Phân tích bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng.

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Yêu cầu làm bài

1. Cần phải lưu ý, Quang Dũng - tác giả bài thơ - cũng như người chiến sĩ Tây Tiến vốn là học sinh, sinh viên Hà Nội để là cơ sở góp phần giải thích cảm hứng bi tráng và tinh thần lãng mạn độc đáo của bài thơ này, so với một số bài thơ cùng viết về người lính trong cuộc kháng chiến chống Pháp.

2. Tây Tiến là sự hồi tưởng của Quang Dũng về đoàn quân Tây Tiến, về con người và thiên nhiên Tây Bắc ở một thời kì gian khổ mà oai hùng. Tất cả đều được thể hiện qua một hồn thơ lãng mạn, nặng tình với quê hương đất nước bằng bút pháp tài hoa, độc đáo.

- Đoạn một: Thông qua cách sử dụng tên địa danh, gợi cảm giác xa xôi, hoang dã, cách dùng từ táo bạo, khoẻ khoắn, cách phối âm để tạo giọng điệu lạ, mới mẻ... Quang Dũng vừa khắc hoạ được sinh động cảnh núi rừng hiểm trở vừa diễn tả được nỗi vất vả, chất tinh nghịch của người lính.

- Đoạn hai: Miêu tả con người và cảnh vật Tây Bắc. Con người e ấp, tình tứ; thiên nhiên thơ mộng, tươi mát (khác xa sự hiểm trở, dữ dội ở đoạn đầu). Đây chính là vẻ đẹp của phương xa, xứ lạ có sức lôi cuốn mạnh mẽ những người lính xuất thân từ học sinh, sinh viên.

- Đoạn ba: Tập trung khắc hoạ người lính bằng bút pháp lãng mạn. Họ có diện mạo khác thường, oai phong dữ dội, có chất anh hùng của tráng sĩ thời xưa và có một tâm hồn rất lãng mạn. Ở đây, hình ảnh người lính còn thể hiện rõ chất bi tráng của bài thơ.

- Bốn dòng cuối cùng của bài thơ có thể coi là lời thề quyết chiến đến cùng vì lí tưởng của người lính Tây Tiến.

3. Đây là bài thơ có nghệ thuật đặc sắc: nét bút tả người, tả cảnh gây ấn tượng mạnh, lúc thì gân guốc, bạo khoẻ, khi thì mềm mại, tình tứ, thủ pháp đối lập được sử dụng linh hoạt và mang lại hiệu quả đáng kể; giọng thơ khi thì thiết tha, khi thì hào hùng; ngôn ngữ sắc sảo, từ Hán Việt được dùng rất nghệ thuật.

BÀI LÀM

Cuộc kháng chiến chống Pháp đi qua để lại những dâu ấn không thể phai mờ trong tâm hồn dân tộc. Đó là điểm hội tụ của muôn triệu tấm lòng yêu nước trong môi trường thử thách tinh thần chiến đấu ngoan cường, bất khuất của nhân dân ta. Cuộc kháng chiến còn làm nảy sinh biết bao hình ảnh đẹp mà đẹp nhất là hình ảnh người lính.

Bên cạnh những bài thơ nổi tiếng một thời như Đồng chí của Chính Hữu, Nhớ của Hồng Nguyên... Trong đó Tây Tiến của Quang Dũng là một thi phẩm đặc sắc. Đoàn quân Tây Tiến quy tụ một lực lượng đông đảo đủ mọi tầng lớp thanh niên từ khắp phố phường Hà Nội. Có nhiều thanh niên học sinh thuộc tầng lớp trí thức tiểu tư sản vừa rời trang sách nhà trường để tham gia vào cuộc chiến đấu của dân tộc. Tất cả những con người ấy ra đi với lí tưởng chung của dân tộc chiến đấu bảo vệ độc lập, tự do của Tổ quốc. Họ ra đi không hẹn ngày trở về, chiến đấu với mục đích "Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh". Cái tinh thần ấy là hào khí của cả một thế hệ, đã từng được phản ánh trong một bài hát thời đó:

"Đoàn Vệ Quốc Quân một lần ra đi
Dù có gian nguy nhưng lòng không nề
Ra đi ra đi bảo tồn sông núi
Ra đi ra đi thà chết chớ lui."
-  Đoàn Vệ Quốc Quân (Phan Huỳnh Điểu)

Trong đoàn người nô nức lên đường đi chiến đấu, trong hàng ngũ những thanh niên trí thức ngày hôm qua có khi là những tự vệ chiến đấu trên phố phường, chiến lũy Hà Nội, mà hôm nay đã có mặt trong đoàn quân Tây Tiến, thấp hoáng xuất hiện một khuôn mặt: Quang Dũng, tác giả của bài thơ. Như bao thanh niên trí thức của Hà Nội ngày ấy, Quang Dũng cũng háo hức gia nhập đoàn quân Tây Tiến với một niềm say mê của tuổi trẻ và một chút lãng mạn của những người thanh niên "nho sĩ quý tộc" ảnh hưởng trong Chinh phụ ngâm: "Giã nhà đeo bức chiến bào" hay "Gieo Thái Sơn nhẹ tựa hồng mao". Cũng chính vì thế mà những thanh niên như Quang Dũng sẵn sàng chấp nhận mọi gian khổ, hi sinh để chiến đấu đến ngày thắng lợi cuối cùng. Vào Tây Tiến, Quang Dũng cùng sống và chiến đấu một thời gian với đơn vị này và sau đó chuyển sang đơn vị khác. Một ngày ngồi ở Phù Lưu Chanh, Quang Dũng nhớ về những người đồng đội, nhớ về những tháng ngày chiến đấu gian nan nhưng hào hùng, nhớ đơn vị cũ, nhớ những con đường hành quân mà ông cùng đơn vị từng đi qua. Nỗi nhớ ấy dần lớn lên trong Quang Dũng, bật ra thành khúc vĩ thanh mở đầu cho bản hùng ca Tây Tiến:

Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi! 
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi.

Cuộc sống chiến đấu của Tây Tiến cùng những nơi mà đơn vị đã đi qua hẳn là những kỉ niệm hết sức sâu đậm trong tâm hồn nhà thơ. Hẳn một phần quãng đời Quang Dũng gắn bó với Tây Tiến là cuộc sống hoạt động trong vùng rừng núi. Bởi thế, nhà thơ nhớ về Tây Tiến là nhớ ngay về sông Mã, nhớ về rừng núi với bao kỉ niệm vui buồn, ấn tượng về một miền rừng núi khắc nghiệt đã để lại trong tâm hồn nhà thơ dấu ấn chẳng phai mờ. Vì thế, Quang Dũng nhớ về những tháng ngày đã qua với một tình cảm yêu thương lắm nhưng chẳng biết gọi lên chính xác nỗi nhớ ấy. "Nhớ chơi vơi!" hai liếng chơi vơi dùng ở đây thật là đắc địa. diễn tả một nỗi nhớ không có hình, không có lượng nhưng hình như rất nặng và mênh mang đầy ắp. Cái tâm trạng nhớ ấy ta đã bắt gặp không chỉ một lần trong ca dao: "Ra về nhớ bạn chơi vơi" hoặc: "Nhớ ai bổi hổi bồi hồi, như đứng đống lửa, như ngồi đống than".

Quang Dũng lấy nỗi nhớ trong ca dao để tượng trưng thêm cho nỗi nhớ chơi vơi của mình, thật là chi tiết đắt giá! Ngay từ đầu bài thơ, ông đã miêu tả vùng rừng núi ấy thiết tha như thế làm cho người đọc ấn tượng sâu sắc. Nhớ Tây Tiến, nhớ về sông Mã và núi rừng trùng điệp, nhớ con đường hành quân cũng chính là nổi nhớ nhà thơ thể hiện ngay sau đó:

Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi     
Mường Lát hoa về trong đêm hơi       
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm   
Heo hút cồn mây súng ngửi trời        
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi.        

Con đường hành quân điệp trùng với bao cái khắc nghiệt, dữ dội của mỗi vùng rừng biên ải. Đọc đoạn thơ, chưa cần suy ngẫm nội dung bên trong, chúng ta đã có thể hình dung ra con đường mà Quang Dũng miêu tả. Gần đến cuối đoạn các câu thơ cứ thanh bằng thanh trắc đan chéo nhau, trải dài ra miên man, vô tận như con đường xa thẳm khấp khểnh, đầy rẫy những gian truân. Nhạc điệu bài thơ êm ả, triền miên. Đoàn quân Tây Tiến đi trong lớp sương dày của núi rừng, tất cả lung linh trong lớp sương khói mờ ảo, như thực, như mộng. Thế nhưng, mỗi địa danh đều gợi lên trong người đọc về hình ảnh của một xứ lạ, phương xa; nếu ta chỉ thử thay Sài Khao bằng một tên gọi khác là lớp sương huyền ảo ấy tan biến ngay. Đoàn quân Tây Tiến cất bước, trên con đường xa vạn dặm, với cái trắc trở, gập ghềnh của con đường. Đã dốc lên khúc khuỷu mà còn dốc thăm thẳm, đã ngàn thước lên cao rồi lại ngàn thước xuống thì đúng là đến độ cao chất ngất, ngoằn ngoèo khó đi. Tất cả những đặc điểm ấy diễn tả nổi khó khăn của đoàn quân Tây Tiến khi hành quân. Nó ghi lại ấn tượng về một miền rừng núi thật là dữ dội và khắc nghiệt Quang Dũng có những cách dùng từ rất tinh tế mà cũng hết sức tinh nghịch: núi cao chạm mây hoá thành "cồn heo hút", và để diễn tả chiều cao chót vót của núi thì chỉ ba chữ "súng ngửi trời" của tác giả nghe thật ngộ nghĩnh, bắt tai. Phải chăng, đó là một cách gọi của người lính mà Quang Dũng ghi lại với tư cách một người trong cuộc? Dù sao, qua những từ ngữ, chi tiết và cách kết hợp thanh điệu của đoạn thơ cũng đã vẽ lên trước mắt ta hình ảnh một miền rừng núi mà đoàn quân Tây Tiến đã từng đi qua. Có những câu thơ dùng toàn vần bằng rất hay và táo bạo như "Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi" cũng tạo được sự mới mẻ cho người đọc, như mở ra một khung cảnh đường hành quân của binh đoàn Tây Tiến ở trước mắt. Đồng thời cho ta thấy tất cả những gian khổ, nguy hiểm do thiên nhiên đem đến mà người chiến sĩ Tây Tiến phải chịu đựng.

Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ, bỏ quên đời!  

Quang Dũng nói cái thực trên con đường Tây Tiến. Bao người chiến sĩ đã nằm lại trên con đường hành quân. Có một điều lạ làm toả sáng cả ý thơ là người lính Tây Tiến đến lúc "gục" xuống vẫn cố gắng trong tư thế của người lính, chết rồi nhưng súng mũ vẫn còn đó, hành trang của người chiến sĩ vẫn còn trong tư thế tiếp tục cuộc hành trình. Bao cảnh gian khổ khó khăn, khắc nghiệt dữ dội của con đường hành quân, của thiên nhiên xứ lạ đã thử thách người chiến sĩ Tây Tiến một cách ghê gớm. Có những người lính đã vượt qua được, và cũng không ít những người phải nằm lại phía sau. Người lính dãi dầu qua mưa nắng, đi từ khó khăn này đến gian khổ khác, chịu hết thử thách này đến thử thách thác mà dường như vẫn chẳng nề hà; đến khi kiệt sức phải gục xuống thì cũng cố gắng gục trong tư thế của người chiến sĩ.

Vượt qua được thời tiết khắc nghiệt, người chiến sĩ Tây Tiến đứng trên núi cao mà nhìn xuống thung lũng phủ kín trong màn mưa. Những ngôi nhà như đang trôi bồng bềnh trong làn mưa trắng. Thanh bằng của từng chữ trải ra, mênh mang, diễn tả cái màn mưa phủ giăng kín thung lũng. Rừng núi trùng trùng, ấn tượng về miền rừng núi cũng thật là khắc nghiệt và dữ dội:

Chiều chiều oai linh thác gầm thét    
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người.

Chỉ hai câu thơ thôi mà gieo vào lòng ta tất cả những sự khắc nghiệt của miền rừng núi này - một miền núi rừng âm u với thú dữ đe doạ con người. Hai chữ Mường Hịch đi với nhau nghe nặng như chân cọp. Nếu ta thay địa danh này bằng hai chữ khác như Châu Thuận chẳng hạn, thì hiệu lực câu thơ sẽ giảm sút ngay. Qua sự miêu tả của Quang Dũng, một vùng núi rừng biên ải hiện lên với tất cả sự khắc nghiệt, dữ dội của thiên nhiên, động vật. Đó là những khó khăn mà người chiến sĩ Tây Tiến phải vượt qua trên con đường hành quân. Cái trắc trở, gian lao cùa con đường Tây Tiến chợt làm chúng ta nhớ đến câu thơ của Lí Bạch: "Thục đạo chi nan, nan ư thướng thanh thiên" (Đường xứ Thục khó đi, khó hơn lên tận trời xanh).

Cho dù Quang Dũng có nói sự thực về một vùng rừng núi che lấp con người, nhưng chính những phẩm chất cao đẹp của người chiến sĩ đã đưa họ bay lên, vượt lên trên cái gian khổ và thiếu thốn. Quang Dũng là một người trong cuộc, rừng là chiến sĩ Tây Tiến, chính vì vậy mà nhà thơ viết về cuộc sống gian khổ của người chiến sĩ Tây Tiến một cách hết sức cảm động. Cái khắc nghiệt, khổ và dữ dội của một miền biên ải, những gian truân mà người chiến sĩ Tây Tiến phải chịu đựng và những ấn tượng không thể nào quên. Quang Dũng viết về người lính Tây Tiến không như những nhà thơ khác; ông nói thật về sự khổ, hi sinh của người lính một thời. Thế nhưng, hình ảnh anh bộ đội Tây Tiến không vì thế mà trở nên uỷ mị, ngược lại càng thêm cao đẹp hơn. Miêu tả nét chiến sĩ với cái bi, nhưng là "bi tráng". Nói cái gian khổ để đề cao chiến thắng nói hi sinh để nâng hình ảnh người lính lên một tầm cao thời đại. Tựa như cách Nguyễn Du làm nổi bật vẻ đẹp của Thuý Kiều qua phép đòn bẩy, tựa như cách "vẽ mây nảy trăng" trong hội hoạ. Bởi chiến thắng sẽ chẳng có giá trị gì khi chiến thắng dễ dàng mà không phải hi sinh. Và hình ảnh người lính sẽ không thật cao đẹp nếu họ không trải qua những thử thách gian truân của cuộc sống chiến đấu khắc nghiệt. Giữa bao khó khăn, cơ cực, niềm vui cho dù ít ỏi lại càng đáng nhớ hơn:

Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.

Dường như để trả trạng thái tâm hồn chúng ta về thế cân bằng sau khi chùng xuống trước cuộc sống chiến đấu cùa người chiến sĩ Tây Tiến, Quang Dũng hồi tưởng lại nhiều hình ảnh vui, ấm áp. Khói bếp, mùi thơm cơm nếp gợi cái ấm cúng của cuộc sống thanh bình, hạnh phúc. Sức nóng của nó đủ làm tâm hổn dần ấm lại sau những phút giây chứng kiến những gian khổ của người lính, cho ta được tận hưởng những phút giây ấm áp cùng đoàn quân. Sự liên kết vững mạnh giữa tình quân dân trong thời chiến làm xoa dịu đi nỗi mất mát trước đó. Tình cảm cũng theo vần thơ dần lang toả, với tất cả sự lãng mạng ngọt ngào:

Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viêng Chăn xây hồn thơ.

Đuốc hoa là hình ảnh có sức khơi gợi, gợi cho ta cái cảm giác tươi vui như đang tham gia vào lễ hội đông vui. Hai tiếng "kìa em" vừa ngỡ ngàng vừa vụng về, nó diễn cả tâm hồn của người chiến sĩ Tây Tiến. Cả đoạn thơ dìu dắt nhau thành tiếng nhạc, tiếng khèn, phảng phất hình ảnh vui tươi của cuộc sống, yên bình như chẳng biết đến chiến tranh. Hình ảnh "nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ" là hình ảnh đẹp, thơ mộng, diễn tả tâm hồn phong phú của người lính Tây Tiến. Họ tổ chức hội vui, sau bao thử thách khắc nghiệt của núi rừng dữ dội. Mặc dù biết rằng sẽ còn liếp tục chịu đựng những gian truân, hi sinh, người lính Tây Tiến vẫn múa hát, đùa vui, vẫn lạc quan yêu đời. Có thể chỉ ngày hôm sau một người nào đó trong số họ phải nằm lại nơi núi rừng u tịch, nhưng hôm nay hồn họ vẫn mộng mơ, mơ đến những hình ảnh đẹp của thi và hoạ, say mê trong cái rực rỡ của trại đêm. Và như vậy, họ sẵn sàng đón nhận mọi thử thách tiếp theo, coi đó như một việc bình thường mà đời lính phải chấp nhận. Không lên gân, không gượng ép, mọi gian khổ hi sinh đối với người lính là chuyện bình thường và tất yếu, vì vậy mà họ vẫn lạc quan, vẫn yêu đời, vẫn sống với lâm hồn trẻ trung, tươi mát.

Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa.

Dù trải qua bão táp mưa sa trên con đường hành quân, người lính Tây Tiến vẫn nhớ một dáng thuyền độc mộc, nhớ một bông hoa trên dòng nước lũ. Những hình ảnh rất giản dị ấy, ngỡ rằng sau bao sự thử thách về tinh thần, người lính sẽ quên đi. Nhưng không, họ vẫn nhớ. Những hình ảnh in sâu vào tâm hồn ngựời lính Tây Tiến, vô tình là nguồn động viên thúc giục họ chiến đấu, tiếp tục đón nhận những thử thách mới:

Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm.

"Đoàn quân không mọc tóc!" - Có cách nói nào lại khơi dậy nhiều cảm xúc đến thế! Như vậy thì hình ảnh của anh bộ đội Tây Tiến có trở nên quái đản không? Không đâu! Đó chính là hình ảnh oai hùng của anh "Vệ trọc" nổi tiếng một thời. Vì sốt rét hoành hành nên tóc rụng nhưng vẫn không ảnh hưởng đến hào khí người chiến sĩ trái lại cái cách nói đoàn quân không mọc tóc ấy dựng nên hình ảnh người tráng sĩ với dáng dấp thật hùng dũng và hiên ngang. Có nét gì đó dữ tợn và hoang dã, vừa đáng sợ lại vừa đáng thương. Quân không mọc tóc, quân lại xanh màu lá, màu xanh có thể do phải cải trang, nhưng chủ yếu là do sốt rét rừng. Những cơn sốt rét ghê gớm đã để lại những rét buốt trong lòng người chiến sĩ. Người lính Tây Tiến phải chịu đựng những cơn ác mộng của bệnh tật, thế nhưng, nó không làm nhụt đi ý chí của người chiến sĩ mà ngược lại họ càng chiến đấu dũng cảm hơn, kiên cường hơn, quân xanh màu lá nhưng vẫn "dữ oai hùm". Cái khí phách hào hùng của người chiến sĩ Tây Tiến được ghi lại bằng sự so sánh cân bằng. Nếu ở khổ thơ trên, người lính chịu sự đe doạ của cọp thì họ cũng chiến đấu với khó khăn bằng tinh thần dũng cảm của một chúa sơn lâm. Câu thơ sau nâng đỡ câu thơ trước vút bay lên như ánh hào quang của phẩm chất người lính Tây Tiến, miêu tả khí thế chiến đấu hào hùng của người chiến thắng. Quang Dũng thực sự đã hiểu người lính và đã hòa đồng với họ. Bằng chứng là thông qua các câu thơ của tác giả, ta thấy được dù chiến đấu kiên cường dũng mãnh nhưng người lính Tây Tiến vẫn có đời sống tâm hồn hết sức tinh tế:

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.

Người chiến sĩ ra đi từ những mái trường, chiến đấu nhưng vẫn không quên hậu phương. Phía trước là trận đánh, tình cảm thể hiện qua giấc mộng, có thực, có mơ. "Dáng kiều thơm" gợi nên cái dáng vẻ yêu kiều của người con gái Thủ đô. "Thơm" được dùng với nghĩa như sắc nước hương trời, một người con gái đẹp, dịu dàng đằm thắm. Người chiến sĩ của Quang Dũng ra đi, mang theo cả phong thái hào hoa của người thanh niên trí thức, cái phong thái đã giúp người chiến sĩ sống bằng đời sống nội tâm phong phú sau mỗi trận đánh ác liệt.

Cái cuộc sống tâm hồn ấy là nguồn động lực giúp người lính tiếp tục chiến đấu để giành lấy độc lập, tự do cho Tổ quốc thân thương. Và cũng vì thế, người chiến sĩ chấp nhận sự hi sinh:

Rải rác biên cương mồ viễn xứ      
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh.

Ấn tượng bi thảm đên vô cùng mà câu thơ đầu mang đến thật mạnh mẽ. Câu thơ nhấn chìm người đọc vào trong suy tưởng xa xăm mà trong đó là máu và nước mắt. Trên con đường gập ghềnh xa thẳm của miền núi rừng biên giới, đoàn quân Tây Tiến cứ đi và thỉnh thoảng có những con người phải tách ra khỏi đội hình. Những nấm mộ của người chiến sĩ mọc lên. Câu thơ thật là bi thảm. Nhưng bằng một lực nâng vô hình của câu thơ sau, đã đưa câu thơ đầu lên cao, cái thảm giờ đây đã trở thành bi, không phải bi thương nữa mà là bi tráng. Nó bi tráng và hào hùng bởi Quang Dũng nói được một điều cốt lõi trong nhân cách của người lính: biết hi sinh, biết gian khổ nhưng vẫn cứ ra đi giải phóng quê nhà. Họ ra đi chẳng tiếc đời xanh, bởi quãng đời tươi đẹp ấy đã hiến dâng cho một lí tưỏng cao đẹp: chiến đấu vì tổ quốc. Họ ra đi và ngã xuống thanh thản không một chút vướng bận, cái chết được xem nhẹ lựa lông hồng:

Áo bào thay chiếu anh về đất    
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.

Cách dùng từ áo bào của Quang Dũng làm cho câu thơ trở nên cổ kính, áo bào chứ không phải chiến bào. Người chiến sĩ như những danh tướng thời xưa da ngựa bọc thây là một điều vinh quang. Cũng như thế, người lính coi việc hi sinh trên chiến trường là một nghĩa vụ thiêng liêng. Người chiến sĩ Tây Tiến ngã xuống và thanh thản về đất. Đất sinh ra anh và lại đón nhận anh về sau khi làm tròn nghĩa vụ. Anh về đất như một hành động của những anh hùng. Mở đầu bài thơ là hình ảnh sông Mã, kết thúc bài thơ vẫn là tiếng gầm thét của dòng sông này. Dòng sông tiễn anh ra đi chiến đấu lại đón anh về:

Tây Tiến người đi không hẹn ước     
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy          
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.      

Quang Dũng khẳng định lại một lần nữa cái ý chí sắc đá: phải, ra đi là không cần trở lại, ra đi trong sự oai hùng bệ vệ của một chiến binh. Đó cũng là ý chí quyết tâm của cả một thế hệ, của một thời đại.

Những gian khổ, hi sinh của cuộc kháng chiến là những kỉ niệm không thể quên. Sẽ không bao giờ còn có lại thời kì gian khổ đến mức ấy, hào hùng đến mức ấy. Và cũng khó có thể có được bài thơ Tây Tiến thứ hai nào xuất sắc được như vậy...

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro