ung thu mau( thay Ngoc)

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Y Tổ Biển Thước giảng về Bệnh Ung Thư Máu. Cách chữa bằng khí công

Tác giả: DoDucNgoc

In bài Gởi bài

Mời qúy vị xem DVD hương dẫn cho Bé Kim Anh bị ung thư máu cách tập thở để tăng cường khí huyết :

http://video.yahoo.com/watch/4160464/11201666

Chúng tôi đã áp dụng bài chữa ung thư máu nhiều năm, và đã nhiều lần muốn đem phổ biến rộng rãi đến tất cả các thầy khí công chữa bệnh áp dụng để cứu người, nhưng thời cơ chưa đến nên Y Tổ Biển Thước chưa cho phép, mỗi lần tôi viết ra và đưa lên mạng, lần nào cũng bị trục trặc và biến mất hoặc nhẩy hàng, mất dòng, không đầu không đuôi, không có cách gì đem lên mạng được. Có thể bây giờ là lúc Y Tổ cho phép truyền bá để khuyến khích môn học khí công và nội lực để tự chữa bệnh bằng khí công cho bản thân mình và chữa cho những người khác có duyên được gặp chúng ta.

Sở dĩ được Y Tổ ban cho bài này vì chính tôi đáng lẽ phải mắc nghiệp bệnh này, nhờ bài này và tập luyện khí công nội lực và dấn thân làm việc thiện để cải nghiệp nên mới thoát khỏi căn bệnh nan y hiểm nghèo của thời đại. Do vậy nên chúng tôi xin phép Y Tổ để đem ra phổ biến cho mọi người được lợi lạc. Nếu vị Thầy thuốc khí công nào vì bản thân qúy vị chưa đủ trình độ khí công và nội lực mà lợi dụng cách chữa này để làm tiền bệnh nhân sẽ phải lãnh nghiệp qủa của bệnh này, chúng tôi hoàn toàn không chịu trách nhiệm.

Dưới đây là phần giảng dạy của Y Tổ Biển Thước :

Thưa Thầy, xin Thầy chỉ cho chúng con cách trị Bệnh Ung Thư Máu .

Trả lời :

Này Minh Quang con, Thầy cho con biết rằng, bệnh ung thư máu là một bệnh nghiệp nên có di truyền. Muốn trị bệnh này, phải chính do người điều trị chẩn bệnh qua thần lực (khác với nội lực, khí lực thông thường) của đôi mắt và đôi tay, rồi từ đó chuyển vận vô hình mà biết có bệnh hay không.

Như vậy điều quan trọng và quyết định là người chữa bệnh phải có nội công và khí công để đẩy bệnh ra khỏi cơ thể người bệnh, kèm theo các huyệt chữa bệnh theo âm-dương ngũ hành. Vì ung thư máu là do máu trắng trong cơ thể người bệnh được sinh sản qúa mức đo lường vô số, nên nó diệt luôn cả máu đỏ.

Nếu diệt máu trắng (kim) thì phần ngũ hành kéo theo 12 kinh đều bệnh, con thử làm bài toán tương sinh tương khắc của kim thì rõ.

Máu trắng bị diệt thì ắt nguy vì không có lực lượng bảo vệ. Tuy nhiên, ai là người chữa được bệnh này, Thầy sẽ cho con biết sau.

................

Này Minh Quang con,

Nay Thầy ban cho con cách trị bệnh Ung Thư Máu.

Máu gồm có trắng, đỏ, trắng gọi là bạch huyết cầu, đỏ là hồng huyết cầu.

Để giảm dần tác hại của bạch huyết cầu (kim) được sinh sản dữ dội trong cơ thể người bệnh. Con phải đánh thổ Tỳ,Vị là 2 kinh thuộc thổ âm, thổ dương, tức phải tả 2 huyệt Đại Đô và Giải Khê. Con cũng đừng quên là phải tả kinh Tam Tiêu thuộc hỏa, nhưng lại bổ kinh Tiểu Trường cũng thuộc hỏa và bổ hỏa của 2 kinh Tâm và Tâm Bào.

Con đừng ngạc nhiên là tại sao cùng lúc tả hỏa và rồi lại bổ hỏa (vì Thầy thấy không cần thiết để giải thích rộng hơn đối với trình độ của con)

Mộc được vượng thịnh thì thủy không làm hỗn tắt lửa (hỏa) và cũng không bị bắt buộc phải tự tiêu diệt, và cũng không cho phép kim hoành hành dữ dội đối với hồng huyết cầu.

Để diệt tức là để trị chứng bệnh ung thư máu, thì con cần phải bổ Công Tôn thuôc Càn là kim thông với Mạch Xung và huyệt Công Tôn thuộc Tỳ kinh thổ.

Phải tả kim và thổ thì tại sao Thầy lại bảo con bổ kim và thổ ?

Con đừng ngại vì Công Tôn là một trong Kỳ Kinh Bát Mạch không lệ thuộc vào vận hành của 12 đường kinh mạch, cũng như nó không phối kết giữa các kinh âm dương hay tạng phủ gì cả.

Với nhận thức này, tương tự phải bổ Liệt Khuyết, thuộc ly hỏa thông với Mạch Nhâm.

Nhâm Mạch là đại dương của thập nhị kinh mạch vì nó nhuộm mình gắn bó mật thiết với các kinh dương và âm.

Còn Xung Mạch là kho tàng chân khí tích tụ, là nơi chứa đựng sức mạnh của Tiên-Hậu thiên, Tiên thuên và Hậu thiên, (Thầy thường gọi tắt như lần trước Thầy nói Thượng-Hạ uyển tức là Thượng Uyển và Hạ uyển.)

Bạch huyết thuộc kim vượng thịnh một cách dữ dội và rất nhanh chóng, trong tự nó sinh sản lấy nó. Dữ dộiI nhanh chóng một cách mãnh liệt, nên nó giết hồng cầu cũng dữ dội nhanh chóng và mãnh liệt như thế, gây ra suy rồi liệt Can huyết, tạo ra một chuỗi dây chuyền bệnh nối tiếp về khí và kinh mạch, đi đến chỗ bị tiêu diệt là bệnh nhân bị chết một cách đột ngột thôi.

Bạch huyết ở trong trạng thái đó thì nó sẽ giết mộc, người và sinh vật thuộc mộc (lời của Y Tổ Biển Thước), đồng thời dập tắt hỏa của tâm, ví như một núi đá đổ xuống dập tắt một đốm lửa nhỏ làm tim ngừng đập thình lình.

Lúc ấy thập nhị chính kinh, thập nhị biệt kinh, bát mạch, thập ngũ đại lạc....đều bị tiêu diệt.

Lại nữa bạch huyết vượng thì cả thổ và thủy phải được vượng một cách tương hợp tương xứng. Thủy như đại dương sẽ tắt hỏa và ung thối giết mộc.

Cho nên phải bổ Công Tôn và bổ Liệt Khuyết, bổ Trung Cực, vì Trung Cực là dũng thần phò Công Tôn, Liệt Khuyết. Bổ Huyết Hải để tăng cường hồng huyết cầu và bổ Khí Hải để hoạt huyết thông kinh.

Bổ Đại Trữ, Đào Đạo, Huyền Chung để tăng cường sinh lực cho xương tủy, cho toàn thân hoặc thay 3 huyệt đó bằng một huyệt Tuyệt Cốt (cũng là Huyền Chung) là tủy hội bổ xương tủy.

Bổ thêm Thận Du, Mệnh Môn, Túc Tam Lý và Cách Du.

Và đây mới chính là điểm quan trọng mà Thầy nhắc lại con hiểu : "NộI công và Khí công" là oai lực để trấn áp và đánh đuổi bệnh này. Vậy mấu chốt để trị Bệnh Ung Thư Máu là nội công và khí công.

Con không luyện và chưa luyện hai bộ môn này, nhưng con được dư âm tiềm ẩn của kiếp trước tạo nên, hơn nữa con được Thầy ban cho con hai chữ Thần Môn vận chuyển vô hình rót vào đôi tay con khi con nhấp tâm vào lúcđang chữa bệnh thì được như ý.

Con cũng phải học thuộc để nhớ những bửu pháp của Ngài Đại La Tiên Thánh Tổ Thái Thượng Lão Quân, cũng như của Ngũ Công Vương Phật và của Tam Tòa Thánh Mẫu, Ngũ Hành Thánh Mẫu.

Đúng như con tự nghĩ là tâm con không trụ vào bệnh khi chữa bệnh và trị bệnh thì nghiệp bệnh của người đó không hề vướng mắc vào con, dù rằng con không biết cách giải bệnh hay quên đưa nghiệp bệnh đó về Hư-Không-Tạng, nơi đó có Ngài Hư-Không-Tạng-Bồ-Tát đại nguyện giải kết nghiệp bệnh do pháp sư đưa về.

Tuy nhiên con nhớ thì càng tốt, và tâm tưởng nghĩ thêm về một Ngài Bồ Tát hay một Đức Phật thì tốt.

---------------------------------------------------

Cách chữa Bệnh Ung Thư Máu bằng khí công

1-Nạp Khí Trung Tiêu :

Nằm ngửa, hai tay đặt ở Đan Điền Thần, bàn tay trái đặt ở mỏm xương ức, bàn tay phải đặt chồng lên tay trái, cho nam bệnh nhân, nữ bệnh nhân đặt tay ngược lại, cuốn lưỡi ngậm miệng, thở tự nhiên bằng mũi, đưa hai chân thẳng lên cao một góc 45 độ, giữ lâu chừng 90 giây đồng hồ. Khi đủ 90 tiếng đếm thầm đến 90 rồi hạ chân xuống vẫn cuốn lưỡi ngậm miệng thở bằng mũi và cơ thể thư giãn, nhắm mắt theo dõi hơi thở ở bụng đang nhồi ở bụng phồng-xẹp một cách tự nhiên.

2-Bơm máu não, chỉnh thần kinh tủy sống :

Nằm úp người, nhờ người khác ép gối cho gót chân chạm mông 18 lần mỗi bên chân. Khi ép gối vào thì thở ra bằng mũi, khi buông duỗi chân ra thì hít vào cũng bằng mũi.

3-Tập thở thiền :

Nằm ngửa hai tay vẫn đặt ở Đan Điền Thần, cơ thể thả lỏng tự nhiên, không cần hít thở, cuốn lưỡi ngậm miệng, để tự cơ thể thở tự nhiên bằng mũi, chỉ để tâm ý theo dõi bụng phồng-xẹp gọi là quán tức (quan sát hơi thở), khi đã theo dõi được phồng xẹp thì bắt đầu kiểm soát từng hơi thở từ 1 đến 10 lần là một chu kỳ, gọi là sổ tức (đếm hơi thở), cứ đếm tư 1 đến 10 nhiều lần lâu chừng 30 phút, để dưỡng tâm, an thần, có công dụng làm giảm đau, hạ tần số sóng não xuống thấp từ 11 hertz xuống 3hertz sẽ rơi vào trạng thái hoàn toàn tĩnh, nếu còn tỉnh thức thì đang trong thời kỳ nhập thiền định, lúc đó mặc dù không ngủ nhưng 1 giờ thiền vẫn có giá trị tương đương với 2 giờ ngủ, còn nếu bị hôn trầm là người tập ngồi thiền mà bị ngủ gục, nhưng ở thế nằm bị hôn trầm sẽ rơi vào trạng thái ngủ ngon giấc không bị trằn trọc, mộng mị mệt mỏi, ở trạng thái này cơ thể sẽ phục hồi nguyên khí để chuyển hóa làm thay đổi tế bào, sinh tế bào mới loại tế bào bệnh.

4-Bổ tủy :

Ăn tủy xương ống chân bò, xí quách, bổ sung thêm tủy cho cơ thể đang bị phá hủy hay thiếu hụt, để tăng cường phần tinh và tập thở thiền để nhờ khí giúp chuyển hóa tinh tủy biến thành máu, và cũng nhờ tập thở thiền là chất xúc tác giúp cơ thể giữ quân bình số lượng hồng cầu, bạch cầu cần thiết cho cơ thể chống bệnh tật.

5-Kiêng ăn :

Không được ăn cam, chanh khiến cơ thể bị hàn, không đủ nhiệt lượng chuyển hóa tinh tủy, lúc đó tinh chất của thức ăn sẽ biến thành đàm, và số máu sẽ bị phá hủy do nhiều chất chua. Nên ăn nhãn, sầu riêng và một ít quýt (có tính nhiệt, làm tan hạ đàm).

6-Chữa bằng huyệt :

Đổ dầu nóng, hiệu Wood lock Wong tu yick vào rốn và huyệt Mệnh Môn, dán cao đè lên, để kích thích hai huyệt này lúc nào cũng nóng ấm, giúp sự chuyển hóa tinh chất của thức ăn biến thành khí lực, rồi nhờ hơi thở giúp chuyến khí hóa thần, làm tăng hồng cầu, khiến cho da thịt và sắc mặt hồng hào.

7-Tập đông công :

Bài Vỗ Tay 4 Nhịp, tăng oxy cho tim, phổi, gan, thận.

8-Đứng Hạc Tấn nhắm mắt :

Có người đỡ hay đứng một chân, một tay vịn nhẹ vào tường cho khỏi ngã, mục đích của Hạc Tấn nhắm mắt để đưa máu lên nuôi não.

Bài đọc thêm :Nguồn gốc Môn Khí Công Y Đạo ra đời

Câu chuyện từ cõi trung giới, hư hay thực ?

1-Tài thử tài ư ? Vương mang nghiệp hư !

2-Tài ? Thử tài ư ? Vương mang nghiệp hư.

Này M.Q. con. Hôm nay hai Thầy cùng giáng lâm. Lần này Thầy giáng bút tương đối nhiều vì đã có Thái thượng lão quân tiên sinh tẩy trược uế nơi đạo tràng chân tâm của con.

Một bí truyền để trị áp huyết cao hay thấp là mai hoa châm, còn hai huyệt Thầy sẽ cho con biết sau vì duyên khởi chưa có, bởi lẽ nhơn sanh còn trong vòng điên đảo của nghiệp chướng.

Như con biết được trong tư duy (mà người đời thường gọi cái biết này là do tánh linh, là giác quan ngoại biệt). Đây, để Thầy nói rõ điểm này : Bởi thương con có nghĩa nên Thầy đã giáng bút giải đáp lời con thỉnh cầu về cách chữa trị vài bệnh mà đông y và tây y hiện giờ vẫn chưa tìm ra đáp số. Một bài Thầy giảng luận rõ chứng bệnh và cho công thức huyệt trị thì được quan tâm đến, còn một bài Thầy cho huyệt Dương Giao thì thắc mắc là chưa hay..!

Thầy cũng buồn nên việc con thỉnh nguyện không được giải đáp trọn vẹn. Dĩ nhiên đây cũng là điều con dối Thầy, vì không phải điều mà con có tham vọng muốn biết thì tại sao con lại nhận trong sớ tấu trình hoặc trong lời tấu trình ?

Thầy hiểu con, hiểu nội tâm của con nên Thầy không quở phạt mà còn thương và ban cho con ân sủng đón nhận nhiệm mầu để con trị bịnh. Thầy nói là con trị bịnh chớ không phải chữa bịnh. Vì trên cõi trời này thì ý nghĩa của trị bịnh là làm dứt con bệnh, tức là diệt trừ bịnh của bịnh nhân, còn chữa bịnh là một biến dạng của bịnh dưới một trạng thái khác và một hình thức khác.

Bây giờ Thầy trở lại hai câu nói :

1-Tài thử tài ư ? Vương mang nghiệp hư !

2-Tài ? Thử tài ư ? Vương mang nghiệp hư .

Con thấy gì ? Con biết gì ?

Này, M.Q. con, hai câu trên chắc phải có hai trình độ hiểu biết khác nhau. Câu 1 là có tài thật sự ! Câu 2 như một chiếc thùng lủng đáy.

Thầy có ý dìu dắt con nên cái ý này. Thầy nói tại đây, chứ không giải thích liền, để con nhìn thấy thâm thúy mà làm mẫu mực, hay vội vàng thắc mắc vì lời nói không sáng sủa, không mạch lạc hoặc không đâu vào đâu cả giữa câu nói trước và kế.

Cái hay của người thầy chữa bịnh là chẩn đoán bịnh một cách chính xác và có công thức trị bịnh một cách hợp thời, đúng liều lượng, Tây y và Đông y trùng hợp trong nhận thức này.

Việc con có mặt ở Long Viên Tự để góp sức bồi đức và trị bịnh nên Thầy có giáng hạ nơi đó vận chuyển cho con... dĩ nhiên Thầy thấy được sự tình nơi đây..

Con nên cho thầy chữa bịnh (tôi) cho nhà sư trụ trì biết rằng, không nên thoa thuốc sát trùng ở vết thương trên mặt của nhà sư nữa, hoặc châm quanh vết thương này, vì thực sự nếu việc này không thực hiện thì vết thương đã lành hẳn lâu rồi.

Con hãy nói thẳng để cứu người thầy chữa bịnh cho nhà sư, vì thà con mất lòng của người còn hơn để người lâm nạn mà con làm ngơ sao ? Người bị lâm nạn gì ? Và tại sao lại có, khi người không hề làm tiền làm bạc gì của bịnh nhân ? Vì mùa Vu lan gần kề, ngoài ra Thầy không thể cho biết rõ hơn được. Còn các chứng bịnh khác thì người (tôi) nên chữa tiếp (cũng tại chùa này ), nhưng cốt yếu là phải thay đổi phương pháp, nếu không, mà như bịnh nhân khoảng 10% có hết bịnh thì đó là sự hên và may ( nói theo người hồng trần ) của ông thầy, và khoảng 10% biểu chứng nhẹ và phát giác bịnh kịp thời, còn lại 80% khoảng đó, thì chỉ làm phí thời giờ của cả đôi bên là người chữa bịnh và người bịnh.

Nhưng thay đổi phương pháp là thay đổi như thế nào ? Thầy cũng như Thái Thượng Lão Quân không giải đáp, vì không phải học trò của mình. Thầy Hoa Đà có thể độ cho người này. Con hãy nói khi ở hồng trần cũng giỏi về kinh mạch nhưng lại chuyên về thuốc. Hãy thử chuyển mình một chút về cá tính, thì Thầy Hoa Đà đến độ ngay. Và phương cách độ như thế nào thì đó thuộc về phần của Thầy Hoa Đà cho biết.

( Trích một bài trong Di giáo y tổ Biển Thước ).

Chú thích :

Đây là một trong những bài giảng của Tổ Biển Thước dạy cho đệ tử tên M.Q. khi nhập định vào cõi trung giới. MQ trước kia là thầy chữa bệnh bằng bùa chú Lỗ Ban, nhưng chính bản thân anh ta vẫn thường hay dễ bị cảm cúm, đau nhức cổ gáy vai mãn tính, ngày nào cũng phải đi giác hơi cạo gió, sau gặp tôi ở Chùa Long Viên, Phú Nhuận, được chữa khỏi, và theo tôi học nghề để phụ giúp tôi trong việc chữa bệnh miễn phí cho đồng bào ở chùa này. Một thời gian sau, cậu ta giỏi hơn tôi, có những cách chữa khác tôi. Cậu cho biết Thầy tổ Lỗ ban của cậu là Thái Thượng Lão Quân biết cậu có ý thích chữa bệnh bằng huyệt mà không thích chữa bệnh bằng bùa chú nữa, nên đã mời Y Tổ Biển Thước dạy chữa bệnh bằng châm cứu bấm huyệt cho cậu, mỗi tuần 3 lần, qua những giờ nhập định để học lý thuyết. Qua lời kể của cậu, mỗi khi học, cậu thấy cảnh, Tổ Biển Thước giảng, chỉ rõ vị trí huyệt đạo trên người mẫu là Ông Vương Thúc Hòa, ( Ông Hoa Đà sống thời Tào Tháo, ông Biển Thước có trước Hoa Đà 1000 năm, ông Vương Thúc Hòa có sau Hoa Đà hơn 1000 năm, đều là những thầy thuốc giỏi, sống bất tử cùng thời trong cõi trung giới ). Về thực hành, cậu theo phụ giúp tôi, nhưng trong cõi vô hình, Thầy Biển Thước nói lúc nào Thầy tổ cũng có mặt ở chùa để phù trợ cậu và chứng kiến quan sát những việc làm của tôi với bệnh nhân. Trong bài giảng này, Tổ Biển Thước gọi tôi là thầy chữa bệnh cho nhà sư trụ trì, cậu ta là thầy trị bệnh, tôi là thầy chữa bệnh, có nghĩa là chữa hết bệnh này lại biến chứng sang bệnh khác. Tôi biết tôi bây giờ kém tài hơn cậu ta, nên đề nghị cậu xin cho tôi làm đệ tử của Tổ Biển Thước. Tổ không chấp nhận, theo quy luật thầy trò, thì cậu vừa là học trò của Tổ trong cõi vô vi, vừa là học trò của tôi trong cõi hữu vi, vì theo vai vế tôi không thể nào làm học trò của tổ được, và tổ cũng cho biết, tiền kiếp nhiều đời tôi cũng đã giỏi về huyệt, bây giờ phải theo thầy Hoa Đà học thuốc, còn muốn trở thành thầy trị bệnh, phải tự thay đổi phương pháp, do đó mà môn học Khí Công Y Đạo ra đời, do tôi đã học hỏi được từ Đại Thừa Cửu Chuyển, rút tỉa được trong những bài giáng cơ bút ( tài liệu mật của bổn giáo Cao Đài) do chính Đức Cao Đài Tiên ông Hồng Y Lão Tổ Thái Thượng Lão Quân dạy cho các vị đạo trưởng trong bổn giáo.

Trong 18 vị tổ Phật giáo, có ba tổ Thiên Thân, Vô Trứ và Mã Minh, khi nhập định, lên Cung Trời Đâu Suất học đạo với Đức Phật Di Lặc, nhờ đó đã soạn ra kinh sách đại thừa, cho nên chúng ta mới có Phật giáo đại thừa như ngày nay.

Trở lại câu chuyện trên, khi chúng tôi chữa bệnh, gặp những trường hợp khó không giải quyết được như cơ thể mắt năng lượng, càng ngày càng suy nhược ốm yếu dần, ăn uống bổ mà không hấp thụ và chuyển hóa, chúng tôi muốn cứu người nhưng không biết phải làm sao nên thỉnh cầu Tổ Biển Thước chỉ bảo qua sự nhập định của MQ. Có hôm Tổ cho huyệt chữa là Thượng hạ uyển, chúng tôi tra tìm tự điển huyệt không biết vị trí huyệt ở đâu mà châm, sau phải xin tổ chỉ thẳng vào cơ thể, khi nhập định, tổ chỉ thẳng vào 3 huyệt Thượng quản, Trung quản và Hạ quản, là danh từ thông dụng của thời đại chúng ta, tên thượng hạ uyển là danh từ cổ thuộc thời đại của tổ. Trong bài trên có đề cập đến huyệt Dương Giao, do chúng tôi thỉnh cầu xin tổ chỉ cho cách chữa một ca bệnh nan y của thời đại là nhồi máu cơ tim.

Chúng tôi thắc mắc không dám tưởng tượng chỉ 1 huyệt đó mà bệnh nhân có thể thoát khỏi cơn nhồi máu cơ tim, thật là thần kỳ.

Tập Tĩnh công ở trình độ cao trong Đại Thừa Cửu Chuyển chúng ta cũng có thể nhập định vào cõi trung giới học hỏi thêm tay nghề để giúp cho những người bệnh nan y có duyên may được gặp chúng ta, ở giai đoạn tứ, ngũ và lục chuyển, tổ dạy :

Qua tứ chuyển cơ trời phát lộ

Thoát ngoài vòng tứ khổ trần ai

Gom vào tư tưởng trong ngoài

Luyện phanh trong sạch thánh thai nhẹ nhàng

Ngũ chuyển đạo thông toàn cơ nhiệm

Ngồi định thần tầm kiếm căn nguyên

Xuất thần lên cảnh thần tiên

Học thêm tâm pháp bí truyền cao siêu

Lần lục chuyển tam diêu bất động

Tâm vô vi trống lỗng căn cơ

Bụi trần không thể đóng dơ

Linh đơn hai phẩm giựt cờ thánh tiên

Như vậy, theo ý tổ, một thầy bình thường của thế gian dù giỏi đến đâu cũng chỉ là thầy chữa bệnh, kết qủa 20%, còn 80% chỉ làm mất thời giờ của cả thầy thuốc và bệnh nhân. Trong ca chữa cancer trên mặt thầy trụ trì chùa Long Viên, trước kia tôi chưa thay đổi phương pháp, chưa biết tĩnh công thiền định, nên không thấy được kết qủa công việc mình làm là đúng hay sai, tôi tưởng là 1 cái mụn ở má, trong mụn không có ngòi, mà có những hang rỗng thể xốp máu cứ chảy ra, ngoài cách bấm huyệt, tôi dùng Rimactan làm thuốc sát trùng bôi trên mụn, thấy có kết qủa, nhưng tới mùa Vu Lan, theo lời Tổ, tôi ngưng không chữa nữa. Theo ý tổ, thật ra không cần thuốc sát trùng, chỉ dùng huyệt bệnh cũng sắp lành, nếu dùng thuốc sát trùng mạnh gây biến chứng khác làm cho sư trụ trì bị bệnh nặng thêm không thể làm phật sự đàn tràng xá tội vong nhân vào ngày rằm tháng bảy Vu lan, những cô hồn vất vưởng không được giải thoát, thì bao nhiêu tội lỗi đó là do hậu qủa tôi đã làm cho nhà sư bệnh không thể hành lễ khiến các cô hồn đó mất đi cơ hội giải thoát. Tất cả những sai lầm đó tôi sẽ phải gánh nghiệp, cho nên tổ đã cứu tôi, và lúc nào cũng theo dõi công việc làm của tôi để phòng ngừa những sai lầm trong chữa bệnh.

Tôi vẫn theo con đường lý tưởng phải tiếp tục đi cho tới đích của pháp môn Đại Thừa Cửu Chuyển

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro