van hoa tay au

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Văn hoá Tây Âu thời Phục

hưng

Văn hoá Tây Âu thời

phục hưng

Văn hoá Tây Âu thế kỉ V -

X dựa trên nền tảng nền

kinh tế tự cung tự cấp, sự

giao lưu trao đổi rất hạn

chế, văn hoá vì vậy cũng

phát triển không đáng

kể.

Tới thế kỉ XIV, với sự phát

triển kinh tế công

thương ở các thành thị,

quan hệ sản xuất tư bản

chủ nghĩa dần dần hình

thành và ngày càng lớn

mạnh. Các nhà tư tưởng

của giai cấp tư sản không

còn chịu chấp nhận

những giáo lí phong kiến

lỗi thời, họ vận động khôi

phục lại sự huy hoàng

của văn hoá Tây Âu thời

cổ đại. Họ tìm thấy trong

nền văn hoá cổ đại

những yếu tố phù hợp

với mình, có lợi cho mình

để đấu tranh chống lại

những trói buộc của nền

văn hoá trung cổ .

Phong trào Văn hoá Phục

hưng xuất hiện đầu tiên

ở Ý, vì ở đây thế kỉ XIV đã

xuất hiện các thành thị tự

do như những quốc gia

nhỏ. Quan hệ sản xuất tư

bản đã chiếm địa vị chi

phối đời sống văn hoá. Ý

lại là trung tâm của đế

quốc Rôma cổ đại, vì vậy

ở đây còn giữ lại nhiều di

sản văn hoá cổ đại của Hy

Lạp - Rôma. Hơn ai hết,

các nhà văn hoá Ý có điều

kiện khôi phục lại nền

văn hoá trước tiên khi có

điều kiện. Từ Ý, phong

trào lan sang Anh, Pháp,

Tây Ban Nha, Đức...

Tầng lớp giàu có ở các

thành thị muốn thể hiện

sự giàu sang của mình

qua các dinh thự và các

tác phẩm nghệ thuật,

điều đó cũng tạo điều

kiện cho các nhà văn hoá

thể hiện tài năng.

Những thành tựu tiêu

biểu:

Về văn học:Cả ba thể loại,

thơ, kịch, tiểu thuyết

trong nền văn học Phục

hưng đều có những

thành tựu quan trọng.

Về thơ, có hai đại biểu là

Đantê ( 1265-1324 ) và

Pêtracca ( 1304 - 1374 ).

Đantê là người mở đầu

phong trào Văn hoá Phục

hưng ở Ý. Ông xuất thân

trong một gia đình kị sĩ

suy tàn ở Plorencia. Ông

đả kích các thầy tu lúc đó

và cổ vũ cho sự thống

nhất của đất nước Ý. Tác

phẩm tiêu biểu của ông

la Thần khúc và Cuộc đời

mới.

Pêtracca là một nhà thơ

trữ tình Ý. Trong tác

phẩm của mình, ông ca

ngợi tình yêu lí tưởng, ca

ngợi sắc đẹp, ca ngợi sự

tự do tư tưởng và chống

lại sự gò bó kinh điển.

Về tiểu thuyết, có hai nhà

văn nổi bật là Bôcaxiô

( Boccacio ), Rabơle ( F.

Rabelais ) và Xecvantec

(Cervantes). Boccacio là

một nhà văn Ý, tác phẩm

nổi tiếng của ông là tập

truyện Mười ngày. Qua

tác phẩm Mười ngày, ông

chế diễu thói đạo đức

giả, công kích cuộc sống

khổ hạnh, cấm dục vì cho

đó là trái tự nhiên. Ông

cổ vũ cho cuộc sống vui

vẻ, biết tận hưởng mọi

lạc thú của cuộc sống.

F. Rabơle là một nhà văn

Pháp, ông có hiểu biết

rộng rãi cả về khoa học

tự nhiên, văn học, triết

học và luật pháp. Tác

phẩm trào phúng nổi

tiếng của ông là cuộc đời

không giá trị của

Gargantua và Pantagruen.

Migel de Cervantes là một

nhà văn lớn của Tây Ban

Nha. Tác phẩm nổi tiếng

của ông là Don Quyjote.

Thông qua hình ảnh

chàng hiệp sĩ lỗi thời Don

Quyjote, Cervantes ám chỉ

tấng lớp quí tộc Tây Ban

Nha với những quan

niệm danh dự cổ hủ và vẽ

nên bức tranh một nước

Tây Ban Nha quân chủ

đang bị chìm đắm trong

vũng lầy phong kiến lạc

hậu.

Về kịch: Nhà viết kịch vĩ

đại thời phục hưng là

một người Anh có tên là

W. Sếchpia. (William

Shakespeare ). Ông đã

viết tới 36 vở bi, hài kịch.

Những vở kịch nổi tiếng

ảnh hưởng tới nhiều

nước trên thế giới như

Rômêô và Giuyliet, Hamlet,

Vua Lia, Ôtenlô...

Hội hoạ, điêu khắc: Nhà

danh hoạ khổng lồ thời

Phục hưng là Lêôna đơ

Vanhxi ( Leonardo da

Vinci), ông là một người

Ý. Ông không những là

một hoạ sĩ thiên tài mà

còn là một con người

thông thái trên nhiều lĩnh

vực. Ông đã để lại những

bức hoạ nổi tiếng như

Bữa tiệc cuối cùng , Nàng

Giôcôngđơ ( La Joconde ),

Đức mẹ đồng trinh trong

hang đá. Từ thế kỉ XV,

ông đã đưa ra ý tưởng sử

dụng cánh quạt đẩy nước

cho thuyền thay mái

chèo; vẽ ra nguyên tắc

hoạt động của máy bay

trực thăng, dù thoát

hiểm...nhưng những kĩ

thuật hồi đó không cho

phép ông thực hiện

những ý tưởng của mình.

Mikenlăngiơ

(Michelangelo) ra đời ở Ý

(1475-1564). Ông là một

danh hoạ, một nhà điêu

khắc nổi tiếng, đồng thời

còn là một kiến trúc sư,

một thi sĩ. Tác phẩm tiêu

biểu của ông là bức hoạ

Sáng tạo thế giới vẽ trên

trần nhà thờ Xixtin gồm

có 343 nhân vật. Còn bức

Cuộc phán xét cuối cùng

thì được vẽ trên tường

nhà thờ Xixtin. Về điêu

khắc, ông để lại nhiều

bức tượng tiêu biểu như

pho tượng Môidơ, Ngưòi

nô lệ bị trói, đặc biệt là

pho tượng Đavid. Pho

tượng Đavid của

Mikenlăngiơ được tạc

trên đá cẩm thạch cao tới

5,3 mét. Đavid ở đây

không phải là một chú bé

chăn cừu mà là một

chàng thanh niên đang

độ tuổi mười tám đôi

mươi, đang độ tuổi sung

sức, với cơ bắp khoẻ

mạnh, vầng trán thông

minh, ánh mắt tự tin, sẵn

sàng đương đầu với mọi

khó khăn thử thách.

Mượn hình tượng Đavid,

Mikenlăngiơ thể hiện sức

sống đang lên của một

lớp người đại diện cho

một thời đại mới, thời đại

cần những con người

khổng lồ và đã sản sinh

ra những con người

khổng lồ .

Nghệ thuật thời Phục

hưng còn có sự đóng

góp của những nghệ sĩ

nổi tiếng khác như

Raphaen ( Raffaello ),

Giôtô (Giotto ), Bôtixeli

( Botticelli )...

Khoa học tự nhiên: Thời

Phục hưng còn có sự

đóng góp của nhiều nhà

khoa học dũng cảm, dám

chống lại những suy nghĩ

sai lầm nghìn đời đã

được giới quyền lực đảm

bảo , thừa nhận.

N. Côpecnic ( Nikolai

Kopernik - 1473 - 1543 )

là một giáo sĩ người Ba

Lan. Qua nhiều năm

nghiên cứu, ông đã đi tới

một kết luận đáng sợ hồi

đó là: Trái đất quay xung

quanh Mặt trời chứ

không phải là Mặt trời

quay xung quanh Trái

đất . Thuyết Mặt trời là

trung tâm đó của ông vậy

là trái hẳn với thuyết Trái

đất là trung tâm đã được

nhà thờ công nhận hàng

nghìn năm. Điều phát

hiện này được ông trình

bày trong tác phẩm Bàn

về sự vận hành của các

thiên thể. Nhưng sợ bị

kết tội, ông chưa dám

công bố. Mãi tới khi cảm

thấy sắp từ giã cõi đời

ông mới công bố.

Gioocđanô Brunô

( Giordano Bruno -

1548-1600 ), là một giáo

sĩ trẻ người Ý. Ông tích

cực hưởng ứng học

thuyết của Côpecnic khi

giáo hội cấm lưu hành.

Không những thế, ông

còn phát triển thêm tư

tưởng của Côpecnic. Ông

cho rằng Mặt trời không

phải là trung tâm của vũ

trụ mà chỉ là trung tâm

của Thái dương hệ.

Trong vũ trụ, bên cạnh

Mặt trời còn có nhiều hệ

mặt trời khác. Đương

nhiên thời đó, ông bị đưa

ra toà án tôn giáo. Toà án

hồi đó buộc ông phải

công bố lại là đã bị quỉ

ám thì sẽ tha tội chết

nhưng ông thà chết chứ

không chịu nói trái với

niềm tin của mình. Cuối

cùng, ông đã bị thiêu

trên dàn lửa.

Một nhà thiên văn học

người Ý khác là Galilê

( Gallileo Gallilei -

1564-1642 ) tiếp tục phát

triển quan điểm của

Côpecnic và Brunô. Ông là

người đầu tiên dùng kính

viễn vọng phóng to gấp

30 lần để quan sát bầu

trời. Ông đã chững minh

là Mặt trăng có bề mặt gồ

ghề chứ không phải là

nhẵn bóng; Thiên hà là

do vô số vì sao tạo thành.

Ông đã giải thích hiện

tượng sao chổi. Ông là

cha đẻ của khoa học thực

nghiêm, phát hiện ra

định luật rơi tự do và dao

động con lắc.

Tiến xa hơn, nhà thiên

văn học người Đức là

Kêplơ ( Kepler -

1571-1630 ) đã phát

minh ra ba qui luật quan

trọng về sự vận hành của

các hành tinh xung

quanh Mặt trời. Ông đã

chứng minh rằng quĩ đạo

chuyển động của các

hành tinh không phải là

hình tròn mà là hình elíp,

càng đến gần Mặt trời,

vận tốc chuyển động

càng tăng lên và càng xa

Mặt trời thì vận tốc

chuyển động càng chậm

lại.

Triết học cũng có những

bước phát triển mới.

Người mở đầu cho

trường phái triết học duy

vật thời Phục hưng là một

người Anh, F. Baicơn

( Francis Bacon - 1561-

1626 ). Ông đề cao triết

học duy vật Hy Lạp cổ đại,

phê phán triết học duy

tâm và triết học kinh viện.

Nội dung tư tưởng:

Phong trào Văn hoá Phục

hưng tuy danh nghĩa là

phục hưng lại sự huy

hoàng của văn hoá Hy-La

cổ đại, nó có tiếp thu

những yếu tố từ nền văn

hoá Hy-La cổ đại, nhưng

thực chất đây là một nền

văn hoá hoàn toàn mới,

dựa trên nền tảng kinh

tế-xã hội mới và hệ tư

tưởng của giai cấp tư sản

đang lên.

Qua các tác phẩm của

mình, các nhà văn hoá

thời Phục hưng đã thể

hiện những tư tưởng

chính sau:

• Phong trào văn hoá

Phục hưng chống lại

những quan niệm không

hợp thời của giáo hội lúc

bấy giờ cùng tầng lớp quí

tộc phong kiến. Nhiều tác

phẩm văn hoá đã công

khai đả kích, châm biếm

thói đạo đức giả, dốt nát

của tầng lớp quí tộc,

phong kiến. Các nhà văn

hoá thời Phục hưng đấu

tranh đòi văn hoá phải

không bị kiểm soát bởi

nhà thờ.

• Nhiều tác phẩm công

khai ca ngợi quyền được

sống tự do phóng

khoáng, quyền được

hưởng thụ. Họ chủ

trương văn hoá phát

triển phải lấy mục đích vì

hạnh phúc con người;

đối tượng ca ngợi phải là

con người... Có thể nói tư

tưởng chủ đạo là chủ

nghĩa nhân văn

(humannisme).

• Phong trào Văn hoá

Phục hưng còn ca ngợi

tình yêu tổ quốc, tinh

thần dân tộc và ý thức

các tác phẩm văn hoá

phải hướng về phục vụ

tầng lớp bình dân. Vì vậy

các tác phẩm văn hoá giai

đoạn này phần nhiều

không còn sử dụng chữ

Latin mà sử dụng chữ

viết riêng của mỗi dân

tộc.

• Nhiều nhà văn hoá thời

Phục hưng đã dũng cảm

chống lại những quan

điểm phản khoa học của

những thế lực cầm quyền

đương thời , bất chấp sự

đe doạ của những hình

phạt, kể cả dàn thiêu. Các

tác phẩm của họ đã

giáng những đòn quyết

liệt vào triết học kinh viện

và chủ nghĩa duy tâm

đương thời, làm lung lay

quyền uy của các tăng lữ.

• Phong trào Văn hoá

Phục hưng là tấm gương

phản chiếu sức sống

mãnh liệt của xã hội

phương Tây lúc đó và đã

đạt được nhiều thành

tựu rực rỡ.

Ý nghĩa:

Phong trào Văn hoá Phục

hưng là một cuộc cách

mạng trên mặt trận văn

hoá, tư tưởng của giai

cấp tư sản đang lên

chống lại xã hội phong

kiến, để chuẩn bị mở

đường cho một cuộc

cách mạng xã hội.

Phong trào này đã đặt cơ

sở, mở đường cho văn

hoá Tây Âu phát triển

trong những thế kỉ tiếp

theo sau.

Phong trào Văn hoá Phục

hưng còn có nhiều đóng

góp quan trọng vào kho

tàng văn hoá nhân loại.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro