băng qua đường bất chấp xe cộ, Halloween có lẽ là ngày phá phách thì đúng hơn. Dung phải đậu xe ở góc đường thật xa, xe xếp hàng dài kiếm mãi mới ra chỗ trống. Bước lên con đường dốc, Dung hít một hơi dài, gió lạnh có mùi biển mặn làm cô cảm thấy thoải mái, cô tự trách thầm: -Lại quên không mang áo lạnh nữa, lát nữa thế nào cũng phải mượn áo của anh Ddức. Tiếng giầy cao gót của Dung nện cồm cộp lên lề đường vội vã lẫn trong tiếng nhạc càng ngày càng lớn. Ddang đi bỗng Dung ngừng hẳn lại, hình như có người đang đi theo cộ Cô quay lại, không có ai, đằng xa chỉ có tiếng la hét của mấy đứa con nít đi xin kẹọ Dung lắc đầu tự cười mình nhát gan. Ngôi nhà của Thành, bạn Ddức, tọa lạc riêng biệt ở cuối đường, chung quanh trồng toàn thông, treo lủng lẳng trên mấy cây thông là những bộ xương người bằng giấy bay phất phớị Tiếng phong linh kêu leng keng nhè nhẹ trước cổng nhà như chào đón. Dung vừa bước lên thềm tính bấm chuông thì cánh cửa gỗ xịch mở, một con quỷ, không, một người với mặt nạ quỷ có hàm răng lởm chởm ra mở cửa, trên ngực cắm một con dao...nhựa dính máụ Con quỷ cất tiếng nói: -Vào đây, mời hai bạn vàọ Dung đưa tay lên che miệng cười, sửa lưng con quỷ: -Có mình Dung hà, ai...xin lỗi...anh là ai đâỷ Con quỷ chỉ tay ra sau lưng Dung: -Còn ai đằng sau lưng bồ đó? Hihi...tui là Thành...chủ nhà nàỵ Dung giật mình quay ra sau, đằng sau lưng cô, không biết tự hồi nào, một cái xác ướp bọc vải từ đầu đến chân đứng sừng sững im lă.ng. Dung lùi lại né sang một bên: -Tui đâu có quen người này...xin lỗi nha, bạn vô trước đị Cái xác bọc vải lấp loáng cặp mắt như điện nhìn Dung như thôi miên, nói nhỏ chỉ để cho cô nghe thấy: -Anh đây mà...anh là chồng em. Dung dụi mắt, sững sờ vài giây rồi cô vụt cười phá lên: -Trời đất ơi, anh Đức, anh làm em hết hồn, giống...ma quá trời, em nhận không ra! Dung lôi đống vải trắng biết đi vô trong nhà, theo sau lưng Thành. Trong phòng khách đèn mờ mờ ảo ảo, góc nào cũng có...ma đứng. Ma quỷ đủ loại, tóc tai màu mè, nào làDracula, phù thủy cầm chổi cán dài, quỷ hai sừng cầm búa, có cả công chúa Bạch Tuyết, chỉ thiếu có bẩy chú lùn...Dung dựa sát vô người Ddức nói nhỏ: -Anh mặc đồ như vầy làm sao nhảy đầm với em được? Quên nữa, anh ăn gì chưả Vừa nói Dung vừa nhìn kỹ lại khuôn mặt xác ướp, ủa, sao Ddức quấn vải gì mà quấn khéo ghê, mũi và miệng chừa ra có chút xíu, chỉ có cặp mắt đen nhánh là có hồn thôị Dung ngờ ngợ đưa tay lên xoa cái đầu vải: -Ai quấn vải cho anh mà chặt vậỷ Có phải anh Ddức đó không? Đức cựa quậy cái đầu, giọng nói ấm ớ: -Anh muốn làm cho em ngạc nhiên, anh là chồng em mà... Một lần nữa, câu nói này làm Dung chú ý, cô hỏi: -Sao anh

hôm nay nói chuyện kỳ ghê, cứ nhận là chồng người tạ -Phải rồi, anh là chồng em, chiếc vòng này là bằng chứng. Bàn tay vải nắm lấy chiếc vòng Dung đang đeo đưa lên miệng hôn một cách trìu mến. Vừa lúc đó, tiếng nhạc slow nhẹ nổi lên, Thành đẩy Dung và Ddức vô đám người nhốn nháo: -Hai người chơi cho vui vẻ, tự nhiên đi nha, tui đi tiếp khách đâỵ Phòng khách nhà Thành khá rộng rãi, sàn nhà bằng gỗ đánh bóng, trên trần là một chiếc quạt đang quay lơ lửng, tuy trời không nóng nhưng vì ...ma sợ ngộp hơi nên quạt được mở tối đạ Dung cảm thấy hồi hộp, không hiểu sao cô có cảm giác như thật là xa lạ mà cũng thật thân thiết với Ddức, cô nhìn đăm đăm vô hai cái lỗ mắt đen, xuyên qua lần vải là tia mắt sáng lấp lánh: -Anh có nóng không? Thiệt tội cho anh ghê, lát nữa anh tháo vải ra bớt đị Hết chuyện làm rồi hay sao mà ăn mặc kiểu nàỵ Ddôi mắt sáng vẫn không rời Dung, bàn tay quấn vải nắm lấy tay cô đặt lên ngực mình, trong tiếng nhạc dập dìu, Dung nghe tiếng anh thầm thì: -Anh chờ ngày hôm nay đã lâu lắm rồi đó, cuối cùng anh cũng được toại nguyện. Những chiếc bóng lượn lờ in lên trên tường vờn theo tiếng nhạc cùng với bước chân...ma quay tròn làm cho Dung có cảm tưởng như đi trên mâỵ Người cô nhẹ hẫng đi, Dung ngả đầu lên vai...xác ướp, cô thấy mình bay về một cõi xa xăm nào đó, đâu đây có mùi thơm của gỗ thông, mùi nến cháy và mùi trầm hương ngào ngạt. Cô mơ hồ thấy mình đang mỉm cười với một người đàn ông khác, không phải là Ddức, người này đẹp trai hơn ( ) mặc y phục kiểu cổ xưa sang trọng, chân tay đeo đầy vòng vàng. Khuôn mặt của người này mang đầy vẻ kiêu ngạo nhưng tia nhìn của hắn đối với cô lại dịu dàng, nụ cười thật quyến rũ. Dung giật mình bừng tỉnh, đẩy...xác ướp ra: -Anh là aỉ Anh không phải là Ddức... Cùng một lúc là những tràng cười lớn của mọi người chung quanh, nhạc tắt, đèn bật sáng trong khi xác ướp luống cuống nắm lấy...bu.ng mình. Thì ra trong lúc mọi người du dương nhẩy đầm, có kẻ nghịch ngợm, không biết ma đưa lối quỷ đẫn đường nào, đã len lén lấy kéo cắt đi một đầu vải trên lưng xác ướp quấn vô cái quạt quay vòng vòng trên trần. Vải tuột ra từ từ, một chất nước màu đỏ ứa ra từ trong bụng xác ướp, có lẽ là cat chup (!). Dung rú lên, cô loạng choạng suýt ngã trong khi mọi người lại càng cười to hơn, ai cũng nghĩ đây là một màn biểu diễn haỵ Thiệt là quê quá đi, Dung vừa nhìn thấy một xác ướp khác đang đứng ngoài cửa nhìn vô nói chuyện với Thành và lớn tiếng kêu Dung, giọng nói xác ướp ngoài đó không xa lạ gì, đúng là của Ddức. Dung nghĩ thầm, thì ra từ đầu tới đuôi chính là do Ddức xếp đặt với mọi người để hù cô như mọi năm, Halloween lần này anh thật là quá đáng, tội này không thể tha thứ được. Thừa lúc mọi người đang bu lại xác ướp giả (phải nói là người giả làm Ddức mới đúng) Dung chạy ra cửa sau, không thèm trả lời khi có tiếng Ddức gọi vói theo sau lưng. Sau vườn nhà Thành cũng là một hàng thông cao che kín, Dung ngồi xuống một bụi cây, lần này cô phải hù cho Ddức sợ mới đủ để trừng trị anh. Trong bụi cây, Dung thở mạnh nhìn vô trong nhà chờ đợi, cô cảm thấy đau nhói nơi cổ chân, Dung tuột giầy ra vén áo đầm dài ngồi xuống cho thoải mái, những viên sỏi nhỏ mát lạnh dưới chân làm cô rùng mình. Ddâu đây có tiếng dế kêu và hình như có...tiếng thở dàị Dung giật thót mình, thấp thoáng ngay sau lưng cô lại có một đống vải trắng toát ngồi đó tự hồi nào! Bàn tay vải úp lên miệng Dung ra dấu cho cô đừng la, thật ra cũng bằng thừa, vì Dung có muốn la cũng không nổi, người cô run lẩy bẩy, miệng mở lớn trong khi... xác ướp chậm chạp quấn từng vòng, từng vòng vải trắng từ người nó lên mặt cô và nói như an ủi một đứa bé: -Hãy ráng chịu khó đi em, chỉ một lát thôi, chúng ta sẽ vĩnh viễn ở bên nhau, không bao giờ chia lìa... Vòng lớn vòng

nhỏ như những cơn ác mộng trong tuần qua được ráp nối lại một cách thật rõ ràng trong đầu Dung, cô cảm thấy ngạt thở, ngoài kia, tiếng Ddức đang la gọi: Đung, Dung ơi, em ở đâủ ++++ (Năm 1245, trước Thiên Chúa giáng sinh) Aicapcap là một ông vua Ai cập đời thứ...mười bạ Vương quốc Ai Cập lúc đó rất phồn thịnh và phát triển. Như những ông vua khác, Aicapcap có rất nhiều vợ, cả trăm cung phi và ngàn cung nữ, nhưng người được quốc vương thương yêu nhất là một cô gái thường dân mới được nhập vô cung tên là Becon. Becon rất xinh đẹp và nết na, cô biết đàn, biết múa hát và nói chuyện văn chương lưu loát nên được quốc vương thương yêu hết lòng. Quốc vương thuộc giòng giống đa tình nhưng lại rất sợ vợ Hoàng hậu Aidada là một người đàn bà ghen có hạng, từ ngày Becon nhập vô cung, hoàng hậu Aidada cảm thấy bị rẻ rúng nên rất tức giận, thường tìm cách ám hại cung phi Becon. Hiểu tính ghen của hoàng hậu nên quốc vương Aicapcap lúc nào cũng dè dặt, ngài đã phải xây một cung điện riêng biệt cho ái phi, xa rời nơi cung đình nhiều hiểm ác. Năm 1250, quốc vương Aicapcap mắc phải một căn bịnh ngặt nghèo, bao nhiêu đại phu đều phải bó tay, lắc đầu và khuyên nhà vua nên lo liệu hậu sư.. Theo phong tục của cung đình Ai Cập thời bấy giờ, tất cả các cung nữ và cung phi đều phải chết theo quốc vương cho...có bạn. Bên giường bệnh của Aicapcap, cung phi Becon nức nở khóc, vừa thương cho quốc vương vừa tủi cho thân phận mình. Nhà vua cũng cầm lòng không đậu, ra lệnh đuổi hết người hầu chung quanh để trăn trối với người yêu: -Ái phi đừng khóc, nếu em không muốn, ta sẽ ra lệnh cho thừa tướng mang em ra khỏi nơi đây, không cần phải chết theo tạ Becon sụt sịt ôm tay Aicapcap: -Không phải em khóc vì sợ chết, em chỉ sợ không được chết chung với ngài thôi, sau khi chết ngài sẽ quên em. Nhà vua ôm lấy Becon vào lòng, ngài ngẫm nghĩ hồi lâu rồi phán: -Em đừng lo, ta đã có cách, không ai có thể chia rẽ được chúng mình, ngay cả đức Ma Ha La cũng vậy, em hãy đưa tay rạ Nói xong, nhà vua cầm lấy chiếc vòng cẩm thạch màu đỏ ái phi đang đeo trên tay, vật ngài đã tặng cho Becon khi nhập cung, ngài khấn: Nguyện xin thần Ma Ha La ban phép lành cho chúng con, để cho con tìm ra được vợ con trên chiếc vòng nàỵ Những lời nói chuyện của nhà vua Aicapcap và cung phi Becon đã được một nữ tỳ thân tín của hoàng hậu nghe rõ hết. Sau khi nhà vua băng hà ba ngày là lễ táng xác cho toàn thể cung nữ và cung phi trong một nhà mồ kiên cố. Ddây là lúc để trả thù, trước khi cung phi Becon vô nhà mồ chịu chết theo quốc vương, hoàng hậu Aidada đã sai người chặt cánh tay có đeo chiếc vòng đem đi vứt trong rừng cho thú dữ tha đị Hoàng hậu Aidada còn cẩn thận và ác độc hơn, tất cả các cung phi và cung nữ đều bị chặt cánh tay trái trước khi vô nhà mồ. Sau một tuần, khi tất cả mọi người đều bị ngạt hơi và chết trong cổ mộ, cửa mồ sẽ được mở ra và xác của các người trong mồ sẽ được đem đi tẩm liệm bằng một thứ thuốc đặc biệt bào chế bởi nhiều loại côn trùng khác nhaụ Chỉ có quốc vương và các cung phi mới được quấn vải quanh mình để giữ gìn thể xác cho khỏi thối nát. Người Ai Cập tin là sau khi quốc vương chết đi một trăm ngày, ngài sẽ sống lại, xác ướp và linh hồn vĩnh viễn tồn tại trong ngôi cổ mộ, do đó rất nhiều vàng bạc và châu báu được chôn chung với ngài để...cho ngài xài ở trỏng . Vàng bạc mà chi, danh vọng quyền thế mà chi, chết đi rồi cũng chẳng còn gì, ngay cả người yêu dấu cũng không nhận ra, Aicapcap ôm mối hận tình trong ngôi cổ mộ hàng ngàn năm cho tới khi chiếc vòng thất lạc được tình cờ xuất hiện và chẳng may thay, nó đã được đeo lên tay một cô gái, cô gái đó là Dung! Lời hứa hẹn của Aicapcap với vương phi Becon nay đã được đức Ma Ha La giám chứng. ++++

Nhắc lại Dung lúc đó đang nằm trong vòng tay của xác ướp, cô như đang nghe những tiếng leng keng va chạm từ những bước chân, những cổ chân có đeo vòng của những bóng người đưa tiễn cô, họ đang đưa cô đến gần bên cổ mộ, đến gần bên thần chết. Giữa cái sống và chết, Dung lại thấy mình rất bình tĩnh trong khung cảnh xa lạ . Các cô gái xếp hàng ngoài kia đều có sự buồn rầu thảm não hiện rõ trên nét mặt, không một ai đeo khăn voan, đi chết chung với quốc vương là một sự vinh hạnh vui mừng, ai nấy đều phải ăn mặc diêm dúạ Từng đoàn, từng hàng người cúi đầu đi bên nhaụ Xa xa, nơi cung điện êm ấm có tiếng tù và báo hiệu giờ lành đã đến. Một vài người bắt đầu lẩm nhẩm tụng kinh, có người sợ quá đã nhịn không được bật lên tiếng khóc. Một cô gái xinh đẹp bị lôi đi xềnh xệch lên phía trước trong khi cô khóc lóc thảm thiết. Tay phải cô níu chặt cánh tay trái, trên cánh tay là chiếc vòng cẩm thạch màu huyết dụ, suýt nữa Dung buột miệng la lên, cô gái đó chính là cung phi Becon. Nhưng sao lạ quá, khuôn mặt của Becon không giống Dung tí nào, Becon rất giống một người...Dung tưởng mình nhìn lầm, cô run rẩy nức lên cùng với tiếng thét của Becon khi đao phủ đưa dao lên và cánh tay rơi xuống đất. ++++ -Ai đó, phải Dung đó không? Ddức cúi đầu nhìn vô bụi rậm cùng lúc xác ướp buông lỏng tay quấn vải chiếu những tia điện lấp loáng nhìn anh. Ddức hơi sững sờ vài giây, hai cái xác ướp nhìn nhau, qua lần vải Dung sợ hãi mơ hồ nhận ra hai xác ướp thật tương xứng và giống nhau, ánh mắt họ như xẹt ra hai dòng lửa điện. Xác ướp (Aicapcap) đột nhiên ngửa mặt lên trời cười hú như điên dại, tiếng cười của nó vừa hạnh phúc vừa đau khổ, thật là khó hiểụ Trong lúc Aicapcap không để ý tới mình, Dung đưa tay hất những vòng vải trắng trên mặt để nhìn cho rõ, cô suy nghĩ thật nhanh, cánh tay cô đưa lên cao và đập mạnh xuống đám sỏi cứng đưới chân, chiếc vòng bể ra làm hai mảnh rơi ra khỏi cổ tay cộ Ddức (xác ướp giả) cùng Aicapcap đều đồng thanh la lên nhưng quá trễ. Ddức lúc này như vừa thoát khỏi cơn thôi miên, chạy lại đỡ Dung đứng lên, anh hỏi ngay: -Tại sao em làm vậỷ Dung ấp úng: -Em lo cho anh, hắn...hắn là ma, hắn là quỷ đội mồ...hắn sẽ hại anh. Vừa nói, Dung vừa chỉ tay ra phía Aicapcap. Cả Dung lẫn Ddức đều há hốc miệng, trợn mắt ngạc nhiên không tin, trước mặt họ chỉ còn một đống vải trắng bèo nhèo, chung quanh im lặng và lạnh lẽo, trong nhà Thành, tiếng nhạc vẫn còn đang sôi đô.ng...... Một năm sau, buổi tối khuya trong phòng tân hôn của đôi vợ chồng trẻ, Dung cười hỏi chồng: -Khách đông quá hả anh? Cũng may là nhà hàng còn chỗ chứ nếu không... Ddức ngồi xuống giường mệt mỏi: -Càng đông càng mệt, ma chê cưới trách, em coi, mình còn thiếu sót nhiều thứ lắm, cũng may là một đời chỉ có một lần, à, hồi nãy có mấy gói quà chưa mở, mình lấy ra coi thử nhạ Dung ngáp dài, một tay cô xoa nhẹ lên cánh tay Ddức, dấu "birthmark" màu đỏ dưới khuỷu tay trái của anh như nhắc cô nhớ lại chuyện cũ, cô lắc đầu nhắm mắt lại xua đuổi bóng ma ám ảnh. Hình như có tiếng Ddức reo vui bên cạnh: -Em xem, bác Thanh sang ghê chưa, tặng cho mình hai vé đi du lịch, vậy mà gói kỹ như hộp quà...hmmm...ủa, ai đây, Dung, coi nè... Dung mở mắt ra giựt mình: -Gì đó anh? Ahhhhh... Thì ra đó là một chiếc vòng cẩm thạch màu đỏ, giống y chang như cái vòng trước. Dung hét lên vứt nó vô góc phòng, tình cảnh ở ngôi cổ mộ năm xưa lại hiện rõ trong tiềm thức. Hoàng hậu Aidada đứng thản nhiên nhìn cảnh cung phi với cung nữ bị hành hình chính là Dung, và vương phi Becon với bộ mặt quen thuộc không ai khác hơn là người chồng cô mới cưới!!!

Chương Tất

Chương Tất là người huyện Trấn Phiên , tĩnh Thiểm Tây . Gia đình đã nhiều đời cư trú tại Thủy Ma Quan. Lúc chàng còn trẻ rất là dũng mãnh, hào sảng, lực lưỡng chăng khác gì những người mục miền Bắc. Năm mười bẩy mười tám tuổi, Chương đã dám vác cung một mình vào Bắc Sơn để bắn thỏ rừng, gà rừng. Một hôm gặp lúc trời chiều, bóng ác đã ngả về Tây, mà đường về nhà ít nữa cũng xa vài chục dặm, khó có thể về kịp, Chương bèn quyết định ở lại trong núi , nằm dưới vách đá, đánh một giấc thật say. Ðến nửa đêm, Chương bỗng tỉnh dậy , cảm thấy như có người đang lấy tay vuốt ve sờ lần hai bên má chàng. Chàng mở bừng mắt ra nhìn, dưới ánh trăng lờ mờ yếu ớt, hình như có một người nằm bên cạnh. Chương ngồi bật dậy, túm chặt lấy tay người ấy xem là ai. Té ra đó là một người con gái rất đẹp. Cô ả nằm nghiêng mình ra tận bãi cỏ đầy sương, miệng nỉ non kêu, tưởng chừng như cánh tay của ả bị Chương vặn quá mạnh , đau đớn đến nỗi chịu không nổi. Chương cảm thấy thương hại, buông tay ả ra , ả lập tức ngồi dậy , từ từ chỉnh lại áo quần. Lúc đó, Chương mới thấy thật rõ được diện mạo nhan sắc của ả. Quả đáng là một tuyệt thế giai nhân. Chương lên tiếng hỏi: - Nửa đêm khuya khoắt, cô em một mình bé bỏng, vì sao lại lạc vào chốn hoang sơn dã lãnh thế này? Ả đáp: - Nhà em ở cũng không xa, chỉ cách một dặm đường thôi, vô tình theo bóng trăng tản bộ đến đây, thấy có người ngủ say, thì đùa vui một chút, làm gì mà lỗ mãng quá vậy Chương nói: - Ðùa thì đùa chứ, sao lại vuốt má người ta. Ả bị Chương hỏi vặn không trả lời được, chỉ cúi đầu nhìn xuống đất, lặng thinh không nói. Thái độ thẹn thùng bẽn lẽn thật là khả ái của ả, khiến cho Chương lập tức lòng tà bốc hỏa, lửa dục như được gió Ðông Ngô, mắt hoa, thần tán, không dằn lòng được, bèn tìm tới vồ lấy ả ôm vào lòng , ả hết sức kháng cự, vừa vùng vằng vừa nói: - Em chả? Em chả! Nửa như thật, nửa như giả, âm thanh ngọt ngào nũng nịu. Giữa lúc hai người đang giằng co, thì con tỳ nữ đột ngột từ trong một con đường nhỏ ở trong núi đi ra, thở hổn hà hổn hển, sắc mặt vừa kinh ngạc vừa bực bội, giận dữ quát mắng : - Cái nhà anh kia, ở đâu đến đây mà lại dám bạo hành lôi kéo con gái người ta

vậy. Chương đáp: - Cô ấy tự nhào vào lòng ta đấy chứ? Ta lẽ nào lại không biết giữ lễ với người đẹp. Ðứa nữ tỳ phá ra cười lớn: - Ðã bạo hành lại còn lẻo mép . Thôi cô ơi, mình đi thôi, hơi sức đâu mà cãi lý, về nghĩ ngơi cho khõe. Nói rồi xốc nách người con gái đứng dậy dìu đi về hướng con đường nhỏ . Chương đang độ thanh xuân đa tình , không kiềm chế nổi , bèn lẳng lặng đi theo sau nữ lang và đứa tỳ nữ. Quanh co ngoắt ngoéo vượt qua một số sơn thạch lởm chởm , hang sâu vạn trượng , chừng năm sáu dặm thì đến một khu rừng thông, thấy có vài ngôi nhà ngói cao lớn, chung quanh được rào cẩn mật bằng những hàng tre xanh. Khi nữ lang và đứa tỳ nữ đi vào trong nhà, Chương bèn vào theo Ðứa tỳ nữ nghe thấy tiếng chân người, hồi ngoảnh lại, bắt gặp Chương , liền mỉa mai châm biếm : - Người đâu có thứ mặt dầy mày dạn, đêm hôm khuya khoắt vào nhà người ta, tính dở trò gì đấy ? Nữ lang cũng vén tay áo lên che miệng, cười khe khẽ, phụ họa: - Xem chừng chẳng gian dâm thì cũng đạo tặc, chứ còn làm gì ! Giọng nói nũng nịu, êm dịu khả ái của nàng, nghe như chim oanh hót mùa Xuân. Chương chắp tay hành lễ , vái chào nữ lang, đáp: - Tiểu sinh thất lỗi với quý nương , nén xin mạo muội để vai trần vào đây chuộc tội, nào đâu dám gian tay đạo gì ? Tỳ nữ nói : - Ờ thế thì có biết đối không ? Chương hỏi lại: - Nếu như biết đối thì sao? Tỳ nữ:

- Tiểu thư thiên sinh lệ chất, tuổi vừa hai tám , đơn thân cánh chiếc, muốn tìm người lan ngọc kết tóc xe tơ, nên việc gia thất đến nay còn chưa định. Nhưng tiểu thư có làm hai câu đối và thề rằng hễ ai đối được thì nguyện lấy làm rể đông sàng. Chương từ bé vốn ham chuộng võ nghệ, chữ nhất bẻ đôi không biết, nói chi đến việc làm câu đối, nhưng chàng lẽ nào để mất người đẹp, bèn cứ mạnh bạo đáp: - Xin cứ ra câu đối, biết đâu chẳng đối được. Tỳ nữ cười tủm tỉm nói: - Vậy ra cũng có ý muốn làm rể đông sàng rồi ! thật là việc hay, xin tiểu thư cứ việc viết câu đối ra đi. Bấy giờ nữ lang bèn viết câu đối vào một tờ giấy hoa tiên, rồi đưa cho tỳ nữ trao cho Chương. Tỳ nữ lớn tiếng đọc: " Chức nữ tinh thần vĩnh tương khuê, thả nhất niên lưỡng hội." Nguyên ý nghĩa của câu đối là sao Chức Nữ bị cách ly vĩnh viễn, song một năm được gặp nhau hai lần. Sở dĩ Chức Nữ gặp nhau hai lần là vì đó là năm nhuận có hai tháng bẩy. Căn bản Chương chẳng hiểu rõ gì về câu đối, nên có ý xấu hổ, mặt bừng đỏ như lửa đốt, rồi không thể chịu nổi, đưa mắt nhìn tỳ nữ ra dấu cầu cứu. Tỳ nữ hiểu ý Chương, kín đáo khẽ nhắc khéo cho Chương: " Lê hoa nguyệt ngọ thường độc tọa, mỗi bán dạ tam canh." Chương nhắc lại lời tỳ nữ nhưng chỉ được nửa câu là ấp a ấp úng, như đàn đứt giây không đọc được tiếp, lại còn sai mất hai chữ. Tỳ nữ không nhịn được cười, vội vã lấy tay áo lên che miệng. Nữ lang cũng tủm tỉm cười, nói: - Ðây hẳn là con tỳ nữ này chỉ bậy rồi! Tỳ nữ đáp: - Người ta đã ngọng líu ngọng lô, lại không phải học trò, xin tiểu thư miễn thứ phần nào. Nữ lang bèn nghe lời tỳ nữ, lưu giữ Chương lại khuê phòng, cùng chàng chung chăn gối, ân ái mặn bùi. Lại tiếc đã chẳng gặp nhau sớm hơn.

Nữ lang tặng Chương một chiếc kim xuyến, còn Chương tặng lại nàng một chiếc ngọc quyết để đeo giữ bên người. Nữ lang thông minh một cách đặc biệt, nhưng chỉ phải cái tính tham ăn kinh người, nhất là thịt thú vật thì phải bằng hai người lực lưỡng, và cho dù đã no kềnh bụng mà thịt dư của người khác ăn rồi lại, nàng đều đánh tuốt. Chương yêu say cái nhan sắc diễm kiều của nàng, nên cũng chẳng hề lấy làm kỳ lạ. Mỗi khi đi săn về, thịt thú vật Chương thường dành cho nàng phần lớn để cho nàng vui lòng. Nữ lang và tỳ nữ cứ cách một ngày lại ra đi một lần, mãi đến lúc tối trời mới trở về. Chương có hỏi thì nàng chỉ đáp: - Thiếp có người chị góa chồng cư trú một mình ở Ðại Hoàng Sơn, đơn thân độc chiếc, rất đáng thương, nên thiếp thường phải đến thăm nom hỏi han chút đỉnh. Chương nghe nói đến Ðại Hoàng Sơn thì sợ hãi thất sắc nói: - Ðại Hoàng Sơn là hang ổ của loài chồn sói, vì sao khanh thỉnh thoảng lại đi đến đó, mà tới chiều mới về , không sợ chồn sói nó ăn thịt hay sao ? Nữ lang chỉ lặng im không đáp, cứ đi về như cũ khiến cho Chương thập phần lo lắng, lại e nàng có ngoại tình, xin được cùng nàng cùng đi. Nhưng nữ lang cương quyết cự tuyệt . Chương bảo thầm trong bụng, sói tuy là giống vật giảo hoạt, nhưng tham ăn, gặp thức ăn là ăn liền. Trên người chàng thường sẵn có một túi hạt mộc biệt có độc tính rất nặng, chàng bèn đem trộn với thịt dê nướng rồi đem bỏ ra ngoài sơn lộ, suốt từ Bắc Sơn đến Ðại Hoàng Sơn, khoảng chừng mười hai chỗ, nhưng mong có thể giết được sói để bảo vệ cho vợ. Một hôm nữ lang cùng tỳ nữ ra đi, nhưng suốt đêm Chương không thấy nàng trở về, trong lòng lo lắng không sao chợp được mắt, cứ ngồi trông ngóng. Mãi đến lúc trời đã rạng sáng vẫn chưa thấy bóng nữ lang và tỳ nữ. Chương càng thêm bối rối kinh hoàng, bèn sách cung tên vào núi Ðại Hoàng Sơn. Nửa đường, chàng gặp hai cái xác sói nằm chết trong một bụi cỏ. Những miếng thịt dê tẩm độc của chàng chưa bị sói ăn hết. Chàng cho là mình đã giết được hai con sói ấy, nên kéo xác chúng bõ vào trong rừng. Chính lúc Chương ngẩng đầu lên nhìn thì thấy hai bộ quần áo đàn bà phất phơ trên một cành cây. Chàng nhận ra đó là chính là bộ y phục của nữ lang và đứa tỳ nữ lòng rụng rời sợ hãi, đầu toát mồ hôi lạnh. Chương kéo những bộ quần áo ấy xuống để xem xét lại cho kỹ, bỗng nghe có vật rơi vào đá đánh "keng"

một tiếng. Chàng cầm lên coi, thì ra chiếc ngọc quyết mà chàng đã tặng cho nữ lang lúc buổi đau gặp gỡ, lại càng khiến Chương kinh hoàng thêm, vội vã thu thập quay trở về nhà. Về đến chốn cũ thì nhà cao cửa rộng đều biến đâu mất. Chỗ Chương và nữ lang chung sống té ra chỉ là một cái hang sói, nước chảy chung quanh, hoang sơn u tịch, cỏ cây tiêu điều . Bấy giờ chàng mới biết rõ là người tình của chàng chỉ là con sói cái thành tinh mà ra . Chương khóc than thương tiếc hồi lâu, tìm đường trở về Trấn Phiên, suốt đời không lấy người nào nữa.

Chút Nửa Sẽ Gặp

Câu chuyện này hoàn toàn có thật, vì chính tôi là nhân chứng. Tôi sẽ nhớ mãi sự việc này đến suốt cuộc đờị Vào ba năm trước, khi tôi còn học tại trường Ðại Học thuộc tỉnh Albertạ Trong thời gian này, tôi có rất nhiều bạn nhưng không có ai là người bạn tốt như Sương, nàng là một người con gái rất thông minh và xinh đẹp. Sương theo ngành Microbiology (tạm dịch là Vi Trùng Học) và nàng cũng là người rất mê say phim ảnh. Ngoài ra, Sương là người thích chơi những trò chơi mạo hiểm, như là những môn thể thao rất cực kỳ khó tập. Tôi và Sương rất hợp rơ với nhau vì chúng tôi đều thích cùng một món ăn, thích nghe cùng một thứ nhạc và đôi khi thích mặc những quần áo theo thời trang. Vì vậy chúng tôi thường đi ăn và đi xem phim với nhaụ Có một ngày, Sương và tôi cùng đi dự một buổi tiệc. Hôm đó, Sương uống một ít champane và hơi ngà ngà saỵ Tôi không muốn Sương lái xe về một mình cho nên mới nhờ thằng bạn của tôi tên là Chánh đưa nàng về dùm. Chánh chịu đưa Sương về, nhưng nàng không muốn và cứ đòi lái xe về một mình. Năn nỉ mãi, cuối cùng Sương đồng ý. Nhưng trước khi ra về Sương còn vẫy tay từ giã và nàng nói: - Chút nữa sẽ gặp. Tôi đáp lại: - Ðừng có nôn mữa trên xe của Chánh nghe chưả!! . Ngoài ra tôi cũng rất là lo lắng cho Sương. Qua nhiều ngày suy nghĩ tôi dự định sẽ nói cho Sương biết là tôi rất thích đi chơi với nàng và tôi hy vọng sẽ hỏi Sương rằng nàng có chịu làm bạn gái của tôi không. Ðã đi chơi với nhau nhiều lần nên không có gì là lạ nếu chúng tôi có nẩy sinh cảm tình. Trở lại đêm hôm đó, về tới nhà khoảng 12:04, nằm trên ghế nệm dự định xem TV một chút rồi mới đi ngủ, tôi bỗng nhiên nghe điện thoại reo, khi nhắc lên thì nghe giọng nói của Sương . Tôi hỏi nàng có chuyện gì vậy, thì Sương trả lời rằng: - Không có gì. Bây giờ thì mọi chuyện điều được êm xuôị Có lẽ Sương đang dùng điện thoại cầm tay nên nghe hơi rè rè, hay có thể nàng đang bị kẹt lại ở nơi nào đó không chừng. Rồi những ý nghĩ phủ định bắt đầu quay cuồng trong trí óc tôi "Không biết Chánh (thằng bạn của tôi) có làm gì bậy không?. Sương có gặp rủi ro gì không?." Tôi vội hỏi han xem nàng có chuyện gì không may xảy ra cho nàng không, và tôi còn hỏi nàng có cần tôi đến rước không. Nhưng Sương trả lời: - Không, không, đâu có chuyện gì đâụ Sương chỉ gọi để cho anh hay là không có chuyện gì xảy ra cho Sương hết, và Sương muốn nói thêm với anh rằng cho

Sương xin lỗị Ðáng lẽ Sương phải nghe theo lời của anh. Khi nghe nàng nói như vậy thật tình tôi không hiểu ý của Sương muốn nói gì, nhưng tôi cũng đáp lại: - Không sao! Bất cứ chuyện gì Sương làm anh đều sẽ tha thứ hết. Sau đó nàng nói: - Cám ơn, Sương biết anh sẽ tha thứ cho Sương mà. Love ya buđỵ Hey, một chút nữa sẽ gặp . Rồi thì đường giây bỗng dưng bị cắt ngang, không còn nghe gì được nữạ Tôi cứ nói hello, hello hoài nhưng không thấy trả lờị.. Sau khi nói chuyện với Sương xong, tôi cảm thấy trong người dường như nhẹ nhõm vì biết Sương có lẽ đã an toàn về nhà... Tôi vừa suy nghĩ vừa gác điện thoại xuống thì điện thoại lại reo lên tức thì. Tôi nhấc nhanh điện thoại, lần này thì nghe tiếng của Chánh (thằng bạn của tôi). Tôi chưa kịp hỏi thì Chánh đã nói với một giọng run run và hối thúc: - Ðến nhà thương nhanh lên. Tôi vội hỏi: - Ðể làm gì. Chánh đáp với một giọng run rung đứt quãng: - Ðã xảy ra chuyện không may rồi Kiệt! Sương đòi lái xe về một mình và... tao đã cố gắng... tin tao đi, tao đã cố gắng không cho Sương lái về. Nhưng Kiệt, nàng muốn... nàng muốn.... Tôi đã biết được những gì Chánh sắp nói rạ Và chưa kịp nói bye với Chánh tôi đã vội gác điện thoại xuống rồi chạy ra xe lái thẳng đến bệnh viện. Nhưng... Sương đã tắt thở.... Tôi đứng bên cạnh thân xác của nàng rồi ôm mặt khóc. Sương bị đụng xe vào lúc 12: 02, khi nàng gọi điện thoại cho tôi là khoảng 12:06. Nàng đã tắt thở trên đường đến bệnh viện. Như vậy không phải Sương đã gọi cho tôi mà là linh hồn của nàng. Tôi nghĩ rằng, đêm hôm đó nàng gọi cho tôi để từ giã... Sau này tôi mới hiểu tại sao nàng lại nói xin lỗi với tôị Sự việc này đã xảy ra cách đây ba năm, nhưng tôi không muốn cặp bồ với ai nữạ Thỉnh thoảng tôi ra thăm mộ nàng. Ðặt bó hoa trên mộ, tôi thì thầm: "Íll always love you, Sương. I will see you in a bit..." Rồi quay bước đi về.

Cô gái áo xanh

Chàng họ Vu tên Cảnh, tự là Tiểu Tống, người Ích Ðô, ở nhờ chùa Lễ Tuyển để học. Ban đêm Cảnh đang giở sách ra đọc, bỗng một cô gái đứng ngoài song cửa khen: - Vu tướng công chăm học làm sao! Vu tự nghĩ ở chốn núi sâu làm gì có con gái. Còn đang nghi ngại, cô gái kia đã đẩy cửa bước vào cười bảo: - Chăm học làm sao! Vu sửng sốt đứng dậy, nhìn xem thì thấy một nàng áo xanh, váy dài, mềm mại xinh xắn không ai sánh được. Vu biết không phải là người, cố vặn hỏi quê quán, nàng đáp: - Chàng nhìn thiếp chẳng phải là kẻ cắn nuốt người, việc gì phải hỏi đến cùng cho mệt! Vu lòng thấy mến, bèn ngủ chung. Cởi đến chiếc áo lót bằng lụa thì eo lưng nàng nhỏ chưa đầy hai chít tay. Ðêm gần tàn, nàng đã nhẹ nhàng ra đi. Từ đó không đêm nào không tới. Một đêm cùng uống rượu, trong lúc chuyện trò cô gái tỏ ra rất sành âm luật. Vu nói: - Giọng nàng nhỏ mượt, nếu ca một khúc ắt khiến người nghe tiêu hồn! Cô gái cười: - Chẳng dám ca, sợ tiêu mất hồn chàng mà thôi! Vu cố nài, nàng nói: - Thiắp chẳng tiếc sén gì đâu, chỉ sợ người khác nghe được. Nếu chàng đã thích thì xin dâng chút tài mọn, nhưng chỉ hát nhỏ thôi nhé! Nói rồi gót sen nhà nhẹ gõ nhịp vào chân giường mà hát rằng: Cành cữu tiếng chim kêu, Giữa đêm em chạy tản, Chẳng hờn ướt giày thêu, Chỉ sợ chàng không bạn. Tiếng hát khẽ như tiếng nhặng, nghe kỹ mới nhận biết được. Nhưng lắng nghe thì giọng hát uyển chuyển trơn ấm, tai nghe mà lòng rung động. Cô gái hát xong, mở cửa nhòm ra, bảo: - Ðề phòng ngoài song có người.

Lại đi vòng quanh nhà xem xét rồi mới trở vào. Chàng hỏi: - Sao nàng lại lo ngờ quá thế ? Cười đáp: - Ngạn ngữ có câu: Ma sống trộm thường sợ người, thân phận thiếp là thế đấy! Lát sau đi ngủ, buồn bã không vui, nói: - Chút phận bình sinh có lẽ chấm dứt ở đây chăng? Vu vội hỏi han, cô gái nói: - Thiếp thấy lòng hồi hộp quá, lộc của thiếp e hết rồi. Vu an ủi: - Hồi hộp trong lòng hay máy mắt là chuyện bình thường, sao vội nói thế ? Cô gái hơi yên lòng bèn cùng nhau ân ái. Ðêm tàn, nàng khoác áo bước xuống giường. Ðang định mở cửa thì cứ bồn chồn vào ra, nói: - Không hiểu sao lòng thiếp tự nhiên thảng thốt khiếp sợ, xin tiễn thiếp ra khỏi cửa. Vu trở dậy, đưa nàng ra tận ngoài cửa. Nàng dặn: - Chàng đứng đây trông cho thiếp. Thiếp vượt khỏi tường này rồi hẵng vào. Vu đáp: - Ðược rồi. Trông thấy nàng vừa ngoặt khỏi hành lang đã bặt tăm, không thấy đâu nữa. Vu đang định quay vào ngủ thì nghe nàng kêu cứu rất gấp. Vu vội chạy đến nhìn quanh, không thấy đâu, nhưng tiếng kêu vọng ra từ mái hiên. Ngẩng đầu nhìn kỹ thì một con nhện to bằng viên đạn đang chộp bắt một sinh vật nhỏ; tiếng kêu vo ve đau đớn. Vu phá mạng nhện, khều xuống, gỡ bỏ những sợi tơ nhện chằng trói, thì ra là một con ong xanh thoi thóp sắp chết. Mang về phòng, đặt ở đầu bàn. Con ong hồi tỉnh, một lúc mới bò được; nó thong thả leo lên nghiên, nhúng chân vào mực rồi leo ra đậu trên tràng kỷ, bò thành chữ "tạ" rồi chớp cánh mấy lần mới xuyên qua cửa sổ mà bay đi, từ đó không trở lại nữa.

Cô gái nghĩa hiệp

Thư sinh họ Cố người Kim Lăng, học rộng tài hoa, nhưng nhà rất nghèo, lại vì có mẹ già không nỡ rời dưới gối, nên hàng ngày chỉ vẽ thuê viết mướn kiếm ăn. Ðã hai mươi lăm tuổi mà vẫn phòng không lạnh lẽo. Trước cửa nhà chàng là một ngôi nhà bỏ hoang từ lâu, một hôm có một bà già cùng một cô gái đến thuê để ở. Vì thấy không có đàn ông, nên chàng cũng chưa tiện thăm hỏi gốc tích của họ. Một hôm tình cờ từ ngoài về, chàng gặp cô gái trong phòng mẹ đi ra, tuổi chừng mười tám mười chín, xinh đẹp, thanh tú, trên đời ít có người sánh kịp. Gặp chàng, cô không tránh mặt nhưng có vẻ nghiêm lạnh. Chàng vào nhà hỏi mẹ, bà bảo: - Ðó là cô gái ở nhà trước cửa, sang mượn thước và kéo may. Cô vừa cho biết nhà cũng chỉ có một con một mẹ. Trông cô có vẻ không phải con nhà nghèo. Hỏi sao không lấy chồng, đáp vì còn mẹ già. Ðể mai mẹ sang chào bà cụ, nhân tiện dò ý xem sao. Nếu ước vọng của họ không cao xa quá thì con có thể phụng dưỡng mẹ già thay nàng. Hôm sau bà qua nhà cô gái, thấy mẹ nàng là một bà lão điếc. Nhìn trong nhà, tịnh không còn một bữa gạo cho ngày mai; hỏi cách sinh sống thì chỉ trông nhờ vào hai bàn tay cô gái. Dần dà mẹ chàng đem chuyện kết thân giữa hai nhà ra ướm hỏi; bà cụ ý như cũng bằng lòng, nhưng còn quay sang bàn bạc với cô gái; nàng nín lặng, xem chừng không được vui. Mẹ về, kể lại cho con nghe và tỏ ý ngờ vực nói: - Hay là cô ấy ngại nhà mình nghèo chăng? Tính tình nghiêm nghị không nói không cười, xinh như đào mận mà lại lạnh lùng như sương tuyết, thật là người kỳ lạ! Mẹ con than tiếc một lúc rồi cũng bỏ qua. Một hôm chàng ngồi ở phòng, bỗng có một thiếu niên đến nhờ vẽ tranh. Chàng ta dung nhan đẹp đẽ nhưng ý tứ thì khá buông tuồng. Hỏi ở đâu đến, đáp là ở thôn quê. Sau đó vài ba ngày lại đến một lần. Lâu dần thành quen, cười đùa cợt nhã. Chàng suồng sã ôm choàng lấy, cũng không chống cự gì lắm, liền tư thông với nhau. Từ đấy đi lại rất thân thiết. Gặp khi cô gái đi ngang, thiếu niên đưa mắt nhìn, hỏi là ai, chàng đáp: - Cô hàng xóm. Thiếu niên nói: - Ðẹp thì đẹp thật, mà sao thần sắc đáng sợ thế! Lát sau chàng vào nhà trong, mẹ bảo:

- Vừa rồi cô gái sang xin gạo, nói đã hai ngày bếp không đỏ lửa. Cô gái thật có hiếu nhưng nhà nghèo quá, kể cũng đáng thương, ta cũng nên chu cấp ít nhiều. Chàng nghe lời, mang đấu gạo sang, gõ cửa nói lại ý mẹ. Cô gái nhận gạo cũng không cảm tạ. Hàng ngày nàng sang nhà, thấy mẹ chàng may vá, cũng vá áo xâu kim giúp mẹ. Ra vào trong nhà, làm lụng mọi việc như con dâu. Chàng càng thêm biết ơn nàng, mỗi khi có ai biếu xén thức gì đều chia ra biếu lại mẹ nàng. Cô gái vẫn không hé răng nói một lời cảm tạ. Bỗng nhiên mẹ chàng mọc cái nhọt ở chỗ kín, đêm ngày kêu khóc. Cô gái thường xuyên đến tận giường chăm sóc, rửa mụn bôi thuốc cho bà, ngày ba bốn bận. Mẹ rất áy náy nhưng cô không nề hà chuyện bẩn thỉu. Mẹ nói: - Ôi, làm sao có một nàng dâu như con trông nom mẹ lúc tuổi già, để chết cho mát mẻ đây! Nói xong, buồn bã nghẹn ngào. Cô gái an ủi bà rằng: - Anh nhà là người con chí hiếu, còn hơn cảnh nhà cháu mẹ goá con côi gấp trăm lần. Mẹ nói: - Tới lui hầu hạ bên giường, nào phải là việc người con trai hiếu làm nổi đâu. Vả lại, thân này cũng đã xế chiều, hôm trái nắng trở trời chẳng biết thế nào nên rất khắc khoải về một người nối dõi. Ðang nói thì chàng vào, mẹ khóc bảo: - Mẹ mang ơn nương tử nhiều lắm, con chớ quên báo đáp. Chàng cúi đầu vái tạ. Cô gái nói: - Chàng kính trọng mẹ tôi, tôi không vái tạ, chàng vái tạ làm gì? Do đấy chàng càng thêm kính yêu, nhưng cử chỉ nàng rắn rỏi, không đằm thắm, nên mảy may chẳng sàm sỡ được. Một hôm cô gái ra khỏi cửa, chàng đăm đăm nhìn theo. Nàng bỗng quay đầu lại cười tươi tắn. Chàng mừng rỡ vì việc xảy ra đến ngoài ý muốn, bèn chạy theo sang nhà; chọc ghẹo cũng không kháng cự, vui sướng cùng giao hoan. Xong xuôi, nàng dặn: - Việc này chỉ một lần, không có lần thứ hai đâu nhé! Chàng không đáp, ra về. Hôm sau, lại hẹn, thì nàng nghiêm nét mặt, không ngoái nhìn, đi thẳng. Ngày ngày nhiều lần qua lại, thường gặp nhau luôn, nhưng nàng không hề làm bộ tươi cười hay dùng lời đưa đẩy; hơi đùa cợt một chút đã nghe những câu lạnh người. Một hôm, nhân chỗ vắng người, nàng chợt

hỏi: - Chàng thiếu niên hàng ngày vẫn đến là ai thế? Chàng kể tình đầu; nàng bảo: - Ðã nhiều lần y có những cử chỉ, thái độ vô lễ với thiếp rồi. Vì là chỗ thân quen với chàng nên thiếp đành bỏ qua. Nhờ chàng chuyển lời; nếu còn tái phạm tức là không muốn sống nữa đấy! Ðến tối, thiếu niên tới, chàng nói lại, rồi dặn thêm: - Anh phải cẩn thận, người ấy không đụng đến được đâu! Thiếu niên nói: - Không đụng đến được, sao anh lại đụng được? Chàng chối là không có chuyện ấy, thiếu niên nói: - Nếu không có gì sao những lời thô lỗ cợt nhả kia lọt vào tai anh được? Chàng không còn biết nói thế nào. Thiếu niên nói: - Cũng phiền anh chuyển lời hộ: Cô nàng đừng giả vờ nghiêm nghị nữa. Nếu không tôi nói toạc ra cho mọi người cùng biết. Chàng rất giận, đỏ mặt tía tai. Thiếu niên bèn bỏ đi. Một đêm, chàng đang ngồi một mình, bỗng nhiên cô gái tìm đến, cười bảo: - Em với chàng tình duyên chưa dứt, lẽ nào không phải là số trời? Chàng mừng cuống lên, ôm nàng vào lòng. Ðột nhiên, nghe tiếng giày lộp cộp, hai người giật mình nhổm dậy, thì thiếu niên đã xô cửa bước vào. Chàng kinh hải hỏi: - Cậu làm gì vậy? Anh ta cười đáp: - Tôi đến để xem con người trinh trắng đấy thôi. Rồi ngoái nhìn nàng nói: - Hôm nay không chê trách người khác nữa ư? Cô gái đỏ lừng gò má, lông mày dựng đứng lên, không nói một lời. Nàng hất mạnh vạt áo, để lộ một chiếc bao da, thuận tay rút phắt ra một con dao găm

sáng loáng, dài chừng một thước. Thiếu niên trông thấy, sợ hãi bỏ chạy. Ðuổi theo ra đến cửa, nhìn quanh, thì đã mất hút. Nàng cầm dao găm ném vào khoảng không, chỉ nghe một tiếng "rạt" đã thấy hiện ra một luồng sáng rực rỡ như cầu vồng. Lát sau nghe tiếng một con hồ trắng, đầu và mình mỗi thứ văng một nơi, nhìn mà thất kinh. Cô gái nói: - Anh bạn đẹp trai của chàng đó. Tôi đã dằn lòng tha thứ, nhưng hắn nhất định không muốn sống thì biết làm thế nào? Rồi nàng cất dao vào bao. Chàng cố kéo trở vào phòng, nàng bảo: - Vừa rồi yêu quái làm mất cả hứng, xin để đêm mai. Nói đoạn ra cửa đi thẳng. Ðêm sau, quả nhiên cô gái lại đến, bèn cùng nhau ân ái. Hỏi về kiếm thuật, nàng đáp: - Ðó không phải là điều chàng nên biết. Hãy giữ kín, nếu lộ ra, e tai vạ đến chàng. Lại bàn chuyện hôn nhân, cô gái nói: - Ðã chung chăn gối, lại lo liệu việc nhà, không phải vợ thì còn là gì? Ðã là vợ chồng hà tất phải nói đến cưới hỏi. Chàng hỏi: - Hay là chê tôi nghèo? Nàng đáp: - Chàng đã đành là nghèo, nhưng thiếp giàu sao? Sum vầy đêm nay, chính là thương chàng nghèo đấy thôi. Khi chia tay lại dặn: - Việc làm cẩu thả này không thể thường luôn được. Lúc nên đến, thiếp sẽ tự đến, không nên đến thì ép buộc nhau có ích gì! Về sau mỗi lần gặp gỡ, hễ chàng nói chuyện riêng tư là cô gái lại tránh đi. Tuy nhiên, việc vá may nấu nướng vẫn một tay nàng quán xuyến, không khác gì người vợ chính thức. Ðược mấy tháng, mẹ nàng chết, chàng dốc sức lo việc ma chay. Từ đó, nàng ở nhà một mình. Chàng nghĩ phòng không bóng chiếc có thể tính chuyện chung chạ được, bèn nhảy qua tường mà vào, đến bên cửa sổ gọi mãi, nhưng rốt cuộc chẳng một ai thưa. Bèn lại cửa chính nhòm vào thì nhà trống không mà cửa vẫn cài. Trộm ngờ cô gái có nơi hò hẹn nào khác. Ðến đêm, lại tới, vẫn y như vậy, bèn tháo viên ngọc vẫn đeo bên mình để lại trên cửa sổ rồi đi. Hôm sau gặp nhau ở buồng mẹ. Khi chàng đi ra, cô gái theo sau, nói:

- Chàng ngờ thiếp ư? Mỗi người đều có tâm sự riêng, không thể nói hết với người khác. Nay dẫu muốn chàng hết ngờ cũng đâu có được. Nhưng có một việc phiền chàng lo liệu gấp. Hỏi việc gì, đáp: - Thiếp có mang đã tám tháng rồi, e sinh nở nay mai. Nhưng danh phận của thiếp chưa rõ ràng, chỉ có thể sinh con cho chàng chứ không thể nuôi con cho chàng được. Chàng hãy thưa riêng với mẹ lo tìm một người vú nuôi, nói dối là con xin được chứ đừng nói là con do thiếp sinh ra. Chàng nhận lời, về kể lại với mẹ, bà cười bảo: - Con bé này kỳ thật! Hỏi cưới thì không chịu, mà lại ăn vụng với con mình. Bà vui mừng làm theo ý nàng và chờ đợi. Lại cách hơn một tháng, có đến mấy ngày cô gái không sang. Mẹ lấy làm ngờ, đến cửa nhòm xem thì cửa đóng mà nhà vắng lặng. Gõ cửa hồi lâu mới thấy cô gái đầu bù tóc rối, mặt mũi không rửa, từ trong buồng bước ra, mở cửa cho bà vào xong, đóng lại ngay. Vừa vào trong nhà đã nghe tiếng trẻ khóc oe oe trên giường. Bà kinh ngạc hỏi: - Con sinh từ bao giờ vậy? Nàng thưa: - Ðã ba ngày. Giở tã lót ra xem thì là đứa bé trai, má bụ bẫm trán rộng, bà vui mừng nói: - Con đã vì già mà nuôi cháu; một mình lênh đênh, rồi sẽ nương tựa vào ai? Cô gái nói: - Ðiều con canh cánh trong lòng, chẳng dám phơi bày cùng mẹ. Ðợi lúc đêm hôm vắng vẻ sẽ cho cháu về với bà. Mẹ về nói chuyện với con trai, cũng thầm cho là lạ. Ðến đêm, bế đứa trẻ về. Lại mấy đêm sau, vào khoảng nửa đêm, cô gái bỗng gõ cửa, bước vào, tay xách chiếc túi da cười nói: - Việc lớn của thiếp đã xong rồi. Từ nay xin vĩnh biệt! Chàng vội hỏi duyên cớ, nàng nói: - Công ơn nuôi mẹ thiếp vẫn khắc sâu trong dạ. Trước đây từng nói "Chỉ một lần thôi, không có lần thứ hai" không phải có ý đem việc chung đụng gối chăn

ra để báo đáp. Chỉ vì chàng nghèo không thể lấy được vợ nên gắng sinh cho chàng một đứa con để nối dõi. Những mong chỉ một lần là thành, chẳng ngờ lại thấy có kinh nên phải "phá giới" lần thứ hai. Nay ơn chàng đã đền, chí thiếp đã toại, chẳng còn gì ân hận nữa! Hỏi: - Trong túi có vật gì đấy? Ðáp: - Ðầu kẻ thù! Hé ra cho nhòm, thì râu tóc bết vào nhau mà máu loang nhoè nhoẹt. Chàng sợ muốn đứt hơi, lại hỏi kỹ thêm. Nàng nói: - Trước đây không dám nói với chàng, vì sợ nếu chuyện không giữ kín được sẽ lộ ra. Nay việc đã xong, kể chàng nghe cũng chẳng hại gì. Thiếp vốn người Chiết Giang, cha làm quan Tư mã bị kẻ thù hãm hại, nhà cửa bị tịch biên. Thiếp phải cõng mẹ già đi trốn, ẩn giấu họ tên, chôn vùi tung tích đã ba năm rồi. Sở dĩ không báo thù ngay chỉ vì mẹ đang còn. Ðến khi mẹ mất, lại vướng "khối thịt" đang mang trong bụng. Vì thế cứ nấn ná mà thành lâu. Ðêm hôm nọ đi vắng, chẳng có duyên có gì khác, chỉ vì đường sá cổng ngõ chưa thông thuộc, sợ có sự nhầm lẫn mà thôi. Nói xong, ra cửa, lại dặn rằng: - Ðứa con thiếp sinh ra, hãy chăm sóc cẩn thận! Chàng phúc mỏng, chẳng sống lâu được, con rồi sẽ làm rạng rỡ cửa nhà. Ðêm khuya đừng làm kinh động đến mẹ, thiếp đi đây! Chàng đang rầu rĩ, toan hỏi đi đâu thì nàng đã vụt đi nhanh như chớp, chỉ nháy mắt đã không thấy đâu nữa. Chàng than tiếc, đứng sững như kẻ mất hồn. Sáng hôm sau kể lại với mẹ, hai mẹ con cứ tấm tắc là chuyện lạ lùng. Ba năm sau quả nhiên chàng mất. Ðứa con mười tám tuổi đỗ Tiến sĩ, phụng dưỡng bà nội cho đến hết tuổi già.

Con Dao Chọc Tiết

Câu chuyê.n xảy ra tại một ngôi làng kia có tên là làng Doị Dân làng ở đây sống bằng nghề mổ thịt và được cha truyền con nối từ đời này sang đời khác, có nhà đến 5-6 đời liền chuyên làm nghề mổ thịt. Làm nghề này họ cần phải có những con dao thật bén và nhọn. Mũi dao nhọn dùng để chọc tiết, mũi dao bén để cắt thịt. Có nhìn những bà, những cô hàng thịt mới biết đô. bén của lưỡi dao như thế nàọ Con dao đưa tới đâu thịt của con vật bị cắt đứt ngay đến đó. Chặt xương như chặt bùn. Những người làm nghề mổ thịt thường là dân xóm Chợ Trong xóm này có gia đình ông Giang chuyên làm nghề mổ thịt, nay đã 5 đời, cha truyền con nối chỉ dùng 1 con daọ Con dao dùng nhiều nên lưỡi mòn, bản dao thu hẹp lai chỉ còn khoảng 1 phần tư của con dao lúc mới làm nhưng nó vẫn còn bén vô cùng. Ông Giang nói ông nội của ông, cha ông và ngay chính ông đều dùng con dao này dể làm thịt. Nhìn con dao ai cũng biê't là bén vô cùng. Ai sơ ý trúng vô nó là đứt tay ngaỵ Ông Giang nay đã ngoài năm mươi, con trai ông là Lập nay cũng tiếp tục nghề mổ lợn. Mỗi ngày ông hạ thịt ít nhất là hai ba con lợn để cho vợ ông và chị Lập (vợ của anh Lập) đi bán. Ngoài ra cô Đinh là con gái ông cũng đem thịt lợn ra bán ở những chợ gần nhà. Ông Giang chọc tiết lợn rất tài, chỉ cần một nhát dao là trúng ngay huyệt, máu chảy ra òng ọc và con lợn cũng mau chết, it' rên la hơn những con lợn bị mấy ông đồ tể khác chọc tiết sai huyệt. Anh Lập được cha truyền cho, chọc tiết lợn cũng rất chính xác. Từ ngày ông Giang năm mươi lăm tuổi ông giao hẳn công việc này cho vợ chồng anh Lập và cô Đinh. Hai người đàn bà con gái này lấy tiết cũng taì tình không thua gì ông Giang và anh Lập. Lần đầu tiên phụ trách công việc lấy tiết, cả chị Lập và cô Đinh đều thấy rợn taỵ Nhưng chỉ sau 1 lần cả hai chị em đều thấy lấy tiê't 1 con lợn sống còn dễ hơn mổ xẻ 1 con lợn đã làm lông. Diều lạ lùng là cả hai người khi cầm tới con dao gia truyê' n kề vào cổ con lợn đều cảm thấy như có một sức mạnh vô hình nào điê'u kiển tay dao của mình thọc huyết con lợn rất trúng huyệt. Chi Lập nói với chồng: - Lạ lắm anh à, không cầm tới con dao chọc tiết thì thôi, cầm tới là em chỉ muốn được "lấy tiết" Cô Đinh cũng nói: -Em cũng vậy chị ạ! Cầm tới con dao ấy, được chọc tiết 1 vài con lợn là điều thích thú. Không có lợn, giá có người cho em "lấy tiết" em cũng lấy, em tưởng tượng con người lúc ấy cũng chỉ là một con lợn cho em mổ thịt. Con dao như có thần. Anh Lập nói: -Con dao này từ đơì các cụ truyền lại tới nay đã có hàng vạn con lợn bị nó lấy tiết, làm lông rôì. -Chắc là có thần, chị Lập nói, thần dao chắc ưa máu lợn lắm ! Anh Lập hơi suy nghĩ, anh nhớ lại câu chuyện Nam Du Huê Quang. Huê Quang có nhiệm vụ trừ yêu quái lúc đó xuất hiện nhiều ở phương Nam, trong số những yêu quái có một con yêu do thanh long đao của Quan Vân Trường biến thành. Thanh Đao vì đã chém nhiều đầu giặc, thấm máu người biến thành yêu và chỉ thích ăn thịt ngườị Còn con dao chọc tiết lợn nhà anh, đã trải qua mấy đời cha truyền con nối với hàng vạn con lợn bị nó chọc tiết làm lông mổ thịt, máu lợn phải thấm vào nó, nó cũng có thể thành yêu được như thanh long đao của Quan Vân Trường vậỵ Nhưng nó chỉ dùng để giết lợn nên nó chỉ thèm máu lợn. Anh Lập nghĩ vậy nhưng không dám nói ra, sợ vợ và em gái anh không dám dùng con dao và cũng không dám lấy tiết thay anh nữạ Ngày tháng qua đi, ông Giang qua đờị Anh Lập thay thế cha trong gia đình và nghề nghiệp. Gia đình anh tiếp tục mỗ i ngày hạ vài ba con lợn đê? cho bà Giang, chi Lập và cô Đinh đem di bán. Trong ba ngươì ai cũng có dao riêng, duy có cô Đinh là không có dao nên cô dùng luôn con dao chọc

tiết để cắt thịt. Với con dao này thịt cua cô xẻ không bao giờ bị ế, có lẽ thần dao phù hộ cho cộ Con dao thật bén, cô Đinh chặt xương cứ bay baỵ Giới bán thịt ai cũng khen cô là chọc tiết lợn hay và pha xẻ lợn tàị Cô Đinhh có một ý trung nhân, anh Trần cũng làm nghề đồ tể. Anh thường tỏ ý phục tài người yêu trong nghề lấy tiết. Anh thường khen: - Em là con gái mà lấy tiết lợn còn giỏi hơn anh. Cô Đinh cười nói: - Nghề cha, nghiệp mẹ mà anh, không giỏi kiếm ăn làm saỏ - Khi lấy tiết em có ghê tay không? - Nhân sát vật, trời sinh ra con lợn để cho mình chọc tiết mổ thịt, sao lại ghê taỷ Vả lại nó cũng quen đị Bây giờ giá có phải lấy tiết ngươì, vì nghề nghiệp em cũng phải làm. - Em nói nghe phát sợ Trần cười, Đinh cũng cười theọ Dân làng vẫn sống bình thường, ai làm nghề nấỵ Rồi, một hôm bỗng xảy ra những chuyện lạ khiến cả làng xôn xaọ Đêm đó tại nhà một người trong làng, nhà này có nuôi lợn, nửa đêm bỗng nghe có tiếng lợn kêu như bị chọc tiết. Mọi người trong nhà chạy ra chuồng lợn xem coi có chuyện gì thì thấy con lợn tuy vẫn còn nằm trong chuồng nhưng đã bị chọc tiết. Máu còn đang phun ra ồng ọc. Kẻ gian giết con lợn đã chạy mất. Mọi người bàn tán xôn xao và thắc mắc rằng tại sao ke gian chỉ thọc tiết con lợn mà lại không đem nó đị Chuyện xảy ra ở một nhà, rồi những đêm sau chuyện này lại tái diễn ở những gia đình khác có nuôi lợn. Những ai trong làng có nuôi lợn đều để ý đề phòng. Một đêm tại xóm kia cạnh bờ sông, một nhà nuôi lợn nghe tiếng lợn chạy trong chuồng. Lập tức người trong nhà cùng với ba bốn người đàn ông lực lưỡng tay dao, tay rựa, chạy uà ra phía chuồng lợn. Con lợn vừa bị chọc tiết xong, đang dãy dụa với những tia máu đang phun rạ Một người ở lại lấy thau hứng tiết và đám người còn lại đốt duốc đi lùng tên giết lợn. Bỗng một bóng đen thoáng từ phía chuồng lợn chạy ra phía hàng rào và hướng về phía bờ sông. Mọi người duổi theo, tới bờ sông không thấy bóng đen đâu nữạ Sẵn đèn đuốc, người ta soi quanh sục sạo từng bụi rậm đến gốc cây gần bờ sông. Bóng đen không biết biến đâu mất, người ta chỉ thấy một con dao chọc tiết lợn nằm ngang trên bờ đê, mũi dao còn dính đầy máụ Nhặt con dao lên, một người nói lớn: - Dao chọc tiết còn đây kẻ gian chắc chỉ quanh quẩn đâu đây không xạ Họ tiếp tục vác đuốc soi tìm, có người cho là ke gian bị đuổi gấp quá nên phải vứt dao lặn xuống sông. Cho nên là họ cho người thay phiên nhau đứng canh bên cạnh bờ sông, nhưng suốt đêm tới sáng họ cũng chẳng thấy ai dưới sông nhô đầu lên. Mọi người ra về, mang theo con dao chọc tiết đã nhạt được cùng hội họp ở nhà gia chủ đợi trời sáng hẳn mới đem trình lý trưởng. Sau khi nhìn kỹ con dao, một người trong xóm vốn cũng làm nghề mổ lợn nói: - Con dao này chuôi sắt, lưỡi toàn thép, nhất định phải là con dao của nhà ông Giang. Con dao này sắc lắm, mấy đời cha ông ông Giang cho tới ông vẫn chỉ có một con dao nàỵ Vợ chồng anh Lạp và cô Đinh cũng dùng nó để lấy tiết. Ai nấy đều cho là đúng nhưng lại có ý kiến: - Chẳng lẽ kẻ gian lại là anh Lập? Anh ta ngày nào chẳng làm thịt hai ba con lợn, hơi đâu di giết lợn của người khác. Ngay sáng hôm đó, với sự làm chứng của mấy người hàng xóm, gia chủ tới trình lý trưởng về mọi sự việc xảy ra đêm trước và mang theo con dao tang vật. Họ tới nơi quá sớm, lý trưởng chưa thức dậy nên họ phả i ngồi chờ nơi sân. Lý trưởng thấy có người tới trình mới dậỵ Gia chủ thuật lại cho lý trưởng nghe mọi sự việc đã xảy rạ Lý trúó?ng hỏi tới con dao, nhưng lạ lùng thay, con dao đã biến đâu mất. Mấy người họ nhìn nhau, người nọ ngờ người kia dấu, nhưng ai dấu đi đâu và dấu lúc nàọ Dù mất con dao nhưng vẫn có người làm chứng. Lý trưởng ra lệnh cho Trương Tuần dẫn tuần đinh tới khám xét nhà anh Lập. Bọn họ kéo nhau tới nhà anh Lập. Khi tới nơi họ thấy vợ

chồng anh vừa mới làm lông mổ thịt xong ba con lợn, mọi người đều ngạc nhiên. Vậy ra bóng đen chạy trốn lúc đêm qua không phải là anh Lập và cũng không phải vợ anh hoặc cô Đinh. Cả ba người này đều hầu như không biết gì đến những việc đã xảy ra đêm trước. Vậy kẻ gian là ai ? Anh Lập lấy làm lạ, thấy Trương Tuần dẫn tuần đinh tới nhà mình, khi được Trương Tuần cho biết lý do anh Lập mới cười bảo: - Mỗi ngày nhà tôi làm thịt ba con lợn. Cả xóm đều biết, tôi còn đi giết lợn của nhà người khác làm gì. Con dao chọc tiết lợn của toî nó vẫ n đây, và sáng nay tôi vẫn dùng nó để lấy tiết ba con lợn. - Vừa nói anh vừa chỉ vào ba con lợn đã bị chọc tiết, cạo lông và mổ bu.ng. Anh lại chìa con dao ra và nói tiếp: - Con dao chọc tiết của nhà tôi vẫn đây, nếu các bác nhặt được nó ở bờ sông thì sáng nay lấy dao đâu tôi làm lợn. Trước sự kiện đó, Trương Tuần, gia chủ và cả người làm chứng đều không thể buộc tội anh Lập được. Hơn nữa, bóng đen họ đuổi theo tới bờ sông thì biến mất, tất nhiên không phải anh Lập, vì cả gia chủ và những người làm chứng đều cho rằng kẻ gian giết lợn đã nhả y xuống sông không thấy nổi lên, chắc hắn đã bị chết đuốị Trương Tuần và mọi người kéo nhau ra về.Cô Đinh bảo anh chị: - Ngộ thật ! Nhà mình từ ông cố, ông sơ tới nay làm nghềmổ lợn, giết lợn để bán mỗi ngày cũng đã mệt, hơi đâu còn đê'n chuồng lợn nhà người ta lấy tiết nữạ Chị Lập đồng ý với em chồng, còn anh Lập không nói gì hết tiếp tục làm nốt chỗ thịt lợn để còn đem đi bán. Vừa làm anh vừa trầm ngâm suy nghĩ sự việc hồi sớm này đã xảy ra tại nhà anh trước khi Trương Tuần đến. Nguyên sáng sớm hôm ấy, cũng như mọi ngày, vợ chồng anh và cô Đinh dậy từ lúc gà gáy để làm lợn. Khi vợ anh tìm tới con dao chọc tiết xưa nay vẫn cài trên vách trong nhà bếp, chị ta không thấy nó. Chi hỏi chồng có cất đâu không, anh Lập trả lời anh cất dao làm gì? Chị lại hỏi cô Đinh chiều hôm trước khi đi làm về đã cài dao vào chỗ cũ chưa, cô Đinh cho biết là cô đã cài cẩn thận vào đó sau khi lau rửa như thường ngàỵ Ba người đều tìm nhưng họ tìm hoài cũng không thấỵ Trời sáng dần anh Lập định lấy con dao bán thịt cua vợ để chọc tiết ba con lợn, bỗng anh nhìn lại trên chỗ cái nẹp cài dao thìcon dao vẫn cài nguyên ở đó. Anh mắng vợ và em đã quắng mắt. Con dao vẫn nằm nguyên đó mà tìm không ra, tuy chính anh cũng đã không tìm thấỵ Lúc đó trời đã sáng rõ, anh phai vội vàng cùng vợ và em vưà dùng con dao gia truyền vưà dùng hai con dao khác, và ba người cùng lấy tiết, mỗ i người một con dao, để làm cho kịp có hàng bán. Vưà lúc ba người làm xong ba con lợn thìTrương Tuần dẫn mọi người tớị Anh Lập tư.nghĩ có lẽ vì trời chưa sáng rõ nên cả ba người không trông thấy con dao, nhưng anh vẫ n cho đây là một sự lạ, trước giờchưa từng xảy rạ Phải chăng con dao đã thành tinh đi giết lợn của ngươì, rồi bị săn đuổi phải biến nguyên hình ở bờ sông? Và khi ở sân nhà Lý Trưởng thưà lúc mọi người không để ý nó biến mất và trở về nằm nguyên trong nhà bếp. Anh nghĩ vậy nhưng không nói cho vợ và em nghẹ Ngày hôm đó qua đi....và từ đó trong làng cứ cách vài ba đêm lại có nhàbị kẻ gian vào chọc tiết lợn ở trong chuồng. Cả làng Doi bàn tán sôi nổi, Lý Trưởng ra lệnh cho Trương Tuần phai tăng cường canh giờ cẩn mật để cố bắt kẻ gian. Một buổi chiều, anh Lập cầm con dao nhìn mũi dao nhọn hoắc lại rất sắc, anh lẩm bẩm: - "Dao, có phải mày giết lợn không? Nếu là mày thì mày làm phiền cho nhà tao lắm..." Một hôm, vào buổi chiều, trong lúc ba người đàn bà đi bán thịt chưa về, anh sửa soạn đồ đạc chuẩn bị đi bắt mấy con lợn đã đặt mua tại một nhà trong làng để sáng hôm sau làm thịt, bỗng có khách. Khách là một đạo sĩ lạ Ddưa khách vào nhà, sau khi mời trầu nước anh chưa kịp hỏi khách đến có việc gì thìkhách đã nói trước: - Bần đạo tu ở núi Bách Kha, nhân

đi qua đây thấy khu xóm này có yeû khí bao trùm. Đi sâu vào trong xóm bần đạo thấy yeû khí dầy đặc ở phía này, và nhiều hơn cả là nhà thí chủ. Có yêu khí tất có yêu quái ẩn náụ Bần đạo muốn vì dân làng, nhất là vì thiếu chủ trừ con yêu này để nó không quấy rối và báo hại mọi ngườị Vậy xin phép thí chủ cho bần đạo đi khắp mọi nơi trong nhà coi yêu quái ẩn nấp ở đâu, bần đạo sẽ dùng bùa trừ khử. Lời đạo sĩ khiến anh Lập giật mình. Anh nghĩ ngay tới con dao chọc tiết gia truyền. Anh nói: - Xin cán ơn thày, thày đã có lòng muốn trừ yêu quái cứu dân, thật là may mắn cho làng chúng tôi lắm. Xin mời thày xơi trà dùng nước, nghỉ ngơi một lát rồi tôi sẽ dẫn thày đi khắp nhà. Khi hai người đang ngồi nói chuyên thì cô Đinh đã về, và như thường lệ cô gài con dao chọc tiết vào cái nẹp trong nhà bếp. Anh Lập mời đạo sĩ đi thăm khắp nhà, và bỗng ông dừng lại chỗ con dao, khịt khịt mũi mấy cái như đánh được mùi gì khác lạ Ông đưa mắt nhìn quanh rồi nói: - Yêu quái ẩn nấp nơi dâỵ Anh Lập nói: - Đây là nơi thường ngày nhà tôi mổ lợn nên thày ngửi thấy mùi máu lợn khô hơi tanh tanh đó. Đạo sĩ không nói gì đi thẳng tới cái nẹp nơi cài mấy con dao bán thịt. Ông rút ngay con dao gia truyền của nhà anh ra nhìn ngắm rất kỹ và ông hỏi: - Con dao này vẫn dùng để chọc tiết lợn? Anh Lập gật đầu, ông không nói gì thêm cùng anh Lập trở lại nhà nơi tiếp khách. Tó'i đây ông bả o anh Lập: Con dao chọc tiết của thí chủ đã thành tinh, không nên dùng nữạ - Con dao này được truyền từ ông tổ chúng tôi tới nay đã được sáu đời, chúng tôi không thấy gì khác. - Bề ngoài không thấy gì khác nhưng nó đã là yêu tinh, thí chủ nên bỏ đị Nếu thí chủ bằng lòng bần đạo sẽ yểm bùa nó rồi thí chủ đem vứt nó xuố ng sông hoặc chôn sâu dưới dất, ngăn không cho nó giở phép yêu ra được. - Con dao này là của gia truyền từ cụ tổ, chúng tôi không dám vứt nó đi, e có tội với tổ tiên. Đạo sĩ có vẻ suy nghĩ 1 chút rồi nói: - Nếu thí chủ không muốn vứt đi thìđể bần đạo yểm bùa rồi thí chủ cất nó vào một chiếc hộp hoặc chiếc vỏ dao, đừng dùng đến nó nữạ Anh Lập có vẻ ngần ngạị Biết ý anh, đạo sĩ nói: - Bần đạo biết thí chủ không muốn cất bỏ nó sợ phật ý vong hồn các vị tiền nhân. Thôi cũng đựợc, vì giờ đây nếu con dao yêu tinh có hoành hành thì nó cũng chỉ giết hại lợn của người ta thôi, thí chủ phải để ý đừng để máu người giây vào nó. Biết mùi máu người nó se giết ngườị Anh Lập hứa vâng theo lời đạo sĩ. Trước khi giã từ đạo sĩ trao cho anh một lá bùa và dặn rằng: - Khi nào lỡ có máu người giây vào con dao, hoặc thấy con dao trở nên nguy hiểm, hại tới mạng người thì thí chủ dùng ngay lá bùa này quấn vào chuôi dao, lấy chỉ ngũ sắc buộc lại cất vào một nơi, yêu tinh sẽ không làm hại được ai nữạ Anh Lập nhận lá bùa và tiễ n đạo sĩ ra cổng. Anh cất lá bùa vào ống hương trên bàn thờ, rồi anh cũng không để ý gì đến những lời của đạo sĩ đã căn dặn. Thời gian trôi qua, thỉnh thoảng trong làng vẫn có những con lợn đêm hôm bị kẻ gian tới chọc tiết . Dần dà người ta quen đi, nhà nào có lợn bị giết, ngày hôm sau đem bán thịt và lòng cũng chẳng thiệt hại bao nhiêu chỉ mất có ít tiết. Anh Lập vẫn dùng con dao gia truyền để làm lợn và cô Đinh ngày ngày vẫn mang theo dao đi chợ để cắt thịt, chặt xương bán cho khách hàng. Trong một buổi chợ có một bà khách mua một mớ xương, mua xong bà mượn dao của cô Đinh để chặt nhỏ những miếng xương lớn. Chiều khách cô cho mượn dao nhưng không ngờ bà khách loay hoay thế nào để lưỡi dao làm đứt tay chảy máu, máu ra khá nhiều loang khắp lưỡi daọ Người ta phải lấy vải buộc ngón tay cho bà. Việc này xảy ra cô Đinh cũng quên đi và cũng chẳng ai chú ý tới, dùng dao sắc đứt tay là chuyện thường. Vài đêm sau ở xã Ngư Đại có chuyện lạ ! Có người đang ngủ tại nhà, bỗng nhiên bị chọc tiết như lợn, tiết ồng ộc chả y ra và chết ngay trên

giường. Mạng người là quan trọng, Lý Trưởng phải bẩm quan, quan đã phái lục sự tới khám nghiệm điều trạ Cả làng xôn xao về vụ án mạng nàỵ Anh Lập sực nhớ tới lời đạo sĩ căn dặn, nhưng anh còn hồ nghi không biết có phải chính con dao là thủ phạm vụ chọc tiết người chăng?? Một vụ án mạng thứ hai lại xảy ra khi vụ thứ nhất còn đang trong vòng điều trạ Nạn nhân thứ hai này cũng bị chọc tiết như nạn nhân thứ nhất. Mũi dao đâm chính xác khiến kẻ bị giết không kịp kêụ Lý Trưởng, Trương Tuần lại bận rộn, Quan trên lần này phái Chánh Tổng Bất Phí về tận nơi để điều trạ Anh Lập nghĩ tới lời đạo sĩ nói con dao chỉ có thể giết người khi lưỡi dao bị dính máu ngườị Máu ai đã dính vào lưỡi daỏ Vợ chồng anh cũng như cô em gái có ai dám giết người mà bảo lưỡi dao đã nhuốm máu ngườị Anh Lập hỏi cô Đinh, anh ngỡ cô em đã gây lộn với ai rồi dùng dao đâm người ta chăng? Nếu điều này xảy ra việc phải ầm làng lên chứ đâu thể nàọ Hay là kẻ bị đâm chỉ bị thương nhẹ rồi do sự dàn hòa mà mọi sự ổn thỏạ Thôi chắc là con dao đã bị dính máu ngườị Anh phải dùng ngay lá bùa của đạo sĩ đê? yểm con dao nếu không yêu tinh còn sát hại nhiều người nữạ Vẻ lo lắng của anh Lập làm cô em ngạc nhiên. Vừa ngay lúc ấy vị hôn phu của cô tới thăm cộ Bằng một giọng thương mến cô trách anh sao lâu quá mới tới thăm cộ Anh ta trả lời mắc bận, cô Đinh vừa cười vừa nói đùa: - Anh mà lạng chạng với cô nào đừng trách em sẽ cho con dao này lấy tiết anh. Cô Đinh thuận tay lấy con dao ở rổ ra chĩa vào người yêu để dọa đùạ Nào ngờ một sức mạnh vô hình đã đẩy tay cô đưa thẳng mũi dao vào cổ anh Trần. Thấy tay cô Đinh dưa thẳng mũi dao vềphía cổ họng mình, anh Trần ngửa người để tránh. Và lúc ấy cô Đinh cũng cố ghìm tay mình lại, giữ không cho con dao có thể đâm tới người yêụ Một bên cố tránh, một bên cố ghìm dao lại vậy màmũi dao vẫn cứ đâm tới anh Trần. May là chỉ sượt qua vai làm rách áo và máu chảy chan hòạ Cô Đinh vứt vội con dao xuống đỡ lấy anh Trần, lấy thuốc lào rịn vào vết thương cho anh để cầm máụ Anh Lập đã chứng kiến sự việc từ đầu tới cuô'i, anh mắng cô Đinh sao lại có lối đùa chết người như thế. Cô Đinh mếu máo khóc nói cô chỉ đưa con dao ra để đùa voi anh Trần. Không hiểu sao con dao như cứ tự động tiến tới muốn đâm vào cổ họng anh Trần. Cô phải hết sức cố gắng ghìm lại, nên mũi dao chỉ đâm sướt qua vai người yêu mà thôị Nghe cô em nói, nghĩ tới mọi vu án mang da xay ra, anh Lập đi tìm lá bùa mà trước đây đạo sĩ đã tặng, anh cất nơi ống hương. Nhưng khi lấy được ra, anh kêu cô em đưa cho mình con dao thì con dao đã biến đâu mất.Rõ ràng cô Đinh vừa vứt con dao xuống đất, cả anh Lập và anh Trần đều trong thấy, giờ đây nó biến đi dâu nhanh vậỵ Anh Lập nhớ lại chuyện bọn Trương Tuần kể cho anh nghe, con dao để ở sân nhà Lý Trưởng cũng đã tự nhiên biến mất. Không tìm thấy con dao anh lai cất bùa dị Con dao biến mất hẳn không tìm thấy nữa, cô Đinh đi chợ bán thịt phải mua dao khác, và gia đình anh Lập cũng phải dùng con dao khác để lấy tiết mỗi buổi sáng khi giết lợn đi bán. Nếu con dao chỉ biến mất, câu chuyện đã được kết thúc nơi đâỵ Nhưng nó biến đi để đêm nào trong làng Doi hoặc các làng lân cận cũng có những vụ kẻ gian tới chọc tiết lợn trong chuồng và cứ dăm ba ngày lại xảy ra một vụ chọc tiết người, không sao tìm ra được thủ phạm. Các nhà chức trách làng xã, hàng tổng, hàng huyện đều xôn xao vì quá nhiều vụ án ma.ng. Mọi vụ giết người, giết lợn này chỉ chấm dứt vào một buổi trưa, trời đang nắng bỗng nổi cơn dông, mưa đổ xuống, rồi một tiếng sét lớn đánh gãy đôi một cây đềcổ thu được trồng trên con Đường giữa làng Doi và làng Gộị Những người đi đến xem sét đánh nói rằng, cây đề gãy gục xuống và có máu chảy ra, người ta lại nhặt được ngay dưới gốc cây một con dao chọc

tiết lợn chuôi rất sắc. Anh Lập từ khi con dao biến mất và luôn luôn có những án mạng xảy ra, anh rất hối hận vì đã không nghe lời đạo sĩ yểm bùa và cất con dao đị Nay được tin sét dánh cây đềvà dưới gốc cây có con dao anh mới yên tâm, không lo lắng những vụ án mạng khác xảy ra nữạ Người ta nói rằng sau này anh Lập cố tìm chuộc lại con dao, yểm bùa cất vào rương để làm kỷ niệm gia truyền. ******

Con dơi trắng khổng lồ

Có rất nhiều chuyện lạ kể về quyền uy của các vị tu sĩ Ai Cập cổ đại, đặc biệt là những lời thần chú của họ yểm giữ cho các ngôi mộ khiến chúng trở thành bất khả xâm phạm. Dân Ai Cập thường chôn theo người chết rất nhiều của cải và không có gì lạ nếu những phần mộ đó bị lũ kẻ cướp, hết thế hệ này sang thế hệ khác, đến cướp phá. Trong số những kẻ cướp phá đó, có không ít người là các nhà Ai Cập học hiện đại. Họ cướp phá dưới danh nghĩa khoa học, nhưng điều đó chẳng làm nên sự khác biệt nào. Những lời nguyền linh ứng với tất cả những kẻ nào xâm phạm tới nơi thiêng liêng của ngôi mộ, bất kể mục đích của họ là gì. Có rất nhiều câu chuyện lạ, ví dụ như chuyện kể về lời nguyền ở ngôi mộ của Tutankhamen và số phận của những kẻ cả gan xâm phạm. Trong những ngày đầu thế kỉ, giới Ai Cập học hết sức đông đảo. Những kẻ đào bới thuộc mọi quốc tịch bận rộn khai thác ở thung lũng, bất chấp những lời nguyền xa xưa. Đó là thời gian các nhà khoa học tiến bộ không còn coi trọng những lời nguyền xưa nữa. Phần lớn những người đột tử đều có thể đã đồng tình với đồng nghiệp của mình rằng cái chết của họ không có liên quan gì tới những điều mê tín dị đoan vớ vẩn. Tuy nhiên, quan điểm của Michael Hendry lại hoàn toàn khác. Sự trải nghiệm quá kinh khủng tới mức không còn nghi ngờ gì nữa sự trả thù của các tu sĩ Ai Cập đã ứng nghiệm vào ông bằng một cách thức thật ghê rợn. Hendry không phải là chuyên gia Ai Cập học mà cũng chẳng phải là một nhà khoa học. Ông vốn là người Ailen, sang Mỹ từ khi còn trẻ và đã kiếm được lưng vốn kha khá tại Sở chứng khoán New York vào thời của những tên tuổi như Astor, Rockefeller và Vanderbilt, khi mà bất kỳ một người buôn bán khôn ngoan nào cũng có thể trở thành triệu phú - đó là thời đại kinh tế hoả tiễn của Hoa Kỳ thế kỷ XIX. Hendry làm giàu rồi về hưu. Ông kết hôn với một goá phụ già hơn ông hai mươi tuổi. Đó không phải là một cuộc hôn nhân vì vật chất. Ông đã rất yêu bà và bà cũng vậy. Bà không lấy ông vì tiền. Niềm say mê lớn trong cuộc đời ông là Ai Cập học, một sở thích vô thưởng vô phạt ở nước Mỹ tự do. Nhưng Mary Hendry nhanh chóng phát hiện ra ngôi nhà đẹp, yên tĩnh ở Long Island, ngôi nhà bà đã từng ước ao, không phù hợp với bà. Hendry thì muốn dùng thời gian cuối đời để theo đuổi đam mê lớn của mình và điều đó đồng nghĩa với việc sang Ai Cập, đào bới ở những khu vực chôn cất cấm kị của các vị Pharaon vĩ đại. Mary vì không thích lắm nên cũng không mấy hưởng ứng. Theo bà, ông nên từ bỏ ý định ấy đi vì dù sao ông cũng không còn trẻ. Khí hậu ở thung lũng sông Nile không có gì tốt cho ông và bà cho rằng phải nhanh chóng thuyết phục ông cư trú ổn định ở một nơi nào đó thật thoải mái và thuận tiện. Với bà, châu Âu hay châu Mỹ đều không quan trọng. Bà nghĩ nên về sống ở Ailen - quê hương

ông - nơi đó, mức sống vào những ngày ấy cũng khá cao, nếu không nói là cao hơn ở Mỹ. Nhưng chuyến đi Ai Cập thật thú vị. Họ ở khách sạn Shepheard, Cairo. Đó là những ngày thanh bình, một vài năm trước khi chiến tranh thế giới nổ ra. Bà Hendry đi theo các điểm du lịch thông thường, thăm các kim tự tháp, tượng nhân sư ở Giza, cưỡi lạc đà và du thuyền trên sông Nile. Hendry không sang Ai Cập với mục đích du lịch thông thường. Với ông, đây là chuyến du lịch tới vùng đất của các Pharaon. Ông vùi mình vào việc khai quật nhiều loại mộ ở thung lũng các Hoàng đế với niềm đam mê mãnh liệt. Hiểu biết của ông đã gây ấn tượng đối với nhiều nhà Ai Cập học chuyên nghiệp và sự giàu có của ông cũng khiến họ vị nể. Thời ấy, phần lớn các cuộc khám phá đều do tư nhân tự bỏ vốn và các nhà triệu phú Mỹ luôn được hoan nghênh, đặc biệt với một người có kiến thức như Hendry. Cũng vào thời điểm Hendry tới Ai Cập, cái chết bí ẩn của một nhà khảo cổ học người Đức mang tên Schaffer đã làm xôn xao dư luận. Ông ta đang tiến hành khai quật ngôi mộ của một tu sĩ có đẳng cấp cao của "Trường đại học các tu sĩ bí ẩn Hoàng Gia", được Cheops thành lập vào triều đại thứ tư, khoảng 4000 năm trước Công nguyên. Các bác sĩ nói rằng Schaffer chết là do chứng tim đột quỵ nhưng theo những công nhân Ai Cập mê tín thì lúc ấy, ngôi mộ đầy những linh hồn quỷ dữ và đó mới là nguyên do cái chết của Schaffer. Ngôi mộ mới chỉ đào được đến phần bên ngoài, và người Ai Cập cho rằng chắc chắn phải có một phòng rộng hơn ở bên trong, đó là nơi để xác ướp của vị tu sĩ, chứa đầy ma quỷ quyền năng mang cái chết đến cho kẻ nào dám cả gan đột nhập vào. Hendry quyết định tiếp tục công việc khai quật của Schaffer. Những câu chuyện về sự tận số và tai họa không hề làm Hendry lay chuyển. Hơn nữa, ông cho rằng những ngôi mộ cổ đều đã bị đột nhập và bị không biết bao nhiêu kẻ đến cướp bóc từ trước đến nay và nếu lời nguyền của vị tu sĩ linh ứng thì những kẻ cướp bóc mê tín đã không mò đến. Vì thế, Hendry đã kiếm được giấy phép hợp lệ để tiếp tục công việc của Schaffer. Ông để người vợ muộn phiền lại Cairo, tới vùng thung lũng của các Hoàng đế. Tất cả những công nhân đã làm việc cho Schaffer, không ai còn dám tới gần ngôi mộ và Hendry phải mua chuộc những người bản địa khác để họ giúp ông, nhưng ai cũng từ chối vào phòng trong, nơi có xác ướp. Với sự trợ giúp của họ, Hendry đã mở tung được ba phòng và cuối cùng cũng tới được phòng chôn xác. Cánh cửa mang dấu niêm phong của Cheops - một con dơi có đôi cánh lớn. Đằng sau dấu niêm phong là nơi bất khả xâm phạm. Dùng ánh điện lắp tạm thời, Hendry tiếp tục công việc một mình. Vào phòng trong, ông tìm thấy một cái quách lớn bằng vàng. Căn phòng được trang hoàng

xa hoa, vì triều đại thứ tư là vương triều của sự giàu có huy hoàng, khi nghệ thuật vương giả đạt đến đỉnh cao nhất. Nhấc nắp quan tài bằng vàng lên, ông nhìn thấy xác ướp của vị tu sĩ vẫn còn hoàn hảo, thậm chí bộ râu trắng của ông ta vẫn còn nguyên vẹn. Trên ngực xác ướp có con bọ hung có cánh, hình dáng như một con dơi chứ không giống một con bọ cánh cứng thông thường. Con bọ bị buộc chặt vào chính những dải băng đã gói xác chết sau quá trình làm héo xác ướp. Ông nhặt nó lên, xé ra khỏi những lần vải buộc đã mục theo thời gian. Đó là một con bọ hung lớn và được khắc chạm bằng những câu viết bí ẩn. "Hình như," sau đó ông nói, "hình như một cơn giận dữ khủng khiếp bao trùm lên tôi như một đám mây lúc tôi đụng vào con bọ. Ngọn đèn chỉ còn le lói. Một cơn gió lạnh lan toả khắp ngôi mộ và tôi nghe thấy tiếng vi vu trong không khí lướt qua mặt tôi. Tôi đoán đó là những con dơi". Quá khiếp sợ, ông chạy ra khỏi phòng, trong tay nắm chặt lấy con bọ. Trước đây ông cho rằng lũ dơi chỉ là sự hư cấu và lúc này đây, ông chỉ muốn thoát ra khỏi bầu không khí ngột ngạt rùng rợn của phòng huyệt, ra ngoài bầu trời trong lành. Ông thấy quá mệt và đau nên không đi tiếp được. Ông lập tức trở lại Cairo, trong lòng còn quá hoảng sợ vì những gì đã xảy ra. Ông đã đọc được ở đâu đó rằng trong suốt thời gian trị vì, hoàng đế Cheops rất sùng bái một con dơi và ông lập ra "Trường đại học của các tu sĩ bí ẩn" vì lòng sùng bái của mình. Liệu hoàng đế có hình dung ra rằng có dơi trong phòng huyệt ? Và phòng huyệt có thể sẽ không được mở ra trong mười thế kỷ. Chẳng có con dơi nào lại có thể sống ở đó. Về tới Shepheard, ông thấy mặt vợ trắng bệch và đang hết sức hốt hoảng. "Michael, em lo cho anh quá. Suốt ngày nay, em linh cảm như có chuyện gì đó thật khủng khiếp đã xảy ra. Cảm ơn Chúa, anh vẫn bình an". Hendry cũng cảm ơn Chúa. "Anh không thích nơi đó, anh sẽ không quay lại đó nữa," ông nói. "Chúng mình hãy cùng nhau xuôi sông Nile xuống Luxor. Thay đổi không khí sẽ có ích cho chúng ta". Mary tán thành ngay nhưng bà vẫn muốn rời khỏi Ai Cập càng nhanh càng tốt. Bà chẳng bao giờ muốn chồng mình cứ đi đào bới xung quanh những nơi kì bí cũng như ở các ngôi mộ cổ. Bà thấy có một chút sự thực trong những câu chuyện kể về các lực lượng siêu nhiên hiển linh tại nơi đó. Có lần bà nghe người ta kể rằng việc lấy xác ướp ra khỏi quan tài là một hành động cực kỳ báng bổ thánh thần và sẽ chỉ mang lại toàn tai họa. Còn nếu ai sờ hay đọc những chú giải thần bí ở chỗ xác ướp thì người đó nhất định phải chết. Chuyến du ngoạn xuôi sông Nile làm cho Hendry dần dần phục hồi khỏi cú sốc kinh hoàng nọ. Ông vẫn ngoan cố giữ con bọ vì ông không tài nào từ chối một kho báu từ thời cổ đại hiếm và quý đến vậy. Ông giấu kĩ trong tư trang, không hề nói với ai, kể cả vợ mình về điều đó.

Trong khi cắm trại nghỉ bên bờ sông Nile, cách Luxor không xa, ông bị một tiếng động lạ đánh thức. Hé mắt nhìn ra cửa lều, ông thấy một con dơi khổng lồ, trắng toát, bay nhẹ nhàng không ngớt quanh căn lều, phát ra tiếng kêu chít chít. Nó khiến ông sợ hết hồn. Ông cố gắng đuổi nó đi nhưng nó cứ chao liệng vòng tròn, đôi lúc sà xuống gần ông và nhìn chòng chọc vào mặt ông bằng đôi mắt xoi mói rùng rợn. Ông chưa bao giờ thấy một con dơi nào như thế. Trong nó không giống như sinh vật ở thế giới này. Ông quay vào và đóng chặt cửa lều. Vợ ông nằm ngủ trên chiếc giường dã ngoại. Cám ơn Chúa và ít nhất bà ấy đã không bị đánh thức bởi con vật đáng sợ của đêm đen. Hendry không tài nào ngủ được. Ông nằm đó, lắng nghe con dơi the thé báo điềm gở cứ chao liệng bên ngoài. Có lúc cánh của nó tức tối đập vào vải bạt như muốn tìm cách chui vào lều. Hendry để ý thấy mặc dù vợ mình không tỉnh giấc nhưng bà cứ liên tục trở mình. Khi nhìn gần hơn vào mặt vợ, ông thấy mặt bà căng ra vì sợ, mồ hôi lấm tấm trên trán. Liệu tiếng kêu chít chít của sinh vật thuộc đêm đen ấy có ảnh hưởng đến giấc ngủ của con người không ? Tiếng đập cánh ngưng được một lúc thì Hendry cẩn thận mở cửa lều nhìn ra. Ông thấy con dơi trắng khổng lồ lượn vòng tròn quanh căn lều một lần cuối rồi bay qua sông Nile, theo hướng Luxor. Ông thấy nó bay cao trên nền trời trắng bạc của đêm trăng tròn, về lại nơi nó đã xuất phát. Bên dưới nó, đằng xa là cảnh hoang tàn, đổ nát của "Ngôi đền Thebes" do Amenhotep đệ tam cho xây cất, cha của Pharaon dị giáo và Akhenaton. Nhưng giữa vị tu sĩ đắc đạo của Cheops và "Ngôi đền của Thebes" là khoảng thời gian sáu thế kỷ và cách xa nhau hàng trăm dặm. Chẳng có gì liên quan giữa con dơi trắng khổng lồ với con bọ ông vẫn cố tình cất giữ cẩn thận trong đống hành lí. Ông quay lại lều, cố dỗ giấc ngủ. Ông thấy, từ lúc con dơi bay đi, vợ ông ngủ bình thản hơn. Còn ông đêm đó chẳng được an giấc. Ông nằm đó, trằn trọc, bị nỗi sợ hãi ám ảnh. Trong lúc nửa tỉnh nửa mơ lúc rạng sáng, ông thấy mình quay lại ngôi mộ của vị tu sĩ đắc đạo; ở đó tối om và toàn những cảnh khủng khiếp rợn người. Buổi sáng ngủ dậy, vợ ông u sầu, chán nản ghê gớm, bà chẳng hiểu tại sao mà cũng chẳng rũ bỏ được. Bà nói rằng mình có một cơn ác mộng kinh khủng. Khi ông nài ép, bà cố gắng tả lại nhưng bà không nói được gì ngoài câu, trong mơ, bà thấy có rất nhiều dơi và có một con dơi kỳ dị, khác thường cứ cố săn đuổi bà. Bà chán ngấy Ai Cập. Đây là nơi khiến bà bị căng thẳng thần kinh nhất. Hendry cũng quá ngán đất nước này. Ông đã mất gần hết lòng nhiệt thành đối với Ai Cập học nhưng ông vẫn không chịu chia tay với con bọ - kết quả thực tế trong lần khai quật duy nhất của ông giữa những đổ nát của quá khứ. Ông không tin vật đó lại có thể gây hại cho mình và ông không hề nghĩ rằng Mary sẽ gặp phải

bất cứ hiểm họa gì. Họ sẽ rời Ai Cập, chuẩn bị tới Hi Lạp và sau đó tiếp tục sang ý - nơi ông thấy vẫn còn tồn tại thế giới cổ kính mà không bị bao trùm bởi những đám mây thần bí và không bị phù phép bởi các ma thuật khó hiểu của các tu sĩ. Nhưng không gì khiến họ có thể thoát ra khỏi sự đày ải, tai họa đã vây lấy họ. Kể từ đêm đó, bên bờ sông Nile, Mary Hendry mắc chứng nghẹt thở đến lịm đi rất kỳ lạ. Bà không còn vui vẻ, hoạt bát mà chìm sâu vào những cơn u sầu liên miên, ảnh hưởng đến cả tinh thần và thể xác. Bà rất ít khi ngồi dậy, ăn không thấy ngon miệng, mất hết sức sống. lúc nào cũng muốn nằm. Hendry đưa bà tới hết bác sĩ này đến bác sĩ khác, vị nào cũng đưa ra một loạt chẩn đoán có vẻ hợp lý nhưng không ai thực sự tìm ra bệnh hoặc kê được đơn thuốc làm thuyên giảm bệnh tình của bà. Bà như không còn ở bên ông nữa, tự tuột ra khỏi cuộc sống. Sự việc không xảy ra từ từ mà chỉ trong vòng vài tuần, quá nhanh đến nỗi ông không kịp đưa bà quay lại Mỹ, nơi ông cho rằng có thể chạy chữa cho bà vì các bác sĩ bảo bà không thích nghi được với một chuyến đi vượt Đại Tây Dương. Còn với Hendry, giấc ngủ của ông chỉ toàn ác mộng. Vào một đêm, vợ ông có vẻ khá hơn suốt cả ngày, ông đi ngủ với trái tim tràn trề hy vọng thì ông có một giấc mơ rùng rợn, khủng khiếp. Ông đang đi qua một hội trường lớn, tiếp theo đó là nhà thờ rộng mênh mông, trong đó có những hình người Ai Cập khổng lồ được chạm khắc trên những công trình bằng đá. Đôi chân ông đi nhanh như chạy, như muốn vượt qua những căn phòng tráng lệ của thế giới sông Nile cổ xưa và ông cảm nhận rõ hương thơm kỳ lạ, hương thơm ấy càng lúc càng ngào ngạt hơn khiến ông không kìm nén được cơn buồn nôn. Giờ đây, những hội trường lớn Ai Cập khổng lồ được thay bằng những hành lang đá vô tận. Lúc đầu ông nghĩ đó là những hành lang trong kim tự tháp nhưng ông rảo chân qua các hành lang ngày càng hẹp hơn và ông biết đó là con đường dẫn tới trung tâm trái đất. Ông cũng biết mình đang bị săn đuổi. Ông không dám nhìn xung quanh nhưng ông biết rõ cái gì đang truy đuổi mình. Chính là hương thơm tỏa mùi đến phát ốm, chế ngự khắp nơi và mỗi lúc một ngào ngạt hơn. Cuối cùng, ông cũng kết thúc được hành trình và thấy mình nằm trong một hầm mộ bằng đá không có lối thoát. Khi đứng lên, mồ hôi lạnh túa ra, ông thấy căn phòng càng ngày càng hẹp hơn, tính đến từng giây, các bức tường và tấm trần cứ ép sát vào người ông. Giờ đây, ông đang nằm trên sàn, hoảng sợ tột độ, nghẹt thở vì hương thơm, hình như toàn bộ mùi thơm ở những ngôi mộ cổ Ai Cập đều ập đến. Khi ngửng lên, ông mới thấy kinh hoàng - con dơi trắng khổng lồ từ từ đậu xuống, hút dần sinh khí của ông.

Hendry tỉnh hẳn, tiếng kêu nghèn nghẹn như bị bóp cổ, ông ngồi dậy, mồ hôi túa ra như tắm và cảm giác khó chịu như có cái gì đó bám chặt ở cổ họng. Nỗi sợ tột cùng từ lúc tỉnh dậy vẫn chưa xua tan được thì khi nhìn quanh căn phòng tràn ngập ánh trăng, ông lại thấy con dơi trắng bay ngang qua, thoát ra ngoài cửa sổ để ngỏ. Ông nhảy khỏi giường, không chỉ sợ cho riêng mình. ý nghĩ đầu tiên của ông là phải tiến lại cửa sổ, đuổi cái sinh vật ghê tởm ấy ra ngoài. Khi ông làm vậy, con dơi đậu yên bên ngoài tấm kính, đôi tai nhọn vểnh lên, đôi mắt thú tính sáng rực của nó nhìn ông chằm chằm. Ông lùi trở lại phòng và con dơi cất đôi cánh lên kèm theo tiếng đập cánh uyển chuyển và nhẹ nhàng bay theo hướng mặt trăng qua các ngôi nhà, bên trên các tán cây đến lúc nó chỉ còn là một chấm nhỏ trên cái thiên thể bạc. Từ phía cửa sổ, Hendry quay mình lại, nhanh chóng chạy sang buồng vợ qua cánh cửa thông với phòng ông. Vừa bước vào phòng, ông vừa nhìn thẳng về phía trước, miệng gọi tên bà. Ông thấy bà nằm trên giường, trong tư thế không mấy tự nhiên như thể bị đánh thức bất ngờ. Bà không tỉnh dậy nữa. Bà nằm đó, hồn lìa khỏi xác, đôi mắt hoảng sợ mở trừng trừng. Hendry biết đó là tại con dơi trắng, nó đã bay vụt sang phòng bà khi ông vừa tỉnh khỏi cơn ác mộng. "Chứng đột tử vì tim", bác sĩ kết luận. Tôi không thể đưa ra một lời giải thích nào khác, có lẽ là một cú sốc. Vâng, điều đó hoàn toàn có cơ sở, trong tình trạng u uất như vậy, một giấc mơ mạnh cũng có thể giết chết bà ấy." Hendry vô cùng đau khổ. Ông yêu vợ và họ càng yêu nhau hơn từ khi những chuyện rắc rối ở ngôi mộ vị tu sĩ đắc đạo bắt đầu xảy ra. Mọi thứ trượt dần khỏi quỹ đạo. Vào ngày đưa tang vợ, ông nhận được tin tức nghiêm trọng từ New York. Hai nơi ông tập trung phần lớn tài sản của mình để đầu tư bỗng nhiên thất bại và ông phải hứng chịu thiệt hại rất lớn trong việc phá sản tiếp sau. Tiếp đến, một người bạn đáng tin cậy ở New York biển thủ 50.000 đô la của ông rồi tự tử. Người cha già ở New Orleans cũng bỗng nhiên chết vì cơn đột quỵ không rõ nguyên nhân. Trong tình trạng tuyệt vọng, Hendry đi hết nước này sang nước khác nhắm thoát khỏi con dơi trắng toát giờ đây cứ liên tục săn lùng ông. Nó luôn xuất hiện vào ngày rằm, và mỗi lần nó đến, ông đều gặp phải cùng một cơn ác mộng: ông nằm trong phòng huyệt của vị tu sĩ, không khí ngột ngàt toàn mùi hương ngạt ngào ấy. Căn phòng cứ hẹp vào, hẹp vào mãi, áp sát vào ông khiến ông bị ngạt thở vì hương thơm trong nỗi hãi hùng. Ông tỉnh dậy với cảm giác kinh hoàng là có cái gì đó cứ bám chặt ở cổ, hút dần sinh lực của ông. Bên ngoài cửa sổ, trong ánh trăng sáng của đêm rằm, con dơi cứ nhìn ông bằng đôi mắt linh lợi y như mắt người. Không giống những con dơi khác ông đã gặp, nó chỉ mang đến toàn điềm gở, chứa đầy tai họa và ông cho rằng nó không thuộc về thế giới này.

Mặc kệ những nỗi sợ không tên, Hendry với bản chất ngoan cố, vẫn giữ con bọ, bỏ ngoài tai những lời khuyên của các bạn bè, những người ông kể chuyện, rằng ông phải trả nó về nơi ông đã lấy nó. Nhưng Hendry như đã bị bỏ bùa mê. Ông không hoàn trả nó về chỗ cũ. Ông đã mất hết mọi thứ trong cuộc đời và có lẽ, bất kể con dơi có làm gì thì cũng không còn có nghĩa với ông nữa. Ở Luân đôn, ông tham khảo ý kiến các nhà Ai Cập học và các sinh viên về chuyện huyền bí này. Đầu tiên, người ta nghi ngờ câu chuyện của ông và có người đã bảo với ông rằng, những con bọ không hề được biết đến ở triều đại thứ tư, đó là thời gian trị vì của Cheops, hay Khufu gì đó và con bọ được tìm thấy trên xác ướp của vị tu sĩ đắc đạo có lẽ đã được đặt vào ở triều đại sau. Nếu thực thế, Hendry tin rằng, một thời gian sau, trong thời kỳ Ai Cập cổ đại, các vị tu sĩ đã đưa ra những lời nguyền độc địa đầy quyền năng. Và chắc họ, khi thấy ngôi mộ bị đột nhập đã niêm phong nó bằng những lời nguyền khủng khiếp, hơn thế, họ còn cho gắn con bọ có cánh lên xác ướp. Hendry nhớ ra ông đã gặp con dơi trắng khổng lồ ở "Ngôi đền của Thebes", được xây dựng hai nghìn sáu trăm năm sau thời Cheops. Điều huyền bí ấy đã được tìm ra, không phải nhờ các nhà Ai Cập học hay những chuyên gia về chuyện bí ẩn, những người có thừa lòng ham mê, đầy một mớ lý thuyết nhưng không giúp được ông điều gì. Có người mượn ông con bọ rồi ngay ngày hôm sau đã trả lại cho ông không chút do dự và kể rằng ông ta đã có một cơn ác mộng cực kỳ rùng rợn, sau đó ông nhìn thấy con dơi trắng nhẹ nhàng đập cánh ngoài cửa sổ. Ông ta nài nỉ Hendry mang con bọ quay lại Ai Cập trả nó về với xác ướp của vị tu sĩ nọ. Nhưng Hendry không đời nào lại đi hứa làm việc đó. Đêm đêm, ông hoảng sợ lê bước đến bên giường và càng trì hoãn được việc đó càng lâu càng tốt. Sau những cơn ác mộng liên tiếp về dơi, ông tỉnh dậy, thấy cổ họng mình sưng lên và cứng lại. Bác sĩ chẩn đoán ông bị một loại côn trùng có nọc độc cắn. Câu chuyện kết thúc tại Paris. Con dơi trắng xuất hiện lần cuối cùng khi ông đang ngụ tại một khách sạn ở đường Fayette. Nửa đêm, trong khách sạn vang lên một tiếng thét dài ghê sợ. Sáng hôm sau, người ta thấy Hendry chết cứng trên giường. Bác sĩ nói rằng ông bị đột tử vì tim ngừng đập. Người hầu phòng nói rằng, tối hôm trước, ông nhất định đóng chặt các cửa chớp phía ngoài khuôn cửa sổ phòng ông. Nhưng khi ông chết, các cửa chớp và cửa sổ đều mở rộng. Người ta không tìm thấy con bọ trong đống hành lý của ông. Nó đã biến mất, và từ đó trở đi, con dơi trắng khổng lồ cũng không xuất hiện nữa.

Con Ma Áo Trắng

Bà 5 vốn là người mê xem cải lương... Mỏi khi có doàn cải lương nào về hát là bà không một khi bỏ lở cơ hội dể dược di xem... Ma).t dù có khuya cở nào, có dày cách mấy bà củng không ngại dị Ma).t dù bà biết và củng dả nghe qua biết bao nhiêu lời dồn là làng nầy có ma hay là có người bảo là dả từng chứng kiến thấy ma, nhưng bà vấn không sợ Vì bà nghỉ không gì hấp dấn ba)' ng 1 tuồn cải lương haỵ.. Tối hôm ấy bà lo di buôn bán hang về cho sớm... Tấm rửa rồi sửa soạn quần áo rồi lên dường di sem cải lương. Rạp hát cách xa nhà bà củng khoản 15 phúc di bộ Lúc ấy trời dả sới chiều trời nhưng ánh sáng lờ mờ củng dủ soai sáng cho bà dị.. 2 bên dường vẩn còn dông người dúc người qua dường và lủ con nít chạy dủa giởn trước sân nhà chúng. Bà Na)m rất quen thuộc còn dường nầỵ.. Từng con lộ lớn cho dến các ngỏ hẻm nhỏ Bà biết gần dó có một con hẻm nhỏ di ta)'t dến rạp hát thật nhạnh. Nhưng bà nghỉ trời vẩn còn sáng bà muốn thả bộ di trên lộ lớn dể sem người qua kẻ lại cho vuị Còn cái hẻm ấy thì khi sem hát sông bà xẽ di hướng ấy cho mau và tiện hơn. Thế là bà dả tính toán trước và cứ thế mà dị.. ************************ Giản hát cải lương sông củng dả gần 12 giờ khuya rồị... Mải mê sem cải lương mà thì giờ trôi qua mau mà chảng haỵ.. Khi giản tuồng rồi thì bà dả hoản hồn, ba giò bốn ca)?ng lật dật mà dị... Theo dự dịnh bà xẻ di ngan cái hẻm nhỏ dể có thể rút nga)'n thì giờ về nhà. Trời dả khuyạ các bóng người trong rạp cáng lúc càng thưa dị Bà cố di cho mau và một lúc một va)'ng tanh và tối den, 2 bên dường toàn là cây cổ thụ và từ xa la)'m mới có dược 1 ánh dền lu lu không dủ dể soai sáng con dườn. Bà vừa di vừa có cảm thấy như lành lạnh. KHông hiểu cảm giác ấy là do dêm khuya hay là gì bà nghỉ tới nhửng lời dồn trong làng ra)' ng làng nầy có mạ.. Bà cứ mải mê di, và cố sua di cái ý nghỉ rùng rợn ấỵ Mải di một lúc bà dả dến cái hẻm nhỏ ấỵ Cái hẻm tối ôm không có một ánh sáng chỉ vỏng vẻn có 2 cột dèn ba)'t từ dầu hẻm và cuối hẻm mà thôi, cái hẻm thật dày cho nên chỉ nhờ 2 cây cột dền ấy củng không dủ sôi sáng cái hẻm nhỏ nầỵ Bà nhìn cái hẻm một hồi lâu thở một hơi thật dày, lưởng lự có nên di hay không... Một hồi sau bà mạnh dạng bước vào cái hẻm, rồi bớp 2 ngón cá vào trong lòng bàn tay cho thật cha).c rồi lẩm bẩm niệm một câu thần chú gì... Cứ mải thế bà dả di gần dến cuối hẻm. Trong bóng tối bà bỏng nghe có tiếng ai khóc... và bà cứ lảng tai nghe cho thật kỷ thì dó chính là tiếng khóc của 1 người con gáị.. Bà vẩn cứ di cho dến gần cột dèn. Mai ra nhờ ánh sáng mờ mờ của cái cột dèn thì bà củng dở sợ Khi di dến cột dèn thì bà vẩn nghe có tiếng khóc của cô gáị Ban dầu thì tiếng khóc rất nhỏ nhưng càng lúc tới gần cột dèn thì tiếng khóc càng lúc càng to hơn và càng thảm thiết hơn. Bà vừa sợ và củng tò mò muốn biết xem người con gái dó dang khóc ở dâu, và nhất là bà muốn biết dó có phải là người hay là mạ Khi bà di dến cái cột dèn thì quả thật bà nhìn thấy có cái bóng của một cô gái bận 1 chiếc áo tra)'ng sóa và sỏa mái tóc dày den mun... Cô gái dang ôm ma).t khóc nức nở và rất thảm thiết... Trong cô gái dang dứng trong bóng tối, bận chiếc áo tra)'ng và soả cả tóc phủ xuốn và ôm ma).t khóc bà cảm thấy rợn rợn cả ngườị.. Óc gái bà nỏi cả lên bà muốn bỏ chạy di cho mau nhưng dôi chân bà dả không còn nghe lời bà nửạ Tuy nhiên

bà vẩn cứ trấn an ra)'ng cô con gái kia chín là người thật chứ không phải là ma quỷ gì cả Bà cứ dứng và nhìn cô gái ôm ma).t khóc nức nở Trong lòng bà thay vì sợ co ta la ma nhưng giờ bà cảm thấy thương hại và lo ngại cho cô khóc lóc trong dêm khuyạ.. Bà thở thật dày rồi tự nóị "Tội nghiệp.... KHông biết gì cái gì mà cô ta khóc lóc thảm thương như vầy trong dêm khuyạ.. cha)'t là ga).p nhầm cái tha)' ng sở khanh nào bỏ rồi chớ gì... Con gái mà nhẹ dạ quá thì dẻ bị dụ Nếu mà mình bỏ di không khuyên cô ta lở cô ta làm chuyện giại dột thì củng tội cho cô tạ" Nghỉ tới dấy thì bà liền lên tiếng hỏị -Cô à.... Chuyện gì mà cô khóc lóc thảm thương vậy cổ Chuyện gì thì củng về nhà mà tín. chứ khi không khuya la)'c khuya lơ dứng ngoài dường mà khóc? Thôi cô về nhà dị.. Dả khuya la)'m rồị.. Cô mà dứng dây thì ga).p quân cướp bóc thì nguy la)'m dó. Thôi nghe lời tôi khuyên dị Cô gái vẩn cứ ôm ma).p mà khóc. Bà sót ruột, phần muốn di về cho sớm, phần thì nghỉ cho cô gáị Vẩn không nghe cô trả lời trả vốn, bà hỏi tiếp, lần nầy bà di lại gần có gái hơn. -Nầy cô à... Nghe lời tôi dị.. Tôi nghe nói ở dây có ma dó... Cô haỷ mau mau di về dị.. Nhà cô ở dâủ Cô gái vẩn không trả lờị Bà vẩn tiếp tục di lại gần cộ.. Một cơn gió nhẹ thổi nhạnh qua làm bà rợn cả sương sống. Bà vẩn tiếp tục hỏị -Thôi thì cô di với tôi nè cho bớt sơ và củng an toàn hơn... Dầu dì củng 2 ngườị Bà Na)m vừa nói sông thì bà nấm vọi bàn tay cô gái dang ôm ma).t khóc. Bàn tay cô rời khỏi khuôn ma).t thì bà chết sửng, Bà buôn tay cô gái ra và thục luôi lại 3 bước, miệng há hóc như bà muốn kêu lên một tiếng thất kinh nhưng cái miện cứng dơ và cuốn học như dả bị nghẹt. Bà muốn bỏ chạy nhưng chân bà như tê di và không còn cảm giác gì khi bà chợt nhận ra khuôn mặt cô gái ấy tra)'ng tinh, tra)'ng một cách ma quái và không có ma)'t, mủi và miệng... Hoàn toàn trống trơn và ba)'ng tha)?ng.................

Con ma trên cầu thang

Gia đình tôi chân ướt chân ráo đến Mỹ vào mùa Hè 1986. Cũng như những gia đình đến Mỹ theo diện "mồ côi" khác (không có thân nhân bảo trợ ,) gia đình tôi được hội bảo trợ thuê cho một appartment ở từng thứ ba của một building tại đường Adams trong vùng Dorchester, đó là một vùng phụ cận về phía Nam của thành phố Boston (thủ đô của tiểu bang Massachutsetts.) Gần chổ chúng tôi cư ngụ cũng có một số gia đình người Việt nên chúng tôi cũng không cảm thấy lạc loài lắm! Cũng như tình trạng chung của các khu down towns tại Mỹ, nơi tôi ở đa số là người Mỹ đen và Hispanic (dân ở các nước Nam Mỹ nói tiếng Spanish và Portuguesẹ) Tôi cũng nên nói sơ một chút về nơi tôi ở, Dorchester là một nơi nổi tiếng về tội ác và tràn đầy các tệ nạn xã hội ! Nó có tiếng xấu đến nỗi nếu bạn ở vùng khác đón taxi vào Dorchester sau 9:00 PM, tài xế sẽ từ chối bạn thẳng thừng. Ở nhiều khu phố trong vùng này cư dân không dám ra đường sau 8:00PM vì sợ "tên bay đạn lạc" từ các tay anh chị trong các băng đảng thanh toán lẫn nhau! Tình trạng cũng giống như một số khu vực tại Nam California ! Án mạng xảy ra như cơm bữa ! Người Việt mới qua vì tài chính còn hạn hẹp thường phải thuê nhà trong những vùng này để tiết kiệm được phần nào số tiền nhỏ nhoi kiếm được qua các công việc thấp kém dành cho những kẻ mới qua ! Trở lại chuyện của gia đình tôi, trong hai tuần đầu mọi chuyện đều êm đẹp . Người trên hội bảo trợ xuống dẫn chúng tôi đi lo các thủ tục giấy tờ, và tìm việc làm cho các người lớn trong gia đình . Gia đình tôi gồm vợ chồng tôi, bố và hai em trai nhỏ của chồng tôi. Nhà có 3 phòng ngủ, vợ chồng tôi ở phòng lớn nhất, phòng giữa dành cho bố chồng tôi, còn phòng ở cuối hành lang dành cho hai đứa em trai . Sau một tháng chúng tôi đều có việc làm. Chồng tôi và bố anh ấy làm ca một cho một hảng điện tử, còn tôi kém may mắn hơn nên phải làm ca hai cho một hảng chế tạo giấy! Hai đứa em chồng được ghi danh chờ học tại trường trung học địa phương vào đầu mùa Thu . Hàng ngày tôi đi làm từ 3:00PM và vềtới nhà khoảng hơn 11:00PPM. Mọi sự diễn ra êm đẹp trong hai tháng đầu. Tôi cũng đã quen với công việc và supervisor của tôi đã cho phép tôi làm thêm giờ. Cũng như phần đông người Á Ddông, tôi chăm làm và muốn có thêm thu nhập cho gia đình nên tôi thường xin ở lại làm thêm đến 3 giờ sáng! Một đêm, sau khi làm thêm giờ , tôi về đến nhà khoảng 3:30AM! Cảnh vật chung quanh rất yên ắng! Thỉnh thoảng mới có tiếng xe vọng lại từ con đường phố chính (Dorchester Ave) mà thôi! Bước vào nhà, ngó lên cầu thang dẫn lên tầng 3 và trong ánh sáng lờ mờ của ánh đèn đường chiếu xuyên qua cửa sổ, tôi nhìn thấy một bóng đen to lớn đứng ngay giữa lối lên của từng hai và từng ba! Một luồng hơi lạnh chạy dài trên xương sống tôi! Ddể trấn tỉnh mình tôi tự nhủ chắc đó chỉ là thằng Mỹ đen sống ở từng hai mà thôi ! Ddã từng nghe nhiều lời đồn không tốt về Mỹ đen và "Sì" (tiếng người Việt thường dùng để gọi nhừng người Hispanish,) nên tôi rất ngại chạm mặt với họ ! Tôi làm bộ cúi tìm vật gì trong túi xách tay trong khi vẫn từ từ bước lên cầu thang. Khi lên đến chổ mà tôi nghĩ là sẽ chạm mặt tên Mỹ đen đó thì lạ thay chẳng thấy ai cả !! Tôi hơi rợn người nhưng ráng làm tỉnh bước tiếp lên tầng ba về nhà mình! Mấy ngày sau tôi không có làm thêm giờ nên về sớm, tôi có để ý về tên Mỹ đen nhưng không thấy gì. Rồi tôi cũng quên bẳng đi chuyện đêm đó.

Nhưng ngày thứ Hai tuần sau, tôi lại về nhà lúc 3:30AM! Vừa bước vào nhà ngước nhìn lên cầu thang, cái bóng đen bữa trước đã thù lù đứng đó tự bao giờ! Lần này nó nhìn thẳng về phía tôi! Tôi sợ điếng người, đứng chết trân như trời trồng mấy phút đồng hồ! Chừng định tỉnh lại được, tôi nhớ ra rằng trong xách tay của tôi có một cái đèn "pin" nhỏ ! Run rẩy tôi lần tay vào giỏ rút nó ra và bật sáng lên, rồi rọi về hướng cái bóng đen! Nó đã biến đâu mất dạng! Tuy rất sợ, tôi vẫn phải tiến lên để về nhà mình! Tôi phải cố gắng lắm mới khỏi qụy xuống vì hai đầu gối của tôi run rẩy ngoài sự kiểm soát của tôi ! Cuối cùng tôi cũng về đến cửa nhà, nghe tiếng mở khóa chồng tôi ra bật đèn và đón tôi tại cửa. Thấy mặt mày tôi tái mét anh ấy hỏi: _ Em làm sao vậy? Trông mặt em tái mét vậy? Bị cảm phải không ? _ Em không sao cả _ Tôi lắp bắp trả lời. _ Anh đã bảo em đừng làm thêm giờ nữa rồi mà! Không bõ tiền thuốc đâu ! Tôi bỏ vào phòng tắm, tắm rửa xong xuôi tôi về phòng mình. Lúc này tôi mới kể cho chồng tôi về việc hai lần chạm trán với cái bóng đen ở cầu thang tầng hai! Chồng tôi, một người đạo gốc, gạt phăng đi: _ Em chỉ tin nhảm nhí ! Làm gì có ma quỉ lang thang trên thế gian này! Chắc em làm quá nhiều giờ, mệt nên "trông gà hóa quốc" cũng nên! Tôi không cãi lại nhưng trong lòng tôi tin chắc là tôi không thể nhầm được! Mà nhầm thế nào được cơ chứ ! Chính mắt tôi nhìn thấy nó hai lần mà! Từ ngày đó tôi sợ không dám ở lại làm thêm giờ nữa! Dù supervisor có hỏi, tôi cũng viện cớ để từ chối! Tiền thì tôi cũng thích đó, nhưng nỗi sợ phải đụng đầu với cái bóng đen ở cầu thang còn cao hơn! Tôi đành chịu thua nó vậy! Mọi việc có vẻ yên xuôi, trong hai tuần kế sau đó, tôi không thấy cái bóng đó nữa! Có lẽ là do tôi về sớm vào lúc hơn 11 giờ đêm thôi. Vào thời điểm này nhiều nhà vẫn còn thức nên bóng đen chưa dám hiện ra chăng ?! Tôi cũng không biết nữa, chỉ đoán mò như thế thôi! Gia đình tôi vẫn thuộc diện mới đến nên không quen biết ai! Chỉ vào ngày Chúa Nhật đi nhà thờ là cơ hội để gặp người Việt mà thôi! Cũng đôi khi chúng tôi gặp nhau trong chợ, chào hỏi nhau vài câu rồi lại mạnh ai nấy đi! Thành ra gia đình tôi cũng chưa quen một ai thân cả ! Tưởng mọi việc rồi sẽ êm đềm trôi đi! Nhưng cuối tháng Tám năm đó, chồng tôi cùng ba anh ấy qua New York ăn cưới con của một người bà con và nghỉ lại đêm bên đó! Tôi và hai đứa em trai ở nhà xem TV, khoảng 10 đêm chúng về phòng ngủ, tôi cũng tắt TV trở về phòng mình. Tôi nằm đọc mấy cái thư mới nhận của ba mẹ và các em tôi gửi sang từ VN! Khoảng 11 đêm tôi tắt đèn đi ngủ ! Tôi trằn trọc không sao ngủ được, mãi sau mới rơi vào trạng thái nửa mê nửa tỉnh. Trong trạng thái đó tôi cảm thấy có bàn tay ai đó rờ vào chân tôi rồi xoa lên xoa xuống chổ bắp vế chân phải ! Tôi ú ớ muốn thoát ra khỏi cơn mơ mơ màng màng đó, nhưng không thoát ra được ! Tôi cố vùng vẫy rồi giật mình mở mắt ra được! Ddiều đầu tiên tôi làm là bật công tắc đèn lên, ánh sáng chói chang làm tôi hoa mắt. Tôi chớp chớp mắt rồi nhìn quanh xem có ai không! Phòng trống không chỉ mỗi mình tôi thôi! Tôi tự trấn tỉnh có lẽ mình bị ám ảnh nên bị ác mộng thôi! Nằm lại xuống giường

tôi thao thức ngó lên trần nh'a không sao dỗ lại giấc ngủ ! Cuối cùng tôi cũng tắt đèn rồi cố nhắm mắt ru mình vào giấc ngủ ! Tôi lại rơi vào trạng thái mê mê tỉnh tỉnh lần nữa ! Và cái cảm giác bị ai sờ lại đến với tôi! Tôi lại cố vùng vẫy để thoát ra khỏi cơn ác mộng! La hét, kêu gào trong giấc mơ một lúc tôi vụt bừng mắt ra! Tôi nhìn xuống cuối giường! Trời ơ! Trong bóng tối nhờ nhờ, cái bóng đen quỷ quái đang đứng một đống chình ình ở đó! Tôi hét lên vang dội cả nhà ! Các em tôi chạy qua mở cửa bật đèn lên: _ Chuyện gì đó chị !? Sao chị trông hoảng hốt thế ?! _ Em coi xem có ai trong phòng không ?! Nó vừa ở đây nè !!! Các em tôi tìm khắp nơi trong phòng và cả mọi chổ trong nhà nhưng không thấy một bóng dáng nào cả ! Tôi nói rằng cái bóng đen đứng ngay dưới chân giường tôi, chúng nghe rồi chỉ ậm ừ cho qua nhưng có vẻ không tin lời tôi! Chúng trở về phòng ngủ tiếp, tôi sợ lắm vội ra phòng khách bật đèn sáng trưng và mơ? TV xem để giết thì giờ chờ sáng! Hôm sau ba và chồng tôi về, các em tôi kể lại chuyện đêm qua cho họ nghe! Cả hai chỉ cười xoà mà thôi, coi như chẳng có gì xảy ra cả ! Chiều đó chúng tôi đi dự lễ ở nhà thờ VN, khi tan lễ có một chị phụ nữ việt Nam khoảng trên dưới 30 tiến về phía chúng tôi chào làm quen, sau vài câu chào hỏi, chị nói: _ Tôi trước kia cũng ở chổ anh chị ởbây giờ, nhưng gia đình đình tôi chỉ ở đó đúng một tháng rưỡi là dời đi chổ khác thôi ! _ Sao vậy chị ? _ Tôi tò mò hỏi lại . _ Tôi không biết có ai trong nhà chị thấy gì không ?! Chứ chẳng dấu gì chị tôi nhát lắm nên phải đi thôi !! Tự nhiên xương sống tôi lại ớn lạnh lên! Nhưng tôi vẫn cố làm tỉnh hỏi tiếp: _ Chắc chị sợ tụi Sì và Mỹ đen phải không ? _ Chắc anh chị nặng vía nên không thấy gì! Nói thật với anh chị là người thì tôi không sợ đâu! Ddằng này tôi thấy ma chị ạ !!! _ Thằng Mỹ đen ở cầu thang phải không ?! _ Tôi thảng thốt buột miệng nói. _ Ddúng đó !! Chị cũng thấy nó phải không ?!?! _ Ddúng chị ạ !! Tôi chạm trán nó tới 3 lần rồi ! Mà nói với anh nhà tôi thì anh ấy cứ gạt phăng đi nói là tôi tin nhảm nhí! _ Trời ơi! Anh chị là người mới đến nên không biết đó thôi! Cái building đó bị ma ám lâu lắm rồi! Rất nhiều người thấy nó lắm! Cứ sau nửa đêm thì nó hay hiện ra đứng ở cầu thang đó! Tụi Mỹ đen và Sì nói là khoảng 10 năm trước nó bị bắn chết ở đầu cầu thang tầng hai đó!! Từ đó nó đóng đô ở cái building đó luôn! Nó thường chỉ nhát đàn bà con gái thôi !! Nghe nói nó dê dữ lắm đó !! Tôi quay bật lại phía chồng tôi: _ Anh còn nói em tin nhảm nữa hay không?! Nó vào cả phòng mình nữa đó !! Cả gia đình tôi ai nấy đều có vẻ tái mặt! Chị ấy lại lên tiếng:

_ Chổ building tôi ở vừa có chổ trống, nếu anh chị muốn tôi gọi giữ chổ cho ?! _ Chị giữ cho chúng tôi đi! Cám ơn chị trước nhé! _ Tôi trả lời ngay không cần hỏi ý kiến của chồng và các người khác ! Và cuối tháng đó chúng tôi dời đi nhà khác! May mắn là ở building mới này tôi không thấy gì lạ cả ! Tuy thế mỗi khi lái xe qua cái building ngày trước tôi vẫn thấy rợn da gà!!! Note: Tôi chắc nhiều bạn (nhất là các cô) cũng có kinh nghiệm về các con ma Mỹ đen hay Sì này ! Sống trong các appartments ở down towns nơi mà Mỹ đen và Sì thường sinh sống thì chuyện án mạng xảy ra trong nhà là thường! Có thể những con ma này hiện hữu thật! Có thể những oan hồn uổng tử này vẫn luyến tiếc cuộc đời dương thế ngắn nghủi của chúng nên vẫn trốn lang thang trên trần thế mà chẳng chịu về nơi dành riêng cho chúng ở thế giới bên kia chăng ?!? Bạn có đồng ý về tôi đưa ra không ?!? Xin các bạn cho tôi biết ý kiến về nghệ thuật kể chuyện ma của tôi nhé ! Nếu nó còn dở thì tôi sẽ cố gắng cải tiến để có thể kể "hù" các cô con gái ! Hi hi Tam Tang Viết theo lời kể của một phụ nữ Việt Nam sống tại Massachutsetts. Viết theo lời kể của một phụ nữ Việt Nam sống tại Massachutsetts. Gia đình tôi chân ướt chân ráo đến Mỹ vào mùa Hè 1986. Cũng như những gia đình đến Mỹ theo diện "mồ côi" khác (không có thân nhân bảo trợ ,) gia đình tôi được hội bảo trợ thuê cho một appartment ở từng thứ ba của một building tại đường Adams trong vùng Dorchester, đó là một vùng phụ cận về phía Nam của thành phố Boston (thủ đô của tiểu bang Massachutsetts.) Gần chổ chúng tôi cư ngụ cũng có một số gia đình người Việt nên chúng tôi cũng không cảm thấy lạc loài lắm! Cũng như tình trạng chung của các khu down towns tại Mỹ, nơi tôi ở đa số là người Mỹ đen và Hispanic (dân ở các nước Nam Mỹ nói tiếng Spanish và Portuguesẹ) Tôi cũng nên nói sơ một chút về nơi tôi ở, Dorchester là một nơi nổi tiếng về tội ác và tràn đầy các tệ nạn xã hội ! Nó có tiếng xấu đến nỗi nếu bạn ở vùng khác đón taxi vào Dorchester sau 9:00 PM, tài xế sẽ từ chối bạn thẳng thừng. Ở nhiều khu phố trong vùng này cư dân không dám ra đường sau 8:00PM vì sợ "tên bay đạn lạc" từ các tay anh chị trong các băng đảng thanh toán lẫn nhau! Tình trạng cũng giống như một số khu vực tại Nam California ! Án mạng xảy ra như cơm bữa ! Người Việt mới qua vì tài chính còn hạn hẹp thường phải thuê nhà trong những vùng này để tiết kiệm được phần nào số tiền nhỏ nhoi kiếm được qua các công việc thấp kém dành cho những kẻ mới qua ! Trở lại chuyện của gia đình tôi, trong hai tuần đầu mọi chuyện đều êm đẹp . Người trên hội bảo trợ xuống dẫn chúng tôi đi lo các thủ tục giấy tờ, và tìm việc làm cho các người lớn trong gia đình . Gia đình tôi gồm vợ chồng tôi, bố và

hai em trai nhỏ của chồng tôi. Nhà có 3 phòng ngủ, vợ chồng tôi ở phòng lớn nhất, phòng giữa dành cho bố chồng tôi, còn phòng ở cuối hành lang dành cho hai đứa em trai . Sau một tháng chúng tôi đều có việc làm. Chồng tôi và bố anh ấy làm ca một cho một hảng điện tử, còn tôi kém may mắn hơn nên phải làm ca hai cho một hảng chế tạo giấy! Hai đứa em chồng được ghi danh chờ học tại trường trung học địa phương vào đầu mùa Thu . Hàng ngày tôi đi làm từ 3:00PM và vềtới nhà khoảng hơn 11:00PPM. Mọi sự diễn ra êm đẹp trong hai tháng đầu. Tôi cũng đã quen với công việc và supervisor của tôi đã cho phép tôi làm thêm giờ. Cũng như phần đông người Á Ddông, tôi chăm làm và muốn có thêm thu nhập cho gia đình nên tôi thường xin ở lại làm thêm đến 3 giờ sáng! Một đêm, sau khi làm thêm giờ , tôi về đến nhà khoảng 3:30AM! Cảnh vật chung quanh rất yên ắng! Thỉnh thoảng mới có tiếng xe vọng lại từ con đường phố chính (Dorchester Ave) mà thôi! Bước vào nhà, ngó lên cầu thang dẫn lên tầng 3 và trong ánh sáng lờ mờ của ánh đèn đường chiếu xuyên qua cửa sổ, tôi nhìn thấy một bóng đen to lớn đứng ngay giữa lối lên của từng hai và từng ba! Một luồng hơi lạnh chạy dài trên xương sống tôi! Ddể trấn tỉnh mình tôi tự nhủ chắc đó chỉ là thằng Mỹ đen sống ở từng hai mà thôi ! Ddã từng nghe nhiều lời đồn không tốt về Mỹ đen và "Sì" (tiếng người Việt thường dùng để gọi nhừng người Hispanish,) nên tôi rất ngại chạm mặt với họ ! Tôi làm bộ cúi tìm vật gì trong túi xách tay trong khi vẫn từ từ bước lên cầu thang. Khi lên đến chổ mà tôi nghĩ là sẽ chạm mặt tên Mỹ đen đó thì lạ thay chẳng thấy ai cả !! Tôi hơi rợn người nhưng ráng làm tỉnh bước tiếp lên tầng ba về nhà mình! Mấy ngày sau tôi không có làm thêm giờ nên về sớm, tôi có để ý về tên Mỹ đen nhưng không thấy gì. Rồi tôi cũng quên bẳng đi chuyện đêm đó. Nhưng ngày thứ Hai tuần sau, tôi lại về nhà lúc 3:30AM! Vừa bước vào nhà ngước nhìn lên cầu thang, cái bóng đen bữa trước đã thù lù đứng đó tự bao giờ! Lần này nó nhìn thẳng về phía tôi! Tôi sợ điếng người, đứng chết trân như trời trồng mấy phút đồng hồ! Chừng định tỉnh lại được, tôi nhớ ra rằng trong xách tay của tôi có một cái đèn "pin" nhỏ ! Run rẩy tôi lần tay vào giỏ rút nó ra và bật sáng lên, rồi rọi về hướng cái bóng đen! Nó đã biến đâu mất dạng! Tuy rất sợ, tôi vẫn phải tiến lên để về nhà mình! Tôi phải cố gắng lắm mới khỏi qụy xuống vì hai đầu gối của tôi run rẩy ngoài sự kiểm soát của tôi ! Cuối cùng tôi cũng về đến cửa nhà, nghe tiếng mở khóa chồng tôi ra bật đèn và đón tôi tại cửa. Thấy mặt mày tôi tái mét anh ấy hỏi: _ Em làm sao vậy? Trông mặt em tái mét vậy? Bị cảm phải không ? _ Em không sao cả _ Tôi lắp bắp trả lời. _ Anh đã bảo em đừng làm thêm giờ nữa rồi mà! Không bõ tiền thuốc đâu ! Tôi bỏ vào phòng tắm, tắm rửa xong xuôi tôi về phòng mình. Lúc này tôi mới kể cho chồng tôi về việc hai lần chạm trán với cái bóng đen ở cầu thang tầng hai! Chồng tôi, một người đạo gốc, gạt phăng đi: _ Em chỉ tin nhảm nhí ! Làm gì có ma quỉ lang thang trên thế gian này! Chắc em làm quá nhiều giờ, mệt nên "trông gà hóa quốc" cũng nên! Tôi không cãi lại nhưng trong lòng tôi tin chắc là tôi không thể nhầm được! Mà

nhầm thế nào được cơ chứ ! Chính mắt tôi nhìn thấy nó hai lần mà! Từ ngày đó tôi sợ không dám ở lại làm thêm giờ nữa! Dù supervisor có hỏi, tôi cũng viện cớ để từ chối! Tiền thì tôi cũng thích đó, nhưng nỗi sợ phải đụng đầu với cái bóng đen ở cầu thang còn cao hơn! Tôi đành chịu thua nó vậy! Mọi việc có vẻ yên xuôi, trong hai tuần kế sau đó, tôi không thấy cái bóng đó nữa! Có lẽ là do tôi về sớm vào lúc hơn 11 giờ đêm thôi. Vào thời điểm này nhiều nhà vẫn còn thức nên bóng đen chưa dám hiện ra chăng ?! Tôi cũng không biết nữa, chỉ đoán mò như thế thôi! Gia đình tôi vẫn thuộc diện mới đến nên không quen biết ai! Chỉ vào ngày Chúa Nhật đi nhà thờ là cơ hội để gặp người Việt mà thôi! Cũng đôi khi chúng tôi gặp nhau trong chợ, chào hỏi nhau vài câu rồi lại mạnh ai nấy đi! Thành ra gia đình tôi cũng chưa quen một ai thân cả ! Tưởng mọi việc rồi sẽ êm đềm trôi đi! Nhưng cuối tháng Tám năm đó, chồng tôi cùng ba anh ấy qua New York ăn cưới con của một người bà con và nghỉ lại đêm bên đó! Tôi và hai đứa em trai ở nhà xem TV, khoảng 10 đêm chúng về phòng ngủ, tôi cũng tắt TV trở về phòng mình. Tôi nằm đọc mấy cái thư mới nhận của ba mẹ và các em tôi gửi sang từ VN! Khoảng 11 đêm tôi tắt đèn đi ngủ ! Tôi trằn trọc không sao ngủ được, mãi sau mới rơi vào trạng thái nửa mê nửa tỉnh. Trong trạng thái đó tôi cảm thấy có bàn tay ai đó rờ vào chân tôi rồi xoa lên xoa xuống chổ bắp vế chân phải ! Tôi ú ớ muốn thoát ra khỏi cơn mơ mơ màng màng đó, nhưng không thoát ra được ! Tôi cố vùng vẫy rồi giật mình mở mắt ra được! Ddiều đầu tiên tôi làm là bật công tắc đèn lên, ánh sáng chói chang làm tôi hoa mắt. Tôi chớp chớp mắt rồi nhìn quanh xem có ai không! Phòng trống không chỉ mỗi mình tôi thôi! Tôi tự trấn tỉnh có lẽ mình bị ám ảnh nên bị ác mộng thôi! Nằm lại xuống giường tôi thao thức ngó lên trần nh'a không sao dỗ lại giấc ngủ ! Cuối cùng tôi cũng tắt đèn rồi cố nhắm mắt ru mình vào giấc ngủ ! Tôi lại rơi vào trạng thái mê mê tỉnh tỉnh lần nữa ! Và cái cảm giác bị ai sờ lại đến với tôi! Tôi lại cố vùng vẫy để thoát ra khỏi cơn ác mộng! La hét, kêu gào trong giấc mơ một lúc tôi vụt bừng mắt ra! Tôi nhìn xuống cuối giường! Trời ơ! Trong bóng tối nhờ nhờ, cái bóng đen quỷ quái đang đứng một đống chình ình ở đó! Tôi hét lên vang dội cả nhà ! Các em tôi chạy qua mở cửa bật đèn lên: _ Chuyện gì đó chị !? Sao chị trông hoảng hốt thế ?! _ Em coi xem có ai trong phòng không ?! Nó vừa ở đây nè !!! Các em tôi tìm khắp nơi trong phòng và cả mọi chổ trong nhà nhưng không thấy một bóng dáng nào cả ! Tôi nói rằng cái bóng đen đứng ngay dưới chân giường tôi, chúng nghe rồi chỉ ậm ừ cho qua nhưng có vẻ không tin lời tôi! Chúng trở về phòng ngủ tiếp, tôi sợ lắm vội ra phòng khách bật đèn sáng trưng và mơ? TV xem để giết thì giờ chờ sáng! Hôm sau ba và chồng tôi về, các em tôi kể lại chuyện đêm qua cho họ nghe! Cả hai chỉ cười xoà mà thôi, coi như chẳng có gì xảy ra cả ! Chiều đó chúng tôi đi dự lễ ở nhà thờ VN, khi tan lễ có một chị phụ nữ việt Nam khoảng trên dưới 30 tiến về phía chúng tôi chào làm quen, sau vài câu chào hỏi, chị nói: _ Tôi trước kia cũng ở chổ anh chị ởbây giờ, nhưng gia đình đình tôi chỉ ở đó

đúng một tháng rưỡi là dời đi chổ khác thôi ! _ Sao vậy chị ? _ Tôi tò mò hỏi lại . _ Tôi không biết có ai trong nhà chị thấy gì không ?! Chứ chẳng dấu gì chị tôi nhát lắm nên phải đi thôi !! Tự nhiên xương sống tôi lại ớn lạnh lên! Nhưng tôi vẫn cố làm tỉnh hỏi tiếp: _ Chắc chị sợ tụi Sì và Mỹ đen phải không ? _ Chắc anh chị nặng vía nên không thấy gì! Nói thật với anh chị là người thì tôi không sợ đâu! Ddằng này tôi thấy ma chị ạ !!! _ Thằng Mỹ đen ở cầu thang phải không ?! _ Tôi thảng thốt buột miệng nói. _ Ddúng đó !! Chị cũng thấy nó phải không ?!?! _ Ddúng chị ạ !! Tôi chạm trán nó tới 3 lần rồi ! Mà nói với anh nhà tôi thì anh ấy cứ gạt phăng đi nói là tôi tin nhảm nhí! _ Trời ơi! Anh chị là người mới đến nên không biết đó thôi! Cái building đó bị ma ám lâu lắm rồi! Rất nhiều người thấy nó lắm! Cứ sau nửa đêm thì nó hay hiện ra đứng ở cầu thang đó! Tụi Mỹ đen và Sì nói là khoảng 10 năm trước nó bị bắn chết ở đầu cầu thang tầng hai đó!! Từ đó nó đóng đô ở cái building đó luôn! Nó thường chỉ nhát đàn bà con gái thôi !! Nghe nói nó dê dữ lắm đó !! Tôi quay bật lại phía chồng tôi: _ Anh còn nói em tin nhảm nữa hay không?! Nó vào cả phòng mình nữa đó !! Cả gia đình tôi ai nấy đều có vẻ tái mặt! Chị ấy lại lên tiếng: _ Chổ building tôi ở vừa có chổ trống, nếu anh chị muốn tôi gọi giữ chổ cho ?! _ Chị giữ cho chúng tôi đi! Cám ơn chị trước nhé! _ Tôi trả lời ngay không cần hỏi ý kiến của chồng và các người khác ! Và cuối tháng đó chúng tôi dời đi nhà khác! May mắn là ở building mới này tôi không thấy gì lạ cả ! Tuy thế mỗi khi lái xe qua cái building ngày trước tôi vẫn thấy rợn da gà!!! Note: Tôi chắc nhiều bạn (nhất là các cô) cũng có kinh nghiệm về các con ma Mỹ đen hay Sì này ! Sống trong các appartments ở down towns nơi mà Mỹ đen và Sì thường sinh sống thì chuyện án mạng xảy ra trong nhà là thường! Có thể những con ma này hiện hữu thật! Có thể những oan hồn uổng tử này vẫn luyến tiếc cuộc đời dương thế ngắn nghủi của chúng nên vẫn trốn lang thang trên trần thế mà chẳng chịu về nơi dành riêng cho chúng ở thế giới bên kia chăng ?!? Bạn có đồng ý về tôi đưa ra không ?!? Xin các bạn cho tôi biết ý kiến về nghệ thuật kể chuyện ma của tôi nhé ! Nếu nó còn dở thì tôi sẽ cố gắng cải tiến để có thể kể "hù" các cô con gái ! Hi hi Tam Tang

Gia đình tôi chân ướt chân ráo đến Mỹ vào mùa Hè 1986. Cũng như những gia đình đến Mỹ theo diện "mồ côi" khác (không có thân nhân bảo trợ ,) gia đình tôi được hội bảo trợ thuê cho một appartment ở từng thứ ba của một building tại đường Adams trong vùng Dorchester, đó là một vùng phụ cận về phía Nam của thành phố Boston (thủ đô của tiểu bang Massachutsetts.) Gần chổ chúng tôi cư ngụ cũng có một số gia đình người Việt nên chúng tôi cũng không cảm thấy lạc loài lắm! Cũng như tình trạng chung của các khu down towns tại Mỹ, nơi tôi ở đa số là người Mỹ đen và Hispanic (dân ở các nước Nam Mỹ nói tiếng Spanish và Portuguesẹ) Tôi cũng nên nói sơ một chút về nơi tôi ở, Dorchester là một nơi nổi tiếng về tội ác và tràn đầy các tệ nạn xã hội ! Nó có tiếng xấu đến nỗi nếu bạn ở vùng khác đón taxi vào Dorchester sau 9:00 PM, tài xế sẽ từ chối bạn thẳng thừng. Ở nhiều khu phố trong vùng này cư dân không dám ra đường sau 8:00PM vì sợ "tên bay đạn lạc" từ các tay anh chị trong các băng đảng thanh toán lẫn nhau! Tình trạng cũng giống như một số khu vực tại Nam California ! Án mạng xảy ra như cơm bữa ! Người Việt mới qua vì tài chính còn hạn hẹp thường phải thuê nhà trong những vùng này để tiết kiệm được phần nào số tiền nhỏ nhoi kiếm được qua các công việc thấp kém dành cho những kẻ mới qua ! Trở lại chuyện của gia đình tôi, trong hai tuần đầu mọi chuyện đều êm đẹp . Người trên hội bảo trợ xuống dẫn chúng tôi đi lo các thủ tục giấy tờ, và tìm việc làm cho các người lớn trong gia đình . Gia đình tôi gồm vợ chồng tôi, bố và hai em trai nhỏ của chồng tôi. Nhà có 3 phòng ngủ, vợ chồng tôi ở phòng lớn nhất, phòng giữa dành cho bố chồng tôi, còn phòng ở cuối hành lang dành cho hai đứa em trai . Sau một tháng chúng tôi đều có việc làm. Chồng tôi và bố anh ấy làm ca một cho một hảng điện tử, còn tôi kém may mắn hơn nên phải làm ca hai cho một hảng chế tạo giấy! Hai đứa em chồng được ghi danh chờ học tại trường trung học địa phương vào đầu mùa Thu . Hàng ngày tôi đi làm từ 3:00PM và vềtới nhà khoảng hơn 11:00PPM. Mọi sự diễn ra êm đẹp trong hai tháng đầu. Tôi cũng đã quen với công việc và supervisor của tôi đã cho phép tôi làm thêm giờ. Cũng như phần đông người Á Ddông, tôi chăm làm và muốn có thêm thu nhập cho gia đình nên tôi thường xin ở lại làm thêm đến 3 giờ sáng! Một đêm, sau khi làm thêm giờ , tôi về đến nhà khoảng 3:30AM! Cảnh vật chung quanh rất yên ắng! Thỉnh thoảng mới có tiếng xe vọng lại từ con đường phố chính (Dorchester Ave) mà thôi! Bước vào nhà, ngó lên cầu thang dẫn lên tầng 3 và trong ánh sáng lờ mờ của ánh đèn đường chiếu xuyên qua cửa sổ, tôi nhìn thấy một bóng đen to lớn đứng ngay giữa lối lên của từng hai và từng ba! Một luồng hơi lạnh chạy dài trên xương sống tôi! Ddể trấn tỉnh mình tôi tự nhủ chắc đó chỉ là thằng Mỹ đen sống ở từng hai mà thôi ! Ddã từng nghe nhiều lời đồn không tốt về Mỹ đen và "Sì" (tiếng người Việt thường dùng để gọi nhừng người Hispanish,) nên tôi rất ngại chạm mặt với họ ! Tôi làm bộ cúi tìm vật gì trong túi xách tay trong khi vẫn từ từ bước lên cầu thang. Khi lên đến chổ mà tôi nghĩ là sẽ chạm mặt tên Mỹ đen đó thì lạ thay chẳng thấy ai cả !! Tôi hơi rợn người nhưng ráng làm tỉnh bước tiếp lên tầng ba về nhà mình! Mấy ngày sau tôi không có làm thêm giờ nên về sớm, tôi có để ý về tên Mỹ đen nhưng không thấy gì. Rồi tôi cũng quên bẳng đi chuyện đêm đó. Nhưng ngày thứ Hai tuần sau, tôi lại về nhà lúc 3:30AM! Vừa bước vào nhà ngước nhìn lên cầu thang, cái bóng đen bữa trước đã thù lù đứng đó tự bao

giờ! Lần này nó nhìn thẳng về phía tôi! Tôi sợ điếng người, đứng chết trân như trời trồng mấy phút đồng hồ! Chừng định tỉnh lại được, tôi nhớ ra rằng trong xách tay của tôi có một cái đèn "pin" nhỏ ! Run rẩy tôi lần tay vào giỏ rút nó ra và bật sáng lên, rồi rọi về hướng cái bóng đen! Nó đã biến đâu mất dạng! Tuy rất sợ, tôi vẫn phải tiến lên để về nhà mình! Tôi phải cố gắng lắm mới khỏi qụy xuống vì hai đầu gối của tôi run rẩy ngoài sự kiểm soát của tôi ! Cuối cùng tôi cũng về đến cửa nhà, nghe tiếng mở khóa chồng tôi ra bật đèn và đón tôi tại cửa. Thấy mặt mày tôi tái mét anh ấy hỏi: _ Em làm sao vậy? Trông mặt em tái mét vậy? Bị cảm phải không ? _ Em không sao cả _ Tôi lắp bắp trả lời. _ Anh đã bảo em đừng làm thêm giờ nữa rồi mà! Không bõ tiền thuốc đâu ! Tôi bỏ vào phòng tắm, tắm rửa xong xuôi tôi về phòng mình. Lúc này tôi mới kể cho chồng tôi về việc hai lần chạm trán với cái bóng đen ở cầu thang tầng hai! Chồng tôi, một người đạo gốc, gạt phăng đi: _ Em chỉ tin nhảm nhí ! Làm gì có ma quỉ lang thang trên thế gian này! Chắc em làm quá nhiều giờ, mệt nên "trông gà hóa quốc" cũng nên! Tôi không cãi lại nhưng trong lòng tôi tin chắc là tôi không thể nhầm được! Mà nhầm thế nào được cơ chứ ! Chính mắt tôi nhìn thấy nó hai lần mà! Từ ngày đó tôi sợ không dám ở lại làm thêm giờ nữa! Dù supervisor có hỏi, tôi cũng viện cớ để từ chối! Tiền thì tôi cũng thích đó, nhưng nỗi sợ phải đụng đầu với cái bóng đen ở cầu thang còn cao hơn! Tôi đành chịu thua nó vậy! Mọi việc có vẻ yên xuôi, trong hai tuần kế sau đó, tôi không thấy cái bóng đó nữa! Có lẽ là do tôi về sớm vào lúc hơn 11 giờ đêm thôi. Vào thời điểm này nhiều nhà vẫn còn thức nên bóng đen chưa dám hiện ra chăng ?! Tôi cũng không biết nữa, chỉ đoán mò như thế thôi! Gia đình tôi vẫn thuộc diện mới đến nên không quen biết ai! Chỉ vào ngày Chúa Nhật đi nhà thờ là cơ hội để gặp người Việt mà thôi! Cũng đôi khi chúng tôi gặp nhau trong chợ, chào hỏi nhau vài câu rồi lại mạnh ai nấy đi! Thành ra gia đình tôi cũng chưa quen một ai thân cả ! Tưởng mọi việc rồi sẽ êm đềm trôi đi! Nhưng cuối tháng Tám năm đó, chồng tôi cùng ba anh ấy qua New York ăn cưới con của một người bà con và nghỉ lại đêm bên đó! Tôi và hai đứa em trai ở nhà xem TV, khoảng 10 đêm chúng về phòng ngủ, tôi cũng tắt TV trở về phòng mình. Tôi nằm đọc mấy cái thư mới nhận của ba mẹ và các em tôi gửi sang từ VN! Khoảng 11 đêm tôi tắt đèn đi ngủ ! Tôi trằn trọc không sao ngủ được, mãi sau mới rơi vào trạng thái nửa mê nửa tỉnh. Trong trạng thái đó tôi cảm thấy có bàn tay ai đó rờ vào chân tôi rồi xoa lên xoa xuống chổ bắp vế chân phải ! Tôi ú ớ muốn thoát ra khỏi cơn mơ mơ màng màng đó, nhưng không thoát ra được ! Tôi cố vùng vẫy rồi giật mình mở mắt ra được! Ddiều đầu tiên tôi làm là bật công tắc đèn lên, ánh sáng chói chang làm tôi hoa mắt. Tôi chớp chớp mắt rồi nhìn quanh xem có ai không! Phòng trống không chỉ mỗi mình tôi thôi! Tôi tự trấn tỉnh có lẽ mình bị ám ảnh nên bị ác mộng thôi! Nằm lại xuống giường tôi thao thức ngó lên trần nh'a không sao dỗ lại giấc ngủ ! Cuối cùng tôi cũng tắt đèn rồi cố nhắm mắt ru mình vào giấc ngủ ! Tôi lại rơi vào trạng thái mê

mê tỉnh tỉnh lần nữa ! Và cái cảm giác bị ai sờ lại đến với tôi! Tôi lại cố vùng vẫy để thoát ra khỏi cơn ác mộng! La hét, kêu gào trong giấc mơ một lúc tôi vụt bừng mắt ra! Tôi nhìn xuống cuối giường! Trời ơ! Trong bóng tối nhờ nhờ, cái bóng đen quỷ quái đang đứng một đống chình ình ở đó! Tôi hét lên vang dội cả nhà ! Các em tôi chạy qua mở cửa bật đèn lên: _ Chuyện gì đó chị !? Sao chị trông hoảng hốt thế ?! _ Em coi xem có ai trong phòng không ?! Nó vừa ở đây nè !!! Các em tôi tìm khắp nơi trong phòng và cả mọi chổ trong nhà nhưng không thấy một bóng dáng nào cả ! Tôi nói rằng cái bóng đen đứng ngay dưới chân giường tôi, chúng nghe rồi chỉ ậm ừ cho qua nhưng có vẻ không tin lời tôi! Chúng trở về phòng ngủ tiếp, tôi sợ lắm vội ra phòng khách bật đèn sáng trưng và mơ? TV xem để giết thì giờ chờ sáng! Hôm sau ba và chồng tôi về, các em tôi kể lại chuyện đêm qua cho họ nghe! Cả hai chỉ cười xoà mà thôi, coi như chẳng có gì xảy ra cả ! Chiều đó chúng tôi đi dự lễ ở nhà thờ VN, khi tan lễ có một chị phụ nữ việt Nam khoảng trên dưới 30 tiến về phía chúng tôi chào làm quen, sau vài câu chào hỏi, chị nói: _ Tôi trước kia cũng ở chổ anh chị ởbây giờ, nhưng gia đình đình tôi chỉ ở đó đúng một tháng rưỡi là dời đi chổ khác thôi ! _ Sao vậy chị ? _ Tôi tò mò hỏi lại . _ Tôi không biết có ai trong nhà chị thấy gì không ?! Chứ chẳng dấu gì chị tôi nhát lắm nên phải đi thôi !! Tự nhiên xương sống tôi lại ớn lạnh lên! Nhưng tôi vẫn cố làm tỉnh hỏi tiếp: _ Chắc chị sợ tụi Sì và Mỹ đen phải không ? _ Chắc anh chị nặng vía nên không thấy gì! Nói thật với anh chị là người thì tôi không sợ đâu! Ddằng này tôi thấy ma chị ạ !!! _ Thằng Mỹ đen ở cầu thang phải không ?! _ Tôi thảng thốt buột miệng nói. _ Ddúng đó !! Chị cũng thấy nó phải không ?!?! _ Ddúng chị ạ !! Tôi chạm trán nó tới 3 lần rồi ! Mà nói với anh nhà tôi thì anh ấy cứ gạt phăng đi nói là tôi tin nhảm nhí! _ Trời ơi! Anh chị là người mới đến nên không biết đó thôi! Cái building đó bị ma ám lâu lắm rồi! Rất nhiều người thấy nó lắm! Cứ sau nửa đêm thì nó hay hiện ra đứng ở cầu thang đó! Tụi Mỹ đen và Sì nói là khoảng 10 năm trước nó bị bắn chết ở đầu cầu thang tầng hai đó!! Từ đó nó đóng đô ở cái building đó luôn! Nó thường chỉ nhát đàn bà con gái thôi !! Nghe nói nó dê dữ lắm đó !! Tôi quay bật lại phía chồng tôi: _ Anh còn nói em tin nhảm nữa hay không?! Nó vào cả phòng mình nữa đó !! Cả gia đình tôi ai nấy đều có vẻ tái mặt! Chị ấy lại lên tiếng: _ Chổ building tôi ở vừa có chổ trống, nếu anh chị muốn tôi gọi giữ chổ cho ?!

_ Chị giữ cho chúng tôi đi! Cám ơn chị trước nhé! _ Tôi trả lời ngay không cần hỏi ý kiến của chồng và các người khác ! Và cuối tháng đó chúng tôi dời đi nhà khác! May mắn là ở building mới này tôi không thấy gì lạ cả ! Tuy thế mỗi khi lái xe qua cái building ngày trước tôi vẫn thấy rợn da gà!!! Note: Tôi chắc nhiều bạn (nhất là các cô) cũng có kinh nghiệm về các con ma Mỹ đen hay Sì này ! Sống trong các appartments ở down towns nơi mà Mỹ đen và Sì thường sinh sống thì chuyện án mạng xảy ra trong nhà là thường! Có thể những con ma này hiện hữu thật! Có thể những oan hồn uổng tử này vẫn luyến tiếc cuộc đời dương thế ngắn nghủi của chúng nên vẫn trốn lang thang trên trần thế mà chẳng chịu về nơi dành riêng cho chúng ở thế giới bên kia chăng ?!? Bạn có đồng ý về tôi đưa ra không ?!? Xin các bạn cho tôi biết ý kiến về nghệ thuật kể chuyện ma của tôi nhé ! Nếu nó còn dở thì tôi sẽ cố gắng cải tiến để có thể kể "hù" các cô con gái ! Hi hi

Con mèo đen

Về câu chuyện thần mật vào loại kỳ cục nhất mà tôi sắp hạ bút viết đây, tôi không chờ đợi cũng như không yêu cầu ai tin cả. Mà có mất trí mới đi chờ đợi như thế, vì chính bản thân những cảm quan của tôi cũng không thừa nhận nó là có thật. Vâng, tôi không điên - và rất chắc chắn là tôi không mơ. Nhưng ngày mai tôi chết và hôm nay hẳn tôi phải trút đi gánh nặng trong tâm hồn tôi. Mục đích gần nhất của tôi là trình bày với mọi người những sự kiện trong gia đình một cách đầy đủ, gọn gàng mà không bình luận gì cả. Do hậu quả của nó, những sự kiện này đã làm tôi hoảng sợ, đã dày vò tôi, đã hủy hoại tôi. Nhưng tôi không có ý định trình bày quá tỉ mỉ. Đối với tôi, nó cũng không có ý khác hơn là cảm giác rùng rợn, nhưng đối với số đông thì họ thấy ít sợ hơn là thấy kỳ quặc. Sau này có thể có vài nhà trí thức nào đó sẽ làm cho những điều huyền ảo của tôi chỉ là chuyện thường, sẽ có một số trí tuệ nào đó bình tĩnh hơn, lô-gích hơn và khó bị kích động hơn đầu óc của tôi, sẽ nhìn thấy rõ, trong những trường hợp tôi đã hết sức kinh ngạc kể lại rất tỉ mỉ, không có gì khác hơn là một chuỗi rất thông thường và rất tự nhiên của nhân và quả. Từ thuở nhỏ, tôi đã được chú ý vì tính tình dễ bảo và lòng nhân đạo. Tính tình hiền dịu của tôi trở thành một trò cười của bạn bè. Tôi đặc biệt rất thích loài vật và được cha mẹ nuông chiều cho chơi với rất nhiều loài vật. Tôi đã mất nhiều thì giờ với bọn này, và không gì làm cho tôi sung sướng bằng được cho chúng ăn, được vuốt ve chúng. Tính nết riêng biệt này cứ phát triển dần theo đà lớn lên của tôi, và khi đã trưởng thành thì nó trở thành một trong những nguồn vui chính của tôi. Với kẻ đã dành nhiều tình thương mến cho một con chó khôn ngoan, trung thành thì tôi không cần phải tốn công lí giải về tính chất và mức độ tình cảm đã dành cho nó. Trong tinh thần vị tha và tình thương đầy tinh thần hy sinh của con vật, có một cái gì đi thẳng vào lòng nó và thường tạo ra cơ hội để chứng minh tình bạn thấp kém và lòng trung thành rất mong manh của con người. Tôi lấy vợ sớm và rất sung sướng thấy tính tình của vợ tôi không khác gì tôi bao nhiêu. Nhận thấy tôi thiên vị đối với mấy loại thú trong nhà, cô ta không bao giờ để lỡ dịp tìm cho tôi những con vật dễ thương nhất. Chúng tôi có chim, có cá vàng, có một con chó rất xinh, có thỏ, có một con khỉ con và một con mèo. Con mèo này là một con vật rất to và đẹp, đen tuyền, và khôn đến mức độ đáng kinh ngạc. Nói về trí thông minh của nó, vợ tôi, thực lòng không hề bị chút nào nhiễm phải óc mê tín, vẫn thường nhắc đến một quan niệm cũ trong dân gian cho rằng tất cả bọn mèo đen đều là phù thuỷ trá hình. Cô ta không hề coi đó là chuyện nghiêm túc, nhưng tôi ghi lại tất cả không vì lẽ gì khác hơn là những điều cho đến nay xảy ra đáng cho cô ta phải nhớ. Pluto - tên con mèo - là con vật tôi quý nhất, là người bạn của tôi. Chỉ có tôi cho nó ăn, và trong nhà tôi đi đâu là nó theo tới đó. Tới nỗi tôi phải rất khó khăn mới ngăn được nó, không cho theo tôi ra đường. Tình bạn của chúng tôi kéo dài theo kiểu đó trong nhiều năm; trong thời gian

này tính khí và thái độ của tôi - do rượu chè quá độ - (tôi thật xấu hổ mà thú nhận) đã suy sụp về cơ bản, càng ngày càng xấu đi. Càng ngày tôi càng trở nên cáu kỉnh, bực bội và không nghĩ gì đến tình cảm của người khác. Tôi đã ăn nói thô lỗ với vợ. Dần dần đến mức dùng vũ lực với cô ấy nữa. Mấy con vật của tôi tất nhiên đã cảm thấy sự thay đổi của tôi. Tôi không chỉ bỏ lơ chúng nó, mà còn bạc đãi chúng nữa. Tuy nhiên, đối với Pluto, tôi còn quan tâm đến nó, còn kiềm chế không đến nỗi bạc đãi với nó. Trong khi đó thì tôi không do dự gì mà không bạc đãi những con thỏ, con khỉ, hoặc ngay cả đến con chó nữa, khi, bất ngờ, vì tình cảm chúng nó luẩn quẩn trên đường đi của tôi. Nhưng căn bệnh của tôi cứ tăng lên - một thứ bệnh như bệnh nát rượu - rồi cuối cùng, đến cả Pluto nữa, lúc này đã bắt đầu già, và do đó đã có phần cáu kỉnh - cả Pluto nữa cũng bắt đầu chịu đựng sự thay đổi tính khí của tôi. Một buổi tối, khi từ quán nhậu quen thuộc ngoài phố về, say bí tỉ, tôi cho rằng con mèo cố ý tránh mặt tôi. Tôi nắm lấy nó. Trong khi hoảng hốt, sợ tôi đánh nó, nó đã cắn vào tay tôi, gây nên một vết thương nhẹ; trong phút chốc tôi tức điên lên như bị quỷ ám. Tôi không còn biết tôi là ai nữa. Hồn tôi lúc này như bỗng chốc bay ra khỏi xác - một cơn điên loạn độc ác làm rung tất cả các thớ thịt của tôi. Tôi rút trong túi áo ra một con dao con, kéo lưỡi dao ra, tôi nắm chặt lấy cổ con vật, tôi thư thái khoét một trong hai mắt của nó! Thật tôi xấu hổ đến run lên khi viết lại cái hành động tàn ác khủng khiếp này. Sáng hôm sau, khi bình tĩnh lại - đã ngủ được đầy đủ sau một đêm trụy lạc tôi cảm thấy nửa như ghê tởm, nửa như hối hận về tội ác mà tôi đã gây ra. Nhưng đó chỉ là một thứ tình cảm mơ hồ, yếu ớt, còn tâm hồn tôi vẫn hoàn toàn yên ổn, không hề bị chạm tới. Tôi lại lao vào nhậu nhẹt, và dìm sâu vào trong rượu tất cả mọi ký ức về hành động của tôi. Trong thời gian đó, con mèo dần dần phục hồi. Hốc con mắt bị mất trông bề ngoài dễ sợ thật, nhưng nó không còn phải chịu đựng bất cứ một nỗi đau đớn nào nữa. Nó lại đi loanh quanh trong nhà như cũ, nhưng, như ta có thể thấy trước, nó rất khiếp sợ khi thấy tôi đến gần. Trong lòng tôi hãy còn lại chút tình cảm cũ và ban đầu tôi thấy tội nghiệp cho cái phần rõ rệt là không có gì đáng yêu của một sinh vật có lần tôi đã thương yêu đến thế. Nhưng tình cảm này chẳng mấy chốc đã nhường chỗ cho sự phẫn nộ. Và tinh thần ngoan cố trong cái xấu đã đến với tôi như một sự suy sụp cuối cùng và dứt khoát. Triết học cũng chả làm gì được với tinh thần này. Thế là tôi không tin rằng, linh hồn tôi đáng sống, bằng tin rằng sự ngoan cố trong cái xấu là một trong những động lực ban sơ của lòng người - một trong những năng khiếu, hay tình cảm ban sơ và nguyên vẹn, không chia cắt được đã vạch ra phương hướng cho tính cách con người. Ai đã không hàng trăm lần, tự thấy mình phạm phải một hành động xấu xa hoặc ngu xuẩn mà không phải do một lý do nào khác hơn là bởi vì anh ta biết rằng anh ta không nên làm? Có phải chúng có khuynh hướng lâu dài muốn vi phạm cái gọi là luật pháp, kể cả khi ta có nhận xét đúng nhất, chỉ vì chúng ta hiểu rằng nó phải như vậy đó không ? Tinh thần ngoan cố trong cái xấu, như tôi nói đến với sự suy sụp cuối cùng của tôi. Đó là sự theo dõi chờ đợi một tâm hồn sâu không đáy tự gây phiền phức cho mình - dùng bạo lực cưỡng chế bản tính tự nhiên của nó - làm điều sai chỉ vì cả cái sai - đã thúc đẩy tôi phải tiếp tục và cuối cùng phải làm nốt việc gây thương tích cho con vật ngây

thơ, vô tội. Một buổi sáng, tôi thản nhiên đưa một cái thòng lọng vào cổ nó, rồi treo lên cành cây; treo nó lên mà mắt tôi ướt đầm nước mắt, mà lòng xót xa ân hận vô cùng - treo nó bởi vì tôi biết nó thương tôi, và bởi vì tôi cảm thấy nó không làm gì cho tôi phải tức giận cả, treo nó bởi vì tôi biết làm thế là tôi đang phạm một tội ác - một tội ác nghiêm trọng đến nỗi nguy hại đến linh hồn bất diệt của tôi - nếu có thể có chuyện đó - và đưa nó ở xa tầm ơn đức vô biên của Đức Chúa Đại Nhân, Đại Trí, nhưng cũng đáng sợ vô cùng. Trong đêm của cái ngày xảy ra những hành động tàn khốc đó, tiếng kêu cháy nhà làm tôi giật mình thức dậy. Cái màn trên giường tôi bốc cháy. Toàn bộ ngôi nhà bị bắt lửa. Vợ tôi, người ăn kẻ ở trong nhà, và bản thân tôi nữa, đã rất khó khăn mới thoát ra khỏi đám cháy. Tất cả đều bị thiêu hủy hoàn toàn. Toàn bộ của cải tôi cháy rụi cả, và tôi cảm thấy cùng đường, tuyệt vọng. Tôi không còn đủ sức để suy nghĩ, tìm kiếm mối liên quan giữa nguyên nhân và kết quả, giữa tai họa và hành động tàn ác. Nhưng tôi phân tích kỹ cả một dây chuyền sự việc và cố cho không bỏ sót một khâu nào cả. Qua ngày hôm sau đám cháy, tôi đến xem lại hiện trường. Các bức tường - trừ một bức - đều sụp đổ hết. Bức tường này là của một gian phòng, không dày lắm, đứng vào khoảng giữa ngôi nhà và là chỗ dựa sát vào đầu giường của tôi. Vôi vữa ở đây đã có sức chống lửa rất lớn - một sự kiện tôi cho là do bức tường mới xây mà có. Một đám đông dày đặc tập hợp gần bức tường rất chăm chú và rất tỉ mỉ. Những tiếng "lạ thật", "kì thật", và nhiều tiếng khác tương tự như vậy đã kích thích tính tò mò của tôi. Tôi lại gần, và nhìn thấy như chạm nổi trên nền trắng, bộ mặt một con mèo rất lớn. Nét in lên rõ và chính xác lạ lùng. Có cả sợi dây thừng quanh cổ con vật nữa. Khi lần đầu tiên tôi nhìn thấy sự hiện hình này - vì tôi chẳng mấy khi nhìn thấy thế - thì sự kinh ngạc và khiếp sợ của tôi đã tới mức cùng cực. Nhưng dần dần về sau, sự suy nghĩ đã đến hỗ trợ tôi. Tôi nhớ con mèo bị treo cổ trong khu vườn sát bên nhà. Khi nghe tiếng kêu cháy nhà, thì lập tức khu vườn đông nghịt những người từ đâu kéo đến. Một trong những người này đã cắt dây treo cổ con vật khỏi cây và ném qua cửa sổ mở vào phòng tôi. Việc này chắc là chỉ cốt nhằm đánh thức tôi dậy. Những bức tường khác đổ xuống đã đè lên nạn nhân của tội ác của tôi; áp vào trong chất vôi vữa vừa mới tô lên. Những chất đó cùng với lửa và chất amonia từ xác con vật đã tạo ra bức chân dung con vật mà tôi đã nhìn thấy đó. Mặc dầu tôi sẵn sàng dựa vào những lý lẽ của tôi, nếu không phải cả với lương tri của tôi nữa, bởi sự việc kỳ quặc mà tôi vừa mới kể lại rất tỉ mỉ, nó đã để lại một ấn tượng rất sâu trong óc tưởng tượng của tôi. Hàng mấy tháng trời tôi không sao thoát ra một cảm giác trở lại trong tâm trí tôi, nó nửa như hối hận, nhưng không phải thế. Tôi thương tiếc con vật đã mất, và cố tìm chung quanh, trong những quán rượu xấu xa nhất mà tôi thường lui tới, để kiếm một con vật vào loại như thế, hoặc bề ngoài giống như thế để thay vào chỗ của nó. Một đêm, tôi đang ngồi trong một căn nhà lụp xụp, tồi tệ, đang thừ người ra, thì bỗng tôi chú ý đến một vật gì đen đen nằm trên nắp những thùng rượu Gin hay Rin gì đó, là những đồ vật chính ở trong nhà. Tôi nhìn kỹ mấy cái nắp

thùng trong vài phút, và điều làm tôi ngạc nhiên là sao tôi lại không nhận ra ngay cái vật trên nắp thùng này. Tôi bước lại gần và lấy tay sờ vào xem. Đó là một con mèo đen - to bằng con Pluto, và giống hệt như nó, nhưng con mèo này có một chòm lông trắng khá rộng, mặc dầu không rõ rệt lắm, phủ kín một vùng gần chỗ ngực nó. Khi tôi đụng vào nó, lập tức nó đứng dậy, gào to lên, cọ mình vào tay tôi và có vẻ sung sướng thấy tôi chú ý đến. Đây đúng là con vật mà tôi đang tìm. Tôi liền xin ông chủ nhà cho tôi mua lại; nhưng ông ta không nói gì đến nó, không biết tí gì về nó, và trước đây cũng chưa bao giờ nhìn thấy nó. Tôi tiếp tục vuốt ve nó, và khi tôi chuẩn bị ra về, thì con vật tỏ ý muốn đi theo tôi. Tôi cho nó theo, và trên đường đi thỉnh thoảng tôi cúi xuống vuốt ve nó. Khi tôi về đến nhà, nó lập tức làm quen được ngay, và lập tức trở thành người bạn thân thiết của vợ tôi. Về phần tôi, chẳng mấy chốc tôi cảm thấy khó chịu đối với nó. Điều đó rõ ràng là trái ngược với điều tôi đã dự tính, những - tôi không rõ thế nào và tại sao lại như vậy - vẻ yêu mến, thích thú của nó đối với tôi càng làm tôi thêm ghê tởm và chán ghét nó. Rồi dần dần những cảm giác chán ghét và ghê tởm này cứ tăng lên mãi thành một thứ căm thù dữ dội. Tôi tránh con vật, một cảm giác xấu hổ nào đó, và khi nhớ lại hành động tàn ác của tôi trước đây, tôi tránh không đụng tới cơ thể của nó. Hàng mấy tuần liền, tôi không đánh đập gì nó, hoặc dùng một thứ bạo lực nào khác đối với nó, nhưng dần dần - dần dần, rất chậm - tôi đã nhìn nó như một con vật rất ghê tởm, và âm thầm lẩn tránh, không nhìn bộ mặt xấu xa của nó, như lẩn tránh bệnh dịch vậy. Cái cộng thêm vào lòng căm thù của tôi đối với con vật, chắc là sự phát hiện ra, vào một buổi sáng sau khi đem nó về nhà, rằng nó giống con Pluto, nó cũng bị khoét mất đi một con mắt. Tuy nhiên, trường hợp này lại làm cho vợ tôi thân với nó, như tôi đã nói, cô ta vốn đã sẵn có mối tình nhân đạo này đến cao độ, cũng như trước đây có lần nó đã là một đặc tính của tôi, và đã là nguồn gốc của nhiều trong những thú vui giản dị nhất và trong sáng nhất của tôi. Tuy vậy, dù bị tôi thù ghét, con mèo như cứ càng thêm thiên vị đối với tôi hơn. Nó cứ bám sát theo chân tôi đến mức khó có thể làm cho người đọc tin được. Bất cứ khi nào, tôi ngồi, thì nó nằm tròn dưới ghế hoặc nhảy lên đầu gối tôi, giụi mình vào tôi. Nếu tôi đứng lên định đi thì nó sẽ chui vào giữa hai chân tôi và làm tôi suýt ngã, hoặc dùng móng nhọn và dài cào cấu vào áo tôi, và cứ như thế, trèo lên ngực tôi. Vào những lúc đó, mặc dầu tôi rất muốn cho nó một cú chí tử, tôi đã tự kiềm chế được, một phần vì nhớ tới tội ác của tôi trước kia, nhưng phần chính xác - xin cho tôi thú thật ngay bây giờ - vì quá khiếp sợ con vật. Sự khiếp sợ này đúng ra không phải khiếp sợ đối với một tội ác vật chất nhưng tôi cũng không thể xác định cho rõ nó là cái gì. Tôi như tự thẹn với mình - vâng, ngay trong căn lều tội ác này tôi hầu như tự thẹn với mình - vì nỗi sợ hãi và ghê tởm mà con mèo đã gây ra cho tôi cứ được tăng lên mãi do một thứ huyễn tưởng mà ta có thể nhận ra được. Vợ tôi hơn một lần đã nhắc tôi chú ý

đến tính chất của chùm lông trắng, mà vợ tôi đã có nói đến, và đó là chỗ khác nhau duy nhất giữa con vật lạ lùng này với con mà tôi đã giết. Bạn đọc chắc còn nhớ dấu hiệu này, dù là khá rộng, về cơ bản mà nói vẫn không rõ. Nhưng, dần dần - dần dần đến gần như không nhận thấy được và trong thời gian quá lâu lý trí của tôi cố tranh đấu để vứt bỏ đi coi như một thứ huyễn hoặc. Về sau, dần dần nó cứ rõ dần ra. Và giờ đây nó là biểu hiện của một vật chỉ nói đến tên tôi cũng đã rùng mình rồi. Và trên hết, đối với nó là tôi lẩn tránh, tôi khiếp sợ, tôi muốn xua đuổi cái con quỷ dữ đó, tôi dám nói như vậy. Giờ đây nó là hình ảnh của cái xấu xí, ghê tởm; của một vật khủng khiếp, của cái Giá treo cổ một công cụ giết người rất dễ sợ của Tội ác, của sự Rùng rợn, của Sầu não và của Chết chóc. Giờ đây, tôi quả thật là quá khốn khổ, hơn tất cả mọi thứ khốn khổ của Nhân loại. Và một con vật đốn mạt - mà bạn của nó tôi đã giết chết một cách thản nhiên - con vật đốn mạt đời tôi phải trả nợ - vâng tôi, một con người được nặn ra theo hình ảnh của Đức Chúa Trời Cao Cả - vốn quá nhiều nỗi khổ đau không sao chịu nổi! Chao ôi! Đêm cũng như ngày, không một lúc nào tôi còn được hưởng cái ân huệ của phút nghỉ ngơi, yên ổn nữa. Thời gian với con trước, nó không để cho tôi được phút nào riêng một mình, còn đối với con sau, tôi từng giờ sa vào những giấc mơ khủng khiếp, sợ gặp phải hơi thở của con vật đó phả lên mặt tôi, và sức nặng ghê gớm của nó - nhập vào trong cơn ác mộng mà tôi không đủ sức lay chuyển nổi - mãi mãi đè nặng lên tim tôi. Dưới sức ép của những dằn vặt như thế này, cái phần thiện quá yếu ớt còn lại trong tôi đã sụp đổ. Những ý nghĩ tội lỗi trở nên những ý nghĩ duy nhất gần gũi, thân thiết với tôi - những ý nghĩ đen tối nhất và tội lỗi nhất. Tình trạng sầu não trong tính khí quen thuộc của tôi đã tăng lên khiến tôi căm thù mọi vật, căm thù cả loài người nữa. Trong khi tôi mù quáng buông thả mình vào cơn giận dữ dội đột ngột bùng ra thường xuyên, không điều khiển nổi thì bà vợ nhẫn nhục của tôi là người thường xuyên và kiên trì chịu đựng hơn cả. Một hôm, cô ta đi theo tôi vì một vài việc nhà, chúng tôi đi vào trong hầm rượu của ngôi nhà cổ mà cảnh nghèo túng đã buộc chúng tôi phải ở. Con mèo theo tôi xuống bậc cầu thang, và làm tôi xuýt nữa nhào đầu xuống, tôi giận như muốn điên lên. Tôi xách cái rìu lên, và trong cơn giận dữ tôi đã quên mất nỗi sợ hãi thơ ngây đã từng giữ tay tôi lại cho đến lúc này - tôi bổ một nhát xuống người con vật, và tất nhiên nếu nó rơi đúng như ý muốn của tôi thì chỉ trong phút chốc con vật đã toi mạng rồi. Nhưng bà vợ tôi đã kịp chặn tay tôi lại. Tôi lúc này càng giận hơn vì sự can thiệp này, và như một người bị quỷ ám, không còn biết gì nữa, tôi giật lấy chiếc rìu ra khỏi bàn tay cô ta và bổ luôn một nhát vào sọ cô ta. Cô ngã xuống chết ngay tại chỗ, không một tiếng rên. Hành động giết người bẩn thỉu này làm xong, tôi quyết định phải lo ngay việc cất giấu tử thi. Tôi biết không thể chuyển tử thi ra khỏi nhà, dù ngày hay đêm cũng vậy, mà có thể tránh được con mắt của hàng xóm. Nhiều phương án đã đến trong đầu tôi. Có một lúc tôi nghĩ đến việc chặt tử thi ra làm nhiều mảnh rồi thiêu huỷ luôn. Lúc khác tôi lại tính đào một cái huyệt dưới nền hầm rượu và chôn vào đó. Lại cũng tính đến chuyện vứt xuống giếng ở ngoài sân, hoặc xếp vào trong một cái thùng, làm như là hàng hoá, xếp đặt bình thường rồi

thuê người đem ra khỏi nhà. Cuối cùng tôi nghĩ ra một kế mà tôi cho là hơn cả mấy phương án kia. Tôi quyết định xây một bức tường chặn nó lại trong nhà hầm, nhưng những tu sĩ thời Trung Cổ từng chắn nạn nhân của họ. Để thực hiện cho ý đồ này, hầm rượu cần được sửa chữa tốt hơn. Những bức tường hầm trước đây xây dựng rất sơ sài, và phần vôi vữa mới trát gần đây không được tốt lắm, và độ ẩm trong không khí làm cho không cứng lại được hơn nữa, ở một trong mấy bức tường có một chỗ lồi ra, có lẽ do một ống khói giả, hay chỗ nhà hầm. Tôi tin chắc rằng tôi có thể lấy gạch ở chỗ này ra, nhét thi hài vào đó, rồi xây tường lại hoàn toàn như cũ và như thế thì không ai tìm ra vật cất giấu trong đó được cả. Tôi rất tin chắc vào cách tính toán này. Với một cái xà beng, tôi dễ dàng nạy những viên gạch ra, rồi cẩn thận đặt cái xác dựa vào bức tường phía trong, tôi đặt nó trong thế đứng trong khi chỉ hơi mệt một tí thôi tôi đã xây lại tất cả y như cũ. Tôi tìm cát, vôi hồ và tóc, và hết sức cẩn thận nhào trộn chế biến thành một thứ vữa giống hệt như loại vữa cũ, và với chất liệu đó tôi xây lại tường mới. Khi đã xong, tôi thấy bằng lòng vì tất cả đều rất tốt. Nhìn từ bên ngoài, không ai có thể biết bức tường đã bị xáo trộn chút nào cả. Rác rưởi trên sàn được dọn dẹp rất chu đáo. Tôi nhìn lại chung quanh có vẻ đắc thắng, và tự nhủ mình: "Ít ra là ở đây, công lao động của mình không phải là vô ích". Bước tiếp theo của tôi là đi tìm con vật đã gây cho tôi bao nhiêu chuyện khốn khổ này; bởi, cuối cùng tôi đã quyết định là phải giết nó. Giá tìm gặp nó vào lúc này, thì chắc chắn số phận của nó đã rõ, không còn phải nghi ngờ nữa. Nhưng hình như con vật tinh ranh này đã hoảng hốt khi nhìn thấy hành động dữ tợn trong cơn giận của tôi lần trước nên tìm đường tránh không chường mặt ra trong lúc tôi đang trong cơn giận lần này. Không thể nào mô tả hoặc tưởng tượng được cảm giác sung sướng, nhẹ nhõm sâu sắc nhất ở trong lồng ngực tôi khi thấy vắng mặt con vật đáng ghét này. Suốt cả đêm, nó cũng không xuất hiện. Và như thế, từ khi con vật vào trong nhà này, ít ra là được một đêm tôi có thể ngủ yên; vâng ngủ yên mặc dầu tội ác giết người vẫn đè nặng lên tâm hồn tôi. Ngày thứ hai, rồi ngày thứ ba trôi qua, con vật quấy rối tôi vẫn không đến. Lại một lần nữa tôi thở phào như một kẻ tự do. Con quái vật, trong cơn sợ hãi, chắc đã bỏ đi luôn rồi! Tôi sẽ không còn nhìn thấy nó nữa! Hạnh phúc của tôi thật là tuyệt vời! Tội lỗi về hành động đen tối kia cũng dằn vặt tôi chút ít. Một số ít câu hỏi được đặt ra, nhưng tôi đều sẵn sàng trả lời được cả. Có cả một cuộc thẩm tra, khám xét nữa - nhưng tất nhiên là không tìm ra được gì cả. Tôi cho rằng, sắp tới đây, hạnh phúc của tôi đã được bảo đảm chắc chắn rồi. Đến ngày thứ tư của vụ giết người, một đội cảnh sát rất bất ngờ kéo đến, vào trong nhà lùng sục, tìm kiếm một lần nữa rất kĩ. Tuy nhiên, tin chắc vào chỗ giấu không thể nào lộ ra được của tôi, tôi không cảm thấy bối rối chút nào cả. Không một xó nào, không một góc nào họ không tìm đến. Cuối cùng, đến lần thứ ba, hay lần thứ tư, họ xuống hầm rượu. Các thớ thịt của tôi vẫn bình thường, không rung động. Tim tôi vẫn đập bình tĩnh như tim của một người vô tội. Tôi đi lại trong hầm rượu từ đầu này đến đầu kia. Tôi khoanh tay lên ngực đi qua đi lại thoải mái, nhẹ nhàng. Cảnh sát xem chừng đã thoả mãn và sắp

sửa ra về. Niềm vui dậy lên trong tim tôi mạnh đến nỗi tôi không cầm được; tôi nóng lòng muốn nói lên dù chỉ một lần thôi, nhân dịp đắc thắng này, để làm cho họ tin thêm gấp đôi rằng tôi hoàn toàn vô tội. Cuối cùng, khi đội cảnh sát bước lên cầu thang: - Thưa quý ông, tôi rất sung sướng làm bớt đi sự nghi ngờ của các ông. Tôi rất mong các ông tất cả đều khoẻ và lịch sự hơn một chút. Thôi xin chào các ông, và xin nói đây - đây là một ngôi nhà hết sức kiên cố (trong khi điên cuồng muốn được thoải mái một điều gì, tôi hầu như không biết tôi đang nói gì đây), tôi có thể nói ngôi nhà đã được xây dựng rất kiên cố, đến mức tuyệt vời. Những bức tường này - các ngài còn nhìn thấy không? - Những bức tường này đã được kết lại với nhau rất chắc chắn. Và nói đến đây, muốn tỏ ra dũng cảm, tôi lấy một cây gậy gõ mạnh lên đúng vào chỗ bức tường gạch sau đó tôi đã dựng xác của người vợ yêu quí của tôi. Nhưng mong Chúa che chở và cứu tôi thoát khỏi nanh vuốt của ác Quỷ! Dư vang tiếng gõ của tôi chưa kịp chấm dứt, tôi đã nghe có tiếng đáp lại từ trong mộ vang ra - một tiếng kêu ban đầu như nghẹn ngào, rời rạc như tiếng khóc sụt sùi của trẻ con, nhưng rất nhanh chóng chuyển thành tiếng kêu dài, to lên và liên tục, một tiếng kêu rất lạ, không phải là tiếng người - một tiếng gào một tiếng kêu nửa như hoảng hốt, nửa như đắc thắng, nghe như đâu từ địa ngục vang lên, đồng thời từ cổ họng của những linh hồn bị trừng phạt trong cơn sầu não, đau thương, và của những con quỷ cảm thấy hào hứng trong sự trừng phạt đó. Thật không biết nói thế nào đây về tình trạng tư tưởng của bản thân tôi. Tôi, tôi như bị mất trí, loạng choạng đi về phía bức tường đối diện. Đội cảnh sát đang ở trên cầu thang bỗng đứng sững bất động trong một chốc, phần vì quá khiếp sợ, phần vì quá kinh ngạc. Sau đó, có mười hai cánh tay khó nhọc loay hoay chỗ bức tường. Cả bức tường đổ xuống ngay lập tức. Cái thi hài đã thối rữa hết, đang đứng sừng sững trước mặt mọi người. Trên đầu xác chết, con vật ghê tởm đang ngồi đó, với cái mồm mở rộng đỏ ngầu và con mắt cô độc như ngọn lửa, con vật mà thói tinh ranh của nó đã xúi tôi đi vào tội giết người và tiếng gọi báo tin của nó đã khép tôi thành người bị treo cổ. Tôi đã xây tường lấp kín con quỷ đó vào trong mồ.

Cuộc gặp gỡ rùng rợn

Chuyện xảy ra ở VN vào thập niên 90. Quang là sinh viên năm thư' ba ở một trường đại học tỉnh. Vì là học trò nghèo đi học xa nên hễ cư' đê'n hè là Quang về thăm gia đình. Cũng giô'ng như những mùa hè năm trươ'c, năm nay vừa thi xong môn cuô'i Quang vội vã thu xê'p và dzọt ngay ra bê'n xẹ Đo' là chuyê'n xe đò cuô'i cùng trong ngày cho nên màn đêm buông xuô'ng râ't nhanh. Khởi đầu xe chạy co' vẻ êm đềm, tiê'ng động cơ rì rì, chẳng mâ'y chô'c đa'm hành kha'ch vào giâ'c mơ màng trong đo' co' cả Quang. Khoảng ba, bô'n tiê'ng đồng hồ sau thì co' tiê'ng ba'nh xe thă'ng gâ'p, hai hành kha'ch mơ'i xuâ't hiện. Đo' là một ông già và một cô ga'i, họ co' lẽ là hai cha con. Cô ga'i nhã nhặn xin phe'p ngồi vào 2 chiê'c ghê' trô'ng bên cạnh Quang. Quang chỉ kịp gật đầu xong ngả vào thành ghê' ngủ tiê'p. Bên ngoài trời tô'i đen như mực, những cơn gio' dịu ma't của mùa hè thổi vào làm cho đa'm hành kha'ch tiê'p tục rơi vào giâ'c Nam Kha vừa bị gia'n đoạn. Thình lình chiê'c xe đò bị trục trặc vâ'n đề gì đo' và chê't ma'ỵ Xe dừng lại giữa một ca'nh đồng trô'ng khi kim đồng hồ chỉ đùng.......11h30. Cả đa'm hành kha'ch nhô'n nha'o và muô'n pha't kho'c khi được thông ba'o rằng họ chỉ co' thể tiê'p tục cuộc hành trình sau cuộc sữa chữa i't nhâ't là đê'n......5h sa'ng. Quang mặt mày me'o xệch khi thâ'y mình đang đư'ng giữa một khoảng không và bâ't gia'c chàng rùng mình khi thâ'y đằng xa xa là một....... nghĩa địạ Vì trời oi bư'c và trong xe lại chật chội nên Quang quyê't định giê't thời gian bằng ca'ch ...........đi dạọ Đang đi bỗng một cơn gio' lạnh thổi đê'n bật tung cả nu't a'ọ Quang rùng mình định trở lại xe thì ngay lu'c â'y một căn nhà hiện ra trươ'c mă't chàng! Hơi ngạc nhiên vì khi nãy trên xe chàng không hề nhìn thâ'y no' mặc dù no' chỉ ca'ch chỗ đậu xe chừng vài trăm me't. Vô'n là người gan lì và vì ma'u tò mò thôi thu'c nên Quang tiê'n đê'n gần để xem đo' là ca'i gì bởi vì so vơ'i căn nhà thì no' qua' nhỏ.

Thì ra đo' là căn nhà mồ. Chàng ghe' mă't ngo' vào và sau một vài giây lưỡng lự chàng liền quyê't định ngả lưng tại đây hơn là chen lâ'n trong ca'i hộp să't nghẹt người và mùi xăng. Nghĩ thê' Quang liền bươ'c thẳng vào, phần mộ được xây âm xuô'ng đâ't, cho nên toàn bộ phi'a trên hoàn toàn trô'ng trảị Phi'a dươ'i bư'c tường lơ'n nhâ't co'một cây đèn dầu hỏa co' lẽ của ai đo' bỏ quên đêm quạ Quang liền bật quẹt và soi đèn lên xem tên họ của người qua' cô' nơi đâỵ Người mâ't là một cô ga'i còn râ't trẻ, chỉ 18 tuổi và một ông già. Bỗng chàng nghe co' tiê'ng chân bươ'c sau lưng và liền sau đo' là tiê'ng lạch cạch bên dươ'i ngôi mộ. Ngay lập tư'c Quang quay phă't người lại thì bă't gặp ngay một đôi mă't đang nhìn chàng chằm chặp. Giật bă'n mình vì tưởng mình đang đô'i diện vơ'i hồn ma bo'ng quê' nên chàng đa'nh rơ't cây đèn dầụ A'nh đèn phụt tă't. Ngay trong lu'c đo' thì co' một bàn tay đập lên vai chàng làm chàng giật mình, một giọng no'i ồ ồ vang lên: -"Chu'ng tôi co' thể ngủ lại đây vơ'i anh được không? " Quang thở phào khi nhận ra đo' là ông già và phi'a trươ'c mặt là cô ga'i trên xe đò lu'c nãỵ -"Dạ chỗ này còn trô'ng ,ba'c và cô cư' tự nhiên. Dể chaú đô't đèn lên cho sa'ng" Quang trả lời Nhưng hỡi ôi dầu của cây đèn đã chảy ra ngoài hê't cho nên họ đành phải chịụ Cũng may đêm đo' trời co' trăng nên cũng sa'ng được đôi chu't. Qua a'nh trăng Quang thâ'y khuôn mặt cô ga'i và ông già co' một vẻ gì do' râ't mờ ảọ Nươ'c da của họ tră'ng qu'a đê'n nỗi gần như pha't sa'ng trong đêm. Một luồng hơi lạnh pha't ra từ người họ làm cho chàng khẽ rùng mình. Nhậ thâ'y tha'i độ bâ't thường đo' cô ga'i liền nhoẻn miệng cười làm Quang thâ'y mình ngơ' ngẩn , co' lẽ đo' chỉ là cơn gio' ẩm thâ'p ngoài kia lọt được vào trong đây thôị Mặc dù tự trâ'n an mình như vậy nhưng Quang vẫn thâ'y co' điều gì đo' không ổn vì tự nhiên lu'c đo' tiê'ng lạch bên dươ'i ngôi mộ không còn vang lên nữạ Chàng đang định no'i về chuyện này thì ngay lu'c đo' bên ngoài bỗng co' một luồng a'nh sa'ng loe' lên, tiê'p theo sau đo' là những tiê'ng se't và cuô'i cùng thì những hạt mưa bă't đầu rơi lộp bộp trên no'c

ngôi mộ. Hai cha con nhà nọ bỗng run lên co' vẻ sợ hãi và ôm nhau ne'p chặt vào trong tường. -"Chỉ là cơn mưa rào thôi, ba'c và cô không cần phải sợ như vậy đâu". Quang trâ'n an họ Mặc những lời trâ'n an của Quang hai cha con nhà nọ vẫn tiê'p tục ne'p sa't vào tường và run lên lập cập , a'nh mă't của họ lu'c này bỗng sa'ng lên trong đêm. Họ nhìn ra ngoài và cho Quang một cảm gia'c như là sợ bị ai pha't hiện ra chỗ tru' ẩn........ Cơn mưa mùa hạ ập đê'n râ't nhanh nhưng ngay sau đo' lại tạnh ngay nhưng hôm nay Quang cảm thâ'y co' một điều gì đo' râ't kì lạ là tại sao cơn mưa đã tạnh rồi nhưng tiê'ng sâ'm se't vẫn thỉnh thoảng cư' vang rền lên làm chàng giật mình mâ'y lần. Mãi lo miên man suy nghĩ về việc này mà Quang gần như quên đi sự hiện diện của 2 cha con nhà nọ.Một la't sau cô ga'i lên tiê'ng: -"Xin lỗi, anh bị sao vậỷ" -"Ồ.....không co' chuyện gì cả". Quang giật mình đa'p. Bây giờ thì ông già bên cạnh cô ga'i đang ngaý pho pho, chẳng biê't trời trăng gì. Cô ga'i hình như còn ngại vì giữa đêm khuya vơ'i một chàng trai lạ hoă'c nên không da'm lên tiê'ng nữạ Còn Quang thì đã lâ'y lại bình tĩnh và bạo dạn lên tiê'ng làm quen. Qua cuộc no'i chuyện chàng được biê't là cô ga'i kia được ông bô' dă't lên Sàigòn thi Đại học đang trên đường trở về. Khi biê't Quang là một gia sư luyện thi đại tài cô ga'i liền nhờ chàng giải hộ đề thi Đại học vừa rồị Khi nhận từ tay cô ga'i giâ'y viê't đề thi và lời giải của cô thì Quang cảm thâ'y tay mình lạnh buô't và một cảm gia'c lành lạnh rờn rợn chạy khă'p cơ thể làm chàng rùng mình mâ'y ca'ị Mă't cô ga'i rưng rưng khi biê't mình đã làm sai gần phân nữa đề toa'n.Thâ'y

thê' Quang liền an ủi hê't lờị Qua sự khuyê'n khi'ch của chàng cô nàng bă't đầu hồi vui trở laị Họ tiê'p tục trò truyện cho đê'n khi tiê'ng con gà trô'ng nào đo' gaý vu vơ ngoài ca'nh đồng. Lu'c này cô ga'i bỗng giật mình và vội vã lôi ra từ trong tu'i một tâ'm ảnh co' y' tặng Quang làm kỉ niệm cho buổi gặp gỡ kha' kỳ lạ nàỵ Vẫn ca'i cảm gia'c lạnh băng lu'c nãy nhưng vì lần này chàng đã chuẩn bị trươ'c nên không phải giật bă'n mình lên như lần trươ'c. Trong ảnh là một cô ga'i xinh xă'n trong bộ a'o dài tră'ng tha thươ't. Vưà lu'c đo' co' tiê'ng còi xe inh ỏi ba'o hiệu cuộc sữa chửa đã xong, Quang liền đư'ng dậỵ Bên kia ông già cũng được đa'nh thư'c. -"Anh co' thể đi trươ'c, em và ba sẽ theo sau". Cô ga'i lên tiê'ng no'ị Quang không chần chừ suy nghĩ gì cả và chàng quay lưng bươ'c ra khỏi căn nhà mồ. Bên ngoài trời đã tạnh mưa từ lâu nhưng bầu trời bỗng trở nên âm u một ca'ch lạ thường. Từng đa'm mây đen ke'o tơ'i ngày một đông, những tia chơ'p bă't đầu loé lên như ba'o hiệu một trận mưa lơ'n sẽ ke'o đê'n trong giây la't. Quang định chạy để còn đê'n kịp nơi đậu xe trươ'c khi cơn mưa ập xuô'ng, thì ngay lu'c đo' một tia se't đa'nh thẳng xuô'ng ca'i nhà mồ phi'a sau lưng chàng. Giật mình Quang liền quay lưng lại và trươ'c mặt chàng là một cảnh tượng hãi hùng diễn rạ Trong căn nhà mồ là 2 xa'c chê't đang ôm lâ'y nhau, da thịt của họ đang chảy ra , trong a'nh mă't họ thâ'p thoa'ng vẻ sợ hãị Trươ'c cảnh tượng đo' Quang the't lên sợ hãi và ba chân bô'n cẳng bỏ chạy khỏi ca'i nhà mồ

đa'ng sợ kiạ Khi đã an vị trên ghê' ngồi Quang như sực nhơ' ra một điều gì đo' và chàng run run lôi ra những tờ giâ'y mà chàng đã giải hộ đề thi của cô ga'i hôm qua thì, trời ơi, trên tay chàng chỉ là những chiê'c la' khô trên đo' chi chi't những dòng gạch xo'a của chi'nh chàng, còn chữ của cô ga'i thì hoàn toàn biê'n mâ't. Còn tâ'm ảnh mà cô ga'i tặng Quang thì chỉ là một tâ'm ảnh trô'ng trơn không co' gì trên đo'.............một màu tră'ng mờ mờ, ma qua'ị....... Phải mâ't một năm sau Quang mơ'i điều tra ra được hai cha con nhà nọ. Theo như lời của một bà già trung niên sô'ng ở gần đo' cho biê't thì hai năm trươ'c co' một ông già tha'p tùng cô con ga'i u't lên Saìgòn thi Đại học và chuyê'n trở về của họ không bao giờ đê'n nơi được. Cả hai đều tử nạn trong một tai nạn giao thông, cô be' không kịp nhìn thâ'y tâ'm giâ'y ba'o tru'ng tuyển của mình......... PS: Đây chỉ là truyện tưởng tượng do cocu viê't ra nhưng cô't truyện là co' thật, đo' là Ma bị se't đa'nh. Truyện này không mâ'y gì hay vì vậy mong ca'c bạn đọc xong rồi bỏ.

Ðại nam

Hề Thành Liệt là một sĩ nhân ở Thành Ðô. Có một vợ và một thiếp. Người thiếp họ Hà, tiểu tự là Chiêu Dung. Người vợ chết sớm, bèn lấy vợ kế họ Thân, tính đố kỵ nhau, ngược đãi người thiếp họ Hà sinh được một con trai đặt tên là Ðại Nam. Hề lâu nay không trở về, Thân gạt Hà ra, không thổi cơm chung, cứ ngày ngày đong phần thóc cấp cho. Ðại Nam lớn dần, thóc ăn không đủ nữa. Hà phải dệt vải để phụ vào phần ăn, không dám xin thêm. Ðại Nam thấy ở trường học, trẻ con ngâm nga đọc sách, cũng muốn đi học. Mẹ cho là hãy còn bé quá, nhưng cũng dắt đến trường cho học thử, để con chán phải bỏ. Ðại Nam sáng dạ, sức học gấp đôi các trẻ khác. Thầy làm lạ, tình nguyện không đòi tiền học. Hà bèn cho con theo học thầy, biếu lễ chút đỉnh. Ðược hai, ba năm đã học thông kinh sách. Một hôm, đi học về nói với mẹ rằng: - Trong trường có năm sáu đứa đeo lấy cha xin tiền mua quà bánh, sao con lại không có cha? Mẹ nói: - Chờ lúc nào con lớn lên, mẹ sẽ cho con biết. Ðại Nam hỏi: - Con nay đã bảy, tám tuổi, bao giờ mới là lớn? Mẹ bảo: - Con đến trường đi qua miếu đức quan Thánh thì nên vào lạy, ngài sẽ phù hộ cho chóng lớn. Ðại Nam tin lắm, ngày hai buổi đi qua đều vào lạy. Mẹ biết thế, hỏi: - Con khấn điều gì? Cười đáp: - Chỉ xin sang năm ngài cho con lớn bằng đứa mười lăm, mười sáu tuổi. Mẹ cười. Song Ðại Nam sức học và hình vóc đều lớn như nhau, mới mười tuổi mà như mười ba mười bốn tuổi; những văn bài cậu làm, bài nào văn chương cũng trôi chảy. Một hôm, nói với mẹ rằng: - Trước kia mẹ nói, con lớn lên mẹ sẽ cho biết cha ở đâu, bây giờ đã đến lúc rồi đấy! Mẹ bảo: - Chưa đâu, chưa đâu!

Lại hơn một năm nữa, đã như người lớn hẳn hoi, càng gạn hỏi luôn luôn. Mẹ bèn thuật lại ngành ngọn. Ðại Nam nghe nói, thương cảm khôn xiết, muốn đi tìm cha. Mẹ nói: - Con hãy còn non trẻ quá, cha còn hay mất chưa biết, làm sao tìm được ngay? Ðại Nam không nói gì mà bỏ đi, đến giữa trưa không về, bèn đến hỏi ở trường, thì thầy nói sau giờ cơm sớm chưa trở lại trường. Mẹ cả kinh cho là Ðại Nam bỏ học, bỏ tiền ăn ra thuê người đi tìm kiếm khắp nơi mà không có tung tích gì. Ðại Nam ra khỏi cửa, mù mờ chẳng biết nên đi đâu, cứ thẳng đường mà đi miết. Gặp một người đang định đi Quỳ Châu, nói mình họ Tiền. Ðại nam ăn xin và đi theo. Tiền bực đi chậm quá, thuê cho một con lừa, tiền lưng cạn hết. Ðến Quỳ, cùng nhau ngồi ăn, Tiền lén bỏ thuốc vào thức ăn, Ðại Nam mê man bất tỉnh. Tiền chở đến một ngôi chùa lớn, giả thác là con mình, không may bị ốm giữa đường, hết tiền ăn, muốn đem bán cho nhà chùa. Tăng đồ thấy mặt mũi khôi ngô khác thường, tranh nhau mua. Họ Tiền lấy được vàng rồi ra đi. Tăng chúng đổ thuốc cho Ðại Nam, dần dần tỉnh, sư cụ trụ trì biết tin đến xem, thấy tướng mạo rất lạ, gạn hỏi ngọn ngành, lại càng thương, bảo các tăng giúp tiền bạc rồi cho đi. Có thư sinh họ Tưởng ở Lô Châu, đi thi trượt trở về, trên đường gặp hỏi biết duyên cớ, khen là hiếu, kết làm bạn đồng hành. Ðến Lô Châu, cho ở trong nhà mình hơn một tháng, gặp ai cũng hỏi. Có người mách rằng trong đám thương nhân đi Mân có người họ Hề, bèn từ biệt họ Tường để đi Mân. Tưởng giúp cho áo quần giày dép, xóm làng cũng góp nhau giúp tiền ăn. Trên đường gặp hai khách buôn vải đi Phúc Thanh, mời cùng kết bạn đường. Ðược vài ngày, khách dòm được tiền trong đãy của Ðại Nam, bèn đem đến chỗ vắng, trói tay trói chân, cướp hết mà đi. Vừa có ông cụ họ Trần người Vĩnh Phúc đi qua đấy, cởi trói, dìu lên xe, chở về nhà mình. Ông cụ là một nhà cự phú, thương nhân các trấn phần lớn đều từ cửa nhà cụ mà ra. Cụ dặn các khách buôn Nam Bắc hỏi dùm tin tức của Hề, và giữ Ðại Nam ở lại làm bạn đọc sách với các con mình. Ðại Nam bèn ở lại, không đi đây đi đó nữa, từ đó nhà càng xa, tin tức càng nghẽn. Hà Chiêu Dung sống cô quạnh ba bốn năm, Thân thị xén bớt phần ăn, đè nén đến điều, bắt phải tái giá. Hà tự làm lấy mà ăn, ý chí không lung lay. Thân ép bán cho một lái buôn Trùng Khánh. Lái buôn bắt cóc đem đi. Ðến đêm, Hà lấy dao cứa cổ. Lái buôn không dám bức, chờ cho vết thương lành lặn, đem bán lại cho một khách buôn ở Diêm Ðình. Ðến Diêm Ðình, Hà tự xẻ lồng ngực, lộ rõ phủ tạng. Người khách buôn hốt quá, lấy thuốc ra buộc vết thương; khỏi rồi, chỉ muốn làm vãi. Người khách buôn bảo rằng: - Tôi có người bạn buôn, không có bộ phận của đàn ông, chỉ muốn tìm người may vá trong nhà, ở với người ấy cũng không khác gì làm bà vãi, mà lại cũng có thể bù lại chút vốn tôi bỏ ra. Hà nghe theo. Người khách buôn cho xe đưa đi. Ðến cửa, chủ nhân chạy ra, thì là chàng Hề. Số là Hề đã bỏ nghiệp nho mà đi buôn. Người bạn buôn thấy

không có vợ bèn đem Hà thị tặng cho. Gặp nhau kinh ngạc, buồn thương, kể lể những nỗi khổ sở. Hề mới biết là mình đã có con, đi tìm cha chưa về. Hề bèn dặn các quán trọ, dò hỏi tin tức Ðại nam, mà Chiêu Dung tự phận thiếp nay trở thành chính thất. Nhưng trải qua nhiều bước gian truân, yếu đau lắm bệnh, không thể gánh vác được mọi việc, bèn khuyên chồng lấy vợ lẽ, Hề trông gương tai họa lúc trước, không chịu nghe theo. Hà nói: - Nếu thiếp là kẻ tranh giành ngôi thứ ở nơi giường chiếu, thì trong mấy năm nay đã theo người ta mà đẻ con rồi, có còn được đoàn tụ với nhau như ngày nay nữa đâu! Vả chăng cái ách mà người ta đặt lên cổ mình, còn đau đớn âm ỷ ở trong lòng, lẽ nào tới phiên mình mình lại đem đặt lên cổ người khác! Hề bèn dặn bạn khách buôn mua cho một cô người thiếp già, tuổi hơn ba mươi. Qua nửa năm, khách quả mua được thiếp đem về. Khi vào cửa, thì lại chính là người vợ họ Thân. Người nào người nấy nhìn nhau lạ lùng, kinh hãi. Trước đó, Thân thị ở một mình được một năm, người anh tên là Bao khuyên tái giá. Thân nghe theo, duy ruộng nương thì bị con cháu trong họ ngăn không cho bán. Chỉ bán các vật sở hữu, tích cóp được mấy trăm đồng vàng, đem về nhà anh. Có người lái buôn ở Bảo Ninh, nghe nói thị giàu, có cả một hòm tư trang, bèn lót nhiều tiền cho Bao để lừa phỉnh thị mà cưới làm vợ. Nhưng người lái buôn thì già khụ và tàn phế, chẳng còn sức làm đàn ông nữa. Thân oán giận anh mình, không yên phận làm vợ, hết dọa thắt cổ trên giường, lại đe gieo mình xuống giếng, quấy nhiễu không chịu nổi. Lái buôn giận, lục soát tiền bạc lấy hết, định đem bán làm thiếp, nhưng ai cũng chê đã lỡ thì rồi. Lái buôn ta đi Quỳ Châu, đem thị đi cùng, gặp người khách buôn cùng một cửa hiệu với Hề, vừa may lại trúng ý định, bèn mua mà mang đi. Ðến khi gặp Hề thì vừa thẹn, vừa sợ, nói không ra một tiếng. Hề hỏi lại người khách buôn cùng cửa hiệu cũng biết đại khái, bèn nói: - Nếu gặp người đàn ông khoẻ mạnh, thì đã ở lại Bảo Ninh, đâu có gặp nhau ở đây nữa! Âu cũng là số cả! Nhưng nay ta mua thiếp chứ không phải cưới vợ, vì thế, trước hết hãy vào lạy Chiêu Dung để đúng lễ vợ cả vợ bé đã! Thân lấy làm xấu hổ, Hề nói: - Xưa kia còn làm vợ cả thì như thế nào? Hà khuyên nên miễn cho thị, nhưng Hề không chịu, cầm gậy đứng trước mặt cưỡng ép. Thân bất đắc dĩ cũng phải lạy, nhưng trước sau vẫn không chịu hầu hạ, chỉ làm lụng ở phòng khác. Hà đều khoan dung cho hết, cũng chẳng nỡ xét nét siêng năng hay lười biếng. Mỗi khi chuyện trò yến ẩm cùng Chiêu Dung, Hề cứ gọi Thân thị đến hầu hạ bên cạnh. Hà muốn thay thế bằng một con hầu, Hề không nghe. Gặp lúc quan huyện lệnh họ Trần tên Tự Tông, đến nhậm chức ở Diêm Ðịnh. Hề có việc tranh chấp nhỏ với người làng, họ bèn kiện Hề tội cưỡng bức vợ cả làm vợ lẽ. Trần Công không xét, quát mắng đuổi ra. Hề mừng lắm, nói riêng với Hà, ca ngợi ông huyện nhân đức. Một đêm, canh đã khuya, tiểu đồng gõ cửa vào báo quan huyện lệnh đến. Hề hốt quá, vội vàng mặc áo xỏ giày, thì quan đã vào nhà trong, lại càng hoảng,

không biết làm thế nào. Hà nhìn kỹ, vội vàng đi ra, nói rằng: "Con ta đây mà!", rồi khóc lên. Trần Công bèn sụp xuống đất, nức nở nghẹn ngào. Số là Ðại Nam từ khi theo họ của cụ Trần đến nay đã nên quan. Lúc ông mới từ kinh đô chuyển đến, có vòng đường đi qua cố hương, mới biết hai mẹ đều đã cải giá, gục đầu thương cảm. Người trong họ biết Ðại Nam đã là quan sang, đem nhà ruộng trả lại cả. Ông cho đầy tớ ở lại để sửa sang, xây cất, mong có ngày cha lại trở về. Rồi được bổ nhiệm ở Diêm Ðình, lại muốn bỏ quan để tìm cha. Cụ Trần ra sức khuyên can. Vừa gặp lúc có người thầy bói bèn xin một quẻ. Thầy bói nói: - Nhỏ thành lớn, thiếu thành trưởng, tìm trống được mái, tìm một được hai; quẻ này đi làm quan thì tốt. Trần Công bèn đi nhậm chức. Vì không tìm được hai thân, nên làm quan mà không dám ăn mặn, uống rượu. Ngày hôm ấy, nhận được đơn kiện của người làng, thấy nói đến họ Hề, có ý ngờ, lén sai người tâm phúc đi hỏi han, quả đúng là cha, bèn thừa lúc đêm tối, đi ra theo kiểu "vi hành"; gặp lại mẹ chàng tin thầy bói là thần kỳ. Khi trở về, dặn chớ tiết lộ, đưa hai trăm đồng vàng, bảo bố sửa soạn hành trang trở về làng cũ. Bố tìm đến nơi thì nhà cửa mới mẻ, nuôi thêm hai người hầu ngựa cưỡi, nghiễm nhiên là một đại gia. Thân thị thấy Ðại Nam giàu sang thịnh vượng thì lại càng hổ thẹn. Người anh là Bao nghe tin, đâm đơn lên quan, muốn giành lại ngôi vợ cả cho em mình. Quan điều tra được thực tình. Giận nói: - Ðã tham của, khuyên em tái giá hai lần đổi chồng, còn mặt mũi nào mà tranh giành cả lẽ như ngày xưa? Bèn truyền đem Bao ra đánh roi rất nặng. Từ đó, danh phận rõ ràng, Thân cam phận bé mọn thờ Hà như chị, thì Hà cũng lấy nghĩa mợ cả đối xử với Thân như em, quần áo, ăn uống không một thức gì tranh phần dùng riêng. Trước kia, Thân vẫn sợ Hà phục thù, đến đây lại càng thẹn thùng, hối hận. Hề cũng quên điều ác ngày xưa của thị, cho phép người nhà gọi bằng thái mẫu, chỉ có phong tặng là không được mà thôi.

Ðạo sĩ núi Lao

Trong huyện có chàng họ Vương, vào hàng thứ bảy, là con nhà cố gia, tuổi trẻ mộ đạo. Nghe nói núi Lao Sơn có nhiều tiên ở, liền quẩy tráp đi thăm. Trèo lên một ngọn núi thấy có đạo quán thật u nhã. Một vị đạo sĩ ngồi trên tấm bồ đoàn (chiếc chiếu đan bằng cỏ bồ, hình tròn, để người đi tu hành quỳ hoặc ngồi cho êm, mỗi khi hành lễ) tóc trắng rủ xuống tận cổ, nhưng dáng vẻ thư thái, tinh thần trông thật sắc sảo. Vương liền khấu đầu, bắt chuyện, thấy đạo lý rất huyền diệu, bèn xin thờ làm thầy. Ðạo sĩ nói: - Chỉ sợ quen nhàn rỗi, không chịu nổi khó nhọc thôi. Vương hứa là: "Ðược". Học trò đạo sĩ đông lắm, gần tối mới kéo hết về. Vương cùng họ cúi đầu làm lễ, rồi lưu lại trong quán. Sáng tinh sương, đạo sĩ gọi Vương, đưa cho cái búa, bảo theo đám học trò đi hái củi. Vương kính cẩn vâng lời. Ðược hơn một tháng, tay chân phồng rộp thành chai, cực khổ không chịu nổi, Vương đã ngầm có bụng muốn về. Một buổi chiều, trở về, thấy hai người khách đang cùng thầy uống rượu. Trời đã tối mà chưa thấy đèn lửa gì cả. Thầy bèn cắt một miếng giấy như hình cái gương, dán lên vách. Phút chốc, ánh trăng vằng vặc soi sáng khắp nhà, trông rõ từng sợi tơ, cái tóc. Ðám học trò chạy quanh hầu hạ. Một người khách nói: - Ðêm này đẹp trời có thể vui chơi, nên cho ai nấy cùng vui. Bèn lấy hồ rượu lên bàn, chia cho các học trò, lại dặn nên uống thật say.

Vương nghĩ bụng: Bảy tám người một hồ rượu, làm sao cho đủ khắp được? Mỗi người đều đi tìm chén, bát, tranh nhau rồi uống trước, chỉ sợ rượu trong hồ hết mất. Thế mà rót hết lần này lượt khác, vẫn chẳng vơi đi chút nào. Bụng thầm lấy làm lạ. Giây lát, một vị khách nói: - Ðã làm ơn ban cho ánh sáng trăng, mà lại chỉ tịch mịch uống suông. Sao không gọi Hằng Nga xuống chơi? Ðạo sĩ bèn lấy một chiếc đũa, vứt vào trong trăng. Bỗng thấy một người đẹp từ trong vùng ánh sáng bước ra: mới đầu chưa đầy một thước, xuống đến đất thì cao lớn như người thường, lưng thon nhỏ, cổ trắng muốt, phấp phới múa khúc Nghê thường. Rồi ca rằng: Tiên tiên nào! Về đây nao! Giữ ta mãi chốn Quảng Hàn sao! Âm thanh trong trẻo, cao vút, nghe hay như tiếng tiêu, tiếng sáo. Ca xong, uốn lượn mà đứng lên, rồi nhảy lên mặt bàn, ngoảnh đi ngoảnh lại, đã biến trở lại thành chiếc đũa. Ba người cùng cười lớn. Lại một vị khách nói: - Ðêm nay vui quá, nhưng uống vẫn chưa đã. Có thể đãi rượu tiếp chúng tôi trên cung nguyệt được chăng? Ba người bàn rời chiếu tiệc bước vào dần trong trăng. Mọi người nhìn thấy rõ cả ba đang ngồi trong trăng uống rượu: râu, lông mày, đều trông thấy hết, như bóng hiện trong gương. Một chốc, ánh trăng mờ dần; đám học trò châm đèn mang đến thì một mình Ðạo Sĩ còn ngồi đấy mà khách đã biến đâu mất. Trên bàn thức nhắm hãy còn. Mà mặt trăng trên vách chỉ còn là miếng giấy tròn như tấm gương mà thôi. Ðạo Sĩ hỏi: - Mọi người đã uống đủ cả chưa?

Các học trò cùng thưa: - Ðủ cả. - Ðủ rồi thì nên đi ngủ sớm, đừng làm lỡ việc kiếm củi ngày mai. Chúng học trò đều "vâng" mà lui ra. Vương lòng thầm thích thú, hâm mộ, bụng muốn về lại tiêu tan. Lại một tháng nữa, khổ không thể nào kham nổi, mà đạo sĩ tuyệt không truyền dạy cho một phép nào. Sốt ruột không chờ được nữa, Vương bèn lên cáo từ rằng: - Ðệ tử vượt mấy trăm dặm đường đến đây thụ nghiệp với thầy; dẫu chẳng học được cái thuật trường sinh bất tử, thì cũng mong thầy cho chút gì gọi là tấm lòng cầu học. Thế mà qua hai ba tháng, chỉ những sáng đi kiếm củi, tối lại trở về. Hồi còn ở nhà, đệ tử chưa bao giờ phi chịu khổ như thế. Ðạo sĩ cười bảo: - Ta vẫn nói là anh không kham nổi khó nhọc, nay đã quả nhiên. Sáng mai, sẽ cho anh về. Vương nói: - Ðệ tử làm lụng đã bao ngày, xin thầy dạy qua cho một thuật mọn, khỏi phụ công lao đệ tử lặn tới tới đây. Ðạo sĩ hỏi: - Muốn học thuật gì? Vương đáp: - Thường thấy thầy đi đâu, tường vách không ngăn được. Chỉ xin một phép cũng đủ. Ðạo Sĩ cười nhận lời. Bèn đem một bí quyết truyền cho, bảo miệng đọc mấy câu thần chú xong rồi hô: "Vào đi!" Vương đối diện với một bức tường mà không dám vào. Ðạo sĩ lại nói: - Cứ vào thử đi! Vương theo lời, thong thả tiến lại, đến tường thì bị vấp. Ðạo Sĩ bảo:

- Cúi đầu, vào cho nhanh, đừng lần chần! Vương quả quyết, đứng cách tường mấy bước, lao nhanh tới. Gặp tường, cảm thấy trống không có vật gì cả. Quay lại thì đã thấy mình ở bên kia tường rồi. Vương mừng quá, vào lạy tạ. Ðạo sĩ bảo: - Về nhà nên giữ mình đứng đắn, không thế thì phép không nghiệm nữa đâu. Nói rồi cấp lộ phí cho mà về. Ðến nhà, chàng khoe đã gặp tiên, tường vách dày đắn đâu cũng không ngăn được mình. Vợ không tin. Vương làm đúng như lời đạo sĩ đã dạy, đứng cách tường mấy bước, chạy ù vào. Ðầu đụng phải tường cứng, bỗng ngã lăn đùng. Vợ Vương đỡ dậy, nhìn xem, thấy trán đã sưng lên như một quả trứng lớn. Vợ Vương đưa ngón tay lêu lêu, diễu cho. Vương vừa thẹn vừa ức, chỉ biết chửi lão đạo sĩ bất lương mà thôi.

Ðám cưới ma

Trong giấc chiêm bao chập chờn,người cha thấy đứa con trai của mình báo mộng là anh ấy muốn lấy vợ ......Trong khi đó,cũng ở một huyện khác ,người mẹ nằm chiêm bao thấy đứa con gái của mình đã chết cách đây 2 năm cũng đòi lấy chồng....Thật ra câu chuyện xảy ra như vầy: Chàng thanh niên đó là một học sinh thứ nhất đại học...Vì muốn kiếm tiền anh ta phải chạy xe hon đa ôm chở khách...Một hôm anh gặp một người khách muốn đi xuống huyện...Người khách trả giá khácao ,nên chàng thanh niên thích thú nhận lờị..mặc dù trời đã sẫm tốị..Khi đi ngang khúc đường vắng thì người khách đó đã dùng 1 cái búa để đập đầu anh thanh niên để lấy xẹanh chết! Con cô gái là một cô giáo trẻ dạy cấp một. Hôm nọ vì không may,trên đường đi dạy cô ta đã bị một chiếc xe tải cán chết. Nơi cô chết cũng là nơi mà anh thanh niên chết lúc trước. Người cha và người mẹ nói trên nhận được 1 sự báo mộng kì lạ...Bởi vì người con trai đã muốn cha mình đến cầu hôn với nhà người con gái đó...Anh ta cũng chỉ địa chỉ cho cha mình nữạ..Người cha thắc mắc...Con mình đã chết sao mà đòi lấy con gái người ta còn sống(Ông ta không biết người con gái đó đã chết)... Đêm sau,ông ta cũng năm mơ giống như đêm trước.Thế rồi ông quyết định đến nhà cô gái đó xem saọ Ông ta vào nhà thì trên bàn thờ, Ông ta thấy hình một cô gái tuyệt đẹp.Ông hoài nghịÔng hỏi bà già trong nhà đó để hỏi đứa con gáịThì mẹ của người con gái cũng tâm tình rằng đứa con gái của bà cũng đã chết rồị...Và nó báo mộng đòi lấy chồng."Có phải ông đây là cha của chàng thanh niên?"Hai người chợt nhận rạ Và hôm sau, họ tổ chức một đám cưới linh đình...Có bà con họ hàng hai bên đến dựHọ đi tới nơi hai người chết mà tổ chức đám cưới tại đó...Từ đó,người mẹ và người cha không còn nằm mơ thấy con mình đòi vợ hoặc chồng nữạChuyện thật lạ phải không các bạn nhưng đó chính là sự thật mà tôi đã chứng kiến.

Ðảo Tiên

Vương Miễn tên chữ là Mẫn Trai, người Linh Sơn có văn tài, nhiều lần đứng đầu trường văn, tâm khá kiêu, hay trách mắng, nhiều người bị nhục. Một hôm tình cờ gặp một đạo sĩ, nhìn Vương: - Tướng ông cực quý nhưng bị nghiệp khinh bạc chiết trừ gần hết rồi. Trí tuệ như ông, nếu biết sửa mình mà tu đạo thì còn có thể được vào sổ tiên. Vương cười nhạt: - Chuyện phúc trạch thực tình còn chưa biết, trên đời này há lại có tiên sao? Ðạo sĩ nói: - Sao ông nhìn thấp thế? Chẳng cần tìm đâu xa, tôi chính là tiên đây! Vương càng cười nhạo lời khoác lác ấy. Ðạo sĩ liền bảo: - Tôi chẳng đáng nói gì. Nếu đi theo tôi thì vài mươi vị chân tiên, thấy ngay tức khắc. Vương nói: - Ở đâu? Ðạo sĩ nói: - Chỉ gang tấc! Nói rồi kẹp gậy vào khoảng giữa hai đùi, đưa một đầu cho Vương bảo cưỡi như mình, dặn Vương nhắm mắt, xong quát lên một tiếng: - Bay! Vương cảm thấy gậy to ra như chiếc túi đựng năm đấu gạo, bay vụt lên không. Ngầm sờ vào gậy xem thì thấy vẩy cứng, xắp từng lớp, sợ quá không dám cựa quậy. Lát sau lại nghe quát: - Ðỗ lại! Tức thì rút gậy ra, hạ xuống một khu nhà lớn, lầu gác trùng điệp tiếp nối, như cung điện bậc đế vương. Có một đài cao hơn một trượng, trên đài có mười toà điện rộng rãi, đẹp đẽ không gì bằng. Ðạo sĩ kéo khách lên, sai tiểu đồng bày tiệc mời khách . Trên điện đặt mấy chục bàn tiệc, bầy biện hoa mắt. Ðạo sĩ thay quần áo tề chỉnh đứng chờ. Không bao lâu, khách từ không trung tới. Vật cưỡi hoặc là rồng, hoặc là hổ,

hay chim loan, chim phượng, không một loại nào nhất định. Mỗi người đều có mang theo nhạc cụ. Khách có con gái, có đàn ông, có người đi chân đất. Trong số đó chỉ có một cô gái đẹp cưỡi chim phượng sặc sỡ, ăn mặc kiểu cung cầm, có đứa hầu nhỏ ôm theo nhạc cụ, dài năm thước trở lại, không ra đàn cầm, cũng không ra đàn sắt, chẳng biết tên gọi là gì. Tiệc rượu bắt đầu, thức ăn quý bày xen nhau, bỏ vào miệng thơm ngon, toàn là những món khác thường. Vương lặng lẽ ngồi im, duy chỉ chăm chăm nhìn người đẹp; đã yêu người lại muốn nghe nhạc, chỉ sợ nàng không đàn lần nào. Rượu tàn, một ông già khởi xướng : - Ðược Thôi chân nhân nhã gọi tới, hôm nay có thể nói là ngày hội lớn, mọi người nên hết lòng vui. Xin mời những ai mang nhạc cụ giống nhau vào cùng một đội để hoà. Thế là ai vào đội nấy, tiếng đàn tiếng sáo vọng tận sông Ngân. Riêng cô gái cưỡi phượng, tài đàn không có ai cùng sánh. Khi mọi âm thanh trên điện đã dứt, đứa hầu nhỏ mới mở túi gấm đặt ngang cây đàn trên kỷ, cô gái duỗi tay ngọc như chơi đàn tranh, âm lượng của nó vang gấp mấy lần đàn cầm; khi mãnh liệt khiến người nghe mở lòng mở dạ, khi êm đềm khiến hồn phách phiêu diêu. Ðàn khoảng chừng nấu chưa chín nồi cơm, cả điện lặng phắc, không một tiếng ho. Hết khúc, một tiếng trong vắt vang lên như gõ vào khánh đá. Cử toạ đều trầm trồ. - Tài đàn của Vân Hoà phu nhân tuyệt diệu thay! Mọi người đều đứng dậy cáo biệt; hạc kêu, rồng gầm, chỉ một lát đã tản đi hết. Ðạo sĩ đặt giường ngà chăn gấm chuẩn bị chỗ cho Vương ngủ. Còn Vương vừa thấy người đẹp lòng đã xao xuyến, sau lúc nghe đàn, càng mệt vấn vương. Vốn nghĩ tài mình, áo tía, đai xanh dễ như lượm cỏ; khi phú quý rồi muốn gì chẳng được. Chốc lát, trăm mối nghĩ suy rối như cỏ bồng. Ðạo sĩ dường như đoán biết, bảo Vương : - Ông kiếp trước là bạn học với tôi, sau nhân vì chí không bền nên sa lưới tục. Tôi vốn không coi ông là người ngoài, thực lòng muốn đưa ông ra khỏi chốn vẩn đục. Không ngờ mê muội đã sâu, mơ màng không thể giác ngộ được. Nay sẽ đưa ông về, chưa hẳn không có ngày gặp lại; song muốn làm tiên trên trời thì phải đến kiếp sau . Ðạo sĩ bàn chỉ phiến đá dài dưới chân bảo Vương nhắm mắt ngồi lên, lại dặn kỹ không được nhìn, sau đó lấy roi quất vào hòn đá. Ðá bay lên, tiếng gió rót ào ào bên tai, chẳng biết đã đi được bao nhiêu dặm. Chợt nghĩ cảnh vật bên dưới chưa biết thế nào, Vương bèn trộm hé hai mí nhỏ như kẻ chỉ, thấy biển lớn bao la mênh mông tuyệt không bờ bến. Sợ quá nhắm mắt lại nhưng cả người đã theo đá rơi tõm xuống nước, chìm nghỉm như chim âu lặn. May trước kia Vương ở gần biển nên biết bơi bì bõm chút ít.

Chợt nghe tiếng người vỗ tay reo: - Ngã nhào đẹp quá! Ðang lúc nguy cấp, một cô gái cứu Vương lên thuyền, và nói: - May thật, may thật! Tú tài 'trúng cấp' rồi! Vương nhìn, cô gái khoảng mười sáu, mười bảy, nhan sắc xinh đẹp. Vương lên đến thuyền, rét run, xin đốt lửa sưởi. Cô gái nói: - Theo tôi về nhà sẽ thu xếp ổn thoả. Nếu vừa , chớ quên sẽ thu nhé! Vương đáp: - Sao cô lại nói thế! Tôi là bậc tài tử ở Trung Nguyên, chợt gặp chuyện quẫn bách. Qua được đận này, xin lấy thân đền đáp, chứ đâu có không quên mà thôi! Cô gái cầm sào đẩy thuyền đi nhanh như mưa bay gió cuốn, chỉ một loáng đã đến bờ. Cô gái mang từ trong khoang ra một bó sen mới hái, dẫn Vương đi cùng. Chừng nửa dặm, vào thôn, thấy ngôi nhà cửa son mở về hướng Nam. Qua mấy lần cổng cô gái đi nhanh vào trước. Lát sau, một người đàn ông khoảng ngoài bốn mươi tuổi bước ra vái chào, mời Vương lên thềm, sai người hầu lấy mũ áo giầy tất cho Vương thay, sau đó hỏi đến nhà cửa quê quán. Vương đáp: - Chẳng dám nói khoe, tài danh của tôi, chắc ông có nghe qua. Tôi từng được Thôi chân nhân quyến luyến rất mực, đã vời lên cõi trời. Song tự nghĩ công danh dễ như trở bàn tay, vì thế không muốn ẩn dật. Người đàn ông kính cẩn nói: - Nơi đây gọi là Ðảo tiên, cách xa hẳn cõi người. Tôi tên Văn Nhược, họ Hoàn, trải mấy đời sống nơi hẻo lánh, may mắn làm sao lại được gặp bậc danh tài. Thế rồi ân cần mời rượu, lại thung dung nói: - Tôi có hai đứa con gái. Ðứa lớn tên là Phương Vân, mười sáu tuổi, đến nay chưa gặp người xứng đôi, muốn cho cháu hầu hạ bậc cao nhân, được chăng? Vương đoán hẳn là cô gái hái sen nên đứng dậy rời khỏi bàn tiệc cảm tạ. Ông Hoàn cho mời vài ba vị tuổi cao đức cả trong làng đến, nhìn quanh một lượt rồi sai gọi con gái. Chốc lát, hương lạ nức thơm, hơn mười cô gái đẹp đỡ Phương Vân ra, rực rỡ dễ thương như bông sen tắm trong nắng sớm. Nàng vái chào rồi ngồi xuống, các

cô gái xếp hàng đứng hầu, cô gái hái sen cũng trong số đó. Rượu vài tuần, một cô bé bỏ tóc xoã từ trong buồng chạy ra, mới chừng hơn mười tuổi mà dáng vẻ đã xinh đẹp, tươi cười dựa vào khuỷu tay chị, sóng mắt long lanh. Hoàn nói: - Con gái không ở trong phòng, ra đây làm gì? Rồi ngoảnh sang khách nói: - Ðây là Lục Vân, con gái nhỏ của tôi. Cháu khá thông mình, nhớ được sách vở điển phần. Nhân đó bảo ngâm thơ cho khách nghe. Cô bé bèn đọc ba chương Trúc Chi từ, giọng đọc êm ái dễ nghe. Ông Hoàn cho phép Lục Vân ngồi cạnh chị, rồi nói: - Anh Vương là bậc thiên tài, thơ làm trước đây hẳn rất nhiều, có thể cho kẻ hèn này nghe mà học hỏi chăng? Vương hăng hái đọc một bài cận thể rồi kiêu hãnh nhìn mọi người. Trong bài thơ ấy có hai câu: Một thân còn chút mày râu đó, Cạn chén cho tan khối bất bình. Ông già ngồi cạnh đọc đi đọc lại hai ba lần. Phương Vân bèn mách khẽ: - Câu trên là Tôn Hành Giả rời động Hoả Vân, câu dưới là Trư Bát Giới qua sông Tử Mẫu. Cử toạ đều vỗ tay. Ông Hoàn mời Vương đọc thêm bài khác, chàng bèn đọc bài thơ Chim Nước: Ðầu dầm kêu kíu kít Bỗng nhiên quên mất câu tiếp theo. Còn đang trầm ngâm thì Phương Vân ghé tai em thầm thì rồi che miệng cười. Lục Vân thưa với cha: - Chị ấy làm hộ anh rẽ câu tiếp theo đấy ạ. Câu thế này: Mông chó vãi bùm bùm Mọi người trong tiệc lại cười ồ. Vương cả thẹn, ông Hoàn lừ mắt nhìn Phương Vân. Khi sắc mặt Vương đã bình tĩnh lại, ông mời Vương nói tài nghệ văn chương

của mình. Vương cho rằng người ngoài cõi trần hẳn không biết nghề văn 'bát cổ' bèn khoe tài văn chàng đã chiếm giải quán quân; đầu đề là hai câu 'Hiếu thay Mẫn Tử Khiên'; phá đề là 'Thánh nhân khen lòng hiếu đức của bậc đại Lục Vân quay sang nhìn cha nói: - Thánh nhân không gọi học trò mình bằng tên tự. Câu 'Hiếu thay...' ắt là lời của nhân gian. Vương nghe được mất cả hứng. Ông Hoàn cười: - Trẻ con biết gì! Không nói về điều ấy, chỉ bàn văn thôi. Vương lại đọc tiếp. Cứ được vài câu hai chị em lại thì thầm với nhau, dường như bình phẩm về người, nhưng các cô nói lúng búng không nghe rõ. Vương đọc đến đoạn hay, thuật lại cả lời bình, có nói rằng: 'Từng chữ, từng chữ đều thống thiết'. Lục Vân thưa với cha: - Chị con bảo nên bỏ chữ 'Thiết' đi. Cử toạ đều không hiểu. Ông Hoàn sợ con nói năng khinh mạn không dám gạn hỏi. Vương đọc xong, lại thuật lời tổng bình, trong có câu: 'Trống yết đánh một tiếng, muôn hoa đều nở'. Phương Vân lại che miệng nói vào tai em, hai chị em cười đến nỗi không ngẩng lên được. Lục Vân lại nói với cha: - Chị bảo trống yết phải đánh bốn tiếng. Mọi người vẫn không hiểu. Lục Vân mở miệng định nói tiếp, Phương Vân nín cười quát: - Con ranh mà nói, tao đánh chết! Cử toạ càng nghi ngờ, bàn đoán riêng với nhau. Lục Vân không nhịn được lại nói: - Bỏ chữ 'thiết' đi, nói 'thống' tức là 'bất thông'. Ðánh bốn tiếng trống thì tiếng vang là 'Bất thông lại bất thông' vậy.

Mọi người cười phá lên, ông Hoàn nổi giận quát con, nhân đó đứng dậy rót rượu, tạ lỗi mãi. Vương ban đầu tự khoe là bậc tài danh, dưới mắt mình thực chẳng coi ai ra gì; đến lúc này thần khí tiêu tan sạch, mồ hôi đầm đìa. Ông Hoàn bàn an ủi lấy lòng: - Vừa nghĩ được một câu xin các vị trong tiệc cùng đối: 'Vương tử thân biên vô hữu nhất điểm bất tự ngọc'. Chưa ai kịp nghĩ thì Lục Vân đã đọc ngay. 'Mẫn ông đầu thượng tái trước bán tịch tức thành quy' . Phương Vân cười sặc lên véo vào sườn em ba bốn cái, Lục Vân giẫy ra bỏ chạy, quay lại bảo: - Việc gì đến chị? Chị mắng anh ấy bao nhiêu thì không cho là trái; người ta nói hộ một câu không được phép à? Ông Hoàn quát lên, cô bé mới cười rồi đi. Các ông già láng giềng cũng cáo từ. Ðám thị nữ dẫn đôi vợ chồng vào phòng ngủ, trong đó đèn nến giường màn đã sắp đặt tinh khôi, đầy đủ. Vương nhìn phòng tân hôn, thấy sách đầy giá, không thiếu một loại nào, hỏi qua những chỗ khó, Phương Vân đều trả lời được trôi chảy, tường tận. Bấy giờ Vương mới thấy hết nỗi xấu hổ của kẻ đứng trước biển khơi. Vợ chàng gọi 'Minh Ðang!' thì cô gái hái sen ban chiều chạy đến, nhờ vậy Vương mới biết tên nàng. Sau nhiều lần bị chế giễu nhục nhã, Vương sợ chốn khuê phòng cũng không được coi trọng. May sao Phương Vân tuy nói năng xấc xược nhưng trong chốn phòng the, tình vợ chồng rất đằm thắm. Vương ở yên vô sự, bàn ngâm nga. Vợ bảo: - Thiếp có lời hay muốn nói, chẳng biết chàng có chịu lắng tai không? Hỏi điều gì, thì bảo: - Từ nay chàng đừng làm thơ nữa! Ðó cũng là một cách để che giấu cái vụng của mình vậy.

Vương lấy làm thẹn, bỏ hẳn chuyện bút mực. Lâu dần càng quấn quít với Minh Ðang, bèn nói với Phương Vân. - Minh Ðang đối với tiểu sinh, có cái ơn cứu mạng, mong ít khi phải cau mặt, nặng lời với nàng. Phương Vân bằng lòng. Thường mỗi khi vợ chồng vui chơi trong phòng, cũng cho nàng cùng dự. Hai bên vì thế càng say nhau, thường liếc mắt, đưa tay thay lời. Phương Vân thoáng biết, trách móc nhiều lần, Vương chỉ liến láu cãi ngượng cho qua chuyện. Một đêm hai vợ chồng đối ẩm, Vương kêu vắng vẻ, khuyên vợ gọi Minh Ðang. Phương Vân không nghe, Vương bảo vợ: - Sách gì nàng cũng đọc, sao chẳng nhớ mấy chữ 'độc lạc nhạc' nhỉ? Phương Vân nói: - Thiếp nói chàng bất thông, nay càng nghiệm. Cách chấm câu còn chưa biết hay sao? 'Riêng mình thì lấy người làm lạc thú, nhưng nói đến lạc thú, hỏi có ai không, lại đáp rằng không'. Chàng bật cười đành bỏ ý đ š ịnh . Gặp buổi hai chị em Phương Vân y hẹn sang chơi nhà cô bạn hàng xóm. Vương được dịp liền dẫn ngay Minh Ðang vào, ái ân hết mực. Ðến tối chàng thấy đau ở bụng dưới, hết đau thì dương vật sưng lên. Vương sợ quá nói với vợ. Vân cười đáp: - Chắc hẳn đã báo cái ơn của Minh Ðang rồi? Vương không dám dấu, cung khai hết. Phương Vân bảo: - Tự gây ra hoạ, thực không còn cách nào. Nếu không đau đớn, ngứa ngáy thì kệ thế cũng được. Mấy ngày sau không khỏi, Vương lo lắng kém vui. Phương Vân biết nhưng không hỏi han gì, chỉ đăm đăm nhìn chồng, đôi mắt như hồ thu đầy đặn, sáng tựa sao mai. Vương nói : - Nàng có thể gọi là người 'trong lòng ngay thẳng nên tròng mắt sáng'.

Phương Vân cười: - Còn chàng, có thể gọi là người 'trong lòng không ngay thẳng nên tròng mất sáng'. Bởi hai chữ 'mất', dân gian cũng đọc gần như chữ 'Mắt' nên nàng đem chữ đó ra để đùa chồng. Vương bật cười, van nài xin chữa cho. Nàng nói: - Chàng không nghe lời nói phải, trước đây vị tất không nghĩ là em ghen, đâu biết rằng con hầu đó vốn không thể gần gũi được. Lúc trước thực rất yêu chàng, nhưng chàng chỉ như gió xuân thổi qua tai ngựa nên em ghét mà bỏ mặc. Nếu không đã chữa cho rồi. Nhưng thầy lang phải xem kỹ chỗ đau đã! Bàn sờ tay vào trong áo rồi đọc chú rằng: - Chim vàng, chim vàng, chớ đậu cành gai. Vương bất giác cười rộ, cười xong thì bệnh khỏi. Mấy tháng sau Vương vì cớ cha già con dại thường nhớ nhà không nguôi. Chàng đem tâm sự nói với vợ. Nàng nói: - Về nhà thì không khó, chỉ không có ngày sum họp nữa thôi. Vương nước mắt lã chã, xin nàng về cùng. Phương Vân nghĩ ngợi hồi lâu mới bằng lòng. Ông Hoàn bày tiệc tiễn đưa, Lục Vân xách làn vào nói: - Chị sắp ra đi, chẳng có gì tặng chị. Chỉ sợ khi đến Hải Nam không có nhà mà ở nên đêm qua đã làm hộ chị lầu gác, xin đừng chê bai là sơ sài. Phương Vân cảm ơn em rồi nhận lấy. Ðến gần xem thì thấy dùng loại cỏ nhỏ kết thành lầu gác, toà lớn thì như quả thanh yên, toà nhỏ thì như quả quất, tất cả chừng hơn hai chục toà. Trong mỗi toà kèo cột rui mà đều phân minh đầy đủ; lại có giường phản ràm tường, mỗi thứ chỉ to bằng hạt vừng. Vương xem như đồ chơi con trẻ, lòng thầm khen cô em vợ khéo tay. Phương Vân nói: - Nói thật với chàng, bọn em là tiên dưới đất, vì có túc duyên nên được theo bên chàng. Em vốn không muốn đặt chân tới cõi trần, nhưng chỉ vì chàng còn cha già, không nỡ trái lời. Ðợi khi cha đủ tuổi trời, chúng ta nên trở lại đây. Phương xin vâng, ông Hoàn hỏi:

- Muốn đi thuyền hay đi xe? Phương sợ sóng gió nguy hiểm xin đi đường bộ. Ra đến cửa thì ngựa xe đã chờ sẵn, vợ chồng từ biệt lên đường. Ngựa phi nhanh vun vút, chỉ thoáng chốc đã đến bờ biển, Vương trong lòng lo không có đường đi. Phương Vân đem ra một tấm lụa trắng ném về phương Nam, lập tức hoá thành con đê dài, mặt đê rộng vừa một trượng, trong nháy mắt xe ruổi qua, đê cũng thu lại dần. Ðến một nơi, nước triều tràn qua, bốn phía mênh mông, Phương Vân bảo dừng lại. Nàng xuống xe lấy những đồ bằng cỏ ra, rồi cùng với bọn Minh Ðang mấy người sắp xắp bày đặt đúng theo phép tắc, chỉ trong nháy mắt đã hoá thành ngôi nhà lớn. Vợ chồng cùng vào, cởi bỏ hành lý, thì toà nhà không khác chút nào với nơi đã sống trên đảo, giường ghế đều y nguyên như phòng tân hôn lúc trước. Trời đã xẩm tối, nhân nghỉ lại qua đêm. Sáng hôm sau, Phương Vân bảo Vương còn về đón cha mẹ. Vương sai đóng ngựa ruổi về làng cũ. Ðến nơi thì nhà cửa đã thuộc về nhà họ khác. Hỏi người làng mới biết mẹ và vợ đã chết, chỉ còn cha già. Con trai đam mê cờ bạc, ruộng vườn gia sản hết sạch, ông cháu không thể có chỗ trú chân, hiện nay tạm ở căn nhà thuê bên thôn Ðoài . Vương lúc mới trở về, nghĩ về công danh vẫn còn vương vấn, kịp khi nghe tin nhà như vậy, âu sầu buồn bã, tự nghĩ giàu sang nếu có được thì so với những ảo ảnh trong khi hoa mắt nào có khác gì. Chàng quất ngựa sang thôn Ðoài, thấy cha quần áo rách rưới, già sọm, thật đáng thương. Cha con gặp nhau khóc lạc cả tiếng; hỏi đến đứa con bất hiếu, còn đi đánh bạc chưa về. Vương bèn chở cha quay về. Phương Vân lạy chào xong, nấu nước mời bố chồng tắm, đưa quần áo gấm cho ông thay, để ông nghỉ ngơi trong ngôi nhà thơm ngát. Sau đó nàng sai mời các ông bạn già cũ tới cùng cha trò chuyện, phụng dưỡng hơn cả các nhà thế tộc. Một hôm con trai Vương tìm đến, chàng dứt tình không cho gặp, chỉ cho hai chục đồng vàng và sai người dặn: "cầm lấy mà mua vợ, rồi lo làm ăn. Nếu còn đến nữa sẽ đánh chết tươi". Con trai khóc mà đi . Vương từ khi trở về không hay tiếp khách, nhưng nếu bạn bà cũ tình cờ đến thăm thì đón tiếp lưu luyến, khiêm nhường, khác hẳn thuở trước. Riêng có Hoàng Tử Giới bạn đồng môn thuở trước cũng là một bậc anh tài lận đận, được Vương lưu lại rất lâu, thường kể cho nghe nhiều chuyện kín và biếu tặng rất hậu. Ðược ba bốn năm Vương ông mất, Vương bỏ vạn bạc chọn đất chôn, làm ma theo đúng lễ.

Bấy giờ con trai Vương đã lấy vợ; con dâu quản chồng rất nghiêm, nhờ thế con cũng đỡ cờ bạc. Ngày vào đám, nàng dâu mới đến chào bố mẹ chồng. Phương Vân thoạt gặp con dâu đã thấy người giỏi việc nhà, bèn cho vợ chồng ba trăm đồng vàng để mua sắm điền sản. Hôm sau chàng Hoàng cùng con Vương đến thăm thì lâu đài nhà cửa đã không thấy nữa, chẳng biết ở đâu.

Ðầu lâu báo oán

Note: Viết theo lời kể của một người đảng viên thuộc VNQD đảng . Năm 1947, hai năm sau ngày thực dân Pháp tái lập lại nền đô hộ ở VN. Các đảng phái lại đi vào hoại động ngầm! Những cuộc thanh toán lẫn nhau giữa các đảng phái tương đối lắng dịu không còn diễn ra dữ dội như hồi 1945! Nhưng không phải vì thế mà các cuộc truy lùng, giết hại lẫn nhau hoàn toàn chấm dứt! Nó chỉ giảm đi nhiều thôi ! Trong tình huống đó, các đội đặc nhiệm truy tìm của chúng tôi cũng như của các đảng phái khác (nhất là của Việt Minh) vẫn ngấm ngầm hoạt động, truy kiếm các thành phần nằm vùng của nhau để thủ tiêu . Thủ đoạn thịnh hành lúc bấy giờ là đột nhập vào nhà, bắt kẻ tình nghi bỏ vào bao bố rồi đem thả trôi sông _ Biết bao đảng viên của các đảng phái quốc gia đã bị CS thủ tiêu bằng cách này!! Chúng gọi là cho đi "mò tôm" ! Cũng năm đó tôi, một tổ trưởng trong một nhóm đặc nhiệm, nhận được một tin mật báo về địa chỉ của một tên đầu sỏ _ Hai Đầu Đà, tên hắn_ của các toán đặc nhiệm CS tại nội thành Hà Nội ! Ô Cầu Giấy là nơi hắn ở và cũng là cơ sở đầu nảo soạn thảo các kế hoạch hành động cho các toán đặc nhiệm của CS nội thành! Mừng rở vì chúng tôi có thể tiêu diệt được tên đầu sỏ khét tiếng đã từng gây nhiều điêu đứng cho các đảng phái quốc gia ! Chúng tôi bàn thảo kế hoạch, chọn thời điểm đột nhập nhà hắn. Tin chắc là sẽ thành công! Trời như giúp sức cho chúng tôi nên trong đêm hành động mưa rơi tầm tả như trút, trời tối đen như mực ! Chúng tôi ba người đột nhập vào địa điểm, còn 7 người lảng vảng phía ngoài để canh chừng và tiếp viện khi cần thiết . Nhưng khi tôi vào đến trong nhà thì chỉ thấy một người đàn bà trạc 30 nằm ngủ trên giường với một đứa bé trai chừng 10 tuổi mà tôi đoán là con của bà ta . Nghe tiếng động và thấy chúng tôi, bà ta ngồi bật dậy, rút lên sát đầu giường ! Tôi gằn giọng hỏi : _ Thằng Hai Đầu Đà đâu ?! Bà ta run rẩy chỉ lên phía đầu tủ thờ, trên đó có một lư hương với ba cây nhang vẫn còn đang cháy dở và một bức ảnh phóng to: _ Anh ấy chết được hơn nửa năm rồi ! _ Láo khoét! Chúng tôi biết nó còn sống và đang lẫn trốn đâu đây ! Khôn hồn thì chỉ không thôi thì khốn cho bà đó ! Người đàn bà một mực nói là hắn đã chết! Cuối cùng vì sợ hãi quá bà ta chỉ cho chúng tôi chổ dấu một hộp sắt nhỏ nói là của Hai Đầu Đà để lại, đồng thời chỉ cho chúng tôi nơi chôn của hắn ! Không thể làm gì hơn chúng tôi lấy cái hộp sắt đó rồi bỏ đi ! Mấy hôm sau chúng tôi phái người tìm địa điểm ngôi mả của hắn để kiểm xem lời nói của người đàn bà kia ! Đúng ra chúng tôi đã tìm ra ngôi mộ của hắn nhưng vẫn chưa biết chắc là ai trong đó, có thể đây là một sự đánh lừa giả chết cũng nên! Cuối tuần đó khi tôi mở cái hộp ra và tìm thấy một

số vật dụng cá nhân của hắn trong đó có một cuốn hồi ký do chính tay hắn viết . Đọc xong cuốn hồi ký mỏng này và sau khi kiểm nghiệm các sự việc khác do chúng tôi điều tra được, tôi thực sự tin rằng hắn đã chết _ Hắn tự kết liễu đời mình _ Và đây là nội dung của cuốn hồi ký ! (Chú ý là từ đây đến cuối truyện từ "Tôi" là do tên Hai Đầu đà xưng cho mình! Xin đừng lầm với nhân vật ở đoạn đầu !) Tôi được sinh ra trong một gia đình nghèo! Bố tôi làm phu khuân vác tại bến tàu ! Làm việc vất vả mà tiền không được là bao nhiêu ! Mỗi tháng sau khi trả tiền nhà và các thứ nợ khác, tiền lương của bố tôi còn lại chẳng đủ cho gia đình! Mẹ tôi phải "đi ở" (làm đầy tớ) cho một nhà giàu ở Phố Hàng Đào để phụ thêm tài chánh cho gia đình! Tuy nghèo bốmẹ tôi vẫn cố cho tôi theo học lớp phổ thông ở trường tiểu học gần nhà ! Chúng tôi chỉ gặp nhau vào buổi tối mà thôi ! Bố mẹ tôi chỉ dám mua cho tôi một bộ quần áo mới trong dịp Tết, còn các thứ khác thì được xem là "vật xa xỉ" mà tôi chẳng bao giờ dám nghĩ đến ! Chúng tôi sống tạm ổn với cuộc đời nghèo nàn của mình ! Nhưng đường đời đâu bao giờ dược như mình mong ước, dù là cuộc đời nghèo mạt như chúng tôi ! Bố tôi vì quá lao lực đã ngã bệnh, nhà nghèo không tiền thang thuốc nói chi là đi gặp bác sỹ! Đến khi bệnh trở quá nặng, bố tôi cứ rũ ra trong những cơn ho không dứt! Mẹ tôi hàng ngày sau khi đi làm về, ghé vào ông lang đầu xóm cắt cho Bố tôi một thang thuốc rẻ tiền ! Bà sắc thuốc trong cái niêu sành mẻ miệng và rót cho bố uống ! Cuối cùng sau ba tháng dài liệt chiếu, bố tôi đã ra đi vĩnh viễn ! Nhà chức trách cho người xuống bảo mẹ tôi phải chôn gấp vì cho là bố tôi bị lao ! Để lâu sẽ lây lan cho hàng xóm ! Tiền bạc không có mẹ tôi đành thuê người chôn bố ở nghĩa địa công, với chỉ một cái chiếu manh quấn làm quan tài !! Tôi khóc lóc thảm thiết cả tuần ! Tôi oán hận tất cả mọi người ! Tôi rủa cả ông trời ! Ông ta không công bằng! Tạo ra cảnh bất công của xã hội này ! Tôi oán ghét những người giàu có, những tên chủ bóc lột sức lao động của bố tôi! Tôi căm ghét luôn những viên chức nhà nước những người đã đối xử tàn tệ với bố tôi dù ông chỉ là một xác chết họ vẫn không thôi hành hạ ông ! Mẹ tôi không thể một mình cáng đáng mọi việc trong gia đình! Tôi phải bỏ học để đi đánh giày trong các phố ! Nhìn những người ăn mặc sang trọng ăn uống trong các nhà hàng lộng lẫy tôi thấy chua xót cho cuộc đời của đám dân nghèo như chúng tôi ! Nhiều hôm đánh giày cho họ xong, tiền đã không trả mà họ còn chân thì đá vào bụng tôi vài cú miệng thì chửi rủa là đánh giầy gì mhư "hạch" vậy ! Tôi chỉ biết ôm đầu ch.iu và cắn răng để nước mắt khỏi phải trào ra !! Cuộc đời tôi cứ thế trôi đi ! Trong cuộc sống lê lết ở vĩa hè trong cái nội thành Hà Nội này đã biến tôi thành một kẻ chai lì ! Để sống tôi phải đấu tranh, phải giành giật, phải lừa lọc với đời ! Cuối cùng tôi đã thành một tên anh chị, một tên đâm thuê chém mướn nổi tiếng. Giới giang hồ ở đây đặt cho tôi cái biệt danh "Hai Đầu Đà", có lẽ do tôi lì lợm mà có danh ấy cũng nên . Nhưng rồi sau một vụ chém mướn, có người tố cáo tôi và cảnh sát đã tóm tôi cho vào nhà lao! Trong ba năm trời trong tù, mẹ tôi thường tới thăm, mỗi lần thấy tôi bà lại khóc sướt mướt, rồi thì khuyên tôi sau này ra hãy hứa làm nghề lương thiện ! Tôi thương mẹ lắm nên hứa với bà để mẹ tôi được yên tâm ! Thật ra thì mẹ tôi

không biết gì về các việc mà tôi làm trước đây ! Trong lòng bà, tôi chỉ là một đứa con trai bé bỏng mà thôi ! Thật tội nghiệp cho mẹ tôi, một người mẹ Việt Nam như hàng triệu các bà mẹ Việt Nam khác ! Khi mãn hạn tù tôi đã được 25 tuổị Tôi về nhà với mẹ, bà tôi khuyên tôi xin vào làm phu khuân vác ở bến tàu như bố tôi thủa trước ! Tôi không có cách gì khác để làm cho đời tôi khá hơn được! Khuân vác cũng là khá lắm rồi, phải có sức khoẻ và to con họ mới nhận chứ phải chơi đâu! Tôi vào đó làm được chừng 3 tháng thì một trưa kia khi tôi đang ăn "cơm nắm" mà mẹ vắt cho tôi mỗi ngày, một người trung niên cũng là công nhân khuân vác như tôi đến cạnh thì thào vào tai tôi là muốn gặp tôi tại sau nhà kho khi tan việc ! Tôi cũng có nghe lời đồn xì xào về những tổ chức bí mật cũng như công đoàn v.v.. Tôi tò mò muốn biết ra sao nên nhận lời ! Trong buổi gặp gở đầu anh ta chỉ đề cập về quyền lợi của công nhân, sự bóc lột của giai cấp chủ nhân . Nhưng các lần sau thì anh ta tuyên truyền nhiều hơn rồi sau cùng kêu gọi tôi vào đảng của anh ta để đấu tranh cho giai cấp ! Với bầu máu nóng của thanh niên và với mối hận vẫn âm ỉ trong lòng từ khi bố tôi chết, tôi gia nhập hội của anh ta mà chẳng biết là hội tên gì nữa ! Cứ thế chúng tôi tuyên truyền lôi kéo được khá đông công nhân trong khu vực của chúng tôi ! Một ngày kia, tôi được anh ấy cho đi gặp các cán bộ chỉ đạo của hội, họ đề cử tôi vào biệt đội đặc nhiệm ! Nhiệm vụ là tìm kiếm và thủ tiêu các phần tử chống lại giai cấp công nhân, các thành phần tư bản địa chủ v.v.. ! Có lẽ là họ biết được thành tích trước kia của tôi và nói rằng tôi rất thích hợp cho công tác này ! Chỉ sau cuộc họp này tôi mới biết là tôi đang hoạt động cho đảng "Việt Minh" . Mãi sau này tôi mới biết Việt Minh là một đảng CS trá hình! Dù gì đi nữa tôi vẫn gia nhập đảng vì lòng căm thù giai cấp của tôi ! Lúc đầu tôi chỉ là một thành viên trong toán nàỵ Chúng tôi ngày thì là những người dân lương thiện, kẻ là phu khuân vác, người là anh kéo xe v.v.. để che mắt nhà cầm quyền và các đảng phái khác! Nhưng đêm về thì chúng tôi hội họp bàn thảo kế hoạch, tìm kiếm tin tức về các thành phần mà chúng tôi đã ghi vào "sổ đen" ! Lúc này đảng Việt Minh còn yếu nên phạm vi hoạt đông của chúng tôi chỉ nhắm vào một số ít thành thành đặc biệt thôi . Tôi được giao nhiệm vụ thủ tiêu một viên chức người Việt làm ở phủ của quan toàn quyền Pháp hắn được liệt kê là việt gian trong sổ đen của chúng tôi, ngoài ra tôi cũng được giao việc thanh toán hai người thuộc VNQD đảng! Với kinh nghiệm sẳn có trước kia, tôi hoàn thành nhiệm vụ một cách mỹ mãn! Trong khoảng thời gian này tôi lấy vợ và có một con trai đầu lòng . Chúng tôi không ở một chổ lâu vì lý do an ninh và bảo mật . Người đội trưởng của nhóm tôi bị tai nạn xe cộ và qua đời, cán bộ thành nội đề cử tôi thay thế . Thế là bổng dưng trong tay tôi là một nhóm người mà tôi có quyền ra lệnh hành quyết những ai mà tôi muốn ! Với quyền lực này tôi đã ra lệnh hạ sát một số kẻ thù của tôi trước kia dù là họ chẳng dính dáng gì đến chính trị hay giai cấp cả ! Đến sau 1940, khi cuộc Đệ Nhị Thế Chiến đang diễn ra ác liệt trên thế giới, Pháp thua trận ở Âu Châu và như con sâu rút vào kén ở các vùng thuộc địa ! Việt Minh dùng thủ đoạn lừa đảo kêu dụ các đảng phái mạnh khác để thiết lập chính phủ và cái gọi là "Việt Nam Cách Mạng Đồng

Minh Hội" để bành trướng thế lực, đồng thời trong bóng đêm tìm cách tiêu diệt các đảng khác hầu chiếm trọn chính quyền và công lao ! Đảng ra lệnh cho chúng tôi bành trướng phạm vi hoạt động, tuyển thêm thành viên và thiết lập nhiều toán đặc nhiệm trong nội thành cũng như ở các tỉnh khác ! Tôi với kinh nghiệm được đề cử làm Tư lệnh các đội đặc nhiệm trong nội thành Hà Nội ! Chúng tôi đã cho đi mò tôm rất nhiều đảng viên của các đảng phái khác ! Đêm nào cũng có ít nhất 15 bao bố được chúng tôi thả xuống sông Hồng ! Vào cuối năm 1945, Pháp dựa vào quân Anh, lại mang quân tái chiếm Việt Nam, các đảng phái kể cả Việt Minh đều rút về hoạt động trong các vùng rừng núi hay hoạt động ngầm trong lòng địch ! Tôi được giao phó điều khiển các đội đặc nhiệm nằm lại hoạt động ngầm trong lòng thành phố . Hoạt động giảm đi rỏ rệt lâu lâu chúng tôi mới thủ tiêu một người mà thôi ! Cuối năm 46, trong một cuộc đột nhập vào nhà một tên đảng viên cao cấp của VNQD đảng, chúng tôi tóm được hắn và bỏ bao bố, lôi ra bờ sông Hồng. Hắn lì lợm chẳng nói một câu van xin nào như nhiều người khác thường làm ! Tôi bực lắm, thay vì ném hắn xuống sông như thường lệ ! Tôi quyết định mang hắn ra, cầm cái mã tấu trong tay và với một cái lia nhẹ, đầu hắn lìa khỏi cổ lăn long lóc trên bờ đê ! Tôi ra lệnh nhặt đầu hắn lên treo trên một cây sào để làm gương và cảnh cáo bọn đồng đảng của hắn ! Xong xuôi trước khi về tôi lấy "đèn bấm" (đèn pin) rọi xem đầu hắn có được cho quay về hướng tôi nói không ! Tôi bổng ớn lạnh cả xương sống, cái đầu lâu đang trợn mắt nhìn tôi như đe dọa và nhăn răng cười chế diểu tôi ! Tôi chớp mắt lia lịa để định thần rồì nhìn lại cho rỏ lần nữa, cái đầu lại trở lại bình thường _ Mắt và miệng nhắm chặt với vẻ đau đớn còn hằn trên nét mặt _ Tôi nhủ thầm : Mình hoa mắt thôi ! Nó chết mẹ nó rồi còn mở mắt với cười gì nổi nữa !! Chúng tôi ra về thì gà cũng cất tiếng gáy canh đầu ! Đúng ba hôm sau, khi tôi vào giường ngủ, vừa chợp mắt được vài phút thì cái đầu lâu đã hiện ra trong giấc mơ ! Nó bay lơ lững trước mặt tôi, mắt mở trao tráo như đe dọa, miệng cười nhe cả hàm răng với mấy chiếc răng cửa vàng khè vì thuốc lào ! Nó không nói một lời chỉ lơ lửng tại một chổ mà thôi ! Tôi một thằng đâm thuê chém mướn chuyên nghiệp mà đi sợ một cái đầu lâu kia sao ! Dù trong mơ, tôi vẫn vùng đứng dậy quơ lấy cây gậy dưới gầm giường quật tới tấp vào cái đầu lâu đó ! Nhưng không sao tôi quật trúng nó được, nó bay qua bay lại tránh một cách tài tình ! Mệt quá tôi bỏ cả gậy ngồi xuống giường ! Lúc này cái đầu bay sáp lại gần tôi, tôi nghe rỏ cả tiếng nghiến răng nhè nhẹ của nó, tiếng cười như chế diễu mà chói cả tai tôi ! Tôi quơ tay cố gạt nó ra nhưng không tài nào đụng được nó cả . Rồi nó bay sát ngay trước mặt tôi phun phèo phèo và le lưỡi liếm vào má tôi ! Kinh hải quá tôi thét lên ! Vợ tôi lay lay vai tôi nói: _ Anh mơ gì mà la hét khủng khiếp thế !? _ Anh chỉ bị ác mộng thôi em ạ ! Không có gì đâu !

Và cứ thế đêm nào tôi cũng gặp những cơn ác mộng tương tự !! Tôi phải ngồi thức trắng đêm! Ngày đi làm tôi mệt lữ người vì thiếu ngủ ! Mấy lần té cả xuống sông cả người lẫn bao gạo trên vai ! Tên cai coi bến đã đuổi tôi về mấy lần và hăm dọa đuổi việc! Tôi phải nhờ mua thuốc ngủ và uống hơi quá đô để tìm giấc ngủ về đêm! Dù thế tôi vẫn gặp cái đầu lâu trong mộng như thường! Tôi hốc hác hẳn đi trông thấy ! Thành ủy thấy vậy bảo tôi tạm nghỉ việc ở bến tàu để dưỡng sức, dầu gì tôi cũng là tư lệnh các toán đặc nhiệm mà . Một chức vụ quan trọng và tôi có thành tích xuất sắc không một ai qua mặt được ! Dù ở nhà tôi vẫn được đảng bộ cung cấp về tài chánh nên tôi không phải lo lắng gì ! Tôi xin tạm nghỉ làm ở bến tàu một thời gian! Rỗi rảnh , tôi dẫn đứa con trai lên tám đi chơi khắp nơi ở Hà Nội! Khi thăm sở thú, tôi dẫn thằng bé đến chuồng khỉ xem. Con tôi chỉ một con khỉ đang đeo tòn teng trên cành cây rồi reo lên: _ Bố xem con khỉ kia nó đang cười với con kìa ! _ Đâu đâu ? _ Tôi hỏi lại và nhìn theo tay nó chỉ . Trời ơi, trên cái thân mình nhỏ bé của con khỉ là cái đầu lâu tổ bố, mắt trừng trừng, miệng cười nhăn nhó của tên VNQD đảng. Nó nhìn tôi chòng chọc và cười the thé lên . Con tôi lại reo lên: _ Nó cười với mình kìa bố, con cho nó ăn đậu phụng nghe bố ! Con tôi đưa hột đậu phụng vào lưới sắt, con khỉ bước lại gần cùng với cái đầu lâu trên cổ nó! Tôi thấy nó nắm lấy tay con tôi rồi nói: _ Đền mạng cho tao ! Đền mạng cho tao ! Tôi sợ hải giật tay con tôi ra thật mạnh, tay nó bị sướt vào lưới tứa máu ra . Tôi hốt hoảng dùng khăn tay bó vết cắt cho con rồi hỏi: _ Sao con cho nó nắm tay con !?!? _ Đâu có bố ! Nó chỉ bốc hột đậu trên tay con thôi mà ! Tôi dẫn con tôi một mạch về nhà ! Ngày kế tôi quyết định dẫn con ra công viên với hy vọng không khí trong lành và sân cỏ rộng rãi sẽ làm cho tôi quên đi sự ám ảnh ! Chúng tôi mang theo một trái banh để chơi ở đó . Ngồi chơi một lúc con tôi đòi chơi bóng đá . Nó đá tôi bắt "gôn" . Con tôi lừa tới gần và "sút", trái bóng bay gần tới, tôi giơ tay dón bắt ! Trời đất ơi ! Trong tay tôi là cái đầu đang cười với tôi, mắt trừng trừng, miệng thì thào " Đền mạng cho tao ! Đền mạng cho tao !" Tôi vất mạnh cái đầu xuống đất, nó bật ngay lên lại tay tôi và vẫn với gương mặt ghê rợn đó nó thều thào câu quen thuộc " Đền mạng cho tao! " Tôi quăng nó thật xa rồi ù té chạy ! Con tôi ôm quả bóng đuổi theo tôi ! Tôi vẫn nghe tiếng cái đầu trên tay nó gào theo tôi " Đền mạng cho tao! Đền mạng cho tao !" Tôi chỉ kịp nghe tiếng xe thắng gấp mà thôi !!

Khi mở mắt ra tôi thấy chân tôi quấn băng trắng toát, bên cạnh là vợ và con ngồi ngồi nhìn một cách lo lắng! Thấy tôi mở mắt vợ tôi mừng rở hỏi: _ Anh tỉnh rồi à ? Em mừng quá ! Anh chạy đi đâu mà như điên vậy ! Đâm đầu vào xe mà cũng không biết nữa ! May là không chết ! Lần sau anh phải để ý một tí nghe ! _ Anh bị chóng mặt nên chẳng thấy xe chạy đến ! Về sau anh sẽ ý tứ hơn . Tôi ậ ừ cho qua việc ! Tôi vẫn dấu kín ọi việc xảy ra cho tôi, nên không ai biết là tôi bị cái đầu oan nghiệt kia đòi nợ máu ! Thôi thì cứ yên lặng đừng gây thêm lo lắng cho người thân mình _ Tôi tự nhủ với mình như vậy ! Luật của nhà thương không cho thân nhân ở lại đêm nên tối đến vợ con tôi ra về. Họ chúc tôi yên giấc và nói ngày mai sẽ mang thêm vật dụng cần thiết và thức ăn hoa quả vào thăm tôi . Nằm thao thức và đang nghĩ vơ vẩn về những việc xảy ra cho tôi trong thời gian gần đây! Tôi nghe có tiếng cười nhẹ the thé trong phòng! Quay ngoắt lại tôi thấy trên cái giá treo bóng đèn điện là cái đầu oan nghiệt đang chăm chú nhìn tôi! Chỉ là cái bóng đèn mà! Tôi cố tự nhắc lớn tiếng với chính mình và dụi mắt để nhìn cho rỏ để xác định điều mình nói ! Không, dù tôi có muốn nó là bóng đèn cách mấy đi nữa thì hiện diện trước mắt tôi vẫn là sự thật phủ phàng ! Cái đầu vẫn trơ trơ ra đó, vẫn nhe răng cười với tôi, vẫn con mắt trợn trừng như thù hận đó nhìn tôi không chớp . Xen lẫn tiếng cười nhỏ nhưng the thé là câu rên siết quen thuộc "Đền mạng cho tao! Đền mạng cho tao!" Tôi thét lớn và lăn xuống giường ! Có tiếng chân chạy thình thịch về phòng tôi và rồi tiếng mở cửa: _ Cái gì mà la lối ầm lên vậy ?! Đây là nhà thương chứ không phải nhà tư mà muốn làm gì thì làm nghe chưa !! Nhưng khi thấy tôi nằm lăn quay, run giật như bị kinh phong đưới đất, cô y tá chạy tới nâng tôi lên hỏi: _ Có sao không? Chuyện gì xảy ra vậy ? _ Nó, nó ở kia kìa !! _ Tôi run rẩy chỉ về phía bóng đèn ! _ Cái bóng đèn đó à ? Nó là ai vậy ?! _ Cái, cái đầuuu lâuuuu trênnn đooó đooó ! _ Tôi nói không thành lời . _ Anh có bị điên không đó ! _ Cô ta hỏi lại với giọng nghi ngờ ! _ Không nó vẫn ở đó kìa ! Nó đang cười với tôi kìa !! _ Tôi tay vẫn chỉ cái đầu lâu miệng thều thào với người y tá ! Cô ta lắc đầu rôì giúp tôi nằm lại lên giường! Suốt đêm đó tôi quấy động nhà thương cả chục lần vì cái đầu lâu chẳng chịu bỏ đi cho ! Trước kia nó chỉ viếng tôi một ngày vài lần rồi biến đi ! Lần này nó ở lì với tôi trong phòng suốt đêm ! Sáng hôm sau bác sỹ tới khám cho tôi và đọc bệnh án mà các y tá ghi thêm vào tối qua ! Ông ta quyết định cho tôi qua khu "tâm thần", khu dành cho các

người mất trí . Ông ta cho rằng vì tôi bị xe tông ngã xuống đường nhựa có lẽ đầu tôi bị chấn thương nên tôi mới trở nên như vậy . Bác sỹ mà, nói gì mà chẳng có người nghe! Thế là tôi bị gửi sang khu tâm thần dù trong đầu tôi biết chắc là tôi chẳng điên một tí nào cả ! Chiều đến vợ tôi vào thăm và ngạc nhiên thấy tôi năm chung với các người ngớ ngẩn khác ! Tôi giải thích là bác sỹ lầm tưởng tôi bị tổn thương sọ não nên cho tôi qua đây ! Tôi trấn an vợ rằng vài bữa không có gì họ sẽ cho tôi về nhà thôi ! Vợ tôi mang trái cây, một số thức ăn và hai chai nước ngọt "con cọp" của hảng BGI vào cho tôị Ăn uống xong vợ tôi ở lại một lúc rồi ra về . Trên trần nhà là cái quạt trần cũ, quay kẻo kẹt như bị khô dầu! Nó như cố lắm mới quay hết được một vòng ! Nhà thương thí mà có được cái quạt máy trên trần là phước lắm rồị Cố nhắm mắt ru giấc ngủ, tôi lại nghe tiếng rên siết thê thảm theo nhịp kẻo kẹt của cái quạt trên trần ! Tôi bịt tai lại để cái tiếng quái ác kia không lọt vào tai! Vô hiệu! Tôi vẫn nghe nó một cách rỏ ràng như ai đó đang nói bên mang tai tôi ! Tôi tự nhủ là không được mở mắt nhìn lên, nhưng một mãnh lực vô hình nào đó bắt tôi mở trừng mắt ra nhìn hướng về phía trần nhà! Tôi đoán không sai! Cái đầu lâu đang quay từ từ trên đó, mắt nó luôn hướng về tôi ! Miệng vẫn nhe ra nói thì thào câu mà tôi đã thuộc như in "Đền mạng cho tao! Đền mạng cho tao!" Đến nước này rồi tôi đổi sợ thành liều trả lời nó : _ Mày muốn trả gì thì cứ nói! Mày theo ám ảnh tao lâu rồi, muốn trả gì thì cứ nói ra đi, tao nghe đây ! _ Mày hãy đền mạng mày cho tao! _ Có giỏi thì hãy giết tao đi! Tao sẳn sàng đây ! _ Không! Chính tay mày giết tao! Tao muốn tự tay mày tự xử mày thôi! _ Tao không tự giết tao !! Coi mày làm gì được tao đây !! Tôi nằm nhìn lên như thách thức nó! Lúc này cái đầu lâu không chỉ còn là cái của tên VNQD đảng nữa, mà nó biến đổi liên miên! Lúc là của tên làm trong phủ toàn quyền Pháp, lúc thành đầu của các tên của các đảng phái khác, lúc lại là của những tên mà vì thù oán riêng tôi đã ra lệnh hạ sát !! Chúng réo gọi tôi đòi trả nợ máu! Rồi thì những cái đầu đó bắt đầu bay thẳng vào mặt tôi ! Tôi né tránh chúng đến mệt nhoài! Cuối cùng rồi tôi để mặc chúng, tôi hứng chịu những cú đập vô hình khắp mặt mày! Đau đớn quá, tôi chỉ còn biết quơ hai tay để xua gạt những cú hít kinh hoàng này! Miệng tôi không ngớt la hét, chửi rủa các đầu lâu kia! Thỉnh thoảng một người trực nhà thương ghé qua nhìn tôi và lắc lắc đầu có vẻ thương hại cho tình trạng của tôi!! Tôi bị mất ngủ đã quá nhiều ngày, mắt tôi đỏ lòm như tôm luộc! Râu tóc mọc lởm chởm tôi không buồn cắt gội ! Nếu ai thấy cái bề ngoài của tôi có lẽ họ sẽ tin lời của tên bác sỹ _ Nó là một thằng điên nặng!!! Tôi cũng đoán ra điều này khi nhìn thái độ dè dặt của các y tá thăm bệnh cho tôi hàng ngày! Tôi tự biết mình rất tỉnh táo, đầu óc tôi vẫn minh mẫn, chỉ có một việc là tôi không thể điều khiển được các hành vi và lời nói của tôi! Hình như chúng bị các oan hồn chi phối rồi thì phải ??!!!

Sáng hôm sau họ dời tôi vào phòng biệt cư, nơi dành cho các người bị điên nặng!! Lý do là họ sợ tôi làm hại đến các bệnh nhân khác chung quanh tôi! Chiều đến vợ con tôi vào thăm! Nhìn con mà tôi ứa nước mắt! Thương cho nó rồi đây tương lai sẽ ra sao! Chắc lại rơi vào tình trạng đói nghèo như tôi lúc nhỏ chăng ?!?! Chỉ có lúc gặp vợ con là tôi giữ được sự bình thản, tôi kìm chế được lời nói và hành động của chính tôi ! Tôi không biết là do đâu ! Nhưng đoán là do tình thâm đã thắng được cả mảnh lực vô hình!! Chúng tôi nói chuyện với nhau một hồi, nhắc lại những kỷ niệm êm ấm của các năm qua! Ăn uống xong vợ tôi ngập ngừng nói: _ Anh à ! Thành ủy tháng này không cấp tiền trợ cấp cho chúng ta nữa! _ Sao vậy ?! _ Tôi vội ngắt ngang . _ Em không biết ! Nhưng em có hỏi anh Tư thì anh ấy nói nhỏ cho em biết là họ đã quyết định loại trừ anh rồi! Đã có người thay thế chức vụ của anh! Họ nói anh bây giờ chỉ là một thằng điên vô dụng mà thôi!! Tôi im lặng nghĩ ngợi một hồi rồi nói vợ tôi ra căng tin mua cho tôi một cuốn vở nhỏ và một cây bút bi! Xong việc vợ con tôi ra về! Tôi cay đắng trong lòng lắm! Bây giờ mới biết rỏ bộ mặt thật và chính sách vắt chanh bỏ vỏ của bọn chúng thì đã quá muộn rồi ! Tay tôi đã nhúng máu của bao người rồi ! Tay tôi đã nhúng chàm làm sao rửa sạch được đây ! Tôi muốn viết lại những gì đã xảy ra trong cuộc đời của tôi, những gì tôi đã làm và những gì tôi đã nghĩ ! Tôi đã có quyết định cho chính tôi rồi ! Vợ con tôi không phải lo lắng vì có thêm một gánh nặng trong cuộc đời lao đao của họ nữa ! Các oan hồn kia ơi! Chúng mày chẳng cần phải theo ám ảnh tao nữa làm gì! Tao đã có quyết định rồi ! Suốt ngày hôm sau tôi cố ôn lại cái dĩ vảng của tôi và ghi nó vào những trang giấy của quyển sách mỏng này! Đến chiều nhân viên trực mang cho tôi một tô cháo hành, tôi định múc một thìa cháo để ăn ! Tôi không nhấc cái thìa lên được ! Tô cháo đã biến thành cái đầu lâu miệng cắn chặt cái thìa của tôi! Tôi đã mất hết niềm tin! Hết cả hy vọng là mình sẽ được đối xử như một người bình thường trong xã hội này ! Tôi buông tay để chiếc thìa lại trong miệng đầu lâu, rồi nói với nó: _ Mày không phải chờ lâu đâu ! Đêm đến, các oan hồn vẫn réo gọi quanh tôi! Tôi làm ngơ với chúng, tôi chẳng thèm tránh hay gạt những cú phóng vào mặt mình nữa ! Vào nửa đêm, tôi đập bể cái chai nước ngọt con cọp, cầm một mảnh vỡ sắc trong tay phải rồi để cánh tay trái trên tấm khăn trải giường ! Các mạch máu nổi to trên cổ tay gầy guộc của tôi ! Tôi không gặp khó khăn khi đưa cái mảnh chai cứa vào cái mạch đó ! Tôi nhìn giòng máu phún mạnh ra trên tấm khăn giường trắng, rồi đưa mắt nhìn lên trần nhà chiếc đầu lâu đang nhìn tôi cười thoải mái lắm ! Mắt tôi mờ dần đi ! Cái đầu lâu cũng nhạt nhòa đi ! Tôi cố gắng xé một trang giấy và viết "Xin giao cái hộp này cho vợ con tôi!" Tôi bỏ quyển vở vào cái hộp sắt đựng bánh "bích quy" trong đó có vài vật dụng cá nhân của tôi, rồi bỏ tờ giấy lên trên và đặt nó lên chiếc bàn nhỏ ở kế giường!

Sáng hôm sau người y tá nhìn qua cửa phòng thấy bệnh nhân nằm vắt ngang giường, máu thấm đầy khăn trải! Anh ta la lớn kêu mọi người vào xem ! Rồi lo thủ tục đưa xuống nhà xác và báo cho thân nhân tới lãnh về ! Trong hồ sơ bệnh án ghi : Bệnh nhân lên cơn điên ! Tự cắt cổ tay mình trong đêm.

Ðêm kinh dị

Cánh cổng bằng sắt của biệt thư Vũ Anh lúc nào cũng đóng im như 1 cánh cổng nghĩa địa . Tấm bảng nhỏ có biên nguệch ngoạc mấy dòng chữ : " Nhà bán . Xin hỏi ta,i số XXX , đường XYZ ..... " treo vào một song sắt bằng một sợi dây kẽm . Mỗi lần có cơn gió mạnh là nó lại lắt lư , đập vào cánh cổng những tiếng leng keng buồn bã . Bốn bức tường vây bọc biệt thự trước kia sáng sủa , sạch sẽ bao nhiêu thì bây giờ lại u ám bẩn thỉu bấy nhiêu . Lớp vôi trắng đã bong gần hết tự bao giờ để lộ ra lớp vôi xám xịt lốm đốm điểm vài mảnh trắng của lớp vôi trước chưa rớt hẳn càng làm tăng vẻ tiều tụy của ngôi nhà . Khu vườn bên trong đã chết ngay cái vẻ xanh tươi mát dịu sau mấy ngày không người chăm sóc và từ đó đến nay càng ngày càng xơ xác với những đám cỏ úa vàng vọt , tiêu điều , mọc chằng chịt cả lối đi trải sỏi trắng . Những loài cây dại điểm hoa tím , trắng nhạt nhẽo đã nằm , bò , mọc ngổng ngang giữa đám cỏ vàng tàn tạ đó . Một đôi lần vào lúc chiều sắp lặn người ta nghe tiếng kêu xào xạc của dăm ba cặp chim trời từ giữa khoảng không gian , kéo nhau về làm tổ trong vườn . Biệt thự mất hết sinh khí của những ngày lúc trước và bây giờ có dáng dấp của một cụ già nằm im lặng mỏi mòn ngắm những tia nắng mặt trời thoi thóp rọi qua kẽ lá và vạch lên nền đá hoa những vạch vàng đứt đoạn . Người chủ cũ vốn là một thương gia giàu có , vì muốn tránh cảnh chật chội của đô thành đầy nắng chói bụi mù nên đã bỏ tiền xây cất biệt thự này ngay trên một đám đất bỏ hoang lổn ngổn những phần mộ vô chủ . Dĩ nhiên là trước khi viên gạch đầu tiên được đặt làm nền , thương gia đó cũng đã thi hành những thủ tục thông thường như di chuyển các phần mộ sang một nơi khác và thuê người dọn dẹp đám đất cho khang trang sạch sẽ . Dân xóm chung quanh đấy toàn là dân lao động . Từ lâu chen chúc nhau trong những căn nhà lá lụp xụp , đám da6n này không một ai dám có ý nghĩ dựng nhà dựng cửa lên đầu lên cổ những người đã nằm trong lòng đất . Vì thế khi thấy những chiếc xe vận tải chất đầy xi măng , gạch đá nặng nề lùi lũi bò vào trong xóm , thiên hạ lấy đó là cả một chuyện lạ và kéo nhau ra xem đông nghẹt. Thế rồi mấy tháng sau , biệt thự được hoàn tất . Một gia đình sang trọng ồn ào dọn đến . Mấy tuần lễ đầu không có gì lạ nhưng rồi đùng một cái , toàn gia cư ngụ trong biệt thự ấy hấp tấp dọn đi như luồng gió lốc . Dân trong xóm ngơ ngác , lạ lùng và xầm xì bàn tán . Có người đánh bạo hỏi đứa con chủ nhà , nhân có một lần nó trở lại lấy nốt một vài đồ đạc còn sót , thì được đứa nhỏ cho biết là gia đình nó dọn đi vì một lý do dính líu đến nghề nghiệp của ba nó . Ðám người hiếu kì không thỏa mãn vì câu trả lời giản dị đó . Họ tưởng tượng ra những duyên cớ thật rắc rối , huyền bí và kỳ quặc để giải thích câu chuyện dọn nhà dọn cửa đáng nghi này . Hầu hết mọi người cho rằng trong ngôi biệt thự có ma quỷ mà trước đây lũ vong linh ấy trú ẩn trong đám mộ phần chưa được cải táng . Chính ma quỷ đã chọc phá và tạo nên những chuyện rùng rợn bên trong ngôi biệt thự làm cho gia đình người thương gia đó phải dời đi nơi khác . Mỗi người lại còn tưởng tượng ra được bộ măt của lũ quỉ trong ngôi biệt thự đó nữa . Thật không thiếu một chi tiêt rùng rợn nào mà họ lại không dùng đến . Người thì nói là con quỉ có hai cái răng nanh , mỗi cái dài hai tấc , tóc quỉ dài đến gót chân , đôi mắt quỉ không tròng nhưng lại nhìn thấu cả tim , gan , phèo , phổi của những người

đứng trước mặt nó . Có người lại tưởng tượng rằng quỉ chỉ có một mắt ở trán , có hai cái vòi ngắn thay cho mũi , chắc là dùng để hút máu và không có miệng ....v.v ... Nói chung là lũ quỉ ấy thừa sức để dọa con nít trong xóm và cả người lớn nữa nếu cần . Thế mà có một bọn trẻ trong xóm không coi lũ quỉ có kí lô nào hết . Từ ngày biệt thự bỏ hoang chúng vẫn rủ nhau leo tường vào nhà nghịch ngợm . Ở đấy chúng vật nhau , ném nhau hoặc choảng nhau bằng gậy gộc . Khi đã chán chúng xoay qua trò ném đá vào một mục tiêu mà các mục tiêu ấy chính là những ô cửa kính . Bọn con nít rắn đầu ấy hằng ngày vẫn cứ thản nhiên ra vào cái giang sơn riêng của chúng . Chúng sung sướng vì có một nơi rộng rãi , có thể chơi đùa thả cửa mà không sợ nóng bức hay mưa dầm. Chúng đã mở được cả cửa lớn vào trong , tranh nhau nhặt những mẫu thuốc lá hoặc những tờ giấy màu in hình xanh đỏ . Thằng Tý ,"xếp " của bọn nhóc con ấy lại còn moi ở đâu ra được một đôi kính râm mất một bên mắt . Nó đeo lù lù trên sống mũi nom buồn cười nôn ruột , vừa phì phà điếu thuốc mót được , vừa giu8ơng đôi mắt sau cặp kính đen , nó vừa trông coi vừa chỉ huy lũ nhóc con lục lọi khắp nhà . Ðối với chúng , cả thế giới hình như thu gọn trong ngôi nhà đó . Mặc dầu bị đe dọa , cấm đoán . chúng vẫn lẻn đến đó tụ họp ở trong " ngôi nhà lý tưởng " của chúng . Một buổi sáng , Tý vừa mắt nhắm mắt mở thức dậy thì đã thấy thằng Lấm , một đàn em của nó , chạy vào kề tai nói nhỏ hồi lâu . Tý vừa nghe vừa cau mày và liếc nhìn ra phía biệt thự . Nó rửa mặt vội vàng bằng cách nhúng cả đầu vào chậu nước . Rồi vừa vuốt tóc , nó vừa đi ra cửa với thằng Lấm . Hai đứa đến gần ngôi biệt thự thì dừng lại . Tý vừa trông thấy một người đàn ông gầy và cao đứng ngắm nghía "ngôi nhà của chúng " với dáng điệu lạnh lùng và bí mật . Ông ta có một khuôn mặt khắc khổ , bận một bộ y phục đen và chiếc mũ dạ đội trên đầu cũng đen nốt vì thế người ông toát ra một vẻ bí mật dị kì . Nhìn biệt thự một lúc khá lâu ông ta bỏ đi . Tối đến , trong khi bọn thằng Tý đang thì thầm bàn tán về ông ta thì lại thấy con người bí mật ấy trở lại với người chủ cũ. Hai người đến trước biệt thự , vừa chỉ trỏ vừa nói chuyện nho nhỏ với nhau . Thỉnh thoảng người đàn ông lại cất tiếng cười . Tiếng cười của ông như tiếng chuột rúc . Cả bọn trẻ con nhận thấy ông cười rất nhỏ nhưng lại rõ và nhanh , đứa nào đứa nấy cũng hơi rờn rợn Hai người nói chuyện một hồi rồi ra ngõ lên xe đi mất . Sáng sớm hôm sau , trong lúc cả xóm đang lục tục thức dậy thì ngoài ngõ tiến vào một bọn người ăn mặc xoàng xỉnh vác một đống chổi , thùng , cuốc , xẻng . Bọn người này vô trong biệt thự và khởi sự dọn cỏ , quét tước . Những rác rưởi được họ chất thành một đống và châm lửa đốt . Những thứ không đốt được họ đổ xuống cả một hố sâu rồi lấp lại cẩn thận . Chỉ nội trong một ngày ngôi biệt thự đã trở về vị trí huynh hoàng ngày xưa của nó sau khi một bọn thợ khác đến thay các cửa kính và sơn quét tường cột . Bao nhiêu vết tích bọn trẻ con để lại trong mấy tháng , bọn thợ thu dọn phẳng phiu trong một ngày trời , báo hiệu ngôi nhà sắp thuộc về chủ mới . Ðiều này bọn thằng Tý đã đoán trước và chúng còn biết được vài điều đại khái về người chủ mới . Chúng không có thiện cảm chút nào với ông ta cả vì chính ông đã công khai chiếm đoạt một cách rất hợp lý ngôi

nhà " của chúng ". Nhưng vốn là những đứa trẻ cứng đầu cứng cổ , chúng không chịu thua một cách dễ dàng như thế . Chúng cùng nhau bàn tính một kế hoạch và dự tính sẽ thi hành ngay sau khi người chủ mới dọn đến " ngôi nhà của chúng " . Người đàn ông kỳ lạ dọn đồ đạc đến biệt thự một cách thần tốc vào lúc nào chẳng ai được rõ . úc Tý thức dậy thì đãthấy ông ta đứng ở trước hiên nhà trông nom mấy người làm đang tưới nước trong sân và trồng cây quanh những chân tường . Vài người khác lo khiêng những chậu cảnh để ngay ngắn trên lối đi trải sỏi trắng , có nhười lại đang treo một lồng chim tước vào một cành cây lớn . Ðám người đó im lặng làm việc , tuyệt nhiên không mở miệng nói một câu nào cả Ðến tối , hình như công việc chỉnh trang biệt thự đã xong vì Tý không thấy có người nào khác đến ngôi nhà nữa . Như vậy chỉ có một mình người đàn ông ở trong biệt thự và Tý lấy làm mừng vì như thấ càng dễ dàng cho nó thực hiện ý định . Tối hôm đó , Tý gọi thêm hai đứa nữa rồi cả ba lẻn vào trong biệt thự . Sau khi chia việc , ba đứa đi về ba ngả . Riêng Tý rón rén lại gần cửa sổ và ghé mắt nhìn vào rình rập . Nó thấy người đàn ông vẫn mặc nộ y phục đen như hôm nọ và đang ngồi trước một cái bàn rộng bày la liệt những đồ đạc quái lạ mà Tý chưa bao giờ thấy . Hình như ông ta đang dán mo&.t cỗ bài và chăm chú vào công việc đó lắm . Tý thò tay lấy trong túi miếng vải trắng trộm được của mẹ nó buổi sáng , có đục sẵn hai lỗ nhỏ . Nó chụp miếng vải lên đầu và nhờ hai lỗ đó để nhìn mọi sự vật . Vừa xong công việc thì Tý nghe thấy tiếng mèo ngao ngao từ đằng xa vọng lại . Giờ hành động sắp điểm . Tý hồi hộp dơ tay nắm hờ chốt cửa sổ . Thình lình , trong gian phòng vang lên một tiếng "cạch !" khá to . Tý mừng rỡ vì thấy hai thằng bạn của nó thi hành kế hoạch khá chu đáo : Hai vật trong đám đồ đạc của người đàn ông bày trên bàn đã thình lình văng uống sàn gạch trước cặp mắt ngơ ngác của ông ta . Tiếp theo đó , hai tiếng "cạch ! " nữa lại vang lên , thêm hai vật trên bàn bay xuống sàn gạch . Tý thầm nghĩ :" thằng Lâm và thằng Lạc bắn giỏi thật . Thảo nào bao nhiêu chim trong xóm bị tụi nó làm thịt nhẵn cũng chẳng lạ " Vừa nghĩ đến đây , Tý bỗng thấy người đang ông xô ghế đứng dậy toan bước ra cửa . Nhưng " xoảng " một cái , bóng đèn điện trên bàn vỡ tan , ánh sánh trên bàn vụt tắt , trong nhà tối om . Tý vội vã xoay chốt cửa , nhưng thấy cứng ngắt , nó liền vác một cục đá choảng vào cửa kính . Thế rồi nó đưa cái đầu trắng toát của nó ra chỗ kính vỡ mà lắc lư đồng thời rú lên mấy tiếng thê thảm . Hai thằng bạn ở đằng sau cũng vội rú theo , thằng thì giả tiếng chó sói tru , đứa thì vừa giơ gậy quơ loảng xoảng vào cửa kính vừa hét lên như còi tàu hỏa . Ngần ấy tiếng động rùn rợn huà nhau cùng lúc tạo thành một âm thanh khủng khiếp toát mồ hôi lạnh . Thình lình âm thanh ấy im bặt . Ba đứa trẻ đã nhả qua tường chạy như bay về nhà , bò lên giường mà lăn ra ngủ như chết . Sáng hôm sau , thằng Tý vừ thức dậy là đã vội lảng vảng sang ngôi biệt thự để dò la động tĩnh . thằng Lấm chẳng rõ đã đến lúc nào , thấy Tý , nó chạy lại báo cáo : - Thằng cha đó vẫn tỉnh bơ như không anh ạ . Sáng nay em thấy lão ấy kêu mấy người thợ đến sửa lại mấy chỗ bị vỡ hôm qua chứ chẳng thấy gì khác . - Vậy thì mình phải làm vài chuyến nữa ho lão sợ mới được . Ðêm nay ba đứa

mình vào trong nhà phá cho thật đã . Chắc chỉ đến mai là lão cuốn gói đi thẳng . Tối đến , ba đứa trẻ tụ tập trước ngôi biệt thự . Thằng Lấm nói : - Ngôi nhà hiện giờ không còn ai , lúc trưa lão ấy đã đi ra khỏi nhà , cho đến bây giờ vẫn chưa về . Thằng Tý bước lên bậc cửa , một tay xoay chốt cửa , một tay cần cây gậy . Nhưng cánh cửa không nhúc nhích . Tý bực mình . Nhưng nó sực chớ ra là cửa đã khóa cẩn thận . Nó bước xuống nói nhỏ : - Lão khóa cửa rồi chúng mày ạ ! Lấm đờ người ra . Cả ba đứa đều quên mất cái điểm này . Sáu con mắt ngó nhau bối rối . Nhưng vừa nhìn dáo dát , thằng Tý bỗng kêu lên : - Ủa .. cái gì như ....chìa khóa ? Hai đứa kia nhảy lên : - đâu ? đâu ? Tý nhào lên thềm gạch , chụp lấy một vật nhỏ và nhìn kỹ càng > Lấm và Lạc nhìn theo thì thấy quả nhiên đó là 1 cái chìa khóa . Lạc giục : - Mở đại đi , may ra được thì đo8~ khổ . Tý gật đầu , nhẹ nhàng cho chìa khóa vào trong ổ khoá . Thật vừa vặn ! Chỉ cần xoay nhẹ một cái rồi đẩy khẽ là cánh cửa đã mở toang . Ba đứa mừng rỡ lẻn vào . Cả ba đứa tiếp tục đi trong bóng tối . Thình lình Tý dừng lại . Hai đứa kia dồn cục lại thành một khối . Tuy rắn mắt nhưng không hiểu sao trong cái bóng tối mịt mù này chúng lại thấy lởn vởn những hình bóng ma quỷ . Ðứa nào cũng cảm tưởng như tóc gáy mình đang từ từ dựng thẳng dậy . Chúng ép sát vào nhau và thở phì phò . Tiếng hô hấp của chúng giữa bốn bức tường kín nổi lên rõ rệt . Thằng Tý cố lấy can đảm bằng cách hít một hơi dài , đoạn lò mò bước tới . Hai đứa kia cũng vội vã bước theo . Thế là cả ba cùng dọ dẫm đi về phía trước như lũ người máy . Vì quá hồi hộp , chúng quên mất những điều đã bàn tính lúc chập tối . Thình lình ba đứa lại xô vào nhau . Chúng vừa nghe thấy trong bóng tối mênh mông của toà nhà rộng lớn một tiếng động . Tiếng động kỳ lạ , mới đầu thong thả như tiếng võng đưa kẽo kẹt , sau nhanh dần như tiếng chó sủa râm ran trong đêm tối trời , có lúc tiếng động ấy dồn dập như tiếng vó ngựa gõ trên mặt đường , có lúc nó lại đứt đoạn như tiếng cọ xát của những thanh tre già khi có cơn gió mạnh . Ðôi khi tiếng động trở nên thánh thót như giọt mưa rơi rồi chuyển sang ầm ỳ như tiếng sóng vỗ vào ghềng đá ngoài khơi . Nhiều lúc tiếng động như chạy ra từ bốn góc tường chạy bổ vào ba đứa trẻ , càng lại gần càng hỗn loạn như tiếng reo hò vămg vẳng . Ba đứa trẻ ép chặt vào nhau . Mắt chúng mở trừng trừng , chân tay chúng cứng ngắt , mồ hôi toát ra đầm đìa . Hình như có một luồng khí lạnh ngắt chạy vào trong cơ thể chúng từ những đầu ngón tay , đầu ngón chân dần dần leo lên đùi , lên bụng , bò theo sống lưng lên đến tận đỉng đầu , cuối cùng thoát ra ngoài từ những chân tóc , đồng thời làm cho những sợi tóc này dựng đứng lên như sợi lông bàn chải Tiếng độgn đã ngưng bặt một lúc lâu thế mà ba đứa trẻ vẫn chưa nhúc nhích được . Chúng như bị chôn chân xuống nền gạch và cứ sững sờ đứng yên như vậy . Trong lúc đó , đột nhiên trong phòng hiện ra một ánh sáng le lói . Ánh sáng

này di chuyển từ từ đằng sau tấm màn che cửa và lừng lững đi đến gần ba đứa trẻ . Bọn nhỏ thấy ánh sáng đó phát ra từ một câuy nến và điều làm chúng mọc gai ốc cùng mình là cây nến ấy di chuyển giữa không gian mà không có một bàn tay nào nâng đỡ cả . Cây nến ấy từ từ tiến đến gần thằng Tý Ðến trước mặt thằng bé đang mở mắt thao láo , miệng há hốc , nó dừng lại một lúc . Hình như nó đang ngắm nghía diện mạo của thằng Tý . Lát sau , nó lờ lững đi lại trước mặt thằng Lấm , lúc ấy cũng đang đờ người ra vì khiếp sợ . Rồi tiếp đó nó lại bò lại gần thằng Lạc , với những động tác lập di lặp lại . Dò xét xong , cây nến tự động trèo lên một cái giá gỗ cao đóng trên tường và rọi ánh sáng lờ mờ xuống bên dưới . Ánh sáng ấy chẳng không đem lại sự vững dạ cho lũ trẻ mà còn làm tăng thêm vẻ âm u rờn rợn của ngôi nhà nữa . Không khí im lặng tràn ngập gian phòng . Ðâu đây văng vẳng tiếng tích tắc mơ hồ lạnh lẽo của chiếc đồng hồ treo . Tấm màn gió đột nhiên lại rung chuyển rồi một bóng người hiện ra trước mặt ba đứa trẻ đang lặng người vì khiếp sợ . Bóng người đó từ từ đi lại gần chúng . Gọi là đi thì không đúng vì đầu gối hắn ta không hề co lại và chân hắn lơ lửng cách mặt đất độ ba tấc . Thế rồu khi còn cách bọn trẻ độ ba thước , hắn ta dừng lại , đờ đẫn nhìn vào ba đứa nhỏ ... Thật không thể nào kể hết nỗi kinh hoàng của lũ trẻ khi chúng cố lấy hết can đảm nhìn vào gương mặt của bóng người vừa hiện ra trước mắt chúng . Một gương mặt mà không ai có thể tưởng tượng được là nó lại khủng khiếp đến như thế . Bộ mặt ấy là tổng hợp của tất cả những sự biểu lộ tình cảm của con người , nghĩa là nó như cười , như khóc , như đau đớn , như thích thú , như đau buồn , như giận dỗi . Màu sắc của nó lại là tổng hợp của tất cả những màu sắc mà mắt thường nhìn thấy được : nó vừa xanh , vừa đỏ , vừa tím lại vừa vàng pha lẫn sắc chàm trộn trong màu lam nhạt . Bộ mặt ấy làm cho ba đứa trẻ như chết lặng . Chúng cứ đứng trơ ra như thế rất lâu . Bóng người bỗng quơ tay ra trước mặt . Một điếu thuốc cháy đỏ vụt hiện ra trên hai ngón tay hắn . Hắn đưa điếu thuốc lên môi , rít một hơi dài rồi quẳng mạnh . Ðiếu thuốc bay tung lên , vạch một luồng sáng đỏ lưng chừng căn phòng rồi biến mất , nhẹ nhàng kì ảo như khi xuất hiện . Trong lúc đó bóng người quái đản chúm môi , thở ra một chùm lửa đỏ rực ... thình lình hắn giơ tay chụp lấy đầu mình . Rồi chậm chạp , chắc chắn , hắn lôi cái đầu ấy ra khỏi thân mình hắn . Vừa lôi , hắn vừa lắc lư như say rượu và quái ác thay , vừa lắc lư hắn vừa dần dần tiến về phía ba đứa trẻ Lũ trẻ hoảng hốt . Mặc dù bị thôi miên vì cảnh tượng vô cùng kinh khiếp xảy ra trước mắt , chúng vẫn cố cựa quậy để vùng chạy . Con quỷ càng lúc càng lại gần .... lại gần ... Ba đứa trẻ đột nhiên rú lên một tiếng kinh hải nhưng liền theo tiếng rú , chúng cảm thấy nhẹ nhõm cả người . Thế là chúng đâm đầu ra cửa , chạy như điên . Thằng Tý vấp chân , lộn một vòng từ trên nền gạch xuống sân cỏ , nhưng nó

lồm cồm bò dậy được . Không dám quay đầu lại phía sau , nó nhào mình lên mép tường , đu người lên và leo ra ngoài , loạng choạng chạy tiếp . Vừa chạy nó vừa kêu rú ầm ĩ . Hai thằng kia vừa bò vừa lếch tếch chạy theo sau , mồm hét lên những tràng kinh hãi .... Sáng hôm sau , câu chuyện đã được đồn đi khắp cả xóm . Từ đó , căn nhà trở lại vẻ tĩnh mịch vốn có của nó . Không một đứa trẻ nào dám héo lánh đến đó quậy phá . Chúng cũng như tất cả dân trong xóm vừa nghe đến câu chuyện con quỉ ấy thì hồn vía lên mây ngay lập tức .

Gabriel-Ernest

"Này, trong khu rừng của ông có một con thú hoang đấy" họa sĩ Cunningham lên tiếng khi ngồi trong chiếc xe hơi của bạn đưa ra ga. Suốt dọc đường họa sĩ không mở miệng ngoài câu nhận xét trên, và vì Van Cheele huyên thuyên không ngừng nên không chú ý đến sự yên lặng của người bạn đồng hành. "Chắc lại một vài con cáo lạc với mấy con chồn trú ngụ ở đây chứ gì. Chắc cũng chẳng có gì ghê hơn" Van Cheele nói trong khi họa sĩ vẫn lẳng lặng. "Lúc nãy ông bảo có một con thú hoang là ông định nói cái gì đấy?" Van Cheele hỏi khi họ đứng trên sân ga. "Chẳng định nói cái gì cả. Tôi tưởng tượng đấy mà. Kìa tàu đã đến rồi kìa." Trưa hôm ấy, Van Cheele đi dạo như thường lệ, xuyên qua khu rừng của mình. Hắn có một con vạc nhồi trấu trong văn phòng và biết tên khá nhiều loại hoa dại, cho nên bà cô hắn có lý phần nào khi gọi hắn là một "đại-học-giả môn thiên-nhiên học". Ít ra thì hắn cũng là một "đại tản-bộ-gia". Hắn có thói quen ghi nhớ tất cả những gì nhận xét ở dọc đường, không phải với mục đích giúp cho khoa-học tự-nhiên hiện-đại mà là để có chuyện mà ba hoa sau đó. Khi thấy những cây huệ dại bắt đầu trổ hoa là gập ai hắn cũng kể, mùa nào thức nấy người ta cũng đoán ra được, nhưng ít nhất họ nhìn nhận tính hắn hoàn toàn bộc trực. Tuy nhiên, cái mà hắn trông thấy trưa hôm ấy khác xa những điều hắn đã thấy mọi khi. Trên một tảng đá nhẵn nhụi nhô ra mé trên mặt nước hồ sâu, dưới vòm cây sồi, một thiếu niên khoảng 16 tuổi đang thảnh thơi nằm sấp phơi tứ chi rám nắng còn ướt nước dưới ánh mặt trời. Ý chừng anh chàng vừa mới lặn đâu đây, tóc ướt sũng dán vào đầu, tẽ ra hai bên, đôi mắt nâu nhạt - nhạt đến nỗi y như ánh mắt long lanh của một con cọp - đang hướng về phía Van Cheele, lười biếng quan sát hắn. Vì quá bất ngờ, lần đầu tiên Van Cheele bắt gặp mình suy nghĩ trước khi lên tiếng. Thằng bé trông có vẻ hoang dại này ở đâu đến đây nhỉ? Bà vợ ông chủ nhà máy xay bột vừa mất tích một đứa con cách đây độ hai tháng, người ta cho là đứa trẻ đã bị dòng nước dùng để quay cối xay cuốn đi, nhưng nó chỉ là một đứa trẻ con, không phải một chàng thiếu niên đã gần trưởng thành. "Cháu đang làm gì thế?" hắn cất tiếng hỏi. "Dĩ nhiên là cháu đang sưởi nắng" thiếu niên đáp. "Cháu ở đâu nhỉ?" "Cháu ở đây, trong cánh rừng này." "Cháu không thể sống mãi trong rừng được" Van Cheele nói. "Kể ra thì khu rừng này tạm cho là đẹp được" thiếu niên nói với giọng kẻ cả.

Van Cheele bắt đầu cảm thấy khó chịu như người đang muốn nắm bắt một vấn đề mà nó cứ tuột khỏi tầm tay. "Thế cháu ăn gì để mà sống?" "Cháu ăn th...ị...t" thiếu niên thong thả kéo dài chữ "thịt" ra như thể đang thực sự nhấm nháp. "Thật thế à? Cháu ăn thịt gì?" "Nếu ông muốn biết rõ thì đây: thịt thỏ, thịt chim rừng, thịt gà, thịt cừu, mùa nào thức nấy, cả thịt trẻ con nữa nếu cháu bắt được, nhưng thường thường trẻ con được canh giữ cẩn thận ở trong phòng, khóa trái cửa ban đêm, mà đêm đến cháu mới đi săn. Đã hai tháng nay rồi, cháu chưa được thưởng thức món thịt trẻ con." Không lưu ý đến giọng bỡn cợt trong câu nói vừa rồi, Van Cheele tìm cách lôi kéo thiếu niên trở về vấn đề đi săn trộm. "Chắc cháu khoác lác khi khoe là được ăn thịt thỏ rừng? Những con thỏ rừng ở đây dễ gì mà săn được?" "Ban đêm cháu đi săn bằng bốn chân" là câu trả lời kỳ bí. "Có phải cháu định nói cháu đi săn với một con chó không?" Thiếu niên từ từ xoay ra nằm ngửa, cất tiếng cười một cách kỳ dị, cho là "dễ nghe" thì như tiếng khúc khích, "khó chịu" thì như tiếng gầm gừ. "Cháu không tin có một con chó nào lại muốn đánh bạn với cháu, nhất là vào ban đêm." Van Cheele bắt đầu cảm thấy quả thật có cái gì bất thường ở thiếu niên có cặp mắt và miệng lưỡi là lạ này. "Ta không thể để cho cháu sống trong rừng rú như thế này được." Van Cheele dõng dạc tuyên bố. "Cháu nghĩ chắc ông thích để cháu ở trong rừng hơn là ở trong nhà của ông" thiếu niên đáp. "Nếu cháu mà không chịu nghe lời ta, ta sẽ bắt cháu phải theo." Thiếu niên bỗng lăn một vòng nhanh như chớp, nhẩy tọt xuống hồ lặn ngụp, một lúc sau nhoài nửa thân mình loang loáng nước lên bờ, chỗ Van Cheele đang đứng. Nếu là một con rái-cá thì hành động này chẳng có gì đặc biệt nhưng ở một thiếu niên thì khiến Van Cheele giật mình và hắn trượt chân ngã sóng soài trên bờ hồ đầy cỏ dại, với cặp mắt vàng như mắt cọp sát ngay mặt

mình. Thiếu niên lại cất tiếng cười, lần này giọng gầm gừ xem ra lấn át giọng khúc khích, rồi lại nhanh như chớp, chui tọt vào bụi rậm mất hút. "Rõ là một con thú hoang kỳ dị" Van Cheele tự nhủ và đứng dậy. Bây giờ hắn mới sực nhớ đến lời nhận xét của Cunningham: "Có một con thú hoang trong khu rừng của ông". Trên đường nhẩn nha về, Van Cheele cố nhớ lại những chuyện đã xẩy ra gần đây có thể có liên hệ tới sự hiện diện của thằng bé hoang dại, dị kỳ này. Có cái gì đã khiến khu rừng gần đây thưa vắng bóng muông thú, gà nuôi trong trại thì biến mất, thỏ rừng cũng ít hẳn đi một cách lạ thường, hắn còn nghe thấy có người phàn nàn cả cừu non cũng bị khiêng đi. Phải chăng thiếu niên đã thực sự cùng với một con chó tinh quái đi săn trộm ở vùng này? Thiếu niên nói đêm đêm đi săn bằng "bốn chân" nhưng sao lại ỡm ờ bảo không có con chó nào dám tới gần mình "đặc biệt là ban đêm"? Thật kỳ lạ. Thế rồi, nghĩ đến những sự phá phách trong vài tháng gần đây, hắn đột nhiên dừng lại - dừng cả đi tản bộ lẫn dừng suy nghĩ. Đứa trẻ mất tích cách đây hai tháng ở nhà máy xay bột, người ta cho là nó ngã rồi bị dòng nước cuốn đi, nhưng mẹ nó nhất định bảo đã nghe thấy một tiếng kêu thét ở sườn đồi phía bên kia dòng nước. Chuyện không thể xẩy ra được, dĩ nhiên, nhưng hắn muốn giá thiếu niên đừng nói đến cái chuyện kỳ quái ăn thịt trẻ con cách đây hai tháng thì hơn. Những chuyện như thế không nên nói, dù chỉ là để đùa. Lần này, trái với mọi khi, Van Cheele không thích kể lại những điều hắn vừa thấy trong rừng. Còn đâu là thanh danh của một ông Hội đồng hàng xã kiêm Thẩm phán nếu ông chứa chấp trong địa phận mình một kẻ có thành tích khả nghi. Có khi ông còn phải bồi thường nặng những con gà, những con cừu đã bị mất tích. Bữa ăn tối hôm ấy, hắn yên lặng một cách bất thường. Bà cô hắn hỏi: "Mồm miệng anh tối nay để đâu? Cứ y như là anh vừa gập một con chó sói ấy." Van Cheele không mấy hiểu tục ngữ, nên thấy câu nói hơi buồn cười. Nếu quả hắn trông thấy một con chó sói, nhất định là hắn đã thao thao bất tuyệt rồi. Bữa điểm tâm sáng hôm sau, Van Cheele nhận thấy cảm giác bất an, về chuyện gập gỡ ngày hôm trước, vẫn chưa tan, thế là hắn quyết định đón tầu đi đến tỉnh lân cận tìm Cunningham để hỏi cho ra Cunningham đã trông thấy những gì mà lại nói rằng có một con thú hoang trong rừng của hắn. Quyết định xong, hắn vui vẻ trở lại, vừa ư ử hát một điệu ca tươi sáng vừa thơ thẩn vào phòng kiếm thuốc lá hút như thường lệ. Nhưng khi bước chân vào phòng thì điệu hát vụt ngừng bặt nhường chỗ cho một lời cầu nguyện thành khẩn. Gọn gàng nằm dài trên tấm thảm nhung với điệu bộ nhàn nhã một cách quá mức là thiếu niên trong rừng. Lần này anh chàng khô ráo hơn lần trước nhưng "bộ cánh" vẫn y nguyên như cũ. Van Cheele giận dữ hỏi: "Sao cháu dám vào đây nằm hử?" "Thì ông bảo cháu là không được ở trong rừng nữa mà" thiếu niên bình thản đáp.

Để che giấu bớt "tai họa", Van Cheele vội vàng mở tờ báo Morning Post ra đắp lên thân thể tồng ngồng của vị khách bất-đắc-dĩ. Ngay lúc ấy bà cô của hắn bước vào. "Đây là một cháu bé đáng thương đã lạc đường lại mất trí nhớ, không biết mình là ai và ở đâu." Van Cheele giải thích một cách tuyệt vọng, lo ngại liếc nhìn khuôn mặt đứa trẻ bơ vơ xem nó có định bồi thêm những câu nói bộc trực rất bất tiện vào cái vẻ hoang dại của nó không. Bà Van Cheele hết sức quan tâm, nói: "Có khi áo lót mình của nó có thêu tên nó." "Hình như nó cũng đánh mất cả hầu hết quần áo rồi" hắn vừa nói vừa chặn giữ cho tờ báo nằm nguyên một chỗ. Một đứa trẻ trần truồng, vô gia cư khiến bà Van Cheele đem lòng thương như thương một con mèo con bị lạc hay một con chó con vô chủ. "Chúng ta phải cố giúp đỡ nó" bà quyết định và chỉ thoáng một cái là đã có một người được phái đến nhà viên mục sư và đem về một cái va-li quần áo cũ kèm theo những món phụ như giầy, sơ-mi, cổ cồn v.v... Sau khi diện bảnh chọe, sạch sẽ, chải chuốt, Van Cheele thấy thiếu niên vẫn chưa hết vẻ dị kỳ, nhưng bà cô hắn thì thấy chú bé thật đáng yêu. "Mình phải tạm đặt cho nó một cái tên trong khi chờ xem tên thật của nó". Bà đề nghị: "Ta cứ gọi nó là Gabriel-Ernest, cái tên này nghe hay hay và thích hợp đấy." Van Cheele vâng nhưng trong thâm tâm ngần ngại không biết đã gán nó cho một thiếu niên đáng yêu và thích hợp thật không? Nỗi nghi ngại của hắn không giảm đi chút nào trước sự kiện là con chó tai cụp, già nua, trầm tĩnh, của hắn đã chạy vọt ra khỏi nhà ngay khi thiếu niên bước chân vào, và cứ nhất định run rẩy sủa ầm lên từ cuối khu vườn ăn quả, trong khi con chim bạch yến, mọi khi cũng huyên thuyên không kém ông chủ thì nay tự hạn chế với những tiếng chiêm chiếp kinh hãi. Hơn bao giờ hết, hắn quyết định đi gặp ngay Cunningham để hỏi. Trong khi hắn lái xe ra ga thì bà cô hắn sắp đặt cho Gabriel-Ernest phụ bà giúp vui lớp thiếu nhi vào buổi trà trưa hôm chủ nhật ấy. Thoạt đầu Cunningham nhất định không muốn bàn luận gì cả. "Mẹ tôi mất vì bệnh tâm thần nên ông cũng thông cảm hộ, tôi không thích bàn đến những chuyện có tính cách quái dị mà tôi có thể đã trông thấy hay tưởng mình đã thấy." "Nhưng mà ông đã thấy cái gì?" Van Cheele nhất định tra hỏi. "Cái mà tôi đã thấy nó quái đản đến nỗi không một người bình thường nào có thể nghiêm trang tin nó đã thực sự xẩy ra. Cái buổi chiều hôm cuối cùng ở nhà ông, tôi đang đứng khuất lấp sau hàng dậu, bên cái vườn quả, ngắm cảnh mặt

trời lặn, đột nhiên tôi thấy có một thiếu niên trần truồng, hình như vừa tắm trong một cái hồ nào gần đấy, cũng đang đứng trên sườn đồi trơ trụi, ngắm cảnh hoàng hôn. Cái dáng đứng của thiếu niên gợi cho tôi nghĩ đến một con chó sói hay một con dã thú trong huyền thoại của tà giáo làm tôi lập tức muốn thuê nó làm người mẫu và chỉ tị nữa là tôi cất tiếng gọi. Nhưng ngay lúc ấy mặt trời lặn chìm xuống và tất cả các mầu hồng, mầu cam vụt tắt khiến quang cảnh trở nên lạnh lẽo và xám ngắt, đồng thời, một chuyện cực kỳ quái dị đã xẩy ra - đứa bé ấy cũng biến mất! "Cái gì? Biến mất không còn dấu tích gì cả à?" Van Cheele hấp tấp hỏi. "Không, và đây mới là chỗ khủng khiếp của câu chuyện này. Trên sườn đồi, chỗ thằng bé vừa đứng cách đây một giây, bây giờ có một con chó sói to lớn, mầu đen đen, răng bóng loáng, với cặp mắt mầu vàng và hung ác. Người ta tưởng..." Van Cheele không thèm dừng lại ở những cái phù phiếm như "tưởng". Hắn sấp ngửa chạy vội ra ga. Hắn bỏ ý định đánh giây thép: "Gabriel-Ernest là một con lang-nhân, nửa người nửa sói." Đó là cố gắng tuyệt vọng, không lấy gì làm ổn, của hắn để thông báo tình hình. Bà cô hắn chắc sẽ tưởng là một bức thư có mật mã mà hắn quên không cho biết giải mã. Hi vọng độc nhất của hắn là có thể về nhà trước khi mặt trời lặn. Cái xe hơi thuê ở ga chạy về chậm rì rì, sốt cả ruột, trên những con đường quê dưới ánh hồng tía rực rỡ của cảnh trời chiều. Bà cô hắn đang thu dọn những đĩa bánh mứt thừa khi hắn về đến nhà. "Thằng Gabriel-Ernest đâu rồi hả cô?" hắn gần như gào lên. "Nó vừa dẫn thằng bé Toop về nhà rồi. Cô thấy trời cũng muộn, sợ để thằng bé đi về một mình nguy hiểm. Mặt trời lặn đẹp quá nhỉ?" Tuy Van Cheele không quên vẻ đẹp huy hoàng của mặt trời lặn ở phương tây nhưng không đứng lại bàn tán. Hắn phóng một mạch qua con đường quê nhỏ dẫn đến nhà thằng Toop, một bên là dòng nước chẩy xiết của nhà máy xay bột, bên kia là sườn đồi trơ trụi nằm phơi mình. Một thoáng hồng phai của mặt trời lặn còn lờ mờ ửng ở chân trời và đến khúc ngoặt này chắc hắn sẽ thấy đôi trẻ, cao thấp chênh lệch, đang dìu giắt nhau đi. Thế rồi mầu hồng vụt tắt và mầu xám xâm chiếm thiên nhiên trong một thoáng rùng mình. Van Cheele chợt nghe thấy một tiếng kêu khiếp hãi và dừng chân. Không ai còn thấy thằng bé Toop và Gabriel-Ernest đâu nữa, nhưng người ta thấy quần áo Gabriel-Ernest trút bỏ trên đường đi nên đồ chừng thằng Toop ngã xuống nước và Gabriel-Ernest đã cởi quần áo nhẩy xuống định cứu nhưng không cứu nổi. Van Cheele và một vài người thợ làm việc cạnh đấy chứng nhận lúc ấy có nghe thấy tiếng một đứa trẻ kêu thét gần chỗ tìm thấy quần áo của Gabriel-Ernest. Bà Toop còn tới 11 đứa con khác nên tiếp nhận cái tang này một cách trầm tĩnh nhưng bà Van Cheele thì thành thật thương chàng thiếu niên bơ vơ, lạc lõng. Chính bà đã đứng ra khởi xướng gắn một tấm bảng bằng đồng ở nhà thờ với hàng chữ: "Để kỷ niệm Gabriel-Ernest, một thiếu niên không rõ tên họ thật, đã can đảm hi sinh đời sống để cứu một người khác."

Xưa nay Van Cheele có thói quen chiều bà cô đủ mọi chuyện nhưng lần này hắn nhất định từ chối, không chịu đóng góp phần mình vào công cuộc thiết lập tấm bảng truy điệu Gabriel-Ernest.

Giả nữ

Triều đình có vị quan họ Sách, trong nhà có nuôi một nam bộc, chẳng những thạo đàn tỳ bà, lại còn ca hát rất hay. Mỗi khi có yến ẩm tiệc tùng, Sách công đều sai người nam bộc ấy ra gấy đàn ca hát giúp vui. Các bạn đồng liêu của Sách Công ai cũng khen ngợi, thưởng tiền bạc rất nhiều. Nhân thế, người nam bộc ấy trở thành giàu có hơn các bạn cùng nghề. Tuy vậy, đã hai mươi tuổi, mà anh ta vẫn chưa lấy được vợ, trong lòng cũng hơi có ý oán trách chủ nhân. Mùa Xuân năm Canh Ngọ, Sách Công cùng gia đình tính đi tế mộ phần, nhưng mộ phần lại nằm ở phía ngoài thành môn, cách thành cả vài chục dặm. Trước ngày đi một hôm, Sách Công sai nam bộc cùng một người lão bộc già ra đi trước để sắm sửa chuẩn bị. Lúc hai người ra khỏi thành môn, thì trời đã quá trưa. Họ vừa đi vừa chuyện vãn, kể lể sự tình; phần nhiều là những chuyện có liên quan đến bọn nữ tỳ, nô bộc trong nhà Sách Công. Ði được nửa đường thì gặp một tửu điếm, cả hai bèn ghé vào mua rượu thịt đánh chén. Rượu được vài tuần, còn chưa đủ hứng, bỗng nghe ngoài cửa quán rượu có tiếng người hỏi vọng vào: - Lục Tam Ca, đã lâu chẳng gặp, sao chẳng đến chơi thăm đệ? Lục Tam Ca là nhũ danh của người nam bộc lúc còn nhỏ. Trong nhà Sách Công mọi người ai cũng quen gọi người nam bộc bằng tên ấy cả. Nghe thấy có người gọi đúng tên cơm của mình, Tam vội vã chạy ra cửa xem ai. Té ra là một người đầy tớ làm trong nhà một vị quan đồng liêu với Sách Công đã bị đuổi đi trước đó tên là Lương, vốn là chỗ giao tình thắm thiết với Tam. Bèn mời vào cùng ngồi uống rượu, chén chú chén anh. Người lão bộc già cảm thấy tức bực, sắc mặt lộ vẻ không vui. Nhưng Tam mặc nhiên chẳng hề để ý, cứ tiếp tục cùng Lương đối ẩm. Mãi một lúc lâu mà vẫn không có ý khởi hành. Thấy thế, người lão bộc già đứng dậy bảo với Tam: - Sợ làm hỏng việc của chủ nhân, ta đi trước một chút, chú từ từ uống xong thì đi sau nhé. Tam ỷ được Sách Công thương, nên đồng ý để cho người lão bộc đi trước, rồi cười bảo với Lương: - Lương huynh lúc này làm trong phủ đệ nào mà quần áo hài vớ lam lũ không được như trước vậy? Lương xua tay, vội vã ngắt lời Tam lại, nói:

- Chuyện khá ly kỳ, chỗ này không tiện nói? Tam cố gạn hỏi thì Lương đáp: - Ðợi uống hết hũ rượu này, ra ngoài đường đệ sẽ kể rõ cho huynh nghe. Bấy giờ Tam mới thôi không hỏi nữa. Hai người tiếp tục uống say tít thò lò, bước ra khỏi tửu điếm, khoác vai nhau cùng đi. Tam lại lè nhè bảo với Lương: - Lương huynh có tâm sự, sao chẳng nói cho đệ nghe ngay bây giờ đi. Lương đáp: - Ðúng ! Ðúng ? Ðệ có chuyện phải kể cho huynh nghe, nhưng cho đệ hỏi huynh một điều. Huynh bấy nhiêu tuổi, đã thử "ấy" lần nào chưa? Tam nghe Lương hỏi thế thì thẹn thùng đỏ mặt, đáp: - Ðừng đề cập đến chuyện đó làm gì, chỉ khiến đệ tức chết mà thôi. Lương tiếp: - Thế ra, huynh vẫn chưa có gia thất gì cả sao? Chủ nhân mới của đệ là một vị phụ nữ họ Giả, sau khi chồng chết, vẫn sống quả cư , nhưng nhan sắc tuyệt vời. Trong nhà nuôi toàn nam bộc, hẳn là có dụng ý. Nếu huynh có thể theo đệ đến gặp, ắt thế nào cũng có điều hay. Tam không tin, nhưng tiện miệng đáp: - Chuyện đó có thật sao? Nhưng chủ nhân lại là một mỹ nữ, thì đâu phải người để cho bọn nô bộc đầy tớ mó tới được ? - Thì huynh cứ đi theo đệ một lần thì sẽ biết thật hay giả . Tam cũng muốn nghiệm xem lời Lương có đúng không, bèn hoan hỉ đi theo. Hai người đi vào một con đường vòng vèo khúc khuỷu mãi lúc trời đã về chiều mà vẫn chưa đến nơi. Tam bảo với Lương: - Huynh làm hỏng công việc của đệ rồi. Về nhà tất sẽ bị chủ nhân trách mắng. Biết làm thế nào bây giờ? Lương cười nói đùa: - Huynh đến đó thì không về nữa đâu. Còn sợ gì trách mắng !

Lại đi thêm một quãng độ hai dặm nữa thì đến một tòa phủ đệ, chung quanh tường vây mấy lớp, phòng thất hàng hàng la liệt, khí tượng thật là nguy nga tráng lệ. Bây giờ đêm đã quá khuya, Tam nghe rõ tiếng mõ đổ canh hai. Lương bảo với Lục Tam: - Ðây là nhà chủ nhân của đệ. Ðệ vào trước, huynh tạm đứng chờ một chút nhá. Nói xong thì đi. Còn lại một mình Tam. Chàng để ý quan sát cặn kẽ. Ngoài cửa trông rất chỉnh tề, sạch sẽ, nhưng tuyệt khống một bóng người, vắng vẻ lặng lẽ như tờ. Tam trong bụng lấy làm lạ. Một lát sau, Lương ở trong nhà đi ra, bảo với chàng : - Chủ nhân cho mời huynh vào. Huynh nên lấy lễ tương kiến. Tam gật đầu đồng ý, rồi theo Lương vào. Ði qua một dấy hành lang và mấy lần cửa, hai người mới đến khuê . Ðầu óc chàng mông lung mê cảm. Hình dung và thân thể mỹ nhân cứ quanh quẩn không sao rời khỏi não bộ của chàng. Hôm sau trời mới hừng hửng sáng, Tam cũng vừa mới thức dậy thì đã thấy Lương đến. Sau vài lời thăm hỏi, Lương nói: - Cơm ở đây ăn không hợp khẩu đâu . Rồi kéo chàng đi ra ngoài thôn mua rượu thịt đánh chén. Bữa sáng, bữa chiều, Tam đều được Lương đãi đằng tử tế . Mãi đến tận trời sâm sẩm tối, hai người mới kéo nhau về đi ngủ. Liên tiếp mấy ngày liền đều như thế. Tam có ý ngờ trong bụng. Một lần chàng cố ý trì hoãn nằm nán lại giường, nhưng mãi cũng không thấy ánh thái dương, chừng đến lúc cùng Lương ra khỏi cửa, thì mặt trời đã ở trên đỉnh đầu. Tam lấy làm áy náy, xin Lương đưa về. Lương nói: - Huynh nóng gấp quá, tối qua đệ đã bẩm với chủ nhân rồi. Bà đồng ý tiếp huynh tối nay, không để huynh ở lãng phí thời gian đâu. Buổi tối, Tam và Lương trở về nhà thì được khẩu tín của chủ nhân, truyền Tam đến gặp ở chỗ cũ. Chàng y lời, đứng ngoài rèm bái kiến, nghe bên trong có lời truyền ra, giọng nói dịu dàng ấm áp: - Nghe đồn khanh đàn giỏi hát hay lắm, hôm nay nhàn hạ, khanh có thể đàn cho ta nghe thử một khúc được chăng?

Tam cung kính nhận lời. Lương kê một chiếc ghế thấp ở dưới cột nhà, rồi đem ra một cây đàn tỳ bà trao cho Tam. Chàng thấy cây đàn bóng loáng sáng sủa, trong lòng rất thích, bèn lên giây nắn nắn phiếm, giở hết bình sinh tuyệt kỹ ra gẩy. Nhưng bên trong tuyệt nhiên chẳng có một lời khen thưởng nào. Khi chàng đàn vừa dứt, thì Lương đến bảo: - Chủ nhân nói rằng tài nghệ của huynh như thế chưa có gì độc đáo, huynh còn có giọng hát hay nữa, xin cho chủ nhân nghe thử. Tam đặt cây đàn xuống, ngân giọng cất tiếng ca, thì trong rèm có tiếng thở dài khe khẽ lọt ra, tựa hồ như có vẻ vừa lòng mãn ý với giọng ca của chàng. Tam ca tiếp thêm mấy khúc nữa, bấy giờ mới nghe bên trong rèm có tiếng cười hoan hỷ khoái lạc vọng ra. Sau đấy chủ nhân ra lệnh cho cuốn rèm lên, ánh sáng ùa ra soi tỏ khắp hành lang. Tam ngẩng đầu hé mắt liếc nhìn trộm, thấy một bầy tỳ nữ, lão ẩu, xiêm y quần áo người nào cũng phi thường rạng rỡ chỉnh tề, sạch sẽ, đứng vây chung quanh một mỹ nhân, trên dưới không che một mảnh vải, thiên nhiên ngọc lộ, y hệt người mà chàng đã được nhìn trộm. Trước cảnh tượng ấy, Tam cực kỳ kinh ngạc, tự hỏi thầm trong bụng, chẳng biết người tiên hay người trần. Giữa lúc Tam còn đang nghi hoặc vẩn vơ, thì mỹ nhân cho lệnh truyền mời chàng vào trong nội thất, ban ghế mời ngồi. Hai người ngồi đối diện với nhau, nhưng nàng vẫn tự nhiên, không hề e lệ ngượng ngùng. Thấy thế Tam không thể cầm nổi lòng tà, lửa dục phừng phức bốc lên. Mỹ nhân cười, quay sang bảo với bọn tỳ nữ: - Cái anh chàng thật là được voi đòi tiên, mắt cứ hau háu nhìn, làm ta không còn đất mà trốn nữa. Rồi nàng sai tắt đèn, dắt Tam lên giường cùng nằm. Bọn tỳ nữ, lão ẩu, đều cười hoan hỷ, bỏ ra ngoài. Tam ôm nàng vào lòng, thân thể nõn nường như gấm, da dẻ trơn tru mịn màng như mỡ, bèn cùng mây mưa hoan lạc, điên đảo chiếu giường. Thật là một duyên kỳ ngộ lạ lùng, bình sinh Tam không hề dám tơ tưởng. Sáng dậy, Lương lại đến đưa Tam ra ngoài thôn ăn uống. Nhưng hôm sau cũng đều như thế.

Chủ nhân cũng là người giỏi đàn tỳ bà, nàng đem tất cả sở trường tuyệt kỹ của mình truyền thụ cho Tam. Nhưng từ sau ngày Tam cùng chủ nhân chăn chiếu thì hình sắc hao mòn, dần dần có ý bớt cùng nàng gần gụi. Tuy vậy, mỗi lần thấy bóng dáng nhu mì, khả ái của nàng xuất hiện, thì cựu tật như cố, không sao đừng được. Chỉ quá vài tuần Tam tiều tụy, gầy guộc như củi khô không lá. Một hôm, Tam cùng Lương ra ngoài thôn ăn uống trong một tửu điếm. Ăn xong, Tam thấy trên tường có đàn tỳ bà, bèn đem xuống gầy. Giữa lúc Lương hết sức khuyên Tam dừng lại, thình lình bên ngoài có một số người xông vào quán miệng hô lớn: - Nó đây rồi ! Thằng bỏ trốn nó đây rồi ? Tam kinh hãi, dương mắt nhìn. Té ra bọn người đó đều là sai dịch của Sách Công, được lệnh đi lùng bắt Tam. Giữa lúc hỗn loạn, huyên náo, Lương biến mất tăm tích, không ai hay. Bọn người sai dịch hò hét tiền hô hậu ủng, áp giải Tam ra ngoài đường. Tam cố nài nỉ xin họ thong thả giây lát, sao bắt cho được Lương để cùng đến gặp Sách Công. Trong số bọn sai dịch, có người trách mắng Tam: - Chú mày có điên không? Thằng Lương từ khi bị chủ đuổi, ra sống ở ngoại thành bằng nghề làm thuê làm mướn, được ít tháng chết vì bệnh thổ huyết, đến nay cũng ba năm rồi, dẫu có đổi kiếp sống lại, cũng chưa biết bò, lẽ nào có thể lãnh tội thế chú mày được. Tam nghe vậy, lấy làm ngạc nhiên, mới đem hết sự tình kể lại cho bọn sai dịch biết. Bọn sai dịch nhìn thấy Tam thân thể gầy đét cũng không khỏi ngạc nhiên, bèn cùng Tam tìm đến chỗ chàng nói. Chừng đến nơi, chỉ thấy cỏ dại um tùm, khói hoang phảng phất, lớp lớp mộ phần, tuyệt vô nhà cửa phủ đệ. Tam lại càng sợ hãi, hỏi thăm cư dân quanh vùng. Một người đương địa cười, bảo với Tam: - Người mỹ phụ mà quan bác gặp, chính là người con gái họ Giả ở thôn phía trước mặt đấy. Mọi người tò mò hỏi thêm chi tiết câu chuyện. Thì đáp: - Họ Giả là một nhà đại phú, có người con gái vô cùng xinh đẹp, rất mê đàn tỳ bà. Ðến khi lớn lên, người con gái tư tình với một cậu thanh niên cùng thôn. Cha nàng nghe thấy thế, giận không dằn được, mới lập kế mai phục, để bắt hai

người tại trận đang khi ngủ với nhau. Nhưng người con trai trèo qua cửa sổ trốn thoát, còn người con gái xin được chết toàn thây. Vì thế, nàng bị lột hết quần áo, bỏ vào quan tài chôn sống. Người mẹ thương con lén để một cây đàn tỳ bà cho cùng tuẫn táng, chuyện xảy ra cách đây cũng năm năm rồi. Những người đi gác đồng ban đêm, vẫn thường nghe văng vẳng có tiếng đàn ở dưới mộ nàng trổi lên. Mỹ phụ mà quan bác gặp chắc là người con gái họ Giả này đấy chăng? Bấy giờ mọi người mới tin lời nói của Tam là thực. Hỏi tới ngôi mộ của Lương, thì người đương địa lấy tay chỉ: - Kia kìa, cái nấm đất nằm dưới gốc cây bạch dương là mộ phần của Lương đấy. Bọn sai dịch đều phá lên cười, trào phúng bảo với Tam: - Chú mày cũng nên đến đó mà tạ ơn người làm mai chứ. Rồi ồn ào đưa Tam về giao nạp cho Sách Công. Trước đó, Sách Công cũng đã hỏi người lão bộc già, thấy câu chuyện có vẻ nhiêu khê, chừng gặp lại Tam, biết là chàng bị ma ám, nên cũng không khiển trách chi cả. Sau đó, Tam bị bệnh mất mấy tháng trời, tưởng nguy đến tính mạng, cuối cùng may thoát được. Tam xin Sách Công cho chuộc lại khế khoán, xuống tóc đến Chính Giác tự tu hành, lấy pháp danh Phổ Thông hòa thượng. Những lúc nhàn rỗi, Tam thường đem chuyện mình đã trải qua kể cho mọi người nghe. Ai nấy đều le lưỡi kinh sợ.

Hắc Miêu

Phùng Tất Đắc là học trò, thường trú ở quận Hoàn Kiếm, bình sinh chuộng hư danh, hám gái đẹp, nhưng đến năm 12 tuổi vẫn chưa được gần gũi với nữ nhân. Năm 17 tuổi thi đại học ngẫu nhiên đạt điểm cao, được tuyển đi du học ở nước Ba La Tư thuộc Đông Âu, từ đó thoả chí tang bồng, quanh năm tửu sắc. Sau 15 năm lưu lạc, chán cảnh tha phương cầu thực, Phùng về nước vào Sài gòn lập nghiệp, mở tại quận Gò Vấp một tờ báo mang tên "Chó Chết Chẹt", thường đưa tin chó mất mèo lạc, lấy tiền quảng cáo là chính. Thời gian đầu được công chúng ưa chuộng, báo bán rất chạy, quảng cáo đắt như tôm tươi, doanh số nhiều vô kể. Có cao nhân trong làng báo là Bùi Thị, vốn là bạn đồng tuế dị sàng, cùng học thời phổ thông gọi điện khuyên Phùng rằng: "Nghề báo vốn bạc, hay dở không phụ thuộc vào chủ kiến bồi bút, ế chạy chẳng liên quan tới thị hiếu độc giả. Khéo mà làm ân mắc oán. Nên dừng ở lúc đỉnh cao". Phùng đang thị dục huyễn ngã, tự mãn thành công nên bỏ ngoài tai. Một đêm Phùng ngồi biên tập cho số báo hôm sau phát hành, chợt nghe có tiếng nói cười lả lướt sau lưng. Ngảnh lại thấy một thiếu nữ tuổi chừng mười sáu, mắt như mắt thỏ, lông như lông mèo, dung mạo vô cùng tươi đẹp. Phùng vốn tính hào hoa, bèn kéo nàng vào lòng mà ngỏ lời giao hợp. Thiếu nữ thoạt đầu từ chối dăm ba câu lấy lệ, sau rồi cũng để mặc Phùng chủ ý mây mưa. Thật là loan phượng tương phùng, thoả nguyện không bút nào tả xiết. Trong khi chăn gối Phùng tinh ý đếm thấy nàng có tới bốn nhũ hoa, nhưng vì mới quen nên chỉ dám nâng niu mà chưa tiện hỏi rõ, còn lấy làm khoái trí coi như báu vật của đời . Thoắt được nửa tháng, đêm đêm thiếu nữ lại tới mây mưa cùng Phùng, nhưng Phùng giữ thế nào nàng cũng không ở lại trọn đêm, cứ canh ba lại vọt qua cửa sổ đi mất. Vợ Phùng thấy chồng thần sắc kém dần, mắt lờ đờ vô hồn, đêm nào cũng lấy cớ bận việc báo mà ngủ lại toà soạn thì sinh nghi, bèn thuê Trần Hào vốn là tay ăn cắp vặt ở chợ Tân Định theo dõi. Sau ba ngày Trần trở về, người ngợm hôi hám bẩn thỉu, mặt nhằng nhịt hàng chục vết xước. Phùng thị nóng ruột hỏi tình hình, Trần bộc lộ vẻ kinh hoàng, lát sau lấy lại bình tĩnh, bẩm báo: "Tối nào cũng thấy ông chủ cũng ngồi biên tập bài vở. Nhưng cứ nửa đêm thì có một con mèo đen vọt qua cửa sổ nhảy vào lòng ổng. Ổng bèn cởi...". Trần nói tới đó bỗng nhiên im bặt, mắt trợn ngược, lưỡi thè ra. Phùng thị hoảng sợ giật mình đưa tay vào người y thăm dò thì hơi thở đã tắt từ lúc nào. Phùng thị thấy Trần bất đắc kỳ tử, tự nhiên không cười mà chết thì kinh hồn táng đởm, sức lực bỗng nhiên tăng tiến khôn lường, bèn một tay ôm Trần ra gốc cây lan đầu nhà, một tay dùng xẻng vùi nông chôn tạm. Nguyên Trần Hào có người bạn thân tên là Trương Ngật cũng thuộc loại vô công rồi nghề, hai tên thường hay qua lại lén lút cờ bạc cà phê rượu chè tình ý gái gú với nhau. Trương thấy Trần lâu không đến uống rượu, sinh nghi, lại từng nghe nói vợ Phùng nhờ Trần điều tra tình nhân phu quân bèn qua nhà Phùng đánh tiếng hỏi dò tung tích. Phùng thị luống cuống sợ hãi, gian ý lộ hết trên

nét mặt, ú ớ giải thích không ra lời. Trương vốn ranh mãnh, thấy nội tình thiếu logic biết bên trong có ẩn ý, đêm lén đến phục ở sân nhà Phùng. Tầm canh ba Trương bỗng nghe có tiếng thở dài dưới gốc cây lan, chạy lại thấy Trần đang ngồi xổm như đi đồng, hai tay khư khư ôm lấy mặt. Khẽ gọi thì Trần ngẩng lên, khuôn mặt nhằng nhịt đầy vết mèo cào, cả thân mình bốc mùi hôi thối khủng khiếp. Trương bị mùi thối xông thẳng vào mũi, mê man ngất đi. Lát sau Trương tỉnh dậy, thấy vầng trăng toả sáng vằng vặc mà bản thân đang nằm ôm chặt gốc lan, mùi thối vẫn ngào ngạt. Trương cả sợ bèn lủi về nhà nôn oẹ tắm rửa, sớm hôm sau vội lên công đường báo quan. Quan huyện tên Lương họ Trọng đệm là Tồn, tốt nghiệp K21 đại học Luật, tính vốn liêm khiết, bình sinh ghét cay ghét đắng bọn buôn bán kinh doanh. Thấy Trương bẩm báo quan cả mừng, lập tức sai người tới đào gốc lan nhà Phùng, quả nhiên tìm thấy thi thể Trần Hào đang kỳ mục nát, bèn cho pháp y khám nghiệm, kết luận Trần chết do bị Phùng thị hắt hủi. Kế đó ra lệnh bắt giam vợ Phùng, tịch biên toàn bộ gia sản, bắt đóng cửa tờ "Chó Chết Chẹt". Riêng Phùng vì có chứng cớ ngoại phạm là ngủ tại toà báo do Trần Hào làm chứng, nên chỉ bị quan xét hỏi qua loa rồi thả về. Phùng trở về phẫn uất quá, nghĩ quẩn thế nào chạy ra hiệu thuốc mua một vỉ Paracetamol hàm lượng 150mg định bụng đêm đến uống hết quyên sinh. Nào ngờ lúc vừa rót nước đưa thuốc lên miệng chợt bị hai bàn tay mềm như tay mèo bịt chặt lấy mắt, biết ngay là thiếu nữ lại đến nô đùa. Phùng gạt lệ than thở: "Vẫn biết đời vốn thăng trầm, nhưng nào ngờ ngày vui chóng tàn thế, Phùng mỗ nay nhà tan cửa nát sự nghiệp lỡ làng quả là không còn thiết tha giao hợp nữa". Thiếu nữ dí tay vào trán Phùng mà mắng rằng: "Làm thân đàn ông mà định tự tử, thật là đớn hèn như chó. Chỉ lo nhà cửa sự nghiệp của bản thân, thật là ích kỷ như lợn. Vợ oan khuất biệt tù mà không tìm cách lo lót chạy chọt, thật là bạc tình như giun...". Phùng bị mắng một hồi tối tăm mặt mũi, chợt tỉnh ngộ, vội ném vỉ Paracetamol đi mà hỏi: "Nàng có cách nào giúp Phùng mỗ chăng?". Thiếu nữ buồn đáp: "Việc này âu cũng khép lại món nợ trần ai". Phùng gặng hỏi, thiếu nữ bèn cởi quần áo, xoã tóc ra mà kể: "Thiếp vốn là con mèo đen con gái của mẹ mèo mướp, hai mẹ con bị hàng thịt mèo trên đường Thái Văn Lung bắt cóc, may nhờ có tờ báo "Chó Chết Chẹt" của chàng đăng tin mà mẹ thiếp được cứu thoát, riêng thiếp chạy không kịp bị Trần Hào - là tay bắt mèo bán cho các hàng tiểu hổ bóp chết. Hồn phách thiếp phẫn nộ không tan được, phần vì ơn chàng cứu mẫu thân chưa đền đáp, phần vì oán Trần Hào bóp cổ chưa báo trả". Phùng trước đây vẫn nghi ngờ tung tích thiếu nữ, nhưng bản tính vốn galant nên không tiện hỏi thẳng, nay thấy nàng là ma mèo đen cũng không lấy làm ngạc nhiên, chỉ cười buồn: "Nếu ta nghe lời Bùi Thị từ đầu, sớm bỏ nghiệp báo thì đâu đến nỗi kết cục như ngày nay". Thiếu nữ nói: "Trần Hào bị thiếp bóp cổ chết, đã phải đền tội rồi, còn việc của chàng nhất định thiếp sẽ phải lo chu đáo. Có điều cũng đành từ đây âm dương vĩnh quyết", nói đoạn quấn chặt lấy Phùng hôn hít rồi bỗng rùng mình, cả cơ thể kiều diễm thoắt chỉ còn lại túm lông đen phất phơ theo gió mà bay đi mất. Lại nói Phùng thị bị bắt giam, oan khuất không biết đằng nào mà nói, thường giậm chân ngửa mặt lên trần nhà lao mà than rằng: "đớn đau thay phận đàn bà, trót sinh ra có nhũ hoa làm gì!", than xong lại vật mình khóc lóc thảm

thiết. Một tối nàng đang tẩy trang trong biệt lao, bỗng thấy một con mèo đen nhảy vọt qua cửa sổ, thả vào lòng nàng một bưu phẩm nhỏ rồi thoắt cái lại chạy mất. Phùng thị thoạt đầu sinh nghi không dám mở, sợ là bom thư, lại sợ có vi khuẩn bệnh than, sau nghĩ đến tình cảnh mình sống mà như chết nên liều mình xé lớp giấy bọc, thấy bên trong chỉ là một cuốn video cỡ nhỏ. Trọng tri phủ là người nhân đức, các phòng trong biệt lao đều có trang bị đầu video cho ngục nhân giải trí. Phùng thị bật lên xem thì là chính cuốn video lắp trong camera ngừa trộm treo ở cổng nhà mình, ngẫu nhiên ghi lại được cảnh đêm Trần Hào về báo cáo tình hình. Phùng thị và Trần đang trao đổi, đột nhiên có cảnh một con mèo đen từ đâu chạy tới nhẩy vọt lên bóp cổ Trần, lại có cảnh Phùng thị hoảng hốt khi thấy Trần tắt thở, nhưng có vẻ dưới mắt Phùng thị và Trần đều không có hắc miêu. May mà có chiếc camera vô cảm lạnh lùng ghi nhận lại mọi cảnh vật sự kiện. Hôm sau lên đối chất ở công đường, Phùng thị trình cuốn video. Trọng tri phủ xem đi xem lại, lại nhờ chuyên gia ánh sáng khảo nghiệm kỹ càng, đánh giá không phải kỹ xảo điện ảnh. Trọng bèn ghi vào biên bản Trần Hào chết do bị mèo đen bóp cổ, không liên quan gì đến Phùng thị. Bao nhiêu oan khiên của nhà họ Phùng đều được giải, phẩm giá được phục hồi, gia sản được trả lại, giấy phép ra tờ "Chó Chết Chẹt" được tái cấp. Phùng Tất Đắc mừng rỡ, từ đó lại lao vào việc biên tập báo, tập trung đăng tin chó mất mèo lạc, công việc không hề dám trễ nải. Đêm đêm Phùng vẫn thường báo vợ bận việc phải ngủ lại toà soạn, mà Phùng thị qua biến cố vừa rồi cũng sợ hãi, chẳng bao giờ dám hỏi han hay thuê người theo dõi chồng nữa. Thật là khí độ của một đại gia vậy.

Hàn Việt Tử

Hàn Việt Tử họ Lệnh Hồ , tuy gia thế đã mấy đời hành nghề thương mại , nhưng phong tư tươi đẹp mặt mũi bảnh bao , lại thêm cái tài đàn ngọt hát hay, thơ văn thi phú hơn đời. Thật là thích hợp đối với các cô gái kén chồng. Năm ấy , Hàn vừa hai mươi tuổi. Cái tuổi gọi là nhược quận, phải búi tóc , đội khăn để tõ rằng là đã trưởng thành. Chàng bèn sắm sửa hành trang , dẫn một con lừa, đi theo đường núi lên Kinh đô làm một chuyến du ngoạn . Hàn mới đi được một lúc thì trời bỗng lất phất mưa bụi . Chợt, chàng thấy có một thiếu phụ còn trẻ , dung nhan tuyệt diễm , cưỡi một con lừa đi cùng đường với chàng. Có lúc nàng đi vượt trước Hàn. Có lúc đi song song. Lại có lúc tụt mãi tận phía sau . Cứ thế , hai người đồng hành, nhưng chẳng ai hỏi ai cả . Chừng qua giờ ngọ , thì trời đổ mưa lũ lượt. Cũng may , bên lề đường gần đấy có mấy căn nhà đổ nát , bỏ hoang , không có người ở. Hàn bèn buộc lừa để vào đó tạm trú . Một lát sau , người thiếu phụ đến nơi , cũng bước vào theo, khiến cho Hàn ngượng ngùng, lúng túng, mất hẳn tự nhiên. Sự thực , thì dù đã gần hai mươi tuổi. Hàn chưa có dịp đối diện với người khác phái một lần, nhất là ở vào hoàn cảnh vắng vẻ hoang liêu và với một thiếu phụ trẻ đẹp kiều diễm như thế này. Chính lúc ấy , Hàn thấy con lừa đực của chàng đạp hai chân sau xuống đất như để lấy thế, hút vào đuôi con lừa cái của thiếu phụ, rồi nghển cổ, hí rộn lên. Người thiếu phụ thấy thế thì liếc mắt nhìn Hàn, đưa tay áo lên che miệng, tủm tỉm cười. Cái cười của thiếu phụ làm cho Hàn xao xuyến, tà niệm sôi động, không sao kiềm chế được. Chàng nhủ thầm, sao chẳng nhân lúc mặt trời gác núi, quãng vắng không người này mà chọc ghẹo nàng một chút cho vui. Nghĩ vậy, bèn buông lời ong bướm : - Vật còn như vậy, huống nữa là người ta thì kham sao cho nổi ? Nàng cười vật bất nhã, lẽ nào lại không biết còn có việc khó coi hơn thế này sao? Thiếu phụ nghe Hàn nói vậy, thì trừng mắt giận dữ, mắng: - Tôi cười gì thì cười, đâu có phải muốn bắt chuyện với ai ! Hàn bèn quì xuống đất. hai tay ôm lấy nàng, tỏ tình: - Nương tử ơi! Việc chẳng hẹn hò, bỗng dưng gặp gỡ, đây thực duyên trời đưa đẩy. Từ lúc được thấy bóng giai nhân, bụng riêng đã muôn nghìn khuynh mộ. Lẽ nào nàng không hay ? Lần này, thiếu phụ chàng những đã không giận , mà phì cười, tay nâng Hàn đứng dậy , trả lời: - Nếu không có ý nọ kia với chàng , thì thiếp theo chàng đến chổ nhà hoang người vắng này làm gì ? Nhà thiếp ở hướng Bắc, chổ có rừng cây cao lớn kia , cách đây mười dặm. Tuy nhiên , thiếp chẳng dám đi chung với chàng vì cha mẹ chồng thiếp rất nghiêm ngặt. Các em chồng, người nào cũng hung hăng nóng nẩy , sơ họ bắt gặp. Nhưng nhà mẹ thiếp thì ở gần đây thôi, mời chàng quá bộ ghé chơi, đừng ngại

ngùng chi cả. Lòng Hàn vốn đã dao động và bị mê cảm từ lâu, nên chẳng còn suy ba nghĩ bẩy gì nửa, bèn cưỡi lừa đi theo thiếu phụ. Sau một hồi bạt thiệp truân chuyên , qua mấy nhịp cầu và mấy ngọn đồi, khoảng chừng mười dặm, thì hai người đến nơi. Chỉ thấy núi xanh mấy lớp , rừng già thâm u. Ngôi nhà của mẹ người thiếu phụ là một dinh cơ rộng lớn, dựa lưng vào núi. Ðằng trước có một con suối nhỏ , nước chảy trong xanh mặt nước phẳng lặn . Tứ bề không có thôn ấp, dân cư nhà cửa chi cả. Hàn còn đang nghi hoặc , e ngại , chưa tiện nói ra , thì thiếu phụ đã như biết , cười bảo với chàng : - Chàng sợ nhà thiếp không có xóm giềng làng mạc chi cả phải không ? Ðây vốn là cơ nghiệp do tổ phụ thiếp xây cất để làm chổ lánh đời viển thế . Ðến nay gần trăm năm rồi . Người phàm tục, kẽ tầm thường , rất ít khi được đặt chân đến đây , thật là thuận tiện cho chàng nghỉ ngơi. Ðừng nghĩ ngợi thầm làm gì ? Rồi xuống yên. cầm roi ngựa gõ vào cánh cỗng. Khoảnh khắc , có hai con tì nữ chạy ra đón vào. Cả hai đều vấn tóc cao, đen nhánh. Răng trắng, má hồng , dung mạo rất là tú lệ, trẽ trung. Hàn thấy thiếu phụ gọi chúng là Tiểu Lục, Tiểu Hồng. Lên đến đại đường, thì nhà cao cửa rộng. sang trọng và đẹp đẽ không thua gì bậc vương giả . Thiếu phụ vào nhà trong thay đổi y phục. Lát sau đi ra, nào là quần gấm , áo thêu, lượt là rạng rỡ như tiên nữ. So với lúc cùng chàng cưỡi lừa, đạp gió đội mưa, có phần lộng lẫy gấp trăm lần. Nàng cũng sai người đem quần áo, hài vớ cho Hàn thay đổi, cái nào cũng mới toanh và hoa mỹ cả. Thấy Hàn đứng khoanh tay, nhìn sang hướng Tây như tỏ ý chờ đợi được bái kiến mẹ nàng, thì thiếu phụ nói: - Thiếp mồ coi cha mẹ, mất chỗ nương cậy từ thuở lên mười. Lại không có anh em trai, chỉ có một người em gái và một người chị, đều đã lấy chồng nơi khác. Nhà nay chỉ còn có mình thiếp độc cư. Khách khứa chẳng có ai. Chàng đừng lễ nghĩa làm gì cho thêm phiền toái. Rồi giắt tay Hàn, dẫn vào buồng riêng. Trong phòng bầy biện rất là tinh nhã, khác lạ, trông thật đẹp mắt. Bàn ghế, trường kỷ thì toàn một thứ gỗ đành gỗ nam thơm tho , chắc chắn. Lư đồng, bình ngọc chóa lòa. Mé tường phía Bắc, kê một chiếc giường nhỏ khảm sa cừ . Cửa sổ phía Nam thì dát ngọc trai lộng lẫy. Tên góc tường hướng Ðông , treo một bức cổ họa: " Từ Hi Hợp Hoan Ðồ " , mỗi bên lại có thêm một câu đối của Ðổng Tư Bạch. Từ miệng con kim nghê, kê trên một chiếc đôn ở giữa nhà, nhả ra những làn hương thơm kỳ lạ, bay tản một khắp phòng. Mặt đất phẳng bóng như gương Tàu, không nhuộm một hạt bụi , hay một vết nhơ. Thiếu phụ cố ép Hàn ngồi xuống ghế rồi sai tỳ nữ nấu nước pha trà , mời mọc ân cần. Vị trà đậm đà, ngào ngạt nức mũi. Trà cụ. Hàn không rõ tên gọi là gì mà hình thù cổ quái dị thường , chàng chưa từng

thấy . Hàn hỏi thiếu phụ: - Chẳng hay khanh năm nay xuân xanh được bao nhiêu tuổi ? Tên họ là gì ? Vừa rồi tính đi đâu đấy ? Thiếu phụ nghe Hàn hỏi thế, bật cười như nắc nẻ, đáp: - Làm chi mà căn vặn, tra hỏi kỹ càng quá vậy . Có phải để về trình lại với ý trung nhân ở nhà đấy không? Hàn cũng cười theo, rồi bầy tỏ: - Ta là khách tha hương phiêu bạt, tuổi vừa hai mươi . Việc hoa liễu chưa từng quen thuộc. Về phú tính cô tịch, ưa điều thanh tình, giữ gìn thịt da như xử nữ. Nay cùng khanh quyến luyến, cũng là lần đầu trai tơ phá giới, mở chốt thử xe. Sở dĩ mới phải hỏi kỹ càng như vậy là để ghi lòng tạc dạ, nhớ tên khanh cho khỏi quên. Có chi mà khanh phải nghi ngại . Nàng an ủi: - Chàng nóng gấp quá vậy , chẳng qua là thiếp nói đùa đấy thôi! Rồi nói tiếp: - Thiếp họ Vi, tên A Quyên, con thứ ba trong gia đình. Năm nay được hai mươi tuổi. Trước đã lấy chồng người họ Nguyên. Cách đây ba năm, chồng thiếp vì có điều sơ xuất, nên cả nhà bị kẻ thù sát hại. Riêng thiếp, may nhờ chui qua khe cửa nhỏ , đào thoát chạy về nhà mẹ . Người chị thiếp, tên là A Nghiên, lấy chồng người Thượng Ðảng . Còn em gái tên là A Tú , lấy chồng người Linh Khâu , cũng đồng canh với chàng , hôm nay thiếp đến thăm nó , chẳng ngờ, giải cấu tương phùng, giữa đường gặp nhau , ắt là túc duyên tiền kiếp chi đây. Nếu không sao lại như thế? Hàn nói : - Vậy chứ, cái điều khanh bào là "cha mẹ chồng nghiêm ngặt, anh em hung hãn" , chỉ là lời nói tầm phào, bát nháo chi thiên, hay sao? Quyên cười : - Nếu không bịa chuyện ra như vậy, thì đâu có thể rủ chàng về đây được! Hàn cũng cười phụ họa : - Không biết Khanh còn được một chút thành thực nào không ? Chỉ mới gặp nhau có nữa buổi mà những điều hoan điên cuồng ngữ đã chứa đầy một xe rồi ! Hai con tỳ nữ Tiểu Lục , Tiểu Hồng đứng phục dịch ở bên cạnh , nghe hai người đối đáp cũng phải bật cười. Một lát sau, sơn trân hải vị, thức ngon vật lạ bầy ra kín cả bàn. Rồi thì đũa ngà, chén ngọc, hết sức thiết tha mời mọc. Thỉnh thoảng, nàng lại ngồi sát bên Hàn cùng chàng áp má kề vai, lả lơi nũng nịu. Hàn cũng ân cần ve vuốt , ngã nghiêng chiều chuộng . Chẳng mấy chốc canh đã về khuya , ba sao trước ngỏ . Quyên bèn dời bàn tiệc , giắt Hàn lên giường cùng chung chăn gối. Quyên được Hàn như được mưa cửu hạn. Hàn được Quyên. như bướm lạc vườn xuân . Thôi thì trăm chiều ân ái. mây mưa điên đảo không sao kể hết được.

Quyên vốn giỏi nhạc nước Ngô. Mỗi khi cất tiếng ca, thì thanh âm trẫm bỗng líu lo. Hàn thường ngồi bên phụ họa , đôi lòng như túy như si. Thời gian thấm thoát, Hàn cùng với Quyên phút chốc đã tròn một tháng, tình như cá nước, nghĩa tựa keo sơn, nửa bước chẳng xa nhau. Ngày ngày làm thơ tác phú , hoặc chén rượu cuộc cờ , hoặc ngâm hoa vịnh nguyệt mà chuyện phòng the cũng chẳng hề sao nhãng. Một hôm Quyên có việc phải đi thăm người chị, để Hàn ở lại nhà một mình. Giữa lúc chàng đang cô đơn tịch mịch, đứng xem cá bơi lội trong hồ, thì con hầu Tiểu Hồng mang nước trà đến cho chàng , ả tuy không được đẹp như Quyên, nhưng đang ở tuổi hoa xuân phong nhụy , bội lôi hàm bao, coi cũng khả ái. Hàn bèn nắm chút lấy tay ả, sờ nắn. Ả chẳng những không kháng cự, mà còn tủm tỉm cười đưa mắt tống tình, bảo Hàn: - Tiểu nương mời vừa ra khỏi cửa, mà công tử đã dở trò sàm sỡ sớm thế ? Hàn kéo ả ôm vào lòng, tán tỉnh: - Cổ nhân có nói rằng: "Mỹ sắc có thể ăn được" Vậy đẹp như em thế này , chắc có thể chữa được bệnh đói đấy ? Nhân dịp thò tay vô bụng ả rờ rẩm. Chỉ thấy thịt da nhẵn nhụi trơn tru, trung nhũ nhô lên. Hàn không sao cầm lòng nổi, bèn cùng ả xoắn xuýt. Giữa lúc hai người đang mưa gió mặn nồng tênh chưa cạn hết , thì con hầu Tiểu Lục xuất hiện bắt gặp. Hàn thấy nó lùi lại , mặt đỏ hồng, tủm tỉm cười giả bộ hái hoa, chàng biết việc có thể được liền vẫy tay gọi lại. Tiểu Lục hãy còn trẻ , nên thấy Hàn vẫy gọi, thì có ý e thẹn quay gót chạy trốn, Hàn bõ Hồng lại đó, đuổi theo lục, lúc gần bắt kịp, chừng nghe ngoài cổng có tiếng người cười nói líu lo như chim hót. Tiểu Lục vừa chạy vừa ngoái đầu lại cười trêu Hàn: - Công tử chớ có hòng mà bức hiếp thiếp nữa nhá. Cô nương về đến nơi rồi! Hàn đành phải dừng lại, không đuổi theo Lục nữa. Chợt có tiếng gõ cổng, Tiểu Lục từ từ vấn lại tóc , đi hài vào chân, rồi ra mở cổng, miệng nói lớn: - A ! dì Tú, lâu quá không thấy dì lại chơi. Lúc này ngọc thể có được khang an không? Lát sau, Tiểu Hồng cũng chạy đến nơi. Tiểu Lục giọng trào phúng, đùa trêu Hồng: . - Chị Hồng, sao chẳng dậy sớm một chút có dì Tú ở Linh Khâu đến thăm kìa ! Nghe Lục nói vậy, Hồng đỏ ửng mặt, hướng A Tú vái chào rồi nói : - Tiểu nương lên Thượng Ðảng để thăm dì Hai , không nói là trở về ngay. Xin mời dì Tú ở lại chơi mấy hôm , đợi tiểu nương về . Hàn thấy có người lạ, lấy làm lo ngại, vội vã nấp sau gốc hoa lan để rình, nghe ngóng. Chỉ thấy một nữ lang còn rất trẻ, phấn son mỹ lệ, giắt theo một.con hầu, thong thả bước vào cổng. Lập tức, chàng ngửi thấy mùi sạ hướng ngào nhạt thoảng theo hơi gió. Nhịp cùng với bước chân của nữ lang, là tiếng bội ngọc leng keng, thánh thót, tà áo nhẹ bay tha thướt. Nữ lang quả là một tuyệt thế giai nhân, dung nhan lộng lẫy . Môi đỏ, tóc đen ,

eo thon như gái nước Sở . Dáng đi uyển chuyển như tiên nữ . Hàn không khỏi xao xuyến ngẩn ngơ, tưởng như hoa mắt. Chàng đoán chừng là A Tú . Thấy nữ lang mỗi bước đều tiến dần về phía mình Hàn biết không thể tránh được nữa, bất đắc dĩ phải ra vái chào nói: - Tiểu sinh xin bái kiến Tú muội! A Tú bị bất ngờ thì giật mình hoảng sợ, hai má đỏ hồng e thẹn, lấy vạt áo lên che mặt, rồi khe khẽ hỏi Tiểu Hồng: - Người này là ai vậy ? Tiểu Hồng chẳng biết trả lời thế nào, thì Hàn đỡ lời đáp : Tiểu sinh họ Lệnh , tên Hàn Việt Tử. Tú lại hỏi: - Làm sao mà vào được đây ? Hàn đáp: - Ðó là do lệnh tỷ mời tiểu sinh đến. Tú nghiêm sắc mặt: - Chị tôi sương cư đã ba năm nay trong nhà này, dù một đứa trẻ năm tấc cũng vào không lọt. Huống hồ, ông lại là kẻ dị khách tha hương , đối với chúng tôi chẳng có một chút họ hàng, thân thích chi, lại cũng không phải là chổ cố cựu quen biết cũ , tự nhiên đột nhập vào đây là có ý gì ? Hàn nghe A Tú trách mắng , lấy làm hoảng sợ , vội phủ phục xuống đất khẩn khoản: - Tiểu sinh tội thật đáng chết, cầu xin dì Tú rộng lượng khoan dung. A Tú khẽ lườm chàng một cái, rồi nói: - Nhà cậu ăn nói đến hay? Tôi đâu thân thích gì với cậu mà gọi là dì. Tội của cậu đáng phải trói lại để trình quan, cho ông nếm thử mùi kìm kẹp. Nhưng vì cậu đã nói là do chị tôi mời đến , vậy tam tha cho, chờ chị tôi về đối chất, sau sẽ tính. Hàn cúi đầu, tạ lỗi. Nàng lại hỏi: - Cậu ớ đây được bao lâu rồi? Ðáp: - Cũng được hơn tháng nay . Hàng ngày cậu làm công việc gì ? - Cũng chưa có việc gì làm cả. Tú mỉm cười : - Chả có việc gì làm . Vậy chẳng nhẽ chị tôi mời cậu về nhà để làm tượng gỗ cho chị lôi ngắm à. Trông cậu tráng kiện. thần vượng tinh túc thế kia, nếu chẳng phải là khách phòng the , thì đâu có như vậy? Chuyện của cậu tôi biết hết rồi đấy nghe! Hàn chỉ đành cúi đầu lặng thinh không nói gì . Tiểu Hồng đứng bên cạnh, thỉnh thoảng lại cười ngặt nghẽo, càng khiến cho Hàn lúng túng, người ngây ra như tượng gỗ. A Tú đưa mắt lườm Tiểu Hồng, rồi đi vào nội thất, đứng sau rèm cửa gọi nó đến, ghé tai thì thào những gì Hàn không nghe rõ, chỉ thấy Tiểu Hồng bưng miệng cười đi ra gật đầu làm dấu gọi Hàn, bảo:

- Công tử lại đây em nói cái này hay lắm! Hàn theo con tỳ nữ đi đến mái hiên phía Tây. Nó cầm tay chàng, ra vẻ thân mật, nói: - Vừa rồi dì Tú thấy công tử là người nho nhã, lại tuấn tú đẹp trai, có lòng ái mộ nên muốn giữ công tử lại đêm nay để cùng hàn huyên tâm sự. Vì thế, nhờ em đến nói với công tử. Khi tiểu nương về, xin công tử chớ để lậu ra nhé. Hàn nghe nói vậy, vừa phập phồng vừa mừng đến phát cuồng, đáp: - Ý dì Tú đã muốn , ta nào dám không vâng mệnh? Tiểu Hồng trở vào thưa lại với A Tú. Lập tức ở trong phòng có tiếng hai người khúc khích với nhau. Chừng lúc mặt trời lặn, bóng đêm đã bao trùm cỏ cây vạn vật, thì Hàn thấy con hầu Tiểu Lục cầm đèn đi trước dẫn đường cho mấy con tỳ nữ khác, bưng rượu và đồ nhắm vào phòng riêng của Quyên. Bọn chúng đi lên đi xuống như thế đến bốn năm lần. Lát sau, có tiếng Tiểu Hồng từ trong màn cửa vọng ra gọi Hàn: - Xin mời công tử nhập tiệc . Hàn vốn là kẻ phong lưu nòi tình, đêm nay bỗng được lọt vào mắt xanh mỹ nhân, lòng mừng khấp khởi, bèn rửa mặt mũi, phấn son và diện một bộ cánh hết sức là hoa lệ để đến hội kiến. Khi vừa bước lên bực thềm. đã thấy Tiểu Hồng vén rèm châu lên chào đón. Từ trong buồng, A Tú miệng tươi cười như hoa nở hỏi chàng: - Sáng nay thiệp đùa bởn, nói dọa chàng mấy câu làm chàng sợ hải , giờ còn hay hết ? Hàn làm bộ như vô sự, đáp: - Lúc đầu thì cũng hơi lo. Sau thấy sắc diện của nương tử không có vẻ gì là hiểm ác. Vả, tự nghĩ là chẳng làm gì nên tội, thì có gì phải sợ ! Tú cười ngặt nghẹo liếc mắt tống tình, thu ba lấp lánh nói : - Chàng nói năng sao nghe ngọt ngào dễ nghe thế ? Vào khuê phòng người ta, làm loạn lên rồi cho là không có lỗi ? Hàn nghe nói thế, hết đường chối cãi, đành im lặng, xin được uống ba chung rượu phạt. Tiểu Lục đứng bên cạnh chọc ghẹo thêm: - Công tử là người sợ rượu cơ mà, sao hôm nay lại nói cứng thế . Tiểu Hồng khe khẽ hạ giọng, nói nước đôi: - Khi uống, thì công tử cứ cầm cái quai chén mà vẫn về là được rồi. Ðêm đó A Tú cùng Hàn bướm lả ong lơi, mây mưa vân vũ ngay tại giường của Quyên. Nhưng Tú đa tình và hoa dạng hơn Quyên , khiến cho Hàn không chống đỡ nỗi. Sáng hôm sau , khi mặt trời đã cao khỏi ngọn tre, Hàn còn mệt mỏi ôm chăn nằm ngủ thì A Tú dã dậy sửa soạn phấn son trang điểm. Chính lúc ấy, bỗng con hầu chắp tay nói: - Dì Quyên đã về ! Hàn nằm trên giường nghe thấy vậy, thì hoảng sợ tay chân luống cuống rụng rời, cứ thế tông ngồng nhảy xuống đất, không biết nấp vào đâu, sau đành chui

vào sau chiếc màn cửa . Duy, A Tú thì vẫn bình thản mặt không biến sắc , ngồi trang điểm như cũ . Một lát sau Quyên đến nơi . Nàng ngồi xuống ghế chống tay vào má, vẻ mặt hầm hầm giận dữ, khiến cho cả Tiểu Hồng lẫn Tiểu Lục đứng nghe trộm ở sau bức mành đều cảm thấy sợ hãi . Hàn nấp sau chiếc màn cửa cũng cố nín thở để quan sát động tĩnh. Chừng vừa xong bữa cơm thì Tú trang điểm hoàn tất. Nàng thong thả đến trước mặt Quyên thân thiện để tay lên vai Quyên, tươi cười thăm hỏi: - Chị đã về đấy à . Nghe nói chị đi thăm chị Hai phải không Lúc này chị Hai thế nào ? Chị em mình lâu ngày không gặp, hôm nay em ghé thăm. Sao mới gặp nhau chẳng nói năng gì mà lại giận dỗi thế này ? Hay là em làm chi cho chị buồn lòng ? Quyên cười gẩy, sẵng giọng: - Ai làm gì thì người ấy biết, còn phải vờ vĩnh hỏi han ! - Té ra chị giận em ! Em hiểu rồi . Có phải vì người khách dấu ở trong mùng không . Em nào có quen biết gì . Chẳng qua do chị mời về . Em đến thăm chị, rồi vô tình gặp gỡ, thành xảy ra chuyện bướm ong, xú uế, đến nay cũng có hối cũng không kịp. Vả cái thú tường đông hoa nguyệt kia , há chẳng phải là do từ chị truyền sang em hay sao mà chị còn trách . Vậy là lỗi của em mà tội do chị vậy . Nói xong thì làm ôm mặt khóc hu hu, nức nở. Quyên thấy em khóc thì cơn giận cũng nguôi ngoại. Bèn đứng dậy cầm tay A Tú, lau nước mắt cho nàng, rồi an ủi: - Em lớn từng này mà chẳng biết đùa bỡn chút nào, vẫn còn nhõng nhẽo như ngày xưa ở bên cạnh mẹ. Chị em mình tuy hai mà một, bận lòng chi. Chị chỉ thử em một chút đấy thôi. Dần dần ít bữa nữa em sẽ hiểu lòng chị. Rồi vẫy gọi Hàn lúc đó còn đang nấp ở sau tấm màn cửa ra. Thấy chàng vẫn còn tồng ngồng, trên thân không có một tấm vải che, thì cả hai chi em đều cười như nắc nẻ. Nhất là A Tú, nàng gục vào lòng chị mà cười. Quyên cũng không nhịn cười được, lấy tay đấm vào lưng A Tú, vừa nhìn Hàn, nói: - Ðây là công của chàng đấy nhá! Tồng ngồng thế kia, đẹp lắm sao mà không mặc áo quần vào đi chứ. Bấy giờ Hàn mới đi rửa ráy và mặc quần áo lại. Bỗng nhiên một lúc mà được cả hai người đẹp, Hàn không khỏi sướng thầm trong lòng, sáng sáng chiều chiều tầm hoa tác lạc tùy tâm sở dục, phóng túng trong ân ái, quyến luyến trong cái cảnh thâm u của đình viện hoang dã, không còn nghĩ chuyện ra về nữa. Thấm thoát mùa Xuân đã qua. Mưa Xuân đã tạnh. Tiết trời êm đềm ấp áp. Ðêm ấy, trăng sáng đầy vườn, lưu quang lấp lánh bôi hôi. Ðây chính là lúc văn nhân nhã sĩ sửa soạn tiệc rượu để đùa gió trăng. Hàn bèn dắt hai nàng Quyên , A Tú ra Mộc Hương Ðình để cùng uống rượu thưởng nguyệt. Chừng rượu đã ngà ngà say, không cần giữ ý tứ. Tú hớp một ngụm rượu mà mớm cho Hàn .

Hàn truyền lại cho Quyên , rồi hỏi: - Rượu uống cách này khanh thấy có sảng khoái hơn không ? Ðáp: - Sảng khoái thì sảng khoái, nhưng thiếp thấy cũng có phần dâm uế quá. Ngày xưa các bậc phong lưu sĩ nữ tương hội, chắc gì đã khinh cuồng phong túng đến thế. Vả, chàng cũng thuộc hàng nho nhã thâm chí, tầm cầu cái đẹp , điều hay , sao chẳng nhân chén rượu mà dạy bảo bọn nô tỳ ngâm vịnh cho thoả thích. Như thế chẳng phải sảng khoái lắm hay sao ? Tú cũng thêm vào: - Chị Quyên cứ khi nào vui đến cực điểm, thì lại có lời cảnh giác bọn thiếp là phải biết hạn chế . Trong lòng thiếp vẫn thường cảm phục. Vậy xin chị cho vần đi để em xin họa nào. Thế là bọn tỳ nữ vội vã đem nghiên mực ra mài. Tiểu Lục thì lo giấy bút. còn Tiểu Hồng chạy tới chạy lui nghe sai bảo . Một loáng: đã thấy hai nàng mỗi nàng làm xong một bài cho xưa cho Hàn coi. Hàn hết lời tấm tắc khen ngợi , nói: - Thật đúng là bài "Lục Thần Phú" , viết theo lối tiểu hài, đáng được trân trọng treo lên vách tường lắm. Bài thơ của A Quyên như sau: Hồng mai chính phúc , bạch mai phương Vô lại đông phong sắn điệp cuồng Chỉ thuyết thanh phân kham thỉ nhữ Thùy tri Hàn Thọ quán thâu hương . Bài thơ của A Tú như sau : Nguyệt quang như mạc thảo như dân Vô sự phòng tuy điểm phong thần Vị tử hội tu hanh lạc sự Hốt khán nhập thất hữu tha nhân. Hàn làm hai bài thơ, đọc đi đọc lại mấy lần, miệng cứ lẩm bẩm hay, hay, tuyệt, tuyệt, như người trong mộng. Quyên thấy thế, bực mình nói: - Chàng thật chẳng chịu phân tích tìm hiểu chi cả. Con Tú nó dùng thơ để chửi xéo người ta mà chàng lại cho là hay. Giả sử chàng được vào giữ chức giám khảo trường thi thì chắc là văn chương điên đảo, ưu liệt giống nhau, ma chẳng khác gì người. Tú cũng không vừa, cãi lại:

- Chàng đừng nghe chị Quyên nói , thật là vừa đánh trống vừa ăn cướp. Thơ của chị ấy cũng chỉ đầy ý châm chọc người khác. Vậy còn trách với móc . Hàn một lần nữa, phải hết lời hòa giải, hai chị em mới nguôi giận hờn và tươi cười vui vẻ như cũ. Chừng Hàn làm xong thơ, thì hai nàng đều muốn được xem trước, giằng co tranh dành nhau. khiến cho tờ hoa tiên rách nát như cánh bướm, không sao ráp lại được nữa . Hàn cười bảo hai nàng: - Bài thơ này chẳng đáng đọc tí nào ! Rồi lấy lửa đốt đi. Sau đó lại tiếp tục tiệc rượu đùa cho mãi đến lúc thật khuya mới chịu cùng nhau vào giường. Ngày hôm sau, Hàn lại ra Mộc Hương Ðình nữa. Vô tình , chàng nhìn thấy trên cột đình có một tổ hoàng yến. Con chim mẹ , mõ ngậm một miếng mồi, bay tới bay lui , loanh quanh ở bên cạnh tổ. Mấy con chim con, con nào cũng há mỏ, kêu chiêm chiếp, cố gắng tranh cho được miếng mồi. Bất giác, Hàn nhớ đến cái ơn bú mớm của mẹ già đang vò võ chờ chàng ở quê nhà, lòng không khỏi bùi ngùi, xót xa rơi lệ. Bao nhiêu niềm vui vì thế mà tan biến đi hết. Hàn chỉ giận là không có cánh mà bay về quê nhà ngay lập tức mà thôi. Bèn đem ý ấy thổ lộ với hai nàng. Cả hai nghe thấy vậy thì đều rụng rời như mất tay chân. Mặt tái như chàm đổ, ngồi lặng lẽ không nói nên lời. Một lát sau, chỉ nghe liếng A Tú ôm tay che mặt hi hu sụt sùi. rồi tiếng A Quyên thở dài não nuột: buồn bã bảo với Hàn: - Ðó là tấm lòng hiếu thảo của chàng. Nếu như chàng không nhắc nhở đến, chị em thiếp cũng phải khuyên chàng về thăm lão mẫu há nào còn dám cản ngăn. Duy chỉ sợ sau này không gặp lại nhau nữa mà thôi! Cái sầu ly biệt ai người cất đi cho. Rồi cùng ngậm ngùi sùi sụt, suốt đêm không sao ngủ được, đến tận mãi gà gáy canh ba, thì mắt cả ba người đều sưng phù. Tiểu Hồng , Tiểu Lục đều không ngăn được giọt lệ. Lúc chia tay ly biệl , mỗi người đều đem những vật yêu thích riêng của mình ra tặng cho nhau. Nhân thế, Hàn mới dặn dò hai nàng: - Ta tạm về thăm mẹ già, chừng hai ba tháng sẽ trở lại đoàn tụ với hai khanh. Xin hai khanh hãy bảo trọng sức khỏe , chớ sầu khổ quá làm gì. Quyên đáp: - Ngày gặp lại , tương lai chưa biết ra sao. Nhưng thôi, xin mời chàng lên đường và nhớ giữ gìn tự ái lấy thân. Riêng Tú cứ nắm chặt lấy tay Hàn khăng khăng không muốn rời . Môi hồng mấp máy mấy lần nhưng chẳng thành lời. Nỗi biệt ly nào mà chẳng sầu thảm khó khăn , cuối cùng Hàn cũng phải lau nước mắt mà giã từ hai nàng , leo lên con lừa cũ, dạ nhật bôn trì trở về cố hương. Ðến nơi thì mẹ chàng đã qua đời được mấy tuần. Hàn đau đớn vạn phần, lại nghĩ không được đưa tiễn lúc ma chay, thì càng bi thiết hơn nữa, ôm mặt khóc rống lên. Sau đấy, thường đêm ngày tưởng nhớ Tú, Quyên, bỏ ăn bỏ ngủ, mà sinh bệnh,

nằm liệt trên giường gần sáu tháng mới bình phục đi lại được. Ba năm sau , mãn tang mẹ, Hàn lại dắt lừa theo đường cũ trở lai chốn xưa để tìm Tú , Quyên. Nhưng chỉ thấy không sơn tịch mạch , lá thu vàng úa, tán vân loạn thạch , chốc chốc từng tiếng chim rừng thiểu não ai hoài. Tuyệt không hề thấy một bóng người hay nhà cửa chi cả. Ngôi dinh thự hoa lệ mà Hàn từng vui sống với hai nàng năm xưa cũng biến mất, không để lại dấu vết nào. Chàng ngẩn ngơ thương cảm , bồi hồi một lúc bên bờ suối, rồi trở về nhà.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro