VĂN HỌC NÔNG THÔN-Lenghiabk05

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Sông lạnh

Ngày đăng:  08/07/2011 4:35:37 CH

Tháng bảy.

Những trận gió Lào mang theo cái nóng khô xáp réo hù hụ vật vã tràn qua những mái tranh, mái ngói, mái tôn khô cỏng, khô queo và những vườn cây rũ bóng tướp tơ vàng ềnh ệch. Đất hầm hập bỏng rang. Một lớp bụi cát xám đen nhờ nhợ, chốc chốc lại cuộn vù vù mỗi khi bị cơn hứng tình của một trận gió vô thưởng vô phạt hay một cái xe công nông nhếch nhác xình xịch xả khói băng qua.

Con sông Lam trườn một vệt dài óng ả, mỡ màng, hun hút. Mùa này, nước tụt xuống thấp nên trông nó mảnh mai xinh xắn lạ. Nó đẹp tựa như một cô gái đang tuổi cập kê kiêu sa hội đủ ba vòng đo lý tưởng. Phải đến tận tháng chín, tháng mười, khi mùa lũ đến, lúc ấy trông nó chẳng khác nào một bà góa sồ sề, hung tợn, ngầm chứa bao toan tính được thua.

Xóm Lú.

Trời đã nhập nhoạng. Trên con đường nhỏ chạy ngoắt ngoéo dẫn xuống bãi sông bắt đầu thấp thoáng những bóng người ngả nghiêng, xiêu vẹo. Đã đến giờ họ xuống sông gột rửa sau một ngày bơ phờ, lấm lem và hôi hám. Tiện thể họ cũng xuống để xả nốt những thứ cặn bã trong người cho dòng sông trôi xuôi. Kể cũng lạ, như đã thành một thói quen cố hữu từ rất lâu, lâu lắm, có lẽ là từ khi khai lập xóm

Lúc này, cho đến tận ngày nay, một trăm phần trăm chẳng nhà nào đào giếng cũng như chẳng nhà nào có nhà vệ sinh. Tất thảy đều xả mọi thứ chất thải xuống sông rồi lại xách nước từ sông về để ăn uống, sinh hoạt. Cái tên xóm Lú hình như cũng do người làng trong đê đặt cho, họ bảo, với cách dùng nước ăn uống sinh hoạt như vậy, người khôn rồi cũng dần dần trở thành người lú.

Xóm Lú có khoảng hơn dăm chục hộ. Nó nằm ngoài vệ đê và chạy dọc theo một bãi bồi khá rộng. Đây là xóm của dân ngụ cư nên gốc gác của họ cũng từ khắp các nẻo quê tìm đến. Cách đây vài ba chục năm, lúc ấy số dân cả xóm chỉ chừng nửa bây giờ, nhưng đó mới là thời kỳ hưng thịnh.

Hồi ấy, hầu như cả xóm đều là dân buôn gỗ. Cái xóm nhỏ lơ phơ, mỏng mảnh tưởng như nằm ngoài tầm kiểm soát của chính quyền địa phương nên được dịp làm ăn thả cửa. Thâu đêm suốt sáng, xóm rậm rịch người bán kẻ mua. Từng bè gỗ xếp hàng nhấp nhô đen lùi lũi ngoài bến. Những tay trùm gỗ bắt đầu mọc lên lúc nhúc như nấm. Cả tỉnh, cả huyện đều biết nhưng rồi chẳng thấy có cơ quan chức năng nào sờ đến. Các đại ca, các tay anh chị cũng theo đó mà xuất hiện như sỏi ngoài bãi sông. Họ tiêu tiền như nước, đâm chém giành giật làm ăn coi mạng người như rác như rơm...

*

*     *

Cơm tối xong, ông nó bảo: “Quắt, mi đi theo tau!”. Nó có vẻ chần chừ, ông hạ giọng như dỗ: “Mi ngoan, mi đi theo ông, rồi mai ông cho mười nghìn”. “Mười nghìn à ông? Ông nhớ đó nha?”. Ông cười khẩy: “Ơ, thằng ni hay hè? Thì mi đã thấy tau lừa ai chưa?”. Cha nó cởi trần trùng trục, ngồi thu lu trước sân, tay khẩy tăm trong miệng nói lử khử: “Cho tiền thì mi cứ đi đi, mi sợ chi hè. Ông mi tử tế lắm đó!”

Ông ngửa mặt lên trời cười sằng sặc rồi vắt xéo áo lên vai túc tắc ra ngõ. Nó tợp vội ngụm nước rồi cũng tất tả tọt theo. Trăng đã treo chênh chếch sau bụi tre gai đầu xóm. Mảnh trăng gầy, vàng ệch và xấu xí lạ. Gió hây hẩy hắt lên từ dưới mạn sông làm dịu cái nóng hầm hập ban ngày ủ lại.

Ông đi trước một đoạn, cái bóng lầm lụi đổ dài chênh chao. Nó bước ngắn, cứ một lúc lại phải lúp xúp chạy theo. Thi thoảng, qua một cái ụ đất mà mấy thằng bạn cùng xóm gọi là gò mả, nó lại thấy chờn chợn, gai ốc trong người nổi u nổi hột nên càng cố bước gấp hơn. Ông quay đầu cười ha hả: “Quắt, có chi mô mà mi sợ hè. Ma mô mà ma, có mấy thằng nghiện như cha mi thì có”. Ông nói cũng phải, những lần theo ông đi đêm, nó thường hay bắt gặp từng bóng người lởn vởn, vật vờ ngoài bờ đê hay dưới mấy lùm cây tối. Họ ngáp ngắn, ngáp dài rồi lại chụm vào nhau thậm thụt thứ gì đó.

Có hôm nó trông thấy người hao hao giống cha nhưng không dám gọi. Ông nó bảo: “Nghiện đó, mấy thằng nghiện đó. Như cha mi cả mà. Sắp sửa kéo nhau đi chầu diêm vương một lũ rồi đó”. Nó nghe cứ lơ mơ. Nó chỉ biết rằng, đồ đạc trong nhà có thứ gì bán được là cha nó dần khuân đi sạch. Ông chửi cha điêu ngoa ác mồm lắm, toàn những từ độc địa: Đồ chó má, đồ ôn vật, đồ ma sống trên đất… Nhưng cha chỉ nhe răng cười hềnh hệch, đến khi ức quá thì chửi lại, mà đã chửi thì còn ngoa ngoắt, tục tằn hơn cả ông.

Dạo trước, nó nghe lỏm bỏm chuyện mấy bà hàng xóm kể, ông nó từng thuộc hàng giàu nứt đố đổ vách ở cái xóm Lú này. Ông là tay trùm buôn gỗ, vàng bạc tiền của nhét đầy mấy cái hòm sắt tây to tổ bố giấu trong sập gụ. Ông có hai bà vợ. Bà thứ nhất nghe đâu tận mãi dưới miệt xuôi xa lắm. Sau khi lên đây làm ăn một thời gian, ông lấy tiếp bà hai rồi ở lại hẳn luôn. Bà hai sinh hạ được hai người con, đó là cha nó và o Giang. Ông đặt tên cha là Bè - để hàm ơn những cái bè gỗ mà nhờ đó ông giàu phất lên.

Trong nhà nó thương o Giang nhất. O Giang năm nay đã ngoài ba mươi tuổi, người gầy nhẳng nheo lại đen thủi đen thui. Ấy vậy mà ngày mô o cũng phải dậy từ tờ mờ sáng để nấu cơm cho cả nhà rồi chạy vội chạy vàng xuống bãi sông đội sỏi. Sỏi được vận chuyển từ những chiếc thuyền lớn lên bờ. Một chiếc cầu khấp khểnh ghép bằng mấy tấm ván mỏng là sà mặt nước. Cái sọt sỏi đầy tú ụ, nặng chình chịch người ta nhấc lên rồi đặt lún xuống đầu o.

O chùn người run run, thế rồi o bấm chân xuống liêu xiêu bước đi. Cứ ngày này qua tháng khác, khi mùa đông rét thấu gan thấu ruột, khi mùa hè nắng xém thịt, xém da, rứa mà o chịu đựng nổi mới lạ. Đến cuối buổi, o lại phải tất tả chạy về lo cơm nước cho cả nhà. Đêm đêm, o nằm bên quạt cho nó ngủ và ri rỉ hát những bài nghe buồn thê thiết …

Ông dẫn nó chui vào một ngôi nhà nhỏ tối thui, thấp xùm xụp gần cuối xóm. Ở đó đã có mấy gã đàn ông cởi trần trùng trục đang ngồi hút thuốc lào vặt và kể chuyện tục. Ông nó bảo: “Bữa ni, trước khi ngồi vô chiếu, mấy chú cho bác kiểm tra tư cách công dân đã nha. Chớ như mấy bữa trước, nhiều thằng không có đồng mô cũng dám ngồi sát phạt. Tay không mà đòi bắt giặc. Đ.mẹ, không có tiền thì về mà nằm quặp vợ cho sướng, đỡ tốn thời gian.”. Mấy gã lườm lườm nhìn ông vẻ tức tối lắm.

Cách đây mấy năm, nó đã được bám chân mỗi lần ông đi đánh bạc. Ông rủ nó đi cho có bạn. Vả lại, thường mỗi khi có nó đi cùng thì dường như ông đỏ hơn, hay được bạc hơn. Bây giờ thì nó đã nhớ tuốt tuột các kiểu chơi. Từ xóc đĩa, ba cây, tá lả…Đôi khi, nó cũng được xem là một trợ thủ đắc lực cho ông. Đó là những cái nháy mắt, những thứ ám hiệu mà chỉ có ông và nó biết.

Cũng lạ, mỗi khi ngồi xem ông sát phạt cùng đám con bạc, mắt nó cứ mở trơ trơ như mắt ếch mà không hề buồn ngủ. Thường ông đánh đến sáng. Hôm nào được bạc, ông cho nó mấy tờ bạc lẻ rồi hai ông cháu dắt díu nhau ra đánh chén lòng lợn, tiết canh ở quán mụ Dậu béo trên bờ đê, sau đó về nhà nằm lăn kềnh ra ngủ. Lại nhiều hôm mất trắng, ông bơ phờ, rệu rã, mắt vằn lên những tia máu đỏ đòng đọc, bước thấp tha thấp thửng vô hồn.

O Giang thương nó, o lò dò nói với cha: “Cha ạ, thằng Quắt to rồi, nó đến tuổi đi học lâu rồi răng cha không cho nó đi. Cha bắt nó theo cha suốt đêm mà cha không thương nó à ?” Ông ậm ừ: “Học, học hành mần chi! Mi coi cả cái xóm ni có ai học được không chớ? Học rồi cũng bỏ, rồi cũng thành mấy thằng nghiện thằng ngập. Thôi, cứ tập cho lỳ, cho khôn là được.”- “Rứa là cha giết thằng Quắt đó cha ạ. Rồi nó có khác chi anh Bè.” O Giang cúi mặt, khóc hu hu… Nước mắt chảy ròng ròng trên khuôn mặt xạm đen, queo quắt. Ông nó xua tay: “Thôi Giang ạ, mi đừng khóc lóc nữa, tau ngán lắm, tau cũng thương thằng Quắt lắm chớ. Để rồi tau tính coi?”

Cha về sau một đêm vật vạ cùng đám bạn ở đâu đó. O Giang nằm khóc rấm rứt trong buồng. Cái nồi cơm điện o mới mua sau khi nhận tiền công từ tay chủ bãi sỏi đã không cánh mà bay. Hồi trước nhà cũng đã có cái nồi điện. Thế rồi mất toi. Một thời gian dài, o phải nấu cơm bằng cái nồi gang bị ô xi hóa rỗ chằng rỗ chịt. O ước ao mỗi buổi trưa về, đỡ phải nhóm bếp lò khói bụi bay mù mịt. Trời ơi! Cái nồi điện Thái Lan bằng tiền công cả tháng đội sỏi của o. Thế mà…Trời ơi! O lại hu hu khóc…

Cha nằm vặn vẹo một lúc. Nghe tiếng khóc của o Giang rấm rứt mãi không thôi, thế là cha vục dậy, vắt hờ áo lên vai rồi vội lủi nhanh ra ngõ. Nó rón rén bước vô buồng. Căn buồng cũ kỹ tồi tàn lúc nào cũng tối nhờ nhợ gây cho người bên ngoài mỗi lần bước vô một nỗi sợ hãi mơ hồ. Đó là căn buồng mà bà nó đã treo cổ lên xà nhà tự tử.

Thời đó, đã lâu lắm rồi, từ lúc nó còn chưa có hình có bóng. Nó nghe người ta kể lại, bà nó hồi xưa đẹp nhất nhì xóm Hạ, cái xóm trong đê nổi tiếng khắp huyện vì nhiều con gái đẹp. Thời đó, ông nó là tay chủ buôn gỗ tiếng tăm lừng lẫy khắp vùng. Ông chơi thân với đủ các ông tai to mặt lớn đứng đầu xã đầu huyện. Đi đâu, ông cũng kè kè một bọc tiền bên người, nghe nói còn giắt cả súng lục để phòng thân. Và không biết có phải bằng cách biếu cho cha mẹ cô Đào xóm Hạ năm khối gỗ lim hay không, chỉ biết rằng, với dăm bảy lần vào xóm, ông đã nẫng tay trên cô Đào dưới ánh mắt hậm hực của không ít kẻ đẹp trai, chai mặt, ngày ngày trồng cây si trước cửa.

Đám cưới không ồn ào rầm rộ bởi vì ông chưa ly dị được bà vợ ở dưới quê nhưng cũng đặt sẵn mấy chục mâm tại cái nhà hàng to nhất huyện, mời đủ các ông quan lớn quan bé lẫn bè mối làm ăn. Cưới xong thì ông đưa cô Đào ra ngoài xóm Lú. Cô Đào lúc đó được tả là đẹp lắm: da trắng, tóc dài, eo thon, ngực nở… Còn đôi môi thì khỏi phải nói, lúc nào cũng mơn mởn đỏ thắm như son. Ông giữ rịt cô Đào ở trong nhà suốt ngày, sợ ra ngoài lắm kẻ dòm người ngó. Chập tối, ông cũng lẽo đẽo đưa cô Đào xuống bến tắm còn mình ngồi chồm hổm gác trên bờ.

Hơn năm sau thì cô Đào sinh cha hắn, hơn năm nữa lại tiếp o Giang. Con gái giống nụ hoa, đẻ đái rồi, thành đàn bà rồi thì như hoa đã bung hết cánh lơ phơ chờ rữa nhụy. Tuy chưa đến nỗi tàn tạ nhưng nhan sắc của cô Đào mười phần chỉ rút lại còn năm. Ông bắt đầu mơ màng tìm của lạ. Mà của lạ thì có thiếu gì. Sẵn tiền và những mối làm ăn xa, ông thoải mái có dịp đi mây về gió với các em út trẻ già đủ loại.

Rồi ông mắc bệnh lậu. Cô Đào hoang mang, tủi hổ đến cùng cực. Một người con gái đoan chính như cô sao sớm rơi vào vòng oan nghiệt. Cô suy sụp dần. Cái kim trong bọc lâu cũng lòi ra. Không biết bằng cách nào, sự việc chẳng hay hớm đó cứ lan dần, chảy dần như sóng dâng ngoài bến. Cô Đào gục ngã. Cô chẳng thể ló mặt ra bởi những ánh nhìn đầy mỉa mai, độc địa.

Đàn bà họ cười vì hả hê ghen tức. Đàn ông thì tỏ ra tiếc nuối, thương hại. Cái tội của chồng mà cô phải gánh. Biết làm sao? Làm sao hả trời? Rồi cô giận oán mẹ cha đã vì chút lòng tham mà chuốc lấy ê chề nhục nhã. Như một kết cục buồn thảm, vào một đêm trăng lạnh, cô đã quyết lìa xa cuộc sống trần gian bằng cái chết oan thê trong căn buồng tăm tối.

Ông dìm nỗi nhục nhã, tang tóc bằng cách lao vào những cuộc đỏ đen thâu đêm suốt sáng. Hai đứa trẻ cứ lớn dần lên, sống lăn lóc vờ vật như những viên sỏi ngoài bãi sông. Cũng vào thời kỳ này, công cuộc làm ăn của các tay trùm gỗ đang đến thời vong mạt. Những kẻ khôn ngoan, mánh lỏi đã cóp nhặt được số vốn liếng kha khá thì bắt đầu rục rịch chuyển nghề bằng cách mua lại những lô đất ngoài thị trấn, thị xã mở nhà hàng, ki ốt. Xóm Lú vơi dần. Quang cảnh lại vắng vẻ, đìu hiu.

Mãi ít năm sau mới có mấy tay dưới miền xuôi mon men tìm đến. Bấy giờ họ là những ông chủ bãi cát, bãi sạn ngoài mép sông. Đây là những thứ vật liệu xây dựng đang có cơ làm ăn phát triển. Hàng hóa được vận chuyển bằng thuyền từ mạn ngược xuôi theo dòng Lam tập kết về đây. Xóm Lú bắt đầu bị khuấy động bởi tiếng ùng ục của đám thuyền máy, tiếng phành phạch khó chịu của lũ xe công nông vào ăn hàng từ sáng sớm tơ mơ đến tối mịt.

Ngày chợ phiên, o Giang bảo: “Quắt, mi đi với o lên chợ, o mua cho cái áo phông mà mặc đi đá bóng”. Nó sướng quá, nhảy cẫng lên hôn chùn chụt vào má o. O Giang sang nhà hàng xóm mượn được cái xe đạp mi ni Trung Quốc rỉ ngòm ngòm. Khi mặt trời nhô quá bờ chè tàu lúp xúp, hai o cháu bắt đầu cuộc hành trình ngược lên phố huyện.

Hôm đó, không những nó được o Giang mua cho một cái áo phông con nít có in số loè loẹt như các cầu thủ bóng đá vẫn thường mặc, mà nó còn được o Giang dẫn vô quán phở sực nức mùi thơm làm nó tứa hết nước bọt. O Giang gọi một bát, o bảo o đang no, o chỉ ngồi nhìn nó ăn. Bát phở bò mới thơm ngon hấp dẫn làm sao, nó vừa húp vừa xuýt xoa khoái trá. Chợt o bỗng giật mình như chạm phải điện rồi vội vội vàng vàng úp cái nón lá lên đầu xoay ngang người ngồi che lấy nó.

Nó ngước lên khẽ hỏi: “Răng rứa o?” O nó lào phào: “Có chi mô! O không được khỏe, ăn mau đi mà về.” Vậy là nó lại cúi xuống chăm chăm vào bát phở. Lúc đó, hình như nó thấy thấp thoáng có hai người bước vô quán. Người đàn bà mặc váy ngắn cũn cỡn để lộ cặp giò trắng lợt. Người đàn ông mặc bộ đồ bò, đội mũ cối Tàu, chân đi cà nhắc, tay khoác vai người đàn bà vừa bước vừa nói cười khúc khích. Nó cũng chỉ nhìn loáng thoáng như vậy. Tâm trí nó lúc đó không còn gì khác ngoài bát phở đang bốc mùi ngào ngạt.

Trên đường về o Giang hỏi: “Quắt, mi có còn nhớ mẹ không?”. Nó ngây người giây lát rồi buông một câu: “Mẹ, mẹ Huệ à o?”- “Ờ, mẹ Huệ mi đó.”- “Mẹ bỏ cháu lâu rồi, hồi trước thì cháu nhớ, nhưng giờ thì cháu không nhớ mô.” - “Rứa Quắt không còn thương mẹ nữa à?”- “Không thương mẹ Huệ, ai bảo mẹ bỏ cháu mà đi. Cháu chỉ thương o Giang thôi!”- “Mi chỉ được cái nịnh o là tài. A mà cháu có nhìn thấy cái cô mặc váy ngắn khi ở quán không?”. “Có o ạ, nhưng mà cháu chỉ nhìn qua. Rứa ai đó o?”. O nó vội lấp láp: “A…à…đó là…là người bạn lâu rồi của o. Mà thôi, cháu ngồi cho chắc để o đèo nha.”

Nó ngồi yên lặng sau xe. O có nhắc thì nó mới nhớ. Chút ký ức mờ mịt trong trí nhớ của nó bỗng dưng ùa về trào dâng. Thế là mẹ đã bỏ nó, bỏ những người thân và cái xóm Lú ra đi đã được dăm bảy năm rồi. Dăm bảy năm đối với nó như một giấc mơ mịt mờ sương khói. Nó chỉ nhớ loáng thoáng cái dáng mẹ nó dong dỏng cao, khuôn mặt tròn tròn và đôi mắt lúc nào cũng mở to ươn ướt…

Nghe o Giang kể lại, mẹ gặp cha khi hai người cùng làm công nhân ở một tỉnh phía Nam xa xôi. Hồi đó, cha nó do chán cảnh gia đình, lại bị chửi rủa liên miên nên tức chí bỏ vào Nam kiếm sống. Cha nó lúc đó mới ngoài hai mươi tuổi, được thừa hưởng gien trội của mẹ nên đẹp trai lừng lững.

Tuy làm thuê vật vờ nghèo xác nhưng vẫn có khối cô cứ xoắn xuýt muốn được làm quen. Ý thức được điều ấy nên cha cũng tỏ ra kiêu lắm, phải đến khi gặp được mẹ thì cha mới xiêu lòng, mới thề non hẹn bể mà sống chết cùng nhau. Không cần đến sự có mặt của hai bên gia đình, lễ kết hôn được tổ chức sau đó mấy tháng bằng cái tiệc mặn nho nhỏ, dăm mâm cơm mời bè bạn đồng hương.

Gần một năm sau thì nó lặng lẽ chào đời giữa cái ồn ã xô bồ của khu nhà trọ. Gian phòng hẹp lợp prôximăng, xung quanh thưng cót ép, phía bên ngoài đầy rác rưởi hôi khắm là nơi trú ngụ đầu tiên của nó. Mẹ phải nghỉ việc, ở nhà trông con. Cha chạy ngược chạy xuôi, kiếm việc làm vục mặt suốt ngày mà không đủ nuôi cả nhà và trả tiền thuê phòng trọ. Đồng lương còm cõi. Thứ gì cũng mua, cũng thuê lại đắt đỏ khiến cha mẹ nó cứ đêm đêm lại nhìn nhau thở dài thườn thượt. Cuối cùng điều gì đến phải đến, nước cờ cuối cùng của họ là đành ngậm ngùi dắt díu nhau quay trở lại quê hương.

Ông gầm lên: “Đồ ăn cháo đái bát… Đồ vô giáo dục…Đồ đồ…”. Đủ thứ đồ mà ông trút lên cha nó. Thế nhưng cha câm lặng. Mẹ cũng vậy. Chỉ có o Giang là xoắn xuýt lấy nó và bênh chằm chặp cho cha mẹ. Ây thế rồi cũng dần dần yên chuyện. Ông chửi chán, rủa chán, biết cũng chẳng có cách nào khác nên đành mặc kệ thằng con tự xoay xỏa lấy, còn ông, niềm vui của ông vẫn là ở những chiếu bạc, những cuộc sát phạt thâu đêm suốt sáng.

Cha lúc đầu còn có vẻ chăm chỉ siêng năng. Cha xuống bãi sỏi xin được một chân cửu vạn. Mẹ trước gốc là con nhà có nghề làm bánh cuốn nên cũng sắm sửa đồ mở một cái quán lá nhỏ, sáng sáng làm mấy cân bánh ra ngồi bán cho dân trong xóm. Cũng đủ tằn tiện để sống qua ngày, mỗi tháng có dư dật ra đôi chút đem bỏ ống để dành lúc ốm đau. Người vui nhất có lẽ là o Giang. Thế là từ nay đã có anh có em, lại thêm thằng cu Quắt cả ngày líu ra líu ríu.

Nhưng rồi ngày vui ngắn chẳng tày gang. Những người bạn cũ trong xóm ít hôm lại mò sang nhà rủ cha nó đi nhậu. Ban đầu thì cha cũng từ chối khéo mặc cho mấy thằng bạn khích bác, cười cợt. Nhưng rồi nỗi buồn chán ở cái xóm quạnh quẽ đìu hiu này đã dần dần giết chết lòng kiên nhẫn của cha. Từng đêm, sau bữa cơm tối đạm bạc mà ít khi có mặt ông, cha lại nằm sõng sượt trên cái chõng tre xuệch xoạc, vẹo vọ mà ngửa mặt lên trời thở dài. Tiếng thở não nề như tiếng gió đêm hú dài từ dưới lòng sông thổi ngược lên càng khuya càng lạnh buốt.

Và thế là sau một lần buông xuôi đi theo cùng đám bạn, cha đã dần dần trở thành kẻ hư hỏng, bê tha. Mẹ than trách, ca cẩm, o Giang kêu khóc nhưng kết cục cũng bằng không. Ông thì rủa: “Tao biết nó hư từ lâu rồi. Mà ở cái xóm này không hư mới là chuyện lạ. Tao chỉ sợ nó chết trước tao thôi?”. Ông rủa độc nhưng không phải không có lý, xóm Lú bây giờ đã xuất hiện nhiều con nghiện ma túy.

Đây là cái xóm leo heo, vắng vẻ ngoài đê nên sự quản lý về mặt an ninh bị buông lỏng. Chẳng thế mà ông nó đánh bạc chuyên nghiệp bấy nhiêu năm ròng vẫn cứ ngang nhiên tồn tại. Lúc trên bến, khi dưới thuyền, lại lắm nẻo ngang đường tắt nên hễ thấy động là đám con bạc có muôn đường tẩu thoát. Giờ thì đến đám con nghiện cũng vậy, chúng ở đâu dạt về đây trú ngụ ngày càng nhiều. Rồi đến lũ thanh niên trong xóm cứ lần lần lượt lượt dính theo.

Mẹ than thân trách phận cũng bằng thừa. Ngôi hàng bánh cuốn cỏn con không đủ nuôi mấy cái miệng. Nó ốm quặt ốm quẹo. Cũng vì không đủ chất dinh dưỡng. Người nó quắt lại, nhẳng nheo, dài như cái kẹo kéo. Nó chưa được làm giấy khai sinh nên mọi người cứ tiện thể kêu nó là Quắt, y như thân thể nó. Càng ngày, đôi mắt mở to của mẹ càng đậm một màu buồn thúi ruột thúi gan.

Thế rồi một buổi sáng trời âm u đầy mây đã làm thay đổi cuộc đời mẹ. Buổi sáng hôm đó, có một gã chủ thầu xây dựng đi cà nhắc ngoài phố huyện ghé xuống bến sỏi. Gã xuống tham khảo giá vật liệu xây dựng cho một công trình mới. Lúc gã lượn qua hàng bánh cuốn của mẹ, gã đã đột ngột khựng lại vì đôi mắt mở to đăm đăm buồn bã của người đàn bà. Gã liền dừng xe nghé vào, rồi không biết cả buổi sáng hôm đó gã đã nói gì cùng mẹ, chỉ biết rằng mắt mẹ thỉnh thoảng lại chớp chớp nhìn lên một cách mơ màng xa xăm. Đôi mắt to tròn càng lúc càng thêm long lanh ươn ướt...

Ngày mẹ xách túi bỏ xóm Lú ra đi là một ngày mưa sùi sụt. Mẹ thừa lúc nó ngủ rồi đi. Cha còn mải say sưa cùng đám bạn nhậu còn ông chắc đang sát phạt đỏ đen ở một xó xỉnh tối tăm khuất nẻo nào đó. Lúc o Giang giặt quần áo ở dưới bến về thì chỉ còn thấy nó đang nằm co quắp ngủ và mấy dòng thư nguệch ngoạc mẹ viết vội trước lúc ra đi. Đại khái là mẹ muốn mọi người tha thứ vì không đủ sức chịu đựng ở thêm trong cái gia đình bệ rạc này nữa.

Mẹ nhờ o Giang nuôi dạy nó lớn khôn, sau này có dịp mẹ sẽ về đón nó. O Giang ôm mặt khóc không thành tiếng. Năm ấy, o đã hăm ba hăm bốn tuổi rồi, cũng có vài ba người đàn ông làm cửu vạn dưới bến để ý, ướm hỏi. O thầm ao ước... Thế mà…Biết khi mô thì o mới được như những đứa con gái cùng trang cùng lứa, được lấy chồng rồi làm mẹ sinh con…

*

*      *

Thằng Quắt nằm lăn ra bãi cát thở hùng hục. Đá xong trận bóng giữa cái nóng oi nồng cuối hạ làm nó mệt lử. Thế nhưng đợi một lúc cho ráo mồ hôi là nó lại lao ùm ùm xuống sông ngay. Dòng nước mát lạnh sẽ gột rửa hết những mệt nhọc trong người. Nó ngắm nhìn con sông hiền hòa lờ lững trôi. Con sông đã gắn bó với tuổi thơ khốn khó nhưng đầy ắp kỷ niệm của nó. Nhìn lũ bạn tung tẩy cắp sách đến trường mà bụng dạ nó không khỏi phân vân, áy náy.

Đã mấy lần o Giang định đưa nó đi xin nhập học nhưng rồi cha, ông nó đều gạt đi. Ông bảo: “Học làm chi cho tốn tiền tốn của. Lớn lên, nó cứ biết đếm tiền là tốt rồi”. Cha thì thở dài mệt mỏi: “Thôi đừng có mơ tưởng cao sang, rồi cũng đi đội sỏi là cùng”. O Giang thương nó nhưng o cũng chỉ biết đành vậy. Ngày ngày, o còn phải vật lộn với sọt sỏi để kiếm miếng ăn cho cả nhà.

Thằng Quắt xoay ngửa người lại. Nó nhìn về phía xa xăm. Mặt trời như một cái mâm lửa cứ tụt dần, tụt dần xuống dải núi xanh mờ. Con sông nhuốm một màu vàng sậm chảy lơ đễnh. Đôi ba con thuyền của dân vạn chài trôi bồng bềnh trên ngọn sóng lăn tăn. Khung cảnh thật đẹp. Nó mơ màng, nó ước ao... Nó ước ao mình lớn thật nhanh để có thể thỏa sức ngược xuôi như những con thuyền ngoài kia. Nó có thể được đi xa, xa lắm... Rồi nó sẽ đưa cả o Giang nó đi. Cả đời o chưa được đi ra khỏi cái xóm Lú và bến sỏi này. Nó ước ao rồi cuộc đời nó sau này sẽ khác…

Ông vừa bước vô nhà đã hậm hực quát ầm lên: “Giang, tau nghe thiên hạ nói mi với thằng Bính lái công nông cập kè với nhau. Tau còn lạ chi mặt hắn. Mi mà để cái bụng chềnh ềnh ra đó thì coi chừng với tau”. O Giang đang ngồi rửa rau, mặt o tái dần, tái dần, đôi mắt o dại đi, o lẩm nhẩm: “Có chi mô cha, anh nớ chỉ là…”. “Là răng? Tau nghe hết chuyện rồi đó. Để coi, tau thì tau băm nhỏ!”…

O Giang nó ngồi đổ xoài bên chậu nước, rổ rau đổ tung tóe xuống nền đất cát xỉn đen. O ôm lấy mặt, hu hu khóc. Mỗi khi khổ đau hay oan ức điều chi, o chỉ biết khóc. Nó nhìn o mà thương đứt ruột, đứt gan. Nhưng nó cũng chẳng biết làm chi giúp o nó cả. Nó ngồi bất động nhìn o từ xa và bỗng nhiên thấy ghét ông đến lạ.

O có tội tình chi mô chớ. Chẳng qua là o lỡ thương chú Bính. Chú Bính lái xe công nông thường lấy sỏi dưới bến sông. Chú Bính đen như cột nhà cháy, mặt có mấy cái sẹo dài dài. Nghe nói hồi trước chú cũng từng là một tay anh chị khét tiếng vì đâm chém. Rồi chú mắc nghiện ma túy phải đi trại để cai. Ra trại, bỗng chú tu chí hẳn, trở thành người chăm chỉ làm ăn. Thằng Quắt thi thoảng lại gặp chú. Mấy bữa đầu thấy mặt chú nó sợ. Nhưng dần dần nó thấy chú hiền khô, có bữa còn cho nó leo lên ca bin ngồi xe chơi một đoạn.

Một bữa xế chiều nó chạy xuống bãi sông thì thấy o Giang đang ngồi bên chú Bính sau một đống sỏi lớn. Khuôn mặt o cúi thấp xuống vẻ thẹn thùng, hai cánh tay lóng nga, lóng ngóng quặp chặt lấy đầu gối. Chú Bính quàng tay qua vai o thủ thỉ điều chi đó. O lý nhí đáp lại. Một lúc, chú Bính ghé sát hơn rồi thơm vào mái tóc xáp xơ, loe hoe vàng vì phơi nắng của o. Nó thấy người o chợt run lên bần bật. Thế là nó tức cười quá vội vàng ù té chạy…

Đêm. Trời đã sắp bước sang thu. Cái nóng oi ả của mùa hạ đã dần dần dịu bớt. Những trận gió Lào nguôi ngoai thổi, thế vào đó là những cơn gió nồm lành lạnh, se se…

Nó đã ngủ được một giấc dài. Chợt tỉnh, nó quờ tay trong bóng tối. Không gian đặc đen và im ắng lạ. Cái giường đôi trống trơn. O Giang mô rồi. Nó định gọi nhưng lại thôi. Nó nghĩ, nếu o đi ra ngoài có việc gì thì chắc một lúc nữa sẽ quay vô. Mà từ khi ở với o đến giờ, nó có bao giờ thấy o đi đêm mô chớ. Nó gắng đợi, đợi mãi, càng đợi nó thấy đầu óc mình càng tỉnh táo lạ. Nó nghe rõ được cả tiếng mọt nghiến gỗ ken két trên xà nhà và tiếng gió hú dài ngoài liếp cửa. Bóng tối vẫn đen đặc bủa vây…

Chắc đã khuya, khuya lắm… Nó chỉ cảm nhận được là nó nằm chờ o mãi mà không thấy. Nó ngồi bật dậy đưa hai tay dụi mắt. Một lúc, nó trèo xuống giường lần lần bước đi. Cánh cửa ngoài khép hờ. Ngôi nhà im ắng.

Bên ngoài lờ mờ sáng nhờ một trời sao chi chít trên đầu. O nó đi mô không biết?- Nó đứng giữa sân và thầm nghĩ. Nó ngây ra hồi lâu. Rồi bỗng như có sự mách bảo của linh tính, nó vội vã chạy băng băng xuống bến sông. Con đường ngoắt ngoéo mấp mô sồi sụt làm nó nhiều lần suýt ngã. Nó vẫn cứ phăm phăm chạy… Ngoài bãi sông sáng hơn. Ánh sao soi xuống mặt nước phản chiếu trở lại có thể thấy được từng đợt sóng chạy lăn tăn, lấp lóa…

…Có một bóng đen đen, nhờ nhờ phía xa xa, cách mép bến độ hơn chục mét, một phần đã khuất chìm trong màn nước lạnh. Bóng đen đó chợt dừng lại có vẻ như hơi chần chừ, phân vân rồi tiếp tục tiến xa hơn. Đúng rồi…! Đúng o Giang nó rồi! O…O ơi…?! Thằng Quắt hét lên. Bằng linh cảm của mình, bằng tình yêu thương ruột rà như tình mẫu tử, nó biết o nó muốn làm gì. O muốn chết, trời ơi…! Phải rồi, đúng là o muốn chết!. Ở cái xóm Lú này, đã có biết bao người xuống sông tìm cái chết. Mỗi khi không còn lối thoát thì người ta tìm đến cái chết để mà quên đi tất cả mọi cơ cực, mọi khổ ải trên đời…

O…O Giang… ơi….? Thằng Quắt hét gọi lạc giọng. Âm vang của tiếng gọi lan chạy trên mặt sóng dội lại chơi vơi. Bóng đen sắp khuất chìm trong màn nước lạnh bỗng dưng thẫn thờ đứng lại. Tiếng gọi diết da, tuyệt vọng của nó đã níu kéo một sinh linh quay trở lại với cuộc đời…

…Gió càng lúc càng thổi mạnh. Gió ngập tràn réo rắt vun vút quất những làn roi vô hình vô ảnh trên mặt sông vụn nát. Mặt sông dồn sóng vỡ luênh loang. Những con sóng lạnh cuốn đuổi nhau trôi dạt mãi về miền vô định…

*

*     *

“Ai biết nước sông Lam răng là trong là đục…Thì mới biết cuộc đời răng là nhục là vinh…”. Một lần, tôi được phiêu du ngược nguồn sông Lam cùng với một nhà thơ tỉnh lẻ. Tôi đã được đọc thơ anh, những vần thơ mộc mạc trong trẻo như chính con người anh, một người con sinh ra và lớn lên trên mảnh đất miền Trung đầy bão tố nhưng chẳng kém phần thơ mộng.

Đã chớm hạ. Chiếc thuyền nhỏ như một cánh lá trôi ngược giữa dòng sông ngút ngát. Nắng sớm đang lên. Những triền ngô xanh mướt mát trổ cờ trong cái gió lao xao, nhè nhẹ. Thuyền qua cầu Lường, một cây cầu mới vút cong với những hàng lan can trắng. Đi một quãng, anh nhà thơ rủ tôi lên bờ chơi. Anh bảo anh có người quen ở một xóm nhỏ gần đó. Cái xóm mang tên thật đẹp, đẹp như tên một người thiếu nữ, xóm Yên Giang.

 Buổi sáng hôm ấy, tôi lang thang men theo con đường rợp bóng lá chạy ngoắt ngoéo dọc xóm nhỏ nép mình bên bờ sông Lam. Ơ đấy, chỗ gần ngã ba, tôi tạt vào một quán nhỏ bán hàng tạp hoá. Và tại chính cái quán ấy, tôi đã gặp chị chủ nhà có tên là Giang. Chồng chị lái xe chở sỏi dưới bến. Chị đã kể cho tôi nghe về quãng đời lao đao, lận đận của chị…

Đến gần trưa, lúc tôi chào để kịp xuống thuyền thì thấy một thằng bé, người xương xương đạp xe đi học về. Nó lễ phép chào tôi. Chị Giang chỉ vào nó nói: “Đó…cái thằng Quắt mà tui kể cho chú nghe đó. Nó sắp sửa lên học cấp hai rồi chú ạ!”.

…Thời gian lặng lẽ trôi xuôi. Bỗng một đêm mưa, kỷ niệm với dòng Lam giang chợt trở về ào ạt. Thế là tôi quyết định cầm bút, hồi tưởng, sắp xếp rồi ghi lại câu chuyện cho có tầng có lớp. Câu chuyện giản dị như một kỷ niệm buồn man mác.

Người tạm trú trần gian

CHU MINH KHÔI 

Phố huyện chạy tới đầu làng bỗng thắt lại, từ đây đoạn vằn vèo nham nhở, khúc thênh thang. Làng sắp lên thị trấn. Cuộc sinh sôi biến chuyển nào cũng quyến rũ và nhọc nhằn, trải bao thắt lưng buộc bụng mới thành.

Đường nâng cấp mở rộng gấp ba lần cho tương xứng tầm vóc mới. Đá hộc, đá dăm đổ chất đống. Bóng nhẫy những thùng hắc ín mượn gió đưa mùi hăng ngái vào tận cuối xóm. Hàng phi lao chặt xuống như đốn đi một thời nghèo khó. Người nhào vô, tậu thổ xây nhà mặt đường, đất ngằn ngặt cơn sốt. Mấy hộ nằm trong diện giải toả, được xã đền bù và cấp thổ mới, mặt cứ tươi lên roi rói.

Ai dè chỗ eo thắt đầu làng mắc mớ khó gỡ nổi, ảnh hưởng ghê gớm tới tiến trình đô thị hoá, chỉ vì ngự kề ven đường sừng sững lăng mộ tổ họ Lâm. Xét cả thế lẫn lực, dòng họ này mạnh nhất vùng phía Đông huyện. Nhân khẩu Lâm tộc chiếm non nửa xã. Họ Lâm giỏi làm kinh tế, giám đốc có tới mấy vị, toàn lãnh đạo những doanh nghiệp tăm tiếng khắp huyện, khắp tỉnh. Xã đánh công văn yêu cầu họ Lâm di dời lăng Mộ tổ về khu nghĩa địa, tạo điều kiện mở rộng đường sá. Nhưng họ Lâm chống đối. Cái lí đưa ra: Mộ tổ nằm giữa long mạch con cháu đương phát, không chuyển đi đâu hết. Tới hạn xã đành cưỡng chế. Đội dân quân được huy động vào địa phận lăng. Họ Lâm chẳng vừa, hơn hai trăm đinh tay gậy, tay cuốc kéo ra bao vây hăm dọa. Tộc trưởng lớn tiếng:

- Thằng nào làm bung một viên gạch của lăng sẽ xơi một nhát chém.

Trước đông đảo những kẻ chống đối, ai nấy mặt đằng sát khí, tổ dân quân đành thoái lui.

Ông Chủ tịch xã vò đầu bứt tai vì chưa chớp loé hướng giải quyết. Ông triệu tập các vị bô lão trong họ Lâm lên ủy ban để thuyết phục cũng chẳng lay chuyển nổi. Công an huyện vừa tới cơ sở, già trẻ họ Lâm tràn ra chật đường phản đối. Căng chút nữa thành to chuyện. Lần nữa xã đành hoãn binh. Hội đồng nhân dân họp bàn mãi vẫn không có phương án khả thi. Chủ tịch xã cuống cả lên với khúc đường hẹp.

*

Tạm gác chuyện đường sá, chuyển sang kể về lão Tụ.

Gốc gác chốn nao chẳng ai biết chứ quê tôi đâu phải nơi cha sinh, mẹ đẻ của lão Tụ. Cách đây hai mươi lăm năm, lão bỗng nhiên xuất hiện ở làng, lân la xin ăn góc chợ quán. Cứ như thể đất lành chim đậu, lão ở riết luôn, không đi nơi khác nữa.

Tuổi tác bao niên, chính lão Tụ chả nhớ. Gương mặt hom hem dễ đến bảy mươi. Ngày trước lão từng bước chân vào uỷ ban xin nhập hộ khẩu. Ông chủ tịch hỏi giấy tờ gì lão cũng lắc đầu. Nghĩa là chẳng có một văn bản nào minh chứng lão đang tồn tại trên đời. Ông chủ tịch đành chịu, bảo lão.

- Muốn đăng ký thường trú, bác phải trình giấy tờ di chuyển hộ khẩu, chí ít có giấy khai sinh, giấy giới thiệu để chúng tôi biết quê hương bản quán nơi nào chứ thương bác lắm! Nhưng hành pháp không tuỳ tiện được. Thôi cứ ghi tên bác vào danh sách đăng ký tạm trú vậy.

Được thế chính quyền xã tôi cũng rộng lòng với lão Tụ lắm rồi. Hồi mới “lập nghiệp” ban đêm lão phải ngủ vơ vất dưới những túp lều trống hoếch hoác ở chợ Quán. Hạ thu còn đỡ, chứ mùa đông gió bấc không tan xương nát thịt cũng bầm da. Về sau xã ưu ái cấp cho lão sáu mét vuông đất bỏ hoang để làm nhà. Đó là thổ cư độc nhất vô nhị về diện tích siêu nhỏ. Sáu mét vuông đủ trú ngụ một thân phận. Dẫu thổ rộng nữa lão Tụ cũng chẳng dựng nổi nhà to hơn. Tre đi xin dựng cột kèo. Vách nứa trát đất bên ngoài tha hồ chắn gió. Mái rạ hạ mát đông ấm. Lão yên ổn định cư…

Con trâu già nhà ông Thanh tộc trưởng họ Lâm, ốm liền mấy ngày. Cán bộ thú y điều trị vẫn không vực dậy được. Tinh mơ, con trâu chết.  Ông Thanh vừa sai con đi đánh tiếng mời mấy người tới làm thịt trâu, chẳng mấy chốc đã thấy anh em láng giềng kéo đến…

Dĩ nhiên lão Tụ đã thấy mùi thịt trâu từ mấy hôm trước. Vắng mặt lão là trời sập. Lão lù lù cái dáng còng queo từ lúc nào chẳng ai để ý.

Tiệc thịt trâu đã sắp ra bát đĩa. Anh con trai út của ông Thanh gọi lão Tụ ra đống rơm. Cho lão ăn trước. Một đĩa thịt trâu thái dối, thêm mấy cọng hành một chút rượu được ấn vào tay lão Tụ. Lão cười vếch khoé miệng, rối rít cảm ơn.

Xong anh con trai út của trưởng họ vội vã đi thúc giục người đi bưng mâm lên nhà trên mời các bậc cao niên nhắm rượu.

- Ôi trời ơi ông Tụ làm sao ấy!

Con dâu ông Thanh từ đằng bếp chạy ra tru tréo. Mọi người hoảng hốt túa về phía đống rơm. Lão Tụ nằm lăn đùng ra đất, miệng há hốc, mắt trợn ngược. Lão chẳng nói được câu nào nữa. Chỉ chốc lát, chân tay cũng hết giãy giụa. Đĩa thịt trâu chỉ còn vài miếng văng ra lẫn vào rơm rạ. Ai nấy lao vào cứu chẳng kịp nữa rồi. Sờ tay vào ngực thấy tim đã ngừng đập, chạm tay vào mũi đã thấy ngừng thở. Lão Tụ chết thật rồi. Lão đi chóng vánh làm sao. Chẳng tật bệnh, không đau đớn. Lão rời bỏ trần gian khi còn chưa kịp xơi nốt đĩa thịt trâu.

Nghĩa tử là nghĩa tận. Lão Tụ một thân đơn chiếc, chẳng họ hàng thân thích, không quê hương bản quán. Lão tận số ở đây thì bà con làng này phải chung sức lo việc ma chay cho lão, vẹn toàn. Chôn cất ở nghĩa địa xã. Cũng phải làm đơn đưa lên xã ký, rồi chuyển cho ban quản lý nghĩa địa giải quyết đất đào huyệt. Mãi chiều tối mới xong thủ tục. Họ Lâm gọi thợ đến đóng quan tài. Tuy áo quan không được làm bằng gỗ tốt nhưng chắc cũng đủ ấm lòng người quá cố. Cũng kèn trống mới trọn vẹn. Chỉ duy chẳng cỗ bàn gì. Bà con xóm làng tới viếng cho hương hồn lão khỏi cô quạnh. Bảy giờ chiều làng tiễn đưa lão về nơi an nghỉ. Trời đã sậm tối, sáu trai làng nhẹ nhàng nâng quan tài lên vai. Hai ngọn đuốc chập chờn đi kề. Làng xóm lác đác theo sau. Gió phần phật thâm thâm u u. Đường ra cánh đồng lồi lõm những gồ ụ, những mạch tát nước. Cỏ may luyến bàn chân. Bỗng ngọn đuốc đi trước tắt phụt. Một anh khiêng đằng đầu kêu “oái!”, khuỵu chân sóng xoài ngã xuống đường, đám người đổ ập, chiếc quan tài nhao đầu xuống đất cái rụp. Ba bốn anh ôm chân kêu đau. Tại trời tối quá một người vấp phải hòn đá, đám khiêng theo nhau chổng kềnh mấy người đang rền rĩ than đau thì bỗng có tiếng la hét từ trong quan tài vọng ra. Anh nào anh nấy hoảng hốt, hồn bay phách tán, nhưng chẳng ai bò dậy nổi để chạy. Tiếng đập uỳnh uỵch càng mạnh rõ ra giọng lão Tụ kêu gào thảm thiết. Hồn ma lão Tụ hiện về ư? Những người bạo dạn đi sau lao tới cậy nắp quan tài. Từ cổ chí kim làng tôi chưa bao giờ xảy ra sự việc kinh dị như vậy. Lão Tụ bò dậy thật hổn hển thở, miệng ớ ú chẳng ai hiểu lão nói gì.

Sự việc lão Tụ chết rồi sống dậy thành chuyện động trời ở làng, nhiều người ở xã khác cũng kéo nhau tới xem mặt lão Tụ, thực mục sở thị…

Chưa hết lạ kỳ hôm sau dân làng xúm quanh người chết sống dậy, hau háu hóng chuyện lão ngao du chốn địa phủ. Lão kể: Miếng thịt trâu chẹn tắc cửa họng. Lão ngạt thở, lịm đi rồi thấy hai gã áo chàm xám, đầu chít khăn mỏ quạ lôi lão dậy kéo đi theo con đường lầy bùn, tối hun hút, qua cánh đồng cỏ lác, thấp thoáng những ngôi nhà cổ rêu bám mịt mùng, ngập lút trong cỏ. Qua nhiều nhà chủ nhân ra tận ngõ mời vào nhà chơi. Lão ghé thăm vài nhà. Toàn những người xa lạ, lão chưa quen biết, nhưng hỏi thăm lão rất chân tình. Người giới thiệu là bố đẻ của bác Tăng, người lại khoe ông nội của anh Tấn… Ai cũng có máu mủ ruột rà với người làng… Lão không thể vào thăm mọi nhà bởi vì hai gã công sai đã kéo lão đi. Qua cổng có mái cong lợp ngói ấm, lão được dẫn vào sân gạch rộng. Hai bên đôi hàng người áo thâm đứng nghiêm trang. Trước mặt, một người ra dáng quan lớn thời xưa ngồi trên chiếc sập chân quỳ chạm trổ công phu những rồng, những phượng. Người ngự trên sập vuốt chòm râu mềm như dải lụa, phán bảo:

- Kẻ kia lỡ bước xuống lãnh địa của ta lẽ ra ta dung nạp, cho ngươi một chốn nương thân yên ổn mãi. Nhưng vì người chưa có hộ khẩu bản địa nên ta đành tạm trả lại trần thế...

Nói đoạn, lệnh cho hai gã công sai dẫn lão ra. Vừa bước quá cổng chợt có tiếng gọi loáng thoáng:

- Ông Tụ ơi! Còn nhớ tôi chứ!

Lão quay đầu lại nhận ra ông Bàng. Ông Bàng mất đã hai năm nhưng lão chưa kịp hỏi han gì, đã bị lôi đi. Đến gần cuối đoạn đường, gặp ngôi nhà to lớn vẻ gia chủ khá giàu có. Một cụ già quắc thước dắt theo hai đứa tiểu đồng đi ra mời lão ăn quả mơ, uống bầu rượu. Lão uống ngon lành, thấm ngọt tận ruột. Hai gã công sai luôn miệng giục lão đi. Cụ già nói:

Ta muốn nhờ con một việc. Ta là tổ phụ họ Lâm. Con trở lại trần gian nhớ đem ý nguyện của ta tới con cháu ta. Nhắn chúng nó chuyển ta về nghĩa trang thôn cho ta được gần gũi xóm làng.

Lão Tụ nhận lời rồi bước thêm vài bước nữa, bỗng trượt chân rơi xuống hố tối đen thăm thẳm. Lão nôn thốc nôn tháo. Thế là tỉnh dậy. Thấy mình bị nhốt trong chiếc hộp kín như bưng. Lão hốt hoảng gào thét gọi cứu…

Khối người tin sái cổ lời lão Tụ kể. Chú Viêng túm lấy lão, hỏi “Ông có gặp mẹ cháu không?” Lão Tụ “có! Bà cụ than thở: hai thằng con tôi ngày bé thương yêu nhau lắm. Vậy mà bây giờ quay ra tranh giành cái bờ rào, cãi cọ nhau hơn thiệt đất cát, làm sao mà mở mày mở mặt được?” Chú Viêng cúi gằm mặt im thin thít.

Tuần sau tộc trưởng họ Lâm đổi hướng cho di chuyển lăng mộ tổ chẳng cần chính quyền xã tiếp tục ra tay…

Chủ tịch xã thở phào thoát được mối lo nặng nề. Nghe đâu chủ tịch gọi lão Tụ vào uỷ ban rót thưởng chén nước chè Thái thơm nức mũi ngợi khen lão hết lời. Bảo sẽ bố trí cho lão làm công việc coi xe đạp, xe máy ở cổng chợ Quán, để có thu nhập yên ổn cuộc sống, còn hứa sẽ quan tâm giải quyết hộ khẩu cho lão. Lão Tụ toe toét cười…

Tôi không được chứng kiến tận mắt lão Tụ chết sống dậy vì công tác xa quê. Ít lâu trở về người nhà thuật lại. Tôi bán tín bán nghi, nhưng gặp ai cũng nghe kể, và lại chỗ eo thắt đầu làng cũng thênh thang, khiến tôi không thể không tò mò. Người làng đã thôi buôn chuyện chết hụt của lão Tụ từ lâu. Kỳ lạ mấy, cuốn hút mấy cũng nhạt theo thời gian. Làng đã thành thị trấn Chợ Quán, đã sầm uất hơn trước nhiều. Dãy phố mới mọc lên áp sát mé chợ bán đủ thứ mặt hàng, từ vải vóc, mỹ phẩm, đến điện gia dụng. Khu hàng chòm hỏm, trước kia người bán ngồi xổm giữa la liệt rổ, thúng, nịp…

 Nay đã tôn cao nền xây mái che. Lão Tụ giờ coi xe ngoài cổng chợ, tay vé, tay phấn, lão ăn vận sạch sẽ hơn, bộ quần áo cáu bẩn thay bằng áo xanh đại cán, quần gụ, trông lão nhanh nhẹn hẳn ra. Kéo lão vào quán bà Tư béo sát ngay đấy, tôi đãi lão chén rượu nếp cẩm, gọi thêm đĩa bánh rán cho lão nhờn môi dễ đưa chuyện. Nhận thức coi âm dương còn ám ảnh trong tôi, u u minh minh, cái gì càng hồ nghi càng nôn nao muốn biết cho tường. Tôi có gạn hỏi lão. Lão cười bảo:

- Mày trình độ đại học mà cũng tin chuyện hoang đường ấy à! Tao chết hụt là do tao đóng kịch và có mấy người họ Lâm động viên, giúp đỡ, bày binh bố trận nên vở kịch mới thành chứ mày tưởng. Còn chu du âm phủ là tao bịa đấy!. Thấy chính quyền loay hoay mãi chưa giải quyết nổi chuyện mồ mả họ Lâm nên tao phịa ra chuyện để họ Lâm chuyển lăng mộ tổ đi mới tránh được cuộc va chạm có nguy cơ đổ máu. Vả lại mấy khi được vẽ chuyện nói dóc chơi. Thiên hạ khối đứa tròn mắt tin lão này sát đất đấy.

KẺ TRỘM TÌNH

Truyện ngắn

     Thấy tiếng động ngoài cửa, vợ hắn trong phòng bếp ngó ra hỏi:

-    Sao bảo trưa nay anh không về?

     -    Định thế, nhưng lại không phải tiếp khách nữa.

     Như thường lệ, về đến nhà là bao giờ hắn cũng ngồi ở phòng khách nghỉ một lúc. Hắn rút thuốc lá ra châm lửa. Rít một hơi, hắn thấy trong người thư thái, dễ chịu, trạng thái căng thẳng sau một buổi làm việc nhẹ đi hẳn. Hắn ngả lưng vào ghế, ngửa mặt phả khói thuốc lên trần nhà, lặng lẽ rà soát lại trong đầu việc thương thảo hợp đồng sáng nay xem có hớ hênh gì không, sẽ tổ chức thực hiện như thế nào cho có hiệu quả nhất. Điếu thuốc tự cháy thêm được một đốt ngón tay, hắn mới gõ nhẹ vào miệng gạt tàn. Chợt hắn thấy trong gạt tàn có một điếu thuốc hút dở. Lạ nhỉ, sáng nay hắn đã đổ hết những mẩu thuốc vào sọt rác rồi cơ mà. Trong khay, một cái chén vẫn còn chút nước cặn mặc dù sáng nào cái Vân Thảo cũng đánh rửa ấm chén sạch sẽ. Hắn cầm chuyên rót nước uống, thấy vẫn còn ấm. Hắn định hỏi: "Ai vừa vào nhà mình đấy em" nhưng lại kịp lái sang cách khác:

-    Sáng nay có ai đến hỏi gì anh không?

     -    Có ai đâu. Nay em nghỉ làm vẫn ở nhà một mình từ sáng đến giờ mà.

Vợ hắn không hút thuốc đã đành nhưng cũng chẳng bao giờ uống nước chè. Muốn uống, thị chỉ làm một cốc nước lạnh, ừng ực một mạch là xong.

     Rõ ràng là có khách đàn ông vừa ở đây. Chuyện ấy là bình thường, sao vợ hắn phải giấu nếu không có điều khuất tất nào đó. Một mối nghi ngờ dần dần hình thành trong đầu hắn.

     Mối nghi ngờ ấy vụt lớn nhanh, chiếm hết tâm trí hắn khi hắn phát hiện thấy trước cửa ra vào, ngoài đôi giày của hắn và đôi dép quen thuộc của vợ ra, còn một đôi dép nam lạ. Vậy là ông khách này vẫn luẩn quất đâu đây và còn có thể là ai khác nếu không phải là tình nhân của vợ hắn?

     Liếc vào phòng bếp, thấy vợ đang vớt con gà luộc vàng ngậy ra đĩa, hắn quay nhanh mặt đi làm như không để ý. Thế là đã rõ.

Sáng nay, trước khi đi làm, hắn bảo vợ:

     -    Trưa nay ba mẹ con em ăn cơm với nhau nhé, anh phải ở lại tiếp đối tác.     

Nhưng làm việc xong, phía đối tác một mực từ chối lời mời đi ăn trưa tại một nhà hàng sang trọng vì họ cần về Hải Phòng ngay cho kịp cuộc họp buổi chiều. Thế nên mới có chuyện hắn về nhà bất chợt.

Chưa bao giờ hắn chuẩn bị cho tình huống này. Vợ hắn tha hóa đến thế sao. Tưởng chồng không về đã rước ngay trai đến nhà, còn mua gà đãi tình nhân nữa chứ. Thường là nhà hắn chỉ mua gà cả con khi có giỗ, tết hoặc có khách. Nếu hắn không về đột xuất, chắc hẳn chúng nó sẽ ngả ngớn ăn uống với nhau. Vợ hắn sẽ kề ly rượu lên tận miệng thằng tình nhân còn thằng tình nhân thì xé nhỏ từng miếng thịt gà đút vào miệng vợ hắn. Chúng sẽ ngồi một bên bàn thôi để tiện yêu nhau. Chúng sẽ vừa ăn, vừa nhìn nhau tình tứ, vừa cấu véo nhau. Vợ hắn dù đã ba mươi nhăm nhưng còn ưa nhìn lắm. Đã vậy, da thị lại trắng. Đã vậy, thịt thị lại đầy đặn, căng lên dưới làn áo mỏng mà chiếc khuy ngực lúc nào cũng chực nứt ra, trông mũm mĩm thế kia, gợi tình thế kia. Vậy mà đâu còn phải là của riêng hắn nữa. Trời ơi! Hắn điên lên mất. Mới biết con người hư hỏng nhanh như thế nào. Không phải, đó là sự biến chất dần dần hoặc bản chất con người được giấu kín mà kẻ mê muội như hắn không nhận ra đó thôi. Thảo nào người ta bảo vợ chồng đầu gối tay ấp, ăn ở với nhau cả đời chưa chắc đã hiểu hết được nhau.

Vậy mà từ trước đến nay, hắn vẫn tin vợ nết na, hiền thục, thủy chung. Hắn thường tự hào với bè bạn, với đồng nghiệp về điều đó. Có với nhau ba mặt con rồi nhưng hắn còn giữ thói quen hôn vợ trước khi đi làm. “Để gìn giữ và nuôi dưỡng tình yêu” -  hắn tự nhủ mình như thế.     

     Hắn rà soát lại những ngày gần đây thấy vợ không có biểu hiện gì bất bình thường. Thị vẫn ăn mặc như thế, không diêm dúa, cầu kỳ, không son phấn lòe loẹt, không thay đổi kiểu tóc thường xuyên như những người phụ nữ đang có tình nhân. Mà thị cần gì phải thế. Thị vẫn ý thức được nhan sắc của mình. Thị sử dụng điện thoại vô tư, thoải mái ngay trước mặt chồng chứ không lén lút, vụng trộm bao giờ. Hôm nay, thấy hắn về đột ngột, mặt thị không hề biến sắc, không tỏ ra lúng túng. Ghê chưa? Cao tay chưa? Bản lĩnh đàn bà ai bảo là non, toan tính của họ ai bảo là cơi đựng trầu? Thế nên hắn mới bị thị cắm sừng lúc nào mà không hay. Càng nghĩ, hắn càng thấy nhục. Nhục cho hắn đã đành, nhục cho cả dòng họ nhà hắn nữa.

Chungsống với nhau mười lăm năm, hắn biết vợ không phải là loại người lẳng lơ, đĩ thõa hay lãng mạn, đa tình. Hắn suy nghĩ, phân tích, tìm hiểu nguyên nhân. Thôi đúng rồi. Vợ chồng hắn sinh liền trong bảy năm ba đứa con gái. Khi đẻ đứa thứ ba vẫn là gái, hắn buồn, chẳng thiết chọn tên cho con nữa. Hắn đặt luôn là Vân Vân với ý nghĩa rằng chẳng biết hắn còn bao nhiêu cô gái rượu tên Vân nữa sẽ ra đời. Hắn vẫn yêu con lắm nhưng hình như có lần hắn nói với vợ là anh ao ước có một thằng cu. Chắc thị cho là nguyên nhân sinh con một bề là do hắn nên mới cố kiếm một đứa con trai cho chồng vui lòng đây. Nhưng dù động cơ dù có xuất phát từ lòng thương chồng đi chăng nữa thì cũng không thể nào chấp nhận được. Sự tiến bộ của y học hiện đại thừa khả năng tạo cho hắn một đứa con trai, không nhất thiết cứ phải là trai trên gái dưới.

Hắn nghẹn đắng đến tận cổ nhưng cố giữ bình tĩnh. Nếu nôn nóng để vợ biết là hắn đã nghi ngờ có thể dẫn đến hỏng việc.

Nhưng hắn lo bằng thừa. Vợ hắn vẫn đi đứng, nói chuyện như không, lại tươi tỉnh hơn mọi ngày nữa chứ. Thị pha cho hắn một cốc nước chanh:

     -    Uống đi cho mát anh. Chồng tôi vất vả quá. Em mệt thay cho nào.

     Rồi thị xoa đầu hắn một cái, vuốt má hắn một cái, chụt vào trán hắn một cái. Hắn cố kìm nén để không tỏ ra khó chịu, khinh bỉ. Giả vờ khéo chưa? Hẳn là mỹ nhân kế đây. Chắc thị đang tính chốc nữa sẽ ngồi bên hắn, cọ vào hắn cho hắn mềm người ra, mất hết tự chủ để dụ hắn ăn uống no say rồi lăn ra ngủ cho tình nhân tẩu thoát đây mà. Thị đâu có biết rằng hắn đã phát hiện ra tội lỗi tày trời của thị, rằng bây giờ hắn đã nhận ra sự ngu muội của mình. Đầu óc hắn tỉnh táo hơn bao giờ hết. Trái tim hắn lạnh lùng hơn bao giờ hết.

Đã chắc kẻ trộm trong tay rồi, hắn không vội. Hắn âm thầm phác ra kế hoạch vây bắt.

     Hắn lục soát từ tầng một lên trở lên vì nếu tìm từ trên xuống thì bằng thả gà ra mà đuổi.

Tầng một chỉ có nhà vệ sinh là kẻ trộm có thể ẩn nấp. Ngó vào không thấy gì, hắn giả vờ lẩm bẩm: “Bẩn quá, đã bảo cái Vân Thảo cọ rửa hàng ngày mà nó chẳng chịu làm”.

Tầng hai, phòng ngủ của vợ chồng hắn và phòng cái Vân Vân đều để ngỏ. Không nghi lắm nhưng hắn vẫn ngó vào nhà vệ sinh, nhìn xuống gầm giường, mở toang cánh tủ quần áo. Nhìn thấy cái tủ lạnh, hắn lượng lự một chút nhưng nhanh chóng cho qua. Hắn đọc ở đâu đó thấy nói đến chuyện cô vợ giấu tình nhân trong tủ lạnh nhưng hắn cho là phi lý. Chắc tay nào đó bịa ra cho vui thôi chứ chiếc tủ lạnh 400 lít thì đứa trẻ con lên ba cũng chẳng chui vào nổi. Mặt khác, tủ lạnh vẫn còn cắm điện. Nếu giấu ai đó trong đó thì thị cũng đủ thông minh để rút phích điện ra.

Tầng ba, phòng cái Vân Thảo cũng thế. Phòng cái Vân Anh vẫn khép như từ hồi nó vào Sài Gòn với bác và học luôn trong đó. Hắn cầm tay nắm tròn của khóa cửa xoay nhẹ. Chợt ruột gan hắn nóng lên, tim đập thình thịch khi biết cửa đã bị bấm chốt bên trong.

Hắn áp tai vào cửa nghe ngóng. Hắn thấy tiếng vòi nước xả trong nhà vệ sinh. Một lúc sau thì thấy tiếng dép loẹt quẹt đi về phía giường nằm. Chắc là khi yêu vợ hắn xong, thằng tình nhân lăn ra ngủ, bây giờ mới nghĩ đến chuyện vào nhà vệ sinh để tẩy uế đây. Nghĩ thế, toàn thân hắn lại run lên.

     Vậy là hắn đã xác định được vị trí ẩn náu của kẻ trộm tình. May mà phòng này phía sau không có ban công nên chỉ làm cửa sổ nghĩa là phòng có mỗi một cửa ra vào. Phen này chỉ có phép biến hóa của Tôn Ngộ Không thì mày mới thoát. Một ý nghĩ mỉa mai, chua chát hiện lên trong đầu hắn: thị chưa bậy đến nỗi rủ trai vào chính phòng ngủ của vợ chồng hắn.

Hắn lấy lại bình tĩnh rồi đi xuống. Trong phòng bếp, vợ hắn vừa nấu cơm vừa hát “… còn gì cho anh, cả một đời xuân xanh, trên thế gian này chỉ có anh …”. Hắn tím mặt, nghĩ: trơ trẽn, vô liêm sỉ đến thế là cùng.

     Hắn trở lại phòng khách, mắt canh chừng vợ, tay luồn ra phía sau tấm giấy khen học sinh giỏi của cái Vân Anh treo trên tường lấy chiếc chìa khóa hắn vẫn giấu ở đấy cho khỏi lẫn vì ít dùng tới. Chợt nghĩ ra, hắn đi khóa cổng lại rồi vứt chìa vào giỏ rác, nơi chẳng mấy ai để ý. Cuối cùng, hắn vào phòng cái Vân Thảo lấy sẵn một tập vở chưa dùng và một cây bút để tí nữa lập biên bản.

       Hắn đứng trước cửa phòng chứa kẻ trộm một lúc. Dù ở thế chủ động nhưng hắn vẫn thấy quá hồi hộp. Hắn xoay người lại tựa lưng vào cánh cửa, hít mấy cái thật sâu rồi thở ra từ từ cho đỡ căng thẳng. Hắn dự tính đến những tình huống có thể xảy ra: đôi gian phu dâm phụ ngoan ngoãn nhận tội, tình huống này đơn giản nhất. Hắn sẽ gọi tổ trưởng dân phố đến và bắt hai đứa ký vào biên bản, còn tiếp theo như thế nào thì tính sau. Tình huống thứ hai ít xảy ra hơn nhưng lường trước không thừa. Đó là kẻ trộm tình đánh nhau với hắn để tẩu thoát. Vợ hắn sẽ xông vào cứu bồ. Thị sẽ ôm chặt lấy hắn để thằng tình nhân tháo chạy. Hắn thoáng nghĩ: hay là gọi thêm mấy thằng bạn đến giúp sức cho chắc chắn. Nhưng hắn gạt đi ngay: chuyện này cần giữ kín, rao lên cho cả cơ quan nó biết thì đẹp mặt. Rồi hắn lấy lại tự tin: trường hợp này, cũng không có gì đáng lo. Hắn là người có sức khỏe. Tuy chưa đánh nhau với vợ bao giờ nhưng hàng đêm, hắn chỉ nhấc khẽ một cái là đặt đươc thị lên giường. Vậy thì thị làm sao mà cản nổi hắn cơ chứ. Mặt khác, hắn còn có thêm sức mạnh của lòng căm thù. Nghĩ đến đấy, hắn xoay người trở lại, tay run run tra chìa khóa vào ổ. “Tách” một cái, hắn đẩy cửa bước vào.

Nhưng trước mặt hắn không phải là một tay trung niên khỏe mạnh, đẹp trai, cũng không phải là gã đàn ông mang dáng vẻ của một thương gia giàu có. Người này hắn vẫn gặp đều đặn một năm ít nhất ba lần ở quê vào dịp tết và giỗ ông bà bên vợ. Lũ trẻ con nhà hắn vẫn gọi bằng ông ngoại.

     Lập tức hắn biến rất nhanh bộ mặt đằng đằng sát khí thành vẻ mặt rạng rỡ tươi cười:

-    Con chào thầy. Thầy lên chơi mà không báo trước cho con đánh xe đi đón. Nhà con chuẩn bị bữa ăn xong rồi, mời thầy xuống xơi cơm ạ.

Thảo nào hôm nay vợ hắn vui thế. Cái Vân Thảo và cái Vân Vân đi học về vừa kịp bữa. Hắn nhanh nhẹn xách cái giỏ rác giả vờ đi đổ rồi lén moi chiếc chìa khóa hắn vừa ném vào đấy, mở cổng cho chúng nó vào.

Khi cả nhà đã đầy đủ, ngồi quây quần quanh mâm cơm đầy ắp thức ăn, vợ hắn trịnh trọng rót rượu ra hai cái ly, cười rất tươi:

     -    Con mời thầy, em mời anh xơi rượu. Khi nãy anh về, em cố giấu tin thầy lên, định dành cho anh một niềm vui bất ngờ. Vậy mà anh vẫn biết mà lên chào thầy. Anh tinh thật.

     Chưa bao giờ hắn thấy vợ mình xinh đẹp và đáng yêu đến thế. Hắn nâng ly chạm với bố vợ:

     -    Nhà con nói thế thôi chứ con tinh tường gì đâu. Khi về, thấy đôi dép quen thuộc của thầy là con nhận ra ngay. Rể hiền thì lúc nào mà chả quan tâm đến bố vợ, thầy nhỉ.

Kẻ phản bội

Truyện ngắn

Rít một hơi thuốc lào, ngửa cổ nhìn đám khói đang bay lơ lửng trong gian nhà quạnh vắng, lão Tơn lơ đãng… Mình thì khốn nạn đã đành, còn có người sướng mà cũng không biết sướng…

Đấy là lão đang nghĩ về lão Hoán… Con trai làm đến Phó Chủ tịch huyện, con gái lấy chồng là cán bộ Trung ương ở tít trên Hà Nội. Cả làng cả huyện cho là nhà đại phúc. Ấy vậy mà đêm qua lão lại bỏ trốn nhà. Xóm làng cùng con cái đổ đi khắp nơi tìm suốt đêm suốt sáng mà không thấy. Nói dại hay là đâm đầu xuống sông, xuống ao mà chết thì thiệt thân. Làm bố của bậc phụ mẫu chi dân mà lại giở chứng. Thật chả ra làm sao…

 Ngoài ngõ, tiếng sừng trâu lộc cộc lộc cộc gõ vào gióng chuồng giục giã. Lão Tơn đứng lên ghé sát mặt vào cái đồng hồ, vậy mà đã hơn hai giờ chiều. Cả buổi sáng trời mưa, lại bận cùng cả làng đi tìm lão Hoán nên con trâu bị bỏ đói. Thôi chả nghĩ nữa, dắt trâu đi cho nó kiếm tý cỏ tươi bỏ bụng…

Ở đời ai cũng có nỗi khổ- Lão Tơn vừa dong trâu vừa cúi mặt lẩm bẩm- Như lão thì đã đành, đánh giặc hơn chục năm, về nhà lấy vợ sinh con. Đứa con đầu sinh ra đã chẳng có được hình hài hẳn hoi, đầu to đít bé, chân tay nhỏ tý xíu, trông như củ khoai cắm mấy que tăm. Người ngoài chả ai dám đến nhà vì người ta sợ khi thấy cái hình hài quái dị thỉnh thoảng lại èo èo kêu như tiếng mèo bị bóp cổ, và nhất là hai lỗ mắt trắng dã chẳng có con ngươi của nó…Chả cần! Dứt ruột đẻ ra, con mình thì mình thương, con mình thì mình chăm chút. Năm năm giời vừa dỗ con vừa khóc, rồi con cũng bỏ mà đi. Âu cũng là sự giải thoát! May mà đứa thứ hai là con giai, cân cốt mọi bề, khỏe mạnh tốt tươi học hành chăm chỉ, hy vọng tràn trề. Thì ra trời còn thương. Ai ngờ nó đang học lớp mười hai thì tự dưng ốm một trận rồi như có ma hút hết máu thịt, người ngợm trơ khung xương khẳng khiu như cành núc nác, sần sùi da cóc, mồm miệng rộng hoác lúc nào cũng ngáp ngáp chẳng ra khóc, chẳng ra cười. Hàng chục năm giời cõng con chạy hết viện tỉnh đến viện trung ương, thuốc nam, thuốc bắc đủ cả… có bệnh thì vái tứ phương, nghe ai mách đâu có thuốc hay thì vội tìm đến. Góp nhặt cả đời, cộng với tiền trợ cấp thương binh hàng tháng tất tần tật dồn vào cứu chữa cho con. Nhưng con vẫn chẳng thể ở với mình. Vợ lão quắt queo kiệt quệ sức lực vì chăm nuôi hai đứa trẻ tật nguyền cũng bỏ lão lặng lẽ đi theo con trong buồn bã thất vọng. Hình như bà ấy muốn sang thế giới bên kia để tiếp tục chức phận của mình. Bây giờ lão chỉ có một mình với căn nhà trống tuyềnh toàng lạnh lẽo.

Nghe ran tiếng dế giun ti ti… ti ti, lão Tơn ngẩng đầu. Đã đến nghĩa địa làng. Để trâu gặm cỏ trên bờ, lão đến chỗ mộ vợ con ở cuối ruộng. Lần nào cũng vậy, khi đến nghĩa trang là lão lại đến chỗ vợ con nằm. Dù chỉ là những nấm đất nhưng lão vẫn thấy hiển hiện sự tồn tại của người thân. Khi vợ mới mất, sau bốn chín ngày, ngày nào lão cũng có mặt ở khu mộ… sự đặc biệt ấy là chủ đề cho cả làng bàn luận. Người thì thông cảm xót xa, người thì cho là ủy mị. Lão nghe thấy hết. Dồn cả vốn liếng, lão mua một con trâu về nuôi, ngày ngày dong ra nghĩa địa. Lấy cớ là chăn trâu nhưng cái chính là để gần với vợ con, để bớt nỗi cô đơn trống trải.

Chợt có tiếng sột soạt … Lão Tơn nghiêng cổ nghe… Cả cánh đồng không một bóng người. Tiếng gió thổi vào bụi cây hay tiếng chuột chạy. Một tiếng e hèm nghẹn nghẹn như cố ghìm. Người! Chắc chắn là người. Đúng rồi, lão Hoán! Sao mà tất cả mọi người không nghĩ ra là lão Hoán ở ngoài này để mà tìm nhỉ?

- Ông Hoán đấy à! Có phải ông Hoán không?

Không trả lời. Lại nghe sột soạt. Lão Tơn xác định được tiếng sột soạt ấy từ đám cây um tùm giữa hai khu mộ xây. Lão vạch cây xăm xăm bước tới, những cái gai móc vào ống quần cào ống chân ran rát.

- Chiến đấu? Một tiếng nói dõng dạc cất lên ở bụi cây.  Lão Tơn dừng lại. Giời ạ! Lại còn mật khẩu chiến dịch nữa. Đúng lão Hoán rồi. Nhưng… bây giờ mà xông đến thì lão ta cho một nhát dao chứ chẳng chơi. Biết đâu khi bỏ trốn, lão ấy chả mang theo một con dao? Và nếu không có dao thì sức lão Hoán cũng đủ quật cho mình một phát thì rồi đời. Hay là chạy về báo cho làng xóm để ra bắt lão ta về. Nhưng… từ đây về làng cũng không gần, có khi huy động được người ra đến nơi lão ấy lại biến đi chỗ khác thì có mà giời tìm. Làm thế nào nhỉ?

- Chiến đấu? Tiếng nói trong bụi cây lại cất lên, lần này có vẻ nghi ngại.

Lão Tơn nhăn trán cố nhớ. Cái chiến dịch mà lão Hoán bị bắt quy định ám hiệu nhận ra nhau là gì nhỉ? Hình như… cứ thử xem sao. Lão Tơn ngập ngừng:

- Chiến… thắng…

Ngay lập tức từ phía bụi cây nhô lên một hình hài cao gầy trong bộ quần áo ngủ kẻ sọc bê bết bùn đất, ướt lướt thướt …  Đúng là lão Hoán, với cái đầu trọc đôi mắt thâm quầng và đôi môi tím tái vì lạnh. Nhìn vào đôi mắt trũng sâu ấy, lão Tơn thấy những giọt nước mắt đang ứa ra vui mừng…

- Đồng chí Hoán! Tơn đây. Đồng hương đây.

Lão Hoán ào đến ôm lấy lão Tơn ghì chặt như không muốn rời, miệng méo xệch nước mắt ròng ròng:

- Giời ơi! Tơn ơi… Vậy là tao thoát rồi… tự do rồi…

Cái ghì chặt tin cậy của lão Hoán, tiếng khóc của lão, tiếng gọi mừng vui và cả cái lạnh từ quần áo của lão ta ngấm qua áo mỏng làm cho lão Tơn rưng rưng. Dầm dạp mưa gió từ đêm qua đến giờ, sao khổ thế Hoán ơi! Lão Tơn bật khóc.

*

*   *

Lão Hoán cùng tuổi với lão Tơn, đi bộ đội cùng đơn vị, đánh nhau được vài tháng thì Hoán bị phía bên kia bắt làm tù binh. Năm bảy ba được trao trả… cũng về nhà lấy vợ. Nhờ thời gian ở nhà tù mà lão không bị nhiễm chất độc da cam nên con cái lành lặn mỡ màng, học hành thành đạt. Cả làng cả xã ai cũng tấm tắc. Từ khi con trai lên Trưởng Phòng rồi lên Phó Chủ tịch thì nhà lão dập dìu khách khứa ra vào. Vợ lão Hoán trẻ ra, phây phây vì ăn uống no đủ, quần là áo lượt… nhưng lão Hoán mỗi ngày lại càng thêm teo tóp. Chả ai hiểu vì sao. Có người còn bảo cả mái hại trống. Có khi thế thật. Lúc con trai còn ở chung nhà, thỉnh thoảng làng xóm lại thấy lão Hoán rít lên: “Đồ ác ôn! Đồ ăn cướp…” rồi lẩm bẩm chửi suốt đêm. Không thấy vợ chồng anh con trai nói gì. Mọi người chắc lão này điên, chỉ có điên mới vậy!

Không thể ở chung với bố, anh con trai làm nhà ở riêng phía vườn sau. Tưởng đã yên nhưng không ngờ ông bố còn tai ách hơn. Cứ mỗi lần nghe thấy tiếng xe máy ở nhà ông con, đoán chắc là có khách thì ông bố lại ra sau nhà mình vạch chim đứng đái hướng về cửa nhà con, đái xong lại vảy vảy cái của quý của mình, miệng chửi “quân ăn cướp, thằng ác ôn, bàn nhau ăn cướp…này có giỏi thì ăn cái con c… ông đây này”

Một đêm cả làng đang ngủ say thì thấy vợ lão Hoán la hét rầm rầm. Con cái tá hỏa lao sang, làng xóm vội vàng chạy đến. Lão Hoán biến đi đâu mất còn vợ lão mặt mũi nhợt nhạt vừa lấy tay xoa cổ vừa hổn hển: “Lão ấy định giết tôi… lão ấy bóp cổ…”.  Chắp nối lời kể không đầu không cuối của bà ta, mọi người cười rũ. Thì ra lúc ngủ mê hứng tình bà chặn cánh tay nần nẫn lên cổ lão, lại còn gác cái đùi như cây chuối hột lên bụng lão. Đang ngủ say bị đè bị chặn lão uớ uớ không thở được. Thôi chết rồi, thằng địch nó định thủ tiêu mình. Vậy là lấy hết sức bình sinh, lão vùng dậy chịt cổ kẻ thù định bóp cho lè lưỡi. Vợ lão la toáng lên, lão lập tức phóng ra cửa chạy luôn một mạch. Chả biết chạy đâu. Mọi người cười xong lại phải đèn đuốc đi tìm. Rồi người ta cũng tìm thấy lão đang dán mình xuống làn khoai ngứa ngay rìa làng mặt mũi người ngợm bết bê bùn đất.

Thì ra lão Hoán bị điên thật. Cô con dâu bảo để tình trạng như thế thì có ngày bà già chết oan rồi mang tiếng... vợ chồng mình phải tìm người đến ngủ hàng đêm để canh coi ông già. Dò hỏi, ướm ý mãi rồi chị ta tìm được một anh chàng ở cuối xóm, anh này vốn nghiện rượu lại đông con nên túng nheo túng nhóc. Anh ta đòi mười nghìn một đêm nhưng chị con dâu lão Hoán chỉ trả có năm nghìn. Hai người mặc cả với nhau đến vài tiếng đồng hồ. Chằng cày mãi rồi chị con dâu lão Hoán bảo thôi thì cưa đôi, mỗi bên lùi một tý: bảy nghìn rưỡi. Anh này ngồi nhẩm tính: bảy nghìn rưỡi được nửa lít rượu tẻ, đủ uống cả ngày mà lại chỉ việc đến ngủ đêm có chăn màn thơm tho, ngày vẫn việc nhà… chả thiệt tí nào. Vừa khỏe người vừa thực hiện được cái việc sinh đẻ kế hoạch nên đồng ý.

Từ đấy trở đi, làng xóm yên ắng hẳn. Ban ngày thì cổng khóa, con cái đi vắng hết, chả chửi được ai, lão Hoán chỉ lẩm bẩm trong miệng. Còn ban đêm thì cổng khóa, cửa khóa, giường cũng khóa. Khóa giường là một gã đàn ông duỗi thẳng chân tay nằm lù lù như bờ đê ở phía ngoài. Lão Hoán lục sục đi đái đêm, gã này cũng chồm dậy: Đi đâu? Đi đái! Đợi cho lão làm xong cái công việc thải loại và trở lai giường vào đúng vị trí lão thì gã mới chịu nằm xuống vị trí của gã. Lão Hoán nghĩ thì ra mình đang bị giam hãm trong ngục tù lần nữa. Khát vọng tự do bùng lên thôi thúc. Nhưng kẻ thù nham hiểm đã bố trí canh coi ba tầng cửa ngục ngày đêm để tù nhân không thể vượt ra. Lão rắp tâm có thời cơ là kiên quyết trốn về cùng đội ngũ.

Hôm qua, chập tối trời nổi dông. Đang nóng nực mà lại có cơn dông thì tuyệt quá. Gió may mát rười rượi, da thịt tê mê đến tận chân lông. Anh chàng coi nhà thuê sau khi tu hết già nửa chai rượu thì hứng tình đưa mắt nhìn vợ, chị vợ cũng đưa mắt nhìn chồng. Vậy là cả hai vợ chồng bảo lũ con sang nhà hàng xóm xem tivi, hôm nay có phim hay lắm. Lũ con sướng quá biến luôn để bố mẹ thoải mái. Xong việc ông bố mệt đứ đừ, mồm thở phì phò dứt áo lên đường đi làm nhiệm vụ. Đến nhà lão Hoán anh ta văng ra ngủ luôn, chả biết đất giời gì nữa.

Lão Hoán nằm phía trong chưa ngủ được, đã giở giời lại thêm mùi rượu nồng nặc càng khó ngủ. Dưới ánh đèn mờ mờ, thấy thằng canh coi ngủ rớt cả dãi xuống cằm, miệng ngáy phò phò thì đoán chắc thằng này say lắm rồi. Lão thử động vào người hắn. Thằng này vẫn ngáy. Lão rờ vào quần đùi của hắn, chỗ sát háng thấy cồm cộm. Đây rồi! Giấu kỹ thế… lão Hoán nghiêng người nín thở một tay căng cạp quần đùi chun của anh ta rồi tay kia thọc vào trong, từ từ đưa hai ngón lách vào túi quần đùi nhè nhẹ kẹp lấy chùm chìa khóa. Được rồi! Mồm ngậm chặt công cụ mở cửa tự do vừa lấy được, lão chống thẳng tứ chi bò ngổm qua bờ đê là tên lính canh rồi vén màn tụt khỏi giường- qua được tầng cửa ngục thứ nhất… Tiếp tục chân đất nhón móng cò, lão nghiến răng nhắm mắt mò mẫm tìm trong xâu chìa khóa cái chìa mở cửa. Khi cái khóa cửa bật ra tạch một tiếng, lão dừng lại nghe. Vẫn không động tĩnh gì. Từ từ mở cửa…Qua tầng cửa ngục thứ hai. Lại nhón móng cò vượt qua sân. Nhẹ nhàng nhảy vào vườn, men theo hàng dậu rau ngót, lão bò ra ngõ. Từ sau cánh cổng, vẫn nguyên tư thế bò lão dòm ra ngoài đường: không có ai! Ngoái lại nhìn qua vai: trong nhà im ắng! Yên tâm, lão vươn người quỳ gập gối, ngửa mặt lên, tay lập cập tra chìa mở khóa cổng- Tầng cửa ngục thứ ba… lần này có vẻ dễ dàng hơn.

Thoát rồi! Tự do rồi. Phải trốn thật xa để không bị kẻ thù bắt lại. Lão men theo rìa quốc lộ hối hả bước.

Đến ngang bãi tha ma rìa đường, chỗ này cách làng đến vài cây số, lão ngồi bệt xuống hổn hển thở. Nhìn lại thấy có ánh đèn xe máy loang loáng, lão hoảng hồn vội chạy xuống nằm lên một ngôi mộ mới, kéo những vòng hoa phủ lên người. Một lúc sau hàng chục người nhảy từ trên xe máy xuống, đúng là bọn cảnh sát dã chiến rồi. Lão Hoán nín thở nằm dán xuống đất mặc cho mùi tanh nồng xộc lên mũi. Ánh đèn loang loáng quét trên đầu. May sao lúc ấy trời bắt đầu đổ mưa… Không có gì, chắc ông ấy không đi lối này… cả bọn kéo nhau về. Lão Hoán thở phào. Vậy là thoát! Nhưng đi đâu bây giờ?

Mưa suốt đêm. Nằm ở đây không thể chịu được, lão Hoán bì bọp lội đến nấp dưới bụi cây mọc giữa hai ngôi mộ xây. Hai hàm răng va nhau lập cập, lão dầm người chịu ướt, chịu lạnh và muỗi đốt.

Mưa còn rả rích đến hết cả buổi sáng…

*

*   *

 Khóc một hồi rồi lão Hoán bảo đồng chí đưa tôi về cơ sở để gặp cấp trên, lão Tơn nghĩ hẵng đưa ông bạn chập mạch này về nhà mình đã rồi sẽ tính sau. Lão Hoán còn bảo phải đợi nhập nhoạng tối đã chứ đi ngay bây giờ thì lộ mất, có nhiều ác ôn chỉ điểm lắm. Xẩm tối lão Hoán lúc cúc đi sau lão Tơn. Hễ thấy có người thì lùi lại nấp sau con trâu. Về được đến nhà lão Tơn mà không bị ai hỏi han gì, lão Hoán thở phào. Lão Tơn bảo: Đây là cơ sở của ta, đồng chí tắm rửa thay quần áo rồi nghỉ ngơi. Tôi đi hái ít rau về nấu cơm. Rồi lão đưa cho lão Hoán bộ quân phục cũ. Lão Hoán đón bộ quần áo đưa lên mũi hít hít, mắt rưng rưng: vậy là tôi đã được trở về với đồng đội. Sướng quá đồng chí Tơn ơi. Nhưng sao vắng vẻ thế? Đúng là chả bao giờ ra khỏi nhà nên chẳng biết cái gì cả- lão Tơn nghĩ thầm, nhưng để bạn khỏi lo lão đành trả lời qua quýt: Các đồng chí khác đi công tác cả rồi. Thế à! Lão Hoán yên tâm.

Cầm cái rổ đi hái rau nhưng ra đến ruộng thì lão Tơn quẳng cái rổ ở đó rồi vội vàng chạy đến nhà anh Phó Chủ tịch. Lão gặp chủ nhà nói nhỏ với anh ta vài câu. Anh này gật đầu cảm ơn lia lịa. Sợ ông bạn đồng đội đang chờ nảy sinh nghi ngờ, lão lại tất tả chạy ra ruộng rau.

Phu nhân vị Phó Chủ tịch đợi lão Tơn đi khuất rồi mới hỏi chồng:

- Này! Lão ấy nói gì với anh đấy!

- Lão ấy bảo đã tìm thấy ông già. Hiện đang ở nhà lão.

- Vậy đưa ngay về chứ sao lại còn đứng đấy.

Anh chồng thủng thẳng xoa xoa cái bụng đã chớm phát phì:

- Thì cứ để ở đấy vài ngày rồi đón về cũng được. Chứ đón về ngay ông già lại phá bĩnh.

Chị vợ giãy nảy:

- Ô hay! Điên à. Cái mồm của ông già điên mà phụt ra những điều ông ấy biết thì… Mà cái lão Tơn tứ cố vô thân trên không chằng dưới không rễ ấy thì có biết sợ gì ai. Bao nhiêu năm nay đầy chuyện đã cố giấu…

          Ông Phó Chủ tịch đần mặt thảng thốt: Ừ nhỉ! Thôi chết tôi rồi. Vậy nhanh lên!

          Lão Tơn hái vội nắm rau rồi về ngay. Lúc ấy lão Hoán cũng vừa tắm xong đang đứng trong nhà nghênh đầu nhảy nhảy cho nước trong tai chảy ra. Lão Tơn nhìn bạn tự dưng thấy buồn cười: gần bảy mươi tuổi rồi mà cứ như hồi hăm mấy.

          Chợt lão Hoán nghiêm giọng:

          - Đồng chí cho tôi xin mấy tờ giấy, cho mượn cái bút…

Lão Tơn ngạc nhiên: Để làm gì?

Vẫn giọng nghiêm trọng, lão Hoán nói:

- Trước hết tôi báo cáo với cấp trên trong suốt thời gian bị giam giữ tôi vẫn giữ vững khí tiết để cấp trên kiểm tra xác minh, kẻo lại như lần trước nghi ngờ tôi đầu hàng phản bội…

Chủ nhà suýt bật cười thành tiếng. Giời ạ! Ở tù một lần nên có kinh nghiệm… Nhưng thấy vẻ mặt quá nghiêm trang của người vừa được tự do nên cố kìm. Không để ý thấy thái độ ấy, lão Hoán tiếp tục đề xuất:

- Và tôi xin được gặp cấp trên để báo cáo một số vấn đề...

Chiều lòng bạn, lão Tơn đành phải đi lấy giấy bút. Ngồi phệt ngay xuống đất để tờ giấy lên giường, lão Hoán nghiêng đầu, bặm môi, bút trên tay run run… Trên trang giấy những nét chữ vẹo vọ nguệch ngoạc: “Quân Giải phóng miền Trung Trung bộ- Kính gửi các thủ trưởng …”

Chợt ngoài sân ùa vào tiếng xe máy nổ ình ình nhức tai, k…í…t… kít… tiếng phanh gấp đến rợn người. Cả hai lão cùng ngẩng lên.

Khi nhận ra những người bước vào nhà, lão Hoán biến sắc mặt, cái bút trên tay rơi xuống. Cô con dâu lão Hoán giằng lấy tờ giấy trên tay bố chồng, không cần xem trong đó viết gì, cô ta nghiến răng xé tinh thành mẩu vụn như móng tay… Những mảnh vụn giấy được gom lại trong lòng bàn tay và hình như cô ta định đưa lên mồm chực nuốt, chợt nghĩ thế nào lại xòe tay thả nắm vụn giấy như người ta rắc tro hài cốt. Ném về phía bố chồng một cái nhếch mép cười khinh khỉnh… rồi đanh mặt quay sang anh chồng, cô ta hét: “Thấy chưa? Đã thấy chưa?...” Tất cả lặng đi đến mấy giây. Lão Hoán mắt long sòng sọc, tay phải vung lên chỉ thẳng vào mặt lão Tơn trong tiếng rít đầy uất ức:

- Đồ khốn nạn! Đồ phản bội!

Nhìn những mảnh giấy rơi lả tả dưới chân mọi người, lão Tơn rùng mình chợt hiểu…

Vĩ thanh: Bây giờ nếu ai có về xóm Giữa làng Hưng Xá sẽ thấy một khu vườn rộng hàng mẫu trồng toàn cây cảnh trị giá hàng trăm tỷ đồng. Khu vườn ấy được bảo vệ bằng một hàng rào sắt kiên cố cao đến ba mét, cổng vườn được cột bằng sợi xích to như ngón tay và khóa bằng hai khóa chắc chắn. Cứ chiều chiều người ta lại thấy một ông già béo tốt nhưng nét mặt đờ đẫn, ánh mắt vô hồn đứng áp mặt vào những thanh rào chắn miệng lẩm bẩm: các đồng chí ơi…Cứu…!

Nếu ai có hỏi thì người làng bảo: Ôi dào! Lão Hoán điên ấy mà. Để  ý làm gì. Chỉ tổ rách việc!

Bi Ván

 Truyện ngắn: Thế Vĩnh

  Ở đời có nhiều kẻ muốn được mọi người biết tiếng và làm mọi cách để được biết tiếng. Có kẻ thì ăn mặc rất chỉn chu, ra đường cố làm ra vẻ đạo mạo như cha cố. Có kẻ luôn tranh ngồi chỗ đầu, tranh được phát biểu trong những cuộc hội hè, đình đám. Cũng có kẻ luôn miệng khoe dòng họ mình có người làm quan trên tỉnh. Tay Bi làng tôi không phải hạng người như thế. Vậy mà làng trên xóm dưới, nhà nào có tang đều nhớ đến Bi Ván, coi hắn là nhân vật quan trọng. Sở dĩ hắn được gọi như vậy là vì hắn tên Bi, làm nghề đóng ván. Ván to, ván nhỏ, ván sang, ván hèn đến hắn đều có cả. Thứ đời, bản tính nhiều người thích oai. Không ít cụ trước khi về chầu ông bà ông vải còn đòi xem ván của mình là vàng tâm hay xoan vườn. Nghe đâu, có cụ mấy năm trời mỗi ngày chỉ ăn một bữa, dành dụm tiền để sắm cho được cỗ vàng tâm, bởi theo cụ nằm trong đó mát mẻ, không sợ mục nát, giòi bọ hết đường rỉa rói. Vì thế, Bi Ván cũng sẵn việc, sẵn tiền. Công bằng mà nói, Bi Ván đến với cái nghề này từ khi còn mặc quần thủng đít nên tay nghề của hắn cũng khá. Nhờ đó mà hắn gây dựng cho mình được cơ nghiệp: nhà cao cửa rộng, vợ đẹp, con khôn. Vợ Bi Ván không còn trẻ nhưng cái dáng lưng ong, nước da trắng hồng và đôi mắt lúng liếng còn vương lại thời con gái vẫn làm không ít kẻ nuốt nước miếng.

          Đã có thời Bi Ván bỏ nghề, vào rừng làm lâm tặc. Quả thực xa vợ, xa con, xa cái nghề đã bao năm gắn bó, hắn đâu có muốn. Nhưng cái máu thằng đàn ông không chịu được sự coi thường của vợ. Hắn cảm thấy bị xúc phạm ghê gớm khi phải nghe những lời chì chiết:

- Cái số tôi sao khổ thế này! Chồng người ta lên xe xuống ngựa, vợ con ăn sung mặc sướng, chồng mình thì suốt ngày ru rú ở nhà núp váy vợ, giời ơi là giời...

Bao cây rừng đã bị lưỡi cưa sắc lẹm của hắn hạ gục, bao cánh rừng đã bị hắn càn quét. Hắn cũng không nhớ nổi đã bao lần bị sốt rét rừng hành hạ. Ngày về, nước da của hắn xám ngoét nhưng được cái nặng túi. Hắn quyết định mở lại xưởng đóng ván- công việc mà hắn nói là để làm phúc, tích đức cho con chứ lời lãi là bao. Việc của hắn càng nhiều thì hắn càng gầy rạc. Với hắn, điều đó không quan trọng. Quan trọng là vợ hắn luôn nở nụ cười thật tươi, ban cho hắn vài lời khen khi hắn mang sấp tiền dúi vào áo ngực vợ. Vì thế, hắn càng phải cố.

          Chiều nay, lồng xong cỗ ván, hắn đem đánh vec-ni thì trời đổ mưa, công việc đành ngừng lại. Xưởng mộc tịnh không một tiếng động. Cỗ ván lúc trắng bệch, lúc tối sầm theo luồng sáng của chớp. Bất giác, hắn rùng mình. Chao ôi! Đời hắn đã đóng không biết bao nhiêu ván, đã bao giờ hắn kịp nghĩ đến một ngày chính mình sẽ phải nằm trong đó đâu. Hắn đóng vội cửa. Hắn muốn về nhà. Trời mưa. Sấm sét đùng đoàng.

          Quần áo ngoài giây ướt sũng. Có lẽ vợ mình đang rất sợ- hắn nghĩ vậy. Hắn quyết định mang đến cho vợ niềm vui bất ngờ. Rón rén bước, trên môi hắn nở nụ cười đắc ý. Nhà tối om. Vợ mình nấp ở xó nào nhỉ? Có tiếng thở dồn, sợ quá đây mà.  Ước gì mình về sớm hơn. Nhưng thôi, mình đã về rồi. Cót két, cót két - thứ âm thanh phát ra từ chiếc giường nong mộng mà hắn chưa kịp sửa. Hắn tiến về phía giường. Đoàng, tiếng sét đinh tai kèm theo luồng sáng mạnh.

-Trời! - Hắn sững người, mồm há hốc.

Vợ hắn đang ôm cứng thằng hàng xóm như khúc gỗ. Cả hai không một mảnh vải che thân. Hắn lao ra ngoài. Tia chớp rạch ngang bầu trời. Bước chân vô thức đưa hắn về xưởng mộc. Đột nhiên, hắn muốn nằm vào chiếc ván mới đóng. Hắn từ từ kéo tấm Thiên dịch ra, nhẹ nhàng nằm vào. Quả không đáng sợ như hắn nghĩ. Đưa hai tay lên, hắn từ từ đẩy tấm Thiên trở về chỗ cũ.

Con Kỳ Nhông nhựa

Xóm Rọ Hươu có lão Lú. Nay lão bảy mươi. Lão đen sì, khẳng khiu như que sắt. Lưng, cổ và mông  thẳng đét. Trông cứng ngắc. Người ta cứ nghĩ dại, nếu Cọp cắn phải lão, Cọp sẽ gãy răng, còn lão không trầy da đất. Không thấy lão đau bệnh bao giờ. Đau bệnh cũng né lão. Đặc biệt, lão ưa kể chuyện ma. Chuyện ma của lão dứt khoát là ma láo. Có lẽ do sự hiển nhiên ấy, gặp lão người ta vừa sợ vừa vui. Không phải sợ ma mà sợ lão. Không phải vui lão mà vui ma. Thế nên, khi lão kể chuyện ma láo, người ta cứ lấm lét nhìn lão đề phòng. Một sự đề phòng có lý do vô lý: “Nếu lão biến thành ma thật, thì sao?”. Chỉ đề phòng có vậy. Đề phòng, vẫn đề phòng. Nghe vẫn cứ nghe, dù biết đó là láo. Vừa nghe láo vừa đề phòng thật. Ôi, quái quỉ. Cứ lung tung cả lên.

Lão Lú sở hữu đôi mắt moi ruột gan người khác. Lão nhìn chằm vào ai, người đó cuống cuồng lên. Người nói láo chuyên nghiệp thường có tướng tinh lẫm liệt như thế. Nội lực thâm hậu nói láo thường phát tiết ra đôi mắt. Người xóm Rọ Hươu vẫn bảo đôi mắt lão Lú là đôi mắt ma. Lão Lú còn sở hữu một giọng nói trầm và vang rất mê hoặc. Người xóm Rọ Hươu vẫn bảo đó là giọng ma. Nói tóm lại, lão có thể biến thành ma thật, trong khi lão kể chuyện ma láo. Đo đó, chuyện ma láo lại trở nên thật láo.

Người xóm Rọ Hươu chưa ai thấy ma, nhưng ma thì quen lắm. Ma ở nơi lão Lú vẫn gặp hằng ngày đó thôi.

*

Tuy xảy đã lâu nhưng tôi còn nhớ mãi. Tôi nhớ vào một đêm trăng, trên sân gạch nhà lão Lú, ngồi lổn nhổn nhiều người, trong đó có tôi nhỏ nhất, háo hức ngồi chầu rìa. Tất cả đều người láng giềng trong xóm Rọ Hươu. Họ đến nghe lão Lú kể chuyện ma láo cho đỡ buồn. Cho vơi đi nỗi buồn thường trực hắt hiu luôn ngự trị xóm thôn miền núi.  Những đêm trăng như thế thật ấn tượng. Những đêm trăng đã trụ được vào bộ nhớ rất hay quên của tôi cho đến bây giờ.

Lão Lú lúc nào cũng ngồi xếp bằng tròn giữa chiếu, trước mặt có bình trà sứt vòi được lão tra thêm một đoạn ống nhựa. Lão ngồi thẳng đét và sừng sững như tượng đồng đen. Nhóm người đến chơi ngồi lổn nhổn xung quanh. Trên bầu trời mảnh trăng tròn vằng vặc thỉnh thoảng lao vun vút vào những đám mây, gây ra những giây phút tối sầm. Đúng vào những giây phút tối sầm ấy, bao giờ lão Lú cũng cười một tràng dài rất ma quái. Những tràng cười cố ý để uy hiếp tinh thần người nghe. Khi trăng ra khỏi mây,  đêm lại sáng tỏ. Lão Lú dứt tiếng cười. Chú Bang mời lão Lú điếu thuốc Bastos bằng cả hai tay trịnh trọng:

- Xin tiền bối kể một chuyện ma kinh thiên động địa cho đàn em nghe chơi.

- Kinh thiên động địa à?  Lão Lú hài lòng thò tay nhón lấy điếu thuốc.

- Dạ. Chúng em thèm cảm giác mạnh.  Chú Bang trả lời.

Nghe thế, lão Lú cười không thành tiếng. Hễ có ánh sáng là lão cười không thành tiếng. Trong ánh trăng mờ ảo, nụ cười của lão Lú trở nên kỳ dị. Đó là nụ cười ma. Hai khoé mép lão nhằng ra rộng hoác, rồi bất động như vậy mãi mà không co lại. Lão xoay cái nụ cười rộng hoác bất động ấy một vòng cho mọi người đều thấy. Mục đích cũng để uy hiếp tinh thần xung quanh. Xong, hai mép lão co lại. Nụ cười tắt. Lão chậm rải nói:

- Thế thì... để tôi hỏi bọn ma xem chúng có chuyện gì nghẹt thở không? Hiện giờ bọn chúng đang ngồi xen kẽ với chúng ta nhiều lắm.

Nghe thế, anh Thoán liền nhìn quanh quất, lật đật nhích sát vào người bác Năm Tô:

- Sao cụ biết ma đang ngồi xen kẽ với chúng ta?

Lão Lú khoát khoát tay, giọng gay gắt:

- Sao lại không biết? Việc ấy đến thằng trẻ nít lên ba cũng biết, chỉ riêng chú là không biết. Ma luôn ở chung với chúng ta nhưng chúng ta đâu có thấy được. Trong sân này, mình chỉ có sáu người ngồi đây nhưng ma có đến mấy chục con cũng ngồi đây. Tôi kể chuyện ma cho các anh nghe, chúng nó cũng nghe. Ma thích nghe chuyện của chúng nó hơn cả chúng ta. Nghe xong, chúng nó lại sợ chúng ta hơn sợ chúng nó.

Anh Thoán e dè hỏi tiếp:

- Nhưng làm sao cụ biết được như vậy?

Lão Lú lại khoát tay, gằn từng tiếng:

- Sao không biết? Việc ấy đến thằng trẻ nít lên ba cũng biết. Ví như vừa rồi chú nhích sát vào ông Năm Tô là do ma chen lấn chú đó. Đâu phải chú tự ý nhích vô. Bọn ma cũng tranh nhau ngồi vào để nghe tôi kể nên chúng đã đẩy chú đó.

Anh Thoán nghe vậy, liền áp sát hơn nữa vào người ông Năm Tô. Ông Năm Tô đẩy anh Thoán ra, giọng cằn nhằn:

- Ngồi xa ra, cứ sấn vào, nực nội thấy mồ. Đây là ma đẩy chú ra, không phải tôi đẩy đâu. Đừng phiền.

Cả nhóm người ngồi trên sân đều cười sặc sặc. Anh Thoán thận trọng dòm quanh, rồi cũng lật đật cười sặc sặc. Lão Lú hớp ngụm trà, e hèm mấy cái, nhịp nhịp ngón tay vào khoảng không, giọng lạnh băng như nước đá:

- Trong vô vàn loại ma, chỉ có ma Ráp là kỳ lạ bậc nhất. Trong con ma Ráp có đủ thứ ma khác cộng lại. Đó là loại ma tổng hợp. Rất hiện đại và ly kỳ.

- Nhưng ma Ráp là ma gì?  Chú Chẽ lật đật hỏi.

Lão Lú đập tay xuống chiếu, gằn giọng:

- Đã gọi ma Ráp mà còn hỏi ma gì? Việc ấy đến thằng trẻ nít lên ba cũng biết. Đó là đủ thứ bộ phận để ráp lại thành con ma, cho nên kêu là ma Ráp. Này, các người biết không? Tháng trước, vào một buổi trưa nắng gắt thăm thẳm. Nắng nóng như chảo lửa hắt xuống.Tôi lầm lũi đi trên con đường đất từ Cổ Trạch đến Thạch Bản. Các người biết con đường ấy không? Hai bên toàn là ruộng đã cày vỡ, trồi lên nào đất cục là đất cục. Vô số đất cục loá nắng, trông như vô số đầu lâu há mồm trợn mắt. Đang thất thểu đi, như có linh tính, tôi ngẩng đầu lên. Thật kỳ lạ, trên đầu tôi có một cây gạo cổ thụ, toả bóng mát rượi

Chú Ni e dè hỏi:

- Cây gạo ma à?

Lão Lú lại đập tay xuống chiếu:

- Hỏi ngớ ngẩn. Việc này đến thằng trẻ nít lên ba cũng biết. Chỗ đất cày đột nhiên mọc cây gạo cổ thụ thì dứt khoát đó là cây gạo ma. Các người biết không? Tôi biết rõ ràng đó là cây gạo ma, nhưng vì quá nắng nóng nên thấy có bóng mát thì tôi cứ hưởng. Vừa bước ngay vào vùng râm mát, tôi nghe trong người khác hẳn, nghĩa là sảng khoái lạ thường. Chưa bao giờ trong đời tôi có sự sảng khoái cỡ đó. Một sự sảng khoái vô tiền khoáng hậu. Đột ngột, tôi nghe một tiếng rớt bịch phía sau lưng. Tôi quay người ra  sau. Đó là một cái đầu của ai đó đã sứt ra, đang lăn lóc trên mặt đất. Một cái đầu không tóc, mắt lồi, miệng rộng giáp tai vì đang cười, da vàng khè như nghệ. Cái đầu của một bệnh nhân đau gan đang nhăn nhó. ừ, đang nhăn nhó, không phải đang cười. Tiếp đến, tôi lại nghe sau lưng một tiếng rớt bịch nữa. Tôi vội quay lại. Đó là hai cái chân người dài thòng của ai đó đã sứt ra, bàn chân còn mang giày Bata trắng. Hai cái chân ấy cứ quay tròn như kim giây đồng hồ. Lúc này, bên trái tôi lại nghe mấy tiếng rớt bịch bịch nữa. Tôi quay sang trái. Đó là hai cánh tay khẳng khiu, đầy lông lá. Hai cánh tay của loài vượn thời tiền sử đã sứt khỏi thân thể. Chúng cứ gấp lại, duỗi ra liên hồi như đang tập thể dục dưỡng sinh. Tiếp, tôi lại nghe phía sau lưng mình một tiếng rớt bịch rất to. To nhất. Tôi quay phắt ra sau. Đó là một thân người gồm cổ, ngực, bụng và mông. Chả có tay chân, đầu cổ gì cả. Cái ngực lép xẹp, bụng tròn quay như bị Cóc thổi, rốn lại lồi ra như trái mận, phồng lên xẹp xuống.

Ông Bàng vừa ho vài cái và hỏi:

- Lúc ấy cụ không sợ à?

Có tiếng ông Bác gay gắt trả lời thay thế:

- Đã láo thì sợ cái nỗi gì mà hỏi với han? Rõ vớ vẩn.

- Tôi mà láo à?  Lão Lú đập mạnh tay xuống chiếu. - Con ma Ráp này chỉ một mình tôi gặp. Lúc ấy tôi không sợ. - Giọng lão Lú tiếp tục chắc nịch. Tôi không sợ. Lúc ấy tôi bỗng nổi giận đùng đùng. Nguyên một con ma chưa làm tôi sợ, huống chi từng bộ phận rời của con ma. Tôi nổi điên, vung chân đá lung tung. Nhưng càng đá, từng bộ phận ấy càng sấn lại. Sợ chúng đáp vào người, tôi bèn phóng lên cây gạo. Và, lập tức cây gạo nhỏm gốc bay tuốt

Chú Thạch buột miệng:

- úi trời! Tại sao nó nhỏm gốc bay tuốt?

- Hỏi vớ vẩn. Việc ấy đến thằng trẻ nít lên ba cũng biết.  - Lão Lú rót nước trà uống một ngụm, nói tiếp  Vì chó đái dơ dáy vào gốc nên nó nhỏm gốc bay tuốt. Hiểu chưa? Cây gạo nhỏm gốc cách mặt đất khoảng ba mét và cứ lơ lửng tại chỗ. Không bay lên mặt trăng được vì trên ấy đã có cây đa rồi. Ngồi từ cháng ba của nhánh cây gạo, tôi nhìn xuống các bộ phận của con ma Ráp đang quay cuồng. Hai cái chân chạy đến để dính vào cái thân. Hai tay cũng lao tới ráp vào cái thân. Và, cuối cùng cái đầu cũng lăn tới dính vào. Chỉ trong một phút, các bộ phận rời đã ráp lại thành một con ma Ráp hoàn chỉnh. Nó ngước cổ nhìn tôi. Các người biết không? Tôi không nhịn cười được. Con ma Ráp này chẳng giống con ma nào cả. Một loại ma tổng hợp tào lao. Nó van xin: “Xin ông hãy trả cây gạo lại cho tôi. Tôi lạy ông. Tôi lạy ngài”.

Anh Thuấn lật đật hỏi:

- Con ma Ráp không bay lên cây gạo được à?

- Rõ ràng là nó không bay lên cây gạo được. Nếu bay lên được, nó van xin tôi chi? Hả? Việc ấy đến thằng trẻ nít lên ba cũng biết. Thế mà cũng hỏi. - Lão Lú kể tiếp, giọng khẳng định - Con ma Ráp đã mất cây gạo, còn tôi lại mất mặt đất. Các thế mạnh của mỗi bên đều mất hết. Hừ, tôi ở trong xứ ma, còn nó ở trong xứ người. Lúc này, tôi dòm kỹ cây gạo tôi đang ngồi. Đó là một cây gạo cổ thụ, tán lá che kín cả mặt trời.

- Rồi sao nữa? Bác Sý hỏi.

Lão Lú giọng sang sảng:

- Rồi sao nữa à? Cả đến thằng trẻ nít lên ba cũng biết. Lúc ấy, trên cây gạo có một con kỳ nhông bò lại gần tôi. Con kỳ nhông trông hãi lắm. Nó to bằng bắp tay, dựng đứng hàng chông nơi sống lưng trông rất hiên ngang, xù vảy xanh lè, trợn mắt đỏ ngầu như máu ứa. Nó kêu ré lên mấy tiếng chát chúa. Và lập tức cả bầy kỳ nhông quân sĩ xuất hiện tràn ngập cây gạo. Nhìn chỗ nào trên cây gạo cũng kỳ nhông là kỳ nhông. Tất cả đồng loạt tiến lừng lững vào tôi. Lúc ấy, các người biết không?...

Ông Năm Tô lập tức gắt gỏng:

- Đến thằng trẻ nít lên ba cũng biết! Hỏi chi vớ vẩn?

Lão Lú cười:

- Xin lỗi! Thế là hết đường. Tôi phải phóng ra khỏi cây gạo và rơi xuống đất. Đường ai nấy đi. Chỗ ai nấy ở. Ma về thế giới ma. Người về thế giới người. Nhưng lúc ấy, đã có một con kỳ nhông chui vào túi quần tôi mà tôi không hay. Không còn cây gạo, nên tôi phải nuôi nó cho đến bây giờ.  Lão Lú ngừng một chặp, thò tay vào túi quần, lôi con kỳ nhông ra, đặt giữa chiếu và con kỳ nhông cục cựa. Lão hốt hoảng la lớn - Đừng chun vào quần áo người khác

Đúng lúc ấy, mặt trăng chạy vào đám mây, không gian bỗng tối sầm. Nhóm người ngồi trên sân bỏ chạy tán loạn. Họ chạy vì sợ con kỳ nhông chun vào người. Lão Lú cười sặc sặc, âm thanh chát chúa như tiếng kim loại va chạm, nghe đến ghê người. Tôi cũng thất thần. Ba chân bốn cẳng chạy biến

*

Mãi sau này, tôi mới biết đó là con kỳ nhông nhựa như cái nhan đề truyện ngắn này.

Nay, lão Lú đã chết rồi nhưng con kỳ nhông ấy vẫn sống trong kỷ niệm hoảng sợ của chúng tôi.

Chuyện nhà lão Hâm xem đá bóng hay Nồi cháo gà vào đêm sinh nhật

0

 Thông thường gia đình nào cũng có nội lệ, nhà hão Hâm có một cái lệ bất di bất dịch, đó là vào những dịp có sự kiến bóng đá quốc tế sôi động thì mọi sinh hoạt trong gia đình chỉ phục vụ một mục tiêu duy nhất: xem và bình luận bóng đá.

Trước khi khai mạc Euro 2004 mấy ngày, lão Hâm thay 2 cục pin cho cái điều khiển từ xa, leo lên mái nhà kiểm tra, gia cố dây và cột ăngten. Thế mà vẫn chưa yên tâm, lão còn van nài ông bạn Giám đốc một Công ty chuyên kinh doanh UPS để mượn một bộ lưu điện công suất lớn về đặt chình ình giữa nhà đề phòng khi ông nhà đèn ngứa tay cúp điện ngang xương.

Lão xoa tay, khoái chí nói với vợ:

- Sếp tớ còn không dám bắt tớ đi công tác vào dịp Ơrô, mẹ con đồng chí phải biết điều một tý đấy nhá!

Biết điều theo ý lão là lão phải được miễn giảm các công việc đã được phân công cho lão nhiều năm nay: lau nhà, bơm nước, đổ rác, giặt quần áo, tưới cây. Vì lão xem bóng đá gần như trọn cả đêm, ngày đi làm, chiều về kềnh cang một giấc cho khỏe để khuya lại xem tiếp, làm gì có thì giờ làm những việc theo sự phân công lao động xã hội?

Mụ vợ lão, một người đàn bà tuyệt diệu ở chỗ không bao giờ ghen với tình yêu bóng đá của chồng. Lão chỉ cần nói “có ông Bỉm bé xíu trong Sài gòn ra rủ đi nhậu” là có thể đi vô tư đến mấy giờ về cũng được vì mụ biết ông Bỉm bé là thành viên Diễn đàn bóng đá. Có lần vô tình nhìn thấy trên điện thoại di động của lão có tin nhắn của “Uotmi”, mụ hỏi:

- Ướt mi là em nào thế?

- À, một nick trên Diễn đàn ấy mà.

Nghe vậy mụ chả nói năng gì nữa. Trước thềm Ơrô Mụ bàn với Nguyên, cô con gái út, phân chia công việc đỡ đần cho bố trong suốt thời gian có truyền hình trực tiếp các trận bóng của Euro.

Nguyên giống bố nhiều hơn giống mẹ, ấy là người ngoài bảo thế. Riêng lão thì lão thấy cô bé giống mẹ nhiều hơn, từ cái nết cười (con gái đâu mà cười suốt ngày!) cho đến nết ăn, cao như người mẫu mà ăn không bằng lão ăn gắng. Riêng nết mê bóng đá thì đích thị là gen của lão. Ai đời nó mê đến nỗi thuộc làu làu tên tất cả các cầu thủ các đội tham dự Ơro 2004, mấy anh Quang Tùng với Quang Tèo cứ gọi là xách dép đuổi theo không kịp. Nó mê đến nỗi nó bắt thằng người yêu đến lau nhà hộ nó vì nó phải lau thay bố. Tuy nhiên cũng phải nói thêm là nó chỉ mê những cầu thủ đẹp dzai, trước đây thì là R. Batgiô (lúc anh này đá hỏng quả phạt đền nó khóc ướt nguyên cả cái vỏ gối), bây giờ là Becks, Totty… Còn những anh đá hay mấy thì hay nhưng răng thỏ hoặc răng đi trước môi lả lướt theo sau thì nó chẳng mấy quan tâm, cái anh Kahn mặt chó ngao thì nó đặc ghét. Tóm lại vì lý do đó nó mê đội Ý mà lão Hâm vẫn thường trêu, gọi là Ý ẹ.

Ở trên đời này có nhiều điều không lý giải nổi. Nguyên mê bóng đá bao nhiêu thì tên người yêu của nó lại ghét bóng đá bấy nhiêu, đúng là ghét của nào trời trao của đó. Nhưng vì Nguyên (và cả bố Nguyên) nên anh chàng này không dám bày tỏ sự kỳ thị đến ghê sợ của nó đối với bóng đá.

Thế là tối tối hai bố con ra phòng khách ngồi xem bóng đá với nhau. Nguyên làm một gói hạt dưa tí tách luôn mồm còn lão Hâm khư khư bao thuốc lá. Sốt ruột khi “đội nhà” chưa ghi bàn, lão làm một điếu, đội nhà làm bàn rồi, sướng quá, lão cũng xơi thêm điếu nữa. Vừa xem vừa bình luận, phân tích, phỏng đoán, cay cú, hò reo như hai thằng trẻ con.

Chiều hôm nay đi làm về lão Hâm đã thấy Cao, người yêu của Nguyên đang lúi húi lau nhà.

- Cháu chào bác, hình như bác hơi gầy đi?

Thằng xỏ lá, lão nghĩ thầm. Cao biết lão không thích béo, nhưng hỏi vào dịp này thì rõ là ngụ ý bố già ham thức đêm xem bóng đá nên gầy tọp đi. Đến lúc mày chính thức làm con rể tao chắc mày còn xỏ xiên biết nhường nào?

- Bố ơi, hôm nay anh Cao xin phép bố được cùng xem football, được không ạ? Con bé nhận thấy bố hơi phật lòng nên vội vàng lấp liếm.

- Thế à, càng vui chứ sao? Mẹ khỉ, chú mày biết gì về bóng đá mà đòi xem! Lão Hâm nghĩ thầm như vậy.

Cao là một thanh niên gia giáo, học giỏi, không biết bia rượu thuốc lá. Có được chàng rể như vậy thời nay không phải dễ, ít nhất thì nó cũng không lấy trộm thuốc lá của mình. Nói chung lão Hâm cảm thấy quý Cao, nếu không quý cũng chẳng được, thời buổi này con cái đặt đâu cha mẹ ngồi đó, chi bằng ta cứ quý nó cho được việc.

X

X X

Như những tối trước đó, mụ vợ lão Hâm rút về buồng, viện cớ thức đêm nhiều tiền đình sẽ có vấn đề. Lão Hâm không chấp cái người thấy đội nào làm bàn cũng hoan hô ấy. Có lần đội ruột của lão bị thủng lưới, mụ vợ lão gào lên sung sướng:

- Vàaaaao rôì!

- Vào vào cái gì, bà ủng hộ đội nào hở?

- Tôi chả ủng hộ đội nào sất, tôi ủng hộ bàn thắng.

Xem đá bóng kiểu đó thì đi ngủ đi còn hơn!

Lão, Nguyên và Cao chia nhau ba chỗ thuân lợi trước màn hình TV. Trận đấu bắt đầu được 5 phút, anh chàng Cao không giữ được mình, ôm con gấu bông ngủ một giấc ngon lành, má hồng như má trẻ con. Lão hâm liếc xéo về phía Nguyên:

- Nó xin phép đến xem đá bóng hay đến ngủ?

Nguyên cười trừ, mắt vẫn không rời màn hình. Trận Ý-Đan Mạch không hay, đội Ý bao giờ cũng bắt đầu giải với một hai trận làng nhàng, sau đó, như người châu Âu có câu thành ngữ “Sự ngon miệng đến dần cùng bữa ăn”, họ đá hay dần lên khi vào sâu giải.

Gần hết hiệp một, đội Ý có một pha hỏng ăn, Nguyên thét lên:

- Mẹ kiếp, đá kiểu gì đấy!?

Anh chàng Cao giật mình tỉnh giấc, ngơ ngác nhìn Nguyên:

- Em vừa chửi tục à?

- Đâu, em gọi anh dậy đấy, sắp giải lao rồi!

Anh chàng Cao dụi mắt, lừ đừ đi xuống bếp.

Hết hiệp 1, lão Hâm rút điếu thuốc lá, định ra ban công hút thì nghe tiếng mụ vợ cười khì khì:

- Ông đừng hút thuốc vội, đợi con mang cháo gà lên ăn.

Ái chà, mụ này hôm nay tâm lý thật, giải quyết cả khâu cháo gà bồi dưỡng xem đêm thế này thì thế giới này mụ đúng là nhất, lão Hâm nghĩ như vậy trong khi anh chàng Cao khệ nệ bê nồi cháo gà bốc hơi thơm phức đặt giữa phòng khách. Nguyên múc cho mỗi người một tô còn mụ vợ lão Hâm thì rót cho lão một ly rượu cẩm:

- Nào, ông xem cháo gà hôm nay có ngon không? Thái độ mụ có cái gì đó úp úp mở mở rất đáng nghi.

- Ngon tuyệt, ai nấu thế này?

- Bố đoán xem?

- Việc gì phải đoán, không mẹ thì con!

- Hoan hô, bố nhầm rồi, anh Cao nấu!

- ?!

- Anh Cao đi chợ mua gà về làm thịt và nấu xong từ trước khi bố đi làm về cơ!

Có việc gì xảy ra thế này, mọi người làm cái trò gì trêu lão thế? Thấy bộ mặt ngơ ngác của lão Hâm, mụ vợ lão vui vẻ cười:

- Hôm nay là ngày gì ông biết không?

- Hôm nay Ý đá với Đan Mạch!

- Giời ạ, hôm nay sinh nhật con Nguyên!

- Chết thật rồi, bố quên khuấy đi mất!

Đến lúc đó chú chàng Cao mới lôi ra một bó hoa hồng tuyệt đẹp, bông nào bông nấy đầy đặn trịnh trọng trao cho Nguyên. Hai mắt Nguyên long lanh sung sướng.

Lão Hâm gào tướng lên giữa đêm khuya:

- Happy birthday!

Thây ma

Trần Văn Bạn

0

Trận lụt khủng khiếp năm ấy tràn ngập và cuốn phăng mọi thứ. Nó mang theo rác rưởi, cây cối, nhà cửa, xác động vật và xác người. Tất cả dồn lại với mật đô đậm đặc đến kinh ngạc nơi cửa biển hẹp rồi tuôn ra, lềnh bềnh, trôi dạt khắp một vùng biển rộng lớn.

Cái làng chài nhỏ bé, hiu quạnh nằm ở phía nam cửa biển, sát rìa bờ biển, bên chân núi Ngũ Hành, dường như vẫn bình yên ngái ngủ dưới những biến cố của đất trời. Hằng đêm, những người đàn ông vẫn đi biển. Đàn bà vẫn ngồi lê đôi mách. Chỉ có dòng nước ngầu đục, rác rưởi và những cái xác gia súc bị sóng biển đánh dạt vào bờ là bằng chứng cho họ biết rằng ở nơi kia lụt lớn đang đổ về.

Lụt  đổ về đã ba ngày ba đêm.

Ngày thứ tư. Từ đầu hôm, trời chuyển và gió thổi mạnh dần. Tờ mờ sáng, phụ nữ, trẻ em và người già còn đang say ngủ trong tiết trời giá lạnh mùa đông bị đánh thức bởi những tiếng rì rầm khác lạ của bọn đàn ông đi biển  về. Cả làng liền ùa ra bãi. Ở mép nước, bọn đàn ông đứng vây quanh một cái xác người. Trong ánh sáng nhá nhem của bầu trời âm u, đầy mây xám, họ vẫn nhận biết đó là cái xác phụ nữ cao lớn. Và khi trời tỏ hơn một chút họ ngạc nhiên xác định chắc chắn rằng người phụ nữ nằm ở mép nước là một cô gái da trắng, tóc vàng. Cô gái mặc chiếc váy nâu sậm và áo sơ mi sặc sỡ nhưng chất liệu vải thô mộc và cách cắt may vụng về cho thấy đó chỉ là thứ trang phục rẻ tiền. Cách phục sức và vóc dáng chân quê của cô gái khiến họ hiểu rằng dứt khoát cô xuất thân từ tầng lớp bình dân. Nhưng cô có khuôn mặt thiên thần: mọi đường nét đều thanh tú; mắt, mũi, miệng, lông mày và làn da mịn màng bừng lên nét thanh tân, trinh khiết.

“Đây là một con Tây. Sao lại trôi dạt ở đây?”, cụ Năm Tạo, người đàn ông già nhất làng, nói.

 “Không phải Tây, Tàu gì đâu. Xác của Tiên cô đó.”, bà Lý già, một cốt đồng nổi tiếng khắp vùng, nói.

 “Tao đã sống đủ qua các thời Pháp, Mĩ, Tây, Tàu. Đây là xác một con Tây”, cụ Năm Tạo nói.

Đám người già, đàn bà, con nít  xầm xì, bàn tán.

Sóng biển vẫn ầm ào trườn lên mặt cát, phủ lên xác cô gái rồi đột ngột rút đi để lại cô trơ vơ trên mặt cát phẳng còn đẫm nước mặn.

Bọn thanh niên hau háu nhìn xác cô gái.

 “Chắc chiếc tàu Tây nào đi ngang qua đây. Con Tây này lỡ rơi xuống biển mà không ai trên tàu hay biết”, ông già Năm Tạo nói.

Chẳng đếm xỉa đến điều người đàn ông già nhất làng nói, cốt đồng nữ  quả quyết:

“Đây là phước lành của làng ta. Tiên cô đến, đó là điềm tốt. Có Tiên cô phù hộ, không bao lâu nữa, làng ta sẽ có cái ăn, cái mặc. Chúng ta sẽ không phải sống khổ sở như con chó thế này. Nhất định chúng ta sẽ giàu có.”

Cả đám dân làng nhao lên tán thưởng. Cái làng chài to bằng nắm tay, hoàn toàn khu biệt với thế giới bên ngoài, luôn đắm chìm trong nỗi cô quạnh, mê ngủ và đói ăn đang được đánh thức bởi ánh hào quang của một thế giới đầy ắp thức ăn và tiền bạc.

“Không phải Cô Cậu gì đâu, đừng dại.”, người đàn ông già nhất làng, nói.

“Thôi đi, ông già, đừng có nói bậy. Ông muốn cái làng này tàn mạt suốt đời suốt kiếp hay sao?”, một bà đay nghiến. Cái đầu rối như tổ quạ cùng với cặp vú thõng thà thõng thượt lồ lộ bên dưới bộ quần áo tả tơi như mớ giẻ rách, trông bà ta như một con điên.

“Già cả lú lẫn, mệt ghê.”, có ai đó nói.

“Đã bảo không phải mà cứ cãi”, ông già Năm Tạo phát cáu.

“Thôi đi ông già. Im giùm cái miệng, có được không?”, đám đông giận dữ đồng thanh gào lên. Bọn họ phát hoảng vì cái thói lầy đây của ông già sẽ mạo phạm đến Tiên cô. Rõ ràng là niềm kính tín của bọn họ đang bị xúc phạm một cách trắng trợn.

Người đàn ông già nhất làng chưng hửng đứng nhìn đám hậu sinh đang lên cơn điên. Lát sau, ông già lẩm bẩm điều gì đó nhưng, dường như, chẳng ai thèm nghe thấy. Tất cả đã bị nhấn chìm trong cái ồn ào, hỗn độn của đám đông. Khi mọi thứ lắng xuống, việc đầu tiên là bọn họ bàn tính lựa chọn vị trí thích hợp cho việc quàng đặt thi hài để thực hiện công việc tế lễ một cách trang trọng nhất. Họ tranh cãi nhau quyết liệt. Lòng sùng kính Tiên cô được hình thành theo những chiều kích khác nhau và từng ngư dân tự cho mình cái quyền được quyết định. Do vậy, mãi đến tận trưa, phải bằng hình thức tập trung dân chủ: giơ tay biểu quyết, bọn họ mới thống nhất địa điểm.

Đám thanh niên nhỏ thó nhưng rắn chắc và đen như than hầm hè nhau khiêng cái xác mềm oặt của Tiên cô đặt lên trên cái bục cao ngang rốn, nằm trong cái chòi lá được dựng lên từ trước, ở giữa bãi biển. Lũ con nít hiếu kì lại tranh nhau bâu vào để được ngắm nhìn thật kĩ dung nhan của Tiên cô, người mà theo lời cha mẹ chúng bảo sẽ mang đến cho chúng cơm ăn, áo mặc, nhưng chúng liền bị những người đàn ông đứng bao quanh tử thi đuổi đi. Nơi tôn nghiêm không dành cho đàn bà, con nít.

Người ta chuẩn bị cuộc hành lễ với tất cả những gì có thể. Những cụ già có trách nhiệm háo hức lôi ra từ chiếc hòm gỗ được cất giữ cẩn thận ở ngôi đền thờ của làng những bộ lễ phục đẹp nhất, bộ nhạc cụ quí hiếm mà chúng chỉ được dùng trong những ngày trọng đại. Những người đàn ông trung niên hì hục xẻ những khúc gỗ súc được vớt lên trong dòng nước lũ từ những đợt lụt trước để đóng chiếc quan tài to nhất, đẹp nhất. Những người phụ nữ, bằng đôi tay thô ráp và chỉ với cây kim, sợi chỉ, may nên chiếc áo lộng lẫy cho người chết; số khác lo qui tập nhang đèn, gạo thóc, nồi, niêu, xoang, chảo. Đám thanh niên sức vóc thì nháo nhào đi vồ chụp, mổ xẻ heo gà để dâng lên Tiên cô mà hẳn đi đường xa, giờ đây, bụng Tiên Cô đang cồn cào đói.

Khi mọi thứ chuẩn bị xong thì trời tối hẳn. Đêm đó người ta cắt cử môt tốp thanh niên túc trực bên thi hài. Dưới bầu trời đêm u ám, đầy mây, trong tiếng gào rú thê lương của gió lạnh, tiếng gầm gừ dữ dội của biển cả, ánh leo lét vàng vọt của những chiếc đèn gió và căn chòi lợp lá dừa mỏng manh chực chờ đổ sập lẩn quất mùi vị cái chết, nhìn Tiên cô nằm im lìm, lần đầu tiên trong đời, đám thanh niên cảm nhận hết cái cô đơn, bất hạnh mà thánh thần cao cả phải gánh chịu thay cho người phàm tục. Cũng chính đêm hôm đó, lần đầu, những người thanh niên đã từng đối mặt với tử thần nơi đầu sóng ngọn gió nghe biển Đông gào thét khôn cùng, cứ như tiếng gào thét bật lên từ nơi thẳm sâu trong lòng họ.

Mới bảnh mắt, bãi biển đã ồn ĩ, náo nhiệt khác thường. Cứ như đêm qua người ta buộc mình phải thức trắng đêm  để chờ đợi giây phút được tận mắt chứng kiến ngày hội có một không hai ở cái mảnh đất đèo heo hút gió này. Người ta náo nức nấu nướng, lập bàn thờ, thắp hương, đốt đèn, bày biện thức ăn, đơm hoa quả. Đội quân tham gia hành lễ đã trút bỏ y phục thường ngày, khoác lên thân hình khô đét, còm nhom của mình những bộ lễ phục rất bắt mắt, sẵn sàng thực thi nhiệm vụ.

Đúng giờ N. người ta bắt đầu hành lễ. Ông trưởng làng với vẻ mặt nghiêm trọng, căng thẳng gồng cổ đọc bài điếu văn mòn cũ, sáo rỗng, luộm thuộm do lão Tám, học hết lớp nhì, là người chữ nghĩa nhất làng chấp bút soạn thảo nhưng hầu như chẳng ai nghe thấy gì. Tiếng sóng ở đằng kia cứ gầm gào lấn át và cơn gió thổi rát đã cuốn phăng về phía núi cái giọng khàn đục của ông già. Nhạc tang nổi lên. Những ông già trong bộ lễ phục sặc sỡ cứ nhảy múa, di chuyển không ngừng nghỉ trong một đội hình thống nhất theo sự điều khiển có vẻ thuần thục của nguời trưởng tộc. Bọn họ thực hiện một nghi thức phức tạp mà ngay cả chính bọn họ cũng không biết nó có ý nghĩa gì. Tiếng đờn cò, tiếng kèn, tiếng trống quyện chặt lấy nhau chậm rãi, kéo dài một cách uể oải ở âm vực thấp không khiến người ta hưng phấn như tính chất buổi lễ cần có mà nghe thật não lòng. Nhiều người đàn bà rơi nước mắt. Thỉnh thoảng, ở đâu đó trong đám người đứng chen chúc quanh khu vực hành lễ, có tiếng thút thít của các cô gái. Hình như không phải các cô khóc than cho nỗi bất hạnh của Tiên Cô mà các cô đang than khóc cho thân phận mình.

Vào khoảng mặt trời đứng bóng, tất cả bọn họ dừng lại vì đói và hụt hơi. Cả làng tràn ra ăn uống. Trong kí ức đau buồn với chuỗi ngày dài đói ăn triền miên của họ, có lẽ đây là bữa no nê duy nhất trong đời. Và khi cơn no say lắng xuống họ lại tiếp tục hành lễ. Họ mê mẩn hành lễ đến tận chiều tối.

Trong ánh chiều nhập nhoạng, Tiên cô nằm đó, đơn côi, giữa trời đông giá rét, trong tiếng gầm gào của biển cả, da bắt đầu xỉn màu, khắp người mọng nước và thoáng bốc lên mùi thum thủm, ngàn ngạt của cái chết.

“Sao không chôn cha nó cho rồi. Thối quá.”, một thằng bé nhăn mặt nói. Nó chưa dứt lời đã bị một cái tát như trời giáng bởi bàn tay một người đàn bà lực điền.

“Vạ miệng”, người đàn bà hoảng sợ nói.

“Đuổi nó đi. Đuổi nó đi. Đừng để con nít đến.”, đám đàn bà hoảng hốt la lên rồi lấm lét nhìn về phía cái xác.

Cái mặt non trẻ của thằng bé hằn rõ dấu tay người đàn bà nhưng nó không khóc.

Đêm đến, người ta phân công những ông già và những trung niên có uy tín nhất, trách nhiệm nhất canh giữ giấc ngủ của Tiên cô. Vì rằng, bọn thanh niên với tuổi trẻ bộp chộp của mình thường sơ suất và để lại những hậu quả khôn lường: Tiên cô có thể bất ngờ bỏ họ ra đi hoặc gió dữ có thể nổi lên cuốn phăng xác Tiên cô ném ra biển khơi. Và nếu điều đó xảy ra thì quả là hoạ lớn: Cái làng chài đang ruỗng ra vì buồn tẻ và đói ăn vĩnh viễn không thể cải tạo cái thân phận hẩm hiu của mình.Vả lại, giao cho đám trẻ canh giữ hình hài cao quí của Tiên cô là hành vi bất kính. Nhưng đêm nay các cụ già thực thi nhiệm vụ không phải nhọc sức nhiều lắm, bởi đến quá nửa đêm, trời rét căm căm, dân làng vẫn còn ngồi dày đặc bãi. Họ thành khẩn chờ đợi phước lành ở cái xác bắt đầu trương phình kia.

Cũng như sáng hôm trước, đàn ông quên chuyện đi biển, đàn bà bỏ bê cơm nước, sáng nay, người ta lại đổ dồn ra bãi biển. Vẫn những nghi thức hành lễ cũ, người ta tiến hành liệm xác Tiên cô. Xác trương lên căng cứng như muốn phá tung bộ trang phục rẻ tiền Tiên cô mặc trên người lúc lâm nạn. Người ta phải mài thật sắc con dao chọc tiết heo để xẻ làn vải mà giờ đây nó thít chặt vào da thịt Tiên Cô đến nỗi người khâm liệm cứ tưởng làn vải và da thịt Tiên Cô là một. Sự trương phình thái quá trên cái thân thể vốn cao lớn đã biến Tiên cô thành người khổng lồ. Ngặt nỗi bộ quần áo và chiếc quan tài mà những người đàn ông, đàn bà nâng niu suốt cả ngày hôm qua chuẩn bị hiến tặng cho Tiên cô giờ đây đã trở nên quá  chật hẹp đối với cơ thể nàng. 

Người ta hành lễ trong tâm trạng bất an. Nhưng rồi mọi chuyện cũng ổn thoả: ngay buổi sáng hôm đó người ta đã có y phục và quan tài mới đúng kích cỡ cho Tiên cô. Khi người khâm liệm đưa bàn tay dè dặt sờ vào để chuẩn bị tắm rửa và thay đổi xiêm y cho tử thi thì mọi người bỗng nhiên nhảy lùi lại, có người vội đưa tay bịt mũi. Một mùi thối kinh khiếp chợt phụt ra rồi cứ thế nó lì lợm lan toả khắp cả vùng cho đến khi hơn chục người đàn ông lực lưỡng gắng sức nâng cái xác khổng lồ đặt vào quan tài rồi đậy nắp. Nhưng, sau rốt, người ta nhận ra rằng dù quan tài có được đậy nắp thì cái mùi hôi thối nồng nặc kia vẫn cứ hiện diện âm ỉ, dai dẳng. 

Bỗng một thanh niên gào lên:

“Chôn mẹ nó đi. Cố giữ cái thây ma để làm gì? Hôi thối không chịu được”

Vì dại miệng dại mồm, gã thanh niên liền bị điệu đi tống giam trong ngôi đền của làng, mặc cho anh ta gào la phản đối.

Hôm sau, người ta vẫn tiếp tục hành lễ trong sự vây chặt của cái mùi khủng khiếp. Theo kế hoạch người ta sẽ hành lễ bảy ngày bảy đêm. Đối với các cụ nghi thức phải được tổ chức qui mô cả về thời gian và hình thức mới xứng tầm với sự kiện trong đại: sự xuất hiện của Tiên cô và phước lộc to lớn mà dân làng chài sẽ được hưởng từ sự xuất hiện đó đem lại. Nhưng mọi tính toán của các cụ đã không được thực hiện: lúc ngày sắp tàn quan tài đột nhiên nổ tung. Tiếng nổ to đến mức nó  ném cái xác khổng lồ, rỉ nước của Tiên cô ra khỏi căn chòi. Mùi hôi thối kinh khiếp lại tràn ngập bãi biển, tràn ngập cái làng chài nhỏ bé, cô quạnh, đơn độc, tràn ngập biển khơi và tràn ngập cả một vùng không gian mênh mông của biển Đông. Suốt đêm đám dân chài ngập chìm, ngạt thở trong cái mùi hôi thối deo dẻo, sền sệt. Đêm tối khiến người ta bất lực với cái xác thối khổng lồ.

Trời chưa rạng, những người đàn ông đã có mặt đông đủ để khắc phục hậu quả nhưng tình hình cho thấy không mấy khả quan. Đang trong lúc bối rối, người ta lại phát hoảng lên vì có nhiều người bỗng dưng đổ ra phát bệnh. Bệnh lây lan nhanh chóng. Gần một nửa dân làng cứ ôm bụng đau đớn, rên la, quằn quại. Đã có trường hợp tử vong. Cái làng chài thật sự hoảng loạn. Có ai đó đã cấp báo chính quyền. Người ta nhanh chóng triển khai dập dịch nhưng khi các đoàn cứu hộ vượt qua chặng đường gian nan đến được hiện trường thì dịch bệnh đã tàn phá nặng nề: người ta phải dành cả một khu đất phía sau làng, bên rìa núi để chôn người chết. Khi trận dịch được dập tắt, người ta bắt đầu điều tra, qui trách nhiệm để truy cứu.

Trong lúc ra sức đổ trách nhiệm lên nhau, người ta vắt óc nhớ lại và cố đoán xem người đàn ông già nhất làng đã lẩm bẩm điều gì vào cái ngày phát hiện xác cô gái da trắng, tóc vàng. Nhưng vĩnh viễn cái bí mật kia không được khám phá. Vì rằng ông già Năm Tạo đã hôn mê và một chân ông đã đặt vào cửa thiên đàng từ cái buổi sáng giá lạnh đó.

Con ma chòm mả lạng

Phương Nam

0

Không ai, kể cả những người lớn tuổi nhất trong xóm biết rõ chòm mả lạng có từ bao giờ và trong chòm có bao nhiêu cái mả.

Mọi người chỉ biết loáng thoáng rằng chòm mả có gần một trăm cái mả bằng đất, bằng đá xanh hoặc đá ong chen chúc lẫn lộn với nhau. Nhiều mả bị mưa gió bào mòn đã lạng gần bằng mặt đất mà nếu không có những cái bia chỉ điểm thì khó mà phân biệt được đâu là đất bằng, đâu là mả. Mặc dù vậy cũng không một ai có thể đếm đủ hết số mả vì không phải cái nào cũng có bia. Những cái bia đủ loại, kích cỡ khác nhau, xiêu vẹo, cũ kỷ rêu phong, chứng tỏ rằng đã từ lâu dân trong làng không còn chôn người chết nơi đây nữa.

Chòm mả lạng nằm trên một gò đất sét cao, rộng khoảng hai công đất. Chỗ cao nhất của gò là Miễu Bà chúa xứ đã sập đổ từ lâu chỉ còn lại một mớ gạch đá lổn nhổn. Chung quanh gò là mấy bụi tre gai và ba cây sao cổ thụ cao lớn, uy nghi, cành lá rậm rạp. Nhiều người cho rằng rễ sao đã chui vào bên dưới các ngôi mả và gặp được chất dinh dưỡng từ xác người phân hủy nên cây tươi tốt khác thường. Có lẽ vì vậy mà ít có người kể cả những người gan dạ nhất, dám leo trèo lên cây. Cả ba cây sao có rất nhiều kiến vàng, ong bần lại thêm dây leo chằng chịt. Trên đọt tre và mấy ngọn sao là giang sơn của nhiều loài chim lớn, nhỏ. Cư dân trú ngụ thường xuyên là chim dòng dọc với hàng trăm ổ chim treo lủng lẳng như những trái khô trên giàn bầu. Tùy theo mùa, trên ngọn sao còn là nơi làm ổ của quạ đen, diều đỏ, bìm bịp, cưỡng bông, cò trắng, các bọng cây là nơi ở của chim ục, cú mèo...

Thật ra trước đây có tới bốn cây sao ở bốn góc của chòm mả lạng. Vào một năm lũ lụt lớn, cây sao ở chỗ thấp nhất đã chết và khô đi. Vào mùa nắng, bọn trẻ chăn trâu đốt rơm nướng khoai đã làm cháy gốc. Đến khi có giông gió lớn, cây sao bị ngã xuống đìa Gừa và nằm luôn ở đó cho đến bây giờ.

Đìa Gừa nằm ở phía Tây chòm mả lạng, giữa đìa mọc đầy sen, súng. Có người nói trước đây người ta đã đào đìa Gừa đắp lên thành gò nơi chòm mả ngày nay. Đó là cái thời ngày xửa ngày xưa ông bà ta vào nơi này khai hoang, phá lâm làm ruộng. Trong một vùng đồng trủng thấp, cái gò được đắp cao là đất cúng, nơi chôn cất những người nghèo khó hoặc dân phiêu tán, tứ cố vô thân. Rồi chiến tranh loạn lạc xảy ra, chòm mả lạng đã trở thành "xiêu mồ lạc mả".

Giữa một vùng dân cư ít ỏi, nhà cửa còn thưa thớt, chòm mả lạng quả là một nơi âm u, vắng vẻ ít ai dám qua lại, nhất là những người nhát gan. Những ngày mưa giông rả rích hay những lúc chạng vạng tối đom đóm lập lòe, ai có việc phải đi ngang qua đây thường lẩn tránh đi đường vòng dù xa hơn, khó đi hơn vẫn chịu.

Ấy vậy mà ruộng khoai mỡ của bác Tư Miên lại nằm sát với chòm mả lạng, chỉ cách nhau có một bờ ranh với một hàng tràm. Vì là ruộng gò, đất xấu đã từ lâu bác Tư không trồng lúa mà lên liếp làm rẫy. Tùy theo thời giá, có năm bác trồng bắp, trồng đậu hoặc bí rợ, dưa leo luân vụ. Năm nay bác lại vun giồng trồng khoai mỡ, khoai giống vừa mới cắt mặt, vùi tro, đặt hom xong chưa được mười ngày cho nên bác phải tưới nước quyết liệt để giữ ẩm cho mầm non được mập, mạnh, lên khỏe kịp thời vụ. Thời tiết đang vào đầu mùa mưa, nhưng mưa gió còn ít và thất thường, bác phải tưới nước cho khoai mỗi ngày hai bận sáng sớm và chiều tối. Bác Tư lại là chúa sợ ma, đối với Bác bận tưới buổi sáng thì không có vấn đề gì, nhưng bận tưới buổi chiều thì thật là đáng ngại, Bác ớn cái chòm mả lạng ấy lắm. Buổi chiều khi mặt trời khuất sau đìa Gừa một chút, vừa khi bóng cây sao lớn nhất phủ ngọn đến chí mí cái chòi giữ rẫy thì Bác vội quảy đôi thùng tưới đi về ngay không chậm trễ. Những hôm chuyển mưa bác lại còn về sớm hơn.

Chiều nay, Bác Tư Miên ra ruộng khoai sớm hơn mọi khi. Buổi sáng bác bận đi đám giỗ nên bỏ qua một cử tưới. Không sao! Chiều nay bác sẽ tưới bù, sẵn dịp nhổ cỏ cho khoai luôn một thể. Mải mê công việc, bác đã quên không để ý bóng cây sao đã vươn dài qua khỏi cái chòi từ lâu rồi, bác cũng quên phứt đi cái chòm mả lạng ở đàng sau lưng. Có lẽ do rượu chăng? Mặc kệ! Bác chỉ còn phải tưới cho mấy giồng khoai nữa thì xong. Trời đang nhập nhoạng tối, sắp chuyển mưa, một ít sấm chớp nhì nhằng ở xa vẳng lại. Bỗng nhiên tai Bác nghe mấy tiếng động lạ: "Chủm! chủm! rẹt! bịch!". Bác Tư ngừng tưới quay lại:

- Cái gì lạ vậy cà! Chẳng lẽ mình nghe lầm!

Bác dáo dác nhìn chung quanh. Mọi cái trở lại yên lặng bình thường.

Bác Tư cố tưới hết giồng khoai.

Nhưng lại có tiếng: "Rẹt! rẹt! chủm! chủm! chủm! bịch! bịch!"

- Không nghi ngờ gì nữa, có ai đó đang chọi mình!

Bác Tư khẳng định như vậy.

Dưới ánh sáng mờ mờ, bác Tư thấy rõ ràng một cục đất rớt bên cạnh bác và lăn tuột xuống mương. Lại ngừng tưới, dõi đôi mắt đăm đăm nhìn về phía chòm mã lạng, Bác Tư cố giữ giọng bình tĩnh nói lớn:

- Ai chọi vậy ta? Chọi tùm lum gãy đọt khoai hết nghen!

Đáp lại lời Bác là một loạt tiếng động hỗn tạp chen lẫn vào nhau: "lẹt rẹt! lủm chủm! lịch bịch!" Hình như có bàn tay vô hình nào đó chọi về phía Bác một nắm đất hang chuột thì phải! Bác Tư cảm thấy sống lưng ớn lạnh, sau gáy có cái gì đó là lạ, tim đập nhanh và bụng bắt đầu đánh "lôtô". Bác bỏ đôi thùng xuống chụp một khúc cây nhảy qua cái mương nhỏ. Có ba bốn cục đất lớn chọi về phía bác: bịch! bịch! bịch! Bác Tư đi thụt lùi mặt hướng về chòm mả lạng, cảnh giác, lưng hướng về xóm nhà. Lại có mấy cục đất chọi theo rớt vào đám lá khô rẹt! rẹt! rẹt! Phía chòm mả lại có tiếng gì ư ử nghèn nghẹn như tiếng con nít khóc từ dưới lòng đất đưa lên. Bác Tư lẩm nhẩm:

- Mẹ nó! Chẳng lẽ lại là ma?

Và bác quay lưng chạy một mạch về nhà bất kể mương, vũng, gai gốc hai bên lối mòn. Bác luồn qua hàng rào, vào nhà chạy thẳng đến bếp nơi bác Tư gái đang nấu nồi tấm heo thở hổn hển.

- Mẹ nó! Ma chọi tao!

Bác Tư gái hỏi dồn:

-Ở đâu?

- Thì ở ruộng khoai chòm mả lạng!

- Hồi nào?

- Mới tức thì đây nè!

Sáng hôm sau cả xóm đã biết cái tin hồi hôm này, bác Tư đã bị con ma nơi chòm mả lạng chọi đất. Mấy người đến hỏi thăm, bác Tư đã tỉ mỉ kể lại và còn thêm chút mắm muối cho câu chuyện thêm ly kỳ, rùng rợn. Chiều tối hôm đó, có mấy người trong xóm theo bác Tư ra chòm mả lạng để xem ma chọi. Họ đem theo chĩa, dao, giàn thun, đèn chai để lùng sục con ma. Họ thách thức con ma đủ điều. Khi trời nhá nhem tối nó chọi thật y như bác Tư đã kể. Nhiều người múa dao, bắn giàn thun, chọi đá, đâm chĩa, soi đèn vào các bụi rậm nhưng "con ma" vẫn chọi như thường. Gần khuya mọi người mới ra về. Mấy đêm sau vẫn như vậy. Có người nghi ngờ, ban ngày rủ nhau đến chòm mả lạng tìm dấu vết nhưng vẫn không phát hiện được gì.

Tin đồn về con ma chọi đất nơi chòm mả lạng đã lan đi mấy xóm. Có đêm nhiều người hiếu kỳ của xóm trên, xóm dưới, mấy xóm ở làng bên cũng đến xem, có cả mấy người già lớn tuổi. Họ thách thức:

- Nè, bây giờ tao chọi miếng ngói có rạch thập bằng vôi, có giỏi thì chọi lại miếng ngói đi, con ma!

Không bao lâu quả nhiên có miếng ngói vẽ chữ thập bằng vôi được con ma chọi trả lại tức thì.

- Đây, tao chọi đồng xu đỏ, chọi trả lại coi!

Giữa lúc mọi người không để ý thì có đồng xu đỏ rớt cái xẹp cạnh bên chân người vừa chọi đi.

- Bây giờ, tao chọi cục cứt trâu khô lên gò, con ma chọi lại nghen!

Mọi người chờ đợi nhưng không có cục cứt trâu khô được chọi trả lại. Có lẽ con ma khá nghiêm túc, nó không chơi giỡn kiểu như vậy. Có người cho rằng cứt trâu là vật ô uế con ma không dám đụng tới. Có điều là con ma rất... hiền, dù cho có đông người nó cũng chưa chọi trúng ai bao giờ.

Cứ như vậy riết rồi chán, người đi xem thưa dần với lại buổi chiều hay có mưa giông lớn, mọi người không đến chòm mả lạng nữa. Việc đi coi ma chọi đất kết thúc. Nhiều người đã tin là có con ma ở chòm mả lạng thật.

Mọi việc rồi cũng trở lại yên ả bình thường nơi ruộng khoai, nhưng người khổ nhất là bác Tư. Từ hôm bị ma chọi đến nay, cứ mỗi chiều khi mặt trời xuống còn cách mặt đìa Gừa cả cây sào, bác đã vội tom góp đồ đạc về nhà không dám ở lại nữa. Nhưng bù lại lúc này mưa nhiều, ruộng khoai của Bác ngày càng tươi tốt, công chăm sóc nhẹ đi, Bác đỡ phải lui tới nơi này.

Bẳng đi một lúc khá lâu bác mới ra thăm ruộng khoai. Nhìn lên cây sao lớn, bác hết sức ngạc nhiên không hiểu vì đâu mà cây sao vàng úa, đỏ lá như sắp chết tới nơi. Bác lò dò đến bên gốc sao quan sát thì mới nhận ra cây sao bị trời đánh. Hèn gì mấy hôm trước trong cơn giông lớn bác đã nghe mấy tiếng nổ lớn chát chúa ở hướng này, hóa ra là ở chỗ cây sao. Cái đọt to lớn của nó bị đánh gãy, nhiều nhánh rớt xuống nằm vắt vẻo trên đọt tre, mấy nhánh lớn rớt luôn xuống đất. Mặt đất phủ đầy lá sao héo úa. Nơi cháng hai của cây, một dấu tét lớn làm trơ ra các thớ gỗ còn mới toanh. Một vết đỏ bầm loang dài từ cháng hai đến tận gốc cây đặc sệt như máu. Bác Tư ngẫm nghĩ:

- Chắc là con ma đã bị trời đánh chết rồi! Theo ông bà xưa nói lại khi trời đánh ma nếu có vết loang đỏ là đánh trúng còn ngược lại là đánh trật, con ma không chết. Vừa nghĩ ngợi bác Tư vừa nhìn ngắm dò xét thân cây. Bỗng nhiên đôi mắt Bác dừng lại nơi chỗ cháng hai có cái gì treo lủng lẳng hơi khác lạ, khi có gió nó đánh qua đánh lại. Bác Tư vào nhà gọi thêm mấy người rồi ra chỗ cây sao bắc thang lấy cu liêm móc cái vật đen đen đem xuống. Đó là một cái giỏ cần xé bị mưa nắng làm cho cũ kỹ, đen mốc hư hỏng, nhưng bên trong còn chứa đựng đất sét, gạch, ngói, vôi, vỏ sò... đủ thứ. Có người kêu lên:

- Cái giỏ này là của thằng Năm!

- Như vậy là mấy tháng trước đây nó đem cái giỏ này trèo lên cây sao làm con ma để chọi đất nhát tụi mình!

Thằng Năm con ông Tám Càng thợ câu tôm ở xóm Rạch Gỗ. Anh chàng là một thanh niên khỏe mạnh, gan dạ giỏi nghề câu, lưới, bắt cá, chọi đất, bắn giàn thun. Đang đêm, Năm có thể một mình băng đồng đến chòm mả lạng bẻ một nhánh cây, lấy một mảnh ngói rồi quay trở lại để ăn cá cược một gói Ruby Queen với những người thách đố dễ như chơi!

Bây giờ Năm không còn ở trong xóm nữa. Tháng trước, một đơn vị quân giải phóng về đóng ở đây. Năm đã khăn gói xin đi theo, đầu quân vào bộ đội chủ lực. Muốn hỏi cho rõ cũng khó gặp được anh chàng, mọi người chỉ còn cách lần từ các dấu vết rồi suy đoán thôi.

- Hèn gì! Mỗi tối đi coi ma chọi đất đông đủ nhiều người mà có khi nào có mặt thằng Năm đâu?

- Có sao được! Lúc đó nó ngồi trên ngọn cây sao đang híp mắt cười tụi mình mà.

- Sao lúc đó mình không để ý hén! - Bác Tư nói chen vào.

- Để ý sao được! Việc rồi mới vỡ lẽ ra.

- Lúc đó,  tui nhớ mỗi chiều khi bàn việc đi coi ma, Năm ngồi nghe, mình sắp đặt cái gì cu cậu cũng biết ráo trọi.

- Bởi vậy.... cho nên mình thách cái gì, nó có cái đó!

Mỗi người một ý, bàn tán cho đã rồi đi đến kết luận rằng con ma chọi đất mấy tháng trước ở chòm mả lạng không ai khác hơn là Năm. Mọi người ra về, để lại cho bác Tư cái giỏ cần xé cũ của con ma.

Một mình ở lại giữa ruộng khoai, Bác Tư mới có dịp ngẫm lại sự việc:

- Như vậy con ma là thằng Năm! Thằng Năm chính là con ma! Bác Tư vừa cảm thấy tiêng tiếc cho sự nông nổi của mình đồng thời cũng vừa như trút bỏ được một gánh nặng vô hình nào đó đã đeo đẳng bác bấy lâu nay.

Lần tay vấn được một điếu thuốc lá sâu kèn lớn và rít một hơi dài cho đã cơn ghiền, bác Tư Miên đứng thẳng người nhìn mặt trời chiều đỏ ối đang xuống thấp bên kia đìa Gừa phía sau chòm mả lạng mà trong lòng thấy khoan khoái, dễ chịu khác thường.

Bữa nay gió mát, trời lại có trăng, bác Tư sẽ làm cỏ khoai cho tới tối mịt mới về.

Nhắp vịt

Phương Nam

0

Sống cái cảnh gà trống nuôi con riết rồi cũng quen. Gần mười năm qua kể từ ngày thím Tư mất đi, chú Tư đã ở vậy cố sức nuôi cho hai con được khôn lớn.

Ngày nào cũng vậy, mùa nóng cũng như mùa lạnh, chú Tư luôn thức dậy vào lúc bốn, năm giờ sáng. Chú phải nhóm bếp nấu nước, nấu cơm, hâm nấu thức ăn, quét dọn nhà cửa, giặt giũ... Nói chung các công việc thường nhật buổi sáng của thím Tư trước đây thì nay là của chú. Xong xuôi mọi việc chú mới rảnh tay pha bình trà thơm đậm ra ngồi uống nơi cái bàn tròn cũ kỹ đặt giữa nhà. Vừa uống trà chú vừa nhẫm tính trong đầu các công việc dự định sẽ làm trong ngày hoặc đôi ba ngày tới. Mọi việc thượng vàng hạ cám, trong ngoài một mình chú phải lo hết. Từ việc bếp núc, ăn mặc, học hành, đám tiệc cho đến việc làm ruộng, làm vườn, chú vừa là người vạch kế hoạch, người chỉ huy  kiêm luôn người thực hiện.

Mấy năm gần đây, khi  thằng Hai và con Thy đã lớn lên đôi chút nó đã giúp đỡ được cho chú ít nhiều trong việc nấu nướng, giặt giũ, coi sóc nhà cửa nhất là trong mấy tháng hè. Tuy vậy nhiều lúc mùa vụ ngặt nghèo, công việc quây lấy chú, chồng chất lên chú tưởng chừng không thể nào thoát ra được. Những lúc như vậy, chú cảm thấy uể oải, mệt mỏi và chợt nghĩ tới việc gá nghĩa, chắp nối với cô Năm hàng xóm quách cho xong để còn gánh vác công việc cho nhau. Và cũng chính những lúc như vậy chú nhớ tới nỗi cực khổ của thím Tư trước đây và tội nghiệp mấy đứa nhỏ nên lại thôi.

Cũng có lúc công việc nhàn nhã, buổi sáng chú Tư ngồi uống trà đậm với mấy ông bạn già vừa chờ xem cảnh mặt trời lên vừa chờ các con thức dậy. Ăn uống dọn dẹp xong, thằng Hai, con Thy cắp cặp đến trường còn chú Tư thì khóa cửa lại, vác cuốc ra vườn, ra ruộng. Mấy lúc đó chú mới cảm thấy  cuộc sống có đôi phần dễ chịu, hạnh phúc, niềm vui nho nhỏ cũng nhẹ nhàng đến với chú. Nhưng cũng ít khi và hiếm hoi quá!

- Giá mà mẹ nó còn sống! - Chú Tư thường nghĩ như vậy.

Thật lòng mà nói chú Tư đã phải hết sức tiết kiệm mới đủ tiền chi xài mọi thứ cho cả nhà quanh năm suốt tháng. Cái gì thật sự cần chú mới mua sắm, cái gì chưa cần hoặc tự túc được thì chú không mua.

Có lẽ trong mọi chuyện, miếng ăn thức uống của cả nhà hàng ngày là cái việc làm bận bịu cho chú nhiều nhất. Ngày ba bữa sáng, trưa, chiều ngày nào cũng như ngày nào, không có không được. Rồi lại còn cái khoản rau, cá, thịt, gạo, muối... phải chạy vạy. Nếu  mọi thứ đều mua sắm ở ngoài chợ thì chú không thể kham nổi. Vì vậy chú đã tính toán trừ dầu đốt, mỡ, muối ăn phải mua còn cá, mắm, rau, cải... chú tự lo liệu. Chú đã trồng nhiều   rau, cải, bầu, bí và có gần đủ các dụng cụ bắt tôm, cá: lọp, lờ, câu,  lưới... mùa nào thì dụng cụ ấy. Trong các môn bắt cá đó, chú Tư khoái nhất là câu vì cá có thể câu được quanh năm, hơn nữa  câu cá đỡ mất thì giờ và không phải trầm mình nhiều dưới nước như là câu giăng, câu cắm. Tối cắm câu, sáng bắt cá. Thời gian gần đây chú đã học được ở đâu đó một cách câu cá rất đắc dụng gọi là nhắp vịt. Cách câu này nhanh nhạy hơn so với câu giăng, câu cắm và nhẹ nhàng hơn câu rê  rất nhiều.

*                        *

                                                              *

Nhắp vịt là cách câu dùng một con vịt con mới nở đôi ba ngày cột vào nhợ câu, dưới thân vịt là các chùm lưỡi câu bén nhạy. Người đi câu cầm cần câu vừa nhắp vừa rê con vịt trên mặt nước để dụ cho con cá táp rồi   mắc câu. Cách câu này nhằm bắt các loại cá bông, cá dày, cá lóc. ở chỗ chú Tư, cá bông đã không còn  do vậy người đi câu chủ yếu nhằm bắt cá lóc vào các thời điểm cá làm ổ, cá đẻ trứng, cá giữ con.

Hàng năm cá lóc đẻ rộ  vào lúc sa mưa  từ tháng tư âm lịch và lác đác cho đến tháng mười âm lịch. Cá lóc cha mẹ rất hung dữ khi đang giữ ổ, giữ con. Nó tấn công mọi loại ếch, nhái, cá lạ dám đến gần ổ trứng, gần đàn con của nó. Cá lóc con khi còn nhỏ gọi là lòng ròng có màu vàng đỏ luôn phải ở gần mặt nước để thở và ăn các sinh vật phù du. Lòng ròng cũng là mồi ngon cho ếch, nhái, cá rô, cá lòng tong, chim thằng chài và cả... vịt con. Đối với cá lóc cha, mẹ, vịt con là một con vật mà nó chúa ghét. Người đi nhắp vịt đã biết lợi dụng chỗ này, họ thả con vịt con theo dây câu vào giữa bầy lòng ròng rồi rê qua, rê lại để chọc tức. Cá lóc cha, mẹ vì nóng lòng bảo vệ đàn con sẽ lao ra táp thẳng vào con vịt không biết điều cho bỏ ghét và bị mắc vào lưỡi câu.

Chú Tư đã nhiều phen chứng kiến con cá mẹ táp con vịt cho tới lần thứ ba, thứ tư  mặc dù  qua mấy lần nó bị người đi câu giật cho lộn nhào trên mặt nước đến nổi bị đui mắt, sứt mép, máu chảy đỏ miệng. Vậy mà cứ thấy con vịt làm táo tác đàn con của nó, nó lại lăn xả vào táp nữa đến khi bị mắc chặt vào lưỡi câu, bị bắt bỏ vào giỏ thì mới đành cam chịu và xa rời  đàn con của nó.

Mỗi bầy lòng ròng có một cặp cá lóc cha, mẹ coi giữ. Người đi câu thường bắt một con, chừa lại một con để giữ lòng ròng. Có người háu ăn đã câu bắt hết cá cha lẫn mẹ. Cũng có trường hợp người đi câu trước đã bắt một con, người câu sau vì không biết nên bắt luôn con còn lại. Những lần như vậy chú Tư cũng đã nhìn thấy cảnh bầy lòng ròng không còn cha mẹ đã bị các loại cá khác làm tiệc không thương tiếc. Chỉ trong mấy phút  bầy lòng ròng hàng trăm con đã không còn lấy  một con. Lúc đó chú Tư cũng cảm thấy trong lòng một chút xót xa và ân hận. Xót xa vì với cái kiểu bắt cá này, cá lóc sẽ đến ngày tuyệt giống mất và ân hận vì như vừa làm một điều ác.

Số phận của con vịt làm mồi nhử cũng rất là bi thảm. Thật ra con vịt chỉ làm vai trò chọc giận con cá lóc chứ không phải làm mồi. Cá lóc táp vịt là để xua đuổi chứ không phải để ăn. Gặp phải cá lóc lớn cả kí-lô, nó chỉ táp một cái, con vịt có thể bị cụt đầu, đứt làm đôi như chơi. Nếu còn sống sót thì qua năm bảy lần câu, con vịt cũng bị cụt chân, gãy cánh, rách bụng... là thường. Sau buổi câu, người đi câu sẽ gỡ con vịt rách nát ra rồi quăng đi đâu đó. Vịt và cá cả hai  đều là nạn nhân, kẻ thủ lợi duy nhất là người đi câu.     

Sáng nay, rổi rảnh chú Tư lại xách giỏ và cần câu đi nhắp vịt. Như mọi khi thì chú đi thẳng tới Đồng Lớn nơi có nhiều bàu, đìa... nhưng hôm nay, chú đi vòng lại cái lung sen vườn chú cạnh mả thím Tư để xem lại cái ổ cá lóc, nơi mà hôm qua chú đã nhắp được con cá lóc mẹ nặng gần một kí-lô.

Có nhiều cách để phân biệt cá lóc đực, cái. Đối với chú Tư, chú chỉ cần nhìn hình dạng cá lượn lờ quanh ổ là biết được đâu là cá đực, cá cái. Cá đực thì mình thon dài, mỏ hơi nhọn. Cá cái mình ngắn, dáng mập mạp, mỏ tròn hơn. Đối với cá bông hay cá dày thì cũng tương tự  mà thôi.

Vừa đi vừa nghĩ vẩn vơ, đôi chân cũng đã đưa chú đến đúng chỗ cái ổ cá ngày hôm qua. Bầy lòng ròng không còn ở gần nơi cũ nữa. Chúng đã đi khá xa. Dõi theo dấu bọt nước ẩn hiện dưới lung, bước thêm vài chục bước nữa chú đã thấy được một vùng nước sôi động – bầy lòng ròng đang ăn móng. Mục đích đến đây của chú Tư không phải là để câu con cá còn lại. Cái chính là chú muốn tìm thử xem có ổ cá nào mới, tiện thể chú quan sát cái bầy lòng ròng mà hôm qua đã bị chú bắt mất mẹ. Chú ngồi xuống bờ đất sát bên cái mả lạng nơi thím Tư đã an nghỉ hơn chục năm qua. Mặc dù đôi ba năm chú có đắp đất thêm song mưa, nắng, thời gian cũng đã làm cho cái mả mòn đi, oằn xuống, dài ra trông như một con cá lóc mẹ to tướng nhưng mệt mỏi đang nằm im giữ ổ.

Chợt có tiếng xao động dưới lung. Con cá lóc lớn đang rượt táp  một con chàng hiu nhưng không trúng.

- Đúng là con cá lóc đực – Chú Tư lẩm bẩm.

Mặt nước chưa hết gợn sóng, từ giữa bầy lòng ròng một con cá lóc khác lững lờ trừng lên nhả ra một bọt nước lớn lượn qua, lượn lại như vội vàng ve vuốt bầy cá con rồi lặn xuống. Lặn xuống rồi nổi lên, rồi lại lặn xuống.

- Rõ ràng là một con cá cái – Chú Tư nói thầm.

Rồi như chợt hiểu ra, chú Tư mỉm cười.

- Ô hay! Con cá đực này hay thật! Mới đây mà đã... có bồ mới rồi!

Quăng điếu thuốc rê đang cháy dở trên môi. Chú Tư nói vừa đủ nghe:

- Tao câu nữa! Cho tụi bây biết chỉ chừa lại đúng một con thôi.

Chú móc con vịt trong túi áo ra định máng vào nhợ câu, vừa lúc con cá cái  lại trừng lên nơi trống trải. Chú Tư dụi mắt:

- Quái lạ! Con cá sao lại một bên trắng một bên đen, bơi lội lại khập khểnh, lắc lư?

Chú Tư rón rén bước lại gần bờ lung để nhìn cho rõ, nhưng chú đã thẩn thờ ngồi phịch xuống. Không còn nghi ngờ gì nữa, đây chính là con cá lóc mẹ chú đã câu được sáng hôm qua. Chiều qua chú đã đem nó ra cầu ao đập đầu, đánh vảy, chặt vi làm thịt, nhưng chú đã vuột tay, con cá rớt xuống ao, chú mò kiếm mà không được. Xuống nước có lẽ con cá đã tỉnh lại tìm đường lội về cái lung nơi đàn con của nó. Do vậy mà sáng hôm nay chú Tư và con cá lóc mới có cuộc gặp lại độc đáo này. Nói cho đúng hơn chú gặp lại nó chứ nó không gặp lại chú vì nó không nhìn thấy chú  mà nếu thấy thì nó cũng không biết chú là ai và đã cố sức nép vào đám sen rồi. Chú nghĩ:

- Có lẽ con cá lóc không còn sống được mấy ngày nữa vì các vết xước, vết đứt trên thân nó khá sâu, nhiều nơi đã tụ máu, nhiễm trùng rất nặng. Tội nghiệp nó thật!

Nghĩ đến đây, chú Tư thấy trong lòng như se lại muốn quay trở về không muốn đi nhắp vịt nữa. Chú sờ lại cần câu và cái túi. Con vịt con đã chạy đi đâu mất nhưng chú cũng chẳng cần tìm kiếm.

Từ từ đứng thẳng người lên bên ngôi mả lạng, chú Tư  vừa bẻ gập đôi cần câu quăng vào bụi rậm vừa nói như hứa hẹn một điều gì:

- Thôi! Có mẹ nó làm chứng, từ nay tôi không nhắp vịt nữa. Xin từ biệt cần câu nhắp vịt, từ biệt cách kiếm ăn tai hại này!

Dưới ánh ban mai, cái bóng gầy gầy của chú Tư với cái giỏ không lắc lư bên vai trải dài ra, nhỏ dần rồi khuất sau bờ sậy.

Chim trời cá nước

Phương Nam

0

Ở cái xứ đồng không mông quạnh * này, hàng năm ngoài hai vụ lúa, thời gian còn lại là nông nhàn. Đến mùa nước nổi mọi nhà không phải bận việc đồng áng thì lại là lúc thuận tiện cho việc săn bắt chuột đồng, rùa, rắn, cá, ếch...

Năm nay mưa nhiều, nước dâng lên sớm hơn các năm trước. Tuy vậy, gia đình anh Hai Hậu vẫn kịp thu hoạch vụ lúa Hè-Thu muộn. Cũng may cho anh, nhằm lúc mùa vụ đông ken mà thuê được máy suốt lúa nên chẳng mấy chốc đã làm xong gần trăm giạ lúa. Lúa vừa phơi phóng khô ráo, vô bao, vào bồ xong thì con nước cũng vừa trờ tới. Nước sông từ kinh, rạch dâng lên, nước mưa từ trên trời đổ xuống. Một tuần, hai tuần cả cánh đồng hàng trăm mẫu tây đã đầy ắp trắng xóa bởi nước. Mặt nước trải dài nhấp nhô sóng lưỡi búa. đó đây những đụn rơm lớn trôi dật dờ tỏa hơi khói trên nước, xa xa trông như những hòn đảo đá ẩn hiện trên vùng biển sương mù.

Mọi năm, cứ vào thời tiết này, anh Hai Hậu đã rủ mấy người bạn cùng quảy giỏ tre đem theo chĩa, dao, mác dẫn chó xuống xuồng ba lá đi vào mấy bờ sậy, gò đế cao để săn bắt. Ban ngày thì đi săn chồn đèn, chuột cống, xom rắn, bắt rùa; ban đêm thì đi giăng câu, soi ếch, được ít thì nhậu lai rai, được nhiều thì cái để ăn, cái đem bán. Cuộc sống trong mùa nước nổi tuy vất vả nhưng cũng có cái hay và thú vị.

Mấy năm gần đây dân cư vào lập nghiệp ngày một nhiều hơn, ai cũng đi săn bắt như vậy thì của trời cho cũng phải hao mòn. Rùa rắn ít đi, việc săn bắt ngày một thêm khó khăn không còn dễ dàng như trước nữa.

Anh Hai Hậu bây giờ tuổi cũng ngoài bốn mươi lăm vào hàng trung niên, cái tuổi tuy chưa phải là già nhưng cũng không còn nhanh nhẹn, dẻo dai như hồi còn trai trẻ được. Nhiều người cho rằng ở tuổi này, con người đã "lưng mật" rồi, làm việc gì cũng chín chắn, cẩn thận không dám liều lĩnh nữa. đi săn bắt cũng có cái nguy hiểm của nó nhất là đi xom rắn. Rắn càng được giá, nhiều người càng ham đi bắt rắn. Nước lên, các loài rắn trên cạn từ các nơi đổ về những gò cao, rắn hổ đất, hổ hèo, hổ chúa, mai gầm... ở chen chúc, chui lủi vào các bụi cỏ, kẽ đất, hang chuột, nhiều con dài cả thước, to bằng cổ tay, dữ tợn. Người đi săn dùng chĩa nhọn xom theo dấu hang... Nhiều khi bị xom trúng vào phần đuôi, con rắn đau quá chui ngược lại hoặc trổ ngách cất đầu lên mổ vào tay, vào chân người. Nó mà mổ trúng thì cũng khó mà cứu được.

Năm nay anh Hai Hậu không đi săn, đi soi nữa, anh quay ra làm lưới, giăng câu, đặt lọp. Mỗi sáng bắt được năm ba ký cá giao cho chị Hai rọng lại cứ hai ba ngày đem ra chợ bán một lần cũng đắp đổi được, vậy mà "ăn chắc, mặc bền".

Đã sinh sống nhiều năm trong vùng sâu xa xôi này, anh Hai Hậu cũng thấy rất rõ mấy trăm giạ lúa làm được mỗi năm của anh so với chi phí của gia đình cũng chưa thấm tháp gì. ở đây trăm thứ đều trông cậy cả vào lúa: Lúa để trả nợ vay, lúa để ăn, để làm giống, đi đám cưới, giỗ, nuôi con đi học và bao nhiêu thứ phải quấy khác... Do vậy, ngoài lúa còn phải biết xoay sở làm thêm việc khác, phải biết "buông dầm, cầm chèo" thì mới đỡ phải chật vật thiếu thốn.

Mấy tháng trước, chị Hai Hậu cũng mua về năm chục con vịt, hai chục con gà nuôi từ đầu vụ lúa, đến nay vịt, gà đã lớn mây mẩy, sắp sửa cho trứng, cho thịt. Anh chị rất mừng, nhưng khổ một nỗi, nước lên, nhà cửa chật chội, gà vịt ở chung với người hôi hám không chịu được. Bí quá, anh Hai Hậu mới nghĩ cách đi kéo mấy đụn rơm lớn về kết bè lại, bên cạnh nhà, vừa để làm chỗ ở cho gà vịt, vừa để tạo nguồn thức ăn côn trùng cho chúng, đỡ phải hao tốn lúa gạo, lợi cả đôi bề. Được ăn nhiều trùn, dế, đàn gà vịt của anh mau lớn ngó thấy.

Mừng thầm trong bụng, anh bàn với chị Hai Hậu:

- Cuối mùa nước, mình đem bán phân nửa số gà vịt này chắc cũng đủ vốn để làm vụ lúa sớm tới hả bà?

- Tôi định bán hết mới đủ, phân phướng, thuốc sâu bây giờ mắc mỏ! Còn lại bao nhiêu tiền hốt vịt con nuôi lại.

- Còn tiền bán cá không dành dụm được để phụ vô sao?

- Không đủ! Ông tính coi tiền cá một phần gửi về cho má để mấy đứa nhỏ đi học, phần thì mua sắm lặt vặt không còn bao nhiêu. Với lại mấy ngày nay cá đã rẻ rồi, không được giá như trước. ở chợ bây giờ cá đồng nhiều lắm, cả chục người bán, chỉ có năm ba người mua không rẻ sao được, rắn, ếch cũng rất nhiều bán đầy ngoài chợ. Vợ thằng Tám, vợ thằng Mến thường bán ếch ở đó, mỗi lần bán cả chục ký. ếch sống con lớn nó bỏ mối cho mấy người ở xa, ếch nhỏ nó làm sẵn bán luôn tại chợ.

- Tụi nó bắt ếch ở đâu mà nhiều vậy?

- Tôi có hỏi, nó nói chồng nó được ai đó chỉ cách làm mồi thuốc dụ ếch tới ăn rồi bắt cũng ở quanh đây chứ không đi đâu xa. Hỏi nữa thì nó giấu, nó chỉ biết vậy thôi, chứ mồi thuốc ra sao thì không rõ.

- Ôi thôi! Tôi biết rồi!

- Biết! Sao ông không làm?

- Tôi nghe tụi nó bàn với nhau là: dùng cua, ốc, trùn đất đem trộn với một vài vị thuốc bắc tạo thành mùi rồi trộn thêm một số thuốc độc đem đặt ở những chỗ có ếch. Loại mùi này rất hấp dẫn với ếch, khiến chúng tụ tập kéo đến để ăn rồi bị say, bị chết. ếch lớn, tụi nó sẽ cho uống thuốc để giải độc đem bán sống, ếch nào chết tụi nó lột da làm thịt bán, ếch nhỏ, ếch con thì tụi nó bỏ chết không lấy. Bắt được một con, tụi nó bỏ chết tới mười con, có nơi thúi hoắc cả một khoảng ruộng.

- Làm như vậy hủy hoại quá đỗi! Sao ông biết mà không can ngăn nó?

- Can ngăn cái gì! Tụi nó làm sao được thì nó làm. Có can ngăn, tụi nó cũng không nghe. Kệ nó!

- Kệ sao được! Nó làm như vậy riết rồi còn ếch đâu nữa mà bắt? Tụi nó lại trộn thuốc độc cho ếch ăn, rồi lại làm thịt ếch bán cho người ta ăn, biết đâu có người ăn ếch bị chết thì sao? Ông khuyên tụi nó không nghe thì ông bàn với mấy chú trên xã để mấy chú nói với tụi nó. Ông không nói thì tui sẽ nói.

- Ôi! Chim trời cá nước ai bắt được nấy ăn, bà không nghe người ta thường nói như vậy hay sao? Đi mét với mấy chú trên xã không khéo tụi nó biết được tụi nó thù oán mình thì kẹt lắm... Thôi! Bà muốn vậy thì để bữa nào tôi lựa lời nói với tụi nó thử coi.

Có lẽ anh Hai Hậu ưởm ờ như thế cho qua chuyện, bởi vì sau khi nói xong, anh đi thẳng xuống bếp đốt một điếu thuốc lá rồi vừa lên võng nằm hút vừa nghĩ ngợi điều gì đó ra vẻ chuyện không còn phải bàn cãi gì nữa.

Sáng hôm sau, như thường lệ khi mọi người còn chưa thức giấc, anh Hai Hậu cặp nách cây đèn pin, xách giỏ xuống xuồng đi thăm lưới, giở lọp. Chiếc xuồng ba lá của anh thuộc loại nhỏ đi được từ một đến hai người, dân trong vùng này thường gọi là xuồng "năm quăng". Xuồng được làm bằng loại gỗ xoài hoặc gáo vàng là loại cây gỗ mềm dễ làm xuồng, giá rẻ nhưng rất mau hư, thường chỉ đi được một năm là bỏ nên gọi là "năm quăng". Khi bơi, người đi xuồng thường ngồi ở phía trước bơi bên phải một dầm, xong phải bơi bên trái một dầm và cứ như vậy, xuồng lướt trên mặt ruộng phăng phăng như một lá tre trên dòng nước.

Trời chưa tan tảng sáng, anh Hai Hậu đã về gần đến nhà. Từ xa anh thấy bóng ai như là chị Hai Hậu đang nhảy loi choi trước nhà, tay chỉ chỏ cái gì đó về phía anh. Anh nghĩ bụng:

- Chắc có chuyện gì nữa rồi!

Anh bơi xiết một chập. Đến nơi anh nghe rõ tiếng chị Hai Hậu chu chéo:

- Trời ơi là trời! Gà vịt chết hết rồi! Cái quân ác độc.

Cảnh tượng trước mắt anh thật não lòng. Mấy chục con gà, vịt nằm la liệt đủ mọi tư thế. Có con đã chết hẳn, có con đang ngoắc ngoải, nhiều con đi đứng xiêu vẹo, múa may.

Thì ra hồi hôm này, có mấy đụn rơm theo gió trôi dạt về phía nhà anh tấp vào chỗ chuồng gà vịt, sáng ra đàn gà vịt xúm xít lại ăn phải mồi thuốc ếch và ngã ra chết.

Nghe nhà anh có chuyện, mấy người hàng xóm thương tình qua phụ giúp anh, chị đổ nước chanh, nước bù ngót mong cứu sống những con gà vịt còn lại nhưng chắc gì cứu được.

Nhìn gương mặt đầy nước mắt, méo xệch thảm thương của chị Hai Hậu, bất giác anh chợt thấy hiển hiện lên rõ ràng cái cảnh khốn khổ của vợ chồng anh trong mùa vụ tới: thiếu tiền, thiếu vốn, thiếu phân, xăng... Mất mát này của anh do ai gây ra? Ai có lỗi? Và ai sẽ phải bồi thường cho anh?

Anh cũng tự trách mình và cảm thấy rất thấm thía về cái quan niệm chim trời cá nước cũ kỹ lỗi thời của mình. Chim trên trời, cá dưới nước, chim cá này không là của riêng ai nhưng không phải ai muốn bắt chim, bắt cá theo kiểu gì cũng được.

Thổi quốc

Phương Nam

0

Tình cờ trong một lần gặp gỡ, tôi đã được làm quen với ông Tư thổi quốc.

- Đây là cháu Hai thầy giáo dạy học ở chợ huyện thị trấn này, cháu Hai đang ở trọ nhà tui. Còn đây là... Ông Tư thổi quốc. Bác Tám Cam - chủ nhà vui vẻ giới thiệu tôi với ông Tư.

Có lẽ sau vài tuần rượu cùng vui lây với lời giới thiệu dí dỏm của bác Tám Cam, ông Tư thổi quốc vừa cười vừa quay sang phía tôi:

- Cháu Hai năm nay bao nhiêu tuổi?

- Dạ! Cháu hai mươi tám.

- Vậy qua đây lớn hơn cháu hai con giáp. Thôi! cháu kêu qua bằng bác như bác Tám được rồi. Qua thứ tư tên Tấn, quê ở miệt Chợ Mới - Long Xuyên, bạn của anh Tám từ hồi xửa hồi xưa. Qua làm ruộng là chính nhưng còn có thêm nghề thổi quốc nên nhiều người gọi là ông Tư thổi quốc riết rồi quen!

- Cháu Hai  uống với ông Tư thổi quốc một ly để làm quen đi! - Bác Tám Cam nhắc nhở.

- Dạ! Cháu mời bác Tư uống trước.

Ông Tư thổi quốc đánh trót một cái đúng nửa ly rồi chuyền lại cho tôi.

- Uống đi cháu! Rượu đế đậu nành Long Xuyên đó. Qua chở theo ghe từ Chợ Mới xuống, còn mấy lít tặng cho anh Tám uống chơi vậy mà.

Đây quả là thứ rượu đế cao độ vị cay nồng, nước trong veo như mắt mèo, sủi tăm, thơm thơm mùi nhãn  chín. Từ sáng đến giờ chưa ăn gì lại giảng bài suốt bốn tiết về đến nhà còn hơi mệt, uống nửa ly bầu rượu của ông Tư tôi cảm thấy nóng ran cả người, uống tới đâu biết tới đó. Vừa để xong cái ly xuống mặt bàn, tôi phải nắm tay lại đưa lên miệng giả vờ ho nhẹ để làm giảm bớt độ cay trong lưỡi.

- Rượu này dữ quá bác Tư.

- Ừ! Rượu vậy mới ngon. Rượu gạo, rượu nếp hay đậu nành gì khi uống nó cay nồng trong cổ chạy rần rần, nóng ấm cả người thì mới ngon, chớ rượu nhè nhẹ, chát chát, chua chua uống vô lạnh cổ họng là rượu không ngon, khó uống lắm, có khi uống nhiều lại bị nhức đầu, ê ẩm mình mẫy nữa.

- Thôi cháu Hai gắp cái gì đưa cay đi chớ - Bác Tám Cam nói chen vào.

- Để tui - Vừa nói ông Tư  thổi quốc vừa gắp bỏ vào chén tôi một miếng thịt to, vàng óng, đượm mỡ và nói tiếp:

- Đây là thịt quốc. Dĩa này là thịt quốc khìa nước dừa ăn với bánh mì. Tô này là thịt quốc xào bầu non. Còn đây là thịt quốc xào mặn với củ hành để ăn cơm, nhưng hãy khoan ăn cơm, ăn cơm rồi uống rượu không ngon, uống hết chai này rồi mới ăn cơm nghen anh Tám!

- Ừ! Anh sao tui vậy. Cháu Hai cũng vậy luôn nghen!

- Dạ! Tôi nhìn chai rượu cũng thấy muốn ớn lạnh nhưng cố làm tỉnh đáp gọn cho vui lòng hai ông già.

- Sao? Cháu Hai thấy thịt quốc có ngon không?

- Ông Tư thổi quốc chợt hỏi.

- Dạ! Ngon tuyệt vời. - Tôi đáp.

- Ừ! Thịt quốc là thứ ngon. - Ông Tư  nói tiếp, nó giống như thịt gà nhưng xớ thịt nhỏ hơn, dẽ dặt và khô ráo, còn chất thịt thì ngọt đậm hơn hẳn thịt gà. Ngoài mấy món ở đây, thịt quốc còn có thể rôti, nấu cà ri, chặt miếng nướng kẹp, nướng xỏ lụi nguyên con hoặc quay lu đều ngon. Trong các loài chim ở ruộng lúa như: gà nước, chằng nghịch, vỏ vẻ, ốc cau... thì thịt quốc cũng thuộc vào hàng nhất nhì chớ không thua ai. Mùa này có nhiều cỏ non, lúa mới, cua, ốc, tép, cá, con quốc ăn uống no đủ mập mạp nên thịt ngon nhất. Đến khi trời sắp sa mưa con quốc phải đẻ trứng nuôi con nên ốm hơn.

- Ông Tư biết nhiều về con quốc quá chứ! Tôi thầm nghĩ như vậy.

Từ đầu bữa tiệc đến giờ tôi thắc mắc muốn biết thổi quốc là như thế nào nhưng chưa có dịp hỏi. Những năm trước đây cũng có vài lần tôi nghe nói về thổi quốc nhưng chưa rõ và chưa thấy bao giờ. Sẵn dịp tôi tranh thủ với ông Tư.

- Mấy con quốc này là do bác Tư bắt được hay mua?

- Ôi! Ổng thổi đó chứ mua gì cháu ơi! Nhiều lắm! Ổng còn nhốt cả lồng ở dưới ghe kìa - Bác Tám Cam đỡ lời.

- Vậy thổi quốc là gì? Có khó làm không bác Tư?

Để cái chén xuống bàn, ông Tư thổi quốc giải thích:

- Thổi quốc là giả tiếng kêu của quốc để dụ quốc bay đến gần mình rồi bắt. Kể ra thổi quốc cũng không khó lắm, cái chính là phải biết chọn địa điểm đặt lưới, phải thổi sao cho giống tiếng quốc và...

- Thôi! Chuyện dài dòng lắm - Bác Tám Cam vừa đưa ly rượu về phía ông Tư vừa nói:

- Ly này tới lượt anh đó! Bây giờ chiều nay cháu Hai có rảnh không? Nếu rảnh thì đi với ông Tư thổi quốc một lần cho biết. Được không?

- Được chớ sao không - Ông Tư thổi quốc gật gù đồng ý.

Riêng tôi thì khỏi phải nói, tôi sẽ sắp xếp để theo ông Tư thổi quốc một chuyến cho biết.

*          *

*

Năm giờ chiều, tôi cùng với thằng Bi cháu bác Tám Cam tháp tùng theo ông Tư ra ruộng để thổi quốc. Đồ nghề thì chẳng có gì nhiều, mấy cây sào dài ông Tư vác trên vai đi trước, tôi quảy mấy tay lưới theo sau. Thằng Bi xách mấy cái lồng nhốt quốc đi sau cùng.

Quanh co, lòng vòng trên mấy bờ ruộng rồi đến cái gò nghĩa địa có nhiều bụi cây lúp xúp, ông Tư ra hiệu dừng lại. Sau một hồi dọ dẫm định hướng gió, lựa chọn nơi thuận lợi, ông gọi tôi lại sắp đặt công việc. Tôi phụ ông mắc hai tay lưới vào mấy cái móc và rỏ rẻ trên ngọn ba cây sào.  Đây là loại lưới có mắt lưới rất thưa làm bằng chỉ mành nhuộm đen cẩn thận để tiệp màu với bóng đêm. Công việc tiếp theo là làm mấy cái tum bằng lá dừa nước để ẩn mình cho ba người. Ông Tư sẽ ngồi dưới cây sào giữa, tôi và thằng Bi mỗi đứa sẽ ngồi dưới chân hai cây sào còn lại, mỗi cây sào cách nhau mười mét. Khi con quốc bay đến đâm vào lưới bên nào thì ông Tư sẽ xả dây lưới bên đó và người đầu kia cũng làm như vậy để tay lưới chùng xuống quấn chặt lấy con quốc. Sau khi bắt con quốc xong thì kéo dây căng lưới lại như cũ. Giải thích xong các việc, ông dặn dò thêm:

- Bây giờ nghỉ tay cái đã! Qua hút  điếu thuốc. Đợi trời sẩm tối một chút nữa mới dựng lưới lên rồi qua với hai cháu thử tập kéo lưới, hạ lưới năm ba lần cho thiệt quen tay mới được.

Trời chạng vạng tối, gió đẩy đưa nhè nhẹ. Cảnh vật màu xanh tươi như đang bị nhuộm chuyển sang màu đen sẩm dần. Phía trước chúng tôi là ruộng lúa đang đỏ đuôi bông cái. Xa xa bên phải là rừng lá dừa nước trải dài đến tận vàm sông lớn. Bên trái là khu gò lũy cao bỏ hoang, cây cối rậm rạp chỗ ở của nhiều loài chim, cò, cúm núm, trích, quốc.

- Ông Tư chọn chỗ này hay thật! Chắc hẳn là mấy ngày trước đây ông đã đi dọ dẫm địa điểm này rồi cũng nên – Tôi nghĩ thầm như vậy.

Hút xong điếu thuốc, ông Tư khoát nước ruộng rửa mặt, rửa tay. Cả ba cùng hý hoáy dựng sào, căng lưới, thử lưới. Xong xuôi mọi việc, ông Tư mở túi vải lấy ra cái ống thổi quốc giống như một cây kèn bằng nứa vậy. Hướng về phía đám rừng lá và khu gò lũy, ông Tư bắt đầu thổi.

- Quốc... quốc..., quốc... quốc...

Tiếng quốc, quốc vang lên cách khoảng và sâu lắng, da diết, y chang tiếng kêu của một con quốc lẻ loi đang gọi bạn trong những đêm hè tôi đã từng nghe thấy.

Ông Tư cứ chịu khó, kiên trì thổi, thỉnh thoảng ông ngừng lại, chuyển qua giọng đục, giọng trầm, giọng bổng, lúc nhặt, lúc khoan, khi diễn đạt sự khắc khoải mong đợi, khi thì thể hiện giọng kêu mừng rỡ tưởng như có cả hai con quốc cùng kêu khi gặp nhau...

Bất chợt tôi lại liên tưởng đến một thời xa xưa, thuở còn cắp sách đến trường. Thuở ấy những đêm học bài muộn khi nghe tiếng quốc kêu tôi thường nghĩ đến hai câu thơ: “Nhớ nước đau lòng con quốc quốc - Thương nhà mỏi  miệng cái gia gia” trong bài Qua đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan hoặc nhớ lại điển tích về Thục đế, một vị vua thời cổ của Trung Quốc vì nỗi đau vong quốc mà hóa thân thành chim quốc để gọi quốc, quốc... suốt đời đời kiếp kiếp.

- Quốc, quốc, quốc... cù quốc,... cù quốc... quốc.

Tôi chặt lưỡi:

- Ông Tư tài thật! Tiếng thổi quá giống tiếng quốc.

Năm phút, mười phút rồi mười lăm phút trôi qua tôi đang nóng ruột chờ đợi. Bổng có tiếng gió đập cánh của con chim lướt qua trên đầu ngọn sào.

Ông Tư ngừng thổi   nói nhỏ:

- Có rồi đó! Hai cháu đừng có lơ là, thủ cho kỹ cái dây lưới nghen.

Ông Tư thổi tiếp:

- Quốc, quốc... quốc...

Đột nhiên. 

- Bựt. z. z. z. – Tiếng va đập của một con chim lớn đụng vào lưới mà tôi cảm nhận được bằng tay giữ dây lưới hơn là nghe thấy bằng tai, bằng mắt. Theo phản xạ, tôi xả dây lưới. Trời tối đen như mực. Con chim được gỡ ra khỏi lưới là một con quốc đen trủi, nóng ấm, mắt long lanh đang hốt hoảng giảy giụa, cắn mổ lia lịa.

Cứ như vậy khoảng năm bảy phút lại có một con quốc vướng vào lưới, nhưng không phải con nào đụng lưới đều bắt được hết. Có con đụng vào lưới nhưng chân và mỏ không vướng vào mắt lưới thì không bắt được. Nhiều con bay ngược trở lại hoặc rớt xuống ruộng lúa lủi mất.

Đến khuya khi hai cái lồng nhốt quốc đã đầy thì cả ba người ai cũng đã thấm lạnh và thấm mệt. Thằng Bi thì buồn ngủ nhíu mắt đòi về. Ông Tư thổi quốc đành ra hiệu nhổ sào, cuốn lưới trở về nhà. Gần hai chục con quốc bắt được, quả là một vụ thổi quốc “trúng mánh”.

Lúc ra đi thì phấn khởi, hăng hái, nhưng khi trở về thì uể oải, ai cũng làm thinh. Tôi gợi chuyện:

- Thả bớt mấy con quốc nghen bác Tư! Nặng quá hà! Bắt làm gì cho nhiều? Dư rồi!

Tưởng thật, ông Tư quay lại:

- Bậy nè! Đừng có thả, ngày mai qua sẽ lựa ra mấy con quốc hay để riêng bán cho người ta làm quốc mồi hoặc nuôi làm cảnh. Số còn lại để bác gái đem ra chợ bán.

Thằng Bi cũng tham gia ý kiến:

- Ở đây, người ta gác quốc, đặt bẩy cò ke, bẩy vòng mỗi lần cũng chỉ bắt được bốn năm con là nhiều. Mình thổi quốc kiểu này có khi  nào bắt hết quốc không bác Tư?

- Không hết đâu! Vùng này có khoảng hai trăm con quốc. Thổi hay lắm cũng chỉ bắt hơn một trăm con là cùng. Mấy con quốc bị sẩy hồi tối nó nhát rồi, không dám theo tiếng thổi nửa đâu. Tối mai mình dời điểm khác, mỗi đêm một điểm.

Tôi gợi ý với ông Tư:

- Tối mai mình chỉ bắt năm bảy con rồi về được không bác Tư?

Ông Tư tỏ vẻ ngạc nhiên:

- Ô! Thổi quốc là cốt sao được càng nhiều càng tốt chớ đâu có vậy được, nhưng cũng tùy bữa, có khi mưa gió lớn hoặc trăng sáng quá thì cũng khó bắt nó lắm.

Ngừng một lát, ông Tư nói tiếp:

- Bây giờ mấy đám thổi quốc còn trẻ tuổi, nó giỏi hơn qua rất nhiều, nó thổi bằng máy cát-sét nên thổi gần suốt đêm, lưới của nó là lưới nylon đắt tiền, nhuyễn và bén lắm, đụng vào là dính liền không sẩy con nào. Gặp bầy quốc một trăm con, nó thổi bắt tới tám chín chục con là thường. Nó còn thổi cả cúm núm và trích nữa, tiếng kêu của giống chim nào nó cũng nhái được, qua thì không làm được, chỉ có thổi quốc thôi.

Nghe ông Tư nói, tôi bỗng thấy giật mình bởi vì có một hiểm nguy thật sự đang rình rập các loài chim ruộng nước. Mọi người đang nghĩ ra nhiều cách để săn bắt từ cách thô sơ đến tinh vi, không khéo bắt riết rồi bầy đàn của chúng cũng có ngày bị cạn kiệt như chơi.

Thử hỏi một vùng quê mượt mà, trù phú mà mỗi sáng sớm không có tiếng chim vịt, chìa vôi hót mừng ngày mới, buổi trưa không có những cánh cò bay lã bay la và chiều tối lại không có tiếng vạc ăn đêm, tiếng quốc  gọi bầy thì miền quê sẽ trở nên chết chóc, ảm đạm, buồn tẻ biết mấy.

*          *

*

Mấy hôm sau, công việc ở nhà trường quá nhiều, tôi không theo ông Tư  đi thổi quốc được. Cuối tuần gặp lại, ông Tư cho biết là sắp nhổ sào, lui ghe đi nơi khác. Tôi hơi thắc mắc:

- Sao đi sớm vậy bác Tư?

- Ối thôi! Mấy hôm nay liên tiếp thất bại, không thổi được bao nhiêu. Ông Tư chán nản trả lời.

Hỏi ra tôi được biết, cả tuần nay bọn trẻ con trong ấp Phong Thới này đã lân la làm quen với  ông Tư được ông cho xem quốc và cái ống thổi. Chúng nó bắt chước chuyền tay nhau mỗi đứa làm một ống thổi, thổi um sùm trong cả ấp. Sáng, trưa, chiều, tối, đứa này thổi, đứa kia thổi theo, trong xóm lúc  nào cũng có tiếng quốc... quốc... Thậm chí trời tối, khi ông Tư thổi quốc ở ngoài ruộng, có đứa đang học bài trong nhà nghe vậy cũng phụ họa thổi theo. Mấy con quốc không biết đường nào mà bay, vì vậy ông Tư đành phải nhổ sào, cuốn lưới.

Nghe qua, tôi rất tức cười song cũng thầm cảm ơn mấy đứa nhỏ vô tình đã cứu sống được cả trăm con quốc.

Trẻ con bao giờ cũng vậy, khi ham thích cái gì, chúng cố đòi cho được, khi đã chán, chúng cũng nhanh chóng quên đi. Một tuần, hai tuần trôi qua, cái ống thổi quốc cũng đã bị chúng xếp xó, bỏ quên. Cả ấp trở lại sự tĩnh lặng bình thường.

Những đêm chấm bài khuya, đôi lúc phải nghỉ tay thư giãn, tôi lại được nghe tiếng quốc... quốc... vẳng đưa trong cảnh đêm tĩnh mịch. Đó không phải là tiếng thổi quốc của ông Tư, cũng không phải tiếng quốc của bọn trẻ trong xóm. Đó đích thực là tiếng gọi bầy thân thương của một con quốc lẻ loi trong khu rừng lá ven sông.

Trầm ngâm, yên lặng, bỏ đi những phiền toái đời thường, tôi lại được tận hưởng những hương vị, âm thanh của một  miền quê thanh bình, yên ả.

Miếng thịt

Đinh Lâm Thanh

Xem nhanh:

Chương 1

0

Mỗi lần vợ làm thịt heo, bà thường dùng con dao nhọn lẹ làng lóc hết toàn bộ mỡ cũng như da, tôi thấy miếng thịt chỉ còn lại một tí nạc nhưng không dám phản đối, chỉ nhẹ nhàng nhắc chừng rằng, lóc hết mỡ và da thì ăn chẳng còn mùi vị gì của miếng thịt. Bà nhìn tôi lắc đầu cằn nhằn, trong người đủ thứ bệnh mà lúc nào cũng đòi mỡ, thích mặn lại còn hảo ngọt nữa. Ăn ba cai thứ nầy vào cho nhiều rồi đổ bệnh nằm đó, ai lo?

Cứ đem mấy chứng bất trị như mỡ trong máu, huyết áp cao và tiểu đường của tôi ra hăm là bà thắng ngay. Tôi im lặng không còn lý gì để bảo vệ ý kiến của mình. Nhưng khi bà đi vắng một vài bữa, tôi ghé qua khu 13 Paris xách về một ký ba rọi, để nguyên da và mỡ, rửa sơ sài và luộc chín bằng một tí muối, xắt ra từng miếng nhỏ bằng nửa ngón tay cái rồi bày ra bàn, trịnh trọng ngậm từng miếng một vào miệng, nhai từ từ, không bia không rượu, cốt để nhớ lại mùi vị miếng thịt heo trong tù cải tạo của Cọng sản cách đây đúng ba chục năm. Nhưng đã nhiều lần tôi không thể tìm được hương vị cũ của ngày trước.

Thịt heo Tây bên nầy đã dở, khi làm bếp lại lóc hết các phần phụ thuộc, dù kho nấu cách nào cũng không tìm mùi vị như heo tại quê nhà. Thật vậy, ở bên nầy nuôi heo kỹ nghệ, tắm rửa hằng ngày, chích ngừa từ lúc mở mắt chào đời rồi phải khám nghiệm gắt gao trước khi đưa lên bàn mổ. Heo được nuôi ăn đúng tiêu chuẩn đầy đủ chất bổ nhưng miếng thịt vẫn không ngon bằng heo tại các vùng quê Việt Nam. Ở quê nhà, heo không cần chích ngừa khám nghiệm, đa số mổ lậu chẳng cần đóng dấu thú y. Thịt chỉ cần luộc với nước sông nước hồ gì cũng thơm một cách ngon lành. Mỗi lần về quê tôi cứ dặn người nhà mua cho được thịt heo nuôi theo lối cổ điển, nghĩa là nuôi chuồng, nước tiểu phân rác lúc nào cũng ngập lên tới bụng nhưng khi ăn miếng thịt luộc bao giờ cũng thơm ngon quyến rũ…

Đôi lúc bà con tại Việt Nam ngạc nhiên nhìn tôi ngậm thật lâu miếng thịt trong miệng, vừa nạc vừa xương vừa bầy nhầy mỡ, rồi trịnh trọng nhai từ từ như để thưởng thức món cao lương mỹ vị tưỏng như suốt đời chưa bao giờ biết tới. Người anh họ hỏi nguyên nhân, tôi chỉ trả lời vắn tắt rằng, thịt heo ta ngon hơn thịt của Tây rất nhiều. Nhưng là tây ta gì đi nữa, heo nuôi theo lối cổ điển hay kỹ nghệ tân tiến thì vẫn thua miếng thịt mỡ trong trại tù cải tạo, đã trên ba mươi năm tôi vẫn nhớ rõ ràng, vừa béo vừa thơm và ngon một cách lạ lùng không sách vở nào diễn tả nổi.

***

Trong khoảng gần ba tháng tập trung tại Trảng Lớn, mỗi ngày tù được phát  hai nắm cơm gạo mốc trộn bobo ăn với muối bọt. Dù chưa lao động đúng mức nhưng người nào mắt cũng lờ đờ, tay chân bủn rủn, bụng thóp lại, người xuống cân trầm trọng. Lúc khăn gói lên đường trình diện đi học tôi cân bảy chục ký, bây giờ không biết còn lại chính xác bao nhiêu nhưng bộ mặt hốc hác, hai gó má nhô lên như chiếc sọ người, tay chân nhô gân xanh và bộ sườn hiện ra rõ từng chiếc xương, rất tốt cho việc dạy môn cơ thể học cho các em học sinh. Các chất dinh dưỡng cần thiết cần thiết đã rủ nhau ra đi không thương tiếc cho tấm thân tù tội của tôi. Nhớ lại những bữa ăn thịnh soạn thừa mứa ngày trước, bây giờ chỉ có nắm bobo với muối ngày nầy qua ngày khác, tôi cứ tiếc rẻ hoài. Đầu óc tôi lúc nào cũng nghĩ đến cục đường, miếng cá hay tí thịt… tự nhiên nước miếng cứ liên tục chảy ra đầy miệng. Nhiều lúc thấy xấu hổ, không ngờ mình đã thèm ăn đến độ phải nuốt nước bọt liên hồi.

Lúc dời xuống Long Khánh, tiểu đoàn tù gồm có 4 khối, trên một ngàn người chen chúc nhau trong tám dãy nhà tôn của tiểu đoàn 18 quân y cũ. Toàn bộ khu trại chỉ có một cái giếng cạn, sâu chừng trên mười thước, mỗi lần kéo lên được vài chục lít nước phèn đỏ như máu trộn lẫn với rác rến, lá cây và xác chuột chết, nhưng tù không được dùng theo lệnh quản giáo, chỉ được phép để nấu cơm và nước uống.

Cũng nhờ vùng Long Khánh đang ở vào mùa mưa, lâu lâu trời ban cho một trận để tù cải tạo có cơ hội tắm và hứng nước uống. Mỗi lần mưa rào trút xuống, tất cả đều nhào ra sân, thân mình trần truồng như nhộng, râu tóc bù xù, mặt ngửa lên trời há miệng hứng nước vừa uống vừa súc miệng. Đánh răng và tắm rất tân tiến theo kiểu bộ đội, một tay đút ngón trỏ vào chà hai hàm răng thế bàn chải, một tay tranh thủ kỳ cọ liên tục từ trước ngực ra sau lưng rồi từ trên xuống dưới vì cơn mưa thường ngừng bất chợt. Cả ngàn con người tồng ngồng chen lấn trên khoảng trống bằng sáu sân đánh bóng chuyền, như một bầy vượn, hò hét vui mừng nhảy múa khi gặp nước sau một thời gian dài chịu đựng hôi hám ngứa ngáy và nóng bức.

Doanh trại nằm trong khu vực gần như không có cây cối, Khối tù tôi khoảng chừng hai trăm chen chúc nhau trong hai dãy nhà nằm sát một hàng rào bằng cây dâm bụt. Phía bên tay trái một khu đất trống, sau lưng, một kho đạn thật lớn của một đơn vị trực nào đó thuộc sư đoàn 18 bộ binh để lại. Đứng trong cửa sổ phòng giam có thể nhìn thấy nhiều loại đạn súng cối, M72, các thùng đạn đại liên và lựu đạn còn vất bừa bải chung quanh ụ đất gồm nhiều cành cây khô và cỏ chết. Hai ngày sau khi chúng tôi đến, một vệ binh có nhiệm vụ gác, túc trực ngày đêm phía sau căn nhà tù để canh chừng chúng tôi nhảy rào đồng thời bảo vệ an toàn cho kho đạn. Không biết mấy chú ngố nầy đêm làm gì mà ngày tôi thấy chúng thường dựa gốc cây mít ngủ, hết ngủ lại ôm điếu thuốc lào kéo liên tục. Tôi cứ phập phồng lo sợ tai nạn thế nào cũng xảy ra vì bọn ngu nầy, mỗi lần kéo xong hơi thuốc chúng vứt bừa bãi đóm xuống chân trong lúc chung quanh kho đạn một số cành cây gẫy nằm ngổn ngang với lá khô lẫn lộn với đám cỏ chết, chạy dài từ sau lưng phòng giam chúng tôi đến tận ụ đất.

Với gần một ngàn tù cải tạo của bốn khối, mặc dù không được ăn uống gì nhiều nhưng vấn đề vệ sinh bắt buộc phải tuân theo thói quen tự nhiên, sắp hàng đi cầu mỗi sáng. Một dãy nhà cầu công cọng được lệnh dựng lên cho trại. Kiến trúc rập theo khuôn mẫu hiện đại tiên tiến của miền Bắc: Không mái, không vách che hai bên cũng như sau và trước! Gồm hai chục hố sâu chừng 100 cm, dài 60 cm và rộng 50 cm nằm kế cận, cách nhau chừng 40 cm. Ở trên bắc ngang hai thanh cây nhỏ, phía sau mỗi hố được khoét rộng thêm, vừa đủ cho một người có thể chui xuống hốt phân hằng ngày. Mỗi buổi sáng sắp hàng làm phận sự, dù đang trong cảnh tù tội nhưng tất cả không thể nhịn cười khi nhìn cảnh vượn thành phố đi đại tiện tập thể. Bốn chục người làm nhiệm vụ một lượt trên hai chục miệng hố, thân mình trần truồng như giộng, lông, râu tóc bồm xồm. Anh ngồi xuôi anh ngồi ngược như một bầy chim đói đã nhổ sạch hết lông, đậu thành hàng dài trên sợi giây điện. Một người vừa bước ra có anh khác vào thề chỗ liền. Mấy ngày đầu ai cũng ngắt một vài lá dâm bụt để kết thúc mỗi chuyến đi cho đúng phép vệ sinh, do đó hàng rào dâm bụt sau ba ngày trơ trụi chẳng còn một ngọn lá nào. Hết lá, không còn phương tiện nào khác, hầu hết đi cầu xong tất cả vui vẻ đứng dậy rất tự nhiên chẳng cần thắc mắc gì. Nhưng cũng có một vài anh cẩn thận, lúc nào cũng thủ sẵn trong sợi giây thung quần xà lỏn một cây que như chiếc đũa, mục đích để làm phận sự thay giấy đi cầu và sau mỗi lần đại tiện xong xuôi, lại cẩn thận nhét kỹ vào chỗ cũ để xử dụng tiếp cho những lần sau.

Chương 2

0

Anh em cải tạo thường ở trần ngày cũng như đêm, trên người chỉ chiếc quần xà lỏn. Bộ áo quần mặc theo lúc ra đi được xếp lại cẩn thận để dành lúc ra tù trở về thành phố hoặc những lúc cần thiết như đi làm lý lịch, lên hội trường nghe nhồi sọ, bị quản giáo kêu lên làm tự kiểm, thì bất đắc dĩ phải khoác thêm chiếc áo lên người. Quần xà lỏn mặc suốt ngày đêm, không có nước giặt và thường xuyên bị ẩm vì mồ hôi muối. Tội nghiệp những miếng vải giảm dần tuổi thọ, mục và rách như trái xơ mướp. Có nhiều anh quần xà lỏn rách hết phần dưới chỉ còn lại một ít vải chung quanh lưng quần, mặc vào trông như các cô mang trên người chiếc mini jupekỷ lục sexy! Cũng có anh đành xé chiếc quần dài ra thành miếng nhỏ, quấn ngang phần dưới bụng như chiếc khố của người dân tộc thiểu số. Quản giáo kêu lên buộc làm tự kiểm, kết tội đi học tập cải tạo mà ăn mặc kiểu đóng khố hoặc đưa nguyên của ‘quý ’ ra ngoài theo kiểu dâm ô của bọn Mỹ-Ngụy là ngoan cố, chống đối cách mạng! Có anh thành thật trình bày, chỉ đem theo đồ dùng đúng mười ngày theo cách mạng đã hứa, nay quần bị mục nát chẳng còn gì để quấn cho kín ‘phần dưới’, thì cũng bị quản giáo khép vào tội ăn nói ‘linh tinh’ và có ý bôi xấu chế độ.

Xuống đến đây tù được thêm một món ăn mới. ‘Không có gì quý hơn trái su su’, anh em tù đã thay câu nói vàng ngọc của già Hồ để lại mỗi lần nghe kêu đi lãnh cơm! Khẩu phần mỗi bữa của từng người gồm một phần tám trái su su nấu nước muối và gần một chén bobo. Ăn uống như vậy phân đâu sản xuất được bao nhiêu để tưới rau. Báo cáo của đội rau, mỗi ngày chỉ thu hoạch chừng non một thùng, tù lại bị kiểm điểm sản xuất phân xanh không đủ tiêu chuẩn cho vườn rau cải thiện của bộ độivà quản giáo ! Anh bạn nằm bên tôi, ngày mai đến lượt chui xuống cầu tiêu hốt phân, không biết là mơ hay tỉnh mà cứ than vãn hoài. ‘Không cho ăn mà cứ đòi phân cho nhiều, lấy gì mà ẹ ra đây Hồ ơi. Ngày mai lấy đâu cho đủ tiêu chuẩn để nạp lên quan thầy đây, Hồ ơi là Hồ’ !

Một thời gian sau, tù được phép viết thư về xin gia đình tiếp tế và trong đợt đầu tiên, mỗi người được phép nhận hai ký. Ngày phát quà tập thể, bọn quản giáo tập hợp tù ở giữa sân và kêu tên từng người lên nhận về để lại dưới chân mình. Khi đã phát đủ, quản giáo ra lệnh cho mở ra cùng một lượt để chính trị viên, quản giáo và vệ binh canh chừng kiểm soát. Bọn chúng lúc đầu trố mắt ngạc nhiên những món hàng gởi đến nhưng sau đó ra lệnh tù sắp tất cả quà ngay ngắn lại dưới chân mình và đứng nghiêm để nghe lệnh. Chúng quát tháo:

- Đã vào đây rồi mà các anh vẫn còn giở trò qua mặt cách mạng, tìm cách thông tin liên lạc và móc nối với bọn CIA bên ngoài!

Không ai hiểu chúng muốn nói gì. Tất cả đang ngơ ngác thì tên chính ủy tiến đến lấy một cuốn giấy đi cầu đưa lên cao:

- Thế nầy là thế nào ? Các anh định dùng loại giấy nầy để thông tin ra ngoài với bọn giặc. Tôi cho các anh biết đừng hòng qua mặt cách mạng. Bọn Mỹ-Ngụy đã dùng các cuộn giấy như thế nầy gắn trên các máy để đánh điện cho nhau, bây giờ gia đình các anh gởi vào để các anh tiếp tục viết tin lén gởi ra ngoài. Cách mạng đã thông suốt ý đồ, nhìn thấy trong tim trong óc các anh. Đừng tưởng rằng khi cách mạng khám phá hành động gián điệp, các anh chỉ cần nuốt vào bụng hay bỏ giấy vào nước nó bấy ra là có thể qua mặt phi tang cách mạng một cách dễ dàng được đâu!

Tất cả đứng yên không ai dám cười, chừng phút sau một anh tù trưởng khối gải đầu vòng tay thưa:

- Dạ thưa anh cán bộ, giấy nầy dùng để …đi cầu ạ!

Tên chính ủy nạt lớn:

- Đừng lếu láo!

Nói xong hắn hầm hầm quay trở về ban chỉ huy tiểu đoàn.

Gói quà nhỏ đầu tiên, gia đình người nào gởi cũng giống nhau. Theo thứ tựưu tiên : cuộn giấy đi cầu, đôi dép râu, vài chiếc quần xà lỏn, bịch thuốc lào, ít cục đường, lon muối sả, lon muối đậu phộng, guigoz thịt kho mặn. Gia đình anh nào khá giả còn thêm gói café, hộp sữa đặc. Đêm đó, trong trại lần đầu tiên mới nghe được tiếng cười của mấy anh tù đang uống café, kéo thuốc lào hoặc vừa nuốt xong miếng đường trong miệng.

Sáng hôm sau thức dậy, đang sắp hàng đi đại tiện anh em tù rất đổi ngạc nhiên và không biết chuyện gì sẽ xảy ra khi thấy vệ binh đi vòng vòng kiểm soát chung quanh cầu tiêu cộng cọng, có vệ binh còn nhặt một vài miếng giấy vệ sinh rải rác bên các miệng hố. Sau đó chừng nửa giờ, kẻng đánh tập họp tù ngoài sân, chính tên chính ủy hôm qua lại trở xuống, mặt hầm hầm,miệng la lớn :

- Thật là phí phạm, chế độ tư bản các anh còn bày nhiều trò rởm đời trong việc đi cầu xí. Cách mạng chiến đấu quanh năm suốt tháng trong rừng đâu cần giấy xanh giấy đỏ để đi ỉa mà đánh đâu thắng đó. Các anh có biết ngoài Bắc, trẻ con không có giấy để đi học trong lúc các anh trong Nam lại dùng để chùi đít!

Anh em cải tạo lần nầy không nhịn được, cười ồ lên. Phía sau cùng có anh tù nào đó lên tiếng, tất cả đều nghe rõ:

- Thế mà hôm qua hôm kia lên lớp cán bộ cứ oang oang cái mồm lên rằng, miền Bắc không thiếu một thứ gì. Tủ lạnh thì đi đầy đường không còn lối cho xe hơi, cà rem thì dư thừa phải phơi khô để xuất khẩu!

Cả bốn khối tù không nín được, tới đâu cũng phải cười để giải tỏa những ấm ức mấy lâu nay.

Một quản giáo, tay chụp ngay bá súng lục bên hông, chen vào đám tù tiến xuống phía sau, quá giận, lắp bắp đứt quảng:

- Thằng…thằng nào…phản động, thằng phản động nào vừa mới lên tiếng, ông bắn bỏ mẹ bây giờ!

Tất cả tù đứng yên, tên quản giáo đi vòng vòng nhìn vào mặt và tra khảo từng người một nhưng không tìm được thằng nào vừa phát ngôn bừa bãi. Kết quả cả tiểu đoàn tù phải học tập tự kiểm liên tục một tuần vì một câu nói cực kỳ phản động!

Trong thời gian bị nhốt ở Long Khánh, vì có sự hiện diện của dân chúng chung quanh khu vực sư đoàn 18 bộ binh cũ, tù may mắn không đi lao động bên ngoài mà chỉ xoay quanh những công tác đắp đường, làm vệ sinh, trồng rau cải trong khu vực. Ngày nào cũng tám tiếng làm việc, không có nước tắm giặt, đa số anh em bắt đầu nổi ghẻ trong người. Không thuốc, thiếu dinh dưỡng và nhất là vấn đề vệ sinh cá nhân, bệnh ghẻ lan tràn rất nhanh. Bộ chỉ huy trung đoàn tù giải quyết bằng cách cho luân phiên ra ngoài tắm, nhưng mỗi khi ra khỏi hàng rào phải ăn mặc chỉnh tề và tuyệt đối không được nhìn ngang liếc dọc, ra dấu làm hiệu hoặc liên hệ với dân địa phương. Nơi được phép tắm là một con mương nhỏ cũng nằm trong phạm vi thuộc khu vực sư đoàn 18 bộ binh cũ. Chiều ngang khoảng chừng gần ba mét, nước lên chỉ đến quá đầu gối một chút. Tù sắp thành hàng, áo quần đã toàn bộ tuột ra, đếm số từng đợt hai chục người và sẵn sàng đợi lệnh nhảy xuống đồng loạt. Trên hai bờ đất, vài ba quản giáo và hàng chục vệ binh súng cầm tay chỉa vào đám tù. Mỗi toán chỉ được phép tắm trong vòng một hai phút rồi phải bước lên nhường chỗ cho toán khác nhảy xuống. Mỗi lần ra tắm chúng tôi cũng gặp vài ba người đàn bà quanh quẩn chung quanh khu vực, đang cúi mình giả vờ làm cỏ, mặc dù chung quanh con mương không có khu ruộng lúa hay một vườn rau cải nào. Anh em tù nhận biết ngay là những người đàn bà kiếm cách xâm nhập vào khu vực để dò la tin tức người thân. Đám vệ binh lớn tiếng đuổi nhiều lần nhưng không kết quả, sau cùng chúng bắn chỉ thiên vài phát súng, mấy người đàn bà mới từ từ nhích ra xa. Chỉ trong một thời ngắn tin tức được đồn ra ngoài, hàng ngày các bà các cô xuất hiện nhiều chung quanh khu vực con mương. Chính điều nầy anh em tù không được ra ngoài tắm mương mỗi tuần mà chỉ còn cách lạy Trời mưa xuống…

Chương 3

0

Một buổi trưa sau giờ ăn, kho đạn sau lưng nhà phát nổ, nguyên do vì đám cỏ khô nơi vệ binh ngồi gác bốc cháy rồi lan nhanh từ gốc cây mít vào đến ụ đất. Các loại đạn trong kho phát nổ làm rúng động cả vùng Long Khánh. Nguy hiểm nhất là các đạn súng cối 60, 80, súng chống xe tăng M72, lựu đạn và mìn claymor bị sức ép tung lên cao và bay qua các khu vực tù đang ở, rơi xuống rồi mới phát nổ. Tiểu đoàn tù chúng tôi ở gần kho và lãnh nhiều mảnh đạn bay thẳng từ kho, xuyên thủng một số mái tôn, rớt xuống ngay chỗ nằm. Nguy hiểm nhất là những trái lựu đạn và súng cối rơi xuống ngay sân là lúc chúng tôi đa số đang ở ngoài.

Vừa nghe tiếng nổ tất cả vội vàng nhảy xuống hố cá nhân và hệ thống giao thông hào đã có sẵn. Hố chỉ chui xuống được một hai người, giao thông hào ai nhảy xuống trước thì nằm dưới, xuống sau nằm chồng trên như lớp cá mòi. Anh em nào nằm trên, không ít thì nhiều cũng bị mảnh đạn hay đá sỏi đâm trúng trên lưng. Kết quả có mấy anh em tù bị chết vì mảnh đạn và hơn mấy chục người bị thương.

Vụ nổ kho đạn làm chấn động từ miệt Long Khánh đến các tỉnh Biên Hoà, Gia Định và thủ đô Sàigòn, thân nhân từ các vùng lân cận rầm rộ kéo về dò la tin tức. Cọng sản vội vàng di chuyển toàn bộ tù Long Khánh đi nơi khác. Bốn khối của tiểu đoàn chúng tôi đi KàTum bằng xe vận tải molotova của Liên sô. Trung đội (A) tôi bị chia làm đôi, tôi lên chiếc xe cuối cùng với khoảng hơn một chục người và các dụng cụ nhà bếp gồm khoảng trên một chục chảo gan lớn và nặng, đường kính hơn cả mét, loại chảo dùng để nấu canh nấu cơm thường xử dụng trong ban hỏa thực thời trước.

Molotova là loại xe chở quân của Cọng sản, nhỏ hơn GMC của miền Nam, bốn bánh cao lềnh nghềnh dùng để băng rừng, lội nước, không thích hợp với việc chuyên chở trên các tuyến đường bằng phẳng. Xe chở quá nặng, tài xế ngủ gục, xe đảo qua đảo lại trên đường cái nhiều lần. Tôi cầu xin tai nạn đừng xảy ra. Trường hợp tai nạn nếu không bị xe đè thì hơn chục chiếc chảo cũng cắt đôi người ra. Và điều chúng tôi lo ngại đã đến, khi ngang qua ven đô Sàigòn, ngã tư xa lộ Đại Hàn, xe chở chúng tôi mất thăng bằng và đâm đầu xuống hố, quay một vòng rồi nằm ngửa đưa bốn bánh lên trời. Tôi và đồng bạn tù may mắn bị hất văng ra trước khi xe lật. Trước lúc mê man, tôi nhận ra mình còn sống và chừng vài phút sau đó không hay biết gì thêm. Đến lúc tỉnh, thấy tất cả anh em đang nằm ngồi la liệt dưới đất, máu chảy xuống nền ximăng từng vũng kéo dài từ cửa ra vào đến tận nơi chúng tôi. Đầu đau như búa bổ, máu chảy ra từ đầu, mũi và hai tai, tôi đưa tay rờ quanh người, biết mình may mắn vẫn còn nguyên vẹn. Bên cạnh mấy người bạn nằm yên như chết, có người bị chảo gang chặt đứt lỗ tai, có người bị đứt cánh tay nhưng không dám lên tiếng hỏi thăm ai sống ai chết hay bị thương thế nào. Ba vệ binh đang chỉa súng vào chúng tôi sẵn sàng bóp cò nếu có một phản ứng nhỏ nào. Định thần một lúc mới nhận ra đây có thể là nhà thương (sau nầy mới biết là bệnh viện Chợ Rẫy) và thấy một số người lấp ló nhìn chúng tôi từ phía xa. Tên quản giáo nói vọng vào với mấy y tá:

- Nhìn cái gì? Đây là những tên cướp cực kỳ nguy hiểm, cách mạng vừa bắt được ngoài chợ, chúng tôi đưa vào tạm vào đây đợi xe đến chở đi.

Người bạn nằm cạnh tôi còn tỉnh, giả vờ rên để gây chú ý các y tá đồng thời đưa ba ngón tay lên trên vai mình. Tức thời nghe tiếng người phía trong hối thúc thông báo cho nhau:

- Không phải là bọn cướp mà sĩ quan cải tạo!

Sau câu xác định của người nào đó, tôi nghe tiếng chân người hấp tấp đi chuyển chung quanh và một người đàn ông mặc áo blouse trắng tiến đến gần tên quản giáo thưa:

- Thưa ông, dù họ là những tên cướp, xin ông cho phép chúng tôi băng sơ cầm máu, để vậy mấy người sẽ chết tại đây.

Không hiểu tại sao, tên quản giáo suy nghĩ một lúc rồi gật đầu nhưng vẫn ra lệnh nhắc chừng:

- Tôi yêu cầu không được trò chuyện hỏi han bất cứ chuyện gì. Bọn chúng là những tên trộm, giết người cướp của rất nguy hiểm.

Vừa được lệnh, gần như y tá, bác sĩ khu cấp cứu kéo đến đứng bít kín cả cửa ra vào. Riêng mấy cô y tá và một nam bác sĩ, tôi đoán như vậy, đã vào tận nơi chúng tôi đang nằm. Tôi được hai y tá săn sóc, một người tận tình băng từ đỉnh đầu xuống quá hai lỗ tai, chỉ chừa một con mắt để nhìn, còn người kia cố tình lách qua lách lại che khuất quản giáo và tên vệ binh đang đứng gần tôi, cúi sát hỏi nhỏ :

- Anh là sĩ quan cũ?

Tôi gật đầu không nói thêm một câu nào.

Cô ý tá nói tiếp:

- Anh cho biết địa chỉ sáng mai tôi sẽ thông báo người nhà.

Cô y tá kéo tôi vào sát người cô, vừa chùi vết máu hai bên cổ, tai và sau ót vừa lắng tai nghe tôi:

- Vợ tôi tên …. ở số… đường Ngô Tùng Châu Gia Định, ngay ngã tư Xóm Gà.

Tôi nghe cô lặp lại hai ba lần mục đích để mấy người y tá chung quanh cùng nhau ghi nhận. Tên quản giáo ra lệnh cho y tá phải khẩn trương và bước ra ngay sau khi xong việc. Một cô nhét vào túi tôi gói gì đó còn cô kia lấy đôi dép nhật đang mang trên chân mình mang vào chân tôi rồi hai người hấp tấp lui ra.

Chừng một giờ sau, tên quản giáo ra lệnh cho tất cả mọi người lui xa chỗ chúng tôi đang nằm và bắt chúng tôi tự động dìu nhau ra sân để lên xe đi tiếp.

Sau khi tấm bạt sau được buông xuống, trong xe tối đen như mực. Tôi lần tay vào túi lôi ra gói giấy mò mẫm và nhận ra trong đó một khúc bánh mì, mấy chiếc bánh ngọt và một ít tiền. Thật cảm động, lúc đó cũng khoảng bốn giờ sáng nhưng họ đã cố gắng kiếm được miếng bánh, ít kẹo và tiền để cho chúng tôi. Tôi nói nhỏ cho mấy người bạn bên cạnh hay, các anh cho biết họ cũng nhận được những thứ như vậy.

Đến sáng xe dừng lại, tấm bạt được kéo lên, chúng tôi thấy mình đang đứng trước mấy dãy nhà tranh ở sâu trong rừng và vệ binh dẫn chúng tôi vào một căn nhà trống thuộc bộ chỉ huy trung đoàn tù. Mười phút sau những người bạn cùng cảnh ngộ phải chia tay mỗi người đi về một trại khác nhau. Nhóm chúng tôi bốn người được một vệ binh dẫn băng qua rừng, đi bộ một đoạn đường chừng hai cây số đến trước một dãy nhà khác. Sau nầy chúng tôi biết đó là ban chỉ huy tiểu đoàn tù, và bốn chúng tôi bị chia ra cho bốn khối khác nhau. Khi tôi được dẫn về khối thì anh em tù đang lao động trong rừng. Vệ binh đưa tôi về lán (căn nhà bằng tre lợp lá dài khoảng 20 mét dành cho một B chừng 50 tù) nằm gần nhà bếp và bảo ngồi đợi, khối trưởng và B trưởng sắp xếp chỗ ngủ cũng như công việc cho ngày hôm sau. Trong lúc chờ, một ông tù già bệnh hoạn được làm việc nhẹ như nấu ăn, nuôi heo cho khối… đem đến một miếng cơm cháy và ít muối bọt, bảo tôi ăn cho đỡ đói. Trả lời thắc mắc của tôi, ông cho biết tên Rạng, nguyên là thượng sĩ già đã đến tuổi hưu, nhưng cố nán thêm một thời gian ngắn đủ thâm niên để lên chuẩn úy. Quá xui cho ông già, cặp quai chảo vừa gắn lên cổ áo cũng là lúc khăn gói lên đường đi tù chung với mấy anh em sĩ quan trẻ. Cũng may ở đây thấy ông già lụm khụm, ốm như con mắm nên đã ân huệ cho ông công việc nhẹ nhàng: Anh nuôi tù kiêm luôn nuôi lợn của bộ đội. Tiếp đến các anh làm trong tổ mộc tổ rèn đến thăm hỏi đủ thứ chuyện bên ngoài, lúc đó họ mới hay vụ nổ kho đạn ở Long Khánh và tôi biết được tên trại tù của tôi là KàTum nằm sâu trong rừng rậm.

Đến chiều đoàn tù lao động trở về, nghe có người bị thương vì lật xe và được chuyển đến đây nhưng không ai dám vồn vã thăm hỏi, khi ngang qua chỉ đưa tay vẫy chào một người bạn bất hạnh mới đến, vì họ thấy lúc đó trên đầu tôi vẫn còn quấn mấy lớp băng trắng dính máu. Một người trong đám tù tách đám đông chạy lại ôm tôi mừng rỡ :

- Ông thầy. Trời xui đất khiến mình gặp nhau tại đây, thật vui vẻ. Như vậy từ nay ông thầy có bạn rồi.

Tôi ngạc nhiên nhìn anh ta nhưng chưa nhận ra ai, nên hỏi lại:

- Anh biết tôi?

- Em học với thầy năm 1966, thầy nhớ không?

- Ở đâu, lớp mấy?

- Đệ nhất A, La-San Bá-Ninh, Thầy cùng dạy chung với hai sư huynh Casimir và Raymond.

- Bây giờ thì nhớ ra rồi,Yên phải không ? Mấy ‘mai’mà vô đây ?

- Dạ hai, em sẽ đổi với thằng bạn để thầy ăn cơm và làm việc chung một tổ với em.

- Thầy bà cái quỷ gì nữa! Đã vào đây cá mè một lứa thì mầy tao cho tiện.

- Thôi xin phép gọi bằng anh.

Cũng may trong lán có sẵn chiếc giường tre của một anh tù vừa được chuyển đi trại khác. Yên thấy tôi vui vì khỏi bận tâm về chỗ ngủ, anh vừa cười vừa nói:

- Nằm dưới thằng Khánh và kế thằng Huân đôi khi điên người lên được. Chưa có chỗ trống anh nằm tạm đây vài bữa, có thằng nào đi thì anh qua chỗ mới.

- Gì vậy?

- Để tối anh sẽ hay.

Vừa đau đầu vừa rêm người vừa mệt nhưng không cách nào chợp mắt vì anh chàng Khánh nằm trên cứ lải nhải:

- Chuyến nầy tao về, tao sẽ bỏ. Nhất định tao sẽ bỏ!

Chương 4

0

Trong đêm cứ nghe anh lặp đi lặp lại cả chục lần. Sáng hôm sau gặp anh đang rửa mặt tại giếng, tôi hỏi anh lý do, anh không trả lời thẳng câu hỏi của tôi mà chỉ lặp bặp trong miệng câu nói cũ. Lần nầy về, tao sẽ bỏ!

Một người bạn đứng bên cạnh nói với tôi:

- Mới nghe thấy lạ tai chứ tụi tôi chán quá, chán quá… Hắn cứ tưởng bở đòi bỏ người ta, chứ thật ra người ta đã bỏ nó từ khuya hay bị nhà nước quản lý mẹ nó rồi còn gì mà cứ đòi bỏ với không.

Tôi rất khó ngủ, nhiều lúc vừa chợp mắt đã bị dựng dậy bằng câu nói nầy. Một lần được chia vào làm việc trong tổ rau với Khánh, tôi tâm sự với anh ta:

- Quên đi Khánh, chắc chắn người ta bỏ anh rồi, bận tâm làm gì nữa. Thân tù tội mình đâu ra gì mà đòi bỏ người ta!

Khánh nhìn tôi lắc đầu:

- Không anh, tôi chuyến nầy về nhất định phải bỏ.

Hết can đảm nghe tiếp, tôi hơi xẳng giọng:

- Bỏ cái gì?

Anh nhìn tôi một hồi rồi thú thật:

- Tôi sẽ bỏ, sẽ bỏ vô!

- Tôi không hiểu.

- Trước đây chỉ để ở ngoài mà thôi, lần nầy về nhất định sẽ bỏ vô không ‘gìn vàng giữ ngọc’ và nương tay với em nữa!

À bây giờ tôi là người đầu tiên hiểu câu chuyện của anh, đành khuyên một câu:

- Biết còn không để đến phiên anh. Tôi chắc chắn thằng khác đã bỏ vô từ khuya rồi!

Kể từ lúc tâm sự với tôi, Khánh không còn lải nhải mỗi đêm chuyện cũ nhưng lại bắt đầu câu khác:

- Ngu quá không bỏ vô. Tiếc quá, tiếc quá!

Anh em trong lán khám phá ra bí mật của Khánh, họ đồng thanh chê:

- Mày ngu như con bò cái!

Tôi cãi lại:

- Người ta nói ngu như bò đực chứ có ai nói ngu như bò cái đâu.

Yên nằm bên cạnh cười lớn:

- Té ra anh cũng thật thà, bò đực thì ngu thật nhưng ‘cu’ của nó đâu có ngu, gặp bò cái là nó đứng dậy cỡi liền!!!. Như vậy thằng Khánh còn ngu hơn bò đực có đúng không? Bò đực gặp bó cái là nó biết ‘bỏ vô’ tức khắc, không ‘ong’ ‘đơ’ gì hết !

Kể từ hôm bị chê, Khánh thấy mình còn thua con bò đực và không còn lảm nhảm hằng đêm nữa.

Một tối đến giờ ngủ, có người lên tiếng:

- Ông thầy đã trị được thằng Khánh bây giờ tính luôn thằng Huân cho anh em nhờ.

Vừa dứt câu nói, cả chục người lên tiếng phản đối ngay:

- Chuyện thằng Khánh thì được nhưng chuyện ăn phở của thằng Huân thì không nên. Lâu lâu phải để nó kể nghe cho đỡ buồn.

Một giọng khác ở cuối lán:

- Nghe xong nước miếng tràn đầy họng, ức thấy mẹ!

Bây giờ Huân mới lên tiếng:

- Đã nghe chùa mà còn lộn xộn, hôm nay tao kể tặng ông thầy mới đến. Thằng nào không nghe thì bịt tai lại.

Mấy anh nằm gần tôiđồng thanh:

- Ừ kể nhanh lên còn ngủ sớm.

Huấn vừa lên tiếng, ‘Phở đây’,và bắt chước gỏ vào thanh giường tre giống như phở xe ngày trước, nhiều người đồng thanh:

- Dẹp phở xe đi, ăn phở gà ở Hiền Vương hay phở xe lửa, phở tàu bay ở Lý Thái Tổ xem bộ ngon hơn.

- Nghèo mà ham, nhưng muốn thì tao cho ăn.

Huân nuốt nước bọt rồi cất giọng:

- Đang ở tù tại Kàtum, tao được cách mạng ưu ái cho đi phép một tuần. Thấy tao về, con vợ nó mừng hết lớn nhưng tao chưa làm ăn gì vội, thèm phở quá, bay ra ngay đường Lý Thái Tổ chơi luôn một lèo hai tô trước đã.

Có tiếng anh nào đó phía cuối lán:

- Dốc tổ mẹ. Ông mà về phép thì ông ‘làm’ vài quả với vợ trước, còn chuyện ra Lý Thái Tổ ăn tô phở thì hạ hồi phân giải.

Ồn ào lại nổi lên giữa hai phe, ‘làm’ trước hay ăn trước! Lập luận nhóm nào cũng đúng. Không làm trước thì ức mà không ăn trước thì thèm. ‘Làm’ và ‘ăn’ là hai hành động mà bất cứ anh tù nào ngày đêm đều mơ ước. Không có đối tượng thì ‘làm’ tay, không có gì thì ăn ‘hàm thụ’. Cứ mỗi lần nghe đề cập đến hai vấn đề nầy trông anh nào cũng thẫn thờ mày mặt, nước miếng trào ra rồi những cuộc tranh luận lại nổi lên, ai cũng cho quan niệm của mình đúng. Ở trong tù chỉ có muối và bobo, đã ăn hàm thụ mà anh nào còn thích ‘làm’ tay nữa thì chắc chết sớm. Nếu sống sót trở về, thứ thiệt ở ngay bên cạnh cũng chẳng nên cơm nên cháo gì! Rồi anh nầy tố giác anh kia là vua độc ‘thủ’, đêm nào cũng đi mây về gió nên người chỉ còn bộ xương cách trí, mắt thì lờ đờ như mắt cá dở sống dở chết trên bờ.

Yên nằm cách tôi vài giường, bực mình gắt lớn:

- Tất cả im đi! muốn ăn phở hay quản giáo xuống nó dũa cho mà nghebây giờ ?

Anh trung đội trưởng tù yêu cầu Huân:

- Tiếp tục đi mầy, tao đang thèm đây.

Huân dẫn anh em ăn phở trong bóng tối, anh lên giọng:

- Bồi, cho mấy tô phở đặc biệt. Nhớ lấy thật nhiều thịt ít bánh! tô lớn, nước trong. Tái, gân, nạm, gầu, sụn, ngầu pín, bò vò viên gì bỏ vô hết. Một chén lớn nước béo và một dĩa hành trần. Các loại rau, giá, quế, gò gai cũng đem ra. Thứ nào ông cũng ăn ráo! Sao lâu quá vậy? Trong lúc chờ phở, đem tạm ra ngay tô xí quách gặm chơi cho đỡ buồn. À.. tô xí quách đây rồi. Trời ơi, xương còn dính quá nhiều thịt. Cầm lên ngay, đưa vào miệng cạp một miếng, nước thịt ngọt lịm thấm vào từ đầu lưỡi đến tận chân răng, rồi chạy ngay xuống cuốn họng! Um, ôi chao, tất cả vị, xúc, thính, khứu, thị giác trong người đều tê mê khoái cảm. Nầy, chẳng thèm để ý khách trong tiệm làm gì, cứ cầm cục xương gặm từ trên xuống dưới, từ trong ra ngoài như mấy chú cẩu, thế mà ngon đấy phải không các bạn!. À, còn hơn chú cẩu nữa, đưa đầu cục xương vào miệng, hút mạnh một cái, tủy chạy vào miệng nghe một cái ọc….Ùm, chao ôi, đã ơi là đã!

Khánh nằm trên tôi ngắt ngang:

- Thôi ngưng lại đi mày, tao hết chịu nổi.

Mấy người khác phản đối:

- Chưa ăn mà, mới gặm xương khai vị, tiếp tục đi Huấn.

Chương 5

0

Nghỉ một lát, Huấn tiếp tục:

- Phở đây! Phở đây! Nhưng khoan ăn, hãy nhìn khói đang bốc lên rồi từ từ cúi xuống, mặt sát miệng tô, hít một hơi thật dài để thấy hương vị của tô phở. Mùi thơm, ngọt, béo, bùi của tủy xương, của thịt, của mỡ ninh chung với hồi, quế, hành trộn lẫn với hương vị đặc biệt của bánh phở tươi trụng nước sôi, mùi thơm đặc biệt của nước mắn, tiêu hành bột ngọt. Ngon khôngbạn ? Nước miếng chảy ra đầy miệng rồi phải không? Nhưng khoan ăn, nếm thữ xem mặn lạt trước đã, rồi vắt miếng chanh, thêm tí nước mắm nhỉ, rắc một ít tiêu, xong chưa? Nếm thử lại một lần nữa nếu chưa vừa ý? Phải ngắt cọng ngò gai, vài lá quế cho đủ gia vị. Đủ chưa? Cũng chưa hả, thì phải thêm vài khoanh ớt mới đúng điệu! Bây giờ mời tất cả ăn….ngoàm ngoàm... Sao, có thấy thịt tái mềm không? Mấy miếng nạm bùi không? Gân có nhai sần sật không? Bò vò viên có ngọt và dai thịt không? Nếu ngon thì há miệng thật lớn, đừng sợ xấu, ai nhìn cũng mặc. Muốn ăn ngon thì phải tự nhiên với tất cả tâm tình, gắp mỗi thứ một ít cho vào miệng, nhai từ từ để cho bánh, thịt, rau nhuyễn ra rồi gắp thêm khoanh ớt bỏ vào nhai tiếp…như vậy mới thưởng thức trọn vẹn cái bùi béo của miếng thịt, cay thơm của gia vị rồi từ từ mà nuốt, đừng có vội mà mất ngon!

Nước miếng trong miệng tôi trào hẳn ra ngoài, đưa tay vừa chùi vừa nuốt trong lúc tai nghe liên tục những tiếng nuốt ừng ực của các bạn tù đang nằm chung quanh. Kể đến đây, Huấn ngưng lại và đề nghị:

- Tối mai, ai muốn ăn hủ tiếu Mỹ Tho, Nam Vang hay mì Quảng thì ‘đăng ký’ trước.

Huấn chưa dứt câu thì nghe tiếng ồn phía cuối láng rồi tiếng chân chạy gấp rút. Yên kêu tôi:

- Theo em gấp, mau lên.

- Gì vậy?

- Chia phần.

Chẳng hiểu gì nhưng tôi vẫn đứng dậy chạy theo Yên, thì ra chạy theo đập rắn chia phần. Rừng KàTum có rất nhiều rắn. Ngày đêm chúng thường bò vô nhà bắt chuột, có con treo tòng teng trên cây hoặc phóng nhanh bang qua đường. Mỗi lần xuất đầu lộ diện, những con rắn nầy hiền hay dữ không cần biết nhưng số trời đã định sẵn là chết một cách tức tưởi không kịp ngáp khi vô phước gặp tù cải tạo. Thịt bị chặt ngay tại chỗ thành từng khúc nhỏ chia đều cho những ai tay cầm gậy đang có mặt tại đây. Tôi cũng được điểm danh ghi tên nhưng cuối cùng bị loại vì không có ‘vũ khí’ trên tay!. Yên nói ngay với tôi:

- Ngày mai, việc trước tiên anh phải kiếm cây gậy để ngay đầu giường, bất cứ lúc nào nghe rắn là phải vác gậy theo. Đến nơi dù rắn đã chết rồi cũng phải chen vô đập thêm một cái mới ăn tiền.

Mặc dù trên đầu vẫn còn quấn mấy vòng băng trắng nhưng chỉ thị của quản giáo tôi vẫn phải đi lao động bình thường như những người khác, nhưng anh đội trưởng âm thầm giao việc nhẹcho tôi : Phụ bếp và nuôi heo của cán bộ. Phụ bếp thì sướng, đã ở trong mát mà ngày ngày còn kiếm được miếng cơm cháy, nhưng nuôi heo thì không kham nổi. Ông già Rạng thấy tôi còn yếu cho đi hái rau muống, về lặt phần tốt đưa lên cho ban quản giáo, phần cứng ở dưới xắt ra nấu cho heo ăn. Công việc nầy xem ra cũng có lợi, vì xắt rau cho heo cũng dúi vào túi được vài gốc rau già, tối về anh em trong tổ ‘cải thiện’ với nhau. Nhưng rồi có anh nào thối mồm thối miệng bá cáo lên, tôi bị kêu lên làm tự kiểm là ăn bớt rau của nhân dân trong khi làm phận sự và bị tống ra làm việc trong đội rau. Công việc của tôi đơn giản, hốt phân các nhà cầu của tù cũng như cán bộ, hòa thêm nước, quậy cho đều, chiết ra nhiều thùng rồi đem đi tưới. Sau nhiều lần lấy nước dưới suối nhỏ để pha với phân người, tôi nảy ra việc câu cá bằng cách dùng thép uốn cọng kẽm thành lưỡi câu, rút chỉ trong ống quần xe giây và móc trùn thả ngầm dưới nước. Cá ở chung với tù cải tạo, nghe nhồi sọ riết cũng trở thành khôn, chúng nó ăn hết của tôi mấy chục con giun đất rồi vui vẻ cám ơn quay đi. Nhưng một hôm, một con cá trê (mèo) lớn, da vàng hực to bằng bắp tay, có lẽ chưa thông suốt đường lối cách mạng nên lưỡi câu đã sâu vào sâu trong bụng, tôi kéo lên một cách dễ dàng. Đang hí hửng xách con cá trở lên suối thì một quản giáo trông thấy, hắn nhìn tôi gằn giọng:

- Ai cho anh bắt con cá nầy?

- Dạ thưa anh, cải thiện để ăn thêm.

Tên quản giáo trân tráo:

- Như vậy cho rằng cách mạng bỏ đói các anh phải không? Đã có ai chết đói trong lúc học tập cải tạo chưa?

- Nhưng thưa anh, chính các anh cho phép cải thiện mà.

- Cải thiện là phải trồng thêm rau cải ăn thêm chứ không được phép lội xuống suối bắt cá.

Tôi chưa kịp nói gì thêm, hắn tiếp:

- Chim trên trời, cá dưới nước là tài sản của nhân dân. Muốn bắt muốn câu phải có phép của cách mạng. Nhất là các anh trong dạng cải tạo, các anh không có quyền.

Nếu tôi kính cẩn dâng cho nó thì yên chuyện, nhưng tiếc quá, công trình bắt giun, đặt câu, rình rập cả tháng mới chớp được một con, bây giờ đưa cho nó thì không thể chấp nhận. May mắn lúc đó một toán tù đi ngang có quản giáo và vệ binh áp tải nghe được đầu đuôi, biết đã bể chuyện, nó cho phép đem về ăn nhưng phải làm tờ tự kiểm. Cá đưa về bốn người trong tổ ăn cùng mâm hợp tác với ông già Rạng mục đích xin mấy miếng cơm cháy để nấu cháo cá! Đến tối tất cả mọi người đã ngủ, cháo chia ra làm năm phần và rồi mạnh ai nấy lén ăn trong bóng tối. Đang ăn, ông già Rạng nói nhỏ vào tai tôi, cách nay không lâu, toán làm gỗ trong rừng bắt được con trăn dài trên sáu mét, hí hửng vác về cũng bị quản giáo dũa cho một trận tả tơi. Sau đó cả toán được ân huệ của cách mạng, gần hai chục người chia nhau cái đầu, phần còn lại là tài sản của nhân dân phải khiêng lên dâng cho ban chỉ huy trại giam! Chương 6

0

Khi tôi lên đây, công việc tổ chức nơi ăn chốn ở cho quản giáo, vệ binh cũng như tù đều do anh em hoàn tất. Bây giờ chú trọng vào việc khai phá rừng để trồng khoai mì, ngô, đậu và đi rừng đốn cây tốt lấy gỗ, cây xấu làm củi, rút mây đan giỏ, làm bàn ghế. Những hoạt động nhỏ lao động tại khối cũng quan trọng không kém, tổ rèn, tồ mộc, tổ trồng trọt cải thiện. Sướng và được ưu tiên nhất là toán thợ mộc được làm việc ít giờ. Cán bộ tha hồ lợi dụng đưa gỗ về đóng tủ giường bàn ghế cho từ trung, tiểu đoàn xuống quản giáo và ngay cả vệ binh. Tổ rèn thì sản xuất đủ các dụng cụ, không biết đưa đi đâu nhưng xuất lò bao nhiêu cũng không vừa nhu cầu của từng tên một. Chỉ có tổ làm vườn cải thiện thì chẳng nghe khen thưởng gì mặc dù hằng ngày phải móc phân người tưới rau, cắt tỉa rửa sạch xong đem dâng cho nhà bếp của chúng. Sau một thời gian không thể gánh nước tưới cây vì kết quả của vụ lật xe, tôi được chuyển qua tổ đan mây.

Một hội trường thật lớn, cột bằng gỗ lợp tranh do tù xây cất để chứa trên một ngàn người mỗi khi lên lớp nhồi sọ chính trị. Nếu tình hình quốc tế không có gì quan trọng hay không rơi vào các dịp dịp lễ thì chương trình lên lớp chia thành nhiều đợt. Ngược lại, chính trị bên ngoài có gì thay đổi, tù là nạn nhân bị nhét vào tai vào đầu trước sau như một, những bài học ấu trĩ ngu xuẩn và láo khoét mà trước đây cọng sản dùng làm giáo điều tuyên truyền cho dân chúng miền Bắc. Tôi nhớ một lần, tù được miễn lao động để lên hội trường học tập khẩn cấp. Bài học ngày hôm đó không gì khác hơn việc tâng bốc anh em Miên Cọng hết mình. Nhưng ngay hôm sau, cũng chính tên chính trị hôm qua lại hùng hổ mạt sát anh em hữu nghị nầy không thiếu một danh từ bỉ ổi nào trong tự điển. Mới khen nức nở hôm qua là anh em hữu nghị, nay lại cho là đồ theo chân đế quốc, bóc lột dân chúng đáng để cho nhân loại phỉ nhổ. Anh em tù chẳng hiểu đâu ra đâu. Sau nầy mới biết chỉ một chuyện nhỏ, cơm chẳng lành canh chẳng ngọt giữa hai anh em cọng sản mà chỉ nội trong một đêm cọng sản Hà Nội đã trở mặt, từ anh em hữu nghị ruột thịt ra kẻ thù không đội trời chung.

Thực phẩm nuôi tù không gì hơn ngoài bobo với muối nhưng nhờ có cải thiện lâu lâu cũng được một ít rau cải do chính mình sản xuất. Đôi lúc ra ngoài lao động thỉnh thoảng cũng kiếm được tí thịt. Nói thịt cho ngon lành chứ thật ra là những con sâu, giun, dế, cào cào, bò cạp hoặc may mắn bắt được rắn mối, các kè… thứ nào cũng ngon cả. Đã đi tù cải tạo thì con gì nhúc nhích được là ăn, chỉ trừ con dao, con đực rựa không gặm được đành chịu. Đi ngang gặp cây lá gì cũng bỏ vào miệng thử, không mùi không vị có thể dùng nấu canh, nếu tìm được thứ gì chua hay ngọt thì khỏi cần nấu nướng, nhai ngay tại chỗ cho đỡ đói. Trong thời gian nầy, một anh tù bắt mối làm quen với vệ binh nhờ mua ký đường, chuyện nầy gây nghi ngờ cho quản giáo biết rằng trong chúng tôi có người vẫn còn giấu vàng trong người. Do đo, một hôm cả khối được lệnh tập họp với tất cả vật dụng cá nhân. Lệnh phải đem hết ra bày ở giữa sân từng món một không sót một vật gì. Lúc đầu chúng tôi đoán khám xét để chuyển trại, nhưng sau một hồi sỉ vả chính trị viên và quản giáo buộc tội chúng tôi còn giấu vàng, giấu dollar trong người để mưu đồ trốn trại. Lúc bấy giờ không còn cách gì qua mặt được bọn chúng, anh em nào có trong người đành phải đưa nạp những khâu vàng 24 và dollar bấy lâu giấu trong gấu quần. Chính trị viên và quản giáo không cho thấy cũng như không công bố số vàng và dollar đã tịch thu bao nhiêu mà chỉ cho biết sẽ dùng số tiền nầy để mua lợn nuôi, mục đích cho anh em cải tạo tha hồ thịt sau nầy. Chưa biết được ăn thịt heo sau nầy hay không nhưng đau khổ trước nhất là phải bớt phần ăn của tù, thêm người để nuôi và tắm rửa heo hằng ngày. Mỗi lần đi ngang chuồng, anh nào đi trước cũng đưa tay nhẹ nhàng vớt những hột cơm cháy còn sót lại trong máng để cải thiện thành nồi cháo lỏng. Hành động nầy đến tai quản giáo, nạn nhân được kêu lên nhận lỗi làm tự kiểm. Bực mình, anh em trong nhóm tôi bàn với nhau tìm bắt bò cạp, không phải nướng ăn tại chỗ mà đem về thả vào chuồng. Cả đàn heo đua nhau chết ngay trong ngày hôm đó. Sáng hôm sau, đội tù được gọi lên lãnh thịt, ai cũng mừng thầm chuyến nầy sẽ no nê một bữa. Nhưng khi anh nuôi Rạng xách thịt về, gồm một ít bầy nhầy da và mỡ không đủ cắt chia mỗi người một miếng nhỏ bằng ngón tay út trẻ con. Mười con heo to lớn mập mạp là do tiền của công sức mồ hôi của tù cải tạo, chỉ bị bò cạp cắn một miếng mà thịt biến mất đâu hết, còn lại chừng vài ký bầy nhầy được quản giáo ân huệ cho trên hai trăm khổ chủ của khối. Đâu đủ để chia cho mỗi người một miếng nhỏ, anh em tù quyết định nấu canh để còn thưởng thức được chút mùi mỡ thịt heo. Đã vậy ăn chẳng ngon lành gì vì sau đó bọn chúng ra lệnh tập họp lên lớp để nghe bài học, các anh giết chết lợn là ăn cắp của nhân dân thì phải đền lại cho cách mạng! Tức hộc máu nhưng đã lỡ nuốt vô bụng rồi, chỉ còn cách đi cầu ẹ ra để trả lại cho chúng.

Dịp sinh nhật già Hồ, anh em được nghỉ một ngày. Trước hôm đó, tù được lên lớp để nghe đi nghe lại cái lý lịch thần thánh của ‘vị cha già dân tộc’ và được nghe một tin ‘hồ hởi’ là tù chúng tôi sẽ được ăn một bữa thịt lợn thỏa thích. Không khí trong trại trở nên náo nhiệt lạ thường, không phải ‘hồ hởi phấn khởi’ vì ngày sinh của già Hồ mà chính là chiều nay sẽ được ăn một bữa thịnh soạn.

Đi đâu, ngồi đâu cũng nghe anh em tù đề cập đến bữa cơm chiều nay. Thịt heo chỉ là món ăn tầm thường ngày trước nhưng sao bây giờ thấy quý giá và cao sang quá. Đã một năm trời ngày đêm mơ tưởng một miếng thịt. Đây chỉ là một ước ao tầm thường của một người tù nhưng dưới chế độ cọng sản, thịt cá là hàng xa xỉ phẩm, dân chúng chưa có ăn huống hồ gì mấy người tù bị lột quyền công dân. Ngày lên đường đi cải tạo, vì tin lời đường mật của cọng sản, trên người chỉ đem theo có bộ áo quần, đôi dép, cái bàn chải đánh răng. May mắn vợ bỏ thêm vào xách tay lon thịt kho sả thì cũng vừa đủ dùng trong thời gian hứa hẹn. Mười ngày trôi qua, mãn khóa trở về đâu chẳng thấy, cuộc đời từ đó phải tuân theo họng súng và lao động tận lực trong vòng kẽm gai. Đầu thì bị dồi sọ và miệng chỉ biết bobo, gạo mốc, củ mì, trái su, muối bọt… Cá, gà, bò, heo xem như thực phẩm của vua chúa, thứ tù tội có bao giờ dám nghĩ đến. Thế mà chiều nay, theo lời quản giáo, sẽ được một bữa no nê thỏa thích, tất cả đều nôn nóng chờ đợi một vài miếng thịt lợn!

Chưa đến giờ nhưng tất cả đều tập trung trong nhà ăn cũng là nơi sinh hoạt hằng đêm của đội tù. Cứ bốn người thân thiết ngồi thành một mâm. Chiếc muỗng và cái lon guigoz là hai vật quý nhất, theo sát trong người suốt cuộc đời đi tù, nhiều anh xoi lỗ chiếc muỗm mang trước ngực và lon guigoz thì đeo ở vai. Vào bàn xong, muỗng cầm tay đợi, lon guigoz mở sẵn nắp nhưng tất cả đều thất vọng khi được chia mỗi mâm bốn miếng thịt nhỏ, cắt đều đặn chưa bằng ngón tay cái.

Tất cả tám con mắt trong mân đều đổ dồn vào bốn cục thịt nhỏ nấu nước muối, đang nổi lều bều trong cái thau. Bàn bên cạnh lớn tiếng không đồng ý lối cắt thịt của anh nuôi vì có miếng lớn miếng nhỏ, miếng xương, miếng thịt. Cuối cùng bốn người đồng ý bốc thăm bằng cách quay đũa. Một anh đưa ra một hộp thiếc tròn nhặt được ngoài rẫy, dùng làm chén ăn cơm rồi để chiếc đũa lên quay một vòng, đầu đũa quay về ai thì người đó có quyền chọn trước.

Riêng mâm của tôi, Yên lên tiếng:

- Em kính thầy! mời thầy chọn trước!

Hai anh Bé và Tâm cùng mâm tiếp lời:

- Kính lão đắc thọ!

Không biết ba anh em kính hay chơi xỏ thầy, thôi tôi đành chọn cục xương cho ra vẻ đàn anh!

Cục xương chắc chắn là vấn đề tranh chấp trầm trọng nhưng tôi đã ‘tình nguyện’ giải quyết, còn lại ba người thỏa thuận chơi trò đen đỏ bằng cách quay đũa cho công bằng. Phần nước luộc thịt thì dùng muỗng chia đều ra bốn phần.

Tôi không ăn phần của tôi vội, lấy trong túi ra miếng giấy nhựa gói miếng xương dính một tí thịt và mỡ cho ngay vào túi quần. Yên thắc mắc hỏi:

- Sao anh không ăn?

- Hôm nay có cơm, ăn với nước luộc thịt cũng quá ngon, miếng thịt để dành tối ngậm mà thưởng thức.

Nhìn quanh, đám tù giải quyết miếng thịt thật gọn. Có người nhai từ từ trong miệng, cố kéo dài giây phút sung sướng mà loài người đã xếp vào hạng nhất của một trong bốn cái khoái, một lúc sau mới nuốt. Ngược lại, mấy anh ngồi cạnh tôi, vừa bỏ miếng thịt vào miệng chưa kịp nhai đã vội vàng nuốt trửng, miếng thịt xuống đến dạ dày nhưng yết hầu ở trước cổ mỗi người vẫn còn hoạt động lên xuống theo nhịp nước bọt đang trào ra.

Tôi lên mặt thầy đời:

- Các anh không biết thưởng thức là gì, nuốt một cái ực làm sao biết được cái ngon!

Anh bạn cùng bàn vừa nuốt nước miếng vừa trả lời:

- Thèm quá ông ơi, muốn ngậm lâu lâu một chút nhưng không thể kềm chế cái miệng.

Bữa cơm hôm nay được tiếng là sẽ ăn uống phủ phê nhưng chẳng có gì hơn, ngoài chén cơm không độn bobo, miếng thịt bằng đầu ngón tay và một chén canh nước luộc thịt có mùi mỡ và bột ngọt. Nhưng dù sao không khí cũng khác hẳn, nhiều tiếng cười, tiếng nói ồn ào sau khi rời nhà ăn của khối. Anh em vui vẻ thật sự, nhưng chắc chắn không phải lý do được nghỉ lao động một ngày hay hân hoan đón mừng tuổi thọ ông già, mà chính là chén cơm trắng và miếng thị mỡ đang nằm trong dạ dày của từng người một.

Chương 7 (chương kết)

0

Tối đó, tất cả khối phải lên hội trường để tiếp tục nghe về ‘cuộc đời và sự nghiệp’ ông già thêm một lần nữa sau khi được nhà nước ân huệ một miếng thịt mỡ. Anh bạn ngồi bên cạnh cứ than vào tai tôi: ‘Biết rồi nói mãi khổ quá, tha cho con về ngủ đi ‘già’ ơi’! Tôi mong chấm dứt sớm để còn về lán thưởng thức miếng thịt đang nằm trong túi. Mắt thì nhắm, tai chẳng thèm nghe, đầu chỉ nghĩ đến miếng thịt, lâu lâu tôi đưa tay rờ vào túi quần kiểm soát để chắc rằng miếng thịt vẫn còn đó. Nhưng vừa đụng vào miếng giấy nylon thì miệng tôi lại đầy nước bọt.

Khi được quản giáo tha tội cho về ngủ thì trời đã khuya, chắc vì ảnh hưởng tí mỡ trong cơ thể, anh em tù yên lặng lên giường, không ồn ào đòi ăn hàm thụ món nầy món kia như thường lệ. Tôi cẩn thận lấy miếng thịt trong giấy nylon ra từ từ để vào miệng. Cảm giác đầu tiên, đầu lưỡi như bị tê hẳn vì qua một năm không được miếng cá miếng thị tươi nào trong miệng. Mùi thơm, ngọt, béo của thịt chạy dài từ lưỡi lên tận trên óc nảo rồi xuống tới tim, gan, phèo, phổi, dạ dày… Tôi như ngất ngây trong sung sướng và cảm khoái trong người, tưởng như hạnh phúc độc nhất cuộc đời không gì hơn ngoài miếng thịt.

Thật ra không phải miếng thịt mà là cục xương dính một ít thịt và mỡ, anh em ‘nể tình’ nhường cho tôi chọn trước. Nhìn bốn miếng thịt lều bều trong thau, tôi biết ngay miếng nào nhỏ, miếng nào lớn như đâu cam đảm gắp miếng thị lớn vào chén mình khi anh em nhường trước với câu ‘kính thầy’. Nhưng thật ra cục xương mới đáng đồng tiền bát gạo trong lúc nầy, tôi không dám nhai mà ngậm yên trong miệng, đợi nước miếng trào ra hòa lẫn mùi mỡ, mùi thịt, mùi xương rồi mới nuốt phần nước, dùng lưỡi chặn miếng xương lại. Như vậy tôi có thể kéo dài thời gian thưởng thức miếng thịt ân huệ của ngày lễ trong vài tiếng đồng hồ. Răng của tôi rất chắc, nhiều lần không cầm được lòng, định nhai nát ra rồi ực một cái cho sướng miệng. Nhưng không dám, sợ sẽ chấm dứt quá nhanh cơn đê mê thích thú của một người đói cả năm nay, ngày đêm mơ ước thèm thuồng. Nằm ngậm miếng thịt mà lòng tái tê ngao ngán. Chỉ là miếng mỡ không ra gì nhưng kể từ ngày cọng sản vào cưởng bức miền Nam nó trở nên quá vĩ đại và quý giá vô cùng.

Thời gian sau đó, người ta cho phép gia đình thăm nuôi. Thật là trớ trêu, dưới chế độ cọng sản, nhà nước bắt đi khổ sai nhưng lại để thân nhân gia đình phải gồng gánh cơm gạo, cá thịt, thuốc men đi nuôi tù. Nhưng suy nghĩ cho kỹ cũng nên ‘cám ơn’ nhà nước vì không có gia đình thăm nuôi chắc chắn anh em tù cải tạo, nếu không chết vì đói thì cũng không còn sức để bò về đến nhà sau ngày phóng thích. Tù trong các tỉnh chung quanh Sàogòn được vợ con thân nhân hàng tháng tay xách vai gánh thăm nuôi, nhờ vậy những bầy vượn đói của Xã hội chủ nghĩa đã lấy lại sắc thái và phong độ con người. Những bộ xương cách trí nhờ miếng ăn của người thân đã bắt đầu trở lại có da có thịt. Thực phẩm thăm nuôi không gì ngoài ký đường, lít gạo, con khô, lon thịt, thùng mì nhưng dưới chế độ cọng sản là những món ăn cao sang của những gia đình thuộc chế độ cũ cũng như anh em tù cải tạo. Có đói rồi mới thấy chén cơm trắng, gói mì khô, cục đường đen, miếng cá mặn hay tí thịt mỡ nó quý giá làm sao, nhưng trong hoàn cảnh cùng cực anh em tù đã biết chia sớt cho nhau đó là điều cảm động của tình nghĩa ‘huynh đệ chi binh’ vẫn còn lại trong lòng những sĩ quan cũ. Một trường hợp ngần như ngoại lệ, anh Thọ được thăm nuôi thường xuyên, mỗi lần người nhà lên, anh cần thêm một người thật khỏe ra gánh hộ vào. Gia đình anh chắc chắn đã bị cướp lột sạch từ đầu đến chân qua những lần đánh tư bản mại sản, nhưng có lẽ người nhà đã khôn khéo cất giấu được phần nào, nay vẫn còn sức nuôi anh theo lối công tử ngày xưa. Ngoài những thức ăn căn bản, quà của anh lúc nào cũng có vài ký café hạng sang với đường phèn, hộp sữa đặc, chục nem chua, đòn chả lụa, gói khô bò, vài ký lạp xưởng. Bù lại những ngày đói khổ, miệng Thọ lúc nào cũng ngậm cục đường hay đang nhóp nhép nhai sống miếng khô bò khúc lạp xưởng. Nhưng Thọ là người tốt bụng với anh em. Trong lán, một B chừng hơn năm chục tù, người nào cũng được ít ra một lần thưởng thức một vài thứ thuộc loại đại xa xỉ phẩm của chế độ cọng sản.

Một hôm lao động ngoài rừng, anh em trong tổ đập được con rắn, đang nổi lửa để nướng thì Thọ đi đến, tay cầm mấy khúc lạp xưởng, vui vẻ hỏi chúng tôi:

- Cho ké được không?

Nghe vậy ai dại gì từ chối, đổi miếng thịt rắn nướng để thưởng thức hương vị của khúc lạp xưởng. Thọ đưa tay vẫy kêu thêm mấy anh em đang nghỉ bên gốc cây trước mặt. Tất cả đứng dậy tiến về phía chúng tôi trong đó có thêm Sửu, người có nhiệm vụ canh gác và kiểm soát công việc của chúng tôi hôm nay, nhưng tất cả anh em không ai phản đối sự có mặt của anh vệ binh nầy. Thật ra tất cả đều thương, anh ta hiền và dễ chịu hơn tất những người khác. Ít la lối hoặc lên tiếng chưởi bới chúng tôi mỗi khi có vấn đề. Mỗi lần dẫn chúng tôi đi làm việc, anh thường vác súng, mũi chúi xuống đất chứ không chỉa thẳng về chúng tôi. Ra đến nơi làm việc thường kiếm bóng cây, yên lặng ngồi nghỉ để mặc anh em tù làm việc tự do, không hối thúc kiểm soát không nạt nộ như những vệ binh khác. Vừa ngồi xuống, Sửu lên tiếng trước:

- Hôm nay em có dịp đến từ giã các anh.

Một người trong chúng tôi vội hỏi:

- Tạo sao?

- Em bị ‘điều’ về Bắc.

- Tại sao vậy?

Nhìn quanh một hồi, Sửu nói đủ vừa nghe:

- Bị kiểm điểm quá lơ là, không đạt tiêu chuẩn của một người vệ binh gác tù.

Tôi trả lời thay cho các anh em :

- Chúng tôi hiểu.

Rồi tôi tiếp tục :

- Nhưng tại sao anh dễ dãi với chúng tôi ?

Sửu đáp không suy nghĩ :

- Các anh cũng hiền và dễ thương, chứ có gì khác lạ đâu.

- Tại sao anh nói vậy ?

- Trước đây còn ngoài miền Bắc, chúng em được học tập kỹ càng rằng các anh là những tên trộm cướp của giết người không gớm tay, đi đến đâu hiếp dâm đàn bà con gái đến đấy. Bắt được chúng em là mổ thịt móc gan ăn sống, còn cắt tai bộ đội xỏ giây đeo đầy cổ đầy ngực ?

Một anh bạn ngắt lời :

- Anh tin không ?

- Học tập mỗi ngày, nghe hoài làm sao chúng em không tin được, nhưng bây giờ những gì chúng em thấy thì ngược lại…

Dù là tù đang đối diện với kẻ địch trước kia nhưng chúng tôi ai cũng mủi lòng qua câu nói của Sửu. Tôi thấy tội nghiệp, lấy cây bút bà vợ mới đem lên gắn vào túi áo của Sửu :

- Thân đi tù, gia tài chúng tôi chẳng có gì để tặng anh. Về Bắc cố gắng đi học, hy vọng mai kia anh sẽ dùng cây viết nầy để ghi lại những gì anh đã thấy tận mắt tại miền Nam nầy.Sửu nhìn cây viết, ‘dạ’ một tiếng nhỏ. Thọ đưa mời Sửu một khúc lạp xưởng. Ngập ngừng một lúc, anh ta ăn thật ngon lành. Yên lên tiếng hỏi :

- Ngon không anh Sửu ?

Sửu thật thà trả lời :

- Suốt cả cuộc đời, từ khi lớn lên cho đến lúc vào Nam đánh giặc, chưa bao giờ chúng em biết được mùi vị miếng thịt chứ đừng nói gì đến cục dồi nầy!

Tảng thịt tế

Phạm Lưu Vũ

0

Thầy họ Giả, tên Nhân. Kẻ lắm chữ trong thiên hạ gọi sang trọng là Giả tiên sinh. Các môn đồ và dân gian thì nôm na là thầy Giả. Thân sinh ra thầy là cụ Giả Dã, còn ông nội Giả gì thì không thấy sách nào ghi lại. Lúc nhỏ thầy chỉ chơi bời lêu lổng, nổi tiếng là một thằng bé nghịch bẩn, bạ đâu cũng chui rúc. Đã thế lại còn hay gây gổ, chửi nhau với cả trẻ con lẫn người lớn trong vùng, làm cho cụ Giả Dã hết sức phiền lòng. Vậy mà đến năm mười lăm tuổi đổi hẳn tính nết, chăm học không ai bằng. Lại học một mạch mười lăm năm thì gom hết chữ trong thiên hạ. Bấy giờ thì thông thái lắm. Không mở miệng thì thôi, hễ mở miệng ra là nói câu nào “chết” câu đấy. Đệ tử, lâu la bám theo hàng đàn. Đại khái chia ra ba hạng. Hạng thứ nhất theo để học cách làm quan, cách trị dân, trị quốc nhập nhằng. Hạng thứ hai theo để học cách làm người, bởi xưa nay cứ tưởng thiên hạ ai cũng là người té ra không phải. Nhờ có sự giảng giải của thầy, mới hay làm người cũng là một nghề phải học mới làm được. Hạng thứ ba theo để hưởng cái bóng của thầy, bấy giờ đã lớn lắm, trùm cả một vùng. Thiên hạ tôn làm thầy đã đành, lại nhất tề công nhận rằng đối với thầy, sự vĩ đại chỉ còn là vấn đề thời gian. Núp bóng thầy không được hưởng thứ nọ, cũng hưởng thứ kia. Những hạng này nôm na gọi là: “theo đóm...”

Hôm ấy là một ngày đặc biệt đối với thầy. Ngày mà hàng năm theo thông lệ, thầy sẽ được nhận phần thịt tế ban xuống từ ngôi Chí tôn. Từ sáng sớm, thầy đã tắm gội sạch sẽ, mũ áo chỉnh tề ngồi trang nghiêm giữa gian đại sảnh. Các môn đồ cũng ăn mặc đúng lễ nghi, đứng sắp hàng hai bên cực kì cung kính. Con đường nhỏ từ cổng ra đến đường cái được quét tước sạch sẽ, hun hút như lối đi tới cõi hư vô, mờ mịt không một bóng người. Tất cả chỉ dành cho việc đón tiếp cái Tảng thịt tế thiêng liêng, mà không phải người nào trong thiên hạ cũng có duyên được hưởng. Thầy hiểu rõ điều đó lắm, thiên hạ thấm thía điều đó lắm. Đến nỗi phải gọi đó là Tảng thịt, “Tảng thịt” viết hoa. Không được gọi xếch mé là miếng thịt dù nó có bé bằng đầu ngón tay. Gọi như thế để chứng tỏ sự hoành tráng của một đặc ân, để hiểu rằng ý nghĩa của nó vượt ra khỏi sự tầm thường của miếng ăn, mặc dù cuối cùng, nó cũng được dùng để đánh chén... Được ban cái tảng thịt ấy, chứng tỏ công lao của thầy đối với sự bền vững vĩnh hằng của ngôi Chí tôn là ghê gớm lắm, chứng tỏ vị trí của thầy trong trật tự thế gian này là vô cùng quan trọng. Chỉ cần ví dụ một điều thôi cũng thấy. Trời sinh thầy để cảm hoá người khác. Kẻ không biết nghĩ, thầy dạy cho cách nghĩ. Kẻ nghĩ cong, thầy nắn lại cho thẳng. Kẻ nghĩ ngược, thầy bẻ lại cho xuôi... Cảm hoá bằng lời nói, giảng giải đã đành, nhiều khi chỉ cần bằng cái vía của thầy. Cái vía ấy tràn ngập không gian xung quanh, nó toát ra từ ánh mắt, hơi thở... Nó vô hình mà mạnh mẽ đến nỗi những kẻ dù bướng bỉnh, mất dạy đến mấy, một khi đã vào vùng ảnh hưởng của nó rồi, cũng lập tức bị chinh phục... Còn nhiều nữa những công đức của thầy. Chung quy trước kia, thế gian tuy vẫn thế nhưng cơ mà lộn xộn, chẳng ra trò vè gì. Thầy đã làm được cái việc cho muôn đời là xắp xếp người nào vào đúng chỗ của người nấy, không đi lại, ăn nói lung tung. Kẻ thích an phận cứ việc mà an phận, kẻ thích diễn trò thì có sẵn khối trò, trò nào thầy soạn ra cũng mạch lạc, rõ ràng... Nhờ thế mà thầy được đấng Chí tôn ban cho thịt tế. Không nhớ lần đầu tiên được ban là bao giờ, chỉ biết việc đó đã thành lệ, như một thứ phép tắc trong đời.

Thầy chờ đã quá một giờ ba khắc. Con đường trước mặt vẫn hun hút, chưa thấy bóng dáng tảng thịt tế kia đâu. Mọi năm vào giờ này, người mang thịt đã vào đến sân. Năm nay có lẽ chậm hơn tý thôi, người mang thịt chắc còn đang đi trên đường. Thầy tin tưởng như thế, chậm một chút cũng không sao. Giờ này thịt vẫn còn tươi, có khi còn nóng hổi. Vừa mới sáng ra, khí dương còn đang thịnh lên thế này... chỉ cầu cho kẻ mang thịt kia rảo chân lên một chút...

Thầy vừa mong vừa trầm ngâm suy nghĩ. Xét cho hết lẽ, lần đón thịt tế năm nay, thầy quả có hơi bồn chồn. Ấy là mấy hôm trước, gã môn đồ tên Tý tự nhiên phao tin làm rối bụng cả những môn đồ khác. Tin ấy mà lan ra bên ngoài thì lòng người sinh biến chứ chẳng chơi. Gã môn đồ có biệt danh “Chuột Cống” ấy vốn xuất thân trộm cắp lưu manh, được thầy rèn giũa thành một trong những kẻ sĩ nức tiếng bấy nay. Chẳng hiểu gã vẫn còn nhớ nghề cũ hay sao mà một hôm, gã mò vào tận chốn thâm cung bí hiểm để dòm trộm. Đó là nơi ngự của đấng Chí tôn, nơi mà hàng ngàn đời nay, thiên hạ không những không được phép bén mảng, mà còn không được phép biết trong đó diễn ra những gì. Mặc dù người ta vẫn không ngớt tưởng tượng hoặc đồn đoán lung tung... Nhưng trước khi có thầy, kiến thức của thiên hạ về cái chốn bí hiểm ấy nói chung là mù tịt, chẳng ra thể thống gì. Thầy đã bỏ bao tâm huyết, vận dụng tất cả những thông thái của mình mà xắp xếp lại, mà lập rõ kỷ cương, định ra trật tự... đặng đưa cái ngôi Chí tôn lên vị trí tót vời giữa thiên hạ. Thế mà cái gã Chuột Cống kia sau khi dòm trộm, cứ bô bô rằng chốn thâm nghiêm ấy toàn những kẻ có cốt cách giống hệt gã thuở chưa thọ giáo thầy, nghĩa là cũng hạng trộm cắp lưu manh... Không những thế, có lần gã còn nhìn thấy trên cái lầu cao chót vót bí hiểm kia cả một lũ cáo đực và mèo cái đang làm tình tập thể... Điều mà gã không hiểu và nằng nặc đòi thầy giải thích là tại sao trong đám cáo đực ấy, có những cặp cứ hôn nhau thắm thiết... Thầy gắt lên với gã rằng đó đơn giản là do chúng mắc chứng đồng tính... Nhưng gã phải cẩn thận xem lại mình có bị hoa mắt hay không?

Thông tin của gã Chuột Cống quả nhiên tai hại. Đám môn sinh nhao nhao hoảng loạn. Có kẻ tin ngay, có kẻ không tin. Nhưng dù sao thì cũng hoang mang, nghi ngờ không biết đâu là sự thật. Mặc dù đã hết cách vỗ về, đám môn sinh cứ một mực khuyên thầy tốt nhất nên đi khỏi nơi đây, phòng mang tiếng dính dáng với lưu manh, nhất là cái chứng đồng tính kia thì xưa nay, người quân tử bao giờ cũng kị. Nói vô phúc, chẳng may nó lây nhiễm ra ngoài thì thực là một đại hoạ của cõi nhân gian... Không thể trách cái lập trường yếu bóng vía ấy của đám môn sinh, thầy khuyên họ hãy kiên tâm chờ đợi. Sắp đến kỳ tế rồi, thầy hy vọng sự tử tế còn phụ thuộc vào tảng thịt kia. Nếu tảng thịt tế vẫn được ban xuống như mọi năm, thì tình trạng cũng chưa đến nỗi nào. Còn nếu chẳng may đấng Chí tôn quên thật, thì lúc ấy hãy ra đi cũng chưa muộn gì...

Vài khắc nữa là đến chính ngọ. Khí dương đã gần cực thịnh, sắp suy dần, nhường chỗ cho khí âm. Tảng thịt tế vẫn chưa được mang đến. Con đường vẫn hun hút thinh không. Đám môn sinh có kẻ bắt đầu hoa mắt, phải quỳ hai đầu gối xuống nền nhà. Riêng thầy vẫn ngồi nguyên tư thế, mắt lim dim, cố ngưng thần, nhập định. Năm nay thịt tế ban xuống chậm chắc do chia bằng thịt chín, không để sống như mọi năm. Thịt chín càng hay, đỡ mất công nấu nướng. Bây giờ mà mang đến thì dẫu không có sự hôi hổi của thịt tươi, thì cũng có cái nóng sốt, thơm lừng của thịt luộc - thầy nghĩ thế và hình như, các môn sinh cũng nhiều người nghĩ thế. Có kẻ bất giác nuốt nước bọt. Thầy chưa biết tảng thịt chín năm nay sẽ có màu mè gì. Tảng thịt sống mọi năm thì thầy vẫn nhớ rõ ràng. Phía trong thịt đỏ roi rói, vẫn còn ròng ròng máu tươi. Ngoài bì trắng nõn nà, lấm chấm lỗ chân lông cứ y như một tảng thịt người. Thầy chẳng bao giờ soi xét đó là thịt gì. Đã là của đấng Chí tôn ban cho thì cứ việc lạy đủ ba lạy rồi nấu lên, thầy trò chia nhau đánh chén. Đánh chén cả cái phần vật chất nhờn béo lẫn cái phần vinh hiển của đặc ân. Năm nào cũng thế và năm nay tất nhiên cũng thế...

Vừa mới hướng sự suy nghĩ ra khỏi tảng thịt, thầy lại bắt đầu cảm thấy bồn chồn. Còn nhớ trước đây, có lần thầy cũng bị cảm giác nghi ngờ chi phối. Đó là vào thời thịnh trị của đấng Chí tôn. Có gã môn sinh tên Sửu, biệt danh Trâu Toi cũng vào hàng kẻ sĩ trứ danh, tự nhiên lại đề ra cái thuyết chia thiên hạ ra làm hai hạng: người cầm đũa và kẻ nằm trên mâm(!) Theo gã thì thế cuộc bất luận kiểu gì, thực ra cũng chỉ là một... bữa tiệc mà thôi. Bữa tiệc có phân ra mâm trên, mâm dưới... đàng hoàng. Người “làm quan” (mà thầy gọi là những bậc chăn dân) đều là những người cầm đũa. Còn “dân” là những kẻ nằm trên mâm. Tất nhiên đã là món ăn thì phải được “chế biến” sao cho hấp dẫn, khoái mồm. Thế là những tên dân phải vào chảo để  “quay” cho vàng ươm trước khi bày lên mâm cho người cầm đũa... xơi. Vì không phải tên “dân quay” nào cũng béo ngậy như nhau. Thế là người cầm đũa ở mâm trên cứ việc chọn những tên béo nhất mà dùng, còn lại thì gảy xuống cho mâm dưới. Cứ thế cho đến mâm dưới cùng, tóm lại là gầy béo gì thì người cầm đũa mâm nào cũng có suất. Có điều rất hiếm tên “dân quay” nào mà người cầm đũa không thể xơi được, phải gảy hẳn ra ngoài dù kẻ đó có mắc “tội” quá gầy hay bị chứng hôi hám bẩm sinh...

Cái “thuyết” bữa tiệc thơm lựng mùi... người quay ấy của gã Trâu Toi còn kể ra các cuộc tranh giành nhau theo một cách rất chi là ngộ nghĩnh. Theo đó thì trên đời, ai mà chẳng muốn mình là người cầm đũa. Thế là thỉnh thoảng lại xảy ra sự tranh giành nhau. Những lúc ấy, những tên dân được tạm hoãn... lên chảo, được chia làm hai phe đánh lẫn nhau vì... những người cầm đũa. Kết quả bên nào thắng sẽ được ngồi vào mâm, được cầm đũa để tiếp tục... vừa xơi, vừa gảy. Kẻ có số nằm trên mâm không đánh nhau nữa thì lại... lên chảo. Và bữa tiệc muôn thuở cứ thế diễn ra. Tất nhiên những xác chết trong lúc đánh nhau kia thì mãi mãi vùi lấp nơi rừng rú, nơi đồng không mông quạnh mà những người cầm đũa chẳng dùng đến làm gì...

Thuyết ấy dĩ nhiên chỉ là một kiểu ví von cho sướng miệng, không được coi là “chính thống” bao giờ. Thế mà thầy cũng phải mất bao công uốn nắn, chỉnh đốn lại cái gã Trâu Toi kia, không cho gã mê hoặc lòng người. Nhưng phải công nhận gã thuộc loại cứng đầu cứng cổ, khó dạy bảo xưa nay. Uốn nắn mãi, gã buộc phải chịu rằng mình sai, buộc phải nhắm tịt mắt lại rồi mà mồm vẫn lẩm bẩm: “Dù sao, vẫn giống như bữa tiệc...” Đến mức thầy phải quát lên rằng: “Dù có là bữa tiệc đi chăng nữa, thì cũng phải theo đúng lễ, “món ăn” phải được chế biến tinh vi. Chứ không có cái kiểu cho vào chảo “quay” một cách thô thiển như thế...” Gã Trâu Toi kia rốt cuộc đúng là... toi, bị phạt gãy hết một hàm răng, trơ cái lợi đỏ hỏn chỉ còn biết ăn nói lào phào...

Trời ngả sang chiều. Ánh nắng đã bắt đầu nhợt nhạt. Tầm này khí âm đang thịnh dần lên, khí dương suy từ lúc bước qua giờ ngọ. Tảng thịt tế vẫn tuyệt vô âm tín. Đường tới cõi hư vô bắt đầu nhuốm màu tim tím. Thầy mệt mỏi khẽ ngả người ra phía sau. Trước mặt thầy, các môn sinh bắt đầu ngáp vặt, vẻ đói khát hiện rõ trên gương mặt mỗi người. Không ai còn sức đứng hay quỳ nữa, tất cả đã ngồi bệt xuống nền nhà, nhưng đều phải cố còng lưng xuống cho đầu khỏi cao hơn thầy vì lễ quy định phải như vậy. Bây giờ thì tảng thịt tế ấy dẫu có được luộc chín, chắc cũng nguội mất rồi - thầy cố nén một tiếng thở dài. Nhưng cũng chẳng sao, dù nguội thì cũng cứ là thịt, không những thế, vẫn là thịt tế, thịt tế của đấng Chí tôn... Đấng Chí tôn hẳn đã sai người mang đến. Đó là điều thầy vẫn hằng tin...

Không sao cưỡng được cơn ngáp vặt, thầy đành che mồm ngáp thầm một cái. Chẳng lẽ đấng Chí tôn không cần đến thầy nữa hay sao?. Không bao giờ lại xảy ra chuyện đó. Nhờ có thầy, đấng Chí tôn đã sang trọng thêm gấp bao nhiêu lần đó thôi. Còn nhớ cái hồi thầy chưa xuống núi.  Tin đồn về thầy đã nức tiếng gần xa. Bấy giờ ngày nào cũng có kẻ lặn lội tìm đến xin thọ giáo. Ngay cả đấng Chí tôn, dù nắm trong tay cả triệu triệu sinh linh, mà vẫn thường xuyên chầu chực, vẫn chờ xin được thỉnh giáo ý thầy. Trước mặt thầy, đấng Chí tôn ngày ấy chỉ dám xưng là người cô quả, thái độ cực kì cung kính, bao nhiêu oai dữ cất hết ở nhà, chỉ thiếu nước rón rén bò bằng bốn chân... Không những thế, danh tiếng của thầy còn được đấng Chí tôn quảng bá suốt quanh năm, thậm chí ngài còn cho dựng tượng thầy ở khắp nơi, cả nơi thờ cúng lẫn những nơi chợ búa đông người... Bấy giờ một là thể theo lòng người mến mộ, hai là cảm động trước sự quý trọng nhân tài, thầy quyết định xuống núi, dắt theo đám môn sinh, quyết một phen đem sở học giúp đời.

Và quả thầy đã giúp được khối việc cho cái cuộc đời vốn lúc nào cũng đầy mầm loạn này. Chẳng riêng gì hai gã Tý, Sửu trên kia. Kẻ sĩ lúc bấy giờ không ai phục ai, nhất tề quay cuồng theo thời cuộc. Tất cả cứ thi nhau kêu gào bằng đủ các giọng điệu khác nhau. Thiên hạ có chữ, có sách hẳn hoi mà cứ như vẫn còn trong thời kỳ man rợ. Có kẻ cứ một mực ra rả rằng không phải chỉ có mầm loạn, mà rõ ràng đang loạn hẳn hoi. Những kẻ ấy muốn đục nước béo cò, dẫn chứng ra đủ các kiểu tranh giành, giết chóc nhau có thật đang diễn ra hàng ngày ở những nơi này, nơi khác. Có kẻ lại xếp tất cả những tranh giành, giết chóc ấy vào phạm trù nghệ thuật, hội hè. Làm điều ác cũng phải có nghệ thuật, thì cũng tức là làm nghệ thuật. Nếu buộc phải đâm chém nhau thì cũng cứ cho là đi trẩy hội cho nó nhẹ nhàng, vui vẻ... Thế thì còn gì nữa mà không kết luận thiên hạ thái bình. Toàn những điều kinh dị, cổ kim chưa từng thấy bao giờ. Thiên hạ có thật thái bình không thì chưa biết, nhưng kẻ sĩ thì rõ là loạn thật rồi, loạn kiến thức, loạn chữ, loạn ngôn, loạn đến cả lễ nghi, phong tục... Kẻ nào cũng nhân danh tử tế, đứng đắn để tìm cách nhét vào óc thiên hạ cái nhìn thiển cận, dốt nát của mình. Đến nỗi chỉ cần đọc tên những kẻ sĩ lên cũng biết ngay đến chín phần thật giả, bởi thói thường, kẻ thiếu cái nào thì hay lấy cái đó làm danh xưng. Cái gã Phạm Thông Thái kia thực ra là mít đặc, cái tên Nguyễn Đức Thâm thực chất lưu manh... Có người cả hình thức lẫn nội dung nham nhở như cóc gặm thì xưng là Nguyên Vẹn, Nguyên Si, lại có người vừa già vừa xấu, chuyên cái nghề bồi bút thối tha, suốt đời bợ dỡ kẻ sang mong kiếm miếng cơm thừa lại xưng là Thanh Cao, Thanh khiết... Còn nhiều nữa những gã Dần, Mão, Thìn, Tỵ... có kẻ cũng hung hăng nói ngược, có kẻ cũng té nước theo mưa, có kẻ hau háu mong dậu đổ bìm leo... rốt cuộc đều bị thầy cảm hoá, đều trở thành những kẻ sĩ có tên, có tuổi, những môn đồ hàng năm cùng ăn theo phần thịt tế với thầy...

Trời đã bắt đầu tối. Khí dương chỉ còn thoi thóp, khí âm đã thịnh tới mức tràn trề. Tảng thịt tế vẫn chưa thấy đâu. Nhưng bản lĩnh của thầy, lập trường của thầy thì quả thật phi thường. Thầy vẫn tin chắc sẽ nhận được tảng thịt ấy tuy rằng sức lực đã gần như cạn kiệt. Nhưng còn trong ngày lễ thì vẫn còn hy vọng. Biết đâu tảng thịt tế kia sắp được mang đến thì sao. Bây giờ nếu nhận được, tảng thịt chắc đã bị thiu. Nhưng không sao, miễn là đấng Chí tôn vẫn cho người ban xuống. Phần vật chất của tảng thịt dẫu có thiu, nhưng tinh thần thiêng liêng của nó thì làm sao thiu được. Chỉ có điều phải lạy một tảng thịt thiu thì có hơi thiệt mất một phần thể diện, hơi uế tạp cái lễ khí linh thiêng. Thầy không ngại gì điều ấy. Điều mà thầy lo lắng là liệu có còn sức mà lạy đủ ba lạy như mọi năm hay không. Thầy nhìn xuống các môn sinh, bấy giờ trời tối om, chỉ còn thấy một đám nhờ nhờ. Người nào người nấy cũng mệt mỏi rã rời, không còn giữ nổi lễ nghi nữa. Thế là kẻ thì bò lổm ngổm, kẻ duỗi thẳng chân tay, có kẻ thậm chí còn ngáy pho pho như thể đang nằm ngủ trên giường...

Thầy bắt đầu thấy ngao ngán cái sự đời. Chẳng lẽ gã Chuột Cống kia nhìn thấy thật hay sao? Nếu vậy thì lũ mèo cái kia có quyền gì mà cướp đi tảng thịt tế của thầy? Thầy biết đấng Chí tôn xưa nay có một cách chôn người rất mực... tân thời. Ấy là chẳng cần phải chém, chẳng cần phải vùi người ta xuống đất làm gì. Cần “chôn” ai thì chỉ việc biến người ấy thành cái “mả” di động là xong. Đó gọi là “chôn” người trong chính cái quan tài... người. Còn sống đấy nhưng thực ra đã chết, đang hữu dụng trở nên vô dụng, đang hữu danh biến thành vô danh... Có khi làm cho thành người ngớ ngẩn, vô hồn, lại có khi làm cho vừa câm, vừa điếc..., cũng có khi chẳng cần “làm” gì cả, chỉ “vô hiệu hoá” là xong. “Chôn” vùi người ta bằng cái cách như thế, đấng Chí tôn vừa đạt mọi mục tiêu, lại vừa được tiếng là nhân nghĩa, thương người(?). Những cái “mả” sống kiểu ấy thầy gặp khối trên đời. Chẳng lẽ bây giờ lại đến lượt thầy...

Bất chợt trong óc thầy loé lên một nỗi nghi ngờ. Hay quả thực có kẻ ăn mảnh, phản thầy? Trước kia thầy từng nghe phong phanh. Rằng trong đám kẻ sĩ, môn đồ của thầy có kẻ tìm cách lấy lòng những nhà quyền quý, những người gần gũi đấng Chí tôn, thậm chí quan hệ thẳng với đấng Chí tôn hòng kiếm chác nọ kia. Thôi thì bằng đủ mọi cách, họ hại nhau, nói xấu nhau, dẫm đạp lên nhau... để tranh giành ảnh hưởng. Cùng là kẻ sĩ cả với nhau, cùng học một sách, cùng bái một thầy... mà có bao giờ họ coi nhau ra cái gì đâu. Miếng ăn đã làm cho những kẻ đọc sách ấy mờ hết cả lương tâm. Thế rồi họ thi nhau bợ đỡ, nịnh nọt... thi nhau làm những việc đổi trắng thay đen, bại hoại luân thường... miễn sao kiếm chút cơm chút cháo thì thôi. Danh tiết đã trở thành món hàng xa xỉ, họ còn không từ cả ăn cắp ăn trộm, rồi lừa đảo thiên hạ, lừa đảo lẫn nhau... y hệt một đám lưu manh. Đến nỗi có người phải thốt lên: “chưa bao giờ kẻ sĩ rẻ mạt và hèn hạ như bây giờ...”

Thầy không tin những chuyện đó. Bằng chứng là đám môn sinh lúc nào mà chẳng lễ phép với thầy. Họ chẳng cũng đang đói khát chầu chực tảng thịt tế cùng với thầy kia hay sao? Thiên hạ thiếu gì kẻ độc mồm độc miệng, thiếu gì kẻ vì không biết đọc sách hoặc không bao giờ đọc sách cho nên tức, đâm ra nói xấu những người đọc sách đó thôi. Chính thầy cũng từng bị như thế, thậm chí có lần còn bị một đứa trẻ trỏ mặt bảo: “lão già hâm” nữa kìa. Tất nhiên kẻ sĩ không phải tất cả đều là thánh, là tiên, mà cũng chia ra hạng nọ hạng kia. Có kẻ đôi khi cũng ăn nói văng mạng, lăng loàn, cũng chửi nhau như hàng tôm, hàng cá, cũng diễn trò khi thì như con rối, khi lại như mấy anh hề... Nhưng chẳng qua chỉ là những kẻ đọc sách không đến nơi, đến chốn, những “con sâu” trong “nồi canh” kẻ sĩ mà thôi. Chứ còn tệ hại đến cái mức như người ta đồn đoán ấy thì thầy chẳng dại tin làm gì...

Rốt cuộc cũng đến lúc thầy hết hoàn toàn hy vọng. Lúc ấy đã cuối giờ hợi, vừa đúng nửa đêm. Trời tối như mực, đến lượt khí âm đã lên cực thịnh. Sắp bước sang ngày khác, không còn trong ngày lễ nữa rồi. Tảng thịt tế kia rốt cuộc đã không được mang tới. Nó dù có thiu hay thậm chí thối đi chăng nữa, thầy cũng không bao giờ được hưởng. Lũ mèo cái kia quả nhiên ghê gớm, nó cướp không những ân huệ vẫn dành cho thầy. Thế là hết. Thầy đói đến ù cả tai, bụng réo sôi lên, ngồi không vững, đến lượt thầy cũng đổ vật xuống nền nhà. Thầy cố gượng đứng lên, nhưng người thầy đã mềm nhũn ra như sợi bún, chỉ còn chống được hai tay, hơi nhổm người lên một chút... Mà sao xung quanh im ắng thế, chỉ còn nghe thấy tiếng thở hắt ra. Chẳng lẽ các môn đồ của thầy cũng lả hết rồi hay sao? Ra... đi... thôi... Thầy chỉ còn nghĩ được như thế. Thu hết sức lực, thầy phều phào bảo môn đồ nào còn sức thì thắp nến lên, rồi thu dọn đồ đạc mà dắt díu nhau rời khỏi nơi này...

Thầy phải ra đi. Nhưng đi đâu? thầy chưa nghĩ đến. Thế gian này có còn chỗ cho thầy, còn nơi nào dung kẻ sĩ nữa không? Suốt bao nhiêu năm nay, thầy cứ tưởng những tảng thịt tế kia là thơm ngon, béo ngậy, là đồng hành mãi mãi với kẻ sĩ như thầy... Có ai ngờ cũng đến ngày chấm dứt, cũng đến hồi cay đắng thế này. Quên không ban thịt tế cho thầy, nghĩa là người ta đã quên, đã không cần đến thầy nữa. Tảng thịt kia mới to tát, mới quan trọng đối với thầy làm sao. Ngày mai biết đâu có những kẻ độc mồm, nhân thấy thầy bỏ đi lại lu loa lên rằng thầy bỏ đi chỉ vì tảng thịt. Thôi thì tránh sao khỏi miệng lưỡi thế gian. Thầy mệt mỏi lê đến nơi đặt chai rượu cúng, thứ mà thầy không dùng đến bao giờ. Sờ soạng vớ lấy cái chai, thầy lập cập mở nút, ngửa cổ tu một hơi dài. Cái chất men làm cho thầy bừng tỉnh, buột miệng văng một tiếng chửi thề. Ôi, trước đây có kẻ bảo rượu là sáng tạo vĩ đại đầu tiên của loài người. Và tiếp ngay sau sự vĩ đại đó, con người liền sáng tạo ra... chửi thề. Bây giờ thầy mới tin là đúng. Thậm chí nếu kẻ ấy còn bảo rằng chửi thề ở xứ xở này đã trở thành một thứ di sản văn hoá phi vật thể(?), thì thầy cũng sẵn sàng tin ngay. Té ra gã Chuột Cống không hề hoa mắt. Thế thì cái lũ cáo đực kia, chắc vẫn mải làm tình với mấy con mèo cái, vẫn say sưa đồng tính với nhau mà chẳng bao giờ biết đến cái sự đi hay ở của thầy.

Nến được thắp lên, gian đại sảnh run rẩy một thứ ánh sáng đỏ quạch, tù mù. Thầy nhìn đám môn sinh mà bỗng giật mình, kinh ngạc. Gần một trăm kẻ chầu chực từ sáng sớm, giờ biến đi đâu hết, chỉ còn lại lác đác mấy người. Thì ra nhân lúc tối trời, những kẻ ấy đã lẻn đi kiếm riêng miếng thịt tế rồi. Giờ thì chúng đang thoả thuê đánh chén. Có khi còn giành giật với nhau, đánh nhau sứt đầu mẻ trán nữa chưa biết chừng. Thảo nào mà thầy cứ hoài công chờ đợi. Rõ là một lũ phản thầy. Thế mà lâu nay thầy cứ cố không tin. Hoá ra những điều đồn đoán trên kia là hoàn toàn có thật. Ôi kẻ sĩ, kẻ đọc sách xưa nay là thế đấy hay sao? Chẳng lẽ cái trật tự mà thầy tốn bao tâm huyết lập nên, rốt cuộc chỉ là ảo tưởng?. Thầy nghĩ vậy mà buốt tận tim gan. Thôi thì cũng thêm một bài học nhớ đời. Thầy buồn bã bảo mấy học trò còn lại thu xếp cho nhanh rồi treo ấn lên, thầy trò sắp hàng vừa khóc vừa lạy chiếc ấn ấy ba lạy, đoạn rồng rắn bấu vai nhau, bước thấp bước cao lần ra khỏi nhà. Con đường phía trước vẫn hun hút gió âm, giờ như sắp chìm vào quên lãng, vừa đen tối âm u, vừa thất thểu bóng người...

Giá của một lời nguyền

Phạm Lưu Vũ

0

Một nghìn đô la là cái giá để Lý chấp nhận lấy chồng ngoại quốc. Mụ cò mồi bảo đấy là giá cao bởi Lý đẹp, lại còn trinh. Chứ khối đứa con gái khác chỉ bốn năm trăm. Cá biệt có đứa chỉ vài chục đô tiền trà nước qua loa, một kiểu nôm na gọi là tống khứ đi cho rảnh nợ. Vùng này đang có phong trào lấy chồng người nước ngoài. Âu cũng là một cách kiếm sống, sống bằng mọi giá giữa thời buổi khốn nạn. Đám cò mồi, dắt mối người bản xứ tha hồ có đất làm ăn. Các ông bố, bà mẹ và các cô gái chấp nhận tất cả. Thôi thì đủ các loại rể. Từ rể già, rể trẻ, đến rể đui què mẻ sứt... hạng nào tiền nấy, miễn sao thanh toán bằng đô la là được rồi. Giá cả tỉ lệ thuận với nhan sắc, trinh tiết của các cô gái và tỉ lệ nghịch với hình thức, tuổi tác của những giống đực ngoại quốc kia. Nhìn chung là rẻ bất ngờ, lại có cả những nạn đầu cơ, tranh giành, phá giá... Lý nằm trong số ít những cô hên nhất. Gã trai mua Lý vừa trẻ tuổi, trắng trẻo lại đẹp giai. Một nghìn đô là cái giá rất hời.

Lý dặn dò cái Lơ - đứa em gái song sinh với mình ở nhà chăm sóc ngoại và trông nom, nhang khói cho hài cốt của má chôn dưới gốc dừa phía sau nhà. “Rồi thể nào chị cũng có đô gửi về. Em và ngoại sẽ không phải khổ nữa.” - Lý bảo em như thế. Ba bà cháu ôm nhau, nước mắt tuôn như suối...

Từ ngày Lý ra đi, bà Năm cứ hay giật mình thồn thột. Đêm nào bà cũng gặp phải những cơn ác mộng. Bà mơ thấy vong hồn má nó, đứa con gái oan nghiệt của bà trở về gào thét trên ngọn dừa. Có lần bà còn nhìn thấy vong hồn ấy hiện hình, đầu tóc rũ rượi bước hẳn vào trong nhà. Nó kêu khóc chán rồi bỗng trợn mắt, nghiến răng kèn kẹt. Từ miệng nó, thốt ra một lời nguyền ghê rợn. Kí ức dữ dội tưởng đã đào sâu chôn chặt, nay lại hiện lên rõ mồn một.

*

* *

Bốn mươi năm về trước. Cô Năm ngày ấy trẻ đẹp có tiếng trong vùng. Bấy giờ vùng này đang là vùng tranh chấp, ban ngày thuộc về phía bên này, ban đêm lại thuộc phía bên kia. Chỗ nào cũng đầy những bóng lính đánh thuê. Số kiếp của những bông hoa đẹp như cô Năm có ai ngờ lại mong manh như một làn khói mỏng. Một gã lính đánh thuê người ngoại quốc từ lúc nào đã phát hiện ra cô và rắp tâm ăn mảnh. Gã đã chán cái cảnh hàng chục thằng lính thay phiên quần thảo một con đàn bà bản xứ đến nhã nhượi. Gã muốn được hưởng một mình. Trong một lần đi lùng sục, gã cố tình chờ cho đồng bọn đi khuất rồi lẻn vào nhà cô Năm. Cô Năm sợ chết khiếp khi cái thân thể quấn đầy súng đạn của tên lính đè nghiến cô xuống bộ ván kê giữa nhà. Sau khi trói hai chân, hai tay cô vào bốn góc của bộ ván bằng dây dù một cách thành thạo, con thú đực ấy hau háu vặt từng mảnh quần áo trên người cô như người ta vặt lông một con gà. Xong xuôi, nó đứng dậy, vừa ngắm nghía thân thể nõn nà của cô một cách man dại, nó vừa cuống quýt cởi bỏ bộ quân phục. Thế rồi cái khối dâm dục đỏ au, ngồn ngộn thịt của con thú ấy đổ ập xuống người cô...

Lý chẳng biết nói chuyện gì với cái anh chồng ngoại quốc đẹp giai của mình. Mà có muốn, cô cũng chẳng nói được vì bất đồng ngôn ngữ. Từ ngày rời khỏi nhà cho đến lúc lên máy bay, thỉnh thoảng hai người chỉ ra hiệu với nhau bằng chân tay, còn mồm thì câm như thóc. Mỗi người rõ ràng đang theo đuổi những ý nghĩ rất riêng. Gã Cơm Thiu này (Lý gọi tên anh chồng như thế. Đúng ra thì gã tên là Kumthusine... gì đó) mặt lạnh như tiền, ánh mắt gã không hề có chút tình cảm yêu đương. Gọi là vợ chồng mà lạ sao suốt mấy hôm ở khách sạn, gã không hề chạm tới người cô. Điều đó làm cho cô cảm thấy áy náy không yên. Cô mơ hồ thấy một tương lai không mấy sáng sủa đang chờ mình phía trước. Lý non nớt, quê mùa và ngây thơ nào có biết, Cơm Thiu đâu thiết gì cô, Cơm Thiu đang nghĩ tới chuyện khác. Sinh ra trong một gia đình giàu có, ông nội gã là triệu phú. Bố gã chết trong một tai nạn máy bay. Cơm Thiu đang nghĩ tới khối tài sản kếch xù của ông nội mà gã hy vọng sẽ được thừa kế, với điều kiện gã phải làm vừa lòng lão ông triệu phú ấy. Ông nội gã không chỉ có mình gã là đứa cháu duy nhất. Lần này, Cơm Thiu mò sang tận Việt nam lấy vợ, chính là nằm trong kế hoạch của gã nhằm chinh phục cái quyền thừa kế ấy...

Nằm dưới một khối thịt tưởng chừng nặng đến ngàn cân đang rung lên hầm hập của tên lính, cô Năm oằn người, cảm thấy nhục nhã, đau rát và chấn động toàn thân. Cô nhắm nghiền mắt lại, cay đắng nghĩ tới người yêu. Hai Nhứt, người yêu của cô vốn là người thuộc “phía bên kia”. Hai người đang có một mối tình thật đẹp. Từ khi xuất hiện lũ lính đánh thuê trên đất này, anh và các đồng đội của anh luôn được coi là thần tượng, là sự chở che, là anh hùng đối với cô, những người phụ nữ yếu đuối và cả dân chúng trong vùng. Anh xuất quỷ nhập thần, từng là nỗi kinh hoàng đối với lũ lính thú vật ấy. Nhưng giờ này anh ở đâu? Anh có biết rằng con thú này sắp cướp đi cái quý nhất cô chỉ dành riêng cho anh? Hai người đã thương nhau, cùng hẹn nhau chờ đợi, cố để dành cái thiêng liêng nhất của người con gái cho đến ngày làm đám cưới... Vậy mà bây giờ...

Đúng lúc đó, Hai Nhứt không ở đâu xa. Anh đang ngồi trên “chòi quan sát” của mình, tít trên một ngọn dừa cao ở đầu thôn. Anh phát hiện lũ lính ngoại quốc kia vào lùng sục trong làng. Cũng như mọi lần, trong làng lại rộ lên những tiếng chó sủa, tiếng gà kêu, cả tiếng súng kéo theo những bước chân của lũ cướp ngày man rợ ấy. Lúc chúng rút ra đến con lộ, Hai Nhứt đếm lại và rất phân vân khi thấy thiếu một tên. Còn một tên nữa ở đâu? Hai Nhứt biết bọn này vẫn thường hay tách ra để “ăn mảnh”. Nhưng hôm nay có điều gì đó khác thường. Tự nhiên, anh cảm thấy bồn chồn không yên, không còn bụng dạ nào để tiếp tục quan sát được nữa. Hai Nhứt quyết định tụt xuống khỏi ngọn dừa, rồi men theo những vườn cây, bờ lạch, anh thận trọng luồn vào trong xóm.

Linh tính dẫn đôi chân của Hai Nhứt tiến về phía nhà người yêu. Anh cảm thấy rõ ràng có chuyện chẳng lành đang diễn ra trong căn nhà ấy. Hai Nhứt vớ vội một cây mác dựng bên ngoài, đạp cửa xông vào và bỗng choáng người khi chứng kiến người yêu đang bị làm nhục. Anh thét lên một tiếng, đồng thời vung cây mác lên. Tên lính đánh thuê kia đang mê mải bỗng giật nảy mình, gã vội vã lăn một vòng theo phản xạ xuống đất rồi đạp mạnh chân, lao đầu phóng người qua vách sau. Hai Nhứt đã kịp lao theo. Lưỡi mác trong tay anh bổ xuống, chém gần đứt lìa một cẳng chân của gã. Quá hốt hoảng, gã lôi tuột cả cái đoạn chân lắt lẻo ấy, dùng một chân còn lại và hai cánh tay hối hả bươi xuống đất, chuồi người lọt ra sau nhà. Hai Nhứt chạy vòng ra phía sau đuổi theo. Anh điên cuồng bổ túi bụi những nhát mác xuống cái khối thịt đỏ lòm đang lăn lông lốc dưới chân, bất kể nó trúng vào chỗ nào. Hai Nhứt cứ chém, nó cứ lăn. Nó lăn đến bờ con lạch và rơi tòm xuống đó. Hai Nhứt nghiến răng ném theo cây mác. Mặt nước đang yên lặng chợt sục lên đỏ ngầu, sủi tăm như đã ghim vĩnh viễn cái đồ ghê tởm ấy xuống đáy con lạch...

Không có hoa, không có tiệc tùng. Không có đám cưới nào diễn ra như Lý đã tưởng tượng trước khi tới cái xứ sở xa lạ kia. Gã Cơm Thiu mang Lý về như mang theo một món đồ. Lý bắt đầu cảm thấy thất vọng nhưng vẫn âm thầm chịu đựng. Cô chỉ còn biết bấu víu niềm tin vào một phong tục quái gở nào đó nơi xứ người. Nhưng cô có biết đâu rằng những toan tính của gã Cơm Thiu còn quái gở hơn. Mấy tuần đầu làm những công việc của một đứa con ở trong nhà, một buổi chiều Lý gặp cái lão triệu phú ấy. Đó là một lão già gớm ghiếc, tròn ủng như một con heo, một chân lão cụt đến đầu gối, mặt mũi đầy sẹo. Lão già - ông nội của gã Cơm Thiu nhìn Lý hau háu như quỷ đói và nhe răng cười khoái trá. Lý bỗng cảm thấy rùng mình. Bấy giờ, cô mới chợt hiểu tất cả. Thì ra gã Cơm Thiu giả bộ cưới cô về để cho chính lão già. Đến lúc ấy, những kẻ kia cũng chẳng cần úp mở nữa. Lý đã hoàn toàn nằm trong tay họ. Hai con đực xa lạ, một già, một trẻ đã hiểu rõ bụng dạ của nhau. Chúng nhìn nhau cười hô hố. Rồi chúng vừa chỉ trỏ vào Lý, vừa líu lo bàn tán, mặc cả với nhau bằng cái thứ ngôn ngữ mà cô hoàn toàn mù tịt...

Cô Năm lờ mờ nhận thấy sự xuất hiện của người anh hùng. Rốt cuộc anh đã đến. Nhưng hình như vẫn muộn mất rồi. Cái khối thịt nặng nề, tởm lợm kia đã được trút bỏ khỏi người cô. Cô nghe những tiếng thở hồng hộc, tiếng uỳnh uỵch và phầm phập chém xuống của ngọn mác phía sau nhà. Không biết nên sung sướng hay tiếp tục đau khổ, đầu óc cô đã hoàn toàn mê muội. Rồi hình như người anh hùng ấy đã quay trở lại. Cô nghe thấy những tiếng rít ghê rợn giữa hai hàm răng của anh, cảm thấy rõ ràng sự lồng lộn, uất hận của người yêu khi chứng kiến cô bị trói dang chân dang tay, trần truồng nằm trên bộ ván. Tấm thân cô đã bị làm cho ô uế. Cô hiểu rõ điều đó. Nhưng cô chưa biết rằng sự tiếc nuối, ghen tức và căm hận đang làm cho Hai Nhứt nghẹn thở. Đầu óc anh mụ đi. Anh căm hận cuộc chiến tranh này, căm hận kẻ khốn kiếp kia, căm hận cả cái thân thể thanh tân hừng hực của người yêu mà bấy lâu nay, anh đã cố để dành... Bỗng một cái gì đó lại đổ ập lên người cô. Một lần nữa, cô chết điếng người khi toàn thân lại dội lên một cơn đau rát. Trước mắt cô, màn đêm bỗng bất ngờ chụp xuống giữa ban ngày. Cô ngất đi...

Gã Cơm Thiu đã đạt được mục đích. Dùng Lý làm món quà cho lão ông nội triệu phú, bản di chúc rốt cuộc đã được kí, ghi rõ tên người thừa kế là gã. Lý bị tống vào buồng ngủ của lão già. Làm sao cô có thể chịu đựng nổi điều đó kia chứ. Cô gào thét, cào cấu và chửi rủa loạn xạ. Mặc! Lão già đâu có hiểu những câu chửi rủa của cô. Nhưng Lý còn có sức mạnh, sức mạnh của tuổi trẻ mà một lão già ngoài bẩy mươi lại cụt chân như lão, không thể hễ cứ muốn là được. Loay hoay mãi không làm gì được cô, lão già tức tối rống lên như con heo bị chọc tiết, bọt mép lão sùi ra. Ngay lập tức, đứa cháu nội của lão ra tay. Bấy giờ, cái vỏ lịch sự, sang trọng của gã Cơm Thiu ấy đã hoàn toàn biến mất, gã hiện nguyên hình là một con thú cường bạo. Gã trói Lý vào cột, dùng gậy vụt tới tấp lên người cô. Lý rũ rượi và nghiến răng chịu đau, cô vẫn một mực từ chối. Cô đòi về nhà. Nhưng liệu cô còn có thể làm gì được bây giờ?...

Bà con chòm xóm phát hiện cô Năm bị cưỡng hiếp, vẫn còn bị trói, nằm trần truồng trên bộ ván đã kịp thời cứu và dấu cô đi trước khi bọn lính đánh thuê kia quay lại tìm đồng đội. Hai Nhứt sau khi trút ra hết mọi uất hận, đã bỏ đi biệt tích từ đó. Không ai biết anh ta đi đâu. Có người nói anh chuyển sang hoạt động ở một vùng khác, cũng có người bảo rằng anh đã chết. Riêng cô Năm, chẳng hiểu vì sao từ đó ghê sợ tất cả các loại đàn ông, bất kể ta hay địch. Và một điều còn ghê rợn hơn, không ai lý giải nổi đã xảy ra. Cô có mang. Má cô sau sự việc đau buồn ấy chẳng bao lâu thì mất. Cô còn một người anh bị bắt đi lính quốc gia, song đã chết mất xác tận Tây nguyên. Được bà con trong ấp thông hiểu và đùm bọc, chín tháng sau, cô Năm sinh một bé gái. Chính là má ruột của Lý và Lơ sau này. Cô đặt tên cho nó là Hoa. Nhưng mọi người xung quanh vẫn thường gọi nó bằng một cái tên kép là Hoa Dại...

Lão triệu phú già tức giận, điên cuồng khi chưa khuất phục được Lý. Lão muốn cô phải ngoan ngoãn phục tùng. Vậy thì lão sẽ thi gan với cô, sẽ bỏ đói, sẽ hành hạ xem cô chịu đựng được bao lâu. Có một điều mà gã Cơm Thiu rất hiểu, rằng lão rất sợ nếu phải ra tay cưỡng hiếp Lý. Lão thường kể cho gã cháu nội nghe câu chuyện rùng rợn ngày ấy. Ngày mà lão theo chân đội quân đánh thuê tới một xứ sở vùng nhiệt đới. Lão được tuyên truyền rằng đó chẳng qua chỉ là một cuộc đi săn dài ngày, rằng nơi đó như một chốn hoang vu, vô chủ, tha hồ mà cướp, hiếp... Thực tế, lão và đồng bọn suốt một thời gian dài quả thật đã hành sự y hệt những kẻ đi săn. Trong một lần đi ăn mảnh, chưa kịp thực hiện cái công đoạn cuối cùng của một vụ cưỡng dâm, lão bị chém cụt một chân, lại còn mang theo bao vết chém trên người. May mà về sau, lũ đồng bọn đã tìm thấy và cứu sống lão. Suốt từ đó, lão khắc sâu sự rùng rợn ấy vào trong lòng. Lão căm tức và muốn trả thù. Lão nuôi ý định sẽ trả thù bằng cách bắt một người con gái còn trinh tiết ở chính cái nơi đó phải phục vụ lão, đền bù cho lão cái chân cụt và những vết chém thù hận kia... Lão chờ cơ hội và lạy giời, cơ hội đã đến. Xứ sở ấy không thể chinh phục được bằng sức mạnh thì sẽ chinh phục được bằng đồng đô la. Đồng đô la sẽ giúp lão có cơ hội thay cho súng đạn với cả những đội quân viễn chinh. Thằng cháu nội láu cá của lão đã nhanh chóng hiểu ý và giúp lão làm được điều đó, Lý trẻ đẹp giờ đây đang nằm trong tay lão...

Cô Năm cay đắng sống và nghiến răng nuôi đứa con gái oan nghiệt. Ngày lũ lính ngoại quốc kia bị quét sạch thì Hoa Dại được gần chục tuổi. Những người thuộc “phía bên kia” đã chiến thắng trở về. Cùng với mọi người xung quanh, cô Năm háo hức như một đứa trẻ, trong lòng tràn ngập nỗi vui sướng, hy vọng vào một cuộc đổi đời. Hai Nhứt vẫn biệt vô âm tín. Như một cái cây bị bầm dập đến hồi xanh tốt trở lại, cô Năm càng có tuổi, lại càng đẹp và hấp dẫn. Cô không ngờ lại lọt vào “tầm ngắm” của một người vốn là đồng đội của Hai Nhứt trước kia. Ông ta say mê cô, thèm cô đến mất ăn mất ngủ, ngày nào ông cũng tìm cách gạ gẫm. Nhưng lòng cô thì đã nguội lạnh với đàn ông từ lâu rồi. Thậm chí cô còn ghê sợ cả cái cơ thể hừng hực vốn làm cho đàn ông phải chết thèm chết nhạt của mình. Càng không được cô Năm đáp ứng, người đàn ông kia càng si mê điên cuồng. Ông ta tìm cách đưa cô vào làm thủ quỹ của cái cơ quan do ông phụ trách, hy vọng sẽ có cơ hội được thoả mãn sự thèm khát của mình.

Có lẽ đấy là quãng thời gian duy nhất trong đời cô Năm nhìn thấy vàng. Hàng đống vàng tịch thu từ trong két sắt của những nhà tư bản, địa chủ trong vùng được khuân về cơ quan, giao cho cô cất giữ. Tất cả bây giờ là thuộc về nhân dân, của nhân dân, trong đó tất nhiên có cả cô. Cô nghe người đàn ông kia bảo thế. Nhưng cô cũng chỉ được nhìn thấy thôi. Cô vĩnh viễn không bao giờ được phép hiểu mấy cái tính từ sở hữu gọi là “thuộc về”, gọi là “của” kia, rốt cuộc sẽ có ý nghĩa như thế nào? Và không chỉ có thế, cô Năm còn được nghe rằng cuộc chiến tranh này đã mang lại cho cô và những người dân như cô nhiều thứ khác còn quý hơn cả vàng, ví dụ quyền tự do chẳng hạn... Thế thì còn gì bằng. Thế thì cô cần phải biết ơn chiến tranh, biết ơn những người đã làm nên cuộc chiến này.

Nhưng có một điều cô Năm hoàn toàn không thể ngờ rằng cô vẫn còn sở hữu một thứ vô cùng nguy hiểm cho chính mình. Đó là sắc đẹp và sự hấp dẫn trời cho. Những thứ chết tiệt ấy muôn đời vẫn làm điên đảo lòng người. Nó chưa bao giờ có ý buông tha cô. Nó vẫn rình rập và chờ cơ hội để trút tai họa xuống cuộc đời cô một lần nữa. Sau khi đã dùng đủ mọi cách mua chuộc, ve vãn mà chỉ nhận được sự thờ ơ, lãnh cảm tuyệt đối của cô, người đàn ông kia cảm thấy bị xúc phạm, bị vong ơn. Ông ta bắt đầu thay đổi thái độ và quyết bắt cô phải trả giá cho sự xúc phạm ấy. Một hôm người ta kiểm kê két vàng và bỗng phát hiện tất cả chỉ là vàng giả. Có kẻ đã đánh tráo và ăn cắp kho vàng thật kia của nhân dân. Tất nhiên cô Năm là nghi can số một. Nói phải tội, đối với cô thì ngay cả vàng giả, đời cô cũng chưa bao giờ được biết nó như thế nào, huống hồ là đánh tráo. Nhưng trước những âm mưu và lòng thù hận của con người, cô còn biết giải thích sao đây? Ngay lập tức, cô bị kết tội ăn cắp tài sản của nhân dân, là kẻ thù của nhân dân... Không cần xét xử vì bấy giờ đó là một cái tội tày đình. Cô Năm bị bắt đi cải tạo...

Lý bị trói, bị bỏ đói, chỉ cho uống nước đến ngày thứ ba thì cô rũ ra như một tàu lá héo. Gã Cơm Thiu không còn thấy lai vãng đến nữa. Lão già triệu phú thay đổi chiến thuật. Lão xoay ra săn sóc, mơn trớn cô bằng cái thứ ngôn ngữ thổ tả mà cô chẳng hiểu tý gì. Cô nhớ ngoại, nhớ đến nắm xương lạnh lẽo của má chôn dưới gốc dừa, nhớ đứa em song sinh, nhớ quê hương mà cay đắng và tuyệt vọng. Trong bốn bức tường của tòa lâu đài, giữa một xứ sở giàu có, văn minh nhưng hoàn toàn xa lạ này, cô biết trốn đi đâu? Cô gần như đã bị khuất phục. Trước sự thật bỉ ổi và ghê tởm đang hiện hữu kia, sức lực của cô đã cạn kiệt, không còn khả năng chống lại nữa. Có vẻ như đã đến lúc lão già triệu phú kia sắp đạt được mục đích của mình. Nhưng Lý còn một khả năng kháng cự cuối cùng. Đó là ánh mắt khủng khiếp, rực lên một nỗi thù hận của cô chiếu thẳng vào lão mỗi khi lão định giở trò sàm sỡ. Đó không phải là ánh mắt của một cô gái sắp sửa bị làm nhục. Ánh mắt ấy là của ma quỷ, có một thứ ma quỷ nào đó đã theo cô đến tận nơi đây. Ánh mắt của nó làm cho lão triệu phú hoảng hồn. Lão có thể nhắm mắt lại, hoặc che mặt đi để trốn tránh. Nhưng những vết sẹo chằng chịt trên người lão thì không trốn nổi, chúng đột nhiên lên cơn đau nhức dữ dội. Không những thế, những kí ức rùng rợn ngày trước lại bất chợt hiện về, rõ rệt trước mắt lão như thể tất cả được chiếu ra từ ánh mắt ấy...

Hoa Dại mười tuổi không ba, mất má, may mà có sự đùm bọc của bà con cùng ấp. Nó trong trắng và vô tội như chính sự vô tội của vùng đất này từ hàng nghìn năm nay. Nhưng đứa con gái hoang của một kẻ ăn cắp tài sản nhân dân thì làm gì có chuyện được học hành. Mặc kệ, nó vẫn lớn lên và quả đúng là một bông hoa dại. Gió vẫn thổi, cây vẫn xanh và ngày ngày, mặt trời vẫn rực sáng trên đầu. Càng lớn, Hoa Dại càng phổng phao, dễ thương y hệt má Năm nó trước kia. Chốn hương đồng, gió nội này cứ thản nhiên hun đúc nên những cái đẹp, những cái hấp dẫn điên đảo như thế để rồi chẳng hứa hẹn trước một điều gì. Như một thứ sản phẩm do Trời sinh ra, Hoa Dại cứ thế vô tình lớn lên, vô tình xinh đẹp mà không cần biết những gì đang chờ đợi mình ở phía trước. Năm mười bẩy tuổi, Hoa Dại được cậu con trai ông Ba trên thị trấn để mắt tới. Người viết lại câu chuyện này không biết ông Ba ấy cụ thể là ai. Mà điều đó thực ra cũng không quan trọng, những người như ông đời nào mà chẳng có. Chỉ biết rằng vàng bạc và quyền thế của ông Ba dành cho cậu con trai có thể làm nên mọi chuyện. Không cần phải công phu gì cho lắm, Hoa Dại đã dễ dàng sa vào vòng tay của cậu quý tử ấy. Một hôm, trong một ngôi nhà sang trọng ở ngoại ô thị trấn, lần đầu tiên Hoa Dại biết thế nào là sự lộng lẫy, choáng ngợp thì ra vẫn hiện hữu ở đâu đó trong đời. Nó khác biệt hẳn những tồi tàn, tăm tối của cái vùng quê nơi cô đã lớn lên. Cô bé quê mùa quay quắt trong tiếng nhạc, rượu bia và thuốc kích thích. Cùng với cậu con trai kia, cô cuống cuồng dứt bỏ những mảnh quần áo trên cơ thể mình rồi lao vào gã như một con thiêu thân.

Cứ thế hàng tháng trời, Hoa Dại đã kịp quên hết thân phận, quên cả người má tội nghiệp đang nằm trong trại cải tạo để ngập mình trong những cuộc truy hoan. Nhưng tất cả không chỉ dừng lại ở đó. Sau khi đã nhàm chán thân xác Hoa Dại, cậu quý tử kia bắt đầu rủ rê đám bạn bè cũng con nhà quyền thế như cậu chung nhau “làm thịt” con bé. Thị trấn bấy giờ nức tiếng đám công tử ăn chơi nhất hạng ấy gọi là nhóm G7. Nhóm G7 gồm toàn những chàng trai thời thượng, con nhà danh giá. Họ không thiếu gì tiền, vàng và quyền lực của những ông bố, bà mẹ để thoả mãn cơn khát dục của mình. Có thể những người bình thường không tin hoặc không tưởng tượng nổi. Nhưng đừng có ai nghi ngờ về sự hiện hữu rành rành của họ trong cuộc đời này. Nhất là đừng có nghi ngờ về những sức mạnh ghê hồn của họ. Vàng và thuốc kích thích sẽ khuất phục tất cả. Hoa Dại chỉ là một trong số rất nhiều cô bé khác trong vùng bị cuốn vào cái nhóm ấy. Nhưng rồi cũng chẳng được bao lâu. Những bông hoa dại mới được tuyển đến thì những bông hoa cũ bị bỏ đi. Hoa Dại rốt cuộc cũng đến lúc làm cho cả nhóm nhàm chán. Họ tống cô bé về quê cùng với một cái thai trong bụng, cái thai mà cô sẽ chẳng bao giờ biết là của ai trong cái nhóm G7 trứ danh ấy?

Bị đuổi ra khỏi chốn ăn chơi lộng lẫy, trả về đúng nơi tăm tối cũ, Hoa Dại rốt cuộc sẽ tiếp tục đẻ ra những bông hoa dại khác để kế thừa cái số kiếp của mình rồi tàn tạ...? Rất tiếc cuộc đời lại có vẻ không xuôi theo một chiều như thế, mà luôn có những diễn biến bất ngờ. Hơn một năm sau ngày Hoa Dại bị thải ra khỏi thiên đường của nhóm G7, lúc ấy cô đã sinh một lúc hai bé gái, đó chính là Lý và Lơ sau này. Ở một chốn cao cao nào đó, có vẻ như người ta đã tình cờ lần ra manh mối thân phận của cô. Ông Ba một hôm gọi cậu con trai lại. Ông hỏi thăm về cái con bé Hoa Dại của nó ngày trước. Rằng có một ông Hai nào đó từng yêu thương má ruột của Hoa Dại hồi chiến tranh không phải là đã chết. Chẳng ai hiểu vì lý do gì, ngày đó ông Hai đột ngột từ bỏ vùng này, chuyển sang hoạt động ở một vùng khác. Ông Hai ấy bây giờ có địa vị rất cao. Cao đến mức ông ta có thừa quyền lực để làm tiêu tan cả công danh, bổng lộc của ông Ba cũng như của cả cậu quý tử sau này. Hoa Dại phải chăng là giọt máu ngày xưa của ông Hai? Biết đâu được, mọi điều đều có thể xảy ra. Nếu ông Hai ấy biết Hoa Dại hiện đang có ở trên đời, đã bị nhóm G7 của cậu quý tử làm cho tan nát, biết má nó đang bị oan ức trong trại cải tạo... thì sự nguy hiểm sẽ không thể nào lường được. Địa vị của ông Ba và những người như ông quan trọng gấp nghìn lần số kiếp của những bông hoa dại như nó. Vậy thì, ông Ba và cậu quý tử của ông cần phải nghĩ ra cách gì đó, cần phải làm điều gì đó, đặng giữ an toàn tuyệt đối cho cái danh giá ấy của mình. Thứ gì bèo bọt thì nên để cho nó kết thúc theo kiểu bèo bọt...

Một hôm, cậu quý tử ấy trở về tìm Hoa Dại. Có vẻ cậu ta đã ân hận, đã nghĩ lại và muốn bù đắp một cuộc sống tốt đẹp cho mấy mẹ con cô? Hoa Dại rất tin điều đó, ai cũng sẵn sàng tin điều đó. Gặp lại Hoa Dại sau một thời gian dài vứt bỏ, cậu quý tử không ngờ lại bị choáng ngợp trước sự mặn mà và hấp dẫn mới của cô. Cái đất này thì ra lại cứ hay đùa bỡn, trớ trêu như thế. Hoa Dại chưa đầy hai mươi tuổi, đẻ một lần như người được thay máu, cô nhanh chóng khôi phục nguyên vẹn những nét hấp dẫn mê ly ngày trước. Ông trời đã cho cô cái này, song lại lấy đi của cô tất cả những cái khác. Hoa Dại gặp lại cậu quý tử ấy thì mừng lắm. Đất này không ai biết giận bao giờ, nhất là những bông hoa dại như cô. Lại vàng, tiền, uy quyền và những lời hứa hẹn. Hoa Dại đem hai bé Lý, Lơ gửi hàng xóm rồi ra đi. Cậu quý tử dẫn Hoa Dại đi tít mãi phía cánh đồng. Hai người đi dọc theo một con kinh thẳng tắp, hai bên bờ là những hàng dừa, những bụi cây lặng ngắt, thỉnh thoảng lại thấy buông những tiếng thở dài. Cả một bầu trời quê mênh mông. Đây đó có những ngôi chùa bề thế, toà ngang dãy dọc, mang một lối kiến trúc rất đặc trưng. Thật đúng là những chốn an lành, vĩnh cửu của cõi tâm linh. Đây đó lại thấy những xóm ấp tồi tàn ẩn mình dưới những tán dừa. Ở đó rất hiếm tìm thấy một ngôi nhà xây kiên cố. Những con người từ đời này sang đời khác chỉ biết chui rúc trong những căn nhà lá, tường đắp bằng đất hoặc thưng bằng phên tre. Thật đúng là những nơi bất trắc, tạm bợ của cõi trần tục. Gió thổi từ dưới dòng kinh lên man mác hơi bùn. Mùi con gái mới sinh gây gây, ngầy ngậy toả ra từ mái tóc, từ thân thể của Hoa Dại làm cho gã con trai ngây ngất. Bây giờ cậu mới biết, thì ra ở giữa cái chốn đồng không mông quạnh, lấm lem bùn đất này, sự hấp dẫn của những bông hoa dại mới thực sự tuyệt vời. Nó còn khêu gợi gấp nghìn lần những nơi sang trọng loè loẹt, sặc sụa mùi rượu bia, khói thuốc lá mà cậu và lũ bạn trong nhóm G7 hằng trải qua. Hơn cả những khi phải uống rượu mạnh, rượu sừng tê hoặc thuốc kích thích. cơn thèm khát trong con người cậu quý tử đã dâng đến tột đỉnh. Không kịp suy nghĩ gì nữa, gã hấp tấp quàng tay qua eo lưng Hoa Dại, ôm cứng lấy cô rồi vật cô xuống một đám cỏ cạnh bờ kinh. Hoàng hôn bắt đầu buông xuống rất nhanh...

Lão triệu phú vẫn không có cách gì thoát khỏi sự trừng phạt của ánh mắt Lý mỗi khi lão muốn hành sự. Lão đã mấy phen kinh hồn khiếp đảm nhưng vẫn không từ bỏ cái ý định khốn kiếp của mình. Lão không thể giải thích nổi. Có gì liên quan giữa ánh mắt ấy của Lý với những vết sẹo lão đang mang trên người? Đó phải chăng chỉ là sự ám ảnh, cộng hưởng của ảo giác? Không bao giờ lão chịu tin rằng quá khứ sẽ có lúc trở lại để trừng phạt tội ác của lão. Chẳng lẽ phải khoét đôi mắt của nó đi? Lão cũng dám làm điều đó lắm, lão đang phát điên đây. Dù có phải chết, thì trước khi chết, lão thề sẽ khoét đôi mắt của Lý. Chính cô ban đầu cũng chưa nhận ra điều kì lạ ấy từ đôi mắt của mình. Cô kinh ngạc thấy lão triệu phú đang sắp sửa giở trò bỗng rụt tay lại, ôm mặt rú lên những tiếng rú khủng khiếp, lại còn ngã vật ra lăn lộn, tỏ vẻ đau đớn lắm. Cô soi gương và bỗng giật mình nhận thấy những tia nhìn khác hẳn đang chiếu ra từ đôi mắt của chính mình. Ánh mắt ấy hình như không phải của cô, của một ai đó, lại như ở một cõi khác, không hề có giữa chốn trần gian khốn nạn này. Dù thế nào thì cô cũng không quan tâm. Vấn đề là cô tạm thời được yên ổn, chưa bị con quỷ già kia làm hại. Song cô biết sự yên thân này sẽ chẳng kéo dài. Lão triệu phú đã gọi gã Cơm Thiu đến. Phải tìm mọi cách đối phó với ánh mắt ấy trước khi buộc phải khoét nó đi. Hai ông cháu con đực ấy đang lấm lét bàn bạc, suy tính một điều gì...

Bà Năm (cô Năm ngày trước bây giờ đã trở thành bà Năm) được ra khỏi trại cải tạo, bà trở về thì chỉ còn được thấy hai đứa cháu gái song sinh. Hai đứa sinh ra trong thời gian bà còn nằm trong trại. Chúng được bà con trong ấp nuôi nấng, nay giao lại cho bà. Còn Hoa Dại, má của chúng đã bỏ đi biệt tích theo cậu công tử từ đúng cái ngày ấy, không ai biết cô đi đâu. Bà Năm lại lần hồi nuôi Lý và Lơ bằng cỏ rác, bằng nước mắt và những sình lầy quanh năm nước đọng trong vườn nhà. Mặc kệ những gì đồn đãi, mặc kệ những gì đã và sẽ còn giáng xuống. Hai bé gái cứ lớn lên và chúng quả nhiên lại hứa hẹn sẽ trở thành những bông hoa dại. Gió vẫn thổi, cây vẫn xanh và ngày ngày, mặt trời vẫn rực sáng trên đầu. Một buổi chiều u ám, bà Năm bỗng như người mộng du dắt theo Lý và Lơ, lúc này đã được hơn chục tuổi. Không ai biết ba bà cháu đi đâu. Chỉ biết rằng ba cái bóng ấy lúc khuất lúc hiện chập chờn, nghiêng ngả dọc theo bờ kinh. Ba bà cháu cứ đi, đi tít mãi về phía cuối con kinh. Những bước chân như được dẫn đường bởi ma quỷ. Hai bên tai gió lạnh thổi hầm hào, tràn ngập một thứ mùi rờn rợn, lạnh toát đến gai người. Đâu đó giữa cánh đồng vọng về những tiếng chuông chùa buồn tẻ. Đang có giấc cầu nguyện buổi chiều.

Tới đúng chỗ có ngã ba, nơi con kinh đổi dòng để chảy ra với biển, bà Năm bỗng dừng lại. Đôi mắt đã mờ đục, man dại của bà nhìn trân trối vào một gốc mù u mọc ngay sát bờ kinh, trơ những đoạn rễ loằng ngoằng, khẳng khiu của nó cắm sâu xuống mặt nước. Bất chợt, hai tay Bà Năm chới với, bà khuỵu xuống, vừa nức nở vừa run rẩy thốt lên hai tiếng: “Con ơi!”. Ngay lúc đó, một làn gió thổi ào tới. Ngã ba dòng kinh đen ngòm như hoảng hốt vì bị đánh thức bất ngờ. Một con sóng trào lên đập mạnh vào gốc mù u. Bụi nước tung lên cao, trùm kín lấy ba bà cháu. Lẫn trong tiếng sóng và tiếng gió, nghe như có tiếng khóc nỉ non của một linh hồn oan khuất. Lý và Lơ bé bỏng không hiểu chuyện gì xảy ra. Hai đứa hoảng sợ ríu cả chân lại. Chúng vừa ôm chặt lấy nhau, vừa khóc thét lên như bị ai đánh. Tiếng khóc của ba bà cháu làm lặng ngắt một khoảng trời chiều.

Một lát sau, bà Năm dần dần trấn tĩnh lại. Vẫn còn run rẩy nhưng đầy vẻ quả quyết, bà thả chiếc áo khoác ngoài xuống đất rồi bước tới gốc mù u, thận trọng bám vào những đoạn rễ của nó và từ từ lần xuống. Ngâm hẳn người xuống dưới dòng kinh lạnh lẽo, bà đưa hai tay mò sâu vào phía trong gốc mù u, bới trong bộ rễ dày đặc, rối tung của nó như muốn tìm kiếm một vật gì. Hình như bà đã ra khỏi cơn mộng du. Bàn tay của bà đã đụng vào cái vật cần tìm ấy. Bà vội vã nâng nó lên khỏi mặt nước, ôm nó vào lòng. Đó là một khối tròn to, đen sì và ròng ròng bùn nước. Bà Năm một tay giữ chặt nó trước ngực, một tay bíu những rễ cây, lập cập leo lên bờ. Bà lấy chiếc khăn rằn đang quấn trên đầu xuống, trải nó trên mặt đất rồi cẩn thận đặt cái khối tròn tròn ấy lên. Đó là một cái sọ người. Lúc này hoàng hôn đã buông được một lúc, màn đêm sắp sửa bôi nhọ hết bầu trời. Dưới thứ ánh sáng nhờ nhờ ấy, cái sọ ướt đẫm vẫn còn kịp hắt lên óng ánh, từ trong hai hốc mắt sâu hoắm, lấp loáng những ánh lân tinh, những giọt nước tròn to lăn xuống chiếc khăn rằn như những giọt nước mắt. Bà Năm lấy từ trong chiếc áo khoác ban nãy ra một bó nhang và một chiếc hộp quẹt. Hai bàn tay bà run rẩy che gió, loay hoay bật chiếc hộp quẹt. Bà thắp lên mấy nén nhang rồi quay ra bảo Lý và Lơ, lúc này đã thôi khóc, đang ôm nhau nhìn hút vào cái sọ:

- Hai đứa quỳ xuống! Lạy má đi các con...

Hoa Dại ngày trước đó ư? Vâng, chính là Hoa Dại đấy. Hoa Dại xinh đẹp và trẻ trung ngày nào, giờ chỉ còn lại có thế. Cô đã trôi đến đây, đã cố ý níu vào đám rễ cây mù u ấy để nằm lại, chờ đến ngày trở về với má, với hai đứa con gái bé bỏng của mình. Còn việc tại sao bà Năm lại tìm được đến đúng chỗ này thì sau đó không ai giải thích được. Chỉ biết rằng những việc tương tự như thế vẫn thường xảy ra, nhất là đối với trường hợp của những oan hồn...

Đã mấy tháng trời kể từ ngày Lý ra đi, hai bà cháu ở nhà vẫn bằn bặt tin tức. Những cơn ác mộng làm cho bà Năm lo nghĩ, đau yếu luôn luôn. Lại vào đúng cái thời buổi mà những người nghèo hình như không có quyền được có bệnh tật. Một nghìn đô la gả bán Lý chẳng mấy chốc đã tiêu hết vào tiền thuốc men, tiền bác sĩ đang ngày càng đắt đỏ. Hai bà cháu rơi vào một cơn túng quẫn. Có người đã môi giới, dắt Lơ lên thành phố làm người giúp việc cho một gia đình nọ. Bốn trăm ngàn tiền công một tháng cũng có thể gửi về giúp cho ngoại cô sống được qua ngày. Chỉ cầu mong cho ngoại đừng có ốm đau. Lơ là một cô bé ngoan hiền và có chí. Song cô bé đâu có biết rằng mình vẫn gánh phải cái tội của vùng đất quê hương, của mấy đời bà cháu, má con cô. Đó là cái tội xinh đẹp như một bông hoa dại, để cho bất cứ kẻ nào trông thấy cũng phải thèm thuồng.

Lơ làm người giúp việc trong toà biệt thự lộng lẫy của một ông cán bộ đã về hưu ở ngoại ô thành phố. Cô được dạy rằng cứ gọi ông ấy là ông Hai. Lần đầu tiên Lơ biết trên đời còn có những người giàu, những người ăn không biết đến bao giờ cho hết của. Ông Hai trong nhà tuổi ngoài bẩy mươi, con cháu đầy đàn, toàn những người vinh hiển, sang trọng. Những dịp cuối tuần, đủ các kiểu xe hơi của họ từ những chỗ đâu đâu trong thành phố kéo về đỗ đầy sân biệt thự. Trước khi lên ở đây, ngoại đã nói trước cho Lơ biết, rằng giữa cô với họ luôn luôn phải giữ một khoảng cách, cái khoảng cách trời sinh ra phải thế. Lơ chỉ dám truyện trò với chị Sáu, một chị cũng phụ việc trong nhà ấy trước Lơ vài năm. Chị Sáu quê miền Trung, giọng nói của chị nghe hơi nặng. Chị tốt với Lơ lắm. Chị thường khen Lơ dễ thương. Nhưng lần nào khen xong, Lơ cũng thấy chị thở dài. Lơ có hỏi tại sao thì chị không trả lời, đôi mắt chị bỗng chốc chợt xa xăm, u uẩn như nhớ về quê hương, nhớ cái thời còn con gái của chị. Lơ cũng nhớ đến người chị gái song sinh lấy chồng ngoại quốc của mình. Lơ đã từng đem ra khoe với chị Sáu. Không hiểu Lý có xe hơi không nhỉ? có được sung sướng như những cô chủ, cậu chủ trong nhà này không? Lơ mong tin của Lý nhưng càng mong thì lại càng bặt vô âm tín. Nhiều lúc Lơ tự hỏi chị Lý đâu có phải mũi tên? hay chị là hòn đất? Điều đó thật khủng khiếp. Hòn đất ném xuống dòng sông, sẽ không bao giờ quay trở lại.

Những điều chị Sáu tránh không nói ra, dần dần với linh cảm của một cô gái đang tuổi dậy thì, Lơ cũng bắt đầu nhận thấy. Trong ngôi biệt thự này có một gã con trai lớn hơn Lơ vài tuổi, đó là cậu Pít - cháu nội của ông Hai. Cậu Pít một mình sở hữu mấy chiếc xe, cả xe hơi lẫn xe gắn máy. Chẳng biết từ lúc nào, cậu ta bắt đầu để ý đến Lơ, nhìn Lơ bằng cái nhìn rất lạ. Lơ xấu hổ và ngượng ngùng, cũng có đôi lúc cô cảm thấy hãnh diện. Nhưng cảm giác đó kéo dài không lâu, thay vào đó là một nỗi sợ hãi mơ hồ. Lơ không thích ánh mắt chòng chọc nhìn vào mình của cậu ta. Những lúc đó, Lơ muốn biến thành con kiến, chui vào một cái lỗ nào đó thật sâu để trốn tránh. Nhưng ông trời không cho Lơ biến thành con kiến, và cũng chẳng có cái lỗ nào để chui. Sự xấu hổ, ngượng ngùng của một cô gái mới lớn chẳng bao giờ làm cho ý nghĩ của bất kì gã đàn ông nào chùn lại. Điều đó chỉ tổ làm rực thêm vẻ hấp dẫn, hút hồn của các cô. Cậu Pít chắc đã từng trải qua không biết bao nhiêu đàn bà, con gái. Nhưng cậu dám đánh cuộc với đám chiến hữu rằng riêng cái khoản hấp dẫn ấy thì không có đứa nào có thể so sánh nổi với Lơ.

Ông Hai chắc là người rất rành về hạnh kiểm của thằng cháu nội. Ông đã nhận ra mối nguy hiểm của Lơ trong ngôi biệt thự này. Ông tỏ ra thương hại và có ý bảo vệ Lơ. Bằng những câu nói, cử chỉ vẫn còn đầy uy quyền của mình, ông cảnh cáo cậu Pít đừng bao giờ mơ tưởng đến Lơ, hãy để cho Lơ được yên ổn. Nhưng mợ Hai - má của cậu Pít thì lại không làm như thế. Mợ Hai sợ Lơ sẽ làm hư hỏng cậu quý tử của mợ. Con đường công danh của cậu Pít đang rộng mở, tương lai của cậu rự rỡ như trời sao lại có thể để cho một đứa ở gái quê mùa như Lơ làm ảnh hưởng. Và số phận của Lơ trong ngôi biệt thự thế là đã được định đoạt. Chị Sáu đã nói cho Lơ biết điều đó. Lơ sẽ bị mợ Hai cho nghỉ việc. Lơ vô nghề nghiệp và ngây thơ, lần đầu tiên bước chân lên thành phố. Lơ sẽ đi đâu? Làm thế nào để sống và kiếm tiền nuôi ngoại giữa cái thành phố xa lạ và đầy cạm bẫy này? Lơ cảm thấy mù mịt và run sợ. Đừng lo em ạ. Thành phố bây giờ nhiều việc làm lắm. Văn minh mà. Chị Sáu sẽ giúp em. Chị sẽ nhờ người xin cho em vào làm ở một quán cà phê. Nhưng em phải cẩn thận, cố giữ mình được đến lúc nào hay lúc ấy. Trước sau gì thì tất cả những cô gái như chị em mình cũng chẳng thoát nổi đâu.

Lơ bị buộc phải rời khỏi tòa biệt thự. Cô được người quen của chị Sáu xin cho vào phục vụ ở một quán cà phê. Một thời gian ngắn sau Lơ bắt đầu dạn dĩ hẳn lên, cô không còn khép nép, sợ sệt như lúc còn ở trong ngôi biệt thự kia nữa. Cái vỏ quê mùa của cô đã dần dần biến mất, Lơ lột xác từ lúc nào không hay. Không cần trang điểm, không chú ý tới cả cách ăn mặc. Nhưng sự rực rỡ, lộng lẫy và những nét tuyệt trần của một cô gái dậy thì như Lơ thì không dấu đi đâu được. Cô có thêm nhiều chị em bạn mới, cũng là những gái quê như cô. Đã có khối chàng trai cưỡi trên những chiếc xe máy đắt tiền bắt đầu chú ý tới sự xuất hiện của một bông hoa dại rực rỡ ấy nơi đoạn phố này. Lơ vui vẻ và yêu đời. Cô cảm thấy thích thú với cái môi trường sôi động và cực kì phồn hoa đang ngày ngày diễn ra xung quanh. Nhưng một nỗi lo khác lại ập đến với cô bé. Bấy giờ bà Năm ở dưới quê đã yếu lắm, không thể tự săn sóc cho mình được. Một lần nữa, có lẽ cô lại phải chia tay với chốn này thôi. Cô phải về quê chăm sóc ngoại. Nhưng bà cháu sẽ sống bằng gì? Lý vẫn không hề có tin tức. Trong lúc đang quẫn trí thì may quá, Lơ đã được mấy chị em bạn cùng làm giúp đỡ. Họ bày cách cho cô, rủ nhau hùn tiền cho cô vay để thuê một căn phòng trọ rồi đón bà ngoại lên ở cùng.

Số phận vốn không muốn báo trước cho ta biết điều gì, song tất cả những diễn biến sau đó thì cứ như đã sắp sẵn, con người sống chỉ biết chui dần vào. Thế là rốt cuộc, bà cháu Lơ cũng đến lúc phải rời bỏ cái vùng quê đầy nghiệt ngã của mình. Bà Năm mắt đã mờ đục, chân tay run lẩy bẩy. Bà có linh cảm rằng lần ra đi này không bao giờ quay trở lại. Bà không tiếc nuối điều gì, chỉ không muốn phải xa phần hài cốt còn lại của Hoa Dại đang nằm dưới gốc dừa, không muốn nắm xương tàn ấy từ nay lạnh lẽo. Từ trong tâm thức sâu thẳm của một người má, có một giọng nói thê lương cất lên bảo với bà rằng Hoa Dại cũng không muốn xa má, Hoa Dại cũng muốn được đi theo. Và thế là trong tay nải của hai bà cháu, có một chiếc khăn bằng vải đen bọc một vật luôn luôn được ràng buộc cẩn thận. Đó chính là phần hài cốt ấy của Hoa Dại.

Cám ơn thành phố thời mở cửa, để một cô gái như Lơ cũng có thể làm được cái việc mang bà ngoại lên đó sinh sống. Cuộc đời bây giờ thiếu gì những người vừa có tiền, lại vừa có tư duy nhặt nhạnh, nhặt của bất cứ ai, nhặt bất cứ cơ hội nào. Họ chia nhỏ những khu đất nằm sâu hút trong hẻm của mình ra, cất lên đó những cái gọi là những căn phòng trọ tạm bợ, sơ sài. Hai trăm ngàn đồng một tháng cho một chỗ chui rúc hai mét nhân bốn mét, vẫn có một vòi nước và chỗ đi tiêu, đi tiểu ngay trong phòng. Bà cháu Lơ thế là tạm có nơi, có chốn trong cái thành phố rộng lớn, đầy ắp phồn hoa này. Như một con chim non đã biết ngày ngày bay đi kiếm mồi tha về tổ, Lơ cảm thấy sung sướng và hạnh phúc khi có ngoại, có hương hồn của má ở bên cạnh. Cô rất vui vì đã chăm sóc, nuôi nấng được ngoại... Lơ làm ở quán cà phê từ chín giờ sáng đến mười giờ đêm. Sáng sáng mua sẵn cho ngoại hai hộp cơm ăn cả ngày. Thế cũng tạm ổn rồi. Cô hy vọng rằng cuộc đời sẽ có ngày khá lên, cầu mong đừng có xảy ra chuyện gì.

Vâng, cuộc đời chắc sẽ có ngày khá lên. Có điều hai bà cháu cứ như hai vận động viên thi nhau chạy ngược về hai thái cực. Lơ càng phổng phao và rực rỡ ra bao nhiêu thì bà Năm càng lụm khụm và teo tóp đi bấy nhiêu. Cứ thế được khoảng vài tuần, vào một buổi sáng sớm, ông bà chủ có nhà cho thuê đột nhiên đến kiểm tra dãy phòng trọ của mình xem cái đám nhếch nhác vong xứ, vong quê này ăn ở ra sao. Họ bắt gặp hai bà cháu đang ăn sáng.

- Ở đâu ra cái bà lão này?

- Dạ! đây là ngoại con ở dưới quê mới lên.

- Xì! bày đặt ở dưới quê lên. Sao lúc làm hợp đồng cô không nói trước. Già thế này biết chết lúc nào. Ngộ nhỡ chết ở đây có phải xui xẻo nhà người ta hay không?

- Con xin ông bà. Ngoại con không còn ai chăm sóc...

- Đấy không phải việc của chúng ta. Chúng ta không chấp nhận. Thế thôi. Ngay ngày mai, cô phải đưa ngoại cô về, nếu không chúng ta không cho thuê nữa.

Té ra bà Năm không có quyền được sống ở đây, đơn giản vì bà cũng không có quyền được chết ở đây. Họ đi đã lâu rồi mà hai bà cháu vẫn còn ngẩn ra hoảng sợ. Bà Năm đánh rơi cả miếng cơm đang trệu trạo trong mồm, khuôn mặt răn reo ngấn đầy nước mắt. Đi đâu bây giờ? Chỗ nào rồi người ta cũng sợ người già như thế. Bà Năm thương mình, thương cháu. Giá bà có thể đi đâu để chết, để khỏi trở thành gánh nặng cho Lơ... Chợt Lơ nghĩ ra một cách. Cô ghé tai ngoại nói nhỏ: “Từ mai, mỗi khi đi làm, con sẽ khoá cửa ngoài. Ngoại cứ nằm im trong phòng, đừng gây ra tiếng động nào nhé. Để họ tưởng là con đã đưa ngoại về”...

Cuộc âm mưu vụng trộm của hai bà cháu cứ thế kéo dài được hàng tuần. Có vẻ như vợ chồng người chủ nhà kia không hề biết rằng bên trong cái cánh cửa ngày ngày vẫn khoá im ỉm của căn phòng ấy, có một nhân khẩu bất hợp pháp già nua đang sợ hãi nín cả thở...

Thằng Pít, cháu nội của ông Hai trong ngôi biệt thự ngày ấy bị tuột mất Lơ thì tiếc lắm. Nó cùng đám chiến hữu cũng con ông cháu cha như nó xưa nay chưa từng gặp thất bại bao giờ. Chúng lập ra một nhóm gọi là nhóm “S-T”. S-T có nghĩa là sướng tít (hoặc sướng tê). Nghĩa là không thiếu một cái sướng nào, cái nào cũng phải đạt tới tột đỉnh mê ly. Chúng đặt giải thưởng cho kẻ nào nghĩ ra những cách chơi mới lạ, miễn sao đưa được hồn vía lên tới chín tầng mây. Nhóm “S-T” có đủ tuyên ngôn, điều lệ, biểu trưng. Thậm chí có cả “S-T ca”. Bài “S-T ca” có tên: “thập sách” (mười kế) của chúng là: “Cứ tọng thuốc lắc / Cứ nắc gái tươi / Cứ đua xe hơi / Cứ chơi bạc bịp / Đuổi kịp ông Bô / Để vồ lấy chức / Thả sức lấy vàng / Mau quàng lấy đất / Cố giật lấy quyền / Rồi tuyên mình thành Bố”. Đó là “lời dạy”, là đường lối, định hướng tiến tới cái tương lai xán lạn của những kẻ như chúng mà chúng đã “sáng tác” từ hồi còn ngồi trên ghế nhà trường. Nhóm “S-T” đứa nào cũng sở hữu trong tay ít nhất một vài “bộ” gọi là “đi-em-xi” (D-M-C). Không phải kí hiệu xe hơi hay vũ khí quân dụng đâu nhé. Ba chữ cái ấy có nghĩa là Diễn viên, người Mẫu và Ca sĩ. Gọi là “bộ” vì mỗi “bộ” phải gồm đủ ba cô như thế có “chất lượng”, có “kiểm chứng” hẳn hoi. Thằng nào không đủ “bộ”, không thèm cho chơi. Thằng Pít đã chán cả mấy cái “bộ” “đi-em-xi” của mình rồi. Nó đang muốn “cải tiến”, mở rộng thành “bộ” “đi-em-xi-qui” (thêm gái Quê vào nữa thành chẵn bốn cô). Nhóm S-T thuê “chết” cả tầng thượng một tòa nhà cao nhất nhì thành phố làm chốn ăn chơi. Mỗi lần tụ họp, thằng nào cũng phải gọi “đi-em-xi” của mình tới rồi làm tình tập thể hay tay bo, tay ba gì tuỳ thích. Những cuộc vui giữa lưng chừng giời như thế có khi kéo dài đến mấy ngày, thậm chí hàng tuần.

Một thằng trong nhóm S-T trong một lần đi kiếm “hàng dạt” (gái lang thang), đã tình cờ phát hiện ra Lơ đang bán ở quán cà phê ấy liền báo cho Pít. Thằng Pít mừng rỡ đến phát rồ. Ngay lập tức, nó lập kế hoạch chiếm đoạt Lơ cho bằng được. Bây giờ thì mọi việc đã trở nên quá thẳng thắn, dễ dàng. Thằng Pít không còn phải ngại ai nữa. Nó không cần phải lấm lét giữ ý hay giả vờ làm bộ như khi Lơ còn là đứa ở trong nhà nó. Cái mã bề ngoài, vài lời hứa hẹn và những khoản tiền “bo” của thằng Pít đã nhanh chóng làm Lơ xiêu lòng. Mà Lơ phỏng còn giữ mình được bao lâu nữa kia chứ? Không sa vào tay nó thì cũng sa vào tay người khác mất thôi. Những ngày làm ở quán cà phê này, Lơ cũng đã kịp dày dạn ra đôi chút. Rồi Lơ cũng phải nhắm mắt, phải “liều” thân với cuộc đời này thôi. Lơ vẫn còn nhớ câu nói của chị Sáu: “cố giữ mình được đến lúc nào hay lúc ấy. Trước sau gì thì tất cả những cô gái như chị em mình cũng chẳng thoát nổi đâu”. Lơ lẩm bẩm nhắc lại rồi chậc lưỡi. Cái gì phải đến rồi sẽ đến.

Lịch sử dù rộng hay hẹp, ngắn hay dài đều rất thích chơi trò xoáy trôn ốc. Hôm ấy là ngày thằng Pít giới thiệu “bộ” tứ “đi-em-xi-qui” của mình tại thiên đường “lưng chừng giời” của nhóm S-T. Những gì xảy ra cách đó gần hai mươi năm với Hoa Dại cùng nhóm G7 ở cái thị trấn quê mùa kia, thì nay lại xảy ra với Lơ và nhóm S-T cùng những “bộ” “đi-em-xi” lộng lẫy và trần trụi của chúng. Có điều sự hoành tráng và cao cấp, sự hiện đại và ghê hồn thì dẫu đến ba đời ông nội đẻ ra chúng ngày trước, cũng không thể nào ngờ tới được. Quay cuồng trong tiếng nhạc, rượu mạnh và thuốc lắc, cả một đám con trai, các “đi-em-xi” và Lơ lột bỏ hết quần áo, lao vào một cuộc truy hoan vô bờ bến. Những sản phẩm văn minh kia của nhóm ăn chơi đã làm cho Lơ hoàn toàn mất trí, hoàn toàn không điều khiển được mình. Cô không biết thời gian có còn trôi đi nữa không, trôi đến bao giờ? Người ta đã làm gì cô?... Cứ như thế hết ngày lại đêm, hết đêm lại ngày... Cái chốn lưng chừng giời ấy đâu cần biết Trái đất vẫn đang quay. Lơ chưa kịp tỉnh thì đã lại tiếp tục say, tiếp tục bị tống rượu mạnh, thuốc kích thích vào miệng. Có phải nhóm S-T kia đã vô tình? Hay chính là số phận đã cố ý không cho cô một cơ hội nào để nhớ đến bà ngoại, nhớ đến nắm xương tàn của má cô đang trốn trong căn phòng trọ tồi tàn ấy mong cô trở về...

Từ ngày Lơ bị đuổi ra khỏi ngôi biệt thự, ông Hai cảm thấy có một điều gì cứ thỉnh thoảng lại làm ông hoảng hốt. Quả tim đang có vấn đề của ông cùng lúc lại dội lên gây tức ngực, khó thở. Có phải do ông mới sinh ra chứng đa cảm khi nghĩ đến hoàn cảnh của Lơ? Ông không giải thích được. Cả đời ông chẳng bao giờ đa cảm như thế. Chiều hôm ấy có một kẻ bí ẩn đến nhét vào thùng thơ ngoài cổng biệt thự một cái bao thơ. Đó là thơ gửi cho chính ông Hai. Chị Sáu là người mang vào cho ông, song chị không hiểu trong đó viết gì. Ông Hai mở ra và chỉ thấy bức thơ ghi vỏn vẹn một dòng địa chỉ với những: “phố... hẻm... phòng...”. Bức thơ kì lạ làm cho ông Hai cảm thấy bứt dứt hoảng hốt, đứng ngồi không yên. Như một cái máy, ông ra khỏi ngôi biệt thự, vẫy một chiếc tắc xi. Ngồi trong xe, cũng như một cái máy, thậm chí như một người mộng du, ông Hai đưa bức thơ ấy cho người lái xe rồi ngồi im như một pho tượng, miệng không thốt ra tiếng nào. Tới đúng số hẻm ấy, chiếc xe dừng lại. Ông Hai xuống xe, chậm rãi bước vào tít phía trong con hẻm. Ông nhìn thấy một dãy phòng trọ bẩn thỉu, nhìn thấy cả cái số phòng đã ghi trong địa chỉ. Nhưng hình như căn phòng đang bị khóa ngoài. Ông từ từ bước lại gần. Còn cách độ ba bước chân thì cái ổ khoá đang móc trên cánh cửa bỗng nhiên rụng xuống. Ông Hai thoáng một chút rùng mình.

Bây giờ thì đúng là ông Hai đang bị mộng du. Ông mở chiếc cánh cửa, bước hẳn vào trong phòng. Căn phòng tối tăm, ẩm mốc và lạnh toát một mùi tử khí. Trên manh chiếu trải dưới đất là một thi thể co quắp vẫn đang trừng mắt, ngửa mặt lên trần nhà, hai tay ôm cứng một bọc vải tròn tròn đen sì, được chằng buộc cẩn thận. Ông Hai quỳ xuống, nhìn vào gương mặt của thi thể và bỗng giật mình há hốc mồm, thốt lên mấy tiếng lào phào: “Bà... Cô Năm... Năm...”. Tiếng ông ngưng bặt ngay lúc ấy, cơn đau tim bất ngờ dội lên. Trước khi đổ vật xuống, trong đầu ông Hai còn kịp thoáng hiện lên hình ảnh cái khối dâm dục đỏ au, ngồn ngộn thịt của tên lính đánh thuê người ngoại quốc đang giật lên, giật xuống trên tấm thân người con gái ngày nào, rồi thì những nhát chém, rồi máu, máu và chao ôi là máu...

Cùng lúc ấy, ở cách đó bao nhiêu ngàn cây số, nơi cái xứ sở xa lạ kia, lão già triệu phú rốt cuộc cũng đã tìm ra cách khuất phục cái ánh mắt làm cho lão phải kinh hồn ấy của Lý. Té ra lão áp dụng cái phương pháp tân kì của thằng Cơm Thiu. Lão không ngờ lớp hậu sinh bây giờ lại hiện đại đến như thế. Chúng chẳng cần phải cưỡng bức như thế hệ của lão ngày trước mà vẫn chiếm đoạt được bất kì đứa đàn bà nào. Khoa học tiên tiến của con người, thì ra lại có khả năng đánh thức và khuyếch đại bất kì thứ bản năng nào của chính con người lên cao bao nhiêu tuỳ ý. Lão trộn thuốc kích thích vào thức ăn, nước uống cho Lý và kiên nhẫn chờ đợi. Lão khoái trá chứng kiến cảnh Lý cấu xé, vật vã đòi hỏi khi bị ngấm thuốc. Nhưng ánh mắt của cô thì vẫn còn làm cho lão kinh. Lão tăng dần liều lượng và quả nhiên, những tia thù hận trong ánh mắt ấy cũng dần dẩn giảm theo. Đến khi lão đã tăng tới liều lượng cao nhất thì nó dường như đã hoàn toàn bị khuất phục.

Lý đã tự xé tan bộ quần áo đang mặc trên người. Cô nhắm nghiền mắt lại, hơi thở hổn hển, thân thể không ngớt cuộn lên từng chặp. Chỉ chờ có thế, lão già bật ra một tràng cười đắc thắng rồi đặt chiếc nạng xuống bên cạnh, yên tâm bò lên người Lý. Bỗng lão rú lên một tiếng khủng khiếp. Không phải trong ý nghĩ nữa, mà đúng là sự thật, những nhát chém ngày nào đang tiếp tục bổ xuống người lão. Lần này thì lão chẳng lăn đi đâu được nữa. Toàn bộ những vết sẹo trên người lão, cả ở cái mặt cắt chỗ chân cụt đồng loạt vỡ tung ra, toang máu. Máu của lão phun lên trần nhà, sang hai bên, ào xuống tấm đệm, nhuộm đỏ cả người Lý. Mùi máu hôi tanh sặc sụa của lão làm cho Lý chợt bừng tỉnh. Cô vụt vùng dậy, ghê tởm gạt phăng cái xác đỏ lòm của lão xuống nền nhà...

Xin hãy quay trở lại căn phòng trọ. Ngay tối hôm ấy, người ta phát hiện trong đó có ba thi thể. Đúng ra là chỉ có hai và một bộ hài cốt không còn đầy đủ. Một thi thể chết tươi, bị vỡ tim chính là ông Hai. Thi thể kia là của một bà lão đã lạnh cứng từ trước đó mấy ngày. Tại sao ông Hai lại tìm đúng đến đây để vỡ tim mà chết? Câu hỏi ấy cho đến nay vẫn còn bỏ ngỏ. Người ta cũng tìm ra người lái tắc xi đã đưa ông đến đây. Anh ta cũng nhớ là ông Hai có đưa cho anh ta một bức thơ. Bức thơ vẫn còn nằm dưới sàn xe. Nhưng khi người cán bộ điều tra vừa nó cầm lên tay thì lập tức, bức thơ ấy mủn ra như cám, bay tung vào trong gió, chẳng để lại tý dấu vết gì.

Cái chết bất đắc kì tử của lão triệu phú không hề làm cho gã Cơm Thiu đau buồn. Trái lại, gã vui mừng vì từ nay đã chính thức thừa kế toàn bộ cơ nghiệp của ông nội. Lý không còn thiết gì đến chốn này nữa, cô đã bị suy sụp hoàn toàn. Cô nhớ ngoại, nhớ Lơ, cô chỉ muốn được trở về. Từ cái hôm kinh khủng ấy, lúc nào Lý cũng ngửi thấy mùi máu tanh hôi của lão triệu phú phảng phất đâu đó trong căn nhà, trên chính thân thể cô. Gã Cơm Thiu thì chẳng ngửi thấy mùi gì. Gã chỉ thấy thân thể cô bây giờ mới thực sự thơm lựng mùi gái trinh. Ông nội gã không còn, giờ là lúc gã được toàn quyền sử dụng tấm thân vẫn còn trinh tiết ấy. Song lúc nào gã cũng chỉ coi Lý như một thứ gái mà thôi. Lạ một điều là mặc dù lòng Lý vẫn còn nguyên sự thù hận đối với cái gã đốn mạt này. Nhưng ánh mắt của cô đối với gã thì không hề có tác dụng như đối với ông nội gã trước kia. Thực chất ánh mắt ấy bây giờ chỉ còn là ánh mắt của một con cừu non ngây thơ và sợ hãi. Sau khi đã dày vò chán chê, một hôm, gã Cơm Thiu chở Lý đến bán cho cái nơi ấy, lấy lại đúng số “vốn” một nghìn đô ngày trước. Nơi ấy có hai chữ treo lơ lửng trên cao mà cô không đọc được. Cô giật mình nghe thấp thoáng giọng nói và những gương mặt đờ đẫn của mấy người đàn bà cùng xứ sở. Bao nhiêu người như cô đã bị bán nơi đây? Gã đểu giả ấy bảo cô rằng hãy cố mà học cái thứ tiếng thổ tả ở xứ sở của gã. Bởi cô không còn đường nào quay trở về nữa. Bởi chữ đầu tiên cô cần phải học, chính là hai cái chữ treo trên cao đó. Hai chữ ấy có nghĩa là “Nhà Chứa”. Và thân phận của cô, của những người đàn bà cùng xứ sở kia, có ai ngờ từ nay sẽ gắn liền với hai cái từ kinh điển ấy của kiếp mình...

Lơ chập chờn tỉnh dậy và cảm thấy toàn thân mỏi nhừ, đầu nhức như búa bổ. Xung quanh cô ngổn ngang những vỏ thuốc, chai lọ, đồ lót và những thân thể trai, gái lõa lồ đang nằm vắt chồng lên nhau. Chốn “lưng chừng giời” này của nhóm S-T biệt lập hẳn với thế giới của con người. Không biết đây là đâu? bây giờ là lúc nào, bao nhiêu ngày đã trôi qua... Lơ dần dần nhớ lại điều gì và bỗng giật mình, hoảng hốt rú lên một tiếng. Cô cuống cuồng vùng dậy, vơ đại một bộ quần áo vứt cạnh đó rồi hối hả mặc vào người. Tiếng rú của Lơ làm cho cả bọn đang mê mệt cũng bừng tỉnh. Giọng chúng nhao nhao, đứa lè nhè, đứa cười ô ố hệt một lũ quỷ Sa Tăng. Có đứa quờ tay túm lấy Lơ. “Không được! Thả tôi ra. Ngoại tôi đang chết đói trong phòng trọ...” - Lơ hét lên. Cô vừa vùng vẫy vừa oà khóc nức nở. Mặc kệ! Nhóm S-T chưa chứng kiến đứa con gái nào từ chối, chống cự lại chúng bao giờ. Chính sự vùng vẫy, nức nở ấy của cô càng làm cho lũ kia bất ngờ lên cơn khát dục. Thế là thằng Pít và tất cả bọn chúng ào dậy, bu đến giữ chặt lấy Lơ, rồi thì đứa xé áo, đứa kéo quần, đứa vơ mấy viên thuốc lắc nhét vào mồm cô... Rồi tiếng nhạc từ mấy chiếc loa vĩ đại gắn trên nóc nhà sầm sập đổ xuống, át đi tất cả. Lơ nhũn người ra, ý chí của cô lại bắt đầu bị tê liệt. Chốn “lưng chừng giời” của nhóm S-T tiếp tục bước vào một cuộc quay cuồng mới...

Bác Ba Phi : Ươm giống mận Hồng Đào vào thịt nai

Anh Động

0

Quát mắng thằng cháu nội bác Ba cảm thấy cũng ân hận. Vừa đi bác vừa suy nghĩ: "Có thể vì đêm hôm tăm tối nó ba sớ ba sếch gác ách nhằm cặp heo thật, chớ không có ý chơi xỏ mình đâu. Heo nhà mình nuôi to quá cũng có thể lầm lẫn với trâu". Bác Ba Phi cứ cúi đầu lầm lũi bước. Bác phải đến thăm đám mạ xem coi có loại gì quấy phá không. Mùa ruộng chỉ trông mong vào có đám mạ là phát súng lịnh xung phong cho mọi bước tiếp sau, mạ mà hỏng chỉ còn có nước bỏ mùa. Bác Ba Phi vừa đi vừa nghĩ hết chuyện này tới chuyện khác. Phía sau lưng mặt trời đã nhô lên khỏi rặng cây của đục vườn Đường Ranh. Nắng trải một lớp vàng bạc óng sánh xuống đồng cỏ.

Đến đám mạ, bác Ba ngớ người ra ! Cha nội nào chơi kỳ cục, đọt mạ xanh tốt lại đi lấy liềm cắt trụi tới cháng ba ? Bác Ba ức quá lẩm bẩm một mình, ước gì bắt gặp tên phá hoại bác sẽ dạy cho nó một mẻ nên thân. Thấy đám mạ bị hư hại chừng nào bác Ba càng giận run chừng nấy. Mẹ kiếp ! Cắt đọt mạ non còn quần nát đám mạ ra nữa, trên đời nầy có trò chơi nào mọi rợ hơn không ? Có chỗ mạ non, chẳng những bị cắt mà còn bị nhổ lên đứt củ hũ bỏ rơi trắng dã. Bác Ba Phi vuốt ve những chỗ mạ bị lướt và cầm mớ mạ bị nhổ lên xem. Thế này là thế nào ? Đôi mắt bác Ba chớp chớp ra vẻ suy đoán. Chốc sau bác gật đầu và thở khì một hơi dài. Đôi vai bác từ từ cụp xuống. Mẹ kiếp ! Cái bầy nai nầy thừa lúc bác mắc bận việc cày dở, ban đêm biệt kích đến phá hoại đám mạ của bác. Nhất định bác phải tìm cách trừng trị chúng một cú thật đích đáng !

Rời đám mạ, bác Ba đi lòng vòng một hồi đến cây mận hồng đào mọc ngoài mé rừng, ngồi nghỉ. Có một vật gì cồm cộm trong túi áo ? Bác Ba sờ thử. À, chiếc nạng giàn thun của thằng Đậu bác còn cất đây. Nạng giàn thun làm được gì với bầy nai nầy chớ ? Phải nghĩ ra cách nào chừng trị bầy nai phá đám mạ nầy. Những dấu hỏi lớn bằng lưỡi liềm cứ bỏ ngoắt ngoéo vào đầu bác Ba mỗi lúc một đậm. Đau đầu quá, bác ngẩng lên nhìn trời để tìm ra mưu kế. Nhưng trên trời cũng vẫn trống trơn, mây xanh lơ, nắng sáng bạc. Từng bầy chim giăng sen, cò quắm căng cánh bay qua, bay qua. Những chùm trái mận hồng đào chín mọng treo lơ lửng. Bác với tay hái mấy trái mận thật chín, bẻ đôi mà nhấm nháp. Mận ở xứ U Minh nầy tuy sai trái nhưng lạc nhách chẳng ra gì. Trên cành cây có mấy con chim vít cô nhảy hót líu lo. Cái mưu kế trừng trị nai ăn mạ của bác Ba chìm dần theo tiếng hót và cứ khép hẹp lại theo hai bờ mi của đôi mắt...

Trong cơn mơ màng, bác Ba vụt giật mình tỉnh dậy. Đâu đây có tiếng ai kêu nghe thảm thiết quá ! Dường như là tiếng kêu "má" thì phải. Mà lại nghe giọng trẻ con nữa. Bác Ba ngơ ngác nhìn quanh. Tiếng kêu từ trong lùm kia cất lên. Tiếng nai kêu ! Con nai nầy không phải kêu bằng ngôn ngữ thông thường của dòng họ nai. Nó kêu có ẩn ý, có tính chất báo hiệu một điều gì. Rõ là nó đang đánh tín hiệu cho nhau. Nhìn chăm vào lùm phát ra tiếng kêu, bác Ba thấy có hai vì sao sáng xanh, nhỏ xíu đang chiếu thẳng về phía bác. Con nai đang nhìn trộm bác. Chỗ Bác Ba ngồi đến chỗ con nai cách chưa đầy mười mét. Bác Ba Phi biết con nai nầy muốn hành động việc gì rồi. Nó trinh sát thực địa để dẫn đồng bọn đến ăn đám mạ non của bác, có lẽ tới đây đánh hơi thấy có người, nên dừng lại phát tín hiệu báo động cho lũ đi sau. Cho mày trinh sát nghe ! Bác Ba mắm môi, sẵn còn cầm hột mận trong tay bác lắp vào giàn thun, giương lên nẹt một phát vào ngay tam tinh con nai trinh sát. Bị một vố bất ngờ, con nai lãnh đủ, nó lồng lên la hét om sòm. Viên đạn bằng hột mận của bác Ba xuyên thủng lớp da mặt nai và mắc kẹt luôn bên trong. Lúc con nai quay đầu chạy, bác Ba nhanh tay lắp thêm hột mận nữa nẹt với theo. Hột mận thứ hai cũng xuyên thủng lớp da mông con nai và mắc kẹt vào trong. Bác Ba Phi đứng lên phủi tay và thét theo:

- Mẹ tổ mầy, cho trinh sát nghen ! Tao ươm hột mận hồng đào vào người mầy cho nhớ đời.

Chuyện Ông Móng

Mấy năm trước nghe nói ở ngoại thành có một chợ bán phân nổi tiếng, " độc nhất vô nhị " nên tôi tò mò đến xem.

Chợ phân họp chừng một giờ đồng hồ từ 3 giờ sáng đến 4 giờ sáng ở ngay bên đường đi Sơn Tây. Đây là vùng trồng rau, trồng cà nổi tiếng. Giống cà pháo, cà bát rất hợp với việc bón phân tươi, nhất là phân người. Người ta cũng dùng phân để bón cho lúa, nhưng phân bón cho lúa phải được ủ cho mục ra, cho chín phân. Thế nào là ủ phân ? Phân tươi có nhiều loại : phân trâu bò, phân lợn, phân gà (gọi chung là phân chuồng), phân người (còn gọi là phân bắc) nhưng được ưa quý hơn cả là phân lợn, phân gà. Phân lợn quý vì nó mát, có thể dùng ngay, bón được ngay cho cây, mà cây nào cũng hợp. Phân gà cũng quý nhưng phân gà nóng, chỉ hợp bón cho cây ớt mà thôi. Riêng phân người (phân bắc) có lẽ bởi có nhiều đạm, nhiều chất khó phân huỷ nên bón trực tiếp thì cây xót, chết ngay. Riêng chỉ cây cà là chịu đựng được, lại hợp với việc bón loại phân này. Nhìn chung, tất cả các loại phân đều phải được ủ thì mới nên dùng. Người ta đào một cái hố ở ruộng, chất phân vào cùng với tro, trấu, rồi trát bùn non trộn với rơm bên ngoài, trông như một cái mả, để đấy chừng dăm bữa nửa tháng cho ngấu dần. Phân được ủ chín, cứ thế mục ra, oải ra. Những con dòi ăn hết phân cũng chết đi, bản thân nó cũng hoá thành phân.

Khi tôi đến thăm chợ phân thì chợ đang họp. Đây là chợ phân tươi, hoàn toàn không có phân ủ (phân chín) không có phân xanh (phân làm từ các loại lá cây) hay phân hoá học. Cũng rất ít có phân chuồng, tức là phân lợn, phân gà hay phân trâu bò. Tất cả đều là phân người.

Phân người được cho vào những thùng gò bằng tôn như thùng gánh nước. Cũng có một số người dùng thùng gỗ hoặc cho phân vào sọt (sọt được lót bằng bao ni-lông). Có lẽ phần lớn phân ở đây đều được lấy từ các nhà xí công cộng trong thành phố ra, nhiều thùng phân còn thấy lẫn cả giấy vở học sinh hay giấy báo.

Chợ phân không đông, chỉ có chừng hơn ba chục người vừa mua vừa bán. Hình như họ vốn đã quen biết nhau và khá thuộc " mặt hàng " của nhau nên việc mua bán thoả thuận cũng nhạnh Dưới ánh đèn cao áp tựa như ánh trăng và không khí hơi lạnh buốt, chợ phân cũng có phần nào giấu đi được sự bẩn thỉu, sự nghèo hèn, lam lũ và cần lao.

Những người bán phân đều bịt mặt hay đeo khẩu trang. Tất cả đều bán mua, mua bán một cách âm thầm chịu đựng, ít nhất đấy cũng là cảm giác ban đầu của tội Không có ai nói to tiếng hoặc mặc cả ráo riết như ở các chợ khác, chỉ trừ có mỗi một người, người này có vẻ như " ông chủ chợ ". Ông ta khoảng 60 tuổi, dáng người thấp đậm, đầu húi cua, mắt trố, quai hàm bạnh, ngực nở nang, chân tay rắn chắc. Ông ta không đeo khẩu trang hay bịt mặt, hoàn toàn chẳng có vẻ gì sợ hãi hay ghê tởm khi phải tiếp xúc, đụng chạm với các thùng phân bẩn thỉu và các dụng cụ dơ dáy ở đây. Tôi để ý thấy ông ta không mua, cũng không bán nhưng ông ta đi đi lại lại, nhắc nhở mọi người, xem xét, đánh giá từng thùng phân, bông đùa, góp ý cho những ai còn đang băn khoăn hay lưỡng lự. Ông ta khá linh hoạt, lanh lẹn. Sự linh hoạt của ông ta khiến cho phiên chợ sôi nổi hẳn lên nhưng cũng có vẻ gì khá bất nhẫn. Ông ta như một vị nhạc trưởng, như người giữ nhịp điệu cho cả phiên chợ quái đản này.

Có mấy người đôi co về hai sọt phân của một phụ nữ. Người phụ nữ này ăn mặc quần áo như một nhân viên Công ti vệ sinh. Người phụ nữ cầu cứu "ông chủ chợ " :

- Bác Móng ! Phân này của cháu mà chê là chua thì có ức không ?

Ông Móng (tức " ông chủ chợ ") đến gần xem xét. Ông ta dùng một cái gắp phân bằng cật tre, trông hơi giống một cái đũa cả sục sâu vào đáy sọt phân rồi rút ra, đưa lên mũi ngửi. Một con nhặng xanh bay nhoằng ở ngay trước mặt ông ta. Ông ta lùi một bước, quắc mắt, chuyển cái gắp phân từ tay trái sang tay phải rồi ước lượng đón đầu đường bay của con nhặng xanh, đập véo một cái vào không trung. Ông ta hô lớn :

- Chết này !

Sau tiếng hô người ta thấy con nhặng xanh ngã vật xuống ở giữa sọt phân. Ông ta bình thản bảo người mua hàng :

- Phân tốt đấy, không chua đâu ! Chắc hố xí nhà này gần chỗ làm đậu phụ nên có nước đỗ tương lẫn vào !

Người phụ nữ bảo :

- Vâng đúng ! Trong phân vẫn còn vỏ đỗ tương đây này !

Ông Móng bảo :

- Phân của mày hôm nay không đậm như phân hôm qua ! Nát nhẽo nát nhèo... Thôi thì giảm một giá...

Người phụ nữ bảo :

- Cháu gánh kẽo kẹt suốt từ cửa ngoài ô đến đây, nặng ơi là nặng. . .

Ông Móng bảo :

- Cho chết ! Ai bảo tham múc nhiều nước vào. . . Mày phải chắt cho kiệt nước đi thì phân mới ngon !

Ở cuối chợ có ai trút hai thùng phân sang hai cái thúng sơn bị đổ ra đường. Ông Móng quát :

- Vét ngay ! Vét cho thật sạch ! Ban ngày người ta mà thấy phân dây ra đường là không còn để cho họp chợ nữa đâu !

Người bán hàng vét phân bằng một dụng cụ làm bằng tôn hơi giống như một cái thìa xúp to, có cán dài, cái này cũng gọi là móng. Tuy đã vét sạch nhưng trên mặt đường nhựa vẫn lầy nhầy một lớp váng nước bu đầy ruồi nhặng. Ông Móng đi đến, bắt người kia phải đi múc nước từ một con mương gần đấy lên để rửa đường.

Một thanh niên trẻ, người gầy nhẳng đẩy một xe phên đi đến. Đây là chiếc xe vẫn dùng để gom rác nhưng được sửa đi để đựng phận Những người không bán được hàng (ế hàng) hoặc hàng xấu (tức là phân lõng bõng toàn nước hay nhiều dòi quá) đều trút cả vào xe cho anh tạ Anh ta mua hết nhưng đều với giá rẻ, mọi người gọi là giá bèo, giá vứt đi, giá hết chợ. Ông Móng và anh này có vẻ thân nhạu Ông Móng khen :

- Làm được nhà, lấy được vợ chỉ nhờ vào phân ! Thế là nhất !

Anh ta cười, vẻ mãn nguyện, lấy thuốc lá ra mời ông Móng. Hai người đứng hút thuốc lá, bàn tán những chuyện gì đó không rõ nhưng nghe loáng thoáng có câu " nhất nghệ tinh, nhất thân vinh " với " sinh ư nghệ, tử ư nghệ ". . .

Phía cánh đồng ngoại thành bóng tối lễnh loãng dần, bắt đầu mờ mờ nhìn rõ mặt người. Những tia mặt trời đầu tiên hân hoan báo hiệu một ngày mới đang đến dần. Những tiếng rung động đầu tiên rất khẽ rồi cứ thế lan toả ra, lớn dần lên, liên hoàn ầm ào như có muôn ngàn tiếng sóng vỗ, như có muôn ngàn tiếng chim đập cánh, như rùng rùng tiếng dậm chân của cả đoàn người. Tiếng còi xe lửa, tiếng còi ô-tô lảnh lót vang lện Thành phố bắt đầu cựa mình thức dậy như một con mãnh thú to lớn, như một tên khổng lồ vĩ đại có rất nhiều tham vọng phàm tục, có rất nhiều ước mơ táo bạo cùng với năng lực ẩn tàng. Hắn vừa chậm rãi, lại nhanh nhẹn, vừa ngáp ngủ, lại tỉnh thức. Người ta không thể lường được một ngày của hắn rồi sẽ thế nào, hắn sẽ làm gì, hắn sẽ bắt đầu bữa tiệc thịt người ngay tức khắc hay sẽ hào hiệp vung tay gia ân rải bạc vàng lên khắp chốn cùng nơi như một đế vượng Thành phố ! Đấy là bao nhiêu nỗi kinh hoàng, bao nhiêu niềm vui hoan lạc ! Thành phố ! Ở đấy có cả biết bao cảnh giới thiên đường và sự đoạ đầy trong tầng tầng địa ngục !

Những người họp chợ phân tản đi rất nhanh, loáng cái chẳng thấy còn một người nào, cứ như là chui xuống đất. Ông Móng đi dọc cái chợ không còn một ai xem xét. Không biết ông ta lấy đâu ra một cái chổi nan dài, chỗ nào còn rớt lại ít phân thì ông ta dùng chổi rấp ngay vào bên rệ đường như để phi tạng Xong xuôi ông ta bước xuống con mương gần đấy rửa tay rồi lững thững đi vào quán phở vừa mới mở cửa bên đường. Ở đây ông được đón tiếp như một khách hàng quen biết thường xuyên đặc biệt. Chủ quán biết rõ ông thích ăn gì và ăn thế nào.

Sau lần tôi đến chợ phân, tôi đã làm quen với ông Móng, tìm cách trò chuyện với ông ta nhưng ông ta kín như bựng Tôi cũng đã nghe thiên hạ kể về ông ta nhiều chuyện nhưng đều " bán tín bán nghi ", chẳng biết thực hư thế nào.

Bốn chục năm trước, Móng là một thanh niên nông thôn chất phác. Anh ta sống ở một làng quê ven thành. Lớn lên Móng đi lính, đã từng sang Lào và Campuchia. Cũng có người nói hồi trẻ Móng khá tài hoa, cầm, kỳ, thi, hoạ đủ mùi.

Một dạo, đóng quân ở một vùng xa, Móng có làm quen và yêu một cô gái Chặm Cô gái tóc xoăn, da nâu, nồng nàn như lửa. Anh lính nhà quê chất phác si tình như bị hớp hồn. Họ kéo nhau vào rừng trước một pho tượng đá cổ tạc những hình thù kỳ dị mà mãi về sau Móng được nghe giải thích là tượng linga. Móng đòi cô gái trao thận Cô gái bắt Móng phải thề chung thuỷ với cộ Nửa đùa nửa thật, Móng thề :

- Nếu tôi không chung thuỷ với em thì suốt đời tôi đi hót cứt !

Cô gái vui vẻ, tự nguyện trao thận Sau đó Móng đã chuyển đi nơi khác. Anh ta quên ngay cô gái người Chặm Cuộc đời chinh chiến giang hồ bôn ba khắp nẻo, sau này Móng cũng đã nhiều lần gặp gỡ không ít những cô gái khác. Hết chiến tranh trở về quê quán, giống như nhiều người đàn ông có giáo dục và lương thiện khác đã qua thử thách, Móng lấy một cô gái làng, lập gia đình và sống cần cù, gương mẫu.

Tôi nghe kể nhưng không tin lắm vào câu chuyện trện Tôi hỏi ông Móng và biết ông làm việc ở chợ phân này mấy chục năm nay tình nguyện và không vụ lợi. Nhiều người cũng đã xác nhận việc ấy với tội Không có lẽ ông lại có tình yêu và lòng say mê với phân như khối người dở hơi chúng ta vẫn say mê văn chương nghệ thuật, toán học, chính trị hay đồ cổ ? Tôi có mang chuyện này trao đổi với một nhà sự Ông bảo :

- Sám hối vẫn thường là một nhu cầu tâm linh của người ta khi đã về già. Thế nào gọi là sám ? Thế nào gọi là hối ? Sám có nghĩa là ăn năn về những lỗi lầm mình đã phạm từ trước. Các nghiệp ác, các tội ngu si mê chấp, kiêu ngạo khinh mạn. . . hoàn toàn xin ăn năn hối lỗi, từ nay về sau không còn gây ra nữa. Thế gọi là sám. Hối có nghĩa là hối cải những điều lỗi có thể phạm phải sau này. Các nghiệp ác, các tội ngu mê, kiêu ngạo, ngông cuồng, ghen ghét. . . đã được giác ngộ sẽ phải dứt bỏ hẳn, không gây ra nữa. Thế gọi là hối, gọi chung là sám hối. Kẻ phàm phu mê chấp chỉ biết ăn năn những tội lỗi đã phạm phải từ trước mà không biết hối cải những tội lỗi về sau của mình thế là tội trước chưa diệt, lỗi sau lại sinh, vậy chưa thể gọi là sám hối được. Mỗi một thiện trí thức phải nung nấu lắm !

Tôi ngồi nghe, không hoàn toàn bằng lòng với cách giải thích như trên vì thấy ông Móng không có vẻ gì đang là người ăn năn sám hối. Tôi cũng đã dò hỏi về " linga " và các quan niệm về quả báo của người xựa Trong bái vật tổ - tôn giáo nguyên thuỷ (nhiều người coi là tà giáo) - hình tượng âm vật, dương vật giao cấu cũng khá phổ biến, chưa nghe nói vì báng bổ mà đến nỗi phải rước tai hoạ gì. Chắc chắn không hề có chuyện mê tín ở đậy Tiếp xúc với ông Móng, tôi thấy ông là người vô thần, cũng khá hồn nhiên chất phác yêu đời. Tôi băn khoăn quá, giải thích chuyện này cho thật thấu đáo kể cũng đau đầu.

- Không tôn giáo, không chính trị, không vụ lợi, không " sếch-xy " - Ông Móng bảo tôi - Nghề hót phân trên đời là nhất !

Chó Hoang

Cái giống chó này vào lúc này chẳng được cái tích sự gì. Thịt nó hôi. Vả có thơm thì chẹp miệng ba cái là hết cả đầu lẫn đuôi nó. Người ta không mất công đập chết chúng, hay mang chúng ra sông dìm. Quan hệ giữa giống chó này với nguời không phải là quan hệ chủ tớ mà là quan hệ hàng hóa. Khi hàng mất giá thì giản tiện nhất là tống cổ mặt hàng bốn chân ấy ra đường. Và thế là thành phố đêm đêm lách nhách tiếng chó sủa. Sủa đèn đường. Sủa xe máy. Sủa dọa chuột cống. Sủa dọa nhau. Cũng có thể là những con chó bụi đời ấy chỉ sủa để mình nghe tiếng mình cho đỡ sợ. Ông hàng xóm của gã còn bảo là có khi chúng sủa cho đỡ buồn. Chó là giống vật gần vớI con người nhất trong nhu cầu biểu cảm. Giá mà chúng biết nói như người thì hẳn là lúc đó chúng sẽ ngâm thơ, sẽ rên lên một giai điệu nào đó trong một bài hát nào đó, sẽ khóc một tiếng khô khốc hoặc cười một tràng sặc sụa... Ông hàng xóm của gã nói điều đó vào buổi chiều mồng một lúc gã sang nhà ông chúc Tết. Thành phố tết nhất không có tiếng pháo, không có hơi pháo phảng phất một vẻ kỳ kỳ. Tiếng chó sủa mưa lách nhách ngoài đầu ngõ làm cảm giác ấy càng rõ. Bà hàng xóm liền vách nhà gã cùng sang chúc tết cười: "Bác nói hay qúa!" Gã cũng cười, ngó bâng quơ phòng khách của chủ nhà. Trường kỷ giả đồ cổ, chẳng biết bằng thứ gỗ gì mà đen bóng, khảm trai nhóng nhánh. Tủ tường bằng foocmica loằng ngoằng một dây đèn xanh đỏ bật chớp nhoang nhoáng. Lịch hoa hậu toàn những mặt nhẵn như sừng trong bộ dạng thơ ngây dịu dàng đông lạnh. Một cành đào bích to đùng ngự trên bàn thờ che lấp cả tấm ảnh ông cụ vừa mất hồi đầu đông dựng đằng sau mấy bát hương. Cơ man là thiếp chúc mừng năm mới gài trên đó. Lại còn, trời ạ, cả đô. Ðồng một hay một trăm đô nhỉ? Mắt gã cận và gã phải cố lắm để dẹp đi cái ý muốn đến sát bàn thờ để nhìn cho rõ. Số giàu sao mà sướng. Chắc là trong nhà mừng tuổi nhau đây! Phải vợ gã, giá có được vài tờ một trăm đô như thế! ả chắc phải kẹp chặt vào đâu đó và dúi thật kỹ vào một đống quần áo lộn tùng phèo. Nửa kín nửa hở thế mới chắc. Cái thói thu vén ấy đã làm gã điên đầu không biết bao lần. Ðiên nhất là lần ả để lẫn mấy chỉ vàng. Có mấy chỉ thôi, dành dụm suốt bao năm chẳng dám sờ lần tới phòng lúc quẫn bách. ả lấy một cái khăn mùi xoa thắt từng chỉ thành một cái nút to tổ bố. "Ðể khỏi rơi." Và ả đã khóc nức lên vì bới mãi không ra cái khăn ấy trong cái tủ đựng trăm thứ bà dằn.

**

Hồi còn mấy chỉ ấy vợ gã đã tính rước về một ả chó cái lông xù tép bưởi. "Bằng nắm tay thôi, thuần chủng, không lớn được đâu." ả gạ gẫm. Thằng em ả lúc đó cũng có mặt đánh một câu: - Sao lại nuôi cái thứ không lớn được? Phải kiếm giống tốt, nhất bạch nhì khoang tam lang tứ đốm, cho ăn một bát phải lên được vài lạng. Rồi xức mắm tôm cho nó, sắm cho nó củ riềng đeo cổ. Thằng trời đánh nói xoẹt cái như máy dệt len, rồi cười sằng sặc, xong chạy bắn ra khỏi cửa, vớ xe phóng thẳng, để lại cho đương kim anh vợ là gã nguyên vẹn cơn giận của bà chị nó.

Cái ý định làm giàu trên lưng chó vợ gã theo đuổI rất "chì". Bất chấp những nguyên nhân khách quan ngăn cản. Bất chấp chuyện hai vợ chồng một đứa con chỉ có độc một cái giường một cái chạn một cái tivi hai màu đen trắng trong một căn phòng mườI bốn mét vuông. Bất chấp chuyện gã cực ghét những giống mềm mềm âm ấm gừ gừ. ả cũng không cả kịp nhớ ra việc thằng con dị ứng với đủ thứ không nhìn thấy được trong không khí. Tinh thần yêu chó của vợ gã lúc đó làm gã phát hoảng. Nghĩ tới cảnh nhịn miệng để bồi dưỡng cho nó đã đủ rầu. Sữa ông Thọ. Gan tươi. Thăn bò nõn. Cái giống ấy chỉ toàn xơi những của ngon thế. Rồi lại phải hầu hạ chị đàn bà bốn chân ấy cả chuyện dị hóa. Rồi lại phải lo bảo vệ trinh tiết cho ả chó cái chưa mua ấy để ả không đẻ ra những con chó con càng nuôi càng lớn... Gã cũng háo tiền y như vợ. Nhưng đúng là trong sự tính toán này gã thông minh hơn hẳn cô nàng.

Tuy nhiên, vào thời điểm chó lên ngôi chứ không phải lấm lét sủa lách nhách đầu ngõ gã cũng không dám nói điều gì ngăn vợ. Nội cái việc vợ gã hoàn toàn bình thản khi gã nộp lương đã đủ để gã hiểu gã may mắn như thế nào khi cưới ả. Lương "viện sỹ" gã đưa về còn ít hơn lương khoán của ả mỗi khi nhà máy ả tìm được hợp đồng. Gã lại còn không biết gỡ len, dệt len, khâu len như ả. Lấy những thằng như gã là người ta ngõi chuyện chồng đi Tây để rửa mặt với đời. Nhưng ngõi là một chuyện. Có đi được không lại là chuyện khác. Trông vào cái số. Tốt số hơn bố giàu. "Người quân tử ăn chẳng cầu no..." (1) Có lần gã đã rống lên câu ấy. Rồi tịt mít khi vợ đay bằng giọng vô cảm: "Người quân tử ăn chẳng cầu no! Có quân không ăn thì tử ấy chứ ngồi đó mà thơ với phú." Thế cho nên gã im lặng. Gã biết lắm. Bộ lông xù tép bưởi của con chó cái Nhật bằng nắm tay kia đang phát quang trước mắt vợ gã. ả nhìn thấy từ đó nhà hai tầng, đầu vidéo cho con tập hát karaoke, cái cúp kim vàng giọt lệ để vợ chồng con cái chất lên đấy mà phóng về ông bà nội ngoại. Và còn những qủy gì có giời biết. Cơ ngơi xây từ chó đã thành đỉnh cao mơ ước của vợ gã và vô khối các bà các cô trong ngõ. Trước, cả ngõ nhà nào cũng giống nhà nào, đều một kiểu mái ngói cửa sổ gỗ lùa được các nhà thầu xây hàng loạt từ trước hòa bình lập lại để cho thuê. Giờ, ông hàng xóm trúng liền mấy lứa chó, đánh đùng một cái ông gọi thợ phá nhà cũ lên luôn nhà ba tầng, chẳng cần giấy phép. Ông truyền đạt kinh nghiệm cho cả ngõ: "Cứ xây! Ðội quy tắc tới bắt đình lại thì xin phạt cho phép tồn tại(2). Cái gì? Biên lai ấy à? Vài trăm thôi. Nhưng vấn đề là thống nhất được với nhau ở quán. Mất vài triệu nhưng được việc. Lấy vợ xem tuổi đàn bà làm nhà xem tuổi đàn ông. Chờ được cái giấy phép xây dựng thì tới mùng thất. Mà cái sự tốn thì còn đến đâu ấy chứ." Chưa ai trong ngõ được dịp áp dụng kinh nghiệm của ông. Thì lại đánh đùng một cái ông và hai thằng con cưỡi Dream. Ðánh đùng cái nữa sớm trưa chiều tối nhà ông vang vang tiếng hát karaoke "hôm nay em buồn như con chó ốm" (3). Ông giáo về hưu sát vách phải nhà ông Hoạch than thở: "Cứ nghe tiếng âm li nhà ông Hoạch lại giật mình. Cứ như nghe lại tiếng loa báo động "đồng bào chú ý máy bay địch cách Hà Nội ba mươi km" ngày xưa. Không thể nào ngủ được. Cả cái lúc nhà người ta thôi hát đi ngủ. Cứ phập phồng ngửi hít cái im lặng vừa liền lại". Bà hàng xóm sát vách trái nhà ông Hoạch thì cứ trời mưa là chửi đổng. Từ hôm nhà ông Hoạch lên tầng, tường nhà bà bị rạn và mưa ngấm từng vệt loang lổ. Cả ngõ nghe bà chửi với một niềm phấn khích. Ông Hoạch xây nhà, tôn cao mặt đường đoạn trước nhà ông lấy chỗ dựng xe làm cho nước không sao thoát ngay được lúc trờI mưa to. Ði làm về gặp chiều mưa rào, tới đầu ngõ lại phải dắt xe bì bõm trong nước bẩn, ai cũng "cú."

Chẳng ai nhìn thấy những gì diễn ra đằng sau tấm cửa lùa bằng sắt kéo hết mặt tiền nhà ông Hoạch, nhưng hình như ai cũng bị ám bởi ngôi nhà ấy. Mấy bà thấy bọn trẻ phải chạy tóe ra khỏi chỗ chơi đầu ngõ khi xe nhà ông Hoạch phóng vào là ngấm nguýt và bàn nhau họp tổ dân phố kiến nghị cấm xe máy chạy trong ngõ để giữ an toàn cho trẻ. Cũng được mấy ngày. Ðến cái lúc vài ba nhà khác tậu được cái xe sida (4) thì nội quy kia tuy vẫn chềnh ềnh trên bảng treo đầu ngõ song chẳng ai thèm nhớ. Chẳng lẽ lại hì hục đẩy xe từ đầu ngõ tới cuối ngõ? Cấm hát karaoke to cũng không được. Con mấy bà cứ có trăm nào trong túi là tót vào nhà ông Hoạch thuê máy gào. Thằng con gã cũng thèm theo bạn lắm nhưng vợ gã quản rất chặt. Nhưng chính ả cũng như bị ám bởi cái giàu cứ phồng lên từng ngày của nhà hàng xóm.

Một bữa, ngồi bên mâm cơm chiều, vợ gã vừa xớI cơm vừa nói đầy vẻ vô tư: - Nhà ông Hoạch vừa "gãy cầu". Nghe bảo thằng con đi Nga buôn bị hảI quan Nga thu mất mấy ba lô chó. Một bữa khác, mặt ả nở nang: -Con chó đực nhà ông Hoạch người ta trả tới hai sáu cây vàng mà chưa chịu bán "củ" mất rồi. Ðúng là hạn. Ai vào đấy mà bẫy được. Kín cổng cao tường thế cơ mà. Bà ấy bảo năm nay ông ấy bị sao Thái bạch. Cũng là của đi thay người. Rồi một hôm ả buồn xịu: - Em đã hỏi con chó cuối đàn lứa vừa rồi nhà ông Hoạch. Bà ấy nhất mực là phải cây mốt. LạI còn thẽ thọt là hàng xóm với nhau mới có giá ấy. Nhà mình mới có sáu chỉ. Hay anh hỏi thử anh em?! Dĩ nhiên là chả ai có. Mà giá có thì cũng chả ai cho vay. Nếu có đầu tư giúp nhau thì cũng phải chọn mặt biết làm ăn mà góp vốn, mà còn phải chộp cơ hộI phong trào vừa lên. Nuôi cá trê phi. Nuôi vẹt Hồng Công. Nuôi chim cút. Rồi giờ là nuôi chó cảnh. Các phong trào đến rồi đi thoăn thoắt. Ai dại gì rót tiền cho kẻ chỉ biết lạch bạch chạy theo thiên hạ lúc thiên hạ đã ăn đủ.

Bây giờ gã vẫn mừng thầm là dạo đó nhà thiếu tiền. Vì chỉ chừng nửa năm sau là giá chó chững, rồI xuống. Ông hàng xóm nhà ba tầng bán tống bán tháo cả đàn chó đổ đồng một chỉ một con. Ông xoa tay hớn hở: - Mình biết tham thì thâm. Ăn mỏng một tý mới không "cháy cầu". Trước chó phải mua từ Liên xô về bồi dưỡng sấy nhuộm lông thật mốt rồi mới đẩy sang Trung quốc. Giờ thì bọn Tàu nó mua thẳng từ Liên xô rồi. Hữu hảo mà. Bây giờ mớI gọi bán thì trăm ngàn một con cũng không đắt. Chỉ riêng ông trúng. Trong ngõ cũng có mấy nhà tính toán như vợ gã. Xây bao nhiêu mộng thế mà... Rước con chó mấy cây vàng về lo phục dịch còn hơn phục dịch mấy đấng con, chưa được lứa nào thì giá chó xuống đùng đùng. Một nhà sơ ý để chó chạy ra đường lăng nhăng thế nào đẻ một bầy đúng loạI đáng đeo cho củ riềng vào cổ. Và bây giờ thì lũ chó ấy đêm đêm sủa lách nhách ngoài đầu ngõ, nơi cả xóm cứ chập tối lại mang rác ra đổ chờ xe công ty vệ sinh đến hót. Chúng không còn giống những quả bóng bông xinh xẻo, đời sống cao, tự tin và lườI biếng độ nào. Mình chúng dài ra, chân cẳng hình như cũng dài ra, lông chỗ thì bết lại chỗ thì trụi thùi lụi. Chúng nhanh nhảu hơn. Mà cũng nhút nhát hơn.

Một hôm gã đưa vợ con về bên ông bà ngoại. Lúc trở lại nhà, vợ gã sai dừng xe để tạt vào chợ mua rau cỏ. Hai bố con đứng chờ ngoài cổng chợ trong khi vợ gã còn lang thang hàng nọ hàng kia. Có thằng bé đeo cái biển tổ bán báo Xa Mẹ ôm một chồng báo đi ngang, gã gọi mua một tờ rồi dí kính vào đọc. Thằng con đứng nhìn vơ vẩn rồi tự dưng níu tay gã: - Bố trông kìa! Ðúng rồi! Ðúng chị Hạnh rồi. Chị Hạnh ở nuôi chó cho nhà bác Hoạch trước kia kìa. Chị gánh gánh gì có con chó đang chạy theo ấy. Gã nhìn nhưng không thấy. Rất nhiều đàn bà gánh gánh gồng gồng. Rất nhiều đàn bà đẩy những chiếc xe cởi truồng loại không phanh không chuông không gác-đờ-bu, loại xe thồ bán rau bán chuối, đứng trước cổng chợ nhẫn nại mời mọc. Và người thì cứ như nước, lại qua, lại qua.

Khách ở quê ra

1

Định rót rượu ra chiếc chén hạt mít. Khách nhìn, áng chừng lấy làm sốt ruột và có lẽ cho là nhiêu khê, liền cầm lấy chai rượu từ trên tay chủ. Trong tay ông khách, chiếc chai bảy ồng ộc xối rượu xuống chiếc bát ăn cơm còn để không đặt ở rìa mâm.

Ngoài trời vẫn mưa. Mưa đã mấy ngày cũng chả còn ai nhớ được nữa. Chỉ thấy một khối nước trắng lúc nào cũng tuôn rào rào ngoài mảnh sân hẹp và mau hơn, giòn hơn trên mái ngói chi chít của dãy phố. "Cho mày mưa! Cho mày mưa! - khách nâng chiếc bát lên lại đặt xuống - cứ mưa nữa đi! Lúa trổ xong rồi. Lạc cũng nhổ rồi. Chỉ còn mấy miếng nếp. Chà, mấy miếng nếp mưa này rồi cũng hơi gay đây. Nhưng cũng chẳng sao! Cũng chẳng việc quái gì!".

- ... Vậy rồi nó xách một con dao... một con dao quắm hẳn hoi chú à! - đang nhìn ra ngoài trời, khách thu cả hai con mắt về, nhô nửa người qua mâm cơm - Tôi thấy nó lao như mũi tên từ trong bếp ra. Con dao cầm lăm lăm trong tay. Con dao quắm vừa sáng vừa sắc, tôi vừa mới mài. Con dao thì sáng loáng mà cái mặt nó thì cứ trắng nhợt. ấy là tôi đang nói cái thằng Dũng - cái thằng con trai đầu của tôi đó chú à! Nó chạy xồng xộc ra chỗ đầu bờ mương tôi với lão chắt Hòe đứng. Tôi biết ngay. Phen này mình không nhanh tay ắt có án mạng. Chứ không còn là chuyện cãi cọ đôi co vì mấy con dê giữa tôi với lão chắt Hòe nữa. Bọn thanh niên nó khác. Chúng nó không thích đôi co đâu!

Mà cái lão chắt Hòe thì đằng thẳng ra, cũng đáng chết lắm. Chú tính, cái giống dê, dù rằng mỗi con có bốn chân nhưng chân cẳng của dê làm sao giẫm hết cả một sào nếp? Đàn dê của tôi có sáu con cả thảy. Nhưng chân dê chứ có phải chân trâu bò đâu?

Tôi cũng có một miếng nếp, nhất định tôi sẽ đền cho bác - Tôi nói với lão chắt Hòe - Cả hai miếng cùng một tràn ruộng, cũng đều một sào cả - Tôi nói ôn tồn. Vậy mà cha con nhà lão cứ chực xông vào đánh tôi. Lại đem tên bố mẹ tôi ra mà réo chửi. Cho nên thằng Dũng nó tức.

May làm sao! Cái con mẹ Huệ nhà tôi lúc ấy cũng vừa gánh hai thúng đá ngoài ruộng về. Đặt gánh đá xuống, nó lao theo. Nó ôm chặt lấy thằng Dũng, giằng được con dao quắm! Tôi nghĩ thật hú vía!... chứ không thì bồ ổ nhà lão chắt Hòe bữa đó... thế nào cũng có đứa biến thành ma ông Cụt. Nói vô phép chú chứ, con cái nhà nó tiếng là đông cũng chỉ có hai mống là lớn, chứ bên nhà tôi có những bốn đứa lớn cơ!

***

Trong khi khách nói, Định ngồi ngắm lão. Định ngắm kỹ và lâu nhất hai bàn tay của lão. Chẳng còn là hình thù một cái bàn tay con người nữa! Hai bàn tay lão đầy những chỗ nỗi u nổi cục, các ngón vặn vẹo và bọc một lớp da giống như một thứ vỏ cây, và cả bàn tay lão giống y như một tòa rễ cây vừa mới đào dưới đất lên. Và Định như đang nhìn thấy một thứ đất đến kỳ cục: cứ lổng chổng đầy những đá. Viên bé chỉ là một hòn đá kỳ lưng, hòn to cũng ngang cái đầu. Và lại còn cơ man là rễ cỏ tranh. Một vùng đất của dân biển lên mở trại lúc nào cũng phả ra chung quanh mùi rễ cỏ tranh ngai ngái, hăng hắc và ai đã đến đấy khi trở về, vẫn cứ phải nghe mãi cái dư âm ken két đầy rền rĩ của những chiếc xe cút kít - mà sự ra đời của nó lại như một phát kiến của loài người: Công việc khẩn đất ở đấy nặng nhất là khâu nhặt đá. Ban đầu từ người lớn đến đứa con nít cũng chỉ dùng tay. Về sau mới tiến lên đan ky, đan sọt để khiêng và gánh. Tiến lên một bước nhảy vọt, người ta đóng xe cút kít để chở đá.

Vùng đất đó là một vùng phía tây của miền trung - cái vùng "chó ăn đá, gà ăn sỏi" - mà giá không có bàn tay của những người như lão Khúng, lão cháu ruột của Định kia thì vẫn mặc sức ngủ kỹ dưới lốt chân hổ báo, dưới gió Lào, dưới giông bão, dưới bom đạn.

Vào một lần cách đây đã mười bốn năm, Định khoác chiếc ba lô cóc nặng gần bốn chục cân - trên đường đi B dài - đến một cung độ từ đấy đâm thẳng xuyên qua đường số Một về phía biển là làng Định. Đoạn đường giao liên vừa bỏ rừng chạy qua những triền đồi trọc. Hình như địch vừa ném bom. Trong cái nắng đến ngột thở có pha lẫn mùi thuốc bom. Hố bom, cái đỏ quạch, cái vàng sẫm. Nhìn ra bốn phía chung quanh nhấp nhô những dãy đồi cứ chạy xô vào nhau như rắn cuộn, thỉnh thoảng y như tận trên trời cắm thẳng xuống một hòn núi đá như một chiếc lưỡi tầm sét.

Trong cái nắng chiều ong ong, ngột ngạt, không lúc nào ngớt tiếng máy bay phản lực Mỹ bay lên từ mạn biển, một dáng người đàn ông cúi khom lưng xuống đẩy một chiếc xe chở đầy đá.

- Anh Định đấy hả?

Định nhận ngay được giọng "kẻ biển" của làng mình - vừa nặng trịch vừa véo von như hát - nhưng phải một lát sau mới có thể nhận ra lão chắt Hòe:

- Bác làm gì tận trên này?

- Tàu bay thằng Mỹ nó vít mất lối ra chỗ có con cá rồi! - lão chắt Hòe thở hắt ra một tiếng, cái mặt nhuộm muối biển càng đen sắt - Bố con tôi vừa kéo nhau lên đây!

Định kéo lão chắt Hòe tới một gốc cây, mở lương khô khoản đãi, đưa thuốc lá cho lão hút, tỷ tê hỏi đủ mọi chuyện dưới làng. Đến lúc sắp đứng dậy lão mới bảo:

- à này anh Định, nhà thằng Khúng cũng đang ở trên này...

- Thằng Khúng nhà tôi hả bác? Nó lên đây một mình hay cả nhà?

- Cả con vợ với ba thằng quỷ sứ.

- Nó lên lâu chưa?

- Nó lên đầu tiên. Bỏ làng lên đã nửa năm nay. Tôi thấy bồ ổ nhà nó sống được nên cũng mới nghe nó rủ, kéo lên theo.

- Nó ở gần đây không?

Định nhìn theo mũi con dao quắm lão chắt Hòe nhứ nhứ về phía khoảng bìa rừng xanh um, từ ở đấy vẳng lên tiếng hót đầy lảnh lói như có cạnh sắc của com chim "bắt tép kho cà".

Gần trọn ngày hôm sau, Định lạc giữa một vùng rừng và đồi trọc, đến chiều tối mới tìm thấy cái gia đình ông cháu chả khác nào một cái ổ gấu chó nằm lọt vào giữa một vùng rừng cỏ tranh cao ngập đầu, đó là một cái túp bằng lá cỏ tranh bện lại, bốn chung quanh xếp đầy đá, dựng trên mấy vạt đất mới vỡ.

Trong cái ổ gấu, mấy chú gấu con đang đánh lộn nhau khi ấy chỉ mới là một phần ba số con cái của Khúng, và người đàn bà đã đẻ ra những đứa trẻ ấy, tuy sống giữa rừng nhưng vẫn trẻ đẹp, còn Khúng, y như một con người vừa từ dưới lỗ lên, vừa đen vừa gầy vừa già vừa xấu.

Bữa đó Định cầm mấy phong lương khô đi theo định làm quà cho mấy đứa cháu gọi Định bằng ông, nhưng đến nơi mới biết, trong túp lều vợ chồng Khúng, dưới cái hầm thùng chất đến những ba thùng lương khô còn mới nguyên. Thì hóa ra cái vùng đồi dân miền biển lên sơ tán và khai hoang để chống đói này cũng không xa các bãi khách của bộ đội đi B là mấy nỗi. Các đơn vị tên lửa và xe pháo đều đóng đầy quanh đây cả, trăm thứ của nả của chiến tranh đều không thiếu.

Trên đường vào nam đánh giặc, Định mới có dịp hiểu biết kỹ hơn ý đồ làm ăn lâu dài của người cháu: Rời làng lên đã nửa năm mà Khúng chưa chịu làm nhà, hắn vẫn để vợ con chui rúc dưới mấy tấm phên cỏ che trên cái hầm thùng. - "Dựng nhà làm khỉ gì - Khúng nói với vợ - làm mục tiêu cho tàu bay nó bắn ư?". Bao nhiêu sức lao động trong "bước đi ban đầu" hắn đem dồn hết vào việc vỡ đất. Hắn tranh chấp với rừng từng bước, không phải chỉ bằng mồ hôi mà cả bằng máu: Ngày mới lên, hắn đã bị thương trong một lần máy bay ném bom đêm - giữa lúc hắn đang vãi lúa lốc.

Chung quanh cái "ổ gấu" dần dần mọc lên một vành đai sắn ở phía ngoài, sắn lên xanh ngắt chen chúc cây dại. Đậu xanh, đậu tương ở sau nhà. Lúa tẻ, lúa nếp trước nhà. Chỗ ăn ở tuy chưa được "đầu tư" thế nhưng hôm trời nắng to, vợ hắn lôi ra phơi bên cái bờ mương dẫn nước - trên mấy cây sào nứa hàng đống quần áo, chăn màn; toàn đồ quân trang, quân dụng của anh em bộ đội đi B. Chẳng hề giấu giếm, ông cháu ruột "báo cáo với chú" đã đổi được bằng thịt dê và rượu. Ngày ở dưới làng, vợ chồng con cái rách như tổ đỉa. Bây giờ cả nhà hắn mặc quân phục. Người nào cũng lành lặn. Vào dịp dưới làng có giỗ chạp, Khúng đánh hẳn một bộ tô châu xuất hiện trước mắt những người làng với tư thế của một người đi làm ăn xa về ăn nên làm ra, lại vừa với dáng vẻ một cán bộ trên vùng khai hoang về.

Phú quý sinh lễ nghĩa, hắn mang về cúng hẳn nhà thờ họ một chiếc võng đôi bằng loại vải tê-tờ-rông, để thuê thợ vẽ cây gia hệ. Cả họ năm nào tế tổ cũng cứ bàn nát ra về việc quyên cúng tiền mua mấy mét lụa, bây giờ hắn cúng vào một tấm tê-tờ-rông, thế là xong.

Thậm chí vợ hắn cũng trở lại với những thói quen của một người thành phố đã bỏ quên từ lâu. Từ rất lâu vợ hắn tưởng đã bỏ quên hẳn thói quen mặc áo lót mình. Sau mỗi lứa đẻ, hai bầu vú để thỗn thện, bây giờ "co" người lại trở nên gọn gàng, và chiếc nịt vú của người đàn bà cũng may bằng thứ mặt hàng quân phục. Đêm nằm bên vợ, bây giờ hắn thấy trên khuôn ngực trắng như ngó sen tự nhiên úp vào hai cái vung may bằng thứ vải tô châu mới xanh biếc, như hai con cánh cam to tổ bố, nom đến tức mắt.

***

Về người cháu đích tôn này, có thể nói cứ mỗi bận Định về làng trong những dịp họa hoằn lắm trong đời, không thể không về, như sang tiểu cho bố mẹ, người thân chết - lần nào Định cũng phải đóng vai trò như một chứng nhân của một quãng đời có cái gì khác thường của hắn. Kháng chiến chống thực dân Pháp kết thúc, Định bận bịu mãi với đám tù binh, thu xếp cho chúng về nước hết anh mới về thăm làng được. Bị ném bom bao nhiêu lần, làng vẫn nguyên vẹn, vẫn y như hồi Định còn cắp sách đi học trường tiểu học, chỉ thấy cái gì cũng bé lại, từ con sóng ngoài biển cũng bé lại và cũng phủ một lớp bụi cũ kỹ. Cuối kháng chiến, làng được tặng thưởng huân chương vì thành tích tổ chức được một đội thuyền vượt biển đi tiếp tế vũ khí tận trong Khu Năm. Nhưng chiến tranh kết thúc, gần bốn chục cặp thuyền giã khơi chỉ còn lại một mớ xác thuyền nằm gối bãi rải rác dọc con sông nước mặn.

Định gặp Khúng ở ngang cái xóm đạo nhìn sang bên kia sông là mấy mảnh tường đá còn sót lại của một cái nhà đoan Tây ngày xưa. Hắn mặc một chiếc áo vải thô nhuộm vỏ già đã nhùng nhục, hai vạt trước mở phanh, một chiếc nón đan bằng giang cắp bên nách, quần dài cởi vắt vai.

- Chú Định, chú đến là tệ! - Hắn túm lấy anh, mùi rượu phả sang mặt Định, lẫn mùi thịt chó - nghe nói chú về đã mấy ngày mà cứ ở tịt đâu tận trên ủy ban...

- Nào đâu có, kìa, tao vừa về đến đây... hồi này có vẻ cậu như đã chuyển sang làm nghề biển rồi?

- Cánh nghề biển đang chạy túa lên các xứ đồng cắp rổ đi mót khoai lang kia kìa! - Hắn ưỡn ngực ra - Vả lại, mình phải giữ lấy cái nghề gốc của đời ông bà chứ?

- Nếu làm ăn ra... xoay sang nghề biển cũng được chứ có sao?

- Thế là chú mất gốc. Họ nhà mình chỉ nên sống với cái hòn đất.

Khúng giành lấy ba lô, túm áo mũ Định lôi tuột anh về nhà hắn. Ôi, nhà với cửa! Ngôi nhà của hắn mới thoạt nhìn thấy, Định đã hốt hoảng. Sao mà hắn lại có thể phỉ báng thần linh đến thế cơ chứ? Cả làng có độc một ngôi đền chung cho cả dân đánh cá lẫn dân ruộng nằm thìa lia ra ngoài cửa lạch, nổi tiếng khắp vùng đền làng Khơi là đền thiêng. Ngày xưa, hàng xóm nhà Định có một tay dân đánh cá chẳng hề biết sợ hãi ai cả, nổi tiếng ốc sạo, ngang bướng, vậy mà một lần đi qua trước cổng đền, trông thấy một bãi cứt trâu liền ngồi xuống dùng hai tay hót vứt đi. ấy vậy mà bây giờ cái thằng Khúng cả gan dám dựng nhà ngay trên cái nền đất cao ngất của ngôi đền làng mà ở. Tiếng rằng ngôi đền đã bị đánh bom nhiều đợt chỉ còn một hàng bậc thềm xây đá Thanh, nhưng làm nhà ở trong khu đất của đền như một vài người khác đã quá lắm, vậy mà hắn lại leo lên đúng ngay chỗ thần linh đứng?

- Xùy, cháu cứ tưởng chú đã đi bộ đội phải nghĩ khác những người làng... - Khúng nói lấp lửng.

- Theo cậu thì nghĩ như mình và bà con trong làng là... lạc hậu ư?

- Cháu ngu dốt, từ nhỏ đi học đã tối dạ, nhưng chú biết đấy, từ nhỏ cháu đã là đứa khoảnh nghịch. Cháu cất cái nhà lên ở đây, người ta đồn đại ghê lắm! Chẳng phải chỉ có làng này mà tiếng tăm cháu đồn đến tận nhiều làng khác cơ!

- Vậy là cậu nổi tiếng?

- Hì, hì... nổi tiếng thích chứ chú? Chú tưởng chú không thích nổi tiếng đấy hử? Người ta sống ở đời, chưa có miếng ăn thì cúi gò lưng xuống mà kiếm miếng ăn, có miếng ăn rồi thì ngẩng cao mặt lên cho thiên hạ biết mặt. Đến con cua con cáy cũng có lúc nó phải khuơ cái càng lên trời cơ mà!

- Cậu cũng đang khuơ cái càng lên đấy!

- Cháu đã mang tội nhạo báng thần linh thì chú cũng đừng nhạo báng cháu, cho có tội! à này, tháng trước cháu vào trong chợ Chầu mua cái ách cày, tận tai cháu nghe một mụ hàng nước nói rằng ngoài làng Khơi có một tay làm nhà trên đất đền, nhà cất lên đã cháy đi cháy lại ba bận, nuôi con chó, con lợn đều chết. Vợ ốm, con ốm.

Định phì cười:

- Làm gì cậu đã có vợ mà ốm?

- Có, có... chú đi bộ đội cháu không biết ở đâu cho nên cháu không báo cáo được với chú đó thôi!

Miệng nói chân hắn thò xuống phản khua đôi guốc mộc. Tận đến lúc bấy giờ Định mới kịp để ý đến cái ánh lửa rơm cháy phừng phừng có thể soi rõ hình ông Thiện và ông ác đắp nổi ngoài cổng đền.

Vợ Khúng mặc chiếc áo len xanh cụt tay, rón rén đi theo Khúng lên chào ra mắt Định. Trời đã tối, Khúng châm ngọn đèn. Hắn vừa khêu to bấc đèn vừa lúng búng:

- Chú đấy!... - rồi quay sang Định - vợ cháu vừa đẻ. Nó tên là Huệ.

Người cháu dâu, vừa thoạt nhìn Định đã thấy chẳng có gì ăn nhập với Khúng, cũng y như cái nền ngôi đền linh thiêng trên đó hắn vừa cất lên túp lều của hắn.

Giữa hai con người có một cái gì quá đỗi khập khiễng, ai mà tin được có thể là hai vợ chồng, khi người vợ như một nữ sinh thành phố đứng bên cạnh Khúng. Chả khác một chiếc cốc pha lê bày bên một chiếc cối giã cua.

- Cháu ở đây... có thấy sợ không? - Câu đầu tiên Định hỏi người cháu dâu.

- Thưa chú... một mình cháu thì cháu không dám ở ạ!

- Chắc là cháu ở một thành phố nào ngoài Bắc?

- Thưa vâng ạ. Cháu ở thành phố Nam Định.

- Sao cháu nói pha tiếng trong này?

- Lên năm tuổi, thầy cháu đưa cháu đi theo vào Vinh rồi sang Luông Pra-băng. Thầy cháu là kỹ sư cầu cống. Cháu về Bắc rồi lại vào Vinh một lần nữa, đi học cho đến ngày ta phá thành phố...

Người con gái không nói tiếp. Định cũng không hỏi thêm, anh không dám. Đến hồi đó mới khoảng năm 1947. Khúc đường đời từ đó về sau, trong cảnh kháng chiến chắc hẳn không ít các điều bất ngờ xảy đến. Định chợt nhìn thấy một vẻ chán chường tuy kín đáo hiện ra ở cái nếp nhăn thấp thoáng bên khóe miệng người con gái thành phố. Chẳng lẽ đến đây, như đã là một bước đường cùng, hay một bước đường tạm dừng?

Trong buồng, đứa trẻ đang khóc. Huệ vội vã chạy vào bế đứa trẻ ra trao cho Khúng, để đi dọn cơm.

Đó là một đứa con trai, mới chừng vài tháng. Đột nhiên Định sực nghĩ chắc chắn đứa bé không phải là con Khúng.

Nằm trên đôi cánh tay của Khúng, nó càng khóc ngăn ngắt y như bị đau đớn ở một chỗ nào đó trong người.

Định chìa tay ôm lấy đứa trẻ, bế đến bên cái đèn. Anh hỏi Khúng:

- Đặt tên con là gì?

- Hình như con vợ tôi nó đặt là Dũng - Khúng đáp.

- Đã già, mặt mũi lại y như cái nồi đất kho cá, mà... mà cái lão chắt Hòe một bận đang đêm lẻn vào buồng vợ tôi, nấp vào sau cái chum. Nhà Huệ nó biết liền đóng sập cửa lại. Có mà chạy đường trời! Chẳng xơ múi gì mà từ đó hễ trở trời là lão kêu đau. Tôi chỉ giáng cho một gậy thước vào lưng chứ có nhiều đâu.

- Cậu uống nước đi rồi ăn cơm! - Định giục ông cháu.

- Tôi không ăn cơm đâu... Từ đó, lão ta đâm ra thù tôi, lão nói với thằng Dũng nhà tôi rằng mày không phải là con lão Khúng. Mẹ nó chứ, không phải là con tôi mà tôi lại nuôi từ lúc mới lọt lòng ra? Mà tôi đã cưới vợ cho nó tốn hết bao của nả? Không phải là con tôi mà trời mưa gió lụt lội thế này, tôi cũng phải cất công tiễn nó ra tận Hà Nội... để cho nó đi bộ đội.

Ông khách nhắc chiếc chai lên, lại xối rượu vào chiếc bát sứ. Nhưng khách vẫn chưa nhấc chiếc bát mà chỉ chun mũi hít hít cái không khí ẩm ướt hơi lành lạnh tan vào trong hơi men. Chẳng còn nhớ gì nữa đến những miếng nếp và khoảnh lạc bao quanh cái ngôi nhà mới xây năm gian tuyền bằng đá, lão Khúng chỉ còn nhớ được cái lúc chuyến tàu hỏa sắp vào ga Hàng Cỏ, tàu lắc mạnh hơn và đi chậm lại. Trong lúc thằng Dũng cùng lũ trẻ mới đi bộ đội thò nửa mặt ra ngoài cửa sổ ngắm phố xá san sát hai bên thì lão mặc dầu chưa ra Hà Nội bao giờ, mặc dầu trăm thứ lạ lùng đang bày ra chung quanh, lão cũng không muốn để con mắt đi đâu ngoài đứa con. Lão nghĩ: hễ đến khi tàu dừng hẳn là mình cũng phải xa nó hẳn. Lão thế mà yếu đuối.

Gần một đêm một ngày ngồi tàu chung với đám thanh niên tòng quân, lão chỉ toàn khoe đứa con. Đến nỗi người chịu chuyện, một đồng chí thượng úy làm nhiệm vụ đưa hai toa tàu chở tân binh từ miền trung ra, cũng phát sốt ruột vì lão. Lão kể lể bao nhiêu thứ chuyện về cái thằng Dũng với một nỗi tuyệt vọng: không bao giờ bộ đội người ta có thể hiểu hết giá trị của con lão, một cái máy cực tốt sản xuất ra bao của nả nhà lão. Thế vậy mà vợ chồng lão đem trao cho bộ đội quách. Thế vậy mà vợ chồng lão lại lấy đó làm điều vinh dự, sung sướng.

Nhưng mà tiếc, nhưng mà nhớ nó lắm! Chao ôi, từ nay sẽ không bao giờ được trông thấy cái dáng nó đứng trong rừng, ưỡn người về sau, tay nâng lưỡi rìu lên quá đầu, một tiếng "chóc" của lưỡi thép chém ngập vào thân gỗ đã tan đi rất lâu, vậy mà không có gì xóa đi được những khoảng da thịt tươi non ướt đẫm mồ hôi in vào lá cây, in vào cõi im vắng của rừng sâu. Nó là đứa con trai làm việc khỏe lại thành thạo nhất trong bốn đứa con lớn nhất của nhà lão. Là đứa con có mặt ngay bên cạnh lão, khi có đứa hiếp ức lão.

Xì, làm việc gì mình chỉ nên nghe mình là hơn cả! Sau ngày vợ chồng lão trả miếng đất linh thiêng lại cho thần làng sau cái vụ có đứa đốt nhà lão, một cô y tá đứng trước thềm trạm xá xã phát thuốc ngừa thai cho đám đàn bà đi khai hoang, đã đưa bàn tay vỗ vỗ lên vai vợ lão: "Chị Huệ, chị đẻ ít thôi, ba cháu là đủ rồi!".

Đủ sao được? Dù vợ không muốn, lão cũng bắt vợ phải đẻ. Đẻ rồi nuôi, sợ gì? Cái kho người nằm trong bụng vợ chứ có ở đâu xa? Đã dám bỏ làng bìu ríu nhau lên sống giữa chốn rừng thiêng, hoang vắng, đi hàng nửa ngày không gặp một người, thì phải có thêm người chứ? Không có thật đông người làm sao dọn hết đá? Làm ra con người khó đếch gì?

- Cũng chẳng phải dân đi trang trại mà dân ở làng cũng vậy, chú Định ạ. Cái cô y tá khoa sản ở trạm xá xã ta, hắn nói vậy chứ hắn cũng đẻ khiếp lắm! ở nhà quê mình, nhà nào đông con mới có uy thế được...

- Cậu nói cái gì lạ vậy hử? - Tự nhiên ông chú nổi giận - Cậu định phá cái nước này đi đấy hử? Tung ra bao nhiêu cán bộ y tế để vận động sinh đẻ có kế hoạch, nói đến rã bọt mép. Khéo, khéo cậu đang tuyên truyền phá chính sách đấy. Cậu phải thay đổi cái đầu óc đi!

Định hiểu những vấn đề trầm trọng của phát triển dân số trên toàn thế giới và trong nước mà lão Khúng mù tịt. Lão không cãi, chỉ đưa mắt ngắm cái gian nhà bằng cái lỗ mũi của ông chú với một cái gác lửng xếp tú ụ những đống chăn, gối mà đêm qua lão phải ngủ trên đấy, suốt đêm mót đái lại thèm thuốc lào mà cứ phải nằm im, ho khạc một cái cũng sợ làm tỉnh giấc nhà hàng xóm.

Tự nhiên hăng lên, lão xòe năm ngón tay khẽ khàng quắp vào khoảng xương đầu gối ông chú:

- Nhưng cháu xin hỏi: cả một đời chú, đã bao giờ chú phải dọn đá, trồng cây và làm nhà chưa, hay chỉ ăn lương và ở nhà của Nhà nước? Đã bao giờ chú phải chịu những đứa chung quanh cậy đông hà hiếp mà phải cắn răng chịu chưa?

Định cười ha hả:

- Cứ như cái ngày đi B ghé vào chỗ cậu, cũng khó mà tin được vợ chồng có thể trụ lại ở đấy được thực.

- Tôi trụ lại được là nhờ có bầy con sau này lớn lên.

- Cũng phải nói cho thỏa đáng, về sau có thêm nhiều bà con lên nữa chứ? Cũng phải nhờ có cái tập thể dựa vào nhau nữa chứ?

- Cũng có khi tối lửa tắt đèn. Thực là thế. Nhưng đã có thêm người là có thêm ganh ghét nhau, thậm chí thù ghét nhau. Chú có biết tại sao lão Hòe từ ngày lên khai hoang trở thành thù ghét với tôi không? Do là ngay từ ngày đầu, trong bụng lão đã ngầm ức với tôi vì mấy khúc xương của một con lợn lòi bắn được ngoài rừng. Đều muốn nấu một nồi cao toàn tính cả, cả lão và tôi đều muốn lấy. Vì tôi mạnh hơn thế nên tôi lấy được.

- Thì chia nhau có hơn không?

- Nói như chú!

Chai rượu hết. Khuôn mặt ông khách vẫn như thường, chỉ có hai con mắt hơi gợn những vằn đỏ. Từ đầu bữa đến giờ lão mới nhấc đôi đũa gắp một khúc xương rán cháy cạnh nhưng rồi lại thả xuống, nhón trên đầu đũa một trái ớt đỏ tươi chẻ tư như một bông hoa trong cái thẩu dấm, đưa lên miệng. Lão nhấp ngụm rượu cuối cùng. Vị cay chua truyền đi khắp người lão. Lão cầm chiếc khăn mặt bông trên đầu gối, lau hai con mắt ươn ướt và đến bấy giờ lão mới nhận thấy những câu chuyện với ông chú từ đầu bữa đều là chuyện tào lao cả.

Lão lại trở về với cõi lòng sâu thẳm và mỗi ngày một khép kín của đời lão. Phàm con người ta ở đời, có cái gì hơn người, sướng vì nó mà chuốc lấy cay chua cũng vì nó? Vợ lão đẹp thực. Chả là cái thá gì cả, chẳng phải chủ tịch, bí thư, cũng chẳng phải điển hình chăn nuôi hay vệ sinh, chỉ vì một con vợ đẹp mà suốt đời lão nổi tiếng. ở dưới làng hay lên trại, lão đều có nhiều người biết tên. Có nhiều công việc phải lên xã hay ra ngoài hợp tác, lão nói rã bọt mép không xong, nhưng mụ Huệ vấn chiếc khăn xanh lên đầu, đi là xong. Trong số chín đứa con - tẻ, nếp lẫn vào cũng có. Lão biết. Nhưng cũng đừng một kẻ nào nên nghĩ rằng có thể dễ bờm xơm được với vợ lão. Giới chức việc chẳng ai lay chuyển được vợ lão, tuy rằng "cái đám dân đi cày ngồi bàn giấy ấy" - như lão thường gọi - cũng "lãng mạn" ra phết. Có một anh theo đuổi vợ lão từ khi còn là một nhân viên coi kho của hợp tác xã cho đến khi leo lên đến cái chân kế toán trưởng, rồi phó chủ nhiệm hợp tác xã, từ khi còn là một anh chưa vợ đến tận khi đã vợ con, gần như vợ lão có tà thuật sai bảo là phải nghe, vậy mà suốt đời chỉ một lần, được nắm cái cổ tay của mụ Huệ chừng một phút.

Chán vạn người quyền thế, chán vạn kẻ phong lưu, đẹp mã, mụ Huệ đều không mắc, trước sau một mực chỉ biết có một người đàn ông là lão; vậy mà một lần, mụ đã mắc với một người, chung chạ và đẻ con với một người khiến cả làng không ai tưởng tượng nổi. Làng nước có thể gọt đầu bôi vôi một người đàn bà khôn ba năm dại một giờ, nhưng lại tha bổng và thậm chí đồng tình với một kẻ đã dám cố ý làm một công việc ngược ngạo.

Mụ Huệ phải lòng thằng Mới thật là ngược ngạo. Từ trước Cách mạng tháng Tám, người ta thấy thằng Mới - vốn là con hoang của một tay làm mõ trong làng - sống vất vưởng ở đầu ghềnh cuối bãi, theo thủy triều lên xuống để kiếm con ngao, con cá và thường nương náu nơi cổng đền làng. Sau Cách mạng, đáng lẽ hắn được đổi đời, nhưng trong khi tổ chức các đội dân quân cũng như các đoàn thể cứu quốc, người ta quên không gọi hắn, vả lại hắn còn nhỏ. Sau kháng chiến, Mới đã hai mươi tuổi, cũng là một điều lạ lùng, trong những năm bom đạn, hắn vẫn bám lấy cửa lạch và cái cổng đền đã bị bom đánh sập, vậy mà không chết. Hắn sắm được một chiếc mảng làm nghề câu biển, cũng có khi chạy sang nghề nông, cứ xam bán, và một lần nữa, trong khi tổ chức hợp tác xã, người ta lại quên hắn, nghĩ rằng cứ để hắn đứng ngoài với một chiếc mảng ghép bằng dăm ba cây bương, hắn chẳng chết đói mà cũng chẳng phát triển lên tư bản chủ nghĩa được.

Ngày cái nhà của Khúng ở dưới quê chưa cháy, có một vài kẻ trong làng thuê Mới đốt cái nhà dựng trên nền đền, nhưng hắn đã không làm mà còn mách với Khúng. Cũng vì cái ơn ấy mà Khúng cho hắn dựng nhờ cây sào, tấm lưới, có khi động biển, hắn còn được phép kéo chiếc mảng lên dựng vào sau túp nhà bếp của Khúng và nấu nhờ một bữa cơm. Không hiểu sao từ khi thoạt nhìn thấy thằng Mới, Huệ đã cảm mến ngay. Huệ có thể ôm con ngồi ngóng ra ngoài cửa lạch suốt buổi, để xem hắn câu, cái mảng lúc vào gần, lúc ra khơi, cứ lững lờ: hoặc là ngồi nghe hắn kể thói quen từng loài cá, tính nết từng đám mây. Hắn thật hiền, có lẽ hiền nhất làng và có một cái gì đó như một tâm hồn nghệ sĩ - một tâm hồn vô cùng thính nhạy nhưng lúc nào cũng khép kín. Đến bấy giờ thì Huệ đã hiểu vì sao trên khuôn mặt bầu bầu và rám nắng của Mới luôn luôn hiện lên một vẻ lơ đễnh đầy trong sạch gần như ngây ngô, giống như lột cái vẻ mặt của Th - bố thằng Dũng - những lúc Th. ngồi trước những mẩu đá.

Khoan, đứa con vụng trộm với Mới là thằng con trai thứ tư của Huệ, lớn lên mặt mũi giống Mới như lột - và Khúng, một người cha vốn quý trọng mọi nguồn lao động, vẫn yêu và quý thằng con trai thứ tư, đứa con đầu tiên sinh ra khi vợ chồng lão vừa lên vùng khai hoang, chả kém gì những đứa khác.

Kể cả cái thằng bé Khoan có khuôn mặt bầu bầu và nổi tiếng hiền lành nhất nhà ấy, dù là gì đi nữa nhưng điều quan trọng là lão đã biết rành rành nó là con thằng Mới, vẫn thuộc dòng máu của một anh dân làng Khơi tầng lớp mạt hạng - nghĩa là, lão đã biết hết cả mọi xuất xứ và nguồn gốc của nó.

Trong đàn con cái đông đúc mà mụ Huệ đã đẻ cho lão như một nguồn lao động trời cho ấy, chỉ có một đứa- là chính cái thằng Dũng - lão không hề biết rõ con cái nhà ai, không được phép hỏi mụ vợ, cũng không được phép tìm hỏi người khác suốt đời lão, không hề bao giờ lão hắt hủi và bằng tất cả tấm lòng thành thực, lão yêu thương nó, nhưng không bao giờ lão thoát ra được cái nỗi ám ảnh rằng nó mang dòng máu xa lạ với lão. Thằng con ấy, nó là đứa đẹp trai nhất nhà, một mình nó một khuôn mặt, từ con mắt, cái mũi đều như được chạm trổ tinh vi hơn. Nhưng đấy lại chẳng là cái vết thương sâu nhất của đời lão - suốt đời lão mang tiếng lấy vợ thừa người khác, chẳng là vì nó?

Trưa hôm qua, chia tay với thằng Dũng rồi lão còn quay lại đoàn tàu hỏa đang còn đậu ở trong sân ga một lần nữa, lão khúm núm trước cái anh bộ đội cấp thượng úy: "Đừng để nó phải khổ, đừng để nó phải đói rét, cái thằng Dũng nhà tôi ấy, việc gì làm cũng được nhưng lại khảnh ăn như một đứa con gái nhà thành phố!" - "Biết rồi bố ạ - anh bộ đội dẫn quân chế nhạo lão - vào bộ đội cũng không phải đi đày đâu. Bố cứ yên tâm!".

Thấy mình phút chốc trở nên y như một mụ đàn bà lẩn thẩn, nhưng lão vẫn cứ quanh quẩn bên cái tàu hỏa có đứa con đang ngồi, hết mua hoa quả lại bánh trái lật đật mang về bắt nó ăn.

Nửa giờ sau mới có một chiếc xe tải của một đơn vị bộ đội Hà Nội đến đón đám tân binh miền trung vừa ra. Trông thấy thằng Dũng rời tàu bước lên xe, thế là lão Khúng cứ quýnh cả lên. Chẳng biết làm gì trong cái phút chót, lão dúi thêm một mớ giấy bạc vào tay nó khiến thằng bé vừa thương bố lại vừa ngượng với bạn, đến nước nó phải gắt lên với lão trước lúc xe chạy.

Lão đứng lại một mình giữa cái sân ga Hàng Cỏ đầy những người lạ. Đến bây giờ lão mới đưa mắt ngắm nhà cửa, phố xá Hà Nội và lão sực nghĩ đến những lá thư được gửi đi từ đây - mà suốt gần hai mươi năm nay, cứ một vài năm vợ lão lại nhận được một lá. Đó là những lá thư riêng của vợ, mà lão đã đọc trộm. Những bức thư viết trên một thứ giấy thật mỏng, mà mỗi lần đọc xong, suýt nữa lão đã toan lấy làm giấy vấn thuốc. Nhưng lão không dám, lại đem cất lại như cũ, tận dưới đáy một cái trong xó buồng vợ.

Mỗi lần nhận thư, bao giờ đêm ấy vợ lão cũng thức chong, đuổi lão ra nhà ngoài nằm, hai ba ngày sau, cứ như một người câm và đối xử với lão như một người xa lạ.

Dù rằng suốt một đời đã bị lão Khúng biến thành một cái máy đẻ và đến bây giờ đã trở thành một người đàn bà thôn quê thực sự, một bà ké miền rừng thật sự, chắc hẳn Huệ vẫn cất giữ cho riêng mình một chút hình ảnh cuối cùng của cái thời thiếu nữ sống ở thành phố, cùng với một mảnh tình yêu đầu tiên đầy sâu nặng mà thời gian hai mươi năm chỉ có thể càng đào sâu chôn chặt vào tâm khảm.

Suốt gần hai mươi năm nay người đàn bà vừa gần gũi vừa xa lạ với lão Khúng không hề đặt chân đến một thành phố nào cả, kể cả cái thị trấn lâm nghiệp cỏn con, đìu hiu nằm kề sông chỉ cách nhà dăm cây số, cũng ngại đến.

Huệ đã gắn bó ngày một chặt chẽ với nhà cửa, nương rẫy, bởi chính chị đã phải cùng với lão Khúng nát óc tính toán, thức khuya dậy sớm, trút mồ hôi và sức lực đến gần cạn kiệt, để có tất cả ngần ấy của một gia đình nông dân đông con.

Đất đai và cây trái, trong khi con người làm ra nó thì chính nó cũng làm ra con người. Chính Huệ cũng đã trở thành một người đàn bà nông dân với cái tính ky cóp, chắt bóp, tham công tiếc việc, tham của và thậm chí đôi khi còn lắm điều nữa. Hàng xóm, láng giềng sang chơi thỉnh thoảng vẫn nhìn thấy cặp mắt Huệ nhìn len lén từ trong bóng tối, trong khi trút hàng chục vò rượu giấu trong buồng ra những chiếc bong bóng lợn.

Hoặc vẫn bằng hai bàn tay con gái thành phố - bây giờ đã đen đúa và sứt sẹo - Một tay bưng bát rượu, một tay cầm chiếc đũa cả ghè miệng một con dê bị trói chặt nằm giữa sân, Huệ đổ rượu vào miệng con vật trước khi cắt tiết nó bằng một con dao nhíp với tất cả vẻ thành thạo.

***

Chừng như đấy là một người đàn bà đã quyết tâm đoạn tuyệt với gốc gác thành phố?

Nhưng đời sống đô thị - cái niềm mơ ước thật xa lạ cứ mỗi ngày một hiện ra trong lòng những đứa con của Huệ một cách cụ thể, như một tiếng gọi của thời đại, nhất là vào những tháng cuối năm, mùa cà chua, chúng phải đèo những sọt cà chua chín đỏ xuống bán tận dưới chợ Vinh, sáng đi chiều về. Có khi ruộng cà chua chín rộ, hai ba đứa phải đi từ chiều hôm trước và ngủ đêm lại dưới thành phố.

Những buổi khuya sáng trăng, trong cái im lặng thẳm sâu từ những cánh rừng chung quanh như ùa tràn ra cái sân nề vôi trắng toát trước nhà, đám con tụ tập lại, kháo với nhau bao nhiêu là thứ chuyện đầy hấp dẫn về đời sống ở trong cái quầng sáng điện mà chúng vừa từ đấy trở về. Thế rồi một lần thằng Dũng đã bị lạc trong vùng quầng sáng kia đến những ba ngày. Khi trở về, hắn đã quyến theo về nhà một đứa con gái tóc uốn, Huệ cầm đôi đũa cả quấy cám lợn chạy ra đứng trước hiên nhà bếp, nhìn xuống con đường dốc đất đỏ ối của quả đồi đối diện. Chị nhìn thấy cái đứa con gái ngồi sau gác-ba-ga xe đạp của thằng Dũng, hai chân bỏ lọt vào một bên cái sọt không. Khi thằng con trai thả phanh cho chiếc xe lăn tuồn tuột đến chóng mặt xuống dốc, hắn đã cố ý bắt buộc đứa con gái tuy thẹn đến chết nhưng cũng phải nhắm mắt ôm ghì lấy ngang lưng hắn.

Về đến nhà, thằng Dũng dựng xe trước thềm, cúi xuống một bên sọt nhặt chiếc ba lô khoác lên vai đứa con gái, còn chiếc túi da có in hình chiếc máy bay cũng của cô gái, hắn vẫn xách trên tay. Sau khi biết bố đang còn bận nhặt đá ở trong Khe Đá Dầu với thằng Khoan chưa về, hắn điềm nhiên dẫn cô gái vào trong nhà bếp, giới thiệu như khoe với mẹ:

- Đây là cô Thùy Loan, kỹ sư, bạn mới quen của con!

Trời ơi, một thằng thanh niên miền rừng đi bán cà chua ở chợ tỉnh không biết làm thế nào đã tha về được một đứa con gái có bằng cấp cao sang là nhường kia, xét ra tuy không đẹp bằng thằng Dũng nhưng cũng là một cô gái khá xinh xắn và rất lễ phép, và một điều khiến cho người mẹ phải giật mình là mới thoạt nhìn, Huệ đã biết ngay là một đứa con gái sinh ra và lớn lên ở thành phố.

Tuy trong thâm tâm Huệ thấy chua xót và đã nhìn thấy một cái gì khập khiễng giữa hai đứa trẻ, nhưng chiều ấy, Huệ tiếp đãi đứa bạn của con trai đặc biệt trân trọng và ân cần.

Đêm hôm ấy, Loan ngủ với người mẹ ở gian nhà trong, một gian buồng ngủ mà bốn chung quanh cái giường nằm kê đầy những chiếc chum bằng đất nung đựng ngô, đậu, khoai lang khô, những chiếc bong bóng lợn đựng rượu và những lá thư không được trả lời. Nửa đêm về sáng, Loan thức dậy. Trong khi ở nhà ngoài thằng Dũng cũng thức dậy đang tìm điếu hút thuốc lào, Huệ nằm mơ màng chợt nghe thấy chung quanh cái nếp nhà ở miền rừng của mình cứ rộn lên đến chói tai những tiếng kêu rền rĩ của một chiếc xe cút kít đang lên dốc, trong một buổi chiều cách đây gần hai mươi năm...

2

Khi thằng Dũng đã hơi lớn, vào trạc mười ba, mười bốn, đến cái tuổi đủ sức quàng một đoạn giây chắp bằng vải cáu đen mồ hôi vào sau ót, tay nâng đôi càng đẩy chiếc xe cút kít lăn bánh, dù đang phơi hàng đống quần áo ngoài sân hay đang mắc bận nấu nướng và xua những con dê ra khỏi nhà bếp, bao giờ Huệ cũng nhận ra được đứa con đi vào rừng đẵn củi đã trở về - qua cái tiếng kêu của bánh xe cút kít, cứ rít lên trong cái trục gỗ. Và lần nào chị cũng cứ ngỡ như lại đến lượt thằng Dũng tha về một người đàn bà tóc tai rũ rượi, hai hàm răng trắng lóa nghiến chặt, lúc há to như thể không bao giờ còn khép lại được nữa, và cái bụng người đàn bà y như một quả trứng khổng lồ đang sắp rạn vỡ.

... Lúc bấy giờ mặt trời đã đứng bóng. Con đường xuyên rừng vắng heo hút, không hề có một bóng người. Huệ đang cố lết đi. Quãng đường đèo không dốc lắm nhưng dài quá sức một người đang đau bụng đẻ. Gắng đi thêm một quãng, Huệ lại tìm một cái cây, đứng tựa lưng vào. Chị nắm thật chặt chiếc khăn vuông hoa gói vài chiếc tã lót và một nắm cơm.

Lên được hai phần ba đèo, thì không đi được nữa. Chị phải ngồi lại bên một gốc cây. Cơn đau mỗi lúc một quặn hơn. Nhìn con đường trườn lên dốc chỉ thấy nắng, từ dưới lên cũng như từ trên phía đầu dốc đổ xuống vẫn chẳng thấy qua một bóng người.

Thậm chí một tiếng động cũng không có.

Nỗi thèm khát được gặp người. Không dám ước ao nhiều, Huệ chỉ dám ước từ trên dốc đi xuống một đứa trẻ, nếu nó là con gái thì càng hay.

Có lẽ mình phải sinh con một mình giữa rừng. Đến cái nước này Huệ chỉ còn ao ước được như người đàn bà trong cổ tích, được một con hổ đỡ cho.

Giữa lúc ấy, có tiếng xe cút kít vẳng lên ngân nga như tiếng sáo. Rồi Huệ ngó ra thấy một người đàn ông cởi trần, đẩy chiếc xe chất đầy những súc gỗ làm nhà, từ dưới chân dốc đi lên.

ừ cũng lạ, lúc bấy giờ Huệ đã rút thật sâu vào sau cái gốc cây, không phải gốc cây bên đường mà một cái cây to tận trong sâu, lại có hòn đá bên cạnh che khuất hết cả người, vậy mà Khúng cũng nhận thấy có điều gì lạ, đã dừng xe lại.

Khúng liền vứt hết những phiến gỗ súc đã đẽo sơ thành hình kèo, cột xuống vệ đường, để lộ ra trên chiếc mê đan bằng tre một lớp than, có lẽ Khúng vừa đốt trong rừng. Người đàn ông lấy tay san đều những hòn than thành một chỗ nằm hơi trũng xuống rồi mới chạy tới đưa người đàn bà lên xe.

- Đi đâu?

- Đi đâu cũng được. Cho tôi sinh.

- Sắp chưa?

- Ngay bây giờ.

- Không tính được ngày sinh hay sao?

- ...

- Người ở đâu? Sao không có ai đi theo?

- ...

Mới đi được một quãng, mặt mũi chân tay Huệ đã đen nhẻm. Mình đang nằm trên một đống than vừa ra lò - Huệ tự bảo - Vẫn còn nóng. Chị cố nép sát vào cái vành mê phía sau để tránh cái nhìn của người đàn ông đang đẩy xe. Chị xốc lại quần áo và lựa một thế nằm, co mình như con tôm.

Lên gần tới đỉnh đèo, những đau thắt lấy ngang người. Và Huệ cảm thấy một cái gì vô cùng riết róng, dữ dội và thảm khốc, trong những vòng quay dưới lưng. Những vòng quay cứ xiết lấy chị, không có cách gì cựa quẫy ra được nữa. Nó là cái gì vậy? Đang giữa nư đau, Huệ không biết cái gì, cũng không nhìn thấy mà chỉ cảm nhận được qua cái âm thanh ken két lúc rộ lên, lúc như nén lại để rồi lại kêu rộ lên to hơn, não nề và riết róng hơn - của chiếc bánh gỗ to kềnh càng quay lử khử trong một cái trục cũng bằng gỗ.

Sang tới bên kia sườn đèo, Huệ nhìn qua vạt áo cánh trùm trên mặt, thấy một nền trời chiều xanh nhạt hiện ra sau một bức thành mầu xanh sậm kết bằng chỏm rừng kéo dài và cứ như đang dâng cao dần lên mãi. Từ trong khoảng cao xanh, lại chập chờn vọng xuống một thứ âm thanh vi vút, bay bổng. Lắng nghe một lát, Huệ mới nhận ra được cái tiếng sáo diều ngân nga vừa chợt nghe, chính nó vẫn là cái tiếng kêu của những vòng quay ở dưới lưng.

Quằn quại mãi trên chiếc xe cút kít như một tên tù binh vừa rơi vào bàn tay tàn bạo của một thổ dân, đến gần tối thì Huệ sinh. Đứa bé ra đời trên dọc đường, trên tay Khúng.

Một tháng sau khi đẻ thằng Dũng, Huệ nhận lời lấy Khúng với một điều kiện: Không bao giờ Khúng được hỏi chị về quãng đời về trước, cũng như bố thằng bé là ai, không được hỏi dò la về người đàn ông ấy - mà Huệ chỉ cho Khúng biết là một người rất tốt, một trí thức vào bộ đội, cho đến giờ chị vừa thương hại vừa căm giận nhưng vẫn yêu và là người quê cùng thành phố với chị.

Cái anh chàng nông dân lêu têu có đầu óc thích nổi tiếng chấp nhận các điều kiện ấy với tất cả sự thất thiệt nặng nề của một anh trai tân, để đánh đổi lấy một cô vợ rõ xinh đẹp, nhất là, một cô gái thành phố chính cống.

Hắn vênh cái mặt lên mà thách thức với cả làng: "Đi suốt mấy làng này, từ dân làm nghề biển cũng như dân trong đồng, thử hỏi có thằng nào lấy được vợ thành phố như tao - cái thằng Khúng ngất ngưởng này?" Hắn đổ hết sức ra làm như trâu, mỗi ngày một chuyến xe than lẫn gỗ súc về bán cho đám dân biển. Bằng mồ hôi của hắn, hắn đã cứu được hai mẹ con Huệ. Cả hai tưởng sẽ chết sau kỳ sinh nở: mẹ bị phù thũng và đứa con vừa sinh ra đã sài đẹn.

Cả làng chửi Khúng chẳng còn thiếu câu gì nữa. Cái thằng dám cả gan đem về cái nơi thờ thần làng một con đĩ chửa hoang hắn nhặt được ở xó rừng nào...

***

Cái lần thằng Dũng đi bán cà chua về, nó đã làm được một việc y như lão Khúng đã làm gần hai mươi năm trước đây, chính Huệ cũng không khỏi sung sướng và tự hào, khi thấy một cô gái có học thức và vốn xuất thân con nhà thành phố đã chịu theo đứa con trai đầu lòng của mình về nhà. Điều đó khiến cho Huệ cũng phải lấy làm lạ lùng, như một sự lặp lại của số phận con người.

Sáng ngày hôm sau, Loan, cô kỹ sư được Dũng và bà mẹ dẫn vào trong Khe Đá Dầu - một khu vực khai hoang thứ hai mà lão Khúng và thằng Khoan đang dựng chòi ở - để đốn cây và nhặt đá.

Lão Khúng đã bắt đầu phải tính toán về đường xa, khi mà những đứa con trai và con gái của lão phần nhiều đều đã lớn, cần hỏi vợ gả chồng, làm nhà riêng và cũng phải tìm đất cho chúng sống. Đầu óc của một người nông dân bao giờ cũng nghĩ đến cuộc đời mai sau của con cái. Chính vì lẽ thế mà cái tay chẳng lúc nào được rảnh, chẳng lúc nào ngơi mó máy trong đất.

Đất trong Khe Đá Dầu còn tốt hơn đất ở ngoài chỗ hiện đang ở - làm lão Khúng cứ mê đi, như đã nhìn thấy trước cái sự thịnh vượng của đời con cái - chỉ hiềm nỗi, lão chẳng biết có ai đem giấu cái gì bên dưới mà sét đánh luôn, hễ có giông là có sét.

Lần ấy, Loan ngủ lại thêm một tối trên chiếc chòi của gia đình Dũng dựng trong Khe Đá Dầu. Sáng ngày hôm sau, Dũng dẫn cô đi tiếp một buổi nữa mới vào đến một dãy lèn đá mà những người khai hoang thường gọi là "lèn địa chất", ở đấy, Loan trình giấy giới thiệu và nhận công tác ở một đội thăm dò địa chất. Hàng trăm công nhân và kỹ sư đã có mặt ở đấy từ những năm vùng này còn bị máy bay Mỹ đánh phá rát. Công việc thăm dò càng được ráo riết xúc tiến khoảng vài ba năm nay - ngoài các kỹ sư người trong nước còn có các kỹ sư nước ngoài.

Trong các bức thư của Th. mà Huệ vẫn trân trọng bí mật cất dưới đáy một cái chum, không có bức nào mà Th. không nói qua về công việc của anh ở Hà Nội - một công việc liên quan mật thiết và có tính quyết định đối với công việc thăm dò đang tiến hành ở đây, cả những chuyến máy bay chụp ảnh thỉnh thoảng bay qua vùng khai hoang cũng nhằm mục đích ấy.

Có thể nói rằng suốt cả đời mình, Huệ sống ở đây để chờ đợi một thành phố sẽ ra đời, không phải một thành phố buôn bán và tiêu thụ, mà là một thành phố công nghiệp của hàng vạn công nhân khai thác mỏ quặng của một thứ kim loại quý. Huệ biết rằng đến lúc đó, đời sống con người và thiên nhiên chỗ này sẽ hoàn toàn khác bây giờ, con người sẽ không còn bị bưng bít bởi sự hẻo lánh nữa và đứng ở đây, người ta có thể nhận được những tin tức của mọi nơi.

Một đời người thật ngắn ngủi, Huệ biết đời mình chưa chắc đã trông thấy mặt mũi cái thành phố tương lai được xây dựng trên vùng đất do bàn tay vợ chồng chị đang khai phá, nhưng chị tin nhất định dù sớm muộn nó phải có, nhất định một thành phố công nghiệp sẽ mọc lên trên mảnh đất hoang dã này. Những đứa con của chị chẳng phải mơ ước và đi tìm kiếm cuộc sống đô thị ở tận đâu xa, mà ở ngay trên miếng đất chúng đang đứng. Vợ chồng Huệ tổ chức đám cưới cho thằng Dũng vào tháng ba thì tháng chín người con trai đi bộ đôị. Có một lá thư của Th. - một bức thư rất quan trọng - vừa gửi về mà lão Khúng chưa được đọc. Huệ nhận được bức thư cuối cùng ấy chỉ trước ngày thằng Dũng bước chân ra đi dăm hôm và chị cứ đắn đo mãi có nên đưa cho con xem hay không? Th. báo tin cho Huệ biết anh đã được Chính phủ chỉ định làm tổng công trình sư của cái công trình công nghiệp đồ sộ sắp bắt tay xây dựng vào đầu sang năm, và nay mai anh sẽ thường xuyên có mặt ở tại thị trấn lâm nghiệp, cùng với những bộ phận đầu tiên của bộ máy điều hành của mình. Cũng như những lá thư trước nhưng lần này bằng giọng tha thiết hơn, van nài hơn, Th. xin Huệ hãy quên mọi chuyện cũ và tha thiết đề nghị được gặp Huệ và con. Dù như Huệ nói, bây giờ Huệ đã trở thành một người đàn bà khác hẳn trước kia và đứa con trai không còn là con của anh nữa, thì anh cũng tha thiết xin được gặp.

3

Khách cầm đứng đôi đũa son gạt hai nhát từ hai bên mép vào giữa rồi buông đũa. Chiếc bát ăn cơm đặt rìa mâm vẫn chỉ bốc lên hơi men.

- Cháu đủ!

Trong lúc chống gối đứng dậy, lão Khúng cúi xuống chiếu nhặt chiếc khăn lau mặt, chợt nhìn thấy khuôn mặt của lão và khuôn mặt Định gần như kề sát nhau, phản chiếu trong cánh cửa gương của chiếc tủ đứng.

Con người ta cùng một dòng máu mủ mà khác nhau biết chừng nào? Cái ý nghĩ như một kết luận không phải hình thành một lúc trong cái đầu óc nông dân bảo thủ đầy sắc sảo của người cháu, mà ban đầu lão thấy khuôn mặt người chú trong gương như một điều chứng thực cho một cái nhận xét bất chợt nhưng rất quan trọng của lão, trên dọc đường chiều hôm qua lão đi một mình từ ngoài ga Hàng Cỏ về nhà Định.

- Những cái anh dân thủ đô Hà Nội này - lão đạp những bước như vồ nện xuống mặt nhựa vừa gật gù nghĩ một mình - sao mà người nào cũng y như ngâm lâu ngày trong bể nước mới vớt lên? Da thịt người đâu mà cứ trắng nhợt, mà người nào người nấy cứ mềm oặt, mềm như sợi bún, từ cái ngón tay đến sợi tóc đều mềm, tiếng nói cũng mềm, dáng đi điệu đứng lại càng mềm, nhất là cái tiếng cười lại mới thật là mềm chứ?

Lão đảo mắt nhìn sang những đứa con của chú ngồi quanh mâm rồi nhìn kỹ vào một bên tai chú:

- Mự này - lão vừa nói vừa giơ tay đón lấy chiếc điếu cày mà vợ Định vừa chạy sang nhà hàng xóm mượn về - mự không biết chứ, chú Định càng về già càng giống nội cháu ngày xưa. Giống lắm cơ! Cả những sợi lông loăn xoăn từ trong lỗ tai mọc chìa ra. Ông cháu ngày xưa cũng thế, nhưng còn rậm hơn cơ!

Định ngẩng lên. Bất giác Định cũng bắt gặp cái mặt mình bên mặt người cháu - như càng làm nổi bật cái mầu nước da tai tái và rám nâu như da thuộc, với những đường nét gãy khúc đầy khắc khổ, với những khoảng lồi lõm y như những tảng đất cày đắp lên, và từ sau hàng lông mày rậm rì và cứng, lúc nào cũng chiếu ra chung quanh một cái nhìn ngang bướng và đầy ngờ vực.

Tuy chú cháu nhưng so tuổi tác, Định chỉ hơn Khúng vài tuổi. Nhưng cứ nhìn mặt, ai cũng phải nghĩ Khúng già hơn - như một bậc bề trên trong gia tộc. Ngày xưa bố Khúng - ông anh cả của Định - chẳng được học hành mấy, mười lăm tuổi đã phải ở nhà đi cày. Mà cũng nhờ thế Định mới được theo học đến thành chung. Nhưng đến đời Khúng và những đứa con của Định thì cái sự xa cách mới thực là xa cách. Quanh một cái mâm cơm gia đình mà như người từ hai thế giới họp lại.

Chao ôi, có lẽ cho đến nhắm mắt, riêng đời Định vẫn còn mắc một món nợ không bao giờ trả được, là món nợ với Khúng và bố mẹ Khúng, và nói chung, với những người thân thích, ruột rà ở làng. Làng anh, cái làng Khơi nửa biển nửa đồng, sỉa chân từ trên tàu hỏa xuống, phải đi gần chục cây số về phía biển mới thấu và chỉ có một cách cuốc bộ ấy, nó có một sức nhai người ghê gớm. Nó nghiền nát những con người ra rồi vắt nặn theo cái hình thù đã có từ nghìn đời của nó, rồi bắt những con người ấy phải sống theo cái luật cũng đã có từ nghìn đời nhưng không bao giờ viết thành văn của nó.

Hàng chục năm nay cũng như từ nghìn đời, bao nhiêu thứ giặc ngoại xâm đến đây đều bị chết gục trong cái làng quê hiền lành một mầu xanh rì ấy, nhưng cũng hàng chục năm nay, những điều biến đổi của cách mạng đến được đấy cũng mới chật vật, khó khăn làm sao? Vẫn biết rằng trong làng đã có hợp tác, đã có một khu trường cấp hai hai tầng xây trên một khu đất thoáng mát xung quanh trồng phi lao; nhà trạm xá, lại rạp chiếu bóng, một làng mà có cả một rạp chiếu bóng nằm giữa cánh đồng muối bên con đường quan. Tuy vậy, cái làng nó vẫn là cái làng, vẫn là cái làng quê thân yêu và lâu đời của Định, mà một lần ban đêm hành quân giữa rừng Trường Sơn, chỉ nghe một giọng nói người làng lên trong hàng quân đi ngược chiều, Định đã phải kêu lên một tiếng xiết bao mừng rỡ, và chính tiếng kêu của anh đã khiến một cái bóng người khoác súng từ hàng quân bên kia nhảy bổ sang với anh.

Nói gì thì nói, trong hàng chục năm nay người cháu đang ngồi trước mặt Định kia và đang xì cả nước điếu ra nhà Định kia, cũng chính là người đã gìn giữ phần mộ của bố mẹ và ông bà Định. Chứ như cái đám con của Định thì đừng hòng, chúng có học thức nhưng rất ít tình cảm họ hàng làng mạc. Mà tình cảm họ hàng làng mạc thì Định không muốn đánh mất.

Và chê trách gì thì chê trách, với bao điều có thể chê trách, Định vẫn quý và khâm phục cái người cháu. Khi Định ở trong B ra, - sáu năm sau - anh đã được nhìn thấy, thay vào cái "ổ gấu chó" là một nếp nhà gỗ rất khang trang đứng giữa một vùng đất bát ngát cứ xanh um lên, không phải mầu xanh hoang dã của rừng nữa, mà là lạc, mía, chè, mít, bầu bí, và xa xa, dưới chân đồi trước nhà là lúa, lúa đang vào chắc... và bộ đội đang mắc võng ngủ đầy nhà trên, anh nuôi nấu cơm trong chiếc chảo gang dưới bếp, trong khi ấy, những đứa con của Khúng lớn vổng lên, còn Khúng thì đã trở thành một ông già, sáu năm ở chiến trường không làm Định già nhanh đến thế.

"Chú! Vậy mà mấy lần cháu nằm mơ thấy... chú chết!" tình máu mủ khiến Khúng mừng rỡ cứ cuống quít cả lên khi tận mắt trông thấy Định từ trong Nam đã trở ra thực.

***

Định đi sau ông cháu. Định phải trực tiếp sắm vai kẻ hướng dẫn mua bán cho Khúng - y như một vài lần anh phải hướng dẫn khách nước ngoài.

Khốn khổ, công việc này đáng lý Định có thể giao cho lũ con, nhưng Định thấy dù một đứa nào chu đáo đến đâu cũng sẽ để xảy ra sơ xuất, trong cái công việc hướng dẫn Khúng đi thăm thú các thắng cảnh và mua sắm. Cả đời người cháu ruột của Định mới ra chơi Hà Nội, Định không thể để sơ suất, xuất phát từ một tình cảm sâu nặng và cả sự kính trọng của Định đối với người cháu tộc trưởng.

Từ sáng tới giờ Định đã đưa ông cháu đi dạo qua một số di tích và thắng cảnh của thủ đô, nhưng xem chừng vị khách quý chỉ thích ngắm nương ruộng, gia súc, những cái suốt đời chung sống với lão! Đặc biệt trong khi đứng trước Bờ Hồ, lão đã phát biểu cảm tưởng một cách thực thà. Rằng so với bức tranh treo ở vách nhà lão thì cái tháp Rùa thật không giống cái tháp Rùa vẽ ở nhà lão!

Nhưng chỉ khi đến trước cửa chợ Đồng Xuân thì lão Khúng mới cảm thấy thực sự đã đến Hà Nội. Lão tủm tỉm cười một mình trong khi liếc qua một đám con gái mặt hoa da phấn, nhưng cái chúng đang xách trên tay thì vẫn là cái quá tầm thường: hũ nước mắm dúm muốn, mớ rau, con cá... Thì hóa ra cái đám người ẻo lả như ngọn cỏ may này cũng không phải chỉ đi dạo, mà cũng phải ăn uống. "ấy, ai sinh ra cái ông trời kể cũng tài thực - lão Khúng vẫn tủm tỉm cười và bất giác nghĩ - Ông trời làm ra con người "bách nhân bách tính" nhưng ông trời lại khéo cho con người một cái nết mà ai cũng phải có: Đó là cái việc ăn. Hóa ra cái anh dân Hà Nội này cũng phải ăn. Cho nên mới sinh ra cái chợ Đồng Xuân này to như thế!".

Hai tai lão chẳng mấy chốc đã ù đặc vì tiếng ồn. Mắt lão cũng hoa lên vì trăm thứ hàng hóa chất đống. Đã từng leo hết quả núi này đến quả núi khác, vậy mà mới loanh quanh trong chợ, cặp giò như hai cái trục bánh xe của lão đã mỏi là sao?

Để tránh khỏi mất cắp, Định bắt Khúng trao gói tiền cho mình giữ. Mua thứ gì, anh tự đếm tiền trả. Mà những thứ ông cháu muốn mua thì nhiều lắm. Cái gì Khúng trông thấy, là thấy ở nhà mình cần. Mà cái gì cũng rẻ hơn ở nhà một giá. Thế mà nào lão có biết? Suốt đời lão chỉ chúi mũi vào hòn đất.

Khi bước ra trước vòm cuốn cửa chợ, hai chú cháu nhà ấy đã y như hai nhà phi công vũ trụ. Thế mà vẫn thấy còn một đám người chạy theo dúi vào tận ngực họ đủ mọi thứ khiến lão Khúng cứ đứng cười ngất.

Chỉ trong một ngày lão đã khuân về bày lủng ngủng khắp gian nhà "hẹp bằng cái lỗ mũi" của ông chú nào vành, khung và lốp xe đạp, xanh, nồi, hàng mấy yến hành làm giống, hạt cà chua và hạt bắp cải giống, và quần áo cho đứa lớn, đứa bé, cho vợ...

Nhưng đấy cũng chỉ là mấy thứ vặt. Trong chuyến đi ra thủ đô lần này lão đã rắp tâm từ ở nhà một ý đồ lớn hơn nhiều. Lão sẽ tập trung tiền mua một bộ trục, vành và xăm lốp ô tô, để "lên" một cỗ xe trâu! Việc này lão đã viết thư cho Định biết từ năm ngoái: Nhà lão phải tiến lên vứt bỏ chiếc xe cút kít. Nó là thứ phương tiện chuyên chở quá cổ lỗ, mà tốn sức! Loài người đã bước sang "thời đại tên lửa" rồi cho nên sau chuyến đi này, nhất định gia đình lão phải có một cỗ xe trâu để chở đá trong Khe Đá Dầu này, chở lúa thóc ra chở phân gio vào trong ấy này, rồi chở gỗ lạt trong rừng ra, hoặc cũng có thể những ngày giỗ tết cả nhà lão leo lên ngồi trong cái thùng xe để về quê...

- Đừng chế nhạo anh, các em ạ! - Lão nói với lũ con ông chú đang vừa cười nhăn nhở vừa giễu cợt lão - Các em đã từng biết cái tiện lợi của ô tô và tàu bay so với chiếc xe đạp, vậy như anh, suốt đời đẩy xe cút kít, thì một chiếc xe bánh lốp có ổ bi với con trâu kéo, đã là ô tô, tàu bay rồi đấy!

Ba bốn ngày sau, cả mấy bố con Định tỏa ra lùng sục khắp các phố ngóc ngách của Hà Nội. Họ tìm được đầy đủ một bộ đồ để "lên" một cỗ xe trâu, nhưng khi đến giá cả, thì mới thấy là cả một số tiền lớn. Không phải một lúc mà Khúng có thể dứt ra khỏi nương ruộng để đi Hà Nội - Định nghĩ thế cho nên anh bàn với vợ bán chiếc đài cùng vài thứ lặt vặt, đập vào số tiền mua sắm còn lại của Khúng, góp phần "đầu tư vào cuộc cách mạng kỹ thuật" trong nền sản xuất của gia đình người cháu ở trong quê.

***

Vào một buổi chiều ngày chủ nhật, trước khi ra tàu hỏa để trở về, Khúng nói với Định:

- Cháu phải tranh thủ đi đến nơi này...

- ừ, ừ để chú đưa đi ngay! - Định đáp.

Khúng nói rằng mình cần phải đi đến "cái nơi này" một mình. Lão mượn bộ quần áo đại cán của Định, mặc vào. Nhưng vừa đi ra đến cửa lão đã quay lại, cởi giả bộ quần áo đại cán cho Định. Vẫn đánh cái bộ quần áo vải thô nhuộm nâu, đi ra ngoài phố được một quãng, lão gọi một chiếc xích lô bảo đưa đến một cái địa chỉ trong thành phố. Đấy là một cái địa chỉ với những con số lẫn hàng chữ viết trên đầu phong bì của những lá thư giấy pơ-luya, trong nhiều năm nay vẫn xếp chồng lên nhau dưới đáy một cái chum.

Đến lúc này, lão Khúng đã quyết định xé bỏ cái thỏa ước đã ký với vợ hai mươi năm trước.

Người xích lô đổ lão xuống trước một ngôi nhà sáu tầng mái bằng ở đầu hồi có chữ B4. Có lẽ đến gần một tiếng đồng hồ, lão Khúng cứ quanh quẩn chung quanh giải bờ hè chân tường, rảo bước đi vòng quanh ngôi nhà hết vòng này đến vòng khác đến mỏi rũ cả chân: " Rõ nhà với cửa, cứ y như một cái hộp sắt tây đậy kín mít, nghe bên trong nhạc xập xình như có đám cưới, lại thấy các tầng quần áo đang phơi, lại thấy cả những cái mặt người ló ra y như một lũ chim bồ câu đang gù trong cái chuồng: có người ở chứ không phải nhà đi vắng hết, vậy mà tìm mãi vẫn chẳng thấy cổng ngõ ở đâu cả!".

Lão lại tốn một tiếng đồng hồ nữa để đi lạc lung tung ở bên trong, hết leo lên tầng thượng đỉnh lại lộn xuống tầng dưới cùng, rồi lại được chỉ dẫn phải leo lên... " ừ cũng lạ, sống như thế này mà cũng sống được, chẳng có vườn tược, chẳng cây cối, ăn, ở chồng chất lên đầu nhau, chỉ thấy tường và tường, chả trách người nào người nấy cứ trắng nhợt, nói khẽ, cười khẽ, đi khẽ, là phải!...".

Lão đã bắt đầu ngột thở, khi đứng trước cửa gian phòng đang định tìm. Mới đặt một bàn chân lên tấm cói chùi chân, lão đã chợt nhìn thấy thằng Dũng nhà mình - đến hôm nay đã ăn mặc quần áo bộ đội đang ngồi trong nhà.

Lão sửng sốt, rụng rời cả chân tay.

Có lẽ thằng Dũng cũng như lão, lần đầu tiên đến đây và cũng vừa chợt đến.

Thằng con lão không kịp trông thấy lão, bởi ngay sau đó, tức tốc lão đã quay lưng lại và bổ nhào xuống cầu thang.

Từ bấy giờ cho đến tối, lão đi lạc lung tung trong thành phố. Những bức tường chi chít và những ngõ phố khúc khuỷu như đang bày trò chơi ú tim với lão, chế nhạo lão. Đèn trong các lùm cây và trong các gian nhà đã bật sáng, mà lão vẫn không sao tìm được lối về. Toàn thân lão run lẩy bẩy như người lên cơn sốt và trong tâm hồn lão tự nhiên dâng lên một nỗi niềm cô độc, lão lẩm bẩm gọi tên từng đứa con. Lão cầu xin đàn con đừng bỏ lão mà đi, mà hãy ở lại với lão, hãy ở lại với đất cát.

Mười giờ đêm lão mới tìm về đến nhà người chú giữa lúc cả nhà đã tỏa đi tìm các ngả.

Lão nhất định không kể lại cho Định biết một điều gì. Mặc dầu Định quyết giữ lại ở thêm một ngày nhưng lão Khúng vẫn một mực xin phép vợ chồng ông chú được về.

Lão vội vã gói buộc đồ đạc ra tàu.

Quá nửa đêm, tàu mới bắt đầu lăn bánh.

Khi những luồng gió không có gì cản trở, tự nhiên thổi lồng lên trên nóc và hai bên cửa sổ toa tàu hỏa, trong đêm lão Khúng nhận ra luồng gió man dại quen thuộc, và biết mình đã ra khỏi thành phố, đang trở về với đất cát hồn nhiên và hoang dã...

3-1984

Phiên chợ Giát

Phần 1

Lão Khúng thức giấc. Lão chợt thức giấc vì một giấc mê khủng khiếp. Trong cơn mê ngủ, lão Khúng trông thấy một lão già thân hình cao vóng lại lủng củng đầy những xương cùng xẩu, mái tóc cắt ngắn cứng như rễ tre, mớ đổ phải, mớ đổ về phía trước trán, sợi đen sợi trắng loang lổ, mặt mũi gồ ghề, hai con mắt nhìn gườm gườm, với những mảng tiết bò còn ướt hoặc đã khô dính bết trên các bắp thịt nổi cuộn ở bả vai và bắp tay; cái lão già ghê tởm ấy giang cả hai cánh tay nâng một chiếc búa to nặng như búa của thằng phụ lò rèn ở đầu làng Khơi bổ xuống giữa đầu một con bò, cú đánh của chiếc búa tạ làm lún một mảng trán sát hai con mắt của con vật, khiến cho một con mắt dính đầy máu trồi ra ngoài.

Trời đất hỡi, đúng là con bò của nhà lão Khúng, con khoang đen nhà lão, "mụ già khụt khịt hay cảm cúm" của nhà lão, "bà đội trưởng" của lão Khúng, con bò nhà lão kêu rống lên một tiếng nghe ghê rợn, thứ tiếng kêu phát ra vào buổi mờ sáng từ nhà a ba toa phố Cầu Giát mà từ nhỏ những bận đi củi qua đó, qua các nhà a ba toa có ánh sáng ngọn đèn bãi chiếu như hắt ánh sáng ra ngoài, lão Khúng đều phải bịt cả hai lỗ tai lại, vắt chân lên cổ mà chạy. Nào có phải đứa dát, là đứa trẻ tợn tạo nhưng lão Khúng từ nhỏ đã không chịu nổi bất kỳ con vật gì kêu khi sắp chết.

Ai? Ai đã giết con khoang đen nhà lão, người bạn đời của lão? Lão nào? Thằng già chết tử chết tiệt nào, đứa thần trùng nào, bọn trộm cướp giết người của dân kẻ bãi hay sơn tràng nào?

Thì lão chứ ai! Đứa hung thần là lão Khúng chứ ai! Kẻ nâng chiếc búa tạ lên đánh vào đầu con vật là lão chứ ai! Tay chân run lẩy bẩy, mồ hôi toát ra khắp sống áo đầm đìa, lão Khúng sợ quá. Lão đã trở nên độc ác quá mức, thật là vô cùng ác độc, mà lão đã trở nên độc ác ngoài sức nghĩ của con người từ bao giờ vậy? Giá như người khác, là người biết ngoan ngoãn tuân phục một thứ tôn giáo nào thì chắc chắn lúc này, giữa đêm hôm khuya khoắt, lão đã lập tức quỳ sụp xuống mà hối hả đọc kinh, đập đầu xuống đất mà van nài kẻ tôn thờ, trút lòng ăn năn sám hối trước đấng thiêng liêng ở trên đầu trên cổ. Đằng này là một kẻ vô đạo, lão Khúng chỉ biết lật mình ngồi dậy trên tấm phản gỗ mà run sợ một mình, vật vã đau khổ một mình, tự mình lại lấy làm sợ hãi trước chính mình. Lão mở trừng trừng hai con mắt mà nhìn tên hung thần đồ tể vừa nhập vào lão, ngay khi lão bình yên ngủ trên tấm phản quen thuộc giữa nhà mình.

Đoạn rồi như một kẻ vừa may mắn thoát họa, lão Khúng thở phào. Thực may! may quá! Vậy là không phải, chỉ là trong giấc mơ. Không phải thực. Đúng, mà đây rồi, con khoang đen nhà lão lúc này đang khụt khịt ở ngoài gian bò sau nhà bếp.

Lão yên tâm nằm xuống. Và nghĩ về giấc mơ tiếp sau đó.

Pin! pin! pin!

Lạ lùng sao, con bò bỗng kêu rống lên lanh lảnh như tiếng còi ô-tô vậy nhỉ? Mà hóa ra ô-tô thật, trong giấc mơ lão Khúng chẳng thấy con bò nhà lão ở đâu nữa, mà từ phía sau lưng lão, ngật ngưỡng lao vút đến một chiếc xe commăngca đầy oai vệ. Chiếc xe đít tròn không chạy trên đường mà bay là là trên mặt đám ruộng trồng khoai lang, bay qua đoạn mương dẫn nước trước nhà lão Khúng rồi lại bay qua mảnh sân nề vôi, bốn bánh xe không hề chạm mặt đất.

Lão Khúng cứ trương mắt đứng ngó trân trân vào cái mặt kính chắn gió. Lão trông thấy loang loáng ở đằng sau có một người đàn ông thân hình phương phi, mặt tròn vành vạnh và đỏ rực như vầng mặt trời mới mọc, mặc sơ-mi cụt tay mầu trứng sáo đã hơi nhùng nhục, đội chiếc mũ cát két xám. Người ngồi ô-tô hớn hở tươi cười nhìn lão, chém chém vào không khí, giống hệt bàn tay của các lãnh tụ trên lễ đài mà lão Khúng đã nhìn thấy nhiều lần ở trong phim.

Người đang ngồi trong chiếc xe đít tròn biết bay chính là ông Bời bí thư huyện ủy, con người đang nổi tiếng khắp đài báo trong cả nước và là bạn thân của lão Khúng.

Nghĩ tiếp về giấc mơ đến đoạn đấy thì lão không nghĩ thêm nữa. Lão vẫn giữ nguyên tư thế nằm ngửa, chỉ động đậy hai cẳng chân duỗi thẳng, toàn thân hơi mềm ra. Lâu nay thỉnh thoảng có đôi lúc lão đã thấp thoáng nghĩ đến cái chết. Đêm lão nằm mê thấy những chuyện vui thì ít, rủi ro, tai họa là nhiều. Cho nên mỗi lần nằm mê thức dậy bao giờ lão cũng mừng, rút cục là một nỗi mừng rỡ, âm thầm mừng rỡ như mọi lần, cái thế giới trần ai đầy nhọc nhằn, đầy thân thiết lại trở về với lão trước tiên ở thính giác, từ đôi tai đầy nhạy bén của lão. Lão nghe được gần như cùng một lúc hai hột sương rơi trên tàu lá chuối bên hồi nhà và trên ngọn đu đủ sau nhà. Hai con chó rất khôn của nhà lão thì vẫn im hơi lặng tiếng. Nằm trong nhà, lão vẫn nghe tiếng chân chúng đi tuần ngoài sân, trong lúc chó nhà thiên hạ đang sủa ran lên. Lắng nghe tiếng chó sủa xa cứ râm ran, như cắn đuổi ma đang bắt đầu lục đục ru về các chốn gió bụi, lão đoán biết ít nhất cũng đã hai ba giờ sáng chứ không ít. Bao nhiêu thứ ánh sáng cùng cái thứ tiếng máy đằng khu công trường lớn, cả trong khe Đá Dầu cũng đã tắt hết tiệt cả. Đêm tối thui và sâu. Đâu, đã từ lâu lắm lão Khúng lại mới cảm thấy một vẻ im ắng về ban đêm như thế này khiến cho lão hơi sờ sợ một nỗi sờ sợ nguyên thủy y như có ai lại vừa ném lão trở vào một cái làng đất sâu hun hút và tối tăm - từ ở đấy lão đã ra đời, và cũng từ đấy ông bà tổ tiên lão đã ra đời, để sinh ra lão.

Biết rằng dẫu muốn thì cũng không tài nào ngủ lại được nữa, lão Khúng đã toan trở dậy nhưng cái cảm giác tối tăm nặng nề ban nãy như một hòn đá tận dưới lòng đất sâu nối với thể xác lão bằng một sợi dây rất dài vô hình cứ níu kéo không cho lão ngồi dậy.

Nhưng là một con người vốn quen săn sở đối với công việc, lão đã bật dậy: sáng nay lão Khúng phải đi xuống chợ Giát bán con bò. Và lão đã rắp tâm dắt con bò đi thật sớm...

Suốt đời lão, trong muôn vàn những điều bực bõ, không thực hoàn toàn thỏa mãn về chính mình, có một điều thỉnh thoảng lão lại cảm thấy là không biết cách sắp xếp cho có thứ tự những thứ chứa ở trong cái đầu của lão, cũng không biết cách diễn đạt thành lời cho rành rẽ - tất nhiên là chỉ diễn đạt với mình - cái bầy ý tưởng rối rắm, tăm tối lại hay trái ngược lẫn nhau, lại đầy gai ngạnh, như nhiều đàn bò của nhiều nhà tự nhiên đem nhốt chung vào một chuồng và suốt đêm chúng nó húc nhau, rượt đuổi nhau lung tung beng cả lên, ở trong ngăn chuồng quá đỗi chật hẹp là cái đầu của lão.

Lão ngồi bật dậy trên tấm phản mọt rồi lập tức thả hai bàn chân trần xuống đất lạnh cóng. Lão làm thế, một cử chỉ đầy kiên quyết và dứt khoát là theo kinh nghiệm sống của lão, nhằm để khắc phục cái sự dùng dằng phân vân trong một công việc trọng đại, nó quá trọng đại - có thể nói như thế - mà sáng nay lão phải làm, dứt khoát lão phải làm. Tì một bàn tay xuống mép phản, lão rọi cặp mắt nhìn vào bóng tối trong nhà. Lão trông thấy có một tấm lưng trẻ con nằm vắt trên miệng cái cối xay thóc kê ở gần cửa ăn thông giữa nhà ngoài và buồng trong của mụ Huệ. Lại thằng Bút rồi! lão nghĩ. Đây là thằng con trai út của lão, mới lên sáu tuổi. Cái thằng "đầu bò" ấy đêm nào cũng ngủ chung với bố trên tấm phản nhà ngoài nhưng nửa đêm lại có thói quen hay rúc vào buồng ngủ với mẹ. Thằng bé thường bước chập chững vừa đi vừa ngủ, trên dọc đường nó vấp phải con chó đang nằm ngủ thì ngã nhào xuống ôm lấy con chó mà ngủ tiếp luôn cho đến tận sáng. Cuối cùng thì chẳng có lần nào nó đi tới được với mẹ mà sáng ngày ra chẳng hôm nào thấy nó ngủ ở trên giường, trên phản. Hôm thì ôm lấy cái cối xay thóc, hôm nó ôm lấy cái chổi mà ngủ.

Như hai tên tuần đinh mẫn cán ở ngoài sân hai con chó vẫn ngậm miệng đi đi lại lại. Một trời sao dày như mắt sàng sáng long lanh và ướt át. Sương khuya rơi lộp bộp nặng trĩu từ trên những tàu lá xuống mặt đất chung quanh nhà vốn đã ướt đẫm sương. Lão Khúng như một cái thân cây khô đầy mấu mắt và vặn vẹo đứng im thin thít giữa mảnh sân một nền vôi trắng toát đang hướng mặt về phía biển, lão cùng ngôi nhà đều đang hướng mặt về phía biển, về hướng cái làng Khơi chôn rau cắt rốn của lão, của tổ tiên lão ở dưới ấy. Về hướng ấy chân trời như thấp hẳn xuống và nhòe nhoẹt trong sương luôn luôn như dội tới hai bên lỗ tai đầy thính nhậy như lỗ tai loài vật của lão những tiếng rì rào, rì rầm của sóng biển của đất đai quê nhà và mồ mả cha ông, cũng chả biết đó là những âm thanh có thực, lão nghe thấy thực hoặc chỉ là do lão đã từng nghe thấy từ đời tám hoánh nào, từ khi còn nằm trong bụng mẹ.

Lão cúi khom lưng bước nhanh vào trong nhà bếp. Hai bàn tay lão sờ soạng trong góc tối. Mùi cám lợn chen lẫn mùi phân dê vừa chua lòm vừa nồng nàn xộc vào mũi lão nhưng những thứ mùi ấy đã trở nên quá quen thuộc đến mức lão chẳng ngửi thấy gì cả. Lão lôi được từ trên cái giàn tre gác bếp xuống một vòng dây chão mới và một vòng dây đã cũ. Gian bếp tối như hũ nút lão chỉ có thể phân biệt được đấy là hai vòng dây chão mới và cũ bằng cảm giác trên những ngón tay. Trong ngày phiên chợ sắp tới lão chẳng hề có ý muốn làm đỏm làm dáng cho con bò nhà lão sắp đem bán một tý nào nhưng bằng những ngón tay lão cảm thấy cuộn dây cũ đã quá cũ, nó đã mòn vẹt, thậm chí lão có thể ngửi thấy được cả mùi mồ hôi của con vật rịn ra từ những lỗ chân lông ở trên hông nó trong những buổi cày ngày này sang ngày khác đã thấm vào trong cái vòng dây chão. Con khoang đen đã già yếu quá, từ lâu lão Khúng đã biết vậy. Lão biết vậy từ đầu năm ngoái. Thậm chí bà con trong xóm người ta không nói nhưng đã biết như vậy trước cả vợ chồng lão Khúng, người ta nhận ra nó đã già lão từ năm ngoái. Con bò đã hom hem như một bà lão vậy mà cái sợi dây chão lại cũ, không khéo người ta nhìn vào lại càng thấy nó già yếu hơn? Lão Khúng đứng trong bóng tối và đang tính toán mọi đường hơn lẽ thiệt về cái uy thế của con bò nhà lão lúc ra đứng ở giữa chợ.

Trong bóng đêm tối thui lão Khúng đứng nhìn sợi dây chão đã từng cột cổ bao nhiêu con bò, đã từng gắn bó với đất cát nhà lão, đã từng đi qua đời lão, phải rồi ngày xửa ngày xưa đấy là sợi dây chão vẫn còn mới nguyên, những sợi lạt giang mới cứ trắng tinh như lụa bện chặt vào nhau mà lão đã mang từ chợ Cày về cùng với mồ ma con vá lưng, lão đã dùng sợi dây này dòng con vá lưng tận trong chợ Cày về, và cũng trong cái bận đi tậu bò ấy, lão đã giáng cho cái thằng cha lái bò trong chợ Cày một bài học đáng đời, lão đã làm cho hắn được một mẻ ngượng ngay giữa chợ. Là bởi vì cái thằng cha bủn xỉn quá thể đã bán con bò cho lão, cầm trên tay cả một đống giấy tiền lớn cuộn tròn to bằng cả cái khăn xếp vậy mà còn định cởi ra khỏi cổ con vật cái dây chão. Vậy thì để cho lão phải cởi dải rút ra mà dắt con bò về à? Quả thực thì sợi dây trông còn mới quá, còn mới hơn rất nhiều cái cuộn dây mới lão Khúng đang cầm trên tay bây giờ.

Nghĩ thế rồi lão Khúng quay trở vào cất cuộn dây mới lên gác bếp. Lão xách cuộn dây cũ ra. Chậc, dù chỉ là cái vặt nhưng cũng phải xuất tiền ra mua chứ chả ngửa tay xin không được của ai bao giờ, lão nghĩ vậy trong khi bước qua một lối đi rải vỏ ngao từ nhà bếp ra chuồng bò. Đi qua cái chum vỡ miệng chứa nước múc dưới giếng lên, lão cầm cái gáo dừa múc nước trong chum tu một ngụm, súc miệng sùng sục.

Con khoang đen đã trông thấy bóng lão Khúng ngay từ lúc lão vừa thức dậy đi qua sân vòng ra căn nhà bếp đứng đái ồ ồ rất lâu ở cái thùng đựng tro đặt sau chuồng lợn. Mặc cho trong đêm tối, con bò cũng rất dễ nhận ra hình của lão Khúng. Hơn chục năm nay, con vật đã quá quen với một cái hình dáng con người, đứng trên hai chân y như một cái cây dại tự nhiên từ trong đất mọc lên, con vật chỉ khụt khịt lỗ mũi vài cái đã có thể đánh hơi thấy từ xa mùi mồ hôi muối thân thuộc và lập tức đánh thức dậy trong trí lực u tối của nó một ý chí thuần phục. Như tuân theo một thứ quán tính, trông thấy lão Khúng vừa đưa ống tay áo chùi nước hai bên mép vừa bậm bạch đi tới trước cửa giàn, con bò đã toan bấm móng xuống đất đứng dậy nhưng lại như một đứa trẻ quen làm nũng nó biết rằng cần phải tỏ ra khủng khỉnh đôi chút, lão Khúng cũng thừa biết vậy, lão đưa bàn tay vỗ nhè nhẹ lên cái cổ vươn dài ra ngoài then cửa nhưng khi con bò ngoan ngoãn đứng dậy, bàn tay lão trở nên run run khi buộc sợi dây chão vào cổ con vật. Lão Khúng biết rằng cái nốt buộc lần này sẽ không bao giờ cởi ra nữa, lão đang cột cái chết vào cổ con vật.

Con bò già nua làm sao thấy được một giọt nước mắt của lão Khúng vừa lăn vào lớp cỏ ống nhầu nát dưới bàn chân lão trong lúc lão oằn người giang hai cánh tay thúc cái then cửa giàn về một bên để mở cửa giàn bò cho con bò đi ra. Với chiếc dây chão cũ rích nằm vắt hai vòng trên cặp sừng rồi bỏ thõng xuống một bên bả vai đã sần sùi như da cóc vì suốt đời mang ách, con Khoang đen già nua lững thững đi ra khỏi cửa giàn, bốn móng chân nó giậm lộp bộp trên nền đất bột của mùa hanh khô vương đầy rơm rạ cùng những cọng cỏ tươi đã lấm láp.

Ra khỏi cửa giàn mới dăm bước, con vật liền đứng lại. Nó khụt khịt lỗ mũi đánh hơi mùi đất ẩm sương đêm lẫn mùi ngai ngái hăng hắc xông lên từ một cái quang cỏ còn nguyên vẹn nén chặt trong bốn sợi dây thép, toàn cỏ ống đã rửa sạch mà con Nghiên, đứa con gái áp út của lão Khúng vừa đi cắt tận trong chân núi, lúc nhập nhoạng tối. Con vật thè cái lưỡi ram ráp bứt một ngọn cỏ trong chiếc quang nhai trệu trạo giữa hai hàm răng trắng nhởn, liên tiếp giậm bốn móng xuống đất tỏ ý ngạc nhiên chứa đầy bất mãn đối với lão Khúng vì nó cảm thấy đêm vẫn còn sâu sao mà lão Khúng đã lôi nó dậy đi cày sớm quá. Nhưng rồi như một thói quen mỗi buổi sáng ra ruộng, con khoang đen già nua ngước mõm lên trời kêu lên một tiếng "ngọ" khàn khàn đầy não nề làm rung chuyển màn đêm. Cũng theo thói quen mỗi lúc ra ruộng, lão Khúng đánh con bò ra khỏi giàn liền chạy đi nhặt một chiếc rổ thưa bật vành dính đầy tro lẫn phân bò khô đem đặt giữa hai chân sau của con vật. Ngay từ khi con khoang đen đang còn là một con me mới ra đời 14 năm trước, nhìn tướng mạo lão Khúng đã lấy làm bằng lòng khi trông thấy cái xoáy chỗ mút mông lão biết suốt đời con vật sẽ ỉa trước khi ra đồng, lão nuôi nó sẽ không bao giờ mất phân, hơn nữa, cái cuống đuôi không tròn vo mà bèn bẹt như đầu con cá chai: con vật sẽ ban thưởng cho lão ngoài sức lao động của nó, những hòn phân ra hòn phân cứ chắc nịch chứ không bao giờ ỉa té re. Lão đứng trước cửa giàn lơ đễnh nhìn những ngôi sao trên trời chờ con bò đại tiện và lấy làm tiếc từ nay nhà lão không còn nguồn phân ngồn ngộn của con khoang đen để hằng ngày hót đổ xuống cái hố ủ bên cạnh giàn bò nữa.

Hai cánh mũi hít hít cái mùi phân vừa trút ra khỏi cơ thể con vật còn nóng ấm và đầy nồng nàn đang tan vào không khí về sáng hơi giá buốt, lão cầm đầu dây chão dắt con bò ra chỗ gốc cây vối ngoài đầu ngõ, ở đấy một chiếc xe bò bánh lốp ô-tô đậu nép bên hồi nhà bếp chỗ đầu hồi hơi nhô ra, nơi đặt chiếc cỗi giã gạo đạp bằng chân, hai bánh lốp ô-tô của chiếc xe bò được quấn một sợi dây xích cột vào bên chân cối giã gạo.

Lão Khúng nhìn qua một đống củi lẫn những bó chè xanh chất cao lù lù trên thùng xe, trông thấy một mái đầu bịt khăn quàng đen đang ẩn hiện ở bên kia chiếc xe, lão hơi giật mình biết là mụ Huệ đã thức dậy, vợ lão đã thức dậy cùng lúc với lão trong cái giờ phút trọng đại vĩnh biệt con bò.

Mụ Huệ không hề lên tiếng cứ như người ngậm tăm, lão cũng vậy. Lão đứng hơi né ra một bên khi người đàn bà đi tới giơ tay cầm lấy một bên chiếc sừng nhẵn bóng, dắt con vật sang bên kia thành xe. Lão Khúng đi quanh một vòng thít lại sợi dây mây chằng những bó củi rồi ra chỗ gốc vối ngồi xổm xuống, kẹp chiếc điếu cày giữa hai đầu gối, những ngón tay tự nhiên tê cứng run rẩy mãi mới châm được mồi thuốc lào vào cái nõ điếu bằng gỗ thị. Lão ngó nhìn chung quanh một lát mới bật cái bật lửa, thu thu ngọn lửa trong tà áo để khỏi rọi ánh sáng vào nhà khiến lũ con có thể tỉnh giấc vào lúc này. ánh sáng từ chiếc bật lửa trên tay lão rọi một khoảng trăng trắng trong lòng chiếc chậu sành da lươn. Trước mặt lão, mụ Huệ ngồi xổm còn con bò đang đứng sung sướng thè lưỡi liếm thứ cháo nếp đặc sánh vô cùng thơm ngon mà mụ Huệ đã nấu sẵn từ đầu hôm. Nó có cái gì giống như bữa tiệc thết người trước khi bước lên đoạn đầu đài. Con bò già nua ăn chậm chạp, chiếc cổ cúi xuống gần như không động đậy, chỉ có chiếc yếm đã nhẽo ra hơi run run, thỉnh thoảng con vật lại đưa chiếc lưỡi ram ráp liếm ngược lên theo thành chậu rồi âu yếm liếm trên hai bàn tay đã dăn deo vì lam lũ của mụ Huệ đặt thõng trong lòng chậu cháo.

Chờ cho con bò ăn xong, mụ Huệ đưa bàn tay vẫn còn dính những hạt cháo nếp vuốt ve nhiều lần lên cổ con vật, đoạn dắt nó đến bên càng xe. Lão Khúng vội vã chạy tới vứt chiếc điếu cày lên đống chè xanh trên nóc xe đoạn cúi gò lưng nâng bổng cả hai chiếc càng xe lên khỏi mặt đất, đặt chiếc ách gỗ mặt trong đã mòn lõm vào cổ con vật.

Hai vợ chồng lão Khúng đứng nhìn con bò rồi nhìn nhau một lúc trong đêm vắng. Cả hai vẫn lặng im.

Lão Khúng biết không thể dùng dằng được nữa, không phải dùng dằng đối với mụ Huệ mà chính lão sợ con Nghiên và thằng Bút ngay lúc này trong nhà thấy động chúng thức dậy. Ai chứ thằng Bút, thằng "đầu bò" sẽ nằm lăn quay ra trước xe, thậm chí ôm chặt lấy hai chân trước của con bò không cho bố đem đi đâu cả.

Nhất là con Nghiên, năm nay mới 9 tuổi đầu nhưng từ khi biết cầm cái liềm, là đứa con gái bé nhất của lão đã biết ngày ngày chăm chỉ đi cắt cỏ, mỗi ngày một gánh đầy, để cho con khoang đen ăn no để đi cày, có hôm nó đi cắt tận trong khe núi giáp Diễn Châu, gánh gánh cỏ đi lạc mãi trong những dãy núi, vừa sợ, vừa đói chín mười giờ đêm mới tìm được đường về làng.

Lão hấp tấp trèo lên ngồi chênh vênh trên thành xe, kêu lên những tiếng "hầy, hầy" đầy gắt gỏng. Nhưng đâu có phải chờ lão giục, con bò đã vươn dài cổ kéo chiếc xe bánh lốp đã mòn vẹt lọc cọc lăn qua trước mặt mụ Huệ đang đứng câm lặng bên gốc vối. Ra khỏi nhà một đoạn, lão nhảy xuống. Con đường dốc sục lên những đất bột tự nó kéo chiếc xe lăn tuồn tuột xuống dốc. Lão Khúng bước cao bước thấp, hai tay cố níu giữ chiếc xe đi chậm lại, lão quay ngoái cổ, bằng con mắt con vật, nhìn một lần cuối cùng ngôi nhà với cái dốc tường hình tam giác trắng nhờ nhờ in bật trên nền trời sao đêm về sáng đang nhấp nháy liên hồi, bỗng giật mình chợt nhìn thấy bên gốc vối không phải chỉ có một mình vợ lão mà còn thêm một cái bóng bé bỏng, trời ơi, con Nghiên! con Nghiên! sao nó biết mà dậy? Lão Khúng thấy vướng vức trong lòng vô cùng. Suốt tối qua, chiều qua và cả ngày hôm nay, cả hai vợ chồng lão đã đồng lòng giấu biệt không cho lũ con biết sớm nay sẽ đem bán con bò của nhà. Vậy mà đứa con gái đã biết mà thức dậy, đứa con gái hai bàn tay lúc nào cũng sây sát ứa máu vì công việc cắt cỏ cho con bò ăn để đi cày.

Thực ra con bé thức dậy tự lâu lắm, trước lão Khúng và dường như là suốt đêm nó không ngủ. Con bé lên chín sứt răng, bằng mối mẫn cảm đặc biệt của dòng máu gia đình nông dân, nó biết tính toán rồi ra trước sau không còn cách gì khác, nhà nó cũng phải bán con khoang đen đi để lấy tiền cho bố đi vào Đác Lắc một chuyến nữa, để làm nhà làm cửa cho vợ chồng anh Lạc nó đang đi "kinh tế mới" và đang gặp khó khăn ở trong đó, trong đó là đâu? Đác Lắc, Đác Lắc, cái xứ đất rất xa lạ ngoài sức tưởng tượng của nó, ngoài tầm tay với đầy tình thân yêu nhưng ngắn ngủi của nó đối với người anh mà cứ mỗi lần có ai đang nói chuyện nhắc đến hai tiếng Đác Lắc là con bé dỏng tai lên nghe hóng, không khỏi mủi lòng bùi ngùi sực nhớ ngay đến vợ chồng anh Lạc, người hiền như đất, tính tình như con gái mà nó thân nhất nhà, thương nhất nhà.

Hồi tháng một năm ngoái lão Khúng đã đi thăm con một chuyến trong Đác Lắc, về cái công chuyện này cũng có đôi lúc lão Khúng nghĩ mà lấy làm buồn rầu. Dù sao đời lão đã phải bỏ làng xóm, bỏ mồ mả tổ tiên ở dưới biển để lên tận đây, cái miền ngược ma thiêng nước độc này để khai khẩn đất cát kiếm miếng sống, lão vật lộn với miếng đất rừng này đến giờ đã gọi được là tạm mát mặt, hòn đất đã bớt đi rất nhiều mầm cỏ dại, hòn đất đã gần hóa thành hòn đất thuộc, lão đã tưới đến gần cạn kiệt mồ hôi cho mảnh đất này thì đời con lão lại phải bỏ đây để đi đến những miền khác, những miền rừng khác xa xôi hơn, mịt mùng hơn. Chả lẽ đời của lão, cái số phận của lão, của vợ chồng, con cái lão là phải như vậy, cứ phải như vậy?

Ôi, lão Khúng nghĩ, giá không phải chạy theo đứa con để bù trì nâng giấc cuộc sống ban đầu cho nó ở cái nơi đất khách quê người chắc chắn hôm nay lão không phải rong con khoang đen xuống chợ Giát từ nửa đêm thế này? Mà cái con khoang đen nó đã già gì, vẫn biết rằng nó đã đủ răng, đã đoạn từ lâu, nhưng của bền tại người, ông Bời bí thư huyện ủy nói đúng, trong các xã có con bò nào béo gầy, bảo già thì hãy cứ dắt lên vùng trên giao cho ông Khúng nuôi hộ. Chỉ nửa năm chúng sẽ trở thành trai tơ, gái tơ, lại kéo cày được!

Một cái bóng mảnh nhỏ trong đêm như chiếc lá cỏ vụt bay ra khỏi gốc cây vối, vật tượng trưng cho cái ngõ ra vào của nhà lão.

- Họ, họ...

Miệng kêu khẽ bằng cái giọng âm thầm của một người quen ăn to nói lớn, hai tay giữ chặt lấy càng chiếc xe không cho hai bánh lốp nhúc nhích. Lão Khúng đứng làm cái phanh xe hồi hộp đợi đứa con gái chạy xuống và trong bóng tối lão trông thấy chạy phóng lên phía trước đứa con gái là hai con chó nổi tiếng của gia đình lão: con mực và con vàng. Chẳng hiểu sao hai con chó cũng trở nên đầy quyến luyến đối với con bò, chúng chạy quẩn quanh chân con bò, hai con vật giữ nhà đưa mũi hít hít trên những chiếc móng sừng của con vật kéo cày, trong lúc con Nghiên nước mắt giàn giụa sụp xuống ngồi xổm dưới tấm yếm thõng thẽo, rồi con bé xõa cả mái tóc ngắn đỏ quạch chưa kịp cặp lại bằng chiếc cặp ba lá từ khi nhảy choàng ra khỏi giường, để cho mái tóc trùm lên đầu, lên cổ con vật, hai bàn tay bé nhỏ không ngừng vuốt ve hết mũi miệng, đến đầu cổ con vật. Con bò cũng tỏ vẻ buồn bã, hay là đến lúc này bằng bản năng loài vật, nó đã cảm thấy được nó đang đi chuyến đi cuối cùng của đời nó, giữa đêm khuya?

Con Nghiên chừng như không còn chịu đựng nổi nếu đứng mãi bên con vật mà suốt đời nó chăm sóc, con bé liền chạy lại gục đầu vào ngực bố bởi nó biết chính lúc này bố nó cũng đang đau khổ vì phải đem bán con bò. Lão Khúng đưa một bàn tay lên vuốt vuốt trên phiến lưng gầy guộc của đứa con gái chăm làm nhất nhà. Lần đầu tiên lão nhận thấy từ mái tóc và hơi thở của đứa con gái nhỏ phả ra mùi của các loài cỏ rất tươi non của đồng nội, vừa đắng vừa ngọt, phải lúc lâu sau khi đứa con đã rời lão và khụt khịt như đang khóc vừa chạy vụt trở về với mẹ bên gốc cây vối, lão mới âm thầm nhận ra trên cơ thể của nó cái mùi cỏ ống vừa cắt, cả mùi đất rừng hoang dã rất xa xưa đã ngủ trong ký ức của lão nhiều năm về trước, khi lão còn là một chàng trai cùng mụ Huệ vừa từ dưới làng Khơi lần mò đặt chân lên đây.

Thời bấy giờ con Nghiên hãy còn chưa đẻ, hơn một nửa số con cái của lão hãy còn chưa đẻ, con khoang đen cũng đang còn nằm trong bụng mẹ nó là con vá lưng mà lão sắp sửa đi tậu từ trong chợ Cày. Những ngày tháng ấy như thuộc vào thời kỳ mới có loài người, lúc bấy giờ trong cái "ổ gấu chó" của gia đình lão, cái gia đình loài người độc nhất giữa lòng rừng này mới có thằng Hùng, thằng Dũng và thằng Lạc mới sinh được hai tháng đang còn đỏ hỏn nằm trong lòng mụ Huệ.

Y như thể ngày ấy mặt đất đâu đâu cũng là rừng rú, người thì ít, lác đác, quá ít, chỉ có một gia đình lão do táo tợn mới dám chạy lên lập nghiệp, ấy vậy mà cái sợ lại không nhiều như bây giờ. Con người ta sợ nhau nhiều hơn là sợ beo trăn, cọp hổ, mới nói tưởng chẳng thể nghe lọt tai nhưng ngẫm nghĩ lâu lại thấy đúng như thế, nhất là từ ngày có cái công trường của nhà nước. Ngày trước cái gì bỏ đâu còn đó, thậm chí một cái ruột áo bông mới mua để mặc rét, suốt mùa hè vứt ngoài khe đá mà có ma nào lấy? Ai lấy? Lão sống như người rừng, đánh mất luôn tính cách một người ở đồng bằng, một anh nông dân bon chen ở làng. Vợ lão vốn một người thành phố lại càng thay đổi nhiều. Cả hai vợ chồng trở nên lầm lì, tính nết cũng âm âm u u như tính nết của rừng. Ngày đó, lắm lúc lão Khúng nhìn những đứa con chơi với nhau bên hang đá, đầu ngọn suối, lão ứa nước mắt, nói dại, lão cứ nghĩ không biết chúng nó là con lão hay là con của loài cầy cáo, beo trăn, mỗi lần nghĩ dại thế, lão lại lăn ra cười một mình, cười lăn cười lộn như một kẻ điên, trước cái sự vây bọc tưởng không bao giờ thoát ra nổi của hoang vu.

Bây giờ con người đã đông hơn con vật, sắt thép đã đông hơn cây cối vậy mà lão lúc nào cũng nơm nớp. Vụ đông năm ngoái, cánh công nhân cơ giới hái trộm mất của nhà lão cả gần sào cà chua vừa độ chín rộ. Còn năm nay, mới tháng trước, con Hương, đứa con gái nổi tiếng xinh đẹp của lão đi học dưới trường cấp III của huyện được về nhà chiều thứ bảy. Mới nhập nhoạng tối chứ đã khuya khoắt gì, lão ngồi xổm trước thầm đang lúi húi dở nồi khoai lang luộc, trông qua làn khói, lão phát run lên, vừa tức giận, trông thấy con gái mặt cắt không còn giọt máu, guốc, dép vứt đằng guốc dép, chạy bán sống bán chết từ dưới con dốc trước nhà lên, hốt hoảng như bị lợn rừng rượt...

2

Con bò già, lão Khúng cùng chiếc xe vẫn chưa mò mẫm ra khỏi cái hõm đất dưới chân dốc trước nhà. Đất bột sục lên ngang bắp chân hắt lên trời một cái quầng trắng nhờ nhờ. Khắp mặt đất xó nào cũng vứt ngổn ngang từng đống thanh sắt hoặc cuộn dây thép hoặc những cái hòm gỗ cao to lừng lững như những cái nhà khiến lão Khúng phải nhảy xuống dắt con bò đi len lỏi giữa những khoảng bóng tối của đám vật liệu công nghiệp vít mất hết cả đường xá. Con mực, con chó có tính hay phất phơ, lang thang vẫn lẽo đẽo chạy theo lão. Lão đứng lại, quay đầu chiếc roi chỉ về hướng nhà rồi cất tiếng đằng hắng. Con chó đen liền cun cút quay trở lại để giữ nhà. Ra đến đường, trời đất hình như có sáng hơn một chút. Một vệt đất nhẵn chìm ngập trong rừng cỏ may lẫn sim mua của những vạt đồi nằm nghiêng nghiêng nhấp nhô hai bên, đến lúc này lão Khúng mới cảm thấy ớn lạnh, cái lạnh như từ những vạt sao xanh ngời ngời tận trên đỉnh trời tiết ra theo từng nhịp ánh sáng nhấp nháy. Lão quài tay ra sau túm ngay được chiếc áo dạ cứt ngựa mà mụ Huệ đã chu đáo nhét vào giữa những bó củi ngay sau lưng chỗ lão ngồi.

- Chậc, trời với đất..., lão thốt lên một câu nửa chừng rồi im, không dám thú nhận với mình đã dại dột đánh con bò đi quá sớm. Đáng lý có thể để cho nó và cả lão đàng hoàng ngủ thêm một giấc đẫy nữa rồi hẵng ra đi cũng vừa. Bỗng nhiên lão Khúng có cảm tưởng mình là một tên đêm lén lút đi ăn trộm bò của nhà ai và lấy làm bực cả mình. Cũng tại cả cái con vật này nó đã không cho lão ngủ, nửa đêm đầu hôm thức chong, nửa đêm về sáng vừa chợp mắt lại nằm mê thấy nó...

Khoác hờ chiếc áo dạ ở một bên vai ngồi co ro trên thành xe, lão đưa mắt nhìn đau đáu vào cái khoảng cổ đã trụi hết lông và sần sùi da cóc của con vật trên đó chiếc ách cổ đang xiết chặt lấy làm phát ra những tiếng lọc cọc trong đêm vắng, và một khoảng bóng tối đen kịt cứ như đóng đinh vào phía trước mặt con bò, một khoảng bóng tối chừng như quá sâu, quá dầy, còn lâu mới chọc thủng, và dưới chân lão Khúng và con vật tất cả đất đai cùng cỏ cây đều đang còn nồng nàn trong giấc ngủ say như chết, những con chim sâu lẩn lút trong đám cỏ may cũng chưa hề cất lên tiếng kêu chích chích, lão chỉ nghe tiếng côn trùng tỉ tê rất xa, và bốn phía trời đất dường như đang còn mịt mùng chìm đắm trong khoảng bóng tối của âm ti.

Ngồi một mình, lúc này lão Khúng đang nghĩ đến cái lúc nay mai lão phải báo tin đã bán con bò khoang đen cho tất cả chín đứa con của lão biết, từ thằng Bút đứa con trai út đầy dại dột cho đến con Hương đang học lớp 12 dưới phố Cầu Giát, cho tới thằng Đoan, con Lê nửa ngày đi học nửa ngày đi làm với vợ chồng lão ở nhà, rồi những đám vợ chồng thằng Dũng, đang ở trong tỉnh, vợ chồng thằng Lạc ở tận Đác Lắc. Ôi, mới đáng sợ làm sao, cả một thời trẻ thơ của từng đứa con lão cũng như cả một đời làm lụng vất vả trong gia đình của từng đứa một đều gắn bó với con vật này, đã từng chăn dắt đùa nghịch với con vật rồi đi cày đi bừa, thức khuya dậy sớm, con khoang đen này suốt 18 năm nay đã trở thành một người trong gia đình lão, một thành viên trong gia đình lão, dường như đến tận bây giờ lão mới thấu hiểu rõ cái điều hiển nhiên này.

Có đi nhanh lên không nào, lão Khúng lấy làm bực mình vô cùng lên tiếng quát thật lực, đi nhanh lên! Rảo bước đi nhanh lên, mà chết cho sớm sủa! Để cho người ta nện một búa vào đầu mày cho nhanh lên, đồ quỷ ạ!

Rồi đến lượt tao, tao cũng phải tìm cách "báo cáo" với chúng nó, với những đứa con trai lẫn con gái của tao rằng tao đã phải bán mày, rằng từ nay trong nhà không còn mày nữa, rằng tao đã giết mày! Mà mày cũng đã già nua tuổi tác rồi chứ chả còn là thiếu nữ hay nạ dòng gì nữa, ông trời sinh ra số kiếp mày đã như thế, suốt cả một đời nai lưng kéo cày, già thì giết thịt! Có ai để cho một con bò già rồi chết để làm đám tang cho thật to, thật linh đình bao giờ?

*

* *

Trong thế giới bao la giữa đêm tối sâu thẳm tĩnh mịch, chỉ những ngôi sao xanh ngời ngời và ẩm ướt đang nhấp nháy tận đỉnh trời là có thể nhìn thấy hai giọt nước mắt đặc quánh như một thứ chất dầu đang dâng lên tận trong khóe mắt lão Khúng.

Lúc này bằng những lời nói âm thầm từ trong lòng lão, lão đang báo tin việc bán con bò với thằng Dũng, "báo cáo" cái việc này với đứa con thứ hai của lão đã hy sinh trên chiến trường Kampuchea cách đây hai năm. Đấy là thằng con trai đích thực mang dòng máu của lão, cho nên từ ngày đứa con chết, phần nào tính tình lão có thay đổi, lão đâm ra hay nghĩ, không hùng hục chỉ biết làm như trước. Sau khi nỗi thống khổ đã dần dần qua đi nhưng vẫn âm ỉ như một đợt sóng biển phủ vào đất liền đã rút nhưng vẫn để lại cái chất mặn làm xót cây khoai, cây lúa, dường như là lần đầu tiên lão nghĩ đến nỗi nhọc lòng mà từ nay đời lão phải gánh chịu: một nỗi đau đớn không bao giờ nguôi quên vì cái chết của thằng Dũng. Điều này chỉ có mụ Huệ là người có thể thấu hiểu được cõi lòng của lão.

Đó là một buổi chiều cách đây hai năm, lúc ấy đã nhập nhoạng tối, chỉ còn mình lão với con khoang đen ở nán lại bên một đống đá xếp vuông vức bên bờ một mảnh ruộng mới khai phá tận trong khe Đá Dầu. Lão gắt mù lên với cái con vật lúc bấy giờ có cái gì làm nó sốt ruột cứ lồng lên kéo chiếc xe chở đá về nhà.

- Họ... họ... Khoan đã nào! Mày tưởng tao không biết đói bụng đấy hử?

Nói nhẹ không xong, lão nhiếc móc nó, nào đồ siêng ăn nhác làm, đồ rắn mặt, đồ khó bảo, nhưng con vật vẫn vươn cổ, bấm bốn móng xuống, kéo bánh xe lăn đi. Lão vội vã hất hòn đá màu gan gà to bằng cái cối đang ôm trước bụng vào giữa lòng chiếc xe chất ngổn ngang những đá là đá, lão muốn tranh thủ chở hết đống đá về nhà trong dăm ba buổi chiều cho xong để kịp xây lại bức tường phía sau nhà bếp thay vào chỗ bức vách đã nát. Mà sao cái con vật hôm này bỗng giở chứng, mọi ngày có bướng thế đâu, lão thủng thẳng đi phía sau, vừa đi vừa nghĩ, thỉnh thoảng đưa tay đẩy giúp cho con bò đỡ nặng mỗi lúc chiếc xe chở đá lắc lư bò qua một khúc suối nước chỉ xâm xấp mắt cá chân, với những bụi cây rậm rạp hai bên đã chứa đầy bóng tối.

Lão và con bò chưa về đến gốc vối đầu ngõ đã nghe trong nhà khóc ran lên, những tiếng khóc đầy đau đớn thảm thiết. Cả dưới bếp lẫn nhà trên tối mò mò, chả đèn đóm. Một cái gì sụp đổ xuống trong người lão. Để mặc kệ con khoang đen một mình đang gò cổ vồng lưng lên gần như chết đứng với xe đá trên lưng chừng cái dốc ngay trước nhà, lão Khúng đã thấy tối tăm cả mặt mũi nhưng vẫn cố gượng để đừng ngã vật xuống, lão cố lê bước lên dốc. Chưa bao giờ quãng đường ngắn ngủi chỉ dăm bước chân trên lối đi về nhà đối với lão lại xa như thế, khó nhọc như thế, tưởng sức lão chẳng bao giờ đi thấu. Lúc bấy giờ con Lê, đứa con thứ 5 sinh cặp kè sau con Hương, một đứa con gái trông thô kệch, nhưng đa cảm, đen như cột nhà cháy, đứa con gái ấy đã gần như hóa dại, khóc lóc không thỏa nó chạy ra ôm lấy ngang thân cây vối ở đầu ngõ, đập đầu chan chát vào cái cành mà lão Khúng vừa cưa cụt.

- Bố ơi, anh Dũng chết rồi!

Có lẽ suốt đời lão sẽ không bao giờ quên được cho nổi mấy cái tiếng ấy, nó sao mà xót xa, não nề và đầy bất lực của đứa con gái đứng gục đầu vào gốc cây vối với hai con mắt trợn ngược lên như hóa dại trước ngõ, đang nói lên cái lời báo tử cho người anh của nó ngay trước ngõ.

Cũng vào trong lúc bấy giờ lão chợt nhận ra rằng, lúc này, lão phải làm một cái cột chống ở trong nhà. Mọi sự như thể và đại thể lão đã hiểu. Vợ con đều đã ngã gục xuống cả thì lão càng phải đứng thẳng.

Lão đứng tại chỗ một lát để định thần lại, khi đã đỡ hoa mắt rồi quay trở xuống dốc bằng những bước bình thản, lão cúi xuống lấy hết sức liên tiếp bắt bánh giúp con khoang đen lúc bấy giờ đã gần ngã gục xuống lôi chiếc xe đá nhích dần lên.

Rồi vẫn bằng những bước đi bình thản, lão đi vào nhà.

ở trong nhà bếp vợ lão ngất đi, vừa tỉnh lại được và cái anh bộ đội lạ mặt mới hỏi thăm đến nhà lão Khúng cách đây chưa đầy nửa tiếng đồng hồ bây giờ đã như một người trong nhà, tự động mò mẫm trong khắp các hốc cột lôi ra được chiếc đèn dầu hỏa. Anh ta châm đèn, ngồi tựa lưng vào chiếc ba lô dính đầy đất cát vứt ngay bên chân cột nhà đối diện với lão Khúng, người lính bắt đầu tường thuật vắn tắt đầu đuôi trường hợp hy sinh của thằng Dũng mà lúc ấy anh cũng có mặt ngay bên cạnh cho lão Khúng và mụ Huệ nghe.

Ngày thường, những người trong xóm "Thống Nhất" vừa muốn đi lại chơi bời với gia đình lão Khúng lại vừa có ý e ngại, hơi xa lánh. Với cái thứ tính nết chật chưỡng đầy trái khoáy của lão Khúng, người ta chỉ muốn tránh nhưng nói cho công bằng thì cũng chẳng ai nỡ tâm ghét lão bởi xét cho đến cùng thì lão cũng không phải con người lèo lá, nhớp bụng, tham vặt hoặc độc địa, độc ác. Lão chỉ có một cái tật là chẳng giống ai, lão là lão Khúng, chỉ đáng trách có thế. Ngoài ra ngày mụ Huệ hãy còn trẻ mụ đã làm đám đàn ông trong xóm phân tâm không ít, đám đàn bà trong cả xóm khai hoang sinh lòng ghét, cũng chả phải mụ lẳng lơ (lẳng lơ gì với những lão đàn ông vốn là chồng của các mụ người nào cũng đầy tục tằn và bẩn thỉu) mà chỉ vì mụ Huệ đi đâu, đứng đâu cũng như một bằng chứng để cho đám đàn ông phân tâm, ngơ ngơ ngẩn ngẩn.

Trong cái buổi chiều tang tóc đổ ập xuống mái nhà của lão, nếu không có bà con láng giềng trong xóm xúm vào giúp đỡ thì lão lúng túng quá. Guồng máy lao động của cái gia đình ấy xưa nay như một cỗ máy tra kỹ dầu mỡ. Thế mà trong khoảng khắc đã gãy vụn, vợ lão Chắt Hòe, bây giờ là chỗ thông gia với gia đình lão Khúng, phải cùng với mấy mụ đàn bà khác ra tay cho lợn cho gà ăn rồi chạy ra các góc vườn hoặc xó buồng, lôi ra những đứa con của lão Khúng trở dậy, vỗ về dỗ dành chúng. Lão Khúng tỏ ra cứng cỏi nhưng cố lắm lão cũng chỉ giữ được cái vẻ bề ngoài. Cho tận đến sáng ngày hôm sau lão mới biết xẩm tối hôm qua, lúc tháo ra khỏi chiếc xe đá lùa con khoang đen vào chuồng, lão đã lú lẫn quên cài then, thậm chí quên cả cho con bò ăn, suốt đêm con vật phải nhịn đói không có được cọng cỏ nào vào bụng.

Anh bộ đội người Thanh Hóa, bạn thân của thằng Dũng đã cùng mấy anh em trong tiểu đội chôn cất đứa con trai lão Khúng trong một khu rừng Tây Bắc Kamuchea giáp nước Thailand, việc ấy xảy ra đã gần nửa năm trước khi anh lính về nhà lão. Sáng hôm sau, người lính quê Thanh Hóa xin phép vợ chồng lão ra đi từ tờ mờ đất.

Hai ngày sau mụ Huệ vẫn không gượng dậy được, không hề ăn một miếng, nỗi đau khổ của con người chỉ có nỗi đau khổ của kẻ khác là cởi giải được phần nào. Mụ Hái, đã ngoài 60, vừa con trai vừa con gái từ ngày cái trận Điện Biên đến giờ đếm trên đốt ngón tay đã có ba người hy sinh ở các mặt trận, chẳng biết làm cách nào, mụ Hái đã bắt mụ Huệ ngồi dậy húp được nửa bát cháo.

Sang ngày thứ ba, mụ Huệ vịn tay vào bức vách vừa rên rỉ một mình vừa lục tìm chiếc nồi hông bằng đất đem ra giếng cọ rửa chuẩn bị nấu đĩa xôi cúng con. Lão Khúng xách chiếc rựa ra bụi tre sau nhà chặt một cây vác vào ngồi chẻ ra, đan một tấm phên để thiết lập cái bàn thờ thằng con trai thứ hai bên gian trái.

Lão đã làm xong cái bàn thờ đứa con.

Lão ngắm nghía cái công trình đơn sơ vừa hoàn thành sau khi trải lên mặt tấm phên tre mảnh ni lông màu đọt chuối mà con Nghiên thường dùng khoác đi cắt cỏ, lại bày lên mặt tấm ni lông một cái bát sành đựng gạo.

Vợ lão từ nhà bếp lên, ngó cái bàn thờ mới rồi ngó sang lão Khúng bằng cái nhìn trân trân, vô hồn, không còn là hai con mắt của mụ Huệ mọi ngày mà là hai cái vực thẳm người ta vừa tát cạn hết nước. Lão Khúng thầm cám ơn vợ; mấy ngày qua mụ Huệ đã không hề thốt lên, dù rằng chỉ thốt lên qua tiếng khóc kể lể cái cơn bốc đồng của chí khí ái quốc của lão ngày ấy - từ đó thằng Dũng mới nắm lấy mấy câu khích lệ đầy cao hứng của bố để đòi đi bộ đội cho kỳ được. Thực tình thì ngày ấy trong nhà đã có thằng Hùng, thằng anh đang ở lính, nó xung phong đi là chính chứ có ai bắt, và ngày đó một mình mụ Huệ không làm sao mà ngăn cản, cầm chân cầm tay cái thằng Dũng của mụ.

Chính vào lúc này lão Khúng cũng phải tự gồng mình lên để cố giữ lấy trong người lão cái ý nghĩ rằng thằng Dũng đã hy sinh vì Tổ quốc. Cái ý nghĩ ấy như một tấm ván lát cầu ao đã lâu năm vừa nhún nhẩy vì mỏng manh lại vừa hay trùng triềng. Lão chỉ lơ là một chút, lãng quên đi những điều tâm niệm thiêng liêng chỉ một chút là lập tức xỉa chân xuống và nỗi đau khổ gấp trăm vạn lần sẽ lại vò xé lòng lão với tất cả nỗi niềm âm thầm của cái sự thực trần trụi và đơn giản.

Trong một thoáng chốc, lão đâm ra sợ cả chính mình, như một con chiên sợ đánh mất đức tin lão đã đánh mất đứa con, lại đánh mất luôn cả những ảo ảnh về nó. Con ơi, giá những ngày còn sống con mặc bộ quân phục chụp gửi về cho bố một bức ảnh. Để bố bày lên bàn thờ của con lúc này. Bố sẽ xuống phố Cầu Giát thuê người ta phóng đại, tô màu, cái bức ảnh sẽ mãi suốt đời đem đến cho bố nỗi khuây khỏa và niềm vinh dự... Hiệu ảnh ở dưới ấy thiếu gì mà bố cũng thiếu gì tiền? Hồi ở nhà mày hay trêu bố keo kiệt nhưng trong cái việc này... phóng đại, tô màu một bức ảnh anh bộ đội đã hy sinh ở trong nhà.

Lão lục lung tung mớ giấy má của gia đình cất trong một đoạn ống bương có nắp đậy và vẫn còn giữ được nguyên vẹn cả một đoạn dây đeo bằng bả có thể choàng qua vai - vật còn lại của quãng đời nông ngư xam bán thỉnh thoảng "đi nghề" ra biển đánh cá, trong những năm lão hãy đang còn trẻ trai ở dưới làng Khơi.

Bỗng lão Khúng sực nhớ ra chiếc ba lô của thằng Dũng do anh bộ đội người Thanh Hóa đã mất công phu khoác về từ bên nước Kampuchea cho gia đình lão. Mấy ngày nay lão đã cẩn thận đem cất trong một cái chum đựng khoai lang khô tận trong buồng vợ và lão quên khuấy đi.

Lão vội vã chạy vào trong buồng mụ Huệ ôm cái ba lô ra nhà ngoài . Lão tin chắc thế nào cũng tìm thấy một bức ảnh của thằng Dũng thật đẹp, thật oai phong, đàng hoàng, trong bộ quân phục mới là thẳng nếp.

Nhưng lão Khúng chỉ thấy dội lên tận đáy lòng một nỗi đau xót tận lúc này lão mới có dịp nhìn kỹ cái kỷ vật vô cùng quý báu của đứa con đã chết để lại: cái ba lô sao mà bẩn thỉu, rách rưới, y như chiếc đẫy của đứa ăn mày, không cầm lòng đặng lão bật lên một tiếng khóc hu hu, kêu lên một tiếng rồi im bặt, lẳng lặng lôi các thứ đựng bên trong ra. Chẳng có gì ngoài vài cái quần, cái áo bộ đội cũng đã cũ rách và hôi hám như chiếc ba lô, một mẩu sắt tây hình tròn chạm hình một vũ nữ Kampuchea đứng múa uốn éo, cùng với một đôi đũa mà chắc con lão đang vót dở bằng một thứ gỗ gì đó hết sức lạ lùng, thớ gỗ nhỏ mịn và rắn như đá, màu đỏ sậm.

Lão cắp cái đẫy lính vào bên nách, xăm xắm bước ra ngõ. Trên dọc đường lúc băng qua ruộng lúa qua xóm, lão chả thèm nhìn ai, gần như chả trông thấy ai, người ta chào hỏi, lão cũng làm thinh. Lão đi thẳng đến trụ sở xã. Hai dẫy nhà nằm theo hình thước thợ cửa giả mở toang, cả nếp nhà trên đứng trên bậc thềm cao lẫn dãy nhà dưới chất một đống cây lạc, đứng ngoài ngó vào chỉ thấy những chiếc ghế băng cùng với những cái nồi nhôm đựng bã chè xanh vứt lăn lóc. Một cái mặt người vừa mảnh vừa khô như chiếc lá tre rụng ló ra giữa đống cây lạc. Lão Khúng nhận ra ngay là lão Kẹp chồng mụ Hái, giữ chức trách giao thông của ủy ban kiêm đóng, mở cửa trụ sở.

Trông thấy chồng mụ Hái, không biết nghĩ thế nào lão Khúng liền quay ngoắt trở ra và cứ thế hai chân bước thẳng một mạch trở về nhà. Vứt cái đẫy lính bẩn thỉu ra giữa thềm, lão chạy vào nhà xách ra chai rượu trắng cùng với hai chiếc chén. Lão rót đầy cả hai chiếc chén, nhón những ngón tay đẩy về phía trước mặt một chén, miệng lầu bầu:

-Uống đi, con! Ngày xưa bố cấm mày nhưng rồi mày vẫn uống, húp xoàm xoạp như húp canh rồi nhăn răng ra cười, rồi sặc, rồi nói năng lung tung với mấy đứa em... từ đấy mẹ mày đe tao... ừ mà bây giờ thì chắc mẹ mày cũng chẳng đe tao nữa. Bố cũng chẳng cấm nữa! Uống đi, uống đi con!

Chừng như lão đã say. Ngồi tựa vào bậc cửa ngay trước dải thềm nhà, lão cầm mân mê trên bàn tay khô rám của lão đôi đũa mà con lão đang vót dở, ừ, một đôi đũa dùng ăn cơm cũng như đũa con lão dùng ở nhà, nhưng đây là một đôi đũa vót bằng cái thứ gỗ màu hồng rắn như đá, thớ gỗ mà y như thớ đá dầy, nhỏ mịn, và lão nghĩ đến cái đất nước Kampuchea lạ lẫm có thứ đất mọc lên giống cây gỗ lạ lẫm này - ở đấy con lão đã chiến đấu và ngã xuống.

Giữa lúc ấy, mụ Hái từ dưới bếp đi lên trông thấy cái người bố đau khổ đang ngồi gục đầu xuống đầu gối, đôi đũa bằng gỗ hồng sắc để rơi dưới chân - Bỗng lão Khúng như bừng tỉnh ngủ ngước lên nhìn người đàn bà bằng hai con mắt trống rỗng vằn đầy tia máu từ đó những giọt nước mắt rơi xuống lã chã.

- Ông Khúng ạ, mụ Hái ngồi xuống bên cạnh lên tiếng an ủi lão, cháu Dũng dù sao cũng đã mất. Tôi biết là cái việc này nó nhọc lòng lắm. Ông chỉ mới có một lần đi qua cái cầu này chứ tôi với ông Kẹp đã đi qua đến ba lần. Tôi đã mất đến những ba đứa con...

Nghe mụ hàng xóm nói đến đấy, lập tức lão nhổm dậy, hai con mắt vằn đỏ ghé sát tận mặt mụ Hái, lão mếu máo, quát tướng:

- Ba đứa con của mụ cũng không bằng một đứa con của tui. Hừm, nói vậy mà cũng đòi nói...

3

Những chiếc móng bò gieo xuống chậm rãi, có phần quá chậm rãi đến lề mề nhưng đều đều trên nền đất cứng của vệt đường vặn vỏ đỗ.

Lão Khúng chợt rùng mình vô cớ, có lẽ bởi lão thấy đêm vẫn bát ngát và sâu hút chẳng có vẻ gì đêm tối của cõi dương gian cả. Con khoang đen và, chậc, biết đâu đấy, cả lão đang đi đến chỗ chết? Lão biết thế còn con vật có biết không nhỉ? - Chắc là nó biết, lão Khúng nghĩ. Sống gần trọn một khúc đời nhọc nhằn nhất của lão trên vùng rừng với con vật, lão Khúng cũng không hiểu hết nó, con vật bầu bạn, chả biết nó thông minh hay ngu si?

Người ta bảo: "Ngu như giống bò" thật không đúng một tí nào, bởi lắm trường hợp nó còn hiểu ra được đôi ba điều trước cả lão, lão chưa kịp hiểu ra nó đã hiểu, nhưng nói chung thì ngu, một sự ngu si đần độn cố hữu đầy hoang sơ và chả có gì đáng chê trách, thậm chí vì thế mà lão Khúng càng yêu nó vì sự nghễng ngãng, khờ khạo. Con vật thân quen của lão giống như một đứa trẻ thơ chẳng bao giờ lớn khôn lên được mặc dầu cái xác to kềnh càng.

Chiếc xe lắc một cái mạnh. Lúc bấy giờ, cuộn tròn mình trong tấm áo rét bằng dạ cứt ngựa đã sờn cũ, lão Khúng chợt nhìn thấy một ngôi sao sa ở mép trời, thật ra lão không nhìn thấy ngôi sao lúc trước đấy và sau đấy, mà chỉ nhìn thấy ở cuối chân trời đàng tây chợt lóe lên những đốm lửa bùi nhùi rơm rồi tắt ngấm mất hút. Lão cố tìm nhưng không thấy còn để lại cái gì cả. Phải không, như thế là điềm báo vừa mới có một người chết? Trên mặt đất mênh mông vô tận này có ai vừa mới chết, hoặc sắp chết?

Ngôi sao vừa sa xuống đó chắc hẳn không phải là điềm trời báo hiệu rằng con khoang đen nhà lão Khúng sắp "tử". Lão tin chắc chắn như thế, bởi lẽ Nam Tào, Bắc Đẩu họa là có rỗi rảnh lắm lắm mới làm cái việc ấy. Mà cũng không bao giờ người ta ban đặc ân cho con khoang đen cả một ngôi sao chiếu mệnh, mặc dầu nó đã có công cày vỡ bao nhiêu là đất cát, điều ấy chỉ có lão Khúng mới biết.

Hay ngôi sao sa vừa rồi là ngôi sao của con lão, đấy là vệt đường đi về cõi trời của một người anh hùng cứu quốc, của chính thằng Dũng cầm súng chiến đấu ở bên chiến trường Kampuchea? Cũng chắc không phải, lão nghĩ tiếp, trên thực tế thằng Dũng đã chết một năm rưỡi nay rồi cơ mà? Hay là điềm trời báo trước cho lão biết: lão sắp chết?

Tự nhiên lão lo quýnh lên, hai bả vai và tấm lưng rắn chắc cựa quậy hoài hủy trong tấm áo lụa. Lâu nay lão hay ho, hay nhức xương, lại hay nằm mê, mà toàn nằm mê gặp người chết. Mà tính nết thì hay quên, hay lú, lắm khi ăn rồi lại bảo chưa, trời vừa chập tối cứ ngỡ sắp sáng, giục giã con gái trở dậy đi làm cứ toáng lên khiến trong nhà rối tinh rối mù.

Nhưng nghĩ đi rồi nghĩ lại, lão Khúng thấy bình tâm hơn, bởi một anh nông dân suốt đời đi sau mông con bò như lão thì cái thá gì mà cũng đòi có một ngôi sao ứng mệnh ở tận trên trời? Có mà đến Tết! Ngồi thèo đảnh trên cái càng xe bò, tự nhiên lão Khúng tự thấy ngượng nghịu, tõn tẽn vì đã đề cao cá nhân mình lên quá mức, y như cái lần ông Bời cứ bắt buộc lão lên ngồi ghế chủ tịch đoàn trong đại hội nông dân xã. Rồi lão chặc lưỡi một cái thật kêu. Cái lão Khúng này thiết đếch gì! Sao với lại chả trăng! Cho cái mặt trời, ông cũng đếch thiết nữa là! Lão chỉ thiết cái mặt đất ở dưới chân với mảnh ruộng vỡ hoang được thuộc sở hữu gia đình lão.

Tuy thế lão Khúng vẫn ngửa mặt lên trời, rọi mắt lục tìm khắp bốn phía chân trời với một sự tò mò vừa kính cẩn vừa có ý khinh suất. Lão ngắm kỹ lưỡng một vài đốm sao sáng xanh, những vì sao to nhất, sáng nhất, và lão đinh ninh đấy là những ngôi sao định mệnh của các vị vua chúa hoặc lãnh tụ.

Chao ôi, cả một trời sao trên đầu, càng nhìn càng thấy lắm, trong khi ấy thì ở dưới mặt đất vào lúc này dường như chỉ có một mình lão và con bò đang thập thõm, mò mẫm đi giữa mặt đất bao la và tối tăm.

Bất giác trong khi vẫn ngửa mặt lên trời hứng bóng tối dày đặc và một làn gió đêm lạnh buốt, bỗng lão không kìm được, tự nhiên bật lên một tràng tiếng cười khùng khục từ trong cổ họng, khiến cho con bò đang đi phải dừng lại. Lão không dùng roi mà đưa tay đét một cái vào giữa cái chỗ uốn vồng lên của cuống đuôi con vật:

- Đi, đi! Không có việc gì cả đâu, lão vẫn tiếp tục cười khùng khục và đàm đạo với con vật bạn đường, đi đi, không phải tao cười mày. Hì... hì... tao đâu dám cười mày? Đấy là tao đang cười những ông sao trên trời! Vua chúa hoặc đại thần danh tiếng của thời nay cả đấy! Họ đang sống cả đấy! Ngôi sao mà chúng cứ ngỡ mình đang soi sáng mặt đất, không có mình thì mặt đất biến thành hũ nút, hàng nghìn, hàng triệu người mở mắt cũng không nhìn thấy lối mà đi! Vậy mà khổ chưa kia, không biết cơ man nào là sao, có ít ỏi đâu, các chư vị đang thi nhau nhấp nháy, đang toát mồ hôi hột ra để rặn ra ánh sáng như đàn bà rặn đẻ, không phải một ông mà nhiều ông, cả một trời sao đang chiếu sáng thế mà mặt đất thì vẫn tối thui tối mò thế này, con đường chúng mình đi xuống chợ Giát vẫn tối như hũ nút thế này?

ấy thế mà mới tài tình chứ. Lão đã nghiệm thấy lão và con bò đi đêm nhiều nhưng chưa bao giờ lạc. Không phải chỉ trên mặt đất mà lão Khúng cảm thấy trong cái đầu ngổn ngang đầy ý nghĩ của lão cũng tối mò mò, chỉ được một điều là lão có hai con mắt do ông trời cho tinh như mắt cú, có thể đi trong tối. Lão, một anh nông dân suốt đời đi sau con bò vạch những luống cày trong đêm tối...

*

* *

Một lần nữa lão quay nhìn về phía ngôi sao vừa tắt, vừa rơi tõm vào bóng tối như đốm lửa trên đầu que đóm hút thuốc lào. Lão phỏng đoán có lẽ đây cũng chỉ là một ngôi sao be bé, vừa phải, hay đấy chính là ngôi sao chiếu mệnh của đồng chí bí thư huyện ủy nổi tiếng vừa mới đây đã thôi ngồi chiếc ghế ấy.

Quả có vậy thực thì đáng buồn thay và có lẽ đấy là luật lệ mới ở trên đời: người có chức quyền không còn giữ được chiếc ghế nữa thì sống cũng như chết, ngôi sao chiếu mệnh cũng tắt?

Thực tình mà nói, tận cho đến lúc này lão Khúng cũng không hiểu mình yêu hay ghét, ưa hay không ưa cái con người quyền uy lớn nhất huyện, quen thân với Tổng Bí thư Đảng đồng thời lại rất thích lão Khúng, coi lão như bạn. Về phần lão Khúng, mặc dầu ông Bời lúc nào cũng tỏ ra thân mật, bình đẳng nhưng riêng lão Khúng bao giờ cũng để một khoảng cách với kẻ bề trên. Tuy vậy, lão Khúng cũng có phần bái phục con người ấy, đầy trái ý, đầy hoài nghi nhưng vẫn phải bái phục.

Con người lãnh đạo ấy xuất thân là dân buôn bò, cũng là anh nông dân từ chỏm tóc đến gót chân như lão Khúng vậy mà không bao giờ thèm nghĩ những điều nhỏ mọn, tủn mủn như lão Khúng. Lão Bời toàn nghĩ những cái to tát phải dùng tới hàng trăm hàng nghìn người làm cật lực với những cờ quạt trưng ra rợp trời. Lão thích đông người, thích náo nhiệt, rất lãng phí sức người, làm hỏng cũng nhiều mà làm được cũng lắm. Cái gì lão làm được, dân đều biết cả!

Lão Khúng nghĩ: rồi cũng khó tìm ra một kẻ thay thế được lão Bời: lão không tham vặt, khó có người hiểu nông dân và lợi dụng tâm lý nông dân giỏi như lão, một con người lãnh đạo dám nghĩ dám làm, dám chịu trách nhiệm, luôn luôn suy nghĩ, luôn luôn đi, luôn luôn nói, luôn luôn bày ra việc để làm, mà toàn bày ra những việc to tát, vĩ đại; lão Khúng nghĩ một cách bái phục lão Bời: đó là một con người mà mọi điều khôn dại trong công ăn, việc làm sẽ còn khuấy đảo sự làm ăn, no đói của hàng vạn người trong nhiều năm về sau này nữa. Ôi khủng khiếp quá, nhất là thời gian lão tiến hành đại cơ khí hóa nông nghiệp toàn huyện, lão đã xóa tên các làng xóm, ba xã đem gộp làm một xí nghiệp, đền chùa, miếu mạo bị dẹp đi, và không biết lão lôi ở đâu về mà nhiều máy móc đến thế, máy móc bò trên đường dưới ruộng như cua, trâu bò tưởng đã trở thành kẻ thất nghiệp!

Nhà cách mạng thường trực trong cái hồi ấy lúc nào cũng như một cái chảo nước đang sôi, hễ thích làm gì là làm, làm bất chấp tất cả, mà toàn chỉ thích làm những việc đảo lộn cả trời đất.

Người lãnh đạo huyện xuất thân cùng tầng lớp với lão Khúng ngày đêm lúc nào cũng chỉ nhằm "cách cái mạng" của người dân quê muôn đời nghèo khổ. Trong những năm này, uy tín ông Bời tăng vọt lên, ai cũng sợ, bởi gần như đã trở thành kẻ gần gũi, người thực thi mọi ý đồ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nông thôn của các cấp ở trên cao.

*

* *

Từ thuở "hàn vi" khi đang còn làm chủ tịch huyện ông Bời đã thích kết thân với lão Khúng.

Lão Khúng thấy cũng là một sự lạ đời: ông chủ tịch huyện thỉnh thoảng đánh xe con lên rủ lão đi chơi lang thang ở đây đó và trên dọc đường bắt buộc lão phải tranh cãi với ông về một chuyện gì đó. ừ thì có khó gì, và lão Khúng sợ gì, lão đã tranh cãi những trận kịch liệt với người lãnh đạo huyện, cả hai mặt đỏ gay gắt, sùi bọt mép mà không phân thắng bại trong mọi chuyện.

Về sau khi đã ngồi vào ghế bí thư thì ông chủ tịch huyện không làm cái trò chơi dại ấy nữa. Có người lãnh đạo nào lại thích sự phản bác, trái ý! Ngay từ ngày đầu, lão Khúng cũng đủ khôn để biết thế cho nên thực ra lão cũng chỉ tranh cãi giả vờ, không bao giờ lão chịu nói ra ý nghĩ thực của lão với chủ tịch huyện. Mà cũng chính vì thế cho nên mối dây quan hệ bè bạn giữa lão với người cầm quyền còn giữ mãi được đến tận bây giờ.

Tuy thế, trong con mắt nhìn của lão Khúng đó là những thời kỳ mà con người ấy thật đáng mến vì người ta còn ít sợ. Ngày ấy ông Bời rất "mê" con khoang đen, ngày ấy ông Bời đang còn biết yêu trâu bò, súc vật. Vừa ngủ gà ngủ gật, lão Khúng đang nhớ lại những năm hòa bình mới chống Mỹ xong, cả huyện đang xúm vào xe cát làm đại công trường thủ công xây dựng đồng muối Quỳnh Thuận để cứu đói cho mấy ngàn dân biển: trâu bò trong toàn huyện đã kéo về tập kết ở đấy - mà ông Bời đặt tên là cuộc hội quân lớn về sức kéo.

Phải, hồi bấy giờ thằng Dũng hãy còn nhỏ, là một đứa chúa nghịch ở trong xóm, con khoang đen tuy đã đẻ vài lứa nhưng trông vóc dáng bề ngoài còn là một ả gái tơ đầy quyến rũ và cũng không hiểu sao y như thường xảy ra với những người đàn bà đặc biệt hấp dẫn đàn ông - những lão bò đực đầu đàn đầy hung dữ của ngoài chục xã cứ lăn xả vào mà húc nhau, rượt nhau, gây ra những trận kịch chiến khủng khiếp để quyết giành lấy con khoang đen cho kỳ được. Cũng từ ngày sinh ra đời chưa bao giờ con khoang đen và thằng Dũng được sống dưới bầu trời rộng rãi và náo nức là thế, trong một khung cảnh lao động lãng mạn là thế - một công trường thủ công - đúng như tên trong các sách vở của Mác thường nói và chủ tịch Bời là người đã có công biến thành sự thực nhãn tiền: khắp mọi xó xỉnh trong cả huyện, đàn ông, đàn bà, người già, trẻ con được điều về đông nghìn nghịt, người đã đông mà trâu bò lại càng đông hơn; dân các xã cùng trâu bò trước khi kéo quân về đã được phiên chế thành cơ ngũ: tiểu đoàn, trung đoàn, sư đoàn đâu ra đấy với các vị tư lệnh cùng chính ủy, kèn tiến quân, kèn lui quân, trống cái, trống ếch, cờ đuôi nheo, cờ lá chuối, cờ rước thần, cờ đỏ sao vàng, những phù hiệu cấp chức bằng vải, bằng giấy lòe loẹt trên các bả vai và ống tay áo, loa phóng thanh từng buổi, từng giờ vang vang công bố cho toàn công trường những kỷ lục năng suất.

Sau ba tuần lễ tắm mình trong không khí đại công trường, hai cha con lão Khúng cùng con bò được trở về nhà. Hai cha con cùng với con vật về đến truông ách thì gặp chiếc xe của chủ tịch huyện cũng đang ngược dốc đi lên. Lúc bấy giờ lão Khúng trên dọc đường đang cáu. Lão đang tiếc của đến đứt ruột cho nên cáu gắt ầm ĩ. Ông Bời phóng xe com-măng-ca vượt lên trước, ngoái về sau trông thấy một lão già xương xẩu và gân guốc từ trên chiếc xe bò bánh lốp nhảy xuống vừa lớn tiếng mắng mỏ thằng con trai đang ngồi đực mặt trên càng xe.

Chủ tịch Bời "à" lên một tiếng, vui vẻ lập tức nhận ra cái con vật đang đi nhởn nhơ phía trước càng xe như một vũ nữ. Ông nhận ra đó là cái "ả đàn bà" đã từng gây náo loạn dưới đồng muối, con bòn cái khoang đen bất trị! Những đoàn xe chở cát dài dằng dặc từ dưới biển lên đang xếp hàng đi đứng có hàng ngũ bỗng chỉ cần cái ả đàn bà với bộ cánh mầu đen loang lổ này xuất hiện hoặc từ rất xa thốt lên một tiếng "ngò" khàn khàn là lập tức hàng ngũ đoàn xe bị phá vỡ không có cách gì thiết lập lại trật tự quân sự.

Chủ tịch huyện bảo cậu lái xe con dừng xe giữa truông ách. Vốn xuất thân là dân buôn bò cho nên ông có con mắt sành sỏi.

"Chả trách, chả trách" ông chủ tịch huyện đi sát lại bên con khoang đen với một nỗi đam mê của tay buôn bò khi đã bị quyến rũ không dứt ra được, cũng không kìm được lời tấm tắc khen ngợi phải thốt lên thành lời.

Máu mê dân buôn bò sống lại trong ông chủ tịch huyện, ông đi thêm mấy vòng để nhìn kỹ dung nhan phía trước mặt, càng nhìn càng ưng ý không thể chê được một nét gì.

- Chao ôi, nó đẹp quá, một con bò cái đẹp như Tây Thi - ông Bời cuối cùng thốt kêu to lên như thế rồi quay sang ngắm bố con người chủ bò và chiếc xe bò.

Lão Khúng đã thôi không mắng mỏ thằng Dũng nữa nhưng lão vẫn tiếc của đến đứt ra từng khúc ruột, lại thấy ức như bị bò đá - vì thằng con lão và cả lão nữa đã lơ là, để chúng nó tháo mất bộ díp xe. Cả một bộ díp ô-tô mà lão đã phải cất công ra tận thủ đô Hà Nội, cả nhà ông chú ngoài đó phải xoay trần ra mới lùng được cho lão cùng một lúc "đồng bộ" cả ổ bi, trục xo, bánh lốp... Vậy mà chúng nó "ăn cướp" mất của lão cái bộ díp bằng thép! Biết bao giờ mới tậu lại được cho nổi? Lắm khi có tiền cũng không sắm được. Cho nên từ sáng đến giờ, từ lúc xuất phát ra đi để trở về nhà mỗi lần lão đi qua một quãng đường dốc gập ghềnh, lão lại nhảy xuống chổng mông lên trời vừa cáu gắt nhặng xị vừa mắng mỏ thằng con trai, vừa giương mắt nhìn vào cái khoảng trống để lại dưới sàn xe - một cái khoảng trống do bàn tay bọn ăn cắp để lại kỷ niệm cho lão: nơi cái bộ díp ô-tô tải đã bị ăn cắp mất, nơi táng cái mả bố chúng nó đấy!

Dù sao thì việc ông chủ tịch huyện ngay giữa đường phải dừng xe lại để ngắm con vật nhà mình cũng làm lão Khúng phần nào vơi đi nỗi khổ tâm vì cú mất của quá xót.

Vượt qua đoạn dốc cuối cùng của truông ách, lão Khúng và nhà cầm quyền sóng vai nhau đi bên chiếc xe, người nào cũng tỏ ra không kém phần thông thạo trong khi bình phẩm tướng mạo và nhan sắc của con vật.

Nhưng khi ông chủ tịch huyện lân la hỏi sang cảm tưởng những ngày lao động xã hội chủ nghĩa đầy náo nhiệt vừa qua thì cái nỗi xót ruột bởi chuyến đi mất của lại đùng đùng trỗi dậy giữa cuống ruột cái lão già nông dân.

- Công trường với lại công triếc, toàn một lũ ăn cắp!

Ông chủ tịch huyện đã cảm thấy bị xúc phạm, da mặt đỏ gay, tuy vẫn cố kìm giữ:

- Sao thế?... Có việc gì thế hả ông lão?

- Toàn một lũ ăn cắp... Ông coi, chúng nó tháo mất của tôi cả một bộ díp - lão Khúng càng cau mặt lại - quân ăn cướp chứ không phải là ăn cắp nữa, cái quân công trường ấy!

Chủ tịch Bời thường ngày đã không thể nghe ai nói một lời đụng chạm đến cái công trường kiến thiết nại muối.

- Chả lẽ ông nỡ... nói đến vậy, hả ông lão?

- Thưa ông, mất cắp thì tôi nói mất cắp, mà rõ ràng là mới mất đêm qua, ở dưới công trường...

- Đúng chứ?

- Chẳng lẽ bằng chừng này tuổi đầu, không mất tôi lại nói mất?

- Biết vậy, biết vậy, ông người xã nào ở vùng trên này vậy hả?

- Hùng Tráng.

- Tên ông là gì?

- Ông hỏi để làm gì?

- ...

- Tôi tên là lão Khúng, ai cũng biết.

Chủ tịch huyện tròn xoe mắt:

- Ông... ông chính là lão Khúng ở Hùng Tráng đấy ư?

- Phải.

- Nào, cho chủ tịch huyện bắt tay ông Khúng một cái đã nào.

Ông Bời mặt mũi hồ hởi, hai chân đi ủng dậm lộp bộp xuống mặt đường, ngó người đối thoại đầy tò mò và kính cẩn như ngó một người đã có công khai sơn lập địa của thời hồng hoang vừa mới hiện về đang đứng trước mặt.

Hai tháng sau, vào thời vụ cày vỡ đất của Hùng Tráng, tháng vất vả nhất của trâu bò và người đàn ông trong gia đình, ông Bời đánh xe lên thẳng nhà ông Khúng, tuyên bố sẽ ở nhà lão khoảng một tuần lễ để học cách làm ăn, nói theo chữ chính trị là "ba cùng" nghĩa là cùng ăn, cùng ở, cùng làm với gia chủ.

Lão Khúng ban đầu đã chả tin một tí nào. Và cả nhà lão cứ sớn sác, lo sợ, tưởng lão vừa mắc vào cái tội gì to tát đến nỗi ông chủ tịch huyện phải thân hành đến tra xét. Mụ Huệ vội vã tuồn những chiếc bong bóng lợn chứa đầy rượu lậu giấu dưới đáy mấy cái chum ở trong buồng mụ sang nhà hàng xóm để giấu. Bữa cơm đầu tiên, mụ Huệ xua được một con gà mái vào nhà bếp, túm lấy hai cẳng, đã toan cắt tiết thì lão Khúng giơ tay ngăn lại: "Thường ngày nhà mình ăn thế nào thì dọn cho ông khách ăn vậy. Như thế mới là ba cùng" - lão giải thích ý nghĩa công việc của vị khách cho vợ hiểu - nhưng mụ Huệ vừa thả con gà ra lão đã chộp lại, đề nghị mụ cứ cắt tiết. "Chậc, phàm là con người ai chả thích ăn ngon? Chưa thể biết rõ hết mục đích lão đến ở nhà mình để làm gì thì hãy thết lão một bữa cơm thịt gà cái đã. Một ông chủ tịch huyện chứ có phải ít ỏi đâu? ấy, mà biết đâu lão đến ở nhà mình cũng có thể làm cho lão nên danh nên giá, và nhà mình cũng nên danh nên giá? Sự đời đôi khi có nhiều cái lạ lắm". Lão nghĩ trong đầu và mỉm cười.

Thế là suốt một tuần lễ, mọi sinh hoạt trong gia đình lão Khúng bị đảo lộn lên hết. Từ thằng Bút, hồi bấy giờ chưa đầy năm, đang men bờ hè tập đi cũng trở nên nhút nhát, lúc nào cũng nem nép, lấm lét, suốt cả ngày rúc dưới gian bếp với mẹ, giương hai con mắt mở thao láo nhìn ông khách lạ mới đến ở trong nhà, cái nhìn đầy thù nghịch. Cả hai vợ chồng lão Khúng cố tạo bầu không khí tự nhiên như cả xóm vẫn cứ phải để con mắt tọc mạch nhìn vào cái ngôi nhà ngói có cây vối trước ngõ, ở đấy đang diễn ra một sự kiện đầy lạ lùng: ông chủ tịch huyện không ngồi com-măng-ca giơ tay vẫy quần chúng đang cày cuốc hai bên đường, cũng không diễn thuyết thao thao trên bục gỗ của nhà hội trường huyện, cũng không khề khà ăn tiệc, đánh chén mà lại xắn quần lên tận bẹn cùng sát vai bên cạnh cha con lão Khúng làm lụng quần quật từ sáng đến tối. Đã thế lại còn đòi ăn uống kham khổ, mụ Huệ bưng lên một cái mâm gỗ có hai cái bát, hai đôi đũa cho chồng và ông khách ăn riêng thì ông khách lập tức bưng xuống nhà bếp, tự tay lượm một cái ghế con đến ngồi bên một góc cái mươn tre, hòa mình giữa đám con nhỏ vô cùng đông đúc của nhà chủ, cùng ăn những bát khoai lang khô thái lát chỉ dính vài hạt cơm làm phép như chúng.

Lão Khúng và cả mụ vợ đã lấy làm bực bõ lắm, như thấy con mắt người ngoài, một kẻ cao sang lúc nào cũng nhìn soi mói và tận đáy bát cơm nhà mình, và bàn tay thò vào cuộc sống hàng ngày của mình. Dù không ăn cắp, ăn trộm của ai nhưng cũng như mọi người, vợ chồng lão Khúng cũng không muốn người bên ngoài biết hết những cái không cần biết của nhà mình, kể cả những cái sự nhếch nhác, túng đói, cũng như cái sự sung túc, no đủ, kể cả những cái sự sống thực với nhau lặt vặt hàng ngày ở trong nhà.

Tất cả những cái điều riêng tây đó, ông Bời không hề biết và ông chỉ lấy làm bằng lòng về mình vô cùng: ông biết rằng chẳng chóng thì chầy những hành vi của ông ở đây sẽ loang đi trong khắp huyện, khắp tỉnh, được những cái miệng cán bộ lẫn dân thường bàn tán đến nát ra. Ông đã nghĩ rất đúng, trong cả huyện, ông chọn nhà lão Khúng để đến ở: đây là dinh lũy cuối cùng của sự làm ăn cá thể và chả biết ông nghĩ thật hay ông nghĩ đùa: ông phải biến lão Khúng thành một con người mới xã hội chủ nghĩa, ông tự giao cho mình công việc ấy như một nhà truyền giáo tự nguyện dấn thân vào vòng nguy hiểm và đầy cam co.

Mặc cho ông chủ tịch huyện lợi dụng mọi hoàn cảnh để lùa lão Khúng vào vòng tranh cãi với ông về lý luận "hai con đường", lão Khúng bao giờ cũng cố nín lặng lắng nghe ông chủ tịch nói một câu cung kính, cố giấu cái lưỡi thật kín để đừng dại dột thốt lên cái câu: "Tôi gần 10 đứa con vào hợp tác xã để mà chết đói à?" đã lấp ló ở cửa miệng.

Phải nói rằng hồi bấy giờ, trong cái tuần lễ đầy trọng đại ấy, cả gia đình lão Khúng chỉ có khoang đen là kẻ dám ra mặt trò chuyện với vị khách một cách sòng phẳng, thẳng thắn mặc dầu thiếu tinh thần lịch sự, tôn trọng khách: Chưa một lần nào ông Bời đặt nổi cái ách lên lưng nó và một lần nó đá vị chủ tịch huyện một phát vào giữa bụng khiến cho ông ta ngã bổ nhào, úp cả khuôn mặt phương phi đầy cởi mở vào giữa đám ruộng.

- "Lúc bấy giờ mày còn nhớ không - tự nhiên lão Khúng nói to thành tiếng cho con bò đang bậm bạch đi phía trước nghe được - tao đã phải vội vàng chạy lại giơ hai tay nâng ông chủ tịch huyện dậy rồi sau đó nhặt chiếc roi cày từ trong tay ông ta vừa văng ra, tao đã quất cho mày một trận. Có ông trời ở trên đầu chứng giám, ăn ở, làm lụng với nhau cả một đời, có bao giờ tao nỡ đánh mày một roi đâu, thịt da của mày cũng là thịt da của tao, đúng sự thực là thế, mày đau tức là tao đau, vậy mà lần ấy trước mặt ông chủ tịch huyện đang nằm ôm bụng quằn quại, miệng kêu hừ hự, ngay giữa luống cày, tạo đã nỡ lòng trở đầu roi cày để đánh mày, đánh thật lực, tay đánh miệng chửi, bới, nguyền rủa không còn sót một thứ lời lẽ độc địa nào nữa.

Cũng phải nói thêm: lúc ông chủ tịch bị mày "chơi" cú đá hậu, cái thằng Dũng đang đứng trên bờ đừng có nhăn răng ra cười, hềnh hệch đầy khoái chí một cách vô ý thức đến thế... thì chưa chắc tao đã phải đánh mày nặng tay đến như vậy. Có phải không, cái thằng Dũng đến là ngu! Nó trẻ dại chưa biết cách cư xử! Đáng lẽ những lúc như vậy dù tức cười đến vỡ bụng cũng phải mím chặt miệng lại.

Đừng có bao giờ cười cợt chế nhạo cấp trên... Người ta đường đường là chủ tịch huyện... Không biết trước khi chết, cái thằng con của lão có khôn ngoan hơn lên được tí nào không? Nhưng cái tính khí thẳng ruột ngựa của nó cũng là tính khí của mình hồi trẻ, của cái lão Khúng ngất ngưởng này trút sang cho nó từ trong máu thịt... Bây giờ nó ở đâu cái thằng Dũng vô ý vô tứ ấy, bây giờ con đang lang thang ở đâu?

Gần sáng lão Khúng đã ngủ quên mất. Sương rơi những hột to bằng hạt ngô, lộp bộp bên móng guốc của con khoang đen khiến con vật cũng thấy cong cóng dưới chân và nó phản ứng lại bằng cách đi nhanh hơn.

Phía biển ngập chìm trong sương trắng, thỉnh thoảng xuất hiện giăng giăng một hàng hạt cườm lóng lánh trong thoáng chốc rồi lại tắt. Đấy là ô tô tải chạy thành đoàn dưới đường Một vừa đi vào cái khúc ngoặt ở đầu phố Cầu Giát. Con đường đồi mang tên "Dốc bò lăn" thầy trò lão Khúng đang đi sắp phải vượt qua một cái truông ngắn thuộc vùng đất của một cái hợp tác xã miền xuôi vừa mới lên, chắc chắn đất vừa mới được cày vỡ chiều hôm qua, một vùng đất mới cày bát ngát... Con khoang đen lấy làm sung sướng chun mũi hít hít, chỉ có nó mới cảm nhận được đầy đủ mọi hương vị của đất mới được cày lên đang tỏa ra từ hai bên vệ đường.

Lão Khúng ban đầu còn dứt tai vò tóc cố chống cơn buồn ngủ đang ập đến giữa trí não đã trở nên tối lại mò mò. Cũng tại vì tự nhiên thấy đau lưng, lão tựa sát vào những bó củi, lão thấy thực dễ chịu, lại còn nghĩ được: lần này vợ lão gửi xuống cho con Hương toàn loại củi cành, rồi nó sẽ khó bán! Chả biết bán đến mấy phiên chợ mới hết? Rồi lão quờ tay sang bên đẩy cái đẫy đựng đầy khoang lang khô, lẫn gạo, phần ăn của đứa con gái trong nửa tháng, tay đẩy nhưng đầu lại tựa vào đấy lão cảm thấy êm ái quá! Có lẽ hoàng đế ngủ trong cung điện cũng chỉ sung sướng đến thế này là cùng - lão nghĩ một cách hài hước, tự nhiên hai tay bắt chéo trước bụng, khép chặt hai vạt áo dạ cứt ngựa vào sát thân mình - Kệ con khoang đen, kệ mụ già ấy! Sau cái ý nghĩ buông thả, hưởng lạc ấy là óc lão tối hẳn, không sao tự kiểm soát được nữa. Lão ngoẹo đầu về một bên, buông thõng hai tay, miệng bắt đầu ngáy một cách thực ngon lành theo cái điệu ngáy vo vo quen thuộc của lão ở nhà.

Lúc bấy giờ con khoang đen đã biết tỏng lão đã ngủ tuy nó không quay lại nhìn. Con vật bình thản một mình kéo chiếc xe lên dốc lại xuống dốc. Nếu lão Khúng vẫn ngủ tịt cho đến tận sáng thì con bò vẫn có thể tự lực đưa lão cùng chiếc xe xuống phố Cầu Giát, vào tận khu tập thể học sinh cấp ba ở nội trú tận bên kia cầu xi măng. Nó đã thuộc con đường ấy, qua nhiều lần xuống chợ Giát.

Một luồng ánh sáng chiếu sáng quắc từ phía sau. Trong khi chiếc xe tải lao vụt qua, con khoang đen cẩn thận đi sát vào bên đường, nó gần như dừng hẳn lại không bước tiếp nữa.

Cái quầng sáng lai láng đầy chói chang của cặp đèn pha chiếu từ phía sau cùng tiếng bánh xe lao ầm ầm ngay bên cạnh vẫn không thể đánh thức nổi lão Khúng, nhưng nó đã đánh thức dậy giữa giấc ngủ của lão với giấc mơ khủng khiếp khi ở nhà: lão lại nằm mơ, nhưng khác với lần trước, là chính lão bị đánh bằng búa tạ, chính lão là con bò! Lão tự nhìn mình trong cái thân hình nửa bò nửa người, máu mê đầm đìa, mà lão vẫn bình thản y như tuân thủ một cái điều đương nhiên mà trong những khi thức lão không hề được biết.

Vẫn bằng cái hình thù gớm ghiếc ấy, lão đang cùng bí thư Bời sóng đôi bước đi trên một dải đất bằng phẳng trên một vùng cao nguyên nóng như rang. Mang thân hình nửa bò nửa người, lão cùng lão Bời đi theo sau thằng Lạc, thằng con trai của lão đang đi khai hoang ở Đác Lắc, ba người cứ ngật ngưỡng đi như người đi kheo trên suốt một vùng đất được treo lên giữa lưng chừng trời, suốt một ngày đi không có một chỗ nào có được một giọt nước. Đất dưới chân lão Khúng bây giờ là một thứ đất đầy màu mỡ, khô không khốc đỏ như sơn mài, mới được cày vỡ bằng máy, từng làn đất bột màu hồng bay là là dọc theo những cánh rừng tốt tươi, lá cây cứ xanh biếc như vẽ.

Đêm tối sập xuống, bóng tối nhẹ như bấc và đầy huyền ảo, con bò hóa thân của lão Khúng bỗng chốc trở nên say sưa, ngây ngất trước hương vị của đất cày. Đến bây giờ nó đang đứng chỉ có một mình giữa vùng đất cao nguyên Đác Lắc mới được bàn tay những người khai hoang cày vỡ và nó thấy chỉ chốc lát nữa, trời sẽ sáng và nó phải rời những luống cày để trở về sống trong rừng cây xanh biếc kia. Nó chính là loài thú hoang, hay đúng hơn, một con vật gia súc đã trở nên hoang dã, đã tìm trở lại được cái cuộc sống tự do muôn thuở của nó.

Đến lúc này thì lão Khúng tỉnh ngủ. Lão lại trở về kiếp sống làm người như bình thường hàng ngày lão vẫn sống, tuy vậy vẫn chưa dứt bỏ được những ám ảnh cảm giác của loài vật do giấc mơ đã để lại giữa trí não. Lão duỗi thẳng chân tay, sờ nắn từng cái bắp tay, bắp chân một, thấy vẫn là loài người nguyên vẹn, lão lấy làm yên tâm.

Vẫn nằm ngả đầu vào bì khoai lang khô lẫn gạo đem xuống cho đứa con gái, vốn tính cẩn thận lão lại nắn tay nắn chân một lần nữa, lại còn sờ ra sau mông xem mình có còn cái đuôi hay không, lần này thì lão xác định hoàn toàn không có gì đáng lo ngại, tuy vậy hai mắt lão Khúng vẫn không rời cái hình dáng con bò với bốn cái chân đang đi từng bước thủng thỉnh trong đêm vắng phía trước mặt lão, ngay trước con mắt lão. Vẫn y như hình dáng của chính lão - cái hình dáng thật mà chỉ một lần lão vừa được nhìn thấy.

Rít xong một mồi thuốc lào, lão trở nên hoàn toàn tỉnh táo, và càng tỉnh ra, càng ngồi suy nghĩ, cái ý niệm lẫn lộn giữa mình và con bò lại cứ trở về lởn vởn trong trí óc lão.

Lão nhớ lại cánh rừng ở trong giấc mơ với tòa lá xanh thẫm, cây lim lẫn thông già mọc trên vách đá, những con bò hoang dã đi đứng trên vỉa núi đá đầy cheo leo hoặc bình yên gặm cỏ giữa những khoảng rừng bằng ngập đầy nắng. Trong đàn bò kia đã từng có mặt lão, cái dáng dấp thong dong và thư thái nhất trần đời của lão. Chuyện này giá có đem kể lại, chắc chả có một người nào tin.

Thế rồi đột nhiên lão Khúng đi đến một quyết định đầy điên rồ: lão quyết định giải thoát con vật! Tự nhiên lão thấy lão đang làm một công việc vô cùng vô nhân đạo. Cả một đời con vật nai lưng ra kéo cày để nuôi sống gia đình lão, và bây giờ lão đền ơn trả nghĩa cho con vật bằng việc đem bán nó cho người ta giết thịt? Lão thấy lão không còn là giống người nữa chứ còn đâu nửa người nửa thú vật? Một lát sau lão không lên án, tự xỉ vả mình nữa mà chỉ thấy trong người mình một cái nhu cầu đầy bức bách tự giải thoát.

Con bò đang kéo chiếc xe đi qua một quãng rừng thưa thớt.

Họ... họ...

Lão lên tiếng gọi con vật bằng cái giọng tự nhiên hơi sẵng. Con bò dừng bước, có vẻ nó lấy làm ngạc nhiên.

Lão nhảy xuống, đến bên cạnh con vật, đặt cả hai bàn tay lên cái cổ sần sùi đang đầy hơi sương lẫn mồ hôi, lão vỗ vỗ con vật một hồi rồi cầm cái ách đặt xuống bên cạnh hai chân trước của nó. Con vật ngẩng cao cổ, thè lưỡi liếm lên vai, lên cổ lão, mỗi lần cái lưỡi mềm và ram ráp đụng vào da thịt, lão lại sởn gai ốc, tưởng như con vật đã cảm thấy được lão đang nghĩ gì; đang toan tính những gì; lão đang cởi ách suốt đời cho nó! Lão Khúng tự nhiên trở nên vội vã, lão kéo chiếc xe sang vệ đường, đem dấu sang những đám bờ bụi lúp xúp lẫn những tảng đá rồi trở về bên con vật đang đứng đó, nguyên tại chỗ. - Nào, bây giờ thì tao giải thoát cho mày, lão lầm rầm nói với con vật thân yêu bằng cái giọng hơi cau có, mày hầu tao thế là đủ rồi đấy con ạ, bây giờ thì mày hãy đi đi, hãy vào rừng mà sống, cỏ đấy, cỏ trong rừng thiếu gì, mày ăn suốt đời không hết, khát thì có nước suối. Mày muốn sống một mình hay sống trong bầy cũng được. ở đây đi sâu vào bên trong sẽ có một bầy bò hoang. Chúng nó sướng như những bà hoàng ông hoàng giữa núi non, cây cỏ, chẳng bao giờ phải kéo cày, kéo xe... Hãy đi đi, nào!

Lão cuộn vào năm ngón tay trái cái dây chão đã được tháo ra khỏi mõm con khoang đen, dùng đầu dây đánh một cái thật đau vào bên hông, bắt nó phải chạy té vào rừng. Con đường đi đến thế giới tự do của con khoang đen thật chẳng khác nào con đường đi đày. Sau lưng nó, lão Khúng lúc nào cũng hầm hầm hè hè giơ cao thanh roi sẵn sàng quất vào mông đến đau điếng nếu nó dừng lại, hoặc ngoái nhìn trở lại.

Cuộc xua đuổi cứ thế diễn ra lặng lẽ giữa đêm trường. Càng xua được con vật dấn mình vào giữa rừng sâu càng xa con đường "bò lăn" ở ngoài kia, lão Khúng càng thấy yên tâm, lại thấy có một cái gì khoái lạc, tự thỏa mãn, chẳng lẽ lão cảm thấy được lão đang xua đuổi cái số phận quá đỗi nhọc nhằn của lão ra khỏi đời lão, cái số phận nửa người nửa con vật?

Càng đi sâu vào, rừng càng dày. Những thân cây dổi lâu năm ôm trên mình toàn lá rậm rịt. Qua hai ba ngọn suối thì đến một khu rừng cũng toàn dổi mọc trên dãy núi đá. Rừng tối hơn. Đây là giang sơn, nơi trú ngụ của bầy bò hoang. Từ ở đây vào những tháng hè nắng ráo, những con bò đã từng là gia súc thường nhớ vị mặn của muối, đêm đêm lần xuống các gia đình người kinh, sục vào bếp, thè lưỡi liếm hối hả lên mặt những chiếc kiềng sắt hoặc đầu ông núc. Có đôi khi vào nửa đêm lắm sao hoặc có trăng sáng, chúng kéo nhau từng bầy năm bảy con xuống phá phách hoa màu trên nương của bà con đồng bào địa phương ở bên kia sườn núi đá. Người ta rình, tổ chức phục kích, đào hào cắm chông nhưng vẫn chưa bắt được của chúng một con nào. Cái giống bò sống hoang dã thật ranh khôn...

Cuộc xua đổi đã kéo dài hàng tiếng đồng hồ. Lão Khúng đã mệt nhoài nhưng vẫn chưa chịu cho vật dừng lại. Nó phải đi thật xa, phải bắt nó vào thật sâu giữa rừng thẳm, để không còn lối nào trở lại với lão. Rồi thì mai đây khi trở về nhà, lão nghĩ, lão sẽ nói thật với mụ Huệ, lão đã không đem xuống chợ Giát để bán mà trên dọc đường đã giải thoát cho nó, trả lại cho nó cuộc đời tự do, lão đã xua nó vào rừng, vào giữa giang sơn của một bầy bò hoang... Chắc hẳn mụ Huệ cũng không mè nheo lão. Mụ sẽ thông cảm với lão, với việc làm của lão.

Sau khi xua được con vật sang bên kia sườn núi đá, lão Khúng âu yếm chia tay với người bạn đời bằng cách trở đầu roi, cầm trên tay đánh một trận thực lực, tay đánh miệng chửi bới nguyền rủa. Giữa lúc con vật đau điếng, đang quằn quại suýt quỵ bốn chân xuống thì lão Khúng đột ngột quay lưng lại phía nó. Không nói thêm một lời nào. Lão bỏ đi, mất hút vào đêm tối. Lão trở về bên chiếc xe bò khi màn đêm đã nhợt trắng. Lão biết rằng từ đây trở đi chỉ còn một phần ba đường đất và đường sá cũng đỡ khốn khổ hơn.

Lão xem lại dây chằng những bó củi cùng đống chè xanh trên nóc xe, tranh thủ rít thêm một mồi thuốc lào rồi một thân một mình, lão kéo chiếc xe ra giữa đường cái, tiếp tục cuộc hành trình về xuôi.

Mùi mồ hôi bò khai khai, lâu đời phả ra nồng nặc trên cái ách gỗ đang bắt đầu thấm ướt đẫm mồ hôi muối của lão. Trên đầu lão, trời sao thưa ra, ngôi nào ngôi nấy trắng nhợt như sắp rơi rụng hoặc đi trốn vào bóng tối hết. Lão kéo chiếc xe lăn bánh lọc cọc giữa hàng đoàn những chiếc xe khác do trâu hoặc bò kéo đang vượt lên trước lão, thỉnh thoảng lại có một đoàn xe sộc chở than hoặc gỗ súc trẩy xuống chợ Giát trong tiếng kêu ken két rất là não nề.

Khoảng bảy giờ sáng lão Khúng mới lôi được chiếc xe xuống đầu phố Cầu Giát. Đến lúc này trên con đường số Một không còn lối mà len chân nữa. Lão Khúng tháo ách ra khỏi vai, ngồi xếp bằng ngay bên vệ cỏ của đoạn mút con đường bò lăn đã rải đá răm. Lão ngẩng cao cổ phóng tầm mắt nhìn theo con đường bò lăn cắt ngang con đường số Một để đi thẳng xuống miền biển. Đấy là con đường duy nhất để lão đi về làng, rải toàn đá lèn ban đêm cứ trắng lôm lốp. Lão ngồi xếp bằng ở đấy để nghỉ chân có lẽ đến nửa tiếng đồng hồ, ngay bên vệ đường, sau khi rít một lúc hai điếu thuốc lào cho thông, lão cảm thấy mệt đến đứt hơi nhưng lại khoan khoái vô cùng, như làm được một việc từ trước đến giờ lão vẫn hằng mơ ước nhưng chưa có cách gì để làm. Con người lão lúc này như đã phân thân ra, một nửa đang sống cuộc đời con khoang đen nhởn nhơ giữa nội cỏ trong rừng thẳm, một nửa đang chính là hình ảnh cuộc sống của lão trong hiện tại: một lão già nông dân đầy nhọc nhằn một mình với chiếc xe bò giữa đường.

Phố Cầu Giát, cái phố huyện nổi tiếng sầm uất đang tưng bừng sống dậy trong phiên chợ.

Đoạn đường số Một chạy qua phố Cầu Giát kể cả bên này và bên kia cầu dài có đến gần hai cây số. Cho đến lúc này một bên phía lề đường bên kia đã sực nức mùi thơm của cá nướng cùng mùi tanh tưởi của cá tươi, và một bên phía lề đường bên này đang xông lên ngùn ngụt mùi phân trâu bò; rùng rùng từng đàn bò, đàn trâu, con kéo xe, con đi không, đang đổ tất cả về phía chợ, cái đoàn súc vật cứ phình to ra mãi, lúc nào cũng chực lấn chiếm hết cả mặt đường.

Người ta thấy từ ngả rừng xuống cũng như ngả biển lên, người cứ đùn lên từng đám, từng đoàn, không lúc nào ngớt. Cùng với người là tiếng cười nói, tiếng cãi vã, tiếng bánh xe gỗ rú rít đầy riết nóng và não nề, tiếng đòn gánh kĩu kịt, tiếng trâu bò "nghé ọ", tiếng roi quất vào không khí vi vút hoặc đánh trúng hông trâu bò cứ đen đét. Từ trong cái đám súc vật lì xì đang lặng lẽ cất bước đều đặn bỗng các thứ xe cộ khiến thiên hạ vụt hét toáng... Nhưng bặm trợn nhất, cứ xô giạt hết cả các đoàn súc vật lẫn ôtô tải mà len lên, mà chạy giần giật về phía trước, là những đoàn đàn bà chạy cá tươi từ dưới biển lên. Họ chạy thành từng đám dăm bảy mụ, mươi mụ, mụ nào cũng cao lớn như hộ pháp, váy mụ nào mụ nấy bị xé gần tới đầu gối, yếm áo tơi tả, mà phần lớn ở trần, mồ hôi nhẫy ra, họ vừa chạy vừa la hét dẹp đường, vũ khí tấn công cũng như tự vệ là cặp khuỷu tay lúc nào cũng chĩa ra hai bên...

Lão Khúng cố ý tránh xa đám đàn bà "kẻ biển" đang say sưa "chạy cá". Lão sợ trong đà chạy đám "liễu yếu đào tơ" ấy có thể vô ý xô đổ cái xe bò chở củi lẫn chè xanh chất cao ngất ngưởng, lại chỉ có một mình lão đang ra sức kéo về phía bên kia cầu. Chẳng biết làm thế nào khác hơn là cứ lẽo đẽo theo sát một chiếc xe tải chở đầy lợn đang tiến về phía trước như người dẫn rượu. Như thế chiếc xe củi được an toàn mà lão đỡ mệt. Dù sao thì cho đến lúc này lão đã thấm mệt. Bởi vì càng tiến gần đến cổng chợ, cái đám người và súc vật trên đường càng trở nên quay cuồng mà mật độ càng lớn. Trong một lúc nào đó lão Khúng đưa cánh tay áo lau dòng mồ hôi chảy ròng ròng trên mặt và lúc hai con mắt đã sáng sủa hơn, lão nhìn ra hai bên và phía trước phía sau lão thấy đưa cả một đám đông đúc xám xịt toàn trâu bò già người ta đập đi chợ để bán thịt. Chung quanh lão y như có ai bày ra cái trò gì để trêu lão? Bất giác lão nhìn sâu vào cặp mắt của một con bò đang mệt nhọc bước đi từng bước ậm ạch, lọc cọc ngay sát bên chiếc xe của lão. Đấy là một con bò đực ít nhất cũng đã từng sống trên vài chục năm, con vật gần như đã trụi hết lông, yếm chảy sát gối, và đặc biệt hai con mắt toét nhèm của nó nhìn sao mà cứ hướng vào lão - hai con mắt đầy âm thầm và nhẫn nhục của con vật già nua đang bình thản đi đến chỗ chết.

Lão Khúng cố xoay xở lôi chiếc xe củi ra khỏi đám trâu bò già đem bán thịt.

- Chào ông Khúng! Mời ông quá bộ vào ăn bát phở sốt vang nào!

Lão vừa kéo được chiếc xe ra bên vệ đường, ngước lên đã thấy lấp ló sau hàng cây vông đồng cả một hàng những quầy thịt bò treo giăng giăng cứ đỏ ối cả một quán phố, người vừa đon đả mời chào lão Khúng vẫn không ngừng tay thái thịt, lão bí mật quờ tay ra véo vào bên mạng sườn đầy non tơ của cô vợ vừa trẻ vừa đẹp đang đứng ngay phía sau lưng, rồi quay ra đon đả, mời chào :

- Quá bộ vào làm một bát sốt vang thịt bò tươi với bánh mướt nào ông Khúng! Trâu bò của nhà đi đâu cả mà ông phải gò lưng làm bò kéo xe thế này?

Lão gập lưng kéo chiếc xe đi nhanh qua cái quán phở mà lão chủ quán có quen biết lão từ nhiều năm nay. Nhưng kéo xe qua đoạn phố nào lão cũng chỉ thấy một mầu đỏ đầy ghê sợ của những quầy thịt bò treo trên những hàng móc sắt. Dân buôn, lái xe, cán bộ đi công tác, khách vãng lai từ bắc vào hoặc từ phía nam ra, mấy ai bỏ lỡ cơ hội mua một ít thịt bò tươi ở cái phố huyện nằm ngay trên đường Một, cái thị trấn sầm uất đang khủng hoảng thừa bò cày cũng như bò thịt thậm chí những người có đầu óc làm ăn kinh doanh của địa phương lại đang còn tính toán hùn vốn mua một hai chiếc xe có thiết bị ướp lạnh. Cái thứ thực phẩm cao cấp ở đây mỗi sáng sớm sẽ được chuyên chở cấp tốc ra Hà Nội hoặc đi các thành phố đang khan hiếm thực phẩm để cung cấp cho các cửa hàng ăn.

Như một kẻ đang chạy trốn một cuộc tàn sát đầy tàn nhẫn, lão Khúng hối hả kéo chiếc xe củi sang bên kia cầu. Nhưng bên kia cầu cũng vẫn thấy khắp nơi cái mầu đỏ ối của thi thể những con vật kéo cày. Lão rẽ vào một con đường lát đá phiến khấp khểnh, đi qua một cái nhà thờ đạo đầy vẻ tĩnh mịch rồi tiếp đến những dãy bức tường gạch sứt mẻ của nhà kho hợp tác đã bỏ hoang phế. Ngôi trường cấp ba mà con gái lão đang theo học lớp 12 đây rồi, đập ngay vào cảm giác lão là một sự bình yên của không khí nghiêm trang của các lớp đang giờ học, khiến cho lão trở lại bình tâm được đôi chút. Lão kéo chiếc xe củi đi vòng ra phía sau trường, đi qua mấy bãi mạ thì đến khu nhà nội trú của học sinh gia đình ở xa, mấy dãy nhà tranh vách đất đổ nát chả khác nào lán trại của dân công.

Lão Khúng đi thẳng đến trước một gian phòng ở cuối dãy mà lão vẫn quen thuộc, ở đấy con gái lão ở chung với mấy cô bạn học lớp dưới. Gian phòng của con lão khóa kín cửa. Lão đang toan dở đống củi xuống trước cửa phòng con gái lão thì tự nhiên lão ngớ ra : lão vừa nhìn thấy một con bò đang nằm nhai cỏ bên vạt sân bóng chuyền của đám con gái ở bên hồi nhà. Ngay lập tức lão giật nẩy mình sực nhận ra đích thị là nó, con khoang đen của nhà lão, cái con khoang đen mà trong đêm khuya khắt lão đã đích thân dắt vào tận trong rừng thật sâu, rồi lại còn phải dùng roi vọt đánh đập vô cùng tàn nhẫn để xua nó đi với cuộc sống tự do.

Con vật ngước cặp mắt đầy nhẫn nhục và sầu não lên nhìn lão Khúng. Đó là cái nhìn của một sinh vật tự nguyện chấp nhận số phận. Đứng lặng thinh bên chiếc xe chất đầy củi mà lão đã thay nó toát mồ hôi một mình kéo về được đến đây, lão Khúng cũng chả biết nói gì với con vật, lại càng không thể trách móc, lão chỉ đưa mắt nhìn người bạn đời làm ăn thân thiết bằng cái nhìn cũng đầy sầu não và phiền muộn.

Con bạc

Lỏng khỏng những lóng xương khô, đứng thì trông như cái cây rủ lá, đi thì đầu đổ đằng trước, tay vẩy phía sau, nhưng công bằng mà nói, thủ trưởng Văn Chửng của tôi hao hao giống như một nhân vật công chức trong các truyện ngắn của Sêkhốp, nghĩa là có cái vẻ bí ẩn và sang trọng tỉnh lẻ, nếu thêm cái áo bành tô, cái nơ đen gài cổ. Nhìn ông hôm nay với cái vẻ cô thần ở khuôn mặt lưỡi cày có cái mũi quặp như mỏ diều hâu và cái vẻ khác người ở thần thái điệu bộ, chẳng ai có thể nghĩ, ông đã có thời gian hơn bảy năm tham gia bộ đội, mà là bộ đội tên lửa, tức binh chủng hiện đại bậc nhất trong chiến tranh kia. Tất nhiên lúc ấy, từ chức danh giáo viên ngoại ngữ đầu quân, ông chỉ là sĩ quan phiên dịch thôi. Năm mươi tuổi tròn, nhưng ông Văn Chửng như một kẻ chủ trương sống cuộc đời độc thân, hoàn toàn khép kín. Suốt một ngày dài, giam mình trong căn buồng trên cửa gắn biển chức danh phó chủ nhiệm, ông đọc sách, tìm nguồn tư liệu, soạn bài, duyệt bản thảo cho tờ chuyên san của chúng tôi - một chuyên san xã hội học, bàn toàn những vấn đề triết lý cao siêu, thuộc một lĩnh vực hẹp, ít người đọc, mỗi quý phát hành nhõm có một lần.

Công việc của hơn chục nhân mạng già trẻ trong cơ quan vì vậy khá nhàn nhã. Nhàn nhã, nên nhịp điệu cuộc sống ở đây là rảnh rang đủng đỉnh, sớm chẳng vừa, trưa chẳng vội. Nhàn nhã nên cái tật nhòm ngó đời tư kẻ khác có cơ hội tha hồ khai triển. Công bằng mà nói, với công việc, ông Văn Chửng là một cán bộ mẫn cán. Hai năm nay, ông thay thế ông chủ nhiệm đã về hưu, nghĩa là đứng mũi chịu sào toàn bộ công việc của một cơ quan cấp vụ, nhưng vẫn chỉ được mang danh quyền chủ nhiệm, vậy mà ông vẫn chăm chỉ hết lòng với công việc và chẳng một lời thắc mắc, than vãn. Bấy giờ được một cán bộ như thế là tốt quá rồi. Lúc này, hống hách cửa quyền, thụt két là căn bệnh phổ biến của một số vị đứng đầu các cơ quan nhà nước. Lúc này, đồng tiền đi trước, công việc theo sau, khối anh tiếng là lãnh đạo mà bỏ bê công việc chỉ vì vài cái thiệt thòi vật chất nhỏ mọn thôi. Ông Văn Chửng không có những tính xấu đáng trách như thế. Còn như ông khác người ở sự độc thân, ở thái độ có vẻ như âm thầm tiết chế, cũng như ông có cái quan hệ rất lạ lùng với cô Bình, vợ một người đàn ông chột làm nghề cắt tóc ở cạnh cơ quan, thì cũng chỉ là đầu đề của những câu chuyện phiếm, vô hại, chẳng có quan hệ gì đến lợi ích cộng đồng mà trách cứ!

Quả thật, ông Văn Chửng giống như một kẻ mắc căn bệnh ám thị giới nữ. Ông chẳng giao tiếp với ai, ngoài cô Bình ba mươi sáu tuổi, sống bằng nghề chân gỗ, chuyên ghi số đề. Cô Bình đã có hai con, nhưng còn sắc nước lắm. Cô Bình đít bồ câu, đầu chim ngói, mặt nhỏ như cái niêu đất, nhưng xinh xẻo, hai mắt lúc nào cũng lúng la lúng liếng, cứ như đang còn gái tơ vậy. Cô Bình quen biết ông Văn Chửng từ lúc nào? Chả ai biết! Chỉ biết rằng đã cả chục năm nay cô Bình giữ độc quyền ra vào cái căn buồng thủ trưởng của chúng tôi. Một mình cô thôi. Một mình cô, ngày nào cũng như ngày nào, cứ quãng mười một giờ là tay ve vẩy, tay xách cặp lồng cơm, cô đi qua dãy phòng làm việc của chúng tôi, vào buồng ông Văn Chửng. Cô Bình đem cơm cho ông Văn Chửng ăn. Rồi cửa đóng lại, cô Bình ở đó đến hai giờ chiều mới đi ra, lúc đó tóc tai đã gọn gàng, quần áo đã phẳng phiu. Thóc mách, có người nói họ quan hệ với nhau như vợ chồng thật. Nhưng, mấy ông đứng tuổi ở cơ quan tôi thì lắc đầu quầy quậy: Làm gì có chuyện ấy. Văn Chửng thuộc loại pê-đê, hai người ấy chỉ âu yếm nhau thôi.

ấy thế, quanh cô Bình, ông Văn Chửng và quan hệ của họ luôn luôn có ý kiến trái ngược nhau. Kẻ bảo cô Bình là con đàn bà chuyên nghề đào mỏ, thấy anh chàng Văn Chửng độc thân là sán lăn vào lợi dụng; chứ anh chàng đực rựa này có gì mà hấp dẫn. Người ta nói: Văn Chửng khô chân gân mặt vừa đáng mặt đàn ông vừa có duyên thầm. Cái cô Bình thiếu là thiếu cái tình, cái tình lãng mạn và cái háo dục mà chồng cô không có. Liệu có thể tin được miệng lưỡi thiên hạ không? Chịu. Vì ngay như chuyện cô Bình giàu hay cô Bình nghèo, ý kiến cũng còn khác nhau lắm. Nhất trí với nhau, họa chăng là ở mấy anh em chúng tôi, mà cũng chỉ là nhận xét về mặt tính tình cô Bình thôi. Cô Bình đúng là tính khí hơi thất thường thật. Cô có tính đồng bóng. Lắm khi cô lên cơn ghen trắng trợn. Cứ như cô là vợ chính thức của ông Văn Chửng vậy. "Lại đi ăn bánh bao của con bỏ mẹ nào rồi, hả? Không ăn thì đổ cho chó nó ăn!". ấy là hôm cô đem cặp lồng cơm vào buồng, thấy ông Văn Chửng ôm bụng kêu no, không ăn được nữa. Tuy vậy, nóng là nóng xổi nóng thì vậy thôi. Lát sau lại thấy anh chị cười rúc rích, vô tình ngó vào còn thấy chị đè anh ra bón cho anh ăn nữa kia. Ông Văn Chửng được săn sóc từ miếng ăn đến manh áo mặc. Ông là kẻ vô lo. Vì từ việc lĩnh lương đến cái việc lĩnh nhuận bút ở các tờ báo, tạp chí mà ông cộng tác dịch thuật hay biên soạn, cô Bình lo hết. Đã cầm đến đồng tiền của nhau, tức quan hệ đến mức già nhân ngãi, non vợ chồng rồi. Quan hệ đến mức như vậy xét về nhiều mặt là rất chướng. Tuy vậy, phải nói ngay là cô Bình chẳng tỏ ra kín đáo ngại ngùng hay giấu giếm, che đậy gì hết. Đôi khi cô còn như là công khai đóng vai người vợ quyền uy, đáo để, lấn át cả ông nữa kia. "Rời tay con này ra ấy à thì rã họng. Như cứt chó phơi nắng bảy ngày ấy, có chó nó lấy mà bảo tôi kiềm chế". Thế đấy, đã có lúc cô Bình còn lu loa vậy.

Lạ cái là anh chồng cô Bình, một gã đàn ông chột dựng gương đặt ghế cắt tóc ở vỉa hè trước cơ quan chúng tôi, trông dữ tướng ra phết, lại chẳng bao giờ có ý kiến về quan hệ này. Có họa là anh ta đui điếc, chứ tuyệt không phải là nhắm mắt, bịt tai làm ngơ. Vì làm ngơ thế quái nào được. Ngay trước mắt anh ta, ngày nào mà cô Bình chẳng một lần ton tót đi vào cổng cơ quan, leo lên gác, chui vào buồng ông Văn Chửng. Chưa kể nhiều hôm, cô Bình tay ôm cái làn đựng đầy hương hoa, đồ cúng, tay ôm eo ông Văn Chửng, ngồi trên chiếc Wave phóng như bay, thấy chồng chẳng hề lúng túng, ngượng ngập lại còn giơ tay vẫy vẫy, nói với lại: "Đi chùa Trấn Quốc đây. Không ăn cơm nhà đâu đấy!".

Cái gì lạ lùng mà lặp đi lặp lại mãi cũng trở nên vừa tai, vừa mắt. Chả ai bình luận về họ nữa! Cuộc sống cứ tiếp tục đi theo lối quen. Ông Văn Chửng ngày ngày tới cơ quan, đóng cửa làm việc, đến trưa thì cô Bình mang cặp lồng cơm tới, rồi đầu giờ tầm chiều thì cô đi ra. Có lúc cô nổi giận đùng đùng. Có hôm tiếng cô cười vang rộn cả mấy gian buồng. Có buổi, cô xách cả một túi lớn giò chả và bia lon tới, xộc vào buồng chúng tôi, toang toang: "Này, ăn mừng hộ lão Văn Chửng đi! Hôm qua đề về con 38. Lão Chửng chơi 500 nghìn theo luật một ăn bảy mươi, xơi 35 triệu ngon ơ!". ấy thế, cô chơi đề, chơi xổ số hộ cả ông quyền chủ nhiệm của chúng tôi. Và như vậy, muốn hay không thì quan hệ giữa chúng tôi và cô Bình đã trở nên thân tình. Thân tình đến mức, khi chúng tôi trách cô sao cứ níu giữ, không cho ông Văn Chửng đi lấy vợ, thì cặp mắt một mí của cô long lên sòng sọc: "Đấy, cho tự do đấy! Có đứa nào nó rước hộ thì tôi đốt pháo ăn mừng". Thân tình nên đã có lúc cô hỏi thẳng chúng tôi: "Sao các cậu không đề nghị cấp trên cắt Q(*) cho lão ấy, cho lão ấy nhận chức chủ nhiệm chính thức đi, lão ấy có khuyết điểm gì đâu? Khổ! Sao đời lão ấy lại chịu nhiều thiệt thòi, buồn đau thế!". Nói câu sau cùng, đang vui vẻ là thế, mặt cô xịu ngay xuống. Còn cặp mắt cô lăn tăn ánh cười, thoáng cái đã lại sập xuống và hoe hoe đỏ như có điều gì uẩn khúc trong lòng không nói được ra.

Tuy nhiên, điều đặc biệt ai cũng nhận ra là giữa những náo động do cô Bình tạo ra, ông Văn Chửng vẫn là một hòn đảo âm u mù mịt. Ông chẳng trò chuyện gì với chúng tôi. Mặt ông chẳng biểu lộ vui buồn. Âm thầm, ông chỉ biết chúi đầu vào công việc, và chỉ giao lưu với thế giới bên ngoài, qua mỗi cánh cửa mở là cô Bình, người đàn bà đa tạp, thất thường, có tình cảm đặc biệt với ông, người đã dẫn dắt và uốn nắn ông hàng chục năm nay.

Ông Văn Chửng vẫn lặng lẽ một bóng hình hiền lành, đơn độc khác người. Cả tuần, ông không vắng mặt một buổi ở cơ quan, trừ ngày chủ nhật, và gần đây, khi chuyển sang tuần làm việc bốn mươi giờ, thì thêm ngày thứ bảy.

Nhưng tuần ấy, vào đầu giờ chiều ngày thứ sáu, khác với thường lệ, mở cửa bước ra không phải chỉ có cô Bình. Có cả ông Văn Chửng. Ông Văn Chửng mũ cátkét che trán, áo dài da, tay cắp cặp, lần này tự đặc tả theo mẫu một nhân vật công chức tỉnh lẻ thời xưa, khiêm nhường và lễ độ, chờ cho cô Bình đi khuất mới dừng lại trước phòng hành chính, khe khẽ và trịnh trọng: "Các bạn! Tôi xin phép nghỉ sớm một buổi chiều nhé". Ông báo cho chúng tôi biết, theo phép lịch sự thôi, chứ ông là ông chủ ở đây, điều đó chính ông biết rõ.

***

Nghỉ việc chiều thứ sáu đã là một việc chưa từng xảy ra đối với ông Văn Chửng. Vì con người này xưa nay vốn nghiêm túc về mặt thời gian lắm cơ. Tuy nhiên, điều đáng nghi ngại lại là sáng thứ hai, chúng tôi không thấy ông có mặt ở cơ quan. Ngong ngóng suốt buổi trưa, cho đến đầu giờ chiều thì chúng tôi lo ngại thật sự. Trước nay, ông quyền chủ nhiệm chưa bao giờ bặt vô tăm tích như thế.

Hay ông Văn Chửng ốm? Câu trả lời có ngay là không, khi hai nhân viên cơ quan chúng tôi đèo xe nhau đến tận nhà ông ở phố Ngọc Linh và trở về nói là nhà ông khóa trái cửa. Hay là ông quyền chủ nhiệm về quê? Vừa đặt câu hỏi đã thấy ngay là vô lý. Bao nhiêu năm nay có bao giờ thấy ông Văn Chửng nói về quê hương bản quán. Ông không có quê. Nói cách khác, ở quê ông giờ chẳng còn ai thân thích, ông chẳng còn dây mơ rễ má gì ở cái làng quê ngoại thành của ông cả. Ông sống một thân một mình. Ông tứ cố vô thân. Hay là ông thủ trưởng của chúng tôi đèo cô Bình đi lễ chùa? Vừa có người nói vậy, chúng tôi đã reo ầm ầm. Chứ còn gì. Cô Bình chăm lễ bái lắm. Người đàn bà này xem ra cũng có nhiều u uẩn, khúc mắc. Mà bây giờ đang là tháng bảy ta, tháng xá tội vong nhân, chùa chiền đang mùa hương khói! Chùa Tây Phương, chùa Thầy, chùa Trăm Gian... Quanh Hà Nội, có đến vài chục ngôi chùa đẹp nổi tiếng, đáng tiêu phí thời gian vào đấy lắm chứ. Nhưng mà nghĩ đi nghĩ lại, lại thấy rằng, giải thích như thế thật không thỏa đáng; ông Văn Chửng của chúng tôi đâu có phải là con người không đàng hoàng.

Ngày thứ ba, buồng ông quyền chủ nhiệm vẫn im ỉm khóa. Bây giờ thì đám các ông nhiễu sự sau mấy ngày ngậm tăm mới phá lên cười: "Các chú thiếu nhạy cảm quá". Hiển nhiên là các ông nghĩ rằng, để che mắt anh chồng chột, dịp này hai anh chị dại gì mà không lợi dụng cơ hội nấp bóng chùa chiền, rủ nhau đi thật xa để tình tự cho thỏa tình thương nhớ. Lúc này là thời cởi mở, nhà trọ, khách sạn sẵn như quần áo secondhand, lại thông thoáng vô cùng.

Không, ông Văn Chửng của chúng tôi quyết không phải là hạng người ấy. Chúng tôi, mấy anh em trẻ tuổi, nhất quyết phản bác lại ý kiến của đám người nọ. Và như để chứng minh rằng chúng tôi đúng, chiều ngày thứ ba ấy, từ đâu trở về, cô Bình xộc lên cơ quan chúng tôi vẻ hớt hơ hớt hải khác thường. "Lão Văn Chửng của các cậu đi đâu mất mặt từ chiều thứ sáu?". Nghe cô hỏi giật, nhìn hai con mắt bồ câu của cô ngơ ngác, chúng tôi cũng sững sờ. Cô Bình trước nay vẫn là người rất thành thật. Thành thật trong cả sự dan díu với ông Văn Chửng! Và bây giờ chính cô cũng không biết ông Văn Chửng đi đâu mấy ngày qua. Cô Bình còn không biết thì hỏi ai có thể biết ông Văn Chửng đi đâu. Chả lẽ ông Văn Chửng đã biến vào vô tăm tích?

***

Ông Văn Chửng không biến vào vô tăm tích.

Ông đã trở về, trở về đột ngột trong sự mong đợi của chúng tôi. Sáng bửng ngày thứ tư, chúng tôi đến cơ quan đã thấy cửa buồng ông mở và ông đang đánh răng rửa mặt ở cái vòi nước cạnh sân. Thấy chúng tôi, ông quay lại. Khác hẳn mọi khi, mặt ông tươi tỉnh, thái độ ông vui vẻ khác thường. Một linh hồn xa lạ đã nhập vào ông, đã biến cải gương mặt, giọng nói ông. Không còn nỗi niềm âm u, mờ mịt xa cách. Tất cả đều sáng láng, rõ ràng và gần gũi. Mặt ông giãn ra, trắng hồng. Giọng ông trong trẻo vang lộng và trẻ trung như của một người khác vậy.

- Này! ở đây có cậu nào đã từng chơi tổ tôm chưa nhỉ? Chưa hả? Thế thì phải tập chơi đi thôi! Tập chơi đi!

Ông nói dồn dập, đột ngột và cũng đột ngột ông tiến vào buồng làm việc của chúng tôi. Đang kéo ghế ngồi xung quanh bàn trà, chúng tôi cùng quay cả lại. Ngạc nhiên vì sự xuất hiện của ông một phần, lại càng kinh ngạc hơn vì bỗng dưng ông lại mở đầu câu chuyện về thú chơi tổ tôm.

- Mời anh ngồi ạ.

- Thôi, khỏi! Mình nói một tý rồi còn phải làm việc - Xua tay, nuốt nước bọt, ông Văn Chửng nhướng hai con mắt lớn, không hề biết đến sự kinh ngạc của chúng tôi, chành cái miệng rộng, tiếp - Trước hết, quan trọng nhất là phải hiểu: Chơi tổ tôm, đó không phải là đánh bạc. Đó là thú chơi tao nhã, thanh lịch và...

- Có phải xưa các cụ vẫn gọi đó là đánh chắn không ạ?

- Không phải! Chắn cạ là tổ tôm đàn bà. Tổ tôm chính ra là thế này. Cỗ bài nó có 120 quân, được chia thành 6 phần. Năm phần năm người cầm, một phần để bốc nọc. Cần nhắc lại ngay rằng, đây không phải là phạm trù cờ bạc. Đây là thú chơi cao cấp, lịch sự và thanh tao nên hạng thứ dân chỉ có thể ngồi chầu rìa. Và vì nó là cao cấp, sang trọng nên không có dính dáng gì đến tiền nong. Cao cấp vì nó có nhiều nước, nước ăn nước bốc, loại nào cũng lắm nước cao. Bởi vậy, có anh đánh đến bạc đầu còn chưa biết hết các nước cơ mà. Ui chà, được cái ù chi nảy, tức là ù to nhất, nghĩa là chờ mỗi con chi, nhưng lại không phải mình mà lại phải là người khác bốc cơ, thế nên mới phải vỗ đùi cười ha há, sướng như lên tiên. Nghĩa là mê hơn mê gái. Mê đến mức đánh từ chập tối đến năm giờ sáng mà không biết mệt là gì sất cả, các cậu ạ.

- Thích nhỉ.

- ấy thế! Nhưng tôi xin nhắc lại rằng: đó không phải là cờ bạc. Cho nên gom nó thành một cụm từ tổ tôm - sóc đĩa là sai. Tổ tôm là thú chơi dân tộc, cao sang. Anh em cứ để ý mà xem, anh nào chơi tổ tôm, phong thái nó tao nhã, tinh tế, ý nhị khác hẳn người thường.

Lạ chưa! Chưa từng bao giờ chúng tôi được nghe ông Văn Chửng nói chuyện một cách cởi mở như thế, mà lại nói về tổ tôm với vẻ say sưa hăng hái như thế. Ông nhiệt liệt ca ngợi thú chơi tổ tôm. Ông nói, tổ tôm thuộc về dân tộc. Tổ tôm đã được xã hội hóa cao độ. Từ tổ tôm, chữ nghĩa nhảy ra ngoài đời vô khối rồi đấy. Ví dụ: chầu rìa, gàn bát sách, phỗng tay trên... Chà, chà! Nghe ông nói, chúng tôi mới vỡ lẽ ra rằng mỗi một con người gần gũi với ta đây là cả một vùng bí ẩn hàm chứa bao điều chưa khám phá ra. Mới ngẫm ra rằng, chẳng bao giờ ta có thể giải tỏ được toàn bộ ẩn mật của chính ta và những người xung quanh ta.

- Tôi nhắc lại, lần cuối - Ông Văn Chửng nhấn mạnh trước khi quay ra cửa buồng chúng tôi - Tổ tôm không phải là món cờ bạc, một trong tứ đổ tường đâu. Nó là một thú chơi giải trí có tầm vóc văn hóa dân tộc. Và tôi nói điều này, anh em kiểm chứng hộ xem có đúng không nhé: Con người hơn con vật ở cái chỗ là nó biết thưởng thức cái thú vui tao nhã đó.

Kết luận một câu chắc nịch kèm một tiếng cười cụt ngủn, và giơ tay chào mọi người, ông Văn Chửng hấp tấp trở về buồng mình. Cũng đã đến giờ làm việc buổi sáng. Cũng là lúc, ở cầu thang có tiếng dép cô Bình.

* * *

Cô Bình xộc ngay vào buồng chúng tôi. Mặt hăm đỏ, mắt lóng lánh, môi mim mím, cô như đang nén cơn uất nghẹn.

- Các cậu có báo hôm nay không?

- Chị tìm báo gì?

- Báo An ninh thành phố chứ còn báo gì! Báo họ đăng tin bắt được một vụ đánh bạc, con bạc toàn là cán bộ nhân viên nhà nước ở phường Ngọc Linh.

- Cơ quan không đặt mua báo An ninh thành phố, chị ạ.

Cô Bình bỏ ra cửa. Liền đó chúng tôi nghe thấy cánh cửa buồng ông Văn Chửng cạch mở, rồi sập đánh rầm, và từ trong khe cửa lọt ra tiếng rít chói tai của cô Bình:

- Trời ơi! Ngu đâu có ngu đến thế, hở? Lại đi toe toe khoe với thiên hạ. Bị muỗi đốt ba đêm có sướng không? Giờ thì chó nó cắt Q cho. Thật là kiếm củi ba năm thiêu một giờ nhá! Thế có khổ thân tôi không!

Cô Bình khóc. Cao điểm của trạng thái tinh thần là tiếng khóc. Tiếng khóc của cô Bình ai oán và đau đớn lắm. Nghe cô khóc mới nhận ra rằng, chỉ có những người ruột thịt, những người đã trao xương gửi thịt cho nhau, là vợ là chồng của nhau mới khóc như thế! Tiếng khóc của cô Bình giải tỏa nỗi niềm sâu kín của cô! Tiếng khóc của cô Bình, may thay, đã giúp chúng tôi giải mã toàn bộ bí mật của mối quan hệ giữa cô với thủ trưởng của chúng tôi. Thì ra, cô Bình trước đây đã từng là vợ có hôn thú của ông Văn Chửng. Ông Văn Chửng lấy cô Bình khi ông là giáo viên giảng dạy tiếng Anh ở một trường trung học, còn cô là nhân viên cửa hàng lương thực. Chiến tranh, ông Văn Chửng nhập ngũ, làm sĩ quan phiên dịch trong một trung đoàn tên lửa có chuyên gia Nga. Cùng đơn vị, ông vào chiến đấu ở chiến trường Vĩnh Linh. Ông đã hy sinh tại miền đất đỏ bazan này. Giấy báo tử báo vậy khi đơn vị ông chuyển quân sâu vào chiến trường phía nam. Cô Bình để tang chồng ba năm rồi mới lấy anh thợ cắt tóc thương binh hỏng một bên mắt.

Chuyện này do chính anh thương binh treo gương đặt ghế mở cửa hàng cắt tóc ở trước cửa cơ quan chúng tôi kể. Anh chép miệng khi đọc báo và được biết, ông Văn Chửng của chúng tôi bị Công an gọi là con bạc, bị bắt quả tang trên chiếu tổ tôm và bị phạt hành chính hai triệu đồng:

- Khổ! Con bạc gì! Anh ấy hiền lắm. Đã nhiều lần, tôi bảo anh ấy, hay là anh trở về sống với cô Bình đi, nhưng anh ấy không nghe. Anh ấy là con người cao thượng. Đây chẳng qua là chơi để giải buồn thôi, tội cho anh ấy quá. Tội cho anh ấy quá.

Ôi, cái cuộc đời còn biết bao nẻo đường ngoắt ngoéo, có lắm chuyện cười dở, mếu dở, ít ai ngờ tới này

Con nhà làm bún

-Gái lùn! Gái lùn dậy. Dậy, sắp sáng rồi! Gọi, lay, đập tay, giật chân. Không khéo phải cấu véo, đấm đạp, dựng nó dậy nó mới dậy cũng nên. Phần đêm đang khép cánh. Mặt đất đã âm ấm khí dương. ừ thì con gái hai mươi tuổi là tuổi ăn tuổi ngủ, nhưng tuổi này cũng là tuổi làm lụng chứ. Không làm thì lấy gì mà ăn. Không bớt ăn bớt ngủ, dậy từ lúc này, khi thiên hạ còn ngủ cả; không lấy sự chịu thương chịu khó để bù lấp chỗ kém cỏi của số kiếp thì làm sao mà sống được đến bây giờ, làm sao năm giờ đã có hàng cho khách đến lấy kịp đón chầu ăn sáng của mọi người!

- Gái lùn! Dậy, con!

May, lần này bà Gái chỉ gọi giật hai câu ngắn, con bé đã vùng ngay dậy, ngáp dài một cái rồi gãi mớ tóc bù, vừa thò chân xuống quờ quờ tìm guốc. Tiếng guốc như một sinh vật rút từ bóng đêm ra sức sống mỗi lúc một to dần. Lát sau thấy tiếng nước trong chảo bột vỗ sóng óc ách. Rồi bốc lên mùi bột gạo ngâm chua khẳn và mùi than bén lửa khen khét, mùi của sự sống, trong bóng đêm đen nhờ.

- Này, cẩn thận, lượt cho kỹ không bún giót như hôm qua. Mà xem lại cái khuôn đi, mẹ thấy không khéo nó thủng, con à.

Tuy vậy bà Gái nói mà vẫn cảm thấy tiếng mình không thật. Nó vang đi đâu, trong căn nhà mái thấp đã mù mù hơi khói, hơi nước, chìm nghỉm bóng hai người đàn bà, một già là bà, một trẻ là con bà. Hóa ra ở đây, lúc này không cần ngôn ngữ. Lúc này, ngõ xóm khéo chỉ có hai mẹ con bà dậy bắt đầu công việc làm bún. Mọi người đang yên giấc. Không ngủ lúc này chỉ có ma, không ngủ lúc này họa chăng chỉ có kẻ trộm đang hành nghề. Thức giấc lúc này chỉ có hai mẹ con bà Gái. Hai mẹ con như hai cái bóng âm thầm, quờ quạng, cắm cúi vào công việc đầu tiên để chế tác ra sợi bún là gạn bột và nhóm lò.

* * *

Những sợi bún làm trong đêm đem lại lời lãi trông thấy. Một cân gạo làm được ba cân bún ngon. Nhưng khách chỉ được đổi có hai cân rưỡi. Làm bún tậu được ruộng, xây được nhà. Nhưng, đó là nói người có sức vóc và bỏ qua cái vất vả, cực nhọc của công việc này.

Ôi, cái cực nhọc của công việc là trong bóng đêm, để biến hóa từ vật thể này sang vật thể kia nói sao cho thấu. Vì nó để lại di chứng ở ngay hình hài, vóc dáng, cung cách của hai mẹ con bà; người gì mà kiệm lời, mà cứ xo xo xúi xúi, cắm cắm cúi cúi, cấm có thấy gương mặt ngẩng lên trọn vẹn và hai bàn tay thì lúc nào cũng nhớt nhèo nhèo, trong khi các kẽ chân kẽ tay bị nước chua ăn mòn ngày qua ngày cứ lở loét bở bợt ra, trông thấy cả lớp thịt đỏ nhờ bên trong, như tay chân người hủi.

Muốn có sợi bún đẹp, ngon, công việc phải tỉ mẩn ngay từ khâu chọn gạo, không phải là hạt gạo mới lắm nhựa mà là hạt gạo cũ bụng bạc kia. Gạo muốn thành bún tất nhiên trước hết phải sóc cho kỹ, rồi xay thành bột ướt và ngâm chua cho nó nở. Nóng thì một, hai ngày. Rét thì có khi phải ngâm tới bốn, năm ngày. Bột nở đủ độ là vớt, cho vào khăn, gói lại rồi lấy đá lèn. Lèn cho khô rồi đem bột nặn thành quả. Quả bột hình thành nhờ tay người trực tiếp, rồi cũng tay người trực tiếp cho nó vào quay, thả nó vào nồi luộc. Chà, đã tưởng luộc chín là xong, nào ngờ đôi tay vẫn chưa được nghỉ ngơi. Nhấc quả bột đã chín ở phần da bên ngoài ra còn phải cho vào cối giã, rồi sau đó cho vào bồn thấu cho nhuyễn. Thấu khó lắm, quá tay cho nước nhiều là nhão ngay. Ôi chao! Cái vất vả vẫn chưa buông tha. Vì bây giờ mới đến khâu lượt bột, tức cho bột vào cái lượt có hình cái túi làm bằng tơ lụa Hà Đông, bóp bằng tay thật kỹ cho bột mịn. Tuy nhiên dùng sức cơ bắp nhiều hơn là khâu vặn bún tiếp sau. Vặn thật mạnh để bột tuôn xuống nồi nước đang sôi, và trong mung lung hơi nước nhoè nhoẹt, bấy giờ khi bóng đêm đang tan, trong cái cảnh huống ba chìm bảy nổi, mới thấy được sợi bún lập lờ trong làn nước sôi cuộn.

* * *

Ôi, những sợi bún trắng muốt kết tinh từ trong bóng đêm lao động vừa dai vừa giòn, lại còn bóng bẩy ngon lành. Công phu, nhưng chỉ mới nhìn sợi bún đã muốn ăn. Vừa đặt vào môi đã thấy nó trôi vào cổ họng. Người ăn bún quen dạ chẳng cần nói cũng biết là đông, nhất là đàn bà. Người nghiện bún cũng không ít. Ngày xưa trong ngõ này thì có cụ Thượng họ Bùi, còn như bây giờ, hàng ngày vẫn có cả chục người đến chờ bún khuôn một, hay còn gọi là bún đầu nước ngay từ lúc tinh mơ. Bún đầu nước ít nhựa, dai giòn, ngon, một người ăn hết một cân bún rối là thường. Mà đấy chỉ là chấm nước mắm hay mắm tôm chanh ớt thôi đấy. Bún có nhiều loại. Sợi bún ở trong chậu lấy tay vóng lên, vuốt xuôi, rồi trở tay đặt xuống, sợi dài trông như con len tở, gọi là bún con bừa, con cúi. Bún nắm là vóng sợi bún lên tay, nắm cho nó kiệt nước, đặt xuống, to nhỏ theo ý mình, nhưng thích nhất là bún vẩy ốc, còn gọi là bún lá, bầy ở mẹt bún chả, mười lá trắng tinh đẹp như hoa nhài, nhìn đã thấy mê. Mê bún, nghiện bún ở ngõ xóm này xưa như đã nói là cụ Thượng họ Bùi. Bà Gái nhớ: Cụ Bùi Mỗ, người làng này, xưa học giỏi, tài cao, đức trọng, được thăng Thượng thư, vào nhậm chức ở Huế, nhớ bún quá, phải mời ông Quảng, anh giai bà vào chuyên làm bún cho cụ xơi. Sau ông Quảng già, trở lại cố hương, Bùi tiên sinh thưởng cho chức Trưởng bạ.

Ngồi nghe mẹ kể chuyện mà cậu út Nhớn dửng dưng như không. Chỉ có Gái lùn là có vẻ lắng tai, nhưng lại nghếch mắt, lơ ngơ: "Thượng thư là chức gì, hả mẹ?" Bà Gái ngẩn mặt nghĩ : Thì thấy người ta nói vậy thì nói theo chứ nào có biết. Mà biết để làm gì?

Biết chẳng để làm gì cả! Vì quanh năm suốt tháng, từ đời cụ kỵ ông bà cha mẹ chỉ một việc đơn thuần là làm ra sợi bún. Chỉ một nhịp sinh hoạt là ngày ngày trở dậy từ hai giờ sáng, hết gạn bột, lọc bột, giã bột lại đến thấu bột, lượt bột, vặn bún, khép kín một chu trình chế tác để đến sáu giờ giao hết hàng thì lăn ra ngủ. Ngủ đến hai giờ chiều là dậy chọn gạo, sóc gạo rồi mười giờ lên gường để hai giờ sáng lại bắt đầu vòng tuần hoàn mới là dồn sức làm. Làm, chỉ có làm, làm đến mức hai bàn tay nát nhừ như bùn vữa. Làm, cả năm cả tháng chỉ nghỉ độc một ngày mồng một Tết, là ngày miệng thiên hạ còn dành riêng ăn cỗ. Làm như một thói quen. Như mục đích là làm. Như không có nhu cầu gì. Không có sinh thú gì khác. Không quan tâm tới bất cứ một cái gì khác ngoài công việc vì đã chấp nhận sự an bài, không nề hà, không suy bì so sánh, không biết đến khổ ải, thiệt thòi. Cũng chẳng có yêu cầu gì cho riêng bản thân. Vì ngay đến cả cái tên gọi cũng không cần nữa là. Mẹ là bà Gái. Con trai là Nhớn. Con gái là Gái con, Gái chị, Gái em, hoặc Gái lùn, Gái cao tuỳ theo vóc dạc. Từ đời ông bà đã vậy. Nhà là xưởng sản xuất. Số kiếp đã định, lớn bé, nam nữ trong nhà thẩy đều là thợ chuyên nghề chế biến món thực phẩm dân gian phổ biến này. Có nhẽ phải đến đời này, chỉ đến đời này mới có chút ngoại lệ. Tức cậu út Nhớn con bà Gái, từ lúc còn ở tuổi thiếu niên mới không tham gia công việc cùng cha mẹ và các chị. Cậu út Nhớn được đi học. Cậu tách dần khỏi cái đời sống lầm than cực khổ của mẹ và chị cậu. Mẹ cậu, chị cậu, lấy ra từ bóng đêm nguồn sức mạnh tăm tối, còn cậu, chỉ tìm thấy ở đó lòng căm hờn và sự khinh miệt. Cậu bĩu môi, khinh bạc:

- Sống như dưới địa ngục thế này mà cũng chấp nhận được!

* *

Cậu út Nhớn mười bảy tuổi dong dỏng cao, da trắng mịn, mặt xương, mũi dọc dừa, tóc dày rậm, rẽ ngôi giữa, thanh tao nhẹ nhõm như một mũi tên, trông vẻ ngoài đã thấy là cái tinh hoa vắt ra từ cuộc đời lam lũ của mẹ và chị. Nhưng trông sáng sủa vậy mà cậu học kém. Trượt vỏ chuối vào học cấp trung học, cậu ở nhà chơi nhởn đã hơn năm.

Một hôm, tôi sang xưởng chế biến của bà Gái xin nước đãi bún, nước này có chất chua của bột lên men, rất rít, rửa bát sạch hơn nước chuyên dùng của Thái

Lan, thì bà Gái níu lấy tôi:

- Cô ơi, cô là hàng xóm, cô còn đi làm, cô quen thuộc nhiều, cô giúp thằng Nhớn nhà tôi kiếm công ăn việc làm mới. Tôi sợ nó bị lôi kéo...

Nhưng tôi chưa kịp giúp cậu Nhớn nhà bà Gái được tý nào, đã thấy cậu vè vè cái xe Honda nữ hoàng đỏ chót đằng sau đèo một cô gái mặc váy cộc vào ngõ và mặt mày phớn phở khác thường.

Cậu út Nhớn thực hiện một cú nhảy vọt. Cậu Nhớn đã có người yêu, đã có bồ bịch, nhân tình. Và còn hơn cả nhân tình nhân ngãi nữa. Vì từ hôm ấy cô gái nọ ăn ở với Nhớn ở nhà mẹ Nhớn, một căn buồng ở nách cái phân xưởng chế biến bún nọ như vợ chồng thật sự. Cô tên Mùa Đệm Kim, một cái tên kép giao duyên tân cổ, cô trạc ba mươi. Chỉ nhận ra cô ở độ tuổi ấy mỗi trưa cô trở dậy, tóc tai rũ rượi, đánh răng, xúc miệng òng ọc. Lúc ấy phấn son đã bong sạch, da mặt cô sàm sạm màu chì, lấm chấm nốt tàn nhang. Lúc ấy cô hiện thành một cô gái quê có đôi mắt trắng dã, ngực độc cái xu chiêng bọc hai đầu vú to dài thõng thẽo như hai quả đu đủ, dưới cái quần hoa lửng là đôi chân vòng kiềng khuệnh khoạng. Cô đứng vung tay vung chân làm vài động tác tập thể dục. Rồi ngáp. Rồi gãi nách, gãi sườn sồn sột. Rồi khịt mũi thấy mùi gạo ngâm, liền nhổ đánh phịch. Mùi đ. gì mà chua phát tởm thế, ông Nhớn? Cô Mùa dậy muộn lắm. Quãng hơn mười giờ cô mới cùng Nhớn vắt vẻo cái ví đầm đi ăn trưa. Họ ăn cơm trưa ở quán cơm bình dân về, xong lại đóng cửa buồng im ỉm. Đây mới là lúc họ làm khổ tai nhức óc những người hàng xóm. Họ cấu chí nhau. Họ đùa nghịch nhau. Họ la hét. Rồi thì thoảng lại vỏng vót lên tiếng ré chói tai của cô Mùa. Cô kêu: "Cắn đ. gì mà đau thế, bố ai chịu được." Cô chửi: "Tiên sư thằng nhãi, bà đã mệt phờ ra rồi mà mày còn hành bà à!"

Chí chóe cho đến năm giờ chiều thì Nhớn mở cửa dắt xe máy ra. Chàng đèo nàng đi làm. Bây giờ thì thật là nàng vì nàng đã thoát hẳn cái lốt thô phàm quê mùa vốn dĩ. Nàng mặc váy cộc màu tím, hoa đỏ. Nàng mặc áo vai bồng, riềm cổ chờm tới rìa cặp vú phồng. Mặt nàng biến dạng hoàn toàn. Son phấn phủ một lớp dầy, trên đó một bàn tay thẩm mỹ đã vẽ lên một cái mặt nạ đàn bà mắt to thô lố, miệng cười toe toét, thần thái nồng nã, như thấy đàn ông là vồ lấy ngấu nghiến. Nách cắp cái ví đầm, nghiêng nghiêng mái tóc dính hờ cái mũ nồi đỏ cờ, tay cặp điếu thuốc, ngồi vắt vẻo ở sau xe, nàng rõ là một tiểu thư đài các đang đến công

sở. "Thôi, đậu ở đây. Chờ em. Bai, bai." Nàng hôn vào bàn tay, rồi giơ lên xoa xoa ra hiệu tạm biệt chàng. Chàng quành xe, chạy một quãng rồi rẽ vào một quán nước. Đám người ngồi quán đang đánh bài, quay lại, nhay nháy mắt: "Nhớn, vớ được cô em thơm thịt nhẩy!", "con nhà làm bún chuyến này đổi đời thành công tử rồi. Cơm no bò cưỡi sướng chưa? Sao không mời chúng tao một chầu bia, mày?" Công tử Nhớn không nói, nhấc bao thuốc 555, rút một điếu, châm lửa, trả tiền rồi đi ra. Nổ máy xe, Nhớn cho xe chạy về nhà. Cậu đi qua sân, thấy mẹ và chị đang sóc gạo, không nói một lời, dựng xe, vào buồng xách cái làn đựng dầy quần áo nữ, quàng vào tay lái xe, đánh xe đi. Lát sau nghe tiếng xe cậu quay trở về, tôi nhìn sang thấy cậu đang dở từng cái áo quần đã qua máy giặt phất lên cái dây phơi giăng qua sân. Cái dây phơi như có đàn bướm sặc sỡ vừa đậu xuống. áo sơ mi các kiểu, may ô, váy dài, váy ngắn đủ màu và những chiếc nịt vú, quần lót đàn bà rung rinh trong gió, lấp cả lối qua lại của hai mẹ con bà Gái lúc này đang sửa soạn đồ nghề cho buổi sản xuất tinh mơ sớm mai.

Hai mẹ con bà Gái đi ngủ từ lúc chập tối. Ti vi không có. Rađiô cũng không. Nhưng có họ cũng chẳng xem, chẳng nghe. Họ nhờ vào bóng đêm để tái tạo nguồn lực, để trở dậy lúc hai giờ sáng làm mẻ bún mới. Tuy vậy giấc ngủ của họ, kể từ ngày Nhớn kiếm đâu được chiếc xe và đèo cô Mùa về ăn ở, lại bị quấy rày. Mười một giờ rưỡi, chiếc Honđa nữ hoàng đỏ nổ máy ầm ầm. Đón được cô tình nhân về rồi, căn nhà còn ầm ĩ thêm một lúc nữa, cho đến tận lúc cô Mùa gắt: "Sao hôm nay gặp toàn bọn đểu thế không biết! Thôi đi! Đang nẫu cả ruột đây, đang mệt bỏ cha đây!"

Ngày nào cũng như ngày nào, lịch trình sinh hoạt của cậu út Nhớn cứ đều đều diễn đi diễn lại như thế! Thật chẳng còn hiểu quan hệ của họ thuộc là kiểu cách gì. Vợ chồng thì không phải! Vì chẳng nhẽ Nhớn khinh bỉ mẹ cậu là con mẹ làm bún đần ngu không biết gì nên không thèm hỏi qua một câu. Không gì thì cũng phải ăn hỏi cưới xin đàng hoàng chứ. Mà xem cái cung cách con đàn bà đi đêm về hôm ở nhà người ta đến cả tuần mà không biết chào hỏi ai lấy một câu, lại có ý hợm của lên giọng hiếu sự mỉa mai, ăn nói chỏng lỏn, cợt nhả, thô lỗ thì đó hẳn không phải là con người tử tế đứng đắn rồi!

Bà Gái, Gái lùn ngậm miệng làm thinh. Đã quen với một thế giới không ngôn ngữ. Đã nhận ra chẳng có thể thay đổi được tình hình. Hơi sức của họ chỉ còn đủ để hoàn thành chức trách của con người lao động là làm ra sản phẩm để nuôi thân thôi. Mặc dầu tôi biết là họ giận lắm và nếu giận cô Mùa một thì họ giận cậu Nhớn hai. Cậu Nhớn bám vào cô Mùa để vinh thân, để ra khỏi kiếp phận. Cậu rủng rỉnh đồng tiền tiêu pha. Cậu mặc áo sơ mi hãng Pie-Cácđanh, đi giầy Italia, đeo đồng hồ Seiko, hút thuốc ba số. Cậu chẳng đoái hoài gì đến mẹ và chị. Cậu quát: "Vứt mẹ nó cái nghề chết tiệt của các bà đi. Tởm đ. chịu được!"

Cái phải đến cuối cùng cũng đến. Một trưa, đang đọc sách, bỗng nghe thấy tiếng la lối om sòm bên nhà bà Gái, động lòng tôi vội chạy sang.

Bà Gái đang ngồi sàng gạo ở cửa căn buồng. Mặt gầm xuống cái sàng, bà không dám ngẩng lên vì tiểu thư Mùa mặc bộ đồ cộc, hở nách mỏng tang ở cạnh cái dây phơi la liệt váy áo, đang nhẩy chồm chồm, chao chát:

- Cha tiên nhân đứa nào ăn không ăn hỏng lấy của tao cái đồng hồ Lông-din giá hơn mười vé nhá! Bà báo cho mà biết, duyên ai phận nấy chớ ghen mà nồng. ừ, bà là gái cave đấy! Bà thuê thằng Nhớn nó làm vệ sĩ cho bà, bà nuôi nó, bà cho nó tiền, để nó bồi dưỡng sức khoẻ để nó ôm ấp bà đấy. Này, đừng có nói bà đã chán chê mê mải vì khách chơi nó vầy vò, nay lại quyến rũ thằng Nhớn vì bà là con nặc nô dâm đãng chưa đã cơn thèm nhé! Cave là nghề của bà. Còn thằng Nhớn nó là tình nhân của bà. Hai việc khác nhau nhé!

Bất nhẫn quá, có lẽ là vậy, dẫu là Mùa chửi nhau một mình, từ trong buồng, Nhớn vội nhao ra để can ngăn. Nhưng vệ sĩ vừa ra khỏi cửa, còn đang mắt nhắm mắt mở đã bị cô cave cản lại và thực hiện ngay một cú đánh nhà nghề, tay đẩy chân ngáng khiến cậu quay lơ ra đất.

- Cả ông nữa. Ông còn liếc ngang liếc dọc con mắt xanh mỏ đỏ nào nữa thì tôi cho mẹ nó một nhát cho xong đời đấy, hiểu chưa? Chó nào, chủ ấy chứ! Đ. mẹ không có tao nằm ngửa ra thì lấy c. mà đổ vào nồi à! Nói cho mà biết, không có tiền của bà thì mày lấy đâu đồng hồ mà đeo, áo quần sang trọng mà mặc, xe máy mà đi. Mày mở mày mở mặt nhờ con cave này đấy, hiểu chưa? Chứ cái thứ con nhà làm bún như mày, chỉ đáng giặt xi líp cho bà thôi, con sãi ở chùa thì quét lá đa thôi, chứ tưởng của báu đấy, hả!

Thấy mình hèn quá, Nhớn vận nội công bật dậy, định xông tới vả vào mồm cô cave nọ mấy cái, nhưng chưa kịp đã sững người há hốc mồm. Tiểu thư cave mặt hầm hầm quay lại đưa tay giật giật liên hồi quần áo phơi, rồi vào buồng xách làn nhựa ra, nhét đầy vào đó, đoạn đi tới cái xe Honđa đỏ chót ngồi lên, không cần thay quần áo, dận máy nổ ầm ầm.

- Kim Mùa! Kim Mùa! Cho anh xin lỗi! Anh xin lỗi em mà!

Không nơi nương tựa, Nhớn lại trở thành kẻ thất nghiệp ăn bám mẹ và chị. Nhưng một tháng sau, nhờ mẽ người cao ráo, xinh nhã cậu lại được làm vệ sĩ cho một ả cave khác. Cậu lại có xe máy đi, quần áo đẹp mặc và tiền tiêu rủng rỉnh. Nhưng lần vẫy vùng này để cố ra khỏi bóng tối của khuynh hướng thoái triển trong số kiếp cũng lại không ăn thua. Vẫn lại là kịch bản cũ và có thêm hồi kết thúc bi đát hơn. Trong một trận tranh giành quyền lực, Nhớn bị đối thủ tẩn cho trận bò kê bò càng. Phục thuốc ba tháng sau Nhớn mới lại sức. Bà Gái nói: " Thôi, con ở nhà làm bún với mẹ và chị đi. Vất vả, nhưng đồng tiền kiếm được nó chắc chắn vì nó lương thiện, con à." Thấy ông con im, bà liền hấp háy con mắt, phấn khởi: "Mẹ già, chị con cũng yếu rồi, giờ làm buổi đực buổi cái thôi, cần có con giúp đỡ trông nom cơ nghiệp này. Nếu con bằng lòng, mẹ sẽ đưa con ít tiền để con lo việc mua máy móc, vì mẹ nghe nói giờ người ta không làm bằng tay nữa, người ta đã chế tạo ra máy xay, máy nhào, máy vắt bún rồi." Mẹ vừa dứt lời, Nhớn liền nhổm dậy: " Mẹ có được bao nhiêu tờ?"

Giờ thì Nhớn giữ chân gác khách sạn Rose ba sao tư nhân ở phố Q. Đó là những nỗ lực cuối cùng để giành lấy cái cậu không có, để đổi thay địa vị của cậu, nhưng buồn thay cậu khoe với tôi: phải mất năm vé đút lót mới được nhận vào việc ấy. Thấy tôi nhún vai, cậu liền mím môi cười lặng: Chị y hệt mẹ em. Nhưng chị ơi, chỉ cần một năm tiền boa là em lấy lại đủ vốn thôi.

Rồi cậu con trai nhà làm bún ngả người, giang hai tay vênh vang một cách hồn nhiên và tôi đòi:

Cứ sấp mặt xuống làm nên u tối có biết gì đâu. Cậu nói - Bây giờ mở mắt ra mới biết: Thiên hạ họ ăn chơi thật là khủng khiếp! Một bữa tiệc chi vài ba triệu là bình thường. Còn một tay giám đốc từ nơi khác đến, thuê khách sạn, cắp theo một con bồ như cỡ Kim Mùa bao cả tháng là thường xuyên. Thật hầu hạ bọn này cũng còn hơn ông bác em theo Cụ Thượng nào đó vào Huế làm bún cho cụ ăn, còn hơn đầu tắt mặt tối như mẹ em, chị em, chị ạ./.

Lênh đênh

Ngôi nhà nhờ nhợ tối. Hai đứa con úp mặt vào ngực mẹ không dám quay ra. Ngoài sân, hai hình nhân bèo nhèo nhếch nhác, dật dờ vươn những cánh tay nguều ngoào, tiếng nói lào thào như vọng lên từ huyệt mộ…

Chị cắn răng khóc thầm. Nước mắt giọt thon thót xuống hai mái đầu khét nắng hôi rình. Đời chị coi như xong. Nhưng còn hai đứa trẻ chúng có tội tình gì? Giá chị goá bụa, con chị bồ côi bồ cút đã đành. Đằng này, nó đang sờ sờ sống đấy. Cha chúng đấy mà những đứa con chị không dám nhìn. Sống như thế thì còn nhục cho vợ con hơn là hắn chết! Trong thâm tâm, đã vài lần khi nỗi khổ cực dâng lên đỉnh điểm, chị đã có những ý nghĩ đen tối.

Không biết ông trời có hiểu lời cầu khẩn của chị hay không mà hôm nay ông lại mượn tay một con nghiện khác đến đây giải thoát cho chị. Chỉ còn một liều thuốc, Lăng đã quá đà hít hết. Con nghiện kia đang đòi cơn không được thoả mãn, tức thì rút con dao chọc tiết lợn nhọn hoắt nhằm bụng hắn xâu một đường rất ngọt. Trong khi phê thuốc con nghiện không biết đau. Lăng ơ lên một tiếng ngạc nhiên trước khi đổ vật xuống sân, ruột phòi một bụm, máu bò lênh loang sân gạch. Chị hét lên một tiếng kinh hoàng rồi nhảy bổ ra. Tiếng kêu làng nước thất thanh. Nhà chị phút chốc chật kín người. Những tiếng thì thào vọng xói vào tai chị: “Thế là con Nền thoát nợ!”…

- Mụ kia! Mù à? Nút start là nút nào? Đổ xà phòng vào chưa? Nó mà trào bọt ra thì mụ chết!

Chị lóng ngóng đong bột giặt đổ vào máy, lập cập ấn nút khởi động. Guồng quay máy giặt sùng sục mà bụng chị còn run bắn. Chị cúi đầu lí nhí:

- Dạ, em xin lỗi cô!

Câu đáp lễ dành cho trẻ mẫu giáo lại bật ra từ miệng một người đàn bà ba mươi tuổi. Thì chị là học trò mà.

Cô giáo bĩu môi xì một tiếng rõ dài rồi bỏ lên lầu. Chị chúi vào đống áo quần dang dở, lẩm nhẩm: “Không nghĩ nữa, không nghĩ nữa…”. Nhưng mà lại nghĩ...

Hắn quằn quại trên giường bệnh, toàn thân co rút, gẫy gập. Hắn đòi cơn ngay sau ca mổ. Vết khâu như con rết trăm chân trên bụng oằn oại ựa máu tươi. Những nốt chích chi chít trên khắp cơ thể hắn đã đóng vảy sừng, đen như vừng rắc. Các y tá vã mồ hôi vừa ghì giữ, vừa săm soi tìm ven nhưng bất lực. Chúng đã nát và lặn sạch, không thể nào truyền thuốc được. Biệt dược có trong bệnh viện thành vô tác dụng. Bác sĩ chụm đầu hội ý. Cứ để hắn vật vã thế này đứt chỉ là cái chắc. Ba đoạn ruột nối… sức hắn không thể chịu thêm một lần đụng dao. Chị mếu máo níu lấy những bóng áo blu trắng: “Cứu… cứu lấy anh ấy…với!”. Trong đầu chị lúc ấy không còn sự dày vò của những tháng ngày đày đoạ. Không còn một gánh tội nợ như đã mang từ tiền kiếp. Chỉ có anh Lăng, người chồng mà chị đã từng si mê, bất chấp mọi can ngăn của gia đình, người đã có với chị hai mặt con thơ dại. Vị bác sĩ nhìn sâu vào mắt chị, cảm thông, kéo chị ra góc phòng nói nhỏ. Chị lao ra phố. Những góc phố ngoằn ngoèo tăm tối. Những mặt người lãnh đạm, dửng dưng. Bên bờ một con sông đen ngòm ì ạch chảy, chị chìa nắm tiền ướt nhàu vào một con nghiện đang lờ đờ tựa lưng vào góc tường lở mốc, giật vội cái gói nhỏ trong tay hắn, tuông về. Chỉ một hơi khói mơ màng lãng đãng, cánh mũi Lăng nở phồng, tham lam nuốt trọn. Hắn duôi người, lỏng lẻo, thiêm thiếp ngủ. Chị nhìn ông bác sĩ nhoẻn một nụ cười thoát nạn…

- Reeeeng reeeeng reeeeng…! Tiếng chuông gắt gỏng thúc giục. Chị cuống cuồng lao bổ lên cầu thang. Chị co rúm người lại trước những tấm gương gắn tứ phía trong căn phòng lộng lẫy xa hoa. Bóng chị hiện lên trong những tấm gương sao mà ảo não. Một mụ đàn bà tóc tai xơ xác, má nổi sần những vệt nám cơm cháy. Những nếp nhăn xô bồ đuổi bắt nhau dưới khoé mắt sầu muộn. Chị cũng không nhận ra chính mình nữa.

- Sao mà đơ ra đấy! Dọn phòng đi!

Giường ngủ của cô giáo nhầu nhò, ướt nhoẹt, dấu vết của cuộc truy hoan vội vã. Mặt cô giáo phấn son nhoe nhoét, tóc tai bù xù như rơm rối. Một người đàn ông bụng chảy như bụng ỉ bước từ trong nhà tắm ra nhìn chị với con mắt thản nhiên như thể chị là một con gì chứ không phải con người. Chị cúi đầu cuốn tấm ga, lóng ngóng thế nào dẫm phải chiếc bao cao su nhụng nhịu trơn nhẫy, trượt chân ngã đập đầu vào cạnh giường đánh đốp. Không dám suýt soa, chị lồm cồm đứng dậy nhón vội chiếc bao cuốn vào tấm ga cun cút bước đi.

Tin tin tin, cậu Bim đã về! Anh tài xế taxi chạy vòng qua đầu xe sang mở cửa. Chiếc xe bềnh lên khi cậu uể oải chui ra. Mới mười tuổi mà cậu đã bốn nhăm cân. Cậu giơ một cánh tay lên, không nói không rằng, để chị lột chiếc cặp to nặng trịch những sách là sách. Sách nhiều thế này chả trách cậu học giỏi. Thằng Na nhà chị có mấy cuốn vở chép đủ các môn, xong trang nào là xé ra gấp tầu bay, bao nhiêu chữ nghĩa bay vèo theo gió. Cô giáo bảo nó thông minh, gia đình nên quan tâm. Dào ôi, đến ăn còn chả đủ, quan tâm quan tiếc nỗi gì? Học cho có học thôi, lớn lên cho vào bộ đội. Mà chắc gì vào được bộ đội. Thằng Na học hành như thế chắc gì hết lớp 12. Thôi thì mua cho bầy vịt mà lùa.

- Mẹ tôi đâu?

Vừa hỏi cậu vừa ục ịch bước lên. Chị vội vàng kéo lại nói thầm:

- Cậu đừng lên! Cô đang có khách. Cậu đi tắm cho mát...

Cậu Bim bặm môi phụng phịu, buông một câu chỏng lỏn:

- Cóc tắm! Lạnh!

- Cậu Bim giỏi nào, trời lạnh mà tắm mới là anh hùng chứ…

Đấy là chị dùng cái giọng vẫn dỗ thằng Na ở nhà. Mỗi khi cần giục nó cái gì chỉ cần hích một câu là cu cậu tỏ ra một đấng nam nhi. Nhưng cậu Bim không thế. Cậu trợn mắt:

- Ngu thế! Tắm lạnh sưng phổi.

Chị cười xoà nắm tay cậu lôi vào nhà tắm. Nước ấm bốc khói mờ cả tấm gương to. Cậu la oai oái như thể bị bỏ vạc dầu. Thân thể cậu phốp pháp, nổi lập lờ như một bìa đậu phụ trong bồn. Dỗ dành mãi cậu không chịu nằm yên cho kì cọ. Chị gắt:

- Ấm thế này còn kêu!

Cậu trừng mắt nhìn rồi bất ngờ giằng vòi hoa sen xịt thẳng vào mặt chị. Giận quá. Giá phải thằng Na chị đét ngay cho một phát vào mông. Nhưng chị chỉ dám làm mặt nghiêm. Cậu Bim nhảy ra ngoài ngồi bết xuống sàn tần mần nghịch chim, lầm bầm: “Nhớ nhé… nhớ nhé!”.

Xong người là chó. Vỗ về mãi mới lôi được nàng Juny đài các vào chậu tắm. Sữa tắm Dove thơm ngao ngát. Máy sấy tóc thổi lông. Bộ cánh của nàng Juny tơi phơ trắng muốt. Chị chạnh nhớ con Vá nhà chị. Bát cơm hớt chả bõ dính răng, suốt ngày Vá chạy nhảy ngoài đồng bắt chuột. Cái đuôi Vá như cán cờ dỏng trong ruộng lúa nhấp nhô. Năm ngoái cậu bị ghẻ kềnh, dẹo dọ cóm róm tưởng chết. Chị lấy nước điếu tắm, cu cậu xót kêu ăng ẳng. Thế mà khỏi, lông lại trơn nuột, mướt dáng như thường.

- Nhắng nhắng nhắng!

Juny vằng ra, ngoắt mõm vào mặt chị mắng xa xả. Ra mải nghĩ, chị đã gí hơi sát máy sấy. Cậu Bim lao đến ôm ghịt lấy con chó xót xa:

- Mày chết nhớ! Phỏng da Juny rồi nhớ!

Tim chị nhảy loạn khi nhìn những ngón tay cậu Bim vạch lông con chó. May mà da nó chỉ hơi đo đỏ. Chị ngọt ngào lấy giọng cầu an:

- Cậu Bim thích ăn món gì để tôi nấu nào?

Như mọi ngày, cậu sẽ ỏng eo món này món nọ, rằng ở trường các cô bắt cậu ăn nhiều ớn tới tận cổ rồi. Còn hôm nay cậu ngẩng phắt lên nhìn bằng ánh mắt căm hờn:

- Ông ăn thịt mày!

Cậu xót con Juny! Trẻ con tuổi này đứa nào cũng thương loài vật. Thằng Na nhà chị, khi bố nó giơ chày nện bốp vào đầu con Vá mang ra quán lấy tiền đi hít, nó cũng ôm đầu rú lên đau đớn và khóc ròng rã cả tuần.

Từ đó cho tới tối, chị làm việc quần quật đặng dìm nỗi lo sợ bị trừng phạt. Khi chị đang chuẩn bị sách vở đi học tiếng Đài thì cô gọi chị lên, mặt lạnh tanh:

- Ngày nay chị phạm bốn lỗi nhẹ: Sử dụng máy giặt chưa thành thạo, dọn phòng chưa khéo léo, có thái độ trịch thượng với trẻ, chăm sóc thú vật chưa đạt yêu cầu. Mỗi lỗi phạt mười ngàn. Và một lỗi nặng: Tọc mạch vào quan hệ của chủ nhà. Lỗi này không chấp nhận được, phạt một trăm ngàn. Tổng cộng một trăm bốn mươi ngàn!

Tai chị ù đi. Chị toan mở miệng thanh minh, rằng cái lỗi thứ năm ấy là oan cho chị quá, chị chỉ bảo cậu Bim là mẹ đang có khách, thế thôi chứ có nói gì đâu? Nhưng cô đã phẩy tay:

- Không nói nhiều! Phạt cho quen đi. Sang bên đó nó không phạt bằng tiền Việt đâu, mà là Đài tệ. Phạt tiền còn may, chứ họ đuổi về là tiền mất tật mang. Biết chưa?

Thấy chị còn xậm xịu, cô giáo đến bên thân ái:

- Là đàn bà với nhau tôi hiểu chứ. Tâm tính đàn bà Việt Nam mình còn u tối lắm, người ta không chấp nhận đâu. Tháng trước bên kia trả về một chị chỉ vì một tội là trưa nào cũng thế, khi chủ nhà đi ngủ là lén mở cửa ra ngoài tìm người Việt Nam để buôn dưa lê. Phải nhịn chuyện đi! Chị nên nhớ, bên đó bất cứ chỗ nào cũng gắn camera, chị làm gì chủ nhà biết hết. Vừa rồi có một chị bị phạt nửa tháng lương vì tội cho trẻ con ăn sữa mà dám ăn vụng của nó một thìa. Và một chị nữa, khi đổ bô cho người già mà dám nhăn mũi, thay quần áo cho người ốm mà mặt mày không tươi tỉnh, bị phạt nửa tháng lương. Nửa tháng lương là bằng ba triệu đồng tiền Việt đấy!

Chị cúi đầu lí nhí:

- Em cám ơn cô!

Đấy là lời cám ơn thực lòng của kẻ bần cùng. Bao nhiêu công nợ ngập đầu ngập cổ, chỉ còn trông vào cơ hội này thôi. Nếu cô đánh trượt, chưa cho bay thì khốn. Mà hết thẩy những điều cô dạy mình đều đúng chứ có sai đâu. Cô bảo, đây là giai đoạn thực tập, hoàn cảnh còn nhẹ nhàng hơn thực tế nhiều. Đấy là cô còn ưu tiên chị, cho về nhà riêng thử việc, chứ mấy chị em khác còn phải chen chúc lê la trong một ngôi nhà kín cổng cao tường như một nhà tù cơ.

*

Hắn ngồi khom người trên ghế, hai tay luồn trong áo xoa xoa vết mổ. Da hắn xanh rớt, mái tóc cắt ngắn để lộ hộp sọ gồ ghề. Nhìn hắn bấy như một con cua vừa lột. Cảnh ngộ đẩy họ vào tình trạng khó mở lời.

- Em đi lấy tiền trả nợ… nhục nhã lắm… nhưng không còn cách nào khác…

Hồi lâu hắn mới ngẩng lên, cái nhìn bị phủ một màn sương:

- Tôi có quyền gì đâu!

- Anh đừng nghĩ thế. Con em gửi ông bà ngoại. Chỉ hai năm thôi mà. Lúc ấy anh cũng đã gần mãn hạn…

Hắn lảng mắt lên tường nhìn theo hai con thạch sùng đuổi nhau. Tần ngần một hồi, Lăng móc túi đưa cho chị một tờ giấy gấp tư. Chị mở ra đọc và bỗng khóc oà. Đơn li dị! Lăng đơn phương xin li dị! Lăng tự trọng. Lăng biết xấu hổ. Lăng muốn giải thoát cho chị. Không phải bây giờ chị mới đứng giữa ranh giới của sự chia lìa. Ngay từ những ngày đầu Lăng nghiện ngập, nhiều lần chị đã có ý định chia tay, nhưng những lá đơn viết rồi lại đốt.

Bạn học với nhau mười hai năm. Chung trường chung lớp chung hoài bão. Nếm chung vị đắng hỏng thi. Chung cả niềm an phận về nhà làm ruộng. Thửa ruộng nhỏ tin hin như manh chiếu không phỉ sức Lăng. Hết việc đồng áng, Lăng chỉ biết ôm con, thuốc lào vận cạp quần lê la những chiếu tổ tôm. Nền không nói nhưng trong ánh mắt gợn lên những ánh muộn phiền. Một buổi tối sau vụ gặt, chân Lăng đi xoắn quẩy về nhà, miệng sừng mùi rượu. Tôi chán cái cảnh này lắm rồi. Hai sào ruộng, bốn tạ thóc. Giống má phân gio hết nửa. Bốn mồm ăn. Húp cháo cũng không đủ. Tôi sẽ đi. Đi đâu? Đi Hà Nội. Làm gì? Làm giàu. Chao ôi, không nghề ngỗng như Lăng thì chỉ có nước đứng chợ người. Móc cống, rửa nhà cầu, làm điếm đực... Chút sĩ khí của kẻ có học trỗi dậy, Lăng giã từ chợ người, chiềng mặt ra làm cò bến xe Giáp Bát. Đất có thổ công, sông có Hà bá, đồng tiền kiếm được đẫm đụa nước mắt mồ hôi. Đêm nằm còng queo dưới mái hiên chờ chuyến xe sáng sớm, nhớ lại những gương mặt ngác ngơ trẻ già đủ loại bị mình doạ nạt đấm đá phủ đầu, thấy lương tâm cắn dứt. Lăng dìm nốt chút lương tâm ấy xuống bằng những liều hút chích, huỷ diệt nốt những gì gọi là người để ngày mai lại tiếp tục ngụp lặn nơi nhốn nháo tranh giành. Sức vóc kiệt cùng, Lăng lê tấm thân tàn tạ về làng. Ngôi nhà nhẵn trơn đồ đạc, chỉ còn tiếng chuột chạy rầm rầm và tiếng nợ đòi ông ổng. Khi không còn lừa ai được nữa, Lăng buôn thuốc phiện để có tiền tiếp tục đánh đu cùng tiên trắng. Nhát dao oan nghiệt của con nghiện hôm trước là bất hạnh hay may mắn cho Lăng? Nếu không có nhát dao ấy biết đâu Lăng đã chịu án tử hình thay cho cái án ba năm như hiện nay?

- Thôi, mình cứ yên tâm đừng nghĩ ngợi gì. Em…đi!

Chị bậm môi chạy vụt ra cửa bưng miệng khóc. Tờ đơn li hôn trên bàn gỗ chập chờn...

Đối diện Nền là một ông già bảy mươi tuổi, tuy liệt nửa người nhưng dáng vẻ vẫn phương phi. Người của công ty môi giới nói với chị, ông già này khó tính lắm, đã có ba người bị ông đuổi thẳng rồi đấy, chị nên cẩn thận.

Ông già nhìn Nền từ đầu tới chân bằng con mắt dò xét. Trống ngực Nền đập thình thình. Dọn nhà, chăm trẻ, nuôi chó mèo, nấu ăn… chị đã quen, còn chăm sóc người già chị bỡ ngỡ vô cùng. Ngày học nghề, trung tâm không có người làm mẫu. Mấy chị em thay nhau làm “người già” để cô giáo giới thiệu sơ qua cách nâng đỡ, thay áo quần, bế lên xe lăn… “Hãy yêu quí kính trọng như với cha mẹ mình!”, Nền nhắm mắt niệm câu thần chú của nghề. Ông già gật đầu nhè nhẹ. Nền trút một hơi nhẹ nhõm.

Ông già là chủ một công ty lớn Đài Loan. Tuy lâm bệnh nhưng ông vẫn điều hành công việc. Chiếc điện thoại cầm tay của ông suốt ngày rung vù vù như dế mèn rũ cánh. Con trai ông bốn mươi tuổi, đang thay ông giám sát công việc, nhưng ngày nào cũng hai lần sáng tối đến vấn an. Anh ta bảo Nền đi nghỉ một chút, tự tay lau mặt, thay áo quần cho bố. Cô con dâu cũng làm một chức vụ gì đó trong công ty, thỉnh thoảng cũng vào thăm bố chồng. Cô ta luôn miệng sai Nền nấu sâm pha sữa, Còn mình thì ngồi sẵn bên giường đón từ tay Nền rồi bón cho ông già. Thi thoảng, Nền bế ông lên xe lăn đẩy đi dạo phố. Nền luôn tự nhắc: Mặt mày tươi tỉnh, mặt mày tươi tỉnh. Nụ cười trên môi Nền tươi được hơn ba tháng, cho đến một hôm, môi Nền vẫn cười tươi nhưng nước mắt thì thánh thót rơi vào bát cháo. Đứa em bên nhà điện sang báo bố ốm nặng, sắp qua đời. Nền lo lắng rụng rời cả chân tay. Hợp đồng đã ghi, trong thời gian làm việc không được xin về dù bất cứ lí do gì. Thế mà đứa em lại nói rằng bố nằng nặc đòi gặp chị.

Nhìn cô người hầu, ông già động lòng hỏi chuyện. Nền đành thưa thật. Ông già thở dài, nắm tay Nền nói nhỏ:

- Con cứ về đi. Khi nào xong việc lại sang.

Nền hấp tấp gào qua điện thoại:

- Ngày mai chị bay. Em nói với anh cả đặt đồng tiền xu vào lòng bàn tay bố... Ông chủ bày cho chị thế đấy. Bố sẽ đợi kịp chị về!...

Nhưng cô con dâu đã đến bên Nền lạnh lùng:

- Cô về, bắt buộc chúng tôi phải thuê người khác. Cô suy nghĩ cho kĩ!

Anh con trai ngậm ngùi:

- Hay em chịu khó ở nhà chăm cha. Khi nào cô ấy qua em lại đi làm?

Cô con dâu không chịu. Một cuộc cãi vã nổ ra, có nguy cơ bùng phát. Nền quết nước mắt cúi đầu:

- Thôi, cháu không về nữa đâu.

Sóng gió tạm lắng trong gia đình chủ, nhưng trong lòng Nền lại cồn cào nhức nhối. Cô em van vỉ:

- Bố phát phiền rồi… nhưng cố lòng đợi chị!

Nền cắn răng nói trong nước mắt:

- Em bảo anh cả... bỏ đồng xu trong tay bố đi... Chị không về được đâu!...

Chỉ nói được thế rồi chị úp mặt vào tường nức nở. Chị tin rằng, khi đồng tiền xu được bỏ ra, bố sẽ ra đi thanh thản. Chị âm thầm mua khăn chuẩn bị chịu tang cha nơi đất khách.

Chuông điện thoại lại réo ba nhịp dài nối tiếp. Nhịp chuông đàm thoại quốc tế. Nền run rẩy nhấc máy. Tiếng cô em van nài:

- Chị ơi... Chị cố về đi. Anh cả đã bỏ đồng xu ra rồi. Các vãi đã tụng kinh rồi. Anh hai đã leo lên dỡ ngói mái nhà để cho thoát dương..., vậy mà bố không đi được!... Bố đợi chị về đấy... chị ơi!

 Nền dập ống nghe từ từ ngã khuỵu.

Thân thể ông chủ cứ héo úa dần. Nhìn nét mặt căng thẳng của bác sĩ mỗi khi thăm bệnh xong Nền lại cảm thấy lo lo. Số tiền Nền gửi về đã đủ trang trải nợ nần, thời gian hợp đồng sắp hết, dẫu có muốn cũng không thể nấn ná thêm được nữa.

Ông chủ ra đi vào một ngày trời đẹp. Nền khóc ào ạt bên ông, khóc như lúc nghe tin bố qua đời. Đám tang xứ này nhanh chóng nhưng trang nghiêm. Tiễn người quá cố đến nơi an nghỉ cuối cùng, trong Nền đã chuẩn bị tâm thế trở về.

Cả gia đình họ Tống lặng phắc lúc luật sư đọc di chúc. Mọi người có mặt và cả Nền nữa, không ngạc nhiên khi ông chủ trao quyền thừa kế cho người bạn tâm phúc chứ không phải cho con trai duy nhất. Những ông chủ Tàu vẫn thâm trầm nhìn xa trông rộng như thế. Duy chỉ cô con dâu nổi giận đùng đùng. Ngay cả việc đó cũng không khiến mọi người bàn tán. Điều khiến mọi người chú ý là bản di chúc có một khoản thừa kế dành cho cô hầu người Việt. Tài khoản ông dành cho Nền không phải bằng tiền mặt, mà bằng một hợp đồng gia hạn làm việc một năm. Nền mừng đến độ choáng người, quỳ xuống lạy ảnh ông một lạy. Như vậy là vợ chồng chị có cơ hội để làm lại cuộc đời, các con chị có cơ hội mở mày mở mặt.

*

Từ ngày cha mất, ông chủ nhỏ Giang Sinh ăn uống thất thường, về nhà lúc nào cũng say mèm. Bà chủ cũng thất thường đi về không theo quy luật. Họ đã không ăn cùng mâm, không ngủ cùng phòng. Những cuộc đấu khẩu nổ ra kèm theo đồ đạc bay vèo vèo, loảng xoảng. Nền như con chim nhỏ tối tăm mặt mày giữa hai làn tên đạn. “Có tai như điếc, có mồm như câm”, chuyện nhà người, mình không nên can dự. Nhưng khi nhìn thấy bà chủ trợn mắt mắm môi giang tay giơ chiếc bình hoa nhằm đầu ông chủ mà lia, thì Nền không đành lòng được nữa. Nhà cửa chao nghiêng. Mắt chị toé ra muôn búng hoa cải chói vàng rồi tắt ngấm. Bóng đen loang rất nhanh trong óc Nền...

Trong cơn hôn mê, chị thấy mình trở về làng. Cây si già buông từng chùm rễ lòng thòng cạnh ngôi đền cổ không có bóng trẻ con. Thanh niên bỏ cả ra phố làm thuê. Ngõ xóm vật vờ mấy bóng con nghiện rập rình. Những bức tường cắm mảnh chai chi chít nhốt kín tiếng gà gáy lợn kêu. Cánh đồng quê hương miên man cỏ dại. Thửa ruộng hai sào được chia từ ngày lấy nhau đây. Thửa ruộng đã lay lắt nuôi sống bốn miệng ăn giờ thành hoang hoá. Xác rắn lột vương trắng trên những ngọn cỏ năn. Cào cào châu chấu bay nhảy rào rào, chập chờn áo xanh áo đỏ. Thằng Na lếch thếch cõng con Lành chạy khắp cánh đồng tìm mẹ. Tiếng gọi mẹ khản đặc chìm hút vào tiếng ếch nhái inh uôm. Chị mở miệng trả lời con, nhưng càng gọi chúng càng chạy xa. Na ơi! Lành ơi! Mẹ về với các con đây này!

- Chị tỉnh rồi! – Tiếng reo mừng rỡ cùng khuôn mặt mờ mờ của ông chủ Giang Sinh khiến Nền tỉnh hẳn. Xung quanh trắng toát. Những bóng người lặng lẽ vào ra. Dù đầu nặng như có một hòn đá tảng, nhưng rất nhanh chị đã ý thức được hoàn cảnh của mình. Chị nghiêng người vùi mặt vào gối trên giường bệnh, mặc cho nước mắt cay đắng chảy dài.

Trời còn thương nên chỉ vài ngày nằm viện chị đã có thể trở về nhà, tiếp tục kiếp con hầu. Bà chủ sau vài ngày lo lắng, không thấy Nền đả động đến chuyện đơn từ kiện cáo, bắt đầu ngứa mắt.

- Chị chuẩn bị về được rồi!- Bà chủ lạnh lùng khi đưa tháng lương thứ hai mươi tư.- Hợp đồng đã hết!

- Ơ! - Nền ngớ người trước lời tuyên bố - Tôi còn một năm nữa mà?

Bà chủ bĩu môi không nói. Giang Sinh đến bên vợ nhẹ nhàng:

- Đấy là ý cha. Cô không có quyền làm thế!

Một trận khẩu chiến tiếp tục nổ ra, để cuối cùng bà chủ hầm hầm bỏ đi ném lại một câu chửi lớn:

 - Đồ mạt hạng!

Mấy ngày liền bà chủ không về. Nền bị ném tõm vào hoàn cảnh chứa đầy đe doạ. Ngôi nhà sang trọng, nội thất cầu kỳ bỗng trở lên lạnh lẽo. Một ngày chị lau nhà đến ba bốn bận mà vẫn chưa hết thời gian. Chị ngóng tiếng chuông cổng, nhưng khi nó cất lên chị lại giật bắn mình. Về đến nhà là ông chui ngay lên phòng. Căn phòng vốn sạch sẽ tinh tươm giờ ngập ngụa hơi thuốc và rượu. Thức ăn Nền nấu luôn phải đổ đi vì ông chủ không hề đụng đũa. Khi trút những đĩa thức ăn đầy bổ dưỡng mà chị đã kì công chế biến vào thùng rác, Nền bật khóc. Bắt gặp cảnh ấy, Giang Sinh chững lại một hồi lâu:

- Ăn một mình tôi không nuốt nổi. Từ mai chị ăn cùng tôi cho vui!

Bữa ăn cùng mâm đầu tiên với chủ là một cực hình đối với Nền. Chị cắm mặt vào bát cơm không dám ngẩng lên. Chị chạy trốn những lời thăm hỏi của Giang Sinh bằng cách đếm từng hạt cơm trong bát. Một bát cơm có một ngàn ba trăm năm mươi mốt hạt... Giang Sinh ngừng đũa nhìn đăm đắm. Cái nhìn ấm áp bao trùm lấy toàn thân Nền. Một luồng cảm giác lạ chạy râm ran từ chân tóc mai, lan nhanh ra toàn thân. Nền cuống cuồng đứng lên chạy vào nhà tắm tựa tường thở dốc. Hai năm đằng đẵng xa chồng, cái nhu cầu đàn bà tưởng ngủ yên bỗng chốc bùng lên. Soi mình vào gương, chị bất chợt nhận ra mình trẻ quá. Gò má đã bong hết những nám sần trở thành hồng phấn. Mái tóc thôi xác xơ. Cặp mắt đã hết khô, đuôi mắt đã hết rạn, vút dài một cái nhìn thăm thẳm. Cái nhan sắc bị đầy đoạ tưởng đã úa tàn, qua hai năm no đủ không dầu dãi nắng mưa có cơ phát tiết. Nhiều đêm, khi những ý nghĩ tội lỗi len vào óc, Nền đã dằn lòng bằng câu “chồng ta áo rách...”. Nhưng ánh mắt ấm áp và cử chỉ chăm sóc chân thành của Giang Sinh có mãnh lực của một mạch nước ngầm. Tiết hạnh rất thiêng liêng nhưng cũng rất mơ hồ, giữ được nó cần có nhiều rào chắn. Vậy mà ở đây chị chỉ một mình. Lòng kiên định của đàn bà trong những đêm xa xứ cứ mòn dần, mòn dần, mong manh như tơ nhện, chỉ cần một hơi thở gần là tất cả sẽ tiêu tan. Một ông chủ cô độc với một người hầu đang thì xuân sắc... Cái kết cục biết trước đã khiến chị kinh hoàng.

Lá thư của Lăng đến đúng lúc, giải thoát cho Nền khỏi tình cảnh chênh vênh: “Tôi được ân xá, ra trước thời hạn. Nhà quê buồn lắm, ăn rồi chẳng biết làm gì. Bà con họ hàng xa lánh…”. Chị run run ấp lá thư vào ngực mà nghe máu trong người chảy dập dồn. Phải về thôi, kẻo Lăng nghiện lại thì chết! “Anh tốt với em lắm! Nhưng em phải về. Chồng và các con em đang đợi.”- Lá thư viết chật vật mãi mới được mấy dòng ngắn ngủi, đặt cẩn thận trên bàn trà. Chị dọn dẹp nhà cửa sạch sẽ, khoá cửa rồi vùi chìa khoá vào chậu hoa trước cổng. Khi cầm tấm vé trên tay chị mới gọi điện cho Giang Sinh.

Sân bay nườm nượp người nhưng Nền vẫn nhận ra bóng Giang Sinh nháo nhác len lỏi trong đám đông. Tiếng động cơ gầm rú át mọi tiếng người nhưng Nền vẫn biết Giang Sinh đang gọi mình rất lớn. Lòng chị cuống thốn từng hồi. Cửa sổ máy bay nắng lóa. Bóng dáng Giang Sinh nhoè dần nhoè dần.

Máy bay cất cánh. Nền thấy hẫng sụt trong lòng. Một quãng đời lắm tủi buồn đã ở lại sau lưng. Bầu trời mênh mông, xanh thẳm. Mây trắng phơi phới ngoài cửa sổ khiến chị cảm thấy bồng bềnh.

Cái cảm giác bồng bềnh ấy còn mãi cho đến khi chị đã bước giữa những mái bếp tỏa khói lam vương vít. Đường làng gạch lát phẳng phiu mà chị châng lâng như bước trên con thuyền say sóng. Chị ào về nhà mẹ. Những nụ cười mếu máo trên những khuôn mặt thân thương. Giây phút mừng vui đoàn tụ qua nhanh. Chị ngập ngừng cất tiếng: Bố thế nào hở Na? Con... không biết! Chị ngỡ ngàng nhìn thẳng vào mắt con ngạc nhiên nhưng rồi chị chợt hiểu. Chúng vẫn ở với bà ngoại và các dì, có dám bén mảng đến gần Lăng đâu mà biết. Bà già kéo khăn chấm mắt ngẩng lên nhìn con gái buồn rầu: Nó gán ruộng cho nhà Thản lấy tiền để đi Ma Lai ma lôi gì đó. Nghe đâu còn đang học việc ngoài Hà Nội. Về thì bảo ban cho con nó học. Thằng Na hai năm lớp bốn rồi đấy, đúp năm nữa thì có nước hót phân! Lời mẹ rù rì chậm chạp mà tới tấp sóng xô khiến chị chao đảo như kẻ sắp đắm đò. Thằng Na đang hí hởn ôm bọc kẹo Taiwan in hình Trư Bát Giới phưỡn bụng vác bồ cào, thấy bà nói đến chuyện học thì vênh mặt lên dẩu mỏ: ứ thèm học nữa đâu! Mẹ cho con đi làm Ôsin, mẹ nhớ! Con Lành cũng ngọng nghịu nối lời: Chon nứa. Cho chon đi làm Ôsin nứa. Làm Ôsin được ăn nhiều kẹo xích hơn!

Trời ơi con tôi! Chị giật mình kêu thót lên một tiếng bẽ bàng rồi nhìn con trân trối. Tiếng bà già chua chát đế vào: ừ, nhà mày có mả làm thuê! Lòng kẻ hồi hương vừa ấm lại phút chốc đã trở nên buốt lạnh. Chị gỡ hai bàn tay con đang níu áo mình vòi vĩnh, tức tưởi lao đi. Chụp vào tay lái một chiếc xe ôm đang đón khách đầu cầu, chị gào như mê sảng. Chiếc xe rồ ga phóng hối hả về hướng phố. Cánh đồng xanh non dọc ngang ô bàn cờ trôi loang loáng. Đang độ rét Nàng Bân, gió tái đông réo ạt ào bên tai chị...

Những kẻ thích ăn thịt chó

Khiêm Nhu

Bác sĩ nói Bình không thể tiếp tục ăn thịt chó nữa. Lắm chuyện. Khi thì nói tốt cho sức khỏe. Khi nói thừa đạm. Bệnh với tật.

Da đen xạm, chỉ đợi ngày chết nữa thôi. Tạm thời hắn vẫn ăn thịt chó, sáng trưa chiều tối, thậm chí là khuya. Lúc nào cũng khuyến cáo, nghe khiếp.

Dấu hiệu tuổi già đến bằng mấy sợi tóc bạc.

Bình ăn thịt chó như ăn cơm bữa, nhìn hắn ăn thấy xấu quá, thảm hại, tóc nhờn bóng, mồ hôi, da mặt nhầy nhà nhầy nhụa. Cô người yêu không còn gần gũi với Bình như trước, thấy mình đếch còn cần gái gú gì nữa…, mà đời này mình cần gì ai chứ. Chẳng thèm bận tâm đến ai, cũng chẳng còn ai bận tâm. Bình- kẻ thích ăn thịt chó nhất thế gian.

Hắn sẽ chết sớm vì ăn quá nhiều thịt chó cho mà xem. 

*** 

Con kênh đã được nạo vét tươm tất, nhưng chẳng cây bèo nào con cá nào sống nổi. Người ta không còn gọi nó là dòng sông Chết nữa. Hai bên bờ kè, quán nhậu nhan nhản, lấp lánh đèn xanh đỏ mờ ảo. Tiếng chúc tụng líu lo leng keng. Ông Thư nói, hôm nọ ngồi uống, mười hai giờ triều cường dâng, không biết có phải vì rượu vô hay không mà nghĩ là đang ngồi bên dòng sông Sen. Ông này đúng là khéo tưởng tượng. Lại còn cầm ghita ra nghêu ngáo hát, nhìn như tâm thần. Mỗi lần ông Thư nói, nói thật nhìn hai con mắt lồi ghê chết đi được. Làm mấy con bé phục vụ cứ đùn đẩy nhau, chẳng đứa nào muốn lại gần cái Bàn 13 quỷ quái đó.

Quán 29 Món chó mới tám giờ đã không còn một chỗ ngồi. Đến chậm chân đành ngậm ngùi dắt xe về. Họ đã mua thêm bao nhiều bàn ghế, thuê thêm bao nhiêu nhân viên nhưng vẫn không phục vụ hết được. Có khi thực khách khúm núm ngồi ké bàn, ăn được mới cam lòng. Quán cà phê cũng vậy, không hiểu sao bọn trai gái cứ thích ngồi ngoài bờ kè tâm sự. Cũng như thịt chó, bao nhiêu quán cà phê mở ra cũng không đủ. Đặc sản bắc trung nam tràn ngập sôi động.

Đối diện với chó là phố nướng. Cá nướng & Các đặc sản khác. Những cái bảng hiệu đọc nghe vui tai. Câu lạc bộ thịt cầy- là địa điểm nổi bật nhất. Hầu như khách cả hai bốn trên hai bốn. Bà chủ quán lại tốt bụng chứ. (Tôi đang làm việc quảng cáo nên có thể hơi phảng phất chút bệnh nghề nghiệp. Bà chủ quán đó là cô ruột của tôi chứ ít gì).

Quán ruột của Bình hơi vắng một chút, dân dã, quê quê, vậy mới thích. Khách Việt kiều, nước ngoài, ai hắn cũng dẫn đến đây. Chủ quán Cây Xoài được Bình đặt tên là Thằng chó già nhưng hắn không giận, thậm chí còn khoái. Mỗi lần thấy Bình đến, có bận đến mấy, Thằng chó già cũng đến uống một ly, rỗi thì uống nhiều, nói chuyện thời sự, sang thì đọc thơ.

Thằng chó già nói Bình là bạn hữu. Say say lên hai thằng lại than vãn sự đời, vợ con, bạn bè, đứa này chơi bẩn, đứa này chơi được, đứa này sòng phẳng, thời quái gì mà học sinh suốt ngày đánh nhau rồi quay phim, mất dạy. Lâu lâu đánh mấy ván tiến lên. Thằng chó già có con vợ béo núc ních, thấy chồng thua tiền thì ả lườm ả nguýt, ả nói bóng nói gió, thắng thì cười khoe hết cả hàm răng ra, mắt híp lại. Răng lại vừa hô vừa vàng. Vợ chồng Thằng chó già uống bao nhiêu thuốc, đi khắp nơi cúng vái cũng không có con nên xin đứa con nuôi. Con bé đó nấu thịt cầy ngon hết sẩy.

Hôm nay Bình uống ít, nói tửu lượng tao mỗi ngày một kém. Chỉ thèm ăn mày ạ. Ăn cả ngày mà chẳng thấy no cứt gì cả. 

*** 

Mồng hai tết, Bình lao xuống bếp thấy có chén nước để trên kệ bếp, uống một hơi, ai dè uống nhầm phải mỡ. Gớm chết đi được. Mà lại là mỡ chó chứ. Mấy ngày tất niên vừa rồi đã biến hắn ì ạch như con gà công nghiệp. Hắn nôn thốc tháo ra bồn rửa chén. Con vợ hắn đứng nhìn. Thường tình nhậu nhẹt hắn cũng vậy nên hơi đâu mà lo. Cái bồn rửa chén lênh láng mỡ, ngập ngụa như giun bò. Nôn chán nôn chê. Mỡ chó lềnh bềnh. Chắc phải xả mất hai khối nước. Mắt trợn như long ra. Mồm há hốc. Quái quỷ. Mỡ chó. Hay con vợ mình nó gài. Nó muốn giết mình? Mà giết làm gì chứ. Ngà ngà chẳng thấy gì. Kệ cha nó.

Nôn chán lại đói. Mà vợ hắn kiếm đâu ra mà nhiều mỡ chó vậy chứ. Vợ nói nhà có ma, xin ít mỡ chó về trừ ma. Không có một hạt cơm để ăn. Tết, quên mất, tết, tết mà. Hắn tu sáu chai DR Thanh mát gan giải độc thanh lọc cơ thể không lo sợ nóng. Hai ngày hai lốc mười hai chai. Ba ngày ba lốc, không lo sợ nóng trong người nữa. Dà dày ơi, dạ dày ơi. Gan ơi, mật ơi, phổi ơi.

Cái dạ dày quợ quậy không yên. Nhưng hắn không thể không thương cái miệng thèm ăn của mình. Rồi ba ngày tết cũng hết, phải ăn cho bằng được thịt chó. Không lẽ mười mấy quận không kiếm nổi một cái quán. Điên tiết, hắn rồ gào chạy như thằng dở hơi ra đường. Đường vắng tanh. Đèn đỏ mặc, cũng chẳng có công an giao thông, đi nhanh thôi, không để dạ dày nó quằn quại như vậy. Mấy ngày tết hắn đã phải uống thuốc ngủ rồi. Chỉ có cảm giác mệt rã rượi và buồn ngủ. Giờ phải ăn, quên mẹ nó đi, chó sạch chó bẩn, chó vỉa hè chó nhà hàng tao cũng ăn. Chó đánh bả tao cũng ăn. Chết cũng được.

Khỉ thật. Họ treo bảng Chó Khai Xuân mà chả thấy chó đâu. Ông chủ nói, lấy ngày cho đẹp, chưa bán, xin lỗi, mong bác thông cảm. Có gì mồng bảy bác ghé. Ba chìm bảy nổi. Mồng bảy thì nói làm gì. Hắn lại rồ ga phóng như ăn cướp, như thượng đế hiểu hắn, chẳng có một đèn đỏ đèn vàng nào cản trở hắn. Đi thì đi cho trót, không lẽ về. Nhục.

Chủ quán thịt chó nói nhớ hắn. Hắn đã thề, đanh thép, sẽ không bao giờ rớ đến miếng thịt chó nữa.

Có cho tao vàng tao cũng không ăn. Cứt.

Mấy ông bạn của hắn đến, miệng nặc mùi chó và bia, rủ hắn, làm tăng ba. Hắn khua tay. Cứt. Tao đ. đi. Hăn thấy lợm lợm miệng.

Cho cái gì vô miệng, hắn cũng nôn ra cho bằng sạch. Lúc nào cũng đói, cồn cào như kiến bò trong bụng. Mấy ngày sau, hắn đi viện, họ nói viêm dạ dày. Uống rồi tiêm và truyền dịch, rồi tẩm bổ. Chẳng được gì. Hắn gầy hẳn. Cái mặt béo bệu của hắn giờ chảy dài ra. Da bụng tùa lại thành đống, lỏng bỏng. Chỉ cần đưa tay lên xoa xoa bụng, những lớp mỡ bụng cứ chảy qua bên này, chảy qua bên kia. Buông tay ra, chúng như muốn rời khỏi thân thể hắn.

Hắn hù vợ đốt nhà, nếu vợ hắn cứ tiếp tục xử sự với hắn như vậy.

Bệnh viện chật cứng người vì ăn uống không điều độ. Có một phần bị ngộ độc. Nhóm bạn, mà hắn gọi là chiến hữu, hai mươi lăm thằng nằm viện. Da vàng chạch, khô queo như vỏ chanh. Bọn này mới ham vui chứ, bày đặt nằm chung một nơi. Có đứa, cũng có vợ đi chăm sóc, cái mặt cũng đẹp, tận tình, ân cần. Có mấy thằng thì có bồ đến. Nhưng mấy con này không làm ăn được gì, tay chân khều khều, móng dài ngoằng, nhọn hoắt đỏ như máu vẽ vời lên dày như sáp. Nước hoa với son phấn thơm nức. Lượn lờ, nhắn tin, vuốt ve, âu yếm, gọi điện, cười, nhăn nhó rồi lượn lờ. 

*** 

Bệnh dạ dày cuối cùng cũng chữa khỏi. Nhìn đống thuốc mà nhớ đời. Nhưng không sao.

Hai giờ rồi. Đi làm một bữa cho đã đời, nhớ quá.

Giữa bao nhiêu là người, nhưng hắn vẫn ăn vội vàng, hắn sợ họ ăn hết của hắn. Vì thịt chó quá ngon, và nhất là quán này. Nó chẳng cần nhiều tiền. Vậy mới sướng.

Hắn thường ngồi bên bờ kè ăn thịt chó, và nhìn dòng sông trôi. Nói cho đúng, thì cái hắn gọi là dòng sông đã không còn là sông từ lâu lắm rồi.

Hắn có bốn mươi năm tuổi ăn thịt chó. Vợ hắn nghĩ hắn chỉ ăn vài ba năm nay. Không hiểu sao hắn giấu diếm hay đến vậy. Hắn lắc đầu, cười, bí mật. Hắn nói con chó hơi già. Làm được mấy món, ăn ngon, thích, nhớ đời.

Quán thịt chó này ngon nhất Sài Gòn. Tọa lạc bên bờ kè. Như thách thức mưa gió, thậm chí là mỗi chiều những trận triều cường lên bẩn thỉu. Tắc đường cũng chẳng là gì. Một con chó chế biến được hai mươi chín món. Mà món nào cũng ngon. Ăn một lần là nhớ mãi. Mặc dù dòng sông này ai ngửi phải mùi của nó đều viêm xoang, nhưng chẳng thể nào làm giảm đi cái vị cay nồng và thơm ngon đặc biệt của thịt chó, của rượu, của bia trong lúc họ ngồi đàn hát.

Họ đã ngồi từ hai giờ chiều. Họ hẹn một số người bạn. Đây là quán mối của họ, ở đây đã nảy sinh những mối quan hệ. Đến nay câu lạc bộ của họ đã kỷ niệm sinh nhật lần thứ tám. Bình có đến hơn một trăm người được hắn gọi là bạn hữu.

Sáng điểm tâm thịt chó. Trưa thịt chó. Tối thịt chó. Khuya thịt chó. Chó mọi nơi mọi lúc, có thể. Nếu một ngày không cho thịt chó vào miệng thì vô nghĩa quá. Như ban đầu giới thiệu, kẻ mê thịt chó này tên Bình. Hắn không chơi với Thằng chó già, vì món dồi của hắn không nuốt được nữa. Làm ăn kiểu đó, mất cả bạn hữu. Hắn chơi với Long. Đúng là cặp trời sinh, cứ như sinh ra để kết bạn và nhậu thịt chó với nhau.

Hắn không đặt bút ký vào lá đơn ly hôn nhưng việc ly hôn của họ vẫn diễn ra bình thường. Vợ hắn coi hắn là quái vật, bây giờ không có sự gì trên đời ghê tởm bằng chồng mình, nàng nhập viện tâm thần hai tháng, ra viện vẫn không thay đổi được điều gì. Mỗi khi Bình chạm vào nàng chỉ gây cho cô ả cảm giác mình đang đối diện với một con chó sói mắt đỏ, lưỡi thè dài ra nhễ nhại nước miếng. Thậm chí hắn không dám nhìn đối diện.

Cũng may cho vợ hắn. Mấy ngày sau đó, không hiểu có phải đó là chứng bệnh gì đó hay không mà Bình mắc chứng đi lui. Ai cũng thấy lạ, cả phố xếp hàng nhìn hắn. Nghìn nghịt tắc cả đường. Cảnh sát phải dẹp đường. Họ ban bố lệnh cấm, nên mọi người đỡ bớt đỗ ra đường xem hắn đi lui.

Hắn bị chứng bệnh đi lui.

Hắn đi một đoạn, nhận ra điều này. Nó khá xa nhà rồi. Hắn hơi sợ, tay chân hắn run, miệng va vào nhau cầm cập. Hắn lại thử thêm một đoạn. Hắn lẩm bẩm, vô ích rồi, Bình ơi. Dù mặt mũi hướng về trước nhưng cái lưng và chân hắn vẫn cứ đi lui. Hắn không thể đi đứng bình thường, hắn buồn quá. Đến thành phố B, ai cũng ngạc nhiên nhìn hắn.

Thôi thì đến thành phố C. Nhìn xung quanh, chẳng ai đi đứng kiểu như hắn, nhưng hắn chẳng thấy khó khăn gì cả. Hắn giao tiếp bình thường.  

ỐNG Ở ĐỜI

VŨ ĐẢM

      Trời mưa, kéo theo cái lành lạnh làm Đầm thấy buồn quá, mà một tháng  ba mươi ngày thì có mấy ngày Đầm không buồn! Sáng nay vợ gã đi chợ từ lúc trời còn tối om sau khi đã nấu xong nồi cơm cho chồng con. Nói là đi chợ cho sang chứ thật ra là vợ Đầm đi đồng nát, mang soong, ấm mới đi bán hoặc đổi cho thiên hạ. Công việc này trước đây là của Đầm nhưng khi nghe đám bạn thích ăn không ngồi rồi chế diễu:” Mày trông trí thức thế mà phải đi làm cái thằng đồng nát, đầu đường, xó chợ ấy à!”, thế là Đầm bỏ nghề.  Vợ chồng Đầm có bốn đứa con, ba cô con gái đầu  và một thằng cu nối dõi tông đường nhất thiết phải có, với bốn sào ruộng, không đủ ăn, Đầm bỏ nghề đồng nát thế nên vợ gã phải kế nghiệp chồng để duy trì cái gia đình vốn không mấy bình yên vì Đầm lúc nào cũng dọa bỏ vợ, bỏ nhà đi biệt xứ!

    Buồn, thì Đầm chỉ có mỗi cách giải buồn duy nhất là rủ thêm mấy người bạn cùng hội cùng thuyền đến nhà để uống trà, hút thuốc lào vặt và tào lao, phét lác. Sáng nay có vẻ khá hơn, Đầm bớt được mấy ngàn vợ đưa để mua thức ăn, mua hẳn một chai rượu và mấy gói lạc rang ở quán bà Ky về thết bạn.

- Này, hôm qua lại một vụ nổ bom ở Bátđa làm mấy chục người chết!- Bính mập lên tiếng.

- Còn chết nữa, phải tớ là Thủ tướng Irắc thì  chỉ trong vòng hai tuần, tớ sẽ dẹp yên ngay- Thọ gù đáp lời.

- Keng! Nào 50% !- Đầm cụng ly.

- Hôm qua đọc báo lại thấy  tham nhũng mấy chục triệu  “đôna” ở ngành dầu hoả, cánh ta có đạp xe  đi đồng nát mọt đít cả năm cũng không bằng một bữa nhậu của chúng nó!- Tảo có chứng bệnh hôi nách kinh niên than vãn.

- Phải tôi mà lên làm Bộ trưởng chống tham nhũng thì không cần một năm, bố bảo chúng nó cũng không dám tham nhũng!- Thọ gù hùng hồn tuyên bố.

      Bốn kẻ đang khoác lác thì ngoài ngõ có tiếng còi ô tô, cửa xe mở, hai vợ chồng dắt hai đứa con đi vào. Đầm chạy ra, chưa kịp nhận ra khách thì người đàn ông đã thốt lên:

- Đầm phải không? Tao- Kiên còi đây mà!

- á,  à dạo này béo quá  nhận không ra là phải.

    Kiên giới thiệu vợ con với Đầm, Đầm giới thiệu với đám bạn nhậu, Kiên ở tận xã Đoài, là bạn thân hồi học cấp ba của Đầm. Kiên mỉm cười gật đầu chào mọi người, nói nhân tiện nghỉ hè cho các con về quê chơi, tranh thủ ghé thăm Đầm, người ngày xưa đã từng bẻ đôi củ khoai lang luộc cho Kiên ăn lót dạ mỗi sáng đến trường.

    Đã gần mười năm nay không gặp lại Đầm, Kiên thấy Đầm già đi nhiều quá, cứ như Đầm đã ở cái tuổi năm mươi chứ không phải ba chín như Kiên. Cả cái ngôi nhà mà vợ chồng Đầm đang ở cũng già nua, tường tróc vữa, mái ngói trên nóc có mấy hòn bị xô lệch, những giọt nước đang thi nhau nhỏ tí tách xuống chiếc thau nhôm đặt dưới nền nhà. Đầm sai đứa con lớn đi đánh lại đám cốc chén cáu vàng, pha nước mời vợ chồng Kiên. Sực nhớ ra anh lái xe, Đầm nói:

- Lái xe đâu, sao mày không bảo vào đây uống nước?

- Tao tự  lái lấy,  cái xe này tao mới mua để mỗi khi về  quê cho tiện, còn đi công tác đã có xe cơ quan.

- Mày mua được cả ô tô?

- Cũng phải vay mượn thêm chút ít.

  Nghe Kiên nói, tự  nhiên sự vồ vập của Đầm biến mất, thay vào đó là sự ngượng ngập về cái nghèo của mình. Suốt nửa tiếng chuyện trò, chỉ độc Kiên hỏi, Đầm trả lời mà không mấy khi Đầm hỏi. Kiên bảo Đầm nên sửa chữa lại  nhà kẻo mùa mưa bão sắp đến, nếu có thiếu Kiên sẽ giúp đỡ. Đầm phẩy tay bảo chuyện vặt, chẳng qua là Đầm bận quá nên chưa có thời gian sửa!

  Đầm mời vợ chồng Kiên ở lại ăn cơm trưa, vừa lúc ấy điện thoại di động của Kiên đổ chuông, công ty có việc gấp, Kiên phải về giải quyết. Thấy gia cảnh Đầm khó khăn, Kiên mời Đầm lên nhà chơi, đến thăm công ty của Kiên, nếu Đầm ưng thuận, Kiên sẽ bố trí cho Đầm một chân ở phòng hành chính. Đầm xua tay:

- ồ  không không, lên chơi thì được chứ làm thì không, chả nói dấu gì mày, sắp tới thôn đang cơ cấu tao lên làm trưởng thôn, vả lại tao đi thì con cái ở nhà ai dạy?

- Thế  làm trưởng thôn bây giờ có lương không hay chỉ  được cấp thóc như ngày xưa?

- Có  chứ, cũng được mấy trăm ngàn, nhưng cái quan trọng là có cơ hội để thăng tiến trên xã.

- Thế  thì chúc mày sớm trở thành chủ tịch xã!

   Kiên ghi số điện thoại di động và nhà riêng cho Đầm, hẹn khi nào lên chơi điện cho Kiên ra bến xe đón. Vợ chồng Kiên đi rồi, những người bạn tâm đầu ý hợp của Đầm nhao lên bình phẩm.

Thọ  gù bảo:

- Cái thằng”  Lợn cưới áo mới” ấy nó đến cốt để khoe cái ô tô chứ chả tốt gì với ông đâu. Phải tôi mà là nó, tôi đã trả ơn ông mấy chục triệu!

  Bính mập bảo:

- Bọn nhà  giàu nó coi người như rơm rác, không chơi được đâu!

 Tảo hôi nách bảo:

- Tướng ấy thì tài cán gì, chắc giỏi luồn cúi nên được cất nhắc rồi tham nhũng, đục khoét của dân nên mới giàu có. Quên cái loại bạn ấy đi, kẻo có ngày mang tiếng!

   Đầm chẳng nói gì, chỉ uống rượu và thở dài. Đầm đã không định lên nhà Kiên chơi nhưng hôm sau bị bố đẻ đến nhà giáo huấn cho một trận về tội lười biếng, không chịu làm ăn, suốt ngày tụ tập rượu chè nên Đầm uất ức lắm, quyết định lên nhà Kiên mấy hôm cho khuây khỏa.

   Nhà  Kiên ở ngoại ô, một ngôi nhà được xây theo kiểu kiến trúc Pháp, có vườn, có gara để ô tô. Kiên dẫn Đầm đi các phòng giới thiệu, đến phòng cuối cùng, Kiên bảo:

- Đây là  phòng khách, vệ sinh khép kín ở góc kia. Đây là điều khiển tivi, còn đây là điều khiển đầu vidiô, mày nghỉ ngơi một lúc rồi vào tắm rửa đi, trưa nay mày đi ăn cơm khách với tao luôn.

   Không biết cách mở máy điều hòa, Đầm bật quạt máy vù vù, lúc sau đi vào phòng tắm. Trông thấy cái bồn tắm trắng tinh, Đầm sờ sờ, nắn nắn, loay hoay một lúc rồi cũng mở được vòi nước. Đầm tắm xong, Kiên vào bảo quần áo cứ để đấy, tối bà xã về đưa vào máy giặt một thể.

- Cái bồn tắm phòng khách, tao vừa lắp, những hơn chục triệu cơ  đấy, mày tắm đấy có thoải mái không?- Kiên hỏi.

- Những hơn chục triệu?- Đầm há mồm liên tưởng đến cái giếng nhà mình, vì không có nhà tắm nên chỉ Đầm và con cái còn tắm được ban ngày chứ vợ Đầm mỗi khi tắm phải chờ đến khi trời tối hẳn. Nhiều đêm trăng sáng, vợ Đầm phải xách nước ra vườn chuối tắm.

- Nghe quảng cáo là sản phẩm mới của Nhật, ngâm mình trong nước ấm có khả năng chữa được bệnh đau nửa đầu nên tao mua về dùng thử.

 Trưa, Kiên lái xe riêng chở Đầm lên Hồ Tây, vào một quán ở ven hồ, đã có bốn người khách đang đợi Kiên. Bữa ăn có bia Tiger, có tôm luộc, cá hấp,  chim quay, nem cuốn, toàn những món đặc sản mà ở quê chưa một lần Đầm được nếm nhưng Đầm ăn, Đầm uống nhỏ nhẹ lắm. Giá như bữa ăn là ở quê, không phải với Kiên cùng những vị khách thắt càvạt mà với Bính mập, Tảo hôi nách, Thọ gù thì có lẽ Đầm đã chén đến no say. Gần hai giờ chiều, Kiên đưa Đầm về nhà, dặn Đầm vào phòng khách ngủ, đọc báo hoặc mở ti vi, băng ra xem, Kiên đi họp khoảng bốn giờ sẽ về.Trước khi đi, Kiên không quên mở máy điều hoà cho Đầm.

  Giờ  này nếu ở quê, Đầm đang gáy khò khò  trên chiếc võng mắc ở hai cây mít bên bờ ao để hưởng gió mát rượi từ mặt ao thốc lên thế mà lúc này đây nằm trong căn phòng có máy điều hoà, Đầm lại không tài nào nhắm mắt được. Cứ nghĩ đến cảnh giàu sang, phú quí của Kiên, Đầm lại  thở dài. Đầm vớ tờ báo ở đầu giường, liếc qua vài dòng rồi ném xuống nền nhà. Đầm mở ti vi lên xem, chiếc ti vi màn hình 24 inh to và nét quá, chả bù cho chiếc ti vi Samsung 14 inh cũ kỹ ở nhà mà hễ cứ xem được mười lăm, hai mươi phút lại tắt ngóm cả hình lẫn tiếng, khi ấy Đầm lại phải chạy lại vả một cái thật lực vào vỏ, nó mới hiện hình, lên tiếng.

- Đêm qua, một chiếc xe hơi chở thuốc nổ đã nổ tung tại trung tâm thủ đô Bátđa… Lại khủng bố, Đầm tắt ti vi, ngồi dậy lấy nước lọc tu ừng ực. Đầm mở cửa đi ra ngoài, ngắm nghía ngôi biệt thự của Kiên, chốc chốc tiếng thở dài lại phát ra từ lồng ngực lép kẹp của Đầm. Đầm đi sang phòng đứa con trai của Kiên đang học bài, nói có chìa khoá cổng cho Đầm mượn mở cổng đi ra dạo quanh ngắm phố phường. Đầm đi ra đường, thơ thẩn vài vòng rồi tạt vào cái quán nước cạnh nhà Kiên hỏi xem có điếu hút thuốc lào không? Bà bán quán lắc đầu, mời Đầm vào uống nước. Đầm gọi một ly trà đá, vừa uống vừa nhìn về phía nhà Kiên. Bà bán quán trông thấy Đầm có vẻ nhếch nhách, hỏi:

- Anh đến thông nhà vệ sinh hay làm cỏ cho nhà anh Kiên à?

- Không, cháu  ở quê lên.

- Ra là  người nhà, nhà anh Kiên giám đốc giàu nhất khu này đấy nhưng sống cũng tình cảm lắm chứ không vác cái mặt lên như mấy  ông cán bộ khác.

  Càng nghe bà bán nước kể về sự giàu sang, lòng tốt của Kiên, Đầm càng thấy buồn. Bỗng Đầm đứng phắt dậy, quên cả trả tiền nước làm bà bán quán phải gọi giật lại, Đầm đỏ mặt xin lỗi. Trả tiền xong, Đầm đi về nhà Kiên, xin con trai Kiên tờ giấy, hý hoáy ghi mấy chữ cho Kiên, nói rằng Đầm vừa điện về cho ông anh họ làm Phó chủ tịch xã, ông bảo phải về ngay để họp cơ cấu nhân sự trưởng thôn, nếu không phe cánh họ Trần đang lăm le đưa người của họ vào.

  Đầm ra bến xe, kịp đi chuyến vét về quê. Ba đứa con đã đi ngủ, đứa lớn đang thái bèo lợn, vợ Đầm cũng vừa đi cân hàng về. Thấy Đầm về, vợ Đầm ngạc nhiên:

- Sao bảo anh lên Hà Nội chơi với anh Kiên mấy ngày mới về  cơ mà?

- Thời gian đâu mà chơi mấy ngày- Đầm hầm hầm đi vào trong nhà, thấy cái sọt đựng soong ấm để ngay giữa nhà, Đầm cáu tiết đá đánh xoảng một cái:

- Nhà  chứ có phải cái chuồng lợn đâu mà để bừa bãi thế này!

  Vợ  Đầm chạy vội vào thu dọn, thấy chiếc ấm mới bẹp dúm, vợ Đầm giận lắm nhưng không dám nói ra mồm. Bê cái sọt vào góc buồng, vợ Đầm ra thì thào vào tai con gái, nó dừng tay thái bèo, đi vào lễ phép:

- Bố  ăn gì chưa để con dọn cơm cho bố?

- Không cơm với cháo gì hết, để cho tao yên!

   Từ  đấy vợ con Đầm không một tiếng nói, không một tiếng động nào cốt giữ yên tĩnh để cho Đầm được yên, được ngủ nhưng mà Đầm lại không tài nào ngủ được. Đầm nghĩ đến cái ô tô con của Kiên có màu nâu thẫm, trị giá bằng mấy chục cái dinh cơ nhà của mình; cái bồn tắm bằng cả cái bếp nhà mình. Đang lan man nghĩ thì Đầm thấy bụng đau đau, Đầm lật đầu giường, xé miếng giấy báo đi ra nhà xí ở góc vườn. Đầm mở cái cửa gỗ mối mọt lom khom bước vào, mùi thối xộc lên làm Đầm váng vất cả đầu óc. Rồi Đầm lại nghĩ đến cái bệ vệ sinh ở phòng khách nhà Kiên, nó trắng tinh, thơm tho, có vòi xịt, có giấy mềm để dùng, có xà phòng thơm để rửa tay. Đầm ngồi, dễ có đến mười lăm phút nhưng vẫn không thấy ra, Đầm vo viên miếng giấy báo ném bộp vào cánh cửa.

   Đầm quay về giường, trằn trọc, lăn trái, lăn phải, nằm sấp, nằm nghiêng, đã thế cái đói lại mỗi lúc một trỗi dậy, khiến Đầm lại càng khó ngủ. Quãng một, hai giờ sáng, đói quá, Đầm không chịu nổi đành trở dậy mò xuống bếp vét cơm nguội ăn, nhờ thế Đầm mới thiếp đi được.

 Khi Đầm tỉnh dậy thì vợ đã đi đồng nát, nhìn thấy đứa con gái thứ ba mặt mũi lem nhem, Đầm quát lên:

- Bẩn tưởi thế này à? Nợ đời!

 Đứa con gái đầu lòng vội chạy vào dắt đứa em ra giếng nước rửa mặt, rồi nó quay vào nhà, lấy ra ít tiền đưa cho bố:

- Bố  ơi! mẹ bảo bố mệt, bố đạp xe ra chợ  ăn phở hay cháo lòng cho lại người.

   Nín nhịn và chiều chồng, ấy là đức tính mà  vợ Đầm có được và luôn luôn duy trì để gìn giữ mái ấm gia đình, không phải cho mình mà cho bốn đứa con. Vợ Đầm tuy chỉ mới học hết cấp hai nhưng lại hiểu được mình nhan sắc bình thường, gia đình lại nghèo, lấy được chồng, muốn giữ được cha cho những đứa con thì chỉ có cách nín nhịn và chiều chồng. Nếu không chỉ cần sểnh ra một tý là đám cave ở mấy quán Karaoke ngoài chợ làng quyến rũ, không bị đổ bệnh HIV như anh Tào, ông Nhị thì cũng tan nát gia đình.

 Quả  nhiên khi nghe đứa con lớn nói, cơn bực tức trong Đầm dịu đi, gã cầm tiền đi ra chợ tạt vào quán cháo lòng tiết canh của chị Mành, gã gọi một đĩa lòng lợn, một ngàn rượu, ngồi nhâm  nhi, suy ngẫm sự đời. Gã thấy buồn đời quá, gã cùng tuổi, cùng học với Kiên  thế mà phải sống ở quê nghèo với cô vợ vừa già vừa xấu. Còn Kiên đã lùn, lại còn đen cháy thế nhưng được sống trong giàu sang với cô vợ trắng trẻo, xinh xắn. Giá như hồi ấy gã quyết tâm theo đuổi con đường học hành; giá như gã đi thoát ly thì có lẽ bây giờ gã còn hơn cả Kiên!

  Ngồi một mình mãi cũng chán, Đầm trả tiền, đi về  nhà Thọ gù. Nhà Thọ gù ở cuối làng, Thọ gù sống một mình trong ngôi nhà tranh, vách đất, bố mẹ đều đã chết, có hai người chị gái thì đều lấy chồng xa. Năm hai lăm tuổi, Thọ gù cưới được cô vợ khá xinh nhưng sau khi biết đứa con trong bụng vợ không phải là con mình nên Thọ gù đuổi vợ ra khỏi nhà, từ đấy Thọ gù sống một mình. Thọ gù cũng chỉ có một sào ruộng, vì không có sức khoẻ nên đành cho người ta cấy thuê, mỗi vụ được trả năm mươi cân thóc. Dĩ nhiên với số thóc này, sống trong sáu tháng, ăn cháo cũng chẳng đủ nên Thọ gù kiếm ăn bằng cái nghề độc nhất vô nhị, ấy là nghề xu nịnh! Thời buổi này, chẳng cứ gì quan to, quan bé, kẻ sĩ, người giàu có mà ngay cả những kẻ bần cố nông thất học, nghèo khó cũng thích được khen, được nịnh thành ra Thọ gù sống an nhàn mà vẫn có kẻ vui vẻ cho ăn, cho uống, nhiều khi lại cơm gà, cá gỡ hẳn hoi! Nhưng cũng phải công nhận một điều là Thọ gù rất có năng khiếu trong việc nịnh người, rõ biết làThọ gù bốc thơm mình đấy nhưng không những không làm cho người ta ngượng mà còn làm cho người ta lâng lâng, sung sướng. Thì đấy ngay cả đến ông Mậy, Phó chủ tịch huyện trong một lần về thăm xã, vì ăn nhậu nhiều nên khuôn mặt của ông bèn bẹt như tảng thịt lợn nhưng khi nghe Thọ gù bảo:” Ông có khuôn mặt của quý tướng, chỉ kẻ sĩ mới nhận ra được”, lập tức Thọ gù được ông Mậy vào  thăm nhà và tặng quà như đối với một người có công với nước! Thậm chí Thọ gù còn được ông Mậy vỗ vai:” Cậu giống như Tể tướng Lưu gù đang chiếu trên phim!”. Sau đợt ấy, những chức sắc ở xã xem ra cũng nể Thọ gù lắm!

  Với  Đầm thì Thọ gù là bạn chí cốt, không một cuộc rượu nào mà Đầm không mời Thọ gù và cũng không một lời mời nào mà Thọ gù từ chối. Vừa nhìn thấy Đầm bước vào, Thọ gù đã đánh tiếng:

- Thế  nào, kẻ sĩ không chơi được với bọn nhà  giàu trưởng giả nên phải chuồn vội phải không?

- Không, thằng ấy nó rất tử tế, chỉ có điều…Đầm cũng chẳng biết nói thế nào nữa nên đành lấp lửng. Thọ gù quay giọng:

- Thì  bạn thân mà lại, nhưng ông là thảo dân quen sống thanh tao nơi thôn giã, như con đại bàng thích tung mình trong trời xanh, sao có thể chịu nhốt trong bốn bức tường nơi phố phường!

   Được ví với đại bàng, tuy lòng dạ đang buồn chán nhưng Đầm thấy như được an ủi. Thọ gù tiếp tụ rót vào tai Đầm những lời có cánh, nghe êm ái đến nỗi trước khi ra về, trong túi còn mấy ngàn, Đầm rút nốt cho Thọ gù.

  Cơm trưa xong, Đầm lại ra chiếc võng mắc bên bờ ao ngủ đến tận chiều.Tỉnh dậy, Đầm ủ rũ, phờ phạc như kẻ thất tình. Rồi  Đầm mắc thứ bệnh quái lạ, ăn kém, ngủ kém, chỉ thở dài là nhiều. Người Đầm cứ héo hon, vàng vọt. Đi lên bệnh viện đa khoa tỉnh khám, bác sĩ bảo Đầm bị suy nhược tinh thần, phải uống thuốc an thần, thuốc ngủ nhưng cũng chẳng khỏi. Vợ Đầm sang mãi tận huyện bên cắt thuốc đông y của cụ lang Tỉnh có tiếng nhưng cũng chẳng ăn thua. Đầm chỉ còn húp được nước cháo, ngay cả đến tiếng thở dài như là biểu hiện của sự sống ở Đầm cũng chẳng ra hơi. Cái chết đang đến từng ngày với Đầm. Một người làng đi làm cửu vạn ở Hà Nội đến nhà mách vợ Đầm, ở chỗ anh trọ có ông thầy xem bói hay lắm, thử lên đấy xem và nhờ ông cúng bái cho. Vợ Đầm tất tả lên Hà Nội tìm đến nhà thầy, thầy phán mồ mả tổ tiên bị động, phải cúng lễ, chi phí hết ba triệu. Vợ Đầm thất kinh van nài nhà đến một trăm ngàn kiếm còn không ra, lấy đâu ra ba triệu? Thầy bảo  thầy có thương tình lắm cũng phải mất hai triệu. Đang lúc hoang mang thì may sao vợ Đầm sực nhớ đến mảnh giấy ghi số điện thoại của Kiên liền gọi đến để vay tiền. Nhận được điện, Kiên đến ngay, nghe vợ Đầm kể lại việc Đầm bị bệnh  đang nằm chờ chết, Kiên kinh ngạc :

- Sao bảo  Đầm lên làm trưởng thôn rồi cơ mà?

- Trưởng thôn nào?- Đến lượt vợ Đầm ngạc nhiên.

- Thì  chính Đầm bỏ về ngay để bầu trưởng thôn đó thôi?

   Đến lúc này thì vợ Đầm đã hiểu, mếu máo nói với Kiên, đấy chẳng qua là Đầm sĩ diện thế thôi chứ người như Đầm suốt ngày chỉ  tụ tập với đám người thích ăn không ngồi rồi, phét lác thì ai người ta bầu!

- Thế  Đầm đổ bệnh lâu chưa?

- Từ  ngày ở nhà anh về, suốt ngày thở dài kêu chán đời. Hễ em đi chợ thì không sao còn về nhà là phải nghe đay nghiến: Đời tôi khổ vì cô. Nếu ngày ấy cô đừng sang nhà tôi chăm mẹ tôi ốm thì tôi đã thoát ly, đã giàu có, vợ đẹp con khôn như thằng Kiên!

   Vậy là đã rõ, Kiên kéo vợ Đầm ra ngoài xì xầm vào tai vợ Đầm không phải cúng bái gì nữa, hãy quay ngay về nhà, cứ thế, cứ thế. Kiên đưa vợ Đầm ra bến xe, dúi vào tay vợ Đầm mấy trăm ngàn rồi phóng xe ra chỗ bán quần áo cũ ở vỉa hè mua một bộ . Kiên về nhà dặn dò vợ. Ngay chiều ấy Kiên về quê Đầm trong bộ quần áo nhàu nát, tóc tai bơ phờ. Kiên đi vào nhà Đầm, đến bên giường Đầm, nước mắt ứa ra khi thấy thân hình Đầm chỉ còn da bọc xương.

- Đầm ơi! Đầm ơi!- Kiên lay gọi Đầm, mãi lâu sau mới thấy  Đầm tỉnh lại. Kiên nắm chặt bàn tay gầy guộc của Đầm thổn thức:

- Đầm ơi, tao bị trắng tay rồi, thật ra ngôi biệt thự, xe ô  tô là do tao tham ô mà có chứ không phải do công sức làm ra. Thanh tra đã phát hiện ra, tao phải bán hết đi để bồi thường, lại còn phải chạy vạy cả trăm triệu mới không bị vào tù. Bây giờ tao không còn một tất đất cắm dùi, giá tao cứ sống nghèo mà thanh bạch như mày thì hạnh phúc biết bao.Tao đang định về nhà mày tá túc một thời gian rồi đưa vợ con vào vùng kinh tế mới trong Nam, nào ngờ mày lại cũng ra nông nỗi này.

- Cái gì? Tham ô? Trắng tay?- Đầm thều thào. Kiên gật đầu. Thật kỳ lạ, như từ cõi chết trở về, Đầm từ từ ngồi dậy, chấm chấm những giọt nước mắt trên má Kiên, rồi xoa xoa vào tay Kiên như muốn an ủi Kiên đừng quá buồn đau mà sinh bệnh tật.

  Vợ  Đầm thấy chồng tự ngồi dậy được, lại còn cố sức an ủi Kiên thì mừng lắm, chạy vội xuống bếp múc ngay một bát cháo gà mang lên cho chồng. Đầm ra hiệu múc thêm bát nữa cho Kiên. Nhìn Kiên ăn ngấu nghiến, Đầm nghĩ chắc mấy hôm nay Kiên chưa có miếng gì vào bụng. Thật khổ cho Kiên quen ăn cao lương mỹ vị rồi, giờ ăn khổ sao chịu được!

- Mày cũng ăn đi chứ!- Kiên giục Đầm, Đầm cầm thìa xúc cháo ăn ngon lành như chưa từng ăn cháo gà bao giờ. Mồ hôi đùn ra trên mặt Đầm, Đầm thấy nhẹ nhõm cả người.

 Sức khoẻ Đầm hồi phục rất nhanh, cứ như Đầm uống được thần dược. Còn Kiên thì lại ủ rũ như gà mắc bệnh cúm, chốc chốc Kiên lại thở dài than thở:

- Giá  mà tao cứ sống bần hàn nhưng thanh bạch như  mày thì hạnh phúc biết bao!

Khi ấy  Đầm lại an ủi Kiên:

- Thôi  đừng lo nghĩ nữa, ở quê đất cát mày đã nhượng lại hết cho họ hàng, nếu vào Nam sống không được thì cứ quay về đây, đất nhà tao còn rộng, dựng tạm cái nhà cho vợ con có chỗ chui ra chui vào.

   Gần một tuần sống ở nhà Đầm, Đầm tuy còn gầy nhưng sức khoẻ đã hồi phục, Kiên xin phép Đầm về quê vợ để chuẩn bị đón vợ con vào Nam! Lúc tiễn Kiên ra ngõ, Đầm nắm chặt tay Kiên dặn dò:

- Chỗ  bạn bè thân thiết đừng khách khí, nếu vào Nam sống không được cứ đưa vợ con về đây.

Kiên có  vẻ xúc động lắm, miệng bảo luôn mấy câu:

- Cám  ơn mày,  chúng mình cùng cảnh nghèo, cùng cảnh nghèo… 

NGƯỜI ĐI CHÂN ĐẤT

VŨ ĐẢM

      Lệ  thường, năm rưỡi sáng, trời còn tối om om, lão Bồng đã dậy. Việc đầu tiên là lão bắn một  điếu thuốc lào rõ dài rồi đi ra mảnh vườn trước nhà, tỷ mẩn xem xét từng cây hoa hồng mà  bao năm qua lão mày mò chiết chiết, ghép ghép. Sau đó lão lững thững vác cuốc ra đồng, tháo nước vào hai sào ruộng lúa của nhà mình rồi thực hiện cái việc "thứ nhất quận công, thứ nhì...". Nhẹ nhõm cả người, lão Bồng trở về nhà vào lúc sáu rưỡi, cơm nước xong, nếu không có việc gì ở làng như đám cưới, ma chay, giỗ chạp là lão lại ra vườn hoa hồng hoặc chúi mắt vào đọc mấy quyển sách kỹ thuật trồng hoa.  

Nhưng hôm nay thì không, ngay từ lúc bốn giờ rưỡi sáng lão Bồng đã bật dậy sau một giấc mơ tuyệt đẹp, lão mơ thấy những cây hoa hồng nở ra những bông hoa đỏ thắm, to bằng cái bát ăn cơm. Lão lao ra vườn, trời tối không nhìn thấy gì, lão quay vào nhà lấy chiếc đèn pin ra soi. Những cái nụ hoa hồng to mập khác thường đang hé mở, lão sung sướng hét lên:

     - Thành công rồi!

     Lão chạy vào trong nhà, lay vợ:

- Bà nó ơi!

- Cái gì?- Vợ  lão cáu cẳn.

- Cây hồng đã có  nụ hoa, to, to lắm!

     Vợ  lão ngáp ngắn ngáp dài, tưởng gì chứ lại mấy cây hồng chết tiệt. Đàn bà, con gái bén tí hơi đàn ông vào đến ngày đến tháng còn có nụ có hoa huống hồ là cây! Nghe vợ càu nhàu, lão bỏ ra ngoài, hết rít thuốc lào lại ra ngắm những nụ hồng cho tận đến lúc trời sáng bạch, quên cả đi tháo nước và thực hiện cái việc kia.

 Lưng lửng trưa, lão Bồng ra ủy ban xã gặp chủ tịch Trịnh Hào, lão nói:

- Đồng chí chủ  tịch à, xã mình đất chật người đông, bình quân  đầu người một sào ruộng, một năm giỏi cũng chỉ  thu được hai tạ rưỡi thóc, ăn cũng không đủ chứ  đừng nói gì đến xây nhà, ma chay, cưới xin.           

Thấy mặt chủ  tịch Trịnh Hào đã có vẻ khó chịu, sợ  chủ tịch bỏ ra ngoài hay đuổi khéo mình, lão Bồng trình bày ngay kế hoạch cả xã làm giàu từ cây hồng  mà lão đã hao tổn bao công sức, tiền của để lai ghép.           

Chủ tịch Trịnh Hào xua tay lia lịa như thể lão Bồng đang bị  nhiễm vi rút cúm gà H5N1:

- Thôi, thôi, tôi xin bác, dân tuy nghèo nhưng ổn định. Tưởng bác phát minh ra được giống lúa mới năng suất cao hoặc lợn gà  ăn chóng lớn chứ cái thứ hồng chết tiệt  ấy thay lúa mà thất bại, dân đói, họ kiện tụng thì chết!                  

Lão Bồng buồn lắm, vác bộ mặt đưa đám ra về. Trước đây lão mày mò lai ghép hy vọng tạo ra giống hồng mới chỉ  vì sự đam mê và sự trả thù  cho một mối hận bí mật nào đó luôn đeo bám trong lão. Nhưng từ lúc nhìn thấy những nụ hồng to lạ khác thường thì lão tin tưởng lão sẽ thành công. Cái ý nghĩ giúp người  nông dân quê lão làm giàu từ cây hồng cũng mới chỉ vụt ra từ sáng nay. Lão hăm hở ra uỷ ban xã, những tưởng người ta sẽ cảm kích trước tấm lòng của lão, nào ngờ chủ tịch xã lại sợ lão như sợ một kẻ sẽ gieo rắc mầm mống nổi loạn trong dân chúng.

     Lão  Bồng không  bỏ cuộc mà dốc công nhiều hơn nữa vào chăm bón hoa hồng. Mấy chục ngày sau, những bông hoa hồng đỏ thắm lớn dần, to như cái bát ăn cơm, đặc biệt là mùi thơm cứ ngan ngát quyến rũ đến mê hồn. Một anh chàng con nhà giàu có thấy hồng đẹp đến mua năm bông tặng sinh nhật người yêu, chẳng cần phải trả giá, chàng thanh niên móc ví rút soạt ra một tờ năm mươi ngàn dúi vào tay lão Bồng; lão ngẩn tò te ra một lúc rồi tủm cười nịnh đầm:" Cậu đúng là dân sành chơi hoa!". Bán được hoa hồng với giá cao lại càng thổi bùng lên ý chí làm giàu của lão Bồng. Lão ngắt một bông bọc và nylông cẩn thận rồi đạp xe lên phố huyện. Lão đi chào hàng? Ồ không, lão vào Phòng Nông nghiệp huyện. Lão nghĩ cấp trên chắc sẽ có cái nhìn xa trông rộng hơn cấp dưới xã. Tiếp lão là trưởng phòng Lê Bầu- bác sĩ thú y, cử nhân tại chức kinh tế, cử nhân chính trị chuyên tu.      

Vừa nghe lão Bồng giới thiệu ở thôn Đông, làng Lăng, xã Thắng Lợi, trưởng phòng Lê Bầu đã cắt ngang:

- Chắc bác lại lên kỳ kèo xin cho xã được công nhận là xã  văn hoá chứ gì? Tôi đã nói với tay chủ  tịch Trịnh Hào rồi, Thắng Lợi có tới 20% hộ  đói ăn, 40% hộ nghèo nên Phòng Nông nghiệp không thể  chứng thực để uỷ ban nhân dân huyện công nhận là xã văn hoá được!            

Lão Bồng xua tay:

- Ấy, không, không, tôi đến đây vì chuyện này.

   Lão Bồng cẩn trọng tháo mảnh lynông ra, đặt bông hồng lên bàn, trình bày ý tưởng của mình. Trưởng phòng Lê Bầu khen ngợi:

- Trước hết thay mặt Phòng Nông nghiệp huyện, tôi xin biểu dương tinh thần hăng say nghiên cứu, tìm tòi của bác.

- Dạ thật ra là tôi chỉ mày mò nghiên cứu thôi chứ  không có phương pháp  khoa học như các anh- Lão Bồng phân bua.

- Xin lỗi bác, thế  ngày xưa bác có đi du học ở xứ sở hoa hồng Bungari không?

- Dạ, không!

- Thế chắc bác  đã tốt nghiệp đại học Nông nghiệp?

- Dạ, cũng không, chả nói dấu gì anh, gia đình tôi nghèo, không có  điều kiện nên tôi mới chỉ học hết lớp ba.

    Trưởng phòng Lê Bầu, mắt nhìn lơ đễnh ra ngoài cửa sổ, miệng nói:

- Thế thì  càng biểu dương tinh thần hăng say nghiên cứu của bác. Nhưng đây là vấn đề khoa học, bác cứ để  đây chúng tôi sẽ nghiên cứu rồi trả lời bác sau.

    Lão Bồng vừa đi khỏi, trưởng phòng Lê Bầu cầm bông hồng vứt vào sọt rác rồi đi sang phòng nhân viên oang oang:

- Đúng là một buổi sáng dở hơi!

- Có chuyện gì  vậy Sếp?

- Đang ngồi viết báo cáo thì có một lão nhà quê đến định thay các nhà khoa học và chính trị phá  lúa trồng hồng, mà hình như lão đi chân  đất thì phải?

- Đầu óc lão có vấn đề rồi!

- Nghe nói trại tâm thần Cầu Dừa vừa sổng chồng một bệnh nhân; không khéo là lão cũng nên. 

      Lão Bồng đợi đến gần một tháng mà không thấy tin tức gì, lão lại đạp xe lên Phòng Nông nghiệp hỏi thì được một kỹ sư trả lời đây là vấn đề khoa học nên phải nghiên cứu hàng năm chứ không thể một sớm một chiều mà kết luận được! Lão Bồng vặn hỏi thế bông hồng to bằng cái bát ăn cơm ấy chả nhẽ lại chưa đủ để kết luận hay sao? Thì lại được anh kỹ sư giải thích rằng, chỉ cần bón một ít thuốc kích thích thì có thể tạo ra được bông hoa hồng to bằng cái rá đãi gạo chứ bằng cái bát đã ăn thua gì!

    Lão Bồng thất vọng lắm, bao nhiêu hy vọng vào cấp trên thế  là tiêu tan. Lão nghĩ chắc biết lão không có  học hành gì nên người ta không tin lão, bây giờ kỹ sư, tiến sỹ, giáo sư đầy ra đấy mà chẳng còn làm nên cơm cháo gì huống hồ lão chỉ là một nông dân thất học! Thì ra không có học  là một nỗi nhục nhưng lão Bồng cũng nghĩ có học mà chẳng làm nên trò trống gì thì cũng chẳng vinh quang cái quái gì! Hừ, đã thế ta cứ thử làm xem sao! Thế là lão Bồng  quyết tâm thực hiện trồng ghép hồng đại trà thay lúa trên mấy sào ruộng nhà mình cho vụ tết sang năm. Nhưng lão không có vốn, đi vay người thân, hàng xóm đều bị từ chối. Người ta bảo lão sắp điên, trồng gì chả trồng lại đi trồng hồng- cái thứ xa xỉ chỉ người thành phố mới cần. Hễ cứ ra đường là lão lại được nghe những lời dè bỉu:" Lão Bồng này, tết tới bà con dân làng chúng tôi không gói bánh chưng nữa mà dành tiền mua hoa hồng của lão đấy nhé!", " Tỉnh sắp mở Hội nghị khoa học quốc tế, lão Bồng đã đã nhận được giấy mời chưa?", " Lão Bồng đấy à, trại tâm thần cầu Dừa cho mời lão lên đấy, họ đang thiếu biên chế!".

     Lão Bồng đành đi vay ngân hàng. Phải có thế chấp. Lão thế chấp nhà nhưng vợ con lão không cho, lại chửi cho lão một trận kịch liệt, vợ lão còn tuyên bố nếu lão đem trồng hồng thay lúa thì sẽ làm đơn ly dị lão. Lão đành phải chia tài sản trước rồi lấy phần của mình đem thế chấp vay được  mười hai triệu đồng.

    Vụ  sau lão Bồng không cấy lúa trên mấy sào ruộng khoán nữa mà đem trồng chính cái thứ hoa hồng mà lão lai ghép được, lão trồng hơn một nghìn cây. Không một ngày nào, nắng cũng như mưa người ta không thấy lão Bồng trên ruộng hồng.

   Giáp tết năm sau, ruộng hồng của lão Bồng đỏ rực bởi hàng ngàn bông hoa hồng đỏ thắm. Lão ngắt mấy chục bông lên tận Hà Nội chào hàng. Ngay hôm sau người ta kéo về, trông thấy vườn hồng của lão, ai cũng tranh mua, cuối cùng lão Bồng bán tất tật cho một người với giá bình quân năm ngàn đồng một bông, cả thảy lão thu được năm mươi hai triệu đồng.

- Những năm mươi hai triệu!

- Hình như hơn, lão ấy giấu!

- Nhà tôi  có ba sào ruộng, cấy lúa một năm thu hoạch chín tạ thóc, nếu bán được giá cũng chỉ có triệu rưỡi!

   Cứ  thế, cái tin lão Bồng bán ruộng hồng được những năm mươi hai triệu gây chấn động cả làng. Khắp làng trên xóm dưới đâu đâu người ta cũng bàn tán về sự kiện có một không hai này. Có ai ngờ cái lão Bồng trông cục mịch, cả ngày chả nói lấy một câu ấy thế mà tự mày mò lai ghép được giống hồng vừa cho hoa to, đẹp, thơm lừng lại vừa giữ được lâu. Nhiều nhà sang nhà lão Bồng xin mua giống, lúc đầu thì lão cho không, sau nhiều người xin quá lão đành bán với giá rẻ. Lão còn viết cả kỹ thuật trồng, chăm bón, đem thuê đánh máy, phôtô rồi phát không cho những ai muốn trồng giống hồng của lão. Chỉ trong vòng bốn năm, bộ mặt của làng Lăng vốn đùi hiu với những mái nhà tranh, vách đất đã lột xác. Nhà ngói, nhà cao tầng san sát mọc lên nhờ hoa hồng. Để ghi công ơn lão Bồng, đám thanh niên làng đã ngấm ngầm đi đến các nhà trồng hoa hồng vận động đóng góp tiền để đi mua đá, thuê nhà điêu khắc về tạc tượng lão Bồng ngay tại cánh đồng bát ngát hoa hồng. Nhà nào cũng phấn khởi đóng góp, số tiền lên đến hàng chục triệu đồng. Hay tin, lão Bồng đang cào phân ở chuồng lợn, quần còn ống thấp, ống cao chạy bổ ra:

- Này các cháu  ơi, đừng làm thế, bác van các cháu đấy!

- Làm thế bác càng nổi tiếng chứ sao!

- Không, không, bác có phải là nhà khoa học đâu, bác chỉ  mò mẫm thôi mà!

- Bác đã giúp cho cả làng thoát được đói nghèo, ấy là lòng dân làng muốn thế, chúng cháu chỉ là người thực hiện. Vả lại khối đá này đã mua rồi!

- À thế  này đi, chúng ta sẽ tạc một em học sinh, hai tay cầm cuốn sách, trên đó có một bông hoa hồng. Ngày xưa các cháu đi học chả từng ép hoa phượng vào vở là gì? Hơn nữa thời buổi bây giờ, muốn làm giàu được phải có học chứ mày mò như bác vừa lâu vừa tốn kém, tỷ lệ thành công cũng ít.

     Thuyết phục mãi chả được, lại nghe lão Bồng nói cũng có  lý nên đám thanh niên đề nghị nhà  điêu khắc chuyển đề tài theo sự gợi ý của lão Bồng.

   Chả  cần phải tạc tượng thì mấy ngày sau lão Bồng cũng đã trở thành người nổi tiếng, người ta chuyền nhau tờ báo có cái tít "Người đi chân  đất". Ái chà chà! Thì ra lão Bồng trồng hoa hồng là xuất phát từ mối tình đầu. Hồi còn thanh niên lão lên Hà Nội thăm bà cô, cạnh nhà có vườn hồng rất rộng. Sáng sáng lão thường thấy một cô gái ra vườn cắt hồng đi bán, lão hay sang giúp cô bó hoa rồi đem lòng yêu cô. Thấy lão đẹp trai, hiền lành, cô đáp lại tình yêu của lão nhưng bố mẹ cô không đồng ý vì nhà lão ở quê, lại nghèo. Tướng lão trông cục mịch, mẹ cô bảo người như lão thì chỉ về quê, bì bõm theo đít trâu là phù hợp. Lão uất ức lắm, ngay hôm sau khăn gói về quê, cưới luôn cô gái đẹp nhất làng chính là vợ lão bây giờ. Bài báo còn nói, dù đã trở thành triệu phú làng nhưng lão Bồng toàn đi chân đất, khi ra đồng cũng như ở nhà, khi tiếp khách cũng như ngồi một mình rít thuốc lào. Điều tai hại là ở chỗ bài báo chỉ tả lão Bồng đi chân đất mà không nói nguyên nhân nên ngay sau khi bài báo đăng được vài ngày, người ta nườm nượp phi xe máy về làng. Việc đầu tiên là tìm đến nhà lão Bồng ngắm chân lão rồi sau đó mới đi ngắm và mua hoa hồng.

- Người lão cao to thế mà hai bàn chân lại nhỏ nhắn như  chân con gái, đúng là chân của quí nhân, khéo mà  một, hai năm nữa lão lên chủ tịch xã chứ chả chơi!

- Nhà giàu, nhất là ở quê họ keo kẹt lắm!

- Sờ vào chân lão lạnh như đồng, giới khoa học cần phải nghiên cứu, biết đâu lại chả phát minh ra điều gì  huyền diệu về bàn chân con người?

- Kính gửi Ngài nông dân chân đất! Tôi là một chuyên gia Nhật Bản, hiện đang nghiên cứu về nông thôn và nông nghiệp Việt Nam. Tôi thấy ở đất nước ngài có rất nhiều kỹ sư, tiến sỹ làm lãnh đạo hoặc ngồi bàn giấy nhưng lại thiếu những chuyên gia và công nhân tay nghề cao vì vậy tôi rất trân trọng và cảm phục trước ý chí và sự tìm tòi sáng tạo của ngài. Tôi hy vọng ngài sẽ trở thành một chuyên gia về hoa hồng và hoa của ngài sẽ được xuất khẩu ra khắp thế giới. Người phương Tây có câu: "Bánh mì và hoa hồng ", ngài đang dùng hoa hồng để làm ra "bánh mì- đô la". Chúc ngài thành công!

     Nhân  đây tôi cũng xin lưu ý với ngài rằng, hồi mới sang đây, tôi cũng hay đi chân đất để lội ruộng cho tiện và tôi đã bị cảm lạnh phải  đi viện. Vì vậy ngài cũng không nên chủ quan đi chân đất vào những ngày giá rét...(trích thư).

 Khổ! chân lão Bồng nào có phải của quí nhân, lão cũng chẳng keo kẹt đến mức không mua nổi đôi đôi giầy, lại cũng có huyền diệu huyền diếc gì  đâu, lão cũng sợ cảm sợ ốm lắm chứ! Chả  là ngày xưa nhà lão quá nghèo, toàn ăn rau má, củ chuối, áo cũng chỉ có một manh thì tiền đâu ra mà mua giày với chả dép! Mấy mươi năm đi chân đất quen rồi đến khi mua được giày, dép hễ cứ xỏ vào là mồ hôi lại đổ ra, ngứa ngáy khó chịu thế là lão quẳng đi.

     Việc lão Bồng, triệu phú làng đi chân đất tưởng cũng chỉ ầm lên một tí rồi quên ngay, nào ngờ lại trở thành vấn đề hệ trọng của xã, chính chủ tịch xã Trịnh Hào đích thân  đến nhà lão Bồng:

- Bác Bồng à, xã  tặng bác đôi giày mới.

- Có việc gì  thế đồng chí chủ tịch?

- Việc quan trọng lắm bác ạ! Nó là uy tín, danh dự, là  niềm vinh quang, tự hào cho xã ta.

- Sao? Vinh quang? Tự  hào?

- Vâng! Vâng vâng vâng! - Chủ tịch Trịnh Hào hổn hển - Đúng chín giờ  sáng mai đích thân đồng chí Chủ tịch tỉnh sẽ dẫn đồng chí Bộ trưởng về  thăm xã ta. Trong chương trình có thăm cánh đồng hồng và thăm nhà bác. Có rất nhiều đài, báo, truyền hình của Trung ương, của tỉnh đi cùng. Lại có cả các nhà khoa học nữa. Cả nước sẽ biết về xã ta chứ không chỉ riêng bác! Bác biết đấy, từ trước đến nay đến Phó chủ tịch huyện cũng chưa bao giờ ghé đít đến xã ta vì đường đất ôtô con khó đi. Thế mà bây giờ, những Bộ trưởng về thăm vì vậy bác không thể đi chân đất tiếp Bộ trưởng được!

- Đồng chí thông cảm, tôi quen đi chân đất rồi. Hễ cứ xỏ  giày vào là...

- Không được - Chủ  tịch Trịnh Hào cắt ngang lời lão Bồng- đây là trách nhiệm, là nghĩa vụ xã giao cho bác. Mà đồng chí Bộ trưởng cũng không có thời gian đâu, thời gian của họ là vàng bạc nên cũng chỉ độ mươi, mười lăm phút thôi. Ngứa mấy bác cũng phải cố.

    Vấn  đề đi chân đất không còn là của riêng Bồng nữa mà trở thành vấn đề của xã, lão Bồng dù chỉ mới nhìn thấy đôi giầy, chân đã râm ran cả lên nhưng không thể từ chối trước thái độ kiên quyết của chủ tịch xã. Lão nghĩ, lúc ấy đông người, lão tập trung vào trả lời câu hỏi của Bộ trưởng và cánh đài báo thì còn đâu nghĩ đến cái chân nữa! Lão nhận đôi giày, kèm đôi tất từ tay chủ tịch Trịnh Hào. Vừa ra đến đầu ngõ, bỗng chủ tịch Trịnh Hào dựng xe máy vội vã quay vào:

- Tôi quên mất, cái chân ổn rồi nhưng cái đầu cũng cần phải  ổn.

- Sao? Cái đầu tôi có vấn đề gì?- Lão Bồng hỏi, cái mồm dẩu ra toàn răng là răng.

- À không, ấy là tôi nói khi tiếp chuyện đồng chí Bộ  trưởng, bác ăn nói phải có khuôn phép chứ  không thể bỗ bã nông dân được.

- Hừ, tôi phải nói thế nào?

- Ví dụ  đồng chí Bộ trưởng có hỏi: "Bác thấy  đời sống của nhân dân xã ta từ khi chuyển đổi cây trồng, từ lúa sang hồng như thế nào?" thì bác phải nói: "Kính thưa đồng chí Bộ trưởng! Nhờ có sự đổi mới tư duy sáng suốt của  lãnh đạo  xã đã mạnh dạn chuyển đổi cơ cấu kinh tế từ trồng lúa thành trồng hồng nên đời sống của bà con nông dân chúng tôi ngày một văn minh, giàu có".

   Lão Bồng ậm ờ cho qua chuyện, cốt để tống khứ chủ tịch Trịnh Hào ra khỏi nhà. 

   Sáng hôm sau, lão Bồng dậy rất sớm, lão đi ra cánh đồng hồng, đến ruộng hoa của mình, chọn những bông hoa đẹp nhất cắt thành một bó đem về tặng Bộ trưởng. Ăn xong bát cơm rang, uống xong bát nước chè xanh nóng hổi, rít xong điếu thuốc lào, lão Bồng mặc quần áo chỉnh tề, xỏ tất vào chân rồi đi giày. Y như rằng vừa đút chân vào giầy được một tẹo là mồ hôi đã thi nhau đùn ra. Ngứa, chao ôi là ngứa! Lão tháo giày, tháo tất ra gãi, soàn soạt, soàn soạt. Cũng chẳng hết ngứa, lão quay sang  cách trị ngứa "kinh điển" mà lão vẫn thường áp dụng mỗi khi bị nước ăn chân. Lão xuống bếp đốt một mồi rạ rồi hơ chân lên. Cơn ngứa dịu dần, mười phần dễ giảm còn ba, bốn.

    Lão  đi ra ngoài, thấy thằng cháu nội đang thơ thẩn chơi ở cạnh bể nước, lão gọi:

- Thằng Bài, lại  ông bảo.

- Dạ, ông bảo cháu cái gì ạ?

- Cháu ra ngoài  đường hễ thấy có đám đông đi về phía nhà ta thì chạy nhanh về gọi ông nghe chưa!.

     Thằng bé gật đầu rồi đi ra đường làng, gặp mấy đứa bạn, nó mải chơi nên suýt quên nhiệm vụ quan trọng mà ông giao. Đến khi đám đông đến tận đầu ngõ nó mới sực nhớ lời  ông, vụt chạy vào nhà hét toáng lên:

- Ông ơi! Họ  đến rồi!

     Lão Bồng không kịp xỏ tất, quáng quàng đút chân vào đôi giày bóng lộn rồi nhao ra ngoài sân. Lão đứng sững người, đôi mắt căng ra nhìn ông Bộ trưởng và đoàn người đi theo, ai ai cũng xắn quần, giày xách trên tay. Thì ra lão quên mất, đêm qua trời đổ gió mùa Đông Bắc, trận mưa đã làm cho đoạn đường làng gần ngõ nhà lão nhão nhoét, ngập đến mắt cá chân.

CON NÍCH

VŨ ĐẢM

- Này, biết tin gì chưa? Con Ních của nhà ông Cẩm mất tích!

- Nghe nói ông Cẩm thông báo tìm Con Ních cả trên đài, báo!

- Một cơ hội tốt đấy!

Cứ thế, việc Con Ních của nhà ông Cẩm bỏ nhà ra đi hay bị một kẻ nào đó bắt mất trở thành câu chuyện thời sự nóng hổi trong cơ quan. Lai lịch con Ních của ông Cẩm chẳng mấy ai không biết, nó là quà của ông Thưởng tặng ông Cẩm nhân dịp ông Cẩm tổ chức mừng sinh nhật lần thứ năm mươi của mình. Con Ních là sản phẩm của một cuộc ngoại tình giữa con Tô, một con chó tinh khôn của ông Thưởng với con chó hoang vẫn hay lởn vởn ở khu phố. Ông Cẩm yêu quý con Ních như một người bạn vong niên; con Ních khỏe mạnh, tung tăng chạy nhảy, ông nhìn có cười khà khà. Con Ních ốm đau, ông cơm chẳng ngon, ngủ không được đẫy giấc. Mọi thứ tình cảm của hai bản thể cùng loài hay khác loài giành cho nhau đều có căn nguyên và mục đích của nó. Tình cảm của ông Cẩm đối với con Ních cũng vậy, ông Cẩm nhận thấy từ khi có con Ních, tiền bạc chảy vào nhà ngày một nhiều hơn, con đường công danh dường như cũng thênh thang rộng mở, không những thế con Ních còn là chiếc cầu nối quan trọng thắt thêm tình cảm giữa ông và ông Thưởng. Ông Thưởng là người thích sự trung thành tuyệt đối. Ông quan niệm, nhân cách lớn nhất của con người là sự trung thành, bản chất này của ông được thực tiễn giám định nhiều lần, nổi trội nhất là đợt ông làm tổng chỉ huy chiến dịch quai đê, lấn biển để rồi bị biển nuốt trôi mất hàng chục tỷ đồng. Việc ông Cẩm chăm bẵm, nâng niu con Ních bằng cả vật chất lẫn trí lực lớn lao như vậy, ông Thưởng dù có kiến thức toán học tồi tệ đến mấy cũng không thể quên được phép chứng minh theo tính chất bắc cầu: ông Cẩm thuỷ chung với Con Ních, hiển nhiên ông phải trung thành với mình!

Đêm hôm qua vào lúc một giờ bốn mươi lăm phút, ông Cẩm thức giấc để thực hiện việc đi tiểu thường lệ, không thấy con Ních nằm bên cạnh, ông bật đèn nhìn vào chiếc giường nhỏ của con Ních ở góc phòng, vẫn không thấy con Ních đâu, ông hoảng hồn khua cả nhà dậy, tìm suốt đến sáng nhưng con Ních vẫn bặt vô âm tín. Ông vò đầu, bứt tai than vãn với vợ, nếu không tìm được con Ních, rất có thể cuộc đời ông bắt đầu xuống dốc. Bà vợ trách ông chưa già lắm đã lẩm cẩm, mất con Ních, mua con khác đẹp hơn, lo gì! Ông nổi xung:

- Bà ngu lắm, đời tôi được thăng hoa là nhờ con Ních, nay mất nó, tránh sao khỏi sóng gió!

Vợ ông hiểu ra, đi khấn vái chùa gần chùa xa, lại thuê người tìm khắp nơi. Nỗi buồn mất con Ních của ông Cẩm lan truyền rất nhanh sang nhiều người; gặp ông, ai cũng xót xa chia buồn, thể hiện cả trong công việc, đi sớm về muộn, ấy thế vẫn có kẻ đi ngược lại dòng chảy, người đó là lão Sam. Lão Sam viết đơn xin nghỉ phép năm trước thời hạn, bị ông Phó gạt, lão lên gặp trực tiếp ông Cẩm, ông Cẩm bực lắm, cầm tay lão Sam lôi ra cửa chỉ vào tấm biển ghi: thủ trưởng bận không tiếp khách! Mặc cho ông Cẩm giận dữ, lão Sam vẫn một điều kính thưa hai điều kính thưa và lòng kiên trì đã không phụ lại lão, ông Cẩm giật phắt tờ đơn trong tay lão ký rách cả giấy, lão Sam hớn hở cầm tờ đơn đi ra, gặp ai cũng khoe. Thật là một chiến tích! Mọi người nức nở khâm phục lão. Trong đơn, lão Sam xin nghỉ phép để sửa phòng, làm thêm cái gác xép. Căn phòng của lão quá chật, chín mét vuông nhét sáu người. Đơn viết vậy, nhưng lão thực hiện không đúng mục đích, lão đi tìm con Ních! Hy vọng cuối đời của lão là đây. Lão suy tính, tìm được con Ních, nhất định ông Cẩm sẽ cấp cho lão một căn hộ khép kín đang xây để cấp cho những cán bộ có nhiều cống hiến. Chỉ con Ních mới có thể đem lại cho lão đặc quyền, đưa gia đình lão đến một căn hộ mà lão từng mơ, từng ước. Thật ra lão hằng có nhiều mơ ước, nhưng quá hão huyền; nào là bỗng dưng thay đổi được số phận, được làm thứ, bộ trưởng, lấy được một người vợ đủ bốn tiêu chuẩn: công, dung, ngôn, hạnh. Có lần lão được bạn bè chiêu đãi, món tiết canh dê chết tiệt làm cho lão phát cuồng, bản năng trỗi dậy, lão không thể kìm nén được, nhưng mới hơn tám giờ tối, cả bốn đứa con đều ở nhà, lão định đuổi chúng đi chơi, vợ lão ngăn, cả hai phải đưa nhau vào công viên, lúc ấy lão ước một căn hộ có buồng riêng. Bây giờ vợ chồng lão đã già, chuyện ái ân chỉ còn mang tính xã giao nhưng nhu cầu có được một căn hộ khép kín vẫn đeo đuổi lão, con cái lão đã tồng ngồng tẫy ngẫy cả, chả thể để chúng đi ngủ nhờ mãi được.

Nhằm một ngày tốt, lão Sam bắt đầu công cuộc tìm kiếm con Ních. Vợ lão nhìn chồng đầy ái ngại, lão cảm kích nói với vợ:

- Mẹ nó ạ, sống phải có hy vọng, cơ đồ của ông Cẩm bắt đầu từ con Ních. Tìm được nó, tôi tin gia đình mình sẽ được hưởng lộc của ông Cẩm. Cứ ở hiền, ắt có ngày gặp lành thôi!

Vợ lão hoe hoe mắt. Lão cười tủm: Cứ như tiễn chồng ra trận không bằng! Lão phốc lên chiếc xe đạp Thống Nhất đạp cật lực, lão sợ phải nghe thấy tiếng lụt xụt của vợ ở đằng sau. Cả ngày lão tìm con Ních quanh đám phố gần nhà ông Cẩm, lão vừa vào trực tiếp, vừa nhìn qua cổng cả thảy được chín lăm nhà, lão gặp hai mươi ba con chó, có bốn con rất giống con Ních nhưng không phải. Tối về, lão chẳng thèm ngó đến mâm cơm có món cá kho gừng lão vẫn thích, lão chỉ uống hai chén rượu rồi lên giường trùm chăn kín đầu. Vợ lão sợ chồng ốm, lân la đến bên giường, nắm tay lão hỏi han, lão gắt:

- Khổ lắm! Kệ tôi.

Việc tìm kiếm Con Ních chẳng đơn giản như lão nghĩ, lão bị từ chối không cho vào nhà, bị ném đá, bị cả một đứa trẻ ranh gọi là thằng điên! Tủi nhục quá! Hay là thôi, chẳng tìm nữa! nhưng cả đời không lo được cho vợ con một chỗ chui ra chui vào tử tế một chút, hèn lắm! Lão nghĩ ngợi ghê gớm, gà gáy canh tư mới chợp mắt. Sáng dậy, mặt lão bơ phờ, lão ngồi tư lự trên giường. Vợ lão chẳng dám đến gần, đứng ở cửa nhìn lão, thương lão quá, muốn lại chia sẻ với lão vài lời nhưng lại sợ lão: “Khổ quá, Kệ tôi!”. Lão phác họa trong đầu lịch trình tìm con Ních, hôm nay lão đến xóm liều, cách nhà ông Cẩm năm phố. Lão hy vọng một kẻ đói rách nào đó bắt con Ních, nếu sự thật là vậy, lão sẽ chuộc con Ních bằng mọi giá.

Lão tụt xuống giường, ăn quáng quàng gói xôi vợ mua, vội vã dắt xe ra đi. Sự tính toán của lão Sam về khả năng Con Ních bị dân xóm liều bắt, khá thực tế nhưng lão mắc một sai lầm trầm trọng, lão nghĩ con người khi bị đẩy vào cảnh khốn cùng, dễ cảm thông với nhau hơn, nếu con Ních đang hiện hữu trong xóm liều, lão tin sẽ tìm ra và chuộc lại nó một cách dễ dàng. Lão phải trả giá cho sai lầm này, khi lão vừa ngó vào căn nhà quây cót ép đầu tiên, từ phía sau một gã đàn ông mặt rỗ giáng một quả đấm cực mạnh vào sườn lão, lão ngã đè lên xe đạp.

- Tao có khốn nạn mới phải chui rúc như chó thế này mà mày lại còn rình rập hả? - Gã đàn ông rít lên.

Lão Sam tái tím mặt, lẩy bẩy ngồi dậy thanh minh. Thật khốn nạn cho lão, lão càng chân thành, nói ra sự thật bao nhiêu càng làm cho gã mặt rỗ nghi ngờ, giận dữ bấy nhiêu. Những quả đấm tiếp tục phóng vào người lão. Phải dừng ngay sự thật lại, sự thật nhiều khi là nguyên nhân trực tiếp gây nên cảnh khốn nạn của cuộc đời. Lão Sam độc thoại một mình, và ngay tức khắc lão ngừng lời. Gã mặt rỗ cũng dừng tay, gã dờn dợn trước ánh mắt rừng rực của lão Sam. Tiếp tục tấn công, lão Sam đứng phắt dậy, hét vào mặt gã mặt rỗ:

- Mày ngu như chó ấy, mày tưởng tao là dân thường thật hả? Tao là ông Cân, cán bộ lãnh đạo quận, giả dạng dân thường đi khảo sát xem dân vô gia cư chúng mày sống thế nào để về lập kế hoạch đây!

Gã mặt rỗ nghe đến tên ông Cân đờ đẫn cả người, gã chắp tay van xin lão Sam tha tội chết cho gã. Lão Sam quát:

- Dựng xe lên, tao thương mày bần hàn chứ không rũ tù nghe chưa?

Tiếng lão Sam nghe có gang có thép. Gã mặt rỗ làm theo như một cái máy. Lão Sam dắt xe ra đường, đạp một mạch về nhà. Cũng như lão Sam, gã mặt rỗ không bao giờ quay lại ngôi nhà của gã nữa. Lão Sam chạy trốn gã, còn gã chạy trốn ông Cân!

Lão Sam nằm bẹp ba ngày liền, người lão đau ê ẩm nhưng lão không hề rên rỉ, lão chỉ tức, tức muốn trào máu. Đời lạ thật, sống cho đúng với mình cũng chẳng được, muốn tồn tại và cạnh tranh với đời nhiều khi phải sống khác mình! Lão nghiền ngẫm về đời rồi đi đến kết luận cho chính cuộc đời lão, lão cho rằng sở dĩ lão không công thành danh toại như ông Cẩm và bao kẻ khác là do lão sống thật quá. Bạn bè lão đấy, vô khối kẻ dốt nát hơn lão ấy thế mà vẫn trở thành ông này, bà nọ. Càng chiêm nghiệm sự đời, lão càng cay cú, nuối tiếc. Đồ ngu! Lão tự chửi mình, mày cũng là người mà thua đời. Không thể thế này mãi được, cần cứu vãn phần đời ít ỏi còn lại. Sam! Hãy thay đổi cách sống thôi, lão ra lệnh cho chính mình. Ngày hôm sau lão biến ý niệm thành hành động, mà điểm xuất phát bắt đầu từ Con Ních. Lão không đi tìm kiếm con Ních thật nữa mà bỏ tiền mua một con chó giống con Ních mà lão đã gặp trong ngày đầu tiên. Từ ngày rước con chó về, cuộc sống của gia đình lão bị đảo lộn toàn bộ, tất cả các khoản chi tiêu trong ngày đều bị cắt giảm xuống mức tối đa để tập trung cho con chó. Lão huấn luyện, nuôi dưỡng con chó sống theo phong cách thượng lưu đúng như đời sống con Ních của nhà ông Cẩm mà lão từng chứng kiến. Trong mười ngày đào tạo con chó, lão nghiệm ra, chẳng cứ gì con người, mà ngay cả loài vật, khi thay đổi môi trường sống từ thấp lên một cấp cao hơn, sự thích nghi diễn ra nhanh hơn. Lão rất hài lòng về con chó, tuy số ngày chuyển đổi cách sống ngắn ngủi nhưng nó đã thực hiện thành công một cách tuyệt diệu. Từ dáng đi oai vệ, cách ăn sôcôla ngấu nghiến đến kiểu đái gác chân đều rất giống con Ních của ông Cẩm. Thú vị hơn nữa, mỗi khi lão gọi: Ních, con có chồm hai chân trước lên, chạy lon ton bằng hai chân sau, xét về mặt kỹ năng xem ra còn thành thục hơn cả con Ních.

Hết hạn phép, lão Sam thuê xích lô chở lão và con chó đến nhà ông Cẩm trình diện. Ông Cẩm sung sướng, cười khà khà, ông ôm chặt con chó, hôn lên môi, mặt, khắp người nó. Con chó được thực tập nhiều cách gặp gỡ nên không một chút ngỡ ngàng, giơ một chân lên cào cào vào cằm ông Cẩm, dụi mũi vào cặp má mỡ màng của ông. Cử chỉ của con chó làm ông Cẩm tin tưởng một cách tuyệt đối, con chó đích thực là con Ních của ông! Lão Sam nhìn ông Cẩm bày tỏ tình cảm với con chó, thấy con chó nhập vai thành thục như diễn viên chuyên nghiệp, ruột gan lão nở ra từng khúc. Biết đâu, đời ta cũng sẽ bắt đầu từ chó, lão hấp háy đôi môi xám xịt rồi nở một nụ cười ma mãnh.

- Bác Cẩm ơ! - Tiếng một người đàn bà gọi cổng. Mặc, ông Cẩm vẫn xoắn xuýt với con chó. Lão Sam đi ra, tóc tai dựng đứng khi nhận ra bà lao công đang ôm con Ních chính hiệu, gầy nhom, ghẻ lở trong tay, bà huỳnh huỵch đi đến trước mặt ông Cẩm:

- Bác Cẩm ơi! Tôi đang quét đường thì nhìn thấy con chó này nằm bên gốc cây, nó thay đổi quá nhiều nhưng tôi vẫn nhận ra ngay con Ních của bác.

Thoắt nhìn thấy con Ních trong tay bà lao công, ông Cẩm đã kinh tởm, ông xua tay:

- Bà nhầm, bà nhầm, con chó khốn khổ ấy không thể là con Ních được, đây mới chính là con Ních của tôi!

Bà lao công nhìn con chó ông Cẩm đang ôm trên ngực. Quả là nó rất giống con Ních nhưng không phải, bà thả con Ních ra, nó vẫy đuôi, lao lại phía ông Cẩm, lè lưỡi liếm vào chân ông. Bà lao công chỉ con Ních:

- Ông thấy chưa, nó vẫn nhận ra ông đấy, chó bao giờ cũng trung thành với chủ!

Ông Cẩm lấy chân hất con Ních ra xa, nhổ toẹt một bãi nước bọt xuống đầu nó:

- Chó cũng biết người sang bắt quàng làm họ! - Ông Cẩm khinh khỉnh.

Bà lao đông sa sầm mặt, bà cầm chiếc dễ quét đường khua khua trước mặt ông Cẩm:

- Tôi thương ông mất ăn, mất ngủ vì con Ních, tôi thương nó đang ăn sung ở sướng phải chịu cảnh hàn vi nên tôi mới đem về cho ông. Ông đừng từ bụng ta suy ra bụng người!

Bà lao công quay ra, kéo chiếc dễ loẹt xoẹt trên mặt đất. Ông Cẩm chửi bà vô học, lão Sam vuốt đuôi bằng một câu tương tự. Ông Cẩm vào nhà mang ra gói sôcôla, lấy hai chiếc, chìa cho xon chó một, nó đớp gọn, nhai ngấu nghiến, còn chiếc kia ông đưa cho lão Sam, ông muốn cho con Ních đang nằm dưới đất để làm một cuộc kiểm nghiệm nho nhỏ nhưng lão Sam không hiểu ý, lão đưa thanh sôcôla lên miệng nhấm nháp. Ông Cẩm bật cười khà khà:

- Khá lắm! Anh sẽ được trả công xứng đáng. Hãy đem hộ tôi cái của nợ kia đi.

Lão Sam bế con Ních ra đường, qua một bãi rác, lão thả con Ních xuống. Con Ních run rẩy, ngước đôi mắt toét nhèm lên nhìn lão, lão Sam nhìn lại. Bốn con mắt chiếu vào nhau, hoang mang, ngờ vực, căm thù. Lão Sam nặng nề ngồi xuống, vuốt lên đầu con Ních:

- Ních à! Người cũng có lúc còn lên voi, xuống chó... Hiểu chứ Ních?

THỊT CHÓ

VŨ ĐẢM

Giám đốc Công thấy trong người khó ở, thở khó, ngón chân, ngón tay đau nhức nên bảo lái xe Tương đưa ông đi bệnh viện khám bệnh. Sau khi khám tim, chụp phổi, thử máu và nước tiểu xong, bác sĩ kết luận giám đốc Công bị bệnh gút do quá béo vì vậy phải ăn kiêng, không được uống bia, ăn chất béo và chất đạm đặc biệt là thịt chó. Thịt chó rất nhiều đạm là kẻ thù không đợi trời chung với người bị bệnh gút, người bệnh chỉ cần ăn vài miếng thịt chó vào là biết tay nhau ngay, khớp các ngón chân, ngón tay đau nhức, sưng tấy. Nghe bác sĩ giải thích, giám đốc Công có vẻ rất buồn, nỗi buồn này có thể ví như người vợ đang căng tràn sức sống nhưng trong đêm đông giá lạnh lại phải ôm anh chồng bất lực. Điều này cũng dễ hiểu vì sở thích ăn thịt chó của giám đốc Công được di truyền theo tính chất cha truyền con nối.

Cụ nội của giám đốc Công có thể ăn thịt chó thay cơm, có lần cụ ăn năm bữa thịt chó trong ngày, bị ỉa chảy cấp tính phải đi cấp cứu nằm viện mất mười ngày. Những tưởng sau đấy cụ sẽ kinh tởm thịt chó đến chết, nào ngờ vừa xuất viện buổi sáng thì buổi trưa đã thấy cụ nhắm rượu với thịt chó ở nhà lão Tàm. Mồm nhồm nhàm nhai thịt chó, cụ bảo sống ở đời mà không được thưởng thức cái món thịt cầy thì thà chết còn hơn. Vậy nên vừa mới từ cõi chết trở về, cụ đã lại xơi. Cụ cũng có ý thức truyền bá lại cho con cháu cái sở thích ăn thịt chó, ngoài mục đích để tăng cường sức khoẻ còn đặt niềm tin có nhiều cháu, chắt, chút, chít mang giống đực nối dõi tông đường mãi mãi.

Ông nội của giám đốc Công, vào cái thời bao cấp, nhiệm vụ quan trọng nhất của ông là đi khắp làng trên xóm dưới xem nhà nào có con chó mỡ màng là thông báo cho chủ nhiệm hợp tác xã xuất thóc trong kho đổi chó về để liên hoan đánh chén; trong một năm kho thóc của hợp tác xã hao đi hơn chục tấm thóc cũng chỉ vì thịt chó. Tất nhiên khi lập chứng từ cho sự hao hụt thóc này được ông chủ nhiệm hợp tác xã đưa vào danh mục cứu trợ cho những gia đình chính sách, thương binh liệt sĩ hoặc hộ nghèo.

Bố của giám đốc Công nghiện thịt chó đến mức ở làng có con chó điên cắn người, người bị điên, chó lăn ra chết, thế mà ông xin con chó về giết thịt; cả nhà kêu khóc can ngăn, ông bảo chó điên đại bổ, ăn vào chẳng những không bị điên mà còn thông minh ra. Chả biết ăn chó điên thì sẽ thông minh thật hay không nhưng quả thật sau đó, bố của giám đốc Công nghĩ ra được rất nhiều mưu kế để lừa tiền và lừa tình của đám đàn bà, con gái trong làng và các vùng phụ cận. Thậm chí vợ của chủ tịch xã còn cuỗm sạch số tiền mà chồng tham ô được rủ bố giám đốc Công bỏ nhà trốn vào Sài Gòn sinh sống. Đến khi hết tiền, đôi nhân tình này trở về quê thì cũng là lúc mà cái bụng của vợ chủ tịch xã đi lại rất nặng nề.

Dĩ nhiên với bề dày truyền thống thích ăn thịt chó của gia đình như vậy thì việc cu Công mới năm tuổi ăn hết hai bát tô đầy rựa mận thịt chó trong sự thán phục của người làng cũng là chuyện thường tình. Và khi lớn lên, trở thành giám đốc, Công thường nhật đến làng thịt chó Nhật Tân âu cũng là chuyện thường tình.

Thông tin giám đốc Công bị bệnh gút phải ăn kiêng, tuyệt đối không được đả dộng đến thịt chó nhanh chóng đến tai ông trưởng phòng hành chính, ông lập tức xuống nhà bếp dặn dò đầu bếp phải thế này, thế này...

Như thường lệ, vào lúc 11giờ 30 phút, giám đốc Công xuống nhà ăn của cơ quan, vốn quen ăn những món đặc sản, nhất là thịt chó nhưng nhìn thấy trên bàn ăn dành riêng cho giám đốc, toàn những món ăn dân dã, rau muống luộc vắt chanh; đậu phụ luộc, đậu phụ rán, đậu phụ sốt cà chua thì giám đốc Công cứ thấy lợm giọng, như thể là mấy bà đang nghén, nhìn thấy cơm là oẹ, oẹ.

Ngửa mặt lên thở dài, chợt nhìn thấy cái khẩu hiệu treo ở vị trí trang trọng trên tường ” ăn đậu phụ là khỏe mạnh và thông minh!", giám đốc Công bắt đầu cầm đũa, ông khẩy khẩy mấy miếng đậu rán, chọn miếng nhỏ nhất gắp vào mồm, nhai một cách thong thả. Lạ miệng, ăn được, ông gắp đến đậu sốt, rồi đến đậu luộc, cứ thế ông ăn khá ngon miệng bữa cơm của một nhà tu hành chính thống. Lúc đứng lên, giám đốc Công tự bảo, ồ hay, hoá ra cái khẩu hiệu đánh đòn tâm lý vào cái miệng và cái dạ dày của mình khá hiệu quả. Lại thầm nhủ, cái tay trưởng phòng hành chính mê thịt chó hơn mê vợ thế mà nghĩ ra được cái trò này thì quả là thông minh, người này biết chiều lòng thủ trưởng, tâm đầu ý hợp, có thể cất nhắc trọng dụng được!

Nhìn thấy mâm giám đốc Công ăn toàn đậu phụ nên bữa trưa hôm sau , mâm của phó giám đốc, mâm của chủ tịch công đoàn, mâm của các trưởng phó phòng cũng bắt đầu lấy món đậu phụ làm món ăn chính thống. Trưa hôm sau nữa, trên mâm cơm của rất nhiều nhân viên cũng đã thấy xuất hiện rất nhiều đậu phụ. Phản ứng ăn đậu phụ dây chuyền nhanh chóng biến thành phong trào ăn đậu phụ để cho khỏe mạnh, thông minh trong khắp cơ quan và đi vào nề nếp. Ông trưởng phòng hành chính còn đưa việc ăn đậu phụ bổ sung vào qui chế của cơ quan. Ông chủ tịch công đoàn đưa việc ăn đậu phụ trở thành tiêu chí thi đua khen thưởng hàng tháng, hàng quí, hàng năm.

Tất nhiên ở đời không có gì là trọn vẹn, việc cơ quan chuyển từ ăn thịt, ăn cá sang ăn đậu phụ cũng gây nên nhiều chuyện bất cập. Ông trưởng phòng hành chính do thể tạng gày yếu, nay tích cực ăn đậu phụ nên bị suy dinh dưỡng, thiếu máu, mỗi lần đứng lên ngồi xuống lại bị hoa mắt, chóng mặt, có lần đang đi tiểu trong nhà vệ sinh, ông đâm bổ cả vào cái nơi đi đại tiện. Lại có lần đang đi ở cầu thang, ông loạng choạng, may mà bám được vào váy của cô văn thư nếu không đã què tay, sưng trán. Cô văn thư mắng ông già rồi mà còn “dê”, ông thanh minh ấy là do ông bị chóng mặt chứ nào có chủ ý. Vốn rất ghét ông đã phát động phong trào ăn đậu phụ làm cho cô cũng phải ăn theo nên cô văn thư bĩu cặp môi mỏng như lá lúa:” Cho chết, ai bảo nốc lắm đậu phụ vào”. Ô thế này thì nó khinh mình quá, ông trưởng phòng hành chính không còn kìm chế được cơn nóng giận, ông chỉ vào mặt cô văn thư bảo rằng cái tay giám đốc nó xơi lắm thịt chó nên dâm dật, nó hay gọi cô lên phòng ký cọt công văn. Ký công văn cái chó gì, có mà “ký” vào dưới cái rốn cô một gang thì có! Thôi rồi, kẻ cắp gặp bà già, cả hai chả ai bảo ai thêm một câu nào nữa, lủi nhanh về phòng mình.

Để phòng tránh căn bệnh hoa mắt, chóng mặt, ông trưởng phòng hành chính đã nghĩ ra được kế sách hoàn hảo, ông vẫn ăn cơm trưa với đậu phụ ở nhà bếp nhưng khi lên phòng làm việc, chốt cửa xong, ông lại lôi trong tủ lạnh ra lon bia nhấm nháp với khoanh giò lụa hay cái đùi chó luộc.

Ông phó giám đốc, người vốn coi đậu phụ là kể thù không đội trời chung với cái miệng và dạ dày của mình thì đối phó bằng cách, ông bảo nhà bếp dọn riêng cho mình một bàn ở góc xa xa. Tất nhiên đậu phụ bày đầy trên bàn nhưng ông chỉ ăn cá, thịt, tôm ở dưới lớp đậu phụ mà đầu bếp đã khôn khéo ngụy trang cho ông. Cuối bữa, ông trút hết món ăn đậu phụ xuống cái thùng rác dưới chân bàn, thành ra khi ông đứng lên, thấy các món ăn đậu phụ trên bàn ông đều hết nhẵn thì mọi người không ai bảo ai đều cố ăn không để sót miếng đậu phụ nào dù nhỏ như cái đầu ngón tay út trong bát, đĩa. Chuyện phó giám đốc đổ các món ăn đậu phụ vào thùng rác được mật báo đến tai giám đốc Công. Giám đốc bảo thằng ấy thế mà đểu, trước mặt thì xoen xoét nịnh bợ, nhờ học tập ăn đậu phụ theo anh mà em cũng béo khoẻ ra, thậm chí cái khoản kia cũng được vợ khen là tiến bộ vượt bậc. Thế mà dám đổ đậu phụ vào thùng rác? Vậy thì tao cũng vứt cái lời hứa cho mày là người kế cận vào sọt rác!

Phật dạy, tài sản lớn nhất của đời người là sức khỏe. Ông trưởng phòng hành chính nhờ có sáng kiến tạo ra phong trào ăn đậu phụ trong cơ quan, giúp sức khỏe nhiều người trong cơ quan giảm sút nhưng riêng sức khoẻ của giám đốc khấm khá hơn mà được bổ nhiệm làm phó giám đốc thường trực, qua mặt luôn ông phó đốc hay đổ lén đậu phụ vào thùng rác. Phó phòng hành chính- người có thể ăn đậu phụ trừ bữa được đề bạt lên chức trưởng phòng. Những tưởng ăn đậu phụ, hạn chế được bệnh gút, sức khỏe khá hơn, giám đốc Công sẽ sống lâu trăm tuổi nhưng sức khoẻ và tuổi thọ là hai mệnh đề tưởng có liên quan mật thiết với nhau song lại hoàn toàn tách bạch. Có người nằm liệt giường liệt chiếu hàng chục năm, chỉ ăn tí cháo, đến con cháu cũng mong bố mẹ chết đi nhưng cụ vẫn cứ nằm đấy mà sống! Có người khoẻ mạnh, bữa ăn mấy bát cơm, đang đi bộ trên vỉa hè bị một thằng choai choai phóng xe máy bạt mạng lao lên cả vỉa hè, tông vào, chết không kịp để lại một lời trăng trối. Mà hình như mỗi người cũng có một kiểu chết đã được định đoạt trước. Có người chết đuối, có người chết vì bệnh tật, có kẻ chết vì tai nạn giao thông; người thì chết ở nhà, người thì chết ở xa nhà; kẻ chết ban đêm, người chết ban ngày; có người khi chết vẫn còn tỉnh táo, trăng trồi đủ điều rồi mới nhắm mắt, có kể chết trong hôn mê; có người chết thì nhắm mắt ngay còn có kẻ chết mãi mà không nhắm mắt được. Giám đốc Công cũng là người mà đã là người thì có thể làm ra sức khoẻ chứ không thể làm ra số phận. Cái chết của giám đốc Công âu cũng là do số mệnh quyết định.

Ngày ấy là ngày hoàng đạo, tốt cho việc xuất hành, giám đốc Công bảo lái xe đưa về quê chơi, vốn là nông dân nên cái bản chất cố hữu của nông dân trong giám đốc Công vẫn còn, ấy là ông thích đái đồng cho mát mẻ nên bảo lái xe dừng ở trên đường làng, hai bên có hai hàng thông vi vu gió thổi. Giám đốc Công vạch quần, đái tồ tồ xuống sông. Đang đái thì thế quoái nào giám đốc Công bị một con chó thả rông xơi ngay một miếng vào bắp chân, máu chả ròng ròng. Vào làng tra hỏi mãi, mới biết được chủ nhân của con chó. Chủ nhân vừa đi cày về, quần xắn móng lợn, đương nhiên là nông dân chân lấm tay bùn, thật thà chất phác nhưng ít học nên hiểu mọi cái đều đơn giản, thậm chí cả ngu ngốc. Giám đốc Công hỏi chủ nhân, con chó có bị điên không thì được chủ nhân khẳng định con chó tuy không được tiêm phòng bệnh dại nhưng hoàn toàn khoẻ mạnh, ngay cả thịt của đồng loại nó cũng có thể xơi hết cả một nồi to. Giám đốc Công hỏi làng này có con chó nào bị điên chưa? Chủ nhân bảo có vài con nhưng đều bị đập chết ngay tức thì. Giám đốc lại hỏi, thế làng này đã có ai bị chó điên cắn chưa? Chủ nhân bảo, làng có chó điên, hà tất phải có người bị chó điên cắn nhưng chưa một ai bị chết. Chủ nhân còn thề sống thề chết nếu giám đốc Công có mệnh hệ gì thì ông sẽ hoàn toàn chịu trách nhiệm. Giám đốc Công bảo với chủ nhà của con chó:” Ơ hay, nếu tôi bị điên thì ông điên thay hả?”. Chủ nhà bảo:” Vâng, em sẽ điên thay bác, mà điên khéo còn sướng hơn ấy chứ”. “ Hả?”. “Vâng, sống với con vợ vừa già vừa xấu, mở mắt ra là thánh ca bài tiền đâu thì không điên mới là chuyện lạ!” .

Tin lời chủ nhà của con chó hơn nữa nghe nói đi tiêm vác-xin phòng dại không khéo của quí sẽ bị tịt ngòi, mà đã tịt thì sống cũng như chết nên giám đốc Công quyết định không đi tiêm phòng. Hơn nữa giám đốc Công nghĩ rằng, dòng dõi nhà mình, từ cụ tổ bảy, tám đời trở lại đây đều sống trên tám mươi tuổi mới chết thì không lẽ gì mình lại có thể ra đi trước cái tuổi sáu mươi! Không đi tiêm, quyết không đi tiêm phòng! Giám đốc Công lại càng quả quyết với việc không tiêm phòng của mình. Thế nên chỉ một ngày sau thì người giám đốc Công cứ lờ đờ như thằng nghiện, bước sang ngày thứ hai thì miệng giám đốc Công đùn ra đầy bọt mép. Thêm một buổi nữa thì giám đốc Công gầm gừ, cắn nhau với cả con chó giữ nhà của mình. Chưa hết, giám đốc Công còn ăn cả cái thứ mà mình vừa đại tiện ra. Gia đình giám đốc Công kinh hồn, bạt vía, muốn đưa giám đi bệnh viện nhưng hễ cứ lại gần là giám đốc lại gầm gừ, nhe răng nên chẳng ai dám vào. Cuối cùng phải thuê hai thằng nghiện, tất nhiên hai thằng này đang bị HIV giai đoạn cuối nên không còn sợ chết mà chỉ sợ không có tiền để chích choác nên chúng nhận lời ngay với cái giá một triệu. Hai thằng nghiện, người dẹt, trông như bộ khung người di động, gió to có thể thổi bay ấy thế mà chúng khoẻ ghê gớm, chỉ vài động tác chúng đã trói quặt hai tay người điên ra đằng sau rồi kéo ra xe cứu thương đang hụ còi chờ sẵn. Tiền, rất nhiều tiền đã được ra giá với các bác sĩ để cứu lấy người điên nhưng chỉ nhận được cái lắc đầu tuyệt vọng. Hai hôm sau thì giám đốc Công ngàn thu vĩnh biệt tại một bệnh viện trung ương nổi tiếng.

Cái chết đường đột của giám đốc Công, lại là cái chết bất bình thường đã trở thành câu chuyện sôi nổi nhất, hấp dẫn nhất trong cơ quan. Người ta bảo rằng sinh nghề tử nghiệp nhưng giám đốc Công lại “ sinh cẩu tử chó!”, âu cũng là số phận cả!

Cái gì, việc gì dù là sung sướng tột độ hoặc đau buồn đến tận cùng thì cũng nguôi ngoai theo dòng chảy của thời gian. Cái chết của giám đốc Công rồi cũng bị lãng quên. Trong cơ quan, phó giám đốc thường trực lên thay giám đốc Công. Bữa cơm trưa đầu tiên của tân giám đốc ở nhà ăn cơ quan, ông ăn rất ngon miệng vì có bia và món ăn mà ông khoái khẩu nhất, thịt chó luộc, thịt chó hấp, thịt chó xào rựa mận, xương chó nấu măng. Đang ăn bỗng nhiên giám đốc mới bị nghẹn. Thì ra ông rất xúc động khi nhìn thấy cái khẩu hiệu mới treo trang trọng trên tường: "ăn thịt chó bổ dưỡng và thông minh!"

AO LÀNG TRONG VẮT

VŨ ĐẢM

Ao làng nằm ở đầu làng, cạnh con đường chính của làng. Ao rộng và sâu, chỗ nông nhất người lớn lội cũng ngập đến bụng. Nước ao trong vắt, là nguồn nước ăn của dân làng, là môi trường sống bình yên của lũ tôm, cua, cá. Ao còn là nơi thoát nước về mùa mưa, là lá phổi khổng lồ điều hoà khí hậu về mùa hè để cho làng thêm trong lành, mát mẻ. Vào ngày hội làng, chín cô thiếu nữ được tuyển chọn với những tiêu chuẩn hết sức khắt khe, xinh nhất làng và đặc biệt phải còn trong trắng, đội chín bình nước lấy ở ao làng vừa đi vừa múa đến đền Thành hoàng để các cụ tắm rửa cho Thành hoàng. Thành hoàng là một viên tiểu tướng, trong một trận đánh giặc Minh, đạo quân của ông bị quân giặc đánh bại, không để rơi vào tay giặc, ông đã trẫm mình xuống ao làng. Quá căm thù ông vì đã chỉ huy quân lính anh dũng đánh trả làm cho quân giặc chết rất nhiều nên tên tướng giặc đã xua quân lính xuống ao mò xác ông, hòng vớt lên băm nát để trả thù nhưng mò tìm mãi chẳng thấy. Tên tướng giặc tức giận nhảy ùm xuống ao, tiếp tục hò hét bọn lính mò tìm bằng được xác ông; đang lặn ngụp, bỗng tên tướng bơi nhanh vào bờ, ôm cổ kêu rống lên, thì ra một con cua càng to tướng đã cắp đúng vào yết hầu của tên tướng. Bọn giặc cho rằng ao làng có ma nên sợ hãi bơi hết vào bờ. Khi bọn giặc vừa đi khỏi làng, xác ông nổi lên, gió đưa bồng bềnh như thể một người đang bơi ngửa. Dân làng vớt xác ông lên, khâm liệm, làm đám ma linh đình và chôn ông ngay trên mảnh đất hình thang ở cạnh ao làng. Cũng từ đấy, ao làng có một đặc điểm kỳ lạ pha chút huyền bí là rất nhiều cua. Đi trên đường, người ta có thể nhìn thấy những con cua càng to, mình đen bóng bò lổm ngổm trên các đám bèo, cành sen hay bụi cỏ mọc quanh bờ ao. Vào những trưa hè nóng nực, người ta còn thấy vô số con cua bò lên mặt đường làng, giương đôi mắt đen bóng nhìn đất, ngắm trời.

Ngày tôi còn là trẻ trâu thì chị Xuyến đã là một thiếu nữ xinh đẹp. Chị, mặt trái xoan, dáng thắt đáy lưng ong, da trắng, đặc biệt chị có mái tóc đen dài chấm gót. Mỗi lần gội đầu, chị đều phải nhờ thêm một người nữa phụ giúp. Chị là niềm tự hào, kiêu hãnh của làng. ở làng, từ người già đến lũ trẻ trâu chúng tôi không ai là không yêu mến chị; chị không chỉ đẹp người mà còn đẹp nết. Riêng tôi, tôi ngưỡng mộ chị đến độ thầm nhủ lớn lên nhất định sẽ bảo mẹ đến hỏi chị làm vợ! Tất nhiên tôi chẳng bao giờ thực hiện được ý định ngu ngốc của mình cho dù chị có trẻ mãi không già, đơn giản là vì chị không quan tâm đến chuyện chồng con.

Chị Xuyến bán bún riêu cua ở chợ làng, mỗi lần theo mẹ đi chợ, tôi đều bắt mẹ dẫn lại hàng chị ăn bún. Bún riêu của chị ngon, rẻ nên rất đông khách. Tôi vừa ăn vừa ngắm chị. Một lần mải mê ngắm chị, tôi đánh rơi bát bún xuống chân, bị bỏng mất mười hai ngày mới khỏi. Mẹ tôi sợ quá không cho tôi ăn bún nữa nhưng khi có ai cho tiền, tôi đều lén mẹ ra hàng chị ăn bún. Sau này, khi đã sống ở thành phố, mỗi lần về quê, tôi đều không quên ra hàng chị làm một tô bún riêu. Một dạo tôi đưa cô vợ mới cưới người Hà Nội về quê và hùng hồn bảo sẽ chiêu đãi nàng một món ăn đặc sản cả nước này, cả thế giới này chỉ làng tôi mới có! Tôi đưa vợ ra chợ làng, vào hàng bún riêu của chị Xuyến gọi hai tô. Nhìn thấy vợ chồng tôi, chị Xuyến mỉm cười bảo tôi dẫn vợ về trình làng đấy à? Tôi đáp vâng, kèm theo một câu nói đùa, không phải dẫn về trình làng mà dẫn về để thưởng thức món bún đặc sản của chị! Chị khen vợ tôi trông xinh và phúc hậu. Lời khen của chị làm mũi tôi phổng lên, nhưng nếu làm phép so sánh với chị, cùng lắm vợ tôi chỉ bằng bốn phần mười thời con gái của chị. Bây giờ chị đã đứng tuổi, mặt có nếp nhăn, duy chỉ có mái tóc của chị vẫn đen và dài. Tôi thấy chị vẫn đẹp, đẹp như ngày nào tôi muốn cưới chị làm vợ! Trong lúc ăn, một ý nghĩ vớ vẩn, hết sức thô tục đến với tôi. Tôi nghĩ, chị đã hơn bốn mươi tuổi, chị vẫn chưa chồng, không biết chị có còn trinh không? Mặt tôi đỏ rực lên, tôi đưa mắt nhìn chị, bắt gặp ở chị một ánh mắt dịu dàng, ấm áp. Chị không biết được ý nghĩ của tôi. Song tôi cảm thấy mình mắc tội lớn với chị. Tôi xuất thân từ một người nông dân, tôi sinh ra ở làng, lẽ nào tôi lại không tin những người dân quê!

Ăn bún xong, tôi móc túi, lấy tiền trả chị, chị gạt tay tôi không nhận, chị bảo chị chiêu đãi người thành phố. Tôi hiểu tấm lòng chân thành của chị nên cất tiền đi. Một điều có thể chị không nghĩ đến nhưng tôi rất lấy làm hãnh diện, hành động của chị đã làm đẹp mặt tôi trước cô vợ mới cưới, như ngầm bảo với nàng rằng tôi là kẻ được người làng trọng nể! Khi chúng tôi ra về, chị dặn nếu rảnh rỗi đưa vợ đến nhà chị chơi. Tôi cám ơn chị rồi đưa vợ về nhà. Trên đường đi, vợ tôi bảo có phải món bún riêu vừa ăn đó là đặc sản cả nước, cả thế giới chỉ ở làng mới có đó phải không? Tôi đáp, phải. Vợ tôi cười phá lên, bảo tưởng gì chứ bún riêu ở thành phố có mà đầy rẫy. Ngực tôi nhói đau, tôi suýt cho nàng một một lời mỉa mai, nhưng chợt nghĩ, nàng là người thành phố, nàng không sinh ra ở làng quê, nên không thể hiểu được những người dân quê. Trong mỗi bát bún riêu, ngoài công sức của chị, còn chứa đựng những giá trị không thể quy ra bằng tiền bạc.

Năm chị hai mươi tuổi, mẹ chị bị liệt nửa người, hàng ngày chị phải ra ao làng mò cua đem ra chợ bán, lấy tiền nuôi gia đình, thuốc thang cho mẹ. Cua quá rẻ vì nhiều người bán. Chị nghĩ cách lên thị xã học làm bún riêu rồi mở hàng bán bún riêu ở chợ làng. Những ngày đầu mở hàng, chị gặp khá nhiều phiền toái. Bấy giờ huyện là lá cờ đầu của toàn tỉnh trong việc tập thể hoá, mọi cái đều là tập thể, hợp tác xã nên chính quyền không muốn cho chị mở quán bán bún riêu nhưng cảnh ngộ gia đình túng bấn, cha ở mặt trận, hai em đang đi học. Xã họp bàn, xin ý kiến huyện mãi, chị mới được mở hàng. Tuy vậy thỉnh thoảng xã vẫn cho người đến kiểm tra xem có đúng là chị dùng tiền lãi vào việc đong gạo, mua thuốc cho mẹ không! Họ sợ chị tích luỹ, làm giàu để trở thành Tư bản! Những ngày còn được mẹ cho đến hàng chị ăn bún riêu, tôi đều thấy anh Thương giúp chị gánh bún, rửa bát. Anh Thương ở cuối làng, không có họ hàng thân thích gì với nhà chị, lại đến giúp chị, tôi thấy lạ quá liền hỏi mẹ. Mẹ tôi bảo anh Thương mồ côi cả cha lẫn mẹ, anh sống với bà nội, năm ngoái bà anh chết, thương anh bơ vơ, chị đưa anh về nhà ở. Anh Thương người cao to, đẹp trai, nước da màu đồng thau đỏ au, đôi mắt lúc nào cũng u buồn như chực khóc. Gánh bún, rửa bát cho chị được ba năm, anh Thương được một người chú họ đưa lên thành phố làm nghề bốc vác. Con gái ông giám đốc phải lòng anh. Năm sau anh cưới vợ, chuyển ngành. Không hiểu do bận mải công tác hay do mặc cảm về thân phận hồi nhỏ mà không thấy anh về làng cũng chẳng thấy thư từ gì. Anh Thương đi, hai người em thay nhau giúp chị làm công việc của anh Thương. Được bốn năm họ cũng lần lượt ra đi, cô em gái lấy chồng còn cậu út ra trận. Ngày tiễn con trai lên đường, mẹ bảo chị:

- Bệnh tình của mẹ đã khỏi, các em đều trưởng thành, chữ hiếu như vậy con đã làm trọn, giờ con hãy nghĩ đến chuyện chồng con đi!

- Đàn ông nhà ta đều ra trận, con phải thay cha, thay các em phụng dưỡng mẹ. Ngày cha ra đi, mẹ hứa với con, mẹ sẽ cho con ở nhà với mẹ suốt đời, lẽ nào mẹ đã quên!

Nói xong, chị muốn ôm chầm lấy mẹ, van mẹ đừng bao giờ nhắc đến chuyện chồng con của chị nữa. Mẹ chị rơm rớm nước mắt, bà đâu ngờ lời hứa vu vơ của mình với đứa con gái đầu lòng năm chị mười bốn tuổi, bây giờ bà phải buộc lòng thực hiện. Lời hứa, bà nói với chị vào ngày bà tiễn chồng ra trận. Khi chồng bà vừa ra khỏi nhà, chị lao vào ôm chặt lấy cha, kêu khóc không cho cha đi. Bà đã phải dỗ dành chị mãi, lúc sau chị mới buông chân cha. Nắm chặt tay mẹ, chị bắt bà phải hứa, nếu chị cho cha đi, bà sẽ cho chị ở nhà nuôi mẹ, chị không phải đi lấy chồng. Bà biết tính chị, mỗi lần bà nói mua cho chị cái gì hay cho chị đi chơi, chị đều bắt bà hứa và thực hiện bằng được nên khi nghe chị nói, bà đã hứa, một lời hứa cốt để cho chị bằng lòng để chồng đi đỡ khỏi vương vấn. Lời hứa ấy bà quên ngay sau đó nhưng chị đã không quên. Từ năm mười bảy tuổi đến nay, chị đã nhắc lại nó hàng trăm lần mỗi khi mẹ giục chị đi lấy chồng.

Những người đàn bà có chồng con ra trận đều chung một niềm mong ước, chiến tranh sớm kết thúc để họ được sống xum vầy với chồng con. Mẹ chị cũng là người đàn bà trong số ấy nhưng nỗi mong ước của mẹ chị còn thêm một phần nữa, ngoài việc đoàn tụ, còn chuyện chồng con của chị. Khi những người đàn ông trong nhà đã khoác balô trở về, chị sẽ không còn lý do để từ chối chuyện chồng con. Chị tuy đã nhiều tuổi nhưng chị vẫn đẹp, vẫn có nhiều người khao khát được làm chồng chị. Tối nào mẹ chị cũng chống gậy lần mò sang nhà ông Trưởng để nghe đài bán dẫn. Đến nhà, vừa thấy ông, mẹ chị đã hỏi ngay: “Chiến tranh đã sắp xong chưa hả ông?”. Ông Trưởng vặn to chiếc đài, gân cổ trả lời mẹ chị bằng cái giọng thuốc lào khàn khàn: “Sắp xong rồi, ta đang thắng nhớn”. Mẹ chị tựa chiếc gậy vào tường, ngồi xuống giường, nghiêng đầu về phía chiếc đài đặt trên bàn, lắng nghe chương trình thời sự. Hơn tám giờ mẹ chị mới về. Thấy chị đang làm cua ở dưới bếp, bà không nói gì, chỉ đứng nhìn chị một lúc rồi lộc cộc lê đôi guốc lên nhà. Buông chiếc màn thô nhuộm nâu, mẹ chị lên giường nằm, nghĩ về những người đàn ông ra trận và những người đàn bà ở làng quê. Những người đàn ông ra trận, phải đối mặt với bom đạn, trực diện với cái chết. Còn những người đàn bà ở quê, phải đối mặt với cái chết vô hình, ấy là sức lực tràn trề của tuổi thanh xuân luôn khát khao được ái ân với chồng nhưng đêm đêm phải chết mòn trong tiếng thở dài mong đợi. “Chiến tranh thật là khủng khiếp!”. Vào cái đêm cuối cùng của chiến tranh, mẹ chị đã thốt lên như vậy sau khi nghĩ về những người đàn ông ra trận và những người đàn bà ở làng quê, rồi mẹ chịu lặng lẽ ra đi. Sau cái chết của mẹ, tóc chị bạc và rụng đi rất nhiều. Chị tìm mọi cách để cứu vớt mái tóc dài bấm gót của mình mà chẳng thể cứu được. Mỗi lần chị chải đầu, từng nắm tóc tuột ra cuốn chặt lấy lược. Một tháng mười chín ngày, đúng bốn mươi chín ngày mẹ, tóc chị thôi rụng. Mái tóc dài mượt mà ngày nào của chị bây giờ chỉ còn lưng lửng ngang lưng. Người làng quá quen thuộc hình ảnh chị ngồi hong tóc trên chiếc sào dưới bóng cây mít, nay không còn thấy nữa, ai cũng thấy ngẩn ngơ như vừa mất đi một vật gì quý giá. Con bé Hằng cạnh nhà mà chị thường nhờ phụ giúp gội đầu, đã khóc sưng mắt khi thấy mái tóc ngắn ngủn của chị. Chị đã phải động viên, an ủi nó, rằng mái tóc của chị thương xót mẹ nên rụng đi ít hôm, chỉ vài ba bữa nữa nó lại đen, lại dài ra. Khóc nhiều, tóc thương nhớ mẹ sẽ không dài ra nữa. Con bé tưởng thật, thôi không khóc nữa, bắt chị cho nó mớ tóc rụng, hàng ngày trải ra giường, buộc chặt một đầu, ngồi tết tóc đuôi sam. Ngay cả tôi, khi ra hàng chị ăn bún riêu, nhìn tóc chị, nước mắt tôi cũng đã nhỏ xuống cả bát bún. Mái tóc chị đã một lần cứu sống tôi và thằng Tý khi chúng tôi còn là những đứa trẻ trâu. Đó là những ngày hè lộng gió, chúng tôi ngồi vắt vẻo trên lưng trâu từ cánh đồng về nhà, bắt gặp chị đi ngang qua ao làng thì thôi rồi, cho dù cả lũ chúng tôi có đang chí choé cãi nhau về vấn đề gì cũng đều im bặt, phóng mắt nhìn vào sau lưng chị. Từ đấy, một làn tóc đang chấp chới bay trong gió, lúc lên cao, lúc sà xuống, khi tụm thành một dải dài, khi xoè ra như một chiếc quạt giấy khổng lồ. Cũng một chiều hè, khi lũ chúng tôi đang “ngự” trên lưng trâu ngắm làn tóc chị bay trong gió thì đột nhiên thằng Tý cưỡi con trâu đi đầu, người cao kều như cái sào chị hay hong tóc, bị con ve trâu đốt ở sau lưng, giơ tay vỗ trượt, mất đà lăn tõm xuống ao làng. Tôi bị mái tóc của chị làm mê mẩn nên không kịp nghĩ đoạn ao này rất sâu. Từ lưng trâu, tôi nhảy xuống ao, định thực hiện một hành động nghĩa hiệp, cứu thằng Tý. Nhưng hỡi ôi lúc xuống ao rồi, tôi chẳng biết Tý với Tẹo gì nữa mà chỉ thấy toàn nước là nước ồng ộc chảy vào mồm mình. Khi chúng tôi sắp bị Hà bá nhấn chìm thì tay chúng tôi quờ quặng được một đám dây rợ lùng nhùng. Đám dây rợ cứu sống chúng tôi chính là mái tóc của chị Xuyến. Chị đã nhảy xuống ao, nước sâu ngập đầu, chị bám vào một rễ cây, nhúng ướt mái tóc của chị, quăng về phía chúng tôi. Chẳng biết có phải do ngưỡng mộ mái tóc dài của chị hay để trả ơn mái tóc chị đã cứu sống mình mà thằng Tý đã thề sống chết với chúng tôi, nhất khoát sau này lấy vợ, nó sẽ chọn một cô có tóc dài. Lời thề sống chết này, thằng Tý thực hiện một cách triệt để. Ngày nó rục rịch chuẩn bị ra trận, mẹ nó muốn nó cưới cấp tốc một cô vợ nhưng dẫn đi xem mặt mấy đám, thằng Tý đều lắc đầu chỉ vì mấy cô tuy xinh xinh đấy nhưng tóc lại ngắn ngủn ngang lưng! Thằng Tý ra đi, người mẹ ở nhà đi khắp các làng lân cận tìm một người con gái tóc dài dấm trước cho nó. Tìm mãi mới được một người con gái tóc dài, tất nhiên chẳng thể sánh được với tóc của chị Xuyến, dù sao chỉ dài đến đầu gối chân cũng là lý tưởng lắm rồi. Người mẹ sung sướng biên thư báo tin mừng cho con, thư gửi hôm trước, hôm sau nhận được giấy báo tử của thằng Tý.

Chiến tranh kết thúc, hai người đàn ông nhà chị ra trận chỉ có một người trở về, người ấy là cha chị. Ông đeo huân chương, ông là thương binh, là anh hùng. Mất hai ngày chống nạng đi thăm hỏi bà con trong làng, ngày thứ ba ông mới có thời gian trò chuyện với chị. Ông bảo:

- ở chiến trường, cha đã biết tất cả, mẹ viết thư nói hết với cha. Bây giờ cha đã về, con tính sao?

Nhìn cha với ánh mắt cầu khẩn, chị đáp:

- Mẹ đã mất, em đã hy sinh, con chỉ xin cha cho con ở nhà để phụng dưỡng cha.

Cha chị không nói gì, ông thấu hiểu được tấm lòng của con gái, người mà ông không những yêu mến mà còn cảm phục. Chị đã thay ông làm trụ cột gia đình. Chị là điểm tựa tinh thần to lớn của ông. Ông thường nói với đồng đội, sở dĩ ông lập được nhiều chiến công, trở thành anh hùng là do ông có một hậu phương vững chắc. Hậu phương ấy chính là “thằng con trai” đầu lòng của ông! ứơc nguyện của chị là vậy, vợ ông và cả ông đều không muốn, nhưng ông làm sao có thể ngăn cấm được khi mà vào tuổi mười bốn, cái tuổi còn non trẻ, chị đã quyết chí suốt một đời tôn thờ chữ hiếu. Từ đôi mắt nâu của ông, hai giọt nước mắt lặng lẽ rơi xuống. Chị chạy ra sân lấy khăn mặt lau nước mắt cho cha.

- Cha là anh hùng, sao cha lại khóc? – Chị nói, mắt chớp mấy cái, cố kìm nén không cho nước mắt của mình trào ra. Nắm chặt bàn tay chị, cha chị bảo:

- Cha sinh ra con, con sinh ra sự anh hùng của cha, con cũng là anh hùng!

Chị đưa mắt nhìn cha, cảm thấy mình vẫn nhỏ bé như ngày nào sà vào lòng cha bắt ông kể lại câu chuyện dìm chết tên quan ba Pháp ở ao làng. Chuyện này xảy ra vào hồi quân Pháp còn đóng quân ở bốt Cầu Kè cạnh ao làng. Tên quan ba khét tiếng tàn ác, thường bắt cóc những cô gái đẹp trong làng đưa về bốt để hãm hiếp. Đội du kích giao nhiệm vụ cho cha chị tìm cách trừ khử hắn. Biết được tên quan ba có thói quen tắm truồng ở cầu ao làng vào những buổi tối mùa hè, đêm đêm cha chị ra con sông ở ngoài đồng tập dượt. Một đêm, gần sáng trời nổi cơn dông tối đen mù mịt, cha chị lần ra ao làng, núp mình dưới một đám bèo tây, ăn cơm nắm gói trong túi bóng, uống nước ao, đợi đến chập tối tên quan ba ra tắm, ông lặn lại cầu ao cầm chân lôi tuột hắn ra giữa ao. Bọn lính gác trên bờ không dám bắn vì sợ trúng tên quan ba, chúng chạy về bốt lấy thuyền con ra cứu, ra được đến nơi thì tên quan chỉ còn là cái xác không hồn. Còn cha chị đã bơi qua bên kia trốn thoát.

Cởi bỏ bộ quần áo anh hùng, cha chị lại trở về với cuộc sống của một người nông dân. Tối tối, ông ngồi bên ngọn đèn kều gạch cua giúp chị. Công việc này, ông làm một cách viên mãn. Những con cua ở ao làng chẳng những đã cứu giúp gia đình ông mà còn cứu thoát cả làng khỏi nạn đói năm ất Dậu. Cảnh tuợng hàng trăm người, hình hài chỉ là bộ xương bọc da, quần áo tơi tả, lặn ngụp xuống ao làng mò cua, bắt được con nào cho vào mồm nhai ngấu nghiến, mãi mãi còn ghi dấu ấn trong tâm trí ông. Ông thấy đất nước này thật kỳ lạ, ngay cả đến những cái ao làng khiêm nhường cũng tạo nên sự vĩ đại của dân tộc và trong ông đã xuất hiện một ý tưởng, đề nghị Sở Văn hoá- thông tin cấp bằng di tích Lịch sử- văn hoá cho ao làng ông. Một ý tưởng đầy nhân văn, hướng về quá khứ của ông suýt nữa thì bị phá sản bởi sự trở về của Thương. Cuộc tìm về cuội nguồn đột ngột của Thương theo mệnh lệnh của vợ sau khi thị đi xem bói về mồ mả gia đình chồng, đã gây xáo động to lớn cho làng bằng việc lấp ao làng. Chả là trong chuyến về cố hương này, Thương có đến thăm ủy ban xã, thấy trụ sở làm việc chỉ là nhà mái ngói cũ kỹ, Thương bảo:

- Uỷ ban xã là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá của làng mà ọp ẹp thế này thì làm sao thể hiện được quyền lực với dân!

Chủ tịch xã Kiện kính cẩn nói với Thương không có kinh phí. Thương phẩy tay:

- Làm tờ trình đi, tôi sẽ ký duyệt. Quê hương thì phải ưu đãi chứ!

Và cái phẩy tay của Thương đã biến ngôi nhà ngói cấp bốn thành ngôi nhà ba tầng uy nghi lộng lẫy. Trước ngày khánh thành, đích thân chủ tịch xã mang một tạ gạo tám thơm, một tạ gạo nếp, nửa tạ gà lên thành phố, gọi là có chút quà quê hương tạ lễ và mời Thương về cắt băng khánh thành, tiện thể dự hội làng luôn cho tăng phần long trọng. Vợ Thương nhất định không cho chồng về. Gạn hỏi mãi, vợ Thương mới tiết lộ, gần đây có nằm mơ thấy xe ô tô của Thương bị lao xuống ao làng, cả hai vợ chồng đều chết đuối. Nghe vừa dứt lời, Kiện hồ hởi bảo.

- Chị yên tâm, em sẽ cho dân làng ra đứng dọc bên đường tiếp giáp với ao làng làm cột mốc.

Vợ Thương vẫn không bằng lòng với biện pháp có một không hai này của Kiện, bảo lần này còn lần khác, chả nhẽ sau này, mỗi lần về thăm quê, hương khói cho các cụ lại bắt dân ra đường làm cột mốc!

Kiện lấy làm buồn lắm, Thương không về nữa có nghĩa là các khoản ưu đãi không còn, sẽ chẳng còn cái để chấm mút. Nguyên nhân chỉ là cái ao làng, thật vớ vẩn, tại sao lại không lấp quách nó đi biến thành đất mặt đường đem bán cho dân. Đất đang lên cơn sốt, đấy cũng là khoản kiếm ăn, làm giàu được. Còn nước tắm cho Thành hoàng, chỉ cần xây một cái giếng là thừa thãi. Vui mừng vì tìm ra được giải pháp tốt đẹp, Kiện thấy người mát mẻ, khoan khoái như ngày còn là trẻ trâu ra tắm truồng ở cầu ao làng được xây dựng bằng những phiếm đá phẳng lì. Kiện tức tốc trở về quê để thực thi ngay cái sáng kiến đã được vợ chồng Thương nhiệt liệt tán thành. Nó không những xoá bỏ hoàn toàn nỗi lo chết đuối của vợ Thương mà còn giúp Thương xoá bỏ được tận gốc hình ảnh ngày nào Thương gánh bún, rửa bát cho chị Xuyến. Ngày thương về làng, những người nông dân chuyện trò với nhau, họ bảo: “ ồ, có ai ngờ cái thằng Thương ngày xưa vẫn đi chân đất, gánh bún, rửa bát cho con Xuyến bây giờ lại làm to đến thế !”. Đó là lời khen chất phát của dân làng, muốn ca ngợi chí tiến thủ của Thương nhưng Thương lại cho đó là một sự xúc phạm! Vì thế khi nghe sáng kiến tuyệt vời của Kiện sẽ lấp ao làng để cho tư nhân thuê mặt bằng, xây quán bán hàng, Thương lại phẩy tay: “Cứ làm tờ trình đi, tôi sẽ ký!”.

Ngày khởi công lấp ao làng, xảy ra một hiện tượng lạ chưa từng thấy, hàng đàn cua chen chúc nhau leo lên bờ. Người làng đổ ra xem rất đông. Đám thanh niên bảo chúng chạy trốn cái chết còn người già bảo hình như chúng muốn gửi đến con người một thông điệp gì đó thì phải? Gần một trăm nhân công được huy động để chở đất lấp ao nhìn thấy cảnh tượng này đều sợ hãi ,không ai dám là người hất xẻng đất đầu tiên xuống ao. Hò hét mãi chẳng được, chủ tịch Kiện tức giận, cởi phăng quần áo dài; trong bộ trang phục quần đùi, áo may ô, Kiện phăm phăm đi đến bên đống đất, giằng lấy xẻng từ tay một thanh niên, xúc đất hất một cái thật mạnh xuống ao. Chả hiểu sao cái xẻng tuột khỏi cán làm Kiện mất đà ngã chúi xuống ao. Sau khi uống no một bụng nước, Kiện được mọi người cứu đưa lên bờ. Bỗng Kiện ôm bộ hạ kêu rống lên. Người ta vội vã cởi quần đùi cho Kiện, than ôi cái của quí của Kiện đã gần như sắp lìa ra bởi đôi càng to, khoẻ của một con cua càng đen bóng. Không ai bảo ai, tất cả cán bộ xã và đám nhân công được xã thuê để lấp ao làng đều lủi sạch.

Chủ tịch Kiện đã lên tận Hà Nội để khâu lại cái của quí của mình, chẳng biết nó có lành lặn lại được không nhưng sau này người làng hay nhìn thấy cô vợ trẻ đẹp của Kiện lén lút đến nhà của một gã hoạn lợn; gã khoẻ đến độ một mình bê được cả con lợn nặng gần một tạ đi phăng phăng như mấy bà cắp cái thúng không đi chợ làng.

Thiếu Phụ Ngủ Trưa

VŨ ĐẢM

Chiếc xe hơi dừng bánh, anh lái xe vội mở cửa bước xuống, vòng ra phía sau, tay mở cửa xe, miệng lễ phép: ” Dạ đã về đến nhà, kính mời anh xuống ạ!”. Người đàn ông béo lùn, da ngăm đen, mở mắt, ngoác miệng ngáp mấy cái liền, xách cặp da bước xuống xe, đi về phía cổng ngôi biệt thự của mình. Ông ngạc nhiên khi nhìn thấy người thiếu phụ đang tựa người vào gốc cây cổ thụ trước cổng ngôi biệt thự, gà gật ngủ trưa nhưng tay không quên nắm lấy khung chiếc xe đạp cũ kỹ có chằng một bao tải rách. Chiếc khăn che mặt tuột xuống bờ vai để lộ khuôn mặt đẹp chân chất kiểu thôn quê, mái tóc dài đổ xõa, đen kín cả gốc cây. Hai ống quần nâu gụ bị kéo lên cao, thấy rõ đôi chân với nước da trắng muốt. Và trời ơi, chiếc cúc áo ngực bật ra để lộ một phần của đôi gò vú phập phồng theo nhịp thở, đôi mắt người đàn ông như bị hút hồn vào cái khoảng ngực ấy. Là một người có quyền lực và giàu có, ông đã từng ăn nằm với hàng chục người đẹp, người mẫu, diễn viên, hoa khôi, có cô còn trẻ hơn cả tuổi con gái ông nhưng không hiểu sao đứng trước người thiếu phụ đang ngủ, ông thèm muốn, một sự thèm muốn không giống như tất cả những cuộc tình trước đây. Ông đã nhàm với vẻ đẹp son phấn; thèm một vẻ đẹp thuần khiết, má đỏ môi hồng. Ông đã nhàm với những cặp chân dài cứng đơ vì ít vận động; thèm những đôi chân đôi tay rắn chắc của người lao động. Ông chép miệng thở dài, bước lại chiếc cổng sắt.

Người đàn ông mở cổng ngôi biệt thự, ông chần chừ nửa muốn bước vào nửa muốn quay ra, cuối cùng ông bước lại phía người thiếu phụ đang ngủ. Hẳn là một người phụ nữ nghèo ở quê lên Hà Nội đi đồng nát? Người đàn ông suy đoán. Quả là vậy, chị đồng nát sinh ra ở một làng quê ven sông Hồng, đất chật người đông, cấy ruộng không đủ ăn nên chị phải theo người làng lên Hà Nội kiếm sống bằng nghề đồng nát.

- E, hèm!

Tiếng hắng giọng của người đàn ông làm chị đồng nát giật mình, chị luống cuống đứng lên, búi lại mái tóc, thấy cúc áo ngực bật ra, chị xấu hổ quay mặt, cài lại cúc áo rồi dắt chiếc xe đạp đi. Người đàn ông cuống quýt nói với theo, trong nhà ông có ít vỏ chai, chị có lấy vào ông cho không. Chị đồng nát vốn quen nghe những hách dịch:” Sao trả rẻ thế ? ”, nay nghe thấy tiếng “cho không” thì bụng mừng lắm nhưng chân thì e ngại. Người đàn ông danh giá thế, ngôi biệt thự của ông sang trọng thế mà mình thì dân quê, làm cái nghề nhếch nhác này đi vào, liệu có sao không? Thấy chị đồng nát cứ đứng thần mặt ra, người đàn ông lại giục, bấy giờ chị mới lấy hết can đảm để dắt chiếc xe đạp cà tàng đi vào ngôi biệt thự.

Ôi đẹp quá! Chị đồng nát thầm thốt lên khi thấy hiện lên trước mắt mình là con đường trải đầy sỏi trắng, hai bên là hai vườn hoa, những con bươm bướm đang chập chờn nhảy nhót từ bông hoa này sang bông hoa kia. Gió thoảng đưa cành trúc ở bên trái vườn lung lay, vài chiếc lá vàng nhè nhẹ đáp xuống mặt đất.

Lạo xạo, lạo xạo, tiếng sỏi lạo xạo dưới chân làm chị đồng nát rời mắt khỏi vườn hoa, chị cúi xuống, bước đi chầm chậm, khe khẽ để tránh gây khó chịu cho người đàn ông. Chị không biết dựng chiếc xe đạp ở chỗ nào, nó tàn tạ quá mà ở đây ngay cả đến cây cỏ, hòn sỏi cũng toát lên vẻ quí phái. Người đàn ông bảo chị cứ dựng xe ở cạnh cái hồ có mấy cái vòi đang thi nhau phun nước, chị làm theo như một cái máy.

Vợ người đàn ông đi du lịch châu Âu cùng với hai con, chị giúp việc đi theo để phục dịch thành ra ông hoàn toàn được tự do. Người đàn ông mời chị đồng nát vào phòng khách, chị liếc nhìn, một căn phòng trang hoàng lộng lẫy làm chị choáng ngợp, chị ái ngại từ chối:” Thôi, cháu đứng ở đây cũng được”. Chị xưng cháu với người đàn ông, ông bảo gọi bằng anh cũng được nhưng cái sự tự ti về thân phận đồng nát của mình không cho phép chị gọi anh, xưng em.

Nhà người đàn ông không có vỏ chai nhưng vỏ chai là cái cớ để ông đưa người thiếu phụ đẹp vào nhà, ông mở tủ đựng rượu cầm mấy chai rượu ngoại được biếu, có chai trị giá bằng một năm tiền lãi đi đồng nát của chị, định đưa cho chị đem về cho chồng uống rồi vỏ thì đem bán nhưng sợ làm vậy sẽ lộ màn kịch của mình nên ông mở nút chai, đổ hết rượu vào bồn vệ sinh rồi đem vỏ chai ra cho chị đồng nát đang đứng ngây người ngắm chùm đèn treo ở giữa phòng khách. Chị đưa hai tay đỡ lấy những chiếc vỏ chai, cảm ơn ông bằng những lời thật lễ phép:” Cháu xin ông! Cháu xin ông!”.

Chị đi ra, cho mấy cái chai vào bao tải. Chị đang buộc lại miệng cái bao tải thì giật thót mình, bàn tay người đàn ông lành lạnh nắm lấy tay chị, bảo muốn thuê chị lau nhà, trả chị một triệu. Một triệu? Chị ngây cả người ra, tối qua chồng chị ở quê vừa mới gọi điện lên cho chủ nhà trọ xin được gặp chị thông báo không có tiền đóng học cho con, chị bảo cứ vay tạm hàng xóm rồi cuối tháng chị gửi về. Có được tiền đóng học cho con, chị quên cả sợ, nói với người đàn ông, chị sẽ lau nhà cho ông.

Theo sự chỉ dẫn của người đàn ông, chị đồng nát đi vào khu nhà kho, lấy chổi, giẻ lau, xô xách nước. Thật ra, trong nhà kho có máy hút bụi nhưng sợ chị không biết sử dụng làm hỏng máy nên người đàn ông không lấy ra hơn nữa lau nhà cũng chỉ là cái cớ để ông thực hiện mưu đồ của mình.

Chị đồng nát lau kỹ lưỡng, cẩn trọng từng ly từng tí, sợ sẽ làm sướt gỗ. Lau xong sàn gỗ, chị lau cửa sổ, lau cầu thang. Chỗ nào cảm thấy chưa thật sự ưng ý, chị giặt giẻ lau lại, người ta trả mình những một triệu cơ mà, lại còn cho không mấy cái vỏ chai, mình phải có trách nhiệm lau thật sạch. Mà mấy cái vỏ chai sao mà đẹp thế, có lẽ mình chả bán, đem về nhà để cho bố con Hĩm đựng rượu hoặc đựng nước mắm. Hóa ra người thành phố cũng có người tốt, kẻ xấu, một triệu đủ để đứa con gái của mình đóng học được một năm, may mắn quá, may mắn quá!

Trong lúc chị đồng nát đang mải miết lau nhà thì người đàn ông cũng đang nghĩ cách làm sao chiếm đoạt được thân thể của chị; chị là gái một con, da chị trắng, dáng chị thắt đáy lưng ong, ông nuốt nước bọt, cố kìm một tiếng ho. Tiền, nếu không mua được bằng tiền thì nhiều tiền sẽ mua được, đó là cách mà ông vẫn hay áp dụng để chinh phục người đẹp. Cái cô người mẫu chân dài, xinh như hoa hậu chả thế à, lúc đầu ông mời đi ăn tối thì cô ngúng nguẩy từ chối, sau ông tặng cô những món quà trị giá vài trăm đô thì cô nhận lời đi ăn tối với ông ở một nhà hàng đặc sản nổi tiếng nhất thành phố. Ông đưa cô cái phong bao một ngàn đô, bảo muốn được qua đêm với cô ở khách sạn năm sao, cô lắc đầu bảo cô không phải là hạng cave chân dài nhưng đến lần ăn sau, khi ông nâng số đôla lên gấp đôi thì cô e thẹn nói rằng, nể ông quá nhiệt tình nên cô đồng ý!

Người đàn ông lấy ra bốn tờ năm trăm ngàn, hai tờ trả công lau nhà cho chị đồng nát còn hai tờ bồi dưỡng cho chị nếu chị chịu làm tình với ông. Cơn hưng phấn đang trào dâng trong người, ông không thể đợi đến lúc chị lau xong nhà. Ông đứng dậy, đi đến chỗ chị đồng nát đang lau cầu thang, định đưa tiền cho chị nhưng ngần ngại, sợ chị không đồng ý. Chợt ông nghĩ ra được một cao kiến, ông cầm xô nước đi vào nhà tắm bảo là xách nước giúp chị. Chị đồng nát gần như van lơn ông cứ để chị làm, chị bảo ở nhà quê, gia đình chị có trồng rau nên công việc xách nước tưới rau quá quen thuộc đối với chị. Người đàn ông đáp, ông ngồi bàn giấy nhiều, xách nước giúp chị cũng là biện pháp thể thao. Ông lý luận thế thì chị sao đủ trình độ để bắt bẻ được, chị cúi xuống tiếp tục lau cầu thang.

- Ùm!

Cả một xô nước đầy đổ ụp xuống người chị đồng nát, người đàn ông rối rít xin lỗi chị vì ông “trượt chân” nên làm đổ nước vào người chị. Ông hấp tấp chạy lên phòng ngủ, lấy bộ quần áo của vợ đưa cho chị, bảo chị vào nhà tắm, tắm rửa rồi thay quần áo. Cả người chị đồng nát, từ đầu đến chân đều ướt sũng, mà quần áo lại bó sát cái cơ thân hình mềm mại của chị làm chị ngượng ngùng, chị đành cầm bộ quần áo của vợ người đàn ông đi vào nhà tắm.

Nhà chị ở quê nghèo, cái nhà tắm được tạo dựng bằng mấy tấm cót ép quây lại ở ngoài vườn nên mỗi khi tắm, chị phải tắm vào buổi tối cho kín đáo, mùa hè còn đỡ chứ mùa đông mặc dù tắm nước nóng nhưng gió lùa lạnh run cầm cập. Còn cái nhà tắm này sang trọng quá, toàn những đồ ngoại của Nhật. Chị quen với kiểu tắm múc nước giếng vào xô, xách vào nhà tắm cót ép, lấy ca dội, còn ở đây tắm trong buồn tắm có vòi hoa sen, chị loay hoay mãi mà vòi hoa sen không phun nước, chỉ thấy nước chảy ra từ một cái vòi bên dưới. Chị cởi quần áo, giật mình khi nhìn thấy thân thể trong gương, từ bé đến giờ chưa khi nào chị nhìn mình trần truồng qua gương, chị đỏ ran cả mặt, xoay người lại, cúi người vào dòng nước đang chảy từ vòi tắm, kỳ cọ.

Cửa phòng tắm có chốt bằng nắm đấm, trong bấm chốt, ngoài không mở được nếu không có chìa khóa nhưng chị đồng nát không biết sử dụng, chỉ sập cửa mà không bấm chốt. Người đàn ông mặc quần đùi, mình trần, tay cầm chìa khóa đứng chực sẵn bên ngoài, ông khe khẽ xoay nắm đấm cửa, thấy cửa không bị khóa trong, ông đã mừng thầm, tiếp tục xoay nắm đấm cửa, đẩy nhẹ nhàng từng tí từng tí một. Ông há mồm nhìn người thiếu phụ khỏa thân. “Đẹp quá!”. Tiếng thốt thành lời của người đàn ông làm chị đồng nát giật bắn mình, chị vơ vội quần áo che lên cơ thể mình. Người đàn ông lao vào ôm lấy chị, chị đẩy ra, khóc, van xin:

- Cháu xin ông, cháu đã có chồng con rồi!

- Tôi thích em, một vẻ đẹp thuần khiết thôn quê, ngoài tiền lau nhà, tôi sẽ cho em thêm một triệu nữa.

- Không, cháu xin ông!

- Hai triệu?

- Không, cháu xin ông!

- Năm triệu?

- Không! Cháu xin ông!

- Mày là nhà quê, lại làm cái nghề đồng nát hạ đẳng mà cũng làm cao hả? Tao qua đêm với bọn chân dài cũng chỉ năm triệu, mày nghĩ mày là hoa hậu thế giới hả ?

Người đàn ông quát lên giận dữ rồi không kịp để cho chị đồng nát van xin thêm một lần nữa, người đàn ông lao vào định sẽ dùng sức mạnh hãm hiếp, chị nhanh tay chụp được con dao Thái trên giá gương rửa mặt. Người đàn ông đứng nhìn chị bất lực, lúc sau rít lên: - Cút ra khỏi nhà tao!

Người đàn ông đi ra, chị đồng nát sập cửa lại, tay vẫn cầm con dao, chị mặc lại bộ quần áo ướt của mình. Chị mở cửa đi ra, tay vẫn lăm lăm con dao, chị bước xuống cầu thang, qua phòng khách rồi đi ra phía hồ phun nước. Chị run quá, làm đổ cả xe đạp, mấy cái vỏ chai văng ra sút sẹo cả miệng. Chị cúi xuống dựng chiếc xe đạp lên, dắt xe đi ra phía cổng. Cổng chỉ chốt bên trong mà không khóa, chị lập cập mở chốt. Hồn vía lên mây, chị đồng nát quên cả món tiền lau nhà một triệu, lên xe đạp thục mạng về nhà trọ trong một con ngõ ở đường Kim Ngưu.

Lệnh Bà

VŨ ĐẢM

- Đừng vỗ ngực, trí thức như anh lương không đủ nuôi mồm, giá trị qui ra tiền không bằng một đứa buôn gà đâu! - Nàng riết róng, giọng khàn khàn đầy ắp đầy căn phòng, dội vào tai Cang bùng nhùng như mặt trống. Cang đi đến bên tủ, lấy chiếc túi thời sinh viên, nhét mấy cuốn sổ và hai bộ quần áo, quay lại đứng đối diện với nàng nói vài lời vĩnh biệt, đặt tờ đơn xin ly hôn vào tay nàng rồi đi ra cửa. Cang bước hai bước một xuống cầu thang, tới bậc cuối cùng, Cang đụng phải bà Han đứng lù lù trước mặt. Bà bảo:

- Con tôi không phải là cái quần đùi để anh thích cởi bỏ lúc nào cũng được, hãy suy nghĩ lại đi kẻo ân hận cả đời đấy!

Bà Han nặng nề dịch chuyển về bên trái, mở một lối đi cho Cang. Cang dừng lại giây lát, tháo nốt chiếc đồng hồ Omega, chiếc nhẫn cưới hai chỉ mà nàng tặng cho Cang, đặt lên mặt bàn, bước ra khỏi nhà. Đường phố vào giờ hành chính, người xe xuôi ngược, loang loáng trước mặt. Cang đi, bước chân hối hả, Cang muốn thoát thật nhanh ngôi nhà số một trăm bảy mươi với cái biển đèn màu: Hoa Hồng Hotel mà hơn bốn năm qua, Cang sống như một thứ cây cảnh tô điểm cho gia đình bà Han.

Cang đang đi, chợt nhớ, mỗi sáng, tầm bảy giờ mười lăm phút, chiếc xe hơi đưa đón ông Giới sẽ ghé vào cho Cang quá giang, Cang quay trở lại một đoạn, tạt vào quán giải khát ven đường kêu một ly cà phê nhâm nhi đợi xe. Đặc ân mà ông Giới dành cho Cang được quá giang và cả chiếc ghế phó phòng tổng hợp, Cang biết đó là sự đền đáp lại nghĩa tình đối với bà Han; bà vừa là tình nhân, vừa là người cung cấp những cô gái trinh trắng cho ông Giới mỗi khi ông thực hiện một phi vụ làm ăn lớn hay loại bỏ một kẻ nào đó không chịu đi theo quĩ đạo của ông. Một điều quan trọng nữa, nhờ núp bóng ông Giới, Cang trở thành nhân vật mà từ ông bảo vệ đến những người kế cận ông Giới đều nể, đều sợ.

Cang kêu chủ quán tính tiền, đứng dậy băng qua đường, tiến lại chiếc xe màu ghi đang nổ máy trước ngôi nhà số một trăm bảy mươi. Cang chỉ còn cách chiếc xe mươi mét thì chiếc xe dỉn lên một tiếng rồi lướt qua. Cang giơ tay vẫy, chiếc xe dường như không thèm để ý đến Cang.

Cang cắm cúi đi trên vỉa hè, cố tập trung suy diễn từ những mối quan hệ của bà Han hòng hé mở thêm những trang đời đầy bí ẩn của bà nhưng đầu óc Cang quá tản mát; hơn nữa có tập trung, huy động được mọi tiềm năng phán đoán, Cang cũng không bao giờ hiểu được điều mình muốn. Ngay chính bà Han, khi nằm bên ông Giới, bà từng bảo với ông rằng nhiều lúc bà cũng không thể tưởng tượng từ một gái bán dâm ở vỉa hè, bà lại là bà Han- bà chủ khách sạn bây giờ!

Có tới cả chục năm Cang mới đi bộ một đoạn đường dài như hôm nay nên Cang mệt nhoài, vừa bước qua cổng cơ quan, Cang đã vội ghé vào phòng bảo vệ. Thoạt nhìn thấy Cang, ông bảo vệ nhìn trước, ngó sau, ghé sát môi vào tai Cang:

- Anh bỏ vợ thật đấy à?

- Sao bác biết? - Cang tròn mắt, bật thành tiếng gần như vô thức. Ông bảo vệ lầm rầm kể, trong buổi họp cơ quan chớp nhoáng sáng nay, ông Giới đã dành trọn buổi để nói về sự kiện này. Cang thật sự kinh ngạc, không ngờ chuyện riêng tư của mình lại được ông Giới đưa ra mổ xẻ trước toàn cơ quan? Chân vắt chữ ngũ, Cang tựa người vào thành giường, đôi mắt he hé nhìn ông bảo vệ đang phân vân, lúng túng, ông cúi gập người buộc lại đôi giày cao cổ rồi vội vã bước ra. Cang nghĩ ông đi lấy nước sôi pha trà, vì mọi ngày, mỗi khi Cang vào phòng, ông đều vồn vã mời bằng được Cang uống chén trà nóng hổi. Cang đợi mãi chẳng thấy ông quay lại, liền chống tay đứng dậy, lững thững đi lên phòng làm việc. Cang đẩy cửa bước vào, phòng điều hoà mát lạnh nhưng Cang cảm thấy ngột ngạt, hàng loạt những con mắt cùng một lúc nhìn về phía Cang. Cang đi lại bàn làm việc, đặt chiếc túi lên góc bàn, lôi tập tài liệu trong ngăn kéo ra đọc. Sau mấy lần nhấp nhổm, ông trưởng phòng đi đến bên Cang xì xầm:

- Anh Cang, chuyện có thật sao?

- Chuyện gì? - Cang hỏi, giọng cụt lủn.

Mặt ông trưởng phòng tối sầm, ông muốn thoi vào mặt Cang một quả; chuyện tày đình như thế mà còn vờ vịt! Không khéo năm nay, nó tước mất danh hiệu tiên tiến của cả phòng mất thôi! Điều này xảy ra cũng có nghĩa là độ nhích dần đến điểm đích - cái nghế phó thủ trưởng cơ quan mà ông đã tốn bao công sức, tiền của mới tiếp cận được sẽ bị đẩy ra xa và rất có thể ông sẽ chẳng bao giờ kéo nó lại gần được nữa. Trong cuộc trao đổi vắn tắt sáng nay, ông Giới đã chả từng nhắc đi nhắc lại, việc làm công tác tư tưởng để Cang trở về với vợ là nhiệm vụ cấp bách là gì!

Mọi người trong phòng vờ miệt mài làm việc nhưng tâm trí lại để hết vào chỗ ông trưởng phòng và Cang. Nhìn vẻ mặt phớt đời của Cang, ông trưởng phòng căm giận, ông trưởng phòng sợ hãi. Ông thầm ước ngày mai hoặc Cang sẽ quay về ngồi nhà số một trăm bảy mươi phố N, hoặc một tai nạn nào đó sẽ chấm dứt sự tồn tại của Cang trên cõi đời này. Không thể chịu được cái nhếch mép rất đểu của Cang, ông trưởng phòng nguyền rủa rằng hành động bỏ vợ của Cang xét về hành vi tư tưởng đạo đức, đó là sự xuống cấp trầm trọng!

Mặc cho ông trưởng phòng qui kết, Cang vẫn chúi mắt vào mấy trang tài liệu, chẳng đọc gì đâu, cốt là để kích thêm cơn giận dữ của ông. Ông trưởng phòng cạn lời, căn phòng phút chốc trở nên câm lặng. Ông trưởng phòng cay đắng nhận ra mình đã quá nóng nảy, làm cho Cang chẳng những coi thường ông mà còn gia tăng thêm quyết tâm chạy trốn, ông tỏ vẻ ân hận nói với Cang:

- Anh Cang! Hãy bỏ qua cho tôi, tôi nóng nảy quá, nhưng cũng là tấm lòng thành của tôi đối với anh, tôi sợ anh sẽ không tránh khỏi những đòn trừng phạt của ông Giới.

- Cám ơn! - Cang nói, đẩy tài liệu vào ngăn kéo, đi ra ngoài hành lang. Nắng cuối thu dìu dịu làm Cang cảm thấy dễ chịu hơn đôi chút, Cang đi lại mấy bồn hoa giữa sân, ngắt một bông hồng đưa lên mũi hít hít. Ông Chú từ hội trường đi ra, vừa nhìn thấy Cang, ông rảo bước tiến lại, Cang vô tình vứt bông hoa sang trái, trúng vào mặt ông Chú.

- Hừm! - Ông Chú giận dữ.

- Xin lỗi anh, tôi vô tình - Cang hối lỗi.

Ông Chú đưa tay xoa xoa má, nếu là ngày hôm qua hẳn ông chỉ cười xoà nhưng hôm nay ông lên án Cang gay gắt, ông coi đó là hành động vô văn hoá. Ông bước đi rất nhanh để rồi quay lại cũng rất nhanh, ông quên chưa nói với Cang những điều thuộc trách nhiệm và quyền hạn của một cán bộ tổ chức. Hồi sáng, khi ngồi với ông Giới, ông đã được nghe rất nhiều lời chỉ giáo của thủ trưởng, ông dự kiến chuyển tải tất cả cho Cang, nhưng hành động của Cang làm ông không thể nhớ lại một cách có hệ thống, ông chỉ tóm gọn bằng một câu:

- Cậu định bỏ vợ thật hả? Trả giá bằng cả một sự nghiệp, một cuộc đời đấy!

Chẳng cần đợi phản ứng của Cang, ông Chú bước đi, tấm mông ninh ních thịt của ông rùng rùng dưới lớp quần màu cà phê sữa. Trong mắt Cang hiện lên phép so sánh về mông giữa ông Chú và bà Han, cả hai đều giống nhau về độ phì nhiêu, độ bùng nhùng còn sự khác nhau cơ bản: một có độ cong lớn còn một kém hơn. Cang chua chát nhận ra mọi sự cay đắng của đời Cang lại chịu sự chi phối rất lớn của mông. Tốt nghiệp đại học ra trường, không có sự bảo trợ cả về chức quyền lẫn vật chất, Cang vất vưởng, hết đi cửu vạn lại đi phu hồ. Rồi Cang gặp nàng khi đi qua ngôi nhà số một trăm bảy mươi phố N. Ngay từ cái nhìn đầu tiên, nàng đã chết lặng trước khuôn mặt đẹp trai đến thánh thiện của Cang. Phản xạ của một kẻ đang khát tình nhanh nhạy đến mức nàng không kịp thay bộ váy ngủ, lao vào nhà trong dắt chiếc xe một trăm mười phân khối ra bám gót Cang về tận căn phòng số mười ba nằm cheo leo ở trên tầng năm khu tập thể Thái Hoàng được xây từ những năm sáu mươi của thế kỷ hai mươi. Nàng gõ cửa phòng Cang hỏi đây có phải đang rao bán nhà không? Cang vừa đáp không thì nàng đã “vấp gã”. Cái váy ngủ tốc lên để lộ một khoảng mông nở nang, trắng ngần để rồi sau đấy tám tuần, số phận Cang được nàng định đoạt. Loại bỏ chiếc ghế phó phòng, ngôi nhà khách sạn năm tầng đứng tên nàng và cặp mông, tình yêu của Cang đối với nàng là số không. Nàng có cặp mông nở nang, quyến rũ đến kỳ lạ, rất nhiều người trông thấy đều chung một câu kết: nếu có cuộc thi hoa hậu riêng về mông, hẳn nàng sẽ đoạt vương miện!

- Anh Cang, sếp cần gặp anh - Tiếng cô thư ký lanh lảnh vọng từ ban công xuống. Mông với sự so sánh, với sự giải phẫu nguyên nhân nỗi bất hạnh cuộc đời tắt lịm trong đầu Cang. Cang đi lên phòng ông Giới ở tầng hai, căn phòng mà bất cứ ai dưới quyền trước khi bước vào đều phải đứng thở một lúc để cho bớt hồi hộp. Cửa khép chặt, Cang không gõ cửa liên tiếp ba cái như mọi khi mà lấy mũi giày đá đá vào cánh cửa. Cô thư ký đi ra, chiếc váy hồng gặp làn gió trời bay hất lên để hở cả chiếc quần trong xộc xệch của cô; có lẽ trong lúc chờ đợi Cang, ông Giới đã tranh thủ thể dục cho đôi tay! Vừa thấy Cang , cô buông một câu lạnh ngắt:

- Vào đi, sếp đang chờ!

Cang bước vào quên cả đóng cửa, ông Giới phảy tay bảo Cang ngồi, tự ông đi ra đóng cửa lại, mặt ông bình thản chẳng gợn một chút phiền muộn khi mình phải làm cái việc mà theo phép lịch sự tối thiểu Cang phải làm. Ông không đi vào ngay câu chuyện, ông ngồi đối diện với Cang, hết nhìn Cang lại nhìn tấm thảm thêu năm con ngựa đang phi nước kiệu treo trên tường. Ông tuổi ngựa nên ông rất thích bức thảm này, ông hay bảo trong các loài vật, ngựa là thông minh nhất, chỉ bằng một cú đá hậu có thể làm nên cả sự nghiệp!

Cang không hề nhìn ông, dáng vẻ kính trọng ông cũng chẳng còn, ông điên lắm. Để xem gan mày to đến đâu! Bất chợt ông tuôn ra hàng loạt những mệnh đề, những phạm trù về thế thái nhân tình, ông trích dẫn khá nhiều kinh điển đông- tây kim cổ, hiềm một nỗi ông nhầm lẫn lung tung, vặt trụi râu ông này cắm sang cằm bà kia. Cang không phải là con mọt sách nhưng không đến mù mịt như ông Giới, Cang biết ông nói sai nhưng cũng chẳng cãi, ông muốn áp chế Cang, bắt Cang bằng mọi giá phải quay về với vợ. Ông nhấn mạnh vào trọng tâm theo thuyết Lão Tử mà ông lõm bõm nghe được: mỗi một cuộc đời đều có số phận riêng, trời sinh ra thế, cứ vậy mà hành, chống lại mệnh là húc đầu vào đá!

Cang ngả người tựa lưng vào thành ghế, mặt phẳng lặng như đang trò chuyện với một kẻ ngang hàng. Đến mức này thì ông Giới không kìm được nữa, một thằng khố rách áo ôm được ông nâng đỡ lại dám đối thoại bình đẳng với ông sao?

- Cậu nhất định bỏ vợ? - Ông Giới hậm hực.

Cang đáp:

- Tôi đã quyết!

Ông Giới cảm thấy bị xúc phạm ghê gớm, chưa một lần trong đời ông bị một kẻ dưới quyền trái lệnh, thế mà Cang lại dám phản kháng lại ông! Ông đập tay vào đùi:

- Cậu là thằng ăn cháo đá bát, người ta nhặt cậu từ vỉa hè, nuôi nấng, vỗ béo, tạo dựng sự nghiệp. Vậy mà cậu trả ơn như thế hả hả hả!

Ông Giới thở dốc, chiếc mũi khoằm giật giật rất mạnh! Thêm gần mười phút đối thoại không có kết quả, ông Giới phảy tay:

- Về đi, nên nhớ một điều cuộc đời không đơn giản đâu, mọi cái đều có giá của nó cả đấy!

Cang chào ông Giới đi ra, lần này thì Cang không quên khép cửa. Cang đứng rất lâu ngắm nhìn phòng ông Giới lần chót, nó quá quen thuộc đối với Cang, từ tấm biển đề chức vụ bằng tiếng Anh, đến nắm đấm cửa, ngay cả tiếng kêu rất nhỏ mà có lẽ chỉ có Cang mới nhận ra được, nó không kêu ken két, cũng không kèn kẹt mà có sự phối âm hết sức hài hoà: két kèn kẹt, két kèn kẹt. Vĩnh biệt! Cang đi xuống, vượt qua một khoảng sân rộng đi ra cổng, ông bảo vệ nhìn thấy Cang, như một con ba ba, ông thụt đầu ngay vào.

Trời bắt đầu đổ mưa, những làn mưa trắng xoá lao xuống mỗi lúc một dày hơn, nặng hạt hơn. Cả thành phố bàng bạc một màu trắng của nước, người đi đường tỏa sang hai bên trú mưa. Cang đứng nép dưới hiên của một cửa hàng bách hoá, đầu tựa vào tường, hếch mắt nhìn đám người chen chúc nhau. Chợt mắt Cang nhìn thấy một gã đàn ông bên cạnh cứ cọ cọ của quí vào mông của một cô gái trú mưa. Khốn nạn, lại mông! Cang đang định lao vào làn mưa thì sựng lại.

- Cang phải không? - Tiếng một người đàn ông trú mưa gọi Cang, Cang quay sang phải, nhận ra Quốc - người bạn thân nhất trong tất cả những người bạn của Cang. Cang lách mình, vượt qua ba người đi lại chỗ Quốc. Đang cô đơn, gặp được bạn chí cốt, Cang mừng lắm định kể cho Quốc nghe tất cả nhưng đông người quá, Cang thấy không tiện. Tối nay về nhà Quốc ngủ, Cang sẽ nói cho Quốc hay, trước mắt chưa tìm được một chỗ ở mới, ở tạm nhà Quốc ít hôm vậy. Trời mưa mỗi lúc một to, những hạt mưa bắn tung toé lên ống quần, Cang nhích người nhường cho bạn một chỗ tốt hơn, Quốc chợt đập vào người Cang:

- Này, nghe nói cậu bỏ vợ thật à?

Cang muốn quỵ xuống. Đến Quốc mà cũng đã biết được rồi sao? Một lần nữa Cang xác nhận bằng một cái gật đầu. Quốc chỉ kịp hỏi: "Thế bây giờ tính ở đâu?" rồi xin lỗi phải đi đón vợ gấp.

Cang bắt đầu dao động, cảm giác bị bỏ rơi lấn chiếm lòng Cang. Cang thất vọng, đội mưa đi lang thang giữa đường. Đi đâu? Về đâu? Sống bằng gì? Có nên quay về nhà nàng hay không? Đầu óc Cang âm âm u u. Cang thấy cần phải gặp ông ất, ông là bố vợ của Cang, một quan chức cấp sở. Ông ất mới hơn năm mươi tuổi nhưng trông già như người sáu mươi, ông sống điềm đạm, mực thước. Bốn năm làm con rể ông, Cang chưa hề thấy ông nặng lời với vợ con bao giờ. Cang rất thương ông, nhưng cũng rất khinh ông, ông biết vợ ngoại tình với ông Giới nhưng vẫn làm ngơ, âm thần kìm nén nỗi đau, nỗi nhục một mình. Nhiều lúc Cang trộm nghĩ hay là ông cắn răng chịu đựng để đánh đổi lấy một cái gì đó lớn hơn? Cuộc đời nhiều khi là thế. Nhìn khuôn mặt đẹp lão, buồn u uất của ông, Cang lại sợ nhưng lần này, nhất định Cang sẽ hỏi, biết đâu ông chả cho Cang một lời khuyên bổ ích, giúp Cang tìm ra con đường đi phù hợp.

Cang tìm kiếm ông ất ròng rã hai ngày nhưng chẳng thấy ông đâu, cơ quan bảo ông đi công tác miền Trung. Không thể đợi ông được nữa, Cang đành phải chọn lấy con đường đi cho mình, Cang sẽ ra đi, đi xa cái thành phố này, nhờ bạn bè tìm kiếm cho một việc gì đó miễn là lương thiện và được tự do.

Đêm cuối cùng, Cang thuê một phòng ở khách sạn trung tâm thành phố. Cang mở tung cửa sổ, ngắm nhìn thành phố trong đêm, đẹp và thanh bình quá nhưng Cang không thể đi lùi lại; Cang phải ra đi, đi về phía trước để tìm tự do, tìm một chân trời mới cho phần còn lại của cuộc đời. Có tiếng đẩy cửa phòng, một người đàn ông và một người thiếu phụ bước vào, họ nhầm phòng! Cang quay lại, sửng sốt khi nhận ra ông ất, ông cũng nhận ra ngay Cang, sau mấy phút bối rối, ông ất đi lại bên Cang, cay đắng nói:

- Tôi cũng ở rể như anh!

Cang chụp chiếc túi trên bàn, lao vun vút ra khỏi phòng...

XE NGƯỜI và XE TRÂU

VŨ ĐẢM

Chiếc xe trâu chở cát ì ạch đi trên con đường làng, con đường bị xuống cấp nghiêm trọng nên mỗi khi mưa xuống có nhiều đoạn lầy lội đến mắt cá chân. Ngồi trên xe, anh Chấn hò hét mãi mà con trâu sứt vẫn không vượt qua được đám sình lầy. Anh xuống xe, bám vào thành xe ra sức đẩy, chiếc xe chỉ nhúc nhích được một đoạn lại dừng lại. Con trâu sứt đứng thở phì phò, nó rất thương ông chủ, nó đã cố gắng hết sức mình nhưng sự già nua đã cướp đi quá nhiều sức lực của nó. Chủ và trâu đang mệt mỏi, bất lực thì phía sau có tiếng còi ô tô xin đường. Chiếc xe hơi sang trọng hẳn chở một cán bộ quan trọng nào đó về xã tham quan hoặc công tác, anh Chấn nghĩ vậy và cuống quýt bắt con trâu cố vượt qua đám sình lầy để nhường đường cho xe ô tô. Anh Chấn lo sợ, mồ hôi đổ ra ướt đầm lưng áo. Chiếc xe hơi đã đến gần, chỉ cách chiếc xe trâu có bốn, năm mét. Một hồi còi thúc giục bất chợt vang lên rất to: “Bim bim, bim” làm anh Chấn giật nảy mình. Anh thương con trâu như thương người thân ruột thịt của mình, nhưng anh sợ chiếc xe hơi kia hơn. Bởi anh biết ngồi trên chiếc xe đó phải là một người cán bộ không cấp Trung ương thì cũng cấp tỉnh, cấp huyện. Hoàn cảnh gia đình làm cho anh thành người hèn mọn, bất cứ ai, từ đứa trẻ con còn cởi truồng chạy nhông nhông ngoài đường đến mụ Tươi “cave” làng và ngay cả lão Túc dở người cũng có thể quát nạt anh mấy câu cho vui miệng. ấy thế mà anh còn sợ huống chi người sang trọng ngồi trong xe ! Cho nên chiếc xe kia làm anh sợ đến mức ác độc, cầm cán xẻng phang tới tấp vào mình con trâu cũng là điều dễ hiểu. Con trâu gồng hết mình, kéo chiếc xe đi. Nó gắng sức không phải vì bị đánh đau. Những cán xẻng lần đầu tiên mà chủ vụt xuống người, nó hiểu chính cái tiếng “bim, bim” ở phía sau là nguyên nhân trực tiếp gây nên.

Ngay từ thời trai trẻ, con trâu sứt đã nổi tiếng hung dữ, không một ai có thể bắt nó cày, bừa được, ấy thế mà anh Chấn đã thuần phục được. Khi anh Chấn đến gần, nó cảm thấy nhận được ở anh một sự đồng cảm sâu sắc và ngoan ngoãn để anh mắc gióng cày vào cổ. Những kẻ không chinh phục được con trâu sứt, bị nó xua đuổi, thậm chí bị nó húc, hết thảy đều bảo : “Đúng là loại trâu bò mới dạy bảo được nhau!”. Từ lúc thuần phục được con trâu sứt, anh Chấn dược hợp tác xã giao cho việc nuôi con sứt, anh lấy luôn cái tên Sứt đặt cho nói để tiện gọi. Đến thời khoán sản phẩm, trâu của hợp tác xã được bán cho các gia đình, nhà anh Chấn nghèo không đủ tiền mua con Sứt, những nhà khác có tiền thì không giám mua. Cuối cùng con Sứt được hợp tác xã quyết định dùng vào một bữa liên hoan tổng kết cuối năm. Nhưng số con Sứt vẫn còn duyên nợ gắn bó với anh Chấn. Ngày con Sứt bị đưa đi giết, nó đã tung được đám dây chão trói nó, ba gã đồ tể chuyên giết trâu, bò, lợn chạy bán sống, bán chết. Con Sứt chạy về chuồng được một lúc thì mấy người cầm súng đến. Anh Chấn nhìn thần chết đang đến gần con Sứt, oà khóc như thể một người thân của mình đang sắp sửa bị hành quyết. Anh nói với ông chủ nhiệm hợp tác xã hãy để anh đi vay tiền mua lại con Sứt, lại hứa sẽ tạ ơn ông nếu con Sứt thoát chết. Có lẽ con Sứt biết được điều này, nó ghi công ơn anh cứu sống nó bằng sự ngoan ngoãn và tận trung tuyệt đối.

Gã thanh niên lái chiếc xe hơi hầm hầm đi lại phía chiếc xe trâu quát:

- Điều khiển xe như thế hả? Cho xe dẹp vào nhanh lên!

Anh Chấn run run thỉnh cầu:

- Con trâu yếu quá, anh làm ơn làm phúc đẩy hộ một tay.

- Cái gì? Đẩy hộ! - Gã lái xe cảm thấy bị xúc phạm - Một cái bánh xe tôi lái bằng cả mấy chục con trâu, tôi lại đi mó tay vào cái loại xe trâu bò này á!

Anh Chấn ghé vai vào sau xe, hai chân choãi ra, cố hết sức đẩy, chiếc xe trâu chỉ lăn được nửa vòng bánh xe lại đứng im.

Cánh cửa chiếc xe hơi mở toang, một người đàn ông dáng cao to, da trắng đường vệ bước xuống. Người ấy là ông Phòng, anh ruột của Quản- đương nhiệm chủ tịch xã. Ông về quê để bàn bạc với Quản đưa mẹ lên thị xã để chuẩn bị làm thượng thọ cho mẹ. Sở dĩ ông phải bàn bạc với Quản vì bà cụ, như ông thường nói là không thể chấp nhận được, thà bà cụ chết quách đi còn hơn. Bà cụ tuy mới sáu lăm tuổi nhưng đã lú lẫn, nhiều lúc cụ đại tiện cả ra quần, rồi sợ hãi thay quần đem nhét vào cả tủ lạnh. Xui xẻo cho cụ, một bữa bị chính ông Phòng phát hiện ra, thế là lập tức cụ được đưa về quê cho vợ chồng Quản trông nom. Hôm nay ông về thỏa thuận với Quản cho ông mượn mẹ ba ngày để làm thượng thọ tuổi bảy lăm cho cụ. Làm xong, ông sẽ lại trả về cho vợ chồng Quản. Tất nhiên để được Quản đồng ý, ông sẽ hứa trích cho Quản một tỷ lệ nhất định trên tổng số tiền mà mọi người, các cơ quan, xí nghiệp đến mừng.

Anh Chấn đã nhận ra ông Phòng, anh tái mặt nói với ông:

- Ông Phòng, ông lượng thứ cho con, con Sứt nó đã già!

- Con Sứt! Ông Phòng nghiến răng như thể muốn ăn tươi, nuốt sống con Sứt. Con Sứt có thể đã quên ông nhưng muôn đời ông không bao giờ quên mối thù với con Sứt. Ngày ông còn là phó chủ nhiệm hợp tác xã, khi thấy đám thợ cày không trị nổi con Sứt, ông đã tuyên bố nếu không mắc gióng cày vào được cổ con Sứt, ông sẽ mắc gióng cày vào chính cổ mình! Ông rất tin tưởng vào khả năng của mình, chả gì ông cũng là một thợ cày nổi tiếng ở làng, cũng nhờ sự nổi tiếng này mà ông được bầu làm phó chủ nhiệm hợp tác xã. Trước sự chứng kiến của hàng chục thợ cày, khi đó anh Chấn chưa xuất hiện, ông Phòng hùng dũng vác gióng cày tiến lại nơi con Sứt đang nhởn nhơ gặm cỏ. ông đưa tay ve vuốt mông nó. Bất thần nó xoay người, húc thẳng vào bộ hạ làm ông ngã vật ra đất. ông bị thương, điều trị đến gần một tháng mới hết đau. Sau tai nạn này, danh tiếng của ông bị con Sứt làm cho sứt mẻ, ông đau lắm nhưng nỗi đau đó không thấm tháp gì với nỗi đau như đã nói là "muôn đời ông không bao giờ quên mối thù với con Sứt". Chả là từ lâu ông có quan hệ với cô thủ kho hợp tác xã, cô thủ kho người to béo, đẫy đà, lúc nào trông cũng hừng hực đầy sức sống. Anh chồng lại loắt choắt, mới trèo lên bụng vợ đã thở hồng hộc, thành thử cô vợ đành nhờ ông Phòng giải quyết hộ cái khoản sinh lí. Về món này, ông Phòng được cô thủ kho ca ngợi xứng đáng là một con đực thực thụ. Chao ôi! Thế mà sau lần bị con Sứt húc vào bộ hạ, ông đã cố hết sức mà cũng chỉ khoẻ hơn anh chồng cô thủ kho được một tẹo. Sau đó cô thủ kho đành nhờ ông chủ nhiệm. ông Phòng hận đời lắm nhưng biết làm sao khi người cắm sừng ông lại là kẻ bề trên! Ngay cả việc ông có ý định giết con Sứt cũng không nổi, vì ông chủ nhiệm đã ăn tiền của anh Chấn. Từ đó khả năng tình dục của ông mỗi ngày mỗi giảm nhưng ngược lại con đường công danh của ông thì lại mỗi ngày mỗi thăng tiến, cứ y như một sự đổi chác. Đến lúc làm đến cán bộ tỉnh rồi thì ông lại thấy thèm khát, chức tước, bổng lộc và cả cái mã ngoài cao to, đẹp trai của ông làm cho khối cô trẻ đẹp mê mẩn. Rõ là cá đưa miệng mèo mà chả làm gì được! Ông uất hận lắm, những lúc đó con Sứt lại hiện về trong ông với một sự căm giận ngùn ngụt.

Bây giờ con Sứt đang đứng trước mặt ông, cản đường không cho xe ông đi! Máu trong người ông sôi lên, ông ra lệnh cho gã lái xe đánh bỏ mẹ con Sứt đi. Gã lái xe giằng chiếc xẻng trên tay anh Chấn phang tới tấp vào đầu con Sứt. Con Sứt đau đến lồng lên. Anh Chấn thương con Sứt, chạy lại cầm tay gã lái xe van xin:

- Tôi xin anh đừng đánh nó nữa! Tôi sẽ vào làng kêu mọi người ra đây giúp.

Hai bên giằng co nhau chiếc xẻng. Ông Phòng hầm hầm đi lại túm lấy cổ áo anh Chấn:

- Thằng con nhà cường hào ác bá, mày lại còn bênh nó hả? Này thì bênh này! Này thì bênh này!

Cứ mỗi câu " Này thì bênh này" lại là một cái tát bay vào mặt anh Chấn. Con Sứt nhìn thấy chủ bị đánh, sự căm thù kẻ hành hạ ông chủ của nó đã tiếp cho nó sức mạnh phi thường. Nó phá tung cái gióng tròng ở cổ lao lại phía ông Phòng, ông khinh hoàng, sợ hãi đái cả ra quần, nhảy tòm xuống cái ao bên đường. Con Sứt lao xuống ao, ông Phòng hốt hoảng lao vào bờ. May mắn làm sao, ông trèo được lên bờ trước khi con Sứt lao đến chỗ ông. Một chân giày, một chân đất, ông Phòng chạy thục mạng về phía trước. Con Sứt cũng đã lên được bờ, đuổi theo ông Phòng. Phía sau anh Chấn đuổi theo, miệng hét lớn: "Sứt! Họ, ọ!". Con Sứt không nghe thấy gì. Khoảng cách giữa ông Phòng và con Sứt mỗi lúc một thu ngắn. Cái chết đang đến gần, đột nhiên ông Phòng dừng chân, quay người lại quỳ xuống vái lia lịa con trâu. Con Sứt chạy đến nơi, thấy ông Phòng quỳ gối, lạy van xin mình thì từ bỏ cái ý định húc lòi ruột kẻ thù. Nó ngắm nghía ông Phòng một lúc rồi quay đầu bỏ đi. Chả biết con Sứt có còn nhớ đến ông Phòng không?

CHÍN THÁNG MƯỜI NGÀY

VŨ ĐẢM

Tôi tròn năm tuần tuổi, mẹ tôi mới biết mình có thai. Đang đêm, mẹ tôi hốt hoảng đến nhà người đàn ông, người mà mẹ đã ăn nằm từ bấy lâu nay. Mẹ gõ năm tiếng rời rạc vào cửa làm ám hiệu, mất ba lần điện trong nhà mới bật sáng. Cửa mở, mẹ lách vào thoảng thốt:

- Chết rồi anh ơi, em có thai!

- Có thai! - Người đàn ông bực tức - sao những tháng trước không mà tháng này lại có?

- Em làm sao biết được, anh sẽ cưới em chứ?

- Hừ, rách việc thật! Hay là nạo thai đi?

- Không, anh phải cưới em, nếu không…

- Nếu không, cô sẽ bảo anh trai, bảo cháu cô bắt tôi chứ gì?

Cuộc đấu khẩu xem chừng đến hồi căng thẳng, bao giờ cũng vậy, khi người đàn ông nổi nóng, chửi bới là mẹ lại nem nép, mẹ nắm bàn tay người đàn ông đặt vào bầu vú căng cứng. Thật là đê tiện, vừa mắng mẹ tôi sa xả thế mà người đàn ông đã bế thốc mẹ lên giường làm tình. Gần sáng mẹ tôi mới ra về. Đường làng vắng ngắt. Về đến cổng, mẹ tôi xắn quần lội men bờ ao đi vào, đến một gốc cây, mẹ cúi xuống lấy đôi dép, lại cầu ao rửa chân rồi rón rén vào buồng ông ngoại.

"Tiên sư chúng mày!", mẹ tôi giật nảy mình, nín thở. Thì ra là tiếng nói mơ của ông ngoại chửi ai đó. Mẹ lần lần bức tường, đến khi đặt mình xuống giường mới dám thở. Mẹ khóc không thành tiếng vì sợ hãi, vì sợ giường trên kia ông ngoại nghe thấy.

Những ngày sau đó, cách một đêm mẹ tôi lại mò đến nhà người đàn ông, lại làm tình, lại van xin rồi lại len lén ra về. Cho đến khi mẹ biết được tin người đàn ông đã bán nhà, đi mất khỏi làng, mẹ tối sầm mặt mũi, ngã chúi cả vào chuồng lợn. Mẹ quá khờ dại không hiểu được một lẽ đơn giản, người đàn ông đó tuy đã có một đời vợ nhưng vẫn còn cường tráng và đẹp trai, còn mẹ vừa là gái lỡ thì lại vừa xấu. Mẹ khờ dại vì biết người đàn ông đó đã lừa gạt bao phụ nữ có chồng và chưa chồng ở làng để làm tình, làm tiền thế mà mẹ vẫn rơi vào cạm bẫy vì những lời hứa ngon hứa ngọt; vì mẹ nghĩ rằng anh mình thế, cháu mình thế, sao dám lừa mình! Mẹ bị lừa, mười phần rõ mười. Thế mà thương thay cho mẹ tôi, mẹ vẫn le lói hy vọng một ngày nào đó hết tiền, người đàn ông sẽ quay về và để che dấu mọi người, ban ngày mẹ lấy xăm xe đạp quấn quanh bụng. Tôi thương mẹ song cũng rất giận mẹ, mỗi lần mẹ quấn bụng, tôi ngạt thở, tôi đau đớn như sắp nổ tung ra thành từng mảnh.

May sao bác dâu cả đã phát hiện ra cái bụng của mẹ tôi và vô tình cứu tôi thoát khỏi những cơn đau. Bác dâu nghi ngờ, theo dõi, đợi đúng lúc mẹ đang tắm, bác đẩy cửa nhà tắm xông vào. Nhìn thấy cái bụng của mẹ lùm lùm, hai bầu vú to căng như hai quả bưởi, bác chạy vào nhà ú ớ mãi mới nói được cho chồng cái tin kinh hoàng. Bác cả bắt vợ ra bảo mẹ tôi mặc ngay quần áo vào. Mẹ sợ run lên, lập cập mặc quần áo đi ra. Bác cả rít lên chỉ đủ cho bác, cho vợ, cho mẹ tôi nghe thấy:

- Con đĩ! Mày làm ô danh đến gia đình tao!

Bác túm tóc lôi mẹ tôi vào buồng khoá trái cửa lại. ở làng này, kể cả thời phong kiến chưa từng có một người đàn bà, con gái nào chửa hoang thế mà em gái mình, con một gia đình danh giá nhất làng lại không chồng mà chửa! Bác cả đi đi lại lại, đau đớn như thể vừa mất đi tiền triệu. Nhục nhã, nhục nhã! Bác phẫn uất như thể phải chui qua háng bà béo bán thịt ngoài chợ làng. Bác cả thở hổn hển, hai tay ôm ngực. Vợ bác sợ chồng lên cơn đau tim, rón rén đi lại nói với bác gọi điện cho người em ruột - người mà cả nhà thường gọi là bác trẻ, xem bác trẻ giải quyết như thế nào! Bác cả ủ rũ đến bên máy điện thoại để bàn gọi di động cho bác trẻ, chỉ thấy tiếng chuông đổ mà không nghe thấy tiếng trả lời. Lúc ấy bác trẻ đang chủ trì hội nghị gì đó có liên quan đến quyền lợi và sức khoẻ bà mẹ và trẻ em nên không thể nghe máy. Thành ra mãi đến lúc hội nghị kết thúc bác trẻ mới mở máy, thấy hiện lên số ở nhà, bác bấm máy gọi về. Bác cả kể lại sự việc. Bác trẻ giận dữ văng "chim cò" ra ầm ầm. Nửa tiếng sau, chiếc xe hơi màu sữa quen thuộc đã đưa bác trẻ trở về. Bác trẻ hầm hầm đi vào, nếu không có ông ngoại ở gian trái, hẳn bác đã mắng té tát vào mặt bác cả. Bác trẻ nghiến răng:

- Khốn nạn, bác canh giữ nó thế nào mà để xảy ra cơ sự này? Chuyện mà vỡ lở ra, chúng nó sẽ nhân cơ hội này tung tin ầm lên ở làng, ở huyện, ở tỉnh. Bố dễ chừng đứt mạch máu não mà chết. Còn tôi cái ghế phó chủ tịch tỉnh khoá tới chắc chắn cũng bay, nếu thế thằng cả nhà bác cũng quay về theo đít trâu chứ làm sao ngoi lên được chủ tịch xã!

Bác cả vò đầu bứt tai, luôn miệng: "Trăm sự tôi trông cậy vào chú!". Vợ bác nem nép nhìn chồng, nhìn bác trẻ. Bác cả mở khoá, bác trẻ đi vào chỉ vào mặt mẹ tôi:

- Con kia, mày chửa với thằng nào?

Mẹ tôi im lặng.

- Mày còn không mở miệng ra à? Ông thì đâm một nhát cho mày chết quách đi bây giờ! - Bác cả tát vào mặt mẹ. Mẹ khai ra. Bác cả đấm thùm thụp vào ngực mình:

- Nhục nhã chưa, tưởng ai chứ lại đĩ thõa với thằng ấy à?

Bác trẻ ra lệnh:

- Bắt nó cưới ngay. Nếu không bảo thằng cả nhà bác cho công an xã gô cổ nó lại!

- Nó trốn mất rồi anh ạ! - Mẹ tôi thổn thức. Mọi người đứng nghệt mặt ra. Bác cả hỏi bác trẻ giải quyết thế nào? Bác trẻ cười chua chát:

- Còn thế nào nữa, phá thai ngay!

- Vâng tôi nghe chú, ngày mai tôi sẽ đưa nó lên bệnh viện tỉnh.

- Bác điên à! Lên đấy lỡ có ai quen biết trông thấy thì khốn nạn, phải lên Hà Nội mà giải quyết!

Bác trẻ nói xong rút cặp lấy ra một xấp tiền năm mươi ngàn đưa cho bác cả, bắt sáng mai phải đưa mẹ tôi lên Hà Nội phá thai. Mẹ quỳ xuống van xin hai người anh của mình để mẹ giữ thai lại, kiếm một đứa con nương tựa về già. Nếu sợ ông ngoại, sợ dân làng biết được mẹ sẽ đi biệt tăm khỏi làng, đến một nơi nào đó thật xa xôi để sinh sống. Bác trẻ kiên quyết bắt mẹ phải đi phá thai, bác bảo mẹ hàng ngày là người gần gũi chăm sóc ông ngoại, ở nhà này ông ngoại cũng là người yêu quí mẹ nhất, không có mẹ chăm sóc ông ngoại, sức khoẻ của ông sẽ bị suy sụp. Ông cũng là con người nho giáo, nếu biết mẹ hoang thai, ông bị sốc, nguy hiểm đến tính mạng. Chỉ còn năm tháng nữa là thượng thọ ông chín lăm tuổi. Cuộc đời ông chạm vào được con số chín lăm, ông trở thành người thọ nhất làng từ xưa đến nay, đó là phúc đức của gia đình, của dòng họ. Thượng thọ ông đã được chuẩn bị từ bây giờ, hàng chục ô tô, hàng trăm quan khách trong cả tỉnh sẽ về làng chúc mừng. Ba thợ ảnh thi nhau bấm máy, hai thợ quay camera sẽ kết hợp quay hẳn một bộ phim có lồng nhạc. Bác trẻ còn bảo, tiền bạc bác chẳng cần, họ có mừng bác cũng trả lại để giữ tiếng là liêm khiết. Cái bác cần là con cháu, họ hàng được mở mày mở mặt với thiên hạ và để cái đám họ Trần đỡ vênh váo vì có nhiều người đỗ đạt, làm việc ở các bộ trên Hà Nội. Và điều quan trọng nhất, thượng thọ ông ngoại sẽ là đợt tập dượt để chạy đua chức Phó chủ tịch tỉnh.

Giọt ngắn, giọt dài, nước mắt mẹ tôi chan chan đầy mặt:

- Hai anh ơi, con em đã được bốn tháng rồi, phá thai là giết người, là thất đức!

- Thất với bát cũng không bằng danh giá. Mày có giỏi thì giết bố, giết cả nhà đi rồi hẵng đẻ - Bác trẻ chì chiết.

- Con kia, anh ấy đã bảo, hàng ngàn người còn phải nghe, mày lại giám cãi lại à? - Bác cả nói, khuôn mặt đỏ gay lấm chấm đầy mồ hôi.

Mẹ không van xin nữa, im lặng nghe đủ điều răn dạy của hai người anh. Bỗng nhiên đôi mắt mẹ tôi ánh lên một điều gì đó bí hiểm và hy vọng. Mẹ vào buồng lấy xăm xe đạp buộc bụng theo yêu cầu của mọi người, lại mặc cái áo thùng thình che bụng. Người tôi bị chèn ép, tôi oằn oại trong đau đớn. Mẹ tôi được bác cả và bác trẻ áp tải vào phòng ông ngoại. Ông ngoại không còn tự đi được, mỗi khi đi phải có người dìu bên cạnh. Hàng ngày ông thường ngồi, thường nằm trên chiếc ghế, chiếc giường da đệm nước đặt biệt mà bác trẻ mua tận bên Nhật về với giá gần năm mươi triệu đồng để chống cho thịt ông khỏi bị thối. Ông ngoại bị hễnh hãng nặng, bác trẻ ghé sát mồm vào tai ông nói to:

- Con xin ghép bố cho con Hảo lên tỉnh chăm vợ con ít ngày, vợ con bị đau chân phải nằm ở viện!

- Hả? Vợ mày bị ai kiện? - Ông ngoại mở to đôi mắt mờ đục nhìn bác trẻ với vẻ lo lắng. Bác trẻ nói to hơn, lại lấy tay làm ám hiệu, ông ngoại đã hiểu ra, gật đầu dặn dò mẹ tôi gắng chăm sóc cho chị dâu nhanh khỏi bệnh, ở nhà đã có vợ chồng bác cả và các cháu trông nom ông. Mắt ông ngoại mờ, tai ông ngoại hễnh hãng nhưng được cái đầu óc ông chưa lú lẫn.

Bốn giờ sáng hôm sau, bác cả và mẹ được người con cả của bác đèo bằng xe máy lên bến xe tỉnh. Tới Hà Nội, hai người thuê xe ôm đến bệnh viện Phụ sản. Một người đàn bà to béo, da đen, tóc quăn vàng hoe đi ra từ hàng nước ra, hỏi bác cả:

- Bác đưa chị đây đi nạo thai à?

Bác cả gật đầu. Người đàn bà bảo để bà dẫn đến nhà tư của một bác sĩ nổi tiếng, ở đây vừa nhanh lại vừa kín đáo không ai biết. Nghe đến chuyện kín đáo, bác cả đồng ý ngay.

Người đàn bà dẫn bác cả và mẹ tôi vào cái ngõ nhỏ ngoằn ngoèo nơi có ngôi nhà ba tầng treo tấm biển: “Chuyên gia sản, từng tu nghiệp tại Pháp”. Người đàn bà bấm chuông, một đứa bé ra mở cổng. Nhìn thấy người đàn bà, đứa bé hỏi: “Sộp hay không Sộp?”. Người đàn bà bảo: “Yên tâm, hôm nay tao sẽ trả công mở cổng cho mày đủ tiền chơi điện tử cả ngày”. “O.K!”, đứa trẻ hân hoan. Người đàn bà lên tầng hai, lúc sau xuống nói với bác cả:

- Bác sĩ rất đông khách nhưng vì nể cháu là chỗ thân quen nên nhận lời. Bác đưa ba triệu để cháu mang lên cho bác sĩ.

Bác cả kêu đắt quá. Người đàn bà giải thích vì cái thai đã bốn tháng, vả lại đây là bác sĩ học ở bên Tây về! Thấy bác cả vẫn còn lưỡng lự, sợ mất một món hời, người đàn bà hạ giá:

- Thôi, thông cảm bác ở quê, đưa cháu hai triệu rưỡi cũng được! mà bác cũng đừng chi li quá, ở bệnh viện tuy có rẻ hơn một tí nhưng không có phong bao lót tay, bác sĩ họ làm ẩu, phải nạo mấy lần còn tốn hơn mà lại hại sức khoẻ!

Quả nhiên lời đe doạ của người đàn bà có hiệu lực, bác cả rút tiền ra đếm, đưa cho người đàn bà đủ hai triệu rưỡi. Người đàn bà lên tầng trên, đưa cho ông bác sĩ triệu rưỡi. Bấy giờ mẹ tôi mới được dẫn lên tầng hai, còn bác cả ngồi chờ ở dưới.

Mẹ tôi ngồi trên chiếc ghế băng ở ngoài cửa phòng, mặt ghế nhẵn thín, có để mấy tờ báo nan nát. Bên cạnh sẵn có hai người đang chờ đến lượt mình. Một người phụ nữ trạc tuổi mẹ tôi, có khuôn mặt trái xoan xinh đẹp. Chồng cô là tiến sỹ địa chất, thường xuyên đi công tác xa nhà, mỗi lần về chỉ thấy mang theo những mẫu quặng, mẫu đá mà chẳng thêm được đồng nào ngoài một triệu rưỡi tiền lương, bớt một nửa cho những chuyến đi. Cô ngoại tình với một người đàn ông làm giám đốc công ty xây dựng. Dân máu mặt ở thành phố thường xì xầm, có đêm ông giám đốc say bạc, đánh mất hơn hai tỉ đồng, thế mà ông bảo “chuyện vặt”. Mặc dù đã uống thuốc tránh hai nhưng cô vẫn bị dính, dẫu sao đứa con của cô mới chỉ hai tuần tuổi. Chỉ cần hút điều hoà một lúc là có thể trút bỏ được sự cố ngoài mong muốn của cô. Ngồi cạnh cô là một cô bé đang học lớp mười, nhà cô bé cho thuê băng đĩa Sex lậu, cô bé lén mở xem rồi rủ bạn trai cùng lớp làm tình. Đứa con cô bé đã năm tháng, bác sĩ bắt mẹ cô bé phải ký vào bản cam đoan và nộp năm triệu. Cô bé ngước đôi mắt trong veo nhìn mẹ tôi, mồm tóp tép nhai kẹo cao su.

Tôi vô cùng sợ hãi, mẹ mới chỉ buộc bụng mà tôi đã đau đớn khủng khiếp, huống chi họ sẽ dùng dao, kéo, kẹp để huỷ hoại cuộc đời tôi. Tôi oán giận bác cả, bác trẻ, người đàn ông sinh ra tôi, ông bác sĩ và cả mẹ tôi nữa. Giá trị cao cả nhất của con người là sự công bằng; con người dù già hay trẻ, dù đàn ông hay đàn bà đầu có quyền được sống, quyền được chết theo lẽ tự nhiên. Tại sao họ là người mà được quyền sống? Còn tôi, tôi cũng là một con người, hơn nữa lại là một con người vô tội nhưng tôi lại không được sống để một ngày nào đó bước vào cõi nhân gian ngoài kia xem nó thế nào mà lắm bất công đến thế! Chợt tôi nhớ về ông ngoại, nhớ về những lời mà ông hay nói với mẹ tôi, ông bảo con người ta trước hết phải biết thương lấy mình thì mới biết thương đến người khác; phải biết tự cứu lấy mình trước chứ đừng nên chỉ trông đợi vào sự cứu giúp của kẻ khác. Tôi nghiệm thấy lời ông dạy rất đúng, tôi cũng phải tự cứu lấy mình thôi, tôi dùng đôi chân bé nhỏ, yếu ớt của mình đạp thật lực, mẹ tôi ôm bụng quằn quại. Tiếng rên xiết của mẹ tôi bị át đi bởi tiếng rên rỉ đau đớn của người đàn bà đang hút điều hoà. Mẹ tôi đứng vụt dậy, đi nhanh xuống tầng dưới, nói bác cả lên để ký vào giấy cam đoan. Bác cả lập cập chạy lên, mẹ tôi đi nhanh ra khỏi cổng, trèo lên chiếc xe ôm, bảo phóng thẳng ra bến xe. Tới nơi, mẹ sực nhớ trong tay mình không có một đồng nào, mẹ xin gã xe ôm, gã chửi mẹ tôi là con đĩ, đã bị Sở Khanh lừa không biết nhục lại còn đi lừa gã!

Khi biết mẹ đã chạy xa khỏi cái nơi giết người ấy, tôi ngừng đạp, thở phào vì thoát chết. Mẹ đi bộ quay vào trung tâm thành phố. Cái nắng gay gắt của mùa hè quyện với mùi khói thải của ô tô, xe máy làm mẹ tôi mệt mỏi và nôn nao. Chốc chốc mẹ lại ngồi xuống oẹ khan mấy cái. Gần trưa, mẹ tôi đói, chân tay run rẩy. Nhìn thấy một quán cơm bình dân ven đường, mẹ tiến về phía quán cơm, một người đàn bà đon đả mời chào. Mẹ đắn đo một lúc, nói thật với người đàn bà về tình cảnh của mình hòng kiếm chút cơm thừa, canh cặn, người đàn bà cau mặt, nhếch cặp môi đỏ chót son:

- Con đĩ, bà mày chưa mở hàng, xéo!

Người đàn bà quay vào đốt tờ giấy báo hơ hơ lên đám thức ăn rồi lại hơ qua háng đốt vía. Mẹ tôi tiếp tục lê từng bước chân trên vỉa hè. Dưới lòng đường, người và xe nườm nượp như đi trẩy hội. Mẹ đi vào gốc cây chỉ định ngồi nghỉ một tí cho đỡ mệt, nào ngờ mệt quá gục đầu vào thân cây ngủ thiếp đi. Một gã nghiện hút lượn đến, sờ nắn túi áo mẹ tôi, không kiếm được đồng nào, gã nhặt đôi dép nhựa của mẹ, ngáp ngáp mấy cái rồi khật khưỡng bỏ đi. Hai giờ chiều mẹ tôi mới tỉnh. Cái đói lại trỗi dậy, thêm cả khát nữa, mẹ tôi nghĩ có lẽ đi vào trong ngõ, nhà nghèo họ hay thương người hơn. Mẹ đi, chân muốn quỵ xuống, mẹ cố nhưng mắt đã bắt đầu hoa, mẹ bám vào cánh cổng sắt của một ngôi nhà, từ từ ngồi bệt xuống đất. May sao có một bà lão từ trong nhà đi ra, thấy mẹ tôi, bà mở cổng dìu mẹ vào nhà. Mẹ thều thào kêu đói, bà sai đứa cháu gái cầm bát ra phố mua một bát cháo. Ngửi thấy mùi cháo, mẹ tôi đã tỉnh lại, ăn xong mẹ tôi thòm thèm muốn ăn nữa nhưng bà không cho, bà sợ mẹ tôi bị đói khát lâu ngày, ăn nhiều sẽ bội thực.

Mẹ tôi kể hết cho bà nghe về gia đình, về bản thân mình. Bà nhìn mẹ tôi đầy cám cảnh. Bà lấy tiền từ túi áo nói với mẹ tôi:

- Bà cho cháu mấy chục mua vé về quê. Cháu cố thuyết phục gia đình giữ đứa con lại mà nuôi để nhờ cậy về già.

- Bà ơi, cháu về, các anh cháu sẽ lại bắt cháu đi phá thai, bà ơi cứu cháu với! - Mẹ tôi khóc nức nở, vừa khóc vừa quỳ sụp xuống chân bà van lạy. Bà thở dài, vỗ vỗ vào vai mẹ tôi:

- Nín đi, nín đi, ở lại với bà, bao giờ mẹ tròn con vuông, về quê cũng được.

Sung sướng như một đứa trẻ con thấy mẹ đi chợ về, mẹ tôi ôm chầm lấy bà, miệng rối rít nói lời ơn huệ.

Từ hôm đó mẹ tôi ở lại nhà bà. Nhà bà rộng, ba tầng, năm phòng, bà dành hẳn cho mẹ tôi một phòng. Chồng bà chết vì bị ung thư khi bà hai mươi chín tuổi, bà ở vậy nuôi người con trai duy nhất. Vợ chồng người con đang buôn bán ở nước ngoài, bà sống với một người cháu ở quê lên. Được nhàn nhã lại không nơm nớp sợ hãi, mẹ tôi lên cân từng ngày, tôi cũng lớn nhanh từng ngày. Mẹ nhớ và thương ông ngoại. Mẹ chăm nom ông đến nay đã gần hai mươi năm nên mẹ hiểu ông hơn ai hết. Ông là đàn ông nhưng rất hay tủi thân, ông có thể khóc, tất nhiên chỉ chảy nước mắt chứ không khóc thành tiếng vì ai đó bảo ông sống hết phần con cháu; hoặc bác trẻ gắt gỏng điều gì đó với ông, khi bác trẻ đi rồi thế nào mắt ông cũng rơm rớm. Bây giờ ông có thêm một nỗi khổ mà chính ông cũng không biết được, người biết sâu sắc nhất là mẹ tôi, ấy là ông không có quyền được chết trước khi làm lễ đại thượng thọ chín lăm. Để kéo dài sự sống của ông ngoại, bác trẻ bắt ông phải uống sâm NamTriều Tiên, ăn chân gấu, chân hổ hầm thuốc bắc thành ra ông ngoại mập ú, cổ có cả ngấn. Và để phòng ngừa sự ra đi bất ngờ của ông ngoại, bác trẻ đã đưa tiền cho bác cả xây cho ông một gian riêng có cả toa lét khép kín nhưng không có cửa sổ để tránh gió độc. Chả gì ở xóm đã có hai cụ nửa đêm đi tiểu bị trúng gió, một cụ chết, còn một cụ liệt bán thân bất toại. Và nếu ông ngoại có sổ mũi, hắt hơi thì lập tức sẽ có một bác sĩ giỏi ở bệnh tỉnh về tận nhà để điều trị cho ông. Bạc triệu cả đấy, nào có sao, bác trẻ chi ấy mà, thậm chí có lần bác cả còn xà xẻo được tám trăm hai mươi ba ngàn trong một đợt điều trị dài ngày bệnh ho của ông ngoại.

Ông ngoại cũng thương mẹ tôi lắm, thâm tâm ông không muốn cho mẹ tôi đi nhưng ông sợ phật ý bác trẻ. ở gia đình lớn này hết thảy mọi người kể cả ông ngoại tiếng là bố đẻ song đều sợ bác trẻ; bác là thống soái, là tổng tư lệnh, mọi mệnh lệnh của bác phát ra gần như lập tức được thực thi. Điều này cũng dễ hiểu vì bác trẻ có tiền, mọi công to việc lớn đều nhờ cậy vào bác, mà ở đời đã nhận tiền của người, có ai lại không nể, không sợ người! Còn nữa, mỗi lần bác trẻ về nhà, xe hơi đỗ tận cổng cũng ngẩng mày ngẩng mặt với xóm làng lắm chứ!

Ông ngoại hay tủi thân là thế nhưng ông không sợ chết, ông hay ôn nghèo, kể khổ và bảo với mẹ tôi, ông mong nhanh đến ngày về với tổ tiên. Một tháng trước khi mẹ bị bắt đi huỷ hoại tôi, một người hàng xóm chết trẻ ở tuổi ba tư, mặc dù chẳng có họ hàng gì thế mà ông xót xa bảo nếu đổi được mệnh, ông sẵn sàng chết thay để chị sống nuôi bốn đứa con gái lít nhít bằng đầu bằng đít nhau. Mới ngày nào xa ông vậy mà đã hơn bốn tháng. Nhiều lúc nhớ ông ngoại, mẹ định xin về quê mấy ngày thăm ông song lại sợ hai người anh trai của mình.

Càng đến lúc tôi được chín tháng, mười ngày thì càng đến ngày ông ngoại tròn tuổi chín lăm. Mẹ toan tính chỉ cần làm lễ đại thượng thọ cho ông xong, dù tôi mới ra khỏi bụng mẹ vài ba ngày, mẹ cũng sẽ đưa tôi về quê ra mắt ông ngoại, lạy sống ông tha cho đứa con bất hiếu và nhờ ông bấm quẻ, đặt cho tôi một cái tên. ở đời, nhân tính không bằng thiên định, người con trai của bà đột ngột dẫn vợ con về làm đảo lộn mọi dự định của mẹ tôi. Khi biết được mẹ tôi là ai, người con trai của bà gầm lên: “Mẹ điên thật rồi, chứa cái của nợ này xui xẻo lắm, thảo nào mà ở bên kia tôi bị lừa sạch sành sanh”. Ngay lập tức mẹ con tôi bị con trai bà tống cổ ra khỏi nhà, cũng còn may, bà đã kịp dúi vào tay mẹ ít tiền.

Không còn nơi nương tựa, mẹ nghĩ cái bụng đã đến ngày sắp đẻ chẳng ai dám bắt mẹ phá thai nữa, mà có bắt, mẹ thà chết chứ không để tôi chết. Về quê, mẹ tôi quyết định. Mẹ về đến bến xe tỉnh hơn ba giờ chiều, mẹ đi quanh quẩn đợi đến xẩm tối mới dám về làng. Con vện đen là kẻ đầu tiên phát hiện ra mẹ, nó ra gâu gâu ầm cả lên, đuôi vẫy rối rít đón chào sự trở về của mẹ. Tất cả mọi người đệ tề tựu đầy đủ, mẹ thót tim, phải chăng ông đã ra đi? Cái bụng của mẹ kềnh càng như cái thúng, thế mà lạ chưa, chả có mấy ai để ý đến! Người mẹ sợ nhất là bác trẻ thì chính bác là người vồ vập nhất. Bác trẻ bảo bác cả cắt cử nười đứng ở ngoài cổng không cho bất cứ ai vào thăm ông ngoại để khỏi nhìn thấy mẹ tôi. Đoạn bác trẻ kéo mẹ ra góc sân hỏi khi về làng có ai nhìn thấy không, mẹ tôi đáp không. Bác trẻ phấn khởi: “Tốt lắm! Em về thật đúng lúc, bố mấy hôm nay đang hôn mê, suốt ngày gọi tên em. Giờ em là người quan trọng nhất, phải làm sao cho bố sống đến chiều ngày mồng chín, nếu kéo đến mồng mười càng tốt. Như vậy chỉ cần bố sống được năm ngày nữa là thắng lợi to”. Nói xong, không cần hỏi xem mẹ tôi đã cơm nước chưa, bác trẻ giục mẹ tôi đi vào phòng ông ngoại. Mẹ tôi e ngại nhìn xuống cái bụng, bác trẻ phẩy tay nói rằng chỉ sợ dân làng chứ không sợ ông nữa, ông đã không còn nhìn thấy hai tháng nay.

Mẹ mở cửa bước vào, ông ngoại đang nằm im lìm trên giường. Chênh chếch bên kia là chiếc kiệu sơn sơn thiếp vàng giành kiệu ông ra tận đình làng để hội người cao tuổi xã làm lễ đại thượng thọ cho ông. Mẹ ngồi bệt xuống nền nhà, nắm lấy bàn tay nhào nhão thịt của ông ngoại; bao nỗi nhớ thương dồn nén lâu ngày bật ra khỏi lòng mẹ:

- Bố ơi, con về với bố đây, bố tỉnh lại đi bố ơi!

Mẹ lay, mẹ gọi ông ngoại đến năm, sáu lần thì ông dần dần tỉnh lại. Đôi mắt ông vẫn nhắm nhưng đôi tay ông cựa quậy, cọ cọ vào tay của mẹ tôi. Đôi môi ông mấp máy mấy lần đều không thành tiếng. Mẹ khóc to hơn, những giọt nước mắt nóng hổi của mẹ rơi xuống tay ông và hình như nó là nguồn lực tiếp sức cho ông; bằng tất cả tinh lực còn lại, ông ngoại thều thào thành tiếng:

- Con, nghe bố kiếm lấy một đứa con về ..v..ề... gi..à...già...

Giọng ông ngoại bỗng câm bặt, đầu ông nghẹo sang một bên. Cái chết của ông ngoại làm mẹ tôi bàng hoàng xúc động. Mẹ chuyển dạ, cơn đau bụng mỗi lúc một nổi lên dữ dội, mẹ nắm chặt lấy bàn tay của ông ngoại cắn răng chịu đựng. Mẹ rặn, mẹ hít vào, thở ra. Lời trăng trối làm mẹ nghẹn ngào, sững sờ của ông ngoại đã tưới lên người mẹ tôi một sức mạnh, một khát vọng làm mẹ cháy bỏng. Mẹ lấy hơi hít vào thật sâu rồi rặn mạnh, tôi trồi ra nền nhà. Như tất cả mọi người trên thế gian, tôi gửi bức thông điệp đầu tiên vào cõi nhân gian vô cùng vô tận:

- Oé, oé, oé!

Chị Đẹp Nhất Làng

VŨ ĐẢM

Chị đấy! Chị đang gánh mạ từ cánh đồng trở về nhà trong ráng chiều hôm chạng vạng.

Nắng cuối ngày làm khuôn mặt trái xoan xinh đẹp của chị ửng đỏ. Gió đồng lồng lộng tung bay làn tóc đen mượt mà ngang vai chị. Nghe có tiếng người trò chuyện phía trước, chị ngước đôi mắt tròn, đen láy nhìn lên. Chị nở một nụ cười tươi tắn, hàm răng trắng đều tăm tắp khoe chiếc răng khểnh duyên dáng:

- Con chào hai cụ, hai cụ đi chợ về đấy ạ!

- Vâng, chào cô, cô đi cấy về đấy à?

- Dạ, vâng!

- Ối!

Chị quay đầu nhìn lại, một bà cụ bị vấp ngã, chị vội vã đặt gánh mạ xuống chạy lại đỡ bà cụ lên, miệng xót xa hỏi bà có bị làm sao không? Nhìn thấy ngón chân cái của bà bị mảnh chai đâm vào chảy máu, chị không ngần ngại đưa cánh tay áo bên trái lên miệng, tay phải cầm đầu tay áo xé toạc một miếng; miếng vải nâu dời ra để lộ cánh tay thon thả hồng hào. Chị cúi xuống buộc vết thương cho bà cụ, dặn bà về đến nhà rửa sạch bằng nước muối rồi bôi tí thuốc mỡ tra mắt vào để tránh nhiễm trùng.

Kẽo kẹt, kẽo kẹt; đôi chân trần xắn đến đầu gối phơi phong làn da trắng muốt của chị lại thoăn thoắt bước đi dưới cái nặng của chiếc đòn gánh trên vai. Gánh mạ nặng là vậy mà dáng chị vẫn mềm mại, uyển chuyển như đang tập múa ở sân đình. Chị đã đi được một quãng nhưng vẫn thấy văng vẳng bên tai lời hai bà cụ:

- Con bé đẹp người đẹp nết, thắt đáy lưng ong vừa khéo chiều chồng vừa khéo nuôi con thế mà vẫn không có ai lấy. Tội nghiệp nó!

Chị dừng bước, vừa thở vừa lấy tay gạt mấy giọt mồ hôi lấm chấm trên trán. Trời chiều mênh mang, gió chiều lồng lộng tạc vào lòng chị một nỗi buồn nhân thế.

Mẹ chị, người con gái xấu nhất làng được sinh ra cũng từ một người đàn bà xấu nhất làng. Vì quá xấu, bà vốn đã bị người làng coi thường, nay lại không chồng mà chửa nên bà càng bị khinh rẻ; bà đã đưa mẹ chị ra thẻo đất ở rìa làng dựng một ngôi nhà đất, lợp rạ để mẹ con sinh sống. Bà đi làm thuê, mót lúa, mò cua, bắt ốc để duy trì sự sống của hai mẹ con.

Càng lớn, mẹ chị càng trở nên xấu xí, cái xấu hội tụ cả của mẹ, cả của người đàn ông sinh ra mình. Biết thân phận mình là kẻ xấu xí, không cha nên mẹ chị chăm chỉ lam làm, hay giúp đỡ những người nghèo khó, kính trọng người già, hòa nhã với trẻ nhỏ hòng dùng cái nết đánh chết cái đẹp; kiếm được một tấm chồng dù cụt chân, mù mắt nhưng có cưới xin hẳn hoi để chấm dứt cái dòng dõi ” không chồng mà chửa” của gia đình. Song từ lúc dậy thì đến cái tuổi bốn mươi, mẹ chị không có một người đàn ông nào đến dạm hỏi. Thậm chí những câu trò chuyện bình thường mà đàn ông trong làng dành cho mẹ chị cũng có thể đếm được trên đầu ngón tay. Không đủ sức khỏe và lòng kiên nhẫn chờ đợi con mình có được một tấm chồng; vào một đêm mưa gió, bà chị đã lặng lẽ ra đi không một lời trăng trối.

Bước sang cái tuổi bốn mốt, mẹ chị bắt đầu đi tìm kiếm cho mình một đứa con. Những người đàn ông trong làng xa lánh chị còn những người đàn bà trong làng thì cảnh cáo chớ có dụ dỗ chồng họ kẻo sẽ bị gọt đầu bôi vôi! Cứ đến thời kỳ giữa của chu kỳ kinh nguyệt, trong vai người đi mua đồng nát, mẹ chị đi đến các làng xa xôi, tìm đến những người đàn ông góa vợ để xin con nhưng vừa nhìn thấy khuôn mặt bèn bẹt với chiếc mũi tẹt dí, đôi mắt xếch, hàm răng vổ vàng khè như răng cải mả của mẹ chị, họ đã lắc đầu. Có lần đúng vào ngày trứng rụng, mẹ gặp một người đàn ông say rượu đang nằm một mình trong nhà, chân gã ghếch lên, cái “kia” thò cả ra ngoài quần đùi. Mẹ phát cuồng, lấy tiền cho gã mua rượu uống, xin gã thương tình đoái hoài đến mình. Gã cầm tiền đút vào túi rồi xua đuổi mẹ :” Xấu quá, xấu hơn cả Thị Nở, cút đi, cút đi!”. Đêm ấy, nước mắt mẹ ướt đầm chiếc gối, gần sáng mẹ nghĩ ra được một sáng kiến. Cả ngày hôm ấy mẹ chị thấp thỏm trong lòng, mong sao trời mau tối để thực thi cái sáng kiến của mình.

Chiều tối, lùa vội bát cơm vào bụng, mẹ đạp xe lên thị xã, tìm đến một gốc cây tối om trong công viên ngồi chờ. Người khách đầu tiên tìm đến là một gã đàn ông lùn tè lùn tẹt, gã hỏi mẹ đi ”tàu nhanh” giá bao nhiêu? Mẹ ngớ người không hiểu, hỏi lại gã tàu nhanh là gì? Gã văng tục:” Đ... mẹ, làm đĩ mà không biết tàu nhanh!”. Mẹ nói với gã lần đầu tiên đi bán mình nên chưa biết, gã giảng giải cho mẹ, đi tàu nhanh nghĩa là “làm” một cái thôi, giống như ăn bánh trả tiền, còn đi” tàu chậm” là qua đêm, “làm” bao nhiêu cái thì “làm”. Mẹ bảo với gã không cần trả tiền cũng được. Sự thật thà của mẹ đã không mang lại kết quả, giá như mẹ cứ phát ra một cái giá bằng mớ ốc mà mẹ vẫn bán ở chợ làng thì gã đàn ông thấy rẻ mà đồng ý ngay nhưng khi nghe mẹ nói không cần phải trả tiền cũng được thì gã nghĩ mẹ bị HIV! Gã chuồn thẳng.

Mẹ chị còn chưa kịp hiểu tại sao gã đàn ông lại vội vội vã vã chạy mất thì bị giật tóc, đấm đá túi bụi. Mẹ không kêu được một tiếng, chỉ mãi đến khi mẹ đổ gục xuống thì trận đòn mới dứt. “Lần đầu tao cảnh cáo, lần sau mà còn dám xâm phạm địa bàn làm ăn của chúng tao thì chúng tao xẻo l ...”, tiếng đe dọa của hai ả gái điếm chuyên nghiệp giúp mẹ hiểu rõ thì ra đi làm cái nghề nhơ nhấp này cũng có sự cạnh tranh!

Mẹ lồm cồm bò dậy, dắt xe đạp ra khỏi công viên. Hai chân mẹ bị đá, bị quật đau nhức, mẹ gắng sức đạp nhưng cũng chỉ đến nửa đường thì cả người lẫn xe lao sầm ruộng lúa sắp gặt ven đường. Mẹ mê man. Nửa đêm, một người đàn ông đi xe máy phát hiện ra mẹ nhờ ánh đèn xe, ông vội vã nhảy xuống ruộng lay gọi mẹ. Mẹ tỉnh lại, người đàn ông hỏi mẹ có phải bị cướp không? Mẹ đáp không và kể lại tất cả. Người đàn ông thinh lặng, lúc sau quả quyết:” Tôi sẽ cho chị một đứa con”. Trong đêm tối, họ không nhìn thấy mặt nhau, mẹ cuống cuồng tụt quần ra. Người đàn ông đổ người lên người mẹ. “Mẹ ơi! Đau quá!”, mẹ thét lên.

Về đến nhà, mẹ mò mẫm bao diêm, thắp hương lên ban thờ mẹ, khấn:” Mẹ ơi! Hãy phù hộ cho con đẻ được một đứa con trai. Còn nếu là con gái thì nó giống một người xinh đẹp nào đó bên đằng cha nó để nó lấy được một tấm chồng có cưới xin hẳn hoi!”. Lời cầu khấn của mẹ đã ứng nghiệm; chín tháng, ba ngày sau, chị được sinh ra bụ bẫm và đẹp đẽ như trong tranh.

Lại không chồng mà chửa! Đúng là dòng dõi tổ tông! Không chịu được những lời miệt thị của người làng, cộng với ước vọng xóa bỏ được cái dớp mà mẹ mình và bản thân mình đã từng gánh nạn; một đêm, mẹ bế chị ra khỏi nhà, lấy ra một ít đồ đạc rồi châm lửa đốt ngôi nhà, lửa cháy đùng đùng, thiêu rụi tất cả. Mẹ đặt bát hương mẹ, hai cái soong nồi, bốn cái bát, ba bộ quần áo và năm bơ gạo lên cái thúng bên này; đặt con lên cái thúng bên kia rồi gánh ra cái chòi vó bè bỏ hoang ở cạnh bãi tha ma làng, sửa chữa nâng cấp thành nhà để mẹ con có chỗ chui ra chui vào.

Ở cạnh người chết, mẹ nghiệm ra rằng chỉ có người sống mới hay nói xấu, ganh tỵ với người sống và cả với người chết nữa còn người chết thì không nên mẹ con chị rất bình yên. Mẹ tận dụng những mảnh đất đầu thừa đuôi thẹo quanh các ngôi mộ để cấy lúa, trồng khoai. Khi chị chưa biết bò, mẹ lấy cái quần vải cũ buộc chị trên lưng mỗi khi cấy lúa, làm cỏ; xa xa nhìn mẹ con chị nhấp nhổm như con cua đồng đang bò trên ruộng. Lúc chị biết đi, chị tha thẩn bên những ngôi mộ, bắt cào cào, châu chấu; chị lấy cả xôi, thịt, chuối trên những ngôi mộ mới chôn để ăn. Lần đầu nhìn thấy, mẹ sợ tái mặt, vả vào mồm chị mấy cái, bóp cổ để chị lè thức ăn ra rồi dẫn chị đến ngôi mộ mà chị lấy cắp thức ăn, quì lạy người chết tha thứ. Từ đấy, chị sợ mẹ nên không dám bén mảng đến những ngôi mộ nữa.

Nó thèm được ăn thịt? Không có thịt thì mẹ lội xuống con sông cạnh nhà, cạnh bãi tha ma để mò cua, bắt ốc và tôm tép. Để phòng tránh chị không bị ngã xuống sông, mẹ lấy sợi dây vải buộc chân chị vào gốc thông hay phi lao; vừa mò, mẹ vừa trông chừng chị chơi trên bờ. Hết đoạn sông này, mẹ lại lên bờ dẫn chị đến đoạn sông khác, lại buộc chân chị vào gốc cây rồi tiếp tục mò mẫm sự sống của sự sống nơi đáy sông. Một lần, có con cá trê to bằng cổ tay chui ở trong hang, nó trơn quá, lại có ngạnh nhọn nên mẹ phải lừa lựa để bắt được nó; mải mê với cá, đến lúc bắt được con cá trê thì mẹ kinh hoàng khi thấy chị đã biến khỏi mặt đất! Chị nhặt được một cái liềm ở gốc cây thông, ra sức cứa đứt sợi dây buộc chân; sợi dây đứt, chị hả hê bò xuống sông tìm mẹ! Mẹ lao lại phía sau cuống cuồng mò tìm con. Túm được tóc chị, mẹ bế chị lên bờ, cầm hai chân chị dốc ngược lên vai vừa chạy quanh bãi tha ma vừa gào khóc; tiếng gào rách cả cổ họng, trào cả máu. Nước từ miệng chị ồng ộc tuôn ra. Chị khóc thét lên một tiếng, mẹ sung sướng đặt bừa chị lên một ngôi mộ mới chôn, chất đầy vòng hoa tươi rồi rập đầu khấn vái người dưới mộ hãy cứu sống con chị. Từ đấy, mẹ sợ không dám đi ra sông mò cua, bắt ốc nữa và chính mẹ lại là người tiếp tục tranh phần ăn của người chết.

Những ngày đầu, mẹ cũng sợ lắm, trời vừa sập tối mẹ đã cửa đóng then cài. Mỗi tiếng gió lay, cửa động, mẹ lại thon thót ôm chặt chị vào lòng, lầm rầm khấn rằng, mình phận xấu xí, hèn kém không cạnh tranh được với người sống nên đành tranh phần với người chết; mong hồn ma tha thứ! Mọi cái rồi cũng thành quen, thấy ma không bắt, thấy con ăn ngon, ngủ ngon, mẹ cũng hết sợ hãi. Mỗi khi có đám ma, ngày giỗ, ngày tết hoặc ngày thanh minh, mẹ lấy ra những đồng tiền cũ nát đêm đếm trước mắt chị, nhốt chị trong nhà, khóa trái cửa lại rồi cắp thúng đi chợ! Mẹ đi đến những ngôi mộ, thấy có xôi, có thịt, có chuối, mẹ chắp tay khấn xin rồi bỏ thức ăn vào thúng đi về; xôi thì hấp lên, thịt thì thái ra kho mặn. Rồi mẹ mở rộng địa bàn kiếm ăn, mò tìm đến những bãi tha ma, nghĩa địa làng khác, xã khác xin lộc của người chết. Để tránh người sống phát hiện, và để tránh cả sự cạnh tranh mà mẹ đã có bài học trả giá bằng trận đòn thừa sống thiếu chết ở công viên năm nào, mẹ thường đi vào những lúc giữa trưa vắng người hoặc vào lúc đêm tối.

Thời buổi bây giờ, cõi dương đang lấy lòng cõi âm nên người ta đua nhau xây mộ tổ, mộ ông, mộ bà, mộ bố, mộ mẹ thật nguy nga tráng lệ; cúng giỗ thật linh đình để tỏ lòng thương nhớ mặc dù khi còn sống, người chết bị người sống mong cho chết nhanh đi để họ còn được thừa kế tiền bạc, đất đai, nhà cửa. Nhờ vậy mà mẹ cũng được thường xuyên cắp thúng”đi chợ”. Cõi âm đã nuôi chị phổng phao, mỗi ngày mỗi xinh đẹp nhưng cõi âm cũng góp phần làm cho nỗi buồn nhân thế của chị tăng lên. Một trưa bị mẹ đánh, chị đã chui vào ngôi mộ cụ tổ họ Trịnh do con cháu ở Hà Nội về xây; ngôi mộ hình tháp nhọn kiểu châu Âu, xây bằng đá cẩm thạch có giá trị gấp hai mươi lần ngôi nhà của mẹ con chị đang ở; nó sạch sẽ, mát mẻ quá, thế là chị ngủ quên trong đó đến tận chiều, mấy đứa trẻ trâu nhìn thấy tưởng ma, kêu ré lên chạy về làng thông báo. Người làng lại bảo bà nó xấu xí, mẹ nó xấu xí còn nó lại đẹp như hoa hậu, chắc nó là con ma hoặc hồ ly tinh!

Là dòng giống” không chồng mà chửa”, là con ma, là hồ ly tinh nên mặc dù chị càng lớn càng xinh đẹp và nết na; chị cũng là người thông minh sáng dạ, năm học nào chị cũng là học sinh giỏi song nhà nghèo không có tiền đi thi đại học nên học xong cấp ba chị ở nhà để lấy chồng theo nguyện vọng của mẹ; thanh niên, đàn ông trong làng đều thầm yêu, trộm nhớ nhưng không ai dám cưới chị làm vợ. Không dám lấy chị nhưng họ cũng không cho chị đi lấy chồng; họ sợ mất chị, mất đi biểu tượng sắc đẹp ở làng!

Chị gánh mạ sắp về đến nhà thì bắt gặp một người thanh niên và một đứa trẻ từ bãi tha ma đi ra, nhìn thấy chị, người thanh niên sững sờ trước vẻ đẹp hương đồng gió nội của chị.

- Này em, em có lửa không cho xin tí, anh ra thắp hương cho các cụ mà quên bật lửa!- Người thanh niên kiếm cớ.

- Dạ, nhà em kia, để em về lấy diêm cho anh!- Chị dịu dàng đáp lời.

- Thôi để anh vào lấy.

- Vâng, mời anh vào!

Thấy có khách là đàn ông , mẹ mừng lắm, chào đón khách như người thân ở xa mới về. Người thanh niên giới thiệu tên là Tân, cháu ông Thoại, anh đang sống với bố mẹ ở Sài Gòn, lâu rồi mới có dịp về thăm quê. Ai chứ ông Thoại thì mẹ con chị chả lạ gì, ông là cán bộ huyện mới về hưu, ông vừa xây ngôi nhà to và đẹp nhất làng. Duyên số trời se chăng? Mẹ khấp khởi trong lòng. Tân cao to, đẹp trai, lại có học thức, làm kỹ sư ở thành phố văn minh, chắc không có cái nhìn lạc hậu như người ở quê. Con gái chị đẹp, ngoan, thật là đẹp đôi. Chỉ thoáng qua, mẹ chị cũng biết là Tân đã phải lòng con gái mình.

Những cuộc đến thăm hàng ngày của Tân càng làm cho mẹ hy vọng sẽ dứt bỏ được quá khứ “không chồng mà chửa” của gia đình. Tân cũng đã thề rằng nếu không lấy được chị thì bãi tha ma kia sẽ có một chỗ dành cho Tân. ấy là Tân thề lúc gia đình ông Thoại chưa biết Tân đến tìm hiểu chị, đến khi biết tin, cả gia đình ông Thoại đã họp, đã gọi điện thoại vào cả Sài Gòn cho cha mẹ Tân để khuyên răn Tân từ bỏ cái tình yêu sét đánh điên rồ của mình.

Trước hôm bay vào Sài Gòn, Tân đến nhà chị, vòng vo một lúc, Tân hỏi chị:

- Bà em, mẹ em đều không có chồng à?

- Vâng!- Chị đáp.

- Thế em có biết bố em là ai không?

- Không!

Tân thở dài, lúc sau nói lời đau khổ:

- Anh rất yêu em, nhưng bố mẹ anh không cho anh lấy vợ ở quê! Nếu em cũng muốn có được một đứa con như bà em, như mẹ em, anh luôn sẵn sàng. Gì thì gì anh cũng là một trí thức, con chúng ta sẽ thông minh như anh và đẹp đẽ như em. Hàng tháng anh sẽ gửi tiền về nuôi con, đây anh gửi em trước mười triệu.

- Bốp!- Một cái tát của chị làm Tân tối tăm mặt mũi. Tân rít lên:

- Dòng dõi nhà đĩ lại còn làm phách!

Chị đi ra bờ sông, bỏ mặc Tân một mình. Chị buồn nhưng không đau khổ, những người đàn ông như Tân cũng như nhiều người đàn ông ở làng không đáng để chị bận tâm. Gió từ mặt sông thổi lên mát rượi làm chị sực nhớ đã đến giờ chị phải đi vào trong làng, đến những nhà có các em bị tàn tật vì chất độc da cam để dạy các em phục hồi việc đi lại và cả học chữ nữa. Chị làm việc này một cách tự nguyện, chị cảm phục trước sự hy sinh của bố mẹ các em, chị thương các em vô tội nhưng vì bị di truyền chất độc da cam từ người bố nên các em bị câm điếc, mù lòa, bại liệt, thần kinh.

Khi Tân về đến nhà thì cũng là lúc giọng nói trong trẻo của chị cất lên:

- Bờ a ba huyền bà!

- Bờ bờ a a ba ba khuềnh bà bà- Con bé Tâm méo mồm đánh vần theo chị. Chị lại kiên trì, từng chữ, từng chữ. Đến lần thứ bảy thì con bé đọc được hẳn chữ bà tròn trịa, chị xoa trán khen nó giỏi lắm. Con bé cười tít mắt. Gọi nó là con bé vì thân hình nó còm nhom, tay bị khòe, mắt trái chỉ là một cái hõm sâu, đầu óc ngẩn ngẩn ngơ ngơ, chứ thật ra nó đã bước vào cái tuổi mười tám; nghĩa là cái tuổi đủ để đi lấy chồng nếu nó không bị nhiễm chất độc da cam từ bố. Bố nó là anh Bấc, anh đi bộ năm 1972, đóng quân ở Quảng Trị. Anh bị nhiễm chất độc da cam do uống nước suối đã bị máy bay Mỹ rải thảm chất độc hóa học. Ngày hòa bình, anh Bấc về quê, anh cưới chị Nhãn, một người con gái khỏe mạnh, đảm đang. Những tưởng hạnh phúc của họ sẽ nhân lên khi anh chị sinh đứa con trai đầu lòng nhưng lên ba tuổi, đứa con đang hồng hào, khỏe mạnh của anh chị bị teo cơ chân, cơ tay rồi nằm liệt trên giường. Đứa con trai thứ hai của anh chị cũng bị bệnh giống như người anh. Anh chị cầu trời, khấn phật xin một đứa con thứ ba khỏe mạnh để có người nối dõi tông đường và chăm sóc hai người anh khi anh chị chết đi nhưng đứa con gái thứ ba là cái Tâm bây giờ.

- ẹc, ẹc, ẹc!

Tiếng lợn kêu? Không đó là tiếng kêu của người anh cái Tâm báo hiệu muốn trở mình. Chị Nhãn đã ra đồng, còn anh Bấc được giao nhiệm vụ trông con, cậy có chị nên anh tranh thủ cho lợn ăn. Đàn lợn kêu rống lên eng éc, nhảy bổ ra cửa chuồng để chào đón chậu cám của anh Bấc. ẹc, ẹc, eng, éc, tiếng người và tiếng lợn hòa quyện vào nhau, dội vào trái tim thương người của chị một nỗi nghẹn ngào. Nước mắt chị ứa ra, chị vội đứng dậy đi đến bên chiếc giường kê bên cửa sổ, bế thân hình còm nhom, cứng đơ của người thanh niên đặt nghiêng sang bên trái rồi tiến hành xoa bóp đôi chân teo tóp của cậu.

Có tiếng người ồn ào ở ngoài sân, chị nhìn ra, thấy anh Bấc tay còn đang lấm lem cám lợn dẫn mấy người Việt Nam và một ông người Mỹ đi vào. Bốn người kia là cán bộ của Sở, của Phòng Lao động & Thương binh- xã hội, người phiên dịch và ông chủ tịch xã, còn người đàn ông Mỹ là tiến sỹ Jonh, anh sang Việt Nam để nghiên cứu về ảnh hưởng của chất độc da cam do quân đội Mỹ đã rải thảm xuống Miền Nam Việt Nam. Bố Jonh đã từng là người lính tham chiến ở Tây Nguyên; được tận mắt chứng kiến những cái chết vô tội của người dân và sự tàn phá khủng khiếp của bom đạn; lại được một người dân cứu sống khi ông bị thương và bị đồng đội bỏ rơi, khi về Mỹ ông mắc chứng bệnh trầm uất. Trước khi chết, ông đã trăng trối với Jonh hãy làm một cái gì đó để tạ lỗi và tạ ơn người dân Việt Nam. Và giờ đây, Jonh đang đứng chứng kiến chị xoa bóp cho người con của anh Bấc. Lúc đầu Jonh tưởng chị là vợ anh Bấc nhưng sau nghe giới thiệu, Jonh à lên một tiếng đầy ngạc nhiên, thán phục.

Một người con gái tuyệt đẹp, đẹp về cả hình thể lẫn nhân cách! Đó là suy nghĩ đầu tiên của Jonh về chị. Jonh hỏi chị rất nhiều về bệnh tình của những người con của vợ chồng anh Bấc. Có sao chị nói thế còn Jonh vừa mở máy ghi âm vừa ghi ghi chép chép. Rồi Jonh chụp ảnh, đủ các góc độ. Trước lúc ra đi, Jonh bất ngờ hỏi chị bằng một câu tiếng Việt lơ lớ:

- Chị...chị có c..ó mong ước gì hông?

Không cần suy nghĩ, chị đáp ngay:

- Em mong ước có một ngôi nhà, có đủ phương tiện để chữa bệnh và phục hồi chức năng cho thanh thiếu nhi bị tàn tật vì chất độc da cam và cả bị bẩm sinh, bị tai nạn.

Jonh khen sáng kiến của chị rất hay rồi hỏi chị tiếp nếu có cái trung tâm đó thì hoạt động thế nào? Suy nghĩ một lúc, chị bảo trước hết phải đi xuống tận những gia đình có các em bị chất độc da cam rồi phân loại bệnh tật, thần kinh, chân tay, câm điếc; tùy theo loại bệnh mà có phác đồ điều trị và phục hồi chức năng riêng. Bệnh của các em là bệnh kinh niên, khó chữa nên ngoài chữa tây y phải trồng cây thuốc đông y trong vườn để chữa lâu dài. Bệnh nhân đông thì cũng nên có sự ưu tiên, em nào gia cảnh khó khăn và có khả năng phục hồi nhanh thì tuyển trước, đợt này ra, đợt khác vào. Ngoài ra cũng cần dậy thêm văn hóa và cả dậy nghề cho những em có khả năng lao động. Nghe chị nói, Jonh liên tục gật đầu. Chiều tàn, Jonh và mọi người ra đi, chị cũng tất tưởi về nhà.

Cuộc gặp gỡ và trò chuyện với Jonh lùi dần trong tâm trí chị vì chị bận phải cày cấy, chăm mẹ ốm, chăm những đứa trẻ bị tàn tật. Nhưng Jonh thì không quên; dáng hình chị, mong ước của chị mỗi ngày mỗi đầy đặn lên trong tâm trí Jonh. Ngay sau khi về nước, Jonh rút tài khoản cá nhân; đi quyên góp các tổ chức xã hội, các cá nhân có tấm lòng hảo tâm được gần ba trăm ngàn đôla. Jonh bay ngay sang Việt Nam.

Chị đi làm đồng về, thấy chiếc xe hơi sang trọng đỗ ở trước nhà, ngỡ là xe của ai ở thành phố về thăm mộ, nào ngờ Jonh đến. Vừa nhìn thấy chị, trái tim Jonh đã đập mạnh, còn chị thì đỏ mặt khi thấy quần mình xắn cao tít trên đùi. Chị vội vã ra bờ sông rửa ráy chân tay.

Sau vài câu thăm hỏi, Jonh vào cuộc ngay, anh thông báo cho chị biết cái ước mong của chị đã thành sự thật. Tỉnh, huyện, xã đã đồng ý cho xây dựng một khu nhà hai tầng trên diện tích hai ngàn m2 để làm nơi chữa bệnh và phục hồi chức năng cho thanh thiếu niên bị tàn tật do chất độc da cam trong tỉnh và Jonh đề nghị chị làm giám đốc trung tâm.

- Làm giám đốc?- Chị sửng sốt- Tôi chỉ biết cấy cày, trông nom người ốm chứ biết giám đốc là gì?

Jonh bảo anh đã kể về chị cho nhiều người nghe, họ nói nên chọn chị làm giám đốc trung tâm, đây là trung tâm nhân đạo chứ không phải là kinh doanh vì vậy trước hết phải có tấm lòng nhân ái. Còn những việc khác như quản lý con người, tài chính, điều hành các hoạt động, Jonh cũng đã từng làm nhiều giám đốc dự án nên anh sẽ giúp chị. Nếu trung tâm hoạt động có hiệu quả, sẽ có nhiều tổ chức tài trợ thêm. Những cán bộ đi theo cũng động viên chị nên nhận chức giám đốc để giúp đỡ các em bị tàn tật, duy có ông chủ tịch xã là bằng mặt mà không bằng lòng. ai đời lại đi lấy một người có dòng dõi chửa hoang làm giám đốc?

Thuyết phục và chờ đợi mãi, chị cũng chỉ dám nhận chức phó giám đốc trung tâm còn chức giám đốc, Sở Lao động & Thương binh- xã hội tỉnh điều một người thương binh đang công tác ở Sở về làm giám đốc.

Ngày cắt băng khánh thành trung tâm cũng là ngày mà Jonh ngỏ lời cầu hôn chị. Jonh phải chờ đợi và nhằm vào đúng cái ngày trọng đại này của chị để cầu hôn thì mới mong thành công. Sống ở Việt Nam nhiều năm, Jonh hiểu văn hóa tình yêu ở phương Tây có nhiều điểm khác phương Đông. Người phương Tây yêu đương tự do hơn nhưng sự bền vững của tình yêu và tổ ấm gia đình cũng lỏng lẻo hơn; người ta đang trả giá cho cái sự tự do này và đang mong muốn học theo truyền thống phương Đông. Đã nhiều lần Jonh muốn ngỏ lời cầu hôn với chị nhưng Jonh sợ sự vội vã sẽ làm chị nghi ngờ tình yêu của mình. Chị ngượng ngùng đón nhận cái hôn đầu tiên trong cuộc đời. Những lần được cùng Jonh đi xuống cơ sở, chị đã chứng kiến nhiều việc làm bất ngờ của Jonh; Jonh đã từng rửa đít cho một em gái bị liệt trong khi đó những cán bộ của ta đi cùng thì bịt mũi, nôn ọe; Jonh đã từng cõng một em bị sốt chạy bộ hai cây số lênh bệnh viện huyện để điều trị. Jonh cũng hay bóng gió xa xôi với chị rằng, Jonh rất yêu mảnh đất, con người Việt Nam, anh muốn có một người vợ Việt Nam để được gắn bó cả đời với Việt Nam. Nhiều lúc chỉ có hai người, Jonh nắm lấy bàn tay chị, nhìn vào mắt chị chờ đợi. Chị đã yêu Jonh từ những việc làm cao cả của anh; còn mẹ chị thì bảo đấy là cái duyên cái số!

Trước đây mẹ chị và chị chỉ cầu mong có một người làng lấy chị làm vợ có cưới xin hẳn hoi, chẳng cần mâm cao cỗ đầy, vài ba mâm cơm rau dưa mời họ hàng là được; chỉ thế thôi là mẹ và chị đã mãn nguyện lắm rồi. Thế nhưng thanh niên, đàn ông trong làng chỉ thích ngủ mới chị mà không thích hoặc thích nhưng không dám cưới chị vì sợ dư luận. Thế mà Jonh- một nhà khoa học người Mỹ giàu có lại khát khao cưới được chị làm vợ! Chị xúc động lắm, nhưng chị cũng không muốn phải xa cái nơi chôn nhau cắt rốn của mình; nó còn nghèo khó, còn nhiều điều thị phi nhưng chỉ một làn gió đồng quê, chỉ một ánh mắt em thơ trong veo là cõi lòng chị lại yên ả! Jonh hiểu chị, anh bảo nếu chị đồng ý, Jonh sẽ đưa tiền cho chị đứng tên mua một căn nhà trên Hà Nội để tiện cho công tác của anh và sẽ xây cho mẹ con chị một ngôi nhà đẹp nhất làng để ở. Jonh sẽ xin hẳn sang Việt Nam làm việc để cùng chị làm dịu bớt đi nỗi đau của chiến tranh.

Chuyện chị nhận lời cầu hôn của Jonh dù mẹ và chị cố giữ bí mật nhưng rồi cũng nhanh chóng được người làng biết. Thế là làng ầm ầm ĩ ĩ. Như đã nói, nhà chị ở cạnh bãi tha ma, trời vừa nhá nhem tối đã không một bóng người qua lại thế mà bây giờ tối đến, nhà chị lại đầy tiếng trai làng, tiếng những người đàn ông bị góa vợ, bỏ vợ hay bị vợ bỏ. Anh Ninh, một chủ đại lý đồng nát thì tuyên bố sẽ giao cho chị toàn bộ vốn liếng hơn một tỷ để chị quản lý nếu chị đồng ý làm vợ anh. Còn Khảm, người đã từng đi ăn hỏi chị thì quì cả trước mặt chị xin lỗi và hứa nếu chị đồng ý hôm trước, đám cưới sẽ được tiến hành ngay hôm sau tại một khách sạn sang trọng nhất tỉnh! Từ Sài Gòn xa xôi, Tân cũng gửi thư về, Tân bảo Tân đã cưới vợ, một cô vợ con nhà giàu có nhưng cuộc sống như địa ngục; ngày nào Tân cũng mơ tưởng đến chị và nếu chị đồng ý, Tân sẽ ly dị vợ, về quê cưới chị rồi đưa chị và mẹ vào Sài Gòn sinh sống. Chị từ tốn chối rằng, chị rất cảm ơn tình cảm của mọi người dành cho chị nhưng tiếc rằng chị đã nhận lời cầu hôn của Jonh.

Kìa! ai như Jonh đang về làng! Đúng là Jonh, anh đang vừa lái xe vừa ngọng nghịu hát bài Việt Nam quê hương tôi. Jonh đang tràn đầy hạnh phúc vì chiều qua, chị gọi điện thoại thông báo cho Jonh biết rằng, sau cái lần chị dâng hiến cho Jonh, chị đã mang thai. Jonh về làng để bàn với chị, tuần tới anh vào Quảng Trị nghiên cứu ảnh hưởng của chất độc da cam đối với hệ sinh thái trên những vùng đất bị máy bay Mỹ rải chất độc hoá học, sau đó sẽ quay ra, cùng chị đi làm thủ tục đăng ký kết hôn trên Sở Tư pháp tỉnh rồi tổ chức đám cưới ngay tại cái trung tâm mà hai người đã khai sinh. Chiếc xe hơi vừa chớm đến cổng làng thì có hai người ra chặn lại. Jonh xuống xe, một người đàn ông dáng phong độ nói:

- Ông Tây đừng lấy con ấy, nó là con hoang, mẹ nó cũng là con hoang đấy!

Người thanh niên trẻ dịch sang tiếng Anh. Jonh mỉm cười, bước lên xe. Người đàn ông kéo tay Jonh lại:

- Nó đã ngủ với tao và nhiều đàn ông trong làng, phải đi nạo thai mấy lần rồi, không có con được nữa đâu!

Đến lúc này thì Jonh không nhịn được nữa, anh nổi cáu, người thanh niên liến thoắng dịch:

- Tại sao người Việt Nam cứ hay đi nói xấu, ganh tỵ với nhau? Phải nhìn lên để phát triển chứ!

Người đàn ông cúi mặt. Jonh bước vào xe, đóng sầm cửa. Chiếc xe không còn phải đi qua bãi tha ma nữa vì Jonh đã xây cho mẹ con chị một ngôi nhà ngay trên nền đất ngôi nhà ở rìa làng mà mẹ chị đã đốt năm nào. Theo nguyện vọng của chị, Jonh từ bỏ việc xây ngôi nhà đẹp nhất làng mà chỉ xây ngôi nhà ba tầng xinh xắn, số tiền còn lại ủng hộ cho quĩ xóa nhà tranh vách đất của xã.

Vào ngày thứ năm, sau khi Jonh vào Quảng Trị, mắt phải chị máy liên tục, tâm can chị bỗng dưng xáo động cứ như thể có ai đó đang nhắc đến mình. Chị chẳng làm được gì, gọi điện thoại di động cho Jonh thì không có tín hiệu, chị đang định phóng xe lên Sở Lao động & thương binh xã hội hỏi xem thì một chiếc ôtô con đã đỗ xịch bên cổng trung tâm. Jonh đã về ? Chị chạy bổ ra, ba người đàn ông đi vào với nét mặt lo âu, họ thông báo cho chị cái tin sét đánh, trong lúc lấy mẫu đất để nghiên cứu, một quả mìn của Mỹ còn sót lại đã phát nổ cướp đi sinh mạng của Jonh. Chị loạng choạng, ngã vào chiếc ghế, khóc nấc nâng từng hồi. Mất ba ngày nằm bẹp giường, chị mới gượng dậy được, mẹ chị xót xa:

- Con ơi! Lại không chồng mà chửa, hay là con đi nạo thai !

Chị lắc đầu:

- Không, đứa con trong bụng con là đứa con có giá thú- giá thú của tình yêu vĩnh cửu, con sẽ sinh nó, nuôi nó lớn khôn để nó tiếp tục con đường mà cha nó còn dang dở.

Chị đứng dậy bước ra ngoài sân, nắng ban mai đang tràn ngập làng quê yên tĩnh.

Cậu Tôi Là Nông Dân

VŨ ĐẢM

Dòng dõi tổ tông bên ngoại nhà tôi trước đây đều là nông dân. Ba đời gần đây cũng vậy; cụ ngoại tôi là nông dân lấy vợ nông dân, sinh ra ông ngoại tôi là nông dân; ông ngoại tôi lấy vợ nông dân, sinh ra mẹ tôi trước rồi sinh cậu Hàm tôi sau mười ba năm chữa chạy, cúng bái.

Cậu Hàm tôi sinh ra ở làng; cậu lớn lên bằng hạt thóc, củ khoai. Cậu cũng đi cày bừa, gánh phân, vạc bờ, cuốc góc, đi gặt; cậu lại chẳng học hành ra gì, học có đến lớn chín rồi bỏ ngang thành ra cậu tôi cũng là nông dân chính hiệu. Chết nỗi cậy mình có tí đẹp trai, lại có nhiều kẻ hay tâng bốc để được cậu mời ra quán nhậu nên nhiều khi cậu cũng thích làm người thành thị cho oai! Một lần cậu và mấy người bạn rủ nhau phóng xe lên thị xã chơi; người thành thị hay uống càphê nên cậu và bạn cậu cũng tạt vào một quán càphê. Chủ quán hỏi uống cà phê gì? Đen hay sữa? Người nói đen, kẻ bảo sữa, có người bảo người thành thị hay uống cà phê đen hơn thế là cậu uống cà phê đen. Vừa phì phèo thuốc lá vừa chờ cà phê nhỏ giọt tí tách, mặt cậu vênh cả lên nhưng đến khi đưa lên miệng uống thì cậu nhổ ra phì phì. Thì ra quán cà phê này có bán cả đồ ăn sáng, đĩa muối tinh cậu tưởng là đường trắng nên tranh thủ lúc không ai nhìn thấy, cậu lấy thìa xúc lấy xúc để cho vào ly cà phê! Lúc ra về, nhìn thấy một cô gái đèm đẹp đang lúi húi sửa xe đạp ven đường, không biết có phải do cái cổ áo của cô trễ cả ngực ra hay cậu thấy người thành thị galăng nên một mình cậu nhảy xuống giúp đỡ. Về đến nhà, cậu sờ túi thì ôi thôi hơn năm trăm ngàn bán lợn của bà ngoại mà cậu mang theo đã đi theo người đẹp!

Đất đai nhà ông bà ngoại tôi rộng lắm, phần do các cụ để lại, phần do ông bà ngoại tôi tích góp mua được. Cái đợt xã dồn vườn đổi thửa, nhiều gia đình thấy cấy lúa chẳng có lãi bằng đi buôn nên muốn sang nhượng để lấy vốn làm ăn, ông bà ngoại tôi đứng tên cậu Hàm mua được thêm mười sào, tương đương với ba nghìn sáu trăm mét vuông. Nhà cửa, đất đai rộng rãi lại chỉ có hai người già và một trẻ nên ông bà ngoại tôi rất muốn cậu tôi lấy vợ để có cháu nội bế ẵm. Hơn nữa làng tôi, người ta lấy vợ lấy chồng sớm lắm; con gái mười sáu, mười bảy; con trai mười tám, mười chín đã có con bồng con bế nhưng cậu tôi mải chơi, lại chê con gái quê dù cho xinh mấy nhưng cứ đẻ con ra là trông đã như bà già nên cậu có ý định muốn lấy vợ ở thị xã hoặc thị trấn để vợ được trẻ, được đẹp lâu. Bây giờ đã ba mươi tư tuổi mà cậu vẫn chưa tìm được cô vợ ở phố. Ông bà ngoại tôi than ngắn, thở dài, tổn thọ vì cậu; còn mẹ tôi cứ hễ đi đâu, gặp được cô gái nào kha khá là lại mai mối. Mấy lần đầu cậu tôi còn hăng hái đi, sau cậu chán, mẹ tôi cũng chán mặc cậu muốn lấy ai thì lấy. Dạo này cậu Hàm hay đi lên thị xã lắm, tôi nghĩ không khéo mà cậu đang chạy xin việc ở thị xã để trở thành người thành thị, nhưng không, chú Đồng, bạn thân của cậu Hàm bảo cậu tôi đang phải lòng con bé cave ở quán Karaoke trên thị xã. Tôi không tin, lẽ nào cậu tôi lại đi yêu cái loại gái bán trôn nuôi miệng ấy? Tôi đang định đạp xe sang nhà ông ngoại để hỏi cho ra nhẽ thì cậu tôi đã dẫn cô cave về giới thiệu với ông bà ngoại tôi đây là người yêu của cậu, làm nghề uốn tóc ở trên thị xã và yêu cầu ông bà tôi tổ chức đám cưới trong tháng tới!

Người yêu của cậu Hàm hơn tôi ba tuổi, có cái tên rất thành thị, cũng mang tên một loài hoa- Thủy Tiên, khác với cái loài hoa mang tên tôi- Nhài. Chẳng biết có phải do di truyền hay do cái tên mà người yêu của cậu Hàm trông xinh lắm; mắt sắc, lông mi cong, mũi dọc dừa, miệng trái tim, chân dài có nhiều lông. Lần đầu tiên về nhà ra mắt bố mẹ chồng tương lai mà mặt người yêu cậu cứ lạnh tanh lạnh ngắt, gặp ai cũng giương mắt lên nhìn mà chẳng thèm mở miệng chào hỏi lấy một câu. Tôi bảo với cậu Hàm, sao người yêu của cậu khinh người thế? Thì cậu quát tôi dân nhà quê biết cái gì, người thành thị họ phải thế chứ không như con gái quê chưa chi đã toét miệng ra nói cười!

Không ai trong gia đình ông ngoại tôi đồng ý với cô con dâu thành thị này. Ông ngoại tôi bảo, lấy nó về thì nó sẽ làm chồng cậu tôi. Bà ngoại nói, đẹp chẳng gặm ra được mà ăn, sướng không muốn sướng, muốn khổ thì cứ đi mà lấy. Mẹ tôi van nài cậu tôi nên lấy cô Thắm, giáo viên trường làng, cô tuy không xinh như người yêu của cậu nhưng có duyên và nhất là đảm đang. Ngay cả bố tôi, tuy chỉ là rể, lại rất ngại can thiệp vào chuyện riêng của nhà ngoại nhưng cũng lắc đầu bảo rằng cậu Hàm đang tự giết chết đời mình! Cậu Hàm tôi mọi khi hiền hiền là thế mà chẳng hiểu do ăn phải bùa mê thuốc lú gì của người yêu, hằm hằm cái mặt tuyên bố với ông bà ngoại tôi rằng, nếu không cho cậu lấy cô Thủy Tiên thì cậu sẽ bỏ nhà ra đi! Tất nhiên ông bà ngoại tôi có mỗi mình cậu là con trai nên đành ngậm đắng nuốt cay mà chiều theo ước nguyện của cậu.

Vợ cậu là người thành thị nên theo ý cậu phải tổ chức đám cưới theo nghi lễ thành thị. Nghĩa là phải có xe hơi đón dâu chứ không phải là xe máy như ở quê; có ban nhạc sống chứ không phải là mở băng; thuốc lá không thể là thuốc du lịch mà phải là ba con năm; nước uống không thể là chè xanh mà phải là chè mạn ướp hoa Sen; đồ uống là bia chai Hà Nội chứ không thể là rượu quê nấu. Đặc biệt là cỗ, ngoài các món thông thường ở quê còn phải có các món ở thành phố như chim câu quay, gà tần thuốc bắc, cá quả hấp muối, nho Mỹ tráng miệng. Để khoe với vợ xinh thành thị rằng mình quan hệ rộng rãi, có nhiều bè bạn nên bạ ai cậu cũng mời; có người cậu gặp đúng một lần chỉ nhớ tên mà không nhớ mặt, cậu cũng mời. Tôi được cậu Hàm giao làm tổ trưởng tổ viết thiếp mời gồm bốn người mà viết liên tục trong ba hôm, rã rời cả ngón tay mới xong. Mỏi tay, mờ mắt nhưng dẫu sao tôi cũng mừng cho cậu đã có vợ thật sự ; ở làng, vào cái tuổi của cậu, khối người đã có cháu ngoại gọi bằng ông rồi đấy thôi! Tôi mừng cho cậu nhưng trời không mừng cho cậu. Hôm cưới, trời mưa sầm sập từ sáng sớm đến hai giờ chiều, chỉ có ba bảy mâm cỗ được tiêu thụ còn hơn một trăm mâm nằm la liệt trong nhà, ngoài sân. Toàn bộ cháu, chắt họ hàng bên ngoại nhà tôi được huy động bê cỗ đến từng nhà trong làng để biếu. Sau đám cưới cậu Hàm, cả ông bà ngoại tôi lăn đùng ra ốm, may mà có tiền thuốc thang chứ không, khéo hai cụ đã rủ nhau sang bán cỗ ở thế giới bên kia!

Hưởng tuần trăng mật ở thành phố xong, cậu mợ tôi xách vali về quê sinh sống. Mợ Thủy Tiên cũng trương cái tấm biển” Uốn tóc môđen!” bên cái quán ven đường trước cửa nhà ông ngoại nhưng được đúng ba tuần thì cất biển. Nguyên nhân, mợ quen hát karaoke chứ không quen uốn tóc; ba cái đầu mợ uốn thì hai cái bị cháy khét lẹt còn một cái suýt nữa thành sọ dừa vì bị điện giật!

Không làm được nghề thành phố nhưng cậu cũng không cho mợ làm nghề nhà nông; cậu sợ móng chân, móng tay của vợ bị màu ăn vàng khè, sợ mái tóc xanh mướt của vợ bị quăn đi vì nắng, sợ cái dáng đi thanh tú người thành thị của vợ chuyển thành thình thịch vì bị gồng gánh nặng. Mọi cái từ cày, cấy, gặt hái cậu đều thuê hết. Không phải làm gì nhưng vợ chồng cậu mợ vẫn sống an nhàn từ lúa má, hoa màu trên vườn, trên ruộng của ông bà ngoại tôi.

Năm sau, vợ cậu đẻ con gái thiếu tháng, nhưng vẫn nặng ba cân rưỡi . Cậu đặt tên con là Thành- Hoàng Thị Thủy Thành. Cậu đã lớn tuổi, lại khát có con trai nối dõi nên cái Thành mới được bảy tháng đã phải cai sữa vì vợ cậu lại mang thai. Đứa con thứ hai của cậu là con trai. Cậu sung sướng lắm, đặt tên con là Phố. Hôm mẹ tôi và tôi đến thăm, cậu Hàm giải thích về cái tên của con, cậu bảo chị nó tên là Thành, em nó tên là Phố để sau này chúng nó lớn lên sẽ trở thành thị dân chứ cứ mãi cái kiếp nông dân này vừa nghèo vừa khổ; hơn nữa... cậu Hàm nói đến đây thì ngập ngừng, tôi và mẹ đều hiểu, cậu muốn khoe “hơn nữa” vợ cậu là người thành thị. “ Vâng vợ cậu là người thành thị, ăn trắng, mặc trơn, để bà ngoại phải tự giặt quần áo của mình và của ông”, tôi đang định nói ra câu này thì vội kìm được; tôi sợ mẹ tôi sẽ mắng mình là kẻ hỗn láo? Lúc mẹ tôi ra cầu ao tranh thủ giặt quần áo cho ông bà, cho vợ con nhà cậu, cậu Hàm vỗ vai tôi:

- Mày cố mà học để thoát khỏi cái kiếp nhà quê! Có lẽ lứa lợn tới tao sẽ bán cùng với hai tấn thóc, dùng tiền chạy việc hay buôn bán ở thị xã rồi mua nhà, đưa dần vợ con ra, nâng cấp cái thành phần nông dân của mình thành thị dân cho nó văn minh!

Tôi bĩu môi:

- Cậu đừng có nghe vợ bán nhà lên thị xã kẻo có ngày đứng đường đấy! Cậu không có trình độ, không có nghề nghiệp lên thị xã mà ăn xin à?

- Mày đúng là dân quê, tầm nhìn không vượt qua nổi lũy tre làng!

Tôi hứ một tiếng rồi bỏ đi, tôi chẳng muốn tranh luận với cậu; ngày cậu chưa lấy vợ tôi còn hay trò chuyện với cậu nhưng từ ngày cậu lấy vợ, nghe vợ nên tôi thất vọng về cậu. Vốn hay được bạn rượu nịnh cậu là người hào hoa phong nhã giống người thành phố; cậu thích. Nay lại được vợ xui bán nhà, bán ruộng lên thành phố cho nó nhanh giàu, nhanh văn minh; cậu muốn, nhưng ông bà ngoại tôi kiên quyết không cho nên vợ chồng cậu hậm hực lắm!

Ông bà ngoại tôi không cho cậu Hàm trở thành thị dân nhưng cậu, con cậu, ông bà ngoại tôi và cả làng tôi bỗng dưng trở thành người thành thị ở cấp thành phố đàng hoàng chứ không thèm ở cấp thị xã! Cậu Hàm đứng chắp tay sau đít oang oang thông báo cho cả nhà cái tin đặc biệt mà cậu mới nghe được, mấy tháng nữa thị xã sẽ được mở rộng và nâng cấp thành thành phố; cái làng giáp ranh này sẽ trở thành một phường của thành phố, rồi một khu công nghiệp sẽ mọc lên ở đây!

Đúng là làng tôi từ làng biến thành phường thật rồi; ngay cái tên làng Thông có từ hàng trăm năm, gắn với cái đồi Thông nổi tiếng quanh năm rì rào gió thổi cũng biến thành cái tên phường Quyết Thắng. Thế làng tôi, à quên phường tôi sôi động hẳn lên. Này nhé đường làng không tên, không đèn sẽ thành phố mang tên một danh nhân, có đèn cao áp chiếu đêm đêm. Ngõ có số, nhà có số hẳn hoi! Nước máy sẽ thay nước ao! Nhất là đất, giời ơi là đất , người khắp nơi ùn ùn đổ về mua đất làm cho giá đất tăng chóng mặt. Những quí ông, quí bà bước từ xe hơi xuống, chỉ tay chỗ nào là chỗ ấy mấy tháng sau mọc lên ngôi nhà đẹp đẽ hoặc bán sang tay kiếm vài trăm triệu chênh lệch. Người dân làng tôi thi nhau bán đất thổ cư, bán ruộng để xây nhà to, mua xe máy, ti vi, tủ lạnh, máy điều hòa đắt tiền ... toàn những thứ xa xỉ mà mấy tháng trước đây, người nông dân quê tôi chỉ có thể nhìn thấy trong siêu thị trên thị xã!

- Ha, ha, ha! Giàu nhất phường là tao!- Cậu Hàm tôi vỗ ngực trong cái quán thịt chó, bia hơi mới mở ở cạnh phố. Không cần phải bán đất thổ cư và cái ao rộng, chỉ nguyên ba ngàn sáu trăm mét vuông ruộng mà ông bà ngoại tôi mua thêm hồi nào nay nằm trúng trong khu qui hoạch công nghiệp, lại là mảnh đất đẹp nhất mà một ông chủ nước ngoài xây nhà máy nên được đền bù khá thỏa đáng. Hai triệu một mét vuông nhân với ba nghìn sáu trăm mét vuông thành bảy tỷ hai trăm triệu đồng! Một số tiền có nằm mơ cậu Hàm cũng không dám mơ tới? Có lẽ thế mà hôm ký giấy nhận tiền đền bù, nhìn đống tiền lù lù trước mắt, cậu phải vả vào mặt mình mấy cái, thấy đau, cậu mới biết là mình không mơ! ở đời có tiền mua tiên cũng được thành ra cậu Hàm tôi bắt đầu công cuộc chuyển đổi thành phần; từ nông dân thành người thành phố thì đã có quyết định hẳn hoi, giờ chỉ cần biến đổi cái chất cho mạnh mẽ nữa là ổn! à, cái nhà cổ hơn một trăm năm, gỗ lim, lập ngói rêu phong mát mẻ kia, nơi mà cậu đã được sinh ra và lớn lên sao mà bây giờ trông nó lạc lõng so với những ngôi nhà bêtông, cao tầng san sát đến thế? Phá, lừa cho ông bà ngoại tôi đi Hạ Long nghỉ mát với tôi và bố mẹ tôi, cậu Hàm đã cho rỡ ngôi nhà cổ, rồi thay vào đó là cái mẫu thiết kế ngôi nhà bốn tầng, chín phòng. Ông ngoại tôi đi nghỉ mát về, nhìn thấy ngôi nhà mà bố mẹ mình và vợ chồng con cái mình đã từng sống gắn bó cả đời, nay chỉ còn là một đống gỗ, đống ngói, ông ngoại đã tuyên bố không nhìn đến mặt cậu Hàm nữa. Cầm một tỷ rưỡi đồng bán đất mà ông bà giữ lại, ông về làng Sâm- quê bà ngoại mua một thửa đất có cả ao, dựng lại ngôi nhà gỗ lim cũ. Ông cho mẹ tôi hai trăm triệu, mua tặng tôi chiếc xe máy và chiếc điện thoại di động mừng tôi thi đỗ vào đại học, còn bao nhiêu ông gửi tiết kiệm để hàng tháng lấy lãi chi dùng cho ông bà.

Xây xong ngôi nhà cao to lừng lững giữa phường, cậu tôi mua một loạt trang thiết bị đắt tiền của Mỹ, Nhật, ý. Cậu cũng mua liền một lúc hai chiếc xe máy của Nhật trị giá gần một trăm triệu cho cậu và mợ. Xe của cậu thì sáng sáng cậu đèo vợ và con ra quán ăn cách nhà hai trăm mét để ăn phở, bún, bánh mì batê hay để cậu lượn lờ đến nhà bạn bè uống bia, chơi bài ăn tiền. Còn xe của mợ thì để mợ đi chợ cách nhà hai trăm ba mươi mét để mua thức ăn hay đi đến các đền chùa để hương khói. Lúc đầu vợ cậu còn đi chợ, nấu ăn, sau kêu mệt nên cậu phải thuê một cô ôsin về giúp việc chợ búa, cơm nước, quét dọn.

Mợ đi chùa nhiều nên hay gặp thầy bói bói bài ở trước cửa chùa. Một thầy đeo kính đen, nhìn vào cặp đùi mỡ màng sau làn váy mỏng của mợ vẫy mợ lại bảo rằng số mợ không là phu nhân thì cũng rất giàu có. Mợ thở dài nói rằng lấy chồng thích đái bụi chuối hơn đái bồn thì phu nhân cái nỗi gì? Thầy xoa đùi mợ rồi bảo:” Giai cấp nông dân à? Nhưng sắp giàu to nhờ có lộc lớn!”. Đôi mắt mợ lóe sáng, hỏi thầy làm thế nào để lấy được lộc? Bàn tay thầy lùa vào trong váy, mợ chặn lại. Thầy bảo không muốn lấy lộc thì thôi, bàn tay mợ lại lỏng ra. Mãi rồi thầy bảo chiều nay đánh con đề bốn mươi. Mợ chưa từng đánh đề, lại cũng chẳng tin lắm nên về nói lại với cậu thử ra quán nước bà Lại ghi năm mươi ngàn xem nào? Quả nhiên tối đó đề về bốn mươi. Cầm ba triệu rưỡi, cậu tiếc ngẩn ngơ; mợ xỉ vả mình ngu như chó, thầy cho lộc giàu có không biết đường mà ăn, biết thế rút một trăm triệu tiền tiết kiệm ra ghi đề, ghi lôtô thì có phải được bảy tỷ, gần bằng tiền bán đất không? Tối hôm sau, hôm sau nữa, rồi tối nào cũng vậy, cứ đến giờ tivi thông báo kết quả xổ số là cậu mợ lại nín thở xem đề, lô về bao nhiêu? Được thì ít mà thua thì nhiều, đã thua, cậu lại càng đánh to để hòng gỡ lại, càng đánh càng thua.

Không làm, miệng ăn đến núi cũng lở; nhà cậu Hàm trừ ôsin ăn theo định mức nông dân còn vợ chồng, con cái ăn theo tiêu chuẩn thượng lưu của người thành phố, không những thế mà còn lô, đề “ăn” nữa nên hơn ba tỷ bán ruộng gửi tiết kiệm để lấy lãi sinh sống đã rút đến đồng cuối cùng. Thế là đồ đạc trong nhà dần dần đội nón ra đi, bắt đầu từ máy điều hòa, máy giặt rồi đến tivi, tủ lạnh, bàn ghế salông, chiếc xe máy của cậu và cuối cùng là chiếc xe máy của mợ. Đồ đạc mua thì đắt, bán thì rẻ nên chẳng mấy tháng, nhà cậu lại hết tiền!

Trước đây còn có ruộng, có lúa gạo để ăn, nay không còn ruộng, nhà cậu chỉ còn cái xác không. Chẳng thể gặm bêtông mà ăn được, cậu đành rao bán nhà, đi mua mảnh đất be bé để xây nhà, số còn lại lấy vốn làm ăn! Nhưng bây giờ đất đai, nhà cửa đang vào giai đoạn đóng băng nên chẳng có mấy người ngó ngàng đến nhà cậu. Có mấy người hỏi mua thì họ trả giá quá rẻ, chỉ bằng tiền mà cậu đã xây nhà. Họ bảo mua là để mua đất chứ cái nhà xây kệch kỡm nửa ta, nửa Tây thì chó nó mua!

Nhà cậu đã bắt đầu phải đi vay nặng lãi 3% một tháng để ăn. Đang lúc túng quẫn thì cậu Hàm gặp được vận may, chính ông chủ Tây đã mua đất ruộng của cậu đến mua tiếp ngôi nhà của cậu với mức giá cao nhất so với những người đã từng trả. Ông chủ Tây mua, cải tạo lại ngôi nhà của cậu Hàm để làm kho chứa hàng, chả là sản phẩm băng vệ sinh phụ nữ, siêu mỏng, siêu thấm, siêu khuyến mại của công ty ông đang bán rất chạy. Vậy là lần thứ hai trong cuộc đời, cậu Hàm phải hàm ơn ông chủ Tây!

Bán được nhà, cậu Hàm đi tìm mua đất; đất không đắt nhưng cũng không rẻ, chỉ chững lại thôi nhưng giá cả vật liệu xây dựng như ximăng, sắt, gạch, công xây thì lại tăng gấp đôi thời kỳ cậu xây ngôi nhà to vật. Nếu mua đất, cho dù be bé để xây nhà thì số dư còn lại chẳng là bao. Còn ra ngoại thành đất đai rẻ hơn thì lại trở thành nông dân, cậu mợ chẳng thích. Bàn đi, tính lại, cậu quyết định mua căn hộ chung cư hiện đại đang xây. Cậu phải nộp trước một trăm triệu, số còn lại nộp khi giao nhà nhưng tính theo giá vàng. Cậu phải đi thuê nhà, hai triệu đồng một tháng. Đến lúc nhận nhà chung cư thì giá vàng đùng đùng lên cơn sốt, từ một triệu một chỉ nhảy phắt lên một triệu tư. Nộp nốt tiền, nhận nhà xong, cậu còn đúng hai trăm bốn mươi triệu. Cậu dùng một trăm triệu mua sắm đồ dùng, xe máy, còn một trăm bốn mươi triệu lấy vốn mở cửa hàng bán bia hơi. Theo như quan sát của cậu thì người dân phường cậu bây giờ nghiện bia hơi và nghiện đề nhiều nhất. Làm chủ đề thì cậu không đủ vốn, vậy nên mở nhà hàng bia hơi là thượng sách!

Nhờ có nhan sắc của vợ mà nhà hàng bia hơi Thủy Tiên của cậu rất đông khách. Nhưng cậu Hàm, tuy đã là người thành phố mà vẫn thật thà như người nông dân, cậu cho rằng đến ông chủ Tây còn được ưu đãi huống chi cậu là người Việt Nam; hơn nữa cậu đã đóng thuế đầy đủ theo qui định của pháp luật thì cứ đàng hoàng mà làm ăn nên mỗi khi có thuế vụ, quản lý thị trường đến kiểm tra, cậu chỉ chiêu đãi vài vại bia mà không có phong bao. Thậm chí ông phó phòng thuế còn gợi ý cho cậu Hàm rằng có muốn nộp thuế ít đi một nửa không, ông sẽ vẽ đường cho bằng cách chỉ khai báo doanh thu thấp đi một nửa, tất nhiên một nửa này cưa đôi như tất cả các doanh nghiệp tư nhân, Nhà nước khác đã từng hợp tác với các ông! Lợi cả đôi bên là thế song cậu Hàm nói rằng ông làm vậy là tham nhũng. Thế là tháng sau, nhà hàng của cậu phải nộp gấp đôi tiền thuế. Cậu làm đơn khiếu nại thì thanh tra thuế về làm việc, kết luận gia đình cậu trốn thuế năm mươi triệu đồng, phải nộp truy thu và nộp tiền phạt nếu không sẽ bị truy tố ra tòa!

Cậu Hàm rất sợ bị đi tù, vừa khổ cực, vừa bị người đời khinh rẻ, lại mất vợ đẹp như chơi nên cậu bán tống bán tháo cái nhà hàng bia hơi và rút chút tiền tiết kiệm còn lại để nộp phạt!

Tránh được tù tội, cậu Hàm lại rơi vào cảnh tù túng. ở quê, hết gạo, cậu Hàm có thể chạy sang hàng xóm để vay vài bơ gạo; hết cái ăn, có thể chạy ra ao cá, thả cái vó xuống là có cá ăn, chạy ra vườn hái nắm rau là có rau ăn, bẻ cái que tre là có tăm xỉa răng. Nhưng mà cậu đang ở thành phố, cái gì cũng phải tiền, từ cái tăm, mớ rau, cân gạo, ngay cả nước sinh hoạt- một thứ thừa mứa ở nhà quê nhưng ở thành phố cũng phải mất tiền mà nhiều khi cũng chẳng đủ hoặc đủ thì nước đục, vàng, có cả giun. Cái nỗi nhục lớn ở đời là phải đi vay tiền, kể cả vay tiền anh em, chính cậu Hàm tôi đã từng bảo với tôi vậy khi mà cậu đã từng đi vay bạn bè không được đành phải đi vay nặng lãi để có tiền ăn. Hết tiền, lại ở chót vót trên tầng bảy của chung cư, gia đình cậu tôi như chim nhốt trong lồng. Ông bà ngoại tôi và bố mẹ tôi vẫn hay gửi gạo và tiền lên tiếp tế cho gia đình cậu nhưng gia đình cậu vốn đã quen với lối sống thị thành phong lưu nên không thể hạ cấp mà ăn cơm rang hay khoai lang luộc buổi sáng mà phải là phở đặc biệt có thêm một quả trứng gà; ăn trưa, ăn tối phải có thịt quay, giò chả, có bia non vậy nên một lần nữa đồ đạc trong nhà cậu lại đội nón ra đi. Hôm tôi mang gạo đến cho nhà cậu Hàm, chung cư mất điện, tôi phải gửi bao gạo ở chỗ nhà gửi xe, leo lên tầng bảy, bảo cậu xuống lấy gạo. Nhà cậu giờ trống trơ trống hoắc, cậu giữ tôi ở lại ăn cơm, tôi từ chối phải về ngay để chuẩn bị đồ đạc sáng mai còn lên Hà Nội bắt đầu vào học năm thứ ba.

Ông bảo vệ lấy tôi hai ngàn tiền gửi xe, tôi dắt xe máy ra, đi loanh quanh mãi mà vẫn chưa ra được đến phố chính; không những thế, ở những chỗ khuất nẻo, tôi rùng mình trước những kim chích ma túy vứt chỏng chơ. Mới có mấy năm mà nhà cửa san sát, chen chúc xô đẩy lẫn nhau; tôi bị lạc, lạc ở chính cái làng tôi xưa kia. Làng đã biến mất, mất hết rồi, ngay cả hai cái biểu tượng vốn là niềm tự hào của làng cũng không còn nữa. Đó là cây đa cổ thụ gần hai trăm năm nằm cạnh đường làng bị chặt hạ để nắn đường cho nhà ông trưởng phòng nhà đất ra mặt phố. Đó là đồi thông vi vu gió thổi bị chặt hạ cả trăm cây để nhường chỗ cho nhà hàng Karaoke Đồi Thông cao cấp; toàn thấy những VIP và dân ăn chơi giàu có đi xe hơi, xe máy đắt tiền đến giải trí với những cô gái chân dài, đẹp như người mẫu.

Tôi đã lên thủ đô, đã vào học được hai tuần nhưng nỗi buồn về cậu Hàm, về mất làng lúc nào cũng chập chờn trong đầu tôi. Nhiều lúc tôi buồn quá, phóng xe máy từ nhà trọ ra vườn Bách thảo để thèm được nghe lại một tiếng chim hót trên cây. Chiều nay, trời đã vào thu nhưng vẫn còn nắng chang chang, ngày mai thi hết môn rồi mà tôi chẳng nhét được chữ nào vào đầu. Tôi đứng lên, chụp chiếc mũ lên đầu rồi dắt xe máy đi ra; tôi thèm được ngồi bệt xuống đám cỏ tựa lưng vào gốc cây râm mát, bứt mấy cọng cỏ đưa lên mũi ngửi cái mùi hăng hắc; thèm được lắng nghe tiếng chim Chích kiếm mồi.

Tắc đường, người và xe vón cục trước mặt, tôi lao xe lên vỉa hè, suýt đâm vào mấy người đàn ông đang đứng ngồi quanh gốc cây:

- Mả mẹ mày, mù hả?

Một người đàn ông chửi tôi, nghe tiếng rất quen, tôi dừng xe quay đầu lại. Quái lạ, người thì ngồi thụp xuống, người thì quay mặt đi, người thì kéo mũ sụp xuống mặt? ơ, ai như chú “yêu xe hơn yêu vợ?”, đó là biệt danh mà mọi người đặt cho chú Khoái; chuyện là nhà chú có chín sào ruộng, được đền bù tám triệu, chú bán thêm đất vườn, dồn tiền mua chiếc xe máy hai mươi triệu. Trước chú Khoái thường ngủ với vợ nhưng từ ngày mua xe máy, chú ra ngủ với xe có tới ba cái khóa, khóa cổ, khóa càng và khóa xích vào chân giường của chú. Tôi dắt xe đi lại. ơ, cả bác Toàn, chú Tiện, chú Kim nữa? Tôi chào mọi người, họ ngượng ngập hỏi tôi đi học về đấy à? Tôi đáp:

- Chiều nay cháu nghỉ. Các bác, các chú đi đâu đấy?

- à, à, bọn tao lên Hà Nội du lịch xem thủ đô thế nào!- Chú Kim bảo.

Đi du lịch mà quần áo lôi thôi như nông dân đi làm ruộng thế này? Mà sao lại mang cả xà beng, xẻng, quang gánh? Thấy tôi nghi ngờ, bác Toàn nói toẹt ra:

- Sĩ diện cái đếch gì , chúng tao không còn ruộng nữa, có mấy chục triệu đền bù thì xây nhà, mua xe máy hết rồi; bây giờ còn cái xác nhà không, lên đây đi cửu vạn kiếm tiền cho con ăn học.

Tôi thấy ngực mình như có ai bóp ngẹt. Tôi đã học xong môn Triết học và môn Kinh tế chính trị nên tôi phần nào hiểu được rằng muốn chuyển đổi từ cái cũ lên cái mới, từ cái thấp lên cái cao thì phải có đầy đủ cơ sở hạ tầng và thượng tầng kiến trúc. Những người nông dân quê tôi ngủ một đêm, sáng ra biến thành người thành phố chỉ thông qua cái quyết định nóng vội, chạy theo thành tích của một số cán bộ tỉnh; thấy người ta lên thành phố mình cũng lên thành phố; thấy người ta có các nhà đầu tư nước ngoài, mình cũng ưu đãi đặc biệt vượt cả chính sách của Chính phủ, trải thảm, rạp người mời gọi. Người nông dân không được trang bị kiến thức, lối sống, văn hóa của người thành phố và đặc biệt không có công ăn việc làm gì thì chỉ góp phần làm cho họ bần cùng đi.

Nhìn thấy mồ hôi đang chảy nhễu nhại trên mặt những người nông dân làng tôi xưa kia, nay là dân phố phường tôi, tôi thương họ quá, tôi đang phân vân không biết có nên mời họ vào cái quán giải khát trước mặt kia, chiêu đãi mỗi người một ly kem ăn cho mát ruột không thì chuông điện thoại di động của tôi đổ liên hồi. Tôi rút máy ra nghe, giọng mẹ tôi hốt hoảng, đau đớn. Chiếc điện thoại tuột khỏi tay tôi rơi xuống đất, tôi quỵ xuống hè. Bác Toàn vội bế xốc tôi lên, lúc sau tôi mới tỉnh lại, mọi người xúm vào hỏi tôi bị làm sao? Mãi, tôi mới nói cho mọi người biết rằng cậu Hàm tôi nhảy lầu tự tử. Chú Khoái trèo lên chiếc xe máy của tôi, giục tôi ngồi lên rồi lượn lách thoát khỏi đám đông, phóng ngay về quê.

Cậu Hàm tôi tự tử thật, cậu nhảy từ chính căn hộ chung cư của cậu xuống đất. Cậu Hàm tự tử vì tiếc ngẩn tiếc ngơ, trước được thừa kế bao ruộng đấy mà nay không còn tấc đất cắm dùi!

Cậu Hàm tự tử vì vợ cậu lại ngựa quen đường cũ, đi làm cave ở nhà hàng Karaoke Đồi Thông và bán dâm bị công an bắt được. Đau đớn hơn, đứa con gái đầu lòng của cậu, sinh thiếu tháng với cậu nhưng lại đủ tháng với người ta. Thế mà ngày đầu gặp cậu, nàng Thủy Tiên bảo mình là thợ uốn tóc, chỉ đến đây hát vui vẻ chứ tấm thân vẫn còn trong trắng!

Cậu Hàm tôi tự tử nhưng may mắn thay cho cậu, cậu chỉ bị gãy ba rẻ xương sườn và gãy tay trái mà không tan xác. Cậu đã được chính mảnh đất làng xưa còn sót lại cứu sống; đó là một vũng bùn lầy trên cái nền sân bêtông do bị rút ruột quá nhiều mà tạo thành. Cậu rơi trúng vào đấy! Lúc tôi vào thăm cậu trong phòng cấp cứu ở bệnh viện tỉnh, cậu đã tỉnh lại, nhìn thất tôi, cậu hối hận:

- Cậu muốn trở lại thành thằng nông dân, lấy một con vợ nông dân..!

- Cậu ơi! thật ra cậu vẫn là ...

Tôi còn chưa kịp nói hết câu thì một bà y tá đi vào quát nhặng lên:

- Con nhà quê này, ra ngoài!

Hừ, ai cũng sinh ra ở quê nhưng vừa bước ra khỏi làng đã quay lại chửi quê nhem nhẻm! Tôi làu bàu trong miệng, bước nhanh ra ngoài, bắt gặp sáu, bảy người đang nói chuyện với bà ngoại và mẹ tôi ở hành lang; người xách cam, chuối, người xách cái làn có con gà mái tơ. Họ là những người nông dân ở làng Sâm, cạnh nhà ông bà ngoại tôi; nghe tin, vội vã lên thăm.

Trưởng Thôn

VŨ ĐẢM

Làng Gò có ba thôn, Thượng, Trung, Hạ thì hai thôn Thượng, Trung đều đã tổ chức bầu xong chức trưởng thôn, chỉ còn thôn Hạ là chưa bầu được vì thiếu nhân sự. Trưởng thôn cũ xin rút không ứng cử để đi vào Tây nguyên trồng càphê với em vợ, những người trong thôn không ai thích thú gì cái chức trưởng thôn với mức phụ cấp hai trăm ngàn đồng một tháng; hơn nữa làng quê bây giờ chẳng được yên bình như xưa, nạn cờ bạc, nghiện hút, mại dâm do những người đi làm ăn ở xa tha về đang làm làng xơ xác.

Không có nhân sự thì cũng phải nặn ra một nhân sự để bầu trưởng thôn, chủ tịch xã chém tay vào không khí chỉ đạo thế để xong cấp thôn sẽ còn tiến hành bầu chủ tịch xã khoá mới, tất nhiên cái ghế chủ tịch xã ông đang bày mưu tính kế để nó tiếp tục thuộc về mình.

Cuộc họp bầu trưởng thôn Hạ diễn ra ở nhà văn hoá thôn, có sự tham gia của phó chủ tịch xã và các ban bệ trong thôn; mấy người được giới thiệu ứng cử chức trưởng thôn đều từ chối, kể cả hai người là đảng viên, họ bảo Đảng giao nhiệm vụ nhưng sức khoẻ kém nên không thể đảm đương được chức trưởng thôn! Cuộc họp đang bế tắc thì ông Thuấn – bí thư chi bộ thôn đề nghị bầu Phong làm trưởng thôn, ông bảo binh nhất Phong mới hoàn thành nghĩa vụ quân sự về làng, rèn luyện tốt nên được kết nạp Đảng trong quân ngũ. Có nhiều tiếng xì xào bàn tán, người bảo phải đấy, cần tạo điều kiện cho lớp trẻ phát triển, kẻ lại bảo Phong còn trẻ quá, mới hai hai tuổi mà thôn toàn bậc cha chú, nói ai nghe? Ôi dào ơi, ở bên Nga, bên Mỹ, đến tổng thống cũng chỉ hơn bốn mươi tuổi huống hồ cái chức trưởng thôn ở làng ta? Tranh luận mãi, cuối cùng người ta cũng đồng ý bầu binh nhất Phong, nhưng lúc đó binh nhất Phong còn đang đi cày ở ngoài đồng nên phải cử người đi xe máy triệu tập binh nhất Phong về ngay nhà văn hoá thôn dự họp.

Quần áo còn dính đầy bùn đất, chỉ kịp rửa chân tay, binh nhất Phong đi vào chào mọi người, lúc đó anh cũng mới hay là mình được gọi về dự họp để bầu vào chức vụ trưởng thôn. Sau mấy phút bất ngờ, binh nhất Phong cũng xin rút vì không có kinh nghiệm làm lãnh đạo nhưng mọi người đều thống nhất không cho anh rút, đến khi bỏ phiếu kín, binh nhất Phong trúng cử với 75% phiếu bầu. Thế là binh nhất Phong trở thành trưởng thôn Hạ có bảy trăm hộ gia đình với gần hai ngàn nhân khẩu.

Đêm đầu tiên trong cuộc đời làm trưởng thôn, binh nhất Phong thao thức mãi chẳng ngủ được, ông Thống- bố Phong bảo làm cái chân trưởng thôn, nhiệm vụ chủ yếu là đi họp, đi thu các khoản đóng góp của dân và dự đám ma đám cưới chứ có gì quan trọng mà phải thao thức? Chẳng phải đợi lâu đâu, chỉ ngày mai, ngày kia, xã sẽ cho người vào đốc thúc trưởng thôn thu phí tồn đọng cho mà xem.

Quả như lời ông Thống nói, sáng hôm sau xã đã cử ông Hanh- phó chủ nhiệm hợp tác xã kiêm phó ban thu nợ của xã vào bàn với trưởng thôn Phong về việc thu các khoản phí còn tồn đọng của thôn, cả phí năm cũ lẫn năm nay lên tới tám mươi triệu đồng. Ông Hanh bảo xã đang chuẩn bị bầu cử ban lãnh đạo mới nên rất cần kinh phí; đây là thử thách đầu tiên để khẳng định năng lực của trưởng thôn mới. Nếu thu được hết các khoản phí nợ đọng năm ngoái và các khoản phí năm nay, trưởng thôn sẽ được lãnh đạo xã đánh giá là người lãnh đạo có tài và được xã bồi dưỡng làm cán bộ nguồn!

Trưởng thôn Phong xem danh sách bảng liệt kê các loại thuế và các loại phí, quỹ lên đến mấy chục loại tất cả thì sửng sốt:

- Một hạt thóc phải cõng ba mươi sáu loại phí, quỹ, dân nghèo chịu sao nổi?

Ông Hanh bực giọng:

- Ngân sách của xã eo hẹp nên phải tận thu, vả lại các khoản đóng góp này dân đều tự nguyện cả!

Trưởng thôn Phong bảo ngân sách xã nghèo, phải tận thu sao vẫn thấy cán bộ xã đi xe máy lên thị trấn huyện ăn nhậu ở quán thịt chó của nhà ông Tân, rồi còn rủ nhau hát Karaoke? Ông Hanh đỏ mặt không nói gì, chỉ nhắc trưởng thôn Phong phải mau chóng thu các khoản phí nộp xã, chậm nhất là đầu tuần sau.

Trưởng thôn Phong lục tìm trong đống giấy tờ sổ sách mà trưởng thôn cũ bàn giao, mở ra xem thì thấy thật lạ, trong biên bản họp thôn, phần đóng góp các loại phí, quỹ đều thấy người dân giơ tay nhất trí 100% là tự nguyện đóng góp, sao khi cán bộ thôn đi thu thì họ lại không nộp? Trưởng thôn liền Phong đi xuống một số gia đình để kiểm tra, đầu tiên là gia đình ông Cảm, tưởng trưởng thôn mới đến thu tiền quỹ vì người già, ông Cảm nói ngay:

- Hai vợ chồng tôi già yếu, con cái chúng nó cũng nghèo, chả nuôi được bố mẹ, chúng tôi làm gì có tiền mà đóng nhiều quỹ thế?

- Thế sao họp thôn, các cụ đều giơ tay tự nguyện đóng góp?

Nghe trưởng thôn hỏi, ông Cảm bảo đóng góp nhiều quá, dân làng chả ai muốn đâu nhưng nếu không giơ tay đồng ý thì sợ bị cán bộ thôn, cán bộ xã làm khó dễ trong việc xin giấy tờ khai sinh, đăng ký kết hôn, lý lịch cho con cháu đi học đi làm nên cứ giơ tay đại đi; nếu mà bỏ phiếu kín thì chả ai đồng ý đâu! Năm nay, ông đã tám mươi tuổi, vợ ông bảy tám tuổi, cũng phải đóng tới ba mươi loại phí và quỹ, riêng quỹ vì người già, một năm mỗi người phải đóng năm mươi ngàn, hai vợ chồng vị chi là một trăm ngàn. Trưởng thôn Phong hỏi ông Cảm, một năm hai vợ chồng ông phải đóng một trăm ngàn cho quỹ vì người già, thế được Hội Người cao tuổi giúp đỡ những gì? Ông Cảm bảo, nếu ốm đi viện thì được cân đường, Tết thì được hộp mức và cái giấy chúc mừng năm mới!

Rời nhà vợ chồng ông Cảm, trưởng thôn Phong đến nhà chị Tuất, người còn nợ phí, nợ quỹ nhiều nhất thôn. Chị Tuất, một mình nuôi bốn đứa con gái và mẹ chồng già, chồng chị đã bỏ nhà đi biệt tăm mấy năm nay sau khi vợ sinh đứa con gái thứ tư. Gia đình chị Tuất cấy bốn sào ruộng, một năm thu được mười hai tạ thóc, tương đương sáu triệu đồng, trừ đi chi phí giống, phân, thuốc sâu, thuỷ lợi phí, công thuê cày bừa, cấy, gặt, còn lại ba triệu; ba triệu không đủ cho sáu người sinh sống trong một năm nên chị Tuất phải đầu tắt mặt tối đi làm thuê để kiếm tiền. Vậy nên cái việc chị còn nợ thôn những ba triệu đồng tiền quỹ và phí về các khoản thuỷ lợi phí, quỹ an ninh, quỹ vì người già, quỹ vì trẻ thơ, quỹ hiếu hỉ, quỹ khuyến học, quỹ phòng chống lụt bão, quỹ môi trường… là điều tất yếu. Chị Tuất nói với trưởng thôn Phong, nhà chị chả có tiền đóng đâu, có bắt giam chị thì cứ bắt? Trưởng thôn Phong bối rối, anh bảo chị Tuất để anh bàn với thôn, xã xoá bớt nợ cho chị. Chị Tuất trợn mắt ngạc nhiên:

- Xóa bớt nợ quỹ và phí cho gia đình tôi?

- Vâng, em sẽ đề nghị!

Chị Tuất cảm động lắm, miệng luôn bảo trưởng thôn mới, trẻ người mà biết thương dân làng, đúng là bộ đội cụ Hồ có khác, chả như trưởng thôn cũ gạ gẫm… nói đến đây chị Tuất thấy mình lỡ mồm nên im lặng. Mấy lần, trưởng thôn cũ gạ gẫm làm tình với chị Tuất, nếu đồng ý, gã sẽ lờ việc nợ quỹ cho chị, còn không, gã sẽ đề nghị xã thu lại ruộng của chị, chị Tuất đã tát vào mặt gã. Dù chị Tuất không nói ra nhưng hai từ gạ gẫm cũng đủ để trưởng thôn Phong hiểu được sự tình, cổ họng anh nghẹn đắng. Như vậy là đã quá rõ, cái gọi là thôn, xã áp dụng quy chế dân chủ ở nông thôn để thu các loại phí, quỹ bằng giơ tay biểu quyết tự nguyện thực chất là áp đặt; người dân phải giơ tay là do sợ cán bộ trả thù, gây khó dễ trong việc xin các loại giấy tờ, lý lịch; thậm chí có người còn bị trưởng thôn xác nhận vào lý lịch thi đại học của con cái người nợ quỹ thôn là gia đình thuộc thành phần chống đối lại chủ trương của nhà nước?

Ba hôm sau, trưởng thôn Phong cho họp thôn, mời tất cả mọi người từ mười tám tuổi trở lên đến dự. Nội dung cuộc họp bàn về việc xoá bỏ các loại quỹ, chỉ một số người dám thẳng thắn đứng lên phát biểu lên án việc thôn, xã thu quá nhiều các loại quỹ, phí, còn lại ngồi im vì họ sợ bị trả thù nhưng đến khi phát cho mỗi người một tờ giấy đánh máy vi tính liệt kê ba mươi sáu loại thuế, quỹ, phí để mọi người gạch bỏ các loại quỹ, phí vô lý rồi bỏ vào thùng phiếu mà không phải ký tên thì tất cả mọi người đều hăng hái; kết quả tổng hợp lại có tới ba mươi mốt loại phí và quỹ bị gạch bỏ. Trưởng thôn Phong bị bất ngờ nhưng thấy mọi người hoàn toàn đúng, anh đề nghị làm biên bản, kiến nghị lên uỷ ban xã, xoá bỏ ba mốt loại phí và quỹ vô lý do xã đặt ra trái với qui định của nhà nước.

Nhận được bản kiến nghị do trưởng thôn Phong ký về việc người dân trong thôn đề nghị bãi bỏ những ba mươi mốt loại quỹ và phí, chủ tịch xã Phạm Hải vã mồ hôi trán, chết chết, thế này thì còn gì là kỷ cương, trưởng thôn dám họp dân làm kiến nghị bãi bỏ những ba mốt trên ba mươi sáu loại quỹ, phí do xã đề ra đã được thực hiện cả chục năm nay? Thế là thì loạn! Chủ tịch Hải gọi máy di động cho phó chủ tịch xã Tương, bảo cho người gọi ngay trưởng thôn Phong ra uỷ ban xã có việc gấp. Lúc đó trưởng thôn Phong và ba đoàn viên thanh niên đang giúp nhà bà Mùi sửa lại cái chuồng lợn nên phó chủ tịch Tương đi lùng sục khắp nơi, mãi gần trưa mới tìm ra được trưởng thôn Phong đang leo trên mái chuồng lợn, liền triệu tập miệng cho anh ra ngay uỷ ban xã có việc quan trọng. Trưởng thôn Phong hỏi có việc gì, phó chủ tịch Tương bảo rất quan trọng, cứ ra uỷ ban sẽ biết. Hai người phi xe máy ra uỷ ban xã, trưởng thôn Phong được phó chủ tịch Tương dẫn vào phòng chủ tịch xã, mặc dù đang ngoáy lỗ tai nhưng chủ tịch Hải vội quăng que tăm ra nền nhà, phảy tay cho phó chủ tịch Tương đi ra rồi chỉ tay cho trưởng thôn Phong ngồi xuống. Chủ tịch Hải cầm tờ kiến nghị, mặt hằm hằm:

- Cậu chỉ đạo dân thôn Hạ làm bản kiến nghị này?

- Thôn họp dân, người ta kiến nghị thế, tôi chỉ thay mặt họ gửi bản kiến nghị lên xã.

- Cậu to gan nhỉ, dám chống lại chủ trưởng của cấp trên?

- Nhưng chủ trương của xã không hợp với lòng dân, các anh cần phải bãi bỏ! Thôn tôi, làng tôi và cả xã này, người dân chỉ sống nhờ vào mấy sào lúa nên còn nghèo, không thể bắt họ phải đóng góp quá nhiều những khoản quỹ vô lý được.

Chủ tịch Hải đập bàn đánh rầm, đổi giọng xưng mày- tao, bảo rằng trưởng thôn Phong, mày chỉ là thằng binh nhất về làng, học hành chỉ hết lớp mười hai, may có tí mác đảng viên nên được bầu làm trưởng thôn chứ tài cán gì? Hãy xé bỏ cái bản kiến nghị ngông cuồng này đi kẻo các thôn khác học đòi bắt chước thì rối loạn kỷ cương phép nước! Trưởng thôn Phong nói, đó là ý kiến của dân, thấy đúng thì kiến nghị lên xã; làm cán bộ mà không quan tâm đến cuộc sống của người dân thì làm để làm gì? Chủ tịch Hải nhếch miệng cười mỉa mai, bảo trưởng thôn Phong là loại ngựa non háu đá, rồi cuộc đời sẽ dạy cho anh những bài học để mở mắt ra!

Trưởng thôn Phong ra về, giữa đường gặp ông Chén, ông bảo tìm anh suốt từ sáng đến giờ, nhân gặp đây nhờ anh xác nhận vào cái bản thành tích gia đình chăn nuôi lợn giỏi? Trưởng thôn Phong xem qua, bảo chiều anh sẽ xuống nhà ông Chén kiểm tra rồi ký xác nhận, ông Chén vò đầu gãi tai, nói trưởng thôn kê bản thành tích vào đùi ký luôn hộ để còn nộp ra xã gấp. Nghe nói phải nộp gấp, trưởng thôn Phong đề nghị đi luôn đến nhà ông Chén, ông Chén kéo tay áo anh bảo không ký thì thôi, không phải đến nhà nữa. Trưởng thôn Phong nhìn bộ mặt hoảng hốt của ông Chén thì sinh nghi, chân bước càng nhanh. Đến nhà ông Chén, ngôi nhà ba gian lợp ngói, tường lở loét, nhìn cái chuồng lợn của nhà ông Chén chỉ có hai con lợn sề, trưởng thôn Phong kinh ngạc hỏi ông Chén:

- Sao trong bản thành tích, bác khai nuôi đàn lợn hơn trăm con và nhờ có chăn nuôi lợn mà xây được nhà tầng, mua được xe máy, ti vi, nuôi được các con ăn học đại học, thạc sĩ?

Ông Chén đỏ mặt, gãi tai thanh minh, hai năm trước huyện phát động phong trào toàn dân nuôi lợn siêu nạc để xuất khẩu, lãnh đạo xã xin tiên phong đi đầu, vận động nhà nhà nuôi lợn, người người nuôi lợn, ai không có vốn thì vay ngân hàng. Đầu làng, cuối xóm treo đầy những khẩu hiệu” Làm giàu từ lợn siêu nạc”. Lợn giống được nhập từ nước ngoài về, không hợp với khí hậu và thức săn do nhà máy chế biến thức ăn gia súc gia cầm của huyện cung cấp nên lợn còi cọc không xuất khẩu được, đem giết thịt bán ở chợ cũng chả ai mua nên dân vốn nghèo lại nghèo thêm, phải bán cả đất, nhà đi trả nợ ngân hàng. Ông Chén hồi đó sợ vay ngân hàng nên không nuôi lợn siêu nạc mà nuôi hai mươi con lợn thường, bị thôn, xã qui vào thành phần chống đối, chịu phạt ba trăm ngàn. Khi lợn siêu lạc trở thành lợn siêu còi thì đàn lợn của gia đình ông Chén trở thành mô hình chăn nuôi giỏi xủa xã, được mời đi báo cáo điển hình ở huyện. Năm sau, được huyện khen, xã khuyến khích, ông Chén tăng số đàn lợn lên đến năm chục con thì bị dịch lở mồm long móng làm cho chết hết. Nay gia đình ông Chén thuộc diện cứu đói nhưng xã bảo ông cứ kê khai thành tích chăn nuôi cũ, thêm thắt số lượng lợn và việc nuôi con học đại học, thạc sĩ rồi xã họ trợ cấp cho gia đình ông ít tiền. Nghe nói, xã đang đề nghị cấp trên phong tặng danh hiệu lá cờ đầu của huyện nên nhất thiết phải có mô hình chăn nuôi giỏi!

Trưởng thôn Phong sửng sốt, không ngờ xã mải chạy theo thành tích mà bất chấp cả việc dối trên lừa dưới, anh nói với ông Chén làm thế là sai trái, huyện mà biết về thanh tra ra thì sẽ bị phạt, bị mang tiếng, hãy xé bỏ cái bản thành tích gia đình chăn nuôi giỏi đi. Ông Chén bảo vâng, chiều ông ra xã trả lại tiền. Trưởng thôn Phong rút ra được bài học kinh nghiệm, nếu không sâu sát với thực tế mà lại cả nể nữa thì anh đã xác nhận vào bản thành tích cho ông Chén; anh mới xuất ngũ về nên chưa hiểu hết được cuộc sống của người dân trong cả thôn. Nhằm những lúc rỗi rãi, trưởng thôn Phong tranh thủ đi đến thăm từng hộ gia đình trong thôn Hạ. Thật là buồn hơn vui, cuộc sống của người dân trong thôn còn nghèo lắm, một số hộ khá giả là do có người đi làm ăn ở xa, họ mang tiền về nhưng cũng tha về làng cả nạn nghiện hút, cờ bạc, mại dâm; và đi đến đâu, anh cũng nghe người dân than phiền về các khoản đóng góp, họ hỏi anh họp thôn rồi thì bao giờ xoá bỏ được?

Đợi mãi không thấy xã đả động gì đến bản kiến nghị, trưởng thôn Phong ra gặp chủ tịch xã, chủ tịch Hải bảo không giải quyết vì các khoản thu là nghị quyết của xã. Trưởng thôn Phong lại làm một bản kiến nghị lên uỷ ban huyện, định gặp trực tiếp chủ tịch huyện nhưng trực ban huyện bảo không có gấy giới thiệu của uỷ ban xã, không được vào gặp. Anh về uỷ ban xã xin giấy giới thiệu, xã không cho vì lý do cấp thôn chỉ được làm việc với cấp xã. Chả nhẽ đã hứa với dân của thôn, lại phải bỏ cuộc? Trưởng thôn Phong trằn trọc mất mấy đêm mới nghĩ ra được cách, lừa lúc anh trực ban đi ghi đề ở cái quán nước bên kia đường, trưởng thôn Phong lẻn vào cổng đến thẳng phòng chủ tịch huyện. Chủ tịch huyện đi vắng, anh gõ cửa phòng phó chủ tịch phụ trách nông nghiệp. Nghe trưởng thôn Phong giới thiệu, phó chủ tịch huyện bảo anh to gan thật, đến bí thư, chủ tịch xã muốn gặp lãnh đạo huyện còn phải đăng ký cả tuần may ra mới được gặp mà anh lại dám xộc thẳng vào gặp trực tiếp? Thôi đã lỡ vào, có việc gì cứ trình bày? Nghe phó chủ tịch huyện nói thế, trưởng thôn Phong mừng rỡ lấy ra bản kiến nghị trao cho phó chủ tịch huyện, nói qua nội dung cho phó chủ tịch nghe, ông bảo cứ về đi rồi huyện sẽ nghiên cứu, có ý kiến trả lời sau. Một tuần sau, huyện có công văn gửi về uỷ ban xã, xã làm công văn báo cáo rằng các thôn đều chấp hành nghiêm chỉnh chủ trương của xã của huyện, chỉ có thôn Hạ dám chống đối là do trưởng thôn cậy là bộ đội mới xuất ngũ về xúi giục dân.

Mặc dù không thấy huyện đả động gì đến bản kiến nghị của thôn Hạ nữa nhưng chủ tịch Hải vẫn mất ăn mất ngủ, sợ các thôn khác cũng noi gương theo thôn Hạ thì ầm ĩ cả xã, ai người ta còn bầu mình làm chủ tịch nữa? Hai khoá trước, chủ tịch Hải trúng cử là do kéo bè kéo cánh, chạy chọt cả, khoá này không lừa được lòng tin của dân thì có mà về nhà nuôi lợn cho vợ? Thấy chồng cứ về đến nhà là thuỗn mặt ra nghĩ ngợi, vợ chủ tịch Hải hỏi duyên cớ làm sao? Chủ tịch Hải bảo, không khéo khóa tới bị cái thằng trưởng thôn Hạ nó cho về vườn mất thôi. Cô vợ bảo, cứ cách chức trưởng thôn là xong. Chủ tịch Hải bảo trưởng thôn do dân bầu, mà nó lại đang được lòng dân, cách làm sao được? Bỗng cô vợ vỗ đùi đánh đét:

- Sao anh không cử nó đi học dài hạn, bảo đào tạo làm cán bộ nguồn của xã, học xong cho ngồi chơi xơi nước?

- Hay!

Chủ tịch Hải sung sướng như vừa được trúng cử thêm một nhiệm kỳ nữa. Ngay hôm sau, chủ tịch Hải cử phó chủ tịch xã lên huyện xem có lớp đào tạo gì không thì được biết tháng năm tới có lớp trung cấp chính trị dành cho cán bộ cấp xã học tại thành phố. Thế là xã làm danh sách ba người cử đi học, trong đó có trưởng thôn Phong. Trưởng thôn Phong nghĩ, mình dám nói thẳng nói thật, biết bênh vực quyền lợi của người dân nên được tín nhiệm đưa đi đào tạo cán bộ nguồn của xã do đó không thể thoái thác. Hơn nữa chính chủ tịch Hải đã gặp anh nói rằng bản kiến nghị của anh đang được huyện xem xét, áp dụng trong toàn huyện nhưng phải có thời gian, có người làm, không khéo anh học xong sẽ là những người thực thi sáng kiến của mình!

Đầu tháng năm, trưởng thôn Phong bàn giao chức cho người khác, lên đường đi học; được ba tháng đầu, xã trợ cấp cho mỗi tháng ba trăm ngàn như lời hứa còn từ tháng thứ tư trở đi thì bị cắt vì ngân sách xã nghèo mà dân thì không chịu đóng góp! Thế là trưởng thôn Phong phải bảo bố mẹ bán thóc, bán lợn, gà và cả vay lãi để có tiền ăn và đóng học phí. Tuổi trẻ với sự khao khát được học, được làm việc đã giúp cho trưởng thôn Phong học hành chăm chỉ, vượt qua được bao khó khăn về vật chất, cuối khoá, anh tốt nghiệp loại xuất sắc và đỗ thủ khoa.

Chủ tịch Hải được bầu lại, trúng thêm một nhiệm kỳ nữa do có thành tích gây chấn động các làng quê, được nhiều đài báo ca ngợi, đó là lần đầu tiên ở một làng quê nghèo đã tiến hành trả lương hưu cho người nông dân; nữ bảy mươi tuổi, nam bảy lăm tuổi trở lên được hưởng một trăm hai mươi ngàn đồng một tháng!

Trưởng thôn Phong nghi hoặc về vấn đề lương hưu nông dân lắm, cái lần ông Chén nhờ xác nhận bản thành tích hộ chăn nuôi giỏi thôi thúc anh đi tìm hiểu sự thật, mới hay, chủ tịch Hải đã lừa dân bằng chiêu thức chia lô bán đất mặt đường liên tỉnh chạy qua xã được hơn ba tỷ đồng, chia chác nhau hai tỷ, còn nộp ngân sách xã và lấy tiền trả lương hưu cho nông dân!

Trưởng thôn Phong gõ cửa phòng chủ tịch Hải, báo cáo về kết quả học tập và đề nghị xã bố trí công việc. Cầm tấm bằng tốt nghiệp trung cấp loại xuất sắc của trưởng thôn Phong, chủ tịch Hải khen ngợi tinh thần học tập của anh, bảo chức trưởng thôn Hạ đã có người rồi, để từ từ xã sắp xếp lên làm việc ở uỷ ban xã. Một tháng, hai tháng rồi nửa năm, vẫn chỉ nhận được lời hứa của chủ tịch xã, tiền vay nợ đi học bị đòi cấp thúc, trưởng thôn Phong đành theo bốn người làng lên nhập vào đội quân cửu vạn ở Hà Nội.

Sống ở nơi đầu đường, xó chợ, trưởng thôn Phong mới thấm thía được hết nỗi khổ nhục của những người nông dân bỏ quê lên thành phố kiếm miếng ăn. Ban ngày, trưởng thôn Phong và mọi người ngồi chầu chực việc ở cầu Mai Động; bụi của đường phố, khói của xe ô tô xe máy cộng với mùi hôi thối của nước sông Kim Ngưu hắt lên và mùi khai của nước đái làm anh và mọi người ngột ngạt nhưng đành phải chung sống với ô nhiễm. Bất cứ ai gọi việc gì là tranh nhau nhảy lên ngồi sau xe chủ thuê việc, toán này tranh giành với toán kia, có khi đánh chửi nhau ầm ĩ; nếu không có việc thì lại chơi bài, gà gật ngủ. Còn ăn thì cơm bụi, năm ngàn một suất, uống nước giếng khoan đun sôi để nguội. Ban đêm, nhóm của trưởng thôn Phong kéo nhau về nhà trọ rộng mười hai mét vuông, ngả mình trên tấm chiếu rách, đánh một giấc qua đêm; thế còn sang chán chứ nhiều cửu vạn còn ngủ vật vờ ở ngoài vỉa hè. Trời nắng, nóng, hoặc rét cắt da cắt thịt nhưng trưởng thôn Phong và mọi người vẫn thấy vui vì còn có người đến thuê việc, có tiền, có cơm ăn; còn hôm nào trời mưa, không việc thì cái bụng cũng nhịn luôn. Nhiều lúc bị chủ nhà mắng chửi như chửi chó, đành cắn răng mà chịu khi nghĩ đến mấy triệu tiền nợ ở nhà hoặc tiền đóng học cho con.

Khi không có việc, trưởng thôn Phong hay lân la đến những toán cửu vạn khác làm quen nên biết được rất nhiều chuyện. Ông Thiên ở Hà Tây bị lấy hết ruộng để làm sân gôn; anh Tính ở Nam Định bị lấy ruộng để làm nhà máy; Anh Bào ở Thái Bình bị nạn lô đề cướp mất cái nhà và năm sào ruộng; Ông Huyên ở Thanh Hoá bị dự án nuôi tôm của huyện biến thành con nợ ngân hàng. Tối hôm qua, toán cửu vạn ba người ở Thanh Hoá bị cave lừa sạch số tiền công dành dụm trong mấy tháng lao động cực nhọc; chả là ba người này rủ nhau vào quán hát Karaoke, thấy các em xinh đẹp ăn mặc hở hang, lại xa vợ lâu ngày nên ba người hát xong thì làm tình luôn, đến khi tính tiền thì choáng váng, tổng cộng hết bốn triệu rưỡi, ba người không chịu trả thì bị nhân viên bảo kê dí dao vào cổ, dọa cắt mất của quí. Một người phải về nhà trọ lấy tiền đến trả đủ thì hai người kia mới được nhân viên bảo kê trả tự do.

Sáng nay trời mưa, toán làm thuê của trưởng thôn Phong đành nằm ở nhà trọ ngủ, mãi đến gần mười giờ trời tạnh mới kéo nhau ra cầu Mai Động, vừa ngồi đón việc được một lúc thì anh Hào ngất xỉu. Mọi người tưởng anh bị đói, mua cho anh cái bánh mì nhưng anh ăn vào lại nôn ra, trưởng thôn Phong thuê xe ôm đưa anh Hào vào bệnh viện Bạch Mai. Anh Hào không có thẻ bảo hiểm y tế, bốn người làng đành vét tất cả số tiền có được để anh được khám, xét nghiệm, chụp chiếu, kết quả anh bị suy tim độ ba, cần phải mổ khẩn cấp, chi phí hơn một trăm triệu đồng. Anh Hào thều thào bảo, ngôi nhà ngói và mảnh vườn của anh ở quê bán may ra được ba mươi triệu, mà bán đi thì vợ con ở đâu, thôi để anh về quê chờ chết. Hai mươi ngày sau, anh Hào chết thật, trưởng thôn Phong và mọi người nhận được tin này do một người làng đang làm phu hồ ở Hà Nội đạp xe đến thông báo, lúc ấy trưởng thôn Phong đang chăm chú xem một mảnh báo rách của chị đồng nát đánh rơi ven đường. Bài báo nói về vấn đề tam nông- nông dân, nông thôn, nông nghiệp. Cái chết của anh Hào và bài báo đã tác động to lớn đến tâm hồn của trưởng thôn Phong, anh lặng lẽ bỏ mọi người, đi mua một tập vở, một cây bút bi rồi về nhà trọ viết một lá thư cho ông chủ tịch tỉnh. Trưởng thôn Phong viết rằng, người nông dân hiện đang khổ quá, ruộng đã ít, cấy lúa cũng chẳng đủ ăn vì chi phí cao nên rất nhiều người phải bỏ quê đi ra thành phố làm ăn. Có những vùng quê, đất nông nghiệp màu mỡ thì bị thu hồi làm nhà máy, sân gôn, người nông dân được đền bù ít tiền dùng xây nhà, mua xe máy hết nên rơi vào cảnh nhà to mà bụng đói. Không những thế, ở nhiều nơi, cán bộ thôn, xã do không có trình độ, năng lực, kéo bè kéo cánh, tham ô nên càng làm cho nông dân, nông thôn thêm nặng gánh. Trưởng thôn Phong lấy ngay sự việc ở thôn, làng, xã của mình ra chứng minh và nhấn mạnh, vấn đề tam nông vô cùng quan trọng với người nông dân, muốn làm được điều này thì trước hết phải có những cán bộ có năng lực và biết quan tâm đến nông dân. Nguồn cán bộ này có thể luân chuyển từ tỉnh, huyện về và tuyển dụng trí thức trẻ mới tốt nghiệp đại học ra trường với những ưu đãi cụ thể.

Viết xong thư, trưởng thôn Phong ký tên, đã định hạ bút nhưng nghĩ ngợi một lúc rồi ghi : Tái bút, hiện nay tôi đang làm cửu vạn ở cầu Mai Động, Hà Nội, có gì ông liên hệ với tôi theo địa chỉ thôn Hạ, làng Gò…

Đêm ấy trưởng thôn Phong nằm mơ thấy ông chủ tịch về làng Gò; ông không đi xe hơi mà cưỡi trâu, giả dạng thường dân…

BÃI NƯỚC BỌT

VŨ ĐẢM

Tiếng khóc thét lên, giãy đành đạch giữa đêm khuya của đứa bé làm náo loạn cả đại gia đình cụ Phấn. Cụ Phấn ông tuy đã gần 80 tuổi, tay phải chống gậy rồi nhưng lại là người đầu tiên đến bên giường đứa bé để cùng bố mẹ nó dỗ dành cháu. Một lúc sau, các bác, các anh chị của đứa bé ở quanh đó cũng lục tục đến. Người ta tìm đủ mọi cách để làm cho đứa bé nín khóc, từ những lời nịnh nọt đến những hành động cụ thể như ra vườn vặt cam, mò lên chuồng gà bắt con gà con kêu chiếp chiếp, phóng xe máy ra phố huyện mua kẹo, bánh đưa cho nó nhưng đứa bé vẫn hất hết đi, đuỗn người khóc to hơn.

Tiếng khóc của nó  chẳng những phá tan giấc ngủ của người lớn mà còn khua cả những đứa trẻ trạc tuổi nó thức dậy. Chúng cũng ọ oẹ khóc, nhưng chỉ được vài tiếng, sau mấy cái vát vào đít hay sau tiếng quát của bố mẹ: "Mày có câm mồm đi không thì bảo" thì hết thảy đều câm bặt và chỉ một lúc sau chúng lại lăn ra ngủ, lãng quên cả tiếng khóc đã làm chúng thức giấc.Trong gian nhà của cụ Phấn giành riêng cho vợ chồng Thực, đứa bé vẫn khóc, mọi người tiếp tục dỗ dành nó. Đứa bé càng khóc to, người ta càng tỏ ra xót xa, thương cảm, không hẳn cho nó mà chỉ cốt để lấy lòng cụ Phấn và bố mẹ nó. Có cảm tưởng như ai đó làm cho đứa bé nín khóc, cụ Phấn và bố mẹ nó sẵn sàng móc túi ra bạc triệu để trả công. Một trăm ngàn đã là quá to, đủ cả một gia đình sống một tháng đằng này lại những một triệu! Số tiền quá lớn, nếu rơi vào tay chị cả, chị sẽ đong ngay ngót tấn thóc; vào tay chị Tư, chị sẽ sửa sang lại cái chuồng lợn bị đổ và thả vào đó một con lợn nái để nó sinh sôi nảy nở!

Ấy là nghĩ vậy thôi chứ chắc gì vợ chồng Thực dám bỏ ra dăm chục ngàn! Tiếng là giàu có nhưng vợ chồng Thực kẹt lắm. Tiền nuôi bố gửi về cho chị Mùi hàng tháng, vợ chồng Thực tính chi ly đến từng mớ rau muống. Dăm thì mười họa hai vợ chồng mới về quê nhưng chả khi nào cho các chị, các cháu được lấy bộ quần áo ra hồn. Toàn quần áo hàng thùng bán đầy rẫy ở các vỉa hè Hà Nội, vợ chồng Thực mua về làm quà! Biết là hàng Si- đa đấy nhưng mới khi nghe vợ Thực ngọt ngào: "Nhà em mới đi công tác ở nước ngoài về, có bộ  quần áo tặng chị, tặng cháu" là ai nấy đều hăm hở để làm vui lòng vợ chồng Thực.

Chả phải  đến tận bây giờ, những người chị của Thực mới biết chẳng bao giờ nhờ vả được gì  vào cậu út mà ngay từ khi Thực còn là đứa trẻ hay đái dầm trên lưng các chị, họ đã hiểu rằng Thực là một con người ích kỷ và hiếu thắng. Bất cứ cái gì Thực muốn, các chị đều phải làm theo, nếu không Thực chỉ cần lăn ra đất ăn vạ là cụ Phấn lại gầm lên: "Con chết trôi, chết dịch kia, mày trông em thế hả!". Thực là đứa con nối dõi tông đường, Thực phải được hưởng tất cả những quyền lợi đặc biệt, đó là lời dậy bảo quan trọng mà cụ Phấn thường xuyên nhắc nhở vợ và sáu người con gái. Trong cuộc sống hằng ngày, lời chỉ giáo này của cụ Phấn được thực hiện một cách triệt để. Sáng sáng khi các chị chỉ được hưởng định mức mỗi người ba củ khoai lang để lấy sức đi nhổ mạ, đi cấy, gánh phân, vạc bờ, cuốc góc thì Thực lót dạ hai bát cơm nóng với cá bống kho rồi đi đánh đáo, chơi diều. Bữa trưa và tối, các chị ăn cơm với rau muống luộc, mắm tép kho mặn thì Thực ăn thịt nạc rim với nước mắm. Như một thói quen cố hữu, sự cung phụng và nhường nhịn của những người chị cho đến tận bây giờ, khi mà Thực đã giàu có, đã công thành danh toại vẫn không mất đi. Mỗi lần về quê, mời cơm vợ chồng Thực, con gà giết ra, bao giờ họ cũng giành cho Thực cặp đùi đã lột da - món ăn mà Thực ưa thích nhất.

Từ lúc lọt lòng mẹ, Thực là con người của sự an nhàn, sung sướng. Khi còn sống với bố mẹ, Thực được nâng như nâng trứng, hứng như hứng hoa. Khi bước ra xã hội, Thực có biệt tài nịnh hót hơn người nên con đường công danh cứ lên như cánh diều no gió ngày nào Thực hay thả ở cánh đồng xóm bãi. Nhưng mà đời cũng công bằng lắm, chẳng cho ai hết hạnh phúc cũng chẳng làm ai toàn bất hạnh bao giờ, Thực sung sướng về bản thân nhưng đường con cái lại gian nan lận đận. Lấy vợ từ năm hai lăm tuổi, mãi đến năm bốn bảy Thực mới được mụn con trai. Vợ chồng Thực vui mừng khôn xiết, mở tiệc ăn mừng suốt hai ngày liền. Đứa bé hay ăn, chóng lớn, được nuôi dưỡng theo chế độ đặc biệt còn hơn cả ngày xưa mà bố nó được hưởng. Hạnh phúc của vợ chồng Thực kéo dài được gần hai năm, đúng lúc đứa bé biết nói, biết đi thì đâm ra khó tính khó nết. Đêm đêm đứa bé hay thức giấc khóc giẫy lên đành đạch như bị ma làm, không ai có thể thí được, chỉ đến khi kiệt sức nó mới tự nín và chìm vào giấc ngủ. Đứa bé đang hồng hào béo tốt, sau mười ngày, tiều tụy đến thảm hại. Vợ chồng Thực bàn nhau bế con về quê hy vọng không khí trong lành của làng  quê sẽ làm đứa bé khỏi bệnh quấy khóc.

Đêm nay, đêm đầu tiên của đứa bé ở quê, đi đường xa, nó mệt và ngủ ngay từ chập tối, mọi người đều hồi hộp chờ  đợi, ai cũng cầu mong cho nó ngủ một mạch đến sáng nhưng than ôi, đúng một giờ mười lăm, nó đạp hai chân mấy cái rồi khóc thét lên, gần một tiếng dỗ dành rồi, ai nấy đều lắc đầu bất lực. Bỗng huỵch! Cái thân hình cao to của thằng Muôn con chị cả Mùi đổ đánh huỵch xuống chiếc giường trải đệm ga trắng muốt của vợ chồng Thực mới mua hồi chiều. Thằng Muôn, mắt trợn ngược, chân tay co giật liên tục, mép sùi đầy bọt. Chị Mùi chạy lại chỗ thằng Muôn, lấy khăn lau nước dãi cho con, miệng sợ hãi:

- Con ơi! Sao lại ngã ra giường cậu thế này hả con ơi!

Vợ Thực trông thấy đám nước dãi của thằng Muôn chảy lều phều ra ga, mặt mày cau có, liếc xéo chồng một cái rất nhanh. Thực sa sầm mặt, miệng tru lên: 

- Hừ động kinh. Lại động kinh! Sao chị không kiếm cái xích mà xích chân nó lại!

Chị Mùi nghe Thực nói, lòng quặn lên đau nhói, chị nói với Thực như van xin:

- Cậu ơi! Cháu nó lỡ rồi, sáng mai tôi sẽ giặt đền cậu. Số nó khổ nên mới bị bệnh chứ ai muốn vậy cậu ơi!

- Không xích nó  lại - Tiếng cụ Phấn hổn hển - Thì cũng có  ngày nó lộn cổ xuống ao chết mất xác thôi!

Sau lời cụ Phấn, nhiều tiếng ồn ào nổi lên ủng hộ sáng kiến của Thực và cụ Phấn. Đâu chỉ có đại gia đình cụ Phấn mà cả làng, cả xã này ai chả biết đến bệnh động kinh của thằng Muôn. Cứ hai, ba ngày là thằng Muôn lại lăn ra ằng ặc. Vào mùa hè, trời nóng nực có khi ngày mấy bận.Vì bố mẹ phải xuôi ngược kiếm cái ăn,  các em phải đi học, đi làm đỡ đần bố mẹ, không có ai trông giữ, mấy lần thằng Muôn lên cơn ngã xuống ao nhưng số nó chưa chết, mỗi lần ngã xuống ao đều có người nhìn thấy vớt lên. Không ai phát ngôn thành lời, song trong ý nghĩ mọi người, thằng Muôn coi như đã chết, vì thế có xích chân hay nhốt thằng Muôn lại cũng chẳng sao!

Cơn động kinh của thằng Muôn đang vào lúc cao trào, cái giường của vợ chồng Thực rung lên, làm rớt cả chăn và  gối. Vợ Thực không nhịn được nữa, bế  đứa bé đang khóc ngằn ngặt đi lại định nhặt chăn và gối ném lên mặt bàn thì tự dưng đứa bé nín khóc, tròn hai mắt nhìn thằng Muôn. Trong lúc thằng Muôn đang đau đớn vì những cơn co giật thì đứa bé thấy thích thú trước cái trò mà nó chưa bao giờ được chứng kiến! Nó chỉ tay về phía thằng Muôn và nhoẻn miệng cười. Mọi người hân hoan cười theo. Cụ Phấn bảo:

- Thằng động kinh hôm nay được việc, giỏi, giỏi lắm!

Đó là lời khen duy nhất mà cụ Phấn dành cho thằng Muôn - đứa cháu ngoại mà cụ chối bỏ từ khi nó còn nằm trong bụng mẹ. Năm chị Mùi mười chín tuổi, chị yêu một người con trai xóm trại, cụ Phấn tuyên bố từ mặt nếu chị không chấm dứt quan hệ với thằng con hoang không cha đó. Vì quá yêu, chị Mùi liều có thai trước để buộc cụ Phấn vào thế đã rồi. Cụ Phấn uất ức lắm nhưng cơ sự đã thế, không cho cưới, dân làng biết  được sẽ làm ô nhục danh giá gia đình. Khi thằng Muôn ra đời, cụ coi nó là nguyên nhân gây nên tội lỗi, cụ hắt hủi xa lánh nó. Chị Mùi biết rõ điều này, khi thằng Muôn đã lớn, chị thường khuyên con ít sang nhà ông ngoại, nhưng thằng Muôn động kinh, người dở dở ương ương nào có biết được nguyên nhân, phùng má, trợn mắt quát lại mẹ: "Mẹ không yêu ông ngoại thì để con yêu, đừng có mà dở hơi!".  Giờ đây người mẹ "dở hơi" của nó khi nghe cụ Phấn khen nó được việc thì lòng rộn rạo một niềm hân  hoan.

Đêm hôm sau công trạng của thằng Muôn lại được ghi nhận, khi vào tầm một giờ kém năm, đứa bé lại giật mình khóc thét lên. Mọi người có mặt tại nhà cụ Phấn đêm qua lục kéo đến trừ có thằng Muôn vẫn nằm kéo gỗ ò ò  ở bên nhà. Dỗ dành không được, anh con rể thứ ba rẽ mọi người ra bảo:

- Để tôi thử  làm thằng Muôn xem nào!

Nói xong, anh từ  từ nằm ra nhà, chân tay cào cào vào không khí như  thể mình đang lên cơn động kinh. Trong kịch trường, các diễn viên có thể hoá thân vào các nhân vật một cách xuất sắc, khiến người xem tưởng như  thật nhưng họ phải có tài, trải qua khổ  luyện. Trong cuộc đời, kẻ này có thể lập vai kẻ kia y như bản sao nhưng phải biết giỏi mưu mẹo. Đằng này anh con rể của cụ Phấn chỉ có biết cày, cuốc, cơm no bò cưỡi nên nhập vai thằng Muôn quá gượng gạo, đến nỗi các "đạo diễn" vây xung quanh phải chỉ đạo toáng lên:

- Chân tay giật mạnh vào!

- Ối giời ơi! Động kinh gì mà mắt lại nhắm tịt thế kia? Trợn lên, trợn lên!

- Miệng cũng phải giật, phải méo mó vào!

Vợ Thực bế  đứa bé lại, nó nhìn người dưới đất một lúc, nín được một tý rồi lại lăn ra khóc.

Bỗng cụ Phấn nói như ra lệnh:

- Thằng động kinh! Đưa thằng động kinh đến xem thế nào!

Chị Mùi tất tả chạy về nhà lôi thằng Muôn đến. Mắt nhắm, mắt mở, thằng Muôn cau có nhìn mọi người. Không thể bắt thằng Muôn lên cơn động kinh thật  được, ai nấy đều giục giã thằng Muôn làm động kinh giả để cho cho đứa bể nín khóc như đêm qua. Thằng Muôn ngượng ngùng lắc đầu, nó chưa làm thế bao giờ. Mọi người lại giục, nịnh hót thằng Muôn, mẹ nó van lơn, chắp hai tay lậy nó như tế sống. Vì thương đứa trẻ và thương mẹ, thằng Muôn chấp nhập vai động kinh. Không làm theo kiểu từ từ nằm xuống như anh con rể thứ ba của cụ Phấn, thằng Muôn đang đứng, ngã đánh huỵch xuống nền nhà, người giật lên đùng đùng. Chẳng biết có phải do cái bệnh động kinh đã ngấm vào máu thịt hay vì thương đứa bé, thương mẹ mà thằng Muôn vào cuộc thành công đến nỗi đưa bé cười lên như nắc nẻ. Mọi người hân hoan, vỗ tay reo lên: "Giỏi lắm! giỏi lắm!". Thực cầm tay cụ Phấn kéo lại cửa sổ nói nhỏ:

- Con sẽ đưa thằng Muôn lên thành phố!

- Để chữa bệnh khóc cho thằng bé hả?  - Cụ Phấn ranh mãnh nói - Được, tôi sẽ bảo con mẹ nó nhưng anh nhớ nói là đưa thằng Muôn lên đấy chữa bệnh động kinh chứ đừng nói…

- Con có ngu đâu - Thực cắt ngang lời - mà nói ra sự thật.

Sáng hôm sau đích thân cụ Phấn dẫn Thực sang nhà con gái bảo gửi thằng Muôn lên thành phố cho vợ chồng Thực chữa bệnh, chị Mùi tái mặt, chị biết chẳng bao giờ vợ chồng Thực hảo tâm đến mức đưa cháu lên ở với mình để chữa bệnh cho cháu. Thằng Muôn lên đó, chỉ là thứ thuốc sống  chữa cái bệnh khóc đêm của đứa bé, con vợ chồng Thực mà thôi. Thằng Muôn tuy bị động kinh, dở người nhưng lại là đứa con mà chị thương yêu nhất trong bốn người con của chị. Mỗi lần đi chợ về, chị đều mua dấm dúi cho nó khi tấm bánh nếp, lúc thì quả chuối tây to như cái bắp tay. Những lúc thằng Muôn lên cơn động kinh, chị ngồi cạnh lau nước dãi cho con, đôi mắt nhòe lệ. Phải xa con để nó lên sống lạc lõng một mình trong ngôi nhà sang trọng của cậu nó ư? Không thể thế được, thiếu tình mẫu tử, thằng Muôn có thể không bị chết vì bệnh động kinh mà sẽ chết bằng sự lợi dụng, ngược đãi của vợ chồng Thực. Chị từ chối thiện ý của vợ chồng Thực. Cụ Phấn gầm lên, cụ bảo nếu không cho đi để chữa tiệt cái bệnh động kinh, lỡ ngộ nó chết ở đầu đường, xó chợ, người ta lại chả bôi tro trát trấu vào mặt cụ. Nếu không cho đi cụ cứ lao đầu xuống giếng chết quách đi cho thiên hạ khỏi ỉa vào mặt cụ! Vì sợ cụ Phấn tự vẫn, chị Mùi đành nén nỗi đau để vợ chồng Thực đưa thằng Muôn đi.

Lên thành phố, thằng Muôn ở chung căn phòng với bà Thoại, người đàn bà mà vợ chồng Thực thuê để  cơm nước, giặt giũ quần áo. Để phòng thằng Muôn động kinh nhổ nước bọt vào đồ dùng, trang thiết bị trong gia đình, vợ chồng Thực bảo bà Thoại xích chân thằng Muôn vào chân giường bằng đoạn dây xích mà trước đây vợ chồng Thực vẫn xích chó Nhật. Bị xích chân, vướng víu và khó chịu, thằng Muôn không hề phản ứng, trong cái đầu ngơ ngẩn của nó, vẫn còn một phần giúp nó nghĩ đến mẹ với tình thương mãnh liệt. Mẹ bảo nó lên ở nhà cậu, cậu mợ sai bảo gì phải vâng lời, không được cãi lại. Nó đã gật đầu, như một sự thỏa ước. Và trong ý nghĩ của thằng Muôn, việc để cậu xích chân có nghĩa là nó đã thực hiện thỏa ước với mẹ. Cũng như đêm đêm thằng Muôn phải nhập vai động kinh một cách xuất sắc, có nghĩa là nó đã thực hiện thỏa ước với mẹ. Bệnh khóc đêm của đứa bé giảm đi rõ rệt, sau hai tuần từ ngày có thằng Muôn, nửa đêm thức giấc, không cần phải thấy thằng Muôn giẫy lên đành đạch mà chỉ cần nhìn thấy thằng Muôn ngồi bên cạnh, tay chân khua khoáng mấy cái là đứa bé nhoẻn cười. Và một lúc nó lại chìm vào giấc ngủ. Vợ  chồng Thực vui, mừng khôn xiết. Công lao của thằng Muôn là hết sức to lớn và rất có thể nó sẽ làm xoay chuyển tình cảm của Thực, buộc vợ chồng Thực phải đưa thằng Muôn đi chữa bệnh động kinh một cách nghiêm túc chứ không phải nhờ một tay bác sĩ tư quen biết, lập bệnh án kèm theo một loại thuốc an thần rẻ tiền, để khi có trả thằng Muôn về quê, thì cũng có cái cớ để nói là đã tận tình chữa bệnh cho cháu! Thế nhưng thằng Muôn đã vô tình gây lên một việc làm kinh thiên động địa đến gia đình Thực.

Đó là một chiều chủ nhật đẹp trời, vợ chồng Thực mời ông Hoành đến nhà ăn cơm. Ông Hoành là thủ trưởng của Thực, sắp tới ông được điều lên Bộ. Hai người mà ông dự kiến thế chỗ ông là Thực và ông trưởng phòng Tổ chức. Để lấy lòng ông Hoành, cả Thực và ông trưởng phòng Tổ chức đều ra sức mua chuộc ông. Ông Hoành là người đam mê tửu sắc; sắc thì Thực vừa tuyển cho ông một cô thư ký đẹp và quyến rũ mê hồn, còn tửu thì cách một tuần, Thực lại mời ông về nhà để thưởng thức những loại rượu ngoại mà trong một lần vui miệng Thực đã ví chai rượu tương đương với một năm tiền ăn của người nông dân quê Thực. Rượu làm cho ông Hoành hưng phấn, ông bảo nếu số ông làm được quan to, lên đến chức Thủ tướng thì ông sẽ làm mọi việc theo kiểu này, kiểu kia. Thực gật đầu lia lịa. Ông Hoành gắp miếng dồi chó, quên cả chấm mắm tôm, bỏ tọt vào mồn nhồm nhoàm nhai, ông chưa kịp nuốt thì lãnh trọn một bãi nước bọt to tướng vào giữa mặt. Nhận ra thằng Muôn cười cười nhìn mình, ông Hoành hầm hầm mặt, nghiến răng:

- Anh là thằng đểu, anh định coi tôi là chó phải không?

Mặc cho Thực thanh minh là thằng Muôn bị động kinh không biết gì  và ra sức van lạy ông Hoành, nhưng ông và cô  thư ký vẫn bỏ ra về. Thằng Muôn bị  động kinh, lại đúng lúc bà Thoại lơ là  quên xích chân nó nên cơ sự mới xẩy ra. Theo thói quen, mỗi lần động kinh xong, nằm ngủ khoảng hai mươi phút, thằng Muôn tỉnh dậy và đi lang thang không có định hướng, vừa đi nó vừa nhổ nước bọt lung tung. Những lúc đó, thằng Muôn không hề nhận thức được gì nên ông Hoành mới bị một bãi nước bọt. Thằng Muôn bị động kinh thật nhưng ông Hoành lại cho rằng Thực chơi xỏ mình, định rửa nhục mình sau cái lần ông dở tỉnh dở say lùa tay vào ngực vợ Thực ở chỗ cầu thang. Vụ ấy vợ Thực không nói cho chồng biết, sợ Thực làm ầm ĩ lên, ảnh hưởng đến đường công danh. Thậm chí nhiều lúc nhớ lại, vợ Thực còn cảm thấy râm ran cả người. Khiếp cái bàn tay mát lạnh như bàn tay con gái ấy, nhoằng một cái đã làm người ta nghẹt thở!

Bãi nước bọt của thằng Muôn làm Thực mất ăn mất ngủ. Thực tìm mọi cách để thanh minh, sau khi đã tốn với bà vợ ông Hoành và cô thư ký của ông khá nhiều tiền, Thực mới được ông Hoành tiếp chuyện nửa tiếng tại nhà riêng. Thực dẫn cả thằng Muôn đi theo. Thực trình bày với ông Hoành về bệnh động kinh của thằng Muôn, đưa cả cho ông xem bệnh án. Ông Hoành nghe một cách thờ ơ. Thực nhìn về phía thằng Muôn nháy mắt một cái, nhận được ám hiệu, lập tức thằng Muôn đang ngồi trên ghế lộn nhào xuống đất giãy lên đành đạch. Thực hoảng hốt:

- Chết, chết, nó  lại bị nữa rồi!

Nhìn thằng Muôn chân tay co giật, miệng méo xệch, mắt trợn ngược, ông Hoành khiếp vía. Không khéo nó chết thật ở đây thì rầy ra to! Ông đi lại cúi xuống xem, cất giọng vừa bực vừa lo:

- Bị động kinh thật à?

Thằng Muôn tưởng ông Hoành hỏi mình, sự nhớ tới lời Thực dặn: "Đến đấy phải lễ phép, gọi dạ, bảo vâng, họ hỏi bị động kinh thì bảo cháu động kinh từ nhỏ", nó ngẩng đầu dậy cung kính:

- Dạ, cháu bị  động kinh từ nhỏ ạ! Ông Hoành trợn tròn mắt. Hiểu được sự thật, ông cười phá  lên:

- Tôi vẫn  biết, muốn bon chen được với đời, người ta phải đóng kịch với nhau, nhưng chưa bao giờ tôi lại gặp màn kịch kiểu này đấy!

Thực cứng lưỡi, không thể mở mồm nói được câu gì, cầm tay thằng Muôn lôi đi. Từ đấy, đặc biệt là  từ ngày ông trưởng phòng Tổ chức lên thay ông Hoành và vô hiệu hoá Thực, bãi nước bọt trên mặt ông Hoành ngày đêm ám ảnh Thực, Thực có cảm tưởng như nó chui cả vào miệng mình. Thực lợm giọng nhổ đi, lâu thành thói quen. Bây giờ xem ra Thực còn nhổ thiện nghệ hơn cả thằng Muôn trong những lúc nó động kinh thật.

THƯỜNG DÂN

VŨ ĐẢM

- Giáo sư Khải về làng!

Cái tin giáo sư Khải rời thủ đô Hà Nội về hẳn làng sinh sống khi nghỉ hưu, nhanh chóng loang nhanh trong làng. Dân làng ngạc nhiên lắm, giáo sư nổi tiếng là thế, sống ở thủ đô văn minh sung túc là thế, sao lại mò về cái chốn quê nghèo này làm gì? Người làng, già trẻ, trai gái kéo đến nhà giáo sư thăm hỏi đông lắm. Cụ Mùi móm mém bảo:

- Giáo sư là người nổi tiếng, cả nước, thậm chí thế giới cũng biết tên tuổi. Chúng tôi hay thấy giáo sư trên tivi, được Chủ tịch nước, Thủ tướng bắt tay, lẽ nào nay lại về làm bạn với những người nông dân chân đất như chúng tôi?

Giáo sư Khải cười thân thiện:

- Cũng là công việc cả thôi cụ ạ! Bây giờ nghỉ hưu, tôi muốn về quê sống cho không khí trong lành, có nhiều thời gian để nghiên cứu, viết lách. Tôi vốn xuất thân từ nông dân, đi đánh giặc rồi đi học, trở thành nhà khoa học; về hưu, trở lại làm thường dân cũng là chuyện thường tình thôi. Vả lại lớp trẻ bây giờ nhiều người tài lắm, mình có về sớm đi một vài năm cũng là để tạo điều kiện cho họ phát triển.

Nghe giáo sư Khải bộc bạch, ông Cung gật gật đầu:

- Ai cũng nghĩ được như giáo sư thì nước mình chẳng mấy lúc mà giàu to. Chả bù cho cái tay giám đốc Sở Nông nghiệp ở làng Cam, lão năm nay 65 tuổi, bằng tuổi tôi, học cùng vỡ lòng với tôi vậy mà chạy vạy thế nào đến nay vẫn chưa nghỉ hưu. Mà nhà lão có thiếu thứ gì, chỉ ngộ cái nhà vệ sinh tấn tiến của lão cũng bằng cả cái dinh cơ nhà tôi!

- Về...về... về... thì thì... thì không còn xe... ưa xe ón, không còn kẻ đến phong bao phong bì nên không mu..ốn...muốn về...về về đấy mà!- Anh Hinh ngọng líu cả lưỡi, làm cho ai cũng phải bật cười. Khuôn mặt giáo sư đang vui vẻ bỗng chùng xuống, ông biết chả gì cứ ở quê mà càng ở thành phố, càng ở những cương vị béo bở, càng có nhiều người đến tuổi mà vẫn không chịu về hưu; người ta khai man tuổi, người ta chạy chọt, người ta vin cớ chưa có người thay thế hay đang dang dở công trình này khoa học này, đề tài nghiên cứu kia nên chưa về được! Giáo sư là một nhà khoa học nổi tiếng, là Viện trưởng của một Viện nghiên cứu lớn, khi đến tuổi, cấp trên đề nghị ông tiếp tục ở lại thêm một nhiệm kỳ 5 năm nữa nhưng giáo sư đã từ chối, ông muốn làm gương cho người đi sau.

Về làng, những tưởng ít còn dự những hội nghị, cuộc họp, ít phải giảng dạy, hướng dẫn luận án tiến sỹ nữa, giáo sư sẽ có nhiều thời gian đầu tư cho các công trình nghiên cứu dài hơi nhưng cuộc sống ở làng đã chi phối nhiều tới giáo sư mà buộc ông phải vào cuộc một cách tự nguyện.

Làng ông tuy đã có rất nhiều đổi mới, có hơn hai chục gia đình khá giả, nhà mái bằng, có ti vi, xe máy, không còn nhà đói ăn nữa nhưng cái nghèo thì vẫn còn đeo đẳng trong nhiều gia đình đông con hoặc không có sức lao động. Và chính cái nghèo đã dẫn đến cái thất học, giáo sư đã làm một cuộc khảo sát khắp làng, cả thảy có tới 19 đứa trẻ từ 8 đến 15 tuổi thất học. Ông quyết định giành số tiền gửi tiết kiệm và tiền thưởng 30 triệu mà ông mới nhận được từ một công trình nghiên cứu khoa học, làm một cái nhà ngang ngay trên mảnh đất mà cha ông để lại, mở lớp học dạy chữ cho những đứa trẻ làng thất học. Giáo sư đến từng nhà vận động các gia đình cho con đến học. Lúc đầu họ tưởng giáo sư nói đùa, vâng vâng, dạ dạ để lấy lòng ông; thậm chí có không ít người còn xì xào rằng ông dạy học kiếm tiền giống như các thầy cô vẫn bắt học sinh đến nhà để học thêm, nhưng khi biết giáo sư dạy miễn phí, lại còn bỏ tiền ra mua giấy bút, sách giáo khoa và cả tiền mua quần áo mới cho bốn em hay mặc quần áo vá thì dân làng rất cảm kích trước tấm lòng nhân ái của ông. Con cái họ được ông dạy dỗ, không chỉ cái chữ mà cả cái nết, họ vui và tự hào lắm nhưng cũng lo ảnh hưởng đến sức khoẻ và thời gian nghiên cứu của ông. Còn giáo sư thì lo bố mẹ bắt các em phải ra đồng, trông em, không có thời gian học nên ông chuyển lớp học ban ngày sang buổi tối. Các tối thứ hai, tư, sáu, ông dạy cho các em học theo chương trình cấp 1; còn các tối thứ ba, năm, bảy, ông dạy cho những em học theo chương trình cấp 2. Cũng vì dạy vào buổi tối từ bảy giờ đến chín giờ nên giáo sư chấp nhận bỏ đi cái thói quen xem chương trình thời sự của đài truyền hình Trung ương; mãi đến lúc mười giờ ông mới bật kênh VTV2 để xem lại.

Lớp học của giáo sư đang đi vào nề nếp thì anh con trai cả đang làm cán bộ trên tỉnh hay tin, đánh xe con về chì chiết ông:

- Nếu bố thiếu tiền, một ngày con sẽ cung cấp cho bố hai trăm ngàn để bố tiêu pha thoả mái, chả nhẽ bố không biết, đến Quốc hội cũng còn quan ngại về cái nạn dạy thêm, học thêm sao?

- Ơ hay- Giáo sư Khải ngạc nhiên- Đến anh mà cũng hiểu lầm tôi à? Tôi dạy miễn phí đấy chứ!

- Miễn phí, bố cũng không được dạy- Anh con trai bực bội- Bố không được hạ thấp mình.

- Cái gì? Sao lại hạ thấp?- Giáo sư Khải ngạc nhiên hơn.

Anh con trai chém chém tay vào không khí:

- Trước đây bố toàn dạy cho thạc sỹ, tiến sỹ, lại cũng đã từng giảng dạy ở một số trường đại học danh tiếng ở nước ngoài, bây giờ lại đổ đốn ra đi dạy cho cái bọn trẻ ranh ngu dốt ở quê, bố không tự hạ thấp mình thì là gì đấy? Từ mai bố dẹp cái lớp học đi cho con nhờ!

Giáo sư Khải thất vọng, quả thật, dạy cho đám trẻ làng, kiến thức thì rất thấp, những hai cộng với hai bằng bốn nhưng về phương pháp thì khó hơn gấp trăm lần dạy cho học viên cao học, nghiên cứu sinh tiến sỹ. Có đứa vừa nói khỏi mồm ba nhân hai bằng sáu thế mà ông hỏi lại thì ấp úng nói bằng bảy; ông phải rất kiên trì, lấy khen, lấy động viên là chính mới dần dần hé mở được tâm hồn của chúng.

Trầm ngâm đến cả chục phút, giáo sư mới lên tiếng, ông nói với anh con trai rằng anh làm cán bộ cấp tỉnh mà để dân còn nghèo, còn thất học là có tội với dân. Việc làm của ông chỉ là việc cỏn con giúp dân mà cũng không được thì thử hỏi có xứng đáng làm người không?

Anh con trai cả biết ông bố như là nói chuyện đấy nhưng mà mắng mình thì hầm hầm cắp cặp ra xe. Anh bảo lái xe ra uỷ ban xã, gặp chủ tịch xã bàn bạc một lúc rồi anh về tỉnh. Mấy hôm sau, một số cán bộ xã toả đến các gia đình có con đi học nói rằng, giáo sư là nhân tài quốc gia, là niềm tự hào của làng vì vậy phải đảm bảo sức khoẻ cho giáo sư, để giáo sư nghiên cứu những công trình khoa học lớn lao cho đất nước. Hôm sau có hai học sinh nghỉ học, tuần sau có bốn học sinh không đến lớp, dần dần chẳng còn một học sinh nào đến nhà giáo sư học nữa. Lúc đầu giáo sư nghĩ, đám trẻ bị bố mẹ bắt ở nhà đi ngủ sớm, lấy sức để sáng mai còn làm việc, ông đến một số gia đình vận động thì quả nhiên họ cũng nói rằng họ rất muốn cho con đi học nhưng gia đình quá khó khăn, con cái họ phải giúp bố mẹ làm thêm cả ban đêm, hoặc ngủ sớm lấy sức để sáng sớm mai còn theo mẹ ra đồng, theo bố đi xách vữa thuê; nhưng sau đó giáo sư hiểu rằng lớp học tan là do chính người con trai ông nhúng tay vào để ông không phải hạ thấp mình, thành thường dân, dạy cái lũ trẻ làng nhếch nhách ! Một nỗi buồn và cả chua chát dâng lên tràn ngập tâm trí ông, ông có ba người con, hai trai, một gái; cô con gái chết khi vừa tròn một tuổi, người con trai út đang là tiến sỹ công tác trên Hà Nội, người con cả mà ông định hướng đi theo con đường của ông đã từ chối để đi theo con đường quan chức. Anh đã từng tranh luận với ông rằng ông sống không thức thời, quyền lực và danh vọng phải đi đôi với giàu sang phú quí, nếu ông biết tính toán, những dự án hàng chục tỷ đã lọt vào túi ông hàng tỷ đồng. Khi ông vừa cất lời giảng giải cho anh về lẽ sống ở đời, nhân dân nuôi dưỡng mình thành người tài, mình phải đem cái tài đó ra để phụng dưỡng lại dân thì anh đã đứng phắt lên, xách cặp ra xe. Ngay cả khi ông quyết định về hưu sinh sống ở quê, người con cả của ông cũng phản đối quyết liệt, anh bảo rằng, thôi thì ông không cho con cái được tiền bạc thì cho con cái thơm lây cái danh, ông sống ở Hà Nội, thỉnh thoảng người ta vẫn phải mời ông đến các hội nghị lớn mà truyền hình nhất định phải đưa tin trên chương trình thời sự, nhìn thấy ông ngồi ở hàng ghế đầu, cạnh một vị lãnh đạo cao cấp hay trả lời phỏng vấn là sáng hôm sau đến cơ quan, thế nào cũng có người bắt tay anh:” Tối qua mình nhìn thấy ông cụ nhà cậu ngồi cạnh cụ X...”, những lúc ấy, người anh lâng lâng như đám mây bồng bềnh trên bầu trời xanh cao vút. Và anh, dù không nói ra nhưng thừa hiểu rằng anh trở thành cán bộ nguồn của tỉnh cũng chính là nhờ cái bóng của bố anh. Và nếu bố anh nghe lời anh chịu khó về thăm tỉnh, gửi gắm lãnh đạo tỉnh vài câu thì chắc chắn anh đã tiến sát đến cái chức chủ tịch tỉnh. Nhưng vừa nghe anh nói, bố anh đã nghiêm giọng bảo rằng anh phải đi lên bằng chính năng lực của mình; ông còn nói thêm, nếu không có tài chớ nên ham hố quyền chức, vừa hại thân lại vừa hại dân. Anh cười bảo ông rằng ông chẳng hiểu thời thế gì cả!

Không còn dạy lũ trẻ làng, giáo sư Khải bắt tay vào sửa chữa những bài báo khoa học của ông để tập hợp in thành tập sách, công việc tiến hành chẳng được suông sẻ như ông muốn; không phải bởi những cuộc thăm hỏi của khách khứa, đồng nghiệp ở Hà Nội về, ở tỉnh, ở huyện đến mà lại chính là những đứa trẻ làng thất học. Nhiều lúc ông ngồi thừ ra, trong đầu hiện lên khuôn mặt lem luốc của lũ trẻ. Chiều nay cũng vậy, đang ngồi viết, chợt nghe tiếng mắng con của một người đàn bà hàng xóm, ông không còn cảm hứng để viết, ông đứng dậy định đi sang nhà hàng xóm để can ngăn người đàn bà đừng mắng chửi con nữa nhưng mới ra đến đường làng ông đã gặp thằng Côi đi chăn bò; nó cũng là một đứa học trò của ông, gặp ông nó không chào bằng thầy mà chào bằng ông. Giọng nó khẳn đặc, trời rét thế mà khuôn mặt nó đỏ bừng bừng, ông biết ngay nó đang bị sốt. Ông sờ trán nó, nóng rẫy, ông bảo nó há mồm ra, nó bị viêm họng có cả mủ. Ông bắt nó buộc con bò vào cây thông ven đường rồi dẫn nó vào nhà. Ông mở tủ thuốc riêng của mình, lấy thuốc hạ sốt và kháng sinh cho nó uống rồi bắt nó lên giường ông nằm nghỉ. Nằm chưa nóng chỗ, thằng Côi đã vùng dậy bảo ông:

- Ông ơi cháu phải đi chăn bò đây, con bò nhà cháu từ sáng đến giờ chưa có cái gì vào bụng.

Nghĩ ngợi một lúc, ông bảo nó:

- Cháu cứ nằm nghỉ đi, để ông đi chăn thay cho một lúc.

Thằng Côi không muốn giáo sư Khải phải đi chăn bò nhưng nó rất sợ ông giận nên đành nằm xuống. Giáo sư Khải mặc thêm áo ấm, chụp cái mũ len lên đầu rồi đi ra cây thông, cởi dây thừng dẫn con bò ra đồng. Từ bé đến giờ, chưa bao giờ thằng Côi được nằm trên cái giường ấm đến thế, có đệm mút, chăn bông vừa nhẹ vừa ấm, thành ra chỉ một lúc sau nó đã chìm vào giấc ngủ.

Chiều đông, cánh đồng làng vắng vẻ, chỉ còn lác đác một vài người đang làm đồng. Gió thổi vù vù càng làm cho cái rét thêm lạnh giá. Giáo sư Khải thấy thương cho thằng Côi quá, gia đình nó quá nghèo, bố nó bị suy thận, nhà có cái gì bán được đã bán đi hết để thuốc thang cho bố nó, nay không còn tiền chạy chữa nên đành nằm chờ chết. Mẹ nó phải làm quần quật cả ngày, hết chạy chợ, lại đi làm thuê để kiếm tiền nuôi sáu miệng ăn và trả nợ. Thằng Côi là con lớn, nó nghỉ học từ hồi lớp 5, ở nhà trông em, chăn bò, bèo cám, lợn gà và thỉnh thoảng đi xách vữa thuê. Nó đã mười ba tuổi nhưng còm nhom; ngay cả con bò nhà nó thuộc diện được vay vốn xoá đói, giảm nghèo, chỉ có ăn cỏ, không có cám dinh dưỡng ăn thêm, mà cỏ ngoài đồng cũng ngày càng cụt lủn nên gầy giơ xương sườn.

- Giáo sư Khải phải không? Giời ơi, sao giáo sư lại đi chăn bò thế này?

Tiếng kêu ngạc nhiên của một chị nông dân làm giáo sư Khải quay đầu lại, ông nói qua cho chị biết về việc ông đi chăn bò hộ. Chị nông dân bỏ chiếc cuốc xuống, bảo với giáo sư:

- Giáo sư để cháu chăn bò cho, giáo sư về đi kẻo trời lạnh lắm!

- Cảm ơn cô, ngày xưa tôi cũng đã từng đi chăn trâu bò cho nhà địa chủ, trời rét hơn thế này nhiều mà chỉ có mỗi manh áo; giờ có áo ấm, khăn ấm rồi. Cô về trước đi, ăn mặc phong phanh thế kia dễ cảm lạnh lắm!

Năn nỉ mãi chẳng được, chị nông dân đành vác cuốc ra về. Sẩm tối, giáo sư Khải mới cho bò quay về. Không biết thằng Côi còn ngủ hay đã thức? Mải nghĩ ngợi nên ông không để ý đến tiếng còi ôtô ở đằng xa, đến lúc chiếc ô tô đến gần sát, bấm còi inh ỏi thì ông mới giật mình; con bò cũng bị tiếng còi làm cho giật bắn mình, nó sợ hãi lồng xuống cái mương cạnh đường, tay giáo sư Khải đang cuốn sợi dây thừng nên bị con bò lôi ngã nhào cả xuống mương. Ông cứ tưởng những người ngồi trên xe sẽ xuống đỡ ông dậy và xin lỗi ông, nhưng không, chiếc xe vẫn lăn bánh. Anh lái xe bảo:

- Trông lão già có vầng trán thông thái như nhà bác học thế mà cũng phải đi chăn bò thủ trưởng nhỉ?

Người đàn ông đáp:

- Những kẻ theo đít trâu, đít bò thường là dân vai u bắp thịt; đầu óc ngu si, tứ chi phát triển; đấy là phép suy luận mang tính triết học. Cậu mà làm cán bộ tổ chức thì phá nát cái huyện này.

- Dạ, anh thật có con mắt sáng suốt và tinh đời- Anh lái xe sửa sai.

Khó nhọc lắm giáo sư Khải mới leo được lên bờ, người ông ướt sũng, dính đầy bùn đất. Ông rét run cầm cập nhưng con bò sợ quá lồng chạy xuống mương, bổ ra cánh đồng nên ông đành chạy theo bắt nó về kẻo thằng Côi sợ mất bò lại bị đánh đòn.

Khi ông dắt bò về đến nhà thì thằng Côi vẫn đang li bì ngủ, ông pha nước phích tắm rửa; thay quần áo xong, ông vào giường sờ tay lên trán thằng Côi. Nó đã hết sốt, ông lay nó dậy bảo dắt bò về nhà kẻo bố mẹ thấy về muộn lại bổ đi tìm. Trước khi thằng Côi ra về, ông còn lấy một vỉ thuốc kháng sinh dặn thằng Côi về nhà uống tiếp năm ngày nữa cho khỏi hẳn bệnh viêm họng.

Tối ấy, cơm nước xong, thấy người mền mệt, giáo sư Khải không xem thời sự mà lên giường đi ngủ ngay. Nửa đêm, ông lên cơn sốt, chân tay co giật, ông cố hết sức mò mẫm lại chỗ để tủ thuốc riêng nhưng kiệt sức ngã xuống đất ngất đi. Sáng hôm sau, chị Muộn ở cạnh nhà, người mà giáo sư thuê giúp ông việc cơm nước, quét dọn nhà cửa, giặt giũ quần áo sang nhà thấy giáo sư Khải nằm bất tỉnh trên đất liền tri hô mọi người đưa ông lên bệnh viện tỉnh cấp cứu. Đích thân ông Hà - Bí thư Tỉnh uỷ, bạn học của giáo sư hồi phổ thông đến tận bệnh viện đề nghị ông giám đốc phải tập trung mọi nhân tài, vật lực để cứu bằng được giáo sư nhưng đã quá muộn. Giáo sư Khải vẫn nằm mê man bất tỉnh. Biết ông chẳng qua khỏi, anh con cả liền về nhà triệu tập một cuộc họp họ tộc để chuẩn bị làm đám tang cho giáo sư . Ông trưởng họ bảo:

- Phải làm đám tang to nhất tỉnh, phải xây mộ to nhất, đẹp nhất cho con cháu, dòng họ được rạng rỡ!

- Cháu tính phải đưa bố cháu lên Hà Nội để làm tang lễ- Anh con cả nói. Ông trưởng họ và mọi người ồ lên hỏi sao lại phải đưa lên Hà Nội làm tang lễ. Anh con cả phân tích:

- Bố cháu đủ tiêu chuẩn an táng tại nghĩa trang Mai Dịch, thử hỏi cả huyện này, thậm chí cả tỉnh này đã có ai được chôn cất ở đấy? Đó là cái vinh hạnh của dòng họ ta.

Ông trưởng họ hiểu ra, gật gù:

- Anh là người có học nên biết nhìn xa trông rộng, tiền ăn rồi cũng hết, cái danh mới để được lâu, dù tốn kém đến mấy cũng phải đưa bố anh lên Hà Nội làm tang lễ. Hàng năm, vào ngày giỗ, họ ta sẽ thuê một chuyến xe ôtô lên Mai Dịch thắp hương cho bố anh.

- Thế thì tốn kém lắm bố ạ, con nghĩ cứ chôn cất chú Khải ở nghĩa địa làng để con cháu tiện hương khói; mà chú cũng được ở bên cô, bên các cụ nhà ta ở dưới ấy- Anh Kha, con ông trưởng họ lên tiếng, lập tức ông trưởng họ quát:

- Mày câm mồm đi, mày biết cái gì mà chõ mồm vào? Chú Khải không thể là thường dân; lại càng không thể chôn cạnh nông dân, phải đưa chú lên Hà Nội! Bàn tán thêm một lúc nữa, cuối cùng mọi người đều tán thành sáng kiến của anh con cả giáo sư và để thiên hạ không biết chuyện; với lý do còn nước còn tát, cả họ quyết định đưa giáo sư lên Hà Nội chạy chữa ngay. Nhưng đúng cái lúc chuẩn bị đưa giáo sư ra xe để đi Hà Nội thì giáo sư tỉnh lại, lúc ấy có cả ông Bí thư Tỉnh uỷ, ông giám đốc bệnh viện và đông đủ mọi người trong họ tộc, giáo sư vẫy mọi người lại thì thào:

- Tôi đề nghị các anh đưa ngay anh Tạng, bố cháu Côi ở làng bị suy thận nên làm xét nghiệm; nếu thận tôi có thể ghép được thay cho thận anh ấy thì đưa tôi và anh Tạng lên Hà Nội ngay, tôi ngửng thở thì mổ ngay mà lấy thận; kinh phí rất mong anh Hà bàn với tỉnh hỗ trợ.

Ngừng một lát để thở, giáo sư nói tiếp:

- Anh Hà, thằng con tôi bất tài, đừng để nó làm lãnh đạo sẽ có hại cho dân; anh báo cho bên công an truy tìm chiếc xe hơi màu đen đã đẩy tôi xuống mương. Còn nguyện vọng cuối cùng của tôi là được chôn cất tại nghĩa địa làng, cạnh vợ tôi....

Ông Hà vâng vâng dạ dạ, nói rằng giáo sư hãy yên tâm, nhất định ông sẽ làm theo lời giáo sư căn dặn; đặc biệt ông hứa sẽ chỉ đạo cho công an tỉnh sớm điều tra những kẻ ngồi trên chiếc xe hơi đã nhẫn tâm đẩy giáo sư xuống mương và đưa ra truy tố trước pháp luật cho dù đó là chiếc xe của Bí thư hay Chủ tịch huyện. Giáo sư Khải Khải nắm tay ông Bí thư Tỉnh uỷ lắc lắc hai cái rồi lại chìm vào hôn mê. Hai ngày sau, giáo sư trút hơi thở cuối vào lúc mười giờ, năm phút.

Đám tang của giáo sư Khải rất đông khách ở Trung ương, tỉnh, huyện và các làng lân cận nhưng chỉ duy nhất chỉ có một vòng hoa của Hội người cao tuổi xã. Theo nguyện vọng của giáo sư, khách đến viếng ông không mang vòng hoa, số tiền mua vòng hoa và tiền viếng ông, giáo sư xin tặng xã để sửa sang lại ngôi trường làng cho khang trang hơn. Ngôi mộ giáo sư nằm cạnh mộ vợ ông, nó khiêm nhường như bao ngôi mộ của người nông dân trong làng đã quá cố; chỉ có điều vào dịp lễ tết, thanh minh, hai ngôi mộ của vợ chồng giáo sư được rất nhiều người làng và khách ở xa về thắp hương tưởng nhớ.

CHỊ MỊCH

VŨ ĐẢM

Trời hãy còn sớm lắm, trăng vẫn đang mải miết nhả  ra thứ tơ tằm bàng bạc bao trùm lên cái thị  xã nhỏ bé này. Chị Mịch đứng đợi đã hơn một tiếng mà vẫn chưa đến lượt mình. Khốn nạn ! đến phân mà còn tranh nhau thì nói chi đến tiền, đến gạo ! Chị Mịch lẩm bẩm, tay trái với chiếc xẻng han rỉ chống xuống đất rồi tiếp tục nhìn hai gã đàn ông đang hối hả xúc những xẻng phân đổ vào bốn cái sọt chằng ở sau hai chiếc xe thồ. Đang thời vụ trồng màu, nên người ta đổ xô đến các nhà vệ sinh công cộng ở các khu nhà tập thể, các cơ quan, trường học để lấy phân về bón rau, trồng khoai hay đem bán cho những gia đình giàu có để họ bón ruộng vì đa phần những gia đình này không nuôi lợn. 

Quy luật thị trường là thế, hễ mặt hàng nào khan hiếm thì người ta lao vào sản xuất, kinh doanh để kiếm lời, nhưng đến khi thừa mứa, cung nhiều hơn cầu rồi thì lại bị khủng hoảng, lại bị ế ẩm. Mặt hàng của chị Mịch cũng vậy, trước đây chỉ có một số gia đình túng thiếu ở nông thôn đi chuyên chở về bán, nay làng nào cũng có người, rồi thì lực lượng công nhân thất nghiệp ở thị xã cũng đổ xô đi lấy phân, chở về nông thôn và các vùng ngoại thành để bán, thành thử giá sụt ghê gớm. Trước đây mỗi gánh phân rẻ cũng bán được dăm ngàn, nay chỉ còn ba rưỡi, bốn ngàn, đã thế lại còn bị chê bai đủ điều: nào là phân không còn nguyên chất; nào là gánh phân vơi thế !Khi những cái sọt đầy ắp phân, hai gã đàn ông mới ngừng ta thở hộc hộc. Đậy mấy mảnh bao tải rách lên mặt sọt xong, hai gã ì ạch đẩy xe ra về, khi đi qua chỗ chị Mịch, một gã buông lời chọc ghẹo:

- Cô em trông thơm tho thế mà cũng phải đi kinh doanh cái của thối này à? Thôi chịu khó về làm vợ lẽ của anh đi. Anh sẽ nuôi, chỉ việc ngồi ăn rồi đẻ thôi cô em ạ !

Chị  Mịch bỏ ngoài tai những lời tán tỉnh của hai gã, lặng lẽ quảy đôi thúng rách đi lại dãy nhà  vệ sinh. Đám phân bên ngoài bị hai gã đàn ông lấy hết, chị Mịch phải chòi chiếc xẻng sâu mãi vào bên trong  mới xúc được phân. Mùi phân nồng nặc xộc vào mũi nhưng có lẽ vì quá quen với cái mùi này nên chị Mịch không thấy thối lắm, chỉ phảng phất vậy thôi. Vừa moi, vừa xúc gần một tiếng thì hai cái thúng cũng đầy phân. Sau khi đã rắc một ít tro mang theo lên hai thúng phân, chị Mịch cấu mấy tàu lá chuối đậy lên mặt thúng rồi lúi húi buộc chiếc xẻng vào quang trước.\

- Lần này là thứ mấy rồi ?

Chị Mịch giật thót mình, cán xẻng tuộc khỏi tay rơi xuống đất nghe đánh cạnh một tiếng khô khốc. Sau lưng chị, ông bảo vệ hai tay chắp sau đít, sáng điệu uy nghi. Chị Mịch đứng lên vẻ tẽn tò:

- Dạ ! Em xin bác.

- Không xin xỏ gì nữa - Ông bảo vệ gắt - mời chị vào phòng hiệu trưởng giải quyết. Hai lần trước đã nói rồi; đời sống giáo viên bây giờ cũng đang khốn khổ, phân nhà trường cũng phải giữ lại để cho họ trồng rau, trồng khoai cải thiện đời sống, vậy mà lần này vẫn còn tái phạm.

Mặc cho chị Mịch năn nỉ, van nài, ông bảo vệ vẫn khăng khăng: mời vào phòng hiệu trưởng. Chị Mịch bất lực và bật khóc nức nở:

- Khốn nạn thân em ! Chồng thì tàn tật, con đông, vụ rồi lại mất mùa, nhà không còn hạt thóc nên mới đi kiếm ít phân về bán, đồng rau đồng cháo qua ngày chứ sung sướng gì ghề này. Ự, hự … hự .

Nghe tiếng nức nở của chị Mịch, lòng ông bảo vệ  như bị ai xát muối. Ông đâu muốn bắt giữ  chị, nhưng khốn nạn cho ông, nếu ông cứ tiếp tục làm ngơ cho chị thì cái chân bảo vệ mà ông chạy chọt, nhờ vậy mãi mới xin được sẽ có nguy cơ bị kẻ khác hất cẳng, bởi ông đã hơn ba lần bị ông hiệu trưởng cảnh báo về tội thiếu tinh thần trách nhiệm, để thất thoát tài sản của  nhà trường ! Mất việc, mất ba mươi ngàn, ông làm sao có thể sống nổi với hơn bốn chục ngàn tiền lương hưu trong cái thời giá như ngựa phi nước kiệu này.Đấu tranh tư tưởng hồi lâu, cuối cùng ông bảo vệ lắc đầu rồi bỏ đi. Chị Mịch cầm vội chiếc xẻng hối hả quảy gánh phân đi thoăn thoát như sợ ông bảo vệ sẽ chạy theo giữ lại.Oái oăm nhất là khi nhà vệ sinh của trường cấp hai thị xã nằm ở ngay trung tâm, nên phải đi qua cáu ngã tư có trạm kiểm soát làm bằng gỗ, nơi vẫn thường xuyên có một anh cảnh sát giao thông. Vô phúc cho kẻ nào mà bị anh cảnh sát bắt gặp gánh phân qua thì thôi rồi, kể như hôm ấy đủ tiền nộp phạt vì tội làm mất vệ sinh đô thị, gây ô nhiễm môi trường, là phúc đức còn lớn!Chị Mịch nhìn xuôi ngược. Không thấy bóng dáng anh cảnh sát đâu. Chị mừng thầm cắm đầu cắm cổ gánh chạy như ma đuổi. Cái đòn gánh nặng trĩu phân, oằn trên vai chị luôn phát ra những tiếng kêu kẽo kẹt. Khi đã đi qua cái ngã tư một quãng thật xa, chị Mịch mới thở phào nhẹ nhõm.Chị Mịch về tới làng Đông, nơi chị vẫn thường bán phân thì trời vẫn chưa sáng hẳn. Sương giăng đầy đường, màn sương không còn đặc quánh như hồi đêm nhưng cũng đủ làm cho người ta cảm thấy buốt lạnh.

- Mù hả ?- Tiếng quát của một người đàn ông béo tốt, mặc bộ quần áo thể thao vừa chạy từ cổng một ngôi nhà hai tầng ra suýt đâm vào gánh phân làm chị Mịch như sực tỉnh. Chị Mịch đáp lý nhí mấy lời rồi lại tiếp tục gánh phân đi, nhưng được mấy bước thì đã nghe thấy tiếng ông gọi giật lại:

- Này chị kia! Có bán phân không?

- Dạ có! - Chị Mịch đáp rồi đặt gánh phân xuống. Ông ta vừa chạy, và khua khua hai cánh tay vào không khí, ngực ưỡn ra, hít thở bầu không khí khoáng đãng của buổi sớm. Nhìn thân hình lực lưỡng như tá điều của ông, chị Mịch thấy xót xa cho cái thân thể tiều tuỵ của chồng. Hai năm trước đây, anh Mịch - chồng chị là một người đàn ôngg khỏe mạnh và hoạt bát. Anh biết tính toán và chịu khó nên kinh tế gia đình cũng khá giả. Anh yêu vợ và thương con, nhưng phải cái hay ghen vì chị Mịch đẹp, nên bắt vợ đẻ sòn sòn năm đứa liên tục để cho những kẻ hám sắc và những kẻ trước đây không lấy được chị, sẽ không có điều kiện chim được vợ mình. Từ ngày anh Mịch bị tai nạn, phải cắt mất một chân, kinh tế gia đình ngày một suy sụp, chị Mịch phải tần tảo hôm sớm nuôi chồng, nuôi con. Chuyện anh Mịch bị tai nạn, nghe vừa xót xa lại vừa cười ra nước mắt. Chẳng là dịp ấy, có một cán bộ cấp tỉnh về dự lễ đón nhận Huân chương của xã, sau khi tiệc tùng no say, mặt đỏ phừng phừng, ông đi dạo quanh hội trường, chợt ông phát hiện ra khu đất ở sau Uỷ ban mà làm cái sân vận động thì tuyệt hảo! Vốn là một vận động viên bóng đá nghiệp dư của Sở Thể dục thể thao tuy đã chuyển sang làm lãnh đạo kinh tế nhưng ông còn ham mê môn thể thao chúa tể của hành tinh này lắm. Ông liền vỗ vai ông bí thư xã: “Này ! Sao cậu không cải tạo cái chỗ này làm sân vận động rồi thành lập một đội bóng của xã. Muốn xây dựng thành công CNXH thì phải có sức khỏe, phải có thể thao chớ!”. Bàng hoàng như chính mình vừa tìm ra được Châu Mỹ, ông Bí thư xã; hai tay nắm chắc tay ông cán bộ tỉnh, xúc động nói : “Thật là một phát hiện vĩ đại ! Chúng tôi sẽ làm theo những lời chỉ giáo vàng ngọc của anh”. Ngay hôm sau, màng lưới loa truyền thanh công cộng trong toàn xã đã phát động phong trào toàn xã ra làm sân đá bóng và tập thể dục. Rồi thì hàng trăm nhân công đã được huy động san lấp cái ao để xây dựng sân vận động. Ông bí thư còn quyết định chi hơn  hai triệu đồng ngân sách cho việc gấp rút thành lập đội bóng của xã để chuẩn bị tranh giải bóng đá tứ hùng của huyện. Chưa đầy nửa tháng, sân vận động đã được khánh thành. Cũng có diễn văn (do một nhà văn hàng tỉnh viết với tạ rưỡi thóc nhuận bút). Cũng có pháo nổ, cắt băng khánh thành. Cũng giết bò, mổ lợn liên hoan. Ông bí thư xã sau cái thành tích này đã lập một kỷ lục về sự tiến thân được điều lên tỉnh. Trong bữa đại tiệc tiễn ông về tỉnh, ông cười vỗ vai ông bí thư mới lên thay: “Tớ biết làm cái sân vận động này chỉ tổ cho cỏ dại mọc và trâu bò vào đái, ỉa, nhưng ở đời thiếu cái gì kẻ làm những việc ngớ ngẩn, tiêu tốn bạc tỷ của dân vì muốn chứng tỏ mình luôn luôn quán triệt mệnh lệnh của cấp trên”. Duy chỉ có người dân là thiệt, chẳng những không được hưởng niễm vinh quang do đội bóng xã mang lại (đội bóng bị đại bại ngay ở vòng đấu loại) mà năm người bị tai nạn khi lấp ao để làm sân vận động trong đó có anh Mịch. Anh Mịch phải đưa đi bệnh viện tỉnh cắt bỏ chân trái từ đầu gối. Xã bồi thường hai tạ thóc, không bằng một phần năm phí tổn mà gia đình anh Mịch bỏ ra để thuốc men và quà cáp cho các bác sĩ

- Ơ hay, cái nhà chị này, cứ như là  người mất hồn ấy vậy! - Tiếng ông mặc quần áo thể thao đã cắt đứt dòng xúc cảm của chị Mịch, đưa chị trở lại cái dáng điệu nhanh nhả của những người chợ búa.

- Vâng ! Bác mua đi.

- Bao nhiêu gánh phân này?

- Dạ ! Em lấy rẻ bác sáu ngàn.

- Hừ ! Lên theo giá đô la, giá vàng hay sao mà  đắt quá vậy? - Ông mặc quần áo thể thao sẵng giọng rồi co chân tiếp tục chạy. Ông bỏ cuộc vì nhận ra người đàn bà khốn khổ này là vợ của anh Mịch, nếu không chắc ông đã truy hỏi xem đã nộp thuế môn bài chưa? Hoặc dạy cho chị bài học nhớ đời vì tội không biết điều! Thấy bộ mặt dài thuỗn của ông có vẻ giận dữ, chị Mịch sợ lắm, chị tự xỉ vả mình là nông cạn. Chị Mịch định gọi ông kia lại, nhưng thấy ông đã chạy xa rồi nên lại thôi.

- Ai mua phân bắc ơ ! - Chị Mịch bắt đầu rao, tiếng tao lan tỏa vào trong các ngõ xóm nghe lúc trầm lúc bổng. Nhìn những làn khói đang bay lên từ  những mái bếp. Nghe tiếng gà kêu tiếng lợn đòi ăn, lòng chị Mịch lại nôn nao. Chị mong sao chóng bán được gánh phân, đong mấy bơ gạo, mua mấy mớ rau để còn về với tổ ấm của mình; nơi có chồng và năm đứa con đang mong chị về để lấy gạo thổi cơm. Chị Mịch đi đến giữa làng thì có một bà béo chạy ra hỏi mua. Sau khi nghe cái câu “Dạ  ! Em lấy rẻ bác sáu ngàn” của chị Mịch, bà béo bĩu môi :

- Đếch gì mà đắt vậy ! Gánh phân này vơi lắm, thôi trả hai ngàn.

-Dạ  ! mới sáng ra, bác mở hàng cho em đi ! Dạo này phân khó lấy lắm, thôi em lấy bác đúng năm ngàn.

- Hai ngàn rưỡi có bán thì gánh vào đây không thì thôi - Bà béo nói xong ngoay ngoảy bỏ đi. Chị Mịch biết có hạ xuống đến giá chót ba ngàn không thể moi được túi tiền của bà béo nên lại tiếp tục vừa đia vừa rao: “Ai phân bắc ơ”.

Nắng, những tia nắng le lói, bao trùm lên làng Đông. Màn sương mù đang loãng dần và tan biến trước sự truy quét ráo riết của ánh nắng mặt trời. Chị Mịch đang đi, bỗng loạng choạng, người như muốn quỵ xuống. Chị vội đặt gánh phân xuống vệ đường rồi ngồi bệt xuống gốc đa thở hổn hển. Người chị bả lả, đôi mắt nảy đom đóm. Chị tưởng mình bị trúng gió, nhưng không, tại đói. Tối qua chị ăn có hơn lưng cơm, rồi nhường cho cái út, sáng ra lại không có miếng gì bỏ bụng, nên bây giờ chị bị lả. Chị Mịch gục mặt xuống đầu gối rồi thiếp đi.“Sáng nay lạnh đấy, mẹ nó mặc thêm cái áo cho nó ấm”, “U ơi, hôm nay cho con đi với”, “U ơi, u nhớ mua quà cho con nghe”. Tiếng chồng, tiếng con dặn dò hồi đêm văng vẳng bên tai làm chị bừng tỉnh. Như có một sức mạnh kỳ diệu, chị quên cả đói mệt, đứng dậy gánh phân tiếp tục vừa đi vừa rao, tới gần cuối làng thì một ông lão có bộ râu trắng như cước gọi chị:

- Này chị bán phân! Gánh vào đây, lão còn hai luống thuốc lào nữa chưa có phân.

 Ông lão nói rồi dẫn chị ra vườn thuốc lào. Chị Mịch thấy ông lão không đả động gì đến giá cả thì phân vân lắm, nhưng ông lão đã đọc được ý nghĩ của chị, nên tươi cười:

- Chị lấy bao nhiêu, lão xin trả, trông chị, lão biết bị là người chất phác. Có ai lại muốn đi làm cái nghề này làm gì, nhưng ông trời ác quá, lúa đang trỗ thì gió lạnh tràn về thành thử lép hết.

Chị  Mịch nghe ông lão nói thì cảm động lắm. Quả thật hồi bắt đầu vào cái nghề này, chị cảm thấy ngượng ngùng và tủi nhục lắm. Nhưng mà thiếu ăn, chồng tàn tật, con đông lại không có vốn liếng đi buôn các mặt hàng khác, nên chị đành phải chấp nhận. Đi vài lần rồi cũng quen, nhiều khi kiếm được kha khá tiền, chị lại đâm ham cái nghề lấy công làm lãi này. Ngay cái Tý, đưa con gái lớn của chị, thấy mẹ đi lấy phân cũng nằng nặc đòi đi, nhưng chị không cho, ở nhà nó bắt bố làm cho đôi quang rồi đi hót cứt trâu về bán cho mấy nhà nuôi cá. Chị Mịch đề nghị ông lão để mình bón phân nốt cho hai luống thuốc lào, ông lão vui lòng chấp nhận sự giúp đỡ của chị Mịch. Hai người chuyện trò vui vẻ, hết chuyện giá cả mới ngủ qua đêm đã leo thang mấy giá, chuyện lúa mùa này bị lép lại đến chuyện gia đình.

- Chị ở làng Tây, vậy có gần nhà anh Mịch không?

Chị Mịch không bị bất ngờ trước câu hỏi của ông lão, bởi vì chuyện anh Mịch bị tai nạn, cả xã này ai mà không biết.

- Dạ! Cháu là vợ anh ấy - Chị Mịch nghẹn ngào, phải cố kìm nén lắm chị mới không bật khóc. Ông lão lặng đi vì xúc động, mãi một lúc lâu sau ông lão mới lên tiếng, giọng xót xa:

- Tôi có tội với anh ấy, với chị vì tôi chính là bố cái thằng đầu têu làm cái sân bóng đá  ấy.

- Cụ là bố ông ấy? - Chị Mịch thốt lên vẻ ngạc nhiên, ông lão lau mấy giọt nước mắt rồi chua chát:

- Đúng đấy, nhưng trước đây tôi sống với thằng cả  ở thành phố, mới về sống với nó nên chị  không biết tôi đâu. Khi nghe tin nó làm cái sân vận động, tôi hỏi nó: “Mày làm cán bộ  xã mày có biết dân đang đói không mà  làm cái sân ấy?”. Nó bảo: “Sao tôi lại không biết, tôi còn biết có nhiều nhà phải ăn cháo, thậm chí đào cả củ chuối mà ăn nữa cơ đấy”. “Thằng khốn nạn! biết sao vẫn cứ làm. Mày là thằng Bá Kiến ngày xưa chứ cán bộ gì mày!”. Tưởng chửi vậy nó sẽ biết nhục, nào ngờ nó cười sặc sụa: “Bá Kiến sống dậy còn phải cúi chào tôi, vì nó ngày xưa ngu lắm, chỉ nhằm diệt nhau, còn tôi thì phải biết nịnh nọt, vậy mới ăn được nhiều. Mà ăn cũng phải có nghệ thuật, phải cho mấy thằng trên cùng ăn, để có mệnh hệ gì thì nó dập đi cho không thì nó cũng chết”. Tôi uất đến tận cổ và tuyên bố từ nó, thỉnh thoảng nó có gửi tiền quà về cho tôi, nhưng tôi không nhận. May mà xã hội này còn những cán bộ tốt để cho dân nhờ cậy. Chị Mịch vừa bón phân,vừa nghe ông lão kể về đời tư nên quên cả đói mệt. Khi chị bón xong cho hai luống thuốc lào thì mặt trời cũng đã lên cao, màn sương mù đã tan, chỉ còn những hạt sương đọng ở trên cành cây là vẫn còn long lanh, long lanh. Ông lão vào nhà lấy ra bốn tờ bạc hai ngàn đưa cho chị Mịch, chị đưa trả lại ông lão hai tờ, ông lão gạt đi.

- Tôi cũng chả giàu có gì đâu, nhưng chị  cứ cầm lấy, gọi là có đồng quà tấm bánh biếu anh ấy và các cháu.

Trước sự chân thành và kiên quyết của ông lão, chị Mịch đã khóc khi nhớ lại cái hôm con Tý bị chó nhà lão Am cắn. Hôm ấy chị bị ốm nên không đi lấy phân được, nhà hết gạo, chị bảo con Tý sang nhà lão Am vay. Lão Am buôn đồng đi biên giới bán nên nhà giàu nứt đố, đổ vách. Ngôi nhà ba tầng, cổng cao, tường kín của nhà lão Am trông đồ sộ như một khách sạn mi ni, lúc nào cũng nườm nượp người, ô tô, xe cúp. Người mang đồng đến, kẻ chờ đồng đi, rồi thì khách các ban ngành ở tỉnh, huyện, xã đến để dự bữa cơm thân mật với bia Tàu và các món ăn cao lương mỹ vị. Tối đến, dân thì đèn dầu leo lét, còn nhà lão Am sáng choang điện máy phát, Video mở từ chập tối đến tận khuya, toàn phim đấm đá, tươi mát.Thấy con Tý vác rá sang vay gạo, lão Am bảo vợ: “Nó là cháu họ, chứ cháu con chú, con bác cũng kệ thây, cho vay, quen đi, mai mốt lại vay nữa”. Con Tý vác rá ra về, khi đi qua cửa bếp, thấy con chó béc giê cao to như con bê đang ăn đĩa tim gan xào, con Tý cúi xuống định tuôn vào rá mang về cho mẹ, nhưng vừa động tay vào cái đĩa, liền bị con chó tợp cho một miếng. Con Tý khóc ré lên, ôm tay đau đớn. Mụ Am ở trên lầu ba chạy ra lan can xỉa xói: “Cho mày chết, ai bảo ăn cắp!”. Nhìn tay con đầm đìa máu, chị Mịch ôm con ngất đi.

Rời nhà ông lão, chị Mịch tạt vào chợ phiên, vừa đi tới đầu hàng gạo, mấy bà hàng xáo  đã nhao nhao mời chào:

- Mua gạo tám thơm đi em ?

- Hai linh ba cũ đấy, mua đi cô !

- Đong mộc tuyền mới mà ăn cho nó dẻo này!

Mặc dù chị Mịch đã đáp lại những lời mời chào ấy bằng những lời cảm ơn, những cái lắc  đầu kèm theo nụ cười hết sức dịu dàng nhưng sau lưng chị vẫn vẳng theo lời rủa:

- Chó đéo con đĩ! Mới sáng ra đã làm bà bực mình.

- Rửng mỡ hay sao mà quảy cả thúng đi cho người ta mừng hụt!

Nghe những lời rủa ấy, chị Mịch khổ tâm lắm, nhưng chị không thể chiều theo ý họ để đong những hạt gạo trắng ngần được tạo ra bằng các loại máy xát liên hoàn hiện đại. Chị đi lại cuối dãy, nơi vẫn thường có một bà mắt toét bán loại gạo giã bằng cối thủ công. Loại gạo này là sản phẩm của thập cẩm các loại thóc vét kho mà bà đi mua ở các kho nhà nước về để giã, nó ẩm đấy, nát đấy nhưng cũng rẻ hơn bảy, tám giá so với loại gạo châu ngọc kia. Trong thâm tâm chị Mịch vẫn thầm cảm ơn bà mắt toét, nhờ bà mà chị và những gia đình thường xuyên đứt bữa đong được thứ gạo hòm hòm với túi tiền của mình. Nhưng để được sự mang ơn ấy, bà mắt toét cũng đã từng được nghe vô khối những lời dè bỉu, công kích khi bà khai trương mặt hàng gạo của mình. Người ta bảo bà là dở hơi, thời đại văn minh rồi, người ta ăn thứ gạo xát vừa trắng vừa ngon chứ ai lại đâm đầu vào đong thứ gạo giã của bà. Ai cũng bảo là bà sẽ sớm bị dẹp tiệm, nào ngờ bà lại ăn nên làm ra. Chính bà cũng không ngờ là những người đói nghèo ở quê lại nhiều đến thế, bà phải huy động cả con cháu mới đáp ứng được nhu cầu của họ.

Đong xong năm bơ gạo, chị Mịch quay ra mua sáu mớ rau muống và không quên mua cho ba đưa nhỏ hai trăm ngô rang, còn hơn một ngàn, chị bỏ vào cái túi rút bằng vải rồi buộc chặt vào cạp quần. Mua bán xong chị hối hả ra về. Vừa về tới đầu ngõ, thằng Tình, thằng Nghĩa, cái Chót đang nghịch cát ở sân vội chạy ùa ra vây quanh chị.

- A u về, u về !

- U ơi ! Chị Tý đi hót cứt trâu rồi !

- U ơi ! Chị Tèo đi sang nhà bác Sự xin lửa rồi, chị ấy bảo xin lửa trước, u về có gạo là thổi cơm ngay.

Nhìn  đàn con ríu rít như bầy chim; bao nỗi mệt nhọc và  tủi hờn, phút chốc tan biến khỏi người chị. Khuôn mặt chị rạng rỡ hẳn lên, chị nở một nụ  cười hy vọng. 

Ngày Giỗ

VŨ ĐẢM

Bà Hoài đứng lặng phắc trước gian nhà thờ bị bão đánh sập đêm qua, cái ban thờ sơn son thiếp vàng, nơi linh hồn chồng bà vẫn cư ngụ giờ đã gãy nát. Tấm ảnh thời trai trẻ, ông tặng bà, bà nâng niu giữ gìn hơn bốn chục năm qua cũng đã bị gạch vữa xé vụn, bà cảm thấy đau xót như chính thân thể mình bị xẻ ra từng mảnh.

Bỗng vèo, một làn gió vụt qua, những mảnh ảnh bay vút lên, cuộn tròn vào nhau, lơ lửng trước mặt bà, bà thảng thốt kêu lên: “Ông ơi! Ông đừng bỏ mẹ con tôi, tôi sẽ bảo thằng Tình, thằng Nghĩa về làm lại để ông có chỗ đi về với mẹ con tôi”. Lời dứt, những mảnh ảnh lập tức tỏa ra, nhẹ nhàng đáp xuống đống gạch vỡ. Bà Hoài lập cập đi ra sân gọi con gái, lát sau Thu tất cả chạy về, bà vồn vã:

- Con bắt ngay con gà, đong lấy mười bơ gạo nếp đem lên cho thằng Tình, thằng Nghĩa xem nhà của chúng nó có bị sao không và bảo chúng nó về sửa sang lại gian nhà thờ kẻo sắp đến ngày giỗ rồi.

Thu giãy nảy như đỉa phải vôi:

- Con chịu thôi, mà chắc gì các anh ấy đã về. Hay là mẹ vay ai rồi thuê thợ sửa?

Bà buồn nhưng không giận con, bà biết nó rất sợ mỗi khi bà sai bảo nó lên thành phố để gặp Tình, Nghĩa. Bốn năm trước đây bà và Thu còn ở với Tình, Nghĩa, cuộc chia ly được khởi mào khi vợ chồng Tình mở quán cơm phở bình dân, lúc đầu chỉ lèo tèo vài ba người khách, sau khách kéo đến ăn đông nghẹt thì vợ chồng Nghĩa bị loá mắt mỗi khi thấy vợ Tình ngồi đếm tiền.

Vợ chồng Nghĩa lên tiếng đòi quyền lợi, vợ chồng Tình phản kháng, rằng; “Tại sao trước đây, vợ chồng mày không mở đi”. Nghĩa đáp: “Không phải lý sự dài dòng, nếu không biết điều sẽ đập nát quán”, biết là Nghĩa làm thật nếu không “biết điều” nên vợ chồng Tình đành phải ngồi vào đàm phán, sau hai tiếng tranh cãi; mỗi tháng vợ chồng Tình chi cho vợ chồng Nghĩa một triệu sáu trăm ngàn đồng. Hoà bình kéo dài được một tháng thì nội chiến lại xảy ra, vợ chồng Nghĩa đòi tăng quyền lợi lên hai triệu tám trăm ngàn, bên kia phản ứng dữ dội, cuộc chiến bùng nổ và máu đã đổ; Tình và vợ Nghĩa phải đưa đi cấp cứu còn Nghĩa và vợ Tình bị tống giam. Một tuần sau, nhờ cái thư tay của ông chú ruột, cộng với tấm bằng Tổ quốc ghi công của ông Hoài mà Nghĩa và vợ Tình được tự do. Bà Hoài làm đơn nhờ chính quyền can thiệp, sau một loạt giải pháp đưa ra đều bị hai bên bác bỏ, cuối cùng một biện pháp tuy gây tổn hại lớn tình mẹ con, tình anh em đã được thực thi: Chia dọc căn nhà 35 thành 35A, 35B - Mỗi bên một mét hai mươi nhăm mặt tiền. Cũng từ đấy quán cơm phở bình dân Đại Nghĩa kể như sập tiệm. Sau sự kiện này, bà Hoài vơ vét vốn còn lại, vay mượn thêm, mua lại ngôi nhà của một người quen ở ngoại thành, chính là ngôi nhà mà mẹ con bà đang ở bây giờ. Bốn năm đã trôi qua, song mỗi lần nghĩ lại bà vẫn còn bàng hoàng, kinh sợ huống chi Thu là người con gái nhút nhát từ bé. Nhưng không đi, không có tiền làm lại ban thờ, bà cảm thấy có tội với chồng. Còn vay? Biết vay ai ở cái chốn đồng không mông quạnh này? Mà có vay được thì biết lấy gì để trả khi bốn sào lúa đã bị bão quật nát! Bà đem nỗi niềm này giãi bày với con, thương mẹ, Thu đành vâng lời đi lên thành phố gặp hai người anh.

Nhưng họ đã không về, gom góp gởi cho mẹ bảy trăm ba mươi ngàn, kèm theo lời thanh minh: “Nói với mẹ, dạo này tao cũng kẹt lắm, còn giỗ năm nay mạnh ai người nấy làm!”. Ngày giỗ, bà Hoài vẫn làm hai mâm như mọi năm, bà hy vọng hai người con trai sẽ đưa vợ con về, nhưng đợi đến quá giờ ngọ, vẫn không thấy bóng dáng một ai, bà sai Thu bưng mâm xuống, bữa cỗ chỉ có bốn người, hai mẹ con bà Hoài và hai người láng giềng.

Quãng chín giờ tối, bà Hoài và Thu đang thiêm thiếp ngủ thì có tiếng xe máy, nhận ra tiếng xe quen thuộc, Thu vùng dậy chạy ra mở cửa, thấy Tình và Nghĩa, Thu reo lên.

- A! Anh Tình, anh Nghĩa! Sao hai anh về giỗ bố muộn vậy? Hai chị và các cháu đâu?

Họ không trả lời câu hỏi của Thu mà hỏi lại:

- Mẹ đâu?

Rồi phăm phăm đi vào trong nhà với nét mặt cực kỳ quan trọng. Bà Hoài ngồi dậy thúng thoắng ho, cơn ho kéo dài làm cho ngực bà đau nhói.

- Mẹ làm sao thế? - Tình lên tiếng nhưng không đi lại chỗ mẹ mà đi đến bên cái ban thờ mới được tu sửa tạm bợ, lấy trái cây, giấy tiền, hương mang từ thành phố về, bày lên rồi thắp ba nén hương lầm rầm khấn. Nghĩa cũng lặp lại như Tình, xong, cả hai mới đi đến giường. Nỗi buồn và cô đơn trong bà Hoài phần nào dịu vợi đi khi nhìn thấy con trưởng và thứ cúi lạy trước ban thờ bố.

- Mẹ có được khỏe không? - Nghĩa hỏi, bà Hoài đưa tay lên vấn tóc, khẽ đáp lại:

- Mẹ vẫn khoẻ, sao hai anh về giỗ bố mà muộn thế?

Tình nói:

- Chúng con đã nói với cái Thu là không về được, chả lẽ nó không nói với mẹ à?

- Có, nó có nói các anh không về, thế hai anh không về giỗ bố thì về làm gì vậy?

Bà Hoài nhìn Tình và Nghĩa với ánh mắt đầy nghi hoặc. Mới chỉ mấy tích tắc trước đây, bà còn cảm động vì đêm tối mà họ còn lặn lội về thắp hương cho bố, nhưng bà đã lầm, sự lầm lẫn này, kéo theo nỗi thất vọng hiện rõ trên khuôn mặt khắc khổ của bà.

- Còn quan trọng hơn cả chuyện giỗ chạp. Cực kỳ quan trọng! - Nghĩa nhấn mạnh từng chữ.

Tình đi ra dắt chiếc xe Dream II vào nhà, đóng chặt cửa, móc túi lấy bao Vina, rút một điếu, bập lên môi, dí mắt xuống sát ngọn đèn dầu leo lét, châm lửa. Tình rít một hơi thật dài, tưởng đến vỡ lồng ngực, lâu lâu sau phun khói ra mù mịt. Tình vẫn có thói quen, trước khi bắt đầu một câu chuyện gì hệ trọng, để chấn hưng lại tinh thần, Tình thường bắt đầu bằng một hơi thuốc thật dài.

- Mẹ ạ! - Tình nói - Hôm nay chúng con về bàn với mẹ một chuyện có thể nói là một cuộc cách mạng đổi đời mà nhờ có cuộc cách mạng này mà gia đình ta chắc chắn sẽ nhảy một bước từ tiểu dân lên tư sản. Đây là thời cơ ngàn năm có một.

Bao giờ cũng vậy, hễ cứ cất giọng lên là Tình luôn tâng cao vấn đề, nhiều khi sự việc chỉ bằng đống rấm, Tình cũng phóng lên thành đống rơm và luôn luôn trong hệ tư tưởng của mình, khi phóng rọi sang người khác, Tình không quên cài cắm mớ triết học thập cẩm của mình vào để minh chứng cho mọi người thấy rằng cái chuyên ngành triết mà mình mài đũng quần bốn năm không phải là vô dụng như ả vợ gày đét vẫn dẩu môi, bĩu mỏ nói :” Triết với chả triệt chả bằng bát tiết canh lợn!”

Kinh nghiệm thực tiễn cũng cho Tình hiểu rằng càng nói bí hiểm, rối rắm, khó hiểu, thậm chí vô nghĩa bao nhiêu thì càng làm cho người nghe phải nể sợ bấy nhiêu. Triết thuyết này đã được Tình áp dụng rất thành công, đặc biệt trong những cua giảng cho các vị quan chức đang theo học tại chức.

Bà Hoài không hiểu gì cả, Nghĩa lại càng không, với trình độ học vấn hết lớp năm cải cách, lại chịu ảnh hưởng nặng nề của nền văn hóa vỉa hè nên mọi thứ từ văn hóa đến đạo đức, Nghĩa chỉ gói gọn trong chữ “tiền”.

- Anh cứ nói huỵch toẹt mẹ nó ra chứ mãi cách mạng với chả thời cơ làm đếch gì !

Người ta có thể nhồi nhét cái gì chứ nhồi nhét trí tuệ ắt không xong. Nghĩa nói, nửa như chửi, nửa như giục. Tình lừ mắt nhìn Nghĩa, “Đồ vô học - ánh mắt bảo vậy”.

Bà Hoài đã bắt đầu lo lắng. Có chuyện gì mà chúng nó úp úp mở mở? Chả lẽ chúng nghi mình có vàng chôn dưới đất? Nỗi sợ hãi bắt đầu le lói trong tâm can bà, bà sợ để lâu, nó sẽ bùng lên không thể kiểm soát được nữa, bà lên tiếng hy vọng chặn đứng được nó ngay từ thời kỳ trứng nước:

- Có chuyện gì các con cứ nói thẳng ra, mẹ con mình cùng bàn bạc một thể.

Nghĩa sợ để Tình nói sẽ lại “Cách mạng” lại “Thời cơ” nên cướp lời:

- Thế này mẹ ạ! Sắp tới người ta sẽ quy hoạch nơi đây thành khu du lịch, nghỉ mát cho Tây, cho nên giá đất sẽ nảy vọt lên, không phải là một chỉ ba mét vuông nữa mà ba cây một mét vuông. Tổng diện tích nhà, bếp, vườn của nhà ta hai trăm mét vuông, ước tính bán được cỡ sáu trăm cây. Một đống vàng, mẹ hiểu không?

Thu bật cười:

- ở nơi khỉ ho cò gáy này, lại toàn nghĩa địa thì du lịch với ma à! Em tưởng hai anh đi xem bói, người ta bảo đất nhà mình có chum vàng, hũ bạc cơ đấy!

- Im mồm đi, mày thì biết gì - Tình mắng em gái, nụ cười trên môi Thu vụt tắt. Tình tiếp:

- Điều này thì chắc chắn rồi mẹ ạ! Sở dĩ người ta quy hoạch nơi đây cũng là nhờ cái hồ mênh mông trước cửa nhà mình đấy. ở nội thành, chật chội, lại ô nhiễm mà dân Tây lại thích hoang dã nên họ mới quy hoạch toàn bộ khu này.

- Thế ai nói với các anh vậy? - Bà Hoài hỏi. Nghĩa đáp:

- Chính chú Hùng chứ ai nữa. Chả lẽ chú ấy lại nói sai, mà cũng chỉ mai, mốt, chú ấy và mấy vị nữa về đây cắm đất thôi mà.

Bằng linh cảm, bà Hoài đã lờ mờ nhận ra, thế nào rồi chúng cũng đòi bà nhượng lại nhà cửa, vườn tược và rất có thể cái điều bà còn kinh sợ hơn cả mất nhà là chúng sẽ đâm chém lẫn nhau như bốn năm về trước. Không, còn hơn cả bốn năm trước, bởi đó chỉ là một căn nhà, dù mặt tiền nhưng giỏi cũng chỉ một trăm cây, còn bây giờ những sáu trăm cây, gấp sáu lần, mức độ hiểm nguy sẽ tăng lên tỷ lệ thuận với vàng! Sự ám ảnh của ngày nào tưởng đã phần nào mờ nhạt trong bà khi bà về cái nơi hoang vắng này sinh sống, giờ đây nó được lôi thốc dậy, bà hoang mang quá, khiếp sợ quá, đến nỗi tự dưng bà vô thức bật ra một chữ: Vàng!

- Đúng, vàng, vàng muôn năm ! - Nghĩa rên lên sung sướng. Tình nhếch mép, cái miệng vốn đã rộng như được dịp mới ra thêm vài phân nữa và từ “nhếch” chuyển thành “mở” giao thời trong mươi giây:

- Trước hết mẹ phải đưa hết lại cho chúng con giấy tờ mua nhà trước đây, để con lên văn phòng Luật sư, nhờ những chuyên gia đầu ngành về luật rà soát xem còn thiếu chỗ nào, bổ sung ngay. Và nếu mẹ còn nợ nần tiền nhà của ông bà Phan, con sẽ vào tận Sài Gòn để thanh toán hết.

- Mẹ với ông bà ấy - Bà Hoài nói - sống với nhau vì tình nghĩa chứ có phải chứ có phải vì tiền đâu, các anh tìm gặp ông bà ấy thì tôi chả dám sống để nhìn mặt họ đâu. Nếu không có họ, tôi đã chết đói chết bệnh từ lâu rồi chứ làm sao có thể sống đến hôm nay.

- Vậy là không ổn rồi - Vẫn Tình - phải thanh toán sòng phẳng bằng hết, thời buổi bây giờ đến bố mẹ, vợ chồng con cái còn chưa tin được nhau huống chi người ngoài! Sau đó mẹ viết “di chiếu” lại cho chúng con. Con và Nghĩa sẽ về đây còn mẹ và cái Thu lại về nhà cũ.

- Tôi không về đâu, quy hoạch xong, chờ đất lên giá là bán - Nghĩa buông một câu chắc nịch.

Tình cười gằn, nụ cười khinh bỉ của một kẻ lúc nào cũng vỗ ngực trí thức trước một kẻ vô học. Tình đã tính kỹ lưỡng rồi, với khu đất này, nếu chỉ bán để lấy vài trăm cây thì thật là ngu ngốc, phải biến nó thành Hotel, cho Tây thuê, chỉ có thể mới hốt nhiều đôla được. Tưởng là Nghĩa sẽ cúi đầu bái phục trước tầm nhìn xa của mình, nào ngờ khi Tình vừa trịnh trọng công bố kế hoạch “vĩ mô” xong, Nghĩa đã phá lên cười:

- Ha, ha, nghe có vẻ hấp dẫn đấy. Nhưng tôi hỏi anh đào đâu ra tiền để xây? Tôi là cứ chủ nghĩa mì ăn liền, nếu anh muốn xây Hotel thì lại chia đôi!

- Cái gì? Chia đôi cái con khỉ, mảnh đất này hình thang, mặt tiền nhìn ra bờ hồ giỏi chỉ được bốn mét vuông, chia ra thì xây cho chó nó ở à!

Tình gần như gào lên, khuôn mặt méo xệch như bị lên cơn động kinh. Cuộc chia dọc nhà bốn năm trước làm sụp đổ khát vọng đổi đời của Tình, nó làm Tình đau đớn, vật vã hàng tháng trời và trở thành vết thương tinh thần không gì hàn gắn được, nay lại bùng lên mãnh liệt để rồi đem lại hệ quả là cuộc cãi vã gay gắt.

Tình:

- Mày mà còn đòi chia chác, tao sẽ đến cơ quan pháp luật tố cáo mày về tội buôn ma tuý. Mày sẽ rũ tù nghe chưa!

Nghĩa:

- Có giỏi thì cứ việc, trước khi”đây” vào tù sẽ sơ tán hết vợ con, đem năm cân thuốc nổ sang hầu chuyện!

- ối các con ơi!-Bà Hoài nấc lên- mẹ cắn rơm, cắn cỏ mẹ lạy các con! Anh em máu mủ đừng ăn thịt lẫn nhau. ối ông Hoài ơi! Ông sống khôn, chết thiêng hãy về đây cho tôi cùng đi với ông ơi!

Nói đoạn bà lao đầu vào tường, Thu ôm ghì lấy mẹ, thét lên:

- Các anh độc ác vừa phải thôi, các anh đã đuổi mẹ ra khỏi nhà, lại còn định giết mẹ nữa phải không?

Không biết có phải tiếng thét thảm thiết của Thu, hay những cái lao đầu vào tường của mẹ đã thức tỉnh lương tâm trong con người họ mà cả hai bằng lòng hòa hoãn đến sáng mai và một điều hết sức bất ngờ là chính Nghĩa nói một câu rất có văn hóa: “Thôi hôm nay là ngày giỗ bố không nên làm cho mẹ phải suy nghĩ, buồn phiền nữa”.

Màn đêm đặc quánh, càng về khuya trời càng thêm lạnh lẽo, bên ngoài tiếng ếch nhái, tiếng côn trùng vẫn cất lên bản hòa tấu của chúng nhưng đêm nay nghe hối hả hơn, có lẽ chúng đã nghe được câu chuyện của Tình, Nghĩa, biết được ngày tận số sắp đến nên cùng nhau chia sẻ chăng? Bà Hoài ngồi dậy, thấy giường bên, tiếng ngáy của Tình, Nghĩa vẫn đều đều phát ra, bà yên tâm hơn, khẽ lay Thu dậy rồi thì thầm vào tai con…

Trời đã sáng, những tia nắng sớm chen lấn, xô đẩy nhau lao xuống gian nhà đổ, chúng quét vào cả mặt Tình, Nghĩa. Tình thức giấc, nhìn sang giường bên không thấy mẹ và em đâu, làu bàu văng tục, chợt thấy tờ giấy đặt ở trên bàn, Tình đập Nghĩa dậy, cả hai đi lại cầm lên xem, giấy viết: Tôi là Nguyễn Thị Hoa( thường gọi là Hoài), vợ ông Trần Văn Hoài, ở thôn Năm, xã... huyện... Viết giấy này, nhượng lại toàn bộ nhà cửa, đất đai cho hai con tôi là Trần Tình, Trần Nghĩa. Tôi kính mong chính quyền giúp tôi phân chia hộ, sao cho hai con tôi đều vừa lòng.

Ngày 9 tháng 9 năm...

Người nhượng

Nguyễn Thị Hoa.

- Vậy là bà cụ đã bỏ đi, chuyện này ta tính sau, bây giờ tôi và chú ra uỷ ban xã, nhờ họ chứng thực vào mấy chữ, sau đó về thành phố tiếp tục bàn bạc - Tình nói với Nghĩa, cả hai không rửa mặt, dắt xe ra, khóa cửa rồi lên xe phóng vụt đi.

Họ trở về thành phố lúc tám giờ, ông Hùng đã ngồi đợi sẵn ở nhà Tình, thấy họ, ông Hùng lên tiếng ngay:

- Chú đến để báo lại cho hai cháu biết, khu đất mẹ các cháu đang ở đúng là thành phố sắp quy hoạch, chú cũng tưởng ở đấy có cái hồ lớn, họ sẽ xây dựng khu nghỉ mát, du lịch cho người nước ngoài nhưng không phải thế.

- Vậy họ quy hoạch gì chú? - Tình nôn nóng. Nhìn bộ mặt của hai người cháu đang căng ra vì hồi hộp, ông Hùng thấy rờn rợn, ông nói nhanh:

- Chả là khu nghĩa địa cũ của thành phố đã quá tải, nên họ sẽ cho xây dựng ở đó một khu nghĩa địa mới theo mô hình tân tiến vào lại bậc nhất thế giới, thôi chú phải đi họp gấp, chú về đây.

Ông Hùng bước vội ra cửa. Bám gót ông là câu chửi của Tình: “Tiên sư cái lão quan liêu!”.

Hai hôm sau, trong mục rao vặt của một tờ báo nọ, người ta thấy có những dòng nhắn tin sau: Con là Trần Nghĩa, Trần Tình, nhắn tìm mẹ là Nguyễn Thị Hoa (tức Hoài), 72 tuổi, đã bỏ nhà ra đi đêm ngày 9/9, khi đi mặc quần đen, áo bà ba, cùng với con gái là Trần Thị Thu, 30 tuổi, người nhỏ, gầy. Mẹ ở đâu về ngay, chúng con đã cho sửa lại nhà. Ai biết mẹ và em chúng tôi đang ở đâu, xin báo về địa chỉ Trần Nghĩa số nhà 35 A, hoặc Trần Tình, số nhà 35B, phố...phường... hay nơi cơ quan Công an gần nhất, chúng tôi xin cảm ơn và hậu tạ!

Gió Mùa Đông Bắc

VŨ ĐẢM

Sinh nhật lần thứ bốn mươi của tôi, vợ tôi bảo năm chẵn nên làm mấy mâm cơm mời bạn bè tôi đến nhà lai rai chúc mừng. Tôi vốn không uống được bia rượu nhưng có món thịt bò xào hành Tây mà tôi ưa thích, lại có bạn bè hàn huyên, vui quá thành ra uống tới năm cốc bia Hà Nội. Cuộc nhậu bắt đầu từ lúc năm giờ chiều, mãi đến tám giờ tối mới kết thúc. Tiễn bạn bè ra về xong, tôi leo ngay lên giường, định sẽ lấy giấc ngủ vùi lấp cơn say chếnh choáng trong người. Nhưng quái sao cổ họng tôi có cái gì vương vướng, tôi khạc nhổ ầm ĩ cả nhà nhưng vẫn không khỏi. Hay là hóc xương gà

Sinh nhật lần thứ bốn mươi của tôi, vợ tôi bảo năm chẵn nên làm mấy mâm cơm mời bạn bè tôi đến nhà lai rai chúc mừng. Tôi vốn không uống được bia rượu nhưng có món thịt bò xào hành Tây mà tôi ưa thích, lại có bạn bè hàn huyên, vui quá thành ra uống tới năm cốc bia Hà Nội. Cuộc nhậu bắt đầu từ lúc năm giờ chiều, mãi đến tám giờ tối mới kết thúc. Tiễn bạn bè ra về xong, tôi leo ngay lên giường, định sẽ lấy giấc ngủ vùi lấp cơn say chếnh choáng trong người. Nhưng quái sao cổ họng tôi có cái gì vương vướng, tôi khạc nhổ ầm ĩ cả nhà nhưng vẫn không khỏi. Hay là hóc xương gà?

 Vô lý, hóc xương thì phải đau chứ! Chợt tôi nghĩ đến cái chết ung thư vòm họng của ông chú tôi mà bủn rủn hết cả người. Ông chú tôi lúc đầu cũng thấy cổ họng vương vướng, ông lười không đi khám đến khi đau phát sốt, ông mới đi bệnh viện thì mới hay mình bị ung thư vòm họng giai đoạn cuối, ông nằm viện được đúng ba tuần thì ra đi. Không khéo dòng họ tôi trước đây có người bị ung thư vòm họng rồi di truyền lại cho thế hệ sau cũng nên. Nghĩ đến đây, tôi quyết định phải đi khám ngay để nếu có bị di truyền, phát hiện sớm chạy chữa còn cứu được.

Ban đêm, bệnh viện công không khám bệnh, chỉ trừ những trường hợp cấp cứu; tôi đi xe máy ra đường Giải Phóng, nơi có hàng chục phòng khám tư nhân san sát bên nhau. Tôi vừa dừng xe thì đã thấy nhiều người từ vỉa hè lao ra mời chào tôi vào khám bệnh với những lời hết sức hấp dẫn, có giáo sư, tiến sĩ khám; nhanh rẻ, chính xác; có máy siêu âm màu; xét nghiệm có kết quả ngay... Tôi ngước mắt nhìn các bảng hiệu quảng cáo và dắt xe vào một phòng khám có đề giáo sư, tiến sỹ; đằng nào thì cũng mất tiền, bác sỹ khám mất hai mươi lăm ngàn, tiến sỹ khám mất ba lăm ngàn, giáo sư mất bốn mươi ngàn, tốn hơn mươi mười lăm ngàn nhưng chắc ăn hơn. Tôi đi đến chỗ một nữ nhân viên thu tiền và đề nghị được khám giáo sư Hào, cô bảo tiếc quá giáo sư Hào vừa đi công tác chiều nay. Tôi lại bảo không có giáo sư thì tiến sỹ khám, cô lại nói tiến sỹ Mạnh hiện đang mổ cấp cứu trong bệnh viện. Tôi bực tức quay ra, đi tìm một phòng khám khác.

 Nghe tôi đề nghị được giáo sư hoặc tiến sỹ khám, ông chủ phòng khám vốn là chủ đề vỡ nợ nay quay sang  mở phòng khám tư, chân tình nói với tôi rằng duy nhất phòng khám của ông là có thuê giáo sư, bác sĩ thật, còn tất cả các phòng khám kia, họ chỉ treo cái biển có giáo sư, tiến sỹ khám nhưng là treo đầu dê, bán thịt chó; thậm chí nhiều lúc chỉ là y sĩ khám chứ cũng chẳng có bác sĩ vì theo ông giải thích, những ông chủ phòng khám đều phải đi thuê tất tật, từ nhà, y bác sĩ, máy móc nên phải chắt bóp từng đồng, tiền đâu mà thuê giáo sư, tiến sỹ? Phòng khám của ông có giáo sư, tiến sỹ thật nhưng họ chỉ khám ban ngày, ông bảo tôi yên tâm, ông sẽ bảo một bác sỹ đa khoa có tiếng đích thân khám cho tôi. Thấy ông chủ có vẻ thật thà, tôi đồng ý nộp hai lăm ngàn và được một nhân viên dẫn lên tầng hai bảo tôi ngồi chờ, khi nào bệnh nhân bên trong đi ra thì hãy vào. Tôi ngồi đợi gần nửa tiếng thì cửa phòng mở, một cô gái mặt non choẹt nhăn nhó ôm bụng đi ra. Tôi vội vã bước vào, nghe thấy ông bác sỹ nói với một cô ý tá:

- Mẹ kiếp mới mười sáu cái tuổi đầu mà đã ễnh bụng ra, lúc làm tình thì rên rỉ sung sướng, còn khi nạo thai thì rống lên  như lợn bị chọc tiết...

Nhìn thấy tôi, ông bác sỹ hỏi tôi khám gì? Tôi nói khám họng, ông bảo tôi ngồi vào ghế. Tôi tưởng một bác sỹ khác sẽ khám cho tôi nhưng người khám vẫn chính là ông, tôi thắc mắc:

- Tôi khám họng chứ có khám”phụ khoa” đâu?

Ông bác sỹ nói, giọng lanh tanh:

- Tôi là bác sỹ đa khoa, cái gì chả khám được, nào há mồm ra!

Tôi kiên quyết không cho ông khám và đề nghị để bác sỹ chuyên khoa Tai - Mũi - Họng khám. Thấy có tiếng ầm ĩ, ông chủ phòng khám chạy nên giải thích cho tôi, rằng bác sĩ Quang đây là bác sỹ đa khoa có tiếng ở Hà Nội, cứ yên tâm đúng bệnh, đúng thuốc, vài ngày là khỏi. Tôi đề nghị trả lại tiền cho tôi đi khám chuyên khoa, ông chủ phòng khám lên giọng:

- Tiền thu rồi không trả lại, chúng tôi có bác sĩ khám, anh không khám là lỗi tại anh chứ không phải chúng tôi.

 Tôi giận dữ ném cái hoá đơn thu tiền vào mặt ông chủ phòng khám rồi hầm hầm đi xuống. Rút kinh nghiệm, lần này tôi tìm đến đích danh phòng khám chuyên khoa Tai- Mũi- Họng. Sau khi nghe tôi trình bày về triệu chứng, bảo tôi há mồm ra, ông bác sĩ hí hoáy ghi cho tôi một loạt các phiếu: xét nghiệm máu, nước tiểu, phân; điện não tâm đồ; siêu âm ổ bụng; nội soi dạ dày. Tôi hỏi ông tôi chỉ khám có mỗi họng, sao lại phải làm nhiều thứ thế, ông bảo phải làm tổng hợp để có kết luận chính xác căn nguyên của bệnh, vì trong thực tế bệnh nọ nếu để lâu không chữa rất hay xọ sang bệnh kia. Giải thích xong, ông bác sĩ bảo tôi sáng mai nhịn ăn, nhịn uống  để đến làm các xét nghiệm và siêu âm.

Sáng hôm sau tôi đến phòng khám, một nhân viên dẫn tôi đi lấy máu, nước tiểu; lấy xong cô cầm ra, đưa cho một thanh niên phóng xe máy đi thuê xét nghiệm tại một bệnh viện công. Rồi cô nhân viên lại dẫn tôi sang một phòng khám tư nhân khác để điện não tâm đồ; rồi lại một phòng khám khác để nội soi.

Mười giờ, tôi có đủ mọi kết quả xét nghiệm, điện não tâm đồ, siêu âm, nội soi. Ông bác sỹ hôm qua đọc các kết quả xong, kết luận tôi bị viêm họng, họng sưng có mủ và ghi cho tôi một đơn thuốc gồm tám loại. Dặn dò phải ra đúng cái hiệu thuốc Hoàn Mỹ mà mua mới có thuốc mà ông kê, không những thế thuốc ở đấy không có thuốc giả, đảm bảo chỉ uống năm ngày là bệnh khỏi hoàn toàn.

Tiền xét nghiệm, điện não tâm đồ, nọi soi, siêu âm hết bốn trăm ngàn đã làm tôi giật mình nhưng khi trả tiền cho đơn thuốc tôi còn thót tim hơn, những sáu trăm tám lăm ngàn. Tôi thốt lên thành tiếng:

- Chỉ là viêm họng thôi sao nhiều tiền thế?

Cô bán thuốc không thèm nhìn tôi, đáp:

- Bác sỹ kê toàn thuốc của Mỹ, Pháp, thuốc này uống mới có chất lượng chứ ham rẻ uống thuốc nội có đến mục thất cũng không khỏi.

Tôi cắn răng móc ví trả tiền, cô bán thuốc ở hiệu bên cạnh nhìn thấy tôi nhăn nhó, cười hỏi tôi có ngửi thấy mùi hoa hồng không? Tôi bảo làm gì có hoa hồng mà ngửi? Cô cười  ngặt ngẽo như thể tôi đang cù nách cô.

Uống xong năm ngày thuốc mà cổ họng vẫn không thấy hết vương vướng, tôi lại ra phòng khám tư hôm nọ để bác sỹ khám lại. Vẫn ông bác sỹ về hưu bữa trước đi làm thêm khám cho tôi, ông bảo mua tiếp thuốc theo đơn cũ, uống năm ngày nữa. Người tôi mệt mỏi, chẳng còn hơi sức để phi xe đến cái hiệu thuốc Hoàn Mỹ nữa, tôi tạt ngay vào một hiệu thuốc trên đường Minh Khai để mua. Tôi móc sẵn ra sáu trăm tám mươi lăm ngàn, nhưng mà lạ chưa, chỉ hết có bốn trăm mười lăm ngàn, ông bán thuốc có khuôn mặt rất phúc hậu còn bảo một số thuốc như thuốc ngủ, thuốc bổ, thuốc hạ sốt có thể chẳng cần phải dùng đến cho đỡ tốn tiền.

Thêm bốn ngày uống thuốc nữa trôi qua, họng tôi vẫn vương vướng. Tôi cầu trời khấn phật cho ngày thứ mười cuối cùng, cái họng của tôi trở lại bình thường nhưng khốn khổ cái thân tôi, bệnh cũ chưa khỏi thì bệnh mới đã xuất hiện. Chả là uống quá nhiều kháng sinh mạnh nên mồm tôi bị nhiệt, hễ cứ ăn cái gì vào, nhất là nước mắm thì  buốt đến tận xương tuỷ. Người tôi bắt đầu ngây ngấy sốt. Vợ tôi tức tốc gọi điện về quê bảo cậu em mang lên một cân bột sắn thứ thiệt để tôi uống cho khỏi cái bệnh” lở mồm, long móng”.

Ngày thứ mười một, vẫn vương vướng, tôi quyết định đi khám bệnh viện công. Tôi đến bệnh viện lúc tám giờ thì đã thấy gần trăm người đang ngồi chờ khám ở phòng bảo hiểm, tôi xếp sổ vào ô, đợi đến gần mười giờ vẫn chưa đến lượt. Thấy một người đến sau tôi đã khám được, tôi bổ theo bà ta hỏi bí quyết, bà giơ ngón tay ra đêm đếm, tôi hiểu ý đi lại ô xếp sổ, lấy cuốn y bạ, kín đáo kẹp vào đó một tờ năm mươi ngàn, chỉ ba phút sau, tôi có số vào phòng khám. Đến phòng khám số 1, lại phải chờ đến lượt. Tôi nghĩ mình đã bồi dưỡng cho cô ghi số rồi thì thế nào họ cũng ưu tiên cho tôi nên tôi bảo với cô y sĩ ngồi ở ngay cửa phòng khám rằng tôi tôi đang rất bận, tôi đã nói với cô ghi số rồi, cô có thể cho tôi vào khám trước được không? Cô hất hàm:

- Đợi theo thứ tự!

Tôi đi ra nhà vệ sinh, rút một tờ năm mươi ngàn nữa kẹp vào sổ y bạ rồi quay lại phòng khám. Sau khi đã đút tờ năm mươi ngàn vào túi áo Blu, cô y tá dịu dàng bảo tôi đợi một tí, ghi xong cho một bênh nhân, cô cầm cuốn y bạ của tôi dẫn thẳng đến phòng ông trưởng khoa cách đó ba phòng.

 Nhìn thấy tấm biển đeo trên ngực ông trưởng khoa có đề học vị tiến sỹ, tôi đã mừng thầm, cuối cùng thì nguyện vọng được tiến sỹ khám của tôi cũng thấu được đến trời cao qua những lần tôi cầu khấn. Ông trưởng khoa hỏi tôi, tôi kể lại toàn bộ diễn biến từ lúc ăn nhậu đến khi đi khám tư, uống hết mười ngày thuốc mà vẫn chưa khỏi. Ông bảo tôi há mồm ra, tôi há, ông chiếu đèn xem xét. Xem xong họng, ông  xem đến cái đơn thuốc mà tôi đã uống:

- Toàn những loại thuốc tốt nhất thế giới mà vẫn không khỏi à? - Ông bác sĩ có vẻ trầm ngâm, ngước nhìn tôi một lúc, ông hỏi:

- Nhà anh có ai bị tiền sử bị ung thư vòm họng không?

Tôi choáng váng, phải cố hết sức tôi mới không bị ngã lộn cổ xuống đất. Mãi một lúc sau tôi mới cất nổi lời, kể với ông về trường hợp ông chú tôi. Nghe xong, bác sỹ ghi cho tôi một loạt các xét nghiệm, chụp chiếu. May mắn làm sao, do có sự phòng xa nên sáng nay tôi đã nhịn ăn cháo và uống nước, như vậy là có thể thử máu, nước tiểu được ngay mà không phải đợi đến sáng mai. Rút kinh nghiệm, cứ đến cửa phòng nào là tôi lại kẹp vào cuốn sổ y bạ tờ năm ngàn, và dù có hàng chục người đang xếp hàng chờ trước tôi thì tôi vẫn được tiếp đón theo đúng tinh thần lương y như từ mẫu và được ưu tiên khám trước. Cũng có một vài ông, bà già khó tính thắc tại sao tôi đến sau mà lại được vào trước thì được giải thích rằng tôi là trường hợp cấp cứu, hoặc là thương binh.

Đầu giờ chiều tôi đến lấy kết quả xét nghiệm, chụp chiếu rồi quay lại phòng bác sỹ trưởng khoa. Xem kết quả xong ông ân tình bảo tôi có lẽ tôi bị ung thư vòm họng giai đoạn đầu. Mặt tôi tái mét, bác sĩ khuyên tôi nên bình tĩnh, cũng may mà phát hiện sớm, mổ ngay thì không sao, chứ để lâu thành di căn thì vô phương. Tôi khẩn thiết nhờ ông trưởng khoa trực tiếp mổ cho tôi, ông bảo ông bận lắm, ngoài làm ở bệnh viện, ông còn phải tham gia giảng dạy và nghiên cứu khoa học. Tôi nhìn ra cửa, chỉ sợ cô y sĩ ban sáng lại dẫn một người bệnh vào nữa nhưng vẫn cửa đóng, không có tiếng gõ cửa, cũng không thấy ai thập thò, tôi rút ví lấy ra năm tờ một trăm ngàn đưa cho ông, gọi có  chút bồi dưỡng ban đầu, mong ông trực tiếp mổ cho, nếu được toại nguyện sau này sẽ có bồi dưỡng chính thức, xứng với công lao và trí tuệ của ông. Lúc đầu ông trưởng khoa từ chối nhưng thấy tôi nhiệt tình, lại còn nói rằng tôi đã từng nghe đến tên tuổi ông là một bác sĩ nổi tiếng, ai mà được ông chữa bệnh, mổ thì thần may mắn luôn mỉm cười; cái đoạn này tôi cố bịa ra, song hiệu quả lại có thật, ông cầm tiền bỏ vào ngăn kéo bàn rồi hứa sẽ xếp lịch hội chuẩn và trực tiếp mổ cho tôi. Tôi xiết chặt tay ông, lòng biết ơn vô bờ vô bến.

Tôi về nhà, thần chết treo lơ lửng trên đầu, chưa lúc nào tôi lại ham sống sợ chết như lúc này. Vợ tôi thuộc vào loại xinh xắn, còn quá trẻ, thua tôi những mười lăm tuổi, chúng tôi mới có một đứa con trai mười tám tháng tuổi; tôi chết đi, nhất định nàng sẽ đi bước nữa. Cứ nghĩ đến cảnh một thằng đàn ông khác đến ngôi nhà này chung sống với nàng, tim tôi lại nhoi nhói. Ngôi nhà trị giá hai tỷ ba trăm triệu này do chính đôi bàn tay tôi làm nên trước khi tôi cưới nàng và có lẽ nàng đồng ý lấy tôi phần vì tôi có một chút học thức, khá đẹp trai và phần vì tôi có sẵn ngôi nhà này. Đất đai ở Hà Nội đang vào thời điểm đắt đỏ, một công chức có nằm mơ cũng chẳng có nổi hai mươi mét vuông đất chứ đừng nói ngôi nhà bốn tầng, diện tích sàn bảy mươi mét vuông như của tôi. Hồi tôi mua mảnh đất này chỉ có năm trăm ngàn một mét vuông, cả thảy là ba tư triệu hai trăm ngàn đồng, ông chủ bớt cho  ba trăm ngàn để tôi lấy lộc; chỉ hai năm sau, cơn sốt đất lên cơn giật đùng đùng, có người trả tôi một tỷ, rồi tỷ rưỡi, tỷ bảy nhưng tôi không bán, quyết định gom góp chút vốn liếng cuối cùng và vay thêm ba trăm triệu để xây nhà. Tôi phải kiệt sức, mất gần ba năm làm thuê, dịch thuê tiếng Anh, đánh quả mới trả hết nợ nhà. Thế rồi trong một lần khiêu vũ, tôi gặp nàng. Nàng mặc bộ váy mỏng màu thiên thanh, ngay từ cái nhìn đầu tiên, tôi đã bị nàng hớp mất hồn. Phải lấy hết can đảm, tôi mới dám đi lại mời nàng nhảy điệu Tănggô. Người nàng áp sát người tôi, nhất là cặp vú nở nang của nàng thỉnh thoảng lại cọ cọ vào ngực, làm tôi ngất ngây cứ tưởng mình đang ở thiên đường. Xong điệu nhảy, tôi mời nàng ra bàn uống nước, qua tâm sự mới biết nàng quê ở Thái Bình, đang là sinh viên năm thứ tư trường đại học Ngoại ngữ, nàng có ước mơ ra trường tìm được việc làm ở thủ đô. Biết tôi còn độc thân, có nhà riêng, có việc làm ổn định, nàng rất có cảm tình với tôi. Thế rồi duyên số trời xe, đám cưới của tôi và nàng được tổ chức trước ngày nàng ra trường hai mươi ngày.

Tôi đã phải lìa xa cõi đời, mất nàng, mất cả ngôi nhà này ư? Đau buồn và nuối tiếc quá! Chợt một ý nghĩ vụt ra trong đầu tôi, theo Luật hôn nhân mới, tài sản trước khi kết hôn của ai thì sau khi ly hôn vẫn thuộc quyền sở hữu của người ấy; nếu ly hôn thì ngôi nhà này vẫn hoàn toàn là của tôi, nhưng nếu tôi chết đi thì nó lại thuộc quyền thừa kế của vợ. Phải rồi tôi sẽ ly hôn để phòng khi có đi theo ông chú  thì tôi sẽ viết di chúc thừa kế lại duy nhất cho thằng con trai tôi; trong bản di chúc, tôi sẽ nói rõ, ngôi nhà chỉ để ở chứ không được bán nếu con tôi chưa đủ tuổi công dân và mẹ nó nếu chưa đi lấy chồng khác có thể về chung sống với con nhưng không được sở hữu ngôi nhà; đặc biệt khi đi lấy chồng sẽ không được đưa người chồng mới về ở ngôi nhà này.

Sau khi nghe tôi nói, bệnh tình của tôi khó mà qua khỏi, nếu ca mổ thành công, tôi  cũng chỉ kéo dài thêm sự sống tối đa năm năm nữa, tôi  muốn ly hôn, nhận nuôi con để giải phóng cho nàng càng sớm càng tốt để nàng có điều kiện tìm kiếm cho mình một người chồng mới xứng đánh với nàng; nàng đã khóc nức nở. Nàng khóc vì thương tôi, khóc vì tấm lòng hy sinh của tôi và khóc cả cho thân phận nàng còn trẻ mà đã phải goá bụa.

- Không!- Nàng thổn thức- Em không thể bỏ mặc anh trong lúc này.

Sự quan tâm và tấm lòng thuỷ chung của nàng đã làm tôi rơi nước mắt, tôi đành phải xuống giọng nói với nàng để tôi suy nghĩ lại, nhưng trong thâm dù tôi rất yêu nàng, mong muốn được sống mãi mãi bên nàng nhưng tôi không thể ích kỷ, giết chết cuộc đời của nàng.

Tôi nói với nàng là thế nhưng chẳng kịp để suy nghĩ, ông bác sĩ trưởng khoa đã điện di động cho tôi biết  tuần sau ông phải đi công tác nước gấp, hộ chiếu đã làm xong  nhưng đã trót hứa với tôi nên ngay ngày mai tôi phải đến bệnh viện, sáng  hội chuẩn, chiều mổ ngay.

Mọi thứ tôi đã chuẩn bị sẵn sàng nhất là tiền. Để tập trung cho ca mổ tôi đã trù liệu hai mươi triệu chẵn; tám triệu cho tiền thuốc và viện phí, năm triệu bồi dưỡng cho ông trưởng khoa như đã hứa, bốn triệu bồi dưỡng cho kíp mổ, số còn lại bồi dưỡng cho y tá, y sĩ kẻo không có, mỗi khi tiêm cô lại ngoáy cho một cái thì đau lắm như nhiều người kể lại.

Ngày mai tôi sẽ lên bàn mổ, lẽ ra tôi phải bình tĩnh, tự tin nhưng vì phải uống quá nhiều thuốc kháng sinh mạnh, vì tốn quá nhiều tiền và quá sợ chết nên người tôi gày rộc đi như các xác ve, tinh thần tôi hoảng loạn. Đã thế đài báo ngày mai có gió mùa Đông Bắc, nhiệt độ xuống 12 độ C; trời lạnh chắc là mổ xong, hết thuốc mê sẽ đau buốt lắm!

Quả nhiên đêm đó gió mùa Đông Bắc đổ về ầm ầm, mặc dù chăn ấm, nệm êm, vợ ôm chặt nhưng tôi vẫn cảm thấy hình như tất cả cái lạnh trong trời đất đang lùa vào từng thớ thịt của tôi. Sáng hôm sau, tôi vốn rất nhạy cảm với thời tiết nên vừa bước ra khỏi giường, tôi đã sổ ra một tràng:

- Hắt, hắt xì hơi! Hắt xì xì hơi!

Có cái gì đó trăng trắng bắn ra khỏi mồm và tự nhiên họng  tôi hết vương vướng. Tôi quỳ xuống tìm kiếm vật đã cứu sống tôi thoát khỏi lưỡi hái của tử thần. Chúa ơi thì ra đó là một mẩu gân bò dai nhách!

Người Tài

VŨ ĐẢM

Tài tốt nghiệp thủ khoa Cao học, thông thạo tiếng Anh chẳng kém gì tiếng mẹ đẻ. Một công ty nước ngoài đóng tại Hà Nội mời Tài vào việc với mức lương 500 đôla một tháng nhưng nghe theo lời mời chào chiêu hiền đãi sĩ của quê hương, Tài quyết định khăn gói về quê với khát khao phát triển được tài năng và góp sức mình xây dựng quê hương ngày càng giàu đẹp.

Tài được nhận biên chế ngay vào Sở Khoa học tỉnh mà không cần qua hợp đồng thử thách; được ở nhà công vụ 60m2, được cấp 20 triệu đồng để mua xe máy. Còn về tiền lương, Tài được đặc cách hưởng chế độ lương theo tiêu chuẩn trọng dụng nhân tài của tỉnh, nghĩa là gấp 4 lần so với mức lương hiện hành của một kỹ sư mới ra trường. Sự kiện này được báo tỉnh đăng tải trên trang nhất, được đài truyền hình tỉnh làm hẳn một phóng sự phát trên chương trình thời sự. Cả làng Tài, từ người già đến trẻ con nhìn thấy Tài trên báo, trên truyền hình thì tự hào lắm. Còn gia đình ông Tần, thân sinh của Tài thì khỏi phải nói, suốt một tuần liền cả nhà tấp nập khách khứa đến hỏi thăm, chức mừng; ra đến đường chưa kịp cất lời chào thì người ta đã:” A, chào bác Tần, thật vinh dự cho làng ta…”.

Tài được bố trí làm việc ở phòng Nghiên cứu khoa học, thật là một công việc thỏa với chí lớn của Tài, Tài sẽ có  điều kiện nghiên cứu thành công nhiều đề tài khoa học lớn, có ứng dụng thiết thực trong cuộc sống, đem lại hiệu quả kinh tế to lớn. Hôm đầu tiên đi làm việc, đích thân ông giám đốc Sở dẫn Tài đến các phòng để giới thiệu. Buổi trưa, Sở mở tiệc chiêu đãi  Tài, buổi chiều phòng Nghiên cứu chiêu đãi, cả ngày hôm ấy Tài mệt lử người vì rượu, bia và   những lời chúc tụng.

Ngày hôm sau, đúng 7 giờ 30- giờ qui định của Nhà nước, Tài đến cơ quan, ông bảo vệ ngạc nhiên hỏi Tài sao đến sớm thế? Tài ngạc nhiên hỏi ông sao giờ này mà cơ quan vẫn chưa có người nào? Hay là mọi người đi họp, đi công tác hết? Ông bảo vệ giải thích rằng nội qui thì qui định giờ giấc thế nhưng cơ quan nghiên cứu khoa học, ai lại quản về giờ giấc, vấn đề là công trình nghiên cứu, là hiệu quả công việc. Tài ngồi uống trà với ông bảo vệ đến gần 9 giờ thì mới thấy cửa phòng Nghiên cứu hé mở. Quên cả cảm ơn ông bảo vệ, Tài rảo bước về phía phòng mình. Trong phòng mới chỉ có phó phòng Quảng, Tài chào anh, anh Quảng ờ ờ đáp lại, rót trà, đẩy chồng báo về phía Tài. Tài cầm một tờ lên xem, một lúc sau cả phòng mới đến đông đủ, quây quần bên bàn trà, đọc báo, uống trà, chuyện trò rôm rả:

- Sáng hôm qua ra ngõ gặp con mẹ bán thịt xui quá, chiều quất 50 ngàn con đề 17, tối ra 71!

- Phải đánh lộn chứ,  ăn dày quá chết là phải!

- Sáng ngày lộn tiết với con vợ, túi còn hai trăm ngàn, nó lột mất nửa.

- Này, con chó nhà ông đẻ chưa, để cho tôi một con nhé!

Gần 10 giờ, hết hai tuần trà, chuyện vãn, người nào về bàn người nấy. Tài cũng về bàn của mình, một cái bàn mới được kê bên cạnh cửa sổ. Nhìn bàn ghế của mọi người, cái thì bong mặt, cái thì mối xông cụt chân phải kê gạch, Tài hiểu rằng, ngay cả bộ bàn ghế của mình cũng nằm trong tiêu chuẩn của người tài.

Phó phòng Quảng đem đến cho Tài một tập tài liệu cũ bảo Tài  xem được cái gì thì xem, còn không có thể ngồi đọc báo, vào mạng internet xem tin tức hoặc xem mấy trang Web tươi mát, gần nửa năm nay Sở chưa nhận được đề tài nghiên cứu nào.

Hôm sau, lại uống trà, đọc báo, đọc tài liệu, thấy Tài ngáp ngắn ngáp dài, anh Quảng đến hỏi Tài có biết chơi cờ Vua không? Tài bảo hồi sinh viên cũng thỉnh thoảng chơi vài ván, anh Quảng kéo Tài sang phòng trưởng phòng Mại, vẻ hồ hởi như vừa được tăng lương:

- Báo cáo anh, cậu Tài không chỉ tài về khoa học mà còn tài về cái món cờ Vua mà anh đam mê.

- Thế hả? Tốt lắm, thử  tài người tài một ván xem nào.

Trưởng phòng Mại nói xong, mở tủ lấy ra bộ bàn cờ Vua rất đẹp, bàn làm bằng đá màu đỏ còn quân cờ bằng gỗ. Ông bày cờ, giơ tay mời Tài. Tài miễn cưỡng cầm quân trắng đi trước. Lúc đầu Tài nghĩ cũng chỉ hầu ông một  vài ván chơi chơi nhưng khi vào cuộc lại dồn nhiều tâm sức thành ra làm cho ông Mại thua liên tiếp hai ván liền. Anh Quảng lấy chân giẫm lên chân Tài, đau đến nỗi Tài giãy nảy cả người lên, Tài tưởng anh Quảng sơ ý giẫm vào chân mình nên rụt chân lại, tiếp tục chơi cờ. Xong ván thua thứ ba, ông Mại đỏ mặt, vỗ vai Tài:”Khá!Khá lắm! Đúng là người tài!”. Ra khỏi phòng, anh Quảng hỏi:

-Tớ giẫm chân lên chân cậu mà cậu không biết à?

- Sao thế anh?

- Khổ quá, ông Mại rất đam mê đánh cờ nhưng không cao cờ, ngày nào trong giờ hành chính tớ chả hầu ông ấy mấy ván nhưng đánh ba ván thì tớ chỉ thắng hoặc hoà một còn thua hai mặc dù mình có thể thắng tất. Nhìn lối đi của cậu, tớ biết cậu vào loại siêu cờ đấy nhưng đánh với trưởng phòng mà thắng hết là hỏng ăn đấy.

- Sao thế ạ?- Tài có vẻ ngạc nhiên. Phó phòng Quảng lắc đầu nói với Tài rằng ở đời sống khó lắm.

Suốt mấy tuần liền, Tài đến cơ quan chỉ để uống trà, đọc báo, đọc tài liệu, thỉnh thoảng cũng được cơ quan cử đi dự một vài cuộc họp của Sở này, Ban nọ, lấy tài liệu, lĩnh năm mươi ngàn phong bì rồi về. Đang lúc chán nản thì ông giám đốc Sở gọi Tài lên giao nhiệm vụ:

- Sở ta vừa ký được một hợp đồng nghiên cứu với Sở Công nghiệp về đề tài ”Bụi khói công nghiệp”, tôi giao cho cậu làm chủ đề tài.

- Dạ, cháu sẽ hết sức cố gắng -  Tài cảm động đáp. Giám đốc Sở động viên Tài:

- Trong lịch sử 40 năm ra đời và phát triển của Sở ta, đây là lần đầu tiên một cán bộ trẻ, mới về công tác được làm chủ một đề tài nghiên cứu khoa học, đó là nhờ có chính sách chiêu hiền, đãi sĩ của tỉnh ta nên cậu phải hết sức cố gắng hoàn thành trong vòng hai tuần cái đề tài này.

- Hai tuần?- Tài trợn tròn mắt.

- Đúng hai tuần, vì đây là đề tài ngẫu hứng, chả là chỉ còn ba tuần nữa, Sở Công nghiệp sẽ long trọng tổ chức lễ kỷ niệm 50 năm thành lập, họ muốn có một công trình khoa học để đưa vào bản báo cáo thành tích vì thế họ mới ký hợp đồng với ta.

Tài lắc đầu từ chối, bảo rằng với một đề tài khoa học như thế này, ít nhất cũng phải năm tháng mới có thể hoàn thành. Ông giám đốc lắc đầu bảo thế có mà ăn cám, rồi ông giao đề tài này cho trưởng phòng Mại. Tài tưởng ông Mại, nếu không dám từ chối thì cũng xin kéo dài thời gian nghiên cứu, nhưng không, ông rất hồ hởi, lại còn hứa sẽ chỉ gói gọn trong mươi ngày là có thể nghiệm thu được!

Còn hơn cả sự ngạc nhiên của Tài, chín ngày sau, đề tài nghiên cứu khoa học”Bụi khói công nghiệp” đã được hoàn thành và nghiệm thu với kết quả xuất sắc.

Thì ra để có được thành công đến mức chóng mặt này, trưởng phòng Mại  đã truy cập vào internet, lôi ra một đề tài tốt nghiệp ”Bụi khói than tổ ong” của một sinh viên ở Hà Nội rồi đem xào xáo thành đề tài ”Bụi khói công nghiệp”.

Sáu tháng sau ngày nghiệm thu, Tài đang loay hoay xu dọn lại căn phòng để chuẩn bị đón cái Tết đầu tiên trong cuộc đời công chức của mình thì nghe thấy tiếng rao của một chị đồng nát, Tài gọi chị vào để bán ít giấy, báo cũ cho đỡ chật nhà. Nhìn thấy chị đồng nát má hóp, tay nổi đầy gân guốc, Tài thấy thương chị quá, bảo cho không chị đống giấy báo này, chị xúc động lắm, cảm ơn Tài rối rít. Trong lúc chị đang xếp đống giấy, báo của Tài thì chợt mắt Tài nhìn thấy một tờ giấy lòi ra trong mớ giấy báo lộn của chị đồng nát, trên tờ giấy có cái chữ ngoằn ngèo dài ngoẵng rất quen mắt. Tài cúi xuống lôi cả tập giấy ra, mới hay đó là đề tài”Bụi khói công nghiệp”; chữ ký quen quen kia  chính là của ông  giám đốc Sở Khoa học kiêm chủ tịch Hội đồng khoa học.

Đầu năm mới, một vận hội mới lại đến với Tài, vẫn theo tư tưởng trọng dụng hiền tài, ông giám đốc Sở cho gọi Tài lên bảo:

- Lần trước, thời gian ngắn quá, cậu không nhận, lần này Sở vừa ký được một hợp đồng nghiên cứu với một huyện, thời gian từ lúc triển khai nghiên cứu đến khi nghiệm thu có thể kéo dài đến hết quí hai, nghĩa là vừa tròn sáu tháng. Lần này thì cậu không từ chối chứ?

- Đề tài gì vậy chú?- Tài có vẻ hồi hộp.

- Đề tài cụ thể thì chưa xác định rõ, nhưng đại khái là chiến lược áp dụng khoa học kỹ thuật để tiến lên công nghiệp hóa  ở một huyện thuần nông.

Sau khi bàn bạc với ông giám đốc Sở, Tài đồng ý nhận tìm kiếm và làm chủ đề tài cùng với năm cộng sự. Sau mười ngày, Tài trình giám đốc Sở bản đề án về đề tài nghiên cứu:” Áp dụng khoa học kỹ thuật để khôi phục và phát triển lại cây lúa tám thơm Hạ”. Sau gần sáu tháng miệt mài điều tra số liệu, phân tích đánh giá tiềm năng của người, của đất trong huyện, Tài đã hoàn thành xuất sắc đề tài. Nộp đề tài  cho giám đốc Sở, Tài tràn ngập niềm tin và hy vọng vào đề tài nghiên cứu  đầu tiên trong cuộc đời khoa học mà Tài nguyện cả đời hiến dâng. Quả là lúc đầu nhận đề tài, Tài lo lắng lắm, vì mình chưa có kinh nghiệm, hàng chục con mắt trong Sở lại đều đổ dồn vào Tài; khâm phục có, ngờ vực có, và ghen ghét cũng có. Nhưng thực tiễn, đúng thực tiễn vô giá mà muôn năm đã giúp Tài mở sáng con mắt, mở sáng tầm nhìn và tư duy. Hoá ra khi còn ngồi trên giảng đường, Tài chỉ được học lý thuyết; ngay cả khi học Cao học, Tài cũng chỉ chủ yếu học thông qua lời giảng của thầy, trên sách vở, nghiên cứu trên tài liệu là chính nên nó quá xa rời với thực tế. Ấy là Tài học bằng thực lực chứ không như nhiều người, nhất là các quan chức học Cao học, nghiên cứu sinh, họ học chủ yếu bằng phong bao, ngay cả luận án tốt nghiệp cũng thuê thầy viết với giá hàng chục triệu đồng.

Vừa kết hợp nghiên cứu thực tế trên đồng ruộng vừa điều tra, ghi chép tỷ mỷ kinh nghiệm của gần một trăm nông dân đã từng cấy lúa tám thơm ở ba xã Hạ Trung, Hạ Lưu và Hạ Thượng đã cho thấy cách đây hàng chục năm, huyện đã từng có  loại gạo tám thơm Hạ, cái tên gạo mang chữ đầu tiên của một loạt tên xã có cấy lúa tám thơm. Gạo tám thơm Hạ đã từng  trở thành  loại gạo đặc sản nổi tiếng cả nước vì nhiều tính ưu việt của nó; dẻo, bổ dưỡng và nhất là mùi thơm, chỉ cần nhà ai đó thổi cơm gạo tám thơm Hạ thì đi vào đầu ngõ đã ngửi thấy mùi thơm phưng phức. Gạo tám thơm Hạ từng được coi là món quà quí giá để cấp dưới biếu cấp trên trong dịp ngày Tết, lễ hội; đã từng được người nông dân nấu ăn trong ba ngày Tết hoặc trong những ngày giỗ chạp; thế nhưng vào những năm đói kém, người ta đã đồng loạt thay thế giống lúa tám thơm Hạ bằng một giống lúa lai có năng xuất cao mà cơm ăn như củi mục để giải quyết khâu đói. Dần dần, cây lúa tám thơm bị mai một. Bây giờ nếu có vốn đầu tư, biết áp dụng khoa học kỹ thuật để khôi phục và phát triển cây lúa tám thơm Hạ trở thành thương hiệu, không những bán trong nước mà còn đem xuất khẩu thì chẳng những xoá được cái đói, giảm được cái nghèo mà còn tiến tới làm giàu được, chính vì vậy mà Tài rất tâm huyết, quyết dồn hết sức lực và trí tuệ vào đề tài này. Ngay như cụ Chiên, một lão nông tri điền đã bước vào cái tuổi bảy lăm  ở xã Hạ Trung, thấy Tài ngày đêm nghiên cứu về vấn đề mà cụ thấy lợi cho dân làng đã mời Tài về nhà mình ở, cơm nước miễn phí, không những thế cụ còn dành một sào ruộng để Tài làm thí nghiệm. Đề tài nghiên cứu” Áp dụng khoa học kỹ thuật để khôi phục và phát triển cây lúa tám thơm Hạ” đã thành công bước đầu, chỉ cần thực nghiệm thêm một thời gian nữa là có thể triển khai trên diện rộng. Tài vui sướng và tràn đầy hy vọng đề tài sẽ được thông qua và triển khai nhưng ông giám đốc Sở đã gọi Tài lên phòng, lắc đầu:

- Có hai vấn đề mà đề tài sẽ khó được huyện chấp nhận.

- Vấn đề gì vậy hả chú?- Tài ngỡ ngàng.

- Trước khi bắt tay vào nghiên cứu, tôi đã lưu ý với cậu là phải chọn đề tài gì nó gắn với công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Nhưng sau đó cậu lại thay đổi, lúc đó tôi bận quá nên cũng ừ hữ cho xong, nhưng cái tay Phó chủ tịch huyện nó cằn nhằn lắm.

- Thì nghiên cứu cây lúa tám thơm cũng là theo hướng xuất khẩu, công nghiệp đó thôi!- Tài thanh minh.

- Mình là nhà khoa học, tư duy có thể hiểu được nhưng họ sẽ không ưng cái bụng đâu, ngàn đời nay nói đến cây lúa là nói  đến nông nghiệp, đến nông dân, mà huyện người ta đang cần một cái gì gắn với công nghiệp hóa to to một tí để chứng minh là họ đang thoát khỏi nông nghiệp, tiến lên công nghiệp. Nhưng thôi, tôi sẽ chịu khó thuyết trình với tay Phó chủ tịch huyện, chắc là được vì đề tài nghiệm thu xong, họ cũng đem cất vào tủ khoá kỹ ấy mà.

- Giống như cái đề tài...Tài vội vã dùng lời, trong đầu hiện lên cái đề tài “Bụi khói công nghiệp” nằm trong đám giấy lộn của chị đồng nát.

- Nhưng còn cái này thì cậu không thể không sửa - Ông giám đốc Sở đưa Tài trở lại hiện thực - Trong phần điều tra năng lực con người, cậu đưa ra con số 40% nghèo, 20% đói ăn là đi ngược lại với bản báo cáo thành tích của huyện là 45% số dân trong huyện đủ ăn, 33,8%% khá giả và giàu có.

- Nhưng đó là con số thật, nếu sai cứ kỷ luật cháu - Tài mím môi khẳng định.

- Tôi biết cậu rất trung thực nhưng trong khoa học còn có cả vấn đề chính trị. Con số của cậu dù đúng nhưng họ không chấp nhận và tất nhiên họ sẽ không rót tiền cho ta. Cậu ơi, thời buổi người khôn, của hiếm, cái tay Phó chủ tịch huyện ấy là bạn thân của tôi mà tôi cũng phải hoa hồng lại 50%; 50% còn lại cũng chỉ dám chi 30% cho nghiên cứu còn 20% chui vào phong bao cho Hội đồng nghiệm thu và bữa liên hoan vỗ tay. Cậu nghe tôi sửa lại số liệu kẻo mất miếng cơm manh áo của anh em trong cơ quan. Mỗi năm, ngân sách tỉnh chỉ nhỏ giọt cho Sở ta số tiền đủ cho trả lương cứng, điện nước, điện thoại, xăng xe, còn trăm thứ bà rằn phải chi, cậu hiểu cho tôi. Sau này nếu làm giám đốc Sở rồi cậu cũng phải lao vào vòng xoáy kiếm tiền để tồn tại chứ chả còn thời gian giành cho khoa học đâu!

Tài nói với ông giám đốc Sở, làm khoa học, trước hết phải trung thực, sau đó mới đến tài năng, nếu khoa học mà gian dối thì khi đem áp dụng trong thực tế nó sẽ gây nên hậu quả khôn lường, có thể biến một huyện, một tỉnh giàu có thành nghèo đói. Tài thà bỏ lên Hà Nội đi rửa bát thuê chứ quyết không làm khoa học giả dối. Ông giám đốc Sở chuyển sang giọng thân mật, ông bảo ông rất quí Tài không những về tài năng mà còn cả về tính trung thực, nhưng thời buổi này có tài mà sống thẳng thắn chỉ thiệt cái thân; Tài được tỉnh đãi ngộ, cũng không nên vin vào đó để sống. Tài nói rằng, người tài cần nhất có đất để dụng võ chứ không hẳn là bổng lộc. Hết tranh luận rồi đến thân mật nhưng chẳng bên nào chịu thua bên nào, cuối cùng cái đề tài nghiên cứu khoa học mà Tài tâm huyết được ông giám đốc Sở cất vào tủ. Tài buồn lắm, làm đơn xin thôi việc, trả lại nhà công vụ, trả lại xe máy, khăn gói ngược lên Hà Nội để tìm kiếm thời cơ phát triển tài năng.

Cuối năm, ông giám đốc Sở Khoa học đi Hà Nội để ôn thi nghiên cứu sinh, tuy ông đã có cửa đi hết ba mươi triệu nhưng môn tiếng Anh vẫn làm ông lo ngay ngáy. Ông nhờ  người em họ kiếm cho một gia sư tiếng Anh cấp tốc, với điều kiện phải giỏi và biết cách  dạy dễ hiểu, tiền nong không thành vấn đề. Người em bảo yên tâm sẽ giới thiệu cho ông một trí thức thất nghiệp, đang đi dậy tiếng Anh để kiếm sống, đáp ứng được yêu cầu của ông.

Buổi học đầu tiên, để lấy được cảm tình của thầy, ông giám đốc Sở pha hai ly cà phê để thầy trò nhâm nhi, trò chuyện, cà phê vừa pha xong thì có tiếng gõ cửa. Ông vội vã đi ra mở cửa, vừa trông thấy thầy gia sư, ông thốt lên: Cậu Tài!

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro