văn 2011

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Phân tích nhân vật Liên (Tâm trạng nhân vật Liên – tâm trạng chờ tàu) trong tác phẩm Hai đứa trẻ của nhà văn Thạch Lam.
(Bài viết của thầy Phan Danh Hiếu. Tổ trưởng tổ Ngữ văn trường THPT Bùi Thị Xuân. Biên Hòa. Đồng Nai)
 
   Hai đứa trẻ là tác phẩm xuất sắc của Thạch Lam được bạn đọc biết đến nhiều nhất. Tác phẩm được in trong tập Nắng trong vườn (1938). Truyện gây ấn tượng cho người đọc bởi văn phong nhẹ nhàng, giàu tình người tình đời. Ấn tượng khó quên trong lòng người đọc về thiên truyện ngắn này có lẽ là hình ảnh  hai đứa trẻ mà cô bé Liên là nhân vật được nhà văn Thạch Lam tập trung khắc họa nhiều nhất.
   Liên là cô bé mới tám tuổi, cái tuổi mà theo như người xưa nói “biết ăn biết ngủ, biết học hành là ngoan”. Nói đúng hơn là tuổi vô lo. Nhưng mọi điều đều ngược lại. Dưới ngòi bút của Thạch Lam, Liên hiện lên với hình ảnh của một cô bé như già đi trước tuổi. Tuổi thơ chìm trong nỗi buồn của sự tàn tạ, héo úa của một cuộc sống đầy bóng tối, bế tắc không lối thoát. Đối với tâm hồn thơ bé ấy, đoàn tàu đêm từ Hà nội về chạy ngang qua phố huyện chính là niềm an ủi cuối cùng cho một niềm đau.
   Thầy Liên mất việc và đặt dấu chấm hết cho những tháng ngày sống ở Hà Nội. Con phố nhỏ Cẩm Giàng tỉnh Hải Dương nơi đón chị em Liên về là một nơi đói nghèo trong rơm rạ với những kiếp người bé nhỏ, lay lắt. Bản thân gia đình Liên cũng chẳng khá giả gì hơn: mẹ làm hàng xáo, chị em Liên trông coi gian hàng tạp hóa nhỏ xíu với những thức hàng lặt vặt, ngày phiên mà chẳng bán được bao nhiêu?
   Liên là cô bé nhạy cảm, hay động lòng trắc ẩn trước những biến thiên của cuộc đời. Tâm trạng của Liên cũng diễn tiến theo thời gian: từ chiều hôm cho đến khi đoàn tàu ngang qua phố huyện. Truyện mở đầu bằng âm thanh của tiếng trống thu không vang xa để gọi buổi chiều. Đó âm thanh báo hiệu ngày tàn và cũng là âm thanh chấm hết một ngày đầy ánh sáng mà thay vào đó là bóng tối và nỗi buồn. Thạch Lam mở đầu truyện rất hồn hậu, rất thơ với bức tranh quê bình dị, man mác hương đồng gió nội với " Chiều, chiều rồi. Một chiều êm ả như ru, văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào". Đó cũng là thời khắc mở ra thế giới tâm trạng của Liên, là lúc mà “Trong đôi mắt Liên bóng tối ngập đầy dần và cái buồn của buổi chiều quê thấm thía vào tâm hồn ngây thơ của chị. Liên không hiểu sao nhưng thấy lòng buồn man mác trước cái giờ khắc của ngày tàn”. Buồn mà thấy “không hiểu sao” có nghĩa là cái buồn ghê ghớm lắm. Buồn mà không biết mình buồn vì cái gì thì thật là đau khổ không gì bằng. Thạch Lam đã để nhân vật tự nhận thức và tự bộc lộ tâm trạng chứ không cần kể lể dài dòng. Và bóng tối đã trùm lên phố nhỏ, trùm lên đồng ruộng, trùm lên cả nỗi buồn của Liên đang thoi thóp thở. 
   Trong bóng chiều nhá nhem, Liên nhìn về bãi chợ nơi những người bán hàng về muộn. Liên động lòng thương những mảnh đời cơ cực, đó chính là hình ảnh của “những đứa trẻ con nhà nghèo đi lại lang thang trên mặt đất nhặt nhạnh những thanh nứa thanh tre hay những gì còn sót lại của mấy người bán hàng”. Hình ảnh đó như xoáy sâu vào lòng trắc ẩn của cô bé tám tuổi giàu lòng nhân ái. Liên thấy thương những đứa trẻ nghèo nhưng chính chị cũng không có tiền mà cho chúng nó. Thế đấy, nhân vật Thạch Lam thường ít nói nhưng suy tư nhiều và mang đến những vẻ đẹp của tình người đằng sau những nghĩ suy tha thiết về cuộc sống.
   Trong cảm nhận của Liên, bóng tối thật ghê ghớm “Tối hết cả con đường thăm thẳm ra sông, con đường qua chợ về nhà, các ngõ vào làng lại càng sẫm đen hơn nữa”. Bóng tối là hiện thân của sự tù túng ngột ngạt, bế tắc không lối thoát. Đó là bóng tối của sự đói nghèo, lam lũ. Là hình ảnh đất nước ta trước năm 1945 đầy nước mắt:
Cha ông ta từng đấm nát bàn tay trước cánh cửa cuộc đời
Cửa vẫn đóng mà đời im ỉm khóa
Cả dân tộc đói nghèo trong rơm rạ
Văn chiêu hồn từng thấm giọt mưa rơi
   Thạch Lam đã sử dụng thủ pháp nghệ thuật đối lập để miêu tả bóng tối và ánh sáng. Nếu như bóng tối nuốt chửng tất cả phố huyện vào trong cái dạ dày tối thui của nó thì ánh sáng xuất hiện với tần số thấp. Đó chỉ là “hột sáng”, “khe ánh sáng”, “đốm sáng”, “vệt sáng”… tất cả đều hiện lên thật bé nhỏ tội nghiệp “ mất đi rồi lại hiện ra trong đêm tối”. Và cùng với ánh sáng nhỏ nhoi, yếu ớt đó là những phận người với cuộc sống bấp bênh, trôi nổi và lụi tàn, le lói như ngọn đèn trước gió. Liên thương hết thảy những con người nơi phố huyện nhỏ bé này. Đó chính là chị Tý với cuộc đời cơ cực “mò cua bắt ốc”, tối đến cùng ghánh hàng nghèo xơ xác chỉ với bát nước chè, điếu thuốc lào, thanh kẹo lạc… tất cả gia tài mưu sinh bên ngọn đèn con chỉ chiếu sáng một vùng đất nhỏ. Liên thương bác phở Siêu với ghánh phở xa xỉ, ế ẩm nhưng đêm nào cũng thấy bác dọn hàng. Thương bác xẩm với manh chiếu rách tả tơi cùng chiếc thau trắng trống trơn chưa một niềm hi vọng, thương lắm những tiếng đàn bác góp chuyện bật trong yên lặng. Thương bà cụ Thi điên đơn chiếc với tiếng cười chìm vào bóng tối… Cuộc sống phố huyện là như vậy. Đơn điệu, tẻ nhạt. Đêm nào cũng như đêm nào, cứ lặp đi lặp lại:
Quanh quẩn mãi với vài ba dáng điệu
Tới hay lui vẫn chừng ấy mặt người
Vì quá thân nên quá đỗi buồn cười
Môi nhắc lại chỉ có ngần ấy chuyện. 
   Điều gì có thể làm chị em Liên quên đi được thực tại này ? May ra chỉ có vũ trụ là cơ hội cuối cùng để ru hai chị em vào những miền cổ tích. Cảnh hai chị em ngẩng mặt lên trời tìm con vịt theo sau ông thần nông cho thấy: tâm hồn hai đứa trẻ thật hồn nhiên, vô tư trong sáng và rất đỗi trẻ con. Nhưng buồn thay, bầu trời đầy sao trên kia cũng không thể nào cứu vớt được hai sinh linh bé nhỏ, tội nghiệp ấy. Bởi “vũ trụ bao la và thăm thẳm như chứa đầy bí mật và xa lạ với hai đứa trẻ”. Để rồi cuối cùng chính chúng lại quay về với quang cảnh phố chung quanh mà đặc biệt là ngọn đèn con của chị Tý. Và cứ thế trong đêm tối những con người tội nghiệp ngồi chờ đợi một điều gì đó cho sự sống nghèo khổ hằng ngày của họ. 
   Và đoàn tàu từ Hà Nội về đã thực sự là ước mơ và khát vọng của người dân phố huyện. Họ thức đợi chuyến tàu vì mưu sinh hay vì lí do nào khác nữa. Tất cả thao thức, đợi chờ như thể đợi chờ một phép màu sẽ đến. Họ mong bán được chút hàng để gỡ gạc cho cuộc sống ngày mai. Còn riêng hai đứa trẻ, chúng không thức đợi chuyến tàu để bán hàng mà vì lí do khác. Chúng muốn được nhìn thấy đoàn tàu qua phố huyện vì đoàn tàu như mang một thế giới khác đi qua đủ làm cho chúng rạo rực và ánh lên niềm vui sướng dù chỉ là trong chốc lát. Vì thế đêm nào cũng vậy dù buồn ngủ ríu cả mắt nhưng cả hai chị em vẫn cố thức để đợi chuyến tàu. Điều đó cho thấy đoàn tàu là một hình ảnh đã trở thành quen thuộc và ăn sâu trong tâm hồn hai đứa trẻ và chờ tàu đã trở thành một khát vọng mãnh liệt và là một món ăn tinh thần không thể thiếu trong cuộc sống của chúng.
   Sự mong mỏi của chị em Liên với đoàn tàu quả thật đã làm người đọc xúc động mãnh liệt. Mới bảy, tám tuổi mà mẹ bắt trông coi cửa hàng tạp hóa đã là việc làm quá sức lại còn bắt thức cho tới khuya để chờ bán hàng thì quả là tội nghiệp. Nhưng Liên và An thức tới khi đoàn tàu đi qua phố huyện không phải là nghe lời mẹ mà là chúng đang hành động theo tiếng gọi của con tàu. “Tàu đến chị đánh thức em dậy nhé!”. Đó là câu nói của An khi mí mắt đã sụp xuống trong cơn buồn ngủ rồi mà vẫn còn dặn với chị. Câu nói bình thường thế mà sao mới nghe qua đã thấy xót thương. Nó chứa đựng trong đó là tất cả niềm khát khao và hi vọng được nhìn thấy đoàn tàu – hoạt động cuối cùng của đêm khuya. An đi vào giấc ngủ, Liên ngồi im lặng, đầu óc chị bỗng dưng cũng yên tĩnh lạ thường. Yên lặng đến nỗi có thể nghe được “hoa bàng rụng xuống vai Liên từng đợt một, có những cảm giác mơ hồ không hiểu”. Dường như nhà văn muốn cho nhân vật của mình được nghỉ ngơi sau một ngày dài mỏi mệt. Thế rồi thoáng trong tiếng gió xa xôi là tiếng đoàn tàu vụt đến. Rồi tiếng reo thảng thốt, mừng rỡ của bác Siêu “Đèn ghi đã ra kia rồi!”. Liên cũng trông thấy ngọn lửa xanh biếc, sát mặt đất, như ma trơi. Rồi tiếng còi xe lửa ở đâu vang lại, trong đêm khuya kéo dài ra theo gió xa xôi. Đó là lúc mà Liên vội vã đánh thức em “ dậy đi An, tàu đến rồi!”. Lời giục dã gấp rút, hối thúc như thể nếu An không dậy thì sẽ không bao giờ còn được nhìn thấy đoàn tàu nữa. Thạch Lam không dùng từ ngữ nào để miêu tả sự háo hức của hai chị em mà cái háo hức ấy vẫn cứ hiện lên thật sống động và giàu chất nhân văn. 
   Hai chị em đứng chờ đoàn tàu từ đằng xa. Chúng có dịp chiêm ngưỡng cái kẻ đã làm chúng đợi chờ ấy bằng cách đứng gần hơn nữa. Và rồi “tàu rầm rộ đi tới. Liên dắt em đứng dậy để nhìn đoàn xe vụt qua”. Đây là phút giây hạnh phúc nhất là lúc mà Liên và An dường như quên hết thảy những nỗi buồn hiện tại, quên cả những đói nghèo lam lũ, ê chề đang bao vây cuộc đời họ. Trong lòng họ giờ đây chỉ có đoàn tàu. Đoàn tàu mang thứ ánh sáng mạnh mẽ, khác thường ngang qua phố huyện “các toa đèn sáng trưng, chiếu ánh cả xuống đường… những toa hạng trên sang trọng lố nhố những người, đồng và kền lấp lánh, và các cửa kính sáng”. Đó là ánh sáng của sự sang trọng, văn minh, thứ ánh sáng khác xa với những ánh sáng yếu ớt, nhỏ bé nơi phố huyện. Đoàn tàu giống như một tia chớp, một ngôi sao băng rạch ngang qua bầu trời phố huyện rồi mất hút vào đêm tối nhưng cái ánh sáng của nó là ước mơ và khát vọng của biết bao nhiêu số phận con người bé nhỏ đang mong ngóng. Đoàn tàu mang một thế giới khác đi qua, chính là khát vọng muốn được đổi đời của họ. Họ gửi theo chuyến tàu cả tâm hồn của mình, họ muốn được đến với những chân trời mới, nơi đó có ánh sáng của văn minh của no đủ. Nơi đó sẽ không còn cảnh đói nghèo lam lũ, không có cảnh đơn điệu và buồn tẻ mà ăm ắp niềm vui. Họ xứng đáng được nhận một cuộc sống như thế, tại sao không? Nhưng ước mơ chỉ là ước mơ. Tất cả lại quay về với quầng sáng thân mật xung quanh ngọn đèn con chị Tý. Chấm hết cho một đêm đợi chờ trong khát vọng và kết thúc bằng nỗi buồn rưng rưng nước mắt.
   Liên và An đứng lặng người trong bóng tối dù chuyến tàu đã “đi vào đêm tối, để lại những đốm than đỏ bay tung trên đường sắt. Hai chị em còn nhìn theo cái chấm đỏ của chiếc đèn xanh trên toa sau cùng, xa xa mãi rồi khuất sau rặng tre”. Sự nuối tiếc của họ dường như đã phơi bày tất cả một cuộc sống nghèo nàn, bế tắc. Nhất là khi họ tự nhận thức rằng “ Tàu đêm nay không đông và dường như kém sáng hơn ”. Nghĩa là đoàn tàu cũng chỉ xoa dịu một chút nỗi đau trong tâm hồn hai đứa trẻ chứ không thể nào phá vỡ bức tường thành mang tên “nỗi buồn” của chúng. Và Liên lặng người đi trong suy tưởng, đằng sau ánh sáng của đoàn tàu và tiếng động cơ gầm vang đó là một thế giới rất riêng tư. Đó chính là nỗi nhớ về Hà Nội nơi có ánh sáng của những ngọn đèn, nơi vui vẻ và huyên náo. Nơi đó là vùng sáng trong tâm tưởng và cũng là vầng sáng trong ký ức tuổi thơ. Nơi mà ngày xưa chị em Liên được đi chơi bờ Hồ, được uống những cốc nước lạnh xanh đỏ. Ký ức tươi đẹp thế nhưng giờ họ lại bị cầm tù giữa biết bao nhiêu là buồn bã. Chính đoàn tàu đã mang lại cho Liên liều thuốc an thần và khơi dậy trong tiềm thức biết bao điều tươi đẹp. Cuộc sống ấy thực sự khác xa với cuộc sống ở nơi này nhiều lắm nhưng biết làm sao được khi ký ức không thể trở về. “ Một quá khứ huy hoàng. Một hiện tại mong manh. Một tương lai mù mịt”. Đáng buồn thay!
   Cuối cùng Liên cũng đi vào giấc ngủ, một giấc ngủ chập chờn hình ảnh ngọn đèn con của chị Tý . Một giấc ngủ tịch mịch và đầy bóng tối. Đó chính là một sự ám ảnh về cuộc sống bế tắc, tù đọng không lối thoát mà biết đến bao giờ chị em Liên mới có thể đổi thay.
   Với lối viết nhẹ nhàng, mỗi truyện tựa như một bài thơ trữ tình đầy xót thương, Thạch Lam đã mang đến cho người đọc sự đồng cảm sâu sắc về những thân phận cuộc đời trong xã hội cũ. Qua nhân vật Liên nhà văn đã làm toát lên những giá trị nhân văn cao đẹp, giúp chúng ta thấu hiểu nỗi buồn đau của dân tộc trong thế kỷ bạo tàn dưới ách đô hộ của bọn thực dân và đế quốc. Trang văn khép lại rồi mà ta còn thấy trước mắt mình hình ảnh hai đứa trẻ ngồi đấy giữa phố huyện nhỏ nghèo tăm tối đang đợi chờ chuyến tàu đi qua trong khát vọng mỏi mòn.

---------------------------------------------
CÁC TÁC GIA VĂN HỌC VIỆT NAM

NAM CAO(1915-1951)

1. Sự nghiệp văn học (30 dòng)

            a. Nam Cao (1915-1951) tên thật là Trần Hữu Tri, sinh ra trong 1 gia đình nông dân làng Đại Hoàng, tỉnh Hà Nam. Ông là nhà văn có vị trí hàng đầu trong nền văn học Việt Nam thế kỷ XX,  là một trong những đại diện xuất sắc nhất của trào lưu văn học hiện thực phê phán trước 1945. Nam Cao cũng là cây bút tiêu biểu của chặng đầu nền văn học mới sau cách mạng.

            b. Sự nghiệp Vhọc của Nam Cao trải dài trên 2 thời kỳ, trước và sau CMT 8.

            - Trước CMT8: sáng tác của N.Cao tập trung vào 2 đề tài chính: cuộc sống người trí thức tiểu tư sản nghèo và cuộc sống người nông dân ở quê hương.

            + Ở đề tài người trí thức tiểu tư sản nghèo, đáng chú ý là các truyện ngắn:"Những truyện không muốn viết"; "Trăng sáng", "Đời thừa", "Mua nhà", "Nước mắt", "Cười"...và tiểu thuyết "Sống mòn"(1944). Trong khi mô tả hết sức chân thực tình cảnh nghèo khổ, bế tắc của những nhà văn nghèo, những "Giáo khổ trường tư", học sinh thất nghiệp...Nam Cao đã làm nổi bật tấn bi kịch tinh thần của họ, đặt ra những vấn đề có ý nghĩa XH to lớn. Đó là tấn bi kịch dai dẳng của người trí thức, những người có ý thức sâu sắc về giá trị đời sống và nhân phẩm, muốn sống có hoài bão, nhưng lại bị gánh nặng cơm áo và hoàn cảnh XH làm cho "chết mòn", phải sống" đời thừa"

            + Ở  đề tài về người nông dân, đáng chú ý nhất là các truyện:"Chí Phèo", "Trẻ con không được ăn thịt chó"," Một bữa no"," Lão Hạc"," Một đám cưới", "Lang Rận"...ở đề tài này, Nam Cao thường nhắc đến những hạng cố cùng, những số phận hẩm hiu bị ức hiếp, bị lưu manh hoá ...Nhà văn đã kết án sâu sắc cái Xã hội tàn bạo làm huỷ diệt cả nhân tính của những con người lương thiện. Ở một số TP, Nam Cao đã thể hiện niềm xúc động trước bản chất đẹp đẽ, cao quí trong tâm hồn họ (L.Hạc)

            - Sau CMT8, Nam Cao sáng tác để phục vụ công cuộc kháng chiến, truyện ngắn "Đôi mắt" (1948) "Nhật ký ở rừng" (1948) và tập bút kí "Chuyện biên giới" (1950) của ông thuộc vào những sáng tác đặc sắc nhất của nền văn học mới sau CM còn rất non trẻ khi đó.

            - Ngòi bút Nam Cao vừa tỉnh táo, sắc lạnh, vừa nặng trĩu suy tư và đằm thắm yêu thương. Nam Cao là cây bút bậc thầy, ông xứng đáng được coi là một nhà văn lớn giàu sức sáng tạo của văn học VN.

2.  Tuyên ngôn nghệ thuật của NCao

            +Truyện ngắn "Trăng sáng" (1943): "Chao ôi! Nghệ thuật không cần phải là ánh trăng lừa dối, không nên là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật chỉ có thể là tiếng đau khổ kia, thoát ra từ những kiếp lầm than"

            +Truyện ngắn"Đời thừa (1943)

            + Một tác phẩm" thật giá trị" thì phải có nội dung nhân đạo sâu sắc:

" Nó phải chứa đựng được một cái gì lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn lại vừa phấn khởi. Nó ca tụng tình thương, tình bác ái, sự công bình...Nó làm cho người gần người hơn".

            + Nhà văn đòi hỏi cao sự tìm tòi sáng tạo và lương tâm người cầm bút "Văn chương không cần đến những người thợ khéo tay, làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho. Văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những cái gì chưa có"

            - Văn chương đòi hỏi phải có lương tâm của người cầm bút: "Sự cẩu thả trong bất cứ nghề gì cũng là bất lương rồi. Nhưng cẩu thả trong văn chương thì thật là đê tiện.

            - Trong tác phẩm "Đôi mắt" (1948) NC đã nêu 1 quan điểm của mình: "Vẫn giữ đôi mắt ấy để nhìn đời thì càng đi nhiều, càng quan sát lắm, người ta chỉ càng thêm chua chát và chán nản".

3. Phong cách nghệ thuật: NC có phong cách NT độc đáo.

- Đặc biệt quan tâm đến đời sống tinh thần - con người bên trong của con người.

- Biệt tài phát hiện, miêu tả, phân tích tâm lí nhân vật.

- Rất thành công trong ngôn ngữ độc thoại và độc thoại nội tâm.

- Kết cấu truyện chặt chẽ.

- Cốt truyện đơn giản, rất đời thường nhưng lại đặt ra những vấn đề quan trọng, sâu xa, có ý nghĩa triết lí sâu sắc.

- Giọng điệu lời văn: lạnh lùng mà đầy thương cảm, đằm thắm, yêu thương.

- Ngôn ngữ tự nhiên, sinh động, gắn với lời ăn tiếng nói của quần chúng.

•v     NGUYỄN TUÂN

1-Con người:

            NgTuân (1910-1987) sinh ra trong 1 gia đình nhà Nho khi Hán học đã tàn, NTuân cầm bút từ khoảng đầu những năm30, nhưng đến 1938 mới nổi tiếng với các tác phẩm "Một chuyến đi", "Vang bóng một thời".

   Nguyễn Tuân là một trí thức giàu lòng yêu nước, tinh thần dtộc. Ở NT, ý thức cá nhân phát triển rất cao. Ông viết văn trước hết là để khẳng định cá tính độc đáo của mình. NT còn là con người rất mực tài hoa. Tuy chỉ viết văn nhưng ông còn am hiểu những môn nghệ thuật khác: hội hoạ, điêu khắc, sân khấu, điện ảnh... Nguyễn Tuân là một nhà văn thực sự biết quý trọng nghề nghiệp của mình.

2- Phong cách nthuật của NT

            - NT có một phong cách nghệ thuật rất độc đáo và sâu sắc. Ông quan niệm đã là văn thì trước hết phải có một phong cách độc đáo, viết không giống ai, từ chủ đề, nhân vật, kết cấu,đến cách đặt câu dùng từ....

            - Trong phong cách nghệ thuật của NT có chất tài hoa, tài tử. Chất tài hoa này được thể hiện rất rõ khi ông đề cao những con người tài hoa, những người biết trân trọng cái tài, cái đẹp. NT luôn tiếp cận cảnh vật, sự việc và con người ở phương diện thẩm mỹ.

            - Tính uyên bác thể hiện trong văn của NT: Đọc văn của NT, người đọc luôn được cung cấp những tri thức phong phú về văn hoá trên những lĩnh vực: Văn học, nghệ thuật, lịch sử, địa lý, hội hoạ, điêu khắc, điện ảnh...

            -NT học theo"Chủ nghĩa xê dịch", ông luôn thèm khát những điều mới lạ. Ông không thích những gì bằng phẳng, nhợt nhạt, yên ổn. Ông là nhà văn của những tính cách phi thường, của những tình cảm, cảm giác mãnh liệt.

            NT có phong cách tự do, "ngông", phóng túng và ý thức sâu sắc về cái tôi cá nhân. Điều này đã khiến NT tìm đến thể tuỳ bút như một điều tất yếu.

            -Phong cách của NT có sự thay đổi trước và sau CMT8.

3- Những nét chính về sự nghiệp vhọc của NT

   Trong hơn nửa thế kỷ cầm bút, NT đã để lại một sự nghiệp vhọc lớn.

            -Trước CMT8 các tác phẩm của ông chủ yếu xoay quanh 3 đề tài:

            + Một là về "Chủ nghĩa xê dịch" : nghĩa là ghi lại những cảnh thnhiên, xhội, những cảm nghĩ tài hoa độc đáo của nhà văn trên đường"xê dịch" khắp đất nước mình"một chuyến đi"," thiếu quê hương"

            + Hai là đề tài "Vang bóng một thời", ấy là thời phkiến đã qua, những dư âm còn vọng lại. Ông viết về những phong tục đẹp, những thú chơi tinh tế, tao nhã của người xưa (tphẩm tiêu biểu "Vang bóng một thời")

            + Ba là đề tài "Đời sống truỵ lạc": Viết về tình trạng khủng hoảng tinh thần của một nhvật "tôi" hoang mang bế tắc, tìm cách thoát ly trong đàn hát, trong rượu và thuốc phiện (tphẩm" Chiếc lư đồng mắt cua")

à Giá trị của tphẩm viết về ba đề tài trên là những trang viết đầy tài hoa và thấm nhuần lòng yêu nước, viết về phong cách thiên nhiên và những vùng đất khác nhau trên quê hương mình, viết về những thú chơi tao nhã thể hiện một khía cạnh của nền vhoá cổ truyền của dtộc và về những con người tài hoa, nghĩa sĩ và tài năng nhân cách kết hợp với nhau.

            - Sau CMT8, NT hăng hái dùng ngòi bút của mình phục vụ hai cuộc khchiến chống Pháp và chống Mỹ và công cuộc xdựng đất nước. Ông stác hàng loạt tphẩm, bút ký, tuỳ bút có gitrị nghệ thuật (tác phẩm tiêu biểu: "Sông đà"," Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi") giá trị của những tác phẩm này là ở những trang viết đầy tự hào, ca ngợi nhân dân trong chiến đấu và lao động. Qua những trang viết ấy, người ta thấy dân tộc Việt Nam không chỉ cần cù, dũng cảm, có chính nghĩa mà còn rất mực tài hoa.

            - NT có đóng góp rất lớn đối với lịch sử văn học dân tộc. Thể bút ký, tuỳ bút, tuỳ bút văn học đạt trình độ nghệ thuật cao, góp phần làm phong phú ngôn ngữ văn học dân tộc, đem đến cho văn xuôi VN một phong cách viết đặc biệt tài hoa và độc đáo.

•v     NGUYỄN ÁI QUỐC - HỒ CHÍ MINH(1890-1969)

•1.      Con người:

NAQ-HCM là vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc, là người anh hùng giải phóng dân tộc VN, đồng thời người cũng là một nhà văn hoá lớn.

  HCM tên gọi thời niên thiếu là Nguyễn Sinh Cung, trong thời kì đầu hđộng CM mang tên NAQ, sinh ngày 19.5.1890 tại Kim Liên, Nam Đàn, Nghệ An.

Năm1911, HCM ra đi tìm đường cứu nước từ bến cảng Nhà Rồng. Tháng 1.1919, Người đưa bản Yêu sách của nhân dân An Nam về quyền bình đẳng, tự do đến Hội nghị Véc xai (Pháp). Năm 1920, Người dự Đại hội Tua và là một trong những thành viên đầu tiên tham gia sáng lập ĐCS Pháp. HCM đã tham gia thành lập nhiều tổ chức CM như: VNTNCMĐCH (1925), Hội liên hiệp các dân tộc bị áp bức á Đông (1925) và chủ toạ hội nghị thống nhất các tổ chức Cộng Sản ở trong nước tại Hương Cảng, thành lập ĐCS VN (3.2.1930). Tháng 2.1941, Người về nước hoạt động và thành lập Mặt trận Việt Minh, trực tiếp lãnh đạo phong trào CM ở trong nước giành thắng lợi trong cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám.1945. Sau hơn 30 năm, trải qua nhiều năm tháng hoạt động cách mạng, ngày 2/9/1945 HCM đã đọc bản "TNĐL" tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, khai sinh ra nước VNDCCH. Sau cuộc tổng tuyển cử đầu tiên 6.1.1946, Người được bầu làm Chủ tịch nước VNDCCH. Từ đó Người luôn đảm nhiệm những chức vụ cao nhất của Đảng và Nhà nước, lãnh đạo toàn dân giành thắng lợi trong 2 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mĩ xâm lược. Người qua đời ngày 2.9.1969, để lại niềm tiếc thương vô hạn cho dân tộc VN và nhân dân thế giới.

Năm 1990, nhân dịp kỷ niệm 100 năm ngày sinh của CTHCM, tổ chức giáo dục, khoa học và văn hoá Liên hợp quốc (UNESCO) đã ghi nhận và suy tôn người là "Anh hùng giải phóng dân tộc VN, nhà văn hoá lớn". HCM là vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc. Trong sự nghiệp CM to lớn đó, Người đã để lại 1 di sản đặc biệt cho dân tộc, đó là một sự nghiệp văn chương đồ sộ.

2. Những nét lớn về sự nghiệp văn học của HCM.

  Trong sự nghiệp lớn lao của HCM có một di sản đbiệt để lại cho dtộc, đó là sự nghiệp vhọc. Người đã để lại cho nhdân ta một sự nghiệp văn chương lớn lao về tầm vóc, phong phú, đa dạng về thể loại và đặc sắc về phcách sáng tác. Do đkiện hđộng cmạng những năm ở nước ngoài nên các tphẩm của NAQ-HCM được viết bằng tiếng pháp, hán văn và tiếng Việt, có thể tìm hiểu sự nghiệp vhọc của Người chủ yếu trên 3 lĩnh vực.

a. Văn chính luận.

            - Những tác phẩm văn chính luận của HCM được viết ra chủ yếu với mục đích đấu tranh chính trị nhằm tiến công trực diện kẻ thù hoặc thể hiện những nhiệm vụ CM qua những chặng đường lịch sử.

            - Từ những năm 20 của thế kỷ XX, các bài văn chính luận với bút danh NAQ đăng trên các báo"Người cùng khổ" (leparia), nhân đạo(Lhumanité), "Đời sống thợ thuyền" (la vie ouvriere) đã tác động và ảnh hưởng lớn đến quần chúng Pháp và nhân dân những nước thuộc địa, kêu gọi thức tỉnh những người nô lệ bị áp bức liên hiệp lại trong mặt trận đấu tranh chung. Một trong những tác phẩm lớn đã kết tinh và hội tụ lại tinh thần trên là "Bản án chế độ thực dân Pháp".

            - Năm 1945 "Tuyên ngôn độc lập" là một văn kiện chính trị có giá trị lịch sử lớn lao, phản ánh khát vọng độc lập, tự do và cuộc đấu tranh kiên cường bền bỉ của dân tộc đã giành được thắng lợi. Đây là áng văn chính luận hùng hồn tuyên bố quyền độc lập của dân tộc VN trước nhân dân trong nước và thế giới. "TNĐL" là tác phẩm chính luận có giá trị pháp lý, giá trị lịch sử, giá trị nhân bản và giá trị nghệ thuật cao.

            - "Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến"(1946) và " không có gì quí hơn độc lập tự do"(1966) là những áng văn chính luận hào hùng, tha thiết làm rung động hàng triệu trái tim yêu nước. Những tác phẩm ấy nói lên các vấn đề thời sự cấp bách của dân tộc, thể hiện sâu sắc tiếng gọi của non sông, đất nước trong những giờ phút thử thách đặc biệt.

            - Trong những năm tháng cuối đời, Ngươì viết bản"Di chúc" thiêng liêng và chan chứa tình cảm. Bản "Di chúc" là lời căn dặn thiết tha, chân tình với đồng bào, đồng chí, vừa mang tính chiến lược trong hướng phát triển của đất nước, vừa thấm đượm tình yêu thương con người.

b.Truyện và ký.

            Khoảng từ năm 1922-1925 NAQ có viết một số truyện ngắn và ký bằng tiếng Pháp đặc sắc, sáng tạo và hiện đại. Các truyện ngắn thường dựa trên một sự kiện, một câu truyện có thật , từ đó Người biết vận dụng, hư cấu để thực hiện dụng ý nghệ thuật của mình .

            - Một số tphẩm tiêu biểu là: Pari(1922), Con người biết mùi hun khói (1922), Đồng tâm nhất trí(1922); "Vi hành"(1923); "Những trò lố hay là Va ren Phan Bội Châu "(1925)

            - Truyện ngắn của NAQ cô động, cốt truyện sáng tạo, kết cấu độc đáo. Mỗi truyện đều có tư tưởng riêng hẫp dẫn, sáng tỏ, ý tưởng thâm thuý, kín đáo chất trí tuệ toả trong hình tượng và phong cách giàu tính hiện đại.

c. Thơ ca:

            - Đây là lĩnh vực nổi bật trong giá trị sáng tạo văn chương của HCM.

  Với gần 250 bài thơ có giá trị được tuyển chọn và in trong các tập"NKTT"(134 bài), "ThơHCM"(86 bài-1967) và"Thơ chữ Hán HCM" (86 bài,1990), HCM đã có những đóng góp quan trọng cho nền thơ ca VN hiện đại .

            - Tiêu biểu nhất là "NKTT"được viết trong thgian Người bị giam cầm ở nhà tù Quốc dân Đảng tại Quảng Tây-Trung Quốc từ 29.8.1942 đến10.9.1943. Tập thơ "NKTT" trước hết là cuốn nhật ký bằng thơ phản ánh tâm hồn và nhân cách cao đẹp của những chiến sĩ cách mạng, đồng thời tố cáo bộ mặt đen tối và nhem nhuốc của chế độ nhà tù cũng như của XH Trung Quốc thời Tưởng giới Thạch tập thơ chan chứa tình cảm nhân đạo, luôn hướng về những người lao động, những bthơ trong "NKTT" biểu hiện lòng yêu nước thiết tha của những chsĩ csản, chứa đựng những bức hoạ nhân sinh, đạo lý, thể hiện ý chí vượt lên gian khổ để vươn tới tự do. Các bthơ trong "NKTT" vừa đậm đà mầu sắc cổ điển, vừa thể hiện được tinh thần thời đại.

            - Ngoài tập "NKTT" HCM còn viết những bài thơ chữ tình độc đáo và những bài thơ mộc mạc, giản dị, để tuyên truyền đường lối CM (Pắc bó hùng vĩ, Tức cảnh Pắc bó, bài ca du kích, ca sợi chỉ...). Đi vào cuộc khchiến chống thdân Pháp, Người đã biểu lộ những nỗi lo lắng về vận mệnh của non sông, tcảm thiết tha, gắn bó với cảnh sắc thnhiên đất nước (cảnh khuya, đi thuyền trên sông đáy, cảnh rừng Việt Bắc) những ca ngợi sức mạnh của quân và dân ta trong cuộc khchiến và niềm vui thắng lợi (rằm tháng giêng, lên núi,tin thắng trận, đêm thu...)

            - Tập "thơ chữ Hán HCM" tập hợp 36 bài thơ chữ Hán viết trong những thời điểm với những đề tài (thu dạ, Nguyên tiêu, Tặng bùi công, Nhị vật, thất cửu...)

3. Phong cách nghệ thuật HCM:

  Phong cách nghệ thuật của NAQ-HCM là một phong cách vừa nhất quán, vừa đa dạng. Tính nhất quán thể hiện rõ nhất ở nguyên tắc sáng tác, ở lối viết giản dị ngắn gọn mà linh hoạt, biến hoá, ở khả năng kết hợp nhuần nhị yếu tố cổ điển với yếu tố hiện đại, ở khuynh hướng vận động luôn hướng về ánh sáng, sự sống và tương lai của tư tưởng và hình tượng nghệ thuật. Tính đa dạng phong phú được thể hiện ở bút pháp, nội dung, kết cấu, ngôn từ, thủ pháp nghệ thuật...Ngay trong cùng một đề tài, thậm chí cùng một tác phẩm, tính đa dạng và phong phú cũng được thể hiện rõ nét.

   Những tác phẩm của NAQuốc-HCM có phong cách đa dạng và thống nhất kết hợp sâu sắc và nhuần nhị mối quan hệ giữa chính trị và văn chương, giữa tư tưởng và nghệ thuật, giữa truyền thống và hiện đại. Dù sáng tác bằng thể loại nào, tác phẩm của Người cũng đều có phong cách riêng, độc đáo, hấp dẫn và có giá trị bền vững.

            - Văn chính luận của NAQ-HCM biểu lộ tư duy sắc sảo giầu trí thức văn hoá, gắn lý luận với thực tiễn, vận dụng hiệu quả những phương thức biểu hiện.

            - Trong truyện và ký, ngòi bút NAQ rất chủ động và sáng tạo khi là lối kể chân thực tạo không khí gần gũi, có khi là giọng điệu châm biến sắc sảo thâm thuý và tinh tế. Chất trí tuệ và tính hiện đại là những nét đặc sắc trong truyện ngắn của NAQ.

            - Thơ ca HCM cũng có phong cách đa dạng. Những bài cổ thi hàm súc uyên thâm, đạt chuẩn mực cao về nghệ thuật, những bài thơ hiện đại được Người vận dụng qua những thể loại, phục vụ có hiệu quả cho nhiệm vụ cách mạng.

            à Nhìn chung, nội dung và hình thức nghệ thuật trong sáng tác của NAQ-HCM luôn vận động linh hoạt theo mục đích sáng tác, đối tượng tác động và hoàn cảnh giao tiếp cụ thể...

            4. Quan điểm sáng tác HCM:

            - Sinh thời Chủ Tịch HCM không nhận mình là nhà văn nhà thơ và chỉ là người bạn của văn nghệ, người yêu văn nghệ, nhưng rồi chính hoàn cảnh thôi thúc, nhiệm vụ cách mạng yêu cầu, môi trường XH và thiên nhiên gợi cảnh, cùng với tài năng nghệ thuật và tâm hồn nhạy cảm, Người đã viết được rất nhiều áng văn chính luận hào hùng, những truyện ngắn đặc sắc và hàng trăm bài thơ rất hay. Người có ý thức và am hiểu sâu sắc qui luật và đặc trưng của hoạt động văn nghệ, từ phương diện tư tưởng chính trị đến nghệ thuật biểu hiện điều đó trước hết được biểu hiện trực tiếp trong quan điểm sáng tác văn chương của người.

            + Là nhà CM vĩ đại lại rất yêu văn nghệ, HCM xem văn nghệ là một hđộng tinh thần phphú và phvụ có hiệu quả cho sự nghiệp CM, nhà văn là chsĩ trên mặt trận vhoá tư tưởng tinh thần đó đã được Người nói lên trong bài thơ" cảm tưởng đọc"Thiên gia thi"

 "Thơ xưa thường chuộng thiên nhiên đẹp-Mây, gió, trăng, hoa, tuyết, núi,sông-Nay ở trong thơ nên có thép-Nhà thơ cũng phải biết xung phong"

  Chất" thép " ở đây chính là xu hướng cách mạng và tiến bộ về tư tưởng, là cảm hứng đấu tranh XH tích cực. Quan điểm của HCM là sự tiếp thu kế thừa quan điểm dùng văn chương làm vũ khí chiến đấu trong truyền thống dân tộc và được nâng cao trong thời đại cách mạng vô sản.

            + HCM đặc biệt chú ý đến đối tượng thưởng thức và tiếp nhận văn chương: trong thời đại cách mạng phải coi quảng đại quần chúng là đối tượng phục vụ Người nêu kinh nghiệm chung cho hoạt động báo trí và văn chương. Trước khi cầm bút người xắc định rõ. viết cho ai?( Đối tượng). Viết để làm gì (mục đích) viết cái gì ( nội dung) và viết như thế nào?( hình thức).

    Người chú ý đến quan hệ giữa phổ cập và nâng cao trong văn nghệ các khía cạnh trên liên quan đên nhau trong ý thức và trách nhiệm của người cầm bút.

            + HCM luôn quan niệm tác phẩm văn chương phải có tính chân thực, phát biểu trong buổi khai mạc phòng triển lãm hội hoạ trong năm đầu sau cách mạng. Người uốn nắn một hướng đi" chất mơ mộng nhiều quá, và cái chất thật của sự sinh hoạt rất ít" người yêu cầu văn nghệ sĩ phải miêu tả cho hay, cho chân thật , hùng hồn" những đề tài phong phú của hiện thực cách mạng, phải chú ý nêu gương" người tốt việc tốt" uốn nắn và phê bình cái xấu bởi tính chân thực chính là cái gốc của văn chương xưa và nay.

            - Nhà văn cũng phải chú ý đến hình thức biểu hiện, tránh lối viết cầu kỳ, xa lạ, nặng nề. Hình thức của tác phẩm trong sáng hấp dẫn, ngôn ngữ phải chọn lọc, bảo đảm sự trong sáng của tiếng Việt. Theo Người tác phẩm văn chương phải thể hiện được tinh thần của dân tọc của nhân dân và được nhân dân ưa thích.

•v     TỐ HỮU

1. Những nét chính về cuộc đời của Tố Hữu:

            + Tố Hữu tên khai sinh là Nguyễn Kim Thành sinh 4/10/1920 quê ở Phù Lai, xã Quảng Thọ huyện Quảng Điền tỉnh Thừa thiên Huế ông sinh ra trong một giđình nhà nho nghèo. Từ nhỏ Tố Hữu đã học và tập làm thơ.

            - THữu giác ngộ CM trong thời kỳ mặt trận dân chủ, trở thành ngừơi lđạo đoàn thanh niên dchủ ở Huế. 8/1945, THữu là chủ tịch uỷ ban khnghĩa ở Huế.

            - Sau CMT8 cho đến 1986, Tố Hữu liên tục giữ những cương vị trọng yếu trong các cơ quan lđạo của Đảng, Nhà nước.

            -Ở Tố Hữu, con người chính trị và con người nhà thơ thống nhất chật chẽ, sự nghiệp thơ gắn liền với sự nghiệp cách mạng, trở thành một bộ phận của sự nghiệp CM. Ông được Nhà nước phong tặng giải thưởng HCM về văn học nghệ thuật ( Đợt một 1996)

2. Con đường thơ của Tố Hữu gắn liền với chặng đường CM dtộc

            +Tố Hữu đã đạt được những thành tựu trong chặng đường sáng tác. Ông đã nhận được giải thưởng văn học lớn:  Giải nhất giải thưởng văn học hội văn nghệ VN 1954-1955 ( Tập Việt Bắc); Giải thưởng văn học ASEAN (1996); Giải thưởng HCM về văn học-nghệ thuật ( đợt một 1996);

            + Thơ Tố Hữu gắn bó chặt chẽ với cuộc đấu tranh cách mạng, nên các chặng đường thơ cũng song hành với các giai đoạn của cuộc đấu tranh ấy.

            a. Tập thơ "từ ấy"(1937-1946) là chặng đường đầu mười năm thơ Tố Hữu cũng là mười năm hoạt động sôi nổi, say mê từ giác ngộ qua thử thách đến trưởng thành của người thanh niên cách mạng trong một giai đoạn  lịch sử sôi động.

   Tập thơ gồm ba phần( tương ứng với ba chặng đường trong mười năm hoạt động của Tố Hữu)

            -"Máu lửa": ca ngợi lý tưởng và kêu gọi quần chúng bị áp bức đứng lên đtranh.

            - "Xiềng xích": ghi lại những cuộc đtranh gay go của những người chiến sĩ cách mạng trong nhà tù thdân. Thể hiện sự trưởng thành vững vàng của người thanh niên cách mạng qua thử thách bộc lộ một tâm hồn yêu đời tha thiết.

            -"Giải phóng" : Thể hiện niềm vui chiến thắng, ca ngợi cách mạng thành công.
            b. Tập thơ" Việt bắc" (1947-1954): là chặng đường thơ Tố Hữu trong những năm kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Tập thơ ca ngợi cuộc kháng chiến, con người kháng chiến, đồng thời phản ánh những gian lao của quân và dân, lòng anh dũng . Sự trưởng thành của nhân dân dưới sự lãnh đạo
 

b. Tập thơ" Việt bắc" (1947-1954): là chặng đường thơ Tố Hữu trong những năm kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Tập thơ ca ngợi cuộc kháng chiến, con người kháng chiến, đồng thời phản ánh những gian lao của quân và dân, lòng anh dũng . Sự trưởng thành của nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ dã đưa cuộc kháng chiến đến ngày thắng lợi (cá nước, lên Tây bắc, Việt bắc, Bầm ơi, Lượm...)

            c. Tập thơ "gió lộng"( 1955-1961): Là tiếng hát ca ngợi cuộc sống mới XHCN ở miền bắcvà bộc lộ tình cảm tha thiết với miền nam, đồng thời thể hiện ý chí thống nhất đất nước, tình cảm qutế vô sản với các dân tộc anh em trong niềm vui, THữu không quên nhớ về quá khứ để thấm thía những khổ đau của ông cha ( mùa thu tới, ba mươi năm đời ta có Đảng, quê mẹ...).

            d. Tập thơ " Ra trận"(1962-1971) và " Máu và hoa"( 1972-1977).

Là hai tập thơ ra đời trong thời kỳ cả nước chiến đấu kiên cường, giải phóng miền nam, thống nhất đất nước. Cả hai tập thơ khẳng định phẩm chất con người Việt nam , đồng thời là khúc ca khải hoàn kết thúc cuộc chiến đấu, Bắc Nam một nhà, non sông liền một dải.

---------------------------------------

Câu 1: Phân tích nhân vật Mị trong truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài để thấy được giá trị nhân đạo sâu sắc của tác phẩm.
1. Phân tích nhân vật:
-Mị trước khi làm dâu nhà thống lý: Cô gái người Mèo xinh đẹp, yêu đời, có tài thổi sáo, khao khát yêu và đã được yêu.
- Mị, con dâu gạt nợ nhà thống lý: Người đàn bà sống nhẫn nhục trong tăm tối =>Danh nghĩa là con dâu song kì thực là nô lệ, Mị là nạn nhân của sự đầu độc, áp chế về tinh thần
- Sức sống mãnh liệt của Mị:
+ Lần 1: Mới bị bắt về làm dâu=> định tìm đến cái chết vì không chấp nhận sống nô lệ
+ Lần 2: Trong đêm tình mùa xuân=> Mị muốn đi chơi
+ Lần 3: Chứng kiến cảnh A Phủ bị trói, Mị đã cắt dây cởi trói và chạy theo A Phủ=> hành động bất ngờ, bột phát thể hiện tinh thần phản kháng và khát vọng hạnh phúc đã chiến thắng.
- Mị đến với cách mạng như là một tất yếu của quy luật có áp bức có đấu tranh, từ đấu tranh tự phát sang đấu tranh tự giác
2. Giá trị nhân đạo của tác phẩm được thể hiện qua nhân vật Mị:
- Nhân đạo là thương người vì con người mà lên tiếng
- Câu chuyện đau buồn của Mị không phải là chuyện riêng của Mị mà tiêu biểu cho người phụ nữ miền núi trong chế độ phong kiến- thực dân
- Nhân vật Mị là một hình tượng nghệ thuật đẹp tiêu biểu cho khát vọng sống khát vọng hạnh phúc của người dân miền núi và hành trình tất yếu tìm đến cách mạng của họ
=> Truyện mang giá trị nhân đạo sâu sắc: xót xa với những số phận bất hạnh, ngợi ca những tâm hồn tuổi trẻ yêu đời trong sáng, bất bình với những tội ác man rợ của bọn quan lại miền núi và đồng tình với khát vọng giải phóng của người dân miền núi với chế độ thực dân phong kiến xưa
Câu 2: Phân tích Nhân vật MỴ :
a/ Là cô gái trẻ , đẹp , tài hoa :
Thổi sáo giỏi, thổi kèn cũng hay như thổi sáo .
Có bao nhiêu người mê, ngày đêm đi theo Mỵ “đứng nhẵn vách buồng nhà Mỵ”
=> Mỵ có đủ phẩm chất được sống hạnh phúc . Tâm hồn Mỵ đầy ắp hạnh phúc , ước mơ.
b/ Là cô gái có số phận bất hạnh :
Vì bố mẹ không trả nổi tiền thống lí Pá Tra – Mỵ phải trở thành con dâu gạt nợ chịu tủi nhục , cực khổ .
Bị đối xử chẳng khác nào nô lệ , bị đánh đập , trói đứng cả đêm , suốt ngày quần quật làm việc => Mỵ tưởng mình là con trâu , con ngựa .
Mất hết cảm giác, thậm chí mất hết ý thức sống, sống mà như đã chết“lúc nào mặt cũng buồn rười rượi”.
Không mong đợi điều gì , cũng chẵng còn ý niệm về thời gian , không gian . “suốt ngày lùi lũi như con rùa xó cửa” => thân phận nghèo khổ bị áp bức . Cái buồng Mỵ ở kín mít ,cửa sổ “lỗ vuông bằng bàn tay, lúc nào trông ra cũng thấy trăng trắng ,không biết là sương hay nắng” => căn buồng Mỵ gợi không khí nhà giam .
c/ Sức sống tiềm tàng , khát vọng hạnh phúc của MỴ :
- Lần 1 : lúc mới làm con dâu gạt nợ .
* Mỵ định ăn lá ngón tự tử ( ý thức về đời sống tủi nhục của mình) à không chấp nhân cuộc sống đó .
* Tìm đến cái chết như một phương tiện giải thoát , là khẳng định lòng ham sống ,khát vọng tự do của mình
- Lần 2 : trong đêm tình mùa xuân .
Lòng ham sống ,niềm khao khát hạnh phúc lứa đôi được đánh thức .
Tiếng sáo gọi bạn làm Mỵ nhớ lại những ngày tháng tươi đẹp trong quá khứ .Mỵ lấy rượu ra uống “ ừng ực từng bát một” –như uống những khao khát , ước mơ ,căm hận vào lòng . Mỵ cảm thấy “phơi phới đến góc nhà lấy ống mỡ , xắn một miếng bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng”à thắp sáng niềm tin ,giã từ bóng tối . Mỵ lấy váy áo định đi chơi nhưng ngay lập tức bị A Sử ûtrói vào cột nhà, nhưng vẫn thả hồn theo cuộc vui .
- Lần 3 : cởi trói cho A Phủ .
Chứng kiến cảnh A Phủ bị trói, bị hành hạ có nguy cơ chết , lúc đầu Mỵ không quan tâm “dù A Phủ có là cái xác chết đứng đấy cũng vậy thôi”.
Nhưng thấy “một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã đen xám lại” của A Phủ. Mỵ xúc động , thương mình, thương người . =>Mỵ quyết định cởi trói A Phủ.
Đứng lặn trong bóng tối , rồi chạy theo A Phủ cùng trốn khỏi Hồng Ngài à hành động mang tính tự phát .
=>Quá trình phát triển tính cách phong phú , phức tạp . Cởi trói cho A Phủ cũng chính là cởi trói cho cuộc đời mình . Chấp nhận cuộc sống trâu ngựa và khao khát được sống cuộc sống con người , nhẩn nhục và phản kháng là hai mặt mâu thuẫn trong con người Mỵ , Cuối cùng tinh thần phản kháng , khát vọng hạnh phúc đã chiến thắng .
*Giá trị tư tưởng , nhân đạo của tác phẩm :
- Phản ánh cuộc sống cơ cực , bị đè nén bởi áp bức nặng nề của người dân miền núi Tây Bắc dưới ách thống trị của bọn phong kiến câu kết thực dân Pháp .
- Mở ra lối thoát cho nhân vật vùng lên làm CM, xóa bỏ chế độ PK – gắn cuộc đấu tranh tự giải phóng cá nhân với cuộc đấu tranh giải phóng giai cấp , giải phóng dân tộc.
+ Nghệ thuật :
- Đậm đà màu sắc dân tộc .
- Khắc họa bức tranh thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ thơ mộng với phong tục độc đáo, hình ảnh người dân TB hồn nhiên chân thật .
- Thành công trong việc xây dựng nhân vật , diễn biến tâm lý phức tạp .
* Qua việc khắc họa nhân vật Mỵ , Tô Hoài tố cáo chế đ6ï PK miền núi ,ca ngợi phẩm chất cao đẹp của người vùng cao nói chung ,của thanh niên Mèo nói riêng .Họ biết yêu cái đẹp , cái lẽ phải để rồi vượt lên tìm lại chính mình .
* Sức sống của nhân vật Mỵ được Tô Hoài khắc họa hết sức tài tình , độc đáo . Từ một con người dường như bị mất hết quyền làm người , tâm hồn Mỵ dường như không còn tồn tại . Thế nhưng , với một nghị lực phi thường , một lòng ham sống mãnh liệt ,Mỵ đã tìm thấy' hạnh phúc cho bản thân , dám đấu tranh với những thử thách để rồi vượt qua. Nguyễn Khải đã từng triết lý “hạnh phúc bắt nguồn từ những hi sinh gian khổ . Ở đời không co ùcon đường cùng mà chỉ có những ranh giới . Điều quan trọng là phải có sức mạnh để vượt qua thử thách đó”.

Câu 3: Hoàn cảnh sáng tác VỢ CHỒNG A PHỦ – Tô Hoài .
- Năm 1952,Tô Hoài đi cùng bộ đội vào giải phóng Tây Bắc. Với chuyến đi dài 8 tháng ấy, Tô Hoài đã sống cùng đồng bào các dân tộc : Mèo, Thái, Dao, Mường ở nhiều vùng ở đây. Chuyến đi ấy đã giúp ông hiểu rõ về cuộc sống và con người miền Núi đã để lại cho ông những kỉ niệm khó quên và tình cảm thắm thiết đối với đất nước và con người Tây Bắc.
- Truyện “Tây Bắc” là kết quả của chuyến đi đó, là tác phẩm văn xuôi xuất sắc của văn học Việt Nam thời kháng chiến chống Pháp .
- Tác phẩm này được tặng giải I của hội văn nghệ Việt Nam 1954 – 1955.
- “Vợ Chồng A Phủ” là truyện ngắn xuất sắc được rút ra từ tập truyện “Tây Bắc”.

Câu 4: Em hãy trình bày những nét chính về cuộc đời và nghệ thuật của Tô Hoài?
- Tô Hoài sinh năm 1920 trong một gia đình thợ thủ công ngoại thành Hà Nội . Từ tuổi thơ, ông đã phải lăn lộn kiếm sống bằng nhiều nghề .Năm 1943, ông gia nhập Hội Văn hóa cứu quốc .
- Trước Cách mạng tháng Tám, Tô Hoài là một cây bút văn xuôi hiện thực nổi tiếng với truyện Dế Mèn phiêu lưu kí. Sau Cách mạng tháng Tám, ông nổi tiếng với tập Truyện Tây Bắc. Sau hơn 60 năm lao động nghệ thuật, ông đã có gần 200 đầu sách nhiều thể loại khác nhau.
- Sáng tác của Tô Hoài thiên về diễn tả những sự thật của đời thường. Ông có vốn hiểu biết phong phú sâu sắc về phong tục tập quán của nhiều vùng đất khác nhau và có lối trần thuật hóm hỉnh, sinh động hấp dẫn người đọc.
- Năm 1996, Tô Hoài được tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.

Câu 5: Hãy nêu hoàn cảnh xuất xứ và tóm tắt tác phẩm Vợ chồng A Phủ? Phát biểu chủ đề tác phẩm?
a.Hoàn cảnh ra đời :
- Năm 1952, Tô Hoài theo bộ đội vào giải phóng Tây Bắc. Trong chuyến đi dài 8 tháng này, ông đã sống gắn bó nghĩa tình với đồng bào dân tộc vùng cao Tây Bắc. Năm 1953, ông viết thành công tập Truyện Tây Bắc gồm 3 truyện : Cứu đất cứu mường, Mường Giơn và Vợ chồng A Phủ . Tập truyện được tặng giải nhất của Hội Văn nghệ Việt Nam 1954-1955.
b.Tóm tắt tác phẩm :
- Mị là một cô gái Mèo trẻ đẹp, tài hoa, giỏi giang, yêu đời, thích tự do. Chỉ vì bố mẹ Mị vay nợ nhà thống lí Pá Tra để cưới nhau không trả được nên Mị bị bắt về làm con dâu gạt nợ cho gia đình này. Làm vợ A Sử, Mị phải sống kiếp nô lệ khổ nhục, chỉ muốn chết, nhưng vì thương bố và sợ thần quyền nên Mị đành câm lặng chịu đựng.
- A Phủ là một thanh niên mồ côi cha mẹ từ nhỏ, lao động giỏi, rất dũng cảm , nhiều cô gái mê, nhưng vì nhà nghèo nên không cưới được vợ. Trong hội xuân, A Phủ đã đánh A Sử nên bị thống lý Pá Tra bắt về đánh đập và phạt vạ 100 đồng bạc trắng .Không có tiền nộp phạt, A Phủ trở thành nô lệ cho nhà thống lí để trừ nợ. Do sơ ý để cọp vồ mất một con bò nên A Phủ bị thống lí Pá Tra trói đứng vào cọc chờ chết, Mị cắt dây trói cứu A Phủ. Cả hai cùng trốn khỏi Hồng Ngài.
- Đến Phiềng Sa, họ trở thành vợ chồng, nỗ lực xây dựng cuộc sống mới. Quân Pháp tràn tới, dân Phiềng Sa lại hoang mang lo sợ. A Châu, cán bộ Đảng đã tìm đến, A Phủ kết nghĩa anh em với A Châu. Rồi A Phủ trở thành tiểu đội trưởng du kích, cùng với Mị và đồng đội bảo vệ quê hương .
c- Chủ đề:
- Qua việc phản ánh cuộc sống khổ nhục ,tối tăm của người dân lao động miền núi Tây Bắc dưới ách thống trị của bọn thực dân và chúa đất phong kiến, Tô Hoài thể hiện lòng thông cảm và sự trân trọng những khát khao tự do và ý thức tự giải phóng của họ .

Câu 6: Số phận người nông dân miền núi trong tác phẩm “ Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài”.
Tác phẩm đã tái hiện bức tranh chân thực về cuộc sống đau khổ, bi thảm của người lao động miền núi. Trong đó Mị và A phủ- 2 con người dưới ách áp bức bóc lột của bọn chúa đát phong kiến, phải làm nô lệ, mang thân phạn phận tủi nhục chính là là những nạn nhân tiêu biểu cho chế độ tàn bạo dã man nói trên.
- Bọn chúa đất, bọn thống lí cấu kết với giặc Pháp, được bọn Tây đồn cho muối về bán, ăn của dân nhiều, giàu lắm, nhà có nhiều nương, nhiều bạc nhiều thuốc phiện nhất làng.
- Pá Tra cho vay nợ lãi, Mị trở thành con dâu gạt nợ nhà thống lí. Tuổi xuân và hạnh phúc bị cướp mất. Mị sống khổ nhục hơn con trâu, con ngựa.
- A Phủ vì tội đánh con quan mà bị làng xử kiện, bị đánh, bị phạt vạ, trở thành kẻ ở nợ cho Pá Tra.
- Cảnh Mị bị A Sử trói đứng. Cảnh A Phủ bị trói cho đến chết vì tội để hổ bắt mất bò.
- Cảnh bọn Tây đồn Bản Pe càn quét khu du kích Phiềng Sa: cướp lợn, giết người, đốt phá vô cùng tàn bạo.

Câu 7: Sức phản kháng mãnh liệt của nhân vật Mị trong “vợ chồng A Phủ”
“Vợ chồng A Phủ” là truyên thành công nhất trong tập “Truyện Tây Bắc” của Tô Hoài. Trong truyện này, nhân vật Mỵ có hồn hơn cả. Mị có hai mặt tưởng như đối lập nhưng thực ra lại rất thống nhất. Mặt thứ nhất là Mỵ bị chà đạp nặng nề đã sinh ra buồn rầu và dần dần sinh ra cam chịu, mất cả sức sống. Mặt thứ hai là ngay trong tình trạng đó, Mỵ vẫn cựa quậy, vẫn tiềm tàng, tiềm ẩn một sức sống để từ đó bước vươn dậy và cuối cùng phá cũi tháo lồng và tìm lại được lẽ sống cho mình.
Bị bắt làm con dâu gạt nợ nhà thống lí Pá-Tra là tấn bi kịch đau đớn nhất trong cuộc đời nàng. A Sử đối với nàng như đối với một người nô lệ. Nhưng vì nàng là ngươi con gái giàu tình thương, có đức hi sinh nên nàng đành cam chịu để trừ nợ cho cha. Ở lâu trong cái khổ, Mỵ quen khổ rồi. Bây giờ Mỵ tưởng mình cũng là con trâu con ngựa. “Con ngựa, con trâu làm còn có lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này thì vùi vào công việc cả đêm cả ngày ”. Quá đau khổ, nàng đã phản kháng bỏ nhà Pá Tra trở về. Nàng định lạy cha rồi ăn lá ngón chết. Nhưng khi nghe cha nói: “Mày về lạy tao để mày đi chết đấy à? Mày chết nhưng nợ tao vẫn còn, quan lại bắt tao trả nợ… Không được con ơi!”. Mị bưng mặt khóc, ném nắm lá ngón rồi trở về nhà Pá Tra. Vì quá thương cha mà nàng đành cam chịu cuộc sống nô lệ ở nhà thống lí.
Nhưng trong tâm trạng, trong bản chất cuộc sống của Mị tiềm ẩn một sức sống mãnh liệt. Trong nỗi buồn, trong suy nghĩ, trong ý muốn tự tử của nàng đã biểu lộ tinh thần không muốn cam chịu, không muốn chấp nhận cuộc sống lầm than, tủi cực hiện tại. Sức sống bị đè nén chỉ cần có cơ hội là nó sẽ bộc phát. Những đêm tình mùa xuân đã tới, tâm hồn Mị bị xáo trộn. Nàng đã lắng nghe tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi. Mị nghe tiếng sáo vọng lại, tha thiết bổi hổi. Mị ngồi nhẩm bài hát của người đang thổi:
“Mày có con trai con gái rồi
Mày đi làm nương
Ta không có con trai con gái
Ta đi tìm người yêu”
Mị lén lấy hũ rượu, cứ uống ừng ực từng bát. Rồi say, Mị lịm mặt ngồi đấy hồi tưởng lại ngày trước. Ngày trước, Mị thổi sáo giỏi, thổi lá cũng hay như thổi sáo. Mùa xuân, Mị uống rượu trên bếp và thổi sáo. Có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị hết núi này sang núi khác. Sức sống lại dạt dào trong lòng nàng. “Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng độy nhiên vui sướng như đêm tết ngày trước. Mị trẻ lắm, Mị vẫn còn trẻ, Mị muốn đi chơi.” Tiếng sáo còn rập rờn trong đầu Mị, Mị quấn lại tóc, Mị mặc váy hoa. Ai bảo cô Mị chỉ lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa? Dĩ nhiên tuổi xuân của nàng đã bị tàn phá. Sức sống của nàng đã bị đè nén. A Sử trói Mị lại, quấn tóc lên cột. Đóng cửa buồng rồi bỏ đi. Thật là tàn bạo, Mị vẫn đứng im như không biết mình đang bị trói. Hơi rượu còn nồng nàn, Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi.
“Em không yêu, quả pao rơi rồi
Em yêu người nào, em bắt pao nào”
Mị vùng vằng bước đi nhưng toàn thân đau nhức không cựa được. Sức sống tiềm tàng trong người Mị bộc phát thật là dữ dội.
Sức sống tiềm ẩn của Mị bộc lộ tột đỉnh trong hành vi nổi loạn giải thoát cho A Phủ và cho chính mình. A Phủ là người ở trừ nợ (vì đánh A Sử nên bị phạt vạ) trong nhà thống lí. A Phủ chăn bò bị hổ ăn mất một con. A Phủ bị trói. Đêm đêm, Mị dậy sưởi lửa thấy mắt A Phủ trừng trừng, biết A Phủ còn sống, Mị vẫn lạnh lùng vì đời Mị khổ quá, Mị chỉ còn ở với ngọn lửa. Có đêm A Sử thấy Mị ở đây đã đập Mị ngã xuống cửa bếp nhưng trái tim của cô gái giàu yêu thương ấy lại thổn thức. Đêm khuya Mị trở dậy thổi lửa, ngọn lửa bập bùng sáng lên. Cách miêu tả sức sống tiềm tàng đang trỗi dậy trong lòng Mị bằng “ngọn lửa bập bùng sáng lên” thật là hay! Nàng nhìn thấy A Phủ bị trói đứng, một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai lõm má đã sạm đen lại. Mị nhớ lại đêm A Sử trói Mị, nàng thốt lên trong lòng “Trời ơi! Nó bắt trói đứng người ta đến chết! Nó đã trói chết một người đàn bà trong nhà ngày trước cũng ở chỗ này”. Nàng nghĩ đêm mai là người kia chết. Người kia việc gì mà phải chết. Rồi nàng vận vào mình, biết đâu A Phủ trốn thoát, bố con Pá Tra sẽ bảo là Mị cởi trói cho nó. Mị phải trói thay vào đó, Mị phải chết trên cái cọc ấy, Mị không thấy sợ. Đấy chỉ là những tư tưởng “nổi loạn” trong lòng Mị và từ tư tưởng “nổi loạn” đến hành động “nổi loạn” chỉ có một li. Mị đã rón rén bước lại gần A Phủ. Nàng rút con dao nhỏ cắt lúa cắt nút dây mây trói A Phủ. Mị thì thào: “Đi ngay…!”. Mị cắt sợi dây trói A Phủ cũng chính là nàng đã cắt sợi dây vô hình trói nàng vào gia đình thống lí Pá Tra. Nàng đã chạy theo A Phủ, A Phủ nói: “Đi với tôi” và hai người lẳng lặng đỡ nhau chạy xuống dốc núi. Hình ảnh đó nói lên sự can đảm liều lĩnh của Mị. Hành động táo bạo này có ý nghĩa quyết định trong cuộc đời Mị. Mị và A Phủ đã nương tựa vào nhau và thành vợ chồng A Phủ để xây dựng cuộc đời mới. Hành động giải thoát của Mị có xen lẫn ý thức tự phát và tự giác. Có lẽ ý thức tự phát mạnh hơn. Đó chính là kết quả biểu lộ tất yếu của một sức sống vốn đã tiềm tàng, tiềm ẩn của Mị trước đó. Hành động giải phóng và tự giải phóng này của Mị có nguồn gốc từ cái buồn rười rượi, từ cái cách uống ừng ực từng bát rượu và ngay cả ý định muốn tự sát của Mị.
Nguồn gốc sâu xa của hành vi đó là ở tấm lòng giàu tình cảm, giàu lòng thương người của Mị, còn nguyên do trực tiếp là tiếng sáo của những đêm tình mùa xuân đã thức dậy trong tâm hồn nàng lòng yêu đời, niềm tha thiết với cuộc sống tự do.
Có thể nói sức sống tiềm tàng của Mị là sức hấp dẫn của nhân vật này trong thời gian Mị ở Hồng Ngài. Tô Hoài đã đặt Mị trong mối xung đột xã hội gay gắt, những thế lực tàn bạo của xã hội phong kiến thống trị cũa người H-mông đã chà đạp lên số phận của nàng, tưởng như nàng không còn con đường nào thoát khỏi sự huỷ diệt. Vậy mà chính sức sống tiềm ẩn của nàng đã tự cứu nàng. Tô Hoài đã miêu tả một cách xuất sắc sự vận động nội tâm của nhân vật và dẫn đến hành động phản kháng tháo cũi phá lồng giải thoát. Chính sức sống mãnh liệt của Mị khi gặp ánh sáng cách mạng thì như hạt giống tốt gieo lên mảnh đất phù sa. Mị đã trở thành nhân tố tích cực trong đội du kích Phiềng Sa của A Phủ sau này cũng là điều dễ hiểu.
------------------------------------------------------------
Phân tích bài thơ Chiều tối của Hồ Chí Minh để làm nổi bật "tinh thần thép" hoặc " nét cổ điển hiện đại".
 
 
   Xưa nay viết về chiều muộn vốn là nguồn cảm hứng không vơi cạn của văn chương nghệ thuật. Khó có thể kể hết những bức tranh chiều, những bản nhạc chiều , những áng thơ chiều mà các nghệ sĩ, tao nhân đã để lại cho đời sống con người. Về mặt này, Hồ Chí Minh trong tư cách một nhà thơ cũng không phải là ngoại lệ. Có thể thấy ngay từ tập thơ Nhật Kí Trong Tù, trái tim của thi nhân ấy đã không chỉ một lần rung động trước vẻ gợi cảm của buổi chiều hôm để viết ra những vần thơ mà còn được nhiều người nhớ mãi như “ Vãn chiều hôm”, “ Hoàng hôn” ,.. Song trước tất cả và quen thuộc hơn tất cả những bài thơ chúng ta vừa kể đến vẫn phải là bài thơ mà chúng ta sẽ tìm hiểu dưới đây : “Mộ” ( chiều tối).
Quyện điểu qui lâm tầm túc thụ
Cô vân mạn mạn độ thiên không
Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc
Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng
( Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Chòm mây trôi nhẹ giữa từng không
Cô em xóm núi xay ngô tối
Xay hết lò than đã rực hồng. )
   “ Chiều tối “ là một bài thơ viết về những vẻ đẹp của buổi chiều hôm, nhưng điều lý thú là trong hai câu thơ đầu tiên cũng như cả bài thơ lại không dùng đến một chữ “ chiều “ nào. Vậy mà cảnh chiều và hồn chiều vẫn hiện lên rất rõ, rất đẹp và đầy vẻ gợi cảm. Nhà thơ chỉ vờn vẽ lên một vài nét tiêu sơ, gợi nên hình ảnh cánh chim chiều về tổ hay một chòm mây, áng mây chầm chậm trôi ngang qua bầu trời. Ít nét thế thôi song lại là những nét rất tiêu biểu cho những thời khắc cuối cùng của ban ngày, trước khi bóng tối buông màn xuống vạn vật. Từ những câu thơ cuối cùng lan toả ra một cảm giác nhẹ nhàng , man mác bâng khuâng của buổi chiều hôm khi mà mọi vật dần đi vào trạng thái nghỉ ngơi. Đó có thể là một buổi chiều thực mà Bác đã gặp và ghi lại trong một cuộc chuyển giao từ nhà lao này sang nhà lao khác. Nhưng cũng không thể không thấy rằng buổi chiều ấy còn mang một vẻ đẹp đã trở nên vĩnh hằng của những buổi chiều mà hình sắc còn đọng lại trong những câu thơ cổ mà ở đó vẫn đi về không ít những “ quyện điểu “ với “ cô vân”. "Chim hôm thoi thót về rừng /Đóa trà mi đã ngậm trăng nửa vành" ( Nguyễn Du), "Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi" ( Bà Huyện Thanh Quan) hay như : "Chúng điểu cao phi tận/ Cô vân độc khứ nhàn" (Lý Bạch ) Và như thế, những dòng thơ đầu tiên hình như đã làm cho bài thơ “ Chiều tối “ của Bác đã nhuốm một phong vị cổ điển. Cảm xúc bài thơ vì thế mà càng trở nên mênh mang hơn, không chỉ trong không gian mà còn cả ở thời gian.Những xúc cảm như thế đã được nhà thơ gửi gắm vào hai câu thơ về chiều hôm đó. Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ Chòm mây trôi nhẹ giữa từng không Có nhiều người cho rằng những dòng thơ ẩn chứa một nỗi buồn kín đáo và thấm thía của một người tù trên con đường đày ải đang thấm một nỗi xót xa khi thấy những cánh chim chiều cũng tìm ra chốn ngủ, những đám mây cũng lững lờ nghỉ ngơi trên bầu trời bao la. Trong khi đó, người tù vẫn bị xiềng xích, trói buộc chẳng bằng cánh chim nọ, áng mây kia vì chiều đã sắp hết rồi mà mình vẫn không có nổi một chốn dừng chân. Mặt khác, cũng có một cách hiểu dường như hoàn toàn ngược lại. Theo đó, có thể thấy đây là hai dòng thơ của một tâm hồn đã vượt lên trên cảnh ngục tù, xiềng xích và trói buộc để lưu luyến, dõi nhìn theo một cánh chim , một áng mây chiều để cảm thấy tim mình xao xuyến một tình cảm rất người, cho dù đang phải sống một cuộc sống “ khác loài”. Nên chăng ta hãy hiểu theo một cách hiểu được nhiều người ủng hộ nhất, cách hiểu thứ hai. Song hiểu theo cách nào trong hai cách trên, chúng ta vẫn tìm thấy ở đó một chân dung tinh thần của một chủ tịch Hồ Chí Minh thi sĩ, một con người yêu tha thiết vẻ đẹp của thiên nhiên , đất trời và cuộc sống. Đó là một con người dù trong hoàn cảnh nào cũng vẫn không để mất đi dù chỉ một mảy may tình yêu cái đẹp, khả năng rung cảm trước cuộc đời, một con người sống trọn vẹn cuộc sống con người, dù trong hoàn cảnh có khác loài người. Cũng như nhiều bài thơ khác trong “ Nhật kí trong tù “, “ Chiều tối “ biểu hiện một cảm nhận của tác giả về cuộc sống luôn có sự vận động, phát triển, chảy trôi. Chúng ta có thể thấy điều ấy khi đối chiếu hai câu đầu với hai câu cuối của bài thơ.
   Nét cổ điển thấy rõ qua việc tác giả vẽ lên không gian buổi chiều với những thi liệu quen thuộc: cánh chim, chòm mây, bầu trời... bên cạnh đó là thể thơ thất ngôn đường luật cùng nghệ thuật tả cảnh ngụ tình đã giúp cho thi nhân phát triển ý đồ nghệ thuật của mình. Nét hiện đại: tất cả được vẽ nên thơ qua tình cảm bao la của Bác. Ví dụ: cánh chim trong thơ cổ thường xuất hiện và bay hút vào vũ trụ, là cánh chim phiêu dạt, vô định trước bầu trời... thì trong thơ Bác cánh chim rất gần gũi với con người. Bác thấy được trong cánh chim chiều muộn bay về tìm chốn dừng chân là cánh chim "mỏi". Phải yêu thiên nhiên, cảnh vật và có mối đồng cảm bao la thì mới nhìn được cái dáng mỏi mệt của cánh chim kia...
 
   Rõ ràng hai câu thơ trên đã viết về một khung cảnh thiên nhiên vào lúc chiều tà, nhưng đến hai câu thơ sau đã có thể thấy rõ trời đã đổ tối. Thời gian không ngừng trôi, mặc dù nhà thơ trong nguyên tác đã không cần dùng đến chữ “ tối”.( Chữ “ tối “ trong bản dịch là do người dịch tự thêm vào). Và bởi phải vào thời điểm như thế, người ta mới thấy được rõ ràng sự rực hồng của bếp lửa, mà cái tài của nhà thơ ở đây là không cần dùng đến chữ “ tối “ mà nghĩa ấy vẫn cứ hiện lên rõ mồn một. Và như thế, cặp mắt của thi nhân sẽ thôi không ngước nhìn mãi về phía bầu trời mà hướng về mặt đất để nhận thấy ấn tượng về một xóm núi, về một cô gái xay ngô, một chiếc lò than trong ngôi nhà đơn sơ , giản dị. Bức tranh của cảnh vật sẽ nhường chỗ cho bức tranh sinh hoạt con người. Hình ảnh trung tâm của hai câu thơ cũng sẽ không phải là một cánh chim chiều về tổ, một áng mây trôi mà là một con người lao động. Và ngôn từ của những dòng thơ cũng sẽ theo đó mà đổi thay. Hai câu thơ này không thấm thía hương vị thơ cổ điển như hai câu trên mà mang nhiều chất “ bạch thoại”, mộc mạc , đời thường, thể hiện rõ nhất ở chữ “ bao túc” xuất hiện đến hai lần. Hai câu thơ này một lần nữa không chỉ là để ghi lại những gì nhà thơ đã thấy trong một buổi chiều. Bởi không nên quên rằng “ Chiều tối” vẫn là một tác phẩm trữ tình và cái hồn của câu thơ nằm ở những tình cảm, rung động mà nhà thơ đã trao gửi vào trong những dòng chữ. Nhiều người đã thấy ở đây nỗi xót xa kín đáo mà sâu xa của nhà thơ đối với con người lao động. Nhà thơ dường như đã đồng cảm với sự nhọc nhằn của họ. Đồng cảm ở cách nhà thơ nói việc xay ngô, ở cách dùng chữ “ ma bao túc” để bật lên những vòng quay nặng nề, luẩn quẩn và ở âm điệu của những câu thơ mà đọc lên có thể cảm thấy vất vả, khó khăn. Và như thế, chúng ta có thể cảm nhận được tình thương đối với nỗi đau khổ của những con người lao động, cho dù đó là những con người không phải là đồng bào của Bác, không quen thân, thậm chí chưa hề gặp mặt. Song cũng nhiều người muốn hiểu hai câu thơ sau này theo nghĩa khác, một hướng tiếp nhận khác. Phải chú ý đến những chữ “ hoàn “ ( hết ) và hình ảnh của chiếc lò than đã rực đỏ lên, để nhận ra rằng nhà thơ muốn nói đến cảm giác về một sự ấm áp, sum vầy, về một thứ hạnh phúc bình dị trong một căn nhà ấm cúng. Bếp lửa đã cháy lên và công việc lao động cũng đã hoàn tất. Và như thế, cái lớn của những dòng thơ là ở khả năng vô song của Bác, khả năng mà khó có ai vượt hơn, thậm chí sánh nổi. Đó là khả năng quên đi nỗi đau khổ rất lớn của mình để đồng cảm, để vui với những niềm vui bé nhỏ, giản dị của con người . Nhưng hai ý kiến ấy ngẫm ra cũng không hoàn toàn đối lập, bởi vì đều nói lên một phẩm chất chung, phẩm chất mà sau khi Bác mất , nhà thơ Tố Hữu mới nói đến thật nhiều và thật thấm thía trong những câu thơ : "Chỉ biết quên mình cho hết thảy" hay: Nâng niu tất cả chỉ quên mình". Chúng ta nhận ra “ Chiều tối “ là những vần thơ quên mình vĩ đại. Cực độ con người đang ở trong một cảnh ngộ tột cùng đau khổ nhưng vẫn có thể rung động được với nỗi khổ hoặc niềm vui của những con người bình thường khác, tình cờ gặp mặt hoặc thấy trên con đường đày ải. Nhưng có lẽ cũng không nên nói rằng Bác Hồ đã quên mình bởi một người như Bác thì bầu trời, xóm núi, cô gái xay ngô và bếp lửa đang rực hồng lên ấy không phải là những cái ở bên ngoài mình.
Bị trói, bị tù đày, bị giải đi " Năm mươi ba cây số một ngày/Áo mũ dầm mưa rách hết giày". Nhưng dường như Người không hề để ý gì đến sự đau khổ của bản thân mình. Người luôn hướng ngoại, lấy tình yêu của mình trải lên cả không gian bao la để quên đi nỗi nhọc nhằn. Người coi thường gian khổ, chịu mọi cay đắng và không bao giờ than van. Đó chính là tinh thần thép vĩ đại của người tù thi sĩ Hồ Chí Minh.
 
Dường như với Bác, đấy là cuộc sống của chính mình. Vậy nói như nhà thơ Tố Hữu, Bác có thể nâng niu tất cả, vì Bác sống như trời đất, vì Bác có một trái tim có thể ôm trọn mọi non sông, kiếp người: Bác sống như trời đất của ta.
------------------------------------------------------------
Nguyễn Tuân (1910-1987) người Hà Nội. Phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân: tài hoa, tài tử, uyên bác, độc đáo. Tác phẩm của Nguyễn Tuân là những tờ hoa, trang văn đích thực thể hiện tấm lòng gắn bó thiết tha với những giá trị văn hóa cổ truyền, với nếp sống thanh cao, đầy nghệ thuật của ông cha… Nguyễn Tuân sở trường về tuỳ bút.

Tác phẩm tiêu biểu: Vang bóng một thời (1940), Sông Đà (1960), Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi (1972),…

- “Vang bóng một thời” có 12 truyện xuất bản năm 1940. “Chữ người tử tù” rút trong “Vang bóng một thời”.

- Tác giả ca ngợi Huấn Cao - một nhà nho chân chính - giàu khí phách chọc trời khuấy nước, có tài viết chữ, qua đó khẳng định một quan niệm sống: phải biết yêu quý cái đẹp, đồng thời phải biết coi trọng thiên lương.


1. Truyện “Vang bóng một thời” chưa đầy 2500 chữ nhưng hàm chứa một dung lượng lớn. Chỉ có ba nhân vật và ba cảnh: Quản ngục và viên thơ lại đọc công văn và nói về tử tù Huấn Cao; Huấn Cao bị giải đến và sự biệt đãi của ngục quan đối với tử tù; cảnh Huấn Cao cho chữ trong nhà ngục. Cảnh nào cũng hội tụ cả ba nhân vật này.

2. Thơ lại: kẻ giúp việc giấy tờ cho ngục quan. Một con người sắc sảo và có tâm điền tốt. Mới đọc công văn và nghe ngục quan nói về Huấn Cao, y đã biểu lộ lòng khâm phục: “thế ra y văn võ đều có tài cả, chà chà!”. Sau đó lại bày tỏ lòng thương tiếc: “… phải chém những người như vậy, tôi nghĩ mà thấy thương tiếc”. Sau nhiều lần thăm dò, thử thách, ngục quan đánh giá viên thơ lại: “Có lẽ lão bát này cũng là một người khá đây. Có lẽ hắn cũng như mình, chọn nhầm nghề mất rồi. Một kẻ biết yêu mến khí phách, một kẻ biết tiếc, biết trọng người có tài, hẳn không phải là kẻ xấu hay là vô tình”, Suốt nửa tháng, tử tù ở trong buồng tối vẫn được viên thư lại gầy gò “dâng rượu và đồ nhắm”. Y đã trở thành kẻ tâm phúc của ngục quan. Sau khi nghe tâm sự của ngục quan “muốn xin chữ tử tù”, viên thư lại sốt sắng nói: “Dạ bẩm, ngài cứ yên tâm, đã có tôi” rồi y chạy ngay xuống trại giam đấm cửa thùm thùm gặp Huấn Cao. Nhờ y mà ngục quan xin được chữ tử tù. Trong cảnh cho chữ, viên thơ lại run run bưng chậu mực. Đúng y là một người biết yêu mến khí phách, biết tiếc biết trọng người có tài. Nhân vật thơ lại chỉ là một nét vẽ phụ nhưng rất thần tình, góp phần làm rõ chủ đề.

3. Ngục quan

- Chọn nhầm nghề. Giữa bọn người tàn nhẫn, lừa lọc thì ngục quan lại có “tính cách dịu dàng và lòng biết giá người, biết trọng người ngay” chẳng khác nào “một thanh âm trong trẻo chen vào giữa một bàn đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ”.

- Lần đầu gặp Huấn Cao trong cảnh nhận tù, ngục quan có “lòng kiêng nể”, lại còn có “biệt nhỡn” đối riêng với Huấn Cao. Suốt nửa tháng trời, ngục quan bí mật sai viên thơ lại dâng rượu và đồ nhắm cho tử tù - Huấn Cao và các đồng chí của ông.

- Lần thứ hai, y gặp mặt Huấn Cao, nhẹ nhàng và khiêm tốn bày tỏ “muốn châm chước ít nhiều” đối với tử tù, nhưng đã bị ông Huấn miệt thị nặng lời, gần như xua đuổi, nhưng ngục quan vẫn ôn tồn, nhã nhặn “xin lĩnh ý” rồi lui ra.

- Ngục quan là một nhà nho “biết đọc vỡ nghĩa sách thánh hiền” suốt đời chỉ ao ước một điều là “có một ngày kia treo ở nhà riêng mình một câu đối do tay ông Huấn Cao viết”. Ngục quan đang sống trong bi kịch: y tâm phục Huấn Cao là một người chọc trời khuấy nước nhưng lại tự ti “cái thứ mình chỉ là một kẻ tiểu lại giữ tù”. Viên quản ngục khổ tâm nhất là “có một ông Huấn Cao trong tay mình, không biết làm thế nào mà xin được chữ”. Là quản ngục nhưng lại không can đảm giáp mặt tử tù vì y cảm thấy Huấn Cao “cách xa y nhiều quá?”. Tử tù thì ung dung, trái lại, ngục quan lại lo “mai mốt đây, ông Huấn bị hành hình mà chưa xin được mấy chữ thì ân hận suốt đời”. Bi kịch ấy cho thấy tính cách quản ngục là một con người biết phục khí tiết, biết quý trọng người tài và rất yêu cái đẹp. Y yêu chữ Huấn Cao, chứng tỏ y có một sở thích cao quý. Vì thế khi nghe viên thơ lại nói lên ước nguyện của ngục quan, Huấn Cao cảm động nói: “Ta cảm cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các người. Nào ta biết đâu một người như thầy quản đây mà lại có những sở thích cao quý như vậy. Thiếu chút nữa, ta phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ”. Như vậy, trong vị thế xã hội, ngục quan và tử tù là đối địch, còn trên lĩnh vực nghệ thuật, họ là tri âm. Huấn Cao đã tri ngộ một kẻ biệt nhỡn liên tài là ngục quan.

- Trong cảnh cho chữ có một hình ảnh kỳ diệu: “ánh sáng đỏ rực của một bó đuốc tẩm dầu rọi lên ba đầu người đang chăm chú trên một tấm lục bạch còn nguyên vẹn lần hồ”. Ánh sáng bó đuốc ấy chính là ánh sáng của thiên lương mà tử tù đang chiếu lên và lay tỉnh ngục quan. Chi tiết ngục quan “khúm núm cất những đồng tiền kẽm đánh dấu cô chữ đặt trên phiến lục óng”, chi tiết ngục quan vái tử tù một vái, nước mắt rỉ vào kẽ miệng nghẹn ngào nói: “kẻ mê muội này xin bái lĩnh” là những chi tiết thú vị. Lúc sở thích nghệ thuật đã mãn nguyện cũng là lúc ánh sáng thiên lương soi tỏ, chiếu rọi tâm hồn. Một cái vái lạy đầy nhân cách, hiếm có.

- Có thể, sau khi Huấn Cao bị giải vào Kinh thụ hình thì cũng là lúc ngục quan trả áo mũ, “tìm về nhà quê mà ở” để giữ lấy thiên lương cho lành vững và thực hiện cái sở thích chơi chữ bấy nay? Nguyễn Tuân đã xây dựng ngục quan bằng nhiều nét vẽ có thần. Ngoại hình thì “đầu đã điểm hoa râm, râu đã ngả màu”. Một con người ưa sống bằng nội tâm; cái đêm hôm trước đón nhận tử tù, ông sống trong trạng thái thanh thản, gương mặt ông ta “là mặt nước ao xuân, bằng lặng, kín đáo và êm nhẹ”. Trong một xã hội phong kiến suy tàn, chốn quan trường đầy rẫy kẻ bất lương vô đạo, nhân vật ngục quan đúng là một con người vang bóng. Nhân vật này đã thể hiện sâu sắc chủ đề tác phẩm.

4. Huấn Cao: là nhân vật bi tráng, cao đẹp mang màu sắc lãng mạn.

a - Lúc đầu được giới thiệu gián tiếp qua một tiếng đồn: “cái người mà vùng tỉnh ta vẫn khen…”, “nhiều người nhấc nhỏm đến cái danh đó luôn…”, “một tên tù có tiếng là…”, và “thầy có nghe người ta đồn…” - Đó là một con người không phải tầm thường!

- Ngục quan và viên thơ lại mới “kiến kì thanh” mà đã tâm phục Huấn Cao, họ trầm trồ: “Người đứng đầu…”, “người mà vùng tỉnh Sơn ta vẫn khen cái tài viết chữ rất nhanh và rất đẹp…”, một tử tù lừng lẫy tiếng tăm “văn võ đều có tài cả”…

- Lấy xa để nói gần, lấy bóng làm lộ hình, sử dụng lối tả gián tiếp… đó là bút pháp Nguyễn Tuân vận dụng sáng tạo để giới thiệu nhân vật, tạo ra sự cuốn hút nghệ thuật kì diệu.

b - Là một nhà nho kiệt hiệt dám chọc trời khuấy nước. Chí lớn không thành mà vẫn hiên ngang. Chết chém cũng chẳng sợ. Một tinh thần gang thép “vô úy” bất khuất. Một cái “rỗ gông” trước của ngục. Một câu miệt thị ngục quan: “Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có một điều: Là nhà ngươi đừng tới quấy rầy ta”. Không phải ai cũng có cái gan dám thách thức cường quyền bạo lực thế đâu?

c - Coi khinh vàng ngọc. Không vì vàng ngọc, vì quyền uy mà “ép mình viết bao giờ?”. Chữ thì quý thật? Nhất sinh ông mới viết hai bộ tứ bình và một bức trung đường tặng ba người bạn thân. Không chỉ đẹp ở nét chữ, mà mỗi chữ, mỗi bức thư họa của Huấn Cao là một bức châm, thể hiện một lý tưởng tung hoành, một hoài bão, một đạo lý cao đẹp. Chữ của Huấn Cao cho thấy cái tài, cái tầm nhìn của kẻ sĩ chân chính mà ta ngưỡng mộ và kính phục.

d - Với Huấn Cao thì thiên lương là ngọn lửa, là “ánh sáng đỏ rực” như ngọn đuốc kia. Nếu ngục quan tâm phục con người nghĩa khí, tài hoa thì Huấn Cao lại nể trọng con người biệt nhỡn liên tài. Suốt đời ông chỉ “cúi đầu vái lạy hoa mai” thế mà khi nghe viên thơ lại nói lên tâm sự của chủ mình muốn “xin chữ”, Huấn Cao đã ân hận nói: “Thiếu chút nữa ta phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ”. Cảnh “cho chữ” được miêu tả bằng bút pháp lãng mạn gợi lên một không khí thiêng liêng bi tráng. Phóng giam ẩm ướt bẩn thỉu, hôi hám. Lửa đuốc sáng rực. Tấm lụa trắng. Chậu mực thơm lắm. Ba cái đầu cúi xuống tấm lụa trắng. Huấn Cao hiện ra với vẻ uy nghi, hào hùng. Cổ đeo gông, chân vướng xiềng, Huấn Cao vung bút viết. “Những nét chữ vuông vắn rõ ràng” hiện lên rực rỡ trên phiến lụa óng. Tư thế đĩnh đạc ung dung. Mai kia ông đã bước lên đoạn đầu đài, nhưng đêm nay ông vẫn ung dung. Một cử chỉ “đỡ viên quản ngục đứng thẳng người dậy”. Một lời khuyên: “Ta khuyên thầy quản nên thay chỗ ở đi… thầy quản nên tìm về nhà quê mà ở đã rồi hãy nghĩ đến chuyện chơi chữ. Ở đây, khó giữ thiên lương cho lành vững và rồi cũng đến nhem nhuốc mất cái đời lương thiện đi”. Với Huấn Cao thì thiên lương là cái gốc của đạo lý, có giữ được thiên lương mới biết quý trọng tài năng và cái đẹp ở đời.

Ở con người Huấn Cao, từ cử chỉ, hành động đến ngông ngữ, từ nét chữ đến phong thái - đều toát ra một vẻ đẹp vừa phi thường, vừa bình dị, vừa anh hùng, vừa nghệ sĩ, bên cạnh cái hùng có cái bi, tính vốn khoảnh mà lại trân trọng kẻ biệt nhỡn liên tài, coi thường vàng bạc quyền uy mà lại đề cao tình bằng hữu, đến chết vẫn nghĩa khí và giữ trọn thiên lương. Nguyễn Tuân đã dàn cảnh, tả người và kể chuyện, sử dụng những ẩn dụ so sánh, những tình tiết đan chéo, ràng buộc vào nhau, tạo nên một không gian nghệ thuật cổ kính, bi tráng nâng nhân vật Huấn Cao lên một tầm vóc lịch sử. Văn học lãng mạn thời tiền chiến chỉ có một Huấn Cao đẹp hào hùng như vậy.

Đọc “Chữ người tử tù” ta càng thấm thía điều mà Vũ Ngọc Phan đã nói: “… văn Nguyễn Tuân không phải thứ văn để người nông nổi thưởng thức”. Nghệ thuật kể chuyện, cấu trúc tình tiết, lời độc thoại và đối thoại, khắc họa tính cách nhân vật… hầu như không có một chi tiết nào thừa. Ba nhân vật cùng đồng thời xuất hiện. Cảnh cho chữ là cao trào, một cảnh tượng xưa nay chưa từng có. Tất cả đều hướng về cái tài, cái đẹp, cái thiên lương. Nguyễn Tuân đã sử dụng một loạt từ Hán Việt rất đắt (pháp trường, tử tù, tử hình, nhất sinh, bộ tứ bình, bức trung đường, lạc khoản, thiên hạ, thiên lương, lương thiện, v.v…) tạo nên màu sắc lịch sử, cổ kính và bi tráng. Đúng Nguyễn Tuân là bậc thầy về ngôn ngữ, rất lịch lãm uyên bác về lịch sử, về xã hội.

Hai câu văn: “Thiếu chút nữa ta phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ”, và: “Kẻ mê muội này xin bái lĩnh” - đẹp như những bức châm trong các thư họa nghìn xưa lưu lại trong các viện bảo tàng mĩ thuật. Cũng là bài học làm người sáng giá!

Nguồn từ: http://vanmau.com/forum/showthread.php/9295-Phân-tích-bài-quot-Chữ-người-tử-tù-quot#ixzz1RJonktbT

----------------------------------------
ĐẤT NƯỚC

NKĐ

Từ đầu đến ... làm nên đất nước muôn đời"

Hoàn cảnh ra đời: (Trường ca MĐKV)

- Được hoàn thành năm 1971 tại chiến khu Trị Thiên, in lần đầu năm 1974, viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ đô thị vùng tạm chiếm miền Nam về non sông đất nước, về sứ mệnh của thế hệ mình trong cuộc chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược.

- Trường ca MĐKV gồm 9 chương, trong đó nhà thơ dành riêng một chương V để nói về "Đất nước". Đoạn trích "Đất nước" trong SGK là trích trong phần đầu chương V, là đoạn thơ hay về đề tài đất nước trong thơ Việt Nam hiện đại.

+ Khác với nhiều tác giả đi trước và một số cây bút cùng thế hệ, thường lấy yếu tố lịch sử của các triều đại để chiêm ngưỡng hình ảnh của Tổ quốc và hay  dùng những hình ảnh kì vĩ, mĩ lệ, mang tính biểu tượng để thể hiện cảm nhận của mình về đất nước. Nguyễn Khoa Điềm thì khác, ông lại  lại bắt đầu từ những yếu tố văn hóa gần gũi, giản dị. thân thiết để dựng nên hình ảnh đất nước Việt Nam.

Chín câu thơ đầu mở ra một không gian thời gian không hạn định nhưng đậm đà văn hóa dân tộc.

Khi ta lớn lên đất nước đã có rồi

Đất nước có trong những cái ngày xửa ngày xua... Mẹ thường hay kể.

Đất nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn

Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc

Tóc mẹ thì bới sau đầu

Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn

Cái kèo cái cột thành tên

Hạt gạo phải một nắng hai sương xay giã dần sàng

Đất nước có từ ngày đó...

Bằng giọng thơ ngọt ngào, thủ thỉ như lời bà lời mẹ tâm tình, cùng với sự am hiểu vốn văn hóa dân gian sâu sắc cùng với việc sử dụng chất liệu dân gian như mượn thành ngữ, ca dao, tục ngữ dân gian để lí giải nguồn gốc đất nước bằng chính những gì bình dị và gần gũi nhất. Đây là một kiểu lí giải đặc biệt làm nên cái hay của chương thơ Đất Nước. NKĐ nhẹ nhàng ghi vào lòng ta đưa ta trở về với một miền ấu thơ để được nghe bà nghe mẹ kể những câu chuyện cổ tích, thần thoại mà câu chuyện nào cũng đẹp, cũng giàu chất thơ. Không chỉ thế nhà thơ còn đưa ta về với những phong tục văn hóa đẹp tươi như tục nhuộm răng đen, tục ăn trầu của người Việt cổ mà bây giờ ta lại bắt gặp qua miếng trầu dung dị bà ăn hằng ngày, đó là tục bới tóc sau đầu tạo nên nét duyên Việt thuần hậu, chất phác giàu nữ tính của người phụ nữ, tục làm nhà kèo cột để chống đỡ thiên tai. Và đâu chỉ có phong tục, đất nước còn đẹp hơn bởi truyền thống, đó là truyền thống đánh giặc cứu nước qua hình ảnh Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc của chàng trai Phù Đổng tục gọi là Gióng. Truyền thống ấy qua bao nhiêu thế hệ vẫn cháy rực cho tới tận bây giờ. Đất nước còn đẹp bởi truyền thống ân nghĩa thủy chung - cội nguồn, gốc rễ của đạo lí dân tộc qua tình yêu của mẹ của cha "Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn" . Đó còn là truyền thống lao động cần cù, chịu thương chịu khó qua câu thơ Hạt gạo phải một nắng hai sương xay giã dần sàng . Để làm nên hạt gạo trắng, dẻo, thơm mà ta ăn hằng ngày, ai biết được người nông dân đã phải trải qua bao khó khăn vất vả "một nắng hai sương", trải qua nhiều công đoạn " xay giã dần sàng" mới cho ra thành quả. Bởi vậy, ăn hạt gạo dẻo thơm ta phải nhớ tới công ơn của người đã làm ra nó " Ai ơi bưng bát cơm đầy/ Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần".

Chốt lại đoạn thơ mở đầu NKĐ nhẹ nhàng ghi khắc vào lòng ta: Đất nước có từ ngày đó...Ngày đó là ngày nào? Xin thưa ngày đó là ngày đất nước ta có phong tục, truyền thống, có văn hóa. Mà có văn hóa nghĩa là ta có Đất Nước.

Đất Nước không chỉ có chiều sâu văn hóa, Đất Nước còn được NKĐ cảm nhận bởi chiều rộng của không gian địa lý và thời gian lịch sử.

Nhà thơ NKĐ đã rất sáng tạo khi tách Đất Nước thành hai thành tố " Đất" và "Nước" để có dịp định nghĩa một cách hoàn chỉnh nhất về đất nước. Trong không gian địa lý bao la, tất cả đều trở nên gần gũi thiêng liêng. Gần gũi và thân thương như con đường rợp bóng hàng cây mà hằng ngày anh đi học, gần gũi như dòng nước trong xanh, mát lành nơi em tắm, gần gũi như cây đa, giếng nước, mái đình nơi ta hò hẹn:

Đất là nơi anh đến trường

Nước là nơi em tắm

Đất Nước là nơi ta hò hẹn

Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm...

Đất _ Nước, một yếu tố thuộc âm, một yếu tố thuộc dương, có khi tách đôi có khi hòa hợp. Nhất là khi hai đứa hẹn hò, ĐN cũng trở nên thân thương gần gũi, đất nước nồng thắm trong cả anh và em, đất nước cũng là chứng nhân cho tình yêu của hai đứa. Câu thơ Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm... làm ta nhớ đến câu ca dao "Khăn thương nhớ ai khăn rơi xuống đất/ Khăn thương nhớ ai khăn vắt lên vai/ Khăn thương nhớ ai/ Khăn chùi nước mắt". Vâng, khi hai đứa yêu nhau thì tất cả mọi thứ đều đẹp, chiếc khăn quàng bỗng trở nên có duyên thầm của người con gái, cả đất nước như cùng sống trong tình yêu ngọt ngào, sống trong "nỗi nhớ thầm"  của anh và em.

Đất nước là rừng vàng biển bạc, bao la từ Bắc chí Nam, là "nơi dân mình đoàn tụ", ĐN ngọt ngào như câu hò điệu hát:

Đất là nơi "con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc"

Nước là nơi "con cá ngư ông móng nước biển khơi"

Về lịch sử, Đất Nước được cảm nhận bằng chiều sâu của "Thời gian đằng đẵng". NKĐ đưa ta trở về với khởi thủy cội nguồn dân tộc, dòng giống con người VN bằng truyền thuyết "Lạc Long Quân và Âu Cơ / Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng" lập ra triều đại đầu tiên của dân tộc đó là Vua Hùng (tục truyền tới 18 đời). Bởi vậy nhà thơ luôn nhắc nhở mọi người phải nhớ về cội nguồn dân tộc, phải biết gánh vác sứ mệnh đất nước " Gánh vác phần người đi trước để lại", duy trì giống nòi dân tộc " Yêu nhau và sinh con đẻ cái" và nhất là phải nhớ đến ngày giỗ Tổ vào ngày 10.3 âm lịch hằng năm " Hằng năm ăn đâu làm đâu/ Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ". Đó chính là truyền thống uống nước nhớ nguồn, một đạo lí bất di bất dịch của dân tộc.

ĐN hiện diện và kết tinh trong mỗi con người, trong anh và em:

Trong anh và em hôm nay

Đều có một phần Đất Nước

Khi hai đứa cầm tay

Đất nước trong ta hài hòa nồng thắm

Khi hai đứa cầm tay mọi người

Đất nước trong ta vẹn tròn to lớn

Đất nước là của anh và em và cũng là của tất cả mọi người. Anh và em là hai tế bào trong hàng triệu triệu tế bào góp mình dựng xây đất nước. Đất nước không ở đâu xa mà kết tinh, hóa thân trong cuộc sống của mỗi con người. Sự sống mỗi cá nhân không chỉ là riêng của cá nhân mà còn là của Đất nước, bởi mỗi cuộc đời đều được thừa hưởng những di sản văn hóa tinh thần và vật chất của dân tộc, của nhân dân, mỗi cá nhân phải có trách nhiệm gìn giữ, phát triển nó, truyền lại cho các thế hệ tiếp theo.

            Cầm tay là một biểu tượng của tình yêu, của tình đoàn kết dân tộc. Khi hai đứa cầm tay, tình yêu trong anh và em làm cho đất nước bỗng hài hòa nồng thắm. Nhưng khi hai đứa hòa mình vào mọi người, hòa cái riêng vào cái chung của cộng đồng thì đất nước vẹn tròn to lớn. Tinh thần đoàn kết của khối đại đoàn kết toàn dân được mở rộng được nhân đôi nối thành một vòng Việt Nam rộng lớn và vĩnh cửu không gì có thể phá vỡ nổi.

Bốn câu thơ cuối đoạn như một lời nhắn nhủ thân tình:

Em ơi em đất nước là máu xương của mình

Phải biết gắn bó và san sẻ

Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở

Làm nên đất nước muôn đời

Từ sự cảm nhận nói trên về Đất nước, tác giả bày tỏ thái độ đầy trách nhiệm của mỗi cá nhân trong việc gìn giữ, xây dựng cho đất nước bền vũng muôn đời: "Đất nước là máu xương mình", là sinh mệnh của mình. Vận mệnh của đất nước chính là vận mệnh của chính bản thân mình. Số phận của cá nhân nằm trong vận mệnh của ĐN, bởi vậy nhà thơ đã hai lần nhấn mạnh điệp ngữ "Phải biết": gắn bó và san sẻ  nghĩa là  đoàn kết, yêu thương giúp đỡ nhau, bảo vệ đất nước dân tộc. "Hóa thân" chính là sự cống hiến, sự hiến dâng tuyệt đối tinh thần và công sức, tuổi trẻ của mình vì sự phát triển đi lên của dân tộc. Đối với người học sinh đang ngồi trên ghế nhà trường thì chúng ta phải biết siêng năng, chăm chỉ học tập để đắp xây một tương lai sáng lạng góp phần công sức của mình vào sự nghiệp chung của đất nước, có như vậy thì ĐN mới vĩnh cửu đến muôn đời.
--------------------------------------------------------------------
GỢI Ý PHÂN TÍCH ĐOẠN TRÍCH VỞ KỊCH "HỒN TRƯƠNG BA DA HÀNG THỊT" – LƯU QUANG VŨ
 
A.MỞ BÀI
 
Trong làng kịch nói Việt Nam, có lẽ ai cũng biết đến Lưu Quang Vũ - một hiện tượng đặc biệt của sân khấu kịch trường những năm tám mươi của thế kỉ XX. Tuy có tài ở nhiều lĩnh vực như viết truyện ngắn, soạn kịch, làm thơ, vẽ tranh... nhưng ông được xem là một trong những nhà soạn kịch tài năng nhất của nền văn học nghệ thuật Việt nam hiện đại. Trong các vở kịch của Lưu Quang Vũ, đáng chú ý nhất là vở "Hồn Trương Ba, da hàng thịt". Bằng nghệ thuật xây dựng nội tâm độc đáo, cảnh VII, đoạn cuối vở kịch đem đến cho người đọc nhiều vấn đề tư tưởng sâu sắc qua nhân vật Trương Ba trong thân xác anh hàng thịt.
 
B. THÂN BÀI
Hồn Trương Ba, da hàng thịt là vở kịch được Lưu Quang Vũ viết năm 1981, công diễn lần đầu tiên năm 1984, sau đó được diễn lại nhiều lần trong và ngoài nước. Từ cốt truyện dân gian, Lưu Quang Vũ đã xây dựng lại thành một vở kịch nói hiện đại và lồng vào đó nhiều triết lí nhân văn về cuộc đời và con người. Trong tác phẩm, Trương Ba là một ông lão gần sáu mươi, thích trồng vườn, yêu cái đẹp, tâm hồn thanh nhã, giỏi đánh cờ. Chỉ vì sự tắc trách của Nam Tào gạch nhầm tên mà Trương Ba chết oan. Theo lời khuyên của "tiên cờ" Đế Thích, Nam Tào, Bắc Đẩu "sửa sai" bằng cách cho hồn Trương Ba được tiếp tục sống trong thân xác của anh hàng thịt mới chết gần nhà. Nhưng điều đó lại đưa Trương Ba và một nghịch cảnh khi linh hồn mình phải trú nhờ vào người khác. Do phải sống tạm bợ, lệ thuộc, Trương Ba dần bị xác hàng thịt làm mất đi bản chất trong sạch, ngay thẳng của mình. Ý thức được điều đó, Trương Ba dằn vặt, đau khổ và quyết định chống lại bằng cách tách ra khỏi xác thịt. Qua các cuộc đối thoại của Trương Ba, tác giả dần tạo nên một mạch truyện dẫn dắt người xem hiểu sâu hơn về Trương Ba
 
1. Màn đối thoại giữa hồn Trương Ba với xác hàng thịt: Có thể nói Trương Ba đã chết một cách vô lí, ai cũng biết cái chết của Trương Ba là do sự vô tâm và tắc trách của Nam Tào. Nhưng sự sửa sai của Nam Tào và Bắc Đẩu theo lời khuyên của Đế Thích nhằm trả lại công bằng cho Trương Ba lại đẩy Trương Ba vào một nghịch cảnh vô lí hơn là linh hồn mình phải trú nhờ trong thể xác của kẻ khác. Do phải sống nhờ thể xác anh hàng thịt, hồn Trương Ba đành phải chiều theo một số nhu cầu hiển nhiên của xác thịt. Linh hồn nhân hậu, trong sạch, bản tính ngay thẳng của Trương Ba xưa kia, nay vì phải sống mượn, vá lắp, tạm bợ và lệ thuộc nên chẳng những đã không sai khiến được xác thịt thô phàm của anh hàng thịt mà trái lại còn bị cái xác thịt ấy điều khiển. Đáng sợ hơn, linh hồn Trương Ba dần dần bị nhiễm độc bởi cái tầm thường của xác thịt anh đồ tể. Hồn Trương Ba đang ở trong tâm trạng vô cùng bức bối, đau khổ (Những câu cảm thán ngắn, dồn dập cùng với ước nguyện khắc khoải). Hồn bức bối bởi không thể nào thoát ra khỏi cái thân xác mà hồn ghê tởm. Hồn đau khổ bởi mình không còn là mình nữa. Trương Ba bây giờ vụng về, thô lỗ, phũ phàng lắm. Hồn Trương Ba cũng càng lúc càng rơi vào trạng thái đau khổ, tuyệt vọng.Ý thức được điều đó linh hồn Trương Ba dằn vặt, đau khổ và quyết định chống lại bằng cách tách ra khỏi xác thịt để tồn tại độc lập, không lệ thuộc vào thể xác. Xác hàng thịt biết rõ những cố gắng đó là vô ích, đã cười nhạo hồn Trương Ba, tuyên bố về sức mạnh âm u, đui mù ghê gớm của mình, ranh mãnh dồn hồn Trương Ba vào thế đuối lí và hơn nữa, ve vãn hồn Trương Ba thoà hiệp vì, theo lí lẽ của xác thịt là "chẳng còn cách nào khác đâu", vì cả hai "đã hoà vào nhau làm một rồi". Trước những "lí lẽ ti tiện" của xác thịt, Trương Ba đã nổi giận, đã khinh bỉ, đã mắng mỏ xác thịt hèn hạ nhưng đồng thới cũng ngậm ngùi thấm thía nghịch cành mà mình đã lâm vào, đành nhập trở lại vào xác thịt trong tuyệt vọng. Hai hình tượng hồn Trương Ba và xác hàng thịt ở đây mang ý nghĩa ẩn dụ. Một bên đại điện cho sự trong sạch, nhân hậu và khát vọng sống thanh cao, xứng đáng với danh nghĩa con người và một bên là sự tầm thường, dung tục. Nội dung cuộc đối thoại xoay quanh một vấn đề giàu tính triết lí, thể hiện cuộc đấu tranh dai dẳng giữa hai mặt tồn tại trong một con người. Từ đó nói lên khát vọng hướng thiện của con người và tầm quan trọng của việc tự ý thức, tự chiến thắng bản thân Màn đối thoại này cho thấy
• Trương Ba được trả lại cuộc sống nhưng là một cuộc sống đáng hổ thẹn vì phải sống chung với sự dung tục và bị sự dung tục đồng hoá.
• Không chỉ đừng lại ở đó, tác giả cảnh báo: khi con người phải sống trong dung tục thì tất yếu cái dung tục sẽ ngự trị, sẽ thắng thế, sẽ lấn át và sẽ tàn phá những gì trong sạch, đẹp đẽ, cao quý trong con người.
 
2. Màn đối thoại giữa Trương Ba với người thân Không phải ngẫu nhiên, tác giả không đưa anh con trai thực dụng của Trương Ba vào cuộc đối thoại của Trương Ba với những người thân. Các cuộc đối thoại với vợ con dâu và cháu gái càng làm cho Trương Ba đau khổ hơn. ông hiểu những gì mình đã, đang và sẽ gây ra cho người thân là rất tệ hại nặc dù ông không hề muốn điều đó. Thái độ của vợ trương Ba, con đâu và cháu gái trước sự biến đổi và tha hoá của Trương Ba.
• Vợ Trương Ba buồn bã, đau khổ nhưng vốn bàn tính vị tha nên định nhường Trương Ba cho cô vợ anh hàng thịt.
• Chị con dâu là người sâu sắc, chín chắn, hiểu điều hơn lẽ thiệt. Chị cảm thấy thương bố chồng trong tình cảnh trớ trêu. Chị biết ông khổ lắm, "khổ hơn xưa nhiều lắm". Nhưng nỗi buồn đau trước tình cảnh gia đình "như sắp tan hoang ra cả" khiến chị không thể bấm bụng mà đau, chị đã thốt thành lời cái nỗi đau đó: "Thầy bảo con: Cái bên ngoài là không đáng kể, chỉ có cái bên trong, nhưng thầy ơi, con sợ lắm, bởi con cảm thấy, đau đớn thấy... mỗi ngày thầy một đổi khác dần, mất mát dần, tất cả cứ như lệch lạc, nhòa mờ dần đi, đến nối có lúc chính con cũng không nhận ra thầy nữa...".
• Trái lại, cái Gái, cháu Trương Ba thì phản ứng quyết liệt và dữ dội. Tâm hồn tuổi thơ vốn trong sạch, không chấp nhận sự tầm thường, dung tục nên không chấp nhận người ông trong thể xác anh hàng thịt thô lỗ. Cái Gái, cháu ông giờ đây đã không cần phải giữ ý. Nó một mực khước từ tình thân (tôi không phải là cháu ông... Ông nội tôi chết rồi). Cái Gái yêu quý ông nó bao nhiêu thì giờ đây nó không thể chấp nhận cái con người có "bàn tay giết lợn", bàn chân "to bè như cái xẻng" đã làm "gãy tiệt cái chồi non", "giẫm lên nát cả cây sâm quý mới ươm" trong mảnh vườn của ông nội nó. Nó hận ông vì ông chữa cái diều cho cu Tị mà làm gãy nát khiến cu Tị trong cơn sốt mê man cứ khóc, cứ tiếc, cứ bắt đền. Với nó, "Ông nội đời nào thô lỗ, phũ phàng như vậy". Nỗi giận dữ của cái Gái đã biến thành sự xua đuổi quyết liệt: "Ông xấu lắm, ác lắm! Cút đi! Lão đồ tể, cút đi!". Tuy nhiên, họ chỉ là những người dân thường, họ không giúp gì được cho tình trạng hiện tại của Trương Ba. Tình huống kịch thúc đẩy Trương Ba phải lựa chọn và sau màn độc thoại nội tâm (hồn Trương Ba thách thức xác anh hàng thịt: "có thật là không còn cách nào khác?" và phản kháng quyết liệt: "Không cần đến cái đời sống do mày mang lại! Không cần!"). !". Đây là lời độc thoại có tính chất quyết định dẫn tới hành động châm hương gọi Đế Thích một cách dứt khoát.
 
3. Màn đối thoại giữa. Trương Ba với Đế Thích: Gặp lại Đế Thích, Trương Ba thể hiện thái độ kiên quyết chối từ, không chấp nhận cái cảnh phải sống bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo nữa và muốn được là mình một cách toàn vẹn "Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là tôi toàn vẹn". Qua lời thoại này của nhân vật Trương Ba. Lưu Quang Vũ muốn gửi gắm vào đó thông điệp: Con người là một thể thống nhất, hồn và xác phải hài hoà. Không thể có một tâm hồn thanh cao trong một thể xác phàm tục tội lỗi. Khi con người bị chi phối bở những nhu cầu bản năng của thân xác thì đừng đỗ lỗi cho thân xác và tự an ủi, vỗ về mình bằng vẻ đẹp siêu hình của tâm hồn. Lúc đầu Đế Thích ngạc nhiên nhưng khi hiểu ra thì khuyên Trương Ba nên chấp nhận vì thế giới vốn không toàn vẹn, dưới đất, trên trời đều thế cả. Nhưng Trương Ba không chấp nhận lí lẽ đó. Trương Ba thẳng thắn chỉ ra sai lầm của Đế Thích: "Sống nhờ vào đồ đạc, của cải người khác đã là chuyện không nên này đến cái thân tôi cũng phải sống nhờ anh hàng thịt. Ông chỉ nghĩ đơn giản là cho tôi sống, nhưng sống thế nào thì ông chẳng cần biết". Sống thực sự cho ra con người quả không hề dễ dàng, đơn giản. Khi sống nhờ, sống gửi, sống chấp vá, khi không được là mình thì cuộc sống ấy thật vô nghĩa. Lòng tốt hời hợt thì chẳng đem lại điều gì thực sự có ý nghĩa cho ai mà sự vô tâm còn tệ hại hơn, nó đẩy người khác vào nghịch cảnh, vào bi kịch! Đế Thích định tiếp tục sửa sai của mình và của Tây Vương Mẫu bằng một giải pháp khác, tệ hại ít hơn là cho hồn Trương Ba nhập vào xác cu Tị nhưng Trương Ba đã kiên quyết từ chối, không chấp nhận cái cảnh sống giả tạo, mà theo ông là chỉ có lợi cho đám chức sắc tức lão lí trưởng và đám trương tuần, không chấp nhận cái cuộc sống mà theo ông là còn khổ hơn là cái chết. Trương Ba kêu gọi Đế Thích hay sửa sai bằng một việc làm đúng, đó là trả lại linh hồn cho bé Tị. Đế Thích cuối cùng cũng đã thuận theo đề nghị của Trương Ba với lời nhận xét: "Con người hạ giới các ông thật kì lạ". Người đọc, người xem có thể nhận ra những ý nghĩa triết lí sâu sắc và thấm thía qua hai lời thoại này. Thứ nhất, con người là một thể thống nhất, hồn và xác phải hài hòa. Không thể có một tâm hồn thanh cao trong một thân xác phàm tục, tội lỗi. Khi con người bị chi phối bởi những nhu cầu bản năng của thân xác thì đừng chỉ đổ tội cho thân xác, không thể tự an ủi, vỗ về mình bằng vẻ đẹp siêu hình của tâm hồn. Thứ hai, sống thực sự cho ra con người quả không hề dễ dàng, đơn giản. Khi sống nhờ, sống gửi, sống chắp vá, khi không được là mình thì cuộc sống ấy thật vô nghĩa. Những lời thoại của Hồn Trương Ba với Đế Thích chứng tỏ nhân vật đã ý thức rõ về tình cảnh trớ trêu, đầy tính chất bi hài của mình, thấm thía nỗi đau khổ về tình trạng ngày càng vênh lệch giữa hồn và xác, đồng thời càng chứng tỏ quyết tâm giải thoát nung nấu của nhân vật trước lúc Đế Thích xuất hiện. Qua màn đối thoại, có thể thấy tác giả gửi gắm nhiều thông điệp vừa trực tiếp vừa gián tiếp, vừa mạnh mẽ, quyết liệt vừa kín đáo và sâu sắc về thời chúng ta đang sống. Tuy vậy, chỉ cần nhấn mạnh ở đây vẻ đẹp tâm hồn của những người lao động trong cuộc đấu tranh chống lại sự dung tục, giả tạo để bảo vệ quyền được sống toàn vẹn, hợp với lẽ tự nhiên cùng sự hoàn thiện nhân cách. Chất thơ của kịch Lưu Quang Vũ cũng được bộc lộ ở đây.
 
4. Màn kết: Trương Ba trả lại xác cho anh hàng thịt, chấp nhận cái chết để linh hôn được trong sạch và hoá thân vào các sự vật thân thương, tồn tại vĩnh viễn bên cạnh những người thân yêu của mình. Cuộc sống lại tuần hoàn theo quy luật của muôn đời. Màn kết với chất thơ sâu lắng đã đem lại âm hưởng thanh thoát cho một bi kịch lạc quan đồng thời truyền đi thông điệp về sự chiến thăng của cái Thiện, cái Đẹp và của sự sống đích thực.
 
C. KẾT BÀI
 
Không chí có ý nghĩa triết lí về nhân sinh, về hạnh phúc con người, rong vở kịch nói chung và đoạn kết nói riêng, Lưu Quang Vũ muốn góp phần phê phán một số biểu hiện tiêu cực trong lối sống lúc bấy giờ: Thứ nhất , con người đang có nguy cơ chạy theo những ham muốn tầm thường về vật chất, chỉ thích hưởng thụ đến nỗi trở nên phàm phu, thô thiển. Thứ hai , lấy cớ tâm hồn là quý, đời sống tinh thần là đáng trọng mà chẳng chăm lo thích đáng đến sinh hoạt vật chất, không phấn đấu vì hạnh phúc toàn vẹn. Cả hai quan niệm, cách sống trên đều cực đoan, đáng phê phán. Ngoài ra , vở kịch còn đề cập đến một vấn đề cũng không kém phần bức xúc, đó là tình trạng con người phải sống giả, không dám và cũng không được sống là bản thân mình. Đấy là nguy cơ đẩy con người đến chỗ bị tha hóa do danh và lợi. Với tất cả những ý nghĩa đó, đoạn trích rất tiêu biểu cho phong cách viết kịch của Lưu Quang Vũ.
-----------------------------------------------------------------------------------
HẠNH PHÚC CỦA MỘT TANG GIA:

ĐÁM TANG GIẢ, NIỀM VUI THẬT

NGUYỄN THÀNH THI

1. Ở đời, có mấy ai là “sung sướng”, “hạnh phúc”, “vui vẻ” trước cái chết của con người, trừ khi đó là cái chết của kẻ thù không đội trời chung. Huống chi đó lại là cái chết của người thân, là sự ra đi của các đấng sinh thành, thì làm sao có thể lấy làm hạnh phúc được? Thế mà kỳ lạ và mỉa mai thay, có một “tang gia” trong tiểu thuyết Số đỏ của Vũ Trọng Phụng lại “hạnh phúc” thật, lại “nhiều người sung sướng lắm”, lại “ai cũng vui vẻ cả”…!

Nghệ thuật trào phúng, suy cho cùng, là nghệ thuật phát hiện và diễn tả được những cái bất thường, kỳ dị chứa đựng trong nó mâu thuẫn trào phúng, rồi cường điệu, phóng to những cái bất thường, kỳ dị ấy lên để gây cười. Viết về cái “tang gia” “hạnh phúc” trong tiểu thuyết của mình, nhà văn của “rừng cười nhiệt đới” đã tỏ ra rất thoải mái, ung dung trong khi làm chủ thứ nghệ thuật này. Thậm chí, ông còn nắm được nhiều bí quyết tạo tiếng cười. Chỉ cần đọc kĩ một chương, chương XV chẳng hạn, cũng thấy rõ điều này.

Nội dung chương truyện có thể tóm tắt như sau:

Cụ Tổ họ Hồng đã ngoài tám mươi tuổi mà cứ “sống mãi” (!) Đám con cháu hám danh hám lợi trong nhà chỉ mong cho ông lão này sớm chết. Ước mong này thành hiện thực khi Xuân Tóc Đỏ – trong một lần “nổi giận” vì tự ái, đã om sòm “tố cáo” trước mặt mọi người rằng ông Phán dây thép, cháu rể cụ Tổ (chồng cô Hoàng Hôn) là “một người chồng mọc sừng”. Việc tố cáo đó – thực ra, do ông Phán dây thép thuê Xuân làm với giá 10 đồng – đã trực tiếp gây ra cái “chết thật” của cụ cố Tổ và có cái đám tang kì lạ này.

Tên đầy đủ của chương truyện này có vẻ rườm rà và thiếu mạch lạc một cách đầy dụng ý: Hạnh phúc của một tang gia – Văn Minh nữa cũng nói vào – Một đám ma gương mẫu. Thật là một cái tên xứng với những gì mà nhà văn miêu tả, trần thuật và muốn nói trong chương truyện. Nó chứa đựng cái bất thường mang mâu thuẫn trào phúng (“Hạnh phúc của một tang gia…”.), nó dự báo những bất đồng giữa “phái trẻ”, “phái già” cần phải hòa giải (Văn Minh nữa cũng nói vào…), và nó bao hàm cả cái “chuẩn mực” đáng hãnh diện và đáng cho những đám ma khác phải noi theo (Một đám ma gương mẫu).

Tuy nhiên, chỉ riêng sáu chữ Hạnh phúc của một tang gia thôi cũng đã cô đặc trong đó những cái bất thường và những mâu thuẫn trào phúng của toàn bộ màn hài kịch hoành tráng mà các nhân vật Số đỏ đang diễn trong chương này.

Mất người thân là mất mát không gì bù đắp được, nỗi buồn của tang gia thường được xem là nỗi buồn sâu sắc nhất – thành ngữ dân gian thường ví von “buồn như cha chết”, “buồn như nhà có đám”; còn chủ nhân những nhà có đám tang thường được xem là “khổ chủ” – cho nên, hai chữ tang gia thường gợi lên cả một cộng đồng gia đình khổ đau, bất hạnh.

Nhưng cái tang gia này thì lại không thế: Cả tang gia ai cũng hạnh phúc, vui sướng. Niềm hạnh phúc, vui sướng toát ra từ không khí và bức tranh toàn cảnh của đám tang, đặc biệt là những nhận xét, những lời bình, lời kể hài hước của tác giả, kiểu như “Cái chết kia làm cho nhiều người sung sướng lắm” hay “tang gia ai cũng vui vẻ cả”, “người ta tưng bừng đi đưa giấy cáo phó, thuê kèn đám ma”,… được sử dụng khá dày đặc trong đoạn trích.

Niềm hạnh phúc, vui sướng của tang gia, khi thì lộ liễu, khi lại kín đáo, toát ra từ từng khuôn mặt khôi hài, tạo thành những bức biếm họa độc đáo. Ông Phán-mọc-sừng, ông cháu rể “quý hóa” của “người chết” thì sung sướng vì với sự giúp đỡ của Xuân Tóc Đỏ, kế hoạch tận dụng sự hoang dâm tai tiếng của vợ ông làm vũ khí “đào mỏ”, đã thành công mỹ mãn không ngờ. Nhờ có cái “chết thật” của ông nội vợ mà ông cháu rể này “đã được cụ cố Hồng nói nhỏ vào tai rằng sẽ chia cho con gái và rể thêm một số tiền là vài nghìn đồng”. Chính ông ta cũng “không ngờ rằng giá trị đôi sừng hươu vô hình trên đầu ông ta mà lại to đến như thế”.

Cụ cố Hồng, ông con trai trưởng “chí hiếu” của “người chết” thì sung sướng đến ngây ngất, vì nhờ cái “chết thật” của cha mình, nhờ có đám tang này mà cái danh giá sang trọng của ông sẽ được nâng lên nhiều bậc. Cụ “nhắm nghiền mắt lại để mơ màng đến cái lúc cụ mặc đồ xô gai, lụ khụ chống gậy, vừa ho khạc vừa khóc mếu, để cho thiên hạ phải chỉ trỏ: – Úi kìa, con giai nhớn đã già đến thế kia kìa!”. Và, “cụ chắc cả mười phần rằng ai cũng phải ngợi khen một cái đám ma như thế, một cái gậy như thế…”.

Văn Minh (chồng), ông cháu đích tôn “chí hiếu” của “người chết” thì chỉ nóng lòng “mời luật sư đến chứng kiến cái chết của ông nội mà thôi”. Ông sung sướng, vì nhờ cái “chết thật” của ông nội mình mà “cái chúc thư” chia của kia sẽ có hiệu lực thật sự “chứ không còn là lý thuyết viển vông nữa”.

Rồi, cậu Tú Tân sung sướng vì nhờ cái “chết thật” của ông nội mà sắp được dùng đến mấy cái máy ảnh mới mua; Văn Minh (vợ) sung sướng bởi sắp được chưng diện mốt tang phục mới; ông Typn sung sướng bởi được báo chí lăng xê các mẫu thời trang mà ông dày công thiết kế cho đám tang, v.v.

Con cháu trong nhà, mỗi người một niềm hạnh phúc riêng đã đành, ngay đến các ông cảnh sát Min Đơ, Min Toa cũng nhờ cái “chết thật” của cụ tổ mà được thơm lây: họ “sung sướng cực điểm”, “vì được có đám thuê”, “đã trông nom rất hết lòng”.

Sư cụ Tăng Phú thì “sung sướng và vênh váo ngồi trên một chiếc xe, vì sư cụ chắc rằng trong số thiên hạ đứng xem ở các phố, thế nào cũng có người nhận ra rằng sư cụ đã đánh đổ được Hội Phật giáo…”

Cụ bà thì “sung sướng vì ông đốc Xuân đã không giận mà lại giúp đám, phúng viếng đến thế, và đám ma như thế kể đã là danh giá nhất tất cả”.

Đó là chưa kể, các “giai thanh gái lịch” Hà thành, nhờ có đám tang mà được “chim nhau, cười tình với nhau, bình phẩm nhau, chê bai nhau, ghen tuông nhau, hẹn hò nhau,…”; các quý ông “tai to mặt lớn” thì được dịp phô diễn râu ria đủ kiểu trên cằm trên mép, khoe huân chương, huy chương đủ hạng trên ngực, trên mình v.v.

Thậm chí, đến cả “cụ tổ” cũng nhờ cái “chết thật” của chính mình mà được sung sướng:

“Thật là một đám ma to tát có thể làm cho người chết nằm trong quan tài cũng phải mỉm cười sung sướng, nếu không gật gù cái đầu…!”

Nỗi sung sướng, hạnh phúc bất thường, kỳ dị, thậm chí quái gở này, qua ngòi bút Vũ Trọng Phụng, như có sức lây lan rất rộng, rất sâu: từ người bề trên đến người bề dưới, từ người trong tang gia đến người ngoài tang gia, từ “khổ chủ” đến khách “đi đưa” đám, từ người sống đến “người chết”. Nó lại được duy trì bền bỉ đậm đặc từ hết trang nọ tới trang kia theo diễn biến của đám tang, từ lúc “phát phục” đến khi “cất đám”, “đưa đám”, và đến cả khi “hạ huyệt”.

Xem thế đủ thấy niềm hạnh phúc mà cái chết kia mang lại thật là vô bờ bến và niềm sung sướng đúng là không còn bỏ sót ai. Vũ Trọng Phụng quả là người thích đùa và rất biết đùa.

2. Trong đám ma, niềm vui là thật, nỗi buồn là giả, cũng có nghĩa rằng cái đám ma kia tất cả là giả. Cái khó của nhà văn là phải lật tẩy sao cho người ta thấy rõ cái giả ấy đã đành mà còn phải thấy cả tính chất lập lờ giữa cái giả với cái thật.

Đã là cái giả, cái rởm thì phải mô phỏng cái thật, cố tình giống thật nhưng thường không bao giờ hoàn toàn giống thật. Thế là xuất hiện mâu thuẫn. Rốt cuộc thì rồi chân tướng thật, giả cũng đến lúc phải tự phơi bày. Một đám ma mà thiếu sự buồn đau và lòng thương tiếc chân thành, thì dù “to tát”, “danh giá” đến đâu, cũng chỉ là thứ trò diễn nhố nhăng, không thể gọi là đám ma đã đành mà cũng không thể gọi là đám rước đám hội. Mâu thuẫn thật-giả được nhà văn khai thác khá triệt để nhằm phóng to cái bất thường, kỳ dị làm bật ra tiếng cười phê phán.

Quả thật, trong cái xã hội “số đỏ” đầy rẫy những thứ rởm đời bấy giờ, không có cái gì là không làm giả, làm rởm được. Một khi đã có bằng sắc rởm; nghệ thuật, thi ca, khoa học rởm; văn minh “Âu hóa” rởm; tôn giáo rởm,… thì cũng có thể có chuyện buồn đau, tang chế rởm lắm chứ. Tuy nhiên, dưới ngòi bút tinh tường, sắc sảo của nhà văn, tất cả, cuối cùng, sự thật đã trở lại đúng với bản chất của nó.

Câu văn mở đầu đoạn trích hàm chứa một sự đối chiếu thật – giả rất thâm thúy: “Ba hôm sau, ông cụ già chết thật.”. Nhìn từ phía tác giả, câu văn này ẩn giấu một nụ cười châm biếm (chết mà cũng có “chết thật”, chết giả?). Nhìn từ phía nhân vật (đám cháu con chí hiếu) nó ẩn giấu một tiếng reo mừng. Cụ tổ hẳn đã có những phen “chết giả” làm cho đám cháu con kia hụt hẫng thất vọng, và cả tang gia đã chờ đợi cái “chết thật” này quá lâu rồi. Cho nên, khi ông cụ “chết thật” thì người ta tất phải vui sướng hạnh phúc tột cùng. Và, tang gia “ai cũng” “hạnh phúc”, “vui vẻ cả”…, nhận xét này đã vang lên trong chương truyện như là một điệp khúc đầy mỉa mai.

Mỉa mai hơn, trong khi “đưa đám” người ta cũng thoáng thấy đây đó những gương mặt buồn, nhưng buồn hoàn toàn là vì những cớ khác. Ông Văn Minh có vẻ mặt “đăm chiêu” buồn là vì ông mải nghĩ đến việc “thực hành” cái “chúc thư kia”. Tuyết buồn “lãng mạn” là vì “không thấy bạn giai đâu cả”. Các quí ông “tai to mặt lớn” cảm động không phải vì nghe “tiếng kèn Xuân nữ ai oán não nùng”, mà vì trông thấy “làn da trắng thập thò” trên cánh tay và trên ngực tuyết,…

Lúc hạ huyệt, người ta cũng nghe thấy có tiếng khóc. Nhưng chỉ là tiếng khóc nhằm thu hút sự chú ý của mọi người, không phải xuất phát từ trái tim, cất lên từ đáy lòng. Cụ Hồng khóc là cốt để người ta phải chú ý đến và khen cái gậy trong tay cụ và trầm trồ khen rằng “con giai nhớn đã già đến thế kia”. Ong Phán mọc sừng khóc “Hứt…! Hứt…! Hứt…!”, “oặt cả người đi” là cốt để người ta phải tưởng rằng, ông là một chàng cháu rể “quý hóa”.

Trong khi kể về “hạnh phúc” của “tang gia”, một mặt, tôn trọng hiện thực, Vũ Trọng Phụng cố tình tạo ra sự mập mờ giữa cái thật và cái giả đúng như cái hiện thực xã hội vốn có: vàng thau lẫn lộn, đen trắng mập mờ.

Nhưng mặt khác, ông cũng tỉnh táo vạch ra những đường biên cần thiết, giữa vàng thau, đen trắng và lật tẩy cái giả một cách thật tài tình.

Cả đám tang thực ra chỉ là một màn kịch, một trò diễn lớn, được dàn dựng theo đúng ý của người nọ người kia. Các cụm từ “đúng với ý muốn…”, “như ý…” trong đoạn văn sau được dùng rất ý vị nhằm lật tẩy tính chất trò diễn ấy của đám ma:

“Cả một thành phố đã nhốn nháo lên khen đám ma to, đúng với ý muốn của cụ cố Hồng. Thiên hạ chú ý đặc biệt vào những kiểu quần áo tang của tiệm may Âu hoá như ý ông Typn và bà Văn Minh.”,…

“Ý muốn của cụ cố Hồng”, “ý ông Typn và bà Văn Minh” gợi nhớ đến ý của cậu Tú Tân qua hành vi: “bắt bẻ từng người một, hoặc chống gậy, hoặc gục đầu, hoặc cong lưng, hoặc lau nước mắt như thế này, như thế nọ,… để cậu chụp ảnh kỉ niệm lúc hạ huyệt.”. Vũ Trọng Phụng như nhà nhiếp ảnh đã “chụp ảnh”- nghĩa là bấm đúng lúc- và lật tẩy được tất cả.

Nói chung, sự lật tẩy của tác giả càng bất ngờ thì càng thú vị, hài hước. Đọc chương truyện, có cảm giác như không một hành vi giả tạo nào của đám con cháu “chí hiếu” – dù rất nhỏ – qua được mắt ông. Nhưng điều đặc biệt thú vị là sự lật tẩy của nhà văn thường tạo được bất ngờ. Nhờ thế, tiếng cười mỉa mai bật ra một cách tự nhiên, sâu sắc. Ong lật tẩy Văn Minh chồng:

“Ông phân vân, vò đầu rứt tóc, lúc nào mặt cũng đăm đăm chiêu chiêu, thành thử lại thành ra hợp thời trang, vì mặt ông thật đúng với cái mặt một người lúc gia đình đương là tang gia bối rối.”

Ong lật tẩy cô Tuyết:

“Hôm nay, Tuyết mặc bộ y phục Ngây thơ – cái áo dài voan mỏng trong có coócsê, trông như hở cả nách và nửa vú – nhưng mà viền đen, và đội một cái mũ mấn xinh xinh. Thấy thiên hạ đồn mình hư hỏng nhiều quá, Tuyết bèn mặc bộ Ngây thơ để cho thiên hạ phải biết rằng mình chưa đánh mất cả chữ trinh. Với cái tráp trầu cau và thuốc lá, Tuyết mời các quan khách rất nhanh nhẹn, trên mặt lại có vẻ buồn lãng mạn rất đúng mốt một nhà có đám.”

Ong lật tẩy “các ông tai to mặt lớn”:

“… Nhiều ông tai to mặt lớn thì sát ngay với linh cữu, khi trông thấy làn da trắng thập thò trong làn áo voan trên cánh tay và ngực Tuyết, ai nấy cũng đều cảm động hơn những khi nghe tiếng kèn Xuân nữ ai oán, não nùng.”

Ong lật tẩy cả đám đông:

“Ai cũng làm ra bộ mặt nghiêm chỉnh, song le sự thật thì vẫn thì thầm với nhau chuyện trò về vợ con, về nhà cửa, về một cái tủ mới sắm, một cái áo mới may. Trong mấy trăm người đi đưa thì một nửa là phụ nữ, phần nhiều tân thời, bạn của cô Tuyết, bà Văn Minh, cô Hoàng Hôn, bà Phó Đoan, vân vân… Thật là đủ giai thanh gái lịch, nên họ chim nhau, cười tình với nhau, bình phẩm nhau, chê bai nhau, ghen tuông nhau, hẹn hò nhau, bằng những vẻ mặt buồn rầu của những người đi đưa ma.”

Ong lật tẩy cả bầy con cháu “chí hiếu”:

“Một bầy con cháu chí hiếu chỉ nóng ruột đem chôn cho chóng cái xác chết của cụ tổ.”

Và sắc sảo, bất ngờ nhất là việc ông lật tẩy cuộc “thanh toán hợp đồng” kín đáo, tinh vi giữa ông Phán mọc sừng và Xuân Tóc Đỏ:

“Xuân tóc đỏ đứng cầm mũ nghiêm trang một chỗ bên cạnh ông phán mọc sừng. Lúc cụ Hồng mếu máo và ngất đi thì ông này cũng khóc to “Hứt!… Hứt!… Hứt!…”.

Ai cũng để ý đến ông cháu rể quý hóa ấy.

Ông ta khóc quá, muốn lặng đi thì may có Xuân đỡ khỏi ngã. Nó chật vật mãi cũng không làm sao cho ông đứng hẳn lên được. Dưới cái khăn trắng to tướng, cái áo thụng lòe xòe, ông phán cứ oặt người đi, khóc mãi không thôi.

– Hứt!… Hứt!… Hứt!…

Xuân tóc đỏ muốn bỏ quách tay ra thì chợt thấy ông phán dúi tay nó một cái giấy bạc năm đồng gấp tư… Nó nắm tay cho khỏi có người nom thấy rồi đi tìm cụ Tăng Phú lạc trong đám ba trăm người đương buồn rầu và đau đớn về những điều sơ suất của khổ chủ.”

3. Cái nhìn trào phúng sắc sảo của Vũ Trọng Phụng thường tìm đến với các hình thức nghệ thuật tương xứng. Từ cách bố cục kếu cấu đến cách sử dụng ngôn từ của ông đều đậm chất muối trào phúng.

Ở cấp độ kết cấu, hai thủ pháp chủ yếu thường được nhà văn sử dụng khá đắt: a) kết hợp tả viễn cảnh với tả cận cảnh; b) tạo tình huống kịch tính và duy trì được độ căng cần thiết cho câu chuyện.

Việc kết hợp tả viễn cảnh với cận cảnh mang tính nghệ thuật cao nhất là đoạn kể về việc “cất đám”, “đưa đám” và “hạ huyệt”. Ở đó, sự kết hợp tự nhiên giữa cận và viễn rất hài hòa, tự nhiên, nhưng viễn hay cận đều có chức năng nghệ thuật riêng. Các câu, đoạn tả viễn cảnh – chẳng hạn: “Đám ma đưa đến đâu làm huyên náo đến đấy….”, “Đám cứ đi…”, “Đám cứ đi…”-  thường làm cho người ta có cái cảm giác là đám ma rất to tát, linh đình, “gương mẫu”. (Mà người đời thì vẫn hay đo lòng hiếu nghĩa của tang gia bằng mức độ to tát, linh đình ấy). Trong khi đó, các câu, đoạn tả cận cảnh và đôi khi đặc tả, thì lại làm cho người ta có thể soi vào từng góc khuất, hay hành vi, chi tiết nhỏ nhất để thấy hết cái giả dối, rởm đời, nhố nhăng, kỳ quặc và “vô nghĩa lý” của cái đám tang này. Rõ ràng là chỉ khi soi mắt nhìn vào từng góc khuất, từng hành vi nhỏ nhặt thì mới thấy được sự thật này: “Ai cũng làm ra bộ mặt nghiêm chỉnh, song le sự thật thì vẫn thì thầm với nhau chuyện trò về vợ con, về nhà cửa, về một cái tủ mới sắm, một cái áo mới may.”, hoặc: “Xuân Tóc Đỏ muốn bỏ quách ra thì chợt thấy ông Phán dúi tay nó một cái giấy bạc năm đồng gấp tư…”.

Vậy là, nhìn từ cự ly xa nhà văn thâu tóm được trung thành cái bề ngoài có vẻ giống thật, thậm chí rất “gương mẫu”, “to tát” của đám ma. Còn nhìn từ cự ly gần, thật gần nhà văn đã lật tẩy cái giả, cái thực chất chứa đựng và được che đậy ở bên trong của nó: sự bất hiếu, bất nghĩa và thói đạo đức giả. Tiếng cười đã bật ra, rất tự nhiên, từ mâu thuẫn thật- giả này.

Bên cạnh việc kết hợp giữa miêu tả viễn và cận cạnh, nhà văn còn sử dụng hợp lý kỹ thuật tạo tình huống kịch tính và duy trì được độ căng cần thiết cho câu chuyện. Chẳng hạn, sau khi ông già “chết thật”, đã “được quan trên khám đã qua loa”, niềm vui của đám cháu con tưởng đã có thể nở rộ, thì vì một lý do nào đó, sự sung sướng có nguy cơ bị hoãn lại. Lập tức có bao nhiêu phản ứng chỉ trích lẫn nhau giữa “phái trẻ” với “phái già”:

“Phái trẻ, nghĩa là bọn dâu con, đã bắt đầu la ó lên rằng phái già chậm chạp. Cậu tú Tân thì cứ điên người lên vì cậu đã sẵn sàng mấy cái máy ảnh mà mãi cậu không được dùng đến. Bà Văn Minh thì sốt cả ruột vì mãi không được mặc đồ xô gai tân thơi, cái mũ mấn trắng viền đen – dernières créations. Những cái rất ăn với nhau mà tiệm Âu hóa một khi đã lăng-xê ra thì có thể ban cho những ai có tang đương đau đớn vì kẻ chết cũng được hưởng chút ít hạnh phúc ở đời. Ông Typn rất bực mình vì mãi không được thấy những sự chế tạo của mình ra mắt công chúng để xem các báo chí phê bình ra sao. Người ta đổ lỗi cho ông Văn Minh không khéo can thiệp để mọi việc phải trì hoãn, cụ cố Hồng cứ nhắm mắt lại kêu khổ lắm, cụ bà hay lề lối, vẽ chuyện lôi thôi.

Vậy đấy, người trong tang gia đã phải “la ó lên…”, “điên người lên…”, sốt cả ruột”, “rất bực mình”, “đổ lỗi cho…”, “kêu khổ lắm”,… Câu chuyện trở nên căng thẳng và giàu kịch tính hẳn lên. Lệnh phát phục chỉ mới trì hoãn có một ngày mà người ta đã bực dọc, sốt ruột, đau khổ như vậy, giả sử ông già tám mươi này cứ “sống mãi” thì họ còn bực dọc, sốt ruột, đau khổ đến mức nào. Thế mới biết, có được niềm “hạnh phúc” như của “tang gia” này cũng không dễ dàng gì.

Ở cấp độ ngôn từ, chất muối trào phúng được cô đặc trong một số hình thức câu văn nói mỉa.

Có khi nhà văn mỉa mai bằng lời văn có chứa các cụm từ phản nghĩa, ngược nghĩa. Ví dụ cụm từ “hạnh phúc của một tang gia” trong nhan đề đoạn trích, hoặc cụm từ “công hiệu đến nỗi họ mất mạng” trong đoạn văn nói về “thuốc thánh” đền Bia (“Người ta đã nghĩ đến cả thuốc thánh đền Bia vừa mới chữa một người ho lao và một người cảm thương hàn bằng bùn đen và cứt trâu, công hiệu đến nỗi họ mất mạng.”).

Có khi ông mỉa mai bằng câu văn viết theo lối nói ngược. Chẳng hạn, sau khi ghi lại hàng loạt câu nói “thì thào” trơ trẽn, nhảm nhí của đám “trai thanh gái lịch” đến dự đám tang, tác giả viết: “Và còn nhiều câu nói vui vẻ, ý nhị khác nữa, rất xứng đáng với những người đi đưa đám ma.”

Đến đây, có thể kết luận rằng: Từ cái “chết thật” của “ông cụ già” đến đám ma giả của tang gia, và từ cái đám ma giả tang gia đến niềm vui thật của bọn người hám danh, hám lợi, đạo đức giả được kể trong chương truyện này là cả một hành trình sáng tạo của một tài năng lớn – tài năng trào phúng Vũ Trọng Phụng.

---------------------------------------------------------------------------------------------------

hân tích Hạnh phúc của một tang gia
Với đặc điểm là một tiểu thuyết hoạt kê, tác phẩm Số Đỏ của VTP đã miêu tả thật sống động bao nhiêu cảnh đời và con ngừơi mang tính hài hứơc, giễu cợt. Không chỉ một cuộc đời của nhân vật chính – Xuân Tóc Đỏ- đáng cười, mà hầu như tất cả các nhân vật, các tình huống, chi tiết truyện đều đáng cười, đáng phê phán. CHương XV của tác phẩm - với tiêu đề Hạnh phúc của một tang gia - miêu tả đám tang cụ cố tổ, giống như một chuỗi cười dài, một cuộc đưa tiễn tập thể, cuộc hành trình tới mộ của cả xã hội, cái xã hội tư sản thành thị Âu hoá rởm, văn minh rởm hết sức lố lăng, đồi bại đang hiện diện ở VN những năm 30 – 45 của thế kỉ XX. Mỗi tình huống truỵên, mỗi nhân vật cứ tự nhiên làm bật ra tiếng cuời. Tiếng cười mang nhiều sắc độ, liên tục không dứt. Nó kéo dài trong suốt thời gian đám tang, suốt cuộc hành trình đưa tiễn….
Đọc tên chương- Nguyên văn trong tác phẩm là : Hạnh phúc của một tang gia - một cái đám ma gương mẫu… chúng ta không khỏi bật cừơi bởi cách thông báo hóm hỉnh của nhà văn. Nội dung sự việc là một việc đau đớn, bất hạnh. Vậy mà “tang gia” lại có ”hạnh phúc”! việc tang là nghi lễ thiêng liêng, cần trang trọng, vậy mà, ngôn từ dành cho cái việc đại hiếu của một gia đình như gia đình cụ cố Hồng lại hỗn độn, pha trộn tuỳ tiện chữ Hán, chữ Nôm, nào hạnh phúc, nào tang gia, nào văn minh, gương mẫu. cứ như chuyện đùa, chuyện vui vậy! Cái sự đùa vui ấy mở màn cho vở hài kịch mà trên sân khấu hiện thật rõ hai trạng huống nực cuời: đám tang nhưng không phải là đám tang, nó là một đám…. rước. Con người nhiưng không phải là con người mà là…. những hình nhân dị dạng, những quái vật.
Sau thời gian bối rối theo lẽ thường tình của một nhà có việc tang, khi ba người quan trọng nhất – ông Cố Hồng, bà vợ và Văn Minh từ trên gác xuống dứới nhà cắt đặt mọi việc, thì cái gia đình có đại tang đó bừng lên một ngày hội. Lúc đưa đám thì cả bàn dân thiên hạ ở phố phường, ai cũng thấy đám ma được tổ chức linh đình, đủ kiểu cách, lễ nghi theo cả lối ta, tây, tàu. Đám ma đưa đến đâu làm huyên náo đến đấy. Cả thành phố nhốn nháo …”Kèn ta, kèn tây, lèn tàu lần lượt thay nhau mà rộn lên”. Tiếng khóc của những người trong tang gia xen lẫn tiếng “thì thầm” về chuyện vợ con, nhà cửa, may áo, sắm tủ, hoặc những tiếng nói “thì thào” của bọn đàn ông bình phẩm sắc đẹp của các cô gái, “than thở” việc “vợ béo, chồng gầy”. Vậy đấy, trên cái sân khấu hài hứơc, người đọc thấy được một khung cảnh pha tạp, hỗn độn, đồ vật và con người hỗn độn, âm thanh và màu sắc hỗn độn, việc vĩnh biệt một con người là việc đùa vui, tiếng khóc của nhiều người cũng hỗn độn, việc vĩnh biệt một con người và việc đùa vui, tiếng khóc của nhiều ngừơi cũng hỗn độn. Đám rước mà như “ở hội chợ”. Đám tang hay đám rứơc? Bởi vì, như tác giả kể: “Đám cứ đi” rồi lại “Đám cứ đi”. Những lời văn bỡn cợt, lơ lửng, hóm hỉnh, chua chát. Và ông nhận xét: “ Thật đúng là một đám ma to tát có thể làm cho người chết nằm trong quan tài cũng phải mỉm cuời sung sướng, nếu không gật gù cái đầu”.




………………………………….

Chương 15 – HP của một tang gia là một trong những màn hài kịch đặc sắc nhất của tiểu thuyết “Số đỏ” của VTP.
Để dàn dựng một màn hài kịch cười, trước hết phải phát hiện ra một mâu thuẫn trào phúng. Tiếng cười có muôn hình vạn trạng, tuy nhiên bao giờ nó cũng bật ra trước một mâu thuẫn trào phúng được phóng đại lên.
Mâu thuẫn trào phúng trong chương 15 được gợi lên ngay từ cái nhan đề của nó. Tang gia mà lại hạnh phúc! Nhà có người chết mà lại vui! Tang gia quả có bối rối nhưng đó là cái bối rối sung sướng, bối rối không phải để tổ chức một đám rước, một ngày hội.
Người chết là cụ cố tổ. Cụ mất đi để lại một gia tài lớn. Nhưng ông già quái ác này lại ghi trong di chúc: chỉ chia gia tài cho con cháu khi cụ đã qua đời. THật là sốt ruột, vì cụ cứ sống mãi. Con cái, dâu rể đều chờ đợi cái chết của cụ như chờ đợi một hạnh phúc vậy.
Và hạnh phúc đã đến.
Đặc sắc của đoạn trích là đã diễn tả được chung quanh hạnh phúc chung của tang gia, mỗi thành viên trong gia đình lại có một hạnh phúc riêng không ai giống ai, gắn liền với tính cách riêng của mỗi người và mỗi nhân vật lại có một mâu thuẫn trào phúng.
CHẳng hạn, cụ cố Hồng. Vì là cụ cố nên luôn đóng vai già yếu, tuy tuổi cụ mới ngoài 50. Xưa nay, cụ mới đóng trò già yếu trong nhà, nay nhờ có đám tang cụ được diễn trò già yếu trước hàng nghìn người. “Cụ cố Hồng đã nhắm nghiền mắt mà mơ màng đến lúc cụ mặc đồ xô gai. Lụ khụ chống gậy, vừa ho khạc, vừa khóc mếu, để cho thiên hạ phải chỉ trỏ: Úi chà! Trông kìa! Con trai lớn đã già đến thế kia kìa!”
Vợ chồng Văn Minh thì chắc chắn sẽ được chia một gia tài kha khá, chỉ còn phải lo mời luật sư đến chứng kiến cái chết của cụ cố tổ để cái chúc thư kia đi vào giai đoạn thực hành chứ không còn là lí thuyết viển vông nữa.
Đây cũng là dịp để tiệm may âu hóa và ông TYPN có thể lăng xê những mốt trang phục táp bạo nhất có thể ban cho những ai có tang đương đau đớn, vì kẻ chết cũng được hưởng chút ít hạnh phúc ở đời.
Cô Tuyết thì sung sướng vì được mặc bộ y phục Ngây thơ hở cả nách và nửa vú viền đen, đội cái mũ mấn xinh xinh…. Tuyết mời các quan khách rất nhanh nhẹn, trên mặt lại có vẻ buồn lãng mạn rất đúng mốt.
Ông Phán mọc sừng lại hả hê vì đã được cụ cố Hồng hứa chia thêm cho vài nghìn đồng. CHính cụ cũng không ngờ giá trị đôi sừng hươu lại to đến như thế.
Cậu Tú Tân mừng điên người vì đã sẵn sàng mấy cái máy ảnh mà vẫn chưa được dùng đến.
Xuân Tóc Đỏ càng được vênh vang hơn vì nhờ nó mà cụ Cố mới lăn đùng ra chết. (Nó tố cáo ngay trước mặt cụ tội ngoại tình của cô Hoàng Hôn, cháu gái của cụ, và cắm sừng vào đầu ông Phán, cháu rể cụ)
Là cố vấn của báo Gõ Mõ, Xuân còn đem lại danh giá bất ngờ cho đám tang vì đã bổ sung vào sự long trọng sáu chiếc xe chở sư cụ chùa bà Banh, đại diện hội Phật Giáo, báo Gõ Mõ cùng với những vòng hoa đồ sộ…
Hạnh phúc còn lan ra cả ngoài gia đình người chết. Cảnh sát Min Đơ, Min Toa được thuê giữ trật tự cho đám tang. Những bạn bè tai to mặt lớn của cụ cố Hồng được dịp khoe khoang sự oai vệ và danh giá của mình, những bội tinh và râu ria…
Hàng phố thì vui quá vì mấy khi được xem đám ma to như thể là hội chợ.
Một trong những nét đặc sắc của chương truyện là tả đám đông ồn ào. Láo nháo, nhặng xị. Dường như có ý thức khi vận dụng kĩ thuật điện ảnh, tác giả lùi xa quay toàn cảnh đám tang đang nghiêm chỉnh đi theo quan tài người chết đến tận huyệt với cái điệp khúc đám cứ đi…. Có khi lại dí sát ống kính quay cận cảnh để thấy đây không phải là một đám ma mà là một đám rước, đám hội hết sức vui vẻ. Đám cứ đi nhưng không ai nghĩ đến việc đưa đám. Đến đây không phải để khoe những bộ ngực đầy huân, huy chương và những bộ râu ria oai vệ thì cũng để thì thầm với nhau về những chuyện vợ con, chuyện sắm một cái áo, cái tủ…. Còn bọn thanh niên thì chim nhau, cười tình với nhau, bình phẩm, ghen tuông nhau, hẹn hò nhau bằng vẻ mặt buồn rầu của người đi đưa đám ma.
Màn kịch kết thúc bằng chi tiết hài hước chó đểu. Ông Phán mọc sừng dúi vào tay Xuân 5 đồng thanh toán tiền thuê Xuân tố cáo cái nhục mọc sừng của ông ta.
Số Đỏ là một cuốn tiểu thuyết dùng hình thức giễu nhại, lật tẩy tính chất bịp bợm của những tầng lớp gọi là thượng lưu, trí thức của Hà Nội xưa. Tất cả là một cuộc diễn trò lớn: MỘT CUỘC BÁO HIẾU LINH ĐÌNH NHẤT CỦA MỘT GIA ĐÌNH ĐẠI BẤT HIẾU





*******

1. Giá trị châm biếm và đả kích cái xã hội thực dân phong kiến tư sản xấu xa, đồi bại và thối nát.

- Trong gia đình, ông chết, cha chết - một cái chết làm cho nhiều người sung sướng lắm. Cụ cố Hồng “nhắm nghiền mắt lại mơ màng”… vì cụ chắc thiên hạ “ai cũng phải khen một cái đám ma như thế, một cái gậy như thế!”. Ông phán mọc sừng sung sướng vì ông ta không ngờ rằng “đôi sừng hươu vô hình trên đầu ông ta mà lại to đến thế” nên đã được cụ cố Hồng - bố vợ - hứa sẽ chia thêm cho con gái và con rể thêm vài nghìn đồng… Văn Minh chồng rất hạnh phúc vì từ nay cái chúc thư chia gia tài “sẽ đi vào thời kỳ thực hành”. Cậu tú Tân được dịp dùng đến mấy cái máy ảnh. Bà Văn Minh sung sướng vì cái mốt về những bộ đồ xô gai tân thời, cái mũ mấn trắng viền đen… sẽ đem đến cho những ai có tang “được hưởng chút hạnh phúc ở đời”. Ông Typn chờ mong các báo chí phê bình “những chế tạo của mình” trong cuộc cải cách y phục của Âu hóa… Tuyết thì diện bộ đồ NGÂY THƠ để cho thiên hạ biết rằng “mình chưa đánh mất cả chữ trinh”, v.v…

- Ở ngoài xã hội, hai viên cảnh sát MIN ĐƠ, MIN TOA., giữa lúc không có ai đáng phạt mà phạt, đương buồn như nhà buôn vỡ nợ thì được có đám thuê nên “sung sướng cực điểm”. Các quan khách đến đưa mà, bạn của Tuyết, Văn Minh, cô Hoàng Hôn, bà Phó Đoan, những giai thanh gái lịch được dịp “chim nhau, cười tình với nhau, bình phẩm nhau, chê bai nhau, ghen tuông nhau, hẹn hò nhau…”. Banh thân của cụ cố Hồng đến đưa đám ma với cái ngực “đầy những huy chương…”, với bộ râu “hoặc dài hoặc ngắn, hoặc đen, hoặc hung hung, hoặc lún phún hay rầm rậm, loăn quăn”… đến để khoe tài, khoe đức, khoe của… Sư cụ Tăng Phú thì sung sướng vênh váo, ngồi trên một chiếc xe vì đã “đánh đổ đượng Hội Phật giáo, và như thế là cuộc đắc thắng đầu tiên của báo Gõ Mõ vậy”. Còn Xuân tóc Đỏ đến đưa đám với sự cố ý đến chậm, bằng 2 vòng hoa đồ sộ, 6 chiếc xe có cắm lọng,… hắn đã làm cho Tuyết “liếc mắt đưa tình cho nó để tỏ ý cám ơn”, làm cho cụ bà sung sướng thốt lên: “Ông Đốc Xuân đã không giận mà lại giúp đáp phúng viếng đến thế, và đám ma như kể đã là danh giá nhất tất cả”. Và Xuân sao không sung sướng, chỉ một câu nói: “Thưa ngài, ngài là một người chồng mọc sừng!” mà được ông phán-mọc-sừng trả công đến một tờ giấy bạc 5 đồng gấp tư “dúi vào tay”…

Đúng là “hạnh phúc của một tang gia”, mặc dù lúc hạ huyệt có cụ cố Hồng mếu, ông phán-mọc-sừng khóc to “Hứt! Hứt! Hứt!”.

2. Nghệ thuật trào phúng bậc thầy:

- Một đám ma được kể và tả như một đám rước xách với nhiều vai hề già có, trả có, đàn ông, đàn bà… của tầng lớp tư sản “Âu hóa” rởm. Tác giả biểu lộ sự khinh bỉ, châm biếm sâu cay.

- Các thủ pháp nghệ thuật trào phúng vận dụng sắc sảo tài tình:

+ Phóng đại: cụ cố Hồng sung sướng quá vì chuyện bố chết mà hút liền một chặp 60 điếu thuốc phiện, gắt 1872 lần câu: “Biết rồi, khổ lắm, nói mãi!”.

+ Đặc tả những bộ râu của các ông bạn của cụ cố Hồng rất hài hước!

+ Phục bút: Xuân đến đưa đám muộn, lúc đầu làm cho Tuyết đau khổ “có thể muốn tự tử được”, lúc hắn đến, Tuyết liếc mắt đưa tình cho hắn để tỏ ý cảm ơn. Và cụ bà thì thốt lên sung sướng “đám ma kể đã là danh giá nhất tất cả!”.

+ Những vai hề: cậu tú Tân luộm thuộm trong chiếc áo thụng trắng bắt bẻ từng người “hoặc chống gậy, hoặc gục đầu, hoặc cong lưng…” để chụp ảnh. Ông phán-mọc-sừng khóc to “Hứt! Hứt! Hứt!” nhưng lại bí mật giúi vào tay Xuân tờ giấy bạc 5 đồng gấp tư… - Rất sòng phẳng trong việc mua bán “danh lợi”!

+ Sử dụng tương phản làm nổi bật cái hài, cái rởm, cái đồi bại, thối nát vô luân hãnh diện. Ví dụ, sư cụ Tăng Phú, v.v…
---------------------------------------------------------------
1. hình ảnh đoàn tàu trong tp "2 đứa trẻ "


Đoàn tàu là hình ảnh của ánh sáng. Ánh sáng đoàn tàu đc miêu tả thật khác thường. Nó “sáng bừng, sáng trưng, sáng lấp lánh”, # hẳn cái leo lét vật vờ của nhữg ngọn đèn trên phố, # hẳn cái xa xôi của các vì sao trên vũ trụ thăm thẳm. Vì vậy, đoàn tàu khi xuất hện đã xua tan bóng tối âm u đang ngự trị ở phố huyện
    Đoàn tàu đến còn mag theo nhữg âm thanh sôi động. Nó đã phá vỡ sự im lặng của phố huyện
    Đoàn tàu là 1 biểu tượg chứa đựg nhiều ý nghĩa
     + Chạy đến từ HN, chạy đến từ 1 tuổi thơ đã mất, đoàn tàu là dư ảnh của 1 quá khứ đầy hphúc mà chị em Liên từng đi qua
     + Đoàn tàu là sư hiện diện của 1 thế giới đầy âm thanh, ánh sáng nên nó còn là 1 đối ảnh vs thực tại giúp Liê nhận thức thấm thía về tình trạng sốg mỏi mòn, tẻ nhạt của nhữg con ng ở phố huyện
     + Ánh sáng đoàn tàu còn là ánh sáng của khát vọg, ước mơ về 1 cuộc sốg tươi sáng hơn, đẹp đẽ hơn. Nó đã trở thành niềm thao thức chờ đợi hàng đêm của 2 đứa trẻ

2.Tiếng sáo trong vc a phủ
Trong truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” – nhà văn Tô Hoài đã miêu tả âm thanh của tiếng sáo đêm xuân như một thứ thuốc “gọi hồn” . Nhà văn đã hơn sáu lần miêu tả các trường độ âm thanh của tiếng sáo. Có lúc “tiếng sáo gọi bạn đầu làng”văng vẳng từ xa, có khi “tiếng sáo vọng lại thiết tha bồi hồi” mỗi lúc một gần hơn, có lúc tưởng như sắp nắm bắt được thì tiếng sáo lại tuột khỏi tầm tay Mị và “lửng lơ” bay ngoài đường có khi nó “rập rờn” trở thành trong sâu thẳm tâm hồn. từng thanh âm của tiếng sáo với những cường độ và cao độ khác nhau khi trầm bổng, khi xa khi gần là tiếng đời, khi là tiếng lòng cứ không thôi thổn thức, dậy lòng trong lòng Mị. Tiếng sáo là biểu tượng của quá khứ tươi đẹp, là âm hưởng của “một thời xa vắng” đã bị Mị lãng quên trong những mùa đông dài đầy “giông tố” của cuộc đời. Từng tiếng sáo như rót tâm sự vào lòng Mị. Nó bồi hồi, quyến rũ, nó réo rắt mời Mị thoát khỏi hiện tại cay đắng về lại ngày xưa – cái thời: “có biết bao người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị”. Lúc này đây, Mị cũng như Huệ Chi trong tiểu thuyết “Cửa biển” của nhà văn Nguyên Hồng, cũng đang sống trong mộnh du cứ “vùng bước đi” theo tiếng gọi huyễn hoặc thân quen, và tiếng sáo kia đã trở thành tiếng gọi của Mẹ, tiếng gọi của tình người, tình đời, tiếng gọi của sự sống. Có thể nói tiếng sáo đã trở thành nhịp cầu nối giữa hiện tại đau khổ với quá khứ tươi đẹp, là con thuyền đưa Mị về với bến xưa dẫu chỉ là trong tâm tưởng. Cùng với cảnh sắc Hồng Ngài khi Xuân về và men rượu, tiếng sáo đã cộng hưởng, làm thức tỉnh ý niệm về sự sống, sự tồn tại trong Mị. Nhà văn Tô Hoài đã rất tài tình khi dung các trường độ, độ cao thấp của âm thanh tiếng sáo để diễn tả các cung bậc tâm trạng, sự xáo trộn trong tâm tư Mị và giúp người đọc khám phá chiều sâu nội tâm nhân vật.

Anh ném pao, em không bắt

Em không yêu, quả pao rơi rồi

          Quả pao rơi rồi, tình đầu mất và tuổi xuân của Mị cũng bị đời bỏ vào cái hố sâu. Nhưng với bàn tay yêu thương, giàu tình nhân đạo, nhà văn Tô Hoài đã nâng Mị dậy, giúp Mị tìm lại sức sống ngày xưa.

3.
Cảm nhận của Anh (Chị) về hình tượng bóng tối và ánh sáng trong hai truyện ngắn lãng mạn “Hai đứa trẻ” (Thạch Lam) và “Chữ người tử tù” (Nguyễn Tuân).

 HƯỚNG DẪN GIẢI

 §  Dạng đề cảm nhận, so sánh hai hình tượng, hai nhân vật, hai đoạn thơ, hai đoạn văn… thì có cấu trúc bài làm như sau:

MỞ BÀI:

      -    Dẫn dắt (mở bài trực tiếp không cần bước này)

      -   Giới thiệu khái quát về các đối tượng so sánh (cảm nhận)

THÂN BÀI:

1.     Làm rõ đối tượng thứ nhất (bước này vận dụng kết hợp nhiều thao tác lập luận nhưng chủ yếu là thao tác lập luận phân tích)

2.     Làm rõ đối tượng thứ 2 (bước này vận kết hợp nhiều thao tác lập luận nhưng chủ yếu là thao tác lập luận phân tích)

3.     So sánh: nét tương đồng và khác biệt giữa hai đối tượng trên cả hai bình diện nội dung và hình thức nghệ thuật (bước này vận dụng kết hợp nhiều thao tác lập luận nhưng chủ yếu là thao tác lập luận phân tích và thao tác lập luận so sánh)

4.     Lý giải sự khác biệt: thực hiện thao tác này cần dựa vào các bình diện: bối cảnh xã hội, văn hóa mà từng đối tượng tồn tại; phong cách nhà văn; đặc trưng thi pháp của thời kì văn học…( bước này vận nhiều thao tác lập luận nhưng chủ yếu là thao tác lập luận phân tích)

KẾT BÀI:

            - Khái quát những nét giống nhau và khác nhau tiêu biểu.

            - Có thể nêu những cảm nghĩ của bản thân.

  ĐÁP ÁN THAM KHẢO

 

CẤU TRÚC
   

NỘI DUNG
   

ĐIỂM

MỞ BÀI
   

Giới thiệu khái quát về các đối tượng so sánh (cảm nhận): Bóng tối và ánh sáng trong hai tác phẩm Hai đứa trẻ (Thạch Lam), Chữ người tử tù (Nguyễn Tuân)
   

0.5

THÂN BÀI
   

1.      Làm rõ đối tượng thứ nhất:

-          Hình tượng bóng tối trong Hai đứa trẻ: diễn tả sự tù đọng, bế tắc, ngột ngạt, nghèo đói, không lối thoát.

-          Hình tượng ánh sáng: nhỏ nhoi, yếu ớt, tàn lụi… biểu trưng cho một cuộc sống lạc hậu, tù đọng không biết đến ngày mai là gì.
   

1.0

2.      Làm rõ đối tượng thứ 2:

-          Hình tượng bóng tối trong Chữ người tử tù: sự tàn bạo, dơ bẩn của xã hội phong kiến suy đồi. Sự xấu xa của cái đê tiện cái thấp hèn.

-          Hình tượng ánh sáng: biểu tượng cho cái Đẹp, cái Dũng, cái Thiên Lương trong sáng của con người. Cái đẹp bao giờ cũng chiến thắng.
   

1.0

    3.      So sánh: nét tương đồng và khác biệt giữa hai đối tượng trên cả hai bình diện nội dung và hình thức nghệ thuật:

-          Tương đồng: đều sử dụng bóng tối và ánh sáng để tạo ý đồ riêng cho sáng tạo nghệ thuật.  Cả hai tác giả đều sử dụng ánh sáng và bóng tối như một nguyên tắc đối lập, một thủ pháp nghệ thuật trong xây dựng tình huống truyện. Bóng tối đều sử dụng để nói về cái âm u, tù túng, cái xấu xa của thế lực. Ánh sáng đều hướng con người vươn đến những điều tốt đẹp.

-          Khác biệt: với Nguyễn Tuân ánh sáng và bóng tối vừa đối lập, vừa bổ sung, nâng đỡ nhau, đồng thời có sự chuyển hóa từ bóng tối ra ánh sáng.

Với Thạch Lam, bóng tối vừa mang nghĩa biểu trưng cho cuộc sống tù đọng, quẩn quanh nơi phố huyện vừa được sử dụng như phông nền chính nhằm làm nổi bật giá trị nhân văn của tác phẩm.
   

1.5

4.      Lý giải sự khác biệt:

-          Với Nguyễn Tuân, cảm hứng thẩm mỹ của ông bắt nguồn từ cái đẹp lớn lao, cái cao cả, bi hùng hoặc mô tả những nhân cách lớn... nên thủ pháp nghệ thuật cũng xây dựng dựa trên sự đối lập gay gắt, ánh sámg và bóng tối cũng được sử dụng nhằm miêu tả những tương phản mạnh mẽ, những chuyển biến bất ngờ, đột ngột. Đó vừa là một thủ pháp trong xây dựng tình huống truyện, vừa là sự dẫn dắt đi đến kết thúc của sự chiến thắng giữa chân lý, cái đẹp với cái xấu, cái ác.

-          Thạch Lam do chỉ chú ý đến những cái bình thường, giản dị, nhỏ nhoi trong cuộc sống nên ánh sáng và bóng tối trong tác phẩm của ông không có sự chuyển biến dữ dội, bất ngờ.
   

0.5

KẾT BÀI
   

- Khái quát những nét giống nhau và khác nhau tiêu biểu.

 - Có thể nêu những cảm nghĩ của bản thân.

 
   
4.


---------------------------------------------------------
PHÂN TÍCH TẤN BI KỊCH BỊ CỰ TUYỆT QUYỀN LÀM NGƯỜI CỦA NHÂN VẬT CHÍ PHÈO (nẾU ĐỀ RA LÀ GT NHÂN ĐẠO THÌ CŨNG DỰA THEO DÀN Ý NÀY MÀ LÀM)
 
Nhan đề tác phẩm
- Đầu tiên, Nam Cao đặt nhan đề : Cái lò gạch cũ. Sau đó – năm 1941- NXB tự ý đổi tên thành Đôi lứa xứng đôi. Năm 1946, khi in lại trong tập Luống cày, Nam Cao đã đặt lại tên là Chí Phèo - Ý nghĩa của nhan đề: Chí Phèo, vẽ nên một con người cụ thể, một số phận cụ thể, cô đơn, cô độc…
1. Hình tượng nhân vật Chí Phèo
a, Sự xuất hiện của hình tượng Chí Phèo
• Mở đầu truyện là một Chí Phèo say rượu và chửi bới:
+ “Hắn vừa đi vừa chửi”
+ Hắn chửi tất cả : từ trời,  đời ,cả làng Vũ Đại , “Chửii cha đứa nào không chửi nhau với hắn”  “đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn”=> đối tượng chửi đã được xác định : xã hội thực dân nửa phong kiến đã sinh ra cái thằng Chí Phèo, đối tượng chửi qua đó cũng thu hẹp dần > chứng tỏ Chí đang rơi vào ngõ cụt của sự bế tắc.
• Cái mà Chí nhận được là : “ trời có của riêng nhà nào”,“đời là tất cả nhưng chẳng là ai” , “không ai lên tiếng cả” ,“không ai ra điều” , “nhưng mà biết đứa nào đã đẻ ra Chí Phèo”. Đáp lại tiếng chửi ấy trớ trêu thay lại là “ tiếng chó cắn lao xao”.
• Ý nghĩa tiếng chửi của Chí Phèo:
+ Chí chửi tức là Chí muốn giao tiếp với mọi người nhưng tất cả đều im lặng, chỉ có “ba con chó dữ với một thằng say rượu”) Chí đã bị đánh bât ra khỏi xã hội loài người, tiếng chửi trở nên vật vã, tuyệt vọng.
+ Tiếng chửi của Chí là tiếng nói đau thương của một con người ý thức về bi kịch của mình: sống giữa cuộc đời nhưng đã mất quyền làm người. Đó chính là sự đau xót của nhà văn đối với nhân vật của mình.
b. Sự ra đời và quá trình tha hoá của Chí Phèo.
• Khi mới sinh ra Chí bị bỏ rơi bên cạnh chiếc lò gạch cũ, được dân làng nhặt về nuôi nấng. Tuổi thơ bất hạnh, tủi cực “ hết lang thang đi ở cho nhà người này lại đi ở cho nhà người khác, năm 20 tuổi thì làm canh điền cho nhà Bá Kiến”
• Chí là một nông dân hiền lành, lương thiện:
+ Bà ba sai bóp đùi, hắn: “vừa làm vừa run” “ thấy nhục chứ yêu đương gì”
+ Chí là một con người có lòng tự trọng: khi bị bà ba sai bóp chân, Chí “thấy nhục hơn là thích” trước một việc làm mà Chí cho là “không chính đáng”.
+ Có ước mơ giản dị: “ có một gia đình nho nhỏ. Chồng cuốc muốn cày thuê, vợ dệt vải. Chúng lại bỏ một con lợn nuôi để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm”
• Xã hội thực dân nửa phong kiến không để yên cho con người tội nghiệp ấy được sống với những ước mơ và khát vọng, Bá Kiến ngấm ngầm đẩy Chí vào tù. Nhà tù thực dân đã tiếp tay cho lão cáo già Bá Kiến biến Chí Phèo từ một người nông dân hiền lành lương thiện thành một kẻ lưu manh, côn đồ khét tiếng . Sau 7, 8 năm tù ra, Chí đã bị cái xã hội ấy vằm nát cả nhân hình lẫn nhân tính, trở thành một kẻ lưu manh, một con quỷ dữ.
+ Nhân hình: Bị xã hội lưu manh vằm nát bộ mặt người.
•Gương mặt: “cái đầu thì trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen mà rất cơng cơng, hai mắt gườm gườm trông gớm chết”
•Trang phục: “mặc quần nái đen với cái áo tây vàng”
•Thân thể: “cái ngực phanh, đầy những nét chạm trổ rồng phượng với một ông tướng cầm chuỳ, cả hai cánh tay cũng thế”.
+ Nhân tính: Hành động và lời nói thể hiện tính cách của một kẻ liều lĩnh, hung hăng:
• “Hắn về hôm trước, hôm sau đã thấy ngồi uống rượu với thịt chó suốt từ trưa đến xế chiều…Rồi say khướt, hắn xách một cái vỏ chai đến cổng nhà Bá Kiến gọi tận tên tục ra mà chửi”. Chí bộc lộ tính lưu manh cùng đường: “đập cái chai vào cột cổng”, lăn lộn dưới đất…cào vào mặt”
• Nói với Bá Kiến: “Tao chỉ liều chết với bố con nhà mày đấy thôi”. Trong câu nói ấy của Chí chất chứa hận thù. Chí vẫn đang còn tỉnh táo để nhận ra kẻ thù của mình. Đó là ý thức hệ của tầng lớp bị thống trị đối với giai cấp thống trị. Thế nhưng trước một Bá Kiến cáo già với châm ngôn sống “ Thứ nhất sợ kẻ anh hùng/ Thứ hai sợ kẻ cố cùng liều thân”. Chí phèo đã sa vào bẫy của tên cáo già ấymột cách thật dễ dàng. Để rồi sau đó hắn trở thành tay sai của BK, đối lập với nhân dân lao động cần lao. Từ một người nông dân hiền lành lương thiện Chí trở thành thằng lưu manh  “con quỷ dữ của làng Vũ Đại”. Từ đây chí sống bằng rượu và máu và nước mắt của biết bao nhiêu người dân lương thiện: “Hắn đã đập nát biết bao nhiêu cảnh yên vui, làm chảy máu và nước mắt của biết bao nhiêu người dân lương thiện”. Hắn làm những việc ấy trong lúc say “ ăn trong lúc say, ngủ trong lúc say, thức dậy vẫn còn say… đập đầu, rạch mặt, giết người trong lúc say để rồi say nữa say vô tận”. Chưa bao giờ hắn tỉnh để thấy mình tồn tại trên đời bởi vì “ những cơn say của hắn từ cơn này sang cơn khác thành những cơn dài mênh mang”.
 
Giữa lúc Chí đang rơi vào ngõ thẳm đêm đen của tội lỗi thì Nam Cao bằng tấm lòng nhân đạo sâu sắc đã xuất hiện đúng lúc. Ông mang đến cho Chí một “thiên sứ” – Thị Nở với hi vọng cữu vãn linh hồn Chí Phèo.
c. Chí Phèo gặp Thị Nở
Cuộc gặp gỡ với Thị Nở trong một đêm trăng bên bờ suối đã thức tỉnh phần người của Chí giúp hắn trở về kiếp người. Sự quan tâm, chăm sóc của Thị Nở đã giúp Chí cởi bỏ phần “quỷ” để sống lại làm người, khát khao hoàn lương, làm người lương thiện.
- Diễn biến tâm lí, tình cảm của Chí Phèo
+ Từ tỉnh rượu đến tỉnh ngộ
• Tỉnh rượu: lần đầu tiên – từ khi mãn hạn tù – Chí hết say và cảm nhận được thời gian và âm thanh hằng ngày của cuộc sống. Âm thanh cuộc sống đang từng tiếng một gõ nhịp vận hành cùng với sự thức tỉnh của Chí Phèo. * “Ở đây (căn lều) người ta thấy chiều lúc xế trưa và gặp đêm khi bên ngoài vẫn sáng” * “Tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá! Tiếng mấy bà đi chợ về, tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá trên sông” . Những âm thanh này ngày nào mà chẳng có, nhưng đây lại là lần đầu tiên chí mới nhận ra: chao ôi là buồn!
• Tỉnh ngộ : nhận thức và nhìn lại cuộc đời mình trong quá khứ, hiện tại và cả tương lai * Qúa khứ :“Hắn nao nao buồn” nhớ về một thời hắn đã từng ước mơ “có một gia đình nho nhỏ, chồng cuốc mướn,…” * Hiện tại: “Hắn thấy hắn già mà vẫn còn cô độc”, “hắn “đã tới cái dốc bên kia của cuộc đời”, “cơ thể đã hư hỏng nhiều” * Tương lai: đáng buồn và lo sợ vì nghĩ đến nhiều điều bất hạnh: “tuổi già”, “đói rét và ốm đau, và cô độc”. Tỉnh ngộ, Chí muốn khóc… Chí Phèo đang thức tỉnh và bắt đầu hồi sinh về kiếp người.
+ Khát khao hoàn lương và mong ước hạnh phúc
• Chí ngạc nhiên và xúc động “mắt hình như ươn ướt” khi Thị Nở mang “một nồi cháo hành còn nóng nguyên” vì đây là lần đầu tiên “hắn được một người đàn bà cho”, “đời hắn chưa bao giờ được săn sóc bởi một bàn tay “đàn bà”. Chí lại nghĩ đến con mụ Bà Ba và lấy làm kinh tởm vì những trò dâm đãng “nó chỉ mong cho thỏa nó chứ yêu đương gì”.
• Chí “ăn năn”, “thấy lòng thành trẻ con” và “muốn làm nũng với thị như với mẹ” khi được Thị Nở chăm sóc bằng tình cảm thương yêu.
• Chí trở nên hiền lành đến khó tin: “Ôi sao mà hắn hiền, ai dám bảo đó vẫn là cái thằng Chí Phèo vẫn đập đầu, rạch mặt đâm chém người?”, “cái bản tính của hắn, ngày thường bị lấp đi” đã trỗi dậy mạnh mẽ, Chí sống đúng với con người thật của mình, giống như anh canh điền hiền lành trước đây.
• Chí mong muốn trở lại làm người lương thiện: “Trời ơi ! Hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hoà với mọi người biết bao !... Họ sẽ lại nhận hắn vào cái xã hội bằng phẳng, thân thiện của những người lương thiện”
• Chí khát khao hạnh phúc và có một mái ấm gia đình: “Gía cứ thế này mãi thì thích nhỉ?”, “Hay là mình sang đây ở với tớ một nhà cho vui.”  giống như lời cầu hôn chất phác, giản dị. Qua miêu tả tâm lí hồi sinh của nhân vật Chí Phèo, Nam Cao cho cho ta thấy được bản tính tốt của con người có ngay trong con người bị tha hoá. Bản tính ấy sẽ trỗi dậy khi có chất xúc tác. Đó là sự thương yêu, quan tâm. Từ đó nhà văn kêu gọi chúng ta cần tin vào con người, tin vào bản chất tốt đẹp của mỗi con người và cần giúp đỡ họ tìm lại những cái tốt đẹp nhất của phần “người” * Bài học nhân sinh: Con người cần phải quan tâm , chia sẻ tình thương giữa người với người. Tình thương có khả năng cảm hoá được con người.
d. Bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo
- Nguyên nhân : Thị Nở đã cắt đứt với Chí Phèovì bị bà cô cấm đoán  cả làng Vũ Đại, cả xã hội ko ai đón nhận linh hồn người vừa trở về của Chí. Định kiến của bà cô cũng là định kiến của cả xã hội đương thời. - Chí đau đớn và tuyệt vọng:
+ Uống rượu cho thật say nhưng “càng uống lại càng tỉnh ra. Tỉnh ra, chao ôi, buồn!”
+ “Hắn ôm mặt khóc rưng rức” càng thấm thía nỗi đau khôn cùng của thân phận. - Phẫn uất, Chí xách dao đi, định đến nhà Thị Nở. Trong ý định, Chí định đến nhà đam chết con “khọm già”, con “đĩ nở” nhưng sự thức tỉnh ý thức về thân phận và bi kịch đã đẩy chệch hướng đi của CP dẫn Chí đến thẳng nhà Bá Kiến. Hơn ai hết lúc này Chí hiểu ra rằng: kẻ đã làm cho mình phải mang lốt quỷ, kẻ đã làm mình ra nỗng nỗi khốn cùng này chính là BK.
+ Lòng căm thù đã âm ỉ bấy lâu trong con người của Chí càng thấm thía tội ác kẻ đã cướp đi quyến làm người, cướp đi cả bộ mặt và linh hồn của mình. - Chí Phèo đến nhà Bá Kiến với tư cách là một nô lệ thức tỉnh, đòi quyền làm người:
+ “ Tao muốn làm người lương thiện”
+ “ Ai cho tao lương thiện?” Đó là những câu hỏi vút lên đầy cay đắng và không lời giải đáp. Câu hỏi chất chứa nỗi đau của một con người thấm thía được nỗi đau khôn cùng của bi kịch cá nhân.
• Chí giết Bá Kiến và tự sát. Cái chết của Chí Phèo là bản án tố cáo xã hội thực dân nửa phong , một cuộc sống mà trong đó, con người muốn sống lương thiện cũng không được.
III. Tổng kết Nghệ thuật:
- Xây dựng và điển hình hoá nhân vật.
- Miêu tả , phân tích tâm lí nhân vật.
- Trần thuật. - Ngôn ngữ sống động, gắn với lời ăn tiếng nói hằng ngày.
- Giọng điệu phong phú, có sự đan xen lẫn nhau.
- Cốt truyện hấp dẫn, kịch tính và đầy bất ngờ.
- Kết cấu truyện độc đáo.
------------------------------------------------------------
ÔN THI ĐH CHUYÊN ĐỀ RỪNG XÀ NU

Đề ra: Phân tích chất sử thi trong truyện ngắn Rừng Xà Nu của nhà văn Nguyễn Trung Thành.

Bài viết của thầy Phan Danh Hiếu. Tổ trưởng Tổ Ngữ văn THPT Bùi Thị Xuân. Biên Hòa. Đồng Nai.

 

DÀN Ý PHÂN TÍCH CHẤT SỬ THI TRONG TRUYỆN NGẮN RỪNG XÀ NU CỦA NHÀ VĂN NGUYỄN TRUNG THÀNH.

 

 I. Mở bài: Giới thiệu tác giả, tác phẩm, chất sử thi của tác phẩm.

 II. Thân bài

              1.Khái niệm Sử thi

Sử thi là những áng văn tự sự (bằng văn vần hoặc văn xuôi), có quy mô hoành tráng, miêu tả và ca ngợi những thành tựu, những sự kiện có tính chất toàn dân và có ý nghĩa trọng đại đối với cộng đồng, ca ngợi những anh hùng bộ tộc mang sức mạnh thần kỳ, tiêu biểu cho phẩm chất và khát vọng của bộ tộc (như anh hùng Rama trong Sử thi Ramayana; Hecto trong sử thi Iliat, Ôđixê của Hy Lạp..v.v…Ở Việt Nam có người anh hùng Đam San trong  Bài ca Đăm Săn của người Ê Đê…)

Mỗi bộ sử thi chính là niềm tự hào to lớn của dân tộc đó. Sử thi thời cổ đại là thể loại một đi không trở lại. Nền văn học hiện nay không còn thể loại sử thi nữa nhưng cái không khí, tính chất của sử thi vẫn được người cầm bút mang vào trong các sáng tác. Và chất sử thi đã làm nên giá trị, làm nên sức sống cho từng trang viết, làm sống lại không khí hùng tráng của  một thời đại anh hùng. Một số truyện ngắn tiêu biểu minh họa cho sự tồn tại của nền văn học sử thi trong Văn học Việt Nam giai đoạn 1945 – 1975 như: Truyện ngắn Những đứa con trong gia đình, Người mẹ cầm súng của nhà văn Nguyễn Thi, truyện ngắn Rừng xà nu, tiểu thuyết Đất nước đứng lên của nhà văn Nguyễn Trung Thành, tiểu thuyết Hòn Đất của Anh Đức…

2. Hoàn cảnh sử thi

Truyện ngắn Rừng xà nu được in trong tập truyện ngắn  Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc. Tác phẩm được viết vào năm 1965. Đây là thời điểm Mỹ đổ quân tham chiến ở miền Nam . Cuộc kháng chiến chống Mỹ ở Miền Nam ở vào hồi quyết liệt: giặc Mỹ điên cuồng đánh phá Cách mạng miền Nam. Trước sự hủy diệt tàn bạo của kẻ thù, tinh thần đấu tranh cách mạng của nhân dân (từ miền ngược đến miền xuôi) càng kiên cường và bất khuất “Họ đã xuống đường và đem cả lương tâm và nhân phẩm bắn tỏa lên bầu trời đầy giặc giã” (Chu Lai)

     3. Chất sử thi thể hiện trong tác phẩm Rừng Xà Nu

Ý 1: Chất sử thi được thể hiện qua bức tranh thiên nhiên hùng vĩ , tráng lệ vừa đậm chất thơ của núi rừng Tây Nguyên.

            Thiên nhiên trong Rừng xà nu thấm đẫm một cảm hứng sử thi và chất thơ hào hùng thể hiện qua từng trang sách miêu tả về rừng xà nu. Mở đầu tác phẩm là hình ảnh “cả rừng xà nu hàng vạn cây”, thì kết túc tác phẩm vẫn là rừng xà nu “nối tiếp nhau chạy đến chân trời”. Đó chính là bức tranh thiên nhiên toàn cảnh về cuộc chiến tranh nhân dân rộng lớn và hào hùng của dân tộc ta.

            Bằng nhiều thủ pháp nghệ thuật như: nhân cách hóa, ẩn dụ, tượng trương, so sánh, bi tráng hóa… nhà văn đã dựng nên bức tranh rừng xà nu ở nhiều góc độ:

- Rừng xà nu chịu nhiều đau thương mất mát do bom đạn của kẻ thù gây ra.

- Sức sống mãnh liệt của cây xà nu không bom đạn nào có thể khuất phục được (So sánh với sức sống của con người Xô Man)

- Cây xà nu ham ánh sáng, yêu tự do, luôn vươn lên đón ánh nắng và khí trời.

- Cây xà nu vững chãi với thế đứng “ưỡn tấm ngực lớn của mình ra che chở cho cả dân làng”.

“Một cây ngã cả rừng cây lại mọc

Người tiếp người đã mấy vạn mùa xuân”

(Nhà văn Nguyễn Trung Thành)

Người hi sinh đất hồi sinh

Máu người hóa ngọc lung linh giữa đời

(Nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng)

 Ý 2: Tnú – hình ảnh người anh hùng bất tử của dân làng Xôman.

Đến với truyện ngắn “Rừng xà nu”, chúng ta được thả hồn theo những cánh rừng xà nu bát ngát, xanh rờn đến tận chân trời, được chứng kiến sức sống mãnh liệt không gì hủy diệt được của những cây xà nu. Mặt khác chúng ta lại khâm phục biết bao người anh hùng Tnú với những phẩm chất tốt đẹp. Xây dựng hình tượng người anh hùng này cũng là biểu hiện chất “Sử thi”.

    Tnú: Cuộc đời đầy đau khổ, cay đắng, bị kẻ thù giết hại cả gia đình, anh đã biến đau thương thành hành động trở thành anh lực lượng đi đánh giặc trả thù nhà nợ nước.

- Tnú và chặng đường đầu của cách mạng (Nuôi giấu cán bộ, làm liên lạc, bị giặc bắt)

- Vượt ngục trở về trực tiếp lãnh đạo dân làng Xô Man đánh giặc.

- Cùng một lúc phải hứng chịu hai tấn bi kịch do tội ác của giặc gây ra (vợ con bị giặc giết, bản thân anh bị giặc đốt cụt mười đầu ngón tay)

- Hình tượng đôi bàn tay Tnú (đôi tay cần cù lao động, đôi tay chứng nhân tội ác kẻ thù, đôi tay chưa bao giờ biết phản bội…)

“Gấp trang sách lại, hình ảnh Tnú với bao phẩm chất tốt đẹp vẫn sống mãi trong lòng bạn đọc nhiều thế hệ. Tnú tiêu biểu cho hình mẫu người anh hùng dân tộc Tây Nguyên và cũng mang những nét chung của hinh mẫu anh hùng dân tộc thấm đượm chất “Sử thi”. Cùng với Trần Quốc Toản, La Văn Cầu, Bế Văn Đàn, Nguyễn Văn Trỗi và biết bao anh hùng, liệt sĩ khác các anh ca lên bài ca khải hoàn chiến thắng cho dân tộc Việt Nam yêu dấu” (Phan Huy Dũng)

Ý 3. Tính cộng đồng trong tác phẩm:

            Bên  cạnh việc miêu tả,làm nổi bật lên hình ảnh của người anh hùng Tnú, người ta còn thấy được hình ảnh của những con người khác xung quanh nhân vật này, những người gan dạ dũng cảm trong cộng đồng làng Xô man. Mỗi con người là một sức mạnh, mỗi ngọn giáo đứng lên là thể hiện một lòng căm thù. Sức sống mãnh liệt đó được truyền từ đời này qua đời khác, từ thế hệ các cụ già đến những em bé còn ngây thơ nhưng đã có ý thức về nỗi đau mất nước, mất người thân, mất chủ quyền dân tộc. Tính chất cộng đồng được thể hiện trong tác phẩm rất rõ:

- Đó là hình ảnh sum vầy, quây quần bên nhau, nương tựa vào nhau “cơm nước xong từ phía nhà ưng có ai đấy đánh lên một hồi mõ dài ba tiếng , dân làng lũ lượt kéo tới nhà cụ Mết”. Tất cả mọi người từ các cụ già các cô gái, những đứa trẻ sum tụ bên nhau để nghe câu chuyện cuộc đời Tnú.

- Cụ Mết, thế hệ đi trước, một con người từng xông pha trong kháng chiến chống Pháp, nay lại tiếp tục sứ mệnh tiếp thêm sức mạnh cho con cháu, là người chỉ đường dẫn lối, là người truyền lại kinh nghiệm cho thế hệ mai sau “chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo”.

- Dít, một cô gái với lòng dũng cảm, sự thông minh, ấn tượng bởi “đôi mắt mở to và bình thản”. Bình thản trước súng gươm của kẻ thù. Phẩm chất kìm nén đau thương để biến thành hành động, nhanh chóng trở thành cô bí thư chi bộ, cấp chỉ huy cao nhất của làng Xô Man.

- Rồi đến Heng “đội cái mũ sụp xin được của một anh giải phóng, mặc chiếc áo bà ba dài phết đít, vẫn đóng khố, súng đeo chéo ngang lưng ra vẻ một người lính thực sự.”, cũng dũng cảm, cũng nhanh nhẹn như Tnú. Cũng là một cây xà nu con mọc lên, tiếp bước với cây lớn làm nên rừng xà nu, làm nên bản làng Xô man mạnh mẽ.

    Có thể nói chất anh hùng tự ngàn đời đã chảy vào huyết quản của già làng Mết, từ già làng chảy qua Tnú, Tnú chảy qua Mai, Mai chảy qua Dít, Dít chảy qua Heng, Heng chảy vào những cây xà nu con mới mọc đã nhọn hoắt như những mũi lê chóc thẳng lên bầu trời. Dân tộc Việt Nam dù có hy sinh, dù có mất mát nhưng vẫn không bao giờ lùi bước trước quân thù:

“Nước Việt Nam từ trong biển máu

Người vươn lên như những thiên thần”

(Tố Hữu)

 “Nước Việt Nam từ trong máu lửa

Rũ bùn đứng dậy sáng lòa”

(Nguyễn Đình Thi)

 Ý 4. Nghệ thuật trong truyện ngắn Rừng Xà Nu

 

- Hình thức kể chuyện với cách tạo không khí truyện rất Tây Nguyên đậm đà màu sắc sử thi truyền thống. Bao trùm lên toàn bộ thiên truyện là một khung cảnh nghiêm trang, hào khí lại vừa mang đậm chất lãng mạn cuốn hút về làng Xô man bất khuất kiên cường.

- Giọng văn trong Rừng Xà Nu là giọng văn mang âm hưởng vang dội như tiếng cồng tiếng chiêng của đất rừng Tây Nguyên đại ngàn hùng vĩ. Giọng văn đó ẩn chứa chất liệu làm nên tính sử thi hoàng tráng của tác phẩm.          

- Kết cấu truyện theo lối vòng tròn hay còn gọi là đầu cuối tương ứng. Chính kết cấu đó tạo nên dư âm hùng tráng. Lối kết cấu này như cái khung bền vững để nhà văn khai triển câu truyện. Đây là lối kết cấu vừa đóng vừa mở. Câu chuyện đóng lại để mở một câu truyện khác. Điều này làm chúng ta tưởng tượng đây chỉ là một chương trong lịch sử ngàn đời của người Xô man, chỉ là một chương trong bản anh hùng ca vô tận của Tây Nguyên.

- Biện pháp nhân cách hóa, miêu tả cây xà nu như con người Xô Man. Vì vậy cây xà nu hiện ra như một nhân vật của câu truyện. Nguyễn Trung Thành đã biến rừng xà nu thành cả một hệ thống hình ảnh được miêu tả song song với hệ thống hình tượng nhân vật.

-  Sử dụng kiểu thời gian gấp khúc “đau thương nuôi con người vụt lớn lên” (Tnú ngày bị bắt mới chỉ đứng ngang bụng cụ Mết, 3 năm sau trở về đã là chàng thanh niên lực lưỡng; Dít ngày Tnus đi còn bé, 3 năm sau anh trở về Dít đã là bí thư chi bộ)

      III. Kết bài

Khẳng định vẻ đẹp sử thi của tác phẩm, của thời đại. Liên hệ “Những đứa con trong gia đình”.
------------------------------------------------------------------------------
Trong lịch sử văn học cách mạng nước nhà, thật hiếm thấy nhà thơ nào lại có những tác phẩm mang đậm dấu ấn đặc trưng của mỗi giai đoạn lịch sử và đã đi vào lòng người như thơ Tố Hữu trong thế kỷ 20. Tình yêu quê hương, đất nước thiết tha, sâu nặng đã hóa thân vào những vần thơ trữ tình chính trị đạt tới đỉnh cao về nghệ thuật thơ ca cách mạng
     
       Đọc những vần thơ, những bài thơ của Tố Hữu, chúng ta như cảm nhận được một tâm hồn thơ dạt dào cảm xúc, một trái tim nhân hậu, một tấm lòng trung trinh với Đảng, với Tổ Quốc, với nhân dân và tình cảm gắn bó thân thiết keo sơn với đồng bào, đồng chí.
     
       “Dù ai thay ngựa giữa dòng
     
       Đời ta vẫn ngọn cờ hồng cứ đi
       Vẫn là ta đó những khi
     
       Đầu voi ra trận cứu nguy giống nòi
     
       Bao trùm lên toàn bộ sáng tác thơ của Tố Hữu là vì lý tưởng cách mạng, vì cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, tự do và hạnh phúc cho nhân dân, vì lương tâm, chính nghĩa, công lý và lẽ phải trên đời.. Và một trong những giá trị tiêu biểu của thơ Tố Hữu là tính hướng thiện được biểu lộ vừa thầm kín, tinh tế, vừa sâu sắc, đậm đà qua 6 tập thơ nổi tiếng: Từ ấy, Việt Bắc, Ra trận, Gió lộng, Máu
     
       Bài thơ “Từ ấy” được Tố Hữu sáng tác vào tháng 7/1938; nhan đề bài thơ trở thành tên tập thơ đầu của ông. Có thể nói “ Từ ấy” là tiếng hát của người thanh niên yêu nước Việt Nam giác ngộ lí tưởng Mác Lê Nin trong ngày hội lớn của cách mạng:
     
       Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
     
       Mặt trời chân lí chói qua tim
       Hồn tôi là một vườn hoa lá
     
       Rất đậm hương và rộn tiếng chim
     
       “Từ ấy” là một thời điểm lịch sử đã trực tiếp tác động đến cuộc đời nhà thơ khi được giác ngộ chủ nghĩa Mác – Lênin, một kỷ niệm sâu sắc của người thanh niên yêu nước bắt gặp lí tưởng Cách mạng,Trong buổi ban đầu ấy, những người thanh niên như Tố Hữu dù có nhiệt huyết nhưng vấn chưa tìm được đường đi trong kiếp sống nô lệ, họ bị ngột thở dưới ách thống trị của thực dân phong kiến “băn khoăn đi kiếm lẽ yêu đời”.Chính trong hoàn cảnh đó lí tưởng cộng sản như nắng hạ , như mặt trời xua tan đi những u ám, buồn đau, quét sạch mây mù và đen tối hướng đến cho thanh niên một lẽ sống cao đẹp vì một tương lai tươi sáng của dân tộc.
     
       Người thanh niên học sinh Tố Hữu đã đón nhận lí tưởng ấy không chỉ bằng khối óc mà bằng cả con tim, không chỉ bằng nhận thức lí trí mà xuất phát từ tình cảm:
     
       Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ Mặt trời chân lí chói qua tim
       Từ ấy đã làm cho tâm hồn Tố Hữu“ bừng nắng hạ” đó là một luồng ánh sáng mạnh mẽ, rực rỡ của nắng vàng chứa chan hạnh phúc ấm no.Soi tỏ vào những bài thơ sau này ta mới thấy hết được niềm vui sướng của Tố Hữu trước ánh sáng huy hoàng của chân lí.
     
       Đời đen tối ta phải tìm ánh sáng
       Ta đi tới chỉ một đường cách mạng
     
       Và đó mới là bản chất của lí tưởng cộng sản đã làm người thanh niên 18 tuổi ấy say mê, ngây ngất trước một điều kì diệu:
     
       Mặt trời chân lí chói qua tim
       Mặt trời chân lí là một hình ảnh ẩn dụ tượng trưng cho lí tưởng của Đảng,của cách mạng , mặt trời của chủ nghĩa xã hội. Tố Hữu với tấm lòng nhiệt thành của mình đã tự hào đón lấy ánh sáng của mặt trời, sẵn sàng hành động cho lí tuởng cách mạng cao đẹp.Bởi lí tưởng đã “chói” vào tim- chính là nơi kết tụ của tình cảm, là nơi kết hợp hài hòa giữa tâm lí và ý thức trí tuệ chỉ thực sự hành động đúng khi có lí tưởng cách mạng, khi có ánh sáng rực rỡ của mặt trời chân lí chiếu vào.
     
       Lý tưởng Cách mạng đã làm thay đổi hẳn một con người, một cuộc đời. So sánh để khẳng định một sự biến đổi kì diệu mà lí tưởng Cách mạng đem lại:
     
       Hồn tôi là một vườn hoa lá,
     
       Rất đậm hương và rộn tiếng chim.
     
       Cái giọng điệu rất tỉnh và rất say rạo rực và ngọt lịm hồn ta chủ yếu là cái say người và lịm ngọt của lí tưởng, của niềm hạnh phúc mà lí tưởng đem lại :“hồn” người đã trở thành “vườn hoa”, một vườn xuân đẹp ngào ngạt hương sắc, rộn ràng tiếng chim hót.Ở đây hiện thưc và lãng mạn đã hòa quyện vào nhau tạo nên cái gợi cảm, cái sức sống cho câu thơ.
     
       Nếu khổ đầu là một tiếng reo vui phấn khởi thì khổ thứ hai và thứ ba là bản quyết tâm thư của người thanh niên cộng sản nguyện hòa cái tôi nhỏ bé của mình vào cái ta chung rộng lớn của quần chúng nhân dân cần lao.Người đọc thật sự cảm động bởi thái độ chân thành thiết tha đến vồ vập của một nhà thơ vốn xuất thân từ giai cấp tiểu tư sản tự giác và quyết tâm gắn bó vớI mọi người:
     
       Tôi buộc hồn tôi với mọi người
     
       Để tình trang trải với trăm nơi
     
       Để hồn tôi với bao hồn khổ
     
       Gần gũi bên nhau thêm mạnh khối đời.
     
       “Buộc” và “trang trải”là hai khái niệm hoàn toàn khác nhau nhưng nó đều nằm trong nhận thức mới về lẽ sống của Tố Hữu. “Buộc” là đoàn kết gắn bó, tự nguyện gắn bó đời mình với nhân dân cần lao, với hết thảy nhân dân lao động Việt Nam
     
       Để tình trang trải với trăm nơi
     
     
     
       Xác định vị trí của mình là đứng trong hàng ngũ nhân dân lao động chưa đủ, Tố Hữu còn biểu hiện một tinh thần đoàn kết, tình cảm nồng thắm, chan hòa với nhân dân.Tình yêu người, yêu đời trong Tố Hữu đã nâng lên thành chủ nghĩa nhân đạo cộng sản.Nhà thơ muốn được như Mác: “Vì lẽ sống, hy sinh cho cuộc sống - Đời với Mác là tình cao nghĩa rộng”., mong ước xây dựng một khối đời vững chắc làm nên sức mạnh quần chúng cách mạng.Từ đó Tố Hữu đã thể hiện niềm hãnh diện khi được là một thành viên ruột thịt trong đại gia đình những người nghèo khổ bất hạnh:
     
       Tôi đã là con của vạn nhà
     
       Là em của vạn kiếp phôi pha
     
       Là anh của vạn đầu em nhỏ
     
       Không áo cơm cù bấc cù bơ.
     
     
     
       Tố Hữu nguyện sẽ đứng vào hàng ngũ những người “than bụi, lầy bùn”là lực lượng tiếp nối của “vạn kiếp phôi pha”, là lực lượng ngày mai lớn mạnh của “vạn đầu em nhỏ”,để đấu tranh cho ngày mai tươi sáng.Điệp từ “là” được nhắc đi nhắc lại, nó vang lên một âm hưởng mạnh mẽ lắng đọng trong tâm hồn ta một niềm cảm phục, quý mến người trai trẻ yêu đời, yêu người này.
     
       Với một tình cảm cá nhân đằm thắm, trong sáng, “Từ ấy” đã nói một cách thật tự nhiên nhuần nhụy về lí tưởng, về chính trị và thật sự là tiếng hát của một thanh niên, một người cộng sản chân chính luôn tuôn trào trong mình mạch nguồn của lí tưởng cách mạng.
     
       Bài thơ “Từ ấy” của Tố Hữu là một bài thơ vừa có tính triết lý sâu sắc, vừa rất gần gũi, bình dị, thân thuộc. Sau mấy chục năm đọc lại, những vần thơ đó vẫn là một câu hỏi thấm thía mà những người cộng sản hôm nay không thể không suy ngẫm một cách nghiêm túc để tự mình tìm ra lời giải đáp thấu đáo. Giữa cái chung và cái riêng, giữa cộng đồng - tập thể và cá nhân, giữa vật chất tầm thường và tinh thần – tư tưởng của người cộng sản.
     
       Cả cuộc đời Tố Hữu đã hiến dâng cho tổ quốc, cho Đảng và nhân dân. Khi biết sắp phải đi xa, ông cũng chỉ nghĩ là về một nơi mà ta vẫn gọi là "cõi tạm". Ông mong muốn tiếp tục được hiến dâng:
     
       Tạm biệt đời ta yêu quý nhất
       Còn mấy vần thơ, một nắm tro.
       Thơ gửi bạn đường. Tro bón đất
       Sống là cho. Chết cũng là cho.
     
       Bởi thế, con người, cuộc đời, sự nghiệp cách mạng và thi ca của Tố Hữu luôn sống mãi trong niềm tin yêu, kính trọng của Đảng và nhân dân..
----------------------------------------------------------------------------------
Giới thiệu: Việt Bắc là căn cứ địa cách mạng, quê hương cách mạng đầu tiên của Việt Nam, gồm các tỉnh Cao - Bắc - Lạng - Thái - Tuyên - Hà, nơi gắn bó tình nghĩa keo sơn của TW Đảng và chính phủ thời kì kháng chiến chống Pháp.

1. Hoàn cảnh sáng tác

7.1954 hiệp định Giơ-ne-vơ được kí kết, miềnBắc hoàn toàn giải phóng.

Tháng 10/1954, TW Đảng và Chính phủ rời VB trở về HN. Nhân sự kiện ấy TH sáng tác bài Việt Bắc.

Bài thơ có hai phần: phần đầu tái hiện những kỉ niệm cách mạng và kháng chiến; phần hai gợi viễn cảnh tươi sáng, ca ngợi công ơn của Đảng của Bác Hồ.

SGK trích học phần đầu.

Bài thơ được kết cấu theo lối đối đáp trong ca dao trữ tình truyền thống.

PHÂN TÍCH

1. Hai mươi câu đầu

Phân tích đoạn thơ trích trong Việt Bắc của Tố Hữu:

"Mình về mình có nhớ ta (...) Tân trào, Hồng Thái, mái đình cây đa"

            Bốn câu đầu là lời Việt Bắc tỏ bày với người cán bộ chiến sĩ khi chia tay:

"Mình về mình có nhớ ta/ Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng /Mình về mình có nhớ không /Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?"

            Điệp từ "nhớ" luyến láy trong cấu trúc câu hỏi tu từ đồng dạng, tràn đầy thương nhớ. Cách xưng hô "mình - ta" mộc mạc, thân gần gợi liên tưởng ca dao: "Mình về ta chẳng cho về - Ta nắm vạt áo, ta đề bài thơ". "15 năm" là chi tiết thực chỉ độ dài thời gian từ năm 1940 thời kháng Nhật và tiếp theo là phong trào Việt Minh, đồng thời cũng là chi tiết gợi cảm - nói lên chiều dài gắn bó thương nhớ vô vàn. Câu thơ mang dáng dấp một câu Kiều - Mười lăm năm bằng thời gian Kim - Kiều xa cách thương nhớ mong đợi hướng về nhau (Những là rày ước mai ao - Mười lăm năm ấy biết bao nhiêu tình). Cảm xúc đậm đà chất dân gian, đậm đà chất Kiều. Âm điệu ngọt ngào, giọng thơ nồng ấm, tình cảm do vậy dạt dào thiết tha. Việt Bắc hỏi về: "Mình về mình có nhớ không - Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?". Câu hỏi chất chứa tình cảm lưu luyến, bao hàm lời dặn dò kín đáo: đừng quên cội nguồn Việt Bắc - cội nguồn cách mạng.

            Bốn câu tiếp theo là nỗi lòng của người về:

"Tiếng ai tha thiết bên cồn/ Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi /Áo chàm đưa buổi phân li /Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay"

            "Bâng khuâng, bồn chồn" là hai từ láy gợi cảm, diễn tả trạng thái tâm lí tình cảm buồn vui, luyến tiếc, nhớ thương, chờ mong... lẫn lộn cùng một lúc. Mười lăm năm Việt Bắc cưu mang người cán bộ chiến sĩ, mười lăm năm gian khổ có nhau, mười lăm năm đầy những kỉ niệm chiến đấu, giờ phải chia tay rời xa để làm nhiệm vụ mới về tiếp quản tại thủ đô Hà Nội (10-1954), biết mang theo điều gì, biết lưu lại hình ảnh nào, tâm trạng của người về do vậy không tránh khỏi là nỗi niềm bâng khuâng khó tả.

            "Áo chàm đưa buổi phân li" là một ẩn dụ, màu áo chàm, màu áo xanh đen đặc trưng của người miền núi Việt Bắc - tác giả hướng nỗi nhớ Việt Bắc qua hình ảnh cụ thể "áo chàm", chiếc áo, màu áo bình dị, đơn sơ, mộc mạc của vùng quê nghèo thượng du đồi núi nhưng sâu nặng nghĩa tình, đã góp phần không nhỏ vào sự nghiệp kháng chiến cứu nước.

            Câu thơ "Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay..." đầy tính chất biểu cảm - biết nói gì không phải không có điều để giải bày mà chính vì có quá nhiều điều muốn nói không biết phải nói điều gì. Ba dấu chấm lửng đặt cuối câu là một dấu lặng trên khuôn nhạc để tình cảm ngân dài, sâu lắng...

            12 câu tiếp theo kết thúc đoạn trích, là lời tâm tình của Việt Bắc:

"Mình đi, có nhớ những ngày/ Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù /Mình về, có nhớ chiến khu /Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?/ Mình về, rừng núi nhớ ai/ Trám bùi để rụng măng mai để già/ Mình đi, có nhớ những nhà/ Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son/ Mình về, có nhớ núi non /Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh/ Mình đi, mình có nhớ mình/ Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa"

            Điệp từ "nhớ" lập đi lập lại nhiều sắc thái ý nghĩa: nhớ là nỗi nhớ, ghi nhớ, nhắc nhở. Hàng loạt những câu hỏi tu từ bày tỏ tình cảm tha thiết đậm đà của Việt Bắc. Tình cảm lưu luyến của người đưa tiễn, gửi đi nỗi nhớ mong, gài lại niềm thương theo cách:

"Thuyền về có nhớ bến chăng

Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền"

            Việt Bắc nhắc người cán bộ chiến sĩ đừng quên những năm tháng gian lao vất vả, hoạt động chiến đấu trong điều kiện trang bị tiếp tế còn thô sơ, thiếu thốn.

"Mình về có nhớ chiến khu Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?"

"Miếng cơm chấm muối" là chi tiết thực, phản ánh cuộc sống kháng chiến gian khổ. Và cách nói "mối thù nặng vai" nhằm cụ thể hóa nhiệm vụ chống thực dân cướp nước, đè nặng vai dân tộc ta.

            Cảm xúc thương nhớ xa vắng thả vào không gian rừng núi, gợi nỗi niềm dào dạt:

"Mình về, rừng núi nhớ ai Trám bùi để rụng, măng mai để già"

            Hình ảnh "Trám bùi để rụng, măng mai để già" gợi nỗi buồn thiếu vắng - "Trám rụng - măng già" không ai thu hái. Nỗi ngùi nhớ bức bối như thúc vào lòng kẻ ở lại.

            Tiễn người về sau chiến thắng và chính trên cái nền của sự chiến thắng đó, đã làm cho nỗi buồn nhớ trở nên trong sáng. Việt Bắc vẫn "một dạ khăng khăng đợi thuyền", đồng thời nhắc nhở khéo léo tấm "lòng son" của người cán bộ chiến sĩ. Xin đừng quên thời kỳ "kháng Nhật thuở còn Việt Minh", đừng quên cội nguồn cách mạng, đừng quên để chăm lo giữ gìn sự nghiệp cách mạng. "Mình đi, mình có nhớ mình Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa"

            Tóm lại, đoạn thơ trên là nỗi lòng thương nhớ, là lời tâm tình của Việt Bắc. Đoạn thơ trên tiêu biểu sắc thái phong cách Tố Hữu, giọng điệu thơ ngọt ngào truyền cảm, mang đậm phong vị ca dao dân gian, đề cập đến con người và cuộc sống kháng chiến. Thông qua hình tượng Việt Bắc, tác giả ca ngợi phẩm chất cách mạng cao đẹp của quân dân ta, khẳng định nghĩa tình thuỷ chung son sắt của người cán bộ, chiến sĩ đối với Việt Bắc.

2. Đoạn 2: Tâm tình người ra đi

  Khẳng định ân tình sắt son như nhất (4 câu đầu)

Ta với mình, mình với ta

Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh

Mình đi mình lại nhớ mình

Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu.

-           Ta với mình/mình với ta": ngắt nhịp 3/3, mình - ta lặp lại xoắn xúyt > quấn quýt, gắn bó, không thể chia cắt > Vận dụng sáng tạo ca dao (Mình với ta tuy hai mà một/ Ta với mình tuy một mà hai) > mượn tình cảm lứa đôi để diễn tả tình cảm cách mạng khăng khít bền chặt.

-           Khẳng định: lòng ta - sau trước - mặn mà- đinh ninh > nhịp 2/2/2/2, kết hợp với 2 từ láy> là lời khẳng định chắc nịch            

-           Mình đi mình lại nhớ mình:

•  Chữ "lại": thanh trắc ở âm vực trầm nhất > câu trả lời vừa là lời khẳng định, vừa là một nguyện  thề thiêng liêng với người ở lại, với chính mình.

•  Gắn với câu hỏi "Mình đi mình có nhớ mình" >  Sự vận dụng sáng tạo cấu trúc ca dao (Thuyền về có nhớ bến chăng/  Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền): không chỉ có một vế đơn độc-  vế hỏi vừa như nêu băn khoăn, vừa khẳng định lòng thuỷ chung của bến đợi mà còn có vế đáp để nói rõ sự chung thuỷ sắt son của người ra đi.

- Cách so sánh, cách đo đếm đậm màu sắc dân gian: Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu diễn tả được nghĩa tình cách mạng là vô hạn tận, như suối nguồn không bao giờ vơi cạn > khẳng định lòng thủy chung son sắt với cách mạng, với quê hương kháng chiến của người cán bộ vê xuôi.

™  Hiện thực Việt Bắc trong hồi tưởng:

-Khái quát: Sau khi khẳng định tấm lòng trước sau như nhất, người ra đi nhớ về một Việt Bắc ắp đầy kỉ niệm. Hình ảnh chiến khu càng sống động bao nhiêu càng cho thấy nỗi nhớ, tình cảm kẻ đi với người ở tươi mới bấy nhiêu. Cảnh sắc thiên nhiên, cuộc sống sinh hoạt, kỉ niệm kháng chiến lần lượt hiện hình nổi sắc.

Nhớ gì như nhớ người yêu

..................

Chày đêm nện cối đều đều suối xa

+ Nhớ cảnh Việt Bắc thanh bình:

Nhớ gì như nhớ người yêu

Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương

Nhớ từng bản khói cùng sương

Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.

Nhớ từng rừng nứa bờ tre

Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy.

- Hình ảnh so sánh như nhớ người yêu thể hiện sự gắn bó tha thiết trong tình cảm. Cách so sánh này mới lạ sáng tạo, chỉ với "như nhớ người yêu" mà người đọc có thể thấy hết được tình cảm của người ra đi.

- Hình ảnh gợi cảm đầy thi vị :bản khói cùng sương, bếp lửa, trăng lên đầu núi, rừng nứa bờ tre, Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê ... gợi nhớ những nét nhớ nhung tưởng như nhẹ nhàng mà lại hóa tha thiết, mãnh liệt.

+ Nhớ những ngày khó khăn gian khổ nhưng đậm đà tình nghĩa:

Ta đi ta nhớ những ngày

Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi...

Thương nhau chia củ sắn lùi

Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng

            Tuy thiếu thốn, gian khổ nhưng cảnh và người Việt Bắc đẹp và tình nghĩa chan hòa:

            Hình ảnh tượng trưng: "Chia củ sắn lùi, bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng" kết hợp với cách dùng từ cùng nghĩa "chia, sẻ, cùng" diễn tả được mối tình cảm "chia ngọt sẻ bùi" giữa nhân dân Việt Bắc và cán bộ cách mạng. Biết bao tình nghĩa sâu nặng trong "củ sắn", "bát cơm", "chăn sui"... mà người cán bộ cách mạng đã chịu ơn Việt Bắc. Đây là một hình ảnh đậm đà tình giai cấp.

+ Nhớ người mẹ Việt Bắc:

Nhớ người mẹ nắng cháy lưng.

Địu con lên  rẫy, bẻ từng bắp ngô

            Hình ảnh chọn lọc: Người mẹ nắng cháy lưng... gợi người đọc liên tưởng đến sự tần tảo chắt chiu, cần cù lao động của bà mẹ chiến sĩ trong kháng chiến đã đùm bọc, cưu mang chiến sĩ, cán bộ cách mạng. Đó là hình ảnh tiêu biểu cho cái đẹp, cái ân tình trong cuộc sống kháng chiến không thể phai nhòa trong kí ức của người về xuôi .

+ Nhớ cảnh sinh hoạt cơ quan và những âm thanh quen thuộc: Nhớ sao lớp học i tờ

Đồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan

Nhớ sao ngày tháng cơ quan

Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo.

Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều

Chày đêm nện cối đều đều suối xa...

Đoạn thơ còn dựng lại những khung cảnh quen thuộc với những hình ảnh và âm thanh hết sức tiêu biểu cho sinh hoạt trong kháng chiến Việt Bắc. Câu thơ đối ý mà nêu bật tinh thần lạc quan yêu đời của cán bộ, chiến sĩ cách mạng dù cuộc sống còn rất gian khổ, khó khăn :

"Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo"

Âm thanh "tiếng mõ rừng chiều" và "chày đêm nện cối đều đều suối xa" là âm thanh đặc trưng của Việt Bắc, phản ánh sinh hoạt yên ả, bình dị nơi núi rừng, gợi nhớ một thời đã qua.

3. Bức tranh tứ bình của Việt Bắc với bốn mùa Xuân - Hạ - Thu - Đông.

* Bức tranh tứ bình:

Ta về mình có nhớ ta

.... Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung

a. Đoạn này đ­ược xem là đặc sắc nhất Việt Bắc. 10 câu lục bát thu gọn cả sắc màu 4 mùa, cả âm thanh cuộc sống, cả thiên nhiên con ngư­ời Việt Bắc.

Ta về mình có nhớ ta

Ta về ta nhớ những hoa cùng ng­ười

Tố Hữu lựa chọn thật đắt hình ảnh đối xứng : hoa - người. Hoa là vẻ đẹp tinh tuý nhất của thiên nhiên, kết tinh từ h­ương đất sắc trời, t­ương xứng với con ng­ười là hoa của đất. Bởi vậy đoạn thơ đư­ợc cấu tạo: câu lục nói đến thiên nhiên, câu bát nói tới con ngư­ời. Nói đến hoa hiển hiện hình ng­ười, nói đến ngư­ời lại lấp lóa bóng hoa. Vẻ đẹp của thiên nhiên và con người hòa quyện với nhau tỏa sáng bức tranh thơ. Bốn cặp lục bát tạo thành bộ tứ bình đặc sắc.

b. Tr­ước hết đó là nỗi nhớ  mùa đông Việt Bắc - cái mùa đông thuở gặp gỡ ban đầu, đến hôm nay vẫn sáng bừng trong kí ức.

Rừng xanh hoa chuối đỏ t­ươi

Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lư­ng

Câu thơ truyền thẳng đến ngư­ời đọc cảm nhận về một màu xanh lặng lẽ, trầm tĩnh của rừng già. Cái màu xanh ngằn ngặt đầy sức sống ngay giữa mùa đông tháng giá. Cái màu xanh chứa chất bao sức mạnh bí ẩn "Nơi thiêng liêng rừng núi hóa anh hùng". Màu xanh núi rừng Việt Bắc:

Rừng giăng thành lũy thép dày

Rừng che bộ đội rừng vây quân thù

Trên cái nền xanh ấy nở bừng bông hoa chuối đỏ tươi, thắp sáng cả cánh rừng đại ngàn làm ấm cả không gian, ấm cả lòng ngư­ời. Hai chữ "đỏ tư­ơi" không chỉ là từ ngữ chỉ sắc màu, mà chứa đựng cả một sự bừng thức, một khám phá ngỡ ngàng, một rung động rất thi nhân.

Có thể thấy cái màu đỏ trong câu thơ Tố Hữu như­ điểm sáng hội tụ sức mạnh tiềm tàng chốn rừng xanh đại ngàn, lấp lóa một niềm tin rất thật, rất đẹp. Trên cái phông nền hùng vĩ và thơ mộng ấy, hình ảnh con ngư­ời xuất hiện thật vững chãi, tự tin. Đó là vẻ đẹp của con người làm chủ núi rừng, đứng trên đỉnh trời cùng tỏa sáng với thiên nhiên, "Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng".

c. Cùng với sự chuyển mùa (mùa đông sang mùa xuân) là sự chuyển màu trong bức tranh thơ: Màu xanh trầm tĩnh của rừng già chuyển sang màu trắng tinh khôi của hoa mơ khi mùa xuân đến. Cả không gian sáng bừng lên sắc trắng của rừng mơ lúc sang xuân.
Ngày xuân mơ nở trắng rừng

Trắng cả không gian "trắng rừng", trắng cả thời gian "ngày xuân". Hình ảnh này khá quen thuộc trong thơ Tố Hữu, hình ảnh rừng mơ sắc trắng cũng đi vào tr­ờng ca Theo chân Bác gợi tả mùa xuân rất đặc tr­ưng của Việt Bắc:

Ôi sáng xuân nay xuân 41

Trắng rừng biên giới nở hoa mơ

Cái sắc trắng tinh khôi bừng nở mỗi độ xuân về làm ngơ ngẩn ng­ười ở, thẫn thờ kẻ đi. Người đi không thể không nhớ sắc trắng hoa mơ nơi xuân rừng Việt Bắc, và lại càng không thể không nhớ đến con ng­ười Việt Bắc, cần cù uyển chuyển trong vũ điệu nhịp nhàng của công việc lao động thầm lặng mà cần mẫn tài hoa:

Nhớ ng­ười đan nón chuốt từng sợi giang

Copyright Phandanhhieu, Bui Thi Xuan high School  On thi TN THPT

Hai chữ "chuốt từng" gợi lên dáng vẻ cẩn trọng tài hoa, d­ường như­ bao yêu thư­ơng đợi chờ mong ngóng đã gửi vào từng sợi nhớ, sợi thư­ơng kết nên vành nón. Cảnh thì mơ mộng, tình thì đ­ợm nồng. Hai câu thơ lư­u giữ lại cả khí xuân, sắc xuân, tình xuân vậy. Tài tình như­ thế thật hiếm thấy.

d. Bức tranh thơ thứ 3 chuyển qua rừng phách - một loại cây rất thư­ờng gặp ở Việt Bắc hơn bất cứ nơi đâu. Chọn phách cho cảnh hè là sự lựa chọn đặc sắc, bởi trong rừng phách nghe tiếng ve ran, ngắm sắc phấn vàng giữa những hàng cây cao vút, ta như­ cảm thấy sự hiện diện rõ rệt của mùa hè. Thơ viết mùa hè hay xưa nay hiếm, nên ta càng thêm quí câu thơ của Tố Hữu:

Ve kêu rừng phách đổ vàng

Nhớ cô em gái hái măng một mình

Ở đây có sự chuyển đổi cảm giác rất thú vị: Tiếng ve kêu - ấn t­ượng của thính giác đã đem lại ấn t­ượng thị giác thật mạnh. Sự chuyển mùa được biểu hiện qua sự chuyển màu trên thảo mộc cỏ cây: Những ngày cuối xuân, cả rừng phách còn là màu xanh, những nụ hoa còn náu kín trong kẽ lá, khi tiếng ve đầu tiên của mùa hè cất lên, những nụ hoa nhất tề đồng loạt trổ bông, đồng loạt tung phấn, cả rừng phách lai láng sắc vàng. Chữ đổ đ­ược dùng thật chính xác, tinh tế. Nó vừa gợi sự biến chuyển mau lẹ của sắc màu, vừa diễn tả tài tình từng đợt mư­a hoa rừng phách khi có ngọn gió thoảng qua, vừa thể hiện chính xác khoảng khắc hè sang. Tác giả sử dụng nghệ thuật âm thanh để gọi dậy màu sắc, dùng không gian để miêu tả thời gian. Bởi vậy cảnh thực mà vô cùng huyền ảo.

Trên nền cảnh ấy, hình ảnh cô em gái hiện lên xiết bao thơ mộng, lãng mạn: "Cô em gái hái măng một mình" nghe ngọt ngào thân th­ơng trìu mến. Nhớ về em, là nhớ cả một không gian đầy h­ương sắc. Ng­ười em gái trong công việc lao động hàng ngày giản dị: hái măng. Vẻ đẹp lãng mạn thơ mộng ấy còn đư­ợc tô đậm ở hai chữ "một mình" nghe cứ xao xuyến lạ, như bộc lộ thầm kín niềm mến thương của tác giả. Nhớ về em, nhớ về một mùa hoa...

e. Khép lại bộ tứ bình là cảnh mùa thu. Đây là cảnh đêm thật phù hợp với khúc hát giao duyên trong thời điểm chia tay giã bạn. Hình ảnh ánh trăng dọi qua kẽ lá dệt lên mặt đất một thảm hoa trăng lung linh huyền ảo.

Dư­ới ánh trăng thu, tiếng hát ân tình càng làm cho cảnh thêm ấm áp tình ng­ười. Đại từ phiếm chỉ "ai" đã gộp chung ngư­ời hát đối đáp với mình làm một, tạo một hòa âm tâm hồn đầy bâng khuâng l­u luyến giữa kẻ ở, ng­ời đi, giữa con ngư­ời và thiên nhiên.

g. Mỗi câu lục bát làm thành một bức tranh trong bộ tứ bình. Mỗi bức tranh có vẻ đẹp riêng hòa kết bên nhau tạo vẻ đẹp chung. Đó là sự hài hòa giữa âm thanh, màu sắc... Tiếng ve của mùa hè, tiếng hát của đêm thu, màu xanh của rừng già, sắc đỏ của hoa chuối, trắng tinh khôi của rừng mơ, vàng ửng của hoa phách... Trên cái nền thiên nhiên ấy, hình ảnh con ngư­ời hiện lên thật bình dị, thơ mộng trong công việc lao động hàng ngày.

4. Việt Bắc đánh giặc, VB anh hùng

Phân tích đoạn thơ " Nhớ khi... Nhị Hà"

Thiên nhiên VB không chỉ được cảm nhận bởi vẻ đẹp của 4 mùa mà thiên nhiên còn là một nhân tố đắc lực góp phần làm nên cuộc kháng chiến toàn thắng.

Câu thơ mở đầu gợi lên một bối cảnh chiến tranh tao loạn " Nhớ khi giặc đến giặc lùng". "Giặc đến" là thời điểm nguy kịch, "giặc lùng" là cảnh nguy biến, hoảng loạn, tan tác, loạn lạc. Câu thơ làm ta liên tưởng tới cảnh chạy loạn trong thơ Nguyễn Đình Chiểu:

Bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy

Mất tổ đàn chim dáo dác bay

Hay cảnh tang thương trong thơ Hoàng Cầm:

Quê hương ta từ ngày khủng khiếp

Giặc kéo lên ngùn ngụt lửa hung tàn

Ruộng ta khô

Nhà ta cháy

Chó ngộ một đàn

Lưỡi dài lê sắc máu

Kiệt cùng ngõ thẳm bờ hoang

Trước cảnh đau thương ấy rừng núi đã vào cuộc chiến đấu. Với thủ pháp nghệ thuật nhân hóa, TH đã dựng nên một rừng núi kiêu hùng cùng ta đánh giặc:

Rừng cây núi đá ta cùng đánh tây


ĐỀ RA: Bình giảng bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc

BÀI LÀM

Nhắc đến Việt Bắc là nhắc đến cội nguồn của cách mạng, nhắc đến mảnh đất trung du nghèo khó mà nặng nghĩa nặng tình - nơi đã in sâu bao kỉ niệm của một thời kì cách mạng gian khổ nhưng hào hùng sôi nổi khiến  khi chia xa, lòng ta sao khỏi xuyến xao bồi hồi. Và cứ thế sợi nhớ, sợi thương cứ thế mà đan cài xoắn xuýt như tiếng gọi "Ta - mình" của đôi lứa yêu nhau. Đúng như lời thơ Chế Lan Viên từng viết " Khi ta ở đất chỉ là nơi ở/ Khi ta đi đất bỗng hóa tâm hồn". Vâng! Việt Bắc đã hóa tâm hồn dào dạt nghĩa yêu thương trong thơ Tố Hữu với những lời thơ như tiếng nhạc ngân nga, với cảnh với người ăm ắp những kỉ niệm ân tình có bao giờ quên được.


                  "Ta về mình có nhớ ta

                                                Ta về, ta nhớ những hoa cùng người

                                                Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi

                                                Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng

                                                Ngày xuân mơ nở trắng rừng

                                                Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang

                                                Ve keo rừng phách đổ vàng

                                                Nhớ cô em gái hái măng một mình

                                                Rừng thu trăng rọi hòa bình
                                    Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung"

Tố Hữu là nhà thơ trữ tình chính trị, thơ ông diễn tả những tình cảm cách mạng thật nhẹ nhàng mà cũng thật đậm sâu. Việt Bắc là đỉnh cao của thơ Tố Hữu nói riêng, của thơ ca kháng chiến chống Pháp nói chung. Bài thơ được viết vào tháng 10/1954, khi Trung ương Đảng và Chính phủ, Bác Hồ và cán bộ kháng chiến từ giã "Thủ đô gió ngàn" về với "Thủ đô Hoa vàng nắng Ba Đình". Cả bài thơ là một niềm hoài niệm nhớ thương tuôn chảy về những năm tháng ở chiến khu Việt Bắc rất gian khổ nhưng vui tươi hào hùng. Nhưng có lẽ để lại ấn tượng sâu đậm nhất trong bài ca Việt Bắc có lẽ là đoạn thơ về bức tranh tứ bình với bốn mùa xuân - hạ - thu - đông.

            Mở đầu đoạn thơ là hai câu thơ giới thiệu nội dung bao quát cảm xúc chung của đoạn thơ:

"Ta về mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người"
Câu thơ đầu tiên sử dụng câu hỏi tu từ "mình có nhớ ta", câu thơ thứ hai là tự trả lời, điệp từ "ta" lặp lại bốn lần cùng với âm "a" là âm mở khiến câu thơ mang âm hưởng ngân xa, tha thiết nồng nàn. Với Tố Hữu, người cán bộ ra đi không chỉ nhớ đến những ngày tháng gian khổ "bát cơm sẻ nửa chăn sui đắp cùng", mà còn nhớ đến vẻ đẹp đáng yêu của Hoa cùng Người. Ở đây, hoa tượng trưng cho vẻ đẹp thiên nhiên Việt Bắc. Còn con người là con người Việt Bắc với tấm áo chàm nghèo khổ nhưng đậm đà lòng son. Hoa và Người quấn quýt với nhau trong vẻ đẹp hài hòa đằm thắm để tạo nên cái nét riêng biệt, độc đáo của vùng đất này.Chính điều ấy đã tạo nên cái cấu trúc đặc sắc  cho đoạn thơ.Trong bốn cặp lục bát còn lại câu sáu dành  cho nhớ hoa, nhớ cảnh, câu tám dành cho nhớ người.Cảnh và Người trong mỗi câu lại có những sắc thái đặc điểm riêng thật hấp dẫn.
Nhắc đến mùa đông ta thường nhớ đến cái lạnh thấu xương da, cái ảm đạm của những ngày mưa phùn gió bấc, cái buồn bã của khí trời u uất. Nhưng đến với Việt Bắc trong  thơ Tố Hữu thì thật lạ. Mùa đông bỗng ấm áp lạ thường:
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi

Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng


[Image]
   Điểm xuyết trên cái nền màu xanh bát ngát bao la của cánh rừng, là màu hoa chuối đỏ tươi đang nở rộ lung linh dưới ánh nắng mặt trời. Từ xa trông tới, bông hoa như những bó đuốc thắp sáng rực tạo nên một bức tranh với đường nét, màu sắc vừa đối lập, vừa hài hòa,vừa cổ điển vừa hiện đại.Cái màu "đỏ tươi" - gam màu nóng của bông chuối nổi lên giữa màu xanh bát ngát của núi rừng, làm cho thiên nhiên Việt Bắc trở nên tươi sáng, ấm áp và như tiềm ẩn một sức sống, xua đi cái hoang sơ lạnh giá hiu hắt vốn có của núi rừng. Câu thơ làm ta liên tưởng đến màu đỏ của hoa lựu trong thơ Nguyễn Trãi:

Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ

Hồng liên trì đã tịn mùi hương

Từ liên tưởng ấy ta thấy, mùa đông trong thơ Tố Hữu cũng lan tỏa hơi ấm của mùa hè chứ không lạnh lẽo hoang sơ bởi màu đỏ của hoa chuối cũng như đang phun trào từ giữa màu xanh của núi rừng.

Cùng hiện lên với cái lung linh của hoa chuối ấy là con người của vùng chiến khu lên núi làm nương, phát rẫy sản xuất ra nhiều lúa khoai cung cấp cho kháng chiến "Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng" .Trước thiên nhiên bao la, con người dường như càng trở nên kỳ vĩ, hùng tráng  hơn.Ở đây nhà thơ không khắc họa gương mặt mà chớp lấy một nét thần tình rực sáng nhất. Đó là ánh mặt trời chớp lóe trên lưỡi dao rừng ở ngang lưng. Ở đây câu thơ vừa mang ngôn ngữ thơ nhưng lại vừa mang ngôn ngữ của nghệ thuật nhiếp ảnh. Con người như một tụ điểm của ánh sáng. Con người ấy cũng đã xuất hiện ở một vị trí, một tư thế đẹp nhất - " đèo cao". Con người đang chiếm lĩnh đỉnh cao, chiếm lĩnh núi rừng, tự do " Núi rừng đây là của chúng ta/ Trời xanh đây là của chúng ta". Đấy là cái tư thế làm chủ đầy kiêu hãnh và vững chãi: Giữa núi và nắng, giữa trời cao bao la và rừng xanh mênh mang. Con người ấy đã trở thành linh hồn của bức tranh mùa đông Việt Bắc.

            Đông qua, xuân lại tới. Nhắc đến mùa xuân ta liên tưởng ngay đến sức sống mới của cỏ cây, hoa lá, của trăm loài đang cựa mình thức dậy sau mùa đông dài. Mùa xuân Việt bắc cũng vậy:

Ngày xuân mơ nở trắng rừng

                 Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang


[Image]
   Bao trùm lên cảnh vật mùa xuân là màu trắng dịu dàng, trong trẻo, tinh khiết của hoa mơ nở khắp rừng: "Ngày xuân mơ nở trắng rừng". "trắng rừng" được viết theo phép đảo ngữ và từ "trắng" được dùng như động từ có tác dụng nhấn mạnh vào màu sắc, màu trắng dường như lấn át tất cả mọi màu xanh của lá, và làm bừng sáng cả khu rừng bởi sắc trắng mơ màng, bâng khuâng, dịu mát của hoa mơ . Động từ "nở" làm sức sống mùa xuân lan tỏa và tràn trề nhựa sống. Đây không phải là lần đầu tiên Tố Hữu viết về màu trắng ấy, năm 1941 Việt Bắc cũng đón bác Hồ trong màu sắc hoa mơ:

Ôi sáng xuân nay xuân bốn mốt

Trắng rừng biên giới nở hoa mơ

Bác về im lặng con chim hót

Thánh thót bờ lau vui ngẩn ngơ

Mùa xuân càng trở nên tươi tắn hơn nữa bởi sự xuất hiện của hình ảnh con người với hoạt động " chuốt từng sợi giang". Con người đẹp tự nhiên trong những công việc hằng ngày. Từ "chuốt" và hình ảnh thơ đã nói lên được bàn tay của con người lao động: cần mẫn, tỉ mẩn, khéo léo, tài hoa, nhanh nhẹn, chăm chút đó cũng chính là  phẩm chất tần tảo của con người Việt Bắc.

            Mùa hè đến trong âm thanh rộn rã của tiếng ve, bức tranh Việt Bắc lại sống động hơn bao giờ hết:

Ve kêu rừng phách đổ vàng

Nhớ cô em gái hái măng một mình



   Thời điểm ve kêu cũng là thời điểm rừng phách đổ vàng. Động từ "đổ" là động từ mạnh, diễn tả sự vàng lên đồng loạt của hoa phách đầu hè. Màu của cây phách đổ vàng cả suối ngàn dường như làm cho ánh nắng của mùa hè và cả tiếng ve kêu râm ran kia nữa cũng trở nên óng vàng ra. Đây là một bức tranh sơn mài được vẽ lên bằng hoài niệm, nên lung linh ánh sáng, màu sắc và rộn rã âm thanh.Tố Hữu không chỉ có biệt tài trong việc miêu tả vẻ đẹp riêng của từng mùa, mà còn có tài trong việc miêu tả sự vận động đổi thay của thời gian và cảnh vật. Chỉ trong một câu thơ trên mà ta thấy được cả thời gian luân chuyển sống động: tiếng ve kêu báo hiệu mùa hè đến và cây Phách ngả sang màu vàng rực rỡ. Đây chính là một biểu hiện đặc sắc của tính dân tộc.

            Hiện lên trong cái thiên nhiên óng vàng và rộn rã ấy, là hình ảnh cô gái áo chàm cần mẫn đi hái búp măng rừng cung cấp cho bộ đội kháng chiến: "Nhớ cô em gái hái măng một mình". Hái măng một mình mà không gợi lên ấn tượng về sự cô đơn, hiu hắt như bóng dáng của người sơn nữ trong thơ xưa; trái lại rất trữ tình, thơ mộng, gần gũi thân thương tha thiết. Hình ảnh thơ cũng gợi lên được vẻ đẹp chịu khó chịu thương của cô gái. Đằng sau đó, ẩn chứa biết bao niềm cảm thông, trân trọng của tác giả.

Thu sang, khung cảnh núi rừng chiến khu như được tắm trong ánh trăng xanh huyền ảo lung lunh dịu mát:

[Image]


                                                "Rừng thu trăng rọi hòa bình
                               Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung"

Không gian bao la tràn ngập ánh trăng, đó là ánh trăng của tự do, của hòa bình dọi sáng niềm vui lên từng núi rừng, từng bản làng Việt Bắc. Ta cũng từng biết đến mùa thu đầy ánh trăng trong thơ của Bác khi còn ở chiến khu:

Trăng vào cửa sổ đòi thơ

Việc quân đang bận xin chờ hôm sau

Chuông lầu chợt tỉnh giấc thu

Ấy tin thắng trận liên khu báo về

            Ở đây không có tiếng chuông báo thắng trận nhưng lại vang lên tiếng hát. Đó là tiếng hát trong trẻo của đồng bào dân tộc, là tiếng hát nhắc nhở thủy chung ân tình. Đây cũng chính là tiếng hát của Việt Bắc của núi rừng của tình cảm mười lăm năm gắn bó thiết tha mặn nồng.

Vâng! Bức tranh mùa thu Việt Bắc đã làm hoàn chỉnh bức tranh tuyệt mỹ của núi rừng và khép lại đoạn thơ bằng tiếng hát "ân tình thủy chung"  gợi cho người về và cả người đọc những rung động sâu xa của tình yêu quê hương đất nước.

KẾT LUẬN

Với những nét chấm phá đơn sơ giản dị, vừa cổ điển vừa hiện đại, đoạn thơ trên của Tố Hữu đã làm nổi bật được bức tranh cảnh và người qua bốn mùa của chiến khu Việt Bắc. Cảnh và người hòa hợp với nhau tô điểm cho nhau, làm cho bức tranh trở nên gần gũi thân quen, sống động và có hồn hơn. Tất cả đã tan chảy thành nỗi nhớ nhung quyến luyến thiết tha trong tâm hồn người cán bộ về xuôi.



...........................The ................................... end .......HN ngày 06/07/2011

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#lovewindy