Hạnh phúc của một tang gia

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

6 Dạng văn xuôi QUAN TRỌNG dành cho các bạn khối D.C.H môn ngữ văn tiếp theo.

(Thầy : TRẦN MINH TÂY)

P/S CHÚ Ý : SẼ RẤT ĐAU MẮT KHI ĐỌC HẾT BÀI NÀY , NHƯNG NÓ LÀ ^ DẠNG RẤT QUAN TRỌNG TRONG PHẦN VĂN XUÔI.

VÌ THẾ CHO NÊN CÁC EM CỐ GẮNG NHÉ ^^!

ĐÂY LÀ BÀI VĂN HOÀN CHỈNH , CÁC EM THAM KHẢO NHÉ.
Đề bài: Nghệ thuật trào phúng trong tác phẩm : “ Hạnh phúc của một tang gia”
(Viết bởi Thầy Nguyễn Quỳnh Anh – 12 Anh THPT chuyên Nguyễn Trãi Hải Dương)

Bài làm

Vũ Trọng Phụng được tôn vinh là “ ông vua phóng sự đất Bắc” và mỗi tác phẩm của ông được ví như một quả bom ném vào cái xã hội lố lăng, ô trọc của Việt Nam những năm đầu thế kỉ XX. Tiêu biểu cho nghệ thuật trào lộng, châm biếm sâu cay của ông có thể kể đến tiểu thuyết “ Số đỏ” – cuốn tiểu thuyết mà mỗi chương truyện sinh động, sắc sảo, nhạy bén như một thiên phóng sự. Đoạn trích “ Hạnh phúc của một tang gia” ( thuộc chương XV của tác phảm “Số đỏ”) là đoạn trích tiêu biểu cho nghệ thuật trào phúng sắc sảo của Vũ Trọng Phụng trong tác phẩm này

“ Nghệ thuật trào phúng” là nghệ thuật tạo tiếng cười mang ý nghĩa đả kích, lên án, vạch trần bản chất xấu xa của đối tượng Tiếng cười chỉ xuất hiện khi phát hiện ra những mâu thuẫn trái với tự nhiên rồi phóng đại lên để gây cười. Trong đoạn trích, nghệ thuật trào phúng được thể hiện qua cách xây dựng mâu thuẫn trào phúng, tình huống trào phúng, mô tả chân dung trào phúng, cảnh trào phúng và giọng điệu, ngôn từ

Mâu thuẫn trào phúng được thể hiện trước hết ở nhan đề chứa đựng nghịch lí : “ Hạnh phúc của một tang gia”. “Hạnh phúc” là trạng thái thỏa mãn, thoải mái về tinh thần khi được đáp ứng một nhu cầu nào đó trong cuộc sống. “ Tang gia” là gia đình có tang, có người thân mất đi, nghĩa là có sự mất mát về người. Theo Vũ Trọng Phụng, tang gia tuy có mất mát về người ( cụ cố Tổ) song bù lại nó đem lại rất nhiều lợi lộc về tiền bạc và danh tiếng. Cách lí giải này sẽ là lời hé mở về mở bản chất của tầng lớp thượng lưu trong xã hội: chỉ quan tâm đến danh lợi mà bất chấp đạo lí tình nghĩa. Không dừng lại ở nhan đề, mâu thuẫn trào phúng sẽ được triển khai trong toàn bộ chương truyện và được tăng dần về mức độ, phóng đại niềm hạnh phúc. Ban đầu là niềm hạnh phúc của các thành viên trong gia đình, sau đó là hạnh phúc được tràn ra cả ngoài xã hội. Cái chết cụ cố Tổ ban phát niềm hạnh phúc cho tất cả các thành viên trong và ngoài gia đình.

Tình huống trào phúng được lựa chọn là một tình huống đạo đức: tác giả dùng cái chết của người thân làm phép thử độ sáng của đạo hiếu trong gia đình, dùng cái chết đồng loại làm phép thử độ sáng của tình người và tính người. Để triển khai tình huống, Vũ Trọng Phụng đã tập hợp và miêu tả những tâm trạng, hành vi, cách ứng xử, thái độ hoàn toàn trái với chuẩn mực đạo đứ thông thường. Đó là tang gia song không ai nghĩ đến người chết và việc báo hiếu. Mỗi người đều có mối quan tâm riêng nhưng đều hướng đến hai chữ danh lợi thu được từ cái chết ấy. Đó là tang gia song không ai đau buồn, thương tiếc. Nếu có đau buồn, thương tiếc cũng chỉ là cái mặt nạ, là màn kịch được dựng lên để che đậy những nhu cầu, mưu đồ, toan tính. Ẩn sau lớp mạt nạ là niềm vui thực sự của cả người thân trong gia đình và những người ngoài gia đình. Niềm vui ấy khiến đám tang có xu hướng trở thành đám hội tưng bừng, náo nhiệt.

Trong nghệ thuật biếm họa, chỉ với đôi ba nét, người họa sĩ tóm được thần thái của đối tượng trào phúng, lột tả được mâu thuẫn, phơi bày được bản chất của con người xấu xa để tạo tiếng cười đấy chất trí tuệ, có sức công phá lớn. Lần lượt các chân dung biếm họa hiện lên dưới ngòi bút như có thần của Vũ Trọng Phụng.

Đó là cụ cố Hồng – con trai cả của người chết.Với vị trí này, trách nhiệm của ông là lo ma chay của cha mình cho chu tất nhưng những hành động cụ thể của ông lại hoàn toàn trái ngược. Ông nằm dài, hút thuốc phiện và mơ màng theo khói thuốc. Ông nghĩ đến việc cưới chạy cho cô con gái Tuyết nhưng lại đùn đẩy việc cưới xin cho vợ. Cái danh mà ông mơ ước và tô vẽ là gia thế của một gia đình nề nếp, gia phong, danh gia vọng tộc. Vì thế ông đã tỏ ra già cả dù chưa đến 60 để được gọi là “ cụ Cố”. Ông sẵn sàng mùa hè mặc áo bông, trả nhầm tiền xe để chứng minh mình lẩm cẩm; luôn gắt gỏng để chứng tỏ mình già cả, ốm yếu. Nghĩ đến cái chết của bố mình, ông sung sướng đến độ đê mê nên “ đã nhắm nghiền mắt lại để mơ màng đến cái lúc cụ mặc đồ xô gai, lụ khụ chống gậy, vừa ho khạc vừa khóc mếu, để cho thiên hạ phải chỉ trỏ: Úi kìa, con giai nhớn đã già đến thế kia kìa!” và khen “ một cái đám ma như thế, một cái gậy như thế”… Tấm lòng của người con trơ như khúc gỗ, vô cảm trước cái chết của người cha. Vai trò và tình cảm của một đứa con trong ông đã chết bởi ông chỉ nghĩ đến cái gậy mà thôi!

Ông Văn Minh là đứa cháu đích tôn, là “ nhà cải cách xã hội” danh giá thì sung sướng tột đỉnh vì “ Thế là từ nay mà đi, cái chúc thư kia sẽ đi vào thời kì thực hành chứ không còn là lí thuyết viển vông nữa”. Mọi hành động của ông đều đối lập với trách nhiệm và tình cảm của một người cháu. Ông mời luật sư đến chứng kiến cái chết của ông nội để đảm bảo tính pháp lí của chúc thư. Ông còn nghĩ đến cách đối xử với Xuân Tóc Đỏ mà thực chất là tìm cách bịt miệng vì Xuân Tóc Đỏ biết những bí mật tày đình của ông. Ông quan niệm tội bôi nhọ danh dự của người thân trong gia đình là tội nhỏ và tội làm chết người thân trong gia đình mới là cái ơn lớn. Để trả cái ơn to lớn ấy, ông đã dùng hạnh phúc trăm năm của cô em gái lá ngọc cành vàng để trả ơn cho một kẻ vô học. Ở ông tồn tại sự mâu thuẫn giữa cái bên ngoài là vẻ mặt “đăm đăm chiêu chiêu” của cái bối rối lo lắng rất hợp thời trang nhà có tang với cái bên trong là việc nghĩ cách đối xử với người đã mang đến cái “ ơn to” cho gia đình.

Cô Tuyết, cô cháu gái giữ gìn nửa chữ trinh, mới chỉ hư hỏng được một nửa. Mặt cô phảng phất vẻ buồn lãng mạn vì nhớ nhung nhân tình chứ không phải xót thương ông nội. Đám tang mang đến niềm hạnh phúc cho cô vì cô được mặc bộ y phục “ Ngây thơ” để chứng tỏ phẩm giá mới chỉ đánh mất nửa chữ trinh. Bộ y phục nửa kín nửa hở làm cho các ông tai to mặt lớn bạn của cụ cố Hồng cảm động thực sự, còn hơn cả “ những khi nghe tiếng kèn Xuân nữ ai oán, não nùng”

Cậu tú Tân thì “cứ điên người lên vì cậu đã sẵn sang mấy cái máy ảnh mà mãi cậu không được dùng đến”. Ông nội chết là dịp để cậu trỏ tài đạo diễn, chụp ảnh trong dịp đám tang. Cậu tỏ ra là một tài tử chụp ảnh, những chiếc máy ảnh được chuẩn bị từ lâu nay sẽ có dịp dung đến. Cậu và bạn hữu của cậu rầm rộ nhảy lên những ngôi mộ khác nhau để chụp ảnh ở những khoảnh khác nhau. Cậu đạo diễn mọi người gục đầu, cong lưng, khóc rồi đóng kịch xót thương cho đúng không khí đám tang

Ông Phán mọc sừng là con rể của cụ cố Hồng. Ông sung sướng vì “ không ngờ ràng giá trị đôi sừng hươu vô hình trên đầu ông lại đến như thế’, nó có giá đến “ vài nghìn đòng” Đông Dương. Ông trù tính ngay một cuộc doanh thương với Xuân Tóc Đỏ để nhân cái số vốn ấy lên. Là một diễn viên đại tài, ông Phán đã hoàn thành xuất sắc màn kịch vờ tỏ ra khóc thương. Trong đám tang ông vợ, ông mặc cái khăn trắng to tướng, áo thụng trắng lòe xòe và khóc mãi không thôi. Ngay cả Xuân Tóc Đỏ- kẻ chuyên đi lừa đảo người khác cũng bị ông lừa. Tưởng ràng ông khóc đến lả oặt người đi nên đã đưa tay ra đỡ, nhưng đến khi ông Phán dúi vào tay tờ 5 đồng gấp tư hắn mới hiểu ra bộ mặt thật tham lam đến mức tình người khô héo, trái tim vô cảm và thậm chí là việc bán rẻ cả danh dự bản thân. Ngay trước mặt cha vợ, trước linh hồn ông vợ, ông ta vẫn thản nhiên hoàn thành công việc thanh toán tiền để chuẩn bị chuyển nốt sang công việc toan tính khác.

Không chỉ khắc học chân dung châm biếm cá nhân, tác giả còn khắc họa hình tượng đám đông. Những tốp người đó là nhóm các vị quan chức cao cấp thì long trọng gắn lên ngực đủ các thứ huy chương: “ Bắc Đẩu bội tinh, Long bội tinh, ..: đủ các thứ màu sắc và kiểu râu ria trên cằm “ hoặc dài hoặc ngắn, hoặc đen hoặc hung hung, hoặc lún phún hoăc rầm rạm, loăn quoăn..”. Các vị đi cạnh linh cữu bị kích động, bởi “ làn da trắng thập thò trong làn áo voan trên cánh tay và ngực Tuyết”. Nhóm đông đảo nhất gồm toàn “ giai thanh gái lịch, nên họ chim nhau, cười tình với nhau, bình phẩm với nhau, chê bai nhau, ghen tuông hẹn hò nhau, bằng những vẻ mặt buồn râu của những người đi đưa ma”. Đám tang là cơ hội để tất cả mọi người không phân biệt già trẻ, gái trai thỏa mãn cái sung sướng, hạnh phúc của mình

Cảnh trào phúng là những cảnh tượng trái với lẽ thông thường, tập trung rất nhiều điều trái với thuần phong mĩ tục được phóng đại lên để gây cười. Cảnh đưa tang là một cảnh trào phúng vì bề ngoài là đám tang nhưng thực chất lại mang tính chất đám hội, đám rước. Được tổ chức pha tạp, đám tang có cả âm thanh thuộc về nghi thức tang lễ và âm thanh không thuộc nghi thức tang lễ song cảm giác chung là nhốn nháo, ầm ĩ. Âm thanh thuộc tang lễ đó là tiếng kèn pha tạp, lẫn lộn cả kèn ta, tàu và Tây; tiếng khóc “ Hứt!..Hứt!.. Hứt!.” của Phán mọc sừng- một thứ âm thanh lạ lùng sẽ khiến người khác bật cười vì ngạc nhiên.Thực chất đây là hành vi ngụy trang che đậy cho mục đích thực sự của ông. Âm thanh không thuộc tang lễ là tiếng cãi cọ, chê trách nhau của đám người trong nhà. Tiếng cái cọ này sẽ phơi bày những mâu thuẫn ngấm ngầm dù luôn được dàn xếp trong vẻ ngoài êm đẹp. Đó còn là tiếng trêu chọc, đùa cợt thô lỗ, tục tĩu của đám “ giai thanh gái lịch” càng bộc lộ rõ sự tồi tệ, vô liêm xỉ tầng lớp thượng lưu. Hình ảnh trong đám tang có hình ảnh thuộc nghi lễ và không liên quan đến tang lễ song đều tạo ấn tượng về sự phô trương đầy kệch cỡm. Hình ảnh thuộc nghi lễ thông thường là vòng hoa, câu đối và người đưa tang nhưng nó xuất hiện với số lượng khổng lồ là 300 vòng hoa, 300 câu đối và mấy trăm người đi đưa. Nó cho thấy sức ảnh hưởng và mối quan hệ rộng rãi của gia đinh. Đó còn là y phục tang lễ tân thời do tiệm may Âu hóa thiết kế đã biến đám tang thành một cuộc trình diễn mốt để quảng cáo sản phẩm với mục đích kinh doanh. Hình ảnh thuộc nghi lễ là kiệu bát cống, lợn quay đi lọng; bộ y phục “ Ngây thơ” của cô Tuyết cùng những huân chương của các bạn cụ Cố. Một hình ảnh ấn tượng nhất với người đọc chính là tờ 5 đồng được gấp tư, thể hiện sự chuẩn bị chu đáo để hoàn thiện phần còn lại của bản hợp đồng. Nó cho thấy bản chất bỉ ổi và cũng là lời kết đầy chua chát về một xã hội vì tiền, chạy theo đồng tiền mà quên đi tình nghĩa.

Giọng điệu mỉa mai, chua chát là giọng điệu bao trùm chương truyện. Có những câu văn tưởng như là giọng trần thuật khách quan bình thản “ Đám cứ đi” nhưng khi nhắc đến hai lần nó đã mang ý nghĩa mỉa mai châm biếm đám ma thật to, thiên hạ tha hồ ngắm thật kĩ cái giả dối, vô nhân đạo của đám người ấy. “ Đám cứ đi” nghĩa là sự vô liêm sỉ không khép lại mà kéo dài tưởng như vô tận, nó kéo theo cái xác chết đến tận huyệt miệng. Về ngôn từ, tác giả đã sử dụng những kết hợp từ độc đáo trong các câu văn để tạo nên tiếng cười hài hước như “ vẻ buồn lãng mạn đúng mốt”, “chưa đánh mất cả chữ trinh”; những so sánh gây cười như “ Tuyết như bị kim châm vào lòng vì không thấy bạn giai đâu cả”

Tất cả những đặc điểm trên đã góp phần làm nên giá trị của nghệ thuật trào phúng Võ Trọng Phụng. Bằng tiếng cười mang ý nghĩa dả kích phê phán, nhà văn đã vạch trần bản chất xấu xa của xã hội thượng lưu tư sản thành thị đương thời. Đó là một xã hội băng hoại đạo đức, khô héo tình người, chạy theo lối sống văn minh rởm, vô cùng đồi bại, lố lăng. Đằng sau tiếng cười không phải niềm vui mà là nỗi đau đời , là khao khát đổi thay, muốn chôn vùi xã hội ấy. Qua đó thể hiện tấm lòng tốt đẹp, mong muốn con người tránh được sự suy đồi về đạo đức do xã hội bất lương tác động. Quan trọng hơn cả, nghệ thuật tào phúng đã thể hiện tài năng, phong cách riêng của Vũ Trọng Phụng.

Ngòi bút trào phúng của Vũ Trọng Phụng sắc bén đến lạnh lùng. Đằng sau những lời nói như đùa, sự thật của xã hội thượng lưu thành thị buổi Âu hóa dưới chế độ thực dân nửa phong kiến cứ hiện lên rõ mồn một, trên đó nổi lên hai sự thực khắc nghiệt: sự tàn nhẫn, vô nhân đạo và sự giả dối, bịp bợm. Vũ Trọng Phụng đã đứng về phía nhân dân mà phê phán mạnh mẽ bản chất giả dối và sự lố lăng, đồi bại của xã hội thượng lưu ở thành thị những năm trước Cách mạng tháng Tám 1945

--------------------------------------------------------------------------

6 Dạng đề văn xuôi QUAN TRỌNG

Dạng đề 1: Phân tích ý nghĩa nhan đề tác phẩm.
a/ Cách làm bài: cần nêu được các ý sau:
* Mở bài: - Cần giới thiệu đôi nét về tác giả, tác phẩm.
- Ở tác phẩm này, cách đặt nhan đề là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo, giàu ý nghĩa, thâu tóm nội dung tư tưởng của tác phẩm.
* Thân bài: Trình bày theo cấu trúc 3 ý sau:
- Xuất xứ của nhan đề: phải nói rõ nhan đề ấy được lấy từ đâu, trong hay ngoài tác phẩm. Đặc biết chú ý với những trường hợp tác giả có quá trình lựa chọn, thay đổi nhan đề tác phẩm. Thông thường, nhà văn thường đặt nhan đề bằng những cách quen thuộc như:
+ Lấy tên nhân vật ( chính ) đặt cho tác phẩm: Chí Phèo
+ Lấy hình ảnh, chi tiết, tình huống đặt cho tác phẩm: Rừng xà nu, Chiếc thuyền ngoài xa..
+ Lấy đề tài, chủ đề đặt cho tác phẩm: Đôi mắt, Chiến tranh và hòa bình, Những đứa con trong gia đình.
- Nghĩa cụ thể và ấn tượng về nhan đề
- Tác dụng, ý nghĩa của nhan đề trong việc nêu bật chủ đề, tư tưởng tác phẩm.
* Kết bài: Khẳng định lại tính chất đa nghĩa của nhan đề và ý nghĩa, dụng ý của tác giả trong việc đặt nhan đề.
b/ Một số tác phẩm thường sử dụng để ra đề:
* Văn xuôi:
- Vợ nhặt
- Chí Phèo
- Vợ chồng A Phủ
- Ai đã đặt tên cho dòng sông
- Rừng xà nu
Vân vân nhé...
- Tây tiến
- Tiếng hát con tàu
Cũng vân vân nhé...

---------------------------------------------------------------------

Dạng đề 2: Dạng đề Phân tích ý nghĩa tình huống truyện.
a/ Cách làm bài: cần đảm bảo các ý cơ bản sau:
- Giới thiệu tác giả tác phẩm.
- Trình bày tóm lược tình huống truyện
- Ấn tượng và nhận xét về tình huống truyện: sự độc đáo, sức hấp dẫn, đóng góp vào sự phát triển cốt truyện và nhân vật.
- Ý nghĩa của tình huống truyện trong việc thể hiện chủ đề.
b/ Những tác phẩm có tình huống truyện cần chú ý:
- Vi hành của Nguyễn Ái Quốc
- Hạnh phúc của một tang gia, trích Số đỏ của Vũ Trọng Phụng
- Vợ Nhặt của Kim Lân
- Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu
- Những đứa con trong gia đình của Nguyễn Thi
c/ Ví dụ minh họa:
Phân tích tình huống truyện Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu.
- Giới thiệu Nguyễn Minh Châu và truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa
- Tái hiện tình huống truyện
- Ấn tượng và đặc sắc của tình huống: hấp dẫn, độc đáo và đầy nghịch lý: cảnh thiên nhiên tuyệt đẹp nhưng cảnh đời thì đen tối, người vợ tốt lại bị chồng ngược đãi, người có thiện chí giúp đỡ lại bị nạn nhân từ chối quyết liệt…
- Ý nghĩa chủ đề của tình huống:
+ Giá trị hiện thực: phản ánh hiện thực cuộc sống mưu sinh, nạn bạo hành gia đình..
+ Giá trị nhân đạo: bày tỏ cái nhìn nhân đạo của tác giả về cuộc sống, con người.
+ Bày tỏ quan niệm nghệ thuật: người nghệ sĩ và nghệ thuật phải gắn bó với đời sống…

---------------------------------------------------------------------

Dạng đề 3 : Phân tích toàn bộ tác phẩm văn xuôi:
Dạng đề này đã quen thuộc, và xu hướng hiện nay ít dùng đến.
a/ Cách làm bài:
- Phân tích nội dung tác phẩm
- Phân tích nghệ thuật tác phẩm
Tuy nhiên, học sinh thường quen nhận xét nghệ thuật thơ ca, còn lại lúng túng với nghệ thuật của tác phẩm văn xuôi, nhất là truyện ngắn. Chúng ta cần chỉ ra các khía cạnh nghệ thuật của một tác phẩm văn xuôi, truyện ngắn.
b/ Cách phân tích nghệ thuật của một tác phẩm văn xuôi.
- Nghệ thuật dựng chuyện: cốt truyện, hay tình huống truyện, kết cấu
- Nghệ thuật xây dựng nhân vật: tâm lý, tính cách, tư tưởng, nhân vật đối lập, nhân vật phụ trợ
- Các chi tiết, tình tiết đặc sắc
- Cách kết thúc truyện
- Giọng văn
* Khi cần đánh giá nghệ thuật cuối mỗi bài phân tích tác phẩm văn xuối, chúng ta cũng dựa trên những khía cạnh này.
P/s: Dạng đề này hiện nay rất ít ra, nhưng nếu ra thì thường ra phần nghệ thuật. Các em chú ý phần b nhé. Chúng ta có 5 gạch đầu dòng là 5 luận điểm nhé. Từ đó, có sự triển khai hợp lí với từng đề bài cụ thể. Chúc các em ôn thi tốt ở dạng này!

---------------------------------------------------------------------

Dạng đề 4: Phân tích nhân vật:
Đây là dạng đề không mới, nhưng hiện nay, xu hướng đề bài chỉ tập trung phân tích một vài khía cạnh của nhân vật, nhất là nghệ thuật xây dựng nhân vật, nên ít nhiều gây bỡ ngỡ cho học sinh.
a/ Phân tích một đặc điểm về nội dung, nghệ thuật của nhân vật:
* Cách làm bài: các ý cần đạt:
- Giới thiệu tác giả tác phẩm, nhân vật
- Phân tích nhân vật theo yêu cầu đề: số phận, tính cách phẩm chất, tâm lí
- Đánh giá về nhân vật:
+ Ý nghĩa của nhân vật trong việc thể hiện chủ đề tư tưởng tác phẩm.
+ Nghệ thuật xây dựng nhân vật: thành công ở mặt nào: tâm lí, số phận, tính cách phẩm chất, tư tưởng; những thủ pháp và hình ảnh chi tiết đi gắn liền, làm nên nhân vật; ngôn ngữ nhân vật; cách kể về nhân vật…
* Một số dạng đề quen thuộc trong chương trình Ngữ văn 12, được vận dụng trong các kỳ thi tốt nghiệp và đại học cao đẳng.
@ Về đặc điểm nội dung:
- Phân tích sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị trong Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài.
- Phân tích nhân vật Tràng trong Vợ Nhặt của Kim Lân.
- Phân tích nhân vật Tnu trong Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành.
- Vẻ đẹp của người đàn bà hàng chài trong Chiếc Thuyền Ngoài Xa của Nguyễn Minh Châu.
- Phân tích nhân vật Việt, Chiến trong Những đứa con trong gia đình của Nguyễn Thi.
@ Về đặc điểm nghệ thuật:
- Phân tích diễn biến tâm lí nhân vật Mị trong đêm xuân tình, đêm mùa đông
- Phân tích diễn biến tâm lí bà cụ Tứ trong Vợ nhặt
- Nhận xét về nghệ thuật xây dựng Việt trong Những đứa con trong gia đình
b/ Phân tích nhân vật theo một nhận định so sánh:
@ Phương pháp làm bài:
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm, nhân vật
- Phân tích những đặc điểm của nhân vật, tập trung phân tích sâu những đặc điểm liên quan đến nhận định-so sánh.
- Khẳng định tính đúng, hay của nhận định về nhân vật
- Nêu ý nghĩa của nhận định, so sánh về nhân vật.
@ Ví dụ:
- Trong Chữ người tử tù, vì sao nhà văn lại ví tấm lòng của Viên quản ngục như “ một thanh âm trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ !” ?
- Trong tác phẩm Một người Hà Nội, vì sao Nguyễn Khải lại gọi nhân vật bà Hiền là “ hạt bụi vàng của Hà Nội”.
* Gợi ý khái quát:
Ý 1: giới thiệu Nguyễn Khải, tác phẩm Một người Hà Nội.
Ý 2: Về nhân vật bà Hiền
Ý 3: Vì sao bà Hiền được so sánh là hạt bụi vàng của Hà Nội
Ý 4: ý nghĩa của hình ảnh so sánh

---------------------------------------------------------------------

Dạng đề 5 : phân tích một khía cạnh của tác phẩm:
Đây là dạng đề rất thông dụng, phù hợp với cấu trúc câu hỏi 5 điểm và mục đích kiểm tra mức độ vận dụng cao của đề thi tốt nghiệp và đại học cao đẳng.
a/ Phân tích một khía cạnh nội dung:
@ Phân tích giá trị hiện thực:
* Cách làm bài: các ý phải có:
Y1- Giới thuyết về giá trị hiện thực
Y2- Giá trị hiện thực được thể hiện qua tác phẩm:
+ Tác phẩm đã tái hiện hiện thực gì? Xã hội nào? Của tầng lớp nào? Làm rõ hiện thực mà nhân vật chính phải gánh chịu
+ Nhà văn đã chỉ rõ nguyên nhân của hiện thực trên?
+ Thái độ, cách giải quyết của nhà văn trước hiện thực đó.
Ý 3- Đánh giá mức độ thành công, đóng góp của tác phẩm về giá trị hiện thực: Đề tài mới hay cũ? Tư tưởng và thái độ của nhà văn? Cách viết? Ý nghĩa của hiện thực đó đối với ngày nay.
* Ví dụ minh họa ( Ý 2 ): Phân tích giá trị hiện thực trong tác phẩm Vợ nhặt của Kim Lân.
+ Vợ nhặt đã tái hiện sinh động, chân thật nạn đói khủng khiếp năm Ất Dậu: qua hình ảnh xóm ngụ cư, qua tình cảnh gia đình Tràng, qua hình ảnh người vợ nhặt, qua chuyện nhặt vợ bi thảm, qua bữa ăn đón dâu.
+ Nguyên nhân của hiện thực trên là do thực dân Pháp, phát xít Nhật
+ Nhà văn thương cảm sâu sắc, mở ra hướng giải quyết hiện thực: sự thương yêu, lòng cưu mang và niềm lạc quan giúp những người nông dân nghèo khổ vượt qua cái chết, nạn đói.
@ Phân tích giá trị nhân đạo:
* Cách làm bài:
Ý 1: Giới thuyết về giá trị nhân đạo
Ý 2: Giá trị nhân đạo được thể hiện trong tác phẩm:
+ Nhà văn thấu hiểu đồng cảm nỗi khổ của nhân vật.
+ Tố cáo sự tàn ác của các thế lực bất lương.
+ Phát hiện, khẳng định, ngợi ca những giá trị, phẩm chất, vẻ đẹp của con người.
+ Tin tưởng trân trọng những ước mơ, khả năng của con người vào cuộc sống.
Ý 3: Đánh giá mức độ thành công, sự mới mẻ hay sâu sắc của tư tưởng nhân đạo.
* Ví dụ: Phân tích giá trị nhân đạo trong tác phẩm Vợ Nhặt, Vợ chồng A Phủ.
b/ Phân tích một khía cạnh về nghệ thuật
@ Phân tích đặc sắc nghệ thuật của truyện: phân tích theo các ý đã nói ở cuối trang 5.
@ Phân tích tình huống truyện: đã tách riêng thành một dạng đề ( dạng đề 2, trang 4 )
@ Phân tích khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn:
* Cách làm bài: phần thân bài
Ý 1: Giới thuyết khái quát về khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn
Ý 2: Biểu hiện của khuynh hướng sử thi trong tác phẩm, qua các phương diện: + đề tài
+ chủ đề
+ nhân vật chính
+ giọng điệu
Ý 3: Biểu hiện của cảm hứng lãng mạn trong tác phẩm:
+ cảm hứng, tình cảm, cảm xúc, giọng điệu kể chuyện, hình ảnh chi tiết lãng mạn
+ khẳng định ngợi ca tin tưởng vào các giá trị cao đẹp sẽ chiến thắng
+ cách kết thúc truyện
* Ví dụ tiêu biểu: Khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn được thể hiện như thế nào trong truyện ngắn Rừng Xà Nu của Nguyện Trung Thành ?

---------------------------------------------------------------------

ĐÂY LÀ DẠNG ĐỀ CUỐI CÙNG TRONG 6 DẠNG ĐỀ THUỘC PHẦN VĂN XUÔI.
Dạng đề 6: Phân tích một chi tiết, hình ảnh, một đoạn văn.
a/ Ví dụ: -Phân tích ý nghĩa hình tượng Rừng xà nu trong tác phẩn cùng tên của Nguyễn Trung Thành.
- Trong cuối truyện Chiếc thuyền ngoài xa, nghệ sỹ Phùng nhìn kỹ và lâu hơn vào tấm ảnh thì thấy hình ảnh gì? Ý nghĩa?
- Phân tích ý nghĩa hình ảnh: chiếc lò gạch hoang, bát cháo hành trong truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao.
b/ Cách làm bài: các ý cơ bản cần đảm bảo
Ý 1: tái hiện chi tiết, tình tiết, hình ảnh, vị trí và tình huống mà chi tiết xuất hiện
Ý 2: Phân tích ý nghĩa biểu đạt về nội dung và nghệ thuật của chi tiết, hình ảnh
Ý 3: Đánh giá sự đặc sắc của chi tiết hình ảnh trong việc thể hiện chủ đề tư tưởng tác phẩm, trong thành công của nghệ thuật tác phẩm.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#học