HẠNH PHÚC CỦA MỘT TANG GIA

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

HẠNH PHÚC CỦA MỘT TANG GIA

Cảm nhận của anh (chị) về nghệ thuật trào phúng của Vũ Trọng Phụng qua chương "Hạnh phúc của một tang gia" trong "Số đỏ" .

 

Năm 1939, Vũ Trọng Phụng bước sang tuổi 27. "Ông vua phóng sự đất Bắc" liền cho ra đời năm tác phẩm lừng danh: "Giông tố", "Số đỏ", "Làm đĩ", "Vỡ đê" và "Cơm thầy cơm cô". Tác phẩm của ông được đánh giá là "vào loại xuất sắc nhất của văn xuôi Việt Nam từ khi có chữ quốc ngữ".

Trong đó, "Số đỏ" với nghệ thuật trào phúng bậc thầy, nó được coi là một kiệt tác bất hủ trong văn chương đương thời. Vũ Trọng Phụng đả kích cực kì cay độc cái xã hội trưởng giả tư sản thành thị đang chạy theo lối sống "Âu hóa" văn minh rởm, hết sức đồi bại và lố lăng đương thời. "Số đỏ" chỉ dài độ 200 trang nhưng nhung nhúc những hạng người xấu xa, đê tiện như me Tây, ma cà bông, giới cảnh sát, loại nhà chùa, đám du học, có cả nghệ sĩ, y học, giới báo chí... Vũ Trọng Phụng đã từng tuyên bố: "Riêng tôi, xã hội này, tôi chỉ thấy là khốn nạn, quan tham, lại nhũng, đàn bà hư hỏng, đàn ông dâm bôn, xã hội chó đểu...".

Chương 15 với cái tiểu nhan đề: "Hạnh phúc của một tang gia" đã đem đến cho người đọc bao thú vị như được mục kích một màn hài kịch trong bộ "Tấn trò dời" của xã hội thực dân phong kiến.

Nhan đề chương 15 là một nghịch lí đầy ý vị, chua cay. Tang gia là gia đình có tang, ở đây là đại tang tất phải đau thương buồn thảm. Ấy vậy mà lại hạnh phúc. Cái gia đình tam đại đồng đường này, khi cụ Tổ hơn 80 tuổi phải chết đã làm cho lũ con cháu "sung sướng lắm!".

Vũ Trọng Phụng đã xây dựng thành công một tình huống điển hình để phơi bày những bộ mặt đồi bại trong cái gia đình trưởng giả này, vạch trần những cặn bã, những quái thai của cái xã hội dở ta dở Tây buổi ấy.

Cha chết, ông chết "bọn con cháu vô tâm cũng sung sướng thỏa thích". Đây là dịp hiếm có để khoe của, kheo giàu, phô cái sang ra cho thiên hạ biết. "Người ta tưng bừng vui vẻ đi đưa giấy cáo phó, gọi phường kèn, thuê xe đám ma, vân vân...". Niềm vui tràn ngập:"tang gia ai cũng vui vẻ cả".

Người con trai cả - cụ cố Hồng - hút liền một chập 60 điếu thuốc phiện, hả hê lim dim đôi mắt. Bữa nay, cha chết, cụ vui vẻ lắm, nhưng thằng bồi tiêm vẫn còn đếm được 1872 câu gắt: "Biết rồi, khổ lắm, nói mãi!". Trong cái dư vị êm ái của thuốc phiện, cụ "nhắm nghiền mắt lại để mơ màng" đến cái giờ phút hạnh phúc "hạnh phúc nhất: mặc đồ xô gai, lụ khụ chống gậy, vừa ho khạc vừa khóc mếu" để cho thiên hạ phải trầm trồ: "một cái đám ma như thế, một cái gậy như thế",... rồi ngạc nhiên chỉ trỏ: "Úi kìa, con giai nhớn đã già đến thế kia kìa...". Con trai đã "báo hiếu" cha như vậy! Đó là một nét biếm họa thần tình. Tâm hồn sa đọa, đạo lí suy đồi đến cùng cực, từ cha đến con.

Hai đứa cháu nội của cụ Tổ xuất hiện giữa đám tang với bao nét kệch cỡm lố lăng. Văn Minh đi Tây du học 6-7 năm mà chẳng có môt "mảnh bằng nào cả" về nước hắn mở hiệu may để cổ vũ cho cái trò "Âu hóa" nhằm "phô ra những bộ phận kín đáo của phái đẹp". Ông nội chết, đứa cháu quý hóa này nhăm nhăm nghĩ tới chuyện chia gia tài, thích thú ra mặt vì "cái chúc thư kia đã vào thời kì thực hành chứ không còn là lí thuyết viển vông nữa". Cậu Tú Tân thì mở cờ trong bụng, được dịp trổ tài bấm lách tách "mấy cái mấy ảnh mà mãi cậu không được dùng đến". Lúc đưa tang, cậu lăng xăng chạy lên chạy xuống, cậu dàn cảnh, cậu đạo diễn lúc hạ huyệt bắt bẻ từng người cách "chống gậy", "gục đầu", "cong lưng", "lau mắt", như thế này, thế nọ để cậu bấm máy. Y "luộm thuộm trong chiếc áo thụng trắng" như một tên hề!

Vũ Trọng Phụng đã tả đám ma cụ Tổ bằng nhiều nét hoạt kê, châm biếm sâu cay cái rởm đời của bọn thượng lưu tha hóa. Một đám ma to tát "một đám ma gương mẫu" nhưng chẳng qua là một đám rước xách. Có kiệu bát cống lợn quay đi lọng. Có lốc bốc xoẻng và bu dích. Có nhiều vòng hoa, 300 câu đối, vài ba trăm người đi đưa. Đúng là một đám ma tạp pí-lù "theo cái lối ta, Tàu, Tây". Bởi thế nên bầy con cháu thì hạnh phúc, còn "người chết nằm trong quan tài cũng phải mỉm cười sung sướng nếu không gật gù cái đầu...".Lấy cái phi lí để vạch trần cái lố lăng, đồi bại là một nét vẽ cực kì sắc sảo, độc đáo trong nghệ thuật trào phúng của Vũ Trọng Phụng.

"Có bao đám khách" quý phái và "sang trọng" đến đưa ma cụ cố Tổ. Phụ nữ chiếm một nửa, là "giai thanh gái lịch", là bạn của Tuyết và bà Phó Đoan... Họ đến đưa ma là để"cười tình với nhau, bình phẩm nhau, chê bai nhau, hẹn hò nhau...". Bọn mày râu, bạn của cụ cố Hồng đến đưa tang để khoe mẽ "ngực đầy những huy chương" của "nước mẹ"hay của bọn bù nhìn ban phát cho. Khi tả bộ râu của đám quan khách này, tác giả "Số đỏ"đã sáng tạo nên những chi tiết, những ngôn từ và giọng điệu trào phúng chua cay. Một lối nói nhạo, chế giễu thần tình. Trên mép và cằm các ông trưởng giả khoe "tài" khoe "đức"ấy "đếm đủ râu ria, hoặc dài hoặc ngắn, hoặc đen hoặc hung hung, hoặc lún phún hay rầm rậm, loăn quoăn,...". Người đọc phải bấm bụng mà cười khi đọc đoạn văn tả những bộ râu ấy. Đằng sau bộ râu kia là những mặt người tha hóa vô luân!

Vũ Trọng Phụng đã dùng thủ pháp "phục bút" khi tả sự xuất hiện của Xuân Tóc Đỏ. Tuyết mặc bộ "Ngây thơ" đi mời trầu và thuốc lá quan khách với "vẻ buồn lãng mạn rất đúng mốt một nhà có đám". Cô vô cùng sung sướng khi thấy "anh Xuân" đã đến bèn "liếc mắt đưa tình ... để tỏ ý cảm ơn". Xuân Tóc Đỏ đã đến đưa đám một cách sang trọng cực kì, với 6 chiếc xe, với sư chùa Bà Banh, với sư cụ Tăng Phú, hai vòng hoa lớn... đã làm cho cụ bà sung sướng kêu lên: "Ấy, giá không có món ấy thì là thiếu chưa được to, may mà ông Xuân đã nghĩ hộ tôi!". Xuân chẳng giận lại còn đến phúng viếng rất to, làm cho đám ma cụ cố Tổ trở nên "danh giá nhất tất cả".

Xuân Tóc Đỏ xuất hiện, ông Phán "mọc sừng" vốn đã nhờ "đôi sừng hươu" ấy mà được bố vợ chia cho thêm vài nghìn đồng bạc, trong lúc khóc thật to: "Hứt!... Hứt!.. Hứt!..." để báo hiếu vẫn không quên giữ chứ "tín" với ân nhân. Ông ta đã "dúi vào tay" Xuân "một cái giấy bạc 5 đồng gấp tư"Cuộc mua bán hay trả nghĩa diễn ra sòng phẳng và kín đáo quá!Xuân và ông Phán "mọc sừng" như một cặp bài trùng, hai diễn viên hài siêu hạng. Chính cảnh này là tột đỉnh của sự trào lộng trong màn hài kịch "đám ma gương mẫu". Chính ở cảnh này, sự bịp bợm, giả dối và thô bỉ của bọn "thượng lưu", đã lên tới độ vô liêm sỉ quá ghê tởm. Những con người "chó đểu" trong cái xã hội "chó đểu" là như thế đó!

Tóm lại, qua chương "Hạnh phúc của một tang gia", Vũ Trọng Phụng thể hiện xuất sắc tài kể chuyện và nghệ thuật hoạt kê trong miêu tả. Cái tài của tác giả "Số đỏ" là đã phóng đại những bức chân dung biếm họa, những cảnh đời lố lăng theo thủ pháp của nghệ thuật trào phúng làm cho người ta cười mà thấy được bao sự thật chứa đựng ở trong đó. Chuyện kể đầy kịch tính với bao sự phi lí đến ghê người đã lật tung cái mặt nạ của bọn đạo đức giả!

Tiếng cười trong "Số đỏ" là tiếng cười châm biếm có giá trị tố cáo và mang ý nghĩa xã hội sâu sắc. Đám ma cụ cố Tổ đích thực là một màn hài kịch, diễn viên là bầy con cháu và lũ quan khách, đã phơi bày tất cả cái bản chất lố lăng và đồi bại của xã hội nhuốm màu sắc"Âu hóa" kệch cỡm.

***********THÊM***********

Vũ Trọng Phụng (1912-1939) với 27 tuổi đời, 10 năm cầm bút, nhưng sự nghiệp văn chương của ông để lại cho đời thật vô cùng lớn lao: 7 tập phóng sự, 9 cuốn tiểu thuyết, 6 vở kịch và khoảng 30 truyện ngắn. Hơn nửa thế kỉ trước, ông từng được ca ngợi là "ông vua phóng sự đất Bắc", là một "văn tài lỗi lạc" (Lưu Trọng Lư), là một "thiên tài" (Thanh Châu)... Tiểu thuyết "Số đỏ", "Giông tố" của Vũ Trọng Phụng được đánh giá là kiệt tác văn chương trong nền văn học Việt Nam hiện đại.

Vũ Trọng Phụng viết "Số đỏ" vào năm 1936, qua nhân vật Xuân Tóc Đỏ, một tên hạ lưu, một gã "ma cà bông", ông đả kích cay độc cái xã hội trưởng giả tư sản thành thị đang chạy theo lối sống "Âu hóa" văn minh rởm, hết sức đồi bại, nhố nhăng đương thời.

Mỗi chương trong "Số đỏ" đều được đặt những cái tên trào phúng châm biếm sâu cay. Cuốn tiểu thuyết gồm 20 chương; chương 15 mang cái tên rất dài: "Hạnh phúc của một tang gia"- Văn minh nữa cũng nói vào một đám ma gương mẫu". Chương này kể về cái chết và đám ma Cụ tổ như một màn bi hài kịch. Có biết bao tình tiết, biết bao bộ mặt xuất hiện trong đám ma khác nào những vai hề. Cái chết của Cụ tổ và đám ma vừa đáng khóc vừa đáng cười. Khóc vì đạo lí suy đồi đến cực độ. Cha chết, ông chết mà "bọn con cháu vô tâm ai cũng sung sướng thỏa thích". Cái chết của ông già hơn 80 tuổi "đã làm cho nhiều người sung sướng lắm. Ai cũng nghĩ đến cái lợi do cái chết và đám tang của Cụ tổ mang lại, đúng là "Hạnh phúc của một tang gia". Sự báo hiếu của bọn con cháu của Cụ tổ chỉ là để khoe giàu, khoe sang với thiên hạ. Cái chết và đám ma Cụ tổ như một đám rước, với bao vai hề hiện lên dưới ngòi bút trào phúng, châm biếm đả kích của tác giả "Số đỏ" sao không đáng cười?

Cái chết của Cụ tổ được bọn con cháu mong đợi từ lâu. Trong lúc Cụ tổ ốm thập tử nhất sinh, đốc tờ Xuân chỉ dùng một lọ nước ao tanh bẩn, mấy lá thài lài và rau sam - thuốc thánh đền Bia, thế mà Cụ tổ, chỉ độ nửa giờ sau khi dùng thuốc "đã tỉnh táo khác thường", tự ngồi dậy được, ăn được nửa bát cháo. Và cũng chỉ bằng một câu chào: "Thưa ngài, ngài là một người chồng mọc sừng!", Xuân đã làm cho Cụ tổ "nấc một cái to, ngã xuống giường", bất đắc kì tử! Ông già hơn 80 tuổi, trước lúc nhắm mắt còn giăng giối: "Để ta chết! Sống cũng nhục! Có chạy chữa thì chạy chữa cho cái thanh danh nhà tao mà bọn chúng mày đã trót bôi nhọ! Thế!". Cái chết của Cụ tổ vừa đáng khóc vừa đáng cười. Văn Minh, cháu đích tôn của Cụ tổ cứ băn khoăn mãi về tội và ơn của Xuân Tóc Đỏ: "Xuân tuy phạm tội quyến rũ em gái ông, tố cáo cái tội trạng hoang dâm của một em gái khác nữa của ông, nhưng tình cờ đã gây ra cái chết của ông cụ già đáng chết. Hai cái tội nhỏ, một cái ơn to... Làm thế nào?" Cái băn khoăn ấy của Văn Minh sao không đáng khóc và đáng cười.

Đám tang của Cụ tổ khác nào một đám rước? Có kiệu bát cống, có lợn quay che lọng. Có kèn ta, kèn tàu, kèn tây. Còn có hai viên quan chức nhà nước Min-đơ, Min-toa giữ trật tự! Bọn con cháu hạnh phúc lắm, sung sướng lắm! Cụ cố Hồng hút liền một chặp 60 điếu thuốc phiện, gắt 1872 câu gắt: "Biết rồi! Khổ lắm, nói mãi!" mà thằng bồi tiêm đã đếm được! Cụ nhắm nghiền đôi mắt, mơ màng nghĩ đến lục lụ khụ chống gậy, mặc bộ đồ xô gai, vưa ho khạc vừa khóc mếu sẽ làm cho ai cũng phải "ngợi khen một cái đam ma như thế, một cái gậy như thế!".

Văn Minh chồng lấy làm hạnh phúc vì cái món lợi chia gia tài của Cụ tổ mang lại "cái chúc thư kia sẽ đi vào thời kì thực hành chứ không còn là lí thuyết viển vông nữa". Ông Phán mọc sừng chỉ nhờ "đôi sừng hươu vô tình trên đầu" mà ông được bố vợ là cụ cố Hồng sẽ chia thêm cho một số tiền là vài nghìn đồng. Ông sung sướng muốn gặp ngay ông Xuân để "trù tính ngay một công cuộc doanh thương". Cô Tuyết tuy "đau khổ... muốn tự tử được" vì không thấy anh Xuân đến đưa ma, nhưng cô cũng không kém phần hạnh phúc như mọi người khác. Tuyết mặc bộ y phục "Ngây thơ" với"vẻ buồn lãng mạn" đi mời trầu cau và thuốc lá các quan khách, để cho thiên hạ phải biết rằng "mình chưa đánh mất cả chữ trinh".

Có vai hề là bầy con cháu! Có vai hề là những quan khách. Là bạn của cô Tuyết, bà Văn Minh, cô Hoàng Hôn, bà Phó Đoan vân vân, những "giai thanh gái lịch" đến đưa tang là để "chim nhau, cười tình với nhau, bình phẩm nhau, chê bai nhau, ghen tuông nhau, hẹn hò nhau,...". Là những người bạn của cụ cố Hồng đến đưa ma Cụ tổ "ngực đầy những huy chương như Bắc đẩu bội tinh, Long bội tinh... để khoe tài, khoe đức" (!), với những bộ râu ria "hoặc dài hoặc ngắn, hoặc đen, hoặc hung hung, hoặc lún phún hay rầm rậm, loăn quoăn...". Ngòi bút biếm họa của Vũ Trọng Phụng thật hiếm có. Ông đã làm cho độc giả phải ôm bụng mà cười về những bộ râu ấy!

Sụ cụ Tăng Phú với ông Xuân - cố vấn báo Gõ mõ đến đưa tang giữa đường, với sáu chiếc xe, xe nào cũng che hai lọng có hai vòng hoa đồ sộ. Sư cụ Tăng Phú "sung sướng và vênh váo ngồi trên một chiếc xe" vì đây là "cuộc đắc thắng đầu tiên của báo Gõ mõ" đã đánh đổ được Hội Phật giáo. Còn Xuân Tóc Đỏ đã được Tuyết "liếc mắt đưa tình cho nó để tỏ ý cảm ơn!". Hắn đã làm cho bà cụ Hồng cảm động cực độ, sung sướng kêu: "Ấy giá không có món ấy thì là thiếu chưa được to, may mà ông Xuân đã nghĩ hộ tôi!". Đó là cảnh hài sao không đáng cười được! Cảnh hạ huyệt mới thật sự là một cảnh trong vở bi hài kịch. Cậu Tú Tân luộm thuộm trong chiếc áo thụng trắng, với chiếc máy ảnh trong tay, cậu bắt bẻ từng người một, hoặc chống gậy, hoặc gục đầu, hoặc cong lưng... để cậu chụp ảnh lúc hạ huyệt! Cụ cố Hồng thì "mếu máo và ngất đi!". Ông Phán mọc sừng "oặt người đi, khóc mãi không thôi: "Hứt!... Hứt!... Hứt!...". Thế nhưng ông ta rất tỉnh táo đã bí mật dúi vào tay Xuân tờ bạc 5 đồng gấp tư để "giữ chữ tín" và cũng là để "tri ân" người đã đem đến cho mình món lợi to!

Vũ Trọng Phụng đã sử dụng biến hóa nhiều thủ pháp châm biếm trào phúng cay độc. Lúc thì phóng đại, lúc thì biếm họa. Có cử chỉ đáng cười! Có ngôn ngữ buồn cười! Có cảnh gây cuời! Từ tang chủ, bọn con cháu đến quan khách, tất cả đều trở thành những vai hề. Vì thế mới có hình ảnh "người chết nằm trong quan tài cũng phải mỉm cười sung sướng nếu không gật gù cái đầu...".

Qua chương "Hạnh phúc của một tang gia", ta thấy được nghệ thuật trào phúng bậc thầy của Vũ Trọng Phụng trong "Số đỏ". Tiếng cười trên trang văn của ông có giá trị tố cáo mãnh liệt, đả kích sâu cay cái nhố nhăng, đồi bại của xã hội thực dân phong kiến tư sản, cái xã hội "khốn nạn", "chó đểu" như ông đã phỉ nhổ, nguyền rủa.

Thật vậy, cái chết và đám ma Cụ tổ là một vở bi hài kịch, vừa đáng khóc, vừa đáng cười, nhưng cái đáng cười là chủ yếu!

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro