Tỏ lòng

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

     Việt Nam, một đất nước tuy nhỏ bé, đầy gian lao, vất vả nhưng cũng rất đỗi anh hung đã trải qua biết bao cuộc kháng chiến dựng nước và giữ nước với những mốc son chói lọi trong lịch sử dân tộc. Trong hơn bốn ngàn năm gian khổ ấy, ta không thể không nhắc đến ba cuộc kháng chiến chống quân xâm lượt Mông-Nguyên của nhà Trần. Khí thế hào hùng, mạnh mẹ của nhân dân ta và tướng sĩ đời Trần đã được khắc họa hoàn mĩ trong những áng văn kiệt xuất. Nổi bật hơn cả là tác phẩm "Thuật hoài" của Phạm Ngũ Lão. Bài thơ là một khúc ca hào hùng, mang nặng nỗi niềm của vị tướng tài:

"Hoành sóc giang sơn kháp kỷ thu,
Tam quân tỳ hổ khí thôn Ngưu.
Nam nhi vị liễu công danh trái,
Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu"

Dịch thơ:

"Múa giáo non sông trải mấy thu,
Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu.
Công danh nam tử còn vương nợ,
Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ hầu."

Phạm Ngũ Lão, một người con của mảnh đất Hưng Yên, sinh ra trong thời kì loạn lạc với những cuộc kháng chiến bảo vệ độc lập dân tộc. Tên tuổi của ông gắn liền với câu chuyện về một chàng thanh niên mải nghĩ kế đánh giặc giúp nước, đến nỗi dù bị giáo đâm vào đùi cũng không hay biết. Không chỉ là một nhà quân sự tài ba, ông còn là một nhà thơ vĩ đại với hai tác phẩm "Thuật hoài" và "Viếng Thượng tướng quốc công Hưng Đạo Đại Vương" còn vang vọng mãi với non song. "Thuật Hoài" được sáng tác sau cuộc kháng chiến chống quân Mông Nguyên của quân đội nhà Trần với hào khí Đông A ngút trời. Có thể nói, nhan đề bài thơ đã thể hiện một phần nội dung tác phẩm. "Thuật" nghĩa là kể lại, bày tỏ. "Hoài" là nỗi lòng. "Thuật Hoài" được hiểu là sự thổ lộ, bộc lộ khát khao, mong muốn, bày tỏ hoài bão lớn lão của tác giả - một danh tướng tuổi trẻ tài cao. "Tỏ lòng" ở đây không phải là tỏ lòng nam nữ, tình cảm yêu đương mà là tỏ chí làm trai. Trong thơ ca trung đại, chúng ta thường thấy "văn dĩ tả đạo, thi dĩ ngôn chí". Thơ ca phải thể hiện được cái "chí". Với "Thuật Hoài", đây là lời giải bài tâm sự của Phạm Ngũ Lão, cũng như của mọi tráng sĩ thời Trần. Đặt trong hoàn cảnh sáng tác của bài thơ, ta có thể cảm nhận được ý chí muốn được quét sạch bóng quân thù, bảo vệ non song, giữ gìn độc lập dân tộc của tác giả.

Mở đầu "Tỏ lòng" là hai câu thơ bộc lộ hào khí Đông A hào hùng qua hình tượng người chiến sĩ và quân đội nhà Trần:

"Hoành sóc giang sơn kháp kỷ thu,
Tam quân tỳ hổ khí thôn Ngưu."

Như vậy, chỉ bằng một dòng thơ, Phạm Ngũ Lão đã vẽ ra trước mắt bạn đọc hình ảnh một tráng sĩ cầm ngang ngọn giáo, hùng dũng kiên cường trấn giữ non song đất nước, sẵn sàng chiến đấu vì tổ quốc, vì độc lập dân tộc. Ta có thể thấy được khí thế áp đảo, mạnh mẽ qua hai từ "hoàng sóc". Song, bản dịch thơ lại dịch "múa giáo", thiên về phô diễn động tác, làm mất đi vẻ oai vệ, chưa lột tả được ý nghĩa của từ "hoàng sóc". Hình ảnh người chiến sĩ ấy không được đặt vào khung cảnh chiến tranh tan hoàng, tàn khốc mà được đặt vào trong không gian bao la, rộng lớn không giới hạn của "giang sơn". Phạm Ngũ Lão đã lấy chiều cao rộng của bầu trời, chiều dài của non song làm thước đo chiều dài của ngọn giáo, của tầm vóc người tráng sĩ. Thiên nhiên không làm cho con người trở lên nhỏ bé, ngược lại, có núi song làm nền, hình tượng tráng sĩ ấy hiện lên càng them lớn lao, nổi bật. Không chỉ dừng lại ở đó, hình tượng ấy còn được đo bằng một thước đo khác, thước đo của thời gian: "kháp kỉ thu" – "suốt mấy thu". Trải qua biết bao năm tháng dài đằng đằng, thu đến rồi lại đi, người chiến binh ấy vẫn vững vàng ở đó. Dù có trải qua biết bao thử thách, chông gai, biết bao khó khăn gian khổ, dù cam go biết mấy, bóng dáng cầm dão ấy vẫn oai vệ hiên ngang, vẫn bền bỉ chẳng xê dịch. Có lẽ, sức mạnh ấy xuất phát từ tinh thần bảo vệ, làm chủ đất nước, ý chí kiên cường chiến đấu. Chỉ với bảy từ ngữ, Phạm Ngũ Lão đã nâng tầm tầm vóc ấy lên một tầm cao mới, sánh ngang với đất trời, vũ trụ, trường tồn cùng thời gian. Nếu mỗi người tráng sĩ đều đã mang tầm vóc cao rộng đến thế, thì hình ảnh đội quân Sát Thát sẽ chứa đựng sức mạnh, khí thế đến nhường nào? Nhà thơ đã miêu tả quân đội nhà Trần câu thơ thứ 2:

Tam quân tỳ hổ khí thôn Ngưu."

Nổi bật lên qua câu thơ là sức mạnh binh sĩ nhà Trần. Trong câu thơ, Phạm Ngũ Lão đã sử dụng hình ảnh "tam quân" "tì hổ". Thời xưa, quân đội thường được chưa thành ba bộ phận: tiền quân, trung quân, và hậu quân. Như vậy, "tam quân" chỉ quân đội của cả đất nước. Hay nói cách khác, đây chính là sự đồng lòng, cùng nhau đứng lên đấu tranh vì nền độc lập dân tộc. Còn "tì hổ" chính là loài mãnh thú, hổ báo, kết hợp với biện pháp so sánh. Qua đó, ta có thể thấy sức mạnh hùng dung như hổ như báo của đội quân nhà Trần. "Khí thôn ngưu" có hai cách hiểu. Ngưu là trâu, một loài động vật lớn. Khí thế của quân đội nhà Trần mạnh mẽ đến nỗi có thể nuốt trôi cả trâu. Không chỉ vậy, ngưu còn có thể hiểu là sao Ngưu, một ngôi sao sáng rực ở bắc bán cầu. "Khí thôn ngưu" tức là sĩ khí mạnh mẽ làm lu mờ đi ánh sáng của sao Ngưu, lấn át cả sao trời. Nhưng dù được hiểu như thế nào, ta đều có thể tưởng tượng khí thế oai hùng, oanh liệt của đoàn quân Sát Thát. Với các hình ảnh so sánh, phóng đại, nhà thơ đã khắc họa một đội quân khỏe như tì như hổ, không ngần ngại trước mọi kẻ thù, với lòng trung quân ái quốc, quyết chiến quyết thắng, vì dân tộc. Như vậy, chỉ với hai câu thơ ngắn ngủ, Phạm Ngũ Lão đã thể hiện xuất xắc tư thế của nhân vật trữ tinh: người tráng sĩ thời Trần. Câu thơ bộc lộ niềm tự hào về con người, quân đội và về thời đại, mang âm hưởng của hào khí Đông A – hào khí thời Trần.

Hai câu thơ tiếp theo chính là nỗi lòng được cấm hiến cho giang sơn xã tắc của Phạm Ngũ Lão:

"Nam nhi vị liễu công danh trái

Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu"

Dịch thơ:

"Công danh nam tử còn vương nợ

Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu"

Vẻ đẹp của người trai thời Trần không chỉ thể hiện ở cái tư thế, khí phách, tầm vóc, sức mạnh, mà còn thể hiện ở cái chí, cái tâm của người tráng sĩ. Cái chí, cái tâm ấy gắn liền với quan niệm chí làm trai. Đây không chỉ là lý tưởng sống của riêng Phạm ngũ Lão mà còn là một tư tưởng vô cùng tích cực của xã hội Phong Kiến đương thời. Trong câu thơ, "nam nhi" chỉ những trang nam tử có tài năng, phẩm chất anh hùng. "Vị liễu" nghĩa là chưa hoàn tất, chưa xong. "Công danh trái" là món nợ công danh, hay còn hiểu là món nợ sự nghiệp giúp dân, giúp nước, để lại tiếng thơm cho muôn đời. Theo quan niệm của nhà Nho, đây là món nợ lớn mà một trang nam nhi khi sinh ra đã phải mang trong mình. Quan niệm này được đã được Nguyễn Công Trứ thể hiện trong "Chí làm trai":

"Đã mang tiếng ở trong trời đất

Phải có danh gì với núi song"

So sánh với bản dịch thơ: "Công danh nam tử còn vương nợ", từ "vương nợ" mang sắc thái bị động, chưa thể hiện được nguyên tác. Đặt trong hoàn cảnh sáng tác dưới triều đại Đông A, con đường lập công rõ ràng nhất chính là làm nên nghiệp lớn, đánh đuổi giặc Nguyên-Mông, bảo vệ đất nước. Đó là thứ công danh làm nên bằng xương máu, bằng tinh thần quả cảm chiến đấu, vì nước quên thân. Quan niệm lập công đã trở thành lý tưởng mỗi trang nam nhi thời chiến trahn loạn lạc. Nó cổ vũ con người từ bỏ lối sống ích ký, sẵn sàng chiến đấu vì sự nghiệp cả dân tộc. Đặc biệt, với Phạm Ngũ Lão, trong lòng ông luôn sục sôi khát vọng lập công lập danh, luôn canh cánh trong lòng là chưa trả xong món "công danh trai" mặc dù đã vào sinh ra tử, lập lên biết bao chiến công hiển hách. Qua đó, ta có thể thấy tấm lòng, ý chí chiến đấu, khát vọng, lí tưởng được phụ vua giúp nước, giành lại độc lập dân tộc của vị danh tướng thời xưa ấy. Đặc biệt, cũng từ cái chí, cái nợ đó, tâm ông đã nảy sinh một nỗi thẹn:

"Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu"

Câu thơ đã mở ra cả một nhân cách cao đẹp của Phạm Ngũ Lão. "Tu thính" tức là hổ thẹn khi nghe. "nhân gian thuyết" là nhân dân kể, nói về ai đó. "Vũ Hầu", tức Khổng minh, là một quân sư tài ba của Lưu Bị thời Tam Quốc. Nhờ tài mưu trí, Khổng Minh đã giúp Lưu Bị lập được nhiều chiến công hiển hách và được Lưu Bị tin dùng. Câu thơ mang âm hưởng trầm lắng, suy tư. Tác giả đã sử dụng điển tích điển cố "thuyết Vũ Hầu" kết hợp với bút pháp gợi và biểu cảm. Phạm Ngũ Lão thẹn chưa có tài mưu lược như Gia Cát Lượng để trừ giặc, cứu nước, thẹn chưa làm tròn bổn phận quét sạch bóng quân thù, phò vua, thẹn chưa trả được món nợ công danh. Ta có thể cảm nhận khát vọng, hoài bão muốn sánh với Vũ Hầu của vị tướng tài. Tựa Nguyễn Khuyến cũng từng bày tỏ cái thẹn của mình với Đào Tiềm- một danh sĩ cao khiết thời Tấn qua "Thu Vịnh":

"Nhân hứng cũng vừa toan chấp bút

Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào"

Đó đều là cái thẹn của những con người có nhân cách, tâm hồn lớn. Nỗi thẹn ấy không làm cho con người trở lên nhỏ bé, yếu đuối mà trái lại nâng cao phẩm giá con người. Đó là cái thẹn của một con người có lý tưởng, hoài bão vừa lớn lao, vừa khiêm nhường. Từ đó, ta thấy được hình ảnh một vị dung tướng luôn dành trọng cái tâm cho đất nước, dân tộc.

Bằng các biện pháp nghệ thuật, cách sử dụng từ ngữ cùng những điển tích điển cố, bài thơ đã thể hiện tâm hồn khí phách, cùng ý chí lập công của Phạm Ngũ Lão. Đó không chỉ là tâm trạng của riêng một cá nhân, mà còn là lý tưởng sống của cả thế hệ trang nam nhi thời bấy giờ. Lí tưởng ấy được thể hiện rõ nhất khi xuyên xuốt bài thơ không có lấy một đại từ nhân xưng nào. Những con người luôn canh cánh trong lòng món nợ công danh, đặt trách nghiệm dựng nước giữ nước lên hang đầu. Chính ý chí, hào khí Đông A ấy đã tạo nên những chiến thắng lẫy lừng lưu danh sử sách.

"Thuật hoài"-Phạm Ngũ Lão là bức tranh chân dung phản chiếu con người ông, cái chí và tâm của người làm trai. Bài thơ mang trong mình khí thế hào hùng oanh liệt và khát vọng của cả một thời đại. Đọc bài thơ, tôi càng thấm thía quan niệm, lí tưởng sống của Phạm Ngũ Lão cũng như những nam tử hán thời bấy giờ.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro