Tuyen tap truyen ngan I

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

726256-b526 Năm mười một tuổi, trong một đêm theo người lớn bắt ếch ngoài đồng, lớ ngớ sao tôi theo nhầm một đám người ra sông vượt biển. Khi lên ghe, có người hỏi, muốn vượt biên họ cho theo, còn không cầm đuốc mà về. Tôi ngoảnh lại, sau lưng, ruộng đất tối thui. Đường về phải băng ngang một gò mả lớn. Mới nghĩ tới, bắt rùng mình. Tôi cầm đuốc liệng xuống sông, rồi nhảy phóc xuống ghe, kiếm một chỗ ngồi im chong ngóc.

Mùa biển lặng, ghe xuôi gió tới Mã Lai. Hai tháng sau, văn phòng Cao Ủy Tỵ nạn sắp xếp tôi sang Mỹ theo diện trẻ mồ côi. Một gia đình ở Georgia nhận tôi làm con. Và tôi, đương nhiên coi Judy, con gái họ như em ruột. Lúc đó, tôi không ngờ, con nhỏ này chính là người thay đổi cuộc đời tôi, chứ không phải là thằng cha cho tôi cây đuốc.

Gia đình mới của tôi ở một thị trấn nhỏ, miền Nam Georgia. Cha nuôi, một người đàn ông cao lớn, suốt ngày quần quật trong nông trại. Mẹ nuôi, người ngoan đạo. Cuộc sống êm đềm, nhưng quen dần cũng đâm chán. Chiều tan trường, tôi thích băng ngõ tắt qua cánh đồng khô sau nhà. ở đó, tôi ngồi đợi nắng thoi thóp rồi tắt dần. Mặt trời lặn bên này để mọc bên kia. Tôi hình dung ra chốn quê xưa. Ruộng đất trơ mình, đìu hiu gốc rạ. Những mái lá đơn sơ. Con đường quê quanh quất. Tôi nhớ mẹ, nhớ em, tơi bời đứt ruột. Mãi khi sập tối mới trở về. Cả nhà Judy nhìn tôi như người bước ra từ cơn mộng dữ. Cha mẹ nuôi không nói, nhưng đôi mắt Judy nhìn tôi như hỏi không ngừng.

Có lần, tôi đang khóc bị Judy bắt gặp. Nó ngó mây trời rồi hỏi, tôi thấy gì trong đó. Đang lúng túng chưa biết trả lời sao thì tôi phát giác. Ráng chiều hất lên mặt nó một màu rực rỡ. Tóc nâu óng, môi ngả màu mận chín. Trời ơi, còn đôi mắt. Một chùm mây nhỏ lửng lơ đang trôi vào trong đó. Thấy tôi ngó sững, Judy hỏi. Tôi nói, mắt mày sâu không thấy đáy. Nó cười chúm chím, cứ nhìn đi rồi sẽ thấy.

Chúng tôi thân thiết như hai anh em ruột. Tôi dốt tiếng Anh, vào lớp sợ bạn cười nên càng nói lặp. Về nhà, Judy dạy tôi từng chữ. Nó nắm tay tôi, bắt nói từng câu, hai chữ rồi tăng dần ba, bốn chữ... Nó dẫn tôi ra đồng, ngồi cách nhau một sào rạ để nói chuyện. Cốt ý tập tôi nói lớn, nói cho quen, để hết cà lặp. Vốn liếng tiếng Anh của tôi hầu hết là Judy dạy. Chỉ có ba chữ "I love you" là tôi dạy nó. Đó là năm tôi mười bảy, cũng ngay trên cánh đồng này.

Mấy năm sau, cha nuôi bớt việc, ở nhà thường. Mẹ nuôi ngày càng ngoan đạo. Cuối tuần, cả nhà đi lễ. Bọn con trai trong họ đạo thích Judy. Tôi chê, mấy thằng vai u thịt bắp nhưng đầu óc trống trơn. Judy nói, còn anh ốm tong, trông yếu xìu. Không phải đùa, nhiều lúc tôi thấy Judy nể họ ra mặt.

Năm mười tám, tốt nghiệp trung học xong. Đám bạn như nghé tan bầy. Tôi lên thành phố kiếm trường định vừa làm vừa học. Hôm về, thấy một đám bạn tới nhà từ giã. Họ vào quân đội, sẽ học ở trung tâm huấn luyện Fort Benning gần đây. Tôi nhăn mặt, đi lính cực lắm. Tụi nó nói, chịu đựng mười bốn tuần, hết thời tập huấn là khỏe. Sau hai năm, vào đại học nhà nước đài thọ, nếu đi làm cũng được ưu tiên. Thấy mặt tôi vẫn nhăn nhó, thằng John châm, tướng mày đi lính, vác súng sẽ lùn đi. Cả đám cười ầm. Tôi nổi sùng bỏ đi một nước.

Buổi tối, Judy nói, vừa học vừa làm cực khác chi lính. Chịu khó một thời gian coi như đi làm, sau này giải ngũ, học không tốn tiền, lúc đó nó cũng lên thành học chung. Judy nói nhiều, nhưng tôi chỉ hiểu một. Nó không muốn xa tôi. Chính điều này làm tôi cảm động. Sáng hôm sau, tôi đến phòng tuyển mộ, điền đơn.

Trước ngày nhập ngũ, tôi nhận tin nhà. Trong thư mẹ khóc, thằng con dại, người ta tốn tiền lo trốn lính, sao mày lại đâm đầu vô chỗ chết. Còn cha mới ra tù lại ủng hộ. Nước Mỹ mạnh, đi lính không gì sợ. Chính phủ họ thương quân đội, lính chết mấy chục năm vẫn còn tìm.

Sáng hôm sau, mưa sụt sùi. Không gian dường nhuốm màu tang. Cả nhà thức sớm để tiễn chân. Mặt Judy buồn hiu làm như tôi sẽ không về.

Trung tâm Fort Benning cách thị trấn không xa. Trước cổng có chiếc xe tăng chĩa súng lên trời. Cái trại này tôi qua lại nhiều lần, duy có lần này tôi vào trại.

Chia tay mọi người trong phòng đợi, tôi mang hành lý theo người điểm danh lên xe bus đến phòng tân binh. Xe qua trạm gác, mọi người nhìn ra. Trại rộng hơn tôi tưởng, đường nhựa thẳng tắp, hai bên có bóng cây, sân cỏ. Nhà cửa sơn trắng, cất kiểu chung cư, giống nhau như một. Người lạ vào, rất dễ lạc.

Phòng tân binh là một hội trường, trước cửa có hàng chữ "Welcome to the US Army". Giữa khán đài có quốc huy hình con ó lớn, một chân quặp bó tên, chân kia quắp nhành Olive. Hai bên treo cờ và la liệt đầy bằng khen, huy hiệu.

Khi mọi người ngồi yên, một người sĩ quan đội nón bánh ú, cổ đeo tu-huýt nhanh nhẹn bước lên khán đài. Ông tự giới thiệu là huấn luyện viên, tên Bill Hawk, đại diện trại chào mừng các tân binh, đề cao những người tình nguyện, xung phong phục vụ đất nước. Ca ngợi xong, ông trở giọng đe, quân trường không phải là chiếc giường để những kẻ lười biếng, thất nghiệp đặt lưng. Mười bốn tuần, thời gian biến người dân thành người lính. Ai còn do dự cứ tự tiện về. Ông nhấn mạnh, "Quân trường đổ mồ hôi, chiến trường bớt đổ máu".

Vừa dứt lời, một người quân nhân cầm xấp giấy phát ra. Ông giải thích, đó là thời biểu khóa học. Mười bốn tuần chia làm ba giai đoạn. Giai đoạn một, hoàn tất thủ tục nhập ngũ, học tập nội quy, kỷ luật, nhiệm vụ trong quân đội và thao diễn cơ bản. Giai đoạn hai, tập bắn, sử dụng vũ khí. Giai đoạn ba, thực tập tác chiến và thi mãn khóa. Không đủ điểm sẽ bị loại.

Tôi nhìn quanh, ai nấy chúi đầu vào thời khóa biểu. Lịch trình dầy đặc, mỗi ngày mười hai tiếng, một tuần sáu ngày. Chủ nhật nghỉ. Người có đạo, được lễ tại trường. Trong thời tập huấn, không phép ra ngoài. Mọi hình thức thăm viếng bị cấm ngặt.

Tôi lấy bút dò từng hàng, cố tìm giờ rảnh sẽ gọi điện thoại cho Judy. Thấy tôi mò mẫm, thằng ngồi kế vò tờ giấy tròn vo, rồi vươn vai ngáp dài, "Lúc nào là lúc để thở, hả trời?"

Bên trên, ông huấn luyện viên giơ cao thời khóa biểu, đọc rào rào, "Bốn giờ ba mươi:tập họp, thể dục tại chỗ, nhận lệnh trong ngày. Năm giờ: điểm tâm. Năm giờ mười lăm:tập họp, diễn hành. Sáu giờ: chạy. Bảy giờ: vượt chướng ngại, tám giờ,... đến hai mươi mốt giờ: đèn tắt. Ngủ". Thời khắc nghiêm nhặt. Rồi ông dặn, trong quân đội khi nghe lệnh, lập tức thi hành. Chính xác. Mau lẹ. Lệnh không lập lại. Nói xong, ông la lớn, "Tất cả rõ chưa?" Chúng tôi nói, "Rõ". Ông lắc đầu, chưa nghe. Mọi người đồng thanh, "Rõ". Thật lớn, ông vẫn chưa chịu. Đợi chúng tôi gào bỏng cổ, ông mới thôi.

Khóa tập huấn chia bốn nhóm. Mỗi nhóm là một trung đội. Mỗi đội bốn mươi người, trực thuộc một huấn luyện viên chịu trách nhiệm chính. Sĩ quan của trung đội tôi chính là Bill Hawk. Hawk là diều hâu. Cái nhìn ông soi mói, giống cú hơn giống diều.

Hình như Bill Hawk không biết đi, chỉ biết chạy. Ông dẫn đầu, cả đội lúp xúp theo sau. Chúng tôi di chuyển tới lui nhiều chỗ, làm hồ sơ, khám sức khỏe, nhận đồng phục, sắp xếp chỗ ăn ở đúng quy cũ. Doanh trại rộng, sợ lạc, sợ trễ, làm gì chúng tôi cũng bảo nhau, nhanh chóng, lẹ làng. Chỉ hai ngày tôi đã hiểu, mình chìm lỉm. Quân đội triệt tiêu đời sống cá nhân. Tập hợp, nhận lệnh, di chuyển, tới lui, ăn ngủ, tan hàng,... đều răm rắp. Phải, kể cả tan hàng. Trong quân đội, tan hàng thật ra chỉ là một hình thức sẵn sàng đợi lệnh. Nó là thứ tập hợp lỏng. Mỗi người như một cơ phận, một con ốc, một chiếc đinh vít trong guồng máy khổng lồ. Điều quan trọng, khi máy quay, người ta phải chạy vận tốc mới điều hòa.

Bài đầu tiên trong quân trường tôi học là lúc chích ngừa. Con mẹ y tá cầm súng chích bắn vào cánh tay mỗi thằng một phát. Thấy ai giật nẩy thì con mẻ lại cười duyên, "Chỉ như kiến cắn, phải hôn nà?" Nhìn mấy thằng trước chích xong đi lẩy bẩy, tôi chùn bước. Mẻ nhìn tôi nghiêm giọng, cứ trân mình chịu mới bớt đau. Tôi ngạc nhiên đến nỗi bị chích hồi nào cũng không biết.

Đêm đầu tiên, tôi mất ngủ. Nhắm mắt lại, nhưng tâm trí cứ lòng vòng ngoài sân trại. Chỗ này phát quần áo, chỗ kia là cantin. Khiếp nhất là phòng hớt tóc. Cả đội xếp hàng chờ. Tới phiên, tôi dặn, hớt ngắn hai bên tai và ót, nhưng phía trước làm ơn để dài một chút. Thằng cha thợ gật lia lịa, ừ, ừ. Khi ngồi xuống, hắn gọt một đường tông đơ từ sau ra trước. Đầu tôi có sọc như cái vỏ dừa. Nhớ lại, tôi vẫn ngờ, thằng cha thợ... điếc. Sau này, tôi nhủ, sẽ hớt tóc ở ngoài.

Gần sáng, tôi kéo mền lên đầu, đánh một giấc. Chỉ chút sau mền bung, tôi phát giác, mình khó ngủ vì lạnh cái đầu. Tôi trùm mền kín mít, định dỗ giấc thì nghe tiếng hoét hoét ngay đầu giường. Theo lịch trình, chương trình huấn tập bắt đầu vào tuần thứ hai. Nhưng mới tờ mờ, Bill Hawk đã đem còi tới thổi. Trời còn tối đen, chúng tôi nhào ra sân. Gió đêm đẫm mùi sương mơn lên da thịt. Cả trung đội, kẻ trước người sau co giò, nhảy. Một hai, một hai, một hai,... có người nhắm mắt, đếm. Bill Hawk không để ý chuyện này. Thể dục tại chỗ xong, ông đọc huấn lệnh. Đến năm giờ, giải tán. Chúng tôi vào phòng điểm tâm. Bill Hawk không ăn. Ông cầm dùi cui đi lòng vòng kiếm những kẻ ngừng nhai, la mắng, "Ăn, ăn, ăn". Ăn cho no, mới đủ sức tập. Sau này, tôi mới biết, đối với ông, khi ăn phải nhai, khi bắn phải trúng, đó là cái đích để tới. Chuyện mắt nhắm hay mở, không cần thiết. Nói một cách khác, nó ví như những vòng tròn đứng ngoài tâm điểm.

Ăn xong, chúng tôi về phòng thay quân phục. Ngắm thử trong kính, tôi trố mắt, một thằng lính dữ tợn cũng đang ngơ ngáo nhìn ra. Trời, tôi đó ư? Đang định thần nhìn kỹ, thằng Jones nắm lưng lôi tôi ra ngoài. Nó vừa chạy vừa la, "Tập họp, tập họp".

Chúng tôi, bốn mươi thằng sắp làm tám hàng, mỗi hàng năm đứa. Bill Hawk ngậm còi, nhưng không thổi. Ông rảo quanh, hàng dọc, rồi hàng ngang. Tới chỗ tôi, ông dừng lại, ngắm. Tia nhìn sắc lẻm. Tôi ngây người, nín thở, bụng dạ rối bời. Cảm giác như ai lấy mũi dao rạch chơi trên mặt, mày, mi, mắt. Xong, ông lướt qua, rồi dừng lại chỗ một vài người khác. Sau cùng, rút danh sách, gọi tên. Tới ai, nấy la, "Có". Tôi để ý, trong đội ngoài thằng Lee gốc á, có một Mễ, một Cuba, số còn lại toàn dân bản xứ.

Điểm danh xong, Bill Hawk nghiêm giọng nói, khi thực tập mọi người phải cố gắng bằng chính sức mình. Mỗi người phải sống, chiến đấu như một con sói cô độc. Không giúp đỡ, không bao che, không hợm mình. Tất cả đều bình đẳng, mọi hình thức kỳ thị, bị cấm ngặt. Trong quân đội, mọi thứ phải đơn giản, rõ ràng, như thắng và thua, như không và có. Phải loại trừ những thứ lưng chừng. Ngôn ngữ quân đội cũng khác, ông không muốn nghe những chữ có lẽ, hình như, thì là, tại, bị...

Buổi đầu, chúng tôi tập những động tác thao diễn. Nghiêm. Nghỉ. Chào. Quay trước, quay sau. Sắp hàng, rồi tan hàng. Khi nắng lên cao, chúng tôi bắt đầu diễn hành. Một. Hai. Ba. Bốn. Bill Hawk đếm trước, chúng tôi đếm theo. Một. Hai. Ba. Bốn. Đếm mỏi, Bill Hawk lấy còi thổi. Một hồi sau, không có tiếng còi, chỉ còn tiếng chân. Đội hình di chuyển nhịp nhàng. Chúng tôi băng đồng cỏ, vượt qua ngọn đồi cao. Khi vòng về, đếm chán, Bill Hawk dạy chúng tôi ca.

I'm just soldier, Sergant march for you. I' ll not quit until P.T. is through. That' s turn me on. Must be army. That' s make me strong. One. Two. Three. Four. One. Two. Three. Four.

Chín giờ sáng, chúng tôi từ đồi cao thẳng một đường vào lớp học. Giảng viên là một sĩ quan, đội nón kết, đứng dang chân, tay chống nạnh, nghe báo cáo. Tôi nói lớn, "Tiểu đội Một, báo cáo, Ron Nguyen, 9341, sir". Ông thầy lừ mắt nhìn. Tôi mặc, đi tới ghế, đàng sau quay, đặt đít xuống.

Khi tất cả ngồi yên, lớp học bắt đầu. Ông thầy, tên Tom Selek, ngồi trên bàn chăm chú nhìn mọi người một lúc rồi hỏi, tại sao chúng tôi vào quân đội? Câu hỏi tưởng dễ, mà hóa khó. Mọi người bối rối. Không ai xung phong trả lời. Ông chỉ Jones. Nó ấp úng nói, nó vào quân đội làm người lính để bảo vệ quê hương. Chúng tôi chịu Jones nhanh trí, trong chớp nhoáng nó nghĩ ra câu trả lời đúng bài bản. Nhưng ông thầy chỉ nhếch môi, cười chế diễu. Ông chỉ tiếp, Ted, người Cuba. Nó kể dài dòng, đại khái nhà nó nghèo, lớn lên trong khu xã hội đen, đi lính để diệt kẻ xấu. Ông Tom cười ngất, bảo nó lạc đường, nên vào cảnh sát mới đúng. Rồi ông chỉ Lee. Thằng này thành thật nói, ba nó biểu nó đi lính. Ông Tom gật gù, mày đi lính để cha cầm súng, phải không? Cả lớp cười ầm.

May, tới tôi thì ông Tom ngưng rồi phát tài liệu. Tiếng lật giấy rào rào. Tôi đọc lướt qua từng đề mục. Ngoài những mục về nhiệm vụ, nội quy, kỷ luật, còn có những môn phụ như toán, Anh ngữ. Ông bắt đầu đọc từng phần. Kinh nghiệm chỗ nào nhiều người hỏi, ông ngưng lại giảng huyên thiên. Trong khi nghe, tôi xoay thế, ngồi duỗi chân. Một cảm giác tê rần lan truyền từ trên xuống dưới. Phải lợi dụng lúc học để nghỉ mới có sức chịu đựng tới chiều. Mãi tới lúc ông Tom đứng nghiêm, đọc mẫu lời tuyên thệ, tôi nghe ở cuối lớp có tiếng ngáy xen vào.

Ngay chiều đó, khi trở ra bãi tập, Bill Hawk nói, tập diễn hành là tập làm dáng, một kiểu làm đỏm của quân đội. Biết chạy, mới là hành động thiết thực. Nói xong, ông giơ ba ngón tay tức ba miles, rồi rút còi ra thổi. Thằng Jim phản đối, mới ăn trưa xong, chạy nhiều vậy sẽ xóc ruột. Bill Hawk hứ mũi, lập tức giơ năm ngón, năm miles. "Quân đội chỉ có tuân lệnh, đó là kỹ luật. Phản đối ư? Tao còn nhiều ngón tay lắm". Ông đắc chí nói. Vài thằng tức, định đập thằng Jim thì nghe còi thổi. Chúng tôi lập tức tung mình chạy. Nhiều thằng giữ hơi, chạy tà tà. Bill Hawk đuổi theo sau, lấy còi thổi vô tai nghe điếc rái. Điểm đến là cánh rừng thưa. Vừa tới đích, nhiều thằng nhào lăn ra đất, thở. Khi Bill Hawk tới, ông chê, chúng tôi chạy dở. Phải chạy sao cho nhanh và bền. Trông chúng tôi bây giờ, sức đâu đủ trói gà.

Hai giờ chiều, chúng tôi gặp lại Tom Selek. Ông đọc nội quy và kỹ luật quân đội. Trong đó có nhiều mục. Ông nhấn mạnh tới Mười Một Điều Lệnh Tổng Quát. Người lính trong mọi tình huống lúc nào cũng phải đề cao cảnh giác để bảo vệ an ninh và tài sản quốc gia. Chỉ điều này đã làm tôi nghĩ, một ngày làm lính, cả đời là lính.

Ông Tom nói, nhiều người nghĩ, kỷ luật quân đội là thứ kỷ luật sắt, người lính mù quáng tuân hành. Điều đó sai. Khi thấy cấp trên sai trái, người lính có quyền phản đối. Ngày nay, quân luật được đặc biệt tôn trọng, không như trước. Ông dặn chúng tôi, đừng tin vào những phim truyện chiến tranh. Toàn là điều giả tưởng, mà Thượng đế chính là thằng cha đạo diễn.

Ba giờ, chúng tôi trở ra sân, tập hít đất, ngồi bật, đu xà. Bill Hawk nói, đó là cách rèn luyện thân thể dẻo dai, cường tráng. Phải tập thường xuyên, chúng tôi mới có thể đạt, hít đất, hai mươi lăm; ngồi bật, bốn mươi lăm, đu xà, hai mươi cái. Đó là tiêu chuẩn kỳ thi cuối khóa.

Bill Hawk thổi năm còi. Chúng tôi nằm sấp, hai tay chống đất, dồn sức vào tay đưa mình lên. Được ba cái, nhiều thằng sụm, nằm bẹp dí. Bill Hawk gọi, đó là những con gián. Ông bắt gián ra, buộc phải làm lại, năm cái. Lần thứ hai, tôi làm bốn cái. Bill Hawk lắc đầu. Lần thứ ba, tôi hít năm giữa tiếng reo hò cổ vũ của cả đội.

Khi tan hàng, Bill Hawk nhìn tôi thương hại, phải cố lên. Cái nhìn làm tôi ghét. Về sau, tôi vẫn nhớ ánh mắt thằng cha này.

Buổi tối, tắm rửa xong, chúng tôi có lớp tối dạy cách mua sắm trong các BX. Đó là siêu thị trong quân đội. Giá rẻ, trả bằng tem phiếu, ghi trong cuốn sổ nhỏ gọi là chit book. Giảng viên bảo, quân trường cung cấp đủ vật dụng, chúng tôi sẽ lãnh đủ một lần vào cuối khóa. Quân lương chia theo ngạch, từ E 1 tới E 10. Chúng tôi thuộc E 1, lương thấp nhất. Giảng viên an ủi, chẳng ai đi lính mà khá. Tuy nhiên, quân đội là con đường mở rộng học vấn. Ai tham gia các nhiều khóa huấn luyện, thăng ngạch cũng tăng lương.

Tám giờ, dọn phòng. Phòng ngủ gọi là barracks, gồm hai mươi giường đôi. Chúng tôi vừa làm vừa cãi lộn. Thằng Jim giường dưới, mở màn cự, tôi hay để mền thòng, nửa đêm dậy nó giật mình tưởng ma. Cả bọn hoác miệng cười. Jones phân bua, đỡ hơn thằng Lee, tối ngủ còn tập kungfu làm cái giường lắc như con tàu. Thằng Lee nổi cáu hét, láo, láo. Jones hỏi, láo chỗ nào? Lee nói, không cần hỏi cũng biết, ở trong lớp mày dóc, không biết ngượng. Cái gì gọi là người lính đi bảo vệ quê hương? Jones cười hà hà, người Mỹ bảo vệ Mỹ, còn mày Tàu cớ chi lại vô đây? Câu hỏi đụng chạm nhiều người. Lee chưa kịp trả lời, Jones đã bị chúng tôi mắng cho một mách. Kỳ thị là vi phạm quân luật.

Chúng tôi im. Nhưng vấn đề cứ lảng vãng trong đầu. Một hồi sau, đội kiểm soát tới xét phòng. Chín giờ, còi hú. Đèn tắt. Chúng tôi ngủ. Bóng tối ngập phòng. Tôi mở mắt thao láo nhìn lên trần. Bên dưới, thằng Jim cứ trở mình. Một hồi, nó gõ nhẹ thành giường. Tôi lú đầu thù thì, gì? Jim nói, mày đi lính Mỹ, nếu có chiến tranh giữa hai nước, mày bênh bên nào? Tôi trùm mền suy nghĩ rồi giả bộ ngủ quên. Câu hỏi là cái bẫy, mà trả lời sao cũng dính.

Qua tuần sau, Bill Hawk nói, trước khi tập bắn, chúng tôi cần học cứu thương. Bill Hawk đi khỏi, thằng Jones đùa, trước khi giết người, phải biết cứu người.

Ở lớp quân y ra, Bill Hawk lại nói, biết cứu thương chưa đủ, sau này, chúng tôi cần phải biết cách mưu sinh thoát hiểm.

Chúng tôi mang súng, vác ba lô, đội nón sắt, chạy. Ban đầu chạy trên đồng cỏ. Về sau, tập chạy trong rừng, nhảy qua chướng ngại. Hết chạy, tới bò. Bò lên đồi cao, chui qua rào kẽm, dưới tầm hỏa lực. Những đêm có mưa, Bill Hawk làm dấu tạ ơn, rồi bắt chúng tôi bò. Đạn của ban huấn luyện, không biết thật giả, xẹt qua đầu, đỏ ké. Chúng tôi khiếp, bò sát đất. Thằng Jim nghi, không lẽ họ bắn mình bằng đạn thật? Thằng Ted giơ súng làm bộ nhắm, ôm súng không đạn như ôm nhầm người không tim. Bò ra tới ngoài, Bill Hawk trông thấy chúng tôi cười. Ông chửi một mách, rồi phạt cả đội, làm lại từ đầu.

Tuần thứ ba, chúng tôi mang súng thật. Cầm, ôm, mang, vác, nạp đạn,... lau chùi phải đúng quy cách. Ai lỡ tay, ông phạt ngay, phòng những người bất cẩn. Tôi phát giác, mắt Bill Hawk sắc như diều. Nhiều người nói, thằng cha này tinh lắm, ruồi bay qua cũng muốn bắt lại dòm.

Sáng chiều đều có giờ bắn. Đây là môn chính, tính nhiều điểm nhất. Tôi giơ khẩu M 16 nhắm, từ lỗ chiếu môn đến đỉnh đầu ruồi sao thành một đường trùng với tâm điểm. Tôi bắn mười, trúng một. Bill Hawk nói, cứ mười phát mà trật một, họa may sống. Kiểu như tôi, ra trận, không có cơ bắn tới phát thứ mười. Tôi làm thinh, lầm lì ghìm chặt súng. Bắn. Sức giật khiến nòng súng chếch, viên đạn trệch một đường bay vút ra ngoài.

Tối ngủ, tôi nằm mơ. Những hình nhân biết di động, biết cười nói xôn xao. Còn tôi ôm súng thật đứng trơ như bia gỗ. Sáng dậy, đôi mắt cay sè. Tôi theo đám diễn hành như kẻ mộng du. One. Two. Three. Four. One. Two. Three. Four. Má ơi, đừng khóc nữa, Con má, chưa chết đâu. Con đi, vì sông núi. Cháy túi, con trở về.

Tôi giật mình. Bài ca nhảm. Tôi liếc qua Bill Hawk, lại thấy ông ta cười.

Sáng hôm đó, nụ cười của Bill Hawk đã làm tôi tỉnh ngủ.

Khi tới sân BRM, tôi ngắm những bia người đứng bất động. Ngẫm nghĩ sao, tôi lo lắng nói, "Ra trận, tao sợ tao không dám bắn người thật?" Thằng Lee nhìn tôi, ngạc nhiên, "Còn tao, chỉ sợ người ta bắn mình". Rồi nó nhún vai, "Chết cho đất nước này, thật vô lý". Thằng Ted Cuba, nhăn mặt, "Chết cho bất cứ nước nào cũng vô lý cả".

Mấy ngày sau, chúng tôi học về tác hại của những thứ vũ khí mới. Bom hạt nhân, bom sinh học, và hóa học. Những loại tối độc và giết người hằng loạt với số lượng nhỏ, khó khám xét. Để nhận diện, chúng tôi học thêm toán và Anh ngữ. Toán, học cách cộng, trừ, nhân, chia, chấm tọa độ,... không máy tính. Các nguyên tắc đọc bí số, ký hiệu trên các loại chất nổ, vũ khí,... để biết công dụng. Lớp Anh ngữ, dạy chúng tôi hiểu ý nghĩa từ ngữ một cách chính xác, cách đọc bản đồ, và những ngôn ngữ riêng của quân đội. Ví dụ, colors (màu sắc) nghĩa là cờ; cover (che đậy) là nón, sickbay là bệnh viện. Thời giờ quân đội cũng khác, một ngày có hai mươi bốn giờ, bảy giờ mười lăm tối phải nói mười chín mười lăm. Tôi nghĩ, mình biến đổi như con ve đang lột xác.

Tới giữa khóa là thời gian khổ luyện. Chúng tôi học cận chiến. Địch là đám người cây, đứng yên không nhúc nhích. Chúng tôi bò sát đất, khi tới gần thì bật dậy, ào ào thét, "Xung phong". Cả đội xông tới đâm túi bụi vào đám người cây. Bill Hawk đứng đàng sau, nhào ra chửi, chúng tôi điên.

Khó nhất là học leo dây, đi trên lưới, trèo tường, đu người từ trên cao. Bãi tập gọi là Đài Chiến Thắng. Đài đóng bằng gỗ, trên có cầu treo, dây đu, và nhiều xà ngang, xà dọc. Muốn lên, phải bám dây, dùng sức kéo cả thân mình. Dây là loại thừng to, nắm đau tay. Nhiều đứa leo chưa tới đâu đã bị tuột. Bill Hawk lấy roi đứng bên dưới quất vô giò. Chúng tôi sợ, phải gồng mình mới lên được. Đài cao, từ trên nhìn dễ chóng mặt. Lên đã khó, xuống cũng không dễ. Chúng tôi nắm dây, bung mình, thả từng chặn. Khi chạm đất, hai bàn tay rát bỏng, tê rần. Chưa leo thành thục, Bill Hawk đã dạy cách đi dây.

Buổi tối, khi về phòng, ai nấy đừ. Mình mẩy tôi rã rời. Không còn sức cãi nhau. Vừa đặt lưng, chúng tôi đã ngủ say như chết.

Chúa nhật nghỉ. Sáng, tôi tốc mền dậy sớm. Phải chạy nhanh ra phòng điện thoại để gọi Judy. Tôi không muốn đang nói chuyện, có người sắp hàng chờ điện thoại. Khi băng ngang đài Chiến Thắng, nhác thấy bóng người. Quái, ai đang tập giờ này? Tôi chạy tới gần, lom lom nhìn. "Hi. Ron". Thằng Lee đứng trên cao vẫy tay chào rối rít. Chưa kịp hỏi, nó đã nói, phải tập nhiều cho quen. Ngưng một ngày, khi trở lại sẽ thấy khó như mới bắt đầu. Nó rủ tôi tập chung. Thấy nó chịu khó, tôi không nỡ bỏ đi. Tập một mình thật dễ chịu. Một lúc sau tôi nhận ra, không ai hối, tôi có thời giờ tìm thế nắm thích hợp, dễ leo.

Trên đường về, tôi rủ nó ôn các tiếng lóng trong quân đội. Nó nói, "Tiếng Anh rắc rối, đọc một đàng hiểu một nẻo. Sau này, cả thế giới sẽ nói tiếng Tàu". Thấy tôi kinh ngạc, Lee giải thích, "Người Tàu ở khắp nơi, sau này con cháu chiếm đa số thì thế giới sẽ nói tiếng Tàu". Tôi dè dặt nói, "Nhưng hiện nay nước nào cũng học Anh ngữ là sinh ngữ phụ". Lee cả quyết, "Đó chỉ là tạm thời, điều tao nói là qua thời gian đó nữa". Tôi chống chỏi, hỏi một câu ngớ ngẩn, "Nhưng, trong lúc cả thế giới nói tiếng Anh thì người Tàu nói tiếng gì?"

Chúng tôi gặp lại Tom Selek trước khi bước qua giai đoạn ba, tập hợp đồng tác chiến. Ông dạy cách truyền tin, đánh mật mã, và nhận diện các đơn vị bạn. Như Thủy Quân Lục Chiến, huy hiệu con ó đậu trên quả địa cầu, đàng sau có chiếc mỏ neo gác tréo; Đội Đặc Nhiệm, mũ xéo xanh, huy hiệu là cây gươm vàng và ba lằn chớp; Người Nhái, có con ó đậu trên mỏ neo,... Ngoài ra, chúng tôi còn học những huy hiệu quân đội nước ngoài. Như Anh, tất cả huy hiệu đều có hình vương miện; Nga, hình búa liềm; Trung Quốc, ngôi sao đỏ, chữ Tàu bạc,...

Chúng tôi xem quá nhiều huy hiệu phát hoa mắt, một hồi không phân biệt nổi. Tom chỉ, điểm khác nhau giữa quân đội của các nước không phải trên huy hiệu mà ở trong nhà tù. Lính tư bản bắt mười tù nhân phát cho mười một điếu thuốc, trong khi phe cộng sản chỉ phát chín. Cùng là cách dùng vật chất mua linh hồn. Chỉ khác nhau, người mua rẻ, kẻ mua mắc, vậy thôi.

Chúng tôi nghĩ, Tom Selek là một người hóm, luôn đặt ra những vấn đề cắc cớ để giải khuây. Còn Bill Hawk như một bóng quạ, lúc nào cũng giơ vuốt giữa bầy gà. Gần cuối khóa, ông càng khắc tợn. Buổi sáng, hai dặm trong mười lăm phút. Ai chạy chậm, phải chạy lại từ đầu. Ông đưa ra tiêu chuẩn, bắt chúng tôi mỗi ngày phải thi thử. Mỗi lần nghe phàn nàn, Bill Hawk mắng, tiền thuế dân đâu dư dả để trả cho mấy người ngồi bẻ lóng tay. Tụi tôi nói, thằng cha này không phải diều mà là cọp.

Cuối cùng, chúng tôi học pháo, cách phối hợp xe tăng, trực thăng, và những đơn vị khác. Khóa học bốn trung đội, chia hai phe. Mục tiêu là cái chòi gác trên đồi cao. Buổi trưa, trên đường tiến lên đồi, tôi gặp lại thằng John cùng lớp đang nấp trong một lùm cây. Mới gặp nó hối hận, chửi thề, vào đây như xuống địa ngục. Tôi lập lại lời nó hồi trước, chịu đựng mười bốn tuần, hết thời tập huấn là khỏe. Sau hai năm cởi áo, làm dân. Nó thở dài, áo này như áo da, mặc vào rồi khó cởi. Nói đến đây, nhác thấy Bill Hawk đang thị sát đàng xa, tôi định chạy. Nó nói, ông Bill hiền, chứ không như thằng cha Tiger bên tao, nó dữ còn hơn cọp.

Ngày mãn khóa, chúng tôi diễn hành quanh khán đài. Ban chỉ huy trường mời các vị sĩ quan cao cấp về dự lễ. Tôi liếc qua hàng ghế dành cho quan khách, Judy và cha mẹ nuôi cũng đang hướng về tôi.

Ban chỉ huy trường tuyên dương và xướng tên tân binh mãn khóa. Chúng tôi được gắn ngạch và cấp bằng. Từ giờ phút này, tôi đã là người lính, quân số 726256-B526 là tên. Tiếp theo, chúng tôi làm lễ tuyên thệ, rồi tung nón bế mạc. Sau ngày tốt nghiệp, tôi được một tuần phép trước khi trở lại nhận lệnh mới.

Tôi về nhà thay thường phục rồi dẫn Judy ra cánh đồng xưa. Chúng tôi kể nhau nghe nhiều chuyện và đuổi bắt như hồi còn thơ. Tới chiều, nắng đổ ngập cánh đồng. Mặt trời gay gắt chói. Judy nép vào sau lưng tôi trốn nắng. Thấy áo đẫm mồ hôi, nó đưa môi ngậm từng giọt như người Hồi nhấm nháp rượu quỳ.

Tuần phép trôi qua nhanh. Trước ngày trở lại trường về đơn vị mới, Judy nói trông tôi thay đổi nhiều. Tôi cười, nhìn vào kính, ừ. Trông tôi ốm, da đen đi, nhưng rắn chắc. Còn Judy, tôi nhìn kỹ, trông hơi khác.

Chín giờ mười, ngày mười một tháng chín, chúng tôi có lệnh tập hợp khẩn. Ban chỉ huy báo cáo tình hình. Một tổ chức khủng bố tấn công hai tòa nhà chọc trời của New York và một góc lầu của Bộ Quốc Phòng. Lệnh báo động toàn quốc. Quân nhân các cấp toàn ngành ở trong tình trạng sẵn sàng. Không phận, hải cảng, đường biên giới đóng cửa. Cả đơn vị chờ đợi nhận lệnh. Không khí đượm mùi chiến tranh.

Buổi chiều, đơn vị tôi được lệnh điều động tới New York. Xưa nay, tôi vốn không ưa thành phố lớn. New York, nơi mệnh danh "A thousand dreams for one parking place". Máy bay quân sự bay một vòng. Khói mù mịt. Bên dưới, một đống gạch đổ cao như một núi hoang tàn. Trái tim tôi như thắt lại từng hồi.

Trung đội tôi chia nhau đóng một ngã phố. Chúng tôi căng dây, giăng chướng ngại vật ngăn từng khu. Những người dân cầm cờ đứng hai bên lề hoan hô người lính. Tôi cảm động, hơi xấu hổ. Chúng tôi là lính mới, chưa làm gì để được hoan hô. Tôi nhìn những đoàn người thiện nguyện, làm việc ngày đêm, nhặt những mảnh thi hài mà cảm phục.

Buổi tối, con phố không ngủ. Nhiều người mang khung ảnh thân nhân, xuôi ngược trên vỉa hè. Gặp ai, họ cũng hỏi. Những câu hỏi vang lên như điệp khúc.

Tôi đứng canh giữ hiện trường. Và tưởng tượng hàng trăm chuyện tình trong tòa nhà đổ nát. Mà chuyện nào kết thúc cũng giả sử nạn nhân là tôi hoặc Judy. Để sáng mai tôi gặp lại những người không may, vừa mừng vừa thương hại. Tôi hạnh phúc vì tôi có tình yêu. Như người đang đứng ngoài ánh sáng, mà Judy chính là người cầm đuốc mang cho.

Đến sáng, thay phiên gác, tôi quyết định gọi về nhà. Mẹ nuôi bốc điện thoại, mừng rỡ, "Con khỏe không? Em nó đi chơi biển với bọn thằng Tim. Chưa nói với con à?" Tôi không tin ở lỗ tai mình. Hôm qua, Judy mới nói đi cắm trại ở trường. Lẽ nào? Tôi đứng lại bên đường. Nắng ban mai đã vàng bên kia phố.

Nguyễn thị Thảo An

Anh phải sống Trên đê Yên Phụ một buổi chiều mùa hạ.

Nước sông Nhị Hà mới bắt đầu lên to, cuồn cuộn chảy, tưởng muốn lôi phăng cái cù lao ở giữa sông đi. Theo dòng nước đỏ lờ đờ, những thân cây, những cành khô từ rừng về nổi lềnh bềnh, như một dãy thuyền nhỏ liên tiếp chạy thật nhanh tới một nơi không bờ không bến. Đứng trên đê, bác phó nề Thức đưa mắt trông theo những khúc gỗ ấy tỏ ý thèm muốn, rồi quay lại, đăm đăm nhìn vợ, hỏi thầm ý kiến. Người vợ, ngắm sông, ngắm trời, lắc đầu thở dài, nói : - Gió to quá, mà đám mây đen kia ở chân trời đùn lên mau lắm. Mưa đến nơi mất, mình ạ! Người chồng cũng thở dài, đi lững thững. Rồi bỗng dừng lại, hỏi vợ : - Mình thổi cơm chưa? Vợ buồn rầu đáp : - Đã. Nhưng chỉ đủ cơm cho hai con ăn bữa chiều hôm nay. Hai vợ chồng lại im lặng nhìn nhau... Rồi hình như cùng bị một vật, một định kiến nó thôi miên, nó kiềm áp, hai người đều quay lại phía sông. Những thân cây vẫn phăng phăng trôi giữa dòng nước đỏ. Chồng mỉm cười, cái cười vơ vẩn, bảo vợ : - Liều! Vợ lắc đầu không nói. Chồng hỏi : - Mình đã đến nhà bà Ký chưa? - Đã. - Thế nào? - Không ăn thua. Bà ấy bảo có đem củi vớt đến, bà ấy mới giao tiền. Bà ấy không cho vay trước. - Thế à? Hai chữ "thế à" rắn rỏi như hai nhát bay cuối cùng gõ xuống viên gạch đặt trên tường đương xây. Thức quả quyết sắp thi hành một việc phi thường, quay lại bảo vợ : - Này! Mình về nhà, trông coi thằng Bò. - Đã có cái Nhớn, cái Bé chơi với nó rồi. - Nhưng mình về thì vẫn hơn, cái Nhớn nó mới lên năm, nó trông nom sao nổi hai em nó. - Vậy thì tôi về... Nhưng mình cũng về chứ đứng đây làm gì? - Được, cứ về trước đi, tôi về sau. Vợ Thức ngoan ngoãn, về làng Yên Phụ.

Tới nhà, gian nhà lụp xụp, ẩm thấp, tối tăm, chị phó Thức đứng ở ngưỡng cửa, ngắm cái cảnh nghèo khó mà đau lòng. Lúc nhúc trên phản gỗ không chiếu, ba đứa con đang cùng khóc lóc gọi bu. Thằng Bò kêu gào đòi bú. Từ trưa đến giờ, nó chưa được tí gì vào bụng. Cái Nhớn vỗ em không nín cũng mếu máo, luôn mồm bảo cái Bé : - Mày đi tìm bu về để cho em nó bú. Nhưng cái Bé không chịu đi, nằm lăn ra phản vừa chửi vừa kêu. Chị phó Thức vội chạy lại ẵm con, nói nựng : - Nao ôi! Tôi đi mãi để con tôi đói, con tôi khóc. Rồi chị ngồi xuống phản cho con bú. Song thằng Bò, ý chừng bú mãi không thấy sữa, nên mồm nó lại nhả vú mẹ nó ra mà gào khóc to hơn trước. Chị Thức thở dài, hai giọt lệ long lanh trong cặp mắt đen quầng. Chị đứng dậy, vừa đi vừa hát ru con. Rồi lại nói nựng : - Nao ôi! Tôi chả có gì ăn, hết cả sữa cho con tôi bú! Một lúc thằng bé vì mệt quá, lặng thiếp đi. Hai đứa chị, người mẹ đã đuổi ra đường chơi để được yên tĩnh cho em chúng nó ngủ. Chị Thức lẳng lặng ngồi ôn lại cuộc đời đã qua. Bộ óc chất phát của chị nhà quê giản dị, không từng biết tưởng tượng, không từng biết xếp đặt trí nhớ cho có thứ tự. Những điều chị nhớ lại chen chúc nhau hỗn độn hiện ra như những hình người vật trên một tấm ảnh chụp. Một điều chắc chắn, chị ta nhớ ra một cách rành mạch, là chưa bao giờ được hưởng chút sung sướng thư nhàn như những người giàu có. Năm mười hai, mười ba, cái đĩ Lạc, tên tục chị phó Thức, xuất thân làm phu hồ. Cái đời chị, nào có chi lạ. Ngày lại ngày, tháng lại tháng, năm lại năm... Năm chị mười bảy, một lần cùng anh phó Thức cùng làm một nơi, chị làm phu hồ, anh phó ngõa. Câu nói đùa đi, câu nói đùa lại, rồi hai người yêu nhau, rồi hai người lấy nhau. Năm năm ròng trong gian nhà lụp sụp ẩm thấp, tối tăm ở chân đê Yên Phụ, không có một sự gì êm đềm đáng ghi chép và hai cái đời trống rỗng của hai con người khốn nạn, càng khốn nạn khi họ đã đẻ luôn ba năm ba đứa con. Lại thêm gặp buổi khó khăn, việc ít, công hạ, khiến hai vợ chồng loay hoay, chật vật suốt ngày này sang ngày khác vẫn không đủ nuôi thân, nuôi con. Bỗng mùa nước mặn năm ngoái, bác phó Thức nghĩ ra được một cách sinh nhai mới. Bác vay tiền mua một chiếc thuyền nan, rồi hai vợ chồng ngày ngày chở ra giữa dòng sông vớt củi. Hai tháng sau, bác trả xong nợ, lại kiếm được tiền ăn tiêu thừa thải. Vì thế năm nay túng đói, vợ chồng bác chỉ mong chóng tới ngày có nước to. Thì hôm qua, cái ăn, trời bắt đầu đưa đến cho gia đình bác. Nghĩ đến đó, Lạc mỉm cười, se sẽ đặt con nằm yên trên cái tã, rồi rón rén bước ra ngoài, lên đê, hình như quả quyết làm một việc gì.

Ra tới đê, Lạc không thấy chồng đâu. Gió vẫn to, vù vù gầm thét dữ dội và nước vẫn mạnh, réo ầm ầm chảy quanh như thác. Lạc ngước mắt nhìn trời; da trời một màu đen sẩm. Chị đứng ngẩm nghĩ, tà áo bay kêu phần phật như tiếng sóng vỗ mạnh vào bờ. Bỗng trong lòng nảy ra một ý tưởng, khiến chị hoảng hốt chạy vụt xuống phía đê bên sông. Tới chỗ buộc thuyền, một chiếc thuyền nan, Lạc thấy chồng đương ra sức níu lại cái gút lạt. Chị yên lặng đăm đăm đứng ngắm đợi khi chồng làm xong công việc, mới bước vào thuyền hỏi : - Mình định đi đâu? Thức trừng mắt nhìn vợ, cất tiếng gắt : - Sao không ở nhà với con? Lạc sợ hãi ấp úng : - Con... nó ngủ. - Nhưng mình ra đây làm gì? - Nhưng mình định đem thuyền đi đâu? - Mình hỏi làm gì? Đi về! Lạc bưng mặt khóc. Thức cảm động : - Sao mình khóc? - Vì anh định đi vớt củi một mình, không cho tôi đi. Thức ngẩm nghĩ, nhìn trời, nhìn nước, rồi bảo vợ : - Mình không đi được... nguy hiểm lắm. Lạc cười : - Nguy hiểm thời nguy hiểm cả... Nhưng không sợ, em biết bơi. - Được! Tiếng "được" lạnh lùng, Lạc nghe rùng mình. Gió thổi vẫn mạnh, nước chảy vẫn dữ, trời mỗi lúc một đen. Thức hỏi : - Mình sợ? - Không. Hai vợ chồng bắt đầu đưa thuyền ra giữa dòng, chồng lái, vợ bơi. Cố chống lại sức nước, chồng cho mũi thuyền quay về phía thượng du, nhưng thuyền vẫn bị trôi phăng xuống phía dưới, khi nhô, khi chìm, khi ẩn, khi hiện trên làn nước phù sa, như chiếc lá tre khô nổi trong vũng máu, như con muỗi mắt chết đuối trong nghiên son. Nhưng nửa giờ sau, thuyền cũng tới được giữa dòng. Chồng giữ ghì lái, vợ vớt củi. Chẳng bao lâu thuyền đã gần đầy, và vợ chồng sắp sửa quay trở vào bờ thì trời đổ mưa... Rồi chớp nhoáng như xé mây đen, rồi sấm sét như trời long đất lở. Chiếc thuyền nan nhỏ, đầy nước, nặng trĩu. Hai người cố bơi nhưng vẫn bị sức nước kéo phăng đi... Bỗng hai tiếng kêu cùng một lúc : - Trời ơi! Thuyền đã chìm. Những khúc củi vớt được đã nhập bọn cũ và lạnh lùng trôi đi, lôi theo cả chiếc thuyền nan lật sấp... Chồng hỏi vợ : - Mình liệu bơi được đến bờ không? Vợ quả quyết : - Được! - Theo dòng nước mà bơi... Gối lên sóng! - Được! Mặc em! Mưa vẫn to, sấp chớp vẫn dữ. Hai người tưởng mình sống trong vực sâu thẳm. Một lúc sau, Thức thấy vợ đã đuối sức, liền bơi lại gần hỏi : - Thế nào? - Được! Mặc em! Vợ vừa nói buông lời thì cái đầu chìm lỉm. Cố hết sức bình sinh, nàng mới ngoi lên được mặt nước. Chồng vội vàng đến cứu. Rồi một tay xốc vợ một tay bơi. Vợ mỉm cười, âu yếm nhìn chồng. Chồng cũng mỉm cười. Một lúc, Thức kêu : - Mỏi lắm rồi, mình vịn vào tôi, để tôi bơi! Tôi không xốc nổi được mình nữa. Mấy phút sau, chồng nghe chừng càng mỏi, hai cánh ta rã rời. Vợ khẽ hỏi : - Có bơi được nữa không? - Không biết. Nhưng một mình thì chắc được. - Em buông ra cho mình vào nhé? Chồng cười : - Không! Cùng chết cả. Một lát - một lát nhưng Lạc coi lâu bằng một ngày - chồng lại hỏi : - Lạc ơi? Liệu có cố bơi được nữa không? - Không?... Sao! - Không. Thôi đành chết cả đôi. Bỗng Lạc rung khẽ nói : - Thằng Bò! Cái Nhớn! Cái Bé!... Không?... Anh phải sống! Thức bỗng nhẹ hẳn đi. Cái vật nặng không thấy bám vào mình nữa. Thì ra Lạc nghĩ đến con đã lẳng lặng buông tay ra để mình xuống đáy sông, cho chồng đủ sức bơi vào bờ.

Đèn điện sáng rực xuống bờ sông. Gió đã im, sóng đã lặng. Một người đàn ông bế một đứa con trai ngồi khóc. Hai đứa con gái nhỏ đứng bên cạnh. Đó là gia đình bác phó Thức ra bờ sông từ biệt lần cuối cùng linh hồn kẻ đã hy sinh vì lòng thương con. Trong cảnh bao la, nước sông vẫn lãnh đạm chảy xuôi dòng.

Khái Hưng

Anh, tôi và máy tính Ngày hẹn gặp nhau, trời không nắng cũng không mưa. Tôi đến sớm nên nhìn thấy anh trước. Tôi nhắm mắt lại rồi mở mắt ra, hy vọng chỉ là ảo giác... Ngày mới quen nhau, tôi đã nửa đùa nửa thật : - Anh giống hệt chiếc máy vi tính. Ðầu là CPU, gương mặt là màn hình, cái miệng là bàn phím, còn trái tim là con chuột. Anh gí ngón tay vào trán tôi, cười to : - Em chỉ khéo tưởng tượng, làm sao giống được, bởi anh biết yêu em. Anh chỉ giống máy vi tính ở chỗ biết xử lý rất nhanh mọi tình huống. Ðến lượt tôi phì cười nhớ lại buổi đầu gặp anh, với một kiểu tỏ tình quái lạ chẳng giống ai.

Hôm ấy, mới nộp đơn xin việc xong, vừa hồi hộp vừa lo, tôi ghé một quán nước gần trường cũ, gọi ly cà phê uống trấn tĩnh. Ðang ngồi thẫn thờ, tôi cảm thấy nong nóng sau gáy, quay lại thì bắt gặp một ánh mắt. Chúng tôi nhìn nhau thật lâu, nửa như muốn thi gan, nửa như trêu đùa. Anh đột ngột đứng phắt dậy, tiến đến bàn tôi rồi nói một mạch : - Anh là Minh, kỹ sư tin học. Anh muốn biết tên và địa chỉ của em! Lúc ấy, như bị thôi miên, tôi ngoan ngoãn xé vội mảnh giấy, ghi tên và số điện thoại rồi đưa cho anh. Tối đó, anh gọi điện đến thật. Nói chuyện với nhau gần hai tiếng đồng hồ, "nấu cháo điện thoại" như tôi hay nói đùa. Ba ngày sau, anh xuất hiện trước cửa nhà tôi, tay ôm một bó hoa hồng... Bạn bè khen: "Chúng mày đẹp đôi!" và trầm trồ về mối tình lãng mạn, tưởng chỉ có trong phim hay tiểu thuyết. Chẳng ai biết rằng, tôi và anh khác nhau như nước với lửa, như mặt trăng với mặt trời. Anh trầm ngâm ít nói, tôi liến thoắng luôn miệng. Anh có thể ngồi suốt ngày bên cạnh chiếc máy vi tính, cũng như tôi ngồi suốt ngày với mấy quyển sách. Có khi, mấy tuần liền, tôi không thấy mặt anh. Những lời thăm hỏi qua điện thoại, lúc đầu làm tôi vui vui, nhưng sau đó làm tôi thấy tủi thân. Sau nữa là buồn, trống vắng và cuối cùng là cảm giác bực bội, chán nản. Có lần, tôi trách anh chỉ biết sống hết mình cho công việc mà không biết hết mình cho tình yêu. Cho là tôi ích kỷ, anh bảo: "Ghen tị với con người chứ ai lại ghen tị với máy vi tính". Gặp nhau, anh tiếp tục say sưa nói toàn chuyện tin học, kể về những người bạn mới quen được trên mạng. Tôi tập thói quen im lặng bên anh, nghĩ ngợi chuyện văn chương. Ðôi khi tôi cũng tự hỏi, phải chăng đó là người mình yêu.

Chúng tôi chia tay nhau, sau một lần tôi ốm nặng. Cô bạn thân đến tìm anh báo tin, anh vẫn dán mắt vào màn hình máy tính. Ðúng ba hôm sau, anh mới đến bệnh viện với nụ cười hối lỗi vụng về. Ngày chia tay nhau trời không nắng, không mưa, chẳng có mây đen mù mịt, mà cũng chẳng có giông tố đầy trời... Tóm lại là không lãng mạn chút nào. Thỉnh thoảng, anh khuấy động tôi bằng những tiếng chuông điện thoại. Lần nào cũng vậy, nhận ra giọng anh, tôi lặng lẽ gác máy. Bạn bè bảo: "Mày bướng bỉnh, cố chấp quá". Tôi lắc đầu, cười mà ứa nước mắt. Tôi cắt tóc ngắn, trở lại thói quen ngồi quán cà phê một mình, dạo phố lang thang một mình, thức khuya hơn, nhưng đọc sách ít hơn và bắt đầu tin là có số phận. Bạn bè giới thiệu liền mấy chàng để tôi làm quen, nhưng không ai... giống anh cả. Nga, cô bạn thân đến kéo tôi ra khỏi trạng thái "trầm uất" bằng cách rủ tôi đi học thêm tin học. Tôi đồng ý vì muốn biết nhiều hơn về thế giới của anh, thế giới đã biến anh trở nên y hệt một chiếc computer lạnh lùng, không hồn.

Ðến lượt tôi suốt ngày ngồi bên máy vi tính. Tôi vào mạng Internet, tìm thêm những thông tin cho nghề nghiệp. Và rồi tôi cũng thấy thinh thích chuyện gẫu với những người bạn không biết mặt. Ðang lúc tôi bắt đầu tin trong ký ức con người có phím delete như máy vi tính, thì một người khác xuất hiện. Chúng tôi quen nhau qua mạng Internet. Lúc đầu, tôi bị ấn tượng bởi cái tên rất lạ: Downcome, thế là tán gẫu thử. Trò chuyện mấy lần mới biết anh chàng cũng là một kỹ sư tin học. - Downcome nghĩa là thất bại, sao anh lại chọn tên ấy? - Bởi vì tôi thích và vì tôi cũng đã từng thất bại. Còn em sao lại chọn tên Soundless. - Vì hồi trước nói nhiều quá, nên bây giờ muốn im lặng - Chúng ta có thể là bạn được không? Tôi thở hắt ra, cảm thấy thời gian dường như trôi ngược lại, bất chấp các định luật vật lý. Tôi trả lời : - Yes, sir.

Hầu như ngày nào chúng tôi cũng vào mạng trò chuyện với nhau. Lũ bạn ngạc nhiên : - Mày điên rồi, tìm quên hả? - Ừ thì điên, mà có lẽ cũng sắp quên được rồi. Tôi mạnh miệng, nhưng lại giật mình tự hỏi, quên một con người nhanh chóng không biết là điều tốt hay điều xấu.

Downcome bảo : - Nói chuyện với Soundless thật vui. Soundless làm tôi vừa nhớ lại vừa quên một người. - Tôi cũng có cảm giác giống y như vậy. - Nếu ngày xưa tôi được gặp Soundless thì có lẽ tôi không thành Downcome. Vì không gặp Downcome nên tôi mới thành Soundless. - Vậy thì cho xin địa chỉ nhà nhé! Tôi chợt rùng mình : - Không, không, chuyện gẫu là đủ, biết nhiều không khéo lại khổ nhiều. - Sao bi quan thế! - Ðó mới là lạc quan. Ðừng bắt chước Hămlet suy tư gặp gỡ hay không gặp gỡ, mà phải bắt chước Juliet hỏi Romeo ai đưa lối cho chàng đến đây.

Tôi tập làm Hămlet, suy tư mất mấy ngày liền. Chuông điện thoại lại reo, lần này tôi ngồi im, đếm được mười ba tiếng thì nó im bặt, bỗng thấy nhẹ lòng. Mấy ngày sau, Downcome lại rủ gặp nhau. Tôi vẫn phân vân : - Gặp nhau biết đâu thêm buồn. - Thì hai người buồn cùng đi tìm một niềm vui. - Triết lý hơi bị xoàng. - Nghề nghiệp có dính đến văn chương phải không? Tôi chợt run : - Sao anh biết - Ðã từng có một người bạn gái có lẽ cũng giống như Soundless. - Không giữ được à? - Tuột khỏi tay mất rồi. - Cảm giác thế nào? - Tiếc và buồn. Nhưng đừng nói nữa, để gặp nhau nói nhiều hơn. Tôi tò mò : - Ừ thì gặp. Cà phê Văn khoa nhé! - Có cần ám hiệu gì không? Tôi mặc quần xanh, áo đỏ, đội nón trắng, xách cặp đen... Tôi cười phá lên trước máy vi tính : - Nên mặc đồ đen như Hămlet. - Nói chuyện nghiêm chỉnh đi, làm sao để nhận ra Soundless? - Tóc ngắn, mắt to, miệng rộng, mũi hếch, quần jean, áo xanh. - Còn tôi cũng tóc ngắn, mắt vừa vừa, miệng rộng, mũi không hếch, quần Jeans, áo sọc xanh. À này, tôi nói một điều rất quan trọng, rất thật lòng: Tôi yêu em. Tôi mở to mắt nhìn dòng chữ trên màn hình, thấy nhói tim. Sao trên đời này có những người giống nhau đến thế.

Ngày hẹn gặp nhau trời lại không nắng cũng không mưa. Tôi đến sớm nên nhìn thấy anh trước. Tôi nhắm mắt lại rồi mở mắt ra, hy vọng chỉ là ảo giác, rằng Downcome và anh Minh ngày xưa của tôi không thể cùng là một người. Anh tháo kính, đưa tay dụi mắt, rồi đeo kính vào và quả quyết tiến đến bàn tôi ngồi. Chúng tôi im lặng, nhìn nhau rất lâu rồi cùng cười phá lên. Bây giờ tôi và anh nói chuyện với nhau bằng điện thoại, bằng mạng máy tính và cả những lần gặp gỡ. Tôi thấy anh bớt giống chiếc máy vi tính. Bạn bè bảo: "Một kết cục có hậu. Hóa ra thời hiện đại vẫn có những chuyện cổ tích dành cho người lớn". Khi tôi thì thầm : - Cám ơn trời cho em gặp lại anh Anh vội ngắt lời : - Em đừng cám ơn trời, em phải cảm ơn máy vi tính. Chúng tôi lại cười và âu yếm nhìn... chiếc máy vi tính.

Hà Vân

Bà lão lòa 76 tuổi đầu, mỗi bữa thất thểu ăn một lưng cơm, bà lão lòa ở nhờ một đứa cháu họ, thật đã lắm phen cực nhục. Cháu bà, một bác đánh giậm, với vợ, một chị mò cua bắt ốc, khốn thay, dưới nách hai đứa con mọn, cũng đã lắm phen nhăn nhó vì chẳng đủ ăn.

Hai mươi năm về trước, bà lão lòa này còn là người có của trong làng. Con trai bà nó chơi, nó phá, nó bán ruộng, cầm nhà rồi nó bỏ bà nó đi, chẳng biết đi đâu, lòng mẹ đối với con tuy có giận mà vẫn có thương, bà khóc lóc một mình đến nỗi lòa cả mắt. Trong thời bà còn giàu có, ngoài những việc cúng tiền tô tượng đúc chuông, bà còn năng giúp đỡ kẻ nghèo khó; trong họ ngoài làng, nhiều người đã được nhờ bà mà đến khi gặp bà bước khốn cùng thì chẳng ai thương cả. Cũng vì xưa kia đã nhiều phen ngửa tay nhận lấy đồng tiền cứu giúp của bà, bác đánh giậm đành cắn răng, vuốt bụng, nhắm mắt nuôi cô trong lúc hoạn nạn.

Nhưng vốn bị ma nghèo ám ảnh, mới nuôi cô được độ ba năm, bác đánh giậm đã thấy nản lòng. Cái cảnh túng bấn nó thường đẩy người ta vào chốn bùn nhơ, nó thường buộc người vào vòng tội lỗi, đối với bác đánh giậm, ác hơn, nó làm bác quên bỏ cả lương tâm. Quên hẳn cái ơn ngày trước, bác ta chỉ còn biết xót ruột khi bà lão lòa lò rò ngồi vào mâm, cướp cơm của vợ, của con nhà bác.

Buổi chiều hôm ấy...

Trước túp lều tranh xiêu vẹo như chỉ còn chờ một trận gió to là đổ ụp xuống, cái sân đầy những bã mía, lá khô, một mâm cơm bát đàn đũa mộc trong để đĩa cá rô kho chuối với đĩa cá đen sịt đen sì, cầm trên tay mấy bát cơm ngô vàng ói, bà lão lòa, bác gái và hai đứa bé chỉ còn chờ bác trai rửa mặt rửa chân tay, ngồi vào là cùng cầm đũa. Đàn ruồi vù vù bay lung tung như đánh trận, hết bâu đầy vào mấy nốt mụn chốc trên đầu thằng cu con lại bay xuống đặt mình vào đĩa cá.

Bác trai, người mảnh khảnh, đen như củ súng, trán răn, má hóp, mắt kèm nhèm, mặc cái áo vải vá đã đến năm mười miếng mụn, đóng khố, vừa ngồi xổm xuống đất cầm lấy bát cơm, vợ đã vội hỏi : - Bố nó hôm nay kiếm được bao nhiêu tất cả...? Ấy tôi chỉ được có bốn sóc cua hai xu với một mẹt tôm riu năm xu là bảy đấy thôi. Gạo ăn bữa mai hết rồi... - Hôm nay được thêm mẻ lươn thì, ác quá, gặp đứa nào cũng trả rẻ, lang thang khắp chỗ, mãi đến chiều chẳng thấy ma nào hỏi lại phải bán tống bán tháo đi... cả ếch cả cá cũng chỉ được ngót hai hào. Vợ nhìn chồng thở dài rồi lại nhìn đến niêu cơm. Thằng cu lớn xới một bát nhường cho em, còn mình thì cầm cái đũa cả, gắp những hột còn dính lại. Bà lão lòa, ăn hết một lưng, tay lẩy bẩy chìa bát ra toan xin ít nữa, chưa kịp nói, bác gái đã quát : - Hết rồi...! Còn đâu nữa mà chìa mãi bát ra... Đến tôi đây quần quật suốt ngày, đã ốm cả xác mà cũng chỉ được có ba lưng thôi đấy... Bà không phải làm gì, ngồi nhà ăn ít cũng được. Bà lão giật mình, đớ người ra một lúc rồi đứng lên đi vào trong nhà, ngồi xuống bậu cửa, lấy cái tăm gài trên mái tóc xuống xỉa răng.

Mặt trời sắp lặn, còn xiên qua lũy tre xanh, tầu lá chuối mà rọi ánh sáng đỏ đó vào gian nhà. Dưới những đám mây thiên hình vạn trạng mầu cá vàng chăng dọc chăng ngang phủ kín một bầu trời, một đàn sếu xếp hàng chữ nhân bay từ Bắc về Nam, vươn cổ kêu oang oác. Trên mấy ngọn tre gió thổi ngả nghiêng, dăm ba con chèo bẻo tung tăng chuyền cành này sang càng khác, còn đua nhau hót như muốn cất giọng chào mặt trời truớc khi vào tổ.

Bà lão lòa ngồi trầm ngâm chống tay lên trán, nhân hôm ấy chiều trời êm ả, gió thổi hây hây, chim kêu xào xạc mà một mảnh đời dĩ vãng như một luồng chớp nhoáng, trong trí bà lại thấy hiện ra :

Ngoài cổng, một ông lão ăn mày lụ khụ đến ăn xin. Con vện con vàng đang nằm trong sân bỗng nhảy xổ ra cắn xa xả. Tiếng một bà ngồi trên sập gụ bên trong quát thằng nhỏ ra mắng chó, giắt ông lão ăn mày vào thết một lưng cơm.

Bác nhiêu B, vừa bị nạn hỏa, rủi đâu, vợ lại hậu sản mà chết. Trong gian nhà lụp xụp, thằng cu lớn, cái đĩ con ngồi mã la mã lệnh với thằng cu mới đẻ, cuộn tròn trong cái tã nâu, nằm ngay cùng giường cái xác mẹ nó. Tiếng ba đứa trẻ khóc như ri. Cả đêm hôm trước, bố chúng nó ôm đầu mà khóc, sáng hôm sau mới bảnh mắt đã thấy đội nón ra đi, mặt trời lên đến đỉnh đầu rồi mà chưa thấy về, bụng chúng nó đói cào như muối xát. Bỗng thấy ai nói văng vẳng như tiếng bác nhiêu. Thằng cu lớn quệt nước mắt, lủi thủi bước ra... Quái thay! Một bà khách lạ nào miệng bỏm bẻm nhai trầu, váy sồi, áo lụa, xệ nệ trên đôi dép da cong, bước vào nhà ôm lấy thằng cu con mà kêu: tội nghiệp! Rồi thấy bà khách cởi hầu bao, lấy ra một cuộn giấy bạc, bác nhiêu đưa hai tay nhận lấy, dòng dòng nước mắt tạ ân.

Giữa chợ gần chỗ hàng gà, hàng cá, mùi hôi tanh xông lên nhức đầu, một đám đông xúm quanh một người đàn bà ăn mặc rách rưới, tay ôm đứa bé chừng bốn năm tháng. - Thưa bà, cháu chỉ lấy có năm đồng thôi đấy ạ. - Thôi, chả của đâu mà trả đến năm đồng. Trông gầy thế kia, biết rồi có sống được không? Ba đồng đấy, bằng lòng đi!... Người nọ xô người kia, chen nhau len vào. Có người đứng ngoài, không hiểu chuyện, tưởng họ mặc cả gà, khi kiểng chân, nghển cổ nhìn vào mới rõ. Giọng nói phều phào một bà cụ già lụ khụ : - Rõ tội nghiệp chưa! Tôi mà có năm đồng thì tôi trả ngay...! Bỗng có một bà ăn mặc lụa là, người trông phúc hậu, len lỏi vào cất tiếng dõng dạc hỏi : - Này nhà bác kia! Làm gì mà đến nỗi phải bán con đi thế? - Thưa bà, nhà con phải bệnh, liệt giường liệt chiếu đã hơn nửa tháng nay, không có tiền thuốc thang gì thì chết mất. Con phải bán cháu đi để cứu lấy nhà con, mất đứa này còn mong đẻ đứa khác chứ để chồng chết thì rồi tất chết cả mạ con cháu. Nước mắt chảy xuống dòng dòng, nỗi thương đưa lên nghẹn cổ, người đàn bà không nói được nữa, gục đầu xuống mặt con mà khóc nức nở. - Này...! Cứ ẵm cháu về, đừng có bán nó đi mà phải tội đấy! Năm đồng đây tôi xin giúp. Hãy cầm về mà liệu thuốc men cho bác trai. Người kia ngạc nhiên ngơ ngác nhìn lên, mãi chưa dám tin là thật, bàng hoàng như đang lúc chiêm bao, giơ tay ra nhận tiền, rồi không biết nói thế nào với vị ân nhân của mình, phục ngay xuống đất mà rưng rức khóc. Đám người tản mát, có kẻ thì thào: "Người đâu mà phúc đức tệ!"

Ấy đó, đổi lại bao nhiêu điều thiện xưa kia ông trời cay nghiệt nay đều trả bà bằng hai con mắt lòa với một cảnh ăn gửi nằm nhờ cực kỳ khổ sở. Cho rằng kiếp xưa tiền oan nghiệp chướng chi đây, nghĩ thương mình, thương đứa con bất hiếu, thương vợ chồng con cái bác đánh giậm, bà lão lòa thổn thức, trên hai gò má răn reo lại thấy mấy giọt nước mắt chảy ròng ròng. Bà lão gục đầu xuống gối tỉ tê khóc không ra tiếng, chỉ thấy sụt sùi hậm hực, khiến thằng cu con lò rò bò đến với bà, không hiểu ra sao bỗng cũng khóc thét lên. Bác gái chạy vào bực mình xỉa xói : - Này bà! Bà đừng làm sốt ruột...! Bà ăn xong bà đã chẳng làm được việc gì thì cứ ngồi yên một chỗ hay ẵm cháu giúp tôi, bà đừng có sụt sùi khóc lóc, đây không ai chết mà bà phải khóc... Giọng nói day dứt mà lanh lảnh như từng nhát búa bổ vào thành sắt vang động bên tai, bà lão hoảng hốt trong hai con mắt lòa trợn trạo cầm nước mắt cho khỏi chảy ra, trông rõ đôi tròng trắng đảo đi đảo lại... - Trời làm đói kém thế này, vợ chồng chúng tôi không thể nuôi bà được nữa đâu, bà phải liệu mà giúp đỡ chúng tôi mới được. Rồi từ mai trở đi, để thằng cháu nó giắt bà ra đầu đê, bà ngả nón dưới bóng cây gạo mà ngồi, thấy tiếng người chợ búa qua lại thì bà chìa rá ra xin, nếu có được mỗi ngày một vài xu cũng là đỡ được cái mồm bà rồi đấy...

Đã được nửa tháng nay, sáng nào cũng thấy thằng cu lớn dắt bà ra ngồi đầu đê rồi chiều đến lại dắt về. Trong bọn những người chợ búa qua lại con đường cái quan, tạt vào đường đê, thấy một bà lão lụ khụ, hổn hển thở, ngẩng đầu chìa nón kêu van, cũng đôi khi có người vứt cho một vài đồng kẽm. Chẳng may, nếu hôm nào về tay không thì vợ bác đánh giậm - cháu bà - lại nghiến răng xỉa xói thậm tệ : - Hôm nay chẳng ai thí cho bà đồng nào...! Bà có biết thế là bà lại ăn phần cơm của thằng cu lớn đấy không? Từ mai, bà liệu mà kêu to lên mới được... Hay tại bà ngồi dưới bóng cây mát mà ngủ thiếp đi...? Bà liệu đấy..! Bát cơm ngô điểm quả cà thiu, bà lão lòa trước khi và vào mồm đã chan đầy như canh bằng nước mắt.

Một ngày kia, trời tháng ba nắng gay gắt, bà lão lòa dưới gốc cây gạo, ngồi từ sáng đến quá trưa, bụng đã đói mềm mà chẳng thấy nguời khách đi đường nào vứt cho lấy một đồng trinh. Trên cành cây, thỉnh thoảng lộp độp rơi xuống đường đê một vài bông hoa gạo, mỗi khi quạ cái tha mồi về tổ cho con lại đập cánh sập sè vươn cổ kêu: quà! quà...! như gợi một mối thương cho người ngồi dưới gốc.

Xa xa, trong cánh đồng bát ngát một màu xanh, mấy người làm ruộng nh­ nhại mồ hôi, chẳng ai buồn nói chuyện với ai. Một đàn chim vành khuyên trong bụi rậm kia đang chuyền cành này sang cành khác cũng không con nào kêu hót, kiếm ăn một cách rất lặng lẽ. Phong cảnh dường như mệt mỏi. Những tiếng vang động đều bị sức nóng mặt trời át mất hẳn đi. Trên con đường cái quan, thỉnh thoảng thấy tiếng một cái xe hơi như một mũi tên bay, vo vo chạy qua rồi biến mất vào trong đám bụi mù xa tít,... bốn bề im lặng như tờ. Hai cánh tay khẳng khiu ôm lấy bụng mà nhăn nhó, cố quật lại với cái đói nó cào xé ruột gan, bà lão lòa thở hổn ha hổn hển.

Chợt có tiếng người dẫm lạo xạo trên đống lá khô, đi về phía mình bà lão vội chìa ngay nón : - Lạy ông đi qua, lạy bà đi lại...! Cứu cho thân tôi lấy một miếng cơm... - Tôi đây...! Phải ai đâu mà lạy với lục...? Bà được đồng nào chưa thì đưa đây cho tôi... - Đã được đồng nào đâu...? Chẳng thấy ai đi qua đây cả... Mẹ nó có dắt tôi về thì dắt, tôi đói lắm rồi...! - Bà đói à? Bà đói thì dễ tôi no à? Bà hãy ngồi đấy xem sao, buổi chợ chiều nay, rồi họ về qua đây nhiều... chốc nữa, tôi sẽ bảo thằng cu nó ra nó dắt..!

Rồi bác ta thoăn thoắt bước đi, cái váy cũn cỡn để lộ hai ống chân trùng trục, đen thui, giỏ cua đeo sau lưng cũng theo nhịp từng bước mà lắc đi lắc lại... Về đến nhà, sung sướng thay đã thấy bác trai ngồi phì phèo thổi lửa làm cơm dưới bếp. Nghĩ thầm hẳn bố nó hôm nay được mẻ phát tài, bác ta rửa chân tay xong, vào hú hí ngay với con.

Bỗng trên trời mây kéo đen nghịt tối sầm hẳn lại, rồi nổi một cơn giông. Bác đánh giậm chạy vội ra sân vơ quần áo đem vào nhà, giục thằng cu lớn mau mau chạy ra để dắt bà về kẻo mưa to gió lớn. Nghe câu ấy, bác gái ngồi ôm con một góc giường cau mày ngẫm nghĩ: thật vậy! Ba bốn năm nay, bác ta đã nhịn như nhịn cơm sống ấy rồi, quá lắm thì không chịu được. Mặc kệ bà ấy! để bà ấy chết quách đi cho rảnh mắt...!

Rồi hiện ra lần lượt trong trí bác những ngày trở trời trái gió, những ngày lửa hạ chang chang, ruộng khô đồng nứt, kiếm chẳng ra tiền, hai đứa bé bò nheo bò nhóc, một niêu cơm ngô chia khắp cả nhà, bụng mẹ đã chẳng được no, còn lấy đâu ra sữa nuôi con... Mà bà lão lòa kia thì, ngày kiếm được một vài xu cũng như ngày không kiếm được đồng nào, chẳng nhịn được bao giờ, cứ đến bữa là ngồi vào mâm, chìa bát ra cho thằng cu sới. Không, không! Không thể thế được...! Bà lão ấy chỉ là một bà cô... mà lại là cô họ một người chồng, có lẽ nào báo hại mãi nhau...? - Kìa! Thằng cu! Tao bảo thế nào...? Không bỏ bếp đấy mà ra dắt bà về à? Ông lại đét cho bây giờ. Bỗng bác gái đặt phịch con xuống giường, quặn mình nhăn nhó : - Ối trời dất ôi...! Ối trời dất ôi...! - Chết chửa... làm sao thế? Sao thế hở mẹ nó? - Sao mà bụng tôi cứ thấy đau xoắn lại thế này! Ối trời dất ôi, đau thế này thì đến chết mất thôi... - Chết chửa! Kìa thằng cu... ẵm em dỗ đi... dỗ đi cho nó nín đi rồi dậy đấm cho u mày một chốc... để tao đi nướng hòn gạch mà chườm bụng vậy... Rõ khổ chửa? Bên ngoài mấy hạt mưa bắt đầu ném vào mái tranh lộp độp rồi trời đổ cơn xuống rào rào. Dần dần mưa càng to, gió càng mạnh, mỗi lần một luồng gió thổi trên không nghe ào ào là một lần nước đổ như trút xuống sân. Trời tối mịt. Thấy mẹ đã ngủ được yên, thằng cu bước xuống đất, phong phanh trong tấm áo vải, ra tựa cửu đứng nhìn.

Tiếng sấm động ù ù, mỗi khi chớp nhoáng chớp nhoàng nó lại nom rõ thấy giữa những vũng bong bóng phập phồng, những dây nước ròng ròng từ mái tranh rỏ xuống. Rồi thỉnh thoảng lại đánh "đoành" một cái, những tiếng sét vang trời đánh nhịp, hòa theo với tiếng mưa rả rích, tiếng sấm hục hặc, nổi sôi...

Chợt nghĩ đến bà nó ở ngoài đầu đê không biết ra sao, quay lại nhìn thì bố nó vẫn lúi húi dọn cơm, nét mặt thản nhiên như không, thằng cu phụng phịu nét mặt, hỏi gắt : - Kìa thầy! Thế bà ở ngoài đầu đê? Nó chưa nói hết câu, bố nó đã như bị một luồng điện giật, nẩy người ra, mắt tròn xoe, mãi mới nói được. - Chết chửa! Biết làm thế nào bây giờ? U mày đau bụng, kêu rối rít lên, làm tao cũng quên bẵng đi mất... - Thế thì chắc bà chết rét mất rồi... Còn gì nữa... Nghĩ đến cái chết của bà lão lòa ở ngoài đầu đê - tình cháu đối với cô - bác đánh giậm rùng mình, rợn tóc gáy. Nhưng bác tự dối lương tâm, bác đáp lại con : - Ôi già... chả việc gì phải sợ... dễ bà lại không biết lần mò đến một cái quán nào đấy mà ẩn hay sao...?

Rồi bác gọi vợ con dậy ăn cơm. Bữa ấy bác gái tuy kêu đau bụng mà cũng cố ăn được đến bốn năm lưng, mặc dầu hai đứa bé không thấy bà nó đâu, thường nhắc đi nhắc lại.

Trời vẫn mưa, lúc to lúc nhỏ, rả rích suốt đêm.

Sáng hôm sau, ánh sáng mặt trời xé những đám mây bay tan tác, chiếu xuống, trông lại càng tươi càng đẹp. Trên mặt đường đê, nước đóng từng vũng, những người đàn bà gồng gánh ra chợ phải xắn váy vén quần, lội bì bõm, hễ ai hơi trượt chân muốn ngã là cả bọn lại khúc khích cười. Những đám cỏ bấy lâu phơi nắng xám cả màu, sau một trận mưa rào đã trông thấy ngay cái vẻ tươi tốt. Trên mấy cây bàng, một đàn chim sâu, con ngửa cổ uống nước, con đập cánh rũ lông, kêu hót vang tai. Vệ đường loáng thoáng thấy cành cây rơi rải rác...

Phong cảnh trông có vẻ khoan khoái. Cái khoan khoái của phong cảnh sau trận mưa rào cũng như cái khoan khoái của người sau khi tắm gội.

Bác đánh giậm hôm ấy dậy rất sớm, đóng khố, cài rổ, vác vợt ra đi... Mon men ở dưới chân đê, lội lõm bõm qua mấy vũng bùn lầy xa xa, phía dưới cây gạo - chỗ bà lão lòa vẫn ngồi, bác thấy giữa ruộng, trong một đám mạ xanh tươi tốt, một đàn quạ, con bay con liệng, kêu sào sạc rồi đậu xúm xít vào một chỗ. Bụng tưởng hẳn là một tổ rắn chi đây, bác ta vác ngay một vợt tre lên mặt rồi phăm phăm chạy lại. Đàn quạ vùng bay lên rồi tản mác đi... Chao ôi! Bước vừa đến nơi thì bỗng bác ta rú lên một tiếng, trợn mắt rít răng mà ngã phục xuống cạnh một cái xác, cái xác một người đã bị quạ mổ nát nhừ, xác bà lão lòa bị gió thổi xuống ruộng đêm hôm trước.

Vũ Trọng Phụng

Bài học tuổi thơ Thằng con tôi 11 tuổi, học lớp sáu. Qua mùa thi chuyển cấp, nhân một buổi chiều cho con đi chơi mát, nó kể... Đang hỏi nó về chuyện thi cử, nó chợt hỏi lại tôi : - Ba! Có bao giờ ba thấy có một bài luận văn nào không điểm không ba? Con số không cô cho bự bằng quả trứng gà. Không phải cho bên lề, mà một vòng tròn giữa trang giấy. Thiệt đó ba. Chuyện ngay trong lớp của con, chứ không phải con nghe kể đâu. Tôi chưa kịp hỏi, nó tiếp : - Còn thua ba nữa đó, ba. Ít nhứt ba cũng được nửa điểm. Còn thằng bạn con, con số không bự như quả trứng. Thằng con tôi ngửa mặt cười, có lẽ nó thấy thú vị vì thời học trò của ba nó ít nhứt cũng hơn được một đứa. Số là cách đây vài năm, có một nhà xuất bản gởi đến các nhà văn nhà thơ quen biết trong cả nước một câu hỏi, tôi còn nhớ đại ý, nhà văn nhà thơ thời thơ ấu học văn như thế nào, nhà xuất bản in thành sách "Nhà văn học văn". Đọc qua, nghe các nhà văn nhà thơ kể, tất nhiên là mỗi người có mỗi cuộc đời, mỗi người mỗi giọng văn, nhìn chung thì người nào, lúc còn đi học, cũng có khiếu văn, giỏi văn. Nếu không thì lấy gì làm cơ sở để sau này trở thành nhà văn? Rất lô-gích và rất tự nhiên. Duy chỉ có bài của tôi là hơi khác, có gì như ngược lại. Tôi kể, hồi tôi học ở trường Trung học Nguyễn Văn Tố (1948 - 1950) tôi là một học sinh trung bình, về môn văn không đến nỗi liệt vào loại kém, nhưng không có gì tỏ ra là người có khiếu văn chương. Và có một lần, bài luận văn của tôi chỉ được có một điểm trên hai mươi (1/20). Đó là kỷ niệm không quên trong đời học sinh của tôi, môn văn. Khi con tôi đọc bài văn đó, con tôi hỏi : - Sao bây giờ ba là nhà văn? Và bạn bè tôi cũng hỏi như vậy. Tôi cũng đã tự lý giải về mình, và lời giải cũng đã in vào sách rồi, xin không nhắc lại. Tôi hỏi con tôi : - Luận văn cô cho khó lắm hay sao mà bạn con bị không điểm. - Luận văn cô cho "Trò hãy tả buổi làm việc ban đêm của bố". - Con được mấy điểm? - Con được sáu điểm. - Con tả ba như thế nào? - Thì ba làm việc làm sao thì con tả vậy. - Mấy đứa khác, bạn của con? Thằng con tôi như chợt nhớ, nó liến thoắng : - A! Có một thằng ba nó không hề làm việc ban đêm mà nó cũng được sáu điểm đó ba. - Đêm ba nó làm gì? Nó tả ba nó đi nhậu à? - Dạ không phải. Ba nó làm việc ban ngày nhưng khi nó tả thì nó tả ba nó làm việc ban đêm, ba hiểu chưa? - Còn thằng bạn bị không điểm, nó tả như thế nào? - Nó không tả gì hết, nó nộp giấy trắng cho cô. - Sao vậy? - Hôm trả bài lại cho lớp, cô gọi nó lên, cô giận lắm, ba. Cô hét: "Sao trò không làm bài". Nó cúi đầu làm thinh. Tụi con ngồi dưới, đứa nào cũng run cho nó. - Nó là học trò loại "cá biệt" à? - Không phải đâu ba, học trò tiên tiến đó ba. - Sao nữa? Nó trả lời cô giáo như thế nào? - Nó cứ làm thinh. Tức quá, cô mới quất cây thước xuống bàn cái chát: "Sao trò không làm bài?" Tới lúc đó nó mới nói: "Thưa cô, con không có ba". Nghe nó nói, hai con mắt của cô con mở tròn như hai cái tô. Cô đứng sững như trời trồng vậy ba! Tôi bỗng nhập vai cô giáo. Tôi thấy mình ngã qụy xuống trước đứa học trò không có ba. Sau đó cô và cả lớp mới biết được, em mồ côi cha vừa lọt lòng mẹ. Ba em hy sinh trên chiến trường biên giới. Từ ấy, má em ở vậy, tần tảo nuôi con... Có người hỏi em: "Sao mày không tả ba của đứa khác". Em không đáp, cúi đầu, hai giọt nước mắt chảy dài xuống đôi má. Chuyện của đứa học trò bị bài văn không điểm đã để lại trong tôi một nỗi đau. Em bị không điểm, nhưng với tôi, người viết văn là một bài học, bài học trung thực. Sáng tạo không đồng nghĩa với bịa đặt. Giữa những dòng chữ bịa đặt và trang giấy trắng, tôi xin để trang giấy trắng trung thực trên bài viết.

Nguyễn Quang Sáng

Bay qua thời gian "Xin trả về cho nhau những dấu yêu cuối cùng. Vì thời gian trôi mau không giữ được tình ta. Dù lòng còn yêu nhau đã nói yêu mãi hoài..."

Buổi chiều xuống rất nhanh. Chúng được báo hiệu bằng vạt mây đỏ sẫm cuối trời. Chen chúc xung quanh là những tảng mây lớn nặng nề màu hạt dẻ, trên đó bám theo những vẩy mây trắng như những cụm lông cừu nhỏ. Không nghe được tiếng chim kêu. Chỉ nhìn thấy những cái bóng bé nhỏ của đàn chim chậm rãi bay về phương Nam. Bây giờ rõ hơn một chút, phía dưới kia những ngọn cây nhọn hoắt bắt đầu ngả sang nâu đen, những con sông sáng ánh thiếc, những tòa nhà cao tầng như những bệt màu trắng sổ mạnh trên cái nền lờ nhờ xám của bóng tối đang dần phủ xuống thành phố.

Máy bay sắp hạ cánh. Tiếng máy bay ầm ì nhọc mệt đè nặng lên trái tim tôi một cảm giác bất an và lo lắng. Tôi tưởng tượng ra một sân bay mênh mông đông nghẹt người. Những người to cao, tóc vàng mắt xanh. Những người không nói cùng ngôn ngữ. Những người xa lạ. Chắc chắn họ sẽ không để ý đến tôi. (Thật khủng khiếp là họ sẽ không để ý đến tôi). Điều đó càng mang lại cảm giác cô độc ghê gớm giữa thế giới to rộng này.Rồi người ra đón tôi và tôi sẽ lạc vào trong đó mà không tìm được ra nhau. Tôi sẽ làm gì nếu chúng tôi không gặp nhau.

Ở cuối chân cầu thang máy bay, cô gái trẻ có mái tóc hung đỏ đi cùng chuyến với tôi đã gặp được người yêu- một anh chàng nhỏ nhắn đeo khuyên ở mũi và tóc nhuộm một chút đỏ ở mái như một cái mào Vẹt. Họ ôm nhau, hôn nhau say đắm. Tôi đi ngang qua, len lén nhìn họ. Vô tình lúc ấy tôi trông thấy cô khóc. Nước mắt không chảy thành dòng mà viên lại thành từng giọt to, đục. Những giọt nước mắt của cô, mùi hương lài có lẽ tỏa ra từ những nếp váy nhàu nhò của cô làm tôi cảm động. Tôi liền vẽ ra trong đầu mình một câu chuyện tình lâm li bi đát. Tất nhiên không phải cứ gặp nhau, ôm nhau, hôn nhau và khóc là những tình tiết của một câu chuyện buồn. Nhưng rõ ràng bất cứ giọt nước mắt nào trong hoàn cảnh này cũng dễ dàng gợi lên sự thương cảm và sầu nhớ. Trong tình trạng hiện thời của tôi, không gì hay hơn là tưởng tượng ra một câu chuyện như thế. Bởi ngay lúc đó tôi thật sự muốn mình được khóc.

Phòng nhận hành lý, trần thấp lè tè và tăm tối. Những chiếc bánh xe lăn kêu kót két. Hành lý đổ xuống băng chuyền ồn ĩ. Bỗng nhiên ánh sáng từ trên cao, qua những lỗ hổng trên tường, đồng loạt ào xuống. Trong ánh sáng xanh nhợt nhạt đó, tôi nhìn thấy một người đàn ông to lớn, tóc bạc, mặc áo sơ mi trắng, đeo một chiếc xà cột bằng da nâu cứng. Trên tay ông cầm một tờ giấy ghi nguệch ngoạc hai chữ "Miss Giang" và trên ngực áo đeo một tấm bảng nhỏ đề tên của ông "Robert Palmer- người dẫn đường". Chúng tôi bắt tay nhau. Bàn tay ông mập mạp và ấm áp. Đôi mắt ông ánh lên những tia lửa nhỏ màu vàng. Từ chiếc áo khoác cũ kĩ dài chấm đầu gối của ông phả ra mùi bánh mì ủ lâu ngày lên men và mùi rượu hoa quả.

Ông đến từ New York, một thành phố ồn ào, náo nhiệt và hiện đại nhất của nước Mỹ rộng lớn. Nhưng ông hoàn toàn không cho ta cái vẻ gì là một người đã từng sinh ra, lớn lên và trải qua mấy mươi năm cuộc đời ở nơi đo,ù ngoại trừ sự nhanh nhẹn và năng động ít khi thấy có ở một ông già. Ông chỉ đi duy nhất một đôi giày to bằng da đen sờn vàmặc chiếc áo choàng cũ ngả vàng mỗi khi trời trở rét. Mỗi khi áp mặt vào tấm áo choàng, như lần đầu gặp ông ở sân bay, thoảng nghe mùi hương bánh mì và rượu quả lên chua từ chiếc áo, thậm chí từ đôi bàn tay khô nhám của ông, tôi lại tự hỏi sao mà nó quen thuộc và ấm áp. Có lẽ vì nó luôn thường xuyên gợi lại trong trí tôi những hình ảnh thân thương của ông tôi và ba tôi, trong những căn phòng tối thơm mùi mì nấu cải xanh.

Tôi thường nghĩ về nước Mỹ qua ông. Trong cái cách đi bộ hối hả, sải chân bước dài đến cả mét, đầu chúi về trước, tay giữ chặt chiếc xà cột để nó không đập bồm bộp vào đùi. Trong cách ông luôn chọn những quán hàng ăn rẻ tiền nhất và sục sạo vào những cửa hiệu bán các đồ lặt vặt tuồng như đã tồn tại cả hàng trăm năm. Trong cách ông cười tươi tỉnh với tôi vào buổi sớm mai và dáng ngồi cô độc của ông trên ghế đá ngoài bờ sông Iowa.

Bằng cách đó tôi đã hiểu rằng nước Mỹ không phải là thiên đường. Đằng sau bộ mặt xinh đẹp đến mê đắm của nước Mỹ còn có những cuộc đời cô đơn và buồn thảm. Sự đào thải khắc nghiệt trong công việc làm ăn, sống và tồn tại luôn làm con người căng thẳng. Họ sống lạnh lùng với nhau một phần cũng là vì đã quá mệt mỏi.

Chúng tôi rời sân bay, bắt đầu cho chuyến viễn du dài một nghìn bảy trăm năm mươi hai giờ. Bắt đầu cho một giấc mơ có thực trong cuộc đời. Chiều vẫn còn phảng phất hơi nóng của một ngày mùa hè tràn ngập ánh mặt trời. Nhưng lúc này phía ngoài bờ sông Potomac đã thổi vào những làn gió mỏng và mát, đủ làm lay động những tàn cây xanh biếc và thổi dạt những đám mây mỡ gà trên trời xa.

Chúng tôi ở trong một khách sạn nhỏ nhưng rất xinh đẹp số 2000 trên đường N. Nó giống như một ngôi nhà cổ nằm trầm mặc giữa vườn cây xanh với những chiếc lá con li ti ánh bạc, với những chú sóc nâu đuôi dài chỉ tìm cách leo lên cửa sổ, giương đôi mắt tròn đen nhánh tò mò nhìn vào trong phòng một cách không giấu giếm. Thỉnh thoảng chúng để lại trên bệ cửa những vỏ hạt dẻ bị cắn nham nhở hay những bông hoa lạ màu trắng xanh, bé như những cái khuy. Máy lạnh chạy rầm rĩ suốt đêm. Chẳng mấy chốc nó đã làm căn phòng có những tấm rèm hoa sặc sỡ lạnh ngắt như trong tủ lạnh.

Trong cầu thang máy của khách sạn, tôi thường hay gặp một anh chàng người Mexico phục vụ ở phòng ăn. Nhưng đáng lẽ đứng thường trực ở phòng ăn thì anh ta luôn tìm cách chạy lăng xăng đâu đó, lên lầu xuống lầu, trong tay lúc nào cũng cầm một chiếc khay bằng bạc và một bộ nĩa cũng bằng bạc lấp lóa. Đó là một anh chàng lực lưỡng, điển trai với nước da vàng, mái tóc đen chải keo bóng nhẫy và có một bộ ria mép của Ret Butler. Mỗi lần gặp tôi anh chàng lại cười một nụ cười đẹp mê hồn và hỏi, cô thấy thoải mái chứ. Tôi thường không hy vọng gì ở trí nhớ của những người phục vụ hoặc bán hàng. Không phải vì tính đãng trí hay vô tâm mà vì những cuộc gặp gỡ trong cuộc đời họ nhiều đến độ, nó giống như một hộp thư điện tử quá tải, phải delete bớt trước khi nhận thêm thư vào hộp. Nên khi anh chàng bảo sẽ nhớ tôi lắm thì tôi bật cười thành tiếng. Điều đó làm phật lòng anh. Mặt anh ta đỏ lên và anh ta đưa ngón tay cái lên miệng tỉ mẩn gặm nó.

Nhưng quả thật anh chàng đã không quên tôi. Sau một tháng rưỡi rong ruổi khắp mọi nơi, tôi quay trở về khách sạn. Tôi gặp lại anh ở trong cầu thang máy, tay vẫn cầm chiếc khay và bộ nĩa bạc, bàn chân nhịp nhịp như luôn muốn nhảy theo một điệu vũ nhạc nào đó trong đầu. Trông thấy tôi, miệng anh ta vo tròn lại và kêu lên bối rối, cô về hồi nào vậy. Cô trông chẳng khác chút nào cả.

Vậy là buổi sáng đó, trong vườn hoa cúc kim nở rộ, tôi được ăn một bữa sáng khá thịnh soạn với sự phục vụ tận tình của anh ta, mặc dầu cả hai chúng tôi đều biết rằng điều đó vi phạm vào luật của khách sạn. Nhưng dù sao, đây cũng là bữa ăn sáng cuối cùng của tôi trong khách sạn Cánh đồng mùa hè số 2000 đường N.

Anh ta luôn luôn hỏi, vậy là cô sẽ ra đi thật sao. Tôi nhìn ra ngoài hồ bơi. Có hai đứa trẻ đang nghịch trên bờ. Trời lạnh, chúng khoác những chiếc áo ấm dày và đầu đội mũ len. Một đứa mặc áo len đỏ. Một đứa khoác áo da xanh nhạt. Chúng nói gì đó và cười, và đuổi bắt nhau vui vẻ. Tôi biết chắc tôi sẽ không khóc. Nhưng vì cảm động mà tôi phải quay mặt đi hoặc chúi đầu vào dĩa thức ăn. Khi bên tôi, anh bạn vẫn lặp lại những câu hỏi buồn rầu bằng một giọng tịt mũi, cô sẽ đi thật sao. Chúng ta sẽ không còn gặp lại nhau nữa phải không? Có ai đó yêu cầu sự giúp đỡ của anh ta. Anh miễn cưỡng ra đi, sau khi để lại một nụ cười mê hồn của Alaine Delon làm tim tôi thổn thức. Từ giây phút đó trở đi, chúng tôi không còn cơ hội gặp lại nhau nữa.

Những giờ rảnh rỗi, trong khi đợi bạn từ Virginia lên đón đi chơi, tôi thích ra ngồi ngoài ban công của khách sạn. Không khí thơm ngây ngất mùi hoa cỏ dại. Những đám mây chạy đuổi bắt nhau tung những cuộn mây nhỏ trắng xóa như những bọt sóng. Khu vườn bé có những bộ bàn ghế bằng sắt xinh xắn sơn trắng kê dọc lối đi rải sỏi, trên những bờ cỏ xanh ngắt, yên tĩnh và vắng người. Phía sau hàng rào sắt bao quanh khu vườn là con đường rậm rạp bóng cây, những chiếc xe hơi đậu một hàng dài vô tận. Phía sau đó nữa, có thể lắm chứ, là một cái hồ xanh trong như con mắt biếc hoặc chính là dòng Potomac lững lờ trôi như một chiếc băng đô bằng lụa xám cột ngang mái tóc xanh của thành phố.

Tôi ngồi đó cho đến khi chuông trong phòng kêu lên những tiếng rụt rè. Lần này là những người đến mua tranh. Chúng tôi ngồi xệp xuống sàn trải thảm, bày tranh trên chiếc bàn gỗ nhỏ. Anh chị Trịnh Thục có vẻ xúc động. Họ mỉm cười bối rối. Và ngượng nghịu đi lại, từ phòng khách vào đến căn bếp nhỏ (trong khách sạn này, mọi phòng đều được bố trí như một căn hộ nhỏ) và từ đó lộn trở lại phòng khách. Sự xúc động của họ đến từ nỗi nhớ Việt nam da diết. Mặc dầu mới gặp tôi cách đó vài tháng ở Sài Gòn vào những ngày nhiều mưa nhiều nắng, nhưng họ vẫn háo hức nghe những tin tức về Việt nam, tựa như họ đã không được nhìn thấy quê hương hàng chục năm trời và nghẹn ngào kêu lên, trời ơi, những bức tranh này làm tôi nhớ Việt nam ghê gớm.

Buổi chiều, tôi đến thăm nhà anh chị ở khu Fair Fax. Trong những căn phòng ấm áp thơm mùi hoa cỏ dại và nến, những bức tranh lồng khung mạ vàng được treo trang trọng trên tường. Những bức tranh này một thời gian dài cũng đã được treo trang trọng trên tường nhà tôi. Tôi thuộc lòng từng ngày tháng, hoàn cảnh và nơi chốn ra đời của mỗi bức tranh. Chúng lưu giữ trong hồn giấy và sắc màu lung linh ấy những kỷ niệm vô cùng tươi đẹp đã đi qua cuộc đời tôi.

Tôi đứng lặng trước chúng, lòng xao xuyến. Niềm vui sướng kỳ diệu vì không ngờ lại được gặp mặt lại những đứa con tinh thần của mình, ở một nơi cách xa nửa vòng trái đất và sự đau đớn sâu sắc vì biết chắc rằng tôi đã vĩnh viễn mất chúng làm ngực tôi nghẹn lại. Nhưng cùng lúc đó, tôi hiểu rằng mình đang được hạnh phúc. Vài chục năm nữa, vật đổi sao dời, xa cách không một lần gặp mặt tưởng có thể quên hết đi chuyện ngày qua, nhưng khi nhìn những bức tranh, họ sẽ thấy rằng Việt nam luôn bên cạnh họ và thấp thoáng sẽ có hình bóng tôi ở một nơi sâu thẳm nào đó trong nỗi nhớ da diết của họ.

Vì lẽ đó, sự vô giá của bức tranh, ngoài giá trị nghệ thuật, còn nằm ở tính vĩnh cửu của thời gian. Trước khi vẽ một bức tranh tôi chỉ mơ hồ cảm giác được điều đó. Nhưng khi đứng giữa những căn phòng rộng lớn có mái vòm lấp lánh những chùm đèn pha lê và lộng lẫy những khung tranh phết vàng đồ sộ của các viện Bảo tàng, tôi hiểu nó rõ ràng hơn.

Hơi thở của không khí và thời gian thổi tràn ngập trong phòng. Tôi nghe thấy tiếng kẹt cửa khe khẽ và Van Gogh lách mình bước ra ngoài phố, đầu đội một chiếc mũ dạ màu xanh dương có viền lông đen trước trán nhàu nhò và cũ bẩn. Một giờ sau ông quay trở về căn phòng nghèo nàn của mình, trên tay ôm một bó lèo tèo vài bông hướng dương sắp héo rũ. Ông cắm hoa vào lọ, ngồi vào chiếc ghế gỗ cũ kĩ đến độ nó chỉ muốn sụp xuống vào bất kì lúc nào, vừa vẽ vừa chống lại cái đói, cái rét. Sự u ám của đời sống làm sáng rực lên những mảng màu trên tranh. Sự yếu đuối và bất định trong tâm hồn làm những nét bút thêm đầy đặn và mạnh mẽ. Đó dường như là cách để chống lại nỗi đau đớn và cô đơn của tâm hồn và thể xác. Đó dường như cũng là lúc, tận cùng của nỗi thống khổ hoạ sỹ lại tìm gặp được một niềm hạnh phúc vô biên không thể nói thành lời. Nó như một tia chớp sáng rạch ngang bầu trời đêm. Và chỉ có hội hoạ mới đủ sức để nuôi dưỡng nó.

Nếu chỉ có tài năng mà không có lòng yêu mãnh liệt đối với cuộc sống, con người và thiên nhiên, hẳn niềm hạnh phúc ấy không thể nào đến để tạo ra những tuyệt tác và đám hậu sinh chúng ta có được sự xúc động chân thành đến như vậy khi đứng trước chúng.

Kì lạ thay là tình yêu vĩ đại ấy. Nó biến sự chết lặng của những miếng màu bẹp dí trên vải thành sự xao động của hoa lá trong vườn đêm, thành tiếng sột soạt của tơ lụa óng mịn, thành mùi hương mê đắm của biển và ánh mặt trời rực rỡ...

Những bức tranh diễu hành qua mặt tôi. Trái tim nức nở và mắt nhòa lệ. Ngay lập tức tôi thấy mình đang đi giữa ánh sáng mờ ảo của những phòng tiệc lớn vào cái thời cách đây vài trăm năm với những chiếc lông chim và tà áo lụa dài chạm vào da mát rượi, với những bờ vai nõn nà và những lọn tóc giả bằng tơ óng, thậm chí đôi khi còn như rơi vào giữa một cuộc chiến đẫm máu với giáo mác gươm đao sáng lòe. Hoặc tự nhiên thấy mình đang lạc bước trên những đường phố tuyệt đẹp của Paris hay nằm dài trên những đụn rơm thơm nồng nàn của xứ Provence ngắm mây trời bay...

Ai là người có thể cùng một lúc đưa lại cho ta những cảm giác tuyệt vời như thế ngoài Hội họa?

Ở những bảo tàng Mỹ thuật hiện đại như Moma ở San Francisco hay New York, tôi đã đến mà không phải để tìm thấy những cảm xúc êm ái và ngọt ngào như vậy. Thường ở những nơi này, họ trưng bày những bức tranh trừu tượng hoặc nghệ thuật xếp đặt và Video. Chỗ dòng đề chất liệu, luôn là từ "mixed" (trộn lẫn). Kết quả của mỗi một tác phẩm là sự trộn lẫn giữa âm thanh, ánh sáng, mùi vị, đồ vật, kĩ thuật, cảm xúc... Nó bề bộn như cuộc sống hiện đại với đủ thứ lo âu và khao khát. Nó thảy chúng ta vào một cái túi tối đen rồi đột ngột lôi chúng ta ra ngoài ánh sáng chói chang. Nó dồi chúng ta trên những ngọn sóng dữ tợn nhất của bão tố, quất vào mặt ta những ngọn gió buốt nhất của giá rét, gõ vào tai ta những tiếng động ầm ĩ nhất... cho đến khi tim ta rướm máu, tay chân ta mỏi nhừ và đầu óc ta căng ra như một quả bóng thì nó tống ta ra cửa. Ấy vậy mà bỗng nhiên, như một phép màu xảy ra, khi hít thở khí trời và đối mặt với cuộc đời thực, ta bỗng thấy cuộc sống tươi đẹp lên bội phần. Đáng để cho ta yêu và sống thực đàng hoàng với những năm tháng sẽ đến. Và chúng ta ra về. Lòng tràn ngập niềm biết ơn vô hạn.

Một lần, tôi và Vinh ghé thăm Bảo tàng Mỹ thuật ở San Francisco. Vinh là bạn cũ của tôi từ năm lớp Tám. Đến khi lên cấp Ba mỗi đứa mỗi nơi. Trong trí tôi Vinh vẫn chỉ là một cậu bé con nhỏ người, ngồi bàn cuối cùng trong một lớp học tăm tối, ẩm thấp, thỉnh thoảng bay lên mùi phân mèo và mùi mưa ướt át. Nhưng Vinh bây giờ đã khác. Cậu to cao, đẹp trai hơn với mái tóc đinh chải keo bóng loáng, với áo sơ mi trắng và áo khoác ngoài bằng da nâu thoang thoảng mùi nước hoa (trong đêm lạnh và sương mù của San Francisco, nó trở nên vô cùng quyến rũ). Nhưng quan trọng là trông cậu tự tin hơn. Sự tự tin đó tỏa ra từ ánh mắt sáng và tiếng cười giòn giã.

Cậu nhìn đời bằng đôi mắt háo hức của kẻ muốn chinh phục và chiến thắng. Điều đó có thể lý giải được vì có thể gọi cậu là một trong những người Việt Nam trẻ tuổi có những bước đầu thành công trên một đất nước xa lạ không phải là quê hương của mình khi được nhận bằng kỹ sư vi tính và có chân trong hãng Microsoft. Để xua tan cơn buồn ngủ, trên đường xuống Los Angeles, trong khi tôi bắt đầu gà gật, cố gắng dấu đi những tiếng thở dài cứ chực bật ra thì cậu có thể nói không biết mệt mỏi về cái mớ bòng bong giữa triết học và chính trị. Tham vọng làm chính trị của cậu không bị che giấu nên cứ sáng rực lên trong mắt, dù cậu hiểu rằng, cơ hội cho cậu ở đất Mỹ là hoàn toàn không thể.

Giờ đây chúng tôi thay đổi vị trí cho nhau. Tôi say sưa với những tượng và tranh bao nhiêu cậu trông lại càng thảm hại bấy nhiêu. Cậu ngồi trên một ghế băng dài, mặt thẫn ra và luôn tay đưa lên che miệng ngáp, nước mắt chảy dàn dụa trên mặt. Rồi cậu thốt lên yếu ớt "Trời ơi mình đói quá. Đói đến run cả tay chân" như một lời bào chữa cho sự uể oải của mình.

Ngoài sân, một cái sân rộng lót gạch xám dựng đứng những cây cột bằng thạch cao trắng cao vút, một đám cưới đang diễn ra dưới chân tượng "Suy tư" của Rodin. Những cô nàng phù dâu mặc những chiếc áo dài lụa xám như sương khói. Nắng tỏa một lớp bụi vàng óng ánh lên người các cô, biến các cô thành tiên nữ và khung cảnh đẹp như thần tiên. Vang trong gió những tiếng cười hồn nhiên và những chiếc chuông bạc đính trên thắt lưng của họ rung lên những tiếng trong trẻo, chúc phúc cho đôi vợ chồng son.

Tôi ngồi xuống bậc tam cấp đá mát lạnh. Trong không khí bay lên những bọt tròn nhỏ đầy màu sắc. Chúng đột ngột vỡ ra làm bóng tối màu nâu đất phủ quanh bức tượng người đàn ông đang ngồi trầm tư chuyển sang xanh non và lấp lánh những tia lửa nhỏ. Tôi cảm giác người đàn ông sắp cử động. Chàng sẽ hạ bàn tay chống cằm xuống, đầu chàng sẽ ngẩng cao và từ khóe mắt sẽ rỉ ra hai dòng nước.

Chàng đang nghĩ gì? Ngồi giữa trời đất bao la, trầm mình qua mưa gió, chàng nghĩ về một tình yêu bất tử hay một hạnh phúc dài lâu của đời người? Chàng nghĩ về sự bất hạnh hay nỗi đau khổ đời đời của nhân loại?

Hay chàng đang nghĩ thời khắc thật ngắn ngủi và ngày trôi qua như gió như mây, mọi thứ danh lợi đều là phù du. Sao người với người không biết thương yêu mà cứ mãi dằn vặt nhau cho đau khổ?

Chúng ta đứng dưới chân chàng, nghĩ về những điều chàng đang nghĩ. Bỗng nhiên từ một nơi xa xăm nào vọng lên một tiếng thở dài buồn bã. Chúng rền rĩ chạy trên đầu tôi như ngọn gió ướt đẫm sương mù từ ngoài cầu tàu Người Đánh Cá thổi lại. Thứ gió này tôi thường cảm thấy mỗi khi đi dạo ngang qua Đài tưởng niệm chiến tranh Việt Nam, nằm trong công viên Washington DC mặc dù ở đây không có biển, không có cầu cảng, không có sương mù. Chỉ có dòng Potomac trong xanh và những hàng cây xinh đẹp tỏa vào không gian hương thơm mát. Những đám đông thường đến đây đi dạo trên những đường lát ximăng xám rậm rạp cỏ hoặc đến ngồi trên những ghế đá trong ánh nắng của ban mai hay chiều tà đột ngột chuyển sang màu xanh nước biển.

Buổi sáng đầu tiên ở nước Mỹ, Mary dẫn chúng tôi tới đây. Mary vâm váp, tóc vàng óng. Chiếc váy đen hai dây dài ngang đầu gối lộ ra đôi vai to khỏe và nước da nâu óng lốm đốm tàn nhang. Mary làm hướng dẫn viên du lịch, cô nói nhiều, nói nhanh, hàm răng sáng lên lấp lánh. Các từ cứ ríu ríu vào nhau, lại được thể hiện bằng một giọng hơi thé, cuối câu không hạ xuống thấp mà cứ mải bay lên cao nên rất khó nghe. Mỗi lần ngừng lại, cô lại thở dốc, uống một ngụm nước to và đưa khăn lên thấm mồ hôi rịn đầy trên trán. Khi biết tôi đến từ Việt Nam, cô có vẻ hào hứng, cô thường dành cho tôi những nụ cười âu yếm và những cái xiết tay mạnh mẽ trong suốt chuyến đi. Cô chỉ bức tường đá khắc tên những người lính Mỹ đã nằm xuống trong cuộc chiến tranh Việt Nam, hỏi tôi nghĩ gì?

Tôi đã đứng nhìn những bức tường ấy rất lâu. Mặc dầu nắng lên lấp lóa trên mấy tàn cây, rọi xuống những đốm hoa nắng vàng óng như những đóa cúc nhỏ nhưng màu đen của đá lạnh vẫn mang lại cho tôi một cảm giác nặng nề. Giữa khung cảnh thanh bình, trời rất xanh, gió lại dịu dàng và không khí trong trẻo, bức tường dựng lên đột ngột như một cái gai khổng lồ, luôn sẵn sàng làm tứa máu ký ức.

Hơn hai mươi bốn năm đã trôi qua, nhưng không phải tất cả mọi điều đều đã trôi qua. Chắc chắn rằng những vết thương trong lòng những cựu binh Mỹ và Việt Nam không bao giờ còn lành lại được nữa. Ngày hoặc đêm, nó đều đã trở thành nỗi ám ảnh. Bên những bức tường như thế này, tất cả đều là những người bại trận. Bại trận trong quá khứ và đời sống bất an của mình.

Giờ đây, những bé em đang chạy đuổi theo quả banh trên luống cỏ, những cặp tình nhân khoác vai nhau thả bộ trên đường và ngay cả tôi cũng đứng ngoài nó, không thuộc về những mất mát và đau khổ đã khắc sâu trên bức tường đồ sộ của nước Mỹ, trên những bức tường mà nếu dựng lên ở Việt Nam, sẽ cao bao nhiêu, dài bao nhiêu và rộng lớn biết bao nhiêu.

Trong đám đông người dự buổi tham quan ngày hôm đó, không hiểu sao tôi thấy rất quí mến cô Plack vợ của David Plack, nhân viên chương trình Viết văn quốc tế dù tôi và cô không nói chuyện với nhau nhiều, thậm chí cả tên của cô tôi cũng không kịp hỏi. Cuộc sống của tôi, tôi vẫn thường ngẫm ngợi, thấy thật lạ kỳ. Có một vài việc chỉ thoảng qua mà không cách nào quên được. Chúng day dứt và trở thành sự ám ảnh trong trí.

Cô Plack không đẹp, giọng nói nhỏ và hơi thé, không chuẩn âm vì cô người Tây Ban Nha. Mái tóc hạt dẻ cắt ngắn, lộ khuôn mặt xương với đôi mắt to màu thép xanh có những ánh nhỏ đen thẫm nở xòe như một đóa pháo bông tí hon và hàng lông mi rậm rạp tựa bóng một hàng cây phủ xuống mặt hồ phẳng lặng. Trong chiếc váy vải hoa xanh nhạt cũ mỏng, tưởng chỉ cần vò mạnh tay chúng cũng bở vụn ra như cám, cô mảnh mai dịu dàng như những cây liễu mùa thu mọc quanh hồ công viên quốc gia Iowa. Mỗi một nụ cười của cô, mỗi một cử chỉ của cô đều rụt rè bối rối, e thẹn như một cô gái nhỏ chưa chồng.

Mỗi lần quay lại nhìn cô, bắt gặp ánh mắt trìu mến của cô nhìn chồng, lòng tôi thấy nhẹ bỗng. Tôi hay mơ hồ về một thứ tình yêu vượt biên giới. Nó có vẻ chắp nối và không thật, ít nhất là trong sự khác biệt về ngôn ngữ và sâu xa hơn là sự khác biệt về cội nguồn dân tộc. Có thể bởi vì chúng ta là người Châu Á, chúng ta vốn thấy những điều đó là lạ lẫm. Nhưng nhiều khi chúng ta quên mất rằng tình yêu có tiếng nói bí ẩn và ma lực của nó thì vô cùng. Chúng ta là những linh hồn nhỏ lang thang cô độc trong thế giới mênh mông này. Duyên cơ may gặp nhau thật vô cùng quí hiếm. Lại cứ như gió như mây thản nhiên bay đi mất. Trong đêm khuya, cuối một ngày của sự gặp gỡ và chia ly, tôi vẫn thường một mình nhẩm đọc bốn câu thơ của Bùi Minh Quốc "Có khi nào trên đường đời tấp nập. Ta vô tình đã đi lướt qua nhau. Bước lơ đãng chẳng ngờ đang để mất. Một tâm hồn ta đợi đã từ lâu...". Khi tôi chợt nghĩ rằng đi bên cạnh David bây giờ không phải là cô ấy, mà là một người con gái Mỹ, cũng nhỏ nhắn đáng yêu, không phải như đám liễu thu bên hồ thì cũng như đám xa trục thảo trên cánh đồng và David vẫn thấy hạnh phúc thì trong sâu thẳm của tôi có một cây kim nhỏ nhô lên và cọ quạy. Tự nhiên mà thấy tình yêu có vẻ giản đơn, lớp vỏ bọc lấp lánh muôn sắc màu quanh nó giảm đi mười phần đẹp đẽ.

Thật chẳng hay ho gì khi đứng ngắm họ mê mải để nghĩ ngợi những điều mà mọi người cho là vô lý. Nhưng tôi vẫn một mực nhất quyết rằng, trong đời có thể yêu nhiều lần nhưng trong những lần yêu đó vẫn chỉ có duy nhất một tình yêu có thể vượt lên trên hết mọi sự tầm thường của sự sống và cái chết khi gặp được đúng một nửa còn lại của mình.

Ôi lại là cái câu "một nửa còn lại của mình", xem có vẻ sách vở và buồn cười. Nhưng chẳng phải có người suốt một đời chỉ sống trong cô đơn mặc dù đã qua nhiều lần yêu và cưới, lại có người mãi mãi hạnh phúc bền lâu với chỉ một người?

Chúng ta xem như những nửa bóng xanh đỏ tím vàng... bay trong không trung. May mắn thì nửa vàng gặp được nửa vàng hòa hợp. Kém may mắn hơn thì nửa vàng ghép với nửa đỏ, nửa xanh ghép với nửa tím, cũng thành bóng tròn nhưng sắc màu đối chọi. Vô duyên thì nhìn thấy nhau đấy mà lại bay trượt qua nhau, hoặc suốt đời chẳng bao giờ gặp mặt nhau.

Với những điều này, đôi khi thời gian lại chiếm một vị trí quan trọng. Trong những ngày ở Virginia, tôi được xem bộ phim Video "Cánh cửa trượt" với cô đào Gwyneth Paltrow xinh đẹp thủ vai chính - Helen, một cô gái bị mất việc làm và bạn trai ngoại tình. Nhưng số phận của Helen lại được quyết định bởi những cánh cửa trượt của chiếc tàu điện ngầm ở Luân Đôn. Từ sở làm về, nếu như lên được tàu trở về nhà, cô sẽ phát hiện người yêu đang ngủ với người con gái khác, cuộc sống của cô sẽ rẽ sang một con đường mới. Còn nếu như bị trễ tàu, tương lai của cô sẽ hoàn toàn khác hẳn. Sẽ lại sống trong sự dối trá và chán chường. Hai câu chuyện song song với nhau trong phim mô tả hai cuộc sống của Helen theo hai hướng khác nhau: nếu trễ tàu và nếu không trễ tàu...Chỉ cần một giây đồng hồ cũng có thể thay đổi cuộc đời chúng ta. Cũng có thể biến chuyện không thành có, biến sự va chạm bất hạnh này thành niềm hạnh phúc mới mẻ, tinh khôi.

Tôi nằm vục đầu trong chiếc chăn bông thơm mùi hồ dán, nghĩ mãi về hai từ "khoảnh khắc" mà không sao ngủ được. Ngoài cửa sổ bình minh lên loang lổ sau những rặng cây màu tím nhạt. Con chim bé xíu có chiếc mỏ đỏ hung hăng gõ tóc tóc vào mặt kính cửa sổ đẫm nước, tóc tai dứng đứng cả lên. Trời mưa nhẹ, phủ một lớp bột xám lên những đám lá phong đang nhuộm vàng. Một sớm thu thường bắt đầu trong trẻo và ướt át như thế.

Vào những ngày tháng này đêm rất đẹp. Trờiø đôi khi xanh màu lá vì ánh vàng lấp lánh từ những rừng thu hắt lên. Đêm xanh xao thơm mùi lá và đất ẩm ướt. Gió thổi rầu rĩ qua những vòm cây. Sương bay chập chờn trong không khí thành những đám khói xám trắng, ánh lên một chút phấn hồng nhờ ánh đèn xe. Tôi thích ngồi trên xe, xuyên qua đêm, xuyên qua những con đường mòn đến tận ba bốn giờ sáng mới quay về nhà. Qua ánh đèn xe mù mịt tôi nhìn thấy những vụng nước nhỏ đọng đầy ánh trăng nằm lặng lẽ dưới những thân cây tím sẫm, sáng lên trong bóng tối như những miếng gương vỡ tráng bạc. Thấy vài chiếc lá phong màu huyết dụ hoặc vàng chanh đâm xuyên qua đám khói như một cánh bướm nhỏ rồi dịu dàng chạm đất. Thấy cả nỗi buồn mơ hồ và sự cô độc của đêm tràn ngập trong lòng.

Trong những chuyến đi này thường có Ma (Minh Anh) đi cùng tôi. Đó là một cậu bé già dặn trước tuổi, gầy và cao với những nét đẹp hơi lạnh và đôi mắt dài đa cảm. Sau khi tốt nghiệp phổ thông trung học, cậu sang đây theo chương trình du học tự túc. Vậy mà sống giữa một đất nước của quần Jean áo thun, cậu chỉ mặc quần Tây, áo sơ mi dài tay. Mùa hè xắn lên trên khuỷu tay, mùa đông cài măng séc. Tất cả mọi người ở nơi đó và chính cậu cũng tự nhận mình là người lập dị.

Ma để tóc dài ngang vai, những sợi tóc mềm dính bết vào nhau được cột túm một chùm sau ót bằng dây thun (nhưng nói cách nào đi nữa, nó vẫn làm cậu trông đáng yêu và lãng mạn hơn). Cô nàng da đen to béo ở Costco của Tuấn và Phú rất yêu mái tóc của cậu. Cô ấy đứng gác ở cửa ra vào, đắm đuối nhìn theo mái tóc của Ma mỗi khi cậu đi ngang qua và bối rối mỉm cười. Giây phút đầu tiên nhìn thấy cậu, mái tóc đã như là khởi đầu của một chuỗi hồi ức tươi đẹp về sau này của tôi khi nhớ đến cậu.

Nhớ một cậu bé hè cũng như đông, chỉ đi lẹt quẹt một đôi dép lê, hở những ngón chân có lớp da hồng nhăn nheo vì lạnh và gót chân bám đầy đất. Nhớ một cậu bé thông minh nhưng lười biếng, có thể bỏ hàng chục giờ đồng hồ để chơi game nhưng chỉ cần nửa giờ đọc sách. Nhớ một cậu bé đãng trí đến độ suốt một học kì đến lớp, thi đạt điểm giỏi mà không biết mình học nhầm lớp trên. Nhớ một cậu bé với năm trăm lẻ bốn giờ của yêu thương dịu dàng êm ái. Tình cảm cậu dành cho một người con gái từ xa đến có gì thật cảm động và khác người. Và đẹp vì cậu hồn nhiên dám phơi bày nó trước mắt mọi người tình cảm của mình, mặc cho những lời chọc ghẹo và mặc cho nó đầy tuyệt vọng. Cậu chải tóc gọn gàng, chân rửa sạch sẽ, đi giày bata cột dây lịch sự, nhịn tiền tiêu vặt để mua một chiếc vé xem hát giá bốn mươi lăm đô, nấu những món ăn người con gái đó yêu thích, đứng hơn hai giờ bên một cây phong lá đỏ để chọn hái những chiếc lá đẹp nhất, rực rỡ nhất tặng cô và gần ba giờ sáng vẫn còn ngồi bên đàn dạo khúc nhạc tình của Bethoven, để đầu dây bên kia, ở một tiểu bang cách Virginia hai giờ đồng hồ, cô gái nằm ôm điện thoại ngủ ngon lành.

Cái tình của cậu mới thật lạ lùng. Nó đắm say nhưng tỉnh táo. Nó mơ hồ như buổi chiều đầy mây mù nhưng lại rõ ràng như buổi sáng mùa hè đầy nắng. Trong cùng lúc, nó được sống rạch ròi khi như tình chị em khi như tình trai gái. Nó làm cậu đau khổ nhưng nhẹ nhõm. Nó làm người con gái cảm thấy lúng túng nhưng thật sự hạnh phúc.

Hạnh phúc ấy đến từ sự biết ơn nên trong trẻo và dịu dàng. Mỗi khi nghĩ về nó tự thấy lòng thật ấm áp. Như là những lúc ngắm nhìn lại những chiếc lá phong ép khô còn giữ được sắc đỏ tươi, để hiểu rằng người đã xa nhưng tấm chân tình ấy vẫn còn nguyên vẹn.

Có thể bây giờ là mãi mãi, không còn ai nhặt lá thu phong, chơi đàn giữa đêm khuya vắng. Không còn ai giận hờn, an ủi. Tóc cũng không còn dài đến ngang vai. Trên cây tình yêu hoa lại một lần nữa nở rộ. Những kỉ niệm sẽ vì thế phai nhạt dần đi. Nhưng trong trí tôi thỉnh thoảng lại vang lên hai câu thơ của cậu "Minh nguyệt mỏi mắt tìm ngọc cũ. Anh hùng khổ dạ nhớ sông xưa". Đôi mắt của cậu, người em, người bạn của tôi đêm cuối cùng mới thật to và xanh trong.

Tôi nhớ cậu, là nhớ lại tất cả những kỷ niệm đã có với Tuấn, Phú, Nhơn, Tèo, Sơn trong một căn hộ cho thuê trên tầng một của tòa nhà số 7 300 khu Monticello. Chỉ có Phú và Tuấn là theo cha mẹ sang đây định cư. Những người còn lại, cũng như Ma, du học tự túc tại trường Nova (riêng Sơn học ở trường Mason).

Một phần ba thời gian của chuyến viễn du tôi trú chân tại đây. Căn phòng có hai phòng ngủ, một phòng khách, một bếp, một công trình phụ giá chín trăm đô một tháng và có khung cửa kính lớn trông xuống bãi để xe. Đứng ngoài ban công sẽ nhìn thấy được những cây cành đang trút lá và một bầu trời đêm đen thẫm lấp lánh trăng sao trong khi gió thổi như giông bão. Chỉ có một điều phiền toái là đêm khuya, việc đóng mở cánh cửa gặp khó khăn. Chúng cứ kêu lên ken két và lập tức sáng hôm sau, một cái đầu bù xù ngái ngủ sẽ thò vào cửa càu nhàu vì đêm qua bị quấy rối.

Chỉ vào buổi tối chúng tôi mới gặp mặt nhau đầy đủ, ăn những bữa ăn nấu vội nhưng thật sự là những bữa ăn vui vẻ, ấm cúng. Thời gian đó tôi ngốn một số lượng phim khổng lồ và chỉ chịu đi ngủ khi đồng hồ chỉ ba, bốn giờ sáng. Những phim này, có cuốn tôi đã xem ở nhà, nhưng giờ coi lại, với những người bạn của tôi, bỗng nhiên tươi mới và sâu sắc hơn hẳn. Là vì sau mỗi lần coi như vậy, tôi vẫn thường hay tranh luận với Phú, cậu bạn nhỏ thó có nụ cười rất tươi làm sáng gương mặt ốm nheo, người đã bỏ hàng mấy giờ đồng hồ lái xe từ Philadelphia về Virginia để kịp gặp tôi, vào buổi tối đầu tiên tôi đặt chân lên nước Mỹ.

Phú không đẹp trai, lại hiền lành, nhút nhát và hay khóc. Hoặc chỉ bởi vì cậu tốt quá, làm gì cũng muốn dành điều tốt đẹp nhất cho bạn bè, làm gì cũng nhường nhịn, lo lắng sợ bạn bè phật ý, thường đến cuối cuộc chơi mới tự mình lùi vào trong một góc tối, trái tim run rẩy vì tiếc nuối những điều lẽ ra phải làm thì lại để vụt bay qua mất. Vì thế mọi người chơi với cậu, cảm thấy cần cậu nhưng trong thâm tâm có chút gì coi thường cậu. Tội nghiệp cậu. Nhưng tôi không biết nói gì. Tôi chỉ ngồi im lặng bên cậu, xiết nhẹ bàn tay nóng ran như lên cơn sốt của cậu, hy vọng sẽ làm lòng cậu nhẹ nhõm hơn.

Đôi khi tôi đột ngột quay lại và như trong bóng tối mênh mông thơm mùi bắp rang của rạp chiếu phim "ABM" bên thành phố Crystal, khi chỉ có độc hai chúng tôi ngồi coi cuốn phim "Những cậu con trai đừng khóc", tôi nhìn thấy những giọt nước mắt nóng hổi sáng long lanh trên gò má cậu.

Tôi hiểu sự cô đơn là nỗi sợ hãi trong lòng cậu. Đó là lý do vì sao cậu không muốn mất bạn bè, vì bất cứ một lý do nhỏ nhặt nào.

Cũng vì sự cô đơn ấy nên mỗi lần cầm điện thoại, Nhơn có thể nói chuyện hàng ba bốn giờ liền không ngừng lại được. Bọn bạn thường hay kể về Nhơn, bằng một giọng bông phèng nhưng âu yếm, về giấc ngủ và nhu cầu nói điện thoại của cô. Chỉ cần ngồi lên xe trong vòng năm phút, dù nhạc bật rock muốn vỡ cả loa, sau vài cái nhún nhảy là cô đã ngoẹo đầu ngủ ngon lành. Thỉnh thoảng cô nhỏm đầu dậy, đôi mắt đen láy nhìn không chớp qua cửa kính, thốt lên thảng thốt, trời ơi đẹp quá. Người bạn đường vội quay lại bắt chuyện, khen trời xanh mây trắng bay thật đẹp thì cô đã lại lịm sâu vào giấc ngủ. Trong cách cô bình yên ngủ, trong cách cô cười dòn khoe hàm răng sáng bóng, trong cách cô chọc ghẹo mấy cậu bạn trai, trong cách cô bạo mồm buông ra câu chửi thề đầy tự nhiên và nhẹ nhõm, chẳng ai nghi ngờ gì nữa, cô sống vô tư và đơn giản. Thậm chí đôi khi nó còn làm người ta bực cô.

Nhưng bình minh của một ngày ấy, ánh lấp lánh màu hồng ngọc của những tia nắng rọi qua cửa kính phủ lớp bụi mỏng đã vô tình làm vỡ vỏ bọc bên ngoài của cô.

Cô nằm run rẩy trên giường, bé bỏng và yếu ớt như một con chim non bị trúng thương. Gương mặt xinh đẹp và đôi mắt thiên thần ướt đẫm nước. Vì cố kìm tiếng khóc nên ngực cô chỉ phát ra những tiếng nấc nghẹn. Tôi ngồi bó gối nhìn cô, trên một chiếc nệm nhỏ bề bộn sách vở, không biết nói gì. Tôi chỉ biết là nên để cô khóc. Khóc cho một tuổi thơ cơ cực và mất hết tương lai. Khóc cho những ước mơ bị gãy cánh khi bước chân vào đời. Khóc cho những năm tháng cũ phải trả một giá khá đắt để có một ngày mai sáng sủa hơn. Khóc vì một tình yêu đầy tuyệt vọng. Khóc vì những điều phiền muộn này không thể nói được cùng ai. Chỉ có tôi. Nhưng tôi không ở bên cô mãi. Một vài ngày nữa tôi sẽ phải ra đi.

Nên khi tất cả mọi người đều thấy cô cười, cười rất nhiều rất tươi thì tôi chỉ luôn thấy những giọt nước mắt ngập ngừng lăn trên gò má mịn màng của cô. Và tiếng cô thì thầm bối rối "Khóc được rồi tao thấy nhẹ như không. Ngày mai lại có thể đùa vui. Mặc ai bảo mình hời hợt cũng được. Sống ở đây, ngày nào thần kinh cũng căng ra, không biết tự làm vui mình thì chỉ suy sụp mà chết".

Về sau, khi cô rời Virginia sang Texas học, mùa đông dường như dừng chân lại rất lâu trong căn phòng nhỏ. Mọi người không thể ngờ sẽ nhớ cô nhiều đến thế. Đôi khi lại thảng thốt bắt gặp mình đang đợi tiếng kẹt cửa và mong chờ cánh cửa sẽ mở ra. Cô sẽ bước vào mang theo ngọn gió xuân ấm áp và tiếng cười giòn tan vô tư lự.

Lúc đó mọi người hiểu rõ ràng hơn, không phải chỉ lần này, mà rất nhiều lần khác nữa, vì vô tình họ đã đánh mất những khoảnh khắc lý ra đã rất ấm êm và hạnh phúc trong đời sống vốn đầy bất an của mình.

Tôi thường ở nhà hoặc vào Washington DC một mình. Sáng sớm họ đã ra khỏi nhà và chỉ trở về trong buổi tối muộn. Người đi học ban ngày buổi tối về lại đi làm thêm ngoài quán ăn Nam Việt đến mười một, mười hai giờ khuya. Công việc nặng nhọc là đứng bếp, rửa chén. Nhẹ nhàng hơn như Nhơn và Tèo, làm phục vụ bàn. Tiền tip vừa đủ trả tiền nhà, tiền học. Buồn ngủ cũng chỉ dám chợp mắt một lát rồi ngồi vào máy, hì hụi học bài đến ba, bốn giờ sáng. Ngày mai sẽ lại tiếp tục như một ngày đã qua. Buồn ngủ và mệt mỏi trở thành bệnh kinh niên. Có dịp nó bùng lên, làm đảo lộn mọi sắp xếp đã có sẵn.

Anh chị họ tôi cũng ở trong một căn hộ cho thuê (và có lẽ suốt đời họ sẽ ở như vậy), nhưng nó nhỏ và rẻ tiền hơn trên đường Parkwood. Buổi tối hôm gặp chị, trời giá lạnh và lây rây mưa. Những sợi mưa bạc xuyên qua những tàn lá xanh sẫm, bay vướng vào người như tơ. Những kính cửa run rẩy. Mùi bữa ăn chiều vẫn còn phảng phất quanh phòng khách. Dưới ánh đèn vàng, chị nhỏ bé, xinh xắn trong chiếc áo đầm đỏ rực rỡ của một cô thiếu nữ. Hương nước hoa, có lẽ từ mái tóc nâu của chị thoảng qua rất nhanh. Chỉ khi ngồi sát bên cạnh chị tôi mới trông rõ quầng thâm dưới lớp phấn dầy và những nếp nhăn chạy vòng quanh mắt. Thời gian quả thật là chẳng tha một ai. Chị ấy đã già rồi. Chẳng mấy chốc nữa sẽ lại đến lượt tôi.

Hầu như tất cả mọi thời gian trò chuyện của chúng tôi đều dành cho riêng chị. Thời khóa biểu của chị bảy ngày như một. Sáng tám giờ rưỡi chị đến làm việc cho một tiệm làm móng tay của người Mỹ. Tối chín, mười giờ mới về đến nhà, tay chân rã rời. Tối thứ bảy, chủ nhật lại đi hát cho những đám cưới của người Việt. Bệnh cũng không dám nghỉ vì sợ mất khách. Còn anh làm thợ hớt tóc, lượng công việc có ít hơn nhưng cũng trải dàn đều khắp tuần. Hẹn một ngày chở chị vào Washington DC xem hội hoa đào bên dòng Potomac, nhưng bảy mùa xuân qua vẫn chỉ là lời hứa với nhau. Dần dần chị tự cảm thấy mình như một cái máy. Giận dỗi, yêu thương...mọi cảm giác dường như đông cứng lại. Chỉ có nỗi lo sợ không có tiền để trả nợ nhà, xe... cùng tất cả các chi phí khác trong cuộc sống của hai vợ chồng và gửi về Việt Nam phụ giúp bố mẹ chồng đốt nóng cơ thể, giúp cho chị không quỵ ngã.

Cho đến bây giờ, trong trí chị, Việt Nam vẫn như ngày chị đi. Cuộc sống vẫn bần hàn. Nhà cửa vẫn lụp xụp. Sợ nhất là nhà vệ sinh chật hẹp và hôi hám. Khi tôi bảo Việt Nam giờ khác nhiều. Có nhà ở còn sang hơn cả nhà Mỹ thì chị ngẩn người, luôn miệng hỏi "Really?". Rồi chị buồn bã bảo, Việt Nam bây giờ xa cách chị nhiều.

Chị có điều gì muốn giấu tôi. Mỗi lần định nói ra lại lúng túng dừng lại. Đôi môi run rẩy. Mắt hoe đỏ như sắp khóc đến nơi. Những ngón tay xanh xao của chị níu chặt mép váy cho đến kì nổi gân lên mới thôi. Đêm cuối cùng chia tay nhau trên những bậc tam cấp tối mờ dưới sân rụng đầy lá, chị ôm tôi trong vòng tay mảnh dẻ của mình, nói khẽ, anh chị chắc sẽ chia tay nhau. Chị phát hiện ra ảnh có bồ. Tha thứ bao nhiêu lần rồi vẫn vậy. Em bảo, sống cùng nhau làm sao được nữa khi nằm bên nhau tâm trí lại thơ thẩn đến với người khác. Mà em về đừng cho ba má ảnh biết.

Chị chỉ ngạc nhiên, chị đã làm hết tất cả mọi việc để lo toan cho cuộc sống của anh chị, lo cho cả gia đình bên chồng mà anh ấy vẫn phụ chị. Thôi để chị đi. Chị ước gì có em ở mãi đây bên cạnh chị. Hai chị em tâm sự với nhau cho đỡ buồn.

Dùng dằng mãi chúng tôi mới chia tay. Chị đi rồi. Xe của chị đã lao vào trong đêm, nhưng mùi hương từ mái tóc chị vẫn vương vất ở lại. Nước mắt của chị bám trên má tôi thành những giọt hương mát lạnh. Tôi tưởng tượng ra một căn phòng nhỏ suốt ngày vắng bóng người. Năm này sang tháng nọ. Sự vắng lặng đó làm cho lửa cũng trở nên nguội lạnh chứ nói gì đến tình người.

Những ngày ở Mỹ tôi bỏ thói quen dậy muộn. Thời gian bây giờ đối với tôi thật hiếm hoi và đáng quí. Tôi luôn cảm thấy tiếc mỗi giờ phút sắp trôi qua. Tôi thường dậy khi trời còn mờ sáng. Sau tấm rèm cửa nắng xanh màu lá nõn uyển chuyển bay trên những nóc nhà cao tầng của thành phố New York và những tấm kính cửa bắt đầu sáng lên lấp lánh. Tôi mặc vội áo khoác, mở cửa bước xuống con đường vắng vẻ. Lúc này Lola vẫn ngủ say, mặt dúi vào gối. Hai cánh tay, hai cẳng chân trần to béo và đen bóng dang rộng, thò hẳn ra ngoài chăn.

Lola không phải là một cô gái đẹp nhưng biết làm điệu. Lại hồn nhiên, vô tư mặc dù đã có đứa con trai bốn tuổi và cuộc hôn nhân lần thứ Nhất gãy đổ, tiếng Anh cũng rất chuẩn nên tất cả mọi người đều yêu quí cô.

Tôi và Lola thuê chung phòng để tiết kiệm tiền đi chơi những nơi khác. Căn phòng nhỏ với hai chiếc giường nhỏ luôn luôn bề bộn quần áo, sách vở và tràn ngập mùi dầu thơm đặc biệt của nước Nigieria, rõ nhất là sau khi cô bước ra từ nhà tắm. Vì những cánh cửa sổ thường được khép lại nên cái mùi này không bay đi mà luẩn quẩn trong phòng cả ngày. Hôm đầu tiên nó làm tôi khó chịu, nhức đầu. Sau thành quen, thành nghiện. Những hôm về phòng đã được dọn dẹp sạch sẽ, mùi nước hoa xịt phòng át đi mùi hương của Lola, lại thấy nhớ.

Lola thường bôi nó lên mái tóc xoăn tít. Lên bộ váy sặc sỡ. Lên nước da đen nhẫy. Tôi không thể hình dung được nếu Lola dùng một loại nước hoa nào của Lancôme hay Christine Dior sẽ ra sao. Rõ ràng với một người như cô mọi chuyện đều có thể. Nhưng tôi không mong muốn điều đó và không tin điều đó. Cho dù tháng mười này cô sẽ cưới chồng ở NewYork và trong tương lai sẽ chuyển tới Luân Đôn.

Trong khi tất cả mọi người không thích thì tôi lại có cảm tình đặc biệt với nó. Bởi vì mùi hương này như là Nigieria của cô vậy. Người ta không thể quên hay lầm lẫn Tổ quốc được.

Nó thơm vị hắc, đặc quánh và béo ngậy. Nhấm nháp một chút, nó bắt đầu ngọt lên dần dần. Đến khi vị ngọt đã đông lại trên đầu mũi thì đột ngột tan ra, dịu dàng trở về vị hăng hắc ban đầu. Lần này nhẹ nhàng chứ không dồn dập như lúc đầu. Thêm vài lần đặc lại và tan ra như thế, nó đưa lại cảm giác nhẹ nhàng khó tả. Trong hơi lạnh của những ngày đầu thu nó làm không khí ấm lên và đầy quyến rũ.

Lola ồn ào và náo nhiệt. Cô ít buồn, thích ăn ngon, uống rượu mạnh, đọc thơ và hát ầm ĩ ngoài đường phố với một phong cách rất Mỹ. Mỗi khi có chuyện gì làm cô hứng thú, đôi môi dầy màu hồng nhạt lại trề xuống và đôi mắt vốn dĩ đã to của cô mở lớn, như một cái hồ sâu thẳm ai chẳng may trượt chân rơi xuống sẽ khó bơi vào được đến bờ.

Thỉnh thoảng Lola về lại mang theo một đống áo quần hoặc sách đại hạ giá. Cô tống chúng vào trong một cái túi kéo khổng lồ. Giá cả của những thứ vật dụng tốt và đẹp ấy rẻ đến độ làm cho tôi, một người luôn nhạt nhẽo với chuyện mua sắm cũng phải phát thèm và rối rít hỏi cô cửa hàng nằm ở đâu.

Nhưng phải may mắn mới gặp được đợt hàng giảm giá đặc biệt của các cửa hàng. Đó thường là vào những dịp lễ như Lễ Lao Động, Halloween, Giáng sinh... hay sắp tung ra một đợt mốt mới. Thời kỳ này, thời trang của các cô gái Mỹ vẫn là kiểu áo tay lỡ và đầm xẻ hai tà Hàn Quốc, màu tro, ruốc hoặc đen trắng. Ngay cả những cô nàng to béo cũng diện những chiếc áo Hàn Quốc ôm sát người, tự tin đi lại trên đường phố, mặc dù trông các cô giống một khúc giò thơm phức mùi nước hoa đang chuyển động. Trong tiệm Gab, một cái thắt lưng Ý giá hai mươi mốt đô có hôm hạ xuống giá bốn đô rưỡi, một cái mũ lưỡi trai mười lăm đô còn hai đô bảy mươi lăm... Hàng vẫn còn mới và thơm mùi hồ. Ngày nào trong siêu thị cũng có khách, nhưng vắng. Họ chỉ đi dạo theo kiểu "Window shopping" (mua sắm qua cửa kính) như một cách để giải trí. Người Mỹ cũng như người Việt, không phải lúc nào cũng sẵn tiền để vung tay. Đợi đến đợt giảm giá họ mới mua hàng. Và mua nhiều.

Chị họ tôi hồi mới sang, thời gian đi shopping còn nhiều hơn thời gian ở nhà và làm việc cho tiệm Mac Donald's. Vui cũng đi. Buồn cũng đi. Rảnh rỗi cũng đi. Mà bận rộn lắm cũng phải nhín chút thời gian để đi. Không đi thì nhớ. Giống như lên cơn ghiền. Nó nhiều thứ đẹp quá mà, chị ngượng ngùng phân bua, lại to rộng đi cả ngày không hết, không chán. Mình không có được cái đẹp đẽ sung sướng thực chất của nó thì hưởng nó trên bề mặt cũng được. Tôi nghe chị nói, thấy thật thương, thật xót. Cái câu của chị hiểu rộng ra có nhiều ý. Ngẫm lại mình, trong vạn sự, trong đời sống, trong tình yêu, trong sự cô đơn, trong thời gian... đều không thể nắm bắt được thực chất của nó.

Tôi ngồi trên một ghế băng nhỏ bằng đá trong một siêu thị nhỏ của Iowa chờ Sandy mua bánh mì. Giá cả ở Iowa so với Chicago hoặc New York giống như ở Hội An với Sài Gòn. Người dân ở đây cũng hiền lành, dễ thân thiện hơn. Hai tuần ở đó hầu như ngày nào chúng tôi cũng có một bữa tiệc tổ chức tại nhà của các nghệ sỹ hoặc giáo sư trong trường. Tôi không thích đến những buổi tiệc đông người. Nhưng chính ở đây, trong những căn nhà thơm mùi vỏ cây sấy khô này, trong những bữa tiệc của bia vàng óng và rượu vang thơm phức tôi tìm được những tình cảm vô cùng đáng quí.

Một bà già bé nhỏ mặc một chiếc áo dài trắng bằng vải thô, trên vai khoác chiếc khăn lụa màu vàng, không hiểu sao chúng cứ sáng lên lấp lóa, hai mút khăn như hai bàn tay vẫy, đứng đón chúng tôi dưới chân cầu thang gỗ ẩm và tối. Bàn tay bà nhỏ nhắn, ấm nóng và thơm mùi dầu. Bà tên là Hualing Nieh Engle, người Mỹ gốc Hoa, sáng lập viên của chương trình viết văn quốc tế trường Đại học Iowa.

Chúng tôi theo bà lên lầu. Trong bóng tối những nếp váy chạm vào nhau loạt soạt. Mùi dầu nóng làm tôi thấy dễ chịu, như đang được về nhà mình.

Người đã đến rất đông, ngồi trên những ghế nệm bọc nhung đỏ trong phòng khách hoặc đứng ngoài ban công đầy gió. Họ lịch lãm và duyên dáng trong những bộ lễ phục trong khi chúng tôi áo quần xộc xệch, thậm chí Gleb còn đánh một chiếc quần cộc ngang đầu gối màu xanh lá mạ. Bà Hualing nhỏ bé, gần như là lướt đi trên sàn với tiếng loạt soạt của áo lụa mới, mời mọi người dùng bữa bằng một giọng nhẹ và trong vắt.

Cho đến lúc này tôi đã quen với kiểu ăn của Mỹ. Thức ăn thường béo ngậy vì pho mát, vì hương vị được tổng hợp từ đủ loại thịt trộn rau quả ướp lạnh, vì màu sắc lờ nhờ không gây được cảm tình và nó nhiều bằng gấp ba lần suất ăn của một người bình thường. Có lẽ vì thế người ta bảo dân Mỹ phàm ăn và số lượng người béo phì ngày càng tăng lên đáng kể.

Nhưng thật sự là chúng tôi đã có một bữa ăn ngon tuyệt vời ở nhà của Sandy. Đó là đêm cuối cùng ở Iowa, sau hai tuần thân thiện và gần gũi, nên ai cũng có vẻ buồn buồn. Trời bắt đầu vào thu. Những rừng sồi bao quanh khu nhà của Sandy lá vẫn xanh biếc nhưng trên các bờ dậu, những chiếc lá thon nhỏ đã bắt đầu chớm đỏ như những cặp môi son thiếu nữ. Gió thổi hơi ẩm vào nhà đánh thức những bông cúc kim vàng nhạt đang thiếp ngủ trên bệ cửa. Ánh sáng dịu dàng từ chùm đèn pha lê tỏa xuống làm bữa ăn thêm trang trọng và cảm động.

Mọi thứ đều giản dị nhưng tao nhã như chủ nhân của nó. Trên bàn người ta bày khoai tây hấp ăn với kem pho mát trắng tươi. Sườn heo rô ti màu huyết dụ theo kiểu Ấn đặt trên một chiếc đĩa sứ có viền vàng và chân bằng bạc. Một ít xà lách trộn với những quả ô liu tím thẫm đựng trong thố thủy tinh dùng với trứng luộc. Bơ chảy vàng óng trên những khoanh bánh mì nóng hổi. Có tới hai ba loại rượu trên bàn, như trong các bữa ăn Pháp. Sandy nói tiếng Pháp rất giỏi và yêu nước Pháp. Bà thường hay mơ màng về dòng nước xanh biếc trong lòng sông Seine, về ánh mặt trời màu hoàng yến khô ráo trên nóc nhà thờ Đức Bà Paris và mưa phùn ướt đẫm khu đồi Mongmac của các nghệ sỹ. Tôi không biết Paris đẹp và thơ mộng ngần nào, nhưng nhìn vào mắt bà tôi dám chắc chắn rằng trời Paris phải có màu xanh sâu thẳm như thế.

Bữa ăn chỉ có tôi, Sandy, Gleb và Kote. Chồng của Sandy đi công tác đã hơn một tuần. Hai đứa con trai đều đang làm việc ở Boston. Lâu lắm rồi bà không gặp chúng. Cái cảnh sống một mình, ăn một mình, ngủ cũng một mình thế này quen rồi. Đến khi ở với chồng, với con lại thấy lạ lẫm. Lại thấy gò bó. Ở đây, con cái lớn lên là đi chỗ khác. Sandy nói bằng một giọng nhẹ nhàng. Coi như nghĩa vụ của cha mẹ con cái đối với nhau chấm dứt.

Trong lúc dùng trà, một người Nga xa xứ đến đón Kote về nhà ông. Chúng tôi cũng dọn dẹp bàn ăn. Tối nay ở Hancher có biểu diễn ba lê. Nhưng khi chúng tôi đến nơi, màn cuối đã hạ. Gleb biến đi đâu mất hút. Sandy cười ý nhị, các cậu thanh niên bao giờ cũng thế. Có khi trong buổi tối này, cậu bé ấy sẽ gặp được một người trong mộng. Thấy tôi tỏ vẻ không tin, bà cười lớn, hãy đợi mà xem. Tình yêu đến với các nhà thơ rất nhanh và ra đi cũng rất nhanh. Cậu bé ấy lại là một người tình cảm...Mắt Sandy mơ màng. Điếu thuốc trên môi bà tỏa ra những vòng khói nhỏ xíu, cay cay ở mắt.

Mười hai giờ khuya tôi đang ngồi gà gật dưới phòng khách đợi bạn thì cánh cửa khách sạn bật mở. Gleb mặt đỏ bừng, đầu hơi chúi về trước làm đôi vai gồ lên như bị gù (cái dáng đi này làm anh có vẻ buồn rầu và khổ sở), bước xăm xăm tới cầu thang máy. Theo sau anh là một cô gái cao ốm, tóc vàng, trang điểm nhợt nhạt, mặc bộ áo quần bằng lụa đen, trông ra còn cao hơn Gleb cả một cái đầu. Gleb không thấy tôi. Chẳng mấy chốc thì họ đã biến mất.

Sáng hôm sau, Gleb ngồi ở một góc xe, buồn thiu. Tôi quay xuống, nửa đùa nửa thật, đêm qua anh ngủ ngon chứ? Gleb chớp chớp hàng lông mi dài sau cặp kiếng cận, mặt đỏ bừng lên, lúng túng, ôi Khê-đek, Khê-đek. Miệng cười một nụ cười như mếu.

Khê- đek là tên Gleb đặt cho tôi. Không hiểu sao Gleb không bao giờ nhớ và gọi được tên tôi. Chúng tôi vốn ít chuyện trò với nhau. Nhưng dường như có một lúc nào đó chúng tôi đã phải lòng nhau.

Bởi vì Gleb là một anh chàng rất đẹp trai, tóc hung, da trắng, môi nhỏ và đỏ như con gái, ngoại trừ chiếc mũi hỉnh rất Nga xô viết và toàn thân ướp nồng mùi thuốc lá. Gleb giống như một sợi dây tình cảm gắn liền vào quá khứ, vào cái thời chúng ta say mê hát những bài hát Nga, đọc những tiểu thuyết Nga bằng một tình yêu đắm đuối và mạnh mẽ. Mỗi lần nhìn Gleb, lại thức dậy trong lòng tôi hình ảnh của những hàng thùy dương hát, của những đàn sếu bay và những đêm trắng tươi đẹp ngự trị dài lâu trên thành Leningrad.

Bởi vì ngay buổi đầu gặp mặt, anh chàng mặt lạnh như tiền, đưa tay cho tôi bắt mà không nói tiếng nào, không cười với tôi một lần nào. Đã thế tôi cũng làm lơ, không cần bắt chuyện nữa. Cho đến buổi tối trong sân nhà Slam ở Chicago, tôi phát hiện ra một anh chàng Gleb khác: hóm hỉnh, tinh tế và hồn hậu hơn nhiều vạn lần ấn tượng ban đầu của tôi.

Năm ngày liền ở Chicago tôi không gặp được một người Việt nào, đi đâu cũng thui thủi môt mình. Giờ ngồi giữa khu vườn nhỏ có chiếc cổng gỗ bám đầy dây trường sinh xanh biếc, trông những ngọn đuốc nhỏ cháy sáng trong các góc tối, nghe tiếng đọc thơ trong phòng vẳng ra, tôi thấy nhớ nhà không sao chịu nổi. Có một bàn tay đặt lên vai tôi nặng trĩu và một giọng nói ấm áp vang lên "Cô thấy cô đơn à?". Tôi ngẩng lên. Trước mặt tôi là anh chàng Gleb với nét mặt vẫn khó đăm đăm. Tôi bảo, phải, tôi thấy cô đơn. Tôi nhớ nhà. Gleb choàng vai tôi, cười dịu dàng "Vậy thì đi vào uống bia đi. Bạn sẽ thấy dễ chịu hơn". "Nhưng tôi sẽ nhức đầu". Gleb bảo, à bạn sẽ bị Khê-đek và khăng khăng bắt tôi phải phát âm cho kì được chữ này trong khi tôi chẳng hiểu nghĩa của nó là gì. Về dò từ điển không có, tôi đành cho rằng đó là một từ tiếng Nga đã được bỏ quên lâu lắm từ ngày tốt nghiệp Phổ thông Trung học. Buổi sáng gặp lại, Gleb hỏi tôi vồn vã "Khow-are you?". Thế là tôi đã hiểu. Khê-đek là headache. Ở tiếng Nga không có chữ H mà chỉ có chữ X (khờ), nên bất kì chữ nào có mẫu tự H đều được Gleb đọc trại ra thành Khờ hết. Từ đó trở đi, gặp Gleb ở đâu, Lola cũng kêu ầm lên "Khow are you, Gleb?" làm anh chàng đỏ mặt tía tai.

Từ đó chết tên tôi là Khê-đek. Còn tôi gọi anh là Xlep (khờ lép) - Bánh mì.

Sự tinh tế và ân cần của anh lúc đó đã làm tôi sửng sốt và ấn tượng. Giống khi anh nói cộc lốc "Đây là mùi vị Nga" khi hai chúng tôi dùng món salad gà với vốt ca trong quán ăn nhanh ở Maryland để lấy sức tìm đường về nhà. Anh cúi mặt xuống đĩa thức ăn. Tôi để ý thấy tay anh run lên nhè nhẹ. Anh nhìn chằm chằm vào mắt tôi, nài nỉ, đây là tối cuối cùng. Hãy uống một ly với tôi. Vì ly rượu này mà cả đoàn phát hoảng tưởng tôi đã mắc phải một căn bệnh nóng sốt trầm trọng. Sau đó suốt buổi tối là sự im lặng đến khó hiểu. Thậm chí chúng tôi cũng không nhìn nhau một lần nào. Cho đến khi chúng tôi ôm hôn nhau từ biệt, Bánh mì mới nói, như là câu tôi muốn nói nhưng cổ họng cứ nghẹn lại "Tôi sẽ nhớ bạn rất nhiều".

Và đó cũng là vì tôi đọc được một câu thơ của anh trong bài "Nỗi buồn". Nỗi buồn như tuyết trắng phủ kín tâm hồn tôi. Tôi sẽ không nói nó hay hay dở. Tôi chỉ thấy nó giống như những gì tôi đang có. Những nỗi buồn thật đẹp và trong trắng. Những nỗi buồn thuộc về bản chất, hoang sơ và vĩnh viễn không mất đi. Trong nỗi buồn đó ta vui sướng nhận ra ta là Người và người nhận ra người với nhau.

Điều này cứ day dứt mãi, ranh giới giữa Niềm vui và Nỗi buồn và mọi cảm xúc.

Tuấn hay kể cho tôi nghe ngày mới sang nước Mỹ. Một ngày giữa mùa đông giá buốt. Tuyết phủ trắng khắp nơi. Trắng đến nao lòng. Đi giữa tuyết trắng, mặc không biết bao nhiêu áo mà vẫn rét run lên. Hồi đó nghĩ vì chưa quen thời tiết, nhưng thật ra không phải vậy. Thường khi trời có tuyết không khí khô ráo và ấm hơn nhiều. Chỉ tại cái lạnh từ trong lòng lạnh ra. Mà nếu là như vậy thì chẳng có áo nào khăn nào làm ấm nổi. Nhìn tuyết rơi nước mắt cũng rơi không cầm được.

Thứ tình yêu mà cậu nuôi nấng trong tim bao nhiêu năm trời cũng như tuyết. Có khi nó đông lại thành băng cứng. Có khi lại chảy tan ra dưới ánh mặt trời ấm áp đầu xuân. Nhưng bởi vì nó trong sáng và hồn nhiên quá, nên chỉ cần một vết dơ nhỏ cũng làm tổn thương. Tôi vẫn mong mỏi mối tình của cậu đơm hoa kết trái, nhưng lòng luôn mơ hồ sợ hãi sự xa cách sẽ giống như bão tuyết, làm cây cành trụi lá trơ trọi.

Mọi người bảo Washington DC và Virginia là thủ phủ của các loài hoa. Nhưng chỉ trên những đường phố New York, hướng về Times Square tôi mới thấy người ta bán hoa ngoài đường nhiều như vậy. Những bó hoa bọc giấy kiếng, cắm trong những xô thiếc xám hoặc những thùng gỗ nhỏ, nước ri rỉ chảy qua miệng nẹp bằng sắt thành những giọt trong và sáng như ngọc. Sang trọng hơn có những quầy nhỏ với hai cửa kiếng đục luôn luôn mở rộng vì lượng hoa quá nhiều phải đặt tràn ra lề đường. Những bông hoa to khỏe, sặc sỡ. Chúng là một tổng hợp hỗn độn của những màu sắc đối chọi nhưng vô cùng hài hòa. Trên những cánh hoa mỏng mảnh dường như còn bám đầy sương của những miền đất xa lạ. Chúng tựa đầu vào vai nhau, thầm thì hát với nhau những bài ca của màu sắc. Chỉ có điều lạ là ngay cả khi dúi đầu vào trong đám hoa khổng lồ, tôi vẫn không tìm ra được một chút hương nào gây ấn tượng. Chúng hầu như không có hương thơm, ngoài một chút ngai ngái của cỏ dại và lá cành tươi mới cắt. Điều đó làm tôi thất vọng. Giống như khi ngắm nhìn một cô gái đẹp. Nhưng sau vẻ đẹp kì diệu ấy đã là một dấu chấm hết.

Nhưng dù sao chúng vẫn làm sáng ngời lên những đường phố tập nấp ồn ào và làm dịu đi sự căng thẳng mà những tòa nhà cao chọc trời mang lại.

Trong khu vườn nhỏ bao quanh căn nhà gỗ ở khu Falls Church, bên những gốc dẻ bị cưa sát đất, bên những cây anh đào trụi lá, những cây liễu hoàn diệp xanh biếc và những cây phong cháy đỏ, ba mẹ Tuấn trồng rất nhiều hoa. Đó là lý do vì sao hôm nào trên bàn ăn hoặc trong phòng khách cũng có một bình hoa to rực rỡ, đông cũng như hè. Cách một vài ngày Nhơn lại sang nhà, nói đùa vài câu ồn ĩ phá tan sự vắng lặng của khu vườn rồi lại ào đi mất hút, mang theo một bó lớn cúc, tầm xuân hay sâu nhái với khuôn mặt bắt đầu ửng hồng vì sung sướng.

Ba mẹ Tuấn yêu hoa bằng một tình yêu da diết. Những người vốn yêu hoa như vậy tâm hồn thường quá đỗi nhạy cảm và dễ bị tan vỡ. Chỗ của họ không phải là ở một cuộc sống căng thẳng như thế này. Ở một nơi mà mọi thứ luôn trở thành lạc lõng và xa lạ.

Chúng tôi ngồi quanh chiếc bàn hình bầu dục. Bóng chiều bò qua những khe cửa gỗ luồn vào phòng làm cho mọi vật tối sầm lại. Ánh đèn vàng giúp cho khung cảnh ấm hơn. Nhưng không làm tan đi được nỗi buồn trong đôi mắt của người đàn bà xa xứ đang ngồi trước mặt tôi. Và vì không khóc được nên như có một màn sương mỏng phủ lên, nó ướt át và đầy đau đớn. Bà đứng dậy múc thêm thức ăn vào chiếc dĩa thủy tinh, khe khẽ thở dài. Món bì cuốn của bà ngày hôm nay rất ngon. Nhưng bà luôn miệng bảo rằng, bà không có thì giờ để chuẩn bị kĩ hơn. Vả lại, đồ ăn ở Mỹ bao giờ mùi vị cũng nhạt hơn so với nước ta. Nói đến chữ này, mắt bà lại chớp chớp. Mặt bà đỏ lên bối rối.

Không ai nói gì với bà. Tất cả họ đều ngồi yên lặng, mặt cúi gằm xuống chén thức ăn. Thỉnh thoảng chồng bà ho một tiếng rất khẽ. Rồi lại yên lặng trở lại.

Rồi có một ai nói một câu hài hước gì đó. Bà cũng mỉm cười. Màn sương mỏng hơi loãng ra nhưng ánh buồn trong mắt không thay đổi. Lúc này trông bà thật bé nhỏ. Sau cùng bà bảo, tôi chỉ thấy hạnh phúc và vui khi ở Việt Nam. Có lẽ tôi sẽ phải về Việt Nam sống. Trời ơi, ngay cả cái nắng của Sài Gòn cũng lãng mạn và dễ chịu hơn. Tôi không hiểu tại sao tôi lại có mặt ở đây. Bàn tay mảnh dẻ của bà đặt trên bàn run run. Những móng tay nhỏ nhắn sơn bạc ánh lên như những vỏ xà cừ nhỏ xíu.

Suốt những ngày tôi ở, bà chỉ nói một câu như vậy. Nhưng tôi nhìn thấy sức mạnh của tình yêu được bà nén chặt trong câu nói. Phần thời gian còn lại, bà trở nên lặng lẽ hẳn. Thỉnh thoảng bà nhìn tôi, mà có lẽ không phải là nhìn tôi. Bà nhìn vào khoảng không phía sau tôi, như hy vọng sẽ gặp được những hình ảnh thân yêu của Việt Nam ở đó. Khi tôi đón được ánh mắt bà, cái nhìn đột ngột trở nên thảng thốt và ngơ ngác. Nó làm trái tim tôi co thắt lại.

Đôi mắt của bà không hiểu sao luôn làm tôi nhớ đến Kote. Nhớ đến một ông già to cao, tóc bạc cắt sát đầu, lởm chởm như một cái bàn chải cùn bằng sợi cước. Ông mặc chiếc quần bố đen có hai túi khổng lồ ở đầu gối, trên đầu đội một chiếc nón két bằng nỉ đen, miệng lúc nào cũng thở ra đầy hơi thuốc và rượu mạnh. Và dù cho trời có lạnh giá cỡ nào đi nữa, ông vẫn phanh áo khoác để lộ chiếc áo thun in những dòng chữ viết bằng thứ tiếng của nước ông. Ông tỏ vẻ lơ đễnh với nước Mỹ, giống như đây chỉ là một cuộc viễn du khiên cưỡng và mỏi mệt. Hơn bao giờ hết, ông thích nằm dài trong phòng, trên chiếc giường con trải drap trắng muốt, viết thơ lên giấy bằng một cây viết chì to bản cụt ngủn.

Ở nước Mỹ, nhưng ông viết thơ về Georgia. Chỉ luôn viết thơ về Georgia. Mảnh đất ấy mang đến cho ông một nguồn cảm xúc mạnh mẽ và một tình yêu bất tận. Sống trong nó, ông hồn nhiên và thơ ngây như một đứa trẻ.

"Tôi không thể sống mà thiếu Georgia. Như thở mà thiếu khí trời được".

Tôi thuộc lòng câu nói của ông. Điều này có vẻ như đúng với cả chính tôi. Nhưng chỉ khi bước chân ra khỏi biên giới, ngoảnh nhìn lại Tổ quốc thân yêu trong ánh bình minh đang lên, tôi mới cảm nhận điều đó một cách rõ ràng hơn.

Với Kote, tình yêu Goergia không bao giờ nhỏ bé đi hay to lớn hơn được nữa. Nó đã trở thành máu thịt, thành hơi thở, thành đời sống hàng ngày mà ông đang sống. Mang trong người tình cảm ấy, nơi đâu cũng là Georgia của ông. Bầu khí nào cũng là bầu khí của quê hương ông hết.

Ông thích nói và nói nhiều, bằng một thứ Anh văn xiên xẹo trộn lẫn với tiếng Georgia. Mỗi khi ông cất tiếng, Lola lại trợn mắt và Gleb cúi mặt xuống bàn, giả như tìm đọc một thứ gì đó rất hấp dẫn làm anh phải nhếch khóe miệng xinh đẹp lên để mỉm cười. Nói chung phải khó khăn lắm người ta mới vỡ lẽ được ông muốn nói gì. Ông thường làm cho mọi người bật cười vì những câu phát biểu hoàn toàn lạc đề của mình. Ví dụ như khi người ta yêu cầu mỗi nhà văn, nhà thơ sẽ đọc tác phẩm của mình ở nhà sách Prairie Lights, ông đề nghị được đọc thêm tiếng Georgia. Mọi người nhất loạt hoan nghênh ý kiến đó và chuyển sang nói về vấn đề khác thì ông đột ngột đứng dậy, hỏi to đầy giận dữ "Tại sao tôi không thể đọc thơ của tôi bằng tiếng Georgia được?" làm mọi người choáng cả người. Hay nói lung tung nhưng Kote là một ông già tình cảm. Ông hay vuốt tóc tôi và kể về đứa con gái lớn đang sống ở Bỉ. Mắt ông đỏ lên và mũi bắt đầu sụt sịt như người cảm nặng. Cái đầu to lớn nặng nề gục xuống một bên vai.

Rồi trong bất cứ bữa tiệc nào, sau khi đã uống cạn vài ly rượu, ông lại cất giọng hát những bài hát bằng tiếng Georgia. Ông chỉ những dòng chữ Georgia trên ngực áo (những chiếc áo thun này được treo trang trọng trong phòng đọc sách nhỏ và ấm cúng của Prairie Lights, như để minh họa cho những bài thơ viết về Tổ quốc vĩ đại và thân yêu của ông) và nói bằng một giọng khản đặc "Georgia nghèo nhưng tôi yêu Georgia. Georgia luôn ở trong trái tim tôi".

Tình yêu Tổ quốc sâu sắc của ông càng ngày càng làm ông trở nên đáng yêu hơn đối với mọi người.

Khi đứng bên bờ dòng sông nhỏ của Indianola, chân cắm trong đám bùn đen mát lạnh và da bị ánh mặt trời trưa đốt cháy, tâm trạng tôi thật khó tả. Ngay lập tức tôi muốn ngồi bệt xuống giữa những đám cỏ dại mềm mại và thò tay xuống làn nước trong vắt để trấn tĩnh lại mình. Tôi bắc tay lên miệng làm loa hét lên một tiếng thật to. Tiếng hét bay lên lơ lửng trong không trung rồi đột ngột rơi tõm xuống nước, kéo theo nó là những vệt nắng sáng trắng và im lặng bao trùm khắp nơi.

Chỉ còn nghe tiếng gió lao xao rất nhẹ. Tôi ngẩng đầu lên và tự hỏi, tại sao tôi lại có những cảm xúc bối rối này. Tại sao tôi lại có cảm giác mất mát khi tôi đang có tất cả: Tổ quốc, tình yêu, tuổi thanh xuân và những năm tháng tươi đẹp? Tại sao tôi lại thấy nhung nhớ họ ngay khi cuộc viễn du chưa kết thúc và hồi còi tiễn biệt chưa lên tiếng?

Tại sao?

Tại sao...

Tại sao...

Tại sao tôi phải là tôi để đứng bất lực nhìn thời gian bay qua trên đôi cánh trắng, mang theo đi biết bao là những dấu yêu của cuộc đời. Mang theo đi biết bao nhiêu là hạnh phúc, nỗi đau, niềm vui, những gương mặt bạn bè...và làm nhạt phai tất cả.

Nhưng chính nhờ những nghi hoặc ấy, tôi mới hiểu là mình đã có được quá nhiều để sống bao dung và tử tế hơn.

Ngày chia tay, San Francisco lại tiễn tôi trong một buổi sáng đầy sương mù. Ngoài cầu cảng Người Đánh Cá vẳng vào tiếng sóng vỗ ầm ì và tiếng còi tàu buồn bã.

Người da đen đứng ở quầy kiểm tra hành lý nhìn tôi chăm chú rồi nhoẻn miệng cười, hai bàn tay to tướng đập vào nhau bồm bộp. Và theo một thói quen lịch sự, ông ta bảo, see you again.

Máy bay nặng nề cất cánh. Chẳng mấy chốc đã chìm vào mây. Ngoài cửa sổ bám đầy những tảng mây mùa đông xám ngắt màu chì. Nó có vẻ cứng đến độ mặt trời không tài nào xuyên thủng qua được.

Người tôi nhẹ dần. Nhẹ dần. Tôi nhắm mắt thật chặt. Tôi thấy thật sự là lúc này, tôi đang bay qua thời gian để quay về với những ngày tôi đã sống.

Nguyễn thị Châu Giang

Bóng đè Tôi có bàn tay nhỏ nhắn và mềm mại hiếm thấy. Bàn tay không thay đổi theo mùa hay béo gầy cơ thể. Thụ bảo bàn tay tôi không tuổi tác trọng lượng. Hồi hai mươi tuổi, mới ra trường nằm nhà ba tháng, chỉ ăn và ngủ, cơ thể trồi lên những múi thịt, nhưng bàn tay tôi vẫn mảnh dẻ. Thụ hay mân mê bàn tay tôi. Bàn tay thể hiện tâm hồn con người, dù em mập đến mấy ngón tay em vẫn chỉ là cọng cỏ chao lượn dưới gió xuân. Tôi đưa ngón dài nhất mơn quanh môi chồng. Cọng cỏ thường dai, chỉ liềm sắc mới cắt nổi anh biết không? Mắt Thụ cụp xuống tìm câu trả lời. Có khi chỉ một con kiến cũng làm ngọn cỏ tan gãy. Có thể. Tôi chìa bàn tay ra trước nắng, nhìn như nhìn bàn tay một kẻ khác. Giông gió, bão lũ, nắng hạn, tôi có thể chết đi rồi mà bàn tay vẫn nguyên vẹn với năm ngón ngắn dài, làn da mỏng tanh không trọng lượng. Chỉ có tôi hiểu vì sao bàn tay tôi tách rời ra khỏi thể xác mình. Chỉ có tôi hiểu vì sao tôi hay trốn những vách dựng loang loáng một chiếc bóng. Thụ không hiểu. Chính tôi đôi khi cũng thấy mình là lạ. Quê Thụ cách thành phố khoảng ba giờ tàu hoả. Tôi không ngờ đồng quê khác biệt đến thế. Một vùng đất vẫn giữ được nét cổ xưa hiếm hoi thời cuộc. Ngồi trên tàu Thụ dặn dò tôi kỹ lưỡng về những nghi lễ phải làm trong ngày giỗ cha. Chồng tôi mồ côi cha từ năm lên chín. Căn nhà mái ngói vốn là nhà gỗ ba gian được bao tường ẩn náu phía đáy làng. Đằng sau ngôi nhà, phơi mình trong nắng, ruộng ngô đang ra bắp xanh mướt. Kéo dài tầm mắt một chút, ẩn hiện giữa đám ngô, bãi tha ma thênh thang còn giữ nguyên được mồ mả đắp đất cỏ mọc xanh tươi tốt. Lần về trước bận bịu khách khứa tôi đã chẳng có thời gian đẩy đưa con mắt. Thụ bảo lần này phải ở lâu lâu một chút cho mẹ chồng tôi vui. Tôi dạ vâng ngoan ngoãn. Thụ véo mũi tôi: sao trên giường em chẳng ngoan hiền như thế cho anh được yên thân? Tôi lơ đãng trước câu nói đầy hàm ý. Tôi không thể ngoan hiền. Tôi hay chồm lên người Thụ nuốt lấy anh vồ vập. Tôi ưa kéo Thụ lên chà xát. Tôi bắt đôi tay Thụ bóp nắn liên tục. Tôi muốn đã cơn khát thèm từ buổi trưa ấy, một buổi trưa nắng bình thường như bất kỳ một ngày hè nào nhưng với tôi là bỏng rát, là bước ngoặt. Tôi cất giữ bí mật riêng mình. Thụ nào biết. Thụ cứ hay van xin tôi đừng hực lên như hổ cái. Tôi chẳng thể đặng đừng. Anh bị tôi co rút lôi đi. Đôi lúc thấy anh kinh khiếp tôi đành phải dè dặt. Nhưng rồi đến cơn khát tôi vung vấp hết. Mỗi sáng thức giấc trông Thụ thật tội nghiệp. Bàn thờ nhà chồng tôi to dài quá cỡ. Chưa bao giờ tôi nhìn chiếc bàn thờ nào lớn như vậy. Có rất nhiều bát nhang và những bức trướng chữ Tàu. Mẹ chồng tôi nói bâng quơ mà tựa căn dặn: "Nhà ta mỗi năm cúng mười sáu đám giỗ. Sau này anh Thụ cúng tôi nữa là mười bảy, sẽ vất vả đấy". Tưởng tượng ra viễn cảnh mỗi năm còng lưng làm cơm cúng mười bảy đám giỗ cho đến ngày Thụ qua đời, tôi không khỏi ngao ngán. Khi Thụ quần áo tề chỉnh chắp hai tay trước ngực khấu đầu làm lễ, rèm vải hai bên bàn thờ lay động lươn lướt, màu đỏ nhức nhối trong nhang khói. Nép mình cúi đầu cùng mấy phụ nữ trong góc nhà, tôi cố giỏng tai xem chồng mình đang khấn những gì. Nhưng chỉ là ập è âm thanh xin xít nơi đầu lưỡi. Thụ không nói mà cũng không hát. Tựa tiếng kêu của loài bò sát. Tôi nhướng trí tưởng tượng phong phú của mình xem qua lời khấn của Thụ những ai đang về. Hồi sáng hai vợ chồng ra nghĩa địa dọn dẹp khu mồ mả tôi mới biết tổ tiên nhà Thụ cũng nhiều oan khuất. Mười một ngôi mộ dàn trải xưa cũ trong vùng đất trũng sâu dáng hình thung lũng. Thụ nói sau cơn động đất tự nhiên khu mộ nhà mình thụt xuống thành trũng như vậy và một ngôi mộ thì biến mất. Tôi băn khoăn về chuyện mười sáu đám giỗ sao chỉ mười một mộ phần? Giọng Thụ có vẻ buồn, tay anh đưa liềm cắt cỏ chuẩn xác. "Cô em gái bố do hận tình nên trẫm mình xuống sông sâu năm vừa tròn mười tám không tìm thấy xác. Hai ông cố trẻ làm thầy phù thủy đi khắp nơi cùng chốn rồi không quay trở về, nhà lấy ngày hai ông bỏ đi làm ngày giỗ. Hai ông khác, một liệt sĩ Điện Biên, một liệt sĩ đường 9 Nam Lào, xương hốt về bằng đầu đũa chôn chung một mộ". Thụ im lặng đột ngột, tiếng liềm xén cỏ mạnh hơn. "Thế còn một ngôi mộ nữa đâu anh?" "Ông nội bị đấu tố hồi cải cách ruộng đất chết thảm trên tổ kiến lửa. Sáng mai bà nội chỉ tìm thấy vài cọng tóc ở nơi cột trói, xác không biết đi đường nào". Giọng chồng tôi nghèn ngẹn. Tôi thấy lạnh sống lưng. Tưởng như cũ xưa nào vừa lướt qua mình. Bây giờ quỳ trước bàn thờ tôi cũng lạnh sống lưng. Lẫn trong âm hưởng xin xít buồn thảm khấn vái của Thụ một tiếng nhẹ như gió lướt lụa bay trơn lọn. Đã có lần tôi nghe đâu đó rắn là loài vật linh thiêng dẫn dắt người chết về trần. Tôi ngẩng phắt lên thanh đà treo ngang bàn thờ. Thanh gỗ bóng nhẵn không vết bụi, trống rỗng. Cô em chồng cấu mạnh. "Chị cúi đầu xuống đi, anh tôi không dạy chị à?" Khi đầu tôi lại cúi xuống, một cái gì láng nhẫy bay qua. Linh cảm đôi khi chỉ là linh cảm nhiều khi. Và Thụ đứng lên húng hắng báo hiệu. Chồng tôi đã cúng xong. Cỗ được dọn xuống trong tiếng đũa lanh canh lũ trẻ háu đói. Suốt cả bữa ăn trong đầu tôi cứ lảng vảng hình ảnh mười sáu bóng ma tổ tiên theo lời khấn của Thụ trườn về, bay về thế nào. Thảng hoặc lại lành lạnh buôn buốt như gió cũ xưa nào lượt qua mình. Những cây nhang cháy hết cuộn thành vòng đầy ắp bát hương to màu đồng và những bát hương nhỏ màu trắng vẽ long phượng. Ai đó reo vui: "Hương cháy đẹp quá, nhà này năm nay chắc nhiều may mắn". Mẹ chồng tôi thỏa mãn. "Anh chị Thụ thể nào chẳng sinh một thằng cháu đích tôn nay mai". Thụ tay cầm cánh gà xoay xuống tôi đỏ mặt. Tôi thừa biết anh nghĩ hổ cái như tôi sẽ nhanh chóng kết nhuỵ sinh hổ nhỏ cho nhà anh nay mai. Đàn bà như tôi có lẽ sinh năm một, anh chẳng từng nói thế. Miệng tôi cười mà lòng trống trải. Ông trẻ mặt xanh men rượu ngoắc cánh tay xuống mâm dưới, tôi để ý đàn ông nhà Thụ tay thường dài chạm gối. Có lần tôi đùa Thụ tay dài như tay vượn, anh sa sầm nét mặt. Em chẳng biết gì cả, những người tay dài thường dòng dõi đế vương, thiên tử. Có lẽ ông tổ anh từng là vua chúa vương giả Trung Hoa gặp nạn nên chạy loạn sang đây. Tôi thấy Thụ thật ngây thơ nhưng không dám nói. Dòng họ nào ở miền bắc này mà không chạy loạn hay đội trên đầu xứ Trung Hoa? "Nhân thể cháu dâu trưởng thắp nén nhang lên bàn thờ khấn xin cha thằng Thụ phù hộ cho sớm sớm được thằng cu. Cha chồng cô mất vào ngày trồng, linh thiêng lắm". Tôi không biết ngày trồng ông trẻ nói là ngày gì nhưng đoán chắc rất thiêng. Len lén luồn qua mâm trên, kính cẩn lấy ba nén nhang châm lửa cắm lên bát hương đặt cạnh khung ảnh một người đàn ông trung niên có hàm răng hơi nhô với tia nhìn sắc lạnh, tôi khấn lạy ba lần. Vừa thụt lùi vừa liếc trộm khung ảnh cha chồng, ống chân tôi đau tấy lan dần. Một khắc, tôi nghĩ đến ám dấu cơ thể biết báo hiệu trước những chuyện bất thường. Chưa kịp định thần, bỗng dưng mái tóc, thân thể tôi nóng hực và tiếng cô út hét lên: "Bát hương cháy rồi". Thụ xô ngã tôi, quỳ mọp trước bàn thờ dập đầu lia lịa. Bát hương ngùn ngụt cháy. Tôi hoảng loạn nghĩ thế nào tia lửa cũng lan rộng thiêu cháy bàn thờ, thiêu cháy ngôi nhà, thiêu cháy bãi ngô, đốt rụi mồ mả. Tôi muốn tìm xô xách nước dập lửa nhưng chân tay tôi cứng đơ tựa khúc gỗ, cơn đau nhức oại oằn trí não. Giọng nói đon đả mẹ chồng cất lên như vệt điện chạy dọc sống lưng. "Mời các bác, các ông xơi tiếp. Tôi nghĩ ông nhà tôi hóa bát hương vui mừng đón cháu đích tôn đấy". Mọi người ồ lên đồng thanh. Nhưng cái liếc xéo của bà về phía tôi lại đầy cay nghiệt. Bát hương cháy tận gốc, tro dầy lên hình thù ngôi mả mới đắp. Tôi biết ngôi mả mới đắp bằng tro nung này sẽ thiêu cháy cuộc đời tôi nay mai. Thụ nhìn tôi không biểu lộ cảm xúc. Da thịt tôi rần rần kiến bò. Cảm giác ơn ớn, trơn lọn bóng nhẫy. Tám giờ tối bãi ngô ngủ im. Thụ im lặng kéo tôi vào nhà. Sau buổi chiều hóa bát hương tro đắp hình ngôi mộ, Thụ nhìn tôi khang khác. Tôi chỉ cảm nhận khang khác trong một trực giác mơ hồ không bằng chứng. "Anh chị Thụ vào buồng mà ngủ. Trong ấy ban đêm chuột hay thọc mạch, dém màn vào chiếu cho chặt kẻo nó vào giường". Sống lưng tôi dựng đứng. Viễn cảnh một bầy chuột chui vào giường bò lên thân thể khi tôi đang say giấc chẳng lãng mạn yên bình đồng quê chút nào. Tôi đưa bàn tay thon mảnh của mình ghì chặt Thụ, anh nhăn mặt nhìn tôi, bắt gặp ánh mắt thảng thốt của vợ, anh thẽ thọt nhìn mẹ: "Mẹ cứ ngủ trong buồng với con Thắm để vợ chồng con ngủ ngoài này. Ban đêm gió máy mẹ không nên ngủ trên phản. Với lại con hay dậy đi ra đi vào sợ mẹ mất giấc". Mẹ chồng tôi loét quét đôi guốc vào buồng. Âm thanh roạc ngắn từng cơn. Con Thắm sang làng bên chưa về. Thụ bỏ tôi đứng trước cửa ra nằm chườn lên tấm phản kê gian ngoài cùng. Trước mặt tôi, bàn thờ chính giữa đã to giờ trương lên kỳ lạ. Hình ảnh nó phình nở trong đầu tôi. Bức màn đỏ lừ loang rộng. Hốt hoảng tôi chạy nhào vào Thụ. Chiếc quạt tai voi Liên Xô không rào rỉ sét ọc ạch quay tiếng một. Người Thụ đẫm mồ hôi. Giọng anh đừng đững. "Em ngủ đi đừng làm ồn, mẹ không nghỉ ngơi được". Thụ là lạ thế nào. Thường ngày chưa bao giờ Thụ lên giường trước mười hai giờ khuya. Một lần Thụ bị ốm, tôi bắt anh ngủ sớm, anh nói đấy là cực hình. Sao Thụ có thể ngủ vào tám giờ tối hôm nay? Tôi tỏ vẻ quan tâm. "Anh có nóng không, em quay quạt lại chỗ anh nhé?" "Anh nằm phản thấy mát rượi, mấy phút nữa là ngáy, ngủ đi em". Thụ lại đùa. Từ ngày làm vợ Thụ tôi nào nghe anh ngáy nửa giây? Chiếc áo ba lỗ trắng tinh trên lưng Thụ xoay về tôi vẻ cấm đoán. Tôi cười thầm sự cẩn thận ngăn ngừa của anh. Cửa giả mở toang, bàn thờ linh thiêng ngay cạnh, mẹ chồng có thể đi ra đi vào bất cứ khi nào. Dù thèm chồng đến mấy tôi cũng phải gò mình trong bộ đồ ngủ kín đáo mà hậm hực. Tôi cũng không buồn thắc mắc về việc trái khoáy khi anh nói mát rượi mà người cứ đầm đìa mồ hôi. Thụ giờ khắc này sao quá đỗi xa lạ, không còn là Thụ buổi chiều đổ bóng xuống mình tôi. Anh lặng câm yên vị trong ngôi nhà bao tường cũ kỹ. Còn tôi lại muốn vách tường nhà anh rạn nứt để tôi cùng Thụ trốn ra ngoài. Ba cánh quạt tai voi vẫn ì ạch quay rít. Trước lúc thiếp đi tôi mơ hồ nghe lại cái giọng ngột ngạt, nhừa nhựa ập è xin xít nơi đầu lưỡi lúc Thụ cúng lễ. Rồi tôi rơi vào mê man. Loang loáng bãi ngô im lìm hứng sương không gió nào thãng thột. Trăng khuya phổng đứng chiếu ánh sáng sữa đục. Thoắt một cái, bóng tối ngập oà. Tôi thấy mình bừng tỉnh. Cảm nhận không khí ngột ngạt, hãm bức, chật chội vây quanh. Môi miệng khát cháy, toàn thân căng cứng. Nực nồng, oi bức như sắp đổ cơn giông. Ba cánh quạt tai voi ngừng phắt xê dịch. Không một tiếng gió nhưng tấm màn đỏ che bàn thờ cứ chốc chốc lay động khẽ khàng, chỉ mình nó đang chuyển động đỏ lừ trong thời gian lẫn không gian ngưng bặt. Tôi sợ, tôi muốn quay sang ôm Thụ để anh che chở cho mình. Song tôi không thể nào cử động, màu áo ba lỗ trắng tinh chồng tôi nằm sát ngay cạnh như trêu ngươi mà tôi chẳng thể nào nhúc nhích. Không khí mỗi lúc một ẩm thấp, nực nồng khóa cứng lấy tôi trên mặt phản. Tiếng ho đứt đoạn từ trong căn buồng mẹ chồng lôi tôi khỏi đêm đen. Tứ chi rã rời, đầu váng vất, mồ hôi tôi rịn rạn dính bết. Bộ đồ ngủ tự nhiên mở khuy trễ nải lạ lùng. Tôi nhìn hàng cúc nhàu nát lạ lẫm, giống Thụ vừa vò nát chiếc áo và tôi vừa bận lên mình chưa kịp cài khuy. Cạnh tôi, Thụ vẫn ngủ im bằng bặt, ngoan hiền trẻ thơ, đôi má phụng phịu ninh nính. Tôi đâm nghi hoặc, kín đáo luồn tay xuống dưới. Chất lỏng đẫm ướt sền sệt ngầy ngậy mông đùi, thấm nhầy chiếc quần lót mỏng. Thụ trở mình ú ớ giữa giấc mơ. Tôi hoang mang nhìn chồng, cơ thể anh vẫn đầm đìa mồ hôi. Ngày gặp Thụ tôi không còn con gái. Cơ thể săn chắc mượt mà vun đầy hai mươi rúc lên hồi còi dài khi chiếc bóng của anh đổ ập xuống mình. Một buổi chiều, bóng tôi lọt thỏm giữa bốn vách nhà rông trong khuôn viên Bảo tàng Dân Tộc. Bàn chân ai lào xào sỏi đá sau lưng. Náu lặng tôi giữa hồi còi không ngừng rúc lên thúc bách trong da thịt. Chiếc bóng chồm lên chút nữa. Vách nhà rông nuốt chửng ngực tôi nhoi nhói từng hồi còi riết róng. Tôi chăm chú nhìn chiếc bóng đang hắt thẫm mảng sỏi đến gần, chiếc bóng như tạo ra tiếng động trên sỏi bị đè nghiến. Nghe có vẻ khác thường nhưng tôi tin chiếc bóng có thể đè nghiến được cả thế gian này, riêng gì sỏi đá. Chỉ có tôi mới biết điều ấy. Tôi muốn chạy trốn, khi trước mặt bóng đen lừng lững dịch chuyển. Giọng nói cất lên trước lúc cổ họng tôi bật ra tiếng kêu. "Em bị chói mắt phải không?" Gương mặt người đàn ông phúng phính hiện ra dưới chiếc mũ lưỡi trai màu đỏ làm yên hoảng hốt trong tôi. Lúc anh đưa tay sửa vành mũ, tôi nhận ra cánh tay anh dài chạm gối. Tôi biết gương mặt này, cánh tay này, giọng nói này sẽ đóng đinh vào giữa vùng khuất lấp của mình. Vách nhà rông oặn ẹo vặn mình nứt khe. Tôi sẽ chui qua khe nứt ấy, tay tôi sẽ dắt anh cùng đi, chỉ cho anh thấy tôi thuộc về anh từ thuở nào. Anh rồi sẽ ngoan ngoãn nhập vào tôi như một gẫy gập định mệnh. Nhập vào tôi -hẫng hụt tôi- ngạc nhiên anh đêm tân hôn sau đó chẳng là bao. Làm sao để Thụ hiểu vì chính tôi cũng chỉ là người mù trong cõi tối tăm? Một cõi không Thụ, không mặt trời, không cả âm thanh giữa buổi trưa kỳ lạ. Tôi khám phá ra những chiếc bóng trên tường không chỉ đơn thuần là những chiếc bóng. Chúng cũng sống động như thân thể tôi khát thèm một vực thẳm. Chúng vờn vượt trên da thịt non tơ hứng háo của tôi. Về sau tôi biết mình đã đánh mất điều quý giá nhất buổi trưa hôm ấy. Chúng đã cướp mất cuộc đời con gái khi vừa chớm đến, khi tôi vừa mới biết xỏ tay thành thạo vào chiếc su chiêng. Chúng cho tôi biết nỗi sợ hãi khôn cùng, sự ngừng đập trái tim. Và cả khát thèm, chờ trông suốt những năm thiếu nữ khi chúng không còn quay lại. Mọi người nói tôi bị bóng đè, chẳng có gì đáng sợ. Tôi không thể ngờ đó chỉ là số phận. Thứ số phận đã đẩy đưa cho tôi gặp Thụ và làm vợ anh vội vàng, giống một linh ứng mà cơ thể tôi đã ám hiệu rúc còi. Sau đám giỗ, chúng tôi đáp tàu trở lên thành phố. Trên đường về, Thụ luồn tay vào vùng ngực hồng hào của vợ xoa xoa bầu vú, miệng lấm lét cười. Tôi rất thích cử chỉ này của Thụ. Cả điệu cười tươi của anh. Dưới quê Thụ không cười với tôi như vậy, lúc nào cũng ra vẻ lạnh lùng. "Vợ tôi thoát nạn nhà quê rồi, tiểu thư thôi không phải nằm phản mồ hôi nhễ nhại như đêm qua. Sướng nhé". Tôi không sướng, không thoát nạn như Thụ tưởng. Cảm giác như tiếc, như nhớ chiếc phản và bàn thờ với màn đỏ che đậy. Cảm giác lạ lùng mà chính tôi cũng không hiểu. Tôi vẫn không thể nào giải thích được những gì đã xảy ra trên tấm phản. Lẫn lộn tất cả. Nhưng có điều chắc chắn tôi không mơ cũng như Thụ không hề đụng chạm vào người vợ. Ban sáng anh đã giãy lên như đỉa phải vôi khi tôi dọ hỏi. "Về quê có một buổi không được làm hổ cái với anh mà em đã cuồng lên rồi tơ tưởng lung tung. Em thật là..!". Tôi lại mơn nhẹ ngón tay dịu dàng của mình lên môi chồng. Như thế anh sẽ không còn giận dỗi. Bàn tay tôi thật kỳ diệu. Năm ngón ngắn dài với làn da mỏng tanh, như bàn tay của một người khác, có thể làm mọi việc mà tôi không có khả năng. Giá thân thể tôi cũng không trọng lượng như bàn tay đang xoè ra trước mặt. Giá thân thể tôi không có những đòi hỏi cảm xúc như bàn tay đang giơ lên trước nắng. Nhưng bàn tay ấy, của tôi hay của ai, chẳng thể nào phá tan được sự hoài nghi bí mật. Cảm giác trưa hè ngốt ngát năm nao đang trở lại. Chiếc bàn thờ to dài quá cỡ, tấm phản láng bóng thời gian, thung lũng mười một ngôi mộ, tiếng ho khúng khắng trong căn buồng mẹ chồng có liên quan gì đến nỗi hãi sợ mà kích động hứng háo đang chảy xuyên suốt huyết mạch đàn bà trong tôi? Gương mặt Thụ ngó lơ những cánh đồng. Tôi nhìn Thụ đăm đăm. Mùi đất ràn rạt trên cần cổ anh. Tôi nghiện cái mùi ngai ngái trên ngực Thụ mỗi khi nằm sấp trên mình anh hôn tẩn mẩn đầu lưỡi có vị cỏ đắng. Bất giác tôi lại nghĩ đến cái đầu lưỡi đã phát thứ tiếng động ập è xin xít khi Thụ khấn vái. Trở về thành phố, thân thể Thụ trở lại khô ráo thôi đầm đìa mồ hôi. Mỗi bận Thụ cởi trần, tôi ngắm tấm lưng anh nâu om khô ran tựa một mảnh ngói. Khô đến nỗi giá tôi đặt nụ hôn lên lưng anh khi ấy, đôi môi tôi sẽ bốc hơi khô cháy trong khoảnh khắc. Giống như thân thể Thụ đã trút hết nước ở vùng quê hoặc cái buổi tối Thụ nhễ nhại mồ hôi chưa bao giờ xảy đến. Chồng tôi trở lại làm một người đàn ông ưa nghịch ngợm, hay mân mê bàn tay vợ rồi khen dù mập ốm em vẫn giữ được bàn tay của một thiếu nữ. Tôi sung sướng mỗi khi nghe Thụ khen bàn tay mình không thay đổi. Thi thoảng tôi cũng nghĩ đến cái bàn thờ đỏ quạch và tự hỏi có phải mình nằm mơ? Đôi lúc thắc mắc khiến tôi mất ngủ. Nhiều lúc tôi nhíu mắt trước gương tự hỏi mình là ai và cố tìm một trả lời. Thụ trả lời thay tôi bằng cách bồng ẳm tôi lên giường biến tôi thành hổ cái, đánh thức những rực rào của hai bầu ngực tôi liên tục rúc lên những hồi còi dài. Tôi kẹp cứng Thụ không cho anh xổng thoát về với bãi tha ma. Tôi chỉ giật thót mình sau vung vấp nhận ra bãi tha ma vẫn còn ở đó.

Đám giỗ ông nội Thụ sau đấy một tháng. Hai vợ chồng lại thu xếp nhảy tàu lụi hụi về ngôi nhà mái ngói ba gian chất chứa bí mật dòng dõi đế vương. Thụ im lặng suốt quãng đường, mắt trống trải khi tàu vào ga. Tôi nghe tiếng rao bán hàng rong vọng lại thập thòm lẫn tiếng nghiến đường ray. Tâm trạng tôi lẫn lộn. Mơ hồ kinh sợ, mơ hồ mong chờ. Sau cúng lễ, y như lần trước, Thụ đi ngủ sớm. Tôi níu kéo. "Đêm nay anh ôm em ngủ được không? Hôm trước em thấy sợ". "Em lại tính giở trò gì đây? Trời thiêu lửa mà ôm nhau ngủ?" Giọng Thụ cục cằn, ánh mắt liếc xéo chẳng mấy yêu thương. Tôi trơ hẫng trước thái độ của chồng, ở thành phố Thụ chưa khi nào nói với tôi bằng giọng như vậy. Ngón tay tôi rụt vội. Hình như làn da mỏng tanh bị bỏng. Mẹ chồng tôi không mấy vồn vã. Bỏm bẻm trầu cau, gương mặt tôi tối, bà vấn lại khăn trên đầu, mắt nhìn đâu đâu. Làm như mẹ chồng tôi cố tình thức khuya để canh chừng con dâu. Tôi ngó ngón cái tím bầm của mẹ chồng rồi lại ngó lên bàn thờ, vẫn ngôi mộ bằng tro nung và những tấm hình phủ mặt. Tôi cẩn thận đi tắm trước khi lên phản. Phòng tắm tuềnh toàng được quây chiếu lệ bởi những tàu dừa, dưới ánh trăng non vệt ra hình thù kỳ quái. Lớp trăng non lướt mỏng đến tấm phản soi lờ mờ gương mặt Thụ. Trong bóng tối nhìn gương mặt chồng có nét an bình đủ đầy, tôi bớt sợ. Mẹ chồng tôi đã tắt nến. Cơn buồn ngủ đến thản nhiên, một cách thanh bình tựa như nỗi hãi sợ và thân thể tôi là hai tách biệt không liên hệ. Tôi ríu mắt chìm ỉm vào giấc ngủ. Thức giấc, tôi thấy mình khát cháy cổ họng. Làn môi khét khô căng rạn và mồ hôi lấm tấm trên trán, tôi nghĩ mình bị sốt. Người tôi ơn ởn. Mặt phản ẩm rít. Ngoài sân cửa nhà mở toang và ánh trăng vẫn đang rọi những mảng sáng cuối cùng. Đúng lúc tôi chống tay định nhỏm dậy thì tấm màn đỏ nhúc nhích và tứ chi nặng trĩu. Từ sau tấm màn đỏ, những chiếc bóng bay ra lũ lượt tích tụ thành mảng đen lớn. Trái tim tôi muốn nhảy dựng khỏi lồng ngực, tôi nhắm chặt hai mắt trong kinh sợ tột cùng, nhưng vẫn cảm giác rõ rệt trước mặt khối đen đang lẩn nhẩn về phía mình. Tựa quả đất đang nặng nề đè nghiến tấm phản. Trời ơi, tôi phải gọi Thụ, mảng áo trắng ba lỗ chồng tôi lóa rực như con mắt anh mở thao láo trong đen đặc ám mờ. Chỉ cần khẽ nhích cánh tay là tôi có thể đụng vào Thụ nhờ anh cứu giúp. Hình như chồng tôi còn thức, hai tròng trắng ươn ướt trừng trừng. Anh nằm ngửa, hai tay xếp trước bụng ngay ngắn như một xác chết mở mắt. Một thoáng tôi nghĩ chồng tôi đang nhìn lên trần. Một lúc tôi nghe hơi thở Thụ đều đều vung vãi. Làm sao anh lại có thể ngủ ngon đến vậy? Chưa bao giờ tôi ghét cái khuôn mặt phinh phính bình lặng của Thụ như lúc này, anh bỏ mặc tôi đơn độc, nhoài nhã. Khí quyển mỗi phút một nực nồng, rít ẩm, ngột ngạt. Thời gian như bất tận, tôi không dám ngoái lại nhìn mảng đen đã rất gần, chỉ tích tắc nữa sẽ ập xuống mình. Tay chân tê cứng mà lạ thay, hai con ngươi tôi mở to chưa từng thấy, sáng xuyên thủng màn đêm, đến nỗi tôi nhìn được cả những sợi lông mi của chính mình đang vòng cung lên vầng trán căng rát, xót rạn mồ hôi. Dường như Thụ vừa dịch lưng. Anh lăn sát vào tôi hơn, một chút nữa thôi là anh chạm vào người tôi, nhưng Thụ bất động ở ranh giới ma mãnh ấy, bây giờ tôi nhìn rõ hai mắt anh không nhắm tý nào, thậm chí mở to hơn thường ngày. Mảng đen đã thôi uốn lượn trên mền vải, nó thò hẳn vào lùng sục từng bộ phận thân thể tôi. Bàn tay lần rờ trọn đường viền môi, nắn từng chiếc răng xinh xắn, hệt như khi Thụ trườn lên tôi thổi khúc dạo đầu. Đến hai núm vú bàn tay đang lạnh lẽo chợt nóng rẫy. Mỗi ngón thiêu rụi tôi như lửa. Màn đen rẫy rùng khi có tiếng giầy rón rén trên sân gạch và bóng áo cánh khen khét mùi đàn ông hiện ra. Cô út về tới. Bàn tay vẫn lẩn nhẩn nơi êm ái mượt mà làn da bụng con gái. Tôi đinh ninh em chồng mình sẽ nhìn thấy, sẽ tri hô lên và mọi người nhào tới hất mảng đen, chặt bàn tay vô liêm sỉ khỏi người mình. Nhưng Thắm chỉ trân trân ngưỡng cửa nhìn ngắm, hai hàm răng bít chặt, bước những bước ngắn vội vào buồng. Tôi nghe tiếng cười đắc ý sát gần. Bàn tay bắt đầu mạnh bạo hơn gỡ lớp vải kết mồ hôi, bóc tách thuần thục. Mồ hôi tướp ướt đùi non, rãi rà rề xuống mặt phản trơn rít. Rồi khi bàn tay túm trọn lụa nhiễu đen óng, mảng đen bỗng tan loãng hiện rõ hình dáng một con người nghênh ngáo. Tôi hiểu mình phải im lặng, im lặng trong sợ hãi tột tận đời người. Khói đen tan biến hết. Tôi hét lên, tôi thấy mình hét lên một tiếng sập trời khi lờ mờ nhận ra đường nét trên gương mặt đang đè mình. Tia nhìn xéo sắc lạnh, hàm răng hơi nhô đanh ác đầy quen thuộc. Chưa kịp định thần, chiếc quần tôi đã bị kéo phăng bằng một động tác như ảo thuật. Mồ hôi rìn rịn bức bối hai đùi, đúng khi tôi cảm được sự cương cứng thúc lên bụng thì cánh cửa buồng mở toang và mẹ chồng tôi hiện ra với chiếc bật lửa. Tôi muốn vùng chạy khỏi nỗi nhục nhã ê chề. Bóng đen vẫn nhịch, từng phân nhịch xuống. Đôi mắt mẹ chồng nhìn vào phản làm tôi hãi hùng hơn tất cả những gì đang chịu đựng. Tia nhìn sòng sọc, hằn học, cay nghiệt bổ tát mỗi phân vuông cơ thể tôi loã lồ. Ánh mắt ấy như muốn thiêu cháy mỗi sợi lông măng hình hài tôi. Cố vùng vẫy, cằn đạp thoát cái nhìn của bà, tôi quên cả bóng đen đang nhinh nhích đã gần kề cửa sông con gái. Bóng tối tan chảy, lửa bùng lên loang khét tấm màn đỏ. Mẹ chồng tôi phẩy lia phẩy lịa nắm nhang khắp bàn thờ như điên dại. Bóng đen rít lên một tiếng man rợ xoẹt ngang lửa nhang. Bụng tôi kéo một vật gì dài cứng thép. Hụt hẫng rơi tòm tôi xuống đâu đâu. Tôi thấy có làn gió thổi mát sợi tóc, những làn gió làm ngả rạp bãi ngô lao xao. Dưới ánh sáng nhập nhoàng bó nhang tỏa khói, mẹ chồng tôi lê bước chậm chạp về buồng. Và Thụ khịt khịt mũi đạp chân vào đùi trần của vợ. "Sao nửa đêm ai lại thắp nhang thế này?" Lưng Thụ thẳng đứng như bị điện giật khi anh mở mắt. "Em.. em.. em cởi truồng?" Đập mạnh cánh tay xuống phản trong nỗi cứu sinh, tôi choàng tỉnh, biết mình vẫn nguyên vẹn hình hài. Kéo quần lên, tôi quay lưng lại Thụ không giải thích một lời. Giấc ngủ đến ngon tuyệt diệu trong đời. Tôi không biết mắt Thụ hằn lên những tia đỏ dại cuồng. Tôi thức sớm không phải bởi tiếng gà gáy, không bởi ánh nắng chói lóa xuyên tấm liếp cứa da cứa thịt. Tôi thức dậy bởi giọng nói mỉa mai kéo dài đu đượi chua đôi môi hóng hớt của Thắm xỉa xuống tấm phản, đầy tiêu ớt cay xé đã làm tôi choàng tỉnh. "Làm dâu thời buổi này kể ra cũng sướng thật". Lảng ánh mắt của Thắm, tôi thấy mẹ chồng đang ngồi ngoài hè, trông bà nhỏ thó như một đứa trẻ. Bà ngó lơ vườn tược cây cối trong im lặng lâng láo của loài rắn. Im lặng u ám như đêm qua mẹ chồng tôi không thấy con dâu cởi truồng tênh hênh trên mặt phản, đã không phẩy lia lịa bó nhang trước bàn thờ. Dưới bếp Thụ quần đùi bên rổ khoai lang tím. Anh ngừng nhai nhìn tôi không biểu lộ cảm xúc nào. Đôi mắt Thụ vô hồn, tròng mắt anh quạnh quẽ rờn rợn. "Đêm qua anh ngủ có ngon không?" Tôi hỏi gắng gượng. Dường như tôi không hỏi Thụ, nhưng tự vấn chính mình. Tôi không biết chồng mình có nhìn thấy những gì đêm qua trên tấm phản, có nghe tiếng hét mà tôi đã thét lên? Thụ vẫn nhai, khoai lang thì đâu cần nhai nhiều thế, hở Thụ? Miệng anh nhều nhào chất bột chẳng đẹp chút nào. "Em dậy muộn quá đấy". Thụ không trả lời tôi. Câu nói của anh tôi biết hiểu thế nào. Tôi phải tự trả lời cho nghi hoặc của mình, phải tự mình chèo chống qua vùng lũ xoáy. Nhưng tôi biết hỏi ai, tìm ai bây giờ? Bàn tay thon ơi, bàn tay diệu kỳ ơi, bàn tay có biết không, trả lời tôi đi. Tôi thay áo quần, bỏ ra bộ đồ ẩm rít mồ hôi nhàu nhĩ, quần lót đặc quánh thứ chất nhầy ngà tôi chẳng biết gọi tên. Khi trở lên nhà, mẹ chồng tôi không còn ngồi trước hiên. Cả Thụ và cô Thắm cũng lảng lờ nơi nào. Tôi bỗng thấy mình như được cởi dây trói vô hình. Bàn tay ngón dài sáng nay càng thanh tao lạ lùng. Không xui khiến, nó kéo roạc tấm màn đỏ trước bàn thờ, tựa muốn cho tôi thấy điều gì. Quả thực chưa bao giờ tôi nhìn kỹ bàn thờ tổ tiên nhà Thụ. Bây giờ đập ngay vào mắt tôi là hai huân chương liệt sĩ, một Điện Biên, một đường 9 Nam Lào. Hai tấm ảnh truyền thần dương cặp mắt dài dại song vẫn là tia nhìn lạnh lẽo đầy hãnh tiến. Thụ chưa kể tôi nghe về những tấm huân chương này bao giờ. Sống lưng tôi lại ởn sốt. Những đôi mắt đang chằm chằm hắt tia nhìn sắc lạnh lên thân thể. Đôi mắt liếc xéo của những người đàn ông dòng dõi đế vương chết rồi vẫn đội lên đầu xứ sở Trung Hoa. Tôi quay lưng trước đôi mắt đêm qua đã vờn rượt lên tấm thân nóng ẩm kích động đàn bà của mình. Tôi chạy ra sân, chạy xuyên cánh đồng ngô đã vàng trĩu, bóng nhẫy những quả bắp căng rửng hạt tròn. Gió đượm mùi đất ẩm, mùi khô quánh trộn với nước sông tù hãm miết hơi dần dật vừa vuốt ve vừa sờ soạn chiếc áo cánh thêu cành hoa đỏ đậm vắt ngang hai bầu ngực tôi đang thở gấp. Bên trong chúng chẳng có gì mà vẫn bị kềm hãm. Tôi muốn thân thể tôi được giải phóng, tôi muốn bầu ngực mình núng nẩy tự nhiên reo hát. Chúng đang kêu lớn lên rằng đêm qua trí óc tôi không mơ, chúng đã bị vầy vò, bị liếm láp, bị nát nghiền. Tia nhìn xéo sắc lạnh, hàm răng hơi nhô của những tấm hình trên mộ bia thản nhiên, tráo trơ hãnh tiến một cách bình lặng. Bình thường như tôi đã bị cưỡng hiếp. Nhưng sao tôi không chống cự? Phải chăng tôi đồng loã, phải chăng tôi đã ưỡn người lên chờ đón? Phải chăng vòng quay đã được sắp đặt từ buổi trưa ngốt ngát bất thường tuổi thơ đến buổi chiều Bảo tàng Dân Tộc Thụ đổ bóng xuống đời tôi? Nhưng suốt những năm thiếu nữ tôi đã mong chờ, tôi đã khát cháy, giờ đây nó hiện hình sao tôi hoang mang? Vòng quay số phận cuộc đời tôi không phải vòng quay yêu thương. Tôi là ai, từ đâu đến? Tổ tiên đế vương Trung Hoa tay dài chạm gối nhà Thụ muốn gì? Bãi tha ma thênh thang trước mặt. Gió sớm từ sông rì rào đổ thốc qua quần bò áo cánh đen. Thân xác tôi buôn buốt, nhưng nhức từng cơn, nhưng là sự nhưng nhức kích động, hỏi đòi và đau đớn. Tôi sợ chính mình. Cành hoa thẫm đỏ vắt ngang hai bầu ngực vẫn chỉ chực vểnh lên đĩ thoả. Nó đang mơn trớn, dỗ dành hoang đàng. Thung lũng mồ mả mười một ngôi mộ đẫm rượt sương đêm. Những cọng cỏ chà cứa vào chân tôi hay chân tôi lướt lên chúng mời mọc? Mười một ngôi mộ yên bình, sự yên bình thái quá một u mê. Tôi muốn những ngôi mộ nứt đất chui ra từng bóng ma, từng oan hồn liệt sĩ xéo sắc, tay dài chạm gối. Tôi nghĩ mình sẽ không sợ hãi. Tôi muốn họ trả lời tôi họ muốn gì ở đứa con gái nhiều xúc cảm này và có gan hãy hãm hiếp tôi giữa ban ngày ban mặt. Vẫn chỉ là im lặng. Má tôi nóng hực, miệng tôi lại khát cháy. Giật tung hàng khuy áo, cành hoa đỏ thẫm đứt đôi, tôi xoay vòng quanh mười một ngôi mộ. Vú tôi rứng tràn không khí. Vú tôi là đời sống, là hơi thở, là khí quyển. Mồ mả là quá khứ, là huân chương, là tổ quốc. Tôi chạy giữa bãi tha ma thênh thang hoang dại. Tôi múa điệu múa da thịt tươi tốt, thách thức thần linh, thách thức âm hồn dòng dõi Trung Hoa nhà Thụ. Tôi tung tăng thể xác, đôi bầu vú tự do khiêu khích cho đến lúc bàn tay xa lạ có năm ngón thuôn mềm đưa lên cài lại hàng khuy áo ngay ngắn. Tôi đứng nhìn bàn tay của chính mình như nhìn bàn tay của một kẻ chất phác quả quyết giắt tay tôi lầm lũi trở về. Có phải bàn tay của kẻ nào đó còn dính vào cườm tay tôi đã hiểu không thể nào chống cự nổi chiếc bàn thờ to dài quá cỡ với tấm màn đỏ nhức nhối chất chứa cả một quá khứ phi phàm?

Thụ mang ánh nhìn lạnh lẽo trên suốt chuyến tàu xuôi về thành phố. Tôi có cảm giác anh giống một pho tượng ai đặt cạnh mình. Anh náu lặng, làn da chỗ đỏ ửng chỗ nhợt nhạt. Những cánh đồng trơ hoác gốc rạ chạy tăm tắp trong nhập nhoạng hoàng hôn. Tôi không dám nhìn thẳng mặt chồng, chỉ len lén chăm chú lên đôi tay Thụ dường như dài hơn, bất động hơn, khoanh vòng nhiều hơn trước vùng ngực phẳng. Tôi muốn tự mình mân mê bầu vú, để tìm lại cử chỉ âu yếm của chồng. Nhưng tàu cứ tiếp tục rì rì, nhởn nhơ trên con đường dài trơ trẽn. Tôi muốn Thụ hét lên, chửi rủa thành lời những gì đang khoét rỗng đầu anh. Không còn nghi ngờ gì, Thụ đã nhìn thấy cảnh đêm qua, Thụ biết tất cả. Nhưng sao anh không cứu tôi, anh không thiêu cháy bóng đen man rợ bảo vệ vợ mình. Hay Thụ đồng lõa, bán tôi cho những bài vị liệt sĩ khát đói? Tôi đâm hận anh vô cùng. Hận lây sang những ngày sau đó khi đã yên ấm nơi thị thành náo nhiệt, khi chiếc bàn thờ bỏ mặc bụi phủ nhà quê. Mà không là giận nữa, một nỗi hoài nghi thường trực ngày đêm. Cuộc sống vợ chồng dần dà ngường ngượng. Thụ vẫn chăm chút tôi nhưng sự chăm chút đượm mùi sầu thảm. Chẳng còn lửa cháy, chẳng còn nồng nàn. Tôi thôi không hực lên hổ cái mỗi đêm trên người Thụ. Tôi không vồ nuốt lấy anh, hối hả rúc mặt vào trong nách anh tìm hương vách nhà rông của buổi trưa nào ở Bảo tàng Dân Tộc. Thụ cũng chẳng mấy mặn mà chuyện ái ân. Bàn tay anh thôi vuốt ve bóp nắn. Tôi cũng thôi cắn đầu lưỡi Thụ có mùi cỏ đắng. Mỗi sáng sớm thức giấc, tôi không còn cảm giác tội nghiệp nào cho Thụ. Và anh cũng không còn véo mũi tôi cảnh cáo đêm qua. Chúng tôi lặng im, không la hét, không dọ hỏi để tìm nguyên nhân, không một giải thích nào. Ngầm hiểu với nhau. Như đã cài trong đầu tôi và Thụ chuyện phải xảy ra để mà chấp nhận. Đời sống bình lặng, trong bình lặng giấu diếm giằng xé với những mẩu đối thoại đều đều như kinh nhật tụng. "Hôm nay anh đi làm mệt lắm không?" ... "Em trông mắt anh trũng sâu, đừng gắng sức nữa". ... Nhưng thân thể tôi thì không im lặng. Đêm khuya, khi đèn đường nguội lạnh, cạnh mình Thụ xoay lưng thin thít thì làn da tôi lại hực hội khát thèm. Tôi thấy vú tôi nở ra trong đêm tối, nở lớn như một đóa vạn thọ bất chợt bung cánh, to bằng một cái bát. Thân thể tôi giống một quả mít tố nữ ngậy thơm đợi bổ đôi. Lẫn trong thao thức, tôi nhớ tấm huân chương liệt sĩ Điện Biên lấp lánh, huân chương Đường 9 Nam Lào sáng choang động đậy. Đùi tôi thèm được rát rẫy mồ hôi, bụng thèm cảm giác cứng cáp quệt ngang đâm vào. Tôi biết như thế là tội lỗi, nhưng rồi lại tự nhủ đó là một thứ tội tổ tông mà chẳng ai có quyền chê trách. Tôi biết phải chấp nhận để tồn tại. Tôi yêu Thụ và anh cũng yêu tôi thực lòng. Sống trên đời ai chẳng có nỗi khổ, đâu riêng gì vợ chồng tôi. Nhưng rồi giỗ tổ lại đến và tôi không thể giấu diếm khoác lên mình bộ mặt bình lặng được nữa. Thụ cũng vậy, sau sự việc, đôi má anh hóp sâu chẳng còn phúng phính. Ngày oi nồng khi hai vợ chồng nhìn tờ lịch, thu xếp cặm cụi về quê. Nếu là những lần trước, tôi sẽ liến thoắng hỏi Thụ giỗ ai mà về. Giờ đây như một lẽ thường tình, tôi chẳng cần phải hỏi. Một năm mười sáu đám giỗ, cứ thế mà ngược tàu. Tôi lại mơ hồ kinh sợ, mơ hồ mong chờ, phập phồng theo tiếng nghiến đường ray với bãi tha ma chập chùng. Mọi chuyện vẫn diễn ra như bất kỳ đám giỗ nào nhà Thụ với nhang khói, với âm thanh khấn vái xin xít, ập è nơi đầu lưỡi Thụ. Chỉ khác một điều, lần cúng giỗ này vào buổi trưa. Mẹ chồng tôi bảo các cụ báo mộng cho bà làm như thế. Tất nhiên các cụ đã nói thì phải nghe. Ai nào dám cãi nửa lời. Còn nhớ ngày cưới, mẹ Thụ gọi tôi ra góc riêng, giọng bà nhỏ quá mức mà làm tôi run rẩy. "Chị về làm dâu trưởng nhà này trách nhiệm nặng nề. Lấy chồng theo thói nhà chồng, mọi thứ đều có lễ nghi, trên dưới, cứ thế mà làm. Chị làm khác sẽ rước hoạ vào thân, tôi nói trước". Hân hoan hạnh phúc tôi quên mất giọng nói sắc ngọt của mẹ chồng hôm ấy. Trưa nay nó vọng rõ mồn một, thấu tim óc đứa con gái đang nuôi những vực thẳm khổng lồ trong mình chẳng khác nền trời không xanh lồng lộng cũng đang nuôi những tảng mây tối sáng lừ đừ. Thụ đi nhanh qua khoảng sân rát nắng, phịch lưng xuống phản nặng nề. "Sáng nay dậy sớm đi tàu mệt quá, nghỉ trưa cho lại sức. Em thần người ra đấy làm gì, nghỉ đi". Thụ nói với tôi bực bõ. Làm như tôi cản trở gia tộc anh chuyện gì đó, làm như tôi chưa phục tòng khuôn phép gia đình anh đúng mức hay tôi phá đám giỗ nhà này. Tôi băn khoăn thắc mắc vì sao Thụ phải đổi giọng mỗi khi có sự hiện diện của chiếc bàn thờ? Thụ nói với tôi hay xin phép mẹ? Anh không nhìn tôi mà cũng chẳng nhìn mẹ đang ngấp nghé cửa buồng. Anh nhìn tấm màn đỏ bất động đang rang lửa. Bao nhiêu nhang thắp lúc nãy cháy cằn, tàn tro giữ nguyên dựng đứng như hình chĩa ngọn chông, trơ khấc tàn bạo. Thốt nhiên tôi muốn sập màn che giấu. Nhang cháy không cuộn thành vòng, không có điều tốt. Tia liếc xéo từ căn buồng mẹ chồng tôi bùng rát khuôn mặt, tôi ngoái đầu, chỉ là hai cánh cửa khép im lìm. Dạo này mẹ Thụ không còn nhìn thẳng mặt tôi nữa. Những cái liếc xéo lởm chởm nguyền rủa của bà hơn một hôn mê, một thôi miên hoà lẫn tiếng xoong chảo cô út vùng vằng ném đập ngoài giếng dìm xuống nước chìm ỉm trong nhiệt độ tăng cao và chiếc quạt tai voi xoay lấc láo. Tôi ỉm mình trong bỏng rát chật chội, hãm bức mê man. Tôi nói thầm nhà quê là thế ấy, lập đi lập lại cho đến khi giấc ngủ đến, rồi vô cớ thức giấc. Lại khát. Thụ dang rộng tay, một chân gác lên đùi tôi như kềm giữ. Ngạc nhiên chưa! Thụ không có thói quen này. Vừa lúc tôi gượng mình vươn vai thì lặng phắc đất trời. Trong tư thế ưỡn ngửa, tôi trơ cứng bất động. Đám mây nằng nặng trôi qua khoảnh sân làm tối sầm gian nhà, tối sầm bức màn đỏ tôi đã kéo che những nén nhang cháy quằn quại. Sau bức màn đỏ, bóng đen thản nhiên bước ra. Lần này hiện rõ hình hài con người. Tôi không còn sợ hãi mà nghênh mặt ngắm nhìn. Nó mang trong mình dáng hình của một lão già Trung Quốc nào đó đầy quyền uy chập chờn trên cái nền lát gạch tàu. Lão Tàu xa xăm, bí ẩn, vừa đen tối vừa có sức hút lạ kỳ, quyến rũ khác thường, vừa giông giống bố chồng tôi. Tôi chăm chăm theo dõi mà vẫn phân định bên ngoài mây xám đã quệt qua khoảng sân, hắt thứ ánh sáng âm âm xuống lũ cây cối, và chỉ cách vài thước, mặt trời đang hực nắng nhựa đường. Cơn khát gắt gỏng nhức nhối trong cuống họng làm mặt mũi tay chân tôi chìm sâu trong nỗi hoảng loạn của thể xác dù phần trí não vẫn tỉnh táo. Khát mỗi sợi tóc. Khát từng nếp gấp làn da. Khát mỗi đốt xương. Khát từ hàng mày. Khát xuống viền môi. Khát trên đồi cao vươn ưỡn. Khát xuống thảo nguyên dang rộng. Khát như chờ đợi bóng đen nhịch nhịch, đến gần tưới nước. Mồ hôi tướp xót mi mắt. Mồ hôi rịn rạn da thịt đùi non. Nhỏ giọt giọt xuống mặt phản đen bóng. Phản này Thụ nói có từ lâu lắm, dễ đã bảy tám đời ngủ nghê, ăn uống, sinh con đẻ cái và khâm liệm. Tấm phản mang quá khứ của gia đình Thụ, xa xôi, chất chồng. Còn tôi, hiện tại, một đứa con dâu đĩ thỏa đang ưỡn ngửa căng rát đón chờ. Bóng đen đã đứng ở khoảng giữa hai chân tôi tách rộng. Từng đường nét trên gương mặt lạnh lùng không hề xa lạ hiện rõ. Sao mà giống Thụ đến thế. Rõ ràng là Thụ. Chân Thụ đã rơi khỏi đùi tôi tự lúc nào giống thả cho tôi tự do đối mặt bóng đè. Anh vẫn nằm nghiêng, quay hai con mắt nửa nhắm nửa mở, như muốn chứng kiến. Lúc đôi tay quờ xuống rà rẫm, tôi biết trước chiếc bóng muốn gì, thứ mà mọi đàn bà trên thế gian khi nằm ngửa đều biết. Tôi dang rộng chân lúc nghe tiếng ho buồng trong dội lại. Tiếng ho càng lớn tôi càng dang rộng chân như muốn thách thức. Chính tôi cũng không hiểu vì sao mình có thể dang chân trong lúc tứ chi bất động, muốn vùng dậy mà không được. Cơ thể tôi không vâng phục trí não nhưng vâng phục thèm khát của cái bàn thờ. Những tiếng ho đứt rời, cằn cộc, tiếp tục cay thét, làm như mẹ chồng tôi muốn biểu lộ ganh ghét với chỗ tôi đang nằm. Hai bàn tay thả xuống mạnh bạo, riết róng, hơi thở dập dồn. Nó luồn sâu bóp từng mạch máu chảy sôi huyết quản con gái đôi mươi. Gương mặt sà sát vùng cổ như muốn hút sức sống tôi căng rứng. Rồi lồng ngực bỏng rát, tôi vỡ vụn. Nó đang banh trái tim tôi ra. Tôi hét, tôi vùng vẫy, tôi van xin, hổn hển, oằn oại rên rỉ. Ông muốn gì ở tôi. Tôi biết phận dâu con, tôi sẽ làm tròn bổn phận. Mỗi năm tôi sẽ làm cơm cúng mười sáu đám giỗ. Tôi sẽ dọn sạch thung lũng mồ mả, sẽ lau bóng nhoáng bàn thờ. Sẽ sinh mười một đứa cháu trai cho ông. Bóng đen tảng lờ. Hai bàn tay bạo lực hung hãn khoét sâu, ngoáy vòng. Tôi điên đảo, đau đớn, nộ cuồng rồi tôi cười gằn thỏa mãn với ý nghĩ mẹ chồng tôi cũng đã nằm trên tấm phản này cũng đã dang chân cho nó ngoáy vòng. Sáng tối lẫn lộn. Tôi nhắm mắt cho trăm đời dòng dõi đế vương quần thảo, cho đến lúc đỉnh đầu nhức buốt, tôi bật nức nở man dại. Tiếng ho buồng trong lúc ấy hộc từng cơn xé phổi. Gần như Thụ bị bắn tung vào góc nhà, tôi có cảm giác thế, đôi mắt anh trừng trừng căm hận. Tiếng càu nhàu của Thụ cắt đứt giấc ngủ tôi mề mệt. "Em thấy tháng sao không mang băng vệ sinh? Con gái mà đoảng quá. Mau dậy thay áo quần, lau chùi tấm phản đi". Vẫn bàn tay mảnh dẻ đập xuống phản giúp tôi dậy. Tôi nhìn Thụ rười rượi uất ức. Anh mở mắt, anh chứng kiến, anh vờ như không có chuyện gì. Anh cũng không còn để ý chu kỳ của vợ. Tôi chỉ vừa sạch vài ngày làm sao thấy tháng? Vả lại thứ máu loang áo Thụ, thứ máu đen đặc mặt phản, thứ máu quện bệt đùi tôi không phải máu đàn bà mỗi tháng. Mà là máu tươi chảy róc từ vết thương rách toác bị đâm sâu hung bạo. Mọi người bảo tôi bị bóng đè, nhưng bóng đè chỉ là giấc mơ khi đang ngủ, còn tôi rã rời, hai đùi nhớp nháp máu trộn nước con gái. "Em còn ngồi ỳ ra đấy, làm nhanh lên, mẹ dậy bây giờ?" Thụ chưa hết câu thì cửa buồng kẹt mở. Khuôn mặt mẹ chồng tôi đỏ gắt, tay lóc xóc quạt nan. Dừng cái nhìn nơi mảng áo đỏ con trai, nơi mặt phản ướt đen, bà ngẩng đầu bước thẳng đến bàn thờ kéo roạc tấm màn đỏ sang bên, châm lửa đốt nhang. Trưa chuyển về chiều, không ngọn gió nào chạy loạn. Tôi ngồi chết lặng. Vợ anh bị hiếp nhưng Thụ chỉ sợ mẹ dậy. Thụ tốc áo qua đầu ra giếng dội ào ào như muốn dội chất hờn căm trên mình anh hay muốn rửa ráy những dơ bẩn thay cho vợ. Tắm xong, anh trở thành một người khác. Chúng tôi không đủ sức lực, can đảm mang trên mình bộ mặt bình thản thường nhật cố dối lừa bản thân được nữa. Thụ ít nói hẳn đi, gần như là im lặng. Hiếm hoi mới thấy nụ cười của anh, có chăng là trong một vài lần xã giao bắt buộc. Đôi má anh hóp, ngày một sâu hơn. Tôi thường lén nhìn chồng, nhưng Thụ đã vĩnh viễn không còn sờ nắn bàn tay tôi mà khen ốm mập, ngắn dài. Ngôi nhà của chúng tôi ở thành phố giống một am thờ. Đôi khi tôi hận anh. Vì lấy anh tôi mới về căn nhà xưa cũ đó, mới nằm trên tấm phản ấy, mới ra nỗi đoạ đầy bây giờ. Nhưng Thụ không còn nhìn thẳng mặt tôi. Hình như anh không muốn nhìn bất cứ cái gì, không muốn nghe bất cứ điều gì. Có bận, tôi bắt gặp anh ngồi câm điếc trong buồng tắm cả buổi chiều, ánh mắt vô hồn. Tôi thương chồng và thương chính mình. Thụ đau đớn một tôi đau đớn mười. Tôi là đứa hư hỏng. Tôi biết mình bị hãm hiếp trước bàn thờ tổ tiên nhà chồng, trước mặt chồng, nhưng tôi lại bồn chồn, mong nhớ, thậm chí khát thèm cảm giác ấy. Tôi đạp quẫy, nội chiến, tâm linh héo rũ. Tôi thay rèm cửa màu đỏ, khăn trải giường màu đỏ, bao gối màu đỏ, cố trang trí căn nhà hao hao giống một trang thờ với nhiều tấm màn đỏ. Thụ không phản ứng gì. Đêm này qua đêm khác, khi tấm rèm cửa trong ngôi nhà thành phố bắt đầu phai màu nhức nhối, tôi và Thụ lại ngược tàu về ngôi nhà mang nhiều oan khuất. Trước hôm đi tôi bị lên một chiếc nhọt ở chỗ thật tai hại. Nó nằm gần cái đàn bà ê ẩm, đỏ tấy. Thụ thấy tôi nhăn nhó tỏ vẻ thông cảm, anh bảo tôi nếu đau quá không về cũng được, anh sẽ thưa lại với mẹ. Nhưng tôi đời nào bằng lòng, đời nào để chiếc phản trống trơn mình Thụ đêm dài. Chỗ của tôi là ở đấy. Không hiểu sao tôi thấy mình khoẻ mạnh, háo hức lạ thường. Tôi ngượng ngùng tự thừa nhận với mình nghiện mười sáu đám giỗ, mười một ngôi mộ, tấm phản đen bóng, cả tiếng ho cục thét buồng trong. Tôi phê cảm giác khát cháy, nhào nhoẽ mồ hôi. Chiếc bóng đen đúa làm tôi mê hoặc, xô đẩy tôi trong gầm thét cuộn trào. Thụ đau đáu trước thái độ phấn khích của tôi, dường như anh biết từ trước tôi sẽ phản ứng ra sao. Nhìn mặt anh lạnh lẽo, tôi hiểu. Cẩn thận, Thụ bắt tôi trần truồng dạng chân, chống tay trong phòng tắm, ghé sát cặp kính cận xem xét. Tôi sướng run lên vì cử chỉ thân mật này của chồng. Từ ngày ở quê lên, chưa khi nào anh ân cần đến thế. Tôi thầm cảm ơn chiếc nhọt, biết đâu nhờ nó, tất cả sẽ thay đổi. Ngón tay anh ve vuốt dịu dàng, người tôi mềm nhũn. Nhưng anh dịu dàng lâu quá, dịu dàng tôi không chịu nổi. Tôi muốn anh bóp nát, bục vỡ, tan oà chiếc nhọt. Một lần chồng vợ đã đời để quên hết. Ngón cái của Thụ cứ chờm hỡm trước cánh cửa dang rộng ẩm sâu. Tự nhiên tôi muốn buông một câu chửi thề, chửi thề một lần trong đời. Cánh cửa tự động cài khóa. Sao Thụ không cứ thế mà làm? Cứ thế cắm phập xuống. Cứ thế khoan sâu. Sao cứ chờm hỡm đấy mà dịu với chả dàng? Tôi bật khóc, nghĩ rằng nỗ lực cứu sông, cứu thuyền thế là hết. Nhưng khi đêm xuống trên tấm phản, tôi nằm sấp, cánh cửa lại mở tanh bành. Sông ngập nước. Tỳ ép mắt mũi xuống mặt phản, tôi không ngờ bóng đen nhanh đến vậy. Không rà rẫm xoa xuê, không hít hà rờ ngửi. Vừa kịp hiện ra sau tấm màn đỏ đã thẳng thừng cắm trên cắm dưới vào lòng sông. Lần đầu tiên tôi không khát nước. Gẫy gập, cắt khúc tôi trong cơn xoáy liệt. Bốc cao, phịch hạ, chèn lấp, tọng đầy, thả hút mê man. Thân thể tôi ngầy ngậy, nước tràn miệng. Lần đầu tiên tôi hưởng thú đau đớn mà thỏa mãn. Tiếng ho ngừng lặng sau cao trào. Thụ ấm ớ giữa cơn mê lãng nhoẹt nào, trừng trừng mở mắt, bọt mép nhoè môi. Lúc cử động được chân tay tôi thấy mình hẫng nhẹ. Có gì khang khác. Sực nhớ tới mụn nhọt tôi đưa tay xuống dưới. Trời ơi. Xẹp nhép. Khô cong. Không còn mủ vàng, không còn đau tấy. Lao mình ra sân, dưới ánh trăng già tôi gào thét điên dại với hai hàm răng nghiến chặt. Trăng lạnh tanh, vàng võ. Tôi quỵ gục hoàn toàn. Tôi thương tôi và tôi ghét tôi. Tôi đã đồng loã, đã kiễng chân lên rên rỉ rồi sau đấy lại nghĩ mình bị hãm hiếp, lại căm oán bóng đen tổ tiên nhà Thụ. Rồi lại mong chờ, lại hứng háo thèm thuồng. Bóng đen ấy hiểu tôi thích gì, nó tràn lấp dục vọng trong tôi và đẩy Thụ xa cách. Hai bàn tay tôi dưới trăng xanh trắng, bấu chặt, xiết nhau. Tôi hiểu những ám dấu của cơ thể, hiểu mười ngón tay kỳ diệu đang mưu tính điều gì. Bàn tay da mỏng tanh của tôi bắt đầu động đậy. Bàn tay diệu kỳ không trọng lượng và cũng không chấp nhận, không đồng loã, không thỏa hiệp mọi chuyện. Nó muốn tôi thoát khỏi mê man. Những ngón dài trắng xanh đầy kiên quyết tỳ ép ngòi bút trên tờ giấy. Nó thúc bách tôi phải ly hôn với Thụ. Bàn tay ký lên trang giấy, nhưng thân thể tôi ù lỳ không nhúc nhích, không muốn cử động mà ngồi yên vít chắc vào mặt phản, nhất quyết không đi đâu. Thân thể tôi đã u mê trong nhang khói bấy lâu, cưỡng lại bàn tay với tất cả sức lực của nhung nhớ những phập mạnh, đâm sâu. Bàn tay mảnh dẻ cầm bút, bất lực với tự do đã nắm được ở đầu ngón tay nhưng bị trọng lượng thân thể buộc trói. Rồi máu không còn nhỏ xuống chân tôi nữa. Cơ thể thỏa mãn trong im lặng. Cái thai trong bụng tôi, không phải của Thụ, không của bất kỳ người đàn ông nào cứ lớn dần. Thụ thay đổi, xoay sang vỗ về, chăm sóc vợ từng ly từng tý. Anh thường xoa xoa bụng vợ, thường xuyên nhìn lên vách như anh muốn báo cáo với những chiếc bóng đang canh chừng cẩn mật, tiến trình tăng trưởng của đứa bé. Con tôi sẽ tiếp nối truyền thống Trung Quốc, sẽ tiếp tục thờ cúng bóng tối, sẽ tiếp tục banh dạng trên phản cho các liệt sĩ thỏa mãn. Nếu là bé trai, con trai tôi sẽ bảo vệ cái bàn thờ, nếu là bé gái, con gái tôi sẽ tiếp tục hiến dâng cho những tấm huân chương. Tôi đã khinh ghét cái thai, đã tính đến chuyện giết nó đi nhưng ý nghĩ chỉ thoáng qua nhanh như một cơn gió độc làm nổi gai khắp cùng châu thân. Tôi thương giọt máu của mình.Tôi thương đứa bé vô tội cũng bất lực như tôi đã bất lực, đã khép mình làm bổn phận sinh nở, di truyền một quyền lực. Mỗi ngày tôi ra ngồi trước sân, đưa bàn tay nhẹ hẫng ra trước mắt, ngắm xem làn da mỏng tanh đang óng ánh dưới nắng, rồi lấy bàn tay ấy vuốt ve đứa trẻ đang quẫy nhè nhẹ, thấy yêu thương vô hạn hòn máu tôi đang mang trong mình, yêu thương tràn lấp tâm hồn đến chẳng nói thành lời. Không biết có người mẹ nào yêu thương bào thai của cha chồng cấy vào bụng như tôi? Không biết có người mẹ nào yêu thương di sản của tăm tối như tôi? Thi thoảng tôi cũng nhìn lên vách, đoán tìm những chiếc bóng mà tôi biết đang rình rập sau bức tường, đã lao xuống mình tôi cướp mất phần trinh trắng tuổi thơ một buổi trưa hè nào và sẽ còn lao xuống cướp nốt thai nhi tôi đang mang. Thi thoảng tôi nói với những oan hồn chuyên hành nghề bòng đè, tôi đã sẵn sàng và con tôi cũng sẵn sàng, chúng tôi sẵn sàng như những người nghèo sẵn sàng bán máu. Chúng tôi không biết chọn lựa vì cơ thể chúng tôi đòi hỏi những nhục cảm mà bóng tối ban phát. Chúng tôi bất lực, chỉ còn những ước mơ mà không chiếc bóng nào có thể tước đoạt. Tôi đưa tay mình ra sáng. Nắng lung linh trên năm ngón dài ngắn thanh tao lạ thường. Chiến tranh, giông gió, bão lũ, hán hạn, tôi có thể chết đi rồi mà bàn tay vẫn nguyên vẹn. Tôi đinh ninh điều ấy. Con tôi sẽ có bàn tay của mẹ. Một bàn tay không béo gầy, không trọng lượng, chỉ có làn da mỏng tanh nhưng biết níu giữ tự do cho dù bị thân thể buộc trói. Nắng tắt, mà bàn tay vẫn óng ánh diệu kỳ.

Hà Nội, 6-2004

Đỗ Hoàng Diệu

Bóng người trong sương mù Ở ngoài, đêm tối như mực. Trong toa hạng nhì, riêng tôi ngồi đối diện với Trạch - một người bạn cũ, tình cờ gặp vì đi cùng trong một chuyến xe. Mười năm trước, bạn tôi còn là một người cầm lái xe lửa, cũng hàn vi như tôi; bây giờ gặp lại nhau trong toa hạng nhì, hai người cùng ngạc nhiên và cùng mừng cho nhau. Lúc nói chuyện, tôi thấy bên bạn có cái hộp khảm rất đẹp liền cầm lấy xem, rồi tình cờ mở hộp ra; bạn tôi có ý không bằng lòng nhưng vì nể tôi nên không nói gì. Tôi nhìn vào hộp thấy lạ: hộp bịt kín, ở trong có một con bướm rất to, hai cánh đã xơ xác. Tôi hỏi bạn : - Con bướm này vùng tôi thường thấy luôn, quý gì mà anh giữ cẩn thận thế này? - Vâng, bướm thường, nói cho đúng thì là một con ngài, nhưng đối với tôi... Vừa nói đến đấy, xe rầm rập đi qua một cái cầu sắt. Bạn tôi lắng tai nghe rồi nói : - Xe đi qua cầu N.G. Tôi bắt con bướm chính ở giữa cái cầu này đã mười năm nay... Thấy bạn có vẻ khác, tôi đoán có chuyện gì, liền hỏi : - Con bướm này chắc cũng có sự tích gì đây? - Vâng, những sự tích buồn... Chuyện đã ngoài mười năm trước độ anh đi Sài Gòn thì tôi còn là anh cầm lái tàu hỏa. Chính độ ấy tôi chạy con đường này, tình cảm tôi độ ấy anh đã rõ. - Cũng như tình cảnh tôi... - Nhưng có một việc tôi không nói cho anh hay là độ ấy tôi có lấy một người vợ, nhưng giấu nhà, giấu mọi người, giấu anh. Chúng tôi sống trong cảnh nghèo khổ mà thật lấy làm sung sướng. Nhưng vì cảnh nghèo, vì nhà tôi không quen chịu được kham khổ nên người mỗi ngày một yếu dần. Về sau, nhà tôi bị bệnh nặng mà tôi thì vẫn phải đi làm, không ai trông nom ở nhà. Một đêm nhà tôi yếu quá ngất người mấy lần, mà chính đêm ấy là đêm tôi được ông Chánh cử đi cầm lái chuyến xe riêng chở quan an toàn quyền. Thật là một dịp rất hay cho tôi. Nhưng tôi biết không thể nào đi được, liền thưa với ông Chánh, nói là vợ ốm. Ông Chánh đập bàn, đập ghế, gắt : - Tôi không biết! Một là mười giờ đêm nay anh phải có mặt ở ga, hai là từ giờ này trở đi anh đừng bước chân tới đây nữa. Thôi anh ra. Lời ông Chánh nói quả quyết, tôi phân vân không biết nghĩ sao: lúc về nhà, ngồi ở đầu giường, nhìn đến vợ mới biết rằng không đi được, dẫu mất việc làm cũng không cần. Nhà tôi thấy tôi có vẻ lo nghĩ, hỏi duyên cớ vì sao, tôi liền đem việc ấy ra kể cho nhà tôi nghe. Nhà tôi nghe xong, vẻ mặt tươi hẳn lên, bảo tôi rằng : - Thế cậu đi chứ! Việc gì phải ngần ngừ! Tôi không việc gì đâu, đã thấy đơc nhiều. Chiều mai về nhớ mua cái gì làm quà cho tôi đấy. Tôi thấy nhà tôi cười vui vẻ, tôi vững tâm, thay quần áo ra ga. Ðến ga đúng mười giờ. Nhưng khi cho xe chạy rồi tôi mới thấy lo, tôi mới biết là tôi liều. Lúc đó tôi có cảm giác lạ lắm: hình như tôi đi thế này, lúc về chắc không nhìn thấy mặt vợ nữa. Tôi cố định trí để cầm lái nhưng chỉ được một lúc thôi. Bỗng cả chuyến xe lửa nghiêng về một bên, rồi lắc lư như muốn đổ. Người "ét" của tôi vội bỏ cái xẻng xúc than, níu lấy tôi, nói : - Ô hay! Hôm nay ông làm sao sao thé? Chỗ ấy đường cong nguy hiểm thế mà ông không hãm máy. Ông ngủ à? Tôi không ngủ nhưng người tuy ở đây mà trí còn nghĩ tới người vợ nằm đợi chết một thân, một mình trong gian nhà nhỏ kia. Mắt tôi hoa lên, mồ hôi ướt đẫm cả người. Xe đi vào khe núi, hết lên cao lại xuống thấp như có vẻ nhọc nhằn. Tôi thò đầu ra cửa nhìn thẳng trước mặt, nhưng đêm ấy, sương mù đầy trời, không nhìn rõ gì cả, chỉ một màu trắng xóa dưới ánh hai cái đèn ở đầu toa. Bỗng tôi thấy ... rõ ràng, tôi thấy in trên sương mù một cái hình người đàn bà mặc áo rộng đứng dang tay. Tôi dụi mắt tưởng mình trông hoảng, nhưng không, hình người đàn bà vẫn đấy. Tôi gọi người "ét" lại cửa toa, bảo ông ta nhìn rồi hỏi : - Bác có thấy gì không? Vừa nói xong, hình người vụt biến mất. Bác "ét" thò đầu ra và bảo tôi : - Chỉ thấy sương mù! Ông lại mê ngủ rồi - Không, rõ ràng tôi thấy có hình người đàn bà in trên sa mù nhưng vừa biến mất. Người "ét" cười ra vẻ không tin, lấy xẻng xúc thanh cho vào lò, còn tôi vẫn đứng nguyên chỗ cũ đăm đăm nhìn thẳng trước mặt. Ðược một lát, hình người đàn bà hiện ra, lần này rõ ràng hơn, hai tay vẫn dang thẳng như muốn ngăn đường, không cho xe chạy lên nữa. Tôi gọi người "ét" nhưng bác ta làm bộ không nghe thấy, cứ cắm đầu xúc than cho vào lò. Tôi biết tôi không mê, tôi biết là cái hình người ấy có thật. mà ai nhìn cũng phải thấy. Tôi đến cầm tay bác "ét" kéo bác ra xem rồi bảo, quả quyết : - Nhìn xem.! Bác ta há hốc mồm giương to đôi mắt hốt hoảng nói : - Lạ thật!... Ma ông ạ! Xe tiến đến đâu, cái hình bóng người lui đến đấy, có lúc mờ, có lúc rõ, lơ lửng giữa lưng chừng trời. Rồi cái hình người ấy vẫy hai tay một cách thong thả, như có ý bảo chúng tôi đừng tiến lên nữa, có sự nguy hiểm. Tôi bảo bác "ét" : - Bác này, lại có sự gì lại sắp xảy ra. - Vâng, sao cái hình lại như lấy tay làm hiệu bảo ta đứng lại. Cái hình người trước còn vẫy tay thong thả, sau vẫy thật nhanh như người tỏ ra ý thất vọng vì bảo chúng tôi không nghe. -Hay ta dừng xe lại xem sao, chắc là ma! - Không được, tự nhiên vô cớ. Còn tôi lúc bấy giờ tai ù như người mất trí khôn, tôi văng vẳng như có tiếng người ở thật xa đưa lại, tiếng một người đàn bà bảo tôi : - Ðỗ lại! Ðỗ lại! Tôi lắng tai, tay nắm chặt lấy cái phanh như định hãm lại rồi lại không dám hãm. Một lát sau, tôi lại nghe thấy tiếng người đàn bà, rõ hơn lần trước, giục tôi : -Hãm lại! Hãm ngay lại! Lúc bấy giờ tôi không biết nữa, nhắm mắt hãm phanh thật mạnh. Các toa rùng một cái, bánh xe kêu rít lên trong đêm thanh vắng, xe chạy từ từ một quãng rồi đỗ hẳn. Tôi chưa kịp bước xuống, đã thấy người "xếp tanh" cầm đèn chạy lên hỏi : - Việc gì thế? Tôi luống cuống không biết trả lời làm sao, vì nói thật ai tin mình. Tôi trả lời một cách mập mờ : - Chắc có sự gì lạ. Ðể tôi cầm đèn đi xem trước đã. Lúc bấy giờ mấy ông hầu quan Toàn quyền cũng vừa đến, rồi thấy lạ, đi theo chúng tôi. Vừa đi được một quãng thì nghe có tiếng nước chảy ầm ầm. Tôi định tâm mới nhớ ra rằng đó là cầu N.G Mấy đêm ấy mưa lũ, nước chắc chảy xiết, nên mới réo to như vậy. Ðến bờ sông, giơ đèn lên soi, mấy người đều kinh hoảng: cái cầu N.G bị nước nguồn chảy về xoáy gãy làm đôi. Một tý nữa, nếu không hãm kịp thì cả một chuyến xe riêng chở Toàn quyền đâm nhào xuông sông sâu, chắc không sống sót một ai: tưởng không có cái tai nạn nào ghê gớm hơn, thế mà chính nhờ tôi, nên mới không có cái tai nạn ấy. Tôi đứng ngẩn người không hiểu ra sao cả. Người "xếp tanh" mừng cuống quít hỏi tôi : - Sao ông biết mà hãm? - Tôi cũng không hiểu. Mấy người quan hầu có vẻ mừng lộ ra mặt, xúm xít quanh tôi hỏi dồn, tôi không biết trả lời ra sao, một lát mọi người đứng dãn ra. Quan Toàn quyền đến - ngài không nề tôi là người lao động, trong lúc mừng quá, ngài giơ tay bắt tay tôi, cái bắt tay đầu bụi than rồi ngài tỏ lời khen. Tôi chắc rồi sau thế nào cũng được trọng thưởng, nhưng trọng thưởng lúc đó đối với toi cũng như không, tôi chỉ nghĩ đến nhà tôi ở nhà, không biết ra sao. Tôi đi trở lại và thoáng thấy con gì bám ở cái đèn để ở đầu toa, nhìn kỹ thì ra một con bướm thật to, vướng vào đèn đương đập cánh để tìm đường thoát. Chính là con bướm trong cái hộp này đây. Trông thấy con bướm, tôi thốt nghĩ ra ngay. Chính phải rồi, chính cái hình người đàn bà lúc này là cái bóng con bướm này in lên trên sương mù, đầu con bướm là đầu hình người mà hai cánh con bướm đập là hai cánh tay người vẫy. Tôi bắt con bướm rồi định thả nó bay đi; sau nghĩ con bướm đã giúp mình được việc, nên giữ lại làm kỷ niệm. Tôi nhìn vào đồng hồ trong toa, thấy kim chỉ đúng hai giờ đêm... Hôm sau tôi vừa về đến cổng nhà thì thằng nhỉ chạy ra báo tin nhà tôi mất, mất vào khoảng một giờ đêm qua. Tôi không tin nhảm, tôi chắc đó là một sự tình cờ, một sự ngẫu nhiên, nhưng tôi vẫn yên trí là linh hồn nhà tôi đã nhập vào con bướm này để phù hộ cho tôi tránh được tai nạn đêm hôm ấy. Nhưng tránh được tai nạn mà làm gì, tôi thoát được thân tôi mà làm gì, giàu sang phú quý bây giờ đối với tôi cũng như không, tôi cũng chỉ như con bướm này, xác đấy mà hồn tận đâu đâu. Bạn tôi kể xong chuyện, đậy cái hộp khảm lại rồi thẫn thờ nói : - Bây giờ chỉ còn lại cái xác bướm không hồn.

Nhất Linh

Bút máu Lương Sinh người ở Mãn Châu, con nhà thế phiệt, nổi tiếng thông minh đỉnh ngộ từ khi tóc để trái đào. Lên tám đã giỏi thơ ca, từ phú, ai cũng ngợi khen là bậc thần đồng.

Năm lên mười hai, gặp thời loạn ly, cha mẹ đều bị giặc giết. Sinh sầu thảm mấy tháng liền, mất ăn, mất ngủ, lại thêm căn tạng yếu đuối nên lâm bệnh nặng, thần kinh hốt hoảng, luôn luôn giật mình, nằm mơ thấy toàn là máu lửa, sọ xương. May có người cậu đem về săn sóc đêm ngày. Sau nhờ đạo sĩ họ Trình ở núi Hoa Dương dùng biệt dược trị liệu nên được lành bệnh, tâm thái trở lại an tĩnh điều hòa. Khi lên mười lăm, Sinh được người cậu gởi đến Lã Công, một quan thủ hiệu bãi chức từ lâu ở nhà mở trường dạy võ. Sinh học rất chóng, nửa năm đã làu thông cả mười hai môn võ bí truyền của nhà họ Lã. Lã Công quý mến, một hôm lấy thanh bảo kiếm của mấy mươi đời họ Lã lập công trao cho Sinh luyện tập. Giữa buổi Sinh đang múa kiếm, bỗng dừng phắt lại, đưa kiếm lên ngửi rồi cau mày, kêu lên : - Máu người tanh quá! Ðoạn đem thanh kiếm nộp trả, cáo từ mà về.

Ðến nhà, lạy cậu thưa lên : - Võ nghệ không phải là con đường cháu nên theo. Máu người chảy trong cơ thể quý vô cùng nhưng dính ra ngoài lại quá hôi tanh. Kẻ cầm lưỡi dao trọn đời sao cho khỏi đổ máu người! Ðiều tàn nhẫn ấy cháu không làm được. Người cậu giận lắm, bảo rằng : - Mày thực cạn nghĩ, phụ cả lòng ta trông đợi lâu nay. Ðành rằng máu người là quý, nhưng để máu ấy chảy trong đầu bọn ác nhân thì càng có hại cho người, lại càng có tội! Lương Sinh cúi thưa : - Ai cũng cho mình là phải, lấy đâu để nói tốt xấu rõ ràng? Làm thiện một cách hăm hở mà không ngờ rằng đấy là điều ác, lại càng có tội vì đã lừa mình, lừa người. Trộm nghĩ binh đao là điều dứt khoát, cháu chưa dứt khoát trong người, tự thấy không dám theo đuổi. Cậu nói : - Hoài nghi như thế, e rồi không khéo mày tự mâu thuẫn với mày. Không phân biệt được giả, chân, thiện, ác, làm sao có thể tự tin mà sống trên đời! Xã hội chưa đâu có thể gọi là chốn thiên đường, bên cạnh nhà trường còn có nhà ngục, bên cạnh ngòi bút còn có lưỡi dao, không thể chỉ lấy một chiều, chỉ yêu một cạnh. Vị tất nhà trường đã không tội lỗi, ngòi bút đã không oan khiên! Ta không có con, từ lâu kỳ vọng nơi mày, nhân thời tao loạn, những mong cho mày múa gươm trận địa hơn là múa bút rừng văn. Bây giờ, thế thôi là hết. Từ nay tùy mày định lấy đời mày, ta không nói nữa.

Từ đấy, Lương Sinh sẵn có nếp nhà giàu đủ, chuyên nghề thơ văn, tiêu dao ngâm vịnh tháng ngày. Lời thơ càng gấm, ý thơ càng hoa, tiếng đồn lan xa, lan rộng như sóng trên biển chiều nổi gió. Quan lệnh trấn mới đổi đến địa phương vốn người hâm mộ văn chương, cho vời Sinh đến. Thấy Sinh tướng mạo khôi ngô, lòng cảm mến, tiếp đãi hết sức trọng hậu. Sau đó, quan lệnh mượn những thi tuyển của Sinh trong một tháng trường. Khi quan giao trả, Sinh thấy có những bài thơ hay họa lại những bài đắc ý nhất của mình dưới ký tên Tuyết Hồng, con gái của viên quan. Sinh vui mừng nghĩ rằng gặp được người hợp ý. Sau quan lệnh ngõ lời kén Sinh làm giai tế. Sinh sung sướng nhận lời.

Sau lễ hôn phối, Sinh mới ngỡ ngàng biết rằng Tuyết Hồng không đẹp, cũng không biết làm thơ. Càng ngày Sinh càng chán nản khôn khuây, ảo tưởng vỡ tan, tưởng như tuyệt vọng tình đời. Thiếu thốn hình ảnh giai nhân, cuộc sống tự nhiên cằn cổi. Nhân tết nguyên đán, Tuyết Hồng về thăm song thân, Sinh bèn thừa dịp, noi gương Tử Trường ngày xưa phiếm du xuân thủy. Sinh chọn đường ven theo suối đẹp, đi mãi đã mười ngày, tiền lưng muốn cạn, ý thơ chừng đầy, chợt đến một miền tiêu điều, dân cư thưa thớt, Sinh chán nản định quay về, nhưng ruột đói lưỡi khô, bèn đi tìm một tửu quán nghỉ chân. Qua ba dặm đồng trơ trọi vẫn chưa thấy bóng một người để hỏi thăm nơi. Bỗng nghe phảng phất tiếng trống, tiếng chuông lẫn tiếng reo cười. Dò theo âm thanh vọng lại, lần bước đến nơi, thấy đám hội trước chùa, bèn vào quán nhỏ gần đấy ăn uống. Chủ quán cho biết, đã mấy năm rồi ở đây mới có một ngày hội lớn, vì quan khâm sai triều đình sắp về địa phương nên quan tổng trấn họ Lý bày ra trò vui để cho dân chúng thỏa thuê ít bữa. Chợt có tiếng hò hét và mọi người sợ hãi dạt ra, từ xa là chiếc kiệu hoa của tiểu thư Lý Duyên Hương, con quan Tổng Ðốc. Người đẹp vừa kiêu hãnh vừa sắc sảo khiến Sinh ngây ngất, nhìn đến quên ly rượu trong tay rơi xuống vỡ toang. Người đẹp quay nhìn thấy, nhoẽn miệng cười. Nụ cười lộng lẫy như hé sáng một trời tình. Sinh lảo đảo đứng lên trả tiền rồi theo chiếc kiệu chen vào chùa. Vào trong thấy Lý tiểu thư thành kính đàm đạo với mấy vị Tăng già rồi lên chánh điện lễ Phật. Sinh đến phòng kế lấy bút và giấy hoa tiên theo phỏng mấy câu : Tiên hoa gài mộng, vấn vương đền Phật bâng khuâng Ðông biếc, thoáng cười tiên nữ Mặt nước hồ in, xao động bốn mùa sóng gió Bóng đêm hang thẳm, long lanh một vẻ giai nhân. Rồi bẻ cành hoa kẹp vào. Khi Lý tiểu thư lễ xong, khoan thai xuống thềm, mọi người sợ hãi bật ra hai bên thì Sinh vội vã đi theo. Ðến lúc nàng vừa lên kiệu, Sinh ném cành hoa lên chỗ nàng ngồi. Lính hầu thoáng thấy kêu lên : - Có người ám hại tiểu thư. Lập tức mười lưỡi gươm dài vung lên, lính hầu vây lấy Lương Sinh. Những người xem hội thất sắc lùi lại, dồn dập đẩy vào nhau kêu la náo động. Tiểu thư ngồi trên, vén rèm nhìn xuống không nói một lời. Vẻ mặt hết sức kiêu kỳ. Lương Sinh đã toan mở lời khống chế, nhưng lính xông vào trói chàng. Ðám đông có tiếng thì thào. - Anh ta chỉ ném một cành hoa thôi đấy. - Bấy nhiêu cũng đủ héo cuộc đời rồi. - Qua dinh Tổng trấn không lấy nón xuống đã là bay đầu, nói chi xúc phạm đến tiểu thơ vàng ngọc!

Về đến nha môn, lính dẫn Lương Sinh nhốt vào trại giam, rồi tâu trình lên Tổng trấn. Lương Sinh nằm rầu rĩ trong bốn bức vách đá, e phải mang nhục phen này. Ðang mơ màng về thế giới bên kia, chợt nghe tiếng người gọi dậy, lập tức được lính dẫn đến công đường. Tổng trấn ngồi giữa, vóc dạng phương phi, hàm én râu hàm, trên tay còn cầm tang vật là mảnh hoa tiên. Sinh cúi đầu thi lễ, toan tìm lời kêu oan gỡ tội thì quan ra lệnh mở trói. Trước sự kinh ngạc của Sinh, quan bước xuống thềm, dắt Sinh vào trong, kéo ghế bảo ngồi, Sinh từ chối hai ba lần không được. Quan nói : - Ta thường ước ao gặp được một người tài đức, nay biết người là danh sĩ nên thực hết lòng hâm mộ. Lính hầu sơ xuất phạm điều vô lễ vừa rồi, ta sẽ nghiêm trị. Gác đằng thuận nẽo gió đưa, người hãy cùng ta ở đây hưởng mấy ngày xuân vui câu xướng họa, cho thỏa tình ta khao khát lâu nay. Ðoạn truyền đem rượu ngon thịt béo ra thết đãi nồng hậu. Lương Sinh thích thú uống rượu ngâm thơ suốt ngày Tổng trấn có vẻ đặc biệt kính trọng tài năng của Sinh. Ðộ chỉ hôm sau, quan tổ chức cuộc du xuân, đưa Sinh đi xem cảnh trí trong miền. Nơi nào quan cũng cho thấy kỳ công đại lực của quan tạo lập cho dân: Kia là dòng suối quanh co quan đã khai thông để để dân lấy nước cày cấy, nọ là đồng ruộng bao la trước kia toàn là rừng rậm hoang vu quan đã tốn công khai phá cho dân trồng trọt. Ngồi trên kiệu cao, Sinh nhìn theo ngón tay quan trỏ phía xa xa, mơ hồ thấy suối thấy đồng nhiều vẽ khác màu miệng không ngừng tán tụng. Hơi men nồng nàn, lòng Sinh chứa chan nhiệt tình đối với những bậc "Dân chi phụ mẫu" mà xưa nay Sinh thường tỏ ý rẻ khinh. Ðến đâu quan cũng xin Sinh lưu bút để cho khắc vào bia đá, cột đồng. Sinh phóng bút thao thao bất tuyệt. Mực thơm bút quý, lời lời châu ngọc, hàng hàng gấm thêu. Trước khi giã từ, Sinh còn lưu lại bài tán tổng kết công đức của quan để khắc vào chốn công đường và bài minh, ký để ghi tạc vào mấy cổ hồng chung tại các tháp đền quy mô trong hạt. Quan ân cần tiễn Sinh ra khỏi nha môn, đưa tặng một cỗ ngựa bạch, mấy nén vàng, nhưng Sinh một mực từ chối từ không nhận để giữ vẹn lòng thanh khiết.

Giữa mùa xuân ấy Sinh lâm bệnh nặng, nằm liệt suốt một tháng liền, Tuyết Hồng hết sức săn sóc thuốc thang, nhiều đêm không ngủ. Bệnh cũ như muốn tái phát, thần kinh rạo rực không yên, giấc ngủ chập chờn ác mộng. Mấy lần chống tay ngồi dậy, nhưng lại bủn rủn nằm xuống, hơi thở nóng ran như lửa. Một sớm đang nằm, nghe tiếng chim hoàng anh hót ngoài vườn vụt tắt, thấy một tia nắng lọt qua khe cửa chợt tàn. Sinh hốt hoảng tưởng chừng mùa xuân bỏ mình mà đi, bèn gượng ngồi lên xô mạnh cửa sổ. Mấy nụ hoa thắm cười duyên trước thềm, lá xanh tươi màu nhựa mới. Sinh gọi đem nghiên bút và tập hoa tiên. Vừa cầm bút lên, Sinh bỗng kinh ngạc. Nghiên mực đỏ tươi sắc máu. Thử chấm bút vào, lăn tròn ngọn bút đưa lên, bỗng thấy nhỏ xuống từng giọt, từng giọt thắm hồng như rỉ chảy từ tim. Khiếp đảm, Sinh ngồi sửng sờ, tâm thần thác loạn. Cố viết đôi chữ lên giấy, nét chữ quánh lại, lợn cợn như vệt huyết khô trên cát. Sinh vội buông bút, tưởng chừng bàn tay cũng thấm máu đầy. Ðưa lên ngang mũi, mùi tanh khủng khiếp. Quệt tay vào áo, đau nhói trong người. Sinh nằm vật xuống mê man bất tỉnh. Sau mấy ngày, Sinh tỉnh dậy, lòng lại khao khát cầm bút. Nhưng nhớ hình ảnh vừa qua, tự nhiên đâm ra e ngại . Sinh cố tập trung thần lực, men đến án thư vừa cầm bút lại thấy lãng vãng sắc máu, không sao có đủ can đảm vạch được nét nào. Sinh ném bút, hất giấy, vô cùng khiếp sợ, tưởng như xôn xao chung quanh vô số hồn oan đòi mạng. Từ đó Sinh gầy rạc hẳn, liệu không sống thoát.

Người cậu của Sinh từ lâu đã vào trong núi Hoa Dương ở với đạo sĩ họ Trình, một hôm tạt về thăm nhà thấy cháu suy nhược, rất là lo lắng. Sau khi nghe Sinh thuật hết những điều quái dị vừa qua, ông suy nghĩ hồi lâu rồi nói : - Ta từng bảo cháu ngòi bút không phải không có oan khiên. Lưỡi gươm tuy ác mà trách nhiệm rõ ràng, lỗi lầm tác hại cũng trong giới hạn. Mượn sự huyển hoặc của văn chương mà gây điều thiệt hại cho con người, tội ác của kẻ cầm bút xưa nay kể biết là bao, nhưng chẳng qua vì mờ mịt hư ảo nên không thấy rõ hay không muốn rõ mà thôi. Làm cho thiếu nữ băn khoăn sầu muộn, làm cho thanh niên khinh bạc hoài nghi, gợi cho người ta nghĩ vật dục mà quên nhân ái, kêu cho người ta tiếc tài lợi mà xa đạo nghĩa, hoặc cười trên đạo nghĩa của tha nhân, hát trên bi cảnh của đồng loại, đem sự phù phiếm thay cho thực dụng, lấy việc thiển cận quên điều sâu xa, xuyên tạc chân lý, che lấp bần hàn, ca ngợi quyền lực, bỏ quên con người, văn chương há chẳng đã làm những điều vô đạo? Tội ác văn chương xưa nay nếu đem phân tích biết đâu chẳng dồn thành ngàn dãy Thiên Sơn! Thần tạng của cháu kinh động thất thường, nhưng mà bản chất huyền diệu có thể cảm ứng với cõi vô hình, chắc cháu làm điều tổn đức khá nặng nên máu oan mới đuổi theo như vậy. Hãy xem có lỡ hứng bút đi lệch đường chăng? Soát lại cho mau, soát lại cho mau, chớ để chậm thêm ngày nào! Lương Sinh nghe xong bồi hồi tấc dạ, trí tuệ xem như minh mẫn hơn nhiều, cơn bệnh do đó lui được khá xa. Sinh đem mấy tập thi tuyển của mình đọc lại từng câu, dò lại từng chữ, thấy toàn là ý bướm tình hoa, phát triển cảm xúc mà xao lãng trí tuệ, tán tụng thiên nhiên mà bỏ mất cảnh đời, trốn tránh thực tại, từ chối tương lai, nhưng nghĩ kỹ vẫn chưa dò được lối máu từ đâu. Bỗng sực nhớ đến những lời phóng bút viết cho quan Tổng trấn, không ghi lại trong thi tuyển, tâm não trở nên bàng hoàng. Ðồng thời bao nhiêu gương mặt hốc hác trong ngày hội chùa lại hiện rõ, mấy cánh đồng trơ trọi, những tiếng thì thầm hai bên kiệu hoa, vẻ người nhớn nhác sợ hãi, những đòn dây trói, mấy dãy nhà giam, lần lượt như sống lại trước mắt. Những cảnh ấy thật trái ngược với những bài tán bài minh đã viết. Mồ hôi toát ra như tắm, Sinh đứng lên được, quyết định trở lại chốn cũ để tìm hiểu sự thật.

Sinh đến chốn cũ vào một buổi chiều nắng vàng thê lương phủ trên cảnh vật tiêu điều xơ xác. Qua khỏi dòng suối cạn, Sinh bước vào một thôn trang vắng vẻ, thưa thớt những mái tranh nghèo, không một bóng người thấp thoáng. Ðến một gò cỏ úa héo chợt thấy một người nông phu ủ rủ trước nấm mộ mới hiu hiu mấy nén hương tàn, Sinh dừng bước, lại gần ngồi một bên, khẽ hỏi : - Bác khóc thương thân quyến nào vậy? Người kia ngước lên không nói, ngắm nhìn lại bụi đường trường bạc thếch trên quần áo của Sinh, dịu đôi mắt xuống : - Người nằm dưới mồ không phải là bà con quen thuộc của tôi. Sinh nghĩ: "Chẳng lẽ người này cũng là một kẻ thi nhân khóc thương cho kiếp hồng nhan bạc mệnh nào chăng?" Chưa kịp dò ý, người kia chợt hỏi, ra vẻ hoài nghi : - Ông từ đâu mà đến đây? - Tôi ở chốn xa, nhân bước đường phiêu lưu ghé tạt qua thôi. Buồn thấy miền này có vẻ tiêu điều hơn các nơi khác. Người nông phu bỗng long lanh đôi mắt như không dằn được tấm lòng dồn nén bật lên những tiếng căn hờn : - Nói cho muôn ngàn khách qua đường cũng chưa hả được dạ này. Ví dù phải chết ngày nay thân này chẳng tiếc, miễn sao bộc bạch cho được sự thật uất hận từ lâu. Ðã bao năm rồi, sống dưới nanh vuốt của tên Tổng trấn họ Lý độc dữ hơn hùm beo, đồng ruộng gầy khô, dân làng đói rách. Ðầu xuân này có khâm sai đi về, cụ thôn trưởng của chúng tôi, mặc dù già yếu cũng quyết vì dân làm bản trần tình, cản đầu ngựa, níu bánh xe mà tỏ bày sự thật. Thế nhưng khâm sai đi khắp mọi nơi, chỗ nào cũng thấy bia đá cột đồng đầy lơi hoa mỹ tán dương công đức Tổng trấn của thằng danh sĩ đốn mạt nào đó nên ném bản trần tình, không xét, bảo rằng: "Muôn ngàn lời nói của lũ dân đen vô học đâu bằng mấy vần từ điệu cao xa của kẻ danh nho. Danh sĩ bao giờ cũng biết tự trọng. Tổng trấn đã được hạng ấy tôn xưng, hẳn không phải bất tài". Thế đã thôi đâu, khâm sai đi rồi. Tổng trấn phái sai nha về tróc nã những người đã đầu đơn tố cáo nó. Bao người phải chết vì nỗi cực hình thảm khốc, vợ góa con côi, một trời nước mắt, ruộng đồng từ đây dành để nuôi loài cỏ dại mà thôi! Sinh chết điếng cả người, giây lát mới gượng gạo hỏi : - Chẳng hay bác có biết... danh sĩ ấy tên gì không? Người nông phu trợn trừng cặp mắt, gào lên : - Làm gì mà biết! Mà biết làm gì? Những hạng hiếu lợi hiếu danh, trốn trong từ chương để tiếp sức cho kẻ ác mà cứ tưởng mình thanh cao, hạng ấy thì đâu chẳng có! Dân làng đây ai cũng nguyền rủa hắn mà hắn nào có biết đâu! Nghĩ thương cho cụ trưởng tôi mấy lần đứng ra chịu nhận tội để cứu bao người mà bọn chúng chẳng chịu tha, cứ việc tàn sát thẳng tay, lôi đi lớp người này rồi đến lớp người khác, nên khi bị dẫn qua đây cụ tự móc họng cho trào máu ra mà chết để khỏi bị đày đọa. Trước khi nhắm mắt cụ còn gượng nói: "Ðược chết trên cánh đồng đã đẫm mồ hôi ta, thế là quý rồi. Chôn ta ở đây cho ta gần gũi với các người". Hơi thở gần tàn cụ nói tiếp: "Tội ác là ở lũ vua quan. Tên danh sĩ kia chỉ là cái cớ để chúng vịn vào mà che lấp sự thật. Ðừng oán hờn tên danh sĩ. Ðáng thương cho nó!" Người nông phu dừng lại nghẹn ngào nói tiếp : - Nhưng bao nhiêu người khổ ở đây, bao kẻ chết nơi kia, nghĩ còn đáng thương xót gấp trăm ngàn lần! Ðoạn gục đầu trước mồ khóc thảm thiết. Sinh cũng sụp xuống hòa tiếng khóc theo.

Bóng đêm xóa nhòa, gió lạnh như từ cõi âm thổi về rung động bờ lau bụi cỏ. Sinh có cảm giác như theo cơn gió, oan hồn của người đã khuất hiện về chứng kiến cho những giọt lệ chảy ra từ một tấm lòng hối hận chân thành.

Vũ Hạnh

Cái dọc tẩu Mười một người, trong bữa tiệc góp, đã đánh ngã không kém băm hai chai. Nhưng không ai lấy làm hãnh diện cái tửu lượng của mình, bởi họ chỉ vừa uống thứ bia nhạt nhẽo, làm tê lạnh chân răng và thoảng mùi mật mía - loại bia thế phẩm trong thời buổi houblon không còn nhập được. Ấy vậy mà có hai người đã quá chén. Bình chỉ hùng hổ với hai ba cốc đầu; tiệc mới tới nửa bữa, anh đã tái nghét mặt, chạy ra ngoài hồi lâu, rồi vào ngồi dựa ngửa đầu trên lưng ghế, nhắm mắt. Khải thì trụ lại được cho đến xong bữa, nhưng khi cả bọn bước ra khỏi khách sạn, hơi lạnh đột ngột phả lên mặt mũi, anh liền gập đôi người nôn thốc nôn tháo. Tịch đến đỡ Khải, thấy cả người bạn run giật từng nhịp mau và dữ dội. Người ta bèn gọi chiếc xe tay, vực hai người say lên; cả bọn đi hộ tống. Phố tối bưng: dăm bảy đốm đèn xe tay vàng khè lấm tấm dọc hai vệ đường.

Dưới sự hướng dẫn của Quảng Phệ, đoàn người chếnh choáng ngật ngà ngật ngưỡng tiến vào phố X, cái phố nổi tiếng khắp cả thị xã. Trên chiếc xe tay theo sau, hai anh say khướt chụm đầu ôm choàng lấy nhau như hai người bạn thiết; chẳng biết họ còn tỉnh hay đã thiếp đi. Chốc chốc, cả bọn đi qua trước một nhà có ánh đèn len thành vệt dài qua khe cửa: từ trong có tiếng trống chầu lạch tạch đưa ra, lại có tiếng hát eo éo bổng lên một chút rồi chìm đâu mất. Quảng Phệ nói lên một con số nhà. Có ai hỏi, vẻ thông thạo : - Loan phải không? - Loan và Bích. Vào nhé? Một thằng nhỏ ra mở cửa. Nghe Quảng hỏi, nó khai : - Bẩm, được ba chầu rồi.

Lúc ấy mười hai giờ đêm. Mình Bích ra đón đám khách mới. Một dáng áo hồng thập thò phía trong, rồi lẩn mất. Nhác nom thấy, Quảng Phệ gọi "Loan, Loan" váng cả lên bằng cái giọng ngầy ngậy mỡ của anh, nhưng vô hiệu. Ba bốn anh trong đám liền xông vào, đổ đi tìm. Tịch cò hương cũng đi theo. Họ leo lên gác, sục vào hai buồng. Buồng nào cũng có một nhóm quan viên đang ngồi hát. Bị khuấy động trong cuộc chơi, những người này quay nhìn bọn phá đám, nhưng không tỏ vẻ trái ý. Chắc hẳn họ đã quen những sự thọc ngang đó, hoặc cũng đã từng thọc ngang vào những cuộc chơi của người khác. Sau cùng, Bích nắm tay kéo được Loan từ một góc nào ra. Nhưng Loan đứng nép vào tường, một tay đưa khăn che miệng. Loan khá xinh, da trắng, má đỏ hồng, chẳng rõ vì cuộc giằng co với Bích hay vì màu áo ánh lên. Hai mắt mở to dưới làn lông mày uốn cong thanh mảnh, nhìn đám người lạ vây quanh với vẻ một con thú bị thợ săn dồn đuổi. Cái dáng béo lùn phục phịch của Quảng vừa xông tới, nàng đã vùng bỏ chạy. Bích vào khuyên dỗ mấy cũng không được. Loan sợ đám đông, tuy theo như nhiều người cho biết, nàng đi hát đã khá lâu năm. Quảng Phệ mắng Bích khá nặng lời. Bích lặng lẽ nhìn Quảng, lặng lẽ chấp nhận lời mắng mỏ, hai gò má cao gần như lầm lì. Chỉ một thoáng, cái ánh mắt nhẫn nhục phía trên hai gò má cao ấy bỗng dưng xám mờ đi, tựa hồ nàng tủi cái phận mình vô duyên không được khách tìm hỏi săn đón như Loan, hơn là thấy tủi nhục vì bị xỉ vả.

Quảng Phệ lại lôi anh em đi. Bị kích thích vì cuộc thất bại vừa rồi, họ đập cửa kéo vào từng nhà một, dạo nhìn vơ vẩn một lúc, rồi bỏ ra. Nhà nào cũng chỉ đẹp đẽ được cái mặt ngoài, có xa lông, tủ chè bằng gụ. Đi sâu chút nữa, cảnh nghèo nàn phơi bày: chiếc ghế khập khiễng, cánh cửa sổ sún hai ô kính, tấm chăn bông nâu xỉn vứt đống bừa bãi trên giường trải chiếc chiếu sờn rách dệch dẹo. Một anh nào trong bọn tò mò và lỗ mãng, thử rút chiếc ngăn kéo bàn. Tịch cò hương cũng tò mò liếc nhìn, thấy trong đó một nút khuy áo tân thời, một cái tai đàn nguyệt, cuộn giẻ, bó tăm, vài ba mẩu lược gẫy. Người ta sống chung lộn xen kẽ đến kỳ lạ. Vào một nhà kia, phòng ngoài một đám quan viên đang đùa cợt với mấy cô đào, còn phía buồng trong, thấy cả một gia đình không hiểu sao vẫn đang thức và ngồi lố nhố trong đó: người bố, người mẹ, ba đứa con vừa trai vừa gái cỡ trên dưới mười tuổi. Thấy đám khách lạ sỗ sàng đẩy cửa sục tìm, họ có vẻ trái ý nhưng nhẫn nhục. Trong một cái nôi, Tịch nhìn qua màn thấy một gương mặt thơ bé xinh xắn, môi hồng chúm cong nùng nũng. Tịch nao người nghĩ đến con mình, vội đẩy tất cả bọn quay lui.

Rốt cuộc, họ quyết định cắm tại nhà đào Thúy. Bọn Bình, Khải vẫn chưa hết say; nãy giờ họ vẫn ngồi dựa vào nhau trên xe làm cuộc dạo phố lang thang bất đắc dĩ trong lúc đám bạn sục vào các nhà. Người ta vực họ vào. Cả hai nhướng mắt nhìn quanh một chút nhưng không tỏ vẻ lạ lẫm, rồi lảo đảo dựa vào nhau ngả xuống một cái ghế xích đu, lại ôm nhau ngủ tiếp. Thúy và hai bạn khác ra đón khách. Thúy người nở nang tròn trặn, khi cười để lộ hàm răng đều, nhưng phải cái mũi to và tẹt. Hai người kia trái hẳn nhau: một gầy, một béo tròn, cô béo trông mặt như một ông tướng, và mang một tên Tây: Madeleine1, cô gầy thấp bé mảnh mai, nhũn nhặn xưng mình tên Mùi. Sự cợt nhả bắt đầu ngay, do Quảng Phệ dẫn đầu. Quảng là mặt quen thuộc độc nhất trong đám và chắc hẳn sẽ là người chi tiền. Thúy đung đưa mắt liếc tình với Quảng, nhưng chỉ kín đáo thôi để khỏi mếch lòng những người khác, họ có thể là những khách hàng tương lai. Kỳ, trẻ nhất trong đám quan viên, chưa vợ và khá đẹp trai với mớ tóc bồng, ngoan ngoãn ngồi nhìn cảnh đang diễn trước mắt lạ lẫm của mình, cậu ta không tỏ vẻ buồn chán. Tịch cò hương thì phì phèo điếu thuốc lá, thọc hai tay túi quần bước đi lò dò quanh quẩn khắp nhà, dáng hệt như con cò thật! Tự dưng hôm nay anh không cảm thấy mình gắn bó với cuộc vui chung. Trong anh đang dấy dần lên một niềm bứt rứt không duyên cớ. Đâu đây thoảng mùi thuốc phiện, cái mùi thơm hắc khiến anh càng thêm bứt rứt khó chịu. Không ngăn được, anh lần tới, sỗ sàng đẩy cánh cửa buồng, và thấy một hình người ngồi cuộn tròn trong chăn, trước một khay đèn á phiện. Chắc hẳn chủ nhà hát. Hắn ta có dáng một bác cai thầu về hưu, với khuôn mặt tóp phía dưới và bộ râu trê. Hắn nhe hàm răng khấp khểnh có hai chỗ bịt vàng ra cười, mời anh vào. Trong câu nói tự dưng chen một vài tiếng Pháp, ý chừng hắn muốn chứng tỏ hắn không phải là kẻ hoàn toàn vô học, chỉ biết thầu nhà cửa và thầu gái mãi dâm. Tịch giập cửa bước trở ra.

Cuộc phá phách đến độ náo nhiệt. Cô béo tròn có tên Tây và bộ mặt to phè với cặp lông mày rậm là trung tâm điểm của cuộc vui. Cả đám nhao nhao xô đẩy nhau vây quanh, cố chiếm lĩnh cô như chiếm lĩnh một thành trì, miệng hò hét: "Medeleine! Medeleine!". Cô vung tay, hất đầu, ẩy vai để chống cuộc vây hãm, hoặc để kích thích thêm cuộc vây hãm. Cô nghĩ ra cách lôi Thúy vào làm đồng minh nhưng Thúy liền bị Quảng Phệ giằng lại ngay. Riêng cô Mùi gầy bé hoàn toàn bị bỏ quên. Trên ghế xích đu, Bình và Khải bị tiếng ồn đánh thức dậy, mở mắt, lần lượt nghển đầu thờ ơ nhìn cái đám ồn ào láo nháo rồi lại nhắm mắt ngủ tiếp. Một lát, mệt rồi, Madeleine vung hai tay phá được vòng vây, tuông chạy ra phía sau. Cả bọn cũng thấm mệt, không đuổi theo, ngồi nghỉ chút. Họ lé mắt nhìn sang phía Quảng Phệ và Thúy. Quảng, với vẻ bảnh chọe của kẻ chi tiền, của một ông chủ, ngồi ôm chặt Thúy trong hai cánh tay béo khỏe. Thúy hình như cũng hơi xấu hổ vì cảm thấy nhiều con mắt đang chiếu về phía mình, đưa tay khẽ đẩy cái bụng to bầy nhầy của Quảng ra, tất nhiên là vô hiệu. Chỉ còn lại có Mùi. Đã xả hơi xong, một vài anh mon men đến gần, tuy chẳng hào hứng lắm, dường như chỉ vì không có việc làm gì khác. Mấy cậu khác cũng bắt chước theo xán lại dần. Lát sau thế là họ túm bu đầy cả chùm xung quanh cô gái gầy bé. Mùi bị vây ép chặt, không cựa quậy nổi, kêu oai oái với giọng nghít thở rồi ôm mặt khóc thút thít. Từ phía góc, Kỳ đứng bật dậy. Anh chàng còn trẻ măng và ngây thơ (Tịch còn biết là anh ta đang bí mật tập làm thơ và viết văn, anh ta có đưa riêng nhờ Tịch đọc thử, tuy Tịch cho rằng mình cũng chẳng hiểu biết gì mấy về văn chương), anh chàng trẻ không ngăn nổi bất bình. Anh lao tới cố gỡ chùm người ra, miệng hét bằng tiếng Pháp: "Này, tàn nhẫn vừa chứ! Chết cô ta mất!". Mấy người kia cười: "Ồ, nước mắt cá sấu! Không đáng nửa xu!". Kỳ ngượng vì cái hào hiệp vô ích và sự bất lực của mình, ngơ ngác một chút rồi rút lui. Quả nhiên có người chòng được Mùi bật cười thành tiếng.

Đốt thuốc và đi quanh chán rồi, Tịch cò hương không biết làm gì nữa. Anh cũng muốn cho đám kia chấm dứt cái trò đùa nghịch nhạt nhẽo gượng gạo của họ đi. Anh bảo với Thúy là anh muốn nghe hát. Thúy được dịp bứt khỏi vòng tay của Quảng đi ra phía sau. Hầu như trong nháy mắt, bác kép, chẳng biết đột nhiên chui từ đâu ra, xách đàn tới ngồi trên phản. Mặt bác cũng tóp phía dưới như bác cai thầu chủ nhà hát, hai quai hàm lại cứ như móp móp thế nào; thêm vào đó là bộ râu xe cuốc. Nét mặt bác nửa muốn mếu nửa muốn cười. Thực ra bác chỉ lãnh đạm: nghề nghiệp đã rèn cho bác cái bộ mặt ấy, rất hợp tình thế. Kể cũng là một nghề khó nhọc, lại bạc bẽo: thức đêm như một kẻ trác táng, và lầm lì làm Bụt trong khi người ta vui đùa và tửu và sắc ngay cạnh mình. Cô đào hát, cũng chẳng rõ chui từ lỗ nào ra, tới ngồi cạnh bác kép, đó là một cô bé khoảng mười lăm tuổi, nước da bánh mật, không xấu không đẹp. Cô nhịp phách rất giòn, hát giọng lanh lảnh nhưng không được trong. Không biết cô đi hát từ năm lên mấy. Trông còn non choẹt, chưa có vẻ hiểu biết đời; cô không chia sự vui chung, nhưng cũng không ra buồn cảnh ngộ. Chắc hẳn cô đã nhận đi hát như người ta nhận một cuộc đi dạo chơi hay nhận bất cứ một nghề gì kiếm sống.

Tịch tom tom vài tiếng rời rạc, rồi vứt dùi trống cho một anh khác. Anh đứng lên, thọc tay túi quần, lại đi đi lại lại. Một nỗi bực dọc gậm nhấm anh. Men bia chưa hả hết còn làm nóng ruột. Đầu anh nhức nhối, tuy không phải đêm đầu anh đi chơi khuya như vậy. Không khí xóm Bình Khang, tối nay, đè nén anh đến tức tối. Trong anh xáo trộn những hình ảnh cực nhọc: bác kép mặt méo, cô đào tí hon đang ngây thơ hát những câu tình tứ, lão chủ nhà cười nhe hàm răng khấp khểnh, cô đào béo mà cái tên Tây, do các bạn anh thỉnh thoảng gọi to, đâm nhói vào tai; và cuối cùng là chính các bạn anh, thường ngày khá chững chạc lịch sự lúc ngồi bàn giấy hoặc trong giao tiếp, đêm nay tự buông thả, hò hét quậy phá không khác gì một tốp lính tẩy. Tịch đưa tiền sai đi mua thức ăn nhẹ. Khi dọn bàn, thấy thiếu Quảng. Bấy giờ mọi người mới nhận ra rằng Quảng và Thúy vắng mặt từ đã lâu. Có ai gợi ý ra sau bếp tìm, thì vừa thấy Quảng Phệ đi lên, mắt hấp háy ánh đèn, quần quên chưa gài cúc. Thúy theo sau, đang vuốt lại tà áo dài. Lại bia nữa. Nhưng không ai uống, lát nữa sẽ dùng súc miệng cũng được. Thúy chao thìa trong liễn cháo, múc cho Quảng một lòng đỏ trứng. Quảng Phệ liếc mắt, mỉm cười: cặp mắt béo ti hí cố làm vẻ tình tứ, nom hài hước. Thúy cũng mỉm cười đáp lại: nụ cười có thể mang nhiều ý nghĩa.

Xong bữa, mọi người ngồi ngần ngừ nhìn nhau một lát. Có ai chậm rãi cất tiếng: "Còn chi buồn hơn một cuộc vui lúc tàn...". Câu nói đã nhàm: nhưng giọng rè rè chán nản của anh ta làm nổi rõ sự thực ấy. Quảng gọi Thúy vào buồng chi tiền, rồi cả bọn kéo nhau ra đi. Bọn Mùi không tham gia bữa ăn, đã đi nằm được một lát. Tịch thấy Mùi nằm cạnh cô bạn béo có tên Tây trên chiếc phản: mệt quá hay sao, cả hai cũng không buồn kéo chăn đắp; họ có vẻ đã ngủ say. Trên ghế mây dài, có ai nằm trùm kín chăn, dáng vóc nhỏ teo: chắc hẳn cô bé hát lúc nãy. Người ta đánh thức Bình và Khải dậy, dìu lên xe tay. Anh chàng Kỳ được dịp biểu lộ tình bạn tận tụy của mình: anh vui vẻ nhận trách nhiệm đưa hai người về tận nhà.

Đồng hồ nhà ai điểm ba tiếng. Mọi người chia tay. Mấy anh còn trẻ trong bọn vừa đi vừa bàn nhau cách thác cớ nói dối vợ. Tịch nghĩ thầm: "Lạ, ra ngoài đường cũng chẳng thấy dễ chịu hơn chút nào". Không khí u trệ, đặc và nóng. Trời mới giữa Giêng, nắng mới chưa hửng mà sao hơi đêm bứt rứt quá chừng. Anh đi rất chậm, thở từng hơi dài, nhưng không bớt mệt. Anh cho rằng sự tức bực đè nén mình từ đầu hôm là do ở thời tiết. Vợ Tịch ra mở cửa. Xem nét mặt, anh biết Thư chưa ngủ giấc nào. Thư thay áo cất giầy cho chồng, vẻ lặng lẽ hàm một ý trách móc. Tịch vội vàng tắt đèn đi nằm. Anh se sẽ len dưới chăn, sợ kinh động giấc ngủ của con. Không khí trong gian buồng êm mát làm dịu lòng anh. Tịch nghe rõ nỗi bực tức lắng xuống dần dần. Anh vuốt ve làn da mịn của thằng bé, mơn tay dọc cẳng tay cẳng chân no căng bụ nổi ngấn. Giấc ngủ đến khá nhanh chóng.

Nhưng chợp mắt được một lát, chợt nghe tiếng khóc thút thít. Anh nào người nhận ra người đang khóc chính là vợ mình. Anh phân vân định lựa lời khuyên dỗ, nhìn kỹ hóa ra không phải Thư mà là cô đào Mùi gầy gò bé nhỏ. Cô Loan xinh xắn cũng có đó, hai mắt mở to trừng trừng vừa sợ hãi vừa giận dữ, rồi tự dưng cô bật khóc nức nở. Trong lúc đó Mùi lại phá lên cười giật giọng như điên. Khuôn mặt tóp của lão cai thầu nghiện chủ nhà hát hiện ra. Lão nhe răng cười nhăn nhở rồi chìa chiếc dọc tẩu cho anh, vẻ mời mọc. Anh gạt tay lão ra, lão càng xán vào vừa ấn dọc tẩu lên miệng anh vừa nói gì rất to gần như xỉ vả. Hóa ra lão cho anh là người gây ra tất cả mọi nông nỗi này. Tịch uất đến tận cổ, anh run người định xông tới thì vừa tỉnh thức. Trống ngực vẫn còn đập thình thình. Anh len lén nhổm dậy, bước ra khỏi giường. Rồi anh đi rửa mặt, ngồi đốt thuốc lá. Anh đã quyết định thức luôn đến sáng. Thà thức mà suy nghĩ nghiền ngẫm, cho dù là những ý nghĩ day dứt cực nhọc, còn hơn trở lại với những ác mộng.

Bùi Hiển

Cạm bẫy đời thường Những dòng nhật ký, từng câu từng chữ, nhẹ nhàng ve vuốt, giống như cái bẫy giăng ra bằng những sợi tơ, mềm mại, dẻo dai, cái lồng sơn son thếp vàng, nhưng không lối thoát. Làm sao có thể tránh khỏi khi được vuốt ve với bàn tay nhung, được thì thầm bằng giọng nói êm ái nhả ra từng câu hoa mỹ? Người phụ nữ dí ngọn bút chì xuống trang giấy chi chit những nét dọc ngang. Bức tường vỡ từng viên gạch, từng tảng vôi, không còn chất xúc tác, tất cả rồi cũng thành như tro bụi, như hình hài kia, như đám tang đi lặng lẽ, người thiếu phụ trong hình, khuôn mặt cười tươi, đôi mắt thăm thẳm đó chứa bao nhiêu đớn đau, điều gì đã làm cho cô không còn thiết sống? Còn quá trẻ để thấy cuộc đời hãy còn nhiều hy vọng, chưa đủ già để nếm hết bệnh tật và nỗi cô đơn. Khởi điểm bằng những thăm hỏi ân cần, vu vơ, chuyện trời trăng mây nước, trong quyển nhật ký dầy, mở ra những trang đầu tiên. - Ngày ra sao? - Không vui - Chuyện gì làm không vui? - Chị bạn trong sở chết bất ngờ - Tai nạn? - Vâng, tai nạn. - Chị ấy có quen thân không? - Không thân, nhưng không sơ. - Taị sao lại buồn thế? - Nghĩ đến cuộc đời, sự sống mong manh. - Ai cũng phải qua một lần, chết không đáng sợ. - Nhưng cái chết thật phi lý. - Có cái chết nào lại không phi lý? - Chết già, chết khi không còn hưởng thi vị cuộc sống. - Thế cuộc sống có thi vị không? - Sao lại hỏi thế? - Có muốn cuộc sống thêm thi vị không? - Muốn thì sao? Không muốn thì sao? - Muốn... thì... thì... gọi bằng em nhé. - Khiếp, tán đấy à? Tán thật nhẹ nhưng thấm sâu, bằng tầng số rung cảm cao độ, thật tuyệt vời, sóng vi ba len lõi, chìm tận đáy. Hình dung người thiếu phụ, thành công trên sự nghiệp, vững vàng trong đời sống, nhưng bản chất vẫn là đàn bà, đang khát khao, thèm thuồng sự chăm sóc, chú ý, được săn đón bằng những lời lẽ tế nhị, bằng vuốt ve mượt mà, tán tỉnh khéo léo, lời lẽ như mật ngọt, như hương hoa, như hình ảnh trái cấm chín mùi đẹp đẽ quyến rũ trên cành cao, chỉ vần giơ tay ra với. Cuốn tập mở ra trước mặt, như từng đoạn phim đang quay chậm lại, từng câu từng chữ. Cả hai ngồi im lặng. Người phụ nử nhỏ nhắn, nét mày cau, thanh tú, trông bà rất trẻ, chỉ có những ngón tay gầy guộc, tố cáo cho số tuổi đời không hiện ra trên khuôn mặt, giọng nói êm ái diụ dàng. Cả người bà nhìn rất mong manh, như kêu gọi, đợi chờ đợi sự che chở. Không thể hình dung cái tiềm lực ẩn chứa trong cái vỏ mỏng manh, trên thân thể gầy gò đó. Đôi bàn tay thon thả, những ngón nhỏ dài đang nắm chặt cây bút chì, hành động biểu lộ một sự kìm hãm cơn sóng cuộn trong lòng, Bà nhẹ nhàng lật từng trang, đọc từng dòng chữ, từng lời lẽ chứa đựng tâm tư của người phụ nữ vắng mặt kia. Người đàn ông nét mặt cương nghị, mấy nếp nhăn cuối mắt, tia nhìn như đang long lanh trêu ghẹo, nhưng ánh sắc bén, lạnh ngắt như dao, ánh mắt có thể cắt đối phương thành hai mảnh chỉ bằng một cái liếc nhìn, những ngón tay vuông vắn đặt trên bàn, thế ngồi vững chắc, đang chăm chú nghe. - Em ơi! - Em đây. - Hôm nay đi làm có mệt không? - Vâng, mệt lắm anh ạ. - Thế thì em đi ngủ sớm đi, không nói chuyện nhiều hôm nay nhé. - Vâng, em sẽ đi ngủ đây. - Anh ru em nhé. - Không cần đâu anh ạ. - Không, anh cứ ru... Ngủ đi mộng vẫn... Em ơi ngủ chưa... anh hôn em nhé, ngủ ngon, my darling. - Em ơi! - Anh gọi em? - Thế anh gọi ai? - Giời ạ! Ý của em là, anh muốn bảo em điều gì đó mà. - Thật không? Nếu Anh chỉ muốn... - Muốn gì anh? - Ah! Anh muốn... Hôn em.... nghìn lần... - Anh hư quá, - Sao lại mắng anh cơ? - Không mắng anh hư. - Nói anh ngoan đi . - Không nói, anh hư. - Nói đi... please. - Yes, anh ngoan. - Ngoan thì... phải thưởng chứ... Em hôn anh đi... - Em ơi. - Em đây. - Em đang làm gì vậy? - Em đang viết. - Viết những gì? - Oh! Em chưa nghĩ ra. - Sao không viết về chúng ta? Viết mình "Fall in love". - Rồi sao nữa? - Khi người ta "in love", thì người ta sẽ... - Sẽ gì anh? - Sẽ... "Making love". - Oh! No, không viết được đâu. - Oh! Yes. Dễ thôi mà... Anh muốn... hôn em... Anh muốn... ôm em vào lòng - Nói sàm, ngưng ngay lại, không em cắt phôn bây giờ. - Đừng, đừng gác phôn, anh không đùa nữa, anh sẽ... ngoan. - Lại muốn trêu phải không? - Thật mà, anh ngoan đó... sẽ không nói nữa... Em nói đi. Bức tường dựng chung quanh cô rơi rụng, gạch đá đổ xuống từng viên, vỡ tan tành, Từng câu hỏi han nhẹ từng ngày, như những men say, như chất ma tuý, như giọt cường toan, những dòng chữ miên man trên màn hình, thăm hỏi ân cần, đợi chờ thắm thiết. Hẹn hò trong cõi mông lung huyền hoặc biến thành từng ngày mọc nhánh, ươm cành, rễ bám vào lòng đất ăn sâu. Mỗi ngày, không nghe tiếng nói, không tiếng điện thoại reo, không thấy những dòng chữ thân quen, tinh thần cô lơ đãng, sảng sốt, ngày tháng hư hao. - Em ơi! Đã hết đau bụng chưa? - Chưa anh ạ, còn đau lắm. - Em uống thuốc chưa? - Uống không giảm đau đâu, em chịu quen rồi. - Thương quá, anh xoa nhé... - Kỳ, ai lại... - Không kỳ đâu, anh thương mà...tựa vào vai anh... ngoan. - Em lại khóc bây giờ... - Anh sẽ nếm những giọt nước mắt, lăn trên trên má em... Tập nhật ký cuối cùng, những dòng chữ không còn nét cứng cát thường xuyên, đôi khi trang giấy thấm lem nhem, nhoè nhoẹt, chứng tỏ sự giao động trong khi viết, những giọt nước mắt đổ xuống của cô ta. Những ân cần ban đầu đã biến thành mệnh lệnh, con người diụ dàng đã để lộ nanh vuốt của sài lang. - Tai sao cô lại chuyện trò với bọn chúng? - Tại sao không? Các em hãy còn nhỏ, Anh lại ghen với chúng? - Cô thích chúng nó vì chúng trẻ tuổi? - Anh, tại sao lại nghĩ thế? Chuyện trò, giao tế, lịch sự thôi, người ta tìm đến chúc tụng mình, lại làm ngơ ư? Thật là khiếm nhã vậy. - Tôi thật không chịu nổi cái tính lẳng lơ trêu ghẹo, thật là dơ dạng của cô. - Chuyện trò lịch sự, hỏi han thường ngày, nào có phải là tán tỉnh vuốt ve, liếc mắt đưa tình, ôm ấp đâu mà anh cho là dơ dạng? Những bất đồng thường xuyên xuất hiện theo những trang nhật ký trong tập các tập cuối cùng. Dòng chữ chứa đựng sự chán chường sau mỗi lần cật vấn. Vấn đề chính khi được đặt ra, đối phương luôn tránh né, đợi chờ thời gian, cho đến khi biến thành những gắt gỏng lộ liễu. - Anh, em không thể sống mãi trong lo sợ được - Tai sao phải lo lắng? Có chuyện gì quan trọng để phải thay đổi đâu, hay là cô lại sơ hở để cho hắn bắt được thư từ nữa rồi? - Không, em chỉ sợ hãi chính mình, không thể sống mất anh. Hay là chúng ta cùng đi, rời bỏ nơi nầy? Đi thật xa, đi xây tổ cho riêng mình... - Cô đùa à? Làm sao có thể thực hiện được, thôi cố gắng bình tâm lo làm việc, Anh sẽ vắng nhà, đi công tác chừng hai tuần, khi về sẽ tính, ngoan. - Anh ơi! - Cô đừng làm phiền tôi nữa, tại sao cô lại đi bêu xấu tôi vậy? - Em làm gì mà Anh bảo là bêu xấu? - Chứ không phải sao, ai lại mang chuyện riêng tư ra kể cho người khác nghe. Tôi cấm cô mang thư từ trao đổi ra kể lại với bạn bè. Cô lại đem khoe hết mọi chuyện với người ta. - Em có nói điều gì không thật đâu. - Nhưng đó là chuyện riêng tư. - Vậy chuyện Anh đi tán tỉnh bạn em cũng là chuyện riêng tư sao? - Tôi cấm cô không được hồ đồ. - Em có bằng chứng rõ ràng, không nói xạo. - Nhưng cô không có quyền. Khoảng trống trong nhật ký, thời gian nối tiếp cho những âu lo muộn phiền, niềm vui của buổi ban đầu đã vụt tắt. Như con thiêu thân lăn vào vùng ánh sáng, dù biết rằng thứ ánh sáng đó sẽ thiêu đốt chính bản thân mình. Cô như người đang nghiện nặng, cơn đói thuốc hành hạ thân xác, không đủ đau đớn bằng nổi thống khổ của linh hồn, cô đánh mất chính mình, bán linh hồn cho quỷ dữ. Đang từ một con người cao ngạo thành công trước đây, cô có cảm tưởng như mình đang biến thành một thứ ti tiện, là côn trùng, loài bò sát không dám ngước mắt nhìn thấy ánh mặt trời, những tự tin biến mất dần theo từng lời cay độc. Thứ thuốc giảm đau, lại cũng chính là thứ giết người vô hình, không dứt bỏ được hắn, nhưng tiếp tục, dây dưa, thì lại luôn dày vò, ray rức vì mặc cảm tôi lỗi. Người đàn bà dừng lại, nhìn vào người đối diện, hít nhẹ vào và thở ra một hơi dài. Đôi mắt long lanh, ngầm chứa bao nhiêu ngôn từ, trong suốt thời gian được huấn luyện, học tập theo dõi, những tài liệu đọc qua, nghiên cứu từng sách lược, mưu chước, đòn phép... Bà phải công nhận, trường hơp nầy thật hạn hữu, tán tỉnh thật tuyệt vời, đánh trúng ngay yếu điểm của đối phương, như mũi tên phóng thẳng vào hồng tâm, nạn nhân không có cơ hội tránh thoát. Cùng lúc, vẫn tái diễn lại, ngón đòn quất ngựa truy phong của những tên họ Sở, đồng hành cùng với lũ lưu manh. Mở tập hồ sơ trước mặt, người đàn ông cất tiếng - Bà có nhận xét gì? - Thật là..., xin lỗi, tôi không còn ngôn từ diễn tả. Ông ta bật cười, tiếng cười lạnh lùng nhưng đủ xoá tan những nếp nhăn trên khuôn mặt. Ông ta biến thành một con người khác hoàn toàn. Ước gì, có nhiều chuyện làm ông ta cười thoải mái hơn, thì khuôn mặt kia sẽ rất ư là dễ nhìn. Bà giữ lại ý nghĩ trong thâm tâm, lắng tai nghe câu trả lời vào thẳng vấn đề - Không sao, tôi hiểu lắm chứ, bà không muốn đọc thêm những chương khác cũng được, vì không cần thiết nữa bà ạ. Chung qui cũng chỉ là những lập lại thôi, dù cường độ thân mật có gia tăng, hay những lời lẽ hằn học có thêm nặng nề, tôi nghĩ bà có thể đoán được chuyện gì xảy ra. - Vâng, điều tôi ngạc nhiên, và hổ thẹn thay, có nhiều nạn nhân ngã vào cùng một thứ cạm bẫy, cùng một chiêu thức, bài bản như nhau... - Tôi công nhận là có sự lập lại, nhưng bà nên nhớ rằng, đây là thành quả của một tên hoạt đầu, gian ngoan. Hắn rất tinh ma, hãy nhìn danh sách các nạn nhân, nhìn vào đống tài liệu thu thập được, bà nhận thấy thế nào? - Vâng, hầu hết các nạn nhân là phụ nữ đã có gia đình, có học thức, cũng như thành công trong nghề nghiệp - Chưa kể, nhan sắc, thông minh, hãy nhìn xuống hình ảnh, những người nầy, họ có nhiều điểm rất giống nhau. - Trớ trêu thay, họ lại liên hệ với nhau, hay nói cách khác, họ là bạn nhau. - Điều nầy cũng dễ hiểu, vì các nạn nhân có cùng sở thích, hoàn cảnh sống, hắn chọn lựa đối tượng theo khuynh hướng và sở thích của riêng mình. Ah! hắn tinh mắt và khéo chọn lắm chứ. Những phụ nữ bị hắn theo đuổi thường sinh hoạt chung trong một nhóm, lịch thiệp, xinh đẹp, họ có khả năng viết lách, biết diễn tả, nhạy cảm, nhìn vào bao nhiêu tập nhật ký nầy, có thấy là họ rất giỏi không. Chưa kể đến phương tiện tài chính, họ lại có tự do di chuyển, đi du lịch và có nghề nghiệp vững chắc... Vâng, họ có đủ những điều kiện căn bản, họ chỉ thiếu một điều: Sự quan tâm, chăn sóc của người hôn phối. Hắn rất sành tâm lý, là người có học thức, khéo léo, không ngoan, dung mạo thật điển trai, và khi nắm được yếu điểm của phụ nữ, hắn lợi dụng tối đa. - Tôi muốn hỏi điều nầy, tại sao không một ai tố cáo hành vi của hắn? Làm sao hắn có thể tiếp tục quyến rũ các nạn nhân... - Hắn nắm được yếu điểm của đối phương, vì nạn nhân hầu hết là người đã có gia đình, có danh vị trong xã hôi, sợ xấu hổ, sợ đổ vỡ gia đình, sợ mất niềm tin tưởng của con cái, nhất là hắn có trong tay những chi tiết có thể phương hại thanh danh của họ, đó cũng là mục đích của hắn, tại sao hắn chỉ chọn nạn nhân trong giới phụ nữ có gia đình? Thứ nhất là họ có kinh nghiệm phòng the, có thể đáp ứng được những đòi hỏi về nhục thể, tiếp đến, họ không thể tố cáo hắn, vì làm như thế là họ tự thú tội gian dâm của chính mình. Hắn không phải là loại đàn ông tự trọng, nhận lãnh trách nhiệm, hắn chỉ muốn thoả mãn cá nhân. Người phụ nữ thành công trong sự nghiệp, họ thông minh, không dễ chinh phục, nhưng đối phương càng khó thì càng gia tăng sự thích thú, khi bắt được con mồi, hắn đã chứng minh được khả năng quyến rũ của chính mình. Nhưng khi nắm được trong tay, hắn dễ sinh chán nản, nên biết sắp có chuyện thì hắn sẽ quất ngựa truy phong thôi. Bằng chứng là khi nạn nhân đã tùng phục, mòn mõi với những thầm lén, tránh né, ngỏ ý muốn tiến đến chuyện xây dựng hẳn hòi thì hắn đã cao bay xa chạy mất rồi. Hãy nhìn vào những trường hợp chúng ta đang nghiên cứu đây, bao nhiêu tập nhật ký, bao nhiêu người phụ nữ đã rơi vào cạm bẫy, bao nhiêu gia đình đang trên đường tan vỡ, chưa kề những nạn nhân đã bị hắn làm cho điêu đứng, thất vọng, mang nỗi thống hận suốt đời. - Chúng ta phải làm gì với trường họp nầy? - Thu thập dữ kiện, tìm động lực và nguyên nhân gây ra cái chết của cô ấy thôi, còn những chuyện khác, ngoài tầm tay. - Ứớc gì, tôi có quyền lực vạn năng... - Tôi hiểu, Bà không cần phải nói ra, chúng ta đã nắm bao nhiêu tài liệu trong tay, vấn đề chỉ là thời gian thôi. - Cái chết phi lý quá, tại sao cô ta không nghĩ đến chuyện mang ra ánh sáng, những thư từ, bằng chứng cụ thể cho những lời hăm dọa, có nhiều phương cách, Chết không giải quyết được chuyện gì. chỉ làm đau buồn thêm cho những người thân yêu thôi. - Cô ấy tuyệt vọng, không thấy lối thoát, cộng với chán chường... Những điều nầy đóng góp lại... Quan trọng hơn là cô bị cô lập với bạn bè chunh quanh. Càng thông minh, khi vấp ngã, càng thấy khó khăn, không thể thú nhận sự thất bại của mình, vì làm như thế tức là thua cuộc, lòng tự hào bị tổn thương. - Tôi muốn nhắc đến điều nầy nữa, nguyên nhân chính làm cho cô tự hủy sinh mạng của mình. Biết là đang gặp khó khăn. lại không có can đảm tìm phương cách giải cứu. Vả lại, khi mất hết lòng tự tin, đang mù quáng, thất vọng, mặc dù cô ấy rất thông minh,và thành công, nhưng cũng không có biệp pháp khắc phục. Tôi ước gì nạn nhân tìm được được sự giúp đỡ chung quanh, cô ấy rất cần người thân yêu, bạn bè, dù chỉ là người lắng nghe cô tâm sự, nếu có được những người nầy, có lẽ cô ấy đã không phải chết đi một cách uổng phí như vậy. Tôi sẽ cố gắng tìm phương cách giúp đỡ cho những nạn nhân, những người đang gặp hoàn cảnh khó khăn tương tự. Giúp cho họ, đừng tuyệt vọng, vì có những cơ sở chính phủ, cũng như tôn giáo, hãy tìm chỗ nương tựa tinh thần cũng như bảo vệ chính mình. Không tội tình gì mà phải gánh lấy, chiụ đựng, tuyệt vọng, và quyên sinh. Ông nghĩ có đúng không? - Vâng, tôi hiểu Bà muốn nói gì. Công việc của chúng ta, đến đây là phần kết rồi, còn chuyện phải làm kế tiếp, tôi tin rằng bà đã có biện pháp phải không? Nhớ lấy, tôi vẫn luôn sẵn sàng, bất cứ chuyện gì trong khả năng, tôi sẽ không từ chối. Tôi chúc bà thành công. Người phụ nữ xếp tập nhật ký lại, chồng chúng lên nhau, thắt lại mối dây. vuốt cho thẳng gáy sách. Bà nhìn người đồng nghiệp đang đứng trước mắt, bàn tay vuông vắn chìa ra, bà đặt bàn tay nhỏ nhắn vào, ông ta xiết nhẹ, cùng nhìn nhau, bà cảm thấy trong cái nhìn đã chứa đủ những câu nói không cần thiết. Bà mỉm cười. Trang sách đã khép.

Vũ thị Thiên Thư

Cánh đồng hoa dại Cuối cùng, điều tôi không mong đợi đã đến. Nó đến nhanh hơn tôi tưởng. Đến bất ngờ, nó nằm trong cái bao màu hồng xinh xinh. Một mùi hương ngát lên khi tôi mở ra. TH, hai cái tên nằm cạnh nhau, hài hòa đến tuyện mỹ... Anh kể cho tôi nghe chuyến thực tập vừa qua, về những cái ngông của đám bạn rồi kết luận : - Sinh viên mỹ thuật tên nào cũng hơi điên điên đấy! Tôi cười dí ngón tay vào mũi anh : - Anh có điên không? Anh nắm lấy tay tôi, bóp mạnh. - Anh cũng đang sắp điên đây này, em muốn anh bẻ ngón tay em không? Tôi la lên : - Ui da! Má ơi cứu con! Có người điên bẻ ngón tay con kìa! Anh buông tay tôi, ngơ ngác nhìn xuống nhà dưới : - Má đâu? Tôi cười như nắc nẻ. - Tỉnh rồi ha anh, người điên gì mới hù có chút xíu mà đã biết sợ. Má đi chợ rồi! Anh cốc tôi một cái đau điếng : - Mai mốt còn gạt anh như vậy, anh đánh đòn nghe không! Tôi hiền dịu : - Dạ, em sợ rồi, mai mốt hông dám nữa. Nhưng bây giờ thì... Tôi nhanh tay véo tai anh thật mạnh rồi co giò chạy xuống sau nhà. Một lúc sau, hai tay hai ly nước chanh. Tôi nghiêm trang đi lên : - Mời họa sĩ dùng nước ạ. Anh vuốt tóc tôi : - Có thế chứ, cô bé! Tôi gạt tay anh làm ly nước sóng sánh : - Không được kêu người ta là cô bé nữa. Người ta lớn rồi, sinh viên rồi chứ bộ. Anh nheo mắt : - Ồ, nghiêm trọng vậy sao, thưa nữ sĩ! Tôi nhăn mặt : - Không được chọc em nữa à nha. Em giận bây giờ đó. Anh làm hòa : - Thôi, thôi, được rồi. Không cô bé, không nữ sĩ nữa. Mình huề? Tôi im lặng, nghe lòng dịu lại. Một tia nắng lọt qua cửa sổ đậu xuống mái tóc bồng bềnh của anh. Bạn bè tôi thường bảo "Hậu của mày có mái tóc rất nghệ sĩ". Khuôn mặt anh có nét dịu dàng với nước da trắng, đôi môi đỏ, nét mày thanh tú. Khi chúng tôi đi chung với nhau, người ta thường bảo cặp này trông lạ. Tôi có nước da ngăm ngăm, khuôn mặt tròn với cái mũi nhỏ xíu, hênh hếch. Cái đầu ngông nghênh một mái tóc ngắn cũn. Một đứa bạn bảo tôi: "Mày lúc nào cũng ngó ngoáy lia lịa như con khỉ con". Rồi lại nhận xét: "Đôi lúc, Hậu của mày trông như hiền triết"... Anh thường chạy xe rất cẩn thận chở tôi dạo trên những con đường rợp bóng cây. Nhiều lúc, tôi phát chán, hối anh chạy nhanh hơn, anh bảo : - Em không thấy con đường này rất đẹp sao. Tôi dấm dẳng : - Em thích mình phóng nhanh. Gió ù ù bên tai, cảm giác thật tuyệt khi mọi thứ vụt qua. Anh hỏi : - Lúc nào em cũng chạy xe thế à? Tôi vênh mặt : - Vâng, sáng nào em cũng dậy trễ. Phải phóng xe nhanh mới kịp giờ, chứ đi như anh thì hết buổi học còn gì. Anh dịu dàng như bà mẹ : - Chết, em chạy từ từ thôi. Ráng dậy sớm một chút. Xe cộ bây giờ ẩu lắm. Lỡ có chuyện gì thì sao.... Tôi xụ mặt : - Anh trù em hả? Anh cười : - Đâu có, anh chỉ nhắc chừng em thôi mà. Tôi im lặng cắt đứt cuộc đối thoại. Một lần gặp nhau, cứ vui vẻ một chút lại có chuyện, mà nguyên nhân đa số là tại tôi luôn có ý kiến bất đồng với anh. Tôi và Hậu quen nhau đã hơn một năm. Lần ấy, Lâm, anh họ tôi, là sinh viên đại học Mỹ thuật, dẫn tôi vào lớp ngồi mẫu cho anh vẽ chân dung. Không quen ngồi mẫu nên khi lưng cứng đơ, tôi rất khó chịu, cứ ngọ nguậy suốt khiến Lâm phải nhắc chừng luôn. Anh, lúc ấy cũng đang vẽ gần đấy, thấy tôi như vậy, cứ tủm tỉm cười hoài. Gần một buổi sáng mà Lâm chưa phác thảo xong bức chân dung. Tôi phát cáu : - Thôi, em chẳng ngồi mẫu nữa đâu, mệt mỏi quá rồi. Lâm cũng quăng cọ : - Em cứ ngó ngoáy như vậy làm sao anh tập trung được. Tôi không vừa : - Chứ không phải tại anh vẽ dở sao! Đang há mồm đôi co với ông anh họ, tội chợt sững lại khi thấy anh bạn của ông anh nhìn chúng tôi tủm tỉm cười. Tôi ngó xuống chân, bối rối nói với Lâm : - Em về đây, bữa nào em kêu nhỏ Đào đến ngồi mẫu cho anh. Nó hiền lắm, chắc là thích hợp hơn em đấy. Lâm nhăn mặt : - Chết anh rồi, bài sắp chấm mà anh chưa vẽ được gì cả. Hay là mai em đưa bạn em tới đây được không! Tôi cười cười : - Được, nhưng anh phải đãi em một chầu cơ đấy. Lâm mừng rỡ : - Ừ, ừ, ngay bây giờ anh sẽ dẫn em đi ăn. Quay sang anh bạn lúc nãy, Lâm rủ : - Đi ăn với tụi này không Hậu? Cũng đến giờ cơm trưa rồi. Hậu lại mỉm cười : - Ừ, thì đi. Tôi nghĩ bụng, cha này bị "ma cười" hành sao mà nãy giờ cứ tủm tỉm hoài? Sau khi bức chân dung hoàn thành thì tôi và Hậu đã thân nhau. Nhỏ Đào cũng thân với Lâm. Bọn tôi thành hai cặp tính tình trái ngược: Lâm quậy, Đào hiền, Hậu hiền, tôi lí lắc. Cặp Lâm và Đào có vẻ ngọt ngào, tình tứ vì nhỏ Đào rất ngoan, Lâm nói gì nó cũng gật và chìu ý. Còn chúng tôi lúc nào cũng chỉ vui được lúc đầu, sau đó là tranh luận, cãi cọ rồi đến tôi giận dỗi còn anh thì ngồi im hút thuốc hoặc làm huề với tôi. Anh hơn tôi gần mười tuổi nên rất rộng lượng. Tôi luôn cảm phục anh vì điều đó nên cuối buổi đi chơi, tôi lại lặng lẽ ngồi sau lưng anh, chầm chậm ngắm người xuôi ngược, lòng cảm thấy bình an và nhẹ nhõm. Anh không có nhiều thì giờ cho tôi vì ngoài giờ học anh phải đi chép tranh để kiếm sống. "Học Mỹ thuật tốn kém lắm". Anh thường bảo tôi vậy. Mỗi lần lãnh lương, anh chỉ giữ lại một khoản nhỏ để tiêu xài, còn lại là đi mua màu hết. Học lớp sơn dầu, màu càng mắc hơn. Anh sống tự lập đã gần mười năm. Trước đây, anh định làm thầy giáo nhưng rồi niềm đam mê hội họa đã kéo anh ra khỏi cái công việc mà theo anh là công chức mẫn cán. Anh tâm sự với tôi: "Người ta sống phải làm được cái gì đó mãi mãi tồn tại, ngay cả khi mình đã chết đi". Phần lớn những buổi đi chơi hiếm hoi, anh lại dẫn tôi vào các gallery để xem tranh. Nhiều bức tranh, nhất là tranh trừu tượng cứ làm tôi hoa mắt lên, chẳng hiểu gì. Anh bảo "Xem tranh không cần hiểu mà phải cảm nhận". Nhiều lần, anh chỉ cho tôi: Bức tranh này của Picasoo, bức này của Léonard de Vinci, của Titien, rồi Goya... Nhưng tôi thường lẫn lộn luôn. Có lần, tôi nhầm bức "Hoa Diên Vĩ" của Van Gogh là anh của Picasso làm anh cười chảy nước mắt... Trường tôi chỉ cách trường anh một khoản đi bộ ngắn. Thỉnh thoảng, tôi rủ nhỏ Đào sang chỗ anh vào buổi trưa. Nhỏ Đào hay mắc cở. Nhìn mấy bức tượng ở tiền sảnh trường Đại Học Mỹ Thuật, nó đỏ bừng mặt. Tôi cũng hơi ngượng nhưng sắc tố của tôi lặn đâu hết nên má tôi không đỏ tí nào. Lâm rất thích thú khi thấy hai má Đào ửng hồng. Hậu hỏi tôi : - Em không mắc cỡ khi nhìn tượng khỏa thân sao? Tôi rắn rỏi đáp : - Vẽ đẹp thân thể con người khi được chiêm ngưỡng qua cái nhìn nghệ thuật thì sao lại đỏ mặt. Chỉ khi nào có ý nghĩ vẩn đục thì mới xấu hổ. Anh đồng tình : - Ừ, cái đẹp thân thể con người là cái trác tuyệt. Tôi tò mò nhìn anh : - Thế anh có vẽ tranh khỏa thân không? Anh nhìn tôi : - Có chứ, đó là phần bắt buộc của chương trình học mà. Đến lúc này thì tôi thấy hai má mình nóng ran. Thời gian trôi. Tôi đã lên năm thứ hai. Chương trình học nặng hơn, tôi không la cà nhiều. Anh cũng vùi đầu vào bảng màu, khung vải chuẩn bị cho kỳ thi tốt nghiệp. Những lúc gặp nhau, tôi và anh ít còn dịp để mà tranh cãi, giận hờn... Anh nói nhiều với tôi về ước mơ ngày ra trường. Anh sẽ lang thang một năm, đi khắp nơi để quan sát, để vẽ. Tôi băn khoăn : - Anh không lo gì cho tương lai sao? Một gia đình chẳng hạn? Anh cười, nhắc lại câu nói ngày nào. Tôi ngắt lời anh : - Lỡ anh không làm được gì để lại ngày sau thì sao? Anh hứa sẽ vẽ cho tôi một bức tranh thật đẹp. Một cánh đồng hoa dại, tím chân trời. Những cánh bướm rập rờn, bầu trời bàn bạc tím, một cô bé với mái tóc tím tung bay. Tôi hỏi anh : - Cô bé ấy là ai hả anh? Anh vuốt mái tóc ngắn cũn của tôi. - Dĩ nhiên cô bé với mái tóc dài rồi, không phải cái đầu ngắn này đâu. Tôi vùng vằng : - Không thèm, Anh đừng vẽ ai cả. Một cánh đồng đầy hoa bướm là được rồi. Mà sao lại là màu tím nhỉ? Cuộc sống đôi khi không như người ta nghĩ. Thực tế làm cho những ước mơ sớm lụi tàn. Ra trường, sau một tháng tìm việc, anh được nhận vào làm giảng viên của một trường Mỹ Thuật ở thành phố khác. Thỉnh thoảng về thăm tôi, anh đăm chiêu, ít cười. Tôi nhắc anh ước mơ ngày nào. Anh thở dài : - Em còn nhỏ, chưa sống tự lập nên không biết đấy. Anh thì đã mười năm rồi. Gần nữa đời người rồi anh vẫn chưa có gì. Bạn bè anh phần lớn đã có sự nghiệp, gia đình, nhà cửa... anh phải bắt đầu thôi. Anh ít về dần. Tôi hỏi tại sao? Anh bảo bận lắm. Tôi lờ mờ nhận ra có cái gì đó đang rạng nứt. Nhiều đêm, tôi không ngủ được vì nhớ anh. Nhớ đến quay quắt lòng. Sáng vào lớp, nhỏ Đào hỏi sao mắt bị sưng thế. Tôi nói dối chả sao cả. Hôm qua tao uống cà phê nên khó ngủ. Rồi anh Lâm bảo tôi : - Hậu nó có bồ rồi, một cô kế toán chung trường, hơi lớn tuổi nhưng mà nhà khá giả. Ba má cô ấy hứa sẽ cho hai người một căn nhà sau khi cưới... Tai tôi ù đi, tôi cố nén nhưng nước mắt cứ trào ra. Anh Lâm an ủi: "Thôi, bỏ đi em. Em còn nhỏ, tương lai còn dài".

Tôi vùi đầu vào học. Tôi nhận chỗ dạy kèm. Tôi đi làm thêm... Tôi bận rộn từ sáng đến chín giờ tối mới về đến nhà. Ngày tháng qua, tôi thấy mình già dặn, tim như chai lại, rồi cũng dần bớt đau khi nghĩ về chuyện cũ. Đến một hôm, tôi chợt nghĩ: anh đã chọn điều tốt đẹp cho anh và người anh yêu. Cuộc sống là một sự chọn lựa giữa điều này và điều kia. Rồi đây tôi cũng chọn được điều tốt đẹp cho chính mình.... Đêm qua, tôi mơ một giấc mơ đẹp. Tôi thấy mình đang nhẹ nhàng chạy lướt trên một cánh đồng đầy hoa Những cánh bướm rập rờn, không chỉ một màu tím huyền hoặc mà cánh đồng rực rỡ nhiều màu sắc khác. Chợt một bụi hoa niếu chân tôi lại làm tôi té sấp. Một cánh tay rắn chắc nâng tôi lên. Một giọng nói ấm áp bé ơi, dậy đi, bay lên nào. Anh ư... Rồi bừng tỉnh. Ngoài kia, mặt trời đang chiếu những tia nắng đầu tiên ấm áp. Tiếng chú sáo trong lồng đang véo von. Tôi nằm im, chợt nhận ra đã lâu sao mình không cảm thấy và nắm bắt sự tuyệt này. Tôi vùng vậy, kéo mạnh bức màn. Một làn gió ùa vào. Ánh ban mai như xua tan nốt cái màu tím huyền hoặc của giấc mơ đêm qua.

Bùi Thúy Hà

Cầu thang Một, hai, ba Một, hai, ba Cứ bắt đầu đến chỗ rẽ, là Trân lẩm bẩm đếm. Ba tầng gác cô còn đếm được một cách không đứt quãng. Tầng gác thứ tư. Trân hơi dừng để thở. Một... Hai... Ba. Tầng năm. Chỉ còn tiếng thở hắt ra. Cổ họng Trân khô đắng và như bị cứa. Còn những hai tầng nữa mới đến phòng làm việc. Trân cúi đầu, cố gắng bước lên và tự ghìm hơi thở của mình cho nó khỏi bật ra. Còn nhớ, hôm chọn phòng làm việc này, mấy đồng sự thắc mắc: "Chị Trân, sao chị đồng ý mình ở tầng bảy, mà tháng máy hay bị hỏng, chị biết rồi đó". Trân cười. Họ đâu biết là cô chỉ được cảm thấy mình là mình nhất khi cô đi ở những bậc cầu thang kia cũng là sự bất ngờ. Cuộc sống thời hiện đại, tìm phút tự do của mình khó quá.

Đường lên nhà anh cũng qua 68 bậc thang gỗ. Cầu thang hẹp, nhiều chỗ gỗ mục cho nên Trân đi phải dè dặt. Không bị cảm giác càng lên càng mệt mỏi như lên phòng làm việc hàng ngày qua 68 bậc gỗ (có khi 67 hoặc 69 bậc) đấy là anh.

Để đếm được 68 bậc cầu thang. Trân phải đi qua một ngõ dài hun hút. Đầu ngõ là một hàng phở. Họ bán chui bán lủi phải giấu mỗi nơi một thứ. Bánh phở thì treo lủng lẳng ở giữa ngõ, cuối ngõ thì có hai chậu bát lình xình nước và những chiếc bát nổi cùng hành, ớt và váng mỡ. Và đặc biệt, chỗ tin tưởng nhất dù đông người qua lại, có một con chó Nhật đen vì bẩn, một con mèo mắt long sòng sọc hay ngồi thì họ để gà. Những con gà công nghiệp béo căng nứt toác cả da, dòng nước mỡ ứa ra, chảy rỉ rỉ xuống bậu cửa nối sang bậc cầu thang thứ sáu. Bao giờ đến anh, Trân cũng gặp những con gà béo căng phao câu chống lên trời với những cái cổ rụt. Hai cánh nó sải ngang ra vẻ thách đố. Cạnh đấy là chú mèo ngồi ngay ngắn, liêm khiết vô cùng. Cái gì chờ Trân ở cuối những bậc thang gỗ kia. Lúc nào cô cũng tự hỏi mình điều ấy. Hành trình một ngày của Trân thật đơn giản. Sáng leo đủ bảy tầng gác, đủ để nhiệt tình - nản chí và lại nhiệt tình. Các cuộc họp. Các khuôn mặt tuởng như thân với mình lắm nhưng chỉ để nói những câu chuyện vô thưởng vô phạt nhất. Rồi Trân sốt ruột. Buổi trưa về ăn cơm. Buổi chiều, leo đủ bảy tầng gác để rèn nghị lực và rồi, đến anh, qua 68 bậc gỗ.

Bao giờ cũng thế. Anh luôn ở những trạng thái chẳng lặp lại bao giờ. Dù có cố đoán già, đoán non, chưa bao giờ Trân đoán đúng. Lúc Trân tưởng giờ này anh phải ngủ, thì anh lại kỳ cạch chữa máy nước. Lúc Trân tưởng anh đang ăn cơm thì đến 61 bậc thang gỗ, Trân nghe thấy anh hát vống lên một bài gì đó. Anh thích hát Karaoke mà. Luôn luôn bất ngờ. Nhưng cái sự bất ngờ đó chẳng mới mẻ gì, chỉ làm Trân mệt mỏi hơn. Nhưng rồi, tất cả mọi chuyện lại xảy ra, lặp lại và như một thứ nạp điện cho Trân. Cô lại thấy ở anh điều gì đó mới mẻ để chạy xuống 68 bậc thang và mong chờ ngày mai, để lại chạy lên 68 bậc đến với anh.

Chiều nay, thay vì việc Trân mê mải đi trên đường, đầu óc tưởng tượng ra lúc đến với anh sẽ thế nào thì cô ở lại cơ quan. Tầng bảy lộng gió chiều. Dưới sân, tất cả nhuộm một màu đỏ của mặt trời hắt sáng. Phía xa, thành phố đã lên đèn. Người đi lại thưa thớt. Chỉ có gió. Gió bốn bề tứ phía. Tất cả lạnh ngắt. Trên chiếc bàn hình bầu dục là chiếc gạt tàn đầy những mẩu đầu lọc. Mẩu thì bị dí xuống bẹp dúm dó. Mẩu thì sẫm lại vì người hút có thói quen nhúng vào nước mỗi khi hút. Rồi cốc, chén, chiếc nghiêng, chiếc thẳng. Vừa qua một cuộc họp. Người nọ nói người kia ngu. Người kia mắng người nọ hồ đồ. Suy cho cùng, tất cả, sau đó, để làm gì?

Họp xong. Mọi người hối hả thu dọn những gì là của mình tay xách, nách mang, lao vút xuống bảy tầng cầu thang, lên những chiếc xe máy và tỏa ra các ngả. Mọi chuyện, chắc rơi rớt đi trên đường. Có một người đàn ông đứng lại. Người đàn ông cùng phòng của Trân. Cuộc họp vừa rồi, anh chủ trì. Anh tung vấn đề ra để mọi người bàn luận và anh chốt lại. Ngày mai anh lại chuyển vào làm đặc phái viên ở Sài Gòn một thời gian. Anh chẳng ở đâu cố định. Anh đến bên Trân, cười như thể chưa có cuộc họp vừa rồi. Anh bảo : - Trân này! Anh đi đợt này cũng khá lâu. Em có nhận xét gì về cuộc họp hôm nay không? Trân lắc đầu : - Mọi cuộc họp đều thế. Có cảm giác là mọi sự sắp thay đổi nhưng sự thực, đâu lại vào đấy. Anh cười - Em thông minh lắm. Anh có cảm giác, chúng ta tạo ra những điều may rủi và chính chúng ta gọi nó là số phận.

Trân đứng tựa lưng vào lan can. Gió lùa mênh mông. Gió trải ra vô cùng tận.

Anh im lìm hút thuốc. Rồi anh giơ tay nắm bàn tay Trân. Bàn tay anh bóp mạnh tay cô. Hơi ấm từ bàn tay đó truyền sang cô làm cô rùng mình. Anh lại nói : - Em có đoán được số phận em không? Trân nhìn anh khẽ lắc đầu : - May rủi đến với em là do người ngoài mang lại chứ em không tự tạo ra nó. Rồi Trân hỏi : - Thế còn anh? Anh cười nhìn xuống dưới sân. Đằng sau bức tường rào là đường đi làm. Đằng sau con đường đó là mặt hồ phẳng lặng. Anh thì thào : - Đoán làm gì. Người ta bảo anh chỉ sống được một năm rưỡi nữa, 365 ngày cộng 180 ngày. Ngày nào dài lắm là hôm nay, còm ngắn hơn giống hôm qua. Sau tất cả sự ngắn dài đó, là mặt đất, là giun dế, sâu bọ, là các luồng nước triền miên chảy dưới lòng đất mà khi chôn một ai đó xuống, họ bảo chỗ người đó nằm có long mạch chảy qua. Trân mở sững mắt nhìn người đàn ông mà hàng ngày cô gặp. Cô cùng công việc và chẳng bao giờ cô nghĩ là họ lại có lúc đứng với cô thế này. Tại sao lại là một năm rưỡi nữa! Người đàn ông hơi cười như mếu : - Anh là sống lâu nhất so với những người đàn ông trong họ. Bố anh chết trận. Anh Cả bị đụng xe. Em anh cảm nhập tâm. Người ta bảo, đáng lẽ anh phải "đi" từ lâu rồi. Trân rùng mình, bỗng thấy người đàn ông bên mình có cái gì ma quái. Cô bỗng thấy rét. Rét không phải vì gió lộng của những ngày cuối đông mà lạnh ngắt từ trong ra. Suy cho cùng, những điều anh nói cũng có lý. Anh vẫn triền miên kể, như vào luồng vào mạch.

Anh vẫn còn nhớ ngày anh Cả chết, họ bảo anh Cả chết trùng. Đưa anh Cả về quê. Đến nghĩa trang làng, mẹ anh mua được chỗ đất ngay bên đường cái. Có sẵn một cái huyệt lớn với những bậc thang dẫn xuống. Càng xuống sâu càng nhỏ dần. Anh còn bé. Có hiểu chết là gì đâu. Anh chạy lăng xăng xem mọi người. Anh thấy các cụ trong họ bê ra những bát máu đỏ tươi và những người khác bê những cây trúc ra. Những cây trúc được vót nhọn. Họ khoắng một đầu cây trúc vào bát máu. Anh hỏi : - Máu gì đấy chú?. Ông chú quát : - Máu chó đen. Anh lại hỏi - Để làm gì? Ông chú trợn mắt : - Để cấm đường anh mày về bắt nốt chúng mày. Xê ra, hỏi lắm thế. Không ra kia mà khóc anh đi, chốc nữa hạ huyệt rồi. Trân rùng mình, nhìn sang người đàn ông. Chợt thấy gần vô cùng và cũng xa quá. Người đàn ông rút thuốc ra hút. Khói thuốc hơi quẩn lại rồi tan loãng ra. Có cảm giác nó mỏng và nhẹ như linh hồn sau khi lìa khỏi xác.

Trân nhìn người đàn ông, giọng khàn đi : - Anh kể với em mọi chuyện để làm gì? Anh lắc đầu, rít thuốc mạnh. Hai đụn khói từ mũi anh bay ra : - Chẳng để làm gì cả. Tự nhiên anh muốn nói chuyện với em. Anh ít khi tâm sự với ai lắm. Trân hỏi : - Vợ anh chẳng hạn? Anh cười, một nụ cười khó tả nhưng đủ để Trân hiểu rằng vợ anh ta là một cái gì đó anh ta cần phải có nhưng cũng chẳng giải quyết được việc gì ngoài sự mệt mỏi. Anh nói : - Em phải thoát ra khỏi cuộc sống này đi. Đời người ngắn ngủi lắm. Em đã không thích cái gì thì cố gắng đừng làm mà phí thời gian, phí sức. Anh cười : - Nhà anh đối diện với nhà người ấy. Có lần, anh thấy em khóc từ nơi đó ra. Rồi hôm sau, anh lại thấy em đến. Lúc về, có khóc nữa hay không thì anh không biết. Đúng không? Trân gật nhẹ, người lại rét lên. Anh nhẹ nhàng : - Mọi cuộc tình đều thế cả. Hôm nay cứ hy vọng ngày mai khá hơn. Và cứ cố tìm cái này để bào chữa cái kia, nhưng suy cho cùng, giống nhau cả. Trân hỏi : - Vì thế nên anh cứ đi đi về về?

Trân nhìn xuống, có một người đàn ông lao vút vào sân để xe, khóa nhanh và chạy lên. Người đàn ông đó ở phòng Trân. Anh châm thuốc và cười tủm tỉm. Có tiếng chạy lên thang gác. Tiếng thở. Và ông ta hiện ra, tóc dựng đứng ở mái, bụi làm tóc ngả màu ghi đất. Ông ta sững lại khi thấy Trân và người đàn ông đứng. Rồi cười bả lả (khuôn mặt khác hẳn cuộc cãi cọ quyết liệt lúc trước về việc phân chia lợi nhuận và trách nhiệm) : - Ờ các bạn chưa về à? Trân hỏi cho có chuyện : - Sao anh Hoành quay lại? Người đàn ông tên Hoành chạy vụt vào trong phòng, thoáng cái mang ra một chiếc biến thế nhỏ, dứ dứ : - Quên cái này. Tôi mua nó hơn triệu bạc để giảm điện đấy. Mọi đường điện qua đây coi như tắc luôn. Không có nó, mỗi tháng hai, ba trăm nghìn thì ốm. Dùng dăm tháng coi như hòa vốn. Rồi lút cút chạy xuống đầy vẻ hớn hở, sung suớng như cả thế giới thu lại trong chiếc biến thế dùng để ăn cắp điện.

Anh nhìn xuống sân. Trân cũng nhìn xuống sân. Người đàn ông tên Hoành gói ghém đậy điệm kỹ càng chiếc biến thế, rồi phóng vút đi. Anh cười : - Đằng sau tất cả những gì quyến rũ của tình yêu, có những lời có cánh là có cái đó dấy. Vì có cái đó, người ta mới sống được. Đừng thi vị bất cứ điều gì! Trân nhìn người đàn ông : - Vậy em phải làm gì? Người đàn ông nhìn Trân, rồi anh ấy tựa vào tường, nhìn ra xa. Bóng tối âm thầm buông phủ, bâng lâng sương khói. Người đàn ông đến bên Trân, ôm lấy cô, thì thào : - Em chẳng phải làm gì cả. Em nhắm mắt lại và đừng nghĩ đến đạo đức.

Trân nhắm mắt và tim cô đập rộn ràng.

Môi cô bỗng khô ran lên, như muốn nứt ra vì bỏng. Cô thấy nóng toàn thân. Rồi cô chợt chùng người xuống khi đôi môi người đàn ông đặt lên môi cô, cũng nóng bỏng và cuống quýt.

Hai người hôn nhau. Bên dưới, đèn các nhà bật sáng. Gió lùa réo rắt. Và bỗng nhiên, họ như bay lên những tầng mây. Dưới kia là cuộc sống, là bon chen giằng giật, là mưu dồ này nọ...

Rồi họ cũng buông nhau ra. Trân ngượng ngùng đưa tay chùi môi một cách bản năng. Người đàn ông châm thuốc, im lặng. Rồi người đàn ông nói, giọng khàn đi. - Em đừng tìm những thứ em muốn. Cố gắng lắm thì em sẽ được một chút, một chút thôi là quý lắm rồi. Anh làm như vừa rồi là để em thấy, nếu em chỉ vì giằng buộc thể xác với anh ta thì sự giằng buộc ấy mỏng manh vô cùng. Em cũng đã xúc động với anh hơn xúc động với anh ấy vì anh mới hơn. Có nghĩa là chỉ nên cố yêu ai đó bằng tinh thần thôi, chứ còn vì thể xác, chóng chán lắm em bé ạ. Thôi, anh đi đây. Ngày sống của anh còn ngắn lắm.

Người đàn ông đưa tay bóp vai Trân. Cô rùng mình, sự rùng mình của một thể xác hồi sinh. Thể xác đàn bà. Cô nhìn ra xa. Và nghe tiếng chân xuống cầu thang nhỏ dần.

Lại những bậc cầu thang. Chỉ lên hay xuống quanh quẩn trong một ngày, rồi một tháng, một năm và một đời người. Leo lên thì khó. Càng cao càng khó. Mà xuống thì nhanh quá.

Tối từ lúc nào. Trân không thấy người đàn ông đi ra. Bất giác, cô lấy tay đặt lên môi. Cảm giác nóng rẫy rần rật như bốc từ trong ra. Cả người Trân rùng mình và cô như phát điên lên.

Trân chạy lao xuống cầu thang như để trốn chạy khoảng trống gió làn hun hút của tầng bảy, lại như chạy đuổi theo người đàn ông đếm thong thả những ngày còn lại của đời mình nhưng vẫn luôn rất nồng nhiệt.

Rồi một người chạy lao vào Trân. - Cô Trân. Cô lẩn thẩn ở đây làm gì thế? - Thế còn anh? Anh quên gì à? - À tôi quên cái phong bì. - Hôm nay họp làm gì có phong bì? Không, tôi có một tập phong bì. Trong đó có năm mươi nghìn. Cứ tối nào tôi đi em út, tôi phải thả một cái để đem về còn đưa cho mụ béo, bảo là đi họp được tiền. Nói rồi ông ta cun cút chạy lên cầu thang với đầy niềm phấn chấn. Thế mới hiểu, sau những giờ mà người ta buộc phải tỏ ra công chức, họ dễ dàng tâm sự những điều thầm kín với nhau hơn. Và lần đầu tiên. Trân thấy ông ta không phải là ông ấy trong vẻ trịnh trọng, đạo mạo và đứng đắn.

Rồi đứng ở sân. Gió vẫn lùa qua tai, gió vẫn lồng lộng bốn bề. Trân nhìn lên. Sau tầng bảy là trời. Ở đấy là những vì sao, những số phận.

Một Hai Ba...

Những cây trúc quết vào máu chó cắm quanh ngôi mộ của người chết trùng để người ấy hết đường về dù lúc còn sống, người ấy tốt vô cùng. Cả họ bây giờ sợ người ấy vì người ấy có thể về bắt đi bất cứ ai mà lúc sống người ấy yêu quý.

Năm Sáu

Những con gà béo cụt đầu chổng mông lên trời. Gần đấy là một con mèo ngồi ngây ngất.

... Hai tư Hai nhăm

Người đàn ông hôn như điên nhưng vẫn không quên những ngày được sống.

Những dự án hợp tác với người nước ngoài với số vốn hàng tỷ đô la và chiếc biến thế con con dể ăn cắp điện.

... Bốn hai Bốn ba...

Những chiếc phong bì có sẵn để lấp liếm những cuộc tình vụng trộm...

Sáu sáu Sáu bảy... ... và sáu mươi tám.

Nguyễn thị Thu Huệ

Chân dung người hàng xóm Khi tôi chuyển đến N, một thị trấn nhỏ vùng biên giới, bà cô ruột của tôi lại từ đó rời về Hà Nội với đứa con gái duy nhất vừa lấy chồng. Bởi thế, bà để lại cho tôi, với giá rất rẻ, hầu như việc lấy tiền chỉ là một sự tượng trưng. Nhà của cô tôi là một trong sáu căn nhà xây áp tường nhau, kéo một vệt dài ven phố bờ sống. Cô tôi bảo dãy nhà này của một Hoa kiều làm nghề thầu khoán xây vào cuối thời kháng Pháp rồi bán lại cho các chủ, mỗi căn giá bốn lạng vàng. Sáu căn nhà giống nhau như sáu giọt nước. Tất cả đều là nhà một tầng, lợp ngói máng rất cao. Mái trước dốc, mái sau thoải thoải kéo dài cho tới sân nhà bếp. Nhà nào cũng có một cửa ra vào và hai cửa sổ lớn cánh bằng gỗ lắp có thể mở cửa bán hàng. Mỗi nhà có hai buồng và một gian gác xép bằng gỗ lim. Trên khoảng tường cao áp mái, người ta đục một lỗ cửa đắp hình hoa thị. Do lỗ cửa này, những câu chuyện trong nhà không thể che giấu người bên cạnh. Khi tôi dọn đến, ô cửa bên trái đã bị trát kín từ lâu. Lớp vữa khô còn in rõ những nhát bay vụng về. Ô cửa tường bên phải vẫn để ngỏ. Cô tôi giải thích : - Cái cửa kia thông sang gian gác nhà Lý Ung nên phải trát kín đi. Lão ấy mặt dơi tai chuột, gian giảo lắm. Còn cái cửa này cứ để nguyên cũng được. Bên ấy là nhà chú Lý Xuân. Chú ấy là người hiền lành, ngay thật... Vợ tôi im lặng nhìn tôi. Tôi mỉm cười : - Thế là ta có hai hàng xóm trái màu đấy. Nhớ lời cô dặn mà xem xét... Cô tôi còn dặn dò chúng tôi một lô kinh nghiệm sống, cách xử thế, những việc linh tinh, những nhân vật đáng chú ý ở cái phố miền sơn cước mà bà đã sống quá nửa cuộc đời. Sau đó cô đi xem xét lại toàn bộ căn nhà với vẻ bịn rịn rồi bảo tôi đưa ra ga. Khi làn khói trắng của còn tàu tắt dần giữa các vách đá tôi quay lại thị trấn. Con đường bụi mờ mờ trải dưới chân tôi vệt son dài hoang dã. Một nỗi lo âu mơ hồ đè nặng trong tim: Tôi sắp sửa sống ở một vùng đất mới, với những con người mới. Không có ai quen thuộc ở nơi đây. Phải, mối quan hệ lớn nhất bây giờ là quan hệ với những người hàng xóm... Chiều hôm ấy, cơm xong tôi lững thững ra sân. Trời êm ả. Mùi hoa móng rồng ở bức tường sau bếp tỏa ra thơm nức. Tôi ngồi xuống ghế, nhìn những vách núi rực nắng chồng chất ở chân trời phía Tây. Tiếng một người bất chợt cất lên : - Anh chị mới đến ở đây?... Tôi quay lai. Bên kia hàng rao trồng đậu đũa, một người đàn ông tơi cười nhìn tôi, hàm răng lấp lánh. Ngay tức khắc, tôi hiểu đó chính là Lý Xuân. Tôi vồn vã trả lời : - Chúng tôi mới chuyển công tác lên đây. Cô tôi để lại cho cái nhà này... Người đàn ông gật đầu lia lịa : - Ô, lên đây ở cho vui... anh em áo ngắn cả mà. Trước bà Ân với nhà tôi cũng quí nhau lắm... Chúng tôi cùng giới thiệu tên mình. Người hàng xóm gương mặt đỏ hồng, tươi tắn. Mái đầu cắt ngắn trên cổ vạm vỡ. Ngực rộng. tấm thân rắn chắc nổi lên những bắp thịt như những múi thừng. Anh ta cởi bộ quần áo thợ ra, bỏ mũ đập cho sạch bụi rồi ngồi xuống gốc một cây liễu cưa cụt làm ghế. Mặt gỗ ngồi nhiều đã nhẵn bóng nhưng ở nơi gốc cây, chồi non đâm tủa lên một đuôi công xanh mớt. Lý Xuân ngồi trên chiếc ghế tự tạo đó với dáng điệu của một ông vua ngồi lên ngai vàng của mình. Anh ta vừa phe phẩy chiếc mũ vừa khoan khoái ngắm nhìn vườn tược, khóm đậu xum xuê và những vòi hoa tím nhạt nở lốm đốm khắp hàng rào. Vẻ mạt mãn nguyện hồn nhiên của anh ta làm tôi có thiện cảm : - Ít ra thì mình cũng đã có một người hàng xóm tin cậy được... Tôi thầm nghĩ. Trong bếp nhà Lý Xuân, một phụ nữ bưng mâm cơm bước ra. Người đàn ông quay lại nhìn vợ đon đả : - A Phượng này, anh chị Ngọc ở dưới xuôi mới lên ở bên thím Ân, hàng xóm mới của nhà mình đấy... Người đàn bà khẽ cúi chào rồi bước thẳng lên nhà trên. Tôi cảm thấy trong dáng điệu của chị ta, có ẩn giấu một vẻ kênh kiệu kín đáo. Lát sau người vợ cất tiếng gọi : - Lên ăn cơm Lý Xuân à... Anh chồng nhỏm dậy : - Để tôi xay xong cối bột đã nhé. Dứt lời anh ta chạy vào bếp, khuân một chiếc cối đá cỡ đại ra sân. Xong, lại bê ra một thúng gạo ngâm và một soong nước. Ngồi lên gốc liễu, anh ta chạng hai chân ôm lấy chiếc cối, cầm cần tay. Thế rồi, một tay giội nước, vun gạo, một tay quay vèo vèo liên lục. Chỉ độ một giờ sau Lý Xuân đã xay xong cối bột. Anh ta đứng dậy nhìn tôi cười hể hả : - Tôi là thợ cơ khí của thị trấn... Tối về làm bánh cải thiện thêm. Anh thấy không?... Tôi làm trong chớp mắt là xong thôi mà... Tôi gật đầu đồng tình với người đàn ông tràn trề sức sống đó. Lý Xuân cất dọn mọi thứ rồi lại ra giếng tắm. Sau tiếng giội ào ào là tiếng anh hàng xóm gọi vợ : - A Phượng, tôi xay xong bột rồi, đi ăn cơm thôi... Rồi khi vào nhà tôi đã thấy cái bóng đồ sộ của anh ta in giữa khung cửa mở giống như bóng của một con gấu rừng. Suốt bữa ăn không nghe người vợ nói năng gì. Chỉ có tiếng bát đũa và chạm lách cách và tiếng anh chồng thỉnh thoảng lại sốt sắng giục : - Kìa, mình ăn đi chứ... Ăn đi kẻo ốm... Trước đây, quan hệ của cô tôi với nhà hàng xóm bên trái là Lý Ung có lẽ không mặn mà cho lắm. Vì vậy, không những ô cửa hoa thị trên nóc tường áp mái bị trẹt kín mà đến hàng rào ngăn cách phần sân của hai nhà cũng được bịt bùng bằng mọi thứ ván gỗ, mảnh tỏa rỉ và những đồ vật linh tinh khác. Hàng rào chướng ngại ấy trông xấu xí đến tức cả mắt, đối lập hẳn với hàng dậu thông sang nhà Lý Xuân được giăng bằng vài chéo nứa gài cánh sẻ, dây đậu leo xanh rờn, hoa tím nở lung linh như bươm bướm. Tôi có ý định tháo dỡ hàng rào cồng kềnh giữa nhà mình và nhà Lý Ung. Trước tiên là để quan hệ giữa hai nhà bớt căng thẳng. Sau đó là làm một hàng dậu trồng dây leo cho mát mắt. Tôi sang gặp Lý Ung, người hàng xóm thứ hai. Đó là một người đàn ông thấp bé tuổi trạc bốn mươi. Đúng như cô tôi đã nói, hình dung ông ta có phần kỳ dị. Mặt Lý Ung nhỏ quắt queo, đôi tai mỏng và nhọn bám vào hai bên đầu như đôi tai chuột. Chúng tôi làm quen và nói chuyện cầm chừng. Trái với Lý Xuân, Lý Ung ít cởi mở. Ông ta đắn đo từng câu nói, cặp mắt nhỏ đưa đẩy luôn luôn về phía quầy bày những con vịt quay bóng loáng. Nhà Lý Ung hơi tối vì những đồ vật kê chen chúc. Tủ đứng, tủ bò, giường nằm, bàn ăn cho khách... Toàn là những loại đồ sộ bằng gỗ gụ hoặc lát chun. Trên gác xép, góc trong cùng giáp với nơi mái ngói chụp xuống bức tường chắn đỡ, một chiếc bàn thờ lót sa tanh đỏ kê ngay ngắn. Trên bàn thờ dựng một bài vị đề chữ Hán, bát hương, vài quyển sách đọc da ám khói và mấy quyển Mao tuyển đỏ chói. Tôi nói chuyện với ông ta khá lâu. Nhưng mối quan hệ cũng không tiến triển được bao nhiêu vì Lý Ung kín như một cái hũ nút. Rút cuộc, tôi đành phải nói tới việc phá dỡ hàng rào với ý nghĩ rằng mình đang làm một chuyện vô ích. Đúng như tôi phỏng đoán, người hàng xóm từ chối. Ông ta đưa ra một lô lý do quanh quẩn mà tôi không hiểu nổi. Sau cùng, tôi đành thất bại ra về. Cái hàng rào vẫn cứ sừng sững giữa hai mảnh đất, thô kệch và xấu xí, ngăn cách đời sống của gia đình tôi với người hàng xóm Hoa kiều ở phía bên trái. Cũng từ dạo đó tôi không để ý đến ông ta nữa. Chỉ có đôi dịp chuyện trò với những người cùng phố, họ cho tôi biết Lý Ung rất giàu và khôn khéo. Dân Hoa kiều ở thị trấn này nể sợ ông ta. Ông ta sống ở đây rất lâu với đứa con gái; còn người vợ chưa thấy mặt bao giờ. Đứa con gái Lý Ung tôi nhìn thấy luôn. Nó giống ông ta như tạc, khuôn mặt và đôi tai bé quắt, con mắt nhìn lầm lì, bí ẩn... Hàng đậu đũa đã được hái lứa đầu tiên. Những chùm quả mềm mại thả dọc bờ đậu, tươi mởn. Quan hệ giữa gia đình tôi và nhà Lý Xuân cũng gắn bó thêm một mức. Chiều nào ở hai bên sân chúng tôi cũng ngồi trò chuyện. Những câu chuyện về sự làm ăn, sinh hoạt thường kỳ trong phố. Khi nào có trà ngon Lý Xuân mời tôi sang ngồi bên gốc liễu cụt uống nước. Tôi chỉ cần bước nhẹ qua kẽ hở của hàng đậu đũa là tới nơi. Còn nếu tôi mua được cà phê, thế nào tôi cũng bày bộ tách sứ Giang Tây của cô tôi để lại, với hai chiếc phin pha sáng loáng mời anh hàng xóm sang thưởng thức. Và Lý Xuân chỉ co chân bước một bước là vợt qua hàng rào, ngồi vào chiếu với tôi. Đứa con trai tôi rất quyến luyến Lý Xuân. Anh ta cũng quý thằng bé. Buổi tối làm bánh rán Lý Xuân thường giành viên bột cuối cùng nặn thành con chim, con cá, chiếc đùi gà hoặc quả đào rán phồng lên đem cho thằng bé. Đôi khi, tôi bắt gặp anh ta bế nó lên đùi, vụng về ve vuốt : - Ô... cháu ngoan lắm... cháu có muốn làm con nuôi chú không? Lý Xuân lấy vợ đã chín năm mà chưa có con. Tôi biết anh ta đang khao khát được làm bố : - Khi nào có con tôi sẽ đóng cho nó một con ngựa gỗ có lắp chuông. Khi nào có con tôi sẽ gửi mua cho nó chiếc xe đẩy bánh bọc cao su thật tốt, người bà con của tôi bên Trung Quốc đã hứa mua hộ... Khi nào tôi có... Anh ta thường nói với tôi như vậy. Vợ Lý Xuân mắc chứng bệnh gì đó không rõ. Không thấy chị ta đi làm. Công việc của chị ta trong một ngày chỉ là đi chợ, nấu hai bữa cơm và buổi tối giao bánh cho nhà hàng. Mỗi ngày A Phượng phải ăn một lạng giò hoặc hai lạng vịt quay. Lý Xuân bao giờ cũng nhường thức ăn cho vợ còn bản thân anh ta thì chỉ ít dầu hoặc một tô rau bí xào cũng và hết sáu bảy bát cơm : - Kìa, mình ăn đi, chả quế của dì Sáu Sìu đấy... Kìa mình ăn đi, vịt ông Lý Ung quay mới ra lò... Ngày nào tôi cũng nghe người chồng nhắc lại cái điệp khúc ấy vào bữa cơm. Chị vợ điềm nhiên hưởng thụ sự chăm sóc đó, với một vẻ im lặng nửa hồn nhiên nửa điệu bộ. Hàng tóc mai cắt bằng xõa xuống trán như một tấm mành bên trên cặp mắt một mí long lanh. A Phượng có cái vẻ đẹp của các cô gái vẽ trên hộp phấn rôm Thượng Hải ngày trước. Không hiểu sao tôi thiếu thiện cảm với chị ta. Cả vợ và đứa con trai tôi cũng vậy. Các buổi sáng chủ nhật Lý Xuân đều rủ tôi đi làm rẫy. Bắt chước anh ta, tôi cũng vỡ một vạt đất trồng sắn và củ mỡ. Lý Xuân bày cho tôi cách bẩy đá, đốt cây, gỡ mầm củ. Đôi cánh tay của anh ta cầm cuốc vung lên, nhịp nhàng và mạnh mẽ. Trong nắng sớm, tấm thân lực lưỡng của Lý Xuân ngả bóng dài trên nương sắn. Tôi ngắm nhìn và lại hình dung đến lúc anh ngồi trước chảo bánh, bàn tay khéo léo vo những viên bánh tròn rắc vừng, lanh lẹn và tế nhị như đôi tay của một người đàn bà. Lòng tôi tràn ngập niềm yêu mến với con người ấy. Con người sinh ra để lao động nuôi dưỡng cuộc đời. Xong việc Lý Xuân rủ tôi ngồi nghỉ hút thuốc. Cả hai chúng tôi đều im lặng hồi lâu, miệng không ngừng nhả khói, mắt lim dim tận hưởng mùi vị của thứ thuốc sợi vàng tẩm mật ong. Trước mặt chúng tôi, nương rẫy trải một màu xanh ngút ngát. Màu xanh cây là phản chiếu trong ánh mắt của Lý Xuân khiến nó trở nên mơ màng. Anh ta ngước nhìn dải núi trùng điệp là một màu lam nhạt lên chân trời biên giới và bỗng cất tiếng hát. Lý Xuân hát bằng tiếng Hoa, tiếng của tổ quốc anh ta. Mắt anh ta nhìn xa xôi, rưng rức. Giai điệu của bài ca bay lên như cánh chim rồi lượn lờ hạ dần xuống. Lát sau, tưởng chừng sắp sửa tắt đến nơi nó lại vọt lên đột ngột như một đỉnh núi cao bỗng hiện lên phía trước con đường. Tôi nghe tiếng hát buồn buồn của Lý Xuân và thấy hiện ra trước mắt mình một vùng đất bao la tuyết phủ, những xóm mạc tha thớt, những ngôi nhà đắp bằng đất, những bầy chim xứ lạnh bay chậm chậm, vừa bay vừa cất tiếng kêu trên dải đồng bằng xa tắp... Năm tháng bình yên trôi. Nhưng cuộc sống của Hoa kiều trong thị trấn bỗng nhiên bị xáo động. Cuộc cánh mạng văn hóa vô sản ở Trung Quốc ảnh hưởng tới tận nơi đây. Nhóm Hoa kiều xôn xao. Họ nhận trước tác Mao Trạch Đông đọc và thảo luận. Vài người bỏ về nước. Lại một số người khác vượt biên giới sang. Một buổi sớm rét mướt, công an biên phòng tìm thấy hai xác chết của người Hoa nằm trong một am nhỏ thờ thần ở ven rừng. Cả hai đều bị đâm nát mặt. Trong những ngày đó Lý Xuân có vẻ hốt hoảng. Anh ta ủ rũ và ngơ ngác. Đi làm về, Lý Xuân lùi lũi xay bột, không còn nghêu ngao hát nữa. Nhưng trái lại, A Phượng thì xăng xái lắm. Ngày nào cũng thấy chị ta sang nhà Lý Ung bàn tán chuyện trò, vẻ mặt đầy vẻ quan trọng. Trừ những lúc nấu cơm, A Phượng ngồi đọc trước tác Mao Trạch Đông. Buổi tối, khi Lý Xuân ăn cơm chị ta nói lại cho chồng nghe với cái giọng san sát như mảnh bát cọ nhau. Chúng tôi không hiểu được nội dung, chỉ thấy Lý Xuân cắm cúi và cơm hoặc dựng đũa thở dài sườn sượt. Tất cả dân phố đều phấp phỏng chờ đợi một cái gì đó không lành sẽ xảy ra trong những người dân Hoa. Nhưng may sao, mọi việc êm xuôi. Ngày nối ngày qua đi và sự xôn xao lắng dần xuống. Người ta bận làm ăn, kiếm sống, lo toan trăm thứ nên những cuộc họp riêng để đọc trước tác Mao Trạch Đông ít dần và bị lãng quên. Lý Xuân tươi tỉnh trở lại. Thỉnh thoảng đã thấy anh ta ngồi trên gốc liễu cụt nhấm nháp chén trà và cất tiếng hát. Nhưng riêng A Phượng vẫn chưa thể trở lại nhịp sống bình thường. Khi Lý Xuân đi làm, chị ta vẫn sang nhà Lý Ung mỗi sáng. Thay vì đọc trước tác, chị ta ăn phở chua do chủ nhân thết đãi. Chuyện đó nghiễm nhiên thành lệ. Dân phố xì xào. Đứa con gái Lý Ung nhìn A Phượng với con mắt hằn học kín đáo. Chỉ có Lý Xuân là không hề hay biết. Một buổi sáng trời mưa lớn. Cơn mưa đâu hạ rơi ồn ào trên mái ngói. Tôi ngồi viết lại số phích cho tủ sách cơ quan. Một dòng nước từ mái ngói bỗng nhỏ long tong xuống bàn, bắn lên những tấm bìa viết mực nho còn ướt. Tôi vội vã chuyển bàn làm việc tới một góc nhà và leo lên gác xép xóc lại mảnh ngói vỡ trong bụng thầm đoán đây là kết quả trận ném nhau của lũ trẻ trong phố. Trên sàn gác, nước dột đọng thành vũng. Tôi kiếm một chiếc ghế nhỏ. Khi đứng trên ghế, đâu tôi đã gần chạm tới cây rui. Vô tình, tôi đưa mắt nhìn vào ô cửa hoa thị thông sang gác nhà Lý Xuân, lúc ấy đã ở ngay trước mặt. Một tia sáng mảnh rọi thẳng từ trên kẽ ngói vào ô cửa trống. Nhờ tia sáng đó, tôi nhìn thấy trên sàn gác nhà Lý Xuân, trong khoảng tối lờ mờ vì chăn đệm che lấp và những bức gỗ nặng nề vây quanh, hai bóng người lõa thể vặn vẹo như đôi rắn. Ngay tức khắc, tôi nhận ra A Phượng và Lý Ung. Hoảng hốt, tôi tụt xuống ghế lao xuống nhà dưới. Lặng lẽ và câm nín như một kẻ ăn trộm. - Sao thế? Xóc lại ngói đi... Vợ tôi ôm đứa con trai ngồi trên giường la to. Tôi đến bên cô ta, đặt bàn tay lên vai, bóp thật mạnh : - Đừng om sòm lên. Nước dột nhỏ vào giữa mặt, chờ tạnh mưa mới sửa được. Thấy thái độ lạ lùng của tôi, cô ta im lặng ngay. Buổi tối, tôi kể chuyện cho vợ tôi nghe. Cả hai chúng tôi cùng ngồi lặng hồi lâu, thương xót anh chồng bị lừa dối. Sau trận mưa mở đầu, những cơn mưa mùa hạ gọi nhau ào ạt kéo đến. Sông suối dâng đầy trong phút chốc, sóng cuộn ào ào. Nỗi lo ngại lớn nhất của những người làm cha mẹ lúc này là nước lũ. Chúng tôi cũng vậy. Chúng tôi luôn luôn theo sát đứa con trai, dặn dò, đe dọa nhiều khi van lơn nó đừng theo bạn ra sông chơi. Nhưng tai họa vẫn cứ đến. Một chiều chúng tôi ngồi phân loại sách cho cơ quan. Trời mới tạnh mưa, nắng le lói chiếu trên mặt đất còn ớt đầm. Đứa con trai tôi nằm vắt chân chữ ngũ ê a đọc tranh truyện trên giường. Vợ chồng tôi vừa làm vừa chuyện vặt. Chợt vợ tôi sực nhớ tới đống lạc chưa kịp phơi đã gặp nước mưa. Cô ta hớt hải bảo tôi mang ra sân phơi. Tôi đành bỏ dở việc, cào đống lạc ở góc nhà vào thúng đem ra sân. Vợ tôi rải lạc thành lớp mỏng trên sân gạch. Phơi lạc xong, cô ta lại phát hiện ra nửa thúng lạc xấu đã bị trương lên và yêu cầu tôi phải giúp cô ta bóc ngay tức khắc. Thế là tôi đành tặc lưỡi ngồi xuống cầm chiếc kẹp tre tách vỏ lạc. Vừa bóc được độ mười hạt, một bà cùng phố chạy xộc vào, kêu thất thanh : - Chú Ngọc, con chú bị lũ cuốn rồi... Tôi ném chiếc kẹp tre, đứng lên. Trên giường trống ngơ trống ngắt quyển tranh truyện ném bên mép chiếu, thằng bé đã bỏ đi từ lâu. Không kịp nói một lời, tôi chạy bổ ra cửa, tai ù đi như cối xay nghiền bên trong. Tôi chạy hết phố xuống tới bờ sông, mang máng cảm thấy một người nào đó vừa la khóc vừa chạy theo mình. Chắc đó là vợ tôi. Phía trước bến sông, một đám người tụ tập ồn ào bàn tán. Tôi xô vào họ, tìm quanh quất, Không thấy con, tôi lại đâm nhào xuống nước. Một người nào đó kéo áo tôi lại. Dòng nước đục ngầu lao đi giữa hai bờ đất, khủng khiếp như một con trăn gió phóng tới chụp mồi. Chỉ thấy những lượn sóng đục ngầu chồm lên nhau, rú rít. Không tìm được một mảnh áo, một bàn tay chới với nào được ngoài những đám bọt xoáy tít và những cành củi trôi vùn vụt giữa dòng. Nỗi tuyệt vọng làm tôi như điên loạn. Tôi giằng khỏi bàn tay níu giữ của một người nào đó chạy dọc theo mép nước. Tiếng la khóc của vợ tôi ở phía sau lớn dần lên, bám chặt lấy tôi, khoan sâu vào óc não. Sóng vẫn chập chờn trước mắt tôi như một bầy thú kỳ dị và độc ác. Tưởng như tôi cũng sắp bị nó nuốt chửng vào cái dạ dày hung hiểm kia. Đúng lúc ấy, Lý Xuân hiện ra trước mặt tôi. - Anh Ngọc.. Anh ta gọi. Tôi đứng lại, mắt hoa lên. Lý Xuân ớt đầm đìa, tái nhợt, vài vác đứa con trai của tôi. Thấy tôi đứng đờ đẫn, anh ta cũng đứng lại, bế thằng nhỏ xuống : - Tôi đã quay bảy vòng, nó nôn hết nước... Bây giờ nó thở được rồi đấy... Lý Xuân nói và trao đứa con nhỏ cho tôi. Làn môi nhợt nhạt hé cười anh nói tiếp : - Lúc nãy, nó mở mắt ra gọi: Chú Xuân... Nó nhận ra tôi... Cổ họng tôi tắc nghẹn. Tôi ôm đứa con, nước mắt trào lên. Vợ tôi cũng lao đến ôm thằng bé. Chúng tôi khóc. Và cùng cảm thấy hạnh phúc khi tìm lại được một cuộc sống còn quý giá hơn cuộc sống của chính mình. Cuộc sống ấy chỉ chút nữa là vĩnh viễn bị đánh mất. Lý Xuân nhìn chúng tôi với ánh mắt ấm áp. Anh ta quay lại lấy bộ quần áo thợ ướt sũng vắt trên thành cầu. Rồi giơ tay chào chúng tôi, anh thong thả đi vào phố. Từ mùa hè năm đó. Lý Xuân trở thành ân nhân của gia đình tôi. Lẽ tất nhiên chúng tôi quý trọng anh hơn trước nhiều. Nhưng Lý Xuân không hề lạm dụng lòng biết ơn đó. Hình như anh coi việc cứu đứa trẻ cũng tự nhiên như việc cuốc đất trồng sắn, tiện cái đinh ốc hay xay bột làm bánh. Thằng con trai tôi quấn quít anh suốt ngày : - Bố Lý Xuân gập cho con chiếc tàu bay... bố Lý Xuân bắt cho con con bọ ngựa... Lý Xuân nhận thằng bé làm con nuôi. Anh ta thường cầm bàn tay bé xíu của nó xoa lên má, cọ vào chiếc cằm đầy râu : - Ô tay nó xinh ghê... Ôi, tay nó êm như tay con búp bê bằng lụa... Mỗi lần có món ăn ngon, vợ tôi lại sai con đem sáng biếu vợ chồng Lý Xuân. Lần nào thằng bé cũng về kể : - Bao nhiêu miếng thịt nạc cô A Phượng ăn hết, bố Lý Xuân chỉ gặm xương thôi... Chúng tôi bật cười. Vừa bực vừa thương con người hỉ xả đó. Tháng năm cứ thế trôi qua. Tôi dần dần có thêm nhiều bạn bè mới, công việc quen thuộc dễ chịu hơn nhiều. Tôi gắn bó từ lúc nào không rõ với cái phố nhỏ miền sơn cước này. Lý Xuân vẫn là người hàng xóm tin cẩn, người gần gũi nhất đối với tôi. Có lẽ, chúng tôi có thể sống êm thắm như thế mãi nếu không có những biến động. Đầu tiên, là những vụ xung đột xảy ra dọc biên giới. Dân công xã Trung Quốc bị khích động chạy sang chiếm đất, gặt trộm lúa, phá vỡ những đập nước và mương máng. Những vụ giành giật đất đai, đánh lộn bằng gậy gộc, ném đá xảy ra, dội vào thị trấn. Dư luận ồn ào. Hoa kiều nhìn chúng tôi bằng ánh mắt khác lạ, thầm lén và nghi kỵ. Đời sống thường ngày của thị trấn trở nên thầm lắng, ủ ê. Buổi tối, các cô gái và các chàng trai không còn rủ nhau tới cửa hàng kem hoặc vào thư viện đọc sách. Lũ trẻ cũng bớt chạy ra đường, hò reo, tập trận giả. Các cánh cửa đóng im ỉm, lọt ra vài vệt sáng. Mọi người sống thu mình lại, chờ đợi cái gì đó sẽ xảy ra. Lý Xuân ủ rũ như con chim gãy cánh. Anh ta buồn bã hơn cả hồi xảy ra vụ cách mạng văn hóa mấy năm trước. A Phượng thậm thọt chạy sang nhà Lý Ung suốt ngày. Thậm chí có bữa chị ta ngồi lì bên nhà lão bán phở chua bàn bạc việc cơ mật không thèm nấu ăn. Buổi trưa anh chồng đi làm về lại cắm cúi rửa nồi thổi cơm. Đứa con trai tôi cũng ít sang nhà bố Lý Xuân hơn trước. Dường như nó cũng linh cảm thấy sự thay đổi trong thái độ của những người lớn. Tình hình mỗi ngày mỗi xấu đi. Ban đêm, qua các khe cửa, những bàn tay đen mang truyền đơn kêu gọi thúc ép người Hoa về nước. Lý Ung thường có những nhóm người tới thì thầm bàn tán. Mắc dầu chính quyền hoạt động tích cực giải thích, trấn an cho số dân Hoa, họ vẫn lục tục bán nhà, thu dọn đồ đạc bỏ về nước. Lý Xuân gầy tọp đi, râu ria tua tủa. Bộ mặt đỏ hồng tràn trề niềm vui sống của anh giờ đây đờ đẫn, hai hốc mắt trũng xuống, hằn nếp gấp trên mi. Anh không làm bánh nữa, suốt ngày thơ thẩn ra vào suy tính. Một đêm oi nóng, vợ chồng tôi thao thức không ngủ được. Đột nhiên, tiếng thì thào gay gắt bên kia tường vẳng sang. Chúng tôi cũng nín lặng nghe. Vợ chồng Lý Xuân cãi nhau. Họ nói tiếng Hoa, chúng tôi chỉ hiểu lõm bõm đôi chút. Giọng nói cả hai cùng cố nén nhỏ nhưng giằn dữ. Người tấn công là A Phượng. Chị ta nói liên tục, hùng hổ. Lý Xuân chống đỡ bằng lối nói nhát gừng, lúng búng của anh ta. Sau một lúc đôi co, A Phượng bỗng hét lên một tiếng nhỏ rồi hằm hè hỏi một câu gì đó. Lý Xuân lặng im không trả lời. A Phượng thúc hối một lần nữa. Lý Xuân vẫn câm nín. Chúng tôi nghe chị vợ rít lên lần thứ hai và tiếp sau đó những tiếng vỗ đôm đốp. Tiếng đập xen lẫn nhịp thở hào hển của người đàn bà. A Phượng đánh chồng. Vợ tôi thì thào. Tôi mở mắt trong bóng tối, lắng nghe tiếng động dội sang và tưởng như nhìn thấy bộ mặt người đàn bà tái mét vì tức giận, hàng tóc mai dính bết trước trán, cặp mắt một mí long lên điên khùng. Chị ta vừa thở hổn hển vừa tát đôm đốp vào mặt Lý Xuân. Anh chồng hộ pháp đó có lẽ nằm im chịu đòn. Chúng tôi không nghe thấy một tiếng động nhỏ nào chứng tỏ anh ta chống đỡ. Sau một hồi bạo động, chắc A Phượng đã mệt. Chị ta thở dốc và nằm vật ra giường. Từ những nan gỗ bị rùng mạnh và vang lên khô khan trong bóng tối. Sáng hôm sau Lý Xuân đi đâu rất sớm. Gần trưa anh ta mới về: vẻ mặt bần thần. Mấy người cùng phố cho tôi biết anh vừa bán non nương sắn. Nghe đâu chỉ được giá dăm trăm. Nếu để đền vụ nương sắn của anh phải thu ngót hai ngàn. Ngay buổi chiều hôm đó bên nhà Lý Xuân vang lên tiếng đục gỗ chi chát. Tôi biết anh đang đóng hòm chở đồ. Ngày hôm sau A Phượng gọi người tới bán giường, tủ, mấy chiếc ghế tựa và chiếc cối xay bột. Tới cuối tuần họ đã thu xếp xong. Lý Xuân bước qua hàng dậu, sang nhà tôi : - Chào anh chị Ngọc, tôi đi. Anh ta nói, giọng khàn khàn không rõ buồn hay vui. Chúng tôi không dám hỏi han gì thêm chỉ lặng lẽ pha trà. Đứa con trai nhỏ của tôi bỗng ôm choàng lấy Lý Xuân : - Thế bố có quay lại đây nữa không? Bố Lý Xuân?... Người hàng xóm cầm tay đứa bé, mắt chớp chớp. Sau khi uống một chén trà, anh ta bỗng thở dài : - Ở đây làm ăn đang vui. Tôi không muốn về đâu, nhưng Tổ quốc kêu gọi... Mấy tiếng cuối cùng nghe như bị hụt hơi. Lý Xuân lặng im không nói gì thêm nữa. Vợ tôi lấy gói kẹo mè sửng vừa mới gửi mua ở Huế đưa cho Lý Xuân và chúc anh ta đi mạnh khỏe. Lý Xuân đứng dậy chào chúng tôi về. Thân hình vạm vỡ của anh in đầy khuôn cửa. Cái lưng hơi gù gù tạo nên vẻ nhẫn nhịn và cam chịu. Lần đầu tiên, sau bao nhiêu năm quen biết, tôi mới nhận thấy lưng anh ta hơi gù. Lý Xuân đi tới hàng đậu. Vào mùa này, những cây đậu đũa đã hết rụi, kho xác ôm quanh các ống rào. Lý Xuân định bước qua hàng dậu về sân. Đột nhiên đứa con trai tôi chạy bổ ra : - Bố Lý Xuân ơi, cho con buồng chuối kia nhé, con để chín cây cho chim sáo ăn dần... Thằng bé vừa nói vừa chỉ buồng chuối tiêu ở góc vườn nhà Lý Xuân đang bắt đầu tròn quả. Lý Xuân quay lại cười. Ngay lúc đó tiếng A Phượng cất lên riết róng : - Đừng tưởng bở, chúng tao chỉ về hai tháng rồi lại sang đây thôi. Người đàn bà xanh lét như một con sâu trong bộ quần áo hoa xanh lốm đốm. Mặt chị ta vênh lên nhìn chúng tôi với vẻ ngạo mạn và thách thức. Vợ tôi vội vã mắng con. Thằng bé bỏ chạy đến bên chiếc lồng sáo. Lý Xuân lùi lũi đi về. Đó là kỷ niệm cuối cùng kết thúc một thời gian dài êm ấm. Tôi tưởng không bao giờ gặp lại người hàng xóm nữa. Nhưng cuộc đời diễn ra ngoài sự tưởng tượng của mỗi chúng ta. Hơn một năm sau ngày Lý Xuân về nước, giặc Trung Quốc đánh ập sang. Chúng đánh vào lúc mọi người ít chuẩn bị nhất. Tháng hai, Tết nguyên đán vừa đi qua, nhưng mùi hương ngày lễ rằm còn phảng phất. Các súc thịt ủ rơm trong sọt chưa hết. Nhiều nhà hãy còn bánh nếp, bánh bỏng. ở vùng núi, mùi vị tết kéo dài theo không khí lành lạnh, lảng gảng hơi sương của mùa xuân. Bất chợt, hai giờ đêm, pháo nổ ran bốn phía. Tiếng động dội vào các vách đá, nhân lên, trùm lấy không gian, phá vỡ sự bình yên trong mọi căn nhà. Một người nào đó ở ngoài phố hét to : - Giặc Trung Quốc đánh đến rồi,... giặc Trung quốc... Chúng tôi bật dậy. Thế là bắt đầu cuộc chạy giặc. Vào trong núi, chúng tôi mới kịp nhận ra rằng trong lúc hốt hoảng, chúng tôi đã không mang theo những thứ cần thiết để duy trì đời sống: Lương thực, soong nồi, bát đũa, dao chặt củi, sô múc nước... Tối hôm đó, một đoàn người bao gồm tôi, cậu bé mười lăm con ông già giữ thư viện, một bác thợ ngói đã về hưu, những người đàn ông hiếm hoi trong đám dân sơ tán cùng liều chết quay lại thị trấn. Chúng tôi cứ men theo những lối mòn mà đi. Thoạt đầu còn dè dặt, sau rồi chạy hối hả, liều lĩnh. Tiếng súng ở phía đầu thị trấn vẫn nổ từng đợt dài chứng tỏ dân quân chưa rút khỏi trận địa. Họ đang chống trả lại quân địch. Thị trấn chìm trong bóng tối hoang vu. Chúng tôi chia nhau ở cột đèn cuối thị trấn, hẹn sau nửa giờ quay lại cùng đi, rồi ai nấy lần về nhà mình. Tôi mò mẫm mở ổ khóa. Rồi trong đêm, mò mẫm tìm những thứ cần mang theo. Tiếng súng ở đầu thị trấn bỗng dội lên quyết liệt rồi sau đó tắt hẳn. Sự im lặng đó đè nặng lên tim tôi. Nó báo hiệu phút hiểm nguy đang tới gần. Mồ hôi toát ra ướt đẫm, tôi cuống cuồng gói đồ đạc thành một bó. Sợi dây thừng đã ải bỗng nhiên đứt phựt. Vừa rờ rẫm tìm hai mối nối, tôi vừa nghe tim mình đập thình thịch. Phút im lặng kéo dài. Rồi đột nhiên một loạt đạn tiểu liên nổ kèm theo tiếng chân chạy rầm rập. Tôi buông gói đồ xuống mở hé cánh cửa nhìn ra phố. Trong làn sáng của lửa đạn, tôi thấy quân địch đen nghịt tràn lên lòng đường. Tôi nhận ra họ ngay. Bởi lẽ hình dáng của họ đã quá quen thuộc đối với tôi, người đã sống trên mời năm trong dãy phố hai phần ba là Hoa Kiều. Tôi khuân gói đồ, chạy ra căn hầm đào dưới cây nhót ngoài vườn. Nấp trong đó, tôi lắng nghe tiếng súng nổ loạn sạ, tiếng ồn ào ngoài đường vọng vào. Quân địch đã ùa vào các căn nhà. Bóng đen lố nhố in lên vòm trời sáng đục vì những đám cháy ngoài thị trấn hắt lên. Đám đông chuyển động trên mảnh sân nhà tôi và nhà Lý Xuân. Đôi khi, nhờ ánh lửa hồng hồng gợn khói soi rọi, tôi nhìn ra những bộ mặt quen thuộc của thị trấn: Hai thanh niên thợ gốm chiều chiều đá bóng trên sân cỏ. Một lão cắt tóc có chiếc rương gỗ sơn đỏ vẫn dựng quán trước cửa chợ phiên. Một cán bộ phân phối ngành thương nghiệp. Một lão to béo bụng tròn ngày ngày vẫn ôm chiếc hòm đựng bánh bột viên đi quanh phố, miệng rao dẻo kẹo : - Cái bi ron ron, cái bi ròn ròn à... Tụi lính Trung Quốc gọi nhau ngầu ngã tìm nước uống. Giữa đám tiếng nói hỗn loạn, một giọng oang oang bỗng cất lên : - Có giếng đấy, có giếng trước cửa bếp đấy... Giọng nói quá quen thuộc. Tôi lặng người, nín thở lắng nghe. Trong bóng đêm vang lên tiếng hỏi : - ? ? (đâu? đâu?...) Vài tiếng gắt gỏng. Một thằng lính va đầu vào cánh cửa bật chửi : - Tỉu nà ma... Những bóng đen đi lại lộn xộn. Rồi có tiếng gầu chạm lanh canh vào thành giếng xây, và cái giọng ban nãy lại cất lên, vui vẻ, ngạc nhiên : - Ô, cái gầu nữa đây... cái gầu của nhà tao hãy còn. Đích thực là giọng nói của Lý Xuân, không thể ngờ vực. Tôi hồi hộp dướn người lên, giương mắt nhìn lại đám lá nhót. Bên ngoài, tụi lính đang tranh nhau uống nước ừng ực. Mấy thằng lính nuôi quân đã nhóm một đống lửa giữa sân. Trong ánh lửa đỏ rực, tôi nhìn thấy người hàng xóm cũ. Lý Xuân, đứng trước cửa nhà mình, cao hơn, hơi gù, bộ mặt to lớn, hơi gù, bộ mặt to lớn đầy mãn nguyện. Tụi lính đang đập phá nhà tôi. Chúng bẻ gãy chân bàn, phá giường ném vào đống lửa. Cả chiếc lồng chim sáo của đứa con trai cũng bị vứt vào bếp. Những chiếc nan tre cháy bùng lên. Con sáo đập cánh bay rối rít, điên loạn trong đám lưỡi lửa vây quanh. Vừa giẫy giụa, con chim vừa kêu : - Có khách, có khách... - Có khách... Con vật bé nhỏ kêu hoài cho đến lúc cháy thui. Tụi lính vỗ tay cười. Một tên lính nhỏ thó bưng bộ tách chén bằng sứ Giang Tây của tôi ra, vạch quần tiểu tiện vào. Tụi đồng bọn thích thú cười nghiêng ngả. Lý Xuân cũng cất tiếng cười hô hố. Anh ta nhìn bộ tách sứ đó, cũng như nhìn con sáo tội nghiệp chết quằn quại trên đống lửa bằng con mắt xa lạ, dửng dưng. Ánh lửa chập chờn rọi lên hàm răng trắng bóng đều đặn của Lý Xuân. Cái cổ vạm vỡ đỏ ửng. Đôi mắt xếch dưới cặp mày ngắn long lanh. Vẻ mặt anh ta hồn nhiên cho đến nỗi tôi đâm ngờ vực chính con mắt của mình, ngờ vực cả cái quá khứ lâu dài xa kia, đã có một thời, hơn mười năm chúng tôi là những người láng giềng thân thiết. Tên lính nhỏ thó, lấc cấc bê cả bộ tách sứ đầy nước tiểu liệng vào giếng nhà tôi. Tụi lính xung quanh kêu ố lên ngạc nhiên, tán thưởng. Lý Xuân nhìn hắn thích thú. Lúc này, anh ta giống như một đứa trẻ độc ác hồn nhiên. Một đứa trẻ vui thú trong trò chơi độc ác, ví như vừa chơi vừa cấu đôi con bướm hay lấy dao chặt cụt đuôi mèo. Tụi lính Trung Quốc vận nhộn nhạo đùa giỡn quanh đống lửa. Nhưng đột nhiên có tiếng hét ngoài phố. - Duê nản... tả duê nản... Tụi lính nhào dậy. Lý Xuân là người đầu tiên ngó qua khuôn cửa nhảy ra ngoài đường. Anh ta hét lên : - Tả duê nản... Và cánh tay lực lưỡng giật khẩu súng dựng bên tường, cặp vào nách. Đạn liên thanh nổ hai tràng dài sau đó. Rồi một tiếng kêu đau đớn, mơ hồ từ phía cuối thị trấn vẳng lên. Tôi thấy tim mình như đứng lại: Phía đường ấy là nơi cột điện tôi đã hẹn ông già thợ ngói và chú bé tới cùng đi. Nếu một trong hai người đó quay trở lại?... Tôi biết làm sao bây giờ? Áp ngực vào thành hầm, tôi căng thẳng lắng nghe, đầu óc rối loạn vì những lo âu và phỏng đoán. Một tiếng đổ ầm ầm vang lên; tên lính bếp vào nhà tôi gỡ cánh cửa, lặc lè kéo đến bên đống lửa. Hắn lấy rìu bửa nhỏ, ấn vào bếp. Trong khung cửa trống hoác đó Lý Xuân bước vào. Đi sau anh ta là lão già Lý Ung. Lão bán phở chua bây giờ mới xuất hiện. Trong bộ phục rộng thùng thình, trông lão xấu xí lạ lùng. Lão kéo theo sau người bị bắt. Chính là chú bé đã cùng tôi quay lại thị trấn buổi chiều nay. Máu dồn lên mặt tôi nóng phừng, rồi trong một giây, người tôi lại tái đi, mồ hôi toát ra ướt đẫm. Những nắm tay tôi tìm nhau, vặn chặn lại trong cơn tuyệt vọng và bất lực. Trên kia, lão già Lý Ung đang quát hỏi chú bé : - Ai sai mày quay lại đây? Do thám hả? Chú bé đau đớn quỳ nghiêng trên sần, ôm bàn chân đập nát. Nó ngẩng lên, nhìn vào mặt lão bán phở nói khẽ : - Tôi về lấy gạo, lấy nồi nấu cơm, lây sô múc nước... Các ông bắn pháo... Không kịp đem theo... - Tụi dân quân sai mày về đây? Hay bộ đội địa phương?... Chúng nó sai mày dò xét cái gì?... - Ung tiếp tục hỏi. - Không ai sai cả. Chú bé lắc đầu. - Lý Xuân, mày hãy cho nó một báng súng, thằng ranh con này bướng thật. Chắc nó đã được học làm do thám, nó rình rập để đánh trả chúng ta. Lý Xuân đứng dậy, cánh tay kềnh càng vươn lên cao, giáng cây súng xuống cậu thiếu niên. Tôi nhắm mặt lại, choáng váng như vừa bị bổ một thanh củi vào đầu. Tôi chưa thể hình dung sự việc lại diễn ra như vậy. Tôi không thể ngờ Lý Xuân tàn nhẫn đến thế. Mặc dù hắn đã thản nhiên chứng kiến cảnh đồng bọn đập phá nhà cửa, đồ đạc của tôi, mặc dù hắn đã cười hô hố khi con sáo bị thiêu cháy, mặc dù... Tôi nhìn bộ mặt đỏ rực ánh lửa của người láng giềng, đôi mắt xếch dưới hai tràng lông mày ngắn không lay động. Chú bé bị đánh vào vai, ngã rụi xuống sân. Nó bật kêu lên một tiếng đau đớn và gọi : - Chú Lý Xuân... Cậu thiếu niên ngước nhìn tên hộ pháp, ánh mắt kinh hoàng. Một chút xao động chạy qua gương mặt tên lính. Hình như hắn bối rối. Trước đây, hắn vốn là người vui tính. Hắn thường cởi trần, mặc quần đùi chạy đá bóng lông nhông với lũ thiếu niên trong phố, giống như một con gà cộ lạc giữa bầy gà con. Buổi chiều, hắn thường nhảy xuống bến sông bơi òm òm, la hét đùa nghịch với chúng và đôi khi rỗi rãi, hắn ngồi chuyện gẫu với mấy chú nhóc trước quán bánh rán nước chè, điếu thuốc phì phèo trên môi. Vì tất cả những chuyện đó, lũ thành niên choai choai trong thị trấn thân thiết và yêu mến Lý Xuân. Ánh mắt đau đớn, ngỡ ngàng của chú bé lúc này dán vào mặt hắn. Tên lính cúi đầu xuống. Một ngón tay hắn choãi ra trên nóng súng. Lão già bán phở vẫn ngồi chôm hổm trước cậu bé, tra hỏi : - Thế nào ranh con? Khai ra chứ?... - Ai sai mày?... Chú bé nhìn bộ mặt choắt cheo của Lý Ung, những nếp nhăn xếp trên cái trán hói quả da và đôi mắt ti hí đầy soi mói của lão. Bất chợt, nổi khùng, nó dướn người lên, quát vào mặt lão già : - Tôi không do thám ai cả. Chính các ông mới là đồ do thám. Các ông ở đây, lùng xét mọi thứ rồi dẫn quân Trung Quốc về đánh... Lý Ung làm một động tác giống như con mèo chồm lên bắt mồi, lão định vồ lấy chú bé nhưng lại co hai tay, ngồi xuống : - Lý Xuân, mày thấy thằng con lão kho sách nói gì chưa?... Đúng là một tên tiểu bá... Lý Xuân đứng im, mặt chảy thợt. Tên lính nhỏ thó từ trong nhà hắn đi ra : - Thủ trưởng bảo các anh bắn ngay đi, thằng này không phải là gián điệp nhưng đích thị là một tên tiểu bá... Kìa, Lý Xuân... Lý Xuân như sực tỉnh. Hắn lên đạn. Tiếng động vang lên, lạnh lẽo. Chú bé run rẩy nhìn hắn. Nhưng bộ mặt tên lính đã khô cứng lại như mặt nạ, dửng dưng và vô cảm. Không do dự, hắn siết cò. Chú bé ngã vật xuống. - Thế là hết... Tôi thầm nói. Nỗi cay đắng nhục nhã xâm chiếm toàn thân, tôi cảm thấy người mình rời rã từng mảnh vì căm giận, bất lực. Trên kia, hai tên giặc xì xào trao đổi gì đó với nhau, rồi cả hai đến ngồi bên đống lửa : - Mày bắn khá lắm - Tên Lý Ung nói - Lúc ở trong phố, tối đen như mực mà mày bán trúng bàn chân thằng ranh con... - Ờ... - Lý Xuân gật đầu. - Mai tao sẽ báo công với thủ trưởng. Lý Ung tiếp. - Ơ... Nếu mà bắn ban ngày, cách năm chục thước, tôi có thể tỉa trúng bàn tay một tên Việt Nam... Tên sát nhân trả lời với vẻ mãn nguyện và giơ bàn tay lên hơ trước đống lửa. Tôi nhìn chằm chặp vào đôi bàn tay hắn. Đôi bàn tay to lớn, dày dặn với những vết chai mà tôi vẫn nhớ. Trước kia, tôi đã quý trọng chúng biết bao... Đêm xuống. Tụi lính Trung Quốc sau khi ăn no đã đào hố ở ngoài bãi đất trống sau khoảng vườn của chúng tôi chạy ra phía ngoài thị trấn. Đào hố xong, chúng phủ rơm rạ, lót ván gỗ đậy lên và rúc xuống bên dới ngủ. Lửa đã gần tàn, chỉ còn đám than hồng hắt sáng lên bầu trời tối om. Hai tên lính ngồi chồm hổm canh chừng cho đồng bọn ngủ. Đó là Lý Xuân và Lý Ung. Cả hai ngồi câm nín như hai con chó đá giữ cửa chùa. Xung quanh, tiếng ngáy phì phò của tụi lính vang lên. Bóng tối buồn thảm chụp xuống mặt đất. Tôi không thể ngủ được. Tôi nhìn hai bóng người đen đúa ấy, và cùng một lúc, những hình ảnh của quá khứ lẫn hiện tại ập đến, quay cuồng ở trông tôi như những hình người và thú xoay trên mặt ngọn đèn cù. Đêm khuya. Đám than đã lụi. Tôi mệt mỏi tựa lưng vào bờ đất. Đột nhiên, một tiếng kêu bật lên. Tôi nhỏm dậy, chăm chú nhìn. Cái bóng đen cao lớn đang mặt rền rĩ : - Ôi... sao ông lại đánh tôi? - Mày ngủ gật. Mới ngày đầu đã không chịu theo kỷ luật. Mai tao sẽ báo cáo thủ trưởng. - Tôi có ngủ đâu?... Tôi vẫn thức từ tối mà... Tiếng Lý Xuân ấp úng. - Mày ngủ gật. Tao đã đếm tới đúng một trăm. Lý Ung lạnh lùng đáp. - Tôi... Lý Xuân lúng búng rồi câm bặt. Tôi nghe hắn thở dài, chống khẩu súng xuống đất ngồi thu lu. Một bàn tay hắn rờ rẫm bên má : - Ông đánh tôi đau quá... Lý Ung im lặng. Lão ngồi bất động, cần mẫn như một con chó già. Có lẽ cặp mặt ti hí của lão đang lục lọi trong bóng tối. Một lúc lâu sau tôi không nghe chúng nói gì thêm nữa. Chỉ có tiếng gió lùa ù ú trong khe núi và tiếng côn trùng rỉ rả. Một tên lính ngủ mê la hét nói lắp bắp một tràng dài. Rồi sau đó lại hoàn toàn yên lặng. Tôi đã sắp sửa tụt xuống hầm thì Lý Xuân bỗng hắng giọng. Hắn ho vài tiếng khan rồi nói : - Này, ông Lý Ung, sau đợt này ông về đâu? - Chưa biết. - Trừng trị Việt Nam xong, tôi sẽ về quê thôi. Bố tôi vừa chết mùa đông năm ngoái, còn để cho tôi cái nhà. Lão bán phở chua không góp chuyện. Ngừng lại một chút, Lý Xuân nói tiếp : - Tôi sẽ tiêu diệt thật nhiều tên tiểu bá Việt Nam, tôi sẽ được phát phiếu lĩnh lương thực và tiền. Mùa đông này sẽ đắp đất lại cái mái nhà cũ... Hắn thở mạnh và say sưa tiếp : - Sẽ đắp đất lại cái mái nhà. Và tôi sẽ bảo A Phượng làm thật nhiều bánh bao nhuộm phẩm ăn mừng. A Phương không làm được việc nặng, tôi sẽ kiếm cho cô ấy cái máy khâu... Ông bảo có được không?... - Được - Lý Ung trả lời - Nhưng mày phải hoàn thành tốt nhiệm vụ Tổ quốc vĩ đại đã giao phó... Nói xong, lão bán phở chua lại im lặng. Cái bóng đen thấp bé nhòn nhọn của lão không cử động, giống như một hòn đá dới chân núi. Lý Xuân khe khẽ hát. Bài: "Ra khơi nhờ tay lái vững". Bàn tay xòe rộng, vỗ nhịp trên đùi. Hắn đang sống sung sướng với những mộng mơ của hắn. Phía Đông, chân trời rạng lên một vệt các vòm cây hiện lên lờ mờ trên nền trời màu xám sữa. Một tên lính thấp béo lạch bạch chạy từ chỗ ngủ vào sân, hét to : - Bắc chảo lên. Chắc hẳn đó là tên bếp trưởng. Chúng nó đã chuẩn bị nấu ăn. Rạng sáng rồi. Trời sáng hắn. Dưới ánh mặt trời, tôi nhìn rõ những bộ mặt của quân địch. Tụi chúng đi lại nhộn nhạo, đứa gõ ca gõ bát, đứa sửa sang súng đạn. Vài tên lính cởi giày đập bùn bám vào đêm qua. Mùi chân thối hoăng xông đến tận nơi tôi ẩn nấp. Quanh bếp, một tốp lính mới đầu húi gần như trọc đang ngồi vừa vỗ tay vừa hát bài "Ra khơi nhờ tay lái vững". Tên lính nhỏ thó lấc cấc hôm qua ngồi thổi kèn đệm theo. Chiếc kèn trong tay hắn gần giống như kèn đám ma nhưng ngắn hơn. Âm thanh nó phát ra the thé như giọng một cô gái già nanh nọc. Lý Xuân và Lý Ung đã ngủ. Lão bán phở chua rải mảnh ni lông nằm còng queo nơi cửa bếp. Còn Lý Xuân cứ tựa lưng vào một gốc cây, há hốc mồm mà ngáy. Bỗng nhiên, tụi lính khẽ xì xào : - Thủ trưởng... Vẻ mặt chúng nhuốm một màu sắc khó phân định. Người ta chỉ có thể ngửi ra màu đó. Thứ màu khúm núm, sợ hãi một cách không tự giác trước quyền uy. Từ cửa nhà Lý Xuân, tên sĩ quan chỉ huy bước ra. Đó là một người đàn ông trạc bốn mươi, tầm thước. Bộ mặt y trắng lợt, bóng loáng như quả bầu già bôi mỡ. Hai bên thái dương và dưới quai hàm, chi chít những nếp răn mệt mỏi. Y nghiêm nghị đi qua sân, bộ mặt lạnh lùng vô cảm, dường như y không hề nhìn thấy tụi lính đang ngước nhìn y với con mắt thần phục, dường như y đang bước đi trong một khoảng trống không người. Theo đuổi một ý nghĩ nào đó, mắt y nhìn thẳng về phía trước. Qua sân, qua mảnh vườn, y băng tới đám đất hoang mà tụi lính đào hố cá nhân đêm qua. Tôi mài mê nhìn theo tên sĩ quan ấy. Y có cái gì khác biệt với những Hoa kiều mà tôi đã từng biết. Dường như y mang bên trong con người y cái băng giá bí ẩn của phương Bắc. Một tiếng nổ bùng lên ngay bên tôi. Rồi những tiếng rào rào trút như mưa trên đầu. Đất rơi xuống, tối tăm mặt mũi. Tôi chưa kịp định thần tiếng nổ thứ hai đã tiếp theo. Sau đó đạn pháo nổ liên tục từng chuỗi dài. Đạn mười hai ly bảy của ta. Đạn cối của ta. Tất cả đều từ phía đồi cuối thị trấn trút xuống. Chắc hẳn một đơn vị bộ đội nào đã di chuyển tới kháng cự quân địch. Tôi tụt xuống hầm, đậy nắp lại. Toàn thân run lên vì xúc động. Niềm sung sướng được trả thù, nỗi vui hầm bị trúng pháo xen lẫn trong tôi. Tiếng pháo nổ không ngừng khiến tai tôi ù đi. Nhưng trong tiếng nổ, tôi nghe rõ tiếng la hét của lũ giặc, tiếng hét gào lên như điên loạn tiếng hô hoảng hốt : - Đạn cối Việt Nam, đạn cối... nằm xuống... Những thanh âm đó vang lên trong tôi, reo phần phật như ngọn lửa trước gió. Nó đem đến cho tôi một thứ hạnh phúc kỳ lạ. Thứ hạnh phúc chỉ những người đã từng chịu khổ đau, thua thiệt mới cảm thấy. Nó bù trả lại sự phá vỡ cuộc sống yên ổn của chúng tôi. Bù trả lại tiếng khóc khan vã của những đứa con nít trong hang núi lạnh không có cơm ăn và nước uống. Nó bù trả lại cái chết của cậu thiếu niên đêm hôm qua, cả tiếng kêu thảm thiết của con sáo bị thiêu cháy trong lồng... Tôi tựa sát người vào vách hầm. Đất ẩm lạnh thấm sang da tôi. Cả những đợt rung chuyển vì đạn nổ cũng truyền sang tôi làn sóng của nó. Một mảnh đất rơi xuống, cát sạn lọt vào trong cổ áo, nham nháp nơi lưng. Tôi ưỡn thẳng người, giũ áo. Nhưng ngay lúc đó, một tiếng kêu khủng khiếp vang lên, trùm lấp mọi tiếng động khác. Không phải tiếng kêu của con người bình thường. Đó là tiếng gầm của một con thú bị thương hoặc của một tên khổng lồ trong chuyện cổ. - Ú ú ú... Tiếng rú kéo dài, bị méo mó vì kinh hoảng. Lần này, vị đạn pháo đã dứt, tôi nhận ra tiếng hú đó là của Lý Xuân. Bất giác tôi rùng mình trước sức lực đáng sợ của tên hộ pháp đó. Trên mặt đất, pháo đã ngừng bắn. Cả đạn cối cũng vậy. Tụi lính giặc gọi nhau ơi ới : - Đạn Việt Nam ngừng rồi, chạy mau... - Lệnh thủ trưởng di chuyển về trận địa cũ, phố... Đám quân lính rầm rập chạy qua mảnh vườn. Có tên bị thương la hét rên rỉ. Tò mò, tôi lại bật nắp nhô lên xem. Khoảng sân giữa nhà Lý Xuân và nhà tôi bị pháo đào một hố rộng. Trong vườn còn bốn năm hố nữa. Gạch ngói vỡ, đất đa, những vụn cây gãy... ngổn ngang. Xác gần một tiểu đội giặc chết cụm bên chảo cơm chưa chín. Những thanh củi cháy dở vẫn đang ngún khói. Trong khung cảnh đó, những tên lính bị thương bò lê lết, kêu rên : - Đau quá... trời ơi... - Băng cho tôi với, băng cho tôi... Những tiếng rên rỉ của chúng bị chìm lấp trong tiếng gào của Lý Xuân. Con người lực lưỡng ấy bị mảnh pháo tiện đứt một bên đùi. Cẳng chân trái của hắn cùng ống quần binh sĩ bắn về phía trước sân, cách nơi hắn ngồi hai thước. Ở đó, khúc chân cụt vẫn tiếp tục phun máu. Vũng máu đỏ lễ loài bò từ từ trên sàn gạch. Mảnh vải thâm đẫm máu trở thành một nằm giẻ đen đúa, thứ màu đen thê thảm khó quên. Khúc chân to lớn giống như một cái xác riêng biệt. Còn chủ nhân của nó đang ôm chặt bắp đùi cụt, la thét. Máu vẫn chảy qua những kẽ ngón tay hắn, túa thành dòng. Mặt tái nhợt, Lý Xuân ngước nhìn những tên lính chen nhau chạy ra phía đường thị trấn : - Đồng chí Hứa Minh... cõng tôi với... - Bành Căn ơi, tao đau quá... Bành Căn... Cõng tao với... Lý Quang Sương... trời ơi... Hắn kêu gọi, ánh mắt chứa chan sự cầu xin và lòng hy vọng. Nhưng đồng bọn của hắn hấp tấp đi qua. Không dám quay đầu lại. Khi bước khỏi cửa nhà Lý Xuân, chúng cắm đầu lao về phía trước. Tên lính cụt chân thảm thiết. Bộ mặt vàng như sáp ong, tuyệt vọng, điên cuồng. Hắn nhìn những tên lính lành lặn chạy qua, tròng mắt lạc đi. Miệng hắn giống lên những tiếng chửi tục tĩu và những lời nguyền rủa ghê gớm, ác độc. Lúc đó, từ phía bãi đất hoang, sĩ quan chỉ huy đi đến. Theo sau là lão già Lý Ung. Cả hai vội vã nhằm tới khung cửa nhà Lý Xuân ngước đôi mặt tuyệt vọng nhìn thủ trưởng. Tên chỉ huy vẫn bước đều đặn, mắt nhìn thẳng. Hai bàn chân y diễu ngang qua mặt Lý Xuân, sắp sửa rời khỏi mảnh sân đẫm máu tươi. Lý Xuân nhìn chằm chặp vào hai bàn chân mang giày da đen ấy: Thủ trưởng sắp đi qua, thủ trưởng cũng sắp bỏ hắn rồi. Tên lính bị thương kêu hộc lên một tiếng tuyệt vọng. Rồi, với tất cả sức mạnh điên khùng, hắn đuổi theo tên chỉ huy. Hắn bò nhanh ghê gớm, trên hai bàn tay và khuỷu chân còn lại. Hắn vẽ những vệt đỏ trên nền gạch lát sân. Những vết máu in hình hai bàn tay và một lằn đỏ dài ngoằn ngoèo như con rắn. Đúng vào lúc tên chỉ huy bước lên bậc cửa thì Lý Xuân đuổi kịp y : - Thủ trưởng đừng bỏ tôi... Tôi bị thương, đau lắm... Hắn kêu thật to, giọng ồm ồm như tiếng vang trong một cái thùng bịt đáy. Hai bàn tay ôm chặt lấy đùi tên sĩ quan, cứng ngắc. Tên chỉ huy dừng lại. Vẻ bối rối thoáng hiện trên bộ mặt điềm tĩnh trời sinh của y. Nhưng y trấn tĩnh rất nhanh : - Đồng chí Lý Xuân... Y gọi. - Thủ trưởng đừng bỏ tôi, tôi đau lắm... Tên lính vẫn tiếp tục kêu la, hai bàn tay siết chặt. Bộ mặt to lớn của hắn nhợt nhạt, bọt sùi ra hai mép. Phía sau, lão già Lý Ung im lặng đứng nhìn. - Đồng chí Lý Xuân, đồng chí có biết mình chiến đấu vì ai không? Sĩ quan chỉ huy tiếp tục nói. - Báo cao, tôi đã được học tập - Lý Xuân vội vã trả lời - Tôi chiến đầu vì Tổ quốc vĩ đại... Nhưng tôi bị thương đau lắm, thủ trưởng đừng bỏ tôi... - Tôi và đồng chí - Tên sĩ quan nghiêm giọng - Chúng ta cùng chiến đấu theo lệnh của thủ trưởng số 1. Chúng ta là những quân nhân của Đội quân Trung Hoa vĩ đại. Chúng ta cần xứng đáng với danh hiệu đó. Đồng chí không được kêu la như vậy. Điều đó làm tổn thất danh dự quân nhân. Lý Xuân không kêu nữa. Nhưng hắn vặn vẹo như một con rắn bị chặt đuôi và trên mặt hắn, những nếp nhăn hằn lên thảm khốc. Những nếp nhăn làm biến dạng gương mặt Lý Xuân và khiến tim tôi nhói lên một cảm giác khó cắt nghĩa. Trước đây, tôi vẫn quen nhìn gương mặt đó hồng hào, long lanh mồ hôi, tràn ngập sức sống và niềm vui chất phác. Phải, trước đây... Tên sĩ quan chỉ huy đã lại nói tiếp, với cái giọng dõng dạc quyền uy : - Tổ quốc vĩ đại chỉ cho phép chúng ta chiến thắng vẻ vang. Người chiến sĩ không thể trở về với một bộ mặt tàn phế, thảm hại. Người chiến sĩ không thể trở về với một tinh thần bạc nhược, yếu hèn. Như thế là bêu riếu nhân dân, làm nhục tới quốc thể. Đồng chí hãy nhớ những lời tôi nói và suy nghĩ đến bản thân... Lý Xuân nhìn vẻ mặt nghiêm trọng của chỉ huy, vừa kịp hiểu những lời nói đó, hắn buông tay, hà hốc mồm. Bộ mặt hắn đờ đẫn, ngây dại trong phút tập trung suy nghĩ. Ngay tức khắc, tên sĩ quan chỉ huy bước đi. Trước khi đặt chân lên bậc cửa, y liếc nhìn Lý Ung. Lão già bán phở nhìn lại y với cặp mắt hiểu biết của một con thú về già. Lão lanh lẹn rút một cái hộp hình chữ nhật trong túi dết, mở nắp, đổ thốc lên người Lý Xuân. Bột xăng khô lả tả trùm lên người tên lính cụt. Và trong khi hắn còn chưa kịp định thần xem chuyện gì xảy ra thì lão già Lý Ung đã xòe diêm ném. Ngọn lửa bùng lên cuộn tròn lấy tên lính hộ pháp. Cho đến tận giờ, có lẽ Lý Xuân cũng chưa kịp hiểu tai họa đã bay đến từ nơi đâu. Từ những lời giáo huấn nghiêm trang, uyển chuyển của tên sĩ quan, từ ánh mắt đưa thầm kín của y, hoặc từ ngọn lửa diêm xòe cháy trong tay lão hàng xóm già. Tên lính to lớn gào lên, hú lên. Những âm thanh không còn giống tiếng của một con người. Đó là tiếng la thét của cái chết. Tôi nhìn hắn, người hàng xóm ngày xưa, kẻ giết người và người bị giết. Hắn đang cháy đùng đùng như một bó đuốc sống. Một bó đuốc ghê rợn tỏa ra mùi tử thi và đem đến bầu không khí u ám âm hiểm của phương Bắc. Sau khi quân Trung Quốc rút về nước, chúng tôi trở lại thị trấn. ở đó, chúng tôi nhen nhúm, tạo dựng lại đời sống trên những ngôi nhà bị phá trống hoác. Chúng tôi dọn những mảnh vườn tan nát và gỡ đám dây khoai đầu tiên cho mùa khoai mới. Chúng tôi gieo đậu và những dây đậu loăn xoăn mềm mại đã rụt rè leo lên hàng dậu ngả nghiêng. Ngày một ngày hai, cuộc sống thường nhật dần trở lại. Nhưng sự yên tĩnh trong lòng con người ở nơi đây không trở lại nữa. Dân thị trấn nhắc tới chiến tranh, tới mối hiểm họa với nỗi đau xót, với sự kiêu hãnh của những người đã từng trải và sẵn sàng thách thức. Riêng tôi, mỗi khi nhìn sang ngôi nhà đóng im ỉm của Lý Xuân, lòng tôi dấy lên những hồi tưởng. Tôi nhìn mảnh sân bị cháy đen, in dấu vết cái chết thảm khốc của nó. Mảnh sân đó chúng tôi đã phải cọ rửa một tuần, rồi mới dọn về, vì những mủn thịt còn sót thối rữa. Tôi nhìn gốc liễu cụt, với một nhành cây uốn cong, xanh mướt. Nơi đó trước đây người chồng bị cắm sừng Lý Xuân đã sung sướng ngồi xay bột và nghêu ngao bài hát. Tiếng hát của người hàng xóm văng vẳng trong tôi. Những hồi âm lại gợi đến một vùng tuyết sa bát ngát. Trên cánh đồng trắng lạnh xứ tuyết, tôi thấy rõ Lý Xuân. Anh ta bước đi câm nín trong một đội quân dằng dặc. Mặt và nửa thân trên của họ bị che kín bởi những tấm vải dày. Người ta chỉ nhìn thấy những đôi chân của họ. Những đôi chân bước đều đặn, không ngừng nghỉ, bị cuốn đi như gió đẩy, như bùa ếm. Một bàn chân in lên mặt tuyết dấu bùn. Bàn chân kia in lên vết máu.

Dương Thu Hương

Có con Về đến nhà thì cũng đã mệt rã rời. Tuyền dù có tắm nước lạnh, uống trà dược thảo, bật cả hai bóng đèn cho sáng loà cái phòng con, thì cũng không thức được. Tuyền chui vào giường, tự nhủ, thì đi ngủ. "Mình sẽ chỉ như thế này hai năm nữa thôi, rồi sau đó sẽ chỉ làm những gì mình thích, còn bây giờ thì ngủ".

Trong giấc mơ, Tuyền thấy mình đi chơi với Khang. Tỉnh dậy nhớ lại cũng vui vui. Phải đến một năm rồi họ không gặp nhau, kể từ khi khai trương cửa hàng Tuyền làm việc. Tuyền không phải đợi lâu. Ngay chiều hôm sau, Khang gọi. Khang nói, Khang nhớ Tuyền, và muốn đi chơi. Tuyền cũng không tin vào câu nói này nhưng thấy cũng chẳng thiệt hại gì mà không nói: "Đêm qua Tuyền cũng nằm mơ thấy Khang!". Đến lượt Khang, chỉ trong điện thoại, cũng không giấu nổi vẻ nghi ngờ. Hai người ăn một bữa ăn cảnh vẻ và nhạt nhẽo trong một quán Huế. Lúc lấy xe, Khang hỏi : - Bây giờ mình đi đâu? Tuyền hỏi lại : - Khang muốn mình đi đâu? Ngoài đường, các phố đã ngập đầy nước. Mưa vẫn chưa dứt nhưng nhỏ hạt lại. Trong lùng bùng áo mưa, Khang nói : - Khang muốn về nhà thay quần áo. Họ đi về nhà Khang.

Tuyền nói : - Chúng mình ẩu quá, coi chừng Tuyền có bầu. Đèn đường hắt vào cũng đủ soi cho Tuyền thấy Khang cười âu yếm : - Thì chúng mình nuôi nó! - rồi Khang sửa lại - Khang nuôi! Tự nhiên Tuyền thấy thật là tình nghĩa khi nghe Khang khẳng định như vậy. Tuyền đi lấy khăn lau mặt cho Khang. Khi cái khăn chạm đến, Khang chợt rùng mình như muốn né. Khang không quen nhìn Tuyền như thế, Khang quen nhìn Tuyền lạnh lạnh, khó hiểu rồi.

Họ nằm, nhìn lên trần nhà và nhắc lại những câu chuyện từ cách đó 10 năm, lúc mới vào đại học. Đó là những câu chuyện lần nào gặp cũng nói và đã chết cứng lại rồi, nhưng kẻ hứng, người tung, còn có đối thoại. Bây giờ, Tuyền nghĩ, lại có thêm một câu chuyện để cùng nói. Tuyền nhắc lại : - Nhỡ đâu Tuyền có bầu?... - Thì chúng mình cùng nuôi! - Khang vui vẻ lặp lại.

Tuyền thấy mình quan trọng hẳn và tự nhiên thành mỏng manh. Tuyền thấy mình bước đi có hơi chậm lại, và mắt khi nhìn có dịu đi. Tuyền bỏ uống kháng sinh, dù còn phải uống tới hai ngày vì Tuyền đang viêm họng, bài học vỡ lòng cô gái nào cũng biết là không nên uống thuốc khi đang có bầu. Tuyền cũng bỏ đi chơi đêm, sợ về cảm lạnh. Nghe nói ba tháng đầu bị cúm là quái thai.

Bây giờ, Tuyền chỉ nghĩ tới đứa trẻ. Tự nhiên, Tuyền nghĩ nó là con trai. Có thể vì Tuyền thích gương mặt Khang, với mũi dài và mắt xếch. Cũng có thể vì suốt 10 năm, chưa bao giờ Tuyền chắc Khang thuộc về Tuyền, nên một đứa con sẽ là một sợi dây ràng, mà con trai ắt dây phải chắc.

Tuyền không đợi nhưng Khang cũng không gọi lại. Vả lại, Tuyền nghĩ cũng hơi sợ, gọi lại thì nói cái gì bây giờ, có bao nhiêu chuyện thì hôm nọ nói cả rồi. Nhưng Tuyền định sẽ có hôm Tuyền nói, "Khang đừng lo, Tuyền nuôi con một mình. Chỉ cho Tuyền xin, con được mang họ mẹ". Cái mà Tuyền mong chờ, cuối cùng, rất mơ hồ, là Khang phản đối. "Con Khang là của Khang!", Khang sẽ sừng sộ. Rồi Khang sẽ đưa Tuyền đi siêu âm. Khang sẽ đi sau Tuyền khi Tuyền bước lên cầu thang. Khang sẽ chở Tuyền đi làm vào những buổi sáng Tuyền gọi điện than mệt. Cả cơ quan sẽ phải xì xào trước cái bụng mỗi ngày mỗi lùm lùm. Tuyền sẽ không khai ra cho đến một hôm chỉ vào Khang hào hoa: "Bố của con em đó!"... Tưởng tượng đến khúc ấy thì Tuyền chán oặt cả người. Không, Tuyền muốn bí ẩn mặc áo bầu, Tuyền muốn mọi người tức tối khi Tuyền không chịu nói đó là con ai. Nói ra, câu chuyện đã khép lại.

Nhưng Khang vẫn không gọi lại. Tuyền đi qua cái điện thoại và hơi thắc mắc, có nên gọi cho Khang không. Nhưng nói cái gì? Tuyền không thể rủ Khang đi chơi. Tuyền thích mắt Khang cười, thích gia cảnh Khang, thích ngồi sau xe Khang đi ngoài phố cho mấy cô nhìn nhìn, nhưng phải đi chung, đi riêng thì gượng gạo. Tuyền cũng nhớ là mình chưa bao giờ lo cho Khang. Có vẻ như khó khăn nào Khang cũng thoát ra được, không phải bằng tài khéo, không phải bằng thông minh, mà bằng sự vô tâm. Khang vô tâm nên không có gì chạm đến Khang được. Cho nên Tuyền thắc mắc, "Có con rồi, Khang có yêu con không?" Tuyền sẽ yêu con như thế nào, Tuyền chưa biết. Tuyền vào cơ quan họp, nghe các chị bàn chuyện con cái mà tò mò. "Có con thì sao, có vui không?", Tuyền hỏi. "Vui lắm, nhưng mà cực. Cỡ em không biết có chịu nổi không!". Tuyền nghĩ, chịu nổi chớ. Hai mẹ con tôi ở với nhau. Buổi chiều mẹ qua nhà trẻ đón con ra, con mặc quần áo toàn bằng vải trắng, đi giày đỏ; mặc thêm một cái gi-lê cho ấm, đội cái mũ vi có quai vào, đeo khẩu trang và cầm bong bóng, hai mẹ con mình về... Tuyền đi vào nhà sách, thấy bán cuốn dạy chăm sóc trẻ con. "Vừa nhấc bé bạn vừa phải nựng nịu bé", hình minh hoạ có em bé nằm ngo ngoe cười. Trong sách, người ta chơi với trẻ con, tắm cho chúng, cho chúng ngủ... như với búp bê. Nhưng khi chúng bệnh hay khóc lóc chắc không ai chụp ảnh. Những lúc đó, những lúc khó khăn đó, Tuyền khựng lại... Tuyền không thể một mình. Tuyền muốn gọi cho Khang: "Nếu Tuyền có con, Khang có phiền không?". Rồi Tuyền thấy việc đó vô ích quá chừng, Khang sẽ nói, "Không có chi, chúng ta sẽ nuôi", rồi lại im lặng không gọi điện thoại, biết đâu không gọi cả lúc "Con chúng ta" bệnh?

Tuyền không chắc đã có đứa bé trong bụng chưa nhưng tình cảm dành cho nó đã bắt đầu phai nhạt. Bây giờ thì Tuyền không chắc mình có còn yêu đứa bé không nếu không có bố nó bên cạnh và chỉ còn nó như một cục nợ. Tuyền biết, Khang chỉ cần gọi điện hỏi thăm thôi là Tuyền sẽ yêu đứa bé chưa rõ ràng này ngay. Nó quả thực không phải là đứa con của tình yêu nhưng ít nhiều lúc đầu cũng là tình cảm. Chẳng phải là Tuyền đã cúi xuống vuốt tóc Khang và nói Khang đừng hút thuốc nữa như nói với một ông bố của đứa bé trong bụng sao? Nếu không có tí tình cảm nào với Khang thì việc gì Tuyền phải nghĩ về đứa bé? Tuyền chưa đến tuổi để có bằng được một đứa con. Tuyền còn trẻ. Tuyền đi ngang cái điện thoại và kêu thầm, "Khang ơi, gọi lại đi, cho Tuyền có lại cái tinh thần yêu trẻ". Khang không gọi lại, Tuyền cảm tưởng như cái thai không lớn thêm được nữa. Tuyền thấy thương nó. Nó như một đứa nhỏ chờ ba về mới chịu ăn cơm và đói lả, Tuyền nói, "Con ăn trước đi rồi ba sẽ về nhưng nó không nghe". Cái thai chờ đợi và giờ thì Tuyền không còn nhìn ra nó là con gái hay con trai. Trong óc Tuyền, nó rút xuống hình ảnh của một cái bào thai, nằm co co, đầu rất to, như trong mấy cuốn tạp chí vẫn hay đăng ảnh.

Một buổi sáng thức dậy, Tuyền tự nhiên thấy ghét Khang kinh khủng và ghét cả mình. Mười năm đã qua kể từ cái ngày đầu tiên Tuyền làm quen Khang trong căn-tin trường. Tuyền thích Khang và thấy Khang vừa đẹp, vừa dễ mến, vừa không quí báu đến nỗi để Tuyền không dám đến làm quen trước. Nếu Tuyền thích Khang hơn, Tuyền đã không làm quen như thế. Nếu tình cảm của Tuyền dành cho Khang lớn hơn, Tuyền đã phải giấu đi vì sợ nó có thể bị sây sát. Rồi Tuyền rủ Khang đi uống nước, rủ Khang ôn bài mà không ngượng ngùng hay cân nhắc. Có những lúc Tuyền không thích Khang nữa, Khang cũng không được trân trọng đến mức Tuyền không dám nói thẳng ra. Tuyền không hề ân hận rằng mình có làm tổn thương Khang hay không, bởi lần nào gặp lại cũng vẫn thấy Khang tươi tỉnh như cũ. Có vẻ như Khang không nhớ chuyện gì cả. Tuyền thấy phí, nếu có yêu, ghét gì dành cho Khang.

Bây giờ, Tuyền ghét mình vì tự nhiên Khang rất không quan trọng như thế mà làm cho Tuyền phải đánh giá lại bản thân: "Mình xấu quá phải không? Mình lố bịch quá phải không?". Tuyền ước gì Khang gọi lại và rủ đi chơi để Tuyền từ chối, trật tự cũ như vậy mới mong thiết lập lại được.

Mình già rồi, Tuyền nằm và nghĩ. Đời một người đàn bà chán thật với tuổi xuân không dài và càng về sau càng chỉ là chịu đựng và thất thế. Nhưng trước nay mình vẫn nói là không phải chịu đựng nếu mình không muốn chịu đựng cơ mà! Khi nào chán quá thì mình chết. Chừng nào còn chịu được thì cứ sống, bởi vì ai mà biết được, nhỡ đâu ngày mai có một chuyện vui rơi xuống đời?

Nhớ lại cái ý nghĩ về việc mình có thể tự quyết cuộc đời mình làm Tuyền thích thú. Tuyền bò dậy mở nhạc. Cái đĩa bị hỏng, giật cục. Mới đêm qua nó còn hát bình thường. Sự trục trặc đáng bực lúc đầu ngày này tự nhiên làm Tuyền nhớ đến đứa bé, nếu có nó, mình còn tự quyết được đời mình không? Hay là mình phải sống theo nó, ngay cả khi đời mình không vui. Mà nó là ai, nó chỉ là đứa con của một người bạn trai, chưa bao giờ mình thật yêu và bây giờ thì thằng ấy làm mình khó chịu.

Tuyền bỗng thấy sự tự do của mình bị đe doạ. Tuyền không nghĩ tới chuyện đứa bé ngăn cản Tuyền đi lấy chồng. Tuyền cũng không sợ việc nó không cho Tuyền đi du lịch. Tuyền chỉ sợ, nó không cho Tuyền quyết định khi nào chấm dứt cuộc đời Tuyền. Tuyền sẽ phải sống ngay cả khi không muốn sống nữa, chỉ vì nó. Mà Tuyền biết, Tuyền không thể bỏ nó. Tuyền sợ đẻ con ra không phải như mua búp bê về. Búp bê chơi chán thì cho ai đó hay bỏ vào tủ xong quên hẳn. Con thì không cho được trong khi Tuyền cũng không chắc có một ngày nào mình sẽ chán con không.

Tuyền không muốn nghĩ nữa. Tự nhiên Tuyền sợ đứa bé không khoẻ nếu Tuyền cứ nghĩ mãi như thế này. Tuyền thấy thương nó và thương cả mình. Tuyền nghĩ nó đang nằm trong hồ nước và những nghĩ ngợi đen tối của mình làm cái hồ nổi sóng. Nó sẽ rất mệt, Tuyền tưởng tượng, và rồi nó yếu thần kinh. Tuyền muốn hai mẹ con yên bình, Tuyền gọi cho Khang. Máy ở nhà Khang không ai bắt, chắc Khang đi làm. Tuyền gọi theo Khang ra đường, máy di động bảo là "Nghẽn mạch". Không gọi được, Tuyền lại tự an ủi, thôi thế là may, biết đâu Khang nghĩ là mình muốn ràng buộc rồi nói nặng thì sao. Tuyền hú vía.

Bây giờ thì Tuyền đã không còn tưởng tượng ra nổi khuôn mặt của đứa bé vì thấy nó như không liên hệ gì đến Khang. Khang vẫn không gọi điện lại và Tuyền cũng mất hẳn sự đắn đo có nên gọi cho Khang hay là không. Tuyền không còn thắc mắc mảy may "Giờ này Khang ở đâu?". Tuyền không hề âu lo: "Hay Khang gặp chuyện gì?". Tuyền cũng chẳng còn thù oán hay trách móc. Tuyền soi gương và thấy mình tự nhiên khắc khổ. Đứa bé trong bụng bây giờ là của Tuyền. Một mình Tuyền đối đầu với nó. Buổi tối Tuyền lên kế hoạch chi tiêu nếu có nó. Một người giúp lúc mới sanh mà cũng có thể không cần, tự Tuyền xoay xở được. Tã và quần áo. Sữa và đồ chơi. Có nó Tuyền sẽ không đi làm thêm được, một mình lương chỉ đủ lúc nó không bệnh hoạn.

Tuyền không tính phần Khang vào đây. Tuyền cộng bản dự toán lại và mệt mỏi khi thấy nó vừa khít tiền lương, không còn thừa lại một đồng nào có nghĩa là sẽ thiếu. Tuyền thấy vô lý quá và tức đến muốn đập nát cả cái máy tính. Tự nhiên một buổi tối nằm mơ thấy Khang, rồi hôm sau Khang gọi điện, và rồi Tuyền đang tự do hết mực bây giờ lại phải đau đầu vì cái kết quả của cuộc gặp nhau đó. Tuyền tức giận, mình đang thỏa hiệp đây, và chuyện này sẽ đem đến những kết quả không thay đổi được. Mọi chuyện mình đều có thể thí nghiệm, trừ việc thí nghiệm có một đứa con. Mình không chuẩn bị để có việc này. Mình còn nhiều việc phải làm. Mình bắt nó làm người khi chưa chuẩn bị gì cho nó. Mình tung nó ra cuộc đời trong khi chính mình nhiều lúc muốn từ bỏ. Mình chưa muốn có con. Mình không muốn có con...

Nhưng Tuyền không phải làm gì cả, đứa bé ấy không có. Khi biết mình không có bầu, Tuyền đang ngồi trên xe lửa. Tuyền nằm lắc lư, lắc lư trên cái võng của một người đi buôn. Tự nhiên Tuyền thấy hụt hẫng và buồn vô kể. Không phải là buồn phát khóc hay là muốn chết, hay là nghẹn ngào; Tuyền chỉ thấy buồn, có phần hỗn độn vô lý, như những ngày thi căng thẳng vừa hết, như những năm học cực nhọc vừa xong, vừa nhẹ gánh vừa man mác... Mà so sánh như vậy cũng sai nốt, Tuyền chỉ thấy cuộc đời trước mặt mình thăm thẳm, mới cách đây ít giờ nó còn rõ ràng, các nhiệm vụ nó đặt ra đáng ghét, nặng nề, nhưng cụ thể... Tuyền thấy thương đứa bé không có thực ấy, mình đã tính toán chi li với nó, Khang cũng phải mất công trốn nó, mà nó có thực đâu.

Tuyền định khi nào xuống ga rồi sẽ gọi cho Khang, giống như hồi bé chơi trốn tìm báo cho nhau: "Ra đi!", nhưng chỉ thoáng nghĩ thế thôi trong một giây rồi mất ngay, bởi hình ảnh của Khang tự nhiên mờ mịt. Nó mờ nhanh quá làm Tuyền cũng hoảng nhưng quả thực nó mất hẳn rồi. Tuyền không muốn nghĩ nữa, bây giờ thì không phải vì sức khoẻ của đứa bé, mà chỉ vì Tuyền muốn quên đi. Tuyền nằm lắc lư, lắc lư và ngủ thiếp đi, không nghe cả tiếng còi tàu rúc lên khi vào đến sân ga tỉnh lẻ...

Phan thị Vàng Anh

Có một mối tình Sáng hủ tíu, trưa cơm đĩa, chiều cháo lòng. Ngày ba bữa nó đi tới gánh hàng ăn đó. Vì nhu cầu ăn uống thì ít (chợ này thiếu gì hàng ăn) mà vì con nhỏ thì đúng hơn. Chẳng biết từ bao giờ, hễ bà chủ ngồi bán, con nhỏ dọn dẹp thì không nói gì. Mỗi lần bà chủ bận việc giao hàng cho con nhỏ bán thì tô hủ tíu hoặc đĩa cơm của nó thế nào cũng được thêm một miếng thịt, một miếng đậu hoặc một con tôm. Điều này là một bí mật giữa hai đứa - là bí mật và một niềm vui! Riêng bữa ăn chiều thì bất tiện. Nó làm nghề khuân vác ở bến xe. Chiều mà ăn cháo thì không đủ sức để vác hàng khi có xe về khuya. Nhưng không ăn cháo thì lấy cớ gì để đi tới đó? Vậy là nó ăn cơm ở một nơi khác và tới đó ăn thêm tô cháo. Tốn tiền hơn nhưng cuộc đời vui hơn! Buổi tối, dưới mái hiên của hành lang khu vực văn phòng bến xe liên tỉnh, chỗ ngủ bao năm nay của nó, nó gác tay ra sau gáy nằm tưởng tượng ra giờ này chắc con nhỏ đang rửa tô chén nồi niêu và làm hàng sớm mai bán. Rồi nó tự hỏi: "Không biết con nhỏ có nhớ tới mình không?". Nó đỏ mặt trong bóng đêm và thấy lòng lâng lâng một cảm giác lạ lùng. Con nhỏ mời khách và ánh mắt vụt sáng rỡ lên khi nhìn thấy nó tới, tia cười lấp lánh trong mắt con nhỏ đủ cho nó không cần ăn mà vẫn thấy no. - Mày không ăn chỗ khác đổi món, ăn hoài ở quán bà Thơm không ớn hả Năm Tạ? Năm Tạ là biệt danh mà dân khuân vác bến xe đặt cho nó sau lần xe ba gác tới chậm, sợ trễ giờ xe hàng chạy, nó vác năm bao hàng mỗi bao gần một tạ đi phăng phăng từ nhà chủ đến bến xe. Còn tên của nó thì người ta đã quên từ lâu rồi. Cả nó, nó cũng không muốn nhớ tên cũ của mình dù nó biết nó đã từng có một cái tên, tên do bà mẹ nuôi đặt cho nó. Bà thường kể cho mọi người rằng bà lượm nó trên đường chạy sặc tiếng đạn bay của chiến tranh, lúc đó nó đang khóc ngằn ngặt bên xác má nó. Bà hay nói rằng bà nuôi nó làm phước. Năm nó mười ba tuổi. Thằng con trai của bà trạc tuổi nó bị dịch tả chết, bà vật vã khóc và rên đi rên lại: "Trời ơi là trời! Sao không chết thằng này mà chết thằng kia". Nó lẳng lặng bỏ nhà ra đi. Bị hiếp đáp có, nó ăn hiếp đứa khác cũng có, và móc túi người khác cũng có... Người ta gọi nó là "thằng kia", "thằng to đầu", có người gọi "Ê, nhờ chút coi". Lần bị cảnh sát bắt giữ vì tội đánh bài, hỏi tên nó lầm lì "Không biết". Một cái tát và nhốt ba ngày. Lần sau lại bị bắt vì tội đánh nhau, lại hỏi tên, nó vẫn lầm lì "Không biết", trả lời xong nó hất mặt lên chờ một cái tát khác. Nhưng may cho nó, lần này là một anh cảnh sát khác. Anh hỏi nó có muốn làm việc đàng hoàng không?

Nó trở thành công nhân của "Tổ hợp làm chổi đót". Được sáu tháng, tổ hợp tan tành vì vỡ nợ. Nó lại thất nghiệp. Ngày tháng lang bạt lại tiếp nối và bây giờ nó làm phu khuân vác ở bến xe... - Chưa ngủ sao mà trăn trở hoài vậy Năm Tạ? Ngủ chút đi lấy sức, khuay xe hàng về mà làm. - Mày ngủ trước đi! - Nó trả lời cụt lủn. Vài phút sau, Sáu Móm, cũng dân bến xe như nó, đã quấn mền ngủ khì. Nó không ngủ được. Nó nằm nhìn bầu trời qua trần mùng rách lỗ chỗ. Mái hiên rộng nên bầu trời bị che khuất một nửa, phần nó nhìn thấy là vầng trăng lưỡi liềm với quầng sáng mỏng mảnh và nó mỉn cười, khi nhận thấy quầng sáng mỏng giống màu áo cũ con nhỏ.

Thường thì bà chủ chỉ gánh hàng cho con nhỏ vào những lúc vắng khách. Hôm nay bà chủ đi đâu giao cho con nhỏ bán suốt cả ngày. Điã cơm trưa của nó đầy ụ và nhiều thiệt trứng đến nỗi nó ngồi ngẩn ra thật lâu trước khi ăn. Điều gì đó tưng bừng hân hoan trong lòng nó. Rồi đến khi móc túi trả tiền, con nhỏ đảo mắt nhìn quanh rùi nói nhanh : - Thôi, cất tiền đi! Nó sững sờ. Nhưng phản xạ của một kẻ từng trải trong nghề làm thuê mướn khiến nó nhét lại rất nhanh tờ giấy bạc hai ngàn đồng vào túi trước khi có ai kịp thấy để méc lại bà chủ. - Sao không lấy? - Nó lúng búng trong miệng, xúc động đến run tay. - Đã nó là thôi mà! - Con nhỏ cười cười trả lời, mặt ửng đỏ. Suốt buổi chiều đó, nó không làm được gì. Cũng may là chiều nay xe hàng không về nên việc nó ngồi yên không làm ai chú ý. Chỉ có Sáu Móm hỏi nó : - Bịnh hả? Làm ly cà phê đá là khỏe ngay. "Cái bịnh này không chữa bằng cà phê đá được" - Nó nghĩ thầm và thoát khỏi sự quan tâm của Sáu Móm - mà nó cho là đang quấy rầy nó - bằng cách đứng lên đi chỗ khác. Với tờ hai ngàn đồng trong túi, nó đi lang thang trên đường phố. Nó thấy con đường bỗng sạch sẽ hơn, phố đẹp hơn, và nó không giống nó ngày hôm qua! Nó chợt nhớ ra nó đã hai mươi tuổi! Đi một lúc nó giật mình nhận ra mình đang đi về hướng quán bà Thơm, nó sượng sùng quay về ngõ khác. Lòng dạ xao xuyến khinh khủng! Làm cái gì bây giờ? Phải làm một cái gì đó thật đặc biệt. Ờ, một cái gì đó thật đặc biệt. Ờ, lấy hai ngàn đồng này mua cho con nhỏ một cái nơ kẹp tóc! Ý nghĩ tuyệt vời xẹt qua tâm trí và nó vội vàng đi về phía chợ bán tạp hóa. - Kẹp xịn mười hai ngàn, kẹp thường tám ngàn, kẹp dỏm bốn ngàn. Kẹp con bướm, kẹp xòe, kẹp đá... cậu ưng kẹp nào? - Người bán hàng vừa giới thiệu các loại kẹp, vừa dòm chừng nó bằng ánh mắt nghi hoặc. Nó bối rối thộn người những cái nơ xanh đỏ sặc sỡ. Rồi nó chỉ tay vào một cái kẹp bằng lụa màu đỏ. - Cái này hả? Loại xịn nhất đó, mười lăm ngàn. Nó móc túi lấy tiền trả như bị thôi miên. Rồi nó thận trọng cầm lấy cái kẹp như sợ những ngón tay chai lì của mình làm đau lớp lụa mỏng. Thật là đẹp! Nó nghĩ thầm. Rồi nó chợt nhận ra cái mình đang mặc quá cũ kỹ. A, từ nay trở đi nó sẽ không làm được bao nhiêu tiền thì xài hết bấy nhiêu nữa. Nó sẽ để dành tiền, việc trước tiên là may một cái áo mới... rồi... rồi - nó ngắm nghía cái kẹp và bắt đầu mơ mộng.

Buổi chiều, nó đi về phía con nhỏ. Nó ngồi ăn tô cháo thật chậm đợi khách vắng. - Thích kẹp tóc không? - Nó hỏi. - Kẹp gì? - Con nhỏ hỏi lại. - Kẹp này nè! - Nó xìa cái kẹp ra và quày quà bỏ đi. Đột nhiên nó hoảng hồn nhận ra mình đã làm một việc động trời.

Ba ngày sau nó mới dám quay lại ăn cơm trưa. Trên đường nó tưởng tượng ra dáng con nhỏ ngồi với cái đuôi tóc kẹp cái nơ đỏ. Nó cười một mình, nghĩ tới tia cười lấp lánh trong mắt con nhỏ. Rồi nó khựng lại trước khoảng thềm vắng vẻ. Chỗ để gánh hàng ăn ngày nào giờ chỉ còn lại một cái ghế chổng ngược chân lên cái bàn gỗ. Một cái gì đó rất sắc cứa ngang trái tim chết lặng của nó. Nó chôn chân tại chỗ, hụt hẫng. - Bà Thơm trốn nợ đi rồi. Con nhỏ người ở hôm qua hôm kia còn thấy quanh quẩn ở đây mà hôm nay cũng đi đâu mất rồi. Cái con đó cũng ghê lắm. Cái ngày bà Thơm trốn đi mà chưa ai biết đó, nó ngồi bán hàng tưởng bở ăn cắp tiền sắm cái nơ kẹp tóc xịn nghe đâu hai mươi mấy ngàn đồng một cái. Thứ đó ai mà dám thuê nữa. Đi đâu xa xa không ai biết thì may ra... Nó muốn giáng vô mặt người đàn bà đang nói một cú đấm nhưng nó ghìm lại được. Nó lầm lũi quay đi. Nó đi, đi, đi giữa ánh nắng mặt trời buổi trưa nóng cháy da cho đến khi đập lên vai nó : - Về bến lẹ lên - Giọng Sáu Món oang oang - Xe hàng sắp về rồi. Có tới ba xe chở gạo lận. Ủa! Sao mày khóc?

Nguyên Hương

Cô gái bán sầu đâu Bà nội tôi nói: "Người ta đi làm ăn ở Nam Vang, người ta không mang vàng thì cũng mang bạc về, còn cha bây chỉ mang về một món ăn: sầu đâu". Lá sầu đâu trộn với khô hay cá lóc nướng, anh chị em tôi chẳng ai ăn được. Tôi thò đũa gắp một miếng khô hoặc ruột cá, không dính một chút lá mà sao nó đắng, đắng hơn khổ qua và đắng hơn cả cái loại rau mang tên đắng là rau đắng nữa kia. Má tôi ráng ăn cho cha tôi vui, bà nội tôi vừa ăn vừa ngẫm, chỉ có cha tôi là ăn ngon lành. Sau vài lần, bà tôi gật gù: "Đắng mà ngọt như vị thuốc, mát gan, tụi con tập ăn cho quen, được!". Thương bà, muốn nghe lời bà, nhưng tôi không tập nổi. Nhưng nhờ cái món sầu đâu này mà tôi biết được cô gái bán sầu đâu. Cô gái bán sầu đâu vừa bán ở chợ vừa mang đến tận nhà người mua. Cô gái ấy lớn hơn tôi độ hai ba tuổi, năm ấy tôi tới tuổi mười ba sau khi lấy bằng Settifica. Nhà cô ở trong kinh cách chợ độ một cây số. Chỉ cách chợ có một cây số mà phải mang tiếng gái nhà quê. Nhà quê nhưng trắng trẻo và đẹp với đôi mắt long lanh, đẹp trong chiếc áo bà ba màu hột gà, chẳng thua con gái chợ chút nào. Điều tôi ngạc nhiên lần đầu gặp cô khi cô mang hai bó sầu đâu cho cha tôi, cỡ tuổi chị tôi mà gọi cha tôi bằng anh Hai. Té ra cô có bà con với tôi từ đời ông sơ ông cố, tôi đành phải gọi cô là cô. Chắc chẳng ai trùng tên với cô, cô tên Sào, cô Hai Sào. Con Hai Sào bán sầu đâu, sầu nói trệch qua một chút là "sào", vì vậy mà dân ở chợ không nói con Hai Sào bán sầu đâu, mà là con Hai Sào Đâu.

Ở chợ ai cũng biết cô không phải vì đẹp hay có gì đặc biệt mà vì các hàng ở chợ như hàng rau, hàng cá, hàng thịt, hàng gạo, hàng nào cũng nhiều người bán, sầu đâu thì chỉ có một mình cô. Cô ngồi lẫn trong hàng rau, nổi bật lên với chiếc áo màu hột gà với vài chục bó sầu đâu trong một cái nia. Chợ chưa tan thì cô đã xách nia về rồi. Thời gian như đi tắt uqa trước mặt tôi và mọi người, cô Hai Sào Đâu cũng hiện lên thật lộng lẫy. Tuổi dậy thì, hình dáng nhan sắc bỗng đổi thay không có lời báo trước, như được lột xác trở thành tiên sau một giấc ngủ. - Sào đâu nở rổi! - Tôi nghe nhiều anh con trai trầm trồ nói với nhau. Chợ làng tôi có một anh con trai nổi bật lên giữa trai làng - anh Hai Thể, anh nổi bật không vì con chủ tiệm vàng mà nổi bật vì trình độ học vấn của anh. anh đậu đíp-lôm. Làng tôi duy nhất có một người đậu tú tài, còn đíp-lôm đếm không đầy một bàn tay. Trở về làng, anh không làm thầy thông thầy ký, chỉ chơi với bạn bè cùng lứa. Anh biết đàn ghita, măngđôlin và thổi acmônica. Anh không phải là người con trai vạm vỡ, cũng không có vẻ thư sinh, với mái tóc dày, nước da đậm, người tầm thước, anh có vẻ phong trần. Anh không làm việc cho Tây nhưng ngày nào anh cũng vào bót đàm đạo với tên cò Tây. Thằng cò Tây cô đơn, thiếu người nói chuyện, nó rất cần anh. Từ ngày anh về làng, thằng cò Tây có một cái tên mới - thằng Tây bán thịt heo, chính anh đặt cho nó. Anh kể : - Là Tây mà nói tiếng Tây trật lất. Mình kể chuyện nói tiếng Pháp, miệng nó cứ há ra, chẳng biết trời đất gì. Học hành chẳng tới đâu, sách vở thì không đọc, như người bán thịt heo. Người nghe ai cũng ngạc nhiên. Tưởng cái gì nó cũng hơn mình, bây giờ mới biết nó chỉ khác mình ở chỗ lớn, mũi lõ, mắt xanh, tóc vàng và ác. Dân chợ không ai gọi cò Tây là ông cò nữa mà gọi "Tây thịt heo", không nể cũng không sợ nữa. Nhà tôi sát bên tiệm nước chú Khùi. Sáng nào dân chợ cũng ngồi đầy bàn, bánh bao, hủ tiếu, cà phê với đủ thứ chuyện. Có một anh con trai nói : - Trong tụi bây tao đố đứa nào chim được con Hai Sào Đâu! - Được thì mày tính sao? - Một anh có vẻ ngon trai hỏi lại. - Một chầu. - Một chầu thì nhằm nhè gì! - Được thì mày sướng chứ tao sướng đâu, chẳng qua thưởng cái tài của mày thôi chớ! Một anh khác : - Thôi đi mấy cha, đừng có khoác lác - rồi anh nhắc và tôi nhớ. ấy là một chiều gió bấc non thổi về và bầu trời chim én xòe cánh cắt dọc cắt ngang trên bầu trời ở sân chợ. Cái sân chợ tráng nhựa sạch sẽ và mênh mông, hàng quán nào chè, cháo, mì, hủ tiếu, thuốc lá xếp hàng, bán chiều, bán đêm. Trai gái ăn dọn qua lại dập dìu. Hai Thể ngồi trên chiếc ghế hàng chè, chơi đàn. (Nhớ lại mấy chục năm sau tôi không gặp được ai như anh). Vừa thổi kèn acmônica anh kẹp giữa hai đầu gối, cúi đầu xuống thổi; cây đàn măngđôlin thì lòn dưới hai chân; miệng thổi, tay đánh đàn, hòa vào nhau nghe đã ơi là đã. Không ai là không thán phục. Cái hôm đó có cả cô Hai Sào Đâu của tôi lộng lẫy với chiếc áo bà ba màu hột gà. - Tao thấy hai đứa nhìn nhau mê mẩn, nó hớp hồn nhau rồi. Sau đó, ngày nào mà Hai Thể không chạy xe vô trong kinh. Ông bà mình nói "trai tài gái sắc", đừng chen vô. Có thèm thì nuốt nước miếng. Chuyện kể nảy giờ xảy ra hồi năm 1944.

Năm 1944-1945, một năm mà bao biến cố. Quân Nhật vào Đông Dương đến tận làng, đảo chánh, bắt cò Tây. Quân Nhật đầu hàng Đồng minh, Cách mạng tháng Tám thành công, mọi người nô nức với cở đỏ sao vàn bay phất phới. Rồi quân Pháp đưa tàu chiến, nã đại bác, đổ quân chiếm lại làng. Bót cò lại có một thằng Tây. Nhiều trai làng ra đi, chợ làng cũng vắng mặt anh Hai Thể. Nghe nói anh đi Vệ quốc đoàn, làm chỉ huy. Chợ làng với chợ quận cách nhau 12 cây số, đường bộ là con đường rải đá, đi xe đạp, xe ngựa và xe hơi, đường thủy thì đi dọc theo sông Tiền. Quân Pháp tưởng đã dồn hết Việt Minh về rừng U Minh, vùng này chúng đi lại nghêng ngang. Thế là một buổi sáng đầu năm 1946, hai chiếc canô chở một trung đội lính Pháp cùng với thực phẩm nào rượu, nào sữa, nào thuốc.... đi từ chợ quận về chợ làng, con sông mênh mông nhưng hai chiếc canô lại chạy cặp bờ, trong tầm súng. Súng từ trên bờ bất thần rải xuống. Bọn chúng không kịp trở tay, nhảy ùm xuống sông. Không chỉ có Vệ quốc đoàn mà cả dân chúng dùng chèo và dầm lên xuống băng ra, diệt từ tên. Trong ba đơn vị từ U Minh đã bí mật trở về, ba đơn vị kết thành liên quân đán một trận mở màn dòn dã, trong đó có đơn vị anh Hai Thể. Rồi cũng ngay tối hôm đó, quân Pháp đưa đại quân tới, đốt sạch, gặp bất cứ ai, già hay trẻ, đàn ông hay đàn bà, chúng cũng bắn. Chúng giết hơn trăm người. Đêm khủng bố thật thê lương (sau này mỗi năm đều có một ngày giỗ cho cả trăm gia đình, gọi là giỗ hội). Dân làng sợ chúng trả thù, lần lượt bỏ nhà ra đi, vượt sông Tiền về phía kia sông dẫn vào Đồng Tháp Mười, là vùng Giải phóng. Ngay cù lao Siêng ngang làng tôi cũng không có đồn bót. Nhà tôi đi, gia đình anh Hai Thể cũng đi và cả nhà của cô Hai Sào Đâu cũng đi. Mọi người theo kháng chiến trong không khí tưng bừng. Ba trung đội là một đại đội có ban chỉ huy Đại đội hẳn hoi, nhưng mỗi trung đội đều hoạt động độc lập, mỗi đơn vị mỗi vùng, đơn vị nào cũng có số nhưng mọi người đều gọi đơn vị bộ đội theo tên của người chỉ huy. Tôi cũng vào bộ đội, bộ đội anh Hai Thể, làm liên lạc cho anh. Cô Hai Sào Đâu thì lại làm cán bộ huyện. Trên đường hành quân hoặc những lần Hội phụ nữ và Hội mẹ chiến sĩ mang quà cáp ủy lạo chiến sĩ, hai người thường gặp nhau. Cái mối tình "trai tài gái sắc" hình như ai cũng biết. Nhưng những năm đầu kháng chiến, dù yêu, dù đã hứa hay đã dạm hỏi, không ai nghĩ đến ngày cưới, ai cũng bảo chờ đến ngày độc lập. Ngày độc lập luôn luôn hiện ra trước mắt mọi người, không biết là ngày nào, nhưng không sao, ngày mai, ngày mốt hoặc sang năm....chẳng vội gì. Rồi đến năm 1947, đơn vị lên đường hành quân. Cả ba đơn vị xuồng nối theo xuồng dài dằng dặc trong buổi chiều mùa nước lớn. Tưởng như bao cuộc hành quân, đi rồi sẽ trở lại, có ngờ đâu càng đi càng xa, có người đi mãi mãi không về. Đơn vị chúng tôi vượt sông Tiền, qua sông Hậu, về U Minh rồi vượt lộ Cái Sắn về chiến trường Bảy Núi. Từ Bảy Núi về làng tôi bên sông Tiền, thời bình thì đi không quá một ngày, sáng đi chiều tới, nhưng chiến tranh thì "cách xa nghìn trùng". Đơn vị chúng tôi vừa đi vừa đánh, phải mất đến nửa năm trời, bao nhiêu đồng đội nằm lại dọc đường và thêm nhiều lính mới. Anh Hai Thể là người chỉ huy nhưng vẫn giữ vẻ hào hoa phong nhã. Dù cướp được nón sắc của giặc, anh vẫn đội chiếc nón bàng thời Thanh niên Tiền phương như anh chăn bò người Châu Mỹ, khi ra trận vẫn chiếc nón bàng, tay lăm lăm cây súng ngắn, thẳng lưng trên khắp trận địa, không hề thấy lom nhom dù đạn bay veo véo ngang đầu. Đúng là người chỉ huy đi giữa làng tên mũi đạn. Trong đại đội không ai có trình độ học vấn như anh, anh càng được nể trọng. Đến chỗ dừng quân, chiều chiền anh thường mang cây đàn ghita cùng với năm ba chiến sĩ trong đó có tôi, ngồi vào quán bên bờ sông. Anh uống, anh đàn và anh hát. Anh nhớ cô Hai Sào Đâu của tôi. Dù chưa cưới nhưng anh vẫn xưng với tôi bằng dượng và gọi tôi bằng "mầy Năm!". Năm 1948, tôi được cử đi học, anh vỗ vai tôi: "Mầy mới 16 tuổi, thấy mày lóc thóc đi theo tao không đành. Dượng cử mày học thêm, mày đừng phụ lòng đồng đội với cô dượng mầy!". Suốt bao nhiêu năm sau, tôi biết đơn vị anh đang hoạt động ở đâu, đánh chiến dịch nào, nhưng không bao giờ gặp, cũng không thư từ, nhưng vẫn nghĩ, vẫn nhớ anh và mối tình của anh với cô Hai Sào Đâu của tôi. Mãi đến năm 1960 sau bốn năm tập kết ra Bắc, nhân chuyến đi viết một phóng sự về bộ đội miền Nam đi xây dựng nông trường, tôi mới gặp anh. Chiều chiều hai anh em thường ngồi trong túp lều bên bờ suối dưới chân núi Ba Vì, khi uống trà, khi uống rượu, nhắc bao nhiêu chuyện đời. Một buổi chiều anh ra suối, trong tay một nhành lá. Đơn vị anh là đơn vị chăn bò, tưởng anh tiện tay bẻ, không ngờ anh bẻ với nhành lá khác : - Nhớ cô Hai mày là nhớ sầu đâu. Miền Bắc không có sầu đâu, không ai biết cái món gỏi sầu đâu. Cây này cũng một hệ sầu đâu nhưng không ăn được, nó là xoan. Nhìn qua hao hao giống nhau. Anh cầm nhành xoan lên : - Xoan tên khoa học là Melia Azedarach, còn sầu đâu trong mình thì tên Azadiractaindica. Anh ngắt một chiếc lá trước mắt tôi : - Năm! Mầy thấy rõ chưa, lá hai lần kép. Còn sầu đâu trong mình thì là một lần kép, thứ diệp đáy hơi bất xứng, bìa có răng tà. Chùm tu tán ngắn hơn lá, mười tiểu nhị gắn trước một phiến đầu lõm, nuốm phù có ba gai và một vòng nông: ba buồng, mỗi buồng hai noãn. Quả nhưn cứng giống trái cà na, Năm có nhớ không? Anh nói về đặc điểm cây sầu đâu như một ông thầy giảng về cây cỏ. Tôi nói : - Hồi ở nhà, đắng quá không biết ăn mà cũng chẳng biết cây sầu đâu ra sao. - Hồi còn đi học, môn này dượng giỏi nhất. Dượng thích đọc về cây cỏ với chim muông. Mỗi lần dượng vào chơi nhà cô Hai mầy, dượng nhìn cây sầu đâu đến thuộc lòng. Nếu mà ở miền Bắc có cây sầu đâu thì nhứt định dượng sẽ trồng một cây. Cây xoan đẹp nhưng không phải cây sầu đâu. Có gì tiếc rẻ trong giọng nói của anh.

Ai vậy cà? Tôi tự hỏi khi thấy một người đàn ông tóc bạc phơ nhưng vạm vỡ từ trên chiếc tắc-xi bước xuống đi vào nhà tôi. Người đàn ông mặc quân phục nhưng không đeo quân hàm, bước đi của ông còn nhanh nhẹn lắm. Nhà tôi là nhà tập thể nên không biết ông tìm ai. Ông đến gần, trì nhớ tôi bừng lên và tôi chạy xô tới : - Dượng Hai Thể phải không? Người đàn ông dừng lại, toét miệng cười : - Còn ai vô đây nữa! Hai chúng tôi ôm nhau và tay anh vỗ bồm bộp lên vai tôi : - Lâu, lâu quá. Dượng về hưu rồi, còn chút thời gian thăm anh em. Dượng vô nhà thăm vợ con mầy, rồi mầy lên xe đi với dượng... Hai chúng tôi ngồi trong một cái quán xa trung tâm thành phố, một cái quán nằm trong hẻm, không ồn ào tiếng xe cộ, quán lá và trước sân quán có một hàng cau kiểng dễ gợi nhớ đến quê nhà. Quán có tên là "Leng Keng quán", 43/6 đường Nơ Trang Long. Lần cuối gặp anh bên bờ suối dưới chân núi Ba Vì từ năm 1962 mà nay là ngày giữa tháng 11 năm 1998, ba mươi sáu năm rồi còn gì. Tôi sắp bảy mươi, còn anh thì quá bảy mươi, hai ông già. Anh nói : - Điểm lại đơn vị mình ngày đầu kháng chiến, hơn bốn mươi anh em cùng một xứ sở bây giờ chỉ còn ba thằng: dượng, mầy với một thằng đang ở chợ. Từ ngày giải phóng đến giờ, hễ đến ngày 23-9 thì dượng làm một mâm cơm cúng tất cả anh em. Gương mặt, tầm mắt và cả giọng cũng xa xôi : - Cuối đời ngẫm lại có mấy điều không ngờ. Cuộc hành quân buổi chiều mùa nước không ngờ là hành quân về Bảy Núi. Không ngờ đến khi tập kết không gặp được cô Hai Sào Đâu của mầy. Không ngờ một thằng giao liên chạy lon ton bây giờ là một nhà báo lão thành. Cái không ngờ lớn nhứt là mình còn sống, còn ngồi với nhau. Cô phục vụ trình cái thực đơn cắt ngang câu chuyện của anh. Anh lật từng tờ thực đơn, nhìn từng món ăn rồi như giật mình : - Có gỏi sầu đâu à? - Dạ có nhưng chậm một chút. Anh đùa : - Bây giờ đi trồng hay đi hái? - Cô phục vụ lịch sự tươi cười : - Dạ, vừa mới hết, nhưng gọi điện thoại thì họ mang đến ngay. Anh Hai Thể nhìn cô phục vụ ngạc nhiên : - Gọi điện thoại thì họ mang tới? - Dạ thưa phải. Là vựa, chỗ đó là chỗ cung cấp sầu đâu cho toàn thành phố. - Hiện đại quá há! Cô có điện thoại không? - Dạ có. Anh Hai Thể rời ghế bước theo cô phục vụ. anh trở lại bảo tôi : - Mầy Năm ngồi đây chờ dượng. Anh gọi tắc-xi. Ngồi chờ, tôi cảm nhận chuyến đi của anh. Nhìn đồng hồ, 20 phút, anh trở về với ba bó sầu đâu, một bó bằng nửa cườm tay. Anh ngồi xuống : - Mầy Năm biết sao dượng tự đi mua không? Tôi hỏi lại anh bằng một cái nhướng mắt. Anh nói : - Dượng về Nam từ năm 1963, đi, không gặp lại, cũng không ai chia tay với ai. Nửa năm ròng mới đến Bảy Núi. Việc đầu tiên của dượng là tìm hỏi cô Hai của mày. Một năm sau mới dò ra tin tức. Chưa kịp mừng thì tin buồn đến. Mừng là cô Hai vẫn chờ, vẫn tiếp tục công tác nhưng lại hy sinh, bị trực thăng bắn trên Đồng Tháp Mười. Không còn gì nữa, dượng lao vào trận, nhưng lạ, đạn nó tránh, không chết, cũng chẳng có viên đạn nào đụng đến lông chân. Năm 1967, bốn mươi tuổi rồi ai cũng phải có một gia đình, dượng lấy vợ, làm đám cưới dưới bom đạn ở đồi Tức Dụp. - Chị và mấy cháu khỏe? - Khỏe. Tại sao dượng tự đi lấy sầu đâu, mầy Năm có biết không? Nghe nói chỗ vựa sầu đâu, tự dưng trong lòng dượng như thức lên một ngọn lửa hy vọng. Biết đâu cô Hai còn sống, chiến tranh mà, có người gia đình đã thờ rồi lại lót tót trở về. Biết đâu bây giờ cô Hai là chủ vựa sầu đâu ở đất Sài Gòn này? Dượng trở lại đây tất nhiên là không phải. Nhưng nếu dượng không đi là cả đời dượng không yên. Cô Hai của mầy mất nhưng chính cô đã giúp cho gia đình đỡ khó khăn. Tôi lại nhìn anh tỏ ra không hiểu. Như đoán ý nghĩ của tôi, anh hỏi : - Không hiểu phải không? - Tôi cười, gật đầu. - Mấy năm trước, sau khi về hưu với cấp đại tá, dượng xây nhà trên một mảnh đất ngoài ngoại ô thị xã. sẵn có một công đất, dượng trồng cây ăn trái, nào mận, nàm mãng cầu, nào nhãn; sẵn đất dượng trồng mấy cây sầu đâu, trồng cây sầu đâu để nhớ cô Hai. Vài năm sau không ngờ có người đến hỏi mua, mua mão cả năm. Vậy là vợ chồng dượng phải đốn hết cây ăn tạp, trồng ba mười cây, trống kín cả miếng đất sau nhà. Năm nay đã có người mão hết, mầy Năm có biết họ mua mão một cây là bao nhiêu không? - Chuyện này tôi dốt. - Một triệu một cây. Hễ có lá non thì họ tuốt đúng một năm. - Một triệu một cây? - Tôi hỏi lại. - Dượng nói dóc làm gì. Bây giờ một năm nằm chỏng gọng cũng được ba mươi triệu. Như vậy có phải cô Hai phù hộ dượng không? Họ vừa ứng cho dượng mười triệu, dượng lên đây để mua cây "ọt" cho con út, nó giống dượng nó mê nhạc. Gỏi sầu đâu đặt lên bàn. Trong đời của con người, một câu thơ hay một câu hát đều gợi lên cho ta một kỷ niệm bị vùi lấp trong tâm trí. Một món ăn cũng vậy. Cái vị đắng và ngọt của sầu đâu gợi tôi nhớ đến bà, nhớ cha mẹ, anh em và trong tưởng tượng của tôi, hình ảnh cô Hai Sào Đâu với chiếc áo màu hột gà nằm lại vĩnh viễn trên chiếc xuồng lênh đênh đồng nước dưới tầm bay của trực thăng.

Con chim quên tiếng hót Bà nội tôi là kho chuyện đời xưa, mỗi đêm một chuyện cho đàn cháu nội, cháu ngoại, lũ nhỏ vây quanh bà trên bộ ván ngựa gỗ giữa nhà trong ánh sáng tù mù của ngọn đèn dầu. Chuyện này không phải là chuyện đời xưa. Chuyện của nhà mình nhưng lúc đó bà còn trẻ, tụi con chưa có, vậy cũng là chuyện đời xưa phải không? Đêm ấy, bà kể :

- Ông tôi có nuôi một con nhồng. Con nhồng đẹp lạ lắm. Nó như một cô công chúa khoác chiếc áo choàng đen, ấy là bộ lông mượt mà của nó, từ mí mắt kéo đến cổ nó là một đường vàng hình lưỡi câu. Viền quanh cổ là một đường mầu trắng, như công chúa quấn qua cổ chiếc khăn bằng lông cừu, mỏ vàng và đôi chân cũng vàng. Ông tôi vốn là một thợ mộc, cho nên cái lồng của nó như một cái lâu đài. Con nhồng lúc nào cũng vui tươi, nhảy nhót trong chiếc lồng lộng lẫy treo trước hiên nhà. Vừa đẹp, lại vừa biết nói, nó là niềm vui của cả xóm, không chỉ cho trẻ con mà cho cả người lớn. Thấy có người thoáng qua, nó cất tiếng: "Chào khách". Khi người dừng lại trước mặt nó, nó hỏi: "Khỏe không". Ai hỏi gì thì nó dạ. Nó bắt chước giọng ông, nó gọi bà: "Em ơi, em". Nó bắt chước giọng bà, nó gọi ông: "Anh ơi, anh". Trong nhà đang nói chuyện, bỗng chợt nghe tiếng cười, nó cười: "Khậc khậc" y như giọng cười của ông. Thỉnh thong nó lại cất tiếng: "Thôi, thôi thôi" nghe như lời can gián thiết tha của một cô gái. - Khách ! - Ngồi trong nhà nghe nó nói, biết là có khách sắp vào nhà. Người lớn hay trẻ nhỏ hàng xóm, mỗi lần đến chi với nó cũng cho nó một trái ớt. Thò mỏ gắp trái ớt, nó mừng nó nhảy. Trong nhà ai cũng dạy nó tiếng nói lịch sự, lễ phép. Nhưng hình như bấy nhiêu tiếng đó, nghe hoài cũng nhàm, bớt vui. Chẳng biết đứa nhỏ nào cắc cớ dạy thêm cho nó vài tiếng chửi cục cằn: "Đồ đểu, cút, cút đi". Ngày đầu, nghe những tiếng lạ lùng đó, bọn nhỏ vỗ tay và nó được nhiều ớt hơn mọi ngày. Nhỏ vui đã đành, người lớn cũng vui... nghe nó chửi "đồ đểu" người nghe không nghĩ là mình đểu nên chẳng ai giận, nghe nó bảo "cút, cút" người ta không cút mà cười và lại thưởng cho nó ớt ngon hơn, nhiều hơn. Nó nói riết thành quen không ai để ý nó quên tiếng hót từ lúc nào. Bỗng một hôm có một chiếc xe hơi đậu lại trước nhà. Quan huyện từ trong xe bước ra. Một người to lớn bệ vệ trong bộ đồ tây trắng, cà vạt đỏ, giày đen. Quan huyện đến để đặt ông đóng nhái bộ salon thời Louis. Đã là quan thì phải oai quyền, trước mặt ai không chào không hỏi. Quan huyện vào tới cửa thì con nhồng cất tiếng : - Đồ đểu! Quan huyện giật mình : - Đồ đểu! Đồ đểu! Thấy quan huyện không thưởng cho nó trái ớt, nó lại cất tiếng : - Đồ đểu! Đồ đểu! Quan huyện trợn tròn hai con mắt. Ông tôi thấy vậy sợ điếng, vội cúi rạp mình rước quan vào. Ông liếc nhìn bà. Hiểu ý ông, bà rối rít mời quan ngồi, rót nước mời quan uống. Đang chào đang hỏi khách, bà bỗng nghe bên ngoài có tiếng đánh "bốp" một cái. Bà bước ra, bà thấy con chim bị ông đập vào cây cột, nát đầu. Trên thân cột còn một đốm máu bê bết, còn con nhồng thì nằm dưới đất như một miếng giẻ rách đen. Chẳng biết ông sợ hay ông giận, bà chỉ nghe ông lẩm bẩm : - Không! Nó bảo "cút đi" thì nhà này chỉ có chết. Thương con nhồng, bà tôi quỳ xuống trước cái xác của nó. Chẳng biết lúc ấy bà tôi đau đớn thế nào, bây giờ trong ánh đèn dầu, tôi thấy hai giọt nước mắt của bà.

Con chim chết, hết chuyện, bọn tôi có đứa thò chân xuống đất, bà đưa tay kéo lại. Và sau câu chuyện bao giờ bà cũng rút lời răn dạy : - Cho nên, biết thì nói, không biết thì đừng nói theo lời người khác, chết oan đó, các con!

Nguyễn Quang Sáng

Con ngựa trắng của ba tôi Ba tôi lúc mới đặt chân lên đất nước này thì vốn liếng không ngoài mấy đồng bạc. Cũng được đúc theo khuôn khổ kiên nhẫn và cần kiệm như bao nhiêu bạn đồng hương khác, ba tôi hơn họ ở chỗ sớm biết tìm học chữ Pháp. Tôi biết không được tường tận lắm về sức học của ba tôi, bởi tôi sinh ra quá chậm và khi cái tuổi lên mười bắt đầu mở hai con mắt ngờ nghệch của tôi ra xung quanh, thì ba tôi mất. Ba tôi bị bệnh đau xương trong một khu rừng ở Thanh Hóa, sau nhiều năm trời lăn lộn gian nan, và mất đi vào một buổi sáng, lúc tôi còn bận gỡ nốt một đoạn dây thả diều. Tôi nhận cái hung tin ấy với một tấm lòng bình tĩnh vô hạn, vì tôi chưa từng được chứng kiến một cuộc ly tán nào xảy ra trong gia đình tôi, từ ngày tôi cất tiếng khóc chào đời. Hôm ấy, người vú già bảo tôi : - Ông "già" rồi cậu ạ. Tôi không hiểu nên đáp trơn tru : - Không già mà lại có râu! - Không, già là mất, là chết kia. Tôi vẫn nhìn vú, bình thản : - Thế mất thì phải làm thế nào u? - Cậu phải chít khăn trắng, phải chống gậy, phải khóc nữa. Tôi không hiểu làm sao lại có thể khóc được. Khóc được với tôi, chỉ có khi nào bị đánh. Tôi lo lắng tìm cách để khóc, khóc cho nhiều như mẹ tôi trong những ngày giỗ chẳng hạn. Tôi đem duyên cớ nỗi lo lắng nói với một người bạn nhỏ, thì hắn bảo rằng thế nào tôi cũng khóc được, vì "ngày xưa" hắn cũng đã khóc được một lần như thế rồi. Chúng tôi đem chuyện đám ma ra bàn với nhau, cuối cùng, cả hai đều thấy có những ý nghĩ vui vui. Nó nghĩ đến khi được mặc áo mới, chít khăn mới, còn tôi nghĩ đến những bữa cỗ bày ra để mời mọc xóm giềng. Hồi ấy, chúng tôi chưa "văn minh" như bây giờ, để có được một tấm lòng tám chín tuổi đã biết suy nghĩ hay thao thức. Chúng tôi sống bình yên với cảnh đời thay đổi, chưa từng để ý đến những cảm xúc bâng khuâng gợi lên bởi một mảnh ao hay một tấm lá. Cái vui của chúng tôi là cái vui của con diều no gió và cái nhớ viển vông chỉ có thể hơi làm buồn được những lúc vắng nhà. Vậy, tôi đã đợi ngày rước linh cữu ba tôi về - ba tôi mất ở trong nhà thương - với những ý nghĩ hoàn toàn ngây dại như trên. Tôi chỉ nhớ rõ một buổi sáng năm ấy, nhưng không biết về mùa nào, mới sáng tinh sương, tôi đã bị đập dậy bởi những tiếng kêu hoảng hốt của người vú già : - Cậu! Cậu dậy mau! Về đến nơi rồi! Đoạn vú cõng tôi một mạch chạy ra cổng làng. Khi chúng tôi đến nơi thì đã thấy hiện ra một đám người trắng lồ lộ. ảnh ba tôi được phủ lụa điều, được bốn người khiêng lên như kiệu, và theo sau cái bài vị sơn đỏ, mẹ tôi và anh tôi đi đếm từng bước. Tiếng khóc mà tôi lo lắng từ mấy ngày nay làm sao cho có, thì lúc này tự nhiên bật ra, khi tôi thấy cái gì không còn nữa trong cái gì đang còn trước mắt tôi. Đó là những tiếng khóc lần đầu tiên tôi biết, tiếng khóc sau này khi tắt đi, còn vẳng lại một điệu thở dài chua xót trên ngày tháng bơ vơ của tôi. Mẹ tôi thấy tôi thì bù lu, bù loa lên, bế xốc lấy tôi, và đôi lúc đứng lại để xịt mũi hay lau nước mắt. Tôi nhận thấy mấy cây cột nhà đứng bơ vơ hơn trước, bóng tối mau chiếm lấy sân và lòng tôi hay nhớ thương, ngao ngán. Trong hơi lạnh lẽo bốc lên trước lúc gà vịt nhảy chuồng, bốn ngọn nến cùng nháy mắt trên chiếc bàn thờ mới dựng, thay chỗ cho nơi kê bàn đèn thuốc phiện ngày xưa. Tôi bắt đầu sợ bóng tối, rùng mình tưởng rằng ở đâu đây, vẫn còn rè rè những tiếng dọc tẩu kéo ngày xưa. Một tình thương mất đi, vừa khơi lũng xuống tháng ngày tôi sống.

Như trên kia tôi đã nói, tôi biết ba tôi quá chậm. Bảy năm một, ba anh em chúng tôi thi nhau ra đời, tài trí và tính tình khác nhau xa quá. Khi tôi bập bẹ biết nói thì anh cả tôi đã trưởng thành, và anh hai tôi cũng bắt đầu giật sợi dây diều xuống cùng với cái tuổi bay lượn của anh để vào trường. Tôi lớn lên giữa sự chiều chuộng nưng niu của một gia đình có thể kể vào bậc khá. Thoạt đầu ba tôi làm thông ngôn cho một viên chức nhà đoan, rồi sau xoay ra lập một ty muối. Dần dần, vì công việc phát đạt, ba tôi góp phần cổ đông buôn gỗ. Những cuộc kinh doanh hồi ấy, tóe ra tiền, nảy ra bạc, nhờ ở cái thời mà mọi người chưa bị ngạt hơi vì sinh kế như bây giờ. Tôi không hiểu rằng ba tôi đã học chữ Pháp với ai, bằng cách nào, vì một người chưa nói sõi tiếng Việt Nam đã "thạo" cái tiếng ngoại quốc ấy, kể cũng kỳ! Đó là một sự hân hạnh lớn lao cho nhà tôi. Công nghiệp của ba tôi xưa, thường được mẹ tôi kính cẩn thuật lại, có khi đang thuật, người đưa mắt nhìn lên bàn thờ ba tôi... Ngày nhỏ, mỗi lần chạy chơi đâu về tôi thường mò lên gác, nằm yên lặng bên cạnh khay đèn, mũi hít từng hơi dài làn khói xanh thơm phưng phức, như khi chạy ra đường cái đón lấy cái mùi "ét xăng" dễ chịu tỏa lại sau chiếc ô tô. Tôi tò mò đưa mắt ngắm mấy quyển sách chữ Pháp đặt cạnh đấy, mà ba tôi ít khi rời ra. Ngoài cái sung sướng, hãnh diện có một người cha khác thường, thỉnh thoảng một vài cái xe ngựa đỗ lại ngoài cổng, đem đến nhà tôi những người ngoại quốc, lại làm tôi nghĩ ngợi về cái gia thế hẳn không phải là tầm thường của chúng tôi. Tôi thấy ba tôi nói chuyện với họ một cách dễ dãi quá. Người luôn luôn gật đầu, mỉm cười, khiến tôi nghĩ đến sự dồi dào chữ nghĩa ở bên trong khối óc hẳn phải rộng mênh mang! Thường thường, những buổi đàm luận rất thân mật kia đều được kết thúc bởi một bữa tiệc có bánh bích quy và rượu sâm banh. Tôi thường hỏi anh tôi : - Ba học ở đâu mà giỏi thế anh? Anh tôi vênh mặt lên : - Mày tưởng ba vừa chắc? Ba giỏi gấp trăm tao kia! Chắc chắn là ba tôi phải giỏi, không còn ngờ gì nữa. Ba tôi đã có thể vào làng Tây được rồi. Nhưng tôi còn muốn biết thêm nữa, tôi muốn biết về mấy quyển sách đẹp đẽ mà ba tôi hay đặt lên ngực, khi mắt người lim dim, môi người mấp máy! Nghe tôi hỏi thêm, anh tôi gắt với một vẻ tự phụ : - "Lăngga făngxe, đíchxonne", hỏi mãi! Nhưng những điều dẫn giải ấy không gạch được vào óc tôi một nét sáng gì cả. Tôi đành phục ba tôi vậy. Cái con người kỳ lạ ấy là cả một sự khó hiểu với tôi, khó hiểu như cái ngôn ngữ xa lạ kia không biết nhờ ở một phép bí truyền gì, lại có thể kết được ý nghĩ trên đôi môi chỉ quen mấp máy thứ tiếng phương Đông. Sau này, đem chuyện ba tôi ra khoe với các bạn cùng lớp, tôi bị họ chế giễu : - Ba mày có nói tiếng Tây... giả cầy! Mặc dầu, tôi vẫn tin ở tài trí của ba tôi, vì hàng ngày những bạn ngoại quốc vẫn đến, vẫn vui vẻ nói chuyện và vẫn vui vẻ ra về. Hai năm sau đấy, một chuyện phi thường vụt xảy ra trong gia đình tôi : anh hai tôi đậu bằng Cơ thủy Pháp - Việt. Đậu được cái bằng Cơ thủy, vào hồi ấy, người ta có thể được bổ dụng ngay rồi. Anh tôi về nhà, tay xun xoe đốt một bánh pháo tép, đá vào đít tôi một cái, rồi chạy tọt lên gác báo tin mừng cho ba tôi. Thực là long trọng! Mấy người ngoại quốc ngồi cạnh đấy rối rít xoa đầu anh, xì xồ nói những gì làm anh đỏ mặt. Tự nhiên tôi cảm thấy hổ thẹn, ghen tỵ khi tôi thấy anh sung sướng chạy nhảy khắp nhà. Tôi bảo anh tôi : - Anh cũng không giỏi bằng ba đâu. Ba sắp mua cho em cái xe đạp ba bánh kia! Anh tôi quay lại : - ừ thì mày có xe đạp ba bánh. Tao có tiền đây này. Đoạn anh dằn lên nền gạch cho tôi nghe tiếng kêu coong coong của đồng bạc mới long lanh. Tức quá, tôi chạy lại bên ba tôi, khóc tấm tức : - Bắt đền ba đấy. Ba không cho con tiền, ba cho anh hai. Ba tôi bế tôi vào lòng, rồi móc túi cho mấy đồng hào con mới tinh. Thuở nhỏ, tôi chỉ được sống mấy năm sung sướng. Cái cơ nghiệp của ba tôi, những người nối tiếp là mẹ tôi và dì ghẻ tôi không giữ vững nổi. Chúng tôi sớm bị đuổi ra khỏi cuộc đời sung túc. Trong tất cả những kỷ niệm ba tôi để lại, cái làm tôi nhớ nhất và tôi không hiểu tại sao lại nhớ đến thế, là con ngựa kim hoa trắng của ba tôi. Những buổi trưa hè oi ả, mệt nhọc mang ba tôi từ những cánh rừng xa về, nó vui mừng hí lên khi nhận thấy cái mái nhà thân thiết trên đấy đậu mấy con chim bồ câu. Chân nó đập lên những lối đi quen biết, mồm nó ngoạm những cây cỏ ngon lành. Tôi chạy ra đón ba tôi và thường thường người giao cương cho tôi cột nó lại. Dưới cánh những con muỗi bay vo ve, nắng hoa xôn xao, da nó động đậy, mỡ mượt trong một vẻ đẹp đẽ, oai nghiêm riêng. Rồi những buổi trưa không còn có trong đời tôi nữa, tôi theo người nhà dắt nó đi tắm, đánh nó bơi qua sông. Tôi sung sướng cười vang trên mặt nước lòa nắng, cưỡi trên mình con ngựa kim hoa mà tiếng hí quen quen, tôi chắc đã lâu ngày rồi, không còn rền qua cánh đồng ngập cỏ nữa. Bây giờ đời tôi chỉ còn lại những trời quạnh vắng, những buổi trưa đột nhiên vọng một tiếng gà gáy lạ lùng. Tôi thoáng thấy bóng người cưỡi ngựa về sau hàng rào, đi ngược lại thời gian, run run như chỉ đợi một hơi gió mơ hồ là biến mất. Mẹ tôi bán dần dần nhà cửa, ruộng vườn để trả nợ, và cả con ngựa trắng cũng bị đổi lấy tám mươi đồng. Hôm mẹ tôi định bán nó đi, tôi thấy lòng buồn vô hạn. Tôi không mấy lúc rời cái buồng nhốt nó ra nữa, lưu luyến như đứa trẻ con bị đuổi khỏi căn nhà cũ, còn tiếc rẻ những chốn ăn nằm, đồ đạc quen thân. Tôi cầm một nắm cỏ đút vào mồm con ngựa trắng, vỗ vào mớ lông bờm trắng toát của nó. Từ ngày ba tôi mất đi, nó gầy gò thiểu não, mắt nó ướt và có ghèn, thỉnh thoảng cất tiếng hí không nhất định, mà tiếng hí mới buồn thảm làm sao! Hôm người đến mua dẫn nó đi, tôi khóc bảo mẹ tôi : - Mẹ đừng bán nó cho người ta. Mẹ để cho con. Mẹ tôi thở dài : - Nhà còn chả tiếc nữa là ngựa. Không bán đi thì xé xác ra mà trả nợ à? Con ngựa ấy ngày nay đã chết. Cũng như ba tôi để lại cái danh vọng tàn của những ngày rực rỡ, nó cũng đã từng nổi tiếng một thời về nước kiệu hay. Anh hai tôi thường trêu tôi : - Đồ người không nhớ người, lại nhớ ngựa. Rõ dở hơi! Mà tôi dở hơi thật. Trên đường đời, tôi đã nhiều lần dở hơi như thế, và chắc sẽ phải dở hơi suốt đời... Ngày nay, mỗi lần đi qua cánh đồng ngập cỏ, tôi vẫn còn phảng phất ngửi thấy mùi ngựa, nghe thấy tiếng ngựa, và hình dung một bộ yên cương vắng chủ, ngơ ngác đâu đây...

Hồ Dzếnh

Cuốc xe đêm Chiếc xe tốc hành về miền Tây dừng lại ở ngã ba lối rẽ vào thị xã. Lúc ấy cũng đã khuya rồi. Những ngọn đèn cao áp treo cao hắt ánh sáng lạnh xuống con lộ phẳng phiu đã thưa người qua lại. Hai bên hè phố hàng quán vắng tanh, thỉnh thoảng tiếng rao của người bán hột vịt lộn chợt cất lên rồi lịm ngay vào đêm. Tôi xách hành lý, tính đi bộ vào nhà chú em gần cầu Ông Bộ cách ngã ba chừng hơn cây số. Hai chiếc xe gắn máy trườn tới vây quanh. - Về đâu chú Hai, cháu đưa về? Về đâu... Tôi phân vân, nửa muốn đi xe nửa muốn đi bộ. Chặng đường non nghìn cây số từ ngoài miền Trung vào đến đây đã làm cho tôi thấm mệt. Ở bên kia đường, một chiếc xe đạp lôi cũng hối hả băng sang. Ngồi trên yên xe là một phụ nữ đội chiếc nón lụp xụp, dưới ánh đèn mờ nhạt, người đó có khuôn mặt gầy và nước da ngăm đen. Chiếc xe đạp lôi dừng lại sau mấy chiếc xe gắn máy. Người phụ nữ im lặng đăm đăm hướng mắt về phía tôi không nói câu nào. Tôi đọc được ý muốn của chị và trên khuôn mặt đen đúa còm nhom, cặp mắt sáng lên hy vọng. Tôi quyết định sẽ đi xe lôi về nhà người em. - Không khoái ngồi xe ôm! - Tôi hất hàm nói với mấy gã xe thồ - Đi xe lôi ngồi sau cho thoáng. Mấy gã xe ôm nì nài thêm một lúc không được chạy tản ra, văng những lời tục tĩu. Lạnh tanh bước lại bên chiếc xe đạp lôi, tôi bỏ hành lý lên xe. - Cho tôi về cầu Ông Bộ! Người phụ nữ quay lại. Khi đối diện với chị, tôi kịp nhìn rõ chị chắc chưa đầy bốn mươi, gầy gò, da mặt đen sạm, nụ cười mệt mỏi để lộ hàm răng đều và trắng. - Dạ, chú cho con ba ngàn! Tôi bước lên xe, ngất ngưởng ngồi. Chị ta bắt đầu đạp, chiếc xe nặng nề chuyển bánh. Sên xe đã cũ, khô dầu, trượt lên líp xe nhọn hoắt nghe khô khốc, khó chịu. Dưới chiếc nón lá mất vành, lá nón tưa ra, mái tóc của chị buộc lại thành túm như chiếc chổi cùn quét qua quét lại trên bờ vai khẳng khiu theo mỗi lần rướn người lên đạp. Áo hoa màu sẫm đã cũ, ngắn ngủn, mỗi lần chị cúi xuống lại hở một vạt lưng. Chị, tôi và chiếc xe lôi cà tàng làm nên một bức tranh khắc trên nền đêm đen. Tôi béo tốt, phương phi, quần áo tươm tất đang ngồi như một ông phỗng trên chiếc ghế xe không đệm. Còn chị, gầy còm, ốm yếu, lam lũ đang gò lưng đạp chiếc xe già nua, bánh xe nặng nề nghiến lên mặt đường tội nghiệp. Người phụ nữ vẫn cặm cụi đạp. Đi một quãng chị lại đưa tay lên trán gạt mồ hôi. Gió từ sông Tiền thổi vào lành lạnh. Tôi lấy chiếc áo khoác choàng lên mình. Chợt thấy chiếc áo mỏng trên lưng người phụ nữ đã thấm ướt mồ hôi. Tôi ái ngại, không muốn đi tiếp nữa, nói : - Chị dừng chỗ đèn sáng kia, tôi muốn mua chút quà cho mấy đứa nhỏ. Chiếc xe dừng lại. Chị đưa nón quạt rồi lấy ra một chiếc khăn đã cũ, nhàu nát lau mồ hôi. Tôi bước ra với gói bánh trên tay và quyết định chỉ để hành lý trên xe và đi bộ với người phụ nữ. Tôi hỏi chuyện làm ăn, giọng chị buồn rầu đáp : - Tệ quá chú ơi! Ba chiếc Honda nó giành hết. Từ chiều đến giờ chưa được cuốc nào. Chú là người đầu tiên. Chị giục tôi lên xe. Tôi chần chừ rồi từ chối, viện lý do đi bộ cho đỡ bó chân. Chị đẩy xe lại, giọng nằng nặc : - Nếu chú không lên, con cũng không đi nữa...! Chị bỏ mặc tôi, với lấy trong túi treo trên ghi đông xe một ổ bánh mì nhai ngon lành. - Xin lỗi chú từ chiều đến giờ con chưa có gì trong bụng. Giọng chị nhỏ và buồn, một tay đưa lên ngực chặn cơn ho khúng khắng. Tôi rùng mình, một cảm giác lành lạnh, khó tả đang xâm chiếm lòng. Tôi không thể để một người phụ nữ gầy gò, ốm yếu, bệnh hoạn thế kia kéo một cỗ xe nặng nhọc và lấy làm ân hận vì đã nhận lời đi xe của chị. Người phụ nữ lại giục : - Chú lẹ lên cho con còn kiếm thêm cuốc nữa! Tôi ngơ ngác : - Thế chị chưa về nghỉ, khuya rồi còn gì? - Dạ, tụi con chạy xe thâu đêm. Nghỉ lấy gì nuôi chồng, nuôi con. Tôi thở dài ngao ngán. Khuya khoắt thế này lấy đâu khách mà chở. Lưỡng lự một lúc, tôi bước lên xe và không mấy chốc đã tới cầu Ông Bộ. Đưa tờ bạc hai mươi ngàn trả tiền xe, tôi bảo : - Chị cầm cả. - Dạ không, con đã nói ba ngàn là ba ngàn. Ba ngàn là quá nhiều rồi. Chị lúng túng, lục khắp túi áo, ngại ngùng : - Dạ, con không có tiền lẻ. - Thì chị cứ cầm lấy, tôi biếu mà! - Dạ không, - người phụ nữ đáp lại kiên quyết. Qua lại hồi lâu, chợt nhớ ra điều có thể giúp chị, tôi nói : - Chị chờ cho một lát, tôi ra ngay. Tôi muốn đi dạo một vòng quanh thị xã, sớm mai lại phải trở về thành phố rồi. Tôi vào nhà, trao gói quà cho mấy đứa cháu. Người em dâu cho biết, chú em tôi đang trực trong bệnh viện. Lau mặt qua loa, tôi nói với cô em và các cháu tôi phải đến bệnh viện gấp để bàn với chú em một số việc cần. Tôi lại ngồi lên xe. Người phụ nữ đưa tôi đi một vòng quanh thị xã. Trong đêm, những ngôi nhà im lặng, ngủ say trong tiếng sóng sông Tiền đang vỗ nhẹ vào bờ. Tôi ra hiệu cho chị dừng lại một quán nhỏ ven sông, có mấy người chạy xe xích lô đang uống rượu. - Chị uống một chút gì nhé - Tôi mời. Người phụ nữ trố mắt nhìn tôi : - Dạ cảm ơn chú, con không khát. - Cô cứ tự nhiên. Tôi đổi cách xưng hô, kéo tay chị ngồi vào ghế, cử chỉ thân tình nhưng hơi thô bạo. Chị miễn cưỡng ngồi xuống. - Uống một ly sữa nóng nhé? Chị khẽ gật đầu. Dòng sông về đêm, đang thiêm thiếp chảy về xuôi, mỗi lần có chiếc đò máy đi qua lại dạt vào bờ những đợt sóng kèm theo những mảng lục bình. Bên kia cồn, ánh đèn le lói và tiếng gà đã xôn xao gáy sáng. Tôi mông lung nghĩ về chị và tò mò hỏi : - Sao cô làm nghề vất vả vậy? Anh ấy đâu? Chị buồn bã : - Chú tính làm gì bây giờ. Phải ông chồng nghiện ngập, làm được đồng nào là ném vào rượu tất. Không dám gợi thêm những xót xa của chị, tôi đứng dậy kêu tính tiền rồi nhét vào túi chị hai mươi ngàn, bước vội về phía bệnh viện. Lúc ấy đã hơn hai giờ khuya. Trong bệnh viện thị xã hai anh em tôi nói chuyện với nhau một đỗi mệt rũ tôi ngả lưng trên chiếc giường trực ngủ thiếp. Đang mơ màng, chợt có tiếng gõ cửa rất gấp, tôi giật mình tỉnh dậy - Bác sĩ Thắng! Có cấp cứu, mời bác sĩ ra ngay. Chú em tôi chạy vội sang phòng cấp cứu. Tôi cũng dậy và bước theo. Trước mắt tôi, sàn nhà lát gạch hoa sáng bóng loang lổ máu. Cô y tá đang đo huyết áp. Người bệnh giẫy giụa, tay ôm ngực, ộc ra một bãi máu màu hồng, lầy nhầy bọt. Tôi giật mình, đứng lặng, không dám tin ở mắt mình. Toàn thân tôi run lên, trán vã mồ hôi, tim đập thình thịch. Trước mắt tôi là người phụ nữ chạy xe lôi, người vừa đạp xe đưa tôi đi một vòng quanh thị xã. Em tôi khám nhanh cho chị và ra y lệnh : - Truyền dịch ngay. Nâng huyết áp khẩn cấp. Gọi xét nghiệm cho làm nhóm máu! Nhìn nét mặt chị xanh tái, nhợt nhạt dưới ánh đèn, tôi nói như van : - Chú cố gắng cứu lấy chị ấy...! Tất cả đều khẩn trương. Khi những giọt máu bắt đầu chảy vào cơ thể chị, người y tá cho biết huyết áp không thể đo được nữa. Chú em tôi làm hô hấp nhân tạo, tiêm thuốc trực tiếp vào tim. Tất cả những cố gắng ấy đều vô ích. Chị đã tắt thở. Chú em buồn bã nói : - Chị ấy ho ra máu vì lao phổi. Một động mạch trong hang lao bị vỡ do làm việc gắng sức quá. Trước khi đưa chị xuống nhà xác, biên bản tài sản của người bệnh vỏn vẹn mấy dòng: "Trong túi có hai mươi ngàn đồng và một chiếc xe lôi". Tôi im lặng, nuốt nước mắt, chạy vội ra bờ sông, ngồi vào chiếc ghế của quán cóc ven bờ, nơi cách đây hơn tiếng đồng hồ tôi đã ngồi uống nước với chị. Trước mắt tôi, sông Tiền vẫn lạnh lùng chảy mang theo những bè lục bình ra ngoài biển rộng...

Phan Cao Toại

Dòng Email chờ đợi Một buổi sáng ngày chủ nhật khi ông bà nội còn chưa tỉnh giấc thì nó đã rón rén trở dậy dắt con Pôn mon men ra cổng và phóng vọt ra vỉa hè. Một người một cún con tha hồ tung tăng nhảy nhót cười đùa và sủa gây gây âm vang góc phố. Đang trong khi vui vẻ ấy chợt có tiếng nói trầm trầm vang lên : - Này cô nhỏ, em đừng nhảy chân sáo nữa được không? Tôi nhìn thấy buồn cười lắm nên chẳng làm được gì cả. Nó thôi nhảy nhót, quay ngoắt lại phía người ấy. Đó là một anh thanh niên đang ngồi ở dưới gốc cây sấu già cạnh đó. Anh nói xong nhìn nó mỉm cười thân thiện. Nó không hề cảm thấy giận vì bị người lạ phá đám, chỉ thấy hơi xấu hổ một chút thôi. Đang định phóng vút đi kiểu bỏ chạy thì anh vẫy vẫy tay gọi nó lại. Hơi rụt rè một chút rồi nó cũng quyết định tiến lại gần. Con Pôn lẽo đẽo theo sau vẻ cáu kỉnh. Nó hỏi : - Anh làm gì mà ngồi ở đây sớm vậy ạ? Chỉ vào màn hình của chiếc máy vi tính xách tay đang đặt trên đùi anh bảo : - Tôi đang dò tìm số liệu những cô nhỏ đã khiến tôi không làm được việc. Nó gật gật đầu vẻ đồng tình : - Vâng, con cún con này ồn quá!? Anh nghe nó nói phát phì cười và nhìn vào cái trán dô bướng bỉnh của nó, mái tóc tém tơ mềm, cái quần jean bạc thụng và cả cái áo phông đỏ chót rộng thùng thình nữa - tự nhiên anh thấy mình quí cô nhỏ này. Không thèm để ý đến chuyện anh đang quan sát mình, nó điềm nhiên ngồi xuống cạnh anh, đưa mắt ngó vào màn hình. Ở đó toàn là chữ với ba hình ảnh đẹp đầy mới lạ. Nó xuýt xoa khen rồi buột miệng đọc lên vài chữ tiếng Anh và lẩm nhẩm dịch ra tiếng Việt. Anh ngạc nhiên thốt lên : - Chà, nhỏ giỏi quá ta! Em học lớp mấy rồi? Nó nhìn anh và hai bàn tay ra, vẻ ngộ nghĩnh : - Lớp mười tròn trỉnh! Anh thấy vui vui : - Chuyên ngữ phải không? Nó lắc đầu : - Không phải! Anh khẳng định : - Vậy chắc nhỏ toàn đứng đầu lớp? Không trả lời, nó chỉ khẽ gật đầu nhẹ, rồi không để anh hỏi, nó chỉ ngay vào màn hình : - Anh lấy số liệu của nước ngoài này để làm gì ạ? - À, để viết báo cáo thực tập ấy mà! Nó lẩm nhẩm đọc thêm vài từ nữa rồi nói vẻ chẳng ăn nhập gì với câu hỏi trước : - Anh không phải là người ở đây! - Ừ, sao nhỏ biết! Nó cười đầy tự tin : - Trông anh lạ, em quen mặt tất cả mọi người ở phố! Anh chặc lưỡi : - Ghê nhỉ! Vậy chắc ham đi chơi rồi! Nó thanh minh : - Không, nội hay bảo em ngoan, chỉ mỗi tội... Chưa nói hết câu thì bất ngờ con Pôn đang nằm dài dưới chân nó nhỏm dậy sủa ầm ĩ - bà nội nó từ trong nhà mở cổng bước ra gọi : - Khoai, con có về nhà ngay không đấy? Nó líu ríu : - Có ạ - Rồi chào anh và chạy vụt đi.

Buổi sáng ngày hôm sau, đang trên đường đi từ nơi ở trọ ra chỗ thực tập, khi ngang qua chỗ cây sấu già bất ngờ anh thanh niên nhận ra cô nhỏ hôm qua. Lần này vẫn là cái quần jean thụng nhưng áo không còn là màu đỏ chót rộng rinh mà thay vào là áo phông sọc xanh gọn gàng thanh nhã. Anh bước nhanh và hướng phía đó. Ngay từ ca cô nhỏ đã ôm con cún trên tay nhìn anh mỉm cười vẻ chờ đợi. Anh bước lại gần hơn : - Chào cô nhỏ! Em là Khoai lang hay Khoai tây vậy? Cô nhỏ cười bẽn lẽn : - Tên em không phải vậy! Tại nội thích ăn khoai nên hay gọi thế, chắc là khoai lang đấy! Nó trả lời anh xong rồi rụt rè : - Giờ anh có bận không ạ? Thấy vẻ nghiêm trang của nó anh thôi đùa, nhìn đồng hồ xong anh bảo : - Còn dư 30 phút nữa. Sao, có chuyện gì vậy? Nó tần ngần trong giây lát xong đề nghị : - Anh cho em xem lại cái hôm qua ở máy có được không? Lần này anh thực sự ngạc nhiên : - Em thích thật sao? Nó gật gật đầu liền mấy cái. Thấy thế, không ngần ngại, anh kéo nó lại sát vỉa hè và ngồi xuống. Vừa mở máy ra anh vừa hỏi : - Nhà em không có máy phải không? - Ở nhà không có nhưng ở trường thì có. Tuy vậy bọn em chỉ được học soạn thảo trên Word thôi, dễ èng nên chán lắm! - Vậy hả? Anh hỏi lại tay vẫn ấn con chuột để mở các chương trình. Nó nhìn như dán mắt vào màn hình rồi hỏi lại cho chắc chắn : - Máy anh có nối mạng đấy chứ? Anh gật đầu : - Em thích hả? - Vâng! - Thì đây! Anh nói xong, đưa máy sang cho nó. Khẽ hít một hơi thật sâu, nó đưa tay rút dép ra kê xuống đất ngồi và duỗi thẳng chân ra. Khi đã yên vị, một tay nó đặt lên bàn phím, tay kia cầm chuột, bằng vẻ háo hức, nó suỵt cho con Pôn nằm xuống sát cạnh rồi quay sang anh "dụ khị" vẻ đầy thân mật : - Nào, anh dạy em cách sử dụng đi!

Thành phố của nó là một thành phố nhỏ nhưng lại đẹp và yên tĩnh. Ở đây đường sá nằm im lìm trong vắng lặng bởi người dân vốn hiền hòa, chỉ thích đi xe đạp. Nó tự hào giải thích cho anh nghe điều đó và đưa anh đi khắp mọi nơi để tham quan. Bắt đầu là từ bên tả con sông Đào men theo đò dọc để đi sang làng hoa. Từ làng hoa lại rong ruổi trên một con đường đất nhỏ để hướng ra cầu treo trở về thành phố. Có những buổi sáng tinh sương nó hay trèo cổng trốn ông bà cùng anh hướng về phía ga để nghe tiếng tàu từ Nam ùa tới. Khi tiếng xình xịch của con tàu dần xa khuất nó lại dẫn anh đi về khu phố Dệt - ở nơi đó, tiếng còi tầm báo hiệu giờ làm đã thực sự vào ca. Đâu đó trong khu phố vẫn còn một vài nhà làm thêm nghề dệt thủ công để tiếng thoi đưa lách cách vang lên đầy rộn rã. Trong những lần đi đó, nó say sưa giảng giải tận tình cho anh về những nét đẹp cổ sơ và bình dị nơi nó được sinh ra, lớn lên. Còn anh sau những giờ đi điều tra, lấy số liệu, nạp vào máy, xử lý và viết báo cáo, khi rảnh rỗi anh như thường mong được gặp cô nhỏ nhiều hơn. Chỉ hơn có hai tuần kể từ ngày hai anh em làm quen với nhau, anh thanh niên chợt thấy mình đã hiểu và đã yêu thành phố nhỏ này đến tha thiết. Với anh là như thế, còn với nó, ngoài những lúc thích thú được đi chơi bên anh, được nghe anh kể và được kể anh nghe mọi chuyện thì nó còn có thêm một niềm vui, một niềm say mê khác đó là: được lang thang trên mạng. Hàng loạt những trang Web về kinh tế, chính trị, xã hội, khoa học kỹ thuật được nó lần lượt mở ra, tập tọng đọc và tập tọng khai thác. Trong khi nó cắm cúi và những thông tin trên mạng ấy thì anh hay ngồi bên ìm lìm và chờ đợi, để trả lời những câu hỏi mà nó thường đưa ra - ấy chính là những câu hỏi khi thì lắt léo thông minh đến kỳ lạ, khi thì vu vơ trẻ con đến buồn cười.

Gần hai tháng thực tập ở thành phố đã nhanh chóng trôi qua. Nó nhanh đến ngỡ ngàng khi một sáng kia anh bất ngờ bảo : - Này nhỏ, mai anh phải về rồi! Em ở lại học cho giỏi nhé! Nhớ đừng đi chơi nhiều hiểu không? Nó nhìn anh nói xong lời chia tay ấy, khẽ gật đầu và phóng vụt đi. Nó không muốn để anh thấy là nó đang buồn. Một tuần sau đó có một nhân viên bưu điện đột ngột đến gọi cổng nhà nó và chuyển cho nó một phong thư. Ông bà nội nhìn nhau phấp phỏng : - Chắc là cha mẹ của con Khoai từ bên kia gởi về? Chú bưu điện cầm phong thư và đọc to lên tên người gửi. Nó ngỡ ngàng đến sững sờ khi nhận ra đó chính là anh. Anh chẳng viết gì nhiều, chỉ ghi cho nó một dòng địa chỉ email cùng một lời dặn : - Phải học cho thật giỏi! Bao giờ thấy có đủ tự tin mới được gửi thư cho anh!

Cuộc sống vẫn chảy trôi như thời gian vốn chưa khi nào biết dừng lại. Nó đã được ba mẹ từ nước ngoài gửi tiền về mua cho một dàn vi tính. Nếu như cây sấu già bên vỉa hè - nơi đã từng chứng kiến lần đầu nó được gặp anh - nay vẫn còn đang im lìm đứng đó dù đã trải qua bao mùa thay lá, đâm chồi, ra hoa, kết quả để rồi đêm đêm từng quả chín một cứ lác đác rụng rơi và lòng phố vắng; Thì nó - một con nhóc lớp 10 ngày xưa cũng đã dần theo thời gian mà lớn lên để rồi một ngày kia khi cái giấy báo đỗ thủ khoa vào khoa Công nghệ thông tin trường ĐHTH được đưa tới, nó mới ngỡ ngàng nhận ra: mình đã 18 tuổi. Trước hôm nhập trường một ngày nó dường như trở trăn và mong nhớ về điều gì nhiều lắm! Cứ bần thần dạo quanh gốc sấu, bần thần tìm về một vài nơi chống thuở trước đã vô tình cùng anh đi qua. Khi về được đến nhà cũng đã gần nửa đêm. Khe khẽ ôm con Pôn vào phòng nó lục tìm ở dưới tận sây trong đáy tủ một dòng địa chỉ email đã có mùi ẩm mốc. Day dứt mãi rồi cuối cùng nó cũng quyết định đi về phía bàn học và bật máy lên. Lách cách gõ cho chính xác từng dòng địa chỉ trước rồi nó ngập ngừng gõ bức thư với đại ý rằng : "Em đã chịu khó học tập như lời anh dặn, dù thấy mình chưa giỏi lắm nhưng cũng có khá đủ tự tin để ngày mai bước vào ngôi trường mới!". Khi thư vừa được ấn đúp vào "Send" để gửi đi, nó chưa vội tắt máy ngay mà bỏ ra thu dọn đồ đạc. Chỉ một loáng sau quay lại, theo thói quen, nó kiểm tra hộp thư trước khi đi ngủ, rồi nó bỗng như run lên khi câu chào quen thuộc từ đâu đó hiện ra : "Chào cô nhỏ!". Đấy chính là anh! "Anh xin chúc mừng thủ khoa nhé! Anh đã từng chờ đợi đến một ngày được nhìn thấy hồ sơ xin thi tuyển của nhỏ ở Văn phòng khoa và quả là anh đã không bị phụ. Kể từ ngày mai nhỏ lên đây nhập học, ở trên lớp nhỏ phải gọi anh bằng thầy đấy hiểu không?". Nó ngạc nhiên đến không tưởng tượng nổi - cứ ngồi bên ghế, mắt dán vào màn hình, đọc đi đọc lại đến thuộc lòng từng câu chữ. Khi đó chừng như đêm đã về quá khuya bà nội có vẻ lo lắng sốt ruột khi phòng nó điện vẫn còn le lói sáng - Nội lạch cạch gõ cửa phòng hỏi nhẹ : - Đừng hồi hộp quá Khoai ơi! Ngủ đi con, để sáng mai ra tàu sớm! Nó bất giác "dạ" ran kiểu vui vẻ đến không ngờ rồi lao ra ôm choàng lấy nội - Nó khẽ thủ thỉ : - Ngày mai con đi, nội ở nhà đừng lo nhiều cho con nội nhé!

Thu Giang

Đêm 30 có mỗi truyện này Chiều ba mươi tết, Quỳ đạp xích lô ra ga, tính đón khách chuyến tàu vét rồi gửi xích lô, bắt xe đò về quê. Vừa vào sân ga, tàu chưa về đã có khách gọi, may thế. Khách là một trung niên mặt rỗ, quần bò áo thun, kính đeo gọng vàng. - Bưởi! Gã vươn vai dựa hẳn vào thành xe, rút thuốc lá hút. - Ông cho con ba chục. Quỳ chưa đi vội. Loại này hoặc công chức, hoặc ma cô, phải ngã giá trước. Gã quay lại, lột kính lừ lừ nhìn Quỳ. Quỳ cảm thấy hai tia sáng mắt gã đang soi từng lỗ chân lông da mặt mình. - Mày định ăn thịt người ta hay sao mà thét dữ thế. - Dạ tết nhất đến nơi. Ông gọi hàng nào cũng thế. Ấy là con lấy rẻ năm ngàn. Thì ra gã chỉ mắng thế thôi chứ không thêm bớt một hai gì. Đường phố ngày tết người ta đi như ăn cướp, như chạy giặc. Quỳ cũng lạng lách như ai, chủ yếu để người ta không coi mình là thằng nhà quê, ngờ nghệch quá. - Từ từ thôi! - Gã nhắc. - Vâng. - Đi tử tế vào, rồi tao trả nốt năm ngàn. - Vâng. Quỳ thả lỏng, thong thả đạp. Xem ra gã cũng tử tế. Từ ngày ra phố làm ăn, cứ ba ông khách thì một ông tử tế. Quỳ thường khoe với vợ như vậy. Vợ Quỳ tròn xoe mắt: "Tử tế mà lắm thế à?". Đàn bà suốt đời rúc xó bếp biết gì! Vợ Quỳ mặt đã to lại phèn phẹt, nhưng từ cổ trở xuống thứ nào thứ nấy không đáng yêu cũng đáng nể. Ăn uống kham khổ lắm, thế mà cái đít lúc nào cũng vổng lên. Rõ đáng tự hào. - Ây! Gã khách kêu lên. Quỳ không kịp phanh xe, gã đã nhảy xuống lật đật chạy về phía sau nhặt lên một cái vòng. Quỳ cũng chạy tới. Vàng! Cái vòng vàng. Gã khách mân mê cái vòng vàng, cười toét một cái : - Một cây là cái chắc! Gã nhét ngay vào túi và nhảy phốc lên xe. - Đi nhanh, mày. Tao tăng gấp đôi tiền cho. Quỳ thấy xót quá, nếu mình không nghĩ vẩn vơ thì mình đã thấy trước gã. - Ông tính một mình lấy luôn cái vòng à? - Quỳ hỏi giọng run run. - Chứ sao, tao thấy trước mày. - Con thấy trước ông nhưng con không kêu lên. Quỳ cố gắng không để lộ cái giọng run run của mình. Gã khách cười cái "rắc", nghe như ai vừa bẻ một cành khô. - Ai bảo mày không chịu phát biểu ý kiến! Quỳ thấy mình đuối lý. Đối đáp với người phố bao giờ Quỳ cũng là thằng đầu đất. Hôm qua có ông khách mắng Quỳ: "Tụi mày đói là vì không biết ngậm miệng ăn tiền". Quỳ cũng thấy đúng quá. Quỳ cố nặn óc nghĩ được câu gì hòng thuyết phục gã chia cho một ít. - Tết nhất được lộc trời, ông cho con xin một ít. Dứt lời, mặt Quỳ nóng bừng, khi không lại mở mồm xin xỏ. Gã khách lại quay lại nhìn Quỳ. - Mày trông thế mà cũng có văn hóa đấy. Được, mày xin thì tao cho. Tao bảy mày ba, được không? Quỳ cười nịnh, cái mặt cười mới thảm hại làm sao : - Ông cho con bao nhiêu, ơn ông bấy nhiêu. Gã khách lại cười cái "rắc". Thằng cha cười đến hay, như chó khạc xương. - Ơn nghĩa! Tụi mày đói mà xài sang quá. Cái vòng này cỡ một cây. Tao trả mày tiền ba chỉ, tao lấy cái vòng - Gã xỉa ra tập tiền sáu trăm ngàn, hất tay phía sau - Cầm lấy! Nhìn sáu tờ một trăm ngàn. Quỳ thấy chân tay mình cóng lại. - Ông ơi, vàng bây giờ một chỉ gần năm trăm ngàn. Ông cho con ba chỉ mà được có... Gã lập tức đút tiền vào túi. - Không lấy thì thôi. Vàng rụng vàng rơi, một chỉ hai trăm là quá lắm. Quỳ định nói: "Thôi, ông cho con xin" nhưng không hiểu sao lại kêu lên : - Một chỉ hai trăm thì thiệt con quá! Gã khách nhảy phắt xuống, chậm rãi tiến sát chỗ Quỳ : - Mày được voi đòi tiên. Đã bảo vàng rụng vàng rơi giá chỉ có thế thôi. Mày thích thì tao đưa tiền cho, không thích thì đưa tiền cho tao. Cũng giá đó. Chưa bao giờ Quỳ tính nhẩm nhanh như lúc này. Một chỉ lãi ba trăm ngàn. Bảy chỉ lãi hai triệu mốt. Đạp xích lô cả năm trời cũng thế thôi. Gã khách moi cái vòng vàng ra, đưa cho Quỳ. - Đây, mày xem có đúng một cây không. Hay bảo tao nói phét? Quỳ cầm cái vòng xoay xoay. Một chỉ lãi ba trăm ngàn. Bảy chỉ lãi hai triệu mốt. Cộng với ba chỉ phần mình nữa, bán vứt đi cũng được 4 triệu bạc. Chợt gã khách đập nhẹ vào tay Quỳ. Quỳ giật mình ngước lên. Một cô gái đang hớt hải chạy tới. Quỳ vừa kịp đút cái vòng vào túi quần. - Các bác được cái vòng của cháu phải không ạ? Cô gái mặt non choẹt nhưng son phấn kỹ lưỡng lắm. Áo hở rốn, quần bò bó căng, cố tình làm nổi bật cái phần cần giấu đi. Xem "phong độ" biết ngay loại ăn chơi ngoại hạng. - Cái vòng của mẹ cháu. Các bác được thì cho cháu xin. Không mẹ giết cháu. - Vòng vèo nào ở đây. - Gã khách trợn mắt quát. - Không dưng lại túm áo người ta mà hỏi. Biến đi! - Không mà... Người ta chỉ cho cháu... - Biến! Gã khách đẩy cô gái ngã ngồi. Cô gái lồm cồm bò dậy vừa đi vừa nấc lên. Tự dưng Quỳ muốn gọi cô gái lại quá... - Cách nào thì mày giải quyết đi. Nó đi gọi công an đấy. Quỳ sực tỉnh, vội vàng lôi trong lưng quần ra cái bọc. Gã khách giật lấy. - Bao nhiêu đây? - Một triệu ba năm chục. Tao thiệt đơn thiệt kép. - Gã khách thở ra. - Thôi mày đi mau lên! Quỳ cắm cổ đạp xe chạy vù vù. Thỉnh thoảng phanh kít lại, đập tay vào túi quần: Vẫn còn! Cái vòng vẫn còn! Lại đạp xe chạy vù vù. Còi ô tô kêu cái "roét!", mồ hôi Quỳ túa ra, lạnh toát. Gớm, không biết cách nào Quỳ đã vọt ra tận Hồ Tây. Sờ túi, cái vòng vẫn còn, Quỳ cười nhăn một mình. Bây giờ phải quay trở lại, về Hàng Đào bán mới có giá. Ở đấy Quỳ có quen một chị hàng vàng, năm ngoái Quỳ đưa đón con chị đi học. Chị này giàu nứt đố đổ vách lại tử tế, chắc chẳng thèm ăn bớt của Quỳ. Một cây gần năm triệu, có cân non đi đằng giời cũng cầm chắc bốn triệu. Bốn triệu! Quỳ chưa bao giờ cầm số tiền lớn như thế. Vợ Quỳ cũng thế. Thị sẽ thế nào khi mình giơ bọc tiền ra nhỉ? Thị sẽ không dám cầm, ngờ vực hỏi: "Ai cho mà nhiều thế? Ai cho" - Quỳ bế xốc thị lên giường - "Tưởng tớ không kiếm được ngần ấy tiền à?". "Ây, ây... Con đang chơi ngoài sân". "Gọi nó vào, đem cái đĩa bảo đi mua nước mắm". Thị đẩy Quỳ ra, lườm: "Thì tắm rửa đi đã. Được mấy hơi mà hoắng lên thế". Ừ thì tắm. Tắm xong tớ sẽ nghiền nát cái đít tự hào của mình ra, xem có còn khinh tớ nữa không. Xong rồi, thể nào thị cũng hỏi đi hỏi lại: "Ai cho đấy, nói thực xem nào? Hay là có con đĩ nào nó cho?". Chà thích quá rồi, còn ra vẻ! Quỳ kể Quỳ gặp vận may như thế nào, cái ông khách tử tế ra sao. Thị lại tròn mắt kêu lên: "Tử tế mà lắm thế à?". Tử tế mà lắm thế à. Rõ lũ đàn bà đần độn ngu si. Quỳ vừa nghĩ ra câu thơ. Quỳ nhẩm đi nhẩm lại cho thuộc, mai về sẽ đọc cho thị nghe. Thị sẽ ré lên bóp cho Quỳ một cái. Thị bóp thì đau lắm nhưng mà thích. Chị hàng vàng tung nhẹ cái vòng mấy lần rồi ngước lên nhìn Quỳ. Có khi cái này không phải vàng. Nhẹ lắm. Quỳ cười to, vui vẻ nói : - Thì chị cứ thử đi. Trông điệu bộ đi tìm đèn khò không được nhiệt tình cho lắm của chị, Quỳ đã thấy lo lo. Tuy vậy, Quỳ vẫn nói cười như không. - Vàng đang lên phải không chị? - Ừ. Bốn chín hai. - Em bán bây giờ là được giá, chị nhỉ? - Ừ. Đèn khò bật lửa. Ở cái nơi tia lửa liếm vào, một thứ nước rỉ xanh tứa ra. Mắt Quỳ tối sầm. - Đồng em ạ. Mạ vàng thôi. Một khối nước đá từ trên đỉnh đầu đang tràn xuống chân. Quỳ đứng trơ, nước đái từ hai ống quần túa ra, đọng thành vũng trên nền đá hoa. Quỳ rơi phịch xuống ghế. Và kể. Chị không hỏi, Quỳ cũng kể. Không phải, Quỳ đang lảm nhảm như một thằng điên. - Vàng giả sao nó dám đưa tiền cho em? - Em ơi, có khi đó cũng là tiền giả. Quỳ nuốt nước bọt, ngước lên ngẩn ngơ nói : - Tại em tham quá. Trong tích tắc, nước mắt Quỳ dàn dụa. Chị đưa cho Quỳ cốc nước lọc, khẽ thở dài. - Em cũng đừng dằn vặt nữa. Tham là bệnh tật của giống người. Người ta trước sau rồi cũng mắc phải, chẳng ai nói phách nói tướng được. Thôi, coi như mình vừa bị mất cắp, bị trấn lột, còn mấy tiếng nữa là hết năm, ráng kiếm vài chục, về quê còn có chút gì đưa vợ.

Quỳ đạp xe ra ga, về bến xe phía Nam, vòng vèo ra tận Phà Đen, lên chợ Bưởi, cũng chẳng có ma nào gọi. Phố phường vẫn đầy người ra đấy nhưng hôm nay là ngày vui của người ta, ngày chết tiệt của Quỳ. Đêm xuống rất nhanh, gió hun hút thổi. Quỳ không rét nhưng mà đói. Đói lắm. Phố xá tịnh không ai còn mua bán gì. Khổ nỗi đường phố giờ này lại ngậy mùi xôi thịt, rúc vào đâu cũng ngậy mùi, càng hít chân tay càng rời rã. Quỳ dừng xe một góc phố, tính làm một giấc lấy sức rồi gửi xe cuốc bộ về quê. Gần 40 cây số nhưng đi mãi rồi cũng đến, cũng không hết tết đâu mà lo. Không ngủ được, nhạc nhéo đinh tai nhức óc. Nhà sát đường chưng đèn kết hoa như đám cưới, nhưng nhìn vào thời trống hoác, chỉ một đôi trai gái đang ôm nhau nhảy. Chúng nhảy như động rồ, ngoắc của nợ vào nhau chứ đâu phải là nhảy. Bỗng Quỳ đứng phắt dậy. Gã khách! Thằng quần bò áo thun! Thằng mặt rỗ! Con kia đích thị là đứa đến xin vòng. Tiên sư cha quân mất dạy! Quỳ chực xông vào nhưng hú hồn đã khựng lại được trước cổng. Đêm ba mươi vào làm ầm ĩ nhà người ta thì cầm chắc tiền mất tật mang. Cứ đứng đây đợi. Thằng kia nếu là chủ thế nào cũng tiễn con kia, nếu là khách thì quá lắm đến giao thừa cũng phải cút. Còn hai tiếng nữa đến giao thừa chứ mấy. Quỳ ngồi xổm, tựa lưng thành cổng, nghiến răng chờ đợi. Con chó bẹc-giê thấy có người lạ liền đủng đỉnh đi ra, đưa mắt lừ đừ nhìn Quỳ, gừ một tiếng, ra cái điều: "Nhìn cái gì mà nhìn". Chó nào chủ nấy. Chó nhà quê nghe tiếng người cuối xóm, đầu xóm đã sủa nhặng lên, ra vẻ hung hăng lắm, nhưng người ta dậm chân một cái đã cụp đuôi mất dạng ngay tắp lự. Con bẹc-giê đến sát cổng, nằm bẹp xuống, trễ nải lim dim mắt nhìn Quỳ. Rõ nó coi Quỳ bằng nửa con mắt. Quỳ cười khẩy, nghĩ bụng: "Mầy là cái đéo gì. Đồ liếm cứt nhà giàu". Nó lại gừ một tiếng rồi ưỡn ngực vươn vai, đủng đỉnh đi vào, ra cái điều: "Chẳng dư hơi đôi co với lũ chúng mày". Thế mới tức. Tự nhiên Quỳ uất lên. - "Ba-ái!" - "Xí ố ghẻ-ên!" Rồi! Thằng kia ra rồi. Quỳ vụt dậy. Gã vừa ra khỏi cổng, Quỳ đã túm chặt lấy tay gã. - Ông! Đây là cái vòng giả! Ông cho con xin lại tiền. Gã từ tốn nhìn Quỳ, không lộ một chút gì tức giận hay sợ hãi. Tuồng như gã đã biết trước thế nào cũng gặp Quỳ, thế nào cũng nghe Quỳ nói thế. - Thì buông ra đã nào. Tao có chạy đi đâu mà sợ. - Con đã thử rồi. Đây là cái vòng đồng mạ vàng. Quỳ đưa cái vòng cho gã. Gã cầm cái vòng ngắm nghía. - Giả à? - Vâng. - Ừ, nếu giả thì tao đưa lại tiền cho. Coi như tao không được cái gì. Gã nhảy lên xích lô, vui vẻ nói : - Đi! Đi thử một lần nữa cho chắc. Rồi mày chở tao về Bưởi, tao lấy tiền đưa mày. Mau lên, giao thừa sắp đến rồi. Quỳ định nói: "Thôi, không thử nữa, ông cho con xin lại tiền", nhưng lại nghĩ bụng: "Thử thì thử, sợ gì! Lần này có ông nội mày cũng không lừa được ông nữa đâu, con ạ". Gã bảo Quỳ dừng lại trước cửa hàng vàng cách hàng vàng quen của Quỳ có mấy trăm mét. Chủ nhà đã đóng cửa nhưng thấy gã thì vui vẻ lắm, nhanh nhẩu tìm đèn khò ra xịt. Ủa, nước vàng chảy ra tươi rói! Thế là thế nào nhỉ? - Mày thử kiểu gì lạ thế? Làm mất thời gian tao! - Gã vừa đi ra cửa vừa càu nhàu và nhét cái vòng vào túi. Quỳ lẽo đẽo theo sau, nói giọng thiếu tự tin hẳn : - Con thử nhà người quen hẳn hoi. Lập tức gã quay ngoắt lại. - Đâu? Nhà người quen mày ở đâu? - Đó kìa! Có một đoạn. Gã rút cái vòng ra đưa cho Quỳ : - Cho mày thử lại. Không bảo tao hợp đồng nhà người quen lừa mày. Đi mau lên. Quỳ co cẳng chạy. Không kịp bấm chuông, cứ thế lao thẳng vào nhà. Chị hàng vàng cầm cái vòng lật đi lật lại. Đâu? Vết thử của người ta đâu? Mỗi vết thử của chị đây này. - Vừa thử xong mà. - Quỳ thở hắt ra. Chị hàng vàng bỗng tái mặt kêu lên : - Thôi rồi! Nó thử cái vòng thật của nó. - Chị đẩy Quỳ, hối hả giục. - Ra đi! Khéo không cái xích lô của em... Quỳ lao như tên bắn. Ối cha mẹ ơi, họa vô đơn chí! Cái xích lô lấy lại của người ta, còn chưa trả hết tiền. Quỳ ngã sấp xuống mặt đường, mãi sau gượng ngước lên đã thấy chị hàng vàng ngồi trước mặt. Chị đỡ Quỳ dậy, nói như rên : - Về quê mà làm ăn em ạ. Ỉa vào phố với phéo. Quỳ biết mình khóc nhưng không đừng được. - Chị ơi, bao giờ em mới hết ngu? Chị nhét năm mươi ngàn vào túi Quỳ, giọng nghèn nghẹn : - Em đừng mơ tưởng viển vông nữa. Mình hết ngu thì người ta mưu mẹo lên gấp năm gấp mười. Cũng coi như mình ngu như cũ. Thôi, về đi em. Không! Không về! Phải đến nhà con kia! Nó cùng duộc với thằng mặt rỗ. Không lấy được tiền thu được của thì cũng xé tan xác chúng nó ra. Cô gái vẫn thức, đang ngồi ngắm nghía, nắn nắn ngực mình - Cô gì ơi! Ra tôi bảo! - Quỳ nói như quát. Cô gái thủng thẳng đi ra, vênh mặt lên, hất hàm hỏi : - Gì thế? Tự nhiên Quỳ tịt ngỏm, không biết nên tiếp tục thế nào. - Cô mất cái vòng phải không? - Phải. - Đây là cái vòng giả! Cô lừa tôi! Cô gái cầm lấy cái vòng, bất ngờ ném thẳng vào trán Quỳ. - Đồ ăn cướp! Đây mà cái vòng của tao à? Cô gái nhào tới túm chặt lấy cổ áo Quỳ, kêu to : - Mẹ ơi! Đây rồi! Thằng ăn cắp đây rồi! Quỳ há hốc mồm, không biết nên làm gì, nói năng thế nào. Trong nhà đi ra một người đàn bà chừng năm mươi tuổi, mặt mày xem ra phúc hậu lắm. - Thằng này giật cái vòng của con. Bắt được, nó lại trả lại cái vòng giả. - Không phải! Cô lừa tôi! - Quỳ vặc lại và giật tay cô gái. - Thôi, thôi. Đừng ồn. Nhà chị đang có khách. Có gì vô nhà nói. Chuyện đâu có đó em ạ. Bà cất tiếng dịu dàng, nghe êm như tiếng Phật bà từ trời xanh rót vào tai Quỳ. Bà tự tay mở cổng, nhẹ nhàng kéo Quỳ vào. Vào thì vào! Cây ngay không sợ chết đứng. Chừng nào còn chưa lấy được tiền và cái xích lô thời ông còn nằm ỳ ra đấy, chúng mày không cho ông ăn thời ông ỉa ra cho mà dọn. Bà nhẹ ấn vai Quỳ xuống ghế bành. Cái ghế to đến nỗi Quỳ thấy mình như đang tụt xuống một cái hố. Bà xăng xái đi lấy nước, rất lâu sau cầm cốc nước đi ra ấn tận tay Quỳ, ân cần nói : - Con bé nhà chị nó cũng hư lắm. Em uống nước đi, rồi kể chị nghe đầu đuôi thế nào. Quỳ tu một hơi, quẹt mồm, nói : - Chiều nay con đi chở khách... - Thì uống nước đi đã nào. Chuyện đâu có đó mà em. Bà tươi cười cắt ngang lời Quỳ. Vô lẽ bà này lại đẻ ra con khốn nạn kia? Quỳ uống thêm ngụm nước, đang nghĩ xem mình nên bắt đầu thế nào cho vừa gọn vừa rõ ràng thì một chiếc xe Jeep đỗ xịch trước cổng. Ba người đàn ông bước vào. Hai người trẻ, một người đã đứng tuổi có cái mũi cà chua. Hai người trẻ chẳng nói chẳng rằng ập đến bẻ quặt tay Quỳ. - Ô, sao lại thế này? - Quỳ kêu lên. - Câm mồm! - Người mũi cà chua quát khẽ. - Lôi cổ nó ra ngoài! Quỳ ra sức trì lại nhưng không được. Tuyệt vọng, Quỳ quay mặt về phía bà chủ kêu to : - Bà! Bà ném cho Quỳ một nụ cười khinh bỉ rồi quay lại người mũi cà chua, thở ra : - Tết nhất... phiền các chú quá. Người mũi cà chua cụp mắt xuống, cố gắng lễ phép với bộ ngực xốp lúc nào cũng muốn nhào ra khỏi cổ áo của bà. - Dạ có chi... Anh đâu chị? Bà nhỏ giọng : - Anh có khách. Người mũi cà chua liền co vai, rụt cổ, nói khẽ : - Thôi, em chào chị, em về đây. Chị cứ yên tâm đi, thế nào em cũng lấy lại cái vòng cho cháu. - Thôi, khỏi phiền các chú đến thế. Bà nói và tiễn người mũi cà chua ra cổng. Xe jeep biến khỏi cổng. Bà quay lại lườm cô gái nãy giờ vẫn ườn ra trên đi-văng. - Cái vòng đâu rồi, con chó? Cô gái cười rúc rích. - Mẹ cũng quá lắm. Mắng nhà quê xơi xới. Cứ làm như mẹ không phải ở quê ra. Bà ngồi xuống, hực ra một tiếng cười khô khốc. - Là tao nói thế, chứ không có chúng, bố con mày bốc cứt mà ăn. Nói rồi bà vươn vai ngáp dài. - Khách với khứa. Giờ này còn ngồi thầm thầm thì thì. Bà uể oải lên cầu thang. Lát sau đã nghe tiếng bà ngọt như tiếng tơ đồng : - Ấy không. Về là thế nào. Anh đến giờ này là lộc trời ban cho nhà em đó. Cô gái ngửa cổ cười dài, thò tay nhổ một nhúm lông ném lên phía cầu thang.

Xe Jeep chở Quỳ đến ngã tư thì dừng lại. Người mũi cà chua tự tay cởi trói cho Quỳ. - Thôi, cho về ăn tết với vợ con. Quỳ chẳng thấy vui sướng gì, cứ ngồi lì không chịu xuống xe. Ngồi tù còn đỡ nhục hơn về nhà kể cho vợ chuyện này. - Con không về. - Sao? - Chúng nó là bọn lừa đảo. Người mũi cà chua cười phì : - Mày bây giờ mới biết à? Rồi anh vỗ vai Quỳ, dịu giọng : - Về đi em, giao thừa rồi đó. - Nhưng, chúng nó là bọn lừa đảo! - Gần như Quỳ rú lên. - Bé mồm thôi! Mày còn nói nữa, tao lại bắt mày bây giờ! Xe Jeep biến mất, Quỳ đứng trơ giữa ngã tư đường. Bốn ngã đường vắng hoe. Không một bóng người, cả bọn mất dạy lẫn người tử tế.

Nguyễn Quang Lập

Đêm thánh vô cùng Cha sở buồn bã từ mấy hôm nay. Tháng mười hai đã tới bằng những buổi sáng mù sương, bằng những cơn gió lạnh lẽo gợi tưởng những cơn gió lạnh lẽo chốn xưa. Và cha sở càng buồn bã. Ngôi nhà thờ bé nhỏ của cha đã chịu đựng hàng ngàn trái pháo kích tàn nhẫn chung số phận với làng quê hiền lành, vô tội. Thông điệp quái ác thường chuyển đi bằng bom đạn. Nó dục con người bỏ nơi chôn rau cắt rốn ra đi và bắt phải khóc chảy máu mắt. Loạt đại bác ở những khe núi nào đó cách xa ba mươi tám cây số gửi về làng vào đầu mùa hạ. Theo dân làng chạy đạn, đám con chiên của cha sở cũng lưu lạc đó đây như những tội đồ oan uổng. Cha sở nhớ ngôi nhà thờ, nhớ xóm đạo nghèo khổ, nhớ vùng trời êm ả cũ. Đại bác đã làm sụp đổ giáo đường? Tháp chuông đã bị xóa bỏ? Và Thánh thể? Cha sở ôm mặt. Chưa bao giờ ngài biết buồn. Nhưng hôm nay ngài buồn khôn tả. Vì sắp đến ngày Chúa giáng sinh. Ngày lại ngày, ngài ngồi phương trời mới nhớ phương trời cũ. Mây bay. Mây bay hoài và ngài thấy mây bay sang Đất Thánh. Cha sở bồn chồn, lo lắng. Ngài đưa tay làm dấu và cầu nguyện. Một ý nghĩ vụt thức trong tâm tưởng ngài. Ý nghĩ đó khiến cho cha sở, gần như trút hết nỗi buồn bã. Ngài họp đám con chiên lại, nói cho họ nghe ý nghĩ của ngài. - Không thể trở về được, thưa cha. - Tại sao? - Đường sá xa xôi, nguy hiểm đầy rẫy. Chúng nó sẽ giết cha. Thưa cha, dễ gì nhà thờ còn nguyên vẹn. - Chúa còn nguyên vẹn, đất còn nguyên vẹn. Ai dám theo cha. Chẳng ai dám theo cha. Đám con chiên lưu lạc nín thinh. Cha sở ngó mấy gã chiên ghẻ. Mấy gã này nổi tiếng phá phách, bướng bỉnh cãi lời cha và lười biếng tới nhà thờ. Đã thế, mấy gã còn láo lếu, dám chọc ghẹo gái trước cổng giáo đường và bắt trộm gà, bắt trộm chim bồ câu của cha sở nấu cháo nhậu nhẹt, đàn địch. Cha sở thường nói mấy gã sẽ xuống địa ngục, nếu cứ tiếp tục phạm điều giới răn. Mấy gã cười hềnh hệch, đòi xuống địa ngục để khỏi gặp cha sở trên thiên đàng. Bây giờ, cha sở hỏi mấy gã. - Các con dám theo cha trở về không? - Chúng con sợ chết. - Ai mà không có lần chết. - Những người ngoan đạo chết mới được lên thiên đàng. Chúng con chết về địa ngục khổ lắm. Chúng con nhất định không về. Thưa cha... - Gì? - Mình tổ chức Giáng sinh mừng Chúa ở đây đi, cha ạ! Trở về chỗ hoang tàn, đâu đủ nghi lễ. - Cha muốn làm sáng danh Chúa trên đất hoang tàn. Này các con, nơi đất chết là nơi Chúa muốn có mặt ta. Hãy làm đất chết sống dậy. Đó là ý nghĩa của phục sinh. Các con đừng câu nệ nghi lễ. Nghi lễ ở trái tim ta. Lửa trái tim chân thành sáng hơn một trời sao rực rỡ. Chúa đã ra đời trên vùng đất chết, vùng đất của oan khiên, thống khổ. Và rồi, các con ạ, mỗi bước chân Chúa đặt lên đất chết đều nở hoa hạnh phúc, yêu thương. - Chúa không ở đây. - Các con lầm. Chúa ở niềm tin của ta. - Chúa không ở với lũ chiên ghẻ. Chúng con không về đâu. Cha sở lắc đầu. Ngài thở dài. "Ngày tháng mười chưa cười đã tối". Thấm thoát đã là 20 tháng 12. Cha sở đăm chiêu. Rồi cha sở tìm quên những nỗi buồn bằng cách đẽo một cây thánh giá gỗ. Ngài quyết định trở về vùng đất chết. Cha sở vác cây thánh giá băng đồng, vượt đường. Ngài khởi hành vào nửa đêm 23. Đoạn đường ngài đi, chắc chắn nhiều khó gấp bội đoạn đường của các vì vua tới Bê Lem từ phương Đông. Ngài đi chân đất, không mang theo lương thực. Gió lạnh cuối năm cắt da thịt ngài. Tóc ngài tung bay. Ngài hụt chân, ngã chúi xuống ruộng nước. Y phục ngài ướt đẫm bùn. Bùn khô dần và quánh trên áo ngài, dính chặt mình mẩy ngài. Như máu của Chúa sau những lần chịu tội cho nhân loại. Không gian bao la ngập chìm trong đen tối. Bóng ngài cơ hồ như con cá nhỏ bơi giữa cái biển đen tối, cái biển mênh mông thù hận, oan khiên. Không một thiên thần nào che chở ngài. Ánh sáng soi lối đi của ngài chỉ là ngọn lửa tim mà ngài đã nghĩ. Nhưng trời vỡ sáng. Mặt trời rọi những tia nắng hanh xoáy bỏng khuôn mặt ngài. Dưới một gốc cây, cha sở ôm thánh giá cầu nguyện đêm tới. Và đêm tới, cha sở lại vác thánh giá lên đường. Ngài bước mau, ngài chạy. Ngài không nhìn lên trời nên không hay có một ngôi sao theo ngài từng bước. Đằng trước súng nổ. Đàng sau súng nồ. Bên trái súng nổ. Bên phải súng nổ. Cha sở chẳng nghe rõ. Thân ngài thôi nặng trĩu vì trí ngài lâng lâng. Ngài đã biến thành một thiên thần. Đúng nửa đêm 24, cha sở về tới ngôi nhà thờ. Ngài đứng trên đổ nát. Ngài đứng trên đất chết. Giáo đường chỉ còn là đống gạch vụn sặc mùi thuốc đạn. Tháp chuông gục đổ. Thánh thể chìm dưới lớp gạch nát. Cha sở ứa nước mắt. Ngài không còn thì giờ làm gì khác hơn là dựng vội cây thánh giá lên đất chết. Và ngài quỳ xuống cầu nguyện : - Lạy Chúa, Chúa chịu khổ cho chúng con hạnh phúc. Chúng con theo Chúa, chịu khổ cho đời sau hạnh phúc. Hạnh phúc chỉ nở hoa tươi đẹp, ngát hương từ đau khổ. Kẻ nào biết đau khổ kẻ ấy sẽ được hưởng hạnh phúc, được hưởng ân sủng của Chúa. - A men... Cha sở ngạc nhiên. Ngài căng mắt hướng về phía phát ra âm thanh kỳ diệu giữa cô đơn, sơ hãi. Mấy gã chiên nhận mình là chiên ghẻ đang kính cẩn làm dấu. Cha sở ngước nhìn trời. Một vì sao lung linh thả ánh sáng, rơi lọt vào đôi mắt ngài. Và nhớ ánh sáng huyền ảo đó, cha sở thấy quê hương Việt Nam chết chóc quá lâu của cha đang cựa quậy phục sinh trong đêm thánh vô cùng.

Duyên Anh

Đời con Tiếng xe chạy sầm sập vào hẻm rồi thắng lại trước nhà vào thời điểm mọi người chuẩn bị đi ngủ làm cả tôi và thằng cu Minh vùng dậy. Nó chạy ra cửa, vén tấm màn gió qua một bên, ngó xuống khoảng sân nhỏ trước nhà rồi thông báo : - Bố mẹ con đến cô Năm ơi! Đèn dưới nhà bật sáng, rồi tiếng khóa mở cửa lách cách. Anh chị Hai tôi bước vào nhà cùng lúc với tôi và thằng Minh bước xuống cầu thang. - Thưa mẹ, mẹ khỏe không mẹ? Không đợi mẹ tôi kịp nói gì, anh tiếp luôn : - Tụi con bận bịu quá không đến thăm mẹ thường xuyên được. Dạo này mẹ có đỡ hơn không? Mẹ tôi giả vờ giận dỗi : - Mày chỉ được cái khéo nói. Bao lâu chẳng thấy chở vợ con đến thăm mẹ, ngày chủ nhật, ngày lễ cũng chẳng thấy mặt, mà có xa xôi gì cho cam. Anh ngồi xuống giường cạnh mẹ tôi, vừa với lấy chai dầu xoa bóp chân cho bà cụ, vừa bảo chị dâu tôi đang ngồi mệt mỏi trên ghế sa lông: "Em lấy cái đĩa cắt cam cho mẹ ăn", rồi quay sang mẹ, anh phân trần: "Cam này là cam Mỹ, tụi con mua gần nhà, ngọt lắm mẹ ạ! À dạo này thằng Minh có ngoan không, nó có xoa bóp chân cho mẹ mỗi tối không?" Thằng Minh ngó tôi, hai tay xoắn lại với nhau, cầu cứu. Mẹ tôi kể lể : - Nó hư lắm, chỉ sợ cô Năm và chú út của nó thôi. Anh trừng mắt nhìn thằng Minh : - Hôm nay bố đến đây trước là để thăm bà, sau là để thưa với bà chuyện của con đấy. Quay qua mẹ tôi, anh nói : - Con định như thế này mẹ ạ, thằng Minh sang năm thi lên lớp sáu, con muốn đón nó về để rèn cho nó, chứ cứ cái đà nó học như thế này thì cuối năm không thể nào đậu nổi vào trường hệ A đường nói gì đến chuyện tuyển thẳng. Con sẽ cho bé Vân đến đây với bà, rồi bà sẽ thấy bé Vân nó ngoan lắm, mà còn nhờ được nhiều việc, không lêu lổng như thằng Minh này đâu. Chị dâu tôi chen vào : - Con yên tâm đi, mẹ sẽ dọn cho con một cái phòng riêng, và cho con chơi vi tính, mua đồ chơi cho con, cho con tiền đi học... Thằng Minh chẩu môi : - Con không về đâu, con ở với cô Năm quen rồi, về con nhớ cô Năm lắm... Anh tôi gận dữ : - Thôi không nói nhiều với nó nữa, bố nói một là một, hai là hai, hết hè bố sẽ đón về. Bố hứa cứ mỗi chủ nhật bố sẽ chở con về thăm bà và cô Năm. Thằng Minh vẫn còn sụt sùi : - Bố nói mỗi chủ nhật về thăm bà mà bố có về đâu. Con không tin đâu. Anh Hai tôi sượng sùng : - Con cái gì mà hư quá, dám cãi trả bố như vậy, lớn lên dăm tuổi nữa làm sao dạy nổi. Minh vòng tay ôm cổ tôi, thút thít : - Cô Năm ơi, cô Năm cố nói với bố giùm con nghe. Con không muốn về với bố đâu, bố mẹ con hay cãi nhau rồi đánh nhau làm con sợ lắm. Với lại bố bận nhiều việc, hay đưa con đi học trễ. Con thương cô Năm, con chỉ muốn ở với cô Năm thôi. Tôi nghe lòng xót xa, vuốt ve khuôn mặt bầu bĩnh rồi hôn lên hai má phinh phính của nó, trấn an : - Ừ, thôi con đi ngủ đi, rồi cô Năm sẽ cố gắng thuyết phục bố con. Gia đình tôi có bốn anh em, tất cả đã có gia đình và ở riêng, chỉ có mình tôi ế ẩm ở lại nhà chăm sóc mẹ. Ngoài thì giờ ở cơ quan, niềm vui duy nhất của tôi khi trở về nhà là xoay ra chơi và dạy dỗ thằng Minh. Đã có một thời gian niềm khao khát có đươc một đứa con luôn cháy bỏng trong tôi, đến nỗi nhiều bận tôi nghĩ mình có thể làm bất kỳ điều gì để có một đứa con rồi hậu quả có ra sao cũng được. Tôi đã nghĩ đến giải pháp thụ tinh nhân tạo, nhưng một người bạn lớn tuổi đã cảnh cáo rằng đứa bé không phải là món đồ chơi cho tôi, rằng con tôi sẽ như thế nào khi nó biết rằng nó sẽ không bao giờ bết được cha nó là ai, rằng nó chỉ là một thụ vật trong phòng thí nghiệm, rằng nó không bao giờ được sinh ra như kết quả của một tình yêu nồng cháy, và rằng liệu tôi có chịu nổi búa rìu dư luận dành cho đứa con không cha bất bình thường này không... Vậy là tôi đầu hàng nỗ lực có một đứa con cho riêng mình. Bao nhiêu tình yêu tôi dành hết cho thằng Minh. Anh tôi có thêm đứa con thứ hai khi thằng Minh gần một tuổi rưỡi. Tôi năn nỉ anh tôi cho tôi nuôi nó, một phần cho căn nhà đỡ quạnh quẽ, một phần cho anh chị tôi đỡ cực. Cái xe đạp cà tàng của tôi lúc ấy được gắn thêm cái ghế ngồi tí hon đằng trước để chiều chiều tôi chở nó đi khắp nơi, có khi chỉ để dỗ nó ăn hết suất cơm chiều. Đi đâu tôi cũng tha nó đi theo, nếu không tôi ngong ngóng giờ về với nó, để được hôn lên hai cái má phính phính bầu bầu của nó và để được nghe nó nói giọng ngọng nghịu: "Cô Năm thương con nghe". Tôi đã thật sự lo lắng đến mất ăn mất ngủ, bỏ cả việc làm mỗi lần nó ốm và có lần tôi đã khóc vì bất lực khi cảm nhận hơi nóng hừng hực từ vòng tay vô cùng bé nhỏ của nó ôm lấy người tôi. Dạo ấy có người lầm tưởng nó là con ruột của tôi và tôi đã sung sướng để mặc họ nghĩ như vậy. Đã nhiếu lần tôi năn nỉ nó: "Sao con không chịu gọi cô Năm là mẹ, bộ con không thương cô Năm hả?". Nó phụng phịu: "Không, con thương cô Năm lắm, nhưng mẹ là mẹ, cô Năm là cô Năm". Tôi đã buồn hết mấy ngày, tôi biết rằng trước sau gì cũng có ngày bố mẹ nó đón nó về với các em nó, mọi thương yêu và hi sinh tôi dành cho nó rồi cũng trở thành vô nghĩa. Tôi biết tôi ích kỷ nhưng tôi đã đặt hết tình thương, kỳ vọng và cả bản năng làm mẹ sôi sục trong tôi vào nó. Ai bảo xã hội này quá ư khắt khe không cho phép tôi có thể có một đứa con không rõ bố, những người con gái luống tuổi như tôi không được phép tự tạo cho mình một gia đình (cho dẫu nó là một gia đình không trọn vẹn) để nương thân? Tôi biết đến nước này tôi không thể làm gì để thay đổi ý định của anh tôi. Nó là con anh, và anh có mọi quyền đối với nó. Tôi đau xót nghĩ tới lúc tôi sẽ thui thủi một mình, không còn được nghe nó ríu rít nói chuyện, hỏi đủ mọi chuyện trên trời dưới đất, hay đòi tôi gãi lưng, quạt cho nó nhắm mắt ngủ. Tôi biết rồi đây ngôi nhà sẽ rộng rãi mênh mông thêm ra khi không có tiếng cười, tiếng líu lo của nó, mà chỉ còn lại mẹ tôi với bệnh tật triền miên và tôi với nỗi cô đơn bất tận. Hôm anh tôi đến đón con về, thằng Minh òa khóc : - Cô Năm thương con nghe, lâu lâu cô Năm lại thăm con nghe. Rồi nó lủi thủi ôm túi xách quần áo, đồ chơi, sách vở ra xe bố, rồi chiếc xe rồ máy khuất dạng. Tôi lặng lẽ bỏ lên gác, cố nuốt nước mắt vào lồng ngực. Cửa tủ vẫn mở toang, trống rỗng. Vài bộ quần áo cũ còn rơi vãi trên sàn trong lúc thằng Minh vội vã thu dọn. Tôi nhặt một cái áo cũ của nó lên, áp vào mặt, cái mùi chua chua quen thuộc của nó khiến tôi bật khóc không kìm được.

Nguyễn thị Ngọc Lan

Đồng vọng ngược chiều Theo cái gậy tre dò đường, bà lão mù rờ rẫm từng bước về phía cửa ga xe lửa. Bà đi như người tập làm xiếc trên dây. Chiếc nón lá rách lướp tướp, từ bàn tay gầy guộc, run lẩy bẩy của bà huơ đi huơ lại, không lúc nào yên. Dừng chân bên đống rác lớn, bà lão bắc đầu van xin : - Cháu lạy các ông các bà... Cháu mù lòa gìa cả... Cháu xin các ông các bà nhóm tay làm phúc... Không một hồi âm, ngoài tiếng vo ve của mấy con ruồi xanh đang tranh ăn trên một chiếc lá gói bánh. Một con chuột ngày trơ tráo bò lên bàn chân bà lão. Bà sững người. Khuôn mặt lóe lên một tia sáng mỏng. Bà đưa tay lần tìm từng tí trong lòng chiếc nón. Nhưng ngay sau đó, cặp mắt nặng trĩu, ầng ẫng nước mắt của bà tối sầm lại. Bà lão tiếp tục van xin. Vẫn điệp khúc cũ. Nhưng càng về sau càng thống thiết, não nề. Những câu nói rời rạc, như tự chảy ra từ khuôn miệng dúm dó, xệch xạc của bà. Cái nón vẫ trống huếch. Một tia nắng lọt qua cái chóp thủng của cái nóng, xiên thẳng xuống đất, như đóng đinh bà lão xuống nền đường.

Nằm dưới gốc cây sấu già, bé Chi thiu thiu ngủ. Nó gối đầu trên cái túi dúm dó, khâu bằng bốn, năm loại vải cũ sờn. Một cái lon sắt hoen gỉ, thủng đáy, nằm lăn lóc bên cạnh. Bộ ngực gầy trơ xương của con bé thắc thỏm đưới làn áo cáu bẩn, rách nát. Từ sáng tới giờ chưa có chút gì trong bụng, nên con bé đói rũ người. Nó muốn ngủ để quên cái đói, nhưng không thể được. Mọi ngày vào tầm này, ít ra nó cũng xin được đủ tiền để mua hai cái bánh mì không. [1] Hôm nay xúi quẩy thế nào, chỉ được tờ hai trăm [2] mất góc. Bỗng bé Chi giật thót người. Có một bàn chân nào đó giẫm lên người nó. Đang lúc đói mệt, con bé hét lên : - Đui à? Người ta nằm thế mà giẫm lên! - Bà bị mù... Mù thật đấy cháu à! Thôi bà đã lỡ... Cho bà xin lỗi! Lặng đi một lát, bé Chi đưa hai tay rờ mắt mình. Từ hai hốc mắt của nó, những giọt nước mắt mặn chát, rỉ ra. Nó ngập ngừng : - Cháu... Cháu xin lỗi bà! Cháu không biết bà bị như thế... Bà lão ngúc ngắc đầu như thể chấp nhận, rồi tiếp tục đi về phía có tiếng đông người. Miệng bà tiếp tục lẩm nhẩm : - Cháu lạy các ông các bà... Cháu xin các ông các bà nhón tay làm phúc... Thương kẻ mù lòa già cả này! Ngẫm nghĩ lung tung điều gì đó, bé Chi lấy trong túi áo ra tờ giấy bạc hai trăm đồng mất góc, quả quyết : - Bà ơi!... Cháu nói này nghe! Bà lão dừng ngay lại. Bà nhận ra người gọi mình chính là con bé mà bà vừa nói chuyện. Linh cảm mách bảo bà sẽ gập chuyện may. - Bà ơi! Cháu... Cháu biếu bà! Khuôn mặc lộ vẻ vui mừng, bà lão chậm chạp quay về hướng có tiếng nói của con bé, rồi chìa nón về phía gốc cây, nơi con bé đang ngồi, chờ đợi. Đúng khoảng khắc ấy, một cơn gió nhẹ ào qua. Từ trên cây sấu già, những chiếc lá khô, khẽ khàng, rơi đúng vào cái nón của bà lão. Ngỡ con bé thả tiền vào nón, bà lão đưa tay quờ đi quờ lại với sự hớn hở... Một cái nhíu mày xéo ngang qua vừng trán nhăn nheo. Bà lão buồn và tiếp tục đi về phía cửa ga. Vừa đi bà vừa thầm rủa : - Bố con nhà mất dạy... Lừa cả người già... Rồi trời sẽ bắt tội đấy con ạ! Ngồi ở gốc cây, bé Chi vẫn chìa tờ bạc về phía trước, thành tâm chờ đợi... Chờ mãi, không thấy bà lão nhận tiền, nó đứng phắt dậy, thảng thốt gọi : - Bà ơi! Cháu xin biếu bà! Thiệt đó mà! Không nghe thấy tiếng bà lão trả lời, Con bé đưa tay quờ quạng quanh mình tìm cái lon hoen rỉ. Bàn tay nó chạm phải thân cây sấu già, thô nhám. Nhét tờ bạc vào túi trong của cái áo vá đủ màu, một tay cầm cái lon, tay kia đeo cái túi và chống gậy, con bé mù thập thững bước đi.

--------------------------------------------------------------------------------

[1] bánh mì trơn, không thịt, rau... [2] giá của một cái bánh mì không là năm trăm đồng.

Lã Thế Khanh

Đường Tăng Đêm cuối cuộc trường chinh đầy gian khổ, ngày mai vào yết kiến Như Lai để lên kiếp Phật. Đường Tăng trằn trọc không sao ngủ được. Suốt cuộc đời tâm nguyện tới cõi này, giờ đây khi sắp trút bỏ kiếp người, ông bỗng thấy lòng day dứt. Nhiều ngày nay, thân thể Đường Tăng đã rã rời, đầu óc đầy mộng mị, tay biếng lần tràng hạt. Tâm linh như muốn níu chân dừng lại. Máu ông nhức nhối thấm lần cuối qua tim, cứa vào quá khứ đau xé. Ông nhớ tới những người sinh thành ra mình. Tinh cha, huyết mẹ tạo nên mà bao nhiêu năm nay ông không một lần thắp hương, không một lần nhắc nhở. Chặng đường dài tới đất Phật khiến trái tim ông dần chai sạn. Ông đã quá nhiều lần phải lạy lục, cầu khẩn các thần thánh lớn bé, đã quá nhiều lần giẫm đạp lên xác máu yêu ma xa gần, chỉ với một mục đích: "Mau thành chính quả". Ông thương người. Nhưng đêm nay, trước ranh giới cuối cùng của cõi Người và Phật, ông chợt hiểu ra cội rẽ của tình thương ấy. Mỗi lần cứu giúp con người, ông chỉ thầm tính toán như xây thêm cho mình một bậc thang tới Phật đài. Nhiều lần Đường Tăng đã tự hỏi tại sao nước mắt mình ngày càng lạnh giá. Giờ đây ông thầm biết, trên con đường thỉnh kinh về cứu rỗi người đời, ông đã dần dần xa lạ với con người. Ông trở mình, thở dài : "Không là người, ta sẽ là ai? Yêu quái cản đường, biết bao kẻ chính từ trên đây xuống, pháp thuật vô biên, ác nghiệt vô cùng. Ta nhập vào chốn ấy biết rồi thành Phật hay ma?" Đường Tăng chợt nhói trong tim. Ông khẽ rên lên, hai tay ôm ngực. Mở mắt thấy các đệ tử đang đứng bên giường nhìn ông âu lo. Cả ba hình như không ngủ. Đường Tăng thở hắt : - Không sao đâu. Ta chỉ chợt nhớ tới ngày xưa. Nói rồi lại nhắm mắt. Nghe tiếng Ngộ Không : - Xin thầy đừng tự dối lòng. Thầy đang nhớ cả kiếp người. Đường Tăng rùng mình khi giọng Ngộ Không quá u uất - Con từ đá sinh ra. Coi thường cả thần thánh, yêu ma, chỉ mong được thành người. Thầy đã là người lại tự bỏ mình đi tìm hồn phách khác. Đêm nay sao khỏi xót xa. Bát Giới cười khẽ : - Làm người có gì vui. Chúng ta đã dốc lòng theo đạo, ngày mai được lên chốn thần tiên, sung sướng biết bao nhiêu. Thầy đừng luyến tiếc. Sa Tăng an ủi : - Thầy trò mình sắp hóa Phật mang đạo xuống khai sáng cho loài người. Công quả vĩ đại lắm. Đường Tăng lắc đầu, nằm im hồi lâu, hai tay vẫn đặt lên tim, mắt vẫn nhắm, nước mắt trào ra ấm nóng lại. Rồi như trăn trối : - Ta ước gì đêm nay đừng sáng. Ta đau đớn cho mười mấy năm viễn du. Ngộ Không ơi! Một đời con mong được thành người thì bị bắt ép phải theo ta để thành Phật. Bát Giới tự dối mình giác ngộ thật ra chỉ là đi tìm một chốn hoan lạc mới. Sa Tăng rời cõi u mê này sang cõi hoang tưởng khác mà lại hy vọng khai sáng. Còn ta? Không còn là người, không phải là người thì làm sao đồng cảm mà mong khai sáng, cứu vớt con người. Ngộ Không sụp xuống nắm tay thầy nghẹn ngào : - Thầy đã nhận ra chân lý. Nhưng chậm quá rồi. Đường về. Qua sông. Thiên sứ cười và chỉ cho Đường Tăng thấy thân xác ông đang trôi dạt dưới cầu.

Nhưng Đường Tăng đã không nghe thấy gì nữa. Đôi mắt vô hồn...

Trương Quốc Dũng

Gia sư - Tên cậu là gì? - Dạ thưa, Thành. - Cậu nói cậu là sinh viên? - .... Dạ! - Cậu dạy kèm ở đâu chưa? - Dạ.... trước đây.... năm ngoái cũng có... - Thằng nhỏ học cũng được nhưng lười. Cậu kèm học hành tiện thể khuyên nhủ nó giùm tôi. Thứ ba, năm, bảy, buổi chiều. Vậy nghe! - Dạ! Tôi hé cửa phòng nhìn. Mẹ đã đứng lên, vội vàng hấp tấp với công việc buôn bán thường lệ. Tên con trai sắp là gia sư của thằng Tú em tôi cũng đang đội mũ lên đầu. Khi hắn quay mặt lại thì tôi kinh ngạc - tôi có lầm không? Chính hắn, thậm chí tôi còn biết cả cái tên nhà quê của hắn nữa kìa- Trần Văn Thành, tên gì quê một cục. Hôm qua hắn và tôi ngồi cạnh nhau trong phòng thi, gần như vai kề vai. Lầm sao được? Chà, sinh viên! Còn khuya nhé. Đến ngày cầm được giấy thi báo đậu trên tay còn cả tháng nữa. Mà trở thành sinh viên có thâm niên trong nghề gia sư thì còn xa tít mù hơn. Cả gan thật! Hắn vưà đi khuất, tôi phóng ra : - Mẹ! Mẹ vẫn cắm cúi soạn hàng hóa từ những cái thùng to ra quầy, mùi hăng nồng bay lên - Đủ các loại xà bông làm mưa làm gió trên tivi hàng đêm - Cứ việc bôi bẩn áo quần đi nhé, đã có Viso, đã có Omo. Hừm, chỉ cần đưa bộ áo quần của thằng Tú sau một trận đá banh lên truyền hình là các hãng xà bông xanh mặt nhé. - Mẹ! - Tôi gọi lần nữa. Mẹ vẫn tiếp tục mở một cái thùng khác - Các bà nội trợ hãy mừng đi, đã có chúng tôi giải phóng giúp các bạn khỏi công việc chán ngắt và lê thê của bếp núc. Đây cá hộp made in China, đây thịt hộp USA... Nhưng trời ơi, dân ta không ưng thứ này. Biết sản xuất "Rau muống nấu canh tôm khô hộp" không? Dám làm "Bún riêu hộp", "Bánh bèo hộp" có bảo hành không? Mẹ chuyển qua thùng gia vị. Hành tây, ớt khô,... Buồn tay tôi cầm một bánh lên và nghé răng định cắn lớp bao nilon. - A, đó là men nấu rượu - Mẹ la lớn. Trời! Suýt tí nữa... tôi cười. May là không có thằng Tú, có nó thì đây sẽ chuyện thời sự suốt tuần. - Sao con không chịu đeo kính hả Thanh? Cặp kính rất thời trang chứ có phải mẹ tiếc tiền bắt con đeo loại xấu xí đâu? - Tại... tại... Tôi ấp úng và rút lui vào phòng. Không sao tìm ra lý do chính đáng cho cái việc tôi quên đeo kính cận. Có lẽ chỉ vì... quên! Vả lại, cái bệnh cận này chỉ mới phát sinh đây thôi, từ sau trận luyện thi đại học. Ơ... cũng có thể - Tôi giật mình - Tôi đã nhìn nhầm tên sắp là gia sư thành ra tên nhà quê cùng phòng thi hôm qua? Ừa! May mà tôi chưa lu loa với mẹ. Suýt nữa thì oan cho một người. Và điều đáng nói nhất mẹ sẽ ca cẩm "Con người ta vừa học vừa chịu khó làm. Còn con mình..."

"Gọi O là giao điểm của hai đường thẳng xx', yy', trên xx' ta vẽ đoạn thẳng CD... đoạn thẳng CD sao cho..." Tiếng giảng bài vọng qua phòng tôi, giọng vùng biển nằng nặng. Tôi nhìn đồng hồ. Mẹ đã giao nhiệm vụ mỗi buổi pha cho hai thầy trò hay ly nước chanh. Mới giảng hai mươi phút, khô cổ chưa nhỉ? Hừm... mai một ta đi giảng đường, ta cũng bận rộn. Liệu hồn, cứ trêu chọc là bốn mắt, ta lấy cớ đó nhầm muối thành đường cho biết mặt. Phải lịch sự và ý tứ, con gái lớn rồi. Mẹ dặn đi dặn lại như thế. Chà, ta cận nhưng đọc rõ ý nghĩ lồ lộ trong mắt mẹ - Hắn là một đứa nhà nghèo nhưng có ý chí chứ gì? Những kẻ như thế đáng học tập và trân trọng, phải vậy không? Còn điều khá tế nhị này nữa... Mẹ có một đứa con gái... ha ha ha... mẹ ơi, đã qua rồi còn thời cha mẹ lo kiếm cho con gái của mẹ tìm một ý trung nhân tuyệt vời như thế nào. Sá chi tên gia sư giảng bài còn vấp này. Ta canh me chỗ nào giảng sai bẻ lại cho biết mặt. Lịch sự... lịch sự là hãy đặt ly vào khay, đừng có hai tay hai ly đong đưa hỗn láo. Được rồi... Và mỉn một nụ cười nhẹ nhàng, đừng cười thân thiện quá hắn tưởng gì thì phiền. Tất nhiên là phiền cho hắn. Và phải gõ cửa, chớ có lấy chân đá và lo oang oang "Mở cửa... Tú à... Tú ơi" như thường ngày. Rồi rồi... À, phải đeo kính vào nữa. Lỡ nhìn thầy ra thằng Tú... Cốc cốc cốc... Tôi sửa soạn một nụ cười, Rồi nụ cười chợt biến thành chữ O. Khuôn mặt hắn, vóc dáng hắn, không lầm vào đâu được. Tên nhà quê kia, tên lừa đảo kia, ngồi trong phòng thi bóp trán đến nổi gân xanh mà dám xưng là sinh viên. Làm gì đây? Bộ óc tôi lùng bùng. Tự mình cho hắn một trận? Chạy ra nói với mẹ ngay lập tức? Không, tội nghiệp mẹ! Tôi chợt thấy thương mẹ, một tình cảm rất lạ, pha chút gì như là xót xa. Mẹ thường nói cuộc sống khiến mẹ đâm ra hoài nghi tất cả, vậy mà mẹ đã tin hắn, không cần dò hỏi kiểm tra. Nghĩ đến tình cảm mà bỗng nhiên mẹ đã dành cho hắn, tôi muốn làm một điều gì đó khiến hắn phải thật đau. - Chào thầy! - Tôi dài giọng mỉa mai. Khuôn mặt xương xương và màu da ngăm đen chợt tái xám. Cổ áo sơ mi dưới cầm chợt rung rung. Tôi dằn khay xuống, nện chân đi ra.

- Tôi biết vậy là không hay... Hắn nói nho nhỏ, vẻ cam chịu, bàn tay bóp mạnh ghi đông xe. Cái xe của hắn cũ mèm, màu sơn bạc thếch. Yên xe chỉ còn trơ khung bọc lớp da nhiều vết rạn. -... Tôi sẽ thôi không dạy nữa - Hắn nhìn tôi, mặt đỏ rần. - Chạy trốn à? - Tôi nặng giọng đốp lại Hắn mở to mắt nhìn tôi, vẻ cam chịu biến mất, thay vào đó là sự phẫn nộ khiến tôi bất giác sờ sợ. - Xưng là sinh viên thì dễ kiếm việc hơn. Và tôi cũng định nhận giấy báo thi đậu thì sẽ nói thật. Tôi đâu muốn nói dối. Điều quan trọng nhất là em của bạn có học khá hơn không. Tôi tin là tôi kèm được. Quai hàm hắn bạnh ra vừa tức giận, vừa chua chát, vừa mệt mỏi. Khuôn mặt hắn chùng xuống. Ra vậy. Hắn không lừa đảo. Hắn chỉ nói dối một chút thôi. - Dù sao thì tôi cũng có lỗi - Hắn thở dài - Cho tôi xin lỗi, tôi sẽ tìm việc khác làm. - Bạn định làm gì? - Tôi buột miệng hỏi, nhận ra cơn tức giận của mình vơi đi rất nhiều. - Bất cứ việc gì, miễn là kiếm sống lương thiện. Á... à.. với câu trả lời này, mẹ tôi sẽ mời hắn làm gia sư cho cả tôi nữa cho mà xem. Môi tôi bỗng nhiên cười : - Dạy kèm em tôi không lương thiện à? Hắn ngẩng nhìn tôi, mắt hắn sáng lên. Tội chưa. Rõ ràng là hắn thất nghiệp trăm phần trăm. Vả lại, hắn có lý, điều quan trọng là thằng Tú có khá hơn không. Điều cực kỳ quan trọng nữa, nếu hắn nghỉ, trong thời gian đợi gia sư mới, thế nào mẹ cũng bắt tôi dạy thằng Tú, nhất là khi biết hắn học chỉ bằng tôi mà dám làm thầy. Phải, lý do khác chính đáng để tôi thừa nhận nói dối trong trường hợp này là thông cảm được. - Nhà bạn ở đâu? - Hỏi xong tôi chợt nhớ ra con gái không nên hỏi những câu như thế này. Nhưng lỡ thốt thành lời mất rồi. Mẹ luôn nói tôi vô ý vô tứ là vậy. - Nhà tôi ở tận quê - Như một nhu cầu thổ lộ, hắn tuôn ra - Học xong phổ thông tôi phải nghỉ hai năm phụ gia đình làm rẫy. Ngày về đây thi, nhà không có tiền, bán hai tạ lúa và cái xe đạp này. Thôi thì cứ đi rồi xoay sở kiếm việc làm. Tôi định mai mốt đi bỏ báo thêm. - Học ở thành phố tốn kém lắm - Tôi nói, giọng chợt nhỏ lại. - Tôi cũng biết vậy. Nhưng cứ cố. Nhà tôi còn đông em. Nếu mai mốt tôi học xong đại học kiếm được việc ổn định chắc các em tôi đỡ khổ như tôi bây giờ. Tôi đi học, lũ em phải gánh vác công việc nhà thay tôi. Ra vậy. Tôi im lặng. Tiếng mẹ tôi ho khúc khắc... thôi rồi, thế nào cũng "Sao không vào nhà ngồi trò chuyện mà rủ nhau ra đường... trời ơi.. còn gái..."

"Nếu a chia hết cho b và b chia hết cho c thì..." Cốc cốc cốc... Tôi bưng nước vào. Gia sư ngừng giảng. Tôi mỉm cười. Gia sư cũng cười. Hắn trọ ở khu nhà lụp xụp xa tít bên kia phố. Trưa đạp xe cọc cạch qua đến được đây thì đủ chết. Tôi không cần canh đồng hồ nữa, đầu giờ, tôi đặt sẵn trên bàn của gia sư một ly cam vắt. Cuối giờ, tôi la lớn : - Tú ơi, ăn cháo gà không? Mẹ la khẽ : - Em đang học, sao con vô ý vậy? - Ơ... lỡ rồi mẹ ơi, thôi, hai tô cho cả hai thầy trò nghe mẹ? Ban đầu hắn đỏ mặt lắc đầu. Tôi nắn nỉ có, hăm dọa cũng có... dần dần hắn không từ chối nữa. Tôi đọc thấy lời cám ơn trong mắt hắn. Thật kỳ lạ khi tôi và hắn có thể hiểu nhau nhanh đến như vậy. Hiểu chẳng cần nhiều lời. Nếu tôi là con trai, tôi sẽ đem cái xe đạp của hắn đi sơn sửa lại. Nhưng thôi, chuyện sửa không tiện tí nào. Đợi đến ngày trở thành sinh viên, tôi sẽ giới thiệu hắn vài chỗ dạy kèm nữa. Bạn tôi, đứa nào cũng có em, cả bầy lóc nhóc. Tròn một tháng. Mẹ tôi đã dặn hôm nay nhớ nhắc mẹ trả lương cho gia sư. Lo canh giờ bà bán cháo gà gánh qua, tôi quên mất điều quan trọng này. Tội nghiệp, chắc hắn mong lắm. Tôi sẽ chuộc lỗi bằng cách ngay bây giờ đạp xe mang đến chỗ hắn trọ. Hắn sẽ làm gì với số tiền này? Mang một bộ đồ mới? Sắm đôi giày? Sửa xe?... Và còn ăn uống hàng ngày nữa. Tôi nhận ra phong bì quá nhẹ so với điều hắn cần. Mình có thể làm gì không? Thằng Tú nói "Từ ngày có cặp kính cận, chị Thanh thay đổi từ đôi mắt đến tính tình". Có lẽ nó nói đúng nhưng chỉ một nửa, tôi thay đổi từ ngày nó có gia sư thì đúng hơn. Mình có thể giúp gì không? Tôi mân mê phong bì. Bỏ thêm tiền vào? Không được. Hắn, vốn lương thiện, sẽ kính cẩn trả lại me ngay "Thưa bác, hình như bác nhầm, cho cháu gởi lại phần này". Hừm, lương thiện đôi khi khó xử cho kẻ khác quá. Ồ... đúng rồi. Tôi lấy một cái túi - Cứ bôi bẩn áo quần đi nhé, đã có Viso. Nào, trước hết là một gói xà bông. Đây nữa, các bà nội trợ hãy vui mừng, phải đổi lại là những người không có khả năng thiên phú về nấu nướng hãy vui mừng mới đúng - Hai hộp thịt nằm ngoan trên gói bột giặt nhé. Gì nữa?... Tiêu, hành, xì dầu... Cần quái gì những thứ này. A kia, hộp Ovaltine uống vào sẽ trở thành lực sĩ số một thế giới. Đây nữa, đường cát... À khoan, để đeo kính đã. Linh tính không sai mà, đường ở cái thùng to tận đằng kia. Còn gì nữa? Thôi, để lần sau. Lấy một lúc nhiều quá mẹ biết thì sao.

Tôi đậu, Thành rớt. Đầu giờ chiều thứ ba, thứ năm, thứ bảy tôi vẫn đặt một ly cam vắt trên bàn của gia sư. Tú đợi. Tôi cũng đợi. Một tuần, hai tuần.... - Sao cậu sinh viên không đến dạy nữa? Mẹ hỏi. Biết trả lời mẹ sao đây? Tôi phì phò đạp xe qua khu nhà lụp xụp bên kia phố, Thành đã đi rồi. Tôi nhận ra mình thật vô tình, quên hỏi quê Thành ở đâu. Giờ Thành đã về quê gánh vác công việc ruộng rẫy hay vẫn ở lại nơi đây tiếp tục giấc mơ chắt chiu không những cho mình mà cho cả đàn em? Những con đường dọc ngang dài thẳm, biết tìm Thành ở đâu giữa thành phố mênh mông này? Tôi tháo kính ra lau, đeo kính vào. Lại tháo ra lau, đeo vào... bụi đầy mắt mà vẫn không thấy thành đâu. Ước gì sang năm tôi gặp bạn ở trường đại học. Gia sư! Đừng bỏ cuộc nhé! - Tôi lẩm bẩm với gió, biết rằng trên đời này có những giấc mơ tuyệt đẹp và cũng có những con đường gập ghềnh xiết bao. - Tìm người khác dạy cho em Tú thôi - Mẹ nói. ... Mẹ để con kèm em cho - Tôi nói thật nhanh. Mắt mẹ đầy nỗi ngạc nhiên và vui sướng. Tôi muốn ôm mẹ vào chân lại ngượng ngùng quay chạy về phòng. Tú le lưỡi : - Chị Thanh có biết giảng bài không? Không biết giảng, rồi chê học trò dốt là không được đó nghe. Mọi hôm, nói năng kểu này thì một cuộc chiến tranh xảy ra là điều không thể tránh khỏi. Nhưng hôm nay thì...

Nguyễn Hương

Hãy trôi đi dòng sông Buổi tối thứ Bảy, tôi cùng người bạn ngồi uống nước dừa bên bờ sông Tiền. Trời đứng gió nhưng dòng sông vẫn trôi miên man và phả hơi nước lên mát rượi. Bạn tôi dân Mỹ Tho nên anh rành phong cảnh nơi đây. Anh đang thao thao giảng cho tôi hiểu lai lịch con sông Tiền. Còn tôi nhìn dòng sông và cố hiểu nó trong im lặng. - Mời chú mua vé số. Người bạn tôi lắc đầu, xua tay với một cô bé bán vé số mặc áo sơ mi trắng quần xanh và anh tiếp tục nói về dòng sông. Cô bé đưa xấp vé số qua tôi. - Mời chú... dạ... mời thầy mua giúp em mấy tấm vé số. Tôi nhíu mày nhìn cô bé đứng trước mặt. Ðôi mắt em đen và ướt như dòng sông đêm. Tôi hỏi : - Tại sao em gọi tôi là "thầy"? - Dạ tại thầy có dạy em năm lớp mười. - Em nhận lầm rồi, tôi đâu có dạy em. Tôi mới ở Sài Gòn xuống đây chiều nay. - Dạ năm lớp mười em còn học ở Sài Gòn. Sau đó ba em chuyển công tác xuống đây, cả gia đình phải đi theo. - Em xuống đây bao lâu rồi? - Dạ mới hơn một năm. Tôi nhìn chăm khuôn mặt cô bé một lần nữa. Em e thẹn cúi gằm đầu, mái tóc ngắn che khuất hai má. Tôi cố nhớ xem em đã học lớp nào nhưng không nhớ nổi, nên hỏi : - Em tên gì? - Dạ... tên em... Mà thôi, thầy nhìn em còn không nhận ra, có nói tên thầy cũng không nhớ đâu. Tôi gõ gõ ngón tay lên đầu mình, cười nói : - Tôi xin lỗi. Các em quá đông tôi không nhớ hết. Ðể tôi mua giúp em hai tấm vé số. Tôi rút hai tấm vé số và đưa tiền cho em. Cô bé vẫn cúi đầu nói lí nhí "Cám ơn thầy" rồi em bước vội đi. Người bạn tôi lại tiếp tục nói về những trận thủy chiến của Nguyễn Huệ với quân Xiêm trên dòng sông này. Tôi nhìn đồng hồ đeo tay: 10 giờ 35. Những cục đá trong hai ly nước dừa đều đã tan. Tôi nói người bạn đi về vì đã cảm thấy buồn ngủ. Ði ngang qua một nhà hàng ăn uống xây sát bờ sông, đèn điện thắp sáng choang và nhạc disco vang ra dồn dập, tôi thấy cô bé đứng trước cửa nhà hàng với hai người bạn. Em đang đưa tay lên chùi nước mắt, tôi vội bước đến hỏi : - Có chuyện gì vậy em? Cô bé ngước nhìn tôi, đôi mắt em đỏ hoe. Em lắc đầu, quay mắt đi và một người bạn của em nói : - Có một ông quá say rượu mua mười tấm vé số của nó rồi lên xe hơi đi luôn. Nó không dám về nhà sợ má đánh. Tôi móc túi lấy mười ngàn, nhét vào tay cô bé. Tôi vỗ vỗ vào vai em đang run lên. - Thôi đừng khóc nữa. Em về đi, khuya rồi. Tôi bước đi, người bạn bước theo nhăn nhó nói : - Ông chỉ lo chuyện bao đồng. Ðể quên chuyện đó đi, tôi cười hỏi : - Ông có biết sông Tiền dài bao nhiêu kilomét không? Người bạn tôi nhíu mày suy nghĩ. - À... à... để tôi nhớ lại coi...

Buổi sáng chủ nhật, người bạn tôi bận việc nhà, tôi một mình đi dạo chơi trong thành phố. Tôi muốn vào thăm trường trung học Nguyễn Ðình Chiểu nổi tiếng, nhưng vào ngày nghỉ cổng trường đóng kín, tôi nhìn qua hàng rào chỉ thấy khoảng sân rộng, những dãy nhà lầu và những tàn cây phượng lá xanh non. Ở đây mọi con đường hình như đều dẫn ra bờ sông nên đi loanh quanh một hồi, tôi đã đi đến chân cầu Bảo Ðịnh. Tôi vào ăn sáng ở một quán xây trườn ra mặt sông Tiền. Tôi ngồi gần cửa sổ mở ra mặt sông nước đục ngầu phù sa. Bờ bên kia gần chợ, các ghe chở trái cây đậu san sát để lên hàng. Người miền Nam vốn hào phóng và tô hủ tíu Mỹ Tho cũng vậy. Ðầy thịt, tôm và cá mực khiến tôi ăn không hết một tô. Tôi ngồi nhâm nhi ly cà phê đen và nhìn dòng sông lấp lánh ánh nắng ban mai. - Mời chú hai, dì hai mua giúp con tấm vé số. Nghe tiếng quen quen, tôi quay đầu lại. Cô bán vé số tối hôm qua đang mời hai vợ chồng lớn tuổi ăn hủ tíu ở bàn bên. Ðợi người đàn bà mua vé số xong. Tôi gọi : - Này em. Cô bé nhìn tôi, cười e thẹn rồi em bước tới, đưa xấp vé số. - Mời thầy. Tôi lắc đầu, kéo chiếc ghế bên cạnh. - Em ngồi xuống đây. Tôi mời em ăn sáng. Cô bé ngần ngại ngồi xuống chiếc ghế nệm. Tôi gọi cho em một tô hủ tíu và một ly đá chanh. Trong khi chờ đợi, tôi hỏi : - Em tên gì? Cô bé lấy ngón tay gạch gạch lên mặt bàn rồi ngẩng đầu lên nói : - Em nói thầy đừng cười nghe. Em tên là Thanh Giang. - Tên em hay vậy mà em nói buồn cười. - Không phải vậy. Em có hỏi ba em tên đó nghĩa là gì. Ba em nói đó là tên một dòng sông nhỏ ở miền Trung, quê hương của ba em. Em sợ thầy cười vì trên đời này làm gì có "dòng sông xanh". Như sông Tiền đây nè, hôm thì nước đục ngầu hôm thì nước đen thui, có hôm nào nước trong xanh đâu. - Có chứ. Hôm nào trời đẹp, em thức dậy thật sớm sẽ thấy dòng sông nước trong xanh. - Ðâu có ai mua vé số lúc thật sớm mà thầy biểu em thức dậy. Người chủ quán bưng tô hủ tíu và ly đá chanh đặt trên bàn. Trong khi cô bé ăn hủ tíu, tôi khuấy đường trong ly đá chanh của em. Sức em thật khỏe, chỉ một loáng em đã ăn hết tô hủ tíu to đầy. Em cầm ly đá chanh và uống một hơi hết nửa ly. Tôi đốt một điếu thuốc hỏi : - Em đi bán vé số buổi sáng, buổi tối, vậy hàng ngày em đi học buổi chiều à? Cô bé lắc đầu. - Em nghỉ học rồi. - Ồ ! Sao vậy ? - Em phải phụ giúp ba má nuôi ba em nhỏ. - Em hãy cố gắng đi học thêm lớp đêm. - Em bán vé số kiếm chưa đủ tiền chợ cho gia đình, tiền đâu mà đi học lớp đêm. Tôi ngẫm nghĩ một lúc rồi nói : - Em hãy đi học tiếp đi. Hàng tháng tôi sẽ gửi cho em một số tiền đủ để trả học phí. - Nhưng... lương thầy chưa đủ sống mà. - Tôi có đi dạy kèm Anh văn nên cũng đủ sống. Vậy em đừng ngại. - Cám ơn thầy. Nhưng học xong lớp 12 em cũng phải nghỉ học phụ giúp gia đình. Vậy em có học thêm một năm cũng chẳng được gì. - Hay em học thêm một nghề gì đó như cắt may chẳng hạn. Không lẽ em đi bán vé số hoài. Cô bé thở dài : - Em như dòng sông chết. Nó đâu có còn trôi tới biển được mà lo. Tôi nhăn mặt nói : - Sao lại dòng sông chết. Em là dòng sông xanh. Cô bé lắc đầu : - Ba em mới về thăm quê và cho biết dòng sông nhỏ ở làng em đã khô cạn vì qui hoạch làm thủy lợi đã rút hết nước của dòng sông. Dòng sông đó không còn trôi di nữa. Nó đã chết. Như em vậy. - Em đừng nghĩ ba láp. Em vẫn sống như răng đây nè. - Không phải vậy đâu. Nhiều khi cầm xấp vé số trong tay nhìn bạn bè đến trường, em có cảm tưởng mình như dòng sông chết. Cô bé cúi đầu xuống rồi ngước lên hỏi : - Bao giờ thầy về lại Sài Gòn? - Hai giờ chiều nay. Sáng mai tôi phải đi dạy sớm. Cô bé xòe xấp vé số ra nhìn rồi em rút một tờ đưa cho tôi. - Em xin tặng thầy. Tôi xua tay. - Thôi, em hãy giữ lấy mà bán. Tướng tôi dễ "trúng gió" chứ không dễ trúng số. - Thầy chê quà em tặng của em tầm thường? Thầy hãy đọc hai số cuối. Tôi cầm tấm vé số, đọc hai số cuối rồi cười nói : - Em muốn tôi đánh đề hai số này dễ trúng hơn. - Không phải vậy. Ðấy là tuổi của em. Tôi chẳng hiểu em muốn nói gì nhưng tôi cũng gấp tấm vé số lại bỏ vào túi và nói : - Cám ơn em. Trước khi về Sài Gòn, trưa nay tôi muốn mời em ăn cơm canh chua cá lóc ở quán cây me. Chắc em biết quán đó. Cô bé gật đầu. - Thầy đợi em được không? - Tôi chỉ có thể đợi em đến 1 giờ trưa. Sau đó tôi phải ra bến xe đò về Sài Gòn. - Thầy đợi em lâu hơn được không? Tôi cười. - Ðợi em bán hết xấp vé số à? Như thế chắc tôi phải nhịn đói về Sài Gòn. Cô bé nhìn thẳng vào mắt tôi, nói : - Không phải vậy. Hãy đợi em đủ sức trôi đi. Nói xong, cô bé cầm xấp vé số bước ra khỏi quán. Em chạy băng qua đường, vào một quán cà phê đang đông người ngồi. Tôi nhìn theo em và thầm nói: Hãy trôi đi, dòng sông xanh nhỏ bé. Hãy trôi đi. Nhưng còn tôi? Tôi có giúp được gì cho dòng sông ấy trôi đi hay chỉ đứng yên trên bờ hò hét, thúc giục!

Đoàn Thạch Biền

Hoa cúc tím Cái trò chơi kết bạn qua thư thế mà hay. Lật lật mấy trang báo trong một buổi chiều vô vị tôi đã tìm thấy một dòng địa chỉ dễ thương với cái tên đầy bí ẩn: Cúc Tím. Bốn ngày thư đi, đến ngày thứ năm thì tôi nhận được hồi âm, nét chữ con gái tròn trĩnh và xinh xắn ngoài phong bì bằng mực tím. Ừ, "hoa cúc tím" mà lại. Tôi mang thư ra tận đầu hành lang đọc để tránh con mắt "cú vọ" của thằng Tuấn. Nó là chúa hay tò mò và bép xép chuyện người khác. Nếu Tuấn biết, chỉ ngày mai thôi là cả lớp sẽ xúm vào trêu tôi, nào là "thanh niên" rồi mà còn viết thư kết bạn, nào là "lãng mạn dở hơi", nào là... vân vân. Lúc đó thì sẽ sao nhỉ? Chắc chắn cái "bản mặt" tôi không thể không đỏ bừng lên như... hoa mào gà. Tôi kể với Cúc Tím đủ mọi chuyện (trừ những chuyện... không có lợi cho tôi), nào là thằng Tuấn lắm mồm, cái Hương đanh đá, đến chuyện tôi sợ môn Văn ra sao. Cúc Tím cũng vậy, duy chỉ có điều là tôi chưa biết tên thật của Cúc Tím là gì. "Tùng ạ! cứ gọi mình là Cúc Tím thôi. Mình thích cái tên đó mà". Làm sao tôi có thể không đồng ý trước những giòng thư dịu dàng như thế. Và tôi đã mất rất nhiều thì giờ để hình dung ra Cúc Tím. Sẽ là một cô bé rất dễ thương này, dứt khoát phải có răng khểnh và mái tóc thật dài. A, còn nữa, Cúc Tím của tôi (Ơ... mà không phải của tôi) hay mặc áo màu tím. Nói tóm lại, đó là một cô gái hết sức đáng yêu chứ không đanh đá và lắm lời như tụi cái Phượng, cái Mi. Thấy tôi đều đặn mỗi tuần nhận được một lá thư. Tụi thằng Tuấn, cái Phượng đâm nghi. Chúng lẻn xuống văn phòng lấy thư, tôi đã lập tức phát khùng trước khi tụi nó xé phong bì. Có lẽ vẻ mặt tôi lúc đó vừa giận dữ, vừa tức cười nên cả lớp im bặt một lúc rồi tất cả phá lên cười ngặt nghẽo. Tôi lại mang lá thư ra góc hành lang quen thuộc đọc. Cúc Tím kể rằng thành phố Hải Phòng của Cúc Tím rất nhiều hoa phượng đỏ và những chiếc cầu xinh xắn bắc ngang sông đào, rằng Cúc Tím yêu thơ Xuân Quỳnh và thích ngồi một mình trong đêm ngửi dạ lan hương. Tôi cũng hào hứng kể về sở thích của mình, từ việc thích ăn kem đến đá bóng. Rồi cả những ước mơ. Tôi viết cho Cúc Tím: "Tùng muốn làm bác sĩ Cúc Tím ạ, bởi vì Tùng muốn mang lại sức khỏe và niềm vui cho tất cả mọi người. Sức khỏe là cỗ xe chở kiến thức mà". (Chà! Cao thượng và văn vẻ ghê. Nhưng chẳng lẽ lại nói rằng đó là "chỉ tiêu" của bố mẹ tôi giao cho tôi ư?). Còn Cúc Tím thì viết hơi khó hiểu: "Nếu được quyền chọn lựa và mơ ước, Cúc Tím sẽ ước làm cô giáo dạy văn. Nhưng có lẽ điều đó thật khó với Cúc Tím, Tùng ạ". Tôi vốn là đứa hay đơn giản hóa mọi vấn đề nên cũng chẳng thắc mắc gì thêm. Con gái, ai cũng chẳng hay nói khiêm tốn như vậy.

Sinh nhật Cúc Tím, tôi năn nỉ cái Lan cạnh nhà ép giúp bông cúc tím vào giữa trang sổ trắng. Bàn tay "bác sĩ tương lai" của tôi đã làm dập nát bao nhiêu cành hoa trong suốt cả một buổi chiều mà vẫn chẳng thành công. Bông hoa ép xong, khô và mỏng manh nhưng vẫn giữ được sắc tím dễ thương (con gái khéo tay ghê). Lan đòi trả công một gói kẹo bi, tôi chịu liền. Mang đi ép plastic, thế là tôi đã có trong tay tấm bưu thiếp "vô giá". Chắc hẳn Cúc Tím sẽ rất vui, tôi tưởng tượng đến nụ cười xinh xinh lấp ló chiếc răng khểnh duyên dáng (mà có lẽ Cúc Tím sẽ trìu mến áp tấm bưu ảnh lên má cũng nên!). Tôi gửi thư đi và hồi hộp hơn tất cả lần gửi thư trước cộng lại vì Cúc Tím hứa gửi cho tôi một tấm ảnh đặc biệt của mình và lá thư hồi âm. Có điều, Cúc Tím quy định ngày gửi thư để cả hai cùng nhận thư một lúc. Lá thư có dòng chữ: "Thư có ảnh xin đừng gấp" của Cúc Tím đến tay, tôi mừng đến suýt nhảy dựng lên giữa lớp. Chưa lần nào Cúc Tím nói tên thật cũng như kể về hình dáng của mình: cao hay thấp, tóc dài hay ngắn... Hình ảnh Cúc Tím tìm trong đầu cũng chỉ do tôi vẽ qua tưởng tượng trong hoàn toàn. Tựa người vào góc hành lang quen thuộc, tôi run run bóc thư, nếu Cúc Tím giống như trong tưởng tượng thì có lẽ tôi đến phải đi kiện cô Hằng vì những điểm 5 đỏ cả vở văn. Tấm ảnh được lôi ra, tôi sững cả người, ngạc nhiên và bất ngờ. Một bông Cúc Tím ép hệt như tôi đã gửi đi, có điều những cánh hoa mềm mại hơn, duyên dáng hơn. Nỗi ngạc nhiên và sự bất ngờ tạm lắng xuống nhường chỗ cho sự thú vị, tôi lật phong thư, dấu bưu điện đúng trùng ngày tôi gửi thư đi. Hôm nay, biết đâu vào giờ này, Cúc Tím cũng đang cầm trong tay lá thư của tôi và cũng ở trong tâm trạng tôi lúc này.

Hè đến, trong thư Cúc Tím gửi cho tôi có một bông phượng vĩ: "Trái tim mùa hè đây!". Cúc Tím bảo vậy. Tôi bồi hồi lật giở lại chồng thư từ đầu năm của Cúc Tím. Cả hai đã trở thành bạn thân tự bao giờ. "Tùng này, hôm nay là buổi học cuối cùng trong năm học này của Cúc Tím và đây cũng là bức thư cuối cùng Cúc Tím viết cho Tùng trước khi hạ đến. Có lẽ nghỉ hè chúng ta sẽ không liên lạc được với nhau vì hè của Cúc Tím chẳng giống hè của Tùng đâu. Năm học mới địa chỉ của trường của Cúc Tím vẫn vậy, chỉ khác đi năm là lớp 11 thì sang năm Cúc Tím lên lớp 12 như Tùng vậy". Tôi buồn buồn và thoáng chút ngạc nhiên: Tại sao Cúc Tím chẳng cho tôi địa chỉ nhà? Ừ mà có lẽ hè này Cúc Tím đi đâu xa cũng nên, trong thư của Cúc Tím chẳng viết là "Hè của Cúc Tím không giống hè của Tùng" đó sao.

Tháng sáu oi nóng trôi qua chậm chạp. Bấm đốt ngón tay còn những gần hai tháng nữa mới được tới trường, tôi đâm ra oán ghét mùa hè. Biết được tâm trạng của tôi lúc này chắc bố mẹ phải ngạc nhiên như vừa nhìn thấy người sao Hỏa rơi trước cửa. Một chiều thứ bảy tôi đang ngồi dán diều cho thằng nhóc Sơn thì thằng Tuấn xuất hiện, nó nói cụt lủn : - Mai đi Đồ Sơn. - Với ai? Tuấn gật gù : - Tao và cơ quan bố tao. Thôi được. Tôi xếp diều vào xó cùng thằng Tuấn sang nhà thằng Huy mượn bóng. Đi tắm biển chán chết; nhưng dù sao cũng là đi du lịch, còn hơn ngồi nhà ôm cái tivi xem ba chương trình hát hò vớ vẩn.

Tuấn chạy tâng tâng trên bãi biển chán rồi năn nỉ : - Tùng, tắm tiếp đi mày. Tôi ngao ngán lắc đầu nhìn bãi biển đông người. Đoàn của cơ quan bố Tuấn toàn những ông già bà già hoặc trẻ con. Tuân ôm quả bóng quay qua quay lại, phía bên trái, một lũ trẻ con đang ồn ào giỡn nước gọi toáng lên : - Anh ơi cho em mượn bóng, anh ơi chơi bóng đi. Tuấn sà vào nhập bọn. Đóng bộ chỉnh tề, tôi lang thang lên bờ tìm một quán giải khát. Cô bé bán hàng chắc cũng trạc tuổi tôi có nước da rám nắng (chắc dân bãi biển này?) và khuôn mặt hiền hiền ngước mắt lên : - Anh dùng gì ạ? Tôi lơ đãng ngồi xuống và nhìn ra mặt biển : - Nước chanh. Tiếng thìa quấy nước trong cốc lanh canh bên tai, tôi mơ màng nghĩ đến Cúc Tím. Đây là Hải Phòng, quê hương Cúc Tím. Chắc Cúc Tím hay ra bãi biển này lắm vì trong một lá thư Cúc Tím kể rằng: "Bãi biển Đồ Sơn là nơi quá quen thuộc với Cúc Tím". Vào năm học, viết thư cho Cúc Tím, nhất định tôi phải kể về chuyến đi hôm nay. Thực ra cũng chẳng có gì thú vị vì tôi đang phát ngán, nhưng điều quan trọng là mình được đến Hải Phòng thân yêu của Cúc Tím. Biết đâu, hôm nay Cúc Tím cũng có mặt trên bãi biển này. Ừ, nếu thế thì ai sẽ là Cúc Tím đây trong hàng bao nhiêu người đang giỡn sóng... - Anh ơi, đập đá giúp em với. Tôi giật mình, bứt khỏi dòng suy nghĩ lan man. Cô bé chủ quán lúng túng chìa ra trước mặt tôi túi đá, chiếc chày gỗ nhỏ. Tôi nhìn ra cánh tay trái của cô ta hình như bị liệt nên teo lại, các ngón tay co quắp đến phát sợ. Có một tay như vậy thì bán quán làm sao được? Dường như hiểu thắc mắc của tôi, cô bé bối rối thanh minh : - Mọi hôm mẹ em bán, em chỉ phụ giúp. Nhưng hôm nay... À kìa, mẹ em ra rồi. Người đàn bà trạc hơn bốn mươi tuổi ngả nón, gương mặt cũng sạm đen :br> - Hải, con về chỗ chú Lân lấy thêm ít đá đi. Mẹ trông quán. Cô bé bước ra khỏi quán với chiếc túi nhỏ và dáng đi cà nhắc, lệch người đến tội. "Con gái thế kia thì ế chồng sớm. Mình sẽ không bao giờ lấy người vợ như vậy..." Tôi suýt phì cười với ý nghĩ của mình nhưng trong lòng cũng thấy thương thương cô bé. Để có chuyện, tôi hỏi người đàn bà : - Con gái bác đấy à? Người đàn bà vừa lau lại mặt bàn vừa trả lời rầu rầu : - Ừ, con bé đến khổ. Nó bị bệnh từ nhỏ mà cháu. Nhưng được cái ngoan và chăm lắm, giúp bác khối việc đấy. Bỗng người đàn bà lỡ tay gạt mất cuốn sách trên bàn xuống đất, tôi nhìn theo và chợt thấy lấp ló giữa những trang sách một góc tấm bưu ảnh tự làm. Linh cảm gì đó ập đến. Tôi cúi nhanh xuống nhặt giúp cuốn sách và sững người trước tấm bưu ảnh ấy. Hoa Cúc Tím ép. Lật sau, dòng chữ trên mảnh giấy trắng: "Mừng sinh nhật Cúc Tím" còn đậm. Chữ của tôi? Tôi có bị lòa mắt không? Chắc vẻ mặt của tôi lúc đó lạ lắm nên người đàn bà hỏi : - Chắc cậu cũng thích đọc những cuốn sách này hả? Con Hải cứ suốt ngày đọc đọc và viết viết, chẳng hiểu viết cái gì mà lắm vậy. Tôi giơ bông cúc tím ép, run run : - Cái này của cô ấy hả bác? - Ừ, nó thích hoa cúc tím lắm. Cái con bé đến lạ. Một lần nó đánh rơi quyển sách này với cái bông hoa ấy, tưởng mất, nó khóc mãi. Tôi vờ lơ đãng lật cuốn sổ bìa xanh chữ và hồi hộp đọc. Nhật ký ư? Chẳng có ngày tháng gì hết, chỉ những chữ triền miên bằng mực tím quen thuộc, lúc đậm, lúc nhạt, lúc nghiên, lúc thẳng, có lúc lại lòe nhòe: "Mình chẳng có bạn gì hết. Chẳng ai sống không có bạn bè ở lứa tuổi như mình. Nhưng biết làm sao được. Tụi bạn cùng lớp, cùng trường đứa nào cũng như lãng tránh mình, mọi quan hệ chỉ là xã giao, nhạt nhẽo và hờ hững. Mình hiểu... Mình ước ao có người bạn thực sự biết bao, để chia xẻ vui buồn và để được an ủi cảm thông. Nhưng chắc chẳng thế... Mình chỉ muốn có một người bạn ở xa, thật xa, chỉ gặp qua những lá thư thôi. Như thế chắc tình bạn đẹp hơn, thật hơn... Tùng bảo muốn biết tên thật và ảnh của mình. Không được đâu... Như thế thì mình tin chắc rằng mình sẽ mất nốt tất cả gì là niềm vui bé bỏng và tình bạn. Có ai còn muốn chơi với một con bé xấu xí và tật nguyền như mình? Họ chỉ thương hại. Không! Cúc Tím, mãi mãi mình chỉ là Cúc Tím chứ chẳng phải con bé Hải khốn khổ này". Tôi gập vội cuốn sổ đưa trả người đàn bà và bước ra khỏi quán như người đang say sóng. Hải - Cúc Tím - Trời ơi! Có một lần thằng Tuấn triết lý: "Cuộc đời là một chuỗi những bất ngờ. Không có điều gì là không thể xảy ra". Tôi đã cười vào mũi nó. Còn bay giờ? Thằng Tuấn ngạc nhiên về thái độ lặng lẽ và ngơ ngơ của tôi nhưng rồi mải mê với những khoanh bánh mì nên nó quên mất việc gặng hỏi. Đến chiều, lúc xe sắp chạy, tôi quyết định gặp lại cô bé ban sáng lần nữa nên kéo Tuấn ra quán đó mua một phong kẹo cao su. Vẫn đôi mắt đen láy buồn buồn như biết nói. Tôi cầm phong kẹo lôi Tuấn đi như chạy - Không! Cúc Tím của tôi mãi mãi chỉ là Cúc Tím. Xe chạy chầm chậm, bãi biển lùi xa, lùi xa dần. Từng dãy phố Hải Phòng rừng rực hoa phượng vĩ - những trái tim mùa hè đang cháy - cũng lùi xa. "Mình sợ sẽ mất nốt niềm vui mỏng manh này" dòng nhật ký của Hải lại hiện lên. Không, tôi sẽ không bao giờ kể Cúc Tím nghe về chuyến đi hôm nay, bởi tôi cũng không muốn phá vỡ sự trong trẻo của tình bạn này. Tôi ngoái lại nhìn những tán phượng đỏ nhạt nhòa phía sau và thì thầm: Cúc Tím ơi!

Nguyễn thị Việt Nga

Hoa dành cho người sống Tôi là kẻ quét rác, xén cỏ trong công viên. Cái nghề ít ai để ý, chỉ có tự tôi hay để ý mình. Người ta gọi đó là mặc cảm, chẳng biết có đúng không? Nơi tôi làm, đã thành nếp, sáng sớm các cụ vô tập thể dục. Khi các cụ về thì khách thập phương tới. Trưa, họ kéo nhau đi ăn và chiều, lại các cụ và các cháu nhỏ. Mãi tới tối thanh niên mới vào! Cái chu kỳ, chỉ bị phá vỡ vào dịp Tết hoặc ngày chủ nhật. Thỉnh thoảng cũng có ngoại lệ, ấy là vào giờ nghỉ trưa, các cặp tình nhân đến đây, hú hí vài giờ, rồi lặng lẽ rút. Ðôi khi có một bố già xấu tính, kiếm đâu được cô bồ nhí, đú đởn trong lùm cây, hoặc có gã choai choai ôm eo mụ nạ dòng mập ú. Những ngoại lệ ấy tôi nhổ nước miếng, bỏ qua. Nhưng có một trường hợp khiến tôi day dứt mãi, đó là bà lão, nhìn vẻ ngoài chẳng có gì đặc biệt. Bà xách cái giỏ nhựa, ngày ngày tới ngồi trên ghế đá lặng lẽ têm trầu với cái vẻ lơ đễnh của người vô cảm, không ra buồn cũng chẳng ra nhàn hạ. Dáng bà thanh mảnh, nhưng không phải cái thanh mảnh cuả người thành phố. Nghĩa là hơi thô và cứng. Cái cách bà ngồi đó, không ra người giàu, cũng chẳng thể nói bà nghèo. Ðôi lúc bà cũng đi dạo, nhưng những bước chân tự chúng đưa bà đi đâu đó, chứ quyết không phải bà chủ định tới cái đích nào. Rồi bà ngồi thẩn nhìn vào khoảng không. Tôi đã từng mon men tới gần quét dọn, hy vọng được bà bắt chuyện, nhưng bà lảng sang chỗ khác ngay. Cái ghế đá ấy, cả năm nay, chỉ dành riêng cho bà. Khi bà về, không còn dấu vết gì, kể cả bã trầu. Bẵng đi hàng tháng không thấy bà tới, lòng tôi bồn chồn lo ngạị chỉ sợ bà đau ốm thì khổ lắm. Nhưng bà lại xuất hiện. Sự xuất hiện cuả bà làm tôi mừng rỡ. Mặc dù nom bà có vẻ gầy hơn, xa vắng hơn. Bà vẫn mặc bộ đồ lụa thẫm giản dị với búi tóc bạc, khoác hờ chiếc khăn nhung mỏng màu đen và vẫn xách giỏ nhựa, âm thầm như cái bóng. Một lần.. Hai lần... Bà đến rồi đi, tựa hồ có sự phân định nhịp nhàng giống như công việc đơn điệu cuả tôi, tháng tháng lãnh lương, ngày ngày cặm cụi, riết rồi thành quen, thành ra yên phận. Nói là nói thế, những lúc đẩy cái máy xén cỏ rù rì, tôi cũng hay rù rì nghĩ ngợi, rằng chẳng biết thế nào nhỉ? Con người ta có số phận thật. Bà lão ấy ngày ngày ra công viên, chơi một mình, về một mình, chắc hẳn đời sống thanh nhàn lắm? Mà biết đâu chẳng phải thanh nhàn!? Tôi từ tấm bé lận đận, ba má mất sớm, học hành bỏ dở, chỉ biết lo kiếm sống, xin được việc làm ở đây, rồi lấy chồng, sanh con, được cái chồng hiền, con ngoan thế là mãn nguyện lắm. Có lẽ vì thế tôi ít ước mơ, ít nghĩ ngợi. Hễ thấy ai nghĩ ngợi là tôi lo, tôi sợ, mặc dù chẳng biết lo cái gì và sợ cái gì. Sự hiện diện cuả bà lão khiến tôi bối rối. Thương chẳng phải thương. Hình như tôi bị ám ảnh. Sáng ra làm việc, đã thấy bà lão ngồi đó nhai trầu. Tôi thầm theo dõi bà. Bà nhai trầu cho có cái để nhai, rồi lẩn thẩn lục lọi trong giỏ, sau đó ngồi im phắc. Trưa, bà lủi thủi xách giỏ về. Chiều bà lại tới, sự lặp đi lặp lại ấy dai dẳng đến nỗi tôi không chịu nổi. Một hôm tôi quyết định theo bà, khi cơn dông chiều ập xuống. Bà lập cập xách giỏ, lập cập bước, lập cập cúi chào ông gác cổng rồi men theo lề đường, tới góc phố có ngôi biệt thự, bà dừng bước, mở khoá lách vô. Tôi chưng hửng quay lại, chợt thấy có tiếng ô tô con, kiếng màu, cũng rẽ vào ngôi biệt thự. Tôi cảm thấy vô duyên cho nổi day dứt bấy nay cuả mình. Ngôi biệt thự ấy ngày nào tôi chả đi qua, bốn bề kín cổng cao tường, hoa ti gôn nở rộ, um tùm. Các cánh cửa sổ trên tầng lầu đóng im ỉm, như thể nó đã đóng từ thời xa lắm rồi. Rõ ràng đây không phải là nhà của dân thường! Nhà dân thường chẳng ai, cửa đóng kín thời kinh tế mặt tiền. Thế nhưng, từ hôm phát hiện ra bí mật ấy, không hiểu vì sao chẳng thấy bà lão ra công viên nữa. Ngôi biệt thự vẫn đóng kín, có cả xe ca và xe tải, chiếc nào cũng ngờm ngợp vòng hoa. Từng đoàn người trang trọng nối đuôi vào viếng. Tấm hình bà lão dán trên góc, bảng cáo phó trước cổng ngôi biệt thự, báo tôi biết bà không còn nữa. Tự dưng tôi cảm thấy bơ vơ. Ông già gác cổng đứng nhìn sang đám tang, chép miệng : - Tội nghiệp bà lão, chết không được một tiếng khóc! - Hoa nhiều quá, chắc bả làm gì to lắm? - Tôi nói. Ông già nhìn tôi vẻ thương hại : - Con bả làm chức to. Hoa cho người sống đấy cháu ạ! Tôi quay người, lau đi nước mắt...

Trung Trung Đỉnh

Hoa muộn 1. Những vườn xung quanh, mai đã bắt đầu trụi lá. Ngày nào, chú Tảo cũng cái quần soọc đen lơ lửng, áo may-ô thủng lỗ chỗ, đầu đội cái nón kết đỏ, len lỏi giữa những hành cây hỏi sang: "Bên ấy chưa nhặt lá à?". Chưa ai nhặt lá mai cả. Trong vườn, mai vẫn rậm rịt, không ai rảnh mà làm việc ấy, gần cuối năm, bà cụ lại được mời đi tỉnh chơi, những người trẻ còn lại trong nhà đùn đẩy nhau, ai cũng ngại, ai cũng cố cho rằng người ta chỉ bày vẽ, chứ cứ thử không nhặt xem, nó có nở không? Nở quá đi chứ!

Rồi một người nhớ ra, bảo "Ờ năm nay không có chú nhỏ nào đến nhặt lá giùm nhỉ?". Ở nhà, không cần quy ước, cứ ai lân la tán tỉnh Hạc đều được gọi là "chú nhỏ", có chú đến rồi đi luôn, có chú lai rai lâu lâu đảo qua một lần rồi biến mất, mỗi chú để lại một vài kỷ niệm trong nhà, trong vườn, trong cái trại gà lợp lá dừa mục nát. Đó là những cái ghế con đóng vuông vức đầy đinh; những cành cây bị bẻ quặt, uốn cong, cố vặn theo hình con lân, con phụng; là hệ thống máng ăn cho gà, dùng không biết bao giờ mới hỏng... Mọi người vẫn đùa, hỏi: "Hạc! Mày có nhớ thằng nào làm việc nào không?". Hạc vêu mặt cười: "Nhớ chứ, tôi ghi sổ hết mà!". Mọi người cười đe: "Cẩn thận! Một trong những thằng ấy mà vớ được cuốn sổ thì mày khốn!"

...Ờ đúng rồi, mấy năm nay chẳng có ai đến nhặt lá mai cho Hạc. Tuyến lấy vợ. Nhật xuất cảnh. Chức cách đây mấy hôm thấy chạy xe vèo vèo ngoài ngã ba, chở một đứa con gái bé như cái kẹo, không ôm iếc gì cả nhưng nhìn thì biết ngay là bồ bịch. Đó là những "chú nhỏ" năm xưa, tay lăm lăm kéo, đứng chông chênh trên cái ghế gỗ, hay khom lưng giữa những tàn mai già, nhặt lá. Lá mai xạm màu rơi đầy gốc, họ lại nghĩ ra việc quét vườn. Hạc lúc tựa gốc mít, lúc đi quanh chú nhỏ, nói chuyện "ngụ ngôn", đôi khi buồn cười, thấy hình như đã nói những câu thế này, cũng trong tiếng chổi lạt xạt quét vườn, vào năm ngoái, với người năm ngoái. Rồi về, nấn ná ở cổng, hẹn Tết nhớ đến coi mai nở, à trước Tết chứ, để còn chở đi chợ. Năm nào Hạc cũng phải giảng giải việc đi chợ Tết cho một người nào đấy, anh chị trong nhà lại cười: "Người vô duyên, không giữ ai được quá một năm!".

2. Rốt cuộc, cả đám người trẻ tuổi trong nhà vừa quyết định vừa cười láu cá: "Khỏi, thử một năm không nhặt lá, biết đâu hoa ra lác đác lại chẳng đẹp hơn?". Họ vùi đầu vào mua sắm, may cho nhanh mấy bộ quần áo Tết. Hai mươi tám Tết bà cụ mới về, đứng lọt thỏm giữa những bị cói, giỏ cước, trẻ con trong nhà ùa ra, miệng hét, tay xách, người lớn cũng ùa ra, cười: "Tết về rồi!". Bà cụ nhìn khoảng vườn còn rậm rịt lá mai, lắc đầu: "Chúng mày đáng sợ thật!". Cả lũ lại cười.

Mùng Một, mùng hai Tết, không có mai, Hạc thấy Tết giống như một ngày chủ nhật, như nhà ai giàu có làm đám cưới đốt pháo thật nhiều. Một người nói: "Mày đừng có đổ thừa! Cái hoa mai quê mùa ấy việc gì làm mày mất Tết", rồi ngậm miệng ngay, nhìn Hạc như muốn nói: "Chẳng qua năm nay không thằng nào đến nữa mà thôi!". Hạc cũng chỉ cười, vào nhà nằm, lôi mấy tờ báo Xuân ra xem mà thấy buồn rũ rượi: "Năm nay mình đã bao nhiêu tuổi? Vì sao những ngày lễ Tết mình luôn phải nằm nhà?".

Một đứa cháu trèo lên giường, moi móc từ trong túi ra một đống hạt dưa và một nắm phong bao ra đếm lại. Hạc cười: "Dì thấy con đếm phải đến chục lần chứ không ít!". Cô nghĩ: "Ngày xưa mình cũng như thế này" rồi lơ mơ ngủ mất.

3. Mọi người kêu lên ngán ngẩm: "Hết Tết!". Rồi vặn đồng hồ báo thức, dậy sớm đi làm trở lạị Bây giờ bà cụ mới đi nhặt lá mai được, lụi cụi từ gốc này qua gốc khác, thỉnh thoảng pháo sót lẹt đẹt đâu đó trong xóm nhỏ. Hạc đi quanh mẹ: "Chi vậy?". Bà cụ móm mém cười: "Tội nghiệp, nhặt để nó nở!".

Mai nở. Một chiều kia, như đã hẹn, một cô bạn dẫn ông anh họ đến nhà Hạc, gửi anh ta lại bảo: "Ra chợ một chút" rồi phóng xe đi mất, lại bỏ nhỏ: "Ông đàng hoàng lắm đó!". Anh ta lù khù, tay khư khư giữ cái mũ vàng như củ nghệ, chậm chạp, mãi mới cởi được xăng-đan để vào nhà. Hạc cau mày "Khi mình còn trẻ, cỡ này đừng hòng bò đến gần!". Rồi đau đớn nghĩ: "Sao mình cay đắng thế này!".

...Họ ngồi một lúc lâu, có tám trang báo giở qua giở lại, chẳng đọc được tin gì. Cũng không biết nói chuyện gì. Hạc rủ: "Ra vườn xem mai chơi!". Họ đi qua những góc vườn, nơi khoảng một chục cây mai bung ra đặc kịt những hoa vàng nở muộn. Hạc nghĩ: "Có mai rồi đấy, mà vẫn không thành Tết!". Hai người khoanh tay bước, chỉ có tiếng lá mai lạt xạt dưới chân. Họ vẫn không biết nói gì, nghiêm trang như giám khảo hội hoa Xuân... Và nắng chiều tắt dần, như một dải voan cũ vắt trên ngọn cây, nhợt nhạt...

Phan thị Vàng Anh

Khóc một mình Nàng ra khỏi lớp học ban đêm sớm hơn một tiếng đồng hồ bởi nàng đói; tan sở làm nàng phải chạy ngay vào lớp, không kịp ăn gì cả. Nàng định rủ ai đó đi cùng với nàng, nhưng lại nghĩ nếu bây giờ mà gọi đứa bạn nào thì ít nhất 30 phút nữa mới gặp nhau và thêm 30 phút nữa mới có thể bắt đầu ăn, nàng không thể chờ được nữa. Nàng chạy xe về hướng trung tâm Sài Gòn theo thói quen và chợt nhận ra mình đang thả dốc đường Đồng Khởi. Dọc con đường này không có quán ăn bình dân mà nàng lại đang sợ một mình bước vào quán bình dân, sợ sự xô bồ, náo nhiệt nơi đó sẽ không có chỗ yên ổn cho cái tật vừa ăn vừa đọc sách hoặc suy nghĩ của nàng. Nàng nghĩ đến số tiền trong túi và tự tin có thể vào bất cứ nhà hàng sang trọng nào trên con đường này, vì nàng chỉ có một mình, lại ăn ít mà hôm nay nàng vừa lãnh lương. Nàng dừng xe trước nhà hàng B. Nhà hàng này không xa lạ với nàng vì khi chưa có chồng nàng vẫn thường vào quán này, lúc nó chưa sang trọng như bây giờ nhưng đồ ăn Tây thì ngon tuyệt. Nàng gọi cho mình món súp kem gà và món salad trộn mà nàng thích. Trong khi chờ dọn món, nàng quan sát những thực khách xung quanh. Chiếc bàn trước mặt nàng có hai mẹ con ngồi, cô con gái nhỏ còn mặc bộ đồ đồng phục đi học, qua câu chuyện loáng thoáng của họ nàng biết hai mẹ con ghé vào đây ăn, chờ đến giờ để đi đón anh của cô bé. Nàng nhớ đến đứa con trai. Hôm nay là ngày nàng đi học, nó đang ở với ba. Nàng ước gì có nó ở đây để nàng sẽ cho nó ăn bất cứ món gì nó thích. Nhưng thằng bé giống nàng, cái ăn đối với nó hình như không quan trọng, chẳng bao giờ thấy nó bảo thèm gì. Nàng tìm kiếm một tờ báo hay tạp chí nào đó để đọc trong khi ăn nhưng không thấy, rồi ánh mắt nàng dừng lại ở chiếc bàn đối diện, bắt gặp người mẹ đang chăm chút đút muỗng thức ăn cho con gái. Động tác của chị thật trìu mến. Đến lượt đứa bé lại múc một muỗng thức ăn của mình cho mẹ ăn. Nàng thấy nhớ con đến quặn lòng vì hai mẹ con nàng cũng thường chơi trò chơi này. Một giọt nước mắt của nàng rơi xuống đĩa súp sánh đặc như bột em bé, tạo ra một vết lõm giống như một vết rỗ trên một làn da mịn màng, rồi hai giọt, ba giọt... Nàng lén chùi nước mắt và nhìn lên xem có ai bắt gặp nàng đang khóc hay không. Trời ơi, giá như có gì để đọc nàng sẽ không rơi vào tình trạng này. Cuối cùng nàng cảm thấy no dù mới chỉ ăn được mỗi thứ một nửa. Nàng không muốn cố vì sợ vô cùng cái cảm giác phải cố ăn một thứ gì. Nàng nhớ đến những lần đi ăn chung với chồng, lúc gọi món ăn bao giờ nàng cũng được chồng nhắc nhở: "Em ăn hết không đó?". Nàng khựng lại, rồi bảo chồng: "Vậy thôi, anh cứ gọi món anh thích đi, em ăn phụ với anh". Chồng nàng hài lòng vì điều đó, anh vui vẻ gọi vài món mà anh khoái khẩu, yên tâm nó sẽ không thừa vì đã có nàng ăn phụ, nhưng khốn nỗi những món đó nàng lại không thích. Mặc kệ, nàng ăn cho qua cơn đói, bữa ăn đối với nàng thế cũng xong. Nhiều lần như vậy, nàng chợt nghĩ sao mình không chọn món mình thích và bảo chồng ăn chung với mình. Một lần nàng bảo: "Em gọi món này nhé?", "Ừ, em thích gì cứ gọi!", "Anh ăn chung với em nhé?", "Không! Em gọi thì ráng ăn cho hết, anh không thích món đó!". Nàng phân vân định thôi, nhưng hôm đó nàng muốn nổi loạn, cứ gọi món mình thích. Nàng biết anh không vui nhưng giả vờ không nhận ra. Nàng thích thú được ăn món mình thèm, bất kể sự không hài lòng của chồng. Nhưng nàng ăn mới phân nửa đã cảm thấy quá no, dù rất ngon miệng. Nàng định uống nước, kết thúc bữa ăn nhưng khi bắt gặp ánh mắt nghiêm khắc của chồng lướt nhanh qua đĩa thức ăn thừa, nàng đâm chột dạ. Nếu hôm nay nàng ăn không hết thì những lần sau khi đi ăn với chồng, nàng sẽ không còn tự tin để gọi cho mình món nàng ưa thích. Thế là nàng quyết định ăn tiếp, cố nhồi nhét, cố ém chặt thức ăn vào cái bao tử bé xíu bệnh hoạn của nàng. Cuối cùng nàng cũng giải quyết xong cái đĩa của mình, cố không chừa chút gì dù là một cọng rau trang trí. Chồng nàng lại liếc qua đĩa của nàng, gương mặt anh đã giãn ra chút xíu. Nhưng trên đĩa của chồng nàng, thức ăn vẫn còn dư vì không có nàng ăn phụ. Anh có vẻ sượng sùng. Chỉ cần vậy nàng đã đủ hả hê vì chiến thắng. Nàng cười khoái trá trong bụng. Tối hôm đó về nhà, nàng cảm thấy khó chịu đến mức không chịu nổi. Nàng vào toilet, móc họng nôn ra bằng hết không chừa lại một thứ gì. Nàng vừa ói, vừa khóc nhưng cố nén tiếng khóc. Nước mắt là vũ khí lợi hại của đàn bà khi muốn làm mềm lòng đàn ông nhưng điều đó không đúng với trường hợp của nàng. Chồng nàng không thích thấy nàng khóc, vì điều đó chứng tỏ nàng buồn chán điều gì hoặc nàng không hài lòng điều gì ở anh, trong khi theo anh thì nàng đang có những thứ mà bao nhiêu người đàn bà khác ao ước; và luôn cho rằng nàng thật may mắn khi có một người chồng như anh. Từ khi sống với chồng, nàng tập cho mình thói quen khóc thật ít và cố nén chặt vào lòng nỗi thống khổ của mình. Nàng từng tự hỏi mình có phải là một kẻ nhu nhược không, có quá lệ thuộc vào chồng không? Không! Nàng có công việc làm tốt ở một công ty nước ngoài, mức lương còn cao gấp mấy lương chồng, kiến thức của nàng đủ để tiếp xúc với nhiều loại người trong xã hội, ngoại hình của nàng đủ để bất kỳ người đàn ông nào cũng tự tin đi bên cạnh nàng. Vậy nàng chẳng có lý do gì để sống nhu nhược như vậy, nàng có thể làm theo ý thích của nàng, ít nhất là chuyện ăn uống. Nhưng nàng đã xử sự nhẫn nhịn như vậy để mong được chồng đối xử với nàng theo cách mà nàng đối xử với anh. Nàng hi vọng một lúc nào đó chồng nàng sẽ thay đổi cách đối xử với nàng. Nàng đang tự cho mình một cơ hội để tình yêu của nàng đối với chồng còn ở lại trong tim mình. Những lần sau khi đi ăn cùng chồng, nàng không chọn thức ăn nữa, để chồng tùy thích gọi món, xem ra chồng nàng hài lòng vì nàng đã học được bài học tiết kiệm và bài học phải biết làm theo ý anh, biết ăn đúng món anh thích. Suốt từ đó đến khi nàng và chồng ly dị, chưa bao giờ nàng có được những giây phút thoải mái khi đi ăn với chồng. Vậy mà càng ngày anh càng nghiệt ngã với nàng hơn, có lần nàng gọi một món rau, chưa kịp ăn nàng đã nghe giọng nói vừa khinh khỉnh vừa hằn học của chồng: "Em khùng hả, vô nhà hàng sang trọng như vầy mà kêu rau xào, muốn người ta cười cho à? Sao ở nhà em không đi chợ mua chục bó rau về xào ăn cho đã!". Nàng bỏ đũa xuống, nghiến răng để đừng bật khóc ở chỗ đông người và chỉ muốn hất đĩa rau vào cái gương mặt lịch lãm mà chỉ có nàng mới thấy sự giả dối, khắc nghiệt đến tàn nhẫn ẩn chứa phía sau. Nàng nhìn thẳng vào gương mặt ấy, chậm rãi nhả từng chữ một vừa đủ để chồng nàng nghe: "Anh thích ăn món khác còn em chỉ thích ăn món này, sao anh không cho em cái quyền được ăn món mình thích, trong khi em chưa bao giờ có ý kiến khi anh thích món gì?...". Rồi nàng nghẹn lời, không nói nổi nữa khi đứa con ba tuổi của nàng gọi mẹ: "Mẹ ơi, đút cho con ăn đi mẹ!". Nàng quay sang cho con ăn để lấy lại bình tĩnh, cũng để ngăn dòng nước mắt sắp trào ra. Từ hôm đó, nàng tìm cách từ chối đi ăn với chồng, thoái thác những buổi tiệc mời và cũng tìm cách tránh gần gũi với chồng. Những đêm buộc phải làm bổn phận người vợ nàng cảm thấy khủng khiếp vô cùng. Thấy nàng ngày càng lạnh nhạt chuyện chăn gối, chồng nàng càng ngày càng hằn học với nàng hơn cho đến lúc cuộc sống chung giữa anh và nàng chấm dứt. Nàng đã ngồi hơn hai tiếng đồng hồ trong nhà hàng chỉ để ăn một đĩa súp và một ít rau, trong khi quá khứ với nỗi ám ảnh trong những bữa ăn cứ hiện về không dừng lại được. Hôm nay nàng không còn cảm giác sợ hãi và do dự khi cầm cái thực đơn để chọn thức ăn cho mình, không còn cái cảm giác đau đớn, uất ức khi phải móc họng cho ói hết những thức ăn quá tải trong dạ dày hôm nào. Lúc này nàng mới cảm nhận được sự tự do mà nàng đang có, dù để đổi được nó nàng đã phải trả giá quá đắt, phải xa đứa con yêu của nàng. Cái tự do mà hôm nay nàng có không phải là mục đích của đời nàng, nhưng nàng không thể chịu đựng nổi cuộc sống đã trải qua. Nàng và chồng nàng ly dị nhanh đến nỗi những người thân thiết nhất của họ cũng không hề hay biết. Dĩ nhiên không phải chỉ vì chuyện ăn uống mà đem nhau ra tòa ly dị. Nàng không ân hận, không tiếc nuối, nàng cũng chưa bao giờ nghĩ là tình yêu của nàng và cuộc hôn nhân đó là sai lầm, sai lầm sao được khi nàng đã yêu người đó gần năm năm trời - suốt cả thời thiếu nữ của nàng - rồi mới đi đến hôn nhân, và nàng đã sống cùng người ấy thêm tám năm nữa. Mười ba năm không phải là mười ba ngày hay mười ba tháng để bảo rằng nàng vội vã hay nhầm lẫn trong tình yêu... Giọng nói dịu dàng của người phụ nữ ở bàn đối diện đã kéo nàng về thực tại: "Con ăn nữa không?", "Dạ không, con no rồi mẹ!", "Thức ăn không ngon hả con, thôi bỏ đi đừng ráng. Bây giờ mình đi đón anh hai nghe?", " Dạ, đi mẹ". Nàng chợt nghĩ giả sử người mẹ đó lại bảo con gái: "Nè, con đòi ăn thì phải ăn cho hết nghe, nếu không mai mốt đừng đòi nữa nhé!", không biết cô bé kia sẽ phản ứng như thế nào nhỉ? Nó có khóc như nàng hay không, hay trên đời này chỉ có nàng khóc vì điều đó? Nàng nhớ con trai nàng quá, nàng thèm có nó bên cạnh để được nhìn ngắm nó ăn, nghe nó kể chuyện, hạnh phúc làm sao khi được nói những lời âu yếm với người mình thương yêu, nàng cũng thèm có ai đó nói với nàng những lời ngọt ngào như thế. Ra khỏi quán, nàng chạy xe mà nước mắt tuôn không ngừng. May quá trời mưa lất phất, đường phố khuya vắng người, không ai nhìn thấy nàng khóc.

Trần Anh Đào

Loài hoa biến sắc Tôi khóa cửa cẩn thận, móc thêm mấy cái móc sắt và thả những tấm rèm xuống. Xong xuôi, tôi mở sắc lấy ra thỏi son Nữ hoàng E-li-da-bét. Ống son mạ vàng in hình đầu một người đàn bà đẹp mê hồn. Tôi đặt thỏi son lên môi, hồi hộp và náo nức. Trong tấm gương, một khuôn mặt ai lạ nhìn tôi: Đôi mắt, đường cong, lông mày, món tóc lưa thưa sau cơn sốt phủ xuống trán, làn da tái xanh với những chấm tàn nhang lờ mờ hai bên má. Những thứ đó chẳng ăn nhập gì với cặp môi tô son nhem nhuốc.Đôi mắt trong gương nhìn tôi với vẻ lạ lùng. Và một đôi mắt khác, một đôi mắt vô hình nhìn tôi với cái nhìn nóng bỏng. Tôi đặt thỏi son xuống. Cơn gió đi qua thổi lật những trang sách trên bàn. Đó là cuốn "Làm đẹp", một cuốn sách dày ngót sáu trăm trang mà tôi mới tìm mua được ngày Chủ Nhật trước. Những dòng chữ in nghiêng nổi lên: "Trang điểm xong, bạn hãy ngồi trước quạt dăm phút cho khô kem rồi hãy sang phòng chọn áo. Mùa hè nên chọn hàng mỏng, thứ bóng hay mờ tùy theo người gầy hay béo. Màu thanh niên, hoàng yến, lòng tôm lợt hay màu hoa cà là những màu thường được ưa dùng..." Những người đàn bà ở đây mới sung sướng làm sao?Một sự thèm muốn xâm chiếm lòng tôi, từ từ và đau rát như một dòng chì lỏng tưới vào. Sau những năm tháng ở rừng, cuộc sống ở nơi đây làm tôi choáng váng. Phố phường, nhà cửa, lầu gác, hàng hóa, ánh đèn chất ngất, tiếng ồn ào vô tận như dòng suối chảy trên bờ phố, nhịp điệu của tiếng đàn ghi ta trong những tiệm cà phê thắp đèn hồng... Nhưng điều lôi cuốn hơn cả vẫn là những người đàn bà ở đây. Họ mở ra trước mắt tôi một thế giới của cuộc sống phồn hoa, một thế giới chúng tôi chưa từng thấy, chưa từng nghĩ đến, một thế giới choáng lộn màu sắc và ngào ngạt hương thơm của các mỹ phẩm. Mỗi người đàn bà ở đây có hàng tá áo dài, áo len đủ màu và đủ kiểu. Những hộp nữ trang đồ sộ, các loại phấn son, các thứ chì kẻ mắt... Chỉ những đồ dùng vặt vãnh của họ cũng đủ làm cho tôi mê mẩn. Tuổi thanh xuân đi qua trên những cánh rừng ngút ngàn của giải Trường Sơn. Những năm ấy làn da đã trôi mất màu hồng tươi thắm vì sốt rét. Mái tóc óng ả đã trút dần trên những con suối độc ngấm đầy lá lim. Bàn tay quen với choòng cuốc gần chai cứng. Và chúng tôi trở về thành phố với chiếc ba lô sau lưng, tấm khăn dù quấn quanh cổ và với vẻ vụng về ngơ ngác của những người quen ở miệt núi non. Đoàn quân chiến thắng đổ về các thành phố. Chúng tôi đã sống những ngày đầy tự hào, những ngày vui sướng đến ngây ngất. Nhưng rồi sau đó chỉ những người con trai vô tư là giữ được trọn vẹn niềm hân hoan đó. Tôi thì có khác, bên hạnh phúc của người chiến thắng, tôi còn có những nỗi xao xuyến khác, một thứ tâm sự rất đàn bà. Tôi thường nhìn những người con gái đi qua mặt mình, những người con gái được trang điểm lộng lẫy, áo quần sang trọng, dáng điệu đài các. Họ đi đến đâu, không gian sực nức mùi nước hoa quyến rũ. Rồi tôi cũng lại tự ngắm mình trong gương, trong các tấm kính cửa, và tôi thấy một cô gái đen đủi, ăn vận xoàng xĩnh. Có một cảm giác gần như ghen tị, và bên dưới sự ghen tị đó là một nỗi tủi buồn mờ nhạt, không rõ nét nhưng dai dẳng xâm chiếm tâm hồn. Mỗi khi có người đàn bà nào đó đi qua không thèm ngoái lại, ném sang một cái nhìn chế diễu hoặc khinh mạn, lòng tôi cộm lên và nỗi uất ức làm nóng ran đầu óc... Tôi nhìn vào tấm gương. Một khuôn mặt khác vẫn còn trong đó, với đôi môi đỏ chót. Gian phòng thênh thang vắng lặng. Trên bàn chiếc máy ghi âm đang phát ra một đoạn nhạc không lời, một giai điệu nhợt nhạt buồn bã nhưng tiếng đệm của bộ gõ lại quá chát chúa và rậm rịch. Đoạn nhạc kéo dài, rồi nó chợt tắt đi và tiếng đọc thơ vang lên, một giọng nam trầm ấm áp: "Cùng mắc võng trên rừng Trường Sơn. Hai đứa ở hai đầu xa thẳm..." Bài thơ thân thiết, như một cơn gió đột ngột ùa đến, nó tràn đầy trong tôi, xóa sạch những nỗi buồn bực, day dứt. Tôi nhắm mắt lại, không còn nhìn thấy khuôn mặt ngơ ngác có cặp môi tô son, không còn nhìn thấy bóng dáng những người đàn bà thành phố, không còn cái đầu mê hồn của nữ hoàng Ê-li-da-bet mạ vàng. Không còn những ao ước, những khát khao mới lạ... Những cánh rừng rung lá trên đầu tôi. Những cánh rừng xanh rì, dây leo nở đầy hoa, những tán cây xum xuê như chiếc dù thần bí. Trảng cỏ non bốc lên làn khói màu lam... Rồi đường 20, con đường lầy như cháo đổ, những con ngầm nước réo. Đèo Phu-la-nhic trong sương. Làn khói vòng vèo trên mái nứa binh trạm. Tôi cùng đồng đội đứng làm cọc tiêu trong mưa. Trận bom bên kia đèo. Trong cái hang Cóc Chúa sặc sụa khói, chúng tôi ngồi gác chân bên đống than hồng, vắt mái tóc ướt sũng nước mưa và gào lên những câu hát tinh nghịch: "Hết xuân rồi, anh có lấy em không?..." Những ngày gian truân và vui sướng. Tôi chìm sâu trong những hồi ức chiến tranh, lòng mát mẻ êm dịu và thấm đẫm những giọt sương mai, những giọt sương của một cánh rừng tiền duyên, chúng nối nhau rơi xuống từ những chiếc lá hình thoi, màu xanh sáng. Trên chót những vòm lá một chùm hoa tím đung đưa. Những giọt sương rơi lộp độp, tiếng vang động như tiếng nứt của những quả thông khô... Ai gõ cửa rất lâu và dồn dập. Tôi sực tỉnh. Việc đầu tiên là lấy khăn ướt lau cho sạch son trên môi rồi chạy ra mở khóa. Chiếc chìa khóa vừa xoay một vòng thì hai cánh cửa đã bật tung ra và Khánh đứng trước mặt tôi với nụ cười hết cỡ : - Nhóc con, ngủ hay sao mà lâu thế? Tôi chưa kịp trả lời thì anh ta đã mắng té tát luôn : - Coi chừng đó, về thành phố là đâm lười ra, chưa tối đã lên giường ngủ. Tôi cười chống đỡ và vội vàng đứng tựa lưng vào chiếc bàn trang điểm để che đi hộp son còn nằm lăn lóc. Nhưng Khánh không để ý đến điều đó, anh giục tôi : - Chải đầu rồi đi ăn cơm với anh. - Em ăn cơm chiều rồi. - Đi chơi, ăn bánh trái là chủ yếu chứ ai bắt ăn cơm. Con gái ở rừng về có khác, ngốc thật. Tôi ngại ngùng : - Thôi để khi khác. Khánh nhìn quanh phòng, anh cười trìu mến : - Này, đây có phải cái đền đâu mà em làm ông từ coi bàn thờ Phật. Khánh cùng cơ quan với tôi nhưng ở khác bộ phận. Tôi được vào làm phóng viên báo là do anh. Hồi trước tôi ở C bảy. Trong một đợt đi công tác dọc đường 20 Khánh đã đến đơn vị tôi. Anh đọc báo liếp chi đoàn rồi cứ nằng nặc đòi tôi cho xem nhật ký. Anh đi được nửa tháng thì có lệnh gọi tôi lên ban chỉ huy. Ở đó người làm thủ tục chuyển tôi sang tòa báo và chỉ nói một câu cụt ngủn : - Đồng chí sang bên đó hợp với khả năng hơn. Đeo ba lô đến cơ quan mới, tôi vẫn cứ tấm tức không hiểu vì sao có người lại cho tôi ra đi một cách vội vàng đến thế. Tụi bạn gái khóc sướt mướt, chúng dúi vào ba lô tôi từ chiếc khăn mùi xoa, cây kim móc đến mấy sợi chỉ thêu và chiếc hộp đựng xà phòng gõ bằng ống pháo sáng. Đến nơi mới thấy Khánh đứng cười ha hả, tay cầm phong lương khô đem làm quà cho nữ phóng viên mới. Khánh đã có vợ con và hơn tôi bảy tuổi. Anh đối với tôi và những người bạn đồng nghiệp khác có cái săn sóc của người gia trưởng. Trong con mắt anh, tôi là một con bé tỉnh lẻ, lớn xác mà ngốc nghếch, vì thế anh hay để ý chăm chút hơn. Tôi chải tóc và lấy chiếc túi nhựa bỏ vài thứ lặt vặt vào. Khánh đã khởi động chiếc honda ngoài sân. Tiếng máy nổ lục bục, tắt nghẹn rồi lại ròn rã. - Nào, ngồi lên, ôm cho chắc kẻo ngã vỡ đầu đấy. Khánh ra lệnh, anh chờ tôi ngồi yên rồi mới dận ga. Chiếc xe lao đi. Đường phố buổi tối rất đông. Tuy bớt đi vẻ ồn ào nóng bức ban ngày nhưng lại thêm cái chói chang, lấp lóe của bao nhiêu thứ điện. Mùi mồ hôi, mùi gió mặn, mùi nước hoa, mùi rác rưởi, vỏ cây lá bánh ngoài cửa chợ và mùi xào nấu trong các tiệm ăn bốc lên. Khánh đưa tôi đến một tiệm ăn Hoa Kiều. Một thanh niên chờ sẵn ở đó, chạy ra nắm lấy tay Khánh tươi cười. - Sao lâu vậy, làm mình chờ hoài. Anh ta quay sang tôi : - Chào chị. Tôi gật đầu chào lại. Khánh giới thiệu : - Đây là cô Sửu, em út trong cơ quan tôi. Còn đây là anh Hoàn, vừa là anh con bác, vừa là bạn của anh. Tôi cười, Hoàn nhã nhặn chìa tay ra dáng điệu lịch thiệp và duyên dáng. Anh bận áo ny lông cát trắng và chiếc quần vải mềm màu xám nhẹ. Hoàn có nụ cười tươi, môi mỏng và hồng, nó làm người ta quên đi nước da nhợt rất khó ngó với khuôn mặt quá dài, nhất là chiếc cằm giống hệt một chiếc bánh mì chưa nướng. Hoàn là anh con chú bác ruột với Khánh, nhưng hai người ngoài mối quan hệ ruột thịt còn gắn bó với nhau bằng tình bạn hữu. Cả hai cùng ở phố Trần Xuân Soạn Hà Nội. Năm 54 họ còn là những chú bé tám tuổi sáng sáng xin mẹ hai trăm rưởi ra ngõ I Hàm Long ăn phở Tầu, đến trường chia nhau từng quả táo dầm muối ớt. Sau đó gia đình Hoàn di cư. Hai người đứng trong xó tối buồng tắm khóc thút thít. Khánh đã dốc vào túi tất cả số tiền anh lấy trộm được của mẹ với một gói ô mai. Ngày ấy cách đây đã hai mươi năm rồi... Cả hai người đã lớn và khác xưa. Nhưng Hoàn vẫn nhớ Khánh rất thích ăn phở Tàu và tối nay anh đã đặt cơm tại đây, một tiệm ăn Hoa Kiều nổi tiếng. Trên chiếc bàn gỗ mun cổ lỗ trải khăn trắng, món ăn, đồ nhắm, bia rượu và nước ngọt bày la liệt. Chúng tôi ngồi vào bàn. Nhưng bữa ăn vẫn chưa bắt đầu vì còn phải chờ một vị khách nữa, theo như Hoàn giới thiệu thì đó là bồ của anh. Tôi dựa lưng vào tường, lơ đãng nhìn những cánh quạt đang xoay tít trên trần nhà. Những người bồi mặc áo trắng đi lại, mấy tấm gương đục ố nước thủy tinh bầu dục phản chiếu bóng người và xe cộ ngoài đường phố. Các bàn ăn chặt ních, có những người hình như đã ngồi đó từ sáng đến giờ và còn có thể ngồi đó cho đến nửa đêm. Một cặp trai gái cắm chiếc nĩa lên lưng một con gà quay và cứ ngồi chuyện rì rầm mãi. Ở đây người ta sẵn thì giờ thật. Thì giờ ở những tiệm ăn, tiệm giải khát, những phòng uốn tóc và những mỹ viện, những chiếc ghế xích đu và những đi văng. Không hiểu vì sao tôi lại theo đuổi những ý nghĩ tản mạn và thấy buồn. Cái âm hưởng của những câu thơ quen thuộc vẫn còn ngân nga trong tôi. Nó ngân lên những âm thanh trong suốt, âm thanh của những ngọn suối trên non cao. Hoàn bỗng đứng dậy và phác một cử chỉ như vẫy gọi. Ngoài cửa, một cô gái đang lách giữa đám khách ăn chật ních tìm lối đi vào. Hoàn ra hiệu cho cô ta lần thứ hai. Cô gái nhận ra anh và cười. Phải chăng cô chính là người chúng tôi chờ đợi?Cô gái chừng mười chín, hai mươi tuổi. Nhưng mặc dù cô gái còn rất trẻ, tôi không thấy cô có dáng dấp của một cô gái mà lại có vẻ từng trải của một người đàn bà sớm biết lo toan. Người cô gầy, dáng mảnh dẻ, cô bận chiếc áo dài hở cổ màu ca ra men in hoa chuỗi, quần bằng thứ sa tanh mỏng, nổi lấm tấm những hạt dâu bóng. Cô xách chiếc xắc giả da cá sấu, khóa mạ vàng hình tròn, kiểu rất lạ. Hoàn đứng dậy giới thiệu. Chúng tôi chào nhau rồi cô gái kéo ghế ngồi xuống, ngay cạnh tôi. Vạt áo dài cô rơi xuống chạm vào chân tôi mát lạnh, êm ái đến nỗi ta hình dung ra ngay sự mịn màng của chất lụa. Cái cảm giác ấy lại gợi cho tôi sự thèm muốn đã bị dập tắt. Từ áo quần cô gái tỏa ra mùi nước hoa mát mẻ, mùi nước hoa kêu gọi người ta đến gần. Hoàn đứng dậy nói vài lời trước bữa ăn. Tôi nhân dịp đó mà ngắm nghía cô gái. Cô không đẹp nhưng cũng dễ coi. Nét mặt đều đặn, cặp môi tròn và chiếc mũi thanh. Còn đôi mắt đờ đẫn và cặp lông mày tỉa nhỏ trông có phần tẻ nhạt. Cô dùng phấn son khá hợp màu da, mắt kẻ chì nâu và chải lông mi bằng thứ gôm tốt. Sự trang điểm đã tôn nhan sắc của cô lên khá nhiều nếu không cô cũng chỉ có một khuôn mặt như bất cứ khuôn mặt của một cô gái nào mà ta có thể gặp ngoài đường. Bàn tay cô nhỏ, mềm mại, đeo nhẫn bạch kim có gắn những mảnh đá li ti. Mỗi khi giơ tay kéo áo hoặc vén mớ tóc lòa xòa trước trán, những mảnh đá phản chiếu ánh đèn sáng óng ánh khiến cô giống một nàng công chúa trong màn cải lương. Bằng sự tò mò đặc biệt của đàn bà với đàn bà, tôi nhận ra là sau mấy phút dè dặt ban đầu cô ăn uống rất ngon lành, thậm chí còn hơn thế nữa. Rượu uống cạn từng chén đầy, mặt không hề biến sắc. Tôi đã từng gặp những bà nạ giòng có thể uống hết hàng lít rượu, nhưng chưa hề gặp người con gái nào ung dung uống hết cốc rượu này đến cốc khác tựa hồ ta uống nước lạnh trong mùa hè. Kinh ngạc, tôi ngồi im thầm lén theo dõi. Bên kia bàn, Khánh và Hoàn đang sôi nổi chuyện trò. Câu chuyện đã chuyển qua vấn đề màu sắc trang phục. Tôi thấy Hoàn đặt tay lên bàn ngắm nghía, hai bàn tay anh ta trắng như tờ giấy, và nhướng cao đôi mày lên : - Không hiểu vì sao mà mấy anh mấy chị ngoài Bắc vô ưng màu blơ marin và màu boóc đô thế. Đi đâu cứ gặp người mua len, mua áo hai màu đó là biết liền. Cô gái góp chuyện : - Hai màu đó quê quá hà! Rồi lại cúi xuống đĩa thịt vằm bọc tôm chiên. Khánh cười, anh ngẩng cao mái đầu chớm bạc : - Vì chúng tôi ở rừng lâu quá mà. Ở rừng lâu quá hóa mê rừng. Màu blơ marin gợi nhớ núi non. Hàm răng Khánh ngời lên dưới ánh điện đều đặn và trẻ trung. Biết mình lỡ lời, Hoàn khéo léo lái câu chuyện sang hướng khác : - Anh có biết ai ngày xưa hay mặc màu đó không? - Vân tóc đuôi mèo. Cả hai cùng cười và cùng lắng lại. Đôi mắt Hoàn trở nên xa xăm : - Vân đẹp thật - anh nói - Hồi đó chúng mình còn nhỏ xíu mà tôi vẫn nhớ như ngày hôm qua. Vân có đôi mắt nhung, miệng cười rất tươi có một chiếc răng khểnh. Vân hay mặc áo len màu blơ marin cài hoa trắng và tóc thắt một chiếc nơ đỏ rất to... Anh có nhớ chúng mình đã chặn đường cướp của cô aấy mấy quả nhót không?... - Tôi vẫn nhớ. - Khánh trả lời thong thả. - Ngày ấy đúng là tôi yêu Vân. Mê thì đúng hơn. Buổi học nào vắng cô ấy là mình không ngồi yên được. Đúng là tình yêu thời con trẻ nó không bao giờ thành công và cũng không bao giờ chấm dứt. - Anh vẫn còn yêu Vân chứ? Khánh hỏi và cười, đuôi mắt anh nheo lại diễu cợt. Hoàn cũng cười, anh lấy kính xuống lau và trầm ngâm : - Không. Cũng không phải là không mà cũng không hẳn là có. Anh biết đấy, chúng ta đã trưởng thành. Tôi có nhiều người đàn bà, nhiều cô gái, tôi kiếm họ chẳng khó khăn gì, nhưng chưa ai làm tôi phải hồi hộp như Vân ngày ấy. Anh ta mơ màng một giây rồi hỏi Khánh, giọng thấp xuống : - Vân còn không anh? - Còn, chị ấy bây giờ là phó tiến sĩ hóa học, vẫn ở ngõ Huyện thôi. - Cô ấy có chồng chưa? Hoàn hỏi tiếp, hấp tấp nâng cặp kính, chăm chú vào miệng Khánh. - Chị ấy hai cháu rồi. - Thế à. Hoàn bật ra một tiếng thở dài, anh co cẳng chân dưới gầm bàn lại, nhún vai : - Ai cũng yên bề gia thất rồi, chỉ còn mình là chưa nên tấm nên đẫn gì cả. - Sao cơ? Khánh giả bộ hỏi lại, anh cười rất to và lúc sau, anh liếc nhìn cô gái một cách trêu cợt, vui vẻ nói : - Thì anh cũng sắp nên tấm nên đẫn rồi, có gì mà phải than thở. Tôi cũng cười hưởng ứng và nhìn cả hai người. Nhưng trước thái độ của chúng tôi, Hoàn không nói gì cả. Đang bần thần nghĩ ngợi anh ta bỗng "hả".... một tiếng. Rồi lại im lặng suy nghĩ điều gì đó, nét mặt dửng dưng, hoàn toàn không chú ý gì đến chuyện của chúng tôi. Tôi và Khánh sững sờ. Chúng tôi nhìn nhau, và nhìn cô gái. Ở địa vị của cô, có lẽ tôi phải thăng thiên hay độn thổ vì ngượng ngùng. Nhưng trái với mọi sự lo ngại, cô vẫn điềm nhiên lấy nĩa chọc vào một miếng bánh bơ. Bây giờ thì chính thái độ của cô lại làm chúng tôi kinh ngạc. Tôi nhìn Khánh dò hỏi. Nhưng anh lắc đầu. Anh cũng không hiểu biết gì hơn tôi. Sự im lặng kéo dài một lúc lâu, Hoàn mới sực nhớ ra bữa tiệc đã xong, đến phần ăn đồ ngọt và uống nước. Anh đứng dậy kêu người bồi dọn bàn và châm trà. Ngồi xuống, Hoàn đưa tay lên túi lấy thuốc theo thói quen. Thuốc đã hết. Anh rút tờ giấy bạc một ngàn và bảo cô gái : - Mỹ Dung mua hộ anh bao thuốc, chịu khó nghe cưng. Cô gái đứng dậy đi ra. Chờ cho cô đi khuất Khánh mới trách Hoàn : - Tại sao anh lại có thái độ như vậy? - Tôi làm sao cơ chứ? Hoàn hỏi lại, cặp lông mày nhướng lên theo thói quen. Khánh nhắc lại câu nói đùa ban nãy và thái độ hờ hững của Hoàn, nhất là khi cô gái ngồi ngay đó. - À, xin lỗi, xin lỗi... Hoàn cười ngất và gật đầu lia lịa : - Tôi hiểu rồi, hiểu rồi, nhưng các bạn đã phải để tôi nói cho hết đã. Mỹ Dung là bồ của tôi, nhưng tôi không có ý định cưới cô làm vợ. Trước tôi, cô ấy cặp bồ với người khác. Tôi cũng vậy. Mỗi tháng tôi chi cho Mỹ Dung hai mươi ngàn, cô ấy chỉ đòi hỏi tôi có vậy thôi. Ngoài ra không cần gì hơn nữa. Tôi không muốn Dung ràng buộc gì với tôi. Cả hai chúng tôi đều tự do... Ngừng lại một chút Hoàn tiếp : - Mỹ Dung làm bồ cho tôi là trúng số. Dẫu sao tôi cũng biết điều và rộng rãi. Còn nếu đi dạy học thì cùng lắm cỡ giáo viên tiểu học như cô ấy một tháng chỉ được tám chín ngàn là hết sức. Ông bà già cô ấy nghèo, không buôn bán chi hết. Tôi bao Mỹ Dung mới được gần một năm nay, so với những người trước cặp bồ với Dung tôi bận bịu nhiều công việc, nên mỗi tháng cô ấy chỉ mất với tôi trên dưới một tuần thôi. Các bạn cứ hỏi mà xem, cô ấy nói cặp bồ với tôi là dễ chịu nhất... Hoàn ngừng lại. Và để minh họa cho cái quan hệ sòng phẳng giữa hai người, anh ta rút ra một xấp giấy bạc đã đếm sẵn, được chằng lại bằng một sợi dây nịt. Chiếc ví của cô gái vẫn để trên bàn, Hoàn kéo lại, mở khóa để xếp tiền vào trong. Nhưng đúng lúc anh ta xách ngược chiếc ví đã mở nắp thì cô gái bước vào, cùng lúc đó mấy đồng tiền xu lăn ra cùng với một vật gì đó. Cô gái kêu một tiếng rồi đứng sững. Mặt cô như tái đi dưới làn phấn mỏng. Tôi cúi xuống nhặt mấy đồng xu. Cô gái hấp tấp xô mấy chiếc ghế sang một bên để lượm gói đồ đã nằm giữa lối đi sáng trưng ánh điện. Trong lúc luống cuống, cô đã làm tuột lần giấy bọc ngoài, một vật rơi ra. Đó là một mẩu bánh mì nhỏ vẫn bán trong những quầy bánh ven đường. Cô gái cuộn tờ giấy bọc một cách vội vã và giấu giếm. Tôi biết cô đang run vì mặt đá chiếc nhẫn bạch kim cứ lóng lánh rất bất thường. Mái tóc cô rũ xuống bên vai, hở ra một khoảng gáy rất sâu, màu xanh tái. Tôi kéo cô ngồi xuống. Khánh im lặng. Hoàn cũng lặng thinh, nhưng anh ta có vẻ ý tứ hơn khi xếp tiền vào trong ví cho Mỹ Dung. Xung quanh người qua lại, ăn uống vẫn nhộn nhịp, không ai hay biết tấn kịch vừa xảy ra. Chỉ riêng chúng tôi là chứng kiến nỗi ê chề của cô gái. Cô ngồi bên tôi, thỉnh thoảng lại giơ tay vén tóc. Nhưng cử chỉ của cô không còn vẻ duyên dáng, đàng hoàng nữa, nó có gì tội nghiệp. Tôi xóc một miếng bánh bơ đưa cho cô. Cô khẽ cúi đầu : - Cám ơn chị. Từ lúc đó về sau tôi không nhìn ai nữa. Tôi không nỡ nhìn thẳng vào mặt cô gái. Tôi cũng không muốn nhìn Hoàn, điều đó lúc này rất khó chịu. Tôi cứ ngửa cổ nhìn lên bức tường quét vôi vàng, qua những làn khói thuốc dày đặc, tôi thấy bóng những chiếc cánh quạt in lên những vệt đen dài, gẫy khúc. Một cảm giác nóng ran lan trên mặt tôi. Tôi nhận ra mình đang ngượng ngùng. Không phải riêng biệt nỗi ngượng ngùng của cô gái bị mất thể diện, mà là nỗi ngượng chung, thay vì cho cả hai người đó, hai kẻ gọi là bồ của nhau. Bên kia bàn Khánh và Hoàn vẫn đang chuyện trò. Hình như họ nói đến những kiểu áo dài cách tân ở miền Nam, về thời trang của thế giới. Hai người đàn ông trao đổi những nhận xét về một thiếu phụ đẹp lộng lẫy đi qua. Rồi họ tiếp tục uống trà và hẹn gặp nhau vào một ngày trong tuần. Khi chia tay, cô gái vội vàng chào tôi rồi đứng nép vào một bên cửa chờ Hoàn, đôi mi tô chì cụp xuống. Hoàn ôm lấy Khánh cao giọng : - Tuần sau nhé. Họ nói với nhau một tràng tiếng Pháp. Rồi Hoàn nhã nhặn chìa tay cho tôi, miệng nở nụ cười tươi tắn. Nhưng với tôi lúc đó, nụ cười của anh đã nhạt nhẽo và cái cằm dài thượt ra trông thật vô duyên. Tôi lặng lẽ đáp lễ và quay đi. Khánh đưa tôi về nhà. Chiếc xe honda lách giữa dòng người hai chiều đông nghịt. Thành phố càng về đêm càng đông hơn, tiếng động làm nhức óc và mệt mỏi. Tôi bảo Khánh rẽ sang đường bờ sông cho mát mẻ. Anh đồng tình ngay. Chúng tôi đi dọc sông Hàn và trở về đường Lê Thánh Tôn vào lúc chín giờ tối. Khánh đưa tôi vào cửa rồi về ngay, anh còn có bài phải sửa cho số báo sắp tới. Còn mình tôi ngồi với cái bóng của mình. Căn phòng vắng. Không làm sao mà ngủ được. Chiếc quạt vẫn xoay, gió vẫn thổi những trang sách bay bay loạt soạt và hộp son vẫn nằm lăn lóc trên bàn. Chiếc đầu nữ hoàng E-li-da-bet trông như một hạt ngô bóng loáng. Tôi nhìn ra ngoài: thành phố chất ngất ánh đèn, có một cái gì tự tan vỡ ra nơi đó. Một lớp giấy trên chiếc rọ làm hình nhân bị xé rách. Một lớp váng dầu ngũ sắc bị khuấy tan trên mặt nước tù. Và trong tôi, một tình yêu, một niềm kiêu hãnh lớn lên, vững vàng, cứng cáp, với một sức mạnh khôn cùng. Ngoài sân, những cây trứng cá đang lắc lư chùm lá. Những bóng lá chợt sáng chợt tối giao nhau in lên ô cửa kính giống như những bộ mặt đổi hình. Hiện tại, quá khứ. Quá khứ, hiện tại... cuộc sống ùa đến tôi trong cùng một lúc. Xa kia là một con đường thăm thẳm, một con đường đầy bóng xanh che phủ. Có người con gái nào đang đi đến với tôi và hát. Người con gái ấy là tôi.

Dương Thu Hương

Mật rắn Tôi quen cậu ta lần đầu ở ngay cổng đền Ngọc Sơn. Chiều hôm đó, sau một ngày cắt tóc mỏi mệt, tôi thu dọn đồ nghề, ghì chặt sau xe đạp, lững thững dắt xe về Đền, nơi cư trú của tôi. Một đám đông người tụ tập bên cạnh mảng tường "Long môn hổ bảng". Tôi lướt qua, không lưu ý, bởi vì một đám tụ tập hoặc một trăm đám tụ tập, chỉ là chuyện bình thường ở các khu vực náo nhiệt và nhiễu sự của bờ hồ. Nhưng một giọng nói oang oang đập vào tai tôi, khiến tôi phải dừng lại.

- "Ai bị phong thấp, ngâm sẵn hổ mang. Ai bị da vàng, tìm rượu hổ lửa. Đàn bà không chửa, chuốc lấy mang bành. Đàn ông hoạt tinh, đừng quên rắn ráo..."

Người bán rắn là một thanh niên trạc ba mươi tuổi, y có khuôn mặt trắng trẻo học trò, vóc người thô to của một lực điền. Duy có đôi mắt tròn sáng, lúc nhìn xa thì hiền từ, lúc đảo quanh thì thật tướng cướp. Trên mình y đeo một chiếc túi vải thắt miệng ở trong thấy bùng nhùng động đậy, chắc là có vài chục con rắn. Còn trên tay y, một cánh tay trắng mịn, thì làng nhằng nhiều mảnh sẹo, như người phải bỏng. Bàn tay y nắm chặt. Ba kẽ tay kìm chắc ba cái đuôi của ba con mang - bành, cạp-nong và hổ-trâu. Thỉnh thoảng y lại giật tay, ba con rắn hướng ra ba phía, oằn mình, ngóc đầu phun phì phì. Qua mấy vòng người đang túm tụm, đôi mắt sắc sảo và ranh mãnh của y chợt nhìn thấy tôi. Lập tức, y lên tiếng xua đuổi những người vây quanh : - Xin mời các quý ông, quý bà giải tán ngay cho. Các vị xem chứ đếch mua, làm tớ quảng cáo khản cả cổ. Nào, xin mời đi ngay cho. Tớ có khách mua rắn đây rồi. (hắn ôn tồn chuyển giọng nói với tôi). Mời bác, bác phó cạo, em chắc chắn là bác sẽ mua rắn cho em. Nếu em đoán sai, bác cứ vả vào mặt em! Tôi vội vàng phân trần : - Không, không. Chú cứ bán cho người ta đi. Tôi... cũng là nhân thể xem qua thôi. Người bán rắn lắc đầu quầy quậy, cất giọng hóm hỉnh : - Ấy chớ! Bác đừng phụ em. Hôm nay em bán rắn ở đây cốt chỉ đến bán cho một mình bác. Em sinh ra ở trên đời này, rồi làm nghề bán lũ sinh linh "nguy hiểm chết người" này, cũng chỉ vì mình bác. Sau khi bác mua rắn cho em, em sẽ giải nghệ. Bác không tìm thấy em nữa đâu. Bèo dạt mây trôi, bác ơi... - Chú nói kiểu này với người thứ mấy mươi rồi? Người bán rắn vung mạnh cánh tay. Ba con rắn nhập làm một, bay thành một vòng rộng. Y cười. Tiếng cười sang sảng : - Chịu bác. Em đã nói như thế với hai mươi bảy người rồi. Còn độc mình bác nữa là đủ "nhị thập bát tú". - Sau đó chú sẽ bán cho ba mươi sáu người thiên cang và bẩy mươi hai kẻ địa sát... Vậy ai là người mua cuối cùng? - Em một lần nữa xin chịu bác. Thôi, bác mua cho em đi. Từ sáng đến giờ em "đọi" lắm rồi. Một mẩu bánh mỳ cũng không. Tôi đăm đăm nhìn y. Câu nói của y giẫm đúng vào lòng tôi. Tôi càng bùi ngùi hơn, vì qua cách nói năng của y, nếu không phải kẻ có học, thì cũng là người làu thông một số sách cổ của Tầu. Hắn đứng vụt lên. Cao lớn, khôi ngô, nón lá, áo nâu, râu quai nón lún phún, càng gây bất đắc chí trong thời Đại Cồ Việt xa xôi. - Bác xanh xao, uể oải thế kia là chân âm toàn thịnh, chân dương hữu khuy. Bác phải có rắn, rắn ngâm rượu, rắn nướng chả, lấy liệt hoả mà khu trừ hàn tà. Bác không mua rắn của em bác định ăn nem công chả phượng nào mới được chứ? - Ừ thì tôi thua chú. Tôi sẽ mua. Tôi cũng đang bị phong thấp nó hành đây. Mỗi cái tệ, tôi không biết chần rắn. - Bác có bình chưa? - Có đủ cả rượu nữa. - Vậy em sẽ chần rắn cho bác. Bác lấy tam xà e không đủ. Bác lấy gìm em bộ ngũ xà hay hơn. Một mang bành, một cạp-nong, một hổ trâu, một ráo, một mai-gầm nhé. Đám người giãn ra. Chúng tôi chầm chậm đi qua cầu Thê Húc. Thấy bước chân của người bán rắn tập tễnh, khó khăn, tôi hỏi : - Chân chú làm sao thế? - Thọt! - Chiến đấu à? - Cũng có thể ví với chiến đấu được. Em bị rắn cắn vào mông. May mà có mẹo gia truyền, thoát chết, chỉ bị thọt thôi. - Lúc nãy chú chào tôi là ông phó cạo. Sao chú biết? - Dân sinh sống quanh bờ hồ này, ai chẳng rõ bác. - Vậy là chú cũng đã quẩn quanh khu vực này lâu rồi? - Cũng như bác. Dòng đời cuốn dạt chúng ta đến một chỗ. - Chú ăn nói sách vở gớm. Học đến đâu rồi? - Em chẳng có bằng cấp gì cả. - Không quan trọng. Trường đời sâu sắc hơn. - Chính thế! Biết bao người vĩ đại không mẫu văn bằng, học vị... - Để xem chú có vĩ đại không đã. Hay chỉ là một thằng bép mép! Mấy thằng bán lơ trắng lơ hồng nó còn dẻo mồm gấp mười chú. - Chịu bác, nhưng loài người biết dùng nọc rắn để chữa bệnh cho mình. Lấy độc trị độc, đó chẳng là sự khôn ngoan tột đỉnh của con người sao? - Điều đó thì đúng là vĩ đại! Chúng tôi về đến Đền. Tôi vào phòng sửa soạn rượu vào bình. Người bán rắn thì ra cầu ao (lẽ ra nên gọi là cầu hồ) để mổ rắn. Y làm việc cực kỳ thành thạo. Chỉ mười lăm phút sau, năm cái thân rắn đã sạch sẽ, khoanh tròn trong bình thủy tinh và ngâm chìm trong năm lít rượu màu xanh nhạt.

Tôi lặng lẽ quan sát anh chàng. Nhanh nhẹn, tuy què thọt. Giọng nói vừa trung thực một cách quê mùa, vừa quá ư láu lỉnh kiểu đường chợ, thành thử, không thể bỗng chốc đánh giá đúng thực chất con người này. Cảm giác của tôi là ở y có nét đáng thông cảm, tuy rằng không phải gây cho tôi một đôi điều ngờ vực. Thôi được, nhiều vải mai biết... - Này, tên chú là gì nhỉ? - Chi bác ạ. Đặng Quân Chi! - Một cái tên rất hay. Ông cụ cậu là một nhà nho chăng? - Chính thế. Nhưng cụ em mất từ hồi em còn trong bụng mẹ. Ông chú em đặt tên cho đấy! - Thế thì chú cậu cũng nho. - Nho nheo gì. Ông chú em biết vài chữ đủ để đọc tên thuốc bắc. - Đọc được tên thuốc bắc là khá. - Khá cái ăn mày. Đọc được, không viết được, như các bà nhớ quân bài tam cúc thôi. - Ông chú đặt cho cậu cái tên quá nhiều ý nghĩa đấy. - Bác bảo sao? - Này nhé. Theo tiếng Việt, Quân Chi, nghĩa là hạng người nào. Theo nghĩa Hán, là bậc hiền ấy. Người bán rắn cười ngặt nghẽo : - Lúc nhỏ em chỉ là "Quân". Từ khi bị thọt ông chú em thêm cho chữ "Chi" nữa. Bác có biết chữ nho không? - Như người ta thuộc quân bài tam cúc thôi. - Có khi em khá hơn bác. Bác xem đây! Nói xong, Quân Chi vạch ra đất hai chữ nho, cứng quèo quèo và xệch xẹo như đặt xếp bằng que vậy. Tôi mỉm cười : - Một chữ Hán, một chữ Nôm. - Nho cả đấy, bố trẻ ạ. - Không, một Hán, một Nôm. Đây là hai chữ "quần che", ông chú chơi sỏ thằng cháu. - Như thế nào? - Một là ông ấy ghét cậu... - Đúng! Cực kỳ ghét. Em hay ăn trộm thuốc bắc của ông ấy. -...Bảo cậu là loại lấy quần mà che. Hai là nói lái thì quần che tức què chân. Cũng có thể tán rộng ra là thằng quần chị, thằng quẫn chí, thằng... Quân Chi thét to : - Tiên sư cái thằng chú em. Đúng là bọn nho thâm lắm. Chết chết, em xin lỗi bác. Nhưng quả thật thằng chú đểu cực kỳ... Mà thôi, muộn rồi. Em xin bác tiền rắn. Vợ con em nó còn đợi... Khi nghe thấy số tiền, tôi lạnh cả người. Một bộ ngũ xà tám chục đồng (tiền năm 1972) công chần rắn, rửa rắn hai chục nữa. Vị chi là một trăm. Vậy mà tìn công cắt tóc của tôi chỉ có ba hào một đầu người lớn, hai hào một đầu trẻ con. Phải lấy hết can đảm tôi mới giữ vẻ bình thản đặt vào tay người bán rắn một trăm đồng chẵn. Quân Chi hởi hả cười : - Còn mười cái mật nữa, bác lấy giùm em. - Bao nhiêu? - Hai chục! - Tôi hết cả tiền rồi. - Tuỳ bác. Ngâm rượu mà không có vài chục cái mật rắn kèm theo thì chả khác gì ngâm... thịt ếch. - Tôi tưởng mỗi con rắn có một cái mật chứ? - Mật là lộc của em. Em chỉ bán rắn không bán mật. Bác có thấy em rao bán mật rắn không? - Vậy là tôi mắc lỡm chú? - Luật giang hồ của dân bán rắn chúng em như vậy. Vì thế quê hương chuyên nghề bán rắn của em mới gọi là Lệ Mật. - Đúng là đồ... rắn độc. Quân Chi trâng tráo thừa nhận : - Cực kỳ độc bác ạ. Bác có chửi réo tên thành hoàng làng nhà em, thì lúc mổ rắn cho bác, em vẫn giấu mật vào mồm, có trời tìm! - Thằng quẫn chí! Thằng què chân! Thằng quần che! Người bán rắn cười ngặt nghẽo, cười chảy nước mắt, cười như chưa bao giờ được cười. Nghe tiếng cười ấy, lòng tôi dịu hẳn lại. Đặng Quân Chi bỗng ngừng cười, thấp giọng bảo tôi : - Nhưng em không tệ với bác đâu, mười cái mật rắn, em chỉ lấy bác một chục thôi. Bác thấy em chơi đẹp không? Em nói thật nhé, bác yếu lắm, chân dương của bác hư thoát hết, phải đôn nhiệt hồi hòa mới mong khang cường và diên thọ, mà như vậy không gì bằng mật rắn. - Bình rượu của tôi cần bao nhiêu mật rắn? - Một trăm lẻ tám, ứng với số sao thiên cang và địa sát. Sau khi nhồi vào bụng bác đủ trăm lẻ tám vị "anh hùng" này rồi, bác sẽ tha hồ tung hoành trong đám... chị em! Hề hề... - Chú là một trong những tên đầu bò mà tôi bắt gặp đấy. - Em biết bác nghèo. Phó cạo thì giầu với ai được! Vì vậy mỗi ngày em sẽ đưa dần cho bác mười chiếc mật rắn. Thế nhé. "Chào bác! Gút bai! Ôrơvoa! Tái kiến!" - Lạy bác ạ! Cuộc đời có nhiều cái tình cờ, cái ngẫu nhiên có lúc trùng lặp như cố ý bịa chuyện. Một bình rượu rắn muốn hết mùi tanh nồng, phải ngâm thêm táo tầu, đỗ trọng và cam thảo mà cũng phải sáu tháng mới có thể uống được. Bình rượu của tôi không ngoài quy luật ấy, nghĩa là còn niêm phong kỹ trong góc nhà. Ấy vậy mà tôi tự dưng lại béo dần ra, rồi dần dần hồng hào sì phê thực sự. Hồi đó tôi ăn cơm tập thể ở phố hàng Giầy, mỗi bữa ba hào. Đôi khi, người ta lại thấy trong những thùng mỳ sợi một xác cóc hoặc một xác chuột nhắt. Béo đẫy vì vậy chăng? Đặng Quân Chi vồ lấy cơ hội ấy. Mỗi làn quảng cáo tác dụng của rắn, cậu ta lại đem tôi ra làm thí dụ sống động. Y rêu rao thật vang cho mọi người nghe : "Kìa kìa ông phó cạo, vốn gầy bủng gầy beo. Uống rượu rắn ít lâu, trở thành đô lực sĩ. Bây giờ ông béo ịt. Như chú khách Hàng Bồ. Rất đẹp lòng các cô! Rất vừa ý các mợ!". Với người khác, chắc chắn chỉ dùng đến một cái tát, còn tôi, tôi phải lạy van mãi, Quân Chi mới chịu ngừng rêu rao cái bài vè khả ố đó. Từ hôm bán rắn cho tôi, cậu ta coi tôi như người thân, ra vào trong Đền như vào nhà riêng. Có lúc cậu ta lễ độ, có lúc cậu ta nhâng nháo, khiến mấy ông già ở trong Đền vừa vui vẻ vừa khó chịu.

Thực hiện cam kết với nhau, cứ cách vài ngày Quân Chi lại trao cho tôi một gói giấy, hôm thì tám, hôm thì mười cái mật rắn. Có lúc cậu ta đích thân đem tới cho tôi. Hôm nào bận việc gì đó, cậu ta bảo vợ cầm đến. Nói tới cái khoản "vợ" của cậu ta, kể cũng thật quái đản. Một lần, tôi hỏi Đặng Quân Chi : - Chú có mấy vợ? Người bán rắn mặt tỉnh ănglê, trả lời : - Em một vợ. - Hình như ba vợ thì phải. - Em lạy bác. Một vợ còn chẳng có kho mà mang nữa là. Em chẳng dại. Người ta có câu: "Một vợ, nằm ngủ khoèo, hai vợ ra chuồng heo, ba vợ ăn bánh... bèo". - Thế sao mỗi lần mang mật rắn đến cho tôi, lại một cô khác mặt? Một cô rỗ hoa má lúm đồng tiền, một cô gầy yếu nhẽo nhèo như cái giẻ vắt vai, một cô lùn choằn choằn, tròn xoe như hạt mít? Nghe nói, các cô ấy đã đánh xé nhau, phải không? Đặng Quân Chi ngẩn mặt ra giây lát, vừa sượng sùng, vừa trơ trẽn : - Em xin chắp tay lạy phục bác. Thôi thì bác "đại xá" cho em. Cái thằng thổi sáo mù đặc kia còn cuỗm được cả hai chị em, huống chi em lừng lững một đất... "vua rắn độc" như thế này... - Đấy là việc của chú. Tôi không phản đối, cũng không khuyến khích. Đào hoa lắm, thì tự khổ thôi. Quân Chi tủm tỉm cười : - Bừa phứa đi bác ạ. Thời buổi bom đạn ùng oàng như thế này, biết đâu ngày mai... À, mà em nghe người ta nói rằng bác cũng vốn là khách văn chương thất sủng phải không? - Liên quan gì đến việc này? - Em xin phép ra cho bác một vế đối. Nếu bác đối được, em thề có các vị thánh trong Đền này, sẽ biếu không bác số mật rắn chưa giao đủ. Em lấy việc bản thân em mà ra đối nhé? - Hay đấy. Ra vế đối đi! - Vậy bác nhớ kỹ nhé: Vợ cả, vợ hai, hai vợ đều là vợ cả! Nếu bác không đối được, em phạt bác, giá mật rắn bác phải trả gấp đôi em. Hai từ vợ cả, mang nghĩa đôi đấy bác ạ! - Quả là thằng què chân láu cá, thằng đểu số một trên đời này. Câu đối của cậu oái ăm quá. Đặng Quân Chi cười ròn câng cấc : - Bác cứ chửi đi. Em chỉ muốn chứng minh cho bác rõ em không đến nỗi quẫn chí như bác tưởng đâu. - Thế cậu đã đối được chưa? - Em đã tự đối được. - Cho nghe thử. - Nhưng bác phải làm phần đối của bác. - Đã hẳn. - Vậy thì: "Yêu đào, yêu liễu, liễu yêu chẳng nhẹ yêu đào". Tôi phì cười : - Đúng là cái thằng "quẩn chị"! Cứ xét khẩu khí mày, mày quả là loại lăng nhăng đa tình quá. Nhưng hai từ "yêu đào" không ổn... - Lăng nhăng đa tình đâu chỉ riêng em? Khối ông nọ ông kia bẩn gấp trăm. Nào, đến lượt em rửa tai nghe bác. - Tôi mới thoáng nghĩ ra một vế đối có lẽ chưa chỉnh lắm. Này nhé "Rắn đầu, rắn mặt, rắn mặt cũng loại rắn đầu". Đặng Quân Chi nheo nheo đôi mắt sắc sảo rồi nhẩy cẫng lên : - Tuyệt! Tuyệt! Bác vừa nhắc đến nghề nghiệp của em, vừa chửi mắng khéo em. Thế mà bác cứ bảo chưa chỉnh. Thôi được, em chịu thua. Chán quá, định xoay bác, mà không xong.

Sau khi người bán rắn tập tễnh đi ra, tự dưng tôi thấy buồn buồn trong lòng. Thằng cha cũng khá nhanh nhạy, nói theo kiểu cổ là khá mẫn tiệp. Cái gì đã đẩy hắn tới cảnh huống hôm nay? Điều gì khiến hắn lênh phênh, bừa bãi, và dối trá? Tôi thở dài. Cảm chuyện người. Cảm chuyện mình. "Một trăm linh tám vị anh hùng" mà Đặng Quân Chi hoặc các cô vợ y giao cho tôi, tôi cẩn thận gói lại, cất đi. Mỗi lúc đưa mật cho tôi, Quân Chi thường khuyên tôi nên nuốt vào bụng, hơn là ngâm trong rượu. Tôi chỉ im lặng nhìn hắn, rồi lục tìm ví tiền lép kẹp của tôi mà trả đủ số. Hắn cũng im lặng nhìn tôi. Cả hai như âm thầm đối thoại với nhau, rằng : - "Tội nghiệp ông già phó cạo. Tôi thương ông, nhưng ông vẫn cứ lột sạch một ngày công vất vả của ông, tôi đói!" - "Này, thằng què! Tao biết rõ mày đã đối xử thế nào cùng tao. Nhưng cầm lấy cho khỏi đói. Còn tao, tao chịu khó thức khuya, câu ít cá dưới hồ, cũng kiếm được vài đồng bạc. Đừng lo cho tao!" Đó, kẻ này biết rõ ruột gan kẻ kia!

Có một điều tôi thích thú ở Đặng Quân Chi là cái tài dệt chuyện của hắn. Dệt một cách bài bản, ly kỳ và thông minh nữa. Hắn không chỉ giỏi moi tiền của tôi, mà còn lột cả "chất xám" của tôi. Những đêm khuya rỗi rãi, hắn thường mò vào trong Đển, kể mọi chuyện ba xí ba tú cho mấy ông già nghe, để rồi nằn nì tôi kể cho hắn một đôi điều có liên quan tới rắn. Tôi hào hứng kể với hắn rằng, theo một cuốn sách nào đó, người ta nói ở bên Mông Cổ có loại rắn tên là Đôn-gôi Khốc-khôi được coi là độc nhất thế giới. Đôn-gôi Khốc-khôi không cần cắn bập vào da thịt. Cách xa ba mét nó đã phóng ra nọc độc giết chết ngay lập tức từ người tới lạc đà, mãnh thú và chim ác. Vì thế từ nhiều năm nay, người ta biết rằng có tồn tại con Đôn-gôi Khốc-khôi, song chưa thấy một ai thấy rõ hình thù và đời sống sinh thái của nó. Còn ở bên ấn Độ, có một giống chồn tên là Rích-ki-Tích-ki-Ta-vi, chuyên săn diệt rắn độc. Rích-ki-Tích-ki-Ta-vi, bằng một cú nhảy tuyệt vời lên khoảng không, lúc rơi xuống, bao giờ nó cũng ngoạm đúng và cắn nát cổ rắn. Vì thế, người Ăng-lê, người Hà Lan, người Bồ Đào Nha khi sang ấn Độ, đã không tiếc bỏ ra từng lạng vàng mua một con Rích-ki-Tích-ki-Ta-vi, để làm vệ sĩ cho họ. Ngày hôm sau, tại một ngã tư nào đó, lúc ngồi bán rắn, Đặng Quân chi đã phồng mang trợn mắt kể cho mọi người nghe rằng chính hắn đã sờ thấy, đã ăn gỏi một con Đôn-gôi Khốc-khôi có nguồn gốc ở sa mạc Gô-bi. To gan hơn, hắn còn kể: một vị tuỳ viên ở sứ quán Mông Cổ đã yên mến, đổi cho hắn một con Đôn-gôi Khốc-khôi lấy hai cặp mang bành và hổ trâu. Gặp dịp thuận tiện sẽ còn mời hắn sang thăm Mông Cổ để biểu diễn kỹ xảo bắt rắn. Chà chà, cái thằng!

Bẵng đi nửa tháng trời không thấy Đặng Quân Chi vào chơi trong Đền. Kể cũng lạ, tự dưng tôi thấy bồn chồn đượm chút lo lo cho hắn, như tình cảm đối với chính người ruột thịt của mình. Không đừng được, tôi phóng xe đạp đi tìm một vài đầu phố, nơi hắn vẫn ngồi ba hoa với đám đông mua rắn. Tại một cửa hàng bún xáo, tôi gặp người vợ thứ hai cái cô gày yếu nhẽo nhèo của hắn. Cô đang vừa ho, vừa ngồi nhổ lông vịt, lông gan. Hàng chục con ngan và vịt đã cắt tiết, nhúng nước sôi, nằm trong một chiếc rổ lớn. - Này, độ này chồng cô đi đâu thế? Tôi hỏi. Cô gái không trả lời. Tôi lạ lùng và kiên nhẫn hỏi lại cô ta đến lần thứ ba câu hỏi ấy. Cô gái khó nhọc ngẩng mặt lên, nét mặt xanh xao, đôi mắt trắng dã như mắt lợn luộc, rồi cô cười khì một tiếng, khuôn mặt nhăn nhúm thảm thương : - Ông hỏi "chồng" tôi ấy à? Cái thằng tập tễnh trời đánh thánh vật ấy à? Mời ông vào nhà đá mà tìm nó. Chồng! chồng! Pựt sì... - Chuyện thế nào vậy cô? - Trời đất ơi, đã bở hơi tai ra, không thở được, còn đến quấy rầy. Ông có mắt không? - Mắt thì lúc nào tôi cũng có, ở trên mặt tôi đây này. - Thế ông thong manh à, mà không thấy từ giờ đến chiều tôi còn phải nhổ lông, mổ lòng những ngần này ngan vịt, để cho bà chủ hàng có thịt bán bún? Ông có biết thương người không? - Bây giờ thì tôi biết thương đây - Nói xong, tôi rút ở túi ra và giúi vào tay cô ta tờ giấy hai đồng. Nét mặt cô gái dịu đi, đôi môi cũng mất vẻ cong cớn. Cô nói : - Nó đi tù rồi. Giam ở công an Hoàn Kiếm ấy. Nếu ông xót nó thì mời ông vào đấy mà tiếp tế cho nó. - Rầy rà nhỉ? Tội gì vậy? - Nổi cáu với khách, rồi quăng rắn vào mặt khách. Để cho mang-bành cắn vào mặt người ta. - Chết! Chết! Mang-bành độc lắm. Người ta có việc gì không? - Ông đi mà hỏi họ. - Thế các cô... các cô... các cô vợ của chú ấy, có đi thăm hỏi chú ấy không? - Các cô nào, vợ nào? Cả tôi nữa phải không? - Cô ta nhìn tôi, lộ vẻ giễu cợt, khinh bỉ, rồi cười giòn một hồi. - Ôi.. cái ông phó cạo tội nghiệp này, đúng là "người đời". Chẳng có đứa nào là chồng, cũng chẳng có con nào là vợ. Ái tình bờ hồ mà, ông ơi là ông ơi. Nhân đây, tôi xin có lời mách giùm ông nhé. Tôi hỏi ông đã nuốt hết mấy chục cái mật rắn chưa? - Chưa! - Vì sao vậy? - Tôi ngờ ngợ có cái gì không ổn, nên không nuốt. - Ôi, thế thì ông ở hiền gặp lành đấy. - Thế à? - Chứ gì nữa. Toàn là mật vịt mật ngan cả đấy thôi. - Mà thủ phạm tiếp tay cho hắn là cô? - Còn ai nữa. - Sao cô nỡ thế? - Đói mà, đức ông ơi. - Một cặp canh ty rất đẹp đôi! - Cũng cảm ơn ông có lời khen. Thôi, tôi trả lời ông vậy cũng bõ hai đồng bạc của ông rồi đấy. - Tôi trả thêm hai đồng nữa. Cho tôi hỏi thêm vài câu. Nói xong tôi lại rút đưa cho cô hai đồng nữa, bụng nghĩ "mất toi hai buổi công tác cắt tóc của mình". Cô gái giật lấy tờ tiền, nhét vội vào cái coóc-xê trước bộ ngực lép kẹp, nhoẻn cười : - Ông muốn lấy khẩu cung gì thì lấy đi, quàng lên kẻo tối. - Chú ấy bảo quê ở Lệ Mật? Lại một cái cười ròn khanh khách của cô gái : - Con đĩ mẹ cái thằng bịp! Thưa với ông rằng: Lệ Mật là quê nhà tôi. Tôi về Lệ Mật lấy rắn, những con rắn vứt đi, người ta đã bỏ hết nanh liêm, rút hết nọc độc ấy mà, rồi bán lại cho nó, nó đem bán lại cho các người đấy. Còn quê nó ấy ư? Có quỷ biết. Ông còn hỏi gì thêm nữa không? - Cảm ơn cô. Đủ lắm rồi. Lẽ ra phải trả cô bốn chục mới đúng!

Lại chừng nửa tháng sau. Một hôm tôi liều mạng sang bên huyện Gia Lâm vào giữa ban ngày. Tôi nói liều mạng vì hồi ấy máy bay Mỹ bắn phá dữ dội thành phố. Chẳng mấy ai dám đi cầu phao sông Hồng vào lúc chín mười giờ sáng cả, trừ một số cán bộ và bộ đội có công chuyện khẩn cấp. Cũng may không có gì xảy ra. Khoảng sáu giờ chiều thì tôi về đến nhà, người nhão nhừ mệt mỏi. Đặng Quân Chi ngồi lù lù trên chiếc ghế đá ở ngoài dinh Trấn Ba. Thấy tôi, hắn đứng lên, reo to : - Ôi... Bác có mong em không? - Cũng có mong. - Còn em thì nhớ bác quá. - Cứ cho là như vậy đi! Chú vui vẻ nhỉ! Mà... xanh xao, bủng beo thế kia kìa! - Chả sao, bác ạ. Em về Lệ Mật xây lấy ba gian nhà. Thì cũng phải lo cho có chỗ chui rúc chứ bác? Giá mà bác về chơi thăm cơ ngơi nhà cửa của em. Cực kỳ, bác ạ! - Toàn bằng đá? - Em nhờ đổ bê tông thôi. - Có cửa sổ sắt! Có người bồng súng đứng gác. Cơm bưng tận miệng, nước rót tận mồm, phải không? Đặng Quân Chi tròn mắt, lè lưỡi đứng im. Tôi bảo hắn theo tôi vào phòng. Thuốc lá! Trà! Rượu! Chúng tôi chuyện trò cùng nhau chừng vài tiếng đồng hồ. Đặng Quân Chi uể oải ngáp dài, đứng lên vươn vai : - Bác cho em suy nghĩ đã. Cảm ơn bác đã thực tâm cho em những lời vàng ngọc, bác đã lo cho em hơn cả mẹ đẻ của em. Nhưng em không về Gia Lâm đâu. Em tởm cái đời công chức lắm. - Sao vậy? - Tâm tính em hỏng mất rồi. Vả lại, người ta nói: "Sập gụ nhà quê không bằng ngồi lê Hà Nội..." - Bậy nào. Bên ấy là cơ sở sản xuất lớn. Người ta cũng chẳng thiếu gì kẻ đảm đương công việc. Chỗ họ quen thân với tôi, họ nể nhời mới nhận chú. - Em chán ngấy rồi. Theo Phật chết đói, theo Quan chết đòn. Đe thân về với triều đình. Hàng thần lơ láo phận mình ra sao? Chắc bác lại cho rằng em bịp, nếu em nói trước đây em đã từng là uỷ viên văn xã của một huyện? - Không, về điều này thì tôi hoàn toàn tin. - Vậy mà bác còn gò em? Em hỏng mất rồi, không làm lại được đâu. - Ngày xưa cũng có lúc tôi nghĩ thế. - Thì ngày nay bác cũng vẫn là "trốn việc quan đi ở chùa" đấy thôi. - Tôi khác, chú khác. Chú còn trẻ... - Gần lửa thì mặt nào cũng rát như nhau. Mà kỳ quái thật, bác biết rõ ràng em lừa bịp bác từ đầu đến chân sao bác còn thương em? - Tôi cũng đã tự hỏi mình như vậy. - Thế thì bác nhọc lòng làm gì? - Quả thực chú đã tệ bạc với tôi quá nhiều, chú què ạ. Có điều, chú đã bắt được tôi làm tù binh, kể từ hôm chú nói với tôi rằng chú đói. Từ bé đến giờ tôi cũng đã đói nhiều lần mà là đói khủng khiếp ấy. Chú thì chẳng biết gì về cái năm Ất Dậu đâu. - Đối với em, những chuyện cổ tích ấy chẳng có ý nghĩa gì! Và bác, em xin bác đừng đem những giáo lý khô khan, vô hồn ấy ra mà ràng buộc em. Trước hết, em chẳng có tài cán gì để mà đáng tiếc. Hai là, có tài thực sự cũng chẳng có ích gì. Đời lộn xộn lắm, Bàng Thống bị tống về huyện Lôi Dương, nên Bàng Thống trở thành thằng nát rượu. Tần Cối được đặt lên ghế tể tướng, thì Tần Cối có dịp để tung hoành... Ngày mai, em lại đi bán rắn, bán mật rắn. - Nghĩa là lại bịp? - Rắn thực sự sao gọi là bịp! - Rắn thật mật giả. Cái số mật ngan mật vịt ấy, tôi đã ném xuống hồ cho nó... bơi rồi. Nét mặt Đặng Quân Chi lạnh băng, không xấu hổ, không ân hận, cũng không nhâng nháo và cũng không quỷ quyệt hơn. Tôi không thuyết phục tu tỉnh nổi cho người bán rắn. Về sau, hắn đi đâu, tôi không rõ. Hắn trở nên ngay thẳng hơn, hay cong queo hơn, tôi không biết. Tôi hài lòng về mình. Tôi đã làm cái phần việc, cái nghĩa vụ trong phạm vi có thể của mình. Đôi lúc nghĩ tới Đặng Quân Chi, tôi cũng hơi buồn buồn. Nhưng biết làm sao được? Những mảnh đời, trong đó có tôi, cứ việc tản ra, cứ việc tụ lại, theo gió, theo bão, cuộc đời rào rạt cuốn đi.

Nguyễn Dậu

Mộ phách - Ông ơi! - Tiếng gọi thì to - Cái thằng mặt dầy sang làm gì đấy? - Tiếng hỏi thì nhỏ dần. Bà Khuê vợ ông Tư Chản vừa từ chợ Phùng về đến lối rẽ đầu bờ ao, nhìn thấy người mà bà không ưa, từ sân nhà bà qua lối bờ ruộng khoai sọ nhà thím Vượng đi tắt lên thẳng gốc gạo đầu xóm. Ông Tư Chản, đang bận tay phía sau nhà, ông quành về đứng đầu hỏi lại : - Ai? Thằng mặt dày nào? - Vừa hỏi ông Tư Chản vừa nhăn nhăn nhìn vợ. Bà Khuê tuy vẫn còn bực, nhưng lại tủm tỉm pha trò: - Thằng nào ăn béo thì mặt dày! Nó đến hỏi gì nhà này? - À thằng Đáng con nhà Thước; bà nói gì mà nặng lời thế! Ông Tư Chản vốn dịu dàng, nói chuyện với bất kỳ ai ông cũng cười cười xã giao - Tính bẩm sinh, tính gia truyền, thói quen nghề nghiệp tạo thành. Từ lâu nay; nhất là từ sau cải cách, ông ít khi đi đâu, ít nói, gần như lù đù, nhút nhát; vợ ông cũng thấy thế. Ông nói thằng Đáng vừa qua đây, nó đi họp xã, tiện rẽ vào hỏi thăm xem thằng Thuyên nhà này, từ bữa trở về đơn vị, đã thư từ gì về chưa? Hai thằng vừa là bạn học với nhau, vả lại cũng còn là anh em nội, ngoại. Ông không muốn vợ nói nặng như vậy; chả gì nó cũng đang là cán bộ, lỡ nó nghe tiếng lại nghĩ nhà mình thế nọ, thế kia, thêm phiền. Ông cũng cứ băn khoăn chưa rõ vì sao mà vợ ông có ác cảm với thằng Đáng; và ông vẫn khuyên vợ không nên thế. Chưa dứt lời khuyên của chồng, bà Khuê đã gạt đi, bực bội nói là ông không đi họp, ông không biết. Từ sau Cải cách, nó được vào Đảng; nhất là từ khi làm ủy viên ủy ban xã; úi chà! gặp ai nó cũng vác cái mặt lên, ra điều ta đây cán bộ. Ngay những lần họp thôn, họp xóm. Nhìn thấy bà nó có thèm mở miệng chào một lời. Bà còn nhận xét: xem ý ngay mẹ nó cũng đang lên mặt... Bạn bè, họ hàng gì lúc này! Một sự bực bội vừa có cớ. Nó được hình thành trong bối cảnh cần sự đoàn kết, cần sự chia rẽ! Bà Khuê từ một người nhanh nhảu, vui tính, hiền dịu, dần dần trở nên kí cảu, có lúc nặng lời, thậm chí tục tĩu, nghĩ lại và tự thấy ngượng ngùng. Cái môi trường sinh sống nó quan trọng thật! Nó nhẹ nhàng vần đi, vần lại, biến đổi, phân hoùa, nó kiểm dấu chìm, dấu nổi giai cấp lên chỗ dễ tìm thấy, lên mặt từ già lão đến trẻ thơ! Hai vợ chồng tư Chản hễ va vào cái việc nho nhỏ, na ná như hôm nay, ông cũng nói, bà cũng nói nhưng cuối cùng ông lại mở rộng lỗ tai dễ tính để bà giót vào những điều bực bội. Ông chỉ gật gật đầu "Ra thế đấy" - Nhưng ông chẳng muốn để vào bụng làm gì. Từ sau Cải cách đến giờ, ông đã tự khép bớt lỗ tai, xung quanh người ta cho là ông nghễnh ngãng. Vợ ông vẫn hay cười nói vui là ông giả nghễnh ngãng để trốn họp, đùn cho vợ phải cáng đáng những việc tổ, xóm. Ông công nhận, lấy tiếng cười thay lời nói; vợ chồng kể là già, vui vẻ, nương nhường nhau. Năm nay ông tư Chản mới năm mốt, hơn vợ sáu tuổi. Từ ngày bị gãy nghề thì hai cái tên kép Chản, đào Khuê cũng gãy theo! Hai người đội chung danh "ông bà Tư Chản" hoặc "vợ chồng Tư Chản" hoặc "nhà Chản", gọn thế thôi. Cái tên làng Vân Cốc quê ông bây giờ nghe nó xa xôi lắm! Ngày trước, biết tên Vân Cốc là biết đến họ Thẩm nhà ông. Biết họ Thẩm là biết đến nghề ca trù nổi tiếng lâu đời. Khi cái tên Vân Cốc được đổi thành Toàn Thắng - Toàn Thắng lên ngôi son! Tất cả những cái gì trước nó đều được quét sạch; huống hồ là họ Thẩm với ca trù. Hai vợ chồng lấy làm thương lắm! Thảng thốt nhớ lại, tựa hồ nhớ lại một bản án bất lương với bao nhiêu tiền sự mà đều do tiếng đàn, tiếng phách gây nên; nếu không muốn nói rõ tội danh là kéo lùi, thì cũng là ghìm chân của bước đi lịch sử! tất cả đã được ghi rõ trong sổ đen của thời điểm! tất cả đã được treo, bêu lủng lẳng trên giá xử giảo của dư luện! Những gì được mệnh danh là xấu xa, mà cứ âm thầm nuối tiếc, có khác gì đưa đầu vào bẫy - dại dột nhường này thì ắt là số mệnh, là "Nghiệp". Vợ chồng kép Chản, đào Khuê lặng buồn, trăn trở thầm kín, nuối tiếc - không phải là sự thất thoát lưng cơm, manh áo, mà là sự đổi thay từ dáng dấp đến vẻ mặt, đến lời ăn tiếng nói của cả vợ chồng. Tư Chản rầu rĩ thương nghề, thương vợ mà không một lời phàn nàn ra miệng. còn đâu cái hình hài mảnh mai, uyển chuyển! Còn đâu cái nhìn lặng lẽ u huyền trên nụ cười duyên dáng quay đi đúng lúc. Còn đâu cái giọng ngọc trong trẻo khi cất tiếng nối dây tơ dạo một khổ sòng đầu! Lòng thương cảm như một ly rượu uống chung - nài ép, nhường nhau, im lặng - nói lên bao điều sau, trước e lệ từ tiền duyên. Tất cả phải chấp nhận như một sự mất cắp giữa chợ. Thời gian đang tiếp tay câu thúc nặng nề, như một khối đá hộc liền phiến không thể san gánh khổ sai mà phải cùng ghé vai è cổ chung đòn khênh chẳng biết đến bao giờ! Cô đào Khuê họ Triệu - bà Tư Chản - của hôm nay, đang thoi thóp với những hoài niệm - từ lúc chập chững hướng nghề, được bà ngoại nắn tay xóc dùi tập đập phách buổi đầu dạo khúc "gửi thư". Đất Ái Vũ quê mẹ của đào Khuê cũng nằm trong vùng bão tố. Từ Vân Cốc đến Ái Vũ, khoảng cách có bao xa, đều kề hai bên tả, hữu ngạn sông Hồng. Tiếng sáo diều hóc gió bên này, bên kia còn nghe rõ. Bà tư Chản ngậm ngùi cái cảnh hai quê hôm nay, chỉ còn là mồ hôi và nắng cháy, cách trở biền biệt... Những hồi tưởng đều nghiễm nhiên tự mình quản thúc ngặt nghèo! Còn ai mà chia sẻ? Đất Ái Vũ cũng như đất Vân Cốc một thời năm, sáu cây đàn đáy so dây, tản đi bao ngả. Cách mạng vùng lên; giặc tràn về lập bốt; cách mạng trở về chiếm lại. Tình nguyện và không tình nguyện, bao tay đàn đã chuyển sang cầm súng. Du kích và ngụy quân đã nhằm vào mặt nhau mà nhả đạn! Khuyên nhủ, dụ dỗ và cưỡng bức, họ hàng, thậm chí ruột thịt reo hò cầm lửa đốt lẩn nhau. Và những cây đàn đáy đã biến thành nạn nhân của khói lửa. Chỉ nói riêng làng Vân Cốc; những tay đàn họ Thẩm thù địch của hôm nay đã cùng nằm sâu dưới lòng đất. Chỉ còn mỗi mình tư Chản đương nhiên thay mặt nghề nghiệp họ Thẩm hứng lấy mọi điều sau thời khói lửa. - Tình nguyện run tay ký vào bản án khai tử và bản giao kèo, truy nã tận cùng cái nghề nghiệp ca trù! Xấu lắm! Xấu đến ngàn năm chư a hết xấu! lời khẳng định của bàn tay dựng xây hạnh phúc; giải phóng mọi gông xiềng; san bằng mọi lồi lõm bất công cho hôm nay và cho muôn đời sau! Những ngày đất chuyển: giảm tô - cải cách - tiêu diệt - lột xác - tái sinh. Hai vợ chồng đào Khuê, kép Chản trước bà con thôn xóm; trước mặt đội cải cách - người đang cầm trong tay sinh mệnh mọi người. Tiếng đàn, tiếng hát được cạo bỏ từ một đêm học tập - như một tín đồ đạo Phật được nhận lễ phát tóc trước đèn hương Tam bảo. Nét mặt kép Chản ngơ ngác, sợ hãi, tựa kẻ gian dâm bị cạo nhẵn tóc, nhẵn lông mày! Từ đấy, nếu ai còn lỡ miệng nhắc đến hai tiếng đào, kép thì bản thân vợ chồng Tư Chản đều cúi đầu lang lảng; mà kẻ lỡ miệng cũng cảm thấy mình như tòng phạm chính sách. Hai vợ chồng Tư Chản được học tập, được giáo dục, được xác định chỗ đứng, bước đi trong thôn xóm, trong cả cuộc đời, mà bước đầu lẫm chẫm từ đây - trung nông lớp dưới - tiểu tư sản nông thôn - cũng nhẹ nhàng trong thành phần giai cấp nhưng lại rất nặng cân. Học tập, học tập và học tập, hai vợ chồng phải thấy được, phải tự nói lên được cái bản cáo trạng - tự thuật - về mình, về những người lớp trước mình đàn, phách giao du... Chẳng phải phong kiến, quan lại, không có nợ máu, không có chiếm hữu bóc lột. Nhưng cái nghề ca trù, đàn hát chỉ để làm vui cho bọn quan lại, lý hào, họn bóc lột - kiếm miếng cơm, manh áo là nhờ ăn theo lũ ăn bám mồ hôi nước mắt, xương máu của bà con nông dân lao động. có buổi bà Tư Chản tỏ ý né tránh ít nhiều lời chân lý nặng nề; yếu ớt biện hộ: tiếng đàn, tiếng hát cũng còn để kính thờ nơi đền, phủ tôn nghiêm nhà thần nhà thánh... Lời ngoan cố được chặn lại, gây một chuỗi cười tập thể. Một bài học phụ của chính khoá cho vợ chồng Tư Chản củng cố thêm: Thần nào? Thánh nào? Đền, phủ nào? Tóm lại chỉ là mê tín, dị đoan nhảm nhí, do bàn tay kẻ bóc lột bày đặt, mà kẻ tiếp tay cho chúng vẫn hôn mê. Hai vợ chồng Tư Chản giật mình bừng tỉnh. Vậy là từ nay cái nghề ca trù càn rỡ dông dài phải tự tay đào sâu, chôn chặt, không để nấm mồ, không luyến tiếc. Mai mốt sẽ tạo cho mình một suy nghĩ mới, một thói quen mới, một cách làm ăn mới - lột xác, đổi đời. Ngoài một sào vườn nguyên cư, vợ chồng Tư Chản được nhận thêm nửa sào ruộng - ruộng của chùa bớt lại - để được đổ thêm mồ hội, tự cải tạo bản thân để cùng đội ngũ nông dân lao động nhịp bước trên con đường mới vinh quang! Những lời vàng ngọc của thời điểm vàng ngọc, vợ chồng Tư Chản bước đầu thấm nhuần, vẫn còn rất lo lắng; trong đội ngũ vẫn còn để một khoảng cách vì vợ chồng chân yếu, tay mềm, lại quá nặng căn lẽo đẽo theo không kịp - Biết đến bao giờ cho kịp - Tuổi đời có hạn, thời gian không chờ đợi. Hai vợ chồng Tư Chản còn ngơ ngác trước một không gian quá mới. Vẫn lũy tre làng, vẫn đường đi, lối lại này, vẫn cái ao nhỏ trước nhà này, cả đến nếp nhà bánh tẻ ba gian, chính tay vợ chồng tạo nên; cái tổ ấm đã sinh hai con; một gái, một trai cũng đều trở thành lạ lẫm. Tư Chản đã bới được một điều may, ông rỉ rả với vợ: "Hai đứa trẻ nhà mình chưa bén sâu đàn phách!" Cái dự định của vợ chồng từ lúc mang thai con Nhiễu, thằng Thuyên nay quả là một điều dại dột - xẩy chân xéo vào hiểm hoạ khó lường! Nếu không thì làm sao chúng được nhẹ bước trong đội ngũ mới, có chăng chúng chỉ bị ảnh hưởng trong cái nôi xuất thân Tiểu tư sản nông thôn. Mỗi lần thấy chồng nhấm nháp cái điều may mắn ngẫu nhiên, vợ ông lại nhơm nhớm nước mắt. Cái thói quen của giọng ngọc - khi may mắn cũng có nước mắt. Nước mắt đa cảm chảy ba bốn chiều trong tuyến lệ bẩm sinh. Phút lặng trầm ấy, Tư Chản chỉ thở dài; vậy mà dần dần được nhiễm ít nhiều thói quen mới. Nhiễu, đứa con gái đầu, đã sớm được đứng trong đội ngũ thanh niên xung phong, đã thoát ly, đã lấy chồng, cưới theo đời sống mới, đã bận con và nay đang làm ruộng tại quê chồng tận Mai lĩnh - Hòa Bình; mỗi năm cũng đôi lần qua thăm cha mẹ; thường là về vào mùa dứa. Thằng Thuyên, con trai độc nhất, khi nó mới biết lẫy, ông đã nắn ngắm bàn tay của nó và lấy làm mãn nguyện. Ngón tay dài, ắt hẳn dài hơn ngón tay bố, mai ngày nhẹ nhàng nhấn, vuốt dây tơ... Thời thế đổi thay, bối cảnh đã tạo cho nó nhìn cây đàn đáy gia truyền như nhìn vào cây sung, cây ổi. Năm ngoái thằng Thuyên đã được đi bộ đội, tự hào, hãnh diện trong quân binh tiền phong. Thằng con trai cầm súng thay đàn cũng là một điều mừng của hai vợ chồng Tư Chản; nhưng cũng không phải đã hủy cái ám ảnh buông đàn, cầm súng của mấy người họ Thẩm ngày trước! Thằng Thuyên đang đóng tại Cao bằng. Mấy tiếng "Nước non Cao bằng" nó chập chờn của lời ru từ miệng cô đào Khuê rót vào tai thằng Thuyên ngày nào như là một dự báo xa xôi, cách trở, đẹp và buồn... Nhớ con bà Tư Chản nhớ đến những ngày bế, ẵm nhiều hơn nhớ đến một người lính hôm nay. Con cái ở xa, nhà vắng lắm! Sân, hiên mưa cấy rêu xanh. Lá cây xung quanh nhận giờ chung cuộc, cây gió gửi thân - Vườn, sân nơi đây, một nghĩa trang lá rụng! - Thần thánh có khi còn nhầm, huống hồ chiếc lá! Nhà có người mà như hoang vắng từ lâu. Hai vợ chồng lúi húi quanh vườn, bới đất, lật cỏ, luống rau, hốc bí. Sự vắng lặng này có chịu trách nhiệm gì không? Nhịp đàn tiếng phách, lời ca đã được tập thể chứng kiến đào sâu chôn chặt; hai vợ chồng lại lén lút bới lên để nhận mặt - linh hồn, hồi tưởng - Hai tâm hồn yếu đuối, níu lấy hồi tưởng làm nơi ẩn náu, làm gối, gối đầu trong canh khuya cho đến ngày tắt bóng. Hai vợ chồng chẳng muốn đi đâu, cũng chẳng muốn ai đến nhà, chỉ thỉnh thoảng tiếp người đưa thư của con trai từ đơn vị gửi về. Chợ búa loanh quanh, hoặc bán mớ rau, hoặc mua tí thức ăn; dầu thắp, mắm muối đã có vợ đảm nhiệm. May thay xung quanh bà con ngày càng gán thêm cho Tư Chản chẳng những nghễnh ngãng; cái gì cũng ngờ ngợ, điều gì cũng ngần ngừ. Trong sổ sách nhân khẩu, đã được ghi nhận là một gia đình đang tiến bộ - Con gái thanh niên xung phong, con trai bộ đội - gia đình quân nhân cách mạng - Nét son đang tìm lối vào nhà! Người dẫn đường chỉ lối lại là cháu họ. Nhưng bà Chản bằng mặt mà không bằng lòng với Đáng. Hai vợ chồng Tư Chản chẳng chịu hiểu sâu, đó là trách nhiệm được trên giao cứ xấn vào nhà giúp đỡ giáo dục, dìu dắt để gia đình khỏi sa chân vết cũ - quyết đào tận gốc trốc tận rễ nghề ca trù. Đáng thật lòng, tận tình; sự thăm hỏi bị ngộ nhận là dòm ngó. Lời chì, tiếng bấc may cũng chưa đến tai cán bộ; giả dụ có nghe tiếng thì cũng là điều tất yếu, cũng sẵn sàng ngơ đi. Vì một sự hiểu lầm không lớn mà bà Chản thấy mình xấu tính với riêng hắn; biết vậy mà bà chưa sửa được. Cả hai vợ chồng đã quên đi mẩu chuyện đời đã nhiều lần nghe kể: Một người đóng vai lính trên chiếu chèo, đang cắp dáo hầu vua, bỗng nhìn thấy một người bà con trong đám người xem mà lại cất tiếng chào để tỏ lòng tôn ái thì tích diễn sẽ ra sao? Nhố nhăng là một nhẽ, phường hội đánh giá; miếng cơm manh áo sẽ ra sao? Vậy mà đang trong buổi họp, đường đường là một cán bộ - đã được định nhiệm - đại diện cho cả ba lực lượng: Đảng, Chính quyền, Quốc hội, thì dẫu có cố tình thất thố, đáng được thể tất, thì lại bị gom nhặt để thành oán trách. Thành ra lòng tốt của Đáng bị khước từ. Đáng nạn nhân của tinh thần tích cực đương kim! Nghề ca trù tưởng như đã đủ thời gian cải táng. Một cây đàn đáy gia truyền đã nằm ngủ từ lâu. Đàn này của cụ kép thân sinh của Tư Chản để lại. Cụ kép Điều đã thành người thiên cổ; khi cụ kép chọn gỗ, thuê thợ Kim Sa đóng cây đàn này lúc Tư Chản mới tám tuổi. Đáy đàn bằng gỗ dâu vàng, cần đàn bằng gỗ xâng chun, trục vặn bằng gỗ sứa. Phần trên của đáy đàn, hai khoáy gỗ đối nhau như hai con mắt. Cây đàn lên tiếng ngân vang gần một nửa thế kỷ. Khi cụ kép sắp quy tiên, Tư Chản được trao nhận làm gia bảo. Cây đàn đã được bàn tay hai thế hệ buông nhẵn dây tơ. Gỗ đã lên nước bóng một màu cánh gián soi gương. Theo cụ kép Điều kể lại, lấy làm tự hào về cây đàn. Thời tiết thi nhau đổi mùa khắc nghiệt mà không khuất phục nổi âm thanh bẩm sinh. Ví như người dày dạn nắng mưa. Ba ngôi âm thanh của đàn đáy "Tiếng tòng! Tiếng dụng! Tiếng dênh!" hợp thành đựng trong bầu đáy; nhà nghề gọi là "hồn đàn bất tử!" Tư Chản quan tâm cây đàn nằm đây như nâng giấc một người cha ốm. Trên bàn thờ sát vách bên trái, - cố để khuất mắt người lạ - Cây đàn được nằm trong tư thế, dày, trục nghiêm trang. Trên đáy phủ tấm khăn the màu hoàng yến, nay đã ngả màu lõi mít che bụi và che tất cả. Ngày nào ông cũng hai lần nâng tấm khăn, nhìn kỹ toàn cây đàn. Sóc, vọng hai lần mỗi tháng; vào buổi tối, ông đều lau bụi, và bàn tay lại chạm khẽ lên dây tơ, lặng nghe tiếng xa xưa vọng lại. Ông đứng ngẩn ngơ, quên, nhớ mông lung. Trước khi quay lưng ông không quên chắp tay thành kính vái cây đàn đủ bốn vái. Hồi tưởng những ngày nhẹ gót giữa xuân thu, tri âm chờ đợi. Từ xưa truyền lại lớp kế tiếp lưu giữ, lấy hai ngày: mười bảy tháng giêng và mười bảy tháng tám hàng năm cúng tổ nghề - đêm bắt đầu trăng khuyết. Âm thanh của ca trù chỉ chịu vang vọng từ những đêm trăng khuyết. Hay nhất là vào những đêm trăng hạ tuần, hay hơn nữa là lúc trăng tà - trăng ngả màu hoa lý. Vầng trăng đang giờ yểu mệnh! Phút lặng yên lưu nhớ của ca trù vẫn là tiếng ai oán, nổi, chìm, bi lụy, thanh tao! Phải chăng ca trù từ cái nôi ấy thoát thai? Nhớ dồn, thương góp, từ sau khi được xác định thành phần. Vợ chồng ông Chản, hai kỳ chọn một, âm thầm lấy đêm mười bảy tháng tám cúng tổ - tiễn thu. Tháng tám năm nay, từ đêm mười ba, vợ chồng dấm dúi hồi sinh. Hai người thận trọng, thay nhau, người ngồi đàn, người đi ra ngoài, người đập phách cất tiếng ca, người đi ra ngoài tai đong đo âm vục để biết chừng mà hạn chế. Tóm lại tiếng đàn, tiếng phách, tiếng ca chỉ được bay liệng trong sân, vườn. Hôm nay, đúng ngày mười bảy, hai vợ chồng đều tắm gội nước thơm hương nhu, lá sả từ chiều. Chờ lúc trăng khuya, trên bàn thờ thành kính đèn nhang hoa quả. Kép Chản, đào Khuê nghiêm trang cùng đứùng vái. Cô đào Khuê nhìn chồng khăn đóng, áo lương, trẻ lại. Kép Chản nhìn vợ khăn nhung, áo sa tanh, quần lĩnh hơi nhàu, hai vai áo vợ đã ố vàng; kép Chản bỗng lòng se lại. Mỗi người đều thấy mình đã gặp lại chính mình, lặng lẽ nhìn nhau, ngẩn ra một lúc. Trên gương mặt cô đào Khuê ảo não, nước mắt đã có giọt lăn trên ngực áo! Giữa phút hương bay, đèn sáng, cô đào Khuê ngồi lên giường khép nép, tay vân vê dùi phách, đưa mắt đợi tay đàn lên một tiếng "dênh!". Cổng đã cài then. Ngoài sân vườn im ắng, ánh trăng tà chênh chếch phía bờ ao. Cả một vườn rau bí trăng ủ màu cốm non, đợi gió. Tiếng đàn, chen tiếng phách nổi chìm nâng giọng ca da diết gọi về những đêm xa xưa. Tiếc thay! mất đi tiếng trống chầu vịn nhịp, âm thanh của đàn phách có hụt hẫng; sự bù đấp bằng tiếng thở dài, khẽ lắc đầu ngao ngán. Khúc "Cung bắc" đang chơi vơi như đò chưa cập bến. Bỗng tiếng chó sủa rộ từ phía nhà thím Vượng hắt sang. Đàn phách im bặt. Hai linh hồn đang rong ruổi quá khứ vụt trở về thực tại. Chó vẫn sủa dai dẳng. Ngờ đâu tiếng tơ, tiếng phách đã leo rào, lọt đến tai người, va vào miệng chó. Quả nhiên sáng hôm sau, thím Vượng qua mua rau bí, thì thầm vào tai bà Tư Chản: miệng nói, mắt nhìn truớc nhìn sau - đêm qua ủy viên văn hoá xã đứng nghe... Cả hai vợ chồng ông Tư Chản giật mình như vừa nghe nhận một bản án chung thân! Hiểm hoạ rình mò, chim cất tiếng gọi đàn ngợi ca trời đất cũng đồng thời gọi cả mũi tên! Đêm ca bất hạnh! Hai vợ chồng xót xa nhặt lên tay những âm thanh dập nát. Những suy nghĩ còn ở trong lòng mà vẫn phải nhìn trước nhìn sau. Hai người nhìn nhau chứa chan nước mắt, nuối tiếc cái thời bước chân của đàn phách in dấu mọi nẻo đường bời bời nỗi nhớ tri âm. Nhớ một khách du xa lạ, cái buổi gặp gỡ ông giáo Minh họ Chu trong đêm ca cuối tháng chín năm ấy tại nhà một ông giáo - nay đã quên tên - bên xóm Quan đài vùng Sen hồ Phủ-lạng-Thương. Cách đây, trên dưới ba chục năm, chẳng bao giờ muốn quên. Đêm ấy, mưa rươi hơi nặng hạt, sau mấy khúc "mưỡu", "nơi", mấy ông giáo tiếng trống non tay, nghe còn mũi rãi; đàn, phách còn phải khổ công chăm dắt. Đàn, phách phải biết cầm chừng. Tay kép Chản chỉ nhẹ nhàng nhấn vuốt. Theo thẩm định của những bậc thầy cầm đàn thì nhấn, vuốt chỉ phát những âm thanh phù phiếm. Tiếng buông cũng chỉ là tiếng đãi khách. Tiếng đục mới thật là tiến nghề - Chìm lăn trong đáy đàn chờ bật dậy hồi sinh nâng lời ca cất cánh... Lúc nghiêng khuya, mọi người chờ tiếp khúc "Tỳ bà" Đến lượt ông giáo Minh cầm trống. Khuôn mặt điềm đạm, bàn tay hào hoa ra roi mở đầu ba tiếng chơi vơi. Cả một đời đào,kép mấy khi gặp được tiếng trống ưu nhã rất mực phong lưu - Hiếm lắm! - Bắt gặp tiếng trống ấy thì đàn nổi hết cung, bậc, tiếng tơ hào phóng tãi âm; phách đổ từng cơn, nổi, chìm, khoan, nhặt, chồm, vấp điêu luyện. Khi lảy phách, cất giọng ca,tiếng trống buông đuổi giữa nhịp. Tiếng ca uốn lượn chập chờn, bay mỏi quanh một khổ sòng - Phách hoạt tay xóc ngọc - đàn dùng dằng đợi chờ - Trống chút xuống cuối phách chặn bớt tiếng ca, chờ cùng đổ hồi "vớt nhịp". Một lũ âm thanh đòi giây phút xuất thần - Trải dài đúng cự ly, tràn đầy khung nhịp, tưởng như chồng chéo mà rất riêng lẻ. Cuối khổ sòng, tất cả mọi người đều ngẩn ngơ một lúc. Tất cả đều chợt tỉnh còn muốn tìm nghe những âm thanh đang tan bay quanh quất. Chỉ còn nước mắt bi lụy từ nguồn ca đọng lại trên gò má, đó là tiếng "mệnh" có trong câu chót khúc Tỳ bà! Từ cái đêm tri âm kỳ ngộ ấy đã hẹn nhau vào cuộc những năm sau. Lần nào cũng vậy, cuối khúc Tỳ bà, cô đào Khuê còn đầm đìa nước mắt hơn cả Tư mã Giang Châu. Nghe nói ông giáo Minh đã ghé vai vào quốc sự, đã bị lưu đầy, đã bị thủ tiêu từ nơi nào xa lắm! Khiến vợ chồng kép Chản rất đỗi ngậm ngùi, tội nghiệp ông giáo Minh, một con người đôn hậu, một tay trống lãng du tài hoa nghiệp chướng! Vọng nhớ chuyện cũ mà cô đào Khuê ngày ấy, trưa nay lại rân rấn nước mắt trên khuôn mặt thanh tú vương buồn bẩm sinh, giờ đây không ít nếp nhăn, để kép Chản ngày ấy, nay mái tóc đã nốm hoa râm, thảng thốt nhìn mơ hồ xa mỏi! Lát nữa cũng trở về với danh mới - Vợ chồng Tư Chản - Trong thành phần tiểu tư sản nông thôn, lừng chừng, bấp bênh, yếu đuối; lại đón nhận sự dìu dắt của bàn tay cán bộ Đáng - người cháu họ. Nắng chiều đã lùi khỏi hàng giọt tranh, hai vợ chồng Tư Chản lại nón lá xùm xụp trên đầu, quai căng thẳng dây diều dưới cằm; lại khoác tuổi chiều xéo lên bóng nhau lúi húi vườn rau; lại ngóng tin con gái, đợi thư con trai; lại nghe gió lào xào trên cây lá - hết ngày... Ra tết, đang mùa của ngày xưa hội hè lễ bái, du xuân - gió chạy quanh trời, mây trắng lững thững đi, về muôn ngả. Không gian đang doạ một cái rét nàng Bân. Đáng ta mới tí tuổi đời, từ bữa được vào đảng ủy xã - cờ đến tay thằng nào cũng phất - lời đầu lưỡi vụng trộm của xóm làng - nay xem ra cũng tạo vẻ mặt chững chạc, cũng nghiêm nghị, cũng xuề xoà, cũng cười khẩy, đầu khi lắc, khi gật có trọng lượng, đủ tư cách một tín đồ có hạng của đạo mới, đủ khả năng chăn dắt đàn dân... Bà con hàng xóm đến nhà cán bộ sớm tối, hỏi chuyện nọ bọ chuyện kia; có người gọi là bác Đáng, người thì gọi ông Đáng, để tỏ lòng tôn trọng đảng ủy, tôn trọng chính quyền, tôn trọng cán bộ. Mẹ Đáng - bà Thước - tất nhiên lấy làm hãnh diện, còn luôn miệng phàn nàn trước mọi người, về con trai mình trên trao nhiều việc, cơm chẳng kịp ăn, ngủ không ngon giấc. Bà thường một mình ngán ngẩm tiếc chồng bà không sống đến ngày nay!... Từ chiều hôm qua, bà Chản lúc lúc lại máy mắt. Hai vợ chồng đồ đoán: hoặc con Nhiễu bế con về chơi, hoặc thằng Thuyên về phép. Bà Chản nghĩ thương con Nhiễu neo đơn, vất vả chắc chắn chả về được dịp này; có chăng chỉ là Thằng Thuyên. Trong năm Thuyên có gửi thư về báo tin được nghỉ phép vào dịp tết; không biết lại bận công tác gì mà mãi đến ngày nay chưa thấy về, cũng không thư từ gì. Nỗi băn khoăn thông thường nhưng cứ lẽo đẽo trong mong đợi của vợ chồng ông bà Tư Chản. Một lúc sau có tiếng chân người từ ngõ vào. Cả hai vợ chồng Tư Chản đều nghến phía cổng. Bà Chản mau miệng thốt lên: - Ôi! Thằng Thuyên đã về. Vợ chồng Tư Chản hớn hở, lại thấy một người đi sau Thuyên, thì ra lại là cán bộ Đáng, khiến niềm vui của vợ chồng, nhất là vợ, bỗng xệ xuống. Ông Chản vội nói nhỏ với vợ: "Thôi cứ nên vui vẻ bà ạ!". Bà Chản biết ý nên vợ chồng chung vui niềm nở đón con, đón khách. Thuyên và Đáng vừa vào trong nhà, ông bà Chản bắt đầu bận tay, bận chân, tíu tít hỏi han câu nọ xéo lên câu kia; tuy trước mặt có khách nhưng ông bà Chản vẫn ý tứ nhìn con trai từ đầu đến gót - vừa kiểm tra sức khỏe, vừa xem quần áo... Ông bà Chản làm sao biết được trước khi Thuyên về nhà đã tìm gặp Đáng - Thường trực đảng ủy xã. Hai người đã hỏi han, trao đổi với nhau, xung quanh vấn đề vợ chồng ông Chản còn lạc hậu, còn nặng căn lắm! Thật lòng Đáng là mong Thuyên sớm được kết nạp Đảng, vừa là chỗ anh em bà con, vừa là tình bạn học. Vả lại Đáng vốn rất mến tính nết của Thuyên: lành hiền, hay nhường nhịn bạn, ít nói, chân thực. Đáng còn nghĩ xa hơn một bước cho tương lai của Thuyên; nếu như sau này Thuyên không muốn theo binh nghiệp; đảng viên qua nghĩa vụ, trở về, tình đồng chí gắn chặt. Anh em sẽ cùng nhau trong hàng ngũ tiên phong, đưa làng xóm vững bước trên con đường vinh quang của đảng. Đáng cũng thổ lộ cho Thuyên biết: dạo trong năm trên đơn vị của Thuyên có cử người về xã điều tra, Đáng vừa mừng vừa buồn - mừng vì Thuyên đang là đối tượng kết nạp đảng, buồn vì gia đình; chính tai Đáng đã nghe tiếng đàn, tiếng hát của hai bác trong nhiều đêm. Trước cương vị thường trực đảng ủy xã; mặc dù Đáng có ít nhiều che chắn, nhưng không thể có những nhận xét khác được: - gia đình chấp hành chủ trương, chính sách tương đối không có gì đáng khiển trách. Thành phần chưa được thay đổi qua đại hội bà con nông dân; chưa hăng hái trong công ciệc chung của thôn xóm, nhất là họp hành, học tập. Tóm lại là đang còn an phận bảo thủ, đảng và chính quyền đang cố gắng giúp đỡ để vươn lên... Đáng thay mặt đảng ủy ghi những điều nhận xét vô tư trả lời cho cán bộ điều tra của đơn vị. Thuyên đã biết những điều địa phương phản ánh về gia đình nên Thuyên mới tìm đến gặp Đáng, để trực tiếp được nghe lời của Đáng về cha mẹ mình. Mặt khác Thuyên cũng nói lên điều mong mỏi Đáng tận tình giúp đỡ, động viên giáo dục gia đình; cũng chính là giúp đỡ bản thân - Thuyên tin đảng, ngày đêm mơ ước được đứng trong hàng ngũ đảng; tin Đáng một càn bộ cơ sở nhiệt tình vì đảng. Gặp nhau ít phút, hai thanh niên chan hòa quấn quýt, nhưng vẫn có một khoảng cách. Đáng còn lắc đầu than phiền về cách cư xử chì bấc lộ ra mặt của mẹ Thuyên với Đáng. Đáng lại thông báo với Thuyên trong phiên họp huyện ủy năm ngoái có nêu một vấn đề thôn Cẩm La một gia đình chồng cung văn, vợ hầu bóng ngày xưa chuyên lả lướt đền này, phủ nọ; nay tuy không dám đàn địch, khăn áo công khai, lượn đảo nơi đền phủ mê tín; nhưng đêm đêm còn réo rắt tiếng chầu văn. Đã nhiều lần chính quyền khuyên bảo, giáo dục, họ đã hứa đủ điều rồi lại vẫn tiếp tục. Chỉ việc nhỏ ấy mà đoàn thể và chính quyền cơ sở mất thi đua. Cuối cùng chính quyền phải ra tay dùng biện pháp cứng rắn, họ mới chịu dứt điểm. Chuyện ấy thì có, nhưng không hoàn toàn như thế; Đáng quả có tô vẽ thêm. Vả lại, nếu như không có mà Đáng cho mọc chuyện như vậy thì cũng không ai không tin vì, lời từ miệng đảng viên, từ miệng cấp ủy mà; chung quy cũng là một động cơ tốt. Đã bước lên hàng ngũ lảnh đạo thì đương nhiên chẳng thiếu khôn ngoan. Đáng phóng lên câu chuyện cũng một phần để tỏ ra rất quan tâm đến cha mẹ Thuyên, một phần đẩy cây, đẩy đũa khiến Thuyên phải nhắc nhủ gia đình; nhất là đối với cha mẹ - một đối tượng kiềng tránh của Đáng. Chẳng biết có thật thế hay không, Thuyên còn được Đáng rót thêm vào tai những điều tình cảm; Đáng bảo sở dĩ địa phương chưa phải dùng biện pháp cứng rắn với gia đình này vì Thuyên đang trong hàng ngủ quân nhân cách mạng; mặt khác nhiều người tuy không ai công khai nói ra miệng nhưng, cũng không ít thì thầm cho là gia đình Thuyên có cháu đang trong hàng ngũ lãnh đạo thôn xã. Sau chén nước chè xoàng, vợ chồng ông Chản băn khoăn mời; Đáng ý tứ đưa mắt cho Thuyên; bằng nhãn quan tiền phong của đảng, cặp mắt Đáng ném lên phía cây đàn đáy. Chẳng hay ông Chản có biết thế không? - Chắc là có biết - Nét mặt ông trở nên ngơ ngơ, hai bàn tay xát nhẹ vào nhau, như người đang sắp sửa nói lên một điều tự thú. Đáng mỉm cười, nhìn mặt Thuyên để dò xét sự đồng cảm, Thuyên chẳng những không cười, răng khẽ cắn vào môi dưới ẩn ý: vừa đồng cảm, vừa hơi xấu hổ. Ý Đáng muốn nhấn mạnh coi cây đàn là một vật cản trên bước đường tiến bộ của Thuyên, của giai cấp vô sản, của Đảng, Đáng muốn "đào tận gốc trốc tận rễ" mà chưa tìm được phương án tối ưu. Một lát sau, Đáng cáo từ ra về. Ông Chản đứng dậy cũng xoa tay nhưng nhẹ nhõm. Bà Chản đang bận tay trong bếp, thính tai, lên nhà, gượng cười, buông một tiếng chào rơi : - Anh Đáng chả ở lại chơi đây với em! - Bà cố làm ra vẻ thân mật - ở lại đây ăn với em bữa cơm rau đã nào! mỉa mai chen trong vồn vã. Bây giờ thì chắc bác chả mời được cháu ở ăn cơm! Nhận đủ tinh thần sâu, nông của lời mời, Đáng hơi đỏ mặt, nhưng vẫn tỏ vẻ thân mật, thoái thác ra về, viện cớ đang bận nhiều việc. Thuyên theo tiễn chân Đáng ra mãi ngoài cổng. Hai người còn đứng lại lâu lâu, nói với nhau những gì, vợ chồng ông Chản chẳng ai nghe rõ. Nhưng nói chung cả hai vợ chồng đều không bằng lòng, nhất là bà Chản. Bà khẽ phàn nàn bên chồng: "Chuyện gì mà xập xí, xập ngầu!". Ông Chản chỉ nhìn ra cổng cười cười chiếu lệ. Bà Chản vốn không ưa Đáng, nhất là từ cái đêm hắn đứng bên cổng nhà thím Vượng nghe ngóng đánh hơi. Nhưng hễ gặp mặt Đáng, bà Chản lại giả bộ vui vẻ, tựa như người bất dắc dĩ nhúng quần áo bẩn xuống nước mà giặt giũ - lấy nước làm sạch. Nghe người ta nói đài báo lại gió mùa đông bắc - Cái rét nàng Bân ập đến - Chiều xuống nhanh hơn mọi ngày. Mưa bụi cùng với bóng tối đổ xuống. Cả ba người trong nhà chuyện gần, chuyện xa tàn dần trong cái không khí lạnh đột ngột. Thuyên vẫn băn khoăn chưa tìm được cách mở đầu, giãi bầy ý mình với bố mẹ. Bà Chản đang xột xoạt làm cái gì đó ở đầu nhà, thỉnh thoảng lại nói vọng vào đôi tiếng, rồi lại nói một mình như đang tiếp chuyện với người nào đó. Ông Chản đang loay hoay ngoài hè, tìm cách rút lại quai dép cao su của con trai bị bật ra. Thuyên cảm thấy mỗi khi mình từ đơn vị về, thì từ việc nhỏ nhặt mà ngày chưa đi bộ đội, bố mẹ vẫn sai bảo mình làm nay bất luận việc gì Thuyên muốn mó tay, bố mẹ đều giành lấy làm cả, kể cả việc quét nhà. Thuyên không muốn như vậy. Ngay từ lúc về nhà, Thuyên đã quan sát sức khoẻ của bố mẹ. Chỉ mới hơn một năm, bố thì có phần chậm chạp đi; mẹ còn nhanh chân, nhanh tay nhưng đuôi mắt đã vẽ nhiều nếp nhăn hơn trước. Thỉnh thoảng Thuyên lại thấy bố cười một mình, rồi lại nhăn nhó ngơ ngác. Tuồi bố mới ngoài năm mươi nhưng rõ ràng đang bị đẩy nhanh vào già nua. Thỉnh thoảng Thuyên lại thấy bố hỏi một câu đột ngột ví dụ :"Thuyên có bị ghẻ không? sao đêm đêm thấy gãi nhiều thế?" Những câu hỏi đại loại như vậy Thuyên trả lời hay chưa kịp trả lời, bố cũng không hỏi lại. Giữa lúc trong nhà chỉ có một mình, Thuyên lại gần bàn thờ, khẻ kéo tấm khăn the phủ đáy đàn, vừa định nhấc đàn lên cũng vừa lúc bố quay vào nhà. Nhìn Thuyên, ông Chản nhắc con: "Hai dây đều xuống cả đấy!" Ông Chản kéo điếu hút thuốc rồi lại bước ra cửa. Thuyên cũng không nâng đàn lên, chỉ nhìn xem như nhìn lại một kỷ niệm; hay thăm mộ một người quá cố, kính cẩn, bâng khuâng. Cây đàn này ngày trước Thuyên được bố cầm từng ngón tay mình đặt trên dây dạy bảo cách rung, cách nhấn, cách cắt tiếng v.v... Bây giờ thì sao? Bất giác Thuyên nhìn lại tay mình, hai bàn tay đã nổi chai cầm súng. Thuyên vừa thầm nghĩ về quá khứ: tai hẳn đã nghe tiếng đàn từ khi biết lẫy biết bò. Tuổi đời dần lớn lên, ngày Thuyên bắt đầu học vỡ lòng ở trường làng, thì cũng là lúc bố bắt ngồi nghe bố gảy đàn - vỡ lòng nghề nghiệp. Đến lúc choai choai, bố đã bấm tuổi, chọn ngày làm lễ tổ, để Thuyên được ôm hẳn cây đàn. Cây đàn thì to, đáy đàn gần ngập vai Thuyên; bố nắn cho cả cách ngồi chững chạc. Bố nói ngày ấy là ngày hệ trọng; nhất nhỡ là phạm tội vong bội tiền nhân. Thuyên nhớ những khi bố mẹ đi đám về; thôi thì sôi nén, đùi gà, lòng lợn, hai chị em Thuyên thả sức. Chị em Thuyên lớn lên nhờ lộc tổ - mẹ Thuyên thường nói thế - lúc tay chị Nhiễu đã gần ngoan phách; tay đàn của Thuyên, được bố khen tiếng đàn đã nổi rõ "chùm chín, chùm xanh" thì cách mạng về giải phóng. Rồi đội về giảm tô, cải cách. Ông Tư Huân bạn cùng nghề với bố, ở bên quê mẹ có lần sang chơi, miệng mếu máo than thở: "Nghề nghiệp nhà chúng mình như mảnh đất thổ cư, cha ông để lại, nay đã lở xuống sông!" Thời thế đã đổi thay! tất tất lộn tùng phèo! những lời nói vô chính trị, lạc hậu, chỉ xuất hiện như ma trơi ở những nơi vắng vẻ; lực lượng cách mạng đang ra công săn lùng thủ phạm - lùng dễ bỡn - ai là thủ phạm chả được! Cửa miệng của Đáng cũng như bao cán bộ khác: "Còn phải dày công giáo dục". Thuyên ngẫm nghĩ nhiều về Đáng những lời thật lòng đối với gia đình Thuyên. Thuyên rất lo lắng đến tiến bộ bản thân, đến sự vươn lên của gia đình. Thuyên nhất trí với nhận xét của Đáng: Ca trù đàn phách nó dính chặt vào da thịt như một vật liền thân dứt ra là chảy máu ! Thuyên nghĩ đến chính ủy trung đoàn trình độ có thừa, trước việc gia đình lạc hậu, không dễ gì một lúc thuyết phục được. Bài thơ của lãnh tụ tối cao đã dạy "không có việc gì khó", "chỉ sợ lòng không bền"... Một bài "Thánh thi", cẩm nang cho mọi công việc trong toàn đảng, toàn dân. Quân nhân cách mạng là một danh thơm! Thuyên lấy làm tự hào. Thuyên đã phấn đấu hết mình ở đơn vị: đã được cảm tình đảng chỉ chờ kết nạp, Thuyên vẫn được đơn vị bầu là đầu tàu gương mẫu. Thuyên tự hài hước "Cái đầu tầu này lại chết máy khựng lại ở đây thì còn ra thế nào nhỉ?"- Thuyên lấy sổ tay ra đọc lại những lời dạy của chỉ huy, Thuyên ghi được trong những buổi học tập. Ngoài trời, mưa bay, rét ngậm, cặp gà nhép - gà mẹ Thuyên chọn mua về làm giống - rét rầm cho đít đỏ au như gấc, co ro đầu hồi,rên lên khe khẽ. Thuyên định qua nhà Đáng, vẫn còn nằm đọc sổ tay. Bà Chản đang nhẩm tính túi tiền ít ỏi để mua bán thức ăn cho con; kẻo ở đơn vị không có cá trê om củ chuối hột rồi, bún nộm cần rồi, củ mỡ nấu cá rồi, bánh trôi cũng rồi. Bà Chản muốn mua con gà để trước buổi con trả phép sẽ làm mâm cơm trước là để cúng ông bà ông vải sau nữa để cả nhà liên hoan tiễn chân con. Bà Chản cứ loanh quanh trong vòng túng bấn không thoát ra được mà không tiện nói. Ông Chản nhìn trời, chỉ hút thuốc lào vặt. Ông nghĩ bụng: "Trời ngoặc lại cái rét nàng Bân, đàn dễ xuống dây, vào những năm xửa, năm xưa, mỗi khi gặp rét này, ông luôn phải đổi dây mới cho đàn mà tiếng nhẩn vẫn cứ đuôi đuổi, tưng tức..." Ông gật gật đầu một mình miên mang nhớ lại những thời cầm đàn. Ông Chản quay nhìn lên cây đàn, đi lại đầu bàn thờ, tay mân mê tấm khăn phủ, phù phù thổi bụi. Thuyên nhổm dậy nhìn bố; mạnh dạn gợi chuyện để khỏi đột ngột : - Gì đấy bố? - Miệng chờ nói tiếp, môi đang mấp máy. Không! - Ông Chản chỉ trả lời mỗi tiếng, quay lại giường hút thuốc. Thuyên cảm thấy bố có ý lảng tránh chuyện cây đàn, không muốn bắt chuyện. Thuyên ghép lại trong đầu những lời của Đáng về gia đình mình; nhất là về mẹ mình hay khóe cạnh. Cái mâu thuẫn ngấm ngầm giữa hai bên khó mà hòa giải. Không sớm hòa giải thì phần thiệt thòi tất nhiên, gia đình Thuyên, bản thân Thuyên phải hứng đựng hậu quả. Nghiền kỹ sổ tay - cẩm nang quân nhân - Thuyên như người đang ngủ bừng tỉnh. Thuyên coi đây là một cuộc đấu tranh, đấu tranh giai cấp. Mà đã là đấu tranh giai cấp thì phải có lập trường. Mình là một quân nhân cách mạng thì dứt khoát mình phải đứng trên lập trường Cách mạng, lẽ đương nhiên phải có hy sinh, phải có đổ vỡ đó là quy luật tất yếu. Thuyên thao thao trong đầu như đọc lại bản thu hoạch - đã được tập thể và cấp trên góp ý bổ xung - của mình trong các đợt học tập về đấu tranh cách mạng mà Thuyên đã được tham dự lý luận càng đọc càng ngấm, khí thế càng bừng bừng: Đã là con người của Cách mạng, tuyệt nhiên không để những tình cảm phi giai cấp níu khố, chi phối :"Cái gì lợi cho cách mạng là phải làm bằng được!" - Thuyên tự trang bị cho mình một "ý chí quyết đấu!" Thuyên tự hạ "quyết tâm thư": "phải đánh gục!" đánh gục mọi cản trở của cách mạng. Thuyên cần đến sức hỗ trợ của Đáng. Thuyên đang mơ ước cuộc đời của Đáng hiện nay. Thuyên đã nghe mẹ kể: Bố Đáng đã chết trước thời tổng khởi nghĩa bốn nhăm, đến ba, bốn năm. Cũng là một tay bán giời không văn tự, lêu lổng, cờ rong bạc ruổi, quần tam tụ ngũ với bọn trộm cướp Trung hà, Thọ lão; bị thua bạc, phải bán cả nhà, cái khố không còn; đến lúc làm mẹ mìn, lừa cõng trẻ con lên bán cho Mường, Mán, tận Đồng Văn, Phó bảng; chả may một lần vào tháng ba năm - không nhớ rõ năm - bị người ta tóm được, đánh cho thừa sống thiếu chết, bị trói giải lên huyện; nghe nói bị lính tỉnh, lính huyện quá tay, nên bỏ xác trong tù... Đáng không giống bố, lớn lên bằng công sức làm thuê làm mướn của mẹ. Đáng khôn ngoan, nết na, dễ bảo; chẳng mấy lúc mẹ con dẫu chưa được no ấm bằng người nhưng cũng không đến nỗi phải đói khổ. Những lúc giáp bát, khó khăn, mẹ Đáng vẫn phải nhờ nhọi mẹ Thuyên khi đấu, khi bát. Bố Thuyên và mẹ ĐaÙng anh em con cô, con cậu. Đáng rất mến Thuyên, khi đi học, có lúc Đáng thiếu vở xin là Thuyên cho ngay. Cái thời thơ ấu, lòng thảo của Thuyên với Đáng, không bao giờ Đáng quên được. Hôm đó về buổi chiều, bố mẹ Thuyên đi đám về; Đáng sang chơi gặp chị em Thuyên đang ăn xôi thịt gà. Đáng mới đến cửa nhìn thấy,vội quay ra về. Thuyên chạy theo gọi, Đáng đã chạy xa. Một lúc sau Thuyên dấu bố mẹ thu thu trong gói lá chuối cho Đáng cả một cái đùi gà còn nguyên chưa gặm một miếng nào..Đáng trố mắt, sung sướng, sợ sệt... Hồi giảm tô, cũng là lúc Đáng trưởng thành. Mẹ con Đáng được xác định thành phần cố nông - cốt cán. Bố của Đáng được đánh giá là nạn nhân của chế độ phong kiến thối nát. Sau cải cách đợt một - Đáng được trên đề bạt, trở thành đội viên cải cách - Sau cải cách, sau sửa sai, Đáng trở thành cán bộ lãnh đạo cơ sở, có khả năng, có kinh nghiệm đấu tranh giai cấp - Đáng đã nên người, nên ông! Và hiện nay, đang là một cán bộ tin cậy của đảng ủy xã của chính quyền xã. Thuyên gấp quyển sổ tay nhét cẩn thận vào ba lô, chụp mũ lên đầu, trước khi kéo quai mũ xuống cằm, Thuyên lại nhắc mũ xuống chỉnh lại ngôi sao vàng ngay ngắn rồi mới đội lại, chân xỏ nhanh vào dép, dáng vội vã - Thấy con sắp sửa đi đâu mà không giắng mình, ông Chản hỏi vội : - Đi đâu vội thế con? Thuyên chưa kịp trả lời bố; bà Chản đang trong bếp nói ra : - Đi đâu thì liệu mà về sơm sớm - Bà Chản nhắc con ngụ ý không muốn Thuyên gần Đáng, nhưng cũng thông cảm tính thanh niên: đi xa thì nhớ nhà, về nhà thì nhớ bạn. Thuyên kéo nốt quai gót dép chân phải bước vội xuống sân : - Hết phép rồi, con phải đến ủy ban lấy chứng nhận kẻo mai người ta lại bận gì không có người ký thì trở ngại lắm - Thuyên khôn khéo lảng chuyện, bước mau thẳng ra cổng. Hai vợ chồng ông Chản nhìn theo anh bộ đội cụ Hồ mà lòng phớn phở. Chừng một lúc lâu, Thuyên trở về - Bà Chản mau miệng hỏi con xem có gặp người ta không? Thuyên gật đầu - phát tín hiệu được việc. Thuyên đã tranh thủ gặp Đáng, đã cùng nhau tìm ra cách giải bài toán khó. Thuyên đang chờ Đáng. Mưa đã dứt giọt, gió bấc nổi mạnh hơn, quét nốt những hạt nước đọng trên lá cây. Thình lình Thuyên nghe tiếng mẹ chào mời Đáng phía đầu nhà. Vẫn cái thói quen xông xáo, ngang tắt tiện việc,thân mật của Đáng. Trong bụng Thuyên đã nhanh mở điểm tập kết chuẩn bị xung cuộc; nhưng ngoài mặt lại tỏ ra như là sự tình cờ. Thuyên vờ hỏi ra : - Ai đấy mẹ! - Thuyên chỉ ngồi hỏi chứ không đứng dậy. Chả biết bà Chản có nghe tiếng không, hay chưa kịp trả lời thì Đáng đã bước từ sân lên hè chào cả nhà rồi lên tiếng dõng dạc dựng lời như thật : - Cháu vừa bận việc thôn bên, về qua trụ sở được đồng chí Lâm chủ tịch cho biết Thuyên nhà ta vừa ra xin chứng nhận; công việc nhiều sợ trước lúc Thuyên về đơn vị, anh em không gặp nhau, nên cháu tranh thủ vào thăm em. Trong không khí vui vẻ, cả bốn người đều suýt chén trà nóng. Bất giác, Đáng đặt chén xuống, nhìn lên tấm ảnh bác Hồ treo cao trên vách gần sát thượng lương nhà. Tấm ảnh lệch vẹo sang một bên, hơi có gió là lắc đi, lắc lại như mảnh vở trẻ con làm diều giấy không bằng. Đáng bước tới, kiễng chân, với nắn lại khung ảnh cho được ngay ngắn. Tất cả mấy cặp mắt đều dính vào tay Đáng. Ông Chản không nói, nom sắc mặt biết là đang tỏ ra ân hận trước mặt cán bộ là mình quả sơ xuất. Bà Chản chỉ mấp máy môi, chờ đón lời của Đáng. Chưa hề trê trách nửa lời, đầu Đáng cứ lắc qua, lắc lại. Chỉ riêng cử chỉ đó khiến ông Chản đủ vãi đái ra quần! dẫu cứng rắn hơn chồng nhưng ít nhất bà Chản cũng tái mào đi! - Thế là trúng kế! - Thuyên nhập vai cũng khéo, chẳng những cũng lắc đầu như Đáng mà còn thở dài thượt. Vợ chồng ông Chản bây giờ mới có dịp nhìn kỹ tấm ảnh nhem nhuốc bẩn thỉu, thấy mình càng có lỗi. Không dám hé lời nhưng trong bụng vợ chồng ông Chản, chỉ mong được thanh minh, bày tỏ: Tấm ảnh trước đây quắc thước, tinh khôi là thế, lũ thạch sùng bò lên rồi tùy tiện bậy ra, tự tay mình đâu dám gây những hành vi bất kính đâu cơ chứ. Dù thế nào thì cũng nghịch mắt lắm! Đáng vẫn không nói,mặt hiện vẻ bị xúc phạm, Đáng đeo nỗi xúc phạm trên mặt, nghiêm túc nhìn lên vợ chồng ông Chản, lạnh lùng cáo từ. Đáng chỉ bắt chặt tay Thuyên. Vợ chồng ông Chản bối rối quên không có lời mời Đáng ở lại như lần trước. Thuyên kín đáo mỉm cười, thầm khen Đáng sắm vai tuyệt vời! đúng chỗ, đúng lúc - thật xứng đáng một cán bộ dày dạn - chỉ hơn mình hai tuổi, mình nhiều mặt thua xa. Đứng về gốc độ quân sự mà nhìn nhận, Thuyên đánh giá Đáng là một chiến sĩ chủ công khai hỏa dập một cú phủ đầu đích đáng mở đầu cho chiến thắng. Lần này thì cả bà Chản cùng chồng đưa chân Đáng ra mãi bên ngoài cổng quay về, hai người cứ cằn nhằn lẫn nhau, tại nọ, tại kia. Vào trong nhà mà ông Chản vẫn còn hai tay thu bọc, mặt xần gai gà, rõ nhất phía dưới hai mang tai. Bà Chản, thỉnh thoảng đưa hai bàn tay rửa mặt khen. Biết bố mẹ quá lo lắng lòng Thuyên bỗng thắt lại - mềm yếu - Thuyên nhớ những ngày tấm bé: mỗi lần tắm, rửa, gội đầu cho mình, bố mẹ nắc nỏm cười với nhau khen mình có da, có thịt. Lại những lần nghe tiếng bố mẹ bàn nhau may áo mới cho mình, từng ngày, mong mình khôn lớn. Mỗi lần mình trái nắng dở trời hết bố đến mẹ luôn ngồi kề bên giường xoa nắn, canh tuần... Hôm nay, mình đã lớn, đã cầm súng trong tay vẫn dược bố mẹ coi còn thơ ấu!... Thuyên càng nhớ lại, càng kh6ng bằng lòng với mình. Bố mẹ phải sợ hãi, phải cúi đầu khổ lụy thì dẫu trước mắt, trong tay là lợi, là chức quyền, là gì gì đi nữa thì cũng là không người: Một kẻ nhẫn tâm, một tên lừa dối, một tên bất hiếu. Thuyên vật vã, mệt mỏi rồi thiếp đi lúc nào không biết. Tiếng chó sủa xô xát làm Thuyên bừng tỉnh - chắc bên nhà thím Vượng có khách lạ - nhanh nhớ lại nhanh quên, những điều Thuyên nghĩ về cha, mẹ còn vương vãi ít nhiều trong đầu khiến Thuyên ngơ ngác. Thuyên nhổm hẳn dậy với chiếc gương có khung gỗ trên mặt tẩu cạnh bàn thờ soi đi, ngắm lại một mình; gương cũ mờ, ố, nhưng vẫn rõ từng nét lớn trên mặt: lông mày đen to, dưới gò má bên trái, hai nốt ruồi gần nhau, một to, một nhỏ, thấy còn đù đờ ngái ngủ. Thuyên nhìn kỹ mặt mình trong gương, Thuyên lắc đầu: chưa sắc sảo, chưa tỉnh; phải tỉnh cả trong khi ngủ; "Chưa đáng mặt Cộng sản!" Tự mình "ốp đồng" lấy lại khí thế; trong điều kiện đang sống; trong môi trường đang sống; kẻ cầm súng, đeo đạn đặt cho mình những lời hỏi, đáp nhanh gọn: "Hiếu với ai ? - Với dân! Trung với ai? - Với Đảng!" Lời vàng ngọc của bác Hồ, quên sao được, trừ khi cái đầu đã rơi. Sự giác ngộ lý luận, được bấm nút bừng nổ dây truyền hai được bốn; bốn được mười sáu... khiến Thuyên can đảm mạnh mẽ; bằng cách nhìn mới, bằng tư cách mới, Thuyên tách được làm đôi: Con người và tư tưởng. Con người là rất đáng quý! - bố mẹ là con người - Nhưng tư tưởng ung nhọt, thì bằng mọi cách phải mổ, xẻ. Phương pháp "Trị bệnh cứu người" trong đấu tranh giai cấp, đấu tranh cách mạng đã trở thành kinh điển. Thuyên tự phê phán nghiêm khắc đồng thời cũng tự động viên, trót bị dao động tình cảm, suýt nữa ngã lòng. Thuyên khẳng định: đây là một trận tuyến đấu tranh tư tưởng, không thể lùi bước, chỉ được phép thắng và toàn thắng. Có những điều không thể nói ngay được mà phải cảnh giác dù là tình cha con, anh em hay vợ chồng. Một phương án tối ưu được Đáng và mình bàn bạc kỹ; chiến thuật khai triển xét cho cùng trên thực tế chưa có gì vấp hữu khuynh. Bố mẹ sợ sệt, lo âu là lẽ đương nhiên, là biết mình lầm lỗi, đó là thắng lợi? Lãnh tụ vẫn dạy: "Đã làm là có sai, nều sai lại sửa" ngắn gọn thế thôi! Bố mẹ đang như người đi đêm mất phương hướng, ta dùng ánh sáng của đảng chỉ đường mở lối. Biết Bố, mẹ chưa hết phàn nàn về sự vô ý, vô tâm của mình, Thuyên đưa lời đúng lúc : - Con biết bố, mẹ đang có điều lo lắng; lo lắng thế là phải. Việc này tưởng như đơn giản nhưng nó quan trọng lắm, nhất là thành phần nhà ta. Bác Hồ vĩ đại, vị lãnh tụ cao nhất, tôn kính nhất nước, còn lũ lãnh tụ quốc tế cùng tầm cỡ bác Mao... - Bậy nào! - Ông Chản trót thốt ra hai tiếng, và biết là mình vội lời, đưa mắt nhìn Thuyên, nhìn vợ - Thuyên bỗng ngơ ngác không hiểu ý bố nói thế nào. Nỗi lo đang vây quanh, bà Chản không thể không cúi đầu, tủm tỉm hóm hỉnh. Chả là chuyện kín của hai vợ chồng ông Chản. Ông ít đi họp, khi nghe người ta nói bác Mao, bác Mao ông cho là người ta nhầm, chắc là Mâu chứ Mao Mao thì nghe nó nghịch tai. Hai vợ chồng đã có lần nhờ đó được trận cười vụng tưởng vỡ bụng Thuyên hơi lấy làm lạ, liền hỏi lại bố : - Làm sao? Cái gì đấy? - Không, không, không có gì - Mặt ông Chản nhanh trở nên nghiêm túc - Con cứ nói. Bà Chản nhìn chồng, vẻ mặt bà còn nghiêm túc gấp rưỡi, nhắc theo : - Thuyên cứ nói, bố tưởng con nói lầm gì đấy - bà nhìn chồng, nhìn con. Thuyên nói tiếp đi - với ý kín đáo bà vờ trách chồng - Tai ông hình như dạo này nghễnh ngãng hơn trước đấy! Thuyên bỏ qua sự nghễnh ngãng của bố và nói to hơn: - Nhà ta lại để hình ảnh Người đến như vậy! Cũng còn là may! anh Đáng kịp chỉnh lại, tuy không nói nhưng đó là ngầm cảnh cáo con, cảnh cáo bố, mẹ đấy! Hai vợ chồng ông Chản nở nụ cười sung sướng; thấy con đã lớn hơn mình nhiều. Ông Chản tràn nỗi vui sướng, nghĩ Đáng là người có trước có sau, tử tế, mà vợ chưa hiểu cạn; ông trách vợ trong tiếng cười: "Đấy, tôi đã bảo mà!" Bả Chản lại thêm lời khen con: "Đi một ngày đàng học một sàng khôn", các cụ ngày xưa chẳng nói câu nào sai. Thuyên sung sướng, bước thẳng vào thực tế vấn đề : - Mẹ lên ngay cửa hàng hợp tác xã mua bán, chọn xem tấm nào không có vết về thay thế cho trong nhà nó uy nghiêm. Có ai vào nhà người ta không "đánh giá!". Bà Chản chưa khép hết nỗi vui về việc sắm ảnh bác, như người vừa cất khỏi gánh nặng. Bà cười, tự hỏi : - Chả biết trên cửa hàng dạo này còn không ? - Ối ra đấy! - Ông Chản mau miệng. Thuyên lấn sang chuyện Đáng, nhìn mẹ : - Con biết mẹ không ưa anh Đán; lý do vì sao thì con không biết. - Sao con lại buộc cho mẹ như thế! - Bà Chản nửa ngại, nửa bực - Có gì mà ưa hay không ưa. - Có đấy mẹ ạ! Bữa trước anh Đáng có phàn nàn với con về mẹ. Ông Chản ngồi nghe, đầu gật gật chẳng rõ ra công nhận lời con hay lời vợ. Thuyên nghiêm trang, nhìn bố mẹ : - Phải công nhận anh Đáng là người tốt, rất tốt với nhà mình. Anh Đáng đã thố lộ với con tất cả - Nói đến đây, Thuyên nhìn nhanh, cân não, dò xét thái độ biểu hiện của bố mẹ. Hình như vợ chồng ông Chản cũng thầm đoán được chuyện gì nhưng vẫn còn ngờ ngợ, chờ lời con xem: tất cả là tất cả cái gì? Hai vợ chồng giật mình, biết việc làm của mình đã ghi trong kho nhớ của đảng của chính quyền. Trời đang lạnh mà cả hai người toát mồ hôi. Như hai tội danh trước tòa sơ thẩm; sẽ có ngày ra trước vành móng ngựa đại hình - nơm nớp... Cũng không đến nỗi như sự chỉ tay day mặt, nhưng Thuyên đanh thép : - Thỉnh thoảng đêm bố mẹ vẫn còn đàn phách! Hai vợ chồng đưa mắt nhìn nhau, mặt dại đi. Đang có khí thế, Thuyên bỗng thấy xốn xang, nhìn lên gương mặt bố mẹ. Thuyên dịu giọng mở lối thoát tình cảm, khẳng định : - Bố mẹ có công nhận với con là anh Đáng rất tốt với gia đình ta không? Hai vợ chồng ông Chản vẫn im lặng như phật tử nghe kệ. Điều tốt của Đáng, sâu tận đâu thì chưa nói, nhưng ít nhất cũng đang làm tổ trong tai vợ chồng ông Chản. Thuyên sợ nguội lời, dõng dạc tiếp : - Phải người khác thì bố, mẹ đã bị ủy ban gọi ra cảnh cáo, còn bị xử lý bằng biện pháp cứng rắn, có đâu lại để yên. Đàn phách lúc này là lạc hậu lắm! tiếp tay cho tư tưởng phản động! Anh Đáng nói, tiếng đàn, tiếng phách trong đêm, dấu được ai; anh có muốn che đi cũng không che nổi - Thế đấy! Bà Chản thở dài : - Trăm tội! Ông Chản liếm môi liên tục, mặt rung ngang, rung dọc tỏ ý công nhận lời con, công nhận tất cả. Được thể, Thuyên nhấn mạnh : - Cả nhà ta nên biết ơn anh Đáng. Bố mẹ bình tĩnh nghĩ xem, việc làm lạc hậu ấy, nó kìm hãm bước tiến của con. Có lẽ đâu gia đình của một quân nhân Cách mạng lại như vậy. Bố mẹ vẫn tự cùm chân mình trong thành phần tiểu tư sản nông thôn. Con chậm kết nạp đảng là vì vậy: là vì cây đàn! Thuyên hất cằm phía cây đàn trên bàn thờ. - Thì bỏ! Được lời bố như đã nhúng tay ký cam kết; đúng hơn là ký bản đầu hàng! Thuyên phấn khởi, tựa một chiến sĩ đang múa lá cờ chiến thắng quang vinh trên đỉnh đồn giặc. Đầu Thuyên ánh lên một nước mạ quân sự; Chiến thắng là bao gồm nhiều vấn đề; diệt đồn không chỉ là bắt tù binh, hàng binh, mai táng tử trận, thu nhặt vũ khí, quân trang v.v... mà phải phá đồn, phải làm mất đi cái sừng sững trước mắt. Nó còn đòi hỏi lượng khoan dung của bàn tay chiến thắng... Thuyên lưu loát bài bản "đồng thuộc". Tiêu diệt toàn bộ cũng còn nhiều cách nói cho kỳ được hai tiếng khoan dung - chỉ có ngữ ngôn là kẻ đau đớn hơn hết: bị cưỡng bức đeo mặt nạ đương kim: Đương nhiên ví dụ đang còn là ví dụ; phải xông thẳng vào hiện thực; phải áp dụng bền bỉ, chiến thuật với "chiến thuật đỉa đói" dai dẳng bám khố kẻ thù để tiêu diệt kẻ thù! Trước mắt, đồn địch là cây đàn đáy: - Thuyên khẳng định. Đã quá nửa đêm, ngoài trời tối bưng, cái lạnh bên ngoài gió vào nhà, đòi quân bình khí hậu. Vào những đêm đầu năm, đầu tháng này rất lợi thế cho những hành động bất lương!... Bà Chản lên tiếng giục đi ngủ để cho Thuyên mai có sức lên đường. Thuyên vẫn chưa muốn đi ngủ và lại ngỗn ngang nghĩ về bố, nghĩ đến cây đàn. Cây đàn là bạn của bố - bố nói vậy từ ngày xửa, ngày xưa - Tiếng đàn còn là cái gì hệ trọng hơn nữa. Thuyên thoắt nảy ra một ý hay! - muốn chuyển đổi cho bố một cây đàn hợp thời, tiến bộ; để mỗi khi nhớ cái cũ, bố có cái mới làm bầu bạn. Vả lại tiếng đàn mới vang đến tai xung quanh, chỉ có tiếng khen giội lại. Thuyên dạm ý bố; cố tạo vẻ hồn nhiên : - Bố có thích ghi ta không nào? Ông Chản vừa buồn ngủ, vừa miên man trăm thứ trong đầu, chưa nghe rõ, ông hỏi lại : - Cái gì? Thuyên vui, tủm tỉm chưa kịp hỏi lại; mẹ đã nhanh miệng : - Cái đàn văn công ấy mà? bố đánh thế nào được đàn ấy, những dây là dây! - Bà Chản nhắc con - Thì cứ hỏi lại bố xem. Thuyên nhắc lại câu hỏi lần nữa : - Bố có thích đàn văn công không? đàn ghi ta ấy mà; thỉnh thoảng gảy cho đỡ buồn tay. Ông Chản trả lời mỗi tiếng : - Thôi! Tiếng "thôi" nặng nề, đầy thất vọng. Ý nghĩ yếu đuối, ngấm đòn, lăn lóc trong ngõ cụt lầy lội thâu đêm trằn trọc, lập lòe điếu đóm... Sáng nay, Thuyên phải lên đường trở về đơn vị. Thời gian tuy gấp rút nhưng kế hoạch hành động "diệt đồn" đã đâu vào đấy. Ánh mắt chủ công của Thuyên đã quật lên cây đàn đáy. Thắng lợi không phải còn trong tầm tay mà ở trong lòng bàn tay. Đồn địch - Cây đàn đáy - Bộc phá đã đặt sẵn chỉ còn châm ngòi - Nồi nước tắm đang chờ củi nỏ! Bà Chản, dậy sớm nhất, bấm túi tiền quá eo hẹp, băn khoăn nhẩm tính, đảo ra chợ Hiệp mua mớ cá riếc, rô láo nháo về nấu dấm tiễn con. Trong bếp, bà Chản đang làm món ăn, thỉng thoảng lại nói hắt lên nhà, câu thì nói với chồng, câu thì nói với con, nhưng đều không có tiếng đáp lại. Thuyên lặng lẽ lấy thùng đun nước tắm. Trong lòng vang ngân câu thơ "bất hủ" của một nhà thơ cách mạng- Con họa mi đầu đàn của đảng... "Đồng chí ta ơi!... Trước mắt đồn thù ngon như dĩa thịt bò tươi!..." Trong bếp khói ung, Thuyên mỉm cười một mình: thời tiết đang ủng hộ mình! Ông Chản ngồi trên nhà nghe tiếng hai mẹ con bàn nhau ra bẻ phên rào rau làm nòm. Ông Chản liền ra ngoài có ý kiếm tìm xem còn có cái gì sau nhà có thể làm củi được. Ông lắc đầu nhìn que, cọc đều bị mưa còn ướt chảy nước cả. Cuối cùng, ông bẻ cả cây sào phơi ải đem vào bếp cho Thuyên và dự tháo nốt mấy đoạn tre nâng cuối hàng lá lợp hiên sau. Củi ướt, bếp càng khói, ông Chản vừa vào đến cửa bếp lại quay ra, tai đầy tiếng cằng nhằn của vợ vì củi ướt, vì khói. Mấy phút sau, Thuyên mang lên nhà vẻ mặt đỏ lựng, dằng dụa nước mắt, nước mũi bị khói đánh. với ý nghĩ "phát hỏa" Thuyên chớp chớp mắt; chặc lưỡi trước mặt bố : - Đã quyết định bỏ cây đàn kia, thì bố đập cho con, còn để làm gì! Ông Chản nhướng mày lên, không nói được thành lời, hai môi bặm vào nhau, run run... Tuy nói là bỏ, nhưng bỏ như thế nào thì ông chưa nghĩ tới. Với ý chí quyết thắng, Thuyên nghĩ: đây mới là dứt điểm của mọi vấn đề. Nếu không mình đi khỏi sự việc lại có thể diễn biến theo một kiểu khác. Vương vấn là đúng; dứt điểm lại càng đúng hơn. Lính có suy nghĩ kiểu lính, sẵng giọng áp đảo : - Bố đã nói bỏ thì còn giữ làm gì? Ông Chản như bị cứng lưỡi, không dám nhìn lại con, ngơ ngác; đi lùi lại hai bước; vẫn không cất nên lời. Thuyên giục bố : - Bố cứ đập quách nó đi! Ông Chản nhìn lên cây đàn, mặt nhợt đi, miệng lắp bắp lạc giọng : - Thôi! Mày đập đi Thuyên ạ! - Vâng, để con! - Mắt Thuyên long lên. Nói chưa buông mồm, Thuyên hăng hái nhảy tới bên cạnh bàn thờ, tóm lấy cây đàn đáy - Cây đàn va vào vách "Cang!" một tiếng từ đáy đàn vọng ra như một tiếng kêu cứu thất thanh! một tội nhân đến giờ hành quyết. Cây đàn đại diện cho nghề tổ - Thuyên, lớp con cháu nghĩ gì? - Chẳng kịp nghĩ gì hết, đang nhơn nhơn say máu vì "đại nhiệm", cách mạng, cứu nhà, cứu nước, cứu bản thân, - lợi ích liên hoàn! Biết mình vô hiệu, ông Chản đi thoắt ra ngoài, không dám nhìn lại, mà có nhìn cũng chẳng thấy gì nữa - "Choác!" một tiếng trước cửa bếp - Thuyên mắm môi, quắc mắt, tay đập, chân đạp vào cần vào đáy đàn khiến cây đàn biến thành củi. Ngoài sân, ông Chản bưng tai như nghe sét đánh, liêu xiêu bước ra ngõ - Bà Chản thoái dạ, mắt hoa lên, mọi vật trước mắt quay cuồng, bà Chản phải chống hai tay xuống đất để giữ được thế ngồi "cóc vái giời". Bà cố định thần để nhận biết việc xẩy ra đã xẩy ra. Bà cúi mặt khóc rấm rứt. Nước mắt đứt, nối, keó dài cả một quá khứ tiêu tan trong giây lát. Lửa cháy vù vù dưới thùng nước tắm. Ông Chản đang loạn bước ngoài ngõ, ngoài vườn, xéo nát cả luống rau mới cấy. Tai ông nghe lửa réo; và ngửi thấy mùi đàn cháy khen khét như một vật có xương, có thịt. Ông thảng thốt nghe rõ tiếng đàn từ trong cháy phi ra. Phải chăng tiếng đàn chỉ đến với tai ông. Ông Chản đờ ra như người mất vía. Trên đầu ông lất phất mưa bay. Trong lúc Thuyên đang tắm phía đầu hồi, ông Chản lững thững vào bếp, cứ trố mắt nhìn hết cái này cái khác. Bà Chản đang dọn bữa, bà nhắc chồng ngồi sưởi cho đỡ lạnh. Ông Chản kéo ghế con ngồi ôm lấy bếp than đã vạc, tay cầm que dời đi, dời lại trong đống tro than. Ông hỏi vợ có nghe tiếng gì không? Bỗng bà Chản ngạc nhiên hỏi lại chồng xem tiếng gì; ông Chản nói trong tiếng thở dài : - Thôi đừng hỏi nữa! Thấy chồng vẫn bới bới, gảy gảy, bà Chản nghĩ được hay có cái gì bỏ quên trong đáy đàn: gặng hỏi chồng; bỗng nghe tiếng trầm trầm như rên "tìm mấy tiếng đàn". Bà Chản nhìn chồng giật mình thấy vẻ mặt chồng khác hẳn trước đây, cười cười, mếu mếu đứng dậy, miệng lảm nhảm, đi lên nhà; bà không nghe rõ gì cả. Bước ra khỏi cửa bếp, ông Chản còn ngoái đầu lại nhìn, chẳng biết nhìn cái gì? Tâm hồn đồng cảm không qua lời nói; bà Chản thấy hết. - Một con người mau nước mắt là thế mà giây phút này chỉ nhìn sau lưng chồng; chắc là nước mắt đang xối xả bên trong!... Bà Chản thờ thẫn, bưng mâm lên nhà; mặc dù mùi riêu cá bốc thơm; bà Chản nhìn mâm cơm cảm thấy lạnh lẽo. Cảnh tang tóc âm thầm chen giữa mâm vui - Bà Chản rùng mình ngao ngán trong lòng: "Vì đâu mà có cảnh này?" Trong bữa ăn, ắt chỉ có một mình Thuyên là ngon miệng; vừa ăn vừa pha trò dốc chuyện vào tai bố, tai mẹ - dốc bằng hết kẻo mình lại sắp xa nhà. Thuyên thấy bố mẹ đều rười rượi; ăn, gắp đểnh đoảng mà sức pha trò không phục lên được. Mọi lời rôm rả từ miệng Thuyên thu hẹp, rời rạc, rồi cũng tắt lặng. Ông Chản suốt bữa không nói được một câu. Ông chỉ ăn mỗi lưng, lấy cớ váng đầu, đứng dậy, nhưng không quên nhắc Thuyên ăn no mà lấy sức đi đường. Nghe tiếng nói của bố trầm, khàn, Thuyên nhìn bố. Lúc lúc ông Chản lại vuốt mặt, nhìn lại nơi để cây đàn mất đi không bao giờ còn nhìn thấy! Bà Chản cố ghìm nén, che chở để khỏi sây xát sự lư u luyến trước lúc chia tay. Thuyên hơi nao nao, cái nao nao của công tác hậu quả chiến trường; mai táng đối phương tử trận. Cuốc xẻng chiến thắng trong tay; tính tư tưởng không được phép; tính người vụng trộm vài giây. Biết bao ngôn từ viện trợ "đả thông", "đánh thông", "khai thông"; cùng với chân thực, dối trá xáo trộn, bị động thành chủ động; chủ động thành bị động. Nó làm cho Thuyên vướng mắc lùng nhùng; chỉ có thể thoát ra bằng những lời động viên thời thượng : - Bố mẹ buồn thì con vui sao được. Con biết bố mẹ vì chúng con mà phải chịu đựng, hy sinh nhiều mặt. Con mong muốn bố mẹ giũ bỏ được tất cả những cái cũ nặng nề để thanh thản đứng trong hàng ngũ nền tảng của cách mạng. Con chắc chắn rằng nay mai, bố mẹ sẽ vui hơn ngày xưa và hôm nay nhiều lắm. Con nói trước để bố mẹ mừng cho con - Thuyên ngừng lời tươi tắn nhìn bố mẹ - chắc chắn lần này con được kết nạp đảng. Vợ chồng ông Chản lại tìm thấy một đứa con; nó đang trước mặt mình, đang nói những lời mà tấm lòng cha mẹ đang chọn nhặt lấy những điều hiếu đễ; cái hiện tại đang thèm lùi về quá khứ... Hai người tiễn con ra tận cổng ngoài. Bà Chản tiếng to, tiếng nhỏ trong nước mắt dặn dò con không dứt lời; ông Chản nghẹn ngào rưng rưng khoé mắt vịn vai con, không nói được thành lời. Hai vợ chồng đứng nhìn theo con chưa khuất lối rẽ lên đường lớn, mà lòn g đã thấp thỏm nghĩ đến bước rủi, bước may của con. Khi quay về, hai người lại chung một cảm giác mong đợi da diết như chưa gặp con. Bà Chản đi trước, ông Chản chìm bước đi sau, khi đã vào đến sân, ông Chản lại quay ra khép cổng như thường lệ vào lúc nhá nhem tối. Bà Chản lấy làm lạ, vội nhắc chồng sao laị khép cổng. Ông Chản không trả lời, hoặc không nghe tiếng vợ bởi trong lòng bất định rối bời. Từ bữa Thuyên trở về đơn vị, ông Chản trở nên ít nói, lặng lẽ tha thẩn quanh sân, quanh vườn. Trước đây mỗi ngày ông chỉ một lần đến với cây đàn, sờ dây, thổi bụi; nay cứ một lúc lại đến chỗ cây đàn, lại ngơ ngác. Đàn không còn, con đi xa; vắng con, vắng bạn, và như vắng cả bản thân. Một tâm hồn ba cấp cô đơn. Thấy chồng buồn phiền, chán cơm ngày một phờ phạc, thỉnh thoảng bà mua lạng thịt về băm nấu cháo, nhưng ông Chản cũng chỉ húp vài lưng. Rét nàng Bân đã qua. Bầu trời trở lại nguyên xanh, lác đác tụm mấy tụm mây trắng bã bừa, trôi đi, dạt lại. Chim tu hú đã mở miệng phóng giọng báo mùa trên ngọn những cây xa, gần. Nắng hoa cau vung lưới. Người ta kháo nhau: vải đầu mùa đã có bán, đắt như vàng giả. Trên đường xóm thỉng thoảng xuất hiện một con chó ghẻ trụi lông, lưng trát đầy bùn, ngứa da, vừa chạy vừa ngoãy dưới nắng mới. Xóm trong, xóm ngoài gà mái nhảy ổ đẻ, tiếng "cục tác!" nối nhau ran ran nghe dán dát tai, tạo một không khí rất ngày xưa và cũng rất hôm nay - cái vỏ làng bằng an thịnh vượng!... Bà Chản thấy chồng xọm quá, Bà lo ngày, lo đêm, ruột gan thắt thẻo; mấy luống rau cũng chẳng buồn mó tay, cỏ mọc chen lấn. Bà mẩm bụng còn đôi hoa tai rỗng - một đồng cân rưỡi - đem cầm lấy tiền thuốc men, mua thêm cái ăn, cái uống cho chồng; lúc nào trời cho khá lại chuộc về. Bà Chản cũng tự biết là mình đang dối mình, chứ cơ cảnh này thì biết đến bao giờ mọc mặt. Đôi hoa này của người dì út đánh làm quà cho bà ngày lấy chồng - nó là một quá khứ long lanh trên vành tai trong hội hè đình đám. Bà đã tháo nó khỏi tai sau nửa ngày đội phát động giảm tô kéo quân về làng. Từ đó, mỗi năm nhiều lắm cũng chỉ đôi lần bà đeo vào tai để vợ chồng, đàn phách vụng trộm sống lại một đêm xưa; rồi lại tháo ra cất kỹ trong đáy hòm.Phiên chợ trước bà đã đem đôi hoa tai lên phố Phùng nhờ người bạn kiếm khách cầm tạm; nhưng người ta chỉ chịu cầm có một phần ba thời giá, tính ra được độ mươi đồng. Bà Chản phân vân, nửa muốn cầm đôi hoa, nửa muốn về bên quê ngoại dật tạm họ hàng; rồi lại chợt nghĩ ra: quê ngoại cũng cảnh như mình, nên lại thôi. Chiều nay, thím Vượng ghé tai bà Chản nói: có người bên Hiệp vừa mới qua Mai Lĩnh về, cho biết con cháu Nhiễu dạo này ốm lắm, cháu bé cũng quặt quẹo, nó nhắn bà lên chơi. Bà Chản bồn chồn thương con gái; nó biết bố mẹ nghèo túng, chẳng dám ngỏ lời xin xỏ; nó nhắn lên chơi cũng là có ý đấy. Bà quyết định bán đứt đôi hoa! Bà nghĩ: cái thời thế này đến giữ cây đàn trong nhà còn nơm nớp sợ mang vạ. Còn vui còn thú gì, còn đình đám gì, còn hoa hoét làm gì, "Thân còn chả tiếc, tiếc gì đến duyên!". Bà bấm đốt ngón tay nhẩm tính: Hai chục đồng, gần hai chục đồng. Bà cho hẳn con gái mười đồng. Bà than phiền con gái bà dại dột, đua thời, đua thế đi thanh niên xung phong về lại bận con bận cái năm ngoái về chơi, người chả ra người, tong teo dẹo dọ! - Khi nó lấy chồng bà cũng chẳng có gì cho nó; lúc nó đẻ con, bà cũng chẳng có gì cho nó - Nó cũng không dám tủi thân. Mười đồng cho nó chắc nó mừng lắm đấy. Còn mười đồng nữa buộc đấy để còn thuốc men cơm cháo cho chồng. Bà nghĩ mình cũng còn may mắn, còn níu được vào đôi hoa. Cầm tiền trong tay mừng mừng, tiếc tiếc bà Chản lại muốn để chồng lên thăm con gái, mang theo cho nó món tiền - cũng là chút thảo lòng với con; cũng là sĩ diện với rể - trước hết chồng bà đang buồn, đi chơi với con cho khuây khoả, cho người nó khoẻ ra. Vả lại, từ ngày con Nhiễu lấy chồng, ông cũng chưa một lần lên thăm, biết chỗ ở của con gái; đã nhiều lần ông dắng đi mà chưa có dịp. Lần này, ông Chản cũng vẫn cứ đắùn đo vì không muốn bà ở nhà một mình; tiếng thế nhưng bà là người nhát tối. Bà Chản khuyên nhủ hết điều ông mới bằng lòng ra đi. Tính cẩn thận, ông Chản đi được một quãng, ông còn quay về đầu cỗng gọi vợ dặn dò: có việc gì cần đỡ tay thì nhờ thím Vượng; hạt dền, hạt mướp, ông cất kỹ trong ống nứa, nút lá chuối khô, gác trên gác bếp gần vách bên trái. Ông Chản nhắc đi nhắc lại: phải nhổ cải muộn, làm đất kịp thời để có rau dền cấy, để có mướp đầu mùa. Cái nắng quái sau loáng mưa chiều nó làm cho người ta rầu rĩ; nhất là gặp cảnh người đi, người ở. Chiều nay, một mình bà Chản đang lúi húi trong vườn, lòng ngỗn ngang, nghĩ xa nghĩ gần; nghĩ toàn những điều gở dại mông lung. Bà Chản lại tủm tỉm một mình, tưởng tượng lúc hai bố con gặp nhau. Con Nhiễu lại có tiền chi tiêu giữa lúc đang bấn quẫn. Bà nhẩm tính thấm thoắt chồng đi thăm con đã qua ba phiên chợ - Nhà vắng quá. Giữa lúc bà Chản đang nhổ nốt luống cải muộn đã nhú ngồng để làm dưa, thì chợt thấy thím Vượng rẽ tắt phía đầu nhà thẳng vào vườn rau; vừa đi vừa xùi xụt. Gặp bà Chản thím Vượng ôn chầm lấy bà, òa lên khóc, báo tin dữ : - Bác trai đã mất rồi! Bà Chản ngả vật trên luống rau, ngất đi, không hỏi được điều gì khác! Thím Vượng dìu bà vào nhà. Bà Chản vật vã đầy miệng nước mắt. Thím Vượng kể tiếp sự tình: Vợ chồng cháu Nhiễu nhắn người quen mãi trên Phụng Thương đã đến mấy hôm rồi. Người Phụng-Thương lại nhắn ông Thảo ở dốc Gạch; trưa nay thím Vượng đi chợ Gạch mới được người ta nói cho biết. Ông Chản chết về sáng; sau khi lên nhà con độ hơn tuần. Mẹ con cháu Nhiễu cũng vẫn đang ốm, chẳng biết được ai suôi mà nhắn tin. Nghe đâu ở trên ấy người ta chôn cất theo lối đời sống mới, không kèn trống, không rơm mấn, xô gai gì hết. Thím Vượng ngừng lại, gạt nước mắt, đay lại: "Thế là chết sớm chôn chiều! Chết cũng đời sống mới!" Thím Vượng nói xong, bỗng chột dạ, quay nhìn tứ phía như một thói quen trong lúc thay quần áo. Thím Vượng im bặt - sợ vách có tai - Thím Vượng vốn chân lấm tay bùn, thành phần bần nông, không biết khéo mồm khéo miệng. Những tiếng nói kiểu mới thím kiêng tránh như lời tục tĩu, bất đắc dĩ thím phải nói lên đôi tiếng trong khi họp tổ; thường là nói sai, mua cười cho buổi họp. Vợ chồng thím Vượng đối vợ chồng bà Chản là chổ láng giềng, tối đèn tắt lửa giữa hai nhà kể cả thời tạm chiếm, thời giảm tô, cải cách cho đến nay, vẫn như bát nước đầy không hề có điều tiếng gì. Thím Vượng không bao giờ dám nhận những lời dạy khôn của bất kỳ ai; nhất là trong học tập giảm tô và cải cách. - Trong lòng một người chân lấm, đầu lấm, mà sự sàng lọc xấu, tốt còn nhạy bén hơn nhiều kẻ khác. Những trường hợp đứng trước lời dạy bảo thím Vượng phải vâng, dạ; cũng là vâng, dạ để bụng. Ăn có, nói không thím không quen, thím sợ. Thím cũng không biết làm sao mà không quen, làm sao mà sợ. Chồng thím lại còn nhút nhát gấp mấy lần vợ. Chú ta mặt mũi khôi ngô sáng sủa như mặt thầy giáo; nhưng tính nết củ mỉ cù mì - động nghe tiếng xô xát dẫu không có liên quan gì nhưng cũng run sợ, mặt cắt không ra máu. Giả sử có kẻ vu oan cho điều này điều khác, mà kẻ phân xử lại chỉ trông mặt bắt tính, bắt tướng quyết đoán thì chỉ có chết. Ngay trong suốt hai đợt học tập giảm tô và cải cách; cả xóm, cả làng đều biết, chú Vượng không hề mở miệng nói một lời. Cán bộ ra sức vực dậy, cũng đều vô hiệu. Ngày ấy cán bộ mệnh danh chú Vượng là "đồng chí câm"; bà con nông dân tiến bộ gọi là "Vượng cấm khẩu" - bần nông vẫn cứ là bần nông, thiệt thòi trong chia chác quả thực - Chú Vượng thường nói: "Của ăn không nó có ma!" nếu như cần giúp đỡ ai chú Vượng sẵn sàng dốc sức dăm ba buổi; nhưng là tiền thì một đồng cũng không bao giờ bỏ ra... Trước cảnh ngộ tang tóc của bà Chản, thím Vượng chia sẻ nỗi đau, khóc lóc như bản thân gặp bất hạnh. Bà Chản lau nhanh nước mắt, đứng phắt dậy, ngơ ngác trong cặp mắt thất thần. Bà Chản lấy chìa khoá cửa trao cho thím Vượng, nhờ thím coi nhà. Trong túi sẳn còn gần nửa tiền bán đôi hoa, chưa tiêu khuyết đồng nào. Bà Chản chụp vội lên đầu chiếc nón cũ - Chiếc nón của chồng vẫn đội làm vườn ngoắc ngay trên đinh vách bên cửa - quai nón đầy mùi mồ hôi cũ, bà Chản lại òa lên khóc! - Quần áo cũng không kịp thay. Bà Chản rảo bước quăng mình ra cổng; chiếc nón cũ gió hất xuống lắc lư sau vai, cọ vào tấm áo cánh cũ, một ống tay xé cộc lên đến khuỷu. Bước cun cút thất thểu, trên con đường quan - vừa đi vừa ngóng xe. Ví phỏng người quen cũ có gặp mặt, làm sao nhận được cô đào Khuê hôm nay. Đi hôm trước, chiều hôm sau bà Chản đã về; đến đầu xóm thì trời đã nhá nhem, Chỉ mới qua hai ngày mà dốc đi mất nửa người. Hai mắt lõm sâu, tiếng nói khản đặc, bà Chản nghẹn ngào nói lại với thím Vượng đúng như lời thím được nghe người ta nhắc trước đây. Di vật của chồng bà mang về chỉ là một chiếc bật lửa cũ, bà vẫn cầm chặt trong tay. Ngay đêm đó, bà Chản đèn hương. Chiếc bật lửa được đặt cạnh bát hương. Nỗi đau dồn thắt, bà Chản một mình ngồi khóc thâu đêm, thỉnh thoảng lại với tay cầm chiếc bật lửa rồi tự đặt lên bàn thờ - Vật vã đay đi đay lại: "Chết không gặp nhau! không gửi lại điều gì trong phút lâm chung!..." Sáng hôm sau, nắng hoe một lúc, lối vào cổng nhà tang in đầy dấu chân đoàn thể - dấu chân "bộ tứ", "bộ ngũ" (đảng, chính, nông, thanh v.v...). Người nào người nấy vẻ mặt đau buồn thăm viếng. Bà Chản mắt sưng húp đang khóc dưới đèn hương, đứng dậy đón đoàn. Trong số đó, bà Chản chỉ nhận ra được ông Phú chủ tịch xã và anh Đáng còn đều là người thôn khác. Một bà phụ nữ ôm theo một bó hoa huệ ngát hương. Tất cả đều vây quanh bàn thờ, tất cả đều đăm chiêu lặng lẽ. Ông chủ tịch xã, xúc động nhân danh thay mặt đảng ủy, thay mặt chính quyền, thay mặt đoàn thể các ngành các giới trong toàn xã nói lời chia buồn thống thiết, - ông rút khăn tay chấm mắt, nhiều người trong đoàn làm theo - ông ân cần khuyên nhủ bà Chản và với cả mọi người có mặt: "Tổn thất của gia đình cũng là tổn thất chung của mọi người!" Ông không quên nhấn mạnh :"Biến đau thương thành hành động cách mạng!" Ông hứa :"Đảng, chính quyền, có trách nhiệm tích cực giúp đỡ gia đình để giảm bớt những khó khăn...!" Bà Chản, xúc động, tay vuốt phẳng ống quần - thói quen lịch sự trước mặt người lạ - cúi đầu lĩnh nhận những lời cao trọng đạo đức. Thưa bạn đọc, thật ra đoạn viếng thăm là không có. Tôi phịa thêm - tự thấy cũng không có thiệt hại gì - Xin bạn đọc thể tất! Đôi đũa gãy một chiếc! Bà Chản suy xụp chẳng còn lòng dạ đâu nghĩ đến làm ăn. Mảnh vườn để hoang, chỉ còn lại dấu chân loạn bước của ông Chản từ bữa cây đàn đáy bị đập làm củi đun nước tắm. Cứ nhìn vào vườn, bà Chản lại nhìn vào những dấu chân ấy mà giàn giụa nước mắt. Tiền bán đôi hoa còn lại, bà Chản chi dần vào đèn nhang, ngày nào cũng như ngày nào, bà cũng mua thêm tí thịt, hoặc cá, hoặc đậu, thổi lưng bát gạo để cúng cơm bữa. Bốn mươi mấy ngày rồi, bà Chản chưa biết miếng cơm nóng. Cúng xong, bà hạ xuống thom thỏm một mình vừa ăn vừa khóc. Bà giành giụm để nay mai chi vào ngày "bốn chín". Thật ra, bà Chản chẳng biết nghi thức cúng bái thế nào trong ngày ấy và cũng chẳng biết hỏi ai. Bên cạnh có vợ chồng thím Vượng nhưng cũng không biết gì hơn. Bà Chản còn muốn đi gọi hồn chồng để được nghe lời dặn dò; kẻo âm dương cách biệt quá! Cô đồng, thầy cúng, thầy bói, xa gần đều đã bị cưỡng bức giải nghệ. Có người đang còn nằm trong trại tù, trại giam. Ý bà Chản phải đưa được vong linh chồng lên chùa nương bóng Phật, để chồng được mát mặt, để bà được thỏa nguyện giữa kẻ còn người khuất, gọi là chút nghĩa trong cõi thác sinh. Khốn nạn thay! Chùa đình của làng cái còn, cái mất. Du kích, dân quân đã phá hủy đình, chùa, ngay từ lệnh tiêu thổ kháng chiến, sợ giặc tràn đóng bót. Dấu tích của đình chỉ còn mỗi cái giếng, tảng đá ong rỗ rỗ, mặt nước đầy bèo tấm. Ngôi chùa cổ kính đẹp là thế; du kích dân quân đang phá dở, thì giặc kéo đến tiếp tay đốt phá tan hoang, chỉ còn lại gian "chuôi vồ" sau đại bái. Sư Phúc đã hồi tục về tận xứ đông xứ đoài. Tượng Phật chẳng còn pho nào vách trong, vách ngoài gian còn lại, kẻ đầy những khẩu hiệu, và những nét vẽ tục tĩu - của những trẻ con mất dạy để lại - cố tình lọt lưới dăm điều dạy bảo tổng hợp dễ nhớ. Bà Chản những lo lắng băn khoăn tối ngày không có hoàn cảnh để được làm trọn bổn phận. Mặt khác bà Chản cũng lo lắng dở dói đền hương tránh sao khỏi con mắt của xung quanh dòm ngó; chuốc vạ vào thân và còn làm nhục đến vong linh. Bà Chản tâm tâm niệm niệm cầu trời khấn phật rủ lòng đại xá - Cảnh khốn cùng "Tâm động quỷ thần chi!" Thấm thoát đã đến ngày bốn chín. Lòng thành kính, lễ nghi đạm bạc; bà Chản bày trên bàn thờ hai bát hương; trên Phật, dưới vong, chờ tối xuống. Bóng nắng uể oải kéo qua ngọn vối bờ ao. Bà Chản ra chĩnh nước bên gốc cau, múc nước cúng. Thoáng thấy bóng mình trong khoanh nước lặng; không nhận ra mình, mái tóc hoa râm sác sơ, tàn tạ. Chờ lúc sẩm tối bà Chản mới đốt hương đèn trên bàn thờ. Nôm na, than thở những lời cay đắng. Bà Chản cứ ngồi lặng, cái bóng héo hon treo trên vách, ánh đèn thờ lắc đi, lắc lại vật vờ. Đã quá nửa đêm, mọi nhà đã yên giấc trong tiếng chó sủa cầm chừng, Bà Chản muốn cúng chồn g bằng lời ca, tiếng phách - Chỉ có lời ca, tiếng phách hy vộng vợ chồng được gần gụi trong khoảng cách âm dương - bà nghĩ như vậy. Bà Chản lấy cỗ phách trong hòm ra. Nhìn cỗ phách, bà thấy như được gặp ruột thịt, cùng bà chia sẻ nỗi đau. Tay run run dở vuông nhiễu điều áo phách, bà Chản với lên bàn thờ lấy chén rượu thải xuống lau phách; vùa lau vừa tìm lại những kỷ niệm từ thưở mười hai... Năm ấy là năm gì nhỉ. Đêm tháng tám, có trăng chiều. vợ chồng người cậu bày đèn hương trên bàn thờ tổ, cháu gái Âu thị Khuê được nhận phách tập - cũng như độ tuổi con trai buổi đầu nhận đàn - Ngay từ đêm đó, dì Huyền nắn từng ngón tay Khuê, dạy cách so dùi dạo phách... Trời phú cho Khuê có nét cười duyên dáng, hễ cười là cúi đầu nghiêng nhìn e lệ. Đêm ấy Khuê ngồi tập phách bên dì Huyền mãi đến lúc trăng tà. Khuê luôn tủm tỉm, sung sướng thấy mình lớn lên trong tiếng khen của dì Huyền. Đời Khuê bất hạnh từ thưở nhỏ; năm Khuê bảy tuổi bố mẹ đều mất - mẹ mất bảy tháng sau khi bố mất, trong cùng một năm. - Trên đầu tuổi thơ đã hai lần khăn tang! Khuê được bà ngoại đem về nuôi trong tình thương của bà ngoại, của cậu mợ và của dì Huyền. Cả hai bên nội, ngoại đều có nghề ca trù từ tổ tiên truyền kế. Tiếng phách đã chập chững đòi giội ngọc, qua mấy năm công phu luyện tập. Năm Khuê mười lăm tuổi, đã được theo cậu mợ, theo dì Huyền lưu ca nhiều nơi. Khuê và dì Huyền giống nhau như hai chiếc lá cùng nhành. Khuê lại được số phận ban cho giọng ca rầu rĩ não lòng với cái dáng thanh tú, buồn buồn của đóm sao chiều; khiến nội ngoại đều lấy làm hãnh diện.Năm Khuê mười bảy tuổi, sau nguyên tiêu, đêm giỗ tổ nghề; ông sáu Lục, ngưòi cao mai nhất trong họ và là một kép đàn cừ khôi - Làm chủ mọi cây đàn đáy - Chọn giờ Thân, giờ tuổi của Khuê - đó là tục lệ của nghề nhà - Chính thức trao cho Khuê cỗ phách "bản mệnh". Và tên Khuê được ghép thêm tiếng đào - đào Khuê. Đào Khuê được chọn mầu áo để mọi người so sánh. Mọi cặp mắt ngắm nghía đều thấy đào Khuê chỉ ưa vận đồ thâm. Ông Sáu Lục ban khen hết lời nhưng, không khỏi ngậm ngùi kín đáo.Cỗ phách là của dì Huyền. Khi đào Khuê đưa tay nhận phách, hai dì cháu đều rưng rưng trao nhận cả nước mắt. Dì Huyền bốn mốt, hơn đào Khuê đúng hai giáp. Trước kia tiếng hát của dì Huyền đã một thời khiến bao khách tình rơi lệ! Bất hạnh thay! cuối mùa hè năm kia, chẳng may dì Huyền lâm bệnh thương hàn; mấy tháng sau mới bình phục. Tóc bị rụng, giọng ca bị gãy! Dì Huyền đành trao lại cỗ phách cho cháu gái mồ côi, mà dì thương mến nhất. Đào Khuê họ Âu nhận phách của họ Dương, đó là điều khác biệt với lệ thường. Đào Khuê được dì Huyền kể lại về lai lịch cỗ phách. Phách bằng trúc; loại trúc ngà này chỉ ở trên đỉnh Thạch Bàn núi Tam Đảo mới có. Trúc mọc trên đá, phía sau đền Tây Thiên. Hẳn vì quanh năm mây trắng bao phủ nên từ thân đến lá đều mầu trắng ngà; nhờ chọn gió đỉnh cao quanh năm, từng thớ trúc nhiễm sức bay xa của gió nên khi giội phách, âm thanh lượn lờ linh vọng. Người ta truyền ngôn từ xưa các triều vua, chúa đã chọn lấy trúc đó về làm phách ngự cho cung nữ. Người dân mãi sau này mới dám sử dụng - Vì lẽ gì thì chẳng biết - Nghề ca trù nhiều vùng đều ao ước; có lẽ người ta cậy vào nơi sinh trưởng của trúc mà đặt cho tên đẹp là "tiên phách". Không phải ai muốn lấy trúc cũng được. Hẳn phải có sự cấm kị, ngăn cản của sơn thần. Muốn lên lấy trúc phải tính tuổi như làm nhà vậy; lại phải xem ngày, phải tu lễ dâng cúng tại đền Tây Thiên; phải gieo đủ mười hai tiền xuống dòng suối giải oan; phải xin âm dương được quẻ mới dám động thủ phạt mộc. Phải chăng việc lấy trúc làm phách đã qua nghiệm chứng mà người người truyền miệng, hay chỉ là lời tầm phào đơm đặt nên chuyện. Thời bà ngoại của đào Khuê còn đang tuổi thanh xuân, cụ ông kỳ công thuê một tay thợ vùng Vĩnh tường đứng tên cụ dâng lễ lên núi xin trúc. Thợ phải tựa vào mắt đốt lần đám qua bốn trục "Sinh - Lão - Bệnh - Tử" trọn lấy một đốt cuối Tử đầu Sinh.Có nghĩa là cỗ phách nằm giữa hai cõi Tử, Sinh. Cỗ phách được bào chuốt, bóng lọng màu ngà. Ông cụ còn muốn dựng cỗ phách kiểu phách của cung nữ đời hậu Tống nên đã thuê thợ kim hoàn cẩn vào hai đầu dưới lòng phách một nửa phân vàng mười chia đôi - Và cũng đặt cho cỗ phách quý này cái tên sang trọng là "Kim phách". Quả thật, hàng năm cứ vào quãng cuối thu, kim phong chập chùng lay mỏi, mỗi lần dạo phách, thấy thoát lên lanh lảnh tiếng ngọc va ngọc. Cái âm ngọc ấy nó chọn tai người nghe! Bà ngoại nâng niu cỗ kim phách được vừa trăm ngày thì lâm bệnh! Xem ra là xung mệnh; buộc phải rời tay khỏi phách. cỗ kim phách được cất kỹ, mãi sau được trao cho dì Huyền - Tuổi Thân - Mệnh kim. dì Huyền sau đó lại trao cho đào Khuê, cũng tuổi Thân - Hợp mệnh.Cỗ kim phách truyền tay ba đời. Cỗ kim phách, đào Khuê gìn giữ bằng tình cảm tâm gia - Coi là "phách mệnh". Tiếng phách lần giao âm ngọc với ngón đàn của kép Chản so dây. Mấy chục năm gắn bó, phút chốc nghề nghiệp sa cơ! Làng ca trù ngao ngán, buộc quay lưng với đàn ca, quay lưng với tri âm; quay lưng với chính bản thân!... Dưới ánh đèn con trên bàn thờ tãi sáng chập chờn yếu. Bà Chản dằng vặt duyên phận; chẳng biết vì đâu mà lúc âm dương chia cách, vợ chồng không được nhìn nhau lần cuối! - Người ra đi vì sao không gửi lại cho nhau được nửa lời!? Vẫn chiếc áo thâm ăn dáng, hứng nước mắt chưa khô lại ướt. Bà Chản run tay đập phách; nghẹn ngào, mấy lần không cất nổi tiếng ca - lời giã biệt cuối khổ sòng mà vợ chồng rất tâm đắc, lúc canh tàn, tiễn bạn... Tiếng phách luôn vấp nhịp; tan dọc, tan ngang nhỏ dần; như từ Thiên cung vọng xuống, như từ sâu thẳm vọng lên chờ đợi tiếng ca. Bà Chản chỉ thốt lên được mấy tiếng cuối khúc, cuối câu: "... Lúc phân trình rầu rĩ lắm ai ơi!.." Quen tay đập mạnh phách cắt nhịp. Bỗng phách câm đột ngột. Bà Chản không tin ở tay mình, vội xóc hai dùi đơn, kép đập lại. Phách chỉ phát ra tiếng bồm bộp, như đập vào tre ải. Hương đòi tàn, đèn muốn tắt! Bà Chản sửng sốt, cầm phách lên tay nhìn kỹ; phách vẫn nguyên dáng; màu ngà đang phai dần, ngả hẳn sang màu sáp ong dưới ánh đèn leo lét, lạnh lẽo vây quanh. Bà Chản rùng mình, quay nhìn quanh quất. Hai bàn tay khô héo đan chặt vào nhau. Linh mệnh thầm nhủ, bà Chản nhận biết "Bạn cũng ra đi" Phải chăng kim phách có tiền oan! Mảnh áo thâm đang khoác điều tiền định: duyên mệnh! Lại một lần nữa như bị xẩy chân trên bờ vực thẳm! Bà Chản khóc không ra tiếng, cúi nhận thêm một cái tang - tang bạn! Hôm sau, mặt tàn tạ chúi trong nón cũ, với cái dáng tiều tụy trên đường gió đẩy, hai vai chĩu nặng thê lương, bà Chản vươn bẻo chợ Phùng, mua về ba vuông vải trắng làm đồ khâm liệm bạn. Sau bữ a cúng cơm chiều, bà Chản lấy phách ra lau rượu lần cuối; mùi rượu dâng men cuốn theo cả cái mùi tục lụy của dĩ vãng đăng đắng tan bay. Bà Chản gói kín phách trong ba vuông vải trắng, bên ngoài bọc vuông nhiễu điều. Khâm liệm xong, bà Chản nâng phách lên đặt cạn bát hương, đốt thêm ba nén, có ý để vong linh chồng chứng cảnh. Bà Chản lại hạ phách xuống khâm liệm lại; vuông nhiễu điều áo phách được gói bên trong, vãi trắng gói bên ngoài; vẫn cứ băn khoăn, bối rối không biết thế nào là phải. Chờ lúc chạng vạng, bà Chản mang cỗ phách ra phía bờ ao, tìm nơi mai táng. Nách bên trái ủ chặt phách; tay phải cầm một cái sén cấy rau, bà Chản vừa khóc vừa cạy đất. Cạy đến hai, ba chỗ, chưa thấy yên lòng, lại lấp đi, lại đào tiếp một huyệt, lấp đất và nói xuống huyệt: "Bạn không ở lại, đời đào Khuê chả biết ngày mai ra sao? Đào Khuê đặt bạn nằm yên đây để bạn khỏi bơ vơ!" - Hai bàn tay bóp đất, vun một nấm mộ nhỏ vừa bằng chiếc gối đầu để có thể ở trong nhà vẫn nhìn thấy. Ngồi lặng bên mộ phách một lúc lâu, bà Chản đứng dậy liêu xiêu vào nhà. Trong nhà, bóng tối đã tràn ra ngoài cửa. Đứng trước hiên lùi lại vài bước, bà Chản cảm thấy lạ lẫm, trống rỗng; ngơ ngác không biết mình đang ở đâu? Nghề ca trù mất - bàn tay nào mưu toan bức tử? Nghiệp ca trù vẫn còn đeo đẳng trong linh hồn, chờ vận hội tái sinh. Phải chăng âm thanh của lời ca, của đàn, phách không chịu khuất phục, không chịu nhục nhã quỳ gối trước công đường lầy lội nhớp nhơ - Nhất loạt tự sát! - Bởi không còn thấy một chân trời nào có thể đặt bước lưu vong.

Hà-nội 12-58

Phùng Cung

Một người thích quà Mọi thủ tục mở đầu cuộc hội nghị quan trọng trong ngành đã xong. Tất nhiên, như thường lệ, ông được mời lên trên đoàn chủ tịch. Từ dưới hội trường nhìn lên, người ta thấy vẻ bệ vệ, trang nghiêm thường ngày của ông càng được tôn lên trong cái không khí lễ lộc quan trọng này; nhất là khi ánh đèn quay phim, truyền hình lướt qua, đôi phòng kính của ông khi ngẩng mặt nhìn bắt sáng lóe lên, cái trán rộng và cao càng nổi rõ hơn. Ông chỉ ngẩng lên một chút, mặt hơi đăm chiêu, vừa đủ thời gian để được thu hình, rồi lại cắm cúi nhìn xuống tập tài liệu trước mặt, với cây bút trên tay. Thỉnh thoảng ông lại ngẩng mặt lên, nhìn vào người đang báo cáo trên bục, xong đảo mắt nhìn chầm chậm toàn cảnh hội trường, rồi lại cúi xuống tập tài liệu. Đặt ngay trên tập tài liệu ấy là một cuốn sổ tay nhỏ, loại bỏ túi, mà những người ngồi bên dưới không thể nào nhìn thấy, còn những người ngồi hai bên và phía sau ông trên đoàn chủ tịch thì cũng không thể nào biết được trong cuốn sổ đó là những gì. Khoảng cách giữa họ và ông khá xa. Hơn nữa, hầu hết nội dung ông ghi trong sổ đều thuộc dạng ký hiệu, chỉ riêng mình ông biết. Thí dụ ba cái cột dọc với các mẫu tự T, K và R trên đầu chẳng hạn. Ai hiểu nổi T có nghĩa là "đã triển khai", K là "đã kiểm tra" và R là "thực hiện xong"? Mỗi cán bộ cấp dưới, được ông dành cho vài trang. Từng việc cần triển khai, ông đều vào sổ, hàng ngày bỏ vài phút đầu và cuối ngày để kiểm tra xem tiến độ đến đâu. Ký hiệu trên hai cột T và R là dấu X. Còn trên cột K, ông đánh dấu hình tam giác. Nếu kiểm tra, nhắc nhở một lần, ông gạch một cạnh huyền, hai lần là hai cạnh, và nhắc nhở lần thứ ba thì hình tam giác hiện ra đầy đủ, như một lời báo động. Nguyên tắc của ông; không có lần kiểm tra, nhắc nhở thứ tư. Cuốn sổ đặc biệt có tác dụng vào những dịp hội nghị có mặt đông đủ như thế này. Chỗ ngồi của ông trên chủ tịch đoàn không phải lúc nào cũng ở vị trí quan trọng nhất, vì trên ông còn có các ông to hơn, nhưng từ các vị trí trên ấy, ông vẫn có tầm nhìn bao quát được toàn hội trường, sẽ có kế hoạch kiểm tra ngay các đối tượng liên quan đến từng vụ việc, đồng thời cái đầu đầy tính năng động sáng tạo của ông, khi nhìn thấy mặt từng đối tượng, thường nảy ra những phát kiến mới mà bình thường không thể nghĩ nổi. Thí dụ như hôm nay, vừa mới lên trên này, ông đã phát hiện ra anh chàng An đang ngồi ở tận hàng ghế sau cùng. An là giám đốc Nhà máy sửa chữa số 6, bổng lộc chẳng có gì đáng kể, lại thuộc loại khù khờ không biết chạy vạy làm ăn, có điều nhờ rất biết trên biết dưới nên vẫn được ông giữ lại trên ghế suốt mấy năm liền. An cũng hiểu vậy, nên càng ra sức biết điều. Thật ra, làm giám đốc trong thời buổi này có khó khăn gì? Mọi thứ đều do trên lo, trên rót. Cái khéo là làm sao cho trên lo nhiều, rót đủ cho mình, mọi thứ sau đó tự nó sẽ chạy ro ro... Thấy An, ông nhớ ngay đến việc hôm qua, một nhân viên đắc lực của ông xuống Nhà máy sửa chữa số 6 làm việc, khi về đã báo ngay cho ông biết là chẳng hiểu sao trong kho của bọn này lại thấy có mấy khối gỗ lim. Gì chứ lim mà đóng tủ thì bền phải biết, xài cứ gọi là bách niên! Lúc nghe báo cáo ông đã nghĩ như vậy, giờ thấy mặt An, ông lại nhớ ra và càng cảm thấy việc mình cần có một chiếc tủ lim là hoàn toàn hợp lý. Cán bộ như ông, sau bao nhiêu năm cống hiến, chẳng lẽ trong nhà lại không có được một chiếc tủ lim hay sao? Dòng đầu tiên ông hí hoáy ghi tiếp vào sổ tay, ở chỗ trang dành cho An khi ngồi xuống ghế của đoàn chủ tịch là: tủ lim. Tất nhiên việc biến gỗ lim thành tủ, cũng là việc của An. Tí nữa, ngay trong giờ giải lao đầu tiên, ông sẽ gặp An và sẽ nói cho cậu ta biết yêu cầu của mình, rồi mới đánh dấu X vào cột T. Gì chứ với An thì chắc ông khỏi phải dùng đến cột K mà sẽ đi ngay vào cột R. Cậu ta vốn đã là loại cán bộ cấp dưới rất sẵn sàng thực hiện mọi yêu cầu của cấp trên, huống hồ gì cũng hôm qua, tay nhân viên của ông từ Nhà máy sửa chữa số 6 về, có mang theo một cái đơn của An xin cấp đột xuất vài món phụ tùng hiếm, kèm theo một thư tay của cậu ta: "Trăm sự nhờ thủ trưởng xét giúp". Nào thì xét! Một cái tủ lim là quá hời! Ấy là ông tình cảm với An lắm, do chỗ một tay An trước giờ nhận lo toàn bộ củi đun cho cả gia đình ông và các con ông dư xài, chưa hề có trục trặc gì. Thằng khác thì đừng hòng được ông tử tế như vậy. Dẫu sao, ông cũng phải cảm ơn cái chủ trương đổi mới cơ chế quản lý, xóa bỏ bộ máy trung gian. Hệ thống bảy nhà máy sửa chữa cùng các chi cục ở các tỉnh với hàng trăm trạm cấp huyện trực thuộc, lập tức được ông xếp vào bộ máy trung gian. Một dịch vụ mới được mở ra, gom hết về tay ông, với tên gọi là dịch vụ sửa chữa máy tại chỗ. Theo hình thức này, nhiều tổ sửa chữa nhỏ, cơ động, trực thuộc thẳng cơ quan ông, được thành lập và đến tận từng cơ sở để sửa chữa máy móc theo yêu cầu. Các cơ sở cũng thích gọi các tổ sửa chữa này, lý do: giải quyết công việc rất nhanh gọn để kịp thời vụ. Điều dễ hiểu: tất cả phụ tùng, nhất là những món hiếm quý, ông đều nắm trong tay; các trạm, chi cục và cả các nhà máy, nhiều khi dự trù trước cả năm còn chưa được ông duyệt. Bằng dịch vụ sửa chữa tại chỗ, ông tha hồ bán phụ tùng cho cơ sở với giá thương lượng, đó là chưa kể nhiều món bổng lộc khác. Nhiều tên cấp dưới đã kêu trời như bộng, có thằng còn dám chửi thẳng ông là gà mẹ cướp cơm gà con. Thây kệ, cái bọn bất tài ấy, bây rên thì cứ việc rên. Phụ tùng ông vẫn nắm chắt trong tay, và ông vẫn là đơn vị duy nhất được quyền nhập và phân phối các loại máy móc, phụ tùng trong ngành, thì dù kêu rên thế nào, bây vẫn phải lệ thuộc vào ông, vẫn phải "biết điều" với ông. Gà con phải ráng tự lớn lên mà kiếm sống, rồi lo đền đáp lại cho gà mẹ, chứ để gà mẹ nuôi hoài sao được? Đời này khôn chết, dại chết, biết mới sống. Kêu rên làm gì? Có người phê bình ông là cơ quan chỉ đạo mà lại can thiệp vào việc làm ăn cụ thể, khác nào vừa đá bóng vừa thổi còi, ai kiểm soát cho được? Ông cười cười, giải thích như vậy là tư duy cũ, làm việc bây giờ phải chú ý hiệu quả chứ không nên câu nệ theo những nguyên tắc, qui định gò bó. Ông cười cười như vậy, chứ thằng nào phê bình láo là chết với ông. Như thằng Bảo đó. Cái thằng dám nói ông là gà mẹ cướp cơm gà con, rồi một hôm cán bộ của ông xuống chi cục nó, nó xách mé hỏi có đem theo nồi áp suất không. Anh cán bộ thắc mắc, hỏi đem theo cái đó để làm gì, nó trả lời thì tại mấy anh ăn hết thịt rồi, cơ sở chúng tôi chỉ còn có xương, mấy anh xuống phải đem theo nồi áp suất, hầm xương cho mềm mới ăn được chứ! Thằng hỗn xược! Ông sút "păng" một cái, cho nó về làm chuyên viên ngồi chơi xơi nước ở một trường kỹ thuật, cục xương cũng không có mà gặm! Gì thì gì chứ ông không thể chấp nhận chuyện cấp dưới dám hỗn với cấp trên, cũng như chuyện đấu tranh đòi quyền chủ động cho cơ sở. Chủ động thế nào được? Bọn bên dưới ngày nay gớm lắm. Lơ mơ là bị nó qua mặt, cười mũi cho liền. Thậm chí ngay cả cái bọn lái xe, vận chuyển bét dèm, hở một chút cũng dám cà khịa với ông. Chở mấy tấn cám cho ông, chúng de đít xe ngâm xuống vũng nước nào đó cho ướt sũng rồi vờ than là bị sụp hố, chở được vài giỏ trứng vịt thì chúng quăng quật thế nào đến nứt vỡ hơn nửa, chở củi thì chúng đậu tít từ xa, bắt cả nhà ông phải ra vác vào mệt bã người! Bọn đểu! Có điều ông chẳng làm được gì chúng vì chúng tép riu quá, quyền lực ông quá cao không với xuống tới. Chứ nếu bọn cán bộ trực tiếp dưới quyền mà láo như vậy, ông đã trị ngay. Từ khi dịch vụ sửa chữa máy tại chỗ được thực hiện, bọn trung gian càng sợ ông ra mặt. Ông duyệt cho bao nhiêu cũng phải cảm ơn. Cảm ơn không cụ thể thì ông lập tức có biện pháp. Cứ thế, từ tủ lạnh, tivi, xe cúp, bàn ghế, giường tủ, gỗ gạch, ximăng... cho đến gạo trắng, củi đốt, trứng vịt, cám heo... khắp nơi kìn kìn chở về nhà ông. Ông nhận hết. Không vì việc lớn mà bỏ việc nhỏ. Thời buổi này không ăn là dại. Việc gì mà sợ? Ông đã nghiên cứu kỹ điều 226 của Bộ luật hình sự và thấy yên tâm. Đâu phải ông ăn hối lộ. Hoặc ông nhờ mua cái này cái nọ, rồi vì nhiều việc quá mà quên đưa tiền, hoặc người ta tự giác biếu quà cho ông. Việt Nam ta có truyền thống đối xử nghĩa tình trên dưới với nhau rất tốt, đi thăm nhau còn không quên quà biếu, nói gì ngày lễ tết, đám cưới, sinh nhật, hiếu hỷ, tân gia... Huống hồ chính ông cũng rất biết điều với nhiều người khác. Rễ ông không chỉ bám chắc vào mảnh đất ông đan đứng mà còn đâm sâu, mọc rộng đến cả các mảnh đất chung quanh và nối liền với rễ của nhiều thân cây cổ thụ khác, nên cây đời của ông mới mãi mãi xanh tươi, vững chắc như thế này. Vuốt mặt phải nể mũi, bứt mây thì động rừng, thí xe thì chết tướng, trên đầu ông có bóng mát mà bản thân ông lại là bóng mát của lắm đàn em, người trên kẻ dưới đều bảo vệ cho ông, cứ đường ông ông đi, việc gì mà sợ? Câu chuyện sóng gió năm ngoái càng làm ông tin chắc vào ngôi sao bản mệnh của mình. Chuyện xảy ra sau chuyến ông đi công vụ ở nước ngoài về. Đó là lần thứ ba ông đi nước ngoài trong vòng mười năm, tất nhiên cũng nhờ quyền quyết đoán của ông, cứ thư mời hai lần sau đều ghi rõ đích danh người khác, là cán bộ của ông. Sao được? Thủ trướng phải trực tiếp đi nước ngoài mới giải quyết được công vụ chứ. Ông tuy không có chuyên môn bằng cấp gì, nhưng ông nắm chắc chủ trương, đường lối. Để cho bọn bắng nhắng bên dưới đi, dù chúng có bằng cấp chuyên môn gì gì nữa, thì cũng không thể tin được. Sau khi ông về nước hai tháng, có thư của một tập thể học sinh Việt Nam bên ấy gởi về tận Hội đồng bộ trưởng để khiếu nại ông. Số học sinh ấy là bạn con gái ông, cũng đang học ở bên ấy. Chúng thấy ông qua, mừng lắm, nhờ ông mang về gia đình một mớ vải và len, dạ. Tất nhiên chúng cũng phải biết điều, khi đưa hàng đều gởi đủ cước phí máy bay và cả một khoản tiền tặng thêm cho ông. Như thường lệ, trước khi về nước, mọi thứ tiền ông vét đi mua hàng hết, ra tới sân bay là trong túi không còn một đồng, số hàng quá cước miễn phí lần này đã lên đến mức kỷ lục. Mọi người đi cùng đoàn đều chán ngán, không ai thèm giúp ông một xu. Các quan chức năng ở sân bay bạn cương quyết không chịu giải quyết linh động. Cán bộ tòa đại sứ ra tiễn cũng chịu thua. Cả chuyến máy bay chỉ còn chờ mỗi mình ông. Sợ bị bỏ lại một chuyến như lần trước - cũng vì quá cước không có tiền trả - ông quyết định để lại sân bay tất cả sách vở, tài liệu, đồ đạc không đáng giá, và cuối cùng cả những thứ mà các học sinh đã gởi và đóng trước tiền cước cho ông. Sân bay cách nơi ở của đám học sinh hàng nghìn cây số. Họ mất mấy ngày đi nhận hàng về, có người bị mất. Đơn kiện của họ gởi về nước ông bị rầy rà một thời gian, nhưng rồi cũng tai qua nạn khỏi. Kinh nghiệm lớn của ông: trước phong ba bão táp, cứ ỳ ra. Hàng ngày, Nhà nước có cả tỷ chuyện phải lo, hơi sức đâu mất thì giờ vào "ba chuyện lẻ tẻ" như của ông. Cán bộ nó túng thiếu quá, mình lo cho nó không nổi thì nó phải thu vén chút đỉnh để nuôi vợ nuôi con, miễn nó trung kiên là được. Gì chứ trung kiên thì ông có thừa. Mà đã là trung kiên thì ai lại để cấp trên phải mất sức, bận bịu lo cho mình những chuyện mà mình có thể chủ động lo được? Nhiều tiếng vỗ tay vang lên làm ông giật mình trở về với thực tại. Người báo cáo thứ hai bước lên bục, được nhiều đại biểu trong hội trường hoan nghênh, là Cảnh, giám đốc một trong ba xí nghiệp cung ứng. Cung cách làm ăn của Cảnh có nhiều cái mới, được nhiều nơi ủng hộ. Đối với ông, đó không phải là điều quan trọng. Đáng nói là tay này còn nợ ông khối việc. Ông cầm bút rà danh sách dành cho Cảnh. Cốc nước đá: T: X, K: một gạch, R còn trống. Dây đồng hồ loại "vô cấp": T: X, K: hai gạch, R: trống. Giày Yasaki không dây: T: X, K: ba gạch, R: trống. Quần "rin" Mỹ cho D., đổi lần thứ ba: T trống, K trống, R trống... D. là Dũng, con trai ông. Nó thích cái quần rin Mỹ màu kem, ông nói mấy lần, Cảnh mới cho mua gởi ra, lại là đồ dỏm. Ông gởi trả, nói mấy lần nữa, Cảnh mới gởi ra lần thứ hai, kích thước lại không vừa. Ông lại mới gởi trả. Tính ông là vậy, làm gì cũng phải kiên quyết đạt được mục đích. Cũng như An, Cảnh là một cán bộ rất khù khờ. Trước mặt anh ta, ông vờ khen khéo: cậu lành quá, không chịu chụp giật thì sống sao nổi ở cái đất đó? Sau lưng, ông chửi Cảnh là đứa ngu. Còn trong đầu, ông đã tính chuyện đổi anh. Vì khác An, Cảnh khù khờ mà lại không "biết điều". Anh ta không bao giờ tự giác phục vụ ông, chuyện gì cũng phải đợi nói cụ thể. Thái độ lại rất lừng khừng, việc gì đã giao cũng phải đợi nhắc đủ ba lần. Sở dĩ ông chưa đổi được cái ghế của Cảnh vì Cảnh không làm gì bậy. Ba năm anh ta làm giám đốc, xí nghiệp có đi lên, năm nào cũng được nhận bằng khen. Vả lại, ông đang "nuôi" Cảnh cho một vụ lớn: cái nhà. Hơn ai hết, ông biết mình sắp phải về hưu. Mấy năm nay ông thu gom hơi mạnh tay cũng là vì vậy. Đồng lương thu được là mấy, đến lúc đó cũng đừng mong trông nhờ vào ai. Mình vừa cắp cặp ra khỏi cơ quan, một cái gật đầu chào cũng chưa chắc được nhận. Nhà ông vốn ở khu bộ đội, bấy lâu nay bồi đắp cũng đã khá tươm tất. Con rể ông là bộ đội về ở chung hộ, đó cũng là do ý ông. Lấy cớ phải giao nhà lại cho bộ đội - thật ra là cho thằng rể và vợ nó, là con gái đầu lòng của ông, chứ bộ đội nào nỡ đòi nhà ông - ông đã xin cấp trên cấp cho một căn nhà khác. Được đồng ý trên nguyên tắc rồi, ông lại bày tỏ thêm nguyện vọng: được sống những năm tuổi già ở một thành phố ấm áp phía Nam, do đó thay vì được nhận nhà - mà ông biết chắc là rất khiêm tốn, trong một khu tập thể đang được xây dựng - ông xin được nhận số tiền trị giá của căn nhà ấy, để vào dựng đỡ một căn nhà nho nhỏ trong kia. Xí nghiệp của Cảnh nằm ở thành phố ấy. Trong phạm vi quản lý của Cảnh, có một kho lớn rộng hàng mấy hecta ở ven thành phố. Trong vành đai của kho ấy, có ba căn nhà tư nhân xây cất trái phép từ trước giải phóng, với cả vườn cây ăn trái. Cảnh đã cầm quyết định của thành phố, rồi của huyện, cho phép giải tỏa ba căn nhà ấy, lý do để mở rộng kho. Thật ra, ông biết việc mở rộng kho vẫn chưa đụng đến phạm vi ba căn nhà, và chính Cảnh cầm quyết định rồi mà vẫn trù trừ vì thương hại cho ba gia đình ấy chẳng biết phải chuyển đi đâu. Đó là việc Nhà nước lo, không hơi đâu duy trì cái tính thương người kiểu tiểu tư sản. Ông đã có ý kiến dứt khoát với Cảnh như vậy. Xí nghiệp sẽ có khoản tiền bồi thường theo đúng các qui định chung, ông sẵn sàng duyệt cho khoản ấy, lố một chút cũng được. Vậy thôi. Rồi trên những nền nhà và vườn cây ăn trái ấy, căn nhà nho nhỏ, chừng trăm mét vuông thôi, của ông sẽ mọc lên. Sắt thép, ximăng, gỗ gạch, mọi thứ mấy năm nay ông lo đã hòm hòm rồi, đang gởi chỗ này chỗ nọ trong ấy. Thiếu bao nhiêu Cảnh ráng đắp thêm, ông sẽ không quên công. Cảnh cho xúc tiến giải tỏa nhà là mọi việc sẽ bắt đầu. Đến khi ông về hưu, các con ông đều đã có nhà - đứa con gái thứ hai ông đã đưa về làm ở một xí nghiệp gần nhà và cũng đã được cấp ngay chỗ ở - vợ chồng ông cũng có nơi an dưỡng và sinh lợi được. Cái mộng cuối đời ông chỉ đơn giản có thế, vậy mà... Sổ tay ông ghi: Nhà: T, X, K: đủ ba gạch, R còn trống. Không được. Cái thằng Cảnh này! Nhắc ba lần, nó cứ khất "để từ từ tính, chứ khó lắm, làm như vậy không biết phải giải thích sao cho anh em thông". Khó quái gì, làm giám đốc mà sợ cấp dưới kiểu như anh, làm sao được? Ông nói thẳng như vậy mà anh ta vẫn không hiểu. Để từ từ tính... Chắc là nó muốn câu giờ, đợi ông về hưu, hết quyền, mới trả lời là không được. Thằng này bướng và nguy hiểm. Ông biết Cảnh, cũng như nhiều tay giám đốc khác, chỉ vì kế hoạch của đơn vị, đời sống của công nhân, mới bất đắc dĩ phải chìu lòn ông. Cái tivi màu kỳ đó ông cũng phải nhắc đến bốn lần, rồi trừng trị bằng cách ngâm suốt mấy tháng không duyệt cho nó hai thứ phụ tùng hiếm là vòng bi và bình ắcquy, nó mới hiểu ra. Có khó gì, quỹ phúc lợi nó lớn, rồi hội nghị khách khứa thường xuyên, cứ "cấu" mỗi thứ một ít là xong. Chuyện đơn giản thế cũng không biết, vậy mà đòi làm giám đốc! Lãnh đạo gì mà "tâm lý xã hội" kém vậy? Thủ trưởng kề bên còn không phục vụ ra trò, nói gì đến phục vụ nhân dân cho trườu tượng, lớn lao? Trong lúc ông ngồi nhìn đăm đăm vào cái lưng của Cảnh, suy tính biện pháp thúc đẩy vụ cái nhà, thì có người khều nhẹ ông từ phía sau. Một mảnh giấy gấp nhỏ đưa tới. "Anh coi chừng thằng Cảnh. Tôi vừa nhận được tin, tuyệt đối chính xác, từ thư ký của ông B, là nó vừa gởi thư riêng cho ông A và ông B, phản đối dịch vụ sửa chữa máy tại chỗ và kiến nghị nhiều điều lộn xộn lắm về tổ chức, để gọi là đổi mới hoạt động của ngành. Nó tính chơi trò gì vậy?". Ông cất mảnh giấy, hai tay nắm chặt lại để tự trấn tĩnh. Đôi mắt ông vẫn nhìn Cảnh, nhưng ánh sáng trong mắt đã khác hẳn. Hừm, lại một tên muốn "tử vì đạo"? Thì cho mày tử! Ông biết gần đây sau đợt phê và tự phê, nhiều thằng cấp dưới bấy lâu nay ngấm ngầm ghét ông, đã bắt đầu cựa quậy, rậm rịch kiến nghị này nọ. Đáng tiếc ông chưa biết cụ thể thằng nào. Giờ biết ra Cảnh, cũng chưa muộn. Chỉ cần trị một thằng làm gương, bọn còn lại sẽ biết thân biết phận ngay. Đổi mới, hừ! Trước hết tao sẽ cho đổi cái ghế của mày! Lại một tràng pháo tay vang dội. Cảnh xếp lại giấy tờ, bước xuống bục, đi về chỗ ngồi, trong ánh mắt thân quý của nhiều đồng nghiệp. Không ai nhận ra có một ánh mắt khác hẳn, từ đoàn chủ tịch nhìn xuống, dành cho anh...

Nguyễn Đông Thức

Ngày đốn cây vú sữa Bên kia bờ sông của quận lỵ là một xóm nhỏ, những căn nhà thưa rải rác trên những khoảng đất trống không đều, có khoảng đất được canh tác, có khoảng bỏ cỏ hoang, những cây ăn trái và ít gốc dừa nước rải rác theo với mép sông nước ròng, có mấy con kinh nhỏ đưa nước vào sâu trong xóm. Trong khu xóm có một ngôi nhà ngói cũ, ba gian, một sân gạch nay đã hư nát, ngôi nhà ở phía ngoài đường liên tỉnh để tới đầu cầu đưa vào thị trấn. Trong khoảng vườn rộng của ngôi nhà có trồng một cây hoàng lan lớn. Ngôi nhà có một khoảng mái bị đạn nay được vá lại bằng một tấm tôn sáng bóng. Cách với ngôi nhà không xa, bám vào con đường liên tỉnh có một ngôi trường học nay bỏ hoang với mái ngói sụp đổ và là nơi những toán quân ngang qua vẫn coi chừng bằng cách nổ những loạt đạn bâng quơ vào trong những tường gạch đã cũ vì mưa nắng và um tùm những cỏ dại. Một người đàn ông đứng tuổi đạp chiếc xe đạp cũ vào thẳng trong sân ngôi nhà, trời đã chiều, toán dân vệ từ đồn nơi đầu cầu đi hàng một dọc theo con đường khởi đầu chuyến kích đêm ngoài vòng đai bảo vệ huyện lỵ. Người đàn ông chậm chạp ngừng xe lại trước cửa nhà, nhẹ nhàng bước xuống rồi nhấc chiếc xe lên hiên, đẩy cửa bằng bánh xe trước vào trong căn nhà đầy bóng tối. Tiếng người đàn bà : - Ai đó? - Không có, tôi đây, sao bà không đốt đèn lên một chút... Tiếng bước chân nặng nhọc từ trong nhà vọng ra. Người đàn ông lúi húi mở dây chiếc bao đèo phía sau chiếc xe. Người đàn bà già yếu, da xanh đứng tựa nơi cửa vào nhà trong : - Thằng hai nó gửi cho bà ký bôm, thằng nhỏ mới sinh thật ngộ, nó đen khoẻ như cha nó vậy, đôi mắt tròn quay dễ thương hết sức, thằng hai nói sẽ đón bà lên ở với bọn nó, nó la tôi quá trời, bọn nó đâu có hiểu gì... Người đàn bà lặng lẽ đón lấy những trái bôm tím ngon lành, hơi thở mệt nhọc, người đàn ông bật hộp quẹt châm lửa vào ngọn đèn huê kỳ nhỏ để trên bàn thờ, ánh sáng vàng úa lan ra căn nhà trống : - Bà ăn gì chưa. - Ông ăn cơm với bọn nó rồi há. - Ừa, ăn cơm sớm, thằng hai còn bận vào trại, tội nghiệp con vợ, người làm không có, trông vào con gái lớn một chút, cái hôm nó sinh may nhờ có hàng xóm người ta giúp cho không thì đẻ ra nhà, rồi ngày ngày thằng hai phải về mà bới cơm cho vợ, bọn nhỏ thì không có ai coi hết, mình mà ở trên đó được thì đỡ cho bọn nhỏ, thật cực hết sức... - Tội nghiệp... Người đàn bà nói buông thõng, người đàn ông cầm chiếc mũ vải đập đập trên tay rồi móc lên chiếc đinh đóng nơi tường mé gần chiếc bàn lớn dài bằng gỗ đã cũ. Người đàn bà đi ra ngồi xuống ghế : - Ông có nói chuyện hồi hôm cho thằng hai nó biết không? - Có... - Nó nói sao? - Nó nói mình lên trên đó ở với bọn nó. - Thế còn nhà cửa, còn thằng tư... - Thì tôi cũng nói vậy, nhưng nó nói nhà cửa mà làm gì, còn người còn của, chuyện thằng tư thì... coi như nó chết rồi. - Chết rồi, nó rủa em nó như vậy được sao, đằng nào thì cũng là em nó, tôi thương nó... Giọng nói chùng thấp nhợt nhạt, tiếng thở dài của người đàn ông. Thấp thoáng ngoài cửa bóng ngọn dừa lay động mơ hồ. - Thằng hai nói, chuyện ở trong quận người ta hỏi mình, làm rộn mình một chút là chuyện không thể tránh được, mình ở ngay chẳng hơi đâu mà sợ, nhưng tôi nói, tôi lo cho thằng tư, hồi này đã lâu rồi không thấy nó về, chắc là khó khăn, bà thấy đó, tối đến lính họ nằm ngoài đường lộ, tối không còn nghe thấy chó sủa, không biết hồi này nó thế nào, tôi lo nó chết bờ chết bụi mất xác... - Thời buổi loạn lạc... Người đàn bà đi vào nhà trong, người đàn ông ngồi im một lúc rồi lấy ra hộp thuốc vấn hút, ngụm khói đục trắng lờ lững không muốn tan. Nghe từ xa, ngoài sân có tiếng gà gọi nhau lên chuồng. Đêm đang xuống... Người đàn bà lấy chiếc tô lớn múc cháo từ trong chiếc soong nhôm ra, màu gạo đỏ lờ, ngọn đèn nhỏ leo lét trên mặt chiếc bàn cũ đã đen lại, gian nhà rộng mênh mông mịt mù trong ánh sáng nhờ nhờ đau yếu... Người đàn ông cài cửa nhà ngoài trở vào nằm trên bộ ngựa lớn nơi góc phòng. Tiếng nhai của người đàn bà chậm chạp rời rã. - Thế bà có tính lên trên đó với thằng hai không? Không khí im lặng kéo dài, tiếng con muỗi bay quấn vào gần vành tai khó chịu. Người đàn bà ngừng lại, nhìn vào ngọn đèn. Chiếc bóng thủy tinh có những bọt không đều nhau, phía trên khói đã bám đen thành một vòng đều. Người đàn ông bắt tay phải lên trán che hết ánh sáng trên đôi mắt vẫn còn mở lớn không động đậy : - Tùy bà, tôi sao cũng được, thật tôi cũng không còn ruột gan nào mà nghĩ, bà tính coi... Người đàn bà theo dõi mấy con muỗi cỏ đang bay quanh ngọn đèn, có lúc chúng đạp vào bóng đèn nóng loạng quạng một lúc rồi lại tiếp tục bay vòng quanh... Người đàn ông kéo chiếc ghế dài lùi xa chiếc bàn một chút, rồi ngồi xuống, người thanh niên bận quần màu lục sẫm cắm cúi đọc tờ giấy bỏ trên bàn lúc lâu mới ngửng lên người đàn ông trước mặt, tóc cắt cao không chải, có những ngọn tóc dựng đứng, hai bên tóc mai những sợi bạc, nước da xám, những vết nhăn, đôi mắt kèm nhèm, chiếc áo bà ba đen đã cũ, chiếc khăn ca rô vắt trên vai nhàu nhượi, hai bàn tay khẳng khiu bỏ trên mặt bàn và cái nhìn lơ đãng : - Bác còn cậu con đi theo giải phóng phải không? - Dạ, nó là thằng tư, thằng con trai út của tôi. - Anh ấy đi hồi nào vậy? - Có hơn hai năm, hồi quận chưa có. - Lâu nay có về nhà không? - Dạ không. - Bác cứ nói thật đi, không sao đâu, tôi muốn bác nói anh ấy nên về chiêu hồi đi, về làm ăn không sao cả... - Dạ lúc trước nó về tôi có nói, nhưng không được, vợ chồng tôi coi nó cũng như chết rồi... - Sao bà con lối xóm nói mới đây anh ấy có về thu thuế mà, tôi hỏi thật bác, nếu anh áy có trốn ở trong nhà thì bác không nên giấu chúng tôi... - Chết, đâu có, lúc trước cũng có đôi lần nó về, về ban đêm chốc lát rồi đi, khổ lắm, nó về thì chỉ thấy xin tiền bạc mà vợ chồng tôi thì có gì nữa, ruộng vườn bỏ cả, vợ chồng tôi cũng tính lên hẳn trên quận ở với thằng hai trên đó, nó làm việc trên quận, chắc ông biết... - Dạ, chúng tôi có biết bác có người con cả làm việc ở trên. - Hồi trước nó xuýt chết vậy đó ông, trước đây nó về thăm tôi, vừa ra khỏi nhà thì mấy ông du kích ập vào bắt nói nó làm mật thám cho đế quốc, mấy ông ấy cũng bắt chúng tôi phải kêu nó về với nhân dân, với giải phóng... Vợ chồng tôi thì già, sinh con ra lớn lên bọn nó làm gì thì làm chúng tôi nào có biết, ông nghĩ coi, rồi sau đó tôi được biết giải phóng kết án tử hình nó, từ đó tôi đâu có dám cho nó về, ông tính... (đó là những khuôn mặt dữ dằn, tiếng nói quen thuộc , quần áo nhem nhuốc, bất chợt có mặt và mất đi thật nhanh trong đêm tối chỉ để lại những tiếng chó sủa trong đêm thanh vắng, kẻ bị bắt được nói cho đi học tập, hoặc được mang ra ngoài vườn sau và một mũi dao thích vào bụng hoặc một tràng đạn nổ vào ngực, con ông Năm trong xóm được mời đi học tập, hai hôm sau thấy xác nổi trôi táp vô bờ sông hai tay bị trói giật sau lưng...). - Bác nên khuyên anh ấy về, không thì e khó sống được nếu còn quanh quất ở đây, bác biết tên xã ủy không, hắn bị hạ rồi, hôm đó bọn tôi nhanh thì con bác cũng bị hạ, may thoát. Bác biết chúng tôi về đây để giữ cho làng ấp được yên, bác coi hồi này đâu có bị phá rối, thu thuế, thu thóc như trước. - Dạ, cũng nhờ ơn mấy ông... - Mong bác ráng khuyên anh ấy, nếu không được khi nào anh ấy về bác mật báo cho chúng tôi. - Dạ, nhưng tôi chắc nó cũng chết rồi. - Không đâu anh ấy còn sống, người ta còn nhận được mặt anh ấy mà, bác không nên che chở cho đứa con hư ấy nữa. Và bác cũng đừng tiếp tế cho họ, nếu không bác cũng liên lụy, chúng tôi biết bác là người làm ăn lương thiện, chúng tôi cũng biết con lớn của bác mà. - Dạ cám ơn mấy ông hiểu dùm cho vợ chồng tôi. Người thanh niên mở xấp giấy lấy ra một bức hình đưa về phía người đàn ông : - Bác có nhận thấy mặt con trai bác không, đó, anh ta vác khẩu súng nơi vai, người đứng giữa là tên xã ủy chúng tôi mới hạ được, còn tên này nữa, nó là bí thư xã, nó đã bắn mấy người ở trong xã, chúng tôi đang tìm hắn, bác nhận mặt rõ chưa, nếu gặp hắn thì bác báo ngay cho chúng tôi và đừng bao giờ chứa hắn, hắn đã giết người. Dạ...(thằng tư mặc đồ bà ba đen, đầu trần, vai khoác khẩu súng ngắn gọn, nó đang tươi cười bá vai tên bí thư, tên giết người, sao hình hồi nào mà trông nó khoẻ và trẻ quá, sau nầy nó gầy đi nhiều mà có thấy nó mang súng như vậy bao giờ đâu). Người đàn ông ra khỏi nhà hội đồng lúc mặt trời đã đứng bóng. Nhấc chiếc xe đạp quay đầu ra ngoài rồi nhẹ nhàng leo lên và đạp ra con đường đất để ra con đường liên tỉnh. Khi chiếc xe vào đến sân, ngừng lại dưới hiên để nhấc chiếc xe vào nhà, người đàn ông nhận thấy hai chân hơi run và ù nơi hai mang tai, những giọt mồ hôi chảy ròng xuống cổ. Buổi trưa im vắng và nồng... Người cha ngồi hút những hơi thuốc đầy, nhìn lơ đãng vào khoảng không. Người con ăn, nhai vội vã, bàn ăn chỉ còn một mình người con với những bát chén ngổng ngang của những người đã xong bữa. - Thôi ba đừng nghĩ gì cả coi như không có thằng tư... Nào đâu mọi người không nghĩ đến nó. - Nhưng đằng nào thì nó cũng là em mày... - Vậy bây giờ bảo con phải làm sao? Thời buổi mà anh em phải bịt mặt mà giết nhau. Hồi về nhà may mà con không bị bắt, nếu không thì ba tính... Bây giờ con muốn ba lên ở luôn trên này với bọn con, thế là xong, nhà cửa thì nhờ bà con ở dưới vậy... - Nhưng má con không muốn đi, bà ấy thương nó... Người con bỏ chén bát đứng lên khỏi bàn ăn. Người cha vẫn ngồì im nhìn lơ đãng trên mặt bàn. Người con đi xuống nhà mang lên hai ly nước trà, một ly cầm nơi tay, một ly để trước mặt người cha. (Khi đi làm trở về người nhà đưa cho một lá thư, nét chữ quen của người em ruột: Mặt trận đã tuyên án xử anh, mong anh hồi tâm trở về thì sẽ được khoan dung, nếu không thì em cũng không thể cứu được anh. Cùng với phong thư có kèm theo một trái lựu đạn đã thối)... - Con nghĩ chắc thằng tư cũng không còn ở trong vùng nữa, bây giờ đâu có dễ gì mà lọt được trở lại vùng bình định, ba má có ở lại cũng không giúp được gì cho nó đâu, mà ba má thì già rồi, mình lên trên này khi nào yên hẳn thì về, nhà cửa ruộng vườn còn đó chứ ai lấy đi được mà lo. - Thôi được rồi, để rồi ba thu xếp, nhhưng con có cách nào gọi nó về được không? - Cách nào, biết nó ở đâu mà tìm, mà gặp nó nói nó chịu về không, thì ba má cũng đã nói với nó rồi. Nhà mình ba má được hai đứa, giá yên bình thì con cũng ở nhà làm ăn chứ có sao, nào đâu phải con xung phong đi lính, lệnh đi thì đi, cũng may là con chưa phải cầm súng mà đi kiếm nó, nó có số phần của nó... Con chỉ lo nó quanh quẩn đâu đó... Người cha uống một ngụm nước, đứng lên rời khỏi bàn ăn tới ngả lưng xuống chiếc ghế vải để ở bên cạnh tường. Người con vặn máy thu thanh, tiếng hát vang lên đầy căn nhà rộng... Người con ngồi xuống chiếc ghế thấp cầm lấy tờ báo đọc. Đứa trẻ sáu tuổi từ trong nhà chạy ra lăn vào lòng người con. Người con bỏ tờ báo xuống : - Thôi mà, làm nũng gì đây nữa, lại chơi với nội đi, thôi mai theo nội về vườn mà ăn trái cây, mùa này có vú sữa rồi đó. Đứa trẻ nằm im mở mắt nhìn nghiêng tới ông nội nó đang trầm ngâm hút thuốc. Người con vuốt tay lên đầu đứa trẻ... Người đàn bà từ trong nhà đi ra : - Ba vào trong giường nghỉ trưa cho khoẻ. - Thôi ba nằm ngoài này cũng được, chút ba về rồi. - Mai ba lên? - Ừa để xem đã, còn nhà cửa ở dưới... - Hay để mai con xuống đón ba má luôn thể, mình kiếm một chuyến xe lam, còn đồ đạc lếch thếch, má thì yếu... - Con khỏi lo, con đi về rồi ai coi bọn nhỏ, ba khoẻ mà lo chi. Người đàn bà bế đứa nhỏ dỗ nó đi ngủ, người đàn ông vuốt tay lên má nựng nó giọng ngọt ngào. Đứa nhỏ bị nhột cười khích khích khi người đàn bà bế nó vào nhà trong. Không khí căn nhà trở lại im vắng.

Buổi chiều người đàn ông đạp chiếc xe chậm chạp vượt qua cây cầu, chiếc xe không chạy thẳng, vòng xuống phía dưới, gần với bờ sông, chiếc xe chạy chậm chạp, người đàn ông chú ý tới những băng vải viết chữ căng ngang, những tờ truyền đơn rải bay trên đường đi, và những bích chương màu dán nơi những thân cây bờ tường gần nơi hội đồng xã, nơi đó một vài người qua lại. Người đàn ông ghé lại nhà một người quen, khoảng sân đất rộng, ngôi nhà tôn thấp. Một người đàn bà từ trong nhà đi ra : - Chú lại chơi. - Anh có nhà không thím? - Nhà tôi xuống dưới xóm, người ta tìm thấy xác vợ ông hội đồng hồi trưa, thật tội nghiệp... - Ở đâu vậy? - Ở ấp bên, nhà của ông gì đó, trong vườn, dưới một cái hố, trời ơi, nhà tôi nói trông mà phát khiếp vậy đó chú, họ cho ngồi xuống rồi đập đầu cho vỡ và đậy lên trên mấy miếng gạch xi măng, sao chết đã lâu mà chưa gì hết, còn chân thì xơ ra và quần thì bị rách lên tận thắt lưng, thật là tội... - Sao mà tìm được vậy? - Nghe đâu có người hồi chánh ở đâu đó nghe chuyện biết được nên chỉ cho quận, quận liền theo đó mà tìm. (Trong đêm tối một tốp người vào nhà gọi cửa bắt đi, bà ta không chịu đi, họ bắt đi, hai người mỗi người giữ một tay kéo đi, mặc tiếng kêu khóc vang lên cả ấp không ai dám mở cửa ra ngoài, rồi mất tích...). - May mà còn tìm được xác, ông bà ấy từ xưa tới nay ăn ở cũng đường hoàng, có gì đâu, chẳng biết có thù oán gì với ai không? Ông bà ấy chỉ còn có một người con đâu ở trên Sài gòn. Người đàn ông như nhớ ra mình vẫn còn đứng dưới sân với chiếc xe đạp, ông ta từ từ đẩy chiếc xe vào gần nhà dựa vào tường rồi bước lên hiên : - Tôi tính sang nhờ anh chị coi giúp cho cái nhà, tôi đưa bà ấy lên trên với thằng hai. - Bao giờ chú đi. - Thủng thẳng ít bữa, đồ đạc thì cũng không có gì, nhưng cái nhà thì phải ráng giữ cho nay mai yên ổn thì về có chỗ mà ở, thằng hai nó nói quá chứ tôi không muốn đi. - Dạ. Người đàn ông đứng im ngó nhìn những ngọn dừa xanh vượt lên bầu rời cao, buổi chiều êm ả không có gió. Một chiếc máy bay xuất hiện ở trên cao. Lúc sau người đàn ông xuống hiên đi vòng quanh khoảng sân ngó lên những ngọn cây ăn trái, những luống rau trồng ngoài vườn, khi trời đã sẫm người đàn ông đạp xe trở ra con lộ về nơi ngôi nhà mái ngói. Bóng tối xuống chậm... Khu vực ngoài thị trấn lúc trước, có một thời rất đông dân cư, đời sống khá sung túc, vườn tược sau thời gian chiến tranh canh tác trở lại, những ruộng bỏ hoang bắt đầu những vụ lúa mới, nhưng thời gian ấy kéo dài không lâu, chiến tranh trở lại, có lúc khu vực như hoàn toàn chịu quyền kiểm soát của thế lực mới, dân chúng không chịu được chiến tranh kéo sát bên mình một cách thường trực nên bỏ đi làm ăn xa tùy theo phương tiện và hoàn cảnh cho phép, tuy nhiên có một số người chỉ biết ruộng vườn thì buộc phải giữ lấy cuộc sống vẫn có, có người đã dời gia đình ra ở nơi những căn nhà làm bằng đất ngoài đồng trống để tránh tai hoạ. Chậm rải theo thời gian, số người sống mỗi lúc một hao mòn, số người đi xa cũng nhiều thêm, những trẻ nhỏ tha thẩn ngoài ruộng bùn với những bàn tay chai cứng, trong căn nhà tối chật hẹp chỉ còn những người già cả... Thôn xóm mang theo khuôn mặt buồn hiu. Có lúc người ta dửng dưng không còn xúc động với những cái chết. Những cuộc hành quân mở ra với từng đoàn xe nối nhau trên con đường liên tỉnh thỉnh thoảng xáo trộn đời sống bình thường của dân chúng, những trẻ nhỏ đứng ra dọc bên đường vẫy tay những ngườu lính lạ... Dần dần an ninh được vãn hồi, dân chúng lại làm ăn, một đôi người ở xa trở về thăm lại nhà cũ, và đã có một hai chuyến xe lam chạy nối khu vực với quận lỵ ở trong, và những phiên chợ bắt đầu đông hơn xưa... Nhưng ban đêm tới vẫn là những đe doạ không chừng, có những tiếng súng đánh thức người dân đang ngủ với nỗi lo âu bức rức thường trực...

Buổi sáng bắt đầu với vẻ nhạt nhoà, người chồng ra sân đứng nhìn toán nghĩa quân đi kích trở về vẻ chậm chạp ngái ngủ mang theo ba lô, ít bó rau, ít trái cây, họ đi dọc theo mép con lộ về phía cây cầu, bóng chiếc trực thăng, đang bay vòng quanh ở phía nam, tiếng động nghe xa rời. Chiếc xe bò chở lá dừa chậm chạp lăn bánh với tiếng kêu khô khan và ngắn. Một người đàn bà gánh rau đang đi xuống phía nhà hội đồng. Nắng sáng trong nhảy nhót trên những cành lá xanh. Người chồng thở dài ngồi xuống nhìn cây vú sữa trụi lá giơ những cành khô lên trên trời... Mấy tháng trước, hai vợ chồng già chợt ngỡ ngàng nhìn nhau khi thấy những cành lá trên hầu hết những cây ăn trái trong vườn bỗng vàng và đổ xuống không đúng mùa. Người ta nói bị ảnh hưởng thuốc khai quang từ vùng trong theo gió trở ra. Sau đó, mùa mưa trở lại, cây cối phần lớn hồi phục với vẻ èo oặt, chỉ có cây vú sữa lá không ra, mỗi ngày người chồng ra bấm vào vỏ cây thăm dò và sau chót thì người chồng lắc đầu nói với người vợ: nó khô rồi... Người chồng đi vào nhà mang ra cây rựa lớn và bắt đầu đốn cây vú sữa, thân cây cũng không lấy gì làm lớn, người vợ từ trong nhà đi ra, ngồi xuống hiên mát nhìn người chồng bổ từng lát chốc chốc ngừng lại nghỉ : - Ông còn đốn làm gì nữa, khô rồi, mặc sức, hơi đâu... - Trông cái cây khô tôi khó chịu, đốn nó đi cho những cây chung quanh nó lớn, thế là nhà mình không còn cây vú sữa nào nữa, tôi còn tiếc cái cây năm trước bị bão... - Để mình trồng mấy cây khác, thứ này không chịu được thuốc khai quang, chỉ một chút cũng khó sống... Nhưng trồng rồi có được ăn trái không? - Mình không ăn thì con cháu nó hưởng, bà thì thật... - Thế ông tính bao giờ mình lên với thằng hai... - Bây giờ bà giục tôi, thì để vài bữa nữa, sao tôi cứ thấy bứt rứt không yên... Người đàn ông tiếp tục đốn cây vú sữa, mỗi lần chiếc rựa ăn vào thân cây, cây vú sữa khô lại rung lên, một vài cành nhỏ mục rụng xuống lần đất ẩm... Người đàn bà cầm chổi quét khoảng hiên nhỏ hẹp, con gà mái quanh quẩn dưới chân chạy theo sau người đàn bà vẻ quấn quýt. Nắng còn bỏ lại khoảng mát lớn trên chiếc sân vuông vức. Liên tiếp những nhát rựa chặt vào thân cây, cho tới khi đã mệt người đàn ông nhận thấy chỉ mới được nửa thân cây. Ông ta dùng hai tay cố sức rung nhưng thấy vẫn còn chắc, ông ta bỏ vào lấy nước uống và ngồi nơi hiên vấn thuốc hút. Người vợ đứng ngoài sân : - Ông viết thư cho thằng tư ra sao? - Tôi gửi cho nó một ít tiền, nói nó về, tôi cũng gửi cho nó một giấy thông hành nữa, tôi đã hỏi kỹ người ta rồi, có một thằng bạn nó cũng mới bỏ ngoài ấy về trình diện đây... - Chết, rồi nếu người đưa thư ấy không kín... - Người tôi gửi tin cẩn lắm, bà khỏi lo, nhưng thật tôi không hy vọng, nó là thằng cứng đầu... - Tôi lo cho nó... Người đàn bà quay mặt đi, không khí rời rã, người đàn ông nghỉ ngơi một lúc rồi ra dốn tiếp cây vú sữa, lúc cây khô ngã xuống thì bóng mát trên sân cũng đã thu hẹp lại. Một người đàn bà từ ngoài hớt hải đi vào, nhìn người đàn ông : - Bác ơi, bác đi theo cháu coi... Người đàn ông ngó lên, nhăn mày : - Gì vậy cháu? - Bác đi theo cháu coi xem có phải thật không, người ta vơt được một xác chết, có người nói trông như anh tư nhà bác... Người đàn ông đứng bật dậy, người đàn bà từ trong nhà đi ra. Người đàn bà đứng dưới sân nói : - Có lẽ người ta nhìn lầm... - Thằng tư... Người đàn ông vội vã đi xuống sân ra phía cổng; người đàn bà đi theo, người đàn ông quay trở vào lấy chiếc xe đạp ra hiên, nhưng lại dựa chiếc xe vào tường rồi vội vã đi : - Bà ở nhà, tôi ra coi, thằng tư... Người đàn bà ngồi xuống hiên nhà ôm mặt khóc. Người đàn ông vừa đi vừa chạy, người đàn bà theo sau tức tưởi. Đám đông tụ lại nơi bờ sông, gần nơi nhà hội đồng, toán nghĩa quân lố nhố ở bên, người đàn ông rẽ đám đông vào trong, một xác chết ướt sũng nằm trên bờ cỏ, tờ giấy báo phủ lên mặt, bộ quần áo đen ướt nhẹp, bàn chân cứng chỉ lên trời đã chương. Người đàn ông cầm tờ báo bỏ ra. Đầu tóc bù xù, miệng há lớn phơi ra hàm răng trắng hếu, dấu đạn khoan thủng một miếng nơi bả vai bên trái gần với cổ. Người đàn ông đậy vội tờ báo lại. Người đàn bà đứng sau, đám người im lặng, người đàn bà nói nhỏ : - Phải anh tư không? - Thằng tư nhà tôi... - Trời ơi, tội nghiệp... Người đàn ông không nói, mặt bình thản chậm chạp quay ra đi trở lại con đường về nhà...

Dương Nghiễm Mậu

Nấm mồ Ông đi qua, bà đi lại đều nhìn vào cái mô đất nho nhỏ bên đường cạnh sông Lệ Giang, cắm đầy hương. Chân hương cũ xoè ra như một đài hoa lớn, hương mới cắm ở giữa như cái nhụy cháy nghi ngút toả mùi ngan ngát, lan xa. Những người gánh cá vào chợ thị xã bao giờ cũng lặng lẽ thắp dăm cây hương, lẩm bẩm vài tiếng nhờ linh hồn người đã mất phù hộ "mua may bán đắt". Có người để ý cứ đêm rằm, mồng một, bao giờ cũng thấy ba đứa trẻ khoảng mười một, mười hai tuổi, ăn mặc gọn gàng từ trong phường gần đó, đem cam, đem chuối đặt lên mô đất rồi thắp hương và kính cẩn thay nhau vái. - Sao chúng lại cúng vái linh hồn một thằng điên? Hay là người bà con của chúng?

Không hiểu ăn uống ở đâu, chỉ thấy hắn đi lang thang suốt ngày, chẳng gây gổ, quấy rầy ai. Trưa hè nắng như thiêu, hắn vẫn đi chân đất. Mình trần đen cháy, tóc dài chấm vai, vàng hoe như râu tôm luộc. Chiếc quần đùi mặc lâu ngày, từ màu xanh đã chuyển sang màu đỏ lục vì bụi đất, rách tua tủa như rèm thưa. Mỗi lần có gió thổi mạnh là dải "rèm thưa" ấy bay lắt phất "của quý" trong người bày ra hết. Hắn cứ tự nhiên, "của quý" cứ lúc lắc, mặc ai trông thấy nó tự xấu hổ lấy. Người lớn tuổi thấy thì thương hại, liếc mắt nhìn rồi đi qua. Còn các cô gái lúc gặp hắn đi ngược chiều là thẹn tím mặt, che nón không kịp. Nhất là các nữ sinh trường cấp III thị xã, đi từng đoàn vài chục cô, thấy hắn là ré lên cười, thụi vào lưng nhau tùm thụp. Gặp cảnh như vậy, hắn có để ý không thì đố ai biết, chỉ thấy hắn vẫn thản nhiên im lặng đi. Trông hắn cao lớn, mặt mũi sáng sủa, chẳng thấy có gia đình bố mẹ chăm sóc, đi hết chỗ này sang chỗ khác, tối nằm đường nằm chợ. Người có lương tâm động lòng dò hỏi gốc gác ra sao. Và người ta truyền nhau rằng : Hắn tên là Trường, con nhà khá giả ở phía ngoài thị xã. Hắn học hết cấp ba, đi học lái xe rồi làm việc ở một công ty thương nghiệp. Hắn có vợ khá xinh, chuyên buôn vặt, mua đầu chợ bán cuối chợ. Vào thời cơ chế thị trường, thấy công ty như người bệnh thở thoi thóp, lương tháng có tháng không, hắn bàn với vợ : - Trong lúc còn son trẻ, chưa bận bịu con cái nên xoay xở làm sao để gây dựng được vốn liếng sau này. Thế rồi, hai vợ chồng chạy ngược chạy xuôi vừa bán mọi thứ có giá trị trong nhà vừa đi vay thêm tiền để vợ đi Đức, nơi lắm bạn bè đi theo con đường lén lút vẫn ăn nên làm ra. Năm đầu, vợ gửi thư về, mở đầu bao giờ cũng "Anh thương yêu" ngọt xớt và cuối thư "gửi anh nhiều cái hôn" nồng nàn. Sang năm thứ hai, chỉ độc có một lá thư chia tay: "Anh đi đằng anh, tôi đi đằng tôi". Người ta kháo nhau vợ hắn theo một người nước ngoài chẳng bao giờ về nữa! Nỗi đau xé lòng vì một mối tình phụ bạc chưa nguôi thì công ty của hắn lại bị giải thể do làm ăn thua lỗ, thậm chí cái giường cưới còn lại cũng không cánh mà bay. Hắn chán đời, uống rượu say li bì, bỏ nhà đi lang thang. Bố mẹ, anh em nói gì hắn cũng bỏ ngoài tai. Vốn là một anh chàng đẹp trai, vui tính, khi nào cũng áo quần tươm tất, chỉ sau một năm hắn thành thân tàn ma dại. Bố mẹ đi tìm, gặp, hắn coi như người dưng, đem áo quần cho hắn, hắn vứt xuống đường chẳng thèm mặc. Tiếng kêu khóc của người thân chẳng lay chuyển được hắn. Lâu rồi người nhà cũng đành nuốt nước mắt mà nhìn hắn tự hành hạ thân xác mình. Từ đó, người ta gọi hắn là thằng điên.

Hôm ấy, hắn đi dọc bờ sông theo đường đi ra cửa biển. Bỗng nghe tiếng kêu la văng vẳng của trẻ con: "Chết đuối! Chết đuối!". Hai thằng bé trần truồng như nhộng leo lên bờ mặt tái xanh vừa run vừa la. Cách bờ vài con sào, một mái tóc đen lòa xòa rồi chìm nghỉm giữa sông. Người chạy lại khá đông, cả người đi xe máy, xe con cũng dừng lại. Họ loay hoay trên bờ, người cởi áo phông, quần lót, miệng la "cứu" om sòm. Thằng điên nghe tiếng liền lao đến như một mũi tên bắn. Hắn vọt qua đám đông buột miệng chửi đổng một câu: "Những thằng hèn!" rồi vụt xuống nước. Hắn hụp lặn, quờ quạng nắm được tóc thằng bé kéo lên. Nhưng được một lúc thì hết hơi, hắn phải thả xác thằng bé rồi trồi lên mặt nước, thở. Rồi lại lặn xuống. Cứ thế, hắn cố sức lặn xuống, trồi lên đến ba nhịp, và đẩy được xác thằng bé vào bờ thì hắn kiệt sức. Người ta ào xuống kéo thằng bé lên, xốc nước, làm hô hấp nhân tạo. Được một lúc thì nó sống lại. Còn thằng điên, vì lặn quá sâu, kiệt sức, khi có người xuống vớt lên thì máu trào ra cả mũi và miệng, cứu chữa thế nào cũng không được.

Phan văn Khuyến

Này nhỏ hãy đợi đấy Vẫn như thói quen ở thành phố, sáng đầu tiên ở quê ngoại, tôi dậy thật sớm chạy bộ dưới cái se lạnh của buổi ban mai tinh khôi, trong sạch. Đường quê loanh quanh, cây trái xum xuê đan xéo vào nhau đong đưa theo gió nghiêng bóng xuống mặt đường. "Rầm!" Nhớn nhác sao tôi đâm sầm vào một gã đi bên đường. Lướt nhìn khuôn mặt hắn: nai quá. Tôi đàn áp liền : - Ông là ai? Hắn bốp chát lại : - Tôi là tôi. Bực mình tôi gắt lên : - Tôi hỏi ông là ai? Ở đâu tới? Mắt ông để ở đâu mà sao ông cản đường tôi. Hắn thản nhiên đáp : - Tôi là tôi, tôi ở đây tới đây, mắt tôi để dưới chân mày và tôi không cản đường ai cả. Còn mắt cô để đâu? - Ở trên lỗ mũi... Xíííí... Tôi nạt hắn, định bụng cho hắn một bài học nhưng hắn đút hai tay vào túi quần miệng huýt sáo ung dung bỏ đi. Cái hành động của hắn làm tôi tức muốn điên lên. Tôi hét theo : - Này! Hãy đợi đấy.

- Chào Vân. Tôi giật mình quay lại : - Sao ông lại biết tên tôi? Hắn cảm thấy khoái chí với câu hỏi của tôi. - Tất cả mấy đứa nhóc trong xóm này là đồng minh của tôi. Hôm qua tôi đã chi trả cho chúng mười trái xoài tượng để được biết tên nhỏ. - Xí... Tôi sẽ chi hai mươi trái xoài để chúng nó điều tra tên của ông. Tôi gằn giọng, hắn vẫn thản nhiên : - Khỏi đưa chúng nó, đưa cho tôi cũng được, tôi tên là Phong. Vân là mây, mây bay trên trời. Phong là gió, gió dìu mây đi. - Nhưng tôi không bao giờ đi với ông. - Còn tôi!... - Im. Ông không được nói. Nói xong tôi dọt lẹ. Hắn gọi với theo : - Này nhỏ, hãy đợi đấy tập hai.

Buổi chiều mặt trời ngả bóng xuống ngọn núi xa xa, nắng vàng miền quê rực rỡ. Tôi đang ngồi với mấy đứa em bạn dì xơi hàng chục xoài chấm với nước mắm đường, tê rần chớp lưỡi. Hắn đến lần này không đi một mình mà mang theo cây đàn Guitar gảy từng tứng tưng. Hắn cứ gào lên : - Bằng lòng đi em về với quê anh - Một dòng sông xanh một dòng nước xanh - Bằng lòng đi em... Tôi bực mình quay ra chặn hắn lại : - Ai cho ông đi ngang đây mà gào lên vậy? Hắn vẫn thản nhiên : - Không, tôi đang hát cơ mà. - Hát thì về nhà mà hát. - Tôi muốn hát tặng Vân thôi. - Tôi không lấy, ông hiểu chưa. Mấy đứa em bạn dì nhìn tôi sửng sốt. Riêng hắn thả cây đàn xuống, nhún vai ra vẻ hiền lắm. Tôi xoay hắn lại gằn từng tiếng vào tai hắn : - Này Nôbita hãy đợi đấy tập ba. Nói xong tôi chạy vội vào nhà. Hắn vẫn kịp hét lên : - Xuka, tôi sẵn sàng đợi.

Chỉ vài ngày nữa là tôi phải về thành phố, chuẩn bị cho năm học mới, thời gian đi qua nhanh quá. Hắn và tôi lúc này đã thân nhau, tuy nhiên "hãy đợi đấy" vẫn đang ở tập chín mươi chín. Buổi chiều hắn ghé nhà chơi tặng tôi cuốn sách, nhìn bìa sách ghi tác giả "Dạ Thảo". Tôi hỏi hắn : - Anh cũng thích đọc sách của Dạ Thảo à? - Ừ, thích lắm - Cặp mắt hắn mơ màng nhìn tôi - Vân cũng biết Dạ Thảo à? Sẵn dịp tôi nổ luôn cho hắn sợ : - Dạ Thảo là bạn của Vân đấy. Hắn nhún vai le lưỡi ra vẻ sợ lắm. - Thế Dạ Thảo có đẹp trai không vậy? - Ơ... Cao như anh vậy, nhưng trắng và đẹp trai hơn anh (tôi đã bỏ từ ông để gọi hắn). Hắn nhoẻn miệng cười : - Làm gì mà anh cười. - Không, không có gì. Tôi không cười Vân đâu. Sẵn dịp tôi lại nghĩ ra câu chuyện tào lao về nhà văn Dạ Thảo nói cho hắn nghe.

Tôi đến tòa soạn báo học trò lãnh tiền nhuận bút truyện ngắn vừa được đăng trên báo. Sẵn dịp gặp nhà văn Dạ Thảo góp ý cho tác phẩm mới của tôi. Theo sự hướng dẫn tôi đẩy cửa phòng khách bước vào, chàng trai ngồi sau bàn giấy ngẩng mặt nhìn tôi. Tôi tròn mắt la lên : - Ơ... Anh làm gì ở đây? - Tôi làm việc, Vân muốn gặp ai? Tôi bối rối lườm hắn : - Dạ Thảo, gặp nhà văn Dạ Thảo. - Có chuyện gì quan trọng không? - Tất nhiên là có. - Thế à - Nói với tôi không được sao? - Không, không thể được, phải gặp nhà văn Dạ Thảo cơ. Cuối cùng hắn buông ra một câu cố hữu. - Thế thì. Hãy đợi đấy. Tôi đáp lại : - Ừ thì đợi. Thời gian chậm chạp trôi qua huyên thuyên với hắn đã mệt, tôi xin phép ra về dịp khác sẽ ghé lại. Bước ra cổng gặp bác bảo vệ đang ngồi vê cằm nhổ mấy cọng râu, tôi chào bác, bác hỏi với theo : - Sao, cháu gặp anh Thảo có vui không? - Ơ... Ông ấy đi đâu cháu chờ mãi không gặp. Bác bảo vệ ngạc nhiên : - Hồi nãy bác đi ngang phòng khách thấy cháu đang ngồi nói chuyện với anh Thảo cơ mà. Tôi sững người, chẳng lẽ là hắn. Thôi rồi, biến ngay thôi. Ngoái đầu nhìn lại thấy hắn đã đứng sau lưng tôi tự hồi nào, hắn nheo mắt mỉm cười : - Chào Vân - Vân đã gặp nhà văn Dạ Thảo chưa? Nếu mà Mao Toại trong truyện Phong Thần chắc tôi đã độn thổ mất tiêu rồi. - Gặp rồi. - Vui không? - Vui lắm, ông ấy là một tên chuyên nghiệp lừa đảo kẻ khác, mà Vân là nạn nhân của ba tháng qua - Tôi cứng giọng - Hôm nay Vân đi tìm ông ấy để báo thù. - Ghê thế à, rạch mặt ông ấy hả? - Còn hơn thế nữa, ông ấy phải dẫn Vân đi ăn chín mươi chín cây kem ngay bây giờ. Hắn nghệt mặt ra cười : - Xin tuân lệnh!

Nguyên Nguyên

Nhà mẹ Lê Đoàn Thôn là một cái phố chợ tồi tàn gần ngay một huyện lị nhỏ ở Trung Châu. Hai dãy nhà lụp xụp, mái tranh xuống thấp gần đến thềm, che nửa những cái chái nứa đã mục nát. Gần đấy là những quán chợ xiêu vẹo đứng bao bọc một căn nhà gạch có gác bưng bít như một cái tổ chim, nhà của một người giàu trong làng làm ra để bán hàng. Người ở phố chợ là bảy tám gia đình nghèo khổ không biết ở đâu, mà người dân trong huyện thường gọi một cách khinh bỉ: những kẻ ngụ cư. Họ ở đâu đến đây kiếm ăn trong mấy năm trời làm đói kém, làm những nghề lặt vặt, người thì kéo xe, người thì đánh dậm, hay làm thuê, ở mướn cho những nhà giàu có trong làng. Người ta gọi mọi gia đình bằng tên người mẹ, nhà mẹ Hiền, nhà mẹ Đối, nhà mẹ Lê. Những gia đình này giống nhau ở chỗ cùng nghèo nàn như nhau cả. Nhà mẹ Lê là một gia đình một người mẹ với mười một người con. Bác Lê là một người đàn bà quê chắc chắn và thấp bé, da mặt và chân tay nhăn nheo như một quả trám khô. Khi bác mới đến phố, ai ai cũng chú ý đến đám con của bác: mười một đứa, mà đứa lớn mới có mười bảy tuổi! Đứa bé nhất hãy còn bế trên taỵ Mẹ con bác ta ở một căn nhà lá. Chừng ấy người chen chúc trong một khoảng rộng độ bằng hai chiếc chiếu, có mỗi một chiếc giường nan gãy nát. Mùa rét thì trải ổ rơm đầy nhà, mẹ con cùng nằm ngủ trên đó, trông như một cái ổ chó, chó mẹ và chó con lúc nhúc. Đối với người nghèo như bác một chỗ ở như thế cũng tươm tất lắm rồi. Nhưng còn cách kiếm ăn? Bác Lê chật vật, khó khăn suốt ngày cũng không đủ nuôi từng ấy đứa con. Từ buổi sáng tinh sương, mùa nực cũng như mùa rét, bác ta đã phải trở dậy để đi làm mướn cho những người trong làng. Những ngày có người mướn ấy, tuy bác phải làm vất vả, nhưng chắc chắn buổi tối được mấy bát gạo và mấy đồng xu về nuôi lũ con đói đợi ở nhà. Đó là những ngày sung sướng. Nhưng đến mùa rét, khi các ruộng lúa đã gặt rồi, cánh đồng chỉ còn trơ cuống rạ, dưới gió bấc lạnh như lưỡi dao sắc khía vào da, bác Lê lo sợ, vì không ai mướn bác làm việc gì nữa. Thế là cả nhà nhịn đói, mấy đứa nhỏ nhất: con Tý, con Phún, thằng Hy mà con chị nó bế, chúng nó khóc lả đi mà không có cái ăn. Dưới manh áo rách nát, thịt chúng nó thâm tím lại vì rét như thịt con trâu chết. Bác Lê ôm lấy con trong ổ rơm, để mong lấy cái ấm của mình ấp ủ cho nó. Thằng con lớn thì từ sáng đã cùng thằng Ba ra cánh đồng kiếm con cua, con ốc, hay sau mùa gặt, đi mót những bông lúa còn sót lại trong khe ruộng. Thật là sung sướng, nếu chúng mang về được một lượm, trong những ngày may mắn. Vội vàng bác Lê đẩy con ra, vơ lấy bó lúa, đem để xuống dưới chân vò nát, vét hột thóc giã lấy gạo. Rồi làm một bữa cơm nóng lúc buổi tối giá rét, mẹ con ngồi chung quanh nồi cơm bốc hơi, trong khi bên ngoài gió lạnh rít qua mái tranh.

Cuộc đời của gia đình bác Lê cứ như thế mà lặng lẽ qua ngày nọ rồi lại đến ngày kia. Tuy vậy cũng có những ngày vui vẻ. Những ngày nắng ấm trong năm, hay những buổi chiều mùa hạ, mẹ con bác Lê cùng nhau ngôì chơi ở trước cửa nhà. Các người hàng xóm cũng làm như thế, các bà mẹ ngồi rủ rỉ với nhau những câu chuyện kín đáo, các trẻ con nô đùa dưới quán chợ, còn các bà già thì ngồi giũ tóc cho chúng và gọt tóc chúng bằng mảnh chai sắc. Thằng cả ngồi đan lại cái lờ. Còn những đứa khác chơi quanh gần đấy. Trong những ngày hè nóng bức, con bác Lê đứa nào cũng lở đầu. Bác ta bảo là một cái bệnh gia truyền từ đời ông tam đại nên bác lấy phẩm xanh bôi cho chúng nó. Trông mẹ con bác lại càng giống mẹ con một đàn gà, mà những con gà con người ta bôi xanh lên đầu cho khỏi lẫn. Người phố chợ thường nói đùa bác Lê về đàn con đông đúc ấỵ. Bác Đối kéo xe, người vui tánh nhất xóm, không lần nào đi qua nhà bác Lê mà không bảo : - Bác phải nhớ thỉnh thoảng đếm lại con không quên mất. Bác Lê bao giờ cũng trả lời một câu : - Mất bớt đi cho nó đỡ tội. Nhưng mọi người biết bác Lê quí con lắm. Tuy bác hết sức công bằng, người ta cũng thấy bác yêu thằng Hy hơn cả. Nó là con thứ chín, ốm yếu, xanh xao nhất trong nhà. Bác thường bế nó lên hôn hít, rồi khoe với hàng xóm, nội cả nhà chỉ có nó là giống thầy cháu như đúc. Rồi bác lại ôm con ngồi lặng yên một lát, như để nhớ lại chuyện gì đã lâu lắm. Những đêm sáng trăng mùa hạ, cả phố bắc chõng ngồi ngoài đường, vì trong nhà nào cũng nóng như một cái lò, và hàng vạn con muỗi vo ve. Dưới bóng trăng, những đá rải đường trông đen lay láy và lấp loáng ánh sáng. Đất hãy còn giữ cái nóng buổi trưa và bốc lên một cái mùi riêng, lẫn mùi rác bẩn và mùi cát. Mọi người họp nhau nói chuyện. Trẻ con nghịch chạy quanh các bà mẹ, hình như quên cảnh khổ sở, hèn mọn, ai ai cũng vui vẻ chuyện trò, tiếng cười to và dài như người lớn, xen lẫn với tiếng khúc khích của các cô gái chúm chụm sát nhau trong bóng tối, người ta thấy tiếng bác Hiền nói vang, tiếng bác Đối thuật lại buổi xe kiếm may mắn. Trong một căn nhà đưa ra một tiếng võng và tiếng hát lanh lảnh của bác Đối gái, đã đem hết tiền buổi xe kiếm được của chồng vào hiệu khách mua một cân táo tầu rồi nằm võng vừa nhai vừa hát trống quân: "Ngày xưa, có anh Trương Chi..."

Mấy năm sau, sự kiếm ăn ngày một thêm khó khăn. Buổi chợ họp không đông đúc như trước. Những tiếng nói chuyện trong sương lúc mờ sáng của các người hàng sáo gánh gạo kĩu kịt trên đò để đem xuống huyện bán, người ta không nghe thấy nữa. Cái đói kém đến chen lần trong các phố chợ. Bác Hiền ngày nào cũng gánh hàng đi rồi lại gánh hàng về. Còn thường thấy bác Đối kéo cái xe không, đi lảng vảng trong huyện và vợ bác cũng không hay nằm võng hát trống quân nữa. Bác Lê trong lúc ấy, đi khắp các nhà trong làng, xin làm mướn, nhưng các nhà có ruộng không ai mướn. Bác có làm không công, người ta cũng chỉ cho có nửa bát gạo, đùm bọc về không đủ cho ba đứa con ăn. Những ngày nhịn đói liên tiếp nhau luôn. Bác Lê thấy đàn con ngày một gầy còm, buổi chiều bác mệt nhọc chán nản trở về, hỏi thằng cả xem có đánh được ít cá nào không thì nó buồn rầu khẽ lắc đầu, trả lời rằng các hồ ao người ta đã cấm không cho nó thả lờ nữa. Mùa rét năm ấy đến, giá lạnh và mưa gió lầy lội. Đàn con bác Lê ôm chặt lấy nhau rét run trong căn nhà ẩm ướt và tối tăm vì đèn đuốc không có nữa. Mấy gia đình ở phố chợ đều đói rét và khổ sở. Nhưng mỗi nhà đều lặng lẽ, âm thầm và chịu khổ một mình, không than thở với láng giềng hàng xóm lời gì, ai nấy đều biết cũng nghèo khốn như nhau. Một buổi chiều, mà đàn con đã nhịn đói suốt buổi, bác Lê vá lại manh áo rét, gọi đứa cả đến rồi bảo : - Ở nhà trông các em, tao vào ông Bá xem có xin được ít gạo nào không? - Ban sáng u đã vào nhà người ta có cho đâu, cậu Phúc lại còn bảo hễ u vào nữa thì cậu ấy thả chó ra cắn. Bác Lê đáp : - Nhưng biết làm thế nào! Không có thì lấy gạo đâu ra mà ăn? Thôi tao cứ liều vào lần nữa xem sao. Nói xong, bácLê mở cửa liếp ra đi. Trong lòng bác vẫn có chút hy vọng trong buổi sáng lúc vào xin gạo. Ông Bá đã đuổi mắng không cho. Bác nhớ lại cải cảnh sang trọng, ấm cúng trong nhà ông Bá. Những chậu sứ, câu đối thếp vàng sáng chói. Không lẽ ông Bá giầu có thế mà không thí cho mẹ con bác được bát gạo hay sao? Ở nhà, đàn con bác ngồi nhìn nhau đợi trong ổ rơm. Bác đi đâu không thấy về. Thằng Hy lắng tai nghe tiếng chó cắn trong làng rồi bảo chị nó : - Hình như u về đấy chị ạ. Thằng cả di lại bên cửa bếp nhìn ra ngoài. Bỗng có tiếng chân người rầm rập, đến tiếng gọi, rồi lũ trẻ thấy bác Đối và một người nữa khiêng bác Lê vào trong nhà. Trên bắp chân người mẹ, máu đỏ chảy ròng ròng. Thằng cả hiểu ngay mẹ nó bị chó ông Bá cắn. Bác đặt người bị thương xuống chiếu rồi ra đi sau khi dặn : - Bây giờ, bác lấy lá lốt mà rịt cho nó cầm máu. Chó Tây cắn thì độc lắm đấỵ Khi bác đi khỏi, lũ trẻ xúm quanh lấy mẹ. Thằng Hy vừa mếu máo vừa hỏi : - U làm sao thế, u? Bác Lê nén cái đau, giảng cho con biết : -Thật cậu Phúc ác quá! Đã không cho thì thôi lại còn thả chó ra đuổi, tao đã chạy mà không kịp, nên nó cắn phải. May gặp bác Đối, chứ không biết bao giờ mới lê được về đến nhà. Bác ngừng lại nhìn đàn con ốm yếu, rồi thở dài : - Thế là mẹ con lấy gì ăn cho đỡ đói bây giờ. Thằng Hy òa lên khóc, con Tý cũng khóc theo. Bác Lê giơ tay ôm chúng nó vào lòng nghĩ thân phận mình, bác cũng ứa nước mắt. Đêm ấy, bác Lê lên cơn sốt. Những cái rùng mình lạnh lẽo nối nhau lướt trên da bác, manh chiếu rách không đủ đắp ấm thân. Trong lúc mê sảng, bác Lê tưởng nhớ lại cả cuộc đời mình, từ lúc còn bé đến bây giờ, chỉ toàn những ngày khổ sở nhọc nhằn. Cái nghèo không biết tự bao giờ đã vào nhà bác. Lúc sinh ra bác đã thấy nó rồi, và từ đó nó cứ theo liền bác mãi. Nhưng có người mướn làm thì không đến nỗi. Bác nhớ lại những buổi đi làm khó nhọc, nhưng bác vui vẻ được lĩnh gạo về cho con, những bữa cơm nóng mùa rét, những lúc thằng Hy và con Tý vui đùa giằng co chiếc bánh bác mua cho chúng. Rồi đến những ngày đi mót lúa mỏi lưng trên cánh đồng, nhặt những bông lúa thơm, những lúc vò lúa dưới chân... Bác Lê nhớ lại cái cảm giác vui mừng khi thấy cạnh bông lúa sắc sát vào thịt da. Đấy còn là những ngày no đủ. Rồi đến những buổi chợ sáng, những ngày nhịn đói như hôm nay. Bác mơ màng thấy vàng son chói lọi trong nhà ông Bá, thấy nét mặt gian ác của cậu Phúc, con chó Tây nhe nanh chồm đến. - Trời ơi! Sao tôi khổ thế này? Tiếng kêu thất thanh của bác làm lũ trẻ giật mình, chúng nó ngồi dậy đưa mắt sợ hãi nhìn người mẹ.

Hai hôm sau, bác Lê lại lên cơn mê sảng rồi chết. Người trong phố chợ gom góp nhau mua cho bác một cỗ ván mọt, rồi đưa giúp bác ra cánh đồng, chôn vùi dưới bãi tha ma nhỏ ở đầu làng. Khi trở về, qua căn nhà lạnh lẽo âm u, họ thấy mấy đứa con nhỏ con bác Lê ngồi ở vỉa hè. Con Tý đang dỗ cho thằng Hy nín khóc, nói dối rằng mẹ nó đi chợ một lát rồi sẽ về. Nhưng họ biết rằng bác Lê không trở về nữa và họ thấy một cái cảm giác lo sợ đè nén lấy tâm can họ, những người ở lại, những người còn sống mà cái nghèo khổ cứ theo đuổi mãi không biết bao giờ hết.

Thạch Lam

Người muôn năm cũ "... Những người muôn năm cũ Hồn ở đâu bây giờ?..."

Nga vừa trút bỏ quần áo vứt bừa lên ghế, vừa hỏi bà nội : - Có ai hỏi con không, bà? - Có một cậu; người trông đứng đắn, lễ độ lắm. - Bà thì chỉ để ý người đứng đắn với không đứng đắn. Thế hắn ta cao thấp, gầy béo, đẹp xấu,... thế nào? - Cái con này. Cứ nhìn con giai ở mã ngoài, rồi là khổ một đời đấy con ạ! Nga lăn ra giường, trên mình độc một cái quần con, ôm lấy bà : - Cháu mà vớ phải một tên đứng đắn nhưng lại kiết xác, thì mới khổ đời. Thế sao bà biết là hắn đứng đắn. - Cậu ấy trông cao ráo. Đi xe máy... - À, được rồi. Con sẽ nạp vào bộ nhớ: Người đứng đắn là người cao ráo, đi xe máy - Nga cười khúc khích - Thế xe gì, Wave hay Spacy, bà? - Con nỡm. Làm sao bà biết được xe gì. Bà đã nói xong đâu. Cậu ấy đi xe trong ngõ rất chậm, không bấm còi, lại không chiếu đèn chói mắt người ta như đám con nhà Soạn thịt chó trong kia. Cậu ấy hỏi bà nhẹ nhàng lắm. Bà cũng muốn có người nói chuyện, mới đưa chìa khóa bảo: "Cháu mở cửa hộ bà, vào đây chờ Nga". Nhưng cậu ấy giữ ý, không vào. Nhà có mỗi bà lão lẩm cẩm... thế là người tốt chứ gì? - Trộm bây giờ siêu lắm bà ơi. - Nga vừa nói vừa ngáp - Hắn không dám vào vì thấy bà mời. Sợ "kẻ cắp gặp bà già". Biết đâu bà có Tê-cun-đô lại cho hắn một cước thì toi. Lần sau, bà cứ ra vẻ không cho hắn vào là haén tìm cách vào bằng được cho mà xem. - Con ranh này. Cậu ta bảo là trước cùng họ với mày. Tên là Hoàng. - Á, à! "Hoàng hấp". - Nga bật cười khanh khách - Người tình cũ. Xưa bà gọi là gì nhỉ? À, "nhân ngãi" của con đấy bà ạ! Xe ấy là xe đi mượn. Hắn đang ở tận miền Trung. - Ừ, nó nói là làm tàu thủy chở hàng từ miền trung ra. Rẽ vào thăm bạn học cũ. - "Cử động" quá. Tên Hoàng này trước đây sốt cao vì con đấy. Nhưng nhà thì ở tít khu trỏng, lại chỉ độc một món tim trần nên hết khóa học, con đánh trượt. Tội gì phải chập với một tên chỉ biết yêu không thôi, bà nhỉ? - Nói với năng. Ngày xưa con gái mà ăn nói thế là chết đòn, con ạ. Phải thưa gửi, gọi dạ bảo vâng. Cấm có nói tục, nói lóng. Nhỡ miệng thì vả gẫy răng. Mà có dậy mặc quần áo vào không. Cứ trùng trục như đô vật thế này, cảm lạnh thì sao? Nhưng Nga đã khẽ ngáy gừ gừ như một con mèo con, không để ý đến bài giáo huấn của bà nội. Bà Ngân phải trở dậy lấy cái váy ngủ, rồi vần thân hình Nga lăn lóc một hồi mới mặc được vào cho nó. Bà mệt, vừa thở vừa mắng yêu: "Cha bố nó, nặng như cái cối đá lỗ. Ngày trước, bằng ngần này là đã con bồng con mang". Bà tắt đèn, nằm xuống, phe phẩy cái quạt giấy quạt cho cháu, dù cái quạt trần đang quay.

Đêm đã khuya. Bà Ngân chập chờn giấc ngủ của người già. Tiếng xe cộ ì ầm xa xa. Chợt Nga trở dậy, nhảy thịch xuống giường. Bà nhìn thấy trên nền sáng khuôn cửa sổ, thân hình dậy thì của Nga lồ lộ trong chiếc váy mỏng, ngửa cổ tu bình nước. - Con gái con đứa mà uống nước như thế à! - Bà tinh mắt nhỉ. - Nga trèo lên giường, ôm lấy bà nội, cù vào nách. Bà không cười, mà chính nó lại khúc khích - Con đi lấy chồng, không còn ai để mắng mỏ, bà có buồn không? - Cha bố mày. Bà yêu thì bà mới mắng, cho nên người chứ! - A, bà cũng yêu đấy nhé! - Ngụm nước lạnh làm Nga tỉnh ngủ - Thế ngày xưa, bà có yêu ông nội không? Gọi là gì nhỉ. À, "phải lòng"! Hôm nọ con thấy ảnh của ông ở cái thẻ gì ấy. Ông để đầu đinh. Trông mô-đen lắm. - Hồi ấy ông đi làm ký lục lộ trên mạn ngược, bị ngã nước rụng hết tóc, rồi mọc lại ngứa quá, mới húi "cua". - Thế nên bà mới phải lòng - Nga lại cười khúc khích. Nó thừa biết cái ông để đầu đinh ấy chỉ là ông nội của nó. Còn người mà bà nó đã "phải lòng" là kép chính của một gánh chèo lang thang. Ông ta con nhà giàu, có học, viết chữ nho đẹp có tiếng; lại có hoa tay, vẽ vời cắt giấy phết hồ chẳng thua thợ hoa man, làm được cả phông màn cho những cảnh diễn. Đã có lần bà hãnh diện nói về người ấy: "Bọn con trai chúng nó bây giờ học hành đến mấy, cũng chẳng bằng được người như ông ấy". - Bà kể về ông ấy đi. ... Tan đêm chèo, người ấy để nguyên quần áo của chàng Ngưu Lang, tất tả đi vội đến chiếc cầu đá đứng đợi Ngân. Còn Ngân thì không sao thoát ra khỏi căn buồng có cánh cửa gỗ lim kiên cố bị người dì ghẻ khóa trái. - Rồi làm sao mà bà thoát ra được? - Anh Ngọ là lực điền của nhà, cũng quen biết người ấy, đã trèo lên nóc nhà, dỡ mái, dòng dây thừng xuống, kéo bà lên. Trăng sáng vằng vặc soi rõ khuôn mặt anh ta buồn rười rượi. Này, hôm nay bà thấy cái cậu Hoàng ấy trông mặt cũng rầu rầu như thế. Người nào cũng vậy; Thời nào cũng vậy. Cứ vướng vào dây tình là khổ. Thì ra anh Ngọ cũng phải lòng con gái nhà chủ. - Ôi, các cụ cũng "tay ba tay tư, lằng nhằng dây điện" nhỉ?

Ngọ nhón những cọng rạ lợp mái nhà vướng trên tóc Ngân. Cô để yên cho anh ta được làm chuyện đó như một sự thưởng công. Những ngón tay chẳng hề chạm vào tóc Ngân, mà anh ta cũng thấy như đang được hưởng một hạnh phúc to lớn lắm. Ngân cảm thấy thế khi nhìn vào khuôn mặt vuông chữ điền rạng rỡ ánh trăng. - Cô chạy ngay ra cầu Đá đi. Mau lên,... cậu ấy đứng đợi ở đấy lâu rồi. Cô đi may mắn nhá. Rồi nhắn tin về... cho tôi mừng. - Ngọ vừa nói vừa nuốt nghẹn. Ngân chạy tắt qua lối vườn Chùa. Khu vườn ngay giữa trưa cũng âm u lạnh lẽo với tiếng cú rúc và tắc kè kêu ghê rợn. Mặc Bà chúa Thượng ngàn xống áo mớ ba mớ bảy vắt vẻo đưa võng trên cây, cười lanh lảnh trêu chọc; mặc ông Hoàng Mười cân đai bối tử trừng mắt đứng bên lăng Sư tổ; mặc cái Gái chết oan ức, quần áo trắng lòa lòa ngồi xõa tóc nỉ non khóc dưới cây quéo kia. Ngân chạy thục mạng, thoát khỏi khu vườn đầy những bóng ma. Rồi cô cắt ngang qua lối gò Trành là nơi chôn người chết. Ngân chạy như ma đuổi. Mà ma đuổi thật. Nghe rõ tiếng chân thình thịch phía sau. Ngân vấp vào một tấm bia đá, ngã như trời giáng. Không phải ma đuổi mà là Ngọ chạy hộ tống đằng sau. Anh nâng Ngân lên, lấy ống tay áo lau máu trên môi cô, nhặt cái tay nải quần áo, tư trang khoác lên vai Ngân : - Còn một quãng đường quang nữa thôi. - Anh ta đứng trên gò nhìn theo Ngân. Ngân đến nơi. Trên cầu vắng tanh. Một bóng người đang lúi húi đặt đăng đó dưới chân cầu. Ngân hỏi vọng xuống : - Bác đánh đăng ơi! Vừa rồi bác có thấy ai đứng trên cầu không? - Có. Đứng lâu lắm. Khăn áo phơ phất như phường chèo. Nhưng đi rồi. - Đi lâu chưa, bác? - Chừng giập bã trầu. Chiếc cầu trơ trọi. Trụ cầu bằng đá đẽo. Mặt cầu lát đá phiến nhẵn bóng, mỗi phiến bằng nửa cái sập gụ. ánh trăng khuya làm chiếc cầu sáng sủa mới mẻ như thể nó vừa hóa thành đá xong. Ngân đứng chết lặng trên caàu, nghe có tiếng còi tàu hỏa xa lắc ở phía nhà ga, nơi những ngọn đèn mờ mờ sương đêm. Người ấy đã không thể đợi thêm được. Gánh chèo phải đi kịp chuyến tàu sớm, ngược lên Lạng Sơn, rồi đến hát ở những làng mạc dọc sông Thương. Bao nhiêu đường đất; mịt mù bóng chim tăm cá. - Bà cũng lãng mạn nhỉ? - Cha bố mày. Chỉ được cái hỗn. Bà là bạn mày đấy à? - I'm sorry! - Cái gì? Con ranh. Mày rủa cả bà à? - Đâu mà, ấy là con xin lỗi. Bà có biết không, tên Hoàng ấy cũng lãng mạn một cục. Hắn viết thư cho con, y như phim - Nga ghé sát miệng vào tai bà thì thầm. Môi nó mềm ướt như môi đứa bé còn bú mẹ; hơi thở nóng hổi - "Tàu chạy giữa hai bờ con sông lạ. Nước sông đục ngầu, nhưng hoa cỏ trên bờ tươi xanh. Tôi ước được là thuyền trưởng; tôi sẽ cho tàu cập bờ, lên hái một bó hoa dại thật lớn gửi cho Nga. Vì, lúc đó tôi rất nhớ Nga. Nhớ lắm! Nga ơi!" Con viết cho hắn rằng phải bỏ ngay cái kiểu ngồi trên nóc tàu gật gù lơ mơ, nhỡ lộn cổ xuống sông; lại làm con tốn oan nước mắt. Thế mà hắn viết lại rằng, nếu được con khóc thương thì hắn sẵn sàng nhảy xuống sông.

Nga lại ngủ được ngay, lại gừ gừ khe khẽ như con mèo con.

Ngân đọc đi đọc lại lá thư một người làng đi buôn trên mạn ngược về, chuyển cho cô. Thư của người ấy. Những chữ rất đẹp viết bằng mực tím. Cô đã thuộc cả những chữ cô không hiểu : Phủ Lạng Thương, le 25 Novembre 1941 ... Ngân ơi! Cái đêm hôm đó Ngân không đi cùng với tôi, thì tôi cũng không dám trách gì Ngân, mà chỉ hận trời xanh. Âu cũng là oan trái từ tiền kiếp nên đôi ta mới lỡ dở... Thôi thì đành đợi kiếp sau. Tôi cầu chúc cho Ngân gặp được người ý hợp tâm đầu, bách niên giai lão. Còn tôi thì trọn đời thương nhớ Ngân. Viết đến đây, lòng tôi đau như dao cắt; tôi nhớ Ngân lắm, Ngân ơi. Mà tôi biết, Ngân cũng chưa quên được tôi. Thật là : Người đi Tam Đảo Ngũ Hồ Người về khóc trúc thương ngô một mình Non non nước nước tình tình Vì ai ngơ ngẩn cho mình ngẩn ngơ...

Đầu năm sau, Ngân lấy chồng. Cái đám mà bố Ngân và dì ghẻ đã xếp đặt từ trước. Anh chàng này con nhà giầu ở Hải Phòng "làm bàn giấy", trông hiền như đất mà cục tính. Anh ta phong thanh biết chuyện, ghen; có lần đánh Ngân toạc cả đầu. Nhưng Ngân vẫn không quên được người ấy; cả khi bố Nga ra đời. Sau này, bố Nga tính cũng cục cằn. Cũng ghen bóng, mà vợ thì lại là người nhan sắc, giao thiệp rộng. Bố Nga đánh vợ đến nỗi phải bỏ nhau khi Nga còn chưa biết đi. Nga được bà nội nuôi từ nhỏ, không nhớ nổi mặt mẹ.

Sáng hôm sau, chủ nhật, Nga ra đầu ngõ mua bát xôi ngô cho bà; rồi son phấn, phóng xe đi mất. Bố Nga ra hiệu sách. Bà Ngân lại ngồi một mình bên cửa sắt xếp. Bà sợ những lúc ngồi một mình, cũng như sợ giấc ngủ chập chờn. Như những kẻ từng chọc trời khuấy nước, đã hết thời; như những giai nhân, mỹ nữ về già; bà Ngân thường ngồi nhớ một thời xuân sắc bà từng có. Hoàng lại đến, rụt rè lễ độ chào bà như tối hôm qua. - Hoàng đấy à. Cháu vào đây nói chuyện, chờ Nga. Nó sắp về bây giờ. Ban ngày, trông Hoàng cũng điển trai. Cũng dáng hào hoa lịch sự như người ấy ngày xưa; và hiền lành phúc hậu như anh Ngọ.

Ngay đêm ấy Ngọ bị đánh đến què chân như quân trộm cướp, rồi bị đuổi. Lúc anh tập tễnh ôm bọc quần áo ra đi, Ngân vẫn bị nhốt trong buồng. Khi ra khỏi cổng anh còn cố nói to lên: "Tôi đi đây! Chẳng biết bao giờ mới được về lại đây nữa. Cô ở lại mạnh khỏe may mắn nhé!" Tên đầy tớ nịnh chủ của nhà Ngân giộng cái đòn ống vào lưng anh thêm một lần nữa. Trong buồng Ngân nghe thấy rõ. Cô khóc nức lên. Sau, nghe nói anh Ngọ phiêu bạt sang tận Nam Vang, rồi biệt tích. - Cháu uống nước đi. Chè xanh đấy. Bà chỉ uống nước này thôi. - Dạ. Cháu cũng thích nước chè xanh, nhưng ít được uống. - Rõ là đứa lễ phép, thật thà, chứ không phải nói lấy lòng bà. Bà Ngân bắt đầu cuộc hỏi han về gia thế của Hoàng như Nga đã nói trước khi phóng xe đi: "Tên Hoàng có đến nữa, bà cứ thẩm vấn hắn xong phần tiểu sử là con về". Hoàng chỉ còn mẹ và đứa em gái đang đi học. Trước, nhà cũng khá nhưng bố chết trong một chuyến đi biển; nên mẹ con lâm cảnh khổ. Chỉ hơn con Nga một tuổi mà đã là trụ cột gia đình. Bà nhìn Hoàng thương cảm : - Cháu yêu thương Nga lắm phải không? Hoàng bị bất ngờ, lúng túng, im lặng. - Đêm qua Nga đọc cho bà nghe thư cháu gửi cho nó. - Chết thật, Nga lại đọc thư của cháu lên? - Hoàng ngượng nghịu. - Trước kia Nga cũng yêu cháu, còn bây giờ thì cháu cũng tự biết là không thể như thế được. - Nó đã thuộc làu lá thư. Cháu thật lòng thế, con Nga không thể vô tình được. Hai bà cháu nói chuyện đến gần trưa. Hoàng tần ngần đứng lên : - Cháu xin phép bà... Chiều nay tàu chúng cháu về rồi. Bà ở lại mạnh khỏe. Cháu... nhờ bà chuyển hộ cho Nga cái hộp này. - Rồi thằng bé lủi thủi đi.

Chiều muộn, Nga về cùng với Hà, bạn gái thân của nó và một đứa con trai lạ mặt. Chúng chào hỏi bà chiếu lệ rồi ra phòng khách. Một lúc sau, Hà vào buồng, ghé tai bà thì thào: "Bà ơi! Hắn đấy". - Hắn nào? - Bà hỏi và linh cảm rằng thằng bé Hoàng hiền lành kia sẽ khốn khổ. - Nó không nói gì với bà à? Người yêu của nó đấy. Hơi lùn một tị, nhưng con ông gì to lắm. ở tận Thủ đô mà về đây "chim" cháu gái bà đấy - Hà nhại giọng quê, cười hí hí. Đến gần tối thằng bé kia mới ra về. Nó ghé vào cửa buồng chào bà. Trông cũng được nhưng đúng là lùn, có khi còn thấp hơn Nga một đốt ngón tay. Cũng đầu đinh.

Bà muốn vun vén cho Hoàng. Nhưng bà biết, tất cả do đứa cháu gái bướng bỉnh của bà quyết định. Nó không phải là bà ngày xưa. Bà Ngân thở dài đưa cho Nga cái hộp giấy đựng quà của Hoàng. Đó là những bông hoa bằng thủy tinh. Tàu của Hoàng định kỳ chở cát trắng từ miền trung ra đây cho nhà máy thủy tinh. Cậu ta nhờ người ở phòng thí nghiệm thủy tinh mỹ nghệ làm cho. Những bông hồng mỏng mảnh trong suốt phớt trắng ở diềm cánh tan lẫn trong không gian, như ảo ảnh. - Đẹp, cứ như là nhìn kỹ cũng vỡ mất. - Hà bình phẩm. - Mụ thích, ta cho. - Nga hỏi bạn. Nhưng Hà lắc đầu : - Chả dại. Đứt tay như chơi. Nga cẩu thả để những bông hoa lên nóc tủ, rồi mở hộp quà của thằng bé đầu đinh ra kêu lên : - A, sô-cô-la Pháp, loại có hạt hạnh nhân chiên ròn. Trên cả tuyệt vời! Bà Ngân từ chối thanh kẹo lạ mắt màu nâu bóng Nga đưa cho, như giận dỗi: "Mùi nó gây gây hăng hắc thế nào ấy. Bà không ăn được!"

Hoàng vẫn gửi thư đều đặn. Nga vừa đọc cho bà nội nghe vừa bình phẩm giễu cợt. Nó bỏ ngoài tai những lời bà nói xa xôi về Hoàng kèm với những câu ví von, ca dao tục ngữ về tình với ngãi. Lúc có Hà, hai đứa đọc thư, thêm bớt câu chữ để cười. - Mày ác như quỷ ấy. Sao không cắt đi, cứ làm tội hắn mãi? - Hà mắng Nga - Ngày xưa, lính đánh trận bị thương, đau quá, phải van xin người khác giết đi cho đỡ khổ. - Đau còn hơn chết. Mà thương hắn bằng thừa. Mụ còn lạ gì dân thủy thủ. Bến nào chẳng có đứa con gái chờ hắn, cứ để hắn đấy như món lương khô. Phòng cơ nhỡ. Hoàng theo tàu ra luôn. Nga reo lên mỗi khi Hoàng đến : - A, ông lại chở cát ra đấy à? Ông nói chuyện với cụ hộ, Nga đi đằng này một tẹo về ngay! Và Nga lại mất tăm cho đến khi Hoàng không thể ngồi thêm được nữa. Dù sao cũng có điều tốt. Bà Ngân mong thằng bé như chờ đứa cháu yêu đi xa. Còn Hoàng cũng thấy lòng dịu lại khi nghe được những lời an ủi ân cần của bà. Hai bà cháu nói chuyện rất hợp nhau. Đến nỗi trong đầu Hoàng bóng dáng hiền từ của bà, còn gần gũi thân thiết hơn hình ảnh rực rỡ của Nga. Và mỗi khi rẽ vào cái ngõ quen thuộc, Hoàng không hiểu là mình háo hức vì sắp gặp Nga hay lại gặp bà Ngân.

Có lần đến, thấy Nga đi lại đang bồn chồn bên cạnh bà đang nằm ốm mệt, Hoàng nói luôn: "Nga bận cứ đi, tôi trông bà cho". Và Hoàng cặm cụi sắc thuốc cho bà.

Hoàng đem theo món bánh cáy, chè lam, kẹo vừng làm quà, mỗi khi đến. Những thứ quà quê chế biến theo lối ngày xưa ấy làm Nga buồn cười như nhìn thấy những sản phẩm thô thiển của thổ dân ở một xứ lạ nào; và nó chê bẩn, không dám đụng đến. Còn bà Ngân thích thú đem mời người bạn thân: "Tôi cho các bà nếm lại những thứ quý hóa ngày xưa. Thằng cháu tôi đem ở quê ra đấy!"

Cuối năm, thằng bé trên Hà Nội xin cưới Nga, vì nó sắp đi du học ở Mỹ mấy năm. Hai bố con Nga bàn bạc xong xuôi mới cho bà Ngân biết. Bà cuống lên, nghĩ đến Hoàng. Tội nghiệp thằng bé. Bà chẳng biết phải làm gì cả. Bà làm mặt giận Nga. Nhưng con bé không bận tâm coi đó là sự trái tính, là kiểu giận dỗi mát mẻ của người già.

Tuần sau là ngày cưới. Nga hớn hở, hát cười luôn miệng.

... Những ngày xưa ấy... Cả làng ầm ĩ tiếng lợn kêu, chó sủa, trẻ con la hét, như đã đến Tết. Người ấy ở tít trên mạn đồng rừng heo hút. Ngân chôn chặt chuyện cũ như cất một đồ dùng trái mùa về nhà chồng. Khi lên chiếc xe hơi màu sữa, cô khóc như mưa. Nhưng không ai để ý chuyện con gái khóc khi đi lấy chồng.

- Thôi, bà nín đi, đừng để con khóc theo, hỏng hết cả mặt bây giờ. - Nga cau có. - Tao khóc kệ tao. Khổ thân nó đã bồ côi bồ cút. Lại gặp phải chuyện này nữa. - Ơ, bà buồn cười nhỉ. Con có làm gì hắn đâu? Tự hắn xin chết chứ. - Mụ có tắt đi không! - Hà mắng Nga, dỗ dành bà Ngân - Bà chấp con điên kia làm gì. Mà cái tên Hoàng ấy ú ớ như thế thì khổ là đáng đời. Thôi, bà nín đi để con tô môi cho bà. Hôm ăn hỏi, nhà trai, có một bà béo ục ịch, già bằng mấy bà, thế mà làm mặt còn siêu hơn bọn con. Hôm nay bà cũng phải tô một tẹo cho bên đối tác kính nể chứ.

Bà lần từng bậc lên căn gác nhỏ. Bà không bật đèn, ngồi nhìn những khóm cây đen sẫm trong bóng tối ngoài ô cửa nhỏ và khóc. Thằng bé Hoàng bây giờ cũng như người ấy ngày xưa, đang ở tận bờ bến nào, không hề biết cái người mình yêu thương đã thuộc về kẻ khác rồi.

Đám rước dâu về Hà Nội đã đi xa. Bố Nga cùng bạn bè đang ăn uống ở khách sạn. Bộ dàn băng hình bọn trẻ bỏ đấy vẫn nhấp nháy hát. - Bà ơi,... Con đây! - Có tiếng gọi khẽ. Bà Ngân nhìn ra. Thằng bé đến. Hoàng nhìn quanh và hỏi bà, giọng khô khan : - Rước dâu rồi hả bà? - Có dễ được mươi, mười lăm phút rồi con ạ. Sao con biết? - Bà Ngân lúng túng như có lỗi - Bây giờ, xe phải đến cầu Lạc Long rồi. Hoàng im lặng. Bà Ngân quay đi không nhìn vào mặt Hoàng. Bà sợ khuôn mặt như mất hồn của thằng bé sẽ làm bà khóc lên mất. Bó hoa trong tay Hoàng chúc xuống đất, trông cũng như héo rũ đi. Bà lại nhìn thấy khoảng không gian mờ mịt của ký ức, người ấy đứng trên chiếc cầu đá đợi bà, áo khăn phơ phất. Chiếc cầu đến giờ vẫn còn, như thể nó đã hóa đá vì đã cùng chờ đợi, và để làm chứng tích. - Bà đang xem băng ca nhạc đấy à? - Hoàng hỏi như để có chuyện. - Không, bà có biết băng bó gì đâu. Chúng nó vừa trang điểm cho con Nga, vừa mở máy hát hổng với nhau. Lúc nhà giai đến, cứ bỏ đấy kéo đi. Bà cũng chẳng biết mở tắt thế nào. Cháu không muốn xem thì tắt đi. Hoàng ngồi xuống nền nhà, tay vẫn cầm bó hoa như cầm một cái chổi. Hoàng nhìn màn hình. Băng karaoké những bài hát hay nhất của nhóm "Boys". Bà Ngân nói với Hoàng những câu an ủi cũ kỹ mà bà cũng thấy là giống như những lời đãi bôi: "Thôi con ạ. Cũng là cái duyên cái số. Nguôi ngoai rồi thì... con giai như con, lấy đâu chẳng được vợ. Con đi về, cứ đến đây. Coi bà như bà nội của con". Hoàng cúi đầu giọng khàn đi: "Vâng ạ!". Bà Ngân tìm cách nói lảng sang chuyện khác : - à, cái bài hát này chúng nó mở máy hát theo suốt ngày không chán. Bà nghe quen cũng thấy vui tai. Nó nói cái gì thế hở con? - Vâng, để con đọc bà nghe. - Hoàng dịch những chữ tiếng Anh trên màn hình - ..."Em là một nghìn buổi bình minh tuyệt vời. Em là một nghìn buổi hoàng hôn tuyệt vời... Bây giờ tôi đi tìm em khắp phố. Công viên và bờ sông khoâng có em... Tôi đến nhà thờ, xin Chúa chỉ nơi em... Thấy em lộng lẫy trong áo cưới... Tôi đến chậm mười lăm phút... Chỉ mười lăm phút thôi!... Mười lăm phút thôi!" Hoàng nhắc lại mãi cái điệp khúc đó. Còn bà Ngân thì nước mắt giàn giụa. Bà đến cây cầu Đá chỉ chậm một khoảng thời gian chừng "giập bã trầu". Người ấy đã bỏ đi mãi đến tận bây giờ.

Ông Phổ Độ, chủ hiệu thuốc Bắc đầu phố, là người quen của bà Ngân đưa mấy gói thuốc cho Hoàng, căn dặn : - Cậu làm đúng như tôi viết đây. Phải cho bà uống nóng, thuốc mới kiến hiệu. Hết mấy thang này là đỡ đau lưng. Còn chứng phù bàn chân, để sau. - Ông nhìn bức thư pháp lồng khung trên tường, hỏi. - Nhà này mới mua được chữ ở đâu thế này? Đẹp thật! Người viết tài hoa khoáng đạt lắm. Cứ nhìn bộ "đao" là biết. Bao nhiêu tiền bức này đây bà? - Chữ ông đồ đền Mẫu viết cho không đấy, ông ạ. - Bà Ngân trả lời - Để từ năm kia. Tôi muốn treo, con Nga nhà này không nghe, cứ dán ảnh người râu ria, đánh đàn, đá bóng. Bây giờ nó đi lấy chồng, tôi bảo thằng cháu đây treo dịp Tết này. - Bức này lụa tốt, mực thơm mài bằng rượu. Nét chữ kiểu "hành xà" xoắn bện như thể thắt ruột vắt gan trút hồn lên ngọn bút mà viết. Thường thì là Tài, Lộc, Phúc, Thọ, Phú, Quý. Đây lại là Lựu. Lựu có chữ Lưu là "Gìn giữ", là "Đọng lại". Ờ, nếu chỉ mưu cầu giầu sang phú quý, sống lâu, mà chẳng biết giữ gìn cái Nghĩa cái Nhân, cái Tình thì cũng chỉ là phù phiếm. Lưu ở chữ Lưu luyến, lưu tình: chút tình còn lại: cũng ở chữ Lưu bút. Để lại chữ cho nhau... còn bộ chấm thủy là hàm ý Lưu thủy hay Dư lệ. Hay lắm! Tài hoa, nhưng gian truân một đời. Bà Ngân cúi mặt, lén lau nước mắt. Ông lang Phổ Độ đeo mục kỉnh, nhìn hai cột chữ nhỏ đã thảo có in triện son trên phía trái bức thư pháp, ngâm nga : "... Nhớ xưa luyến ái Hàn công tử... Xương trắng thành tro hận chửa tan!..." Ông chép miệng - Lý Thương ẩn đời Đường đây. Hằng Nga bay về trời, đã yên vị ở ngôi cao quý nơi tiên giới rồi, vậy mà lòng vẫn còn lưu luyến mối thâm tình cõi phàm trần với công tử họ Hàn. - Ông lang thở dài - Người như lão đồ đền Mẫu này, trong thiên hạ bây giờ chẳng còn nhiều. Mấy vị túc nho vùng này phục lão lắm. Lão chỉ xuất hiện có một bận vào năm kia. Từ năm ngoái, lão biệt dạng. Có người nói hình như lão bị phong hàn, mất ở Bắc Giang rồi. Sống lang bạt sông hồ, chết tha hương. Vậy là số "Lưu hà". Ờ, cũng lại có chữ Lưu!

Ông lang như nói một mình, gật gù đắc ý trước bà già lẩm cẩm và gã thanh niên lộc ngộc dáng thất phu. Hai người kia như những kẻ tàn tật khiếm khuyết tri thức; họ làm sao có được cái cao khoát trong tâm hồn khi thấu hiểu được sự thâm trầm của chữ nghĩa, thi ca.

Đúng là người ấy rồi. Thì ra cái cảm giác vướng gợn không cắt nghĩa được trong lòng bà hôm xin chữ, là có duyên cớ. Năm kia sáng mồng một Tết, hai bà cháu vào đền Mẫu xin quẻ thẻ rồi đi dạo. Bà Ngân thích cái không khí ở đền Mẫu này. Đó là cái khí xuân thanh sạch nguyên sơ của một thời đã mất. Ngày xưa bà đã gặp người ấy trong một ngày hội Xuân tươi sáng như thế này, ở ngôi đền quê nhà, cũng có tên là đền Mẫu.

Con bé Nga cũng hớn hở vì cái không khí ấy. Ai cũng nhìn đứa cháu gái đẹp rực rỡ của bà. Con bé giống hệt bà nội ngày xưa. Bà đã tái sinh với hình hài của nó. Đến cái ông đồ râu tóc trắng như cước ngồi cạnh cổng đeàn cũng dừng chiếc bút lông trong tay, nhìn con Nga đăm đắm, rồi lại nhìn bà. Chắc ông cũng nghĩ như mọi người: Một cặp bà cháu đẹp như bức tranh vẽ Phật bà với nữ tiên đồng. - Chào ông đồ. Xin thầy cho bà cháu tôi một chữ, treo năm mới lấy khước. Nga ngồi thụp xuống bên cạnh ông đồ già, ngắm nghía cái nghiên mực bằng đá, thỏi mực lớn có hình rồng cuốn, hòn son, ống bút, những vuông lụa bạch, xấp giấy đỏ... - Bà với cháu muốn chữ gì nào? - Ông đồ ân cần hỏi. Ông ơi, viết cho cháu chữ "Happy New Year". - Không được hỗn! - Bà Ngân củng lên đầu đứa cháu lém lỉnh. Gần hai năm theo học thầy đồ ngày xưa, giờ chẳng còn mấy chữ. Xin Tài, Lộc thì đời cho là tham. Phúc, Tâm thì người ta bảo vì thiếu thứ đó, mới mua về. An là hèn nhát. Còn Thọ dành cho kẻ úy tử cầu sinh. Thôi thì tùy thầy. Bà nói thế, làm ông đồ ngạc nhiên về sự thông thái của một bà già ở tuổi lẩm cẩm. - Nghe bà suy luận thì rõ người là mẫn tuệ. Chỉ tiếc là... - Ông nhìn con bé Nga lần nữa rồi lại nhìn bà, thở dài - Vậy là tôi vô phép viết đại một chữ mà không dám lấy tiền. - Ông trải vuông lụa bạch nõn có hồ xuoáng chiếu, quệt ngọn bút lông thật đẫm mực rồi nhíu mày trầm ngâm một lúc. Mặt ông thoáng tái đi, căng thẳng. Đôi mắt đục buồn rầu sau cặp kính như hướng về cõi xa nào không rõ. Ông tìm chữ, nghĩ cách thể hiện, hay đang tâm niệm cho cơn hưng phấn thư pháp đến? Không biết. Bất ngờ một giọt mực như giọt nước mắt lớn từ trong ngọn bút rỏ xuống vuông lụa bạch, cùng với tiếng "ối" của Nga. Con bé nhìn thấy giọt mực đúng lúc sắp rớt xuoáng.

Nhưng chính giọt mực rớt là một gợi ý. Bàn tay nhập thần hạ bút. Giọt mực tình cờ ấy đã không làm hỏng vuông lụa, mà lại đắc dụng. Hai giọt mưa hay lệ đang rơi, kế tiếp giọt đầu tiên đã xuống đất và bắn lên thành nét phẩy ngược. Để sửa giọt mực vô tình, ông đã thêm bộ chấm thủy vào chữ Lưu mà ông định viết.

Con người lang bạt ấy về đây, có phải vì mong được gặp bà lần cuối trước khi nhắm mắt xuôi tay? Tiễn ông lang Phổ Độ về rồi, bà Ngân quay lại nói với Hoàng : - Hoàng này. Năm nay bố Nga trực Tết ở sở. Con Nga ra giêng mới về. Nhà vắng vẻ. Con còn chờ chữa tàu, thì đến đây ăn Tết với bà cho vui. Chiều nay, hai bà cháu mình đi sắm Tết. Nhân tiện rẽ qua đền Mẫu. Hoàng khẽ "Vâng ạ!" Trong đầu anh vẫn vang lên giai điệu bài 15 minutes với giọng ca gào đau đớn của Bill Aston ở cuốn băng hôm đám cưới: "Tôi đến chậm mất rồi... Chỉ mười lăm phút thôi... Mười lăm phút thôi!".

Bà Ngân ước có một phép mầu để chiều nay lại được thấy người ấy ngồi đợi bà bên cổng đền Mẫu với cây bút lông trong bàn tay tài hoa. Và bà biết, dù có chết, hồn đang phiêu giạt đâu đó nơi đầu ghềnh cuối bãi thì linh hồn của một người như thế ắt sẽ tìm về bên bà; để mãi mãi vấn vương, lưu luyến với cố nhân...

Bão Vũ

Nước mắt chảy vào trong Giống như bao nhiêu người phụ nữ khác thời trước, mẹ tôi về làm dâu nhà bà nội dưới sự sắp đặt của cha mẹ mình. Nhưng mẹ lại may mắn hơn bao người phụ nữ khác là có một người chồng yêu vợ thương con hết mực (với một người bị bệnh tim như mẹ thì đó quả là một niềm hạnh phúc lớn khi được sống trong tình yêu thương của cha tôi). Tiếc thay! Cái may mắn ấy lại không tồn tại lâu trong cuộc đời mẹ. Là một người vợ hiền chân quê chất phác, cộng thêm cái bệnh tim ác nghiệt, mẹ tôi ít đi đâu, quanh năm suốt tháng lo buôn bán gần nhà nuôi con, chỉ có cha tôi với công việc của mình là thường xuyên lên thành phố. Vậy mà, một hôm theo lời cha tôi, mẹ dắt cả đám con của mình cùng chồng lên thành phố chơi, thăm người quen của cha. Ở đó, ngay ngày đầu tiên, mẹ tôi đã phải chứng kiến một sự việc hết sức bất ngờ mà mẹ tôi là người trong cuộc. Vào buổi chiều hôm ấy, đang ngồi chơi với con mình ngoài sân, mẹ chợt nghe tiếng khóc trẻ con vẳng ra từ gian nhà giữa, mẹ bèn hỏi chị Tý (sau này tôi mới biết đó là em dì tôi) : - Chứ con của ai khóc đó? Và được trả lời : - Con chị Lan, anh Danh (Danh là tên cha tôi). Bấy giờ tôi cứ ngỡ mẹ tôi sẽ ngất đi vì tức giận hay ít ra cũng kéo đàn con mình bỏ về. Hỡi ôi! Mẹ không ngất đi mà chỉ lặng người. Đã thế ngày hôm sau, cha tôi đưa dì ra không một lời giới thiệu, bảo mẹ con tôi chụp anh chung mà mẹ vẫn nghe theo. Những ngày nặng nề ấy rồi cũng trôi qua, mẹ con tôi trở về quê - dì tôi không theo về vì không quen sống ở nơi thôn dã. Cha tôi vẫn ở với chúng tôi, hàng tuần lên thành phố thăm dì và thăm em. Hành động và việc làm của mẹ khiến tâm hồn ngây thơ của chúng tôi không khỏi thắc mắc. Có lần tôi buột miệng hỏi : - Cha không thương mẹ nữa sao mà mẹ vẫn thương cha, lại còn đi thăm dì và em? Mẹ cười trả lời mà đôi mắt cứ ngó xa xăm buồn buồn. - Cha vẫn thương mẹ đấy chứ! Các con không thấy mỗi lần mẹ ốm, cha vẫn thường chăm sóc mẹ đó sao? Chỉ có điều... - Mẹ im lặng như không muốn thốt ra... - Trước kia cha thương mẹ chín, mười thì bây giờ chỉ còn bốn năm mà thôi. - Mẹ buồn lắm không, mẹ? - Ừ con ạ! - Sao mẹ không khóc cho với bớt đi cái buồn hả mẹ? - Tôi ngây thơ hỏi. - Con còn bé lắm, nước mắt mẹ chảy vào trong, con ạ! Lời nói của mẹ chúng tôi nào có hiểu gì, chỉ biết rằng mẹ tôi đã gầy và già đi nhiều lắm. Thời gian cứ thế trôi qua, đứa em trai út của tôi ra đời, mẹ tôi ngã bệnh. Chị cả và chúng tôi thay nhau chăm sóc và giúp mẹ buôn bán kiếm sống. Dì tôi thỉnh thoảng về quê thăm, có điều không bao giờ dì ở quá hai ngày. Muốn bớt đi gánh nặng cho mẹ, cha đưa chúng tôi lên thành phố ở với dì. Mặc dù không thích, chúng tôi vẫn phải đi (chị cả tôi trốn không đi bị cha tôi bắt về đánh đòn). Chỉ có bé Tần bị bệnh tim bẩm sinh và hai đứa em trai là được ở lại với mẹ. Nhưng mẹ tôi cũng chỉ sống được có thêm ba năm nữa... Mẹ nằm liệt giường vào những ngày cuối hè. Biết bà không thể sống lâu, cha đón chúng tôi về ở cạnh để gần gũi chăm sóc mẹ. Rồi cái ngày đau buồn cũng đến. Buổi sáng, mẹ tôi trở dậy thấy người khó thở. Bà nhờ cha đỡ dậy, gọi đám con lại, bà vẫy hai đứa em trai tôi ra ngồi cạnh rồi xoa đầu chúng, nước mắt chảy thành dòng tưởng chừng không bao giờ dứt được. Cha tôi nhờ người gọi dì về. Dì đến cạnh mẹ hỏi : - Chị có giận em không? Mẹ tôi nói - tiếng nói như gió thoảng : - Không! - Chị có nhắn lại gì không? - Dì hỏi tiếp. Lần này mẹ không trả lời được nữa mà chỉ khẽ lắc đầu, tay mẹ xoa đầu hai đứa con giờ cũng không cử động. Cha tôi đến bế em tôi ra khỏi giường và đỡ mẹ nằm. Mẹ đưa mắt nhìn đàn con rồi vĩnh viến ra đi. Phút cuối của cuộc đời, nước mắt mẹ chảy xuống... Lần đầu tiên... Đã hơn 30 năm trôi qua, tôi vẫn không thể nào quên được đôi dòng nước mắt ấy của mẹ, người mà tôi kính, tôi thương. Có lẽ những dòng nước mắt ấy đã giúp cho chị em tôi đủ nghị lực vượt qua những đau thương, khó khăn trong cuộc sống, đùm bọc nhau khôn lớn thành người. Khi khôn lớn trưởng thành, tôi mới hiểu và thông cảm hơn câu chuyện của đời mẹ: nước mắt chảy ra đã đắng, nước mắt chảy vào trong còn đắng hơn bội phần.

Kính Tâm

Quỷ sống Hai mẹ con sống trong căn họ nhỏ xíu lọt thỏm trong chung cư sát bên nhà tôi. Tôi không hề có cảm tình với mẹ con nhà ấy. Chẳng phải vì họ gây phiền phức gì cho tôi, cũng chẳng có thù oán gì với nhau. Chỉ đơn giản tôi cảm thấy ghê sợ cách sống lạ lùng của hai mẹ con: Họ sống bằng nghề kỳ quặc - Khóc mướn! Ai đời lại kiếm sống trên sự chết chóc, đau khổ của người khác. Tự dưng không quen biết chi lại vật vã than khóc mù trời mù đất, rồi lại rỏ nước mắt một cách vô tội vạ. Kịch đến thế là cùng! Có lẽ bị ảnh hưởng nghề nghiệp hay sao ấy mà tôi chưa bao giờ thấy họ cười. Bà mẹ thì chẳng nói gì, đứa con mới mười bốn mười lăm tuổi cũng chẳng biết cười một cái để... làm duyên. Cứ lầm lầm lì lì, bộ dạng lúc nào cũng chuẩn bị khóc òa đến nơi. Bà mẹ chắc do khóc nhiều nên thân thể teo tóp lại, mắt trũng sâu. Ánh mắt nhờ nhờ như mặt người chết. Da mặt tái mét nhăn nheo như bà cụ tám mươi - dù tuổi cao lắm cũng chỉ ngoài bốn mươi. Đứa con vừa xấu lại vừa ngây ngô. Trong khi bạn cùng lứa đều áo dài trắng dài tha thướt đến trường thì nó lại lững thững đi dạo quanh xóm với bộ đồ xám xịt, dơ bẩn. Chẳng được học hành nên một chữ bẻ đôi cũng không biết. Chỉ biết mỗi một việc: khóc! Trong xóm chẳng ai chơi với nó. Tôi bảo với tụi bạn chung cư "Hê, coi chừng con nhỏ khóc mướn, chơi với nó rủi có gì nó bù lu bù loa chịu sao thấu!?". Tụi nó khoái chí cười ầm lên, đồng loạt tẩy chay con nhỏ mà chẳng một lời giải thích. Y như rằng số phận con nhỏ là vậy, không thắc mắc lôi thôi. Những ngày sau không có đám, con nhỏ lủi thủi trong nhà. Buổi chiều thấy chúng tôi ra khu đất trước chung cư chơi, nó lững thững đi ra nhìn với vẻ thèm thuồng nhưng không thể đến gần. Tôi xuỵt tụi bạn : - Ê, chuẩn bị "tò te tí te". Một... hai... ba... Tôi lĩnh xướng, lập tức cả bọn hè nhau rống lên, nhại kèn đám ma. Có đứa rú lên : - Ê nhỏ, khóc đi, khóc đi!. Nhỏ khóc thiệt, không um sùm, không bò lăn ra đất, cũng không bứt tóc giật tai ra điều đau đớn. Nó quay đi, tôi vừa kịp thấy trong mắt nó hai giọt long lanh. - Ê, nó khóc kìa! - Nước mắt cá sấu, lêu lêu... Tôi thấy hơi tội nghiệp nó, nhưng mình đã lỡ đầu tiên gây ra vụ này, chẳng lẽ lại hối hận trước mặt đám bạn, tụi nó sẽ cười mình chết. Tôi bèn nói cứng : - Đáng đời, ai biểu không biết thân! - Ừ, đồ khóc mướn! - Tụi bạn phụ. - Xuỵt - Tôi ra dấu im lặng - Lại đây tao nói cái này cho nghe. Cả bọn túm lại thành vòng tròn. Dĩ nhiên tôi làm cái tâm. Tôi ra vẻ quan trọng nói từng tiếng một : - Con nhỏ bị ma nhập đó tụi bây! - Xạo! - Tụi bây không tin thì thôi... Vài đứa tò mò : - Tin! Tao tin, đứa nào hổng tin kệ nó, kể tao nghe đi! Tôi hạ giọng : - Tao thấy rõ ràng. Mười hai giờ đêm nhỏ hay đi lang thang ra đường, mặc cái áo vải mùng trắng... - Đồ tang phải hôn? - Ừ... - Tôi xác nhận - Tao nghi nó đi đám ma nhiều nên bị ma bắt... - Mười hai giờ đêm thì ra nghĩa địa chớ còn đi đâu nữa! - Chắc không ai chơi với nó nên nó phải chơi với ma đó tụi bây! - Chỉ có quỷ mới chơi với ma thôi! - Ừ, quỷ sống! Thằng Thành bĩu môi ra vẻ không tin : - Nhảm nhí, nó xạo tụi bây đó! Tụi bạn nghe nó nói đâm nghi ngờ, quay qua hỏi tôi : - Mày thấy thiệt hôn? Tôi nóng mũi : - Không tin tối nay tụi bây rình thử coi!

Chiều hôm sau, bọn bạn lại tụ tập dưới sân chung cư. Thằng Dũng đen vẻ mặt nghiêm trọng, thì thào : - Tối qua tao thấy bóng trắng đi ra đường! Vài đứa nhao nhao : - Tao cũng thấy nữa! - Nó đội miếng vải trắng như vậy nè... - Tao thấy nó đi hổng chân cách mặt đất cả... tất lận! - Xạo, nhà mày tuốt tầng năm làm gì thấy nó đi hổng chân ra làm sao mà bày đặt nói. - Ơ... nhưng mà tao thấy có bóng trắng thiệt, nói dóc "hộc máu"! Tôi đắc chí bảo : - Tụi bây thấy chưa? Tao nói đâu có sai! - Ê, ma kià...! - Quỷ sống! Con nhỏ lững thững đi ra. Cả bọn ù té chạy. Con nhỏ ngỡ ngàng đứng lại, chẳng hiểu sao bọn trẻ lại sợ nó như vậy, nó đưa mắt ngơ ngác ngó quanh.

- Ê, con nhỏ khóc mướn chết rồi. - Thiệt hả? Sao chết? - Bị té xuống giếng. Người ta nói nó tự tử... - Không phải - Nhỏ Hoa tỏ vẻ biết chuyện - Má nó kể vậy nè, trước hôm nó chết nó nói nó quen một đứa bạn. Má nó hỏi ở đâu, nó nói ở ngoài giếng nước. Mấy ngày liền nó ra giếng nước trò chuyện với bạn. Nó nói bạn nó thương nó lắm, không sợ nó như người ta, lại mặt đồ giống y chang nó nữa. - Chắc nó bị ma xúi giục nhảy xuống giếng đó! - Ê, đi coi đám ma hôn? - Đi... Cả bọn kéo nhau đi "đưa đám". Đám ma con nhỏ buồn hơn đám ma thường. Không kèn trống, không còn tiếng tụng kinh. Và không có cả tiếng khóc... Mẹ nó khóc cho người đời quá nhiều, chẳng còn nước mắt mà khóc cho con nữa. Bà nất lên, khuôn mặt nhăn nheo càng choắt lại, già nua hơn, đôi mắt trắng dã vô hồn càng đờ đẫn, dài dại như người điên. Buổi tối tôi nghe tiếng rống nhỏ, như tiếng chó tru, kéo dài rờn rợn. Tôi dựng tóc gáy, kéo chân trùm kín đầu. Sợ con nhỏ về báo oán mình. Tôi lầm bầm khấn, rằng tôi chỉ giỡn chơi không ác ý. Tôi giả làm bóng người đi trong đêm chỉ vì bất đắc dĩ, do lỡ "nổ" với bụi bạn.

Sáng hôm sau, người ta thấy bà mẹ gục bên quan tài, mái tóc thưa rối bời. Người ta lật bà lên, thấy bà đã chết, hai khóe miệng trề ra như cười - lần đầu tiên người ta thấy bà cười. Chắc bà tin rằng sẽ tìm gặp được con bà ở thế giới bên kia!? Tôi không dám nhìn bà. Tôi hốt hoảng vụt chạy ra đường và thấy đám bạn đang tụm lại hào hứng bàn tán tiếp về cái chết của bà khóc mướn.

Phan Đức Thuận

Siêu thoát Gã là kẻ hãnh tiến, mà nhiều người còn cho là kiêu ngạo. Kiêu cũng đúng thôi vì tuổi trẻ của gã đầy thành công. Từ bé đã thông minh, là thần đồng của cả họ; cấp ba liên tục xếp nhất lớp chuyên ngữ; tốt nghiệp đại học được nhận ngay vào công ty nước ngoài. Mọi sự cứ như vậy cho đến khi công ty chọn gã là người duy nhất sang Anh hai năm tu nghiệp. - Em phải lấy chồng. Bố mẹ đã quyết định vậy. Gia đình anh Huy đã sang đặt lễ. - Một đêm tháng ba, Hà - người yêu từ thời đại học gọi điện sang thông báo. Gã choáng váng, lạc lõng. Thằng Huy? Chỉ hết lớp mười. Sang Đức bán thuốc lậu. Có ít tiền chạy được quả Pass 51. Về Việt Nam tiêu tiền như nước. Thế là đủ để làm hài lòng hai ông bà kỹ sư và một cô kỹ sư trẻ vừa ra trường sao. Còn gã? Tốt nghiệp hạng ưu. Tu nghiệp nước ngoài. Sắp có bằng master về văn hóa Anh. Chả sơ múi gì sất. Chán nản. Gã tung hê tất cả, trở về Việt Nam trước hạn bảo vệ. Nhưng không còn thay đổi được gì nữa. Một tháng lương chuyên viên của gã dù thuộc loại cao ở nhà cũng chỉ vỏn vẹn có hai trăm đô. Chưa bằng một ngày chạy hàng của thằng Huy theo như lời nó kể.

Ngày cưới của Hà cũng là hôm gã gom hết tiền dành dụm được sau chuyến đi Anh, tiền lương tháng, cùng tiền bán chiếc Dream để nộp cho hội dịch vụ, làm giấy tờ sang Nga. Lần quay lại châu Âu này của gã không còn sự háo hức tìm hiểu mà chỉ tuyền một lòng hăm hở kiếm tiền. Thực tế không bao giờ giống lời kể hay lời đồn đại. Cái lạnh hanh hanh của hòn đảo Anh không thể nào so được với cái rét khủng khiếp tháng Giêng của Nga. Những chiếc vỏ hộp các-tông trải ngổn ngang dưới đất và đắp kín trên người không thể nào che hết được cơn lạnh quái ác hàng đêm tự do hoành hành dọc hành lang ốp. Gã hầu như không biết đến khí trời vì suốt ngày đêm chui rúc trong cái tòa nhà ẩm ướt chật chội này. Không dám bước ra khỏi cửa quá mười bước vì là sẽ gặp ngay chiếc xe thùng cảnh sát đậu sẵn, chờ hốt đi. Vốn dân trí thức, gã rất ham đọc, ham học hỏi. Từ khi chui vào cái ổ chuột này gã chỉ còn biết tìm hiểu và tưởng tượng ra cái thế giới ngoài kia qua những mẩu tin ngắn trên tờ Vạn Sự mà thỉnh thoảng các chủ phòng lại vất cho. Với cái tính mặc cảm và ngăn cách, gã không biết chuyện trò cùng ai. Gã không hề giống những người chung quanh. Khuôn mặt hiền lành của gã làm cho nhiều chủ phòng tin cậy, nhưng cũng chỉ được đến thế. Lối nói chuyện thẳng thắng mà nhiều người cho là khoe khoang của gã chỉ tổ tìm thêm thù chứ không kết được bạn. Ở bên này người ta chỉ lo kiếm tiền và so tiền với nhau, không có thời gian để đo trí não, nói gì đến thương hại kẻ sĩ. Sống hết mùa đông, gã đã thuộc hết những chỗ thủng trên trần nhà và từng vết bẩn trên tường hành lang. Nghe lời rủ của đám bạn quen mà hàng đêm vẫn ngủ cạnh, gã đem hết số tiền kiếm được góp vào để cả bọn đi tiếp sang Ba Lan. Nghe bảo là dễ kiếm sống hơn. Suốt mùa hè năm ấy, hàng hóa trên sân bỗng chạy ầm ầm. Mỗi ngày gã kéo được cả chục xe đầy ắp nào giầy, nào áo phông và đủ các chủng loại hàng có trên sân. Có được ít tiền, gã mua ngay một bộ máy tính để nối vào Internet. Thật là một sự lạ lùng ở những kẻ chuyên nghề cửu vạn như gã. - Mày mua máy về để làm gì? Tiền ấy không để mà đi chơi phò có phải sướng hơn không? - Lũ bạn ở chung nói trên mâm rượu. - Vô học như chúng mày thì biết gì? Tao đếch thèm bàn với bọn như chúng mày. - Gã độp thẳng vào mặt bọn bạn. Hôm ấy suýt nữa thì đánh nhau to. Sau đấy thì chả thằng cửu vạn nào muốn kéo xe cùng với gã nữa. Gã lủi thủi ngồi ở một góc sân, thỉnh thoảng lại đọc ngấu nghiến những tờ báo mà người ta vứt đi. Không chỉ đám cửu vạn xa lánh gã, mà các chủ quầy cũng thôi dần trò chuyện. Trong câu chuyện lúc nào gã cũng phải chứng tỏ là gã hơn, gã giỏi, điều mà dễ làm cho người Việt ở đây khó chịu nhất. Kể cũng tội. Đấy không phải là lỗi của gã. Chỉ vì gã học quá giỏi tiếng Anh và quá nhiễm lối cư xử của nền văn hóa Anh Mỹ. Hàng ngày, với chiếc máy tính nối vào mạng Internet, gã đọc cả chục trang những thứ tư tưởng mới lạ. Điều ấy mà đem ra bàn chuyện với cái cộng đồng người Việt khép kín ở đây thì quả là không hợp. - Thằng hâm ấy mà, thời gian đâu mà nghe nó nói. - một anh phó tiến sĩ bán hàng trên sân nhận xét. - Lão ấy thuộc loại có học, chỉ mỗi tội hơi điên và khinh người. - Chị X, trước là giáo viên, nói nhẹ nhàng hơn. - Nó là cái đinh gì mà dám khinh tớ. Cứ cậy biết tiếng Anh và đọc nhiều trên Internet là đủ sao? Như tớ đây chưa cần tốt nghiệp đại học vẫn có xe đi và nhà riêng để ở, trị giá hàng nghìn tờ, thêm cả một con vợ sinh viên ngoan ngoãn vừa cẩu ở Việt Nam sang nữa. - Cậu sinh viên sang đây từ mười năm trước tức giận. - Thằng ấy phản động. - Một chú tự giới thiệu là có chân trong sứ quán phán chắc như đinh đóng cột. Mùa đông sắp đến, nghe ngóng xung quanh, gã xin vào làm việc cho một quán cộng tại Vác. Với số tiền lương ổn định và giấy tờ bảo đảm, gã không ngần ngại thuê ngay một căn hộ để ở riêng, bất chấp những lời dèm pha, dè bỉu của thiên hạ. Thế giới của gã nằm ở một nơi nào ấy mà cái thực tại chỉ là một kiếp tạm bợ để thử thách sự chịu đựng của con người. Và gã lại yêu. Thật kỳ lạ là gã lại yêu trong lúc này, không hề dự tính trước như mối tình đầu. Gã yêu một em sinh viên mà tối nào cũng vào IRC để chát. Hôm nào đi làm về gã cũng bật ngay máy lên ngồi đợi. Cứ đến nửa đêm mà cô bé vẫn chưa vào mạng là gã nôn nóng, bồn chồn. Và không phải đêm nào Thủy - tên cô sinh viên - cũng vào được. Vì phải bận học hoặc hệ thống mạng không cho phép nối thêm máy khi đã đủ số giới hạn. Những đêm ấy gã chỉ còn biết buồn bực uống cạn chai bia vốn đủ để làm cho một kẻ không biết uống như gã say choáng váng. Chỉ vậy thôi, nhưng không hiểu sao bố mẹ cô bé lại nổi giận tam bành khi biết chuyện. Họ cũng chính là chủ của cái quán mà gã làm thuê. Bà mẹ không chỉ mắng nhiếc con mình mà còn xỉa xói chửi rủa gã ngay giữa quán. Nào là dụ dỗ trẻ con. Xong lại đến thứ cứt trâu mà dám đòi với hoa nhài. Cái tính sĩ diện của thằng trí thức trong gã không cho phép chịu đựng nhiều hơn. Gã tự xin nghỉ việc. Trời đông lạnh giá, biết đi đâu tìm việc làm. Gã lang thang các quán xin việc nhưng đến nơi nào cũng gặp những người đã không thích gã từ trước. Cũng chỉ tại cái thói tự kiêu và khinh người mà mọi người vẫn nhận xét về gã. Tiền để dành vốn không có bao nhiêu càng cạn dần vì bao thứ chi, nhất là tiền nhà và Internet. Hôm đến dự lễ đón năm mới ở sứ quán gã lại được tận mắt chứng kiến em Thủy đang nép sát trong vòng tay của một thằng đàn ông khác. Đêm ấy gã say không còn biết trời đất gì nữa, nôn mửa đầy ở chỗ vui chơi, kéo đổ bàn, làm những chiếc vỏ bia chẩy lênh láng. Khi gã hơi tỉnh và tự đứng dậy thất thểu lê về nhà thì cũng chẳng có ai thèm chú ý đến, kể cả cô bé nọ. Với họ gã chỉ là một con số không mà thôi, một lão cửu vạn hết tiền. Kéo sụp mũ len trùm đầu, rụt cổ và vai vào sâu trong chiếc áo khoác, gã lủi thủi cuốc bộ trên đường. Trời lạnh như cắt. Tuyết rơi hạt nhỏ li ti trải mỏng trên nền đất. Vết chân của gã mau chóng bị xóa mất trong cơn mưa. Tuyết, mưa, gió, sương trộn lẫn với nhau chui vào cổ áo, lạnh lùng xâm chiếm thằng đàn ông khốn khổ. Gã đi lâu lắm, có lẽ là lần lâu nhất trong cuộc đời. Gã đi từ lúc tuyết rơi cho đến khi trời sáng tỏ, ánh nắng yếu ớt biến tuyết và cát phủ thành những đống bùn lầy lội trồi sụt trên đường. Những chỗ không trải cát tạo nên các rãnh băng trơn trượt, chỉ chờ quật ngã người qua đường. Đầu nóng sốt, gã đi bừa sang ngã tư, không thèm chú ý đến những chiếc xe vì gã mà phải phanh gấp và trôi tuột sang vệ đường, va vào dẫy cột chống trong tiếng chửi rủa của người lái xe. Người nóng rực, đầu quay cuồng, tay chân rã rời, gã lảo đảo vào phòng, với tay theo thói quen bật máy tính, rồi ngã vật xuống giường với nguyên giầy mũ áo khoác. Nước, cùng cát bẩn trên quần áo và giầy chẩy ướt sũng chăn đệm tận xuống đất. Cơn say bia, trận mưa tuyết, cái lạnh suốt buổi đêm không ngủ, cùng nỗi đau thất tình, sự tuyệt vọng trước cái bạc bẽo của cuộc sống không lối thoát và cái mệt nhọc của nhiều đêm mất ngủ đã cùng nhau ập đến hạ gục gã. Chiếc máy tính được khởi động từ nãy đã tự động nối vào Internet, nhấp nháy màn hình, liên lạc với hàng trăm chiếc máy khác trong hệ thống IRC. Những lời chào hỏi, các câu truyện trò lần lượt chạy dọc trên ô cửa sổ chương trình. Nhìn thấy Nick của gã, những người quen trên nét đều chào nhưng gã không hề đáp lại vì đã nằm lịm suốt ba ngày liền. Trong cơn mơ có lúc gã thấy mình thoát ra khỏi thân xác, bay lượn quanh phòng, nhìn xuống cái hình hài khốn khổ đang lùng nhùng trong một đống vải ướt sũng. Có đôi lúc gã tỉnh táo, cảm thấy đói bụng nhưng không còn đủ sức để nâng người dậy vào bếp tìm thức ăn. Mà cũng chả còn gì trong ấy để ăn, ngoài vài thìa dầu cuối cùng còn sót lại trên cái chảo bẩn đặt trên bếp là thứ dụng cụ nấu nướng duy nhất có trong nhà, cùng một ít nước súp loãng trong cái bát ô tô còn sót lại từ gói mì ăn liền duy nhất gã nấu và không húp hết trước khi đến chỗ vui chơi mừng năm mới. Đến hôm thứ năm thì gã đã quá yếu. Miệng rát bỏng vì thiếu nước. Bụng khô khốc. Gã bỗng muốn sống vô cùng nhưng không còn đủ sức đứng dậy được nữa. Thỉnh thoảng trong cơn mơ gã đến ngồi bên bàn máy tính. Có vài lần gã thấy Thủy vào đấy. - Anh đấy hả? Em đây... - Anh có khỏe không? Sao không trả lời em?... - Sao anh ở trong này mãi thế? Sao không nói gì cả?... Gã rất muốn trả lời nhưng không thể được. Thân xác vẫn nằm bất động trên giường. Hai tuần sau hàng xóm bắt đầu nhận thấy mùi khó ngửi trong hành lang. Phát hiện được nơi bốc mùi, họ gọi ban quản trị nhà đến phá cửa và phát hiện được một xác chết da vàng nằm trên giường. Người đầu tiên vào phòng vẫn còn thấy những dòng chữ bằng một thứ tiếng nước ngoài chạy dọc màn hình. Ngay sau đấy bỗng một bóng trắng từ trần nhà chui tuột vào trong chiếc bóng đèn hình, và màn hình thu nhỏ lại dần cho đến khi chỉ còn một điểm sáng ở giữa, rồi tắt ngấm. Trong lá thư mà gã viết tháng trước, và vẫn chưa gửi về nhà có một đoạn, không hiểu là thơ hay văn : Mùa đông Ba Lan tuyết rơi đầy bùn lầy quanh góc phố Em đi em đi Từng cơn gió rét buốt xua em về Một mình lang thang, vết chân buồn nằm vùi trong mưa tuyết Tự biết ngày sau cuộc đời này rồi sẽ về đâu Em ơi Ba lan lúc tuyết tan là mùa xuân đến Em ơi Ba lan mùa tuyết tan nắng trên đồi thông Em ơi Ba lan tuyết mưa gió sương che mất đường về Em ơi Ba lan còn nhớ còn quên một chút mùa đông.

Lê Thanh Hải

Siêu thoát Gã là kẻ hãnh tiến, mà nhiều người còn cho là kiêu ngạo. Kiêu cũng đúng thôi vì tuổi trẻ của gã đầy thành công. Từ bé đã thông minh, là thần đồng của cả họ; cấp ba liên tục xếp nhất lớp chuyên ngữ; tốt nghiệp đại học được nhận ngay vào công ty nước ngoài. Mọi sự cứ như vậy cho đến khi công ty chọn gã là người duy nhất sang Anh hai năm tu nghiệp. - Em phải lấy chồng. Bố mẹ đã quyết định vậy. Gia đình anh Huy đã sang đặt lễ. - Một đêm tháng ba, Hà - người yêu từ thời đại học gọi điện sang thông báo. Gã choáng váng, lạc lõng. Thằng Huy? Chỉ hết lớp mười. Sang Đức bán thuốc lậu. Có ít tiền chạy được quả Pass 51. Về Việt Nam tiêu tiền như nước. Thế là đủ để làm hài lòng hai ông bà kỹ sư và một cô kỹ sư trẻ vừa ra trường sao. Còn gã? Tốt nghiệp hạng ưu. Tu nghiệp nước ngoài. Sắp có bằng master về văn hóa Anh. Chả sơ múi gì sất. Chán nản. Gã tung hê tất cả, trở về Việt Nam trước hạn bảo vệ. Nhưng không còn thay đổi được gì nữa. Một tháng lương chuyên viên của gã dù thuộc loại cao ở nhà cũng chỉ vỏn vẹn có hai trăm đô. Chưa bằng một ngày chạy hàng của thằng Huy theo như lời nó kể.

Ngày cưới của Hà cũng là hôm gã gom hết tiền dành dụm được sau chuyến đi Anh, tiền lương tháng, cùng tiền bán chiếc Dream để nộp cho hội dịch vụ, làm giấy tờ sang Nga. Lần quay lại châu Âu này của gã không còn sự háo hức tìm hiểu mà chỉ tuyền một lòng hăm hở kiếm tiền. Thực tế không bao giờ giống lời kể hay lời đồn đại. Cái lạnh hanh hanh của hòn đảo Anh không thể nào so được với cái rét khủng khiếp tháng Giêng của Nga. Những chiếc vỏ hộp các-tông trải ngổn ngang dưới đất và đắp kín trên người không thể nào che hết được cơn lạnh quái ác hàng đêm tự do hoành hành dọc hành lang ốp. Gã hầu như không biết đến khí trời vì suốt ngày đêm chui rúc trong cái tòa nhà ẩm ướt chật chội này. Không dám bước ra khỏi cửa quá mười bước vì là sẽ gặp ngay chiếc xe thùng cảnh sát đậu sẵn, chờ hốt đi. Vốn dân trí thức, gã rất ham đọc, ham học hỏi. Từ khi chui vào cái ổ chuột này gã chỉ còn biết tìm hiểu và tưởng tượng ra cái thế giới ngoài kia qua những mẩu tin ngắn trên tờ Vạn Sự mà thỉnh thoảng các chủ phòng lại vất cho. Với cái tính mặc cảm và ngăn cách, gã không biết chuyện trò cùng ai. Gã không hề giống những người chung quanh. Khuôn mặt hiền lành của gã làm cho nhiều chủ phòng tin cậy, nhưng cũng chỉ được đến thế. Lối nói chuyện thẳng thắng mà nhiều người cho là khoe khoang của gã chỉ tổ tìm thêm thù chứ không kết được bạn. Ở bên này người ta chỉ lo kiếm tiền và so tiền với nhau, không có thời gian để đo trí não, nói gì đến thương hại kẻ sĩ. Sống hết mùa đông, gã đã thuộc hết những chỗ thủng trên trần nhà và từng vết bẩn trên tường hành lang. Nghe lời rủ của đám bạn quen mà hàng đêm vẫn ngủ cạnh, gã đem hết số tiền kiếm được góp vào để cả bọn đi tiếp sang Ba Lan. Nghe bảo là dễ kiếm sống hơn. Suốt mùa hè năm ấy, hàng hóa trên sân bỗng chạy ầm ầm. Mỗi ngày gã kéo được cả chục xe đầy ắp nào giầy, nào áo phông và đủ các chủng loại hàng có trên sân. Có được ít tiền, gã mua ngay một bộ máy tính để nối vào Internet. Thật là một sự lạ lùng ở những kẻ chuyên nghề cửu vạn như gã. - Mày mua máy về để làm gì? Tiền ấy không để mà đi chơi phò có phải sướng hơn không? - Lũ bạn ở chung nói trên mâm rượu. - Vô học như chúng mày thì biết gì? Tao đếch thèm bàn với bọn như chúng mày. - Gã độp thẳng vào mặt bọn bạn. Hôm ấy suýt nữa thì đánh nhau to. Sau đấy thì chả thằng cửu vạn nào muốn kéo xe cùng với gã nữa. Gã lủi thủi ngồi ở một góc sân, thỉnh thoảng lại đọc ngấu nghiến những tờ báo mà người ta vứt đi. Không chỉ đám cửu vạn xa lánh gã, mà các chủ quầy cũng thôi dần trò chuyện. Trong câu chuyện lúc nào gã cũng phải chứng tỏ là gã hơn, gã giỏi, điều mà dễ làm cho người Việt ở đây khó chịu nhất. Kể cũng tội. Đấy không phải là lỗi của gã. Chỉ vì gã học quá giỏi tiếng Anh và quá nhiễm lối cư xử của nền văn hóa Anh Mỹ. Hàng ngày, với chiếc máy tính nối vào mạng Internet, gã đọc cả chục trang những thứ tư tưởng mới lạ. Điều ấy mà đem ra bàn chuyện với cái cộng đồng người Việt khép kín ở đây thì quả là không hợp. - Thằng hâm ấy mà, thời gian đâu mà nghe nó nói. - một anh phó tiến sĩ bán hàng trên sân nhận xét. - Lão ấy thuộc loại có học, chỉ mỗi tội hơi điên và khinh người. - Chị X, trước là giáo viên, nói nhẹ nhàng hơn. - Nó là cái đinh gì mà dám khinh tớ. Cứ cậy biết tiếng Anh và đọc nhiều trên Internet là đủ sao? Như tớ đây chưa cần tốt nghiệp đại học vẫn có xe đi và nhà riêng để ở, trị giá hàng nghìn tờ, thêm cả một con vợ sinh viên ngoan ngoãn vừa cẩu ở Việt Nam sang nữa. - Cậu sinh viên sang đây từ mười năm trước tức giận. - Thằng ấy phản động. - Một chú tự giới thiệu là có chân trong sứ quán phán chắc như đinh đóng cột. Mùa đông sắp đến, nghe ngóng xung quanh, gã xin vào làm việc cho một quán cộng tại Vác. Với số tiền lương ổn định và giấy tờ bảo đảm, gã không ngần ngại thuê ngay một căn hộ để ở riêng, bất chấp những lời dèm pha, dè bỉu của thiên hạ. Thế giới của gã nằm ở một nơi nào ấy mà cái thực tại chỉ là một kiếp tạm bợ để thử thách sự chịu đựng của con người. Và gã lại yêu. Thật kỳ lạ là gã lại yêu trong lúc này, không hề dự tính trước như mối tình đầu. Gã yêu một em sinh viên mà tối nào cũng vào IRC để chát. Hôm nào đi làm về gã cũng bật ngay máy lên ngồi đợi. Cứ đến nửa đêm mà cô bé vẫn chưa vào mạng là gã nôn nóng, bồn chồn. Và không phải đêm nào Thủy - tên cô sinh viên - cũng vào được. Vì phải bận học hoặc hệ thống mạng không cho phép nối thêm máy khi đã đủ số giới hạn. Những đêm ấy gã chỉ còn biết buồn bực uống cạn chai bia vốn đủ để làm cho một kẻ không biết uống như gã say choáng váng. Chỉ vậy thôi, nhưng không hiểu sao bố mẹ cô bé lại nổi giận tam bành khi biết chuyện. Họ cũng chính là chủ của cái quán mà gã làm thuê. Bà mẹ không chỉ mắng nhiếc con mình mà còn xỉa xói chửi rủa gã ngay giữa quán. Nào là dụ dỗ trẻ con. Xong lại đến thứ cứt trâu mà dám đòi với hoa nhài. Cái tính sĩ diện của thằng trí thức trong gã không cho phép chịu đựng nhiều hơn. Gã tự xin nghỉ việc. Trời đông lạnh giá, biết đi đâu tìm việc làm. Gã lang thang các quán xin việc nhưng đến nơi nào cũng gặp những người đã không thích gã từ trước. Cũng chỉ tại cái thói tự kiêu và khinh người mà mọi người vẫn nhận xét về gã. Tiền để dành vốn không có bao nhiêu càng cạn dần vì bao thứ chi, nhất là tiền nhà và Internet. Hôm đến dự lễ đón năm mới ở sứ quán gã lại được tận mắt chứng kiến em Thủy đang nép sát trong vòng tay của một thằng đàn ông khác. Đêm ấy gã say không còn biết trời đất gì nữa, nôn mửa đầy ở chỗ vui chơi, kéo đổ bàn, làm những chiếc vỏ bia chẩy lênh láng. Khi gã hơi tỉnh và tự đứng dậy thất thểu lê về nhà thì cũng chẳng có ai thèm chú ý đến, kể cả cô bé nọ. Với họ gã chỉ là một con số không mà thôi, một lão cửu vạn hết tiền. Kéo sụp mũ len trùm đầu, rụt cổ và vai vào sâu trong chiếc áo khoác, gã lủi thủi cuốc bộ trên đường. Trời lạnh như cắt. Tuyết rơi hạt nhỏ li ti trải mỏng trên nền đất. Vết chân của gã mau chóng bị xóa mất trong cơn mưa. Tuyết, mưa, gió, sương trộn lẫn với nhau chui vào cổ áo, lạnh lùng xâm chiếm thằng đàn ông khốn khổ. Gã đi lâu lắm, có lẽ là lần lâu nhất trong cuộc đời. Gã đi từ lúc tuyết rơi cho đến khi trời sáng tỏ, ánh nắng yếu ớt biến tuyết và cát phủ thành những đống bùn lầy lội trồi sụt trên đường. Những chỗ không trải cát tạo nên các rãnh băng trơn trượt, chỉ chờ quật ngã người qua đường. Đầu nóng sốt, gã đi bừa sang ngã tư, không thèm chú ý đến những chiếc xe vì gã mà phải phanh gấp và trôi tuột sang vệ đường, va vào dẫy cột chống trong tiếng chửi rủa của người lái xe. Người nóng rực, đầu quay cuồng, tay chân rã rời, gã lảo đảo vào phòng, với tay theo thói quen bật máy tính, rồi ngã vật xuống giường với nguyên giầy mũ áo khoác. Nước, cùng cát bẩn trên quần áo và giầy chẩy ướt sũng chăn đệm tận xuống đất. Cơn say bia, trận mưa tuyết, cái lạnh suốt buổi đêm không ngủ, cùng nỗi đau thất tình, sự tuyệt vọng trước cái bạc bẽo của cuộc sống không lối thoát và cái mệt nhọc của nhiều đêm mất ngủ đã cùng nhau ập đến hạ gục gã. Chiếc máy tính được khởi động từ nãy đã tự động nối vào Internet, nhấp nháy màn hình, liên lạc với hàng trăm chiếc máy khác trong hệ thống IRC. Những lời chào hỏi, các câu truyện trò lần lượt chạy dọc trên ô cửa sổ chương trình. Nhìn thấy Nick của gã, những người quen trên nét đều chào nhưng gã không hề đáp lại vì đã nằm lịm suốt ba ngày liền. Trong cơn mơ có lúc gã thấy mình thoát ra khỏi thân xác, bay lượn quanh phòng, nhìn xuống cái hình hài khốn khổ đang lùng nhùng trong một đống vải ướt sũng. Có đôi lúc gã tỉnh táo, cảm thấy đói bụng nhưng không còn đủ sức để nâng người dậy vào bếp tìm thức ăn. Mà cũng chả còn gì trong ấy để ăn, ngoài vài thìa dầu cuối cùng còn sót lại trên cái chảo bẩn đặt trên bếp là thứ dụng cụ nấu nướng duy nhất có trong nhà, cùng một ít nước súp loãng trong cái bát ô tô còn sót lại từ gói mì ăn liền duy nhất gã nấu và không húp hết trước khi đến chỗ vui chơi mừng năm mới. Đến hôm thứ năm thì gã đã quá yếu. Miệng rát bỏng vì thiếu nước. Bụng khô khốc. Gã bỗng muốn sống vô cùng nhưng không còn đủ sức đứng dậy được nữa. Thỉnh thoảng trong cơn mơ gã đến ngồi bên bàn máy tính. Có vài lần gã thấy Thủy vào đấy. - Anh đấy hả? Em đây... - Anh có khỏe không? Sao không trả lời em?... - Sao anh ở trong này mãi thế? Sao không nói gì cả?... Gã rất muốn trả lời nhưng không thể được. Thân xác vẫn nằm bất động trên giường. Hai tuần sau hàng xóm bắt đầu nhận thấy mùi khó ngửi trong hành lang. Phát hiện được nơi bốc mùi, họ gọi ban quản trị nhà đến phá cửa và phát hiện được một xác chết da vàng nằm trên giường. Người đầu tiên vào phòng vẫn còn thấy những dòng chữ bằng một thứ tiếng nước ngoài chạy dọc màn hình. Ngay sau đấy bỗng một bóng trắng từ trần nhà chui tuột vào trong chiếc bóng đèn hình, và màn hình thu nhỏ lại dần cho đến khi chỉ còn một điểm sáng ở giữa, rồi tắt ngấm. Trong lá thư mà gã viết tháng trước, và vẫn chưa gửi về nhà có một đoạn, không hiểu là thơ hay văn : Mùa đông Ba Lan tuyết rơi đầy bùn lầy quanh góc phố Em đi em đi Từng cơn gió rét buốt xua em về Một mình lang thang, vết chân buồn nằm vùi trong mưa tuyết Tự biết ngày sau cuộc đời này rồi sẽ về đâu Em ơi Ba lan lúc tuyết tan là mùa xuân đến Em ơi Ba lan mùa tuyết tan nắng trên đồi thông Em ơi Ba lan tuyết mưa gió sương che mất đường về Em ơi Ba lan còn nhớ còn quên một chút mùa đông.

Lê Thanh Hải

Tấm vé cào Mấy hôm nay buổi sáng trời se lạnh, nhưng trưa và chiều lại nắng như đổ lửa. Huy vẫn như thường lệ đến công ty xổ số để nhận vé đi bán từ lúc 5 giờ sáng, khi phố xá mới chỉ loáng thoáng những người đi buôn bán, những chiếc xe ba gác chở hàng xuống chợ. Huy đi bán vé số đã ba năm, kể từ khi mẹ Huy sinh thêm thằng Cu Tí. Nhà có bảy miệng ăn mà chỉ biết nhìn vào đôi bàn tay của bố, bằng nghề khuân vác và làm thợ hồ. Là anh cả Huy phải nghỉ học để bớt phần gánh nặng cho gia đình. Ði bán vé số từ sáng sớm đến tận chiều khắp phố cùng ngõ hẻm, có ngày Huy thu nhập được 10-15 nghìn đồng. Chính vì vậy mà Tết vừa qua các em của Huy đều có quần áo mới, có bánh chưng mà chưa bao nhiêu cái Tết trước nhà Huy không có. Nhưng điều mà Huy không bao giờ tin nổi là gần đây mỗi lần về nhà, Huy thường bị mất cắp hai vé. Chính điều này mẹ Huy cũng không tin. Có bữa bà còn cho rằng Huy nói xạo, lời lỗ thế nào chứ ai thèm lầy hai tấm vé số làm gì! Cơm chiều xong, Huy lại đem xấp vé cào ra đếm rõ ràng vẫn bị mất hai cái Huy càu nhàu : - Có đứa nào lấy vé của tao không? Mấy đứa em lao nhao : - Em không lấy, em không lấy! Em không lấy... Mẹ Huy thở dài : - Chớ con bán sao mà để mất hoài vậy? Chỉ có bố Huy lặng lẽ không nói không rằng vác rựa đi làm. Trưa hôm nay Huy ghé về nhà ăn cơm rồi lại phát thiện vẫn bị mất hai vé. Ðàn em đã đi chơi và đi học hết, chỉ có bố Huy ngồi xoay lưng đang loay hoay trong tay cái gì đó. Huy nhẹ nhàng lại gần, thấy trong tay bố hai chiếc vé. Huy kêu lên : - Bố ơi! Bố đừng cào, để con bán kiếm lời..

Chiếc xe Toyota bóng lộn đỗ phịch trước cửa nhà hàng Bạch Ðằng. Trong xe bước ra một người đàn ông béo tốt và một người đàn bà ăn mặc diêm dúa, với kiểu trang điểm trông thật cầu kỳ. Họ khoác tay nhau bước vào nhà hàng. Vài câu chuyện, rồi tiếng mở nắp bia "Pựt... pựt". Người đàn ông : - Uống đi em! Trúng quả này chúng ta thắng chắc trong tay 150 triệu... Huy nhẹ nhàng tiến gần lại hai người. - Thưa cô, thưa chú, mua dùm vé cho cháu! Người đàn ông đưa bàn tay to rút hai cái và giao lại cho người đàn bà ngồi cạnh. Ngón tay cái móng đỏ chót cào sột soạt lên tấm vé. Bà ta hét toáng lên : - A! Trúng rồi... 50 triệu đồng... Huy bàng hoàng khi nhận ra đúng hai tấm vé vương vết bẩn do bố cầm sáng nay, với bao mong ước "gặp may" một lần cho các con đỡ khổ, được học hành đến nơi đến chốn... Tự nhiên Huy òa khóc.

Thương quá rau răm Ông Tư Mốt chỉ cái dãi xanh mù mù trong mưa, bảo cù lao Mút Cà Tha kìa. Văn ờ, nói thấy xa quá chú ha. Ông cười, gạt ngang, xa gì, đây tới đó mấy hồi. Rồi chiếc xuồng máy nhỏ mong manh rập rờn đi trong giông gió. Người thành phố ngồi ngấm cái "mấy hồi" của ông già, mừng tủi thấy màu xanh cây cỏ cù lao đã thẫm trước mắt (mà sau mới biết mình mừng hụt). Mưa dịu lại, hạt nhỏ rức nhưng gió mạnh lên, thổi xà quần, không biết đâu là chiều hướng. Ông Tư quăng cho Văn cái can nhựa còn ít xăng, bảo, tới khúc "mứt" nghen, coi chừng lật xuồng. Mà, có kịp coi gì, Văn thấy mình ngã ập xuống nước, hành lý trôi mất, lên tới bờ anh chỉ còn trụi trơ bộ đồ đang mặc. Ông Tư kè chiếc xuồng vô sau, dậm chân dậm cẳng bứt đầu gãi tóc như thể mình vừa lỡ tay làm nên cơn giông chiều nay. Bởi ông biết rằng, mưa gió kia, sóng nước mênh mông kia và cả màu chiều đang lịm dần kia sẽ làm cho người bác sỹ trẻ này thất vọng. Bác sĩ thứ sáu về làm việc ở trạm xá cù lao. Năm người trước đã ra đi, đi vì không chịu nổi thiếu thốn. Và buồn. Cù lao Mút Cà Tha nằm gần cuối sông Dài, trên nó một chút có một nhánh sông khác rẽ về phía mặt trời, rộn rịp được đoạn đó rồi thôi. Mút Cà Tha nằm hiu hắt, lâu lâu mới thấy bóng dáng một con tàu lớ ngớ chạy vào rồi lại tẻn tò quay ra vì lầm đường, vì không biết đằng sau cù lao, sông cụt. Ngó sông vắng vẻ quá trời buồn, nhìn cảnh cù lao còn buồn hơn. Buồn từ mùi ổi chín phảng phất trong vườn, từ giọng người ới lên một tiếng rồi bặt, dư âm còn thâm u trên các ngọn cây, tiếng cạo cơm cháy xa vẳng trong nắng chiều... Từ mé rừng mắm chống lở đất phía bên này, đi hết vườn cây này gặp được một căn nhà thì lại tiếp đến vườn cây trái khác. Cuối cùng là bãi bồi, dây khoai lang bò xùm xòa phủ kín đất. Bóng người ẩn hiện dọn cỏ dưới các gốc cây. Bên đường thấp thoáng nhiều nấm đất con con của những đứa trẻ kiệt sức vì bị đẹn mà chỉ được rơ miệng bằng cỏ mực, những đứa trẻ bệnh sốt xuất huyết chỉ chữa bằng cạo gió, uống nước mía lau, rễ tranh, những đứa trẻ mắc thương hàn bị thủng ruột vì tự do chạy ra vườn ăn ổi chua, ổi chát... Những gò đất ấy đã cũ mèm rồi, bây giờ người cù lao hiểu biết nhiều, nhưng vẫn còn chuyện rủi may, còn người bị rắn độc cắn, chết trên đường ra bệnh viện huyện. Hôm ấy, trưởng ấp Tư Mốt tuyệt vọng nắm chặt hơi thở cuối của ông bạn láng giềng trong tay, tuyệt vọng thấy nó tan đi, ông về nhà viết lên tường trạm xá "Cương quyết chỉ chết vì già". Nhân viên y tế nào mới về ngó câu khẩu hiệu ấy cũng cười, cũng thương. Nhưng rồi nửa khuya ngồi ăn mì gói, nghe cú kêu lẫn tiếng radio khọt khẹt (để chút âm thanh đấy cho đỡ quạnh), vạch đi vạch lại tờ báo cũ mèm, họ sực nhớ phải về quê lấy vợ, lấy chồng, sực nhớ vợ mình mới sinh, sực nhớ tội nghiệp ba má đã già... Và họ từ giã cù lao. Ông Tư Mốt ờ ờ ra chiều thông cảm, vẻ mặt cố tỏ ra không buồn nhưng hàm râu xuôi xị. Họ ngoắc đò đi rồi chú còn đứng mãi trên bến, nghĩ giận đám trẻ cù lao đã được học hành nhưng chẳng đứa nào chịu quay về. Nên chú bảo với bốn mươi ba nóc gia sống trên Mút Cà Tha, "Bất cứ người xứ lạ nào đến làm việc ở đất cù lao đều quý, mình phải đối xử cho tử tế, thiệt tử tế". Gặp Văn lần đầu tiên, ông nghĩ ngay, phải giữ thằng nhỏ này ở lại cù lao, thấy cái mặt buồn buồn, ngó bộ đàng hoàng. Ông nghĩ là mình có cách, không có gì sâu nặng bằng tình cảm người với người. Thì ông đã rịt chân mấy thầy cô giáo cho đám trẻ cù lao đấy thôi. Hôm Văn đến, bà con ôm lại cho một đống áo quần, góp gạo đổ vô thùng, câu cá đem rọng. Rồi mấy con cá ốm nhom, trắng dờ con mắt, lội vật vờ tới lui chờ hoá kiếp mà Văn vẫn còn ngợp trong mớ lời mời, hết nhà này đến nhà khác, bữa thì cháo vịt, cháo rắn, bữa khác tôm nướng, lươn um... Mà, trông Văn vẫn buồn, buồn chen giữa hai cái cười, nó tranh thủ cả khi Văn đưa ly rượu lên môi và để ly không xuống (còn lúc uống thì mặt Văn nhăn nhúm lại, vẻ buồn không rõ ràng). Hỏi làm sao buồn thì Văn cười, ủa, cháu có buồn gì đâu. Hỏi nhớ thành phố à, Văn cũng cười, không, thành phố có gì mà nhớ. Hỏi nghĩ sao mà tình nguyện về đất cù lao này, nghe tên Mút Cà Tha bộ không ớn sao, Văn (lại) cười, không, có nghĩ gì đâu, cháu chọn nơi nào hẻo lánh ít người... Nghe cái giọng như đời ta là lục bình, trôi đâu cũng được, càng xa càng tốt. Nhưng trưởng ấp Tư Mốt phải làm cho anh chàng hiểu đời anh có ý nghĩa với đất này như thế nào, thiếu anh người cù lao sống không nổi chớ chơi à. Buổi sáng có người chạy lại than nhức đầu, sổ mũi, buổi chiều thêm chứng chóng mặt, đau mình. Vài ba chị phụ nữ đỏ mặt thập thò ngoài cửa, trong bụng rủa thầm ông già Tư Mốt, đau bụng kinh cũng bắt đi trạm xá, mắc cỡ gần chết. Trưởng ấp tà tà dài theo xóm, thấy ai rảnh rỗi là kêu, đứng đó làm gì, sao hỏng lại trạm xá cho bác sỹ người ta khám. Trời đất, bệnh gì mà khám chú Tư. Ông nói tỉnh bơ, khều khều bộ râu, "Có chứ sao không, hễ mầy nhậu xỉn là ói, để vậy không tốt, lại kiếm thằng Văn đi". Mới đầu thì Văn không biết, nên thấy có bà cụ chống gậy lại bảo bác sỹ coi bệnh dùm, Văn hỏi bà bị gì, bà cười, tui suy nghĩ chưa ra. Thuốc hết, huyện chưa kịp gởi, Văn áy náy, tần ngần đưa mấy thứ B1, B6 cho con bệnh đau bao tử, uống xong, ông này phởn phơ đứng dậy, tươi rói bảo, trời đất ơi, thuốc chú mầy quá chừng hay. Văn đâm ra lạ. Cho tới bữa đám con nít khiêng một thằng bé ở truồng lại, nhao nhác nói chim của thằng Út Chót bị còng kẹp rồi, nó sưng chù vù nè chú bác sỹ ơi. Văn mắc cười quá, hỏi sao tới nông nổi vầy, thằng Út Chót khọm rọm lấy tay bụm chỗ đau, phều phào nói trong nước mắt, "Tại bác Tư biểu ai cũng phải đi khám cho chú bác sỹ vui, chú không bỏ về thành phố. Con đâu có bịnh, tính bắt còng kẹp chơi...". Văn chỉ kêu được hai tiếng trời ơi. Và anh hiểu tại sao ông già ấy lại quan tâm tới mình. Chiều nào ông cũng lại chỗ Văn, rủ rỉ rù rì. Ông biết giờ đó, bà mụ Năm, nhân viên thứ hai của trạm xá đã về nhà, có thể Văn thấy cô đơn. Ông kêu đám thanh niên lại chỗ Văn đàn hát tẳng tằng tăng, dẫn Văn đi câu cá hay soi ếch trong "mà". Văn tham gia nhiệt tình nhưng không tha thiết như người đi đường thấy vật lạ thì cầm lên, rồi lại bỏ xuống, đi tiếp. Có lần ông Tư hỏi nhà Văn ở khúc nào, Văn bảo ở chỗ ấy chổ ấy mà trong bụng buồn cười, nghĩ nói cho có chứ chắc gì ông biết, nghe cái giọng như thể thành phố nhỏ bằng cù lao. Không ngờ ông biết thật, nói hồi giải phóng, trung đội ông đánh vô đường đó. Ban quân quản còn cấp cho ông căn nhà đằng trước có khoảng sân ngập tràn bông giấy rụng. Văn hỏi, rồi sao bác lại ra sống ở đây. Ông cười, vì cái đất này cần mình. Nói xong câu này, ông lén dò xét coi thằng nhỏ có bắt được cái ý nghĩa ngầm mà ông gởi gắm không, chỉ thấy Văn ngó lên trời, ngó xa xôi, hỏi nhìn gì, Văn ù ờ, bảo nhìn chim bay, không biết tụi nó bay tới đâu, về tận đâu. Trưởng ấp Tư Mốt thấy bất an, về nhà biểu con gái sớt nửa nồi bí hầm dừa bưng qua trạm xá. Con Nga dạ rồi tong tả đi. Nó thường được ông Tư sai bưng thức ăn đến trạm xá cho Văn. Nhiều nhất, thường nhất là món khoai luộc nóng hổi, thơm bừng. Bưng rổ khoai từ nhà đến chỗ Văn, khói mềm cả ống tay áo Nga. Trời trở chướng, gió ráo hanh nhưng nước lên, sân trước trạm xá ngập lênh láng, con Nga xoắn quần quá gối lội qua, thấy Văn, nó thưa thẻ thọt "Ba em gởi anh ít khoai" rồi về. Lần sau, nó xoắn quần thấp một chút, bảo ăn khoai đi anh. Sau nữa nó cứ để ống quần bết nước, lọng cọng đứng ngoài cửa, hai gò má rựng lên, gọi "Ăn khoai nè". Lúc đấy thì nói ít, thẹn thò nhưng ở lại lâu, dọn dẹp lăng xăng, quét trên quét dưới, bắc nồi cơm lên bếp, làm cá nấu canh chua trái giác, sung sướng thấy mình bận rộn giống hệt mấy nhỏ bạn mới lấy chồng (tụi con gái thường hay điên vậy, tới khi xà quần chồng con thật, lại than số mình cực như trâu). Rồi sực nhớ bếp ở nhà lạnh tanh, nó chạy về. Ông Tư ngồi trước cửa, giấu sự thắc thỏm (Và một chút lưỡng lự, mình tạo điều kiện cho hai đứa gần gủi vầy có sao không ta). Cố tươi tỉnh, ông hỏi ngay, "Con Nga lo cho anh bây xong chưa? Mắc gì mà mầy cười suốt từ ngoài đường vào đây?". Dạ, con Nga chối bay, con đâu có cười, tại ba má sanh cái miệng con vậy mà. Nói rồi nó chạy vô bếp, bâng khuâng cười thêm một hồi nữa... Chủ nhật, Văn mượn xe đạp chở con Nga đi chơi lòng vòng cù lao. Nga ngồi đằng sau, khép nép, sượng trân, sợ ai đó thấy hai đứa vầy, một hồi lại sợ không ai thấy, nó tiếc nuối chép miệng : - Bữa nay người ta đi đâu hết trơn rồi cà, vắng dễ sợ. Quẹo qua quẹo lại, nói đất nói trời (chỉ thiếu nói lời thương yêu), cuối cùng hai đứa ra bãi đào khoai. Văn hỏi má Nga đâu, nó cười, chết rồi, chết hồi sanh em, chết trên xuồng. Văn về ngó cái khẩu hiệu ông Tư vẻ trên tường. Thấy nó đỏ như một lời thề. Bữa nọ Nga đem mấy cần xé ổi ra chợ huyện cân cho vựa thì gặp đám bạn Văn xốc xếch đứng trên bến. Nga cho quá giang về Mút Cà Tha (mà không hiểu sao trong bụng muốn nhận chìm xuồng cho tụi này bỏ ý định ra cù lao cho rồi). Ngồi dưới xuồng, ba thằng trai cứ khen Nga đẹp, nhìn là muốn ở lại đất cù lao này hoài, hai đứa gái bĩu môi, tủm tỉm cười, nói bữa nay dê thả tùm lum ngoài đường. Nga không để ý, những lời nói ngọt ngào càng không để ý. Xuồng cập bến, Nga xăm xăm đi trước dẫn đường, tong tả xộc vào phòng sau của trạm xá, cằn nhằn cử nhử, sao anh Văn bày tùm lum như vầy (cho tụi kia biết, ta đây đã thân thuộc với anh ấy đến mức nào). Văn từ nhà tắm vào, nước trên tóc còn rỏ tong tong. Năm người họ sà vô ôm, nhảy tưng tưng, nói tui nhớ ông em nhớ anh quá chừng. Văn ngợp thở vì cái mùi thành thị quen thuộc của nước hoa, của son, của phấn, của khói thuốc lá, của những hơi thở gấp, của sự chen chúc, xô đẩy nhau... Và những kỷ niệm ùa về, nhớ quán cà phê chỗ mình ngồi không, bây giờ đổi tên khác rồi. Văn sôi nổi hỏi, vậy con nhỏ phục vụ bốc lửa còn không. Còn, mà chi, tụi con gái ở Phố Xưa còn dữ dội hơn, nhớ bar đó không? Nhớ không, nhớ không... Đã vầy đã khác. Mà Hương của mầy có con rồi, mầy đã quên chưa. Không khí chùng xuống. Một đứa bạn cười, kín đáo liếc ra đằng sau, giọng xủng xoảng như ly chén bể, "Sao anh không chịu để em bù vô nhỏ Hương, ra đây trốn tình chi cho cực, em nhớ anh thấy mồ". Đuôi mắt quét tận chỗ Nga, thấy con gái cù lao đứng thừ lừ. Nga nói thôi em về, luộc khoai đem qua anh Văn đãi bạn. Nga qua khoảng sân đầy nước thì có ông con trai chạy theo, lăng xăng nói trời ơi mát khủng khiếp, yên tĩnh tuyệt vời quá, cảnh thiệt là thơ mộng rồi hỏi, ủa, sao không thấy em gái nói gì. Nói gì bây giờ, Nga đi lẹ lẹ đằng trước, nỗi sợ cuộn lên, mong manh, Văn dễ tin lắm, hôm trước con chồn chạy ngang Nga nói con mèo Văn cũng tin, Nga bảo cây cỏ trên cù lao này đều do chim ỉa mà mọc lên Văn tưởng thiệt, bây giờ người ta nói yêu này yêu nọ, không biết Văn của mình có tin không. Nó cố kìm để khỏi kêu lên, trời ơi, sao người ta nói chuyện yêu thương dễ ợt, giòn rụm vậy cà. Bận quay lại trạm xá, Nga còn đi nhanh hơn, đầu nó có một mớ tro lá dừa đậu hồi thổi lửa. Anh chàng nọ rớt lại dọc đường. Bước vô cửa thấy ba bốn người nằm ngủ ngiêng ngủ ngửa, Nga nói ngay, "Ủa, anh kia chưa về hả, cha, ảnh ở đâu ta? Em hỏng có đi chung" (cho anh đừng suy diễn lung tung, rồi hiểu lầm lòng dạ em). Ngó bộ Văn không để ý, Nga nhẹ lòng, thở ra cái phù, hỏi, anh đang làm gì đó, Văn cười coi nắng cù lao. Trời, nắng có gì mà coi, anh? Hôm ấy Văn không trả lời, hôm sau không kịp trả lời vì Văn đưa bạn ra về rồi không trở lại. Lặng lẽ, như trốn chạy. Trưởng ấp Tư Mốt đứng ở trạm xá, thấy sau trước trống không, trong lòng nghe đau tiếc như vừa thua một ván bài lớn. Văn không từ giã ông một lời, để nói cháu về vì má cháu đang đau, hoặc cháu ra ngoài trung tâm y tế huyện một tí, rồi lên xe đi luôn cũng được, dù nhìn vào đôi mắt đang cụp xuống kia, biết người ta nói dối, dù trong tâm ông đã vẫy tay để chào xa mãi. Trong một thoáng, ông thấy mình chùng chình, vớ được khúc cây bình bát, ông chống vào đất. Bên ngoài cái đất Mút Cà Tha dường như đã có sự thay đổi lớn. Thí dụ như con cá, lá rau, hạt gạo mến thương của người cù lao không ràng buộc được một con người (như đã từng rịt chân ông lại), thì cái bóng nhỏ nhoi của đứa con gái đang tuyệt vọng đứng ngóng chờ dưới bến không có ý nghĩa gì sao? Tuyệt không đáng gì à?

Nguyễn Ngọc Tư

Thuyền lá Năm bảy, tám tuổi tôi thường theo mẹ ra sông rửa rau, kín nước... Tôi bắt chước mẹ gập những chiếc thuyền lá nhỏ xíu thả xuống dòng sông nước xanh như mắt mèo. Những chiếc thuyền lá nối đuôi nhau theo dòng nước trôi xuôi. Tôi vừa té nước theo những con thuyền vừa nghêu ngao hát và trí tưởng tượng của tôi theo các con thuyền tới tận biển, nơi có nàng tiên cá. Tôi kể chuyện ấy với mẹ, mẹ thở dài : - Còn mẹ, đêm nào mẹ cũng mơ thấy cha con trở về. Vậy mà chừng ấy năm rồi...

Mẹ kể rằng: ngày xưa nơi mẹ con tôi đang ở là bãi ngô của ông bà tôi, khi ngô đông sữa mẹ vẫn thường thay ông ra ngủ ngoài đồng canh ngô. Chiều ấy có một chiếc bè dạt vào bến sông nhà tôi, trên bè là mọt người đàn ông đang vục xuống mặt nước, hai tay cố bám lấy những cây nứa nhưng thân hình anh thì cứ truội xuống. Vừa lúc ấy thì mẹ tôi tới, mẹ chỉ kịp la lên: "Trời ơi!". Rồi quăng chiếc bình múc nước xuống lao ra kéo người đó lên. Thì ra anh ta bị sốt rét có lẽ vì khát quá nên bò ra uống nước? Neo chiếc bè vào gốc cây, mẹ tôi dìu anh ta về lều canh ngô, đốt lửa sưởi. Nửa đêm thì anh ta tỉnh lại, sau khi bón cho anh ăn hết bát cháo mẹ lại mò mẫm về làng tìm thuốc... Hai ngày sau thì anh ta dứt cơn sốt, mẹ tôi bảo: "Khi nào thật khỏe anh hãy xuôi". Anh ta ở lại ba đêm nữa, ba đêm ấy không hiểu vì sao mẹ đã ngã vào vòng tay của anh. Bởi vậy mới có mặt tôi trên đời. Mẹ tiễn anh ra tận bờ sông và không nhớ hai người đã nói với nhau những gì, anh thì cứ cắm sào nhìn mẹ như không thể dứt được. Lúc ấy, mẹ vô cùng bối rối, chỉ biết ngắt lá mít gấp thành con thuyền nhỏ xíu thả xuống dòng sông.

Chiều ấy mẹ thả xuống dòng sông không biết bao nhiêu là chiếc thuyền lá cho tới khi tối sẫm mặt người mẹ mới trở về. Rồi chiều chiều mẹ ra bến sông thả xuôi những chiếc thuyền lá.

Trước ngày sinh tôi, ông bà đuổi mẹ ra ngoài bãi sông này "cho khuất mắt dân làng". Tôi sinh ra chính nơi cha tôi được sưởi ấm. Cho tới một hôm khi tôi đã lớn và trúng tuyển nghĩa vụ quân sự, tiễn tôi lên đường mẹ dặn rằng : - Có thể ngày con về thì mẹ đã khuất, thời loạn biết đâu mà nói trước. Nếu người có đến đây tìm con, thì con nhớ đuôi mắt trái người ấy có một vết sẹo to gần bằng đồng xu và trên vai phải có một nốt ruồi son - Mẹ thở dài - Người ấy nói với mẹ nhà ở cuối con sông này...

Tôi vào quân ngũ hơn chục năm, thỉnh thoảng mới về nhà, mẹ tôi mỗi ngày một già hơn, tôi để ý chiều nào mẹ cũng ra sông, trước lúc trở về, bà thả xuống dòng sông dăm ba chiếc thuyền lá rồi khỏa nước đẩy chúng ra xa mong dòng nước đưa những con thuyền ấy đến thật nhanh nơi có ai đó đang mong đợi.

Trước ngày ra quân, tôi nghỉ nốt số phép còn lại, thuê một chiếc thuyền câu bơi dọc bờ sông, tìm dấu vết của cha tôi. Tình cờ một hôm, tôi ghé vào một chiếc thuyền câu neo dưới gốc cây sung già, trên thuyền một ông già cởi trần đang ngồi ngất ngư bên chai rượu : - Cụ đêm qua chắc được khá? - Tôi hỏi. - Cũng đủ gỡ. Mùa này cá trôi đi ăn nhiều... Chú mày đi dong hả. Có sức khỏe như chú đi dong khá hơn. Ông mời tôi sang thuyền ông uống rượu, lúc đó tôi mới phát hiện ra dấu vết trên người ông như mẹ tôi đã kể. Chén rượu đắng chát, tôi không thể nói ra với ông rằng tôi là con trai ông. Vừa lúc đó tôi nhìn thấy dăm ba chiếc thuyền lá trôi dập dềnh trước mũi thuyền. Tôi cúi xuống vớt một chiếc lên ngắm nghía. Ông bật cười : - Ta nhìn thấy chiếc thuyền lá này từ hơn ba mươi năm nay rồi... - Vậy ư? Người thả những chiếc thuyền này chắc muốn gửi tới ai đó cuối dòng sông điều gì? Tôi gợi lại những hồi ức xa xăm của ông. Im lặng một lúc lâu ông bật cười khanh khách : - Thật hão! Dọc con sông này có bến bờ nào chờ đón những chiếc thuyền lá! Rồi ông vỗ bụng hát: "Bèo dạt mây trôi...".

Tôi trở về nhà, lấy vợ rồi sinh con nhưng vẫn giữ chuyện ấy trong lòng. Chiều chiều, mẹ vẫn dắt những đứa cháu của bà ra sông tắm rửa và gập cho chúng những chiếc thuyền lá thả xuống sông. Những đứa con tôi chắc cũng giống tôi ngày nào mơ được gặp nàng tiên cá.

Thái Sinh

Tình đã sương mù "Hỡi ơi, tình đã sương mù" (NTN) Ngay từ buổi học đầu tiên tôi đã không ưa Chín. Con gái gì mà cái mặt cứ nghinh nghinh. Bởi vậy hôm dạy thực tập, khi Chín đến xem tôi chuẩn bị giáo cụ; bảng biếc tôi bèn quát: "Đi chỗ khác chơi! Dòm ngó cái gì?". Chín lườm tôi"Làm như người ta ham dòm ngó lắm". Và, biến. Những ngày sau đó, khi gặp nhau, hai đứa chỉ toàn nguýt, háy. Trong lớp có bốn mươi mạng, kể cả tôi, tôi chơi tất, trừ Chín. Hôm ngồi uống cà phê với Đức, hắn hỏi: "Hình như mày không ưa Chín"...Tôi gật ngay. Hắn lại hỏi: "Lý do"... "Không ưa,vậy thôi!" - "Tao thấy Chín cũng được đấy chứ" - "Với mày thì được, với tao thì không" Hai thằng đang trò chuyện, chợt nín khe khi Chín bước vào. Đức cười hề hề, mời: "Uống nước chơi, Chín". Chín liếc tôi, lắc đầu: "Chắc không được đâu, Đức ơi!" Tôi đứng dậy. "Hai người cứ tự nhiên! À, nhớ trả tiền ly tao luôn nghe Đức." Tôi rời quán mà không hề nhìn Chín. Lần thực tập kế đó, do có đứa vắng mặt, tôi "bị" đôn lên, ghép vào nhóm của Chín. Xui hơn nữa khi bốc thăm chọn ngày, tôi và Chín lại phải dạy cùng một lớp. Tôi thở dài thườn thượt. Sân trường với những cây hoàng điệp tôi hằng ưa thích, bỗng trở nên u ám lạ thường. Đúng hơn, sau khi bốc thăm xong, nhìn đâu tôi cũng thấy khó chịu. Có phải ghét của nào trời trao của ấy không đây? Mà thôi, mặc, đến đâu thì đến. Sá gì một buổi dạy chung! Chẳng phải chúng tôi còn nợ nhau cả những ngày tháng trước mắt hay sao? Cũng may, hai đứa chỉ học chung có mỗi năm nay, nếu không, chắc tôi tắt thở quá.

Thường tôi vào trường khá sớm. Nhất là những ngày thực tập. Nhưng hôm ấy, tôi ngồi nán lại ở quán cơm tấm, làm thêm ly cà phê. Dọc con đường đến trường, lắc rắc bay những lá hoàng điệp; nắng dìu dịu trải vàng trên những mái tóc huyền. Tôi thấy cái gì trên đời cũng đẹp, nhất là con gái. Sực nhớ Chín cũng là con gái, tôi lẩm bẩm: "Trừ Chín". Trong ký-ức-hai-mươi-của-tôi vẫn còn rực rỡ ba năm cuối trung học với đám bạn gái nửa dịu dàng nửa đanh đá. Tôi cố bới tìm xem có đứa nào dễ "nực" như Chín không? Tuyệt nhiên không! Thuở ấy, trái tim tôi cứ nhảy cóc từ bóng dáng này qua hình dáng khác. Đã có lần, vì quá mê mẩn một cô-Bắc-kỳ-nho-nhỏ, tôi đi chùa cầu, sao cho hai đứa rớt dài dài để suốt đời học lớp mười hai với nhau. Kỳ thi đến, ngồi ngó đề thi thấy sao dễ ợt. Tôi đành phải làm những gì tôi biết. Kết quả, đường ai nấy đi. Tố vào Luật, tôi chọn ngành sư phạm, chuyện trị mớ trẻ con tiểu học. Nhiều người hỏi sao tôi không vào đại học hay chí ít là vào cao đẳng. Tôi chỉ cười. Làm sao giải thích để họ hiểu rằng, tôi muốn đi tìm những ấu thời hạnh phúc bởi tôi đã có một tuổi thơ cô quạnh, ngậm ngùi.

Nghĩ ngợi lan man, đến trường lúc nào không hay. Nhìn đồng hồ, bảy giờ kém năm. Tôi còn năm phút để chuẩn bị cho tiết dạy. Tôi phóng qua sân trường chợt rộng thênh thang. Còn hai phút nữa. Tôi sững người, nhìn lên bảng. Ngày tháng, tên môn, bài kiểm tra, bài dạy đã được ghi đầy đủ. Cuối phòng, Chín đang ngồi ngó tôi cười mím chi. Cái mặt bớt nghinh nghinh. Tôi muốn cảm ơn Chín, nhưng lại sợ bị kê tủ vào miệng, lại thôi. Bốn mươi phút qua nhanh, tôi thở phào, cùng Chín đi lăng quăng ở sân sau đợi giờ chơi. Gặp Đức đang ngồi với mấy đứa bạn, hắn trợn mắt nhìn tôi ra điều kỳ quái. Tôi gãi đầu, cười trừ.

Tiếng chuông reo. Bọn trẻ con ùa chiếm sân trường. Chúng tôi quay vào lớp. Đã đến lúc tôi trả nợ cho người. Sau buổi nhận xét, phê bình, rút kinh nghiệm mấy tiết thực tập, Đức hô: "Đi ăn chè!" Tôi sờ túi, Chín nhe răng cười. Mấy đứa còn lại nhăn nhó. Chẳng là cuối tuần rồi! Đức vỗ ngực bồm bộp: "Chớ lo! Cuối tuần nhưng đầu tháng. Tớ vừa lĩnh tiền kèm nhi đồng đây!" Cả bọn kéo nhau ra quán thạch ở Trần Bình Trọng. Hiền bô bô: "Ông thầy chia nhóm khéo thật, đủ đôi đủ cặp; thuận âm dương, hạp trời đất!" Trang nhéo tay nó: "Chỉ nhảm nhí!". Đức: "Lẽ ra, tớ chỉ cho các cậu tạm ứng thôi. Nhưng hôm nay, tớ bao, mỗi cậu hai ly". Hiền: "Lý do?" - "Mừng thằng cu Hoài cộng tác tốt đẹp với Chín trong buổi tập". Cúc cười hích hích "Tớ vay Đức mấy đồng, mời thêm mỗi cậu một ly, được không?" "Bà vay có bao giờ trả tôi đâu!". Chín chen vào: "Cúc không trả, tôi trả". Cả đám, trừ tôi, ngoác mồm: "Vậy là bà mừng bà. Cho vay đi Đức!" - "Xong ngay, cu Hoài cần vay không?" Cả đám lại ngoác mồm: "Vay luôn!". Nói thế, chứ mỗi đứa cũng chỉ làm được hai ly. Đúng chỉ tiêu Đức ban cho.

Rã đám, tôi đưa Chín về. Hai đứa lặng lẽ đi bên nhau. Đến nơi, Chín mời tôi vào chơi. Căn phòng trọ nhỏ xíu, chứa tới bốn người vẫn ngăn nắp, gọn gàng. Tôi nhớ đến căn phòng bừa bộn của tôi mà ngao ngán.

Nói chuyện với Chín, tôi mới thấy trước giờ tôi toàn nhìn Chín bằng định kiến. Quê Chín ở Phan Thiết. Bố mẹ mất sớm, nhà chỉ có ba chị em gái. Hai chị đã đi lấy chồng. Một mình loay hoay với sách vở, Chín cứ mơ ngày thành cô giáo. Hết lớp mười hai, bà chị cả theo chồng vào Sài Gòn, Chín đi theo. Thi sư phạm, đậu. Thoạt đầu ở chung với anh chị - Sau, thấy bất tiện, rủ bạn bè thuê căn phòng này. Tiền thuê phòng, chị cả cho. Tiền ăn uống, chị hai lo một phần; phần còn lại Chín kiếm thêm bằng cách phụ bán hàng cho mẹ người bạn cùng lớp. Một năm về quê hai lần để cùng các chị làm giỗ cho bố, rồi mẹ. Trong câu chuyện, Chín hay nói tới ngôi nhà trông ra biển, có đứa bé gái chiều chiều lang thang trên bãi vắng, nghe tiếng sóng vỗ đều như những lời ru.

Tôi kể cho Chín nghe về một tuổi thơ cô quạnh, ngậm ngùi. Một tuổi thơ ướt đẫm mưa núi, xào xạc gió đồi và ngút ngàn hoa dại. Bố mẹ tôi không cảm thấy hạnh phúc bên nhau nên chia tay mỗi người một ngả. Tôi được gửi lên một xã nhỏ ở cao nguyên sống với bà dì lớn tuổi, độc thân.Tôi vẫn đủ ăn, đủ mặc nhưng thiếu hẳn một gia đình. Bây giờ, tôi trôi dạt về đây, vẫn không biết được tin tức gì của hai đấng sinh thành. Cũng có thể vì tôi không định biết.

Sau lần trò chuyện đó, tôi và Chín gần gũi nhau hơn, đến nỗi cả lớp đã hình dung ra một mối tình. Chín nghĩ sao, tôi không rõ. Phần tôi, khác với thời trung học, rất sợ mình quá vội vã trong việc phán đoán lòng mình. Vẫn biết, tôi và Chín có cái gì đó tạm gọi là đồng cảm; nhưng, chỉ thế, đủ chưa cho một tình yêu?

Giả sử, chúng tôi chưa mà cứ nhất định là đã yêu nhau, đến ngày nào đó hiểu ra rằng, tất cả không hơn một sự lầm tưởng thì sao? Chắc cả hai sẽ cùng đau đớn. Nghĩ vậy, nên tôi im lặng. Đức theo dò la tôi mãi. Hơn ai hết, Đức muốn chúng tôi hạnh phúc. Tôi vẫn im lặng. Hắn khích tôi: "Mày nhát quá! Yêu, thì nói rằng yêu. Tao tin Chín cũng yêu mày". Nhát? Tôi nhếch mép cười: "Mày biết gì?". Đúng là Đức chẳng biết gì! Tôi điểm lại trong đầu những "mối tình" đã có, những gương mặt đã yêu. Tất cả trôi tuột đi trên bức tường ký ức. Nghĩai là tôi chưa một lần yêu, mặc kệ bao bài thơ "Tình oằn oại". Ngoài Chín, có ai hiểu được tôi, sau những trò hề hạc là nỗi cay đắng không cùng. Bố mẹ tôi ngày xưa chắc cũng tưởng mình yêu nhau lắm, cho đến lúc nhận được sự thật thì trên đời tôi đã tồn sinh. Hai người chia tay, tôi vẫn tồn sinh với vết thương muôn thuở. Lẽ nào tôi lại chưa kinh?

Năm học ngắn dần. Tôi và Chín vẫn vừa gần vừa xa.Thỉnh thoảng kẻ này tìm người kia nơi phòng trọ để rồi chẳng nói gì cùng nhau ngoài chuyện biển buồn và núi lạnh. Biển, tôi đã gặp nhiều lần, còn Chín, chắc không lạ chi dáng núi. Thế mà, Chín vẫn mãi là một biển u trầm, tôi vẫn mãi là một núi quạnh hiu.

Năm học hết. Hôm chọn nhiệm sở, Chín ngồi bên tôi lặng lẽ. Đám bạn bè xung quanh, dẫu chưa biết đến đâu, về đâu, vẫn đổi trao địa chỉ để liên lạc sau này. Tôi và Chín cứ ngồi như tượng. Cõi miền chúng tôi ở chốn nào để hẹn hò nhau? Có thể Chín sẽ về với biển. Có thể tôi sẽ đến với rừng. Tùy sự lựa chọn của mỗi người. Chỉ mong sao còn ngày gặp lại, sau khi chúng tôi đã lượng định lòng mình.

Cuối cùng lễ chọn nhiệm sở cũng xong. Chúng tôi giữ lời giao ước, không ai cho biết nơi sẽ đến của mình. Tất cả để dành tới buổi liên hoan nhẹ, ngay tối hôm ấy. Và phải ở giây phút sau hết, trước lúc chia tay.

Chín không về với biển. Tôi không đến với rừng. Đức, Hiền, Trang, Cúc trở lại quê nhà, y như họ đã định từ đầu. Bốn người ngồi nhìn tôi và Chín, tư lự. Tôi đọc thấy nỗi xót xa trong mắt họ, những người bạn tốt. Liệu họ có hiểu rằng, dẫu buồn với cuộc chia xa, tôi vẫn vui vì sự lựa chọn của tôi và Chín? Sự lựa chọn ấy đã nói rất rõ điều trái tim chúng tôi muốn nói: "Chúng tôi cần nhau".

Mai này tôi sẽ thay Chín lang thang trên bãi vắng mỗi chiều để nghe lời ru của biển. Mai này Chín sẽ thay tôi lạnh với trùng trùng mưa núi, gió đồi. Cả hai sẽ tạm thời cô độc nhưng không cô đơn bởi trong trái tim người này có hình bóng người kia. Ngày tái ngộ, nhã nhạc sẽ lừng vang khắp cõi.

Rồi thời gian trôi qua. Tôi cứ chờ mong mãi, Chín vẫn chưa về. Tôi đi tìm Chín, không gặp. Ghé lại Sài Gòn hỏi thăm bà chị cả, bà chị cũng chẳng biết gì. Có phải Chín là giọt sương rơi xuống đời tôi? Giọt sương thực có nhưng rất mong manh, gần như là hư ảo.

Tôi về biển, chiều chiều lang thang trên bãi vắng, buồn bã nhớ người. Đức, Hiền, Trang, Cúc ơi! Tôi lạc Chín rồi!

Rồi thời gian trôi qua. Thoắt sắp nửa đời. Tôi vẫn nhớ và hy vọng ngày tôi tìm lại phần tôi thất lạc, ngày trần gian nhã nhạc lừng vang.

Rồi thời gian trôi qua. Chín vẫn chưa về.

Nguyễn Đăng Hà

Tình điên Ánh sáng vàng úa của vừng thái dương đỏ chót như còn do dự ở chân dẫy tre già cao vót, rì rào, kẽo kẹt. Luồng gió mát về chiều vừa đánh thức xóm Hồng Thủy miên man ngây ngất trong bầu không khí nồng nực của buổi trưa mùa hạ. Nào tiếng cười đùa của các cô gánh nước xúm xít nhau bên bờ giếng, nào tiếng ca hát của bọn mục đồng cưỡi trâu bò về chuồng, nào tiếng cãi cọ của trẻ con đuổi chạy quanh mấy gốc đa già trên tòa miếu cổ. Bỗng trẻ con rời bỏ gốc đa, kéo ùa ra đường và cất tiếng reo : - Cô điên! A! Cô điên! Trên con đường hẹp ngoằn ngoèo lượn theo cái lạch nhỏ, bờ trồng cây, lá xanh um, một người con gái chừng mười tám tuổi, tóc bỏ xõa, đương vừa đi vừa lẩm bẩm nói một mình. Thấy lũ trẻ chạy, reo cười, cô đưa bàn tay lên xua, ra hiệu bảo im đi, rồi lại lẳng lặng cúi đầu đi thong thả như đương cặm cụi theo sau một vật gì, một cái xe chẳng hạn. Bọn trẻ trỏ tay bảo nhau : - Cô ấy đưa đám ma đấy. Một đứa nói : - Sắp đến huyệt rồi. Quả thực, khi đi đến cái rãnh xẻ để tát nước vào ruộng, người con gái đứng dừng lại, đăm đăm nhìn, như ngắm người ta đương hạ cái áo quan xuống huyệt. Nước mắt cô từ từ nhỏ giọt. Một lát sau, cô qùy xuống bới đất lấp kín rãnh, rồi nằm phủ phục, khóc nức nở, không ra tiếng. Đứng xúm xít chung quanh đàn trẻ thi nhau cười như nắc nẻ. Bỗng cô ngước mặt lên nhìn lên, mỉm cười, rồi như nói với ai đứng bên cạnh : - Em cảm ơn anh... anh thương em quá... Đương lúc em đau đớn mà anh lại đến an ủi em thế nàỵ.. Vâng, em xin tuân theo lời anh dạy. Chỗ này cô đổi giọng ồm ồm bắt chước tiếng đàn ông : - Em nghe anh, không nên buồn nữa, không nên khóc nữa. Rồi cô lại mỉm cười nói giọng tự nhiên, làm như hai người chuyện trò với nhau vậy : - Không em có buồn nữa đâu. Ở trên đời còn có anh thì em không bồ côi bồ cút đâu mà sợ. Có lúc cô đứng lặng, hé cặp môi son chú hết tinh thần như đương nghe ai se sẽ thì thầm bên tai. Đã hơn một tháng nay, từ hôm cô về làng Hồng Thủy ở với bác để điều trị bịnh thần kinh, chiều nào cô cũng nhắc lại những cử chỉ, những ngôn ngữ như thế, đến nỗi bọn trẻ con trong làng cứ tới giờ ấy là xúm nhau đứng sẵn ở gốc đa bên miếu để chờ cô đi qua. Chúng biết trước rất rành mạch hết mọi sự sắp xẩy ra, từ việc làm cho chí lời nói của cộ Mà hôm nào cũng chỉ đi đến chỗ đương xẻ là cô lại quay về. Trước kia những người tát nước còn ngăn cản không cho cô lấp đất. Nhưng sau thấy cô khóc lóc lạy van khẩn khoản, họ đem lòng thương hại, để mặc cô muốn làm gì thì làm, chờ khi cô đi khuất, họ lại khơi rãnh ra. Lúc trở về nhà cô đi mau hơn, nết mặt vui tươi, cười cười, nói nói như được cùng người yêu chuyện trò thân mật. Bỗng khi đến gần nhà, cô lại bưng mặt khóc. Bọn trẻ thấy cô đang cười, mà khóc ngay được thì cùng nhau cười vang xóm. Như không nghe thấy gì, cô chỉ nức nở nói một mình : - Vậy ra anh lừa dối em... Anh bỏ em... trơ vơ một mình... một bóng... anh đi lấy vợ.

Một hôm đắp xong cái mồ tưởng tượng, cô ngước mắt nhìn lên vừa nói dứt câu: "Em cám ơn anh" thì bỗng cô ngừng bặt. Trước mặt cô, một trang thiếu niên vận Âu phục đứng nhìn cô có vẻ thương hại, đau đớn. Cô ngẫm nghĩ một lát rồi hỏi : - Có phải anh Linh của em Cúc đây không? Chàng mỉm cười gật sẽ. Cô cúi mặt xuống nũng nịu : - Anh bỏ em, anh đi mãi. Chàng đuổi bọn trẻ đi theo trêu ghẹo, rồi đưa cô Cúc về nhà. Ông bác cô ra đón chào khách : - Cảm ơn ông, cháu nó ốm đã mấy tháng nay. Thuốc uống đã nhiều mà vẫn không chuyển. Tôi lo quá, cậu mợ cháu chết đi chỉ được có một mình cháu. Chủ nhà mời khách ngồi chơi uống nước. Trong khi ấy thì cô Cúc chú mục đứng nhìn hai người nói chuyện. Chủ hỏi : - Thưa ông, ông học trường thuốc, vậy ông có biết căn bệnh này không? Khách đáp : - Đầu đuôi bệnh trạng ra sao, xin cụ kể lại cho tôi nghe xem. - Thưa ông, nào có gì đâu. Hồi tháng hai năm ngoáị.. Thấy cô Cúc đứng lắng tai nghe chuyện, khách bảo sẽ chủ : - Giá cụ bảo cô ấy vào trong nhà đã rồi hãy nói chuyện thì hơn. Khi Cúc đã ngoan ngoãn theo lời bác lẳng lặng vào buồng, cụ Tú Vụ liền kể cho khách nghe cậu chuyện sau này : "Cúc bồ côi cha từ năm lên mười. Mẹ cô nhà cũng khá, cho cô đi học, và hiện cô đang theo học năm thứ ba trường Sư phạm. Mẹ cô có mình cô nên rất mực chiều chuộng, mà cô thì cô yêu quý mẹ lắm. Bỗng tháng hai năm nay, mẹ cô ốm. Hơn một tháng cô hết sức trông nom, đến nỗi người cô sút hẳn đi. Nhưng bệnh ho của mẹ cô một ngày một trầm trọng, rồi đến đầu tháng tư thì mẹ cô chết. Cô thương xót khóc lóc không ai khuyên can nổi. May sao có một cậu, cậu Linh, sinh viên trường Đại Học, khi còn mẹ cô, vẫn khi tới chơi nhà, vì chàng thấy cô có nhan sắc thì đem lòng thương trộm yêu thầm. Trong khi đau đớn, khổ sở, ngày ngày có chàng đến an ủi, Cúc cũng nguôi dần. Sang tháng sau, nghĩa là cách đây hai tháng, chàng vừa tốt nghiệp trường Cao đẳng ra, liền về thẳng nhà, bỏ Cúc trơ trọi ở Hà Nội. Cái ngày mà Cúc được tin Linh cưới vợ là ngày bệnh điên của cô bắt đầu phát". Khách nghe câu chuyện, buồn rầu, ngồi ngẫm nghĩ. Cụ Tú thấy chàng không nói gì, lại hỏi : - Vậy ông cho nó là bệnh gì? - Thưa cụ, cô Cúc chắc bị một định kiến thôi miên. - Ông tính có thể chữa được không? - May ra thì được... Phải chữa mẹo. Rồi chàng ghé vào tai cụ Tú thì thầm : - Từ nay trước mặt cô Cúc, xin cụ gọi tôi là Linh, và cụ dặn người nhà cùng những người quen thuộc cũng vậy. Cụ Tú mỉm cười, không hiểu : - Nhưng tôi sợ nó biết tên thực ông là Giao rồi. - Cụ không sợ. Tôi mới gặp cô ấy lần này là một. - Thưa ông, ông có thể giảng nghĩa cho tôi hiểu không? - Thựa cụ, bây giờ tôi chưa có thể giảng nghĩa được, sợ tiết lộ bi'mật. Để chờ khi cô Cúc khỏi đã hãy hay. Cụ Tú lại mỉm cười : - Cách chữa bí mật thế kia à?... Nhưng ông còn ở chơi nhà lâu không? - Thưa cụ, còn những một tháng kia. Chắc đủ thì giờ. Từ đó, chiều chiều Cúc đưa cái đám ma tưởng tượng của mẹ tới chỗ đường xẻ lại gặp Giao mà cô vẫn tưởng lầm là Linh. Mấy hôm đầu, Giao còn để vậy cho Cúc đắp mộ, cùng khóc lóc rồi ngước cặp mắt âu yếm bảo chàng : "Vậy ra anh Linh của em không lừa dối em đấy chứ?" Chàng cầm tay cô, mỉm cười nhìn vào mắt sẽ đáp : - Khi nào anh Linh của em lại nỡ lừa dối em. - Thế anh chưa lấy vợ chứ? - Chưa em ạ! - Thế anh chờ em chứ? - Cái đó thì đã cố nhiên. Khi nào em khỏi hẳn thì anh sẽ cưới em làm vợ. - Nhưng em có ốm đâu mà anh bảo em khỏỉ Giao cười : - Em không ốm, nhưng mà em còn mê man tinh thần. Kìa em coi, cô con gái đẹp, ai lại đi nằm xuống đất để đến nỗi lấm láp thế kia? Mà ai lại đi chân không như thế kia bao giờ? Cúc bẽn lẽn nhìn xuống chân, lấy tay phủi bụi bám vào quần áo. Dần dần Cúc đã biết chăm đến sự điểm trang, chân đi dép da láng, quần áo chải chuốt, tóc vấn cẩn thận. Một hôm, cô vừa toan quì xuống đắp mả, thì Giao giữ lại bảo : - Nếu em muốn anh yêu em thì em đừng vầy đất nữa kia. Cúc mỉm cười, cặp mắt sáng quắc nhìn Giao : - Nhưng em có vầy đất đâu? Em đắp mồ cho mẹ em đấy chứ. - Em quên à? Mẹ mất ở Hà Nội kia mà? Cúc ngơ ngác : - Thế đây là đâủ - Đây là làng ta và chỗ này là cái rãnh xẻ để tát nước. Cúc ngần ngừ có ý nghi hoặc, nhưng hình như sợ hãi người yêu, nên không dám đắp đất nữa. Nhờ về những ống tiêm thuốc bổ, và nhất là nhờ về tình âu yếm dịu dàng của Giao, bệnh thần kinh của Cúc một ngày một thuyên giảm. Rồi nửa tháng sau, tuy Cúc vẫn còn mê sảng, nhưng sự đi theo đám ma hình như đổi hẳn ra một cuộc đi chơi mát của đôi bạn trẻ. Vì tình nhân loại, Giao một ngày một thêm đằm thắm, thân mật. Còn Cúc thì ngày một thêm chăm chỉ đến sự điểm trang. Một hôm, chàng đến hơi trễ. Cúc y phục chỉnh tề, quần trắng, áo trắng, mái tóc rẽ lệch, đương đi đi, lại lại, băn khoăn khó chịu ở trước cửa. Vừa thoáng thấy chàng ở đàng xa, cô chạy vội lại, trách : - Sao hôm nay anh đến muộn thế? Em giận lắm. Đã đến giờ đưa đám rồi. Giao nét mặt nghiêm nghị, đáp sẽ : - Nếu em không bỏ cái tính giận dữ đi thì anh không yêu nữa đâu. Nhất là em không được quên rằng mẹ em mất đã được bốn, năm tháng rồi. Nay anh chỉ đến rủ em đi chơi mát, không phải đi đưa đám. Em cố nghĩ lại xem. Không biết Cúc có nhớ ra không, nhưng vì sợ Giao không yêu, nên khi thấy chàng hỏi lại rằng đã nhớ ra chưa, thì cô tươi cười đáp liền : - Em nhớ ra rồi. Mẹ em mất những bốn, năm tháng trước. Giao gật : - Em Cúc của anh ngoan lắm. Vậy mai hễ gặp anh thì em phải nhắc lại cho anh nghe cấu ấy, anh sẽ yêu thực nhiều, nhé! Hôm sau, Giao lại đến trễ hơn, nhưng không những Cúc không tức giận, cô lại còn vui vẻ đến chào chàng, rồi như đứa học trò nhỏ, ôn lại câu chàng dặn : - Mẹ em chết đã được bốn, năm tháng rồi. Nay anh chỉ đến rủ em đi chơi mát, chứ không phải đi đưa đám. Vậy anh có yêu em không? Giao cười, lấy tay đập se sẽ vào má Cúc : - Anh yêu em lắm.

Câu trả lời khiến Giao ngẫm nghĩ, mỉm cười. Rồi câu ấy ngày nào chàng cũng nhắc đi nhắc lại, nhắc đi nhắc lại vì lòng nhân từ hào hiệp đối với một người khốn khổ. Một hôm ngồi một mình, chàng bỗng buộc miệng như nói với người trong mộng : - Anh yêu em lắm! Chàng ngơ ngác nhìn quanh phòng như sợ hãi một sự huyền bí. Vì chàng nhận rằng câu ngẫu nhiên ấy nó ở tự đáy trái tim, tận cùng linh hồn thốt ra và không còn ngụ một ý nghĩa nhân từ hào hiệp nữa. Hôm ấy chàng đi thong thả trên con đường đất ngòng ngoèo lượn theo cái lạch nước nhỏ. Lòng chàng bối rối, sự buồn rầu lộ ra nét mặt. Chàng có ngờ đâu từ thương tới yêu, con đường lại ngắn đến thế. Cái lòng thương nhân loại, thương những sự yếu hèn, đau đớn của loài người, chàng có ngờ đâu lại trở nên tình ái! Song chẳng lẽ yêu một người điên, tuy người điên ấy là một trang thiếu nữ tuyệt sắc! Phải chăng chàng chỉ yêu cái hào nhoáng bên ngoàỉ Không phải. Quyết là không phải. Chàng vừa đi vừa cố phân chất, cố giải phẫu những tính tình của chàng như chàng đã đem khoa học mà tìm căn nguyên bệnh thần kinh hệ của Cúc. Khi chàng đã đưa tư tưởng đi ngoắt ngoéo hết các con đường khúc khuỷu trong tâm trí, thì chàng mỉm cười, vì trong lúc mê muội, chàng chỉ nhận ra được có một điều là chàng yêu. Cái tình yêu ấy, cỗi rễ ở lòng thương mà ra cũng có, nhưng nhất là ở sự tìm thấy một linh hồn khác thường, linh hồn dịu dàng, chất phác ngớ ngẩn của một cô gái điên. Mà ba cái tính tình dịu dàng, chất phác, ngớ ngẩn ấy lại rất dễ cảm động lòng người. Nhớ lại những câu nói tự nhiên của Cúc chàng cảm thấy hay hay, nũng nịu vừa như tiếng trẻ thơ, vừa như giọng âu yếm của ái tình. Chàng thực yêu rồi, yêu một cách vô lý, nhưng yêu một cách nồng nàn và vơ vẩn. Mà chỉ còn một tuần lễ nữa là chàng đã phải từ biệt người chàng yêu. Biết đâu khi chàng đi rồi, bệnh điên kia đã thuyên giảm bội phần, đã hầu như khỏi hẳn, lại không nặng như xưa. Xa sự dịu dàng, xa sự âu yếm của chàng thì Cúc khó lòng khỏi được. Rồi cái thân mềm mại kia đáng lẽ phải chứa một linh hồn lanh lợi sẽ không còn đựng một mẩu trí thức cỏn con. Chàng nghĩ thế thì chàng càng thấy buồn, càng thấy khổ, càng thấy thương, càng thấy yêu. Cái nhân loại bé nhỏ, hèn yếu mà xưa kia chàng vẫn muốn đem hết tâm trí, đem hết tinh thần ra thương yêu, nay đối với chàng hình như chung đúc cả vào cái thân thể mảnh dẻ của cô gái điên. Bước thong thả, hai tay chắp sau lưng, chàng băn khoăn tư lự. Bỗng vừa rẽ một chỗ đường ngoặt, chàng thấy sừng sững trước mặt chàng cô Cúc, vận quần áo đại tang. Cô ngả đầu, lễ phép chào chàng, rồi buồn rầu cất tiếng run run nói sẽ : - Thưa ông, tôị.. Cô chỉ nói được có thế. Nước mắt cô ứa ra, khiến cô nghẹn lời. Giao vội hỏi : - Có sự gì thế em? Em Cúc của anh... của anh Linh? Cúc đưa khăn tay lên lau nước mắt, lạnh lùng bảo : - Ông nói dối! Ông không phải là ông Linh. Ông không thể là ông Linh được! Hai giọt nước mắt ngập ngừng dưới cặp mi, Giao lo lắng, khổ sở, đăm đăm nhìn Cúc. Cúc bỗng cười ngất, cái cười khoái lạc mà Giao cho là cái cười vô nghĩa lý, vô ý thức của người điên. Chàng sung sướng cũng mỉm cười, vì chàng cho là tri thức của Cúc tuy còn đương ở vào giữa chỗ tự tri và vô tri, nhưng đã hơi chịu xét đoán. Hy vọng lắm rồi! Nhưng nếu ông thầy thuốc hy vọng, thì người yêu liệu có hy vọng được không? Giao mỉm cười, cái mỉm cười của ông thầy thuốc, của nhà khoa học. Phải, nếu Cúc biết suy xét, biết nhận rõ sự thực hư thì liệu Cúc có còn giữ mối cảm tình đối với người mà Cúc nhận lầm là Linh nữa không? Ông thầy thuốc lại mỉm cười, cái mỉm cười tự cao, tự đại. Giao nghĩ thầm: "Ta hãy bỏ lòng ích kỷ mà mong cho Cúc khỏi hẳn bệnh đã". Ngắm Giao có vẻ tư lự, Cúc hình như cố nhịn cười mà nhắc lại lời chàng dặn bữa nọ : - Mẹ em mất đã được bốn, năm tháng rồi. Nay anh chỉ đến để rủ em đi chơi mát, chứ không phải đi đưa đám. Vậy anh có yêu em không? Cô nói dứt câu, bẽn lẽn cúi xuống nhìn dòng nước chảy. Giao cười ra dáng đắc chí, trả lời : - Anh yêu em lắm chứ! Hai người yên lặng đi bên cạnh nhau. Bỗng như vì sự sung sướng xúc động tâm hồn, Cúc lim dim cặp mắt như mộng, cất tiếng nói : - Này anh ạ! Em chỉ muốn suốt đời được cùng người yêu ở trong cái cảnh dịu dàng, êm ái này. Anh hãy trông: con đường quanh co dưới bóng lá cây um tùm, bên dòng nước trong như lọc, thực Tạo hóa đã riêng gây nên để tặng hạng người biết yêu thưởng thức. Giao mỉm cười : - Em làm thơ đấy à? Anh xét ra có hai hạng người thích ngâm vịnh và có tài ngâm vịnh, là hạng người thi bá và hạng điên rồ. Cúc nghiêng cái đầu hơi rung động, mái tóc se sẽ lung lay trước cơn gió chiều. Và nàng hỏi lại : - Vậy anh cho em là người điên hay là thi sĩ? - Em vừa là điên vừa là thi sĩ? Cúc cười ngất : - Thế thì anh lầm. Cô ngẫm nghĩ mấy giây, rồi nói tiếp : - Nhưng không, anh nói đúng đấy: vì xét kỹ thì em điên thực, mà khổ cho em, em lại tự biết em điên. Giao sửng sốt nhìn Cúc lấy làm lạ rằng lời nói của người điên sao lại có luận lý đến thế. Chàng ngờ vực, lẩm bẩm: "Không có lẽ". Nhớ lại những câu hỏi thứ nhất của Cúc, khi Cúc mới gặp chàng ban nãy, Giao càng nghi lắm. Nhưng bây giờ thì sự nghi hoặc của chàng làm cho chàng sung sướng. Chàng mỉm cười, nghĩ thầm: "Có lẽ thế chăng?"

Đêm hôm ấy ở ấp Hồng Giang và ở làng Hồng Thủy có hai người thức suốt sáng. Hôm sau, mặt trời vừa rạng đông, trên con đường từ ấp tới làng, quanh co bên cái lạch nước nhỏ, đã thấy Giao thung thăng bách bộ. Chàng tới Hồng Thủy làm gì sớm thế? Đến chàng, chàng cũng chẳng biết tại sao. Tới cổng nhà cụ Tú Vụ, chàng đã toan đi qua không vào, nhưng có cái mãnh lực gì nó giữ chân chàng lại. Chàng mỉm cười, chép miệng rồi gọi cổng. Gặp chàng, cụ Tú vui mừng, nhưng không thể không lấy làm lạ về sự đến chơi sớm quá như thế. Chừng chàng cũng đoán được ý nghĩa của cụ, nên nói chống chế ngay : - Thưa cụ, hôm nay tôi lại sớm là vì thứ thuốc bổ này cần phải tiêm vào buổi sáng. Cụ Tú chắp tay cung kính trả lời : - Xin cảm ơn ông. Mời ông ngồi chơi để tôi gọi cháu nó ra. Cúc nằm ở buồng bên cạnh nghe rõ tiếng Giao, trong lòng mừng rỡ, nhưng vờ ngủ mê mệt hai, ba tin gọi cũng không dậy. Là vì đêm hôm trước, không chợp mắt, cô sợ sự mệt nhọc làm mất vẻ kiều mị của cô, nên cô muốn tránh mặt người yêu. Còn Giao nghe có tiếng gọi mà Cúc vẫn ngủ mê thì gạt đi mà nói rằng : - Thôi để lát nữa tôi trở lại cũng được. Cụ Tú lấy làm ngượng, đáp : - Thế thì làm phiền ông quá. Ông để tôi vào đánh thức cháu dậy. - Không nên, cụ ạ. Phải để cho cô ấy nghỉ chứ. Người mắc bệnh thần kinh hệ cần nhất là phải ngủ nhiều. - Cảm ơn ông, tôi không biết lấy gì trả ơn ông cho xứng đáng. Thực ông đã cải tử hoàn sinh cho cháu. Bệnh cháu mười phần đã khỏi đến quá chín rồi. Giao mỉm cười : - Thưa cụ, có gì mà cụ phải nói đến ơn với huệ? Bổn phận của loài người là phải cứu giúp lẫn nhau, khi mình có thể cứu giúp được. Nếu cô Cúc qua khỏi cái tai nạn này thì tôi sẽ sung sướng suốt đời. Há chẳng phải cụ là ân nhân của tôi saỏ Chàng biết mình nói hớ, - mà câu nói hớ ấy chàng có ngờ đâu đã khiến ở buồng bên Cúc cười thầm - nên nói chữa ngay : - Vì cụ đã giúp tôi được có cái hân hạnh, cái hạnh phục làm nổi một công cuộc gọi là có ích cho đời.

Trong năm hôm sau chót, Giao và Cúc luôn luôn cùng nhau dạo chơi bên dòng nước. Hình như hai người đều tưởng đến ngày ly biệt sắp tới, nên tình bè bạn càng thêm thân mật. Có hôm buổi sáng sớm, không hẹn hò mà hai người cùng lang thang dưới rặng cây, rồi gặp nhau ở giữa đường. Tuy hai người không hề ngỏ ý với nhau, nhưng cùng hiểu rằng thời giờ gặp gỡ chỉ còn có trong ít bữa, những buổi chiều ngắn ngủi sao đủ giải tỏ nổi lòng yêu? Mà câu chuyện thì có gì đâu! Quanh quẩn chỉ nước cùng trời, chỉ cây cùng cỏ, vì cái mục đích nói chuyện để giúp bệnh nhân biết tự suy xét theo lối khoa học nay không còn ở trong ý nghĩ của Giao nữa. Nay chàng nói chuyện là vì một lẽ khác hay đúng hơn, chẳng vì một lẽ gì nữa. Đối với chàng thì câu chuyện ấy là câu chuyện thường, câu chuyện tự nhiên, câu chuyện để có chuyện. Song trái lại, về phần Cúc thì có khi cô lại phải cố ý nói ngớ ngẩn một vài câu để chàng tưởng rằng cô thỉnh thoảng vẫn còn điên. Cô muốn thế để đứng trước mặt Giao cô đỡ bẽn lẽn, cái bẽn lẽn tự nhiên của một cô gái tơ đứng trước mặt một chàng tuổi trẻ. Chiều hôm nay là một buổi chiều từ biệt của hai người. Ngày mai, Giao phải rời Cúc để vào trường thuốc. Cúc vừa gặp Giao, cảm động quá, buộc miệng gọi : - Anh Giao! Hai cặp mắt nhìn nhau. Hai linh hồn, hai trái tim: một ý tưởng. Sự yên lặng kể lể biết bao nỗi thương yêu! Dịu dàng, âu yếm, Cúc đặt đầu vào vai Giao, ngước mắt nhìn lên mỉm cười. Giờ lâu... Giao ghé tận tai Cúc thì thầm : - Chúng ta điên. Cúc cười khẽ gật.

Khái Hưng

Trong bóng rừng Nói đến rừng, tôi quên sao được lớp nhà lá đẹp đẽ của ba tôi dựng trên một cánh đồng lớn, lớp nhà đổ xuống sân một đường bóng dài đậm, mỗi lần mặt trời nghiêng xuống dãy đồi cong. Chính ở nơi đó, tôi lớn lên, giữa những cuộc kinh doanh còn bề bộn của ba tôi. Chính ở nơi đó, trên đôi mắt trong và sáng của tôi, lần đầu tiên bóng rừng núi chạy qua, ánh sáng chiều phản lại và hai thứ này cùng nhịp nhàng trong tôi những cảm tưởng về thế sự buồn rầu và cảnh đời hùng tráng. Tôi thở cái hương rừng mọi rợ, yêu say mê mùa sim vừa chín đến, và tự mê hoặc mình bằng cách mê tín những bùa phép của dân Mường, Mán xung quanh. Trước nhà tôi, thường thường đi về những người mặc áo chàm ngắn cỡn, tay cầm lăm lăm dao quai. Trong đám người đó, lẩn vào những khuôn mặt mùa xuân đặc biệt sáng lên bởi những cặp mắt to và trong suốt. Bóng họ bình yên trộn vào bóng rừng thẳm và mỗi bước chân gieo xuống đất, làm sống lại những nỗi u kín của ngày xưa... Tôi có trông theo toán người xa lạ ấy thì bất quá cũng chỉ để buồn vơ vẩn trước những sợi khói lam chầm chậm tỉa khỏi mấy nóc nhà chơ vơ trên lưng chừng núi. Nhà tôi ở quay mặt ra hướng Bắc, gió tiện lối vào, đem theo về lòng tôi nỗi hoang mang của bốn chân mây vắng ngắt. Ba tôi thường ngồi ngó ra khoảng cao rộng, lâu hàng giờ không nói và thỉnh thoảng gợi về cho tôi, bằng những câu chuyện kín đáo hơn tiếng thở dài của người, cả một xứ Trung Hoa bí mật, cái tình yêu tiềm tàng trong tôi, âm thầm như một niềm đau xót. Tôi ngơ ngác theo từng chiều mắt, dò từng sợi tóc bay lên của người, và sau khi không biết được thêm điều gì, tôi cất tiếng hỏi : - Ba tìm gì đấy, ba? Ba tôi không đáp, đưa mắt nhìn xuống ngọn đèn dầu lạc. Những cử chỉ ấy, thoạt đầu còn làm tôi khó chịu, sau tôi quen dần đi, và thầm nhủ như thế này : - Ba mình già rồi. Chỉ biết hút thuốc phiện. Thôi kệ! Tôi nghĩ thế, rồi bỏ ba tôi, chạy đi tìm các trẻ nhỏ thân mật đến nỗi bây giờ tôi đâm ngờ cả những sự thân mật nhất mà loài người ban cho tôi, vì cớ là không còn tình gì trên thế gian, dưới mắt tôi, đẹp hơn thứ tình tôi đã để trôi mất. Mỗi lần nghe anh tôi học về sự hại của thuốc phiện, tôi sốt sắng chạy lên gác, lại bên bàn đèn của ba tôi, mà khuyên người : - Này ba ạ, thuốc phiện tối chi là hại đấy. Nó làm cho người ta xấu đi và tồi lắm. Ba bỏ thuốc phiện đi, ba ạ, không nhỡ nguy mất. Một nụ cười hiếm hoi nở trên đôi môi của ba tôi. Người thủng thẳng : - Ai bảo con là thuốc phiện làm cho người ta xấu đi? - Anh Hai học thế! Ba tôi đáp lạnh nhạt : - Không có thuốc phiện thì ba đã chết từ lâu rồi. Không có thuốc phiện cũng không có con ngày nay. Tôi ngạc nhiên, trụt đôi guốc, trèo lên giường rồi hỏi gặng : - Thế thuốc phiện nó... đẻ được ra người ta, à ba? - Đẻ thì không đẻ được, nhưng nó giải được thủy thổ bất phục. - Giải được thủy thổ bất phục là gì, hả ba? - Là như có sơn lam chướng khí thì thuốc phiện đánh cho tan ra. - Thế sơn lam chướng khí là gì, ba? - Là hơi núi, khí đất không hợp với người ta. - Ờ... ờ... Thế sơn lam chướng khí nó có biết đánh ba không mà ba đánh nó? - Nó quấy ba như quấy mọi người. Ba hút thuốc phiện cho tiêu nó đi. Ba tôi vốn hà tiện lời nói. Người khó khăn và nghiêm. Tôi còn nhớ rõ cái sống mũi dọc dừa trên một khuôn mặt xương gầy. Mẹ tôi bảo ba tôi giàu vì có hai cái tai nhọn. Tôi, tôi tin rằng ba tôi giàu vì ba tôi là người Trung Hoa. Ý nghĩ ấy đem tôi đến một cuộc phỏng vấn ngây thơ này : - Ba hả, tại làm sao người Tàu không ở bên Tàu lại cứ sang bên nước Nam? - Tại vì người Tàu thích đi ra ngoài. Tại vì người Tàu nghèo, dân nhiều, gạo ít. Tại vì ở bên Tàu lắm cướp. Cướp nó ở rừng, cướp ở đâu cũng có ăn, vì nó ăn cướp. Ở vùng đây, ba tôi chiếm một địa vị khả quan. Không phải người có quyền tước gì, nhưng vì người buôn bán phát đạt nên được những cái đầu to, mặt lớn nể. Thêm nữa, ba tôi có tài ngoại giao, có cái oai thầm của những người Trung Hoa khiến kẻ bên cạnh phải sợ vì, những kẻ gian phi xa lánh. Ba tôi thường bảo trong đời một người đàn ông, không nên sợ gì hết, cứ thẳng mà tiến, ngang nhiên mà làm. Nhưng ba tôi làm tôi nghi hoặc câu nói cứng đó, nên tôi hỏi : - Thế ba không sợ dì Hai là gì? - À chuyện, người ta là đàn bà, nể người ta một chút cũng chẳng sao.

Nơi ba tôi đi lại thân mật nhất là gia đình ông Châu Khâm. ông Châu Khâm sống yên lặng ở trên một chiếc nhà sàn với người vợ, cô con gái - cô Fin - và con chó mực. Cả ba thứ động vật sau này đều học được tính chủ, nghĩa là rất ít nói, ít cắn, mơ màng. Cô Fin thì ngày ngày vẫn quay tơ, để tiêu bình thản thời giờ bằng cách rút hết guồng sợi này đến guồng sợi khác. Đời nàng như một dòng suối tù hãm, trên dải nước chết chỉ hơi lờ mờ gợn bóng mây, nó là những vẩn sống buồn bã, không đủ sức hun ấm động mạch cơ chừng đã chết lạnh trong người nàng. Fin có đôi mắt rất đẹp, vì chúng rất to và sáng, nhưng không phải là gương thông minh mà là biểu chứng của một tấm lòng ngây dại. Đôi mắt ấy, ngày nay vẫn còn mở trong trí tôi, như một ảnh hình khó mất. Chúng tôi thường sang chơi nhà Fin bằng xe ngựa. Không biết tôi có nên gọi đó là chiếc xe ngựa không, vì đó thực là mấy mảnh gỗ chắp lại thành hình mui thuyền, và đúng là có họ gần với chiếc xe bò kéo. Tuy nhiên, giữa cánh đồng lúa non thì con gái, chiếc xe ấy cũng đã đem lại cho tôi những giờ phút khoái trá, khi tôi thấy giàn giụa ra hai bên mình màu cỏ xanh thắm, đậm đà thêm vị hương sắc thanh bình của thôn quê. Mỗi lần chiếc roi ngựa hạ xuống, mỗi lần chiếc xe chạy mau thêm, tôi rùng mình bảo ba tôi : - Ba nhỉ, những con rắn con nhái chắc chả dám lên cắn con đâu. Tôi còn nhớ con đường trải thứ đá răm từ ngoài ngõ chạy vút vào nhà Fin, nên mỗi lần xe ngựa của chúng tôi đến, Fin đều dừng tay việc nhìn lên vì nghe tiếng bánh sắt lăn trên đá. Ba tôi để tôi ngồi cạnh mẹ Fin và Fin, rồi lên gác hút thuốc phiện với ông Châu. Tôi ngồi chăm chú ngắm Fin đắm chìm trong công việc, trong lòng trẻ nhỏ thốt nổi dậy một thứ rung động thầm kín, cái cảm giác đẹp đẽ mà tôi không tìm thấy được nữa trên đường đời. Trái hẳn với bản tính của những người Kinh trẻ tuổi, Fin rất ít nói. Nàng hồn hậu và nghiêm nghị, tươi tắn nhưng mơ màng. Nhiều lúc Fin nghiêng đầu, lắng tai vào không khí, tựa hồ như nghe ngóng một tiếng gì huyền bí, trong cái dáng điệu lơ đãng rất đáng yêu.

Năm ấy, tôi lên mười và Fin lên tám. Bầu trời sáng và rộng, luôn luôn thấy những buổi hiền hòa, cây xanh gió mát nhịp nhàng với nhau như trong một bài thơ cổ. Tuần lễ một lần, ba tôi đánh xe ngựa sang nhà Fin, và cứ thế, yên yên, lặng lặng, trong tôi đã nảy nở tự bao giờ mối thiện cảm sâu xa đối với người em gái Kinh lai Mán. Một lần tôi đột ngột hỏi Fin : - Fin này, Fin có muốn lấy chồng không? Fin lấy tôi nhé? Fin nhìn vào mắt tôi hồi lâu rồi cười : - Lấy nhau là cái gì? - Là ăn cơm với nhau, như ba và mẹ tôi ấy. Không hiểu sao, Fin vụt cười lên một cách vô cùng lạnh lẽo : - À! Lấy thế thì không lấy. Đương vui, bỗng như bị ai đánh, tôi sa sầm ngay nét mặt xuống. - Thế là... Fin không thích tôi rồi nhé. Để tôi bảo ba tôi không đánh xe sang đây nữa cho mà xem. Tôi rơm rớm nước mắt, chạy mách ba tôi thực. - Ba này, Fin nó ghét con, nó không chơi với con, về đi, ba ạ. Ông Châu ngồi dậy, nhại cái miệng mếu của tôi, rồi cười : - Không, Fin nó thích con đấy, nó không ghét con đâu. Ra ngoài chơi rồi chốc nữa ông đánh nó cho. Tôi thui thủi lại ngồi cạnh Fin, đưa mắt buồn nhìn cảnh rừng núi trước mặt, tâm hồn lần đầu rạo rực trong những cảm giác chán nản mênh mông. Lúc ấy, tôi mang máng nhận thấy rằng Fin là người con gái kỳ lạ, không bao giờ có thể trở nên bạn tôi. Và sau này, mỗi lần nhớ đến Fin, tôi vẫn rùng mình trước vẻ lạnh lẽo ấy.

Một hôm, tôi và Fin vào cánh rừng nhỏ gần đấy hái sim. Chúng tôi đi giữa hương mùa thu mới chớm, thanh sắc kỳ lạ của cỏ hoa không quen tên. Lòng tôi rộn lên một niềm say sưa, còn lòng Fin thì vẫn lạnh lẽo. Khi đến một gốc cây gần đấy, tôi chỉ tay bảo Fin : - Fin này, ổi chín quá, tôi hái cho Fin ăn nhé. Fin vẫn đi, trả lời buông thõng : - Tôi không ăn, anh muốn ăn thì lấy. Tôi tức giận nhìn Fin bước đi, hằn học, nhủ thầm : - Đã làm bộ thế, ta cho biết tay. Rồi tôi gọi Fin : - Fin ạ, con ong nó đốt tôi. Fin hốt hoảng chạy lại, hỏi tôi : - Ong đốt đâu, anh có đau không? Tôi cầm lấy bàn tay Fin hờ hững đưa ra, và sau câu nói : - Nó đốt thế này này. Tôi cắn mạnh vào tay Fin với tất cả sức điên rồ của một tấm lòng thơ trẻ. Tôi chỉ buông Fin ra cho nàng giẫy giụa trên mặt đất, khi những tiếng kêu bất thần của Fin làm tôi chợt tỉnh. Tiếng kêu ấy làm giật mình ông bà Châu, ba tôi, và tất cả, người cầm súng, người cầm dao chạy lại cứu, vì đều ngỡ là chúng tôi bị nạn. Tôi quên làm sao được đôi mắt hờn oán của bà Châu, đôi mắt dữ dội của Fin nhìn tôi, sự yên lặng đầy miệt thị, lãnh lẽo như nước đá của con người sinh ra tôi. Tôi xấu hổ, đi lại phía sau, đưa tay áo ra gạt nước mắt...

Cuối năm ấy, ba tôi mất, vết xe ngựa hằn trên dải đường đưa đến nhà Fin đã mòn dần đi, và chận lên đó những bước chân yếu ớt của chúng tôi, những người đôi lúc sang nhà Fin để làm sống lại chút ít sự thân thiết ràng buộc hai gia đình. Ông Châu bỏ tiền ra mua con ngựa trắng của ba tôi và giữ hộ ít hàng cho khỏi bị tịch ký. Thời gian êm đềm trôi qua, tôi và Fin đã lớn. Xung quanh người con gái mười sáu tuổi ấy, mùa xuân bắt đầu rạo rực, ngày tháng bắt đầu thêu hoa. Fin đẹp một cách mọi rợ trong bóng rừng đã thấy nàng lọt lòng mẹ rồi sẽ đi lấy chồng.

Rồi tôi lên hai mươi, Fin mười tám tuổi. Cách đây hai năm, nhân dịp nghỉ hè, tôi về chơi nhà ông Châu. ông Châu già rồi, sinh lực tàn như ánh đèn dầu lạc. Mẹ Fin và con chó mực đã chết. Riêng Fin vẫn đẹp. Nàng vẫn ngồi quay chỉ, đạp guồng, mắt vẫn nhìn những đường trắng của lớp chỉ chạy đi, quên rằng thời gian bên nàng đã thay đổi tất cả. Tôi ngồi cạnh Fin, hôm đó là một buổi chiều, một buổi chiều sương đục lờ mờ rây trên dải núi đằng xa. Tôi nhắc lại cuộc chơi bời ngày nhỏ và hỏi Fin : - Fin còn nhớ ngày nào tôi cắn tay Fin không? Nhưng Fin trả lời hời hợt : - Lâu quá rồi, ai mà còn nhớ được! Nói xong, Fin không tỏ vẻ gì buồn bã cả. Fin điềm nhiên một cách lạnh lẽo, cả đến khi nghe tôi hỏi nàng câu thứ hai : - Cô Fin sắp lấy chồng chưa? Fin đáp một giọng lơ lớ : - Tôi sắp lấy, anh nà. Tôi lấy một người con trai làng tử tế lắm. Không dưng, lòng tôi nhói lên, như bị ai chích. Rồi tôi chợt hiểụ Tôi hiểu rằng, trong lòng người con gái của xứ rừng núi này, ẩn một cảm tình khác, nó chỉ đặc biệt ràng buộc với những cái gì thuộc về quê hương, mà không có sức mạnh nào, quyền phép nào, dẫu nhiệm màu, cao cả ở trên thế gian này mua được.

Nhiều lần, ở xa, nhớ đến người con gái vô tình đi qua ngày tháng của tôi, tôi mang máng nghe tỏa từ quãng mênh mông một tiếng gọi gì buồn bã, một tiếng gọi không hiểu chính của lòng tôi hay của khu rừng linh thiêng nghìn đời lặng lẽ : - Em Fin! Em Fin! Tôi còn yêu Fin được đến ngày nay, đó chỉ vì tôi ở xa Fin, và không bao giờ tôi gặp Fin nữa. Muôn trùng sở dĩ rạo rực được lòng người, vì muôn trùng là nỗi thương nhớ mênh mông của những tấm lòng rất bạn.

Hồ Dzếnh

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#tuan