van mau

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

ĐÂY LÀ SƯỜN BÀI, CÁC EM TỰ LÀM NHÉ!

Trong tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xacủa nhà văn Nguyễn Minh Châu, nhân vật để lại ấn tượng sâu sắc nhất chongười đọc là người đàn bà làng chài - người phụ nữ vô danh với tấm lòngbao dung, vị tha, đức hi sinh cao thượng mà khiến khi gấp trang sáchlại ta không thể nào quên.

Đểtạo nên hình tượng người đàn bà  ấy nhà văn đã tạo ra tình huống truyệnđộc đáo và từ tình huống độc đáo này mà nhân vật dần hé lộ số phận:

       Truyện được kể lại qua lời của nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng, một ngườilính vừa bước ra từ cuộc chiến tranh nhiều đau thương mất mát. Phùngđược dịp trở về chiến trường xưa để chụp một bức tranh cảnh biển theolời đề nghị của trưởng phòng. Tại đây anh đã phát hiện ra một bức tranhcảnh biển có một không hai(dẫn chứng) . Nhưng đằng sau chiếc thuyền đẹpnhư trong mơ ấy lại là một cảnh tượng phũ phàng: người chồng vũ phu,thô bạo hành hạ người đàn bà bằng những trận đòn thù, người đàn bà nhẫnnhục chịu đựng (dẫn chứng). Phùng từ sung sướng đến ngạc nhiên, sững sờsửng sốt. Nghịch cảnh ấy khiến lòng anh tan vỡ.

Xuyênsuốt toàn bộ câu chuyện, hầu như người đọc không hề được biết đến têngọi của người đàn bà tội nghiệp ấy, NMC đã gọi một cách phiếm định: khithì gọi là người đàn bà

hàng chài, lúc lại gọi mụ, khi thì gọi chị ta.... Không phải nhà văn "nghèo" ngôn ngữ đến độ không thể đặt cho chị một cái tên mà là vì Chịcũng giống như hàng trăm người đàn bà ở vùng biển nhỏ bé này: CHỊ LÀNGƯỜI VÔ DANH. Dường như cuộc sống chẳng có gì đáng nói nhưng trong chịlại chứa đựng nhiều điều kì diệu khiến người khác phải suy nghĩ.

- Ngoại hình: trạc ngoài 40, hình dáng thô kệch, rỗ mặt, khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt và

gợi ấn tượng người đàn bà xấu xí, mệt mỏi dường như đang buồn ngủ.

Và cuộc đời nhọc nhằn, lam lũ, vất vả, đau khổ làm cho diện mạo chị đã xấu giờ trở nên thô kệch.

- Số phận: Bất hạnh

Dườngnhư mọi sự bất hạnh của cuộc đời đều trút cả lên chị, xấu, nghèo khổ,lam lũ, lại phải thường xuyên chịu những trận đòn roi của người chồngvũ phu, tổn thương, đau xót cho các con phải nhìn cảnh bố đánh mẹ...

+ Cái xấu đã đeo đuổi chị như định mệnh, suốt từ khi còn nhỏ

+Có mang với một anh hàng chài, đến mua bả về đan lưới, rồi thành vợchồng. Cuộc sống mưu sinh trên biển cực nhọc, vất vả, lam lũ, bấp bênh

+ Gia đình nghèo lại còn đông con, thuyền thì chật,...

+Bị chồng thường xuyên đánh đập, hành hạ: ba ngày một trận nhẹ, năm ngàymột trận nặng. Cứ khi nào lão thấy khổ quá là lại xách chị ra đánh, nhưlà để trút giận, như đánh 1 con thú, với lời lẽ cay độc" Mày chết đicho ông nhờ, chúng mày chết hết đi cho ông nhờ". Khi bị đánh chị khônghề kêu một tiếng, không chống trả, không tìm cách chạy trốn mà  coi đólà một lẽ đương nhiên.  Người đàn bà ấy nhẫn nhục, cam chịu, thầm lặng chịu đựng mọi đau đớn tất cả vì những đứa con.

Số phận đầy bi kịch được tác giả tái hiện đầy cảm thông và chia sẻ.

- Phẩm chất, tính cách:

+ Nhẫn nhục, chịu đựng:chị coi việc mình bị đánh đó như 1 phần đã rất quen thuộc của cuộc đờimình, chị chấp nhận, không kêu van, không trốn chạy. Khi được đề nghịgiúp đỡ thì : "Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng đượcnhưng đừng bắt con bỏ nó".

Chị hiểu cơ cực của của cuộc sống mưu sinh trên biển không có người đàn ông.

+ Yêu thương con tha thiết(" phải sống cho con chứ không thể sống cho mình")

       Nguyên nhân sâu xa của sự cam chịu chính là tình thương con vô bờbến của chị. Sự cần thiết của việc có người đàn ông làm chỗ dựa, đểchèo chống khi phong ba bão táp, cùng nuôi dạy các con " Đàn bà trênthuyền chúng tôi phải sống cho con, ko thể sống cho mình như trên đấtđược".

Tình thương vô bờ đối với những đứa con Phân tích ty của chịvới thằng Phác, chị gửi nó lên rừng, chị đau xót khi thấy nó vì thươngmẹ mà hận bố,....

=> Tình mẫu tử vút lên, trên cái nền của 1 cuộc sống cơ cực, ngang trái, đau đớn đầy xót xa .

+ Người đàn bà vị tha

Trongkhổ đau triền miên, người đàn bà ấy vẫn chắt lọc được những niềm hạnhphúc nhỏ nhoi ( "...nhìn con được ăn no, có khi vợ chồng, con cái sốngvui vẻ, hoà thuận")

+Người đàn bà thất học nhưng lại rất sắc sảo, thấu hiểu lẽ đời

Ý thức được thiên chức của người phụ nữ ("Ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con và nuôi con cho đến khi khôn lớn")

Vì hoàn cảnh: trong cuộc mưu sinh đầy cam go: thuyền ở xa biển, cần một người đàn ông khỏe mạnh, biết nghề.

Đólà sự cam chịu, nhẫn nhục đáng cảm thông, chia sẻ. Bởi nếu hiểu sự việcmột cách đơn giản chỉ cần yêu cầu người đàn bà bỏ chồng là xong. Nhưngnhìn vấn đề một cách thấu suốt thì suy nghĩ và cách xử sự của người đànbà là không thể khác được.

Đắng sau sự nhẫn nhục ấy làbản năng sinh tồn mãnh liệt và một tấm lòng yêu thương mê muội, đángthương. Người đàn bà hàng chài vừa lam lũ, chất phác, có tình thươngcon vô bờ bến, vừa luôn mang nỗi đau, vừa có cái thâm trầm trong việcthấu hiểu các lẽ đời.

Thấp thoáng trong người đàn bà ấy là bóng dáng của biết bao phụ nữ Việt Nam nhân hậu, bao dung, giàu lòng vị tha và đức hi sinh.

    Qua câu chuyện của người đàn bà, ta càng thấy rõ: Không thể dễ dãi,đơn giản trong việc nhìn nhận mọi sự vật, hiện tượng của cuộc sống,không thể có cái nhìn một chiều, phiến diện với con người và cuộc sống.Đây cũng ;à nét mới trong văn xuôi sau năm 1975 mà NMC chính là vị"khai quốc công thần của triều đại văn học mới".

Thầy Phan Danh Hiếu ( Thành phố Biên Hòa. Đồng Nai)

. Giới thiệu chung:

Nguyễn Minh Châu là nhà văn giàu tâm huyết, luôn trăn trở về một nền văn học xứng đáng với tầm vóc dân tộc và với sự kì vọng của nhân dân

- Từ cảm hứng sử thi lãng mạn, huyền ảo đã từng tạo nên vẻ đẹp rực rỡ trong các tác phẩm thời kì chiến tranh, cảm hứng của ông dần dần chuyển sang tính chất triết luận về những giá trị nhân bản đời thường, khám phá ý nghĩa bản chất con người trong cuộc mưu sinh, trong hành trình nhọc nhằn kiếm tìm hạnh phúc và hoàn thiện nhân cách. Hai tập truyện ngắn “Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành” (1983) và “Bến quê” (1985) đã đưa Nguyễn Minh Châu lên vị trí “Người mở đường tinh anh và tài năng” (Nguyên Ngọc) của văn học nước ta từ sau năm 1975.

- Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” được in lần đầu tiên trong tập “ Bến quê “, sau được tác giả lấy làm tên chung cho cả tuyển tập truyện ngắn của mình, in năm 1987. Trong thiên truyện ngắn này, Nguyễn Minh Châu đã tạo dựng được một tình hưống truyện vô cùng đặc sắc.

2. Phân tích tình huống truyện

a -Định nghĩa tình huống truyện: Là hoàn cảnh riêng được tạo nên bởi một sự kiện đặc biệt khiến cho tại đó, cuộc sống hiện lên đậm đặc nhất và ý đồ tư tưởng của tác giả cũng được bộc lộ sắc nét nhất.

b- Tình huống truyện trong “Chiếc thuyền ngoài xa” được xây dựng qua việc phát hiện ra những nghịch lí của Phùng, một nghệ sĩ nhiếp ảnh săn tìm cái đẹp ở ngoài bãi biển và ở toà án huyện

- Ở ngoài bãi biển

+ Nghệ sĩ Phùng đã phát hiện ra một cảnh đẹp trời cho trên một vẻ đẹp mờ sương, mặt biển mà cả đời bấm máy anh chỉ có diễm phúc bắt gặp được một lần: hình ảnh chiếc thuyền lướt vó nhạt nhoà trong làn sương mù màu trắng buổi bình minh… Phát hiện ấy khiến người nghệ sĩ cảm thấy sung sướng hạnh phúc, tưởng tâm hồn mình được gột rửa, trở nên trong trẻo, tinh khôi, bắt gặp các tận Thiện, tận Mĩ.

+ Nhưng ngay sau đó, người nghệ sĩ lại phát hiện ra một sự thực trớ trêu và đầy nghịch lí như trò đùa quái ác của cuộc sống. Anh đã chứng kiến từ chiếc thuyền ngư phủ đẹp như trong mơ ấy bước ra một người đàn bà xấu xí mệt mỏi và cam chịu, một lão đàn ông thô kệch dữ dằn độc ác, coi việc đánh vợ như một phương cách giải toả những ấm ức khổ đau. Phùng cay đắng nhận thấy: hoá ra đằng sau cái vẻ đẹp thơ mộng của “chiếc thuyền ngoài xa” trên biển sớm mờ sương lại là một sự thực tàn nhẫn của bi kịch gia đình. Đằng sau cái vẻ đẹp ấy mới là sự thực của cuộc đời. Cái vẻ đẹp bên ngoài ấy nhiều khi thường đánh lừa ta như vậy.

- Trong toà án huyện là nghịch lí: người đàn bà hang chài van xin để toà cho chị được sống cùng người chồng vũ phu. Câu chuyện về cuộc đời chị đã giúp cho nghệ sĩ Phùng và chánh án Đẩu “ngộ” ra được những chân lí sâu sắc, éo le của cuộc đời.

c-Ý nghĩa tình huống truyện:

- Giúp nhà văn gửi gắm những thông điệp tư tưởng và nghệ thuật: cái bên ngoài chưa hẳn là bản chất thật bên trong, nhiều khi còn đối lập với phẩm chất bên trong, không phải bao giờ cái Đẹp cũng thống nhất với cái Thiện, vì thế, cần phải có cái nhìn đa chiều sâu sắc, cảm thông với cuộc sống và con người. Thể hiện tuyên ngôn nghệ thuật về trách nhiệm người nghệ sĩ: Không nên tách rời nghệ thuật với cuộc đời, cần phải rút ngắn khoảng cách giữa cuộc đời và nghệ thuật; nghệ sĩ không được nhìn cuộc đời bằng con mắt đơn giản, dễ dãi, phải có tấm lòng, có can đảm, và biết trăn trở về con người.

- Thể hiện một cách rõ nét nhất khả năng ứng xử, phẩm chất, tính cách của các nhân vật:

* Người đàn bà:

+ Chịu nhiều thua thiệt, éo le của số phận, cuộc đời chất chồng những cay đắng khổ đau: vất vả trong công cuộc mưu sinh, thường xuyên bị hành hạ về thân xác, đau khổ dằn vặt về tinh thần

+ Nhưng ở chị vẫn ngời lên chất ngọc lấm láp từ cuộc sống còn nhiều vất vả đắng cay: nhẫn nhịn, chịu đựng hi sinh vì con, là người đàn bà từng trải sâu sắc, thấu hiểu các lẽ đời, vị tha, nhân hậu, bao dung, biết chắt chiu từng niềm vui nho nhỏ để làm nên ý nghĩa cuộc đời.

* Nghệ sĩ Phùng và chánh án Đẩu

+ Là những người chiến sĩ đã từng tham gia chiến đấu vì sự sống của dân tộc, trở về với cuộc sống đời thường, vẫn say mê khám phá cái đẹp, đấu tranh với cái ác.

+ Hiện thực trớ trêu, đầy nghịch lí của cuộc đời đã giúp cho họ nhận thức được những chân lí, những lẽ đời sâu sắc.

- Tình huống truyện góp phần làm nên giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm

+ Giá trị hiện thực: Cuộc sống đói nghèo lạc hậu tăm tối là nguyên nhân dẫn tới nạn bạo hành gia đình. Cuộc chiến đấu bảo vệ quyền sống của cả dân tộc trải qua bao hi sinh gian khổ nhưng cuộc đấu tranh bảo vệ quyền sống của từng con người còn đầy cam go, lâu dài, cần có sự quan tâm của cách mạng, của cộng đồng

+ Giá trị nhân đạo: Sự chia sẻ cảm thông của tác giả với những số phận đau khổ tủi nhục của những người lao động vô danh đông đảo trong xã hội. Lên án, đấu tranh với cái xấu, cái ác vẫn còn tồn tại trong từng gia đình. Phát hiện, ngợi ca những phẩm chất tốt đẹp của người lao động.

Phân tích hình tượng người đàn bà  hàng chài trong tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” của nhà văn Nguyễn Minh Châu.

Bài viết của thầy Phan Danh Hiếu. Tổ trưởng tổ Ngữ văn THPT Bùi Thị Xuân. Biên Hòa.

Nguyễn Minh Châu là nhà văn được mệnh danh là vị khai quốc công thần của triều đại văn học mới, “Người mở đường tinh anh và tài năng” (Nguyên Ngọc). Ông quan niệm rằng “thiên chức của nhà văn là suốt đời đi tìm những hạt ngọc ẩn giấu trong bề sâu tâm hồn con người”. Nếu trước năm 1975, nhà văn đi tìm hạt ngọc ấy trong chất sử thi anh hùng với những tác phẩm tên tuổi như: Mảnh trăng cuối rừng, Dấu chân người lính, Cửa sông…thì sau năm 1975, nhà văn khám phá vẻ đẹp của hạt ngọc ấy trong những con người đời thường lam lũ nhọc nhằn. Người đàn bà hàng chài trong tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa là hình tượng tiêu biểu cho vẻ đẹp ấy.

Bạn đọc chắc không quên Mảnh trăng cuối rừng của Nguyễn Minh Châu, là một thiên sử diễm tình trong chiến tranh ác liệt nơi “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước/ Mà lòng phơi phới dậy tương lai”. Đó là vẻ đẹp của nhân vật Nguyệt với tình yêu thủy chung, trong sáng như một sợi chỉ đỏ óng ánh và một đức hi sinh cao thượng hết lòng vì đồng đội, hết mình vì lý tưởng. Đó là vẻ đẹp chinh phục biết bao trái tim bạn đọc nhưng đó lại là một vẻ đẹp được lý tưởng hóa, tôn lên chỉ để ngắm nhìn và ngưỡng mộ, là viên ngọc lấp lánh trong thời chiến. Nhưng Chiếc thuyền ngoài xa cùng với sự đổi mới về cách nhìn, cách viết đã đưa người đọc về với những gì trần trụi đời thường nhất, diễn ra trong đời sống thường nhật của con người sau chiến tranh. Đó là câu chuyện về người đàn bà hàng chài nghèo khổ, sống trong cảnh đông con, thuyền chật. Vì nghèo khổ nên chồng chị lấy việc đánh đập hành hạ chị để giải tỏa những buồn bực trong cuộc sống nhưng chị vẫn dứt khoát không chịu bỏ chồng chỉ vì chị muốn bảo vệ hạnh phúc ấy cùng một sắp con nhỏ trên dưới mười đứa. Sự thật cuộc đời trần trụi như thế nếu chỉ nhìn từ xa thì không bao giờ ta thấy được.

Trước hết người đọc phải cảm ơn Phùng vì từ cái đơn đặt hàng của trưởng phòng về một bức tranh cảnh biển mù sương để bổ sung cho tờ lịch tháng bảy năm sau. Phùng đã trở về với chiến trường xưa của mình – một vùng biển miền Trung cách Hà Nội 600 km. Cũng tại đây, việc tìm một bức tranh cảnh biển mù sương rất khó, bởi bây giờ là tháng bảy. Mặt khác, để tìm được một bức ảnh đẹp quả là khó bởi nơi đây vẫn còn in đậm những tàn tích của chiếc tranh, đó chính là hình ảnh bãi xe tăng hỏng, những chiếc xe rà phá mìn của công binh Mỹ để lại làm cho vùng biển trở nên nhếch nhác. Nhưng bằng tâm hồn người nghệ sĩ và lòng yêu nghề, Phùng đã thu vào ống kính của mình một bức tranh đẹp. Đó là bức tranh cảnh biển mù sương với chiếc thuyền lưới vó “Mũi thuyền in một nét mơ hồ lờ nhòe vào bầu sương mù trắng như sữa có pha chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im như tượng trên chiếc mui khum khum đang hướng mặt vào bờ”. Đây là một bức tranh đúng như yêu cầu của trưởng phòng, rất tĩnh vật. Một bức tranh nghệ thuật mang vẻ đẹp hư ảo, huyền hoặc. Bức tranh đẹp đã làm cho trái tim người nghệ sĩ rung động “Trái tim tôi như có gì bóp thắt vào”, tâm hồn người nghệ sĩ phút chốc thăng hoa, vẻ đẹp khiến người nghệ sĩ nhìn thấy cả sự toàn bích, giúp người nghệ sĩ thanh lọc tâm hồn. Bức tranh khiến Phùng ngây ngất và có thể sẽ kéo dài mãi cảm giác sung sướng đó nếu như chiếc thuyền ấy mãi ở  ngoài xa. Nhưng sự nghiệt ngã lại bắt đầu khi “Chiếc thuyền đâm sầm vào chỗ tôi đứng”. Cảm xúc Phùng bị dập tắt, bức tranh Phùng vừa thấy cũng bị đập vỡ bởi sự thật cuộc đời trần trụi, đó chính là sự thật về một gia đình làng chài với người đàn bà cam chịu, một lão chồng cay nghiệt cùng đàn con trên chiếc thuyền lênh đênh giữa đại dương sóng gió.

Và cũng từ đây người đàn bà đã đến với người đọc bằng xương bằng thịt, bằng nghiệt ngã cay đắng và bằng nhân hậu bao dung. Chị ấn tượng với người đọc bởi ngoại hình khó coi “Người đàn bà trạc ngoài bốn mươi, một thân hình quen thuộc của đàn bà vùng biển, cao lớn với những đường nét thô kệch. Mụ rỗ mặt, khuôn mặt mệt mỏi, tái ngắt và dường như đang buồn ngủ”. Ở chị còn phơi lộ sự nghèo đói, nhếch nhác “Tấm lưng áo bạc phếch, rách rưới, nửa thân dưới ướt sũng”. Mới nhìn thoáng qua, người đọc nhận thấy điều gì đó bất ổn ở chị, dường như đó là vẻ cam chịu ở con người quen với nhọc nhằn lam lũ cho nên chị chẳng còn quan tâm gì đến bản thân nữa, ngay cả ý định “Đưa cánh tay lên có lẽ định gãi hay xõa lại mái tóc” cũng xao xác tan mau “chị lại buông thõng xuống”.

Điều khiến Phùng và người đọc hết sức ngạc nhiên là ở thái độ của chị. Đó là một thái độ cam chịu đầy nhẫn nhục. Chồng chị - một gã đàn ông vũ phu “đầu tổ quạ”, “đôi mắt độc dữ dấu dưới đôi lông mày cháy nắng”. Lão đã hành hạ chị như trút hết tất cả hận thù, cay đắng, nghiệt ngã lên lưng chị bằng một trận mưa dây thắt lưng của lính Ngụy ngày xưa. Nhưng người đàn bà lại gồng mình gánh chịu mà không hề trốn chạy, kêu la, không tìm cách chống trả, làm cho trái tim Phùng và người đọc thắt lại vì căm phẫn và xót thương.

Đi suốt chiều dài thiên truyện, người đọc không hề biết đến tên của chị, khi thì nhà văn gọi bằng “chị ta”, lúc thì gọi bằng “Mụ”, “người đàn bà hàng chài”. Vì sao Nguyễn Minh Châu không đặt tên cho người đàn bà này ?  Bởi chị cũng như bao người đàn bà ở vùng biển nghèo khổ này, chị là người vô danh. “Đây chính là một lối viết rất quen thuộc của Nguyễn Minh Châu sau 1975, nhà văn không hề tô vẽ cho nhân vật của mình. Người phụ nữ hiện lên không phải tấm gương lung linh thể hiện phẩm chất lý tưởng của con người. Nhân vật xuất hiện với sự nhẫn nhục câm lặng trước trận đòn tàn bạo của chồng, gợi cảm giác bức bối. Nhưng kiên trì theo dõi cuộc đời nhân vật, người đọc khám phá ra những vẻ đẹp rất người, lặng lẽ nhưng đáng trân trọng ở bà” (Đinh Hà Triều).

 Ở tòa án huyện, lúc đầu thì chị xuất hiện bằng hình ảnh rụt rè. Chị tìm đến góc công đường để ngồi. Chị ngồi trong thế ngồi bị động, như một con thú xù lông để tự vệ mặc dù đã được Phùng và Đẩu cảm thông, chia sẻ. Lúc đầu chị xưng hô “Con - quý tòa”, sau khi lấy lại được sự thăng bằng thì chị đột ngột chuyển đổi cách xưng hô: “Chị - các chú”. Nguyễn Minh Châu đã nhấn mạnh sự thay đổi ngôn ngữ và thân thế người đàn bà với ý nghĩa : Giờ đây chính chị là quan tòa đang phán xét Phùng và Đẩu, dạy cho Phùng và Đẩu một bài học về cách nhìn đời, nhìn cuộc sống. Thật thế chăng ?

Sở dĩ người đàn bà chấp nhận chuyện bị chồng đánh đập như việc những người đàn bà trên thuyền vẫn chấp nhận chuyện người đàn ông uống rượu là bởi vì chị là  một người phụ nữ giàu lòng nhân hậu, vị tha, chấp nhận tất cả thua thiệt về mình. Khi người đàn bà nói  “Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được nhưng đừng bắt con bỏ nó”, đây là câu nói khiến Phùng và Đẩu ngạc nhiên và vỡ lẽ đằng sau câu chuyện của người đàn bà hàng chài. Lão chồng vũ phu ấy đối với chị có hai cái “Ân” : ân huệ và ân nhân. Chị tự nhận thức: vì mình xấu, bị cái xấu đeo đuổi như định mệnh từ lúc còn nhỏ, trận đậu mùa để lại di chứng trên mặt chị là những nốt rỗ chằng chịt, theo năm tháng càng lớn lại càng xấu, càng già đi lại càng khó coi. Và vì xấu nên việc có mang với anh hàng chài là một ân huệ. Còn việc hắn đưa chị lên thuyền để chung sống đã đem hắn trở thành ân nhân. Vì là ân nhân cho nên chị không thể bỏ.

Chị cũng nhận phần thua thiệt về mình “Cũng tại đàn bà ở thuyền chúng tôi đẻ nhiều quá”. Và vì thuyền chật con đông nên cuộc sống khốn khó, có lúc phải ăn xương rồng luộc chấm muối. Trong suốt câu chuyện dài dằng dặc của đời mình, tuy khó khăn nhưng người đàn bà không tỏ ra oán giận chồng, ngược lại còn bênh vực chồng bởi chị cho rằng lão chồng chị không xấu, “trước kia là một anh con trai hiền lành nhưng cục tính”, từ ngày lấy chị thì cuộc sống khốn khó, vất vả cho nên lão chồng đã xem việc đánh vợ là một phương thức giải tỏa những bức bí của cuộc đời. Như vậy, chị là người rất hiểu chồng, thương chồng, chồng chị là nạn nhân của sự đói nghèo thất học, hắn vừa đáng thương lại vừa đáng tội, đáng tội vì hắn gây ra biết bao đau thương cho người thân, đáng thương vì hắn là nạn nhân.

Ẩn đằng sau lớp vỏ tưởng chừng vô cảm, thất học kia, chị rất thấu hiểu lẽ đời, chị hiểu thế nào là “nổi vất vả cơ cực trên một chiếc thuyền không có người đàn ông”, chị và sắp nhỏ sẽ sống như thế nào khi không có “người đàn ông chèo chống lúc phong ba bão tố”. Giả sử Phùng và Đẩu bắt được người đàn bà bỏ chồng thì hóa ra lòng tốt của các anh lại biến các anh thành tội đồ bởi các anh đã đẩy người đàn bà và những đứa con chị đến chỗ thê thảm của cuộc sống. Ở gần cuối câu chuyện, khi Phùng đi lang thang dọc biển rồi quay trở lại vùng đầm phá trong cơn giông gió nổi lên, Phùng đã nhìn thấy giữa mặt phá mênh mông, giữa lúc tất cả con thuyền khác vào nơi trú ẩn an toàn thì vẫn còn chiếc thuyền lưới vó dập dềnh chao đảo trong bão gió và sóng dữ. Thử hỏi nếu không có người đàn ông trên chiếc thuyền ấy thì số phận chiếc thuyền sẽ ra sao?

Vượt lên trên sự cay đắng và cơ cực ấy, tình mẫu tử của chị tỏa sáng, đó chính là đức hi sinh cao thượng của một con người mang thiên chức làm mẹ. Chị gồng mình gánh chịu đòn roi của chồng là bởi vì những đứa con “Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình như ở trên đất được!”.Chị hiểu rằng bất kỳ một cuộc hôn nhân tan vỡ nào thì người buồn đau nhất chính là những đứa con, đứa có bố thì mất mẹ, có mẹ thì mất bố, chia đàn xẻ nghé. Chị quan niệm rằng một gia đình hạnh phúc là gia đình đầy đủ các thành viên dù đâu đó trong gia đình còn nhiều khiếm khuyết. Vì thương con mà chị quặn lòng gửi thằng Phác lên rừng ở với ông ngoại nó. Vì thương con và để tránh sự tổn thương cho những tâm hồn thơ bé nên chị đã bảo lão chồng “có đánh thì đưa chị lên bờ mà đánh”. Chị giống như con gà mẹ xòe đôi cánh che chở cho đàn con trước sự tấn công của loài chim ăn thịt. Chính tình mẫu tử thiêng liêng  cao thượng đã chấp cánh cho chị, đưa đàn con bay vút lên trên sự cơ cực, đói kém, nhọc nhằn và lam lũ. Chị chắt chiu dành dụm từ những niềm vui nhỏ nhất “Vui nhất là thấy đàn con chúng tôi được ăn no” để khỏa lấp những nỗi đau, để xoa dịu nỗi đời cay cực.

“Chị cũng là người đàn bà giàu lòng tự trọng. Chỉ sau khi biết được hành động vũ phu của tên chồng bị thằng Phác và người lạ chứng kiến, chị mới thấy “Đau đớn – vừa đau đớn vừa xấu hổ, nhục nhã”. Chắc chắn đây không chỉ là sự đau đớn về thể xác. Giọt nước mắt đau khổ của người đàn bà trào ra, chị không muốn bất cứ ai chứng kiến và thương xót, kể cả thằng Phác (đứa con yêu của chị) và nhất là một người lạ. Thân thể bị chà đạp, nhân phẩm bị xúc phạm nhưng người đàn bà ấy không hề bận tâm – một sự nhẫn nhục của con người có nhân cách, có lòng tự trọng và thấu hiểu lẽ đời, có một tình thương con vô bờ bến” (Nguyễn Duy Kha)

Như vậy, qua hình tượng người đàn bà hàng chài cùng tình huống truyện mang tính nhận thức và khám phá, nhà văn muốn gửi người đọc một thông điệp về mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc đời, cách nhìn đa diện, nhiều chiều, phổ quát để phát hiện ra vẻ đẹp ẩn sau vẻ ngoài hiện tượng. Phùng chụp được bức ảnh chiếc thuyền ngoài xa dập dềnh trong sương sớm nhưng nó chỉ thực sự đẹp khi nó ở ngoài xa – một khoảng cách đủ để tạo một vẻ đẹp huyền ảo nhưng sự thật cuộc đời rất gần. Bức tranh đẹp làm hài lòng trưởng phòng và các gia đình sành nghệ thuật nhưng chủ nhân của nó là Phùng lại không hài lòng bởi nó chưa vươn tới được bản chất của cuộc đời, chưa cất lên được tiếng nói của những con người lam lũ nhọc nhằn, nó chỉ thỏa mãn nhu cầu thị hiếu và là sản phẩm của cái nhìn dễ dãi trong cuộc sống. Từ đó nhà văn đặt ra trách nhiệm người nghệ sĩ: người nghệ sĩ trước khi biết rung động trước cái đẹp hãy là con người biết yêu ghét, vui buồn trước mọi lẽ thường, biết hành động để có được cuộc sống tốt đẹp, bởi nghệ thuật luôn gắn liền với cuộc đời, nghệ thuật phải vì cuộc đời, đó chính là nghệ thuật “Vị nhân sinh”.

Một điều nữa nhà văn muốn gửi gắm đó chính là vấn đề tiếp cận cuộc sống: cuộc sống muôn màu muôn vẻ. Con người luôn có những quan hệ chằng chịt phức tạp. Bởi vậy nhìn nhận mọi sự việc, hiện tượng cuộc sống và con người không được dễ dãi, đơn giản, phiến diện, công thức. Chính vì có cái nhìn phiến diện mà Phùng và Đẩu mới bắt người đàn bà kia bỏ chồng. Khi và chỉ khi thấu hiểu tấm lòng người đàn bà hàng chài thì Phùng và Đẩu mới vỡ lẽ ra. Chính người đàn bà hàng chài đã dạy cho các anh bài học về cách nhìn nhận cuộc sống: Cuộc sống muôn hình muôn vẻ, nếu chỉ nhìn từ một phía thì sẽ đánh giá lệch lạc, phiến diện.  Vậy cần phải có cái nhìn đa diện, nhiều chiều để từ đó đưa nghệ thuật vươn tới chiều sâu nhân bản “Nghệ thuật phải gắn liền với đạo đức”.

Làm nên thành công của hình tượng người đàn bà nói riêng và tác phẩm nói chung, nhà văn Nguyễn Minh Châu đã tạo ra một tình huống truyện mang tính khám phá, nhận thức, phát hiện đời sống. Ngôn ngữ kể chuyện khách quan, giàu sức thuyết phục mang đến cho người đọc nhiều bất ngờ thú vị và thương cảm lẫn cảm phục.

Người đàn bà hàng chài là hiện thân của vẻ đẹp về đức hi sinh, lòng nhân ái bao dung của người phụ nữ Việt Nam. Qua hình tượng này tác giả chia sẻ cảm thông của mình với những số phận đau khổ tủi nhục của những người lao động vô danh đông đảo trong xã hội. Lên án, đấu tranh với cái xấu, cái ác vẫn còn tồn tại trong từng gia đình. Phát hiện, ngợi ca những phẩm chất tốt đẹp của người lao động. Đồng thời đặt ra trách nhiệm cho đông đảo tầng lớp văn nghệ sĩ phải có cái nhìn đa diện nhiều chiều bởi nói như nhà văn “Con người thì đa đoan, cuộc đời thì đa sự”.

PHAN DANH HIẾU

THẦY CÔ VÀ CÁC EM CẦN GHI RÕ NGUỒN KHI COPY TỪ TRANG NÀY.

Ôn tập môn ngữ văn: Chiếc thuyền ngoài xa

TPO - Chuyên đề này nhằm giúp các em củng cố các vấn đề cơ bản xoay quanh tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa”.

- Tình huống nhận thức độc đáo

- Đổi mới trong cách nhìn hiện thực và con người của Nguyễn Minh Châu.

- Nghệ thuật tự sự đặc sắc.

KIẾN THỨC CƠ BẢN

1. Khái quát

a. Tác giả

+ Tiểu sử - con người

(Theo tâm sự của chính nhà văn, lời kể của Vương Trí Nhàn và nhận xét của nhiều bạn bè, người thân).

- Từ bé tới lớn: rụt rè và vô cùng nhút nhát.

- Sống nội tâm, hay trăn trở, thích một mình để suy ngẫm, phân tích.

- Chân thành.

=> Thiên hướng nhận thức, phân tích, nghiền ngẫm hiện thực trong văn Nguyễn Minh Châu.

+ Sáng tác:

- Quá trình sáng tác: chia hai chặng rõ rệt.

o Trước thập kỉ 80: ngòi bút sử thi có thiên hướng trữ tình lãng mạn.

o Đầu thập kỉ 80 – khi mất: cảm hứng thế sự với những vấn đề đạo đức và triết lí nhân sinh.

- Đổi mới:

o Quan niệm mới về con người và cuộc đời:

 Con người không nhất phiến, đơn chiều, lí tưởng mà là con người bề bộn, phức tạp, được ánh xạ qua nhiều mối quan hệ với hiện thực (cả mặt tốt lẫn mặt xấu “rồng phượng và rắn rết”…)

 Cuộc sống đa chiều, đầy những vết nham nhở sần sùi, có cả niềm vui lẫn nỗi buồn, sự vật vã, bức bối đầy phức tạp và biến động.

=> Khơi tìm những mặt khuất lấp của chiến tranh, những phần sâu kín trong tâm hồn con người.

o Đề tài: con người cá nhân với các câu chuyện đời thường là trung tâm.

Không phải con người “trùng khít với chính mình, với bộ áo xã hội của nó một cách đau đớn, giả dối” (Bakhtin) mà là con người hiện thực trong các mối quan hệ đa dạng.

=> “Đọc lời ai điếu cho một nền văn nghệ minh họa”.

+ Vị trí văn học sử:

Ngòi bút tiêu biểu của thời kỳ văn học đổi mới – người mở đường đầy tài hoa và tinh anh (Nguyên Ngọc).

b. Tác phẩm:

+ Xuất xứ: Thuộc giai đoạn sáng tác thứ 2.

+ Vị trí văn học sử:

- Tiêu biểu cho những đổi mới của Nguyễn Minh Châu.

- In đậm dấu ấn phong cách tự sự - triết lí của Nguyễn Minh Châu.

+ Tình huống truyện:

- Nhận diện: tình huống nhận thức.

- Mô tả: Phùng - một nghệ sĩ nhiếp ảnh có tài đang trong giây phút thăng hoa tuyệt đỉnh, khám phá ra vẻ đẹp “trời cho”của con thuyền biển buổi sớm mai thì chứng kiến đôi vợ chồng từ trên con thuyền bước xuống, lão đàn ông đánh vợ một cách hung bạo và vô lí. 

Sự việc lặp lại một lần nữa, Phùng không chỉ thấy thái độ nhẫn nhịn, câm lặng chịu đựng của người đàn bà mà còn thấy được thái độ, hành động của chị em Phác trước sự dã man của cha với mẹ.

Anh nhận rõ những ngang trái, nghịch lí trong gia đình thuyền chài, hiểu sâu thêm tính cách người đàn bà, chị em Phác, người đàn ông, người đồng đội (Đẩu) và chính bản thân mình.

+ Bố cục: 2 phần lớn

- Phần 1 (từ đầu - chiếc thuyền lưới vó đã biến mất): Hai phát hiện của Phùng.

- Phần 2 (còn lại): Câu chuyện của người đàn bà làng chài.

2. Phân tích

a.   Hai phát hiện của Phùng.

+ Phát hiện thứ nhất: Phát hiện một.

- Vị thế của Phùng: nghệ sĩ nhiếp ảnh.

- Mục đích của chuyến đi: chụp bổ sung một bức ảnh buổi sáng có sương mù theo yêu cầu của trưởng phòng (để xuất bản bộ lịch nghệ thuật về thuyền và biển).

- Điểm nhìn: từ xa, trong làn sương mờ ảo.

- Sự hình thành tác phẩm:

• Bắt đầu từ cảnh “trời cho”.

• Tuy nhiên để có được tác phẩm, cần một tâm hồn nghệ sĩ tinh tế nhanh nhạy nắm bắt khoảnh khắc xuất thần của nghệ thuật:

o Mô tả khung cảnh lãng mạn, thơ mộng.

o Trạng thái, hành động:

o Bối rối, trong tim tưởng như có cái gì bóp thắt lại => cơn “đau đẻ”, khoảnh khắc xung động cực điểm để tác phẩm hoài thai.

• Không phải lựa chọn gì nữa, bấm một hồi “liên thanh” => dường như thiên nhiên đã bày sẵn tuyệt tác, người nghệ sĩ chỉ việc ghi lại một cách dễ dàng.

- Cảm hứng triết lí về nghệ thuật:

• Vẻ đẹp của “cái đẹp tuyệt đỉnh”: “bức tranh mực tàu của một danh hoạ thời cổ; một vẻ đẹp thực đơn giản và toàn bích”. => nghệ thuật là sự giản dị, tự nhiên.

• “Cái đẹp là đạo đức” => khoảnh khắc phát hiện ra một tác phẩm độc đáo là sự “khám phá chân lí của sự toàn thiện, khám phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn” => cái đẹp “thanh lọc” tâm hồn, để tâm hồn con người cao khiết, không gợn đục, thánh thiện.

Nhận xét:

Sự phát hiện ra cái đẹp trong nghệ thuật đôi khi là kết hợp của rung động và duyên may. Nhìn ở góc độ này, nó là thứ dẫu sao còn tương đối dễ phát hiện, dễ thấy.

+ Phát hiện thứ hai: Phát hiện về hiện thực cuộc sống.

- Điểm nhìn: chiếc thuyền đâm thẳng vào chỗ trước tôi đứng => gần, trực diện, rõ nét.

- Hình ảnh:

- Người đàn bà: cao lớn, với những đường nét thô kệch, rỗ mặt, khuôn mặt mệt mỏi(…) tái ngắt và dường như đang buồn ngủ, tấm lưng áo bạc phếch và rách rưới.

- Người đàn ông: tấm lưng rộng và cong, mái tóc tổ quạ, đi chân chữ bát, hàng lông mày cháy nắng, hai con mắt đầy vẻ độc dữ.

- Hình ảnh xấu xí, sù sì, trần trụi, thô mộc, gai góc của đời sống, đối lập với vẻ lãng mạn của khung cảnh thiên nhiên trong bức ảnh nghệ thuật.

- Hành động:

- Người chồng: hùng hổ, rút chiếc thắt lưng, “chẳng nói chẳng rằng” quật tới tấp vào lưng người đàn bà => hành động hung bạo, dã man, lạnh lùng, như một con thú dữ.

- Người vợ: cam chịu đầy nhẫn nhục, không hề kêu lên một tiếng, không chống trả, cũng không tìm cách chạy trốn.

- Đứa con: giằng thắt lưng, quật lại bố để bảo vệ mẹ.

- Giống như một vở kịch câm, không lời chú giải, đầy nghịch lí khiến câu hỏi về hiện thực trong Phùng muốn vỡ ra.

Nhận xét:

Phát hiện về một hiện thực gồ ghề, gai góc, ngang trái, phức tạp, không dễ lí giải, khác xa, thậm chí đối lập với vẻ đẹp bình yên của tác phẩm nhiếp ảnh.

+ Mối quan hệ giữa hai phát hiện (mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống, nhà văn và cuộc đời)

- Phát hiện nghệ thuật, ở một chừng mực nhất định dễ thấy hơn phát hiện về hiện thực.

- Đời sống con người vốn bề bộn, phức tạp. Hiện thực không đơn chiều, giản đơn, toàn màu hồn mà đa chiều, phân tranh nhiều mảng sáng tối chưa dễ lí giải. Nhà văn nếu đứng ở ngoài xa để quan sát sẽ chỉ thấy một hiện thực mờ ảo - chiếc thuyền thấp thoáng biển khơi. Từ đó đòi hỏi nhà văn phải có cái nhìn sâu sắc, suy tư hơn nữa.

b. Người đàn bà làng chài và câu chuyện đời tự kể.

+ Hình dáng: thô mộc, xấu xí, như nét vẽ vội của tạo hoá, mang những đặc trưng của một người đàn bà miền biển lam lũ.

+ Thái độ, hành động khi được mời tới toà án:

- Sợ sệt, lúng túng, tìm đến một góc tường để ngồi .

- Rón rén ngồi ghé vào chiếc ghế mà Đẩu mời.

- Van xin chính quyền đừng bắt chị bỏ người chồng vũ phu: “Quí toà bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó” => kiên quyết không bỏ chồng bằng mọi giá.=> hành động ẩn chứa nhiều nghịch lí, gây bất ngờ đối với cả Đẩu và Phùng => một sự thật không dễ lí giải trong hoàn cảnh người đàn bà phải chịu đựng những trận đánh thừa sống thiếu chết.(ba ngày một trận nhỏ, năm ngày một trận lớn) => Câu hỏi đặt ra: điều gì khiến người đàn bà khốn khổ ấy tha thiết bám víu cuộc sống địa ngục kinh hoàng với người chồng hung bạo kia?

+ Câu chuyện cuộc đời:

- Cách xưng hô: con, quý toà - chị, các chú => thay đổi tương quan: bị động, yếu thế, thiếu tự tin, bề dưới nói với bề trên - chủ động, bình đẳng, con ngưòi có hiểu biết nói với người đang lắng nghe.

- Nội dung câu chuyện:

- Xấu, buộc phải lấy anh hàng chài

- Đám đàn bà đẻ nhiều quá, mà thuyền lại chật => chồng hung hăng.

- Bất kể lúc nào khổ quá, chồng lại lôi ra đánh, ngay trên tàu, sau này xin mãi mới được lên bờ chịu đòn.

- Lí lẽ để “đừng bắt tôi bỏ nó”:

- Giá đẻ ít đi => biện minh cho hành động hung hăng của chồng bằng cách chỉ ra lỗi thuộc vê sự nghèo đói, lạc hậu, “đẻ lắm”.

- Là bởi vì các chú không phải là đàn bà, chưa bao giờ các chú biết nỗi vất vả của một người đàn bà trên một chiếc thuyền không có đàn ông(. ..) những khi biển động => vì cần một trụ cột.

- Đàn bà trên thuyền phải sống cho con chứ không thể sống cho mình => vì trách nhiệm, tấm lòng vị tha, bản năng hi sinh của một người mẹ.

- Cũng có lúc vợ chồng con cái sống hòa thuận, vui vẻ => cuộc sống với ngưòi đàn ông “dã man” kia không phải không có những khoảnh khắc đầm ấm hạnh phúc.

- Nhận xét:

Qua nội dung câu chuyện, cách kể và ngôn ngữ kể chuyện, thấy được:

- Số phận người đàn bà: đau khổ, bất hạnh, buộc phải bảo vệ, duy trì một cuộc sống bị đày đoạ, đánh đập.

- Tính cách: yêu thương con, vị tha, nhân hậu, am hiểu lẽ sống giản đơn của một người đàn bà hàng chài.

-  Sự lí giải, làm sáng tỏ hiện thực đời sống đầy nghịch lí mà Phùng và Đẩu “không thể hiểu được”.

c. Hệ thống nhân vật

+ Người đàn bà: vô danh, phiếm định => khái quát cuộc đời, số phận, tính cách của bao người phụ nữ làng chài khác.

+ Người đàn ông:

- Xưa kia: “anh con trai cục tính nhưng hiền lành”.

- Nay: vì nghèo đã biến đổi thành gã đàn ông hung bạo, vũ phu.

- Có sự gặp gỡ với các nhân vật của chủ nghĩa hiện thực của Nam Cao trước cách mạng.

+ Chị em Phác:

Nạn nhân bé bỏng, đau khổ => thêm vào tác phẩm một nét khắc dằn dữ của hiện thực.

+ Phùng:

- Là người lính vào sinh ra tử nơi chiến trường.

- Là một nghệ sĩ tài hoa, phát hiện ra vẻ đẹp tinh khôi, huyền mộng của nghệ thuật.

- Chứng kiến cảnh đánh đập lần thứ hai, “vứt chiếc máy ảnh xuống đất chạy nhào tới” can thiệp => Ý nghĩa:

- Chiếc thuyền nghệ thuật thì ở ngoài xa, một khoảng cách đủ để tạo nên vẻ đẹp lung linh, nhưng sự thật cuộc đời lại ở rất gần.

- Thái độ cần có của người nghệ sĩ:

- Đừng vì nghệ thuật mà quên cuộc đời vì nghệ thuật chân chính luôn hướng tới cuộc đời.

- Trước khi là một nghệ sĩ biết rung động trước cái đẹp, hãy là một con người sẵn sàng khám phá, dò tìm để thấu hiểu, yêu ghét mọi lẽ buồn vui đời thường và dám đấu tranh cho cuộc sống tốt đẹp hơn.

- Chi tiết: hỏi người đàn bà một câu cắt ngang không ăn nhập: người chồng trước có đi lính nguỵ không => định dung cái nhìn trong chiến tranh để lí giải một hiện thực nghịch lí thời hậu chiến => Dụng ý: hiện thực cuộc sống mới hôm nay đã khác xa với hiện thực 30 năm chiến tranh, bề bộn, ngổn ngang, đa diện, bởi thế nó đòi hỏi một điểm nhìn khác, cách lí giải hiện thực khác. Không thể dùng cái nhìn địch – ta để phân tích mà cần nhìn nhận sâu sắc từ nhiều góc độ.

d. Một số đặc sắc về nghệ thuật.

+ Xây dựng hình ảnh giàu giá trị biểu tượng: chiếc thuyền ngoài xa.

- Con thuyền có thật.

- Con thuyền biểu tượng cho: nghệ thuật, ẩn dụ cho kiếp người đơn độc trên đại dương cuộc đời.

+ Nghệ thuật tự sự độc đáo:

- Điểm nhìn trần thuật: người kể chuyện Phùng - một người lính dày dặn kinh nghiệm chiến trường, một nghệ sĩ nhiếp ảnh tài hoa, một con người tha thiết đấu tranh cho sự công bằng => điểm nhìn trần thuật sắc sảo, giàu suy tư.

- Ngôn ngữ:

• Ngôn ngữ người kể chuyện: khách quan, chân thực, giàu sức thuyết phục (do sự lựa chọn điểm nhìn trần thuật).

• Ngôn ngữ nhân vật: cá thể hoá (Ngôn ngữ của người đàn bà: lóng ngóng, van lơn khi mới đối diện với “quí toà”; chững chạc, thấu trải khi tự kể câu chuyện đời mình, dịu dàng, xa xót khi nói với con; lời lẽ của người đàn ông: tàn nhẫn, tục tằn,…)

CỦNG CỐ KIẾN THỨC

Đề 1: Ý nghĩa nhan đề “Chiếc thuyền ngoài xa”.

Đề 2: Phân tích tình huống truyện “Chiếc thuyền ngoài xa”

Đề 3: Phân tích những phát hiện của nghệ sĩ Phùng trong “Chiếc thuyền ngoài xa”.

Đề 4: Tính luận đề trong tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa”.

Đề 5: Những đổi mới trong cách nhìn hiện thực cuộc sống của Nguyễn Minh Châu trong “Chiếc thuyền ngoài xa”.

Đề 6: Phân tích “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu để thấy cái nhìn thấu hiểu trĩu nặng tình thương và nỗi lo cho con người.

Đề 7: Phân tích các nhân vật trong “Chiếc thuyền ngoài xa” để làm nổi bật tư tưởng của nhà văn Nguyễn Minh Châu.

Gợi ý giải đề

Đề 1: Ý nghĩa nhan đề.

+ Xuất xứ tác phẩm:

+ Ý nghĩa nhan đề:

- Con thuyền có thật trong cuộc đời

- Con thuyền biểu tượng cho nghệ thuật, ẩn dụ cho kiếp người đơn độc trên đại dương cuộc đời.

- Cái đẹp nghệ thuật dễ tìm hơn cái đẹp đích thực của con người

- Nghệ thuật phải quan tâm đến đời sống và phải quan tâm đến con người.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#khanh