VAI DUC TINH CAN THIET CHO CONG TAC KHOA HOC

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

VÀI ĐỨC TÍNH CẦN THIẾT CHO CÔNG TÁC KHOA HỌC

"Có thể nhà bác học cũng chỉ là một đứa trẻ, đã duy trì thành công - người ta không rõ bằng cách nào - tính tò mò và khả năng ngạc nhiên lúc tuổi thơ, đồng thời rèn luyện tính kỷ luật, lòng kiên nhẫn, nghị lực của người lớn tuổi, cần thiết cho mọi thành công".

Muốn đi vào khoa học, ta phải nhận thức được tính chất của lao động nghiên cứu khoa học.

Cũng như nhà săn bắn đi tìm thú, nhà khoa học cũng đi "săn" sự kiện. Người đi săn phải có đầu óc quan sát để phát hiện dấu chân thú, phải kiên trì rình thú ra ăn, phải có trí nhớ để đỡ lạc đường trong rừng rậm, phải nhanh nhẹn để nổ súng kịp thời. Muốn "săn" được nhiếu sự kiện, nhà khoa học cũng phải có những đức tính như thế.

Nhưng người săn thú, sau khi bắn được thú, coi như đã thành công, còn người khoa học với một mớ sự kiện săn được, lại bước sang một giai đoạn khác. Anh ta phải suy nghĩ trên mớ sự kiện đó, tìm mối liên quan giữa chúng để phát triển những quy luật trong tự nhiên. Công việc này đòi hỏi một trí tưởng tượng phong phú.

Người nào muốn đi vào con đường khoa học phải có một số đức tính sau đây:

1. Óc quan sát

2. Trí nhớ nhanh, bền

3. Tính tò mò tìm hiểu

4. Trí tưởng tượng phong phú

5. Nghị lực kiên trì

6. Năng khiếu

ÓC QUAN SÁT

"Muốn trở thành bác học, phải biết nhìn mọi cái xảy ra trước mắt. Đây là điều rất khó. Muốn học nhìn sự vật gì, phải tập luyện lâu dài".

Khoa học là một bộ phận sản xuất của hoạt động con người, lý thú hơn cả và đồng thời cũng khó khăn hơn cả.

Phát minh khoa học thành hình do trực giác gần như trong tiềm thức, nhưng phải được chuẩn bị bằng một quá trình lâu dài về quan sát và thí nghiệm.

Hoạt động đầu tiên của người nghiên cứu là quan sát hiện tượng.

Muốn quan sát đúng đắn, người nghiên cứu phải nhạy cảm, tức có giác quan nhạy bén để nhận biết ngay hiện tượng vì nhiều hiện tượng tự nhiên rất tế nhị hoặc tiếp diễn quá nhanh.

Vì thế, điều kiện đầu tiên của nhà khoa học thực nghiệm là mắt phải tinh, mũi tai phải thính. Người điếc rõ ràng không thể nghiên cứu được âm nhạc.

Tính nhạy cảm cũng chưa đủ, còn phải có óc quan sát. Có óc quan sát tức là biết tập trung chú ý và có khả năng nhận thức rõ ràng các sự kiện và ý nghĩa của chúng, trong này có những sự kiện dường như vô nghĩa đối với con người bình thường.

Người ta kể rằng Galilê lúc nhỏ đi lễ nhà thờ, chú ý chạm phải chùm đèn làm đèn đu đưa. Anh lưu ý thấy thời gian dao động không thay đổi, căn cứ vào mạch đập ở tay của anh (lúc này chưa có phát minh ra đồng hồ).

Về nhà, anh tiếp tục làm thí nghiệm, lấy chỉ buộc vào mọi thứ, chìa khoá, lọ mực, hòn đá,...và đo thời gian dao động, anh rút được mấy kết luận:

1. Các vật nặng nhẹ khác nhau sẽ lắc cùng nhịp nếu các chỉ dài bằng nhau.

2. Số lần dao động trong thời gian nhất định sẽ tuỳ thuộc vào độ dài của chỉ.

3. Biên độ của dao động giảm dần nhưng thời gian của dao động hình như không đổi.

Từ bao đời, đã nhiều người đi lễ nhà thờ Pisơ ở nước Ý cũng chỉ coi hiện tượng đu đưa của chùm đèn là bình thường. Phải đợi tới Galilê với óc quan sát đặc biệt, mới nhìn thấy "cái đặc biệt" trong hiện tượng bình thường đó.

Ai cũng có thể nhìn, nghe, sờ mó, nhưng quả ít người có óc quan sát. Những người này nhìn loáng thoáng theo kiểu cưỡi ngựa xem hoa hoặc trái lại chỉ nhìn hiện tượng vơi định kiến có sẵn.

Với cách nhìn như vậy, họ dễ dàng bỏ qua nhiều sự kiện tưởng như "bình thường", tựa như bao người đi lễ nhà thờ trước thời Galilê, hoặc đi tới "ngộ nhận" hiện tượng, dễ đi tới biện luận sai lầm như trong thí dụ sau.

Trong lịch sử sinh học, đã có một thời khởi xướng một học thuyết về phát sinh tế bào vẫn có thể thành hình từ chất sống không phải tế bào.

Tác giả này đã dựa trên luận điểm của Enghen "chất sống bắt nguồn từ chất không không sống", để suy diễn: nếu chất sống bắt nguồn từ chất không sống", để suy diễn: Nếu chất sống có thể phát sinh từ chất không sống, tế bào cũng có thể phát sinh từ chất không sống, tế bào cũng có thể phát sinh từ chất không sống, tế bào cũng có thể phát sinh từ chất sống phi tế bào.

Nhưng tác giả không nghĩ tới sự kiện là chất sống đã nảy sinh từ chất không sống trong những điều kiện rất đặc biệt của trái đất trước kia hiện nay không còn. Sự hình thành tế bào từ chất sống không phải tế bào chắc cũng không thoát ly được điều kiện lịch sử đó.

Để minh chứng cho giả thiết, tác giả đã căn cứ vào quan sát sự phát triển của trứng gà, thấy trong lòng đỏ trứng đang phân hoá thành hình những vật thể đỏ trứng đang phân hoá có thành hình những vật thể hình cầu, có cái có nhân giống như tế bào. Và cũng dựa vào thí nghiệm nghiền thuỷ tức để phá huỷ cấu trúc tế bào của nó, trong nước thuỷ tức sẽ thấy thành hình vật thể giống tề bào.

Sau này, khoa học có kiểm tra lại thì thấy "các tế bào" đó chỉ là những hình giả tạo do thuốc nhuộm tiêu bản gây nên. Toàn bộ học thuyết đã phá sản.

Có óc quan sát còn là biết tập trung chú ý ta mới có thể phát hiện được nhiều chi tiết thú vị bất ngờ.

Trong một bài thực tập về mổ ếch, một sinh viên đã phát hiện ra nhiều đôi đốm trắng ở hai bên cột sống con vật. Đặc điểm này không thấy ở hình vẽ mẫu và cũng không thấy thầy giáo nói tới. Sau khi tìm hiểu, anh ta biết thêm là đây là những khối dự trữ can xi của ếch.

Trong một cuộc du lãm sinh học, có sinh viên quan sát cách thở bằng thầm miệng của ếch. Trong sách giáo khao, chỉ nêu động tác thở là hạ thềm miệng để hút ôxy và nâng thềm miệng để tống ôxy vào phổi. Anh quan sát kỹ, thì thấy động tác nâng hạ thềm miệng tiếp diễn rất nhanh tới chục lần để tích ôxy trong miệng, tới khi có khối ôxy đáng kể trong đó, mới có động tác nâng mạnh thềm miệng để đẩy ôxy qua thanh quản. Anh đã phát hiện chi tiết của động tác thở của ếch không nêu trong bài giảng. Kiến thức này không có cả trong sách giáo khoa.

Tính nhạy cảm bẩm sinh, nhưng óc quan sát đòi hỏi rèn luyện. Thầy giáo khoa học có tác dụng quan trọng trong việc rèn luyện này. Phải gợi ý cho sinh viên tìm tòi thêm trong các buổi thực tập. Phải giúp đỡ sinh viên tập nhận thức ý nghĩa của hiện tượng thông thường trong các quan sát, thí nghiệm.

Nhà sinh lý học Paplốp đã nói với các môn đồ: Trong khi nghiên cứu, thí nghiệm, quan sát, các bạn không nên bao giờ nhìn sự kiện một cách hời hợt. Đừng biến mình thành người lưu trữ sự kiện. Hãy đi sâu vào bí mật về nguồn gốc của chúng. Hãy kiên nhẫn tìm ra quy luật chi phối chúng

TRÍ NHỚ NHANH BỀN

"Trí nhớ là cái đại dương, chúng ta bơi trên đó tới tương lai của mình"

Tri nhớ là khả năng giữ được tình trạng của ý thức đã qua, khi cần tới, gợi nó lên, xác định được nó trong thời gian và không gian trước kia. Ý thức đã qua gọi là ký ức, gồm những cảm giác hình ảnh, âm thanh ghi ở não trong quá khứ.

Trí nhớ là một thuộc tính bẩm sinh bảo đảm cho sự sinh tồn của loài vật. Chim thú đều nhớ đường đi kiếm ăn, đường về tổ. Trẻ em cũng nhớ đường đi chơi, đường về nhà.

Không có trí nhớ, đới sông sinh hoạt sẽ giảm mất nhiều kinh nghiệm của dĩ vãng để hướng hành động cho tương lai. Trẻ em nhỏ đã bị bỏng về lửa, sau này không dám thò tay vào ngọn nến đang cháy. Một nhà triết học có nói: Sự nhìn trước là một trí nhớ trở ngược.

Không có trí nhớ, sẽ không có đời sống trí tuệ: Nhận thức, tưởng tượng, lập luận và lẽ phải. Trí thông minh càng phong phú và linh hoạt nếu trí nhớ càng phong phú và được rèn luyện tốt.

Yêu cầu về trí nhớ đối với người nghiên cứu cao hơn người lao động khác. Nhà khoa học phải luôn luôn liên hệ các sự kiện và tìm cách nối chúng với nhau, nên buộc phải có trí nhớ nhanh để ghi được nhiếu sự kiện xảy ra trong thời gian ngắn. Mặt khác, cũng phải có trí nhớ bền vì phải thường xuyên liên hệ so sánh sự kiện mới với sự kiện cũ.

Trong cuộc du lãm, đi quan sát một khu rừng nguyên sinh ta phải nhận biết nhanh chóng các loài cây điển hình, và sau đó lại liên hệ với cuộc du lãm trước kia trong một khu rừng thứ sinh, để thấy các điểm giống nhau và điểm sai khác.

Trí nhớ nhanh phần nào có tính bẩm sinh và tuỳ thuộc tính nhạy cảm của tế bào thần kinh. Người ta kể chuyện tiến sỹ Lê Quy Đôn, hồi còn nhỏ, đã đọc bài văn bia ở bở sông trong lúc thuỷ triều lên, và có thể đọc lại không sai một chữ, khi nước đã che lấp bia.

Nhà toán học L.Oile có một trí nhớ kỳ diệu. Trong một đêm mất ngủ, ông đã tính nhẩm trong óc luỹ thừa sáu của một trăm số đầu và rất lâu về sau, ông vẫn còn nhớ kết quả tìm được.

Nhà toán học Gausơ nổi danh là "một cuốn sách im lặng không có tên sách"; ông làm tính không bao giờ nhẩm mặc dù tính có phức tạp thế nào.

Tuy nhiên vẫn có thể tăng tốc độ bằng cách tập luyện. Thông thường, ta có khả năng đọc 250 từ một phút, nhưng có thể nhở luyện tập mà tăng tốc độ lên 500 từ và hơn nữa.

Trí nhớ bền tuỳ thuộc nhiều vào quá trình rèn luyện. Tập trung chú ý khi đọc bài giúp ta ghi sâu được hình ảnh kiến thức ở vỏ não. Ôn tập thường xuyên cũng giúp củng cố hình ảnh này.

Phải coi trọng việc ghi nhật ký, một hình thức quan trọng giúp việc củng cố kiến thức.

Nhưng dè chừng là trí nhớ máy móc, trí nhớ truyền khẩu, trí nhớ sách vở lại không tốt cho trí tuệ. Một trí nhớ các ý niệm lôn xộn, các từ không rõ nghĩa, lại thành một trở ngại cho trí thông minh hơn là trợ thủ cho nó. Loại trí nhớ này sẽ làm mất cảm giác tười trẻ, mất tính độc đáo, mất tính uyển chuyển. Một văn hào có nói: Một cái đầu tốt giá trị hơn một cái đầu đầy ắp.

Không những cần có trí nhớ trật tự, minh bạch, mà người nghiên cứu cần có trí nhớ trung thực.

Một tình trạng đã qua càng dễ nhớ lại nếu nó ghép với nhiều tình trạng khác mà một số dễ gợi lại. Một chuyên gia nhớ rất kỹ tất cả điều gì liên can tới chuyên môn của anh ta, vì kiến thức mới được ghép ngay vào mạng lưới chặt chẽ của kiến thức cũ có liên quan. Một bác học nhớ dễ dàng các sự kiện xác minh cho giả thuyết tha thiết của mình, và có thiên hướng quên những sự kiện trái với quan niệm của bản thân.

Đácuyn đã tự đặt cho mình quy tắc sau đây để giữ được tính trung thực trí tuệ: Mỗi khi, tôi thấy một sự kiện, một quan sát hay một ý niệm mới mâu thuẫn với kêt quả chung đã đạt được, tôi lưu tâm ghi chép ngay và đầy đủ, vì kinh nghiệm đã cho biết là ý niệm và sự kiện loại ấy dễ xoá nhoà trong ký ức của ta hơn các sự kiện phù hợp với quan niệm của ta.

Nói tới trí nhớ, không phải và không nên cái gì cũng ghi, cái gì cũng nhớ. Người nghiên cứu phải biết chọn lọc kiến thức cần nhớ, chủ yếu các kiến thức liên can tới lĩnh vực khoa học của mình. Não người không phải là một trường ảnh vô hạn. Muốn biết nhớ phải biết quên, nhớ những điều có ích và quên những điều vô ích.

Những cái gì có thể dễ tìm trong sách thì không cần nhớ.

Khi ở Mỹ, người ta đưa Anxtanh xem một cuốn sách ghi các câu hỏi cần thiết cho một học sinh vào đời. Khi xem đến câu hỏi về tốc độ truyền âm, ông nói: Không biết! Tôi không cần nhồi nhét vào đầu óc tôi những sự kiện mà tôi có thể tìm rễ dàng trong một cuốn từ điển bách khoa.

Một nhà triết học đã nói: Một điều kiện của trí nhớ là lãng quên...Lãng quên, trừ vài trường hợp, không phải là một bệnh của trí nhớ, mà là một điều kiện của sức mạnh và sự sinh tồn của tri nhớ.

Tơi đây có câu hỏi: Trí nhớ cần thiết cho công tác nghiên cứu, tai sao người ta kể nhiều chuyện đãng trí của các nhà bác học?

Thật ra đây chỉ là biểu hiện của sự tập trung chú ý cao độ về vấn đề nghiên cứu, làm các nhà khoa học tách biệt hẳn về mặt tâm lý với hoàn cảnh bên ngoài. Sự tập trung chú ý này rất cần thiết cho người nghiên cứu, vì từ một khối kiến thức thu được, chỉ có thể tập trung suy nghĩ, phân tích, tổng hợp mới nảy sinh ý niệm mới.

Thời cổ Hi Lạp, nhà triết học Ácsimét được nhà vua mời tới để tính toán xem cái mũ miện vừa đặt làm có bằng vàng nguyên chất hay bị trộn lẫn với bạc.

Ácsimét suy nghĩ hàng tháng chưa tìm ra giải pháp. Bỗng dưng, một buổi sáng nằm trong bồn tắm, ông thấy dìm người xuống nước thì nước trào ra ngoài, ông chợt nghĩ ra là các vật có tỉ trọng khác nhau bỏ vào nước sẽ bị một lực đẩy khác nhau của nước.

Như vậy, chỉ có việc làm hai cái mũ miện khác, một bằng vàng nguyên chất, một bằng bạc nguyên chất. Rồi so sánh lực đẩy của nước đối với hai mũ này với lực đẩy cái mũ miện đầu tiên. Nếu có sai khác, rõ ràng chất liệu có pha trộn.

Nghĩ tới đó, ông thích quá, nhảy khỏi bồn tắm, chạy ra phố không kịp mặc quần áo, miệng kêu: Ơrơca, Ơrơca (tìm thấy rồi, tìm thấy rồi).

Có thể phát hiện trí nhớ bằng cách tập luyện: học những đoạn văn, thơ nổi tiếng, quan tâm tới sức khoẻ, vì sức khoẻ là cơ sở của tri nhớ. Muốn cố định ký ức, phải hoạt động cùng lúc mắt, tai, miệng, bàn tay; tự đọc và tự viết những từ đã đọc, mình muốn nhớ.

Ôn tập là rất cần thiết; ôn tập phải cách nhau bởi khoảng thời gian. Phải sắp xếp có thứ tự các kiến thức (đọc phải có ghi chép vào phiếu, sổ tay).

Mác đã luyện trí nhớ bằng cách học thuộc lòng những bài thơ bằng thứ tiếng ông không biết.

Phải dạy cho sinh viên không chỉ bằng lòng đọc bằng mắt hay nghe bằng tai, mà luyện thói quen lập lại rõ ràng trong nội tâm những từ đã nghe hay đã đọc. Phương pháp này cho phép theo dõi tốt hơn một bài học, một bài đọc hay một cuộc hội thoại.

TÍNH TÒ MÒ VÀ TÌM HIỂU

"Nhà bác học chân chính không thấy cái gì trong thiên nhiên không có tầm quan trọng"

Nghiên cứu khoa học là đi săn sự kiện, phát hiện những sự kiện mới để đặt giả thuyết hoặc để chứng minh cho giả thuyết đã đặt.

Có tính tò mò tìm hiểu mới thu thập được nhiếu sự kiện trong quan sát và trong thực nghiệm. Tò mò tìm hiểu sẽ giúp việc thu thập nhiều kiến thức khoa học.

Nhờ tính tò mò tìm hiểu mà nhà côn trùng học Fa brơ, một thầy giáo phổ thông ở một địa phương hẻo lánh nước pháp, trong vài chuc năm đã thu thập được một lượng kiến thức khổng lồ về đới sống nhiều loài sâu bọ trong vùng và đã để lại cho khoa học hàng chục pho sách về đới sống côn trùng hiện còn giữ nguyên giá trị của chúng.

Tò mò tìm hiểu đôi khi dẫn tới phát minh quan trọng không ngờ.

Ở thế kỷ XVIII, có anh thợ chữa kính Hà Lan tên là Lêvenhúc. Một hôm, anh ta tò mò thử xem nếu xếp hai mắt kinh não, ảnh có to hơn so với một mắt kính không? To hơn thất. Anh xếp thêm kính và thấy ảnh càng to nếu càng có nhiều kính. Thế là nguyên lý kính hiển vi cho sự phát triển của nhiều nghành khoa học, thuỷ sinh học, tế bào học, vi khuẩn học...

Năm 1928, nhà vi sinh vật học Flemminh, bấy giờ đang nghiên cứu về sự đột biến của liên cầu khuẩn, nhận thấy một bản cấy khuẩn bị nhiễm bởi một vi sinh vật từ ngoài tới. Người bình thường thì coi đấy là một sự cố không lạ. Nhưng Flemminh lại tò mò quan sát kỹ bản cấy bị nhiễm. Trong tập đoàn liên cầu trùng, có một vùng trong suốt. Thì ra, thứ nấm lạ này đã tiết chất diệt một số liên cầu trùng.

Ông đổi ngay kế hoạch nghiên cứu, tìm hiểu tính chất của loài nấm kỳ lạ này: Chế tạo dung dịch chất nấm để thử nghiệm trên các vi trùng khác nhau; tiêm dung dịch vào thỏ, chuột để xem hiệu quả miễn dịch. Tất cả thí nghiệm đó chưng minh rằng chất tiết của nấm trong dung dịch rất loãng cũng có khả năng diệt trùng mạnh hơn rất nhiều chất sát trùng tối nhất lúc bấy giờ. Nhờ tò mò tìm hiểu của nhà bác học mà chất Pênixilin ra đời, mở đường cho nghành công nghiệp chất kháng sinh đang phát triển mạnh mẽ.

Tò mò tìm hiểu là không bằng long với một mặt của hiện tượng, cố gắng đi tìm các mặt khác.

Khi phát hiện thầy một cây thuốc ở một địa phương chữa khỏi bênh nào đó, một người bình thường thì bằng lòng với kiến thức thông thường này. Người có tính tò mò sẽ tìm hiểu thêm tên khoa học của loài cây, cây có ở địa phương nào, thành phần hoá học ra sao, công dụng được học đã được kiểm nghiệm chưa,...

Tò mò tìm hiểu là không bằng lòng về chỉ biết hiện tượng mà muốn đi sâu vào nguyên nhân của nó.

Hồi cuối thế kỷ XIX, nhà vật lý học Beccơren thông báo là chất uranium có thể phóng xạ; hai nhà vật lý học khác, Pie và Mari Culi, kiểm tra lại hiện tượng này trên nhiều chất quặng khác, thấy hiện tượng phóng xạ cũng khá phổ biến.

Nhưng ngày nào đó, họ thấy chất quặng Pecblende có tính phong xạ mạnh hơn dự tính. Mari kiểm tra lại dụng cụ đo lường sợ có sai sót chăng? Nhưng không. Lập tức, Pie và Mari đi tìm nguyên nhân của hiện tượng. Có thể là chất khoáng có tính phóng xạ mạnh chứa một chất gì chưa biết có độ phóng xạ cao chăng?

Sau nhiều tháng kiên trì thí nghiệm, họ đã phát hiện là trong quặng Pechblende có độ phóng xạ mạnh khác thường là nhờ hai chất phón xạ mà giới khoa học chưa biết, đây là Polonium và radium.

Tính tò mò khoa học khác hẳn tính tò mò không lành mạnh thể hiện ở chỗ đi tìm hiểu những bí ẩn về đời tư của người khác, không giúp gì cho sự tích luỹ kiến thức khoa học. Ngược lại tính đại khái, phiến diện, ngại đi sâu tìm hiểu, cũng rất xa lạ với người nghiên cứu.

Phải phát triển tính tò mò tìm hiểu từ tuổi vỡ lòng và duy trì nó suốt cả đời người, nếu muốn đi vào con đường khoa học.

Tò mò tìm hiểu là một thuộc tính bẩm sinh. Con thú luôn luôn tìm hiểu thế giới bên ngoài để lấy thức ăn, tránh những nguy hiểm cho đời sống.

Con người, từ khi thành hình, lại phát triển tính tò mò tìm hiểu vào bì ẩn của thiên nhiên. Nhờ đó, đã có sự tích luỹ ngày càng nhiều kiến thức khoa học của mỗi thế hệ làm xã hội loài người tiến lên. Trẻ em ở thế hệ hiện tại biết nhiều hơn người lớn ở các thế hệ trước.

Phải khuyến khích trẻ nhỏ đăt câu hỏi "thế nào?" và "tại sao?" vì ta có thể bằng cách đó bồi dưỡng những mần non bác học. Người ta kể lại: Nhà phát minh ra vi trùng đậu mùa Gienne có tính tò mò tìm hiểu khá đặc biệt tư lúc nhỏ. Hồi còn là học sinh, muốn thử xem sức nóng của ngọn lửa cây nến có đồng đều không, cậu bé Gienne đã thò ngón tay vào đầu ngọn lửa và vào giữa ngọn lửa để kiểm nghiệm.

Giải thưởng Nôben về hoá học Sêmiônốp, người đã hướng dẫn và đào tạo hơn 20 viện sỹ hoá học, cũng có tính tò mò tìm hiểu đáng chú ý từ lúc còn học lớp năm. Vừa học xong bài hoá học, cậu bé Sêmiônốp đã làm ngay thí nghiệm chế muối ăn bằng cách đốt Natri trong bình cầu có chứa Clo và thu được nhiều hạt kết tủa màu trắng. Có bạn hỏi: Sao cậu biết đấy là muối? Sêmiônốp trả lời: Tớ nếm thử, thấy mặn. Tinh thần khoa học quả đã sớm có ở cậu học sinh lớp năm này.

Theo một nhà giáo dục học, nhà bác học là người duy trì thành công - người ta không rõ bằng cách nào - tính tò mò và khả năng ngạc nhiên của tuổi thơ, đồng thời rèn luyện được tính kỉ luật, nghị lực kiên trì của người lớn tuổi.

Từ tuổi lên ba, trẻ nhỏ đã thể hiện tính tò mò tìm hiểu. Phải chọn lời giải đáp thích hợp với từng lứa tuổi. Trước câu hỏi "Thế nào?" và "Tại sao?" của trẻ nhỏ, ta phải nói rõ ràng chó chúng về hiện tượng và tuỳ từng tuổi, tới mức nào về nguyên nhân của hiện tượng.

"Thế nào?" và "Tai sao?" phải là câu hỏi thường trực trong đầu người nghiên cứu trước mỗi sự kiện mới. Chính nhờ đội ngũ cac nhà khoa học của bao thế hệ trước đây, đã làm quan sát, thí nghiệm để tự giải đáp cho bản thân, ta mới có lời giải đáp thoả đáng cho thắc mắc của con trẻ ngày nay.

TRÍ TƯỞNG TƯỢNG PHONG PHÚ

"Ở phía xa các vị trí tiền tiêu của khoa học hiện đại, có trải một khoảng không rộng lớn, trong đó trí tưởng tượng có thể bay bổng"

Có trí tưởng tượng là từ sự kiện có sẵn, hình dung được những sự kiện sẽ gặp sau này, là tìm được mối liên hệ giữa các sự kiện cách nhau trong thời gian và trong không gian.

Trí tưởng tượng có vai trò quan trọng trong khoa học. Tuy khoa học đòi hỏi dẫn chứng, chứng minh, tức thiên về lập luận, phát minh khoa học cũng là sản phẩm của trí tưởng tượng.

Trong toán học, trí tưởng tượng đã sáng tạo các ký hiệu đại số và các hình học hoàn chỉnh. Trong khoa học thực nghiệm, trí tưởng tượng sáng tạo các giả thiết là có một định luật chưa biết; trí tưởng tượng cũng phát minh ra công cụ quan sát và các cách thí nghiệm cần thiết cho kiểm tra giả thuyết; nó còn xây dựng các học thuyết tổng quát tượng trưng sự hài hoà của vũ trụ.

Năm 1831, Đácuyn chú ý tới đảo san hô ở Thái Bình Dương mà trước đó không ai hiểu được nguyên nhân hình thành. Ông tự hỏi: Tại sao đảo lại có hình vành nón? Tại sao lại có vũng nước giữa đảo? Ông đặt giả thuyết ngay: San hô gắn vào miệng một núi lửa rồi phát triển cao dần. Sau khi kiểm tra thấy san hô chỉ mọc ở tầng nước nông, sâu nhất là 50 mét, ông lại sửa ngay giả thuyết: San hô gắn vào miệng núi lửa cũ, sau núi sụt thấp dần và san hô mới sinh cứ găn bồi thêm phân tử ôxy lại tạo thành bốn nguyên tử ôxy. Cứ như thế, sẽ thành hình vô số phân tử ôxy phốtpho đột nhiên phát sáng.

Sau đó, ông kiên trì làm thí nghiệm để kiểm tra giả thuyết và giả thuyết được nghiệm đúng. Nhiều phản ứng hoa học quan trọng trong công nghiệp đều diễn ra bằng con đường dây chuyền như thế: quá trình thu xăng từ dầu hoả, sự cháy trong động cơ đốt trong,sự tạo thành chất dẻo bằng cách trùng hợp,...

Trí tưởng tượng đặc biệt của Sêmiônốp đã liên kết được hai hiện tượng không có quan hệ gì với nhau trong thực tế.

Từ mối liên kết này, đã hình thành lý thuyết dây chuyền trong phản ứng hoá học dẫn ông tới giải thưởng Nôben.

Trí tưởng tượng sẽ dẫn tới phát minh đều đòi hỏi một cố gắng phân tích và tổng hợp của trí tuệ. Phải biết tách biệt các số liệu liên kết với nhau trong quá trình nghiên cứu, trong kinh nghiệm hàng ngày và lắp ghép chúng theo cách độc đáo, riêng biệt cho mình. Trong lao động này, trí tuệ thoạt đầu chỉ có một vài khái niệm chưa rõ ràng, về sau tổng hợp sẽ hình thành dần rõ nét.

Nhà phát minh ra cái máy mới, lúc đầu hình dung chưa rõ nét sơ đồ của máy đang nghiên cứu. Anh sẽ mò mẫn phát hiện ra chuyển vận chung của máy. Sau đó, anh nghĩ tới hình dạng của các bộ phận và cách kết hợp các bộ phận đó để bảo đảm cho sự chuyển vận của toàn bộ máy.

Mỗi phát minh lớn đòi hỏi một trí tưởng tượng phong phú. Phát minh lớn là phát minh phong phú, đa dạng mở đường cho nhiều phát minh khác. Đây là những hệ thống ý niệm mới và súc tích, là những học thuyết mới mà các nhà khoa học dựa vào đó để triển khai trong nhiều lĩnh vực. Phát minh lớn là của các thiên tài.

Người tài năng chỉ có một tác phẩm, người thiên tài có nhiều tác phẩm độc đáo, đa dạng.

Đăc điểm của thiên tài là một trí tưởng tượng mãnh liệt hướng về tự nhiên.

Người thiên tài nhờ lao động kiên trì, tích luỹ rất nhiều tư liệu các loại; và trí tuệ ở tình trạng hoạt động tiềm thức. Tới lúc nào đó là ngẫu hứng. Lao động tiềm thức chuyển sang lao động ý thức. Tia lửa của sáng tác phát minh nảy sinh.

Thiên tài là sức mạnh tổng hợp có thể tạo ra những ý niệm hoàn toàn mới, không một khao học nào có thể nhìn trước, ngay cả lúc sinh thời, nhà bác học cũng không nghĩ tới. Đây là mức độ cuối cùng của sức mạnh trí tuệ.

Những thiên tài khoa học thường được coi như những bó đuốc soi sáng từng chặng đường khoa học cua nhân loại.

Đây là cái vốn quý của loài người vì họ không phải là sản phẩm của thời đại, mà đi trước thời đại.

Một môn đồ nói về khả năng sáng tạo của Anxtanh như sau: Thứ nhất về khă năng ngạc nhiên...ông nhìn nhận mọi vấn đề hầu như là hoàn toàn mới đối với ông, đặt ra câu hỏi tại sao và không hề thưa nhận một giải đáp nào dựa trên quyền lực. Thứ hai là khẳ năng suy nghĩ nhiều năm về cùng một vấn đề cho đến khi cái "bóng tối biến thành ánh sáng của sự hiểu biết".

Thứ ba là khả năng tìm những công thức cho những thực nghiệm lý tưởng đơn giản, những thực nghiệm không thể nào thực hiện được trên thực tế, nhưng lại được phân tích một cách thích hợp.

Paxtơ là một thiên tài khoa học ở thế kỷ XIX. Bắt đầu nghiên cứu hoá học, ông phát hiện ra tính phân cực của tinh thể.

Khi chuyển sang nghiên cứu về phát men của rượu vang, bia, ông phát minh ra men rượu. Tới lúc bắt tay nghiên cứu các bệnh của tằm, ông phát minh ra tác nhân gây bệnh và con đường truyền bệnh.

Sau đó, ông chuyển sang nghiên cứu về vi khuẩn gây bệnh (bệnh than của gia súc, bệnh sốt hậu sản, bệnh toi gà, bệnh lợn đóng dấu, bệnh tả, bệnh dại...).

Từ đó, ông phát minh ra phương pháp sinh hoá (vacxin) để phòng bệnh.

Paxtơ đã đi từ hoá học đến men, từ men đến vi sinh vật, từ vi sinh vật đến y học. Các luận điểm về vi trùng của ông đã được triển khai thành nhiều lĩnh vực khoa học mới: Vi khuẩn học, men học, miễn dịch học, những ngành mũi nhọn trong khoa học thực nghiệm ngày nay.

Chúng cũng được triển khai trong các lĩnh vực khác: công nghiệp lên men, công nghiệp vacxin..., xây dựng phương pháp khử trùng trong phẫu thuật, phương pháp phòng ngừa một số bệnh do vi trùng...

Trí tưởng tượng thành hình từ lúc tuổi thơ. Ngồi trên ghế gỗ, em nhỏ tưởng là mình đang cưỡi ngựa. Nghịch trên đống cát, em nhỏ tưởng là mình đang đắp đập, khơi sông...

Không nên huỷ hoại và làm yếu trí tưởng tượng của trẻ nhỏ.

Có thể giúp trí tưởng tượng của trẻ nhỏ bằng cách cung cấp cho trí nhớ của chúng nhiều hình ảnh; phải để chúng đứng trước thiên nhiên, nếu không có thiên nhiên thật thì lấy thiên nhiên (cây cỏ, chim muông, sông núi...) thì đã mất phần tốt nhất của giáo dục (L. Bớccbăng).

Hội hoạ, nặn, làm văn,... có thể giúp trí tưởng tượng phát triển.

Nếu trí tưởng tượng của trẻ đi quá mức tới chỗ nguy hiểm, quá xa thực tế, thì phải lái chúng vào khoa học và đạo lý, Giáo dục trí tưởng tượng phải được bổ sung bằng giáo dục nghị lực.

Đối với các thanh niên, thiều niên, trước các sự kiện khác nhau, phải tập tìm mối liên quan giữa chúng. Mối liên quan này phát hiện một cách bất ngờ sẽ là ý niệm mới. Trí tưởng tượng là dụng cụ mạnh mẽ nhất của sự sáng tạo.

NGHỊ LỰC KIÊN TRÌ

"Chỉ một số ít người trên trái đất này có thể hiểu được sự căng thẳng đầu óc ghê gớm và trước hết là sự lao động quên mình mà không có nó thì những sáng tạo của trí tuệ mở những con đường mới cho khoa học không thể nào thực hiện được..."

Nghiên cứu khoa học đòi hỏi nhiều nghị lực. Phải tập trung tất cả sức manhj tinh thần và thể chất cho khoa học nếu muốn thành công.

Thiên nhiên không dễ dàng vén màn bí ẩn cho người nghiên cứu. Phải tiến hành hàng ngàn quan sát, thí nghiệm. Rồi phải xử lý hàng vạn số liệu. Công việc này rõ ràng đòi hỏi một nghị lực rất lớn.

Bộ Tư bản là một trong hai công trình khoa học vĩ đại của thế kỷ XIX - công trình kia là của Đácuyn về nguồn gốc của loài vật - đã buộc Mác vượt qua khó khăn vật chất và tinh thần trong hơn 30 năm. Ông có nói một câu đại ý: không có con đường đế vương cho khoa học và chỉ ai không sợ leo trèo mệt nhọc trên con đường dốc hiểm trở - tuy có người dẫn đường rất giỏi - mới có may mắn tới được đỉnh cao sán lạn của khoa học.

Người ta kể lại, Pie và Mari Curi đặt kế hoạch lọc chất Radium từ quặng Pechblende để chứng minh cho giới khoa học là chất này có thật, Mari đã phải làm việc trong 45 thành liền, "tại phòng thí nghiệm". Đây là một nhà chứa xe, thềm đất, nóc kính đã vỡ, khi mưa, để chảy nhỏ giọt.

Bà phải ngoà hàng yến quặng bằng tay, gạn quặng nóng chảy - mà hơi bốc lên làm họ sặc sụa và chảy nước mắt nước mũi - từ vại này sang vại khác.

Năm 1902, giới khoa học mới được thấy 10 gam radium nguyên chất lọc từ một tấn bã quặng. Phát minh ra radium, chất phóng xạ nguyên chất đầu tiên, gây một cuộc cách mạng thật sự trong khoa học.

Nghi lực phi thường của nữ bác học Mari Culi đã dẫn bà tới đỉnh cao sán lạn của khoa vật lý học.

Năm 14 tuổi, nhà toán học Pôngtriaghin gặp một tai nạn bị mù hai mắt. Nhưng cậu rất thích toán học nên kiên trì đền trường nghe giảng và về nhà tự học với sự giúp đỡ của mẹ. Học xong lớp 10, cậu vào học ở đại học tổng hợp. Sau khi tốt nghiệp, được giữ lại ở trường làm thầy giáo. Năm 30 tuổi, được bầu làm viện sỹ viện hàn lâm khoa học Liên Xô. Hiện nay là một trong những nhà toán học xuất sắc của thế giới.

Kèm với nghị lực là sự kiên trì. Kiên trì cần thiết cho mọi thành công. Không có việc gì thành công ngay một cách trọn vẹn.

Giải quyết một việc cũng tựa như người đi đường có nhằm một đích nhất định. Muốn tới đích, trên đường đi, ta phải kiên trì vượt các chướng ngại vật.

Thật là nguy hiểm nếu người ta chỉ muốn có kết quả quá nhanh, qua trực tiếp.

Kiên trì càng rất cần cho lao động khoa học. Muốn nghiên cứu thành công, phải hiểu biết, tìm tòi nhiều. Sự hiểu biết cặn kẽ, sự chuyên cần và sự kiên trì sẽ giúp ta xoá bỏ được những định kiến sai lầm, bảo toàn được chân lý tìm thấy.

Niutơn, khi trả lời câu hỏi nhờ đâu ông đi tới được định luật vạn vật hấp dẫn, đã nói: Đó là do tôi thường xuyên chăm chú theo dõi đối tượng nghiên cứu của mình và kiên tâm chờ đợi, từ khi sự việc bắt đầu tới khi sự việc được sáng tỏ dần và trở thành hoàn toàn rõ ràng.

Paxtơ có nói với thanh niên về công trình của mình: Chẳng có thiên tài đặc biệt nào đâu, chỉ có lao động cần cù, kiên trì cố gắng, người ta mới có thể đạt được những cái gì đẹp đẽ và cao cả. Đấy là tất cả bí quyết mà tôi đã tìm thấy trong những kết quả nghiên cứu của mình.

Nhà hoá học Mendêliép cũng có một câu đầy ý nghĩa: Tôi có phát minh không phải nhờ thiên tài mà do làm việc cả đời không nghỉ.

Ngành khoa học nào cũng cần tới sự kiên trì. Một tư tưởng nào cũng là sản phẩm của một lao động kiên trì chứ không phải là một sự thích thú lập luận phô trương. Tư tưởng phải là một cái gì cao hơn dục vọng và bản năng. Không co lao động tận tâm, không thể vươn tới tầm cao của tư tưởng.

Có ngành khoa học còn cho kiêm trì là một điều kiện tiên quyết để tránh để thành công. Muốn chọn một giống lúa mới, phải cần tới hàng chục năm lao động và chờ đợi, phải tiến hành hàng triệu kiểm tra.

Đối với nhà khoa học chọn giống, người ta thường đặt ba yêu cầu: giành cả đời người, ở nguyên một chỗ và phải sống lâu.

Có kiên trì trong khoa học mới giữ vững được tuổi được tuổi trẻ sáng tạo suốt cả đời. Tuổi trẻ sáng tạo không tuỳ thuộc tuổi trẻ vật chất. Có người chỉ khoảng 30 tuổi đã mất tuổi trẻ sáng tạo, mà có người giữ được nó tới lúc cuối đời.

Điều cơ bản là duy trì được tò mò tìm hiểu của tuổi thơ và không cho phép được nghỉ ngơi trên những thành tích quá khứ.

Nhà bác học Mari Culi được giải thưởng Nôben về vật lý học năm 1903, lúc bà 35 tuổi, tới năm 1911, lại được giải thưởng Nôben về hoá học (trong lịch sử, ít ai có thể được giải Nôben 2 lần), và hai tháng trước khi chết - bà mất tháng 7- 1934 - bà còn tới phòng thí nghiệm làm việc, còn sửa bản thảo của một công trình khoa học, còn phụ đạo cho học trò.

Nhà vi khuẩn học Vinagratxki, năm 97 tuổi, trong ba tháng cuối cùng của cuộc đời, vẫn tiếp tục chữa bạn thảo của công trình nghiên cưu.

Kiên trì là luôn giữ vững nhiệt tình trong nghiên cứu, không nản lòng vì thất bại, không nôn nóng về kết quả nghiên cứu và là chịu đựng gian khổ về tinh thần và vật chất vì sự nghiệp khoa học.

Người nghiên cứu nào cũng phải luôn giữ vững nhiệt tình trong lao động khoa học.

Sự hiểu biết là vĩnh viễn và vô cùng, cũng như sự vô cùng tận của thiên nhiên. Kiến thức cũng tựa như một khối tròn và khôi tròn càng lớn thì càng có nhiều điểm tiếp xúc với vô tận. Vì vậy, không có kết luận khoa học nào đã kết thúc. Mỗi kết quả khoa học chỉ là thanh tựu có tính chất quá độ và đều đặt ra những vấn đề mới cần giải quyết. Cuộc chiến đấu lâu dài với thiên nhiên nhằm tích luỹ kiến thức sẽ không bao giờ chấm dứt.

Những nhà khoa học chân chính phải không ngừng tiến hoá và không ngừng tìm tòi kiến thức.

Vì vây, nhà khoa học nào cũng phải lớn lên trong suốt đời mình bằng cách khắc phục bản thân mình. Có lao động kiên trì mới liên tục lớn lên, liên tục tiến hoá như thế.

Theo lời nhà toán học Laurentiép, muốn trở thành bác học, trước hết phải rèn cho mình khả năng làm việc thật nhiều. Trong hoạt động sáng tạo, cái chính nhât là làm việc liên tục kiên trì hàng tháng, hàng năm, thậm chí hàng chục năm, phấn đấu để giành mục tiêu đã định. Phải tìm tòi không mệt mỏi các con đường để giải quyết vấn đề, đối với nhà toán học thì thử đi thử lại hàng ngàn con đường để tìm lấy con đường gần nhất, còn đối với nhà khoa học thực nghiệm, thì thử đi thử lại hàng ngàn kiểu phối hợp khác nhau, cơ cấu khác nhau.

Trong một bức thư gửi cho bạn, nhà toán học Gausơ đã viết: Có thể là bạn hiểu được tâm trạng của tôi về cái định lý toán học tôi đã cố chững minh mà không được... Trong suốt 4 năm, ít có tuần nào tôi không suy nghĩ về cách giải bài toán đó, nhưng tất cả đều vô hiệu. Cuối cùng, ngày gần đây, tôi mới đạt được kết quả.

Đây là tâm sự của một "thần đồng" về toán ở thế kỷ trước. Khi lên 7 tuổi, Gausơ đã làm được phép tính cộng 100 con số đầu tiên với một tốc độ rất nhanh.

Nhà vật lý học Êđixơn, người có nhiều phát minh nhất ở đầu thế kỷ XX (khoảng 1100 phát minh), đã phải thực hiện tới 8000 thí nghiệm mới tìm ra sợi tóc của bóng đèn thông dụng hiện nay, và đã làm tới 50000 thí nghiệm để thay thế ắc quy chì bằng ắc quy kiềm, gọn nhẹ hơn.

Ông phải thường xuyên làm việc trong phòng thí nghiệm 18 -20 giờ mỗi ngày.

Ông thường nói: Trong mỗi phát minh khoa học, chỉ có một phần trăm là nhờ thiên tài, còn 99 phần trăm là lao động, lao động cực nhọc.

Kiên trì còn là không lản lòng vì thất bại.

Trong quá trình tìm tòi cái mới, không sao tránh được thất bại. Nhưng nhà khoa học chân chính không bao giờ nản lòng. Chính thất bại đó giúp ta kiểm tra được con đường đang đi, phương hướng đang phát triển.

Phân tích thí nghiệm thất bại nhiều khi còn dẫn tới phát minh quan trọng.

Từ lâu, nhà sinh học Cơritxian đờ Đuvơ nghiên cứu các vấn đề xoay quanh bệnh đái tháo đường. Một hôm khi chiết xuất men của tế bào gan chuột để làm thí nghiệm, ông nhận thấy men này lúc có lúc không trong dịch chiết. Đi sâu vào tìm hiểu nguyên nhân của thí nghiệm thất bại, ông phát hiện ra là chất men được chứa trong một túi nhỏ của tế bào mà ông đặt tên là Lysosom.

Tuỳ theo Lysosm vỡ hay lành mà nước chiết có chứa men hay không.

Sau khi tập trung toàn viện để nghiên cứu Lysosom về mặt, ông tìm thấy chức năng của vật thể này trong sự tiêu hoá nội bào, điều mà khoa học chưa biết. Phát minh của Đờ Đuvơ đã mở đường cho sự phát triển của các nghành sinh học tế bào và vi sinh vật học hiện đại, và đã dành cho ông giải thưởng Nôben 1974 về sinh lý học.

Kiên trì là không nôn nóng về kết quả nghiên cứu.

Trên con đường khoa học, nếu nóng vội thường đi tới kết luận quá sớm không đủ cơ sở để thuyết phục. Hiện nay, những vấn đề "dễ ăn" trong khoa học đều đã được giải quyết từ hàng thế kỷ. Còn lại là những vấn đề "hóc búa" đòi hỏi nhiều công sức.

Người nghiên cứu chỉ có thể công bố kết quả phát minh của mình khi bản thân đã đưa ra hết các giả thuyết phủ định kết luận đó. Muốn như vậy, phải đợi hàng tháng, thậm chí hàng năm, để làm lại hàng trăm, hàng ngàn thí nghiệm kiểm tra nhằm tìm nguyên nhân của kết quả thí nghiệm trái ngược.

Năm 1831, Đácuyn bắt đầu thu thập số liệu khoa học. Tới năm 1842, tức sau 11 năm, ông mới thông báo 35 trang về học thuyết nguồn gốc loài vật, hai năm sau, công bố 230 trang. Và trong 10 năm tiếp theo, ông vẫn tiếp tục thu thập số liệu để kiểm tra học thuyết của mình.

Tới năm 1684, Niutơn đã giải quyết xong bài toán hấp dẫn và đưa bản thảo cho nhà thiên văn học Halây xem. Halây có khuyên nên công bố ngay, nhưng Niutơn không đồng ý vì cho rằng công trình chưa hoàn chỉnh.

Ông lao động thêm hai năm và tới năm 1687 mới công bố công trình "Những nguyên lý của triết học tự nhiên", trong đó, không chỉ đưa ra định luật hâp dẫn vũ trụ với cơ sở khoa học của nó, mà còn cả toàn bộ lâu đài vật lý học của hai thế kỷ sau.

Nhà khoa học chân chính nhiều khi còn phải kiên trì chịu đựng gian khổ về tinh thần.

Trong lịch sử khoa học, những phát minh lớn thường không được đánh giá đúng mức bởi giới khoa học đương thời. Hoặc công trình bị lãng quên một cách lặng lẽ, hoặc nếu mâu thuẫn với chính kiến đương thời thì bị công kích kịch liệt.

Hiện nay, nhà di chuyền học Menden được coi là ông tổ của ngành di truyền học hiện đại và là một trong hơn 10 nhà bác học vĩ đại nhất của thế kỷ XIX.

Nhưng ít người biết là năm 1865 và 1869, ông đã phát minh ra định luật di truyền và thông báo cho giới khoa học, trong một công trình 73 trang. Nhưng chẳng ai để ý đến. Phải đợi tới 1900, tức 30 năm sau, người ta mới lưu tâm lặp lại thí nghiệm của ông và xác nhận công trình.

Gần đây, có thể lấy thêm thí dụ của nhà bác học Xioncôpxki, người sáng lập ra khoa học tên nửa. Trong không khí lãnh đạm và không hiểu của giới khoa học đương thời về phát minh khoa học của mình, ông vẫn kiên trì nghiên cứu thí nghiệm và viết báo cáo. Ông có ghi trong hồi ký: cả cuộc đời tôi đã dành cho suy tưởng, tính toán, thực hành và thi nghiệm.

Phải đợi tới ngày cuối của cuộc đời, người đương thời mới đánh giá nổi sự đóng góp của ông cho ngành khoa học vũ trụ với 600 công trình khoa học.

Hiện nay, tượng ông được đặt ở thủ đô Matxcơva và ở Kaluga, nơi ông sống và dạy học; tên ông được khắc ở đài kỷ niệm ngày phóng vệ tinh nhân tạo và được đặt cho một hòn núi lửa trên mặt trăng.

Khi có đồng nghiệp an ủi về phát minh khoa học bị công kích dữ dội, nhà vi trùng học Paxtơ đã nói: Một nhà khoa học phải no lắng về những điều người ta sẽ nói về anh ta trong một thế kỷ, chứ không phải những lời khen chê bây giờ.

Nhà di truyền học Lương Đình Của, bỏ mặc sự lãnh đạm thở ơ của một số đồng nghiệp, kiên trì nghiên cứu áp dụng phương pháp di truyền học hiện đại vào công tác chọn giống. Sau nhiều năm, ông đã tạo cho nông nghiệp một số giống ngũ cốc và rau có giá trị thịnh hành.

Nhiều nhà khoa học còn chịu đựng gian khổ về vật chất vì sự nghiệp khoa học.

Nhà khoa học Béctơlô, người đã đóng góp cho hoá học những phát minh nổi tiếng của thế kỷ XIX, lưng còng vì đau cột sống, cả ngày làm việc trong phòng thí nghiệm lạnh lẽo và ẩm thấp - bản chất và tính chính xác của công trình nghiên cứu không cho phép sưởi ấm căn phòng - và ông dành cả tối và thưởng thức thâu đêm để tính toán.

Trong chiến tranh thế giới lần thứ hai, thành phố Lêningrat (Liên Xô) bị phong toả suốt 900 ngày. Các nhà thực vật học của viện nghiên cứu đã săn sàng nhận khẩu phầm hàng ngày là 30 hạt đậu nảy mần, bên cạnh họ là kho 15000 tấn lúa mỳ giống. Sưu tập giống lúa này do nhà di truyền học Vaviốp đã vượt năm châu bốn biển, xây dưng trong nhiều năm.

Các nhà thực vật học của viện sẵn sàng chết chứ không muốn động đến cái gia tài khoa học quý giá kia của tổ quốc.

Một nhược điểm của tuổi thanh niên là nôn nóng, dễ nản và có nhiệt tình "lửa rơm". Nhược điểm này có thể chấp nhận phần nào trong các ngành hoạt động khác khoa học. Những muốn đi vào con đường khoa học, chúng ta phải cương quyết khác phục no. Sự nghiệp khoa học không phải chỉ đòi hỏi quả tim mà đòi hỏi bộ não, chủ yếu là bộ não.

Phải rèn luyện nghị lực từ lúc còn trẻ.

Khi ta đã kiểm tra được mọi hành động, chương trình phải được thực hiện không chậm trễ. Do suy nghĩ, ta sẽ nhìn rõ vấn đề, đặt vấn đặt vấn đề rõ ràng và có những ý niệm minh bạch.

Từ đấy, sẽ khởi động một tình cảm, một xúc động biểu hiện ở khí thế nhiệt tình, một tình cảm mãnh liệt muốn thành công. Chính lòng ham muốn cực độ sẽ thúc đẩy chúng ta hành động ngay, lòng ham muốn sẽ dẫn tới chỗ quyết tâm hoàn thành.

Khi đã có quyết tâm, ta sẽ không bị ảnh hưởng bởi người này hay sự vật kia.

Rèn luyện nghị lực phải bắt đầu bằng những việc hàng ngày bình thường nhất. Đã làm việc gì là làm cho chu đáo tỉ mỉ, kể cả những việc mình không thích lắm. Đã bắt đầu việc gì phải vượt mọi kho khăn làm tới cùng, không bao giờ bỏ dở.

Đã đặt kế hoạch làm việc, học tập, phải cố thực hiện đúng thời gian quy định.

Người ta kể lại, trong kháng chiến lần thứ nhất, trên đường đi thăm một đơn vị bộ đội, Bác Hồ gặp một con suối nước dâng to chảy cuồn cuộn. Vài người khuyên Bác trở lui, hoãn cuộc đi thăm tới ngày khác. Bác cương quyết chống gậy qua suối, không muốn để lỡ kế hoạch đã định.

Cùng với nghị lực, phải rèn luyện tính kiên trì vì nghị lực và kiên trì là cơ sở của mọi thành công.

Người thiếu kiên trì luôn luôn muốn thay đổi công việc vì cảm thấy không thích hợp. Thật ra đối với loại người này thì công việc mới nào cũng sẽ không thích hợp. Lòng ham thích công việc. Nếu công việc chưa thích hợp lắm, ta cứ kiên trì, sau một thời gian mới có thể đánh giá đúng đắn.

Đối với công việc không thích hợp, ta vẫn phải kiên trì, cố gắng sẽ lớn hơn. Và nghị lực do sự cố gắng này cũng được rèn luyện thêm một bước.

Không có lao động nào là chán nếu ta tìm được nguồn hứng thú trong nó. Muốn có nguồn hứng thú ban đầu, phải lao động có kết quả.

NĂNG KHIẾU

"Con người có thể làm được bất cứ điều gì mà một người khác đã làm được"

Năng khiếu cũng là đức tính bẩm sinh cần thiết để có thể phát huy được trong từng ngành khoa học.

Trí tuệ nào thích thú về tư duy trừu tượng và suy diễn lôgíc, có thể trở thành nhà toán học tốt. Trí tuệ tìm hiểu thiên nhiên, quan tâm tới tính trật tự trong thiên nhiên và có bàn tay khéo léo, có thể trở nên nhà khoa học tự nhiên tốt (hoá học, vật lý học, sinh học...)

Nếu sự thích thú này hướng về các loại sinh vật, họ có thể trở nên nhà sinh học tốt.

Một trí tuệ bình thường, thế nào cũng có một loại năng khiếu nào đó. Một nhiệm vụ quan trọng của giáo dục là phát hiện cho được loại năng khiếu này để hướng dẫn sự phát triển của người trẻ tuổi.

Lịch sử khoa học đã có nhiều thí dụ, nếu người thanh niên được đào tạo theo đúng năng khiếu, anh ta có thể trở thành nhà khoa học có tài. Còn nếu anh ta có trí tuệ thông minh xuất chúng thì sẽ trở thành thiên tài.

Nói chuyện với một nhà tâm lý học, Anxtanh đã thú nhận tâm lý học là một môn khoa học rất khó và ông đã cố công học mà không thể nào nắm vững được.

Nếu buộc phải học tâm lý học, chắc chắn Anxtanh sẽ chỉ trở thành nhà tâm lý học không tên tuổi.

Nhà bách khoa Đalămbe thích toán học từ năm 13 tuổi. Nhưng bố mẹ lại muốn cho con học y khoa vì bác sỹ lương cao và thu được nhiều tiền khám bệnh.

Nể lời bố mẹ, ông vào học trường thuốc nhưng nửa chừng bỏ dở vị không sao học nổi và trở lại môn toán học. Rút cục Đalămbe trở thành nhà bác học lớn ở thế kỷ XVIII. Cùng với Điđơrô, ông đã soạn 20 tập "Bách khoa toàn thư khoa học, nghệ thuật và công nghiệp", trong đó ông viết phần vật lý học và toán học. Nhiều công thức vật lý học và toán học mang tên ông.

Nhà toán học Poatxông cũng vậy. Gia đình ép đi học nghề thuốc, nhưng cuối cùng ông bị đuổi vì bàn tay quá vụng về, chích mổ không khéo. Nhưng khi đọc một tờ báo toán học, Poatxông lại giải được hết bài toán này sang bài toán khác, và từ năm 17 tuổi, ông đã nổi tiếng về khả năng toán học hiếm có.

Giả thiết Poatxông cứ đeo đẳng nghề thuốc mãi, chắc ông sẽ trở thành "lang vườn" và cũng như Đalămbe, không có ích nhiều cho xã hội.

Hiện nay, có nhiều trường hợp chọn ngành nghề không dựa vào năng khiếu. Vì vậy, khi tốt nghiệp ra đời, người ta không thành người lao động tốt, lại càng không thành người lao động ưu tú trong các ngành đã được đào tạo.

Các thầy giáo ở phổ thông có trách nhiệm phát hiện các năng khiếu của học sinh để sau này hướng các em vào ngành nghề cho thích hợp.

Trong hồi ký, nhà toán học Laurentiép đã có nêu là, khi học ở phổ thông, anh cũng có năng khiếu về hoạ và nhạc bên cạnh năng khiếu về toán học và anh đã có ý định đi sâu vào nghệ thuật. Nhưng cô giáo đã phát hiện được triển vọng của các năng khiếu trên, cô nói với anh: Nếu về sau em không đi vào toán học, em sẽ không gặp cô nữa. Laurentiép nghe theo lời khuyên đó.

Sau khi vào trường đại học tổng hợp Matxcơva (Liên Xô), Laurentiép chỉ học chương trình khoa toán lý mất 3,5 năm (chứ không phải 6 năm), trong khi đang là sinh viên đã là giảng viên của trường trường Cao đẳng kỹ thuật Matxơva, 29 tuổi là giáo sư đại học, 34 tuổi đạt học vị tiến sỹ khoa học kỹ thuật, 35 tuổi đạt học vị tiến sỹ toán học và 40 tuổi là viện sĩ viện hàn lâm khoa học Liên Xô.

Năng khiếu coi như hạt giống cây, nếu gieo vào mảnh đất thích hợp, nó sẽ nảy mầm thành cây rồi ra hoa kết quả. Nếu gieo vào mảnh đất không thích hợp, nó sẽ thui đi hoặc trở thành cây non còi cọc. Gia đình và nhà trường có trách nhiệm quan trọng trong việc hướng nghiệp cho các người trẻ tuổi. Đất nước có thiên tài hay không, có nhân tài nhiều hay ít, là tuỳ thuộc trách nhiệm của người lớn đối với thế hệ tương lai.

NĂNG KHIẾU

"Con người có thể làm được bất cứ điều gì mà một người khác đã làm được"

Năng khiếu cũng là đức tính bẩm sinh cần thiết để có thể phát huy được trong từng ngành khoa học.

Trí tuệ nào thích thú về tư duy trừu tượng và suy diễn lôgíc, có thể trở thành nhà toán học tốt. Trí tuệ tìm hiểu thiên nhiên, quan tâm tới tính trật tự trong thiên nhiên và có bàn tay khéo léo, có thể trở nên nhà khoa học tự nhiên tốt (hoá học, vật lý học, sinh học...)

Nếu sự thích thú này hướng về các loại sinh vật, họ có thể trở nên nhà sinh học tốt.

Một trí tuệ bình thường, thế nào cũng có một loại năng khiếu nào đó. Một nhiệm vụ quan trọng của giáo dục là phát hiện cho được loại năng khiếu này để hướng dẫn sự phát triển của người trẻ tuổi.

Lịch sử khoa học đã có nhiều thí dụ, nếu người thanh niên được đào tạo theo đúng năng khiếu, anh ta có thể trở thành nhà khoa học có tài. Còn nếu anh ta có trí tuệ thông minh xuất chúng thì sẽ trở thành thiên tài.

Nói chuyện với một nhà tâm lý học, Anxtanh đã thú nhận tâm lý học là một môn khoa học rất khó và ông đã cố công học mà không thể nào nắm vững được.

Nếu buộc phải học tâm lý học, chắc chắn Anxtanh sẽ chỉ trở thành nhà tâm lý học không tên tuổi.

Nhà bách khoa Đalămbe thích toán học từ năm 13 tuổi. Nhưng bố mẹ lại muốn cho con học y khoa vì bác sỹ lương cao và thu được nhiều tiền khám bệnh.

Nể lời bố mẹ, ông vào học trường thuốc nhưng nửa chừng bỏ dở vị không sao học nổi và trở lại môn toán học. Rút cục Đalămbe trở thành nhà bác học lớn ở thế kỷ XVIII. Cùng với Điđơrô, ông đã soạn 20 tập "Bách khoa toàn thư khoa học, nghệ thuật và công nghiệp", trong đó ông viết phần vật lý học và toán học. Nhiều công thức vật lý học và toán học mang tên ông.

Nhà toán học Poatxông cũng vậy. Gia đình ép đi học nghề thuốc, nhưng cuối cùng ông bị đuổi vì bàn tay quá vụng về, chích mổ không khéo. Nhưng khi đọc một tờ báo toán học, Poatxông lại giải được hết bài toán này sang bài toán khác, và từ năm 17 tuổi, ông đã nổi tiếng về khả năng toán học hiếm có.

Giả thiết Poatxông cứ đeo đẳng nghề thuốc mãi, chắc ông sẽ trở thành "lang vườn" và cũng như Đalămbe, không có ích nhiều cho xã hội.

Hiện nay, có nhiều trường hợp chọn ngành nghề không dựa vào năng khiếu. Vì vậy, khi tốt nghiệp ra đời, người ta không thành người lao động tốt, lại càng không thành người lao động ưu tú trong các ngành đã được đào tạo.

Các thầy giáo ở phổ thông có trách nhiệm phát hiện các năng khiếu của học sinh để sau này hướng các em vào ngành nghề cho thích hợp.

Trong hồi ký, nhà toán học Laurentiép đã có nêu là, khi học ở phổ thông, anh cũng có năng khiếu về hoạ và nhạc bên cạnh năng khiếu về toán học và anh đã có ý định đi sâu vào nghệ thuật. Nhưng cô giáo đã phát hiện được triển vọng của các năng khiếu trên, cô nói với anh: Nếu về sau em không đi vào toán học, em sẽ không gặp cô nữa. Laurentiép nghe theo lời khuyên đó.

Sau khi vào trường đại học tổng hợp Matxcơva (Liên Xô), Laurentiép chỉ học chương trình khoa toán lý mất 3,5 năm (chứ không phải 6 năm), trong khi đang là sinh viên đã là giảng viên của trường trường Cao đẳng kỹ thuật Matxơva, 29 tuổi là giáo sư đại học, 34 tuổi đạt học vị tiến sỹ khoa học kỹ thuật, 35 tuổi đạt học vị tiến sỹ toán học và 40 tuổi là viện sĩ viện hàn lâm khoa học Liên Xô.

Năng khiếu coi như hạt giống cây, nếu gieo vào mảnh đất thích hợp, nó sẽ nảy mầm thành cây rồi ra hoa kết quả. Nếu gieo vào mảnh đất không thích hợp, nó sẽ thui đi hoặc trở thành cây non còi cọc. Gia đình và nhà trường có trách nhiệm quan trọng trong việc hướng nghiệp cho các người trẻ tuổi. Đất nước có thiên tài hay không, có nhân tài nhiều hay ít, là tuỳ thuộc trách nhiệm của người lớn đối với thế hệ tương lai.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro