Phan 3

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Chương 15 -2

Nguồn: vnthuquan

Nội dung thu gọn

Đặt ống nghe xuống, Bét-xô-nốp ngồi mãi như thể lơ đãng ngẫm nghĩ, thận trọng duỗi cẳng chân dưới bàn, chờ cho cơn đau qua đi để ông có thể đứng dậy được nhưng cơn đau không dịu đi. 

-Anh chiến sĩ trinh sát đã thoát về được không báo tin gì mới à? Anh ta có tỉnh không? Anh ta ở đâu? Bét-xô-nốp hỏi Cu-rư-sép, cố lãng quên đầu gối nóng bỏng đang giật giật. 

Nhìn vào tấm bản dồ đánh dấu nhằng nhịt, trung tá Cu-rư-sép bắt đầu nói cố gắng không để lọ sự mệt mỏi quá sức của một người phải lo âu quá lâu. 

-Khi người ta chuyển đồng chí ấy từ khẩu đội pháo về, đồng chí ấy đang trong trạng thái nửa mê nửa tỉnh, thưa đồng chí tư lệnh. Qua lời của đồng chí ấy có thể hiểu là các anh em trinh sát khác lúc trở về đã bị bọn Đức phát hiện, phải chiến đấu và cùng với “cái lưới” bắt được mắc kẹt lại đâu đó phía trước các chiến hào của đội cảnh giới chiến đấu. Đã đưa đồng chí ấy tới trạm cứu thương nhưng chưa chắc đồng chí ấy có thể nói thêm được điều gì mới… Vâng, tôi chịu hoàn toàn trách nhiệm về đội trinh sát. 

-Thôi đi anh.-Bét-xô-nốp khẽ đập bàn tay lên mặt bàn.-Anh hãy chấm dứt thói tự hành hạ mình, đó là việc làm vô nghĩa và hoàn toàn không đúng lúc, trung tá ạ. Làm như thế chẳng giúp được gì cho anh cũng như cho tôi. Không bắt được tù binh và lúc này chắc không thể bắt được vì bọn Đức đang tiến công, vậy mà tôi cần một tù binh Đức nghiêm chỉnh, tầm cỡ và am hiểu nhiều. Nào, ta sẽ làm gì đây, trung tá? 

-Đồng chí cho phép tôi suy nghĩ chứ ạ, thưa đồng chí tư lệnh? 

Bét-xô-nốp gõ gõ ngón tay lên mặt bàn và trông thấy trung tá Cu-rư-sép khoan thai, và thận trọng dùng mu bàn tay vun những mảnh đất rơi từ trên trần xuống như vụn bánh mì vậy. Bét-xô-nốp thấy việc đó cũng gượng gạo, vô ích như chuyến trinh sát không thành công, như cơn đau tê tái, rát bỏng trong cẳng chân ông và ông chợt nghĩ: “Giá uống tí rượu Vốt ca đầu óc sẽ tỉnh táo, cơn đau dịu đi và chắc sẽ dễ chịu hơn!”. Nhưng lập tức chính ông ngạc nhiên trước mong ước bất ngờ đó, trước ý nghĩ về sự nhẹ nhõm đó và vẫn không đứng lên, ông ngồi đợi cho qua cơn đau nóng bỏng không dứt ở đầu gối, cơn đau cản trở ông tập trung suy nghĩ và khiến ông bực bội. 

Súng cối sáu nòng của địch đã ngừng bắn vào đài quan sát nhưng căn hầm ngầm vẫn như một chiếc mảng bập bềnh trong bóng tối giữa những loạt đạn đại bác và tiếng nổ rung chuyển, giữa những làn sóng liên thanh quất liên tục ở phía trước trong bóng tối đó. Và chẳng hiểu sao trong căn hầm mà mọi âm thanh ở bên ngoài đều bị lụi hẳn đi di lớp nắm hầm dày, Bét-xô-nốp đặc biệt nhận ra rất rõ tiếng rền của xe tăng và tiếng súng tự động dày đặc, sôi động vọng từ phía Bắc và phía Nam tới, trùm lấy điểm cao mà ông tưởng như đã bị cắt rời khỏi tập đoàn quân, khỏi các quân đoàn, các sư đoàn-khỏi toàn bộ thế giới xung quanh. 

-…Tôi đã bảo anh rằng: anh hãy bắn dù là bằng súng ngắn cũng được, nghe thủng chưa? Hãy đứng vững cho dù xe tăng địch lăn qua người anh, rõ chưa? 

Bét-xô-nốp ngẩng đầu lên, da mặt ông giật giật, lộ vẻ đau khổ. Ở nửa bên kia của hầm ngầm tiếng máy điện thoại rù rù, vo vo, lấn át nhau, những giọng nói căng thẳng đứt quãng và giọng nam trung của Đê-ép át tất cả những tiếng ồn ào đó, anh đang gào lên, vừa ra lệnh vừa chen vào những lời sỉ vả, dọa dẫm: 

-Nếu anh mà lùi một phân thì tốt hơn hết là anh hãy cho mình một phát đạn vào đầu, Trê-rê-pa-nốp! Nghe thấy không? Tất cả pháo binh, tất cả súng chống tăng đến chật ních ở chỗ anh cả đấy! Tôi cũng biết như anh rằng, địch đang bao vây nhưng “kêu cứu” mà làm gì mới được chứ? Phải bám trụ dù anh có ngoẻo chăng nữa!… Lối qua sông đã bị phá hủy thì xe tăng địch còn ở đâu tới nữa! Đừng có nói nhảm!… 

Bét-xô-nốp lắng nghe và hiểu rằng trung đoàn trưởng trung đoàn bộ binh Trê-rê-pa-nốp báo cáo, là xe tăng địch đã đánh tạt sườn, trung đoàn gần như bị bao vây, xin tiếp viện nhưng Đê-ép chẳng những không hứa giúp đỡ mà còn trả lời bằng những lời lẽ phẫn nộ và đã khuyên nên lấy cái chết chọi với cái chết nếu như không cầm cự được… Còn Bét-xô-nốp vẫn ngồi ở đấy, trong ngách hầm tách biệt, khổ sở vì cơn đau ở đầu gối và không có quyền can thiệp vào, ông cũng không đi ra. Đê-ép đã thi hành mệnh lệnh của ông ban ra là phải bám trụ cho tới người cuối cùng và thật là quá sức người nếu nhìn thẳng vào mắt Đê-ép lúc này bởi vì Đê-ép cũng đang chờ đợi tiếp viện cho sư đoàn của mình mặc dầu Đê-ép đã hiểu rõ tầm quan trọng không thể chối cãi được của mệnh lệnh đó đối với các trung đoàn của mình đang phải chịu đựng toàn bộ cuộc đột kích khủng khiếp của xe tăng địch, do số phận run rủi như lệ thường trong chiến tranh, trong đó không có sự lựa chọn. 

-Đừng có nỉ non như thế, Trê-rê-pa-nốp!-Đê-ép gào lên như bị kích động, xổ ra giọng tuyệt vọng.-Anh tưởng tôi không hiểu chắc? Tôi nói hết rồi đấy! Hãy siết chặt dây lưng lại và bám trụ cho vững! Pháo binh sẽ cật lực yểm trợ cho anh! Anh không thấy nhưng tôi thấy. Kêu ca làm gì, hãy chịu đựng! Hãm bám trụ, dù phải cào phải cấu như một cô gái yếu ớt nhưng hãy bám trụ cho vững! Và đừng gọi điện cho tôi về chuyện đó nữa! Tôi không muốn nghe đâu!… 

“Đê-ép thiếu tá hành mệnh lệnh của mình, tuy vậy anh ta nghĩ gì khi phát đi mệnh lệnh đó?”-Bét-xô-nốp lại thoáng nghĩ. 

Trong chốc lát, đôi mắt ông bắt gặp cái nhìn của chủ nhiệm trinh sát đang lặng lẽ đứng bất động ở bên bàn. Ông ta không còn phủi đất vụn khỏi bàn đồ nữa. Vẻ mặt thông minh và mệt mỏi của trung tá Cu-rư-sép vừa thể hiện sự phê phán lặng lẽ, không nói nên lời vừa thể hiện sự cầu xin giúp đỡ. Ông ta hiểu rất rõ tình hình đang diễn biến hiện nay tại sư đoàn, hiểu qua những âm thanh của trận đánh, qua những mệnh lệnh này của Đê-ép ở ngách hầm bên kia. Bét-xô-nốp đưa lòng bàn tay lau trán và nói ra không hẳn điều ông định nói, không hẳn điều ông nghĩ: 

-Nói đi, trung tá. Tôi nghe đây. 

-Thưa đồng chí tư lệnh,-Cu-rư-sép bắt đầu nói giọng đều đều,-hình như việc sư đoàn bị bao vây đã rõ… 

-Anh tin chắc thế à? 

-Vâng, theo ý tôi rồi xe tăng địch sẽ đi vòng qua đài quan sát này, thưa đồng chí tư lệnh. 

Bét-xô-nốp ngồi im một lát và dường như sực tỉnh, ông mệt mỏi nhìn chủ nhiệm trinh sát, sau đó đứng dậy, thốt lên với vẻ tò mò nghiệt ngã: 

-Anh đừng nói hết. Anh muốn nói là chính bản thân chúng ta có thể bị biến thành “những cái lưỡi” chứ gì? Hình như thế phải không, trung tá? 

-Tôi nói về hoàn cảnh khách quan, thưa đồng chí tư lệnh,-trung tá giải thích bằng giọng đều đều như trước.-Qua một thời gian nữa bọn Đức có thể sẽ cắt đứt liên lạc của ta. Lúc ấy chúng ta sẽ mất đường dây chỉ huy. 

-Cám ơn những lời lẽ khách quan của trung tá. Nhưng cho đến nay đường dây chỉ huy vẫn thông suốt,-Bét-xô-nốp nói.-Và tôi không thay đổi mệnh lệnh về việc bắt “một cái lưỡi”. Thậm chí ngay cả khi chúng ta bị bắt làm tù binh, một điều rất khó chịu. 

Ông nhấc ống nghe điện thoại lên. 

-Đồng chí chủ nhiệm pháo binh… đường dây hoạt động tốt chứ? Hay lắm! Gọi Lô-mít-dê cho tôi. 

Sau khi nhận ra trong ống nghe giọng nói hơi oang oang, lơ lớ của tướng Lô-mít-dê: “Bọn Đức đã phát cuồng lên ở chỗ đồng chí phải không, thưa đồng chí số Một…”-Ông vội ngắt lời, hỏi: 

-Liệu có thể sử dụng trung đoàn súng cối số 42 trên hướng của Đê-ép được không? 

-Tôi sẽ ra lệnh, Pi-ốt A-lếch-xan-đrô-vích. Để chống lại xe tăng địch à? Tôi hiểu có đúng ý đồng chí không? 

-Anh hiểu đúng đấy. 

Bét-xô-nốp không dừng lại, nửa hầm ngầm bên kia mù mịt khói thuốc lá, trong đó tiếng máy điện thoại kêu vo vo và thấp thoáng bóng các sĩ quan đi đi lại lại. Ông chỉ nhận ra bóng dáng cao lớn của đại tá Đê-ép giữa các cán bộ tác chiến, không nói một lời nào, ông lấy gậy đẩy cửa, bước ra khỏi hầm ngầm. Thiếu tá Bô-gi-scô đi theo ông. 

-Đồng chí tư lệnh!-Giữa tiếng máy điện thoại liên tục giọng nam trung khàn khàn của Đê-ép vang lên sau lưng. 

-Bét-xô-nốp rảo bước vào hầm.

 31.12.2010

LSB-Sun

-=[ Lương Sơn Ẩn Sĩ ]=-

ღ Đại Trưởng Lão QPB ღ

TUYẾT BỎNG

Chương 15- 3

Nguồn: vnthuquan

Nội dung thu gọn

Trời chưa tối hẳn nhưng băng giá tăng lên kinh khủng. Ngọn gió sắc nhọn, rát bỏng thổi từ phía ráng chiều đỏ sẫm bị ép sát xuống mặt đất như một cái khe hẹp và tựa hồ như gió cuốn tiếng súng đạn vang ầm quay xung quanh điểm cao. Mảnh băng như mảnh thủy tinh vỡ bị gió hất mạnh khỏi bờ lũy chọc vào môi, vào mắt. Do ánh sáng đạn tên lửa pháo hiệu bị gió cuốn quay tròn xung quanh đài quan sát nên có cảm tưởng là điểm cao đang bồng bềnh trôi đi đâu đó trên những ngọn lửa và những đám cháy lan rộng ở phía dưới. 

Ngôi làng phía trước sông cháy rừng rực như những giàn lửa lớn và ở bên kia sông, những chiếc xe tăng đen ngòm với những hình thập tự trắng ở trên mình trông như những con nhện độc nặng nề bò rải rác, dừng lại, thò những vòi pháo ra mò mẫm trên mặt tuyết đỏ ngầu như một chiếu màu, khạc lửa về phía trước dày đặc như mạng nhện. Lưới lửa dày đặc như mạng nhện đó tóe ra thành những đường ngoằn ngoèo kẹp chặt lấy khúc bờ sông ở phía trên, tại đó các khẩu pháo của ta nhả đạn đỏ lừ, hòa với đường đạn súng máy thành lưới lửa hình nan quạt ở phía trên điểm cao. 

Thiếu tá Bô-gi-scô áp mình lên bờ lũy đất ngờ vực ngó nhìn xuống phía dưới, trước mặt dòng sông, như có ý định xem trận đánh đã lan tới gần đài quan sát hay chưa. Những quả đạn pháo sáng tắt lụi trong gió, rơi xuống các triền dốc của điểm cao, đạn viu víu như tiếng chim ngay trên bờ công sự-hình như bọn lính bắn súng máy tự động của địch đã sang được bờ sông bên này. 

-Đồng chí tư lệnh, xin đồng chí cho phép nói. 

Giọng nói khản đặc của đại tá Đê-ép bung ra, xói vào người Bét-xô-nốp như một nỗi đau thể chất, buộc ông phải quay người lại. Ông đứng giây lâu, không giục Đê-ép báo cáo, đoán xem anh ta sẽ nói gì. Bóng dáng của Đê-ép dường như to lớn, bất động, chắn hết cả lối đi trong đường hầm. Dưới ánh sáng đạn pháo sáng khuôn mặt trẻ trung của anh với cặp mắt rực lửa dường như tuyệt vọng dò tìm cái gì đó trên vẻ mặt Bét-xô-nốp-dò tìm sự chi viện, hy vọng làm cho tình hình của sư đoàn mình dễ thở hơn và khi ánh sáng pháo sáng vừa lụi tắt, bóng tối trùm kín nét mặt không thể chịu đựng được đó của Đê-ép, Bét-xô-nốp có cảm giác như có ngón tay ai bóp lấy cổ họng mình. 

-Tôi thấy cả, đại tá Đê-ép ạ,-Bét-xô-nốp nói.-Anh muốn nói gì thêm? 

-Thưa đồng chí tư lệnh,-Đê-ép lên tiếng bằng một giọng hạ thấp thiếu tự nhiên,-trung đoàn Trê-rê-pa-nốp, hai trung đoàn pháp và trung đoàn xe tăng của Khô-khơ-lốp đang chiến đấu trong vòng vây, đạn dược hết… các đại đội bị tổn thất lớn… bộ binh Đức đã đi xe bọc thép tới.-Những quả đạn pháo sáng liên tiếp vọt lên lại soi tỏ nét mặt có ý chờ đợi được Bét-xô-nốp chi viện, anh hít một hơi thật mạnh rồi khàn khàn nói tiếp:-Xe tăng địch đã tiến công sở chỉ huy trung đoàn của thiếu tá Trê-rê-pa-nốp. Hình như Trê-rê-pa-nốp bị thương. Liên lạc vừa mới bị đứt.-Đê-ép thở lấy hơi, nặng nề bước lại gần Bét-xô-nốp.-Thưa đồng chí tư lệnh, trong tình hình hiện nay… tôi e rằng trung đoàn Trê-rê-pa-nốp sẽ không cầm cự được một giờ nữa, sẽ bị tiêu diệt… Xin đồng chí thứ lỗi cho, thưa đồng chí tư lệnh, tôi xin đồng chí tự mình quyết định… 

-Về việc gì nào?-Bét-xô-nốp hỏi cho rõ hơn. 

Giọng Đê-ép rung lên bướng bỉnh: 

-Xin đồng chí cho phép tôi rời đài quan sát của sư đoàn trong một giờ để tôi tới trung đoàn Trê-rê-pa-nốp tìm hiểu tình hình và quyết định tại chỗ, thưa đồng chí tư lệnh. 

Những đường đạn đỏ lừ hắt ánh sáng xuống khiến mắt Đê-ép ánh lên trên khuôn mặt đỏ rực của anh Bét-xô-nốp chăm chú nhìn. 

-Anh làm như thế nào? Anh sẽ đột nhập vào trung đoàn bị bao vây à? Hình như thế phải không? 

-Từ điểm cao này tới chỗ các tiểu đoàn của Trê-rê-pa-nốp khoảng độ ba ki-lô-mét, thưa đồng chí tư lệnh.-Tôi sẽ đột nhập cùng với anh em xạ thủ tiểu liên. Ba đợt vọt tiến là đến nơi thôi. Đó mới là một nửa công việc, thưa trung tướng. 

Ông bỗng cảm thấy trìu mến đối với Đê-ép-cảm giác này không quen thuộc và bất ngờ, khiến cổ họng ông lại nghèn nghẹn, ông không thể từ chối ngay. “Thì ra số phận đã ban cho mình người chỉ huy sư đoàn này”,-Bét-xô-nốp nghĩ, và ông ngước mắt lên nhìn ánh hồi quang thấp thoáng trong đôi mắt tuyệt vọng của Đê-ép rồi nhắc lại: 

-Thế nghĩa là anh cùng với các xạ thủ tiểu liên đột nhập vào? 

-Mới đây tôi hãy còn chỉ huy trung đoàn, thưa đồng chí trung tướng. Tại mặt trận Bri-an-xcơ. Tôi vẫn còn chưa mất thói quen. 

-Anh bao nhiêu tuổi?-Bét-xô-nốp hỏi giọng khàn khàn. 

-Hai mươi chín, thưa đồng chí tư lệnh. 

-Tôi muốn rằng, anh ba mươi tuổi,-Bét-xô-nốp nói và đưa tay vát không khí.-Anh hãy đi đi và hãy làm tròn trách nhiệm của một sư đoàn trưởng chứ không phải là của một trung đoàn trưởng! 

-Thưa đồng chí tư lệnh…-Đê-ép nói gần như Van-te nài,-xin đồng chí cho phép tôi… 

Nhưng Bét-xô-nốp lại ngắt lời anh một cách nhẹ nhàng và dứt khoát: 

-Anh hiểu ý tôi chứ? Tôi đã nói: anh đi đi và hãy làm tròn trách nhiệm của một sư đoàn trưởng. Cử ngay người tới liên lạc với Trê-rê-pa-nốp. Và hãy truyền đạt nhân danh tôi: tôi hy vọng vào sự kiên trì của anh ấy. Đứng vững, kiên trì chịu đựng cuộc phản kích đó, Đê-ép ạ. Không nên nghĩ rằng lực lượng dự trữ của địch là vô tận. 

-Thưa đồng chí tư lệnh, tôi muốn… 

-Đi đi, dât. Đừng bắt tôi phải nhắc lại. 

-Rõ, thưa đồng chí tư lệnh,-Đê-ép nói bằng giọng ỉu xìu, thất vọng và vóc người to lớn tưởng chừng chắn hết cả lối đi trong hầm quay lại rất chậm chạp, rồi Đê-ép bước vào khoảng tối trong đường hào, biến vào trong hầm ngầm. 

-Thật là một tay cừ, thưa trung tướng!-Bô-gi-scô phấn khởi thốt lên, có ý ganh tị nhìn về phía hầm ngầm.-Không phải bỗng dưng Đê-ép là một đại tá! Anh ấy bối rối ghê quá.. Mà quả thật chỉ ba đợt vọt tiến là đến đằng ấy! 

Bét-xô-nốp không nhìn theo Đê-ép vì biết rằng mình sẽ không thay đổi quyết định. Tuy nhiên ông cũng nghĩ rằng anh chàng sư đoàn trưởng rất trẻ này cảm thấy thất vọng, uất ức lúc này vì về cơ bản, anh ta tin chắc rằng sẽ được tư lệnh cho phép đột nhập ngay tới trung đoàn bị bao vây với hy vọng, theo như anh ta nghĩ, cứu cái trung đoàn bị siết chặt trong gọng kìm xe tăng thoát khỏi tan rã và sỉ nhục. 

-Quả thật đến chỗ Trê-rê-pa-nốp có xa gì đâu,-Bô-gi-scô lại nói.-Giá ta liều một cái! 

Bét-xô-nốp lặng lẽ quan sát những chớp lửa hỗn loạn của các khẩu pháo bố trí trên khắp bờ sông phía Bắc, nơi ta đã đưa những tiểu đoàn pháo chống tăng tới và nơi giáp ranh trận địa phòng ngự của hai trung đoàn bộ binh và xe tăng, quan sát những khối xe tăng màu hồng của ta và xe tăng Đức hơi nhúc nhích trên các đường làng ở khu làng phía Bắc bờ sông. Các tiểu đoàn của Trê-rê-pa-nốp và trung đoàn xe tăng độc lập của Khô-khơ-lốp đã chiến đấu ngoan cường và rất ác liệt nhưng vẫn không thể chống chọi nổi đợt đột kích của xe tăng Đức. “Thế nghĩa là đã đến lúc phải đưa thê đội hai-sư đoàn 305 ra trận. Đưa ngay kẻo không lại muộn”.

 31.12.2010

LSB-Sun

-=[ Lương Sơn Ẩn Sĩ ]=-

ღ Đại Trưởng Lão QPB ღ

TUYẾT BỎNG

Chương 15 -4

Nguồn: vnthuquan

Nội dung thu gọn

Đạn hỏa tiễn vẫn réo vù vù, quất mạnh, bùng lên thành những đám tia lửa trên các triền dốc của điểm cao và có vẻ như bọn xạ thủ tiểu liên Đức đã đánh thọc sườn đài quan sát từ phía Tây, chúng lọt từ trong làng ra tiến về phía chân điểm cao! 

-Chúng nó đang bò ở chỗ nào đó ngay trước mũi ta!…-Bô-gi-scô nói với vẻ ngờ vực, tần ngần.-Chúng nó định càn quét điểm cao này chăng, thưa trung tướng? Quân súc sinh láo xược đến thế là cùng! 

-Giá như quả thật chỉ cần ba đợt vọt tiến là có thể phá vỡ được vòng vây xung quanh trung đoàn tr,-tiếng Ve-xnin vang lên ngay ở bên cạnh và khi quay người lại, Bét-xô-nốp trông thấy ông cách đó hai bước.-Chà Pi-ốt A-lếch-xan-đrô-vích, tôi hiểu rõ ruột gan Đê-ép lắm! Thật không tài nào nhìn được cánh trung đoàn Trê-rê-pa-nốp bị tiêu diệt ngay trước mắt chúng ta! 

Ve-xnin cũng cao lớn nhưng so với Đê-ép to như hộ pháp thì trông ông vẫn nhẹ nhõm hơn trong chiếc áo choàng ngắn trăng trắng, dây da đeo chéo căng trước ngực, ông xoay xoay chiếc kính trong tay và tưởng chừng như hàm răng của ông đang cắn môi dưới, sáng xanh lên. 

-Tình hình của Trê-rê-pa-nốp quả thực là rất nguy kịch,-Ve-xnin bước lại gần Bét-xô-nốp hơn, nói tiếp.-Tổn thất ở các tiểu đoàn lớn lắm. Và bọn Đức chẳng có vẻ gì là sắp hết hơi… Chúng nó cứ ào ào xông tới.-Đã đến lúc ta phải đưa sư đoàn 305 ra chi viện cho Đê-ép chăng? Quả thật đã đến lúc rồi! 

-Anh hãy đeo kính vào đi, Vi-ta-li I-xa-ê-vich,-Bét-xô-nốp bỗng nói và cảm thấy tất cả cái gánh nặng kinh nghiệm dè dặt của mình cũng như vẻ nhẹ nhõm trẻ trung đáng thèm muốn của Ve-xnin nhạy cảm. Rồi ông nói thêm:-Bọn xạ thủ tiểu liên Đức đang bò lên điểm cao. Như vậy chúng ta có thể không chết một cách ngẫu nhiên đâu… Còn về sư đoàn 305 thì đồng chí quả không nhầm, đã đến lúc rồi. Đúng thế, đã đến lúc phải đưa nó ra rồi. Và chúng ta hy vọng,Vi-ta-li I-xa-ê-vich… 

-Tôi sống bằng hy vọng, Pi-ốt A-lếch-xan-đrô-vích,-Ve-xnin nói và nhắc lại:-Không, bọn chúng nó chưa hết hơi ở đây ngay đâu. Đối với chùng thì cứ hoặc là thế này hoặc là thế kia… 

-Đối với chúng ta cũng vậy,-Bét-xô-nốp chậm rãi nói. 

Điểm cao rung lên ầm ầm dưới những đợt gió quất vun vút giữa tiếng súng đạn, khi thì tưởng như nó bay vút lên bầu trời sáng chói nơi đạn pháo sáng rực rỡ lóa sáng tóe ra như mưa, khi thì chìm trong bóng tối; ánh sáng và bóng tối lướt nhanh qua điểm cao, trên đường hầm, soi sáng các khuôn mặt và lụi tắt, làm cho bóng tối ập ngay vào mắt. 

-Thưa đồng chí trung tướng! Xin đồng chí vào hầm ngầm ngay! Xin vào hầm ngầm ngay!-Bô-gi-scô thét to và chồm ngay lên, lao vào trong hào giao thông, điên cuồng gào lên để ngăn chặn kẻ nào đó:-Đứng la-ại! Ai đó? 

Trong hào giao thông ở phía dưới rõ ràng có tiếng đi lại ồn ào, nghe rõ tiếng la thét lo lắng của các gác, tiếp đó có những bóng người chụm lại trong đường hào hẹp và Bô-gi-scô chạy lại khúc ngoặt của đường hầm, súng tiểu liên lên đạn sẵn, anh lại quát lên bằng giọng đe dọa, hung dữ! 

-Đứng la-ại không tôi bắn! Ai đó? 

Tất cả lặng đi ở phía dưới đó, những bóng người ngừng động đậy, giọng nói đơn độc của chiến sĩ gác từ phía dưới báo tin: 

-Có người từ bộ tham mưu tập đoàn quân tới gặp tư lệnh. Cho cho lên không? 

-Đợi đấy!-Bô-gi-scô chặn lại và vừa chăm chú nhìn xuống và chạy xuống phía dưới. 

-Ai vừa ra lệnh thế? “Đợi đấy” là thế nào?-một giọng khác vang lên trong hào giao thông.-Thiếu tá Bô-gi-scô đấy à? Làm gì mà gào lên ghê thế? Tư lệnh đâu? ủy viên Hội đồng quân sự đâu? 

-À, đồng chí đại tá!-Bô-gi-scô nói, kéo dài giọng và cười vang.-Thế mà tôi cứ tưởng bọn Đức bò đến! Đồng chí đến chỗ chúng tôi có việc gì thế, đại tá? Buồn chán quá à? 

-Tôi buồn nhớ anh lâu rồi, thiếu tá Bô-gi-scô ạ. Với cái giọng như hùm beo thế lẽ ra anh không nên đi làm sĩ quan tùy tùng mà nên xuống đơn vị chỉ hy bộ binh. Trung tướng ở đây à? Cả ủy viên Hội đồng quân sự nữa chứ? 

-Cha mẹ sinh ra thế biết làm thế nào, đồng chí đại tá. Chỉ huy bộ binh thì cũng chả sao… Các đồng chí ấy ở đây cả. Anh vào đi. 

Đại tá Ô-xin trưởng phòng phản gián của tập đoàn quân bước từ hào giao thông vào đường hầm, phải bụi trên người, nhanh chóng sửa lại dây lưng, bao súng ngắn, túi dã chiến. Tất cả mọi thứ trên người ông đều xộc xệch y như thể ông đã chạy, đã ngã, đã bò từ lâu qua các đụn tuyết. Người sĩ quan tùy tùng của ông mang theo khẩu tiểu liên, toàn thân anh suốt từ đầu đến chân như bị vùi trong tuyết, đó là một người thấp bé, mập mạp, cúi đầu xuống mỗi khi nghe tiếng đạn rít trên đầu. Anh đứng ở phía sau và thận trọng giúp Ô-xin gạt những lớp tuyết bám ở lưng, ở cạnh sườn. Bô-gi-scô chăm chú đưa mắt nhìn họ và khẽ mỉm cười. Ở phía sau đường hầm còn ba người nữa cũng thở hồng hộc, giậm chân bành bạch: thiếu tá Tít-cốp vạm vỡ, vóc người đanh chắc như đô vật và hai xạ thủ tiểu liên cao lớn, lực lưỡng-họ đều thuộc đội bảo vệ của Bét-xô-nốp mà ông đã để lại ở đài quan sát của tqd. 

-Các cậu cũng ở đằng ấy đến đây à?-Bô-gi-scô ngạc nhiên hỏi đồng thời có ý ghen tị.-Các cậu được triệu đến à? 

-Sao tò mò thế? Anh muốn biết nhiều điều thừa quá đấy, Bô-gi-scô!-Ô-xin chặn ngay những lời dò hỏi đó và sau cùng khi đã lấy lại hơi, ông gạt tay người sĩ quan tùy tùng đang tận tụy cào tuyết trên chiếc áo choàng ngắn.-Thôi, Ca-xi-an-kính ngắm, thế được rồi! Đừng uổng công phí sức! Cậu ở lại đây với đội bảo vệ, đừng đi theo tôi.-Và ông hất đầu về phía đường hầm sâu hun hút. Thiếu tá Bô-gi-scô, anh hãy dẫn tôi tới gặp ủy viên Hội đồng quân sự. Hầm ngầm của đồng chí ấy ở đâu? 

-Đồng chí ấy cùng với tư lệnh hiện ở trên đài quan sát, thưa đồng chí đại tá. 

-Dẫn đường đi, thiếu tá!-Ô-xin nói buông xõng như ra lệnh và rắn rỏi đi theo Bô-gi-scô, dáng đi vững chãi, với vẻ uy nghi của một người biết rõ giá trị của mình, biết hoàn thành nhiệm vụ của mình một cách nghiêm túc và êm thấm. Các sĩ quan không quen biết trong sư đoàn mà ông gặp trong đường hầm đều ngước mắt nhìn theo cố đoán xem ông là ai và theo lệnh nào tới đây vào giờ này. 

Khi họ tới gần, Bét-xô-nốp đang lom khom người bên ống kính ngắm lập thể và chẳng hiểu sao Bô-gi-scô báo cáo về sự có mặt của trưởng phòng phản gián bằng một giọng vui vẻ pha lẫn ngạc nhiên, tấm lưng hẹp của Bét-xô-nốp hơi động đậy, ông quay người lại, tựa trên chiếc gậy, chăm chú nhìn khuôn mặt bóng nhẫy mồ hôi với đôi má phúng phính của Ô-xin, như thể không nhận ra, thong thả một lát rồi ông thốt lên vẻ ngờ vực: 

-Tôi khô-ông hiểu… Anh đến đây làm gì, đại tá? 

-Tôi muốn biết tình hình ở chỗ đồng chí như thế nào, thưa đồng chí tư lệnh!-Ô-xin đáp bằng thổ âm trơn Tru-ba-ri-cốp, nhẹ nhõm, thanh lịch của người miền Bắc, ông cười đôn hậu và đưa bàn tay lau mồ hôi trên má.-Người ta toàn nói tới tình hình ở chỗ Đê-ép nên tôi chịu không ngồi yên được. Thoạt đầu chúng tôi đi ô tô, còn lúc vào trong làng thì bò và chạy từng đợt ngắn… kể cũng hơi gay. Chúng nó bắn tứ phía nhưng chúng tôi đã đi trót lọt! 

-Anh ở chỗ ban tham mưu tập đoàn quân đến thẳng đây đấy à?-Bét-xô-nốp hỏi. 

-Lúc ở bộ tham mưu ra tôi có ghé qua đài quan sát của tập đoàn quân rồi đi thẳng từ đó tới đây.-Ô-xin theo dõi những đường đạn tóe vụn ra trên điểm cao, nụ cười tan biến dần trên đôi môi đen mọng của ông.-Bọn Đức làm gì thế không biết? Chả lẽ chúng hy vọng đột nhập được vào tận chỗ Pao-luýt-xơ hay sao, đồng chí tư lệnh? 

Bét-xô-nốp không hứng giải thích, ông vẫn còn chưa hiểu rõ lý do việc đi tới đây của đại tá Ô-xin mà ông còn ít biết và cho rằng hoàn toàn không cần thiết ở đây, ông đáp cụt lủn: 

-Anh nói đúng đấy, đại tá. 

-Đồng chí Ô-xin đấy à?-Ve-xnin hỏi, ông cũng băn khoăn về sự xuất hiện bất ngời của trưởng phòng phản gián, ông bước từ bóng tối đường hầm lại phía anh ta, tay giữ gọng kính, lông mày dướn lên.-Anh có việc gì ở đài quan sát thế? Có việc quan trọng à? 

-Thưa đồng chí ủy viên Hội đồng quân sự… 

Ô-xin không nói hết câu, khuôn mặt khỏe mạnh tròn trĩnh của anh bỗng tỏ vẻ nghiêm nghị và đưa mắt ra hiệu qua vai về phía các sĩ quan đang đứng ở phía sau đường hầm, về phía Bô-gi-scô đang tựa một khuỷu tay vào lũy đất, vẻ đường hoàng nghịch nghịch, bật lách tách quai đeo súng tiểu liên, rồi anh thốt lên, không nói hết ý của mình: 

-Thưa đồng chí ủy viên Hội đồng quân sự, tôi hiểu rằng tôi là người khách hiếm hoi ở đài quan sát, tuy vậy… tôi không muốn làm phiền tư lệnh, xin phép nói chuyện với đồng chí, được không ạ? Xin nói đúng ba phút thôi. 

Bét-xô-nốp nhăn mặt: lúc này ông ít quan tâm tới công việc nghiệp vụ của đại tá Ô-xin, ông muốn biết rõ một điều khác quan trọng hơn nhiều: làm thế nào anh ta lại đi qua được khu làng, nơi cuộc chiến đấu đang diễn ra ở khắp các khu vực. 

-Anh làm thế nào qua làng được, đại tá? 

-Chúng tôi đi xuyên ngang rìa làng ở phía Tây Bắc,-Ô-xin đáp như thể anh rất chú ý tới ý nghĩa câu hỏi của Bét-xô-nốp.-Đó là con đường duy nhất còn có thể đi qua được, thưa đồng chí tư lệnh. Tôi đã đích thân kiểm nghiệm. 

-Anh liều thế thật vô ích, đại tá.-Bét-xô-nốp nói một cách dửng dưng và lạnh lùng, ông đặt chiếc gậy tựa vào vách hầm, nghiêng mình vào kính ngắm, cố ý tỏ cho biết rằng cuộc trò chuyện đã chấm dứt rồi nhếch mép cười thầm: “Anh chàng Ô-xin này chẳng phải là tay vừa đâu”. 

Bô-gi-scô đưa tay lên môi che nụ cười. Đại tá Ô-xin vươn thẳng người đứng nghiêm, nhìn vào lưng Bét-xô-nốp. 

-Ta đi đi, đồng chí Ô-xin, mời đồng chí theo tôi,-Ve-xnin giục giã, không tỏ vẻ hài lòng nhưng bằng giọng nói của mình ông muốn giảm nhẹ sự thờ ơ lạnh nhạt dễ làm mất lòng của Bét-xô-nốp và chỉ tay vào cuối đường hầm.-Hầm ngầm ở kia. 

Ông kéo khuỷu tay Ô-xin đang ngạc nhiên ngoái nhìn Bét-xô-nốp ở phía sau, hình bóng bất động của Bét-xô-nốp thẫm đen lại bên cạnh ống kính ngắm, hòa lẫn với vách hầm.

 31.12.2010

LSB-Sun

-=[ Lương Sơn Ẩn Sĩ ]=-

ღ Đại Trưởng Lão QPB ღ

TUYẾT BỎNG

Chương 16

Nguồn: vnthuquan

Nội dung thu gọn

Ở đây, căn hầm ngầm nhỏ, trống trải, thoang thoảng mùi đất đông cứng, có lẽ do anh em pháo binh đào ở đầu mút đường hầm, được ngọn đèn “con dơi” treo trên nóc hầm chiếu sáng. Đất vụn trôi từ nóc hầm xuống, rơi lách cách vào bóng đêm làm cho nó khẽ đu đưa. 

Ve-xnin ngồi xuống cạnh cái bàn làm bằng hòm đạn, ném bao thuốc lá lên mặt bàn, rút một điếu và nói: 

-Tôi nghe đây, đồng chí Ô-xin. Nếu có thể được xin giải thích cụ thể hơn. 

Đại tá Ô-xin liếc mắt lướt nhìn khắp hầm ngầ, các góc tối trong hầm, đưa tay sờ đống vải bạt bị ném vào bên cạnh các bao phủ la bàn và ống kính ngắm rồi kéo tấm vải bạt che cửa ra vào, xong rồi anh mới ngồi vào bàn, bỏ mũ lông ra, tháo móc trên của chiếc áo choàng ngắn-anh cảm thấy nóng nực, người hãy còn đầy mồ hôi sau khi bò và chạy vọt tiến trong tuyết-anh bắt đầu nói, hạ thấp giọng: 

-Thưa đồng chí ủy viên Hội đồng quân sự, xin đồng chí tha lỗi cho câu hỏi không cần thiết của tôi: đồng chí đánh giá như thế nào tình hình của sư đoàn vào lúc này? 

-Vấn đề chẳng đã rõ rồi sao?-Ve-xnin bóp chặt điếu thuốc mềm ra, quẹt diêm, hút.-Chắc anh đã rõ tình hình của sư đoàn vào lúc chiều tối. Vậy anh hỏi để làm gì? 

Đại tá Ô-xin ngồi thẳng người lên. 

-Bản thân tôi đã biết rõ, thưa đồng chí ủy viên Hội đồng quân sự… 

-Tôi nghe anh…-Ve-xnin rít một hơi thuốc lá nhưng không phải để ngắt lời Ô-xin mà giục giã anh và ông nhả khói lên phía ngọn đèn “con dơi”, gật đầu ra hiệu cho anh quả thật vẫn như ban nãy ông không hiểu rõ trưởng phòng phán giản tới đây vì lý do gì: anh ta không có trách nhiệm phải tới đài quan sát trong lúc chiến đấu.-Ừ, anh nói tiếp đi. Cụ thể là anh đến về việc gì nào? Đó là điều tôi quan tâm. Anh cũng hiểu đấy, việc này xem ra khác thường lắm. 

Đại tá Ô-xin trầm ngâm suy nghĩ, đưa nắm tay lên vầng trán ẩm ướt, mái tóc màu sáng xoăn tít bết lại với nhau, gò má nhô cao, cạo nhẵn nhụi của anh trông như màu gạch. Anh dùng mũi hít không khí, nói bằng giọng rắn chắc: 

-Chắc đồng chí lấy làm lạ khi thấy tôi đến, thưa đồng chí ủy viên Hội đồng quân sự. Nhưng không phải tôi chỉ lo lắng về tình hình của sư đoàn Đê-ép lúc này. Tôi cũng đã được nghe cả ý kiến của tướng I-a-xen-cô cũng như của ủy viên Hội đồng quân sự phương diện quân Gô-lup-cốp. 

-Vậy thì có việc gì nào?-Ve-xnin dướn lông mày lên.-Anh nói gì về Gô-lup-cốp nhỉ? Đồng chí ấy ở bộ tham mưu tập đoàn quân à? Anh đã gặp đồng chí ấy à? 

-Vâng, đồng chí ấy đã tới… và đồng chí ấy cũng tỏ ra lo ngại về tình hình phức tạp ở sư đoàn. Lúc ấy Gô-lup-cốp không ở chỗ bộ tham mưu mà tới đài quan sát của tập đoàn quân. Đồng chí ấy muốn gặp đồng chí, thưa đồng chí ủy viên Hội đồng quân sự, nhưng đồng chí lại ở đây… 

Đại tá Ô-xin đưa bàn tay to bè lên vuốt mặt bàn xù xì về phía tay phải và phía tay trái, mỉm cười như xin lỗi Ve-xnin bằng cặp mắt hơi xanh xanh, nhìn như xoáy vào mắt ông. Trong ánh mắt đó không có cái vẻ chất phác, giữ ý kiểu quê mùa như khi anh nói chuyện với Bét-xô-nốp mà thể hiện ý muốn tế nhị không muốn làm mếch lòng người khác, không muốn vượt qua những ranh giới nhất định do cấp bậc quy định. 

-Có ý kiến cho rằng để cho việc chỉ huy chiến đấu được thuận tiện hơn, đồng chí và tư lệnh tập đoàn quân lúc này nên ở nơi nào có thể bảo đảm được an toàn cho các đồng chí. Ở đài quan sát của tập đoàn quân chẳng hạn. 

-Nghĩa là thế nào? Rời bỏ đài quan sát của sư đoàn để về đài quan sát của tập đoàn quân à? Ngay lúc này? 

-Vẫn có thể đi xe xuyên qua rìa làng phía Tây Bắc để về đài quan sát của tập đoàn quân. Chính tôi đã đi theo đường đó. Mạn ấy hãy còn tương đối yên tĩnh. Không có con đường nào khác. Chính mắt tôi đã trông thấy xe tăng Đức trên đường làng. Nhưng địch có thể cắt đứt con đường đó bất cứ lúc nào… 

-Anh nói là phải chuyển về đài quan sát của tập đoàn quân à? Anh có trách nhiệm quan tâm đến việc đó hay sao?-Ve-xnin hỏi và nhún vai. 

-Thưa, đồng chí ủy viên Hội đồng quân sự,-Ô-xin đáp, hơi mếch lòng và tỏ ý trách móc, ngạc nhiên trước sự thật thà ngây thơ của Ve-xnin,-trong trường hợp này, như tôi đã nói, đây không phải là ý kiến cá nhân tôi. Nhưng đôi khi một vài sự lắt léo của cuộc chiến đấu bắt buộc tôi phải lo ngại. 

-À, chà chà,-Ve-xnin kéo dài giọng.-Chà, chà, lo ngại… nhưng tôi cũng lo ngại, đồng chí Ô-xin ạ. Và tư lệnh cũng lo ngại không kém gì tôi. Đó là điều tự nhiên thôi. Theo ý tôi đồng chí ấy cũng biết rõ rằng bộ binh là cánh tay, xe tăng là cẳng chân và tướng lĩnh là cái đầu… Mất đầu là mất tất. Bét-xô-nốp không phải hạng người không có đầu óc, liều lĩnh một cách vô ích. 

Sau khi đã nói như thế một cách có dụng ý, ông chăm chú nhìn giây lâu vào mái tóc sáng, xoăn tít, hãy còn ẩm, bị mũ làm hơi rối lên của Ô-xin, vầng trán rộng của anh, cái mũi hơi hếch, khuôn mặt tròn vành vạnh tràn trề sức khỏe của một con người bẩm sinh cường tráng, khí huyết điều hòa, thần kinh vững chãi; ông tưởng như lần đầu tiên trông thấy hàng lông mi trắng thẳng tắp và ánh mắt xanh xanh bướng bỉnh lạnh lùng của viên đại tá mà mỗi lời nói ra đều dịu ngọt. Hai má Ve-xnin bắt đầu bừng bừng, ửng đỏ và một cảm giác khó chịu, gần như nỗi chán chường dâng lên trong lòng ông chống lại Ô-xin-chống lại cái sức khỏe chắc nịch của anh ta, vầng trán rộng, cặp lông mi trắng, chống lại những lời khuyên lấp lửng tưởng như vô thưởng vô phạt đó của anh ta và chống lại cái lối dè dặt, lịch thiệp nhằm che giấu một sự thận trọng nào đó, che giấu khéo léo việc mình gắn bó với một quyền lực bảo hộ đặc biệt mà do nhiều hoàn cảnh cần phải bảo tồn tại bên cạnh, trong cùng một tập đoàn quân với Ve-xnin, quyền lực đó hoàn thành những chắc năng tất yếu của mình, không bao giờ can thiệp vào tình hình trận đánh và Ve-xnin nén giận, đứng dậy. 

Mặt ửng đỏ, Ve-xnin thọc tay vào túi áo choàng, đi đi lại lại trong hầm ngầm và nói: 

-Như thế nghĩa là, đồng chí Ô-xin, do tình hình hiện nay của sư đoàn, tướng Bét-xô-nốp và tôi cần phải rời bỏ đài quan sát này phải không? Nhưng nói cho cùng chính đồng chí cũng biết rằng trong chiến tranh không ở đâu, không bao giờ, không ai có thể được bảo đảm trước bom đạn. Cả ở đài quan sát của tập đoàn quân cũng như ở đài quan sát của sư đoàn.-Ve-xnin bỗng trông thấy cái gáy phủ tóc vàng của Ô-xin, cái cổ trong nhẫn, đôi tai bẹp gí, tinh tường và chăm chú, và ông nổi giận đùng đùng, nói tiếp:-Anh nói với tôi chuyện vớ vẩn gì thế? Ai khuyên anh nói thế, Gô-lup-cốp à? Tôi không tin rằng đồng chí ấy có thể khuyên anh như vậy! Tôi không tài nào tin được! 

-Thưa đồng chí ủy viên Hội đồng quân sự, xin đồng chí thứ lỗi cho, nhưng bịp bợm không phải là cung cách của tôi. Hơn thế nữa, ngoài nhiệm vụ do đồng chí Gô-lup-cốp giao phó, tôi còn có một việc nữa cần nói với đồng chí. Việc hơi khác một chút… 

Giọng nói nhỏ nhẹ, khêu gợi đó của đại tá Ô-xin khiến Ve-xnin dừng chân ở trước bàn; ánh mắt ngước lên như muốn kiểm tra cái gì đó và màu xanh biếc lạnh như băng trong đôi mắt nhấp nháy dưới ánh đèn của trưởng phòng phán giản như thoáng làm cho ông lạnh toát người. Lúc ấy ông đi lại gần bàn, tì ngón tay lên mặt bàn và hỏi một cách nghiêm khắc: 

-Chuyện gì thế anh? 

Ngước lên ánh đèn, đôi mắt Ô-xin như bị che bởi một cái mạng bằng thủy tinh, nhìn xoáy vào mặt Ve-xnin, Ô-xin im lặng, tựa hồ như bằng cái nhìn đó anh ta đồng thời cảnh giác cân nhắc cái gì đó ở trong bản thân mình cũng như trong Ve-xnin, anh ta còn chưa quyết định nói, chưa vượt qua một trở ngại nào đó. 

-Anh nói đi!-Ve-xnin đòi hỏi.

 31.12.2010

LSB-Sun

-=[ Lương Sơn Ẩn Sĩ ]=-

ღ Đại Trưởng Lão QPB ღ

TUYẾT BỎNG

Chương 16 -2

Nguồn: vnthuquan

Nội dung thu gọn

Ô-xin đứng dậy, đi về phía cửa hầm ngầm, dứng lại đó một lát, rồi lại quay vào ngồi xuống ghế, mặt ghế cọt kẹt dưới sức nặng thân hình chắc nịch của anh. Và một lần nữa cặp mắt như đeo cái mạng bằng thủy tinh cùng với giọng nói hạ thấp của Ô-xin chờn vờn quanh Ve-xnin. 

-Xin đồng chí hiểu đúng ý tôi, thưa đồng chí ủy viên Hội đồng quân sự. Vì sao đồng chí và tư lệnh tập đoàn quân lại quên mất cảnh giác khi mà không thể quên được? Tôi biết tính khí của tư lệnh, chắc đồng chí ấy không muốn nghe tôi, vì vậy tôi nói với đồng chí, với đại diện có uy tín của Đảng, nói một cách hoàn toàn cởi mở. 

-Được. Anh nói tiếp đi,-Ve-xnin nói và nghiêng người thấp hơn nữa trên mặt bàn, nhìn vào tròng mắt Ô-xin và cũng vẫn chưa đoán được hết cái gì đó lấp lửng mà trưởng phòng phán giản không nói ra có lẽ do thói quen dè dặt hoặc là do e ngại ông, ủy viên Hội đồng quân sự, người nắm quyền lực hết sức lớn. 

-Thưa đồng chí ủy viên Hội đồng quân sự,-Mắt Ô-xin vẫn chưa hết vẻ đắn đo, đôi lông mày màu sáng hơi cụp xuống.-Đối với đồng chí chẳng có chuyện gì bí mật, đồng chí biết rất rõ những biến cố tai hại xảy ra trên mặt trận Vôn-khốp vào tháng sáu năm nay. Chắc đồng chí hãy còn nhớ. 

-Nghĩa là thế nào?-Ve-xnin đột ngột nhấc ngón tay khỏi bàn, thọc tay vào túi áo choàng, đi vài bước trong hầm ngầm, ông bỗng chốc cảm thấy cóng lạnh và không rút tay ra khỏi túi.-Rốt cuộc tôi càng không hiểu gì cả! Anh muốn nói về tập đoàn quân xung kích số Hai phải không? 

-Vâng, về những biến cố xảy ra tại tập đoàn quân xung kích số Hai. Không thể nào quên chuyện đó được. Chính là…-Ô-xin nhắc lại một cách đầy ý nghĩa và nhìn lên nóc hầm ngầmệnh lệnh: nóc hầm kẽo kẹt vì những tiếng đạn nổ gần trên điểm cao, ngọn đèn “con dơi” chao đảo ở trên đầu.-Đồng chí hãy nhìn xem: Xe tăng địch vẫn đang nã súng vào đài quan sát… 

Ve-xnin ngồi phắt xuống ghế, rút ngay tay ra khỏi túi áo và vươn người về phía bao thuốc lá dính đất rơi ở trên trần xuống nhưng lập tức ông đẩy ngay bao thuốc ra, xoa thái dương như thể làm cho đầu đỡ đau và bất ngờ ngạc nhiên nhìn thẳng vào Ô-xin. Có một cái gì đó đã bung ra trong người ông, ông cảm thấy mình sắp nổi khùng lên, sắp đấm tay xuống bàn nhưng ông chỉ tức giận thốt lên: 

-Vậy thì tất cả những chuyện đó có quan hệ gì? Anh, Ô-xin, anh lo ngại… anh sợ rằng nếu như sư đoàn bị bao vây hoàn toàn thì chưa biết sẽ xảy ra chuyện quái quỉ gì với Bét-xô-nốp và tôi chứ gì? Do đâu anh có sự thận trọng này? 

-Ấy, sao lại thế, thưa đồng chí ủy viên Hội đồng quân sự? 

Ô-xin cụp đôi lông mi trắng xuống, nói một cách thành thực và có ý dỗi: 

-Sao đồng chí lại nói thế? Tôi biết rõ tinh thần dũng cảm của tướng Bét-xô-nốp và biết rõ đồng chí, và tôi không thể hiểu được tại sao đồng chí, xin thứ lỗi cho, lại coi tôi là một kẻ quá ngu ngốc như vậy, thưa đồng chí ủy viên Hội đồng quân sự? Tôi không muốn bị hiểu lầm. 

-Thế nghĩa là phải hiểu như thế nào? 

-Tôi muốn nói về những sự ngẫu nhiên. Chắc đồng chí còn chưa biết rõ về số phận bi thảm của con trai tư lệnh, thiếu úy Bét-xô-nốp? 

Tiếng đạn trái phá nổ xô mạnh căn hầm ngầm, ngọn đèn lại chao đảo dưới nóc hầm vặn mình răng rắc, những mảnh đất vụn rơi bồm bộp trên mặt bàn. Có tiếng chân người bước nặng nề, có người thét to, chạy dọc theo đường hầm gần căn hầm ngầm, những giọng đáp lại không rõ vang lên, nhưng Ve-xnin không chú ý đến những tiếng ồn ào trong đường hầm. 

-Không,-ông đáp.-Tôi có biết chuyện con trai của tư lệnh bị mất tích trên mặt trận Vôn-khốp. Thế anh có tin gì thêm. 

Ô-xin quay đầu về phía cửa vào hầm ngầm, lắng nghe tiếng nổ trên điểm cao, những giọng nói trong đường hầm, rồi không thật quả quyết lắm anh đặt lên bàn chiếc túi dã chiến căng phồng, mới tinh, không một vết xước rồi mở túi ra. Ngón tay anh lục lọi đám giấy tờ sột soạt. 

-Đồng chí hãy xem, thưa đồng chí uỷ viên Hội đồng quân sự, một tài liệu mới nhất. Tờ truyền đơn này tôi vừa mới nhận được và quyết định báo tin ngay để đồng chí biết. Đồng chí hãy xem đi… 

Ô-xin thận trọng rút tờ truyền đơn từ kẹp giấy để trong túi và chìa sang bên kia bàn đưa cho Ve-xnin, tờ truyền đơn hình chữ nhật màu vàng nằm trên mặt bàn xù xì trước mặt ông. Trên tờ truyền đơn, tấm ảnh như một vết sẫm mầu, in trên giấy báo rẻ tiền, đập ngay vào mắt cùng những hàng chữ đậm nét phía trên bức ảnh: “Con trai của một vị chỉ huy quân sự Bôn-sê-vich nổi tiếng đang điều trị tại một bệnh viện quân y Đức”. Trên ảnh là một chú bé gày gò, như thể đã phải chịu đựng một căn bệnh làm cho kiệt sức, đầu cạo trọc, mặc áo va rơi có đeo quân hàm thiếu uý, chẳng hiểu sao cổ áo lại mở banh ra để lộ rõ chiếc cổ giả mới tinh đính xiên xẹo vào, chú bé ngồi trong chiếc ghế bành đặt sau cái bàn nhỏ, xung quanh là hai sĩ quan Đức quay mặt về phía chú, mỉm cười gượng gạo. Chú bé cũng mỉm cười một cách đau khổ, kỳ quặc, đưa mắt nhìn những ly rượu chân cao đặt ở giữa bàn, một chiếc nạng tựa vào tay vịn của ghế bành. 

-Đây không phải là đồ giả mạo chứ? Hay đây đúng là con trai của tướng Bét-xô-nốp?-Ve-xnin thốt lên còn cố cưỡng lại mình, chưa tin rằng chú bé cạo trọc dường như bị kiệt sức vì bệnh thương hàn đó có thể là con trai của Bét-xô-nốp và sau khi hỏi, ông đưa mắt nhìn Ô-xin như ngầm báo trước cho anh biết rằng ông sẽ không tha thứ cho sự lầm lẫn. 

-Tất cả đều đã được kiểm tra, thưa đồng chí uỷ viên Hội đồng quân sự,-Ô-xin với cái vẻ trang trọng và nghiêm nghị của một con người biết rõ trách nhiệm của mình.-Riêng về tấm ảnh thì tuyệt đối không có sự nhầm lẫn. Đồng chí hãy đọc đoạn văn xem, thưa đồng chí uỷ viên Hội đồng quân sự. 

Ô-xin ngả người ra đằng sau khiến chiếc ghế làm bằng hòm đạn cọt kẹt, mũi thở mạnh ra. 

Ve-xnin đưa mắt lướt qua đoạn văn ngắn ở phía dưới tấm ảnh, chật vật mãi vẫn không hiểu ngay được ý nghĩa của nó, ông đọc đi đọc lại mấy lần những câu nói cay độc quen thuộc, xông lên cái mùi vị xa lạ, lối tuyên truyền dối trá quen thuộc, đã thành nếp của bọn phát xít, ông không thể nào tập trung, chăm chú đọc đoạn văn đó được. Ông ngừng đọc, nhìn vào tấm ảnh trông như một vết sẫm đen đó, nhìn nụ cười đau khổ của chú bé đầu cạo trọc, chiếc nạng dựa vào tay vịn ghế bành, cái cổ áo giả sạch sẽ đính xiên xẹo vào chiếc cổ áo không cài khuy và nhìn vào cái cổ trẻ trung gầy gò đến thảm hại của con trai tướng Bét-xô-nốp. Đoạn văn có mấy câu khiến Ve-xnin chú ý: “Con trai nhà chỉ huy quân sự nổi tiếng Bét-xô-nốp-như mọi người đều biết, ông từng chỉ huy một trong những cánh quân từ hồi đầu chiến tranh-đã tuyên bố với các đại biểu của bộ chỉ huy Đức rằng người ta đã ném cái đại đội huấn luyện và trang bị kém do anh ta chỉ huy, vào lò sát sinh. Trận đánh cuối cùng thật không thể nào chịu đựng nổi… Thiếu uý Bét-xô-nốp bị thương nặng, đã chiến đấu dũng cảm, hầu như cuồng tìn, anh cũng đã tuyên bố rằng: “Tôi rất ngạc nhiên khi được đưa vào điều trị tại viện quân y. Tôi đã thấy nhiều tù binh Xô viết ở đây. Họ được điều trị chu đáo. Lối tuyên truyền của chính phủ Xô-viết về sự man rợ của người Đức là không phù hợp với thực tế. Tại đây, trong viện quân y tôi có thì giờ để hiểu rằng người Đức là một dân tộc nhân đạo, có trình độ văn minh cao, muốn khôi phục tự do ở nước Nga sau khi lật đổ chế độ Bôn-sê-vich…”. 

-Đồng chí đã xem rồi chứ ạ, thưa đồng chí uỷ viên Hội đồng quân sự?--Giọng nói trang trọng của Ô-xin vang lên, anh đã theo dõi thấy Ve-xnin đọc lâu.-Xin đồng chí cho phép tôi lấy lại tờ truyền đơn. 

“Thế ra là con trai Bét-xô-nốp đây, nó hãy còn sống và bây giờ thì rõ quá rồi,-Ve-xnin nghĩ, ông vẫn chưa đủ sức rời mắt khỏi tấm ảnh xám, in mờ của chú bé hốc hác đeo quân hàm thiếu uý đó.-Bét-xô-nốp không biết chuyện này. Có lẽ anh ấy đoán ra nhưng không biết rõ. Thế nghĩa là thế nào? Đoạn văn rõ ràng là giả mạo. Chắc chắn là giả mạo, chúng nó thiếu gì cái trò này. Một thằng khốn nạn nào đó bị bắt làm tù binh cùng với thằng bé đã chỉ cho bọn Đức biết: ấy, tay đại đội trưởng ấy là con trai một vị tướng đấy. Phải, chắc là như thế. Đúng hơn cả là như thế. Không thể nào khác được. Rồi sau đó nó bị đưa vào viện quân y. Ngay trong cuộc hỏi cung đầu tiên, chúng nó đã chụp ảnh và bịa ra đoạn văn này. Không thể nào khác được! Nó là chú bé học sinh được Đoàn thanh niên cộng sản, được chính quyền Xô-viết giáo dục kia mà! Không, mình không tin vào một cách lý giải khác, mình không thể tin được!”. 

-Thưa đồng chí uỷ viên Hội đồng quân sự, chính đồng chí cũng hiểu rõ ràng không thể đem tờ truyền đơn này ra phổ biến được. Nghĩa là… tôi rất không muốn để tư lệnh biết việc này. 

-Khoan đã. 

“À phải, Bét-xô-nốp, Bét-xô-nốp… Anh ấy đã nói là người ta chỉ thông báo cho anh ấy biết rằng con trai anh ấy đã bị mất tích. Nó không có tên trong danh sách những người bị chết và bị thương… Mà tờ truyền đơn này đề ngày tháng nào nhỉ? 14 tháng Mười năm 1942. Gần hai tháng trước”. 

-Thưa đồng chí uỷ viên Hội đồng quân sự, xin đồng chí thứ lỗi cho. Đồng chí hãy trả lại cho tôi tờ truyền đơn. Tư lệnh có thể bất chợt vào đây.-Chúng ta không có quyền làm cho đồng chí ấy chấn thương về tinh thần… 

“Lúc Bét-xô-nốp ở Mát-xcơ-va người ta đã biết việc này hay chưa biết? “Tờ truyền đơn này, bản thân đồng chí cũng biết đấy, không phải để phổ biến”… ”Chúng ta không có quyền làm chấn thương”. Thế nghĩa là có một người nào đó đang bằng cách này hay cách khác ngăn chặn không để tư lệnh biết tấn thảm kịch thật sự đã ụp lên đầu con trai ông. Nhưng để làm gì? Ý nghĩa của việc làm đó. 

-Đồng chí Ô-xin này, đồng chí tin vào tờ truyền đơn này à?-Ve-xnin hỏi khẽ.-Đồng chí tin rằng chú bé này… đã phản bội?... 

-Tôi không suy nghĩ,-Ô-xin đáp và khoát tay một cách khinh khỉnh. Sau đó anh ta chữa lại:-Nhưng… trong chiến tranh mọi việc đều có thể xảy ra. Tất tật mọi sự, tôi cũng biết rõ như vậy. 

-Anh cũng biết?-Ve-xnin nhắc lại và cố không để lộ các ngón tay đang run, ông gấp tờ truyền đơn làm tư, mở khuy áo choàng, đút nó vào trong túi ngực.-Tôi sẽ giữ tờ truyền đơn, như anh nói, “không phải để phổ biến”.-Ve-xnin đặt những nắm tay siết chặt lên bàn.-Bây giờ tôi khuyên anh thế này: anh hãy lập tức rời khỏi đây! Anh hãy đi khỏi đài quan sát ngay lúc này. Như thế sẽ hay hơn. Anh hãy đi ngay đi! 

Rồi tựa nắm tay lên bàn, Ve-xnin đứng lên. 

Ô-xin cũng đứng dậy nhưng vì quá vội vã nên cụng đầu gối vào bàn; khuôn mặt hơi bầu bĩnh, đỏ đắn khoẻ mạnh chợt trắng bệch, da mặt căng lên. 

-Còn nếu như có xảy ra chuyện gì trong vòng vây, đại tá Ô-xin…-Ve-xnin dằn giọng nói tiếp,-nếu như có xảy ra chuyện gì thì sự an toàn… là ở đây,-và ông đưa tay ra vỗ vỗ vào bao súng ngắn đeo trên dây lưng ở cạnh sườn.-Ở đây này… Họ đứng im lặng hồi lâu ở hai đầu bàn. Xe tăng địch bắn như giã gạo lên điểm cao, tưởng như đạn pháo đã xê dịch căn hầm ngầm về một phía, đất chảy như suối từ nóc hầm xuống vách hầm, rơi rào rào lên phản, ngọn đèn “con dơi”, lúc lắc trên nóc hầm mờ tối đi, thông phong bị ám khói. Ve-xnin đã định rời khỏi hầm ngầm đi ra đường hầm nơi có nhiều người đứng, có tiếng ra lệnh, và giọng người nói sôi nổi, ra để hít thở chút khí trời lạnh giá sau cuộc trò chuyện này, ông trông thấy cặp môi dày của Ô-xin hơi mỉm cười còn cặp mắt xanh xanh của anh chẳng cười chút nào, ông bèn thốt lên, ghê sợ ngay cả giọng nói gay gắt của mình: 

-Bét-xô-nốp sẽ không biết một tí gì về cuộc trò chuyện này! 

Ô-xin im lặng một cách lễ độ. Không một giây phút nào anh ta quên trọng trách của Ve-xnin, những quan hệ tốt đẹp của ông với uỷ viên Hội đồng quân sự phương diện quân Gô-lup-cốp, anh ta không hề quên rằng Ve-xnin có quyền liên lạc trực tiếp với Mát-xcơ-va và đồng thời anh ta cho rằng Ve-xnin là một người quá nóng nảy, thiển cận, thiếu thận trọng, thậm chí nhu nhược,-những người như thế không thể làm cho người ta tin vào địa vị vững chắc của họ. Ô-xin biết rất rõ về ông, anh ta biết rằng Ve-xnin không phải là sĩ quan chuyên nghiệp mà là cán bộ dân sự, ông vốn là cán bộ giảng dạy ở trường Đảng cao cấp và Học viện chính trị; anh ta nhớ rõ rằng bà vợ thứ hai của ông, người Ac-mê-ni-a là giáo viên hoá học, đứa con gái bà vợ trước tên là Nhi-na lên mười, anh ruột người vợ trước của ông bị kết án vào cuối những năm ba mươi, do việc đó Ve-xnin đã bị cảnh cáo nghiêm khắc và mãi trước khi xảy ra chiến tranh việc cảnh cáo đó mới bị bãi bỏ; anh ta biết rằng năm bốn mươi mốt ông đã là chính uỷ sư đoàn, đã vượt khỏi vòng vây của địch ở gần E-nhi-a và dẫn theo hầu như cả một trung đoàn nguyên vẹn; anh ta còn biết có và còn nhớ nhiều điều mà có lẽ chính bản thân Ve-xnin đã quên từ lâu. Nhưng sau khi cân nhắc tất cả cái đó trong trí nhớ ngồn ngộn và dai dẳng của mình, theo thói quen Ô-xin đã náu mình sau một nụ cười mỉm không biểu lộ cảm xúc gì. Và anh ta đã trả lời Ve-xnin bằng một thái độ mập mờ như vậy: 

-Bản thân tôi không hề nhấn mạnh vào một điểm nào cả, thưa đồng chí uỷ viên Hội đồng quân sự. Tôi chỉ làm tròn trách nhiệm của mình… Trách nhiệm của sĩ quan và của người đảng viên. 

-Và một khi trách nhiệm của anh đã được hoàn thành, anh chẳng còn việc gì để làm ở đây nữa,-Ve-xnin rầu rĩ nói.-Tôi nhắc lại lần nữa: anh hãy đi ngay khỏi đài quan sát và đừng lo sợ những chuyện ngẫu nhiên! Tôi không thể tưởng tượng được một cái gì vô lý hơn sự thận trọng của anh! Chả lẽ chỉ có mỗi một tiếng “bao vây” đủ để gây ra những nỗi khiếp sợ huyền bí hay sao! 

Ve-xnin bước lại gần bàn, mắt kính loé sáng nhìn đại tá Ô-xin, với tay cầm bao thuốc lá dính đất ở bàn rồi khom người qua cửa hầm ngầm bước ra ngoài bóng tối lờ mờ dưới ánh sáng đạn pháo sáng, bước giữa tiếng ầm ầm của những loạt đạn súng máy, của những phát đại bác bị gió cuốn trên bờ luỹ đất của đường hầm.

Chương 17

Nguồn: vnthuquan

Nội dung thu gọn

Ở hầm ngầm ra, Ve-xnin không tìm được đường hầm dẫn tới chỗ Bét-xô-nốp, tiếng súng máy như sát bên tai khiến tai ông bị ù đặc. Tới một khúc ngoặt trong đường hầm, ông nhận ra mấy người đang dứng trên luỹ đất nã tiểu liên xuống phía dưới. Không dừng lại, ông hỏi một cách máy móc: 

-Các anh đã phát hiện ra cái gì thế? Các anh bắn đi đâu? 

-Chúng nó đang bò trên các triền dốc!-Có người từ luỹ đất trả lời ông.-Chúng nó định lẻn vào, quân khốn…!-Rồi anh ta nã một tràng dài, lòng bàn tay vuốt lách cách trên băng đạn.-Xin lỗi đồng chí uỷ viên Hội đồng quân sự. 

Ve-xnin đã nhận ra thiếu tá Bô-gi-scô; chiếc mũ lông lắt lẻo ở sau gáy để lộ rõ mảng đầu hói sớm của anh, toàn bộ khuôn mặt anh ánh lên vẻ say sưa vui vẻ. 

-Việc gì phải xin lỗi. Tôi đâu có phải là cô gái đẹp mà anh ngượng,-Ve-xnin nhếch mép cười và nói:-Trái lại tôi cám ơn vì tinh thần phấn chấn của anh. Tư lệnh đâu? 

-Ở quá đây một chút, trong đường hầm, cùng với Đê-ép,-Bô-gi-scô đáp và tò mò hỏi:-Còn Ô-xin thế nào ạ? Anh ta đâu? Anh hùng thật đấy: vừa đi vừa chiến đấu, đột nhập được tới tận đài quan sát! Chỉ có điều không biết anh ấy tới để làm gì? Định kiểm tra tấm huân chương đeo vào ngực vì đã tham gia chiến đấu chăng? Ca-xi-an-kin cũng không biết rõ, không lộ bí mật quân sự! Tay cừ thật! 

Bị kích động vì vừa nã súng, Bô-gi-scô nói một cách không tự nhiên, không che giấu thái độ tin cậy quen thuộc của mình khi trò chuyện với Ve-xnin và sau khi nói về Ca-xi-an-kin anh vỗ vào vai người nào đó đang nằm như một mô đất sẫm ở bên cạnh trên bờ công sự rồi anh cả cười: 

-Tôi đang thuyết phục Ca-xi-an-kin phải giết chí ít là một tên xâm lược, như nhà thơ nói, để sau chiến tranh còn có chuyện mà kể, thưa đồng chí uỷ viên Hội đồng quân sự, ấy thế mà anh ta lại bảo tôi là anh ta không thích thơ. Không sao, Ca-xi-an-kin, rồi mình sẽ dạy dỗ cậu, Ca-xi-an-kin ạ, cậu mài đũng quần chưa ăn thua gì đâu. Xin đồng chí uỷ viên Hội đồng quân sự tha lỗi cho cách nói thô lỗ của tôi… Hãy học hỏi đi. Ca-xi-an-kin, chừng nào tôi còn sống! Nã ít loạt đạn ngắn về phía kia đi! 

-Thôi để cho tôi yên, đồng chí thiếu tá!-Ca-xi-an-kin cằn nhằn bằng giọng bối rối.-Thưa đồng chí uỷ viên Hội đồng quân sự, thiếu tá Bô-gi-scô không có quyền chỉ huy tôi và trách móc sau lưng… 

-Anh vẫn còn ở đây đấy à, Ca-xi-an-kin? Ve-xnin nói.-Tại sao lại ở đây? 

Vốn thường quen với tác phong giản dị và lối mỉa mia nhẹ nhàng của anh chàng Bô-gi-scô xởi lởi, Ve-xnin không chú ý tới những lời đùa cợt của anh ta. Sau khi trò chuyện với Ô-xin, được biết rõ câu chuyện đau lòng bất ngờ phơi trền số phận của con trai Bét-xô-nốp, khi trông thấy Ca-xi-an-kin ông chỉ nghĩ tới việc Ô-xin vẫn chưa đi khỏi đài quan sát. Bởi vậy khi Ca-xi-an-kin trườn từ bờ luỹ công sự xuống, sửa lại dây lưng, giũ đất khỏi mình, vẻ mếch lòng, Ve-xnin đã nói bằng cái giọng ra lệnh xa lạ đối với chính bản thân ông : 

-Ca-xi-an-kin, anh hãy nghe cho rõ đây: đi tìm đại tá ngay bây giờ. Anh ấy đang chờ anh trong căn hầm ngầm của pháo binh. Ở cuối đường hào. Và lập tức quay trở về bộ tham mưu tập đoàn quân ngay. Đi đi. Chạy nhanh lên. 

-Xin tuân lệnh, thưa đồng chí uỷ viên Hội đồng quân sự.-Ca-xi-an-kin hét to, rõ ràng là phấn khởi. Anh ta thấy dễ chịu khi nghe mệnh lệnh đó và sau khi chào, anh lúng túng lao mình vào đường hào sáng lên dưới những quả đạn pháo sáng. 

-Có chuyện gì thật sao, thưa đồng chí uỷ viên Hội đồng quân sự?-Bô-gi-scô nghiêm chỉnh trở lại, hỏi.-Hay là bí mật ạ? 

Ve-xnin nói: 

-Cái lối hài hước của anh ấy mà, Bô-gi-scô ạ, tôi có thể hiểu được vì tôi biết rõ anh. Nhưng anh chớ có tưởng rằng mọi người đều hiểu cả đâu. Anh có biết rằng có những người coi chuyện đùa là thật một cách quá nghiêm chỉnh không? 

-Cám ơn đồng chí uỷ viên Hội đồng quân sự. Xin lỗi đồng chí chứ tôi thây kệ những tay nghiêm chỉnh ấy! Lý lịch của tôi trong veo như thuỷ tinh.-Bô-gi-scô vui vẻ nói.-Tôi sống một thân một mình ở trên thế gian này như một cái đinh. Và tuyệt lắm. Chẳng mất qua một tí gì ngoài những cái vạch trên quân hàm. Còn Ca-xi-an-kin là kẻ dốt nát và ngốc nghếch, hắn làm việc hùng hục như một cái rìu bổ củi, đến là nực cười. Hắn định dựa vào tình thân giữa các sĩ quan tuỳ tùng với nhau. 

-Nghĩa là thế nào?-Ve-xnin không hiểu và cau mày.-Cụ thể là gì? 

-Hắn là một chiếc rương to đấy, đồng chí uỷ viên Hội đồng quân sự ạ,-Bô-gi-scô cười vang.-Nhưng lạ lắm cơ… Hắn bảo tôi: “Anh sống với tư lệnh thế nào, ông tướng ấy cũng vầy vậy đấy chứ, ông ấy có bắt anh tháo giày không? Ông ấy có uống rượu Vốt ca không?”. Tôi mới bảo hắn: “Cậu có biết bài thơ: “Hãy giết tên giặc Đức” không? Cậu có biết cầm súng tiểu liên không? Người ta cầm súng như thế nào, cắp ở nách hay là ở phía dưới thắt lưng?”. Hắn lại nói: “ông tướng trông lầm lì lắm, ông ấy sống với chính uỷ thế nào, hoà thuận hay là mâu thuẫn?”. Tôi bảo hắn: “Cậu không đội nhầm cái bình đất có quai thay cho mũ sắt đấy chứ?”. Chúng tôi nói chuyện một cách cở mở, tuyệt lắm đồng chí uỷ viên Hội đồng quân sự ạ! -Bét-xô-nốp ở đằng kia à?-Ve-xnin hỏi, đưa mắt nhìn về phía đường hào nơi có những bóng người thấp thoáng ẩn hiện dưới ánh pháo sáng. Ông bước trong đường hào nhưng trái với ý mình, ông bước chầm chậm và chợt dừng lại trong cái hốc đựng la bàn vì ông thấy không đủ sức nói với Bét-xô-nốp ngay lúc này về điều mà ông, với tư cách là uỷ viên Hội đồng quân sự, và đại tá Ô-xin được biết, về điều mà Bét-xô-nốp không thể nào ngờ tới được: về số phận khủng khiếp lạ lùng của chú bé cạo trọc đầu, với nụ cười đau khổ, con trai Bét-xô-nốp, chú bé đã không bị giết và đã sống trong trại tù binh từ mấy tháng nay. 

“Anh ấy có thể hỏi về lý do khiến Ô-xin tới đây. Mình sẽ trả lời thế nào? Bây giờ mình lại gần anh ấy rồi nhìn vào mắt anh ấy mà nói dối tuy rằng, là một con người mình không có quyền làm như thế chăng?-Ve-xnin nghĩ.-Lúc ấy quan hệ giữa chúng mình rồi sẽ như thế nào? Không được, mình không thể lại gần anh ấy và làm ra vẻ như không có chuyện gì xảy ra. Giữa chúng mình cần phải có sự thành thực và trong sáng tuyệt đối… Nhưng mình không đủ sức nói với anh ấy lúc này về con trai anh ấy. Mình chịu không thể…”. 

Ve-xnin cảm thấy rằng trong lúc quan hệ giữa hai người thực tế là không đơn giản và căng thẳng, ông càng đặc biệt không có quyền gì lẩn tránh vấn đề theo kiểu ngoại giao, ông không thể làm thế nào giảm nhẹ câu chuyện, lảng tránh điều chủ yếu. Và ông cứ đứng như vậy trong hốc đựng la bàn, ông cảm thấy hổ thẹn kinh khủng, như thể ông đang nôn oẹ trước mắt mọi người vậy. 

-Pi-ốt A-lếch-xan-đrô-vích!-Ve-xnin bất ngờ bước ra khỏi hốc đựng la bàn, bước nhanh lại phía Bét-xô-nốp, đang đứng giữa các sĩ quan gần ống kính ngắm lập thể.-Pi-ốt A-lếch-xan-đrô-vích… 

-Kìa, tôi đang cần gặp anh, Vi-ta-li I-a-ê-vích,-Bét-xô-nốp nói và rời khỏi kính ngắm, lấy khăn mùi soa lau những bụi tuyết lấm tấm trên mặt.-Sư ba linh năm đã xuất kích. Bây giờ chúng ta xem tình hình sẽ như thế nào. Nhưng điều chủ yếu là thế này…-Ông vẫn lau mặt bằng mùi soa với vẻ trầm ngâm lơ đãng.-Điều chủ yếu là lúc này các quân đoàn xe tăng và cơ giới. Phải giục giã, giục giã bằng mọi cách cho các quân đoàn đó đi nhanh lên! Tôi đề nghị anh, Vi-ta-li I-a-ê-vích, đi đoán quân đoàn xe tăng tại khu vực tập kết và nếu như anh không phản đối, anh hãy ở lại đó để phối hợp hành động cho có kết quả. Tôi coi đó là việc rất cần thiết. Nếu tôi nhớ không nhầm thì hình như anh rất yêu mến các chiến sĩ xe tăng, phải không? 

Ve-xnin thấy cổ họng nghèn nghẹn, ông chật vật đáp: 

-Tôi sẽ làm tất cả mọi việc, Pi-ốt A-lếch-xan-đrô-vích… Tôi sẽ đi ngay… 

-Anh đi đi. Chỉ có điều anh hãy luôn luôn chú ý khi vào trong làng: tình hình ở bờ phía Bắc chưa được khôi phục… 

… Khi Ve-xnin tới chỗ đường hào mà ông vừa gặp thiếu tá Bô-gi-scô, anh này vẫn nằm bắn trên bờ công sự như trước đây. Những loạt đạn súng máy làm vai anh rung lên, chiếc mũ lông trật ra sau gáy. 

-Thiếu tá Bô-gi-scô, tôi cần gặp anh! 

Nghe tiếng gọi, Bô-gi-scô quay người lại, đưa nắm tay lên chỉnh lại chiếc mũ và hét to bằng giọng sau sưa vui mừng: 

-Bọn Đức vẫn đang bao vây! Chúng đi xe bọc thép và bò lổm ngổm như những chiếc gọng kìm! Xin tuân lệnh, thưa đồng chí uỷ viên Hội đồng quân sự. 

Ve-xnin đứng yên trong đường hào, cúi đầu. 

-Anh hãy nghe tôi nói đây, Bô-gi-scô! Bây giờ tôi phải đi đến chỗ quân đoàn xe tăng. Anh chớ quên điều này: hãy bảo vệ tư lệnh như giữ gìn con ngươi của mắt. Tôi khuyên anh nên luôn luôn ở sát bên tư lệnh. 

-Rõ, thưa đồng chí uỷ viên Hội đồng quân sự-Rồi Bô-gi-scô hạ tiểu liên xuống, hỏi lại:-Đồng chí đi ngay bây giờ? Xin đồng chí thứ lỗi cho nhưng liệu có nên đi ngay lúc này không?... Địch đang nã súng vào khắp nơi trên điểm cao. 

-Đại tá Ô-xin và đội bảo vệ sẽ cùng đi với tôi.-Ve-xnin khẽ lắc bả vai Bô-gi-scô-Sợ quái gì. Sẽ đi theo đường mà Ô-xin đã đi. Rồi mọi việc sẽ đâu vào đấy, Bô-gi-scô. Nếu chẳng may… 

-Chúc mọi sự may mắn, thưa đồng chí uỷ viên Hội đồng quân sự! 

Ve-xnin mỉm cười, khoát tay: 

-Anh đi đi, Bô-gi-scô!

 31.12.2010

LSB-Sun

-=[ Lương Sơn Ẩn Sĩ ]=-

ღ Đại Trưởng Lão QPB ღ

TUYẾT BỎNG

Chương 17-2

Nguồn: vnthuquan

Nội dung thu gọn

Đại tá Ô-xin và Ca-xi-an-kin vẫn ngồi cạnh bàn trong căn hầm ngầm của pháo binh, lắng nghe tiếng súng, cau có, lầm lì chờ đợi cái gì đó. Ve-xnin bước vào căn hầm và không vội giải thích, ông chậm rãi đưa mắt thăm dò Ô-xin vừa đứng bật ngay dậy và nói bằng giọng oai nghiêm, có vẻ xa lạ đối với ông. 

-Tôi sẽ lên đường cùng với anh, đại tá Ô-xin. Đi đến làng Gri-gô-ri-ép-xcai-a. Xe để đâu? Anh hãy gọi đội bảo vệ đi theo! 

-Tôi rất mừng, thưa đồng chí uỷ viên Hội đồng quân sự, rất mừng. Cám ơn. Các xe được nguỵ trang đậu ở nhà kho dưới chân điểm cao,-Ô-xin hể hả nói, nhấc chiếc túi dã chiến ở bàn lên và hỏi không phải là không thận trọng:-Thế còn… tướng Bét-xô-nốp? Đồng chí ấy thì thế nào? Đồng chí ấy ở lại đây? 

Ve-xnin không kìm được nữa: 

-Thế ra anh tưởng rằng tôi đi với anh vì mục đích an ninh cá nhân chăng? Chả lẽ anh đinh ninh như vậy à? 

-Thưa đồng chí uỷ viên Hội đồng quân sự,-Ô-xin động đậy hàng mi trắn có ý không bằng lòng,-Việc gì đồng chí phải giận dữ với tôi. Tôi nghĩ rằng đồng chí sẽ gặp uỷ viên Hội đồng quân sự phương diện quân tại đài quan sát của tập đoàn quân. Rồi chính đồng chí ấy sẽ bày tỏ với đồng chí mối lo ngại của mình. 

-Đừng dềnh dàng nữa, Ô-xin. Anh hãy dẫn đường tới chỗ để ô tô! 

-Chúng tôi sẽ đi qua rìa làng phía Tây Bắc,-Ô-xin nói.-Cho đến nay chỗ đó vẫn còn đi được. 

Khi mấy chiếc xe để ở dưới chân điểm cao theo lệnh Ô-xin nổ máy, rẽ ngoặt vào đường làng, tăng nhanh tốc độ phóng về rìa làng phía Tây Bắc, Ve-xnin nghĩ rằng tình hình của sư đoàn Đê-ép quả thực không vững chắc và bấp bênh xiết bao. Nhìn từ trên cao, từ trên đài quan sát, tình hình trên bờ sông bên này dường như hơi khác, không đến mức nghiêm trọng và gay go cực độ như vậy. 

Tiếng súng rất căng của trận đánh đã áp sát gần cứ liên tục xói vào tai. 

Toàn bộ khu làng ở bờ sông phía Bắc đều bị chìm trong những đám cháy đang lan rộng, tất cả đều cong queo, sụp đổ, vặn vẹo, động đậy trong ngọn lửa do đạn trái phá nổ bùng lên giữa các ngôi nhà, những loạt đạn súng máy từ phía sau những nhà kho đang bốc cháy phụt ra những bó lửa hoa cà hoa cải, ngồi trong xe cũng ngửi thấy mùi không khí nóng bỏng hănghắc, đăng đắng. Không khí nóng bỏng lẫn với khói làm mắt cay xè, gây chảy nước mắt và ngứa họng. Người lái xe chốc chốc lại ho sù sụ áp ngực vào tay lái. Ve-xnin đã thoáng trông thấy những chiếc xe tăng ở cuối đường làng xa tít, chúng trườn đi như những tia hồi quang màu đỏ giữa các ngôi nhà, biến mất rồi lại hiện ra, đi xa dần xe của ông hay đúng hơn xe của ông đi xa khỏi chúng và không thể nào phân biệt được đó là xe tăng của bên nào. 

-Tăng hết ga đi! Cứ đi theo xe của Tít-cốp, anh ấy thuộc đường lắm. Đi hết rìa làng rồi ngoặt về phía tay phải ngay!-Ô-xin hét to với vẻ kích động của một con người đang gánh chịu toàn bộ trách nhiệm rồi anh quay khuôn mặt bầu bĩnh, rắn chắc của mình về phía Ve-xnin.-Chúng ta sẽ phóng nhanh qua được, thưa đồng chí uỷ viên Hội đồng quân sự! 

-Chắc là thế. 

-Mọi việc sẽ đâu vào đấy,-Ô-xin xác nhận và hít hít không khí.-Phải vượt ba ki-lô-mét nguy hiểm… 

Anh ta muốn nói chuyện nhưng hình như lúc này Ve-xnin không muốn nói. 

Ông ngồi ở phía đằng sau, bên cạnh Ca-xi-an-kin đang lặng lẽ ngả lưng vào thành ghế; mỗi khi gặp ổ gà xe bị xóc, khẩu tiểu liên để trên đùi người sĩ quan tuỳ tùng lại thúc vào sườn Ve-xnin. Ca-xi-an-kin hết đưa mắt nhìn xuống con đường tuyết trắng rực sáng ven những ngôi nhà đang cháy. Nghe Ô-xin nói, Ca-xi-an-kin rùng mình khi hình dung ra chặng đường ba ki-lô-mét đó, đưa mắt sợ hãi nhìn sang bên phải và bên trái, Ve-xnin nghĩ: “Dẫu sao đây cũng là một anh chàng lôm côm. Hắn nhát gan quá mức thì phải!”. 

-hãy giữ tiểu liên cho vững, Ca-xi-an-kin. Hay là đưa nó đây cho tôi,-Ve-xnin nói.-Tiếc rằng Bô-gi-scô đã không dạy được cho anh cầm súng cho đến nơi đến chốn. 

-Dạ… để tôi cầm… tôi cầm, thưa đồng chí uỷ viên Hội đồng quân sự,-Ca-xi-an-kin đáp, giọng giật nẩy lên và gật đầu:-Xin đồng chí thứ lỗi cho. 

-Úi chà, Ca-xi-an-kin! Rồi tôi sẽ luyện cho cái đầu óc anh…-Ô-xin thốt lên giọng hơi bực bội, quắc mắt lên lườm Ca-xi-an-kin rồi hướng về phía Ve-xnin ra ý dàn hoà:-Cám ơn đồng chí, thưa đồng chí uỷ viên Hội đồng quân sự vì đồng chí đã hiểu đúng ý tôi… liều lĩnh một cách vô lý như thế để làm gì! Bản thân đồng chí lúc này có thể thấy rõ là vẫn còn một con đường duy nhất tương đối an toàn. Con đường duy nhất còn giữ được… 

-Tôi đã hiểu đúng đồng chí, đồng chí Ô-xin,-Ve-xnin cố bình tĩnh đáp.-Đúng tới mức lúc này chúng ta chả còn chuyện gì để nói cả. Rồi ta sẽ nói chuyện sau. 

-Rõ, thưa đồng chí uỷ viên Hội đồng quân sự,-Ô-xin tán thành ngay với vẻ hiểu biết giả tạo và tựa hồ như cũng bình thản rồi anh xoay người lại một cách chậm chạp cố ý, thu xếp chỗ ngồi vững vàng trên ghế. 

Ở phía bên phải, các đám cháy đã thưa thớt hơn, hình như sắp hết đường làng ở phía trước mặt. Xe chạy dọc bờ sông, điểm cao tròn trặn của đài quan sát sư đoàn đã nằm lại sau lưng, còn ở phía bên trái, trên nóc các ngồi nhà nhỏ, phía bên kia sông bầu trời vẫn sáng rực, nóng bỏng vì những quả đạn trái phá nổ tung và đạn pháo sáng toé ra vung vãi,-tất cả chìm lút trong tiếng ầm ầm dày đặc, đủ loại âm thanh. Chiếc xe tắm trong ánh sáng màu hồng, đi về phía tay phải, xa dần đám cháy lớn đó, xa dần cuộc chiến đấu bên kia sông, leo lên cả dốc ở rìa làng, đi ngang qua những ngôi nhà cuối cùng và Ve-xnin bất giác cảm thấy nhẹ nhõm như được giải thoát, giờ đây ông nhìn theo chiếc xe của đội bảo vệ đi ở phía trước đang phóng hết tốc lực trên con đường dốc bóng như gương dẫn tới bình nguyên ở phía sau rìa làng, nơi kết thúc ranh giới của cuộc chiến đấu. Ở đó đêm tối hơi ánh hồng lên. Thậm chí khi động cơ ô tô rú lên vì vấp phải ổ gà, xe lắc mạnh vì chạy nhanh và lướt giữa sương mù thoáng đãng ở phía trước trên thảo nguyên nơi bóng đêm im lìm phủ kín, Ve-xnin cảm thấy rằng chỉ mãi đến lúc này mới thoát khỏi hiểm nguy, lúc này khu vực chiến đấu, xe tăng Đức trong làng, dòng sông, đài quan sát của sư đoàn trên bờ sông đã nằm lại sau lưng họ; và bất chợt ông hình dung thấy rõ như thật khuôn mặt lạnh lùng, mệt mỏi của Bét-xô-nốp đang lắng nghe báo cáo của các sĩ quan ở đó, trên điểm cao. Sau khi không phải là không lo lắng nghĩ tới chuyện đó, ông lại nhìn vào kính trước xe tắm trong quầng sáng, tấm lưng chắc nịch của Ô-xin, cái tai nhỏ bé, đỏ ửng, bị chiếc mũ lông che lấp mất một nửa nhô lên trên chiếc cổ áo lông của anh ta và ông trông thấy hết sức rõ đuôi mắt căng thẳng cả anh ta nhìn chằm chặp vào người lái xe như có ý dò hỏi và cảnh giác. Còn người lái xe vẫn ho sù sụ, áp mình vào tay lái, co giật, rùng mình như lên cơn động kinh tuy không còn ngửi thấy mùi khói súng nữa. 

-Anh làm sao thế? Anh điên à? Tại sao lại giảm tốc độ?-Ô-xin bất chợt thét to và tì cả người lên anh lái xe:-Gì thế? Gì thế?... Có việc gì thế? 

-Đồng chí đại tá!... Đồng chí hãy nhìn xem!-Người lái xe chật vật nói qua cơn ho liên miên.-Đồng chí hãy nhìn, hãy nhìn về phía trước mà xem!... 

-Tít-cốp… Hình như Tít-cốp đang cho xe quay lại…-Ca-xi-an-kin thều thào nói, vươn cổ về phía người lái xe, nhổm người lên, bám cả hai tay vào lưng ghế trước; khẩu tiểu liên của anh ta tuột ra, lăn từ trên đùi xuống sàn xe đang rung bần bật, nẩy bật vào chân Ve-xnin. 

-Xe tăng!...-người lái xe nói giọng khản đặc, mắt nhớn nhác như điên dại.-Bọn Đức ở phía trước!... 

-Đâu? Bọn Đức nào?-Ô-xin la lên.-Chúng nó từ đâu tới? Xe tăng T-34 của ta đấy chứ! Tiến lên!... Cậu điên rồi à, đồ lẩm cẩm! Dấn ga đi!... 

Khẩu tiểu liên vẫn cứ đập đập vào chân Ve-xnin. 

“Dẫu sao anh hãy cầm lấy khẩu tiểu liên chứ!”-Ve-xnin vẫn định nói với Ca-xi-an-kin nhưng không nói vì ông đã trông thấy những gì đang xảy ra trước mặt 

Chiếc xe rú to khi lên dốc, đi vào bình nguyên ở sau rìa làng. Ở đây sương mù màu hồng dựng đứng như một bức tường chạy dài đến chân trời đen thẫm và giữa bóng tối được quầng sáng trên trời rọi chiếu, ngay trên bình nguyên phía trước, chiếc ô tô đi đầu chở đội bảo vệ chồm lên và giật lùi một cách hỗn loạn, hối hả rẽ ngoặt trước những cái bóng to tướng giống như những đống rơm; sau cùng nó cũng đã quay lại được và phóng vun vút trên ổ gà, chạy ngược lại phía chiếc xe thứ hai. Ô cửa bên phải chỗ lái xe ngồi bật ra, thiếu tá Tít-cốp nhô cả nửa người ra ngoài xe, hình như anh thét to điều gì đó, giơ tiểu liên lên trời. Rồi anh bắn một tràng dài. 

-Thế bây giờ anh còn tin chắc rằng đây là T-34 hay không, Ô-xin?-Ve-xnin thốt lên một cách bình tĩnh bất ngờ trong hoàn cảnh này đến nỗi chính ông cũng không phân biệt được giọng nói của mình. 

Đúng vào lúc ấy chiếc ô tô phanh đột ngột khiến ngực ông bị đập vào lưng ghế trước đau nhói, nhưng ông cũng đã kịp trông thấy những cái bóng đen to tướng dưới bầu trời lờ mờ màu hồng đang phụt ra những tia lửa xuống tuyết, tiếng gầm rú inh tai của động cơ xe tăng từ phía đó vọng lại. Và lập tức một quầng lửa đỏ bay về phía trước, nổ vang như sấm. Cột lửa hình chóp nón xoè rộng trước mặt chiếc ô tô chở đội bảo vệ, hất nó sang một bên, phơi sườn trên bình nguyên. Chỉ có một người vọt được ra khỏi ô tô trên con đường xuống dốc. Hình như anh ta la hét cái gì đó, giơ tiểu liên lên cao quá đầu. 

-Quay lại!...-Ô-xin điên cuồng ra lệnh rồi buông người trên ghế ngồi ở sau lưng, đấm vào vai lái xe.-Quay xe! Nhanh lên! Xuống dốc! Vào trong làng! 

-Bọn Đức! Bọn Đức!... sao lại thế nhỉ?...-Ca-xi-an-kin kêu toáng lên, nép mình trong góc ô tô, thậm chí tựa hồ như anh ta định co đầu gối vào bụng và do những cử động ngớ ngẩn ấy của anh ta, do cái giọng khiếp sợ ấy của anh ta, có một cái gì đó sắc nhọn như nỗi sợ hãi loang đi, nhói vào lòng Ve-xnin. 

-Im nga-ay, Ca-xi-an-kin!-Ông phẫn nộ vẻ kinh tởm gạt đầu gối gấp lại run rẩy của anh ta, nhắc lại:-Anh hãy im ngay đi! Hãy giữ bình tĩnh! 

-Chúng nó ở liền ngay bên cạnh rồi, liền ngay bên canh! Chúng ta bị phục kích rồi!...-Ca-xi-an-kin nức nở la lên.-Thế là thế nào?... 

-Anh im đi, tôi đã bảo kìa! 

Ve-xnin đã nghe thấy Ô-xin ra lệnh: “Quay lại sau! Nhanh lên! Phóng hết tốc lực!”-Và chẳng đúng lúc tí nào, người lái xe ho rũ rượi, tay và vai lật đật xoay tay lái, Ô-xin vươn người về phía trước như con mãnh thú, sốt ruột đấm tay xuống nắp sắt che động cơ. Qua cửa kính ở thành xe, Ve-xnin toan ngó nhìn đám xe tăng và ngay khoảnh khắc đó ông có cảm giác là chiếc ô tô rốt cuộc đã quay đầu lại được và chẳng hiểu sao nó xiên ngang, nổ lốp, lăn tuột xuống dốc, y như thể nó bị lóa mắt vì quầng lửa thứ hai đang bay thẳng về phía nó. Sương mù náo động dựng đứng ngay trước mắt, tiếng kính loảng xoảng, hơi nóng ngột ngạt như từ lò sưởi cháy rừng rực bốc lên. Một cái xóc khủng khiếp hất tung Ve-xnin ở trong xe, đẩy ông về phía một người nào đó đang lổm ngổm và la hét rền rĩ. Với mưu toan kỳ lạ định giải thoát khỏi sự bất ngờ của tai họa đã xảy ra với ông, Ve-xnin vẫn còn nghĩ một cách tỉnh táo: “Miễn sao lúc này mình không bị ngất! Ai la hét thế nhỉ? Ca-xi-an-kin à? Cậu ta bị thương à? Tại sao cậu ta la hét ghê thế?”. 

Nhưng cú xóc mạnh lần thứ hai làm đầu ông va vào sắt cứng và hình như ông đã bị choáng mất một lúc. Ve-xnin tỉnh lại ngay vì tiếng kêu, vì có người động đậy ở dưới ông và ông không hiểu ra ngày được tại sao mình lại nằm đè lên một người kỳ quặc nào đó một cách kỳ quặc như vậy, cửa xe không ở bên phải mà lại ở trên đầu; ông lờ mờ đoán ra: chiếc ô tô đã bị lật nghiêng ở dưới chân gò dốc. Trong cơn choáng, tất cả trôi bập bềnh trước mắt ông, kính của ông đã bị văng mất. Tuy chưa tỉnh hẳn, ông đưa hai tay quờ quạng tìm kính; ông đã trông thấy lờ mờ đầu của người lái xe không mũ, bất động ngoẹo xuống ô cửa thấp ăn sâu trong đụn tuyết; tấm kính phía trước bị vỡ, nắp máy ô tô bằng sắt tây nhô lên-không khí giá lạnh cùng với tiếng ầm ầm khó hiểu, rất gần ùa vào trong ô tô, tiếng ầm ầm đó át cả tiếng rền rĩ, tiếng kêu khàn khàn của Ca-xi-an-kin bị ông đè lên và tất cả những cái đó làm cho ông tỉnh hẳn. 

-Ca-xi-an-kin, anh bị thương à? Sao anh kêu khiếp thế?-Ve-xnin nói yếu ớt, đến chính ông cũng khó nghe thấy. 

-Cẳng chân… Cẳng chân tôi-giọng nói của Ca-xi-an-kin đập vào tai. 

-Đồng chí uỷ viên Hội đồng quân sự, đồng chí có bị thương không? Đồng chí hãy bò ra nhanh lên, nhanh lên! Đồng chí uỷ viên Hội đồng quân sự… 

Có bóng người to lớn chắn hết cả ánh sáng rực ở bên ngoài, người đó hối hả dùng sức rứt, giật, cố mở cửa xe ở trên đầu và khi đã mở được cửa, thò hai cánh tay xuống túm lấy vai Ve-xnin và ra sức kéo ông lên. Khuôn mặt trắng trẻo của Ô-xin thấp thoáng trước mắt ông, anh ra lệnh bằng giọng nghẹt thở: 

-Nhanh lên, nhanh lên đồng chí uỷ viên Hội đồng quân sự phải đi ngay, đi ngay!... Nhanh lên! Đồng chí không bị thương chứ? Đồng chí có đi được không? 

-Ô-xin… tốt hơn hết ãnh hay giúp đỡ Ca-xi-an-kin, hình như cậu ấy bị thương,-Ve-xnin thì thào và leo ra khỏi cửa xe, nhảy xuống đám tuyết rồi bám vào thành xe vì hơi chóng mặt. 

-Ca-xi-an-kin!-Ô-xin giận dữ quát lên, gập hẳn người vào trong cửa xe.-Cậu bị thương à? Bị thương hay giả vờ đấy? Bò ra ngày! Rõ chưa? Dù ngắc ngoải cũng bò ra! Tiểu liên đâu? Tiểu liên đâu? 

Giữa lúc ấy có người nhảy bổ lại phía Ve-xnin, thở hổn hển nóng hổi: “Đồng chí uỷ viên Hội đồng quân sự!”-Và chưa dứt lời, người đó đã dùng những ngón tay cứng như sắt kéo giật ông xuống, thét lên ra lệnh bằng giọng nghèn nghẹn: 

-Đồng chí hãy nằm xuống đằng sau xe, chỗ này này! Xin đồng chí đừng đứng thẳng người lên như thế!... Chúng ta đã vấp phải địch! Không hiểu xe tăng của chúng từ đâu tới đây? Chúng từ đâu tới đây? Trước làm gì có!... 

Đó là thiếu tá Tít-cốp, đội trưởng đội bảo vệ. Ve-xnin nhớ ngay ra là chính Tít-cốp đã chạy từ chỗ xe bị bắn hỏng của anh tới chỗ ông, sau khi anh đã bắn một tràng súng báo hiệu và quả đạn đầu tiên của địch nổ tung. Lúc này sau khi đẩy Ve-xnin vào phía sau xe để bảo vệ ông, Tít-cốp cũng bổ nhào trên nắp xe, tì người lên ngực và khuỷu tay, chuyển khẩu tiểu liên sang tay trái đang đỡ băng đạn, chăm chú nhìn lên mép gò đất, từ đó vọng lại tiếng rú của động cơ xe tăng. Ve-xnin ngăn anh lại: 

-Đừng bắn, Tít-cốp! Đợi cho xe tăng chúng nó đi qua! Đừng nóng vội! Anh định dùng tiểu liên chống lại xe tăng à?... Phải đợi thôi!... 

-Tôi có lỗi với đồng chí, thưa đồng chí uỷ viên Hội đồng quân sự,-Tít-cốp nói, giọng nghẹn ngào.-Vì tôi chịu trách nhiệm về tính mạng của đồng chí… 

-Xin đừng thanh minh nữa!-Ve-xnin nổi ũng lên.-Chính tôi chịu trách nhiệm về tính mạng của mình. 

-Kia kìa, chúng nó kia kìa… chúng nó đánh tạt sườn vào làng từ phía bên trái!-Tít-cốp thốt lên.-Giá chúng không nhận ra… Mười hai xe tăng. Có cả xe bọc thép chở quân.

 31.12.2010

LSB-Sun

-=[ Lương Sơn Ẩn Sĩ ]=-

ღ Đại Trưởng Lão QPB ღ

TUYẾT BỎNG

Chương 17- 3

Nguồn: vnthuquan

Nội dung thu gọn

Vì mất kính nên Ve-xnin không thể nhìn rõ tất cả những gì mà cặp mắt tinh như mắt mèo của Tít-cốp nhìn thấy. Bóng những chiếc xe tăng to lớn bồng bềnh, tiếng động cơ gào rú át hết cả mọi âm thanh, phụt những tia lửa tung tóe khỏi ống xả, thong thả chuyển dịch theo gò đất tối thẫm dưới quầng sáng trên trời lẫn vào làn sương mù hồng hồng trên thảo nguyên, cách bãi đất thấp nơi chiếc xe bị lật nghiêng chừng một trăm mét. Ve-xnin cảm thấy bất lực đến đau lòng nghĩ rằng có lẽ lúc này Bét-xô-nốp và Đê-ép ở đài quan sát vẫn còn chưa hay biết gì về những chiếc xe tăng đã đột kích vào đây, vào rìa làng phía Tây Bắc. 

Ông vừa nghĩ tới đó thì một loạt đạn súng máy lóe lên như chớp bay vút phía trên xe và Tít-cốp là người đầu tiên trông thấy những gì mà đôi mắt cận thị của Ve-xnin không nhận ra. Khoảng một chục tên Đức đang đi từ chỗ gò đất tới đường cái: rõ ràng đó là đội trinh sát địch tới để kiểm tra xem trong xe có còn ai sống không. 

Bọn Đức đi xuống phía dưới triền dốc một cách thận trọng; hai tên trong bọn chúng giữ khẩu súng máy trên đỉnh gò dốc và đứng bắn: một tên cúi xuống, tên kia đặt nòng súng máy lên lưng tên này như đặt trên giá súng vậy. Một giây trước Tít-cốp còn hy vọng rằng bọn Đức chỉ đi ngang qua đây thôi, lúc này anh hầu như tuyệt vọng nhìn Ve-xnin và muốn kêu lên một cách vô ích: “Thế nào chúng cũng đi tới đây!”. Nhưng Ve-xnin im lặng, tháo găng tay, rút khẩu súng ngắn ra khỏi bao. Ông đã đoán ra điều không thể tránh được: bọn Đức lại gần chiếc xe. 

-Phải đi khỏi đây! Đồng chí uỷ viên Hội đồng quân sự, đồng chí hãy chạy lại phía những ngôi nhà nhỏ kia! Đồng chí hãy chạy khỏi đây! Chúng tôi sẽ yểm hộ! Ca-xi-an-kin, hãy dẫn uỷ viên Hội đồng quân sự đi! Ca-xi-an-kin, đứng dậy!... Đứng dậy, tôi ra lệnh!... 

Đại tá Ô-xin lôi Ca-xi-an-kin từ trong xe ra, dùng cánh tay phải đẩy mạnh, định áp lưng người sĩ quan tuỳ tùng của mình vào nắp xe, tay trái nắm chặt khẩu tiểu liên của anh ta. Ca-xi-an-kin bò qua nắp xe, vặn vẹo người, vẫn cố ngồi trên đám tuyết, kêu lên ư ử, giọng van xin: 

-Đồng chí đại tá… thân mến… cẳng chân, cẳng chân tôi bị trẹo… Tôi không thể nào đi được!...-Rồi anh ta giãy giụa gạt cánh tay Ô-xin ra, lắc lắc khuôn mặt méo xệch vì khóc. 

Ve-xnin rùng mình. 

-Thôi để cho anh ta yên!-Ve-xnin nói, thậm chí ông cảm thấy khiếp sống lưng ớn lạnh vì tiếng kêu la vô cùng khiếp sợ đó, vì tiếng súng bắn gieo rắc cái chết. 

Lúc ấy Ô-xin hằn học, ghê tởm buông người Ca-xi-an-kin mềm nhũn như một cái túi ra, anh lao cả người về chỗ Tít-cốp và Ve-xnin giọng khản đặc, thở hổn hển, ra lệnh như một người chịu trách nhiệm về tất cả mọi việc: 

-Đồng chí uỷ viên Hội đồng quân sự, đồng chí hãy đi ngay tới những ngôi nhà nhỏ kia! Chạy, bò tới chỗ các ngôi nhà đó! Đồng chí hãy nấp ở đó! Khoảng hai trăm mét thì tới! Tít-cốp! Chúng ta ở lại đây! Không trông mong gì vào Ca-xi-an-kin được nữa… 

Tiếng la như hấp hối của Ca-xi-an-kin vẫn vọng trong tai Ve-xnin tuy Ca-xi-an-kin chỉ rền rĩ, sụt sịt, lăn như một cục đen sẫm vào cạnh chiếc xe. 

-Không được, Ô-xin,-Ve-xnin đáp, ông đứng ở phía sau xe và mở chốt an toàn súng ngắn.-Tôi sẽ không chạy đi đâu cả. Để làm gì? Đó không phải là lối thoát, Ô-xin ạ. 

-Đồng chí chưa hiểu, đồng chí uỷ viên Hội đồng quân sự.-Ô-xin thét lên.-Đồng chí có hiểu thế nghĩa là thế nào không?...-Khuôn mặt trắng trẻo của anh ghé sát vào mặt Ve-xnin. 

-Tôi hiểu… chúng ta sẽ chiến đấu ở đây, Ô-xin ạ. 

Ve-xnin hết sức tỉnh táo hiểu rõ tất cả cái tình thế không còn chút hy vọng nào lúc này, ông hiểu rõ rằng ông sẽ không thể chạy kịp tới các ngôi nhà nhỏ với khoảng cách hai trăm mét trên bãi đất thấp được chiếu rọi dưới quầng sáng ở trên trời, ông hiểu rõ rằng không có lối thoát, rằng một điều khó tin, bất ngờ đã xảy ra trong đời ông, cái điều đã từng xảy ra với những người khác, cái điều khó mà tin được, như trong một cơn ác mộng, khi tất cả các cửa đều lần lượt đóng im ỉm trước mặt ông. 

Ông hiểu rằng bọn Đức đang tới, chúng đang tụt theo triền dốc của gò đất tới chỗ chiếc xe và cuộc chiến đấu vô vọng này mà ông phải chấp nhận do tình thế không lối thoát sẽ chẳng kéo dài lâu. Nhưng dẫu sao ông cũng vẫn không hình dung được rằng mình lại có thể chết sau nửa giờ, một giờ nữa, rằng tất cả sẽ bất ngờ và mãi mãi biến mất và ông sẽ không còn nữa. 

Ông đứng thẳng, nheo đôi mắt cận thị lại, tì tay cầm khẩu súng ngắn lên thành xe, cảm thấy cái lạnh toát của khẩu súng bằng thép không phải trong tay mà trong lồng ngực mình và đồng thời ông cũng cảm thấy vai của thiếu tá Tít-cốp và Ô-xin chèn chặt cứng lấy ông từ hai phía. 

Tiếng xe tăng nghiến ken két, rú ầm ầm làm rung chuyển cả mặt đất, những chiếc xe tăng từ thảo nguyên tạt sườn vào làng, bóng những tên xạ thủ tiểu liên Đức rải rác trên gò cao, đang tụt xuống triền dốc đến chỗ xe, khẩu súng máy lúc này không bắn nữa. Hình như bọn Đức chỉ đinh bắn mấy loạt đạn đầu để thăm dò xem ở đây có ai còn sống không, vì thế chúng đi thẳng người, yên tâm trao đổi với nhau bằng giọng xì xồ khó hiểu. 

-Ba-ắn!...-Ô-xin ra lệnh, và văng một câu tục, anh nằm ép bụng lên thành xe, nã một băng đạn dài đầu tiên khủng khiếp vào những cái bóng đang phơi mình ra đó; tiếng súng nổ tành tạch sôi sục làm cho gò má rắn đanh của anh lồi hẳn ra như một cái bưới.-Bă-ắn. Tít-cốp! Hãy giết quân súc sinh, đừng để cho chúng lại gần!... Bắn vào lũ chó đẻ ấy!... Giết chết ngay chúng đi, giết ngay!... Tít-cốp cũng lia một băng dài ở phía bên trái Ve-xnin. 

Tính từng viên đạn, Ve-xnin bắn hai lần vào những cái bóng đã gục trên nền gò đất đo đỏ-những cái bóng đó đã gục xuống hòa lẫn với đất. Một giây sau những tia lửa rít như xé không khí, lóe lên dày đặc từ sau đám tuyết, quất vào nóc xe; những đốm lửa xanh lè nổ tung rọi sáng con đường. Khẩu súng máy của Đức vẫn im lặng, còn bọn xạ thủ tiểu liên bắn gần đến nỗi tưởng như gió hất mất mũ lông ở trên đầu. Sau đó một giọng nói lại tai, lơ lớ cố hết sức gào lên giữa những loạt súng tiểu liên: “Thằng Nga đừng bắn nữa, đừng bắn nữa!” rồi một bóng người từ đụn tuyết nhô lên, lọt vào trước đầu rồi họng súng của Ve-xnin, hắn nã một tràng súng chỉ thiên để cảnh cáo, sau đó lại nghe thấy tiếng gào: “Thằng Nga đầu hàng đi, đầu hàng đi!”. Nhưng Ve-xnin đã bắn hai lần nữa vào kẻ có cái giọng lơ lớ lạ tai, đáng căm thù, đã hứa sẽ dung thứ cho họ, rồi ông lại bắn nữa, cắn chặt môi, nhằm cẩn thận, trong khi đó tiếng thét của Ô-xin như từ rất xa vọng vào tai: 

-“Đầu hàng” cái con mẹ mày! Chúng mày không thoát được đâu, quân súc sinh phát xít, không thoát được đâu! 

Khi khẩu trung liên nã thẳng hàng loạt đạn cách chiếc xe chừng hai chục mét, về phía bên kia đường. Ve-xnin vẫn còn chưa chịu chấp nhận rằng bọn Đức đã tới gần sát. Ý thức của ông lúc ấy đã cưỡng lại, đã gạt bỏ không chấp nhận điều không tránh được đang ập tới. Và khi cảm thấy khẩu súng ngắn vẫn còn giật ở trong tay mình ông vẫn còn tin, thuyết phục mình rằng điều không thể tránh được đó sẽ không tới lúc này, nó sẽ chỉ tới sau vài phút nữa, nó không tới ngay khi Ô-xin và Tít-cốp chưa hết đạn và khi ông hãy còn một viên đạn cuối cùng… “Mình còn mấy viên đạn nữa? Mấy viên?...-Ông nghĩ, bất giác kìm ngón tay trên cò súng.-Miễn sao bình tĩng, đừng hấp tấp, chỉ cần tính toán đúng…-Chắc hẳn Tít-cốp phải còn đạn dự trữ, hẳn là phải còn…”. 

-Thiếu tá Tít-cốp, anh còn… 

Và bỗng nhiên ông cảm thấy nghẹt thở-một phát đạn cứng đơ, nóng bỏng xói vào ngực, hất mạnh ông văng về phía đằng sau khiến những lời nói cuối cùng của ông bị nghẹn lại nhưng ông vẫn còn trông thấy cặp mắt của thiếu tá Tít-cốp quay về phía ông, như lặng lẽ la thét lên về nỗi bất hạnh tưởng như không thể nào xảy ra được. Và một giọng nói khác ở bên cạnh: 

-Đồng chí uỷ viên Hội đồng quân sự!... Đồng chí ủy viên… 

“Cậu ấy thấy gì trên khuôn mặt của mình?-Ve-xnin thoáng nghĩ và ngạc nhiên trước vẻ tuyệt vọng, sửng sốt trong cặp mắt Tít-cốp, ông đưa bàn tay đã cầm khẩu súng ngắn ép chặt vào ngực tựa hồ như vẫn còn gạt bỏ điều không thể tránh được đã xảy ra với ông. Chả lẽ lúc này sao? Chả lẽ như thế ư?... Chả lẽ nó lại ập đến nhanh như thế?-Ve-xnin nghĩ. Ông cảm thấy nhẹ nhõm, từ ý thức, ông như bất ngờ hiểu rõ những gì đang xảy ra lúc này với ông, ông muốn nhìn cánh tay xem có thấy máu trên đó không… nhưng ông không nhìn thấy máu. 

-Đồng chí uỷ viên Hội đồng quân sự! Đồng chí bị thương à? Bị thương vào đâu? Bị thương vào đâu?...-một giọng nói vừa quen thuộc và hoàn toàn lạ lẫm vang lên, tất cả đều mờ đi, mờ dần, đi, lùi xa vào một khoảng trống câm lặng, còn những làn sóng đỏ hông vẫn chập chờn trước mắt, lăn tới chỗ một cái gì đó lớn lao vô cùng, mờ mờ sẫm đen, không hẳn giống sa mạc cháy rụi nóng bỏng, không hẳn giống bầu trời đêm phương Nam thấp tịt. Và ông đau đớn cố tìm hiểu xem đó là cái gì, ông nhìn rõ như thật mình và cô con gái Nhi-na trong bóng đem ngột ngạt ở phương Nam, trên bờ biển gần Xô-tri, nơi ông đã đưa con gái tới nghỉ sau khi ly dị vợ và năm ba mươi tám. Chẳng hiểu sao ông lại mặc quần trắng, vận chiếc áo vét màu đen tang tóc đứng trên bãi cát của bãi biển hoàn toàn hoang vắng có bầy những chiếc ghế nằm lẻ lỏi như những vết ẩm sẫm màu, ông đứng đó, cổ họng đắng ngắt và nghẹn lại vì nhận ra lỗi lầm, biết rằng chính tại nơi đây, trên bãi biển này, sau những buổi đi dạo ban ngày với con gái ông đã gặp gỡ người đàn bà về sau trở thành người vợ thứ hai của ông. Còn Nhi-na như đoán ra điều gì đó, òa khóc, túm lấy, giật giật cái quần trắng của ông và ngước khuôn mặt thơ ngây đẫm nước mắt của mình về phía ông đòi về Mát-xcơ-va với mẹ, cầu xin ông đưa nó đi ngay: “Ba ơi, con không muốn ở lại đây nữa, ba ạ, con muốn về nhà, con muốn về với mẹ, ba đưa con đi nhé…”. 

Khi cảm thấy cánh tay con gái run rẩy bám chặt, tấm thân yếu ớt của nó áp chặt vào ông, ông muốn bảo nó rằng không xảy ra chuyện gì cả đâu, rằng mọi việc sẽ tốt đẹp nhưng ông đã không thể nói, không thể làm được gì cả-mặt đất vững chắc đã sụt lở dưới chân ông… 

Loạt đạn súng máy đã giết chết ông, sức mạnh của nó hất ông về phía sau hai bước và trong những giây phút Ve-xnin đưa những ngón tay còn nắm chặt khẩu súng ngắn áp vào chỗ ngực bị đạn bất ngờ xuyên thủng, ông nằm ngửa trên tuyết, máu ứa ra từ họng. 

-Tít-cốp!... Uỷ viên Hội đồng quân sự làm sao thế? Sao thế?! 

Ve-xnin đã không còn nghe và trông thấy, Ô-xin ngừng bắn, nhảy tới chỗ ông trong lúc thiếu tá Tít-cốp đã quỳ bên người ông, khuôn mặt lỗ vẻ kinh hãi, định thăm dò, thọc tay vào chỗ chiếc áo choàng dính nhơm nhớp, sẫm màu bị xé tướp ra trên ngực ông; ông cũng không còn nghe thấy lời đáp ngắn ngủi của Tít-cốp cũng như những tiếng kêu khản đặc, điên khùng man rợ của Ô-xin: 

-Quân phát xít chó đẻ!... Thiếu tá Tít-cốp! Dù uỷ viên Hội đồng quân sự chết rồi cũng phải mang đi! Dù chết rồi!... Rõ chưa? Cậu mang đi! Tới những ngôi nhà nhỏ kia. Đi theo lề đường! Tôi sẽ đuổi theo cậu!... 

Tít-cốp cắn chặt môi đến bật máu, lật tấm thân bị đạn súng máy xé nát của Ve-xnin lên tấm lưng rắn chắc của mình và cõng ông đi. Ô-xin còn nằm lại bên cạnh xe mấy phút nữa, bắn những loạt đạn dài về phía bọn Đức, thét to những lời chửi rủa khủng khiếp và khi khẩu súng máy Đức im tiếng anh vọt dậy, quật báng súng vào thành xe và điên cuồng quát vào gầm xe tối om nơi vẫn lọt ra những tiếng rên ư ử như trong cơn bất tỉnh vì choáng của Ca-xi-an-kin: 

-Ca-xi-an-kin, đồ súc sinh hèn nhát, chúng nó đang giết người vậy mà mày vẫn còn sống à? Mày định quỳ gối trước bọn Đức hả? Bảo mạng hả? Cái cẳng chân cản trở mày bắn à? Bò ra, đồn khốn kiếp! Bò ra! 

-Đồng chí đại tá thân mến, đồng chí đại tá!... Không nên thế! Tôi có tội tình gì đâu!...-Ca-xi-an-kin nức nở khóc, vẫn không bò ra khỏi gầm xe.-Hãy giết tôi đi! Hãy giết đi!... 

-Câm mồm ngay!-Ô-xin thét lên, răng vẫn nghiến chặt. Bắn mày cho phí đạn! Bò ra, thằng hèn! Chạy theo Tít-cốp!... Nào! Chạy đi, đừng để tao đổi ý!... 

Và một vật gì đó chẳng ra hình thù gì, run rẩy bò nhanh từ dưới gầm xe ra. Ca-xi-an-kin giương cặp mắt sững sờ, lải nhải mãi một giọng: 

-Đồng chí đại tá, đồng chí đại tá… 

-Câm ngay, đồ hôi thối! Chạy đi!... 

Ô-xin khom người, vọt tiến rời khỏi chiếc xe, lao về phía lề đường, đuổi theo Tít-cốp vừa chạy vừa bò, vẫn cõng theo tấm thân Ve-xnin đã cứng lại trên lưng anh.

 31.12.2010

LSB-Sun

-=[ Lương Sơn Ẩn Sĩ ]=-

ღ Đại Trưởng Lão QPB ღ

TUYẾT BỎNG

Chương 18

Nguồn: vnthuquan

Nội dung thu gọn

Khẩu pháo của U-kha-nốp, dường như do một phép lạ là khẩu duy nhất còn nguyện vẹn, đứng ở cách cái đầu cầu bị đạn trái phá đốt cháy rụi và làm cho vênh váo khoảng một ki-lô-mét rưỡi, đến chiều tối khẩu pháo cũng câm bặt khi bắn hết số đạn lấy được từ ba khẩu pháo bị bắn hỏng. 

Cả Cu-dơ-nét-xốp lẫn U-kha-nốp đều không thể biết chắc chắn rằng xe tăng thuộc tập đoàn quân của thượng tướng Gốt đã cường tập vượt được qua con sông Mư-scô-va và ở hai địa điểm trên cánh phải của tập đoàn quân và không giảm sức tiến công, vào lúc chập tối đã thọc sâu vào tuyến phòng ngự của sư đoàn Đê-ép, chia cắt sư đoàn này ra, siết chặt trung đoàn Trê-rê-pa-nốp vào gọng kìm ở khu làng phía Bắc bờ sông. Nhưng họ biết rõ rằng một bộ phận xe tăng địch, khó đếm rõ là bao nhiêu chiếc, tới chiều đã đè bẹp các tiểu đoàn pháo bên cạnh, chà nát tuyến phòng ngự của các tiểu đoàn bộ binh ở phía trước và bên trái rồi xông tới các vị trí pháo binh của ta, trong đó có đại đội của Đrô-dơ-đốp-xki, đi qua cầu sang bờ sông bên kia, sau đó chiếc cầu này đã bị giàn “Ca-chiu-sa” của ta phá hủy và bắn cháy. 

Điều khó hiểu hơn cả là lúc trời tối trận đánh bắt đầu lùi ra xa, dần dần lặng đi ở phía sau lưng họ, nơi quầng sáng dâng lên, phình ra đỏ lóe trên khắp dải bờ phía Bắc, mới đây hãy còn là hậu phương. Ở đây, trên dải bờ phía Nam, trước tường hào đầu tiên của bộ binh bị xe tăng địch cào xới lên khủng khiếp, trước những hỏa điểm bị đè bẹp của các khẩu đội, trận đánh cũng lặng đi một cách khó hiểu, các cuộc tiến công ngừng lại mặc dầu ngọn lửa vẫn cháy phần phật; ở khắp nơi xăng tổng hợp bùng cháy như những đảo lửa, những chiếc xe tăng đơn độc hoặc cụm lại từng đám vẫn cháy nốt trên các gò cao, những chiếc xe vận tải bọc thép trúng đạn trái phá bị cháy đen thui, ngọn lửa lan rộng trên những khung thép của các xe tải Ô-pen mà lúc chiến đấu Cu-dơ-nét-xốp không nhìn thấy, có lẽ chúng đi theo sau xe tăng. 

Những bó tia lửa phụt ra từ các xe đang cháy bị gió cuốn lên bờ khe, tắt lụi trong gió tuyết mịt mù thổi sát đất; những mảnh tuyết nhọn hoắt và những ngọn lửa cháy lặng lẽ gở lạ đó trong thảo nguyên làm cho mắt cay xè. Ba chiếc xe tăng hãy còn bốc khói ngay phía trước hỏa điểm của trung đội từ vỏ thép cháy rụi thành than làn khói đặc quánh tuôn xuống đất và khắp nơi bốc lên nồng nặc mùi sắt tây, mùi cao su dìu dịu, mùi thịt người bị thiêu cháy. 

Cái mùi lờm lợm gây buồn nồn đó xộc vào mũi làm cho Cu-dơ-nét-xốp tỉnh hẳn. Anh nôn ọe hồi lâu, nằm vắt mình qua bờ công sự, nghẹt thở, ho nhưng dạ dày trống rỗng, không thấy dễ chịu vì những cơn nấc làm thắt cả ngực lẫn họng. Sau đó anh lau môi, tụt khỏi bờ công sự, hoàn toàn không ngượng ngùng vì U-kha-nốp và anh em pháo thủ đã thấy được sự yếu đuối của anh, điều ấy chẳng có ý nghĩa gì. 

Giờ đây hình như một người nào khác đã cảm nghĩ và làm tất cả những gì Cu-dơ-nét-xốp đã nghĩ và đã làm, anh đã mất đi những cảm giác trước đây,-tất cả đã thay đổi, bị đảo lộn trong ngày hôm ấy, tất cả đều đã được đo bằng những thước đo khác với hôm trước. Có cảm giác như tất cả đều bị bóc trần trụi hết mức. 

-Tôi chịu không thể,-Sau cùng Cu-dơ-nét-xốp khẽ thốt lên.-Ruột gan cứ như bị lộn trái ra. 

Vẫn chưa hiểu nổi sự im lặng đan lan tới trung đội, anh đưa tay xoa lồng ngực bị siết chặt một cách vô ích sau những quai da đeo chéo, đưa mắt nhìn anh em pháo thủ hầu như tai đã bị ù đặc khi chiến đấu. 

Thượng sĩ U-kha-nốp ngồi trên mặt bằng hỏa điểm, mệt lả đến cùng cực, ngả đầu vào vách công sự, cặp mắt bất động hé mở tựa hồ như anh ngủ mà không nhắm mắt. Nửa giờ trước đây, sau khi Nết-trai-ép la lên rằng đạn đã hết, anh đã cất tiếng cười vang một cách lạ lùng, sụp xuống đất gần khẩu pháo và cứ ngồi như vậy với nụ cười vô nghĩa, chiếc ống nhòm lủng lẳng trên chiếc áo bông mở phanh, mắt đờ đẫn nhìn về phía chân trời rực lửa, nhìn những đường đạn thưa thớt ở phía bên kia sông nơi cuộc chiến đấu đã chuyển sang. 

Nòng pháo nóng bỏng vì bắn nhiều tóe ra những tia lửa xanh lè, giống như những con đom đóm, bay đi và tắt lụi trong bóng đêm, những mảnh tuyết rơi lanh canh xuống lá chắn. 

-U-kha-nốp!... Cậu có nghe thấy không?-Cu-dơ-nét-xốp gọi khẽ. 

U-kha-nốp không nghe rõ tiếng gọi đó vì cũng bị ù tai lúc chiến đấu, anh rời cặp mắt dửng dưng khỏi đám cháy ở chân trời, nhìn Cu-dơ-nét-xốp hồi lâu rồi uể oải đưa một tay lên khoanh một vòng tròn trong không gian và Cu-dơ-nét-xốp gật gật mái đầu đang ong ong của anh như một người say rượu. 

-Có thể nghe được,-anh đáp. Và anh thong thả liếc nhìn anh em pháo thủ, có ý tìm hiểu qua nét mặt xem họ có hiểu rằng cuộc chiến đấu dẫu sao cũng đã kết thúc rồi không. 

Trong bảy anh em pháo thủ ở đây chỉ còn lại có hai người là Nết-trai-ép và Tri-bi-xốp, cả hai đã kiệt sức đến cùng cực, sau nhiều giờ chiến đấu, đã mất hẳn cảm giác hiện thực, thể lực suy sụp đến tột độ, họ không hỏi gì và cũng không nghe thấy gì cả. Trắc thủ Nết-trai-ép vẫn không rời khỏi kính ngắm, anh quỳ trước ống kính, trán tựa vào khuỷu tay gấp lại, ngáp đến sái cả quai hàm: “Á-á-á-á…”. Tri-bi-xốp nửa nằm nửa ngồi ở phía bên kia ổ nạp đạn, co ro, rụt đầu trong áo choàng, chỉ trông thấy một phần má bác râu ria lởm chởm, màu lơ xám, bẩn thỉu nhô ra khỏi cổ áo và chiếc mũ lót, miệng bác bật ra những tiếng phì phò mệt mỏi đều đều, rền rĩ, tựa hồ như bác cũng không thở được. 

-Ôi lạy Chúa, lạy Chúa, tôi kiệt sức rồi… 

Cu-dơ-nét-xốp nhìn Tri-bi-xốp đang nhắc lại những tiếng lảm nhảm đó như lời cầu kinh khi bất tỉnh nhân sự; anh cảm thấy mình bắt đầu bị cóng: quần áo lót dính chặt vào người, chiếc áo va rơi đã không còn ấm áp nữa, gió luồn qua áo choàng. Tiếng ngáp ngột ngạt của Nết-trai-ép, gió thổi lạnh buốt pha lẫn với mùi thịt cháy hăng hắc vẫn còn đọng trong không trung làm cho quai hàm anh co lại. Anh kinh tởm nuốt nước bọt, bước lại gần Tri-bi-xốp, khẽ hỏi: 

-Bác Tri-bi-xốp, bác không ốm đấy chứ? Bác thấy trong người như thế nào?-Và anh bẻ cổ áo choàng che mặt cho bác. 

Đôi mắt tròn xoe vì bất ngờ sợ hãi ngước nhìn lên như cái nhìn của kẻ bị săn đuổi nhưng lập tức mắt bác nhấp nháy, bác đã nhận ra Cu-dơ-nét-xốp, trông có vẻ tỉnh dần và những tiếng thét của Tri-bi-xốp vang lên làm cho chính bác cũng hết sức phấn khởi: 

-Tôi khỏe, khỏe, đồng chí trung úy! Tôi vẫn đứng vững. Vì Chúa, xin đừng nghi ngại! Tôi phải đứng dậy à? Không à? Đứng dậy à? Tôi có thể bắn được… 

-Chả có gì mà bắn,-Cu-dơ-nét-xốp thốt lên, lờ mờ nhớ lại hình ảnh Tri-bi-xốp lúc chiến đấu-những động tác của bác ở ổ nạp đạn khi kéo giật tay cò về phía sau, bộ mặt bối rối như thể chả còn chút sinh khí cuối cùng, khuôn trong lần mũ lót mà bác chưa hề tháo ra từ lúc hành quân và đồng thời cả tấm lưng của bác co rúm lại như thể sẵn sàng đón nhận điều khủng khiếp. Có lẽ bác nạp đạn không kém và cũng không hơn những người khác nhưng tấm lưng đó của bác đập vào mắt Cu-dơ-nét-xốp, làm nhói lên trong lòng anh một nỗi thương xót độc hại và khiến cho anh lúc nào cũng muốn la lên: “Sao bác cứ co ro thế, để làm gì hả?”-Nhưng lúc nào anh cũng nhớ rằng Tri-bi-xốp gấp đôi tuổi anh và có năm con. 

-Lúc này thì chấm dứt rồi, bác Tri-bi-xốp ạ, bác hãy nghỉ ngơi đi.-Cu-dơ-nét-xốp nói và anh quay người đi, ngực thắt lại vì buồn nôn, đau đớn lặng người đi vì sự trống rỗng câm lặng ở xung quanh… 

Đây là khẩu pháo duy nhất còn nguyên vẹn của cả trung đội hết sạch cả đạn và số phận đã mỉm cười với bốn người trong đó có cả anh, những người đã ngẫu nhiên may mắn sống sót qua suốt một ngày đêm chiến đấu liên tục, sống lâu hơn những người khác. Nhưng không thấy niềm vui sướng. Rõ ràng là bọn bọn Đức đã chọc thủng tuyến phòng ngự, cuộc chiến đấu hiện đang diễn ra ở hậu phương, sau lưng họ; trước mặt họ vẫn là những chiếc xe tăng Đức đã ngừng tiến công vào lúc chiều tối, còn họ thì chẳng còn một trái đạn nào. Sau tất cả những gì anh đã phải trải qua trong suốt một ngày đêm đó, anh, như bị bệnh, đã vượt qua một cái gì đó-và cái cảm xúc mới mẻ, hầu như có tính chất tiềm thức đó đã đẩy anh tới trạng thái căm thù say sưa, có sức hủy diệt, tới trạng thái khoái trá vì sức mạnh của mình mà anh đã trải qua khi anh bắn vào những chiếc xe tăng và thấy chúng bốc cháy. 

“Cứ như là mê sảng ấy. Đã xảy ra một điều gì đó trong lòng mình,-Cu-dơ-nét-xốp ngạc nhiên nghĩ.-Chừng như mình lấy làm tiếc là cuộc chiến đấu đã kết thúc. Nếu như mình không nghĩ rằng chúng nó có thể giết mình thì có lẽ mình đã bị giết thật rồi! Hôm nay hoặc ngày mai…”. Ý nghĩ đó khiến anh nhếch mép cười, anh vẫn còn chưa đủ sức kiềm chế tình cảm mới đó ở trong mình. 

-Trung úy!... Trung úy! Chúng mình sẽ sống hay sẽ chết như những con rệp, hả trung úy? Tôi đói mềm cả người! 

 31.12.2010

LSB-Sun

-=[ Lương Sơn Ẩn Sĩ ]=-

ღ Đại Trưởng Lão QPB ღ

TUYẾT BỎNG

Chương 18 -1

Nguồn: vnthuquan

Nội dung thu gọn

Thượng sĩ U-kha-nốp kêu lên như vậy. Anh giật chiếc ống nhòm vô tích sự đeo ở cổ ra, quẳng nó lên bờ công sự rồi cài khuy áo bông lại, vươn người dậy, đi vòng kiềng lảo đảo, chiếc ủng nọ đá vào chiếc kia. Rồi anh suồng sã hích chân vào chiếc ủng của Nết-trai-ép vẫn đang co giật vì ngáp như ban nãy,-anh ta vẫn ngồi trước kính ngắm, trán tì vào cẳng tay. 

-Sao mà ngáp dữ thế, chú lính thủy? Hãy chấm dứt công việc vô ích đó đi? 

Nhưng Nết-trai-ép vẫn không rời trán khỏi căng tay, không đáp, tiếp tục ngáp không ngừng: anh đương ở trong trạng thái mơ mơ màng màng rất nặng, tiếng động cơ xe tăng vẫn dai dẳng rền vang trong tai anh, những vầng lửa nóng ran đỏ như máy bay vun vút từ bóng đêm hiện ra trong kính ngắm làm lóa mắt anh, mồ hôi ở mi mắt khiến anh ngắm không rõ và khi bắn mỗi phát súng, phơi mình trước cái chết, tay anh lại hối hả túm lấy, vuốt ve, căm ghét bánh lái kính ngắm. Sau nhiều giờ ngồi bên kính ngắm, anh đã hít phải nhiều khói súng và bây giờ anh bị thiếu dưỡng khí. Cố nhiên đây cũng là chuyện thần kinh. 

-Giá bây giờ mà kể chuyện gì đó về đàn bà cho anh chàng ở Viễn Đông này nghe thì lập tức hắn vểnh ria ra tứ phía ngay,-U-kha-nốp nói một cách hiền lành và hích mạnh chân vào ủng của Nết-trai-ép.-Cậu có nhận ra mình không. Nết-trai-ép? Đứng dậy! Đàn bà đang đi từng đàn ở quanh đây kia kài! 

-Đừng động đến cậu ấy, U-kha-nốp,-Cu-dơ-nét-xốp mệt mỏi buông xõng.-Cứ để cậu ấy ngồi. Đừng động đến ai cả. Cậu ở đấy nhé.-Và anh máy móc chỉnh lại bao súng ngắn đeo ở bên sườn.-Mình sẽ trở lại ngay. Mình đi quanh trung đội đây, nếu như bọn Đức không bò tới đó. Mình muốn đi xem tình hình thế nào. 

U-kha-nốp vỗ bao tay vào nhau, giật giật đôi vai xo. 

-Cậu muốn đi xem những ai còn lại à? Không còn một mống nào đâu. Chúng mình bị lọt thỏm trong vòng vây của xe tăng Đức, chúng mình ở đây, còn bọn chúng ở đằng kia. Chúng nó đã thọc sâu được vào bên phải và bên trái. Tình hình là thế này trung úy ạ: bọn Đức bị bao vây ở Xta-lin-grát, còn bọn mình thì bị vây ở đây. Một ngày vui đấy chứ hả? Người ta bảo không có địa ngục. Láo toét! Trung úy ạ, nói chung, chúng mình gặp may nhiều lắm đấy!-U-kha-nốp nói, tựa hồ như vui lên vì sự may mắn ấy.-Phải cầu nguyện mới được. 

-Cầu nguyện ai?-Cu-dơ-nét-xốp lại quay nhìn Nết-trai-ép và Tri-bi-xốp đang nằm đờ ra ở hai bên càng pháo rồi nói thêm:-Nếu ban đêm xe tăng địch tới đây, chúng sẽ nghiến nát bọn mình trong tay không còn một quả đạn, chỉ năm phút. Mà rút đi đâu? Cậu hãy cầu nguyện số phận để xe tăng chúng đừng tới đây… 

-Đúng thế,-U-kha-nốp cười khanh khách và lập tức kìm ngay tiếng cười của mình lại:-Anh đề nghị cái gì hả trung úy? 

-Mình đi xem các khẩu pháo thế nào. Sau đó ta sẽ quyết định. 

-Ta quyết định à? Anh sẽ quyết định cùng với tôi à? Thế Đrô-dơ-đốp-xki đâu? Anh chàng đại đội trưởng của chúng mình đâu? Chỗ liên lạc với đài quan sát ở đâu? 

-Tôi sẽ cùng với cậu quyết định. Chứ còn với ai nữa!-Cu-dơ-nét-xốp xác nhận.-Sao cậu cứ nhìn mình thế? Chưa rõ à? 

-Chúng ta sẽ tới chỗ các khẩu pháo.-U-kha-nốp quàng súng tiểu liên qua vai.-Rồi sẽ thấy. Nhưng dù sao thì cũng đã rõ rồi: đi xem hay không thì chúng ta cũng đã bị bao vây. Chỉ còn có điều này là chửa rõ. Ở phía trước mặt chúng ta, cách làng chừng bảy trăm mét hình như không có bọn Đức. 

-Chúng đã chiếm được làng rồi, chúng còn cần quái gì đến cái thảo nguyên trần trụi này! Với lại bảy trăm mét đối với xe tăng có nghĩa lý gì! Chắc chúng nghĩ rằng chẳng còn ai sống sót ở đây. Nhất là khi chúng đã sang được bờ sông bên kia. 

-Dẫu sao cậu cúng là tay kỳ quặc thật đấy, trung úy ạ, nhưng không sao. Có thể chiến đấu cùng với cậu được. 

-Nghe cũng thú vị đấy. Cậu hãy nói nữa đi! Thêm một lời khen nữa là mình sẽ tan biến ra mất… 

-Được thôi. Đồng ý. À này, thế còn cô gái của chúng ta thế nào nhỉ? Cô ấy đâu? Còn sống không? 

-Ừ, đúng rồi. Cô ấy ở trong hầm đất với thương binh. Cô ấy đã kéo thương binh từ chỗ khẩu pháo của cậu đấy. Cậu không để ý à? 

-Ngoài xe tăng ra tôi chả trông thấy gì cả. Và cũng chả suy nghĩ gì cả… 

Khi họ rời khỏi hỏa điểm và rảo bước trong hào giao thông, sự yên tĩnh đó nặng như chì đè lên đầu họ. Cu-dơ-nét-xốp là ngươì đầu tiên dừng lại, anh lắc lắc màng nhĩ như khi lội xuống nước vậy-tiếng ong ong cứ rền rĩ mãi trong tai anh. Cả U-kha-nốp cũng bất chợt dừng lại ở đằng sau. Tiếng áo quần sột soạt, tiếng chân bước lặng hẳn đi. Một tràng súng máy đơn độc vang lên ở sau lưng, về phía quầng sáng, càng làm nổi rõ thêm sự im ắng nặng nề, khó tin đó. Rồi tất cả im lìm, chết lặng trong bóng đêm. Chỉ có giọng nói của U-kha-nốp phá tan sự tĩnh mịch trong lúc tai Cu-dơ-nét-xốp vẫn ong ong: 

-Cậu thấy gì thế, trung úy? Một xạ thủ súng máy Đức ở sau lưng à? 

-Tai cậu có ong ong lên không hả, U-kha-nốp?-Cu-dơ-nét-xốp do dự bỏ mũ lông ra, nghĩ rằng mình đã bị ù tai hoàn toàn-Cậu nghe thấy gì thế? 

-Tiếng dế kêu ở trong đầu, trung úy ạ. Do bắn nhiều quá đấy… 

-Có thế thôi à? 

-Tôi thấy là cuộc chiến đấu ở bên kia sông đã chấm dứt. Chả lẽ chúng nó đã đột nhập được vào sâu hơn à? 

-Khắp nơi im ắng. 

-Im như chết,-U-kha-nốp nói.-Hình như chúng đã đẩy lùi quân ta đến tận Xta-lin-grát, đã chọc thủng mặt trận, chỉ có chúng mình thì tớt lại đây… Anh hãy nhìn về phía Đông Bắc mà xem, trung úy. Lửa cháy phía trên Xta-lin-grát. Cách đây chừng ba chục ki-lô-mét. 

-Khoan đã!... Cậu hãy nghe mà xem…-Cu-dơ-nét-xốp áp mình vào bờ lũy, thận trọng vươn mình ra.-Hình như ở đằng trước có ai kêu… Hay đó chỉ là do tai mình? 

Anh đã nghe thấy tiếng người kêu ở đâu đó sau các đường hào giao thông ở trên đồi, tiếng kêu lặng đi ngay trong bầu không khí tĩnh mịch, giữa đám tuyết đỏ lòe. Cu-dơ-nét-xốp nín thở, không đội mũ, lắng nghe qua tiếng ong ong trong tai, anh nhìn vào quầng sáng lóe lên trên bờ sông bên kia giữa cảnh im lặng khó hiểu, nhìn bầu trời sáng lờ mờ phía trên Xta-lin-grát ở mạn Đông Bắc, những đống lửa khét lẹt mùi gỉ sắt rải rác trên thảo nguyên: lửa, gió, những mảnh tuyết, những hình bóng lờ mờ gở lạ, của những chiếc xe tăng và xe bọc thép đang cháy ở trên đồi. 

-Không có lẽ nào chúng lại đã chọc tới được Xta-lin-grát,-Cu-dơ-nét-xốp nói khẽ. 

Hình như anh đã tưởng tượng ra tiếng người kêu. Sau cùng anh lấy lại hơi. Không nơi nào có tiếng súng bắn. Không một động tĩnh. Không một âm thanh. Tưởng chừng như toàn bộ mặt trận đã chết lặng, trút hơi thở cuối cùng và lạnh cóng trước những cơn gió man rợ, mặt đất giờ đây như một bãi sa mạc dưới quầng sáng không sinh khí. Còn họ, hai người ở đây và hai người nằm lại bên khẩu pháo sau lưng họ, mệt mỏi, bất lực bốn người cả thẩy, còn lại trên đời giữa chết chóc trống trải. Đêm tháng Chạp lạnh giá, im lìm, chết lặng làm cho Cu-dơ-nét-xốp khó chịu và anh nhăn nhó mỉm cười, nói: 

-Chắc mình tưởng tượng ra…-Anh đội mũ lên đầu,-Cậu nói đúng: trong tai như có tiếng dế kêu. 

Họ lại bước đi trong hào giao thông. Lại vang lên tiếng bước chân, tiếng áo quần sột soạt, dù sao đó cũng là dấu hiệu của sự sống. 

-Nếu chúng mình bắt đầu có ảo giác thì tức là công việc của chúng ta không ổn, trung úy ạ.,-U-kha-nốp cười vang.-Vả chăng cũng có thể là một tên Đức bị thương kêu la chứ. Hay một cậu trong anh em bộ binh của mình. 

-Mình nghĩ là chẳng mấy ai trong đội cảnh giới chiến đấu còn ở lại. Vì xe tăng của chúng đã chà sát suốt một ngày chắc phải rút đi rồi chứ… 

-Đồng ý với trung úy. Đồng chí phải liên lạc với đài quan sát chứ. Có thể Đrô-dơ-đốp-xki vẫn giữ được liên lạc với cấp trên. 

-Bọn mình sẽ đi quanh trung đội để xem xét rồi sau ta sẽ bàn xem nên làm gì,-Cu-dơ-nét-xốp nói và sau khi bước thêm mấy bước trong hào giao thông, anh thốt lên bằng giọng khác lạ:-Khẩu pháo của Tru-ba-ri-cốp… Có một điều mình không hiểu là tại sao họ lại không nhận ra chiếc xe tăng đó? 

-Tôi cũng không hiểu. Tôi nã súng vào nó khi trông thấy nó đã áp sát ngay phía trước công sự,-U-kha-nốp đáp.-Hình như tất cả mọi người ở đó đều đã bị thương trước khi xe tăng địch thọc vào. 

-Mình đã trông thấy cậu nổ súng. 

Họ tới gần hơn. 

Đó là nơi trước đây được gọi là hỏa điểm của khẩu pháo thứ hai, do hạ sĩ Tru-ba-ri-cốp chỉ huy, sáng nay Cu-dơ-nét-xốp đã bắt đầu tham gia chiến dịch ở đây, trong đợt tiến công đầu tiên của xe tăng địch. Nhưng lúc này không thể gọi nó là một vị trí pháo binh được. Chiếc xe tăng to lớn đã cháy thành than đen ngòm sau khi nó đã dùng xích sắt hất tung khẩu pháo lên, làm cho khẩu pháo bẹp dí, cong queo ở đây. Xác chiếc xe tăng địch nhô lên một cách xa lạ và gớm ghiếc giữa những bờ công sự bị cày nát, những chiếc ủng vương vãi trên mặt đất, những mảnh áo choàng, áo lông, những hòm đạn gãy vụn tan tành. Không ai kịp chạy khỏi khẩu pháo… 

Tất cả đều đã bị cong queo, cháy rụi, chết lặng mùi gỉ sắt hăng hắc, mùi thuốc súng trộn lẫn với đất và tuyết, mùi sơn bốc lên nồng nặc. Gió rít lên man rợ, thốc qua những lỗ thủng của chiếc lá chắn bị xé đứt một nửa, xoắn lại như những cái vòng xoáy trôn ốc từ lâu đã đông cứng băng giá và cứ mỗi khi tấm lá chắn rách đó chạm vào chiếc xích xe tăng cuốn đầy những giẻ rách bẩn thỉu lại khẽ kêu lên ken két làm người ta cảm thấy ớn lạnh ở sống lưng. 

Và từ khối sắt đen ngòm của chiếc xe tăng bị cháy ngập trong băng giá, từ khẩu súng bị nghiền nát toát ra cái lạnh lẽo ghê rợn của chết chóc đến mức làm cho người ta sởn gai ốc. 

“Mọi việc đã xảy ra ở đây như thế nào nhỉ? Tại sao họ lại không kịp bắn?”. 

Cu-dơ-nét-xốp thấy cổ họng nghẹn lại, anh cảm thấy mình có lỗi-tại sao lúc đó mình lại rời khỏi khẩu pháo?-anh muốn hiểu rõ những giây phút hiểm nguy đó đã xảy ra như thế nào, những giây phút mà anh cùng với Dôi-a từ các vị trí của Đa-vla-chi-an bắn vào các xe tăng, anh cố hình dung xem vào những giây phút cuối cùng trước khi chết họ có định bắn không, cố hình dung khuôn mặt của họ, động tác của họ vào lúc mà khối xe tăng bốc cháy đã chồm qua bờ công sự.

Chương 18 -2

Nguồn: vnthuquan

Nội dung thu gọn

Anh chỉ nhìn thấy cái chết của anh em pháo thủ từ xa và anh đã không thể làm gì được. Những giây phút chớp nhoáng đó đã xóa khỏi mặt đất tất cả những người đang nằm ở đây, anh em trong trung đội của anh, những người mà anh chưa kịp hiểu biết kỹ càng: hạ sĩ Tru-ba-ri-cốp, cái cổ ngẳng thơ ngây như một thân cây hướng dương, cử chỉ con trẻ khi anh vội vã lau mắt: “Mắt tôi đầy đất rồi!”, trắc thủ Ep-xtích-nê-ép chính xác một cách tháo vát, tấm lưng chậm chạp bình tĩnh, dòng máu ngoằn ngoèo rỉ ra ở gần tai bị ù đặc vì tiếng nổ: “Hô khẩu lệnh cho tôi to hơn, đồng chí trung úy, to nữa lên!...” 

Anh hãy còn nhớ cái nhìn của họ, giọng nói của họ, những giọng nói đó còn văng vẳng bên tai anh như thể cái chết của họ đã đánh lừa anh và anh phải được gặp lại họ, nghe họ nói… Và tưởng như điều đó phải xảy ra vì rằng anh chưa kịp gần gũi họ, chưa kịp hiểu biết từng người, mến yêu họ… 

Mặt và cánh tay Cu-dơ-nét-xốp đã tê cóng và hầu như anh đã tự phán xét mình một cách thậm tệ về những việc đã xảy ra mà lúc ấy anh đã không đủ sức ngăn ngừa, chặn đứng lại, anh muốn biết những chi tiết cuối cùng xảy ra ở đây, họa chăng có thể giải thích rõ tất cả. 

Nhưng những gì anh nhìn thấy trên hỏa điểm này,-những gì còn sót lại của anh em pháo thủ chỉ còn có thể đoán ra một cách mơ hồ qua đống đất ngổn ngang sẫm màu và không cần phải chôn cất nữa-quang cảnh đó đã dìm anh vào cái im lìm chết lặng. Không ai có thể trả lời, ngoài họ. Nhưng họ không còn nữa… Chỉ còn tiếng lanh canh ken két khe khẽ của lá chắn khẩu pháo đã bị xoắn lại va vào xích sắt xe tăng mỗi khi có cơn gió thoảng qua. Cu-dơ-nét-xốp ngẩng khuôn mặt lạnh cóng lên. Bất ngờ tiếng xẻng chan chát vang lên sau lưng anh. Giữa cảnh tĩnh mịch tiếng xẻng vang lên rành rọt, rõ ràng. Bóng U-kha-nốp thẫm đen dưới quầng sáng, anh đang lúi húi dùng xẻng đào đất trong hốc để đạn trái phá. 

Cu-dơ-nét-xốp lặng lẽ lại gần và nhìn. U-kha-nốp đã bới được trong hốc đất một xác người nằm sấp, dang hai tay túm chặt lấy một vật gì đó ở dưới mình, chiếc áo choàng trên lăng bị rách tung: chắc là một loạt đạn súng máy của xe tăng địch đã nã thẳng vào người anh ta. 

-Ai thế?-Cu-dơ-nét-xốp hỏi giọng khàn khàn.-Ai thế, U-kha-nốp? 

U-kha-nốp lặng lẽ túm lấy vai xác chết đã cứng đơ và kéo ra khỏi một vật gì dẹt màu xám, quay mặt lên. Không thể nhận được mặt người chết bị một mảnh đạn đông cứng dính chặt. Cái vật dẹt và xám đó là hòm đựng đạn. 

-Người tiếp đạn,-U-kha-nốp nói rồi hắng giọng cắm chiếc xẻng gần hòm đạn.-Bị một loạt đạn vào lưng… hình như lúc cậu ấy đang lấy đạn. Chỉ có một điều tôi không hiểu được, trung úy: tại sao họ lại để cho chiếc xe tăng địch lọt vào hay là trước đó mọi người đều đã bị thương?-Anh hất đầu về phía chiếc xe tăng.-Hãy còn đạn cơ mà! Như vậy là họ hãy còn đạn! Mà Tru-ba-ri-cốp và Ep-xtích-nê-ép bắn rất cừ. Và chiếc xe tăng lúc ấy đã bốc cháy!... 

Cu-dơ-nét-xốp sửng sốt trước sự tức giận, sự phủ nhận nào đó, sự bất đồng tàn nhẫn trong giọng nói của U-kha-nốp, như thể họ, những người không còn có thể trả lời anh ta nữa, có lỗi về cái chết của chính mình, còn anh ta. U-kha-nốp, hình như không muốn tha thứ cho sự hy sinh của tất cả anh em pháo thủ ở đây đã bị xe tăng nghiền nát. 

Cu-dơ-nét-xốp nói giọng khàn đặc: 

-Chúng mình không biết sự việc đã xảy ra ở đây như thế nào. Kết tội ai? 

-Tôi không thể tha thứ cho mình được.-U-kha-nốp nhắc hòm đạn khỏi mặt đất, dùng sức ném nó lên bờ công sự.-Lẽ ra tôi phải tống cho nó thêm một quả đạn thứ hai nữa! Nhưng đúng lúc ấy bầy xe tăng địch đã lao vào chỗ tôi! Nhưng dẫu sao tôi cũng đã trông rõ chiếc xe tăng này như trong lòng bàn tay, nó phơi sườn về phía tôi rất rõ.-Anh bước ra khỏi hốc đất nhìn thiếu tá hài sẫm màu của người tiếp đạn nằm trên mặt đất.-Cám ơn anh em đã cho tôi đạn. Chôn cậu ta ở đây hả trung úy? 

-Trong hốc đất ấy,-Cu-dơ-nét-xốp đáp.-Tôi ghé qua chỗ khẩu pháo của Đa-vla-chi-an… 

Tại vị trí của trung đội hai, tất cả cũng bị cày xới tơi tả, ngổn ngang, khắp nơi là những hố bom hình phễu há miệng đen ngòm, tiếng mảnh đạn lạo xạo dưới chân-vị trí này không còn tồn tại nữa, chỉ còn lại những bờ công sự bị cày nát, những vỏ đạn vương vãi và một khẩu pháo bị vỡ hộp chống giật mà Cu-dơ-nét-xốp đã dùng để bắn, đánh dấu cái hỏa điểm hoang vắng, bị bỏ lại và im ắng vô chừng. Chiếc hầm thông tin ở đằng sau khẩu pháo, nơi Cu-dơ-nét-xốp đã nhảy vào lúc địch ném bom để tìm chiến sĩ giữ điện thoại Xvi-a-tốp đã bị đạn nổ phá hủy một nửa. Khi đi ngang qua, Cu-dơ-nét-xốp lấy chân chạm vào một sợi dây đứt và anh bỗng thấy tim mình nhói lên khi cảm thấy sợi dây đàn hồi, giờ đây trở nên vô ích bám lấy chân anh. 

Anh nhận thấy điều khủng khiếp nhất lúc này không phải là những gì anh đã trải qua trong suốt cuộc chiến đấu hôm nay mà là sự trống trải, cô đơn đang tới gần anh, là sự im lặng kỳ quái trùm trên trung đội, tựa hồ như anh đang đi giữa một nghĩa địa chi chít mồ mả, và quanh anh không còn ai ở trên thế gian này nữa. 

Anh rảo bước trở lại khẩu pháo của Tru-ba-ri-cốp, muốn mau chóng gặp và nghe U-kha-nốp nói, cần phải cùng với anh ta quyết định xem sắp tới họ phải lần lượt làm những gì: chuyển đạn, thử bắt liên lạc với đài quan sát, đi tìm Dôi-a xem cô thế nào, anh em thương binh ở trong hầm ra sao, Đa-vla-chi-an và những người khác… 

Không thấy U-kha-nốp ở trên hỏa điểm bị chiếc xe tăng to lớn cháy rụi che khuất, cũng không thấy anh ta ở gần hốc đất. Ở đây gió rít lên lùa qua những lỗ thủng kim loại và chiếc xẻng từ mô đất gồ ghề trong hốc đất nhô cán nghiêng lên như dấu hiệu khủng khiếp của sự cô đơn-đó là nấm mồ của người chiến sĩ tiếp đạn khẩu pháo của Tru-ba-ri-cốp. 

-U-kha-nốp!... 

Không có tiếng trả lời. Cu-dơ-nét-xốp gọi kiên quyết hơn: 

-U-kha-nốp! Cậu có nghe thấy không?... 

Tiếp đó tiếng thét trả lời vang lên từ đâu đó phía sau bờ công sự: 

-Lại đây trung úy! Lại đây với tôi! 

-Cậu ở đâu đấy, U-kha-nốp? 

Để đề phòng bất trắc, Cu-dơ-nét-xốp mở khuy cài bao súng, leo qua bờ công sự, đi về phía có tiếng trả lời giữa những hố đạn sâu dày đặc. Im lặng. Không có một quả pháo sáng nào bay lên. Thảo nguyên phía trước trung đội, với những đám lửa rải rác, chạy dài tới lòng khe, tưởng như chạy dài tới cùng trời cuối đất; gió cuốn đi hơi nóng hăng hắc của sắt bị nung cháy và khó tin được đằng sau bờ công sự lại là khoảng không gian do ai chiếm cả. Ở phía trước mặt, trên nền tuyết sáng lờ mờ thấp thoáng hình bóng của U-kha-nốp khi ẩn khi hiện ở gần bóng mấy chiếc xe tăng bị bắn cháy. 

-Cái gì đó thế, U-kha-nốp? 

-Ra mà xem bọn Đức bị chết này trung úy!...

 31.12.2010

LSB-Sun

-=[ Lương Sơn Ẩn Sĩ ]=-

ღ Đại Trưởng Lão QPB ღ

TUYẾT BỎNG

Chương 18 -3

Nguồn: vnthuquan

Nội dung thu gọn

Tuyết vụn như lột bám trắng cả chân và phủ một lớp mỏng lên những cái rãnh do xích xe tăng xới lên. Và mãi đến lúc này, khi đã đi cách xa các khẩu pháo của mình, Cu-dơ-nét-xốp mới nhìn thấy xác mấy tên Đức bị chết trong những tư thế khác nhau, vào lúc chúng định bò ra, chạy xa chiếc xe tăng bị bắn cháy. Những cái xác đó ánh hồng lên dưới quầng sáng, đông cứng lại như những súc gỗ lăn lóc trên tuyết; có thể phân biệt được những chiếc áo liền quần đen sẫm trên người chúng. 

Cu-dơ-nét-xốp bước thêm mấy bước nữa và với sự tò mò bướng bỉnh, không cưỡng được, khó hiểu đối với chính mình, anh nhìn vào mặt tên bị giết đầu tiên. Tên Đức nằm ngửa, ngực ưỡn lên một cách không tự nhiên, hai tay kẹp chặt lấy bộ áo liền quần, dưới tay nó có một vật gì đen đen bóng loáng, bị đóng băng mà Cu-dơ-nét-xốp không đoán ra ngay, đó là chiếc mũ da đẫm máu. Đầu kẻ bị giết để trần, ngã vật ra đằng sau đến nỗi cái cằm của nó vểnh lên nhọn hoắt, bị phủ một lớp băng, những sợi tóc như những sợi chỉ bị băng giá dính xuống tuyết, khuôn mặt trắng trẻo, trẻ trung ngếch lên trời, cứng đờ, nhăn nhó, ngạc nhiên, tựa hồ như môi nó mấp máy định huýt sáo hoặc kêu lên, còn phía bên trái khuôn mặt cứng đơ như thạch cao đó không bị tuyết phủ, màu xanh nhạt, hốc mắt sâu mở to trong nỗi khiếp sợ cuối cùng, phản chiếu ánh sáng, lóe lên như một đốm lửa nhỏ bằng thủy tinh. 

Cứ nhìn những chiếc lon hẹp óng ánh bạc thì đó là một tên sĩ quan. Cách nó ba bước chân là một hố đạn đào sâu xuống tuyết; những mảnh đạn trái phá nổ tung đã rơi trúng bụng ỵ. 

“Ai giết hắn: mình hay U-kha-nốp? Quả đạn này là của ai? Của mình hay của cậu ấy? Tên giặc nghĩ gì, ước mong gì khi ra trận?”-Cu-dơ-nét-xốp tự hỏi, đưa mắt nhìn kỹ khuôn mặt tên Đức trông như một đứa trẻ sững lại trong vẻ khiếp sợ kinh hoàng đó. Anh cảm thấy mình không hiểu được điều bí ẩn xa lạ, khó đoán, cảm thấy cái tử khí khô khốc đanh cứng như kim loại. Tên Đức này có lẽ đã hấp hối một cách đau đớn, bao súng ngắn của nó đeo ở bên sườn vẫn còn cài khuy kín. 

Đã nhiều lần, trong những trận chiến đấu đầu tiên ở Rô-xláp, Cu-dơ-nét-xốp đã hình dung mình chết như thế này: anh tưởng tượng như có một tên Đức nào đó bước lại gần, lấy giày hất xác anh một cách ghê tởm và thô bạo và lúc nghĩ như vậy, anh chỉ mong ước một điều là bị trúng đạn vào đầu, vào thái dương. Điều anh sợ hơn cả là khi bị thương trên mặt, sự nhăn nhó đau khổ sẽ hằn in trên mặt, mồm nhe ra như con thú vì khiếp sợ, những cái thường thấy trên mặt người chết và một cái chết như vậy đã hạ thấp con người. Anh tìm lối thoát, tìm sự hỗ trợ ở viên đạn cuối cùng ở viên đạn cuối cùng mà từ dạo đó bao giờ cũng giữ lại trong súng ngắn một cách hầu như mê tín. Như thế yên tâm hơn. 

“Sau khi cho xe tăng đột kích, hắn nhảy ra khỏi xe,-Cu-dơ-nét-xốp tưởng tượng khi nhìn xác chết.-Nghĩa là hắn còn chưa tin rằng hắn sẽ bị chết, còn hy vọng sống sót. Thậm chí khi đạn trái phá nổ cách ba bước và mảnh đạn đã văng vào bụng, hắn vẫn còn suy nghĩ, cảm thấy đau và lấy mũ ép vào vết thương”. 

Cũng với cảm giác tò mò không cưỡng được, không được thỏa mãn trước câu đó muôn thuở, khó giải thích về cái chết, Cu-dơ-nét-xốp không phải là không do dự cúi người xuống, không tháo găng tay len và bắt đầu mở nắp bao súng đeo, cứng như đá được tuyết làm cho bóng lên, dựng khẩu Pa-ra-ben-lom. Các ngón tay không chịu tuân theo ý muốn của anh trượt trên lớp băng. Không thể mở được khuy bấm và khi khuy bấm tự bật ra, kêu tách một cái, anh rút khẩu Pa-ra-ben-lom nằm khít trong bao và ngửi thấy mùi mỡ tươi đông cứng, gợi nhớ tới mùi mồ hôi người. 

“Mới sáng nay tên Đức này cũng như Tru-ba-ri-cốp đều còn sống… Tên Đức lái xe tăng lao tới, giết chết Tru-ba-ri-cốp và tất cả anh em pháo thủ. Rồi một mảnh đạn của mình hoặc của U-kha-nốp đã giết chết tên đức này. Khi bắn, mình căm thù tất cả những chiếc xe tăng này, căm thù tất cả bọn ngồi trên xe tăng… Thế còn tên Đức này?”. 

Cu-dơ-nét-xốp nín thở nhìn tên bị giết một lần nữa: khuôn mặt trẻ con hẹp lật nghiêng, méo mó vì đau khổ, vì sự ngạc nhiên cuối cùng trước cái chết; cặp mắt cứng đờ như thủy tinh phản chiếu quầng sáng một cách lờ mờ; hai tay ép chặt chiếc mũ vào vết thương ở bụng. “Nếu có chết thì đừng chết như thế này!”,-Cu-dơ-nét-xốp lại nghĩ và khắc phục sự ghê tởm, đút khẩu Pa-ra-ben-lom nằng nặng vào trong túi: dù sao đó cũng là vũ khí. Anh thoáng liếc nhìn hai tên Đức khác bị giết, có lẽ chúng cùng ở trong cái kíp nhảy từ trong xe tăng ra theo tên sĩ quan nhưng anh không xem kỹ bọn chúng, ra theo tên sĩ quan nhưng anh không xem kỹ bọn chúng. 

“Thế là thế nào? Lại một ảo giác chăng?”. 

Rõ ràng có tiếng động cơ gào rú, tiếng xích sắt nghiến ken két ở đâu đó xa xa về phía trước, trên đồi vọng tới tai anh, sau đó tất cả lại lặng đi-và lúc này giọng nói của U-kha-nốp lo lắng vang lên trong bầu không khí tĩnh mịch: 

-Trung úy, lại đây, nhanh lên, lại đây! 

Cu-dơ-nét-xốp lao về phía trước, tới chỗ ba xác xe tăng bị bắn cháy, nơi U-kha-nốp đứng, nhảy qua những đống đất đông cứng do đạn trái phá nổ hất lên và khi đã chạy lại gần, anh trông thấy, dưới ánh sáng của những đám cháy ở xa, bóng đen lờ mờ của U-kha-nốp ở gần chiếc xe tăng ngoài cùng. Anh hỏi, cố nén hơi thở: 

-Gì thế?... Cậu thấy gì thế hả U-kha-nốp? 

-Hình như ở đây có người còn sống, trung úy… 

Lúc này đã có thể trông thấy U-kha-nốp rất rõ, khẩu tiểu liên sẵn sàng nhả đạn của anh ta đặt trên những mắt xích rộng của xe tăng, dưới chân anh ta có một chiếc va li nhỏ tròn bằng da chẳng hiểu lấy ở đâu, trông giống như một cái ba lô của bọn Đức. U-kha-nốp nhét bao tay vào mép áo bông, thổi phù phù vào các ngón tay để sưởi ấm, đưa mắt liếc nhanh Cu-dơ-nét-xốp rồi nói: 

-Anh hãy nhìn về phía đằng trước, chỗ kia kìa. Và hãy lắng nghe mà xem… đấy, chỗ kia kìa, trung úy, nhìn xem, ở chỗ hai chiếc xe vận tải bọc thép bị bắn cháy trên gò đất ấy. Anh không nhìn thấy gì à? Không trông rõ à? 

-Mình chẳng nhìn thấy quái gì cả! Hình như có tiếng động cơ. 

-Đấy, đấy… Nhìn xem, nhìn xem!... Có ánh đèn pin… đã nhìn thấy chưa? 

Không rõ đó là ánh đèn pin hay là ngọn lửa nhỏ từ bật lửa lóe lên nhưng có tia lửa thoáng bùng lên ở phía trước, giữa hai đường viền chết lặng của những chiếc xe vận tải bọc thép trên gò đất phía trước cái khe, sau đó thấy có người nhúc nhích lờ mờ ở phía ấy; mấy bóng người nhòa lẫn trong bóng đêm, đi hàng một trên thảo nguyên, lôi một vật gì đó dài màu sẫm từ những chiếc xe vận tải bọc thép và bóng họ càng hiện ra rõ hơn dưới những hồi quang của ánh sáng. 

-Ừ, bọn Đức,-Cu-dơ-nét-xốp thì thào. 

-Nhìn xem, nhìn xem,-U-kha-nốp thở phì phò ngay sát tai anh.-Chúng nó làm cái trò gì đó chả biết, lũ khốn kiếp.

 31.12.2010

LSB-Sun

-=[ Lương Sơn Ẩn Sĩ ]=-

ღ Đại Trưởng Lão QPB ღ

TUYẾT BỎNG

Chương 18- 4

Nguồn: vnthuquan

Nội dung thu gọn

Đốm lửa lại vụt lóe lên một thoáng, bí ẩn, như thể được che trong tà áo choàng và để trả lời ký hiệu đó trong lòng khe có tiếng rú của động cơ, tiếng xích sắt nghiến ken két và một chiếc ô tô chạy bằng xích sắt trông như một vết đen ngòm lặng lẽ bò lên phía những chiếc xe vận tải bọc thép đã bị cháy rụi, dừng lại tắt động cơ. Lập tức mấy bóng người lao về phía xe, mang theo những vật dài sẫm màu lăng xăng bên xe làm cái gì ở đó rồi xếp hàng dọc rời khỏi những chiếc xe bọc thép, đi vòng quanh những bộ khung sắt của xe tăng, cách nhau một khoảng nhất định, khi thì hòa lẫn vào đất, khi thì thấp thoáng hiện ra trên gò cao nhưng không thấy ánh đèn pin lóe lên nữa. 

-Này, trung úy, chúng nó đang làm cái trò gì ấy.-U-kha-nốp thở vào vai Cu-dơ-nét-xốp lành lạnh.-Tôi không hiểu nổi. Chúng ta phải làm gì đấy?... Tôi còn nguyên cả một băng đạn. Khẩu tiểu liên bắn chính xác lắm.-Trong bóng tối lờ mờ, mắt U-kha-nốp lướt nhanh trên mặt Cu-dơ-nét-xốp.-Ta để cho nó lại gần rồi cho chúng nó về chầu giời cả đi! Hình như chúng nó có mười thằng. 

-Đừng bắn!-Cu-dơ-nét-xốp gạt khẩu tiểu liên của U-kha-nốp ra, ngăn lại.-Khoan đã! Cậu hãy nhìn xem chúng nó đang làm gì… Hay đó là bọn cứu thương hoặc đội chôn cất tử sĩ. Hình như chúng đi lượm xác chết của chúng… 

Ngọn lửa nhỏ làm hiệu được che trong cái gì đó lại lóe lên yếu ớt trên thảo nguyên phía trước cái khe, tiếng động cơ vang lên trầm trầm và chiếc xe hình chữ nhật nghiến xích ken két, bò như một bóng đen lên đỉnh gò ở phía bên trái rồi dừng lại; những bóng người lờ mờ thấp thoáng ở phía trước, lặng lẽ, xếp thành hàng dọc chuyển một cái gì đó tới và chết nó lên xe. 

U-kha-nốp chống khuỷu tay vào xích sắt xe tăng, nhìn đồng cỏ. Anh vẫn không quên thổi phù phù để sưởi ấm bàn tay. 

-Hình như bọn chôn cất người chết. Chúng đi lượm người của chúng,-Anh nói vẻ quả quyết và hỏi:-Thế ta phải làm gì bây giờ, trung úy? 

Cu-dơ-nét-xốp chau mày, lắng nghe: không quả quyết lắm rồi nói thêm:-Bọn cứu thương hay bọn chôn cất người chết không phải là xe tăng. Cứ kệ cho chúng nó thu nhặt.-Anh im lặng, trầm ngâm suy nghĩ.-Mặc xác chúng nó! Chúng ta sẽ không nổ súng trước. Ta đi về chỗ khẩu pháo đi. 

-Việc quái gì! Chúng nó không ngờ có chúng mình ở đây đâu. Hai loạt đạn-thế là xong! Vị trí của chúng mình tuyệt lắm. Thế nào, hả? Ta nã súng nhé?-U-kha-nốp vẫn cứ nó và nheo mày lại.-Để cho chúng đừng bò vào… 

-Mình đã nói là chúng ta sẽ không nổ súng vào bọn đi chôn cất người chết, rõ chưa? Cậu hạ được hai thằng lính đi chôn người chết thì cậu có vì thế mà thắng trận không? Không bắn ở đây thì chúng mình cũng đã không đủ đạn rồi. Cậu tưởng mọi việc đã kết thúc à? Cậu hãy nhìn về phía đằng kia. Về phía ngôi làng ấy. Và nhìn cả phía sau lưng nữa! 

-Thôi đừng thuyết phục tôi nữa, trung úy… 

U-kha-nốp rút bao tay khỏi bụng, thậm chí cũng không nhìn về phía Cu-dơ-nét-xốp chỉ, không nhìn về phía khu làng ở phía Nam bờ sông đã bị cháy mất một nửa, ở phía trước mặt và bên phải cũng như về phía bờ Bắc cũng đã bị bọn Đức chiếm,-anh đeo bao tay, nói có ý dàn hòa: 

-Thôi được, đồng ý. Anh không trông thấy chiến lợi phẩm à?-Anh vỗ vỗ vào dây lưng rộng đeo hai khẩu Pa-ra-ben-lom ở qanh áo bông, túm lấy chiếc túi nhỏ trên mặt đất.-Tôi lấy trên chiếc xe vận tải bị bắn hỏng đấy. Tôi đã mở ra, thoang thoảng mùi xúc xích hun khói. Chả có gì phiền cả. Tặng cho anh đấy, trung úy… vì lòng dũng cảm. Anh hãy cầm lấy quà tặng của người chỉ huy khẩu pháo. 

U-kha-nốp cởi dây lưng, tháo chiếc bao bóng loáng dày cộp đựng khẩu Pa-ra-ben-lom nhưng Cu-dơ-nét-xốp ngăn anh lại. 

-Cậu hãy tặng cho một pháo thủ. Mình có rồi.-Anh sờ vào khẩu Pa-ra-ben-lom cồm cộm dưới túi áo choàng nhớ tới mùi mỡ buồn nôn giống như mùi mồ hôi người.-Cậu biết không, người ta thường tặng chiến lợi phẩm cho các tay văn thư ở hậu phương. Thôi ta đi. 

U-kha-nốp nhếch mép cười: 

-Quả thật từ trước đến nay tôi cứ tưởng anh là một bông hoa trinh nữ, một tay trí thức… Thậm chí đôi khi hình như anh đỏ mặt… Té ra anh là người khắc hẳn! Do đâu lại thế hả? Anh đã tốt nghiệp lớp mười phải không? Có thế thôi chứ gì? 

-Cứ lải nhải mãi, U-kha-nốp. Ngấy lắm. Cậu muốn mình kể tiểu sử cho cậu nghe à? 

-Ông cứ trả lời đi: đã tốt nghiệp lớp mười chưa? Hay là đã học đại học? Lúc ở trường pháo binh chúng mình ở các đơn vị khác nhau, mình chỉ thấy ông từ xa thôi. 

-Mình đã tốt nghiệp lớp mười. Còn cậu, hình như… 

-Khô-ông, trung úy, lớp bảy thôi, còn ba năm tiếp đó học ở hành lang. Hình như tôi hơn ông ba tuổi. 

-Nghĩa là thế nào? 

-Tôi đã rời trường trung học. Xoay ra đọc Nat Pin-kéc-tơn và Séc-lốc Hôn-me (Các nhà văn phương Tây chuyên viết truyện trinh thám).-Rồi gặp may. Tôi vào làm việc tại bộ phận điều tra hình sự ở Lê-nin-grát. Ông bác ruột tôi giúp đỡ, ông ấy cũng làm ở đấy. Nói chung đời vui lắm. Đây này, trong một vụ truy lùng bọn cướp, chúng nó đã đập gẫy của tôi chiếc răng này. 

-Mình thấy rồi, đời vui thật. 

-Ông chớ ngạc nhiên. Nghề nghiệp hiếm có đấy. Tôi đã tiếp xúc với bọn trộm cắp và đủ thứ vô lại. Đối với ông thì đó là khu rừng rậm tối om. Chơi với lửa đấy nhưng thích lắm. Ông không am hiểu cuộc sống ấy đâu! 

-Đúng là mình không am hiểu. Thế cậu vướng chuyện gì ở trường pháo binh? Tại sao người ta không phong quân hàm cho cậu? 

U-kha-nốp cười vang: 

-Ông muốn tin hay không tin thì tùy, trước buổi lễ tốt nghiệp mình đã vượt tường đi chơi, lúc quay về vấp ngay phải tiểu đoàn. Đúng là chạm trán. Ông có nhớ ô cửa sổ ở gần lối ra vào không nhỉ? Tôi chỉ còn việc chui qua ô cửa nhỏ nữa là xong, ấy thế nhưng thiếu tá đã sừng sững trước mặt, như chim ưng rình mồi vậy… 

-Trước lễ tốt nghiệp mà cậu lại nảy ra cái ý định vượt tườn đi chơi?! 

-Đó là một câu hỏi trẻ con trung úy ạ. Chuyện gì đã qua là đã qua. Nhưng ông có hiểu được tấn hài kịch này không? Tôi đã chui người vào cửa sổ và đáng lẽ chuồn ngay thì tôi lại không thể nhịn được được cười khi trông thấy thiếu tá ở trong tư thế lộ liễu như vậy. Ông ấy trố mắt nhìn tôi, còn tôi thì ông biết không, đứng đờ ra trước ông ta như một thằng ngốc và tôi cười đau cả bụng, chẳng biết làm thế nào kìm được. Tôi đứng trên bậu cửa sổ, mặt thộn ra như một thằng ngốc. Sau đó cố nhiên là tiếng la ó ầm ĩ rồi ông ta dựng Đrô-dơ-đốp-xki dậy-anh ta là một trung đội phó mẫu mực theo đủ mọi ý nghĩa-và thế là tôi đi đều bước đến phòng giam. Ông có tin được không? 

-Không. 

-Cái đó tùy ông,-U-kha-nốp nói và chiếc răng cửa bịt bạc của anh sáng lên khi anh mỉm cười. 

Trên bờ phía Bắc, nơi quầng sáng trên trời nhợt nhạt đi, tắt lụi dần, rền lên mấy phát đại bác liên tiếp, và liền đó là một loạt súng máy của bọn Đức-rồi tất cả lại lặng đi. Không có tiếng súng bắn trả từ phía bờ Nam. 

-Tiếng súng bắn từ đâu thế nữa nhỉ?-Cu-dơ-nét-xốp cảnh giác hỏi, im lặng một lát anh lại hỏi như thể tình cờ:-Này cậu nghĩ thế nào về Đrô-dơ-đốp-xki? Đó quả thực là một trung đội phó mẫu mực à? 

-Tác phong của anh ta cứ như thần thánh ấy. Một anh chàng thông minh và tôn trọng kỷ luật. Thế tại sao ông lại hỏi, ông có chuyện gì với anh ta à? 

Cơn gió mạnh khua những gốc cỏ khô cứng đơ ở gần chân họ và thốc từ những ngọn đồi trên thảo nguyên nơi đội chôn cất của địch đang làm việc, vào lưng họ. Cu-dơ-nét-xốp lạnh cóng, cau có vén cổ áo lên. 

-Cậu có biết Xec-gu-nen-cốp đã chết như thế nào không? Thật ngốc nghếch! Thật ngu xuẩn! Mình không thể nghĩ tới chuyện đó được! Mình không thể quên chuyện đó được! 

-Cụ thể là thế nào? 

-Đrô-dơ-đốp-xki chạy tới chỗ khẩu pháo lúc khẩu pháo tự hành của địch đã bắn vỡ hộp chống giật và ra lệnh cho Xec-gu-nen-cốp dùng lựu đạn tiêu diệt khẩu pháo tự hành đó. Dùng lựu đạn, cậu hiểu không? Mà phải bò một trăm rưởi mét trên quãng đất trống trải. Còn súng máy của địch lia như phát cỏ ấy… 

-Hiểu rồi! Tay ấy đã nghĩ ra cách chiến đấu bằng lựu đạn kia đấy! Tôi muốn biết liệu quả lựu đạn đó có thể làm được gì? Chỉ gài được vào xích sắt của nó thôi! Đứng lại, trung úy. Ta lấy đạn… 

Họ dừng lại gần chỗ trước đây là trận địa pháo của Tru-ba-ri-cốp và ở đây mùi kim loại cháy lại phả nồng nặc vào người họ và lại phảng phất nỗi buồn, cái chết, sự cô đơn chết lặng do tiếng lá chắn cong queo của khẩu pháo đập vào xích xe tăng dựng đứng kêu ken két, đơn điệu, não nùng trong gió, do khối xe tăng nằm bất động, do cán xẻng cắm đơn độc trên mô đất ở chỗ hốc đất chôn người chiến sĩ tiếp đạn mà họ đã không nhận mặt được. Tuyết đã rắc lên đây những mảng trắng nhưng vẫn chưa phủ kín hết mặt đất đen trần trụi bị đào xới ngổn ngang. Từ sau chiếc cổ áo kéo cao, Cu-dơ-nét-xốp nhìn gió tuyết mù mịt trên càng pháo bị gãy nát, anh nhận ra những vết giày vừa mới đây, rõ nét lạ lùng của U-kha-nốp gần hốc đất, nơi tuyết đã bắt đầu phủ và anh sửng sốt trước màu tuyết trắng dửng dưng kinh khủng đến nỗi môi anh run lên. 

U-kha-nốp kêu è è, hất hòm đạn lên lưng. Họ lặng lẽ đi về phía khẩu pháo của mình.

 31.12.2010

LSB-Sun

-=[ Lương Sơn Ẩn Sĩ ]=-

ღ Đại Trưởng Lão QPB ღ

TUYẾT BỎNG

Chương 19

Nguồn: vnthuquan

Nội dung thu gọn

Gần khẩu pháo có tiếng thét sợ hãi từ dưới hầm vọng lê: 

-Đứng lại, ai đi đâu? Tôi bắn này!... 

-Bắn đi, bắn ngay đi,-U-kha-nốp đáp lại, giọng chế nhạo và quăng hòm đạn xuống giữa các càng pháo-Phải thét lên như thế này cơ mà, bác Tri-bi-xốp ạ: “Ai, đứng lại!”. Và phải hô thật to để cho đầu gối người ta run lên. Nào bác thử hô lại lần nữa xem nào! 

-Tôi chịu thôi… Tôi chịu thôi, đồng chí thượng sĩ ạ.-Chúng nó bắn đáy,-Tri-bi-xốp ngồi trong hầm làu bàu bào chữa bằng giọng khản đặc vì rét cóng.-Ban nãy tôi đang bật lửa hút điếu thuốc ấy thế là nghe đến “víu” một cái ở trên đầu và đạn cắm vào bờ lũy. Chúng nó nã tiểu liên hay sao ấy!... 

-Chúng từ đâu bắn tới? Bắn vào đâu?-Cu-dơ-nét-xốp nghiêm khắc hỏi, anh vẫn chưa trông thấy Tri-bi-xốp và bước lại gần căn hầm. 

Khẩu pháo đen sẫm đứng đơn độc trên trận địa pháo như thể bị anh em pháo thủ bỏ lại từ lâu, mảnh vải bạt che pháo phần phật trước gió. Đống vỏ đạn đã bắn nằm giữa các càng pháo choãi chân ra, đám tuyết đọng trong những vết nứt trên bờ lũy đất, tất cả trông có vẻ man rợ, ánh hồng lên dưới quầng sáng ở gần bờ bên kia. Giọng nói cóng lạnh của Tri-bi-xốp làu bàu trong bóng tối: 

-Cúi người xuống anh, cúi xuống… chúng nó đã nhận ra khẩu pháo và bắn đấy… 

Tri-bi-xốp không bò ra khỏi hầm, người bác hòa lẫn vào vách hầm nên không trông thấy rõ, chỉ thấy bác động đậy ở đó. Cu-dơ-nét-xốp nói bằng giọng ra lệnh khiến chính anh cũng bực mình. 

-Sao bác cứ rúc trong đất như con chuột trũi thế hả, Tri-bi-xốp? Đến qua kính ngắm cũng chả nhìn thấy bác! Bác ra đây, Nết-trai-ép đâu? 

Nhưng chả hiểu sao anh cảm thấy xấu hổ và lúng túng khi trông thấy bác theo mệnh lệnh thô bạo của anh loay hoay trong lũy đất nghiêng người bò lên vị trí đặt pháo, khom người lách tới ngồi trên càng pháo, thận trọng đưa mắt nhìn về phía bờ bên kia; chiếc áo choàng cũn cỡn trùm lên người bác như một quả chuông, khuôn mặt lưỡi cày râu không cạo nhô ra từ dưới mũ lót như sẵn sàng chờ đợi nguy hiểm; bác cầm khẩu các bin như cầm gậy. Kể cũng lạ, không biết bác ấy đã chịu đựng cả trận đánh này bằng cách nào?-Cu-dơ-nét-xốp nghĩ, anh nhớ tới hình ảnh Tri-bi-xốp lúc địch ném bom, lúc ấy bác nằm nhoài ra và những con chuột ở trong hang dưới mí hầm bị mảnh đạn bắn vào, nhảy lên lưng bác, kêu chin chít?-Lúc ấy bác ta nói gì nhỉ? À, đúng rồi… “Con cái, tôi còn lũ con”. 

-Tôi quan sát, đồng chí trung úy ạ. Còn Nết-trai-ép ở trong hầm trú ẩn… họ ở đằng kia kìa. Cô cứu thương Dôi-a cũng đã đi lại phía đó… Cả anh chàng coi ngựa Ru-bin nữa. Họ trò chuyện gì đó. Còn chúng nó từ bờ sông bên kia bắn sang… Tôi vừa mới bật lửa một cái, ấy thế là viên đạn rít lên trong bờ lũy đất. Đồng chí hãy cúi xuống, ngộ nhỡ… 

-Chúng bắn từ đâu tới? Cụ thể là từ đâu?-Cu-dơ-nét-xốp hỏi. 

-Từ bờ bên kia, thưa đồng chí trung úy. Chúng ngồi gần lắm, trong những ngôi nhà ấy, chúng nó trông thấy khẩu pháo của ta. 

Lời giải thích rụt rè, ngọng nghịu đó của Tri-bi-xốp, khuôn mặt nhỏ nhắn, râu ria tua tủa của bác khi thì quay về phía anh, khi thì quay về phía U-kha-nốp, sự lo ngại, sự báo trước ngốc nghếch hay sáng suốt của bác-tất cả đều dường như xa lạ, như từ một cuộc đời khác và anh không còn cảm thấy lòng thương hại trước đây đối với Tri-bi-xốp nữa. 

-Bác đã trông thấy bọn thiện xạ bắn tỉa của địch ờ bờ bên kia thế mà lại không nhìn thấy gì ngay trước mắt mình,-Cu-dơ-nét-xốp bực bội nói.-Thế mà cũng đòi là người quan sát. 

-Gì kia hả?-Tri-bi-xốp hoảng hốt vươn người trên càng pháo.-Đồng chí nói gì kia, đồng chí trung úy? 

-Bác hãy quan sát chăm chú hơn phía sau đồi kia kìa-ở đấy có một đội cứu thương Đức. Chúng đang thu lượm xác chết. Bác đừng có luôn luôn nhìn về phía sau lưng như thế mà phải nhìn về phía trước. Kẻo không bọn Đức lại kéo mất khẩu pháo ngay trước mũi bác. Rõ chưa? 

-Về bọn xạ thủ tiểu liên, chúng tôi sẽ kiểm tra ngay xem bác có trông gà hóa cuốc không, bác Tri-bi-xốp ạ,-U-kha-nốp nói rồi đợt một lát anh thong thả ra lệnh một cách đôn hậu:-Hãy khom người xuống dưới bờ công sự, trung úy. Tri-bi-xốp, nhoai vào hầm đi. Mau lên, nào! Bác nói là hễ thấy đốm lửa thì chúng bắn từ bên kia sông sang à? Chúng tôi sẽ kiểm tra xem. 

Anh rút bật lửa ở trong túi ra với vẻ đùa cợt, hát hất nó ở trên lòng bàn tay, ra hiệu cho bác Tri-bi-xốp thấy. Bác thở hổn hển, rời khỏi càng pháo, hối hả như con thú nhỏ trước cửa hang, chui vào trong hầm, ngồi im trong đó. Cu-dơ-nét-xốp đứng yên, anh vẫn chưa hiểu U-kha-nốp làm như thế để làm gì. 

-Khom người xuống, trung úy, để đề phòng bất trắc.-U-kha-nốp ấn vai Cu-dơ-nét-xốp, đẩy anh nép mình vào bờ lũy, sau kh bản thân mình cũng khom người xuống, anh ta giơ tay bật ngay chiếc bật lửa ở trên đầu. Tức thì ở bờ bên kia vang lên một phát súng trường, đốm lửa lân tính sáng lóe lên. Không nghe rõ tiếng đạn réo nhưng có tiếng đất lở từ bờ công sự phía bên phải cách đó hai bước. 

-Hóa ra bác Tri-bi-xốp không trông gà hóa cuốc,-Cu-dơ-nét-xốp nói. 

-Chúng ngồi gần lắm, quân súc sinh,-U-kha-nốp nói.-Đâu như ngay trong những ngôi nhà đầu tiên… Có lẽ gần hơn. 

-U-kha-nốp ạ, đến sáng có lẽ phải diệt bọn chúng, và nã về phía đó hai trái đạn,-Cu-dơ-nét-xốp vươn thẳng người lên, nói.-Chúng đã nhận ra có người động đậy ở gần khẩu pháo. Chúng sẽ không để cho ta bắn đâu. 

-Tôi đã nói mà, tôi đã nói mà!-Từ trong hầm vang lên giọng nói của Tri-bi-xốp xác nhận sự bất hạnh.-Chúng mình cứ như ngồi trong cái túi. Đằng trước là chúng nó, liền sát ngay sau lưng cũng là chúng nó… Chúng mình đã bị *** đứt rồi, trung úy ạ!... 

-Quan sát đi, Tri-bi-xốp!-Cu-dơ-nét-xốp ra lệnh.-Chỉ có điều là không phải quan sát đáy hầm, rõ chưa? Nếu có chuyện gì hãy bắn súng các bin báo hiệu và chạy vào hầm trú ẩn ngay! Bác nhắc lại đi! 

-Nếu có chuyệngì, bắn súng các bin, thưa đồng chí trung úy… 

-Nhất là đừng có ngủ! Ta đến chỗ hầm trú ẩn đi, U-kha-nốp. 

Họ lần theo những bậc đất trổ vào tấm vải bạt, từ trong hầm phả ra hơi người ấm áp, vọng ra những giọng nói nghe không rõ, trong những giọng nói đó Cu-dơ-nét-xốp nhận ra ngay giọng nói của Dôi-a. Và lúc ấy anh chợt thấy ớn lạnh, sực nhớ tới lúc cô nheo mắt áp sát thân mình vào người anh để tìm sự che chở, đôi đầu gối lấm láp của cô, những giây phút tưởng chết đến nơi khi khẩu pháo tự hành của địch đã phát hiện ra họ và khi anh lấy thân mình che chở cho cô một cách vô ý thức, bản năng và anh sẵn sàng chết như vậy để che chở cho cô khỏi mảnh đạn. Nhưng ngay cả giờ đây nữa, anh cũng chỉ hiểu lờ mờ những gì đã xảy ra với anh và đặc biệt là với cô trong giây lát đó. Có lẽ điều ấy bắt nguồn từ những thế kỷ sâu thẳm; có lẽ từ thuở xa xưa ấy người đàn ông do bản năng không cưỡng lại được đã hy sinh quên mình như thế để bảo vệ người đàn bà nhằm duy trì giống nòi trên trái đất. 

Lúc đứng gần cửa hầm Cu-dơ-nét-xốp nghĩ không biết lát nữa đây, sau khi anh và U-kha-nốp bước vào, nét mặt và ánh mắt Dôi-a sẽ như thế nào. Anh nhíu lông mày, gạt tấm bạt che cửa ra. 

Mọi người im bặt. Có người ho sù sụ. 

-Phải che bạt cẩn thận hơn… Bọn thiện xạ bắn tỉa của địch bắn cừ lắm đấy! 

Trong hầm trú ẩn ẩm ướt, giá lạnh, leo lét ngọn đèn dầu xanh lè làm bằng vỏ đạn pháo, ánh đèn chiếu sáng những bức tường ẩm ướt. Ở đây có ba người: Dôi-a, Ru-bin và Nết-trai-ép. Cả ba người đang xúm xít sưởi xung quanh ngọn đèn tự tạo khêu cao nổ lép bép và đều quay đều về phía cửa hầm. Hạ sĩ Nết-trai-ép ngả người gần Dôi-a, khuỷu tay chạm vào đầu gối cô-chiếc áo choàng phanh ra để lộ rõ chiếc may ô kẻ sọc của lính thủy ở trên ngực-đưa mắt nhìn Dôi-a có ý thăm dò. Anh mỉm miệng cười, dưới hàng ria lộ hàm răng trắng bóng. 

-Kìa, Dôi-e-sca, trung úy mà cô hằng mong đợi! 

Chiến sĩ coi ngựa Ru-bin ngồi trên chiếc hòm dạn rỗng lập tức co ro, hối hả quá mức đưa những ngón tay chai sần, mập mạp chụp lấy ngọn lửa bập bùng từ cái vỏ đạn. Chừng như không tin Cu-dơ-nét-xốp, tròng mắt sáng lóe lên vẻ lo lắng, sau đó cô lặng lẽ thở dài nhẹ nhõm. Khuôn mặt cô chẳng giống chút nào với lúc cô ở bên khẩu pháo: nó gầy guộc, hốc hác đi nhiều, phía dưới mắt cô những quầng thâm, môi sạm đi dường như khô nẻ vì bặm môi nhiều. “Không,-Cu-dơ-nét-xốp thoáng nghĩ,-lúc này, chắc chẳng ai có thể hôn vào đôi môi đen sạm đó. Môi cô ấy làm sao thế nhỉ? Và tại sao Nết-trai-ép cứ nhìn cô ấy chằm chặp như thế?”. 

-May quá, thế là anh em đã tới!-Dôi-a nói, mỉm cười, vẻ vui mừng rõ rệt.-Tôi mong các anh ghê quá. Muốn được gặp anh em còn sống. May qýa, các anh tới. Các anh từ đâu tới thế? 

-Không xa đây lắm. Chúng tôi là khách của bọn Đức, Dôi-e-sca ạ. Tôi đã cùng với trung úy đi kiểm tra các vị trí của bọn Đức,-U-kha-nốp đáp và anh vẫn đứng, cúi đầu xuống, ném phịch xuống cạnh ngọn đèn chiếc túi da nhỏ rất giống túi dùng trong gia đình, có những chiếc khuy cài mạ kền dính băng giá.-Xin các bạn hãy tiếp nhận tặng phẩm. Nết-trai-ép trải vải bạt ra! Có lẽ các bạn đã đói meo rồi phải không? Xin gửi tới vị chuẩn úy hậu cần thân mến của chúng ta lời chào chiến đấu. Có lẽ lão ta đang ngồi ở đâu đó tại hậu phương trên cái nồi của mình và oai hùng khua huân chương loẻng xoẻng, đau khổ vì chúng ta! 

Nết-trai-ép cười vang còn Dôi-a bặm môi, ngước nhìn Cu-dơ-nét-xốp, lúc này cô không mỉm cười nữa mà lộ vẻ chờ đợi thông cảm, không giấu giếm. Ru-bin mặt đỏ gay vẫn đang sưởi bàn tay to bè như cái xẻng trên ngọn đèn, liếc mắt nhìn trộm Dôi-a, mũi sụt sịt mạnh: 

-Trung úy,-Dôi-a gọi bằng cặp mắt to trên khuôn mặt gầy guộc của cô hơn là bằng giọng nói rồi cô gật đầu ra hiệu cho anh.-Anh hãy ngồi xuống đây cạnh tôi. Tôi cần nói chuyện với anh. À thôi,-cô bặm môi, sửa lại,-anh hãy cầm lấy mảnh giấy này. Của Đa-vla-chi-an đấy. Anh ấy nhờ tôi chuyển cho anh. Chiều qua tôi không chuyển được vì không thể nào rời bỏ anh em thương binh. May có Ru-bin giúp tôi. Trung úy này, chẳng lẽ chúng mình bị bao vây à? 

Cu-dơ-nét-xốp cầm tờ giấy Dôi-a đưa cho, không trả lời câu hỏi của cô. Anh hỏi: 

-Cậu ấy thế nào hở Dôi-a? Đã tỉnh chưa? 

-Vẫn nửa tỉnh nửa mê,-Ru-bin rầu rĩ thốt lên.-Cứ luôn mồm gọi anh. Anh ấy bảo phải nói với anh cái gì ấy… 

Cu-dơ-nét-xốp đã biết trung úy Đa-vla-chi-an bị thương nặng ngay từ lúc mới chiến đấu, biết rằng anh ấy hầu như khó qua khỏi được và sau khi đưa mắt hết nhìn Ru-bin đến Dôi-a, anh hiểu rằng tình trạng của Đa-vla-chi-an vẫn vô vọng như trước và anh cẩn trọng giở mảnh giấy trên đó có những chữ to viết nguệch ngoặc bằng bút chì hóa học: 

“Thư riêng của trung úy Đa-vla-chi-an gửi trung úy Cu-dơ-nét-xốp. Cô-li-a, mình bị thương, đừng bỏ mình lại đây. Đừng quên mình. Đó là yêu cầu của mình. Nếu chúng ta không gặp nhau nữa thì thẻ Đoàn, tấm ảnh có đề đằng sau và địa chỉ ở túi bên trái. Ảnh mẹ mình và cô ấy. Cậu hãy giữ lấy và viết thư. Còn làm thế nào chắc cậu khắc biết. Chỉ có điều là đừng sướt mướt quá. Thế thôi. Mình đã chẳng làm được trò trống gì. Mình là kẻ thất bại. Ôm hôn cậu. Đa-vla-chi-an”.

 31.12.2010

LSB-Sun

-=[ Lương Sơn Ẩn Sĩ ]=-

ღ Đại Trưởng Lão QPB ღ

TUYẾT BỎNG

Chương 19 -2

Nguồn: vnthuquan

Nội dung thu gọn

Dôi-a đứng dậy, khóe miệng co giật lại giống như một nụ cười. 

-Thôi anh em ở lại khỏe mạnh nhé. Tôi đến chỗ thương binh đây. Ngồi ở chỗ các anh lâu quá rồi. 

-Dôi-a,-Cu-dơ-nét-xốp rầu rĩ nói và sau khi đút bức thức vào túi, anh bước theo cô ra cửa hầm.-Tôi đi với cô. Cô hãy dẫn tôi tới chỗ Đa-vla-chi-an. 

Khi họ bước ra, mọi người trong hầm im lặng. 

Thế nào, anh em đồng hương, vẫn thở đều đấy chứ?-U-kha-nốp hỏi.-Không hoảng loạn đấy chứ? 

Hạ sĩ Nết-trai-ép đưa cặp mắt xám vằn những tia đỏ vì mệt mỏi chăm chú nhìn theo Dôi-a bước ra ngoài tấm vải bạt vén lên, chiếc áo choàng đu đưa phía trên đôi chân tròn trĩnh dường như bị nén vào đôi ủng ngắn, lấm lem đất sét. Rồi bỗng nhiên anh ta ngồi xuống, thở dài gần như rên lên qua kẽ răng. Anh đã mất cái bộ dạng bảnh bao, nổi bật trước đây: cái cằm sạm đi vì râu mọc tua tủa, hàng ria mép và râu quai nón của anh lởm chởm. Anh gãi ngực và nói với vẻ đùa cợt tiếc rẻ. 

-Chao, cuộc sống hẩm hiu quá! Các cậu ạ, mình dám xin hỏi đức Chúa xem có phải chúng mình tận số ở đây không?... Đồng chí Chúa ạ, tôi muốn trước khi chết được hôn một cô gái nào đó đến mức cô ta lịm đi! Trong Dôi-a chả có cái gì cả, có lẽ chỉ được đôi mắt với đôi chân. Giá được siết chặt lấy cô ấy ngủ một đêm, các cậu ạ, thì sau đó dù có phải đưa ngực ra chống lại xe tăng mình cũng cam lòng. Mình thấy Cu-dơ-nét-xốp cũng không kém cạnh gì đâu. Cậu nghĩ thế nào, Ru-bin? Chắc cậu cũng đã từng đi ve gái ở làng mình chứ hả? Trong đời cậu, cậu đã hại nhiều cô rồi chứ? 

-Cậu chă-ẳng thấy… “có cái gì cả”,-Ru-bin nhắc lại.-Cậu cũng có con mắt tinh đời đấy. Dôi-a ấy à… nhưng đôi mắt và đôi chân của cô ta không phải để dành cho cậu. Theo mình, chuyện ấy đã làm cậu “mụ mị” rồi. Chén nhiều sô-cô-la ở hải quân quá hóa rửng mỡ đấy! 

-Không đâu, Ru-bin, có trông cái mặt cậu, mình cũng biết cậu là tay biết vượt rào đi tán gái! Cậu khỏe như con trâu mộng! Cổ cậu có thể làm gãy đường ray được đấy! 

-Thôi đủ rồi, các cậ, Dôi-a yêu ai thì việc gì đến chúng mình!-U-kha-nốp nạt nộ.-Nết-trai-ép ạ, nói chung mình mến cậu. Nhưng cậu hãy chấm dứt cái trò tán hươu tán vượn về cô nữ cứu thương đi. Mình ngấy lắm rồi. Hãy nói chuyện khác đi! Còn cậu, Ru-bin, hãy lo chắm sóc ngựa!-Vẻ mặt hơi có ý hăm dọa, U-kha-nốp chờ cho mọi người trong hầm yên lặng rồi nói bằng giọng hiền lành, chất phác:-Mình thích cái không khí gia đình lắm. Này, Nết-trai-ép, nhận lấy phần thưởng vì đã diệt được xe tăng địch! Mình đã lấy được hai khẩu trong chiếc xe vận tải bọc thép. Cả chiếc túi nhỏ nữa. Tặng cậu một khẩu! 

U-kha-nốp tháo ở dây lưng ra bao súng đựng khẩu Pa-ra-ben-lom, vứt bừa xuống chân Nết-trai-ép. Nết-trai-ép hừm hừm, không phải là không tò mò mở khuy, rút ra khẩu súng ngắn nặng, đen bóng, ước lượng sức nặng của nó trên lòng bàn tay. 

-Của bọn sĩ quan hả, thượng sĩ? Nặng khiếp… 

Ru-bin liếc nhìn khẩu súng xa lạ, khẩu súng hộ thân của một tên Đức nào đó đã bị giết, mấy giờ trước đây hắn còn bắn vào họ, la hét, hạ mệnh lệnh bằng tiếng của chúng, căm thù, sống, mong được sống. Anh thốt lên vẻ hơi rầu rĩ: 

-Khẩu súng chắc chắn gớm. Có điều là chúng mìn không có quyền chiến đấu bằng vũ khí của bọn Đức. 

-Cóc cấn! Của thằng ấy đấy à?-Nết-trai-ép hất đầu về phía chiếc túi da mà U-kha-nốp đang mở khóa.-Hắn là sĩ quan à? Túi của hắn đấy à? 

-Hình như thế. Chắc trong túi đầy thức ăn. Vì vậy mình lấy. Ta xem xem nào. Chắc chúng không mang lựu đạn trong chiếc túi này. 

U-kha-nốp kéo phẹc-mơ-tuya mạ kền ở phía trên chiếc túi trông có vẻ thành bình xếp cẩn thận, chật căng, banh miệng túi ra, dốc các thứ lên tấm vải bạt. 

Từ trong túi tuôn ra tấm vải bạt một đôi áo lót mới bằng lụa, bộ đồ cạo râu, một túi xúc xích và bánh mì, một hộp đựng xà phòng cạo râu bằng chất dẻo, một lọ nước hoa, chiếc bàn chải đánh răng, hai gói trong suốt đựng thuốc phòng bệnh, chiếc bi đông đựng trong túi len màu sẫm, chiếc đồng hồ nữ móc vào dây chuyền. Cỗ bài để trong bao đỏ, chẳng hiểu sao trên mặt bao lại vẽ một dấu hỏi trên bờ hồ xanh biếc, nơi một người đàn ông lực lưỡng mặc áo tắm chật căng đuổi theo một người đàn bà trần truồng, mập mạp, tóc màu sáng. Tất cả những thứ đó toát ra mùi vị dìu dịu và thơm thơm giống như mùi phấn xoa mặt là lạ. 

-Tiếc là Dôi-a đã đi mất,-Nết-trai-ép nói, ngắm nghía chiếc đồng hồ nữ trên lòng bàn tay mình.-Cho phép mình tặng cô ấy, thượng sĩ nhé? Cô ấy đeo chiếc đồng hồ này hợp lắm. Mình lấy được không? 

-Lấy đi, nếu như cô ấy nhận quà tặng của cậu. 

-Cậu nhìn xem, chúng mang theo cả cái khỉ gió gì thế này?-Ru-bin thốt lên, giọng khụt khịt.-Thậm chí dự trữ cả mũ đàn bà kiểu ăng-lê nữa! 

Những đồ dùng thân thiết, kỳ quặc trong cuộc đời xa lạ, khó hiểu của tên Đức vô danh bị giết bày ra trước mắt mọi người, đó là những vết tích phơi trần cuộc sống trước đây của hắn sau khi hắn chết. 

-Toàn đồ dùng vặt vãnh cả!-U-kha-nốp bực bội nói và đẩy cái túi vào hóc hầm.-Không phải chiến lợi phẩm mà mình muốn. Thôi được. Cánh mình lấy một nửa thức ăn, còn một nửa dành cho Dôi-a và anh em thương binh.-Anh kinh tởm đưa tay gạt tất cả mọi thứ sang một bên trừ chiếc bi đông, dao cạo râu, túi bánh mì và xúc xích, đoạn anh xé giấy bóng kính, rút con dao găm ở bao ra. 

-Áo lụa để cho rận nó khỏi làm ổ,-Ru-bin nói đưa những ngón tay thô nhám sờ chiếc áo lót Đức ra vẻ thành thạo và khuôn mặt bè bè rám nắng của anh lộ vẻ như hằn học và đau đớn.-Ra thế đấy, hả?... 

-Cậu nói gì kia, Ru-bin?-U-kha-nốp hỏi. 

-Nó chuẩn bị cả đến cái áo lót bằng lụa, chả quên thứ gì. Còn bọn mình lúc nào cũng nghĩ thật dễ dãi!... Cứ theo như đài phát thanh thì chúng mình sẽ tiêu diệt quân thù trên lãnh thổ của nó. Lãnh thổ! Hãy lo giữ lấy túi… 

-Nói tiếp đi, tiếp đi, Ru-bin,-U-kha-nốp ngước đôi mắt sáng lên.-Nói đi, sao lại im lặng? Nào, nói đi, đừng ngại! 

-Còn cậu, Ru-bin, có lẽ cậu là người hay kêu ca, một kẻ hoảng loạn,-Nết-trai-ép nhận xét thoáng qua và lập tức bật cười.-Tranh vẽ cái gì đây nhỉ?-Anh cầm chiếc bao đựng cỗ bài và mở ra, cỗ bài màu đỏ tụt ra lòng bàn tay.-Cậu là đồ cá chích, Ru-bin ạ. Cậu rên rỉ như cây nhị ấy. Cậu đã thấy gì ở làng mình nào? Cậu đi xoắn đuôi bò chứ gì? 

-Láo toét. Mình không xoắn đuôi bò mà là người coi ngựa của nông trường,-Ru-bin hằn học sửa lại.-Trong đời mình, mình đã nhìn thấy nhiều cái mà cậu nằm mơ cũng chưa thấy đâu! Khi cậu phởn đời trên những tàu thuyền của mình thì chủ yếu đã khiến mình chết từng khúc ruột! Có một lần thôi mà cả cuộc đời của mình bị đảo lộn. Sau trận địch ném bom mình đã gầm lên như một con thú dùng tay bới hai đứa con gái nhỏ của mình bị vùi ở dưới đất lên!... Nhưng chậm mất rồi! Muốn chui vào thòng lòng cho rồi nhưng lòng căm thù sục sôi ngăn mình làm như vậy!... 

U-kha-nốp nheo mắt nhìn Ru-bin, dùng dao cắt miếng xúc xích hun khói. Nết-trai-ép vứt cỗ bài lên tấm vải bạt. Ở đây có hai con bài trần truồng và hai con đầm hở hang, đại đội bít tất đen, găng tay đen, quấn chặt lấy nhau trong tư thế thô bỉ, trái tự nhiên; những con vua rậm râu, lực lưỡng như những đô vật, bế trên lòng những chú bé dễ thương, nép khuôn mặt thiên thần với những nụ cười thiên thần vào chúng. Đây không thể là những quân bài được nhưng dẫu sao đó vẫn là những quân bài hơi nhàu nát, sờn mép vì bị cầm nhiều, tuy vậy không thể hình dung được rằng bọn giặc đã ngồi bên bàn chơi những quân bài này, nói, cười, thua, được. 

-Gớm, tởm thật! Sau những trò khỉ này chả còn thiết gì nữa! May mà Dôi-a đã đi kịp thời. Phụ nữ chả nên xem những cái này. Đến phát điên lên mất! 

-Đầu óc cậu lúc nào cũng nghĩ đến đàn bà!-Ru-bin đỏ mặt lên nói.-Trong chiến tranh có kẻ may người rủi! 

Nết-trai-ép thu bài lại, vứt chúng vào một xó, lau bàn tay vào áo choàng y như muốn chùi sạch cái gì nhờn nhờn, nhơ nhớp sau đó anh nhặt khẩu Pa-ra-ben-lom lên, ngả lưng vào vách hầm, nói: 

-Ru-bin ạ, cậu muốn cho mình là người thế nào thì tùy, mình thích đàn bà… nhưng mình cũng có món nợ phải thanh toán đấy. Anh cả mình bị địch giết năm bốn mốt ở gần thành phố Li-đa. Lúc ấy mình còn nghĩ: chiến tranh sẽ kéo dài độ một tuần lễ. Chúng ta ráng sức lên-thế là sẽ tiến vào Béc-lin, nguyên soái Vô-rô-si-lốp cưỡi ngựa trắng đi đầu. Té ra… chúng nó đã đẩy chúng mình tới tận Mát-xcơ-va.-Nết-trai-ép nghịch khẩu Pa-ra-ben-lom ở trong tay.-Mình đồng ý là chúng ta đã vất vả suốt hai năm nay. Nhưng Xta-lin-grát là chuyện lớn đấy, Ru-bin ạ. Suốt năm tháng trời bọn Đức hùng hổ xông lên tưởng mười mươi là chúng sẽ mở rượu sâm banh ăn mừng, ấy thế nhưng đến lượt chúng mình bắt đầu thúc vào sườn chúng. 

-Chúng mình bắt đầu!-Ru-bin nhai lại-Chúng mình bắt đầu nhưng chưa kết thúc! Như hôm nay chẳng hạn: chúng không đột kích được qua chỗ chúng ta thì cho xe tăng đi vòng qua! Thế nghĩa là ta lại không lường được sức của chúng à? Cánh mình ngồi đây như lũ chuột bị cắt rời ra còn chúng nó có lẽ đang cưỡi xe tăng đến chỗ đồng bọn ở xe tăng và cười mũi cậu đấy! 

-Thôi đi, thôi đi, chúng nó chẳng cưỡi được đâu,-Nết-trai-ép mếch lòng-Chúng mình đã diệt được xe tăng của nó ở đây.-thế mà cậu khóc à? Rồi sẽ phải xé mũ vải ra làm mùi soa đấy. 

-Có cậu phải xé mũi thì có! Vì sao cậu hí hửng trước khẩu súng Đức thế?-Ru-bin quát Nết-trai-ép.-Cậu hí hửng vì chiến lợi phẩm à? 

-Chứ sao!-Nết-trai-ép nói.-Súng Pa-ra-ben-lom của bọn Đức tốt phải biết! 

Ru-bin đứng dậy, vóc người bè bè, chân ngắn, anh đưa đôi mắt vằn tia máu đỏ nhìn khắp căn hầm, trông anh rất dữ dội trong cơn giận dữ công khai đối với tất cả-với chiến tranh, với chiếc áo lót bằng lụa của Đức với cuộc chiến đấu này, với việc bị bao vây, với Nết-trai-ép. Trước khi ra khỏi hầm, anh xốc khẩu các bin ở dưới đất lên, quay về phía U-kha-nốp nói thêm: 

-Ăn cái của chiến lợi phẩm này à? Dù có chết đói tôi cũng không đụng tới một miếng! Thà tôi… 

-Này Ru-bin, quay lại và ngồi xuống đây! 

Nói xong U-kha-nốp ngừng cắt thỏi xúc xích bị đông cứng như cái gậy, có những chấm mỡ trắng ở giữa, cắm mạnh con dao vào chiếc bánh mì. Nết-trai-ép lập tức thôi không nghịch khẩu Pa-ra-ben-lom nữa-thấy U-kha-nốp cắm phật con dao vào bánh mì và thấy ánh mắt anh đổi khác, Nết-trai-ép cảm thấy chuyện chẳng lành. Trước cái nhìn và mệnh lệnh đó Ru-bin dừng lại, lòng vẫn chưa nguôi, anh gục đầu xuống toan cưỡng lại nhưng hình ảnh như nước mắt long lanh trên mi mắt anh. 

-Hãy nhớ lấy, Ru-bin, tôi cũng gióng bộ từ biên giới về đây, tôi biết rõ giá mỗi cân thuốc súng là bao nhiêu. Nhưng dù cho chúng ta nằm hết lại ở đây không sót ai, tôi cũng không cho phép được hoảng loạn.-U-kha-nốp bình tĩnh nói, vẻ đường bệ.-Dẫu sao chúng ta cũng đã ép bọn Đức vào ven sông Vôn-ga, có đúng như thế không? Chiến tranh là chiến tranh-hôm nay chúng thắng ta, mai ta đè bẹp chúng! Cậu đã thụi nhau bao giờ chưa? Nếu cậu là người đầu tiên xơi quả đấm vài quai hàm thì tai ù lên, mắt nảy đom đóm chứ gì? Nhất định là hồn vía lên mấy. Cái chính là phải biết trỗi dậy, lau máu ở quai hàm và đánh trả. Và dẫu sao chúng ta cũng đã đánh trả phải không Ru-bin. Đây là cuộc đánh nhau kiểu khác. Chúng mình đã không tặng quà lưu niệm cho bọn Đức. Thôi được. Mình chúa ghét cái trò ba hoa! Gặp phải tay khác ấy à, chắc hắn đã chụp cho cậu cái mũ là gây hoảng loạn. Nhưng mình thì hiểu khác. Ngồi xuống đi, uống nước trong bi đông đây này. Và hãy giữ thần kinh cho vững. Hiểu không? Không được nói gì nữa đấy nhé! 

-Ấy, ấy… Gây hoảng loạn. Tiếng nghe mới khủng khiếp chứ. Động một tí là: gây hoảng loạn!-Ru-bin chua chát nói.-Này thượng sĩ ạ, tôi chết còn dễ hơn uống ngụm nước cơ. Chả có gì khủng khiếp hơn việc tôi dùng tay đào bới mấy đứa con gái của tôi. Cậu muốn nghĩ về tôi thế nào thì nghĩ… 

-Tôi nghĩ thế nào cho phải thì thôi. Chúng nó đã giết mất ngựa của cậu rồi, cậu hãy đến chôi tôi làm pháo thủ đi. Ta sẽ cùng chết bên nhau.-U-kha-nốp nhếch mép cười-Như thế vui hơn… À mà có lẽ chúng ta sẽ còn khiêu vũ nữa cơ đấy! 

-Sao được!... 

Và không nói hết câu, Ru-bin đặt khẩu các bin vào một góc hầm tối, ngồi xuống lặng lẽ gạt những giọt nước mắt căm hờn, rút túi đựng thuốc lá ra, những ngón tay sần sùi, run lật bật cuốn một điếu thuốc lá.

Chương 19 -3

Nguồn: vnthuquan

Nội dung thu gọn

-Dôi-a, Đa-vla-chi-an thế nào? Có thể nói chuyện được với cậu ấy không? 

-Lúc này thì không. Tôi đã định nói với anh… Lúc tỉnh, anh ấy cứ luôn luôn hỏi anh còn sống không, trung úy ạ. Các anh cùng học ở một trườn ra à? 

-Cùng ở một trường ra… Nhưng liệu có hy vọng không? Cậu ấy có qua khỏi được không? Cậu ấy bị thương vào đâu? 

-Anh ấy bị nặng hơn tất cả mọi người. Bị thương vào đầu và vào hông. Nếu không lập tức đưa anh ấy tới viện quân y thì anh ấy sẽ rất gay go. Và với những người khác cũng vậy. Tôi chẳng giúp họ được gì. Quả là bất lực! Tôi đánh lừa họ là sắp có xe tải tới. Nhưng theo tôi, chúng ta đã hoàn toàn bị cắt đứt với hậu phương. Chở họ đi đâu? Ai biết viện quân y ở đâu được? 

-Này, có liên lạc được với ai ở đài quan sát không? 

-Không có liên lạc. Họ vẫn đương chữa máy vô tuyến điện. Tôi biết thế. Các chiến sĩ thông tin ở đằng ấy, chỗ Đrô-dơ-đốp-xki. Sau lúc tôi chạy lại chỗ khẩu pháo của Tru-ba-ri-cốp anh ở đâu trung úy? Anh đã trông thấy chiếc xe tăng nghiền nát khẩu pháo của ta chứ? 

-Tôi không biết rằng cô… 

-Hãy quên điều đó đi, trung úy ạ. Tôi chẳng nhớ gì cả. Thật khủng khiếp, thậm chí đầu gối tôi run lên. Chà, hình như tôi đã hỏi về khẩu “Van te” của tôi. Điều đó cố nhiên thật nực cười. Tôi muốn sống đến trăm tuổi, đẻ hàng chục đứa con để trêu ngươi mình và mọi người. Anh thử hình dung xem, mười cái miệng mê hôn ngồi quanh bàn, tóc tất cả đều trắng ra và mồm chúng bê bết cháo. Giống như hình vẽ trên hộp đựng bột ngô ấy, anh biết không? 

-Tôi không biết… Dôi-a, hình như cô đã bị cóng? Ta đi đi, đừng đứng lại nữa. 

-Trung úy ạ, lúc ấy ta phải bỏ thương binh lại gần thành phố Khác-cốp đấy. Tôi còn nhớ họ la hét như thế nào… 

-Đây không phải là Khác-cốp, Dôi-a ạ. Chúng ta sẽ không thoát đi đâu được. Ta chỉ còn có bảy trái đạn nữa. Sẽ chẳng ai bỏ ai cả. Thậm chí cũng chẳng phải nghĩ tới chuyện đó. 

Họ dừng lại trên con đường mòn, hẹp do nhiều vết ủng giẫm dọc mép bờ sông, cách căn hầm đất khoảng hai chục bước chân. Mặt băng trên sông toát ra cái buốt lạnh như kim châm, từ những hố băng đen ngòm to tướng-hậu quả của trận ném bom ban sáng-hơi nước bốc lên dày đặc. Quầng sáng ở bờ sông bên kia đã nhạt đi, thấp xuống; vào giờ này, lúc đêm khuya, dường như quầng sáng đó đã bị băng giá cứng như thép bóp nghẹn. Mặt sông ban đêm im lặng như tờ và cả hai người đều nói và thở một cách chật vật trong cái giá lạnh dữ dội đó. Bản thân Cu-dơ-nét-xốp cũng chẳng hiểu vì sao anh lại trấn an tinh thần Dôi-a trong cái tình thế bấp bênh mơ hồ mà chính anh cũng không hiểu rõ, khi không biết điều gì sẽ xảy ra sau một, hai giờ đồng hồ nữa trong đêm nay, người nào trong bọn họ sẽ sống được tới sáng, nhưng anh không dối mình cũng như dối cô khi anh tin chắc rằng: không thể rút lui, thoát khỏi đây đi đâu được cả vì trước mặt và sau lưng đều là xe tăng địch, còn tít về phía xa, sau lưng họ cũng là bọn Đức đã bị siết chặt trong vòng vây, nơi mà cuộc tiến công hôm này của địch-tưởng như kéo dài hàng năm-nhằm hướng tới. 

-Tình hình ở phía đó, ở Xta-lin-grát ra sao? Tại sao bọn Đức lại ngưng chiến ban đêm? Chúng đã đột kích được tới đâu?... 

-Lạnh buốt khủng khiếp!-Anh thốt lên.-Hình như cô đã bị cóng rồi? 

-Không, đó là do thần kinh thôi. Tôi biết chắc rằng bây giờ tôi sẽ không rời bỏ để đi đâu cả. Anh bảo: không đi đâu được à?... 

Cố giữ cho răng khỏi run cầm cập, cô bẻ cổ áo choàng lên, nhìn quan đầu Cu-dơ-nét-xốp về phía quầng sáng, phía bờ bên kia đã bị quân Đức chiếm, khuôn mặt trắng bệch của cô bị cổ áo bằng lông cừu thu hẹp lại, hàng lông mày lá liễu, đôi mắt sẫm lại một cách kỳ lạ và tách rời tất cả biểu lộ sự mệt mỏi và nỗi đau khổi sâu lắng. 

-Tôi không muốn bỏ thương binh lại lần thứ hai nữa. Tôi không muốn… không có gì khủng khiếp hơn việc đó. 

Cu-dơ-nét-xốp cảm thấy toàn thân ớn lạnh, anh bỗng tưởng tượng ra cảnh bọn Đức sau khi đã bao vây đơn vị, chúng vừa chạy vừa thét truyền mệnh lệnh cho nhau, cắp tiểu liên vào hầm đất để thương binh, còn cô, không kịp rút khẩu “Van te” ra, cô lùi vào góc, ép lưng vào vách hầm, dang tay ra như bị đóng đânh câu rút. 

Anh hạ thấp giọng hỏi; 

-Này, cô có biết sử dụng vũ khí không, có biết bắn súng ngắn, súng tiểu liên không? 

Cô nhìn anh và cười vang khó hiểu, ấp làn môi trong cổ áo lông, chỉ thấy đôi lông mày giật giật. 

-Rất tối!... À này anh, tại sao lúc ở gần khẩu pháo, khi tôi tỏ ra nhát gan, anh đã ôm tôi chặt lạ lùng, để bảo vệ tôi phải không? Cám ơn anh, trung úy? Tôi đã quá nhát gan. 

-Tôi không để ý. 

-Khoan đã!...-Cô rời môi khỏi cổ áo, lông mày cô không còn giật giật vì tiếng cười bất ngờ nữa.-Thế chuyện gì đã xảy ra lúc tôi rời chỗ đó đi tới khẩu pháo của Tru-ba-ri-cốp? 

-Xec-gu-nen-cốp đã hy sinh ở đó. 

-Xec-gu-nen-cốp à? Anh chàng coi ngựa bé bỏng nhút nhát ấy à? Con ngựa của anh ta bị gãy chân chứ gì? Khoan đã, để tôi nhớ lại. Khi họ tới đây Ru-bin đã nói với tôi một câu khủng khiếp: “Ngay cả thế giới bên kia, Xec-gu-nen-cốp cũng sẽ không tha thứ cho kẻ nào gây nên cái chết của mình”. Thế là thế nào? 

-Không tha thứ cho kẻ nào à?-Cu-dơ-nét-xốp hỏi lại và quay người đi, cảm thấy có mảnh sương giá trên cổ áo cọ cọ vào má anh như một hòn đá mài ẩm ướt.-Chỉ có điều là anh ta nói với cô như thế để làm gì? 

“Phải, cả mình cũng có lỗi và mình sẽ không tha thứ cho mình về việc đó,-Cu-dơ-nét-xốp nghĩ.-Giá lúc ấy mình có đủ nghị lực để phản đối… Nhưng mình sẽ nói gì với cô ấy về cái chết của Xec-gu-nen-cốp? Vì đã nói đến chuyện đó thì phải nói lên tất cả sự thật. Nhưng tại sao mình lại nhớ đến chuyện đó khi hai phần ba số anh em trong đơn vị đã hy sinh? Không, chẳng hiểu sao mình không thể nào quên được!...”. 

-Tôi không muốn nói về cái chết của Xec-gu-nen-cốp,-Cu-dơ-nét-xốp quả quyết đáp-Lúc này nói chuyện đó chẳng có ý nghĩa gì. 

-Trời ơi,-cô thì thào,-tôi thương các anh quá chừng, những chú bé đáng thương… 

Còn anh, khi nghe giọng nói đau khổ và xót thương đối với tất cả mọi người, nghĩa là đối với cả anh, anh nghĩ: “Chả lẽ cô ấy lại yêu Đrô-dơ-đốp-xki! Chả lẽ anh ta đã chạm được vào đôi môi cô chẳng hiểu sao nứt nẻ, mọng lên? Và chẳng lẽ cô đã không nhận ra được rằng Đrô-dơ-đốp-xki có đôi mắt lạnh lùng, tàn nhẫn khiến ta nhìn vào thấy khó chịu hay sao?”. 

-Sao anh cứ nhìn tôi chằm chằm như thế, trung úy thân yếu?-Anh nghe thấy tiếng cô thì thào, giọng mượt mà.-Cứ làm như là anh mới trông thấy tôi lần đầu ấy… Anh đáp giọng khàn khàn: 

-Tôi sẽ ghé thăm Đa-vla-chi-an sau. Đừng gọi tôi là trung úy thân yêu. Cô thương cả tôi nữa à? Tôi chưa chết và còn chưa bị thương. Hơn nữa tôi không muốn chết một cách vô nghĩa và ngu xuẩn. 

-Thế ra có thể có cái chết thông minh ư, trung úy? Tôi muốn anh còn sống, anh thân mến ạ. Muốn anh sống lâu. Đến một trăm năm mươi tuổi. Lời tôi nói thiêng lắm. Anh sẽ sống đến một trăm năm mươi tuổi. Và anh sẽ có vợ với năm đứa con. Thôi tạm biệt. Tôi đến chỗ anh em thương binh đây… Mà này, sao anh cứ nhìn tôi chằm chằm như thế, trung úy? Chắc anh hơi thích tôi phải không? Đúng không nào? Thế mà toi không biết!-Cô nhích lại bên anh, đưa một tay lên bẻ cổ áo lông khỏi môi, nhìn anh với vẻ tò mò háo hức.-Ôi, tất cả những chuyện đó mới ngốc nghếch và lạ lùng làm sao, Cu-dơ-nét-sích? 

-Tại sao lại “Cu-dơ-nét-sích” (Cu-dơ-nét-sích có nghĩa là con dế, đọc gần giống với họ của Cu-dơ-nét-xốp). 

-Cu-dơ-nét-xốp, Cu-dơ-nét-sích… Thế chả lẽ anh không thích con dế à? Khi nghe tiếng chúng kêu, tôi cảm thấy rất dễ chịu. Chả hiểu sao tôi cứ tưởng tượng ra một đêm ấm áp, đụn cỏ khô trên cánh đồng và vầng trăng đẹp ở trên hồ. Và khắp nơi là tiếng dế… 

Gió lạnh ở mặt sông đóng băng thốc lên lay động tà áo choàng của Dôi-a. Đôi mắt cô mỉm cười, long lanh, thẫm đen trên lần cổ áo lông mà bàn tay đeo găng trắng của cô đã kéo xuống; sương giá làm trắng cặp lông mày và khiến hàng mi trĩu nặng. Cu-dơ-nét-xốp lại tưởng như hàm răng cô vẫn khẽ run cầm cập và đôi vai cô hơi co giật như thể toàn thân đã bị cóng. Anh có cảm tưởng rất rõ hàm răng run cầm cập đó không phải của cô và lúc này, một người nào khác nói bằng giọng khác chứ không cô, rằng chẳng có bờ sông, quầng sáng trên trời cũng như xe tăng Đức và anh đang đứng với ai đó gần cổng ra vào trong một đêm tháng Chạp sau khi đi trượt tuyết về; gió thổi tuyết mịt mù như khói từ trên mái nhà xuống và những ngọn đèn lồng sáng lên giữa sương mù dăng khắp trên những hàng rào tuyết phủ trong một ngõ hẹp… Cảnh đó đã xảy ra bao giờ nhỉ? 

-Anh có muốn hôn tôi không?... Tôi thấy hình như anh muốn… Anh không có chị em gái à? Hai ta rồi cũng có thể bị giết, Cu-dơ-nét-xốp ạ… 

-Làm thế để làm gì? Có coi tôi là thế nào-một chú bé à? Đó là lối õng ẹo làm duyên chăng? Hay là cái gì khác? 

-Lời õng ẹo làm duyên nào cơ? Hoàn toàn không phải thế.-Cô bẻ cổ áo lên bịt tiếng cười, cổ áo che khuất nửa mặt, mắt mở to.-Thoạt đầu người ta thường làm duyên bằng đôi mắt. Người ta đưa mắt nhìn vào một góc, nhìn vào mũi mình rồi nhìn đối tượng. Nếu như có đối tượng thì đó là anh… Nhưng tôi không làm như vậy, anh thấy không? Không, anh đã che chở cho tôi như một người em gái ở cạnh khẩu pháo, trung úy ạ. Thậm chí tôi đã cảm thấy như vậy. Chả lẽ anh không có em gái à? 

“Ở gần khẩu pháo… xe tăng địch tiến. Chúng mình đã bắn. Ca-xư-mốp bị giết. Cô ấy ở bên cạnh, sau đó cô ấy chạy về chỗ khẩu pháo của Tru-ba-ri-cốp lúc xe tăng địch thọc vào. Rồi một tràng súng máy hất tung Xec-gu-nen-cốp lên mấy lần phía trước khẩu pháo tự hành… Khói bốc trên lưng áo choàng. Và khuôn mặt méo xệch, choáng váng của Đrô-dơ-đốp-xki: “Chả lẽ tôi muốn cậu ấy chết à?...”. 

-Cô nhầm rồi! 

“Đrô-dơ-đốp-xki! Tôi không thể tưởng tượng nổi cô đứng bên cạnh Đrô-dơ-đốp-xki!”-Anh suýt buột miệng nói ra nhưng một dải ánh sáng đỏ lừ đột ngột rọi vào khuôn mặt cô đang hướng về phía anh có ý cảnh giác thăm dò, soi sáng rực đôi mắt mở to, làn môi, sương giá trên cặp lông mày thanh tú, khiến anh chưa hiểu ngay được chuyện gì đã xảy ra. 

-Trung úy!...-Cô thì thào.-Bọn Đức à? 

-Trung úy!...-Cô thì thào.-Bọn Đức à? 

Đúng vào lúc ấy, ở đâu đó phía trên bờ sông cao, những loạt đạn súng máy nổ tung tóe, đạn pháo sáng lại vọt lên, anh lập tức muốn thét lên bảo cô rằng trận đánh lại bắt đầu, bọn Đức đã khởi sự và chắc chắn đây sẽ là trận cuối cùng kết thúc tất cả nhưng bằng giọng như lệnh vỡ, anh đã hét lên không phải điều anh nghĩ; 

-Cô chạy vào hầm trú ẩn đi!... Chạy ngay đi! Cô hãy nhớ rằng tôi không có em gái! Tôi không có em gái! Và đừng có nói chuyện ngớ ngẩn! Tôi chẳng bao giờ có em gái cả!... 

Và chẳng hiểu sao mình lại nói dối để báo thù cô, anh căm ghét mình vì việc đó và hầu như gạt cô ra, anh đi trên lối mòn, còn cô lảo đảo, cất bước về phía sau, thốt lên khe khẽ, vẻ mặt thay đổi, thảm hại: 

-Anh hiểu sai tôi rồi, trung úy! Hiểu sai rồi, Cu-dơ-nét-sích… 

Anh đã chạy trên mép bờ sông tới hầm của anh em pháo thủ, nghe thấy tiếng tiểu liên rền rĩ kéo dài ở phía trên. Phía tay trái anh, dưới ánh sáng đạn tên lửa chập chờn mặt băng trên sông khi thì sáp lại gần chân khi thì bật nhanh ra xa, chìm vào đêm tối. Tiếp đó ở phía trên nơi đặt khẩu pháo có tiếng súng các bin nổ, rồi một tiếng súng khác; từ phía trên có tiếng ai la gọi, giọng chin chít như thỏ. Đó là súng bắn báo hiệu của Tri-bi-xốp. 

“Thế nghĩa là cuộc tiến công… nghĩa là ngay bây giờ!... Bọn mình chỉ còn có bảy quả đạn, chỉ còn có bảy…”. 

Cu-dơ-nét-xốp chạy lại căn hầm đất, gạt phắt tấm vải bạt che cửa, anh nhìn thấy ngọn đèn tim tím, mẩu bánh mì đã cắt để trên vải bạt, U-kha-nốp, Ru-bin, Nết-trai-ép như đã hiểu ra chuyện gì đó, cùng ngước mắt lên nhìn anh và anh hô to: 

-Tới bên pháo!...

 31.12.2010

LSB-Sun

-=[ Lương Sơn Ẩn Sĩ ]=-

ღ Đại Trưởng Lão QPB ღ

TUYẾT BỎNG

Chương 20

Nguồn: vnthuquan

Nội dung thu gọn

Trong khi Cu-dơ-nét-xốp đợi mọi người bò ra khỏi hầm, phía trên bờ sông, những tia sáng dày đặc đã bùng lên đẩy lùi đêm tối hòa lẫn với bầu trời. Ở phía đó, gần khẩu pháo, phát súng các bin thứ ba vang lên một cách sợ sệt, những tràng tiểu liên nã dồn dập, náo động và cả một loạt đạn lóe sáng, vun vút bay trên bờ sông. 

-Nhanh lên! Nhanh lên.-Cu-dơ-nét-xốp sốt ruột ra lệnh.-Lại bên pháo! Lên bờ sông!... 

Tiếng U-kha-nốp nhắc lại mệnh lệnh rền lên như một tiếng vang trong căn hầm và dường như bị mệnh lệnh đó thúc đẩy, Nết-trai-ép và Ru-bin vọt ra con đường mòn, mồm nhai vội vã. U-kha-nốp tắt đèn, ra khỏi hầm sau cùng, xốc khẩu tiểu liên lên vai, anh cũng vừa nhai văng tục: 

-Đến nuốt một miếng cũng không xong, lũ khốn kiếp! Này trung úy, cầm lấy một miếng xúc xích!-Anh giúi vào tay Cu-dơ-nét-xốp một mẩu gì đó sần sùi.-Lại bên pháo! Khẩn trương lên! 

-Lên bờ sông! Chạy! 

Cu-dơ-nét-xốp nhét vội mẩu xúc xích sần sùi vào trong túi áo choàng, anh là người đầu tiên chạy trên những bậc bằng đất leo lên bờ sông, sau lưng anh là tiếng chân rậm rịch, hơi thở và giọng thuốc lá trầm đục của Ru-bin: 

-Sang thế giới bên kia ta sẽ chén, thượng sĩ ạ, đến ăn cơm khách ở nhà đức Chúa! 

Nết-trai-ép trả lời, giọng cay chua: 

-Thế cậu nghĩ là mình sẽ sống đến trăm tuổi à, anh chàng chăn bò ở nông trường? 

-Đồ lính thủy ngốc nghếch rúc đít vào vỏ sò! Đồ bẻm mép! 

Cu-dơ-nét-xốp định dừng lại, bừng bừng giận dữ quát vào mặt Ru-bin: “Chấm dứt những câu chuyện ngớ ngẩn ấy đi!”-nhưng ngay trên bờ sông gió thốc những mảnh tuyết sắc nhọn vào mắt, những làn đạn súng máy bay thấp lập lòe trước mặt, ngay phía trên vị trí đặt pháo và tiếng kêu thảm thiết vọng thẳng đến tai anh: 

-Đồng chí trung úy! Đồng chí trung úy! 

Đó là tiếng gọi của Tri-bi-xốp. Trên trời đạn pháo sáng sáng rực như ban ngày, soi rõ khẩu pháo, mặt bằng, chiếc hầm, đến nỗi cách hàng chục mét Cu-dơ-nét-xốp đã nhìn thấy bóng người đen thẫm cúi sát đất trên mặt bằng đặt pháo dưới chân bờ lũy đất và cách đó hai bước, ở ngoài bờ công sự cũng nhô lên một đống gì sẫm màu trải dài trên tuyết, giống như một thân người nằm sấp. 

“Tên Đức! Hắn đã bò tới tận đây à? Chúng tiến công khẩu pháo ư?”-Ý nghĩ đó xộc đến Cu-dơ-nét-xốp và chưa kịp nghĩ ngợi gì thêm, anh khom người chạy lại gần chỗ Tri-bi-xốp, bổ nhào xuống bên cạnh bác gần bánh xe khẩu pháo. 

-Cái gì thế? Cái gì thế? 

Tri-bi-xốp run bần bật, ngồi dưới bờ lũy đất, khẩu các bin không thấy trên người; hai tay bác đấm ngực, đầu gục xuống, la lên nức nở: 

-Tôi đã giết cậu ấy!... Đồng chí trung úy!... Cậu ấy chạy đến đây. Tôi ngồi trong hầm, người cứng hết lại. Còn cậu ấy chạy đến đây!... Bọn Đức bắn, còn cậu ấy chạy tới chỗ khẩu pháo… Cậu ấy kêu: “Người mình, người Nga đây!” Còn tôi-tin làm sao được?... Bọn Đức bắt đầu nổ súng. 

Cu-dơ-nét-xốp túm lấy vai Tri-bi-xốp, lắc mạnh hết sức. 

-Hãy bình tĩnh! Bác nghe rõ chưa? Hãy giải thích cho ra đầu ra đũa! 

-Tôi đã giết cậu ấy, tôi đã giết!-Tri-bi-xốp đưa bao tay lên ngực, mắt bác giật lia lịa.-Cậu ấy chạy và la lên: “Người mình, người Nga đây!” còn tôi.. Tin làm sao được? Tôi đã giết cậu ấy! 

-Này trung úy, khẩu tiểu liên của ta,-U-kha-nốp nói, quỳ trên mép công sự, kéo khẩu tiểu liên có băng đạn tròn ở mép công sự bên kia, chìa cho Cu-dơ-nét-xốp xem.-Ừ, mà cậu này từ đâu tới nhỉ? 

-Súng của ta đấy,-Cu-dơ-nét-xốp đồng ý sau khi nhìn khẩu súng tiểu liên bị phủ sương giá. –Đưa cậu ấy vào đây, U-kha-nốp. Cẩn thận nhé! Đừng có nhảy qua lũy đất! 

-Ta sẽ thử xem, trung úy. 

Tì khủy chân vào vách đất, U-kha-nốp nhoai người về phía trước leo lên bờ công sự, dùng hai tay túm lấy vai người nằm bất động, trông như bằng đá, anh gắng sức thong thả kéo vào vị trí đặt pháo. Khi anh xoay cái thân hình không còn sinh khí đó để tựa nó thoải mái hơn vào vách công sự thì đầu người đó, bó trong chiếc mũ màu đen của lính xe tăng Đức có diềm rộng ở thái dương, ngả ra đằng sau, gần mép công sự và không mở mắt, anh ta khẽ rên lên yếu ớt, để lộ hàm răng cắn chặt sáng bóng. Nghiêng người xuống sát mặt anh ta, U-kha-nốp thốt lên không quả quyết lắm: 

-Hình như còn sống. 

Mọi người dồn lại phía trước khẩu pháo ngờ vực đưa mắt nhìn, khi thì con người đang rền rĩ đó, khi thì những vệt pháo sáng, khi thì những phát súng tiểu liên bùng lóe lên ở phía trước. Cu-dơ-nét-xốp im lặng, tuy chưa hiểu rõ chuyện gì đã xảy ra ở đây, nhưng anh đã tin chắc rằng đây nhất định không phải là một tên Đức: đã có thể phân biệt rõ khuôn mặt Nga trẻ trung, mũi hếch, gò má cao dưới chiếc mũ đen của Đức, bị cơn đau làm cho méo mó; cái cằm râu ria lởm chởm, yếy hầu trên cái cổ ngẳng bị dính đầy tuyết, một lớp băng bám khắp áo bông, những bàn tay không đi găng co quắp trước ngực như người chết, mũi ủng hếch sang một bên cứng đờ. Hình như anh ta đã nằm nhiều giờ trong băng giá trên tuyết. 

-Ai thế, trung úy? Có lẽ ở bộ binh? Hay là lính xe tăng?-Nết-trai-ép hỏi.-Bị thương à? Hay là bị cóng? Trông tay kìa… 

-Tôi đã bắn vào cậu ta, tôi đã bắn.-Tri-bi-xốp sụt sịt ở sau lưng.-Cậuâý chạy, la hét, còn tôi thì… 

-Thôi đừng rền rĩ nữa, Tri-bi-xốp!-Cu-dơ-nét-xốp nổi xung lên… không được nói lời nào nữa! 

-Bộ binh ở đâu ra? Lính xe tăng ở đâu ra? Phía trước mặt làm gì có quân mình… Ê, chú mình!-U-kha-nốp gọi khẽ đập nhẹ vào má người đó.-Có nghe thấy gì không chú mình? Chú mình có nghe thấy gì không? 

Người đó nghiến răng, yếu hầu chồi lên, động đậy rồi tiến rên rền rĩ lại lọt qua kẽ răng. 

-Này U-kha-nốp, xem cậu ta có tài liệu gì không,-Cu-dơ-nét-xốp ra lệnh.-Soát túi xem. 

-Bác phởn chí cái gì mà lại bắn vào cậu ta hả đồ ngốc?-Ru-bin lên án bằng giọng trầm, hướn về phía Tri-bi-xốp.-Nếu cậu ấy đã la lên là người Nga thì sao bác lại còn bắn một cách ngu ngốc thế? Sợ đến đũn ra quần rồi à? 

-Tôi không biết, không biết!... 

-Ru-bin! Đi tìm Dôi-a ngay,-Cu-dơ-nét-xốp quyết định.-Gọi Dôi-a lại đây! 

-Rõ,-Ru-bin miễn cưỡng đáp.-Tôi sẽ dẫn cô ấy tới để xem cô ấy có cứu được không… 

-Chạy đi tìm Dôi-a, Ru-bin, anh có nghe thấy không?

 31.12.2010

LSB-Sun

-=[ Lương Sơn Ẩn Sĩ ]=-

ღ Đại Trưởng Lão QPB ღ

TUYẾT BỎNG

Chương 20 -2

Nguồn: vnthuquan

Nội dung thu gọn

U-kha-nốp ngồi xổm, cởi khuy áo bông trên ngực người đó, sờ soạng, lộn túi trái các túi áo va rơi và chiếc quần bông của anh ta ra rồi nói vẻ băn khoăn: “Chả có gì!”-Và không phải là không giận dữ, sẵng giọng bảo Nết-trai-ép: 

-Đưa ngay cái bi đông đựng rượu Rom Đức lại đây! Ở thắt lưng cậu ấy. Đưa đây. Sau đó anh dùng miệng bi động cậy răng người kia ra, anh ta rên lên, đầu ngật ra, cưỡng lại một cách vô ý thức như bị tra tấn, nhưng U-kha-nốp lấy tay giữ lấy đầu anh ta, kiên quyết thậm chí thô bạo đổ vào mồm anh ta mấy ngụm rượu và nói: 

-Tỉnh ngay đây mà, người anh em ạ… 

Mọi người chờ đợi. Anh chàng bị sặc, thở bằng mồm, ho gập cả người và cọ mãi gáy vào mí bờ công sự. Mi mắt anh ta hé mở, cặp mắt mờ đục như mất hồn, chẳng biểu lội cái gì cả, giống như mắt những người bị ốm nặng khi bị ngất khiến mọi người sửng sốt, những ngón tay đã co quắp quờ quạng về phía để tiêu liên. Lúc ấy Cu-dơ-nét-xốp hỏi anh ta: 

-Này chú mình, chú mình là ai? Chạy từ đâu tới? Chúng tôi là người Nga, người Nga đây! Cậu là ai? 

Mắt chàng thanh niên nhớn nhác nhìn mọi người; có lẽ anh ta chưa nghe được gì và còn chưa nhận ra mình đang ở đâu và có chuyện gì xảy ra với mình; sau cùng anh ta cất tiếng thềo thào: 

-Mũ… mũ… bỏ ra… 

-Có lẽ cậu ấy không nghe thấy, trung úy ạ. Cậu ấy đã vớ được cái mũ của Đức ở đâu ấy. Đúng là dân Xla-vơ mình! 

U-kha-nốp tháo chiếc mũ khỏi đầu và kê xuống dưới gáy anh ta. Chàng thanh niên rên hừ hừ, duỗi chân, đưa mắt nhìn khoảng trời trên bờ sông bị ánh sáng đạn pháo sáng dồn dập cắt ngang dọc rồi nhìn khẩu pháo, nhìn Cu-dơ-nét-xốp, U-kha-nốp-và có cái gì đó lướt qua trên mặt anh ta, dường như anh ta đã hiểu cả. 

-Anh em ơi… anh em pháo binh!-Anh ta thều thào.-Pháo binh à?... Tôi chạy đến chỗ các anh!... Ghê-ooc-ghi-ép đâu? Ghê-ooc-ghi-ép đâu?... Buổi sáng… 

Anh im bặt, đưa mắt dò hỏi và khi nghe anh ta nói mấy tiếng “buổi sáng” Cu-dơ-nét-xốp bỗng sực nhớ tới trận ném bom, chiếc hầm ở chỗ khẩu pháo của Tru-ba-ri-cốp, người chiến sĩ trinh sát bị choáng và trong cơn hôn mê đã đòi gặp đại tá sư đoàn trưởng; đúng rồi, lúc ấy anh chiến sĩ trinh sát đó đã báo tin về những người còn ở lại phía trước mặt… 

Mấy phút trước, chàng trai này còn làm cho anh nhớ một anh lính bộ binh ở đội cảnh giới chiến đấu đã chạy thoát không bị bắt làm tù binh hoặc đã lang thang vì lý do gì đó nhưng lúc này Cu-dơ-nét-xốp thấy khó và không thể tin được rằng đây lại là một trong số các chiến sĩ đi trinh sát bị mắc kẹt mà anh chiến sĩ trinh sát ban sáng đã nói tới khi anh ta đến được chỗ trung đội lúc cuộc chiến đấu mới bắt đầu. Bằng cách nào cậu ta còn sống được nhỉ? Cậu ấy ở đâu trong lúc cuộc chiến đấu diễn ra? Hàng chục chiếc xe tăng đã đi qua phía trước mặt, đã chà xát, cày xới khắp thảo nguyên, suốt ngày đạn trái phá đã bóp nát từng thước đất… 

-U-kha-nốp, cho cậu ấy uống thêm ngụm rượu Rom nữa,-Cu-dơ-nét-xốp nói.-Cậu ấy nói năng còn chật vật, khó khăn lắm. 

-Theo ý tôi cậu ấy đã bị cóng toàn thân, trung úy ạ. Bị tê cóng đến tận gan ruột.-U-kha-nốp đáp rồi dốc bi đông đổ thêm vào miệng chàng trai mấy ngụm rượu Rom nữa. Chàng trai thở một cách khó khăn, ngả đầu ra đằng sau và lúc ấy Cu-dơ-nét-xốp cất cao giọng, rành rọt hỏi anh ta: 

-Cậu có nói được không? Tôi sẽ hỏi và cậu hãy trả lời. Như thế dễ hơn. Ghê-ooc-ghi-ép là chiến sĩ trinh sát phải không? Buổi sáng anh ta đã đến được chỗ khẩu đội chúng tôi. Cậu cũng là chiến sĩ trinh sát phải không? 

Chàng trài vẫn cọ gáy vào chiếc mũ, sau đó môi anh ta mấp máy: 

-Anh em ạ... đằng kia có hai người trong hố bom… Anh em ta cùng với một tên Đức. Tên Đức đã ngắc ngoải... Họ bị thương. Tất cả đều bị cóng. Chúng tôi ngồi suốt ngày với tên Đức. Bắt được nó lúc rạng đông. Ở trên đường cái lớn. Lôi ở ô tô ra. Một tên Đức quan trọng… Chúng tôi đã cử Ghê-ooc-ghi-ép đi… nói… 

-Ra thế.-U-kha-nốp đưa mắt nhìn Cu-dơ-nét-xốp.-Anh hiểu rồi chứ, trung úy? Chính là anh chàng trinh sát ở chỗ Tru-ba-ri-cốp buổi sáng đấy, phải không? Chính anh chàng ấy hả? Đúng rồi! Chà, anh em Xla-vơ mìng ghê thật! Thế ra đó là anh em trong đội trinh sát? 

-Chính thế,-Cu-dơ-nét-xốp đáp và sờ vào vai chàng trai đang ngồi, ngả người vào bờ công sự như mất hồn, mắt nhắm lại.-Thế anh em khác đâu, ở xa đây không? Cậu bị thương à? Cậu nói là có một tên Đức ở chỗ họ à? Chúng nó đã bắn theo cậu phải không? 

Chàng trai không mở mắt nhưng hiểu ý nghĩa các câu hỏi. Anh ta rên lên và Cu-dơ-nét-xốp nhìn chằm chặp vào đôi môi mấp máy của anh ta đoán ra: 

-Khoảng năm trăm mét… ở phía trước mặt. Trước mặt cái khe. Tôi còn vận động được. Anh em quyết định cử tôi đến đây. Tôi đã chạy… Bọn Đức nhan nhản ở đằng ấy. Có hai chiếc xe. Tôi không thể bắn được. Tay bị tê cóng cứng đơ. Còn chúng nó bắn vào tôi… Phải đến đón họ, anh em ạ, phải đi đón! Ở đó có hai anh em ta… Tên Đức quan trọng lắm!... 

-Khoảng năm trăm mét à? Nhưng ở chỗ nào mới được chứ?-Cu-dơ-nét-xốp hỏi lại và nhìn ra ngoài bờ công sự. 

Những lọat đạn tiểu liên nổ vang rồi tắt lặng trong gió lạnh buốt, khô khốc, làm rát mặt, gió tuyết mù mịt từ thảo nguyên bốc lên quất vào người. Dưới ánh đạn pháo sáng, toàn bộ thảo nguyên thấp thoáng hiện ra với những gợn tuyết trắng ở trên mình, ngoằn ngoèo bò ra từ đống xe tăng bị bắn cháy đen ngòm, đằng sau đó bầu trời thấp nhô lên như một bức tường lúc tối tăm. Vào cái giờ tai quái này của đêm tháng Chạp gió tuyết lộng lên, hất tung đi khắp nơi và làm tắt lụi những đám cháy cuối cùng của cuộc chiến đấu. Và không có thể tin được rằng ở một chỗ nào đó trên thảo nguyên đã bị xe tăng chà sát, bị băng giá phủ kín lại còn có thể có con người sống, có thể còn lại hai chiến sĩ trinh sát của ta… Anh muốn tìm hiểu xem bọn Đức bắn từ đâu, muốn xác định hướng đi của các làn đạn nhưng những khối xe tăng bị cháy đã che mắt anh. 

-Chừng năm trăm mét à?-Anh hỏi lại lần nữa và nghiêng mình sát mặt người chiến sĩ trinh sát.-Thế đúng hơn là bao nhiêu? Cậu có thể nói chính xác hơn không? 

Anh chiến sĩ trinh sát thở mạnh, đưa những ngón tay co quắp như củi cành lên cằm, định sưởi ấm chúng, anh động đậy các ngón tay nhưng chúng vẫn không duỗi ra. Không rời tay khỏi cằm, anh nhúc nhích cẳng chân để đứng lên nhưng sự cố gắng đó làm anh kiệt sức, ngã phịch xuống mép bờ công sự và anh thì thào: 

-Anh em ơi, giá nâng tôi lên!… Chân tôi cũng bị… Hai chiếc xe vận tải bằng thép… ngay phía trước cái khe… nhanh lên đi, các đồng chí pháo binh! 

-Dôi-a đâu?-Cu-dơ-nét-xốp hỏi.-Ru-bin đâu? 

-Cậu này khéo đến mất đôi bàn tay, trung úy ạ. Phải lấy tuyết sát,-U-kha-nốp nói và đưa mắt khắp các phía.-Tri-bi-xốp! Lấy cho tôi một cục tuyết mau lên! Tuyết sạch, không lẫn thuốc súng ấy. Lấy ở ngoài công sự. Rõ chưa?

 31.12.2010

LSB-Sun

-=[ Lương Sơn Ẩn Sĩ ]=-

ღ Đại Trưởng Lão QPB ღ

TUYẾT BỎNG

Chương 20 -3

Nguồn: vnthuquan

Nội dung thu gọn

Trong lúc mọi người hỏi han anh chiến sĩ trinh sát, Tri-bi-xốp nép người vào gần khẩu pháo, đưa mắt ủ rũ như mắt thú bị săn đuổi nhìn U-kha-nốp, khép chặt áo choàng trên ngực. Từ chỗ cằm và khóe miệng bị dính những búp tuyết ở dưới lần mũ lót của bác bật ra tiếng kêu rên khẽ khẽ cùng với làn hơi nước. Và vừa khẽ kêu rên như vậy, như người bị giẫm đè lên, bác vừa bò bằng đầu gối rời khỏi khẩu pháo, ngọ nguậy đôi ủng, tà áo choàng lòa xòa trên mặt đất,-trong tất cả cái cung cách ấy của bác đã không có cái gì đó gớm ghiếc, thảm hại, y như thể bác đã không còn hiểu biết gì nữa, đã mất khả năng đi đứng cho ra người. 

-Tri-bi-xốp, bác làm sao thế?-Cu-dơ-nét-xốp ngạc nhiên.-Bác làm cái trò gì thế? Đứng dậy và chạy đi! 

Nhưng Tri-bi-xốp vẫn sụt sịt, làu bàu lảm nhảm, bò bằng đầu gối tới chiếc hầm, chìm vào trong bóng tối đường hầm. Nết-trai-ép vừa nhay nhay ria mép bị những mảnh sương giá nhọn hoắt như đường dính vào vừa nói với theo bác ta: 

-Nó đã bị cóng đến cùng cực. Vậy mà lúc ấy bác ta còn bắn vào thằng bé. Có lẽ bác ta điên thật rồi. Đồng chí thượng sĩ ạ, để tôi đi lấy tuyết cho. 

-Ngồi lại đó!-U-kha-nốp ngăn lại.-Cứ để bác ấy chạy, như thế có ích đấy! Cậu hãy xoa má đi Nết-trai-ép. Sẽ có ích đấy, xoa như người ta đánh phấn ấy mà.-Nói xong anh dùng bao tay khẽ xoay khuôn mặt Nết-trai-ép về phía mình. Xoa mạnh vào kẻo không sẽ đi tong mất đôi má! 

Băng giá dữ dội đến cực độ thấm buốt vào người Cu-dơ-nét-xốp tay anh tê cóng trong bao tay, chân tê cóng trong ủng, băng giá như cào vào mặt. Nhìn anh trinh sát, những ngón tay co quắp của anh ta ở gần cằm cứng đơ, lạnh buốt, Cu-dơ-nét-xốp tưởng tượng rõ cảnh anh ta chạy trên chặng đường năm trăm mét tới trung đội mình, không bắn được súng vì các ngón tay anh ta chắc không ấn được cò tiểu liên… còn tóc chàng trai trông bạc trắng vì bột tuyết mắc trong đó, sương giá dày đặc dính đầy lỗ mũi, lông mi bết lại. Anh ta thì thào làm cho những cuộn hơi nước từ miệng bốc ra. 

-Nhanh lên đi, anh em pháo binh!... Cách đây năm trăm mét!... Có hai người mìn. Với một tên Đức. Đằng sau những chiếc xe vận tải bọc thép. Ở đó có một hố bom. 

-Đội mũ cho cậu ấy, U-kha-nốp-Cu-dơ-nét-xốp ra lệnh, anh ngồi trên càng pháo, đợi cho tới khi U-kha-nốp kéo chiếc mũ lên đầu người chiến sĩ trinh sát rồi mới nói khẽ:-Thế nào hả, U-kha-nốp, chúng ta làm gì đây? Năm trăm mét… Phía bên trái là bọn Đức, đội chôn cất. Hay là ta đi cả bốn người, với bốn tiểu liên?... Ta đem theo cả lựu đạn. Để Nết-trai-ép lại trông pháo phòng có gì bất trắc. Phải đi thôi. Cậu thấy thế nào? 

Anh biết là họ phải xông pha vào nơi nguy hiểm nhưng đồng thời anh thuyết phục mình rằng họ không có quyền không đi, họ phải tìm cách băng mình đến chỗ hai anh trinh sát bị thương mà chàng trai đã phải vượt qua năm trăm mét, không nổ súng, tới báo tin. Cu-dơ-nét-xốp đã nói tới vũ khí mang theo-bốn khẩu tiểu liên và một ít lựu đạn-nhưng những lời nói ấy của anh vang lên như một cái gì giống như sự tự lừa dối, tuy vậy anh hiểu rằng không ai trong bọn anh-cả anh, người chỉ huy trung đội cũng như U-kha-nốp-sau đó sẽ không thể sống thanh thản nếu như hai người không chấp nhận quyết định đó, vì chẳng còn lối thoát nào khác. Anh chờ đợi U-kha-nốp trả lời, anh tin vào sự tỉnh táo và kinh nghiệm của U-kha-nốp hơn kinh nghiệm của riêng mình. 

-Đó là đề nghị của tôi. Ta hãy giải quyết. U-kha-nốp ạ. Bởi anh em trinh sát đã đến trung đội ta. Ta thử xem nhé? 

U-kha-nốp im lặng và thổi phù phù vào những bao tay đã tháo ra, lùa hơi thở nóng ấm vào đó rồi lồng tay vào, vỗ vỗ lên đầu gối và dường như bực bội khó chịu, ngước đôi mắt dưới cặp lông mày bị dính mảng băng trắng nhìn Cu-dơ-nét-xốp. 

-Cậu còn nghĩ ra được điều gì khôn ngoan hơn nào? Cậu không nghĩ ra được điều gì khác đâu, trung úy ạ! Tuy năm trăm mét không đơn giản là năm trăm mét. Chủ yếu là mỡ đừng đông cứng trong súng tiểu liên! Hãy lắng nghe mà xe, trung úy. Bọn Đức đã im tiếng. 

Ở phía trước tất cả đều lặng đi, im ắng, không một làn đạn, không một phát súng, không một quả pháo sáng, chỉ thấy những đường nét xám xịt của những chiếc xe tăng bị đốt cháy, gió tuyết mịt mù len lách qua đó và ập vào bờ công sự. 

-Tri-bi-xốp!-U-kha-nốp quát gọi.-Tri-bi-xốp, bác bỏ đi đâu thế? Nhanh nhanh lại đây! Tuyết đâu? Quỷ quái thật! 

Tri-bi-xốp vóc người nhỏ bé, cuống quít, vụng về bò từ ngoài bờ công sự vào; dưới diềm mũ lót, đôi mắt đen của bác ánh lên vẻ khiếp sợ; bác bò bằng cả hai chân lẫn hai tay, đôi ủng đạp tới đạp lui, kéo chiếc cặp lồng đựng đầy tuyết lên trên mặt đất về phía khẩu pháo và kêu lên không thành tiếng: 

-Có ai chạy ở đằng kia ấy, có người chạy!... Chạy theo bờ sông! Về phía này!... 

-Ai chạy?-U-kha-nốp giật chiếc cặp lồng trong tay bác.-Lại bắt đầu nói lảm nhảm hả? Nết-trai-ép, cho bác ấy uống tí rượu trong bi đông cho tỉnh người ra! 

-Họ chạy ở đằng ấy… lại đây, tôi nhìn không rõ…-Tri-bi-xốp thì thào nhắc lại và vừa thì thào bác vừa quay người lại bỏ xa chỗ chàng trai đang rên to lên khi U-kha-nốp thục bàn tay vào chiếc cặp lồng đựng tuyết. 

Cu-dơ-nét-xốp lúc này cũng đã nghe thấy tiếng chân người chạy rậm rịch, tiếng tuyết lạo xạo rất gần, phía bên phải khẩu pháo và anh túm lấy khẩu tiểu liên của người chiến sĩ trinh sát, hô lên: “Ai đó?”-Nhưng hai bóng người từ trong bóng tối lờ mờ hiện ra trên nền tuyết trắng và tiếng thét trả lời bật lên từ chỗ họ. 

-Người mình! Không nhận ra à? 

Cu-dơ-nét-xốp đã nhận ra cả hai người. Đó là Đrô-dơ-đốp-xki và trung đội trưởng trung đội chỉ huy, chuẩn uý Gô-lô-va-nốp; họ đã tới gần, quầng sáng đang lụi dần trên khu làng bên kia sông soi rõ bóng dáng họ trên bờ sông cao. 

Cả hai chạy vào trong trận địa pháo và Đrô-dơ-đốp-xki vận chiếc áo choàng hẹp, may rất khít, cài khuy chặt, chật vật lấy lại hơi thở, hỏi: 

-Ai bắn thế? 

Chỉ mới nghe cái giọng hách dịch đó Cu-dơ-nét-xốp đã chợt thấy thần kinh mình nhoi nhói lên, anh siết khẩu tiểu liên vào ngực quay người đi, ngồi lên càng pháo, môi mím chặt, lặng thinh để tỏ cho Đrô-dơ-đốp-xki hiểu rằng anh vẫn chưa quên câu chuyện xảy ra ban sáng giữa họ. 

-Tình hình ở đây thế nào? Thượng sĩ U-kha-nốp, anh đang làm gì ở đây? Một người bị thương à? Anh ta từ đâu tới? 

Đrô-dơ-đốp-xki vừa đi vừa hỏi, đột ngột đi ngang qua trước mặt Cu-dơ-nét-xốp, để lại sau lưng mình mùi áo choàng lạnh cứng, và để tự mình tìm hiểu tình hình, anh cúi xuống nhìn U-kha-nốp, nhìn anh trinh sát, bật đèn pin lên. Ánh sáng chọc thẳng làn sương mù vàng vàng, rọi vào mặt chàng trai ỉu xìu, hũi hếch, răng cắn chặt, ngả đầu trên bờ lũy, những giọt nước mắt ứa ra vì đau đã đóng băng trên gò má. 

-Anh em pháo binh!... Anh em pháo binh!... Họ ở trong hố bom.. Đội mũ cho tôi làm gì, tôi nghe không rõ… 

-Tắt đèn pin đi, đại đội trưởng! Anh bấm đèn làm gì?-U-kha-nốp tiếp tục dùng tuyết xoa bàn tay cho anh chiến sĩ trinh sát, bực bội dùng vai đẩy chiếc đèn pin ra.

 31.12.2010

LSB-Sun

-=[ Lương Sơn Ẩn Sĩ ]=-

ღ Đại Trưởng Lão QPB ღ

TUYẾT BỎNG

Chương 20 -4

Nguồn: vnthuquan

Nội dung thu gọn

Ngay lúc đó như chỉ chờ tín hiệu, hai phát súng vang lên ở bờ sông bên kia, mấy đốm lửa nhỏ lướy trên bờ sông sự và Đrô-dơ-đốp-xki hơi cúi đầu xuống, cất chiếc đèn pin đã tắt đi nhưng không hề tỏ ra ngạc nhiên, nói rít qua kẽ răng một cách mỉa mai: 

-Các anh sống vui gớm nhỉ?-Rồi anh hỏi với vẻ nghiêm khắc quen thuộc:-Anh chàng này là ai? Anh ta đã lần đến chỗ các anh như thế nào? 

-Cái thằng cha Ru-bin chậm như rùa ấy, đồ chết dẫm!-U-kha-nốp thốt lên và trả lời Đrô-dơ-đốp-xki một cách hết sức uể oải:-Anh chàng này là lín trinh sát, đại đội trưởng ạ, thuộc đội trinh sát ra đi đêm qua và không trở về. Nếu anh còn nhớ thì người đầu tiên của đội đó đã đến chỗ chúng ta sáng nay lúc địch ném bom, đó là anh Ghê-ooc-ghi-ép. Đây là người thứ hai. Té ra ở đằng kia vẫn còn hai người nữa. Họ không thể đi lại được… Anh chàng này cho biết, họ bị thương và bị cóng. Họ còn mang theo một “cái lưỡi” nữa. Suốt một ngày đêm rồi. Đấy, tất cả câu chuyện là như thế, đại đội trưởng ạ! 

-Hai anh trinh sát à? Với một “cái lưỡi” nữa?-Đrô-dơ-đốp-xki nhắc lại.-Đúng thế à? 

-Với “cái lưỡi” nào? Anh điên à, U-kha-nốp?-Chuẩn uý Gô-lô-va-nốp cao lớn khoát tay, vụng về ngồi xổm xuống, chăm chú nhìn người chiến sĩ trinh sát đang rên khe khẽ.-Cậu ta cho biết thế à? Cậu ấy ngất đi, mê sảng kia mà. Ở đằng ấy xe tăng đã quần nát hết cả. Anh em trinh sát ở vào đâu? 

-Chuyện gì chả xảy ra được. Anh chưa hề nghe nói chuyện lạ như thế à? 

-Anh tin vào lời mê sảng à, U-kha-nốp? Và anh chàng này từ đâu tới đây? 

-Nếu không biết thì im đi, Gô-lô-va-nốp!-Đrô-dơ-đốp-xki cao giọng và anh đột ngột vươn thẳng người lên, mềm mại như thể trong người anh có lò xo vậy.-Anh đã quên mất người chiến sĩ trinh sát mà chúng ta gửi lên sư đoàn à?-Anh quên mất rằng các đồng chí chỉ huy tập đoàn quân đã từng chờ đợi đội trinh sát ở đây à? Trí nhớ tồi thế? Thế mà cũng là trung đội trưởng trung đội chỉ huy! Thấy chưa! Cho hai chiến sĩ thông tin tới gặp tôi! Dù hộc máu mũi các anh vẫn cứ phải đặt đường dây cho tôi liên lạc với phòng tham mưu sư đoàn. Rõ chưa, Gô-lô-va-nốp? Tôi cho mười phút để làm tất cả những việc đó. Hãy nhắc lại mệnh lệnh! 

Với vẻ nhanh nhẹn bất ngờ, chuẩn uý Gô-lô-va-nốp vươn thẳng cái thân hình vụng về của mình lên trong tư thế đứng nghiêm, nhắc lại mệnh lệnh rồi khéo léo vọt lên bờ công sự, nặng nề bước khỏi trận địa pháo đi về phía đài quan sát của tiểu đoàn. 

Những ngón tay cứng đờ của Cu-dơ-nét-xốp siết chặt báng súng tiểu liên đặt ở đầu gối và sau cùng anh lên tiếng: 

-Này, Đrô-dơ-đốp-xki, cũng như mọi khi, anh đến đây hơi chậm đấy. Tôi và U-kha-nốp đã quyết định đi tìm họ. Và anh có thể yên tâm. Anh hãy báo tin qua máy vô tuyến rằng… 

-Ai bị thương ở đây thế, anh em? 

Cu-dơ-nét-xốp chưa kịp nói hết thì đã nghe tiếng tuyết lạo xạo, tiếng thở hổn hển đứt quãng rồi Ru-bin không phải là chạy mà lăn trên đôi chân cũn cỡn của mình vào trận địa và lập tức chiếc áo choàng của Dôi-a thấp thoáng như một chấm trắng. Giọng nói trong trẻo của cô vang lên ngân nga trong bầu không khí giá lanh rồi im bặt. Sau đó chiếc áo choàng trắng đu đưa trên mặt đất phía bên trái khẩu pháo và lại thấy tiếng Dôi-a, bây giờ nói giọng khác. 

-Bỏ cái cặp lồng đi, U-kha-nốp. Cậu ta bị thương mà… Anh đưa cho tôi con dao găm… Anh giữ lấy chân cậu ta nhé, tôi sẽ cắt ủng. Cẩn thận, đấy, giữ lấy gót chân, anh thấy không, chân cậu ấy bị tụ máu sưng lên. 

”Chả lẽ Tri-bi-xốp bắn trúng cậu ta thật à?”-Cu-dơ-nét-xốp nghĩ và khi tưởng tượng câu chuyện vô lý không thể có được ấy, anh nghiến chặt răng đến phát đau lên. Anh biết rằng lúc này anh sẽ thi hành bất cứ mệnh lệnh nào vì anh không thể chờ đợi được hơn nữa: giá lạnh cào vào mặt anh như mài, lưng, ngực và tay cầm tiểu liên đã bị cứng đơ, phải hoạt động, liều lĩnh, phải vận động thôi dù muốn ra sao thì ra. 

Tuy vậy, anh tin chắc rằng, được che đỡ bởi những chiếc xe tăng bị đốt cháy ở phía trước tiểu đoàn, họ sẽ băng qua được chặng đường năm trăm mét tới chỗ hai chiếc xe vận tải bọc thép bị diệt, ở đâu đó phía sau chúng có hai người trinh sát của ta nằm trong hố bom. Nhưng liệu họ còn sống ở đó không?... Tại sao bỗng nhiên tiếng súng lại ngừng ở phía trước mặt? 

“Đúng rồi, ngay bây giờ… Miễn sao từ đây tới chỗ hố bom không vấp phải bọn Đức, không để lộ mình trước! Băng đi, không nổ súng”. 

Thậm chí không nhìn Đrô-dơ-đốp-xki, anh đấm nắm tay xuống băng đạn tròn của khẩu tiểu liên, vươn mình đứng dậy và bước tới chiếc hầm, cảm thấy lồng ngực nhẹ nhõm, anh khẽ gọi, giọng khản đặc: 

-U-kha-nốp, Ru-bin, Tri-bi-xốp, lấy lựu đạn và tiểu liên rồi đi theo tôi! 

Thay cho tiếng trả lời anh nghe thấy tiếng rên ư ử không rõ từ trong khe hầm tối vọng ra và anh tưởng như có một người giọng tắc nghẹn đang bịt lấy mồm, rền rĩ ở trong đó. Cu-dơ-nét-xốp lại gần. Tri-bi-xốp ngả người trong góc hầm, nghe tiếng chân bước, bác lùi sâu vào trong hầm, hai chân giãy, đạp, đụng cả vào người Cu-dơ-nét-xốp, như thể bác muốn tìm điểm tựa để rúc mình sâu hơn vào trong lòng đất. 

-Tri-bi-xốp, đứng dậy!-Cu-dơ-nét-xốp ra lệnh.-Bác làm sao thế? Khẩu các bin của bác đâu? Để nó lại đây. Bác lấy khẩu tiểu liên của Nết-trai-ép. 

-Đồng chí trung úy, Dôi-a vừa nói rằng: ủng của cậu ta có máu. Tôi đã bắn… Nào tôi có biết? Chả lẽ tôi lại định tâm làm thế à? Tội nghiệp thằng bé… 

-Đứng dậy Tri-bi-xốp! 

Tri-bi-xốp bò ra khỏi hầm tối, khuôn mặt méo xệch, ướt đẫm băng giá nhô ra dưới lần mũ lót; để nén tiếng khóc, bác nhai chiếc bao tay phủ băng còn bao tay kia khẽ bám lấy mép công sự đầy tuyết, mò mẫm sờ soạng khẩu các bin trên bờ công sự. Sau cùng khi đã sờ thấy, bác kéo khẩu súng về phía mình nhưng bất giác buột tay, suýt để rơi khẩu súng: có lẽ đôi tay cóng lạnh cứng đờ đã không ngoan ngoãn nghe theo ý bác. 

-Bị cóng à? Bác bị cóng à, Tri-bi-xốp?-Cu-dơ-nét-xốp chộp được khẩu các bin, ấn vào đôi tay đeo găng cứng đơ như cọc rào của Tri-bi-xốp và bác lúng túng ép chặt báng súng vào ngực đến nỗi nòng súng chọc vào má. 

-Tôi bị tê cóng hết rồi, không nhúc nhích gì được… cả chân lẫn tay… 

Từ cặp mắt nháy lia lịa của Tri-bi-xốp những giọt nước mắt lăn trên đôi má bẩn thỉu, râu ria lởm chởm, khuôn trong lần mũ lót buộc chặt vào cằm và Cu-dơ-nét-xốp ngạc nhiên trước vẻ mặt buồn bã thảm hại, bất lực của bác, con người đã không còn hiểu việc gì đã xảy ra, đang xảy ra và không hiểu người ta muốn gì ở mình. Cu-dơ-nét-xốp không hiểu rằng đây không phải là sự bất lực về thể chất làm cho lòng người trống rỗng và thậm chí đây cũng không phải là sự chờ đợi cái chết mà đây là sự tuyệt vọng thú vật sau tất cả những gì Tri-bi-xốp đã trải qua trong suốt một ngày đêm ròng rã không dứt-sau trận ném bom, cuộc tiến công của xe tăng địch, cái chết của anh em pháo thủ, sau khi bọn Đức đã thọc sâu được vào đâu đó trong hậu phương đến mức gần như vây quân ta,-và đó chính là sự tuyệt cọng trước những gì ý thức không lý giải được: phải đi đâu đó và phải làm một việc gì đó… Chắc là trong cảnh cô đơn khiếp sợ bác đã bắn vào người chiến sĩ trinh sát, không tin rằng đó là người Nga mình và việc đó đã đánh quỵ bác hoàn toàn.

Chương 20 -5

Nguồn: vnthuquan

Nội dung thu gọn

-Tôi chịu thôi!...-Tri-bi-xốp òa khóc, đưa bao tay bịt chặt lấy mồm cố nén.-Đồng chí trung úy!... Đầu óc tôi làm sao ấy. Tôi không hiểu rõ mệnh lệnh… 

-Hãy bình tĩnh, Tri-bi-xốp. Đừng khóc lóc nữa!-Cu-dơ-nét-xốp khẽ quát, thông cảm nhìn Tri-bi-xốp nhưng anh biết rằng nếu yếu lòng lúc này thì có nghĩa là mất hết hy vọng sống. Anh nói tiếp:-Tốt hơn hết là bác hãy vận động làm cho ấm người lên! Nghe rõ chưa, Tri-bi-xốp? Kẻo không thì tong đời đấy! 

-Đồng chí trung úy… vì Chúa xin đồng chí để tôi ở lại đây!... 

-Tôi không thể làm thế được, Tri-bi-xốp! Bác cũng hiểu đấy, có còn người đâu! Tôi lấy ai thay bác, lấy ai? Nết-trai-ép là trắc thủ, cậu ấy phải ở lại trực pháo. Nếu cần phải bắn, bác sẽ không đảm đương được công việc! Bác hiểu chưa? 

U-kha-nốp vảub nghe gọi đến tên mình đã đến đứng sát bên Cu-dơ-nét-xốp ở trong hầm, áo choàng của họ sột soạt cào lên mặt đất đanh cứng, cả hai đều chăm chú và lặng lẽ nhét lựu đạn vào túi. Sau khi nhét những quả lựu đạn tròn như quả cam có cán, hất quai súng tiểu liên qua vai, Ru-bin thốt lên hằn học thiếu thiện ý: “Bụng dạ thật tởm, mẹ kiếp! Hạng người này có cho một phát đạn cũng còn ít!”. Rồi anh vừa khạc nhổ vừa giẫm bành bạch như thể định dùng ủng để giẫm nát đất vậy. U-kha-nốp thở phù phù để sưởi nóng cò súng tiểu liên, kiểm tra súng rồi ngước mắt nhìn khuôn mặt thảm hại, mếu máo vì khóc, ỉu xìu, buồn bã của Tri-bi-xốp, anh nói dường như thông cảm: 

-Giá chúng ta có nhiều người hơn thì xin sẵn lòng cử bác đến với anh em thương binh ở trong hầm trú ẩn. Nhưng biết làm thế nào bây giờ? 

-Tôi có còn sống đâu, cóng hết cả người rồi…-Và trong cơn tuyệt vọng Tri-bi-xốp bám riết lấy U-kha-nốp cầu xin sự che chở, lặp đi lặp lại:-Toàn thân tôi bị cóng, người cứng đơ ra rồi! Tôi cảm thấy trong người làm sao ấy.. Chẳng còn tí hơi sức nào nữa, thượng sĩ ạ… 

-Biết rồi,-U-kha-nốp đồng tình một cách bình thản.-Bác Tri-bi-xốp này, nếu bác không phản đối, ta sẽ làm thế này nhé. Tôi lấy tuyết sát vào tay cho bác, bác sẽ ấm lên, thế là mọi việc đâu vào đấy. Thoạt đầu tay bị cóng, sau đó đến toàn thân. Ai chả biết thế từ lâu.-Chiếc răng bịt bạc của anh sáng lóe trước mặt bác, dường như anh mỉm cười.-Xong ngay, một lát thôi, trung úy ạ. Anh cho phép chứ? Kẻo không bác ấy biến thành búp tuyết mất. Ta lánh ra kia cho khỏi phiền mọi người, bác Tri-bi-xốp. 

-Chúng tôi chờ hai phút, U-kha-nốp,-Cu-dơ-nét-xốp nói với vẻ thương hại xen lẫn sự khinh bỉ, cố không nhìn Tri-bi-xốp ngoan ngoãn đi cà nhót cà nhắc trong hào giao thông như thể tìm tòi sự cứu mạng, đầu rung lên vì khóc không thành tiếng. 

Chuyện xảy ra với Tri-bi-xốp anh đã từng thấy ở một số người khác, trong những hoàn cảnh khác trong trận thử lửa đầu tiên của mình ở Rô-xláp. Ở những con người như thế này nỗi buồn trước những đau khổ khôn cùng đã làm tiêu ma hết ý chí và như lệ thường, đó là điềm báo trước cái chết của mình. Người ta đã sớm không coi hạng người đó như còn sống mà xem họ như những kẻ đã chết rồi. Lúc ấy anh không thông cảm và tỏ vẻ ngạc nhiên kinh tởm trước sự yếu đuối, sỉ nhục đến cùng cực của con người, anh chỉ sợ rồi một lúc nào đó anh cũng lâm vào tình trạng na ná như vậy. 

-Chúng mình đi chiến đấu cùng với hạng đàn bà sướt mướt ấy à? Nước mắt nước mũi dầm dề! Chết quách đi cho rồi! 

-Thôi đi, Ru-bin,-Cu-dơ-nét-xốp quay về phía Ru-bin.-Sao anh cứ hằn học với mọi người thế? Tôi không hiểu. tay anh vẫn cử động tốt chứ? Vẫn bấm được cò súng đấy chứ? Nếu không thì tối sẽ không tin anh đâu! Anh nhớ chưa? 

-Trung úy tốt bụng đối với tôi. Ôi, tốt bụng lắm. Chứ không như đối với Tri-bi-xốp. Anh vẫn cứ nhớ chuyện cũ à? 

-Anh muốn nghĩ thế nào thì nghĩ.-Cu-dơ-nét-xốp nói và cau có nhìn về phía người chiến sĩ trinh sát đã được Dôi-a băng bó lại, bóng dáng Đrô-dơ-đốp-xki sẫm đen đằng sau lá chắn kho và anh nghĩ bụng không phải không có ý thức rằng dù Đrô-dơ-đốp-xki đã nghe thấy hay không nghe thấy cuộc trò chuyện này với Tri-bi-xốp thì về cơ bản, đằng nào cũng thế thôi. 

-Trung úy Cu-dơ-nét-xốp! Ai vừa than vãn ở đây thế? Tri-bi-xốp à? Anh ta đâu? Anh ta từ chối không chịu đi à? 

Đrô-dơ-đốp-xki bước nhanh lại gần anh, đứng cách anh chỉ một bước chân, cũng như mọi khi, toàn thân anh ta căng ra như một sợi dây đàn, tuy trời lạnh nhưng vẫn gọn gàng, sẵn sàng hành động như lúc ở trên tàu cũng như khi hành quân trước đây; trông nét mặt anh ta cũng có thể thấy rằng anh ta không hề nghi điều gì cả, bình tĩnh, tự tin, coi như không có chuyện gì đã hay đang xảy ra và Cu-dơ-nét-xốp cố trả lời sao cho thật khô khan: 

-Anh nghe nhầm đấy, đại đội trưởng ạ. Tôi xin chịu trách nhiệm về Tri-bi-xốp. 

-Được thôi… Nhưng mà thế này, Cu-dơ-nét-xốp ạ.-Đrô-dơ-đốp-xki nói một cách quả quyết.-Phải đưa một tốp đông người hơn đến chỗ anh em trinh sát. Ba người không kéo nổi hai cậu ấy đâu. Tôi cũng sẽ đi cùng với hai chiến sĩ thông tin. Tôi đi sau các anh. Về phía bên phải hai chiếc xe vận tải bọc thép bị cháy. 

-Anh không phải lo ngại, đại đội trưởng ạ,-Cu-dơ-nét-xốp đáp, vẻ lạnh lùng xa cách.-Nếu ở đó còn ai sống chúng tôi sẽ biết cách dìu họ đi. 

-Tôi không lo ngại, Cu-dơ-nét-xốp ạ, tôi không lo ngại! Nhưng tôi sẽ đi với các anh.-Đrô-dơ-đốp-xki nói, cánh mũi và cặp lông mi lá liễu như của con gái rung rung, anh đưa mắt nhìn Cu-dơ-nét-xốp từ đầu đến chân rồi gạt Ru-bin đang lặng lẽ đứng giữa hầm, bước những bước dài về phía khẩu pháo, nơi Dôi-a được Nết-trai-ép giúp sức đã băng bó lại cho anh chiến sĩ trinh sát ở dưới chân bờ công sự và anh ta đã ngừng rên. 

“Nếu chúng nó giết mình hôm nay thì có nghĩa là mình phải chết,-Cu-dơ-nét-xốp siết chặt báng khẩu tiểu liên, nghĩ, nhưng lập tức anh xua đuổi ngay ý nghĩ đó:-Tại sao mình lại nghĩ tới chuyện đó nhỉ?”. 

-Đồng chí trung úy, chúng tôi đã sẵn sàng!... Như đi dự đám cưới ấy! 

U-kha-nốp từ hào giao thông đi vào hầm, đằng sau anh là Tri-bi-xốp vóc người nhỏ bé, lặng lẽ, đầu ngoẹo xuống tận vai như một cây gậy vô dụng, gây phiền toái. 

-Tuyệt lắm rồi… bác hãy để khẩu súng các bin lại cho Nết-trai-ép và lấy khẩu tiểu liên của anh ấy,-Cu-dơ-nét-xốp ra lệnh và gật đầu ra hiệu cho U-kha-nốp:-Anh đi cạnh bác ấy. Tôi đi với Ru-bin. Thế thôi. Tiến lên! 

Lúc đó, bóng Dôi-a và Nết-trai-ép thấp thoáng, lay động ở gần khẩu pháo; họ khiêng người chiến sĩ trinh sát trên tay để đưa về hầm trú ẩn ở bờ sông, chân anh quấn băng dày cộm. Cu-dơ-nét-xốp thoáng nghe trong gió tiếng thì thào khó nhận ra: 

-May mắn, các bạn nhé! Hãy trở về cả đấy!... Chúc mọi sự tốt lành! 

Cu-dơ-nét-xốp không đáp trả lời cô.

 31.12.2010

LSB-Sun

-=[ Lương Sơn Ẩn Sĩ ]=-

ღ Đại Trưởng Lão QPB ღ

TUYẾT BỎNG

Chương 21

Nguồn: vnthuquan

Nội dung thu gọn

Tiến lên! 

Đó là mệnh lệnh cuối cùng của Cu-dơ-nét-xốp mà Tri-bi-xốp nghe được khi họ đã trèo lên bờ công sự và khi đã bò ra khỏi bờ công sự đó chừng mười bước thì tất cả mọi thứ đều chuyển động giật lùi trở lại, không còn che đỡ cho họ nữa-Những hầm trú ẩn dưới bờ sông, những hầm nhỏ cạnh trận địa pháo, khẩu pháo, các đường hào giao thông,-và trong khoảnh khắc bác cảm thấy bị phơi mình ra, bị tách rời khỏi mọi người, khỏi tất cả những gì thân thuộc với mình. Đôi chân của Tri-bi-xốp khuỵu xuống đạp cả vào người U-kha-nốp, chốc chốc bác lại tụt xuống một hố bom nhỏ, sâu, như tụt xuống vực thẳm làm thót tim và bác sợ hãi ngoi lên với tiếng kêu tắc nghẹn trong cổ: “Chúng mình đi đâu thế này?”-Bác ngọ nguậy hết phía này đến phía khác. 

Còn ở phía trước mặt có cái gì đó từ trong thảo nguyên bí ẩn nhích lại ngày càng gần hơn, những hình bóng do trận chiến đấu mới đây để lại hiện ra trong bóng tối lờ mờ thù địch giữa đêm đen man rợ; tất cả đều đã đóng băng giữa những luồng gió tuyết thổi ngoằn ngoèo, ào ào, giữa quầng sáng im phắc ở sau lưng và đôi lúc tưởng như những cái bóng lặng lẽ lách mình giữa những khối xe tăng bất động im lìm, tiếng sắt va loẻng xoẻng khe khẽ và những cái đầu trắng đội mũ sắt vuông có sừng nhô lên ở trước mặt… Tri-bi-xốp bổ nhào nằm úp mặt xuống đất, các ngón tay thọc vào cò khẩu tiểu liên như người say rượu: “Bọn Đức! Bọn Đức!”. 

Nhưng không thấy tiếng súng. U-kha-nốp không bổ nhào xuống tuyết, không hô khẩu lệnh, anh vẫn đi, nghiêng mình trước làn gió, vượt qua những cái bóng lượn ngoằn ngoèo dưới gió tuyết. Lúc ấy Tri-bi-xốp chật vật lấy lại hơi thở, gạt sương giá trên mi mắt ướt, bác đã thấy rõ những xác chết cứng lại trong tuyết, chắc là những tên Đức đã kịp nhảy ra khỏi xe tăng bị bắn cháy. 

“Lạy Chúa, chúng nó chết rồi!-Tri-bi-xốp chợt hiểu ra và tim bác đập thình thịch đến tận thái dương-Chúng mình băng qua những xác chết để đi tìm người sống… Trời ơi, chúng mình đi đâu thế này? Chả lẽ U-kha-nốp không sợ rơi vào tay bọn Đức à? Bọn chúng có thể còn sống và ẩn nấp đây chứ!... Chả lẽ mình bị bắt làm tù binh lần thứ hai à? Tí nữa chúng sẽ bao vây và gào lên…”. 

Lặng người đi vì ý nghĩ đó,Tri-bi-xốp cảm thấy yếu ớt đến nỗi bắp thịt ở bụng run lên, bác nhớn nhác nhìn về bên phải xem Cu-dơ-nét-xốp và Ru-bin đi ở chỗ nào. Nhưng bác không nhìn rõ họ. “Mình không chịu nổi cảnh bị bắt lần thứ hai, mình sẽ tự sát!... Lạy Chúa, xin hãy thương xót tôi và các con tôi! Tôi có phải là người độc ác đâu cơ chứ, tôi chả hề động đến ai trên đời này, đến con chó, con mèo nhà người khác tôi cũng không đụng đến!... Tôi chẳng bao giờ đánh mắng vợ con! Lúc còn trai tráng người ta cho tôi là thằng hiền lành ít nói và chế giễu tôi vì tôi không thích đánh nhau… Còn về chuyện anh chàng trinh sát ấy thì tôi đâu có cố ý! Chả là vì tôi sợ hãi quá… người tôi tê dại hết cả! Vì thế mà trừng phạt tôi ư?”-Tri-bi-xốp thầm lẩm bẩm trong óc, cầu nguyện người quyết định tính mạng bác, số phận bác. Bác lờ mờ thấy mình đang đi đâu, đường nét những chiếc xe tăng bị đốt cháy cũng như một cái gì đó màu hồng nhạt chập chờn trước đôi mắt bác nhắm nghiền. 

-Dừng lại, Tri-bi-xốp! Nằm xuống!-Mệnh lệnh của U-kha-nốp đập vào đầu bác.-Bọn Đức!... 

Choáng váng vì mạch máu đập thình thịch ở gáy, hai chân Tri-bi-xốp vấp phải một vật gì đó cứng, lạo xạo như tàu bắp cải, bác ngã sấp mặt xuống giữa cơn gió tuyết lồng lộng thổi, cuống quít nhổm người lên, chẳng hiểu mô tê gì cả: phía trước mặt có một đốm sáng bồng bềnh, nhấp nháy, thấp thoáng trước mi mắt ẩm của bác. Trên cái gò cao trong thảo nguyên nhô lên những bóng trắng bí hiểm và cùng với chúng hình như có cả bóng đen của chiếc ô tô khẽ lắc lư. 

Tiếng quát vừa sợ sệt vừa hung dữ bằng thứ tiếng xa lạ từ xa vọng lại khiến bác lạnh toát cả người: 

-Wer ist da? Halt! (Ai đó? Dừng lại!) 

“Chúng nó đây rồi!”-Tri-bi-xốp chợt hiểu và bò lùi trở lại, những ngón tay quýnh lên quờ lấy cò súng tiểu liên, nhưng ngay lúc ấy có một bàn tay như gọng kìm siết chặt lấy vai bác và bác nghe thất tiếng thì thào: 

-Đứng lại! Đừng bắn! Lại phía sau xe tăng! Sao bò lồm cồm như con tôm thế? Rẽ về phía bên phải, phía bên phải! 

U-kha-nốp nằm ở bên cạnh, đẩy trất mạnh vào vai bác. Lúc ấy bác ngoan ngoãn trườn người về phía bên phải, cổ họng khụt khịt, không dám ngước mắt nhìn lên trên, dùng bao tay và ủng gạt tuyết. Vừa lúc ấy bác lại nghe thấy tiếng hô chói tai, xa lạ: 

-Halt! 

Một loạt đạn tiểu liên rền lên trong óc, rít ngang tai, tóe lửa. Lập tức ánh sáng tỏa ra trên thảo nguyên phơi trần không thương tiếc mọi vật. Trong mấy giây, ánh sáng đó kéo dài ra rực rỡ, bồng bềnh dưới bầu trời và lúc ấy trong đầu Tri-bi-xốp lặp đi lặp lại một điều: “Chúng nó nhìn thấy bọn mình, chúng nó nhìn thấy bọn mình rồi!... Chúng sắp chạy lại bây giờ và bọn mình sẽ không kịp nổ súng!”. 

-Nằm im! Làu bàu cái gì thế? Bác hát Thánh ca đấy à?-Bác nghe tiếng nói của U-kha-nốp thoảng đến như qua một chiếc gối dày. 

-Bọn Đức!... thượng sĩ!... 

-Nằm im, đã bảo mà! Sao cứ nỉ non thế bố già? 

Tuyết sáng không chịu được. Tri-bi-xốp buồn rầu lặng người đi, co chân lại. Họ dán chặt người xuống phía sau chiếc xe tăng, phát pháo hiệu rơi ở phía sau xe, cách chân họ chừng một chục mét, cháy nốt trên mặt tuyết. Trái đạn pháo sáng kêu lép béo, nổ bùng ở gần chân họ như ngọn lửa pháo hoa, làm tung tóe các tia lửa vào vỏ chiếc xe tăng màu xám, vào chiếc xích xe tăng dày cộp xấu xí đã bị đông cứng lại, hắt ánh sáng màu lam nhạt lên một cái gì trông như súc gỗ bị băng phủ với một cành cây khô dính ánh lửa lân tinh nhô lên. Lúc ở chỗ bị vấp ngã Tri-bi-xốp đã nhìn thấy súc gỗ ấy: đó chính là xác tên lính xe tăng Đức. 

-Trông kìa, Tri-bi-xốp, chiếc đồng hồ của tên Đức,-U-kha-nốp hích nhẹ khuỷu tay, thì thào.-Hoài của. Này sao bác cứ run lên như cầy sấy thế hả? Lại cóng à? Bác thử sờ xem có thấy cò súng không? Nói chung, bố già ạ, cái chính là đừng có sợ hãi. Chẳng có gì tệ hơn cái chết đâu. Bố bao nhiêu tuổi? Hình như ngoài ba mươi à? 

-Tôi bốn mươi tám rồi. Tôi cóng hết cả người thượng sĩ ạ… 

-Phải, nhưng bố không phải là trẻ con. Bố khua khua ngón tay đi, cứ khua luôn. Bây giờ chỉ còn phải chịu đựng tí ti nữa thôi. Hễ chúng nó yên ắng là ta lại tiến lên. Chúng mình bò về phía bên phải rồi vọt tiến tới chỗ hai chiếc xe vận tải bọc thép ở trước khe. Chả sao, rồi sẽ trót lọt, bố già ạ!... 

Trái đạn pháo sáng đã tắt, xung quanh lại tối om như trước. Ánh đèn pin ngờ vực mà quầng sáng ở chân trời chưa lấn át được nhấp nháy ở trên gò xuyên qua bóng tối ụp xuống. Gió cuốn từ phía trên đó lại tiếng nói chuyện xì xồ đứt quãng, tiếng cười có vẻ như phấn khởi rồi ngọn đèn pin lại lóe sáng trên thảo nguyên giữa những bóng đen nổi lên lăn tăn. 

-Chúng lại đây!... Chúng đang đi lại đây!... Bắn đi, thượng sĩ, bắn đi!...-Tri-bi-xốp buột mồm, răng run cầm cập không sao kiềm chế được và như điên nắm chặt lấy khẩu tiểu liên đang lúc lắc trong tay bác. Mỗi tế bào trong người Tri-bi-xốp đều căng ra chống lại nỗi khiếp sợ có thể xảy ra lúc này, ý thức mụ mẫm đi vì nỗi khiếp sợ đó và vì lòng căm thù với những giọng nói vọng tới đây, với tiếng cười của bọn Đức tưởng như đang đi trên gò tới cách họ chừng trăm bước, bác sờ soạng và ấn có súng tiểu liên. 

Tức khắc ngọn lửa lóe lên rất gần làm chói mắt U-kha-nốp ở phía trước bật lên những tiếng la hét í ới, những loạt đạn tiểu liên bắn trả trật qua chan chát vào vỏ thép xe tăng vang lên ngay bên cạnh: “Quật chết chúng đi, thượng sĩ! Bắn chết chúng đi, thượng sĩ!...”. Còn chưa hiểu rõ việc gì đã xảy ra, U-kha-nốp đã trông thấy Tri-bi-xốp dưới ánh sáng đạn tên lửa đang rơi, bác nằm nghiêng phía trước xích xe tăng, run như dế, một tay ôm chặt lấy bả vai, tay kia kéo khẩu tiểu liên về phía mình, dường như nó bị một sức mạnh nào đó rứt ra khỏi tay bác. U-kha-nốp khẽ quát lên tức giận: 

-Bác đừng gào lên như thế! Bịt chặt mồm lại!-Rồi anh bò lại sát bên Tri-bi-xốp, nhấc tay đeo găng của bác ra khỏi bả vai.-Tại sao bác lại gào lên thế? Bị thương à? Đạn sượt vai à? 

-Tay tôi đã tê dại, tôi không thể bắn được nữa, thượng sĩ ạ… 

-Không phải là tay tê dại đâu, bác chỉ bị sầy da một tí! Bác không cảm thấy à? Để tôi xem cho nào!-U-kha-nốp thận trọng sờ soạng, xem xét mép áo choàng của Tri-bi-xốp bị trúng đạn, hơi nhớm nhớp máu, anh tức giận sỉ vả:-Sao lại bắn thế hả bố gì khỉ gió này? Tôi có ra lệnh không? Bắn để làm quái gì nào, tôi hỏi bác? 

-Thượng sĩ, anh tha thứ cho tôi!... Tôi chịu không thể nghe được tiếng xì xồ của chúng nó… tôi không chịu được, anh tha thứ cho tôi… 

U-kha-nốp nhìn Tri-bi-xốp một lúc với vẻ trách móc thương hại rồi nâng bác lên khỏi mặt đất, người bác vẫn vặn bẹo, run bần bật, nóng bừng, có lẽ bác chưa cảm thấy mình bị thương, anh để bác ngồi tựa lưng vào xích xe tăng rồi nói một cách giận dữ: 

-Chắc bác nhớ lại cảnh bị bắt làm tù binh chứ gì. Bố già cứ bị xúi quẩy luôn! Chưa chi đã xơi ngay một phát đạn!-Anh tháo băng đạn tròn khỏi đầu tiểu liên của Tri-bi-xốp rồi đep súng lên vai bác. Anh đưa bao tay cứng đơ trong băng giá lên vuốt mặt cho mát rồi nói:-Thôi, bố già bò trở về đi! Lẽ ra bố phải ngồi nấu cháo kê bên bếp nhà mình từ lâu rồi chứ không phải là mò ra đây…-Ép sát người xuống đất ấy kẻo không lại xơi thêm đạn. Quay về phía sau đi, bố già! Ở đó người ta sẽ băng bó cho. Đằng sau quay!Anh đẩy bác ta rời khỏi chỗ chiếc xe tăng và sau khi Tri-bi-xốp lúng túng bò nghiêng, lê mình qua các hố bom và xa dần chiếc xe tăng. U-kha-nốp mới phủ phục xuống tuyết đưa răng ra hớp hớp thử tuyết ẩm nhạt nhẽo, lẫn mùi thuốc súng, như thể cơn khát dày vò anh vậy. 

-U-kha-nốp, U-kha-nốp! 

Anh bứt mình khỏi mặt đất, nghe thấy tiếng gọi lo lắng ở gần phía bên phải nơi chiến hào của đội cảnh giới chiến đấu chạy qua và nhìn về phía đó: Cu-dơ-nét-xốp và Ru-bin chạy như những cái bóng vươn dài về phía trước tới chỗ anh. Cả hai ập đến như một luồng gió, nằm xuống cách U-kha-nốp, cố nén hơi thổ hổn hển và lúc đó, không chờ mọi người hỏi, anh nói nhanh bằng giọng khản đặc: 

-Tri-bi-xốp đã bị thương, không nặng lắm. Vào cánh tay. Tôi đã cho bác ấy về phía sau. Thiếu bác ấy cũng chả sao, trung úy ạ. 

-Tôi biết ngay mà!-Cu-dơ-nét-xốp cau mày.-Thôi được. Có lẽ như thế lại hóa hay.-Rồi anh bò lại gần và nói nhanh:-U-kha-nốp này, mình đã gặp các cậu ở trong đội cảnh giới chiến đấu. Mình đã nói chuyện với một tay xạ thủng súng máy có ria mép. Họ đang thu nhặt đạn trong các đường hào. Mỡ đông cứng trong các khẩu súng máy. Họ phải hun nóng cho chó chảy ra. Mình cứ tưởng chẳng còn ai cả, hóa ra họ vẫn ngồi đó. Có mấy người. Tuy không còn cán bộ chỉ huy nào còn sống. Họ bảo từ đây tới chỗ hai chiếc xe vận tải bọc thép bị diệt chừng độ một trăm năm mươi mét. Bọn mình sẽ chờ ở đây cho tới lúc bọn Đức yên ắng rồi ta sẽ lặng lẽ không nổ súng, đi tiếp. 

-Lão ấy chuồn khéo gớm, cái con thỏ đế ấy!-Ru-bin chán chường càu nhàu…-Có lẽ lão nông ấy hí hửng lắm, chắc lão ấy sẽ nói: Mình sống rồi!... 

-Không nổ súng à, trung úy?-U-kha-nốp hỏi lại, mồm vẫn nhổ phì phì cho hết cái vị thuốc súng kinh tởm. Vẻ mặt bình thản, anh vươn tay với băng đạn tiểu liên của Tri-bi-xốp nhét vào túi ở bụng.-Phải đấy. Cái bọn ở đội chôn cất này chỉ bắn dọa cho đỡ sợ thôi. Tôi tin là chúng ta sẽ vọt được tới đó, trung úy ạ. 

Từ phía các ngôi nhà ở rìa làng, phía phải vọng tới tiếng rú hồng hộc của động cơ xe tăng, như thể chúng nổ máy tại chỗ vật và tiếng rú đó xuyên thủng màn đêm, phá tan sự yên tĩnh ngắn ngủi. 

-Chắc chúng đang sưởi nóng động cơ,-Cu-dơ-nét-xốp lắng nghe và nói.-Gần lắm. Thôi được!... 

Ru-bin co ro nằm sấp, nhe hàm răng nhỏ như răng chuột, toan nói cái gì đó nhưng rồi bật ngay người dậy khi nghe khẩu lệnh đột ngột: 

-Tiến lên! Chúng ta sẽ vọt qua! 

Họ đã vọt tiến từng chặng ngắn vượt qua một trăm năm mươi mét, cái khoảng không gian hẹp trên thảo nguyên, giữa hai chiếc xe vận tải bọc thép và bờ khe. Sau đó họ nằm chờ trên tuyết, bò qua nhiều hố bom chỗ đó. Đội chôn cất của Đức sau khi thu lượm xác chết chất lên xe tải đã ngừng nổ súng và lúc này nó ở phía đằng sau, hơi chếch về bên trái họ. Tuy nhiên ở phía trước mặt trên bờ sông phía nam ở rìa làng,nơi những chiếc xe tăng rồ lên để sưởi máy chốc chốc vẫn thất vọt lên từ hai đầu làng những loạt đạn tên lửa, lo âu rọi sang thảo nguyên từng năm giây một. 

Bọn Đức ở mé bên phải phía trước hình như lo lắng trước tiếng súng trên bờ sông, chúng quan sát thảo nguyên từ hai hướng nhưng không nổ súng, sợ bắn nhầm phải quân chúng ở gần đó. Ít ra đó cũng là điều Cu-dơ-nét-xốp tưởng tượng sau khi rốt cuộc họ đã chạy vọt tiến và bò tới chỗ hai chiếc xe vận tải bọc thép, mệt nhoài, nằm xoài trên tuyết. Ru-bin thở nặng nhọc, há miệng đớp không khí còn Cu-dơ-nét-xốp cảm thấy mặt mình cứng đơ như gỗ vì bị gió tuyết quất vào, tim đập gấp gáp. Họ nằm bất động trong hai phút, tưởng như không thể nào trỗi dậy được. U-kha-nốp là người đầu tiên lấy lại được hơi thở, anh tì báng súng tiểu liên xuống đất, đứng dậy, tựa mình vào thành chiếc xe vận tải bọc thép và thì thào giọng khản đặc: 

-Hình như hố bom ở về phía tay phải cách đây năm chục mét trung úy ạ. Trước cái khe. Đất bị hất tung lên như đắp lũy vậy. Chứ còn ở đâu được nữa? Ở đây chỗ nào cũng bằng phẳng… Lại phải bò thôi, mà sáng cứ như ban ngày ấy. Hình như lũ chó má đã đánh hơi thấy chúng mình!... 

Cu-dơ-nét-xốp chuyển súng từ tay này sang tay kia, tay anh như bị kim châm, anh đứng cạnh U-kha-nốp, nhìn vào khoảng trống được soi sáng rộng rãi một cách tai hại phía trước những chiếc xe vận tải bọc thép nơi có những đống đất trắng gồ lên khiến họ cho rằng cạnh đó là hố bom. Những mái nhà đầu tiên trắng xanh ở trong làng nhô lên như những đống rơm tròn thấp, những trái đạn pháo sáng bay vút lên phía trên những mái nhà đó, nổ tung làm bầu trời sáng lóe rồi rơi lả tả xuống làn sương mù sáng lờ mờ đang cuồn cuộn bốc lên. Cu-dơ-nét-xốp cảm thấy ngực mình nhồn nhột, thắt lại vì họ đã ở gần chỗ bọn Đức không tưởng tượng được, tưởng chừng như anh đã phân biệt được trên đường làng và giữa những ngôi nhà đầu tiên tháp pháo sẫm đẹp của những chiếc xe tăng đang sưởi máy, những bóng người đen đen lờ mờ lăng xăng ở gần chúng và nghe rõ tiếng chúng gọi nhau í ới giữa tiếng súng đạn đì đùng và tiếng rú của động cơ. 

”Chả có lẽ nào! Chả có lẽ nào anh em trinh sát lại nằm trong hố bom ở gần bọn Đức đến thế! Có lẽ còn hai chiếc xe vận tải bọc thép ở đâu đó, chứ những chiếc xe này thì không phải!...”. 

Tưởng rằng họ đã lạc hướng, không tới được chỗ đã định mà mọi việc họ vừa làm một cách ngoan cường bền bỉ như vậy hóa ra uổng công, vô nghĩa., Cu-dơ-nét-xốp lại cảm thấy ngực mình nhồn nhột khôn nguôi vì tiếng rú của động cơ xe tăng cách họ hai trăm mét. Không thể quyết định được xem mình có nên ra lệnh vọt tiến lần cuối cùng về phía hố bom hay không, anh cố trấn tĩnh nói: 

-U-kha-nốp, cậu bò lên phía trước tìm hiểu xem thế nào. Chả ma nào biết đó có phải là hố bom không. Kẻo không bọn mình lại xồng xộc bò thẳng vào trước mũi bọn Đức. 

-Hình như đúng là hố bom đấy, trung úy ạ. 

-Cậu kiểm tra xem. Bọn mình đợi ở đây. 

-Tôi sẽ tìm hiểu xem, trung úy ạ. 

U-kha-nốp không nói gì thêm nhưng khi anh vừa bò khỏi mấy chiếc xe vận tải bọc thép và tấm lưng của anh bắt đầu hòa dần, lẫn vào với tuyết giữa những cơn gió tuyết thổi lồng lộng, Cu-dơ-nét-xốp đã cảnh giác cắp chặt báng súng tiểu liên vào nách, tháo bao tay, đưa ngón tay hầu như đã mất cảm giác tìm ổ cò, sờ soạng chiếc cò súng cứng đơ, tì mạnh vai vào thành chiếc xe vận tải bọc thép. 

“Nếu bọn mình nhầm.-Cu-dơ-nét-xốp thoáng nghĩ,-mình sẽ để Ru-bin và U-kha-nốp lại đây rồi bản thân mình đi tìm hố bom đó… Mình đã dẫn họ tới đây. Lúc này mình không có quyền liều lĩnh đối với tính mạng của một người nào cả!...”. 

Những đụn tuyết bị tuyết phủ trắng trông thấy rõ ở trước mặt đó có thể là bờ những chiến hào đầu tiên của đội cảnh giới chiến đấu Đức và Cu-dơ-nét-xốp căng hết mức từng cơ bắp lên, không rời mắt khỏi U-kha-nốp đang bò giữa các cơn lốc tuyết, dõi theo anh, sẵn sàng dùng tiểu liên yểm trợ nếu thấy bọn Đức từ chiến hào nổ súng trước. Trong vòng một phút, giữa hai làn đạn pháo sáng chói sáng, như bị lóa mắt anh giật thót mình tựa như cảnh tĩnh mịch khó hiểu ập xuống đầu anh vậy, sau đó dải ánh sáng mới lóe lên trên các nóc nhà trong làng, rọi sáng khoảng tuyết trắng phẳng phiu, những bụi cây trên thảo nguyên lắc lư trước gió, mô đất trắng xóa bất động ở phía trước mặt. Động cơ xe tăng đã im bặt ở trong làng. 

-Ru-bin cậu có trông thấy U-kha-nốp không? Cậu có trông thấy hay không? 

-Trung úy, sao im lặng thế nhỉ? Không thấy cậu ấy đâu cả, không thấy, cậu ấy mất hút đi đâu ấy,-Ru-bin thở dốc, ngồi xổm, ghé khuôn mặt bè bè, lạnh cóng, lo âu của mình về phía Cu-dơ-nét-xốp.-Hay là chúng nó chộp mất cậu ấy rồi? Hả? Trung úy?... 

Nhưng ngay lúc ấy từ phía trước mặt, từ phía những bụi cây xào xạc, giữa những gợn tuyết trắng, từ bóng tối om khép lại sau làn ánh sáng chan hòa màu sắc trên thảo nguyên vọng tới tiếng kêu hay tiếng gọi đứt quãng, giục giã: 

-Lại đây!... Lại đây!... 

-Ru-bin, tiến lên! Cu-dơ-nét-xốp ra lệnh và chẳng nghĩ tới mức độ nguy hiểm cũng như không kịp cảm thấy nhẹ nhõm khi nghe mấy tiếng “lại đây”, lưng ớn lạnh, Cu-dơ-nét-xốp lao mình về phía trước theo tiếng gọi của U-kha-nốp vào khoảng tối chỉ kéo dài trong năm giây. 

Ru-bin xốc tiểu liên, lao theo anh, thở hổn hển sát ngay sau vai anh.

 31.12.2010

LSB-Sun

-=[ Lương Sơn Ẩn Sĩ ]=-

ღ Đại Trưởng Lão QPB ღ

TUYẾT BỎNG

Chương 22

Nguồn: vnthuquan

Nội dung thu gọn

Hố bom lớn cách cái khe chừng một trăm mét chính là hố bom trong đó anh em trinh sát của sư đoàn buộc phải ẩn lại khi đi trinh sát về muộn và gặp lúc cuộc chiến đấu nổ ra đột ngột. Lúc ấy, vào đầu cuộc chiến đấu, hố bom đó có lẽ há miệng đen ngòm khủng khiếp lắm, sau trận ném bom nó bốc khói giữa thảo nguyên trắng xóa loáng ánh mặt trời và xe tăng địch tiến công từ dưới lòng khe, bò lên bình nguyên, đi vòng qua hố bom đó, tiếp đấy hai chiếc xe vận tải bọc thép đã đi ngang qua cách đó cừng vài mét, các khẩu pháo của đơn vị ta đã bắn thẳng vào chúng, nhanh chóng đốt cháy chúng… 

Cu-dơ-nét-xốp cùng với Ru-bin đã vọt tiến tới miệng hố bom bao quanh bởi một lớp đất bị xới tung lên phủ tuyết trắng xóa. Khi họ đứng ở trên nhìn xuống, U-kha-nốp đang loay hoay làm gì đó trong lòng hố bom lờ mờ xam xám. Cu-dơ-nét-xốp chỉ băn khoăn một điều: có anh em trinh sát nào còn nguyên vẹn không, có đúng là họ ở đây không. Tụt xuống hố bom theo thành hố dựng đứng, anh thở hổn hển, nói: 

-Còn sống chứ? 

-Đúng ở đây. Có hai người… U-kha-nốp đáp. 

Hai bóng người lờ mờ trong khoảng tranh tối tranh sáng này nằm trên đáy hố bom, quắp chặt lấy nhau như chết. U-kha-nốp ngồi xuống và gắng sức một cách vô ích toan gỡ hai thân hình tưởng như hòa vào làm một đó ra, anh giật vai và kéo cả hai người, ngạc nhiên thấy họ vẫn còn thoi thóp sống. Một người mặc áo ngụy trang, hơi thổ bốc ra từ dưới chiếc mũ trùm đầu rách nát bị sương giá bám đầy và đôi mắt phủ một lớp sương muối dày khó đoán ra liếc nhìn U-kha-nốp, cặp lông mày chổi sể khi thì nhíu lại, khi thì giãn ra như những con sâu dóm, từ cổ họng bật ra tiếng thều thào không rõ. 

-Buông tay ra, buông ra chú mình!... Người mình đây mà, người Nga đây mà! Cậu có nhận ra không?-U-kha-nốp giảng giải.-Nào nhìn vào tôi đây này, chú mình! 

-Cậu làm ơn nói cho mình biết, các cậu đằng mình mặc áo choàng còn thằng kia hình như là một tên Đức phải không?-Ru-bin băn khoăn thốt lên. Cậu trông kìa, họ hãy còn thở! Chà khỉ thật! 

-Người thứ hai là tên Đức.-U-kha-nốp báo tin.-Trung úy xem này. 

Mãi tới lúc này Cu-dơ-nét-xốp mới chật vật phân biệt được hai người đang nằm trên đáy hố bom, chân tay co quắp lấy nhau đã cứng đờ. Đó là người chiến sĩ trinh sát của ta và một tên Đức khá đẫy đà, chắc nịch, đội mũ lông, mặc áo khoác tất cả đều bị bột tuyết phủ trắng xóa. Hai tay tên Đức đi găng da bị bẻ quặt ra sau lưng, khuôn mặt trắng như ngà bị cổ áo lông che lấp mất một nửa, mồm hắn không bị nhét giẻ và khi thấy có người ở cạnh mình hắn chỉ khụt khịt, không nhúch nhích, quai hàm bạnh ra như hàm chó má vùi trong tuyết. Vì lỗ mũi rộng của y phập phồng nên hàng ria dài ẩm ướt vểnh lên như mũi kim. 

-Ê này chú mình, buông tay ra!... Người mình đây mà, hiểu chưa? Bọn mình đến tìm các cậu… 

Rốt cuộc U-kha-nốp cũng đã dùng sức gỡ được tên Đức ra khỏi vòng tay bám chặt của anh trinh sát khiến anh này rên lên. Có lẽ anh trinh sát đã nằm úp thìa suốt bao nhiêu tiếng đồng hồ, ôm lấy lưng tên tù binh để cố giữ chút hơi ấm cuối cùng trong người mình cũng như trong người hắn. U-kha-nốp kéo dịch anh trinh sát ra một tí rồi nói với Cu-dơ-nét-xốp: 

-Thằng giặc sống dai gớm! So với anh chàng của mình hắn cứ như lãnh chúa ấy. Quái quỉ thật, sao cậu ấy lại không lột lấy áo khoác của con chó này nhỉ? Áo khoác lông, trung úy nhìn mà xem! Hay là cậu ấy chăm bẵm cái của quý này! Ta cởi trói cho hắn nhé? Bây giờ hắn chẳng chạy đi đâu được… 

-Thế người thứ ba đâu? Tôi không trông thấy người thứ ba,-Cu-dơ-nét-xốp vội vã nói.-Cái cậu đến chỗ chúng mình đã nói là ở đây có hai anh trinh sát cơ mà. Lên phía trên mau, Ru-bin. Có lẽ người thứ ba đã bò lên đây chăng. Anh hãy xem, xét xung quanh miệng hố bom nhé. 

Cu-dơ-nét-xốp nhìn anh trinh sát im lặng, nằm ngửa, chiếc mũ trùm đầu trễ xuống tận đôi mắt nhắm nghiền, bị băng giá phủ lên trông như một chiếc mặt nạ trắng, áo choàng ngụy trang chụm lại trên ngực, trên bụng, rách tơi tả, không đeo dây lưng, tuyết lọt qua những lỗ thủng trên áo choàng đóng băng trên áo bông. Đôi chân cứng đơ như súc gỗ trong chiếc quần bông, đôi ủng dính đầy tuyết trộn lẫn với đất choãi ra. Một chân trông khác thường, đầu gối quấn mấy vòng bằng cái gì đó và từ đầu gối có một vật xoăn nhỏ giống như chiếc dây lưng đông cứng, thõng xuống tuyết. Quả thực đó là một chiếc dây lưng thắt chặt phía dưới đầu gối để giữ lấy một chỗ băng bó vụng về và vội vã trên chiếc quần bông. Có lẽ anh ta không tháo ủng và không cắt quần ra mà chỉ dùng dây lưng siết chặt để cầm máu. 

Hình như lúc tảng sáng họ đã có mặt ở trong làng, vấp ngay phải bọn Đức và vừa bò về tới đây thì máy bay địch bắt đầu ném bom. Nhưng vũ khí của họ đâu? Họ có mấy người tất cả? Và người thứ hai đâu? 

Không thấy vũ khí của anh trinh sát trong hố bom này. Chỉ thấy trên thành hố bom một bao súng lạ, nặng trình trịch cùng với dây lưng, chắc là tháo ở người tên Đức ra, bao súng này đã bị tuyết vùi lấp một nửa, nhô đầu lên khỏi một đống tuyết nhỏ. Cu-dơ-nét-xốp rút áo ra khỏi tuyết. Bao súng rỗng không. Anh quăng nó đi. Rồi anh cúi xuống người anh trinh sát định khẽ gạt diềm chiếc mũ trùm khỏi mặt anh ta nhưng không được. Tất cả đã đông cứng lại ở trên khuôn mặt như bị phủ một lớp sắt tây, chạm đến thấy lạo xạo, anh bèn rụt tay lại. 

-Này nghe đây, chú mình,-Cu-dơ-nét-xốp bắt đầu nói, không hy vọng anh trinh sát nghe rõ anh.-Người mình đây mà, người Nga mình đây… Các anh có hai người ở chỗ này. Người thứ hai đâu? Người thứ hai đi đâu? 

Nhưng qua tiếng ọ ẹ khàn khàn kéo dài thốt ra từ dưới chiếc mũ áo choàng, anh không tài nào đoán ra được lời nào có ý nghĩa: 

-Đư-ứ… đư-ứ… 

“Tên Đức?-Cu-dơ-nét-xốp thoáng đoán ra. Cậu ấy muốn nói về tên Đức chăng? Hay cậu ấy tưởng mình là tên Đức?”. 

-Thôi, ta mang họ đi chứ, trung úy? U-kha-nốp nói.-Phải cõng cả cái thằng bụng phệ này đi à? Trung úy trông thằng Đức nó đang làm gì kia: hắn trở mình hay làm cái trò khỉ gì thế? Thụi cho hắn một quả cho hắn yên đi chăng? 

Thoạt đầu, Cu-dơ-nét-xốp không hiểu tên Đức làm sao. Được U-kha-nốp cởi trói, hắn lăn lộn như một súc gỗ trắng trên đáy hố bom, hai tay và đôi giầy lót lông đạp điên cuồng trên tuyết, đầu lắc lư như lên cơn kinh giật, cong người lại, đập ngực xuống đất, thốt ra những tiếng rú nức nở như tiếng thú rừng; hàm răng xanh xanh nhe ra như cười không thành tiếng, mắt trố như lên cơn thần kinh. Không rõ hắn phát điên vì lạnh hay hắn lăn lộn thế cho ấm người, có lẽ hắn cảm thấy một niềm vui thú vật vào đấy vì không còn phải nằm chờ chết một cách khiếp sợ dưới hố bom này, trong vòng vây chật cứng của người trinh sát Nga. 

-Ver fluchter Russe! Ver fluchter Russe!... (Thằng Nga chết tiệt! Thằng Nga chết tiệt!)-Tên Đức khụt khịt, làu bàu những tiếng xa lạ khó hiểu, miệng sùi bọt mép, lăn lộn hết bên này đến bên kia. 

-Russe, ver fluchter! 

-Hình như thằng Đức này nói tới một cấp bậc gì đó,-U-kha-nốp thốt lên, cúi xuống tò mò nhìn tên Đức.-Hắn chửi à, trung úy? Hay hắn lên cơn thần kinh? 

-Hình như thế-Cu-dơ-nét-xốp đáp. 

Sau đó tên Đức mềm người ra, nằm nghiêng, còn hai tay đi găng lót lông bắt đầu ngọ nguậy ở phía dưới bụng, gạt tà áo khoác ra; lưng hắn duỗi ra rồi bất ngờ ngả đầu, đưa mắt lấc láo, nửa tru tréo, nửa như khóc lóc, đôi giầy lót lông đạp lung tung trên mặt tuyết. 

-Này thằng Đức kia, thổi vào ống quần ấy, sẽ thấy ấm người hơn,-khi hiểu ra cử động của tên Đức,-U-kha-nốp chế giễu.-Ở đây không có ai cởi quần cho mày đâu. Hãy chịu đựng, đồ phát xít chán ốm. Không có cần vụ với bô đâu. 

-Ver fluchter Russe! Ver fluchter Russe!... Ich sterbe… (Thằng Nga chết tiệt! Thằng Nga chết tiệt!... Tôi chết mất…) 

-Steh auf (Đứng dậy)-Thốt nhiên Cu-dơ-nét-xốp ra lệnh, anh chật vật mãi mới nhớ được mấy tiếng Đức quen thuộc học được ở trườn rồi bước lại gần tên Đức đã nằm yên trên đáy hố bom.-Steh auf!-anh ra lệnh lần nữa.-Đứng dậy! 

Cặp mắt tên Đức trơ trơ trên khuôn mặt xương xẩu từ phía dưới ngước lên nhìn anh, nhìn chằm chặp vào khẩu tiểu liên của Cu-dơ-nét-xốp, hắn móp hàm lại vì lạnh và trả lời băằn một âm thanh tắc nghẹn trong họng. Cu-dơ-nét-xốp lấy tiểu liên hích vào vai hắn, xẵng giọng nhắc lại: 

-Steh auf! Schnell! Schnell! (Đứng dậy! Nhanh lên! Nhanh lên!) Tao đã bảo!

Tên Đức vội vã ngồi dậy, toan đứng lên ngay nhưng chân không vững nên hắn ngã nghiêng người trên thành hố bom như bị người đẩy vậy; rồi hắn lại khụt khịt chống hai tay, nhổm người trên cả hai tay hai chân, choãi chân ra, từ từ đứng dậy. Khi vươn thẳng người, hắn đứng không vững, lảo đảo; hắn cao hơn Cu-dơ-nét-xốp một cái đầu, vóc người chắc nịch, rất cao lớn, chiếc áo choàng lót bông ấm áp của hắn căng ra. Cu-dơ-nét-xốp đã trông thấy rất gần cái nhìn xa lạ đó của tên Đức-cái nhìn vừa cảnh giác chờ đợi bị đánh đồng thời vừa cố tỏ ra ngạo mạn. 

-Cậu sẽ áp giải hắn, U-kha-nốp. Thằng súc sinh này có lẽ thuộc cỡ bự đây!-Cu-dơ-nét-xốp hỏi, anh có cảm giác bứt dứt khi thấy tận mắt một tên Hít-le bằng xương bằng thịt đứng ngay trước mặt anh mà chỉ nghĩ đến nó thôi anh đã thấy căm thù. Phải rồi anh đã hình dung tất cả bọn chúng đúng như thế này, vì thế giờ đây anh tin chắc rằng trong lòng tên tù binh này không còn lại một cái gì tự nhiên, nhân đạo vốn tiểu biểu cho tất cả những con người bình thường. 

Giữa họ là cả một vực thẳm đau khổ, máu me, là những quan niệm về nhau dựa trên lòng căm thù, là cuộc đời xa lánh và không hiểu biết lẫn nhau, là những quan điểm thù địch không thể điều hòa được. Giữa họ là cuộc chiến tranh và vũ khí sẵn sàng nhả đạn. 

-Và cậu chịu trách nhiệm về hắn!-Cu-dơ-nét-xốp tức giận gằn giọng. 

-Tôi sẽ dẫn hắn về tận nơi, trung úy. Hắn sẽ bước đi ngoan ngoãn,-U-kha-nốp hứa và anh bước lại gần, hơi thô bạo và sỗ sàng vỗ vào các túi áo của tên Đức, rút ra chiếc bật lửa cùng với một bao thuốc lá bẹp nát, cởi khuy áo khoác của hắn, rút chiếc ví ra khỏi những tấm huân chương xủng xoẻng trên bộ quân phục; sau đó anh vén tay áo khoác bị băng giá làm đông cứng của hắn, thốt lên nửa như hỏi: 

-Cậu xem cái cung cách anh em trinh sát chăm bẵm nó này! Họ để lại tất cả mọi thứ trên mình hắn… Tước đồng hồ của hắn chứ, trung úy? 

-Kệ thây nó đấy! Cả chiếc bật lửa cũng như gói thuốc lá! Có thế thôi chứ gì?-Cu-dơ-nét-xốp ghê tởm, nói nhanh.-Động đến các thứ của lũ súc sinh phát xít đầy chấy rận ấy làm gì?... 

-Không thấy nó đầy chấy rận.-U-kha-nốp nhếch mép cười, hạ ống tay áo của tên Đức xuống, mở chiếc ví ra.-Trung úy nhìn xem những tấm ảnh này. Cậu có thấy là trẻ con đặc biệt là con gái trong ảnh của chúng trông như thiên thần hay không? Và bao giờ chuún cũng đi tất trắng. 

-Mình không để ý. Trả lại tất cả cho nó,-Cu-dơ-nét-xốp ra lệnh, không tỏ ra một chút tò mò nào đối với các tấm ảnh đó, tựa như trong chiếc ví riêng của tên Đức không thể có cái gì bình thường của con người. 

-Trung úy hãy nói cho tôi biết: hắn là cái thá gì mà lúc nào chúng mình cũng phải giữ kẽ thế nhỉ? 

Còn tên Đức hình như đã hiểu chút ít. Nghe tiếng “trung úy” lặp đi lặp lại, vẻ ngạo mạn gượng gạo lập tức biến mất trong mắt hắn, thay vào đó là vẻ cầu xin rụt rè, hắn hơi nghiêng người về phía Cu-dơ-nét-xốp, anh chàng thanh niên Nga đang cau có, tức giận ra lệnh đó, rồi nói giọng khàn khàn: 

-Die Zigaretten… meine Zigaretten… Herr Zeutnant… Rauchen. Ich mochte rauchen. Herr Zeutnant! Rauchen! (Thuốc lá… thuốc lá của tôi… Ngài trung úy! Hút thuốc!… Tôi thèm hút thuốc quá. Ngài trung úy! Hút thuốc!) 

Hắn lại đứng không vững, ngồi bệt trên tuyết, ngước mắt nhìn Cu-dơ-nét-xốp và cổ giật giật như thể hắn bị đau họng khi nuốt nhưng hắn vẫn cứ chật vật nuốt nước bọt. 

-Đưa cho nó. Nó muốn hút thuốc đấy, cậu thấy không?-Cu-dơ-nét-xốp khinh bỉ nói. 

Anh cau mày bước lại gần chiến sĩ trinh sát. Anh này vẫn nằm ngửa, không động đậy, hai chân choãi ra, làn hơi nước nhè nhẹ phả trên khuôn mặt bị chiếc mũ trùm đầu che khuất. Lúc này phải đưa anh đi khỏi đây nhưng chẳng biết làm thế nào để không đụng đến cái cẳng chân bị thương siết chặt dây ga-rô của anh. 

“Người chiến sĩ trinh sát thứ hai có thể ở chỗ nào nhỉ? Anh chàng báo tin có thể nhầm chăng? Ru-bin đâu?”. 

Khắp miệng hố bom ở bên trên đều mờ mịt, giữa những làn gió tuyết lồng lộng thổi, đạn pháo sáng từ trên trời chiếu sáng cách quãng đều đặn nhưng không rọi xuống tới lòng hố bom. Tuyết vụn bay lả tả, lép bép trên triền dốc hố bom, còn ở phía trên, cơn gió thấp là là trên thảo nguyên vẫn hú trên miệng hố bom giữa bóng đêm đen và cách đó chừng hai trăm bước chân là bọn Đức, là xe tăng của chúng với những vị trí quan sát ở rìa làng, không thấy Ru-bin đâu. 

“Phải đi thôi! Không thể đợi được… Gọi Ru-bin quay lại và trở về! Không thể liều hơn được!”-Cu-dơ-nét-xốp nghĩ và anh chợt cảm thấy lo ngại, buồn bực vì đã bắt mình và anh em đồng đội phải chịu hiểm nguy lâu quá. Anh định bảo U-kha-nốp là phải lập tức chuyển người trinh sát đi ngay nhưng không hiểu sao chưa nói ngay. 

Một tràng súng máy như xối thẳng vào tai buộc anh theo bản năng, theo triền dốc hố bom lao lên phía trên. Anh chỉ kịp khoát tay ra lệnh cho U-kha-nốp hãy cứ chờ ở đó. Và khi đã leo lên phía trên, giữa khói tuyết mịt mờ đang cuồn cuộn trên miệng hố bom, anh nảy ngay ra ý nghĩ: khéo Ru-bin đã vấp phải bọn Đức. 

Khẩu đại liên ở rìa làng nổ đùng đùng dồn dập và dày đặc; các đường dạn hòa vào nhau bay ở bên trái hố bom, phía trên những chiếc xe vận tải bọc thép bị cháy. Khắp vùng xung quanh lấp lánh, sáng lên dưới loạt đạn tên lửa nhưng không trông thấy ai ở phía bên trái hố bom, nơi bọn Đức nã súng tới. 

-Ru-bin!-Cu-dơ-nét-xốp nhỏm người trên khuỷu tay, gọi:-Ru-bin, lại đây với mình!

 31.12.2010

LSB-Sun

-=[ Lương Sơn Ẩn Sĩ ]=-

ღ Đại Trưởng Lão QPB ღ

TUYẾT BỎNG

Chương 22 -2

Nguồn: vnthuquan

Nội dung thu gọn

Đúng lúc ấy những bóng người không rõ xuất hiện sau những đụn tuyết, chếch về bên trái hai chiếc xe vận tải bọc thép chừng năm mươi mét, những cái bóng đó chạy mấy bước về phía hố bom, bổ nhoài xuống, vùi mình trong tuyết giữa gió tuyết mịt mù và những loạt đại liên cỡ lớn lóe lên như chớp về phía họ vừa mới chạy qua. 

“Đrô-dơ-đốp-xki!-Cu-dơ-nét-xốp đoán ra-nhưng sao ông ấy lại vòng về phía bên kia những chiếc xe vận tải bọc thép? Chả lẽ ông ấy không rõ địa điểm à?”. 

-Đi sang bên phải, sang bên phải! Bò lại đây!-Cu-dơ-nét-xốp thét to, nhổm cao người trên cùi tay để nhìn rõ họ. Họ bò về phía hố bom còn những loạt đạn súng máy trộn vào nhau, bay là là trên thảo nguyên đuổi theo họ trong một khu vực hẹp giữa những chiếc xe vận tải bọc thép và hố bom, không cho họ ngóc đầu lên. Cách miệng hố bom chừng mươi mét, người đi đầu lên tiếng đáp lại: 

-Trung úy! Bọn tôi đây... 

Và Cu-dơ-nét-xốp nhận ra ngay Ru-bin ở bụi cây phía trước mặt, đôi vai chắc nịch của anh bám đầy tuyết, tiếp đó anh nhận ra Đrô-dơ-đốp-xki ở phía bên trái đang bò khéo léo như một con thằn lằn nhanh nhẹn về phía hố bom cùng với hai chiến sĩ thông tin trong trung đội chỉ huy, còn bên cạnh họ là một khuôn mặt vừa lạ lẫm vừa quen thuộc không thể tưởng tượng được trắng lóa lạ lùng dưới lần mũ lông trắng, bởi vì nó không thể có mặt ở đây được-đó là khuôn mặt của Dôi-a, về ngoài trông sôi nổi hẳn lên vì vừa trải qua gian nguy, chau mày lại vì bị kích động. Dường như nét mặt của cô lúc này muốn nói rằng cô không hề lo lắng, cô có thể bị thương hoặc bị giết ở đây và trái lại trong tất cả những chuyện này chẳng có gì nguy hiểm cả. 

“Họ đưa cô ấy đi để làm gì nhỉ. Lúc này cô ấy giúp đỡ được ai? Cô ấy đến đây để làm gì?-Cu-dơ-nét-xốp nghĩ, đúng hơn, anh không ngạc nhiên mà bực bội vì thấy cô đã tới đây ngoài chức trách của mình và khi thấy Dôi-a vẫn với nét mặt đó đưa mắt nhìn các làn đạn ở trên đầu, anh bèn ra lệnh, giục giã mọi người, huơ khẩu tiểu liên: 

-Nhanh lên, nhanh lên! Nhảy xuống hố bom! 

-Đồng chí trung úy-Ru-bin kêu lên, giọng nghẹn lại khi bò tới gần anh.-Tôi đã đi tìm… tìm khắp xung quanh, trườn bụng bò đi khắp cả. Chẳng thấy cậu trinh sát thứ hai đâu cả… Tôi đã bò trên từng thước đất! Ấy thế rồi thấy anh em mình tới. Họ đi chếch về phía bên trái chứ không tới đây. Tôi lao về phía họ, thế là bọn Đức nhận ra và bắt đầu bắn tứ tung! 

-Thế cậu tưởng có thể chạy được ở đây như chạy về nhà ấy à, Ru-bin?-Cu-dơ-nét-xốp ngắt lời anh, khó chịu dằn mạnh mấy tiếng “có thể chạy được ở đây”-Các cậu đã cho tấu nhạc lên đấy! Xuống dưới hố bom! Tất cả xuống đi! 

Những thân hình dính đầy tuyết, thở phì phò đứt quãng vội vã nhích người bò trên miệng hố bom, sau đó tất cả cùng lăn mình, trượt nhanh xuống. Đrô-dơ-đốp-xki cố nén xúc động, lên tiếng: 

-Ổn cả chứ, Cu-dơ-nét-xốp? Anh em trinh sát ở đây à? 

Trả lời cũng bằng thừa và Cu-dơ-nét-xốp không tụt xuống lòng hố bom, anh tức giận vì họ đã làm cho bọn Đức nổ súng, nhìn về phía những làn đạn từ phía bờ sông vút lên, lóe sáng phía bên trái những chiếc xe vận tải bọc thép, là nơi họ phải băng ngang qua để trở về khẩu pháo của mình. Anh nhẩm tính ước lượng khu vực đang bị địch bắn và vừa lúc ấy anh cảm thấy có người còn dùng dằng trên miệng hố bom, bò lại phía anh-một hơi thở rất gần và tiếng thì thào ngay sát bên tai: 

-Cu-dơ-nét-sích, anh thân mến!... Anh vẫn sống chứ? May quá, lại gặp anh… Chào anh, nào nhìn tôi đi, Cu-dơ-nét-sích! 

-Thế là chúng mình đã gặp nhau.-anh quay người đi, trả lời hầu như ác cảm.-Có chuyện gì thế? 

Dôi-a ngồi ở bên cạnh, thõng chân xuống hố bom. Chiếc mũ lông của cô lệch xuống một bên tái, tóc và hàng lông máy lá liễu trắng những tuyết, sương giá cưng cứng bám trên đầu lông mi của cô khiến đôi mắt đen sẫm của cô có cái vẻ xúc động thiếu tự nhiên, như có ý hỏi han điều gì vậy. Có một cái gì trẻ con trong đôi môi đang mỉm cười đó, trong chiếc mũ đội lệch đó. 

-Chào anh, Cu-dơ-nét-xốp!-Cô vẫn âu yếm nhắc lại, sung sướng mãn nguyện đọc chệch tên anh theo kiểu đùa giỡn thoải mái của trẻ con vậy và cô nhìn khuôn mặt cố ý cau có, dường như lầm lì của anh. Thật tôi không ngờ thấy anh còn sống ở đây!... Bởi vì bác Tri-bi-xốp bị thương đã nói rằng các anh vấp phải bọn Đức, chính tôi cũng đã nghe tiếng súng bắn… Thé là tôi đi. U-kha-nốp không bị thương chứ? Anh có nghe tôi nói không Cu-dơ-nét-sích? 

-Tôi còn bé bỏng gì nữa mà Cu-dơ-nét-sích! U-kha-nốp vẫn khỏe mạnh và lành lặn! Tôi cũng khỏe mạnh và lành lặn, không trông rõ hay sao? Tri-bi-xốp nói láo! Cô chẳng có việc gì làm ở đây cả!-Và anh hỏi một cách thô lỗ quá quắt: Hình như cô đến đây để chuyển bọn tôi bị thương đi phải không? Ngớ ngẩn thật! Ai yêu cầu cô bò suốt hơn một trăm mét tới đây? 

-Đừng quát tháo tôi như thế, Cu-dơ-nét-sích.-Nụ cười khiến đôi môi sưng mọng của cô rung lên.-Dẫu sao tôi cũng là cứu thương chứ không phải người vợ không được yêu thương của anh. Không, Cu-dơ-nét-sích, đúng là anh không muốn quát tháo tôi phải không? Thế tại sao anh lại gào lên thế? Anh bắt đầu chỉ huy tôi rồi đấy, Cu-dơ-nét-sích ạ. Tôi ở dưới quyền anh chắc? 

-Xuống dưới đi!-Anh ra lệnh-Dưới ấy có một cậu trinh sát bị thương. Nhưng băng bó lại cho cậu ấy bây giờ cũng vô ích. Trước hết phải chyển cậu ấy đi! Cô xuống dưới ấy đi, lát nữa ta sẽ lên đường!-Vẻ phớt lạnh, anh chờ cho đến khi Dôi-a tụt xuống lòng hố bom rồi mới gọi:-Ru-bin, lại đây! 

-Ta sẽ đi ngay chứ, đồng chí trung úy?-Ru-bin nhích người về phía anh, hỏi, ho làm hơi nước phả ra mù mịt.-Không đợi một chút à? Chúng nó bắn khiếp quá… 

-Đúng là ta phải đợi cho ngớt. Vì thế anh hãy quan sát ở đây! 

Sau khi ra lệnh, Cu-dơ-nét-xốp bò khỏi miệng hố bom, đứng trên thành hố rồi quàng tiểu liên lên ngực, đi xuống phía dưới. 

Hình như mọi người đều chờ anh ở đó. Hai chiến sĩ thông tin đội mũ lông bịt tai buộc dây xuống tận cằm ngả người trên tuyết, lấy lại hơi thở sau khi đã vượt qua gian nguy, chốc chốc lại băn khoăn liếc nhìn anh trinh sát bị thương, tên tù binh Đức ngồi gần U-kha-nốp, đầu đội mũ lông cao gục xuống chân, tay đi găng lùa vào tà áo khoác lót bông. Dôi-a quỳ xuống, lưng quay về phía họ, chạm vào đôi chân to xụ xấu xí choãi ra của anh trinh sát nhưng túi cứu thương đeo bên hông vẫn cài chặt, có lẽ cô không định băng bó lại ở đây. Cô chỉ nói khẽ gì đó với anh trinh sát. Mọi người im lặng lắng nghe tiếng súng máy tằng tặc không dứt ở gần đó. 

Đrô-dơ-đốp-xki sửa lại quai da đeo chéo với bao súng ngắn bị hất ra đằng sau vì bò lâu trong tuyết, anh đứng giữa anh trinh sát bị thương và tên Đức, do dự hết nhìn anh này đến tên kia. Dưới ánh sáng lờ mờ thiếu sinh khí, khuôn mặt hốc hác nhợt nhạt, xúc động của anh lộ vẻ sốt ruột. 

Thấy Cu-dơ-nét-xốp tụt xuống lòng hố bom, anh bước lại gần, hỏi với giọng có phần nghiêm khắc: 

-Còn cậu trinh sát nữa đâu? Theo như tôi biết thì phải có hai cậu trinh sát cùng với tên Đức cơ mà! Cậu thứ hai đâu? 

-Ai mà biết được cậu ấy ở đâu! Chúng tôi đã tìm xung quanh hố bom nhưng không thấy,-Cu-dơ-nét-xốp đáp, dường như anh không hướng về Đrô-dơ-đốp-xki mà hướng về U-kha-nốp đang ngồi gần tên Đức, ra sức dùng tay áo bông cọ sương giá khỏi cò súng tiểu liên.-Tôi chắc cậu ta không đi tới chỗ bọn Đức! Có lẽ cậu ấy đã bò vè phía chúng ta nhưng không đủ sức. Hoặc là cậu ấy đã mắc kẹt ở ngang đường. Hoặc là cậu ấy đã bò tới chiến hào của đội cảnh giới chiến đấu. Có thể là một trong hai khả năng đó. 

-Phải đi tìm! Nhất định phải tìm-Đrô-dơ-đốp-xki thở hổn hền thốt lên.-Phải tìm cậu ta, Cu-dơ-nét-xốp! Tôi đã liên lạc bằng vô tuyến điện với sở chỉ huy sư đoàn và báo cáo rằng chúng ta đi tới đây tìm anh trinh sát. Trên đã ra lệnh cho tôi như sau: hễ đưa được họ về tới chỗ ta, phải lập tức chuyển cả hai tới sở chỉ huy ngay. Cùng với “cái lưỡi” nữa. Chuyển tới chủ nhiệm trinh sát! Phải đi tìm Cu-dơ-nét-xốp ạ… dù thế nào cũng phải tìm! Chừng nào chưa tìm được cậu trinh sát thứ hai đó chúng ta không có quyền rời khỏi đây! 

-Không phải tìm cậu ta ở đây mà cần đưa mọi người ra khỏi đây! Trước khi trời sáng! Chừng nào chúng ta chưa để tất cả mọi người rơi vào cái bẫy chuột!-Cu-dơ-nét-xốp ngắt lời Đrô-dơ-đốp-xki.-Chả lẽ anh không biết rằng hố bom này chỉ cách chỗ bọn Đức có hai trăm mét à? Không cần ống nhòm chúng cũng có thể từ trong làng nhìn rõ mọi vật ở đây. Hễ ngớt tiếng súng là mọi người phải quay ngay về phía sau, về chỗ hai chiếc xe vận tải bọc thép rồi vọt tiến lại chỗ những chiếc xe tăng bị cháy để trở lại trận địa pháo! Phải tìm ở đây trước chứ không phải là chạy nhắng lên trên thảo nguyên! Ngay hai chiếc xe vận tải bọc thép các anh cũng chả tìm thấy nữa là! 

-Đồng ý với trung úy,-U-kha-nốp bình thản nói, anh vẫn lấy tay áo lau cò súng tiểu liên. 

Cu-dơ-nét-xốp ám chỉ sai lầm của Đrô-dơ-đốp-xki ở chỗ anh ta đã cùng với hai chiến sĩ thông tin bò đến đây chậm trễ, bị chệch hướng khỏi hai chiếc xe vận tải bọc thép và do đó đã làm cho bọn Đức nổ súng không đúng lúc chút nào, gây ra cảnh náo loạn không cần thiết trong khi cần phải chuyển người chiến sĩ trinh sát khỏi đây. 

Đrô-dơ-đốp-xki đứng im lặng một lát, cắn môi rôi thốt lên với giọng tin chắc, rất cương quyết: 

-Chừng nào tôi còn sống tôi chịu trách nhiệm về đơn vị. Tôi chịu trách nhiệm về tất cảm, Cu-dơ-nét-xốp. Kể cả tính mạng của cậu… 

-À ra thế kia đấy! Chỉ có điều là anh không chịu trách nhiệm về tôi đâu, đại đội trưởng! Bằng cách này hay cách khác tôi sẽ chịu trách nhiệm về mình và anh em do mình phụ trách, nếu như gặp may!...-Cu-dơ-nét-xốp đáp thẳng thừng ròi im bặt. Anh không muốn tiếp tục cuộc trò chuyện trước mặt Dôi-a và các chiến sĩ thông tin, không muốn biểu lộ sự khó chịu công khai của mình đối với Đrô-dơ-đốp-xki trước mặt mọi người.-Ta ngừng ở đây thôi, đại đội trưởng!-Anh nói.-Anh bảo đi tìm à? 

Khẩu đại liên ở rìa làng vẫn bắn dồn dập, đạn đan chéo trên thảo nguyên hoang vắng ở bên trái hố bom, chỉ lạ một điều là làn đạn dày đặc đó không chệch sang bên mà như sững lại tại chỗ, dường như những loạt đạn đó không rời khỏi khu vực đã định mà đang mò mẫm nhắm vào mục tiêu chúng đã tìm thấy. 

-Nghĩa là đại đội trưởng muốn mọi người đi tìm kiếm ở đây chứ gì?-Cu-dơ-nét-xốp nhắc lại và đưa mắt nhìn mọi người trong hố bom. 

Các chiến sĩ thông tin lo lắng quay đầu về phía anh và tên tù binh Đức ngẩng khuôn mặt xương xẩu, có những vết tái nhợt vì băng giá, cảnh giác, liếc mắt nhìn lên chăm chú lắng nghe âm thanh những lời nói của anh. Dôi-a bất chợt nhổm dậy, đôi mắt đen thẫm dưới chiếc mũ lông trắng xóa vì tuyết, lông mày cong lại như có ý thầm hỏi một cách bất lực. 

“Sao cô ấy lại nhìn mình chằm chằm thế nhỉ?”-Cu-dơ-nét-xốp nghĩ, hàm răng nghiến chặt. 

-Thôi, ta quyết định thế này nhé!-Cu-dơ-nét-xốp thốt lên với một vẻ bình tĩnh trái tự nhiên, khó hiểu đối với chính mình.-Tôi sẽ ở lại đây cùng với Ru-bin. Chúng tôi sẽ xem xét chỗ này một lần nữa. Còn tất cả các anh, hễ ngớt tiếng súng là phải rời khỏi chỗ này ngay! U-kha-nốp, anh dẫn đường cho họ! Kẻo không họ lại lạc đường lẫn nữa! 

“Như điên rồ thế nào ấy nhỉ,-anh nghĩ, đầu óc anh tỉnh táo, hiểu rõ tính chất không triệt để trong các quyết định của mình và một ý nghĩ nữa ập tới:-mình sẽ gặp chuyện gì đây? Mình không còn làm chủ mình nữa rồi. Mình biết rằng đi tìm cậu trinh sát là vô nghĩa nhưng mình lại đồng ý, thậm chí chính mình muốn làm việc đó…”. 

-Đúng, phải đi tìm. Cu-dơ-nét-xốp, cậu hãy ra lệnh cho Ru-bin xem xét vùng này một lần nữa. Còn chúng ta đợi!

Đrô-dơ-đốp-xki giật như điên chiếc dây lưng trên eo lưng hẹp như lưng cô gái của mình, nánh ra một phía tránh xa mọi người, đứng hồi lâu trên triền dốc hố bom vươn thẳng người, trơ trơ đáng sợ, dường như cho rằng mình không lầm lẫn trong các mệnh lệnh, trong sự bướng bỉnh không lay chuyển được của mình. Anh nói: 

-Người chiến sĩ trinh sát thứ hai không thể đi cách đây xa được. Chúng ta không có quyền báo cáo về sư đoàn rằng chúng ta bỏ anh ấy ở lại đây, chúng ta không có quyền rời khỏi đây thiếu anh ấy! Anh hãy lấy thêm cả các cậu thông tin nữa, Cu-dơ-nét-xốp! 

-Vô ích,-Cu-dơ-nét-xốp đáp.-Hai chúng tôi là đủ! Đưa bốn người ra chọc tức mắt bọn Đức làm quái gì? 

-Đại đội trưởng… 

Dôi-a thận trọng bước ngang sát người Cu-dơ-nét-xốp gần đến nỗi tà áo choàng ngắn của cô chạm vào áo choàng của anh, đứng trước mặt Đrô-dơ-đốp-xki, nói bằng giọng cầu khẩn nhỏ nhẹ, có ý dàn hòa: 

-Ít ra cũng phải đưa ngay anh trinh sát này đi, anh ấy nguy ngập lắm. Anh ấy đã bị cóng, mất máu nhiều. Tôi không rõ liệu chúng ta có tìm được anh trinh sát thứ hai còn sống không nhưng phải đưa anh này… 

-Đứng dậy, thằng Đức này!-U-kha-nốp ra lệnh và đưa tay hất mạnh thằng Đức khỏi mặt đất, còn anh đứng như một con gấu hất khẩu tiểu liên lên vai.-Giậm chân đi, nhảy múa đi, quân súc sinh, nhúc nhắc chân tay một tí kẻo không lại ngoẻo sớm! Nào, vận động đi, hăng lên! 

Anh dẫn tên Đức đi trên lòng hố bom, đẩy nó từ phía bên này sang phía bên kia rồi bất chợt buông nó ra. Vóc người chắc nịch, anh lê đôi ủng vòng kiềng tới chỗ Đrô-dơ-đốp-xki, khẽ gạt Dôi-a ra. Đồng thời anh nở một nụ cười đôn hậu, để lộ hàm răng cửa bịt bạc. 

-Đại đội trưởng này, anh có biết rõ tất cả sự thật về anh không? Anh không bao giờ suy nghĩ về việc đó à? À này Dôi-a, xin cô đứng nánh ra một tí kẻo không tôi ngượng… 

-U-kha-nốp… U-kha-nốp!-Dôi-a không đứng dịch ra và chẳng hiểu sao cô sợ hãi hơi ưỡn ngực, dùng vóc dáng mảnh dẻ, căng phồng của mình chắn Đrô-dơ-đốp-xki, che chở cho anh trước cặp mắt của U-kha-nốp.-Anh muốn gì? Để làm gì thế? 

-Dỉcha, Dôi-a. Tôi làm gì được anh ấy nào? Để làm gì đấy à? Tôi cũng chả biết. Tôi là thượng sĩ, anh ấy là trung úy. Còn điều lệnh thì chúng tôi cùng với đại đội trưởng đã học thuộc lòng ở trường pháo binh cơ. Vậy thì thế này nhé… 

U-kha-nốp đẩy cô rất nhẹ sang một bên rồi nghiêng ngay người vào vai thẳng như vai vận động viên của Đrô-dơ-đốp-xki, rỉ tai anh ta mấy lời ngắn gọn mà người khác không nghe thấy rồi nói thêm một cách ràng rọt: 

-… Còn nếu như anh coi thường ý kiến những người đang sống sót trong đơn vị anh thì dù sao anh cũng nên suy nghĩ bằng cái đầu bé tạo của anh chứ không nên suy nghĩ bằng đít. Lúc ấy anh hãy báo cáo về sư đoàn một cách thông minh. 

-Cậu nói gì đấy?...-Đrô-dơ-đốp-xki mặt nhăn như bị, ngả đầu ra đằng sau, suýt nữa ngã trên vách hố bom dựng đứng, anh nhắc lại, giọng gay gắt đến chói tai:-Cậu nói gì thê-ế? 

-Khẽ chứ, khẽ chứ, đại đội trưởng-U-kha-nốp làm cho anh ta yên lòng, chỉ cười bằng mắt.-Lúc này chúng mình có thể nói chuyện tâm tình được. Đây không phải là những buổi diễn tập ở nhà trường. Từ đây đến chỗ đức Chúa rất gần. Người là kẻ làm chứng tối cao. Và chẳng có gì vi là phạm điều lệnh cả. Mọi người không bàn luận mệnh lệnh của anh. Nhưng tôi muốn anh biết tôi nghĩ gì về anh, đại đội trưởng ạ. Anh hãy ghi nhớ kỹ lấy, sẽ có lúc có ích đấy!... 

-Thôi đi, U-kha-nốp! Đủ rồi!-Cu-dơ-nét-xốp cắt ngang vẻ kiên quyết, bước lại gần, kéo tay áo U-kha-nốp.-Nói trước mặt tên Đức thế đủ rồi!... Cậu hãy trông nó kìa. Hắn làm sao thế, điên chắc? 

Đrô-dơ-đốp-xki đứng thẳng, cứng đơ, khuôn mặt hốc hác, nhợt nhạt. Còn tên Đức vẫn không ngớt thong thả và đần độn lắc lư tại chỗ, giậm giậm đôi giày lông, đập nắm tay ngày càng nhẹ hơn vào những chỗ bả vai phì nộn của mình, cặp mắt y trố ra như nắm bắt âm thanh của một thứ tiếng xa lạ, đờ ra như thủy tinh, man dại hết nhìn U-kha-nốp lại nhìn Cu-dơ-nét-xốp, có lẽ hắn cho rằng mọi người đang nói về hắn, về số phận hắn và thế là như lên cơn đau tim, hắn há to mồm ra, thở ngày càng nhanh rồi bỗng nhiên lảo đảo nghiêng người đi, ngã phịch xuống đám tuyết, miệng khụt khịt nói những tiếng gì không rõ, chỉ có thể hiểu được vài tiếng: “Russishes Schwein, ich sterbe, ver flucht kalt” (Con lợn Nga, tôi chết mất, cái lạnh khốn kiếp). 

-Đồ rắn độc, nó giả vờ đấy-U-kha-nốp xác định.-Hắn không muốn bị bắt làm tù binh. Hắn tái người đi vì lạnh.-hắn nói gì thế Cu-dơ-nét-xốp? “Schwein” (Con lợn) à? 

-Đứng dậy!-Cu-dơ-nét-xốp ra lệnh và lấy nòng súng tiểu liên ra hiệu cho tên Đức. Stch auf! Nhúc nhắc đi! Stch auf! Vận động chân tay đi! 

Tên Đức không đứng dậy, đầu gối hắn vẫn co giật, áp vào cằm chỉ nghe tiếng khụt khịt của hắn bật ra từ cái cổ áo lông dựng đứng. Lúc ất U-kha-nốp, sau khi do dự một lát, tiến lại phía hắn, nắm lấy cổ áo hắn và tức giận lôi hắn đứng dậy mạnh đến nỗi cổ áo hắn xoạc ra rồi anh vừa lắc vừa nói: “Rồi tao sẽ cho mày biết cái “schwein” của mày!-tên Đức rống lên khê nặc như giọng người sắp chết. U-kha-nốp kẹp chặt lấy hắn, đưa cả bao tay bịt lấy mồm hắn; tên Đức chỉ còn gầm gừ, cố vùng ra khỏi tay anh. 

-Chà, cái giống Hit-le khốn nạn nhà mày! Mày hãy quên “schwein” nghĩa là gì đi! Rồi mày sẽ biết tay tao! 

-U-kha-nốp, buông nó ra! Anh làm cho nó nghẹt thở bây giờ!... Các chú mình làm gì thế, hở các chú bé? Các chú bé thân mến!...-Dôi-a bối rối nói gần như khóc, khi thì quay về phía người này, khi thì quay về phía người khác.-Tại sao các chú mình độc ác thế? Tôi không nhận ra các chú mình nữa đấy, các chú bé ạ!... Các chú làm sao thế.-Cô lao cả người về phía Đrô-dơ-đốp-xki, túm lấy tay áo choàng của anh có ý van lơn.-Vô-lô-đi-a, ít ra anh cũng giải thích cho họ biết anh không phải là người như thế chứ! Họ không biết rõ anh, Vô-lô-đi-a ạ!... 

-Cô đi đi! Cô xen vào làm gì? Đrô-dơ-đốp-xki gỡ các ngón tay Dôi-a ra khỏi tay áo choàng của mình rồi lùi xa một bước như tránh một vật chướng ngại, nhe răng trắng hởn tỏ ý khinh bỉ:-Tôi căm ghét khi thấy lính tráng ngoài mặt trận cứ can thiệp vào… Tốt hơn hết là cô ra mà trấn an Cu-dơ-nét-xốp kia kìa! Cậu ấy tốt bụng và cô cũng tốt bụng!… Cả hai đều là Chúa Ki-tô con cả! Chỉ có điều là hãy để cho tất cả đám chú bé của cô, đặc biệt là Cu-dơ-nét-xốp biết rằng cô sẽ không ngủ được với đứa nào trong bọn chúng đâu! Đừng có tơ tưởng, cô cứu thương ạ! Sau trận này cô sẽ rời ngay đại đội này chuyển về trạm quân y! Cô sẽ không được ở lại đại đội này một ngày nào nữa! Cô đi ngay đi! 

Mặt Đrô-dơ-đốp-xki biến dạng vì nhăn nhó kinh tởm, trở nên xấu xí gớm ghiếc, lùi thêm một bước nữa, như thể làm như vậy để sỉ nhục Dôi-a rồi Đrô-dơ-đốp-xki lúc lắc đôi vai, vẻ khăng khăng hung dữ, vội vã trườn ra khỏi hố bom làm đất rơi lả tả dưới chân. 

Lên đến miệng hố bom Đrô-dơ-đốp-xki dừng lại, đứng ở đó mấy giây, rút súng ngắn khỏi bao, thét lên ra lệnh bằng giọng đứt quãng: 

-Các chiến sĩ thông tin! Tóm lấy tên tù binh Đức và chạy theo tôi!-Rồi không đợi ai, Đrô-dơ-đốp-xki trèo qua những đụn đất, mất hút trong đêm tối. 

Ở phía dưới, mọi người im lặng. Khẩu đại liên đã ngừng khạc đạn trên thảo nguyên, gió xua những đám mây tuyết trắng xóa trên miệng hố bom. Mệnh lệnh mà Đrô-dơ-đốp-xki thét to từ phía trên vọng xuống rất rõ và hai chiến sĩ thông tin cùng chồm dậy một lúc, lách qua người Cu-dơ-nét-xốp và U-kha-nốp, vụng về xộc tới chỗ tên Đức, dang tay ra như thể người ta lùa bắt con thở từ hai phía vậy. 

-Quay lại!-Cu-dơ-nét-xốp kiên quyết chặn họ, đứng chắn lấy tên Đức.-Đỡ lấy đồng chí trinh sát rồi đưa lên trên kia, đi theo Đrô-dơ-đốp-xki! U-kha-nốp sẽ giải tên Đức đi! Các anh đưa đồng chí trinh sát bị thương đi-Thậm chí để cho chắc chắn hơn, anh đẩy hai người lính thông tin về phía người chiến sĩ trinh sát.-Nếu các anh không đưa đồng chí ấy về đến nơi đến chốn thì các anh hãt đưa đầu ra chịu trách nhiệm! Dôi-a! 

Lẽ ra anh phải nói với cô rằng cô sẽ đi bên cạnh U-kha-nốp, như thế sẽ an toàn hơn trên đường trở về trận địa pháo nhưng vấp phải cái nhìn của cô, anh im lặng. Cô không để ý đến anh, có lẽ cô không còn nghe thấy gì tuy cô nhìn anh, bứt bứt bao tay trên các ngón tay, còn mắt cô ráo hoảnh, to lạ lùng, đôi lông mày lá liễu ngạc nhiên cong lại như thể cô đang chăm chú lắng nghe nỗi đau chưa từng thấy ở trong cô, cô còn chưa rõ nỗi đau đó xuất hiện ở đâu. 

-Thằng Đức này, mày có hiểu một trăm mét nghĩa là thế nào không? Để tao xem mày thế nào… 

U-kha-nốp dẫn tên Đức đi lên triền dốc hố bom và khua dây đeo súng tiểu liên lách cách, anh không nói gì với Dôi-a, không giục giã cô, chờ đợi. 

-Dôi-a,-Cu-dơ-nét-xốp thốt lên bằng giọng khản đặc.-Cô phả đi thôi. Ngớt tiếng súng rồi đấy. Phải đi thôi. Cô sẽ đi cùng với U-kha-nốp. Cô hiểu không? 

-Được rồi, tôi đi, tôi đi ngay đây,-Dôi-a giật mình, cúi thấp xuống, giấu mặt trong cổ áo choàng ngắn, nói với các chiến sĩ thông tin một cách phấn khởi gượng gạo rồi quỳ bên anh trinh sát:-Các anh khênh cẩn thận cho nhé, chân trái anh ấy bị thương đấy. Đừng đụng vào chân ấy nhé. Nhẹ tay chứ, các chú mình nhé!... 

Các chiến sĩ thông tin nâng người chiến sĩ trinh sát lên và đưa tay quờ quạng đỡ lấy thân anh cho thuận tiện hơn. 

-Tiến lên!-Cu-dơ-nét-xốp nói.-Tôi với Ru-bin sẽ cố gắng đuổi kịp các bạn… 

-Miễn là anh không vấp phải bọn Đức… và còn sống. Chớ có điên đầu, hãy đuổi kịp chúng tôi, Cu-dơ-nét-sích nhé,-Dôi-a cầu xin, cô ngoảnh lại, khẽ mỉm cười với anh một cách tội nghiệp thế nào ấy và lúc này, chắc trong thâm tâm anh hoàn toàn không muốn nhìn thấy nụ cười gượng gạo ấy. 

-Nào thằng Đức, hãy chứng tỏ cái máu yên hùng của mày đi nào, ta sẽ khoác tay nhau đi. Sprechen, schwein (Nói đi, con lợn)?-U-kha-nốp nói, kéo tên Đức về phía mình, vẻ đe dọa.-Tạm biệt, trung úy. 

-Tiến lên,U-kha-nốp. Ra đằng kia phải cẩn thận đấy. 

Cu-dơ-nét-xốp tiễn họ đến tận miệng hố bom rồi nằm bên cạnh run, dõi theo họ cho đến khi họ đi khuất sau bóng dáng của hai chiếc xe vận tải bọc thép.

 31.12.2010

LSB-Sun

-=[ Lương Sơn Ẩn Sĩ ]=-

ღ Đại Trưởng Lão QPB ღ

TUYẾT BỎNG

Chương 23

Nguồn: vnthuquan

Nội dung thu gọn

-Anh đã chú ý xem xét cẩn thận cả chưa, Ru-bin? -Tại sao đồng chí không tin tôi, đồng chí trung úy? Tôi đã lê bụng bò khắp xung quanh hố bom. Làm bẩn hết cả chiếc áo choàng. Nếu cậu ta bị giết thì chắc tuyết đã phủ trắng lên người rồi. Với lại ở đây không thấy có xác chết nào cả. Biết đi tìm ở đâu? 

-Rõ rồi, Ru-bin. Chừng nào địch ngừng bắn chúng ta sẽ xem xét một lần nữa về phía khe. Có thể là khi bò ra cậu ta đã mất phương hướng và di chuyển theo hướng ngược lại. Tuy khó có thể tưởng tượng như thế. Dưới ánh sáng pháo hiệu cậu ta có thể nhận ra đâu là phía quân ta chứ. 

-Phải cẩn thận hơn với cái khe đấy. Bọn Đức cũng có thể qua lại ở đó nếu chúng không ngủ khì. Lúc ấy thì khốn khổ đấy! Tôi vừa bò đi vừa ngủ, đồng chí trung úy ạ. Người tôi làm sao ấy… Lạnh toát cả, vậy mà mi mắt cứ nặng như chì. 

-Anh lấy tuyết mà xoa mặt. Xoa mạnh vào. 

-Tôi đã xoa ghê lắm rồi. Tôi đã sát như mài khắp mặt, đồng chí trung úy ạ. Vì suốt một ngày một đêm không ngủ rồi. Đêm nay cũng chỉ mới ngả lưng được hai tiếng đồng hồ. 

Họ nằm trên miệng hố bom trống rỗng, xung quanh họ bầu không khí trên thảo nguyên đã loãng hơn và chuyển sang màu trắng; cảnh tĩnh mịch của đêm tháng Chạp vào lúc rạng sáng làm cho họ đờ người ra, buồn ngủ không dưỡng được. Rồi dần dần Cu-dơ-nét-xốp bị xâm chiếm bởi cảnh im lặng lừa dối đó ở xung quanh mình và bình minh yên tĩnh làm cho đầu óc anh trĩu nặng một cách dễ chịu, anh cảm thấy, trái với ý muốn của mình, đầu óc anh không còn cưỡng lại sự uể oải ru ngủ đang len thấm vào tấm thân lạnh cóng của anh và anh khiếp sợ cảnh thiếp lặng u mê trong chốc lát đó. 

-Ta bò tới chỗ cái khe, Ru-bin!-Anh đứng lên và hiểu ngay rằng mình sẽ không bước nổi năm bước. Sau cả một đêm không ngủ, sự căng thẳng thần kinh bỗng xẹp xuống, không còn biết đến mối hiểm nguy, dìm anh trong màn sương ấm áp và anh cứ đứng như thế một lát trong cơn thiu thiu ngắn ngủi, không thật.-Ta đi đi!-Cu-dơ-nét-xốp nhắc lại to hơn và ngang ngạnh hơn và để tìm cách làm cho mình tỉnh táo như trước đây, anh ngọ nguậy những ngón tay cóng lạnh trong găng ta và đập đập tay vào báng súng tiểu liên.-Ta đi đi, đi đi!-Anh nhắc lại lần thứ ba, cốt dùng âm thanh giọng nói của chính mình để thuyết phục mình cũng như Ru-bin rằng bằng cách này hay cách khác họ phải đi tới bờ khe đó. 

-Tôi đi ngay đây, trung úy…-Ru-bin ráng sức bứt tấm thân bè bè của mình khỏi mặt đất, vươn mình đứng dậy, nhìn thẳng vào mặt Cu-dơ-nét-xốp, nhếch mép cười nhăn nhó.-Nói trung úy đừng giận nhé, anh lảo đảo trước gió, thế mà cứ tưởng khỏe cơ đấy… Ngó bộ anh như cái đinh ốc bị vặn chặt ấy. Anh bắt mình gắng gượng à? Hay là anh muốn ra vẻ ta đây, trung úy?... 

-Ta đi đi! Anh đừng nói chuyện vớ vẩn nữa, Ru-bin. Ta đi đi. Nào, đi. Phải đi thôi, không thể nấn ná được. Phải đi thôi. 

-Trung úy đừng giận nhé. Tôi đi đây… 

Tuyết rơi dưới chân họ và Cu-dơ-nét-xốp vừa bước đi vừa nghe tiếng thở phì phò của Ru-bin ở ngay sau vai mình, tiếng tuyết lạo xạo dưới gót ủng của anh ta. Anh nhìn cảnh hoang vắng lạnh lùng, trắng xóa giữa đêm yên tĩnh và chợt nghĩ rằng tất cả những gì anh đang làm lúc này đều không phải do anh mà do một người nào khác làm, còn bản thân anh cũng như Ru-bin đang thực hiện những mệnh lệnh không phải của anh mà của một người nào khác như là làm một việc cần thiết để hai người yên tâm. Và giữa những cơn gió ngoằn ngoèo, chạy dài trên thảo nguyên, giữa đám tuyết hoang vắng im lìm không bị đạn tên lửa soi sáng đang đung đưa trước mắt, anh cũng cảm thấy sự khoan khoái, êm dịu nhẹ nhàng, sự thảnh thoi êm đềm sau tất cả những gì đã xảy ra từ lâu hoặc mới xảy ra và màn đêm ấm áp bồng bềnh lướt về phía anh, trùm kín lấy anh. Nhưng giữa cảm giác thảnh thơi êm đềm đó, giữa cái vỏ thiếp lặng mềm mại đó vẫn có một cái gì đó băn khoăn trăn trở rồi bật ra, sáng bừng lên như những tia nắng vàng lóng lánh xuyên qua tán lá cây rọi xuống những vũng nước xanh biếc sau cơn mưa mùa hè ở một phố nhỏ thân thương và xa xôi nào đó-phố nhỏ nào thế nhỉ?-rồi cặp lông mày của ai cong lại trên một khuôn mặt quen thuộc và giọng nói của ai vang lên ngay bên tai: “Anh Cu-dơ-nét-sích thân mến!... Anh có biết chúng ta đang đi đâu không? Anh cố bắt mình gắng gượng à? Mình là Cu-dơ-nét-sích à? Sao lại xưng hộ như trong trò chơi trẻ con thế nhỉ?... Không, chúng ta đang đi đâu? Chúng ta đi đâu mãi thế này? Đi đâu?”. 

Cu-dơ-nét-xốp tỉnh dậy, mở mắt ra. Xung quanh anh là sự yên tĩnh, tuyết, những bước chân và tiếng lạo xạo ở trong tai… 

Anh sợ sệt ngó nhìn xung quanh. Anh vẫn chưa tin rằng mình vừa thiếp đi trong giây lát, anh nghe thấy tiếng bước đi đều đều của Ru-bin và sợ mình bị choáng ngất, anh dừng ngay lại. 

Ru-bin cũng dừng lại. Họ đưa mắt nhìn nhau, im lặng. Ru-bin thở như huýt gió. 

-Ru-bin,-Cu-dơ-nét-xốp cố gắng nói.-Anh đi độ một chục mét về phía tay phải. Nhìn xem ở đó thế nào, kẻo không… 

Anh không nói rõ chữ “kẻo không” đó nghĩa là thế nào tuy cả hai người đều hiểu rõ ràng: “Kẻo không chúng ta sẽ rơi vào chiến hào của bọn Đức”. 

-Lúc này chúng mình chả nghĩ ngợi được gì cả, đồng chí trung úy ạ,-Ru-bin ngoan ngoãn nói rồi thọc chân vào đụn tuyết, anh bước về phía tay phải. Còn Cu-dơ-nét-xốp lại sợ mình thiếp đi, anh cố không đêể mất cảm giác về nỗi nguy hiểm khiến anh tỉnh táo sau khi thiếp đi trong khoảnh khắc, anh bước nhanh về phía trước và nghĩ: 

“Tại sao anh ta lại nói: Anh cố bắt mình gắng gượng à? Đúng, đúng thế, Ru-bin ạ, tôi sợ nhất là tỏ ra yếu đuối, tôi sợ nhất là tỏ ra yếu đuối trước anh cũng như những người khác và tất cả những gì tôi đang làm đều không phải do tôi mà do một người nào khác làm còn tôi thì không biết người nào khác ở trong tôi đó là ai. Tôi không biết người đó và cũng chẳng muốn biết, muốn ra sao thì ra!... Ru-bin ạ, anh hiểu cho tôi nhé, lúc này tôi cũng chả nghĩ ngợi được cái gì nhưng chúng ta sẽ đi tới bờ khe và chúng ta sẽ yên tâm vì đã làm tất cả… Tuy tôi tin chắc rằng điều đó hoàn toàn vô nghĩa! Và vì thế tôi hiểu rằng tôi có lỗi đối với anh Ru-bin ạ!...”.

Những làn đạn khô khan xé màn đêm yên tĩnh ở phía sau lưng và những tiếng súng đó đẩy Cu-dơ-nét-xốp về phía trước. Và vẫn còn ở trong tâm trạng nửa mê, nửa tỉnh đó Cu-dơ-nét-xốp thoáng nghĩ ra rằng chúng bắn từ phía sau lưng và như thế tức là họ đã đi qua chỗ đội cảnh giới chiến đấu Đức mà không để ý, theo bản năng, anh bổ nhào xuống đất giật quai súng tiểu liên khỏi vai và gọi to: 

-Ru-bin quay lại! 

Nhưng ngay lúc ấy anh đã trông thấy Ru-bin đang ba chân bốn cẳng chạy từ bờ khe lại phía anh. 

-Trung úy, trung úy, quân ta hay cái gì thế? Anh nhìn xem kìa! Nhìn lại đằng sau mà xem!... 

-Ru-bin, đi theo tôi!-Cu-dơ-nét-xốp ra lệnh, anh đã nghe thấy tiếng súng tiểu liên hỗn loạn ở phía sau, tiếng lựu đạn kế tiếp nhau nổ ầm ầm. Anh lao mình quay lại phía hố bom, phía hai chiếc xe vận tải bọc thép bị bắn cháy, nơi tốp Đrô-dơ-đốp-xki đã ra đi, vừa chạy anh vừa nghĩ: “Chuyện gì ở đó thế nhỉ? Họ vấp phải bọn Đức à? Chả lẽ họ lại không vượt qua được sao?”. 

Tiếp đó khẩu đại liên từ rìa làng phía sau lưng lại khạc đạn ầm ầm làm thảo nguyên rung lên, chìm trong lửa, khi thì rộng mênh mông, khi thì co hẹp lại; ánh sáng lao vun vút ngay trên đầu họ, đẩy lùi, xua tan bóng tối ở trên trời. Cu-dơ-nét-xốp và Ru-bin lao về phía trước, giẫm lên bóng của chính mình đang lặng lẽ trượt ra khỏi họ. 

-Ru-bin, hướng tới những chiếc xe vận tải bọc thép về phía bên phải!-Cu-dơ-nét-xốp hô to khi nhận ra hố bom ở trước mặt và những chiếc xe vận tải bọc thép sẫm đen lại ở phía bên phải nơi những làn đạ vun vút bay trong gió tuyết. 

Mấy quả lựu đạn lại nổ đùng đùng ở phía trước mặt, những loạt đạn súng máy lẫn vào nhau hối hả vang lên tằng tặc. Cu-dơ-nét-xốp thở hổn hển chạy lại chỗ mấy chiếc xe vận tải bọc thép và tại đây anh đã nhìn rõ tất cả. 

Có những người chạy thành một hàng dài từ những chiếc xe tăng Đức bị bắn cháy tới chỗ hai chiếc ô tô chạy bằng xích ở trên gò cao, đạn pháo sáng chiếu sáng rõ mồn một mọi chi tiết, còn trên khoảng trống giữa hai chiếc xe vận tải bọc thép và mấy chiếc xe tăng Đức bị bắn cháy, mấy bóng người đen sẫm đang bò trên tuyết và từ chỗ đó súng tiểu liên của ta trầm trầm nã dồn dập vào hai chiếc ô tô đó, và bọn Đức đang rời khỏi ô tô chạy về phía họ. Một chiếc ô tô chở những thân người lủng lẳng ở thành xe nổ máy chuyển bánh rồi bắt đầu quay mũi xe bò sang một phía. Chiếc thứ hai vẫn đâu nguyên như trước và từ mình nó lửa đạn điên cuồng lao vút đi: bọn Đức dùng tiểu liên bắn xối xả vào bãi đất thấp phía trước xác mấy chiếc xe tăng. 

-Ru-bin! Bắn vào hai chiếc ô tô!... Nã vào chúng đi!-Cu-dơ-nét-xốp thét to, hể hả đưa ngón tay tê cứng bóp cò, báng súng tiểu liên giật mạnh thúc vào vai anh và thảo nguyên sáng lóe, chao đảo dưới ánh sáng làn đạn đó. Anh hết sức cố gắng ghìm mình lại để không nã hết cả một băng đạn tròn. 

-Lũ rắn độc!...-Ru-bin nói giọng khàn khàn ngay sát vai anh.-Bóp chết bọn chúng mày cũng chưa hả, phải lấy tay bóp chết lũ bay!... 

-Ru-bin, lựu đạn!... Ru-bin, ném vào ô tô!... Nhanh lên! 

Ngọn lửa súng máy nhảy nhót, làm cho hàm răng chắc nịch của Ru-bin ánh hồng lên, khuôn mặt to bè, khủng khiếp của anh say sưa ép sát vào báng súng tiểu liên, thoạt đầu Ru-bin hình như không nghe thấy mệnh lệnh của anh. Cu-dơ-nét-xốp thúc vào vai anh ta và tức giận gào lên điên cuồng: “Lựu đạn! Lựu đạn!”. Và mãi đến khi dứt loạt đạn tiểu liên, tay phải Ru-bin mới thọc vào sục sạo trong túi áo choàng rồi anh nhảy ra cách chiếc xe vận tải bọc thép hai bước, nghiêng người, tháo chốt an toàn và hộc lên giọng khàn khàn ném quả lựu đạn về phía gò đất. Chộp ngay lấy quả lựu đạn thứ hai, anh vùn tay như điên ném tiếp theo luôn. Hai tiếng nổ kế tiếp nhau bùng lên đỏ lóe trên sườn gò cao: mấy quả lựu đạn không bay tới chỗ mấy chiếc ô tô. 

-A-a, lũ giòi bọ! 

Ru-bin gào thét, túm lấy khẩu tiểu liên, nằm xuống cạnh Cu-dơ-nét-xốp ở chân chiếc xe vận tải bọc thép, nã từng loạt đạn dài về phía những chiếc ô tô. Hiểu rằng chẳng mấy chốc cả hai sẽ bắn hết đạn vì chẳng có băng đạn dự trữ nào. Cu-dơ-nét-xốp nghĩ ngay ra là họ phải vận động về phía bãi đất thấp đó nơi tốp Đrô-dơ-đốp-xki đang nằm trong tuyết dưới làn đạn tuy anh hiểu rõ ràng làm như vậy anh và Ru-bin sẽ lôi cuốn sự chú ý của bọn Đức về phía mình. Đồng thời tai anh vẫn nghe thấy tiếng súng tiểu liên bắn trả của ta ngày càng thưa thớt từ phía bãi đất thấp. Rời ngón tay khỏi cò súng, anh nhổm người trên khuỷu tay, nhìn về phía tiếng súng đã yếu di ở gần những chiếc xe vận tải bọc thép. 

-Ru-bin! Cậu ở lại đây!... Kéo đạn của địch về phía mình! Tôi lại đằng ấy với họ! Cậu có hiểu ý tôi không? Nghe rõ không? Tiết kiệm đạn nhé, tính từng viên đấy!... Tôi lại chỗ họ… 

-Chạy đi, trung úy, nhanh lên. Tôi sẽ ở đây,-Ru-bin thốt lên như bị choáng và hàm răng dữ tợn của anh có thêm hai băng đạn nữa, trung úy ạ, tôi sẽ đè nát lũ khốn kiếp đó như giết rệp! 

-Cậu hãy cầm lấy khẩu Pa-ra-ben-lom này! Còn nguyên đạn đấy!-Cu-dơ-nét-xốp sực nhớ ra khẩu súng ngắn chiến lợi phẩm nặng chĩu túi áo choàng, anh rút nó ra khỏi túi, ném xuống đám tuyết trước mặt Ru-bin-Mình đã có khẩu TT nạp đạn sẵn đây rồi! Nhớ tính từng viên đạn đấy, nghe rõ không, Ru-bin! 

Từ phía rìa làng ở đấngu, khẩu đại liên nã về phía bãi đất bằng dày đặc, ầm ầm như sấm, át cả tiếng sủa ằng ặc của đạn tiểu liên. Từ cửa sổ các ngôi nhà ở mé bên trái ba bốn khẩu súng máy nữa cũng vội vã lên tiếng luồng đạn của chúng bay gần như sát những chiếc xe vận tải bọc thép rồi rơi xuống mất hút trong những đụn tuyết trên triền dốc gò cao hoặc chạm vào vỏ bọc thép của những chiếc xe tăng bị bốc cháy sẫm đen trên bãi đất thấp, tóe ra dựng đứng lên dưới những đám mây sáng lóa. 

Cu-dơ-nét-xốp ngã rồi lại chồm dậy, băng qua các hố bom đạn, chạy ngang qua khoảng trống chừng năm mươi mét về phía bãi đất thấp, bị đạn pháo sáng từ trên cao rọi sáng, nơi bọn Đức từ ô tô nã đạn tới.Rồi bỗng nhiên anh thấy người nặng trĩu như chì, tựa như có một khối nặng nề vô cùng đè nghẹt hơi thở của anh. Có mấy lần anh vừa chạy vừa ngã quỳ xuống, xả những loạt đạn ngắn lên gò cao còn tim anh đạp liên hồi, tai ong ong như búa gõ, át cả những âm thanh xung quanh chiếc ô tô trên gò cao và cùng với tiếng tim đập thình thịch đó, một ý nghĩ cứ đại uý dứt ám ảnh anh: “Tại sao họ không chuyển tới chỗ những chiếc xe tăng? Tại sao họ không nhúc nhích? Tại sao họ nằm dưới làn đạn? Phải tiến lên chứ, tiến lên, tới chỗ những chiếc xe tăng chứ!”. 

Khi Cu-dơ-nét-xốp từ triền dốc thoai thoải chạy xuống bãi đất thấp ở phía trước những chiếc xe tăng Đức bị bắn cháy, người đầu tiên anh trông thấy là U-kha-nốp. U-kha-nốp nằm sau một đụn tuyết cách chân gò khoảng một trăm năm mươi mét, dùng khuỷu tay ấn chặt tên tù binh Đức xuống tuyết, đè cả ngực lên người nó và nã từng loạt đạn ngắn lên chiếc ô tô, còn nằm lại trên gò. Cứ sau mỗi loạt súng anh lại bò nhích về phía bên trái, tới chỗ mấy chiếc xe tăng, vừa văng tục, anh vừa kéo mạnh tên Đức theo mình lại ấn nó xuống tuyết và nằm đè lên nó. Một băng đạn trong đã bắn hết nằm chỏng trơ cách đụn tuyết mấy mét. 

-U-kha-nốp chạy tới chỗ những chiếc xe tăng đi!-Cu-dơ-nét-xốp chỉ còn có thể khẽ la lên, ngột thở đến cùng cực, đương đà chạy anh bổ nhào xuống cạnh U-kha-nốp.-Chạy đến chỗ những chiếc xe tăng đi!... Đừng trùng trình ở đây một phút nào nữa! Chạy đến chỗ những chiếc xe tăng đi!...-U-kha-nốp, cậu có nghe thấy không? 

U-kha-nốp quay bộ mặt say sưa điên cuồng, là lạ vè phía Cu-dơ-nét-xốp và chiếc răng cửa bịt bác ánh hồng lên. 

-Trung úy!... Đến chỗ đại đội trưởng… chạy đến chỗ Dôi-a đi! Tôi đã cử một chiến sĩ thông tin đi nhưng chưa ăn thua gì! Hình như có người bị thương!... Tôi ở đây!... Cậu đến chỗ họ đi! 

-Ai bị thương? Làm sao? 

-Đến chỗ họ đi, trung úy! Đến chỗ Dôi-a, chạy đến chỗ Dôi-a đi!-Giọng nói lạc hẳn đi đến mức khó nhận ra của U-kha-nốp văng vẳng bên tai Cu-dơ-nét-xốp. Đè người lên tên Đức, ấn nó xuống tuyết, U-kha-nốp siết chặt khẩu tiểu liên, nã vào chiếc ô tô ở trên gò. 

“Dôi-a ư? Cô ấy bị thương sao? Chả có lẽ nào! Không thể thế được!”. 

Cu-dơ-nét-xốp thấy ớn lạnh ở lưng, không hiểu rõ lắm mình đang làm gì, không cúi người, đôi chân bủn rủn của anh lao tới những người đang nhúc nhích, rải rác trên bãi đất thấp. Anh chỉ nhận ra có một điều: ở đó đã xảy ra chuyện mà anh không muốn, chuyện đó không có quyền xảy ra và không nên xảy ra. Lòng vẫn nghi hoặc như vậy, anh bừng bừng phẫn nộ chạy tới giữa bãi đất thấp, điên khùng gạt một người nào đó lưng khòng khòng đang nghiêng mình gần đụn tuyết, hai tay đang làm gì đó ở gần miệng. 

Anh không hiểu rõ rằng đó là anh chiến sĩ thông tin đang dùng răng xé cuộn băng cá nhân và ngay lúc ấy, như qua một màn sương lãng đãng, anh nhìn thấy ở lưng chừng đụn tuyết chiếc áo choàng ngắn màu trắng, đôi ủng trắng, chiếc túi cứu thương dính đầy tuyết. 

-Các anh loay hoay làm gì ở đây thế, quỷ tha ma bắt các anh đi cho rồi! 

-Cô ấy bị thương… phải băng bó cho cô ấy chứ!-người chiến sĩ thông tin sợ hãi la lên đáp.-Anh nhìn cô ấy kia kìa… 

Dôi-a nằm nghiêng, co quắp, mắt nhắm nghiền, chân co lại như thể cô bị lạnh, tay thu vào bụng, khẩu “Van-te” nho nhỏ của Đức nằm lăn lóc gần đôi đầu gối cong lại bất động của cô và có một vật gì đó sâm sẫm chảy từ người cô xuống tuyết khiến cho Cu-dơ-nét-xốp khiếp sợ. Nhưng thoạt đầu anh tưởng rằng cái vệt sẫm khủng khiếp trên tuyết đó không phải là máu, anh không thể tưởng tượng được rằng đó là máu của Dôi-a, rằng anh đang nhìn thấy máu cô và ngay lúc ấy anh cố làm cho mình tin, thậm chí anh tự nhủ rằng không thể xảy ra câu chuyện không cứu vãn nổi đó, cô không thể nào bị tử thương hay bị giết, không thể nào ép chặt tay và bụng một cách khủng khiếp đáng sợ như vậy. 

-Dôi-a…sao thế Dôi-a?... 

-Cô ấy chẳng nói gì, trung úy ạ… Cô ấy bị một loạt đạn súng máy… Hình như vào bụng… Lúc đầu cô ấy bảo… anh đi đi… tôi khắc tự lo. Cô ấy không cho băng bó… Còn bây giờ cô ấy chả nói gì cả,-tiếng người chiến sĩ thông tin lắp bắp-Mọi sự đã ổn cả, nhưng khi chúng tôi đến bãi đất thấp thì bị chúng từ trên cao bắn xuống. Thế là sinh chuyện rắc rối… 

-Đrô-dơ-đốp-xki đâu?-Cu-dơ-nét-xốp hỏi không thành tiếng, không nghe thấy giọng của mình.-Anh ấy đâu? 

-Chả lẽ anh không thấy hay sao? Anh ấy ngồi trên tuyết kia kìa… hình như anh ấy cũng bị thương. Bọn Đức ném lựu đạn. 

-Đrô-dơ-đốp-xki đâu?-Cu-dơ-nét-xốp lại thì thào hỏi rồi quay người lại, mãi đến lúc đó anh mới nhận ra Đrô-dơ-đốp-xki ngồi cách đụn tuyết chừng năm mét, đầu không đội mũ.

Chương 23 -2

Nguồn: vnthuquan

Nội dung thu gọn

Tay trái Đrô-dơ-đốp-xki vẫn cầm khẩu súng ngắn, còn tay phải vẫn đi găng, chốc chốc lại đưa lên cổ và sát vào mắt, anh nói gì đó nhát gừng, khó hiểu. Người chiến sĩ thông tin thứ hai cúi xuống định nâng Đrô-dơ-đốp-xki dậy, anh ta đứng ở sau lưng vụng về xốc nách anh. Khẩu tiểu liên nóng bỏng nằm ngay đó cạnh anh trinh sát bị cóng choàng chiếc áo ngụy trang mà xám trông như một nấm đất. 

Đrô-dơ-đốp-xki vùng vằng cưỡng lại người chiến sĩ thông tin, anh bắt đầu lên tiếng một cách nóng nảy, với thói bướng bỉnh điên cuồng của người bị choáng: 

-Băng cho tôi! Dôi-a đâu? Băng đi!... Tôi bị thương, để cô ấy băng cho tôi chứ1 Cậu đi đi-i!... 

Cu-dơ-nét-xốp cởi khuy áo choàng ở ngực chẳng hiểu để làm gì và cũng máy móc như thế, anh bước về phía Đrô-dơ-đốp-xki nghiêng mình và nhìn thấy mảng da rách đẫm máu ở dưới tai anh ta, anh nói bằng đôi môi lạnh cứng: 

-Đrô-dơ-đốp-xki! Anh có nghe thấy tôi nói không? Anh có đứng dậy được không? Chân còn nguyên vẹn cả chứ! Anh chỉ bị xước da thôi! Đứng dậy, đứng dậy, Đrô-dơ-đốp-xki! 

-Dôi-a đâu? Dôi-a đâu hả Cu-dơ-nét-xốp? Đâu? Băng cho tôi!... 

-Đứng dậy, Đrô-dơ-đốp-xki, đứng dậy! 

Sau đó Cu-dơ-nét-xốp cởi áo choàng ra, trải trên tuyết. Cùng với Đrô-dơ-đốp-xki họ đặt Dôi-a co quắp vào trong áo choàng rồi cứ thế khiên cô đi. Nhưng anh không thể nào nhìn vào cô, người anh run bắn lên như cơn sốt rét. Đrô-dơ-đốp-xki đi ở phía trước, vẫn như mê man, lảo đảo một cách yếu ớt, đôi vai lúc nào cũng thẳng của anh ta còng xuống, tay chéo về phía sau để giữ mép áo choàng. Mảnh băng trắng lạ lùng làm cho cổ anh ngắ lại, băng thõng xuống cổ áo và Đrô-dơ-đốp-xki không quay cổ, không thể nhìn về phía sau được. Chốc chốc anh ta lại lắc lư như người say rượu và đôi lúc chân bị vấp nhưng chẳng thốt ra lời nào. Chỉ thỉnh thoảng lưng anh căng ra và từ họng anh bật ra chẳng rõ là tiếng rên lay tiếng ho xù xụ. Cái âm thanh nghèn nghẹn lạ lùng đó làm cho Cu-dơ-nét-xốp tan nát ruột gan. Khi họ đã vào tới khu vực mấy chiếc xe tăng Đức bị bắn cháy, nơi những loạt tiểu liên của địch không bay tới được, Đrô-dơ-đốp-xki mới thì thào cầu xin: 

-Ta nghỉ một tí… tôi không đi nổi nữa. Mình xin cậu, Cu-dơ-nét-xốp… 

Họ đặt Dôi-a xuống tuyết. Cu-dơ-nét-xốp vẫn không đủ sức nhìn cô, cổ anh như tắc nghẹn không thở được.Anh đứng dựa vai vào vỏ bọc thép méo mó của chiếc xe tăng Đức, chân anh khuỵu xuống, anh có ý muốn ngồi xuống tuyết, nhắm mắt lại, không động đậy, không nghĩ ngợi tới cái gì hết. Đối với anh, giờ đây thì đằng nào cũng thế thôi, tất cả đã mất giá, trong một giây tất cả đều trở nên vô nghĩa: cả anh trinh sát bị cóng, cả tên tù binh Đức, cả đêm khuya sau trận đánh, giá lạnh, hố bom trước cái khe-tất cả dường như là một sự bất công quái đản, vô nhân đạo cần phải có để chuyện đó xảy ra… 

“Cô ấy bị thương vào bụng,-anh điên khùng giải thích cho mình, cố uổng công sắp xếp lại mọi việc một cách lô-gich xem chuyện đó đã có thể xảy ra như thế nào.-Thoạt đầu khi họ đi tới bãi đất thấp cô đã bắn bằng khẩu “Van-te” của mình. Thế rồi sau đó?... Nhưng sao lại chính cô ấy bị thương? Sao lại chính là cô ấy?”. 

-Cu-dơ-nét-xốp… 

Như trong cơn mơ, anh máy móc túm lấy mép áo choàng và bước đi, không dám nhìn vào đó, phía trước mắt mình, không dám nhìn xuống dưới chỗ cô nằm, từ chỗ đó phảng phất cái hoang vắng lặng lẽ, lạnh lẽo, chết chóc. Không một lời nói, không một tiếng rên, không một hơi thở. Nhưng không, hãy còn cái cảm giác sinh động, lừa dối, ấy là thân hình cô nằm trong chiếc áo choàng nặng trĩu trên tay và đó là tất cả những gì anh cảm thấy trong giây phút ấy khi cùng với Đrô-dơ-đốp-xki khiêng cô về trận địa pháo. 

Khi họ đưa cô về tới trận địa pháo thì thấy khuôn mặt của Nết-trai-ép ngọ nguậy phía trên bờ công sự. Nét mặt thất sắc như có ý dò hỏi, Nết-trai-ép nhảy ra khỏi mặt bằng đặt pháo để đón họ, sải bước bên cạnh họ, sợ hãi nhìn Dôi-a rồi đưa cặp mắt bối rối chằm chằm nhìn Đrô-dơ-đốp-xki và Cu-dơ-nét-xốp dường như chờ đợi sự giải thích xem mọi việc đã xảy như thế nào, làm sao cô đến nông nỗi ấy. Nhưng cả Cu-dơ-nét-xốp lẫn Đrô-dơ-đốp-xki đều không giải thích cho anh điều gì hết. 

Vẫn như trước đây, Cu-dơ-nét-xốp cố không nhìn Dôi-a. Anh không nhìn cô ngay cả khi mọi người đặt cô vào hốc đất, anh không nhớ rõ ai đã khuyên nên đặt cô vào đó để gió tuyết khỏi vùi lấp mặt cô. Anh đứng đó, để khẩu tiểu liên tụt xuống đất và nghe một giọng nói nào đó nhẹ bỗng, giống như giọng nói của Nết-trai-ép thì thào với anh: “Đồng chí cóng hết cả người rồi, đồng chí trung úy, tay chân đồng chí cứng đờ ra rồi”. Và mãi tới lúc đó anh mới chợt nhìn thấy bên bờ lũy cạnh hóc đất chiếc áo choàng của mình với những vết máu sẫm trên tà áo và chẳng hiểu sao anh nghĩ rằng có lẽ mình sẽ chẳng bao giờ mặc chiếc áo choàng thấm máu của cô, mang dấu vết cái chết của cô đó nữa. 

-Các anh rút chiếc áo choàng của tôi ra làm gì?-Cu-dơ-nét-xốp thì thào bật lên.-Cứ để nó ở trong hốc đất… 

-Anh run cả người trong chiếc áo bông kia kìa, đồng chí trung úy…-Nết-trai-ép cũng thì thào đáp lại bên cạnh anh.-Dôi-a làm sao thế? Cô ấy làm sao thế? 

Cu-dơ-nét-xốp run bắn người lên, hàm răng anh va vào nhau lập cập, toàn thân anh tê dại và anh vẫn cứ muốn ngồi bệt xuống, nhắm mắt lại, không nghĩ tới cái gì hết-tưởng chừng như chỉ có như thế anh mới thấy dễ chịu được. 

Anh vứt khẩu tiểu liên xuống chân mình, ngồi lên bờ lũy gần hốc đất-anh chẳng còn sức đi tới chỗ càng pháo-và vừa run rẩy anh vừa đưa găng tay bẩn thỉu lên cọ mặt, siết chặt và xoa cuống họng chẳng hiểu để làm gì. 

“Cu-dơ-nét-sích…-Rõ ràng là anh nghe thấy tiếng nói khẽ khẽ.-Cố đuổi kịp chúng tôi nhé. Phải còn sống đấy, Cu-dơ-nét-sích ạ! Chỉ có điều là đừng rơi vào tay bọn Đức!”. 

Anh rên lên trong chiếc bao tay và lần đầu tiên anh quyết định nhìn cô trong hốc đất. 

Dôi-a nằm trong đó trên tấm vải bạt do Nết-trai-ép trải ra, đầu tấm vải bạt che kín đến tận ngực cô nên lúc này anh không nhìn thấy vết máu đã làm anh khiếp sợ. Đầu không đội mũ-chắc chiếc mũ đã lăn lóc ở chỗ nào đó trên bãi đất thấp,-cô nằm nghiêng, co quắp như trẻ con, tựa như nằm ngủ, lặng đi trong giấc mơ. Gió hất tung mớ tóc lên mặt cô, khuôn mặt trắng bệch như đá hoa, đã mất hết sinh khí, với cặp lông mày đặc biệt rõ nét, hơi nhíu lại vì một nỗi đau thoáng qua nào đó. Cả cặp lông mày cũng như lông mi đã cứng đơ của cô tưởng chừng như cũng khẽ nhúc nhích, động đậy, gió xua tuyết trên bờ lũy công sự xuống như rắc bột trắng lên chúng. Và Cu-dơ-nét-xốp quay ngoắt người lại ngay, nhắm nghiền mắt lại, lấy ngón tay kẹp chặt lấy cằm và môi khiến da anh nói đau dưới lần găng tay xù xì. 

Anh sợ rằng lúc này mình không kiềm chế được, sẽ làm một điều gì đó điên cuồng trong lúc tuyệt vọng và trong tâm trạng cho rằng mình phạm lỗi không thể nào tưởng tượng nổi, y như thể cuộc đời đã chấm dứt và giờ đây chẳng còn có gì hết. 

Những món tóc tơ nóng hổi ấy của cô đã chạm vào môi vào mắt anh khi cô ôm chặt lấy anh tìm sự che chở, nép sát vào anh trên hỏa điểm của Đa-vla-chi-an và lúc ấy anh đã ép chặt cô vào bánh xe khẩu pháo, do bản năng anh muốn tránh cho mảnh đạn khỏi bắn vào lưng cô, lúc ấy đôi môi lạnh giá, hơi thở ấm áp của cô phả vào cổ, vào má đẫm mồ hôi của anh… Chả lẽ trong những giây phút đó anh lại biết được những gì sẽ xảy ra nhiều giờ sau đó? Chả lẽ anh lại có thể biết được rằng cô sẽ bị thương trên bãi đất trống và sẽ rút khẩu “Van-te” ra khỏi chiếc túi cứu thương của mình. 

Có người từ phía sau khoác chiếc áo choàng lên vai anh, còn anh vẫn ngồi trên bờ công sự như trước, không nhúc nhích, không đáp lại một lời nào đó hỏi, hình như lại là giọng của Nết-trai-ép. 

-Đồng chí trung úy, đồng chí run bắn cả người kìa. Đồng chí phải đi… Tốt hơn hết là đồng chí đi vào hầm trú ẩn, chỗ những người bị thương. Ở đó có lò sưởi… Mọi người đã trở về, may quá. Đồng chí hãy nhìn xem… Đồng chí có nghe thấy tôi nói không, đồng chí trung úy? Đồng chí phải sưởi ấm mới được. Mọi người đã trở về, tôi nói rằng… 

-Mọi người à?... Đã trở về à?-Cu-dơ-nét-xốp nghẹn ngào nói như bị vướng ở cuống họng, như thể anh muốn dằn mấy tiếng “mọi người đã trở về, may quá” à bất chợt anh nhìn thấy khuôn mặt xanh nhợt bối rối của Nết-trai-ép ở gần mình-Nết-trai-ép cắn chặt ria mép-anh thì thào gần như không rõ: 

-Anh hãy che mặt cho Dôi-a… Gió tuyết mù mịt mà. Anh hãy che mặt ngay nhé. 

Nết-trai-ép rụt rè bước vào hốc đất, kéo mép tấm vải bạt và thận trọng phủ lên người Dôi-a rồi bước tới bờ công sự. 

Hình như làm thế dễ chịu hơn nên Cu-dơ-nét-xốp thử đứng dậy nhưng đôi chân không chịu nghe anh, anh lại bất lực ngồi lên thành công sự. Chiếc áo choàng do Nết-trai-ép khoác lên tuột khỏi vai, trễ xuống lưng anh. 

Tất cả những gì nâng đỡ anh suốt một ngày một đêm ấy trong tình trạng căng thẳng quá sức, buộc anh làm cái điều không thể làm được, bỗng nhiên rã ra ở trong anh. Lúc này thậm chí anh không định dứng dậy mà chỉ sờ nắn và xoa cuống họng nghẹt lại như bị siết thòng lọng. Và giá như giờ đây xe tăng Đức bắt đầu tiến công hoặc bọn xạ thủ tiểu liên định tiến gần lại chỗ khẩu pháo chắc anh cũng không vượt được mình, không nhúc nhích khỏi chỗ để ra lệnh bắn… 

“Tại sao mọi người đều im lặng và nhìn mình thế? Mọi người đang nghĩ gì? Họ có nhìn thấy mọi việc đã xảy ra không? Đrô-dơ-đốp-xki đâu? Anh ta ở liền bên cạnh cô ấy cơ mà…”. 

Hai chiến sĩ thông tin khiêng anh trinh sát bị cóng đi ngang hốc đất băng qua gò cao, Cu-dơ-nét-xốp hiểu rằng họ khiêng anh ta vào hầm để thương binh, họ lặng lẽ đi, nghi hoặc nghiêng đầu về phía Dôi-a nằm dưới tấm áo choàng. Rồi một người nói: “Thế là cô ấy đi rồi”,-và họ dừng lại vẻ do dự tựa hồ như còn chờ đợi cô sẽ hất tấm vải bạt ra, mỉm cười, giơ tay đáp lại họ và nói bằng giọng âu yếm du dương quen thuộc với toàn đơn vị: “Các chú bé thân mến, sao các chú cứ nhìn tôi thế? Tôi còn sống mà…”. Nhưng phép lạ đã không xảy ra và họ cứ đứng đó, đưa mắt đờ đẫn, dò hỏi chằm chằm nhìn tấm vải bạt trong hốc đất, đổi chân, lúng túng họ khênh anh trinh sát đang rên không thành tiếng. 

-Các anh khênh đi! Sao cứ đứng đực ra thế?-Mệnh lệnh bực bội của U-kha-nốp vang lên và sau một lát im lặng, anh nói không to lắm:-Nết-trai-ép sao cậu cũng đứng như phỗng thế? Khoác áo choàng cho trung úy. Hay là cậu Ru-bin, cậu hãy giúp một tay… 

-Đồng chí trung úy, đồng chí mặc áo choàng vào,-tiếng Nết-trai-ép lại vang lên và người ta lại hất áo choàng từ phía sau lên vai anh. 

-Anh nên đứng dậy, trung úy ạ,-tiếng Ru-bin rầu rĩ ngay trên đầu anh.-Ngồi trên đất anh sẽ tê dại hết cả người. 

-Cứ để áo choàng đấ. Không cần, tôi đã bảo mà. Cứ để áo đấy. Các anh hãy để… 

Tuy vậy anh vẫn đứng dậy, qua sự khẩn khoản của Nết-trai-ép và Ru-bin anh lờ mờ hiểu rằng đứng bên ngoài quan sát họ đã nhận thấy cái gì đó ở trong anh, họ đã nhận thấy có điều gì mới mẻ, đáng sợ, khác thường mà trước đây họ chưa thấy. Anh rùng mình, răng anh vẫn run lập cập như trước, anh cố làm động tác nuốt nhưng không tài nào bắt mình nuốt được cơn nghẹn làm ngột thở. 

Xung quanh anh mọi vật đã rõ dần đường nét trong cảnh tranh tối tranh sáng loãng dần và vẻ im lìm trước bình minh đã trùm lên trận địa pháo, lên thảo nguyên và lên những chiếc xe tăng bị cháy. Tuyết bám vào quần áo làm cho U-kha-nốp và Ru-bin trắng xóa từ đầu đến chân nhưng mặt họ đen nhẻm vì khói súng, họ ngồi trên càng pháo, đặt những khẩu tiểu liên còn nóng hổi trên đùi, chừng như họ đặc những ngón tay không rút khỏi bao tay lên đó để sưởi và cả hai không rời mắt khỏi Cu-dơ-nét-xốp. 

Tên tù binh Đức nằm nghiêng trên mặt bằng đặt pháo cách họ hai bước, tay bị trói giật cánh khuỷu bằng dây lưng, toàn thân cũng đẫm tuyết. Nó vươn đầu ra, than vãn giọng khàn khàn, hình như nó cầu xin gì đó nhưng không ai cởi trói cho nó. Không ai để ý nghe nó nói. Tựa như không có nó. Những âm thanh khàn khàn đó của tên Đức, nỗi sợ hãi của nó, những đau khổ của nó chẳng có ý nghĩa gì lúc này, chẳng có giá trị gì. Và chẳng hiểu sao Cu-dơ-nét-xốp thoáng ngạc nhiên không biết vì sao hắn còn sống, vì sao hắn vẫn còn nói giọng khàn khàn và vẫn còn vườn đầu được ở đây, bên cạnh hốc đất nơi Dôi-a nằm dưới tấm vải bạt. “Người ta đã giữ gìn hắn!-Anh nghĩ và bất ngờ nổi cơn điên khùng.-Giá mình biết thì mọi việc đã không như thế! Đrô-dơ-đốp-xki có trông thấy cô ấy bị thương không?...”. 

-Đại đội trưởng!...-Cu-dơ-nét-xốp gọi rồi anh bước đi không vững, đi tới căn hầm.-Anh có nghe thấy không, đại đội trưởng? 

Đrô-dơ-đốp-xki ngồi ở cuối hầm xoay lưng lại phía anh, không ngửng đầu lên; cuộn băng do anh chiến sĩ thông tin quấn vôi lúc ở bãi đất thấp trắng lạ lùng trên cổ anh ta, làm cho cổ to xù ra, che lấp đôi vai; xương quai xanh của anh ta cong lại và nhô ra nhòn nhọn dưới lần áo choàng, đôi cánh tay lủng lẳng không tự giác. 

-Cậu muốn gì ở tôi?-Anh ta hỏi khẽ. 

-Chỉ có thế này thôi… Anh đi cùng với Dôi-a phải không? 

-Mình đã đi cùng với cô ấy. 

-Anh có trông thấy cô ấy bị thương không? 

-Bọn mình cùng bị một lúc. 

-Thế khi cô ấy rút khẩu “Van-te” ra? Cô ấy đã bắn chứ, đại đội trưởng? 

-“Van-te” à? Khẩu “Van-te” nào? Cậu hỏi gì thế?-Anh ta quay người lại, cặp mắt xanh ướt tròn xoe trên khuôn mặt trái xoan trắng trẻo.-Cậu có chuyện gì với cô ấy thế, Cu-dơ-nét-xốp?... Mình đoán ra rồi… Mình biết cậu muốn gì? Chỉ có điều cậu hy vọng vô ích, vô ích!...

Hàm dưới của Đrô-dơ-đốp-xki run bắn, giật nảy lên, anh ta bị choáng và đã thốt ra những lời nhát gừng đó trong trạng thái trầm uất nghen tuông điên cuồng mà lúc này Cu-dơ-nét-xốp đang tựa mình vào vách hầm, mắt nhắm lại, không hiểu nổi; anh không thể chịu được cái nhìn sững sờ, ốm yếu của Đrô-dơ-đốp-xki, dải băng lòng thòng trên cổ và những vết máu trên cổ áo anh ta. Một giây trước đây Cu-dơ-nét-xốp sẵn sàng thông cảm, tha thứ, quên đi nhiều điều xảy ra giữa họ, nhưng vì Đrô-dơ-đốp-xki bị thương cùng với cô, không thấy Dôi-a đã hy sinh như thế nào, vì cơn ghen này của anh ta-giờ đây không ai có quyền ghen như thế-nên Cu-dơ-nét-xốp sực tỉnh. Chờ một lát rồi anh nói giọng khản đặc: 

-Tốt hơn hết là anh đừng trả lời, đại đội trưởng!-Rồi anh đi khỏi để không hỏi nữa, để dập tắt cơn giận chống lại anh ta ở trong lòng mình, để không nghe, không nhìn thấy anh ta, không tiếp tục chuyện trò. 

-Tất cả là do cái thứ rắn độc này! Tất cả là do anh ta!... Do cái thứ rắn độc này mà cô ấy bị chết! 

Bỗng nhiên Đrô-dơ-đốp-xki huých mạnh khuỷu tay gạt Cu-dơ-nét-xốp vào vách hầm, vùng ra khỏi hầm, miệng méo xệch lại như lên cơn điên, vọt tới chỗ tên tù binh Đức nằm dưới chân bờ công sự đang ì ạch rống lên trong cổ áo. Rồi có tiếng thét vang trên trận địa pháo: 

-A-a, quân súc sinh!... 

Vai anh ta giật nảy vẹo hẳn đi, lưng đu đưa bằng động tác máy móc, tay anh ta cố rút khẩu T.T ra khỏi bao và Cu-dơ-nét-xốp hiểu ý nghĩa của cử chỉ đó, vội lao đến chỗ anh ta. 

-Dừng lại! Quay đằng sau!...-Anh vừa kịp túm lấy cổ tay Đrô-dơ-đốp-xki, dùng hết sức đẩy anh ta sang một bên. Đrô-dơ-đốp-xki đập lưng vào thành hầm, vội vã đứng thẳng dậy, khuôn mặt trắng nhợt dăn dúm. 

-Xéo đi, Cu-dơ-nét-xốp! Xéo đi-i!... 

Từ hai phía U-kha-nốp và Ru-bin lao tới Đrô-dơ-đốp-xki túm lấy khuỷu tay anh ta và dùng thân mình ép anh ta vào góc hầm, còn đầu anh ta hết toài sang phải lai sang trái, ve vẩy cuộn băng sổ tung rồi không kìm được những giọt nước mắt bất lực anh ta cứ luôn miệng kêu; 

-Vì nó đấy!... Vì nó mà cô ấy chết!... 

-Đại đội trưởng xông vào kẻ đã bị tước vũ khí à?-U-kha-nốp nhắc nhở, lay mạnh vai Đrô-dơ-đốp-xki như lay người say rượu,-Việc đó thằng ngốc nào cũng có thể làm được! Thôi, bình tĩnh lại đi, bình tĩnh lại, đại đội trưởng! Anh bị choáng hở? Thằng giặc Đức này thì có nghĩa lý quái gì ở đây? Tỉnh lại đi! Thằng giặc Đức này thì có nghĩa quái gì. 

Đrô-dơ-đốp-xki chợt xẹp ngay, rũ người ra và mệt mỏi trườn ra khỏi cánh tay U-kha-nốp và Ru-bin, co giật thở dốc mấy cái rồi nói: 

-Đúng, mình bị choáng. Đầu cứ ong ong. Nuốt cũng đau, nghẹt thở…-Rồi anh yếu ớt nói thêm, giọng rã rời:-RỒi sẽ qua thôi. Mình về đài quan sát… 

-Băng của anh bị tuột đại đội trưởng ạ,-U-kha-nốp nói.-Ru-bin cậu hãy dẫn đại đội trưởng về đài quan sát và băng bó lại cẩn thận. 

-Ta đi đi, đồng chí trung úy-Ru-bin mời và mắt nhìn xuống đất, đi theo sau Đrô-dơ-đốp-xki trong hào giao thông. 

Tên Đức vặn vẹo người dưới chân bờ lũy, thều thào rền rĩ. 

Còn Nết-trai-ép nét mặt thay đổi đến lạ lùng, không nhận ra được, tựa như nét mặt của người khác, anh ngồi trên lối ra vào hốc đất, nhìn chằm chằm vào chiếc đồng hồ nhỏ xíu mạ vàng mắc vào sợ dây chuyền ngoằn ngoèo mỏng manh, chiếc đồng hồ tròn xoe xinh xắn trên bao tay của anh rồi im lặng. 

-Sao cậu im lặng đi thế?-U-kha-nốp nghiêm khắc hỏi.-Cậu xem giờ à? Để làm gì? Thời gian là cái gì đối với cậu? 

-Đây là chiếc đồng hồ chiến lợi phẩm… ở trong cái túi sắc, thượng sĩ nhớ không?-Nết-trai-ép đap, cắn ria mép, nhếch miệng cười buồn bã, cay đắng.-Chả biết tặng cho ai. Biết làm gì với chiếc đồng hồ này? Chả là tôi định tặng Dôi-a… và tôi nghĩ thế này: mình thật là đứa vô vị. Sao mình lại cứ ngầm thêu dệt cho cô ấy đủ mọi chuyện, cứ coi cô ấy như mọi người đàn bà mà mình đã gặp. Nói dóc. Toàn là chuyện nói dóc cả, thượng sĩ ạ. Chả có một câu chuyện nào thật cả… 

-Vứt cái đồng hồ đi, đủ rồi đấy! Vứt ra ngoài công sự kia kìa! Để cho tôi không phải trông thấy cái thứ chiến lợi phẩm ấy nữa! 

Quay người khỏi Nết-trai-ép, tránh nhìn nụ cười lặng lẽ và cay đắng đó của anh ta, U-kha-nốp rút bao thuốc lá đã nhầu nát của tên Đức, chẳng hiểu để làm gì, anh hít hít bao thuốc, khinh bỉ nhìn nhãn hiệu vẽ một đàn lạc đà đang đi trên cát vàng nóng bỏng ngang qua các kim tự tháp Ai Cập và nói: 

-Như làm bằng rơm ấy,-anh rút mấy điếu thuốc lên, chìa cho Cu-dơ-nét-xốp:-Này, hút đi… 

Cu-dơ-nét-xốp lắc đầu từ chối. 

-Chịu thôi. Mình không muốn hút. U-kha-nốp này, phải giải thằng Đức này về sư đoàn. Ta cử ai đi áp giải hắn nhỉ? 

U-kha-nốp cúi gập hẳn người xuống dưới chân công sự, dùng tà áo bông phanh ra che chiếc bật lửa, châm thuốc hút rồi nheo mắt nhìn về phía bờ bên kia. 

-Bọn Đức ở đó ngủ hay thức?-Sau khi rít hơi thuốc đầu tiên, anh trầm ngâm nói và lập tức nhổ nước bọt ngay.-Khiếp, quỷ quái thật, cái thứ cỏ gì ấy! Như thuốc độc ấy! 

-Ta cử ai áp giải tên Đức đi, U-kha-nốp?-Cu-dơ-nét-xốp nhắc lại.-Ru-bin hay là Nết-trai-ép? Hay là các cậu thông tin này? 

U-kha-nốp lại phình ngực ra rít thuốc thật mạnh rồi thởi khói qua lỗ mũi. 

-Chả có vấn đề gì đặc biệt trung úy ạ. Phải giải tên Đức về sư đoàn. Chả làm thế nào khác được. Chúng mình săn sóc nó để làm gì nào? Anh ở lại trận địa pháo cùng với Nết-trai-ép và Ru-bin. Có thể cần phải bắn. Bản thân tôi sẽ liệu tìm cách giải hắn đi. Chỉ có điều thế này trung úy ạ…-U-kha-nốp rít lên mấy hơi, điếu thuốc cháy đến sát móng tay, anh giẫm đầu mẩu thuốc rồi chậm rãi, đau khổ chăm chú nhìn về phía hốc đất.-Thôi, mọi việc thế là xong, trung úy chắc anh khắc hiểu… 

-Cậu hãy đem Ru-bin theo,-Cu-dơ-nét-xốp khuyên, giọng hơi trầm.-Cậu đi với cậu ta. Sang bên kia phải cẩn thận đấy kẻo vấp phải bọn Đức. Mình ghé vào hầm để thương binh. 

-Được, tôi không thích đàn ông ôm hôn, ta sẽ không tạm biệt nhau, trung úy ạ!-U-kha-nốp vung tay hất khẩu tiểu liên, lên vai, đôi mắt cười cười.-Chúc may mắn nhé, trung úy! Tôi sẽ lấy Ru-bin đi theo. 

Nụ cười trấn tĩnh của U-kha-nốp sau khi anh bày tỏ ý kiến cho rằng dẫu sao cũng giải thích “cái lưỡi” về sở chỉ huy sư đoàn, việc U-kha-nốp sẵn sàng giải tên Đức đi về bờ sông bên kia, trong tình hình như thế này, liều mình không biết lần thứ bao nhiêu trong suốt ngày đêm hôm đó, cơn căm thù muốn báo oán bùng lên trong Đrô-dơ-đốp-xki, sự chấn động của Nết-trai-ép khi ngây người ngắm nghía chiếc đồng hồ nữ nhỏ nhắn trên chiếc bao tay to của mình-tất cả những cái đó như đều thuộc về một cuộc đời xa lạ, không thực nhìn thấy trong cơn mê sảng lúc ốm đau còn cuộc đời thật với ông mặt trời bình thường. Và ánh sáng rõ ràng bình thản, với những âm thanh bình thường, thì đã lùi xa tít vào bóng đêm đen hôm đó, cái bóng đem không thể đo được bằng giờ giấc và anh muốn ngồi trên càng pháo hoặc kiệt lực nằm trên tuyết, nhắm mắt lại mà im lặng. 

“Đúng rồi, mình phải đến chỗ anh em bị thương. Đa-vla-chi-an ở đó… Cậu ấy còn sống không nhỉ? Mình phải ghé tới chỗ những người bị thương. Ghé ngay bây giờ!...”-Cu-dơ-nét-xốp tự nhủ rồi anh nhấc khẩu tiểu liên tưởng chừng như nặng không thể tưởng tượng nổi khỏi mặt đất, tay thõng xuống chúc nòng súng xuống đất và bất giác nhìn vào hốc đất. 

Cơn gió tuyết thổi làm nhăn nhúm tấm vải bạt phủ mặt Dôi-a, và Cu-dơ-nét-xốp lo ngại cơn gió bất ngờ rứt tấm vải bạt ra, phơi trần một cách tàn nhẫn vóc dáng Dôi-a không còn sinh khí, tội nghiệp, nằm co quắp ở trong đó, trong cái hốc đựng đạn lãnh lẽo đó. Kéo lê nòng súng tiểu liên trên đụn tuyết, anh run bắn người vì ớn lạnh, lưng còng xuống, lê bước trên những bậc trổ vào dốc bờ sông. 

Trên ngưỡng cửa căn hầm ngầm lờ mờ dưới ánh sáng hai ngọn đèn dầu bốc khói, trái với không khí lạnh giá ở bên ngoài mùi chua loét ngột ngạt, có vị sắt, mùi mồ hôi, mùi những cuộn băng bẩn, mùi áo choàng được sưởi nóng đập vào mũi anh. Đó là mùi mồ hoi bốc ra từ sự bất lực, từ cơn đau của con người nhưng trong đó người ta vẫn còn cảm thấy sự sống và niềm hy vọng sống. 

Toàn bộ căn hầm ngầm đều chật ních: những người bị thương nằm trên những chiếc sạp bằng đất nện, trên nền, trong các góc-người ta đã đưa tới đây tất cả những ai bị thương trong suốt ngày hom ấy, từ trận ném bom, cuộc tiến công đầu tiên của xe tăng địch hoặc bị thương ngay bên khẩu pháo. 

Hơi nước từ cửa ra vào tuồn xuống phía dưới, làn không khí lạnh ùa vào căn hầm ngột ngạt, trong cảnh tranh tối tranh sáng những thân người ngọ nguậy dưới những tấm áo choàng, nghe rõ tiếng thở, tiếng rên, tiếng nói yếu ớt, kiệt sức do vật lộn lâu dài với cơn đau. 

-Ai đến thế? Cô cứu thương à?... Lại đây cô, tôi lại bị ướt, vết thương cứ rỉ máu mãi… Phải buộc cái thắt lưng vào chân, chứ không tôi cứ như bơi trong vũng nước ấy. 

-Dôi-a, Dôi-a này, ở tiểu đoàn có ai còn sống không? Tình hình ngoài đó như thế nào? Sao tiếng súng rộ lên rồi lặng đi thế? 

Cu-dơ-nét-xốp đứng trong căn hầm ngột ngạt bởi tiếng người vang lên khắp tứ phía và tựa như anh bị đu đưa trên những làn sóng nóng bỏng: chưa một ai trong những người nằm đây hay biết gì hết. Một tiếng nói khẽ từ xa lan khắp căn hầm ngầm làm ngực anh khẽ nhói lên: 

-Không phải Dôi-a các cậu ạ, trung úy đến đấy. 

-Trung úy nào, ở chỗ bọn mình ấy à? 

-Trung đội trưởng trung đội một. Có lẽ anh ấy bị thương. Đứng không vững. Hình như là người duy nhất còn sống sót hay sao ấy. Thế Dôi-a đâu nhỉ? 

Cu-dơ-nét-xốp im lặng. 

Trong hầm ngầm chỉ có hai người còn đi lại được: Xvi-a-tốp, chiến sĩ thông tin bị thương ở vai, đó chính là chú bé tóc trắng đã từng vụng về che giấu nỗi khiếp sợ đầu tiên của mình trong chiến đấu, khi Cu-dơ-nét-xốp nhảy vào hầm thông tin của anh ta trong lúc địch ném bom và Tri-bi-xốp với cánh tay băng bó treo lủng lẳng bằng một tấm băng bẩn đeo chéo. 

Tri-bi-xốp hoạt động bằng cánh tay lành, bác bê hòm đạn để gần chiếc lò sưởi bị nung đỏ rừng rực, phía trên lò những chiếc cặp lồng đựng tuyết đang reo. Trông thấy Cu-dơ-nét-xốp khoác áo bông, đứng không vững ở gần phía cửa ra vào, mắt quầng thâm vì mỏi mệt, bác lập tức rụt đầu lại, mắt nhấp nháy chờ đợi bị đánh hoặc bị la ó, bác thì thào bào chữa lảm nhảm làm như thể Cu-dơ-nét-xốp biết hết mọi điều. 

-Đồng chí trung úy… Tôi đã không chịu nổi, tôi không tự chủ được… Tôi có con, đồng chí trung úy ạ… 

-Đa-vla-chi-an đâu?-Cu-dơ-nét-xốp khẽ hỏi, vứt khẩu tiểu liên vào vách hầm như thể trút một gánh nặng trĩu đè lên mình và giật cổ áo ra, một lần nữa anh lai đưa găng tay lạnh cóng lên xoa cổ họng.-Trung úy Đa-vla-chi-an đâu? 

-Ở đây, đồng chí trung úy ạ, trên sạp ấy, xin đồng chí đi lại đây,-có tiếng thì thào mời mọc từ trong bóng tối lờ mờ của căn hầm-Anh ấy còn sống… cứ hỏi anh luôn. 

Chiến sĩ thông tin Xvi-a-tốp băng bó cho một người bị thương ở trên nền hầm-cổ và vai anh ta quấn băng-chùi tay vào áo bông, mỉm cười với Cu-dơ-nét-xốp một cách trong sáng, vui vẻ như trẻ con, y như thể Cu-dơ-nét-xốp đem theo sự êm dịu vào hầm ngầm. Cách nói và cách nhìn của Xvi-a-tốp thể hiện niềm vui không che giấu của một con người biết rằng mình thoát chết. 

-Đồng chí trung úy, trung đội trưởng trung đội hai nằm ở đây. 

Cu-dơ-nét-xốp bước ngang qua những người bị thương, lại gần những tấm sạp và trong bóng tối anh đã nhận ra Đa-vla-chi-an qua ánh mắt hừng hực khác thường lộ ra sau những giải băng trắng cuốn trên đầu. 

-Gô-ga, còn sống chứ?-Cu-dơ-nét-xốp lên tiếng.-Thế là mình đã đến được với cậu đây, Gô-ga. Mình không thể đến được sớm hơn… 

Toàn thân Đa-vla-chi-an đều bọc trong màu trắng kỳ lạ của bệnh viện: cả cái đầu lẫn hông đầu quấn băng to xụ, chân phủ áo choàng, còn dưới chân anh là chiếc mũ lông, chiếc túi bằng vải bạt được phát lúc thành lập đơn vị, bao súng rỗng với chiếc dây lưng, chiếc cặp lồng đựng nước tuyết. 

-Cô-li-a,-Đa-vla-chi-an thều thào như gió thoảng.-Cậu đã đến đấy à? Cậu không biết mình vui mừng biết chừng nào khi thấy cậu đến, Cô-li-a ạ. Mình đã nhờ Dôi-a nói với cậu. Thậm chí mình còn viết mấy chữ! 

Đôi mắt Đa-vla-chi-an mở to, đen láy, khô khan, ánh lên trên khuôn mặt trẻ thơ giờ đây nhỏ hẳn đi vì băng quấn xung quanh, đã mất đi màu rám nắng, vẻ linh hoạt đầy sinh khí quen thuộc; đôi môi khô vều lên vì mất máu thốt ra những lời nói đó. Nhưng trong giọng nói khác lạ của anh không còn cái trong sáng, cảm động như một hồi ức, không còn cái vẻ học trò, thời bình, trước chiến tranh, đã từng làm cho Cu-dơ-nét-xốp ngạc nhiên sửng sốt. Và chẳng biết để làm gì, có lẽ trong tiềm thức Cu-dơ-nét-xốp mong muốn được nghe cái giọng học trò êm ái trước đây của bạn, anh hỏi. 

-Cậu cảm thấy dễ chịu hơn chứ, Gô-ga? 

-Ừ, mình thấy dễ chịu hơn,-Đa-vla-chi-an vội vã thì thào, đầu hơi quay lại.-Bây giờ mình sẽ sống, mình tin chắc như vậy… Hiện nay chỉ đau thôi, cậu biết không! Cơn mê sảng quái quỷ đã chấm dứt. Nhưng chuyện vớ vấn ấy mà… Tiếc là mình không thể ngồi dậy được vì cái mảnh đạn khốn kiếp ấy!... Mình không thể tha thứ cho mình, mình thương anh em trong đơn vị. Mọi việc bắt đầu từ trận ném bom… Ở trên ấy thế nào Cô-li-a? Cậu hãy kể tất cả đi… 

-Ổn cả, Gô-ga ạ. Trận đánh đã kết thúc. Đêm rồi. Cậu đừng nghĩ đến chuyện đó nữa. Mọi việc đã kết thúc. 

-Đã kết thúc rồi ư… Cậu hạ được mấy xe tăng? Cậu hãy kể xem mọi việc xẩy ra như thế nào? 

-Mình chẳng biết. Mình không đếm. Xe tăng địch nhiều lắm. Chúng tiến công mấy lần. Chúng rút về chỗ cái khẽ rồi lại bắt đầu… 

-Tổn thất lớn hả? Đúng không? Cậu hãy nói thật đi. Mình van cậu… Cậu hãy kể lại mọi chuyện đi! Cố nhiên nếu cậu có thể nói được. 

-Đúng, có tổn thất. 

-Tại sao cậu lại trả lời thế? Cậu không muốn nói à? 

-Không, Gô-ga ạ. Để sau… Mình chịu thôi. Mình mệt.

Trong hầm trở nên im lặng; những tiếng rên bật ra một cách dè dặt. Anh em thương binh chăm chú lắng nghe cuộc trò chuyện khe khẽ giữa hai đồng chí trung úy. Những ai còn sức nhổm người lên một tí thì cố căng mình ra để nắm bắt cho được những tiếng nói còn đôi chút hy vọng làm êm dịu lòng người phát ra từ đồng chí trung úy chưa bị thương chút nào vừa đi tới. Con người này có cái may mắn vẫn nói bằng cái giọng bình thường, vẫn đi lại, cảm thấy thân thể mình còn nguyên vẹn đã làm nảy sinh trong anh em niềm hy vọng được giải thoát khỏi đau khổ; bởi vì như thế có nghĩa là đơn vị vẫn còn sống, ở phía trên đó vẫn còn người. Họ chăm chú lắng nghe hai vị chỉ huy trung đội nhưng không ai nói xen vào, làm đứt quãng câu chuyện chỉ có những người bị thương nặng, bất tỉnh là vẫn rên đều đều trong các góc hầm. 

-Họ chờ đợi điều gì đó ở mình,-Cu-dơ-nét-xốp nghĩ.-“Nhưng bản thân mình không biết một giờ nữa tình hình sẽ ra sao. Mình không biết khi nào có khả năng đưa tất cả bọn họ tới trạm quân y, mình không biết lúc này trạm quân y ở đâu”. 

Còn Đa-vla-chi-an gần như điếc vì băng quấn quanh tai, có lẽ anh không cảm thấy không khí trong hầm trở nên trầm lắng một cách thận trọng; cặp mắt mở to yếu, lơ láo nhìn lên nóc hầm, nhìn vầng trán Cu-dơ-nét-xốp, tìm ánh mắt của anh và hỏi một cách ngượng ngùng xem anh nghĩ gì về mình: anh lên án, thương hại, thông cảm chăng? Rồi Đa-vla-chi-an bắt đầu nói một cách sôi nổi nhưng không rành mạch lắm: 

-Cậu hiểu cho mình, Cô-li-a, lần thứ hai mình không gặp may… Mình là kẻ bất hạnh. Dạo ấy, ở Vô-rô-ne-giơ, mình đã mắc phải cái bệnh quái quỷ ấy còn bây giờ bị thương… Như thế là thế nào? Mình không gặp may, không gặp may! Ấy thế mà mình đã ước mơ được lao ra tiền tuyến, muốn hạ ít nhất là một chiếc xe tăng địch! Mình đã chẳng kịp làm được gì cả. Như cậu đấy, cậu không bị thương, cậu thực rất may mắn. Còn trung đội mình… bắt đầu từ trận ném bom… cậu có hiểu là vô nghĩa, vô nghĩa! Tại sao mình lại không gặp may? Tại sao mình lại xúi quẩy hở Cô-li-a? 

Cu-dơ-nét-xốp im lặng. Qua cặp mắt ươn ướt, qua giọng nói của Đa-vla-chi-an, anh hiểu rằng cậu ta có vì sự bực tức của mình và anh lờ mờ cảm thấy rằng giữa họ có sự ngăn cách về tuổi tác. Họ vừa gắn bó với nhau, vừa khác biệt nhau vì những năm tháng dài vô tận… Đa-vla-chi-an đã ở lại đâu đó ở chỗ chân trời mềm mại, trong suốt, thú vị, đã ở lại trong cái dĩ vang trẻ con, thơ ngây trước đây-trong trường pháo binh. Không, cậu ta không được thấy cái chết của trắc thủ Ca-xư-mốp, cái chết của Xec-gu-nen-cốp lẫn sự hy sinh của anh em pháo thủ ở khẩu pháo của Tru-ba-ri-cốp ngay dưới xích xe tăng địch, cậu ta không được thấy cả tên tù binh Đức, anh chiến sĩ trinh sát trong hố bom cũng như Dôi-a nằm co quắp trong tuyết trên bãi đất thấp, có những vết máu lênh láng từ dưới sườn cô và khẩu “Van-te” mạ kền, nhỏ bé như một thứ đồ chơi nằm lăn lóc ở bên cạnh. Chỉ có một ngày một đêm thôi mà tưởng chừng như hai mươi năm vô tận đã ngăn cách họ và hạnh phúc của Đa-vla-chi-an lại là nỗi bất hạnh của Cu-dơ-nét-xốp bởi vì ký ức của anh đã không được giải thoát, nó giữ lại trong mình tất cả. 

“Cậu ấy bảo: vô nghĩa ư? Vô nghĩa… Nhưng có thể là trong sự vô nghĩa của những gì đã xảy ra vẫn có ý nghĩa thì sao? Sự đời là như vậy đấy và Đa-vla-chi-an không biết tới điều đó. Không, không, không thể nào vô nghĩa được! Tại sao lúc ấy lại xảy ra những việc đó và để làm gì? Tại sao lúc ấy mình đã bắn và thấy ý nghĩa trong việc làm đó? Mình căm thù chúng, mình đã hạ, đã bắn cháy xe tăng địch và mình mong muốn cái ý nghĩa đó! Và khi bọn mình đến chỗ hố bom cũng thế. Đúng vậy, có ý nghĩa chứ, mình biết. Nhưng cái chết của Dôi-a là vô nghĩa, đó là sự vô nghĩa không thể có được! Tại sao lại như vậy? Vừa có ý nghĩa lại vừa vô nghĩa ư?... Đúng, sự đời là như vậy. Chẳng hiểu sao mình không thể nói điều đó với Đa-vla-chi-an được. Giá cậu ta trông thấy cô ấy nằm co quắp ở đó, trên bãi đất thấp, tay thu vào bụng!...”. 

-Mình ghen tị với cậu đấy, Gô-ga ạ,-Cu-dơ-nét-xốp chật vật nói rồi đứng lên, miệng thoáng mỉm cười lặng lẽ, anh chẳng bao giờ mỉm cười như thế cả.-Có thể là cậu gặp may đấy… bởi chiến tranh chưa kết thúc kia mà, Gô-ga. Người ta sẽ điều trị cho cậu ở quân y rồi tất cả những chiếc xe tăng mà cậu mong ước… 

Tại sao anh lại nói như vậy và an ủi Đa-vla-chi-an? 

-Cậu bảo là mình gặp may à?-Đa-vla-chi-an la lên the thé như tiếng gà trống và ngọ nguậy mái đầu quấn băng.-Cậu nói như vậy để làm gì? Để làm gì hả? Thật là trớ trêu, trớ trêu đối với mình… Mình đã bắn được bốn lần!... Mình chẳng kịp làm được gì cả, mình không muốn sự may mắn kiểu đó! Cậu không hiểu mình, mình không muốn sự may mắn kiểu đó! Chẳng qua là cái số mình như thế! 

-Mau chóng bình phục nhé, Gô-ga… Xin lỗi, mình phải về chỗ khẩu đội đây,-Cu-dơ-nét-xốp nói.-Mình sẽ còn ghé đến nữa. Mình hy vọng rằng tới sáng người ta sẽ chuyển tất cả đến trạm quân y. Chuyển tất cả mọi người!-Anh quả quyết nói thêm để đáp lại phần nào những ánh mắt buồn bã, sốt ruột của anh em thương binh từ các góc hầm hướng về anh, không làm gián đoạn câu chuyện của anh và sau khi nói xong anh dđ ra cửa hầm bởi vì anh không còn đủ lời để nói những câu khích lệ khác làm cho họ hy vọng. 

-Cô-li-a,-Từ chỗ nằm Đa-vla-chi-an la lên, giọng cầu khẩn.-Mình mong đợi cậu. Rất mong đợi!... Cô-li-a, cậu hiểu cho nhé, có thể mong đợi đến phát điên lên đấy! Ít ra cũng mau chóng đưa bọn mình tới trạm quân y! Và Dôi-a, các cậu để Dôi-a đến chỗ bọn mình. Ở trận địa pháo đằng ấy có ai bị thương không? 

-Mình sẽ ghé lại, Gô-ga ạ. Đúng thế, mình sẽ ghé lại… sau này.. bọn mình sẽ chuyển tất cả mọi người tới trạm quân y hễ có ô tô. 

Xvi-a-tốp và Tri-bi-xốp đứng sát cạnh nhau gần cửa ra vào, chừng như một số phận giống nhau đã gắn chặt họ lại. Khuôn mặt trẻ trung không biết giấu giếm điều gì, tràn ngập niềm vui sướng của chiến sĩ thông tin Xvi-a-tốp, cái cổ ngẳng của anh ta vươn dài ra từ cổ áo bông, chẳng hiểu sao gợi nhớ tới Xec-gu-nen-cốp. Phải, mọi cái trong người Xvi-a-tốp đều toát ra niềm hy vọng không che giấu muốn được sống, đều nói lên rằng, lạy Chúa, anh ta chỉ bị thương nhẹ, vì vậy anh sẵn sàng vui lòng, xởi lởi chăm nom, săn sóc mọi người, băng bó cho họ và tận tâm hoàn thành bất kỳ mệnh lệnh gì của Cu-dơ-nét-xốp. Nhưng Cu-dơ-nét-xốp không phát ra mệnh lệnh nào cả, anh bước ra cửa hầm ngầm, dừng lại một lát trước cửa ra vào, như thể nhìn không rõ, anh đưa tay quờ quạng vách hầm, mò mẫm khẩu tiểu liên của mình rồi anh mở cánh cửa kêu cót két bước ra ngoài. 

-Đồng chí trung úy… 

Sau lưng anh lại có tiếng cửa cọt kẹt, tiếng bước chân của ai đó như tiếng chân chó đi trên tuyết. 

-Gì thế? Bác đấy à, Tri-bi-xốp. Trong không khí trắng nhờ nhờ lúc rạng sáng, bóng dáng Tri-bi-xốp đi theo anh trông nhòe nhoẹt, không rõ. Ép cánh tay đeo băng trắng vào ngực, bác lảo đảo bước, khuôn mặt nhỏ lem luốc và cặp lông mày giật nảy lên như thể bác bị nỗi đau khổ hành hạ và không thể chịu đựng được, bác quyết định bộc lộ kín đáo nỗi đau khổ đó với Cu-dơ-nét-xốp ở chính chỗ này chứ không phải ở trong hầm. 

-Gì thế hả bác Tri-bi-xốp? Bác muốn nói gì nào? 

-Đồng chí trung úy… Vì Chúa, xin đồng chí hãy tha thứ cho tôi…-Tri-bi-xốp bắt đầu nói, giọng nghẹn ngào vì nước mắt… Tôi xấu hổ lắm… Tôi biết làm gì bây giờ? Đồng chí trung úy, nào tôi có muốn thế đâu. Chắc thượng sĩ đã nói lại tất cả cho đồng chí biết. Tôi đã sợ hãi, sợ hãi, lạy Chúa!... 

Rồi bác túm lấy ống tay áo Cu-dơ-nét-xốp, ấp môi vào đó, khẽ giật nảy người lên. 

-Bác sao thế? Bác thôi ngay đi!-Cu-dơ-nét-xốp nói và rút tay ra.-Bác hãy đi vào hầm ngầm và chăm sóc anh em thương binh. Đi đi, Tri-bi-xốp, đi đi… 

-Tôi thật xấu hổ, xấu hổ. Tôi sẽ nhớ đồng chí suốt đời, đồng chí trung úy ạ. Hãy giết chết tôi đi, giết ngay tại chỗ cũng còn là nhẹ! Tôi đã không tự chủ được…

“Bác ấy làm sao thế nhỉ? Mong sao bác ấy đi nhanh nhanh lên cho!”. 

-Bác về hầm ngầm đi. Đi đi, tôi đã bảo mà… bác sao thế? 

Lại có tiếng bước chân, tiếng huýt lạo xạo ở liền bên cạnh. Cánh cửa cọt kẹt. Căn hầm ngầm yên tĩnh. Bờ sông yên tĩnh. Không một chỗ nào có tiếng súng. Gió tuyết nhảy nhót, xua những gợn trắng lăn tăn trên mặt sông đã đóng băng màu xanh nhợt nhạt với những lỗ hổng đen ngòm to tướng do bom đạn đào khoét, Cu-dơ-nét-xốp tưởng như anh nghe tiếng những mản băng nhọn sắc cọ sát vào nhau, vang lên tí tách như lúc ấy, lúc Dôi-a từ trong hầm của anh em pháo thủ gọi với theo anh và anh đã đưa tiễn cô trên bờ sông, không đi tới căn hầm ngầm. 

Chao ôi, đêm tháng Chạp sao mà não ruột và hoang vắng giữa cảnh tĩnh mịch không một phát súng, trên dải bờ tuyết trắng không có bóng dáng một người lính, giữa cơn gió, tiếng băng tí tách, những cành liễu sần sùi, chọc thủng bóng tối trong bầu không khí bất động, xám xịt, chết lặng trước lúc rạng đông và anh cảm thấy khó thở trong cái giá lạnh kìm hãm vạn vật đó. Anh đứng đó, mắt nhắm lại, chúc tiểu liên xuống đất. 

“Tại sao lúc đó cô ấy lại nói: “Anh hãy hôn tôi đi, như hôn em gái ấy. Anh có em gái chứ?”. Và mình đã trả lời như thế nào nhỉ? ”Tôi không có em gái!...”. Tại sao mình lại nói như vậy?. 

Anh nghĩ như vậy và anh tưởng chừng như cô đang ở đâu đó cạnh đây, cô vẫn còn sống và đêm nay chẳng xảy ra chuyện gì cả, tất cả đều do anh tưởng tượng ra, cô sắp từ bóng tối nhô ra, chiếc dây lưng sĩ quan siết chặt hầu như đến gẫy eo lưng, vận áo choàng ngắn, cô ngước cặp mắt đen láy lên, sương giá trên lông mi lấp lánh, đôi môi và cặp lông mày lá liễu của cô khẽ rung lên vì nụ cười và cô khẽ thì thào: “Cu-dơ-nét-sích, anh và tôi nằm mê thấy tôi đã chết. Anh sẽ thương tôi chút ít chứ?”. 

Nhưng xung quanh hoang vắng, im lìm chết lặng. Chân bị vấp, anh leo lên các bậc trổ trên dốc bờ sông, đi vào hào giao thông và đến cách chỗ khẩu pháo mấy mét anh bỗng chúi ngực xuống thành hào. Sau đó trong cơn tuyệt vọng ngây dại anh ép trán vào những chiếc bao tay sần sùi lạnh giá, có cái gì đó đăng đắng, nóng hổi dội lên trong họng anh, anh chau mày, nghiến răng lại. Lần đầu tiên trong đời anh đã khóc một cách đơn độc, một cái khóc tâm tình và tuyệt vọng. Và khi anh lau mặt, tuyết trên tay áo bông đã nóng rực lên vì nước mắt của anh.

 31.12.2010

LSB-Sun

-=[ Lương Sơn Ẩn Sĩ ]=-

ღ Đại Trưởng Lão QPB ღ

TUYẾT BỎNG

Chương 24

Nguồn: vnthuquan

Nội dung thu gọn

Tới chiều tối Bét-xô-nốp đã trông thấy rõ ràng rằng dù đã đưa ra trậng trung đoàn xe tăng độc lập và sư đoàn bộ binh dự bị “305”, dù lữ đoàn chống tăng độc lập đã hoạt động nhanh chóng và quên mình, dù hai trung đoàn súng cối bắn đạn tên lửa đã bắn rất mãnh liệt cũng vẫn không đẩy được bọn Đức ra khỏi bàn đạp chúng đã chiếm được vào cuối ngày trên bờ sông phía Bắc, không đánh bật được xe tăng của chúng ra khỏi phía Bắc khu làng, nhưng tuy vậy, dù vô cùng chật vật ta cũng đã làm giãn được gọng kìm của địch, kẹp chặt cứng lấy các cánh quân bên sườn của sư đoàn Đê-ép, chọc thủng được một hành lang hẹp dẫn tới trung đoàn của thiếu tá Trê-rê-pa-nốp bị bao vây, đã kiệt sức vì cuộc phòng ngự vòng tròn. 

Đến nửa đêm, trên giải phòng ngự của tập đoàn quân các trận đánh dần dần lặng đi ở khắp nơi. 

Vào giờ ấy Bét-xô-nốp tuy còn nghi hoặc đối với sự lắng dịu đó nhưng ông vẫn thấy có phần hài lòng sau khi nghe báo cáo về hoạt động của sư đoàn “305” đã chọc thủng được hành lang dẫn tới trung đoàn Trê-rê-pa-nốp. Ông ngồi trong hầm ngầm của mình, mệt mỏi lắng nghe báo cáo về tình hình của thiếu tá Gla-đi-lin, phó trưởng phòng tác chiến. Bản báo cáo khô khan, kiểu hành chính. Bét-xô-nốp không ngắt lời Gla-đi-lin lần nào. Vì thần kinh căng thẳng quá, chân ông lên cơn đau: những cơn đau đó lặp đi lặp lại suốt chiều tối, đặc biệt là sau khi ông bị ngã mấy giờ trước đó trong đường hào, chân bị gấp lại không thoải mái, lúc địch pháo kích bằng súng cối sáu nòng. Vì những cơn đau đó, khuôn mặt Bét-xô-nốp vốn đã khô khan càng khô khan hơn, trông hốc hác, sạm lại; thỉnh thoảng ông lại dùng khăn tay lau mồ hôi ở cổ, thái dương, cố tránh đôi mắt chăm chú của thiếu tá Bô-gi-scô chằm chằm nhìn ông, từ lâu anh ta đã nhận ra rằng tư lệnh không được khỏe lắm. 

-Không rõ ràng, thiếu tá ạ,-sau khi nghe báo cáo Bét-xô-nốp nói rồi ông duỗi chân dưới gầm bàn, tìm một tư thế thích hợp. 

Lời nhận xét “không rõ ràng” không liên quan đến báo cáo, cũng không liên quan tới tình hình trong các đơn vị, tuy nhiên Gla-đi-lin-con người đứng tuổi có vóc dáng xương xẩu, tác phong dân sự, vốn điềm tĩnh, lặng lẽ, đã báo cáo các số liệu chính xác, cố gắng không chen xúc động vào-tỏ ra hơi bối rối y như thể ông đã quên lưu ý tư lệnh điều cơ bản mà ông không có quyền không để ý, không biết tới. 

-Xin đồng chí thứ lỗi cho, thưa đồng chí tư lệnh, tôi không hiểu rõ.-Vầng trán cao của Gla-đi-lin đỏ hồng lên, càng làm nổi bật mái tóc bạc như cước chải mượt ở sau gáy. 

-Chiều tối hôm qua,-Bét-xô-nốp nói tiếp bằng cái giọng rin rít của mình,-địch không ngừng hoạt động một giờ nào. Hôm nay, theo tin tức của chúng ta, sau khi đưa lực lượng dự bị ra trận và thậm chí sau khi đã chiếm được một bàn đạp thuận lợi, hoạt động của chúng lắng dịu đi, Thiếu tá có thấy điều đó dường như phi lô-gích không? Có phải là không triệt để không? 

-Tôi nghĩ rằng điều đó gắn với hoạt động của các đơn vị láng giềng của chúng ta ở trung lưu sông Đông, thưa đồng chí tư lệnh. Gắn với hoạt động của các phương diện quân Tây Nam và Vô-rô-ne-giơ. Quả thật màn mở đầu cuộc tiến công hôm nay của chúng ta không thành công lắm nhưng dẫu sao… 

-Có thể thế,-Bét-xô-nốp thốt lên. 

Sau suốt một ngày đêm, gây sức ép có kết quả, gia tăng vội vã đòn công kích,-cảm thấy rất rõ rằng chúng nôn nóng muốn đạt mục đích ngay,-bọn Đức đã ngừng tiến công trong dải phòng ngự của tập đoàn quân, cố nhiên như thế không phải vì đêm tối, không phải cì chúng cần nghỉ để cho bọn lính xe tăng đó lả uống cà phê nóng và ăn bánh lương khô, không phải vì tướng Gốt, tư lệnh đạo quân xung kích sổ mũi tại sở chỉ huy của hắn (Bét-xô-nốp cười khẩy khi nghĩ tới điều đó), mà nhất định là vì những nguyên nhân khác, không lường trước được, mới mẻ, cơ bản. Thời gian phản công đã thỏa thuận với tư lệnh phương diện quân phụ thuộc vào chính cái thực tế mới mẻ này, cuộc phản công đó phải được tung ra không sớm và không muộn-vào lúc có những dấu hiệu rõ ràng chứng tỏ rằng đối phương đã dùng hết lực lượng dự trữ và đã tỏ ra mệt mỏi trong quá trình tiến công. 

Nhưng còn nhiều điều chỉ có thể làm sáng dứt khoát trong một vài giờ tới, có thể là cho tới sáng: bọn Đức sẽ lại bắt đầu hay chung sẽ không bắt đầu tiến công tiếp? Nhằm vội vã nôn nóng vươn tới mục đích, liệu địch có công kích lần thứ hai vào cánh trái của tập đoàn quân, nơi buổi trưa một tốp xe tăng Đức đã đẩy lùi được đội cảnh giới chiến đấu và tới chiều đã tới được bờ sông phía Nam và cũng đã thọc sâu được vào trận địa phòng ngự của quân ta hay không? Tuy nhiên, theo trực giác, Bét-xô-nốp không tin vào sự thay đổi hướng công kích chủ yếu đó, ngoài ra, không có một căn cứ gì để cho rằng địch đang sắp xếp lại lực lượng đối diện cánh trái của tập đoàn quân. Sự thật là thế nào trong toàn bộ tình hình đó? Đâu là sự thật đanh thép? 

-Thưa đồng chí tư lệnh, đồng chí đã gọi nước chè. Xin lỗi, cho mấy thìa đường đây ạ? 

-À phải rồi… hai thìa. Cám ơn. 

Thiếu tá Bô-gi-scô nhấc ấm nước sôi trên chiếc lò sắt, rót đầy một ca nước chè bốc khói, thơm ngát. Sau khi suy nghĩ, anh xúc ba thìa đường vào ca rồi đặt lên bàn trước mặt Bét-xô-nốp. 

Xung quanh ông, trong hầm ngầm, tiếng các chiến sĩ thông tin khi thì vang lên rào rào như tiếng chuồn chuồn đập cánh, gọi sư “305”, trung đoàn xe tăng Khô-khơ-lốp, lữ đoàn pháo độc lập, khi thì chút chít như tiếng chuột trong bầu không khí ẩm ướt đã được sưởi nóng đến ngột ngạt, lớn tiếng nhắc lại những tin điện báo cuối cùng từ các sư đoàn, các quân đoàn nói về tổn thất, về số xe tăng địch đã hạ được và về việc bổ sung đạn dược. Ngọn lửa ở bốn chiếc đèn thắp bằng bấc lắc lư, sáng rực, soi rõ từng nếp nhăn trên khuôn mặt đã sạm lại vì mất ngủ của các sĩ quan tác chiến đang nghiêng mình trên tấm bản đồ, soi rõ cả tấm lưng tròn của chuẩn uý phụ trách máy vô tuyến điên ở góc hầm và của thiếu tá Bô-gi-scô đang đứng cầm ấm nước. 

Nhưng Bét-xô-nốp không để ý đến cảnh tượng trong hầm tuy có nghe và nhìn thấy công việc mọi người đang làm, ông lơ đãng dùng thìa quấy ca nước chè. 

-“Thế ra chúng đã hết hơi và đã lặng đi?-Bét-xô-nốp nghĩ, nhìn ánh đèn sáng rực ở trước mặt.-Hay là dẫu sao chúng cũng vẫn còn sức và lại sẽ bắt đầu?”. 

Không thể trả lời chính xác câu hỏi đó được, ấy thế nhưng ông biết rằng nếu bọn Đức chưa sử dụng hết lực lượng dự trữ và ngày mai nghĩa là trong buổi sáng chúng bắt đầu đợt tiến công mới vào cánh phải của tập đoàn quân, ở đây, trên bàn đạp này, trên dải phòng ngự của sư đoàn Đê-ép thì ông sẽ buộc phải đưa những đơn vị và phương tiện cuối cùng ra trận, nếu không sẽ không thể chống chọi nổi, nghĩa là phải đưa các lữ đoàn thuộc các quân đoàn xe tăng và cơ giới do Đại bản doanh rút từ lực lượng dự bị ra cho để tiến công, các đơn vị này đã tập kết cách tuyến đầu khoảng mười lăm ki-lô-mét. Kết quả là các lực lượng cơ động nhằm để phản công sẽ bị xé vụn ra, sau khi xé vụn chúng, ông sẽ giáng đòn đánh trả địch không phải bằng một nắm đất siết chặt mà bằng những ngón tay xòe ra, điều này không bao giờ có thể đem lại kết quả tuy cách này đã được áp dụng nhiều lần. Chẳng hạn như ông nhớ lại mùa thu năm ngoái, lúc ông chỉ một quân đoàn ở trước cửa ngõ Mát-xcơ-va: lúc ấydưới sức ép của Gu-đê-ri-an, người ta đã cuống quít xé lẻ các đơn vị của cả một phương diện quân dự bị để lấp lỗ hổng trên mọi hướng, nhưng làm như vậy cũng không chặn đứng được kẻ thù tiến công. 

Bét-xô-nốp rút cái thìa nóng khỏi ca nước chè đặc, hỏi: 

-Rốt cuộc khi nào sẽ có liên lạc với ban tham mưu phương diện quân? Chủ nhiệm thông tin đâu? 

-Hiển nhiên là, thưa đồng chí tư lệnh,-thiếu tá Gla-đi-lin trả lời một cách khá chính xác,-khi vận động vào vị trí tập kết trong đêm tối qua quân đoàn xe tăng đã vấp phải cọc… Việc liên lạc sẽ được nối lại ngay. Chủ nhiệm thông tin đã ra tuyến trước từ lâu. 

-Tôi không quan tâm đến những nguyên nhân hỏng hóc. Tôi cần liên lạc! 

Bét-xô-nốp sờ chiếc ca xem có nóng không, uống mấy ngụm-thứ nước chè đặc này vẫn cứ có mùi sắt tây và dường như cả mùi thuốc súng nữa-rồi ông đặt ca xuống, lấy mùi soa lau thái dương và cổ vừa vã mồ hôi. Suốt ngày bận túi bụi với những thông báo bất tận của sở chỉ huy tập đoàn quân, với báo cáo của các quân đoàn, với những mối lo âu về việc dùng các lực lượng của sư đoàn “305” chọc thủng một hành lang hẹp tới chỗ trung đoàn Trê-rê-pa-nốp bị bao vây, Bét-xô-nốp vẫn không ngừng cảm thấy chỗ rát bỏng ở cẳng chân: chân ông đã tê dại, sưng lên một cách phiền toái và lúc ấy để tránh cơn đau, quên đi những dấu hiệu đáng lo ngại của nó, chẳng hiểu sao ông sực nhớ tới phương sách hiệu nghiệm trước đây khi ông nằm bệnh viện-hút thuốc lá thật tợn vào. Sau khi mổ người ta đã nghiêm cấm ông hút thuốc lá, nếu không chừa được cái món ma túy độc hại ấy thì cầm bằng như ông tự nguyện để cho người ta cưa chân mình. Ở bệnh viện người ta đã báo trước cho ông biết rằng vì mạch bên chân phải đập rất yếu cho nên thói quen húy thuốc trong nhiều năm giờ đây đối với ông sẽ trở nên tai hại. 

Nhưng lúc này khi nhớ tới chất ni-cô-tin vừa êm dịu vừa kích thích đó, Bét-xô-nốp liếc nhìn bao thuốc lá “Cu-dơ-bếch” hấp dẫn màu trắng và xanh da trời: bao thuốc lá do ai đó để quên trên bàn, của trưởng phản gián hoặc là Ve-xnin-thấy ông không hút nên cũng không ai dám đụng tới. 

Và như thể trầm ngâm ông vươn người về phía hộp thuốc lá, mở ra, lấy một điếu thuốc đầy đặn, chắc chắn, hít hít hương vị khô khan của điếu thuốc với vẻ khoái trá say sưa chưa quên được. 

“Chỉ một điếu thôi… Trước đây mình không thể chịu được. Thử xem. Một điếu thôi… Nhất là khi Ve-xnin không ở đây”-Bét-xô-nốp tự nhủ, ông tưởng tượng việc này sẽ làm cho uỷ viên Hội đồng quân sự ngạc nhiên thú vị như thế nào, là một người nghiện thuốc hạng nặng, chắc chắn Ve-xnin sẽ bỏ kính ra, dướn mày lên và hỏi: “Ô kìa, chả lẽ anh cũng hút thuốc đấy à, Pi-ốt A-lếch-xan-đrô-vích?”. 

-Chả lẽ đồng chí cũng hút thuốc, thưa đồng chí tư lệnh?-thiếu tá Gla-đi-lin hỏi có phần hơi thắc mắc một cách rụt rè, ông với lấy bao diêm ở bàn để châm lửa cho Bét-xô-nốp. Cả Bô-gi-scô cũng như các sĩ quan tác chiến và các chiến sĩ thông tin lặng im trong giây lát, tất cả đều nhìn ông chòng chọc. 

Thấy mọi người đều chú ý đến mình, Bét-xô-nốp bóp chặt đầu lọc của điếu thuốc, không hài lòng, bực bội trước những sự “quan tâm” đó. Có lẽ ở ban tham mưu tập đoàn quân cũng như ở đây, tại sư đoàn của Đê-ép người ta đã biết rõ những thích thú, thói quen và nhược điểm của ông: người ta đã báo trước cho nhau biết rằng nếu như không lâm vào tình thế khó xử thì chớ có để tư lệnh bất bình hoặc đưa ra nhận xét không cần thiết. 

-Như vậy là… tôi hết sức quan tâm muốn biết: khi nào sẽ liên lạc với ban tham mưu phương diện quân?-Bét-xô-nốp cố nén sực bực bội trong giọng nói lúc này vang lên một cách lịch thiệp quá mức và sau khi thở ì ạch, ông không chỉ hướng về riêng Gla-đi-lin:-Tôi cũng hết sức muốn biết tại sao cho đến nay vẫn không rõ uỷ viên Hội đồng quân sự đã tới được chỗ tập kết các lượng dự bị của tập đoàn quân hay chưa? Đồng chí ấy ở đâu? Anh hãy hỏi lại các quân đoàn xe tăng và cơ giới một lần nữa. Cho tới lúc này đồng chí ấy đã phải có ở đó rồi. Sao lâu thế? 

Thiếu tá Gla-đi-lin trả lời một cách nhã nhặn: 

-Tôi được biết, thưa đồng chí tư lệnh, uỷ viên Hội đồng quân sự đã không ghé qua ban tham mưu tập đoàn quân. Có thể là trên đường đi tới chỗ quân đoàn xe tăng Vi-ta-li I-a-ê-vích đã dùng dằng ở đâu đó trong các đơn vị của thê đội một. Rất có thể là… 

-Anh hãy hỏi các quân đoàn, sư đoàn “305”, trung đoàn Khô-khơ-lốp xem… Và tôi yêu cầu cho tôi liên lạc với phương diện quân! Tôi chờ. 

Bét-xô-nốp bực tức đặt điếu thuốc đã bóp nát vào hộp, gõ ngón tay trên mặt bàn. Trong tình huống có sự lắng dịu lờ mờ này ông cần liên lạc trực tiếp được với ban tham mưu phương diện quân như máu cần chảy trong huyến quản và đồng thời ông cần biết, rốt cuộc uỷ viên Hội đồng quân sự hiện ở đâu mà suốt ba tiếng đồng hồ không cho biết tin tức về mình. Ông không trình bày cái tình huống khiến ông lo ngại đó, cái tình huống tưởng như không thể nào giải thích được. 

-Tôi vừa mới nói chuyện với sư “305”, thưa đồng chí tư lệnh. 

Tuy nhiên, thiếu tá Gla-đi-lin cũng cầm lấy ống nghe trong tay người phụ trách điện thoại. Cố đáp ứng yêu cầu của Bét-xô-nốp muốn biết ngay việc Ve-xnin đã tới quân đoàn xe tăng hay chưa. 

Khi gọi về ban tham mưu phương diện quân, chuẩn uý phụ trách vô tuyến điện cúi thấp người hơn nữa sát máy, kinh nghiệm giao tiếp thường xuyên với cấp trên đã khiến anh ta không rườm lời và không phô trương. Anh ta tựa như đã hòa tan vào góc hầm, vô hình vắng mặt, chỉ còn nghe thấy giọng nói đều đều: 

-“Ăng-ten”,”Ăng-ten”! “Điểm cao” đây. “Điểm cao” đây! Tôi đang tìm làn sóng: một, hai, ba. 

Bét-xô-nốp lắng nghe những tiếng gọi đó, thậm chí cảm thấy hơi thương hại đối với người phụ trách vô tuyến điện đang căng thẳng một cách vô ích, ông xoa bóp chân ở dưới gậm bàn, cơn đau dai dẳng bò từ đầu gối lên hông. 

-Liên lạc với “Ăng-ten” thế nào, chuẩn uý? Trạm vô tuyến điện của họ không hoạt động à? 

-Không trung khó hiểu lắm, thưa đồng chí tư lệnh. Tôi bắt được làn sóng nhưng chúng tôi không nghe rõ tiếng nhau… Vô tuyến điện của Đức và Ru-ma-ni đâm ngang vào. Có cái gì đó rất rối rắm. Đây đồng chí hãy nghe xem… 

Sự phóng điện trong ra-đi-ô, tiếng súng bắn tành tạch trong không trung ùa vào bầu không khí ấm áp và ẩm ướt của hầm ngầm; người phụ trách vô tuyến điện bật máy nghe, giọng nói bằng tiếng Ru-ma-ni trườn như con rắn mềm mại giữa tiếng điện lạo xạo rồi biến mất tăm, một mệnh lệnh bằng tiếng Đức cứng quèo, ê a như ngâm ngợi, vọt ra như thể chúng đang đọc một bức điện báo, những tiếng phóng điện trong không trung và tiếng đánh moóc tạch tè hối hả lấn át tất cả. Địch đang trao đổi với nhau bằng thứ tiếng lạ tai tại các ban tham mưu và các sở chỉ huy: vào giờ này các trạm vô tuyến điện của Đức và Ru-ma-ni hoạt động rất nhiều, đó là điều ít thấy trước khi chuẩn bị nghiêm túc cho cuộc tiến công. Lúc ấy các máy vô tuyến điện thường im bặt, không trung tưởng như thanh bình và yên tĩnh. 

Lúc này đây không trung sôi động vô cùng. Bét-xô-nốp mệt mỏi cụp mi mắt xuống lắn nghe những con số xa lạ, uổng công dò đoán nguyên nhân của những cuộc trao đổi qua vô tuyến điện bằng những thứ tiếng xa lạ đó, và nghĩ: 

“Không biết ban đêm chúng gọi nhau loạn xạ như thế để làm gì? Chúng đang chuẩn bị cho sáng mai chăng? Tại sao các máy vô tuyến điện Ru-ma-ni lại hoạt động?”. 

Tiếng người nói, tiếng bước chân đi, tiếng ồn ào ở ngách hầm bên cạnh nơi Đê-ép ngồi cùng với các sĩ quan tác chiến ở các tiểu đoàn pháo, tiếp đó là tiếng gõ cửa rất mạnh-tất cả những âm thanh đó dứt Bét-xô-nốp ra khỏi dòng suy nghĩ. 

-Đồng chí cho phép vào, thưa đồng chí tư lệnh? 

Đại tá Đê-ép bước vào, đầu không đội mũ, khom mình ở cửa ra vào vì người cao quá khổ, vóc dáng đồ sộ của anh choán hết một phần ba căn hầm, cặp lông mày màu hung nhạt của anh như vui vẻ tròn xoe lại. Trong vòng nhiều giờ tiếp xúc với anh tại đài quan sát, Bét-xô-nốp đã có dịp gần gũi anh và không quên rằng ông đã tỏ ra trìu mến đối với Đê-ép lúc anh định xông pha đến tận chỗ Trê-rê-pa-nốp bị bao vây. Tuy vậy Bét-xô-nốp vẫn hỏi một cách khô khan, không bộc lộ cảm tình của mình với người sư đoàn trưởng trẻ nhất trong tập đoàn quân. 

-Có tin gì mới không đại tá? Tôi nghe đây. 

-Thưa đồng chí tư lệnh, đồng chí cho phép báo cáo-Đê-ép bắt đầu nói bằng giọng trầm đậm đà, oang oang của mình, niềm hân hoan đắc thắng toát lên qua giọng nói và ánh lên trong cặp mắt màu hung vàng óng của anh.-Thưa đồng chí tư lệnh, các chiến sĩ pháo binh ở trung đoàn 204, một tiếng rưỡi trước đây đã mang được người chiến sĩ trinh sát bị thương của ta và một ”cái lưỡi” bắt được đêm hôm trước về đây, có thể nói họ đã mang ra ngay trước mũi bọn Đức. Anh em đã đưa tên tù binh tới đài quan sát. Đây chính là kết quả hoạt động của chính đội trinh sát của tôi, đêm qua đã không trở về!...-Và không thể kìm được niềm hân hoan đắc ý, Đê-ép mỉm cười rạng rỡ để lộ hàm răng trắng lóa của mình.-Tên Đức quả thực đã bị cóng lạnh quá mức. Nhưng lưỡi hắn vẫn còn động đậy được và hắn vẫn còn nhớ được một số điều. Chúng tôi đã cho quân y săn sóc hắn và đã gọi phiên dịch tới. Dẫu sao các chàng trai của tôi đã không để tôi bị hẫng! Không, có thể tin vào họ được! Đồng chí có ra lệnh gì không, thưa đồng chí tư lệnh? 

Mọi người trong hầm ngầm-những người phụ trách điện thoại, các sĩ quan tác chiến và thiếu tá Gla-đi-lin lặng lẽ-đều quay người về phía Đê-ép. Giọng nói trầm của anh, vóc dáng lực lưỡng của anh toát ra vẻ thanh xuân tươi tắn, rạng rỡ, vững chãi. Lời báo cáo của anh và ngay câu hỏi “đồng chí có ra lệnh gì không?” cho thấy sự hả hê không che giấu đối với đội trinh sát của sư đoàn mình, sự hài lòng vì tên Đức còn sống và vì bản thân anh, một sư đoàn trưởng, ắt hẳn không phải là đồ vô dụng. Và Bét-xô-nốp bỗng nhớ tới lúc Đê-ép lần đầu tiên giới thiệu sư đoàn của mình với ông trước lúc cho quân xuống tàu: trong anh có cái gì trẻ thơ, ngang tàng, dũng mãnh, có lòng tin chất phác, huênh hoang vào những người mà anh chỉ huy. Anh là một đại tá trẻ may mắn, nhiều thành tích, mới đây còn là một tiểu đoàn trưởng. 

“Cái cậu Đê-ép này có cái phẩm chất như của một thanh niên: lòng tôn trọng bộ quân phục một cách thái quá đến mức huênh hoang”,-ông thoáng nghĩ và chẳng hiểu sao ông dễ dàng tha thứ cho cái nhược điểm ngây thơ, chất phác đó của anh. Đã tưởng không còn phải nghe nói gì về cái đội trinh sát thất bại được cử đi làm nhiệm vụ vào tối hôm qua đó, ông hỏi không khỏi ngạc nhiên: 

-Bằng cách nào các chiến sĩ pháo binh đã đưa được “cái lưỡi” tới đây? 

-Các chiến sĩ pháo binh ở bờ phía Nam, những người đặt súng bắn thẳng. Có thể nói họ đã vượt khỏi vòng vây để tới đài quan sát.-Đê-ép nhìn Bét-xô-nốp từ phía trên ngọn đèn bằng đôi mắt rực sáng, đắc thắng và cặp lông mi của anh vui tươi, vàng suộm như những tia nắng hè. 

-Các chiến sĩ pháo binh ở đâu? 

-Họ đã trở về đơn vị rồi. Ở đó họ chỉ còn có bốn người. Tiện thể xin nói luôn là tên Đức đã xác nhận, thưa đồng chí tư lệnh… 

-Nó xác nhận cái gì? 

-Hôm qua chúng đã đưa sư đoàn xe tăng mới tinh ra trận. 

-Ta sẽ xem “cái lưỡi” đó như thế nào?... Quả thực là muộn màng. Nhưng dẫu sao đó cũng vẫn là một cái lưỡi. 

Bét-xô-nốp thu chân lại dưới gậm bàn để đứng dậy cho thuận tiện hơn, ông tì tay vào gậy, vươn mình lên và cảm thấy đầu gối như có kiến đốt bỏng rát. Giây lâu ông còn nghe những tiếng gọi rền rĩ của người phụ trách vô tuyến điện: “Ăng-ten!” “Ăng-ten!”…-rồi khoác chiếc áo choàng ngắn do Bô-gi-scô đưa cho lên lưng, ông tập tễnh đi về phía cửa hầm do đại tá Đê-ép mở rộng cửa trước mặt ông.

 31.12.2010

LSB-Sun

-=[ Lương Sơn Ẩn Sĩ ]=-

ღ Đại Trưởng Lão QPB ღ

TUYẾT BỎNG

Chương 25 -1 

Nguồn: vnthuquan

Nội dung thu gọn

Tên tù binh Đức ngồi trước bàn của chủ nhiệm trinh sát, y vận chiếc áo khoác lót bông với chiếc cổ bẻ bằng lông, cổ tay trái bị băng bó đặt trên đầu gối; đôi má sưng phù húp híp trắng bệch với những vết tím thẫm, cặp mắt đầy dử, nằm xa tinh mũi, mái tóc xõa trên đầu che lấp chỗ hói, y làm ra bộ dửng dưng với mọi việc chung quanh. Lýc Bét-xô-nốp bước vào hầm ngầm, y đứng dậy theo lệnh của người phiên dịch; nhìn thấy quân hàm của ông, y hơi vểnh cái cằm râu ria tua tủa lên và cố líu ríu nói cái gì đó. Người phiên dịch dịch cho Bét-xô-nốp nghe: 

-Y rất sung sướng vì sẽ được một vị tướng Nga hỏi cung. Y chỉ cầu xin một điều: hoặc là đưa y tới bệnh viện hoặc là đem y ra xử bắn. Sau những đau khổ mà y đã phải chịu đựng, y chẳng sợ hãi gì hết. 

-Cứ để cho y ngồi,-Bét-xô-nốp nói.-Chẳng có gì đe dọa y cả. Chiến tranh đối với y đã chấm dứt. Y sẽ được đưa tới bệnh viện dành cho tù binh. 

-Thiếu tá Ê-rích Đi-sơ, sĩ quan liên lạc của phòng tham mưu sư đoàn xe tăng số 6 thuộc tập đoàn quân xe tăng số 57,-trung tá Cu-rư-sép, chủ nhiệm trinh sát của sư đoàn báo cáo. 

Đã lâu chưa khi nào Cu-rư-sép lo lắng trước số phận ban trinh sát của mình như trong mấy ngày đêm ấy. Vốn rất dè dặt ông khêu bấc ngọn đèn dầu một cách thận trọng như một con người biết rõ công việc của mình trong chiến tranh thường chẳng dễ dàng, hay gây bực mình, và có nhiều nguy hiểm, ông đưa mắt nhìn quyển sổ mở rộng trên chiếc bàn nhỏ ghi chép cuộc hỏi cung có lẽ bắt đầu từ trước khi Bét-xô-nốp tới. Sau đó ông đọc một cách mệt mỏi, hơi kiểu cách, những điều ghi trong sổ, thông báo cho tư lệnh biết rằng tù binh là tên thiếu tá Đi-sô-sinh ở Đuy-xen-đoóc-phơ, bốn mươi hai tuổi, đã được thưởng huân chương Chữ thập sắt hạng Hai do tham gia các trận đánh ở gần Mát-xcơ-va, đảng viên đảng Quốc xã từ năm ba mươi chín. Ông hạ giọng nói thêm rằng căn cứ theo những chi tiết này có thể biết rằng rạng sáng hôm qua anh em trinh sát của chúng ta đã bắt được một tên cáo già trong chiếc xe con của y trên đường cái khi y nhận nhiệm vụ từ ban tham mưu quân đoàn trở về phòng tham mưu sư đoàn. 

Với cách giải thích đó, chừng như Cu-rư-sép muốn gợi ý trước cho tư lệnh là khi hỏi cung có lẽ nên đề phòng khả năng tên tù binh khai nhảm để đánh lạc hướng, ấy thế nhưng Bét-xô-nốp dường như bỏ qua không chú ý gì tới những chi tiết được nhấn mạnh trong tiểu sử tên tù binh, ông trầm ngâm đi lại cho giãn căng chân, từ đầu vách này tới đầu vách kia của căn hầm ngầm, vừa đi ông vừa hướng về phía người phiên dịch, một đại uý có cặp má hồng hào. 

-Y khai rằng sư đoàn 6 đã được đưa vào trận hôm qua à? 

-Thưa đồng chí tư lệnh, không phải thế. Theo lời khai của y, hôm qua sư đoàn xe tăng số 17 đã tham chiến. Nó thuộc lượng dự bị của tập đoàn quân “Sông Đông”. 

Im lặng. Trong hầm ngầm phảng phất mùi thuốc gì đó, mùi da lạnh lẽo của thứ áo khoác xa lạ, mùi mồ hôi không quen thuộc; ngọn lửa phần phật trong lò sưởi để ngỏ ô cửa nhỏ, những tia lửa màu đỏ thẫm bay lả tả trên những thanh sắt lò bị nung cháy. Anh em trinh sát lặng lẽ chờ đợi câu hỏi tiếp của Bét-xô-nốp. Đại uý phiên dịch trẻ măng nổi bật bởi đôi mắt sôi nổi, linh hoạt, đã được ngủ đẫy giấc, vươn thẳng người quá mức cần thiết, chiếc cổ áo giả bằng xen-luy-lô-ít có rẩy nước thơm Ô-đơ-cô-lô-nhơ ánh lên trên cổ anh lúc anh quay đầu khi thì về phía Bét-xô-nốp, khi thì về phía tên Đức. Mặt anh đỏ rừ chắc là vì chờ mãi vẫn chẳng thấy Bét-xô-nốp nêu lên câu hỏi gì, chỉ thấy ông lộc cộc chống gậy bước đi tập tễnh trong căn hầm yên tĩnh, chiếc áo choàng ngắn khoác trên vai, thỉnh thoảng lại đưa đôi mắt sưng húp đỏ khè nhìn tên Đức. 

“Vậy thì đây là một tên Đức như thế nào đây? Y thuộc hàng sĩ quan? Y đã đánh nhau ở gần Mát-xcơ-va? Y đã bắt đầu từ năm bốn mốt…”. 

Còn tên Đức vẫn không thay đổi tư thế trước đây: dửng dưng với tất cả, cặp mắt lụi tắt nhìn bao tay lót lông đỡ cổ tay trái mới được băng lại. Y vẫn còn mong muốn giữ cho được vẻ đĩnh đạc của một viên sĩ quan Đức đã bị tước đoạt vũ khí, bị bắt làm tù binh, ấy vậy nhưng hoàn toàn dửng dưng với sô phận của mình-người Nga hẳn đã phải hình dung y đúng như vậy. Nhưng cái cung cách y hồi hộp đớp không khí trong hầm ngầm qua đôi lỗ mũi mở rộng đã bộc lộ cho Bét-xô-nốp biết một cách chắc chắn tên Đức này đang chuẩn bị cái gì. 

Từ năm bốn mươi mốt, Bét-xô-nốp luôn luôn cảm thấy vẫn cái cảm giác tò mò thầm kín và không được thỏa đó khi tình cờ hoặc không tình cờ hỏi cung tù binh. Ngoài lòng mong ước tìm hiểu những điều cần thiết, những điều quan trọng mà ông phải nắm được một cách chi tiết, về những hành động dự định của quân đội đối phương mà ông đã chiến đấu chống lại trong hơn một năm nay, bao giờ ông cũng đặc biệt thiết tha mong ước am hiểu cặn kẽ, chính xác sự thật, tâm trạng của đối phương: các ngươi là hạn người như thế nào vậy, hỡi những tên Đức đã từng chiếm hầu hết châu Âu, đang đánh nhau ở châu Phi và đã gây nên cuộc chiến tranh chống chúng ta? Tên thiếu tá Đức lực lưỡng này, với thân hình chắc nịch và bàn tay bị cóng, đôi má bị cóng, bị bắt đêm hôm trước trong xe của mình sẽ nói gì và nghĩ gì trong giây phút này? 

Nhưng kìm mình không nêu câu hỏi về việc tên thiếu tá Đức nghĩ gì vè các cuộc chiến đấu ở gần Mát-xcơ-va về các cuộc chiến đấu hiện nay ở Xta-lin-grát, Bét-xô-nốp hỏi: 

-Sư đoàn xe tăng số 6 đã được biên chế vào tập đoàn quân “Sông Đông” ở Xta-lin-grát khi nào? Sư đoàn đó từ đâu tới? 

Viên đại uý có cặp má hồng sôi nổi dịch. 

Tên Đức bắt đầu trả lời một cách dửng dưng lạnh lùng, dè xẻn buông ra từng tiếng, bàn tay đeo găng lót lông đỡ lấy cổ tay bị băng bó, còn viên đại uý phiên dịch thì sung sướng một cách vô cứo, mỉm cười với Bét-xô-nốp, bắt đầu dịch lại với vẻ thỏa mãn rõ rệt vì mình hiểu rõ câu trả lời của tên tù binh: 

-Mười ngày trước đây sư đoàn đã đi từ Pháp tới Cô-ten-ni-cô-vô. Người ta không chở chúng tôi đi ngang qua Pa-ri mà đưa chúng tôi đi đường vòng. Không dừng chân lại ở Béc-lin. Đến Ba-ra-nô-vít-sơ tất cả đều cảm thấy đã ở gần chỗ du kích của các ông lắm vì thấy những đầu tầu và toa tầu đổ ngổn ngang bên lề đường xe lửa. Chẳng ở chỗ nào có điện bình thường cả. Các trạm phát điện không hoạt động. Bri-an-xcơ chìm ngập trong tuyết. Xe chúng tôi băng ngang qua Cuốc-xcơ và Ben-gô-rốt, thế rồi bắt đầu là thảo nguyên. Thảo nguyên mênh mông, man rợ. Chúng tôi đoán là mình đang đi về phía Xta-lin-grát. 

-Từ nước Pháp tới à?-Bét-xô-nốp hỏi lại. 

-Ở Pháp sư đoàn được bổ sung và trang bị lại sau những trận chiến đấu ở gần Mát-xcơ-va… Chúng tôi tưởng như về mùa đông những thảo nguyên mênh mông này rộng gấp hàng chục lần nước Pháp. Những thảo nguyên trống rỗng và những vạt tuyết vô tận. Còn cái lạnh ở Xta-lin-grát thì cũng y như ở Mát-xcơ-va vậy. 

“Phải, gấp hàng chục lần người Pháp,-Bét-xô-nốp cay đắng đồng ý. Ông hình dung trên bản đồ cái khoảng không gian im lìm ngưng đọng trong tuyết trắng, bị vây bọc giữa rừng rú và thảo nguyên, khoảng không sâu thẳm đồ sộ bị quân đội Đức chiếm đóng và như lệ thường, khi quay trở lại vấn đề đó bao giờ ông cũng bị ám ảnh bởi ý nghĩ:-Nhưng chúng cảm thấy điều gì? Nỗi sợ hãi trước khoảng không mênh mông mà chúng đã chiếm được chăng? Sợ hãi vì chúng không giữ nổi một lãnh thổ như thế và sớm muộn rồi đằng nào chúng cũng phải cuốn gói rút lui chăng? Tại sao tên thiếu tá này lại nhớ tường tận con đường nó đi trên nước Nga như vậy?”. 

Vừa đi lại trong hầm ngầm, Bét-xô-nốp vừa hướng về người phiên dịch: 

-Anh hãy hỏi y xem tại sao y lại bực bội như vậy khi nghĩ tới con đường đi từ người Pháp tới đây? 

-Zigaretten! Meine zigaretten! (Thuốc lá, thuốc lá của tôi)-Tên Đức nói, hàm răng va vào nhau lập cập khi vừa nghe đại uý dịch câu hỏi của Bét-xô-nốp. Lần đầu tiên cặp mắt mờ đục của y rời khỏi góc hầm lướt trên mặt bàn, đồng thời y nuốt nước bọt, bực bội nói một thôi một hồi cái gì đó. Người phiên dịch im lặng. 

-Y nói gì thế?-Bét-xô-nốp hỏi. Viên đại uý má hồng bối rối, mặt đỏ lựng đến tận cổ áo giả bằng xen-luy-lô-ít, nhún một bên vai, bắt đầu dịch một cách ấp úng:

-Binh lính của ông đã tước mất của tôi bao thuốc lá Pháp và chiếc bật lửa. Cái chính là họ đã tước quyền hút thuốc lá của tôi. Các ông đã bắt tôi làm tù binh và các ông có thể muốn làm gì tôi thì làm. Nhưng tôi xin thỉnh cầu các ông một sự rộng lượng nho nhỏ: hãy cho tôi dù chỉ một điếu thuốc thôi. Ở Pháp ngay đến người tù bị kết tội tử hình cũng được người ta cho hút thuốc và uống rượu trước khi chết. Cố nhiên người Pháp… Người Pháp đó là mặt trời, phương Nam, niềm vui… Còn ở nước Nga thì tuyết cháy bỏng. Nhưng mà tôi đã không được hút thuốc suốt cả một ngày đêm trong cái hố đó, nơi binh lính của ông giữ chặt lấy tôi trong nhiều giờ như là một con lợn thảm hại bị dây thừng trói chặt. Xin rộng lượng cho tôi một chút, trong năm phút thôi. Để hút một điếu thuốc. 

“Rộng lượng…-Bét-xô-nốp cười khẩy trong lòng khi nghe nói tới cái khái niệm tốt đẹp từ xửa xưa đó, cái khái niệm đã bị chính tên thiếu tá Hit-le này hủy hoại từ hơn một năm trước đây.-Y cầu xin rộng lượng ư? Sau khi đã ở người Pháp rực nắng…”. 

-Đưa bao thuốc lá cho y,-Bét-xô-nốp nói với giọng không bằng lòng.-Hình như y đã có lần hỏi xin rồi phải không? Thuốc lá của y đâu? Tại sao không trả cho y hở trung tá? 

-Đây là lần đầu tiên y hỏi xin, thưa đồng chí tư lệnh. Khi giải y tới đây và băng bó cho y, y chỉ nghiến răng trèo trẹo và chửi bới. Thưa đồng chí tư lệnh, đồng chí thấy đấy, tên Đức này không phải là đứa thường. Mọi đồ vật của y đều đã để trước mặt y. 

Dường như để chứng tỏ điều đó, chủ nhiệm trinh sát khêu cho ngọn đèn cháy to lên và sắp xếp lại một cách vô ích các đồ vật và tài liệu của tên tù binh choán chỗ trên một phần mặt bàn: một chiếc ví bỏ ngỏ đựng thư từ và những tấm ảnh, chiếc huy chương, con dao díp nhỏ xíu đeo ở đầu dây chuyền-đó là tất cả những thứ anh em pháo binh đã trao lại khi giải tên tù binh tới; không thấy họ trao lại thuốc lá. Mệt bã người sau một đêm mất ngủ, thái dương hóp lại, lốm đóm vàng, mắt bụng bịu, Cu-rư-sép nghiêm khắc nhìn chằm chằm chiếc huy chương của tên thiếu tá, hít một hơi mạnh, vẻ mặt của ông như có ý nói với Bét-xô-nốp; “Anh em trong phân đội của tôi đã hy sinh, thưa đồng chí tư lệnh. Nhưng giá như họ còn sống khỏe mạnh, chắc có lẽ tôi đã trừng phạt họ vì sự cẩu thả này!”. Rõ ràng là tên Đức đã đánh giá sự nghiêm khắc và tiếng thở sâu này của Cu-rư-sép theo kiểu của y: khóe miệng rộng hoác của y nhăn lại thành cái cười khẩy, y tức giận đối với bản thân và căm thù người Nga, những người đã bắt y phải hạ mình, suốt cả ngày đêm khổ sở vì cái rét, đái cả ra quần trong lòng cái hố bom đó. 

-Nào, nhanh lên, đưa thuốc cho y nhanh lên,-Bét-xô-nốp nói. 

-Có thể đưa thuốc của tôi được không ạ, thưa đồng chí trung tướng?-Đại uý phiên dịch hỏi và có vẻ sẵn lòng rút bao thuốc lá “Pu-sca” ở trong túi áo choàng ra, thoạt đầu anh đã toan chìa cả bao thuốc cho tên tù binh để y tự rút lấy một điếu nhưng nghĩ lại, anh lắc lắc bao thuốc rồi đặt nó ở trên bàn, mỉm cười, mặt đỏ lựng. 

Tên Đức vươn người về phía trước, nuốt nước bọt đánh ực, chìa những ngón tay chưa duỗi hẳn ra được về phía bao thuốc lá đã bóc, đờ đẫn chộp lấy một điếu, miệng thốt lên một điếu gì đó. 

-Y xin lửa. Người ta cũng tước mất cả bật lửa của y,-đại uý má hồng bối rối nói rồi có phần do dự rút chiếc bật lửa của mình ra, cũng là chiếc bật lửa Đức, bật lửa lên, chìa cho tên tù binh châm thuốc miệng càu nhàu: “Bitte sche” (Xin mời). 

-Anh em trong đơn vị tôi thuộc điều lệnh lắm,-chủ nhiệm trinh sát nói, vẫn xem xét chiếc huy chương của tên tù binh để trên bàn.-Chắc là anh em pháo binh xử sự tùy tiện, thưa đồng chí tư lệnh. 

“Rộng lượng”, Bét-xô-nốp tức giận nghĩ.-“Không, chúng ta rộng lượng quá rồi. Chúng ta quá tốt bụng và quá hiền rồi. Quá ư rồi”. 

-Thế ra là binh lính Nga đã xúc phạm tới anh hả? Họ đã tước đoạt một cách tàn nhẫn và độc ác thuốc lá của một sĩ quan Đức tốt bụng đi từ Pháp sang Nga với những mục đích tốt đẹp nhất chăng? Tiếc thay họ không biết rằng quyền hành cao hơn sức mạnh,-Bét-xô-nốp mỉa mai thốt lên, ông thấy không cần thiết bày tỏ sự không tán thành đối với hành động của các chiến sĩ của mình, những người không am hiểu điều lệnh và bằng cách này hay cách khác đã khiến cho trung tá Cu-rư-sép kiểu cách hơi bực bội.-Hãy cầu Chúa đi vì anh đã gặp may, ngài thiếu tá ạ. 

Đại uý má hồng vội vã dịch còn khuôn mặt to bè đặc a-ri-ăng của tên thiếu tá Đức chìm trong khói thuốc, giãn ra khi y thèm khát rít thật sâu hơi thuốc lá đầu tiên, thở khói qua lỗ mũi; nhưng vừa nghe đại uý trẻ dịch những lời của Bét-xô-nốp, tên Đức bất chợt dứt ngay điếu thuốc lá khỏi môi, vò nát, không hút tiếp và điên khùng giận dữ vứt xuống dưới chân mình. Từ bộ ngực ưỡn ra của y phát ra tiếng cười hự hự nửa điên rồ. 

-Không, tôi không gặp may, thưa ngài trung tướng. Binh lính của ngài đã không giết tôi trong hố bom mà giữ rịt lấy tôi như một con lợn trong giá lạnh và bản thân họ cũng lạnh cóng,-đó là những kẻ cuồng tín. Họ tàn nhẫn đối với chính bản thân mình! Tôi đã cầu xin để họ giết tôi đi. Bởi vì giết tôi tức là làm một việc thiện, nhưng họ đã không giết. Đây không phải là câu đố hóc hiểm về tâm hồn người Xla-vơ, đây chẳng qua vì tôi là một chiến lợi phẩm của họ. Chả phải thế hay sao? Các ông coi chúng tôi là những kẻ độc ác và tàn nhẫn, chúng tôi coi các ông như những sản phẩm của địa ngục… Chiến tranh, đó là một trò chơi được khởi đầu từ thời thơ ấu. Con người tàn bạo từ khi còn quấn tã. Lẽ nào ngài không nhận thấy, ngài trung tướng, mắt đám thiếu niên lóe lên, sôi sục khi nhìn thấy đám cháy ở thành phố? Hay là khi chúng nhìn thấy bất kỳ một tai họa nào. Những con người yếu đuối tự khẳng định bằng bạo lực, cảm thấy mình là thần thánh khi phá hoại… Đó là một điều éo le, đó là một điều quái gở nhưng sự tình là như vậy đó. Khi chém giết, người Đức sùng bái thủ lĩnh của mình, người Nga chém giết nhân danh Xta-lin. Chẳng ai coi làm như thế là độc ác cả. Ngược lại, việc giết chóc lẫn nhau đã được nâng lên thành một việc thiện. Vậy phải tìm chân lý ở đâu thưa ngài trung tướng? Ai là kẻ nắm được chân lý thần thánh? Ngài, một vị tướng người Nga, cũng chỉ huy binh lính để cho họ đi giết chóc!... Trong bất kỳ cuộc chiến tranh nào cuũn chả ai có lẽ phải cả, chỉ có bản năng đẫm máu của chủ nghĩa Xa-đich (Chủ nghĩa Xa-đich-tên một người Pháp, khuyến khích sự tàn bạo quái gở, lấy việc giày vò, hành hạ, đày đọa người khác làm khoái lạc), có phải thế không? 

-Ngài muốn tôi trả lời ư, ngài thiếu tá?-Bét-xô-nốp hỏi một cách khô khan, dừng lại trước mặt tên Đức.-Vậy thì ngài hãy trả lời tôi: ý nghĩa của cuộc đời ngài là gì một khi ngài đã nói tới điều thiện và điều ác? 

-Tôi theo chủ nghĩa Quốc xã, thưa ngài trung tướng… một người theo chủ nghĩa Quốc xã đặc biệt. Tôi tán thành việc thống nhất dân tộc Đức nhưng chống lại phần cương lĩnh của đảng Quốc xã nói về bạo lực. Nhưng tôi sống trong xã hội của mình và tiếc thay, cũng như nhiều đồng bào mình, tôi thuộc kiểu người của chủ nghĩa Mô-da-khít (Chủ nghĩa Mô-da-khít lấy việc tự đày đọa, hành hạ mình làm khoái lạc), nghĩa là tôi phục tùng. Tôi không phải là kỵ sĩ mà là một con ngựa, thưa ngài trung tướng. Tôi đã bị đóng dây cương… 

-Sự phân vai rất lạ lùng đấy,-Bét-xô-nốp nhếch mép cười, toàn thân ông mệt mỏi tựa vào chiếc gậy.-Sự phân vai éo le giữa con ngựa và người kỵ sĩ. Một tên Quốc xã đem bạo lực tới nước Nga, chống lại bạo lực nhưng lại hoàn thành các mệnh lệnh, lại đi cướp phá và đốt chát đất đai của người khác. Đó quả thực là một điều éo le, thưa ngài thiếu tá! Nhưng vì ngài đã nêu câu hỏi với tôi, tôi sẽ trả lời ngài, ngài thiếu tá ạ. Tôi căm thù sự khẳng định cá nhân bằng việc làm tàn bạo nhưng tôi tán thành bạo lực đối với điều ác và tôi thấy trong đó có ý nghĩa của việc thiện. Khi người ta xông vào nhà tôi để giết chóc… đốt phá, khoái chí trước cảnh tượng đám cháy và sự phá hoại, như ngài nói, thì tôi phải giết chúng bởi vì lời nói ở đây chỉ là một âm thanh trống rỗng. Những trữ tình ngoại đề, thưa ngài thiếu tá!

Bét-xô-nốp chưa nghe người đại uý má hồng dịch hết câu trả lời của ông cho tên Đức thì thấy cánh cửa ra vào hầm ngầm cọt kẹt mở toang, giá lạnh từ hào giao thông ùa vào. 

-Xin phép đồng chí, thưa đồng chí tư lệnh… 

Không chờ cho phép, Bô-gi-scô vội vã bước vào hầm ngầm. Cứ trông anh vươn người thẳng tắp, lặp lại lần thứ hai mấy tiếng “thưa đồng chí tư lệnh” bằng giọng cố nén lại, trông thấy khuôn mặt quả quyết, luôn luôn mỉm cười của anh giờ đây tái nhợt, trông cặp mắt củ anh đờ đẫn liếc nhìn tên Đức trước khi bước ra khỏi hầm ngầm, Bét-xô-nốp cảm thấy trái tim mình thắt lại, ông hiểu rằng đã xảy ra điều gì vô cùng hệ trọng. 

-Đồng chí hãy tiếp tục hỏi về những điều chính yếu,-Bét-xô-nốp nói với lại chủ nhiệm trinh sát đang lo lắng nhìn theo rồi ông tập tễnh bước ra cửa.-Đừng có triết lý lôi thôi,-ông nói thêm khi đã đứng trên ngưỡng cửa. 

Sau lưng ông tất cả đều im lặng. 

Bô-gi-scô lách mình đi trong hào giao thông, cẳng chân giận dữ nghiền nát những cục đất vô Tri-bi-xốp. Khi đối mặt với người sĩ quan tuỳ tùng, linh cảm về một tai họa đã xảy ra càng ám ảnh Bét-xô-nốp da diết hơn, ông giục giã: 

-Sao lại im lặng thế Bô-gi-scô, báo cáo đi! Có chuyện gì thế? 

-Ve-xnin… thưa đồng chí tư lệnh. 

-Ở đâu? Không thể thế được! Anh hãy giải thích rõ ràng xem nào! Đồng chí ấy đâu? 

-Thưa đồng chí tư lệnh… thiếu tá Tít-cốp vừa tới đài quan sát, anh ấy bị thương… anh ấy báo tin rằng uỷ viên Hội đồng quân sự… 

-Sao? Bị thương à? Hay bị giết? 

Mái đầu Bô-gi-scô rũ xuống, anh dùng đế giày đè nát một cục đất ở dưới chân. Bét-xô-nốp vã mồ hôi nóng rực, chân lại đau nhói rát bỏng, lần đầu tiên trong thời gian đó ông không kìm được mình, quát to: 

-Tôi hỏi anh: đồng chí ấy bị thương hay bị giết? Anh câm hay sao thế? Đồng chí ấy bị giết rồi à? 

-Thưa đồng chí tư lệnh, vâng… Trên đường đi họ vấp phải bọn Đức. Thiếu tá Tít-cốp đang chờ đồng chí trong hầm ngầm thông tin,-Bô-gi-scô nói-Anh ấy muốn được tự mình báo cáo với chính đồng chí. 

“Ve-xnin đã bị giết rồi sao? Trên đường đi họ đã vấp phải quân Đức? Ở đâu? Trong làng ư? Bô-gi-scô nói gì nhỉ? Chuyện xảy ra như thế nào?”-Lý chí của Bét-xô-nốp gạt bỏ tin tức về nỗi bất hạnh không lường trước được, bất ngờ ập tới, như tuyết lở; ông không tin rằng quả thực đã xảy ra chuyện đó và chỉ mấy phút nữa thôi, ông sẽ gặp thiếu tá Tít-cốp, đội trưởng đội bảo vệ, chứng cớ không thể bác bỏ được về cái chết của Ve-xnin. Ông đùng đùng nổi giận trước với Tít-cốp vì chuyện đã xảy ra, vì bản thân Tít-cốp lại có thể là một nhân chứng như vậy. 

-Nào thì đi, Bô-gi-scô,-Bét-xô-nốp thốt lên.-Đi… 

Những ngọn đèn, những chiếc máy điện thoại, máy liên lạc vô tuyến, tấm bản đồ trên bàn, các khuôn mặt dường như bồng bềnh trôi trong không khí im lìm, ấm áp của căn hầm ngầm; mọi người im lặng khi thấy Bét-xô-nốp xuất hiện. Ngay lúc đó, một bóng người thâm thấp động đậy bên cạnh ông và một giọng nói nhẹ bỗng toát lên nỗi bất hạnh qua mấy tiếng “thưa đồng chí tư lệnh…”, Bét-xô-nốp ngồi xuống cạnh bàn, rút khăn mùi soa lau cằm, cố để kéo dài thời gian, không sổ tung ngay cơn giận dữ đã bóp ngẹt ông lên bóng người bất động không sinh khí đã thốt ra giọng nói có âm điệu ảm đạm xám xịt, giọng nói sẽ phải báo tin cho ông về cái chết của Ve-xnin. Bét-xô-nốp lau mồ hôi và sau lúc lâu im lặng, ông hỏi: 

-Các anh vấp phải bọn Đức ở đâu, thiếu tá Tít-cốp? 

-Ở rìa làng phía Tây Bắc, thưa đồng chí tư lệnh… Chiếc xe chở đội bảo vệ đi ở phía trước… 

Phải cố gắng lắm ông mới quay được đầu về phía con người đang nói một cách cô đơn và như có ý biện bạch trước tòa án đó, con người giờ đây trông như một cái bóng màu xám; ông bỗng muốn nhìn toàn bộ con người Tít-cốp-khuôn mặt, cặp mắt của anh,-muốn xuyên qua lời lẽ thấu hểu sự thật về chuyện đã xảy ra, muốn hình dung những giây phút cuối cùng mà anh ta là người chứng kiến. 

Thiếu tá Tít-cốp lảo đảo như một cái bóng từ bên phải cửa ra vào hầm ngầm, trông thật khó nhận ra: mái đầu tròn của anh quấn băng đến tận sát sống mũi, vóc người thấp với bộ ngực to bè trông giống như một khối thép, vận chiếc áo choàng ngắn tả tơi, tà áo rách bươm, nhầu nát, cánh tay áo tòi cả những đám lông ra ngoài, chắc là bị đạn xuyên thủng: dưới lớp băng bẩn thỉu trông như một chiếc mũ chụp màu xám là đôi mắt vằn tia máu, tuyệt vọng; và một lần nữa anh lại cất lên giọng nói đầy tuyệt vọng: 

-Đội trinh sát Đức đi về phía xe của ta. Đồng chí uỷ viên Hội đồng quân sự từ chối không chịu rút lui về phía các ngôi nhà. Khoảng cách từ xe tới các ngôi nhà đó chừng hai trăm mét. Khoảng đất trống… đồng chí đã hạ lệnh chiến đấu… 

-Đồng chí ấy đã hy sinh như thế nào?... Bét-xô-nốp ngắt lời. Ve-xnin đã hy sinh như thế nào? 

-Chúng tôi đã bắn trả chừng mười phút. Sau đó tôi quay người lại và thấy đồng chí uỷ viên Hội đồng quân sự nằm ngửa bên cạnh chiếc xe, tay cầm khẩu súng ngắn ép chặt và ngực, máu trào ra từ cuống họng… 

-Thế ròi sau đó?-Không kìm được, Bét-xô-nốp lên tiếng giục giã, dường như ông muốn giải thích cho mình điều chính yếu về cái chết này, nhưng điều chính yếu đó lai trượt đi mất, không xác định được rõ rệt, không thấu hiểu được bằng ý thức. Người ta báo cáo với ông rằng Ve-xnin đã hy sinh vậy mà ông không thấy cái chết của đồng chí ấy và không hình dung ra Ve-xnin đã chết bởi vì không có gì khó hiểu hơn tin bất ngờ đó, không có gì lờ mờ hơn những mối quan hệ đã hình thành giữa họ-giữa hai con người trong tập đoàn quân, cùng chịu trách nhiệm như nhau về tất cả mọi chuyện,-những quan hệ ngắn ngủi mà do khuyết điểm của ông, Bét-xô-nốp, do thái độ ngờ vực, không mặn mà lắm với quyền lực thứ hai bên cạnh mình nên đã không được như ý Ve-xnin mong muốn và không được ổn thỏa. Có lẽ Ve-xnin không muốn tranh luận, tỏ ra mềm mỏng, đưa ra những lời khuyên nhẹ nhàng tựa như tiện thể thì nêu lên, không muốn nhấn mạnh vị trí của mình bên cạnh ông, tư lệnh tập đoàn quân, có lẽ đó là cách thức của Ve-xnin; một người có kinh nghiệm, để không chạm đến lòng tự ái của ông, để khẳng định ông trong tập đoàn quân mới, giữa những người còn chưa quen biết. Có phải mọi sự là như vậy không? Cho dù mọi sự không phải là như vậy đi nữa thì chính ông chứ không phải Ve-xnin đã ngăn trở tất cả những gì có thể có giữa hai người và giờ đây ông không thể tha thứ cho mình về việc đó… 

Giọng nói rè rè của thiếu tá Tít-cốp vang lên từ đâu đó rất xa, từ ánh sáng của các ngọn đèn, từ bầu không khí nóng rực như trong nhà tắm: 

-… Lúc thì đại tá Ô-xin, lúc thì tôi cõng đồng chí uỷ viên Hội đồng quân sự đi. Vào đến trong làng thì đại tá Ô-xin bị thương ở vai. Viên đạn nổ làm xương bả vai bị vỡ nát. Khi chúng tôi tới được chỗ xe tăng của quân ta, người ta đã lấy một chiếc xe chở súng đạn để đưa chúng tôi tới trạm quân y của sư đoàn 305. Huân chương và tài liệu của đồng chí uỷ viên Hội đồng quân sự tôi vẫn giữ cả đây. Chúng tôi đã để đại tá Ô-xin nằm lại trạm quân y, đồng chí ấy bảo phải giữ nguyên vẹn mọi tài liệu và chuyển tới tay đồng chí. Giờ đây tôi phải làm gì, thưa đồng chí tư lệnh?... Tôi phải đi đâu bây giờ? 

Nỗi đau khổ vì bất lực trước chuyện đã xảy ra toát lên qua mỗi lời nói của thiếu tá Tít-cốp, có lẽ anh thấy không cần thiết phải phơi các huân chương và tài liệu của Ve-xnin ra nữa. Cái gói bạc bằng khăn mùi soa trông như một cục máu để trên bàn là thực tế không chối cãi được và không cưỡng lại được, là một đòn đập vào mắt, là sự khẳng định với tất cả sự thật tàn nhẫn về cái chết của Ve-xnin. Bất giác Bét-xô-nốp đưa một tay lên chắn ánh sáng đèn chói chang, tránh cái nhìn của mọi người chằm chằm hướng về ông rồi không hiểu vì sao ông vươn tay kia với cuốn lý lịch quân nhân ẩm ướt của Ve-xnin, mãi vẫn không đủ sức mở quyển sổ đó, các trang giấy bị dính máu, rộp lên, thẫm lại, bết vào nhau. 

Tuy nhiên, cuối cùng Bét-xô-nốp vẫn giở cuốn lý lịch quân nhân đó và vật đầu tiên mà ông nhìn thấy là một tấm ảnh nhỏ chụp nghiệp dư kẹp giữa các trang của cuốn sổ, tấm ảnh cùng bị loang lổ những vết máu nâu sậm nhưng vẫn còn có thể trông rõ hình. Có lẽ đây là ảnh Ve-xnin chụp cùng với đứa con gái. Ông mặc áo sơ mi trắng, quần mùa hè máu trắng, hoàn toàn trẻ trung như hồi trước chiến tranh, đang mỉm cười với ai đó bằng nụ cười linh hoạt trẻ thơ của mình, mũi nhăn lại vui vẻ. Ông ngồi sau mái chèo trên một chiếc thuyền trong vịnh biển chan hòa ánh nắng, tòa nhà an dưỡng màu trắng thấp thoáng giữa những cây trắc bá trên bờ biển, ở phía đằng lái là một em gái chừng bảy tuổi, gầy gò, từ dưới chiếc mũ pa-na-ma xòa xuống má, cặp xương quai xanh yếu ớt nhô ra dưới cổ chiếc áo choàng nhỏ, cô gái khom mình qua mạn thuyền, theo sự bố trí, thò bàn tay nhỏ nhắn xuống nước, dưới bóng chiếc mũi pa-na-ma, cặp mắt dè chừng của em liếc về cùng một phía với nụ cười của Ve-xnin, trông ông trẻ trung đến là lạ, khóe môi của em bó đỏng đảnh chụm lại, em bé không muốn mỉm cười với một người nào đó xa lạ nhưng có lẽ người chụp ảnh ra lệnh, khẩn khoản với em: “Cười đi nào!”. 

Ở góc tấm ảnh nổi bật mấy dòng chữ màu trắng: “Xô-tri, năm 1938”. 

“Tại sao anh ấy lại mang theo chính tấm ảnh này nhỉ? Em bé gái này là con gái anh ấy chăng? Trong những tài liệu này có ảnh vợ anh ấy không, nếu có thì điều đó cắt nghĩa thêm được cái gì? Không, mình không thể nhìn, không thể tìm hiểu chi tiết về cuộc đời của anh ấy sau khi anh ấy đã chết! Tại sao chúng ta bao giờ cũng muốn tìm hiểu về một con người sau khi người đó đã chết nhiều hơn là biết về người đó lúc còn sống”. 

-Thưa đồng chí tư lệnh… 

Ông nhấc tay khỏi trán, tiếng ro ro trầm trầm của chiếc máy cao tần vang lên trong hầm ngầm. Người phụ trách điện thoại nhấc ống nghe, đôi mắt mời chào rụt rè nhìn Bét-xô-nốp rồi nói khẽ: 

-Thưa đồng chí tư lệnh, ban tham mưu phương diện quân gọi điện cho đồng chí. 

-Được, được… Tôi nghe ngay. Được, được…-Ông tì khuỷu tay lên mặt bàn, quờ quạng tìm chiếc gậy dựa ở cạnh bàn, tựa vào gậy đứng lên dưới ánh mắt của tất những người có mặt và giữa sự im lìm lặng lẽ. Khi ông bước tới bên máy, chiếc gậy kêu lọc cọc. Ống nghe ấm áp vì được bàn tay người giữ điện thoại sưởi nóng nhưng trong ống nghe rung lên những âm thanh loạt xoạt khe khẽ của không gian, của sự trống trải vô tận và Bét-xô-nốp lên tiếng với mong ước không cưỡng được muốn phá tan bầu không khí trong hầm ngầm: 

-Số Năm ở bên máy. 

-Đồng chí số Năm, xin chờ một chút. Tôi báo cáo đồng chí số Một biết ngay. 

Ở đằng kia, ở đầu bên kia của không gian bị ngăn cách bởi bóng đêm, người ta nhanh chóng trao ống nghe cho nhau và lập tức vẳng lên một giọng nói khác, tràn đầy sức sống mãnh liệt của một con người kỏe khoắn và đang bận rộn những công việc cấp bách, giọng nói đầy kích động: 

-Xin chào Pi-ốt A-lếch-xan-đrô-vích! Thế nào, ông đã chuẩn bị dép vỏ cây chưa? Ông để râu à? Đã thắt đai lưng vào áo choàng rồi đấy chứ? 

Đó là tư lệnh phương diện quân. Bét-xô-nốp nhận ra ông qua giọng nói U-crai-na mềm mại, lối phát âm du dương của miền Nam. Họ chưa bao giờ xưng hô “ông ông, tôi tôi”, cách xưng hô mới mẻ, thân mật này qua điện thoại làm cho Bét-xô-nốp hơi bối rối, dường như đã tước mất của ông một cái gì đó, tước mất của ông tính tự chủ nào đó dẫu chỉ là trong buổi đầu giao tiếp: còn tư lệnh phương diện quân thì đã nói chuyện với ông một cách thoải mái như nói với một người bạn đồng ngũ đã quen biết từ lâu, bằng một câu hỏi của mình đồng chí ấy có ý nửa đùa nửa thật, ám chỉ việc tập đoàn quân của Bét-xô-nốp chừng như đã bị coi là lâm vào tình thế “bị bao vây”. 

Nhưng Bét-xô-nốp lúc đó chẳng còn lòng dạ nào mà đùa bỡn và cũng không dám chuyển sang cách xưng hô “ông ông, tôi tôi”, nên đáp: 

-Lưỡi dao cạo thì theo thói quen tôi vẫn mang theo thưa đồng chí số Một. Còn dép bện bằng vỏ cây và áo choàng thì đồng chí chủ nhiệm hậu cần không bảo đảm đầy đủ. Về tình hình của chúng tôi, hai giờ trước đây tôi đã có dịp báo cáo với đồng chí, thưa đồng chí số Một. 

-Tôi biết, tôi đã nghiên cứu và tán thành! Tư lệnh cười vang giòn giã, không để ý tới giọng điệu khô khan và trịnh trọng của Bét-xô-nốp.-Tình hình là thế này, Pi-ốt A-lếch-xan-đrô-vích ạ. Tôi cho rằng bây giờ ông sẽ dễ thở hơn. Ở phía Tây Bắc những người láng giềng của ông đã đưa bốn quân đoàn xe tăng vào trận đột kích, các quân đoàn này đã triển khai thắng lợi với mục đích tiêu diệt lượng dự bị chiến thuật của địch, đánh tạt sườn và tiến vào sau lưng tập đoàn quân “Sông Đông” của chúng… Đấy tình hình diễn biến như vậy. Tôi tán thành các phán đoán của ông. Nếu như người ta định đan dép cỏ thì đã tới lúc rồi đấy. Ông sẽ bắt đầu sau khi có thêm những chi tiết chính xác. Ông sẽ nhận được mệnh lệnh. Còn về phần các ông đã cầm cự vững, tôi thật lòng siết chặt tay ông cùng với Vi-ta-li I-a-ê-vích. À nhân tiện, tôi cho ông biết một tin vui nữa: Chập tối có điện thoại của Tổng Tư lệnh tối cao, đồng chí ấy quan tâm tới tình hình của tập đoàn quân của ông, tỏ ra hài lòng và giục giã… 

Ở ban tham mưu phương diện quân vẫn chưa ai biết gì. Ở ban tham mưu phương diện quân, người ta tưởng Ve-xnin vẫn còn sống. Rốt cuộc các phương diện quân Tây nam và Vô-rô-ne-giơ sau một lần thử làm không thành công, đã đột kích trận địa phòng ngự và đưa các quân đoàn xe tăng ra đột phá. Đại bản doanh tỏ ra quan tâm, hài lòng và giục giã. Bét-xô-nốp cho rằng người ta sẽ quan tâm tới tình hình của tập đoàn quân mình…

 31.12.2010

LSB-Sun

-=[ Lương Sơn Ẩn Sĩ ]=-

ღ Đại Trưởng Lão QPB ღ

TUYẾT BỎNG

Chương 25 -2

Nguồn: vnthuquan

Nội dung thu gọn

Bét-xô-nốp cầm chiếc ống nghe dính chặt vào những ngón tay ẩm ướt và tưởng như vẫn còn ngửi thấy mùi máu có vị mặn của sắt bốc ra từ bọc khăn mùi soa màu hung sẫm ẩm ướt đựng huân chương và tài liệu, từ tấm ảnh chụp nghiệp dư trong cặp môi của em bé gái gầy gò, con gái của Ve-xnin, đỏng đảnh chụm môi lại, từ những ngón tay của mình nắm chặt lấy ống nghe đến nỗi các bắp thịt trắng nhợt. 

-Sao lại im lặng thế, Pi-ốt A-lếch-xan-đrô-vích? Ông có chuyện gì lo lắng à? Ông cứ phản đối đi nếu có ý kiến khác, tôi sẵn sàng nghe. Còn gì nữa nào? Ông có muốn yêu cầu gì nữa không? Anh chàng tẩn mẩn của ông đã xin đủ mọi thứ rồi. Tay ấy đúng là một anh nông dân thích vơ vét! 

-Xin phép cho tôi ngắt lời đồng chí, thưa đồng chí số Một,-Bét-xô-nốp nói, giọng khô hẳn lại.-Tôi không có quyền không báo cáo đồng chí… Uỷ viên Hội đồng quân sự Vi-ta-li I-a-ê-vích Ve-xnin đã hy sinh ba tiếng đồng hồ trước đây trên đường đến quân đoàn xe tăng. 

-Sa-ao lại hy sinh? Ông sao thế? Ông nói cái gì hở?-Tiếng thét của tư lệnh phương diện quân bật lên ở đầu dây đằng kia rồi lập tức hạ xuống thì thào:-Như thế nào? Ông báo cáo với tôi cái gì? 

-Bét-xô-nốp nhắc lại: 

-Thưa đồng chí số Một, tôi xin báo cáo: Vi-ta-li I-a-ê-vích Ve-xnin đã hy sinh ở trong làng, trên đường tới quân đoàn xe tăng. Chúng tôi vừa mới được báo tin.

-Hy sinh? Ve-xnin à? Thế nghĩa là các anh đã không bảo vệ được uỷ viên Hội đồng quân sự! Chả lẽ ông không biết rằng đồng chí ấy bao giờ cũng xông vào những chỗ nước sôi lửa bỏng hay sao?... Ông không biết à? Phải kìm giữ đồng chí ấy lại chứ! Phải để mắt đến đồng chí ấy chứ! Chúng ta đã mất một con người vàng ngọc biết chừng nào!... Đó quả thật là điều tôi không tài nào ngờ tới! Thật như sét đánh ngang tai! Thế đội bảo vệ ở chỗ ông thế nào? Mắt mũi họ để đi đâu? 

-Xin đừng trách tôi, thưa đồng chí số Một. Tiếc rằng có trách cũng chẳng làm gì được nữa rồi. Cả đối với đồng chí cũng như đối với tôi.-Bét-xô-nốp im lặng.-Xin cho phép tôi báo cáo ngắn gọn những suy nghĩ bổ sung vào bản báo cáo của tôi. 

-Ông còn có tin gì mới nữa thế?... Dẫu sao đi nữa thì chuyện đó đã xảy ra như thế nào hở Pi-ốt A-lếch-xan-đrô-vích? Chà, đúng là ông giết tôi! Giết chết tươi!... 

-Đồng chí cho phép tôi báo cáo chứ, đồng chí số Một? Xin đồng chí lắng nghe tôi. 

-Được, ông nói đi. Ông báo cáo đi. Tôi nghe đây. 

Bét-xô-nốp đã cứng cỏi chuyển sang chuyện khác, không nói về chuyện Ve-xnin nữa, ông không đủ sức để nhắc lại tỉ mỉ về cái chết của đồng chí ấy. Và ông bắt đầu báo cáo, thấy không cần phải giải thích rằng cho đến hết ngày hôm ấy, do tình hình của sư đoàn Đê-ép bị xe tăng Đức chia cắt, ông đã sẵn sàng thiết lập trận địa phòng ngự vòng tròn ở đây-đây là điều ông e ngại hơn hết cả (cũng như Ve-xnin là người, khác với ông, không giấu giếm sự e ngại đó)-nhưng tuy vậy ngay cả lúc đó ông cũng vẫn không dám liều “động tay” xé lẻ quân đoàn xe tăng cơ giới thành các lữ đoàn vì quân đoàn này dùng để phản công. Ông chỉ nói là đã đến lúc hiệp đồng các đơn vị cơ động, hôm qua Gốt đã sử dụng các lượng dự bị của mình-tên thiếu tá tù binh Đức, sĩ quan tuỳ tùng đã xác nhận tin này,-và ông cho rằng cần phải giáng đòn phản công ngay sáng nay, trước khi địch hoạt động trở lại trên bờ sông phía Bắc. Không để mất thời gian, không cho chúng nghỉ xả hơi và ngay từ đầu dùng đòn phản công bất ngờ của các quân đoàn xe tăng và cơ giới, không cần có pháo bắn chuẩn bị theo lệ thường, hất quân Đức ra khỏi các bàn đạp trước khi chúng kịp hội quân. 

-Tại sao lại không cần pháo bắn chuẩn bị? Làm như vậy ông sẽ đạt được cái gi?-Tư lệnh hỏi.-Ông không tin vào pháo binh phải không? 

-Quân Đức biết rõ rằng pháo bắn chuẩn bị là dấu hiệu tiến công. Pháo binh chỉ lên tiếng khi xe tăng đã ra tới điểm xuất phát tiến công. 

-Chúng tôi sẽ thảo luận,-tư lệnh nói.-Hay đấy. Tôi sẽ trao đổi với đại diện của Tổng Tư lệnh tối cao. Ông sẽ nhận được mệnh lệnh… Thế ra Ve-xnin? Bằng cách nào nhỉ? Tin tức của ông đã làm tôi bối rối thật sự đấy, Pi-ốt A-lếch-xan-đrô-vích ạ. Thế là bây giờ ông phải một mình quyết định cả. Không có uỷ viên Hội đồng quân sự. Đồng chí ấy rất tin ở ông, mặc dù tôi biết rằng… ông chẳng đơn giản chút nào, ta cứ nói thẳng như thế, Pi-ốt A-lếch-xan-đrô-vích ạ! Chà, làm việc cùng với ông đâu có đơn giản! 

“Đúng rồi, Ve-xnin…-Bét-xô-nốp nghĩ, lim dim cặp mi mắt nặng nề.-Đúng rồi, bây giờ mình chỉ có một mình. Lúc này chẳng có ai thay thế Ve-xnin cho mình. Đồng chí ấy đã tin ở mình. Vậy mà mình sợ bộc lộ trước mặt đồng chí ấy, mình co mình lại. Chao ôi, Vi-ta-li I-a-ê-vích thân mến của tôi ơi, đúng là suốt đời học hỏi vẫn không thấu, muộn mất rồi, chúng tôi bắt đầu đánh giá cái chân chính một cách quá muộn màng! Nếu có thể được đồng chí hãy tha thứ cho thái độ lạnh lùng cứng nhắc của tôi. Bản thân tôi cũng đau khổ vì thái độ đó nhưng tôi không thể gạt bỏ khỏi mình cái bản tính thứ hai đó được”. 

Bét-xô-nốp đã không nói điều ấy với tư lệnh phương diện quân, đó là tâm sự riêng của ông mà ông không muốn bộc lộ với ai, không muốn đem ra cho người khác phán xử, nó cũng giống như những hồi ức đau đớn, day dứt về đứa con trai, về vợ ông. Những hồi ức ấy đã cắn dứt lương tâm ông không sao chịu đựng được. 

Sau khi kết thúc cuộc nói chuyện với ban tham mưu phương diện quân, Bét-xô-nốp còn đứng hồi lâu trước máy. Ông đứng đó, cảm thấy trống trải giữa những giọng nói thận trọng, tiếng trao đổi qua đường dây của các chiến sĩ thông tin, giữa những khuôn mặt đang ngầm quan sát ông và bản thân ông cũng cảm thấy khuôn mặt mình tái xám đi vì mệt mỏi, già đi trong những ngày đêm ấy, không muốn tiếp xúc một ai. Đồng thời ông hiểu rõ lúc này họ đang nghĩ gì, cả thiếu tá Gla-đi-lin dè dặt và thận trọng đang chăm chú cúi mình trên tấm bản đồ, các sĩ quan tác chiến, các chiến sĩ thông tin, sĩ quan tuỳ tùng Bô-gi-scô cũng như đội trưởng đội bảo vệ Tít-cốp đang hết sức căng thẳng chờ đợi quyết định số phận của mình-tất cả mọi người đều đang cùng chờ đợi với anh ta. Bóng đen lờ mờ của anh nhấp nhô phía bên phải cửa ra vào, mái đầu quấn băng lúng liếng như một quả cầu trắng. Không kìm mình được nữa. Tít-cốp khẽ thì thào: 

-Còn tôi thì thế nào… thưa đồng chí tư lệnh? Tôi phải đi đâu bây giờ? 

-Đi nằm viện,-Bét-xô-nốp thốt lên giọng cứng nhắc.-Anh hãy đến viện quân y, thiếu tá Tít-cốp. 

Bét-xô-nốp nằm nghỉ trên tấm phản trong căn hầm ngầm được sưởi nóng, tối lờ mờ của Đê-ép, không thay đổi tư thế, mắt nhìn lên những súc gỗ vì hơi nước ở nóc hầm; thỉnh thoảng ông lại nghe thấy tiếng ho khe khẽ, nhẹ nhàng của Bô-gi-scô đang loay hoay với chiếc ấm đun nước trên lò sưởi bằng sắt, tiếng áo choàng của anh ta sột soạt, nhưng ông làm như không hay biết gì. Những âm thanh ở căn hầm ngầm bên cạnh trầm trầm vọng qua vách đất, ông muốn được im lặng và suy nghĩ dưới tiếng phần phật đều đều vô tư lự của ngọn lửa trong lò sưởi, muốn duy trì trong mình dẫu là sự cân bằng bề ngoài, sự yên tĩnh cần thiết cho buổi sáng hôm sau, sự yên tĩnh mà ông đã bị mất sau khi được tin về cái chết của Ve-xnin. Ông cố quên dẫu chỉ là trong chốc lát những lời báo cáo của thiếu tá Tít-cốp, cố nghĩ về trận phản công sắp tới của các quân đoàn nhưng rồi ông lại quay về với những ý nghĩ về Ve-xnin, về cái điều không thể tha thứ được, giống như sự vô nghĩa độc ác, là ông và Ve-xnin chưa trò chuyện được hết với nhau, về cái gói mùi soa sẫm mầu đựng huân chương và tài liệu mà Tít-cốp đặt trên bàn, về nụ cười thoáng đỏng đảnh mà em bé gái trên tấm ảnh chụp nghiệp dư kẹp trong lý lịch quân nhân của Ve-xnin… Khi nghĩ đến tất cả những điều ấy, trí nhớ của ông quay về quãng thời gian hai người mới làm quen với nhau, cùng đi từ ban tham mưu phương diện quân về ban tham mưu tập đoàn quân, xe đi vòng qua đội hình các sư đoàn đang hành quân và họ dò đoán nhau qua cử chỉ, lời nói hay sự im lặng. Chẳng hiểu sao ông nhớ tới anh chàng lái xe tăng say mèm, hốt hoảng của tập đoàn quân bên cạnh, hình như là người chỉ huy một đại đội, nhờ có Ve-xnin nên anh ta được sống. Phải rồi, đối với những kẻ tuyệt vọng, trệch hướng chắc chắn là trong lòng Ve-xnin ít có sự căm ghét hơn trong lòng Bét-xô-nốp là nguời, sau những tấn bị kịch của những tháng đầu tiên năm bốn mốt, đã có ý dập tắt trong lòng mình sự nể nang và thương hại, thái độ yếu đuối của con người, đã dứt khoát rút ra một kết luận: hoặc là thế này-hoặc là thế kia. Sự việc là như thế hoặc đại khái như thế, nhưng khi nhớ tới anh lính xe tăng đó nhớ tới thái độ không cởi mở và ngờ vực của mình trong buổi đầu gặp gỡ Ve-xnin-ngay từ lúc ấy ông cũng đã hiểu rằng thái độ của mình là phong độ trí thức mềm mỏng của đồng chí ấy-Bét-xô-nốp không cắt nghĩa xem thái độ của mình như thế là đúng hay sai, khép mi mắt lại ông chỉ cảm thấy rằng: có cái gì đó lay động một cách đau đớn trong lòng ông. Những lời nói của Tít-cốp mà lý trí không thấu hiểu được văng vẳng cực kỳ rõ rệt bên tai ông: “Uỷ viên Hội đồng quân sự đã hạ lệnh chiến đấu, đồng chí ấy không muốn rút lui”. 

“Đồng chí ấy không muốn rút lui”, mấy tiếng đó xoáy sâu trong đâu Bét-xô-nốp, ông sửng sốt trước việc Ve-xnin đã phát ra một mệnh lệnh như vậy mà địa vị của uỷ viên Hội đồng quân sự không bắt buộc đồng chí ấy phải chấp nhận trước trận chiến đấu mà phải rút lui, không được liều mình trong những hoàn cảnh như vậy; nhưng dù thế nào đi nữa Ve-xnin cũng đã chấp nhận cuộc chiến đấu và đã xảy ra chuyện xảy ra ba giờ trước đấy. 

-Thưa đồng chí tư lệnh, mời đồng chí xơi nước… 

Hương vị chè thơm phức. Những bước chân đi nhẹ nhàng. Thoáng nghe thấy tiếng ấm nước phì phì trên bếp lò, tiếng cùi dìa lanh canh chạm vào chiếc ca. 

-Thưa đồng chí tư lệnh, giá đồng chí ngủ độ nửa giờ… ở đây không có ai làm phiền đồng chí cả. Đồng chí xơi nước chè rồi ngủ đi. Sẽ không có gì xảy ra trong nửa tiếng đồng hồ đâu. Tôi sẽ không để ai làm phiền đồng chí… 

-Cám ơn. Tôi sẽ nghỉ ngay. 

Bét-xô-nốp mở mắt ra nhưng không trỗi dậy. Lúc đó ông tự nhủ phải trỗi dậy, cầm lấy ca nước chè đã được chuẩn bị sẵn cho ông, uống nước và theo như thói quen trước đây mà mọi người đã biết, bước sang căn hầm ngầm bên cạnh nơi lúc này mọi người đang chờ những mệnh lệnh cuối cùng của ông trước buổi sáng, nơi có ánh đèn điện ắc qui quen thuộc, những tấm bản đồ, các máy điện thoại, máy liên lạc vô tuyến, những tín hiệu. Từ lâu ông đã biết rằng: đòn đánh nhẫn tâm của số phận dù thiêu đốt tâm hồn, nhưng không chấm dứt chiến tranh cũng như không chám dứt được những đau khổ, không gạt bỏ khỏi những người đang sống cái trách nhiệm phải sống. Sự tình là như vậy ngay cả sau khi nhận được tin về số phận của con trai. Và thu hết nghị lực để trỗi dậy, ông thò chân ra khỏi tấm phản, ngồi lên rồi tìm tòi cái gì đó ở đầu giường. 

-Được, tôi uống ngay đây. Cám ơn thiếu tá,-ông nhếch mép cười cay đắng, những nếp nhăn chứng tỏ sự mệt mỏi bã người hằn sâu bên khóe mép.-Anh xem gì thế, Bô-gi-scô? 

Bô-gi-scô dùng mũ lông nhấc ấm nước nóng khỏi bếp lò, rót tia nước màu nâu vào chiếc ca bằng sắt tây, hương chè đặc tỏa ra thơm phức. Anh cụp mi mắt xuống để che giấu ánh mắt vàng vàng đau buồn và nói: 

-Dạ, không có gì ạ, thưa đồng chí tư lệnh. Giấy tờ của Vi-ta-li I-a-ê-vích ạ… Tôi sẽ chuyển… 

Không đời nào anh dám nói cho Bét-xô-nốp biết rằng trong số giấy tờ của Ve-xnin đặt trong chiếc cặp để gửi lên ban tham mưu, anh đã tìm thấy tờ truyền đơn nhàu nát và dính máu, cái vật khủng khiếp nhất mà Bét-xô-nốp không nên biết tới.

 31.12.2010

LSB-Sun

-=[ Lương Sơn Ẩn Sĩ ]=-

ღ Đại Trưởng Lão QPB ღ

TUYẾT BỎNG

Chương 26 -1 

Nguồn: vnthuquan

Nội dung thu gọn

Bốn mươi phút sau khi Bét-xô-nốp hạ lệnh phát tín hiệu cho các quân đoàn xe tăng và cơ giới tiến công, trận đánh ở bờ sông phía Bắc khu làng đạt tới mức độ ác liệt nhất. 

Từ đài quan sát thấy rõ cuộc chiến đấu bằng xe tăng đang diễn ra ở gần đó nên từ trên cao nhìn xuống, trận đánh trong bóng tối dường như hết sức quái dị, náo loạn, dai dẳng vô cùng và sở dĩ như vậy vì chẳng thấy rõ người ở đâu cả. Những phát đạn đại bác bắn thẳng lóe sáng khắp rìa làng, đạn “Ca-chiu-sa” dày đặc ầm ầm nổ tung như những cơn lốc giữa các ngôi nhà; những chiếc xe tăng xông thẳng vào nhau, quyện chặt, bốc cháy trên các ngã tư; dọc bờ sông giữa đám cháy bắt đầu bùng lên, những khối thép ánh hồng, bóng nhẫy như đổ mồ hôi bò lổm ngổm, ngổn ngang, chúng nổ súng bắn thẳng ở cự ly quá ngắn, hầu như nòng súng đâm vào nhau, xích sắt của chúng chà nát nhà cửa, chúng xoáy mình ở trong các sân, bò đi rồi lại xông vào tiến công, luôn luôn ép chặt và vây hãm khu vực bàn đạp ở đầu cầu. Bọn Đức chống cự, bám chặt lấy bờ sông phía Bắc nhưng trận đánh đã lan ra tới bờ sông, đã bắt đầu có chuyển biến, trong giây phút khắc nghiệt đó, tiếng gào rú ầm ĩ của động cơ tan vụn thành những dư âm tràn ngập dòng sông, có chỗ bọn Đức đã bắt đầu rút lui về phía đầu cầu. Bét-xô-nốp bất chợt nhìn về bờ sông phía Nam chứ không phải phía Bắc, vẫn còn sợ nhầm, không vội vã rút ra kết luận. 

Ở phía đó, phía bên kia sông, nơi xe tăng Đức chậm chạp lùi về và nơi tưởng như trong suốt ngày đêm hôm qua đã bị các trận ném bom, các cuộc tiến công của xe tăng, các cuộc nã pháo chà sát, đè bẹp, nghiền nát, đào xới, nơi thảo nguyên cháy rụi chết lặng, hoàn toàn hoang văng, không còn một hơi thở của sự sống, giờ đây tại khắp các phía bật lên những chùm đạn tiểu liên, những luồng đạn hồng rực, tóe rộng của mấy khẩu pháo bay là là và những lưỡi lửa nhọn hoắt của súng chống tăng vun vút lao đi. Tiếp đó, tại những nơi hôm qua chiến hào của bộ binh chạy ngang qua, ba khẩu súng máy cùng lên tiếng một lúc, những đốm lửa tóe trên thảo nguyên như những con bướm đỏ sà xuống phía dưới, trên các chiến hào. Vùng đất tưởng đã chết lặng, bị tiêu diệt, bắt đầu cựa quậy một cách yếu ớt, cho thấy là vẫn còn sự sống và không thể tưởng tượng được sự sống ấy đã được duy trì, đã được sưởi ấm từ đầu đến cuối như thế nào, nơi xe tăng địch đã xông thẳng hoặc vòng qua, chia cắt, kẹp bờ sông phía Nam trong gọng kìm vào chập tối hôm qua. 

Lúc mờ sáng, những ngọn gió nhọn sắc vẫn còn quất vào bờ công sự trên đài quan sát, quạt vào mắt Bét-xô-nốp khiến ông ứa nước mắt, khó nhìn. Ông rút khăn mùi soa lau mặt rồi dán mắt vào ống kính. 

Ông muốn dứt khoát tin chắc vào cái điều thật khó tin nhưng không còn có gì hồ nghi được đó. Ở đó, trên bờ sông phía Nam, trong các chiến hào bị xe tăng địch nghiền nát, trên những trận địa pháo bị tan vụn, những người bị bao vây, bị chia cắt khỏi sư đoàn, những người mà theo mọi tính toán thì không thể nào còn nguyên vẹn được và không thể coi là còn sống, những người đó đã bắt đầu nổ súng. 

-Các chiến sĩ của tôi, các chiến sĩ của tôi đấy! Đồng chí hãy nhìn xem, thưa đồng chí tư lệnh! Hóa ra họ vẫn còn sống! Những chàng trai vô cùng kỳ diệu của tôi! Những tay cừ quá! Rất cừ-Giọng nói trẻ trung chắc nịch của Đê-ép xúc động vang lên ở đâu đó bên cạnh, giữa tiếng hú trên đài quan sát, quất vào các lũy công sự; giữa tiếng gào của các chiến sĩ thông tin và sự sôi động ở xung quanh. 

Những lời nói dịu dàng âu yếm do Đê-ép bất chợt thốt ra đó cùng với vẻ kiêu hãnh trẻ trung của anh về việc bộ đội của anh ở trong các chiến hào đầu tiên, những người tưởng chừng như đã chết từ lâu nay bỗng nhiên lại tiếp tục chiến đấu, thái độ dịu dàng công khai đó, sự yếu đuối đó của anh đã không làm cho Bét-xô-nốp tức giận mà ngược lại khi nghe tiếng la thét của Đê-ép ông không quay người lại, cổ họng nghèn nghẹn, nghĩ rằng dẫu sao số phận cũng đã cho ông cái may mắn có được một người chỉ huy sư đoàn như thế này. 

Những luồng đạn đỏ lừ của xe tăng rạch toang bóng tối của tinh mơ tháng Chạp, những đợt sấm rền đinh tai nhức óc trên thảo nguyên, tiếng động cơ rồ lên ngày càng dày đặc, ánh sáng đạn tên lửa của Đức hỗn độn, vun vút lao lên, rạch nát bầu trời. Xe tăng Đức như những con thú bị kích động đang bị bủa vây, hằn học chúi xuống đơn độc hoặc quây lại thành từng đàn, bò cách xa bờ sông dưới sức ép của xe tăng T.34 của ta-theo báo cáo Bét-xô-nốp mới nhận được cách đây năm phút thì xe tăng ta đã chiếm được cả hai đầu cầu. Xông sang bờ phía Nam, xe tăng T.34 tăng tốc độ, trườn lên đâm xiên vào, bao vây cả từ phía trái cũng như từ phía phải đám xe tăng Đức hở sườn, co cụm lại bên nhau. 

Đám xe tăng địch như một bầy thú bị săn đuổi, gào rú khủng khiếp, dừng lại trước bờ khe nơi sáng qua chúng xuất phát tiến công, chốc chốc chúng lại bắn về phía bờ sông phía Bắc và phía nam đằng sau. Không dừng lại được, mấy chiếc xe tăng đơn độc bò ngổn ngang khắp các phía. Lập tức ngay phía trên đám xe tăng co cụm lại đó, một quả pháo hiệu vun vút lao lên cao, làm sáng rực bầu trời rồi lả tả rơi xuống như một cơn mưa xanh trên thảo nguyên. Vừa lúc ấy, ở xế một bên sườn cái gò nhỏ trước lòng khe, ngay trước mặt xe tăng Đức, một đám lửa nhấp nháy bùng to dày dặc, những loạt đạn súng máy thấp thoáng ở lưng trời, những chấm sáng đỏ lừ giữa thảo nguyên tối om, bay về phía sau lưng quân Đức. Nhưng trên cái gò đó không thể có quân ta được. Căn cứ vào đường đạn có thể cho rằng đó là lửa tóe ra từ một khẩu đại liên của Đức. 

-Chúng nó làm gì thế nhỉ, thưa đồng chí tư lệnh? Chúng điên hay sao mà lại bắn vào nhau?-Bô-gi-scô nói, duỗi chân gần Bét-xô-nốp, anh đang ở trong tâm trạng kích động say sưa, sung sướng vì cuộc chiến, vì thấy quân Đức rút lui, vì cuộc tiến quân thắng lợi của xe tăng ta và thậm chí anh cất tiếng cười vang.-Kìa, bọn chúng đang diễn trò đấy, thưa đồng chí trung tướng! 

Bét-xô-nốp rời mắt khỏi kính ngắm, chăm chú nhìn những loạt đạn súng máy phát ra từ chiếc gò trên lòng khe đang đan quyện vào nhau ở chân trời. Thoạt đầu ông cũng băn khoăn về chuyện này không kém gì Bô-gi-scô nhưng sau khi phân biệt kỹ khối xe tăng địch đang chuyển dịch dọc bờ sông về phía những làn đạn liên tục đó, ông hiểu ra rằng trong đêm tối, khẩu súng máy Đức có lẽ đã bắn định hướng để chỉ đường rút lui cho đám xe tăng chạy về con đường lớn ở sau lòng khe. 

Ông không giải thích cho Bô-gi-scô biết rõ điều đó vì bất kỳ lời giải thích nào cũng đều là thừa, làm ông sao lãng điều chủ yếu, có thể hủy hoại mất cái gì đó ở trong chính bản thân ông, giờ đây nó giống như một cảm xúc sắc nhọn, bị nén chặt nóng bỏng về thắng lợi giòn giã, về việc đoán ra được bí mật của kẻ thù, về sự mãn nguyện vì thấy dự định của mình đã được thực hiện, việc đưa các quân đoàn xe tăng và cơ giới ra trận, được sự hỗ trợ của hỏa lực pháo binh ngay từ đầu cuộc tiến công, đã giáng một đòn bất ngờ, đẩy lùi quân Đức khỏi các khu vực bàn đạp, chiếm lấy các bến vượt sông, tiến sang bờ phía Nam và gìơ đây đang tiến công ở phía đó, bao vây bọc sườn quân Đức khiến chúng phải bỏ chạy về phía Nam, theo hướng bắn chỉ dẫn của những loạt đạn súng máy. Bao giờ ông cũng sợ sự may mắn dễ dãi trong chiến tranh, hạnh phúc mù quáng của thành đạt, sự chỏ che có tính chất định mệnh của số phận cũng như ông luôn phủ nhận chủ nghĩa tối đa hão huyền của một vài bạn đồng ngũ, phủ nhận những ước mơ dịu ngọt trong các hành lang của ban tham mưu về các trận đánh ở Ca-xi-an-kin-nơ trong mỗi một chiến dịch. Bét-xô-nốp xa lánh những ảo tưởng đầy sức cám dỗ đó bởi vì trong chiến tranh phải trả giá tất cả bằng máu, cho thất bại cũng như cho thành công, không có một cách thanh toán nào khác thay thế được. 

“Phải chờ đợi!-ông nghĩ,-Chờ đợi những tin tức tiếp theo từ các quân đoàn! Và chớ vội báo cáo tỉ mỉ về ban tham mưu phương diện quân…”. 

Sau suốt ngày đêm hôm qua sức ép tiến công của quân Đức đã đẩy toàn bộ trận địa phòng ngự của ta vào tình trạng ngàn cân treo sợi tóc, sau khi quân Đức đã đột phá được sang bờ phía Bắc, sau khi sư đoàn Đê-ép lâm vào tình trạng căng thẳng, bị chia cắt, chịu tổn thất, giờ đây khi Bét-xô-nốp đã trông thấy những chiếc xe ô-pen của bộ binh Đức bị cháy rụi trên đường trong thảo nguyên, khi ông trông thấy ở bờ phía Nam mới đây còn bị cắt đứt khỏi sư đoàn, những làn đạn bắn ra từ trong các trận địa pháo và những ngọn lửa nhọn hoắt như lưỡi dao của súng chống tăng bắn theo đám xe tăng địch đang bò về phía bờ khe thì ông bỗng thấy người nóng rừng rực, mồ hôi vã ra khắp sống lưng, nhưng ông vẫn cố kìm mình, lắng nghe với vẻ mặt điềm tĩnh những báo cáo mới qua máy phát vô tuyến, nắm những ngón tay ẩm trong găng tay lót lông ấn sâu chiếc gậy xuống đất. 

“Phải đợi, phải đợi thêm chút nữa”,-đồng thời ông có ngăn chặn cái ý muốn háo hức giục giã ông đi xuống hầm ngầm ngay để vui mừng, khoan khoái báo cáo với tư lệnh phương diện quân là người mà ông đã thông báo cho biết trước đây nửa giờ về việc bắt đầu cuộc phản công. Báo cáo rằng quân Đức đã rút khỏi bờ sông, các quân đoàn xe tăng và cơ giới của ta đang triển khai thắng lợi và họ đã nhận được lệnh phải chiếm lĩnh hoàn toàn khu vực bờ sông phía Nam ngôi làng, tiến quân về phía trước cắt đứt con đường chạy từ làng về phía Nam.

Ở bờ sông phía Nam, các đám cháy bùng lên khắp nơi, những cụm lửa bay lả tả trên nóc các ngôi nhà, những vụ nổ, những đám khói cuồn cuộn bốc lên trên các đường làng nơi giờ đây đang diễn ra trận đấu xe tăng. 

Vẻ ngoài vẫn bình tĩnh, ông chờ đợi một lát nữa, lắng nghe báo cáo của các quân đoàn, giữa những tiếng truyền đạt mệnh lệnh hối hả và không khí náo nức chung của mọi người tại đài quan sát, giữa những giọng nói oang oang, đắc thắng, cùng chung tiếng cười vang hể hả. Thậm chí có chỗ mọi người công nhiên, khoan khoái hút thuốc lá, đây đó có tiếng rút tẩu thuốc loạt xoạt, khói thuốc mịt mù trong bóng tối hào giao thông, tựa hồ như mặt trận đã chuyển xa hàng chục cây số và mọi người hít thở cùng với khói thuốc lá hương vị của chiến thắng rốt cuộc đã đạt tới được. Trên đài quan sát, nghe và trông thấy cảnh tượng náo nức đó, Bét-xô-nốp vẫn miễn cưỡng cưỡng lại mình, nói khẽ và khô khan: 

-Tôi yêu cầu không hút thuốc tại đài quan sát. Mọi người hãy lo hoàn thành nhiệm vụ của mình. Cuộc chiến đấu chưa kết thúc. Còn lâu mới kết thúc. 

Nói rồi ông mới cảm thấy lời nhận xét càu nhàu đó của mình là lạnh lùng, vô nghĩa, không cần thiết. Ông chau mày, thầm nguyền rủa cái lối dè dặt lịch lãm, tỉnh khô theo kiểu ông già của mình, ông vội vã bước vào căn hầm ngầm thông tin, đi ngang qua các sĩ quan tham mưu đang giấu vội những mẩu thuốc lá vào ống tay áo. 

Mươi phút sau, sau khi đã báo cáo chi tiết với tư lệnh phương diện quân về cuộc tiến quân của các quân đoàn và sau khi đã nói chuyện với tham mưu trưởng iae, Bét-xô-nốp lại bước khỏi ánh đèn bình thản của căn hầm ngầm, ra hào giao thông lạnh lẽo, lộng gió, xám xịt và bỗng nhiên ông nhận thấy trong những giây phút đó trời đất thay đổi rõ rệt, đã chuyển sang một trang thái mới. 

Bị khói lửa trận đánh, tiếng gào rú của động cơ xe tăng và tiếng nổ đủ các loại đẹn làm nát vụn, bầu không khí sáng bệch, loãng ra, chuyển sang màu tím phơn phớt của ban mai, màu xanh lạnh lẽo trong suốt quanh điểm cao và bị cắt đứt bởi những đám lửa chói sáng từ những chiếc xe tăng đang bốc cháy ở bên kia sông, những đám lửa vui tươi và tinh nghịch dưới ánh sáng của một ngày đang tới. Ánh lửa lan rộng khiến khu làng phía Nam bờ sông trông như gần lại, giờ đây bằng mắt thường cũng có thể nhìn thấy xe tăng T.34 bò từ phía thảo nguyên vào rìa làng, chúng lúc lắc, làm bốc lên những cụm tuyết trắng xóa, đi sau chúng là những chiếc xe tải ZIX ngụy trang màu tuyết trắng chở các đơn vị bộ binh. Ở tít đằng xa, cách biệt toàn bộ cảnh tượng náo động đó một dải trời sáng nhẹ đã ánh lên lặng lẽ và êm dịu đến lạ lùng ở phương Đông, rọi ánh hồng trắng xuống vạt tuyết chạy dài đến chân trời và theo những quy luật vĩnh cửu, gợi nhớ tới những tình cảm khác của con người mà Bét-xô-nốp cũng như tất cả những người đứng trong hào giao thông trên đài quan sát lãng quên từ lâu. 

“Trời sáng rồi”. 

Bét-xô-nốp bước ra ngoài trước cơn gió đang quất rào rào trên đỉnh điểm cao và cảm thấy rõ ràng trời đã sáng, buổi sáng lạnh lẽo trong trẻo của tháng Chạp với bầu trời quang đãng, hứa hẹn một ngày rực nắng. Ông nghĩ tới cảnh xe tăng ta phơi mình trên thảo nguyên trần trụi, nghĩ tới không quân Đức và không quân ta, chắc chắn đó cũng là ý nghĩ của vị đại diện không quân đã tới đài quan sát này vào lúc nửa đêm. Đó là một đại tá có khuôn mặt hẹp, đeo chiếc túi to tướng, đi đôi ủng lót lông của không quân, vẻ xởi lởi dễ gần, miệng ngậm chặt chiếc tẩu thuốc và luôn luôn mỉm cười. Bắt gặp cái nhìn của Bét-xô-nốp như có ý hỏi: “Thế máy bay cường kích của ta đâu?”. Ông bèn trả lời ngay rằng rồi đâu sẽ vào đấy cả, nhờ trời không có sương mù, chỉ độ mười lăm phút nữa máy bay tiêm kích của ta sẽ bay ngang qua đài quan sát. Sau khi trả lời xong, ông nhấm nhấm chiếc tẩu, nở nụ cười đầy hứa hẹn. 

-Nếu thế thì hay quá,-Bét-xô-nốp nói, cố nén không đưa ra nhận xét rằng đối với không quân Đức, trời hôm nay cũng không có mây mù. 

-Đồng chí hãy nhìn xem kìa, đồng chí tư lệnh, quân ta làm ăn cừ chưa kìa, sôi động quá! Hình như có cả bếp nữa!-Bô-gi-scô nói với niềm vui ủ ê và đưa ống tay áo chỉ về phía cây cầu đã bị phá hủy một nửa ở phía bên trái điểm cao. 

-Cái gì?-Bét-xô-nốp hỏi, trong giây phút đó ông đang nghĩ tới không quân và lơ đãng nhấc ống nhòm lên, điều chỉnh cho rõ những chiếc ống nhòm cứ trơn truội đi vì sương giá. 

Ở phía trước điểm cao, trên bờ sông phía Nam, phía bên trái khu làng, trên khoảng không gian trước lòng khe hôm qua đã bị quân Đức cắt rời, vừa mới dậy vang lên mất loạt đạn pháo, đạn chống tăng và đạn ở ba khẩu súng máy, chiếc xe nhà bếp lúc lắc giữa những hố bom, phóng vọt qua cầu, bay dọc theo các đường hào giao thông, tỏa khói mù mịt giữa buổi sớm tinh sương còn tranh tối tranh sáng, ném lại sau lưng hàng vốc tàn lửa bay lả tả trên tuyết. Chiếc xe nhà bếp phóng như điên, len lách giữa các hố đạn trông như những bông hoa mào gà nở rộ trên điểm cao. Chắc là một vị chuẩn uý hậu cần táo tợn đã băng sang bờ bên kia, vội vã đuổi theo xe tăng ra hỏa tuyến. Trông thấy rõ từ các chiến hào bộ binh ở cánh trái có năm sáu người nhổm dậy, huơ súng vẫy gọi, nhưng chiếc xe nhà bếp phóng ngang qua họ, nảy tung lên giữa các hố bom đạn, lao vùn vụt về phía các trận địa pháo ở bên trái chiếc cầu. Và tới đó chiếc xe dừng lại như bị chôn chặt. Trong nháy mắt một người nhảy từ trên xe xuống, chạy lại chỗ khẩu pháo vừa bắn, tà áo choàng dài phất phới bay trước gió. 

-Đúng là vẫn cái trận địa pháo ấy. Cái trận địa pháo mà chúng ta đã tới thăm,-Bô-gi-scô quả quyết nói, tì khuỷu tay vào bờ công sự.-Đồng chí có nhớ anh em ở chỗ họ không, thưa đồng chí tư lệnh? Tiểu đoàn của họ… là một anh chàng trẻ con… hình như là trung úy Đrô-dơ-đốp thì phải? 

-Tôi không nhớ,-Bét-xô-nốp càu nhau.-Đrô-dơ-đốp à?... Anh hãy nhớ thật đúng xem nào, Bô-gi-scô. 

Bô-gi-scô gợi nhắc: 

-Nơi mà các đồng chí chờ đợi đội trinh sát quay trở về ấy mà. Anh em trinh sát đã bắt sống được tên Đức. Hai chiến sĩ pháo binh ở đó đã lôi cổ tên ấy về đây. Tiểu đoàn pháo 76 mi-li-mét. 

-Tiểu đoàn pháo à? Tôi nhớ ra rồi. Chỉ có điều không phải là Đrô-dơ-đốp… gần giống như thế nhưng là họ khác cơ… hình như là Đrô-dơ-đốp-xki. Đúng rồi Đrô-dơ-đốp-xki!... 

Bét-xô-nốp bỏ phắt ống nhòm xuống, ông nghĩ tới tiểu đoàn pháo 76 mi-li-mét này đã cầm cự ngay từ đầu cuộc chiến đấu, người chỉ huy tiểu đoàn đã khiến ông ngạc nhiên vào buổi sáng hôm qua, đó là một anh chàng bé con mắt xanh, được rèn luyện theo đúng kiểu trường pháo binh, ăn vận tươm tất như đi duyệt binh, anh ta sẵn sàng chết không nghĩ ngợi gì, anh ta mang họ của một vị tướng nổi tiếng, ngay trong khoảnh khắc anh ta đã hình dung ngay anh em trong đơn vị mình sẽ phải chịu đựng những gì trên hướng tiến công chủ yếu của xe tăng địch. Rồi ông thong thả một cách cố ý dùng khăn mùi soa lau khuôn mặt bị những mảnh tuyết xói nhoi ngói, cảm thấy xúc động, sau cùng ông cố gắng thốt ra: 

-Tôi muốn đi tới các trận địa pháo đó ngay bây giờ, Bô-gi-scô ạ, ngay bây giờ… Tôi muốn nhìn xem còn gì ở đó… Anh hãy đem theo phần thưởng cho tất cả những anh em ở đó. Tất cả mọi người ở đó,-ông lặp lại.-Và anh hãy truyền đạt cho Đê-ép biết để anh ấy đi theo tôi. 

Bô-gi-scô có phần ngạc nhiên nhìn bàn tay nhỏ nhắn của Bét-xô-nốp vò nát, siết chặt, vo viên chiếc khăn mùi soa, không nhét nó vào túi áo choàng ngắn, anh gật đầu, chạy đi tìm đại tá Đê-ép. 

Bét-xô-nốp cho rằng ông không có quyền đắm mình theo những tình cảm cá nhân, nhìn tại chỗ những chi tiết nhỏ nhặt của trận đánh, ông muốn thấy bằng chính cặp mắt của mình những đau khổ, máu me, chết chóc, sự hy sinh trên mặt trận của những người đang hoàn thành mệnh lệnh của ông; ông tin chắc rằng những ấn tượng chủ quan, tức thời làm mềm yếu lòng người gây ra sự thương hại, hoài nghi ở trong ông là người phải chịu trách nhiệm đầy đủ, ở những quy mô khác, về số phận của chiến dịch. Nỗi đau khổ, lòng dũng cảm, sự hy sinh của một số người trong một chiến hào, trong một hào giao thông, trong một khẩu pháo có thể trở nên bi đát không thể chịu đựng được đến nỗi sau đó chừng như ông không còn đủ sức để kiên quyết phát ra những mệnh lệnh mới, điều khiển những con người, buọc họ phải thực hiện các mệnh lệnh và ý chí của ông. 

Ông đã tin chắc như vậy không phải mới từ hôm qua hay hôm nay mà từ cái năm bốn mốt rắc rối không sao quên được đó, khi tại mặt trận miền Tây chính bản thân ông giữa máu me, giữa những lời kêu gào của các nhân viên quân y, giữa tiếng rên la của anh em thương binh phải thúc mọi người từ các chiến hào xông lên đánh phá vây, nén chặt trong lòng mình niềm thông cảm với sự bất lực của họ trước những đợt bao vây lớn nhỏ của xe tăng địch trên tuyến biên giới, trước máy bay địch quần đảo trên đầu họ. 

Nhưng trong buổi sáng băng giá của cuộc phản công đó, ở cách Xta-lin-grát ba mươi lăm ki-lô-mét về phía Tây Nam, trước thắng lợi rõ ràng của tập đoàn quân mình, Bét-xô-nốp đã làm trái quy tắc đó của mình. 

… Khi họ đã băng qua mặt sông đóng băng và trèo lên bờ sông, toàn thân bị gió lạnh quất buốt thấu xương, rồi đi qua một đường hào giao thông không sâu lắm và bước vào một chiến hào đã bị phá hủy đến một nửa. Lúc ấy Bét-xô-nốp mới sực nhớ ra rằng trước mặt ông là những chiến hào đầu tiên của bộ binh, ông bước chậm lại, tim đập thình thịch tưởng đến đứt hơi. 

Ở đây, trên bờ sông phía Nam, nơi xe tăng địch tiến công liên tục trong nhiều giờ và chúng đã đi qua đi lại nhiều lần theo các hướng khác nhau, dùng xích sắt xới nát, cày lên, làm bật tung các chiến hào lúc đó đã bị các hố bom làm cho vẹo vọ. Bét-xô-nốp vẫn chưa nhìn rõ ngay được những khẩu súng máy bị cong queo trong ụ, những mảnh áo bông, những túm áo lót hải quân trộn lẫn với đất, những chiếc báng súng trường gãy vụn, những mảnh mặt nạ phòng dộc và cặp lồng, những thân người bị vùi dưới những đống vỏ đạn đen ngòm, hoặc bị vùi dưới tuyết. Tất cả những cái đó, những mảnh vũ khí và những mảnh thân người giờ đây dường như đã bị một lưỡi cày khổng lồ xới lên, vùi lấp dưới những hố bom đạn và vết xích xe tăng nặng nhiều tấn. 

Thận trọng len mình giữa các đống đất trong chiến hào, bước qua những mô tuyết tròn nhẵn ở dưới chân, Bét-xô-nốp bước đi cố gắng không đụng gậy vào những mô đất đó, ông đoán rằng ở dưới các mô đất này là xác của những người mới bị chết sáng nay. Và chẳng còn hy vọng tìm được người sống sót ở đây, với một niềm ân hận cay đắng, ông nghĩ rằng mình đã lầm khi đứng trên đài quan sát ông tưởng như đã nhận ra dấu hiệu yếu ớt của sự sống ở đây, trong các chiến hào này. 

“Không, ở đây chẳng còn ai cả, chẳng còn một người nào cả.-Bét-xô-nốp tự nhủ. Súng máy và súng chống tăng đã bắn ra từ các chiến hào kia, xế về mé trái các trận địa pháo. Đúng rồi, phải đi đến đó, đến đó ngay!...”. 

Nhưng lập tức từ khúc gấp chiến hào vang lên tiếng sắt thép. Và dường như cả tiếng người nói nữa. Tim Bét-xô-nốp đập thình thịch, căng thẳng, ông bước về phía có tiếng động. 

Thấy ông đến, từ ổ súng máy vươn lên hai bóng người kỳ quái, từ đầu tới chân đều lấm lem những tuyết. Khuôn mặt lạnh cóng của họ bị ép chặt trong lần mũ lót đã đóng băng cứng như thủy tinh và dưới lần mũ lót là đôi mắt sưng phồng vì băng giá và gió lạnh, chằm chằm nhìn Bét-xô-nốp và đều tỏ vẻ sững sờ như nhau. Có lẽ họ không ngờ lại gặp vị tướng với một đoàn sĩ quan tuỳ tùng ở đây, giữa cái chiến hào đã chết lặng này. 

Những chiếc khóa dây lưng hình vuông của lính thủy lóe lên mờ mờ. Trên tấm vải bạt bị cháy nham nhở và được trải ra đến sát bờ chiến hào là một đống băng đạn súng máy hình trong được thu nhặt từ khắp trận địa: bên cạnh khẩu súng máy là khẩu súng chống tăng đặt trên giá. Những chiếc vỏ đạn mới bắn vung vãi khắp nơi, trên bờ công sự, dưới lòng chiến hào. Có lẽ, anh xạ thủ súng máy và xạ thủ súng chống tăng còn lại ở đây đã nổ súng cùng một lúc từ hỏa điểm này, họ sát cánh bên nhau, vai kề vai trong cố gắng cuối cùng. Căn cứ vào những ổ khóa dây lưng hải quân của họ có thể đoán ra rằng đây là hai chiến sĩ hải quân ở Viễn Đông và họ đã trở thành bộ binh từ hai tháng trước đây, khi thành lập tập đoàn quân.-Họ đã giữ lại chiếc áo lót và chiếc dây lưng hải quân như một kỷ niệm. 

Cả hai người đều sững sờ đứng trước mặt Bét-xô-nốp, hầu như họ không tách khỏi nhau, mình khoác áo choàng dày cộm và nặng trĩu vì tuyết và sương giá; những chiếc bao tay cứng đơ của họ lóng ngóng chạm vào vành mũ. Họ thở hổn hển, không nói nên lời, y như thể họ không tin rằng trước mặt mình là vị tướng và các sĩ quan tuỳ tùng. 

Lúc ấy Đê-ép to như một ông hộ pháp đã phá bỏ điều lệnh đòi hỏi phải dè dặt khi có mặt tư lệnh, anh là người đầu tiên bước vào chỗ để súng máy của bộ binh, ôm chặt từng chiến sĩ một. Giọng nói cố làm ra cứng rắn của anh tuy vang lên cảm động nhưng vẫn bộc lộc sự mềm yếu: 

-Anh em đã giữ vững phải không? Anh em vẫn sống? Thưa đồng chí tư lệnh, đây là đại đội hai…-Và không nói hết câu, anh nhìn vào mắt vet với vẻ bàng hoàng và xúc động mãnh liệt. 

Tất cả những lời Bét-xô-nốp thấy cần phải nói lúc đó lướt qua trong đầu ông như những cái bóng, không sao diễn tả được và ông thấy những lời lẽ đó thật vô nghĩa, nhỏ nhặt, trống rỗng, không phù hợp với toàn bộ cảnh tượng bất tử mà ông nhìn thấy lúc này, vởi vậy ông chỉ chật vật thốt lên mấy tiếng: 

-Có còn ai sống sót nữa không? Có sĩ quan nào còn sống không?... 

-Không có ai cả… Không có ai cả, thưa đồng chí trung tướng. 

-Anh em thương binh đâu? 

-Thưa trung tướng, người ta đã chuyển khoảng hai chục thương binh sang bờ bên kia. Đại đội chúng tôi chỉ còn có… 

-Cám ơn các đồng chí!... Tôi xin cám ơn các đồng chí… Tôi muốn biết tên của các đồng chí!-Ông chỉ thoáng nghe thấy tên của họ, quay người về phía Bô-gi-scô, anh ta đang im lặng, ngắm nhìn hai con người hạnh phúc với vẻ thỏa mãn xen lẫn chút ghen tị và day dứt của một con người hiểu rõ ràng, các chiến sĩ thuộc đại đội cảnh giới chiến đấu này, sau trận chiến đấu ngày hôm qua mà còn sống sót thì thật là điều kỳ diệu biết chừng nào; bởi vậy khi Bét-xô-nốp cố nén xúc động nói giọng khàn khàn: “Anh hãy trao cho các đồng chí đó hai huân chương Cờ Đỏ. Đại tá Đê-ép, hôm nay đồng chí sẽ bổ sung danh sách những người được khen thưởng” thì Bô-gi-scô phấn khởi rút từ trong ba lô và đưa cho Bét-xô-nốp hai chiếc hộp nhỏ. Bét-xô-nốp tựa chiếc gậy vào vách hào, bước về phía hai chiến sĩ cứng đơ như hóa đá, không thốt nên lời, đặt tấm huân chương vào những bàn tay đeo găng không co duỗi được rồi ông quay người lại: ông chau mày cố giấu nỗi đau khổ ngọt ngào và cay đắng đang thắt lấy ngực ông, mặt ông nhăn lại, ông tập tễnh bước trên chiến hào, không ngoái nhìn trở lại. Ngọn gió thổi từ phương Bắc tới đưa âm thanh của cuộc chiến đấu ra khỏi ngôi làng đang bốc cháy ở bên phải, sau lòng khe, làm tung những bụi tuyết sắc nhọn trên bờ sông và khiến cho khóe mắt Bét-xô-nốp ứa lệ; ông rảo bước để ở phía sau người ta không trông rõ mặt ông. Ông không phải là người dễ xúc cảm và không biết khóc, nhưng ngọn gió đã giúp ông, đã khiến cho dòng lệ phấn khởi đau buồn và biết ơn tuôn trào vì những người còn sống ở đây, trong các chiến hào này; họ đã thực hiện mệnh lệnh của ông là chiến đấu trong bất kỳ tình huống nào, cho tới viên đạn cuối cùng, và họ đã không kịp sống thêm vài giờ nữa cho tới khi bắt đầu cuộc phản công. 

“Đó là tất cả những gì mình có thể làm được,-ông thầm nhắc lại.-Vậy mà mình có thể làm được gì cho họ ngoài lời cám ơn này?”. 

-Xe nhà bếp!... Anh em pháo binh, thưa đồng chí tư lệnh. Tiểu đoàn pháo. Chính tiểu đoàn pháo ấy đấy!...-Bô-gi-scô réo to khi đuổi kịp ông và anh chững người lại, ngạc nhiên. Chẳng hiểu sao anh lại nhô người lên phía trước để nhìn khuôn mặt đẫm nước mắt khó nhận ra được của Bét-xô-nốp mà anh chưa từng thấy bao giờ rồi lập tức anh quay gót, bước về phía bờ sông dốc đứng, nơi chiếc xe nhà bếp dã chiến đứng đơn độc, tỏa ra làn khói yếu ớt.

Chương 26 - ( Đoạn Kết)

Nguồn: vnthuquan

Nội dung thu gọn

Chiếc xe nhà bếp xuất hiện ở phía Nam bờ sông tiếp theo xe tăng của quân ta là của tiểu đoàn pháo, do chuẩn uý Xcô-rích đưa tới đây. 

Khi khu vực bàn đạp ở phía sau lưng đã bị bọn Đức chiếm, cuộc chiến đấu trở nên ác liệt và sao đó, khi xe tăng Đức bắt đầu từ đó rút qua sông, băng ngang phía bên trái và bên phải tiểu đoàn của mình, Đrô-dơ-đốp-xki đã từ bỏ ý những ý đồ vô ích nhằm liên lạc bằng ra-đi-ô với sở chỉ huy trung đoàn pháo vì không cần liên lạc anh cũng đã thấy rõ tình hình diễn biến ra sao. Trong suốt nửa giờ đồng hồ, Cu-dơ-nét-xốp không chờ khẩu lệnh của ai cả, nã tất cả những quả đạn còn lại vào đám xe tăng địch qua sông sang bờ phía Nam. Sau khi bắn hết bảy quả đạn, anh hạ lệnh cho các pháo thủ cầm súng tiểu liên, nhảy xuống các hầm chiến đấu và nổ súng vào bọn bộ binh địch bắt đầu rút lui. 

Những chiếc xe “ô-pen” nặng nề, hoạt động được trên nhiều địa hình, phủ vải bạt chở bộ binh Đức rút lui theo con đường mòn thành một hàng dài xa xa về phía bên trái. Mấy khẩu pháo đơn độc còn lại của các đơn vị bên cạnh nhả đạn vào đám bộ binh địch phía cánh trái đó và hai khẩu súng máy đặt ở phía trước còn nguyên vẹn một cách kỳ lạ cũng nổ súng bắn địch. 

Cả đơn vị còn lại có bốn pháo thủ thuộc khẩu pháo của U-kha-nốp, tất cả đều lạnh cóng, rã rời, kiệt sức sau suốt cả đêm hôm qua, không còn ý thức được đầy đủ điều gì đã xảy ra trên bờ sông phía Bắc, không hiểu rõ vì sao bọn Đức lại vội vã rời bỏ vị trí như vậy, họ náu mình trong các hố chiến đấu, thỉnh thoảng lại hà hơi sưởi ấm tay và cò súng tiểu liên để cho mỡ bôi súng không đông cứng lại. 

Cu-dơ-nét-xốp lạnh run lên, U-kha-nốp lấy bao tay đập vào bả vai. Nết-trai-ép và Ru-bin dùng xẻng dọn sạch bờ công sự. Mọi người lặng lẽ làm, chẳng còn hơi sức đâu mà nói và suy nghĩ. Cứ như thế đến hơn một tiếng đồng hồ. Vừa lúc ấy, trong ánh ban mai phơn phớt tím, tiếp theo xe tăng của quân ta, chiếc xe nhà bếp dã chiến bất ngờ xuất hiện trên chiếc gò ở mé trái, phóng nước đại, vun vút lao như điên giữa các hố bom đạn ngổn ngang về phía trận địa pháo. Chuẩn uý Xcô-rích nét mặt đầy nộ khí dừng xe cách khẩu pháo chừng mươi bước, chửi rủa con ngựa chạy lệch, nhảy ở trên xe xuống và chạy như bay về phía các pháo thủ, vướng vít trong những tà áo dài sĩ quan của mình. Lúc ấy các pháo thủ vẫn còn chưa nhận ra niềm hân hoan thật sự của thắng lợi. 

Thậm chí khi chuẩn uý vừa bước vào vừa la to: “Anh em ơi, mình đến với các cậu… thức ăn đây!...” thì ngay cả sự có mặt cũng như tiếng la thét của anh ta cũng không được tiếp nhận như là bản thân thực tại mà như là những tia hồi quang yếu ớt của một thế giới khác, đã bị gạt bỏ, hầu như không cảm thấy được. Không ai đáp lời anh ta. 

-Anh em đâu cả rồi?... Chả lẽ chỉ còn bốn người các anh, bốn người thôi à?... 

Chuẩn uý đưa mắt nhìn khắp các trận địa pháo vắng người, những chiếc xe tăng Đức bị bắn cháy rụi, đạp đôi ủng sĩ quan bóng lộn của mình trên trận địa pháo, thốt ra tiếng gì nghe không rõ rồi lao mình chạy ngược về phía xe nhà bếp. Anh hất lên vai mình một bình phích, hai túi nặng đầy bánh mì và lương khô rồi cong chân chạy về phía khẩu pháo, đặt tất cả xuống đống vỏ đạn ở giữa các càng pháo, hết sức bối rối, ấp úng. 

-Của cả đơn vị đây… cả bánh mì, lương khô và rượu Vốt-ca? Chả lẽ tất cả chỉ còn lại có bốn anh thôi à? Tôi phải đưa thực phẩm tới đâu, đồng chí trung úy? Đrô-dơ-đốp-xki đâu? Đại đội trưởng đâu?... 

-Ở đài quan sát. Còn ba người đằng ấy. Anh em thương binh hãy còn ở trong hầm đất. Anh hãy ghé lại chỗ họ, chuẩn uý ạ.-Cu-dơ-nét-xốp đáp, lưỡi cứng đơ. Anh ngồi trên càng pháo, run bần bật vì rét, dửng dưng với tất cả những món thực phẩm thừa thãi đó cũng như với những tiếng la thét đó của chuẩn uý. 

-Có lẽ phải nhóm tí lửa lên, trung úy ạ,-U-kha-nốp nói.-Không có lửa khép chúng ta chết cóng hết. Cậu đang run dế kia kìa. Có hòm gỗ đựng đạn. Nhờ trời chúng mình có thể tợp Vốt-ca đến bí tỉ, trung úy ạ! Hình như quân ta thắng to rồi. 

-Rượu Vốt-ca ấy à?-Cu-dơ-nét-xốp dửng dưng đáp.-À phải rồi, chia rượu Vốt-ca cho tất cả mọi người… 

Trong lúc chuẩn uý chạy vội vào hầm đất với anh em thương binh, Nết-trai-ép và Ru-bin đập hòm ra để nhóm lửa trên bãi đặt pháo, U-kha-nốp gạt đống vỏ đạn sang một bên, trải tấm vải bạt xuống giữa các càng pháo và bày bình rượu Vốt-ca cùng những thực phẩm phong phú chưa từng thấy trong hố chiến đấu, dốc lương khô ở trong túi ra. Rồi anh ngồi xuống cạnh Cu-dơ-nét-xốp trên càng pháo, đưa cho Cu-dơ-nét-xốp cặp lồng rượu. 

-Uống tí cho ấm người, trung úy, kẻo bọn mình cứng ra thành ông phỗng hết. Cứ uống đi. Hiệu nghiệm lắm. 

Cu-dơ-nét-xốp đưa hai tay đỡ chiếc cặp lồng, cảm thấy mùi rượu cay cay, nín thở vội vã uống vài ngụm một cách thèm khát với hy vọng rượu sẽ sưởi ấm làm cho anh hết run, làm giảm chiếc lò xo bằng thép đang quắp chặt cái gì đó trong người anh. Rượu Vốt-ca lạnh ngắt thiêu đốt anh, bỗng chốc dìm anh trong làn sương nóng hổi và khi gậm mẩu lương khô cứng như đá, Cu-dơ-nét-xốp nhớ lại cái cảnh hành quân tưởng như đã diễn ra từ lâu lắm, trên thảo nguyên bất tận rực rỡ dưới ánh mặt trời, lúc U-kha-nốp đem rượu Vốt-ca thiết Dôi-a và cô nhắm mắt lại, vẻ ghê sợ uống một ngụm trong chiếc bi đông, cười ngất và nói rằng rượu Vốt-ca này làm cho cô khó chịu, y như thể có một ngọn đèn đang cháy sáng trong bụng cô vậy… Chuyện ấy xảy ra khi nào nhỉ? Một trăm năm rồi, lâu đến nỗi con người không còn đủ sức nhớ được nữa. 

Nhưng anh đã nhớ tới chuyện dường như mới xảy ra một giờ trước đây: đôi mắt ướt mọng của Dôi-a sáng lóa sát mặt anh và tiếng cười khe khẽ của cô còn vang bên tai anh rõ rệt đến mức tưởng chừng như sau đó chẳng xảy ra chuyện gì cả… Ấy thế mà sau đó mọi sự đối với anh tưởng chừng như là cả một đời người lớn lao, suốt một trăm năm dằng dặc. Tưởng chừng như chẳng bao giờ có chuyện đó cả… Bởi có xảy ra chuyện gì đâu, cô ấy đi đến trạm quân y để xin thuốc lá và lát nữa thôi sẽ trở về ngay với đơn vị trong chiếc áo choàng ngắn thắt dây lưng rõ chặt của mình, như lúc ở trên tàu: “Các chú mình đáng yêu ơi, không có tôi các chú sẽ sống thế nào?”. 

Nhưng cùng lúc đó qua ý thức mờ nhạt của mình, anh hiểu rằng anh đang lừa dối mình, rằng cô chẳng từ đâu trở về cả, chẳng từ một trạm quân y nào trở về cả, cô hiện ở đây, bên cạnh, sau lưng anh, cô ở đây, gần bên khẩu pháo và đã được anh, U-kha-nốp, Ru-bin và Nết-trai-ép vùi trong hốc đất giữa đêm qua. Mình phủ tấm vải bạt, cô mãi mãi nằm một mình ở đó, toàn thân bị đất lấp kín và trên nấm đất cong cong, chiếc túi cứu thương của cô đã bị tuyết phủ một nửa sáng lấp loáng. 

Sau khi chôn cất cô chu tất, Ru-bin đặt tất cả mọi thứ còn lại của cô, chiếc túi cứu thương nhỏ lên nấm mộ nhỏ, tươi màu đất mới và rầu rĩ nói bằng giọng hiểu biết: “Sau này ta phải đề: Dôi-a Ê-la-ghi-na, cứu thương”. Còn đối với Nết-trai-ép thì lúc ấy đã xảy ra một chuyện lạ lùng: đúng lúc mọi người ném đất xuống huyệt chôn Dôi-a, anh bất chợt cắm xẻng vào lũy đất, khom người lùi lũi bước ra cách ba bước, tức tối rút một vật gì đó ở trong túi áo choàng ra, quẳng xuống chân, dùng ủng ấn mạnh nó xuống tuyết đến nỗi vạt đó kêu răng rắc. Chẳng ai hỏi anh làm gì và tại sao làm thế. Đó là chiếc đồng hồ nữ với sợi dây chuyền vàng tìm thấy trong chiếc sắc chiến lợi phẩm… 

Giờ đây ba người còn lại trong trung đội anh, những người gần gũi nhau như anh em ruột thịt, ngồi bên càng pháo gần đống lửa bập bùng. Làn khói hăng hắc bốc lên từ ngọn lửa leo lét. Họ đã vui vẻ hơn sau khi uống rượu Vốt-ca, được ngọn lửa nhỏ sưởi ấm, nhai bánh lương khô, họ nói oang oang phấn khích về việc bọn Đức rút chạy, họ nhìn đám cháy ở trong làng, nghe tiếng súng đang xa dần về phía sau làng, chìm sâu trong thảo nguyên, về phía Nam của đơn vị. 

U-kha-nốp tỏ ra kiên quyết và đầy quyền hành, anh phết mỡ tổng hợp lên bánh lương khô, rắc đường lên trên, rót rượu Vốt-ca từ bình vào cặp lồng và khoản đãi tất cả mọi người một cách vô cùng hào phóng, không theo tiêu chuẩn. Bản thân anh không say, mặt chỉ tái nhợt đi, đưa mắt nhìn các pháo thủ hãy còn sống của mình là Ru-bin, Nết-trai-ép. Rượu Vốt-ca không có tác dụng gì đối với Cu-dơ-nét-xốp, không làm giãn được chiếc lò xo thép trong người anh, cơn rét vẫn không qua đi, tuy sặc sụa vì hơi rượu cày sè, ghê sợ, anh vẫn cứ uống từng ngụm to theo lời khuyên của U-kha-nốp. 

-Trung úy, hình như cấp trên đến chỗ chúng mình!-U-kha-nốp là người đầu tiên nhận ra tốp người đang đi ở phía bên phải của trận địa pháo.-Họ đi trên bờ công sự… trông kìa, trung úy! 

-Có lẽ họ tới đây đấy,-Ru-bin xác nhận, anh bắt đầu say, mặt đỏ ửng như quả bồ quân và đưa bàn tay sần sùi đẩy cặp lồng rượu vào bánh xe khẩu pháo để phòng xa.-Hình như là vị tướng chống gậy ấy… 

-Đúng, mình trông thấy rồi,-Cu-dơ-nét-xốp nói bình thản lạ lùng.-Không cần phải giấu cặp lồng rượu, Ru-bin ạ. 

Bét-xô-nốp bước dọc theo các bãi đặt pháo, đi ngang qua những lũy đất bị những bánh xe bằng thép đè nát và san phẳng, ngang qua những khẩu pháo bị gẫy nát, những đống đất chồng chất, những miệng hố đan đen ngòm, ngang qua chiếc xe tăng Đức nặng nề đổ nghiêng trên trận địa pháo bị cày nát của Tru-ba-ri-cốp. Mãi đến bây giờ trí nhớ của ông mới hồi phục được cảnh tượng ngày hôm qua, nơi đây còn là một đại đội pháo nguyên vẹn và khi ông tới đây trước lúc địch ném bom, cuộc nói chuyện ngắn ngủi của ông với người chỉ huy đại đội pháo, anh chàng đứng thẳng tắp y như trong những buổi diễn tập ở nhà trường, vẻ mặt kiên quyết, mang cái họ của một vị tướng quen biết. 

“Thế nghĩa là đại đội đã bắn cháy xe tăng địch từ những hỏa điểm này và chính anh chàng đó chỉ huy đơn vị này?”. 

Do sự liên tưởng nhanh chóng, ông nghĩ tới con trai mình, cuộc gặp gỡ cuối cùng với nó ở viện quân y, lời trách móc không tha thứ của vợ ông sau khi ông xuất viện, rằng ông đã dửng dưng, không làm gì để giữ nó phục vụ trong tập đoàn quân của mình vì dường như thế sẽ tốt hơn, ông tưởng tượng con trai mình là người chỉ huy cái đại đội ở trong những chiến hào bộ binh với hai người lính còn sống sót hoặc con mình ở trên trận địa pháo này, nơi mỗi tấc đất đều bị cơn bão thép, xới tung đến mức khó nhận ra được. Ông bước thong thả cho dễ thở hơn. Ngực ông vẫn cay đắng thắt lại và ông bắt đầu tháo móc ở cổ áo choàng ngắn ra để khỏi ngạt thở. 

“Bây giờ mình dễ thở rồi… Mọi việc sẽ qua đi chỉ cần đừng nghĩ tới con trai”,-ông kiên nhẫn tự nhủ, vẫn nặng nề tựa người trên chiếc gậy. 

-Nghiêm! Báo cáo trung tướng… 

Ông dừng lại. Trước mắt ông là bốn chiến sĩ pháo binh mặc áo choàng nhầu nát, ám khói lấm láp đến không nhận ra được, đứng thẳng trước mặt ông gần Khô-khơ-lốp cuối cùng của đơn vị. Đống lửa nhỏ đang lụi tắt vẫn leo lét ngay trên bãi đặt pháo, bình rượu và hai chiếc ba lô để trên tấm bạt, thoang thoảng mùi rượu Vốt-ca. 

Trên những khuôn mặt lỗ chỗ vì khói súng của bốn người, mồ hôi đen nhẻm đông cứng lại, ánh mắt lừ đừ mệt mỏi; những vệt thuốc súng hằn trên ống tay áo và trên mũ lông. 

Người hô “nghiêm!” khi thấy Bét-xô-nốp tới là một trung úy tầm thước, vẻ bình thản rầu rĩ, anh bước qua càng pháo và hơi ưỡn thẳng người ra, đưa tay lên mũ, chuẩn bị báo cáo. Bét-xô-nốp đưa mắt nhìn anh với vẻ tò mò ngạc nhiên, ông thoáng nhớ lại và nhận ra anh. Đây không phải là người chỉ huy đại đội trẻ tuổi mà ông vẫn còn nhớ họ, mà là một trung úy khác trước đây ông đã từng gặp, hình như đây là người trung đội trưởng, chính cái anh chàng đi tìm khẩu đội trưởng của mình sau đợt oanh kích của máy bay địch tại nhà ga, cái anh chàng do bối rối nên chẳng biết tìm người của mình ở đâu. 

Sau khi đưa tay ra hiệu đừng báo cáo, Bét-xô-nốp nhận ra anh, chàng trung úy với đôi mắt màu xám ủ rũ, đôi môi sưng mọng, chiếc mũi nhọn hoắt trên khuôn mặt gầy gò, chiếc áo choàng bị đứt mấy khuy, tà áo đầy những vết mỡ bọc đạn màu nâu, những khối vuông trên đôi quân hàm bị bong men và phủ đầy sương giá. Ông nói: 

-Không cần báo cáo… Tôi hiểu cả, Tôi đã trông thấy anh ở nhà ga. Tôi nhớ họ của người đại đội trưởng nhưng quên mất họ của anh… 

-Trung đội trưởng trung đội một, trung úy Cu-dơ-nét-xốp… 

-Thế nghĩa là đơn vị của anh đã hạ những chiếc xe tăng kia? 

-Thưa trung tướng, đúng thế. Hôm nay chúng tôi đã bắn vào xe tăng địch nhưng chúng tôi chỉ còn lại có bảy quả đạn… Đây là những chiếc xe tăng bị chúng tôi diệt hôm qua… 

Giọng anh nói theo đúng điều lệnh vẫn cố gắng giữ vẻ cứng rắn đều đều và không sợ hãi; trong giọng nói và trong cái nhìn của anh có cái vẻ nghiêm túc rầu rĩ, không trẻ con không có chút bóng dáng sợ sệt trước vị tướng, dường như anh chàng trẻ tuổi này, người chỉ huy trung đội này đã trả giá cả cuộc đời của mình để bước qua một cái gì đó và giờ đây cái điều anh ta đã hiểu được đó sững lại, khô cứng trong ánh mắt anh, không tràn ra ngoài. Bét-xô-nốp cảm thấy họng mình nghèn nghẹn, nhoi nhói khi nghe giọng nói đó, khi bắt gặp cái nhìn của người trung úy và vẻ mặt giống hệt thô sần đỏ nhợt như lặp lại của ba chiến sĩ pháo binh đứng giữa các càng pháo, đằng sau lưng người trung đội trưởng của họ, ông muốn hỏi xem người đại đội trưởng còn sống không, anh ta ở đâu, ai là người trong số họ đưa người chiến sĩ trinh sát và tên Đức đi; nhưng ông đã không hỏi, ông không thể… 

Ngọn gió quất như chích vào người, điên cuồng ùa vào trận địa pháo, làm quặn cổ và tà chiếc áo choàng ngắn, khiến cho những giọt lệ ứa ra từ mí mắt mọng lên của Bét-xô-nốp, ông không chùi những giọt lệ biết ơn, cay đắng và nóng bỏng đó, ông cũng chẳng ngượng ngùng trước sự chú ý của các sĩ quan tuỳ tùng im lặng đứng xung quanh. Nặng nề tì mình trên chiếc gậy, ông quay về phía Bô-gi-scô. 

Sau khi trao huân chương Cờ Đỏ cho tất cả bốn người, nhân danh chính quyền tối cao đã cho ông cái quyền lớn lao và nguy hiểm là chỉ huy và quyết định số phận của hàng chục nghìn người, ông gắng gượng thốt lên: 

-Đó là tất cả những gì cá nhân tôi có thể làm được. Tất cả những gì tôi có thể… Cám ơn vì các đồng chí đã diệt được xe tăng địch. Điều chủ yếu là các đồng chí đã diệt được xe tăng của chúng. Đó là điều chủ yếu… 

Rồi ông đeo găng tay đi nhanh theo hào giao thông về phía chiếc cầu. 

Cu-dơ-nét-xốp vẫn còn rầu rĩ, nắm chặt chiếc hộp nhỏ đựng huân chương bằng những ngón tay lạnh cóng anh vẫn còn sửng sốt khi trông thấy những giọt lệ trên mi mắt của tư lệnh tập đoàn quân, điều mới mẻ mà anh không ngờ lại thấy ở vị tướng này, con người hôm trước đây đã gặp anh tại nhà ga và sau đó đã gặp anh vào buổi sáng trên trận địa pháo, anh nhớ tới ông do tài quan sát sắc sảo và giọng nói rin rít, lạnh lùng của ông; anh im lặng. 

Vừa lúc ấy, chuẩn uý Xcô-rích và trung úy Đrô-dơ-đốp-xki xuất hiện trên dải bờ sông cao và khi từ xa nhận ra cấp trên đang ở cạnh khẩu pháo, họ vội vã chạy tới chỗ đó. 

Chưa tới chỗ đặt pháo, chuẩn uý Xcô-rích chẳng hiểu sao quay mình khỏi khẩu pháo, bắt đầu trèo lên dốc cao về phía xe nhà bếp; còn Đrô-dơ-đốp-xki thì chạy về phía nhóm sĩ quan đã kịp rời khỏi đó chừng ba trăm mét, đi dọc theo bờ sông. Đrô-dơ-đốp-xki đứng thẳng đuỗng trước mặt Bét-xô-nốp, áo choàng cài khuy kín mít, dây lưng da căng chéo qua ngực, trông anh thanh mảnh như một sợi dây đàn, cổ băng bó, mặt tái nhợt trắng bệch, bằng động tác dứt khoát của một quân nhân anh vung tay lên thái dương. Không nghe rõ Đrô-dơ-đốp-xki báo cáo cái gì. Nhưng đứng ở trận địa pháo có thể trông thấy trung tướng ôm hôn anh và trao cho anh chiếc hộp nhỏ giống như chiếc hộp ông đã trao cho bốn người ở cạnh khẩu pháo và hai người trong chiến hào. 

-Họ chia đều cho mọi người!-Ngồi trên càng pháo, U-kha-nốp cười vang lên không có chút ác ý nhưng Ru-bin vốn là tay lắm điều, văng tục rất dữ đến nỗi U-kha-nốp phải nheo mắt tò mò nhìn anh.-Này ông coi ngựa, ông cứ vặn vẹo như cưỡi trên mình ngựa ấy! Sao lại thế hả? 

-Làm thế cho lòng dạ nó nhẹ bớt đi, thượng sĩ ạ! Ngực tôi cứ đau thắt như là… 

-Thế nào, anh em,-U-kha-nốp nói,-ta uống một chầu rượu mừng huân chương thật ra trò vào nhé. Uống để mừng quân ta nện cho bọn Đức một trận tơi bời! Vì ta đã làm cho bọn quỉ phải chạy cong đuôi! Bây giờ thế là xong! Đúng không trung úy? Cậu thấy thế nào? Ngồi đây với mình. Ru-bin, đưa cặp lồng rượu đây. Ổn thôi, trung úy ạ… Giã đi giã lại mãi cũng phải ra bột chứ. Cánh mình có sứ mạng phải sống. 

-Bột à?-Cu-dơ-nét-xốp khẽ hỏi, mặt anh bỗng biến sắc. 

-Hình như đại đội trưởng có điều gì không ổn ấy,-Nết-trai-ép nói, tay dứt dứt ria mép, mắt vẫn nhìn về phía gò cao.-Anh ấy đi tựa như người mù ấy… 

Trung tướng và các sĩ quan tuỳ tùng đã đi xa khỏi trận địa pháo về phía chiếc cầu Đrô-dơ-đốp-xki đi trên bờ sông cao cao, men theo các bậc xuống hầm đất, chỗ anh em thương binh. Giờ đây trông anh chẳng giống chút nào với Đrô-dơ-đốp-xki thường ngày, cân đối, thẳng tắp như một cây sào, có lẽ anh đã phải cố gắng nhiều lắm mới chạy lại được chỗ trung tướng và vẫn cố giữ vẻ nhẹ nhõm trước đây, đưa tay lên mũ chào, báo cáo. Lúc này anh bước đi với dáng đi yếu ớt, uể oải, rã rời, đầu cúi gục, vai trễ xuống, không nhìn về phía khẩu pháo một lần nào, y như thể xung quanh anh không có ai vậy. 

-Quả thật sau khi Dôi-a chết anh ấy có điều gì đó…-U-kha-nốp nói.-Thôi được,-thế là xong. Bây giờ chúng ta sẽ không nhớ lại nữa. Mà nhất định là ta phải uống rượu mừng huân chương, anh em ạ. 

Rồi anh đặt cặp lồng rượu vào giữa tấm vải bạt, nghiêng bình rót rượu đến lưng cặp lồng, mở hộp nhỏ, dùng hai ngón tay thả tấm huân chương như thả một cục đường xuống đáy cặp lồng, sau đó anh lần lượt thả huân chương của Ru-bin, Nết-trai-ép và Cu-dơ-nét-xốp. 

Mọi người lần lượt uống. Cu-dơ-nét-xốp là nưgời cuối cùng cầm lấy cặp lồng rượu. Trong lúc ấy Đrô-dơ-đốp-xki lắc lư yếu đuối như một người say rượu, men theo các bậc đi xuống phía dưới, không còn trông thấy rõ bóng dáng nhỏ lại, lom khom khác thường của anh trên bờ sông cao cao nữa. 

Gió thổi từ mặt sông lên và Cu-dơ-nét-xốp chợt nghe thấy tiếng những hạt tuyết rào rào ở sau lưng, giống như lúc tuyết rơi trên tấm vải bạt ở sâu trong hõm đất khi họ đặt Dôi-a vào đó và chiếc cặp lồng rung lên trong tay anh, tiếng huân chương chạm vào đáy lanh canh như những mảnh băng. Vừa uống tiếp anh vừa đưa đôi mắt dò hỏi ngoái nhìn về phía đằng sau, về phía chiếc túi cứu thương bị gió tuyết vùi lấp trông như một mô đất trăng trắng. Anh quay hẳn người lại nghẹn ngào, đặt cặp lồng xuống và đứng dậy, rời khẩu pháo, bước vào hào giao thông, đưa tay xoa cuống họng. 

-Làm sao thế, trung úy? Trung úy đi đâu đấy?-U-kha-nốp gọi với theo ở sau lưng. 

-Thường thôi, chả sao cả…-Anh khẽ đáp lại,-Tôi quay lại ngay. Chỉ có điều là… tôi đi quanh trận địa pháo. 

Tiếng gầm rít rất thấp vang lên ở trên đầu, những chiếc máy bay cường kích bay ngang qua, sà xuống phía sau làng. Thân máy bay lóe lên hồng rực, tắm mình trong những tia nắng lạnh lẽo hắt lên từ phương Đông, đoàn máy bay lao về phía chân trời, bổ nhào xuống những mục tiêu bị che khuất, làm rung chuyển không trung buổi sớm mai bằng những loạt đạn khô khốc. 

Và ở phía trước, trên những mái nhà trong khu làng đang bốc cháy, bầu trời tỏa rộng, làn khói đen đặc quyện lẫn ánh hồng bốc lên mù mịt, vươn về phía Tây, nơi mảnh trăng lưỡi liềm trong suốt đang lặn dần. 

HẾT

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro