vmtch 1

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Hồi 1: Luân lạc thiên nhai

Ô Tử Hư mở mắt ra, ánh nắng chói chiếu thẳng vào mắt, nhất thời hắn không thấy gì cả, càng không biết mình đang ở đâu, đầu nhức đến muốn nổ tung.

Hắn ngồi bật dậy, hai tay ôm đầu thở dốc. Mệt quá, chưa bao giờ mệt như bây giờ, cảm giác hư nhược và khốn khổ hoàn toàn đánh bại hắn, giống như kẻ đánh bạc suốt mười ngày đêm không ngủ nghỉ, rốt cuộc vẫn thua sạch túi, đó là một cảm giác rất đáng sợ. Gót chân đau nhói, gợi lại đoạn đường chạy trốn hơn mười ngày qua đầy gian khổ của hắn.

Điều duy nhất an ủi hắn được, là mình vẫn còn sống.

Hắn từ từ buông hai tay xuống, ngưng thần lắng nghe, nhưng chỉ có tiếng ve kêu vang, thầm thở phào một hơi, hắn bắt đầu nhìn quang cảnh bốn bên.

Hắn đang ngồi trên một sườn đồi cỏ ướt có mùi mốc, ở chân đồi là một dòng suối trong, cỏ cao và cây thấp mọc um tùm bên bờ, đối diện bên kia suối là rừng xanh dày đặc. Hắn nhìn lên đỉnh đồi, cao hơn chỗ hắn chừng bốn, năm trượng, thầm nghĩ có lẽ mình ngất đi, nên đã lăn từ trên đỉnh xuống dưới đây.

Ánh nắng chiếu từ phía hữu, mặt trời vừa lên quá đường chân trời.

Nhìn về hướng nam, nằm chắn ngang là một dãy núi liên tục, cây mọc xanh rì.

Đây là chỗ quái quỷ nào đây?

Thật là xui xẻo! Không phải xui xẻo, mà là xui tận mạng, lãnh họa tày trời. Với kinh nghiệm hành tẩu giang hồ phong phú của hắn, tại sao lại có thể làm chuyện ngu xuẩn như thế? May mà đã tránh khỏi truy binh, từ lúc qua sông xong, hắn có cảm giác đã thoát hiểm, hy vọng không sai!

Ngay lúc ấy, tai hắn bắt được tiếng ngựa hí rất nhỏ, như có như không.

Ô Tử Hư sợ run lên, đứng bật dậy như chim sợ cung, bỗng hai chân nhũn ra, hắn mất thăng bằng té lăn xuống đồi, xuống đến dưới cùng, xém chút rơi luôn xuống suối.

Tiếng ngựa kêu càng lúc càng rõ hơn.

Ô Tử Hư quên cả mệt nhọc, bò dậy thất thểu chạy trốn về hướng nam.

Từ lúc hiểu chuyện trở đi, dường như hắn chưa từng gặp may, bây giờ lại sắp đối diện đại họa, nếu bị kẻ địch bắt được, hắn sẽ hối hận đầu thai làm người.

Lúc này hắn chỉ có một ý niệm, ấy là trốn được xa chừng nào hay chừng nấy, hắn không muốn chết chút nào.

Vô Song Nữ mình mặc khinh trang màu đen, tay dắt con hắc mã đen tuyền, lẳng lặng rời khỏi khu trại của Bách Hí Đoàn ở ngoài thành. Đã chín năm rồi, nàng theo đoàn đi từ hương thôn đến thị trấn, qua thành đô biểu diễn kiếm ăn, nhờ thân thủ hơn người mà trở thành cột trụ của Bách Hí Đoàn, và cũng là nữ đệ tử đắc ý nhất của trưởng đoàn, tức vua hề An Giới. Thế nhưng đêm nay nàng bỏ đi không lời từ biệt, lại chẳng tỏ vẻ gì lưu luyến, bởi lòng nàng chưa bao giờ ký thác ở Bách Hí Đoàn.

"Vô Song!".

Vô Song Nữ thở ra, dừng bước trong vùng tối nằm ngoài ánh đuốc của khu trại, thân ảnh hòa trong bóng đêm.

An Giới bước đến sau lưng nàng, thở dài một tiếng. Ông biết rõ cá tính của nàng, có nói gì cũng không khiến nàng từ bỏ ý định ra đi.

Vô Song Nữ nói khẽ: "An thúc đã đọc thư Song nhi để lại".

An Giới trầm giọng: "Từ lúc rời huyện Ninh An, con cứ như kẻ đãng trí, trầm mặc làm ta lo sợ, nhưng vẫn không ngờ con nói đi là đi. Thực chẳng ngờ đã qua mười năm mà con vẫn nghĩ không thông, buông không được".

Vô Song Nữ lạnh nhạt: "An thúc hiểu tâm sự của Song nhi chăng?".

An Giới cười buồn: "Con không nói thì ta làm sao rõ được. Từ chín năm trước lúc cữu phụ của con gửi con vào Bách Hí Đoàn của ta, ta đã biết sự việc chẳng phải tầm thường, cữu phụ con với ta là sinh tử chi giao, y không kể thì ta cũng không truy rõ nguồn cơn".

Vô Song Nữ bình thản hỏi: "Tại sao cữu phụ không trở lại tìm Song nhi?".

An Giới thở dài: "Ta không định nói ra, thuở ấy cữu phụ của con trước lúc rời đi, có nói với ta để giữ an toàn cho con, y quyết định ẩn tính mai danh, không đến thăm con nữa. Y đành đoạn làm thế là vì con. Hãy ở lại đây, đừng phụ kỳ vọng của cữu phụ, cũng đừng phụ kỳ vọng của ta đối với con, một nữ tử tài nghệ như con, hơn bốn mươi năm ta đi khắp đại giang nam bắc, mới gặp đây là lần đầu".

Vô Song Nữ nhỏ giọng: "Đại ân đại đức của An thúc, Song nhi chẳng bao giờ dám quên, nhưng Song nhi phải đi ngay, xin An thúc tha lỗi".

An Giới bỗng nghiến răng: "Được! Con đã quyết ý đi, thì để ta cho biết một bí mật ta cất giấu chín năm nay, đó là làm cách nào tìm đến cữu phụ con".

Vô Song Nữ quay phắt lại đối diện An Giới, cặp mắt linh hoạt đen láy vụt sáng lên.

Mỗi lần Cô Nguyệt Minh đặt chân vào đại cung giám phủ của "Hoàng Kim Thái Giám" Phụng công công, y đều có cảm giác toàn thân không thoải mái. Có lẽ vì y phải để lại bên ngoài thanh kiếm mà bình thường là vật bất ly thân. Trong kinh thành có người bảo không ai giết được Cô Nguyệt Minh với kiếm trong tay, đấy chẳng phải lời tâng bốc, mà thực sự là đến nay chưa ai làm được. Tiếng ho của Phụng công công từ trong thư phòng vọng ra. Chắc có lẽ y cảm thấy khó chịu vì y không thích Phụng công công, lão thái giám thâm trầm hỉ nộ vô thường, quyền uy bao trùm triều đình có thể khiến đại thần mãnh tướng run sợ. Nhưng điều mà y không thích nhất là mỗi lần Phụng công công lại đưa ra một việc mà y không thể không đáp ứng.

Ký Thiện, vị thái giám dẫn đường, không quay đầu lại mà hạ giọng nói: "Đêm nay tinh thần đại công công rất khá, hai ngày trước bỗng bị cảm, dùng hết ba thang thuốc của thái y, đến nay đã đỡ nhiều".

Cô Nguyệt Minh khẽ ừ, tỏ ý đã nghe. Ký Thiện chẳng phải tốt bụng chi, gã là thuộc hạ đáng sợ nhất của Phụng công công, sát thủ hàng đầu, hai tay nhuộm đầy máu tanh. Không phải gã đối đãi đặc biệt với Cô Nguyệt Minh, mà chỉ vì đã nhận không ít tiền của họ Cô.

Bên ngoài thư phòng có hai tên lính gác, Ký Thiện đưa mắt ra hiệu cùng Cô Nguyệt Minh, ý bảo đợi ngoài cửa, phần gã bước vào trong, một lúc sau gã quay ra, kéo Nguyệt Minh sang bên kề tai bảo: "Thật lạ, đại công công tâm tình rất vui, như đang mong Cô gia, cơ hội này khó kiếm, Cô gia chớ nên bỏ lỡ; tại hạ đã ra công mở đường cho Cô gia rồi đấy".

Trong lòng Cô Nguyệt Minh bất giác không an, tim đập nhanh, đối với y điều này rất hiếm xảy ra. Hít một hơi dài, Cô Nguyệt Minh nói lời cảm tạ Ký Thiện, bước vào thư phòng.

Người kinh thành thường nói, thà đắc tội Hoàng thượng, chớ nên đắc tội Phụng công công. Nếu chọc giận Hoàng thượng, may ra còn nhờ Phụng công công xin tha giùm, còn như đắc tội Phụng công công thì kể như chết chắc. Không ai dám chọc giận vị lão thái giám từng trải tam triều, hầu qua ba vị hoàng đế này.

Thoạt nhìn, Phụng công công trông như một lão nhân hư nhược, mặt đầy nếp nhăn. Thuở còn thanh niên chắc lão cũng cao lớn, song bây giờ vì lưng còng nên thân hình trông suy yếu hẳn. Dưới mái tóc dày bạc trắng bồng bềnh, là một vầng tráng cao, khuôn mặt hóp, gò má nhô lên làm nổi bật đôi môi mỏng như hai sợi chỉ căng ngang. Nhìn qua nhìn lại, Phụng công công trông không khác một kẻ gần đất xa trời, sức khỏe như đèn leo lét trước gió, nhưng Cô Nguyệt Minh biết rất rõ cảm quan ấy sai lầm. Tương truyền từ nhỏ Phụng công công luyện tập một loại khí công huyền diệu mà chỉ có thái giám mới luyện thành được, ngày nay đã đạt đến cảnh giới chí cao vô thượng, còn như lợi hại đến bực nào thì không ai biết. Riêng Cô Nguyệt Minh vẫn có thể thoáng thấy trong mắt lão một ánh tinh quang lạnh như băng, sắc bén vô song, làm bằng chứng cho một trí tuệ đã trui rèn qua bao năm tháng. Một người có thể đạt đến tột đỉnh quyền uy như thế chắc chắn không phải chuyện đơn giản. Phụng công công mình mặc trường bào màu lam có thêu vân viền vàng, ngồi trên ghế thái sư đặt phía nam, tay cầm ống điếu dài bằng vàng, đang phì phà khói thuốc. Cô Nguyệt Minh nghĩ thầm, ống điếu bằng vàng này có trọng lượng không dưới mười cân, mà vị lão thái giám có vẻ suy nhược này cầm trong tay thấy nhẹ như không, chỉ điểm này cũng đủ khiến người không dám xem thường lão.

Phụng công công nhìn Cô Nguyệt Minh thi lễ thỉnh an, gật đầu: "Ngồi đi! Nguyệt Minh làm việc rất giỏi, Hoàng thượng hết sức đẹp dạ với món quà mừng lễ đại thọ của ngươi".

Cô Nguyệt Minh ngồi xuống ghế bên tả phía dưới Phụng công công, nghĩ thầm phần quà này phải mạo hiểm với sinh mệnh của mình mới lấy về được. Y tốn hết nửa năm truy lùng một bọn cướp ngang dọc vùng đông bắc, mới chém lấy thủ cấp của đầu mục Chu Hổ Thành, cũng lãnh thêm ba vết sẹo trên mình.

Ánh mắt như soi thấu của Phụng công công dò xét Cô Nguyệt Minh một hồi, bèn thong dong thốt: "Ta muốn hỏi ngươi một điều".

"Xin công công cứ hỏi, Nguyệt Minh này không giấu một điều gì cả".

Phụng công công đặt ống điếu xuống chiếc bàn nhỏ bên cạnh, động tác ung dung. Trên bàn còn có một túi da hẹp dài độ hai thước, không biết bên trong chứa vật gì. Ký Thiện nhìn không lầm, tâm tình Phụng công công đang sảng khoái, đêm nay quả là cơ hội hiếm có. Rất hiếm khi Phụng lão được như hôm nay, quanh năm ở giữa trường tranh đấu ngấm ngầm của triều đình, ai mà vui được?

Phụng công công vì sao tâm tình vui vẻ?

Lão nhìn ánh trăng ngoài cửa sổ, nói bâng quơ: "Bất luận là mãnh tướng hay đại thần, ai ai gặp ta cũng sợ run, chỉ có ngươi, ta cảm thấy ngươi chẳng có mảy may ý khiếp sợ, ấy là do đâu?".

Cô Nguyệt Minh thầm thở ra, mỗi người đều có điều muốn hỏi, bên bị hỏi có thể chọn đáp hay không đáp, mà y thì chẳng bao giờ trả lời. Chỉ có khi Phụng công công hỏi thì không thể không đáp. Có thể y không sợ Phụng công công, nhưng chắc chắn y sợ câu hỏi của lão. Thậm chí y cũng không thể biểu lộ sự không khứng của mình. Y so vai: "Giả như kẻ này nói là vì tự vấn mình vẫn một lòng vì công công hành sự, chẳng có gì phải lo sợ, nên chẳng hề nghĩ đến sự sợ hãi, công công tin chăng?".

Ánh mắt Phụng công công chiếu như tên bắn vào Cô Nguyệt Minh, tỏ ý vui vẻ: "Ngươi là một kẻ thú vị, chẳng những thẳng thắn mà còn dám nói chuyện ngang với ta, làm ta có cảm giác kỳ lạ như đang trò chuyện với bằng hữu. À! Đã lâu lắm rồi ta không có cảm giác này. Nói cho ta nghe, tại sao ngươi không sợ ta?".

Cô Nguyệt Minh nghĩ bụng Phụng công công có thể là người duy nhất nhận thấy y là một kẻ thú vị, y nói thẳng: "Công công có thể không thích câu trả lời của kẻ này. Tại hạ là một kẻ không luyến tiếc sinh mệnh, chẳng những không sợ cái chết mà còn khát vọng tử vong".

Phụng công công như bất động, chỉ có tiếng nói rít ra qua kẻ răng: "Tử vong có thể chia ra chết nhẹ nhàng hay chết đau đớn, hoặc thà chết sướng hơn sống, ngươi nghĩ sao?".

Cô Nguyệt Minh ung dung nói: "Công công cứ xem như tại hạ tự tin mù quáng, tại hạ tin chắc không ai có thể bắt sống tại hạ".

Phụng công công bật cười: "Giỏi! Giỏi! Nói hay lắm! Ta sống đến chừng này tuổi, mới nghe có kẻ nói không sợ chết".

Nói xong lão nhìn lên trần nhà, lộ vẻ trầm tư.

Cô Nguyệt Minh nhìn bốn bức sơn thủy thư họa treo giữa tường phía sau lưng Phụng công công, ngay lúc y thốt ra câu "không ai có thể bắt sống tại hạ", liền nghe thấy tiếng thở gấp truyền lại từ phía sau tường, y lập tức hiểu ra. Chắc chắn đàng sau bức tường là nơi ẩn mình của vệ sĩ của Phụng công công, trong nhóm có một người tưởng rằng câu nói này sẽ khiến Phụng công công nổi giận hạ lệnh giết ngay, nên trong lúc khẩn trương đã thở gấp, nhưng không tránh được đôi tai thính của y. Bức tường này chỉ là giả tạo, thực chất hẳn mỏng như giấy, các vệ sĩ ẩn mình phía sau có thể phóng ra bất cứ lúc nào.

Tiếng của Phụng công công lọt vào tai Cô Nguyệt Minh: "Ta thật không hiểu, với võ công và tài trí của ngươi, bề ngoài lại tuấn tú phong lưu, bao nhiêu thứ tốt đẹp của cuộc đời đang chờ ngươi thưởng thức, mà ngươi cứ xăm xăm một lòng tìm cái chết. Ngươi chán sống rồi chăng? Năm nay ngươi bao nhiêu tuổi rồi? Hai mươi lăm hay hai mươi sáu?".

Cô Nguyệt Minh thành thật đáp: "Hai mươi lăm".

Trong lòng y nảy sinh cảm giác như đang đi trên băng mỏng, cần cẩn thận. Thật ra mỗi lần gặp Phụng công công, y đều có cảm giác mình đang ở trong chốn hiểm nguy. Lần này Phụng lão nói nhiều câu "dư thừa", càng là một điều trước nay chưa từng xảy ra, chứng tỏ lần này có việc khác thường.

Phụng công công không nói gì, im lặng chờ câu trả lời của Cô Nguyệt Minh.

Y bình tĩnh nói: "Tại hạ chỉ nói sự thật tình trạng bản thân. Tại hạ là một kẻ thích mạo hiểm, chỉ thích đặt mình giữa nguy cơ bị giết hoặc giết người, điều đó không thể giải thích được. Nếu có một ngày có kẻ tiễn được tại hạ ra đi, tại hạ sẽ rất cảm kích đối phương. Nhưng tuyệt đối tại hạ không tự tận, trừ phi đến đường cùng sống không bằng chết vì lúc ấy tử vong là một sự giải thoát".

Phụng công công đăm đăm nhìn Cô Nguyệt Minh, một lúc sau mới nói: "Đúng là suy nghĩ này đã khiến ngươi trở thành đệ nhất danh kiếm tại kinh sư, kiêm liệp thủ lãnh thưởng được Hoàng thượng trưng dụng. Song ta càng không hiểu, một kẻ xem cái chết tựa giải thoát như ngươi, tại sao tìm trăm phương ngàn kế nhờ ta nói giúp với Hoàng thượng để giải trừ quân chức của ngươi?".

Cô Nguyệt Minh ngầm thở phào, cuối cùng Phụng lão đã nói vào mục đích chính. Với câu hỏi này y đã dự bị trước câu trả lời thích hợp nhất, nên không do dự đáp ngay: "Tại hạ là một kẻ tính tình cô độc, sợ chốn đông người, nếu đem tại hạ đẩy ra chiến trường, tại hạ sẽ có cảm giác chết sướng hơn sống như công công nói, đáng sợ hơn là chính mình sẽ làm bậy, đã báo quốc chẳng đặng mà còn ngược lại làm hỏng đại sự".

Y lại thở dài: "Từ lúc trưởng thành đến nay, Nguyệt Minh này vẫn đi lại một mình, công công biết rõ điều đó mà".

Phụng công công tỏ vẻ thông cảm: "Biết thì đã sao? Vấn đề là Bành đại tướng quân, lúc sinh tiền...".

Cô Nguyệt Minh ngơ ngác hỏi: "Sinh tiền?".

Phụng công công ra chiều thương tiếc: "Hung tín truyền về đây từ bắc tuyến cách nay bảy ngày, Bành đại tướng quân trúng phải ổ mai phục của kẻ địch, binh bại thân vong. Đến lúc này ta vẫn giấu kín sự việc, để có đủ thời gian an bài hậu sự, kẻ biết nội vụ không quá mười người, ngươi chớ tiết lộ chuyện này".

Cô Nguyệt Minh không nói gì, cũng không biểu lộ gì cả. Từ lâu y đã trơ như gỗ đá đối với sự chết, chẳng biết vì giết người nhiều hay vì bẩm sinh như vậy. Bành đại tướng quân đã từng dạy y binh pháp, y là một trong khá nhiều môn sinh của tướng quân.

Phụng công công nói tiếp: "Bành đại tướng quân lúc sinh tiền từng nhắc đến ngươi cùng Hoàng thượng, tướng quân chỉ ra khả năng thiên phú về quân sự của ngươi, bất luận quân lược binh pháp khó hiểu thế nào, ngươi chỉ cần nghe qua là thông hiểu, lại nữa ngươi thuộc dòng dõi tướng môn, khiến Hoàng thượng vẫn để tâm. Tin Bành đại tướng quân qua đời vừa truyền ra, Hoàng thượng nghĩ ngay đến ngươi, nếu không nhờ ta khuyên giải, ngươi chắc đã nhận được thánh chỉ đi thay thế Bành đại tướng quân".

Cô Nguyệt Minh biến sắc: "Cái gì?".

Phụng công công chăm chú nhìn y, không nói tiếng nào.

Cô Nguyệt Minh bỗng cảm thấy mình ở vào thế kẹt. Không cần biết Hoàng thượng có suy nghĩ như Phụng công công nói hay chăng, chỉ cần lão quyết ý đẩy y ra chiến trường thì y cầm chắc khó thoát. Tại sao Phụng lão muốn đẩy y vào tuyệt địa?

Phụng công công nhếch mép ẩn ý cười khó hiểu, hòa hoãn nói: "Trong tình huống này, nói thế nào Hoàng thượng cũng không nghe. Nghĩ tình Nguyệt Minh ngươi chuyên tâm làm việc cho ta năm năm nay, lập công vô số, ta suy nghĩ mãi mới có một cách duy nhất có thể thay đổi chủ ý của Hoàng thượng".

"Xin công công chỉ điểm".

Phụng công công hạ giọng: "Các ngươi hãy lui ra".

Nghe tiếng vệ sĩ phía sau tường rón rén rút lui, Cô Nguyệt Minh cảm thấy lạnh cả cột sống.

Phụng công công sắp nói đến bí mật gì? Vì sao chỉ cho một mình y biết mà thôi?

Trong bóng tối núi rừng, tối đến độ đưa bàn tay lên không thấy năm ngón, Ô Tử Hư gần như lả đi, không khí trong phổi như bị rút mất, không thể không há to miệng thở dốc. Vô số câu hỏi xoay vòng trong đầu hắn. Không thể nào. Hắn như con mồi bị săn lùng, bị đuổi chạy tán loạn tứ phía, không cách nào theo kế hoạch ban đầu để đào thoát. Đúng ra hắn định qua sông rồi đi về phía tây, đến Dương Châu thì tìm cách lén lên một tàu đi biển, đến chốn nào cũng được, chỉ cần rời xa trung thổ. Kẻ địch của hắn quá lợi hại, hắn mà ở lại Trung nguyên sẽ dễ bị bắt. Không thể nào! Với thân thủ trốn thoát của hắn, tại sao kẻ địch vẫn bám theo sau, bây giờ hắn đã tiến sâu vào dãy núi phía nam mà khi nãy hắn ở trên đồi cỏ nhìn thấy, không biết có thay đổi tình huống chăng?

Hắn có hối hận chăng? Chắc chắn là có, hắn hối hận đã vào sòng bạc ấy, hối hận gặp phải nữ nhân ấy, hối hận... Aaa! Sai lầm nặng đã phạm, còn hối hận được gì, chỉ tội trong túi bây giờ chỉ còn một lượng bạc.

Bỗng thấy chấn động, tiếng ngựa hí lại vọng vào tai hắn, nhưng hắn đang ở trên núi, ngựa làm sao trèo núi vượt đỉnh? Hay trong núi có đường? Kẻ địch truy nã phía sau hẳn phải có cao thủ, dù không bằng liệp thủ Cô Nguyệt Minh vang danh thiên hạ, thì cũng không thua bao nhiêu, bằng không làm thế nào đến lúc này vẫn chưa mất dấu Ô Tử Hư. Hắn đâu phải kẻ tầm thường, mà là một đại đạo chưa từng thất thủ từ lúc bắt đầu hành nghề đến giờ, chỉ tức là trộm càng nhiều hắn càng đánh bạc nhiều, đệ nhất đại đạo mà đánh bạc rất tệ, đâm ra hắn thường xuyên rổng túi, chuyến này lại bị người nhận diện làm lộ hành tung. Nếu nói không hối hận là nói dối. Nhưng chỉ cần hắn trốn lánh đến một đại trấn, "phá giới" trộm vặt vài lượng, đủ mua vật liệu để hóa trang, và y theo kế hoạch ra đến Dương Châu, là hắn có thể theo đường biển trốn mất dạng.

Bao nhiêu ý niệm xẹt qua trong đầu Ô Tử Hư, hắn bật dậy xông về phía trước, đang có ý nghĩ vùng rừng rậm này rộng bao nhiêu, bỗng hụt chân té lộn vòng xuống dưới, chẳng biết đụng phải bao nhiêu cành cây chắn ngang, bất chợt hắn thấy thân mình rơi giữa khoảng không, sau lưng tiếng nước chảy ầm ầm, thì ra là một thác nước lớn. Không thể nào! Tại sao khi nãy hắn không hề nghe thấy tiếng nước chảy? "Ùm" một tiếng, Ô Tử Hư rơi xuống vài chục trượng, rớt vào đầm nước, suýt chút ngất đi. Từ dưới nước ngoi lên, hắn đã uống không biết bao nhiêu ngụm nước, đầu óc xây xẩm không còn tỉnh táo để bơi vào bờ. Giòng nước chảy xiết đẩy hắn trôi xuống dưới, chẳng còn phân biệt được phương hướng. "Bùm" một tiếng, thân mình hắn lại rơi giữa không trung, thì ra thêm một từng thác nước. Khi rớt xuống nước, Ô Tử Hư cảm thấy giòng nước chảy càng mạnh hơn, hắn thầm kêu chắc tới số rồi, chỉ cần đụng phải đá ngầm là vỡ óc mất.

Vừa có ý niệm ấy, hắn đã bị giòng nước xiết vùi sâu trong bóng tối.

Phụng công công thong thả hỏi: "Ngươi có tin chuyện quỷ thần chăng?".

Cô Nguyệt Minh không hiểu tại sao Phụng lão hỏi một câu chẳng liên quan gì cả, nhưng không thể không trả lời: "Không!".

Phụng công công mỉm cười: "Nếu ngươi sống đến tuổi ta, ngươi sẽ không còn khẳng định như vậy, vì ngươi sẽ gặp rất nhiều chuyện lạ mà chỉ có thể mượn quỷ thần để giải thích. Để ta nói rõ ngọn ngành câu chuyện cho ngươi hiểu".

Cô Nguyệt Minh ngạc nhiên hỏi: "Không lẽ công công muốn sai tại hạ đi làm việc có dính dự đến quỷ thần? Mà chỉ cần tại hạ hoàn thành nhiệm vụ, thì có thể khiến Hoàng thượng đổi ý, giải trừ quân chức cho tại hạ?".

"Đúng vậy. Chỉ cần ngươi hoàn thành nhiệm vụ, Hoàng thượng sẽ bỏ qua mọi thứ, kể cả cương thổ của người. Ta có thể đảm bảo ngươi không phải ra chiến trường, mà từ nay về sau ngươi sẽ không bị kéo vào chiến sự nào cả".

Nói đến đây, tấm thân còng của Phụng công công bất giác thẳng lên, hai mắt sáng như điện, cả người như biến thành một kẻ khác, không còn chút cảm giác lão suy, toàn thân toát đầy sinh khí sống động, trong mắt lão chứa đầy khát vọng và kỳ vọng, trông rất quỷ dị.

Phụng công công đang thị uy với Cô Nguyệt Minh chăng?

Y nói: "Công công gây hứng thú cho tại hạ rồi đấy".

Phụng công công bỗng trở lại vẻ già nua bình thường, lạnh nhạt nói: "Ngươi từng nghe đến Vân Mộng Trạch chưa?".

Cô Nguyệt Minh không hiểu đầu đuôi, bèn đáp: "Đó là nơi nào? Tên nghe cổ quái, nhưng đầy thi ý".

Phụng công công không vòng vo nữa, lão nói: "Thời Xuân Thu chiến quốc, Động Đình Hồ mang cổ danh này, vị trí nằm trong Sở quốc, Vân Mộng Trạch ngày nay, đại khái là chỉ một khoảng đầm lầy phía đông ngạn sông Tương ở phía nam Động Đình Hồ".

Cô Nguyệt Minh không nhịn được liền hỏi: "Trong đầm phải chăng là nơi cư trú của quỷ thần?".

"Có thể nói như vậy". Phụng công công giải thích thêm: "Sự việc này bắt nguồn từ thời Xuân Thu chiến quốc, lúc ấy tại nước Sở, trong vùng Vân Mộng Trạch có một tòa thành trì tên là 'Chuyên', Thành chủ vì muốn chiếm riêng một bảo vật nên chống lại Sở Vương, không chịu trao bảo vật, xảy ra chuyện gì bên trong, trải qua bao thời đại không còn ai biết, chỉ biết Chuyên thành sau đó bị Sở Vương đem quân công phá, nhưng chẳng tìm được gì, từ đấy bảo vật kể như biến mất".

Cô Nguyệt Minh thở hắt ra: "Công công muốn phái tại hạ đi tìm một vật đã biến mất khỏi thế gian hơn cả ngàn năm ư?".

Phụng công công khoan khoái mỉm cười: "Công công ta tuy già nhưng chưa đến nổi lẩn thẩn, đâu làm khó ngươi mà chi. Bảo vật này đã từng được phát hiện, suýt được đưa về kinh sư, chuyện xảy ra mới cách đây mười năm".

Cô Nguyệt Minh phấn chấn tinh thần, bắt đầu hiểu thêm một chút, bèn hỏi: "Vật này có phải có quỷ thần yểm, và được tìm thấy bên trong đầm Vân Mộng, nên công công mới kể chuyện lúc nãy?".

Phụng công công chẳng biết nghĩ đến việc gì, không có gió mà mái tóc trắng của lão cũng lay động: "Tại sao dưới trướng ta có nhiều kỳ nhân dị sĩ, mà ta lại chọn ngươi để đảm đương vụ truy tìm bảo vật?".

Cô Nguyệt Minh đương nhiên không thể tự khen mình có bản lãnh thế nào, nên đành hỏi theo: "Công công vì sao chọn tại hạ?".

"Bởi vì ngươi đích thực là một kẻ không tham bất kỳ một loại kỳ trân dị bảo nào trên đời này".

"Công công hẳn suy từ quan niệm xem nhẹ sự chết của tại hạ, mà đoán rằng tại hạ không động lòng trước vật ngoài thân".

Phụng công công mỉm cười đầy thâm ý: "Ngươi có thật sự không để tâm đến sự chết hay không, e phải chờ lúc trực diện sinh tử mới biết. Nhưng ngươi không tham của, ấy là sự thật".

"Tại hạ chưa hiểu".

"Còn nhớ chăng? Ba năm trước ngươi theo lệnh của ta truy sát tên đại đạo 'Đạo Thiên Gia', chém đầu hắn xong, ngươi đem kho báu đầy của trộm của hắn nộp cho triều đình. Sau đó ta cho người điều tra cặn kẽ, biết rõ ngươi niêm phong kho tàng ấy nộp lên, các vật trân quý trứ danh không mất món nào, khiến ta cảm thấy rất khó tin. Nếu ngươi có ý giấu riêng một phần thì ta cũng khó biết vì ngươi có thể đổ cho 'Đạo Thiên Gia' đã bán lại những món ấy".

Cô Nguyệt Minh lộ vẻ chua chát, thở phào một hơi: "May mà tại hạ không có hứng thú với những thứ ấy".

"Đó chỉ là một lý do".

"Còn có lý do khác ư?".

"Lý do khác là sự thành bại kỳ này còn tùy vào ngươi, xem thử ngươi có phát huy được lần nữa sở trường của mình chăng".

"Sở trường của tại hạ là sát nhân, vậy có quan hệ gì đến việc tìm bảo vật?".

"Quan hệ ở chỗ ngươi phải giết kẻ nào? Nếu kẻ ấy là một đại đạo siêu cấp, hành tung không lộ dấu vết như Đạo Thiên Gia, thì muốn giết được hắn cũng phải có nghề riêng. Về phương diện này, trong thiên hạ không ai hơn ngươi, do đó ta chỉ chọn ngươi".

Cô Nguyệt Minh không khỏi hiếu kỳ, lại hỏi tiếp: "Thế gian hãn hữu, giá đáng liên thành, vật trân bảo ấy là thứ gì?".

Phụng công công hạ giọng: "Chẳng ai biết rõ".

Cô Nguyệt Minh thất thanh hỏi: "Cái gì?".

Hồi 2: Thần Bí Bảo Hạp

Ô Tử Hư nghe tiếng tim mình đập thình thịch, ý niệm đầu tiên là hắn vẫn còn sống.

Đã xảy ra chuyện gì?

Hắn như người mới sống lại, thân thể dần dần khôi phục tri giác, nếu lúc trước chỉ mệt mỏi, thì nay tinh lực kiệt quệ, đến di động hai chân cũng không cách gì làm nổi, toàn thân hắn mềm nhũn vô lực, đầu váng ngực tức.

Hắn chậm chạp mở mắt ra, thấy trước mắt một cảnh giới như trong mộng, chưa bao giờ tưởng tượng đến.

Một bên mặt hắn đang áp xuống đất bùn ẩm ướt, từ dưới nhìn lên, vầng trăng sáng treo bên trên mặt đất, bầu trời một khoảng xanh đen. Từ góc độ hắn đang nằm trông ra, hắn thấy vô số ao nước nhỏ rải rác chung quanh, dương liễu phủ đầy bên bờ ao khúc khuỷu, cành liễu yếu gầy thấm ướt. Giữa đám dương liễu có lẫn vào một giống cây thấp chẳng biết tên gì, có cây đang trổ hoa tươi sắc thắm, có cây trĩu đầy quả. Điều làm hắn kinh ngạc trố mắt nhìn, là vùng đầm lầy này chừng như rộng vô tận, ra đến cuối chân trời.

Ô Tử Hư rên lên một tiếng, không di động được, sau đó hắn nhận ra nửa thân hắn vẫn còn ngâm trong vũng nước lạnh.

Lúc này đã tỉnh thêm một chút, Ô Tử Hư nhớ lại lúc trượt chân rớt xuống dòng nước chảy xiết, song hắn không hiểu sao lại trôi đến một nơi như thuộc quỷ vực này. Hắn không sao liên tưởng được hai cảnh nước xiết và vùng đầm lầy với nhau.

Hay là mình đã chết mất rồi, và nơi đây chẳng phải chốn nhân gian nữa, mà là âm giới. Ý nghĩ này khiến hắn rùng mình.

"Không thể nghĩ lung tung nữa! May mà họa trung hữu phúc, mình trượt chân lần này, chắc chắn dứt bỏ được truy binh, chỉ cần tìm đường ra khỏi đây thì có thể thong thả trốn tránh".

Đúng lúc ấy, có tiếng vó ngựa vang lên.

Không thể có chuyện này! Chẳng những địch nhân không có cách gì đuổi kịp hắn, mà ở chốn quỷ quái này chẳng thể nào cỡi ngựa.

Hồn phi phách tán, Ô Tử Hư gắng sức ngóc đầu lên nhìn về phía trước.

Phụng công công ra dáng hồi tưởng chuyện xưa: "Chuyện này cần phải kể từ đầu cho Nguyệt Minh ngươi rõ, vì ta không muốn tái phạm sai lầm".

Cô Nguyệt Minh chuyên tâm lắng nghe.

Phụng công công nhìn lên xà nhà, từ tốn kể: "Mười năm trước, có một người tên Mâu Xuyên, vì đắc tội Hoàng thượng nên bị tống giam vào đại lao, cầm chắc tử tội khó tha. Mâu Xuyên là người biết xoay sở, nhờ quen biết một vị triều thần mà tìm đến quan thống lãnh ngự lâm quân Phu Mãnh, một tay tâm phúc thân tín của Hoàng thượng lúc ấy. Họ Mâu thố lộ cùng Phu Mãnh về bí mật "Sở hạp", hy vọng có thể tìm được Sở hạp cho Hoàng thượng hầu được tha tội chết. Mâu Xuyên chẳng phải nói ngoa, vì đó là bí mật lưu truyền trong gia tộc của y, có đề cập đến trong gia phả. Tổ tiên họ Mâu vốn là cận thần của Sở vương thuở ấy, nên biết rõ chuyện xảy ra lúc ấy, chỉ có điều gia phả đời xưa đã bị thất lạc vì chiến loạn, Mâu gia chỉ còn bảo tồn được phần ký lục từ sau đời Tấn, nên chuyện kể không tường tận".

Cô Nguyệt Minh nhíu mày hỏi: "Nếu người dòng họ Mâu biết chỗ giấu 'Sở hạp', tại sao qua cả ngàn năm vẫn không tìm ra bảo vật?".

Ánh mắt Phụng công công chiếu lại Cô Nguyệt Minh, lão trầm giọng: "Đó mới là điểm quái dị, người của Mâu thị đã từng phái người đi tìm của báu, nhưng không thể tìm được cổ thành thuộc Sở quốc như trong truyền thuyết đã thuật lại. Điểm ly kỳ nhất là những kẻ đi tìm bảo vật đều gặp tai họa, như thể bị vướng lời nguyền độc địa, không ai gặp may, thế nào sau đó cũng bị chết đột ngột, nên từ giữa đời Đường về sau, chẳng còn ai dám đi tìm bảo vật nữa".

Phụng công công lại mỉm cười thốt: "Nguyệt Minh ngươi quả kỳ quái, lúc nãy ta có nói không ai biết bảo vật là thứ gì, bây giờ ngươi lại cho bảo vật là Sở hạp, chẳng phải mâu thuẫn sao?".

Cô Nguyệt Minh hỏi: "Bảo vật thực thụ có phải nằm bên trong hộp chăng?".

"Ngươi khá nhạy bén đấy. Hộp báu này hình vuông có cạnh khoảng nửa thước, được chế bằng một loại chất liệu kỳ dị nửa như vàng nửa như đồng, trên mặt có khảm bảy viên dạ minh châu theo vị trí thiên văn của bắc đẩu thất tinh. Chỉ riêng bảy viên dạ minh châu này cũng đã là kỳ trân hi hữu trên đời, giá đáng liên thành, đủ khiến Hoàng thượng động lòng. Tuy nhiên Hoàng thượng để ý nhất, vẫn là vật quý báu không tên bên trong hộp, Chuyên thành Thành chủ vì vật ấy mà mạo hiểm họa diệt tộc để chống lại Sở vương, còn Sở vương cũng không ngại huy động đại binh quyết chí tranh đoạt. Bảo vật ấy thực sự là gì? Hoàng thượng rất muốn biết, ta cũng muốn biết, bất kỳ ai cũng muốn mở hộp ra nhìn một lần cho biết. Bây giờ chắc ngươi đã hiểu sức thu hút của Sở hạp".

Cô Nguyệt Minh thờ ơ nói: "Có lẽ cũng giống như viên Hòa Thị Bích".

Y lại nhíu mày: "Mâu Xuyên lần này dựa vào đâu mà đi tìm Sở hạp? Không chừng cổ thành đã bị hủy hoại từ xưa, bị cỏ hoang che lấp".

Phụng công công thốt: "Đây là điểm quái dị thứ nhì, Mâu Xuyên trong lúc bị giam trong ngục, đã nằm mộng thấy tổ tiên y đến bảo cho biết nếu muốn tìm vào cổ thành, phải chờ đến quỷ tiết vào Vân Mộng Trạch tìm mới được. Mâu Xuyên tuy được báo mộng nhưng vẫn bán tín bán nghi, song để tự cứu y phải liều thử một phen. Trước sau cũng chết, đi tìm của báu may ra sống được, ít nhất cũng kéo dài mạng sống thêm một thời gian".

Cô Nguyệt Minh trầm ngâm: "Quỷ tiết phải chăng nhằm ngày mười bốn tháng bảy mỗi năm, cũng là lúc tương truyền quỷ môn quan mở cửa?".

"Ngươi có thể đoán biết diễn tiến sự việc, Hoàng thượng phái kẻ tín nhiệm nhất, giải Mâu Xuyên đến Vân Mộng Trạch đi tìm cổ thành trong truyền thuyết, nhưng những chuyện xảy ra sau đó, than ôi!".

Cô Nguyệt Minh ngạc nhiên hỏi: "Chuyện gì xảy ra sau đó?".

Phụng công công lắc đầu khẽ thở dài: "Người phụ trách nhiệm vụ này là Phu Mãnh, cộng thêm hai mươi bốn cao thủ tinh nhuệ trong hàng ngũ ngự vệ, đúng ngày ngày mười ba tháng bảy họ tiến vào đầm Vân Mộng để chờ hôm sau đúng thời khắc của quỷ tiết".

Cô Nguyệt Minh nghe đến đây chợt rùng mình. Đội tìm của báu hẳn đã tìm được Sở hạp, bằng không Phụng công công đã không nói Sở hạp từng xuất hiện. Như vậy chuyện Mâu Xuyên được báo mộng là thật, đến đúng quỷ tiết, cổ thành sẽ xuất hiện. Hèn gì Phụng công công có nói trước, có những chuyện lạ cần kể đến quỷ thần mới thông.

"Lúc ấy phía ngoài Vân Mộng Trạch có bố trí một đội ngũ năm trăm người, do tướng lãnh vùng ấy là Tiền Thế Thần chỉ huy, để tiếp ứng Phu Mãnh. Hai bên giao hẹn, hễ đến cuối giờ Hợi ngày mười bốn tháng bảy, bất luận có kết quả hay không, Phu Mãnh sẽ phái người trở ra báo tin. Nào hay Tiền Thế Thần chờ mãi đến giữa giờ Sửu ngày mười lăm, vẫn không thấy ai ra báo tin, vội dẫn binh vào trong, tìm kiếm đến năm ngày sau, cuối cùng phát hiện ra đội tìm của báu đã xảy ra chuyện.

Cô Nguyệt Minh nghĩ thầm: "Ắt phải có chuyện, nếu không Phụng công công đâu cần ép mình đi tìm Sở hạp".

"Hai mươi sáu người vào trong Vân Mộng Trạch, hai mươi bốn người bỏ thây tại chỗ, tất cả đều trúng kịch độc, kể cả Mâu Xuyên".

Cô Nguyệt Minh bắt đầu thấy chút manh mối của câu chuyện, bèn hỏi: "Hai kẻ thất tung là ai?".

Phụng công công nói: "Một là Phu Mãnh, còn kẻ kia là thủ hạ đắc lực có quan hệ mật thiết với họ Phu, chính là thân đệ của ái thiếp của Phu Mãnh".

Cô Nguyệt Minh cảm thấy nhẹ nhõm cả người, thầm nghĩ thì ra chỉ vì lòng tham giấu bảo vật làm của riêng, chỉ cần sự việc không liên quan đến quỷ thần là được. Chẳng có "người" nào mà Cô Nguyệt Minh không ứng phó được.

Phụng công công buồn rầu nói: "Trước khi xảy ra việc này, tại kinh sư mọi người kể cả ta đều không tin Phu Mãnh là kẻ tham đoạt của báu, ma lực của Sở hạp có thật mạnh như thế chăng".

Cô Nguyệt Minh nói: "Điều đó không liên quan đến chiếc hộp nữa, chắc chắn Phu Mãnh đã mở hộp ra xem, cái hấp dẫn hắn là vật nằm bên trong".

Phụng công công lắc đầu: "Ngươi biết một mà chẳng biết hai. Sở hạp chẳng phải vật tầm thường, mà là trấn thành chi bảo của Chuyên thành, tương truyền được chế tạo từ thời tam hoàng ngũ đế, chất liệu luyện thành Sở hạp nửa như đồng nửa như vàng mà cũng không hẳn, đao nhọn kiếm bén hay lửa đốt cũng không hủy được, cách mở hộp cũng là một bí mật, điều này về sau ta mới được người trong Mâu thị cho biết. Dù Phu Mãnh có lấy được Sở hạp, ta dám chắc đến bây giờ cũng không có cách mở ra, do đó chỉ cần ngươi tìm được Phu Mãnh thì rất có thể thu hồi Sở hạp, để nguyên vẹn đem trao lại cho Hoàng thượng".

"Nói như thế, chưa ai gặp lại Phu Mãnh".

Phụng công công không trực tiếp trả lời: "Ngoài chính thất, Phu Mãnh còn có tiểu thiếp, sinh hạ một gái, cư ngụ tại biệt viện ở ven kinh thành. Người thiếp này rất được Phu Mãnh sủng ái, sau khi xảy ra sự việc này, Hoàng thượng hạ lệnh tru di tam tộc họ Phu, duy chỉ có tiểu thiếp của hắn là Tiết nương cùng con gái là trốn đi mất dạng, như vậy đủ biết Phu Mãnh đã đi sớm một bước, chạy về kinh sư dẫn hai mẹ con đi trốn. Qua việc đó có thể suy đoán là Phu Mãnh chẳng những còn sống, mà chắc chắn Sở hạp cũng rơi vào tay hắn".

Cô Nguyệt Minh có chỗ không thông, hỏi lại: "Điều này không hợp lý, Phu Mãnh đã không mở được Sở hạp, làm sao biết bên trong chứa bảo vật gì? Có ai lại vì một vật không rõ là thứ gì mà buông thả công danh phú quý, lại phải chịu tán gia diệt tộc?".

"Đây là chỗ khiến người nghĩ hoài không thông, hà huống Phu Mãnh vốn là một người tâm địa đoan chính, đối với Hoàng thượng một dạ trung tâm. Nhưng sự việc đã xảy ra như vậy, bọn ta cũng không cần suy xét thêm nữa. Tri nhân tri diện bất tri tâm, có rất nhiều việc đến nước cùng mới biết rõ, đúng không?".

Cô Nguyệt Minh biết là Phụng công công đang ngầm mỉa mai y xem thường sự sinh tử, nhưng y đâu thể đấu khẩu với lão, đành nói: "Nguyệt Minh này phải bắt đầu thế nào? Xin công công chỉ thị".

Vô Song Nữ dầm mưa hứng gió, ra roi thúc ngựa phi trên đường cái, trong lòng nhớ về mười năm trước vào đêm mà cuộc đời nàng thay đổi hoàn toàn. Cữu phụ nửa đêm đến biệt viện, nơi nàng trải qua một thời tuổi thơ sung sướng, lúc ấy nàng chỉ mới chín tuổi, tiếng mẫu thân dậy thay áo làm nàng tỉnh giấc.

Cữu phụ là người cưng chiều nàng nhất sau cha mẹ, lúc ấy nàng vô tư cứ tưởng cữu phụ đem đồ chơi thích thú đến cho nàng, bởi cữu phụ đã hứa như vậy trước khi theo cha đi xa, lại tưởng rằng cha cũng về cùng lúc.

Mẹ vì bận rộn quên đóng cửa phòng, nên nàng nghe được lời đối thoại giữa cữu phụ và mẹ, mà đến nay nàng vẫn chưa quên từng câu nói.

Sau đó mẹ nàng đuổi hết tỳ nữ và kẻ hầu, hai mẹ con theo cữu phụ đang đêm chạy trốn, từ đấy ẩn tính mai danh, thay đổi chỗ ở luôn luôn để tránh bị quan phủ vây bắt. Chưa đầy một năm, mẹ vì ưu tư thành bệnh nặng không dứt, cuối cùng đã bỏ nàng ra đi.

Thần sắc của mẹ lúc lâm chung, nàng vẫn nhớ rõ, nàng hiểu vì sao mẹ không vui, không phải vì sự cực nhọc trốn tránh đây đó, mà vì đau lòng và tuyệt vọng trước sự bỏ rơi của cha.

Lần này nàng nhất quyết rời khỏi Bách Hí Đoàn, song thật ra không rõ mình đang làm gì, chỉ biết cần phải đến Vân Mộng Trạch đi tìm cổ thành kia, được kết quả gì thì nàng chưa nghĩ đến, chỉ biết rằng nếu không làm vậy, nàng sẽ bị suy nghĩ của chính mình thôi thúc đến chết mất.

Từ lúc biết chuyện, cha là người giỏi nhất trong tim nàng, một nhân vật anh hùng nhất. Mẹ và cửu phụ không hề biết nàng nghe được lời đối thoại của họ, mỗi lần nàng hỏi đến cha, họ đều tìm lý do nói qua chuyện khác.

Những tháng ngày theo đoàn đi biểu diễn khắp nơi, nàng chuyên tâm học nghề, chẳng sợ cực khổ, không phải vì muốn trở thành một kẻ biểu diễn xuất sắc, mà vì muốn học được một thân đầy bản lãnh khá, để chuẩn bị cho cuộc hành trình này, bắt đầu từ đêm nay.

Vì mẹ, vì chính mình, nàng thề phải giải oan cho cha, nàng không tin cha mình là hạng người như vậy. Dù mạo hiểm có thể bại lộ thân phận, nàng cũng phải làm sáng tỏ xem cha nàng là một hảo hán hay là một kẻ ti tiện thấy lợi quên nghĩa, bỏ rơi thê tử.

Phụng công công theo thói quen không trực tiếp trả lời câu hỏi của Cô Nguyệt Minh, lão trầm ngâm: "Sau hung án Vân Mộng Trạch, trong mười năm qua trước sau hết chín lần ta đã phái người đến đúng ngày mười bốn tháng bảy tiến vào trong đầm tìm kiếm cổ thành, mà lần nào cũng trở về không kết quả, cổ thành xem ra đã biến mất".

Cô Nguyệt Minh nhún vai: "Có thể cổ thành vốn không hiện hữu".

"Nếu kẻ thất tung không phải Phu Mãnh mà là Mâu Xuyên, thì ngươi nói có lý. Nhưng sự thật kẻ thất tung là Phu Mãnh cùng em vợ, vậy ngươi giải thích thế nào?".

"Tại hạ chưa có cách giải thích hợp lý".

Phụng công công mỉm cười: "Ta có thể đưa ra thêm một cách giải thích, ấy là quỷ thần quả thật tồn tại, và những quỷ thần canh giữ cổ thành đến ngày mười bốn tháng bảy thì nghỉ một ngày. Nhưng sau khi xảy ra sự việc này thì họ không phạm sai lầm ấy nữa, vì thế bọn ta không có cách gì tìm ra cổ thành".

Cô Nguyệt Minh không có lời nào đáp được, chuyện này chỉ có tin hay không, chẳng có chỗ tranh luận.

Phụng công công nói tiếp: "Lúc ấy ta là người thừa lệnh tịch thu gia sản họ Phu, Hoàng thượng ủy thác việc tìm Sở hạp cho ta toàn quyền phụ trách. Đương nhiên Hoàng thượng muốn lấy được Sở hạp để mở ra xem bên trong có gì, nhưng hơn thế nữa ngài muốn bắt Phu Mãnh đem mổ thịt lóc xương. Đáng hận nhất là bị kẻ thân tín nhất của mình phản bội. Nguyệt Minh ngươi hiểu chăng? Vì vậy chỉ cần ngươi nhận nhiệm vụ kỳ này, hoàn thành tâm nguyện của Hoàng thượng, thì ta dám vỗ ngực bảo đảm bất luận ngươi có yêu cầu gì, Hoàng thượng cũng thẳng thắn chấp thuận".

Cô Nguyệt Minh gật đầu: "Tại hạ hiểu".

Phụng công công thốt: "Ngay lúc ngươi trao Sở hạp, sẽ là lúc ta giao tận tay thánh chỉ giải trừ quân chức cho ngươi, quyết không nuốt lời, ngươi có thể an tâm hành sự".

Cô Nguyệt Minh thầm kinh ngạc, với tác phong của Phụng công công, không khi nào lão nói rõ trắng đen như vậy, qua đó có thể thấy Hoàng thượng rất nóng lòng muốn được của báu, nên tạo áp lực rất lớn cho Phụng công công.

"Công công an tâm đi, cũng may tại hạ chỉ phải truy tầm hai kẻ phản đồ, chứ không phải đi tìm cổ thành. Xin công công cho biết tại hạ nên truy tầm theo cách nào".

Phụng công công nhìn sang chiếc túi da đặt trên bàn mấy lần, đưa tay cầm ống điếu vàng, tay kia châm lửa, rít một hơi dài, rồi thong thả nhả khói và nói: "Có năm người rưỡi biết rõ tường tận nội vụ, trong đó có Hoàng thượng, Tiền Thế Thần, Quý Nhiếp Đề, Nguyệt Minh ngươi, thêm người nữa là ta".

Nghe đến tên Quý Nhiếp Đề, Cô Nguyệt Minh bất giác rúng động.

Quý Nhiếp Đề được tôn là đệ nhất cao thủ của Đông, Tây xưởng và cả Cẩm y vệ, chẳng những tài trí hơn người, mà còn thủ đoạn tàn nhẫn, có thể nói y là một nhân vật lợi hại có thanh thế lớn nhất dưới tay Phụng công công. Lần này y có tham dự trong việc này, chứng tỏ Phụng công công dốc toàn lực quyết đạt kết quả.

Cô Nguyệt Minh hỏi: "Còn nửa người kia là ai?".

Phụng công công đáp: "Người này tên Qua Mặc, ngoại hiệu 'Đạo gia hành giả' sống ở vùng Lưỡng Hồ, vì đạo pháp cao minh, có bản lãnh bắt quỷ đuổi ma, nên được tham gia qua sự đề cử của Thế Thần, và ta cũng chấp thuận".

"Ngoại hiệu của hắn tại sao cổ quái như thế?".

"Bởi vì Qua Mặc kết hợp hai phái Đạo gia và Mặc môn, tinh thông thuật nội ngoại đan của Đạo gia, sinh sống thì khắc khổ như hành giả bên Mặc môn, do vậy mà có ngoại hiệu như thế. Người này rất đặc biệt, chẳng phải phường hư danh, mượn tiếng lừa thiên hạ, khi ngươi gặp hắn sẽ rõ".

Cô Nguyệt Minh gật đầu thị ý đã hiểu.

"Thế Thần hiện tại là nhiệm chức bố chính sứ ti vùng Hồ, Quảng, trực tiếp giám thị Vân Mộng Trạch, Nhiếp Đề nhận trọng trách truy lùng khắp nơi hai kẻ phản đồ, Nhiếp Đề làm rất được việc, đã phát động các bang hội lớn nhỏ toàn quốc, cuối cùng đã có chút manh mối".

Cô Nguyệt Minh phấn chấn hỏi: "Có phải đã phát hiện hành tung của Phu Mãnh?".

Phụng công công không giấu được nét vui: "Cũng gần như thế, nhưng không phải Phu Mãnh, mà là tên em vợ Tiết Đình Hao, hắn hóa thân làm một hành tăng vân du, bị trụ trì một ngôi chùa nhận ra được, rất tiếc khi Nhiếp Đề vội đến nơi, thì hắn đã bỏ trốn. Ngươi hãy bắt đầu lùng kiếm họ Tiết, chỉ cần bắt được hắn, dựa vào hình thuật của ngươi, tra tấn hắn để lấy sự thật không khó".

Cô Nguyệt Minh ung dung nói: "Nguyệt Minh này bảo đảm làm tròn việc này, công công an tâm".

Phụng công công hài lòng bảo: "Ta tin chắc ngươi thừa sức làm tròn trọng trách này, Nhiếp Đề hiện đang ở đâu ta cũng không rõ, nhưng ngươi cứ theo mật lệnh của ta đến Lạc Dương gặp Thế Thần, thì có thể biết rõ chi tiết vụ này".

Nói xong lão đưa tay cầm lên chiếc túi da trên bàn, trao cho Cô Nguyệt Minh.

Cô Nguyệt Minh vội vã đứng dậy cúi mình đưa hai tay tiếp nhận.

Phụng công công chưa buông tay, nhìn y đăm đăm: "Trong bọc da này ngoài mật lệnh của ta, còn có một cây kiếm thần 'Thất Phản' không có vỏ kiếm, có thể dùng để trợ giúp ngươi lúc bất ngờ nhất. Ngồi đi!".

Nói xong lão mới buông tay khỏi túi da.

Cô Nguyệt Minh nghe xong nhíu tít mày, cầm ngang túi da, ngồi trở về chỗ.

Phụng công công lộ nét cười khó hiểu, lạnh lùng âm trầm hỏi: "Cô Nguyệt Minh khi có kiếm trong tay, phải chăng là người nguy hiểm nhất trên đời này?".

Cô Nguyệt Minh cười gượng: "Công công cũng biết tại hạ là một người thế nào, nếu so với Phu Mãnh hoặc Tiết Đình Hao, thì hình dung tại hạ như thế cũng tạm thích đáng".

Y lại than: "Bạn đồng hành thân nhất của tại hạ là cây kiếm 'Bạch Lộ Vũ' tự tay chế luyện thành, nếu đổi sang kiếm khác chỉ e lợi bất cập hại, công công có thể nào thu hồi thanh kiếm này chăng?".

Phụng công công nghiêm mặt: "Ngươi chớ khinh thường thanh kiếm này, ta đặc biệt chọn trong quân khố của Hoàng thượng lấy thanh kiếm này, là vì nó có dị lực trừ yêu ma. Thất phản giả, trời có thất tinh, người có thất khiếu. Đóng được thất khiếu, thần sẽ không tản ra ngoài, các xúc giác bị cám dỗ bởi các thứ sắc, thanh, hương, vị. Ngươi tin hay không cũng được, song mang theo thanh kiếm này chỉ có lợi chứ không có hại".

Sau đó lão gằn từng tiếng một: "Ta truyền cho Nguyệt Minh ngươi lập tức rời kinh, bất cứ việc gì liên quan đến Sở hạp không được đề cập đến với bất kỳ ai ngoại trừ Thế Thần và Nhiếp Đề, thời cơ đã đến trước mắt, ngươi nên lập tức mau đi Lạc Dương".

Cô Nguyệt Minh không ứng tiếng đáp ngay, mà trầm ngâm giây lát rồi nói: "Tại hạ có vài lời tâm phúc, có thể tỏ bày cùng công công chăng?".

Phụng công công ngạc nhiên: "Nói đi!".

Cô Nguyệt Minh thản nhiên thốt: "Nếu muốn hoàn thành nhiệm vụ, nên theo phương thức của tại hạ mà làm, xin công công hiểu cho".

Phụng công công ngẩn người một chút, rồi cầm ống điếu hút một hơi, lại thong thả nhả khói, bật cười: "Cô Nguyệt Minh rốt cuộc vẫn hoàn Cô Nguyệt Minh, độc hành riêng biệt, không muốn bất kỳ ai làm vướng bận. Được! Cứ thế mà làm, ngươi có thể hành sự theo ý muốn của mình, chỉ cần đem thủ cấp của Phu Mãnh và Tiết Đình Hao, cùng Sở hạp về trao lại là được".

Cô Nguyệt Minh vâng dạ, đứng dậy thi lễ cáo từ.

Ô Tử Hư không dám tin vào mắt mình. Nếu hắn nhìn thấy một nhóm kẻ địch phi ngựa xông đến như mãnh thú, thì hắn chỉ có cách cam chịu số phận chứ không kinh ngạc. Đằng này cảnh tượng hắn trông thấy đúng lý không thể nào xảy ra tại một nơi như quỷ vực này.

Từ phía tả cách độ hơn ngàn bước, có hàng trăm ngọn đuốc xuất hiện, chiếu sáng cả góc trời, dưới ánh lửa rực đỏ như máu, cả một đại đội người và ngựa đang di chuyển về phía hắn đang nằm. Hàng tiên phong gồm mấy chục tên bộ binh khôi giáp bóng loáng, tiếp theo là bảy, tám kỵ binh, người người trang bị kỹ càng, trên mặt không biểu lộ tình cảm gì, cứ như những chiến sĩ đang ra trận, đã hóa ra vô cảm trước sự sinh tử. Ô Tử Hư chưa từng thấy qua loại khôi giáp của đội quân này, trông vừa nặng vừa thô, chẳng phải loại vũ trang của binh lính thời nay, điều này khiến hắn cảm thấy quái dị lạ thường.

Giữa tiếng vó ngựa xen lẫn tiếng bánh xe lăn trên mặt đất, Ô Tử Hư nhìn rõ hơn một chút, bỗng kinh ngạc đến trợn hai mắt há hốc miệng.

Theo sát phía sau đội kỵ sĩ là một chiếc xe hai bánh do bốn ngựa kéo, kiểu như loại cổ chiến xa, vì tầm nhìn bị hạn chế nên nhất thời Ô Tử Hư không thấy được kẻ đánh xe.

Ngay lúc ấy, đột nhiên Ô Tử Hư phát hiện cách mình khoảng hơn hai chục bước, có một con đường trải đá vụn, rộng cỡ mười bước nằm ngang phía trước. Hắn không dằn được cảm giác lạnh rợn người. Con đường này chỉ mới đột nhiên hiển hiện lúc hắn nhìn thấy chiến xa, trong lòng thầm nghĩ hay mình gặp quỷ rồi.

Tuy nhiên thần trí hắn vẫn còn, đang muốn xoay mình lăn xuống lạch nước phía sau để trốn, bỗng hắn nhận thấy mình không thể di động được.

Trong lúc hoảng kinh, nhóm bộ binh mở đường đã đến phía trước mặt Ô Tử Hư, không một ai quay đầu nhìn hắn, như thể hắn không hề tồn tại, trong khi ánh đuốc thì soi sáng đến mức hắn không có cách gì ẩn mình được.

Ô Tử Hư toàn thân tê liệt, chỉ trố mắt nhìn, chợt thấy trước mắt sáng lên, kẻ đánh xe cuối cùng đã xuất hiện trước mắt, thời gian bỗng như ngưng lại, mọi diễn tiến trở nên chậm lại, trừ kẻ đánh xe trước mặt, hắn như không thấy bất kỳ thứ gì khác.

Chưa bao giờ hắn nhìn thấy một kẻ đánh xe đẹp như thế, một nữ nhân diễm lệ như thế.

Tuổi nàng không quá hai mươi, phía sau đầu bới cao, thân hình mảnh khảnh được ôm gọn trong chiếc áo bào màu tím, áo dài chấm đất, cổ và tay áo có viền hoa, hai tay cầm cương ngựa. Cả người nàng như tỏa ánh sáng, ngọc cốt băng cơ, mi mục như họa, tươi như vầng thái dương mới ló dạng, thuần khiết như vầng trăng sáng giữa trời đêm thăm thẳm.

Mọi thanh âm đều lặng đi, Ô Tử Hư hoàn toàn bị nữ nhân hấp dẫn, quên đi gian khổ, quên cả nguy hiểm. Từ lúc hiểu chuyện đến nay, chưa bao giờ hắn chuyên tâm ngắm nhìn một người đến xuất thần như vậy. Hắn để ý từng vẻ mặt, từng động tác của nàng. Sau khi chiến xa lăn bánh qua, tuyệt sắc nữ nhân tưởng như không hề biết sự có mặt của hắn, nhưng bỗng nhiên nàng quay đầu nhìn về phía hắn, nhìn thẳng vào sâu trong tâm khảm của hắn.

Trong lòng Ô Tử Hư dâng lên một cảm giác khó tả, óc hắn bị chấn động mạnh như bị sét đánh, sau đó mất hết tri giác.

Hồi 3: Ngũ Độn Đại Đạo

Tại một sương phòng ở lầu hai Lân Hoa Cư, Cô Nguyệt Minh ngồi trên bục, tựa vào lan can nhìn xuống đường phố phía dưới, rải rác những khách bộ hành, xe ngựa. Chỉ còn một giờ nữa thì trời sáng, mặt trời mọc là lúc y phải rời kinh đô. Bất luận chuyến này công vụ hoang đường và ly kỳ đến đâu, y nhất quyết phải hoàn thành nhiệm vụ vì y không có sự chọn lựa nào tốt hơn.

Lân Hoa Cư nằm trong phố yên hoa trứ danh nhất kinh thành, thanh lâu chen nhau san sát, thâu đêm không ngớt khách tìm hoa, phải đến sáng mới trở lại yên tĩnh.

Có tiếng tỳ nữ hô to: "Hoa Mộng phu nhân đến!".

Cô Nguyệt Minh không quay đầu lại, chờ khi Hoa Mộng phu nhân đến gần ngồi xuống bên kia bàn, y mới thở dài.

Hoa Mộng phu nhân nhìn Cô Nguyệt Minh, ngạc nhiên nói: "Cớ sao Nguyệt Minh trông như trùng trùng tâm sự, chàng chẳng từng nói trên đời này không có chuyện gì có thể khiến chàng không vui, cũng không có chuyện gì có thể khiến chàng hởi dạ kia mà?".

Nghe lời phu nhân hàm ý hờn dỗi, Cô Nguyệt Minh thầm than một tiếng, đến y cũng không hiểu tâm tình của mình trong lúc này. Từ khi rời đại cung giám phủ, y cứ có cảm giác trầm trọng nhưng không biết vì sao.

Hoa Mộng phu nhân là chủ nhân Lân Hoa Cư, ở kinh thành nàng làm ăn rất đạt, bất luận quan quyền quý nhân hay hắc đạo cường đồ, ai cũng nể mặt nàng vài phần.

Lúc còn trẻ, Hoa Mộng phu nhân đã từng là danh kỹ nổi tiếng nhất phố yên hoa, nay tuy tuổi gần ba mươi, nhưng da dẻ vẫn non như trẻ nhỏ, có điều cuộc sống đêm đêm đàn ca đã để lại vết hằn năm tháng nơi khóe mắt cuối mày. Dù vậy, phu nhân vẫn là một nữ nhân ưu nhã đầy sức hấp dẫn.

Ánh mắt phu nhân dừng lại nơi chiếc túi da đặt trên bàn, mặt lộ vẻ nghi ngờ, nàng hỏi: "Đó là vật gì?".

Cô Nguyệt Minh điềm đạm đáp: "Ta chưa xem qua, tốt nhất là phu nhân cũng đừng nên xem thử".

Hoa Mộng phu nhân mỉm cười: "Phải chăng vật này có liên hệ đến Phụng công công? Nhìn thần sắc của Minh Nguyệt, không cần nói cũng biết lão hồ ly ấy lại làm khó chàng rồi".

Cô Nguyệt Minh rốt cuộc nhìn về phía Hoa Mộng phu nhân rồi thốt: "Sự thật thì ngược lại, lão đưa điều kiện có thể giải trừ quân chức cho ta, quyết không ngoa chút nào".

Hoa Mộng phu nhân ngạc nhiên nói: "Được như vậy, sao chàng như không vui vậy?".

Cô Nguyệt Minh lắc lắc đầu, như muốn xua đi những phiền não trong lòng, chỉ có khi ở trước mặt Hoa Mộng phu nhân y mới không giấu giếm tâm sự, vì nàng là vị hồng nhan tri kỷ duy nhất của y, một đối tượng mà y có thể thố lộ tâm sự. Y tự lẩm bẩm: "Ta thực không hiểu, đúng ra ta phải phấn chấn, phải không?".

Hoa Mộng phu nhân nhíu mày nói: "Vậy có chỗ nào không ổn?".

Cô Nguyệt Minh đưa mắt nhìn trở lại đường phố, trầm giọng nói: "Bằng trực giác ta thấy sự tình không đơn giản như bề ngoài, nên ta tìm đến phu nhân trước khi rời kinh thành, ta muốn nhờ phu nhân tìm giúp ba người".

Hoa Mộng phu nhân không hỏi cặn kẽ vì nàng biết có hỏi cũng thừa, điều gì có thể tiết lộ, tự nhiên Cô Nguyệt Minh sẽ cho biết. Nàng chỉ hỏi: "Chàng cần tìm ai?".

"Nhờ phu nhân dò xét xem trong cả vùng Động Đình Hồ, có cao thủ dùng độc trứ danh nào chăng. Kẻ này chẳng phải tầm thường, mà là một nhân vật có thể gây bối rối cho những tay lão luyện giang hồ bậc nhất.

Hoa Mộng phu nhân gật đầu đáp: "Nếu có một nhân vật như thế, chắc chắn không tránh được tai mắt của thiếp. Vậy còn tìm ai nữa?".

"Phu nhân biết Phu Mãnh chăng?".

Hoa Mộng phu nhân gật đầu đáp: "Đương nhiên thiếp biết, lúc thiếp mới vào nghề, họ Phu đã là nhân vật đắc sủng nhất kinh thành, chẳng những thế hắn còn được công nhận là một hán tử can cường, vì hắn là người duy nhất dám đấu khẩu với Phụng công công. Rất tiếc cuối cùng hắn cũng không hơn được Phụng công công, mà còn bị lão tịch thu gia sản, giết cả gia đình, từ đấy chẳng còn ai dám vuốt râu hùm của Phụng công công".

Cô Nguyệt Minh càng nhíu chặt chân mày.

Hoa Mộng phu nhân thích nhất là ngắm vẻ trầm ngâm của Cô Nguyệt Minh. Nàng đã từng gặp các nam tử tuấn tú khôi vĩ hơn, nhưng vẫn không ai bì được khí chất riêng biệt của y, một nét cô độc, ưu tư bẩm sinh. Nguyệt Minh không động lòng vì bất cứ chuyện gì, bất cứ ai, kể cả nàng. Lối suy nghĩ này gây cho nàng cảm giác lạc lõng, nhưng chính cảm giác lạc lõng này khiến nàng thích gặp y.

Cô Nguyệt Minh chú mục xuống đường, lên tiếng: "Phụng công công lấy cớ gì bắt Phu gia?".

Hoa Mộng phu nhân hừ nhẹ: "Bắt tội khi quân. Chẳng biết Phụng công công dùng trò gì mê hoặc Hoàng thượng, bởi không ai tin Phu Mãnh có thể bội phản Hoàng thượng. Điều ly kỳ hơn nữa là Phu Mãnh đào thoát được. Nếu Phụng công công muốn giết kẻ nào, bất luận kẻ ấy trốn đến chân trời góc bể, chắc hẳn rất khó thoát độc thủ của lão, chỉ có Phu Mãnh là ngoại lệ. Còn nếu Phu Mãnh đã rơi vào tay Phụng công công, tại sao lão không tuyên dương cho mọi người biết?".

Dừng một chút Hoa Mộng phu nhân hạ giọng hỏi: "Điều kiện Phụng công công đưa ra có phải là buộc chàng hạ sát Phu Mãnh?".

Cô Nguyệt Minh cười gượng: "Quả thực phu nhân chớ nên hỏi, biết thêm việc này chỉ có hại vô ích, ta không muốn liên lụy phu nhân. Hừm! Xem ra bọn ta nên loan tin điều tra cao thủ dùng độc kia, cho lọt vào tai mắt của Phụng công công".

Hoa Mộng phu nhân lộ thần sắc cẩn trọng, gật đầu hội ý: "Còn một người nữa là ai?".

Cô Nguyệt Minh ngần ngừ giây lát rồi hỏi: "Phu nhân có nghe qua một người tên Mâu Xuyên chưa?".

Hoa Mộng phu nhân lắc đầu ra dấu chưa từng nghe đến.

Cô Nguyệt Minh nhìn nàng, trịnh trọng thốt: "Vậy phu nhân cứ xem như chưa nghe bao giờ. Phu nhân chỉ cần điều tra về cao thủ dùng độc là đủ. Trời sáng ta sẽ rời kinh đi Lạc Dương, phu nhân nên gửi kết quả điều tra sang bên ấy.

Hoa Mộng phu nhân nói: "Thanh lâu trứ danh tại Lạc Dương là Hồng Diệp Lâu, nơi ấy có một tài nữ tên là Bách Thuần, cũng là tiểu sư muội của thiếp, tài sắc vẹn toàn, tuyệt đối có thể tín nhiệm, thiếp sẽ đưa tin đến chỗ ấy, chàng tìm tiểu sư muội là có thể biết tin tức".

Cô Nguyệt Minh khẽ thốt: "Đa tạ!".

Hoa Mộng phu nhân thở dài: "Những lần trước Nguyệt Minh đi xa, thiếp chẳng bao giờ lo lắng, nhưng lần này thiếp có cảm giác rất bất an, e rằng Nguyệt Minh đã bị Phụng công công kéo vào vòng tranh đấu của triều đình".

Cô Nguyệt Minh nói: "Đời người như cơn ảo mộng, chớp mắt đã qua, mọi thứ tiêu tan như mây khói chẳng còn dấu vết. Sống chết cũng thế, ta không để tâm đâu".

Hoa Mộng phu nhân cúi đầu khẽ thốt: "Nguyệt Minh!".

Cô Nguyệt Minh ngạc nhiên hỏi: "Chuyện gì thế?".

"Thiếp có thể hỏi một điều chăng?".

Cô Nguyệt Minh nhìn khoảng đêm sao lặng trước lúc mặt trời mọc, thở ra một hơi, ảm đạm gật đầu.

Hoa Mộng phu nhân nói: "Đối với chàng giải trừ quân chức quan trọng lắm sao? Không ai biết rõ hơn thiếp, chàng quả thực là một người không sợ chết, tại sao lại sợ ra chiến trường?".

Cô Nguyệt Minh trầm trọng: "Bởi vì ta sợ chiến tranh, rất sợ".

Hoa Mộng phu nhân ngơ ngác: "Cô Nguyệt Minh mà cũng biết sợ ư?".

Cô Nguyệt Minh vươn vai đứng dậy, gật đầu thốt: "Ta thực sự sợ, nhưng nếu phu nhân hỏi vì sao phải sợ, ta quả tình không biết trả lời thế nào. Những cơn ác mộng ta trải qua, ít nhiều đều có liên quan đến chiến tranh. Bao nhiêu lần giật mình tỉnh mộng đều từ cảnh chiến tranh, từ lúc mới lớn đến giờ chiến tranh cứ một mực trói chặt ta. Chuyện này ta chưa từng thố lộ với bất kỳ ai, kể cả cha mẹ".

Nói xong Cô Nguyệt Minh cầm lấy chiếc túi da trên bàn, chúm môi huýt sáo, lập tức có tiếng vó ngựa vang lên từ dưới đường, một con tuấn mã sắc xám trắng chẳng biết từ đâu phi đến phía dưới lầu chỗ Cô Nguyệt Minh đang đứng.

Hoa Mộng phu nhân đứng dậy đến sau lưng Cô Nguyệt Minh, đột nhiên dùng hết sức ôm chặt lấy y.

Cô Nguyệt Minh bất động, chân thành thốt: "Nếu ta một đi không về, xin chớ vì ta rơi lệ, nên cười mới phải".

Hoa Mộng phu nhân buông tay, dòng lệ nóng không dằn được tuôn rơi, Cô Nguyệt Minh chưa bao giờ nói lời từ biệt bất tường như thế.

Cô Nguyệt Minh một tay vịn lan can tung mình lên không, lộn mình xuống hai, ba trượng, đáp ngay lưng tuấn mã, thúc ngựa phóng đi nhanh chóng.

Hoa Mộng phu nhân tựa lan can nhìn theo, trong ánh lệ nhạt nhòa bóng Cô Nguyệt Minh khuất dạng sau khúc quanh.

Ô Tử Hư tỉnh lại, tự dưng muốn khóc, chưa bao giờ hắn có cảm giác này, ngay cả lúc tinh thần sa sút nhất. Nhưng bây giờ đầu óc hắn chỉ là một khoảng trống không, như thể bị lẩn lộn giữa hiện tại và tương lai, không cách gì định được mình ở đâu và đã xảy ra chuyện gì.

Hắn mơ hồ thấy một gương mặt tuyệt mỹ hiện ra trong não, đang nhìn về phía hắn như muốn hớp hồn, với ánh mắt thăm thẳm vô tận như hàm chứa ngàn vạn lời nói.

Ô Tử Hư ngồi bật dậy thở gấp, rốt cuộc hắn nhớ ra cảnh quái dị đã chứng kiến trước khi ngất đi, song lại run sợ phát hiện ra là vùng đầm lầy rành rành trước mắt đã biến mất không dấu vết. Tuy toàn thân vẫn còn đau nhức, nhưng hắn đã hồi phục sức lực.

Ánh nắng từ phía sau chiếu lại, hắn đang nằm bên bờ một con sông rộng độ năm trượng, nước trong xanh thấu đáy sông. Dòng sông lặng lờ trôi, uốn quanh như một đai ngọc trên vùng bình nguyên rộng lớn. Bầy chuồn chuồn bay vòng vòng trên đầu hắn như đang múa, nhưng chúng không hề đụng vào nhau.

Gió nhẹ đưa lại.

Ô Tử Hư quay đầu lại nhìn vị trí mặt trời, thầm giật mình vì bây giờ chỉ còn độ một giờ là mặt trời lặn, vậy là hắn đã hôn mê gần hết một ngày.

Thực sự đã xảy ra chuyện gì?

Lối giải thích hợp lý nhất là sau khi hắn hôn mê vào đêm qua, lại bị nước sông đẩy trôi đến đây, còn vùng đầm lầy thì nằm phía thượng du. Nhưng làm thế nào giải thích việc hắn đã gặp mỹ nữ tuyệt thế và đội bộ binh kỳ dị kia? Không lẽ hắn đã gặp phải một đám âm hồn không an nghỉ từ thời cổ xưa?

Ô Tử Hư bất giác rùng mình, toàn thân run lên. Hắn lại tự mắng mình suy nghĩ bậy bạ tự dọa mình, rất có thể đó chỉ là một cảnh trong mộng, thế nhưng mộng tại sao rõ ràng chân thật như thế. À! Cũng có thể đêm qua chính mình đã bước nửa bước vào Quỷ Môn Quan, nên nhìn thấy cảnh giới bên kia, nghĩ đến đây hắn cảm thấy lạnh cả gáy.

Đang hoang mang nghi ngờ, bụng hắn bỗng kêu "ột ột", hắn chợt cảm thấy đói quá sức. Hắn thầm nghĩ nơi đây tìm trái cây dại nhấm đỡ đói hẳn không khó, nếu tìm được loại giống như hoàng tinh thì càng lý tưởng, ăn no bụng thì mới có sức ra khỏi chốn quái quỷ này.

"Rầm!". Hoàng Phủ Thiên Hùng đập tay xuống bàn, cả giận nói: "Các ngươi làm sao mà chỉ có một tiểu tử ngoại lai cũng không bắt được.

Họ Hoàng đứng bật dậy, càng rõ dáng hùng vĩ cao to, lại thêm đỉnh đầu nhẵn bóng, một chiếc mũi khoằm như vuốt chim ưng, đôi mắt nheo lại thành hai sợi chỉ sắc như dao, biểu lộ một cá tính khắc bạc vô tình.

Hơn mười đại hán đang bị trách mắng, ai nấy cúi đầu chẳng dám thở mạnh, đương nhiên không ai dám lên tiếng, lúc này mà khiêu khích Hoàng Phủ Thiên Hùng thì hẳn là chán sống rồi. Nhóm đại hán này khi ra ngoài, người nào cũng là nhân vật ngang tàng có tiếng, nhưng trước mặt họ Hoàng lại trở nên ngoan ngoãn như cừu non.

Chỉ có một người là ngoại lệ. Hắn vòng tay đứng sau lưng Hoàng Phủ Thiên Hùng với vẻ cao ngạo, vóc người cao, trông cường tráng rắn chắc, mái tóc đen dày chải ngược hết ra phía sau, để lộ vầng trán cao rộng, sống mũi thẳng, đôi mắt vô cùng sắc bén, linh hoạt. Một khuôn mặt vuông, tướng mạo đường đường, tuy đứng yên bất động song toàn thân hán tử khí lực sung mãn tựa như một con báo sắp vồ mồi, tuổi chừng hai mươi bảy, hai mươi tám, phong độ đại gia rất lôi cuốn.

Người này tên là Khâu Cửu Sư, đại tướng hàng đầu dưới trướng Hoàng Phủ Thiên Hùng, bất cứ việc gì giao cho hắn đều được thu xếp ổn thỏa, từ trước đến nay chưa bao giờ phải khiến Hoàng Phủ Thiên Hùng bận tâm. Hai ngày trước, Khâu Cửu Sư nhận được thư bồ câu của Hoàng Phủ bang chủ, lập tức trở về từ vùng Thái Hồ.

Hai mắt Hoàng Phủ Thiên Hùng nổi đầy gân máu, hiển nhiên đã nhiều đêm mất ngủ, lão nghiêm giọng giận dữ nói: "Nuôi binh ngàn ngày, dùng trong nhất thời, lúc ta cần các ngươi nhất, đám ngu xuẩn này chẳng có tên nào làm được việc. Làm thế nào các ngươi có thể để cho quân cẩu trệ ấy trốn sang bên kia bờ sông? Chẳng phải các ngươi đã phong tỏa một vùng trăm dặm vuông hay sao? Nếu nội trong mười ngày mà các ngươi vẫn chưa bắt được gã đê tiện ấy, thì mỗi người tự lấy đầu trở về gặp ta".

Lúc này có một người thong thả tiến vào thính đường, thần sắc ung dung tự nhiên, so với nhóm mười mấy đại hán bị mắng thậm tệ đang hãi sợ thì như một trời một vực.

Chúng đại hán thấy người này cứ như gặp được cứu tinh, chỉ có Khâu Cửu Sư đang đứng sau lưng Hoàng Phủ Thiên Hùng thì vẫn trầm tĩnh không biểu lộ gì cả.

Người mới vào mặc đồ theo lối văn sĩ, nhất cử nhất động nhẹ nhàng thoải mái, dáng người bậc trung, nhìn không xuất sắc mấy, nhưng đôi mắt tinh anh đầy tự tin khiến kẻ khác cảm nhận được gã thuộc hàng mưu trí hơn người, dị chúng bất đồng.

Chúng đại hán đồng loạt lui ra hai bên nhường lối cho văn sĩ bước đến trước mặt Hoàng Phủ Thiên Hùng.

Văn sĩ thi lễ và nói: "Tu Chân bái kiến đại long đầu, nội vụ rốt cuộc đã có chút manh mối".

Hoàng Phủ Thiên Hùng như kẻ gặp thủy nạn sắp chết chìm giữa biển mà vớ được phiến gỗ trôi ngang, tinh thần phấn chấn, hướng sang chúng đại hán bảo: "Các ngươi hãy cút đi".

Nhóm thuộc hạ mừng như được hoàng ân đại xá, vội vã lui ra, chẳng bao lâu đã đi hết cả, chỉ còn lại Hoàng Phủ Thiên Hùng, Khâu Cửu Sư và văn sĩ tự xưng là Tu Chân.

Hoàng Phủ Thiên Hùng là thủ lãnh Đại Hà Minh, một tay sáng lập bang hội hùng bá lưu vực Đại Giang này, tuy lấy Đại Giang làm địa bàn chủ yếu, thực chất thế lực đã lan tràn khắp toàn quốc, đến như quan phủ triều đình cũng ân cần phủ dụ, chẳng dám xem thường.

Nếu Khâu Cửu Sư là đại tướng đắc lực nhất của Hoàng Phủ Thiên Hùng, thì Nguyễn Tu Chân là quân sư đa mưu túc trí của đại long đầu. Hai người một võ một văn, khiến thế lực Đại Hà Minh không ngừng bành trướng, trong vòng năm năm trở lại đây, không còn bang hội nào dám thách thức ngôi vị bá chủ của Đại Hà Minh.

Hoàng Phủ Thiên Hùng trở lại ghế ngồi, trầm giọng hỏi: "Kết quả thế nào?

Nguyễn Tu Chân vòng tay thủ lễ trước đại long đầu, đáp: "Tu Chân phái người đem hình vẽ của tên hung đồ ấy đi điều tra cặn kẽ, phát hiện ra hung đồ giả tên Chúc Lương, ba tháng trước đến huyện Bắc Giang thuộc phủ Kinh Châu, ngụ tại khách sạn hoa lệ nhất, nội trong đêm hắn đến đổ trường phóng tay đánh bạc, sau đó la cà thanh lâu tửu quán, tiêu tiền như nước. Tuy nhiên hắn chỉ lưu lại Bắc Giang ba ngày, rồi xuôi hạ du đến một huyện khác, lại tiếp tục bài bạc, ăn chơi trác táng. Hắn tự xưng là tay buôn vải, nhưng chưa ai gặp hắn mua bán vải, cũng không ai biết hắn.

Hoàng Phủ Thiên Hùng nhíu mày: "Tiểu tặc này xem ra rất giàu".

Nguyễn Tu Chân nói tiếp: "Kẻ này vừa ăn chơi bài bạc, vừa di chuyển qua nhiều huyện ven sông đến phía đông. Tu Chân ước tính, chỉ nội tiền hắn thua bài và phung phí trong phố yên hoa, chắc chắn phải trên năm ngàn lượng bạc, một con số kinh người. Nhưng hắn có một đặc điểm, đó là không bao giờ đến cùng một đổ trường hay thanh lâu, chỉ tới một lần rồi đi, đến bất cứ đâu hắn cũng ở không quá năm ngày, do đó dù bọn bất lương bản địa có ý đồ gì với hắn, chưa biết rõ thì hắn đã đi mất rồi".

Hoàng Phủ Thiên Hùng trầm ngâm suy nghĩ.

Nguyễn Tu Chân tiếp tục: "Loại người như hắn đúng lý dễ điều tra, thế nhưng trước khi xuất hiện tại huyện Bắc Giang, hắn như chưa từng có mặt, tại các huyện thành trong vòng trăm dặm vuông chưa có ai gặp hắn, hay từng nghe qua một người tương tự như hắn".

Hoàng Phủ Thiên Hùng gật đầu không ngừng nhưng không nói gì, Khâu Cửu Sư vẫn bất động như cũ, chỉ có mắt hắn hơi thay đổi, tinh quang sáng ngời.

"Căn cứ theo việc hắn đã nằm trong địa vực có thế lực mạnh nhất của bọn ta, mà còn có thể an toàn trốn sang bờ phía nam Đại Giang, thì có thể đoán biết kẻ này tuyệt chẳng phải tầm thường, thuộc hạ không nói hắn có võ công cao cường, mà là bản lãnh tàng ẩn và đào tẩu siêu phàm của hắn".

Hoàng Phủ Thiên Hùng trầm tư hỏi: "Vậy hắn là ai".

"Chắc chắn hắn không phải thuộc hàng tử đệ đại phú đại gia muốn che giấu lai lịch, mà hành vi của hắn thì giống như một cự phú bạo phát, do đó thân phận thực của hắn đã phơi bày".

Hoàng Phủ Thiên Hùng rúng động: "Tu Chân đoán hắn là ai?".

Nguyễn Tu Chân dài dòng đáp: "Thuộc hạ chưa dám khẳng định, để chứng thực suy đoán của mình, thuộc hạ đã liên lạc nhóm người chuyên buôn của trộm có thực lực nhất quanh huyện Bắc Giang, quả nhiên có phát hiện mới".

Hoàng Phủ Thiên Hùng lộ ý cừu hận, lẩm nhẩm: "Tu Chân ngươi làm việc rất tốt".

Nguyễn Tu Chân nói tiếp: "Cách đây ba tháng, tên Tạ Thành ở Tương Dương có mối làm ăn lớn đến sáu ngàn lượng bạc, ấy là ngưu tượng bằng thúy ngọc, một trấn gia chi bảo của Phương Vi Công, phú hộ giàu nhất thành đô. Sau đó Phương Vi Công cắn răng bỏ ra tám ngàn lượng chuộc lại bảo vật. Đại long đầu bây giờ chắc đã biết kẻ đó là ai!".

Hoàng Phủ Thiên Hùng trợn hai mắt, nghiến răng ken két: "Ngũ Độn Đạo, ta rủa mười tám đời tổ tông nhà ngươi".

Ngũ Độn Đạo là một đại đạo thần bí và thành công nhất hiện nay, vì hắn chưa bao giờ thất bại, người ta đồn hắn tinh thông thuật ngũ độn. Nói đến ngũ độn, tức là khả năng dựa theo biến hóa ngũ hành mà mượn các vật chất khác nhau để độn thân ẩn hình, như kim mộc thủy hỏa, duy có thổ độn là mau nhất vì chỗ nào cũng giáp đất. Dĩ nhiên đây là lời đồn thổi phồng thêm, nhưng có thể thấy khả năng tới lui không dấu vết của Ngũ Độn Đạo.

Ngũ Độn Đạo cũng có nguyên tắc riêng khác người, ấy là có ba trường hợp không hành nghề, một là chẳng phải nhà đại phú thì không ra tay, hai là chẳng phải vật trân bảo thì không trộm, ba là nếu không phải vật trấn gia chi bảo cũng không lấy. Mà hắn chưa từng đả thương người, mỗi lần chỉ trộm một món, do đó danh vang giang hồ không ít.

Ngũ Độn Đạo rất được các tay buôn của trộm hoan nghênh, bởi theo quy củ giang hồ, nhà buôn đồ trộm sẽ báo cho khổ chủ biết cách chuộc đồ, mà khổ chủ nào có của bị Ngũ Độn Đạo động thủ cũng là phú thương bậc nhất, tất cả đều giống như Phương Vi Công đành bỏ tiền chuộc lại bảo vật. Chuyện giang hồ giải quyết theo cách giang hồ, bởi khổ chủ không dám kinh động quan phủ, chỉ e mất luôn cơ hội chuộc của báu, do đó tính đến nay Ngũ Độn Đạo vẫn chưa nằm trong bảng tróc nã của quan phủ.

Nguyễn Tu Chân lại nói: "Tạ Thành nửa đêm bị Ngũ Độn Đạo đánh thức dậy, như thường lệ hắn trùm kín toàn thân bằng vải đen, chỉ đưa ngưu tượng bằng thúy ngọc ra cho Tạ Thành kiểm tra là đồ thật, báo cho họ Tạ biết lấy trộm nhà ai, sau đó ôm bảo vật rời đi. Tạ Thành mất ba ngày lấy đủ ngân lượng rồi chờ Ngũ Độn Đạo đến tìm gã để trao đổi. Họ Tạ chờ hết mười hai ngày mới gặp lại Ngũ Độn Đạo. Chiếu theo lời gã miêu tả, Ngũ Độn Đạo có chiều cao và hình thể hoàn toàn phù hợp với kẻ sát hại công tử, qua đó có thể khẳng định là cùng một người".

"Bình!".

Hoàng Phủ Thiên Hùng đập tay xuống bàn, hai mắt long lên như phun lửa.

"Ngũ Độn Đạo ít nhất bị bọn ta nắm được nửa bàn chân. Ba tháng nay, chắc chắn hắn dùng chân diện mục đi lại gặp người, bằng không các kỹ nữ thanh lâu đồng sàng với hắn thế nào cũng phát giác ra điểm khác thường. Mà hắn đã xài hết tiền, không thể không tìm cách kiếm ngân lượng, vậy khi nào hắn liên lạc với nhà buôn của trộm, ấy là thời cơ của bọn ta".

Hoàng Phủ Thiên Hùng bình tĩnh lại, trầm giọng hỏi: "Cửu Sư nghĩ sao?".

Khâu Cửu Sư lãnh đạm đáp: "Nguyễn tiên sinh suy đoán chắc chắn không sai chỗ nào. Chỉ có Ngũ Độn Đạo mới có thể trốn thoát khỏi thiên la địa võng của bọn ta. Việc này giao cho thuộc hạ cùng Nguyễn tiên sinh, bảo đảm có thể bắt sống hắn giải đến cho đại long đầu xử trí".

Hoàng Phủ Thiên Hùng trầm ngâm chốc lát, lắc đầu thốt: "Nếu không tự tay bắt sống hắn, làm sao rửa hận cho ta? Ta đã hạ lệnh phong tỏa bắc ngạn, hắn muốn hành nghề chỉ có thể đến nam ngạn Đại Giang, như vậy bọn ta thu hẹp phạm vi vây bắt hắn rất nhiều, để xem thử hắn trốn đến đâu".

Khâu Cửu Sư nói: "Bọn ta cần đặc biệt chú ý các thành thị nơi xuất hải và ở biên cương, đề phòng hắn trốn ra ngoại vực. Chỉ cần hắn vẫn ở Trung thổ, chuyện rơi vào lưới chỉ là sớm muộn mà thôi".

Hoàng Phủ Thiên Hùng ra lệnh: "Lập tức cảnh cáo tất cả nhà buôn của trộm phía nam, ai không ngoan ngoãn hợp tác với bọn ta, chẳng những nhà tan thân diệt, mà còn chết rất thảm.

Nguyễn Tu Chân và Khâu Cửu Sư lớn tiếng vâng dạ.

Hoàng Phủ Thiên Hùng song mục ngập ánh cừu hận, khoé miệng lộ nét tàn độc: "Ta sinh chín gái, mới có được một trai, Ngũ Độn Đạo ngươi thật cả gan, ta sẽ khiến ngươi hối hận làm người".

Lúc này một thủ hạ tiến vào bẩm báo: "Bẩm đại long đầu, kinh thành có người tới cầu kiến".

Hoàng Phủ Thiên Hùng không suy nghĩ hét lớn: "Cút mau! Ta không muốn gặp ai cả!".

Tên thủ hạ sợ quá quỳ phục xuống đất, run giọng nói: "Là... là...".

Nguyễn Tu Chân ngạc nhiên hỏi: "Là ai?".

"Là Quý Nhiếp Đề đại nhân".

Hoàng Phủ Thiên Hùng, Nguyễn Tu Chân và Khâu Cửu Sư cùng biến sắc mặt.

Hồi 4: Tam Quỷ Tề Động

Vô Song Nữ dắt hắc mã đi qua phố tại Thanh Hương Trấn, thong dong bước trên đại lộ nối đông tây, nàng nhìn tứ bề với ánh mắt hiếu kỳ, tựa như nhàn tản vô mục đích.

Thị trấn này khá lớn, nhà nhà san sát nhau hai bên đường, ước tính vài trăm hộ gia cư, sinh hoạt khá phồn thịnh. Tuy Vô Song Nữ khoác áo bào rộng để che khinh phục bó sát thân, nhưng vì nét đẹp khác thường nên gây sự chú ý của nhiều người. Thân hình hấp dẫn, suối tóc đen tuyền đầy sức sống, làn da trắng mịn, một mỹ nữ hiếm thấy như thế, không cần làm chi cả cũng đủ khơi lòng ham muốn của các nam nhân cùng lòng đố kỵ của nữ nhân khác.

Vô Song Nữ không mấy quan tâm sự chú mục của kẻ khác, vì nàng vốn không sợ ai cả, nàng tự tin trong người mình luân lưu dòng máu của cha nàng, mà Phu Mãnh chính là một người không sợ gì cả.

Chẳng bao lâu nàng đến đúng cửa tiệm muốn tìm, trước sự đon đả chào hàng, nàng lựa mua một số lương khô và đồ nhật dụng, xếp đầy túi hành lý.

Trước khi nàng đi ra, người bán hàng đã cao tuổi không nhịn được liền hỏi: "Cô nương lên đường một mình à?".

Vô Song Nữ mỉm cười gật đầu: "Có chuyện gì chăng?".

Người bán hàng vội đáp: "Không có gì".

Như đã ngưng rồi lại không dằn được, vị lão bá lo ngại nói: "A! Ma Tử Quang và đám thổ bá đang để ý cô nương, cô...".

Vô Song Nữ thấy lão nhìn lén ra đường trước rồi mới nói câu trên, liền hiểu ngay, nàng không nhìn theo ánh mắt của lão, để đám lưu manh đang theo dõi nàng không biết lão đang nhắc nàng đề phòng, hòng tránh cho vị lão bá có lòng tốt này khỏi lãnh họa vào thân. Nàng cắt ngang: "Lão bá chớ lo! Ta biết cách đối phó".

Nói xong nàng cầm túi hành lý bước ra ngoài cửa đến bên thân ngựa, cột chặt túi bên mình ngựa, không thèm nhìn đến vài thanh niên đang tụ tập bên kia đường bình phẩm nàng. Đám thanh niên này mới nhìn đã biết không phải hạng lương thiện.

Vô Song Nữ ôm cổ hắc mã thủ thỉ vài câu, rồi dắt ngựa thong thả đi về hướng đông của thị trấn, thần thái an nhàn.

Có người từ phía sau đuổi tới, Vô Song Nữ không cần nhìn lại cũng nhận ra đối phương có bảy người tất cả.

Bỗng một hán tử mặt rỗ hoa mè rượt ra trước mặt Vô Song Nữ, dang hai tay cản đường, cười nham nhở nói: "Cô nương phải chăng đang tìm chỗ ở, chi bằng đến nhà ta, vừa đỡ tốn tiền vừa tiện lợi".

Sáu tên vô lại còn lại cùng ùa đến, bao vây Vô Song Nữ, trong bọn một tên trơ trẽn cười: "Quang ca biết chiều mỹ nhân nhất, bảo đảm phục vụ chu đáo, nếu không được thì còn bọn ta đây?".

Cả bọn cười hô hố.

Người trong trấn đều tránh xa hết, chẳng ai dám nhúng tay vào, chừng ấy đủ biết đám thanh niên này bình thường hoành hành bá đạo đến mức nào.

Vô Song Nữ không một chút giận, nhưng đã hết cười, nàng lạnh lùng nói: "Cút đi!".

Tên mặt rỗ giả bộ kinh ngạc, chỉ vào mũi mình nói: "Mỹ nhân nói sao? Tai ta lãng mất rồi, nàng lặp lại lớn tiếng một chút".

Một tên khác giả giọng: "Quang ca không nghe à? Nghe lại cho rõ này! Nô gia bảo ngươi xéo xuống giường đi, để cho các huynh đệ khác lên. Hứ!".

Đám thanh niên ôm bụng ngả nghiêng cười rú lên.

Vô Song Nữ hừ nhạt một tiếng, bèn dắt ngựa tiến thẳng về phía Ma Tử Quang đang đứng chận đường.

Hai mắt Ma Tử Quang lộ hung quang, đưa tay định chộp cương ngựa.

Vô Song Nữ hô một tiếng "muốn chết", nhanh như chớp vung cước đá ra, tên mặt rỗ chưa biết xảy ra chuyện gì, thì thấy vùng bụng dưới đau nhói kịch liệt, cả thân mình nặng đến trăm cân bị đá văng ra sau đến nửa trượng, té chổng bốn vó lên trời, khiến mọi người đều không tin mắt mình, không ngờ một nàng gái liễu yếu lại có cước lực mạnh như thế.

Sự tình diễn tiến ngoài định liệu của mọi người, đám thanh niên còn chưa hiểu rõ đã xảy ra chuyện gì, thì Vô Song Nữ lộn ngược đến trước mặt hai tên đứng phía sau, tung mình phóng liên hoàn cước đá thẳng vào mặt của cả hai, chúng rú lên, mũi miệng đổ máu té ra phía sau ngồi bệt xuống đất.

Nhóm vô lại địa phương này tên nào cũng biết chút võ nghệ, mỗi ngày đấm đá vung đao, bằng không chẳng thể hoành hành vùng hương thôn này. Thấy đồng bạn bị đá, bốn tên còn lại nổi xung, xông vào từ hai phía tấn công Vô Song Nữ.

Vô Song Nữ rốt cuộc cười lên đôi chút, bỗng phi thân nhẹ như mèo không chút phí lực ung dung đáp lên lưng ngựa, lại rút bên hông ra một ngọn roi mềm màu đen dài cỡ nửa trượng.

Bốn thanh niên xông vào chộp hụt, chẳng biết nàng đang ở đầu, bỗng thấy bóng roi xẹt trên đầu, giữa tiếng kêu rú và trong chớp mắt, mỗi tên đã bị trúng ít nhất một roi trên mặt, khiến chúng đau đớn chẳng còn sức phản công.

Dân trong trấn bàng quan vừa trố mắt nhìn vừa cảm thấy khoái trá. Không ai ngờ tiểu cô nương yêu kiều hấp dẫn kia không những có thân thủ lợi hại, mà còn tạo cho người đứng nhìn cảm giác đang xem một màn biểu diễn ngoạn mục.

Vô Song Nữ huýt nhẹ một tiếng, tuấn mã được lệnh lập tức phóng đi.

Lúc này Ma Tử Quang đang ngồi dậy, Vô Song Nữ thúc ngựa phóng ngang qua chỗ gã. Gã vừa giận vừa đau hét lên một tiếng, mới nửa chừng bỗng tắt nghẹn, thì ra đã bị ngọn roi siết chặt gã té ngược ra sau, ghì sát xuống đất.

Vô Song Nữ nét mặt bình tĩnh, như không biết mình đang siết cổ một người, đến khi Ma Tử Quang gần sắp đứt hơi nàng mới thu roi, phi ngựa ra cổng trấn, để lại Ma Tử Quang nằm còng queo dưới đất ôm cổ họng rên la.

Khâu Cửu Sư cùng Nguyễn Tu Chân sánh vai thả bộ trên lối đi nhỏ trong vườn hoa, họ Nguyễn đột nhiên dừng bước thở dài một tiếng.

Khâu Cửu Sư đồng tình thốt: "Nếu công tử có được hai, ba thành công phu của long đầu thì không phải chết dễ dàng như vậy".

Nguyễn Tu Chân nói: "Ta thì không tiếc cho công tử. Nói trắng ra, long đầu nuông chiều công tử quá mức, lâu ngày chày tháng quen thành tính. Công tử cứ ngang ngược bá đạo, nếu chẳng phải là con trai Hoàng Phủ Thiên Hùng ắt đã chết không biết mấy lần".

Hai người làm việc chung lâu năm, cùng trọng tài nhau, quan hệ đôi bên rất tốt, nên khi trò chuyện riêng có thể nói thẳng suy nghĩ mà không úy kỵ gì cả.

Khâu Cửu Sư nhíu mày hỏi: "Vậy sao tiên sinh vẫn một mực ưu tư?

Nguyễn Tu Chân hạ nhỏ giọng: "Ta lo cho tương lai của bổn bang. Từ mấy năm qua, uy thế của bọn ta lên đến tột đỉnh, có câu thịnh cực tất suy, vật cực tất phản. Cái chết bất ngờ của công tử là một đả kích lớn cho long đầu, cứ nhìn thần thái của long đầu khi nãy, đủ biết việc này ảnh hưởng long đầu nhiều đến mấy. Tướng quân theo long đầu bấy lâu, có bao giờ thấy ngài rơi lệ chăng?".

Khâu Cửu Sư thốt: "Chuyện này cũng thường tình thế nhân không ai tránh khỏi thương tâm, tuy nhiên long đầu là một người rất kiên cường, ta tin ngài sẽ hồi phục rất mau, mọi việc sẽ trở lại bình thường. À! Hy vọng trong nhóm tỳ thiếp của long đầu có người sẽ sinh hạ cho ngài một trai".

Nguyễn Tu Chân nói: "Nhưng nếu có biến họa trước lúc ấy thì sao? Triều đình do bao năm liên tục chiến loạn nên trở thành thế yếu, mà bọn ta mấy năm gần đây thì thế lực tăng trưởng không ngừng, ta tin chắc triều đình đang cố kỵ bọn ta. Quý Nhiếp Đề hôm nay đến gặp đại long đầu, hẳn không phải tốt lành gì".

Khâu Cửu Sư gật đầu: "Long đầu bây giờ đang nói chuyện cùng Quý Nhiếp Đề tại nghị sự đường, sớm muộn gì bọn ta sẽ biết rõ mục đích của họ Quý. Long đầu tín nhiệm tiên sinh nhất, chỉ có lời của tiên sinh mới nghe, bây giờ là lúc long đầu đang cần tiên sinh nhất đấy".

Vẻ mặt Nguyễn Tu Chân vẫn lo âu, trùng trùng tâm sự.

Khâu Cửu Sư ngạc nhiên hỏi: "Tình huống thực sự nghiêm trọng thế sao? Nhưng ta không cảm thấy gì khác lạ, theo cách nhìn của ta, chỉ cần bắt sống Ngũ Độn Đạo cho long đầu rửa sạch hận, thì mọi thứ sẽ trở lại như trước".

Hắn lại hừ lạt: "Nếu Phụng công công muốn trừ khử bọn ta, năm năm trước họa chăng miễn cưỡng làm được, để đến hiện nay thì đã lỡ mất thời cơ. Phạm vào bọn ta, bọn ta thẳng thắn công nhiên tạo phản, xem thử ai làm khó được ai".

Nguyễn Tu Chân ngẩng đầu nhìn bầu trời hoàng hôn, từ từ thốt: "Ngay sau khi công tử chết bất ngờ, ta gieo ba quẻ cho bổn bang".

Khâu Cửu Sư kinh ngạc hỏi: "Chẳng phải gieo một quẻ đã đủ đoán hung cát sao? Tại sao phải lấy liền ba quẻ?".

Nguyễn Tu Chân cười gượng: "Ta cũng không biết bắt đầu nói từ đâu. Quẻ đầu tiên ta bốc, trúng phải tam hào tề động, tâm tư rúng động, vì bốc quẻ quan trọng nhất là động hào, nhưng hào động quá mức sẽ khiến kẻ bốc quẻ không biết giải thế nào. Điều khiến ta bất an hơn, ba hào động đều là quỷ hào. Tam tam bất tận, lục lục vô cùng. Trời ạ!".

Khâu Cửu Sư nhíu mày: "Ta chưa hiểu".

"Không hiểu cũng không sao. Nói đơn giản là ta không thể dựa vào quẻ này đoán điềm hung cát. Qua một ngày sau, ta bốc thêm một quẻ, lại cũng tam hào tề động, cũng giống quẻ trước, là quỷ hào động".

Khâu Cửu Sư cảm thấy rờn rợn, tuy không thông hiểu phép bốc quẻ, nhưng cứ nhìn thần sắc ưu tư của Nguyễn Tu Chân cũng biết sự bất thường của hiện tượng này, chắc chắn không phải điều tốt.

Nguyễn Tu Chân nói tiếp: "Quẻ thứ ba ta bốc vào bảy ngày sau, ôi!".

Khâu Cửu Sư ngạc nhiên hỏi: "Tình thế không thay đổi ư?".

"Vẫn là tam hào tề động, đều là quỷ hào. Đừng hỏi ta hiện tượng này mang ý nghĩa gì, vì ta cũng chẳng biết, chỉ biết là ta không dám gieo quẻ thứ tư".

Khâu Cửu Sư trầm ngâm không nói.

"Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên. Có rất nhiều sự việc không chờ đến phiên bọn ta lý giải, chỉ có cách tận lực mà làm, phải chăng?".

Khâu Cửu Sư không nói được gì cả.

"Ta không muốn chết chút nào".

Câu nói đó không ngừng lặp lại trong đầu Ô Tử Hư.

Từ nhỏ hắn vẫn là một người kiên cường tranh đấu, bất luận thất bại thế nào cũng không tiêu hao ý chí phấn đấu sinh tồn của hắn. Xuất thân từ một đại gia đình bảo thủ phong kiến, từ lúc hiểu việc thì hắn không thích "nhà" cho lắm, đặc biệt hắn thuộc giòng trắc thất thứ năm, cha hắn bạo ngược ngang tàng, mẹ hắn yếu bệnh thường xuyên, huynh đệ tỷ muội khá đông. Khi mẹ hắn thất sủng, bị đại nương, nhị nương cùng tam nương liên thủ bức tử, lúc ấy chỉ mười hai tuổi hắn đã quyết ý bỏ nhà ra đi, tự bấy đến nay không hối hận.

Hắn đã từng đi xin ăn, từng học đủ nghề khác nhau, làm qua vô số công việc. Bất luận học thứ gì, chỉ học qua thì làm được, thậm chí trội hơn cả thầy truyền nghề cho hắn, thiên tư học tập của hắn chưa ai bì kịp. Hắn lại khám phá ra mình chẳng bao giờ làm một nghề gì quá nửa năm vì hắn rất mau chán. Mơ hồ hắn cảm thấy mình như đang tìm kiếm một vật nhưng không rõ là thứ gì.

Nói về võ công, hắn theo học hơn mười vị sư phụ, nhưng lần nào cũng chỉ nội trong vài tháng là hắn đã vượt trội hơn thầy, khiến hắn trở nên một đồ đệ không được ưa chuộng nhất.

Đến năm mười tám tuổi, hắn học được một thân toàn tài, thập bát ban võ nghệ loại nào cũng tinh thông. Hắn có một đôi tay linh xảo, thính lực hơn người thường, tuy nhiên hắn hãnh diện nhất là nhãn lực của mình. Các cư viện bố cục thế nào, thậm chí các loại khóa tinh xảo nhất, hắn chỉ nhìn qua một lần là nắm vững mọi chi tiết chính xác.

Hắn cũng vướng vào tật cờ bạc, hắn thích sự kích thích khi ngồi trong bàn đoán cuộc thắng thua, điều này khiến hắn nghèo kiết xác, nợ đầy thân. Rất may cuối cùng hắn nghĩ ra một cách.

Ô Tử Hư tốn hết năm năm chuẩn bị, truy tìm nghiên cứu các thủ đoạn trộm cắp, chế ra đủ loại dụng cụ, luyện tập thân thủ. Đến năm hai mươi ba tuổi, lần đầu tiên hắn xuất thủ trộm được con ngựa bằng ngũ sắc hoàng kim, bảo vật trứ danh của phú hào bậc nhất phủ Ứng Thiên, lúc ấy hắn biết mình đã xoay chuyển mệnh vận của mình. Tuy trở thành một tay trộm, nhưng hắn chẳng phải như bọn cẩu đạo trộm vặt, mà là một đại đạo siêu cấp có phong cách riêng.

Ngân lượng vào tay, hắn lại tiêu pha như nước, tận tình hưởng lạc cuồng hoan, đến khi xài hết tiền tài, không thể không làm một chuyến trộm bảo vật khác, từ kích thích cực độ đến phóng túng cực độ. Thế nhưng hắn có thỏa mãn chăng? Hắn cũng không rõ, sâu trong tâm tư hắn biết mình đang tìm kiếm một thứ gì đó. Có thể là một bảo vật, cũng có thể là một nữ nhân, hắn không rõ, chỉ biết nỗi khao khát trong tâm rất có thể vĩnh viễn không tìm được.

Cũng có thể chỉ tìm được trong mộng. Bất giác trong đầu hắn hiện lên rất rõ hình ảnh nữ nhân tuyệt sắc trên chiến xa cổ đại.

Mặt trời chưa lặn xuống gò đất phía tây.

Tìm được củ hoàng tinh ăn xong, tinh thần thể lực Ô Tử Hư hồi phục, lại đầy đủ ý chí tranh đấu.

Đúng lúc ấy, hắn nhìn thấy ở xa xa như có một điểm sáng, định thần muốn nhìn kỹ hơn thì điểm sáng đã biến mất.

Hắn nghĩ thầm chỗ ấy có thể có người ở nên cả mừng, vội nhảy phắt dậy đi về phía đã xuất hiện ánh sáng. Trong đầu hắn chỉ có một ý niệm là mau rời khỏi vùng hoang dã như quỷ vực này.

Quý Nhiếp Đề tướng cao ốm, trên dưới bốn mươi, luôn cho người ấn tượng an nhiên tự tại, chỗ khác người là thần thái ung dung khoan thai của y không phải cố luyện tập để tạo ra, mà như là một vẻ tự nhiên bẩm sinh. Vẻ lạnh lùng, cùng với nhãn thần không biểu lộ tình cảm của y, tạo cho người tiếp cận y cảm giác đè nặng kỳ lạ. Đối phương không bao giờ biết được y nghĩ gì bên trong, hay y có phải đang ngầm toan tính gì. Nếu y chỉ là một kẻ tầm thường, muốn nghĩ gì là chuyện riêng của y. Điều không may là Quý Nhiếp Đề lại là nhân vật quyền thế nhất trong thiên hạ ngoài Phụng công công, cho nên không ai dám khinh thường ý nghĩ của y. Ngay cả Hoàng Phủ Thiên Hùng đối với Quý Nhiếp Đề cũng không dám bê trễ, e chuốc lấy hậu họa.

Hoàng Phủ Thiên Hùng hoàn toàn hồi phục phong độ lúc bình thường, trầm tĩnh lạnh lùng, nỗi đau mất con không chút thể hiện, tựa như chưa từng xảy ra chuyện gì cả. Lão đứng tại đại môn nghinh tiếp Quý Nhiếp Đề vào nghị sự sảnh, phân ngôi chủ khách an tọa, tỳ nữ dâng trà rồi lui ra xong, Hoàng Phủ Thiên Hùng mỉm cười nói: "Bao nhiêu năm nay không gặp mặt! Mừng cho Quý đại nhân vẫn phong thái như xưa, xem chừng còn trẻ hơn lần trước hội kiến".

Một chút ý cười hiện nơi khoé miệng Quý Nhiếp Đề, trong mắt Hoàng Phủ Thiên Hùng, họ Quý dường như lúc nào cũng đeo một lớp mặt nạ che giấu chân bản ngã. Hoàng Phủ Thiên Hùng tự hào với khả năng nhìn người của mình, nhưng cũng tự nhận không nhìn thấu được họ Quý, cũng không định được võ công của y cao thấp thế nào. Căn cứ theo lời đồn, cây Long đầu đao hình thù đặc biệt của Quý Nhiếp Đề có thể là thiên hạ đệ nhất khoái đao, chưa có ai đấu với y trong vòng mười chiêu mà không bị thương.

Quý Nhiếp Đề cười ha hả: "Đại long đầu nói chơi rồi, bọn ta không gặp nhau đúng chín năm, dù thân này chưa già, thì tâm cũng đã già đi rất nhiều".

Nói xong y đưa chén trà nóng trong tay lên nhấp một ngụm.

Hoàng Phủ Thiên Hùng nhìn họ Quý đặt chén trà xuống bàn, hân hoan thốt: "Quý đại nhân chuyến này từ kinh sư xa xôi đến đây, chẳng biết có việc gì dùng được Hoàng mỗ, Hoàng mỗ xin dốc toàn lực, hy vọng không như lần trước khiến Quý đại nhân thất vọng".

Quý Nhiếp Đề lắc đầu: "Chuyện năm ấy làm sao có thể trách đại long đầu, chỉ vì đối thủ của bọn ta quá lợi hại, sự giúp đỡ của đại long đầu, công công và ta vẫn khắc ghi trong tâm, vô cùng cảm kích".

Nói xong y lại nhíu mày tiếp tục: "Hơn mười ngày nay, quý bang huy động bang chúng, dường như đang tìm một kẻ nào, chẳng hay đã có đầu mối gì chưa? Xưởng Vệ bọn ta có giúp gì được chăng, đại long đầu cứ nói thẳng".

Hoàng Phủ Thiên Hùng trong bụng thắt lại thầm giật mình, song hiểu rằng chuyện này không thể giấu Quý Nhiếp Đề với tai mắt khắp thiên hạ, càng biết là giấy không gói được lửa, bị bắt gặp nói dối thì sau này gặp mặt khó nói, nên lão đành nói qua loa: "Chuyện xấu trong nhà không nên truyền ra ngoài, chỉ là gia sự mà thôi! Đa tạ Quý đại nhân quan tâm, việc này Hoàng mỗ đủ sức xử lý, hãy trở lại nói chuyện của Quý đại nhân!".

Quý Nhiếp Đề không hỏi gạn thêm, đưa tay vào tay áo rút ra một ống trúc dài cỡ hai thước, hai tay cung kính trao cho Hoàng Phủ Thiên Hùng.

Hoàng Phủ Thiên Hùng đưa hai tay tiếp nhận ống trúc, theo chỉ thị của Quý Nhiếp Đề mở ống lấy ra một cuộn giấy trương ra xem, thì ra là một bức họa chân dung một hòa thượng. Y ngạc nhiên hỏi: "Hòa thượng này là ai, nhìn quen quá, ta có biết người này chăng?".

Quý Nhiếp Đề không biểu lộ chút thay đổi, chỉ đáp: "Đại long đầu đương nhiên nhận ra kẻ này, hắn là Tiết Đình Hao, một trong hai tên đào phạm của triều đình mà chín năm trước ta đã nhờ đại long đầu truy sát".

Hoàng Phủ Thiên Hùng đang nghĩ thầm, họ Quý làm thủ lãnh của xưởng vệ, có phải là một kẻ không có thất tình lục dục, hay là đã đè nén tuyệt đối tình cảm của mình, bằng không làm thế nào trở thành công cụ sát nhân của Phụng công công. Lão gật đầu nói: "Thì ra là Tiết Đình Hao, thảo nào trông quen mắt, khen cho hắn cải trang thành tăng nhân, khiến bọn ta không tìm được hắn. Tuy nhiên nếu đổi là ta, thì sẽ trốn ra hải ngoại hay tái ngoại, tuyệt đối không lưu lại Trung nguyên, tên xú tiểu tử này vẫn còn thiếu kinh nghiệm".

Quý Nhiếp Đề không để ý lời phê bình ấy, chỉ nói: "Hắn không phải giả làm tăng nhân, mà thật sự quy y không môn, chẳng những thế còn khắc khổ tu tập hơn bất cứ tăng lữ nào, hắn nghiên cứu Phật pháp, tu loại tham thiền khó khăn nhất. Chính vì hắn biến thành một cao tăng hành đạo nên không ai có thể nhận ra hắn là Tiết Đình Hao, ngay như đối diện với hắn cũng khó nhận ra, bởi khí chất của hắn cũng thay đổi rồi".

Hoàng Phủ Thiên Hùng chăm chú nhìn hình họa, có chỗ chưa hiểu: "Nhưng căn cứ theo bức họa này, nhìn ngang nhìn dọc vẫn thấy đây là Tiết Đình Hao cải trang thành hòa thượng, chỉ cần người nào chú ý kỹ chắc chắn có thể nhận ra hắn".

Quý Nhiếp Đề thốt: "Bức họa này là chiếu theo hình họa mười năm trước của hắn và đổi thành trang phục kiểu hòa thượng, bây giờ thì thần thái của hắn hoàn toàn khác. Để ta nói rõ chút, hắn không còn là Tiết Đình Hao của năm xưa, mà hóa thân thành một cao tăng với pháp hiệu Sắc Thâm. Do thay đổi tập quán ăn uống, diện mạo của hắn cũng biến đổi so với lúc xưa ốm hơn nhiều".

Hoàng Phủ Thiên Hùng không mấy chú ý: "Trở thành mập ốm cũng chẳng sao, chỉ cần hắn có vài phần giống thuở trước, chiều cao không đổi, người của bổn bang chắc chắn không nhìn lầm".

Lão không dằn được lại hỏi: "Quý đại nhân làm thế nào nhận chân lớp trá hình của hắn".

Thực ra Hoàng Phủ Thiên Hùng không có lòng dạ nào tính đến chuyện kẻ khác, nhưng vì đối phương là Quý Nhiếp Đề, nên không thể không làm ra vẻ nhiệt tâm giúp đỡ. Tuy nhiên Quý Nhiếp Đề nói chưa rõ, khiến lão một tay lão luyện giang hồ đưa ra câu hỏi theo thói quen.

Hai mắt Quý Nhiếp Đề lộ thần sắc kỳ dị làm Hoàng Phủ Thiên Hùng không sao hiểu được, họ Quý trầm giọng nói: "Đại long đầu xin chớ trách ta nói kiểu thần bí, nhưng vì sự tình quá ly kỳ, nên đến nay ta vẫn chưa làm sáng tỏ mọi việc".

Hoàng Phủ Thiên Hùng xoè hai tay ra biểu thị không chấp: "Quý đại nhân thực sự muốn Hoàng mỗ giúp đỡ cách nào?".

Quý Nhiếp Đề lóe tia sáng trong mắt, nghiêm trang nói: "Đại long đầu trước nay vẫn có quan hệ tốt đẹp với Phật môn, nếu Đại long đầu thị ý cùng các Phật tự lớn nhỏ khắp nơi là không nên chứa kẻ này, thì chắc chắn hữu hiệu, trong tương lai nếu thành công bắt được kẻ này, Quý mỗ tất sẽ báo đáp".

Hoàng Phủ Thiên Hùng hiểu ra, xưởng vệ dù quyền khuynh thiên hạ, nhưng nếu họ trực tiếp ra lệnh với Phật môn, người bên Phật môn đương nhiên sẽ biết ngay chẳng phải tốt lành, rồi sẽ vờ tuân lệnh ngoài mặt, trong khi ngầm cảnh giác cho Tiết Đình Hao biết. Còn như chính lão trước nay vẫn xây miếu tu bổ chùa không tiếc lực, trong mắt Phật môn lão là bạn chẳng phải địch, chỉ cần tìm cách nói dối đường hoàng, thì có thể tìm được Tiết Đình Hao.

Qua sự kiện này có thể thấy Quý Nhiếp Đề đã mất lòng tin trong việc tìm Tiết Đình Hao, không biết hắn đã trốn đến hoang sơn dã tự nào mà tìm hoài không thấy. Phật môn đệ tử trải đầy khắp thiên hạ, tương truyền Hoàng thượng cũng là Phật gia đệ tử, xưởng vệ dù bá đạo đến đâu, cũng không dám phá miếu bắt người, hòa thượng nào cũng đem ra xét nghiệm lai lịch, nên Hoàng Phủ Thiên Hùng hiểu khó xử của Quý Nhiếp Đề.

Nếu có thể lựa chọn, Hoàng Phủ Thiên Hùng quyết không nhúng tay vào việc này, chọc giận Phật môn chỉ tổn hại cho chính mình, không có lợi gì cả.

Quý Nhiếp Đề nói: "Chỉ cần bọn ta biết được hắn đang ở đâu, mọi việc sẽ do xưởng vệ xử lý, bảo đảm mọi việc gọn sạch, không kinh động Phật môn, quý bang có thể đứng ngoài không bị dính dự".

Hoàng Phủ Thiên Hùng làm ra vẻ vui vẻ nhận lời: "Quý đại nhân có lệnh, làm sao mỗ dám không theo, việc này mỗ bảo đảm giúp đại nhân lo liệu ổn thỏa".

Hồi 5: Bĩ Cực Thái Lai

Ô Tử Hư nhìn cảnh tượng trước mắt, không còn cảm thấy chút hơi ấm nào trong người, chỉ cảm giác lạnh thấu tim.

Từ trên đỉnh gò đất nhìn xuống, dưới ánh trăng một vùng đầm lầy với vô số ao nước hiện ra phía trước, bóng thảo mộc ven bờ phản ánh nguyệt phát sáng.

Cảnh giới trong mộng lại trở về.

Xa xa một cánh rừng thưa đứng phía đối ngạn đầm nước lớn nhất, phảng phất đang mời gọi người tiếp tục tiến tới, đàng sau đó lại là những gò đất nối tiếp nhau.

Ô Tử Hư nổi gai cùng mình, thầm nghĩ hay đó chẳng phải mộng cảnh mà đích thực xảy ra, hoặc giả đến bây giờ hắn vẫn bị hãm trong mộng cảnh?

Đột nhiên hắn không còn phân biệt được là mộng hay thực, không gian này đã mất giới hạn.

Vùng đất bằng ở xa xa lại hiện ra ánh sáng, lần này không phải vụt xẹt lên rồi tắt mà rõ ràng tiếp tục hiện hữu. Tim hắn bỗng đập nhanh mấy lần gây cảm giác hồi hộp, bất giác hắn hết sức kinh ngạc, vì đây là chỗ thiên phú đặc thù của hắn, mỗi khi tiếp cận dị bảo là tim hắn có phản ứng, nhưng nơi đây hoang sơn dã địa làm sao có được dị bảo?

Ô Tử Hư tự bảo là gì cũng được, cứ tìm được nhà dân thì tự nhiên tìm được đường ra, chỉ cần rời khỏi nơi quỷ bí này, còn chuyện khác hắn không muốn bận tâm đến, nên vội nhắm hướng có ánh sáng bước đến.

"Thiện công công đến!".

Hoa Mộng phu nhân đã đứng sẵn ngoài cửa sảnh đường nghinh tiếp, nghe nói Ký Thiện đến tìm là nàng thêm nhức đầu. Sở trường của phu nhân là ứng phó đủ các loại nam nhân, nhưng gặp phải nam nhân không có hứng thú trước nữ nhân, thì dù nàng có giải pháp cũng không thể thi triển.

Ký Thiện đương nhiên phụng mệnh Phụng công công đến đây, Cô Nguyệt Minh đêm qua mới đi khỏi, đêm nay Phụng công công liền phái người đến tìm nàng, đủ biết sự tình không bình thường, chẳng biết chuyện gì khiến Phụng công công khẩn trương như thế? Nàng nên ứng phó ra sao?

Hoa Mộng phu nhân đương nhiên không thể tiết lộ tình hình thực sự của Cô Nguyệt Minh, nhưng nếu giấu quanh giấu quẩn e Phụng công công sẽ cho rằng nàng nói dối, thì đại họa sẽ lập tức giáng xuống đầu.

Ký Thiện cười lên, khách sáo thi lễ: "Chào phu nhân, đại công công nhờ ta thỉnh an phu nhân. Lân Hoa Cư chẳng phải đã mở cửa sao? Phu nhân hà cớ không trở về liệu lý?".

Hoa Mộng phu nhân đáp: "Hoa Mộng thiếp hôm nay hơi không khỏe nên ở nhà nghỉ ngơi, đa tạ công công quan tâm".

Ký Thiện bước theo Hoa Mộng phu nhân đến chỗ bàn tròn ở trung tâm đại sảnh, tỏ vẻ quan tâm thốt: "Phu nhân phải bảo trọng thân thể, nên nghỉ ngơi nhiều, để chốc nữa ta phái người đưa qua hai gốc dã sâm hạng nhất, phu nhân nấu lấy nước uống để bồi bổ nguyên khí".

Hoa Mộng phu nhân vội vàng cảm tạ và mời Ký Thiện ngồi tại bàn, còn mình thì ngồi bên, bảo tỳ nữ lui ra ngoài hết.

Ký Thiện ho khan một tiếng, đột nhiên hạ thấp giọng thân thiết: "Nguyệt Minh là tri giao hảo hữu duy nhất của Ký Thiện này. Thế nên ta cũng không nói vòng vo, lần này đại công công phái ta đến gặp phu nhân, song phu nhân khoan vội nghi ngờ, chỉ vì đại công công quá quan tâm nhiệm vụ lần này của Nguyệt Minh. À! Phu nhân cũng biết tính đại công công, chuyện gì cũng phải nắm rõ trong tay, lại biết Nguyệt Minh trước khi rời kinh có ghé thăm phu nhân, nên... phu nhân nên hiểu ta đang nói gì chứ?".

Hoa Mộng phu nhân trong lòng hừ mũi, đừng nói Cô Nguyệt Minh không khi nào xem Ký Thiện là hảo hữu, mà chính họ Cô không có bằng hữu chi hết, nàng là ngoại lệ duy nhất, nhưng có thể vẫn chưa được xem là tri kỷ.

Còn Ký Thiện càng không bao giờ xem Cô Nguyệt Minh là bằng hữu. Đối với Ký Thiện chỉ có quan hệ lợi ích và tổn hại. Thủ đoạn hung ác của Ký Thiện đã đồn xa khắp kinh thành, đừng tưởng vị thái giám không quá bốn mươi này có vẻ hiền hòa, sự thật gã có thể trở mặt giết người bất cứ lúc nào. Nội kinh thành ngoài Cô Nguyệt Minh và Quý Nhiếp Đề, không có kẻ thứ ba nào có thể đỡ được kiếm sắc của gã.

Hoa Mộng phu nhân khẽ than: "Nhiệm vụ ấy quan trọng bực nào? Nguyệt Minh chẳng chịu tiết lộ một câu, chỉ bảo thiếp tìm giùm một người".

Ký Thiện rúng động hỏi: "Tìm ai?".

Nếu Ký Thiện là một nam nhân bình thường, Hoa Mộng phu nhân có thể thừa dịp dùng sắc mê hoặc gã để hỏi dò nhiệm vụ vô cùng bí mật của Cô Nguyệt Minh, nhưng rất tiếc cách này vô dụng đối với Thiện công công, nên nàng đành đáp: "Nguyệt Minh nhờ nô gia điều tra xem ở vùng Động Đình Hồ có cao thủ dùng độc hay chăng".

Ký Thiện như thở ra nhẹ nhõm, tuy không lộ liễu nhưng không giấu được đôi mắt kinh nghiệm của Hoa Mộng phu nhân, nàng thầm nghĩ chẳng lẽ Ký Thiện quả thật sợ Cô Nguyệt Minh xúc phạm Phụng công công sao? Nghĩ đến đây bất giác nàng có thêm chút hảo cảm với Ký Thiện.

Ký Thiện gật đầu: "Điều này hợp lý, không làm như thế thì đâu phải tính cách của Nguyệt Minh. Nguyệt Minh có đề cập đến người nào khác chăng?".

Hoa Mộng phu nhân nghĩ chớp nhoáng, Cô Nguyệt Minh bảo nàng xem như chưa từng nghe đến tên Mâu Xuyên, đương nhiên y có lý do riêng, nhưng nếu không tiết lộ Cô Nguyệt Minh đã đề cập đến Phu Mãnh thì rất dễ lộ sơ hở, nên nàng vội nói: "Nguyệt Minh còn hỏi chuyện liên quan đến Phu Mãnh, không lý nhiệm vụ này quả có dính dự đến Phu Mãnh?".

Ngoài sự định liệu của Hoa Mộng phu nhân, Ký Thiện nói thẳng: "Ít nhiều có quan hệ. Ta hơi lo rằng Nguyệt Minh vì không rõ tình hình thực sự, sẽ bị tổn thất lớn".

Hoa Mộng phu nhân ngơ ngác hỏi: "Tình hình gì?".

Ký Thiện hạ thấp giọng, xích gần Hoa Mộng phu nhân mà nói: "Điều ta sắp nói với phu nhân chỉ có thể cho một mình Nguyệt Minh biết mà thôi, tuyệt đối không thể cho người thứ tư biết, sau này ta sẽ phủ nhận từng nói điều này, phu nhân hiểu chứ?".

Hoa Mộng phu nhân khẽ nhíu mày, khẳng khái thốt: "Đã vậy xin công công tốt nhất chớ nói ra, nô gia sợ mình không đảm bảo được".

Kỳ thực nàng rất muốn biết hơn ai hết vì điều này liên hệ đến sự an nguy của Cô Nguyệt Minh. Chiêu này gọi là dĩ thoái vi tiến, buộc Ký Thiện phải tiết lộ chút nội tình, lại thừa cơ thử phản ứng của Ký Thiện để đoán xem gã có phải vẫn chuyển lời của Phụng công công, vì Phụng công công là người biết dùng thủ đoạn nhất kinh thành.

Ký Thiện nghiêm mặt: "Phu nhân cho rằng Ký Thiện này là một kẻ có thể bị tiền tài trân bảo mua chuộc sao?".

Hoa Mộng phu nhân nghĩ thầm "Ai cũng biết ngươi tham nhũng, càng không có tư cách nói câu này", nhưng nàng đâu thể nói thật, chỉ đáp: "Công công đương nhiên không phải hạng người như vậy".

Ký Thiện cười cay đắng: "Ta biết phu nhân nói câu đó chỉ để ngoài mặt, vì ít nhất ta đã nhận không ít vàng bạc của Nguyệt Minh. Nếu ta cho phu nhân biết mỗi cắc ta nhận được, cuối cùng cũng rơi vào túi riêng của đại công công, phu nhân tin không?".

Hoa Mộng phu nhân quá ngạc nhiên, lời nói của Ký Thiện gần như bội phản Phụng công công, song rất có thể là sự thật. Ký Thiện tiết lộ bí mật hẳn là để lấy sự tín nhiệm của nàng, tại sao gã đi nước cờ này? Nàng hồi hộp cúi đầu nói: "Nô gia xem như chưa bao giờ nghe công công nói câu này".

Ký Thiện trầm ngâm chốc lát, chừng như do dự, sau đó gã nói: "Phu nhân còn muốn nghe chăng?".

Hoa Mộng phu nhân khẽ gật đầu, trong lòng rối loạn, bởi những gì Ký Thiện sắp nói, chỉ cần Phụng công công biết được thì có thể đưa đến cho nàng họa sát thân.

Ký Thiện đẹp dạ thốt: "Phu nhân không hổ là hồng nhan tri kỷ của Nguyệt Minh".

Hoa Mộng phu nhân buồn bã trong lòng. Từ nhỏ nàng lăn lộn nơi chốn thanh lâu, đã sớm hóa gỗ đá đối với tình cảm nam nữ, sự săn đón của nam nhân làm nàng chán ghét, chỉ có Cô Nguyệt Minh khiến nàng động lòng, có thể vì đối với nàng Cô Nguyệt Minh không đòi hỏi nhục thể, nên tạo cho nàng cảm giác khác biệt với các nam nhân khác. Cũng có thể vì cả hai người họ đều là những kẻ cô độc.

Ký Thiện trầm giọng: "Phu nhân không cần biết chi tiết, nếu phu nhân có thể giấu được tin tức này là do ta tiết lộ, thì ta rất cảm kích, xin thề ngay nếu xảy ra biến cố sau này, Ký Thiện này sẽ tận toàn lực bảo hộ phu nhân, nếu phạm lời thề sẽ bị thảm tử".

Hoa Mộng phu nhân rúng động toàn thân, ngẩng đầu nhìn Ký Thiện.

Hai mắt Ký Thiện phát ra ánh kiên định, gã thong thả thốt: "Ta muốn kể cho phu nhân bí mật này đến cả đại công công cũng không biết, là để phu nhân chuyển lời lại cho Nguyệt Minh. Đó là quan hệ giữa Quý Nhiếp Đề và Phu Mãnh".

Hoa Mộng phu nhân càng nghe càng mù mịt nhưng không dám hỏi. Quý Nhiếp Đề có quan hệ gì với Phu Mãnh? Nếu tin tức của Ký Thiện không phải xuất phát từ Phụng công công thì là từ đâu?

Ký Thiện kề tai nàng: "Thuở niên thiếu, Quý Nhiếp Đề và Phu Mãnh là bạn thân, tình như huynh đệ, rồi vì cùng thương một thanh lâu tài nữ mà trở mặt với nhau, xem nhau như người xa lạ. Chuyện này xảy ra trước khi họ thăng quan".

Hoa Mộng phu nhân không hiểu tin tức này có tác dụng gì cho nhiệm vụ của Cô Nguyệt Minh, bèn nhíu mày hỏi: "Sau đó thì hoa vào nhà nào?".

"Vì lai lịch của tài nữ nọ, Phu Mãnh chỉ hứa nạp nàng làm thiếp. ta chỉ nói được chừng này, phu nhân không cần biết ngọn ngành, chỉ cần nói y như vậy cho Nguyệt Minh biết, bằng vào tài trí của Nguyệt Minh sẽ hiểu phải làm gì".

Hoa Mộng phu nhân gật đầu: "Nô gia hiểu rồi!".

Ký Thiện nghiêm mặt: "Lời ta vừa nói toàn là sự thật không chút nói ngoa, chỉ có lợi chứ vô hại cho Nguyệt Minh".

Nói xong gã đứng dậy cáo từ.

Hoa Mộng phu nhân vội đứng lên tiễn khách, ra đến cửa Ký Thiện dừng bước thốt: "Đại công công bảo ta đến nói, nếu phu nhân không chịu hợp tác mà che giấu giùm Nguyệt Minh, thì hỏi phu nhân một câu".

Hoa Mộng phu nhân cảm thấy tâm tình lên xuống đều bị vị thái giám này khống chế trong tay, bèn thở dài nói: "Đương nhiên chẳng phải lời nói tốt đẹp gì".

Ký Thiện chăm chú nhìn nàng: "Đại công công bảo ta hỏi, phu nhân có chịu hy sinh tất cả vì Nguyệt Minh chăng?".

Hoa Mộng phu nhân ngơ ngác, bất giác suy nghĩ "Mình có chịu hy sinh tất cả vì Nguyệt Minh chăng?".

Ký Thiện hân hoan thốt: "Ta biết câu trả lời rồi! Phu nhân quý thể bất an, không cần tiễn nữa. Mai hậu tại kinh thành có gì phiền não, chỉ cần cho ta biết một tiếng, chắc chắn sẽ không làm phu nhân thất vọng".

Gã nói xong bèn đi ra khỏi cổng.

Hoa Mộng phu nhân mất một lúc sau mới định thần, thầm suy nghĩ: "Nhìn theo bất cứ góc độ nào, Ký Thiện cũng không bao giờ lén Phụng công công đi giúp đỡ Cô Nguyệt Minh, hà huống kẻ này chẳng có chính nghĩa gì cả, hoặc giả vẫn là Phụng công công đứng sau chỉ thị gã. Nhưng nói vậy cũng không hợp lý, nếu Phụng công công muốn cho Cô Nguyệt Minh biết rõ ân oán giữa Phu Mãnh và Quý Nhiếp Đề, thì có thể nói thẳng với Nguyệt Minh, đâu cần đánh đường vòng".

Nàng nghĩ hoài không thông.

Ô Tử Hư tiếp tục tiến tới giữa vùng đất tựa như mộng cảnh.

Hắn phải vượt qua vùng đầm lầy cho nên không có cách nào đi thẳng, ánh sáng phía trước ở trong khu rừng lúc ẩn lúc hiện nhưng vẫn còn không tắt.

Trăng treo phía sau lưng, bầu trời biến ra màu trắng bạc, khiến hắn chẳng những khó phân biệt là mộng cảnh hay hiện thực, mà đến giới hạn ngày đêm cũng mơ hồ, như thể thiên địa tự khởi thủy vẫn là như vậy, và vĩnh viễn cũng không có biến hóa gì.

Bao nhiêu ý niệm kỳ quái dấy lên trong óc hắn, vốn là ký ức mơ hồ bỗng hiển hiện, những sự việc tưởng đã quên mất thì ra vẫn hiện rõ mồn một. Mỗi dòng suy nghĩ cùng ý niệm đều xẹt qua trong não và biến mất không dấu vết. Tình trạng này chưa bao giờ xảy ra cho hắn, tựa như hoàn cảnh kỳ dị này có sức khơi lên hồi ức của hắn một cách lạ thường.

Luồng suy nghĩ của hắn đi từ lúc mấy năm gần đây trộm bảo vật để sinh nhai, đến ngược trở về thuở ấu thơ xa xưa không mấy sung sướng mà hắn đã quên đi. Trong đó có một tình cảnh đặc biệt rõ, là lúc hắn bị bệnh, mẹ hắn vừa khóc vừa đút thuốc đắng cho hắn, còn tất cả những người khác kể cả cha hắn chẳng ai đoái hoài, trong lòng tràn ngập cảm giác buồn bã không thể giải bày, không khí vùng đầm lầy như lan đầy mùi thuốc nồng nặc.

Ô Tử Hư cơ hồ muốn ngẩng đầu hét lớn, đột nhiên hắn tỉnh lại, chẳng hiểu vì sao mình lại suy nghĩ lộn xộn vậy. Hắn định thần nhìn thì thấy mình đã vượt qua đầm nước lớn, đến dưới chân đồi, phía trên là khoảng rừng thưa, đỉnh đồi có một đống đá ngổn ngang, trong đó một viên đá tỏa ra kim quang rất quỷ dị.

Hắn cứ tưởng ánh sáng phát ra từ nhà dân, giờ thì biết không phải thế. Nơi hoang sơn dã địa tại sao có vật tỏa sáng, không phải lửa lân tinh, không lý đó là quỷ hỏa theo trong truyền thuyết? Nghĩ đến đây, hắn suýt bỏ chạy nhưng lại không cam tâm, suy tính tới lui, cuối cùng hắn lấy can đảm đi lên đồi, mỗi bước như nặng ngàn cân.

Các thứ bàng môn tả đạo đa phần hắn có nghiên cứu qua, chỉ chưa học phép vẽ bùa bắt quỷ, vì hắn không tin trò này, bây giờ hơi hối hận, nếu có một vài đạo bùa hộ thân, gặp phải quỷ cũng có cách ứng phó, không thúc thủ như bây giờ.

Nhưng rồi hắn lại thấy buồn cười, tại sao hai đêm nay hắn cứ nghi thần nghi quỷ, chân giả bất phân, thật ra là chuyện gì?

Ô Tử Hư cuối cùng lên đến đỉnh đồi, bỗng rúng động toàn thân mở to mắt nhìn thẳng vào khối đá tỏa sáng, hắn bất giác quỳ xuống như không tin mắt mình, trân trân nhìn dị vật đang tỏa kim quang ở trên khối đá bằng phẳng cao ngang đầu gối. Trong lòng hắn thầm kêu: "Trời ơi! Đây là vật gì? Không lý lại là dạ minh châu có thể tỏa sáng trong đêm, ánh sáng như vầy cách xa nhiều dặm vẫn thấy được, vật tỏa sáng lại là một viên dạ minh châu phát kim quang, thật là chưa hề nghe qua, chắc chắn là kỳ trân hiếm có".

Ngọc châu màu hoàng kim lớn bằng đầu ngón tay, tròn vành vạnh không tì vết, bên trong như hàm chứa huyền cơ, ẩn tàng một thế giới riêng, tựa như một thần vật giáng phàm.

Ô Tử Hư đầu óc trống rỗng, nhất thời không hiểu đã xảy ra chuyện gì. "Ta có phải đang nằm mơ? Làm thế nào đang trong lúc mạt vận lại gặp được tuyệt đại dị bảo, vật này phải đáng bao nhiêu tiền". Tim hắn hổn loạn, hít hơi thật sâu, đưa tay run rẩy chạm vào dạ minh châu. Hắn thầm nghĩ nếu đụng vào mà vật này tan biến, thì chứng tỏ mình đang nằm mộng.

Đột nhiên Ô Tử Hư kêu lên một tiếng, ngồi bệt xuống đất thở hồng hộc.

Dạ minh châu đang nằm giữa hai ngón tay của hắn, quả thật tồn tại!

Trời! Thì ra là thật.

Ô Tử Hư nhìn tứ phía, không thấy bóng người nào cả, mới dám đưa dạ minh châu đến trước mắt nhìn không chớp.

Dạ minh châu càng sáng rực, chiếu đến mức như soi thấu bàn tay của hắn.

Ô Tử Hư vội cất dạ minh châu vào trong mình, bao nhiêu nỗi kinh sợ đã biến mất, thay thế bằng một sự vui mừng trong cơn bĩ cực thái lai.

Phen này khỏi lo rồi!

Mấy năm qua mỗi lần thanh toán xong một mối buôn bán, hắn liền đem dụng cụ hành nghề và năm trăm lượng bạc giấu một chỗ ở trong núi hoang, sau đó tận tình đem "của" đi khắp nơi hưởng thụ, đến khi xài hết sạch, mới đi lấy đồ nghề và dùng năm trăm lượng làm kinh phí cho mối trộm bảo vật kế tiếp. Thông thường hắn tốn mất ba tháng đi tìm mục tiêu, mất công quan sát tỉ mỉ để nắm rõ tình cảnh của mục tiêu, sau đó hạ thủ trộm báu và lập tức chạy xa, do đó cần dùng đến năm trăm lượng.

Lúc xảy ra chuyện, hắn chỉ còn lại một lượng bạc, lại không thể trốn đi tìm tài sản cất giấu ở bắc ngạn đại giang, đâm ra hắn trở thành nghèo mạt. Người không tiền không xong, nhất là kẻ địch lại là bang hội có thế lực nhất, không tiền mỗi bước càng khó đi. Mình nghĩ được thì kẻ địch cũng nghĩ tới, do đó hắn muốn trốn ra hải ngoại, chỉ như vậy mới hòng thoát ma chưởng của kẻ địch.

Đương nhiên hắn không đành rời bỏ vùng đất hắn biết rõ như bàn tay mình, chỉ có ở đây công hắn luyện tập mới không lãng phí. Quan trọng hơn là chỉ có ở đây, hắn mới biết cách làm sao che giấu thân phận. Thử nghĩ nếu ra hải ngoại đến xứ nào đó, chỉ nội ngôn ngữ không thông cũng đủ khiến hắn không có đất dụng võ.

Hà huống hắn rất thích kế sinh nhai bằng nghề trộm báu, không có gì đánh đổi được cảm giác thành tựu sau khi đắc thủ và sự kích thích trong lúc hành sự. Đối với hắn, nghề trộm không còn là nghề vặt của phường chuột nhắt, mà là một nghệ thuật.

Tuy nhiên nếu hắn có thể bán được viên dạ minh châu thì mọi thứ sẽ khác đi. Hắn sẽ có đủ tài lực để làm bất cứ chuyện gì, chỉ cần trốn xa phạm vi mà kẻ địch có thế lực mạnh nhất, ẩn tính mai danh một thời gian thì sẽ có cơ hội bắt đầu lại. Nói trắng ra, hắn hưởng thụ đã quen, bảo hắn chịu cực chẳng khác nào đòi mạng hắn.

Chuyến buôn bán lần này sẽ không giống lần trước, dạ minh châu là vật vô chủ, không thể bảo khổ chủ chuộc tiền.

Lại nữa Hoàng Phủ Thiên Hùng trước sau gì cũng biết Ngũ Độn Đạo hắn là kẻ giết con lão. Với thế lực của Đại Hà Minh, muốn truy tìm hành tung trong ba tháng qua của hắn thật dễ như trở bàn tay, thấy một kẻ không tên tuổi trong vài tháng ngắn ngủi xài một mớ tiền nhiều như thế, không nghi ngờ mới là chuyện lạ. Chỉ cần tìm đến vài tay buôn của trộm đủ tư cách làm ăn với hắn, thì thân phận chân chính của hắn sẽ không chỗ che giấu. Do đó hắn không thể bán bảo vật theo lối thường, như vậy là tự tìm tử lộ.

Người có khả năng giúp hắn thoát nạn cần hội đủ ba điều kiện. Đầu tiên là có đủ tiền mua dạ minh châu, thứ đến là có tư cách không e ngại Hoàng Phủ Thiên Hùng, sau rốt y phải là người rất thích sưu tầm bảo vật và có kiến thức.

Tại vùng nam ngạn Đại Giang, người như thế chỉ có một, ấy là Tiền Thế Thần, bản thân đã là đại quan, vừa là bố chính sứ ti vùng Hồ, Quảng, vừa là cự phú bậc nhất Giang Nam. Đồn rằng người này có qua lại mật thiết với thủ lãnh xưởng vệ Quý Nhiếp Đề, lại là tâm phúc của Phụng công công quyền khuynh thiên hạ, một người như thế sẽ không xem Hoàng Phủ Thiên Hùng vào đâu cả.

Chỉ cần Tiền Thế Thần chịu xuất hai, ba vạn lượng bạc để mua dạ minh châu của hắn, mọi khó khăn có thể giải quyết được.

Lúc này cần gấp, phải tìm ngay hai trăm lượng làm kinh phí hành sự. Hắn cần cẩn thận đường đi nước bước, không thể sơ xuất, nên không tránh khỏi trộm vặt một chút.

Mơ hồ hắn cảm thấy viên dạ minh châu hoàn toàn thay đổi vận đen của hắn, con đường phía trước lại tràn đầy ánh sáng và hy vọng.

Hồi 6: Thiên Nữ Ngọc Kiếm

Cô Nguyệt Minh thúc ngựa phóng nhanh trên quan đạo ngày đêm không ngừng, liên tục đến bảy ngày sau, lúc này chỉ còn một giờ nữa là đến Đại Giang.

Lời Phụng công công nói, câu nào thật, câu nào giả? Cô Nguyệt Minh không xác định được. Từ lúc ra đời đến nay, lần đầu tiên y cảm thấy bối rối, lời Phụng công công nói rất khó tin.

Phu Mãnh là kẻ phản bội Hoàng thượng, hay chỉ là kẻ bị hại?

Cô Nguyệt Minh nhớ lúc Phụng công công mới nói đến nhiệm vụ này, cả người lão như trẻ ra ba, bốn chục tuổi, mắt lão chứa đầy sự mong đợi và khát vọng. Điều này không hợp lý, lão chỉ phụng mệnh Hoàng thượng hành sự, Sở hạp có chứa kỳ trân hiếm có gì thì cuối cùng cũng không thuộc về lão, mà thuộc về Hoàng thượng.

Điểm khó lý giải hơn nữa, là nếu Phụng công công nói thật, thì chính lão cũng không biết bên trong Sở hạp có chứa vật gì, làm thế nào khao khát một vật mà không biết nó là gì.

Hay là Phụng công công biết rõ đó là vật gì, thậm chí muốn chiếm làm của riêng?

Giả sử sự thật là như vậy, ngay khi giao Sở hạp cũng là lúc Phụng công công sẽ giết y diệt khẩu. Cô Nguyệt Minh thầm cười lạt: "Nếu lão có chủ ý như ta suy đoán, thì lão đánh giá ta quá thấp, lúc ấy quyền chủ động trong tay ta, chẳng phải do lão thao túng nữa. Nếu ta không vì cả đại gia tộc thì càng chẳng có gì cố kỵ, muốn bỏ đi là đi". Chỉ tiếc gia tộc của y là một trách nhiệm không thể vứt bỏ được.

Lại nghĩ qua Sở hạp, bên trong ấy có bảo bối gì mà có thể khiến Phụng công công động lòng, trong khi lão thừa sức lấy bất cứ bảo vật nào trong quốc khố. Bất giác Cô Nguyệt Minh nhớ đến thần kiếm "Thất Phản" treo bên mình ngựa, đến lúc này y vẫn không buồn lấy kiếm ra xem, chẳng chút hứng thú.

Mưa phùn lất phất, quan đạo tối mờ mờ, với cặp mắt đã từng khổ luyện của Cô Nguyệt Minh, cũng không thể thấy xa hơn ba trượng, cảnh tượng này khiến y có cảm giác giữa trời đất chỉ mình y đơn thân độc mã, tâm tư rung động không gì so sánh được.

Ngay lúc ấy, Cô Nguyệt Minh cảm nhận có sát khí ở phía trước, đấy là khả năng linh cảm của một kiếm thủ siêu cấp qua nhiều năm khổ công tu luyện, khó giải thích được.

Cô Nguyệt Minh không chút kinh sợ, chỉ thầm ngạc nhiên, kẻ nào có thể biết được y sẽ đi qua đây vào lúc này? Theo thói quen của y, đúng ra không ai có thể nắm rõ hành tung của y, tuy nhiên sự thật trước mắt cho thấy ưu thế của y đã không còn.

Cô Nguyệt Minh thúc ngựa chạy mau hơn, bỗng phía trước một bóng người xuất hiện, đứng chắn giữa quan đạo, thân hình khôi vĩ, đầu đội nón rộng vành có chóp nhọn, toàn thân chìm trong hắc bào rộng, một tay cầm trường côn cao quá thân người, tay kia để phía sau, chỉ nhìn khí thế trầm tĩnh trực lập, đủ biết đây là một cao thủ bậc nhất. Cô Nguyệt Minh đã gặp không ít kỳ nhân dị sĩ trong thiên hạ, nhưng lần đầu mới gặp một kẻ như người này.

Cô Nguyệt Minh cười nhạt một tiếng nhưng không giảm tốc độ, thúc ngựa xông thẳng đến kẻ đứng chận đường phía trước. Trong mình y máu huyết như sôi lên, cảm giác kích thích chạy toàn thân, song não bộ tinh thần lại bình tĩnh, lạnh như băng tuyết. Y thích cảm giác gần sự sống chết này, không phải người chết thì ta vong mệnh. Giết hay bị giết, đối thủ này có tư cách giết y.

Trong thiên hạ những kẻ dùng côn, không ai hơn mãnh tướng của Đại Hà Minh là Khâu Cửu Sư, tám mươi mốt đường Phong Thần Côn pháp của họ Khâu, tương truyền không ai có thể chịu được quá năm mươi, phát huy uy lực nhất trong lúc đấu nhiều người. Thành tích trứ danh nhất của Khâu Cửu Sư là một mình xâm nhập tổng đàn Đại Ba Bang, hạ sát gần sáu chục địch nhân kể cả bang chủ Cừu Phương Giáp nổi tiếng hung ác, trận chiến ấy đưa Phong Thần Côn của Khâu Cửu Sư lên ngôi vị thiên hạ đệ nhất côn.

Song Cô Nguyệt Minh biết rõ kẻ chận đường phía trước không phải Khâu Cửu Sư, tuy vóc dáng và khí phách phù hợp với lời đồn về họ Khâu. Nguyên do là vì binh khí trong tay kẻ chận đường chắc chắn không phải là trường côn. Đây là trực giác lâu năm qua nhiều lần vào sinh ra tử, y nhận thấy thủ pháp và tư thế cầm côn của đối phương hơi gượng gạo, chưa thể đạt đến cảnh giới thân người và côn hợp nhất. Nhờ có cảm ứng tinh tế, y bắt được nhược điểm của đối thủ.

Cách hai trượng.

Hai người cùng di động.

Kẻ chận đường nghiêng người như sắp né sang bên tả, cuối cùng lại xẹt sang bên hữu, thân pháp xảo diệu, chỉ cần sai một khắc phán đoán là có thể ôm hận tại chỗ.

Một trượng.

Tay tả Cô Nguyệt Minh đưa ra sau như muốn rút kiếm khỏi vỏ, lúc này trường côn của đối phương đã từ dưới đánh thốc lên, tấn công vào vùng ngực bên hữu của y.

Cô Nguyệt Minh có một bí mật, đó là y thành danh với kiếm pháp sử dụng bằng tay trái, chưa có kẻ nào còn sống nhìn thấy y dùng kiếm bằng tay phải, sự thật là tuy bẩm sinh y thuận tay trái, nhưng tay phải sử được nhiều kiếm thuật hơn, thậm chí có thể phân tâm cùng lúc hai tay thi triển hai kiếm pháp khác nhau. Chỉ thấy kẻ chận đường tấn công dựa theo tả thủ kiếm của y, thì biết kẻ này nhắm đúng mục tiêu là y, tuyệt đối không phải kiếm lầm người.

Cô Nguyệt Minh thu hồi tay trái, tay phải nhanh như chớp rút kiếm khỏi vỏ, nhắm chính xác ngay đầu côn đối phương đâm vào, vận kình khéo léo nhanh nhẹn, khiến người không khỏi có cảm giác không thể tránh kịp.

"Phụt!".

Trường kiếm ghim vào đầu côn, sâu nửa tấc.

Đối phương toàn thân chấn động, hiển nhiên không ngờ kiếm của Cô Nguyệt Minh bén nhọn, tốc độ nhanh kinh người như thế, càng không ngờ được kiếm đâm xuyên đầu côn.

Kiếm và côn cùng bị giảm lực, treo giữa chừng, tuy chỉ trong chớp mắt nhưng nhìn rất quỷ dị.

Cô Nguyệt Minh đã dò ra đối phương sức lực kinh người, không thua chính mình, chỉ vì mình chiếm ưu thế từ trên đánh xuống mới tạo được tình thế có lợi trước mắt.

Tuấn mã vẫn tung vó, trường kiếm kéo theo trường côn, Cô Nguyệt Minh cất tiếng cười dài, lộn mình xuống ngựa, kiếm và côn mới rời ra.

Người kia thu hồi trường côn không nói tiếng nào.

Cô Nguyệt Minh rời khỏi con ngựa đang phóng nhanh và đáp xuống đất, chỉ lúc này mới thấy rõ thân thủ hơn người của y.

Chân vừa chạm đất, Cô Nguyệt Minh xẹt đến đối phương, kiếm trong tay như linh xà chuyển động tấn công vào trường côn của đối phương. Y chiếm ưu thế vì đối phương không phải sử dụng binh khí sở trường nên không quen thuộc côn cách.

Người kia không hổ là cao thủ, chẳng tỏ ra khiếp sợ, tuy không thể không lui nhưng chẳng chút hoảng loạn, y đổi thành hai tay cầm côn, dùng hai đầu côn chống đỡ những thế kiếm như cuồng phong của Cô Nguyệt Minh.

Tiếng côn kiếm đánh nhau vang liên tục.

Giữa tiếng vó ngựa chạy xa dần, Cô Nguyệt Minh tấn công một hơi bảy kiếm, mỗi thế đều vận đủ kình đạo, góc độ hiểm ác không bỏ sót phía nào, song đối phương im lặng đỡ đủ bảy kiếm, thủ rất vững vàng. Lần đầu Cô Nguyệt Minh mới gặp một đối thủ cao cường như vầy, y cảm thấy thống khoái, kích thích vô cùng. Y nhắm đúng ngay lúc trường côn bị kiếm đánh bật ra, nhanh như tên bắn đẩy kiếm chọc thẳng vào yết hầu đối phương, bất kể đầu côn của đối phương phản công lại.

Thể chất Cô Nguyệt Minh hơn người thường, tính cách hết mực kiên nghị, mới trở thành kiếm thủ vang danh thiên hạ. Chẳng những y có khả năng chịu đựng và hồi phục mau hơn người khác, nhưng đáng sợ nhất vẫn là tác phong lấy mạng đòi mạng, y không những muốn giết người mà còn muốn tìm cái chết, sinh mệnh đối với y chỉ là gánh nặng và thống khổ, y giết người không chùn tay, càng không sợ tử vong.

Cho đến lúc này Cô Nguyệt Minh vẫn chưa thấy chân diện mục của đối thủ, vì kẻ kia có đeo một tấm lưới từ trên đỉnh nón tre rũ xuống, che mất gương mặt, chứng tỏ đối phương cố ý che giấu lai lịch.

Kẻ kia vẫn không đổi thế tấn công, cũng có thể đánh gãy tay Cô Nguyệt Minh, nhưng chắc là yết hầu sẽ bị xuyên thấu. Đến lúc này kẻ kia vẫn không tỏ ra hoảng loạn, chỉ lộn sang bên dùng đầu côn chấm đất mượn lực nhảy ra cánh rừng thưa bên đường.

Cô Nguyệt Minh nghĩ thầm: "Ngươi muốn thi thân pháp cước lực với ta, chỉ là tìm chỗ chết". Đang định đuổi theo, bỗng thấy trước mắt tối sầm, y giật mình lui gấp ra sau, mới thấy rõ là đối phương tung hắc bào phủ đầu, nên che mất tầm nhìn của y.

Hắc bào rơi nhẹ xuống đất, tiếng chân kẻ đánh lén mau chóng rời xa, chỉ sẩy một khắc, đối phương trở thành kẻ đầu tiên có thể sống sót trốn khỏi đường kiếm của Cô Nguyệt Minh.

Vó ngựa từ xa đến gần, tuấn mã đến sau lưng y, thân thiết ngửi sau gáy chủ nhân, như hân hoan vì chủ lại một lần nữa thắng lợi.

Cô Nguyệt Minh tra kiếm vào vỏ, song chẳng có cảm giác thắng lợi chút nào cả, lần này thắng là may mắn, nếu đối phương dùng binh khí sở trường, ai thắng ai bại cũng chưa biết.

Nhân vật đáng gờm này là ai? Có liên quan gì đến nhiệm vụ lần này chăng?

Nguyễn Tu Chân bước thẳng vào đại sảnh, Hoàng Phủ Thiên Hùng một mình ngồi ăn sáng, vẻ mặt dàu dàu không vui, vẫn chìm đắm trong nỗi đau mất con.

Hoàng Phủ Thiên Hùng ngẩng đầu lên, nhìn thấy Nguyễn Tu Chân liền nói: "Ngồi đi! Tiên sinh ăn sáng chưa, lấy một phần như ta chứ?".

Nguyễn Tu Chân ngồi xuống bên cạnh long đầu, trầm giọng nói: "Có tin tức Ngũ Độn Đạo rồi!".

Hoàng Phủ Thiên Hùng tinh thần đại chấn, vội hỏi: "Đã tóm cổ hắn chưa?".

"Sắp bắt được rồi! Tên tiểu tặc này y phục tơi tả xuất hiện phía nam Động Đình Hồ, trong một thị trấn tên Bách Thúy, hắn đứng trước một đổ quán do dự một chốc rồi mới bước vào".

Hoàng Phủ Thiên Hùng nhíu mày: "Chẳng phải hắn đã thua sạch tiền? Còn lấy tiền đâu đi đánh bạc?".

"Hắn còn lại một lượng bạc cuối cùng. Sự tình diễn ra sau đó rất cổ quái, Ngũ Độn Đạo thắng liên tiếp bảy ván, thắng được bốn trăm chín mươi chín lượng bạc, cộng thêm một lượng làm vốn ban đầu là vừa đúng năm trăm lượng".

"Không ai thấy hắn gian lận sao?".

Nguyễn Tu Chân thần sắc kỳ dị: "Hắn không hề gian lận, mà là người của đổ trường ăn gian. Sau khi Ngũ Độn Đạo thắng liên tục ba ván, liền khơi sự chú ý của đổ quán, chủ phái người đến cung phụng hắn, dưới bao nhiêu cặp mắt của mấy chục người, người của đổ trường dùng mọi ngón nghề, mà vẫn bị hắn thắng thêm bốn bàn. Lúc ấy thần sắc Ngũ Độn Đạo trở nên rất cổ quái, như nửa mừng nửa sợ, tái mặt định thu tiền rời đi. Người của đổ trường có thể khẳng định là hắn không giở trò lừa gạt, theo tôi thấy thì hắn vốn không hiểu cách đánh bạc, nếu hiểu thì trong quá khứ hắn đã không thua nhiều như vậy, cách giải thích duy nhất là hắn được ông trời đặc biệt chiếu cố".

Hoàng Phủ Thiên Hùng thốt: "Người của đổ trường làm sao chịu nhận thua, gặp kẻ xa lạ đến, giết chết hắn cũng không ai để ý".

Nguyễn Tu Chân nói: "Điều đó hẳn đương nhiên, đặc biệt là Ngũ Độn Đạo y phục không chỉnh tề, da vàng gầy nhom, râu đầy mặt, người của đổ trường làm sao chịu để hắn lấy bạc đi. Hai bên lời qua tiếng lại thành động thủ, hơn mười tay biết võ đều bị Ngũ Độn Đạo đánh văng hết, hắn lấy năm trăm lượng bạc rời đi. Nếu không nhờ trận náo nhiệt ấy, e rằng không ai nghĩ ra hắn là Ngũ Độn Đạo".

Ngừng một chút Nguyễn Tu Chân lại nói: "Bọn ta muốn lập bẫy bắt sống Ngũ Độn Đạo, do đó treo giải thưởng ở phía nam Đại Giang, chỉ phái người liên lạc các bang hội địa phương phía ấy, hòng bí mật hành sự. Khi người của ta đến Bách Thúy trấn, Ngũ Độn Đạo đã rời khỏi trấn được năm ngày. Theo báo cáo đưa về, sau khi hắn rời khỏi trấn, bèn đến huyện kề cận ăn uống thỏa thuê, lại mua y phục mới, không ghé chỗ nào mà đang đêm rời đi, sau đó không ai gặp hắn nữa",

Hoàng Phủ Thiên Hùng đổi sắc, lạnh lùng hỏi: "Thân thủ của hắn thế nào?".

"Lần này mới là lần đầu có người nhìn thấy Ngũ Độn Đạo động thủ với kẻ khác, do đó huynh đệ của ta báo cáo khá tường tận, qua sự phân tích của tôi, võ công của Ngũ Độn Đạo cũng cao minh như thâu thuật của hắn. Đáng ngạc nhiên là hắn không có môn pháp, chỉ có thể hình dung là tùy cơ ứng biến, bất cứ vật gì cầm vào tay liền biến thành võ khí hữu hiệu nhất, hắn lại tinh thông phương vị kinh huyệt trên thân người. Hắn có một đôi tay vô cùng linh xảo, công phu đằng không phóng nhảy xuất thần nhập hóa, cả hơn mười người không cách gì đụng được góc áo của hắn, còn hắn đánh người chỉ vừa ngã là ngưng, những kẻ bị hắn đánh ngã chỉ bị đau sơ sài ngoài da. Theo quy củ giang hồ, người ta thủ hạ lưu tình, đổ quán chỉ có thể tự than bị xui xẻo, không đuổi theo hắn".

Hoàng Phủ Thiên Hùng hiển nhiên đang nghĩ đến việc Ngũ Độn Đạo đối với con trai lão không thủ hạ lưu tình, lão hừ lớn một tiếng.

Nguyễn Tu Chân thong dong nói: "Ngũ Độn Đạo sau khi thắng bảy ván, lộ vẻ kinh sợ, đủ biết hắn cũng không hiểu vì sao mình được đổ vận hanh thông. Đối với dân cờ bạc, bỗng đâu chuyển hảo vận thì khiến người không dám tin, lại sợ không phải điều tốt, rất có thể là chuyển sang tử vận, cũng như trước khi hành hình được ăn mỹ vị phong phú, do đó Ngũ Độn Đạo mới lo sợ bất an như thế".

Hoàng Phủ Thiên Hùng đầy sát cơ, hỏi: "Bọn ta nên bố trí thế nào?".

"Tri kỷ tri bỉ, là điểm then chốt trong việc thắng bại. Bọn ta tuyệt đối không thể xem thường Ngũ Độn Đạo, chỉ xem cách hắn cho khổ chủ đem tiền chuộc sau khi trộm bảo vật, đủ thấy hắn không phải đạo tặc tầm thường, mà là một thiên tài. Từ lúc hắn xuất đạo đã làm được bảy chuyến, lần nào cũng thành công, một cú là trúng, chưa bao giờ để cho ai tóm được đuôi, chứng tỏ hắn chuẩn bị đầy đủ trước khi hành sự, vạch rõ kế hoạch trốn đi sau khi xong việc, để không ai truy tìm".

Hoàng Phủ Thiên Hùng gật đầu đồng ý, lão lão luyện giang hồ, thừa biết hậu quả xem thường kẻ địch, tuy nhiên lão không hài lòng khi nghe Nguyễn Tu Chân tán dương kẻ địch.

Nguyễn Tu Chân lại nói: "Hắn là người rất theo nguyên tắc, tuy chỉ còn lại một lượng bạc, nhưng vẫn không chịu phạm ba điều kiện trộm đồ của mình, mà đem lượng bạc cuối cùng đi đánh bạc, để lấy tiền làm chi phí hành sự".

Hoàng Phủ Thiên Hùng trợn mắt nghiến răng nói: "Đồ bất hảo này lại sắp trộm đồ, lần này hắn định trộm bảo vật của nhà nào?".

Nguyễn Tu Chân hạ giọng: "Lạc Dương là đại thành giàu có nhất phương Nam, nơi nhiều phú hộ tập trung. Theo tác phong của Ngũ Độn Đạo, mục tiêu đương nhiên là đệ nhất phú gia tại Lạc Dương...".

Hoàng Phủ Thiên Hùng đập bàn: "Ấy là Tiền Thế Thần, người này gia tài vạn quán, nghe đồn y trả cho Phụng công công một ngàn lượng vàng để mua chức quan cho mình.

"Trấn gia chi bảo của Tiền Thế Thần, không gì khác hơn là Thiên Nữ Ngọc Kiếm danh truyền thiên hạ, điều này ai cũng biết, Ngũ Độn Đạo có thể đỡ tốn công điều tra, với tình trạng không nhà của hắn hiện tại, không còn mục tiêu nào lý tưởng hơn".

Hoàng Phủ Thiên Hùng trầm ngâm: "Bọn ta có nên chờ hắn trộm báu xong đi tìm tay buôn của trộm, rồi mới hành động?".

Nguyễn Tu Chân lắc đầu: "Tiền Thế Thần không giống các cự phú khác, bản thân võ công cao cường, lại là đại quan địa phương, chỗ y ở là bố chính sứ ti phủ được phòng vệ nghiêm mật, dù Ngũ Độn Đạo có trộm báu thành công, thì nội vùng phía Nam e rằng không ai dám nhận mối vì sợ đắc tội Tiền Thế Thần, do đó Ngũ Độn Đạo nếu quả thật hạ thủ tại tư gia Tiền Thế Thần, tất hắn sẽ tự ra mặt đòi tiền chuộc báu với họ Tiền, lấy xong ngân phiếu là trốn lên phương Bắc tiếp tục ăn chơi phong lưu. Vì vậy bọn ta cần được sự hợp tác của Tiền Thế Thần mới có cơ hội bắt được Ngũ Độn Đạo".

Hoàng Phủ Thiên Hùng trầm ngâm chốc lát, bèn hỏi: "Chuyện Tiết Đình Hao có đầu mối gì chăng?".

"Bọn ta đã xuất toàn lực thám thính, lại tìm những kẻ có quan hệ với Phật môn, nhờ nghe ngóng giùm hành tung của hòa thượng giả này, nay chứng thực ngôi chùa mà y dừng chân sau cùng là một ngôi chùa trên núi gần huyện Hàn Sơn ở phía bắc Động Đình Hồ, năm ngày trước hắn rời chùa đi đâu chẳng biết. À! Lại là Động Đình Hồ, thật trùng hợp!".

Hoàng Phủ Thiên Hùng không để ý: "Lập tức truyền tin này bằng phi cáp truyền thư đến Quý Nhiếp Đề, sau đó ta sẽ thảo một lá thư đưa cho Khâu Cửu Sư đem đi gặp Quý Nhiếp Đề, Tiền Thế Thần thế nào cũng phải nể mặt Quý Nhiếp Đề, còn về phần họ Quý, việc dễ dàng này nhất định y sẽ giúp ta".

Nguyễn Tu Chân điềm đạm nói: "Nếu đại long đầu cho phép, Tu Chân tôi hy vọng tự đứng ra xử lý việc này".

Hoàng Phủ Thiên Hùng ngơ ngác nhìn Nguyễn Tu Chân.

Hai mắt Nguyễn Tu Chân lấp lánh, gã thở dài: "Ngũ Độn Đạo có thể là một đại đạo xuất sắc nhất từ trước đến nay, lại là một kẻ rất giảo hoạt, tôi mong có vinh dự bắt sống được hắn, hy vọng đại long đầu chuẩn cho, tôi tin chắc có thể trói hắn đem đến trước mặt cho long đầu tự tay xử trị".

Lần đầu tiên Hoàng Phủ Thiên Hùng mới thấy vị quân sư trầm tĩnh như Thái Sơn này tỏ lộ khát vọng, đủ thấy Ngũ Độn Đạo đã kích thích lòng tranh thắng của Nguyễn Tu Chân. Do dự một chút, lão gật đầu: "Được! Giao việc Ngũ Độn Đạo cho tiên sinh toàn quyền thay ta xử lý. Đúng là ta không thích hợp để đối phó hắn, vì ta sẽ bị lòng hận thù che mất lý trí. Nếu có Khâu Cửu Sư trợ giúp tiên sinh, ta sẽ an lòng hơn nhiều".

Nguyễn Tu Chân hân hoan: "Tôi sẽ thương lượng cùng Cửu Sư, sau đó lập tức đi Lạc Dương".

Hoàng Phủ Thiên Hùng đăm chiêu, chậm rãi nói: "Nếu có cơ hội, tiên sinh giúp ta khuyên Cửu Sư, vì ta cự tuyệt việc chống đối triều đình, mà Cửu Sư cứ một mực giữ hoài bão đó".

Nguyễn Tu Chân nhẹ nhàng thốt: "Cửu Sư là một người có chí lớn, mắt nhìn triều đình hủ bại không chịu được, lại thương dân chúng khốn khổ lây, nên hy vọng...".

Hoàng Phủ Thiên Hùng ngắt lời họ Nguyễn: "Chính vì triều đình quá hủ bại, ta mới không muốn tiếp lấy một cục diện hỗn tạp, e thiên hạ đại loạn, ngoại tộc sẽ thừa cơ xâm nhập, chỉ là Cửu Sư không hiểu khổ tâm của ta".

Y lại nhíu mày hỏi: "Tiên sinh nói bênh Cửu Sư, phải chăng có cùng quan điểm với hắn?".

Nguyễn Tu Chân cẩn thận đáp lời: "Vấn đề không phải tôi có đồng ý với Cửu Sư hay không, mà là vấn đề tiên phát chế nhân. Bang ta năm năm gần đây phát triển mau chóng, bất luận bọn ta kềm chế đến đâu, vẫn ảnh hưởng đến uy lực của triều đình. Với tính khí của Phụng công công, chẳng thể nào cho phép bang ta tiếp tục bành trướng, chuyện lão đối phó bọn ta chỉ là sớm muộn mà thôi. Nếu bọn ta không chuẩn bị, không chừng nội trong một đêm có thể bị triều đình nhổ tận gốc. Một núi không dung hai hổ, Phụng công công sẽ không cho phép một thế lực khác cùng tồn tại. Ngồi không chờ chết, chi bằng nắm thế chủ động khởi sự trước, lúc ấy chưa chắc phe nào thua phe nào".

Hoàng Phủ Thiên Hùng lộ vẻ nghiêm nghị, bỗng chuyển sang thở dài.

Nguyễn Tu Chân phấn khởi thốt: "Bổn bang bang chúng đến năm vạn người, ai ai cũng nguyện xả thân, có thể nói vạn chúng đồng tâm. Thanh thế bổn bang rất tốt, chỉ cần bang chủ phất tay lên tiếng, bảo đảm thiên hạ theo tùng".

Hoàng Phủ Thiên Hùng cảm xúc dâng trào: "Mấy năm nay nhờ nỗ lực của Tu Chân cùng Cửu Sư, bọn ta đích thực có được thành tích tốt".

Bỗng lão nghiêm mặt nói: "Giết xong Ngũ Độn Đạo, ta sẽ nhượng chức đại long đầu cho Cửu Sư".

Nguyễn Tu Chân thất kinh: "Đại long đầu xin chớ có lối suy nghĩ này, tôi và Cửu Sư một lòng trung thành với long đầu, chỉ có long đầu mới có tư cách và uy danh ngồi lên ngôi cửu ngũ của tân triều".

Hai mắt Hoàng Phủ Thiên Hùng lộ vẻ mệt mỏi: "Ta nói thật đấy, Hoàng mỗ chỉ là một kẻ bất hiếu trong dòng họ Hoàng Phủ, khiến gia môn tuyệt hậu. Ta đã già rồi, chẳng còn tinh lực đi tranh thiên hạ, tương lai nên thuộc về lớp người mới tràn đầy nhuệ khí như các ngươi. Vài năm trước ta ghé qua vùng Ba Thục, thấy một nơi sơn minh thủy tú, trong lòng rất thích, nơi ấy để lại ấn tượng sâu, tâm nguyện duy nhất của ta bây giờ là báo thù cho con, rồi thoái ẩn về phương ấy, không để tâm đến chuyện gì khác nữa. Ý ta đã quyết, Tu Chân khỏi mất công khuyên giải, hãy tìm Ngũ Độn Đạo về đây cho ta, để ta bằm hắn ra trăm mảnh, những việc khác chớ nói nữa".

Hồi 7: Tân Độ Giải Câu

Cô Nguyệt Minh dắt ngựa đi dọc theo bờ sông về phía bãi thuyền, trong đầu suy nghĩ miên man. Ánh nắng sớm mai thờ ơ chiếu lấp lánh trên mặt Đại Giang, so với cảnh quan đạo đêm qua thật là một trời một vực.

Trong đầu y có một dấu hỏi lớn.

Đêm qua kẻ đánh lén dùng kế kim thiền thoát xác tuy rất ngoạn mục, nhưng lý do chính khiến y lỡ mất thời cơ đuổi theo, là y cảm giác "trước mắt tối sầm", dù hắc bào có phủ đầu y, y cũng không thể có cảm giác kỳ dị ấy, nó gần như một dạng yêu pháp, đánh vào tinh thần của mình. Tay thích khách cố ý che giấu lai lịch, chắc chắn có liên quan đến nhiệm vụ kỳ này, ít nhất kẻ ấy biết rằng Cô Nguyệt Minh đang trên đường đến Lạc Dương. Nhưng làm sao đối phương nắm được lộ trình của y? Chẳng lẽ nhờ vào yêu pháp? Nếu là vậy, đây là lần đầu tiên y gặp phải một kình địch võ công không thua y, lại biết dùng yêu pháp.

Máu huyết Cô Nguyệt Minh cuộn lên, có lẽ người này có thể hạ sát được y, một kẻ chưa có đối thủ. Lối suy nghĩ này khiến y đột nhiên cảm thấy như hồi sinh. Thời điểm lâu nay mong đợi cuối cùng sắp đến. Giết người hay bị giết, sinh mệnh như vậy mới có ý nghĩa, còn những thứ khác chẳng có gì quan trọng.

Tuy nhiên chỉ cần y gặp lại người này, bất luận đối phương biến đổi ra thể nào, y cũng nhận ra không sai, vì y đã ngửi được hơi của đối phương từ chiếc trường bào bỏ lại, đây là một trong số những bản lãnh hơn người của Cô Nguyệt Minh, một chiếc mũi đặc biệt.

Tại bãi thuyền có đủ loại người, xe đến người đi, có người bên kia sông đỗ bến bên đây, có người chuẩn bị lên thuyền sang sông, bốn bến thuyền bằng gỗ từ bờ nhô ra ngoài sông, khách bộ hành và xe ngựa di động trên sàn gỗ, tạo ra đủ loại âm thanh, xen lẫn tiếng người nói, tạo ra một không khí tràn đầy sinh hoạt thường nhật.

Trên bờ từng đống hàng hóa chất cao, cách bến hơn trăm bước là một dãy hơn mười căn lều bán thức ăn, không ít người ghé vào, tiếng xào xáo tạo quang cảnh náo nhiệt.

Một chiếc thuyền chở hàng vừa cặp vào một bến, những kẻ đợi thuyền tuy đã nóng lòng, nhưng cũng theo lệ chờ đến phiên mình lên thuyền.

Cô Nguyệt Minh đứng nhìn, biết mình đã lỡ chuyến này nhưng không bận tâm, vì y rất kiên nhẫn, một sự kiên nhẫn kiểu thợ săn rình con mồi, y thích thưởng thức cảm giác chờ đợi như thế.

Một người bước vào tầm mắt Cô Nguyệt Minh, người này tay dắt tuấn mã đen tuyền, đầu đội nón tre che nắng, kéo xuống thật thấp che ngang mũi, toàn thân bọc trong áo choàng rộng màu tro, dáng ung dung tạo cho người nhìn ấn tượng ốm thon ưu nhã.

Cô Nguyệt Minh theo trực giác nhận ra người này là phái nữ, hoặc có thể vì người này mặc đồ giống thích khách đêm qua nên gây sự chú ý của y; cũng có thể vì nữ nhân này đang đứng trước một bảng cáo thị, trông bắt mắt hơn người qua lại chung quanh.

Cô Nguyệt Minh nhìn bảng cáo thị, trên bảng dán đủ giấy cáo thị lớn nhỏ, song đập vào mắt nhất là một bức họa hình người treo giải thưởng ngay trung tâm. Cô Nguyệt Minh lập tức cảm thấy ngứa nghề, nghĩ ngay nếu thuận tay bắt một vài tên trộm vặt chắc rất thống khoái, nhưng y biết mình không thể bỏ mặc nhiệm vụ, nên thầm nghĩ đáng tiếc.

Vừa nghĩ vừa đi, Cô Nguyệt Minh đã đến sau lưng nữ nhân cách hai bước. Hắc mã của nữ nhân phản ứng trước, hí nhỏ một tiếng, ái mã của Cô Nguyệt Minh cũng lên tiếng đáp. Nữ nhân không hề để ý, vẫn chuyên chú nhìn hình người trong bức họa treo giải thưởng.

Cô Nguyệt Minh thầm ngạc nhiên, theo lẽ thường một nữ nhân đơn thân đi đường, đương nhiên phải nhất nhất đề phòng, không lý do gì có nam nhân đến sát bên, mà vẫn không quay lại nhìn, bất giác y quay sang nhìn nữ nhân.

Y chỉ nhìn thấy phần mặt từ ngang mũi trở xuống. Thân hình tự nhiên cân đối rất xinh, điểm thu hút y nhất là đôi môi mềm đỏ mọng mang chút nét trẻ con, sóng mũi cao, làn da mịn, tất cả khiến người xem phải thốt lời khen khí chất ưu nhã của nữ nhân.

Trong lòng Cô Nguyệt Minh tự dưng dấy lên một tình cảm chính y cũng không giải thích được, cũng chưa bao giờ trải qua. Đó là một cảm giác xa xưa, xa đến như trăm ngàn năm trước đã xảy ra trong một tiền kiếp nào đó, cái miệng dễ thương kia chừng như đã từng nói với y một câu, nhưng không sao nhớ được câu nói ấy là gì. Thế mà y vẫn chưa thấy hết cả dung mạo của nữ nhân.

Cô Nguyệt Minh không thể nhìn đi nơi khác, chưa từng có nữ nhân nào có thể làm động lòng y, nhưng vị cô nương có nửa khuôn mặt vẫn giấu trong nón tre đã khuấy động tình tự của y.

Hít sâu một hơi, nén xuống sóng lòng đang giao động, y miễn cưỡng lấy lại bình tĩnh và lên tiếng hỏi: "Cô nương có quen biết kẻ bị treo giải thưởng tróc nã này không?".

Phản ứng của nữ nhân hoàn toàn bất ngờ đối với y, nàng hừ nhạt một tiếng, vô cùng bất mãn Cô Nguyệt Minh bắt chuyện với mình, tỏ vẻ bất bình dắt ngựa bỏ đi, để lại y với cảm giác sượng sùng vì bị cự tuyệt.

Cô Nguyệt Minh bật cười, lắc lắc đầu thầm bảo mình sao lại biến thành lãng tử hiếu sắc, tự nhiên bắt chuyện với một cô gái không quen, thật là vô vị. Nghĩ thì nghĩ vậy, nhưng sợi tình cảm kỳ lạ mà cô gái đánh động vẫn khó xua đi, cứ bám theo y như oan hồn. Y lơ đễnh nhìn sang bức họa hình treo giải, hình vẽ một nam nhân tuổi độ thanh niên, không có nét đặc biệt gì, xem đến giá tiền thưởng là hai trăm lượng vàng, y mới chú ý, thầm nghĩ: "Chẳng biết đại đạo nào đáng giá như vầy?". Vội xem kỹ bản văn, y lập tức tròn mắt như khó tin nổi.

Nếu trên thế gian này có một đại đạo mà Cô Nguyệt Minh không muốn hạ sát nhất, chắc chắn phải là Ngũ Độn Đạo. Cô Nguyệt Minh chẳng những thưởng thức tài của hắn, mà còn thấy hắn rất thú vị, chỉ nghe giới điều "tam bất thâu" của hắn cũng đủ thấy độc đáo. Lại nữa Ngũ Độn Đạo chưa từng đả thương ai, nghề trộm qua tay hắn đã trở thành một nghệ thuật, không thể xếp hắn chung hàng với các đại đạo cùng hung cực ác. Ngũ Độn Đạo là một quân tử giữa phường đạo tặc.

Cô Nguyệt Minh kêu thầm: "Ngũ Độn Đạo ngươi chuyến này đã làm gì mà luân lạc đến nỗi này, bị người điểm mặt, chân diện mục bị cáo thị khắp nơi, phe xuất giải thưởng lại là Đại Hà Minh uy chấn Đại Giang".

Tuy Cô Nguyệt Minh thích tác phong hành sự của Ngũ Độn Đạo, song oan có đầu nợ có chủ, đây không phải việc y nên nhúng tay vào, cũng không rảnh mà để ý đến. Thở ra một hơi, y dắt ngựa đi xuống bãi để chờ qua sông.

Bước chân xuống bến, chỉ thấy rải rác có vài người đứng chờ, nữ lang kia cùng hắc mã đứng ngay vị trí bước lên thuyền, trong lòng Cô Nguyệt Minh lại rộn lên cảm giác kỳ dị kia, y vội dằng xuống, thầm nghĩ hôm nay sao kỳ lạ, chẳng lẽ y thấy sắc đẹp nên động lòng? Nghĩ kỹ lại thì không phải thế, y chưa bao giờ đeo đuổi tình cảm nam nữ, càng không tin có tình ái vĩnh cữu, đời người chỉ là một con đường ngắn ngủi khó đi, mỗi người đều là khách qua đường, mà y mong muốn nhất là nhìn thấy kết thúc của đoạn hành trình này. Y không hiểu chính mình, song quả thật không có người hay sự việc nào có thể tạo cho y hứng thú, ngoại trừ sự tử vong.

Mải suy nghĩ, Cô Nguyệt Minh dường như không tự chủ, lại tới sau lưng cô gái.

Nữ lang không quay đầu lại, hô nhỏ: "Ngươi còn tiếp tục đi theo ta thì ta không lịch sự nữa đâu".

Thanh âm êm ái vui tai, hết sức hấp dẫn, nghe một lần đã khó quên.

Cô Nguyệt Minh nhún vai đáp: "Cô nương chớ hiểu lầm, tại hạ cũng giống cô nương đang chờ lên thuyền sang sông".

Nữ lang trầm giọng: "Vậy thì xéo đi, cách xa ta chút".

Lần đầu tiên Cô Nguyệt Minh gặp phải một "ác nữ" cấm người đến tiếp cận, y tự thấy mình tướng mạo không quá tầm thường, song đối phương chẳng nhìn đến nửa mắt. Định nói thêm, bỗng y nghe tiếng bước chân của vài người vang lên từ phía sau, bước đi đều đều, tạo một không khí đầy áp lực.

Cô Nguyệt Minh đầy kinh nghiệm giang hồ nên biết sắp có phiền phức, lúc chưa xuống bến thuyền, y đã phát giác nhiều có đại hán mặc khinh phục màu đen, ngoài khoác trường bào màu tro, trước ngực thêu hình phi ưng, tiêu ký của Đại Hà Minh. Nhóm đại hán này trà trộn giữa đám đông, hiển nhiên Đại Hà Minh huy động bang chúng canh kỹ mọi bãi thuyền, đương nhiên mục đích là vây bắt Ngũ Độn Đạo.

"Xin hỏi bằng hữu cùng cô nương từ đâu đến, và định đi đâu?".

Nữ lang cuối cùng quay đầu lại, xuyên qua nón tre liếc Cô Nguyệt Minh một cái, rồi chuyển mục tiêu sang năm đại hán của Đại Hà Minh đang tiến về phía hai người. Nàng lạnh nhạt thốt: "Hắn và ta không có chút quan hệ gì cả".

Nói xong nữ lang dắt ngựa sang chỗ khác đứng.

Cô Nguyệt Minh quay lại, bực bội nói: "Tại hạ nhìn giống Ngũ Độn Đạo lắm sao? Chư vị đại ca đừng mất thì giờ với tại hạ được không?".

Năm đại hán tập trung tinh thần dò xét Cô Nguyệt Minh, hẳn là muốn xem kỹ mặt y có hóa trang chăng, nên không lưu ý việc nữ lang bỏ đi. Nhìn một hồi, trang hán dẫn đầu ôm quyền nói: "Công tử không phải người chúng tôi muốn tìm. Tại hạ Giang Đức, phân đà hương chủ Đại Hà Minh, lỡ đắc tội, xin công tử bỏ qua".

Cô Nguyệt Minh thầm khen, bang hội lớn quả nhiên có phong cách riêng, chỉ một hương chủ nhỏ nhoi, cũng nói năng đủ lễ khiến người nghe mát dạ. Tuy nhiên đối phương báo tính danh chức vị, theo giang hồ quy củ, y cũng nên đáp lễ cho biết lai lịch của mình, vấn đề dĩ nhiên là vì y đeo trường kiếm, ra dáng cao thủ, khiến đối phương không dám khinh thị.

Từ trước đến nay Cô Nguyệt Minh đi lại một mình, đến nói chuyện cũng không muốn nói thừa một câu, làm thế nào có thể tùy tiện bộc lộ lai lịch, nghĩ thế y liền thong thả kéo áo choàng sang một bên, để lộ lệnh thông hành đang treo nơi thắt lưng.

Cả năm đại hán đổ dồn mắt vào lệnh phù.

Mỗi lần quan chức từ kinh đô đến địa phương làm việc, lệnh phù và công văn đều không thể thiếu, để cho quan phủ địa phương nhận biết lai lịch. Lệnh phù chia ra bốn cấp, cao nhất là Kim long phù, biểu thị trực tiếp nhận lệnh của Hoàng thượng làm sứ giả đặc biệt của vua đến địa phương thi hành mệnh lệnh của vua. Dù là đại thần bản địa, nhìn thấy lệnh phù này cũng phải khom người thi lễ, chẳng dám lơi là.

Ngay lúc này, Cô Nguyệt Minh cảm giác được nữ lang thần bí đang đứng bên kia cũng phóng tia nhìn về phía y, vội nhìn sang thì đối phương vừa quay đầu đi, không chịu chạm mắt với y. Cô Nguyệt Minh chợt nghĩ: "Nữ lang vốn không chú ý bất cứ ai, nay nhìn sang đây là thế nào?".

Giang Đức lộ thần sắc chấn động, ngẩng đầu nhìn Cô Nguyệt Minh.

Cô Nguyệt Minh buông tay cho trường bào rũ xuống che lại lệnh phù, đưa mắt ra hiệu với Giang Đức, thị ý chớ nên quảng bá điểm này.

Giang Đức gật đầu chứng tỏ đã hiểu rõ.

Có tiếng động lớn, thuyền vừa cặp bến.

Cô Nguyệt Minh cùng ái mã đứng gần phía mũi thuyền, im lặng chờ thuyền rời bến, có tiếng vó ngựa truyền lại, y không cần nhìn cũng biết nữ lang thần bí lạnh lùng kia đang đến bên cạnh. Y không phải biết trước, mà vì nữ lang né tránh Cô Nguyệt Minh nên từ vị trí đứng đầu tụt xuống đứng giữa. Một bên thuyền đã chứa đầy hàng hóa và khách, nữ lang đành theo lời người thu tiền đi sang phía còn chỗ trống, thẳng đến cạnh Cô Nguyệt Minh, đúng như câu "ngõ hẹp đụng oan gia".

Cái mũi rất thính của Cô Nguyệt Minh hít sâu một hơi, mùi hương lành mạnh của nữ lang xông vào mũi, như vào tận ruột gan, khiến Cô Nguyệt Minh có cảm giác khó hình dung được, bất giác y thầm than: "Ta làm sao thế này?".

Y từng gặp cô gái này chưa? Chắc chắn là chưa, vì trí nhớ y rất tốt, người nào y đã tiếp xúc đều để lại một ấn tượng không bao giờ tan, huống chi là một cô gái xuất chúng như vậy.

Nữ lang chăm chú nhìn mặt sông, con hắc mã đứng một bên cứ ngóc đầu sang phía con ngựa của Cô Nguyệt Minh mà hí nhỏ, như đang vui mừng, nhưng ngựa của y lại làm ngơ giống như nữ lang, hai bên chủ và ngựa tạo nên hai thái cực thú vị.

Cô Nguyệt Minh nhìn kỹ con hắc mã của nữ lang, khẽ lên tiếng hỏi: "Con ngựa của cô nương có phải là giống Khất Đan ở phương Bắc?".

Nữ nhân lạnh lùng đáp: "Không mắc mớ gì đến ngươi. Còn tiếp tục múa mép, ta sẽ đập cho ngươi một trận, đừng trách ta không cảnh cáo trước".

Cô Nguyệt Minh chẳng những không giận, mà còn cảm thấy thích thú, y cũng đoán sẽ bị nói xóc, mà không dễ gì cô gái chịu mở miệng, nên y cảm thấy vui vui.

Thuyền rời bến đi.

Đột nhiên Cô Nguyệt Minh thấy tim đập mạnh, là trực giác của một kiếm thủ, song không liên quan gì đến nữ lang đứng cạnh, đang còn suy nghĩ, bỗng tiếng nỏ bắn vang lên, một mũi tên từ mặt sông phía trước lao thẳng đến trước ngực y.

Mọi việc xảy ra quá nhanh và quá bất ngờ, Cô Nguyệt Minh vừa nhìn thấy thì mũi tên chỉ cách ngực không đầy bốn thước, không còn kịp rút kiếm.

Nữ lang phản ứng mau lẹ, hô lên một tiếng, nhìn sang Cô Nguyệt Minh.

Thần sắc y không đổi, tay trái thu thành quả đấm, vung lên đỡ mũi tên.

"Keng!".

Không phải tay y đánh trúng mũi tên, mà là cổ tay có bọc sắt giấu trong tay áo, mũi tên bị đánh bật ngược ra rơi xuống sông.

Tiếng động gây sự chú ý của những kẻ đứng gần, đều quay sang nhìn hai người bên này, chỉ thấy cả hai thần thái như thường nên không lưu ý.

Cô Nguyệt Minh có cảm giác kẻ bắn tên ám toán lặn xuống đáy thuyền, sang bên kia rời đi, y biết dù có nhảy xuống sông cũng khó đuổi kịp, đành dẹp bỏ ý định.

Nữ lang ngưng thần, xuyên qua nón tre nhìn y.

Cô Nguyệt Minh nhìn sang nàng, mỉm cười: "Cô nương có nhận ra đầu tên tẩm chất kịch độc chăng?".

Nữ lang quay sang hướng khác, không nhìn y nữa.

Cô Nguyệt Minh nhìn xuống nước, thầm nghĩ không nói cũng biết là tay thích khách đêm qua lại đến ám toán mình.

Tựu trung là ai muốn hạ sát y? Thích khách tinh thông độc dược, có thể nào liên quan đến vụ hai mươi bốn người trong đoàn tìm bảo vật của Phu Mãnh bị trúng độc mà chết chăng? Hay là thích khách này chính là Phu Mãnh. Nhưng Cô Nguyệt Minh mau chóng loại bỏ giả thuyết này. Phu Mãnh tuyệt đối không có cách nào biết y phụng mệnh xuống phương Nam. Nếu Phu Mãnh còn sống, thì hắn chỉ tìm cách ẩn cư chứ không đi khắp nơi giết người.

Trong óc Cô Nguyệt Minh hiện ra cảnh lúc Phụng công công đặt Thất Phản kiếm trên bàn.

Phụng công công muốn y phụ trách nhiệm vụ này, chắc hẳn đã có dự mưu trước, rất có thể đã báo trước cho Tiền Thế Thần hoặc Quý Nhiếp Đề, do đó hai kẻ này mới biết việc y xuống phương Nam. Thích khách đáng gờm này chắc chắn có liên hệ với một trong hai kẻ.

Nghĩ đến đây, tâm cơ rúng động. Nếu y theo kế hoạch dự định ban đầu, đến thẳng Lạc Dương, hành trình sẽ rơi vào dự tính của kẻ địch, sẽ mất ưu thế chủ động mà trở thành thế bị hại.

Có cách gì biến thế bị động thành chủ động chăng?

Thuyền đi chậm lại, thì ra đã đến bờ bên kia.

Cô Nguyệt Minh thúc ngựa rong ruổi trên quan đạo, đi về hướng nam.

Lúc nãy vừa lên bờ, nhìn nữ lang lên ngựa đi, Cô Nguyệt Minh như bị thôi thúc rất muốn đuổi theo, y cố hết sức nén xuống ý niệm ngu xuẩn này, càng không hiểu có phải mình bỗng phát điên hay chăng, tự dưng nảy sinh ý quyến luyến với một nữ nhân không quen chỉ là bình thủy tương phùng. Y tự nhận mình là một kẻ vô tình, đối với ai cũng thế, tại sao bỗng dưng thay đổi? Nghĩ thì nghĩ thế, nhưng trong lòng cứ bất an, như mất một thứ gì.

Thích khách kia nhất thời mất cơ hội đánh lén y, trừ phi hắn mọc cánh bay theo kịp. Ám toán dưới nước bất thành, đối phương tất phải lội ngược trở lại bắc ngạn, rồi tìm cách qua sông đuổi theo y, lúc này y đã lên bờ phía nam, còn chờ đối phương một hồi, không thấy ai cả nên y mới thúc ngựa đi mất.

Y sẽ đi qua Lạc Dương nhưng không vào thành, mà đến vùng Động Đình trước, lại vòng qua Động Đình đi về hướng tây đến đầm Vân Mộng thuộc vùng Tương Thủy. Y sẽ thăm dò cho rõ Vân Mộng Trạch là một nơi như thế nào, rồi sau đó trở lại Lạc Dương sau.

Nhiệm vụ kỳ này nhất quyết không đơn giản như Phụng công công nói, y ngửi thấy mùi âm mưu, Tiền Thế Thần và Quý Nhiếp Đề đều là những kẻ đáng nghi ngờ, bởi y bị phục kích đến hai lần.

Dám dây vào Cô Nguyệt Minh này là chán sống rồi, bất kể người ấy quyền thế cỡ nào.

Ô Tử Hư giật mình tỉnh giấc, ngồi dậy giữa rừng sâu, thở gấp dữ dội, toát mồ hôi lạnh toàn thân.

Khiếp quá.

Hắn vốn hiếm khi nào nằm mộng, lần trước gặp mỹ nhân đứng trên cỗ chiến xa đến nay, hắn vẫn chưa biết rõ là mộng hay thật, nhưng đêm qua rõ ràng là một cơn ác mộng. Hắn thấy mình ở một nơi cổ quái, người chết khắp nơi, đi đến đâu cũng thấy tử thi, nam có nữ có, gồm cả tráng đinh phụ ấu. Ấn tượng sâu sắc nhất là tại một căn nhà cả gia đình lớn nhỏ hơn mười người chết nằm chất đống. Xác chết không có thương tích gì rõ ràng, xem ra như bị bệnh mà chết chứ chẳng phải bị đồ sát, giống như bị ôn dịch.

Từ khi bắt đầu sinh nhai làm Ngũ Độn Đạo, hắn chưa từng bị thụ động như bây giờ. Những tưởng có được dạ minh châu, vận xui sẽ hết. Hắn đem lượng bạc sau cùng đi đánh bạc với lòng tin này. Chưa bao giờ hắn thắng liền tay như lần này, đến lúc thắng được năm trăm lượng bạc, mới dứt cơn máu mê mà tỉnh táo trở lại, trong lòng phát sinh một nỗi sợ run, chấn động hồn phách.

Năm trăm lượng bạc đúng là kinh phí cho mỗi lần trộm báu, sự việc xảy ra khéo đến mức hắn không thể nào cho là trùng hợp. Sự thật là từ lúc xảy chân rớt xuống dòng nước xiết, đến khi nhặt được dạ minh châu, mơ hồ như có một động lực đang thao túng vận mệnh của hắn, hơi giống tình trạng bị quỷ mê theo như truyền thuyết. Chẳng những hắn bị mê, mà cả đổ trường cũng bị mê, đến nỗi đối phương dùng thủ thuật nào cũng không xong, để cho hắn thắng liên tiếp bảy ván.

"Trời ạ! Rốt cuộc là chuyện gì đây? Ngài đang chọc tôi hay đang giúp tôi? Phải làm sao đây?".

Hắn phảng phất tự biết câu trả lời. Hắn không có sự chọn lựa nào khác, phương pháp lúc trước bây giờ không dùng được, dù trộm được bảo vật, chẳng những không ai dám nhận mua, mà còn có thể hại hắn.

Tất cả hy vọng của hắn, tương lai của hắn, toàn bộ ký thác nơi viên dạ minh châu cất trong mình.

Khâu Cửu Sư đứng nơi mũi thuyền, gió sông thổi áo hắn bay lồng lộng, nhìn uy vũ như thiên thần.

Nguyễn Tu Chân đến bên cạnh, lên tiếng: "Cửu Sư như có tâm sự?".

"Tôi đang nghĩ đến ba quẻ mà tiên sinh đã gieo, có phải có liên quan đến việc long đầu muốn nhường chức?".

Nguyễn Tu Chân nhíu mày đáp: "Cửu Sư hoài nghi dụng tâm của long đầu chăng?".

Khâu Cửu Sư lắc đầu nói: "Tôi không khi nào hoài nghi thành ý của long đầu. Từ lúc công tử mất đi, long đầu thỉnh thoảng để lộ vẻ chán chường, tôi hiểu rõ long đầu là người như thế nào, lời đã nói ra không bao giờ rút lại. Trong tình cảnh này, tôi phải bắt sống cho được Ngũ Độn Đạo để báo đáp ân tình long đầu dành cho bọn ta, và hoàn thành tâm nguyện cuối cùng của long đầu".

Nguyễn Tu Chân gật đầu: "Bây giờ bọn ta chớ nghĩ chuyện gì khác, chỉ tập trung tinh thần bắt sống Ngũ Độn Đạo, lần này hắn có cánh cũng khó bay. Vậy Cửu Sư đi gặp Quý Nhiếp Đề được chăng?".

Khâu Cửu Sư ngỡ ngàng hỏi: "Chẳng phải đã nói rõ là tiên sinh sẽ thân hành bái phỏng Quý Nhiếp Đề hay sao?".

Nguyễn Tu Chân hứng gió sông hít sâu một hơi rồi đáp: "Vì tôi có việc quan trọng hơn cần làm".

Khâu Cửu Sư ngạc nhiên hỏi: "Còn có việc nào quan trọng hơn việc bắt sống Ngũ Độn Đạo?

Nguyễn Tu Chân điềm nhiên đáp: "Đương nhiên là không, tôi cần đến đổ trường ấy tại Bách Thúy trấn, hỏi cho rõ bảy canh bạc kia thua như thế nào".

Khâu Cửu Sư nhíu mày: "Chẳng phải đã hỏi rõ ràng? Việc vặt này đâu cần tiên sinh thân hành tra xét".

Nguyễn Tu Chân nghiêm túc đáp: "Bởi vì để người khác làm không xong, chỉ có tôi mới biết cần hỏi cái gì, xem thử có thể tìm ra manh mối về vụ quỷ hào tề động".

Như Khâu Cửu Sư dũng mãnh không dễ khiếp sợ, mà cũng cảm thấy rợn người. Nguyễn Tu Chân chẳng phải kẻ thích suy đoán lung tung, nghi thần nghi quỷ, gã tinh thông thiên văn địa lý, nếu gã xem trọng việc kỳ quái xảy ra tại đổ trường, chắc chắn phải có mục đích.

Nếu việc thắng lớn của Ngũ Độn Đạo quả có liên hệ quỷ thần, thì muốn bắt được hắn không dễ như dự tính, mà kết quả chẳng ai liệu được.

Kinh thành, Lân Hoa Cư.

Hoa Mộng phu nhân mời Ký Thiện vào phòng, ngồi xuống bàn, chờ nữ tỳ dâng trà lui ra xong, chỉ còn lại hai người. Ký Thiện vẫn cùng một vẻ hòa hoãn, nhưng Hoa Mộng phu nhân thừa biết chỉ là kiểu tiếu lý tàng đao, nàng cảm thấy rất bất an. Ký Thiện phen này đến để làm gì? Hay lại do Phụng công công phái đến?

Ký Thiện nâng chén trà uống cạn, không màn trà nóng, thư thả lên tiếng hỏi: "Phu nhân đã truyền tin cho Nguyệt Minh chưa?".

Hoa Mộng phu nhân ung dung đáp: "Thưa chưa! Xin công công thứ lỗi".

Ký Thiện không mấy lưu tâm, hỏi tiếp: "Có thể xin phu nhân cho biết nguyên do chăng?".

Hoa Mộng phu nhân so vai: "Khi chưa có cách chứng thực tin này, thiếp không thể truyền tin cho Nguyệt Minh, trừ phi công công thuyết phục được thiếp".

Ký Thiện ngạc nhiên hỏi: "Phu nhân đêm nay cớ sao thay đổi, trở nên cứng rắn thế?".

Hoa Mộng phu nhân mỉm cười: "Sau khi công công đi về, nô gia bỗng thức tỉnh ra mình có một chỗ tựa rất vững, công công không có sự chọn lựa nào khác, nếu không sẽ không cần đối phó nô gia".

Ký Thiện chẳng chút giận dữ, ung dung nói: "Chỗ tựa vững nào mà đến Ký Thiện ta cũng phải nể ba phần?".

Hoa Mộng phu nhân nói tỉnh như không: "Nguyệt Minh được chăng?

Ký Thiện phá lên cười: "Cô Nguyệt Minh đương nhiên là chỗ tựa quá vững, chỉ cần Cô Nguyệt Minh còn có mặt thì Phụng công công cũng phải suy xét lại, có ai dám xem thường sự trả thù của Cô Nguyệt Minh. Song ta có thể thẳng thừng nói cho phu nhân hay, ta không lo ngại chút nào, vì ngay từ đầu ta không hề có ý nghĩ hãm hại phu nhân, mà còn muốn tận lực bảo vệ phu nhân, vì chỉ qua phu nhân, ta mới có thể giúp Nguyệt Minh thắng được chuyến này, chỉ có thắng lợi hoàn toàn, thì Ký Thiện này mới bảo toàn tính mệnh. Phu nhân nghĩ lần này ta đến vì chuyện gì? Ta muốn báo cho phu nhân biết, thiên hạ đệ nhất dụng độc cao thủ là ai, mà kẻ này cũng sinh sống ven vùng Lưỡng Hồ".

Hoa Mộng phu nhân nghe đến lạnh gáy.

Ký Thiện để ý quan sát phản ứng của nàng, thân tình hỏi: "Phu nhân còn muốn biết nhiệm vụ kỳ này của Nguyệt Minh chăng?".

Hoa Mộng phu nhân thật không biết đáp sao, chỉ biết mình đã đánh giá thấp Ký Thiện, cứ tưởng gã chỉ là một tay chân trung thành của Phụng công công, sự thật không phải vậy, mà chính nàng đang bị gã kéo vào vòng tranh đấu quyền lực ác liệt của triều đình.

Ký Thiện thở ra một hơi: "Lần trước trước khi đến thăm phu nhân, ta chưa thể xác định được nhiệm vụ của Nguyệt Minh có phải như ta đoán chăng. Ta rất cảm ơn phu nhân đã giúp ta chứng thực dự đoán là đúng".

Hoa Mộng phu nhân cả sợ hỏi: "Công công không phải phụng mệnh Phụng công công đến gặp nô gia sao?".

Hai mắt Ký Thiện lấp lánh, gã thong thả đáp: "Phu nhân quả là huệ chất lan tâm, biết hiểu ý người, chẳng trách Nguyệt Minh thích tìm phu nhân để thố lộ tâm sự".

Hoa Mộng phu nhân lòng dạ rối bời, hỏi lại: "Tại sao lão gia muốn phản Phụng công công?".

Ký Thiện hạ nhỏ giọng đáp: "Bởi vì ta cần giữ mạng sống của mình. Giữa Hoàng thượng và Phụng công công, ta phải có sự chọn lựa, bây giờ phu nhân hẳn thấu hiểu sự chọn lựa của ta".

Hoa Mộng phu nhân hiểu ra.

"Bây giờ phu nhân nên hiểu rõ rồi, lợi ích của phu nhân, Nguyệt Minh và Ký Thiện này đã hợp thành một, nếu Nguyệt Minh thất bại trong nhiệm vụ kỳ này, Ký Thiện ta sẽ chết thảm, phu nhân sẽ lãnh đại họa, Hoàng thượng sẽ mất cơ hội duy nhất đoạt lại quyền lực từ tay Phụng công công".

Hoa Mộng phu nhân lắc đầu: "Thiếp không hiểu, nhiệm vụ của Nguyệt Minh tại sao có ảnh hưởng lớn đến thế?".

"Sẽ có ngày phu nhân hiểu hết những chi tiết bên trong, bây giờ chưa đúng lúc. Phu nhân lúc này nên tin và hợp tác với ta, cùng đưa tin tức chính xác nhất cho Nguyệt Minh, bằng không với khả năng của y trong tình trạng không rõ việc, e khó có thể sống sót trở về".

Hoa Mộng phu nhân thở gấp hơn, một lúc sau mới trở lại bình thường, rồi hỏi: "Công công muốn nô gia phải làm như thế nào?".

Hồi 8: Mệnh Vận Chi Võng

Ô Tử Hư đầu đội lồng tre, vai đeo bọc to, bước chân vững vàng đi trên quan đạo về phía Lạc Dương, chẳng chút e ngại ánh mắt của người qua lại, thỉnh thoảng còn lên tiếng chào hỏi.

Hắn có lý do không sợ, lúc này dù có gặp người đang cố công tìm hắn, cũng không ai nhận ra. Sở dĩ hắn trở thành một đại đạo vô ảnh vô hình, là do hắn có một sở trường không ai bì được, ấy là hắn đóng vai gì cũng không có một chút sơ hở, vì hắn đã từng làm qua nghề đó. Nói đúng ra, hắn không cần giả dạng, chỉ cần biến mình trở lại tay thợ năm xưa là đủ, như là thợ sắt, thợ mộc, mã phu, lái buôn ngọc thạch, thầy xoa bóp nắn xương, hoặc là đầu bếp, ngư phu, nông phu, thợ hàng thịt, giang hồ thuật sĩ. Bởi thế hắn có thể dễ dàng che giấu thân phận, chưa bao giờ bị người nhận diện. Có nghề nào hắn chưa thử qua? Hắn tùy cơ hóa thân, bám theo mục tiêu điều tra kỹ lưỡng, sau đó mới ra tay đoạt báu.

Không may hắn có một nhược điểm lớn nhất, ấy là hắn chỉ thích trở lại bản sắc thật của chính mình. Có ngân lượng trong tay, hắn sẽ trở lại chân diện mục, như vậy mới tận tình hưởng thụ cuộc sống, cảm giác mình còn sống trên đời. Chính điểm đó đã gây thất bại lần này.

Bây giờ hắn đang giả dạng một tay bắt rắn lấy mật bán, trong lồng tre chứa hơn mười con rắn độc đã bị hắn bẻ nanh, đều do chính tay hắn bắt được dọc đường. Bất kỳ ai xem hắn lành nghề cho tay vào lồng bắt rắn độc giết lấy mật, không người nào có thể liên tưởng hắn với Ngũ Độn Đạo. Lại thêm hắn nói rặt khẩu âm vùng Vân Quý, sau khi dịch dung thấy rõ da đen đúa vì sạm nắng, lưng gù, mắt nửa nhắm nửa mở, toàn thân bốc mùi thuốc rắn, đến chính hắn soi bóng dưới nước cũng khó nhận ra bản thân.

Chỉ cần hắn lẻn được vào trong thành Lạc Dương, hắn sẽ có cách. Tuy nhiên làm thế nào tiếp xúc Tiền Thế Thần? Điểm này thì không dễ dàng, nhưng hắn tự tin có thể làm được.

Ngày mai vào lúc hoàng hôn chắc tới thành Lạc Dương, "mệnh vận" sẽ đặc biệt chiếu cố hắn, hay ngoảnh mặt làm khó hắn?

Lạc Dương Thành. Bố chính sứ ti phủ.

Quý Nhiếp Đề ngồi ghế chủ, chuyên chú đọc truyền thư của Phụng công công.

Tiền Thế Thần ngồi cạnh, vị đại thần địa phương có ảnh hưởng lớn nhất ở phương Nam này, niên kỷ xấp xỉ Quý Nhiếp Đề, mười ngày trước vừa qua sinh nhật bốn mươi ba tuổi. Vóc người gã không cao, nhưng cho người xem cảm giác tráng kiện linh hoạt, cổ và vai hàm chứa sức mạnh, nếu đôi tay lớn thô của gã cầm trường thương, hẳn có uy thế không ai đỡ nỗi.

Diện mạo Tiền Thế Thần khá kỳ lạ, mắt dài mà nhỏ, khiến người nghĩ đến mũi dao bén nhọn, tròng mắt chiếu sáng như có vẻ thâm trầm. Khuôn mặt rộng, cằm bạnh, nhưng khác hẳn Quý Nhiếp Đề, gã biểu lộ tình cảm, có thể cười vui đón khách, nhưng bất thần cũng có thể biến ra sát khí đằng đằng.

Lúc này Tiền Thế Thần đang mím chặt cặp môi dầy, tỏ vẻ không phục, như một đứa trẻ hư đang vùng vằng.

Quý Nhiếp Đề để thư trên bàn, nhắm mắt dưỡng thần, y vừa đến Lạc Dương, Tiền Thế Thần lập tức đưa truyền thư của Phụng công công cho y đọc.

Tiền Thế Thần bực tức nói: "Quý đại nhân nói thử xem! Đại công công phái người tới đây như vầy, chẳng phải cho rằng bọn ta không có khả năng giải quyết việc này là gì?".

Quý Nhiếp Đề vẫn nhắm hai mắt, dựa ra lưng ghế, thư thả nói: "Ta biết Cô Nguyệt Minh, một kẻ đáng sợ nhất mà ta bình sinh đã gặp, không những y là một kiếm thủ siêu cấp, mà còn là một kẻ không sợ chết. Y là vũ khí đáng sợ nhất của đại công công, sở trường của y là bản lãnh truy tầm và điều tra, về mặt này ta tin rằng y có khả năng thiên phú".

Tiền Thế Thần nhíu mày: "Quý đại nhân không nghĩ nếu để cho y thành công bắt được Tiết Đình Hao, thì công lao của bọn ta bị y lãnh trọn hết sao? Dù không tính công, ít nhất cũng sẽ cho thấy bọn ta bất lực".

Quý Nhiếp Đề mở mắt chăm chú nhìn Tiền Thế Thần, trơ như gỗ đá: "Công lao ai lớn hơn, ta không tính. Ta chỉ quan tâm là làm thế nào tìm được Sở hạp. Đại công công phái Cô Nguyệt Minh đến đây, là để tăng cường thực lực của bọn ta. Cô Nguyệt Minh đến Lạc Dương không phải để đối đầu, mà để trợ giúp bọn ta. Trong một số tình huống, có nhiều người chưa chắc hữu dụng, nếu không bọn ta đã bắt được Tiết Đình Hao từ lâu. Song Thế Thần nên nhớ kỹ, Cô Nguyệt Minh không phải đến đây làm thủ hạ của bọn ta, vì cả đại công công cũng không thể khống chế cách hành sự độc lai độc vãng của Cô Nguyệt Minh".

Tiền Thế Thần bị Quý Nhiếp Đề nói một hơi, đành im lặng không dám phản đối.

Ánh mắt Quý Nhiếp Đề ngưng tụ, phát ra tinh quang, thong thả thốt từng chữ: "Có lẽ Thế Thần vẫn chưa tự giác mình đang đi trên một con đường rất nguy hiểm, đó là hoài nghi dụng tâm của đại công công, năm chục năm qua, tất cả những ai hoài nghi đại công công đều không một người có kết thúc tốt đẹp".

Tiền Thế Thần cúi đầu, sợ hãi nói: "Thế Thần này tuyệt đối không có ý niệm đó, thỉnh Quý đại nhân giữ kín giùm, hạ thần xin tận tâm tận lực làm việc của đại công công giao phó".

Quý Nhiếp Đề lại nhắm mắt.

Lúc này người hầu vào báo có Khâu Cửu Sư cầu kiến Quý đại nhân.

Quý Nhiếp Đề mở hai mắt, trong mắt chứa đầy sát cơ, y lên tiếng: "Thế Thần không cần tránh đi. Mời họ Khâu vào đây".

Quý Nhiếp Đề xem xong thư của Hoàng Phủ Thiên Hùng gửi, tiện tay đưa qua cho Tiền Thế Thần để gã xem qua, rồi nhìn Khâu Cửu Sư đang ngồi phía bên kia bàn và nói: "Lần trước ta gặp Hoàng Phủ bang chủ, đã cảm thấy thần sắc bang chủ khác thường, thì ra xảy ra chuyện bất hạnh như vậy, Cửu Sư an tâm! Bọn ta sẽ tận lực phối hợp quý bang, lần này Ngũ Độn Đạo dù có cánh cũng khó thoát".

Tiền Thế Thần ném thư xuống bàn, cả giận nói: "Hắn dám đụng đến Tiền mỗ, quả là chán sống rồi".

Khâu Cửu Sư vội vã cảm tạ, lại nói: "Theo dự đoán của bọn tôi, mục tiêu thuận tiện nhất của Ngũ Độn Đạo là 'Thiên Nữ Ngọc Kiếm', tương truyền trấn gia chi bảo của Tiền đại nhân, cũng theo thói quen của Ngũ Độn Đạo, hắn là một kẻ thông minh nhưng dại dột thích làm chuyện khó khăn, không thể nào không mê thích Thiên Nữ Ngọc Kiếm, còn những bảo vật khác hắn không thèm ghé mắt".

Quý Nhiếp Đề nhìn như dò xét Khâu Cửu Sư: "Cửu Sư nắm vững tính cách Ngũ Độn Đạo, miêu tả khá sinh động, thuyết phục được cả Quý mỗ, Ngũ Độn Đạo rất có thể đến tìm Thế Thần. Song ta có một chuyện vẫn nghĩ chưa thông, là dù hắn trộm được Ngọc Kiếm, rồi làm thế nào bán ra? Ai cũng biết đó là bảo vật của Thế Thần?".

Khâu Cửu Sư từ tốn đáp: "Hắn có thể thân hành đến đòi tiền Tiền đại nhân".

Tiền Thế Thần lắc đầu: "Điều này không thể xảy ra được, dù hắn có ba đầu sáu tay, mà bọn ta chuẩn bị chờ sẵn, hắn dám đến thì kể như tự đâm đầu vào lưới".

Quý Nhiếp Đề thốt: "Do đó bọn ta tuyệt đối không thể để cho hắn cảnh giác rằng bọn ta đang bày trận chờ hắn vào, như vậy chỉ làm hắn sợ trốn mất".

Khâu Cửu Sư thầm nghĩ, so sánh ra thì bất luận tài trí kiến thức, Quý Nhiếp Đề đều vượt xa Tiền Thế Thần, đáng sợ nhất là y hỉ nộ vô hình, không giống như Tiền Thế Thần bao nhiêu tình cảm hiện lên mặt hết. Khâu Cửu Sư nói: "Thủ đoạn hay nhất của Ngũ Độn Đạo là độn thuật. Do đó mỗi lần hắn trộm báu xong, khổ chủ mới giật mình nhận ra bản thân đã thành mục tiêu của hắn. Qua đây có thể thấy hắn có một bản lãnh che giấu lai lịch, qua mắt mọi người. Bất kể khổ chủ cất bảo vật kỹ đến đâu, hắn cũng có cách tìm được".

Quý Nhiếp Đề gật đầu: "Quý bang quả thật đã điều tra Ngũ Độn Đạo rất kỹ".

Tiền Thế Thần ra vẻ không quan tâm, gã nói: "Ngón nghề của Ngũ Độn Đạo, làm sao ra tay trong ti phủ được? Chỉ nội đám chó canh phủ tổng cộng mười hai con, bảo đảm hắn chỉ vô chứ không có đường ra".

Khâu Cửu Sư thốt: "Nghe một số khổ chủ kể lại, họ đều có nuôi chó dữ, nhưng trong khoảng thời gian Ngũ Độn Đạo trộm báu, chẳng có con nào lên tiếng, như là chúng không biết".

Tiền Thế Thần tự tin: "Để ta kể cho Quý đại nhân và Cửu Sư biết một bí mật, ngọc kiếm của ta có bản thật và giả, bình thường treo ở chủ đường là bản mô phỏng do ta tìm thợ khéo tay chế ra, gặp lúc có lễ lớn thì mới đem vật thật ra. Do đó nếu Ngũ Độn Đạo dám đến trộm báu, rất có thể bị nhầm đồ giả. Nhưng dù là đồ giả, ít nhất cũng đáng vài trăm lượng vàng, do đó ta đặc biệt gắn cơ quan trong giá để ngọc kiếm, chỉ cần kiếm rời khỏi giá, lập tức chuông báo động kêu lớn, có thể khiến Ngũ Độn Đạo không kịp trốn".

Quý Nhiếp Đề và Khâu Cửu Sư cùng khen độc đáo.

Tiền Thế Thần dương dương đắc ý: "Bọn ta không cần làm gì cả, ti phủ cứ ra vào bình thường, thành Lạc Dương cũng chẳng cần tăng cường canh gác hay tuần tra, Ngũ Độn Đạo không đến thì thôi, hễ đến thì nhất định rơi vào thiên la địa võng của bọn ta".

Khâu Cửu Sư hân hoan: "Nếu Ngũ Độn Đạo đến đoạt báu như bọn ta dự liệu, thì đây là lần đầu từ lúc hắn xuất đạo bị người biết trước hành động của hắn".

Ngưng một chút hắn nói tiếp: "Tuy nhiên để tránh sơ sót, bọn tôi có một loại phấn tên là 'thần bộ', chỉ cần hòa tan trong nước, thoa lên cả hai thanh ngọc kiếm giả và thật, mùi như có như không, có thể để đến vài tháng không phai, nhưng người nào tiếp xúc với phấn này sẽ bị dính mùi, lúc ấy trừ phi Ngũ Độn Đạo biết cả ngũ hành độn thuật, bằng không sẽ giống như cá trong lưới, chỉ nhờ chó săn đánh hơi là có thể tìm ra hắn".

Quý Nhiếp Đề và Tiền Thế Thần cùng lúc thay đổi nét mặt, kế này quả là không chỗ sơ hở, chẳng sợ Ngũ Độn Đạo không mắc bẫy.

Quý Nhiếp Đề hỏi: "Kế này ai nghĩ ra?".

Khâu Cửu Sư đáp: "Đây là thủ pháp bổn bang quen dùng để theo dấu kẻ địch".

Sự thật thì đây là diệu kế mà Nguyễn Tu Chân nghĩ ra để đối phó Ngũ Độn Đạo, nhưng Khâu Cửu Sư không muốn Quý Nhiếp Đề sinh lòng úy kỵ Nguyễn Tu Chân, nên mới nói sơ qua mà thôi.

Tiền Thế Thần trầm ngâm: "Ngũ Độn Đạo có cảnh giác là quý bang đã biết lai lịch của hắn chưa?".

Khâu Cửu Sư nghĩ đến những lời phân tích của Nguyễn Tu Chân về Ngũ Độn Đạo, liền đáp: "Ngũ Độn Đạo tinh thông nhiều ngón nghề giang hồ, bản thân hắn chắc chắn là một kẻ thông minh tuyệt đỉnh, hắn chắc chắn biết đã kết thâm thù với Đại Hà Minh, với nhân lực của chúng tôi rất dễ dàng dò được chân tướng của hắn, do đó hắn phải biết tình cảnh của hắn thế nào".

Tiền Thế Thần hoài nghi: "Vậy mà hắn vẫn dám đến sao? Nguy hiểm nhiều quá".

Quý Nhiếp Đề cả quyết: "Chỉ cần có phân nửa cơ hội, bọn ta cũng phải xem như hắn nhất định sẽ đến, đây có thể là cơ hội duy nhất để bắt được Ngũ Độn Đạo. Chuyện của Hoàng Phủ bang chủ cũng quan trọng không kém chuyện của bọn ta, tuyệt đối không thể lơ là".

Khâu Cửu Sư thầm thở dài, phen này mang nợ họ Quý là chắc rồi, nhưng không làm vậy thì có mà bắt sống Ngũ Độn Đạo. Với tính cách của chính hắn, sau này dù Quý Nhiếp Đề có trở thành kẻ địch, thì ân này vẫn phải trả. Hắn vội thốt: "Ân tình của Quý đại nhân và Tiền đại nhân, tệ bang trên dưới đều không bao giờ quên được".

Tiền Thế Thần nói: "Cửu Sư có chỗ nghĩ chân tại Lạc Dương chưa? Nếu không ngại, ta có thể dành một viện riêng trong phủ cho Cửu Sư nghĩ ngơi, bảo đảm ra vào tiện lợi, mà ta cũng trọn tình chủ nhà".

Khâu Cửu Sư vội từ chối khéo, ba người thương lượng kỹ lại các chi tiết cần phối hợp, sau đó Khâu Cửu Sư cáo từ ra về. Đối với họ, Ngũ Độn Đạo lọt lưới chỉ là vấn đề sớm muộn mà thôi, không ai nghĩ sự tình sẽ nảy thêm nhiều thứ khác, hoàn toàn vượt ngoài dự liệu của họ.

Vô Song Nữ ngước nhìn bầu trời đầy sao, trong lòng cảm thấy mờ mịt.

Hắc nhi đang thong thả ăn cỏ bên bờ sông nhỏ, nó là quà sinh nhật năm nàng mười sáu tuổi của An thúc tặng, tình cảm An thúc dành cho nàng như cha thương con, nhưng An thúc không thể thay thế vị trị của thân phụ trong tim nàng.

Sáng nay người mà nàng gặp lúc qua sông rất có thể là người của quan phủ, nếu không Đại Hà Minh thủ hạ đã không trở nên cung kính khi nhìn thấy vật bên trong trường bào của người ấy. Chỉ nhìn thần thái không bấn loạn của người ấy lúc đỡ tên, phản ứng mau lẹ bình tĩnh, đủ biết y là một hảo thủ bậc nhất. Mà kẻ ám toán cũng không thể xem thường, nàng chưa bao giờ thấy thân thủ như thế.

Bất giác hiện lên trong trí Vô Song Nữ hình họa thanh niên bị Hoàng Phủ Thiên Hùng treo giải thưởng hai trăm lượng vàng. Cô biết chắc mình chưa từng gặp hắn, thì tại sao hắn lại gợi cho nàng một cảm giác gì đó rất khó hình dung? Cảm giác như đã từng quen biết.

Thôi! Không nghĩ lộn xộn nữa. Nguyện vọng duy nhất của nàng là đến Vân Mộng Trạch, tìm được cữu phụ. Dù sự thật thế nào, nàng cũng thề phải truy cho rõ, nàng nhất định không tin cha mình là hạng người như thế.

Ô Tử Hư ngồi trên đỉnh núi, ngắm xa xa cảnh đèn sáng huy hoàng trong thành Lạc Dương. Thành trì này sẽ là khởi điểm mới của hắn, hay là kết thúc, hắn không dám chắc.

Đối với Đại Hà Minh, hắn úy kỵ nhất không phải Hoàng Phủ Thiên Hùng, mà là hai người dưới trướng Nguyễn Tu Chân và Khâu Cửu Sư. Nếu Nguyễn Tu Chân đúng là tay cơ trí, sẽ đoán được hắn cần làm một chuyến buôn bán mới có đủ tiền ẩn náu một thời gian. Trong tình cảnh của hắn, không có mục tiêu nào hơn Thiên Nữ Ngọc Kiếm của Tiền Thế Thần. Trong tình thế đó, Đại Hà Minh sẽ đến Lạc Dương giăng bẫy, chỉ cần hắn lộ hành tung, nhất định là không chỗ nào trốn được, vì thật sự hắn hoàn toàn không biết ngũ hành độn pháp.

Nếu có sự chọn lựa, hắn sẽ không khi nào vào thành Lạc Dương, nhưng tất cả mọi hy vọng của hắn đều ký thác nơi viên dạ minh châu.

Mấy năm gần đây thế lực Đại Hà Minh bành trướng, đã khiến triều đình úy kỵ, còn Tiền Thế Thần là một đại thần tại địa phương, hẳn cũng nghi ngờ bang hội này, sẽ không bắt tay hợp tác cùng Đại Hà Minh.

Ngày mai hắn sẽ là kẻ đầu tiên bước vào thành Lạc Dương, hắn sẽ quên đi chính mình, hoàn toàn hòa mình vào cuộc sống của người thợ bắt rắn bán mật. Còn chiếc bọc lớn chứa đủ các dụng cụ thì đã giấu trong rừng phía ngoài thành, để chờ lúc cần sẽ dùng.

Nghĩ đến đây, máu huyết hắn sôi lên. Hắn thích cảm giác kích thích như thế, như vậy cuộc sống mới có màu sắc.

Cô Nguyệt Minh phi thân xuống ngựa, bước đến bãi cỏ bên giòng sông nhỏ, mùi hương quen thuộc xông vào mũi, trong đầu y lại hiện lên bóng dáng nữ lang kia.

Nàng có vẻ rất kiên cường độc lập, phong tư uyển ước, toàn thân đầy nét thần bí, như có một bí mật không thể nói cho ai biết, khiến nàng xa lánh mọi người. Tuy nhiên đó không phải nguyên do hấp dẫn Cô Nguyệt Minh, vậy thì cái gì hấp dẫn y? Y không trả lời được.

Nữ lang mới rời đi cách đây độ nửa giờ, nhưng Cô Nguyệt Minh biết muốn đuổi theo nàng không dễ, vì ngựa của nàng là giống quý, không thua ngựa của y.

Rất nhiều người cho rằng Cô Nguyệt Minh là một kẻ vô tình, nhưng y tự biết mình, thật ra y là một người có nhiều tình cảm, nếu không sẽ chẳng cảm thấy trách nhiệm nặng nề của cuộc sống, cảm thấy con đường này thật khó đi. Làm người rất khổ, nhưng nỗi khổ lớn nhất, là y không hiểu được tại sao mình phải đau khổ như thế. Y không có lý do gì phải cảm thấy như vậy. Nhưng khi trên đời không có sự việc gì khiến mình hứng thú, làm sao vui nỗi?

Nữ lang đã đi đâu?

Lúc rời bến sông, nữ lang lên đường đi về hướng Thường Đức, theo phía tây Đại Giang, nhưng chỉ là kế nghi binh, nàng lại vòng lại Động Đình Hồ. Nếu y không tốn nửa giờ ở bên sông chờ thích khách kia, để xem đối phương có ngu xuẩn đến độ theo y sang sông chăng, thì nữ lang chẳng thể nào đi trước y.

Hành tung tránh né của nữ lang, làm Cô Nguyệt Minh càng tin rằng nàng có việc không thể cho ai biết. Nàng phải giấu ai? Rất có thể là chính y. Nàng nhìn phản ứng của thủ hạ Đại Hà Minh lúc ở bến thuyền bên kia sông, hẳn đã đoán y là người thuộc quan phủ.

Từ sâu trong nội tâm Cô Nguyệt Minh dâng lên một sự run sợ. Nếu mục đích cuối cùng của nữ lang là Vân Mộng Trạch, và bí mật của nàng có liên hệ đến Sở hạp, thì đó giống như một định mệnh không tránh khỏi, đã chủ định họ gặp gỡ bên sông, cái võng mệnh vận kéo họ vào cùng một chỗ.

Cô Nguyệt Minh không nghĩ mình đã đem lòng yêu nữ lang kia, không phải chuyện đó, nhưng nàng quả thật đánh động tình tự của y. Y có phải từng quen biết nữ lang chăng? Nàng đã từng nói với y câu gì? Điều này không thể xảy ra được.

Con ngựa Khôi Tiễn đến bên Cô Nguyệt Minh, y nhảy lên ngựa, phục xuống ghé bên tai ngựa nói nhỏ: "Ta và ngươi đuổi theo một người".

Hú một tiếng, y thúc ngựa đi.

Tiền Thế Thần tiến vào hoa viên ở vườn phía đông, đến trước một thạch thất, so với những chỗ khác trong ti phủ, đây là một không gian riêng biệt, như đứng riêng khỏi trần thế, tĩnh lặng mà cô tịch.

Thạch thất khác xa với các khu phòng hoa lệ khác trong phủ, có vẻ giống như một căn nhà dân miền núi để nguyên mà đưa vào trong phủ, tường xám ngói xanh, tầm thường không xa hoa, nhưng lại hòa nhập trong lâm viên, khiến người có cảm giác quên đi cảnh phàm.

"Vào đi!".

Giọng nói bình hòa đôn hậu, hàm lực khiến người tùng phục.

Tiền Thế Thần lộ vẻ cung kính, đẩy cửa bước vào.

Bên trong ngoại trừ trong góc có để một cái rương to, chỉ có hai tấm chiếu lớn. Một người đang xếp bằng ngồi trên tấm chiếu sát tường, vì không có đèn nên người ấy như hòa mình trong bóng tối. Nhờ ánh trăng lọt vào qua cửa sổ phía đông, có thể thấy người này tóc dài chấm vai, thân ốm, hai bàn chân để trần, đang tĩnh tọa bất động, cho người cảm giác trấn định như tòa núi, nhưng cũng tạo ra không khí âm u, đáng sợ.

Tiền Thế Thần cung kính gọi "sư huynh", rồi ngồi xuống chiếc chiếu đối diện, hạ giọng: "Sư huynh đã về, tình hình thế nào?".

Tiền Thế Thần từ từ quen với bóng tối trong phòng, dung mạo của người kia trở nên rõ hơn, đôi mắt đối phương như chứa đầy trí tuệ, đang loé sáng rừng rực nhìn gã chăm chú.

Người kia lạnh nhạt: "Rất khéo, Cô Nguyệt Minh quả nhiên danh bất hư truyền, không phải kẻ hư danh, ta phục kích y hai lần, lần đầu y nhận ra thứ ta dùng không phải binh khí sở trường, suýt bị thua, nếu ta không kịp thời thi triển Đạo thuật, e khó an toàn thoát thân. Sau đó ta nhân lúc y đón thuyền sang sông, từ dưới nước dùng nỏ bắn tên, cũng bị y dùng hộ hoàn giấu trong tay áo đánh rơi, Cô Nguyệt Minh tuyệt đối không phải kiếm thủ tầm thường, quả là một kỳ sĩ".

Tiền Thế Thần giật mình hỏi: "Với khả năng của sư huynh cũng không thể đả bại y ư?".

Người kia bình tĩnh đáp: "Nếu công bằng mà đấu kiếm, Qua Mặc ta chỉ có năm phần mười cơ may giết được y, nhưng nếu ta phối hợp Đạo thuật, thì y chắc chắn toi mạng".

Tiền Thế Thần trong lòng lại dâng lên cảm giác đặc biệt mỗi lần gặp Qua Mặc trong quá khứ, ấy là khi vị sư huynh này nhìn gã, như thể đang dùng một cặp mắt khác dò tìm bí mật trong nội tâm gã. Khi nghe gã nói, Qua Mặc chừng như đang dùng một đôi tai khác để nghe những âm thanh mà người khác không nghe được. Tuy sư huynh đang đứng trước mặt gã, nhưng con người thật của sư huynh như đang ở một tầng cao hơn.

Tiền Thế Thần ít sợ ai, nhưng đối với vị sư huynh này thì một lòng kính sợ thật sự.

Tiền Thế Thần thè lưỡi nói: "Cô Nguyệt Minh ghê gớm đến thế sao? Vậy bọn ta phải làm sao?".

Qua Mặc trầm giọng: "Phụng công công phái y đến đây, chứng tỏ Phụng công công đã hết nhẫn nại, quyết dồn hết vào một canh bạc định ăn thua, vì Cô Nguyệt Minh không chịu sự khống chế của ai, kể cả Phụng công công. Cách làm việc một mình tới lui của Cô Nguyệt Minh, và bản lãnh điều tra truy tầm của y sẽ là nguy hiểm lớn nhất cho bọn ta, nếu y tìm được Tiết Đình Hao trước bọn ta, hậu quả không thể tưởng tượng. Cách duy nhất bây giờ, không phải là hạ sát Cô Nguyệt Minh, mà phải tìm ra Tiết Đình Hao, xem thử hắn biết chuyện năm xưa nhiều ít, sau đó giết hắn diệt khẩu".

Tiền Thế Thần thất vọng: "Nhưng mà Tiết Đình Hao cứ như đã biến mất, sư huynh dùng thông thần thuật vẫn không cách nào biết được hắn ở đâu".

Qua Mặc lạnh lùng thốt: "Tiết Đình Hao đã vào Vân Mộng Trạch".

Tiền Thế Thần ngẩn ngơ hỏi: "Sư huynh xác định chưa?".

Qua Mặc nói: "Chỉ ở Vân Mộng Trạch, Đạo thuật của ta mới không thi triển được, nếu không phải thế, năm xưa ta đã không mất cơ hội được Sở hạp. Bên trong Vân Mộng Trạch có một lực lượng kỳ dị của thần linh cổ xưa, họ bảo vệ cổ thành, canh gác Sở hạp. Tuy nhiên ta có cảm giác là lực lượng ấy đang xuất hiện dao động. Nếu ta đoán không sai, quỷ tiết năm nay, cổ thành sẽ mở ra một lần nữa, đến lúc ấy sẽ biết rõ ràng Sở hạp ở đâu. Tiết Đình Hao vì ở bên trong Vân Mộng Trạch, nên tránh khỏi sự truy tìm của thần thông thuật".

Hơi thở Tiền Thế Thần gấp lên, hai mắt đầy khát vọng, gã hỏi: "Sư huynh phải chăng chuẩn bị vào Vân Mộng Trạch?".

Qua Mặc không trực tiếp trả lời gã, mà hỏi: "Phần Quý Nhiếp Đề thế nào?".

Tiền Thế Thần khổ sở đáp: "Lão cáo già này thật khó dò tâm ý, song tiểu đệ cứ cảm thấy y có cách nhìn khác về chuyện xảy ra năm xưa, áp lực của y đối với bọn ta không dưới Cô Nguyệt Minh. Lần này đi theo y còn có ba mươi sáu cao thủ tinh nhuệ của xưởng vệ, người nào cũng võ nghệ cao cường, dù đệ có dốc toàn lực, cũng khó mà giết được y".

Qua Mặc thốt: "Giết Quý Nhiếp Đề là đại hạ sách, trừ phi ngươi quyết định từ bỏ tiền tài, quyền thế và chức vị".

Hắn ngưng một chút lại nói tiếp: "Ta nhìn sắc diện của ngươi, mí mắt tụ ám khí, phải chăng vì tửu sắc quá độ?".

Tiền Thế Thần biết Qua Mặc có thể nhìn mọi vật trong bóng tối rõ như ban ngày nên không chút ngạc nhiên vì gã đã quá quen, chỉ cười gượng đáp: "Cứ nghĩ đến việc Sở hạp suýt chút vào tay mình, tiểu đệ càng cảng thấy buồn bực, muốn kiếm chỗ giải buồn. Tài phú, quyền lực, mỹ nữ, đối với đệ thiếu mất thứ nào cũng làm cuộc sống thiếu trọn vẹn, có bao nhiêu người có thể như sư huynh, xem những thứ này như bùn đất".

Qua Mặc bất mãn "Ta không trách hành vi của ngươi về mặt này, tuy nhiên tửu làm thay đổi tính tình, sắc có thể hại thân, bất cứ thứ gì cũng cần có chừng mực, biết tiết chế mới có thể hưởng thụ các lạc thú".

Tiền Thế Thần như bỏ ngoài tai, lẩm bẩm: "Thật muốn dẫn sư huynh đi gặp một người".

Hai mắt Qua Mặc hiện ý khinh rẻ, nhưng không nói gì.

Tiền Thế Thần vẫn một vẻ mê say, tự nói tiếp: "Đệ muốn dẫn sư huynh đi gặp Bách Thuần cô nương tại Hồng Diệp Lâu, nàng chẳng những đẹp mà còn linh lợi xinh xắn, đôi mắt đầy tình ý, lúc nhiệt tình vẫn có đôi chút thẹn thùng, hấp dẫn thật là hấp dẫn, thật muốn xem thử sư huynh có vì nàng mà phá giới chăng".

Qua Mặc trầm giọng: "Đừng trách ta không biết thưởng thức, bây giờ cận ngày mười bốn tháng bảy, ngươi cần giữ cảnh giác, nếu có sơ sót gì, hậu quả ngươi gánh không nổi đâu. Ngươi muốn lấy được Sở hạp? Tốt nhất làm theo lời ta".

Tiền Thế Thần nghĩ thầm đêm nay không biết gặp vận gì, hết Quý Nhiếp Đề đến Qua Mặc đều trách cứ gã, bực tức mà không dám nói, gã vội chuyển đề tài: "Sư huynh định khi nào vào Vân Mộng Trạch?".

Qua Mặc bình tĩnh đáp: "Tọa vong độ một canh giờ, sau đó ta sẽ đi Vân Mộng Trạch ngay. Ngươi nên cẩn thận mà ứng phó Cô Nguyệt Minh, y là kẻ khó dây vào nhất, rất có thể là đối thủ duy nhất hiện nay của Qua mỗ".

Tiền Thế Thần ngạc nhiên hỏi: "Tọa vong? Đây là Đạo pháp gì?".

"Do suy nghĩ mà được, do suy nghĩ mà quên; bỏ hình lấy trí, nhập cùng đại đạo, ấy là tọa vong. Nói thẳng ra, những lời ta nói ngươi nghe vào cũng như đàn khảy tai trâu. Tâm lạnh như tro, thì việc gì cũng định; thân hòa cùng đạo, thì pháp nào cũng thông. Tiết Đình Hao không còn là một kẻ tầm thường nữa, mà đã thành một cao tăng đắc đạo, nếu ta không thể nhập trạng thái tối cao, sẽ mất cơ hội duy nhất để hạ sát hắn. Ngươi lui ra đi!".

Tiền Thế Thần biết điều, vội cáo lui rời đi.

Hồi 9: Vô Hình Đối Thủ

Bát nguyệt hồ thủy bình

Hàm hư hỗn thái thanh

Khí chưng Vân Mộng Trạch

Ba hám Lạc Dương thành.

Mặt hồ tháng tám phẳng bằng

Nước trời hỗn hợp một vùng trong xanh

Hí đầm Vân Mộng vây quanh

Trồng trềnh sóng lượn lay thành Lạc Dương.

(Thơ Mạnh Hạo Nhiên, bản dịch Trần Trọng Kim)

Lạc Dương có cổ danh là Ba Khâu, hoặc Ba Lăng, triều đình thiết lập ra Lạc Dương phủ, vị trí tại giao điểm Động Đình Hồ và Đại Giang, do nằm phía nam Thiên Lạc Sơn mà thành tên .

Thời Tam Quốc, Đông Ngô đại tướng Lỗ Túc phòng thủ Ba Khâu, xây thành Ba Khâu, dựng đài duyệt binh, đến đầu đời Đường năm thứ tư, Trung thư lệnh Trương Thuyết mở rộng thêm đài duyệt binh, gọi là lầu Nam, về sau đổi tên là lầu Lạc Dương, lại chiêu tập học sĩ văn nhân lên lầu làm thơ. Tới thời Bắc Tống, Phạm Trọng Yêm viết "ký sự lầu Lạc Dương", tên lầu nhờ văn chương mà được biết đến, văn chương nhờ có lầu mà phổ biến, Lạc Dương do đó vang danh khắp thiên hạ.

Nguyễn Tu Chân vào thành trước giờ Ngọ, đoàn tùy hành có tám cao thủ trong bang, người người vóc dáng kiêu dũng, võ công cao cường, do Khâu Cửu Sư đặc biệt chọn ra để theo bảo vệ vị thư sinh nho nhã này. Cả chín người cỡi ngựa vào thành, chen chúc theo giòng người và xe trên đại lộ phồn hoa náo nhiệt dẫn từ cửa chính, thẳng đến lầu Ban Trúc thì xuống ngựa. Nơi đây nổi danh về món cua đặc sản tại Động Đình Hồ. Khâu Cửu Sư đã đứng chờ ngoài cửa, hắn dẫn cả đoàn vào trong, lên thẳng lầu hai đến sương phòng giáp mặt đường. Tám vệ thủ lưu lại ngoài sảnh đường dùng cơm, riêng hai người ra chỗ ngồi lý tưởng nơi lan can lầu Ban Trúc, gọi xong thức ăn và rượu, cả hai nhìn nhau, bỗng cảm thấy không khí có chút kỳ dị.

Nguyễn Tu Chân nở nụ cười cổ quái.

Khâu Cửu Sư ngơ ngác hỏi: "Chuyện gì thế?".

Nguyễn Tu Chân như đang lắng tai nghe, thư thả đáp: "Nghe không? Có người đang rao bán mật rắn, nghe nói dùng mật rắn nhúng rượu, có công hiệu trừ phong thấp thần kỳ, tôi thật muốn mua dùng thử, vừa đến vùng Động Đình thì tôi cũng bị hơi mỏi lưng đau vai".

Khâu Cửu Sư mỉm cười: "Tôi gọi người xuống mua mật rắn cho tiên sinh nhé?".

Nguyễn Tu Chân ngăn lại: "Phải tự đi mua mới thú, nếu không hiệu nghiệm chỉ tự trách mình nhãn quang không đủ giỏi".

Khâu Cửu Sư than: "Đừng vẽ trò nữa, tiên sinh điều tra được kết quả gì chăng?".

"Hay là Cửu Sư nói trước chuyện Quý Nhiếp Đề đi".

Khâu Cửu Sư tường thuật việc đi gặp Quý, Tiền hai người, đoạn nói: "Tôi thấy hai kẻ đó không hòa hợp cho mấy, lúc tôi đến, họ đang nói chuyện, sắc diện Tiền Thế Thần có vẻ khó coi, như đang bị Quý Nhiếp Đề quở trách".

Nguyễn Tu Chân nhìn qua lan can xuống đại lộ náo nhiệt, dưới ánh nắng chói có cảm giác như cảnh vật hơi nhòe đi. Gã thốt: "Nội vụ Phu Mãnh và Tiết Đình Hao không đơn giản như Quý Nhiếp Đề nói đâu, mãi đến ngày nay Quý Nhiếp Đề vẫn không đề cập đến nguyên do họ Phu và họ Tiết bội phản hôn quân kia. Có sự việc gì quan trọng đến mức y phải thủ khẩu như bình?".

Khâu Cửu Sư nói: "Việc này không can dự đến bọn ta, trước mắt bọn ta chỉ cần tận lực phối hợp để đổi lấy sự hợp tác của họ".

Nguyễn Tu Chân khẽ gật đầu, song vẫn ra chiều suy nghĩ, khiến Khâu Cửu Sư không biết gã có đồng ý cách nhìn của mình không. Bỗng Nguyễn Tu Chân nhìn sang Khâu Cửu Sư, chậm rãi thốt: "Bọn họ bị quỷ mê hoặc rồi".

Khâu Cửu Sư ngẩn người hỏi: "Ai bị quỷ mê?".

"Là bốn đổ bác cao thủ tự nhận là tứ đại thiên vương tại đổ trường. Hôm trước, sau khi Ngũ Độn Đạo thắng liên tục ba ván, bốn kẻ kia thay phiên nhau ra tay, kết quả vẫn là đại bại. Bọn họ thua rất kỳ quái, ví dụ rõ ràng phải bắt được mười hai điểm mới thắng, nhưng trong đầu cứ nghĩ phải bắt số thấp hơn mười hai điểm, làm cho họ thua mà chẳng hiểu vì sao, không phải bị quỷ mê thì là gì?".

Khâu Cửu Sư nhíu mày suy nghĩ, gật đầu: "Đúng là kỳ lạ quá, tuy nhiên cũng không cần nghĩ chi thần bí, có thể Ngũ Độn Đạo tinh thông vu pháp, hay biết dị thuật nuôi ngải, nói cho cùng chỉ là thủ đoạn thấp hèn trên giang hồ, chẳng phải chính phái".

Nguyễn Tu Chân hai mắt phát sáng, hạ giọng thốt: "Từ nhỏ tôi rất hiếu kỳ, hỏi người nhà hoài không chán. Năm mười lăm tuổi, tôi bắt đầu nghiên cứu dịch lý thuật số, vì các loại sách bách gia chư tử không mấy hứng thú, chỉ thích loại huyền thuật thần bí. Còn nhớ lần đầu bốc quẻ đoán việc hôm sau, chẳng ngờ ứng nghiệm, cảm giác như mở ra một chân trời mới, đến bây giờ tôi vẫn chưa quên".

Khâu Cửu Sư ngỡ ngàng nhìn Nguyễn Tu Chân, tuy không hiểu tại sao tiên sinh lại chuyển đầu đề, song hắn biết rõ lòng hiếu kỳ chính là động lực thúc đẩy Nguyễn Tu Chân tiến lên và trở thành một học sĩ quảng bác và một trí giả đa mưu.

Nguyễn Tu Chân trầm ngâm, đoạn nói tiếp: "Tôi thường nghĩ, mình xem quẻ được ứng nghiệm, thật sự là vì có linh cảm tàng ẩn, hay có quỷ thần thao túng? Bây giờ có thể tôi đã có câu trả lời. Ngũ Độn Đạo chắc chắn không biết vu pháp, ít nhất hắn không biết loại vu pháp mà có thể giúp hắn thắng đổ cuộc, đương nhiên hắn càng không biết thuật nuôi quỷ, bằng không ngày trước hắn không phải bị thua bao nhiêu lần, đúng chăng?".

Khâu Cửu Sư cảm thấy Nguyễn Tu Chân phân tích quá rõ, không cách gì phản bác, y cười gượng: "Tiên sinh có đáp án như thế nào?".

Nguyễn Tu Chân có chút phấn khởi thốt: "Ngoài thế giới hiện hữu trước mắt bọn ta, còn có những vật khác, bọn ta gọi chung là quỷ thần. Chuyện lạ như Ngũ Độn Đạo thắng liên tục bảy ván, cho bọn ta thấy một điểm rất quan trọng, đó là tuy quỷ thần không thể ảnh hưởng số điểm của con xúc xắc, song có thể ảnh hưởng tinh thần của người đổ xúc xắc, khiến họ đổ ra số sai. Một người cũng vậy, bốn người cũng vậy, thì không còn là ngẫu nhiên thất thủ nữa".

Khâu Cửu Sư hỏi: "Nếu tâm chí đủ kiên định, có thể không bị ảnh hưởng của quỷ thần chăng?".

"Ai mà biết được".

"Tiên sinh nói làm tôi cũng rùng mình. Bây giờ bọn ta phải làm sao?".

"Vì có yếu tố không lường được này, bọn ta tuy bề ngoài chiếm thượng phong, nhưng việc bắt Ngũ Độn Đạo thật sự là tốt xấu khó liệu, bọn ta nên có chuẩn bị".

"Có nên mời đạo sĩ pháp lực cao cường đến đuổi ma trừ quỷ?".

Nguyễn Tu Chân im lặng suy nghĩ.

Khâu Cửu Sư nói: "Nếu nói về bản lãnh bắt quỷ, không ai hơn Đạo gia Qua Mặc, nghe nói người này học được thiên thư thần bí của Nguyên Thủy Thiên Tôn, vị thần cao nhất trong Đạo giáo, hắn tinh thông phù chú, biết pháp lực khó dò. Lúc trước tôi chẳng khi nào nghe mấy lời đồn này, bây giờ lại hy vọng có thể mời được hắn đến giải nghi vấn này. Chỉ có điều người này hành tung vô định, hiện tại không biết nên đi đâu tìm hắn".

Nguyễn Tu Chân cười gượng: "Chớ có lẫn lộn. Nguyên Thủy Thiên Tôn sinh trước thái nguyên, nhưng cuốn kinh xưa nhất của Đạo giáo là Thái Bình kinh lại không đề cập, phải đến thời Đông Tấn trong cuốn 'Chấm Trung Thư' của Cát Hồng mới thấy xuất hiện những ghi chép về 'Nguyên Thủy Thiên Hoàng', chừng ấy đủ biết Nguyên Thủy Thiên Tôn chỉ là một danh xưng như Ngọc Hoàng Đại Đế. Chỉ điểm này cũng đã khiến tôi khó tin Qua Mặc. Cầu người chi bằng cầu chính mình, tôi vẫn theo câu nói 'tận nhân sự, thính thiên mệnh'. Không thể không thừa nhận, càng lúc tôi càng thích trò đuổi bắt Ngũ Độn Đạo này".

Khâu Cửu Sư đang định nói, tiếng vó ngựa chợt vang lên, hai người cùng nhìn xuống đường.

Sáu con ngựa từ xa phóng đến gần, qua mặt những xe, ngựa trên đường, có lúc thậm chí lấn lên cả lối của người đi bộ, khiến người người lo tránh, gây nguy hiểm cho đám đông trên đường.

Sáu kỵ sĩ đều khoảng hai mươi tuổi, mình mặc võ phục, đao đeo ngang hông, bên mình ngựa treo cung tên, nhìn như một đoàn người nai nịt đi săn, nhưng không biết tại sao không xuất thành mà lại chạy ngược vào trong thành. Nhóm người này có vẻ ngạo mạn không nể ai cả, nếu không phải con nhà quyền thế, thì cũng thuộc nhà giàu có, mới dám hoành hành bá đạo, không kể đến sự an nguy của người khác.

Còn cách lầu Ban Trúc chừng một trăm bước, nhóm người này như tìm được mục tiêu theo đuổi, cùng hô lên, tung roi quất ngựa, lập tức ngựa phóng nhanh hơn, vượt qua ba chiếc xe lừa chở hàng vào thành, chạy lên chận đầu một cỗ xe có hai ngựa kéo.

Một người trong nhóm đưa tay nắm lấy dây cương của ngựa kéo xe, bắt xe ngựa dừng gấp lại. Tên phu đánh xe sợ tái mặt không biết làm gì. Những người khác trong nhóm lục tục tới nơi, vây quanh cỗ xe ngựa dừng bên đường kêu lớn như vô cùng phấn khởi. Các xe khác đến sau chỉ có cách đi vòng một bên mà vượt qua, chẳng ai dám nói một tiếng, đừng nói chi dừng chân can thiệp. Người đi bộ cũng vội vã né một bên đi qua, không ai dám dừng lại xem, hẳn là sợ liên lụy vô cớ.

Sáu kỵ sĩ đồng nhảy xuống ngựa, hai người trong nhóm bước đến trước cửa xe, một kẻ cúi mình thi lễ một cách khoa trương, cất giọng quái dị xướng lên: "Lạc Dương lục công tử thỉnh an Bách Thuần cô nương".

Người bên cạnh tiếp lời: "Nhóm tại hạ đang định xuất thành, nghe được Bách Thuần cô nương định đến Đông miếu dâng hương cầu phúc, vội quay ngược trở lại, muốn mời cô nương cùng xuất thành đi săn. Mời không bằng ngẫu nhiên gặp gỡ, Bách Thuần cô nương xin chớ cự tuyệt".

Người phía sau lại cười nói: "Bách Thuần cô nương cầu quẻ gì? Nếu là cầu duyên, tại hạ sẳn sàng giải quẻ cho cô nương".

Cả bọn nghe xong cùng cười hô hố.

Bách Thuần trong xe chưa có cơ hội phản ứng, bỗng từ phía trên truyền xuống một tiếng hừ lạnh lùng, một giọng nói hùng tráng vang vang: "Sáu tên nhãi ranh dưới đó, mau câm miệng và cút đi, chớ làm ta mất tửu hứng".

Lạc Dương lục công tử cùng nổi cơn thịnh nộ, tại Lạc Dương có ai dám vuốt râu hùm của họ? Mười hai con mắt lộ hung quang nhìn lên phía trên. Chỉ thấy trên lầu Ban Trúc bên lan can có hai người đang ngồi, phong thái nhàn nhã, đang nhìn họ dò xét như chẳng có gì đáng kể.

Lục công tử đồng thanh chửi mắng, hai người trong bọn đang muốn xông vào tửu quán, từ trên lầu cách mặt đường độ nửa trượng, đại hán mặc võ phục cất tiếng cười dài, vươn mình đứng dậy, phóng qua lan can đáp xuống đất vững vàng. Hắn đưa tay nói: "Cần chi nhọc công lên lầu? Ta chịu khó chạy xuống đây này?".

Lục công tử bị chọc tức tóe khói, đồng loạt vung đao xông đến đánh đại hán.

Kẻ ra tay nghĩa hiệp đương nhiên là Khâu Cửu Sư, gặp chuyện bất bình hắn không nhịn được, biết rõ là náo động như vầy sẽ lộ hành tung, sẽ gây bất lợi cho việc đuổi bắt Ngũ Độn Đạo, song hắn vẫn không thể làm ngơ. Một chiếc túi da dài ba thước đeo sau lưng hắn, bên trong là cây Phong Thần côn danh chấn thiên hạ của hắn, lúc vung ra có thể dài đến sáu thước, thu xếp sáu tiểu tử này chẳng phí sức chi cả. Tuy nhiên hắn không thể dùng côn vì như thế sẽ cho mọi người trong thành biết Khâu Cửu Sư đã đến.

Khâu Cửu Sư cười khanh khách, chân bước vào khoảng trống giữa lằn đao một cách dễ dàng.

"Bình!".

Một tiếng rú lên, một người trong nhóm Lục công tử văng ra ngoài, thì ra gã bị Khâu Cửu Sư đá trúng bụng dưới, chẳng những đao vuột khỏi tay, mà còn té bò càng dưới đất không dậy nổi.

Một kẻ khác nhắm vào vai Khâu Cửu Sư chém tới, nào hay bỗng thấy hoa mắt, đối phương đã dời đến bên gã, chẳng những vừa tránh khỏi thế công của những kẻ khác, mà còn đưa tay chộp lấy cổ tay cầm đao của gã như gọng sắt siết chặt, xương vừa gãy thì đao của gã cũng bị đối phương đoạt mất, lồng ngực bỗng đau nhói, thì ra gã bị trúng chưởng của đối phương, đau đớn rú lên một tiếng quỳ gục sang bên.

Tiếp theo đó tiếng đao chém vang lên không ngớt, trong chớp mắt bốn công tử còn lại đều bị Khâu Cửu Sư dùng đao vừa đoạt được đánh văng trường đao, gần gãy xương tay, vội ôm tay lui ra bốn phía, người người mặt cắt không còn giọt máu, lộ vẻ không thể tin được những gì vừa xảy ra.

Khâu Cửu Sư vẫn một vẻ thong dong, quay sang tên công tử quỳ bên cạnh đang sợ tái mặt, thuận tay tra đao vào vỏ đao trên mình gã, miệng cười bảo: "Trả cho ngươi!".

Lại vỗ tay nói: "Công phu dường này mà cũng dám chường mặt ra giang hồ, mau cút ngay đi, chớ để ta gặp mặt lần nữa".

Kẻ đầu tiên lên tiếng ghẹo Bách Thuần, xem ra kẻ đứng đầu nhóm, run run môi cất tiếng: "Có gan thì lưu lại tính danh xem!".

Khâu Cửu Sư nhún vai bật cười thốt: "Các ngươi chưa đủ tư cách hỏi tên ta, có đủ bản lãnh thì đi dò xem ta trọ ở đâu, nếu chuyện vặt ấy cũng không làm được, thì chờ sáng mai đến lầu Ban Trúc kiếm ta".

Hai mắt hắn chiếu thẳng vào kẻ phát ngôn, hừ một tiếng: "Việc này ta đã lãnh, theo quy củ giang hồ, từ nay các ngươi không được quấy nhiễu Bách Thuần cô nương. Nếu ta biết được các ngươi làm càn không theo quy củ, thì bất luận các ngươi trốn đến chân trời góc bể nào, ta cũng nắm cổ lôi ra được, chừng ấy các ngươi sẽ biết thủ đoạn của ta, không còn thủ hạ lưu tình như hôm nay. Cút đi!".

Lục công tử tự biết không đấu lại Khâu Cửu Sư vì chênh lệch quá xa, chẳng dám nói gì thêm, tức tối lên ngựa rời đi.

Khâu Cửu Sư hướng về phía xe ngựa phủ rèm châu thốt: "Đáng tiếc đã làm cô nương kinh sợ!".

Hắn bảo người phu xe còn chưa định thần: "Còn không mau đánh xe đi! Mau đưa cô nương về nhà".

Nói xong hắn quay lưng bỏ đi.

Một giọng nói dịu ngọt, trong như tiếng chim hót, từ bên trong rèm châu vọng ra: "Xin tráng sĩ dừng bước".

Khâu Cửu Sư không quay đầu lại nhưng ngưng bước, lạnh nhạt thốt: "Chỉ là chuyện nhỏ, cô nương không cần để tâm. Danh xưng tráng sĩ chỉ thêm thẹn, cô nương về nhà đi nhé!".

Tiếng rèm khua lên phía sau Khâu Cửu Sư, thanh âm mê hoặc của Bách Thuần vang lên: "Công tử quả thật anh hùng, thi ân bất vọng báo, có thể nào quay lại cho nô gia xem tường tận dung mạo chăng?".

Khâu Cửu Sư chẳng ngờ Bách Thuần lại bạo dạn trực tiếp như thế, hắn ngạc nhiên quay lại, bỗng thấy trước mắt sáng rực lên.

Rèm châu vén lên, hiện ra một dung mạo mỹ lệ, đôi mắt to ủy mị vừa đen vừa sáng, đuôi mắt hơi xếch lên, mày mảnh như tơ, trông vô cùng hấp dẫn, có thể khuấy động khát vọng sâu kín nhất của bất cứ nam nhân nào, khiến người cảm thấy chủ nhân của đôi mắt chắc chắn phải là phần thưởng lớn nhất của thượng đế.

Trong chốc lát Khâu Cửu Sư quên cả chú ý đến chiếc mũi xinh xắn, bờ môi mọng đỏ, da thịt căng mềm của nàng.

Bách Thuần e thẹn mỉm cười, để lộ hàm răng trắng đều, hân hoan nói: "Đến Hồng Diệp Lâu là tìm được nô gia, chỉ cần công tử xưng là vị công tử trước lầu Ban Trúc, Bách Thuần sẽ hết lòng tiếp đãi, hy vọng đêm nay có thể gặp lại công tử".

Dứt lời rèm châu hạ xuống, xe ngựa lăn bánh.

Ô Tử Hư và Khâu Cửu Sư cùng một lúc nhìn thấy dung mạo đầy tính kích thích của Bách Thuần, đều bị sắc đẹp của nàng làm chấn động. Tuy hắn đứng xa hơn Khâu Cửu Sư hai chục bước, nhưng nhờ nhãn lực hơn người hắn nhìn rõ mỹ nhân, khiến hắn nhớ lại kiều nữ tuyệt sắc trên cỗ chiến xa, mà đến giờ hắn vẫn chưa rõ là cảnh thật hay mộng. Hắn chưa từng gặp mỹ nữ nào khiến người động lòng hơn Bách Thuần, ngoại trừ cổ mỹ nhân kia. Tim hắn đau nhói, tình hình trước mắt không cho phép hắn động lòng, vì hắn đã nhận ra tay anh hùng cứu mỹ nhân kia là ai. Cuộc đời sao cứ gặp thất bại và chuyện bất khả kháng? Kiếp trước hắn đã tạo nghiệp chướng gì mà kiếp này phải trả nợ? Mệnh vận gì thế này?

Khâu Cửu Sư nhìn xe ngựa đi xa dần, máu huyết toàn thân vẫn còn đảo lộn, thầm than khắp thiên hạ có nữ nhân nào đầy ý vị hơn thế. Ôi! Chỉ rất tiếc...

Nguyễn Tu Chân đến bên cạnh Khâu Cửu Sư, tám vệ thủ từ trong lầu Ban Trúc bước theo ra đứng tản ra sau lưng y, khí thế oai phong như vậy, ai cũng nhìn ra họ chẳng phải phận tầm thường, không sợ bất cứ ai kể cả quan phủ.

Khâu Cửu Sư nhíu mày hỏi: "Làm như vầy phải chăng quá khoa trương?".

Nguyễn Tu Chân không đáp, mỉm cười thốt: "Mỹ nhân tạ ân, công tử trước lầu Ban Trúc đêm nay có đúng hẹn chăng?".

Khâu Cửu Sư cười gượng: "Tiên sinh cũng trêu tôi, kẻ này chí tại sa trường, da ngựa bọc thây, chẳng dám đa mang chuyện nhi nữ tư tình. Tôi tuyệt đối không tìm gặp nàng đâu. Tiên sinh vẫn chưa trả lời câu hỏi của tôi".

Nguyễn Tu Chân hai mắt linh hoạt, bình tĩnh đáp: "Ngay lúc Cửu Sư nhảy xuống mặt đường, tôi có cảm giác rất kỳ diệu, như có một động lực nào đang thao túng bọn ta. Này nhé, tại sao lục công tử không chận đường xe ngựa ở chỗ nào khác, mà ngay tại đây dưới chân bọn ta? Tôi cảm thấy sau khi xảy ra việc này, vận mệnh tương lai của Cửu Sư đã bị dẫn sang một hướng khác".

Khâu Cửu Sư nhíu mày: "Tiên sinh nên xem chừng cách suy nghĩ của mình đến gần mức tẩu hỏa nhập ma đấy, luận việc đơn giản thành phức tạp. Sự thật vẫn như cũ, giữa tôi và Bách Thuần sẽ không phát sinh chuyện gì cả, duyên gặp nàng chỉ là giây phút khi nãy mà thôi".

Nguyễn Tu Chân vui vẻ thốt: "Cửu Sư bị tôi nói đâm ra có ý sợ rồi, mới cảnh cáo tôi như thế. Song vấn đề của Cửu Sư là không dám đối diện với sự thật không thể lý giải được. Ba lần gieo quẻ đều là ba quẻ quỷ hào tề động, chỉ vì do tôi nói nên Cửu Sư khó tin được".

Khâu Cửu Sư lúng túng nói: "Tiên sinh phải biết rằng tôi tuyệt đối tín nhiệm tiên sinh, làm sao có thể nghĩ thế được".

"Vấn đề không nằm chỗ Cửu Sư tín nhiệm tôi hay không, mà là cho đến giây phút này, Cửu Sư vẫn chưa thể chấp nhận quái sự xảy ra ngay trước mắt".

Khâu Cửu Sư bực tức: "Tiên sinh bảo tôi đối đầu thiên binh vạn mã thì tôi làm được, vì tôi tin mình có thể đánh thắng. Nhưng nếu đối thủ là quỷ thần, bọn ta nằm trong thế bị động, không thể hoàn thủ. Nếu tôi thực sự tin vào 'cảm giác' của tiên sinh, thì tôi đâu cần làm việc gì nữa?".

Nguyễn Tu Chân ung dung thốt: "Tri kỷ tri bỉ, bách chiến bất bại, phép quân lược này dùng để đối phó quỷ thần cũng thế. Tôi có nói lực ấy chỉ có thể ảnh hưởng tinh thần của con người, chứ không thể ảnh hưởng kết quả của con xúc xắc, do đó lực quỷ thần vẫn là hữu hạn. Luận như vầy tức là tri bỉ".

Ánh mắt Khâu Cửu Sư nhìn ra đường, một chiếc xe chở lương thực dùng một con la kéo đi qua, kẻ đánh xe là một nam nhân, phía sau lưng có một đứa trẻ ngồi trên đống hàng chất cao như núi, đang đong đưa hai chân, miệng hát nghêu ngao, cả hai xem chừng như là cha con. Giữa ban ngày, quang cảnh này rất thường thấy, rất sinh động chân thực. Nhưng nghe xong lời Nguyễn Tu Chân nói, dù trên đường người, xe, ngựa vẫn qua lại tấp nập, song hắn có cảm giác mình và Nguyễn Tu Chân đang ở riêng trong một thế giới khác, khiến hắn cảm thấy rợn người. Lời Nguyễn Tu Chân nói có phải là sự thực, hay chỉ là cảm giác sai lầm?

Nguyễn Tu Chân nói tiếp: "Đây là nguyên do 'tam quỷ tề động'. Bọn ta phải đối phó không chỉ riêng Ngũ Độn Đạo, mà còn cả lực lượng đã khiến hắn thắng liên tiếp bảy lần, ấy là một dạng dị lực có thể lay chuyển tâm ý bọn ta. Từ lúc Ngũ Độn Đạo khai sát giới một cách ly kỳ, hạ sát ái tử độc nhất của Đại long đầu bổn bang, thì lực lượng ấy một mực chi phối bọn ta. Lực này vô hình vô ảnh, chỉ lộ dấu vết trong ba lần gieo quẻ của tôi và trong lần thắng đổ trường của Ngũ Độn Đạo, tất cả những kẻ có liên quan đến việc này đều bị kéo vào, đặc biệt là Cửu Sư và tôi, thậm chí có thể kiêm luôn cả Quý Nhiếp Đề và Tiền Thế Thần. Bọn ta đang bị dẫn từng bước một đến một kết quả nào đó, mà kết quả ấy bọn ta hoàn toàn không khống chế được, vì kẻ đang thao túng là lực lượng ấy chứ không phải bọn ta. Tất cả bọn ta bị hãm trong vòng mệnh vận nào đó, do tâm không tự chủ mà hóa ra thân không tự chủ được, ngày nào bọn ta chưa phá được cục diện này, thì bọn ta không có cách gì cầm chắc sự thành bại".

Khâu Cửu Sư yếu ớt hỏi: "Vậy bọn ta có thể làm được gì?".

Nguyễn Tu Chân đáp: "Bất cứ bố cục nào có liên lụy nhiều người, cũng cần vòng nối vòng như mắt xích, bất kỳ vòng nào xảy ra sơ sót thì sẽ ảnh hưởng toàn bộ cục diện, cũng như màn lưới vận mệnh có một lỗ lủng. Nếu một trong bốn kẻ đánh bạc cùng Ngũ Độn Đạo lúc ấy phục hồi được sức tự chủ, thắng hết ngân lượng của Ngũ Độn Đạo, thì sự việc sẽ không phát triển theo hướng hiện tại. Do đó bọn ta chẳng phải hoàn toàn không thể hoàn thủ, chỉ cần bọn ta đừng để bị ảnh hưởng, ắt có cơ hội phá cục, và quyền chủ động sẽ rơi vào tay bọn ta, lúc ấy mệnh vận của Ngũ Độn Đạo sẽ do bọn ta định đoạt".

Khâu Cửu Sư nghe đến phấn chấn tinh thần: "Tiên sinh nghĩ ra cách phá cục chưa?".

"Trước hết phải xem thử bọn ta có thể nhận biết bố cục của đối thủ chăng. Ngay lúc Cửu Sư nhảy xuống đây, tôi có cảm giác mơ hồ rằng lực lượng ấy đang dẫn bọn ta, đến khi Bách Thuần vén rèm nói chuyện, lưu lại lời hẹn tái ngộ, thì cảm giác mơ hồ trở nên rõ ràng, đối phương muốn Cửu Sư cùng Bách Thuần tạo dây tình ái để thay đổi Cửu Sư hoàn toàn, dùng nữ sắc chôn anh hùng. Tuy bọn ta không biết làm như vậy được mục đích gì, song ta có thể cảm nhận được đây là một mắc xích quan trọng của cả bố cục, nhưng nếu Cửu Sư có thể không bị lay chuyển thì bọn ta có thể phá cục".

Khâu Cửu Sư cảm thấy phiền toái: "Nhưng bọn ta làm thế nào biết đối phương muốn tôi nghiêng về Bách Thuần, hay là cự tuyệt nàng?".

"Điều đó còn tùy vào tâm ý của Cửu Sư, nếu đối phương muốn Cửu Sư nghiêng theo Bách Thuần, thì bằng đủ mọi cách Cửu Sư sẽ cảm thấy sức hấp dẫn của nàng mỗi lúc một mạnh, không chấp nhận Bách Thuần sẽ trở thành một nỗi khổ khó có thể chịu nỗi. Nhưng nếu Cửu Sư có thể xem như chuyện vừa rồi chưa từng xảy ra, trong lòng như chưa từng biết qua một nàng Bách Thuần, thì bọn ta xem như đã thắng trận này".

Trên mặt Khâu Cửu Sư lộ vẻ kiên quyết, khẽ gật đầu, như muốn dùng động tác này giúp mình hạ quyết tâm.

Nguyễn Tu Chân thốt: "Sáu tiểu tử bị trừng trị lúc nãy, tuy là vô danh tiểu tốt trên giang hồ, nhưng vẫn là bọn côn đồ nổi tiếng tại Lạc Dương này, việc này rồi sẽ truyền khắp thành, với bản lãnh thám thính tinh vi của Ngũ Độn Đạo, lại thêm hắn biết bọn ta đang truy bắt hắn, ắt sẽ đoán ra là Cửu Sư xuất thủ tương trợ, nên có khoa trương hay không cũng không thành vấn đề nữa. Thật ra, bọn ta đã lộ hành tung, mà đây cũng là một mắc xích khác trong kế hoạch của đối phương. Ý tôi nói vòng kết vòng là thế".

Khâu Cửu Sư nói không nên lời.

Nguyễn Tu Chân thở dài: "Nếu bắt không được Ngũ Độn Đạo, với tính cách của Cửu Sư, dù Long đầu có chịu nhượng vị, Cửu Sư cũng nhất định không muối mặt mà tiếp nhận, thế thì tất cả công lao trong quá khứ của Cửu Sư sẽ đổ ra biển cả. Mưu đồ bá nghiệp gì cũng kể như không. Do đó giữa mỹ nhân và giang sơn, tướng quân chỉ có thể chọn một. Tôi thực không muốn nói ra điều này, nhưng chẳng thể không nói".

Hai người đang đứng giữa đại lộ phồn hoa tại thành Lạc Dương, mà bàn chuyện tạo phản, lật đổ triều đình hủ bại.

Khâu Cửu Sư lấy lại thần sắc bình tĩnh thường ngày, đặt tay lên vai Nguyễn Tu Chân, mỉm cười nói: "Quỷ thần không có thần thông quảng đại như bọn ta tưởng tượng đâu, bằng không thiên hạ đã đại loạn, tuy nhiên bất kể thế nào, tôi xin nghe lời khuyên của tiên sinh, không đi tìm Bách Thuần. Nào! Để tôi tặng tiên sinh một cái mật rắn ngâm rượu".

Vừa nói hắn vừa đẩy Nguyễn Tu Chân đi về phía Ô Tử Hư, đang đứng bên đường rao bán mật rắn.

Nguyễn Tu Chân vui vẻ thốt: "Khỏi mất công, lúc nãy tôi chỉ cố ý nói lảng để có thêm thời gian suy nghĩ, chứ không phải thực sự muốn mua mật rắn".

Khâu Cửu Sư cười đáp: "Nhưng tiên sinh quả có bị phong thấp, mà tôi cũng nghe nói mật rắn trừ phong thấp hiệu nghiệm thần kỳ, thử một phen đâu có sao".

Ô Tử Hư vừa bán xong một cái mật rắn, lúc này hắn đã hoàn toàn nhập vai, thì thấy hai người bước đến, liền mừng rỡ đưa ngón tay cái về phía Khâu Cửu Sư, giọng khàn khàn nói lớn: "Vị đại gia này quả là công phu số một, tiểu nhân đi khắp nam bắc Đại giang, cũng chưa gặp ai có thân thủ mau như thế, giữa đường gặp chuyện bất bình ra tay tương trợ, đúng là bậc hiệp nghĩa mà kẻ này kính trọng, mật rắn của tiểu nhân bán lấy nửa giá cho đại gia vậy".

Nguyễn Tu Chân tức cười thốt: "Lão huynh thật là biết cách làm ăn".

Khâu Cửu Sư tỉnh queo hỏi: "Lão huynh hôm nay buôn bán thế nào?".

Ô Tử Hư tự hào đáp: "Lạc Dương thành nhiều người dư tiền nhất, nếu hai vị chịu mua mật rắn, tổng cộng bán ra bốn cái, là hôm nay kẻ này có thể dẹp hàng sớm".

Nguyễn Tu Chân vụt hỏi: "Lão huynh ở trọ quán nào?".

Khâu Cửu Sư lộ nét ngạc nhiên trong mắt, thầm nghĩ chẳng lẽ Nguyễn Tu Chân nghi ngờ hán tử này.

Ô Tử Hư than thở: "Mang theo lồng rắn độc, toàn thân hôi mùi rắn, có quán nào chịu cho ở? Tôi tìm đại chỗ nào đó, nằm xuống được thế là nhà, tôi đã quen cách sinh nhai này, cảm thấy sống như vầy tự tại hơn những kẻ nhà giàu".

Nguyễn Tu Chân gật đầu không nói.

Khâu Cửu Sư nói: "Ta muốn mua loại mật rắn có thể trị phong thấp nhức mỏi, tốn bao nhiêu?".

Ô Tử Hư chẳng hề nhìn xuống, mở nắp lồng thọc tay vào bắt ra một con rắn toàn thân sắc vàng sậm lẫn điểm trắng dài độ năm thước, cười nói: "Con này tên là Hoa Bạch Dong, sống trong núi sâu, chỉ về đêm mới xuất hiện, rất khó bắt, cả đời tôi mới bắt được lần này là con thứ ba, cực kỳ khó kiếm, bảo đảm dùng xong thấy hiệu nghiệm ngay, nếu không ứng nghiệm, chỉ cần tôi chưa rời thành thì xin hoàn tiền. Nguyên giá mười lượng, giờ bán năm lượng cho hai vị đại gia, coi như vừa bán vừa cho. Cần nhớ là phải nuốt sống chung với rượu, mà phải là rượu hạng tốt như Thiêu Đao Tử, mới có thể lưu thông huyết dịch mà trừ bệnh".

Khâu Cửu Sư và Nguyễn Tu Chân nhìn nhau cười, cùng cảm thấy kẻ này đúng là tay lão làng, biết là hắn nói phóng đại nhưng không thiếu sức thuyết phục.

Khâu Cửu Sư bảo: "Vậy ta mua con này".

Ô Tử Hư kéo thẳng con rắn trong tay, cầm đầu rắn đưa đến trước mắt, miệng niệm chú, sau đó quỳ một chân đè lên đuôi rắn, tay cầm đầu rắn giơ cao cho thân rắn thẳng tắp, tay kia lấy con dao nhọn bên cạnh lồng tre, mổ bụng rắn lấy mật để vào chén để dưới đất.

Nguyễn Tu Chân nhíu mày: "Không thể giết rắn trước khi lấy mật sao?".

Ô Tử Hư vừa bỏ xác rắn còn đang quằn quại vào bao vải, vừa nói: "Nếu rắn bị thương chí mạng, sẽ phát ra tử khí và giảm công hiệu của mật rắn rất nhiều, thế nên cần phải mổ sống lấy mật. Đại gia quả có từ tâm. Yên tâm đi! Tôi đã niệm chú vãn sinh cho nó, không chừng kiếp tới nó được đầu thai làm người, còn tôi vì sát nghiệp quá nặng, kiếp tới phải làm rắn, biết đâu bị nó giết lại không chừng".

Nói xong hắn đứng dậy, hai tay cầm chén được mật rắn cung kính trao cho Khâu Cửu Sư. Hắn tiếp lấy chén, tay kia trả tiền, cười nói: "Nếu không thấy công hiệu, ta sẽ tới tìm ngươi thanh toán đấy".

Hai người vui vẻ rời đi, bước về phía lầu Ban Trúc, các thủ hạ đã chuẩn bị ngựa đứng chờ.

Khâu Cửu Sư không nhịn được lên tiếng hỏi: "Tiên sinh phải chăng nghi ngờ hắn? Nhưng xem ra rất khó giả dạng được".

Nguyễn Tu Chân trầm ngâm nói: "Rất kỳ quái, lúc nãy tôi bỗng nghĩ, nếu kẻ trước mắt là Ngũ Độn Đạo giả dạng, thì độn thuật của hắn quả là không chỗ sơ hở. Điều không làm ai nghi ngờ được là cổ tay hắn có mấy vết sẹo cũ, chứng tỏ hắn đã từng bị rắn cắn.

Khâu Cửu Sư đồng ý: "Nếu độn thuật của Ngũ Độn Đạo cao minh như thế, thì bất kỳ ai ngoài đường cũng có thể là hắn, chắc chắn không tìm được dấu vết. Tuy nhiên tôi nghĩ bọn ta đánh giá hắn quá cao, vì từ trước đến nay, ưu điểm lớn nhất của hắn là không ai biết hắn sẽ đánh cắp bảo vật của nhà nào, còn bây giờ hắn đã mất ưu điểm đó".

Hai người lên ngựa, Khâu Cửu Sư bỗng biến sắc.

Nguyễn Tu Chân ngơ ngác hỏi: "Xảy ra chuyện gì?".

Khâu Cửu Sư quay đầu nhìn theo hướng Ô Tử Hư, hắn đang thu xếp đồ nghề chuẩn gì dẹp hàng. Hắn trầm giọng nói: "Tiên sinh nói đúng, tà lực kia đang ảnh hưởng tâm tôi, tự dưng tôi nảy sinh cảm giác bất định hoang mang, tôi chưa bao giờ có cảm giác như được lại mất như vầy".

Nguyễn Tu Chân cười gượng: "Trận đấu này không dễ đâu, ngày nào chưa bắt được Ngũ Độn Đạo, thì tướng quân không thể uống rượu, rượu vào tính loạn, bọn ta sẽ không tự chủ được".

Khâu Cửu Sư thở dài một tiếng, thúc ngựa đi trước, Nguyễn Tu Chân theo sát phía sau, tám tay thủ hạ lần lượt phi thân lên ngựa, đuổi theo hai người đi mất.

Phía bên kia, Ô Tử Hư đổ mồ hôi trán, mau chóng lẩn đi nơi khác.

Hồi 10: Minh Minh Chi Trung

Dưới ánh nắng chiều, Cô Nguyệt Minh cùng ngựa dừng trên một sườn núi nhỏ, đơn thân độc mã, chỉ có chiếc bóng ngã dài dưới đất làm bạn, trông thêm phần hoang vắng tịch mịch.

Phía tây nam dãy núi nối liền mấy chục dặm, ở giữa có một giòng sông uốn khúc vắt ngang, dưới ánh tà huy rực rỡ, nước xanh in bóng núi, cảnh sơn thủy như thi như họa, khiến người mơ hồ tưởng đang ở nơi giáp giới tiên cảnh.

Tương Thủy.

Ôi! Tương Thủy.

Nữ lang kia rất có thể vào Vân Mộng Trạch. Từ đáy lòng Cô Nguyệt Minh trỗi lên cảm giác lạnh người trước vận mệnh. Tình cờ gặp gỡ nơi bến đò, truy tầm theo cả trăm dặm, dường như có một đôi tay vô hình đẩy hai người lại với nhau. Nửa giờ trước đây, y theo đến bên bờ suối thì mất dấu nữ lang, không chừng nàng đã phát hiện bị theo dõi, nên bước xuống nước đi để che dấu vết vó ngựa. Y lại hy vọng mất luôn dấu nữ lang, từ nay không gặp lại nữa, chứ không mong bị mệnh vận trói chung hai người. Thời gian sẽ làm phai mờ tất cả, đến một ngày kia, nữ lang ấy chỉ còn là một ký ức mơ hồ trong đời y. Nhưng y biết mình sẽ không quên được nữ lang, không quên được cảm giác thâm khắc ấy. Y cảm nhận được nữ lang sẽ đi vào Vân Mộng Trạch, nàng có liên quan đến Sở hạp.

Cô Nguyệt Minh lại thở dài, đưa tay vuốt nhẹ ngựa quý Khôi Tiễn, tay vô tình chạm trúng chiếc túi dài đựng kiếm Thất Phản cùng mật lệnh của Phụng công công. Tâm tư dấy động, y mở túi da, đưa tay vào cầm trúng ống tre đựng mật lệnh, bèn bỏ lại trong túi, rồi lấy ra cây thần kiếm Thất Phản mà Phụng công công hình dung là có thể trừ yêu trấn ma. Y cầm kiếm nhìn kỹ, liền thấy ngờ vực.

Đó là một thanh đoản kiếm dài nửa thước không vỏ, chuôi kiếm tròn loe to phần đầu, thân chuôi thon, đốc kiếm lõm, thân kiếm phía mũi uốn cong lên, làm bằng đồng pha sắt, song chỉ có một vài dấu vết đồng, hiển nhiên không giống loại kiếm đồng thường thấy, nhưng vẫn cho người cảm giác rất bén nhọn và cứng rắn.

Cô Nguyệt Minh nhìn đến khó hiểu, đây rõ ràng là một thanh kiếm được chế tạo từ thời Xuân Thu Chiến Quốc, kiểu cổ xưa, so với kiếm thời nay rất khác biệt về hình thể và chất liệu chế tạo, tại sao Phụng công công lại bảo tên kiếm là Thất Phản.

Nói đến "thất phản cửu hoàn", ấy là danh từ tu luyện của người trong Đạo môn, mà Đạo môn chưa xuất hiện vào thời Xuân Thu Chiến Quốc, tại sao Phụng công công nói dối lai lịch tên kiếm, chẳng lẽ Phụng công công không biết y là đại hành gia sử dụng kiếm sao? Về lai lịch danh kiếm, Cô Nguyệt Minh có kiến thức khá sâu rộng.

Cô Nguyệt Minh cầm kiếm thuận tay múa vài đường. Khôi Tiễn như cảm ứng điều gì, quay đầu lại nhìn, cất tiếng hí nho nhỏ.

Cô Nguyệt Minh bỗng chấn động toàn thân, vội ngưng ngay, nhưng cảm giác dị thường lan khắp châu thân.

Sao thế nhỉ? Cầm thanh đoản kiếm chuyển động, y có cảm giác như đang sử dụng thanh Bạch Lộ Vũ đeo bên mình, rất quen thuộc, tự nhiên, chẳng có một chút cảm giác mới lạ khi thử kiếm. Chừng như y có thể biết trước làm thế nào phát huy uy lực của thanh kiếm này trong nhiều tình huống khác nhau, như thể y hoàn toàn nắm được đặc tính của cổ kiếm. Cảm giác ấy gây rúng động, tay của y cùng cổ kiếm nối nhau, thì như hợp thành một thể.

Cô Nguyệt Minh nhìn kỹ cổ kiếm, cảm giác quen thuộc càng mạnh hơn.

Thừ người ra một lúc sau, Cô Nguyệt Minh cất cổ kiếm vào túi da, trong lòng có cảm giác không đành, hết sức quái lạ.

Y không hiểu nổi.

Tất cả mọi chuyện xảy ra gần đây, đều khiến y có cảm giác bối rối hoang mang, cũng như nữ lang kia, và thanh kiếm này.

Cô Nguyệt Minh đi xuống núi, Khôi Tiễn đi theo phía sau cách chừng mười bước, hướng về phía khoảng rừng thưa dưới chân núi.

Qua khoảng rừng thưa thì đến đông ngạn sông Tương, ven theo bờ đi thêm hai giờ, rồi rẽ sang hướng đông là đúng chỗ Vân Mộng Trạch, nơi ấy là một vùng đất kỳ dị như thế nào?

Ô Tử Hư chiếm một bàn riêng trong quán ăn, hắn gọi một bình Nữ Nhi Hồng, lại kêu thêm món lươn nướng nổi tiếng vùng Động Đình, ra chiều hưởng thụ khoan khoái như thể vừa tìm được chút giờ rãnh giữa lúc bận rộn sinh kế.

Đến bây giờ hắn mới thấy nhẹ nhõm. Sau khi thu dọn hàng, hắn tìm đến một ngôi miếu rất ít người viếng, trả chút ngân lượng đổi lấy chỗ tá túc, rồi thả bộ khắp Lạc Dương Thành để nắm vững địa bàn. Đây là thói quen trước nay của hắn, mà cũng là nguyên tố thành công của hắn.

Trong mắt người chung quanh, Ô Tử Hư ăn uống khá cầu kỳ, sự thực không phải thế, vì hắn không có thói xấu kén ăn, mà hầu như thứ gì ăn được hắn đều cảm thấy ngon, do đó dù là món ngon đắt giá hay món rất bình dân, hắn đều chịu ăn. Hắn tự nhận là một kẻ cổ quái, trong lúc đang tiến hành kế hoạch trộm báu, hắn sẽ hóa thân làm nhiều nghề khác nhau, hắn hoàn toàn nhập vai từ cách sống đến cách suy nghĩ, kể cả những thói quen do nghề nghiệp mà có, như thể hắn biến thành nhiều người khác nhau, mà qua đó cuộc sống đơn điệu trở nên phong phú, nhiều màu sắc và đầy cảm giác mới lạ. Có lúc hắn hoài nghi bản thân phải chăng là một kẻ đa nhân cách.

Hắn thích nhất là đóng vai một hào khách vung tiền như nước, để nhìn thấy ánh mắt sáng rỡ của kỹ nữ khi nhận tiền trọng thưởng của hắn, cảm giác ấy không cách nào hình dung được. Hắn không bận tâm đối phương có chân tình hay giả ý, chỉ thích cảm giác lúy túy trụy lạc tầm hoan trong chốc lát để quên khuấy mọi thứ. Sau đó hắn sẽ cảm thấy rất vô vị, chỉ muốn mau chóng rời bỏ nữ nhân xa lạ đang nằm cạnh. Chẳng được bao lâu sau, hắn lại tiếp tục tìm đến một nữ nhân khác, để che lấp sự trống rỗng trong tim.

Hắn biết mình gan nhỏ, điểm mâu thuẫn là hắn đam mê cách sinh nhai đầy mạo hiểm, đầy tính kích thích vì có thể bị người bắt bất cứ lúc nào. Nhưng khi hắn "biến" ra Ngũ Độn Đạo, lẻn vào nhà giàu có người canh và chó dữ để trộm báu, hắn lại hết sợ mà bình tĩnh ra tay, suy tính chu đáo tường tận, sau khi xong việc thường nghĩ lại, hắn cảm thấy lúc ấy hắn khác thường như thể đã "biến" ra một kẻ khác hoàn toàn.

Cứ nghĩ sẽ có một ngày thất thủ bị bắt, hắn càng muốn hưởng thụ cuộc sống hiện tại, "hảo hoa kham chiết trực tu chiết, mạc đãi vô hoa không chiết chi ".

Nếu hái được đóa hoa tươi Bách Thuần, khi tỉnh dậy hắn có phá lệ lần đầu, không muốn bỏ đi chăng?

Ô Tử Hư tự cảnh cáo, trước khi bán được dạ minh châu, hành động hái đóa hoa kia sẽ là một việc làm vô cùng ngu xuẩn chẳng khác nào tự nạp mạng cho quan phủ. Theo quy luật hắn tự đặt cho bản thân, trước khi trộm được bảo vật tuyệt đối không thể phóng túng, sau khi xong việc thì phải rời xa nơi trộm báu, không bao giờ trở lại, do đó chỉ có thể gặp Bách Thuần một lần trong đời, không còn có lần khác.

Khâu Cửu Sư cùng Nguyễn Tu Chân xuất hiện tại thành Lạc Dương, đúng với dự đoán của hắn, kẻ địch cho rằng hắn muốn ra tay trộm Ngọc kiếm của Tiền Thế Thần, hẳn đã bố trí thiên la địa võng chờ hắn đâm đầu vào. May là hắn còn có một ưu điểm, ấy là hắn không cần đột nhập Bố chính sứ ti phủ để trộm đồ, mà chỉ cần tìm cơ hội gặp riêng Tiền Thế Thần, nên có thể gặp bất cứ nơi đâu. Hắn ngồi tại đây để chờ một cơ hội như thế, bằng không hắn đã trốn đi từ lâu.

Khâu Cửu Sư còn chưa dùng đến Phong Thần côn uy chấn thiên hạ, mà thân thủ của họ Khâu đã khiến hắn giật mình, hắn biết chắc nếu công bình mà đấu với Khâu Cửu Sư là tự tìm tử lộ. Người này quả là danh bất hư truyền.

Chỗ quán ăn hắn đang ngồi cách Bố chính sứ ti phủ bên trong thành khoảng vài ngàn bước, không thể trực tiếp theo dõi tình hình ngựa, xe ra vào cổng chính của phủ, phải đi qua khu kỹ viện phía bắc thành, nếu Khâu Cửu Sư phái người theo dõi chung quanh phủ thì sẽ không bắt được gì. Nguyễn Tu Chân có mưu trí đến đâu cũng sẽ tính sai, không thể nào biết hắn chẳng cần dò xét địa bàn sứ ti phủ.

Bách Thuần!

Một mỹ nữ hấp dẫn như thế bình sinh hắn mới thấy lần đầu, nếu không hái được hoa này, thì các hoa khác phải chăng sẽ trở nên vô vị? Nghĩ đến đấy, trong tim hắn lại hiện lên mỹ nữ trên cỗ chiến xa, so với nàng, Bách Thuần như kém bớt vài phần.

Ngay lúc ấy, một đoàn người ngựa đi ngang qua.

Ô Tử Hư chú ý nhìn ra, vội mừng vận may, vì hắn đã nghe ngóng rất rõ về dung mạo và ngoại hình của Tiền Thế Thần, nên vừa nhìn đã nhận ra họ Tiền trong đoàn người. Hắn vội trả tiền rời quán, bám theo đoàn người.

Khâu Cửu Sư bước đến tiểu đình ngoài vườn, Nguyễn Tu Chân ngồi ngay bàn đá, như đang thừ người. Ai đã quen Nguyễn Tu Chân đều biết đây là thói quen của gã, mỗi ngày đều cần thời gian biệt lập để suy nghĩ sự việc.

Khâu Cửu Sư ngồi xuống trước mặt gã và nói: "Ngũ Độn Đạo có thể chưa vào thành".

Nguyễn Tu Chân gật đầu: "Có thể lắm, phải chăng Cửu Sư điều tra đã có kết quả?".

"Người của bọn ta đã tuần tra các tiệm hàng sắt lớn nhỏ, hỏi qua các chỗ chế dụng cụ tiểu xảo nổi danh và vô danh, tất cả đều không thấy người lạ nào ghé vào trong vòng mười ngày qua. Tôi lý giải thế này, thuốc hóa trang hay thuốc tránh chó thì có thể mua được ở các hương trấn lân cận, hay vào núi hái và chế biến được, nhưng nếu muốn có đồ nghề leo tường vượt rào, thì chỉ có ở thành thị lớn như Lạc Dương mới kiếm được. Hay là Ngũ Độn Đạo thực sự chưa vào thành? Tôi ngại nhất là đoán sai mục tiêu của hắn, chẳng những phí thời giờ chờ hắn, mà còn để hắn trốn đi mất".

Nguyễn Tu Chân chăm chú dò xét Khâu Cửu Sư một lát rồi hỏi: "Cửu Sư cảm thấy vô vị ư?".

Khâu Cửu Sư cười gượng: "Tôi biết tiên sinh đang nghĩ gì, nhưng tôi quả tình không phải như tiên sinh nghĩ đâu, từ trước đến nay hễ quyết định là tôi không khi nào dao động, tiên sinh phải tin tưởng tôi chứ".

"Tại sao mới có hơn một ngày mà Cửu Sư đã mất kiên nhẫn?".

"Có thể vì sự việc trọng đại, có liên quan đến hoài bão lớn nhất trong đời tôi, nên dễ lo sự được mất".

Cặp mắt Nguyễn Tu Chân sáng rực, trầm giọng thốt: "Cửu Sư chớ lo, tôi khẳng định rằng tình huống này đang phát triển ứng theo quẻ đã bốc, Ngũ Độn Đạo nhất định có mặt tại thành Lạc Dương, tôi gần như biết chắc lúc này hắn đang ở nơi nào trong thành, điều này chủ định phải xảy ra, nhân lực nào cũng khó đổi dời".

Khâu Cửu Sư thẫn thờ im lặng, Nguyễn Tu Chân chưa bao giờ thấy họ Khâu có nét mặt như vậy.

Nguyễn Tu Chân mỉm cười hỏi: "Vẫn cảm thấy khó chấp nhận, đúng không?

Khâu Cửu Sư chìa tay ra: "Tôi còn nói được cái gì?".

Nguyễn Tu Chân thốt: "Trận đấu này khác biệt, tướng quân chẳng những phải kháng cự ham muốn đi gặp Bách Thuần, mà còn phải đối phó với cảm giác vô vị không biết mình đang làm gì. Ai cũng muốn mình sống sao cho có ý nghĩa, tướng quân định mục tiêu cho mình là vì hy vọng sẽ có cuộc sống nhiều màu sắc, không uổng một đời. Song mỗi ngày thức dậy thì lại không biết làm thế nào cho vừa, ngày nào cũng như ngày nấy, nhìn không thấy sờ chẳng được đối thủ, kẻ có ý chí kiên định nhất cũng sẽ chùng bước. Do đó trận đấu này chẳng phải dễ dàng, bây giờ tướng quân hẳn đã hiểu rất rõ".

Khâu Cửu Sư không phục: "Tôi chưa đến mức vô dụng như tiên sinh hình dung".

Nguyễn Tu Chân thốt: "Những lời vừa rồi không phải nói riêng với Cửu Sư, mà nói chung mọi người, kể cả tôi. Cũng tựa như ông trời đang tra khảo mình, bọn ta đều biết dù người kiên định đến đâu cũng có lúc bùng nổ, chỉ là vấn đề sớm muộn mà thôi".

Hít sâu một hơi, gã nói tiếp: "Bây giờ tà lực ấy đang hành hạ Cửu Sư, khiến Cửu Sư gặp được một nữ nhân đáng động lòng, mà chỉ cần mình muốn là có thể tiếp cận nàng làm quen, để có cảm giác ấm lòng, nhưng Cửu Sư nhất định phải quên nàng đi, cự tuyệt nàng".

Khâu Cửu Sư cười gượng: "Tình huống chưa tồi tệ đến mức ấy, tuy nhiên ít nhất tiên sinh nói đúng một câu, nàng ấy đích thực để lại ấn tượng khó phai trong tôi. Lắm lúc tôi càng hoài nghi cách nhìn của tiên sinh đối với sự việc này, sự thật có phải như tiên sinh đoán chăng, hay tiên sinh suy diễn quá mức?".

Nguyễn Tu Chân mỉm cười: "Đây là lần đầu tướng quân nghi ngờ phán đoán của tôi".

Khâu Cửu Sư vội nói: "Xin thứ lỗi, nhưng lời nói của tiên sinh làm tôi khó chịu quá".

Nguyễn Tu Chân bình thản thốt: "Nói cho cùng, tướng quân vẫn muốn đi gặp Bách Thuần".

Khâu Cửu Sư lắc đầu đáp: "Về mặt này tôi vẫn còn sức tiết chế. Nói thẳng ra, suy đoán của tiên sinh thì dựa theo sự thật đã xảy ra, mà hiện nay việc tróc nã Ngũ Độn Đạo là việc quan trọng hàng đầu, lo toan việc khác không phải là viễn kiến. Do đó tôi đồng ý với cách suy nghĩ của tiên sinh, bằng không bây giờ tôi đã không ngồi đây, mà ngồi ở Hồng Diệp Lâu".

Hắn đổi đề tài, hỏi: "Mật rắn Hoa Bạch Dong công hiệu thế nào? Ngày mai tôi có cần đi kiếm tiểu tử kia đòi tiền lại chăng?".

Nguyễn Tu Chân nói: "Rất thần kỳ! Đêm qua tôi còn ngủ không ngon vì bị đau chân, nhưng theo lời hắn chỉ uống mật rắn, thì cả người nhẹ hẳn ra, thậm chí các chỗ đau kinh niên cũng không cánh mà bay".

Khâu Cửu Sư lộ vẻ bất ngờ, bảo: "Chẳng ngờ tiểu tử ấy không nói dóc, nếu gặp lại hắn tôi sẽ đưa thêm kim lượng nhờ hắn đi bắt Hoa Bạch Dong, để phòng khi tiên sinh cần dùng".

Nguyễn Tu Chân gật đầu đồng ý, tư lự thốt: "Hắn chẳng những là cao thủ bắt rắn, mà còn là một kẻ kỳ dị, nhìn ánh mắt của hắn thì hiểu được hắn không cam tâm chỉ bán mật rắn, mà như thể hắn đang khao khát chờ kỳ tích xuất hiện".

Khâu Cửu Sư biết gã có tài xét đoán người, vui vẻ nói: "Nếu kỳ tích mà hắn ao ước cũng giống như tôi, thì tôi có thể thu nạp hắn dùng làm thuyết khách hùng biện, để liên kết chí sĩ khắp thiên hạ".

Nguyễn Tu Chân thốt: "Tướng quân hãy về ngủ một giấc cho ngon, sáng mai bọn ta đến lầu Ban Trúc ăn sáng, bằng không nếu sáu tiểu tử tìm người không được, lại cho rằng tướng quân sợ chúng".

Khâu Cửu Sư cười khanh khách như thấm ý, đứng dậy rời đi.

Nữ lang ấy là ai?

Cô Nguyệt Minh vượt qua khu rừng thưa thì đến một con đường nhỏ ngoằn nghoèo đầy dấu chân và phân trâu, cách phía hữu sông Tương khoảng ba đến bốn dặm.

Cô Nguyệt Minh thả bộ ven rừng, để cho Khôi Tiễn nghỉ ngơi, mấy hôm nay nó đã làm việc khá nhiều. Cả hai đi dọc theo bờ sông về phía nam, ngựa đi sau chủ cách xa hơn mười bước, như hoàn toàn hiểu thấu tính cách cô độc của Cô Nguyệt Minh.

Nữ lang kia có liên quan gì đến Sở hạp?

Cô Nguyệt Minh bình tĩnh phân tích tất cả những người có liên hệ đến sự việc này, Phụng công công, Quý Nhiếp Đề, Tiền Thế Thần, Qua Mặc, Phu Mãnh, Tiết Đình Hao, Tiết Nương...

Trời! Hay nữ lang kia chính là con gái Phu Mãnh, ước tính ra tuổi nàng cũng lớn dường ấy rồi.

Cô Nguyệt Minh cảm thấy tim mình thắt lại, y biết điều mình rất không muốn xảy ra cuối cùng đã phát sinh. Nữ lang và y sắp trở thành kẻ địch, mà nút thắt không đường tháo gỡ là Tiết Đình Hao. Không bắt được Tiết Đình Hao, thì không có cách gì tìm được Sở hạp, mà không có Sở hạp, thì y sẽ phải ra chiến trường.

"Ta không khi nào cho phép tình trạng ấy xảy ra, cần phải tìm được Sở hạp", Cô Nguyệt Minh thầm quát lên.

"Nhưng ta có nhẫn tâm hạ thủ giết nữ lang chăng?

"Cách giải quyết tốt nhất là nàng ta tự sát, như vậy thì sẽ không liên can gì đến ta. Nàng ta có bản lãnh này chăng?".

Nghĩ đến đây, đột nhiên một mũi phi đao từ phía tả cánh rừng bắn thẳng vào người y.

Ô Tử Hư đứng nhìn Tiền Thế Thần đi vào Hồng Diệp Lâu, hắn cảm thấy rùng mình lạnh cả người. Tại sao lại khéo như vậy, Hồng Diệp Lâu chẳng phải là chỗ ở của Bách Thuần sao? Bất giác hắn lại nhớ đến vụ thắng liên tục bảy ván ở sòng bạc và được vừa đúng năm trăm lượng.

Hồi 11:Thanh Lâu Vương Quốc

Cô Nguyệt Minh lần đầu bị người ta đánh lén thình lình không kịp phòng bị, tuy nói y tâm thần lan man, vẫn không nên xảy ra tình huống như vầy, bởi y có xúc giác linh mẫn tựa như thú săn mồi, do đó có thể thấy kẻ đánh lén cao minh đến cỡ nào.

Nhưng một mũi phi đao như vậy làm sao có thể làm khó được Cô Nguyệt Minh y. Những ý niệm đó lướt qua đầu như điện quang hỏa thạch, phán đoán ra địch nhân tất có sát chiêu càng lợi hại hơn, một mũi đao này chỉ là kế thanh đông kích tây.

Cả đất trời trong suốt sáng rõ hẳn, sát na đó, Cô Nguyệt Minh vọt lên trạng thái đỉnh điểm, nhìn cũng không thèm nhìn, dùng hộ hoàn trên tả thủ đón đỡ phi đao.

Quả nhiên không ngoài sở liệu, một bóng đen "vù" một tiếng từ rừng cây bên trái bay ra, lộn mình vài vòng, cuối cùng hai chân lăng không thi triển, hạ mình trước mặt y, mau mắn linh động như một làn khói mỏng, khiến người ta nảy sinh ảo giác ảo ảnh trùng trùng.

"Keng!".

Phi đao đập vào thiết hộ hoàn văng xuống đất, hắc y nhân đằng trước phất song thủ quăng tám vật hình dáng như tiểu cầu, nhắm đầu y ụp xuống.

Hai người bốn mắt chạm vào nhau, chính là nữ lang đã từng gặp ở bến đò. Nữ lang tuy dùng vải đen phủ trùm đầu, bất quá Cô Nguyệt Minh nhận ra là nàng qua thân hình thể thái.

Cô Nguyệt Minh thủ đoạn gì mà chưa từng gặp qua, lập tức biết là vật như độc yên đạn, chỉ cần y tránh sang bên phải, không để đạn sau khi nổ phún ra khói độc bao phủ, đối phương chỉ lãng phí hao tổn hỏa khí mà thôi.

Vấn đề là Khôi Tiễn đang ở đằng sau cách mười bước, nếu mình tránh né, nạn tai nào có khác gì sẽ ập lên mình nó, đó là chuyện Cô Nguyệt Minh tuyệt không cho phép, trước khi giết chết được y, không ai có thể làm tổn hại đến Khôi Tiễn.

Một tiếng "rẻng" vang vọng, Cô Nguyệt Minh tả thủ rút kiếm khỏi vỏ, bước tới đâm xộc ra, thần tốc như ánh chớp, mắt người thường khẳng định không đuổi kịp thứ tốc độ đó, nhanh đến mức vượt quá cực hạn của thể năng.

Như trên không trung thình lình xuất hiện thần tích, Cô Nguyệt Minh đâm vỡ hai trái độc khí đạn bay tới trước nhất, liền nổ thành hai vạt khói đen, còn chưa khuếch tán, Cô Nguyệt Minh dùng sống kiếm quật bay độc yên đạn bên phải, lại hồi kiếm chẻ xuống, trúng liền bốn trái độc yên đạn, chuẩn xác đến mức khó tin. Cô Nguyệt Minh ngã người ra sau, Bạch Lộ Vũ liên tục vít ra, vít hai trái độc yên đạn cuối cùng bắn ngược về phía nữ lang, đến lúc đứng thẳng người lại, y đã bị khói đen phủ kín hoàn toàn.

Cô Nguyệt Minh hít một hơi, lập tức lòng kinh ngạc, khói đen không ngờ không có độc.

Vô Song Nữ nhảy vọt lên trên, hai cước liên hoàn đá ra, trước sau đá trúng hai trái yên vụ đạn bị Cô Nguyệt Minh vít văng qua, liền hóa thành hai làn khói mờ mau chóng khuếch tán. Thứ yên vụ đạn không cần châm lửa mà bùng nổ khi có va chạm này là một trong những trò bán nghệ trong Bách Hí Đoàn của nàng, chỉ có thể duy trì một khoảng thời gian ngắn, nhưng nàng có thể dựa vào khói mù để hoàn thành mấy ngón lạ làm náo động khán giả.

Cô Nguyệt Minh phóng nhanh ra khỏi khói mù, trường kiếm phá không đánh tới, kiếm thế thần tốc hung mãnh, vốn đáng lẽ đã thoát khỏi phạm vi khói mù, lại vì Vô Song Nữ làm nổ hai trái yên vụ đạn kia, biến thành chui lọt vào một cụm khói mù khác.

Vô Song Nữ song thủ thò ra sau hông, vừa chạm đất đôi ngọc thủ đã nắm một đôi đoản kiếm chỉ dài khoảng nửa thước, xoay mình một vòng, dời đến bên phải Cô Nguyệt Minh, hữu thủ đoản kiếm tạt nhanh chỗ mũi kiếm Bạch Lộ Vũ của Cô Nguyệt Minh, tả thủ kiếm quét ngang yết hầu của Cô Nguyệt Minh, không chút lưu tình.

Lúc này là lúc hai cụm khói mù kết hợp lại thành một, biến thành một vùng mù mịt bao trùm phương viên năm trượng, tinh quang nguyệt sắc không còn tác dụng gì nữa, kẻ bên trong có giơ tay cũng không thấy ngón tay.

Một tuyệt kỹ khác của Vô Song Nữ là lấy vải đen che mắt, sau đó thuần bằng vào bản lãnh nghe tiếng gió nhận ra âm thanh để tránh thoát phi đao quăng về phía nàng. Vào giờ phút này dưới tình huống khói đen lan dần, nàng cứ như cá gặp nước, triển khai hết sở trường.

"Keng".

Cô Nguyệt Minh trường kiếm biến chiêu, đổi đâm thành vít, vít trúng đoản kiếm của Vô Song Nữ trước khi bị đoản kiếm của nàng chém trúng, lúc thân người yêu kiều của nàng bị vít chấn động, y lách sang phía trái, đường tơ kẽ tóc tránh khỏi hữu thủ đoản kiếm hung hiểm của đối phương.

Cô Nguyệt Minh cười khà khà: "Cô nương ghê gớm quá, nói vài câu được chứ?".

Vô Song Nữ không nói tiếng nào, như bóng theo hình, song kiếm chia hai đường trên dưới nhắm Cô Nguyệt Minh thi triển kiếm pháp linh động luồn lách vốn có thể phát huy uy lực đến mức cao nhất khi đấu đá nà sát người.

Với năng lực của Cô Nguyệt Minh, nhất thời cũng không có cách phản kích, lại biết đối phương thuật bay nhảy chỉ có trên mình chứ tuyệt đối không thua kém, may là y quen chế địch thủ thắng trong hoàn cảnh đen tối, lợi dụng khoảng thời gian một hơi thở đó, kiếm thế toàn diện triển khai, cứng cỏi dùng ưu thế kiếm dài kháng cự Vô Song Nữ cách ngoài bốn thước.

Nhất thời tiếng trường kiếm đoản kiếm va vào nhau vang vọng không ngừng, đã đỡ được mấy chục kiếm công kích của Vô Song Nữ. Cái làm cho Cô Nguyệt Minh kinh dị nhất là một nữ lang yêu kiều như đối phương lại kiếm nào kiếm nấy cũng chất chứa kình lực, khí mạch tuôn trào, hơn nữa mỗi một kiếm đều có thể dụng hết sức toàn thân, kiếm pháp biến hóa muôn ngàn, mỗi một khắc đều dời đến vị trí khác biệt, khiến cho góc độ công kích khó mà nắm bắt được, nữ tử lợi hại như vầy, y có nghĩ tới cũng chưa từng ngờ được.

Khói mù mỏng dần.

Vô Song Nữ quát một tiếng yêu kiều, lộn nhào liên tục sang vùng khói mù bên kia, nháy mắt đã đi xa.

Đến khi Cô Nguyệt Minh ra khỏi vùng khói mù, Vô Song Nữ đã biến mất sâu tuốt trong khu rừng bên bờ Tương Thủy.

Cô Nguyệt Minh tra kiếm vào vỏ, đến giờ mới phát giác ống tay áo tả thủ bị rạch rách, không cầm được phì cười, lại có cảm giác thỏa mãn, nếu có thể chết trong tay cô gái đó, dù sao cũng hay hơn nhiều so với để bị đám trộm cướp tàn ác làm thịt.

Chúm môi huýt gọi, Khôi Tiễn đằng sau phóng tới bên cạnh y, Cô Nguyệt Minh phi thân lên ngựa, ghé bên tai Khôi Tiễn thốt: "Bọn ta rượt theo nàng, xem nàng tướng mạo ra sao chứ?".

Khôi Tiễn như hiểu tiếng người, lần theo con đường nhỏ nhắm phía nam đi tới, Khôi Tiễn tuy không biết tìm người, nhưng muốn tìm đồng loại vùng phụ cận lại là chuyện làm có thừa.

Tiền Thế Thần khuôn mặt vì áo não mà dài thượt ra, ngồi trong đại sảnh đón khách Quý Tân Sảnh của Hồng Diệp Lâu mặc cho mụ quản gia Diễm Nương hết sức nói khôn nói khéo vẫn không thể an ủi được gã. Bốn tên hộ vệ theo hầu đứng canh lối vào đương nhiên không dám xen lời, không khí rất ngột ngạt.

Tiếng cười từ ngoài cửa truyền vào, Tiền Thế Thần không cần nhìn cũng biết là Chu Bàn Tử của Hồng Diệp Lâu.

Cái tên Chu Bàn Tử e rằng không mấy ai biết, lão cũng tự kêu mình là Chu Bàn Tử, kẻ khách khí gọi lão là Chu lão bản, cho dù có gọi lão là Chu Bàn Tử, lão cũng không bực tức gì. Lão là người trời sinh ăn dầu nói mỡ, thủ đoạn trơn tru, nhưng lại không giống mấy kẻ săn đón nịnh bợ đôi ba câu khác, mà rành rọt chăm chút giao tế với khách, thấy người nói tiếng người, gặp quỷ nói tiếng quỷ. Người chức cao quyền trọng như Tiền Thế Thần cũng cảm thấy nói chuyện với lão là một thứ lạc thú, không những có thể giải sầu, có lúc còn có thể dốc bầu tâm sự chất chứa ngứa ngáy.

Bình thời chỉ cần nghe thấy tiếng cười của Chu Bàn Tử, cơn bực tức của gã đã có thể tiêu tán đi quá nửa, nhưng tâm tình đêm nay thật quá xấu.

Lời trách quở của Quý Nhiếp Đề và lời khuyến cáo của Qua Mặc tối hôm qua chỉ là một nguyên nhân nhỏ khiến cho tâm tình gã buồn thảm. Nguyên nhân chính là vì sự hiện thân đột ngột của Tiết Đình Hao, làm cho tình huống gã lo sợ suốt mười năm qua đã biến thành sự thật.

Gã rất hối hận.

Nếu thời gian có thể trở ngược lại, gã tuyệt sẽ không thỉnh Qua Mặc xuất thủ tranh đoạt Sở hạp cho gã. Mười năm nay gã ưa phong hoa tuyết nguyệt, nguyên nhân gã khó mà thố lộ với Qua Mặc, là gã muốn gây mê cho chính mình, chạy trốn nỗi lo sợ đối với tương lai.

Chu Bàn Tử y phục hoa lệ thân hình béo lùn lọt vào rèm mắt, cái làm cho người ta chú ý nhất là cái bụng thừ lừ như cái trống của lão, thắt lưng chỉ miễn cưỡng thắt giữ. Nhưng đối với một người mập mà nói, Chu Bàn Tử phải coi là hành động mẫn tiệp, chân tay linh hoạt.

Chu Bàn Tử quay sang Diễm Nương nháy mắt, mụ ta liền đi ra cửa, lão đến ngồi bên cạnh Tiền Thế Thần như một bằng hữu thân thiết, thở dài: "Đứa con gái này của tôi thật không chịu nghe lời, nổi chứng là cả Thiên vương lão tử cũng không làm gì được. Nói ra sợ không ai tin, không biết có phải kiếp trước mắc nợ nó không, tôi cũng chịu đựng quá rồi".

Chu Bàn Tử là một lão mập rất dễ nhìn, ngoại trừ cặp môi hơi dày ra, da thịt trắng trơn thấu lộ màu hồng tươi khỏe, thần thái sáng lán, má phính đầy đặn, chót mũi tròn trĩnh, đôi mắt to bắn ra thần sắc thành khẩn dù biết rõ là giả vẫn khiến người ta không có cách nào hoài nghi.

Tiền Thế Thần không thèm nhìn lão, buồn bực thốt: "Nàng vẫn không chịu đến sao?".

Chu Bàn Tử thấp giọng: "Nó đang câu lòng khao khát của Tiền đại nhân đó. Khà! Cái đạo nam nữ kỳ diệu không thể tả, có lúc đùa nghịch rào hoa lại càng khát khao hơn. Đúng không?".

Tiền Thế Thần cuối cùng đã nhìn sang Chu Bàn Tử, mặt lạnh như băng tuyết, cười lạnh: "Nàng không phải là câu lòng khao khát của ta, mà là đang đợi người".

Chu Bàn Tử ngạc nhiên: "Nó đang đợi ai?".

Tiền Thế Thần thật không có cách nào nổi trận lôi đình với Chu Bàn Tử, đến thanh lâu là gã muốn tìm niềm vui, mà Chu Bàn Tử lại là đồng bọn đối ẩm hầu cận tốt nhất mà gã có thể tìm ở Lạc Dương. Gã cười khổ: "Lão Chu ngươi có phải vừa mới xuống giường không? Cả chuyện oanh động toàn thành mà cũng không biết. Khoảng chính Ngọ hôm nay mấy tên đồng đảng của tên tiểu tử Thôi Minh công nhiên chặn xe của Bách Thuần trên đường cái, buông lời chọc ghẹo, gây cho Khâu Cửu Sư của Đại Hà Minh đang uống rượu gần đó nổi cơn, bị hắn xuất thủ giáo huấn, đánh té lăn cù, ôm đầu bỏ chạy. Con bà nó, Bách Thuần thấy Khâu Cửu Sư tên tiểu tử kia tướng tá hiên ngang cao to, không cầm được lòng hẹn hắn đến Hồng Diệp Lâu tương hội, cho nên đêm nay cự tuyệt không muốn gặp bất cứ một ai, bao gồm cả Tiền Thế Thần ta, lão Chu ngươi còn có thể nói gì hay ho cho nàng nữa?".

Chu Bàn Tử nghe đến cái tên Thôi Minh, lập tức thấu hiểu. Thôi Minh là đứa con nuôi của chánh thất phu nhân của Tiền Thế Thần, nếu chuyện này không phải có Tiền phu nhân đằng sau chống lưng, Thôi Minh sao dám làm phiền đến Bách Thuần. Chu Bàn Tử càng rõ hơn Tiền Thế Thần rằng bọn Thôi Minh thật quá may mắn, nếu không có Khâu Cửu Sư ra tay, mà Bách Thuần không thể không hoàn thủ, bọn Thôi Minh có muốn ôm đầu tháo chạy cũng đâu có được.

Lần này Tiền Thế Thần cũng nghĩ Chu Bàn Tử phải á khẩu ngậm miệng, khó dùng lời để biện bác, nhưng Chu Bàn Tử lại không phải nghĩ ngợi gì, đáp liền: "Chuyện này Bố chính sứ ti đại nhân có thể hoàn toàn yên tâm, tôi hiểu con gái tôi nhất, như năm trước có một tiểu tử tướng mạo không tệ theo đuổi bám váy nó, lúc ban đầu nó cũng đối xử như là với Khâu Cửu Sư, bộ dạng chị chị em em ưa cười thích nói, nào hay uống được mấy tuần rượu với con thỏ đế kia, lại một cước đá hắn văng đi, cự tuyệt không gặp hắn nữa. Bách Thuần là vậy, cuối cùng vẫn phải xem tư chất, chỉ có người có văn hóa hàm dưỡng như Bố chính sứ ti đại nhân mới có thể thật sự thu hút nó. Nó thường hay tán tụng kiến thức thâm sâu quảng bác của đại nhân đối với văn hóa cổ trước mặt tôi".

Tiền Thế Thần nhíu mày: "Vấn đề ở chỗ Khâu Cửu Sư chính là người có tư chất. Ta đã từng gặp tiểu tử đó, ta khẳng định không ai dám coi thường sức hấp dẫn của hắn đối với Bách Thuần".

Chu Bàn Tử khẳng khái phấn chấn trần tình: "Bố chính sứ ti đại nhân vẫn chiếm thượng phong, bởi có tôi đứng một bên Bố chính sứ ti đại nhân, tôi sẽ toàn lực trợ giúp Bố chính sứ ti đại nhân giành được hoa khôi, có thể thành công hay không còn phải xem uy lực bắt tay hợp tác của bọn ta. Bố chính sứ ti đại nhân biết không có ai có thể miễn cưỡng Bách Thuần mà".

Tiền Thế Thần cười khổ: "Tử thi cũng có thể bị ngươi thuyết phục sống lại. Nhưng ta đêm nay phải làm gì đây?".

Chu Bàn Tử đáp: "Tôi đã nói đứng về phía đại nhân mà, đương nhiên một lời đáng giá ngàn vàng, bây giờ tôi đi gặp Bách Thuần, bất quá đại nhân cũng cần nhường nó một bước, đường đi nước bước ra sao để nó quyết định, như vậy tôi tin chắc có thể giúp đại nhân gặp nó đêm nay".

Tiền Thế Thần dựa mình vào ghế, thở dài: "Vậy còn không mau lăn đi tìm nàng đến hầu ta, có lẽ ta có biện pháp làm cho nàng không muốn bỏ đi".

Chu Bàn Tử giơ ngón tay cái khen gã: "Đại nhân quả là anh hùng số một, đi so bì với Khâu Cửu Sư bằng bản lãnh thật sự của mình. Nếu Khâu Cửu Sư đến, tôi sẽ nói cho Khâu Cửu Sư biết đại nhân đang nhâm nhi trò chuyện với Bách Thuần, để cho hắn biết điều mà lui".

Tiền Thế Thần vốn chỉ là thuận miệng nói vậy, bị Chu Bàn Tử một lời làm sực tỉnh, liền lộ thần sắc trầm tư mặc tưởng.

Chu Bàn Tử thầm gạt mồ hôi lạnh, cáo lui đi lo chuyện, vừa đạp chân ra khỏi Quý Tân Sảnh, Diễm Nương đã chặn đường lão, đưa một trục đồ họa, Chu Bàn Tử mở ra xem, thất thanh: "Y vẽ ai vậy?".

Diễm Nương hằn học: "Tôi cũng cảm thấy đâu có giống Chi Hương, ài! Là tên thứ ba mươi rồi, bây giờ ai ai nghe đến hai chữ 'họa sư' là liền tìm chỗ trốn".

Chu Bàn Tử dường như không muốn liếc nhìn chút nào nữa, dùng hai tay vò bức họa thành một cục như để phát tiết, lại nhét lên tay Diễm Nương, mắng: "Nếu chị em của Hồng Diệp Lâu ta mà giống như trong mấy bức họa của tên họa sư ngược ngạo kia, đã sớm đóng cửa sạt nghiệp rồi. Lập tức kêu y cút đi, xéo liền về nhà của y đi".

Diễm Nương hỏi: "Trả y bao nhiêu tiền du hành để y đi đây?".

Chu Bàn Tử cả giận: "Họa công lại thành như vậy sao, còn phải trả tiền du hành nữa?". Ngẫm nghĩ lại thở dài thốt: "Được rồi! Được rồi! Cho y một lượng đi!".

Tiếp đó phất tay áo bỏ đi.

Ô Tử Hư lần đầu nghĩ tới chạy trốn khỏi Lạc Dương.

Muốn đơn độc tiếp xúc một Tiền Thế Thần tiền hô hậu ủng, cả đám binh vệ bảo hộ sát bên mình là chuyện gần như không thể nào, cơ hội duy nhất có lẽ là trong Hồng Diệp Lâu. Nhưng mình tự biết mình, đang lúc hành động, hắn không thể bước chân vào thanh lâu, đặc biệt là thanh lâu Bách Thuần đang có mặt. Mỗi lần đi vào thanh lâu, hắn lại hồi phục bản sắc thanh lâu lãng tử, mắt hoa tim nhảy đắm mê hương sắc. Hậu quả đương nhiên không dám tưởng tượng.

Hơn nữa sự tình xảo hợp đến mức làm cho hắn rùng mình phát lãnh, một đầu quyết định tuyệt không đi quấy nhiễu Bách Thuần, đầu kia đã đứng trước Hồng Diệp Lâu, hơn nữa phát giác Hồng Diệp Lâu là chọn lựa tốt nhất của hắn.

Mình nên làm gì? Hơn trăm lượng bạc còn lại có thể xài bao nhiêu ngày? Mình có nên giáng bậc từ một tên đại đạo trở thành một tên trộm vặt đi tứ xứ kiếm tiền hay không? Không! Ô Tử Hư hắn tuyệt không thể hụt hẫng đến mức đó, bắt đầu từ cái ngày quyết định trộm bảo vật kiếm sống, hắn từng thề thốt tuân thủ theo nguyên tắc "tam bất thâu", nếu không hắn sẽ cảm thấy đối không đúng với mình, không xem trọng mình, sau này khó mà hưởng thụ cuộc đời trong lòng không một chút hổ thẹn.

Nên làm gì đây?

Vào lúc đó, một trung niên hán tử bộ dạng văn sĩ bị hai đại hán áp giải từ cửa lớn Hồng Diệp Lâu đi ra, văn sĩ này căm phẫn rướn cổ: "Cho dù không coi mấy bức họa của ta ra gì, cũng nên cho ta đủ tiền du hành để ta về nhà, một lượng bạc làm sao đủ chứ!".

Một đại hán ra sức đẩy một cái, văn sĩ bị đẩy loạng choạng lảo đảo bảy tám bước, suýt nữa đã té lăn trên đường xe ngựa".

Đại hán bên kia lý sự: "Ngươi coi như là may rồi đó, ai biểu ngươi là họa sĩ thứ ba mươi được tuyển mộ làm chi, tên kế tới nhất định chỉ được nửa lượng".

Đại hán xô y hung thần ác sát nói: "Cút! Lập tức cút đi! Còn chưa đi ta đánh gãy chân ngươi bây giờ".

Họa sư kia sợ đến tái xanh mặt mày, chỉ còn nước tự oán mình số khổ đã định.

Hai đại hán nhìn nhau cười khổ, đều lắc đầu thở dài.

Đại hán xô người nói: "Xem ra đại kế của lão bản muốn dùng mấy bức họa mỹ nhân ăn mừng kỷ niệm chu niên lần thứ mười của Hồng Diệp Lâu bọn ta phải vứt bỏ rồi, làm sao ngờ được mấy họa sư đến từ đủ mọi nơi lại tệ hại như vậy?".

Đại hán bên kia thốt: "Họa sư Lạc Dương mà không xong, họa sư chỗ khác giỏi tới cỡ nào chứ?".

Nói xong hay người quay đầu bỏ đi.

Ô Tử Hư bắt đầu nổi da gà, lần này lại không phải lòng có ý sợ, mà là nghĩ đến kế hoạch nhất thạch nhị điểu, áo trời không kẽ hở.

Hồng Diệp Lâu chiếm một khu vực cực kỳ rộng lớn, tới hơn năm chục mẫu, lấy Quải Biều Trì danh chấn Lạc Dương làm trung tâm, năm nhóm đình viên dựa dọc hồ mà phân bố. Mặt nam hướng ra đường cái là ba khu lầu phòng kề cận, sắp đặt cao thấp có thứ tự, hoành tráng nhất là "Hồng Diệp đường" chính giữa, là địa điểm sảnh đường của Hồng Diệp Lâu, khách nhân ghé thăm trước hết đều phải đến khu sảnh đường này, tiếp nhận sự tiếp đãi và an bài nhiệt tình.

Hai nhóm đình viện kia phân bố đông tây, mỗi bên có cửu tạ lưỡng các, hòa nhập vào Quải Biều Trì mặt nước trong xanh, sen súng trải kín. Đình, hành lang, phòng, lầu bố trí vây quanh hồ, lượn quanh nối liền, giả sơn thanh tú chất ngất, tùng liễu cao to, hoa lá cỏ cây sum suê um tùm, cầu nhỏ bắc qua dòng nước, hết lòng chiêu đãi hào khách thật sự biết vung tiền.

Ba nhóm đình viện cuối cùng ở phía bắc hồ, hai nhóm tả hữu phòng ốc san sát, là chỗ trú thân của hơn hai trăm thanh lâu cô nương và gần bốn trăm nô tỳ bộc phó, kết hợp lại thành hơn trăm lâu phòng, quy mô cực lớn. Đặt nơi chính bắc là trụ sở của Chu Bàn Tử, ba gian phòng trệt, kiến trúc đơn sơ, cấu tạo thanh nhã.

Mỗi lần Chu Bàn Tử qua lại giữa đình viện, đều cảm thấy được niềm tự hào trào dâng từ tận đáy lòng. Tâm huyết một đời lão đã đổ lên Hồng Diệp Lâu. Vốn trước đây Hồng Diệp Lâu chỉ là một trong số đông thanh lâu của Lạc Dương, dưới nỗ lực của lão, kết hợp bốn thanh lâu xung quanh, khuếch triển nên quy mô trước mắt đây, trở thành xứ sở trứ danh nhất Lạc Dương.

Lạc Dương nhờ Lạc Dương Lâu mà danh vang thiên hạ, dẫn dụ các quan nhân quý nhân, tao nhân mặc khách, phong lưu danh sĩ các nơi coi lên Lạc Dương Lâu là trông đợi bình sinh, cũng giúp cho Hồng Diệp Lâu khách ghé như mây, nghiệp vụ càng ngày càng thăng tiến. Cái lão ôm ấp không còn là một tòa thanh lâu nữa, mà là một vương quốc thanh lâu.

Chu Bàn Tử ngồi trên một chiếc kiệu đặc chế cho thể hình của lão, bốn đại hán khiêng đi như bay, đi dọc con đường lát đá vòng quanh hồ. Giờ này đêm mát như nước, tinh quang nguyệt sắc chiếu rọi ao sen, cảnh sắc mê hồn đến cùng cực.

Bách Thuần không những là cô nương đỏ nhất, tài nữ trứ danh nhất Lạc Dương, ở Hồng Diệp Lâu còn có địa vị đặc thù. Tiểu thư nàng không muốn chung đụng với đám đông những người khác, Chu Bàn Tử đặc biệt chọn khu vườn giữa cho nàng, xây lên một tòa lầu các hai tầng có tường đá bao quanh, đặt tên là Tình Trúc Các, làm đầu cho Trung viên tứ các, ba tòa các kia là Phong Trúc Các, Vũ Trúc Các và Lộ Trúc Các, để nàng hưởng thụ sự an ninh không bị người khác quấy nhiễu.

Chu Bàn Tử xuống kiệu trước Tình Trúc Các, bước lên bậc đá lên lầu, gõ cánh cửa đóng chặt, tiểu tỳ hầu cận Bách Thuần tươi cười nghênh đón.

Chu Bàn Tử đi vào trong lầu, Bách Thuần thần thái ưu nhàn ngồi ở một góc, đang cầm sách đọc, lại không đứng dậy nghênh tiếp, còn không nhìn sang phía lão.

Chu Bàn Tử cười khổ não, ngã mình lên cái ghế dựa bên kia cái kỷ nhỏ, thở dài: "Con đã hẹn tiểu tử Khâu Cửu Sư à? Tại sao phải che giấu người cha mập này chứ?".

Bách Thuần buông sách, đôi mắt đẹp sáng lên, lẩm bẩm: "Khâu Cửu Sư, thì ra là Khâu Cửu Sư. Thật hay!".

Chu Bàn Tử nhíu mày: "Con không biết hắn là ai sao?".

Bách Thuần nhún vai, thần thái lấp lửng không chối cũng không nhận, xem thần sắc của nàng là biết không để ý tới sắc mặt của Chu Bàn Tử.

Chu Bàn Tử giọng điệu nặng nề: "Sau này con ra ngoài dẫn theo thêm một hai người được chứ? Hồng Diệp Lâu ta kiếm hảo thủ hơn người, tùy tùy tiện tiện cũng có thể chọn ra mười mấy hai chục tên, chỉ cần có bốn, năm đứa hộ giá trước sau, ai dám quấy nhiễu con chứ? Con luôn muốn làm ta lo cho con sao, sợ nhất là con nhẫn nhịn không nổi, tài nữ biến thành ác nữ, vậy đâu có tốt đối với hình tượng của Hồng Diệp Lâu bọn ta chứ!".

Bách Thuần cười "hắc" một tiếng yêu kiều, háy Chu Bàn Tử một cái, cho dù Chu Bàn Tử cả đời lăn lộn giữa chốn phong hoa định lực cực cao cũng phải chấn động thần hồn.

Bách Thuần mỉm cười: "Lão Tiền đã đáp ứng điều kiện đêm nay gặp tôi sao?".

Chu Bàn Tử ngang nhiên: "Có người cha mập ta đích thân ra mặt, chuyện gì mà không làm được chứ".

Tiếp đó lại hạ giọng xuống nước: "Nói tốt nói xấu, lão Tiền vẫn là chúa tể Lạc Dương, nên cho người cha mập này chút thể diện, đừng mới gặp mặt là gật gật đầu bỏ đi liền, lúc đó cả lão Tiền lẫn ta đều không hạ đài được, ít ra đợi qua ba tuần rượu, chuyện trò vài câu rồi mới đi được không? Đây là ta xin con đó, nếu không ta sẽ rất khốn khó".

Bách Thuần chớp chớp mắt, dịu dàng thốt: "Nếu Khâu Cửu Sư vừa hay đến tìm tôi vào lúc đó, cha có đuổi hắn đi không?".

Chu Bàn Tử cười khổ: "Thẳng thắn mà nói, nếu chỉ là một tiểu tử tầm thường, ta sẽ kêu người quét hắn ra, còn cảnh cáo như hắn còn dám bước vào Hồng Diệp Lâu nửa bước, ta sẽ đập gãy chân chó của hắn. Chỉ tiếc đối phương lại là Khâu Cửu Sư, cả Tiền Thế Thần cũng không dám chính diện xung đột với hắn, chỉ dám than thở não nề với ta. Con gái ngoan hiểu tính khí của ta nhất, ta dám đuổi hắn đi sao? Thà đắc tội với quan phủ còn hơn là gây gổ với nhân vật bang hội. Nếu Khâu Cửu Sư xảo hợp đến tìm con ngay lúc đó, ta sẽ mời hắn vào Quý Tân Sảnh, thân hành chào đón hắn, bất quá xin thứ cho ta không thể đi thông tri cho con, bởi như vậy nào có khác gì là nói với lão Tiền ta đứng về phía con. Con gái ngoan sau khi an ủi lão Tiền thì thích gặp ai cũng được mà".

Khôi Tiễn dậm vó hí dữ, Cô Nguyệt Minh bần thần nhìn vùng địa vực kỳ dị khuếch triển vô biên vô hạn đằng trước.

Vân Mộng Trạch.

Trăng sao trên trời ảm đạm mờ mịt, mặt đất tích tụ hơi nước chỗ mỏng chỗ dày, thị tuyến của y chỉ đạt được tới ngoài trăm bước, mọi thứ biến thành như ảo như thật, đầm nước lớn nhỏ bày bố an trí trùng điệp trên mảnh đất kỳ dị này, muôn ngàn loại thực vật kỳ quái sinh trưởng ven bờ đầm, hợp thành một thứ không khí khôn tả, làm cho người ta có cảm giác dấn thân vào quỷ vực.

Khôi Tiễn tiễn lại hí lên.

Cô Nguyệt Minh vỗ về cổ Khôi Tiễn, lòng nhớ đến câu Phụng công công hỏi y: "Ngươi có tin chuyện quỷ thần chăng?".

Y một mực không để ý nghĩ ngợi gì lắm về câu nói của Phụng công công, mãi cho đến giờ phút này. Khôi Tiễn tại sao lại có phản ứng dị thường như vậy? Năm năm qua, Khôi Tiễn đã chở y đi khắp chân trời góc biển, đi qua Đại sa mạc vùng Tái ngoại, thậm chí đối diện với bầy sói đói, Khôi Tiễn cũng không để lộ trạng thái kinh hoàng. Tại sao mảnh đất đầm lầy không một dấu chân người này có thể làm cho nó mất bình thường như vậy? Lẽ nào thật có sự tồn tại của quỷ thần, hơn nữa đang gởi mình trong khu tàn tích của một tòa cổ thành sâu ẩn trong khu đầm lầy này?

Thình lình mọi sự biến thành không thể khẳng định được, duy có một chuyện chắc chắn là nữ lang kia đã tiến vào khu địa vực ly kỳ khó lường này, cực có thể đang chuẩn bị phục kích y đợt thứ nhì.

Đang do dự không biết có nên tiếp tục tiến tới, hay là quay đầu về Lạc Dương đi tìm Tiền Thế Thần, xa xa bên phải sáng lên ánh lửa, chớp nháy sâu kín trong vùng sương mù.

Cô Nguyệt Minh thầm nghĩ lẽ nào là quỷ hỏa, có khi là kế dụ địch của nữ lang kia, nghĩ đến đó, y vỗ vỗ Khôi Tiễn: "Ra ngoài đợi ta".

Nhã tạ phong cảnh đẹp nhất Tây viện là Thư Hương Tạ, xây sát ra hồ, lầu cao hai tầng, lên đài lộ thiên tầng trên có thể thưởng lãm hết mỹ cảnh dưới đêm trăng của Quải Biều Trì.

Tiền Thế Thần lúc này đang ngồi trên đài cao ôm trọn cảnh quan không nơi nào bì được này, nhìn Bách Thuần rót mỹ tửu vào chén của gã, lòng trào dâng cảm giác kỳ dị. Nếu mười năm trước mình không gặp phải Bách Thuần, khẳng định đâu có chủ ý muốn được Sở hạp. Gã con nhà cự phú, lại là con một, được cha mẹ cưng chìu, không biết trời cao đất rộng, lớn lên không coi ai ra gì, bao gồm cả Phụng công công. Không đoạt được Sở hạp là thất bại đầu tiên trong đời gã, cũng là thất bại nghiêm trọng nhất, làm cho gã tỉnh ngộ lại, Tiền Thế Thần gã cũng có thể thua, hơn nữa có thể thua đến mức nhà tan người mất.

Bách Thuần sau khi châm đầy rượu cho Tiền Thế Thần, lại châm cho mình, nhẹ nhàng hỏi: "Nô gia hồi nãy tiến vào thấy đại nhân thần tình cổ quái, đại nhân đang nghĩ gì vậy?".

Tâm thần của Tiền Thế Thần hoàn toàn bị nàng thu hút, không có cách nào dời ánh mắt đi, gã chưa từng gặp nữ nhân nào mỹ lệ hơn nàng, biết ý hiểu ý hơn nàng. Tâm sự của mình đương nhiên không qua mắt được nàng. Tâm thần túy lúy đáp: "Bách Thuần có nghe nói tới Vân Mộng Trạch chứ?".

Bách Thuần ngồi đối diện gã, đôi mắt đẹp chăm chú nhìn gã: "Người trú ở Động Đình Hồ, đương nhiên biết Vân Mộng Trạch là cổ danh của Động Đình Hồ. Đại nhân muốn nói gì vậy?".

Tiền Thế Thần đâu có hiểu lầm thứ thần thái này của Bách Thuần đối với gã là thâm tình lo nghĩ tới mình, bởi Bách Thuần quá nổi tiếng câu dẫn nam nhân, chơi bỡn bọn họ, lại không có ai có thể làm cho nàng thật sự động lòng. Mà sức dụ hoặc của nàng tựa hồ còn lớn hơn cả Sở hạp, để được nàng, gã chịu bỏ ra bất kỳ một giá đắt nào, ít ra vào giờ phút này gã đang nghĩ như vậy.

Mỉm cười thốt: "Đó là Vân Mộng Trạch cổ đại, Vân Mộng Trạch hiện tại thì ở đâu?".

Bách Thuần như bị dẫn dụ nỗi hứng thú, đôi mắt đẹp chớp chớp, điềm đạm nói: "Đại nhân muốn lưu giữ nô gia à? Sợ rằng không dễ đâu".

Tiền Thế Thần thích nhất là sự thẳng thắn trực tiếp của nàng, hoàn toàn không coi gã là trọng thần nắm đại quyền sinh sát ở địa phương này, đây là cảm giác rất mới mẻ. Muốn lưu giữ Bách Thuần, để tiểu tử kia biết điều mà lui, gã cần bỏ ra cố sự rực rỡ nhất. Gã trầm giọng: "Bách Thuần nếu chịu thề không đem nội dung cuộc đối thoại đêm nay của bọn ta tiết lộ cho người thứ ba biết, ta sẽ kể cho Bách Thuần nghe cố sự đẹp đẽ thê lương nhất có liên quan với Vân Mộng Trạch. Nếu Bách Thuần không có hứng thú nghe, giờ có thể lập tức ra đi, Tiền Thế Thần ta tuyệt không làm khó cố giữ, cũng sẽ không trách cứ Bách Thuần".

Bách Thuần như lần đầu quen biết gã, ngạc nhiên thốt: "Đại nhân tại sao đêm nay như biến thành một người khác vậy? Ài! Ngài thật khiến cho nô gia khó xử quá, cố sự đẹp đẽ thê lương, lại có liên quan đến Vân Mộng Trạch, hơn nữa là Vân Mộng Trạch của hiện tại, có thể tiết lộ vài câu nghe thử, để nô gia định xem có nên nghe hay không được chứ?".

Tim Tiền Thế Thần run bây bẩy, sau khi cha nói cho gã nghe bí mật liên quan đến Sở hạp, gã chỉ từng kể cho một mình Qua Mặc biết, bây giờ gã sắp nói cho người thứ nhì nghe, nó là một thứ cảm giác làm cho người ta bất an. Nhưng tiếp xúc với đôi mắt đẹp của Bách Thuần, tất cả mọi cảm giác khó chịu đều không cánh mà bay, thầm nghĩ chỉ cần ta giấu đi chìa khóa trọng yếu nhất, Bách Thuần nghe được bất quá chỉ là một cố sự thần thoại xảy ra thời xa xưa, không một chút quan hệ với hiện thực. Huống hồ gã rõ nàng là người thủ tín biết giữ lời hứa, sẽ không đem bất cứ một lời nào đã kể đêm nay truyền ra ngoài, đây là đạo đức nghề nghiệp mà tất cả các thanh lâu cô nương cần phải tuân thủ.

Tiền Thế Thần thốt: "Ở phía đông Tương Giang, phía nam Động Đình, có một con sông quanh co ngoằn ngoèo, chảy qua vùng sơ dã Khâu Lăng chập chùng nhấp nhô như ba đào, người Sở cổ đại gọi là 'Vô Chung Hà', bởi nó thả mình được trăm dặm là quẹo vào sơn huyệt địa động chảy dưới lòng đất, kỳ thực nó rất có thể kêu là Vô Thủy Hà, bởi nó bắt nguồn từ dòng thác tuốt trên núi non chót vót phía tây Động Đình Hồ".

Bách Thuần nhịn không được hỏi: "Dòng sông kỳ quái như vậy, tại sao nô gia chưa từng nghe ai nhắc tới vậy?".

Tiền Thế Thần không đáp lời nàng, đôi mắt bắn ra thần sắc đắm mê sâu thẳm trong hồi ức, thản nhiên thốt: "Ở đoạn giữa của Vô Chung Hà, có một khối đá khổng lồ gọi là Tuẫn Tình Thạch, Tương phu nhân là nhảy từ tảng đá đó xuống sông, tự tử tuẫn tình vì Thuấn đế".

Bách Thuần hơi ngạc nhiên, thần thái hiện tại của Tiền Thế Thần nàng chưa từng thấy qua. Mấy tháng nay, Tiền Thế Thần chỉ cần có thể phân thân là liền đến Hồng Diệp Lâu tìm nàng, toàn là nói chuyện phong hoa tuyết nguyệt. Nàng cố nhiên muốn giữ chút mặt mũi cho người cha mập, nhưng nhận thức uyên bác của Tiền Thế Thần đối với đồ cổ quý báu cũng khiến cho nàng cảm thấy hứng thú.

Truyền thuyết thần thoại có liên quan đến Tương phu nhân, nàng chừng như đã thuộc nằm lòng qua miệng của đám văn nhân chí sĩ một dải Động Đình Hồ. Nghe nói Nghiêu đế có hai người con gái, chị là Nga Hoàng, em là Nữ Anh, đều gả cho Thuấn đế. Nga Hoàng Nữ Anh cùng cộng sự cho một chồng, trở thành giai thoại thiên cổ. Sau này Thuấn đế đi tuần du phương Nam, mất ở Thương Ngô, hai nàng nghe tin liền đến, bi thống không nguôi, ngày đêm khóc than, nước mắt của họ nhỏ trên thân trúc, nhuốm loang lổ không tan biến, trở thành loại Ban trúc đặc sản địa phương, sau này thay nhau tuẫn tử. Có nói họ nhảy xuống Tương Giang tự tận, cũng có chỉ nơi bọn họ chết ở giữa sông Tương, trở thành thần phối ngẫu trong lòng người bản địa. Do Nga Hoàng làm chính phi, được xưng là Tương quân, Nữ Anh được xưng là Tương phu nhân. Trong "Sở Từ - Cửu Ca" có hai bài thơ "Tương quân" và "Tương phu nhân", chân núi phía đông Quân Sơn đảo trong Động Đình Hồ có mộ của nhị phi, là xây để tưởng niệm họ.

Bách Thuần sực tỉnh ngộ: "Thì ra đại nhân muốn nói đến cố sự Tương phu nhân".

Tiền Thế Thần lộ nụ cười cao thâm khó lường, trầm giọng: "Tương phu nhân chỉ là khởi đầu của toàn cố sự. Bách Thuần có chịu thề không?".

Thấy vẻ đắc ý trong mắt Tiền Thế Thần, Bách Thuần lòng mâu thuẫn, cái gì Vô Chung Hà, Tuẫn Tình Thạch, Tương phu nhân, đối với nàng đều sinh ra sức hấp dẫn kỳ dị, thêm vào Tiền Thế Thần làm ra vẻ thần bí, lại kể lể rành rọt, làm cho nàng càng muốn biết thực hư, biết mình nếu bỏ qua cơ hội này, về sau Tiền Thế Thần khẳng định sẽ không nhắc lại chuyện này nữa, mình cũng không có cách nào mặt dày đi yêu cầu gã nói ra. Tiền Thế Thần tại sao lại muốn mình thề thốt? Bên trong bao hàm bí mật gì không thể cho người ta biết?

Vô Song Nữ một tay cầm đuốc, tay kia dẫn Hắc Nhi, lần theo một cái hồ nhỏ tiếp tục thâm nhập vùng đầm lầy. Sương mù càng lúc càng dày đặc, ánh đuốc chỉ có thể chiếu rọi khu vực phương viên ba trượng, bên ngoài nồng đậm hơi nước.

Sâu kín trong lòng nàng trào dâng cảm giác khôn tả, mình khẳng định là lần đầu bước vào khu địa vực kỳ dị này, nhưng lại khơi khơi có cảm giác cổ quái như trở lại. Tại sao lại có cảm giác kỳ quái như vậy? Lẽ nào từng mộng du đến đây? Nhưng nàng chưa từng nằm mơ thấy khung cảnh như vầy mà.

Trên sự thật từ lúc nàng đạp chân vào Vân Mộng Trạch, mọi thứ đều như khác biệt hẳn, như tiến vào một giấc mộng xa vời, giới hạn giữa hiện thực và mộng cảnh biến thành mơ hồ, nàng hãm mình trong một giấc mộng không có cách nào tỉnh dậy được.

Hắc Nhi im lặng một cách kỳ lạ.

Vùng đầm lầy kỳ dị này không còn do con người điều khiển nữa, mà chịu sự thao túng của một lực lượng thần bí. Nàng không rõ mình sao lại có ý tưởng vô lý không hợp lẽ như vậy, nhưng cảm giác khơi khơi lại là thế. Đầm lầy tựa như có một thứ dị lực gì đó, dẫn dắt tâm tình khó hiểu trong lòng nàng.

Bí mật An Giới nói ra quả là biện pháp tìm đến cữu cữu. Sau khi cữu cữu giao nàng cho An Giới, nhắn lời trước hết sẽ ẩn náu năm năm, sau đó mỗi năm vào khoảng Quỷ tiết sẽ đến Vân Mộng Trạch, nếu muốn liên lạc với ông ta, có thể để lại ký hiệu bốn bề đền thờ Tương Phi trong khu rừng Ban trúc góc nam Vân Mộng Trạch, ông ta sẽ đến gặp vào giờ Tý.

--- Nếu không có tiểu tử đáng ghét kia theo đuổi, mình nhất định sẽ trực tiếp đến đó, xem xem cữu cữu có đến sớm không.

Nàng không muốn đợi nữa.

--- Ta thề phải làm thịt tên tiểu tử kia.

Hồi 12: Động Nhân Cố Sự

Bạch Thuần nụ cười tươi sáng hẳn, làm cho nàng càng thêm phần diễm lệ, giơ một ngón tay thốt: "Thêm một câu nữa!".

Tiền Thế Thần lại mở miệng: "Ta chính là con cháu của dòng Sở vương thời đó".

Gã khoan thai nói một cách thống khoái. Chỉ có câu đó mới có thể lưu giữ Bách Thuần lại, sức hấp dẫn có căn có cứ vượt xa hư cấu không không.

Bách Thuần lộ thần thái động hồn xưa nay, cầm chén rượu lên nói: "Bách Thuần dùng rượu này để thề, sẽ không đem lời nói hôm nay tiết lộ ra dù chỉ nửa câu. Bất quá tôi vẫn giữ quyền bỏ đi bất cứ lúc nào, đại nhân phải tuân thủ lời hứa. Bọn ta cạn một chén này".

Tiền Thế Thần nhấc chén hồi lễ, hai người vừa cạn rượu, đôi mắt đẹp mê hồn của Bách Thuần chăm chú nhìn, phòng tuyến trấn giữ bí mật của Tiền Thế Thần không thể không thoái lui ít nhiều: "Đoạn sông Tương phu nhân lao mình xuống đã xảy ra chuyện kỳ diệu vô cùng. Chuyện này sao lại xảy ra, không ai biết được, bởi phải đến sau khi dân tộc Kinh Sở bọn ta lập quốc mới ngẫu nhiên phát hiện".

Bách Thuần rất hứng thú, hỏi: "Thật ra đã phát sinh kỳ sự gì vậy?".

Tiền Thế Thần hít một hơi sâu, đôi mắt bắn ra thần sắc bồn chồn khao khát: "Chuyện này xin để ta nói sau, đó là vật thần dị vô cùng, nhưng đồng thời cũng đáng sợ phi thường. Lúc đó một dải Vô Chung Hà toàn là đầm lầy rừng rú hoang dã, còn chưa được khai hoang, thêm vào giao thông bất tiện, cho nên tuy oanh động, lại chỉ giới hạn những người xung quanh biết được. Lại trải qua mấy chục năm, dị sự của Vô Chung Hà cuối cùng truyền vào tai Sở vương đương thời, Sở vương vừa sợ vừa mừng, thân hành đi xem thử".

Bách Thuần dỗi hờn đáng yêu: "Thật ra chuyện gì làm cho Sở vương ngày nào cũng bận rộn quốc sự cũng phải di giá đi Vô Chung Hà vậy? Hơn nữa lại vừa sợ vừa mừng. Sao có thể có bí ẩn dụ hoặc đến thế, đại nhân thật là ranh mãnh mà".

Tiền Thế Thần bị thần thái động hồn hờn mát nũng nịu của nàng khiến con tim cơ hồ tan chảy hết: "Đó là một thần tích không có ai có thể giải thích được, không tận mắt chứng kiến thì không dám tin. Ài! Ta phải nói làm sao đây? Sở vương tuy có duyên tận mắt chứng kiến, lại không có duyên lấy được, trong lòng không phục, phái thủ hạ đại tướng ở Trúc thành gần Vô Chung Hà lo đảm trách việc canh giữ vật này, nghiên cứu cách lấy nó. Từ đó khu thành này được coi là cấm địa, dòng Sở vương gọi là Tiểu Vân Mộng".

Bách Thuần đôi mắt đẹp càng sáng lên, trông đợi: "Đó là Vân Mộng Trạch của ngày nay mà đại nhân đã nhắc tới. Nhưng Vô Chung Hà và cổ thành vẫn tồn tại sao?".

Tiền Thế Thần trầm ngâm không nói gì, thì ra gã phát giác đang lúc khí trời nóng bức như vầy, kể chuyện này lòng bàn tay không ngờ lại toát mồ hôi lạnh, nhớ khi tiết lộ bí mật cho Qua Mặc biết, cũng có tình huống như vầy, có thể biết bí mật này có sức ước thúc rất lớn đối với gã, làm cho gã sinh ra cảm giác rùng mình vì phạm cấm. Bất chợt Khâu Cửu Sư gì gì cũng biến thành không đáng lo ngại nữa, để Bách Thuần đi gặp hắn thì đã sao? Nếu Bách Thuần thật sự vừa gặp đã chung tình với hắn, đã dốc lòng cho hắn, bất kể cố sự gã kể ra có đẹp tới đâu, vẫn là chuyện vô bổ.

Ở phương Nam, người có tư cách làm đối thủ của gã đâu có nhiều, Khâu Cửu Sư xảo hợp là một trong số. Một trong những điều kiện Phụng công công cất nhắc gã là ở lại làm quan địa phương vùng Động Đình Hồ, dễ bề tìm kiếm cổ thành trong Vân Mộng Trạch, bất quá chính sách của triều đình là không cho phép đại thần làm quan một chỗ quá năm năm, để tránh nắm quyền trường kỳ câu kết với các thế lực địa phương, ỷ thế lấn lướt. May sao Đại Hà Minh quật khởi, khiến cho Phụng công công không dám tùy tiện đổi gã. Nếu đổi phải hạng vô năng, Đại Hà Minh thanh thế càng khó khống chế; đổi thành hạng chí sĩ có tay, lại sẽ làm cho Đại Hà Minh nghĩ triều đình muốn thanh lọc bọn chúng, cho nên chức quan này đã ngồi mười hai năm.

Lúc Tiền Thế Thần còn chưa ngồi vững ngôi vị, không ngờ đụng phải Phu Mãnh dẫn người đến tìm Sở hạp, Phu Mãnh đương nhiên không biết gia tộc của gã từ đời này qua đời nọ đều đang hết sức tìm kiếm Sở hạp. Họ Phu còn muốn được sự ủng hộ và hợp tác của người đất này, khiến cho gã cảm thấy đây là thời cơ tốt ông trời ban cho gã, bất chấp hậu quả đi thỉnh Qua Mặc xuất thủ tương trợ, dẫn tới khốn cục tiến thoái lưỡng nan ngày nay. Cho nên Khâu Cửu Sư là kẻ gã không đụng được, nếu ép Đại Hà Minh tạo phản, Phụng công công khẳng định sẽ không tha cho gã.

Tiền Thế Thần dựa lưng lên ghế, nhắm chặt mắt hòng làm giảm bớt sức ảnh hưởng của Bách Thuần đối với gã, bất lực thốt: "Bách Thuần nếu muốn đi, bây giờ có thể đi rồi".

Bách Thuần hơi ngạc nhiên, thần thái động tĩnh của Tiền Thế Thần đêm nay khác hẳn ngày thường, đang nói huyên thuyên, đột nhiên lại đánh trống lui quân, dĩ nhiên càng làm cho lòng hiếu kỳ của nàng thêm dấy động. Lúc này nàng đã dồn hết tâm trí vào Khâu Cửu Sư, hờn mát: "Bách Thuần từ kinh sư đến Lạc Dương, chính là vì ngưỡng mộ Động Đình Hồ căn cội văn hóa Kinh Sở của các người. Vào thời Xuân thu Chiến quốc, văn hóa Tề và văn hóa Sở đều có khác biệt với các nước chư hầu khác, văn hóa tràn đầy sắc thái địa phương. Người Tề giàu trí tưởng tượng đến hoang đường, người Sở các người thì lãng mạn nhất, thủy tổ là Hỏa thần phiêu diêu cất cao, Hà thần là mỹ nữ thiên kiều bách mị, còn có lọng khổng tước văn hoa quyền quý, tiêu tương quế tửu thơm lừng, vu nữ quần là áo lượt. 'Sở Từ' truyền đời cũng uyển chuyển triền miên khác với 'Thi Kinh' chất phác thẳng thắn. Bây giờ nô gia vừa nghe được chuyện mới mẻ lý thú, ngài lại muốn đuổi người ta đi, có phải muốn người ta sau này đừng gặp đại nhân nữa không? Ngài sợ người ta không thủ tín phản lại lời thề sao?".

Tiền Thế Thần chưa từng thấy Bách Thuần nũng nịu hờn dỗi với mình như vậy, nhịn không được trợn tròn mắt, dưới ánh trăng, Bách Thuần càng đẹp đến mức khó bì, liền làm cho gã quên đi mọi sự.

Cô Nguyệt Minh thần tốc tiến tới trong vùng đầm lầy hơi nước đậm đặc bao trùm, đây là bản lãnh đặc thù của y, có thể đơn thuần bằng vào xúc giác linh dị mà nhận ra lối đi trong bóng tối giơ bàn tay ra cũng không thấy được. Lúc này đằng trước y truyền đến mùi vị của nước, giúp cho y biết được phía trước là đầm nước, bên phải là mùi lá mục. Chỗ có lá mục đương nhiên là đất bằng có thể bước đi.

Y đuổi theo gần một canh giờ, ánh đuốc vẫn lúc ẩn lúc hiện đằng trước, tựa như đang dẫn dụ y truy bắt. Đối phương hiển nhiên quen thuộc hoàn cảnh Vân Mộng Trạch phi thường, nếu không đã sớm bị y đuổi kịp rồi.

Lúc này y khẳng định đối phương không phải là nữ lang kia, bởi y ngửi thấy khí vị của một người khác, mà lại càng không phải là người tầm thường, không phải ý nói thân thủ của y, mà là khí tức y để lại, có khác với người thường.

Tiền Thế Thần không hồi đáp câu hỏi hồi nãy của Bách Thuần, nói tiếp: "Thành mới ở Tiểu Vân Mộng Trạch tên là Chuyên thành, người xung quanh đổi gọi nó là Vân Mộng Trạch. Thành chủ đời đầu trung thành cẩn cẩn với Sở vương, sau khi nhậm chức lãnh mệnh, trọn đời dốc hết sức tìm cách lấy được dị bảo trong Vô Chung Hà, lại thất bại qua đời, đến khi con trai của lão kế vị ngôi Thành chủ, sự tình mới có chuyển biến".

Bách Thuần nhíu mày: "Thật ra là vật gì vậy? Đại nhân càng nói càng làm cho nô gia hồ đồ".

Tiền Thế Thần thở dài: "Để ta nói từ từ có được không? Thành chủ đời thứ nhì là một nhân vật siêu trác, luận về binh pháp võ công thì đều là nhân vật đứng hạng nhất nhì trong đất Sở. Không biết có phải do sự an bài của số phận, vào một cơ hội ngẫu nhiên, trong kho tàng của một chư hầu nhỏ gần đó, phát hiện ra một vật có mối liên quan vi diệu với dị vật trong Vô Chung Hà, rất có thể là phương pháp duy nhất để giải quyết nan đề".

Bách Thuần bất mãn: "Lại là vật này vật nọ, đại nhân có thể nói rõ hơn chút được không?".

Tiền Thế Thần cười khổ: "Đó là một cái hộp vuông cổ quái có khảm dạ minh châu, chế ra từ chất liệu người ta chưa từng thấy qua, còn về lai lịch của cái hộp đó, có lẽ có liên hệ kỳ dị gì đó với linh vật của Vô Chung Hà, lại không biết phải bắt đầu nghiên cứu khảo nghiệm từ đâu".

Bách Thuần trực giác cảm thấy Tiền Thế Thần không nói thật lòng, gã nhất định biết được lai lịch của cái hộp cũng như quan hệ với linh vật dưới sông, chỉ là không muốn nói ra. Phương diện này bằng vào bản lãnh nghiêng ngả châm chích của nàng, sớm muộn gì cũng có thể cạy khỏi miệng Tiền Thế Thần, không cần phải gấp vội nhất thời. Nàng hỏi: "Dạ minh châu?".

Tiền Thế Thần trịnh trọng thốt: "Tuyệt không phải là cái gọi là dạ minh châu bình thường, mà là một kỳ bảo thật sự có thể hiển lộ kim quang mãnh liệt trong bóng tối, một viên dạ minh châu như vậy đáng giá liên thành".

Bách Thuần dịu dàng hỏi: "Đại nhân có thấy qua chưa?".

Tiền Thế Thần buồn bã lắc đầu: "Ước gì ta đã từng thấy nó, ta chỉ là nghe sử sách truyền miệng lại thôi".

Tiếp đó trầm giọng: "Nếu thuở đó có Ngũ Độn Đạo, lại chịu để Chuyên thành Thành chủ sai khiến, đi trộm hộp quý cho y, thì đâu thể xảy ra thảm sự về sau".

Bách Thuần ngạc nhiên: "Đại nhân tại sao lại đột nhiên nhắc tới Ngũ Độn Đạo vậy?".

Tiền Thế Thần đáp: "Ta chỉ là chợt nảy sinh ý tưởng thôi, Bách Thuần có đoán được Chuyên thành Thành chủ dùng phương pháp gì để được bảo hạp không?".

Bách Thuần hứng chí: "Tên đó đã muốn bội phản Sở vương, nếu không chỉ cần bẩm báo lên Sở vương, Sở vương có thể ra lệnh cho chủ nhân của cái hộp hiến dâng lên. Dưới sông thật ra có vật gì? Không ngờ lại có ma lực to tát như vậy".

Tiền Thế Thần cảm khái như mình đang trong hoàn cảnh đương thời. Mình chính vì Sở hạp mà bội phản Hoàng thượng, chỉ tức Qua Mặc không phải là Ngũ Độn Đạo, sắp được lại thất bại, chưa thể thành công đoạt bảo, còn để lại một cục trường lộn xộn rối rắm nữa.

Vô Song Nữ dẫn Hắc Nhi đi lên một tảng đá khổng lồ như đầu cá sấu nhìn trời, dưới ánh đuốc chiếu rọi, dòng sông rộng mấy trượng chảy rót ra từ trong vùng sương mù, lại chui biến trong sương mù, tựa như không có nguồn cũng không có kết, đang giữa mùa hạ, nước sông tràn đầy, dòng nước chảy siết. Cái khiến người ta không ngờ là trong Vân Mộng Trạch còn tàng ẩn một dòng sông như vậy.

Đứng ở điểm cao nhất của bờ đá, cúi xuống nhìn dòng nước trôi qua bên dưới, cứ như đứng ở rìa vách đá hiểm trở chót vót, cảm giác cổ quái đến cực đoan, đặc biệt là ở địa vực kỳ dị bị hơi nước biến thành hư vô này.

Vô Song Nữ lòng hoang mang thất thần, vốn nàng vẫn tin rằng một khi cha và cữu cữu đã có thể tìm đến cổ vực, thì nàng cũng có thể làm được, nhưng dấn thân vào kỳ cảnh, lòng tin của nàng đã dao động hẳn. Đây là một địa vực không thể suy tính theo lẽ thường.

Hắc Nhi vụt dậm chân hí vang, thoái lùi ra sau.

Vô Song Nữ liền kéo giữ nó, kêu lên: "Hắc Nhi đừng mà, xảy ra chuyện gì?".

Hắc Nhi đôi mắt bắn ra thần sắc kinh hoàng, trợn mắt nhìn sang bờ bên kia.

Vô Song Nữ kinh hãi ngoái nhìn, lập tức nổi da gà, chỉ thấy dưới ánh hỏa quang chiếu rọi, bờ bên kia xuất hiện lấm tấm tinh quang màu vàng xanh, còn truyền sang tiếng thở khiến người ta kinh hồn khiếp vía, Vô Song Nữ gan dạ ngút trời mà cũng phải rùng mình phát lãnh.

Định thần nhìn kỹ một chút, không ngờ là mười mấy con sói hoang thân hình to lớn, bọn chúng chắc là tuốt từ đằng xa bờ bên kia ngửi thấy hơi hướm người ngựa mà phóng tới, đang hổn hển hít thở, tụ tập đối diện bọn họ sát bờ bên kia, kỳ lạ là không gầm gừ hú gào, chỉ lẳng lặng trợn trừng nhìn bọn họ.

Vô Song Nữ quay đầu nhìn ra phía sau mình, không thấy có con sói nào, mới thở phào một hơi. Nàng chưa từng nghĩ tới chướng ngại tìm kiếm cổ thành có thể là một bầy ác thú tính khí hung tàn kia. Càng khiến cho nàng hoảng kinh khiếp hãi là càng lúc càng có nhiều sói lang hiện thân trong vùng sương mù bờ bên kia, nháy mắt đã tụ tập hơn ba chục con ác lang. Nếu để bầy sói bao vây, nàng và Hắc Nhi khẳng định sẽ thành đồ ăn cho lũ sói đói.

Vô Song Nữ dắt Hắc Nhi, chầm chậm thoái ra sau, cái nàng sợ nhất là bầy sói vọt xuống sông, lúc đó nàng chỉ có một chọn lựa, là nhảy lên lưng Hắc Nhi, dựa vào bản lãnh nhận ra đường xá trong đêm tối của Hắc Nhi mà chạy ra ngoài Vân Mộng Trạch.

Vượt ngoài ý liệu của nàng, bầy sói không hiển lộ thần sắc hung ác gì, im ỉm đưa mắt tiễn đưa bọn họ thoái lui.

Về đến đầm lầy, Vô Song Nữ đã mất đi dũng khí vượt sông, đổi sang đi về hướng nam, lúc này nàng chỉ hy vọng sớm đoàn tụ với cữu cữu, mấy chuyện khác chờ dịp hãy nghĩ cách.

Tiền Thế Thần thốt: "Đó là một dị vật không ai rõ được, thuở đó ai ai cũng tin rằng vật này bắt nguồn từ Tương phu nhân lao mình xuống sông tuẫn tình, là vật vượt quá sức liệu giải của người phàm".

Bách Thuần tròn đôi mắt đẹp: "Vậy là tiên phẩm rồi, thật ra là vật gì? Lẽ nào nhìn thấy lại không sờ đụng được? Nếu không sao lại không có cách nào lấy được? Hay là linh thú?".

Tiền Thế Thần thật không muốn nói ra, đằng hắng một tiếng: "Mặt đó không rõ mấy. Để bọn ta về lại cố sự đi, chủ nhân Chuyên thành nghĩ ra một biện pháp chiếm lấy bảo hạp, là cưới con gái chư hầu làm vợ, nói rõ muốn dùng bảo hạp làm của hồi môn, như vậy liền có thể qua mắt được người ta".

Bách Thuần gật đầu: "Kế hay không có sơ hở gì, hay cho y đã nghĩ được, sao lại có thể xảy ra vấn đề chứ?".

Tiền Thế Thần đáp: "Vốn là không nên có vấn đề, tiểu chư hầu tuy nhận ra lòng tham của Chuyên thành Thành chủ đối với bảo hạp của lão, lại không nghĩ tới sự tình quan hệ trọng đại, đương nhiên trong lòng không phục, nhưng dưới sự uy hiếp của Chuyên thành Thành chủ, chỉ đành đem dâng hai tay con gái và bảo hạp. Con gái tiểu chư hầu đẹp bách mị thiên kiều, hương sắc khuynh quốc khuynh thành, Chuyên thành Thành chủ thì anh tuấn hiên ngang, trẻ tuổi lại có quyền vị, vốn là trời ban kết hợp, chỉ tiếc Chuyên thành Thành chủ tâm thần hoàn toàn bị linh vật dưới sông thu hút, không còn cảm thấy hứng thú với chuyện nào khác, bao gồm cả một tuyệt sắc như vậy".

Bách Thuần hằn học thốt: "Nam nhân ngu xuẩn!".

Tiền Thế Thần chợt cảm thấy nàng tuy mắng Chuyên thành Thành chủ, trên sự thật là mắng cả chính mình đây, vẻ mặt liền mất tự nhiên hẳn, lại đằng hắng một tiếng: "Ân oán ràng buộc giữa bọn họ, sợ rằng phải là người trong cuộc mới rõ, chỉ biết quan hệ giữa phu thê bọn họ không ngừng ác hóa, đến khi cha của mỹ nữ chết vì quá căm phẫn bị khi dễ lấn hiếp cũng như con gái phải chịu khổ, mỹ nữ cuối cùng phát hiện chân tướng nguyên nhân Chuyên thành Thành chủ cưới nàng làm vợ, quyết định bất chấp tất cả để báo thù".

Bách Thuần ngạc nhiên: "Nếu đổi là tôi, sẽ chờ lúc ngủ say đâm cho y một đao, giết kẻ phụ lòng đó".

Tiền Thế Thần không để ý tới lời nói của nàng, thốt: "Nàng ta nghĩ ra một kế hoạch còn đáng sợ hơn, là lợi dụng cơ hội về nhà tống táng, viết một phong mật hàm, phái người đưa cho Sở vương. Sở vương phừng phừng nổi giận, lập tức ra lệnh cho Chuyên thành Thành chủ giao bảo hạp ra, đến lúc chủ nhân Chuyên thành cự lệnh không tuân, Sở vương phái một mãnh tướng tề danh cùng Chuyên thành Thành chủ đương thời dẫn tám ngàn đại quân công đả Chuyên thành, Chuyên thành Thành chủ vẫn không chịu khuất phục, dùng binh lực hai ngàn quân cố thủ, triển khai trường huyết chiến vây thành kéo dài tám năm".

Bách Thuần không nén cảm xúc: "Thì ra lại kích thích đến thế, thành bị công phá dưới tình huống ra sao?".

Tiền Thế Thần trầm giọng: "Chuyên thành đâu phải bị công hãm, đánh đổ thành này chính là ông trời".

Bách Thuần ngạc nhiên.

Lúc này tiếng bước chân vang lên.

Tiền Thế Thần lộ thần sắc không vui, nhìn sang người mới đến, thấy là một cận vệ theo hầu, ngạc nhiên hỏi: "Chuyện gì?".

Cận vệ đi thẳng đến bên gã, ghé vào tai gã nói: "Quý đại nhân đang ở quảng trường cửa chính chờ đại nhân".

Tiền Thế Thần chột dạ, lập tức biến sắc.

Kinh thành. Lân Hoa Cư.

Hoa Mộng phu nhân lên xe ngựa, xe ngựa lập tức khởi hành, ra khỏi cửa lớn, mấy đại hán mặc thường phục giục ngựa theo sau.

Hoa Mộng phu nhân ngồi xuống bên cạnh Ký Thiện, không vui thốt: "Chuyện gì đây? Trước chuyện lại không thông tri cho tôi biết, bắt ép tôi lên xe ngựa của ngài, công công càng lúc càng làm tới đó".

Ký Thiện bình tĩnh: "Phu nhân có phải rất khinh bỉ ta, không muốn dính líu kề cận ta chút nào phải không?".

Hoa Mộng phu nhân rùng mình, thầm nghĩ lẽ nào gã muốn giết mình, bất quá lúc này thịt đã đặt trên thớt, đâu đến phiên nàng tác chủ. Nàng trầm giọng: "Công công tại sao lại nói mấy lời như vậy?".

Ký Thiện thốt: "Ta từ nhỏ đã theo hầu Hoàng thượng, tận tâm tận lực, Hoàng thượng đối với ta cũng thân cận vô cùng, sủng ái hơn nhiều. Nhìn Hoàng thượng không ngừng trưởng thành, nỗi hân hoan trong lòng ta nào có ai biết chứ".

Hoa Mộng phu nhân hoàn toàn không hiểu dụng ý sau lưng mấy lời nói đó, gã như đắm chìm trong một đoạn ngày tháng nhớ nhung, giọng điệu bi sảng thương cảm, phối hợp với không khí rèm màn trong thùng xe thả phủ, làm cho người ta cảm thấy kỳ dị vô cùng. Giữa người đánh xe và thùng xe đậy kín, chỉ cần bọn họ không rướn cổ lớn tiếng, không có người thứ ba nào nghe được cuộc đàm thoại của bọn họ.

Ký Thiện nói tiếp: "Đến khi Hoàng thượng được mười bảy, có một ngày người đuổi mấy người khác ra ngoài, đơn độc hỏi ta một câu, lúc đó ta thật không nghĩ ra đáp án, về nhà suy tư mấy ngày trời, cuối cùng đã có đáp án".

Hoa Mộng phu nhân thầm nghĩ đây là chuyện mười mấy năm trước, Ký Thiện nhắc lại chuyện cũ, khẳng định là có thâm ý. Nhưng coi như có thể an tâm rồi, xem tình hình Ký Thiện đâu phải muốn hạ độc thủ với mình, nếu không đâu cần nói vu vơ.

Ký Thiện không nhìn nàng, thản nhiên thốt: "Câu hỏi của Hoàng thượng là làm sao để đánh đổ được Phụng công công. Ngày nào Phụng công công còn đó, Hoàng thượng không có cách nào thu hồi được quyền lực, cho dù bụng đầy hồng đồ đại kế để chấn hưng quốc gia, kế sách trị quốc an dân, cũng chỉ là hữu tâm vô lực. Lúc Hoàng thượng nói ra nguyện vọng trong lòng ngài, ta cảm động vô cùng, vào lúc đó, ta lập tức thề nguyền cho dù phải chết một cách thê thảm nhất, cũng phải ngọc thành nguyện vọng của Hoàng thượng".

Hoa Mộng phu nhân nghe vậy tê tái thần hồn, Ký Thiện thật là người như vậy sao? E rằng trong kinh thành không có một ai tin nổi. Lời nói của gã có thật hay không, chỉ có trong lòng Hoàng thượng mới có đáp án.

Ký Thiện nói tiếp: "Ba ngày sau, ta quay lại nói với Hoàng thượng chỉ có một biện pháp hạ gục Phụng công công, là để ta trở thành tâm phúc của lão, hoàn toàn nắm bắt thế lực khổng lồ trong tay lão, đánh đổ lão từ trong nội bộ".

Hoa Mộng phu nhân thở gấp vài hơi: "Đây chắc là chuyện cơ mật nhất giữa Hoàng thượng và công công, tại sao phải để ngoại nhân như tôi biết đến?".

Ký Thiện điềm đạm thốt: "Phu nhân còn coi là người ngoài được sao?".

Cuối cùng nhìn sang nàng, nói một cách thống khổ: "Do đó ta đã thành chó săn của Phụng công công, đi làm đủ thứ chuyện thương thiên hại lý cho lão, khiến vô số người nhà tan cửa nát, ta cũng chịu đủ mọi khiển trách lương tâm, nhưng ta biết mình đang từng bước đi tới thành công, cần phải kiên trì mà làm. Mười năm trước, bọn ta vốn có một cơ hội thành công, Hoàng thượng gieo trồng bồi dưỡng được một Phu Mãnh, mà Phụng công công thì có Quý Nhiếp Đề, quan hệ giữa Phu Mãnh và Quý Nhiếp Đề chính là do Phu Mãnh tận miệng nói cho Hoàng thượng biết".

Xe ngựa chầm chậm lăn bánh trên đường cái trong bóng tối trước hừng đông, chỉ có tiếng vó ngựa bầu bạn.

Ký Thiện thốt: "Hoàng thượng luôn luôn hoài nghi Phụng công công bày mưu hại chết Phu Mãnh, nhưng chuyến này Phụng công công thỉnh Nguyệt Minh ra mặt, đi tìm vật đã mất mười năm trước, lại khiến cho toàn sự kiện vụt trở nên mờ mịt khó hiểu".

Ngưng một chút lại nói: "Không ai hiểu rõ sự lợi hại của Phụng công công hơn ta, thế lực của lão thâm căn cố đế, không người nào có thể lung lay, sách lược của ta cũng không phải là đụng đầu chính diện với lão, mà là đấu xem ai sống dai hơn, tìm cách nắm rõ quyền lực lão đang có trong tay, lão tuổi tác đã cao, có rất nhiều chuyện không thể không giao cho ta làm, mà ta đã dần dần tiếp thu quyền lực của lão. Hiện tại vạn sự đã chuẩn bị, chỉ cần bọn ta trừ khử một người, ta tin chắc có thể đào bật gốc rễ tập đoàn quyền lực của lão. Phu nhân đừng nghĩ sau khi loại trừ Phụng công công thì ta có thể thay thế Phụng công công, trở thành kẻ hưởng lợi lớn nhất. Đó là chuyện không thể nào, bởi thanh danh của ta xấu lắm rồi, nếu có thể an hưởng quãng đời còn lại cũng là quá may mắn. Cái ta vì là Hoàng thượng, cái ta vì là quốc gia. Hy sinh cá nhân đâu đáng nói tới".

Hoa Mộng phu nhân thầm nghĩ nếu lời nói của gã là thật, Ký Thiện quả là một vĩ nhân. Gã có thể nào là người như vậy sao? Bất quá nàng quả không có cách nào nắm bắt được bất kỳ sơ hở nào từ lời nói của Ký Thiện. Bất kể nàng có muốn hay không, nàng đã bị Ký Thiện lôi vào vòng tranh đấu quyền lực giữa Hoàng thượng với Phụng công công. Biết rõ Ký Thiện sẽ cho mình biết chuyện Cô Nguyệt Minh không dám tiết lộ với mình, nàng vẫn muốn biết. Nàng thì sao chứ? Đã biến thành kẻ biết chuyện, nàng sẽ bị ép đứng cùng một trận tuyến với Ký Thiện, vinh nhục cùng chung.

Mình thật chịu hy sinh tất cả vì Cô Nguyệt Minh sao?

Người Ký Thiện để ý không phải là nàng, mà là Cô Nguyệt Minh.

Chỉ có thông qua nàng mới có thể sách động Cô Nguyệt Minh. Nàng trực giác cảm thấy Ký Thiện không có biện pháp thuyết phục mình cam tâm để gã lợi dụng. Sự cao minh trong thủ đoạn của Ký Thiện nàng đâu có ngờ tới, không những khuyên nhủ quan hệ lợi hại, còn động tới tình cảm, làm cho nàng cảm thấy không phản bội lại nguyên tắc xử sự xưa nay của mình, đối đúng với lương tri.

Nàng hỏi: "Vật mất mười năm trước là vật gì?".

Ký Thiện hạ thấp giọng: "Đó là một cái hộp từ đời xa xưa, giấu trong một tòa cổ thanh ly kỳ bờ đông Tương Giang, chỗ ly kỳ là trải qua một thời gian dài một ngàn năm trăm năm, tuy không ngừng có người đi tìm kiếm cổ thành, cổ thành lại như biến mất trong nhân gian. Khu vực chỗ cổ thành, bầy sói hoang tụ tập ẩn hiện, thợ săn xung quanh lại tin có quỷ sứ hoành hành, không ai dám tiến vào, hơn nữa có cấm kỵ không dám đề cập với người ngoài, sợ gây ra vận rủi. Phu Mãnh nắm được hết bí mật có liên quan đến cổ thành qua một người tên là Mâu Xuyên, bẩm báo lên Hoàng thượng, Hoàng thượng động long tâm, phái Phu Mãnh đi tầm bảo, chuyện này là giấu Phụng công công mà tiến hành, nào hay đoàn tầm bảo toàn quân bị diệt, Phu Mãnh và một thủ hạ tâm phúc thất tung một cách ly kỳ, Phụng công công tới lúc đó nhúng tay vào chuyện, giết hại gia đình của Phu Mãnh xử quyết hơn ba chục đại thần tướng lãnh có quan hệ mật thiết với Phu Mãnh, tiến một bước tước giảm quyền lực của Hoàng thượng, đem chuyện tìm kiếm bảo hạp đặt hết lên mình".

Hoa Mộng phu nhân không nhịn được hỏi: "Phu Mãnh sao có thể là người như vậy?".

Ký Thiện thở dài: "Phu Mãnh khẳng định không phải là hạng người như vậy, ít ra Hoàng thượng không chịu tin là vậy, ta không tin là vậy, sợ rằng cũng không có ai tin. Mà ta càng rõ ba ngày sau khi Phu Mãnh dẫn người rời kinh đi tìm cổ thành, Quý Nhiếp Đề cũng rời kinh Nam hạ, cho nên Hoàng thượng luôn hoài nghi chuyện xảy ra với đoàn tầm bảo có liên quan với Phụng công công. Kỳ quái là cùng một lúc Phụng công công giết cả nhà Phu Mãnh, lại bắt hết một trăm ba mươi lăm mạng trong gia tộc của Mâu Xuyên tống vào nhà lao, còn đích thân tra khảo, rồi đem toàn thể xử quyết, càng làm khó hiểu. Bảo hạp tựa hồ chưa lọt vào tay Phụng công công, hiện tại lão sai Nguyệt Minh đi Động Đình, càng chứng thực ý tưởng đó của bọn ta. Bên trong nhất định đã xảy ra những chuyện bọn ta còn chưa biết được".

Hoa Mộng phu nhân hít một hơi lạnh: "Đó thật ra là cái hộp gì vậy?".

Ký Thiện thở dài đáp: "Cái hộp tuy là bảo vật giá trị liên thành, nhưng chỗ then chốt là vật cất trong hộp, nó là cái gì? Mâu Xuyên và tộc nhân của y chắc là kẻ biết chuyện, lại không nói ra, chỉ nói tới một cố sự xảy ra từ xa xưa có thể làm cho bất cứ một ai động tâm. Hiện tại Mâu gia không còn ai sống sót nữa, e rằng chỉ có Phụng công công biết rõ về vật cất giấu trong hộp".

Hoa Mộng phu nhân toàn thân lạnh ngắt, sự hoang đường ly kỳ của chuyện này hoàn toàn vượt ngoài trí tưởng tượng của nàng, kinh hãi hỏi: "Phụng công công muốn Nguyệt Minh đi tìm cái hộp đó?".

Ký Thiện đáp: "Đại khái là vậy. Cô Nguyệt Minh là con cờ lợi hại nhất trong tay Phụng công công, chuyện Quý Nhiếp Đề làm không được, chỉ có y hoặc giả có hy vọng làm được. Nếu có tuyển chọn, Phụng công công sẽ không để Cô Nguyệt Minh ra mặt, bởi bọn ta đều rõ con người của Cô Nguyệt Minh ra sao, nhưng Phụng công công không còn có thể nhẫn nại chờ đợi được nữa, cũng khiến cho bọn ta có được một cơ hội khó gặp, còn là cơ hội mà Hoàng thượng và ta một mực chực chờ".

Hoa Mộng phu nhân hít sâu một hơi: "Công công muốn Nguyệt Minh giết ai?".

Ký Thiện bình tĩnh thốt: "Phu nhân vẫn chưa đoán ra sao?".

Hoa Mộng phu nhân thân người run lên: "Quý Nhiếp Đề?".

Ký Thiện trầm giọng: "Quý Nhiếp Đề đối với Phụng công công, có khác gì là Phu Mãnh đối với Hoàng thượng. Phu Mãnh vừa đi, Hoàng thượng biến thành hoàn toàn không còn sức phản kích Phụng công công. Chỉ cần trừ diệt Quý Nhiếp Đề, Phụng công công sẽ biến thành hổ già không nanh, ta tin chắc nhổ bạt được cả gốc rễ của Phụng công công. Mà đây còn là cách giữ mạng duy nhất của Cô Nguyệt Minh, đến khi Nguyệt Minh lấy được bảo hạp, Quý Nhiếp Đề sẽ giết y diệt khẩu, cho dù Nguyệt Minh có thoát khỏi độc thủ của Quý Nhiếp Đề, về đến kinh sư Nguyệt Minh vẫn khó tránh khỏi cái chết, Phụng công công sẽ không để y sống sót. Chim hết bẻ ná, số phận của Nguyệt Minh đã định sẵn, cũng là hình ảnh tương lai của Ký Thiện ta".

Hoa Mộng phu nhân tim đập thình thịch, hổn hển hỏi: "Công công muốn tôi làm sao?".

Tiền Thế Thần đi xuống bậc thang đá ra cửa chính của Hồng Diệp đường, lập tức con tim co thắt lại.

Ba mươi sáu cao thủ xưởng vệ đặc cấp theo Quý Nhiếp Đề xuống Nam, người nào người nấy vũ trang toàn thân, đứng sững bên chiến mã, bộ dạng như viễn hành. Ba mươi sáu người này, không ai không là tinh nhuệ trong số tinh nhuệ, cứ chọn đại ra một người, đều có thể là cao thủ hàng đầu về một phương diện, ba mươi sáu người hợp lại, cho dù bị thiên quân vạn mã trùng trùng vây đánh, e rằng vẫn có cơ hội đột vây chạy thoát, huống hồ kẻ chỉ huy bọn chúng là Quý Nhiếp Đề.

Tiền Thế Thần đặc biệt lưu tâm đến cơ quan bắn tên nỏ giắt bên hông ngựa. Đó là vũ khí bí mật của xưởng vệ, có thể liên tục bắn ra bốn mũi tên nỏ, nghe đồn cực kỳ khó chế tạo, đến bây giờ chỉ mới chế được hơn bốn chục cái, mà trước mắt đã thấy ba mươi bảy cái, có thể biết Quý Nhiếp Đề lần này dốc hết toàn lực, quyết được mới thôi.

Quý Nhiếp Đề thần sắc lãnh tĩnh đứng đằng trước đám thủ hạ, đang quan sát Tiền Thế Thần.

Tiền Thế Thần phát lãnh, so với tình cảnh đối diện với tuyệt sắc vừa nãy, trước mắt là một thế giới khác hẳn, tràn đầy bạo lực, đao quang kiếm ảnh, máu lạnh và vô tình.

Cước bộ đưa gã tới trưóc mặt Quý Nhiếp Đề.

Quý Nhiếp Đề thấp giọng: "Nhãn tuyến bọn ta bố trí vòng ngoài Vân Mộng Trạch đã phát hiện Tiết Đình Hao, hắn hiện tại chắc đã tiến vào Vân Mộng Trạch rồi".

Tiền Thế Thần suýt nữa để lộ nét kinh hãi giấu trong lòng, liền ráng trấn áp tâm tình, lại nghĩ đến Qua Mặc đã đi trước một bước, cầu thần bái Phật hy vọng Qua Mặc có thể sát nhân diệt khẩu trước khi Quý Nhiếp Đề đến nơi, vội thốt: "Quý đại nhân phải hết sức cẩn thận, Vân Mộng Trạch không phải là chốn tầm thường, cả chó săn cũng kinh hoàng run sợ ở đó, không còn tác dụng gì nữa".

Gã biết rõ lời nói của mình không hợp với tâm địa. Trên thế gian này, hai người gã sợ nhất, đầu hết là Qua Mặc, thứ đến là Quý Nhiếp Đề. Mà vào giờ phút không nên nghĩ ngợi bậy bạ nhất này, gã lại chợt nảy sinh ý lạ, giả như hai người mình sợ nhất này chôn mình trong Vân Mộng Trạch hết, gã thề mình về sau sẽ không nghĩ tới Sở hạp nữa, sau này làm người an phận thủ kỷ. Gã thật đã chịu đựng quá đủ rồi.

Quý Nhiếp Đề ánh mắt tinh quang loang loáng chằm chằm nhìn Tiền Thế Thần, nhìn đến mức gã nổi da gà, rồi mới thong dong nói: "Không ai dám coi thường một địa phương như vậy, ta bây giờ lập tức lên đường, ở đây giao cho ngươi. Thế Thần cần hợp tác với Khâu Cửu Sư cho tốt, đừng để Ngũ Độn Đạo thoát thân, rõ chứ?".

Không đợi gã đáp lời, Quý Nhiếp Đề phất tay ra dấu, ba mươi sáu chiến sĩ toàn thể phi thân lên ngựa, toàn quảng trường liền sát khí đằng đằng, có không khí đại chiến sắp bùng nổ.

Tiền Thế Thần cúi đầu: "Mọi sự theo lời dặn của đại nhân".

Quý Nhiếp Đề nhấn bàn đạp lên ngựa, khoé môi hé lộ một nụ cười lãnh khốc, tiếp đó quát khẽ một tiếng, dẫn ba mươi sáu kỵ sĩ như cơn lốc cuộn ra cửa ngoại viện Hồng Diệp Lâu.

Hồi 13: Đương Niên Chân Tướng

Ký Thiện đôi mắt lấp loáng ánh sáng kỳ dị, trầm giọng: "Ở tình huống bình thường, muốn giết Quý Nhiếp Đề là chuyện không thể nào, nhưng ở địa vực kỳ dị đó, thêm vào Cô Nguyệt Minh, Quý Nhiếp Đề lại không có dạ đề phòng, chuyện không thể nào nhất cũng sẽ biến thành có khả năng. Nguyệt Minh giết Quý Nhiếp Đề, không những vì phu nhân nàng, còn là vì chính mình, vì Hoàng thượng, vì phước phận của quốc gia nhân dân. Ta có thể bảo chứng cho Hoàng thượng, chỉ cần y giết Quý Nhiếp Đề, mọi sự sẽ theo sở nguyện của y".

Hoa Mộng phu nhân đã hiểu, Ký Thiện từ đầu đâu có hảo ý gì với mình, hơn nữa bố cục chặt chẽ, từng bước từng bước ép nàng vào tuyệt địa, nếu không y theo ý của gã mà làm, nàng sẽ chết rất thảm, Ký Thiện đương nhiên cũng không có kết cục tốt đẹp gì. Mà nàng, Cô Nguyệt Minh và Ký Thiện, thậm chí cả Hoàng thượng, bốn người đã bị lưỡi câu của số phận móc phải.

Nàng căn bản không còn lựa chọn nào khác.

Với thế lực của Phụng công công, cuối cùng giấy cũng không gói được lửa, nếu để Quý Nhiếp Đề hồi kinh, cơ hội sẽ vĩnh viễn không trở lại.

Ký Thiện thốt: "Phu nhân trước hết đích thân viết một bức thư, bí mật dùng hệ thống phi cáp truyền thư đưa đến tay người của bọn ta ở Lạc Dương, người này rất có thân phận địa vị ở Lạc Dương, có thể trực tiếp gặp Chu Bàn Tử của Hồng Diệp Lâu. Họ Chu có thật có thể trông cậy như phu nhân đã nói chứ?".

Hoa Mộng phu nhân đáp: "Nhìn bề ngoài, quả không có ai nghĩ có thể trông cậy vào lão, nhưng chỉ là vì không tiếp xúc được con người thật của lão. Chu Bàn Tử là người có thể tín nhiệm tuyệt đối, nếu không tôi không thể để Bách Thuần đi giúp lão nâng cao tư cách của Hồng Diệp Lâu, càng không thể ủng hộ lão về mặt kim tiền. Công công an tâm đi".

Ký Thiện thốt: "Như vậy xin phu nhân động bút viết một phong mật hàm thứ nhì, để Nguyệt Minh hiểu rõ hoàn cảnh của y, vì phu nhân, ta tin Nguyệt Minh tuyệt không ngần ngại giết thêm một người".

Trời dần sáng.

Cô Nguyệt Minh phát giác mình đang dấn thân trong khu rừng cổ thụ rậm rạp xanh rờn sương mù quẩn quyện, bất kỳ một cây cổ thụ nào trong số khẳng định cũng đã sống hơn trăm năm, thậm chí từ mấy trăm năm đến cả ngàn năm cũng có, chừng như đã tồn tại từ xa xưa, chứng kiến sự hưng suy của nhân thế, sự chuyển dời thương hải tang điền.

Cổ thụ cao chọc tầng mây, có lẽ phải mười mấy người nối vòng tay mới có thể ôm vòng quanh gốc cây, thậm chí có một số uốn mình, hình thành ngàn vạn tư thế kỳ dị, hình thành nét tương phản mãnh liệt với vùng đầm lầy đêm hôm qua.

Trong rừng cây ngập đầy sức sống đủ thức đủ dạng, khỉ vượn nhảy nhót giữa các nhành cây, chim chóc thú rừng ẩn hiện đó đây, là vùng đất lành xa rời nhân thế chưa từng có con người xâm lấn. Nguyên thủy, mộc mạc, u tĩnh, thần bí.

Trong thế giới tựa như bị quên lãng này, không ngờ có một con đường dài phủ đầy lá mục thấp thoáng hiện hình, trải mình xuyên suốt giữa biển rừng mênh mông. Đây chắc là dịch lộ xây thời cổ đại, còn được bảo tồn như một kỳ tích.

Một bầy linh dương sừng cong có cả trăm con đang đi ngang đằng trước, có vài con chăm chăm tròn mắt nhìn Cô Nguyệt Minh một cách giới bị, lại mau chóng biến mất sâu trong rừng rậm, phảng phất như nai thần vụt hiện bóng tiên.

Cô Nguyệt Minh tặc lưỡi tán thán, một nơi tốt đẹp như vầy, tại sao không có bóng dáng loài người? Hoàn cảnh thiên nhiên xanh tươi phồn thịnh quá nhiều động vật hoang dã như vầy, đáng lẽ là vùng đất quý thợ săn giành nhau trổ nghề, sao có thể bỏ qua được?

Chợt Cô Nguyệt Minh bị đống đống gì đó bên đường thu hút, ngồi xổm xuống quan sát, đến khi khẳng định là phân sói, tỉnh ngộ nghĩ rằng không lạ gì đêm hôm qua Khôi Tiễn sợ hãi bất an, thì ra Vân Mộng Trạch là lãnh thổ của bầy sói, mấy đống phân này chính là ký hiệu của bầy sói, cảnh cáo các loài khác không được xâm nhập, vụt lại nghĩ tới Khôi Tiễn từng đối diện với sói hoang vùng sa mạc mà đâu có lộ thần thái kinh hoàng, sao lại vì ngửi được hơi sói ở đây mà đâm hoảng loạn khẩn trương? Thật không có cách nào hiểu nổi, chỉ còn nước nuôi ngờ.

Cô Nguyệt Minh tiếp tục thâm nhập, đề cao cảnh giác, cho dù y là kiếm thủ bậc nhất, đối với sói hoang vẫn không dám coi thường. Phụng công công nói đúng, chết có thể có nhiều cách khác biệt, nếu bị sói đói xé xác ăn tươi nuốt sống, mặc cho y coi chết như không tới cỡ nào, cũng cảm thấy không chịu đựng nổi.

May là đi thêm cả canh giờ nữa vẫn chưa đụng phải ác lang, lúc này dịch lộ xa xưa đã đến ngoài bìa rừng, vùng gò hoang ngoài rừng nhấp nhô, xa xa là một mảng rừng trúc xanh rờ rỡ, thấp thoáng có phòng ốc ở giữa.

Cô Nguyệt Minh kinh ngạc, địa phương không có dấu chân người này sao lại có thể có nhà cửa?

Y trực giác cảm thấy nhân vật thần bí y truy tung cả đêm đang ở đó đợi y, y hoàn toàn không rõ mình tại sao lại có ý tưởng đó, nhưng y biết ý tưởng đó tuyệt không thể sai lạc.

Khâu Cửu Sư và Nguyễn Tu Chân rời khỏi chỗ ở, nhắm phương hướng Ban Trúc Lâu cất bước, chỉ có hai thủ hạ đi theo.

Lạc Dương đặc sắc một dòng sông hồ Giang Nam, dọc ngang kênh rạch, tàu thuyền bốn bề, đường sông cắt giao, cầu bắc nối liền. Dân cư đủ mọi ngành nghề cất nhà san sát sông nước, tường trắng ngói đen, rọi bóng giữa sóng dợn lăn tăn, cảnh trí mê hồn.

Nguyễn Tu Chân như có thâm ý, hỏi: "Đêm hôm qua ngủ ngon chứ?".

Khâu Cửu Sư buồn bã đáp: "Trời sáng rồi ta mới miễn cưỡng ngủ được một chút. Nhưng đừng hiểu lầm, ta không phải là vì Bách Thuần mà mất ngủ, chỉ vì bị mấy lời nói của ngươi làm canh cánh, bất quá càng nghĩ càng hồ đồ, lẽ nào ngoài nhân thế này ra, quả là có lực lượng của quỷ thần đang thao túng số phận của con người? Như vậy làm người còn có ý nghĩa gì nữa?".

Nguyễn Tu Chân mỉm cười: "Thật cao hứng là ngươi không nghĩ tới Bách Thuần. Ý tưởng của ta lại vừa hay tương phản với ngươi, nếu ngoài nhân thế này quả có sự tồn tại của thần linh, cuộc sống này sẽ biến thành lý thú hơn nhiều, ít ra đại biểu ngoài vòng sinh tử còn có gì khác, ví như mấy chuyện kiểu luân hồi chuyển thế. Hiện tại cái bọn ta đối diện là lực lượng thần bí vượt ngoài tưởng tượng, mờ mịt khôn lường, ngươi không cảm thấy kích thích thú vị sao?".

Khâu Cửu Sư cười khổ: "Chuyện làm người ta phiền não trên nhân thế đã quá xá rồi, bọn ta còn phải khiêu chiến với đối thủ nhìn không thấy đụng không được sao? Bọn ta gánh nổi sao? Thật hy vọng tất cả chỉ là ảo giác của ngươi".

Nguyễn Tu Chân thốt: "Đối thủ tuy vô ảnh vô tung, nhưng thắng bại của bọn ta lại rành rành phân minh, chỉ cần đợi được Ngũ Độn Đạo, bọn ta sẽ là kẻ chiến thắng trong trường tranh đấu này. Rõ chứ? Đừng hoài nghi phán đoán của ta, nếu không, không kềm nhịn nổi, ngươi sẽ không cưỡng được đi gặp Bách Thuần".

Khâu Cửu Sư thở dài: "Thật như vậy sao?". Tiếp đó "ủa" một tiếng, dõi nhìn bốn phía.

Lúc này hai người đã đến trước Ban Trúc Lâu, Nguyễn Tu Chân ngạc nhiên hỏi: "Chuyện gì?".

Khâu Cửu Sư đáp: "Tiểu tử bán mật rắn đâu rồi? Hắn còn lại nửa sọt rắn để bán, sao bê trễ dữ vậy".

Nguyễn Tu Chân quay sang nói với thủ hạ: "Đi tìm khắp nơi cho ta, xem xem hắn có phải bày bán ở đường lớn nào khác không, sau khi tìm thấy hắn dẫn hắn đến gặp bọn ta".

Tiếp đó cười nói: "Thật nhớ mật rắn của tiểu tử đó quá, đêm hôm qua ta ngủ một giấc ngon lành tới trời sáng, chưa từng sảng khoái được như vậy".

Khâu Cửu Sư mặt mày thần sắc hâm mộ, kéo Nguyễn Tu Chân lên lầu.

Cô Nguyệt Minh bước trên con đường nhỏ giữa cánh rừng, thâm nhập vào rừng. Đây là một mảnh rừng Ban trúc phủ trùm hơn một dặm, y dám khẳng định gần đây có người dọn dẹp đường rừng, con đường đá không thấy cỏ mọc chen, Ban trúc hai bên cũng có người tỉa tót, nếu không cành lá tua tủa hẳn đã bít kín đường.

Sau khi quẹo qua một khúc quanh, một tòa nhà hình dáng tựa như đền thần giản dị cổ xưa tọa lạc tận cuối con đường nhỏ, đắp bằng đá tảng, tuy tường vách đại để đã hoàn hảo, lại hỗn tạp không đồng đều, có vẻ bị gió mưa xói mòn, tựa như đang kể lại những năm tháng vinh quang đằng đẳng. Phiến cửa nơi lối vào đã không còn tồn tại nữa, chỉ còn khung dáng, bên trên có một tấm biển đá, chữ phai tàn không còn phân biệt được. Nóc đền đã mục nát, bị Ban trúc ngả ngớn phủ trùm, phảng phất như một cái lọng màu xanh. Trước đền trái phải mỗi bên có ba con thú đá, nhưng vì năm tháng xa vời, biến thành sáu cục đá hình trạng cao nhọn, bất quá Cô Nguyệt Minh vẫn có thể tưởng tượng được khí phách hoành tráng của đền thần lúc xây xong.

Đền này chắc phải có lịch sử trên ngàn năm, lẽ nào kiến tạo cùng một thời gian với Chuyên thành? Vụt lại thầm mắng mình, y căn bản không tin có một tòa cổ thành không tìm thấy được, tại sao lại khơi khơi muốn coi sự tồn tại của cổ thành là có thật?

Cô Nguyệt Minh đưa mắt nhìn bốn phía, thầm nghĩ nếu đây là một cạm bẫy, mình đã hãm mình vào tuyệt địa, chỉ cần địch nhân phong tỏa lối ra, y không còn chỗ nào để chạy. Cái mũi thính của y ngửi thấy hơi hướm lợt lạt lúc có lúc không của thần bí nhân mình truy tung từ đêm hôm qua, đối phương đang đứng phía bên kia khung cửa của đền thần, đang chờ đợi y.

Cô Nguyệt Minh không cảm thấy chút xíu sát khí nào, lại không rõ nguyên nhân đối phương dụ y đuổi theo suốt từ vùng đầm lầy đến đây.

Cô Nguyệt Minh nhắm đền thần đi tới, giây phút bước chân qua khung cửa, hoàn toàn vượt ngoài ý liệu của y, tiếng xé gió vang lên, một vật giống như trường côn nhắm ngay ngực đâm tới, thần tốc như ánh chớp, lực đạo hừng hực, hơn nữa xảo hợp đúng lúc chân trước của y chưa chạm đất. Đổi lại là kẻ khác, khẳng định đã bị ép ra ngoài khung cửa.

Cô Nguyệt Minh từng trải trăm trận, sóng gió gì mà chưa từng gặp qua, đã sớm nghĩ đến đủ thứ thủ đoạn của đối phương trước khi mình vào đền, tỷ như từ đằng xa bắn tên hoặc hỏa khí ám khí, hay bên trong cửa quăng lưới, hoặc dưới đất có gài hầm bẫy, chỉ là không ngờ đối phương dùng vật dài tới hai trượng công kích từ xa. Như vầy đối với đối phương mà nói, có lợi cũng có hại, nếu để mình tiếp cận, đối phương chết chắc, bất quá cần phải đợi đến khi gạt tránh khỏi đợt tấn công đầu của đối phương.

Y đang bị kềm kẹp giữa khung cửa dày cỡ nửa thước, đã không kịp rút kiếm, càng không có cách nào lánh sang hai bên, về mặt chiến lược đã hoàn toàn lọt vào thế hạ phong, do đó cũng có thể thấy sự cao minh của đối thủ, nhưng vẫn khó đánh gục được y.

Cô Nguyệt Minh cười lạnh một tiếng, hai tay vồng lên, chưởng hóa thành đao, triển khai một bộ công phu tinh xảo khéo léo, chẻ mạnh lên vũ khí đang đánh tới của đối phương, hơn nữa ẩn hàm chấn kình, chém cho vũ khí của đối phương mất đích chuẩn, không có cách nào đả thương y được, thủ vững khung cửa như tường đồng vách sắt, một tấc đất cũng không nhường.

Lúc này y đã rõ cái đối phương dùng là một cành Ban trúc dài cỡ hai trượng rưỡi, chắc là mới bẻ xài đỡ. Đối phương có thể phát huy đặc tính trong cứng có mềm của cành trúc đến mức cùng cực lâm li, quả không phải đơn giản. Y rừng rực chiến ý, cảm thấy kích thích cực kỳ.

Y thật không hiểu nổi mình, tựa hồ chỉ vào giờ phút giao tranh sinh tử như vầy, y mới có thể cảm nhận được ý nghĩa của sự tồn tại, giết người hay bị giết, không có chuyện gì khác có thể thay thế. Mà cái càng làm cho y khó hiểu là sau mỗi lần giết người, y lại cảm thấy hụt hẫng hết sức, đó là bí mật của y, không ai biết được tay săn lãnh thưởng vô tình lãnh khốc này lại có một mặt yếu đuối như vậy.

Nhất thời thanh âm chưởng chém lên Ban trúc nổ lên liên miên, dày kín như đốt cả phong pháo, vang vọng không gian u tĩnh của rừng trúc đền cổ.

Nhành Ban trúc vụt thoái hậu, Cô Nguyệt Minh kinh nghiệm chiến đấu phong phú, nhất thời vẫn không rõ đối phương đang định làm gì, chỉ ngờ vực là kế dụ địch.

"Cạch!".

Nhành Ban trúc rơi xuống đất, người kia dang hai tay, biểu thị đình chiến.

Lúc này Cô Nguyệt Minh đã làm quen với quang tuyến trong đền, định thần nhìn kỹ, không khỏi chấn động tâm thần, không ngờ kẻ đánh lén y lại là một người như vậy, đồng thời hiểu ra tại sao hơi hám của hắn khác với người thường, đều là vì đối phương là một hòa thượng ăn chay.

Vị tăng này thân hình khá cao, tướng mạo thanh tú đến kỳ lạ, toàn thân vận tăng y trắng muốt, đôi mắt loang loáng kỳ quang, thần sắc bình tĩnh như nước lặng, không mừng cũng không sợ, nếu không phải đã cứng cỏi chịu mười mấy chiêu của hắn, chỉ xem vẻ mặt thì thật không dám tin hắn sẽ động can qua.

Song thủ dang rộng của bạch y tăng chắp lại, khẽ niệm Phật hiệu, bình tĩnh thốt: "Quả nhiên là Cô Nguyệt Minh".

Cô Nguyệt Minh kinh ngạc, thấp thoáng đoán được đối phương là ai, nhưng đương nhiên lại càng rối đầu hơn, nhịn không được lên tiếng: "Ta đoán được đại sư là Tiết Đình Hao thì không lạ gì, nhưng đại sư làm sao biết tại hạ là Cô Nguyệt Minh? Đây là chuyện không thể nào".

Ánh mặt trời rải rắc xiên xéo qua kẽ lá trúc trên đỉnh đền mục nát, lá bị gió nhẹ khẽ lay in bóng trên bức tường phía tây. Cả tòa từ đường vuông vức ba trượng, sàn đá quét sạch bóng, thạch tượng trên tế đàn bị tàn phá không còn toàn vẹn, hình dáng tựa như nữ tử, không khí thần bí linh dị.

Tiết Đình Hao ngồi khoanh gối dưới đất, cúi đầu nhắm mắt, bộ dạng cao tăng pháp tướng trang nghiêm. Hắn bình hòa thốt: "Có nhân tất có quả, nhân sinh ra từ quả, trong cõi U minh tựa như có nghiệp lực dẫn dắt. Đây là tuyệt địa, thí chủ cho dù có muốn làm dữ, không cần gấp vội nhất thời. Mời thí chủ ngồi".

Cô Nguyệt Minh tuy tức không thể lập tức chế ngự hắn, rồi dùng nghiêm hình bức cung chỗ hạ lạc của Sở hạp, lại bị thần thái tựa như nhìn thấu mọi sự của hắn đả động, phát giác rất khó động thủ như vầy. Bước tới một bước, cúi ngồi xuống, vẫn không thể không mở miệng: "Chuyện này là sao?".

Tiết Đình Hao nghiêm túc thản nhiên thốt: "Đã mười năm rồi, sự tình phải đến lúc liễu đoạn, bần tăng dẫn thí chủ đến đây, chính là muốn nói cho rõ chuyện xảy ra mười năm trước".

Cô Nguyệt Minh như tên khờ không hiểu gì hết, tuy thấp thoáng đoán được chuyện xảy ra trong Vân Mộng Trạch mười năm trước không phải hệt như lời kể của Phụng công công, nhưng chỗ không hiểu nổi quá nhiều, nhịn không được hỏi: "Đại sư sao lại biết tại hạ là Cô Nguyệt Minh?".

Biết rõ đối phương là Tiết Đình Hao, nhưng hắn bộ dạng cao tăng đắc đạo như vậy, tên tuổi tục gia đâu có cách nào kêu la lên.

Tiết Đình Hao ngước đầu nhìn y, thong dong thốt: "Thí chủ hôm nay ngồi ở đây, là vì ta cố ý bộc lộ hành tung, để Phụng công công phái Quý Nhiếp Đề xuống Nam, đến khi Quý Nhiếp Đề dốc hết nhân lực vật lực mà vẫn không có cách nào đuổi bắt được bần tăng, Phụng công công không còn đường chọn lựa nào khác, chỉ còn nước cho liệp thủ số một của lão ra mặt, đi tìm bắt vật săn cho lão, quan hệ nhân quả trong việc này, thí chủ rõ rồi chứ?".

Cô Nguyệt Minh nghe vậy rùng mình, vẫn quá khó hiểu, ngạc nhiên hỏi: "Lúc ta xuất đạo, đại sư đã sớm mai danh ẩn tích, sợ bị người ta phát hiện hành tung, làm sao biết có một người như ta?".

Tiết Đình Hao điềm đạm đáp: "Phật môn tai mắt khắp thiên hạ, bần tăng không những biết có một người như thí chủ, hơn nữa còn rõ tác phong hành sự của thí chủ, trọng yếu nhất là thí chủ là người có duyên".

Cô Nguyệt Minh cau mày: "Ta một lòng đến đuổi bắt đại sư, có quan hệ gì với duyên phận có thể nói chứ?".

Tiết Đình Hao đáp: "Thí chủ không thấy lạ nơi đây toàn là chim chóc thú vật kỳ dị, lại không thấy bóng dáng thợ săn sao? Thí chủ có thể đến được cái đền này đã là một thứ duyên phận rồi".

Cô Nguyệt Minh lắc đầu: "Ta không hiểu".

Tiết Đình Hao thốt: "Vân Mộng Trạch là địa phương kỳ dị nhất mà ta từng đến, dã lang kết thành bầy thành đàn ẩn hiện, chó săn hung hãn nhất tiến vào địa vực này liền biến thành hoảng loạn hoang mang, chiến mã dậm vó hí sợ, làm cho thợ săn gần xa coi đây là vùng đất dữ có quỷ ma tác quái. Càng tiếp cận cổ thành, linh lực điều khiển Vân Mộng Trạch càng to tát, không phải là thứ sức người có thể kháng cự. Thí chủ có thể không sợ hãi không gặp nguy hiểm thoát qua Vân Mộng Trạch, đến Tương Phi Từ ngoài bìa đầm này, khẳng định là một thứ duyên phận".

Cô Nguyệt Minh thất thanh: "Cổ thành thật sự tồn tại sao?".

Lạc Dương thành. Giờ Ngọ.

Khâu Cửu Sư và Nguyễn Tu Chân đang ngồi trong nhã tọa trên bình đài ngày hôm qua, sau khi ừ iệt qua loa với ông chủ tửu lâu nghe báo đến chào hỏi bọn họ, Nguyễn Tu Chân nhìn xuống con đường cái phồn hoa, cười nói: "Hy vọng hôm nay không có chuyện xảy ra, ngươi không cần phải nhảy xuống nữa".

Khâu Cửu Sư lắc đầu cười khổ: "Ta bây giờ cuối cùng đã hiểu tại sao có cái câu thêm một chuyện chi bằng bớt một chuyện, thật hy vọng hôm nay không có chuyện gì xảy ra".

Nguyễn Tu Chân trầm ngâm không nói gì.

Khâu Cửu Sư ngạc nhiên: "Ngươi đang nghĩ gì vậy?".

Nguyễn Tu Chân lộ thần tình suy tư: "Suy tính theo lẽ thường, đổi lại ngươi hay ta là Ngũ Độn Đạo, thấy bọn ta hiện thân ở đây, đáng lẽ biết phải thoái lùi, trừ phi hắn thật biết độn thuật, nếu không sao còn dám nhắm vào ngọc kiếm?".

Khâu Cửu Sư không hiểu: "Nghe ngươi nói như vậy, ngươi khẳng định Ngũ Độn Đạo đang ở trong thành, nhưng có bằng cớ gì chứ?".

Nguyễn Tu Chân nhẹ nhàng đáp: "Hoàn toàn không có căn cứ, chỉ là một kiểu suy đoán. Từ tác phong của Ngũ Độn Đạo, có thể thấy hắn là một người ly kỳ, chỉ xem hắn cầm một lượng bạc cuối cùng vào đổ quán phóng tay một ván là biết hắn là người dị thường. Bằng vào thân thủ của hắn, muốn đi trộm năm trăm lượng bạc chắc là chuyện trở bàn tay, nhưng hắn khơi khơi lại bỏ dễ mà lấy khó, còn bất chấp bộc lộ thân phận. Thứ người này một khi đã định mục tiêu, tuyệt sẽ không bỏ qua".

Khâu Cửu Sư gật đầu: "Có lý".

Lúc này rượu thịt đã bưng lên bàn, đợi tiểu nhị đi khỏi, Nguyễn Tu Chân thuận miệng hỏi: "Ngươi muốn đi gặp Bách Thuần sao?".

Khâu Cửu Sư vui vẻ đáp: "Mỹ nhân với giang sơn, xem ra trong tâm tưởng ta cái sau trọng yếu hơn nhiều. Khà! Hôm nay đỡ hơn nhiều rồi, nhưng hôm qua thật không dễ gì chịu nổi, sợ nhất là thần linh ngươi nói tới căn bản đâu có hy vọng ta đi gặp nàng ta".

Nói còn chưa dứt, một cỗ xe ngựa chạy tới cửa chính Ban Trúc Lâu, hai người nhận ra người đánh xe, cũng nhận ra cỗ xe đó, nhất thời đưa mắt nhìn nhau, đều có cảm giác vạn sự không khống chế được.

Tiết Đình Hao lần đầu để lộ thần sắc trở về hồi ức, thở dài thốt: "Nếu không có cổ thành, bần tăng chắc vẫn đang lăn lộn giữa hồng trần, theo đuổi công danh phú quý. Cổ thành tuy cắt đứt hết mọi sở hữu của bần tăng, nhưng cũng khiến cho bần tăng vụt tỉnh ngộ, nhận ra trần thế chỉ bất quá là một ảo giác tập thể".

Cô Nguyệt Minh nghe vậy nổi da gà, nếu Tiết Đình Hao không phải nói láo, vậy lời nói của Phụng công công là thật rồi.

Tiết Đình Hao tựa như bị khơi gợi tâm tình dĩ vãng, cúi đầu thốt: "Tương Phi Từ mà thí chủ hiện giờ đang dấn thân, còn có trước Chuyên thành tới ba năm, nhận lệnh của Sở vương thuở đó mà xây nên. Nghe truyền rằng Tương phu nhân từng khóc ròng ba ngày ba đêm ở đây, nước mắt rải rắc trên lá trúc, lưu lại dấu tích vĩnh viễn không tan biến, sau đó Tương phu nhân từ chỗ này đi lên phía bắc, đến Vô Chung Hà, lên tảng đá lớn, nhảy xuống sông tự tận, người đời sau còn nghĩ bà ta nhảy xuống sông Tương tuẫn tình, chỉ là đồn bậy thôi".

Cô Nguyệt Minh từng nghe qua thần thoại về Tương phu nhân, ngạc nhiên hỏi: "Sao đại sư biết được?".

Tiết Đình Hao đáp: "Là Mâu Xuyên kể, thí chủ biết y là ai chứ?".

Cô Nguyệt Minh gật đầu tỏ ý có biết.

Tiết Đình Hao nói tiếp: "Phụng công công chắc đã nói cho thí chủ biết tình huống đại khái của ngày hôm đó, như vậy có thể bớt cho bần tăng không ít lời. Để ta tóm tắt lại, bọn ta y theo lời Mâu Xuyên, vào ngày mười bốn tháng bảy dùng Tuẫn Tình Thạch ở Vô Chung Hà làm khởi điểm, đi đường bộ thâm nhập bờ đông, tìm kiếm cổ thành, kỳ lạ là không đụng đầu một con sói nào hết, càng khó tin là cơ hồ không phí thời gian dò tìm gì hết, cổ thành đột nhiên xuất hiện trên một trái núi, mây mù quẩn quyện, như thật như ảo, phảng phất tựa ảo cảnh hải thị thần lâu".

Cô Nguyệt Minh lòng kêu má ơi, cái không hiểu nhất là Tiết Đình Hao sao lại chịu hợp tác như vầy, lẽ nào hắn thật là "kẻ bị hại", muốn mình giải oan cho hắn.

Tiết Đình Hao thốt: "Ta phụ trách giám thị Mâu Xuyên, thần tình của y biến thành cổ quái phi thường, đôi mắt bắn ra một thứ thần sắc khát vọng gần như cuồng điên, sau chuyện hồi tưởng lại, y biết được vật giấu trong Sở hạp, hơn nữa muốn chiếm cứ".

Cô Nguyệt Minh ngạc nhiên: "Trừ phi y thật đã biến thành người điên, hay y có bản lãnh giết chết các ngươi, nếu không y nên biết đó là chuyện không thể nào".

Tiết Đình Hao hiển nhiên đã từng suy tư về vấn đề này, trầm giọng: "Hay ví như y biết sau khi lấy được bảo vật trong hộp, có thể hoàn toàn xoay chuyển tình thế về mặt đó thì sao. Trên sự thật cái đêm đầu sau khi tiến vào Vân Mộng Trạch, y đã tiết lộ rất nhiều bí mật có liên quan đến Vân Mộng Trạch, chẳng hạn như Tương Phi Từ chỗ bọn ta đang có mặt hiện giờ, còn du thuyết sau khi bọn ta lấy được Sở hạp, trước hết cứ mở hộp xem thực hư, đề phòng vật cất bên trong không phải là vật chí bảo mà là chí độc, chỉ là bị Phu đại ca nghiêm khắc cự tuyệt, y mới vô kế khả thi".

Cô Nguyệt Minh không có lời phản bác, hỏi: "Các ngươi biết cách mở hộp sao?".

Tiết Đình Hao đáp: "Không ai nghĩ tới mở một cái hộp phải có phương pháp gì đặc biệt, quá lắm là ống khóa tinh xảo, chắc không làm khó được thợ nghề làm việc cho Hoàng thượng. Mãi cho đến khi bọn ta nhìn thấy Sở hạp, mới hiểu rõ mở Sở hạp tuyệt không dễ như mình tưởng tượng".

Cô Nguyệt Minh hỏi: "Cái hộp đó ra sao?".

Tiết Đình Hao đáp: "Mấy năm đầu, mỗi đêm ta nhắm mắt là thấy nó. Nó là một cái hộp vuông mỗi cạnh khoảng một thước, rất nặng, bắt mắt nhất là bảy viên dạ minh châu khảm trên mặt hộp, giống như bắc đẩu thất tinh trên trời, đầu tiên trên mặt hộp là Thiên Xu tinh, sáu ngôi sao khác phân bố trên các mặt theo thiên tượng, thân hộp đầy chữ lờ mờ, chất liệu tựa như vàng mà không phải vàng, tựa như đồng mà không phải đồng, lại không thấy có kẽ hở, làm cho người ta muốn mở hộp cũng không biết phải bắt đầu từ đâu".

Cô Nguyệt Minh quên tuốt quan hệ đối địch với Tiết Đình Hao, hỏi: "Mâu Xuyên có nói phương pháp mở hộp không?".

Tiết Đình Hao đáp: "Phu đại ca căn bản không để y đụng tới Sở hạp, đại ca đem Sở hạp cất vào cái túi da đã chuẩn bị sẵn, đeo trên lưng. Quá trình tiến vào cổ thành và lấy được Sở hạp dễ đến mức vượt ngoài ý liệu của mọi người, sau chuyện hồi tưởng lại, thật có chỗ không hợp tình lý vô cùng, chỉ là vì quá vui mừng thành công che phủ đi mọi sự, không ai để ý".

Cô Nguyệt Minh hỏi: "Có chỗ nào không hợp tình lý?".

Hồi 14: Độn Thuật Chi Bí

Bách Thuần mặc thường phục đạm nhã, áo ngắn tay áo rộng, quần tơ bó chân, trừ một cái vòng ngọc đeo trên cổ tay ra, không có mang trang sức gì khác, mặt không son phấn, lại vẫn kiều diễm sáng ngời.

Nàng dáng dấp phong lưu khoé miệng hé xuân nồng, tự tự nhiên nhiên, thần thái nhàn nhã bước qua cánh cửa Nguyễn Tu Chân vừa mở, đến bên kia bàn, tươi tươi tắn tắn thốt: "Thì ra chàng là Khâu Cửu Sư".

Khâu Cửu Sư đứng dậy còn chưa kịp đáp trả, nàng lại xoay người về phía Nguyễn Tu Chân vừa về chỗ ngồi: "Nếu tôi đoán không lầm, vị này nhất định là mưu sĩ hàng đầu của Đại Hà Minh 'Sách Sư' Nguyễn Tu Chân Nguyễn tiên sinh". Tiếp đó không chút khách khí ngồi bên kia bàn đối diện Khâu Cửu Sư.

Khâu Cửu Sư không dám nhìn sang Nguyễn Tu Chân, vì sợ làm cho gã hoài nghi, mình tự biết mình, giây phút Bách Thuần bước ra khỏi xe ngựa, cả đất trời liền biến thành khác hẳn, ánh dương tựa như sáng hơn một chút, hiện tại đối diện nàng, càng bừng tỏa hơn nữa, hắn lại không muốn Nguyễn Tu Chân nhìn thấu hắn. Ài! Phải làm gì đây? Phòng tuyến của hắn đang lọt vào bến bờ sụp đổ nguy hiểm.

Lúc này tiểu nhị hoang mang tiến vào hầu, đem thêm chén đũa cho Bách Thuần, hai người thừa cơ ngồi xuống.

Nguyễn Tu Chân bưng bình trà, châm đầy chén của Bách Thuần.

Sau khi tiểu nhị thoái khỏi sương phòng, Khâu Cửu Sư đằng hắng một tiếng, nói: "Đêm hôm qua...".

Bách Thuần nhẹ nhàng thốt: "Đương nhiên là có chuyện bận, đúng không? Hai nhân vật võ lâm giậm chân có thể làm chấn động Đại Giang, cùng nhau đến Lạc Dương, khẳng định không phải để du sơn ngoạn thủy, hoặc đến Hồng Diệp Lâu lãng phí thời cơ".

Khâu Cửu Sư và Nguyễn Tu Chân cuối cùng đã hiểu, mỹ nữ khêu gợi này không phải đến đây để uống trà đơn giản như vậy, mà là đến tìm người.

Nguyễn Tu Chân chợt phát giác dưới tình huống này, thật không đến phiên gã xen miệng, hơn nữa gã vẫn còn đang tê dại sởn gai ốc.

Khâu Cửu Sư đâu muốn làm tổn thương Bách Thuần, không muốn nàng không vui, tức nhất là hắn không có cách nào nói ra nguyên nhân thật sự, nhất thời trong lòng mâu thuẫn đến cùng cực, cười khổ: "Nếu ta nói với cô nương rằng số phận khiến cho ta không có cách nào đi gặp cô nương, cô nương nghĩ thế nào?".

Nguyễn Tu Chân bàng quan thầm la hỏng bét, gã có nhận thức sâu xa về con người của Khâu Cửu Sư, vừa nhìn thấy thần tình của hắn, biết liền hắn đang ở trạng thái "không sợ", song nhãn của hắn bắn ra tinh quang nhiếp hồn người, tình trạng như vầy, Nguyễn Tu Chân trước đây đã từng thấy qua ba lần, lúc Khâu Cửu Sư đối diện kình địch mạnh mẽ, sẽ vọt lên trạng thái đỉnh điểm, bình tĩnh chỉ huy thủ hạ tác chiến, mỗi lần đều đạt được thắng lợi huy hoàng. Giả như Khâu Cửu Sư coi Bách Thuần là "kình địch" tình trường, muốn "chinh phục" nàng, vậy bọn họ phải thua vào tay địch nhân vô hình trong cõi U minh rồi.

Tình huống hiện tại Nguyễn Tu Chân gã càng không nên xen tay, gã còn ngồi ở đây đã là không biết điều lắm rồi.

Bách Thuần đôi mắt đẹp sáng lên, dịu giọng: "Số phận! Thật ra là số phận cửa nào? Khâu công tử có thể nói rõ hơn một chút không?".

Nguyễn Tu Chân thầm thở dài một hơi, giơ tay vỗ vỗ vai Khâu Cửu Sư, đứng dậy đẩy cửa đi ra.

Đợi cửa đóng lại, Khâu Cửu Sư thản nhiên đáp: "Khâu Cửu Sư sở dĩ có thể không sợ gì hết, phóng tay mà làm, đều là vì trong lòng hoàn toàn không có vương vấn trói buộc. Hiện tại thiên hạ vạn dân đang lọt vào dầu sôi lửa bỏng, kẻ có chí làm sao có thể tụ thủ không lý gì tới, đó là số phận đã định sẵn cho ta".

Bách Thuần nở một nụ cười như ánh dương phá tầng mây mù hiển hiện, ngời sáng chiếu rọi khắp mặt đất, dịu dàng thốt: "Thì ra là vậy, bất quá nô gia đã nghe nói chàng là người như vậy từ lâu rồi, không phải vậy mới là kỳ quái đó. Nhưng có gì phải sợ vậy? Nô gia lại không phải vừa gặp đã chung tình với chàng, không phải không gả cho chàng không được, chỉ là thấy chàng trượng nghĩa phù trợ, anh hùng quá sức, muốn kết giao với chàng, tiến một bước quen biết với chàng. Đời người phong phú nhiều vẻ mà! Nếu chỉ có một mục tiêu đơn nhất, bỏ lỡ cái khác, làm sao đúng với mình được? Hiềm kỵ của Khâu công tử đâu có tất yếu, chàng thích đến lúc nào, đi lúc nào, nô gia sẽ không nói nửa lời oán thán. Cho dù bọn ta thân thiện da thịt, nô gia chỉ coi đây là một đoạn lữ trình động hồn trong cuộc đời, sẽ không gào sống gào chết, đó tuyệt không phải là tác phong của nô gia. Khâu Cửu Sư dũng cảm vô địch đâu phải là kẻ khờ!".

Khâu Cửu Sư nghe vậy trợn tròn mắt, cơ hồ không có cách nào phản ứng. Mỹ nữ can đảm trực tiếp như vầy, hắn lần đầu đụng phải, cảm giác trước đây chưa bao giờ có trào dâng lên đầu. Tuy từ xưa đến nay hắn không để ý tới tình cảm nam nữ, nhưng hắn tuyệt không phải là quân tử điềm tĩnh ngồi yên, sức dụ hoặc của Bách Thuần đối với hắn giờ phút này đang gia tăng gấp bội. Hắn cười khà khà nói: "Vấn đề ở chỗ cô nương có lẽ là người như vừa nói, coi luyến ái nam nữ như du khách qua đường. Nhưng ta lại sợ xông vào ải tình, đặc biệt là vào lúc này ở chỗ này. Cô nương cười ta khờ cũng được, cái gì cũng được, ta bây giờ cần phải khắc chế lấy mình, xin cô nương tha thứ cho".

Bách Thuần vui vẻ thốt: "Được biết trong lòng công tử không phải không có nô gia, còn làm cho Khâu Cửu Sư đó giờ không sợ gì hết lòng sinh ý sợ, Bách Thuần có cảm giác vén gạt mây mù nhìn thấy trời xanh. Đêm hôm qua nô gia một mực chờ đợi chàng, thứ tâm tình khốn khổ đáng thương đó thật không biết có thể dốc tỏ cùng ai. Chàng muốn lo đại nghiệp nam nhi, không để ý tới tư tình nam nữ, chính là chỗ nô gia thưởng thức chàng nhất. Nhưng chàng lạ ghê! Sao có thể không nghĩ tới mặt mũi của con gái người ta như vậy, ít ra phái người đến thông tri cho tôi biết, tìm một lý do đường hoàng, để người ta hạ đài tốt đẹp. Hiện tại hại cho tôi từ chối mọi người, lại đợi không không, bị người ta chê cười".

Khâu Cửu Sư có cảm giác đấu không lại nàng. Thần tình hờn mát nũng nịu của nàng quả là động hồn tới cực điểm, mà phương thức giọng điệu ngang ngược không nói lý lẽ của nàng càng làm cho hắn cảm thấy kích thích mới lạ, sẵn sàng chịu đựng. Hắn cười khổ nói: "Mặt đó là ta không đúng, ta xin chịu lỗi với cô nương ở đây".

Bách Thuần cả người như phát sáng phát nóng, làm cho nàng càng tươi đẹp ngời ngời, đẹp đến mức không có gì bì được, mê hồn nhất là nàng tràn trề sinh khí khỏe mạnh, ngọc dung nét vẻ phong phú đa dạng, ánh mắt như có thể nói chuyện.

Khâu Cửu Sư cảm thấy toàn thân nổi da gà, thầm kêu không hay, "sức đề kháng" của mình càng lúc càng bạc nhược, biết rõ bất kể sau này sự tình phát triển theo bất cứ phương hướng nào, hắn khẳng định không quên được nàng.

Bách Thuần dâng một nụ cười mê hồn cho hắn: "Chịu lỗi làm sao có thể chỉ nói bằng miệng không không vậy được?".

Khâu Cửu Sư thoát miệng hỏi: "Vậy thì bằng cái gì?".

Lời nói ra khỏi miệng lập tức hối hận, nếu nàng nói đêm nay muốn hắn đến Hồng Diệp Lâu gặp nàng, hắn phải làm sao? Lại làm sao đối diện Nguyễn Tu Chân đây?

Vào giờ phút đó, Ngũ Độn Đạo không còn tồn tại trong đầu óc của hắn nữa.

Bách Thuần đáp như chuyện đương nhiên: "Xin lỗi đương nhiên phải phạt rượu, vậy tôi mới có thể xuống nước một bậc".

Khâu Cửu Sư thất thanh: "Uống rượu?".

Bách Thuần lộ vẻ không hiểu, nhíu chặt đôi mày, ngạc nhiên hỏi: "Uống rượu có vấn đề gì? Lẽ nào Khâu Cửu Sư tung hoành thiên hạ cũng không thể uống rượu, chưa từng rượu thấm đầu môi?".

Khâu Cửu Sư lần này thật sự á khẩu, đang không biết làm sao để ứng phó mỹ nữ phong thái say đắm hồn người, kiểu cách riêng biệt khác người này, cửa phòng chợt đẩy tung ra.

Nguyễn Tu Chân xông thẳng vào, thần sắc nghiêm trọng: "Tiểu tử kia không thấy đâu nữa".

Nhất thời tâm tưởng của Khâu Cửu Sư không có cách nào kéo rời khỏi Bách Thuần, phải một hồi sau mới ngạc nhiên hỏi: "Tiểu tử nào?".

Nguyễn Tu Chân nhìn thấy Bách Thuần đang trừng trừng nhìn gã, hiển lộ nụ cười có lỗi, đáp: "Là tiểu tử bán mật rắn, có người nhìn thấy hắn sáng sớm hôm nay đội sọt tre bỏ đi qua cửa thành nam".

Khâu Cửu Sư vụt đứng dậy, như từ tiên giới rớt xuống phàm trần.

Tiết Đình Hao từ từ thốt: "Theo sử ký nhà Mâu Xuyên ghi lại, quân Sở tàn sát dân chúng trong thành để báo thù sau khi thành bị phá, lục lọi tìm kiếp Sở hạp khắp nơi mà không có thu hoạch, lại phóng hỏa đốt thành, thiêu trọn bảy ngày bảy đêm rồi mới bỏ đi".

Cô Nguyệt Minh không hiểu: "Thống soái của quân Sở sao lại làm bậy vậy, đáng lẽ nên giữ mạng sống tra khảo từng người, sao lại hỏi không được nơi hạ lạc của Sở hạp chứ. Ủa!".

Tiết Đình Hao nhìn sang phía Cô Nguyệt Minh đang lộ thần sắc kinh ngạc, gật đầu: "Thí chủ đã nghĩ đúng chỗ có vấn đề rồi. Lúc bọn ta tiến vào cổ thành, cổ thành rõ ràng có dấu tích bị lửa dữ thiêu đốt mãnh liệt, tất cả mọi phòng ốc đều cháy tới nóc, lại trải qua sự hủy hoại của năm tháng, tường thành kiên cố đã sụp lở quá nửa, nhưng dưới đáy sơn thành, bọn ta phát hiện một thông đạo, tận cuối là một cánh cửa đồng còn nguyên, trong cửa là một không gian rộng rãi sâu cỡ năm trượng, chắc đã từng đục đá dưới đáy sơn thành xây nên, bên trong có bài trí một cái giường đá".

Cô Nguyệt Minh tâm thần không biết làm sao, bị lời miêu tả của Tiết Đình Hao thu hút quá sức, chấn động hồn phách, thở dài một hơi: "Các ngươi có thể tìm được, quân Sở sao lại có thể sơ suất bỏ qua như vậy, thật là bất hợp lý".

Tiết Đình Hao thốt: "Đó là chỗ ta nói không hợp tình lý. Trong mật thất tựa lăng mộ đó, có hai bộ hài cốt, một ngồi trên giường, người kia quỳ phục bên cạnh giường đá, ôm nhau thật chặt, y phục của bọn họ đã rách nát, chạm vào là hóa thành tro bụi, nhưng hài cốt quỳ phục bên giường đá vẫn dùng hai tay bưng Sở hạp, bọn ta là lấy Sở hạp từ trên tay người đã chết ngàn năm đó".

Cô Nguyệt Minh cảm thấy toàn thân băng lãnh, thầm nghĩ có phải mình sợ không? Nhưng có gì đáng sợ chứ? Y hỏi: "Sau đó có xảy ra chuyện gì không?".

Tiết Đình Hao thần tình hoài niệm chuyện xưa, đáp: "Nghĩ lại lúc sau khi lấy được Sở hạp, tựa như có một thứ lực lượng không tránh khỏi thúc giục bọn ta đi làm như vậy. Tiền Thế Thần thả neo ba chiếc chiến thuyền ở bến tàu dựng tạm phía bờ đông Tương Thủy, chỉ cần bọn ta đem Sở hạp lên thuyền, lập tức khởi hành, sau khi đến Động Đình Hồ ra Đại Giang lên Vận Hà, chở Sở hạp về lại kinh sư, vậy là đã đại công cáo thành rồi".

Cô Nguyệt Minh không hiểu: "Sở hạp quan hệ trọng đại, trong đầm lại có sói hoang hoành hành, Tiền Thế Thần tại sao không điều binh vào đầm, bố phòng dọc đường, coi như là kế vạn toàn?".

Tiết Đình Hao đáp: "Đó vốn là ý tưởng ban đầu của bọn ta, lại bị Mâu Xuyên cực lực phản đối, y nói nếu đông người tạp nhạp, sẽ làm cho thần linh trấn thủ cổ thành phát giác. Bây giờ hồi tưởng lại, y chắc là có lòng riêng khác. Ngã Phật từ bi".

Cô Nguyệt Minh biết hắn đang nói đến chỗ then chốt nhất, không hỏi nữa, để hắn nói tiếp.

Tiết Đình Hao thốt: "Sở hạp vào tay, Phu đại ca ra lệnh cho ta lập tức đi thông tri cho Tiền Thế Thần ở bờ đông Tương Thủy biết, kêu y dẫn binh vào đầm tiếp ứng. Ta lập tức rời khỏi cổ thành, lúc đó là sau Ngọ, đầm lầy bị sương mù bao bọc, không biết sao ta không ngờ lại lạc đường, đi kiểu nào cũng không có cách tới được Tương Thủy, la bàn của ta như bị hư, không ngừng xoay chuyển, làm cho ta không có cách nào định hướng, đến khi ta bỗng đụng phải một bầy dã lang, ta không đè nén được cơn sợ hãi trong lòng, quay đầu về cổ thành, nào hay... nào hay làm sao cũng tìm không ra, ta còn nghĩ mình đi sai đường, tìm kiếm tứ xứ, cái tìm được lại là thi thể của bọn họ, bao gồm cả Mâu Xuyên, chỉ không thấy Phu đại ca".

Cô Nguyệt Minh hỏi: "Bọn họ có phải đã trúng kịch độc không?".

Tiết Đình Hao gật đầu: "Ai ai cũng thất khiếu rỉ máu, quả là tình huống đã trúng kịch độc. Lúc đó ta tâm thần tán loạn, một mặt ta khẳng định Phu đại ca không phải là hạng người đó, mặt khác lại cảm thấy chỉ có Phu đại ca mới có khả năng hạ độc với bọn họ, đại ca sai ta đi trước là vì niệm chút thân tình. Ài! Đầu óc ta không có cách nào suy nghĩ như thường, chỉ biết ở lại chỉ có một con đường chết, Hoàng thượng chịu tha thứ cho ta, Phụng công công cũng không chịu tha thứ".

Cô Nguyệt Minh vụt tỉnh ngộ: "Cho nên đại sư chạy về kinh sư, tìm lệnh tỷ và con gái của bà, vong mệnh thiên nhai, trốn tránh sự truy đuổi của Phụng công công".

Tiết Đình Hao thốt: "Đại khái là vậy, sau khi an bài cho hai mẹ con bọn họ xong, bần tăng quay trở lại Vân Mộng Trạch, y theo lộ tuyến năm xưa tìm kiếm cổ thành, lại không có cách nào tìm được nữa".

Cô Nguyệt Minh ngạc nhiên: "Đại sư không sợ bầy sói sao?".

Tiết Đình Hao trầm giọng: "Thần linh của Vân Mộng Trạch pháp lực vô biên, không những trấn thủ cổ thành, còn ngầm ngầm thao túng bầy sói, khiến người ta phải ngưng bước".

Cô Nguyệt Minh hỏi: "Đại sư tin rằng Sở hạp đã lọt vào tay Phu Mãnh?".

Tiết Đình Hao điềm đạm thốt: "Thí chủ có tin không?".

Cô Nguyệt Minh lắc đầu: "Theo lời nói của đại sư, Phu Mãnh căn bản không có cách nào mở được Sở hạp, không biết bên trong giấu vật gì, không ai vì vật không biết mà mạo hiểm hủy gia diệt tộc".

Tiết Đình Hao đồng ý: "Phu đại ca quả không phải là hạng người đó, đại ca không những có nhân cách cao thượng, còn có hùng tâm tráng chí chấn hưng quốc gia, dẹp trừ phản loạn, bị Phụng công công coi là cái gai trong mắt. Nhưng Sở hạp hiển nhiên không lọt vào tay Phụng công công, khiến cho ý tưởng ta nghĩ Phụng công công bày bố tỉ mỉ để trừ khử cái gai trong mắt cũng phải lung lay".

Cô Nguyệt Minh nói: "Kẻ đoạt Sở hạp khẳng định là người khác, không liên quan gì tới Phụng công công, đây là độc kế đoạt bảo giá họa, chỉ cần Phu Mãnh thất tung, có thể đẩy hết lên mình Phu Mãnh, để ai ai cũng nghĩ Phu Mãnh ôm bảo vật trốn chạy".

Tiết Đình Hao thân người gầy gò giật nảy lên, đôi mắt bắn ra kỳ quang, chợt lại giơ tay áo che mặt, sau đó thốt: "Có lý! Người đó là ai? Phu đại ca là người cẩn thận vô cùng, mỗi lần ăn cái gì cũng đều dùng ngân châm dò thử, muốn giở mòi với đại ca đâu phải dễ".

Cô Nguyệt Minh nghĩ đến chuyện mình hai lượt bị tập kích, trầm ngâm thốt: "Chuyện này Tiền Thế Thần chắc không thoát khỏi quan hệ".

Tiết Đình Hao lộ thần sắc trầm tư.

Cô Nguyệt Minh thốt: "Đại sư tại sao chịu đem hết chuyện này thẳng thắn kể ra, nói cho cùng ta cũng là người Phụng công công phái đến mà?".

Tiết Đình Hao bày tỏ thần thái vui vẻ thư thả đến xuất thần, như trên thế gian không còn chuyện gì có thể ngăn trở hắn thanh tu nữa, thản nhiên đáp: "Mất là do Vân Mộng Trạch, được cũng do Vân Mộng Trạch, nói ra thì dài dòng, xin cho phép bần tăng tóm lược. Bần tăng đem chuyện này nói hết cho thí chủ biết là hy vọng thí chủ có thể tìm được Sở hạp, khôi phục lại danh dự cho đại ca, như vậy bần tăng có thể an tâm buông tay về trời, trong lòng không còn chướng ngại gì nữa".

Cô Nguyệt Minh ngây người: "Đại sư muốn...".

Tiết Đình Hao hai má đỏ phừng phừng: "Trong Vân Mộng Trạch có cây mạn đà la. Hoa mạn đà la bình thường, lá lớn hoa trắng, kết trái như quả cà, đặc biệt hoa mạn đà la trong đầm trong trắng lại tỏ sắc tím, chứa đựng kịch độc kiến huyết phong hầu, vừa nãy ta đã ăn một đóa".

Cô Nguyệt Minh nhớ tới hồi nãy hắn giơ tay áo che mặt, thở dài hỏi: "Đại sư sao lại phải làm vậy?".

Tiết Đình Hao thần sắc bình tĩnh: "Lúc ta cố ý bộc lộ hành tung, đã sớm quyết ý liều mình, nguyên nhân bên trong thí chủ không cần tra cứu. Thí chủ nếu có thể để ta an nghỉ ở đây, bần tăng đã cảm kích phi thường rồi". Nói xong câu cuối, đầu hắn bất lực gục xuống, lại vẫn giữ tư thế ngồi khoanh gối.

Khâu Cửu Sư và Nguyễn Tu Chân giục ngựa theo cửa nam ra khỏi thành, lần theo quan đạo phi nhanh được nửa dặm, có thủ hạ xuất hiện bên đường, thu cương ghìm ngựa, nhìn theo hướng thủ hạ chỉ, quẹo trái tiến vào một khu rừng thưa, đến chỗ ba thủ hạ khác đang tụ tập, cái sọt tre đựng rắn của tiểu tử bán mật rắn kia không ngờ quăng trên cỏ, nắp sọt mở toang, biến thành một cái sọt không.

Nguyễn Tu Chân nhún bàn đạp xuống ngựa, đi vòng quanh cái sọt tre một vòng, sau đó trầm giọng: "Các ngươi thoái ra đi".

Thủ hạ nghe lệnh quay lại quan đạo.

Khâu Cửu Sư vẫn ngồi trên ngựa, đôi mắt thần quang loang loáng, bình tĩnh chăm chăm nhìn cái sọt không.

Nguyễn Tu Chân hỏi: "Ngươi thấy sao?".

Khâu Cửu Sư song thủ khoanh trước ngực, đáp: "Chiếu theo tình hình bề ngoài, tiểu tử kia quăng bỏ sọt tre ở đây, phóng sinh cho mấy con rắn trong sọt, sau đó lẻn đi. Nhưng ta thật không hiểu, nếu tiểu tử đó vì sợ bọn ta mà bỏ chạy, tại sao không lập tức rời khỏi thành sau khi bán mật rắn cho bọn ta hôm qua, lại phải đợi cả nửa ngày một đêm rồi mới đi".

Nguyễn Tu Chân lại đi vòng quanh cái sọt tre thêm một vòng, nghĩ ngợi: "Tiểu tử đó có cần phải đi không?".

Khâu Cửu Sư thốt: "Đây là chỗ thứ nhì ta nghĩ không ra, hắn chắc biết bọn ta không nghi ngờ hắn chút nào, nói cách khác hành động che giấu thân phận Ngũ Độn Đạo của hắn đã hoàn toàn thành công, đáng lẽ nên lợi dụng thân phận đó, tiến hành đại kế trộm bảo vật của hắn, sao khơi khơi lại bỏ đi vào lúc không nên đi, thật ra là chuyện gì đây?".

Nguyễn Tu Chân mỉm cười: "Nếu không phải bọn ta muốn mua thêm mật rắn, cho dù tiểu tử đó có trốn đi, sợ rằng nhất thời hỏi bọn ta cũng không để ý. Hiện tại lại như trong cõi U minh đã có an bài, khiến bọn ta biết được hắn rời khỏi thành mà đi, nếu ta đoán không sai, lực lượng vô hình kia quả là địch chứ không phải là bạn, chính đang ngấm ngầm trợ giúp tiểu tử đó".

Khâu Cửu Sư trầm giọng: "Tiểu tử đó thật đã lẻn đi sao?".

Nguyễn Tu Chân chợt ngửa mặt cười khà khà, tâm trạng cực kỳ hân hoan, sau đó lắc đầu thở dài: "Ngũ Độn Đạo ơi! Ngươi tuy ngon lành lắm, nhưng cuối cùng đã để cho ta khám phá được độn thuật của ngươi".

Khâu Cửu Sư không hiểu gì hết: "Độn thuật của hắn? Hắn có độn thuật gì?".

Nguyễn Tu Chân nghiêm mặt: "Bộ dạng của hắn có thể là giả, vết sẹo bị rắn cắn nơi cổ tay của hắn cũng có thể là giả, hơi hám của rắn và của thuốc rắn ai ai cũng có thể làm được, nhưng thủ pháp hắn bắt rắn và giết rắn cắt mật lại giả không được, về phương diện này hắn quả có nghề, hiển nhiên hắn đã từng có lúc hành nghề này".

Khâu Cửu Sư thở dài: "Quả là như vậy, nếu không bọn ta sao lại có thể bị hắn lừa được".

Nguyễn Tu Chân thốt: "Mãi cho đến giờ, bất kể trước hay sau khi trộm bảo vật, không ai có thể khám phá thân phận Ngũ Độn Đạo của hắn, hắn đương nhiên không phải hiểu biết dị thuật ngũ độn, lại có một thứ độn pháp khác, là giả gì đi nữa cũng không lộ ra bất kỳ một sơ hở nào, bởi hắn quả đã từng trong một khoảng thời gian về trước hành mấy nghề đó, ví như bán mật rắn, hay là y sư, thợ rèn, thợ may, thầy bói, thậm chí bất cứ một nghề nghiệp nào, hắn căn bản không cần phải giả, chỉ cần trở lại làm nghề đó là được, đó là độn thuật mà hắn dựa dẫm để tung hoành thiên hạ. Cho nên nếu hắn thật đã lẻn đi chỗ khác, cơ hội bọn ta có thể tìm được hắn cực nhỏ".

Khâu Cửu Sư nói: "Hắn chắc đã lẻn về thành".

Nguyễn Tu Chân vui vẻ thốt: "Chính là như vậy. Trong nửa ngày một đêm hôm qua, hắn tìm được một thân phận càng có lợi cho hành động của hắn, cho nên quyết định bỏ bán mật rắn, đổi qua thân phận mới mà hành sự, còn cố ý quăng sọt tre không xa ngoài thành, bày bố trận nghi binh, ta dám khẳng định hắn vẫn còn trong thành".

Khâu Cửu Sư đôi mắt hổ sáng lên, hằn học nói: "Bất kể hắn giả làm người nào, chỉ cần ta gặp lại hắn, có thể nhận ra hắn liền".

Nguyễn Tu Chân điềm đạm thốt: "Đừng coi thường bản lãnh giả trang của hắn, về phương diện đó hắn là người có tài. Hiện tại bọn ta lại quay về vấn đề cũ, tại sao hắn biết rõ bọn ta biết mục tiêu trộm bảo vật của hắn mà vẫn chui đầu vào lưới? Hắn chắc rõ bọn ta sẽ thông tri cho Tiền Thế Thần biết, chỉ cần Tiền Thế Thần đề cao cảnh giác, hắn không thể nào trổ nghề, ở lại Lạc Dương còn có ý nghĩa gì chứ?".

Khâu Cửu Sư nhíu mày: "Lẽ nào bọn ta đã đoán sai đối tượng hắn muốn hạ thủ?".

Nguyễn Tu Chân thừa nhận: "Khả năng đó cực lớn".

Khâu Cửu Sư nói: "Bọn ta có phải nên tương kế tựu kế, giả như rời khỏi thành truy lùng hắn, làm cho hắn không phòng bị nữa?".

Nguyễn Tu Chân thốt: "Hắn làm sao biết được bọn ta đã bỏ đi?".

Khâu Cửu Sư gật đầu đồng ý. Ngũ Độn Đạo chỉ có một mình, đã không có cách nào nắm bắt được mọi tình huống trong thành, càng không có cách nào để ý tới chuyện ngoài thành. Đang lúc khẩn trương thảo mộc giai binh như vầy, hắn đâu dám hoạt động trên đường tai mắt đủ mọi nơi, cho nên bất kể bọn họ có hành động gì, Ngũ Độn Đạo không thể nào biết được.

Nguyễn Tu Chân thốt: "Đây là đấu pháp chưa từng có tiền lệ, Ngũ Độn Đạo không phải là hạng tầm thường, tài trí không kém bọn ta, cho nên cần phải bỏ hết thủ pháp quen dùng, đổi sang chọn thủ đoạn có tính ứng phó, mới có thể có hiệu quả".

Khâu Cửu Sư hỏi: "Bọn ta bây giờ nên làm gì?".

Nguyễn Tu Chân bộ dạng như đang hưởng thụ, thở dài một hơi: "Trò chơi bắt trộm càng lúc càng lý thú, thân phận mới nào có thể làm cho Ngũ Độn Đạo bỏ thân phận bán mật rắn, khẳng định phải càng có lợi cho hành động của hắn".

Khâu Cửu Sư hỏi: "Thân phận mới của hắn có phải sẽ giúp cho hắn có thể trà trộn vào Bố chính sứ ti phủ chứ?".

Nguyễn Tu Chân thốt: "Ý tưởng của Cửu Sư hợp tình hợp lý nhất, chỉ có trà trộn vào chỗ nào đó không cần bước ra ngoài cửa nửa bước, mới có thể tránh khỏi tai mắt của bọn ta. Nếu hắn một dạ muốn lấy ngọc kiếm, vậy bọn ta chỉ cần đi gặp Tiền Thế Thần, để gã điều tra xem từ sáng sớm hôm nay cho đến bây giờ Bố chính sứ ti phủ của gã có người ngoài nào mới đến không, Ngũ Độn Đạo sẽ không còn chỗ lẩn mình. Nhưng nếu không có một người như vậy, đối tượng hạ thủ của Ngũ Độn Đạo liền không còn là Tiền Thế Thần nữa, mà là một người khác".

Khâu Cửu Sư tinh thần phấn chấn: "Ta lập tức đi tìm Tiền Thế Thần, nếu vẫn tìm không ra Ngũ Độn Đạo, thông qua Tiền Thế Thần đi tra dò tất cả các nhà phú hộ Lạc Dương có tư cách trở thành mục tiêu của Ngũ Độn Đạo, chuyến này ta thấy hắn có mọc cánh cũng khó mà bay thoát".

Nguyễn Tu Chân thốt: "Có những chuyện ta còn phải dụng tâm suy tưởng, hiện tại bọn ta chia nhau hành sự, ngươi đi gặp Tiền Thế Thần, ta đi bái kiến bang hội địa phương, lợi dụng thời cơ Ngũ Độn Đạo trốn vào phủ trạch nào đó, bố trí một màn thiên la địa võng bao trùm toàn thành, chỉ cần bất kỳ một người ngoài nào thể hình gần sát Ngũ Độn Đạo, bảo đảm không tránh khỏi tai mắt của bọn ta".

Khâu Cửu Sư phấn khởi: "Ta còn muốn thỉnh Tiền Thế Thần tăng cường phòng vệ thành trì, tra xét kẻ lạ mặt như Ngũ Độn Đạo vào ra, xua rùa vào rọ, chuyến này xem xem Ngũ Độn Đạo có thể thoát khỏi nơi đây không?".

Hồi 15: Đăng Môn Ứng Sính

Ô Tử Hư kéo vòng cửa, gõ vang cửa lớn Hồng Diệp Lâu. Lúc này hắn lắc mình biến hóa thành một bạch y văn sĩ, lưng đeo bao bự, dán râu dài năm chòm, không khom lưng gập hông nữa, da dẻ hồi phục một màu trắng nõn, vết thẹo trên mình biến mất không còn thấy nữa, đầu cột khăn vải, diện mạo hoàn toàn khác hẳn so với giả làm người bắt rắn, tư văn tiêu sái, phong độ bóng bẩy, phong lưu văn nhã khôn tả. Nhìn bề ngoài niên kỷ của hắn so với tuổi đời thật của hắn phải lớn hơn ít nhất cũng mười tuổi, chỉ một biến hóa đó đã khiến cho người ta không có cách nào đem hắn liên tưởng thành một với bộ dạng lúc bán mật rắn. Về thuật dịch dung, hắn dám nhận đệ nhị thì không có ai dám nhận đệ nhất. Quan trọng nhất là sự sửa đổi khí chất, thể thái, thần tình và giọng nói, nói cho cùng là cần biến thành một người hoàn toàn khác biệt.

Đợi một hồi, cửa lớn "kẹt" một tiếng, lộ ra một cái cửa song nhỏ, một hán tử thò đầu nhìn qua song, nhìn lên nhìn xuống hắn hai lượt, bực bội hỏi: "Ngươi không nhìn thấy cửa đóng sao? Bây giờ là giờ gì, muốn quang cố thì đợi đến sập tối hãy đến".

Ô Tử Hư phát ra tiếng "chặc chặc" lạ lẫm, cười lạnh thốt: "Nói vậy mà nói được sao? 'Họa Tiên' Lang Canh ta từ kinh sư sang quý hạ mình đến cái phủ quận bé xíu của ngươi, mấy tên canh cửa các ngươi căn bản không đủ tư cách nghênh tiếp ta, mau kêu ông chủ của ngươi ra, bảo đảm lão phải lễ độ nghênh đón".

Đại hán giữ cửa không nghĩ gì hết, phá miệng mắng lớn: "Họa Tiên con mẹ ngươi, ta thấy ngươi không khác gì Họa Khất thì có, còn dám chọc giận lão tử nữa à".

Ô Tử Hư thấy hù gã không được, liền cải biến sách lược, ôm quyền thi lễ: "Thất kính thất kính! Thì ra vị đại ca này là người tính tình ngay thẳng, ta kính trọng nhất là hán tử trực tính như đại ca. Làm phiền đại ca thông truyền một tiếng, nói đệ nhất diệu bút ở kinh sư Lang Canh đã đến, bảo đảm ông chủ của ngươi sẽ không thất vọng". Tiếp đó hạ thấp giọng: "Sau khi ta kiếm được ngân lượng, sẽ tặng vài chục lượng cho đại ca ngươi sử dụng, nếu bị ông chủ của ngươi đá ra, đương nhiên không liên quan gì tới đại ca ngươi, đây là mối kiếm tiền chắc chắn, tôn ý của đại ca thế nào?".

Đại hán giữ cửa chưa từng thấy ai trước xấc xược sau cung kính, lưỡi không xương nhiều đường lắt léo như vậy, mau mắn đổi mặt đến mức cả gã là kẻ đã quen lăn lộn ở thanh lâu cũng phải thẹn mình không bằng, thừ người ra, nhất thời không biết nên dùng thái độ gì để đối đãi hắn.

Ô Tử Hư thấy gã động lòng, đến gần một chút: "Vốn ta cùng không có hứng thú đến ứng thí làm họa sư, chỉ vì nhìn thấy mấy tên vô dụng hết kẻ này tới kẻ khác bị đá ra, làm mất hết mặt mũi nghề nghiệp của bọn ta, vì để trùng chấn uy danh hành nghề của bọn ta, khiến cho quý lâu không còn ngộ nhận nghiệp vụ của bọn ta không có kẻ có năng lực, cho nên đến gõ cửa. Ài! Để chứng minh thành ý của ta và sự tôn kính đối với đại ca ngươi, trước hết xin dâng hai lượng bạc, thỉnh đại ca tiếp nhận cho". Vừa nói, tay phải vừa rút ngân lượng trong mình ra, đưa qua cái song nhỏ.

Đại hán giữ cửa cũng không nghĩ ngợi gì, tiếp nhận liền.

Ô Tử Hư lòng nhẹ nhõm, hắn đến ứng thí vào thời điểm không thích hợp như vầy là vì càng trốn mau vào Hồng Diệp Lâu thì càng an toàn, hắn rõ tâm trạng của người trong thanh lâu nhất, chỉ có tiền mới đả động được bọn họ.

Đại hán giữ cửa lập tức vụt đổi thái độ: "Đừng trách ta không cảnh cáo ngươi trước, ngươi qua được cửa ải ông chủ vẫn vị tất đã qua được cửa ải Bách Thuần tiểu thư, tuyệt không thể nói cho bất cứ một ai biết ta đã thu hai lượng bạc của ngươi đó".

Tiếp đó đóng sập cái song nhỏ lại.

Ô Tử Hư lòng ngầm đắc ý, đây là hậu quả tất nhiên, thông truyền một tiếng mà bỏ túi được hai lượng bạc, không ai có thể cự tuyệt.

Còn nghĩ phải đợi một hồi, nào hay "kẹt" một tiếng, cửa lớn hé ra chút ít, đại hán giữ cửa thò đầu ra, nhìn lên nhìn xuống gã vài lượt, khẽ quát: "Tiến vào đi!".

Ô Tử Hư mừng khấp khởi, vội luồn vào trong.

Quý Nhiếp Đề một ngựa đi trước, dẫn thủ hạ toàn tốc phi nhanh. Bọn họ đã đổi ngựa hai lần, từ đây đến Vân Mộng Trạch, y đã thiết trí dịch trạm lâm thời cho quan viên, nhằm chuẩn bị bất cứ lúc nào cũng có thể dùng phương pháp nhanh nhất để đến Vân Mộng Trạch.

Y dám khẳng định Tiết Đình Hao chạy không thoát thiên la địa võng của y, nhưng y lại không có tới một chút xíu cảm giác hưng phấn, tiếp nhận nhiệm vụ lần này, y từng tranh luận kịch liệt với Phụng công công, cuối cùng đương nhiên không gàn hơn Phụng công công được. Nhưng mãi cho đến giờ phút này, Quý Nhiếp Đề vẫn nghĩ mình đúng, Phụng công công chẳng phân nặng nhẹ. So với Đại Hà Minh, Sở hạp chỉ là chuyện nhỏ không cần phải nói tới. Hiện tại uy hiếp lớn nhất đối với triều đình là Đại Hà Minh. Đem nhân lực vật lực lãng phí tìm kiếm Sở hạp, là bỏ gốc mà đuổi theo ngọn. Bất kể bên trong Sở hạp giấu vật gì, chỉ là vật ngoài thân, mà bảo vật gì đi nữa cuối cũng cũng không đáng một xu, bởi nếu bị Đại Hà Minh thành công lật đổ triều đại, y và Phụng công công đều phải chết không đất chôn thân, bảo vật đối với người chết có hữu dụng gì nữa chứ? Trừ làm vật chôn chung ra.

Quý Nhiếp Đề căn bản không tin chuyện cổ thành. Nhưng y cũng không có cách nào tìm một giải thích hợp lý cho chuyện xảy ra năm xưa.

Y là lần thứ ba đến Vân Mộng Trạch. Sau hơn một canh giờ, bọn họ sẽ đến bến đò Tương Quân Độ của Tương Thủy, rồi dùng bè gỗ qua sông.

Y thật hy vọng có thể bắt sống Tiết Đình Hao, từ miệng của hắn tra ra chuyện xảy ra năm xưa, y rất muốn biết chân tướng, bởi y biết rõ Phu Mãnh tuyệt không phải là hạng người như Phụng công công nghĩ. Y và Phu Mãnh từng là bằng hữu tốt nhất.

Diễm Nương dựa ngã mình trên ghế, hưởng thụ khoảng thời gian thỏa dạ nhất hàng ngày. Lúc này ả vừa tỉnh ngủ, tinh thần sung mãn, sau khi rửa ráy là đến Quý Tân sảnh của Hồng Diệp Lâu, tiếp kiến các nhân viên chấp sự trong thanh lâu, nghe kể tình huống trong ngày, phân phát chỉ lệnh, để mọi sự có thể tiến hành thuận lợi sau khi mở cửa.

Hai tên bộc phó cường tráng đang xoa bóp cho ả, máu huyết lưu thông. Cũng chỉ có vào giờ này, ả cảm thấy mọi sự nắm chắc trong lòng bàn tay của mình.

Lúc Đàm Đức giữ cửa tiến vào nói cho ả biết lại có họa sư đến, phản ứng ban đầu của ả là muốn kêu Đàm Đức đuổi hắn đi, đến khi Đàm Đức nói họa sư kia tựa như khác mấy tên trước đây, là danh sư từ kinh sư đến, ả cuối cùng miễn cưỡng đáp ứng chịu gặp hắn.

Toàn bộ kế hoạch là do Bách Thuần nghĩ ra, là dạm mời họa sư cao minh chọn tám vị cô nương đỏ nhất để vẽ chân dung, đến lúc Hồng Diệp Lâu mở điển tiệc ăn mừng mười năm ngày thành lập sẽ treo hai bên Hồng Diệp đường, để cho khách nhân viết đôi dòng thi phú bên bức họa. Theo ý nghĩ của Bách Thuần, chỉ cần có một bài thơ trong số truyền tụng bốn phương, có thể nâng Hồng Diệp Lâu lên địa vị tầm cỡ Lạc Dương Lâu, như Lạc Dương Lâu trong "Lạc Dương Lâu ký".

Chỉ tiếc không có họa sư nào qua được cái ải Chu Bàn Tử, nói gì đến Bách Thuần yêu cầu còn cao hơn nữa.

Hiện tại khoảng thời gian đến khánh điển còn chưa đến mười ngày, toàn sự vụ đâu thể nào trì trệ được, nếu quả họa sư này lại không ra gì, chỉ còn nước bỏ hết kế hoạch.

Đàm Đức dẫn họa sư tiến vào sảnh đường, Diễm Nương vừa liếc thấy, lập tức thầm chửi.

Phương pháp ả nhìn nam nhân rất giản đơn, chỉ chia làm bốn loại người, có tiền hay không có tiền, đẹp trai hay không đẹp trai. Mà căn cứ theo kinh nghiệm phong phú tích lũy bao lâu nay của ả, sự phân loại của ả không sai vào đâu được. Bất kể là loại người nào, cuối cùng cũng có căn tính xấu, cho dù y bề ngoài đạo mạo cao cả tới cỡ nào, hay bộ dạng như một sắc quỷ, không có căn tính xấu thì đâu có đến thanh lâu ăn xài ngả ngớn.

Họa sư trước mắt có thể quy vào loại dễ nhìn, lại khẳng định là nghèo khố rách áo ôm, cho nên mới ngàn dặm xa xôi từ kinh sư đến đây. Ả không nhịn được mắng thầm, là vì khám phá tên tiểu tử này là một con quỷ hiếu sắc, hơn nữa là tay già dặn trăng hoa, giây phút đôi mắt láo liên ve vãn kia vừa nhìn thấy ả, liền tuần sát trên dưới, trước hết căng mắt nhìn đùi và hông ả, cuối cùng mới nhìn lên mặt ả.

Diễm Nương cố ý giả như không nhìn thấy hắn, vẫn gục mặt xem tờ danh sách rượu thịt đồ ăn trên tay.

Họa sư cúi mình thi lễ, cung kính thốt: "Kinh thành 'Họa Tiên' Lang Canh, đặc biệt đến thỉnh an chào hỏi đại quản gia".

Diễm Nương thầm nghĩ động tác của tên tiểu tử này khá là tiêu sái dễ nhìn, giọng nói lại rất êm tai, đáng tiếc vẫn chỉ là một họa sư nghèo hèn tự cho mình là phong lưu, vẫn không thèm nhìn hắn, cau mày: "Họa Tiên Họa Thánh gì, là ngươi tự thếp vàng trên mặt mình hay là người ta dâng tặng cho ngươi đó?".

Lang Canh không chút hổ thẹn, chằm chặp mê mẩn nhìn bộ ngực đầy đặn của ả: "Tôi là Họa Tiên hay là cây cọc bôi sáp bạc, đại quản gia thử là biết liền, bảo đảm, hàng thiệt giá thiệt, già trẻ gì cũng không chê".

Diễm Nương xém chút đã không nhịn được cười phá lên, miễn cưỡng nghiêm mặt, mắng: "Mặc ngươi là hàng gì, sao dám đùa cợt với lão nương, bộ muốn ta quét ngươi ra sao?".

Lang Canh hoang mang: "Đại quản gia đừng giận. Tại hạ đâu dám có lỗi với nữ nhân xinh đẹp, xin đại quản gia tha thứ". Lại nhe hai hàm răng đều đặn trắng như tuyết, nụ cười sáng lạn thốt: "Bất quá đại quản gia có thể yên tâm, con người của tại hạ công tư phân minh nhất, công tác là công tác, hiểu nhất là giữ quy củ. Tại hạ chuyến này đến xin làm họa sư là vì muốn đem lại niềm tự hào cho kẻ dùng hội họa để sinh sống bọn tôi, không để bị người ta coi là hạng lường gạt".

Diễm Nương bực bội: "Ba tháng nay ta đã gặp không ít hơn ba chục tên cùng nghề với ngươi, có một tên khoe khoang mình là thiên hạ vô địch, vẽ lại toàn là thứ không vào đâu đáng xấu hổ. Ngươi bớt lải nhải trước mặt ta đi".

Trên sự thật ả đã tăng chút hảo cảm đối với tên họa sư háo sắc này, hắn lộn vòng luồn cúi khen mình đẹp, nịnh bợ rất đúng chỗ.

Lang Canh không những không để ý sự châm chọc của ả, còn tựa như chịu thụ giáo quá sức, mặt dày thốt: "Tài vẽ của tại hạ ra sao, không có cách nào gạt được đại quản gia, chỉ cần đại quản gia kêu người đem đến giấy bút thủy mặc, để tại hạ phẩy bút vẽ một tấm mỹ nữ nằm cho đại quản gia, đại quản gia biết liền tại hạ tài tình tới cỡ nào".

Diễm Nương cuối cùng đã nhìn hắn, trừng mắt nói: "Đừng bày trò quái quỷ nữa. Cái ông chủ yêu cầu là vẽ hình mỹ nhân màu mè, không có nhan liệu làm sao vẽ được? Ngươi không phải đến đây lộn xộn đó chứ?".

Lang Canh chắp hai tay sau lưng, nghiêm nghị thốt: "Chỉ cần ông chủ lớn của quý lâu thông hiểu nghề họa, có thể nhận ra công phu của tại hạ từ tranh họa thủy mặc!".

Diễm Nương thấy bị hắn lẩn quẩn tốn không ít thời gian, không còn hứng thú lắng nghe nữa, ngắt lời hắn: "Ngươi cút ra ngoài cửa đợi ta phát lạc".

Vô Song Nữ dắt Hắc Nhi theo, cước bộ nặng nề rời khỏi Ban Trúc Lâm, thi thể của cữu cữu đặt trên lưng ngựa đã được nàng dùng áo ngoài bao lại.

Dưới những tia sáng còn rơi rớt lại của ánh mặt trời đang lặn mình, nàng bước trên con đường dịch đạo xuyên qua cánh rừng cổ thụ đến vùng đầm lầy, lòng bần thần trống trải. Nàng ôm hy vọng đến đây, bây giờ tất cả mọi hy vọng đều đã hóa thành bọt nước, trước đây nàng một mực tin tưởng có thể khám phá sự tình, hiểu rõ chân tướng, đến giờ phút này mới biết đó chỉ là ý tưởng mong mỏi một chiều.

Nàng từng dự tưởng vô số khả năng, lại chưa từng nghĩ tới sau khi đến chỗ muốn đến lại tìm thấy cữu cữu bị người ta hạ độc hại chết. Cha đã rủi nhiều may ít, người có thể là thân nhân duy nhất còn lại của nàng lại đã bỏ nàng ra đi, trời cao tại sao lại vô tình với mình như vậy? Kiếp trước mình có phải đã thắt kết oan nghiệt không giải khai được, đến đời này cần phải chịu đựng một mình?

Từ khi cữu cữu đem phó thác nàng cho An Giới, nàng ngày đêm nỗ lực học tập thao luyện, từ công phu nhào lộn, kỹ xảo dùng miệng, trò đu nhảy, xoay mình như chong chóng, múa kiếm, đi trên xà, đi trên dây, leo thang, nhún đàn hồi, diễn kịch, cho đến ảo thuật khói lửa và ảo thuật đèn đuốc, thành tựu trên mỗi một món đều khiến cho một An Giới xưng là "vua kịch xiếc" cũng phải trố mắt không theo kịp, thiên phú của nàng về mặt đó đâu còn phải ngờ vực. Chỉ tức mọi nỗ lực đều vì chuyện cữu cữu bị hại mà có cảm giác buồn xót lãng phí hết tâm cơ, trôi theo dòng nước.

Chuyện duy nhất nàng có thể làm hiện giờ là giết chết hung đồ đã hạ độc hại cữu cữu, khẳng định là tên ưng khuyển của triều đình đã một mực từ Đại Giang truy tung mình đến Vân Mộng Trạch, bởi nàng phát hiện ra dấu chân của y ngoài Tương Phi Từ, bất kể y trốn đến chân trời góc biển nào, nàng phải bắt y lấy mạng đền món nợ máu này.

Vô Song Nữ vụt dừng lại, đôi mắt sáng loang loáng, trừng trừng nhìn về đằng trước.

Một đại hán khôi ngô niên kỷ trên dưới bốn chục, lưng đeo trường kiếm, thân vận y phục vải gai, đi chân không, tướng mạo giản dị đứng chặn phía trước, sự xuất hiện của hắn đột ngột vô cùng, vừa hoa mắt một cái, đã bị hắn chặn đường. Con người này thân thể tràn đầy một thứ hơi hám yêu tà, thâm trầm lãnh tĩnh đến mức tựa như không có tình cảm con người, mục quang băng lãnh, bất kỳ một ai bị hắn chăm chú nhìn cũng phải phát lãnh rùng mình.

Vô Song Nữ lạnh lùng thốt: "Cút sang một bên! Nếu không đừng trách ta không khách khí".

Kẻ chặn đường chính là Qua Mặc, hắn là đại hành gia truy tung, đi theo dấu chân của Cô Nguyệt Minh, nàng và Hắc Nhi đuổi thẳng đến đây, thầm nghĩ nếu tử thi trên lưng ngựa là Cô Nguyệt Minh, vậy thì quá là lý tưởng. Nghe tiếng tâm tình cực kỳ khoái trá đáp: "Chỉ cần cô nương cho ta xem người nằm trên lưng ngựa là ai, bản nhân quay đầu đi liền, tuyệt không làm khó dễ".

Vô Song Nữ một tay tựa như muốn chỉnh sửa mái tóc đẹp, hơi lướt qua tóc mai, khẽ quát: "Ta nói cút sang một bên".

Qua Mặc lộ nụ cười âm hàn.

Vô Song Nữ vụt phất tay tới trước, ánh sáng nhoáng lên, nhắm ngay mặt Qua Mặc bắn tới.

Qua Mặc đứng bất động, tay dời lên trên, kẹp tia sáng giữa ngón cái và ngón trỏ, rồi kéo đến trước mũi nhìn kỹ, không ngờ là một thiết châm đen bóng, vốn cắm bên đầu tóc của Vô Song Nữ, sẵn sàng cho nàng dùng làm ám khí.

Thủ pháp phóng châm của Vô Song Nữ hung mãnh khôn cùng, nhưng thủ pháp Qua Mặc chộp lấy ám khí càng thần kỳ làm sao, thật khiến người ta khó tin.

Vô Song Nữ hơi biến sắc, chỉ một chiêu của Qua Mặc đã đủ cho nàng tự than không bì nổi, đương nhiên nàng đâu có sợ, đọ võ tranh thắng, đến cuối cùng hươu chết về tay ai còn phải xem tận tường.

Qua Mặc quăng châm lên trên đầu, hỏi: "Cô Nguyệt Minh đâu?".

Vô Song Nữ trầm giọng: "Ta không biết ngươi đang nói gì".

Châm lại lọt giữa hai ngón tay của Qua Mặc, lập tức lại biến thành lợi khí sát nhân nguy hiểm. Qua Mặc lòng kinh ngạc, câu nói của hắn đâu phải là hỏi đại, nếu thi thể trên lưng ngựa là Cô Nguyệt Minh, sức chú ý của Vô Song Nữ sẽ dời ra sau, đó là phản ứng tự nhiên, bằng vào thuật nhìn người tinh diệu nhập thần của Qua Mặc, có thể từ sự biến hóa thần tình vi diệu của đối phương mà truy ra đầu mối, nào hay Vô Song Nữ hoàn toàn không máy động, vẫn toàn thần chăm chú quan sát hắn.

Qua Mặc cười lạnh: "Đừng gạt ta là ngươi không biết Cô Nguyệt Minh, ngươi và hắn chung một đám, nếu không sao lại cùng một thuyền qua sông?".

Vô Song Nữ lòng chấn động, cuối cùng đã biết được tên họ của cừu nhân giết chết cữu cữu, lại nghĩ đến cao thủ cực kỳ đáng sợ trước mắt chính là kẻ đã bắn mũi tên tẩm độc từ dưới nước đánh lén Cô Nguyệt Minh, cho nên mới hiểu lầm như vầy, do hắn lúc đó núp dưới nước, từ góc độ bên dưới nhìn lên, cho nên có thể thấy được dung mạo của nàng. Mà người này giờ đây không sợ bộc lộ thân phận, hiển nhiên là đã quyết định giết mình diệt khẩu, cho nên không sợ nói ra. Tâm niệm láy chuyển, cười lạnh thốt: "Thì ra ngươi là tên bỉ ổi muốn dùng ám tiễn hại người. Chưa đụng phải y sao? Y chắc đang ở quanh đây".

Qua Mặc cười lạnh: "Cô nương có thể gạt bất cứ một ai, lại đừng hòng gạt được ta, y đã đi Lạc Dương, có đúng không?".

Vô Song Nữ biết hắn sắp động thủ, hé môi phát ra một tiếng rít, tay trái thủ thế, cùng một lúc, hữu thủ phất ra, một luồng bạch quang mãnh liệt nổ ra giữa nàng và Qua Mặc, lóa mắt cực kỳ, với năng lực của Qua Mặc, nhất thời cũng không nhìn thấy rõ.

Qua Mặc quát lớn một tiếng, thiết châm trong tay vọt về phía Vô Song Nữ, bất quá hắn biết đã đánh mất tiên cơ, cử động liên hoàn của Vô Song Nữ là muốn ứng phó thiết châm trên tay hắn.

Thật khó trách Qua Mặc được, một cao thủ đồng hạng với hắn như Cô Nguyệt Minh cũng phải chịu kém dưới tay Vô Song Nữ pháp bảo đầy mình, quỷ biến khôn lường, hiện tại Vô Song Nữ biết đánh không lại hắn, toàn lực bỏ chạy, Qua Mặc tri kỷ mà không tri bỉ đương nhiên phải chịu lỗ. Hắc Nhi chở thi thể của Tiết Đình Hao trước hết thoái ra sau hơn trượng, sau đó vọt ngang vào khu rừng cổ thụ. Tuyệt kỹ mà Vô Song Nữ học được từ An Giới, bao gồm kỹ nghệ thuần ngựa và cưỡi ngựa, lúc này có thể thuận dòng trổ ngón.

Vô Song Nữ lộn ba vòng, như bánh xe quẹo vào khu rừng, cách rời dịch đạo, ba quả hắc yên đạn lần lượt nổ vang, địa vực phương viên bốn năm trượng lập tức lọt vào vùng khói đen.

Qua Mặc thầm kêu không hay, như ánh chớp lao mình vào vùng khói mù, thuần bằng vào thính giác nghe ngóng vị trí của Vô Song Nữ, một kiếm đâm tới.

Tiếng xé gió từ dưới xéo lên, một kiếm của Qua Mặc đâm hụt, đang lúc thầm la không xong, sau ót tiếng rít vang dậy, Qua Mặc nhắm đằng trước vọt xuống, có một vật rạch qua lưng hắn, đau rát nóng bỏng. Đến khi Qua Mặc tỉnh ngộ đối phương dùng một loại vũ khí dài kiểu nhuyễn tiên, bên trên truyền vọng tiếng vạt áo phần phật, đối phương căn bản không cần hạ mình xuống, cứ nhún nhảy trên cành cây mà đi.

Qua Mặc búng người lên, thầm nghĩ ngươi muốn so bì sức nhẫn nại với ta, khẳng định là tự chuốc lấy khổ, đang tính đuổi theo, chợt phương hướng Vô Song Nữ bỏ đi truyền đến tiếng sói gầm gừ dễ sợ.

Qua Mặc kinh hãi, vội thoái lùi ra sau, chạy ra ngoài phạm vi làn khói đen, về lại dịch đạo.

Khói mù từ đậm đặc mỏng dần, Vô Song Nữ và ngựa đã biến mất trong cánh rừng cổ thụ từ lâu, cái khiến cho Qua Mặc không hiểu nổi là không thấy có con sói nào nhảy ra.

Lẽ nào ả kia giả sói gừ?

Một nữ tử phản ứng lanh lợi như vậy, đủ thứ kỹ xảo như vậy, bất kể là tài trí hay võ công đều thuộc hàng nhất đẳng như vậy, hắn lần đầu đụng phải.

Ô Tử Hư theo sau ả tỳ nữ xinh đẹp, đi trên hành lang dọc Quải Biều Trì, tiến vào khu vườn chính giữa. Rảo bước theo sau là hai hán tử thể hình chắc nịch, hiển nhiên là phụ trách giám thị hắn, có lẽ Diễm Nương nhận ra hắn là sắc quỷ, hay sợ hắn là kẻ điên.

Nói thật ra, hắn không hiểu nổi mình. Mỗi lần đạp chân vào chốn thanh lâu hương sắc, hắn lại chết đuối bên trong, liều cái mạng già đi chinh phục hoa sắc, chừng như muốn dựa vào đó để khỏa lấp cho một khiếm khuyết nào đó trong cuộc đời, mà mỗi một lần hắn đều phải thất vọng.

Cứ như tỳ nữ xinh đẹp trước mắt, tuy không mê hồn hấp dẫn, tràn trề sức sống và sức yêu đương bằng Bách Thuần, lại mộc mạc mỹ lệ làm sao, thể thái khỏe mạnh, đôi mắt to tròn đen láy sáng bừng, là một tiểu mỹ nhân khuynh đảo người người, nhan sắc chắc không kém đa số các cô nương trong Lâu, chỉ là làm ra vẻ lãnh đạm băng sương, khiến người ta khó tiếp cận. Ô Tử Hư nguyện ý hiến dâng một nửa số của cải hắn hiện có để đổi lấy một nụ cười ngọt ngào của ả. Tính tình của hắn trong thanh lâu là vậy, quăng vàng như không.

Hồng Diệp Lâu quy mô to tát, hoàn toàn vượt ngoài tưởng tượng của hắn, cứ như một thế giới khác trong Lạc Dương thành, làm cho hắn chấn động chưa từng thấy, khiến cho hắn cao hứng đến mức nhiệt huyết bừng bừng, xém chút đã quên đến đây là có mục đích khác, đầu óc mơ màng thật là hoa không mê hoặc người mà người tự đắm mê. Lang thang thanh lâu luôn luôn là một lạc thú lớn nhất trong lối sống mạo hiểm của hắn, ở đó hắn có thể biến thành một người khác, tràn trề cảm giác hạnh phúc khoái lạc, không lo không rầu, ít ra có tâm tình vui vầy trước khi tỉnh mộng phong lưu.

Nhìn bóng dáng yểu điệu của tỳ nữ xinh đẹp, Ô Tử Hư ngứa ngáy trong lòng, không kềm được đi nhanh hơn, đến gần ả hỏi: "Vị đại thư này không biết xưng hô sao đây?".

Ả tỳ nữ xinh đẹp vụt đứng lại, hại cho Ô Tử Hư đi vượt qua mặt, chỉ còn nước xoay người lại, ngạc nhiên nhìn ả, không rõ tại sao ả lại có phản ứng như vậy. Hai đại hán đằng sau không lộ vẻ ngạc nhiên chút nào, như đã sớm biết sẽ có hậu quả dừng bước như vầy, thần thái đứng bên kia bờ xem lửa cháy, tìm vui trong tai họa.

Ả tỳ nữ xinh đẹp mặt lạnh như nước trừng mắt nhìn hắn, lộ thần sắc không ưa, lạnh lùng thốt: "Tên ta là gì, không quan hệ gì với ngươi, ta chỉ phụ trách dẫn ngươi đến Phong Trúc Các để ngươi vẽ hình, một canh giờ sau ta quay lại đem bức họa của ngươi cho Diễm Nương xem, vẽ không xong thì ngươi phải cút đi, minh bạch chưa?".

Một đại hán hừ lạnh từ đằng sau, ra vẻ cảnh cáo.

Ô Tử Hư cảm thấy thú vị, lòng trào dâng tư vị nóng bỏng mới lạ. Trong quá khứ hắn bước chân vào thanh lâu với vị trí thân phận hào khách, dùng kim tiền mua lấy nụ cười và sự tôn trọng, người trong thanh lâu từ trên xuống dưới chỉ sợ không hầu hạ hắn được chu toàn. Hiện giờ đổi lại thành đi kiếm tiền của thanh lâu, không còn được tình ý giả trá nữa, ví như bị từ chối một cách đau điếng như bây giờ.

Ô Tử Hư liền nói: "Minh bạch rồi, minh bạch rồi rồi! Hì! Có phải Bách Thuần cô nương đến làm đối tượng cho bức họa của ta không?".

Hai đại hán đằng sau đồng thời phát ra tiếng cười trào lộng.

Ả tỳ nữ xinh đẹp bực bội: "Ngươi đừng có lắm trò nữa, không những đại tiểu thư không đến, căn bản không có ai đến, ai ai nghe thấy hai chữ 'họa sư' đều bịt tai bỏ chạy rồi. Ngươi tự mình nghĩ ra cái gì đó mà vẽ đi! Chỉ cho ngươi một canh giờ thôi đó, ngươi phải ráng đi".

Ô Tử Hư gãi đầu: "Đại quản gia không nói cho bọn họ biết tôi là Họa Tiên Lang Canh đến từ kinh sư sao?".

Hai đại hán đằng sau làm sao nhịn được nữa, buông tiếng cười hềnh hệch.

Khâu Cửu Sư và Nguyễn Tu Chân kẻ trước người sau về đến Bát Trận Viên chỗ tạm trú, trao đổi tin tức trong tiểu đình của hoa viên, hoàn cảnh ở đây im ắng u nhã, không lo bị người ta nghe thấy lời đối thoại của bọn họ.

Thái dương vừa xuống núi, bầu trời sụp tối đã xuất hiện bóng dáng các chòm sao.

Nguyễn Tu Chân hỏi: "Thuận lợi chứ?".

Khâu Cửu Sư hân hoan đáp: "Tiền Thế Thần hợp tác lắm. Gã đồng ý với lối nhìn của bọn ta, Ngũ Độn Đạo nếu vẫn dám ở lại Lạc Dương thành, chắc không phải ngắm nghía ngọc kiếm của gã, bởi đó nhất định là tìm chết, mà là một mục tiêu khác. Gã nói phú hộ Lạc Dương tuy nhiều, nhưng kẻ cất giấu đồ cổ quý báu có đem ra cho người ta xem chỉ chín mười người, gã sẽ nội trong đêm nay tra cứu mọi người, nếu phát hiện có nhân vật khả nghi, lập tức thông tri cho bọn ta biết, kêu bọn ta ở đây đợi tin tốt của gã".

Nguyễn Tu Chân thốt: "Tốt vô cùng. Ta có gặp qua thủ lãnh Mã Công Thành của Lạc Dương bang, hắn bảo đảm chỉ cần có người nào tướng tá cỡ Ngũ Độn Đạo mà lại lạ mặt xuất hiện, bất kể Ngũ Độn Đạo có giả làm Thiên vương lão tổ hay là yêu quái sơn tinh, hắn cũng lập tức thông báo".

Khâu Cửu Sư vươn vai lười biếng, mỉm cười: "Sau khi bắt được Ngũ Độn Đạo, bọn ta lập tức rời khỏi địa phương quỷ quái này, hy vọng từ nay về sau mọi sự hồi phục lại như thường, không cần cả ngày nghi thần nghi quỷ, ngủ không an giấc nữa".

Nguyễn Tu Chân điềm đạm hỏi: "Không từ biệt Bách Thuần sao?".

Khâu Cửu Sư thần tình khổ não: "Lại chọc ta rồi".

Nguyễn Tu Chân lại không chịu bỏ qua cho hắn: "Ngươi có hứa hẹn gì với Bách Thuần không?".

Khâu Cửu Sư cau mày: "Mấy lời đã nói với nàng ta trong tửu lâu, không phải đã kể hết cho ngươi nghe sao?".

Nguyễn Tu Chân không chịu buông tha, hỏi truy: "Ta muốn biết lúc ngươi đưa tiễn nàng ta lên xe ngựa, có nói mấy lời đại loại như chịu nhận lỗi với nàng nữa không?".

Khâu Cửu Sư đầu hàng: "Nói cho ngươi biết nè! Ta đã đáp ứng sau khi hoàn thành chuyện quan trọng sẽ đến Hồng Diệp Lâu bái phỏng nàng, tuyệt không có thề non hẹn biển gì. Đây là phong độ tối thiểu rồi, đối với tài nữ hàng đầu Lạc Dương, ta cũng phải giữ chút mặt mũi lễ nghĩa chứ, huống hồ lúc đó đã giải quyết xong vấn đề Ngũ Độn Đạo, không còn hiềm kỵ gì nữa".

Nguyễn Tu Chân điềm đạm hỏi: "Giải quyết không được thì sao?".

Khâu Cửu Sư ngạc nhiên: "Có khả năng sao?".

Nguyễn Tu Chân trầm ngâm: "Giả như đến ngày mai vẫn hoàn toàn chưa có tin tức về Ngũ Độn Đạo, nỗi lo của ta sẽ biến thành sự thật".

Khâu Cửu Sư thốt: "Ta chỉ sẽ nghĩ Ngũ Độn Đạo thật đã trốn chạy rồi".

Nguyễn Tu Chân nói: "Ta vẫn tin chắc hắn còn ở trong thành, mà cơ hội duy nhất để bắt hắn của bọn ta cũng là trong Lạc Dương thành. Bách Thuần ít ít nhiều nhiều có mối quan hệ vi diệu với Ngũ Độn Đạo, nếu không, đôi tay vô hình kia không thể an bài cho ngươi và Bách Thuần dây dưa quấn quít hoài".

Khâu Cửu Sư không đồng ý: "Bách Thuần có thể có quan hệ gì với hắn chứ? Ai cũng biết được Bách Thuần đến từ kinh sư, là tiểu sư muội của danh kỹ Hoa Mộng phu nhân ở kinh sư, hai người đều được chân truyền của thanh lâu kỳ nhân Kim Thời Nhật, thân thế thanh bạch, tuyệt đối không thể là đồng đảng của Ngũ Độn Đạo, huống hồ Ngũ Độn Đạo luôn luôn độc lai độc vãng, đâu có đồng bọn".

Nguyễn Tu Chân ngạc nhiên: "Ai nói cho ngươi biết vậy? Ta hỏi Mã Công Thành, hắn không biết tí gì về lai lịch xuất thân của Bách Thuần".

Khâu Cửu Sư hơi bẽn lẽn đáp: "Là Tiền Thế Thần nói".

Nguyễn Tu Chân không thừa cơ hỏi tới, mà nói: "Ta không phải nghi thần nghi quỷ, mà là dùng chuyện để luận chuyện. So với địch thủ vô hình của bọn ta, bọn ta đang ở vị trí bất lợi vô cùng. Ưu thế lớn nhất của chốn U minh, trừ ra có thể ảnh hưởng tới tâm tưởng của bọn ta, lợi hại nhất là có năng lực quan sát toàn cục, một chuyện bọn ta nhìn nhận tựa như không có quan hệ gì, trong kế hoạch tổng thể của cõi U minh lại có thể là mắt xích trọng yếu có tác dụng mấu chốt. Dùng chiến trường mà ngươi rành rọt làm thí dụ, bọn ta hãm mình trong sương mù tầm nhìn chỉ thấy được trăm bước là cùng, cõi U minh lại có thể nhìn thấy biến hóa của toàn chiến trường. Lão ca ngươi nói cho ta biết coi, một trận đánh như vậy có khó đánh không".

Khâu Cửu Sư ngây người một hồi, thở dài thốt: "Minh bạch rồi!".

Nguyễn Tu Chân nói: "Ngươi không đi gặp Bách Thuần, Bách Thuần lại có thể đến gặp ngươi, sự tình không khác biệt gì hết, mọi sự hoàn toàn thao túng trong tay chốn U minh. Nó thật ra muốn bọn ta làm sao? Không ai biết được. Mục đích cuối cùng của chốn U minh là gì, chỉ có U minh và ông trời biết rõ. Nhưng bọn ta cần phải phụng bồi, bởi bắt được Ngũ Độn Đạo, tất cả coi như xong".

Khâu Cửu Sư cười khổ: "Quả là như vậy".

Nguyễn Tu Chân vui vẻ thốt: "Đây là một trận đánh khác hẳn đó giờ, dũng lực và trí tuệ bình thường đều không có tác dụng gì hết, cho nên đừng trách ta nghi thần nghi quỷ, cũng chỉ có nghi thần nghi quỷ, bọn ta có lẽ còn một tia hy vọng giành phần thắng".

Khâu Cửu Sư hỏi: "Bây giờ bọn ta nên làm sao?".

Nguyễn Tu Chân đáp: "Cái gì cũng đừng nghĩ tới, đi nghỉ cho khỏe. Nếu sở liệu của ta không sai, Tiền Thế Thần đêm nay sẽ không được gì, mà bọn ta có thể đem đối tượng giám thị ấn định lên mình Bách Thuần, thậm chí cả tòa Hồng Diệp Lâu. Thủ đoạn của cõi U minh chỉ có thể thông qua người sống mà thực hiện, chỉ cần có liên quan với con người, bọn ta có thể tìm ra manh mối".

Khâu Cửu Sư kinh hãi: "Vậy nào có khác gì muốn tiếp tục dây dưa với Bách Thuần?".

Nguyễn Tu Chân thở dài: "Cho nên mới nói bọn ta đang ở thế kém, bị cõi U minh dắt mũi, minh bạch chưa?".

Hồi 16: Họa Tâm Tình Ảnh

Quý Nhiếp Đề dẫn thủ hạ rời khỏi Tương Thủy, nhắm Vân Mộng Trạch phi nhanh. Tâm tình của y đêm nay trầm trọng đến kỳ lạ, mà y hiểu rõ nguyên nhân bên trong.

Đối với việc Phu Mãnh được Tiết Nương, y không phục chút nào, hơn nữa y quen biết Tiết Nương trước, cho nên có cảm giác bị Phu Mãnh hoành đao đoạt ái. Sau khi mất Tiết Nương, y đã chung đụng với vô số nữ nhân khác, lại thủy chung không có ai có thể thay thế được nàng. Mấy năm gần đây, y cưỡng bách mình không nghĩ tới nàng, cũng có thành công phần nào, nhưng sự xuất hiện của Tiết Đình Hao lại vực dậy tất cả mọi hồi ức khiến cho y tan nát cõi lòng, khơi khơi lại không thể nói với ai, chỉ có thể lẳng lặng chịu đựng trong đáy lòng, đó là một thứ thống khổ không tên.

Hiện tại có triển vọng bắt được Tiết Đình Hao, sự khắc chế gắng gượng cho đến nay cuối cùng đã sụp đổ, nghĩ đến đó, chiến mã chợt đứng sựng dậy, bốn bề toàn là thanh âm chiến mã dậm vó hí hoảng hỗn loạn.

Quý Nhiếp Đề sực tỉnh khỏi cơn suy tư, con ngựa đã trải qua huấn luyện hà khắc không còn chịu sự khống chế của y nữa, vụt thoái lùi ra sau. Nhìn trái nhìn phải, đám thủ hạ không có ai không cùng một hoàn cảnh, mặc cho bọn họ quát thét chế ngự thế nào, chiến mã vẫn kinh hoàng chạy lùi.

Ý niệm đầu tiên của y là đụng phải bầy sói, nhưng đằng trước trống trống không không, ngoại trừ làn sương mong manh như một tấm lụa mỏng lan man vùng đầm lầy gò hoang đằng trước ra, đâu còn gì khác.

Thoái mãi ngoài mười trượng, chiến mã cuối cùng bình tĩnh lại, hồi phục như thường, chỉ còn lỗ mũi "khì khì" khịt hơi.

Mọi người tỉnh táo trở lại, đưa mắt nhìn nhau, không ai rõ đã xảy ra chuyện gì. Cuối cùng mục quang tập trung lên mình Quý Nhiếp Đề, ai bảo y là đầu lãnh.

Quý Nhiếp Đề lần đầu có vẻ sợ Vân Mộng Trạch, lẽ nào lời nói của Phụng công công là thật, cổ thành trong đầm có thần linh trấn thủ?

Chợt tiếng vó ngựa vang lên, mọi người nhìn về phía tiếng vọng trong làn sương mỏng đằng trước, như ẩn như hiện, tựa như có kỵ sĩ hiện thân trên gò đồi đằng xa, vụt lại biến mất không thấy đâu. Tiếng vó ngựa lại tiếp tục truyền vào tay bọn họ, dần dần tiếp cận.

Lẽ nào sự kinh hoàng thất thố của chiến mã là vì đó mà ra?

Quý Nhiếp Đề nghĩ đến có lẽ là u linh kỵ sĩ thời Chiến quốc xa xưa, lãnh tĩnh thâm trầm như y mà cũng không khỏi phải rùng mình phát lãnh, đám thủ hạ của y càng đâu cần phải nói tới.

Chu Bàn Tử đứng dậy, nghênh tiếp Bách Thuần dưới lầu, cười hỏi: "Con gái ngoan của ta ngủ có ngon không?".

Bách Thuần mới rửa mặt chải đầu qua loa, phong tư yêu kiều lười biếng đáp: "Ngủ ngon không biết bao nhiêu mà kể, cha thật đến đúng lúc quá, con gái có chuyện muốn thỉnh giáo!".

Chu Bàn Tử rất ít khi được Bách Thuần tôn kính như vậy, khoái chí nói: "Ngồi xuống rồi hãy nói. Bách Thuần chắc biết cha cưng chiều con, con thích hỏi gì cũng được, cha biết gì nói đó, nói hết mới thôi".

Bách Thuần ngồi xuống bên cạnh lão, tâm tình thư giãn thốt: "Trước hết nói chuyện của cha đi! Có phải lại muốn con đi chào hỏi lão Tiền không?".

Chu Bàn Tử hân hoan: "Con gái đêm hôm qua chịu hầu lão Tiền lâu như vậy, đủ cho cha mặt mũi rồi, ta còn có thể nào không biết điều như vậy chứ".

Bách Thuần thầm nghĩ ngươi nghĩ vậy là tốt hơn hết, mà nói thật ra, đêm nay nàng trông chờ gặp được Tiền Thế Thần, nghe gã kể cố sự cho xong, hiện giờ lại bị câu treo lơ lửng giữa trời.

Chu Bàn Tử trịnh trọng rút trong mình ra một cái ống trúc nhỏ, đưa cho nàng: "Là phu nhân từ kinh sư gửi đến, muốn con giao cho tay săn lãnh thưởng Cô Nguyệt Minh mà Hoàng thượng ngự dụng. Hừm! Không ngờ Cô Nguyệt Minh lại đến Lạc Dương, khẳng định là có chút quan hệ với Ngũ Độn Đạo".

Nghe nói đến Ngũ Độn Đạo, đôi mắt đẹp của Bách Thuần lập tức sáng lên. Tiếp lấy ống trúc nhỏ, cẩn thận chăm chú nhìn dấu sơn sáp bịt đầu ống, nghiệm minh là ấn ký của Hoa Mộng phu nhân, ngạc nhiên thốt: "Sư tỷ mỗi một lần đều sai người mang thư đến, chuyến này sao lại dùng phi cáp truyền thư?".

Chu Bàn Tử nói: "Sự tình rất cổ quái, mật hàm là do Mã Công Thành của Lạc Dương bang đích thân đem giao cho ta, còn nói chuyện này chỉ cho phép một mình con biết, thật không biết là chuyện gì đây".

Bách Thuần đem ống trúc nhét vào túi kín trong mình: "Con gái làm sao biết ai là Cô Nguyệt Minh?".

Chu Bàn Tử cười khà khà: "Nghe nói kiếm của Cô Nguyệt Minh nhanh nhất thiên hạ, Bách Thuần thử là biết liền".

Bách Thuần nhăn mặt: "Đừng có nói đùa mà. Cha hồi nãy nhắc tới Ngũ Độn Đạo, có tin tức liên quan tới hắn sao?".

Chu Bàn Tử ngạc nhiên: "Tin tức của Bách Thuần không phải luôn luôn linh thông hơn ta sao? Không ngờ không biết Ngũ Độn Đạo đã giết Hoàng Phủ Anh con trai của Hoàng Phủ Thiên Hùng, bị Đại Hà Minh toàn lực truy sát, Khâu Cửu Sư và Nguyễn Tu Chân chính là vì chuyện này mà đến Lạc Dương thành. Thật không ngờ Ngũ Độn Đạo biết bao nhiêu chỗ không đi, khơi khơi lại chọn thành ấp có trọng binh đồn trú này mà đến".

Bách Thuần trầm tư một hồi, thốt: "Con đã từng gặp Ngũ Độn Đạo".

Chu Bàn Tử thất thanh: "Con đang nói chơi hả?".

Bách Thuần đôi mắt bắn ra ánh sáng như mộng ảo, dịu giọng: "Về phương diện này cha không cần để ý tới, là chuyện giữa con và Khâu Cửu Sư. Bất quá cha đã nói đúng một chuyện, là Ngũ Độn Đạo cuối cùng phát giác mình ngu xuẩn vô cùng, hôm nay mới sáng sớm đã trốn khỏi Lạc Dương thành. Hì! Tiểu tử đó thật có nghề, ta cũng bị hắn qua mặt".

Chu Bàn Tử hiển nhiên không có hứng thú đối với Ngũ Độn Đạo, đang định nói gì, liếc thấy Diễm Nương cầm một quyển họa tới, vỗ trán: "Lại là họa quyển con bà nó, ta sau này không cần xem mấy thứ đó nữa chứ?".

Bách Thuần lại phát giác Diễm Nương thần sắc rất cổ quái, bộ dạng chừng như run run chấn động, rúng động trong lòng hỏi: "Lần này là hàng gì đây?".

Diễm Nương không nói gì, đi thẳng đến trước bọn họ, hai tay mở họa quyển ra, để hai người nhìn xem, ngôn ngữ như đột nhiên biến thành không còn trọng yếu nữa, chỉ có hình trên họa quyển là có thể thuyết minh mọi sự.

Chu Bàn Tử và Bách Thuần mục quang không hẹn mà cùng chui lên bức họa, thời gian như đột nhiên ngừng trôi.

Trên quyển vẽ một mỹ nữ trên một chiến xa cổ, vẽ truyền thần làm sao, khiến người ta có cảm giác người trong họa bất cứ lúc nào cũng có thể từ chiến xa cổ trong hình xông ra, chân thực làm sao, tràn trề cảm giác sống động. Cái đả động người ta nhất là ánh mắt của mỹ nữ, bắn thấu ra một thứ thần tình phức tạp đến mức người ta không có cách nào nắm bắt được.

Tuy chỉ có hai màu đen trắng, nhưng mức độ đậm lợt sáng tối có giai điệu, tạo ấn tượng sắc thái rực rỡ hơn người, cảm giác chân thật mạnh mẽ, làm cho mỹ nữ càng kiều diễm tuyệt luân, phiêu hốt như thần. Cái càng khiến cho người ta chấn động là người vẽ tựa như thông qua ngòi bút, đem dốc hết thâm tình tựa biển cả vào bức họa, phú cho mỹ nữ trong họa một thứ ý nghĩa hàm ẩn khắc sâu vượt quá hình tượng, một thứ gì đó người ngoài khó hiểu nổi, bí mật đó chỉ thuộc về hắn và mỹ nữ trong họa.

Đất trời trong bức họa tràn trề sức sống chân thực làm sao.

Diễm Nương hưng phấn lớn tiếng: "Không ngờ được! Tôi cũng không ngờ được! Tiểu tử đó tuy là một sắc quỷ, nhưng lại không khoa trương, vật vẽ ra có mấy phần tiên khí".

Bách Thuần đôi mắt không chớp đăm đăm nhìn ánh mắt của mỹ nữ trong họa, nhìn chăm chú làm sao, hoàn toàn không có phản ứng.

Diễm Nương quay sang Chu Bàn Tử: "Lão bản, hắn vẽ được chứ?".

Chu Bàn Tử như mộng du: "Chu Bàn Tử ta xem hình mỹ nhân chỉ có một tiêu chuẩn, giống hay không giống là thứ yếu, quan trọng nhất là có thể dẫn dụ sắc dục của ta, muốn cùng mỹ nữ trong họa lên đỉnh Vu Sơn hay không. Con bà nó! Nếu mỹ nữ này chịu cùng trải đêm xuân với ta, Chu Bàn Tử ta chịu giảm thọ mười năm, ngươi nói coi bức họa của tên tiểu tử đó có sức dụ hoặc kinh hồn tới cỡ nào! Chỉ có sắc quỷ mới vẽ được một bức họa như vầy".

Diễm Nương khích động, mếu máo lẩm bẩm: "Hắn tự xưng là Họa Tiên, tôi ban đầu còn khịt mũi...".

Chu Bàn Tử mất kiên nhẫn, quát: "Mặc hắn có phải là Họa Tiên hay không, chỉ cần có thể câu khách là được, còn không đi kiếm hắn đến gặp bọn ta".

Diễm Nương đang định bỏ đi, Bách Thuần thốt: "Đưa cho ta!".

Diễm Nương đưa họa quyển, bươn bả đi ra, Bách Thuần cầm họa quyển, lại mở ra xem.

Chu Bàn Tử khó che giấu được vẻ vui mừng, hỏi: "Con gái ngoan có đồng ý lời nói của ta không?".

Bách Thuần như không nghe thấy lão nói chuyện, thì thầm với riêng mình: "Thật kỳ quái! Ta có cảm giác đã từng quen biết với người trong họa, nhưng một mỹ nữ xuất sắc như vậy, ta mà gặp được thì cả đời không quên được, tại sao lại khơi khơi nghĩ không ra đã từng gặp nàng ở đâu?".

Chu Bàn Tử ghé đầu qua nhìn, thần sắc mê mẩn: "Mỹ nữ như vậy, nếu là cực phẩm nhân gian như con gái ngoan của ta, ta chịu dùng một ngàn lượng hoàng kim làm sính lễ cho nàng ta đến Hồng Diệp Lâu, kêu nàng ta là Bách Mị đi!".

Kỵ sĩ tựa như từ trong cõi U minh đi ra dần dần đến gần, Quý Nhiếp Đề cuối cùng đã nhìn thấy rõ là ai, thở phào một hơi: "Cô Nguyệt Minh!".

Mọi người con tim vọt lên tới yết hầu mới từ từ quay về nguyên vị.

Cô Nguyệt Minh giục Khôi Tiễn đến trước mọi người, thong dong thốt: "Ta còn tưởng là nhân mã phương nào, thì ra là Quý Nhiếp Đề đại nhân".

Quý Nhiếp Đề hồi phục lại như thường, lạnh lùng hỏi: "Nguyệt Minh sao lại xuất hiện ở đây?".

Cô Nguyệt Minh đáp: "Đương nhiên là vì lo án. Quý đại nhân sao lại xông vào Vân Mộng Trạch?".

Quý Nhiếp Đề chằm chằm nhìn y, trầm giọng: "Ta tiếp được tin tức Tiết Đình Hao xuất hiện xung quanh Vân Mộng Trạch, lập tức đến đây".

Cô Nguyệt Minh thở dài một hơi: "Ta có mấy lời bí mật muốn nói với đại nhân".

Quý Nhiếp Đề quát lớn: "Các ngươi thoái ra xa ngàn bước đi".

Mọi người nhất tề nghe lệnh, quay đầu ngựa phi ra sau.

Cô Nguyệt Minh đợi cho mọi người đi xa, từ từ thốt: "Tiết Đình Hao đã tự tận bỏ mình".

Với công phu trấn định như Quý Nhiếp Đề mà vẫn nhịn không được giật nảy mình, khó tin hỏi: "Cái gì?".

Cô Nguyệt Minh bình tĩnh thốt: "Hắn uống chất độc tự tận! Bất quá trước khi chết có nói cho ta biết hết chuyện năm xưa, khiến cho ta có lối nhìn hoàn toàn khác hẳn đối với toàn bộ sự kiện".

Quý Nhiếp Đề nói: "Dẫn ta đi xem thi thể của hắn".

Cô Nguyệt Minh lắc đầu: "Ta đã đáp ứng để hắn ở lại trong Vân Mộng Trạch, đó là điều kiện để hắn chịu nói ra chân tướng".

Quý Nhiếp Đề không vui: "Hắn là khâm phạm của triều đình, cho dù đã chết, cũng phải đem di thể của hắn đưa về kinh sư, nếu không ta làm sao mà ăn nói đây?".

Cô Nguyệt Minh cau mày: "Quý đại nhân e rằng phải phá lệ một lần, chuyện này tự có ta gánh nhận, Quý đại nhân chỉ cần đem trách nhiệm đổ lên mình ta là được".

Quý Nhiếp Đề đôi mắt thần sắc chuyển thành hung tàn, người rành về y đều biết y đã nổi nóng, mà người ở kinh sư càng biết kẻ đắc tội với y đều không có hạ trường tốt đẹp.

Cô Nguyệt Minh quắc mắt nhìn Quý Nhiếp Đề không chút nhân nhượng, cái sáo đó của Quý Nhiếp Đề không có bất kỳ một tác dụng gì đối với y, bởi Cô Nguyệt Minh đâu có sợ chết, hơn nữa còn trông về cái chết. Bất quá Cô Nguyệt Minh cũng đâu muốn gây gổ cứng cỏi quá với Quý Nhiếp Đề, thở dài: "Người chết coi như xong, để cho hắn an nghỉ đi! Tự có ta đi giải thích với Phụng công công. Trọng yếu nhất trước mắt là phải tìm được Sở hạp, chỉ cần có thể đem Sở hạp dâng cho Phụng công công, ông ta tuyệt sẽ không tính tới gì khác".

Quý Nhiếp Đề lòng biết không làm khó được Cô Nguyệt Minh, nếu Cô Nguyệt Minh lừa gạt y, ngấm ngầm buông tha cho Tiết Đình Hao, qua mắt y, lúc đó y sẽ bắt Cô Nguyệt Minh trốn chạy không kịp ăn uống. Y nhường nhịn: "Nguyệt Minh có nắm chắc tìm được Sở hạp không?".

Cô Nguyệt Minh đã sớm biết có kết quả này, trừ phi Quý Nhiếp Đề bất chấp mọi thứ xuất thủ với y, thốt: "Ta không nắm chắc tới một phần, lại có manh mối có thể truy tra, bọn ta lập tức quay về Lạc Dương đi, trên đường ta sẽ báo với Quý đại nhân chân tướng mà Tiết Đình Hao thố lộ, bảo đảm đại nhân sẽ có lối nhìn khác biệt đối với chuyện năm xưa".

Ô Tử Hư lưng mang bao lớn, theo ả tỳ nữ xinh đẹp ác độc đi về phía Tình Trúc Các, hắn không biết tỳ nữ ác độc này dẫn hắn đi gặp ai, cũng không để ý tới, bởi hắn vẫn còn chìm mình trong vực mộng.

Lúc còn lại một mình hắn ngồi vẽ, hắn nghĩ ngợi lung tung lên, hắn muốn vẽ nhất là Bách Thuần, bằng vào nhãn lực và ký ức của hắn, hắn tin chắc có thể vẽ một cách sống động tình cảnh động hồn lúc Bách Thuần vén rèm nhìn ra ngoài, đương nhiên chỉ là nghĩ vậy thôi, đâu thể nào hành động ẩu tả vậy, bởi như vậy nào có khác gì bộc lộ hắn là tiểu tử bán mật rắn.

Tự nhiên trong đầu hắn dâng hiện mỹ nữ tuyệt sắc đánh chiến xa cổ kia, nàng dần dần chiếm cứ tâm thần của hắn, hình ảnh càng lúc càng rõ rệt, đột nhiên động lòng, hắn phẩy bút vẽ nhanh không một chút đâm quàng, dốc đổ ấn tượng khắc sâu tình cảnh như mộng mà không phải mộng tuốt tận đáy lòng mình, tựa như bị ma nhập.

Đến khi bức họa mỹ nhân đại công cáo thành, trong đầu hắn trào dâng một nghi hoặc.

Mình sao lại phú cho nàng ta một đôi nhãn thần tràn trề sức lây nhiễm như vậy? Lúc đó nhãn thần của nàng đâu có tình cảm biểu lộ giống như người trong tranh, khơi khơi hắn cảm thấy phải vẽ thành như vậy mới có thể biểu hiện tâm tình thật sự trong lòng nàng. Cứ như hắn có nhận thức hằn sâu về nàng, biết như vậy mới có thể trình hiện mặt chân thực nhất của nàng.

Hắn không biết mình sau khi vẽ xong đã ngồi ngây ngốc bao lâu, mãi cho đến khi tiếng la làng của tỳ nữ độc ác kia vang lên sau lưng mới sực tỉnh lại, có cảm giác như đang tỉnh mà lại mộng với người trong họa.

Nhìn tỳ nữ ác đức kia đem bức họa đi cho Diễm Nương xem, đến khi ả quay lại dẫn mình đi gặp ai đó, hắn vẫn chưa hồi phục lại, cảnh sắc ao vườn mỹ lệ chỉ giống như một mộng vực khác.

Đi xuyên qua một khung cửa vòm bán nguyệt, Diễm Nương nghênh đón, khẩn trương thốt: "Thiền Dực sao đi lâu vậy, khó mà được Bàn gia và Bách Thuần cô nương ở cùng một chỗ để quyết định một lần. Lang tiên sinh qua bên đây".

Ô Tử Hư tỉnh lại, đi đến bên cạnh tỳ nữ ác độc, gian manh cười nói: "Hì! Thì ra là Thiền Dực đại thư". Lúc nói cứ láo liên ve vãn nhìn lên nhìn xuống y phục ả mặc, không cần hỏi cũng biết đang nghiên cứu xem y phục của ả có đúng như tên tuổi của ả không, mỏng như cánh ve.

Thiền Dực bị hắn nhìn tới mức mặt ửng hồng, đang do dự không biết có nên phát tác không, Ô Tử Hư đã tháo cái bao xuống, quăng qua phía ả, Thiền Dực sợ bị cái bao của hắn chạm bộ ngực, không còn chọn lựa nào khác phải đành vươn tay ra đón, đồ lọt vào tay nặng nề dị thường.

Ô Tử Hư vẻ mặt đắc ý đã thu hoạch toàn thắng: "Nam chủ bên ngoài nữ chủ bên trong, đại thư trông nom đồ đạc trong nhà cho ngu sinh, ngu sinh đi đây".

Không để ý tới Thiền Dực đang tức gần chết, đuổi theo sau Diễm Nương đang uốn éo eo thon, nhắm căn tiểu lâu của Bách Thuần đi tới.

Diễm Nương ngoái đầu háy hắn: "Đừng thấy có ba phân màu là mở tiệm nhuộm, Thiền Dực là người được sủng ái nhất bên cạnh Bàn gia ông chủ lớn của bọn ta, còn là người cầm đầu đám tỳ nữ, ngươi mà đắc tội với nó, ngươi khó mà chịu nổi".

Ô Tử Hư nhún vai cười nói: "Lòng nữ nhân, kim đáy bể, quản gia nương nương nàng chắc hiểu rõ đạo lý bên trong hơn ta, có lẽ ả thích ta đùa với ả cũng không chừng, đúng không?".

Diễm Nương không vui: "Con người của ngươi thất bại về mặt hiếu sắc, với đức tính thanh lâu lãng tử đó, ta thấy ngươi kiếm được bao nhiêu tiền là cuối cùng đều xài hết trên mình đàn bà, tương lai khẳng định không có kết quả tốt đẹp gì".

Vừa nói vừa bước lên bậc cửa, đi thẳng vào lầu, kêu lớn: "Họa Tiên Lang tiên sinh từ kinh thành đã đến".

Ô Tử Hư nghĩ đến lập tức có thể gặp Bách Thuần, huyết dịch trong mình bốc dâng đằng đằng, tiến vào trạng thái đỉnh điểm của thanh lâu lãng khách, hoàn toàn nhập mình vào thân phận này, chắp tay thản nhiên vào Lâu. Vụt trước mắt sáng lên, Bách Thuần diễm quang bắn tứ phía đang ngồi trên ghế, họa quyển đặt ngang trên đùi ngọc, ánh mắt kiều mị bắn ra ánh sáng nồng cháy, đang chăm chú quan sát hắn.

Ô Tử Hư nhất thời hoàn toàn không dời mục quang đi được, không còn nhìn thấy gì khác.

Diễm Nương đằng sau ngầm đẩy hắn một cái, đề tỉnh: "Lang tiên sinh, vị này là Chu lão bản, là ông chủ lớn của Hồng Diệp Lâu bọn ta".

Ô Tử Hư như vừa tỉnh mộng, mục quang dời sang Chu Bàn Tử, thần tình phong thái có chút ngờ nghệch, khiến người ta cảm thấy thật tức cười.

Chu Bàn Tử vẫn là Chu Bàn Tử, không có tình huống nào lão không ứng phó được, khen thưởng: "Chỉ có người đa tình như Lang tiên sinh mới vẽ được bức họa mỹ nhân có thể làm động lòng người như vậy. Chu Bàn Tử ta lời hứa ngàn vàng, nội trong tám ngày hoàn thành tám bức họa, mỗi bức họa một đĩnh hoàng kim".

Ô Tử Hư lại liếc nhìn Bách Thuần một cái, nhưng đã tỉnh táo lại, lắc đầu: "Tôi có thể không thu một cắc nào của Chu lão bản, lại có vài điều kiện, hy vọng có thể được sự đồng ý của Chu lão bản, mà mấy điều kiện này có quan hệ trực tiếp với vẽ đẹp hay không đẹp. Bởi nếu Họa Tiên tôi không ở trạng thái tốt nhất, không thể nào họa ra tám bức họa mỹ nhân có thể đại biểu cho thành tựu đỉnh điểm của nghề họa".

Ba người đồng thời càng coi trọng tên sắc quỷ, không ngờ hắn có lời nói sắc bén như đại gia du thuyết vậy, ăn nói cứng cỏi, làm cho người ta cảm thấy khó mà cự tuyệt. Ghê gớm nhất là hắn tựa hồ không để ý tới thù lao hậu hĩ tám đĩnh vàng kia, khiến cho hắn chiếm hết thượng phong. Đối với người dùng kim tiền mua không được, Chu Bàn Tử căn bản không có tư cách trả giá.

Bách Thuần đôi mắt đẹp sáng lên, dịu giọng: "Mời tiên sinh kê khai điều kiện, xem bọn ta có thể làm được hay không".

Ô Tử Hư thoái sang một bên, ngồi lên cái ghế dựa tường, chằm chặp nhìn Bách Thuần tâm thần mê mẩn: "Muốn bảo trì trạng thái của tôi, Chu lão bản cần phải cho phép tôi tự do tự tại trong phạm vi Hồng Diệp Lâu, đến đi tùy ý, tôi thậm chí có thể đến thanh lâu gọi kỹ nữ, tôi triệu người nào thì người đó phải đến, đương nhiên tôi chỉ gặp tám vị mỹ nhân của tôi, làm quen với bọn họ, tìm bắt thần thái đẹp nhất của bọn họ. Tôi cần từ góc độ của khách nhân mà quan sát bọn họ, cảm giác bọn họ, hưởng thụ bọn họ, mới có thể vẽ ra mỹ nhân có thể làm cho nam nhân say đổ. Đó là điều kiện đầu".

Chu Bàn Tử cười khổ: "Ta có phải còn phải cung ứng rượu thịt cho ngươi chứ?".

Ô Tử Hư coi đó là chuyện đương nhiên: "Đương nhiên rồi, tôi phải vừa ăn uống ê hề, vừa no nê sắc đẹp, không như vậy tôi khó mà được tác phẩm có phẩm chất cao".

Bách Thuần cười "hắc" một tiếng: "Vậy ta cũng phải nghe truyền là phải đến để ngươi tìm đẹp sao? Bất quá cũng không phải là không thể, nếu ngươi có thể hoàn thành bảy bức họa, mỗi bức đều là họa tác có phẩm chất cao, ngươi triệu ta đến lúc nào, Bách Thuần ta cũng sẽ vui vẻ nghe gọi".

Ô Tử Hư cười hì hì: "Công bình! Công bình! Công bình vô cùng, chỉ có như vậy, có thể gặp được cô nương mới có ý nghĩa. Bảo đảm đến lúc đó cô nương sẽ dốc hết tình cảm cho tôi, chui tọt vào lòng. Hì!".

Bách Thuần chẳng thèm để ý miệng lưỡi lặt vặt: "Vậy bọn ta đi tới". Đôi mắt đẹp quay về phía Chu Bàn Tử, hỏi: "Bên con gái không có vấn đề, còn xem ý của cha".

Chu Bàn Tử cười khì: "Nếu ngươi sinh vào thời đại Chiến quốc, khẳng định là thuyết khách hạng Tô Tần, Trương Nghi. Coi như ta sợ ngươi rồi, điều kiện thứ hai là rầy rà gì nữa đây? Tốt nhất là đừng nói điều kiện bọn ta không thể tiếp nhận".

Ô Tử Hư thốt: "Điều kiện thứ hai của tôi, cũng là điều kiện cuối cùng, cũng rất hợp lý. Tôi cần một chỗ ở thanh tịnh không có ai qua lại, tuyệt không thể để bất cứ một ai đến quấy nhiễu tôi. Đương nhiên ba vị là ngoại lệ, không bị hạn chế".

Chu Bàn Tử giờ mới thở phào một hơi, lớn tiếng: "Được! Nhưng mấy bức họa ta đặt cần phải có màu sắc, vậy mới có không khí mừng khách, cũng là điều kiện đã kê ra trên thư dạm đón của Hồng Diệp Lâu bọn ta".

Ô Tử Hư thầm la cứu mạng, vậy nào có khác gì phải ra ngoài Lâu tìm mua, lại biết tuyệt không thể để lộ chút xíu vẻ do dự, cho nên làm ra vẻ ung dung: "Không có vấn đề, ngày mai tôi ra ngoài mua nhan liệu, lão bản muốn cái gì, Lang Canh tôi cung ứng cái đó, bảo đảm vừa lòng".

Chu Bàn Tử phát giác mình có hơi thích hắn, đây là một tên điên có tài năng có chất liệu, như sống trong mộng đẹp mà chính hắn thêu dệt, phóng túng hưởng thụ cuộc sống. Lão hân hoan nói: "Quyết định vậy đi. Con gái ngoan có ý kiến gì khác không?".

Bách Thuần đôi mắt đẹp nhìn Ô Tử Hư, điềm đạm đáp: "Nữ tử trong họa của Lang tiên sinh có phải là hồng nhan tri kỷ của tiên sinh không? Tại sao lại cặp cho nàng một chiến xa thời cổ vậy?".

Ô Tử Hư thừ người một hồi sau mới đáp: "Nói ra tiểu thư nhất định sẽ cho là tôi nói bậy bạ lung tung, đến bây giờ tôi còn chưa phân rõ là mộng hay là thật. Ài! Tin rằng chắc là một trường xuân mộng, nếu không làm sao lại có chiến xa thời cổ đó? Nhưng đối với tôi mà nói, nàng lại thật hơn bất cứ một ai, e rằng cả đời này cũng không quên được nàng".

Bách Thuần kinh ngạc: "Thì ra người trong họa là thần nữ nhập mộng, tỉnh giấc Vu Sơn, làm cho tiên sinh mơ phụng mộng oanh, tiên sinh không những là kỳ nhân vẽ tranh, còn là hạng đa tình. Đại tác phẩm này của tiên sinh có thể nào cho Bách Thuần được không?".

Ô Tử Hư giật mình tỉnh lại, lại hồi phục "như thường", mê mẩn chằm chặp nhìn Bách Thuần: "Đương nhiên có thể, coi như là vật định tình của tại hạ với tiểu thư".

Chu Bàn Tử bực dọc: "Định tình cái gì? Tình chủ mới thì sao?". Quay sang Diễm Nương thốt: "Góc Phong Trúc Các bên đông hoàn cảnh yên ắng, cứ để làm nơi nghỉ ngơi cho Lang tiên sinh vẽ tranh đi".

Diễm Nương quay sang Ô Tử Hư cười nói: "Mời tiên sinh di giá".

Ô Tử Hư đâu muốn đứng dậy, chằm chặp hau háu nhìn Bách Thuần vài lượt rồi mới theo Diễm Nương đi ra.

Hồi 17: Nê Túc Thâm Hãm

Cô Nguyệt Minh nói xong, ngửa nhìn bầu trời sao.

Quý Nhiếp Đề ngồi trên một tảng đá trên gò đồi, cúi đầu suy tư.

Tương Thủy trải mình cách khoảng hai dặm sau lưng. Sau khi vượt qua Tương Thủy, Quý Nhiếp Đề mất đi tính kiên nhẫn xưa nay, cùng Cô Nguyệt Minh lên ngọn đồi nhỏ nói chuyện, đám thủ hạ chờ bọn họ dưới chân đồi.

Khôi Tiễn không chịu rời chủ nhân, quấn quít xung quanh.

Quý Nhiếp Đề thở dài: "Thật khó tin. Tiết Đình Hao không phải nói láo đó chứ? Mọi sự đều do hắn bịa đặt ra?".

Cô Nguyệt Minh mục quang quay sang phía y: "Quý đại nhân thật nghĩ như vậy sao?".

Quý Nhiếp Đề đón mục quang của y, trầm giọng: "Ta không phải nghĩ như vậy thật, mà là hy vọng sự thật là vậy, bởi đây không phải là chuyện ta có thể hiểu và tin chắc. Vừa nãy sau khi tiến vào Vân Mộng Trạch, chiến mã đột nhiên kinh hoàng thoái lùi, lại không thấy có sói lang xuất hiện, chỉ có Cô Nguyệt Minh ngươi đến, cũng là chuyện lạ ta không có cách nào giải thích được".

Cô Nguyệt Minh trong lòng dâng hiện hình bóng xinh đẹp của Vô Song Nữ, thầm nghĩ nếu nàng tìm được di thể của Tiết Đình Hao, nhất định sẽ thương tâm vô cùng. Vụt lại đẩy nàng ra khỏi đầu não, trấn định tâm thần: "Tại sao các người có thể cho phép Qua Mặc tham dự chuyện này?".

Quý Nhiếp Đề đôi mắt tinh quang nhoáng lên: "Là đề nghị của Tiền Thế Thần, trông cậy vào y thuật siêu phàm của Qua Mặc, tìm ra nguyên nhân cái chết của đoàn tầm bảo".

Cô Nguyệt Minh cười lạnh: "Sự điều tra của Qua Mặc khẳng định bất lợi đối với Phu Mãnh, đúng không?".

Quý Nhiếp Đề không đáp lời y, một hồi sau mới nói: "Ngươi hoài nghi Qua Mặc?".

Cô Nguyệt Minh điềm đạm đáp: "Quý đại nhân trước hết hãy trả lời câu hỏi của ta".

Quý Nhiếp Đề gật đầu: "Quả là như vậy, sau khi Qua Mặc nghiệm thi, phát giác tất cả các thi thể đều có dấu tích bị độc châm đâm trúng, vị trí đều nằm ở sau lưng, chỉ có Phu Mãnh mới có thể đắc thủ ám toán sau lưng bọn họ không chút phòng bị, mà theo vị trí thi thể ở hiện trường hung án, hiển thị Phu Mãnh hành sự trong sương mù, sát hại mọi người".

Cô Nguyệt Minh bình tĩnh hỏi: "Trong thiên hạ có kịch độc lợi hại như vậy sao? Hơn nữa lập tức phát độc bỏ mạng, Quý đại nhân có nghe qua có thứ độc lợi hại như vậy chứ?".

Tiếp đó đôi mắt sát cơ rừng rực, thốt: "Ta dọc đường tới đây, hai lần bị phục kích, nếu sở liệu của ta không sai, kẻ tập kích ta nhất định là Qua Mặc, mà Tiền Thế Thần dĩ nhiên không thoát khỏi có liên can, chỉ có gã biết được ta từ kinh sư đến".

Sau khi Cô Nguyệt Minh kể lại tình huống hai lần bị tập kích, Quý Nhiếp Đề trầm ngâm: "Trên sự thật ta luôn luôn hoài nghi có người bên trong gây rối, chỉ là không nghĩ tới lại là Tiền Thế Thần. Chính như suy luận của ngươi, Phu Mãnh căn bản không có cách mở Sở hạp, sao lại có thể vì một vật không biết là gì mà dấn mình vào thế thân bại danh liệt, nhà tan người mất. Tiền Thế Thần cũng cùng một tình huống, so với Phu Mãnh lại càng không bằng, Phu Mãnh ít ra biết được cố sự của Mâu Xuyên, Tiền Thế Thần lại chỉ biết Phu Mãnh đi vào trong trạch tìm một cái hộp từ đời cổ đại để lại, Phu Mãnh cả chuyện quỷ vực cũng giấu giếm gã mà".

Cô Nguyệt Minh ngạc nhiên: "Quỷ vực?".

Quý Nhiếp Đề cười khổ: "Nếu cổ thành thật sự tồn tại, bọn ta sao tìm không ra? Không phải quỷ vực thì là gì?".

Cô Nguyệt Minh thốt: "Qua Mặc thêm vào Tiền Thế Thần, chuyện không thể nào cũng có thể biến thành có thể, hơn nữa Phu Mãnh hoàn toàn không có lòng đề phòng, bị bọn chúng dùng hữu tâm để đối phó vô tâm, có bị kết liễu cũng không lạ gì. Ta tuy không rõ Tiền Thế Thần tại sao lại mạo hiểm cưỡng đoạt Sở hạp, lại khẳng định chỉ cần bắt hai người, rồi để ta dụng hình bức cung, khẳng định có thể hỏi ra nơi hạ lạc của Sở hạp. Đại nhân có đồng ý với lối nhìn của ta không?".

Quý Nhiếp Đề hít sâu một hơi: "Hoàn toàn đồng ý".

Cô Nguyệt Minh hơi ngạc nhiên: "Không ngờ đại nhân lại đáp sảng khoái như vậy. Tiền Thế Thần không phải là người của đại nhân sao?".

Quý Nhiếp Đề có hàm ý: "Ai dám lừa gạt ta, kẻ đó phải chết. Bất quá muốn hạ thủ bắt sống hai người, cần phải sắp xếp bố trí nghiêm mật, ngàn vạn lần không thể lỗ mãng hành sự. Đương nhiên! Nếu ta điều động đại quân đến, bọn ta thích làm gì thì làm, chỉ tức hình thế trước mắt tuyệt không cho phép ta làm như vậy, nếu không hậu quả sẽ nghiêm trọng vô cùng".

Cô Nguyệt Minh không hiểu: "Ta không hiểu".

Quý Nhiếp Đề tựa như nghĩ đến chuyện gì đó, đôi mắt tinh quang loang loáng, từ từ thốt: "Cần phải chia ra vài mặt mà nói, Nguyệt Minh mới có thể hiểu hình thế vi diệu của Lạc Dương hiện tại. Trước hết là bản thân Tiền Thế Thần, gã không đơn thuần là một đại thần địa phương tay nắm binh quyền, mà là đại phú hộ có cơ sở sâu dày ở Giang Nam, gia tộc thế lực to tát, thâm căn cố đế, hơn nữa trường kỳ làm quan ở Giang Nam, bắt gã rất dễ sinh biến loạn".

Cô Nguyệt Minh gật đầu tỏ ra đã hiểu.

Quý Nhiếp Đề thốt: "Thứ nữa là Đại Hà Minh mối họa ruột gan của triều đình, đại long đầu Hoàng Phủ Thiên Hùng không phải sợ, chỉ là một kẻ không có đại chí gì, nhưng tả hữu của y Khâu Cửu Sư và Nguyễn Tu Chân lại hoàn toàn là một chuyện khác, từ sau khi bọn chúng ra mặt, thế lực của Đại Hà Minh khuếch triển bành trướng đến mức khí thế hừng hực, người sáng mắt đều nhận ra bọn chúng không cam tâm chỉ làm bang hội độc bá một phương. Nếu Giang Nam không ổn, triều đình lại điều động quân đội Nam hạ, nào có khác gì ép bọn chúng lập tức khởi binh tạo phản. Sức hiệu triệu của Đại Hà Minh ở một dải Đại Giang tuyệt không thể coi thường".

Cô Nguyệt Minh nói: "Chỉ cần bọn ta bày cách dụ Tiền Thế Thần và Qua Mặc đến Vân Mộng Trạch, hạ thủ bắt sống bọn chúng, rồi tìm một cớ quang minh chính đại, phủ an dân chúng Giang Nam, chắc sẽ không dẫn tới sự cảnh giác của Đại Hà Minh".

Quý Nhiếp Đề thốt: "Dưới tình huống bình thường, đề nghị của Nguyệt Minh là một biện pháp tốt, bất quá hiện tại đâu phải là tình huống bình thường. Khâu Cửu Sư và Nguyễn Tu Chân giờ phút này đang ở trong thành Lạc Dương, hợp tác chặt chẽ với Tiền Thế Thần để dụ bắt Ngũ Độn Đạo, bất kỳ một hành động nào nhắm vào Tiền Thế Thần cũng sẽ như kéo một sợi tóc mà động tới toàn thân, gây ra hậu quá khó lường".

Tiếp đó đem đầu đuôi ngọn nguồn đại kế Khâu Cửu Sư bắt trộm kể ra, sau đó nói: "Bắt Tiền Thế Thần thì dễ, Qua Mặc lại hành tung phiêu hốt, tính cách thâm trầm, là hạng có trí, lại võ công cao cường, tinh thông Đạo môn dị thuật, nếu nghe động tịnh ẩn náu trước, muốn bắt hắn cũng khó không thua gì bắt Tiết Đình Hao, cho nên nếu không nắm chắc hoàn toàn, tuyệt không thể khinh cử vọng động, đả thảo kinh xà".

Cô Nguyệt Minh không ngờ một chuyện giản giản đơn đơn lại biến thành phức tạp hẳn, chướng ngại trùng trùng, nghĩ ngợi một hồi, quyết đoán: "Qua Mặc giao cho ta xử lý, chỉ cần hắn thật là kẻ đánh lén ta, ta có cách bắt sống hắn, sau đó lại đối phó Tiền Thế Thần".

Quý Nhiếp Đề lắc đầu: "Ta không phải không tín nhiệm năng lực của Nguyệt Minh, giả như ngươi chỉ muốn chém đầu Qua Mặc, ta còn an tâm để ngươi đi thu thập hắn. Nhưng nếu muốn bắt sống hắn, cho dù là Nguyệt Minh cũng không đủ sức, một nước đi không hay, bị hắn thông tri cho Tiền Thế Thần biết, mà Tiền Thế Thần vì để giữ mạng, sẽ quay đầu về Đại Hà Minh, hậu quả không dám tưởng tượng. Chỉ có dưới một tình huống bọn ta mới có thể hoàn toàn không hiềm kỵ".

Cô Nguyệt Minh đang rầu không biết lúc nào mới có thể lấy Sở hạp về, hoàn thành nhiệm vụ, nghe vậy tinh thần phấn chấn, hỏi: "Là tình huống gì?".

Quý Nhiếp Đề trầm giọng: "Là trước hết giết chết Khâu Cửu Sư, người này vũ dũng cái thế, rất được bang đồ dân chúng ủng hộ, chỉ cần trừ khử hắn đi, Nguyễn Tu Chân chỉ còn nước đợi bị làm thịt, Đại Hà Minh không còn đáng sợ nữa".

Cô Nguyệt Minh hai mắt sáng lên, lẩm bẩm: "Khâu Cửu Sư!".

Quý Nhiếp Đề thốt: "Nguyệt Minh trước hết đến Lạc Dương gặp Tiền Thế Thần, giả như không có chuyện gì, không gặp ta, lại không gặp Tiết Đình Hao. Qua vài ngày ta mới về Lạc Dương, lợi dụng đoạn thời gian đó bẩm báo với Phụng công công, xem có thể rút một đội tinh nhuệ bí mật lẻn đến, đến lúc ta hoàn thành bố trí, ngày tận thế của Tiền Thế Thần và Qua Mặc cũng đã đến".

Sau khi Ô Tử Hư đi, Chu Bàn Tử thư thả thở phào một hơi: "Hồng Diệp Lâu bọn ta khẳng định gặp số đỏ, chừng như ông trời đích thân an bài, đột nhiên lòi ra một Họa Tiên, Hồng Diệp Lâu có thể danh truyền thiên cổ hay không, phải trông vào tên dê xồm thánh thủ hội họa rất rành nghề thừa nước đục thả câu này. Ủa! Thần tình của con gái ngoan sao lại biến thành cổ quái vậy? Không phải đã dời đổi luyến tình, đi thương tiểu tử đó chứ?".

Bách Thuần bực dọc: "Di tình biệt luyến cái gì? Làm gì có chuyện đó. Bất quá tám bức họa mỹ nhân mà tên tiểu tử hiếu sắc đó sẽ tạo ra thật khiến người ta trông đợi, cũng làm cho con càng có hứng chăm lo cho khánh điển ăn mừng mười năm của bọn ta".

Chu Bàn Tử vui vẻ thốt: "Mặt này ta hoàn toàn trông cậy vào con gái ngoan, ta thật không giúp được gì hết. Yến hội đương nhiên do ta phụ trách, mặt đó ta rành rồi, đầu bếp nổi danh xa gần ghi tên đến trợ trận cũng hơn mười người, bào chế món ăn đúng mùa có đặc sắc địa phương, chọn vật liệu cũng để một tay ta bao hết, phương diện đó hoàn toàn không cần lo lắng".

Lại nói: "Tiết mục ăn mừng áp trận sau tiệc đêm để con gái ngoan lãnh đạo bảy mỹ nữ kia biểu diễn ca vũ, còn mấy tiết mục khác không biết an bài làm sao?".

Bách Thuần khổ não thốt: "Có chút vấn đề nhỏ, Sư Mẫn Tử ảo thuật trứ danh nhất Dương Châu đã ngã bệnh, không có cách nào đúng hẹn đi biểu diễn ảo thuật ở sảnh đường, thật làm cho dạ yến mất màu".

Chu Bàn Tử cau mày: "Lão có đồ đệ không?".

Bách Thuần đáp: "Người bọn ta mời toàn là người có mặt mũi ở Giang Nam, nếu dùng hàng hạng nhì, sẽ bị người ta đàm tiếu, thà không ăn còn hơn".

Chu Bàn Tử đau đầu: "Lẽ nào phải trương bảng chiêu sính khắp nơi kiểu chiêu sính họa sư? Ài! Hy vọng sau Họa Tiên lại có Ảo Thuật Thánh".

Ô Tử Hư ngồi thừ giữa sảnh đường, cái bao lớn đặt trên bàn tròn, trên trán lấm tấm mồ hôi, sắc mặt tái nhợt. Đó là vì hắn bỗng nghĩ tới một vấn đề, mà vấn đề này hắn chưa từng nghĩ tới, với tác phong cẩn thận chu mật đó giờ của hắn, sao lại có thể sơ suất như vậy?

Mãi cho tới một khắc trước khi ngồi xuống, hắn còn tin chắc Tiền Thế Thần sau khi nhìn thấy dạ minh châu sẽ bất chấp tất cả mua cho được kỳ trân hãn thế đó, nhưng có thể chỉ là ý tưởng mong mỏi một chiều của hắn. Tại sao mình trước đây không nghĩ tới mặt này? Cảm giác đó cứ như bị quỷ mê.

Sự tỉnh ngộ này làm cho hắn phát lãnh tận đáy lòng.

Chỉ tức bây giờ có muốn chạy cũng chạy không được, toàn Đại Giang nam bắc, đối với hắn mà nói, địa phương an toàn nhất là Hồng Diệp Lâu trong Lạc Dương thành, quan trọng hơn là thân phận họa sư riêng của Bách Thuần, giúp cho hành động bán bảo vật của hắn biến thành áo trời không lộ đường may, nếu không đi thử, cứ như vào núi vàng mà về tay không, lúc đó sẽ vô cùng hối hận không thu tám đĩnh vàng của Bàn lão bản.

May là bây giờ đang có thân phận Họa Tiên yểm hộ, chỉ cần Tiền Thế Thần đến Hồng Diệp Lâu, hắn có thể tùy theo tình huống mà triển khai sắp xếp, quyết định kế hoạch bán bảo vật có thể tiến mà cũng có thể thoái. Hắn là người hiểu biết lợi dụng hoàn cảnh nhất, mà Hồng Diệp Lâu đang dâng cho hắn hoàn cảnh lý tưởng nhất. Vì tương lai, hắn cần phải kiên trì đi tới.

Ở tình huống cơ hội bán bảo vật phô bày trước mắt như vầy, bất kể hắn mê gái tới cỡ nào, cũng tuyệt không thể lên giường quấn quít với bất cứ một nữ tử nào trong Lâu. Mình biết chuyện mình, chiếu theo tình hình trong dĩ vãng, một khi phát sinh quan hệ xác thịt với nữ tử, sáng hôm sau thức dậy hắn có thể rơi vào vực sâu hụt hẫng, tâm ý nguội lạnh, bất kỳ chuyện gì cũng không gượng sức nổi, chỉ muốn lập tức bỏ đi, vĩnh viễn không quay về nữa, giống như một người một mực tìm kiếm một thứ bảo vật quý giá gì đó, đến khi bảo vật lọt vào tay, phát giác nó căn bản không phải là vật mình truy tìm, sự thất vọng không có cách nào đè nén nổi đó sẽ khiến cho mình sụp đổ. Đó là lời nguyền của số phận đối với hắn.

Bách Thuần thì sao?

Hắn chưa từng gặp một nữ nhân nào khiến cho hắn động lòng như Bách Thuần, nàng có phải là ngoại lệ duy nhất không? Thật là hy vọng sau một đêm chung đụng với Bách Thuần, hắn vĩnh viễn không muốn bỏ đi. Vì để biết chân tướng, hắn chịu hy sinh bất cứ cái gì, bao gồm cả tương lai của hắn. Cho nên trước khi đụng chạm với Bách Thuần, tuyệt không thể đụng chạm với nữ nhân khác. Đối với người khác mà nói, đó chắc không phải là một quyết định gian nan, nhưng đối với hắn mà nói, lại như người đói đối diện rượu thịt thơm ngon đầy bàn, lại cưỡng bách mình đợi món ăn cuối cùng.

Hắn yêu cầu được một chỗ cư trú độc lập yên tĩnh, là vì tiện lợi cho hành động của hắn, hơn nữa muốn tìm chỗ cất giấu dạ minh châu và bất cứ một vật gì có thể tỏ lộ thân phận Ngũ Độn Đạo của hắn, ví như "áo trộm" mà hắn tận tay chế tạo, dây móc câu, áo lặn, ống đồng thở dưới nước, giày vải bước đi không phát tiếng động.

Nghĩ đến đó, hắn vứt bỏ hết mọi lo âu, thò tay mở cái bao trước mặt.

Cô Nguyệt Minh quất ngựa phi nhanh trên quan đạo tối tăm, làm bạn với y chỉ có tinh quang nguyệt sắc, bần thần trong lòng.

Có lẽ y không còn được tái kiến nữ lang không hẹn mà gặp ở bến đò kia, hoặc có lẽ y sẽ gặp lại ở Lạc Dương, không có chuyện gì có thể khẳng định được.

Từ lúc tiếp nhận nhiệm vụ của Phụng công công, số phận tựa như không còn nắm chắc trong tay mình nữa. Nỗi sợ hãi đã biến thành hiện thực, nữ lang quả là người có quan hệ với Sở hạp, sợi dây số phận đã trói bọn họ lại với nhau, y không thể suy đoán được sự phát triển trong tương lai.

Giải trừ quân ngũ, hồi phục lại sự tự do cho bản thân là khát vọng lớn nhất của y, nhưng vào giờ phút này, chuyện đó biến thành xa vời phi thường, không còn trọng yếu nữa.

Quý Nhiếp Đề không có bất cứ một tác dụng bó buộc nào đối với y, Cô Nguyệt Minh y chỉ y theo phương thức của mình mà hành sự. Y tuy thích làm theo ý mình, lại tuyệt không phải là người không ngó ngàng tới đại cục, tính toán của riêng mình cũng đặt nền móng trên đắn đo sâu xa.

Y tuyệt không thể để Sở hạp lọt vào tay Quý Nhiếp Đề.

Nếu Phụng công công quả là muốn chiếm lấy Sở hạp, vậy Sở hạp liền trở thành pháp bảo duy nhất mà y có thể làm cho Phụng công công tuân thủ lời hứa. Phụng công công chỉ đáp ứng giải trừ quân chức của y, đâu có đáp ứng không giết chết y.

Y khẳng định kẻ đánh lén mình là Qua Mặc, thử hỏi trên thế gian có bao nhiêu cao thủ vừa hiểu biết yêu pháp lại vừa võ công cao cường như Qua Mặc chứ? Mà y không đi kiếm chuyện với Qua Mặc, Qua Mặc cũng sẽ đến kiếm chuyện với y, tiên phát chế nhân, y không thể chịu kém.

Còn về Khâu Cửu Sư, y và đối phương không thù không oán, sao lại ngu đến mức đi làm công cụ sát nhân cho Quý Nhiếp Đề? Đối với người phe Phụng công công, y không có hảo cảm.

Nếu có thể lợi dụng cơ hội Quý Nhiếp Đề không có mặt, làm thịt Qua Mặc, lấy được Sở hạp, y liền có thể ngang nhiên mà đi, lãng quên cổ thành, lãng quên lời nói của Tiết Đình Hao, lãng quên tất cả, y thật không muốn đi nghĩ tới chuyện quỷ quỷ thần thần hư vô phiêu diêu.

Nhưng y có thể lãng quên nữ lang kia không?

"Rượu thịt đến đây!".

Ô Tử Hư nghe tiếng kêu của Thiền Dực, liền từ mái ngói nhảy xuống, linh hoạt như con mèo xuyên qua song cửa vào trong, về lại phòng ngủ tầng hai, phủi hết bụi bặm trên mình, khoác ngoại bào lên, theo cầu thang xuống tầng dưới.

Thời khắc nguy hiểm nhất đã qua, hiện tại trên mình hắn không còn có bất cứ một chứng vật nào có thể vạch trần thân phận của hắn, hắn hoàn toàn "thanh bạch".

Trên bàn đặt ba dĩa đồ ăn tinh trí, đây không phải là Ô Tử Hư đòi hỏi quá đáng, mà là để tranh thủ thời gian, cố ý chọn mấy món cần chăm chút tốn thời gian.

Ô Tử Hư có hai tiểu tỳ hầu hạ, đến bàn tròn ngồi xuống, nhìn sang Thiền Dực đang đứng bên kia bàn thốt: "Thiền đại thư sao không ngồi xuống ăn với tôi. Hì! Rượu thịt còn nóng, khẳng định từ nhà bếp tới đây không cần phải đi mấy dặm đường".

Đám tiểu tỳ bày chén đũa rót rượu cho hắn che miệng cười khúc khích, bọn họ tuy không thanh tú bằng Thiền Dực, nhưng cũng có thể coi là có nhan sắc, xuân ý gợi dâng tức thời.

Thiền Dực không cười chút nào, mặt phấn cứng đờ, trừng hắn một cái: "Ngươi tự mình ăn được rồi! Rượu thịt đến từ nhà bếp phía đông. Nhà bếp cung ứng cho khách nhân có năm cái, ba cái ở gian đại sảnh và hai gian hai cánh ở con đường chính, hai cái còn lại chia nhau ở đông tây lưỡng viện. Phong Trúc Các thuộc phạm vi đông viện, rượu thịt đương nhiên do đông viện cung ứng".

Quay sang hai tiểu tỳ nói: "Các ngươi ra ngoại đường chờ đợi".

Hai tiểu tỳ vâng lệnh đi ra, khiến cho Ô Tử Hư vừa định chọc bọn họ cười cảm thấy thất vọng, may là Thiền Dực còn ở lại.

Thiền Dực tuy vẫn không giả lả với hắn, nhưng thái độ đã có nhiều chuyển biến, ít ra chịu nhìn hắn, lại có hỏi có đáp.

Ô Tử Hư rành thủ đoạn thăm dò cửa hông nhất, dựa bàn nhai nhóp nhép, bâng quơ hỏi: "Chỗ đẹp nhất của Hồng Diệp Lâu là chỗ nào?".

Thiền Dực chằm chặp nhìn hắn, xem thần tình chắc đã mất hết tính nhẫn nại chịu đựng hắn, miễn cưỡng đáp: "Đương nhiên là mười tám nhà thủy tạ trên bờ hồ của đông tây lưỡng viện, chỉ tiếp đãi đại quan quý nhân, có tiền cũng không mua được".

Ô Tử Hư lập tức hai mắt phát sáng: "Ta muốn cái tốt nhất, khà! Đó là cái ông chủ của các ngươi tận miệng đáp ứng ta. Nhà thủy tạ nào là tốt nhất?".

Thiền Dực lộ vẻ khinh bỉ: "Đông tây lưỡng viện đâu đâu cũng đặc sắc, đều là chỗ tốt nhất, còn phải xem sở thích cá nhân".

Ô Tử Hư chậm rãi nhơi nhơi thốt: "Cứ nói thí dụ, ví như Bố chính sứ ti Tiền Thế Thần có địa vị nhất Lạc Dương thành của các ngươi, gã chọn tòa thủy tạ nào?".

Thiền Dực lộ thần thái cộc cằn cơ hồ bị chọc tức chết, đáp: "Sử ti đại nhân mỗi lần đến đều tới Thư Hương Tạ ở tây viện, đó là nơi sứ ti đại nhân chuyên dùng, ngươi đừng có tính tới Thư Hương Tạ".

Ô Tử Hư lòng mừng thầm, sợ nhất là Tiền Thế Thần mỗi lần đến đều chọn nơi khác nhau, đã có địa điểm cố định, thật hết sức có lợi cho hành động của hắn, tuy mãi cho đến giờ phút này hắn vẫn là vô kế khả thi đối với việc làm sao đơn độc gặp được Tiền Thế Thần.

Thiền Dực không còn nhịn được nữa: "Giờ Ngọ ngày mai ta sẽ đến đây, dẫn ngươi đi mua vật liệu trộn màu vẽ, ngươi cần người đến hầu ngươi chứ?".

Ô Tử Hư liền gật đầu, còn chưa có cơ hội lên tiếng, Thiền Dực đã lẻn đi như tránh ôn thần.

Hồi 18: Đạo Tung Sạ Hiện

Ngồi trong nhã tọa trên bình đài tầng hai của Ban Trúc Lâu, nhìn ánh mặt trời rải chiếu con đường lớn xe ngựa chen chúc, phồn hoa nhiệt náo, Khâu Cửu Sư có làm sao cũng không cảm thấy được sự tồn tại của địch thủ vô hình, nhưng hắn biết mình đã bắt đầu tin vào suy đoán của Nguyễn Tu Chân.

Hắn vừa gặp Tiền Thế Thần, chính như sở liệu của Nguyễn Tu Chân, Tiền Thế Thần mất trắng một đêm vẫn tìm không ra manh mối về Ngũ Độn Đạo. Chuyện bọn họ sợ đã biến thành hiện thực cần phải đối diện.

Nguyễn Tu Chân nhận định Ngũ Độn Đạo vẫn còn núp trong thành, hắn thì bán tín bán nghi, mà Nguyễn Tu Chân chỉ ra Ngũ Độn Đạo ít ít nhiều nhiều có chút quan hệ với Bách Thuần, càng là chuyện hắn nghĩ nát nước cũng không hiểu nổi. Nếu địch nhân vô hình kia thật đứng về phía Ngũ Độn Đạo, đáng lẽ không để cho hắn cơ hội tiếp xúc Bách Thuần, mọi sự thật khiến cho người ta nghĩ không thông không thấu.

Nhưng giả như chứng thực Ngũ Độn Đạo quả có liên quan với Bách Thuần, Khâu Cửu Sư hắn không thể không tiếp xúc Bách Thuần, hắn có thể nào nhẫn nhịn được, chỉ động não mà không động tình không?

Từ sau lần sơ ngộ trên đường lớn, hắn luôn luôn bị một thứ tâm tình kỳ dị chưa từng có chi phối. Trong dĩ vãng đầu óc của hắn chỉ chất chứa sự việc có liên quan đến đại nghiệp nam nhi, chưa từng có tính toán gì cho riêng mình, cũng không muốn có bất cứ ràng buộc tình cảm gì.

Sự xuất hiện của Bách Thuần đã khiến cho hắn nhìn tới một mảnh trời đất khác. Giây phút Bách Thuần vén rèm triển lộ ngọc dung, hắn không cần nỗ lực gì, tự nhiên quên hết mọi thứ mà trước đây xem là trọng yếu nhất, quăng ra ngoài chín tầng mây, đó là tư vị chưa từng có qua. Là cảm giác của yêu đương sao?

Lúc này Nguyễn Tu Chân đã đến, sau khi đóng cửa thần tình cổ quái ngồi xuống bên cạnh hắn, thấp giọng: "Đã có manh mối".

Khâu Cửu Sư mừng ra mặt, tinh thần phấn chấn: "Có phải đã phát hiện tiểu tử đó không?".

Nguyễn Tu Chân đáp: "Gần như là vậy. Vốn người của Lạc Dương bang tìm không ra bóng dáng của tiểu tử đó, ta chỉ đành dùng một chiêu tối hậu, thỉnh Mã Công Thành tập trung nhân lực bày chút công phu đối với Hồng Diệp Lâu. Người Hồng Diệp Lâu mướn dùng có không ít nhân thủ của Lạc Dương bang, đó là thông lệ của giang hồ, để Lạc Dương bang chia hưởng lợi ích, quả nhiên bọn họ điều tra ra một người rất có thể là Ngũ Độn Đạo".

Khâu Cửu Sư nghe vậy nổi da gà, thất thanh: "Thật có quan hệ với Bách Thuần sao?".

Nguyễn Tu Chân đáp: "Đâu phải thứ quan hệ đồng bọn như ngươi tưởng tượng, mà quan hệ vi diệu vô cùng, vi diệu đến mức khiến người ta phải rùng mình".

Khâu Cửu Sư hít sâu một hơi: "Ta đã chuẩn bị rồi, nói đi!".

Nguyễn Tu Chân đáp: "Hồng Diệp Lâu mấy năm gần đây thanh danh quật khởi ở Giang Nam, toàn là nhờ có Bách Thuần từ kinh sư đến trợ trận, bản thân nàng đương nhiên có sức hiệu triệu, quan trọng hơn là trí tuệ của nàng. Vì giúp cho Hồng Diệp Lâu lên thêm một tầng, Bách Thuần đã nghĩ kế cho lão bản Chu Bàn Tử của Hồng Diệp Lâu, mượn kỷ niệm mười năm ngày thành lập Hồng Diệp Lâu, cử hành dạ yến vào tiết Khất Xảo mùng bảy tháng bảy, dùng làm cao điểm cho hội mừng kỷ niệm mười năm. Ba tháng trước, Hồng Diệp Lâu phát thiệp mời, khắp Giang Nam ai ai có máu mặt cũng được mời phó hội, tham gia hội mừng. Thiệp mời này có khác gì tượng trưng cho thân phận địa vị, kẻ không nhận được thiệp đều không dám nói với người ta, cho nên có thể thấy đêm chu niên thứ mười của Hồng Diệp Lâu sẽ oanh động đến cỡ nào".

Khâu Cửu Sư không hiểu: "Hội mừng mùng bảy tháng bảy của Hồng Diệp Lâu có liên quan gì tới Ngũ Độn Đạo?".

Nguyễn Tu Chân đáp: "Đương nhiên là có quan hệ rất lớn. Một phương pháp ăn mừng mà Bách Thuần nghĩ ra là thỉnh họa sư nổi danh đến, vẽ chân dung cho tám cô nương đỏ nhất trong Lâu, Bách Thuần đương nhiên là một trong số. Tám bức họa mỹ nhân sau khi hoàn thành sẽ treo ở chỗ dạ yến vào ngày mùng bảy tháng bảy, để cho tao nhân mặc khách làm thơ đề chữ, làm theo kiểu Lạc Dương Lâu, hy vọng có thể tạo ra một thiên 'Hồng Diệp Lâu ký', chỉ tiếc cái gọi là danh sư ở Lạc Dương thành toàn là vẽ không lọt mắt Bách Thuần. Chu Bàn Tử chỉ còn nước công khai chiêu sính ở các thành phụ cận, hơn hai tháng qua số họa sư từ các nơi đến ghi tên cũng mấy chục người, lại hoàn toàn không ra gì, mãi cho đến sau Ngọ ngày hôm qua, một người tự xưng là họa sư từ kinh sư đến, không ngờ đồng thời được Chu Bàn Tử và Bách Thuần thu nhận, hơn nữa còn đối đãi theo lễ thượng khách".

Khâu Cửu Sư lập tức biến thành tinh minh dũng mãnh như rồng như cọp, nhảy dựng lên: "Thời gian ăn khớp vô cùng".

Nguyễn Tu Chân nói: "Lần này hắn ẩn mình đột nhập đích thị theo thân phận họa sư, hoàn toàn không có sơ hở, ít ra đã gạt được kẻ gian giảo kinh nghiệm đầy mình như Chu Bàn Tử".

Khâu Cửu Sư lắc đầu: "Cái gì cũng đều có thể sửa đổi, hình dáng đôi mắt cũng có thể sửa, duy có nhãn thần là không có cách nào cải biến, chỉ cần ta nhìn thấy ánh mắt của hắn, có thể lập tức nhận ra hắn".

Nguyễn Tu Chân phân tích: "Người này có tác dụng trọng đại đối với hội mừng thập chu niên của Hồng Diệp Lâu, lại trực tiếp dính líu đến Bách Thuần, nếu bọn ta không chút bằng cớ xông thẳng vào Hồng Diệp Lâu bắt người, sẽ làm ầm ĩ đến mức sượng cứng. Hơn nữa không sợ nhất vạn, chỉ sợ vạn nhất, nếu bắt sai người, sẽ biến thành một trò cười to tát. Cho nên bọn ta cần phải mưu định rồi mới hậu động...".

Còn chưa nói xong, thủ hạ đẩy mở cửa, nói: "Mã đương gia của Lạc Dương bang đến".

Hai người ngạc nhiên nhìn ra, một đại hán trung niên râu ria xồm xoàm tiến nhanh vào, hai tay chống trên bàn, cúi mình thấp giọng: "Mục tiêu đã xuất hiện, có tiểu tỳ Thiền Dực của Hồng Diệp Lâu dẫn đường, có vẻ đi về phía chợ đông".

Hai người liền đứng dậy, đều cảm thấy đây là cơ hội khó gặp.

Ô Tử Hư đang ở trong tiệm chuyên bán đồ dùng văn phòng có quy mô nhất, mua một hơi đủ thứ vật liệu dụng cụ đủ để vẽ mấy chục bức họa, chỉ bút lông lớn nhỏ thôi cũng mười mấy cây, giấy trắng giấy tẩm cũng hai bó lớn, khiến cho Thiền Dực cau mày nhăn nhó, lại không có cách nào can thiệp, hai đại hán đi theo khuân vác đồ, thấy Thiền Dực không có biểu hiện gì, chỉ còn nước mắng thầm.

Chủ tiệm đương nhiên cười sái quai hàm, vị hào khách này không những mua số lượng lớn, còn tuyển toàn là hàng thượng đẳng nhất, bao gồm cả những thứ cất giữ lâu ngày đóng bụi bán không chạy, kiếm được món lời to, không ngừng khen ngợi Ô Tử Hư biết chọn hàng.

Sau khi Thiền Dực trả tiền, thấy Ô Tử Hư tựa như còn chưa ngừng tay, thầm thất kinh, ghé lại gần Ô Tử Hư nói: "Hết tiền rồi!".

Ô Tử Hư thừa cơ chạm vào vai ả, Thiền Dực rụt lại như bị điện giật, còn chưa có cơ hội phát tác, Ô Tử Hư cười hì hì thốt: "Thì ra là vậy. Nương tử! Bọn ta về nhà đi".

Thiền Dực giận dữ: "Ai là nương tử của ngươi?".

Ô Tử Hư giả vẻ định thần nhìn kỹ ả, cười khà khà: "Đúng! Đúng! Nàng vẫn chưa là nương tử của ta". Lại cười ha hả, phất tay từ biệt chủ tiệm, cất bước về phía cửa tiệm.

Thiền Dực đuổi theo sau hắn, biết người này da mặt cực dày, chửi hắn có khi lại trúng ý hắn, đang không biết làm sao để báo mối thù này, đột nhiên Ô Tử Hư lảo đảo thoái lùi, ngã chổng bốn vó lên trời, nhất thời hoàn toàn không rõ chuyện gì xảy ra.

Sự tình phát sinh quá nhanh, hai võ sĩ hộ vệ của Hồng Diệp Lâu đi theo cũng ngây người tại đương trường, không biết có nên quăng đồ trên tay hay là tiếp tục ôm.

Một đại hán khôi ngô hiên ngang đứng chặn ngoài cửa, trường đao trong tay chỉa xéo, tư thế cổ quái vừa mới dứ chém.

Kẻ xuất thủ đương nhiên là Khâu Cửu Sư, đó là phương pháp vạch trần thân phận Ngũ Độn Đạo của đối phương, là do Nguyễn Tu Chân nghĩ ra, chỉ cần đối phương là Ngũ Độn Đạo, khẳng định không có cách nào ẩn mình được.

Đúng lúc Ô Tử Hư bước ra cửa tiệm, Khâu Cửu Sư xẹt ngang ra, mượn thanh đao chói lọi của thủ hạ, nhắm ngay mặt Ô Tử Hư chẻ mạnh xuống, với thân thủ của Ngũ Độn Đạo, đương nhiên không thể dễ dàng bị hắn lấy mạng, chỉ cần Ngũ Độn Đạo lánh lùi ra sau, lập tức phải lộ nguyên hình. Chỗ lợi hại nhất là căn bản không cho phép đối phương có thời gian suy nghĩ, vì để giữ mạng, lại căn cứ vào phản ứng bản năng của cao thủ, không thể nào không vạch ra được chân tướng của hắn.

Chỉ tức sự thật lại hoàn toàn vượt ngoài ý liệu của Khâu Cửu Sư, chém chỉ còn cách trán Ô Tử Hư một tấc, Ô Tử Hư vẫn như một con thiêu thân khờ khạo không biết tránh né, nếu là kẻ võ nghệ tầm thường, muốn dừng tay cũng không làm được, may sao là Khâu Cửu Sư, nói thu thì thu liền, nếu không đã lấy mạng rồi.

Nhìn Ô Tử Hư còn chưa thể bò dậy nổi sợ đến mức sắc mặt tái nhợt, run rẩy không ngớt, Khâu Cửu Sư bắt đầu nhức đầu, tạo ra vụ lộn xộn này làm sao mà thu thập đây?

Thiền Dực ré lên.

Hai võ sĩ ôm bao lớn bao nhỏ đứng chặn trước mặt Ô Tử Hư.

Khâu Cửu Sư buông thõng trường đao, đưa ngược ra sau, tự có thủ hạ bước tới tiếp lấy, đằng hắng một tiếng, đang định nói, Nguyễn Tu Chân từ bên kia đi ra, đứng kề bên Khâu Cửu Sư, cười tươi giơ tay: "Chỉ là hiểu lầm, hiểu lầm thôi".

Thiền Dực kinh hồn cúi nhìn, định ngồi xuống xem Ô Tử Hư có thụ thương không, nào hay đôi chân mềm nhũn, té bịch xuống đất.

Ô Tử Hư như đột nhiên hồi phục lại khí lực, bò qua chỗ Thiền Dực, thở dài la lên: "Cường đạo đến! Cường đạo đến! Nương tử đừng sợ, có ta bảo vệ nàng".

Thiền Dực thấy hắn không bị thương, yên tâm phần nào, thấy hắn như muốn tới ôm mình, kinh hãi la lên: "Đừng qua đây". Vội đứng dậy.

Nguyễn Tu Chân thấy hai đại hán kia mắt lộ hung quang, biết bọn họ sắp động thủ, liền thốt: "Tại hạ Đại Hà Minh Nguyễn Tu Chân, vị này là Khâu Cửu Sư, hiểu lầm hôm nay, ngày sau tự sẽ đến xin lỗi với Chu lão bản và Bách Thuần cô nương. Chỉ muốn hỏi thêm một câu rồi bọn ta sẽ lập tức quay đầu bỏ đi".

Tên tuổi danh nhân, bóng cây cổ thụ! Nguyễn Tu Chân báo tên hai người, lập tức vỗ an hai đại hán Hồng Diệp Lâu.

Ô Tử Hư loạng choạng đứng dậy, ra vẻ ngoài mặt làm dữ mà trong lòng nhu nhược rướn cổ: "Ta xưa nay không thù không oán với các người, tại sao lại phải dùng thủ đoạn bỉ ổi ám toán ta? Nếu không phải Lang Canh ta đã từng luyện tập vài bộ quyền cước, thân thủ nhanh nhạy, một đao đó đã lấy mạng ta rồi".

Mọi người kể cả hai đại hán kia nghe vậy cũng phải lắc đầu, tiểu tử lớn lối không biết thẹn như vậy, thật là mặt dày.

Cho dù Thiền Dực chỉ là thân phận tỳ nữ, lại là người biết điều, biết tình thế thua kém, Chu Bàn Tử có mặt cũng phải nhịn hơi, còn phải giả khách khách khí khí. Ả hỏi: "Xin hỏi tiên sinh muốn hỏi gì?".

Nguyễn Tu Chân bình tĩnh hỏi: "Ta muốn thỉnh giáo Lang tiên sinh xem râu của y có phải là dán không?".

Khâu Cửu Sư đang để ý nhìn cổ tay của Ô Tử Hư, lại không thấy vết sẹo nào, nghe nói thầm khen, tiểu tử bán mật rắn mặt mày trơn tru, nếu tên mang danh Lang Canh này là tiểu tử đó giả trang, râu đương nhiên là dán lên, có thể dễ dàng tháo xuống.

Ô Tử Hư trốn sau người hai đại hán, nhảy dựng há miệng mắng lớn: "Sĩ khả sát, bất khả nhục, còn dám nói bộ râu đẹp của ta là giả? Người đâu! Đánh hai tên tiểu tử kia cho Họa Tiên Lang Canh ta. Ui da!".

Thiền Dực dời đến bên cạnh hắn xuất kỳ bất ý giật mạnh bộ râu dưới cằm hắn, hằn học thốt: "Đừng ồn ào nhốn nháo nữa được không? Thật hy vọng là râu giả, sau này không phải nhìn thấy ngươi nữa".

Ô Tử Hư ồ ồ rống lên, lại nói không nên lời.

Khâu Cửu Sư và Nguyễn Tu Chân đưa mắt nhìn nhau, đều cảm thấy đại bại, coi như xong xuôi.

Khâu Cửu Sư ôm quyền: "Đắc tội, xin Lang tiên sinh đại nhân đại lượng, đừng khiển trách".

Rồi kéo Nguyễn Tu Chân, bất lực bỏ đi.

Chiếc ghe rời khỏi bến tàu nhỏ, nhắm phương hướng Bát Trận Viên lướt đi, Khâu Cửu Sư phụ trách chống chèo, Nguyễn Tu Chân ngồi ở đầu ghe, nhắm mắt trầm tư.

Khâu Cửu Sư lắc đầu cười khổ, từ lúc xuất đạo tới giờ, hắn chưa từng ứ gan như vậy.

Nguyễn Tu Chân mở mắt: "Ta dám khẳng định hắn là Ngũ Độn Đạo".

Khâu Cửu Sư nói: "Ta biết ngươi không phục, ta cũng không phục muốn chết, nhưng râu của hắn lại là thật, nếu là dán lên, đã bị tiểu tỳ kia giật xuống rồi".

Nguyễn Tu Chân thốt: "Ngũ Độn Đạo là đại đạo xuất sắc nhất, dịch dung thuật của hắn đương nhiên không phải là dịch dung thuật phổ thông, có phương pháp gắn râu mà giật không rời, cần một thứ thuốc nước đặc chế nào đó mới có thể tháo gỡ".

Khâu Cửu Sư nói: "Còn một đao đó thì sao? Lẽ nào hắn chán sống, mặc cho người ta làm thịt hắn?".

Nguyễn Tu Chân đáp: "Đừng quên hắn là người biết tùy cơ ứng biến nhất, trong một sát na nhìn rõ thấy ngươi là ai, đoán được ngươi chỉ thăm dò hắn, cho nên tương kế tựu kế".

Khâu Cửu Sư đồng ý: "Chuyện đó có thể thông qua, nhưng vẻ mặt kinh hoàng xấc bấc của hắn, bộ dạng khờ khạo bị hù đến mức mặt cắt không còn một giọt máu lại không thể nào giả ra được. Ta rành nhìn mắt người ta nhất, đó quả là thần thái sợ muốn chết, đâu có che giấu được".

Nguyễn Tu Chân thốt: "Không biết ngươi có lưu ý không, lúc hắn bò qua chỗ tiểu tỳ kia, trong mắt lại lộ ra một thứ khát vọng theo đuổi cái gì đó, giống hệt tiểu tử bán rắn kia".

Khâu Cửu Sư cau mày: "Ta không có lưu ý, lúc đó ta đang muốn tìm một cái lỗ nào chui trốn đi. Ài! Bây giờ hắn đã về Hồng Diệp Lâu, bọn ta còn có thể làm sao để bắt hắn đây?".

Nguyễn Tu Chân hỏi: "Nếu có bằng cớ thật sự thì sao?".

Khâu Cửu Sư thở dài: "Làm sao để có bằng cớ chân thật?".

Nguyễn Tu Chân trầm ngâm: "Hắn nói là Họa Tiên Lang Canh gì đó đến từ kinh sư, bọn ta đến kinh sư điều tra xem có phải có một người như vậy không. Tốt nhất là hắn giả mạo, còn Lang Canh thật vẫn đang ở kinh sư, vậy thì bọn ta liền có chứng cứ cần thiết nhất".

Khâu Cửu Sư nói: "Từ đây đến kinh sư, vừa đi vừa về ít ra cùng phải tốn một tháng trời, lúc đó tiểu tử kia đã trốn mất từ lâu rồi".

Nguyễn Tu Chân thốt: "Bọn ta có thể tìm Tiền Thế Thần trợ giúp, để gã dùng phi cáp truyền thư tìm người ở kinh sư giúp đỡ, có thể có kết quả nội trong mười ngày. Mười ngày đó bọn ta cũng không cần phải ngồi không, một mặt giám thị chặt chẽ Hồng Diệp Lâu, mặt khác để ngươi đi xin lỗi với Bách Thuần, giả như ngộ nhận, khiến cho Ngũ Độn Đạo nghĩ mình đã thoát khỏi ải".

Khâu Cửu Sư kinh hãi: "Vậy có khác gì là phải dây dưa với Bách Thuần?".

Nguyễn Tu Chân thốt: "Đó là tùy thời thế mà biến hóa, đến lúc tin tốt từ kinh sư truyền về, kế hoạch bắt trộm của bọn ta sẽ đại công cáo thành. Còn có chọn lựa nào khác chứ?".

Ô Tử Hư biết mình đang ở tình thế hiểm ác nhất, cần phải sửa đổi kế hoạch. Nếu Tiền Thế Thần không chịu giao dịch, còn động đao động thương, hắn cần lập tức trốn khỏi Lạc Dương, lúc đó chỉ còn bằng vào bản lãnh chạy trốn của mình mà thôi.

Nguyễn Tu Chân và Khâu Cửu Sư quả danh bất hư truyền, không những không bị kế nghi binh của hắn làm mê hoặc, truy đuổi đến chỗ khác, mà còn nắm bắt được thân phận mới của hắn. May sao mình đâu phải là cây đèn cạn dầu, không bị hiện hình tại đương trường.

Khuyết điểm của hắn đã biến thành ưu điểm, lúc hắn té xuống đất là sợ thật, chưa từng gần sát địch nhân như vậy, đối thủ hơn nữa là kẻ có tư cách đánh bại gã trong tình thế đơn đả độc đấu, chính diện giao phong, nghĩ lại cũng phải gạt mồ hôi lạnh.

Có phải vẫn phải đi gặp Tiền Thế Thần không? Hắn không muốn chết, vô cùng sợ chết, nhưng càng hiểu rõ sẽ rất mau chóng xài hết số ngân lượng trong túi. Ngày tháng nghèo mạt rệp bần cùng sạch sành sanh rõ ràng là sống không bằng chết. Dạ minh châu biến thành hy vọng duy nhất của hắn, dù sao cũng phải đánh cá một ván mẹ bà.

"Sao ngươi ngồi thừ ra vậy? Có muốn uống thuốc kinh phong không?".

Ô Tử Hư hồn phách quay về ngoái đầu lại nhìn, Thiền Dực tiến vào sảnh đường, đi vòng qua bên kia bàn, ngồi xuống vượt ngoài ý liệu của hắn, đôi mắt đẹp tràn ngập thần sắc châm chọc, lạnh lùng liếc nhìn hắn.

Ô Tử Hư lập tức ngứa ngáy trong lòng, tay vuốt bộ râu, giả vẻ thống khổ: "Kéo đau quá, Thiền Dực muội đền cho ta sao đây?".

Thiền Dực nổi nóng: "Ai là Thiền Dực muội của ngươi? Kéo là đáng lắm, thật hy vọng Khâu Cửu Sư một đao chém chết ngươi cho rồi".

Ô Tử Hư cười hì hì: "Đừng lừa người mà, Thiền đại thư lúc đó quan tâm đến ta quá xá, còn muốn ngồi xuống ôm ta, sợ ta bị người ta hại. Khà! Mỹ nhân ân trọng. Lang Canh ta thật hạnh phúc".

Thiền Dực biết đấu võ mồm với hắn chỉ có thể cho hắn chiếm tiện nghi, háy hắn một cái: "Đừng nói bậy, Diễm Nương muốn ta hỏi ngươi có thể bắt đầu chưa? Lão bản nói đêm nay muốn xem bức họa đầu tiên của ngươi".

Ô Tử Hư lúc này đã gạt hết mọi lo âu ngoài chín tầng mây, cố làm ra vẻ nghiêm nghị hạ thấp thanh âm: "Chi bằng trước hết để ta vẽ một bức chân dung cho Thiền tiểu thư, vĩnh viễn lưu lại bộ dạng động hồn thanh xuân hoán phát của Thiền Thiền nàng, tương lai đến lúc tuổi già tóc bạc, còn có một hồi ức mỹ lệ. Nghĩ xem coi! Đến lúc con cháu đầy nhà, cầm trấn gia chi bảo ra nói 'xem nè! Bà bà thuở còn trẻ xinh đẹp mê hồn làm sao, công công lúc đó theo đuổi ta gian khổ biết bao'. Còn có gì thú vị hơn chứ?".

Thiền Dực một mặt tức đến mức mắt trợn trắng, một mặt hơi động lòng, tên sắc quỷ này tuy thật đáng khinh ghét, nhưng tài vẽ tranh quả là siêu trác phi thường. Hồi nãy trước khi đến, Diễm Nương đã từng dặn dò ả xem xem có thể khiến cho tên tiểu tử này vẽ riêng cho Diễm Nương một tấm chân dung. Ả bực bội nói: "Ngươi bớt miệng lưỡi tươm tướp chút đi, ta không ưa cái sáo của ngươi. Có thể động bút rồi chứ? Ta còn phải ăn nói với Diễm Nương đó!".

Ô Tử Hư vươn vai lười biếng, chậm rãi thốt: "Đêm nay chính là thời điểm ta đại hiển thân thủ, nói đến vẽ tranh ta lập tức biến thành hùng dũng như rồng cọp. Tiền Thế Thần đêm nay có đến không? Nếu gã không rảnh, cứ trải chiếu rượu ở Thư Hương Tạ, rồi tìm mấy chị em ngọt ngào xinh đẹp mê hồn đến nhâm nhi tìm vui cùng ta. Con mẹ ta! Đời người được như vậy, còn cầu mong gì nữa".

Thiền Dực không vui: "Ngươi thật ra là muốn vẽ tranh hay là say sưa ba hoa".

Ô Tử Hư nhún vai: "Hai thứ có gì xung đột chứ? Để ta nói cho Thiền Thiền nàng biết, vẽ phỏng chỉ là quang cảnh trong nháy mắt, nhưng cái tình của bức tranh lại cần phải bồi dưỡng một thời gian dài, họa tình có đủ, phẩy tay là xong. Ví như ta muốn vẽ Thiền Thiền, Thiền Thiền cần phải giúp ta bồi dưỡng họa tình, triển lộ một mặt có thể làm mê chết người ta với ta, như vậy tranh vẽ ra mới là tác phẩm thượng thừa, hiểu chứ?".

Thiền Dực má phấn ửng hồng, có thể nghĩ ra cái hắn nói "mê chết người" là gì rồi, lại không có cách nào bắt bẻ hắn, nổi nóng: "Ngươi thích nói gì thì là chuyện của riêng ngươi. Ngoại trừ Thư Hương Tạ ra, mấy nhà thủy tạ khác ta đều có thể an bài".

Ô Tử Hư mục đích chỉ là quan sát hình thế của Thư Hương Tạ, hân hoan thốt: "Vậy thì chọn tòa thủy tạ nào kề bên Thư Hương Tạ đi! Rượu thịt để Thiền Thiền lo tính, còn về chị em xinh đẹp, đương nhiên là một trong tám mỹ nhân, nếu không làm sao mà bồi dưỡng họa tình?".

Mặt mày Thiền Dực càng đỏ bừng lên, hằn học trừng hắn, đi nhanh như muốn chạy trốn.

Tiền Thế Thần xem qua thủ dụ của Phụng công công, nói: "Chỉ thị của đại công công nói tới thân phận đặc biệt của Cô đại nhân, trực tiếp dưới trướng của Hoàng thượng, cho nên có quyền tự chủ hành sự, giữa bọn ta cũng không cần chấp nê nghi lễ trên dưới. Có chỗ nào dùng được Tiền Thế Thần ta, ta sẽ toàn lực phối hợp".

Cô Nguyệt Minh thấy mục quang của gã không ngừng liếc ngó cái túi da đặt trên bàn, hiển nhiên đã sinh lòng hiếu kỳ, lại cố ý không nói ra. Vì đem cất thủ dụ trong túi da, cho nên thuận tay đặt trên bàn, đâu có phải cố làm ra vẻ thần bí. Y điềm đạm thốt: "Ta muốn làm cho rõ chuyện xảy ra năm xưa".

Tiền Thế Thần ngạc nhiên: "Chuyện xảy ra năm xưa ta đã viết báo cáo tường tận hơn trăm trang, một phần dâng đến kinh sư, một bản sao còn giữ lại, có thể cho Cô đại nhân xem qua".

Cô Nguyệt Minh chậm rãi thốt: "Ta hy vọng có thể gặp mặt Qua Mặc, hắn biết rõ nguyên nhân cái chết của các thành viên trong đoàn tầm bảo nhất".

Tiền Thế Thần mặt lộ vẻ khó coi: "Qua Mặc giống như Cô đại nhân, luôn luôn độc lai độc vãng, không chịu sự quản hạt của ta, năm xưa thỉnh hắn đến trợ giúp điều tra đã là nể mặt lắm rồi". Lại làm như kinh ngạc: "Chuyện xảy ra năm xưa, triều đình đã sớm có nhận định, sự vụ cấp thiết trước mắt là bắt Tiết Đình Hao quy án, rồi từ hắn truy tìm nơi hạ lạc của Phu Mãnh, Quý đại nhân vì Tiết Đình Hao hiện hình đã rượt tới Vân Mộng Trạch, Cô đại nhân..".

Cô Nguyệt Minh không khách khí ngắt lời gã: "Tiền đại nhân lại quên rồi, ta chỉ dùng phương thức của mình mà hành sự. Trên đường ta đến đây, hai lần bị người ta hành thích, người này không những võ công cao cường, hơn nữa còn biết yêu thuật, làm cho ta lòng sinh hoài nghi. Hừ! Ai dám động đến Cô Nguyệt Minh ta cũng sẽ không có kết quả tốt đẹp. Y đã đánh giá ta quá thấp, nghĩ chỉ cần giả thần giả quỷ là có thể che giấu thân phận, không biết ta có bản lãnh đặc thù đối với việc nhận người, chỉ cần hắn lại xuất hiện trước mặt ta, ta có thể lập tức vạch trần hắn".

Tiền Thế Thần sắc mặt lập tức biến thành khó coi vô cùng, không vui: "Cô đại nhân có phải ám thị kẻ đánh lén ngươi là Qua Mặc không?".

Cô Nguyệt Minh đôi mắt hàn quang rừng rực, nhìn thẳng vào mắt Tiền Thế Thần, tựa như có thể nhìn thấu bí mật ẩn tàng trong lòng gã: "Tri nhân tri diện bất tri tâm, ta không biết nhận thức của Tiền đại nhân đối với Qua Mặc sâu xa bao nhiêu, nhưng tác phong đó giờ của ta là hoài nghi tất cả mọi người. Ta muốn gặp Qua Mặc là muốn khẳng định hắn có phải là kẻ tập kích ta hay không. Ta lần này phụng mệnh xuống Nam, mục tiêu là lấy Sở hạp, ai cản trở ta, kẻ đó phải chết, hy vọng Tiền đại nhân hiểu thấu".

Y cố ý làm cho Tiền Thế Thần sợ, khiến cho Tiền Thế Thần hiểu nếu bị y tìm được Qua Mặc, bất kể Tiền Thế Thần có phải đồng mưu với Qua Mặc hay không, cũng khó tránh khỏi dính líu. Lý tưởng nhất là Tiền Thế Thần không dằn được, thỉnh Qua Mặc xuất thủ giết y, cơ hội của y liền xuất hiện.

Tiền Thế Thần căm phẫn: "Qua tiên sinh tuyệt không phải là người như vậy, ta lập tức phái người đi tìm hắn, thỉnh hắn đến gặp Cô đại nhân, tiêu trừ nghi kỵ trong đầu Cô đại nhân".

Cô Nguyệt Minh thần thái tỏ ra làm vậy là tốt nhất, giọng điệu nặng nề: "Thảm án Vân Mộng Trạch mười năm trước, nghi vấn trùng trùng, chỉ một chuyện Tiết Đình Hao ẩn náu Không môn, lại đột nhiên xuất hiện đã làm cho người ta rối trí không hiểu nổi. Ta sẽ dùng góc độ hoàn toàn mới mẻ để triển khai điều tra vụ án này, Tiền đại nhân cần có chuẩn bị trong lòng".

Tiền Thế Thần hít sâu một hơi, đè nén tâm tình dợn sóng. Gã bắt đầu hiểu thấu tại sao Quý Nhiếp Đề lại ngài ngại Cô Nguyệt Minh như vậy, Qua Mặc cũng không dám khinh thị y, con người này quá là lợi hại. Gã nói: "Chỉ cần có thể phá án, Tiền Thế Thần ta tất toàn lực phối hợp".

Cô Nguyệt Minh trầm ngâm một hồi, thốt: "Có nơi nào yên tĩnh một chút không, ta không cần người hầu, tốt nhất là nơi tiện lợi cả hai đường giao thông thủy lục. Nếu không có chuyện gì đặc biệt, Tiền đại nhân tốt nhất là đừng đến tìm ta".

Tiền Thế Thần còn có gì để nói được nữa: "Chuyện này ta có thể an bài thỏa đáng cho Cô đại nhân lập tức".

Cô Nguyệt Minh cười thầm, chỗ cư trú giao thông tiện lợi mà gã chọn dĩ nhiên không phải tiện lợi cho mình, mà là tiện lợi cho Qua Mặc hạ thủ giết y.

Vô Song Nữ ép mình trên mái ngói, cúi nhìn cửa ngoại viện của Bố chính sứ ti phủ. Sau khi đến Lạc Dương thành, nàng lập tức vào quán trọ, an trí Hắc Nhi xong, ra ngoài cửa nam chực chờ, đợi cả canh giờ, nhìn thấy Cô Nguyệt Minh từ Vân Mộng Trạch về tiến vào thành, liền theo sau ngựa của y, mãi cho đến khi y tiến vào Bố chính sứ ti phủ.

Sau khi mai táng cữu cữu, trong đầu nàng chỉ có một ý niệm, là giết chết Cô Nguyệt Minh. Nếu không phải đã học hỏi từ kinh nghiệm có sẵn, nàng đã tìm cơ hội tiếp cận Cô Nguyệt Minh, dùng tuyệt kỹ phóng phi châm lấy mạng y, nhưng nghĩ tới bản lãnh dùng hai ngón tay kẹp phi châm của cao thủ chân không kia, nàng không còn lòng tin trước đây nữa. Một chiêu không trúng, để Cô Nguyệt Minh đề cao cảnh giác, có thể vĩnh viễn không giết được y.

Nếu Cô Nguyệt Minh dùng Bố chính sứ ti phủ làm địa điểm trú chân, muốn giết y lại càng khó cực kỳ.

Nghĩ đến đó, Cô Nguyệt Minh quất ngựa phi ra khỏi Bố chính sứ ti phủ, có hai kỵ sĩ dẫn đường.

Hồi 19: Mê Nhân Thủ Đoạn

Ô Tử Hư đứng trên bình đài của tòa thủy tạ sát hồ, dựa lan can dõi nhìn Quải Biều Trì trong đêm đen. Hắn vừa thưởng thức cảnh đẹp bờ hồ, vừa quan sát đánh giá hình thế, nắm hết không bỏ sót điểm nào, lẳng lặng ghi nhớ trong đầu.

Tòa thủy tạ hắn đang ở có tên là Thủy Hương, tuy kề cận Thư Hương Tạ, lại nhìn không thấy Thư Hương Tạ, trên sự thật đó là sự đặc sắc của chín tòa thủy tạ tây viện, tấn khảm một cách xảo diệu vào chỗ ao hõm vào, nhà thủy tạ và cổng nhà ẩn náu giữa Ban trúc, khiến mỗi một căn biến thành một thế giới độc lập cách ly.

Bờ bên kia là chín tòa thủy tạ của đông viện, Phong Trúc Các của hắn là một gian độc lập khác ngoài chín tòa thủy tạ tây viện, xa vị trí hiện tại của hắn ước chừng trăm trượng, khoảng cách tuyệt không gần, nhưng với công phu bơi lặn của hắn, tin chắc có thể trong thời gian nửa khắc vượt qua Quải Biều Trì, về đến Phong Trúc Các.

Hắn đã quyết định kế hoạch hoàn chỉnh, rất đáng để thử, chìa khóa ở chỗ có thể vẽ bảy bức họa làm cho Bách Thuần tán thưởng hay không, vì vậy hắn cần phải thi triển hết tài nghệ.

Thanh âm di chuyển đồ từ đằng sau truyền tới, Ô Tử Hư không hiểu là chuyện gì, quay đầu lại nhìn, một đám tiểu tỳ đang khiêng một cái bàn tới, tháo mặt bàn và chân bàn chia nhau khiêng, hai người khiêng ghế dựa, khệ nệ vào bình đài. Diễm Nương và Thiền Dực theo sau đoàn khiêng bàn ghế, Diễm Nương miệng tươi như hoa xuân, chưa nói đã cười, liếc háy làm dáng, thái độ hoàn toàn khác biệt đối với Ô Tử Hư; Thiền Dực thì vẫn thần sắc miễn miễn cưỡng cưỡng, lạnh lùng chẳng thèm nói cười, nhưng đối với Ô Tử Hư mà nói, sức hấp dẫn của hai người cao thấp đã định, sức dụ hoặc của Thiền Dực vượt xa Diễm Nương.

Đoàn khiêng bàn dừng lại ở chỗ giao tiếp giữa sảnh đường và bình đài, Diễm Nương hiệp cùng một làn hương thơm đi thẳng đến trước mặt hắn, cười khêu gợi nói: "Đêm nay là đêm đầu tiên Lang tiên sinh động bút vẽ tranh, Hồng Diệp Lâu bọn tôi sẽ dùng lễ thượng khách chiêu đãi Lang tiên sinh. Lang tiên sinh thích an trí bàn ghế ở vị trí nào trên bình đài?".

Ô Tử Hư cảm thấy lý thú hết sức, sự chiêu đãi này quả là mới lạ, đám tiểu tỳ ai nấy nhan sắc cũng không tầm thường, niên kỷ mười sáu, mười bảy, tuy không bằng Thiền Dực, cũng dễ nhìn vô cùng, thấy bọn họ khiêng vác mồ hôi đầm đìa, hơi thở hổn hển yêu kiều, bừng cháy năm tháng thanh xuân của bọn họ, nhìn ai cũng sinh động tươi mát. Hắn thở dài: "Có thể khiêng thêm một cái giường lớn tới luôn không".

Đám tiểu tỳ đang giương mục quang hiếu kỳ quan sát hắn, nghe vậy không những không ai mắc cỡ, mà còn nhất tề cười yêu kiều, nhà thủy tạ lập tức tràn ngập xuân sắc.

Diễm Nương hai mắt liếc lên, bất cứ một ai cũng đoán được trong lòng ả đang than tên sắc quỷ này tính nết không đổi.

Thiền Dực nổi giận: "Đừng có bậy bạ nữa".

Ô Tử Hư ngạc nhiên chăm chú nhìn ả, vui vẻ thốt: "Đây không phải là sư tử Hà Đông gầm gừ sao? Thiền đại thư càng lúc càng giống nương tử của ta rồi".

Thiền Dực đang định phát tác, bị Diễm Nương chặn lại: "Hồng Diệp Lâu bọn tôi có quy củ của bọn tôi, đặc biệt là Hồng Diệp bát mỹ của bọn tôi do Bách Thuần cô nương đích thân đề ra quy điều, Lang tiên sinh cần phải tuân thủ".

Ô Tử Hư hứng chí bừng bừng hỏi: "Ngu sinh rửa tai xin lắng nghe".

Diễm Nương có thần có khí thốt: "Hồng Diệp bát mỹ toàn là bán nghệ không bán thân, là bán nghệ không bán thân thật sự, có muốn được gần hơi thơm cũng cần phải có tiểu thư nàng cam tâm tình nguyện mới được, chỉ cần tiểu thư nàng đồng ý, gả cho ngươi cũng được, tiền chuộc thân qua đêm hoàn toàn miễn bỏ, phải xem tài nghệ của ngươi đó".

Ô Tử Hư luôn miệng khen tuyệt. Bách Thuần khẳng định là thiên tài kinh doanh thanh lâu, nắm bắt được cái lẽ nữ nhân nào nam nhân càng khó lấy được thì càng quý báu, hơn nữa hưởng thụ được lạc thú lớn nhất chân tình chân ý theo đuổi quần thoa, mà vẫn có trước rồi mới có sau. Muốn mua nghệ của bọn họ, đương nhiên không rẻ rúng gì, như vậy Hồng Diệp Lâu dĩ nhiên tiền của vô đều đều, vàng bạc cứ bò lăn vào.

Thiền Dực lạnh lùng hỏi: "Hiểu rõ chưa?".

Ô Tử Hư cung thuận: "Nương tử! Ta đã hiểu!".

Đám tiểu tỳ muốn cười lại không dám cười, sợ đắc tội với Thiền Dực, khốn khổ nhẫn nhịn.

Diễm Nương sợ Thiền Dực không nuốt nổi thói lãng tử không có đường lối của hắn, vội thốt: "Liên Ảnh sắp đến rồi, ngươi đâu có biết Bàn gia vì an bài chuyện này mà cực khổ đến chừng nào. Liên Ảnh mười mấy đêm nay danh sách hẹn kín mít, Bàn gia phải thuyết phục khách nhân mới miễn cưỡng kiếm được giờ rảnh, nếu ngươi đêm nay không giao ra được thành tích tốt, Bàn gia chắc phải lấy mạng ngươi. Được rồi! Bàn để ở đâu?".

Ô Tử Hư mục quang chuyển từ Diễm Nương sang Thiền Dực đang tức giận, lại dời sang đám tiểu tỳ, nói: "Đương nhiên là đặt bàn gần hồ, để ta và mỹ nhân cùng hưởng minh nguyệt trên hồ".

Diễm Nương cười mắng: "Nói một câu đủ rồi, sao lắm lời không đâu vậy". Nói xong chỉ đám tiểu tỳ đem bàn ghế đặt ở vị trí dựa lan can trên bình đài. Sau đó hỏi: "Lang tiên sinh còn có yêu cầu gì nữa không?".

Ô Tử Hư cười đáp: "Chỉ có hai yêu cầu, yêu cầu thứ nhất là một chiếc thuyền lá, cắm thả bên thủy tạ, đến khi kiếm đủ họa tình là liền chèo thuyền về Phong Trúc Các động bút, vẽ bức mỹ nhân đồ đầu tiên".

Diễm Nương thốt: "Vậy dễ mà, sẽ làm theo ý của tiên sinh. Còn yêu cầu kia?".

Ô Tử Hư đến trước Thiền Dực mặt mày bạnh cứng, vái sát đất: "Thỉnh Thiền Dực cô nương lúc đó cùng theo ngu sinh lên thuyền, thuận đường du ngoạn cảnh hồ về nhà".

Thiền Dực giậm mạnh chân, nổi giận: "Ngươi đó! Bọn ta đi!". Nói xong dẫn đám tiểu tỳ bỏ đi.

Diễm Nương che miệng cười nói: "Thiền Dực nếu bị ngươi chọc tức chết, nô gia sẽ tìm ngươi tính sổ". Thò tay nhéo cánh tay hắn, lại cười khêu gợi với hắn.

Chợt tiếng đàn sáo từ ngoài tạ vang lên.

Diễm Nương cười nói: "Liên Ảnh đến rồi! Nô gia đi đây".

Nguyễn Tu Chân ngồi trong tiểu đình, Khâu Cửu Sư đến ngồi đối diện gã, thốt: "Đã gặp Tiền Thế Thần, gã đáp ứng lập tức cho phi cáp truyền thư, kêu người của gã ở kinh sư điều tra Lang Canh, chắc nội trong mười ngày sẽ có hồi âm".

Lại nói: "Cô Nguyệt Minh đã đến!".

Nguyễn Tu Chân ngạc nhiên: "Cô Nguyệt Minh?".

Khâu Cửu Sư thốt: "Tiền Thế Thần tận miệng nói cho ta biết gã vừa gặp Cô Nguyệt Minh, thật kỳ quái, gã đáng lẽ không nên nói với ta. Bề ngoài xem ra Tiền Thế Thần không có gì, nhưng ta lại từ ánh mắt của gã nhận ra tâm tình của gã tựa như đang bất an".

Nguyễn Tu Chân không hiểu: "Vì một Tiết Đình Hao, làm phiền tới đại thống lãnh xưởng vệ quyền khuynh triều dã xuống Nam, đã là chuyện không tầm thường rồi, bây giờ còn cho Ngự tiền liệp thủ của Hoàng thượng ra mặt, thật khó lý giải".

Khâu Cửu Sư thần sắc nghiêm trọng: "Có phải Phụng công công dùng kế minh tu sạn đạo, ám độ Trần Thương không? Mục tiêu thật sự là bọn ta? Đặc biệt là lão huynh ngươi".

Nguyễn Tu Chân gật đầu: "Đây có thể là nguyên nhân Tiền Thế Thần ngấm ngầm thông tri cho ngươi, đối với Tiền Thế Thần mà nói, nếu Giang Nam phát loạn, gã là kẻ đương đầu chịu trận. Cô Nguyệt Minh là tay săn lãnh thưởng xuất sắc nhất đương thời, cũng có thể biến thành thích khách đáng sợ, hơn nữa y luôn luôn độc lai độc vãng, ẩn hiện như quỷ thần, làm người ta có muốn phòng cũng không phòng được".

Khâu Cửu Sư cười lạnh: "Nhưng lại có một ưu điểm, giết y bảo đảm thần không hay quỷ không biết".

Nguyễn Tu Chân nói: "Trước khi bắt sống Ngũ Độn Đạo, bọn ta không nên gây rắc rối, chỉ cần đề cao cảnh giác, tăng cường phòng vệ, khiến Cô Nguyệt Minh không dám công nhiên hành thích ta".

Khâu Cửu Sư đôi mắt rừng rực sát cơ, trầm ngâm: "Ra vào phải cẩn thận một chút".

Nguyễn Tu Chân nói: "Vụ việc trọng yếu vẫn là Ngũ Độn Đạo. Ta đang nghĩ thân phận họa sư Hồng Diệp Lâu tại sao lại hấp dẫn hơn so với bán mật rắn? Bên trong tất có lý do mà bọn ta không minh bạch".

Khâu Cửu Sư gật đầu đồng ý. Trên sự thật hắn nhẫn nhịn đến mức khốn khổ vô cùng, cứ như ao hồ đầy tràn, lại không có kênh ngòi tiết ra, tức không thể xông vào Hồng Diệp Lâu, bắt sống tên tiểu tử chọc tức chết kia, áp giải đi gặp Hoàng Phủ Thiên Hùng. Hắn cười khổ: "Trừ phi hắn chịu nói cho bọn ta biết, nếu không bọn ta không thể nào tìm hiểu được".

Nguyễn Tu Chân thần sắc cổ quái: "Đương nhiên không phải là vậy, chỉ cần bọn ta nắm rõ tình huống của hắn ở Hồng Diệp Lâu, ta tin chắc qua đó có thể suy đoán ra mục đích thật sự của hắn. Có một điểm khẳng định được, là hắn không để ý tới Thiên Nữ Ngọc Kiếm, mà có mục tiêu khác, nếu không hắn sẽ tiếp tục bán mật rắn, thân phận đó càng có lợi cho hắn hoạt động trong thành, đâu có như bây giờ thu hút sự hoài nghi của bọn ta".

Khâu Cửu Sư cuối cùng đã hiểu thần tình của gã tại sao lại cổ quái như vậy, thở dài: "Ngươi muốn ta đi gặp Bách Thuần".

Nguyễn Tu Chân nhún vai: "Ngươi không phải đã tận miệng nói phải đi giải thích hiểu lầm hôm nay với nàng ta sao? Còn có chuyện hào sảng ước hẹn uống rượu phạt nữa mà? Hai chuyện gộp lại giải quyết, ngươi được tiện lợi quá rồi".

Khâu Cửu Sư buồn bã thốt: "Thần là ngươi, quỷ cũng là ngươi. Đi gặp Bách Thuần không phải đại biểu bọn ta đã khuất phục sao?".

Nguyễn Tu Chân đáp: "Ta thật hy vọng có chọn lựa khác, còn hơn là bọn ta ngồi thừ như vầy mười ngày, chực chờ tin vui của Tiền Thế Thần. Đi đi! Có lẽ đây là số phận, bất kể tương lai tình hình phát triển ra sao, ta sẽ không trách ngươi đâu. Phá không được mắt xích muốn ngươi dây dưa với Bách Thuần, bọn ta có thể phá mắt xích khác, chỉ cần bắt được tiểu tử đó là xong, thắng lợi vẫn thuộc về bọn ta".

Khâu Cửu Sư bần thần một hồi mới hạ giọng: "Thật đáng chết, ta bỗng cảm thấy sinh cơ bừng bừng, ngươi bây giờ muốn cản ta cũng không được. Cho nên có thể thấy cõi U minh quả là muốn ta đi gặp Bách Thuần. Ông trời cứu mạng với!".

Bách Thuần dời gót ngọc, đến bên Tiền Thế Thần, châm rượu cho gã, sau đó ngồi đối diện gã, tự rót cho mình, ngạc nhiên hỏi: "Đại gia đêm nay sao tâm sự trùng trùng vậy? Có chuyện gì khó giải quyết à?".

Tiền Thế Thần nhìn dung nhan kiều diễm của nàng, thầm thở dài một hơi. Thư Hương Tạ vẫn là tòa thủy tạ ngày nào, Quải Biều Trì mê hồn như xưa, nhưng so với lần trước, tâm tình của gã thật khác biệt một trời một vực, nguy cơ sắp ập vào mình, còn có thể là đại họa lâm đầu. Cô Nguyệt Minh lợi hại đến mức làm người ta sợ sệt, đã đánh hồi chuông cảnh báo gã. Qua Mặc muốn giết y là quyết định chính xác, chỉ tiếc không có cách nào làm thịt được y. Lúc thống khổ đang muốn tìm người thương lượng, nhân tuyển duy nhất là Qua Mặc lại đi chưa về, lo sợ chập chờn, nghĩ chỉ có Bách Thuần có thể làm cho gã tạm thời quên đi mọi sự, liền như cô hồn vô chủ mò đến Hồng Diệp Lâu. Gã lắc đầu đáp: "Ta không có gì, chỉ vì việc quan bận bịu, đêm nay uống hai chén là phải đi".

Bách Thuần nũng nịu: "Nô gia còn muốn nghe cố sự mà! Tiền đại nhân sao có thể kể có một nửa rồi ngưng luôn chứ".

Tiền Thế Thần sao còn tâm tình để kể cố sự, hối hận lần trước đã nói chuyện không nên nói ra, thừa cơ nhắc nhở nàng: "Nhớ là cố sự ta kể tuyệt không thể nói cho ai khác biết đó". Để đánh lảng sức chú ý của nàng, lại nói: "Họa sư mới đến có phải rất khả nghi không?".

Bách Thuần lộ nụ cười mê hồn, bộ dạng như đang suy tư nghĩ đến gì đó, đôi môi mọng khẽ hé: "Thì ra đại nhân vì chuyện Ngũ Độn Đạo mà phiền lòng. Có phải Khâu Cửu Sư đã nói chuyện có liên quan đến họa sư cho đại nhân nghe không?".

Tiền Thế Thần thầm nghĩ phiền não của mình còn chưa đủ sao? Có hứng thú gì mà để ý tới Ngũ Độn Đạo. Bất quá có Bách Thuần bầu bạn, tâm tình quả là đỡ hơn nhiều, nói gì cũng được, chỉ cần nàng không hỏi truy về cố sự là được, đáp: "Họa sư kia là người ra sao?".

Ánh mắt của Bách Thuần như cười cợt, sau đó chậm rãi dùng ngón tay thon thả mân mê tóc mai, nhún nhún bờ vai, như sâu kín từ trong nội tâm trào dâng tâm tình không có cách nào đè nén, dịu giọng đáp: "Hắn là hỗn hợp thể của một sắc quỷ, một tên điên, một lãng tử và một thiên tài, nô gia chưa từng gặp qua người nào vừa làm cho người ta mất kiên nhẫn, vừa gây cho người ta khinh ghét, đồng thời lại không có cách nào không tán thưởng như hắn. Nếu hắn thật là Ngũ Độn Đạo, vậy sẽ trở thành một kết hợp hoàn mỹ không có khiếm khuyết".

Tiền Thế Thần chưa từng thấy thần tình đó của Bách Thuần, gã thấp thoáng cảm thấy được ngoài Khâu Cửu Sư ra, lại có thêm một kình địch trên tình trường.

Tiếng nhạc biến thành véo von hẳn, khúc điệu khảy thổi nhẹ nhàng nhanh rõ, dẫn dắt Ô Tử Hư múa máy tay chân, nhảy theo điệu nhạc. Hắn trời sinh đức tính đó, thanh lâu có thể làm cho hắn biến thành một người không có sức tự áp chế, mà đây là lần đầu tiên hắn thử đem kết hợp công vụ và hưởng thụ lại thành một, thêm vào Hồng Diệp Lâu bất kể là phong cách, khí phách, hay lạc thú cung dâng đều là thứ hắn chưa từng nếm trải, sức thôi thúc đối với hắn có thể tưởng tượng được. Vào giờ phút này, hắn đã triệt để quên đi tại sao phải ở đây, chỉ biết thời khắc hưởng thụ cuộc sống lại đã đến.

Thủ đoạn dụ khách của Hồng Diệp Lâu thật độc đáo.

Lầu thủy tạ chia làm hai tầng, tầng dưới là phòng chứa đồ và nhà bếp, toàn là bài trí cho khách nhân của thủy tạ hưởng dụng, lầu hai chia làm hai sảnh trước sau, dùng rèm phủ phân cách, tỳ bộc hầu cận chờ lệnh ở tiền sảnh, đội nhạc diễn tấu cũng tấu nhạc ở đó. Hậu sảnh liền với bình đài, là nơi Ô Tử Hư đang ở, chuyên dùng để tiếp đãi quý khách có dư tiền tiêu xài. An bài như vậy, bỏ thêm chút tiền cũng cảm thấy đáng giá.

Hai tiểu a đầu trái phải vén rèm, xuất hiện một cô nương trẻ tuổi thể thái động hồn, thân ngà dáng ngọc, nàng không phải là hạng đàn bà trang điểm son phấn dày cộm mà Ô Tử Hư quen thấy, chỉ phớt một lớp phấn mỏng, đạm nhã đến mức lại vừa khớp với ưu điểm, tỏ rõ khí chất thanh tú của nàng. Vòng ngọc trên trán cho nàng chút vẻ ngây thơ, thanh xuân mà lại xuất chúng, tuy không bì được với Bách Thuần, nhưng đã là hạng thượng phẩm mà hắn chưa từng gặp ở thanh lâu. Nàng căn bản không giống danh kỹ thanh lâu, mà là khuê tú cao môn.

Ô Tử Hư đầu não lùng bùng, linh hồn bay bổng giữa trời. Váy xiêm tơ lụa nàng mặc cắt may vừa sát lòa xòa chấm đất, nền lam hoa trắng, phối xứng với thắt lưng tơ, kiêu kỳ triển lộ đường nét động hồn, thể thái thon nhỏ của nàng, càng làm nổi bật gương mặt xinh xắn. Hai hạt minh châu đeo bên tai đong đong đưa đưa, yêu kiều phong lưu khôn tả.

Tư thế duyên dáng của nàng đã có huấn luyện, muôn ngàn dáng dấp đi qua rèm che, đến khi màn thả xuống sau lưng nàng, Ô Tử Hư không khỏi nín thở, tròn mắt nhìn cô gái tựa như tiên tử từ tiên giới xung phá cách ngăn tiên phàm giáng lâm trần thế.

Liên Ảnh cười tươi đi thẳng tới trước mặt hắn, yêu kiều nhún mình thốt: "Nô gia Liên Ảnh, xin Lang tiên sinh chỉ giáo".

Ô Tử Hư tỉnh lại chút ít, thở dài thườn thượt: "Bọn ta hiện giờ nỗ lực vì một mục tiêu chung, cứ đem thần vận mê hồn nhất của mỹ nhân nhi nàng biểu hiện ra, để bọn ta quên đi quá khứ, quên hết tương lai, giữ lại một khoảnh khắc tươi đẹp. Nhân sinh đắc ý tu tận hoan, mạc sử kim tôn không đối nguyệt . Chỉ có buông thả cõi lòng, mới có thể hưởng thụ được ý nghĩa thật sự của cuộc sống".

Liên Ảnh hoan hỉ thốt: "Tiên sinh nói thật động hồn, tám người bọn tôi ai mà không muốn họa một tấm chân dung mỹ lệ nhất. Tiên sinh dạy Liên Ảnh phải làm sao đi".

Ô Tử Hư mỉm cười: "Rất đơn giản, mỹ nhân nhi nàng cần thi dụng hết tài nghệ với ta, triển lộ thủ đoạn có thể mê chết nam nhân nhất, ta bảo đảm sau khi nhìn thấy thứ ta vẽ ra, mỹ nhân nhi nàng vĩnh viễn sẽ không hối hận".

Liên Ảnh chợt vỗ tay ba cái.

Ô Tử Hư ngây người: "Mỹ nhân nhi nàng làm gì vậy?".

Liên Ảnh khẽ nhún vai thơm, tỉnh bơ như không có gì: "Nô gia kêu người đem đàn tranh vào, đó chính là thủ đoạn có thể làm mê chết nam nhân nhất của nô gia".

Ô Tử Hư không có lời nào để đáp trả.

Hồi 20: Tranh Âm Ảo Cảnh

Cô Nguyệt Minh ngồi ở một góc sảnh đường, thò tay vào túi da lấy cổ kiếm ra, thủ chắc trong tay.

Tiểu trạch viện Quân Sơn Uyển mà Tiền Thế Thần an bài cho y vào ở hoàn toàn hợp với yêu cầu của y, bên cạnh một dòng sông nhỏ phía đông nam thành, hậu viện có dựng một bến tàu nhỏ, cách xa phòng ốc khác, dân cư gần nhất cách một cánh rừng. Cho dù trong nhà có xảy ra quyết đấu kịch liệt, sợ rằng vẫn không có cách nào kinh động đến ai khác. Đối với Tiền Thế Thần hay đối với y mà nói, đều là hoàn cảnh lý tưởng.

Khôi Tiễn giao cho Tiền Thế Thần quản lý, an trí nó ở tàu ngựa trong phủ, ngày nào Tiền Thế Thần chưa làm thịt được mình, Tiền Thế Thần đâu có gan động tới một nửa cọng lông của Khôi Tiễn. Y thật không muốn chia cách với Khôi Tiễn, lại sợ có người lợi dụng lúc y không có mặt mà làm hại Khôi Tiễn để tiết hận. Trong hoàn cảnh thành thị, đơn độc một mình hành động tiện lợi hơn nhiều. Sáng sớm ngày mai y sẽ dẫn Khôi Tiễn phi ra ngoài thành, để giữ mình ở trạng thái tốt nhất. Y có một cảm giác quái lạ là Sở hạp vẫn còn trong Vân Mộng Trạch.

Cảm giác kỳ dị từ cổ kiếm lan dần lên bàn tay thủ kiếm của y, sau đó tim y đập thình thịch kịch liệt.

Cô Nguyệt Minh thầm la tà môn, lẽ nào thanh kiếm này thật có lực lượng linh dị?

Nghĩ nhiều vô ích, Cô Nguyệt Minh cất kiếm vào túi da, vốn muốn thuận tay đặt trên cái kỷ bên cạnh mình, lại nảy sinh tâm tình không muốn buông rời, cuối cùng giắt bên hông.

Đã đến lúc đi gặp Bách Thuần.

Khâu Cửu Sư được mời vào Quý Tân Sảnh, một hồi sau Chu Bàn Tử đến, Khâu Cửu Sư đứng dậy thi lễ, xin lỗi với lão chuyện "hiểu lầm" xảy ra sáng nay.

Chu Bàn Tử khách khí mời hắn ngồi, tự mình ngồi một bên, thân thiết thốt: "Con gái ngoan của tôi có dặn nếu Khâu gia đến thì quan trọng nhất là lưu giữ Khâu gia, nó sẽ tìm cách mau mắn đến gặp Khâu gia".

Khâu Cửu Sư thầm nghĩ đây tức là nói Bách Thuần đang tiếp khách, tạm thời không có cách phân thân, bất quá Chu Bàn Tử quả là có tay nghề, dùng phương thức khôn khéo buông lời khiến hắn khó nói đi là đi. Hắn mỉm cười nói: "Ta đợi được mà, xin Chu lão bản đừng gọi ta là Khâu gia nữa, kêu ta là Cửu Sư được rồi".

Chu Bàn Tử lập tức quấn chặt như rắn quấn cành cây, đằm thắm giao tình: "Cửu Sư đã coi Chu Bàn Tử tôi là người mình, tôi cũng không giấu gì ngài. Người Bách Thuần đang gặp hiện giờ là Tiền Thế Thần. An tâm đi! Lão Tiền nói với tôi chỉ ngồi một chút là đi. Mấy người làm quan bề ngoài thì phong quang vô cùng, trên sự thật cả ngày bận bịu lo âu, cứ nhìn lão Tiền là biết liền. Từ sau khi Quý Nhiếp Đề đến nơi, tôi chưa từng thấy gã mặt mày vui cười thật sự".

Khâu Cửu Sư bắt đầu cảm thấy Chu Bàn Tử tuyệt đối là một nhân vật có bản lãnh, mỗi một câu nói ra đều như phát tự đáy lòng, chân thành đầy ắp, người như vậy hắn vẫn là lần đầu gặp được, điềm đạm như không thốt: "Nói như vậy, gã đang theo đuổi Bách Thuần, nếu không làm sao còn có tâm tình đến Hồng Diệp Lâu?".

Chu Bàn Tử mặt không đổi sắc: "Năng lực phán đoán của Cửu Sư thật kỳ diệu, sự thật quả là vậy. Tôi chưa từng thấy lão Tiền thật sự động lòng với đàn bà, chuyến này là lần phá lệ đầu tiên. Bất quá Cửu Sư đừng lo, tôi biết lòng đứa con gái ngoan của tôi hướng về ngài. Hì! Rất mau chóng Cửu Sư sẽ hiểu hàm ý sâu xa trong câu nói của tôi".

Khâu Cửu Sư cười khà khà: "Chu lão bản quá bận tâm, Khâu mỗ chỉ là đến tạ tội với Bách Thuần cô nương, nói vài câu rồi đi, Bách Thuần cô nương sẽ hiểu ta mà".

Chu Bàn Tử mỉm cười đầy thâm ý: "Tôi khẳng định Bách Thuần hiểu Cửu Sư hơn xa Cửu Sư hiểu nó, nó sao lại không minh bạch ngài được chứ".

Khâu Cửu Sư cuối cùng phát giác Chu Bàn Tử không những thủ đoạn tròn trặn, hơn nữa văn từ lợi hại, lại tuyệt không làm tổn thương người ta. Phối hợp với thân phận thanh lâu đại lão bản của lão, dưới cờ lại có danh kỹ siêu cấp như Bách Thuần, đã tạo thành mỵ lực của Chu Bàn Tử. Cái làm người ta tán thưởng nhất là nói chuyện với lão không những không chán ngán, mà còn thú vị thu hút. Chu Bàn Tử quả là người hầu khách lý thú.

Khâu Cửu Sư vui vẻ hỏi: "Chu lão bản có phải đảo một vòng để đề nghị gì với ta không?".

Chu Bàn Tử đáp: "Quả là như vậy. Bách Thuần luôn đang tìm kiếm như ý lang quân trong tâm tưởng của nó, mãi cho đến ngày nay vẫn chưa tìm được. Từ khi Tiền Thế Thần hay đến tìm nó, người khác đều sợ đắc tội với Tiền Thế Thần, không dám đến gặp Bách Thuần. Thẳng thắn mà nói, tôi đối với sự xuất hiện của Cửu Sư thật rất cao hứng trong lòng, bởi ở Giang Nam chỉ có các người mới không sợ Tiền Thế Thần. Cửu Sư! Tôi đứng về phía ngài".

Khâu Cửu Sư thở dài: "Chu lão bản yên tâm, chỉ nể mặt Bách Thuần cô nương là bọn ta đã coi Chu lão bản là người mình. Bất quá Chu lão bản quả đã hiểu lầm rồi, ta đâu phải là nhân tuyển trong lòng Bách Thuần cô nương, mà ta cũng không phải vì mục đích khác mà đến, thuần túy là để chịu tội".

Chu Bàn Tử mỉm cười: "Mỗi lần ta hỏi con gái ngoan chuyện liên quan đến Cửu Sư, nó đều dùng một câu 'Đây là chuyện giữa con và Cửu Sư' để đáp trả. Lúc nó nói đến tên ngài, đôi mắt to tròn sáng hẳn lên. Cửu Sư! Tôi có quá nhiều kinh nghiệm về mặt này, lương cơ đừng để mất đó! Nếu không ngài sẽ vĩnh viễn hối hận".

Khâu Cửu Sư thầm kêu cứu mạng, hắn trước khi đến đã từng hạ quyết tâm chỉ động não, không động tình, nhưng đến khi Chu Bàn Tử thử thuyết phục hắn, khi hắn biết rất có khả năng là như ý lang quân trong lòng Bách Thuần, huyết dịch trong người hắn rõ ràng đã ngùn ngụt xáo động, sản sinh nỗi hưng phấn chưa từng có, đã là không muốn nghe mà lại thích nghe. Hắn càng rõ câu cuối cùng của Chu Bàn Tử là lời dự đoán chính xác, có lẽ dùng "hối hận" để hình dung không mấy ăn khớp. Hắn chưa từng hối hận với quyết định đã đề ra, nhưng hắn nhất định sẽ thống khổ, hụt hẫng vì đánh mất Bách Thuần.

Lúc này Diễm Nương đưa hắn đến Quý Tân Sảnh đã đến, thần tình hưng phấn nói: "Tiền đại nhân vừa đi, bọn tôi đã thông tri cho Bách Thuần biết, Bách Thuần kêu bọn tôi lập tức thỉnh Khâu công tử đi gặp nàng".

Cô Nguyệt Minh đi đều đều không nhanh không chậm trên đường, nảy sinh cảm giác có người đang theo dõi mình.

Người theo dõi y chắc không phải là Qua Mặc, bởi đây là hành động không cần thiết, muốn giết y, nên chọn Quân Sơn Uyển Tiền Thế Thần đã an bài cho y, đâu phải là đường hẻm Lạc Dương. Bất kể Tiền Thế Thần can đảm ngút ngàn tới cỡ nào, coi thường triều đình, gã cũng không dám phái đám đông đến bao vây tấn công y, nói cho cùng mình là đặc sứ đại biểu cho Phụng công công, một khi để mình nắm được đuôi hồ ly của gã, Tiền Thế Thần khẳng định chạy trối chết không kịp ăn uống. Thứ nữa là đại tội khi quân phản quốc tranh đoạt Sở hạp, có thể tru di cửu tộc, chuyện như vậy càng có ít người biết càng ổn thỏa, cho nên rất có thể chỉ là chuyện hạn chế giữa Tiền Thế Thần và Qua Mặc hai người.

Tiền Thế Thần tại sao lại phải mạo hiểm? Cái gã biết chắc ít hơn những gì Phu Mãnh biết, ai lại vì chuyện không biết tận tường mà cam lòng mạo hiểm đại họa hủy gia diệt tộc? Thật phải nói rằng gã so với Phu Mãnh lại càng không nên để ý tới Sở hạp.

Trừ phi Tiền Thế Thần biết rõ trong Sở hạp có cất giấu vật gì. Nhưng có vật gì có thể làm cho tay cự phú hàng đầu Giang Nam châu báu chất đầy nhà phải động lòng? Đây là chuyện khiến cho người ta nghĩ nát óc cũng không hiểu nổi.

Nhưng giả như Tiền Thế Thần thật sự biết vật báu giấu trong Sở hạp, Phu Mãnh lại khơi khơi không thể không tìm gã giúp tầm bảo, toàn sự kiện liền mang ý vị số phận một cách nồng đậm, tất cả đều như có ông trời sau lưng ngấm ngầm lôi kéo an bài.

Cô Nguyệt Minh sinh ra cảm giác không lạnh mà run.

Hồng Diệp Lâu lọt vào tầm mắt. Cô Nguyệt Minh trấn định tâm thần, nhắm ngoại viện đèn đuốc huy hoàng đi tới.

Bách Thuần mặt tươi như hoa nghênh đón Khâu Cửu Sư vào Thư Hương Tạ, đến ngồi xuống chỗ bàn tròn, tự có tỳ tử rót rượu cho hắn, sau khi tỳ tử lui ra ngoại sảnh, Bách Thuần dịu giọng: "Khâu công tử đói bụng chứ? Để nô gia kêu người làm vài món ăn địa phương được chứ?".

Khâu Cửu Sư ngửi thấy làn hơi khỏe khoắn mê hồn của nàng, thêm vào hoàn cảnh ưu mỹ, chưa uống rượu đã có cảm giác ngất ngây. Hắn tuy không thích vật trong chén, nhưng uống lại có khá có tửu lượng, đó là nhờ dưỡng luyện ra, chén tạc chén thù giao tình với nhân vật bang hội khác, không uống là bất kính, uống rượu đã thành một lễ nghi phải có. Vấn đề ở chỗ hắn lại có phản ứng bén nhạy với rượu, một chén vào bụng là ngà ngà liền, cho nên Nguyễn Tu Chân mới cảnh cáo hắn không thể uống. Một chén trước mắt nếu có thể giữ đến cuối mới uống, uống xong đi liền thì lý tưởng nhất.

Liền thốt: "Ta mới ăn no bụng cách đây không lâu".

Bách Thuần mỉm cười: "Vậy bọn ta uống rượu không nhé?".

Khâu Cửu Sư đã thấy "may mắn" Bách Thuần ngồi ở chỗ xa nhất, cách hắn cả một mặt bàn tròn, lại ngấm ngầm kêu khổ, uống rượu không thì xong đời rồi.

Bách Thuần nhấc chén, vui vẻ thốt: "Để Bách Thuần trước hết kính công tử một chén, chén này là phạt nô gia đã trách lầm công tử là người vô tình".

Khâu Cửu Sư thất kinh, lòng nghĩ lần này thật không thể ngoan ngoãn, cứ như vầy, không biết còn phải uống bao nhiêu chén. Bách Thuần lúc này kiều diễm ngời ngời, bất kể nhướng mày hay hé cười, nhấc tay hay bước chân đều tung toé mỵ lực. Sự mỹ lệ của nàng thật vượt quá mức bình thường, có thứ khí chất cám dỗ thu hút cất kín trong xương cốt, dụ hoặc đến cực điểm. Nhưng càng hấp dẫn hơn là ngoài sự thông minh lanh lợi của nàng, lại ẩn hàm sự lão luyện thâm trầm của giang hồ nhi nữ, lỗi lạc ngang nhiên, trong phóng đãng không mất sự kềm chế, hợp lại hình thành mỵ lực làm cho người ta khó mà kháng cự của nàng.

Khâu Cửu Sư không còn đường nào khác, chỉ còn nước ngửa bài, cười khổ: "Cô nương tha cho, tại hạ còn có chuyện phải đi làm, chỉ có thể uống với cô nương một chén".

Bách Thuần đôi mắt đẹp chớp chớp nhìn hắn, không nói gì, lại càng có thể hằn sâu trong lòng hắn hơn bất kỳ một ngôn ngữ nào, tạo ra không khí thần diệu mê hồn.

Khâu Cửu Sư cuối cùng đầu hàng, nhấc chén: "Khâu Cửu Sư kính cô nương một chén, trước đây có đắc tội gì, xin cô nương thứ tha".

Bách Thuần nỉ non: "Phải cạn chén mới có thể hiển hiện thành ý của chàng mà! Bọn ta cạn chén".

Tiếp đó đưa chén qua, Khâu Cửu Sư liền nghênh đón.

"Cạch" một tiếng, hai chén cụng nhẹ, hai người cạn chén.

Khâu Cửu Sư đặt chén xuống, liền có cảm giác khoan thai. Nghĩ đến đại trượng phu sừng sững trên đời, có gì không thể phóng tay mà làm. Mình đã không sợ tranh đấu ở chiến trường, sao lại có thể rụt đầu rụt đuôi trước mặt kiều nữ tuyệt thế như vầy. Đối thủ vô hình gì gì, địch nhân ẩn hình gì gì, cứ để hắn lo hết. Ý tưởng đó mấy ngày nay cứ lần quần trong đầu hắn, lúc này mượn chút hơi men, can đảm lôi ra khỏi đáy lòng tự nhủ với mình.

Bách Thuần nhắm đôi mắt đẹp, hít sâu mấy hơi, tiếp đó mở mắt thở nhẹ: "Đừng cô nương trước cô nương sau được không? Cứ kêu nô gia là Bách Thuần được rồi, cái tên đó dễ nghe mà. Là tự tôi đổi đó. Trên người công tử có đồ hình treo giải thưởng bắt Ngũ Độn Đạo không? Có thể cho nô gia xem không?".

Nghe nói đến ba chữ Ngũ Độn Đạo, Khâu Cửu Sư ít ra cũng có phân nửa men say không cánh mà bay, liền rút trong tay áo ngoại bào ra một họa quyển, hai tay dâng trao cho Bách Thuần.

Bách Thuần thấy hắn dâng hai tay, còn háy hắn một cái hờn dỗi, như trách hắn đừng có kính cẩn quá vậy, giơ bàn tay thon thả nõn nà trắng muốt như tuyết cầm lấy, trải ra xem, tiếp đó cười "hắc" một tiếng, mặt mày tươi như hoa nhìn hắn, nhịn không được cười: "Họa công thật tệ".

Khâu Cửu Sư bẽn lẽn: "Bọn ta đã mời họa sư giỏi nhất đến vẽ tranh, có thể là vì họa si y theo lời miêu tả của người mục kích mà vẽ, cho nên không có cách nào truyền thần, nhưng ít ra chắc cũng sáu bảy phần giống người thật".

Bách Thuần căm ghét: "Họa sĩ vẽ chân dung ở Giang Nam có bao nhiêu người có tài đâu, nô gia còn rõ hơn công tử nữa. Nếu đổi người vẽ là Lang Canh mà các người hoài nghi, bất kể hắn biến thành tiểu tử bán mật rắn hay là Họa Tiên diệu bút thiên thành, bảo đảm có thể bắt người qua đồ hình, tuyệt đâu có đến phiên Ngũ Độn Đạo chối cãi".

Khâu Cửu Sư nói không nên lời.

Bách Thuần tuyệt không phải là người phục tùng nghe lời người ta, mà có lối nhìn và kiến giải riêng của mình, nói ra một cách can đảm trực tiếp, càng không khách khí càng làm cho người ta sảng khoái.

Bách Thuần trả đồ quyển lại cho hắn, đợi hắn nhét lại vào tay áo xong, dịu dàng thốt: "Nô gia có một thỉnh cầu, mong công tử rủ lòng ưng thuận".

Khâu Cửu Sư ngạc nhiên: "Bách Thuần nói đi! Chỉ cần Khâu Cửu Sư ta làm được, sẽ không để Bách Thuần thất vọng đâu".

Bách Thuần đôi mắt bắn ra thần sắc kỳ vọng, nghiêm mặt thốt: "Bất kể Lang công tử có phải là Ngũ Độn Đạo hay không, xin công tử hạn cho tám ngày, đợi hắn hoàn thành tám bức họa mỹ nhân cho lễ hội ăn mừng thập chu niên của bọn ta xong rồi hãy tìm hắn giải quyết vấn đề của các người".

Khâu Cửu Sư cảm thấy thất vọng, còn nghĩ nàng muốn mình rảnh rỗi đến chuyện vãn giải sầu với nàng, nào hay lại là vì chuyện này, bất quá hắn tính tình khoát đạt, trong một sát na quăng bỏ hết tâm tình buồn chán, thản nhiên thốt: "Bách Thuần quá coi trọng bọn ta rồi, đối với Lang Canh bọn ta căn bản đâu có bằng cớ nào để hạ thủ. Yêu cầu của Bách Thuần là hợp tình hợp lý, Khâu Cửu Sư ta can đảm tác chủ, tất cả cứ y theo lời phân phó của Bách Thuần mà xử lý chuyện này".

Bách Thuần hoan hỉ dâng cho hắn một ánh mắt thân thiện, ánh mắt như có thể nói "chàng được lắm", sau đó thốt: "Công tử kính tôi một thước, Bách Thuần kính chàng một trượng, không ép công tử uống rượu nữa. Uống mà không tình nguyện thì đâu còn ý nghĩa gì! Công tử có phải muốn đi làm chuyện trọng yếu khác không? Hay là chịu ở lại cùng thưởng thức minh nguyệt trên Quải Biều Trì với Bách Thuần?".

Khâu Cửu Sư cuối cùng phát giác một mặt khác của Bách Thuần, là không những thích khiêu chiến người khác, còn muốn khiêu chiến chính mình, mà hắn bị ép tiến vào góc chết, không còn cách nào xuề xòa cho qua.

Khâu Cửu Sư xoè tay tiêu sái thốt: "Bách Thuần nặng lời rồi, ta có nỗi khổ bên trong".

Bách Thuần kinh ngạc: "Thứ chuyện này cũng có thể có nỗi khổ bên trong sao? Công tử có phải đã có ý trung nhân khác?".

Khâu Cửu Sư biết chỉ cần đáp một tiếng "phải", mối quan hệ dây dưa mờ mịt giữa hắn với nàng đại khái có thể liễu kết, xong xuôi thật may mắn, khơi khơi một chữ bé nhỏ như vậy làm sao cũng không nhả ra khỏi miệng, lắc đầu: "Không phải vậy".

Bách Thuần vui vẻ hỏi: "Vậy thì nỗi khổ bên trong gì nữa?".

Khâu Cửu Sư há miệng, lại nói không ra tới nửa lời. Mà cho dù hắn chịu dốc hết tâm tình, vẫn cảm thấy thiên ngôn vạn ngữ không biết nói từ đâu, còn sợ sau khi nói ra Bách Thuần sẽ coi hắn là người điên.

Bách Thuần không để ý lắm: "Vậy là nỗi khổ không nói được. Thật lý thú, nô gia càng muốn nghe đó! Bất kể nỗi khổ công tử nói ra có hoang đường vô căn cứ tới cỡ nào, Bách Thuần cũng muốn biết rõ rõ ràng ràng. Nói đi! Cứ nói kiểu nam tử hán đại trượng phu".

Lúc Khâu Cửu Sư cảm thấy không chống đỡ nổi, một tiểu tỳ vén màn vào, đi thẳng đến cạnh Bách Thuần, trước hết thi lễ tạ tội với Khâu Cửu Sư, ghé tai Bách Thuần thủ thỉ một câu.

Bách Thuần điềm đạm thốt: "Mời y đến Tình Trúc Các chờ ta".

Sau khi tiểu tỳ bỏ đi, Bách Thuần quay sang Khâu Cửu Sư mỉm cười: "Đừng nghĩ nô gia đã quên đó, nói đi!".

Khâu Cửu Sư được chút không gian hít thở, định thần trở lại: "Có phải có quý khách đến thăm không? Ài! Bách Thuần có thể cho ta một chút thời gian không?".

Bách Thuần hờn mát: "Muốn chạy sao? Đi đi! Đi đi! Không giữ chàng đâu. Lòng chàng vốn đâu có ở đây".

Khâu Cửu Sư đầu hàng: "Hoàn toàn không phải như Bách Thuần nghĩ. Ài! Bất quá thật có chuyện đang chờ ta đi làm".

Bách Thuần cười "hắc" một tiếng yêu kiều, lộ thần thái nghịch ngợm đáng yêu, giơ tay bụm miệng nhịn cười: "Có biết không? Mỗi lần công tử không còn lý lẽ lời qua tiếng lại, luôn 'ài' một tiếng để che giấu thái độ quẫn bách, thật rất dễ thương, chàng nếu thừa cơ lẻn đi như vầy, nô gia đương nhiên là buồn chàng, trừ phi...".

Khâu Cửu Sư như được hoàng ân đại xá, truy hỏi: "Trừ phi cái gì?".

Bách Thuần chu chu miệng nhỏ, dịu giọng: "Trừ phi chính Ngọ ngày mai công tử bày bữa tiệc trưa ở nhã tọa bình đài của Ban Trúc Lâu khoản đãi Bách Thuần, tôi có lẽ chịu bỏ qua. Bất quá chàng phải chuẩn bị sẵn trong lòng, đến lúc đó mà chàng vẫn ấp ấp úng úng, bộ dạng khù khờ, Bách Thuần tôi tuyệt không tha cho chàng đâu".

Khâu Cửu Sư cười khổ: "Tất cả y theo chỉ thị của Bách Thuần, ngày mai ta sẽ ở Ban Trúc Lâu cung hầu đại giá của Bách Thuần".

Gió từ mặt hồ dịu dàng phất qua, dờn dợn sóng nước lăn tăn, mang đến hơi hướm thanh tân thơm tho của nước hồ.

Tiếng đàn tranh từ tiền sảnh truyền lại.

Hai chén rượu vào bụng, Ô Tử Hư bắt đầu hiểu tại sao Liên Ảnh nói thủ đoạn có thể làm người ta mê nhất của nàng dồn hết trên cây đàn tranh.

Khúc điệu nàng tấu tươi sáng rõ rệt, mang theo cảm giác lãng đãng không chút e dè, cứ như một cô bé đồng quê, không thể diễn tấu thẳng thẳng thớm thớm, mà đem khúc đàn tranh cắt xẻ, hội ảnh hội thanh, biến thành lời tuyên ngôn bộc bạch của cá nhân nàng. Thấu qua xúc giác linh mẫn đối với âm nhạc và kỹ xảo cao siêu, luôn có thể đan dệt thành một bản nhạc động hồn thần bí, giống như một cao thủ diễn xiếc đi dây trên cao, cho dù nhào lộn nhún nhảy làm sao, cuối cùng vẫn vững chãi hạ mình trên dây.

Càng mê hồn người là nàng tạo ra hai thứ âm thanh tiếng đàn khác biệt về tư thái lẫn tính cách, phân chia rõ ràng, cứ như có hai người dùng khúc đàn để đối thoại, lại tựa như hai cao thủ tầm cỡ đang quyết đấu, ngươi qua ta lại, tràn đầy sức căng thẳng, làm cho người ta càng nghe càng thống khoái hết sức.

Ô Tử Hư mê mẩn trong dị vực của tiếng đàn tranh, tâm linh hòa mình vào bóng đêm mênh mông, đột nhiên tòa thủy tạ, Quải Biều Trì và trăng sao trên trời hoàn toàn biến mất, chỉ còn lại cô độc một mình hắn.

Vào giờ phút đó, hắn phát giác mình đang ở một địa phương kỳ dị, có vẻ giống như đang ở trên thành lâu cao nhất của một tòa thành trì, cúi nhìn tường thành tầng tầng lớp lớp xây dựa vách núi, ngoài tường thành là thảo nguyên gò đồi bát ngát vô biên, xa xa vắt ngang một dòng sông.

Tiếng đàn tranh đã tan biến.

Ô Tử Hư nhìn lên, vầng trăng treo cao giữa bầu trời đêm hun hút bao la.

Chuyện gì đây?

Ô Tử Hư chấn động tâm thần, sực tỉnh lại.

Mọi thứ vẫn như cũ, hắn vẫn đang ngồi trên bình đài của tòa thủy tạ.

Lúc này tiếng đàn tranh lại biến chuyển, từ nhanh nhẹ biến thành trầm uất, Liên Ảnh như dốc tỏ nỗi u uất và niềm thương cảm bồi hồi tận đáy lòng cho hắn nghe.

Nhất thời Ô Tử Hư lại nảy sinh thứ mộng cảnh không biết là đất trời nào đó, thế giới đó là cảm giác kỳ dị của hiện thực.

Bách Thuần đi trên con đường rải đá vụn về phòng, dọc theo Quải Biều Trì xuyên rừng qua cầu, bản thân con đường cũng là một thứ lạc thú.

Tiểu tỳ kề cận nàng là Tiểu Bảo giơ lồng đèn đi trước dẫn đường, chiếu sáng đường về.

Cuộc sống chưa bao giờ bừng cháy như vầy, nhân vật kỳ dị hết người này tới người nọ kế tục nhau ra mặt, làm cho nàng cảm thấy được sự kích thích chưa từng có trước đây.

Khâu Cửu Sư thật ra có nỗi khổ gì khó nói, khiến cho hắn phải kiệt lực trốn tránh nàng?

Lang Canh có phải là hóa thân của Ngũ Độn Đạo không? Nếu thật là vậy, Ngũ Độn Đạo này tất là đại đạo đa tài đa nghệ nhất trong lịch sử xưa nay.

Tiền Thế Thần đó giờ có vẻ chán ngán đột nhiên biến thành lý thú hẳn, còn biết kể cố sự tràn trề sắc thái thần thoại, vừa xa vời lại vừa ai oán triền miên, hơn nữa chỉ kể một nửa.

Còn có Cô Nguyệt Minh.

Y thật ra là người ra sao? Bằng vào cái gì có thể trở thành vô tình kiếm thủ ai ai cũng sợ sệt?

Nghĩ đến đó, Bách Thuần tiến vào cửa viện, một tiểu tỳ nghênh đón: "Cô công tử đang trong sảnh".

Bách Thuần phân phó: "Ngươi có thể đi rồi". Lại nói với Tiểu Bảo: "Tiểu Bảo ở lại bên ngoài, ta có chuyện nói với y".

Tiểu Bảo gật đầu nghe lệnh.

Bách Thuần có vẻ vội vàng đi về phía tiểu lâu, lúc bước lên cầu thang, thầm nghĩ Cô Nguyệt Minh đang làm gì đây? Có lẽ lẳng lặng ngồi ở một góc, nhắm mắt dưỡng thần, hay dựa lan can thưởng thức mỹ cảnh vườn tược, hoặc đang thận trọng chực chờ, có thể ứng phó bất kỳ sự tập kích đột ngột nào. Vốn chỉ ba chữ Cô Nguyệt Minh đã đủ làm cho người ta sinh lòng trông đợi.

Đã tới cuối thang lầu, một bóng dáng cao to kiêu ngạo lọt vào rèm mắt, cô ngạo kiếm khách mà Bách Thuần hâm mộ danh tiếng đã lâu, lưng đeo trường kiếm, hông giắt một cái túi da dày, đang chắp tay đứng xem bức họa "cổ chiến xa mỹ nữ" mà Lang Canh vẽ còn chưa đóng khung lộng kiếng đang treo trên tường. Y xem thật chăm chú, nhập thần, tựa như hoàn toàn không biết có người đang đi vào sảnh đường.

Bách Thuần chấn động dừng bước, lòng trào dâng cảm giác khó hình dung. Nàng khẳng định chưa từng gặp con người này, nhưng tư thế y đứng khẳng định đã thấy qua, hơn nữa có ấn tượng rất hằn sâu, giống như đối với người trong họa mà Cô Nguyệt Minh đang thưởng thức.

Hồi 21: Đông Song Sự Phát

Bách Thuần hé môi hồng thốt khẽ: "Cô Nguyệt Minh!".

Cô Nguyệt Minh quay đầu nhìn về phía nàng, thần tình lạnh lẽo, sau khi liếc qua, ánh mắt lại quay về hình người trong bức họa, bình tĩnh hỏi: "Bách Thuần sao biết ta không phải mạo danh chứ?".

Bách Thuần vui mừng ra mặt đáp: "Nếu như nhãn lực của tôi không nhìn thấu được huynh có phải là Cô Nguyệt Minh hay không, sư tỷ sẽ tự khắc hướng dẫn tôi cách phân biệt huynh là thật hay giả".

Cô Nguyệt Minh hờ hững hỏi: "Bách Thuần bằng vào gì mà nhận định ta là Cô Nguyệt Minh?".

Bách Thuần mấp máy môi, đáp: "Bởi vì Bách Thuần lần đầu gặp một nam nhân đối với Bách Thuần hoàn toàn không hề động lòng, không chút hứng thú. Tôi là từ sự vô tình của huynh, khẳng định huynh là ai".

Cô Nguyệt Minh như không nghe nàng nói, hỏi tiếp: "Bức tranh này là do ai vẽ?".

Bách Thuần nhẹ nhàng dời bước, đi đến sau lưng y, đáp: "Là một họa sư tên là Lang Canh đến từ kinh sư vẽ".

Cô Nguyệt Minh hỏi tiếp: "Họa Tiên Lang Canh?".

Bách Thuần vui vẻ nói: "Chính là Họa Tiên Lang Canh, thì ra hắn thật có nhã hiệu Họa Tiên, không phải tự mình khen mình, Cô đại ca biết hắn sao?".

Cô Nguyệt Minh đáp: "Gặp qua vài lần, tạm coi là có quen biết, sư tỷ nàng từng tìm hắn vẽ chân dung".

Bách Thuần vui vẻ nói: "Cô đại ca đến thật đúng lúc, bọn tôi đang vì chuyện thân phận thật giả của Lang Canh mà đau đầu. Người của Đại Hà Minh hoài nghi hắn là hóa thân của Ngũ Độn Đạo, đang làm náo loạn cả lên. Mời Cô đại ca nhanh chóng giúp cho chuyện này, đi gặp lão bằng hữu, giải tỏa nghi ngờ của Đại Hà Minh để hắn có thể yên tâm mà vẽ".

Cô Nguyệt Minh không có biểu hiện gì, hỏi: "Lúc này hắn đang ở đâu?".

Bách Thuần đáp: "Hắn chắc đang vẽ!".

Cô Nguyệt Minh không hề để ý: "Như thế tối nay ta không đi quấy nhiễu hắn được. Phiền Bách Thuần báo cho hắn, chính Ngọ ngày mai ta sẽ đến tìm hắn, hắn tốt nhất là đừng có chạy lung tung".

Trong lòng Bách Thuần dâng lên cảm giác khác thường, câu nói cuối cùng của Cô Nguyệt Minh hình như có hàm ý cảnh cáo. Thấy Cô Nguyệt Minh không có dặn bảo gì khác, lên tiếng: "Thư tín của sư tỷ đến rồi, xin Cô đại ca chờ một chút, để Bách Thuần lên lầu lấy cho huynh".

Cô Nguyệt Minh bỗng quay người lại, hai mắt thoáng ánh sáng kỳ dị, thốt: "Nhanh vậy sao?".

Bách Thuần đáp: "Sư tỷ trước giờ nếu có gởi thư tín, đều thông qua vận chuyển đường thủy hoặc đường bộ, nhưng lần này thì lại dùng phi cáp truyền thư để gởi, do Chu lão bản của tệ Lâu đáp ứng không để lộ thân phận tên tuổi của người đưa thư, thứ cho Bách Thuần không thể nói với Cô đại ca".

Lại lo lắng hỏi: "Có vấn đề sao?".

Cô Nguyệt Minh trầm giọng: "Bách Thuần đi lấy thư cho ta".

Ngữ khí của y tuy có hơi hám ra lệnh nhưng Bách Thuần lại thấy bình thường, còn nhận ra Cô Nguyệt Minh vì xem nàng là người thân cận, thế nên không cần khách khí. Thái độ này của vô tình kiếm khách khiến nàng thoáng có cảm giác được sủng ái mà lại kinh hãi, tư vị đó trước giờ chưa từng có. Tư thế đứng quan sát bức họa vừa rồi của Cô Nguyệt Minh lại hiện lên trong đáy lòng phẳng lặng của nàng.

Cô Nguyệt Minh lần đầu lộ ra nét cười, hàm răng trắng đều tựa như lập tức làm tan đi sự lãnh đạm vốn có, hiển hiện vẻ tiêu sái đặc biệt, tiếp lấy ống trúc đựng lá thư, cất vào túi áo trong.

Bách Thuần khẽ khàng nói: "Rốt cuộc đã phát sinh chuyện gì? Lại khiến cho tay săn lãnh thưởng danh động thiên hạ đích thân xuống phương Nam, sư tỷ còn phải dùng thiên lý truyền thư? Không phải vì Ngũ Độn Đạo chứ?".

Cô Nguyệt Minh thu lại nét cười, thấp giọng: "Chuyện này Bách Thuần tốt nhất không nên can dự vào, nếu có người hỏi Bách Thuần ta vì sao phải gặp nàng, nàng có thể nói không có quan hệ gì với ta, chỉ là chuyển tin giùm người. Nếu có bất kỳ ai dám làm phiền nàng, cho dù đối phương là Tiền Thế Thần, hay là Quý Nhiếp Đề, Bách Thuần chỉ cần phái người báo với ta, ta sẽ có phương pháp đối phó bọn chúng".

Tiếp đó nói rõ vị trí của Quân Sơn Uyển rồi nhẹ nhàng rời đi.

Bách Thuần khẽ cắn môi nhìn theo thân ảnh của Cô Nguyệt Minh khuất ngoài cửa, bất giác nhớ đến Khâu Cửu Sư, hắn và Cô Nguyệt Minh đều là người không biết sợ hãi, dám làm dám chịu. Bất quá Khâu Cửu Sư có cả Đại Hà Minh làm hậu thuẫn, còn Cô Nguyệt Minh lại là độc lai độc vãng, so với Khâu Cửu Sư càng khiến người ta có cảm giác thần bí, cảm nhận được ý vị lạnh lùng ngạo mạn trên người y.

Cô Nguyệt Minh vì sao ngày mai muốn đi gặp tên quỷ háo sắc đó chứ? Hà! Mình thật không nên nhúng tay vào chuyện có quan hệ tới Ngũ Độn Đạo, nhưng trong lòng lại không kềm được ý nghĩ thương tiếc tài năng của tên sắc quỷ đó.

Nghĩ đến đây, trong lòng Bách Thuần đã có quyết định.

"Tạc nhật nam kinh, kim triều thiên nhạc, thúc yên hốt yên. Chỉ đỗng đình vi tửu, khát thời hạo ẩm; quân san tác chẩm, túy hậu cao miên. Đàm tiếu tự nhược, vãng lai vô ngại, bán thị phong cuồng bán thị tiên. Tùy thân tại, hữu nhất khâm minh nguyệt, vũ tụ vân yên".

(Tạm dịch: hôm qua Nam Kinh, sớm nay Thiên Nhạc, cứ chớp cứ nhoáng. Lấy Động Đình làm rượu, khát cứ uống say; coi Quân Sơn là gối, túy lúy ngủ vùi. Nói cười như không, vãng lai không ngại, nửa điên cuồng nửa thần tiên. Cùng mình một vầng trăng sáng, một áng mây mờ).

Tiếng đàn tranh ngưng đọng, Liên Ảnh cất giọng oanh ca, giọng hát ôn nhu như thiên tiên, lại trau chuốt mượt mà, phong điệu xướng ca phóng khoáng, hát lên tiếng lòng của chàng lãng tử phiêu bạt thiên hạ, không có mái nhà chờ đợi, làm xung động tâm hồn của Ô Tử Hư.

Khúc hát đã ngưng, Ô Tử Hư vươn người đứng lên, vỗ tay liên hồi, từ bình đài đi đến nội sảnh, hướng đến Liên Ảnh ngồi bên cây đàn tranh tán thưởng: "Mỹ nhân nhi nàng thật lợi hại, tiểu đệ lần đầu tiên có cảm giác ở thanh lâu hết sức vui sướng, không có chút ham muốn nhục dục nào. Mỹ nhân nhi nàng đúng là lợi hại".

Liên Ảnh nghe khen ửng hồng má phấn, khẽ cúi đầu, nhẹ nhàng hỏi: "So được với họa pháp của tiên sinh không?".

Ô Tử Hư tràn đầy cảm khái đáp: "Thật không dám sánh, ta hiện tại như đang ngồi thuyền trở về. Ài! Vì sao không thấy tiểu Thiền Dực của ta, nàng ta không phải đáp ứng cùng ngu sinh chèo thuyền ngoạn cảnh hồ sao?".

"Ta đi cùng tiên sinh thì thế nào?".

Ô Tử Hư và Liên Ảnh đều như không dám tin vào mắt mình khi thấy Bách Thuần vén màn bước vào. Hai mắt nàng sáng rỡ, khoé miệng loáng thoáng nét cười cao thâm khó lường.

Tiền Thế Thần tiến vào Bố chính sứ ti phủ, thủ hạ tâm phúc báo lên Qua Mặc đang ở tiểu ốc trong viên chờ gã, liền phấn chấn tinh thần, lập tức đi gặp hắn.

Qua Mặc thần sắc lạnh lùng ngồi xếp bằng trên mặt đất, nhìn Tiền Thế Thần đang ngồi xuống trước mặt, trầm giọng hỏi: "Trước hết hãy nói về tình huống mới nhất của ngươi".

Tiền Thế Thần thuật lại tình huống Cô Nguyệt Minh đến gặp mình cùng tình thế hiện tại, cuối cùng nói: "Y đối với bọn ta đã có nghi ngờ, người này tinh minh lợi hại, nếu bọn ta xử lý không ổn, sự việc của bọn ta rất có thể hỏng trong tay y".

Sắc mặt của Qua Mặc vẫn cứng đơ, thốt: "Y đang dụ ta xuất thủ".

Tiền Thế Thần gật đầu: "Đệ cũng nghĩ như thế, nhưng bọn ta có chọn lựa khác sao?".

Qua Mặc đáp: "Không có. Cô Nguyệt Minh quả thật là kẻ không đơn giản, bất quá lại phạm phải một sai lầm nghiêm trọng, đó là quá đề cao bản thân, ta muốn lần này y phải trả giá bằng chính sinh mạng. Hừ! Lại dám công nhiên khiêu chiến ta, y chắc chán sống rồi".

Tiền Thế Thần hỏi: "Sư huynh chuẩn bị khi nào xuất thủ?".

Qua Mặc không trả lời gã, tự lẩm nhẩm: "Dựa theo hành trình, y phải đến Lạc Dương vào ba ngày trước, vì sao chậm đến ba ngày đường chứ? Ba ngày đó y đã đến chỗ nào đây?".

Tiền Thế Thần đương nhiên không có đáp án.

Qua Mặc thốt: "Ta ở Vân Mộng Trạch gặp phải một thiếu nữ đã từng cùng qua sông với Cô Nguyệt Minh, khi đó trên ngựa ả ta có chở một thi thể, đáng tiếc bị ả ta dùng giảo kế thoát thân. Ta hoài nghi xác chết trên ngựa là Tiết Đình Hao, lúc đó ta có cảm ứng rất mãnh liệt".

Tiền Thế Thần thất kinh: "Với thủ đoạn của sư huynh, lại không giữ được một thiếu nữ?".

Qua Mặc đáp: "Ả ta tịnh không phải là một thiếu nữ bình thường, mà tinh thông ảo thuật bí kỹ, võ công cao cường. Kỹ thuật khinh công chạy trốn của ả ta, ta cũng tự than không bằng. Muốn giết ả ta, e rằng còn khó hơn so với giết Cô Nguyệt Minh, vì Cô Nguyệt Minh tuyệt không chịu đào tẩu".

Tiền Thế Thần hỏi: "Vì sao huynh đoán xác chết trên ngựa là Tiết Đình Hao?".

Qua Mặc đáp: "Thi thể được bọc quấn rất kỹ càng, tốn rất nhiều tâm tư, có thể thấy nữ lang có tình cảm rất sâu xa với người chết, vì thế tận lực giúp người chết yên nghỉ. Người khác có lẽ không đoán được ả ta là ai, nhưng làm sao che mắt được bọn ta, ả ta nhất định là con gái của Phu Mãnh, mà chỉ có Tiết Đình Hao mới có thể khiến cho thần tình của ả ta bi thương như thế. Ả ta là một nữ tử vô cùng kiên cường, bị ta đuổi theo cản đường, ả ta lập tức áp chế bi thống, dũng cảm đối diện ta. Ả ta là một nữ tử không hề đơn giản, ngàn vạn lần không nên đánh giá thấp ả ta, bằng không ngươi sẽ rất hối hận".

Tiền Thế Thần giọng điệu nhẹ nhõm: "Chỉ cần Tiết Đình Hao thật sự chết rồi, bọn ta chuyện gì cũng không sợ nữa".

Qua Mặc thốt: "Vấn đề nằm ở chỗ Tiết Đình Hao vì sao đột nhiên chết đi?".

Tiền Thế Thần trầm ngâm hỏi lại: "Liệu có thể là sợ tội tự tận hay không?".

Qua Mặc lạnh lùng đáp: "Ngươi dùng từ sai rồi, phải biết một người chịu hàm oan mười năm, làm sao có thể trước khi oán khí chưa tan mà tự tận mang lại tiện nghi cho bọn ta chứ".

Tiền Thế Thần nói: "Có lẽ thi thể trên lưng ngựa của nữ lang không phải là Tiết Đình Hao".

Qua Mặc lạnh nhạt hỏi: "Nếu không phải là Tiết Đình Hao, thì là ai đây?".

Tiền Thế Thần câm miệng im lặng.

Qua Mặc kiên quyết: "Phỏng đoán của ta không sai đâu. Người chết chính là Tiết Đình Hao, trước lúc chết hắn đã đem bí mật nói cho một người, nhưng tuyệt không phải là nữ lang đó".

Tiền Thế Thần không hiểu: "Sư huynh làm sao có thể khẳng định như thế? ".

Qua Mặc đáp: "Đạo lý rất dễ hiểu, bởi nàng ta là con gái của Phu Mãnh, nói với nàng ta chỉ có hại cho nàng ta, đẩy nàng ta vào dòng thác này, mà lời nói của nàng ta cũng không có ai chịu tin. Đừng quên nàng ta lúc này vẫn là khâm phạm đào vong".

Tiền Thế Thần biến sắc hỏi: "Trước khi chết hắn đã thổ lộ oan khuất trong lòng với người nào?".

Qua Mặc thốt: "Không ngoài hai người Cô Nguyệt Minh và Quý Nhiếp Đề, cũng chỉ có hai người này mới có tư cách và năng lực rửa sạch trầm oan cho Tiết Đình Hao. Giữa hai người, khả năng của Cô Nguyệt Minh là lớn hơn. Một là vì Cô Nguyệt Minh đơn độc hành sự, thuận lợi để nói chuyện, hơn nữa Cô Nguyệt Minh chưa từng lạm sát vô cớ, chỉ giết những đạo tặc bị treo giải, là lựa chọn xứng đáng cho Tiết Đình Hao".

Tiền Thế Thần nói: "Tiết Đình Hao sao biết được Cô Nguyệt Minh sẽ đến Vân Mộng Trạch chứ? Cho dù mặt đối mặt cũng không biết đối phương là ai".

Qua Mặc trầm giọng: "Trong Vân Mộng Trạch, mọi việc đều không thể suy đoán theo lẽ thường, bằng không Sở hạp sớm đã rơi vào tay bọn ta. Cổ thành không phải đến hiện giờ vẫn không có dấu vết sao? Hình dáng Cô Nguyệt Minh rất gây ấn tượng, ta chưa từng thấy qua y, không phải cũng vừa nhìn thấy đã nhận ra y sao? Xác định thân phận y chẳng qua là việc đơn giản, chỉ cần trao đổi vài chiêu với y là được, trong thiên hạ không có ai so được với y về tốc độ xuất kiếm đâu".

Tiền Thế Thần kinh hãi: "Làm sao đây? Nhân lúc Quý Nhiếp Đề đến Vân Mộng Trạch, hay là bọn ta đêm nay lập tức giải quyết Cô Nguyệt Minh".

Qua Mặc thốt: "Bình tĩnh đi! Nôn nóng chỉ có thể hư sự. Cô Nguyệt Minh có nhiều khả năng sẽ chạm mặt với Quý Nhiếp Đề".

Gương mặt Tiền Thế Thần thất sắc, trắng nhợt như người chết, việc mà gã lo sợ nhất cuối cùng đã phát sinh.

Qua Mặc thốt: "Hiện tại bọn ta đang đi trên một con đường không thể quay lại. Chỉ bằng lực lượng của bọn ta, đối đầu với Quý Nhiếp Đề chỉ là lấy trứng chọi đá, may mà triều đình thế yếu, chỉ cần bọn ta dẫn dụ Đại Hà Minh làm phản, bọn ta thì ở một bên thêm gió vào lửa, một ngày loạn sự chưa bình định, bọn ta vẫn yên ổn như núi, tiến công lùi thủ, là do bọn ta lựa chọn".

Tiền Thế Thần thở hắt mấy hơi: "Khâu Cửu Sư tinh minh lợi hại, sợ rằng không dễ thuyết phục hắn".

Qua Mặc thốt: "Ngươi không cần thuyết phục hắn, quan trọng là Khâu Cửu Sư đúng là có lòng tạo phản, còn Quý Nhiếp Đề lại có ý diệt trừ Đại Hà Minh, ngươi chỉ cần nắm chắc chỗ vi diệu trong đó, khiến Khâu Cửu Sư cảm thấy nguy hiểm đã đến sát người thì đã thành công hơn nửa. Hay nhất là để Quý Nhiếp Đề nghĩ sai về ngươi, nhất định điều binh mã đến, chỉ cần Khâu Cửu Sư đề cao cảnh giác, làm sao che giấu được tai mắt của hắn. Bất luận Nguyễn Tu Chân tài giỏi đến đâu, nhưng không có căn cứ gì, sẽ cho rằng hành động của Quý Nhiếp Đề là nhắm vào Đại Hà Minh, khi đó mọi việc sẽ tự nhiên như suối chảy về sông thôi".

Lại cười nói: "Còn về Cô Nguyệt Minh, giao cho ta xử lý. Nói thẳng ra, nếu y vẫn ở Vân Mộng Trạch, ta thật sự không nắm chắc đối phó được y, nhưng ở Lạc Dương thành y khó mà thoát khỏi kiếp số".

Khâu Cửu Sư quay về Bát Trận Viên, biết Nguyễn Tu Chân vẫn ở tiểu đình trong viên, liền vội đến đó, sau khi ngồi xuống đối diện, thở ra một hơi, than: "Vấn đề lần này lớn rồi".

Nguyễn Tu Chân cười nói: "Chỉ cần không phải Ngũ Độn Đạo trốn mất, việc khác có thể bàn bạc kỹ càng".

Khâu Cửu Sư lắc đầu thốt: "Ngươi vẫn còn vui vẻ cười nói như thế, không biết nhân gian đau khổ. Nhưng đáng tiếc ta ngày mai còn phải đến Ban Trúc Lâu gặp Bách Thuần, giải thích cho nàng vì sao ta chưa ngồi nóng đít đã vội ly khai, còn đáp ứng với nàng bất luận Lang Canh liệu có phải là Ngũ Độn Đạo hay không, sẽ đợi đến lúc hắn hoàn thành Bát mỹ đồ khánh chúc mười năm thành lập Hồng Diệp Lâu, mới có thể động thủ bắt người. Lần này đúng là được không bằng mất".

Nguyễn Tu Chân chăm chú nhìn hắn một hồi, đột nhiên bật cười thốt: "Cửu Sư! Ngươi đang yêu rồi".

Khâu Cửu Sư ngẩn người, chán nản nói: "Yêu đương là thế này sao? Ta thật sự không biết là thống khổ hay là vui sướng, thống khổ có thể là sung sướng, sung sướng cũng có thể biến thành thống khổ, ta hiện tại hơi mất phương hướng, không biết mình đang làm gì, không rõ kẻ nào là địch nhân, ngươi bảo ta phải làm thế nào đây!".

Nguyễn Tu Chân nói: "Bọn ta hiện tại đang rơi vào thế hạ phong, thế nhưng chính vì bọn ta từ đủ loại manh mối, suy luận địch nhân vô hình của bọn ta là muốn ngươi và Bách Thuần đắm chìm vào bể ái, cho nên nhận định Lang Canh chính là Ngũ Độn Đạo, đây là chuyện y chưa kịp dự liệu, vì thế bọn ta vẫn chưa xem là thất bại toàn diện. Bọn ta tuyệt không vì một chuyện Ngũ Độn Đạo mà mất đi phương hướng".

Khâu Cửu Sư trầm ngâm thốt: "Bách Thuần yêu cầu cho kỳ hạn tám ngày, Tiền Thế Thần thì muốn thời gian mười ngày để giám định thân phận Lang Canh, không phải quá xảo hợp làm người ta phát rét sao?".

Nguyễn Tu Chân nói: "Hiện tại việc khẩn cấp trước mắt là phải nắm rõ nhất cử nhất động của Lang Canh trong Hồng Diệp Lâu, phương diện này ta đã nhờ Mã Công Thành giúp đỡ, người của hắn trong Hồng Diệp Lâu sẽ nghiêm mật giám thị hành động của Lang Canh. Ta có thể bảo đảm, trong mười ngày nữa, hắn không thể trốn đi đâu được".

Khâu Cửu Sư hỏi: "Y biết rõ những gì bọn ta nghĩ trong đầu không?".

Nguyễn Tu Chân đáp: "Ai trả lời cho ngươi được chứ? Bất quá biết thì thế nào? Chỉ cần y không thể thao túng hành động của bọn ta, chỉ có thể ảnh hưởng ý nghĩ của bọn ta, thì có thể tìm được sơ hở. Chẳng hạn như y không thể bắt ngươi đi gặp Bách Thuần, đành phải để Bách Thuần đi gặp ngươi, chứng tỏ pháp lực của y là có hạn chế".

Khâu Cửu Sư cười khổ: "Mời dùng đầu nghĩ xem, vì sao y muốn ta và Bách Thuần qua lại? Là vì kỳ hạn tám ngày sao? Như thế mục đích của hắn có thể chỉ là vì bức vẽ Bát phúc mỹ nhân".

Nguyễn Tu Chân thản nhiên nói: "Nếu bọn ta biết rõ mục đích của hắn, hiện tại đã không phải đau đầu thế này. Nói ta biết, giữa ngươi và Bách Thuần đã xảy ra chuyện gì?".

Khâu Cửu Sư đem tình huống gặp Bách Thuần kể lại, sau đó thốt: "Ta có một loại cảm giác, Bách Thuần tuy đối với ta có cái nhìn đặc biệt, nhưng tuyệt không đến mức đem lòng yêu ta. Nàng có chút giống như du hí nhân gian, đối với bất kỳ người hay vật nào có thể lay động nàng đều cảm thấy hứng thú, giống như nàng đối với tên Lang Canh, là thương tiếc tài năng mà có ý bảo vệ. Nếu ta tiếp tục biểu hiện bất lực, ta dám khẳng định nàng đối với ta sẽ mất đi hứng thú".

Nguyễn Tu Chân nói: "Ngươi muốn nàng đối với ngươi mất đi hứng thú sao?".

Khâu Cửu Sư kiên quyết lắc đầu, nói: "Ta làm không được".

Nguyễn Tu Chân vui vẻ nói: "Thế thì dễ xử lý thôi. Bọn ta giám sát chặt chẽ Lang Canh, bất luận phát sinh chuyện gì, tuyệt không để lòng tin hắn là Ngũ Độn Đạo của bọn ta bị lung lay. Sự tình khác, ngươi có thể phóng tay đi làm, thích nói gì với Bách Thuần thì cứ nói, như thế sự tình không phải biến thành đơn giản dễ dàng hay sao?".

Khâu Cửu Sư hơn ngạc nhiên, nhất thời không biết nói gì cho tốt.

Thuyền nhỏ rời khỏi thủy tạ, chèo đến giữa lòng hồ.

Bách Thuần ngồi ở đầu thuyền đưa mắt nhìn Ô Tử Hư đang chèo thuyền ở đằng đuôi, cười vui vẻ thốt: "Ngươi giả trang làm tên bán mật rắn đó rất tuyệt diệu, ta cũng nhìn lầm ngươi".

Ô Tử Hư thầm kêu không ổn, Bách Thuần nói đến chuyện này là đã có định liệu trước, khẳng định mình đã để lộ sơ hở ở phương diện nào đó, nếu như không tìm được phương pháp bổ cứu, hậu quả không thể tưởng tượng. Ngoài mặt đương nhiên không thể để lộ sự kinh hoảng trong lòng, còn ra vẻ không hiểu: "Bách Thuần cô nương đang nói gì thế? Bất quá chuyện gì cũng không quan trọng, chỉ cần Bách Thuần cô nương cùng ta du ngoạn cảnh hồ là được. Bách Thuần cô nương tối nay đặc biệt xinh đẹp, đôi mắt như có dị lực hút mất hồn phách của ta".

Bách Thuần hơi cúi đầu tới trước, để lộ rõ gương mặt, nhẹ nhàng thốt: "Mới nhìn thoáng qua, niên kỷ của ngươi tựa chừng ba bốn ba lăm, nhưng quan sát kỹ da mặt, thể hình của ngươi, lại cho người ta cảm giác ngươi phải trẻ hơn đến mười năm. Đây phải chăng là thuật dịch dung, chỉ thực hiện cải biến đơn giản, giống như ve sầu thoát xác, có thể thoát thai hoán cốt biến thành một con người khác".

Ô Tử Hư vứt bỏ lo lắng, lòng nghĩ binh đến thì tướng ngăn, nước dâng thì be bờ, không bổ cứu được chỗ sơ hở thì lập tức quay về lấy dạ minh châu, sau đó nhân lúc đêm tối chuồn đi. Điểm duy nhất có lợi cho hắn, đó là dường như chỉ có một mình Bách Thuần biết được chỗ sơ hở của bản thân, bằng không hiện tại hắn đã phải xông pha để thoát khỏi Lạc Dương thành.

Ô Tử Hư thong thả chèo thuyền, nhún vai nói: "Thì ra cô nương cũng giống như mấy kẻ xấu hôm nay, hoài nghi thân phận của ta. Má ơi! Rốt cuộc số phận của ta là sao đây? Ta trẻ hơn tuổi thật của ta,là ân sủng của ông trời đối với ta, đây cũng xem là tội sao?".

Bách Thuần chống khuỷu tay lên gối, đỡ lấy hai bên chiếc cằm xinh xắn, khẽ cười quyến rũ, giọng nói pha chút tinh quái: "Lão bằng hữu của ngươi đến rồi, hay nói cách khác là lão bằng hữu của Lang Canh đến rồi".

Ô Tử Hư thầm thở ra một hơi, chí ít đã biết vấn đề nằm ở chỗ nào. Thế nhưng vì sao nàng không mời lão bằng hữu của Lang Canh đến vạch trần hắn chứ? Sự tình hiển nhiên vẫn có không gian để xoay chuyển, nhíu mày hỏi: "Là ai?".

Bách Thuần vui vẻ đáp: "Cô Nguyệt Minh".

Ô Tử Hư trong lòng réo mẹ, nếu trong thiên hạ muốn tìm một người đáng sợ nhất, Cô Nguyệt Minh chắc chắn được coi là một lựa chọn, Cô Nguyệt Minh có lẽ là người có tư cách truy bắt hắn nhất trong thiên hạ. Cô Nguyệt Minh sẽ tróc nã hắn sao? Chuyện này cũng rất khó nói. Hắn và Cô Nguyệt Minh tuy ở hai vị trí cực đoan đối lập, một là trộm, một là binh, nhưng Ô Tử Hư lại cho rằng bản thân là người hiểu Cô Nguyệt Minh nhất. Cũng giống như bản thân, Cô Nguyệt Minh tôn trọng nguyên tắc, hắn có ba nguyên tắc trộm, Cô Nguyệt Minh thì không quan tâm đến đạo tặc nằm ngoài danh sách treo thưởng, mà Ô Tử Hư hắn chưa từng được liệt tên trên Huyền Thưởng Bảng của quan phủ.

Ô Tử Hư vui sướng nói: "Thì ra là tên tiểu tử Nguyệt Minh, y vì sao không lập tức đến thỉnh an lão tử. Tha hương ngộ cố tri, đời người cũng thật thú vị".

Bách Thuần bị hắn làm cho trở nên hồ đồ, chẳng lẽ hắn đúng là Lang Canh sao? Nghĩ kỹ lại thấy không phục, thân thể yêu kiều ngồi thẳng lên, tức giận thốt: "Còn muốn giả thần giả quỷ, lúc Cô Nguyệt Minh nghe tên ngươi, thần sắc hết sức thâm trầm, huynh ấy còn nói chính Ngọ ngày mai đến tìm ngươi, dặn ngươi không được chạy loạn lung tung".

Ô Tử Hư thông suốt trong lòng, khẽ cười nói: "Đạo lý rất đơn giản, vì trước khi tiểu đệ rời kinh, Nguyệt Minh có đến thăm ta, lúc đó ta bị ngã gãy chân, đi đường phải chống gậy, còn nói với Nguyệt Minh không mất thời gian vài tháng đừng mong đi đứng thoải mái được. Ai ngờ sau khi Nguyệt Minh đi được hai ngày, cái chân của ta lại có chuyển biến tốt, mười ngày sau đã không cần chống gậy. Cũng chính vì nếm trải nỗi khổ què chân, mới nhận ra có thể được chạy nhảy tứ tung cũng là một ân sủng của trời cao đối với Lang Canh ta, vì thế đột nhiên nảy sinh ý niệm vân du tứ hải, thưởng thức phong tình mỹ nữ các nơi, cưới một mỹ nhân yêu thích nhất làm vợ, cho nên mới đến nơi này. Khà! Tiểu đệ đến giờ vẫn còn độc thân chưa lấy vợ, đều là vì gặp được Bách Thuần. Như thế đủ thẳng thắn chưa?".

Bách Thuần trừng mắt nhìn hắn không chớp, nghe hắn mồm năm miệng bảy giải thích trơn tru, lại không thể tìm được sơ hở của hắn, đành chịu không làm gì được hắn.

Ô Tử Hư thoải mái nói: "Nguyệt Minh thấy một tên què quặt lại có thể lặn lội đường xa vạn dặm đến Lạc Dương, thần tình cổ quái là tất nhiên, nói không chừng đúng là hoài nghi ta quá có danh khí, cho nên bị người mạo danh. Khà! Nguyệt Minh thật ngốc, ngoại trừ Họa Tiên Lang Canh ta, có ai vẽ ra diệu phẩm như thế, chỉ cần hắn nhìn bức Chiến xa nữ thần đó của tiểu đệ, bảo đảm không dám có chút hoài nghi. Vì sao vẫn trừng mắt nhìn ta như thế? Nguyệt Minh ở nơi nào? Ta và nàng lập tức đi gặp y".

Bách Thuần không khách khí: "Ngươi không biết bản thân đã thành nhân vật toàn thành chú ý hay sao? Đại Hà Minh đang truy tìm Ngũ Độn Đạo, còn công khai đòi tra xét thân phận của ngươi, chuyện này đã truyền đi khắp nơi, ai nấy cũng hoài nghi ngươi là Ngũ Độn Đạo, ngươi nếu bước ra khỏi Hồng Diệp Lâu, đâu ai biết được sẽ xảy ra chuyện gì nữa, ngươi cho rằng đắc tội với người chưa đủ nhiều sao?".

Ô Tử Hư thong thả đáp: "Không đi thì không đi, ngày mai sẽ biết rõ chân tướng thôi".

Bách Thuần vẫn chăm chú nhìn hắn, nhẹ giọng: "Giả sử ngươi đúng là Ngũ Độn Đạo, hiện tại là cơ hội cuối cùng của ngươi, ta có biện pháp ứng phó với Cô Nguyệt Minh, xin huynh ấy không bóc trần thân phận của ngươi".

Ô Tử Hư cười khổ: "Nếu đại tiểu thư muốn ta chịu thừa nhận là tên phế thải Ngũ Độn Đạo gì đó, tối nay đại tiểu thư phải cùng ta qua một đêm nồng nàn, ta sẽ lập tức giả làm hắn, bằng không thừa nhận có tác dụng gì?".

Bách Thuần nhắm cặp mắt đẹp, ngữ điệu thoang thoảng có chút mê hoặc: "Ở góc đông bắc Quải Biều Trì, có một nhánh sông tiếp nối với mạng lưới đường thủy trong thành, chỉ bị một cái đập nước tách biệt. Nếu bọn ta theo nhánh sông đó để đến chỗ Cô Nguyệt Minh đang ở là Quân Sơn Uyển, chỉ cần hai canh giờ, còn bảo đảm không kinh động bất kỳ người nào, ngươi dám cùng đi với Bách Thuần không?".

Ô Tử Hư cười khà khà đáp: "Thật tốt! Có thể lập tức gặp mặt tiểu tử đó. Tiểu tử này không có bằng hữu nào, lão tử là người duy nhất, hắn gặp mặt ta sẽ hết sức cao hứng". Vừa nói vừa khuấy mái chèo đổi hướng thuyền, lái về hướng đông bắc".

Bách Thuần cuối cùng đành chịu thua, giận dữ quát: "Người ta là thử ngươi, còn muốn làm bộ làm tịch, mau đưa ta quay về Phong Trúc Các, sáng mai vẽ không xong thì ta quét ngươi ra khỏi Hồng Diệp Lâu đấy".

Ô Tử Hư gân cổ nói: "Không đi thì không đi, ngày mai ta sẽ không rời xa Phong Trúc Các nửa bước, kính cẩn chờ đợi tên tiểu tử Nguyệt Minh, đại tiểu thư nàng nhất định phải có mặt ở đó, ta muốn chính mắt nàng thấy được bộ dạng vui sướng phương xa gặp bạn của bọn ta".

Bách Thuần không cách nào bắt chẹt hắn, tức tối thốt: "Ta không thèm đến, có gì đáng xem chứ".

Ô Tử Hư bực tức nói: "Sự việc trọng yếu như thế, nàng lại vắng mặt, thì ra nàng không quan tâm đến ta một chút xíu nào".

Bách Thuần né ánh mắt hắn, ngẩng đầu nhìn lên bầu trời đêm nói: "Ta không dậy sớm như thế! Không cần quá nhạy cảm".

Ô Tử Hư thất thanh: "Sớm hơn một hay nửa canh giờ cũng không được?".

Ánh mắt Bách Thuần quay về trên người hắn, cười hì hì thốt: "Ta lại không có gả cho ngươi, vì sao có dáng vẻ ghen tuông như thế. Không gạt ngươi nữa, giờ Ngọ ngày mai đúng lúc ta không rảnh, có chuyện quan trọng cần làm hơn so với ngươi".

Ô Tử Hư sững sờ nói: "Thì ra là hẹn hò với tình lang".

Bách Thuần trừng mắt hung dữ nhìn hắn, hung hăng thốt: "Liên quan gì đến ngươi? Lo chuyện của ngươi đi. Tối nay cả Hồng Diệp Lâu đều trông ngóng xem Liên Ảnh dưới họa pháp của người sẽ biến thành dáng vẻ thế nào, nếu như người lại giống mấy kẻ bất tài vẽ hổ thành chó, ngươi sẽ phải qua đêm ở vỉa hè Hồng Diệp Lâu. Đừng trách ta không có lời cảnh cáo ngươi".

Hồi 22: Phóng Thủ Nhi Vi

Cô Nguyệt Minh đứng ở trung tâm sảnh đường của Quân Sơn Uyển, thuận tay đặt thư tín của Hoa Mộng phu nhân và thiếp mời tham dự dạ yến mừng mười năm thành lập Hồng Diệp Lâu lên trên cái bàn tròn.

Một mùi hương thoang thoảng như có như không, dìu dịu lẩn vào trong mũi y, khơi lên suy nghĩ mà y không ngừng kềm chế, giống như một hòn đá được ném xuống nước, gợn nên những vòng sóng trên mặt hồ phẳng lặng.

Lại là nàng.

Từ khi tình cờ gặp nhau ở bến đò, y và nàng như bị sợi dây số phận trói buộc lại với nhau, vướng víu không dứt.

Nàng vì sao đuổi đến nơi này? Làm thế nào biết được y đang tạm thời gởi thân nơi trạch xá này?

Cô Nguyệt Minh thầm thở dài.

Tiết Đình Hao trước lúc tự tận khẩn cầu y đem thi thể hắn đến Tương Phi Từ, là có dụng ý khác. Tương Phi Từ rất có thể là địa điểm ước hẹn gặp mặt của hắn và nữ lang đó, nữ lang đó tự sẽ lo lắng hậu sự cho hắn, sự tình khẳng định là như thế. Nhưng nữ lang đó lại hiểu lầm, cho rằng Cô Nguyệt Minh y bức tử cữu cữu của nàng, vì thế quyết chí phục cừu, đuổi đến Lạc Dương thành tìm y tính toán.

Bởi y cần phải tìm Khôi Tiễn, lại gặp phải Quý Nhiếp Đề, dây dưa mất không ít thời gian, để nàng chạy đến Lạc Dương trước. Nàng ẩn thân nhìn thấy y nhập thành, đuổi đến nơi này, lại truy theo y đến Hồng Diệp Lâu. Khi y vào lầu gặp Bách Thuần, nàng liền đến Quân Sơn Uyển.

Nàng vì sao không mai phục trong phòng để báo cừu cho thân cữu?

Chuyện này không khó giải thích, từ đồ nghề trên người nàng, động tác tinh xảo uyển chuyển trên không trung, tung nhảy nhào lộn đều tràn đầy cảm xúc biểu diễn, có thể suy ra nàng xuất thân từ nghề nghiệp ảo thuật tạp kỹ, còn là cao thủ xuất sắc trong ngành nghề đó. Nếu để nàng ở trong sảnh đường này, phối hợp với sự bố trí đặc biệt, ví dụ như một sợi dây dài vắt qua sảnh đường, tuyệt nghệ của nàng có thể phát huy đến mức cao nhất, cơ hội giết được y càng thêm chắc chắn.

Nàng còn chưa chuẩn bị xong.

Ngày mai nàng lại đến, trong tay nàng sẽ có đầy đủ đồ nghề phụ trợ, đem sảnh đường này bố trí thành một rạp xiếc lý tưởng, khiến nàng có thể thi triển toàn bộ bản lãnh giết chết Cô Nguyệt Minh y.

Cô Nguyệt Minh cảm thấy rất thú vị, trong lòng còn có chút hưng phấn khó hiểu, ngồi xuống cạnh bàn, đưa tay cầm ống trúc lên.

Chỗ duy nhất nghĩ không thông, đó là nàng làm sao biết được đến Lạc Dương tìm y.

Nghĩ đến đây, Cô Nguyệt Minh bóp vỡ lớp sáp niêm phong ống trúc, lấy ra mật hàm Hoa Mộng phu nhân gởi cho y, vứt bỏ tất cả ý nghĩ khác, chú tâm vào đọc.

Thiền Dực tiến vào tiểu sảnh của Phong Trúc Các, đập vào mắt là thân ảnh của Ô Tử Hư. Chỉ thấy lưng hắn quay về cửa, dáng vẻ nghênh ngang đang ngồi đung đưa trên chiếc ghế dựa, bộ dạng mặc kệ mọi chuyện, tư thái biếng nhác, đang ngơ ngẩn như kẻ ăn không ngồi rồi.

Trên một cái bàn tròn đặt giữa sảnh, các dụng cụ vẽ như bút, mực, nghiên, thuốc màu vứt lung tung, lại không có đến nửa trang giấy.

Thiền Dực đứng tại cửa vào, chống tay vào eo, tức giận mắng: "Mọi người đều đang chờ ngươi giao ra tác phẩm hoàn chỉnh, ngươi lại trốn đến chỗ này làm biếng, con người ngươi...".

Ô Tử Hư không quay đầu, đưa tay chỉ về bức tường bên trái.

Thiền Dực nhìn theo hướng hắn chỉ, đột nhiên nhìn thấy một hình vẽ lớn ngang ba thước dài sáu thước treo trên tường, cũng không biết Ô Tử Hư dùng phương pháp thế nào để treo, bởi bức vẽ thu hút hoàn toàn sự chú ý của Thiền Dực, khiến ả không thể nghĩ đến bất cứ thứ gì khác.

Liên Ảnh giống như được khảm vào trong bức vẽ, so với nàng ngoài đời còn sống động linh hoạt hơn, đạt đến trình độ vượt khỏi hiện thực, khung cảnh vừa hay nắm bắt được sát na nàng muốn bước ra khỏi tấm rèm hai bên được kéo lên. Thần thái của nàng vừa mừng vừa giận, lại tràn đầy phong tư hấp dẫn động nhân, thần thái đó được nắm bắt rất chuẩn, không có nửa điểm hàm hồ, nửa phần sai lệch, biểu lộ tận cùng khí chất đặc biệt và dung mạo xinh đẹp của nàng.

Nàng trong bức vẽ ở trạng thái tĩnh, thế nhưng gây cho người ta cảm giác là nàng sắp bước chân ra khỏi tấm rèm, bước ra ngoài bức tranh, cảm giác đó vô cùng sống động, sức dụ hoặc được ôm nàng vào lòng là không thể so sánh, khiến bất kỳ ai thưởng lãm bức họa, đều không thể khống chế mà sinh ra mong muốn mãnh liệt đó.

Cả bức họa bất luận là vẽ người hay tả cảnh, đều là bút pháp tinh tế dụng màu vừa chuẩn, thủy mặc và sắc thái hòa thành một thể, bố màu đơn giản, vẫn có thể cho người ta cảm giác màu sắc rất đậm, tràn trề rực rỡ, lẫn cảm giác ưu nhã thanh lệ vô cùng.

Bức tranh đề một bài thơ, viết rằng:

"Yên ba bất động ảnh trầm trầm

Bích sắc toàn vô thúy sắc thâm

Nghi thị thủy tiên sơ tẩy xứ

Nhất loa thanh đại kính trung tâm".

Góc dưới có ba chữ "Lang Canh vẽ".

Thiền Dực không biết ngây ngất bao lâu, đột nhiên tỉnh thần lại, thở hắt một tiếng yêu kiều, quay đầu đi liền.

Nghe tiếng chân của Thiền Dực xa dần, Ô Tử Hư thở ra một hơi.

Hắn càng lúc càng không hiểu được bản thân, "Cổ chiến xa nữ thần" khẳng định là tác phẩm đắc ý nhất của hắn sau khi tự học họa pháp, thế nhưng bức họa đầu tiên trong Bát mỹ đồ không ngờ lại là tác phẩm không hề thua kém. Họa pháp của bản thân sao có thể đột nhiên tiến một bước dài như thế? Tùy tiện vẽ cũng ra được tác phẩm thần kỳ.

Chuyện đó giống như bằng vào một lượng bạc thắng được năm trăm lượng vậy.

Ô Tử Hư phát hồ đồ, trong đầu một mảng trắng xóa, như mất đi năng lực suy xét, mãi đến khi âm thanh bước chân rộn ràng vang lên ngoài phòng, mới khiến hắn ngơ ngẩn nãy giờ giật mình tỉnh lại.

Chu Bàn Tử dẫn đầu chạy vào, Diễm Nương ho khúc khắc theo sát sau, Liên Ảnh và Thiền Dực vẫn linh hoạt nhanh nhẹn hơn.

Bốn người đứng thành hàng ngang phía sau Ô Tử Hư, Thiền Dực chỉ đến bức mỹ nhân đồ treo trên tường, kêu lên hưng phấn: "Ở chỗ đó!".

Chu Bàn Tử, Diễm Nương và Liên Ảnh lập tức tròn mắt nhìn đến ngây ngốc, cảm thấy vượt khỏi trí tưởng tượng của mình, lại có chút không tin vào cặp mắt mình, thế gian không ngờ có bức tranh tuyệt vời thế này.

Liên Ảnh không phải chưa thấy qua bức "Cổ chiến xa nữ thần" của Ô Tử Hư, nhưng thủy chung chưa thấy người thật, cảm thụ không được uy lực của kỹ thuật "tả thực", mà vẫn hết sức tán thưởng, bằng không sao chịu đi kích thích hứng vẽ của tên họa sĩ háo sắc này? Thế nhưng hiện tại người trong bức tranh là chính mình, cảm giác đó đương nhiên có khác biệt rất lớn, có chút phản ứng giống như mình đang soi gương, nhưng lại được thăng hoa và làm cho thanh khiết đi, đến mức độ không còn tiêm nhiễm phàm trần, không cần bất kỳ ngôn ngữ nào, họa pháp cao siêu đã đem nét mỹ lệ động nhân nhất của bản thân hóa thành một cực phẩm nghệ thuật, nữ tử trong tranh là nàng nhưng cũng không phải là nàng.

Đôi môi của Chu Bàn Tử run run, nhất thời nói không thành lời.

Đối với một kẻ xưa nay lẻo mép biện bác, ngựa có thể nói là nai mà lại có thể làm cho người ta tin tưởng không nghi ngờ như lão mà nói, là tình huống trước giờ chưa từng có.

Hai mắt Diễm Nương sáng rỡ, nhìn chăm chăm vào Liên Ảnh trong tranh, hơi thở gấp rút, cũng không thể nói thành lời.

Ô Tử Hư ngẫm nghĩ trong lòng, bức Mỹ nhân đồ đầu tiên thành công ngoài tưởng tưởng, bức thứ nhì sẽ thế nào đây? Ngày mai có lẽ phải vẽ hai bức mới được, chỉ có sau khi hoàn thành bảy bức Mỹ nhân đồ, kế hoạch của hắn mới có thể tiến hành. Đương nhiên! Việc đó cần giả thuyết rằng Cô Nguyệt Minh chịu giữ bí mật cho hắn, bằng không ngày mai hắn lập tức phải ứng phó với thanh kiếm đáng sợ nhất trong thiên hạ.

Cô Nguyệt Minh ngồi ở góc tường, đây là vị trí y ưa thích, có thể quan sát toàn bộ sảnh, bất luận địch nhân từ bất cứ chỗ nào xông vào, vẫn không thể chiếm được ưu thế xuất thủ bất ngờ.

Bao da và bội kiếm phân thành hai bên trên mặt đất, thư tín của Hoa Mộng phu nhân đã hóa thành một đống tro tàn.

Cô Nguyệt Minh xao động tâm tư. Tin tức không ngờ là do Kỷ Thiện cung cấp, là chuyện y chưa từng nghĩ đến. Bất luận Kỷ Thiện là chân tình hay giả ý, Hoa Mộng phu nhân đã hãm thân vào vòng xoáy tranh đấu quyền lực giữa Phụng công công và Hoàng thượng, hoàn cảnh rất nguy hiểm.

Kỷ Thiện chỉ ra một dải Lưỡng Hồ tuyệt không có cao thủ dụng độc nổi danh, nhưng theo Đạo thuật y dược mà luận, thì Hỏa Nhân còn vượt trên Qua Mặc. Phàm là cao thủ y đạo biết dụng dược, nhất định là chuyên gia dụng độc, từ đó suy luận, ai là hung thủ độc sát đoàn tầm bảo, là thấy quá rõ ràng.

Kỷ Thiện vì sao chịu giúp đỡ chứ? Chắc chắn vì mình có giá trị lợi dụng. Kỷ Thiện tuy lợi hại, thế nhưng so với nguyên lão tam triều Phụng công công, đạo hạnh vẫn kém một chút. Nghĩ đến đây, y rất lo lắng cho Hoa Mộng phu nhân.

Sở hạp biến thành một yếu tố quan trọng.

Nếu Kỷ Thiện thất bại trong cuộc đấu tranh với Phụng công công, sự an nguy của Hoa Mộng phu nhân phụ thuộc vào việc có thể đoạt được Sở hạp hay không. Không có Sở hạp, y sẽ không có vốn liếng để mặc cả với Phụng công công.

Trong Sở hạp rốt cuộc có chứa vậy gì đây?

Từ lúc tiếp nhận nhiệm vụ, y lần đầu sinh tâm hiếu kỳ đối với vật giấu trong hộp.

Ô Tử Hư nằm trên giường, không phải nghĩ đến chuyện ngày mai Cô Nguyệt Minh đến gặp hắn, càng không phải mấy lời khen ngợi họa pháp hắn của Chu Bàn Tử, mà là "số phận" sau khi đi vào giấc ngủ.

Hắn có một cảm giác kỳ dị, sau khi tương ngộ mỹ nữ trên chiến xa cổ không biết là thật hay là mộng đó, mỗi một bộ phận trong đầu hắn giống như bị kích động, đã liên kết cùng với lực lượng thần bí đó. Cho đến lúc này, lực lượng đó vẫn tràn đầy thiện ý đối với hắn, chí ít sinh hoạt hiện tại của hắn rất tốt, rất thoải mái. Nhưng tương lai thế nào, thì không thể ước đoán. Lực lượng đó đang cải tạo hắn, vừa nghe tiếng đàn tranh của Liên Ảnh, liền có ảo tượng kỳ dị chưa từng trải qua, nhưng không chỉ là ảo tượng, mà là cảm giác như bản thân đã trải qua ảo cảnh đó, tựa như mở mắt mà thấy mộng vậy. Càng rõ ràng hơn những giấc mộng mơ mơ hồ hồ, rời rời rạc rạc trước giờ, mà là có máu có thịt, rõ ràng thực tại, sau khi tỉnh vẫn có ấn tượng sâu sắc.

Lực lượng đó giống như muốn thông qua ảo tượng và mộng, khơi dậy vài bí mật, vài hồi ức nào đó sâu thẳm trong lòng hắn.

Nghĩ đến đây, Ô Tử Hư say sưa tiến vào mộng.

Lạc Dương thành. Sáng sớm.

Vô Song nữ nhìn thấy Cô Nguyệt Minh tiến vào Bố chính sứ ti phủ, chưa kịp trở tay lại thúc ngựa từ Bố chính sứ ti phủ chạy ra, phi về hướng nam môn. Vô Song Nữ lúc này thoa đen phần da thịt lộ ra ngoài trang phục, vận nam trang, đầu đội mũ che đi mái tóc đen nhánh, không còn vẻ xinh đẹp quyến rũ như lúc trước. Dịch dung thuật tuy thua xa Quỷ phủ thần công của Ô Tử Hư, nhưng cũng có chút tay nghề, chứng tỏ đã được huấn luyện chuyên môn.

Nàng có chút lo lắng Cô Nguyệt Minh lần này có thể một đi không về, nhưng lại không có biện pháp, tất cả chỉ đành theo kế mà làm. Nàng từng giao thủ với Cô Nguyệt Minh, biết muốn giết người này dưới tình huống bình thường là chuyện không thể nào, duy chỉ có nếu nàng tạo ra được tình thế khác thường, thắng lợi hoặc giả có thể nghiêng về phía nàng, mà kế hoạch nàng nghĩ ra chỉ có thể giúp nàng tăng thêm chút ít khả năng thắng lợi. Chỗ quan trọng là Cô Nguyệt Minh vĩnh viễn luôn ở trạng thái giới bị, nàng không hiểu vì sao y có thể giữ được sự cảnh giác cao độ giống như thiên phú đó, nhưng xúc giác nhạy bén của nàng lại cảm ứng được trạng thái của y.

Chỉ cần bị y trước một bước phát giác bố cục tính toán của bản thân nàng, lần ám sát này coi như thất bại, sẽ không có một cơ hội khác, chỉ hận là nàng không có kế hoạch nào tốt hơn.

Mới giờ Tỵ.

Khâu Cửu Sư đang ngồi ở bình đài Ban Trúc Lâu. Chỗ ngồi trang trọng sát đường này, dường như đặc biệt dành riêng cho bọn họ, cho dù bọn họ không đến cũng để trống chờ đợi.

Còn cách ước hẹn giờ Ngọ với Bách Thuần tới một canh giờ, hiện tại người Khâu Cửu Sư đợi không phải là Bách Thuần, mà là Nguyễn Tu Chân đi gặp thủ lãnh Mã Công Thành của Lạc Dương bang.

Khâu Cửu Sư mâu thuẫn trong lòng, Nguyễn Tu Chân tuy đã tháo gỡ lời nguyền giữa hắn và Bách Thuần, cho phép hắn nói chuyện thoải mái với nàng, nhưng vấn đề lại ở chỗ hắn. Bách Thuần biểu lộ rõ ràng không theo đuổi ái tình thiên trường địa cửu, hắn lại sợ bản thân một khi đốt cháy lửa tình, sẽ không thể tự thoát khỏi. Sự gan dạ của hắn là do hắn không có gì vướng víu, vì thế có thể ưỡn ngực dũng cảm thẳng tiến không lùi. Thế nhưng Bách Thuần là người đầu tiên đã khiến hắn động tâm, càng tiếp xúc nàng, càng thưởng thức tư thái phong tình của nàng, cho hắn tư vị chưa từng có, cũng khiến hắn phải suy nghĩ lại lập trường luôn giữ từ trước đến nay.

Nên đối đãi với Bách Thuần thế nào đây?

Nguyễn Tu Chân đã đến, ngồi xuống cạnh hắn, trước tiên liếc mắt quan sát tổng quan trên đường rồi thấp giọng nói: "Sáng nay Cô Nguyệt Minh xuất thành, không biết đi đâu".

Khâu Cửu Sư trấn định lại, cười thốt: "Hy vọng y không phải loại người nhát chết chuồn mất, thật muốn thử xem khoái kiếm của y".

Nguyễn Tu Chân nói: "Tối qua y đến Hồng Diệp Lâu tìm Bách Thuần".

Khâu Cửu Sư thoáng ngạc nhiên.

Nguyễn Tu Chân cười khổ: "Không ai biết được y vì sao đến gặp Bách Thuần, Bách Thuần đặc biệt chào đón y, còn ở khuê phòng gặp y".

Khâu Cửu Sư nhớ đến chuyện Bách Thuần có khách đến thăm tối qua, trong lòng ngập tràn tư vị cổ quái, không thể tả được, nhưng khẳng định không phải cảm giác vui vẻ.

Nguyễn Tu Chân lại tiếp: "Nếu như Cô Nguyệt Minh là một bộ phận trong cả bố cục do đối thủ vô hình của bọn ta sắp đặt, y nhất định sẽ trở lại. Nhưng y và chuyện của Ngũ Độn Đạo có thể có liên quan gì với nhau đây? Ta thật sự không thể nghĩ ra".

Khâu Cửu Sư than: "Ta lại thấy đau đầu rồi. Ban ngày ban mặt, không nên nói chuyện quỷ thần, Ngũ Độn Đạo có thủ đoạn gì mới không?".

Nguyễn Tu Chân đáp: "Sự suy đoán của ta có bảy, tám phần chính xác, Ngũ Độn Đạo bất chấp tất cả trà trộn vào Hồng Diệp Lâu, chắc chắn có mưu đồ mục đích".

Khâu Cửu Sư tinh thần phấn chấn hỏi: "Có phát hiện gì mới sao?".

Nguyễn Tu Chân đáp: "Trước tiên để ta nói sơ qua hình thế bố cục của Hồng Diệp Lâu. Hồng Diệp Lâu lấy Quải Biều Trì làm trung tâm, theo thế hồ mà xây dựng các nhóm kiến trúc. Mặt nam hướng ra đường lớn là nơi đặt chủ đường, một chính hai phụ, tổng cộng có ba tổ lầu phòng, cũng là nơi đón tiếp khách nhân. Mặt bắc hồ là chỗ ở của Chu Bàn Tử và các cô nương cùng nữ tỳ. Hai phía đông, tây của hồ có mười tám lầu thủy tạ, chia ra bên đông chín cái, tây chín cái, chuyên dùng để chào đón quý khách có thân phận địa vị. Bốn lầu vang danh phong tình, là chỗ ở của người có địa vị đặc biệt trong Hồng Diệp Lâu. Bách Thuần ở Tình Trúc Các, Diễm Nương và Thiền Dực thì ở Lộ Trúc Các và Vũ Trúc Các. Yêu cầu duy nhất của Lang Canh là phải có một chỗ an tĩnh không bị người quấy nhiễu, Chu Bàn Tử liền nhường cho hắn vào Phong Trúc Các nằm ở đầu bắc khu lầu thủy tạ phía đông. Lang Canh biện luận phải ở khung cảnh u tĩnh như thế, mới có thể giữ được tâm trạng. Bọn ta biết nội tình bên trong, đương nhiên đoán được hắn là vì để thuận tiện hành sự".

Khâu Cửu Sư vui vẻ nói: "Tiểu tử này dần dần lộ đuôi cáo ra rồi".

Nguyễn Tu Chân thốt: "Tiểu tử này rất biết cách giả thần giả quỷ, nói cái gì cần bồi dưỡng hứng vẽ, chỉ rõ phải ở cảnh quan thủy tạ đẹp nhất mời mỹ nhân làm mẫu đến uống rượu hát xướng, tối qua hắn chọn Thủy Hương Tạ trong số chín thủy tạ phía tây, cách Thư Hương Tạ mà Bách Thuần gặp ngươi một vạt rừng".

Khâu Cửu Sư trầm ngâm: "Tiểu tử này đang thăm dò bố cục của Hồng Diệp Lâu. Nhưng làm vậy có tác dụng gì, chẳng lẽ hắn muốn trộm vật gì trong Hồng Diệp Lâu?".

Nguyễn Tu Chân tiếp: "Bách Thuần trước khi gặp ngươi, nói chuyện với Tiền Thế Thần ở Thư Hương Tạ. Sự thật thì Thư Hương Tạ chính là thủy tạ có cảnh quan đẹp nhất, là thủy tạ chuyên dùng của Bách Thuần, Tiền Thế Thần mỗi lần đến Hồng Diệp Lâu chỉ vào nhà thủy tạ này".

Khâu Cửu Sư kinh ngạc: "Rắc rắc rối rối, cuối cùng lại có quan hệ với Tiền Thế Thần sao? Có thể có quan hệ gì chứ?".

Nguyễn Tu Chân nói: "E rằng phải bắt Ngũ Độn Đạo, dùng nghiêm hình bức cung mới biết rõ đáp án. Bất quá biến chuyển giúp bọn ta khẳng định mục tiêu của hắn không phải là ngọc kiếm của Tiền Thế Thần, cho nên hắn dù biết bọn ta đang rình rập giám thị, vẫn không biết điều mà lui, bởi hắn biết được bọn ta đã đoán lầm".

Khâu Cửu Sư hỏi: "Liệu có phải hắn đang bày bố nghi trận, mục đích cuối cùng của hắn chẳng có quan hệ nào với Tiền Thế Thần?".

Nguyễn Tu Chân tiếp: "Đúng như ta không ngớt nhấn mạnh, Ngũ Độn Đạo là người tuyệt đỉnh thông minh, bọn ta nghĩ được, hắn cũng có thể nghĩ được. Chỉ từ việc bọn ta vẫn ở lại Lạc Dương, liền biết bọn ta có ý giết hắn, cho nên nhất định sẽ tìm cách kiểm chứng thân phận của hắn. Vì vậy hắn chắc hiểu thời gian của hắn không nhiều, cần phải nhanh chóng đạt được mục đích, sau đó ly khai".

Khâu Cửu Sư hừ lạnh: "Hắn trốn được sao?".

Nguyễn Tu Chân nói: "Trước ngày mùng bảy tháng bảy, hắn chắc chắn không trốn được. Nhưng lúc kết thúc dạ yến ở Hồng Diệp Lâu thì thế nào đây? Với mấy trăm tân khách ào ạt ly khai, ai cũng đều là kẻ có danh tiếng, cả đám bảo vệ đi theo, có kẻ lưu lại trong thành, có kẻ rời thành ngay trong đêm. Mã Công Thành nói Tiền Thế Thần đã đáp ứng Chu Bàn Tử cả đêm sẽ mở hai cổng thành nam, bắc. Dưới tình huống như thế, với độn thuật thân thủ của Ngũ Độn Đạo, muốn ly khai thì dễ như trở bàn tay".

Khâu Cửu Sư thốt: "Bọn ta sẽ bắt hắn trước buổi tiệc, nếu như có chứng cứ trong tay, hành động đương nhiên không ngại gì. Cho dù chưa có tin tức từ kinh sư truyền về, bọn ta vẫn có thể giam lỏng hắn, nếu hắn đúng là Lang Canh, bọn ta cứ theo quy củ giang hồ bồi thường cho hắn".

Nguyễn Tu Chân nói: "Cứ làm như thế, cũng là biện pháp tốt nhất bọn ta có thể nghĩ được hiện giờ".

Khâu Cửu Sư im lặng một lúc, hỏi: "Khi ta gặp được Bách Thuần, có nên nói thật với nàng tình huống của bọn ta không?".

Nguyễn Tu Chân cười đáp: "Làm chuyện trái với lòng thì rất thống khổ, đến lúc đó ngươi cứ giống như Ngũ Độn Đạo tùy cơ ứng biến, theo cảm giác trong lòng mà làm".

Khâu Cửu Sư cười khổ: "Ngươi nói nghe thật dễ dàng. Bọn ta hiện tại phải chăng đang bị người dắt mũi? Nếu theo suy đoán của ngươi, kết quả ra sao, không phải nằm trong tay bọn ta. Ủa! Ngươi muốn đi đâu?".

Nguyễn Tu Chân đứng lên, vỗ vỗ vai hắn nói: "Là ta không tốt, làm cho ngươi biến thành sợ bóng sợ gió. Mọi chuyện cứ phóng tay làm tới, không cần nghi thần nghi quỷ nữa. Ta phải đi gặp một người, đợi khi gặp lại ngươi, sẽ thương lượng chi tiết hành động".

Ô Tử Hư ngồi ngơ ngẩn trong sảnh, gương mặt còn ngái ngủ.

Thiền Dực ngồi đối diện hắn, lên tiếng: "Diễm Nương bảo ta đến xem ngươi thức hay chưa, nhưng xem bộ dạng hiện tại của ngươi, ta nên nói với Diễm Nương ngươi đã thức, hay là vẫn đang say sưa trong mộng?".

Ô Tử Hư ôm đầu: "Tối qua ta lại gặp ác mộng, người chết khắp nơi, chỉ có mình ta còn sống".

Thiền Dực không vui nói: "Mộng đương nhiên có đẹp có xấu, gặp ác mộng có gì kỳ lạ chứ? Cái gì chết thì không đáng sợ, sống mới đáng sợ". Không biết có phải nhớ lại ác mộng nào đó đầy sinh vật sống đáng sợ hay không, gương mặt xinh đẹp ngập tràn thần sắc sợ hãi.

Ô Tử Hư vẫn ôm đầu, uể oải thốt: "Thế nhưng ta cách đây không lâu đã gặp ác mộng, ác mộng tối nay hầu như là lặp lại ác mộng đó, khung cảnh không giống nhau, người cũng khác nhau, nhưng cách chết lại gần như giống nhau. Ài! Không biết phải chăng kiếp trước tác nghiệt. Tối nay thật không dám ngủ".

Thiền Dực không lưu tâm: "Ít nói lời thừa đi. Diễm Nương hỏi ngươi trưa nay muốn ăn gì. Lão bản của bọn ta đêm qua bị bức họa mỹ nhân của ngươi làm cho sướng ngất ngây, hạ lệnh phải lấy lễ quý khách đãi ngươi, ăn gì hay ăn ở đâu, do ngươi lựa chọn".

Ô Tử Hư ngẩng đầu lên, thống khổ thốt: "Hiện tại ta không có hứng ăn bất cứ thứ gì, sơn hào hải vị đều không làm ta ngon miệng. Đợi ta gặp lão bằng hữu hãy nói tiếp!".

Thiền Dực hỏi: "Lão bằng hữu? Ai là lão bằng hữu của ngươi?".

Ô Tử Hư đáp: "Đó là tên tiểu tử Cô Nguyệt Minh, làm phiền Thiền Dực để ý giúp ta, dẫn tên tiểu tử đó thẳng đến đây, tốt nhất không nên kinh động người khác. Nàng biết đấy! Ta làm việc tập trung, không thích ra đầu gió".

Thiền Dực sốt ruột nói: "Biết rồi! Biết rồi! Con người ngươi thật là phiền. Tối nay thì sao? Diễm Nương cần biết sớm để an bài".

Ô Tử Hư lòng nghĩ tất cả còn phải xem thái độ của Cô Nguyệt Minh, nếu y vừa thấy hắn lập tức bạt kiếm chào đón, dĩ nhiên mọi thứ đều hỏng. Hắn thốt: "Đợi ta gặp lão bằng hữu hãy nói!".

Thiền Dực không thể ép hắn, chỉ đành đi báo cáo với Diễm Nương.

Cô Nguyệt Minh cưỡi Khôi Tiễn tiến vào cổng thành, binh lính thủ thành sớm đã nhận lệnh, không dám gây khó dễ.

Y cố ý không đi con đường lớn thông suốt nam bắc thành môn, mà cứ băng qua đường nhỏ hẻm lớn, nhắm phương hướng Hồng Diệp Lâu phi đến. Mặt trời sắp leo đến giữa trời, không khí hôm nay đặc biệt nóng, Cô Nguyệt Minh đoán một trận mưa lớn sắp kéo đến. Đối với việc quan sát sắc trời, y là cao thủ trong cao thủ, dự đoán mười lần đã có chín lần đúng.

Nữ lang đó đang làm gì chứ?

Nghĩ đến chuyện bản thân đang ở trong một tòa thành với nữ lang đó, nữ lang lại cho rằng y là cừu nhân giết cậu, tư vị trong lòng hết sức phức tạp. Hiểu lầm này không khó giải khai, chỉ cần bản thân có cơ hội trình bày là được. Sau khi hòa giải với nàng thì thế nào đây? Y có hơi không dám nghĩ tiếp, y chưa từng nhớ đến một người nào như thế. Rốt cuộc nàng đã nói với y một câu thế nào, vì sao bản thân không thể nhớ được, chẳng lẽ đó là chuyện xảy ra trong tiền thế luân hồi sao? Hiện tại của y chẳng lẽ lại là ký ức kiếp trước của y?

Ý nghĩ này khiến y cảm thấy phát rét, cho dù không khí đang nóng như nung lửa.

Phía trước xuất hiện một quán trà, thu hút sự chú ý của Cô Nguyệt Minh là ba cái bàn xếp dọc con đường chạy ngang quán, đối diện là một nhánh sông, xa xa là một cây cầu vắt ngang sông, khiến Cô Nguyệt Minh cảm thấy nếu được ngồi bên một trong những cái bàn đó, uống mấy ngụm trà Long Tỉnh, sẽ là một chuyện hết sức thoải mái.

Cô Nguyệt Minh toàn thân khẽ chấn động, lòng nghĩ bản thân đang làm sao vậy? Y lần đầu sinh ra ý nghĩ muốn hưởng thụ một chút, chuyện này chưa từng phát sinh trên người y. Cuối cùng là chuyện gì? Không lẽ bản thân đã biến chuyển, cảm thấy quyến luyến sinh mệnh, chẳng hạn như thời khắc này?

Cô Nguyệt Minh vỗ vỗ gáy Khôi Tiễn, bắt nó dừng lại, nhảy xuống ngựa, dắt theo Khôi Tiễn bên cạnh, bước đến ngồi xuống một cái bàn đối diện cầu, kêu lớn: "Cho ta một ấm trà Long Tỉnh hảo hạng!".

Tiếng vó ngựa từ phía sau truyền đến, nhanh chóng tiếp cận.

Cô Nguyệt Minh kêu tiếp: "Cho thêm một cái chén".

Ngựa tiến thẳng đến cạnh Khôi Tiễn, ghìm ngựa thu cương, kỵ sĩ cẩn thận xuống ngựa.

Cô Nguyệt Minh điềm đạm thốt: "Nguyễn tiên sinh, ngồi".

Nguyễn Tu Chân đi đến mặt bên bàn, hai mắt sáng rỡ dò xét y, hỏi: "Cô huynh rõ ràng không quay đầu lại, bằng vào gì biết được là Nguyễn Tu Chân ta đến?".

Cô Nguyệt Minh thong thả đáp: "Tiền Thế Thần đã không thể đến tìm ta, dám tìm đến ta, chỉ có các ngươi. Quý bang hiện tại là người ở Lạc Dương thành có đủ tư cách nói chuyện với ta, không phải tiên sinh thì là Khâu Cửu Sư. Nếu là Khâu Cửu Sư đến, hắn sẽ hiển thị thực lực của hắn trong tiết tấu vó ngựa, cho nên ta nghe thì biết không phải hắn. Nguyễn tiên sinh đến là hợp lý nhất, có thể bảo đảm một kết cục hòa khí".

Nguyễn Tu Chân vui vẻ ngồi xuống đối diện y.

Một tiểu cô nương tuổi chừng mười hai, mười ba xem ra là con gái của lão chủ quán trà khệ nệ xách đến một ấm trà, đặt lên trên bàn, rồi tung tăng chạy nhảy đi.

Cô Nguyệt Minh lạnh lùng thốt: "Lần này ta đến Lạc Dương, chuyện phải làm hoàn toàn không dính líu đến quý bang, mọi người nước sông không phạm nước giếng, Nguyễn tiên sinh minh bạch chứ?".

Nguyễn Tu Chân khẽ cười đáp: "Giả như sự tình không như Cô huynh nghĩ thì thế nào? Ta có một đề nghị hợp tác hai bên đều có lợi".

Cô Nguyệt Minh thốt: "Ta đối với Ngũ Độn Đạo không có hứng thú, không thể trực tiếp hoặc gián tiếp truy bắt hắn". Tiếp đó hai mắt bắn ra ánh sáng sắc bén, chằm chằm nhìn Nguyễn Tu Chân: "Còn việc ta đến Lạc Dương là vì chuyện gì, ta khuyên Nguyễn tiên sinh chớ nên suy đoán, để tránh gây thêm rắc rối".

Nguyễn Tu Chân vẫn giữ vẻ tươi cười, ung dung nói: "Cô huynh là người thế nào, thiên hạ đều biết, Cô huynh bảo đảm không phải nhắm vào bọn ta mà đến. Đã không phải đến vì bọn ta, Cô huynh có thể nghe ta nói mấy câu được không?".

Tiểu cô nương lại đến, lần này thì rất nhẹ nhàng, mỗi tay chỉ cầm một cái chén, đặt xuống bàn trước mặt hai người, rồi nhấc ấm trà, châm trà cho hai người, cất giọng non nớt: "Mỗi người ba quan tiền".

Hai người đồng thời đưa tay vào lòng, Cô Nguyệt Minh nhanh tay hơn lấy ra một lượng bạc, đặt vào tay tiểu cô nương, lộ ra nụ cười hiếm hoi: "Không cần thối!".

Tiểu cô nương khẽ ngẩn người, nhìn ngân lượng trong tay mình với vẻ khó tin, tiếp đó reo lên một tiếng, chạy vào trong tiệm khoe với cha mình.

Cô Nguyệt Minh thoáng xao động trong lòng.

Tiểu cô nương hai má hồng hào, biểu hiện sức sống tràn trề, tình cảnh này cũng hết sức bình thường, nhưng không biết sao có thể đánh động lòng y, khiến y có cảm giác trước đây chưa từng cảm thụ. Bản thân có thật trở nên mềm lòng, bắt đầu để ý đến người và việc mà bình thường không muốn chú ý hay không?

Hình ảnh của nữ lang đó lại xuất hiện, theo đó là sự thương cảm không hiểu được, Cô Nguyệt Minh thầm hít một hơi, áp chế cảm giác kỳ dị đó.

Nguyễn Tu Chân tập trung đánh giá y, dường như phát giác một mặt khác ẩn bên trong y.

Cô Nguyệt Minh hồi phục lại vẻ thường, hỏi: "Nguyễn tiên sinh bằng vào gì cho rằng chuyện ta phải làm có quan hệ với các ngươi?".

Nguyễn Tu Chân thành khẩn thốt: "Chuyện này nói ra rất dài, lại có chút không biết nói từ đâu, nói ra Cô huynh có lẽ sẽ cười nhạo. Nếu như ta nói địch thủ chân chính của bọn ta tuyệt không phải là Ngũ Độn Đạo, mà là lệ quỷ linh thần vô hình vô ảnh, có thể khống chế số phận con người, có lẽ Cô huynh sẽ kiên nhẫn nghe chứ?".

Cô Nguyệt Minh cảm thấy rợn cả da đầu. Lời của Nguyễn Tu Chân rót vào lòng y, khiến y sinh ra sự đồng cảm. Từ lúc nhận lệnh của Phụng công công, cho đến lúc này ngồi ở đây đối thoại với thủ tịch mưu sĩ của Đại Hà Minh hùng bá Đại Giang, y cuối cùng đã có cảm giác hãm thân vào một tấm lưới số phận cổ quái. Mọi sựa tựa như có cõi U minh điều khiển, dẫn dắt mối quan hệ giữa mình và nữ lang, với Ngũ Độn Đạo cũng như thế. Ngày đó ở bến đò nhìn thấy cáo thị treo thưởng bắt Ngũ Độn Đạo, nào nghĩ đến sẽ có lúc có thể đụng độ với hắn.

Trầm giọng nói: "Nguyễn Tu Chân quả nhiên danh bất hư truyền, khác hẳn thói thường. Lời của tiên sinh huyền diệu khó giải thích, đối thủ đã là vô hình vô ảnh, Nguyễn huynh lại từ đầu biết được sự tồn tại của đối thủ?".

Nguyễn Tu Chân bình tĩnh đáp: "Dựa vào cách thu thập phân tích các hiện tượng có thể thấy, nếu như nhìn thấy mặt hồ phẳng lặng gợn lên từng dợn từng dợn sóng, có thể đoán được có vật ném vào trong nước, mà chỉ có như thế mới có thể giải thích hợp lý những dợn sóng là từ đâu".

Cô Nguyệt Minh bất giác trầm tư suy nghĩ, vị mưu sĩ siêu việt này, không những dùng từ sinh động, tạo nên sức thuyết phục mạnh mẻ, còn không phải tìm đến mình năn nỉ, khiến y không thể phất tay bỏ đi.

Nhíu mày hỏi: "Nguyễn tiên sinh có thể đưa ra vài ví dụ để tham khảo chứ?".

Nguyễn Tu Chân thốt: "Ngũ Độn Đạo là một con bạc đánh đâu thua đó, chuyện xảy ra khi hắn ở đổ trường thua chỉ còn một lượng bạc, tiếp đó thì phải cả ngày lẫn đêm chạy trốn cuộc truy bắt quy mô của bọn ta, chạy đến bờ nam Đại Giang mới có không gian để thở. Thế nhưng hắn lại bằng một lượng bạc đó, ở đổ trường thắng liền bảy ván, khiến người của đổ trường phải ra mặt, vẫn không thay đổi được kết quả. Quái dị nhất là người của đổ trường ai nấy giống như bị quỷ mê hoặc, thua đến hồ đồ, làm cho người ta nghĩ hoài không hiểu".

Cô Nguyệt Minh nhíu mày: "Ta muốn hỏi Nguyễn tiên sinh một vấn đề, hy vọng có thể thẳng thắn nói ra".

Nguyễn Tu Chân không hiểu thái độ của Cô Nguyệt Minh vì sao thay đổi đột ngột, biến thành lãnh đạm. Gã nói: "Mời Cô huynh chỉ bảo".

Cô Nguyệt Minh hỏi: "Các ngươi phải chăng chưa giết được Ngũ Độn Đạo thì chưa dừng tay?".

Nguyễn Tu Chân than: "Đích xác như thế, bọn ta không có lựa chọn khác".

Cô Nguyệt Minh trầm ngâm phút chốc, nâng chén trà lên: "Kính Nguyễn tiên sinh một chén!".

Nguyễn Tu Chân liền nâng chén, khẽ chạm chén với y, sau đó uống cạn Long Tỉnh trà trong chén.

Cô Nguyệt Minh đặt chén xuống, bình tĩnh thốt: "Nếu muốn bắt Ngũ Độn Đạo, phải dựa vào tài nghệ của các người. Trong chuyện Ngũ Độn Đạo ta không thể giúp, cũng không thể cản".

Nói xong đứng dậy lên ngựa đi luôn.

Hồi 23: Cuồng Phong Bạo Vũ

Xe ngựa dừng lại ngoài cổng Ban Trúc Lâu, Khâu Cửu Sư đang chờ liền chen lên trước mở cửa cho nàng, Bách Thuần hiện ra sau cửa xe, vẫn gương mặt xinh đẹp tươi tắn mỗi lần gặp đều có thể làm hắn xao động.

Khâu Cửu Sư cầm lấy cánh tay nàng đưa ra, đỡ nàng xuống xe, mùi hương cơ thể nàng thoảng vào mũi hắn, lòng thầm than: "Lại ở cùng mỹ nữ này rồi".

Bách Thuần rụt tay về, quay người nhìn hắn, hai người đều như đang ức chế tình cảm trong lòng, nhất thời quên cả nói chuyện, cứ đứng yên mặt đối mặt, cảm thấy vô cùng lúng túng.

Khâu Cửu Sư lòng nghĩ không phải tối qua mới gặp nàng sao? Vì sao hiện tại gặp nàng, lại thoáng có cảm giác cửu biệt trùng phùng. Hắn ẩn ước như biết nguyên nhân, vì lần này và lúc trước mọi chuyện đều đã khác nhau, hắn không còn bị suy nghĩ của bản thân trói buộc, cho nên sinh ra hy vọng, mong muốn được gặp nàng.

Bách Thuần phá vỡ sự trầm mặc, vui vẻ nói: "Không nghĩ được huynh lại ra ngoài lầu nghênh đón Bách Thuần, xem ra có chút long trọng, ăn no xong sẽ nói tiếp chuyện cũ với huynh, tôi đói lắm rồi!".

Nhìn dáng vẻ xinh đẹp, quyến rũ và tràn trề sức sống của nàng, Khâu Cửu Sư như quên hết mọi chuyện.

Cô Nguyện Minh đã tới Hồng Diệp Lâu, nằm ngoài ý liệu của y, Chu Bàn Tử đích thân ở cửa lớn nghênh tiếp y, thân thiết nồng nhiệt bá vai chèo kéo y, khiến y cảm thấy hết sức phiền phức.

Chu Bàn Tử sai hạ nhân dẫn Khôi Tiễn đi chăm sóc cho tốt, bản thân tự dẫn đường, đưa Cô Nguyệt Minh đến Phong Trúc Các nơi Ô Tử Hư đang ở. Thấp giọng nói: "Tôi và Hoa Mộng phu nhân là lão bằng hữu hơn mười năm, biết rõ xuất thân của nàng, hai người bọn tôi chỉ cần nhướng mày là đã biết đối phương đang nghĩ gì trong lòng. Chu Bàn Tử ta có ngày hôm nay, nàng ấy đã ở sau xuất rất nhiều lực, nếu không phải nàng ấy đem tiền bạc giúp đỡ tôi, lại phái Bách Thuần đến giúp ta, Hồng Diệp Lâu tuyệt không có thanh thế như hôm nay. Hoa Mộng là người ta cảm kích nhất. Nguyệt Minh lần này xuống Nam, có chỗ nào cần dùng đến tôi, cứ nói thẳng ra, tôi luôn đứng về phía Nguyệt Minh".

Cô Nguyệt Minh theo lão vượt qua sảnh chính to lớn, đặt chân lên một con đường nhỏ u tĩnh uốn cong trong vườn, nghe nói thế động tâm, lên tiếng: "Đã như vậy, ta không khách khí nữa, ta muốn tạm thời gởi con ngựa của ta cho Hồng Diệp Lâu chăm sóc".

Chu Bạn Tử vỗ ngực: "Chuyện này hoàn toàn không có vấn đề, tôi có thể bảo đảm chăm sóc ngựa của Nguyệt Minh thật tốt". Lại than: "Sắp đến ngày tổ chức tiệc mừng mười năm thành lập Hồng Diệp Lâu, mỗi ngày chỉ ngủ hai, ba canh giờ, nhưng tinh thần ngược lại hết sức hưng phấn, thật cổ quái".

Cô Nguyệt Minh thầm kêu đến rồi, đây chỉ là lời dạo đầu, cũng bội phục cách chuyển đề tài nói chuyện của Chu Bàn Tử, khiến người ta cảm thấy tự nhiên thoải mái, y gật đầu biểu thị đã minh bạch.

Chu Bàn Tử hạ thấp giọng hỏi: "Nguyệt Minh là lão bằng hữu của Lang tiên sinh sao?".

Cô Nguyệt Minh hờ hững đáp: "Có thể nói như thế".

Hai người bước lên một cây cầu dài. Quải Biểu Trì ở bên trái như gương sáng, phẳng lặng thanh khiết, trong suốt đến đáy, từng đàn cá bơi qua bơi lại, tiêu diêu tự tại, mặt hồ phản chiếu hình ảnh thủy tạ, cây cối trên bờ, thỉnh thoảng gió nhẹ thổi qua, mặt hồ sóng gợn lăn tăn, làm cho người ta cảm thấy vui vẻ thoải mái.

Chu Bàn Tử đi sát y, hỏi: "Nguyệt Minh liệu có hoài nghi Lang tiên sinh là Ngũ Độn Đạo mạo danh hay không?".

Cô Nguyệt Minh bình tĩnh đáp:" Ta không có nói như thế".

Ngoài Hoa Mộng phu nhân ra, y cũng có kiên nhẫn đối với Chu Bàn Tử. Cô Nguyệt Minh là người không có bằng hữu, không thích nói chuyện với người khác, Hoa Mộng phu nhân là ngoại lệ duy nhất. Có lẽ người cô độc nhất có lúc cũng cần bộc lộ tâm sự.

Chu Bạn Tử do dự phút chốc, ngữ điệu khẩn cầu: "Mình đều là người nhà, tôi cũng không muốn giấu, hiện tại Lang tiên sinh thực sự là nhân vật quan trọng, thành bại trong khánh điển tròn mười năm của bọn tôi, toàn dựa vào sự xuất hiện của hắn, Bách Thuần nghĩ ra đại kế Bát mỹ đồ, mới làm được có một bức. Vì thế... vì thế tôi có một thỉnh cầu hơi quá với Nguyệt Minh, giả như...".

Cô Nguyệt Minh tiếp lời: "Giả như hắn đúng là Ngũ Độn Đạo, ta cần phải che giấu cho hắn, đúng không?".

Chu Bạn Tử ái ngại nói: "Nguyệt Minh thật là thông tình đạt lý. Ài! Yêu cầu này của tôi liệu có phải gây khó khăn cho Nguyệt Minh hay không? Nói cho cùng, Nguyệt Minh là cao thủ mà Hoàng thượng chuyên dùng để truy bắt đạo tặc".

Cô Nguyệt Minh thốt: "Có thể hắn đúng là Lang Canh, Chu lão bản quá lo lắng rồi".

Chu Bàn Tử dẫn y xuyên qua khoảnh rừng Ban trúc, than: "Nghe giọng điệu của Nguyệt Minh khiến tôi càng lo. Như thế này vậy, tất cả đợi hắn hoàn thành tám bức mỹ nhân đồ hãy nói. Khà! Đến rồi".

Cuối con đường xuất hiện một cổng tròn, phía sau tường phòng xá thấp thoáng trong bóng cây, khung cảnh an tĩnh dưới ánh mặt trời nóng bức.

Cô Nguyệt Minh nhìn Chu Bàn Tử mồ hôi đầm đìa, mỉm cười nói: "Xin để một mình ta vào gặp hắn. Nếu Chu lão bản không nghe có tiếng người phá cửa sổ bỏ chạy, Bát mỹ đồ của ông chắc không có vấn đề, có thể hoàn thành đúng kỳ hạn".

Khâu Cửu Sư nhìn lên trời, nói: "Sắc trời chuyển u ám rồi, xem ra sắp có mưa lớn".

Bách Thuần mỉm cười: "Bọn ta liệu có cần chuẩn bị trước, dời hết bàn ghế vào bên trong không?".

Khâu Cửu Sư vẫn đang nghiên cứu mây đen ùn ùn trên trời, nhún vai đáp: "Bọn ta đã ăn no rồi, trên đầu lại có mái che, đón vài hạt mưa vung vẩy vào không phải rất sảng khoái sao? Khí trời oi bức rất khó chịu. Lúc nhỏ ta mỗi khi mưa lớn, cứ thích cởi y phục chạy lên trên núi, đến khi lạnh đến phát run mới về nhà, nhưng chưa từng vì thế mà sinh bệnh cảm lạnh".

Bách Thuần dịu dàng hỏi: "Nhà công tử ở nơi nào?".

Trên mặt Khâu Cửu Sư lộ ra nét bi thương sâu sắc, thể hiện mọi hy vọng đã bị sụp đổ, không thể vãn hồi quá khứ bi ai. Lắc lắc đầu, thở dài một hơi đáp: "Ta không còn nhà nữa". Ánh mắt nặng nề dừng trên gương mặt xinh đẹp của Bách Thuần, trầm giọng thốt: "Bọn ta sống trong một thời đại không có hy vọng, Hoàng đế vô năng, gian nịnh lộng hành, bên ngoài thì dị tộc xâm nhập, bên trong thì dân tình điêu đứng. Thật có lỗi! Ta không nên nói mấy chuyện mất hứng này".

Bách Thuần nói: "Không! Tôi thích nghe hoài bão trong lòng huynh".

Khâu Cửu Sư lại thở dài, như muốn thổi đi cảm giác nặng nề trong lòng: "Nói ra đừng cười, ta từ nhỏ thích quan sát biến hóa của mây gió trên trời. Ta là một người không thích khóc, rất ít khi rơi lệ, thế nhưng khi ta quan sát gió mây biến sắc trên trời, sấm sét đì đùng, chớp giật xé không, ta cảm thấy sợ hãi muốn khóc, lại cảm thấy sự nhỏ bé của bản thân. Đặc biệt khi ta ở nơi hoang dã, đột nhiên có một tia chớp giật sáng lòa, làm cho người ta mắt mở mà như mù, đột nhiên lại bị một vùng u tối vô biên bao trùm, không còn phân biệt được đâu là trời, đâu là đất, thiên địa hợp thành một thể, cảm giác đó có thể gây nên cảm xúc mãnh liệt trong lòng ta, nếu không điên cuồng hét lên mấy tiếng, khó mà trút được sự u uất trong lòng ta".

Bách Thuần cảm động: "Thì ra công tử là người tình cảm phong phú, thật làm người ta không ngờ được".

Đột nhiên một trận cuồng phong thổi qua, quét y phục hai người bay phần phật, bụi đất trên đường cuộn lên trên không, người đi đường tranh nhau núp, lúc này mây đen ngùn ngụt, chiếm hơn nửa bầu trời rộng lớn.

Vài giọt mưa túc tắc rơi xuống mái lầu, phát ra thanh âm lách tách to nhỏ không đều.

Khâu Cửu Sư thốt: "Trận mưa này còn lớn hơn so với dự tính của ta".

Lời còn chưa dứt, lại một trận gió thổi đến, so với trận gió khi nãy còn mãnh liệt hơn, cây cối hai bên đường không ngừng lắc lư, sau đó mưa lớn đột ngột bạo phát, mưa lớn từ trên trời trút xuống, đất trời ngoài lầu biến thành một vùng thủy khí mênh mông hỗn độn, không còn phân biệt được đâu là cây, đâu là đường, đâu là xe ngựa, người đi, hơi lạnh tràn trụa, còn hiên lầu thì như biến thành nơi tị nạn an toàn duy nhất trên thế gian hỗn loạn này.

Bách Thuần vui vẻ nói: "Bách Thuần lần đầu cảm thấy chỗ hay của hiên lầu. Hiên lầu là chỗ độc đáo của Ban Trúc Lâu, những cái khác đều bình thường. Vừa là trong lầu, lại vừa ngoài lầu. Chẳng trách Ban Trúc Lâu có thể liệt danh trong Lạc Dương tam lâu".

Khâu Cửu Sư cảm thấy hứng thú, hỏi: "Lạc Dương tam lâu, những lầu khác là lầu nào?".

Bách Thuần đáp: "Lạc Dương có Lạc Dương Lâu mà danh vang thiên hạ, vì thế trong Lạc Dương thành, các cửa tiệm ăn theo vinh quang của Lạc Dương Lâu, đều mang thêm chữ Lâu. Trong các lầu, đứng đầu đương nhiên là Lạc Dương Lâu, tiếp đó là Hồng Diệp Lâu của bọn tôi, Ban Trúc Lâu đứng thứ ba, nhưng cũng khó mà so sánh. Công tử hôm nay tâm tình rất tốt đó!".

Khâu Cửu Sư cười tươi thốt: "Tâm tình của ta quả không tệ. Không giấu Bách Thuần, vừa rồi Khâu Cửu Sư ta phá lệ lần đầu tiên dùng cơm với một cô nương, Bách Thuần khiến ta cảm thấy thì ra nhìn người ta ăn cũng có thể vui vẻ như thế, sinh thú dạt dào".

Bách Thuần lúng túng khẽ cúi đầu, giọng nũng nịu: "Công tử cứ trêu chọc nô gia, lúc tôi đang ăn là khó coi nhất đấy".

Khâu Cửu Sư cười khà khà thốt: "Đương nhiên không phải như thế, lời của ta là thực lòng".

Bách Thuần nhìn hắn, nhẹ nhàng nói: "Nếu như từ lúc đầu thái độ của công tử giống như hiện giờ, Bách Thuần tuyệt không thể sinh lòng oán giận, công tử rốt cuộc có tâm sự gì?".

Khâu Cửu Sư muốn nói, đột nhiên lại không bật ra lời. Chính là thiên ngôn vạn ngữ, không biết nói từ đâu.

Cô Nguyệt Minh bước vào sảnh đường của Phong Trúc Các, có một người đang ngồi bên bàn đặt ở giữa sảnh, mặt hướng ra cửa, ánh mắt sáng rực đang dò xét y.

Đó là một đôi mắt rất đặc biệt, ẩn chứa vẻ lãnh tĩnh thần bí khôn lường, nhưng tuyệt không phải lạnh lùng, không có chút hung ác ngoan độc, sự linh hoạt vô hình thấp thoáng trong đôi mắt đó, có thể tùy tâm biến hóa, khiến y không thể nắm bắt được suy nghĩ chân chính trong lòng hắn. Đó là đôi mắt siêu việt không thể hiểu nổi, giống như vĩnh viễn đang theo đuổi thứ gì đó mà người khác không thể biết được.

Con người thật của Ngũ Độn Đạo có mỵ lực hơn nhiều so với hắn trên cáo thị treo thưởng. Hắn tuy ngồi yên không động, Cô Nguyệt Minh lại nhìn ra hắn không động thì thôi, động thì linh hoạt như thỏ cáo xảo quyệt, cho dù võ công có cao hơn hắn, thậm chí người đông thế mạnh, muốn bắt được hắn vẫn không phải chuyện dễ.

Ô Tử Hư vui vẻ nói: "Lão bằng hữu của ta đến rồi. Cô huynh mời ngồi".

Cô Nguyệt Minh ngồi xuống đối diện hắn, tháo bội kiếm xuống, đặt trên mặt bàn, hờ hững nói: "Ta là lão bằng hữu của ngươi sao?".

Ô Tử Hư cười khì khì: "Bọn ta không những là lão bằng hữu, còn là trời sinh một đôi. Cô huynh là quan chuyên bắt đạo tặc, tiểu đệ là trộm trong trộm, nghề nghiệp của mỗi người đều xác lập được vị trí tối cao. Ông trời đã an bài như thế, đương nhiên là chú định bọn ta phải đối đầu, chỉ không tưởng là dưới tình huống thế này".

Cô Nguyệt Minh không tỏ vẻ gì, đổi chủ đề hỏi: "Vì sao ngươi lại làm như thế? Mạo danh Lang Canh khẳng định là một lựa chọn ngu xuẩn".

Ô Tử Hư lộ thần sắc đành vậy, nói: "Lúc đó ta vì gấp gáp nhập Lâu, bốn chữ Họa Tiên Lang Canh buột miệng nói ra, sau đó nghĩ ra bọn gác cửa làm sao biết Lang Canh là tên rác rưởi nào, nói Canh Lang hay Lang Canh có gì khác nhau, cuối cùng vẫn là dùng ngân lượng mở cửa. Ài! Lang Canh là tên què, chỉ cần Cô huynh có nghe qua chuyện này, thì có thể vạch trần ta. Ta thật thất sách, giống như bị quỷ mê vậy".

Cô Nguyệt Minh lạnh nhạt thốt: "Ngươi nhiều nhất chỉ có thời gian hơn mười ngày, với sự thận trọng của Nguyễn Tu Chân, nhất định sẽ nghĩ cách tìm xem ở kinh thành có nhân vật nào có ngoại hiệu như thế không".

Ô Tử Hư vui mừng: "Như thế Cô huynh đã quyết định che giấu cho ta".

Cô Nguyệt Minh hời hợt thốt: "Ta chưa từng quản chuyện vớ vẩn của người khác. Chuyện của ngươi ta không thể nhúng tay, không thể vạch trần ngươi, nhưng cũng không thể chứng thực ngươi là Lang Canh".

Ô Tử Hư ngạc nhiên: "Đã là như thế, Cô huynh cứ xem như chưa từng nghe qua Lang Canh, càng không cần đến gặp ta, để tránh chuốc lấy phiền phức không đáng, thêm một chuyện không bằng bớt một chuyện".

Cô Nguyệt Minh nói: "Ta thích làm gì thì làm, ta không rảnh quan tâm người khác nghĩ thế nào".

Ô Tử Hư bị tắc lời.

Cô Nguyệt Minh trầm ngâm chốc lát, tiếp: "Ta đến gặp ngươi, là vì muốn biết rõ một việc".

Ô Tử Hư ngơ ngác hỏi: "Là chuyện gì chứ?".

Hai mắt Cô Nguyệt Minh phát ra ánh sáng kỳ dị, định thần chăm chú nhìn hắn, từ từ nói từng chữ: "Tác phẩm của ngươi treo trong chỗ ở của Bách Thuần, trong bức vẽ là mỹ nữ ngồi trên chiến xa cổ, phải chăng đúng có người đó, nàng ta hiện tại ở nơi nào?".

Câu cuối cùng vừa nói xong, cuồng phong bất ngờ mãnh liệt thổi đến, từ các phương hướng khác nhau cuộn xoáy tốc qua cửa sổ tiến vào sảnh, ngoài Các cây cối lắc lư, thiên địa biến sắc, chim muông kinh hãi bay tán loạn. Hai người ngươi nhìn ta, ta nhìn ngươi, đều sinh ra cảm giác khác thường.

Mưa cứ vãi hạt xuống, lúc bắt đầu còn lưa thưa, đột ngột ào xuống như trời sập, mưa càng lúc càng lớn không thể chống đỡ, ngoài lầu biến thành một thế giới mênh mông nước.

Khâu Cửu Sư thở ra một hơi.

Bách Thuần u uẩn hỏi: "Thật khó nói như thế sao?".

Khâu Cửu Sư gật đầu nói: "Đúng là như thế, vì ta nói ra, sợ nàng sẽ cho rằng ta bị điên, hoặc là Nguyễn Tu Chân bị điên rồi".

Bách Thuần chấn động tinh thần, đôi mắt đẹp sáng lấp lánh, thốt: "Thì ra thú vị như thế. Mau nói đi, tôi thích nhất nghe chuyện hoang đường ly kỳ. Càng hoang đường kỳ dị, càng hay".

Khâu Cửu Sư phát giác một mặt khác ẩn trong tâm hồn Bách Thuần, luôn truy cầu kích thích, nói chuyện với nàng tuyệt không hề cảm thấy buồn chán. Mưa ngoài lầu càng lúc càng lớn, vạn vật đều bị trùm dưới màn mưa, dường như chỉ có hiên lầu của bọn họ là tách biệt, còn Lạc Dương thành chỉ còn hai người bọn họ, mọi chuyện khác không còn quan trọng nữa. Đột nhiên, hắn cảm thấy nói gì cũng chẳng hệ trọng, chỉ cần đủ kích thích là khiến Bách Thuần thấy hứng.

Khâu Cửu Sư không nhìn ra ngoài nữa, đưa mắt qua Bách Thuần, nhận ra khát vọng và nỗi trông chờ của nàng, trầm giọng: "Nếu phải dùng lời đơn giản nhất để hình dung, đó là ta và Tu Chân đang đối kháng với một tấm lưới số phận giăng khắp thiên địa do một bàn tay vô hình thao túng, mỗi một người bên cạnh ta, đều có thể là cá trong lưới. Nhưng tình hình thế nào chỉ có ta và Tu Chân biết được, người khác cho dù ba đầu sáu tay, thông minh như Ngũ Độn Đạo, Cô Nguyệt Minh, vẫn chỉ là con cá đáng thương vô tri trong lưới mà thôi".

Sắc mặt Bách Thuần chuyển tái, thốt: "Bách Thuần nghe huynh nói mà lòng phát rét".

Khâu Cửu Sư cười khổ: "Ta có nên nói tiếp không?".

Bách Thuần rạo rực: "Đang nói hay như thế, đương nhiên phải nói tiếp. Vì sao các người có thể có ý nghĩ đó, các người từ đâu có được suy luận ly kỳ thế này?".

Khâu Cửu Sư lập tức thay đổi cách nhìn đối với sự nhạy bén của nàng, ngạc nhiên hỏi: "Bách Thuần thật hiểu ta đang nói gì?".

Bách Thuần nguýt hắn: "Có gì khó hiểu đâu. Nói mau! Các người dựa vào căn cứ gì?".

Khâu Cửu Sư thốt: "Chủ yếu là căn cứ vào hai chuyện. Đầu tiên là Tu Chân trong mấy ngày đều bốc quẻ, quẻ tuy khác nhau, nhưng kết quả đều giống nhau, hiển thị lệ quỷ quấy phá. Tiếp đến bọn ta thu được một tin tức, đó là một kẻ bề ngoài giống Ngũ Độn Đạo bằng vào một lượng bạc trong tay, ở đổ quán trong một thị trấn phía nam Động Đình thắng liền bảy ván, khiến người của đổ quán phải ra mặt dụng thuật, thế nhưng đều bại trận, để cho hắn thắng năm trăm lượng bạc rồi nghênh ngang bỏ đi. Tu Chân vì thế sinh nghi, đến đổ quán đó điều tra xem người của đổ quán thua như thế nào. Ta thì đến Lạc Dương gặp Tiền Thế Thần, nguyên nhân là vì cho rằng bảo vật truyền gia Thiên Nữ Ngọc Kiếm của Tiền Thế Thần, có thể là một mục tiêu của Ngũ Độn Đạo. Ngày Bách Thuần bị mấy tên Lạc Dương lục công tử gì đó ngăn chặn xe ngựa, Tu Chân cũng vừa đến Lạc Dương, ở tại hiên lầu này tường thuật kết quả điều tra cho ta nghe".

Bách Thuần nhíu mày, ngưng thần nhìn hắn, chầm chậm lắc đầu nói: "Tôi vẫn không minh bạch!".

Khâu Cửu Sư thốt: "Chuyện này vượt khỏi lẽ thường, thực không dễ hiểu. Trước tiên nói về kết quả điều tra của Tu Chân, đó là cao thủ đổ thuật của đổ quán giống như bị quỷ mê, rõ ràng nên ném ra điểm số này, lại ném ra điểm số khác, Tu Chân do đó đưa ra kết luận trong cõi U minh có một địch nhân vô hình, đang bố trí một cục thế số phận. Cục thế này lấy Ngũ Độn Đạo làm trung tâm, bao gồm tất cả những người có quan hệ với Ngũ Độn Đạo".

Bách Thuần hít sâu một hơi: "Thế gian lại có chuyện kỳ quái như thế? Nếu như các người không phải lo lắng thái quá, thì chuyện này vừa khủng bố lại vừa kích thích, hơn nữa không phải sức người có thể kháng cự. Nhưng chuyện này có quan hệ gì đến tôi và huynh chứ?".

Khâu Cửu Sư đáp: "Chính vào lúc ta từ nơi này nhảy xuống đường, Tu Chân đột nhiên tỉnh ngộ, Lạc Dương lục công tử vì sao không ngăn cản Bách Thuần sớm một chút, hoặc chậm một chút, lại cứ phải xảy ra trước Ban Trúc Lâu, khiến bọn ta không thể nhắm mắt làm ngơ, điều này hiển thị tên địch nhân vô hình đó, ở trong tối thao túng tất cả, dẫn dắt phương hướng phát triển của sự việc theo ý y. Cục thế này cứ từng vòng từng vòng đan cài vào nhau, chỉ cần bọn ta có thể phá hủy một mắt xích trong đó, có thể phá cả cục thế số phận này, tất cả sẽ quay về nằm trong sự khống chế của bọn ta".

Bách Thuần hít vào một làn khí lạnh: "Nghe huynh nói mà tôi sởn gai ốc. Các người cho rằng tương ngộ giữa bọn ta là một mắt xích trong cục thế mệnh vận đó, thế nhưng tôi có thể có tác dụng gì chứ?".

Khâu Cửu Sư đáp: "Chí ít Bách Thuần cũng tranh thủ nới rộng kỳ hạn tám ngày cho Ngũ Độn Đạo. Cho đến lúc này, bọn ta vẫn không nhìn ra được cả sự bày bố của y, chỉ biết rõ là địch nhân vô hình đó đang đứng về phía Ngũ Độn Đạo. Còn bọn ta đang từng bước từng bước bị y dẫn vào đường chết".

Bách Thuần nhíu mày: "Huynh đã nghĩ rằng phải phá cục thế này, vì thế sai hẹn không đến gặp nô gia. Ài! Bách Thuần không biết nên giận hay là đồng tình với huynh đây. Nói tôi biết, Ngũ Độn Đạo đối với huynh thật trọng yếu như thế sao? Mọi thứ khác đều có thể bỏ qua hết?".

Khâu Cửu Sư như quên mất ngoài lầu mưa gió cuồng bạo đang tàn phá Lạc Dương thành, hai mắt bừng lên ánh sáng lạ thường, giọng nói vang vang: "Ta và Tu Chân trước khi gia nhập Đại Hà Minh đã sớm quen biết nhau, còn có cùng mục tiêu chí hướng. Tu Chân nghiên cứu phương pháp bình loạn tạo an, ta thì học tập binh pháp võ công. Bọn ta không có dã tâm xưng vương xưng đế, chỉ hy vọng có thể lập lại trật tự, giúp quốc gia an bình thịnh vượng. Muốn đạt được mục tiêu này, cần phải có lực lượng hùng hậu, đây là nguyên nhân bọn ta gia nhập Đại Hà Minh".

Bách Thuần vui vẻ nói: "Người có đại chí đâu đâu cũng thấy, nhưng người như công tử và Nguyễn tiên sinh, Bách Thuần lần đầu gặp được. Thế nhưng tôi không phải đã tỏ rõ lập trường sao? Bách Thuần liệu có gây trở ngại cho con đường đại nghiệp của công tử không?".

Khâu Cửu Sư than: "Tình huống há đơn giản như thế, ở mỗi tình huống, đều có xuất hiện vấn đề".

Ngưng một chút rồi tiếp: "Có mấy lời ta thaật không muốn nói ra, sau khi nói, quan điểm và ấn tượng của Bách Thuần đối với ta có thể vĩnh viễn không thể hồi phục được giống như lúc trước".

Bách Thuần rất hứng thú hỏi: "Huynh dường như là muốn chủ động giới thiệu khuyết điểm của bản thân, đúng không?".

Khâu Cửu Sư nhìn ra thế giới bên ngoài lầu đang bị màn nước ngăn cách, giọng tràn đầy cảm khái: "Đến sau khi ta đã chọn con đường phải đi, liền biết cuối cùng sẽ xảy ra tình huống trước mắt --- đối diện nữ tử có thể khiến mình động tâm, nhưng lại vô phúc hưởng thụ ân tình mỹ nhân".

Bách Thuần vui vẻ nói: "Tôi chưa từng nghe qua lời tỏ tình bi tráng như thế, vấn đề của công tử rốt cuộc nằm ở chỗ nào?".

Ánh mắt Khâu Cửu Sư quay lại trên người nàng, hai mắt sáng lên, trầm giọng thốt: "Sau khi ta nghiên cứu qua các trận chiến lớn nhỏ từ xưa đến nay, rút ra một kết luận, đó là chiến tranh tuyệt đối không dành cho kẻ nhát gan hay đạo đức. Bản chất chiến tranh vốn vô tình, chỉ có thể dùng bộ óc, không thể dùng cảm tình. Đơn cử một tình huống, ví như trong chiến tranh, ta và Tu Chân mỗi người lãnh một nhánh bộ đội, ở vị trí khác nhau giao phong cùng địch nhân, nếu như chiến thắng trận chiến đó, thắng lợi cuối cùng sẽ thuộc về bọn ta. Còn phương pháp đánh thắng, chỉ có một, đó là ta cần phải chấp nhận hy sinh mình cùng bộ đội, để giành được thắng lợi cuối cùng, ta sẽ phải không chút do dự mà làm như thế. Nhưng nếu khi đó Khâu Cửu Sư ta có vướng víu trong lòng, sinh ra do dự, đến mức đánh mất cơ hội tốt, thì sẽ thua trận chiến đó. Bách Thuần nàng hiểu chưa? Nếu nàng trở thành nữ nhân của ta, ta không thể không suy nghĩ cho nàng".

Bách Thuần như có suy tư, nhìn hắn gật đầu nói: "Tôi bắt đầu có minh bạch. Nhưng tôi tin rằng trên chiến trường không có ai là đối thủ của huynh, huynh căn bản không thể gặp phải dạng tình huống đáng sợ đó".

Khâu Cửu Sư cười khổ: "Bách Thuần nàng sai rồi, loại tình huống như thế sẽ sớm xuất hiện, chỉ là nàng chưa phát giác thôi!".

Bách Thuần khẽ run thân kiều, hoa dung trắng nhợt, hỏi: "Huynh là chỉ Ngũ Độn Đạo?".

Khâu Cửu Sư nhắm đôi mắt hổ, sau một hồi lại mở mắt thốt: "Bách Thuần đúng là băng tuyết thông minh. Ta hiểu Bách Thuần, nàng là thương tiếc tài năng của Ngũ Độn Đạo. Nói thẳng ra, nếu như ta có quyền lựa chọn, ta tuyệt không đụng đến nửa sợi lông trên người hắn. Thế nhưng ta không có chọn lựa khác, đây không phải là vấn đề ai đúng ai sai, hay là tội của Ngũ Độn Đạo chắc chắn phải chết hay không. Mà là để đạt đến thắng lợi cuối cùng, bất kỳ ai cũng có thể bị hy sinh. Ngũ Độn Đạo đã biến thành một nhân vật quan trọng như thế, vì mục tiêu lớn phía trước, bọn ta cần phải giết Ngũ Độn Đạo. Bách Thuần hiểu không?".

Sắc mặt Bách Thuần càng tái, nói không ra lời.

Khâu Cửu Sư đau thương thốt: "Đây là việc trái lương tâm đầu tiên bình sinh ta phải làm. Kẻ nên chết là đứa con bất hiếu của bang chủ bọn ta, tuyệt không phải Ngũ Độn Đạo. Thế nhưng trừ phi ta vứt bỏ con đường ta đã chọn, bằng không ta chỉ có một lựa chọn. Ta có thể nói với Bách Thuần, trong chuyện này ta tuyệt không thể thay đổi. Bách Thuần có thể tiếp nhận một con người như ta không?".

Bách Thuần cắn môi, thấp giọng: "Huynh không nhận ra đây giống như sự sắp đặt của số mệnh sao? Vì sao huynh không đi đối kháng nó, tìm ra một phương pháp có thể lưỡng toàn kỳ mỹ?".

Khâu Cửu Sư gật đầu đáp: "Nếu cái đầu của Nguyễn Tu Chân vẫn không nghĩ ra một cách lưỡng toàn kỳ mỹ, trên thế gian khó có thể tồn tại một phương pháp như thế. Bách Thuần trở về đi! Hãy tìm cách quên ta. Khâu Cửu Sư ta có thể sẽ phá hoại cuộc sống của nàng. Nàng có thể hận ta, như vậy cũng tốt, ta căn bản không kết duyên cùng nàng được".

Mưa lớn tiếp tục tàn phá Lạc Dương thành.

Hồi 24: Đồng Bệnh Tương Liên

Ô Tử Hư hạ thấp giọng hỏi: "Liệu có phải rất tà môn không?".

Cô Nguyệt Minh lạnh lùng đáp: "Chỉ là một trận mưa lớn đột ngột, ngươi sao nhát gan thế".

Ô Tử Hư thản nhiên nói: "Chính vì ta nhát gan, cho nên nghĩ ra kế hoạch cẩn mật chu tường, chưa từng phạm sai lầm. Liên tiếp phạm phải hai sai lầm là chuyện không thể, thế nhưng lại phát sinh trên người ta".

Bên ngoài mưa gió rào rào, bên trong sảnh đường lại đặc biệt an toàn, bí ẩn và yên tĩnh.

Cô Nguyệt Minh nói: "Ta không phải đến nghe ngươi kể khổ".

Ô Tử Hư cười cay đắng nói: "Bách Thuần hỏi ta một câu giống thế, người khác chỉ là nhận ra bức 'cổ chiến xa nữ thần' của ta rất hấp dẫn. Sự thật ta có thể cho Cô huynh một đáp án đồng dạng, nhưng lại có khả năng sai một ly đi một dặm, sẽ khiến ta cảm thấy không đúng với Cô huynh".

Cô Nguyệt Minh không có chút nôn nóng nào, hỏi: "Cao tính đại danh của các hạ?".

Ô Tử Hư ngạc nhiên nói: "Vì sao đột nhiên đối với ta lại có hứng thú? Tiểu đệ bản tính xấu, tự lập chí làm đạo tặc, cải tên thành Ô Tử Hư, lấy ý Tử hư ô hữu (không tồn tại). Đây là nhân vật mà bản thân ta vọng tưởng sẽ trở thành, đợi sau khi ta rửa tay chậu vàng, Ngũ Độn Đạo sẽ biến thành nghi ảo nghi thật, giống như là Tử hư ô hữu".

Cô Nguyệt Minh bình tĩnh nói: "Ô huynh có thể nói ngắn gọn không?".

Ô Tử Hư vội nói: "Cả chuyện này phải nói từ lúc ta phạm sai lầm đầu tiên, ta chạy trốn thục mạng, dùng hết bản lãnh, cuối cùng chạy đến bờ nam Đại Giang, hoảng loạn không nhắm được đường đi, chỉ biết chạy vào hoang sơn dã lãnh, nào biết địch nhân lại có thể truy sát sau ta, đến khi ta trượt chân rơi xuống thủy đàm, bị dòng nước cuốn đi không biết bao xa, lúc tỉnh lại phát giác bản thân đang ở một địa phương vô cùng cổ quái".

Cô Nguyệt Minh nhíu mày nói: "Dựa vào thân thủ của Ô huynh, cho dù truy đuổi ngươi chính là Khâu Cửu Sư, làm sao có thể ở hoang sơn dã lãnh rừng cây rậm rạp vẫn theo sát sau ngươi?".

Ô Tử Hư than: "Ta cũng không minh bạch như Cô huynh, ly kỳ nhất là ta không thấy được bóng người, chỉ nghe tiếng vó ngựa. Con mẹ nó! Ngựa làm sao vượt núi băng khe được chứ? Sau đó nghĩ lại, tình huống có chút giống như bị quỷ mê. Ài! Ta không biết đắc tội với thần thánh phương nào, chuyện sai lầm chuyện ngu ngốc đều làm hết cả".

Cô Nguyệt Minh hít sâu một hơi, hỏi: "Ngươi bị cuốn đến địa phương thế nào?".

Trên mặt Ô Tử Hư lộ ra thần tình hồi tưởng, hai mắt chấp chới thần sắc kinh hãi, nói: "Đó là một nơi núi đồi chập chùng, ao hồ đầm lấy chằng chịt, đầy rẫy cổ thụ hoa lá kỳ dị, vĩnh viễn được bao phủ bởi một tầng sương mù, ta còn cho rằng bản thân chết rồi, đang đến thế giới U minh".

Cô Nguyệt Minh chấn động thốt: "Vân Mộng Trạch!".

Với sự lãnh tĩnh của y, vẫn không kiềm được rợn tóc gáy, y ẩn ước cảm thấy sự suy đoán của Nguyễn Tu Chân là có đạo lý, đối diện với một người dường như không có liên quan này, rất có thể có liên hệ vi diệu với y.

Ô Tử Hư lắc đầu nói: "Không phải Động Đình Hồ, là địa phương phía đông Tương Thủy mặt nam Động Đình Hồ, ta sau đó mới biết rõ vị trí của ta".

Cô Nguyệt Minh không giải thích sự phân biệt giữa Động Đình Hồ và Vân Mộng Trạch mà y biết, im lặng lắng nghe.

Ô Tử Hư tiếp tục: "Ta sau khi hồi phục tri giác, phát hiện bản thân nằm trên bùn lầy bên cạnh một nhánh sông chảy xiết, nửa thân dưới còn dầm trong nước, tay chân tê dại, không thể di động".

Cô Nguyệt Minh gật đầu nói: "Nhánh sông đó nhất định là Vô Chung Hà".

Ô Tử Hư kinh ngạc hỏi: "Cô huynh không phải người kinh sư sao? Làm sao có thể hiểu rõ sông ngòi nơi phương Nam xa xôi này như thế?".

Cô Nguyệt Minh hờ hững thốt: "Nói tiếp đi!".

Ô Tử Hư hiển nhiên đang chìm đắm trong hồi ức, không vì ngữ điệu như mệnh lệnh của y mà không vui, nói: "Đúng vào thời khắc đó, ta nghe được tiếng chân của một bầy ngựa, còn có thanh âm vang vang của tiếng bánh xe nghiến đất".

Cô Nguyệt Minh ngạc nhiên nói: "Chuyện này không thể có được".

Ô Tử Hư than: "Lời của ngươi chính là ý nghĩ trong lòng ta lúc đó, ta cố sức ngẩng đầu nhìn về trước, đại đội nhân mã đang đi ở phía trước, chiến sĩ toàn thân mặt giáp trụ cổ quái, lại không có một người nào chú ý đến sự tồn tại của ta. Cũng vào lúc này, ta thấy được nàng".

Đột nhiên cuồng phong nổi lên, gió cuốn theo mấy hạt mưa từ ngoài mặt hồ vào trong sảnh, trời đất trong ngoài vào lúc này như hợp thành một. Mưa gió đến đi rất nhanh, lại khôi phục tình cảnh như trước.

Cô Nguyệt Minh hít sâu một hơi, hét lên: "Không cần quan tâm! nói tiếp đi!".

Ô Tử Hư kinh hoảng còn chưa bình tĩnh, nói: "Nàng điều khiển Cổ chiến xa, người mặt y phục hoa lệ như trong bức vẽ của ta, nhìn đến ta, tiếp đó đầu ta giống như bị sét đánh trúng, lúc ấy mất đi thần trí. Đến khi tỉnh lại, tuy vẫn ở cạnh sông, lại không phải là địa phương đó".

Cô Nguyệt Minh cảm thấy bản thân dường như dầm mình trong mưa gió ngoài Các, không thể bảo trì tâm cảnh bình hòa, nhưng lại không nắm được nguyên do khiến tâm thần bất ổn.

Ô Tử Hư hạ thấp giọng hỏi: "Ta liệu có phải nằm mộng hay không?".

Cô Nguyệt Minh thở ra một hơi, nhằm xoa dịu sự căng thẳng khó hiểu trong lòng, thành thật nói: "Ta không biết, bản thân ngươi chắc biết rõ".

Ô Tử Hư nói: "Ta thật không thể phân biệt. Từ thời khắc đó trở đi, tất cả đều khác lạ, giống như có thần linh hoặc lệ quỷ đang dẫn đường ta, ta có thể đang trong ác mộng, giữa ban ngày ban mặt nhìn thấy ảo tượng, vận khí may mắn một cách khác thường, lại không ngừng làm chuyện ngu xuẩn. Nhưng chuyện khiến ta kinh hoảng bất an nhất đó là ta bằng vào một lượng bạc ở đổ trường thắng liền bảy ván, thắng được bốn trăm chín mươi chín lượng bạc, công thêm một lượng của ta, tổng cộng năm trăm lượng. Ài! Trời phật ơi, năm trăm lượng chính là kinh phí dự phòng thường xuyên cho hành động trộm bảo của ta, không nhiều cũng không ít, Cô huynh nói ta xem rốt cuộc chuyện này là thế nào đây".

Cô Nguyệt Minh phát lãnh trong lòng, tim như ngừng đập.

Lời của Nguyễn Tu Chân lại vang lên bên tai.

"Nếu ta nói địch thủ chân chính của bọn ta, tuyệt không phải là Ngũ Độn Đạo, mà là lệ quỷ thần linh vô hình vô ảnh, có thể khống chế vận mệnh người ta, có lẽ khiến Cô huynh có kiên nhẫn nghe chăng?".

Ô Tử Hư nói: "Lời của ta từng câu đều là thực. Ài! Ta cũng tự biết hiện giờ đã giam chân dưới bùn, cơ hội chạy khỏi sự truy bắt của người ta càng lúc càng xa. Đương nhiên ta không chịu ngồi yên chờ chết, ít nhất vẫn cảm thấy bản thân hiện tại đang ở cảnh giới đẹp nhất của sinh mạng, vừa sợ vừa mừng, kích thích khẩn trương, muôn màu muôn vẻ. Ta không phải muốn giành được sự đồng tình của Cô huynh, chỉ là hy vọng Cô huynh có thể cho ta minh bạch một chuyện, Cô huynh vì sao có thể vì một bức tranh mà đến gặp ta?".

Trong lòng Cô Nguyệt Minh trào lên một cảm giác vô cùng kỳ dị nhưng không thể minh bạch, nói: "Nói ra có tác dụng gì với ngươi chứ?".

Ô Tử Hư khẩn cầu nói: "Ta hiểu Cô huynh, không phải giống ta thích nói chuyện, càng không thể thấu lộ nội tâm với người khác. Thế nhưng ta chỉ là người tính mệnh khó giữ, tùy lúc có thể đi đời nhà ma, Cô huynh coi như thương xót ta, để ta chết cũng làm một con quỷ minh bạch chứ không phải quỷ hồ đồ".

Cô Nguyệt Minh hỏi: "Hỏi qua Bách Thuần chưa?".

Ô Tử Hư đáp: "Còn chưa có cơ hội".

Ánh mắt Cô Nguyệt Minh nhìn ra mưa gió ngoài cửa sổ, hai mắt phát ra thần sắc mê man, chậm rãi nói: "Ô huynh có cảm giác bị quỷ mê, ta hiện tại cũng bắt đầu có cảm giác cổ quái như thế. Ô huynh đặt bút vẽ cổ chiến xa mỹ nữ, họa pháp hết sức truyền thần, vào lúc ta nhìn vào nàng, nàng giống như bừng sống lại, dùng đôi mắt đó của nàng nhìn ta, lúc đầu trong mắt như có cừu hận bốc cháy, chớp mắt cừu hận tan biến đi, thay vào đó là sự thâm tình quan tâm, hiểu và thương xót, khiến ta không kiềm chế được. Nàng tựa như hết sức quen thuộc ta, còn cảm giác của ta đối với nàng cũng vượt quá tình cảm mà kẻ thưởng thức nên có, ta không thể xem nàng chỉ là một bức tượng nữa".

Ô Tử Hư ngẩn ra nhìn y, nhất thời hai người đều cảm thấy không thể nói gì.

Cô Nguyệt Minh cầm lấy trường kiếm để trên bàn, đeo vào trên lưng.

Ánh mắt Ô Tử Hư dừng trên túi da ở bên kia, hỏi: "Bên trong phải chăng có một thanh kiếm khác?".

Cô Nguyệt Minh kinh ngạc hỏi: "Ô huynh làm sao biết được chứ?".

Ô Tử Hư hỏi: "Có thể cho tiểu đệ xem qua không?".

Cô Nguyệt Minh thoáng động lòng, đối phương là chuyên gia trộm bảo, nhận thức đối với cổ vật chắc vượt hơn hẳn người thường, nói không chừng có thể nhìn ra được lại lịch bất minh của cổ kiếm đó, liền không hỏi thêm, một tay cầm lấy túi da, tay kia rút cổ kiếm, đưa cho Ô Tử Hư.

Ô Tử Hư tiếp lấy cổ kiếm, hai tay nâng kiếm cúi đầu quan sát, hai mắt loang loáng dị quang, trầm giọng nói: "Nếu như ta không có nhìn lầm, kiếm này chắc là thiết kiếm ở thời kỳ đầu, thành khí thuộc thời đại Chiến Quốc, hình dáng chất liệu đúng quy cách, sắc bén vô cùng, ẩn hiện kỳ quang, tuy cũ mà mới, tuyệt không phải là vật thường, nhiều khả năng do bậc thầy đúc kiếm Sở quốc tạo thành".

Cô Nguyệt Minh chấn động trong đầu, trước đây tuy có nghĩ qua kiếm này không phải như lời Phụng công công nói, nhưng vẫn chưa từng nghĩ qua xa xưa đến tận thời đại Chiến Quốc, còn là sản phẩm của Sở quốc. Lại là Sở quốc, rốt cuộc là phát sinh chuyện gì?

Lên tiếng hỏi: "Ô huynh dựa vào đâu mà suy đoán là kiếm của Sở quốc vậy?".

Ô Tử Hư hai tay nâng cổ kiếm trả lại, đáp: "Ở thời đại Chiến Quốc, thiết kiếm của Sở quốc vang danh khi đó, Uyển lại là vùng nổi danh Sở quốc về quặng sắt, đã sản xuất ra thiết kiếm tinh xảo mà vang danh. Như thế thiết kiếm ưu việt, chỉ có người Uyển mới tạo ra được".

Cô Nguyệt Minh cất cổ kiếm vào trong túi da, vươn người đứng lên, thuận tay đeo túi da vào eo.

Ô Tử Hư đứng dậy hỏi: "Mưa càng lúc càng lớn, Cô huynh đâu cần gấp gáp như thế?".

Cô Nguyệt Minh nói: "Cho ta một cái dù là được, ta phải đi gặp một người".

Xe ngựa chạy đến trước Hồng Diệp Lâu, Bách Thuần nhìn qua rèm thấy thân ảnh Cô Nguyệt Minh đang ly khai.

Trên con đường thênh thang đang bị gió mưa tàn phá, thân ảnh y vừa toát lên vẻ cô đơn cùng cực, lại vừa kiên cường vững chắc. Dưới tầm nhìn mơ hồ trong mưa lớn, tay trái y giơ cao cây dù, thân hình cao cao tựa như có thể vọt lên bất cứ lúc nào, nhịp chân chắc chắn sung mãn, không bị tác động bởi thời tiết chút nào, khuất dần vào màn mưa mù mịt.

Trong lòng Bách Thuần dâng lên cảm giác khó hình dung được, tình cảnh trước mắt khiến nàng liên tưởng đến tư thế Cô Nguyệt Minh quan sát bức vẽ trong Tình Trúc Các của nàng, đồng thời dẫn dắt hồi ức ẩn sâu trong lòng nàng mà nàng sớm đã quên mất, mãi đến lúc này vẫn không nhớ ra được. Xe ngựa tiến vào Hồng Diệp Lâu.

Nàng hoàn toàn bị một cảm xúc khác làm mê man, sự ưu thương và bất lực trào dâng chiếm cứ tâm thần.

Nàng chưa từng cảm thấy buồn bã như thế. Từ trước đến nay, nàng là người thị phi phân minh, nhận định rõ giới hạn giữa đúng và sai, về phương diện này chưa từng mất phương hướng. Có thể Khâu Cửu Sư lại vô tình bóc ra chân tướng của phương diện này, giới hạn đúng và sai là có thể mơ hồ không rõ. Thế giới trước giờ nàng có, là an toàn, đơn giản và rõ ràng minh bạch.

Nàng không thể tiếp thụ Khâu Cửu Sư vì đạt được mục đích và lý tưởng, hy sinh một người không nên hy sinh, thế nhưng nàng cũng hiểu sự thống khổ và mâu thuẫn trong lòng của Khâu Cửu Sư, vì mục tiêu to lớn ngày sau mà chấp nhận trả giá đắt.

Sinh mệnh lúc nào cũng bất lực giống như thế sao?

Mọi con đường đều biến thành sông.

Mưa lớn phủ trùm trời đất, hạt mưa theo từng trận từng trận cuồng phong đập xuống mặt đất, tạo thành vô số hoa nước, nước trút xuống từ mái nhà hai bên đường như thác, trời đất lẫn lộn cùng nhau.

Nội tâm của Cô Nguyệt Minh đang giống như trời đất bên ngoài, cũng nổi cuồng phong và dầm trong mưa lớn.

Từ khi hiểu biết đến giờ, y lần đầu cảm thấy mất phương hướng.

"Ngươi tin truyền thuyết thần ma không?".

Vấn đề đó của Phụng công công lại vang lên trong lòng y. Từ khi bắt ngờ gặp được nữ lang đó ở bến đò, mọi chuyện phát sinh sau đó, đều giống như chỉ hướng đến một đáp án. Đó là trong cổ thành tại Vân Mộng Trạch, đích xác có một cỗ lực lượng vượt xa người thường, lực lượng đó không chỉ có thể khiến cổ thành tiêu thất vô tung, còn có thể ảnh hưởng đến người và việc trong và ngoài Trạch. Lực lượng siêu phàm đó đang dệt một tấm lưới mệnh vận kỳ dị, mục đích của nó thì không thể suy đoán được.

Y vì Sở hạp mà từ kinh sư xa xôi ngàn dặm đến nơi này, có phải là một mắt xích trong kế hoạch của nó hay không? Ngũ Độn Đạo lại cùng y và cổ thành có quan hệ thế nào?".

Cô Nguyệt Minh từ hẻm nhỏ bước ra, cách phía trước hơn ngàn bước là một con sông vắt ngang, một cây cầu cong dài chừng năm mươi bước được xây dựng bắt qua sông, trong mưa lớn cùng con sông nhỏ kết hợp hoàn mỹ với nhau. Nhà cửa bên sông nhấp nhô theo hai bờ, cao thấp lộn xộn, nhưng từng khu lại ẩn ước sự thống nhất. Vượt qua cây cầu đó, rồi xuyên qua một tòa Trúc Thụ Lâm, là đến Quân Sơn Uyển nơi y đang tạm nương thân.

Một thân ảnh xuất hiện ở đầu kia cây cầu, trên đầu đội nón tre rộng vành, thân vận áo tơi, mặc dù trong mưa gió vẫn vững chãi như núi, khiến người ta cảm nhận được khí thế bức nhân tỏa ra từ người hắn.

Cô Nguyệt Minh như không thấy, giữ nguyên nhịp chân như trước, đi thẳng về phía cây cầu.

Chưa có thời khắc nào y lại hy vọng có người có thể kết thúc sinh mệnh y như thời khắc này.

Khâu Cửu Sư đi chầm chậm trong mưa lớn trên con đường không một bóng người, mặc cho toàn thân ướt đẫm, nhưng vẫn không thể làm nguội đi cảm xúc mãnh liệt trong lòng hắn.

Hắn biết không những thương tổn Bách Thuần, còn hại bản thân đau khổ, thế nhưng hắn tuyệt không có lựa chọn khác. Đại nghĩa phía trước, hy sinh của cá nhân là rất nhỏ bé.

Hắn hiểu Nguyễn Tu Chân.

Nguyễn Tu Chân khích lệ hắn nói chuyện thoải mái với Bách Thuần, là đem quyền lựa chọn đặt vào tay hắn, để bản thân hắn đưa ra quyết định cho tương lai.

Hiện tại hắn đã có chọn lựa cho tương lai không thể hồi đầu, nhưng hắn biết bất luận qua bao nhiêu năm, đoạn ký ức thâm sâu này, sẽ theo hắn nam chinh bắc phạt, cùng hắn trải qua từng trận chiến, đến chết mới thôi.

Cô Nguyệt Minh đi thẳng lên cầu, thong thả dừng bước, vẫn giơ cao dù, lạnh lùng hét: "Qua Mặc!".

Gương mặt Qua Mặc bị tấm màn từ vành nón rủ xuống che khuất, toàn thân giấu trong áo tơi, không lộ binh khí, hai chân để trần, khí thế cường thịnh, sát khí đằng đằng.

Cô Nguyệt Minh chưa tìm ra bất kỳ sơ hở nào của hắn có thể lợi dụng, binh khí của hắn giấu trong áo tơi, chắc là binh khí sở trường của hắn, chân trần không mang giày, càng khiến vũ kỹ của hắn có thể phát huy đến cực hạn. Loại cảm ứng này đến từ linh cơ diệu ứng được bồi dưỡng qua nhiều trận chiến của Cô Nguyệt Minh, là linh ứng không thể giải thích, nhưng có thể nhiều lần giúp y giành thắng giết địch.

Bất quá đối thủ này không giống bất kỳ đối thủ nào trong quá khứ, Qua Mặc là kẻ có tư cách đánh bại y, không những vì Qua Mặc võ công cao cường, còn vì hắn là tà dị yêu nhân biết yêu thuật.

Cô Nguyệt Minh cảm thấy huyết quản co lại, máu huyết trong người trào dâng, tâm cảnh lại lạnh như băng tuyết. Hỏi: "Phu Mãnh đã đến nơi nào?".

Qua Mặc ngẩng đầu cười vang, sau đó tiếng cười ngưng bặt, thanh âm rít lên từ kẽ răng: "Cô huynh muốn tìm Phu Mãnh, lại khó thế sao? Để bản nhân đưa ngươi đi gặp hắn!".

Nói đến câu cuối cùng, hai tay của hắn từ trong áo tơi vung ra, đưa lên lên tầm màn che mặt, sau đó phân ra hai bên, lộ ra bộ mặt cổ sơ.

Cô Nguyệt Minh thế nào cũng nhìn không được, thấy được chỉ có ánh mắt ma mị của Qua Mặc giống như biến thành hai lưỡi đao lạnh lẽo sắc bén, trong hốc mắt tinh mang tản xạ, tựa như hai mũi độc tiễn bắn đến y, ẩn chứa tà ác dị lực thâu nhiếp hồn phách con người.

Ngay sát na tiếp xúc với ánh mắt Qua Mặc, tiếng gió gầm mưa gào đột nhiên trầm trọng, đập vào màng nhĩ của Cô Nguyệt Minh, chớp mắt tiếng gió mưa ù ù chuyển thành tiếng gào rít sắc nhọn, tựa như có ngàn vạn oan hồn lệ quỷ u linh, nhân thời khắc gió mưa thống trị nhân gian, từ địa phủ thoát ra hướng đến y đòi mạng, tiếng quỷ réo từ mơ hồ chuyển thành rõ ràng, loáng thoáng còn kêu đích danh Cô Nguyệt Minh, chỉ cần y hô một tiếng đáp ứng, hồn phách của y lập tức sẽ bị oan hồn dẫn đi.

Hai mắt Qua Mặc dần dần mở to, ánh mắt càng thêm lăng lệ, quỷ dị đến cực điểm.

Tay Nguyệt Minh vẫn giữ cây dù, thần sắc không sợ không mừng, ánh mắt không lộ ra chút biến hóa nào trong lòng, giống như không nghe được bất cứ thanh âm nào.

Y không biết Qua Mặc làm thế nào, chỉ biết lúc này tuy bị địch thủ dùng yêu pháp mê hoặc, thế nhưng kiếm tâm của y vẫn vững chắc như đá tảng, không hề bị dao động.

Qua Mặc đột nhiên há miệng lẩm bẩm một câu chú ngữ, thiên địa đột biến.

Qua Mặc, cây cầu, dòng sông, nhà dân xung quanh và gió mưa hoàn toàn biến mất vô ảnh vô tung, thiên địa trở nên hôn ám, phía trước là vực sâu vạn trượng, mù mịt không lối thoát.

Cô Nguyệt Minh hoàn toàn không chú ý đến dị biến trước mắt, tay trái vận kình xoay vòng, cây dù lập tức xoay chuyển bay ra khỏi tay, xoay xoáy bắn đến đến vị trí vốn là điểm cao nhất của cây cầu. Cùng lúc, Bạch Lộ Vũ rời vỏ. Y nhắm hai mắt lại.

Tinh thần của y hoàn toàn tập trung ở trên cây dù, không chịu bất kỳ ảnh hưởng bên ngoài nào, dường như gởi hồn phách vào cây dù, biến nó thành dụng cụ trinh sát tiền phương.

Trước khi ngang nhiên khiêu chiến, y đã nghĩ kỹ sách lược ứng phó Qua Mặc. Cho dù yêu pháp của Qua Mặc lợi hại thế nào, nói cho cùng vẫn là dị thuật mê hoặc nhân tâm, chỉ cần có thể thủ chặt tâm thần, là có thể phá được yêu pháp của hắn.

Cần để Qua Mặc phạm phải một sai lầm chiến lược, ở trên cầu tập kích y, bởi vì cao thủ như y, nhìn qua là có thể hoàn toàn nắm vững hình thế trạng thái của cây cầu, nhắm mắt lại cũng có thể tiến thối một bước không sai trên cầu như thường, so với dùng mắt nhìn cũng không có khác biệt.

Còn công kích của Qua Mặc, cũng bị cây cầu hạn chế.

Tiếng gào rú than khóc của lệ quỷ tan biến dần theo sự ngưng tụ tinh thần của y.

"Phựt!".

Thanh âm mặc dù bị xuyên thủng khẽ vang lên, Bạch Lộ Vũ của Cô Nguyệt Minh chém lên vật đó.

"Đinh!".

Cô Nguyệt Minh mở mắt, y phục sớm đã ướt đẫm.

Mũi tên trúng kiếm rơi xuống dòng nước chảy xiết.

Cuồng phong bạo vũ thay thế cho vực sâu vạn trượng, tiếng gió thét mưa gào thay cho tiếng kêu than khóc lóc của lệ quỷ, cây cầu hiện ra lại trong mắt, Qua Mặc ở đầu kia tay cầm cây nỏ cỡ nhỏ, trên mặt lộ ra thần sắc khó tin. Tiếp đến gấp cây nỏ cất vào áo tơi, nhắm Cô Nguyệt Minh chạy đến.

Cô Nguyệt Minh hoành kiếm sừng sững, cười khà khà nói: "Nếu ngươi không có thêm yêu thuật lợi hại, giờ này hôm nay sang năm chính là ngày giỗ của ngươi".

Lúc này Qua Mặc chạy đến giữa dốc cầu, đột nhiên nhảy lên, tay phải vung ra khỏi áo tơi, chụp lấy vành nón trúc, lấy nón khỏi đầu, tiếp đó xem nó như ám khí dùng thủ pháp xoáy ném đến Cô Nguyệt Minh.

Nón trúc xoáy nhanh, trước hết vòng qua bên phải Qua Mặc, vẽ ra một đường cong hợp với nguyên lý thiên địa, dường như chuyển hóa thành lực lượng không gì không phá vỡ được, vị trí cuối cùng nhắm đến là vùng ngực Cô Nguyệt Minh, góc độ biến hóa, khiến người ta không biết chống đỡ thế nào.

Cô Nguyệt Minh khẳng định nón trúc này không phải là nón trúc thường, mà vành nón được bọc thép biến thành lợi khí sát nhân. Chỗ lợi hại nhất trong chiêu này của Qua Mặc là lấy nón trúc phong tỏa đường tấn công của Cô Nguyệt Minh, tận dụng hình thế đặc điểm của cây cầu cong. Chỉ cần hắn nối tiếp nón trúc công đến, lập tức chiếm hết thế thượng phong. Có thể thấy hắn chọn cầu này làm địa điểm tập kích Cô Nguyệt Minh, là đã xem xét qua cẩn thận. Mưu lược thủ đoạn của người này, tuyệt không thể xem thường.

Nón trúc rời tay bay chưa đến năm thước lại phát ra thanh âm như sấm rền, tiếp đó tiếng sấm trở nên kịch liệt, lấn át cả tiếng mưa gió. Giọt mưa rơi trên nón trúc, lập tức bắn tung tóe ra, khiến nón trúc đột nhiên uy lực tăng mạnh, phạm vi công kích khuyếch đại, đây đương nhiên là một loại ảo giác, nhưng vẫn sống động và có sức uy hiếp.

Qua Mặc hạ xuống đất, chính vào lúc này, nón trúc không còn là nón trúc, đột nhiên hóa thành một đám mây đen xoay xoáy cực nhanh, hoàn toàn phong bế tầm nhìn của Cô Nguyệt Minh, không còn thấy Qua Mặc đâu cả.

Mưa lớn vẫn ào ào hắt vào mặt Cô Nguyệt Minh, hiển thị hết sức mạnh của tự nhiên, tình cảnh hiện tại phát sinh không bình thường như thế, nhưng rất dễ được người tiếp nhận như là hiện thực đương nhiên.

Cô Nguyệt Minh vẫn ung dung nhàn nhã, Bạch Lộ Vũ chỉ xéo về trước, tay kia thọc vào túi da đeo bên hông, nắm lấy Uyển kiếm.

Chuyện mà Cô Nguyệt Minh không nghĩ đến đã phát sinh.

Bổn ý của y chỉ là xuất Uyển kiếm khỏi túi da, dùng Uyển kiếm trong tay trái phá vỡ nón trúc bị thi triển yêu pháp, tiếp đến dùng Bạch Lộ Vũ trong tay phải đón đánh Qua Mặc. Nào biết vào lúc tay cầm lấy chuôi Uyển kiếm, đột nhiên giật nảy người, một luồng nước ấm như thực chất, không thể hình dung, thấu qua kinh mạch trong sát na lan khắp toàn thân, đầu óc tỉnh táo tinh minh.

Mây đen biến lại thành nón trúc, cách y chỉ hơn trượng, đã mất đi uy lực bao trùm trời đất.

Qua Mặc lúc này chạy đến điểm cao nhất trên cầu, tay cầm trọng kiếm, đang muốn từ đỉnh dốc nhảy xuống, dùng thế lôi đình vạn quân công kích đến y. Khi mây đen hóa thành nón trúc, Qua Mặc toàn thân kịch chấn, không những đột nhiên ngừng bước, còn loạng choạng không vững, há miệng phun ra một bụm máu, sắc mặt thê lương như ác quỷ, hai mắt hiện ra thần sắc nghi sợ không hiểu.

Bạch Lộ Vũ của Cô Nguyệt Minh đâm thẳng tới trước, đâm trúng vành nón trúc, phát ra thanh âm ma sát rợn người.

Y sử dụng kình đạo hết sức xảo diệu, tá lực sử lực, lại thầm sử thủ pháp tá kình, nón trúc theo kiếm biến đổi phương hướng, vượt qua khoảng không bên phải Cô Nguyệt Minh, văng ra đằng sau y.

Cô Nguyệt Minh áp chế sự kinh dị trong lòng xuống, hét lạnh một tiếng, nhanh như báo vượt lên cầu, lao đến Qua Mặc đang vì yêu pháp bị phá mà tổn thương, Bạch Lộ Vũ hóa thành vô số đạo kiếm ảnh công đến Qua Mặc.

Qua Mặc hét lớn một tiếng, quay người sang bên, cứ như thế vượt qua thành cầu, rơi thẳng vào dòng nước.

Cô Nguyệt Minh đến chỗ Qua Mặc nhảy xuống sông, cúi đầu quan sát dòng nước chảy xiết, thầm kêu đáng tiếc. Nếu như Qua Mặc không phải trốn xuống nước, chắc chắn lần này lấy được tiểu mệnh của hắn.

Điều khiến y không dám xuống nước truy theo là vì y cố kỵ nỏ tiễn của Qua Mặc.

Từ thân pháp Qua Mặc nhảy xuống nước, Cô Nguyệt Minh phán đoán Qua Mặc chỉ thụ thương nhẹ, tuy có thể đẩy Qua Mặc vào thế hạ phong, nhưng không hề mất đi lực phản kích. Qua Mặc thi hành kế dụ địch, lừa y truy theo vào dòng nước, tiếp đến ở đáy sông dùng nỏ tiễn tập kích y. Muốn ở trong dòng nước xiết đỡ kình tiễn từ nỏ máy bắn ra, đối phương lại là cao thủ tinh thâm thủy tính, với năng lực của Cô Nguyệt Minh, cũng không dám đưa thân vào chỗ hiểm.

"Soẹt!".

Bạch Lộ Vũ quay vào vỏ.

Lúc này mưa lớn dần lơi, chỉ còn lưa thưa mấy hạt nhỏ, mây đen sà thấp đã chuyển sáng, bay lên tan dần, trời đất sáng lên, mây đen trên không trung bị xé toạc, lộ ra bầu trời trong xanh đằng sau.

Cô Nguyệt Minh dựa vào thành cầu đứng yên, tay trái thử cầm lại trên chuôi Uyển kiếm, tuy không còn cảm giác dị dạng, nhưng Uyển kiếm lại như kiến lập một quan hệ vi diệu với y, khiến y sinh ra cảm giác hòa thành một thể.

Qua Mặc chắc chắn là kình địch lợi hại nhất mà y bình sinh gặp phải, sự thực thì Qua Mặc gần như lấy được mạng y, việc sắp thành lại thất bại chỉ vì Uyển kiếm thần kỳ.

Tất cả chuyện này phải chăng sớm đã được chú định?

Cô Nguyệt Minh cười khổ trong lòng, rời cầu đi về Quân Sơn Uyển.

Hồi 25: Chân Chân Giả Giả

Khâu Cửu Sư ướt từ đầu đến chân quay về Bát Trận Viên, thủ hạ nghênh đón nói: "Bố chính sứ ti Tiền Thế Thần đại nhân đến rồi, Nguyễn gia đang ở đại sảnh đón tiếp ông ta, Nguyễn gia nói khi Khâu gia quay về, mời Khâu gia đến đại sảnh".

Khâu Cửu Sư có chút tư vị quay lại hiện thực, việc không liên quan nhục thể, mà là sự quay về của tâm thần, cảm thấy sự tình rất không tầm thường.

Tiền Thế Thần tuy ra vẻ hợp tác toàn diện trong việc tróc nã Ngũ Độn Đạo, nhưng qua nhiều lần tiếp xúc, Khâu Cửu Sư rốt cuộc cảm thấy gã không thành tâm hợp tác, tuyệt không 'tận tâm' vì chuyện này. Tiền Thế Thần đột nhiên chủ động đến gặp, thật khác với thái độ bị động của gã trước đây trong chuyện này. Phía Tiền Thế Thần thật ra đã xuất hiện biến hóa gì đây?

Bảo: "Báo cho Nguyễn gia, ta thay y phục xong đến liền".

Ô Tử Hư từ cửa hông bước ra, đi lên bình đài Phong Trúc Các đối diện hồ, ngắm nhìn trời cao.

Một tia nắng rực rỡ, chênh chếch chiếu qua kẽ mây, hắt lên mặt hồ lóng lánh. Trời đất hài hòa thanh tú hiển hiện trước mắt khiến người ta không thể liên tưởng đến trận mưa gió tàn phá vừa rồi. Bầu trời trong veo xán lạn sau khi mưa tạnh mây tan. Sắc trời xanh biếc mỹ lệ lại quang lâm lục địa, dần dần bao trùm nhân gian. Trong đám hoa cỏ cây cối bên bờ hồ, ong mật bướm sắc nườm nượp bay lượn, âm thanh vo ve nhiệt náo, một đám vịt trời đội hình nghiêm chỉnh lướt qua mặt hồ, bay vào trong rừng cây.

Thanh âm xa gần sung mãn, vô số ve sầu tận lực xướng ca, hơi ấm mặt trời lại bao phủ đại địa, đất trời tràn trề sức sống.

Ô Tử Hư rủ sạch phiền muộn trong lòng, đấu chí lại dâng cao, từ chỗ không có khả năng kiến tạo nên tính có thể, luôn là phương pháp để hắn truy cầu thành công và hưởng thụ nhiệt tình sự sống.

Hắn tiếp tục suy tư về cuộc tiếp xúc và đối thoại với Cô Nguyệt Minh vừa nãy. Đối với hắn mà nói, Cô Nguyệt Minh tuyệt không giống người cô ngạo vô tình khó tiếp cận như trong truyền ngôn.

Chí ít Cô Nguyệt Minh chịu nói ra bí mật trong lòng với hắn.

Từ nhỏ Ô Tử Hư không có bằng hữu, mà hắn cũng vui vẻ với tình cảnh không có bằng hữu, vì hắn không thích hợp có quan hệ mật thiết với bất kỳ ai. Thế nhưng chỉ trong thời gian ngắn gặp nhau, hắn lại ở trên người Cô Nguyệt Minh tìm được ấn tượng và cảm giác bằng hữu. Hắn gần như dám khẳng định Cô Nguyệt Minh không coi hắn là bạn, nhưng có quan hệ gì chứ? Chỉ cần hai người có thể hiểu lẫn nhau, trao đổi tâm sự với nhau, tuy không có danh bằng hữu, nhưng thực tế đã là bằng hữu.

Cảm giác đó thật là sảng khoái mới mẻ.

Tiếng bước chân vang lên phía sau.

Ô Tử Hư chuyển thân cười nói: "Thiền Dực tỷ không phải nhớ ta chứ?".

Thiền Dực dừng lại ở xa, khóe miệng phớt qua vẻ xem thường, nói: "Đại tiểu thư muốn gặp ngươi, mau đi theo ta".

Cô Nguyệt Minh đứng ở giữa sảnh đường, nghi hoặc không hiểu.

Y ôm tâm tình chuẩn bị đối diện một cuộc phục kích khác quay về Quân Sơn Uyển, ai ngờ lại không có bất cứ chuyện gì phát sinh. Nếu nữ lang đó không đến, có thể thấy nàng chọn một thời gian khác để ám sát y, có lẽ đêm tối càng thích hợp cho hành động của nàng. Nhưng cái mũi linh xảo của y lại ngửi được mùi hương cơ thể nàng còn lưu lại.

Nàng vì sao đến đi vội vã, y thật sự nghĩ không thông.

Hương thơm của nàng đích thật mê người.

Cô Nguyệt Minh than thầm, bản thân rốt cuộc là thế nào đây?

Từ sau hôm nhìn bức vẽ nữ tử đó của Ô Tử Hư, bản thân tựa hồ không còn là Cô Nguyệt Minh lãnh ngạo vô tình, đối với bất kỳ sự vật nào cũng không động tâm như trước nữa.

Hai người Tiền Thế Thần và Nguyễn Tu Chân đều thần sắc ngưng trọng, Khâu Cửu Sư chỉ nhìn thần tình bọn họ, liền biết chuyện không tầm thường. Hắn ngồi xuống đối diện hai người, nhíu mày nói: "Chuyện gì nghiêm trọng như thế, phải làm phiền Tiền đại nhân đại giá quang lâm".

Tiền Thế Thần lộ ra thần thái khổ tâm, nhìn qua Nguyễn Tu Chân.

Nguyễn Tu Chân nhìn mái tóc Khâu Cửu Sư lấp lánh nước, cười khẽ hỏi: "Khâu gia trên đường gặp mưa sao?".

Khâu Cửu Sư thở một hơi, gật đầu nói: "Gần như thế. Không cần để ý chuyện khác".

Nguyễn Tu Chân nói: "Hiện tại những gì bọn ta nói, chỉ giới hạn ba người bọn ta biết. Tiền đại nhân vừa rồi nói với ta, Quý Nhiếp Đề lần này chỉ là mượn danh truy bắt khâm phạm mà đến, thực sự lại là kế ám độ Trần Thương, đối tượng muốn đối phó chính là Đại Hà Minh bọn ta".

Khâu Cửu Sư kinh ngạc nhìn Tiền Thế Thần, hắn không chút kinh ngạc chuyện Quý Nhiếp Đề muốn đối phó bọn chúng, mà không hiểu Tiền Thế Thần thân là mệnh quan triều đình, lại dám bất chấp tội tru di cửu tộc đến cảnh cáo bọn họ, gã làm vậy là vì mục đích gì?

Tiền Thế Thần chán nản nói: "Ta đã đem nguyên nhân nói với Nguyễn huynh, ta cũng là bị buộc phải làm liều, không thể không vì bảo toàn gia sản tính mạng mà phấn khởi ứng chiến".

Nguyễn Tu Chân ung dung tiếp lời: "Tiền đại nhân có người làm việc trong cung, âm thầm bắn tin cho Tiền đại nhân, Quý Nhiếp Đề lần này xuống phương Nam, định ra kế hoạch một đá hai chim, không những muốn trừ tận gốc rễ Đại Hà Minh bọn ta, còn muốn vu khống Tiền đại nhân cấu kết bọn ta, mục tiêu không những là gia sản khổng lồ của Tiền đại nhân, còn vì Tiền đại nhân làm quan lâu năm ở Hồ Quảng, có quan hệ quá mật thiết với thế lực địa phương, bất lợi cho triều đình. Cô Nguyệt Minh là con cờ lợi hại nhất của Phụng công công, biệt phái đến đối phó Cửu Sư ngươi".

Khâu Cửu Sư bật cười nói: "Nếu Quý Nhiếp Đề có ý đồ đó, hắn cần phải điều động đại quân, bằng vào một tên Cô Nguyệt Minh, cho dù thêm hắn và ba mươi sáu tên xưởng vệ, cũng không thể làm nên việc gì".

Nguyễn Tu Chân nói: "Đây chính là nguyên nhân Tiền Thế Thần đến cảnh cáo bọn ta, Quý Nhiếp Đề chắc chắn sẽ bí mật điều quân, nhân lúc bọn ta đang tập trung ở Lạc Dương bắt trộm, tấn công khiến bọn ta trở tay không kịp".

Tiền Thế Thần tiếp: "Chỉ cần quý minh đề cao cảnh giác, dù bất kỳ biến động nhỏ nào, cũng tuyệt không qua được tai mắt của quý minh, lúc đó hai vị sẽ biết lời ta đều là sự thực".

Khâu Cửu Sư đồng ý thốt: "Có lý!".

Nguyễn Tu Chân tiếp: "Tiền đại nhân đã quyết định cùng bọn ta tiến thối, nếu bọn ta khởi nghĩa, Tiền đại nhân sẽ thành hậu thuẫn cho bọn ta, đặc biệt hỗ trợ bọn ta lượng lớn lương thực và ngân lượng".

Khâu Cửu Sư lập tức hai mắt bừng sáng, nhìn qua Tiền Thế Thần, trầm giọng hỏi: "Tiền đại nhân có hối hận không?".

Tiền Thế Thần hung hăng đáp: "Sự thực thì ta đối với sự hủ bại vô năng của triều đình, sớm đã không thuận mắt. Lần này Phụng công công lại dám nhắm vào tài sản của ta, Tiền Thế Thần ta ở đây xin thề, tuyệt không chùn chân, bằng không cho ta vạn tiễn xuyên tâm mà chết, vĩnh viễn không siêu sanh".

Khâu Cửu Sư và Nguyễn Tu Chân hai người khẽ động dung, không tưởng được Tiền Thế Thân kiên quyết như thế, nào biết được nguyên do khác trong lòng gã.

Nguyễn Tu Chân nói: "Ta đã đem tình huống của bọn ta nói với Tiền đại nhân, chỉ cần bắt được Ngũ Độn Đạo, bọn ta liền có thể phất cờ khởi nghĩa, lấy tiêu chí thảo phạt Phụng công công và Quý Nhiếp Đề hiệu triệu thiên hạ, trước tiên đánh chiếm Ứng Thiên phủ, sau đó xua quân bắc thượng, thẳng đến kinh sư".

Khâu Cửu Sư hỏi: "Đã là như thế, bọn ta có nên thu thập Quý Nhiếp Đề và Cô Nguyệt Minh trước không?".

Nguyễn Tu Chân đáp: "Trước khi bắt được Ngũ Độn Đạo, bọn ta không nên manh động".

Quay qua Tiền Thế Thần hỏi: "Tiền đại nhân nghĩ thế nào?".

Tiền Thế Thần khảng khái nói: "Bắt đầu từ bây giờ, mọi người đã là người nhà, chuyện của các người cũng là chuyện của Tiền Thế Thần ta. Sau khi tin tức từ kinh sư truyền về, ta sẽ lập tức đem tín hàm giao tận tay hai vị, ta còn có thể điều binh bao vây Hồng Diệp Lâu, để hai vị vào trong Lâu bắt tặc".

Khâu Cửu Sư trầm giọng nói: "Như vậy đại sự định xong".

Thiền Dực dẫn Ô Tử Hư tiến vào sảnh đường Tình Trúc Các, nói: "Đại tiểu thư vừa từ ngoài trở về, đang trên lầu thay y phục, ngươi đứng ở đây chờ tiếp đại tiểu thư. Nhớ đấy! Hồng Diệp Lâu bọn ta có quy củ của Hồng Diệp Lâu, chưa được đại tiểu thư cho phép, ngươi không thể ngồi xuống".

Ô Tử Hư kinh ngạc hỏi: "Nàng không cùng ta ở đây cung hầu đại tiểu thư sao?".

Thiền Dực trừng mắt nhìn hắn, nói: "Hiện tại ngươi là người rảnh rỗi nhất Hồng Diệp Lâu, chỉ cần mỗi ngày vẽ một bức tranh là được. Ta rảnh như ngươi sao? Ta còn có rất nhiều chuyện khác phải làm. Không nói với ngươi nữa".

Ô Tử Hư thích nhất là ngắm dáng vẻ tức giận của nàng, nhún vai nói: "Đi thì đi đi! Bất quá nếu không ai coi chừng ta, nói không chừng ta sẽ lên lầu xem đại tiểu thư thay y phục, có lẽ có thể giúp đại tiểu thư chỉnh đốn y trang".

Thiền Dực sớm đã quen với sự khinh bạc vô hạnh của hắn, cười nói: "Ngươi thích lên thì cứ lên! Xem xem có hậu quả gì!".

Nói dứt bất cần bỏ đi.

Ô Tử Hư có chút lơ mơ trong đầu, bỏ một mình hắn ở lại đây, thật không hợp lý. May mà hắn giỏi nhất là tùy cơ ứng biến, phương pháp ứng phó tốt là thấy bước nào đi bước ấy.

Nghĩ xem, nghĩ xem, ánh mắt dời đến trên kiệt tác "Cổ chiến xa nữ thần" của hắn, lòng nghĩ Cô Nguyệt Minh nói lúc thưởng thức bức họa này, nữ thần trong tranh dường như sống lại. Chẳng lẽ hắn đã chế tạo ra một "tiên tử trong tranh"? Nếu mỹ nữ trong tranh thật sự có thể bước ra, cùng mình ca hát nhảy múa, há không phải là mộng tưởng trở thành hiện thực sao.

Chỉ hận dù hắn hết qua trái rồi sang phải, nhìn gần ngóng xa, thử đủ mọi góc độ quan sát, mỹ nữ trong tranh vẫn không có dấu hiệu sống lại.

Lúc lòng đang thất vọng thì Bách Thuần đi xuống lầu, tiếng bước chân rất khẽ, cơ hồ vô thanh vô tức, còn bước rất nhanh. Gần như lúc hắn vừa nghe tiếng bước chân của nàng, Bách Thuần đã đến sau lưng hắn.

Ô Tử Hư lúc này mới biết Bách Thuần là cao thủ thâm tàng bất lộ, trong lòng minh bạch Bách Thuần là muốn thăm dò hắn.

"Úy!".

Ô Tử Hư giả vờ hô lên kinh hãi, hoảng hốt dịch thân, Bách Thuần vận kình trang ôm lấy người, đang nhấc chân đá vào vùng bụng dưới của hắn, vừa nhanh vừa hiểm.

Hắn vội bày ra một biểu tình kinh hãi tuyệt vọng.

Bách Thuần yêu kiều quát một tiếng, còn cách một tấc là trúng chỗ yếu hại của Ô Tử Hư liền thu chân lại, hiển thị rõ công lực thu phát do tâm.

Ô Tử Hư lúc này mới có phản ứng, lảo đảo thối lui, vẫn đứng không vững, ngã chổng vó lên trời.

Bách Thuần chống tay vào eo, mắng: "Đồ vô dụng!".

Ô Tử Hư cố gắng ngồi dậy, ho khúc khắc nói không thành lời.

Bách Thuần nhìn lên xà nhà, tự mắng mình: "Ta thật ngu, bất quá Khâu Cửu Sư còn ngu hơn ta, muốn thử ngươi có phải là tiểu tặc, nhất định tìm một người mà ngươi không biết mới được".

Ô Tử Hư cười khổ nói: "Nàng vì sao không đi hỏi Cô Nguyệt Minh? Nếu ta là Ngũ Độn Đạo, sớm đã bị hắn tóm rồi, còn có thể ngồi đây nói chuyện với nàng sao?".

Bách Thuần chăm chăm nhìn hắn, hung dữ nói: "Cô Nguyệt Minh là một người rất đặc biệt, người đặc biệt lúc làm việc thường không theo quy luật, có quỷ mới biết huynh ấy liệu có nói dối cho ngươi hay không".

Ô Tử Hư không hiểu hỏi: "Ta thật không hiểu Bách Thuần, vì sao tích cực đi tìm Khâu Cửu Sư như thế? Chẳng lẽ nàng muốn lấy lòng Khâu Cửu Sư?".

Bách Thuần đảo hai mắt, biểu lộ dáng vẻ tức giận khả ái, giọng khinh thường: "Ngươi đúng là chẳng hiểu gì ta, nếu như ta là người như thế, vừa rồi đã không buồn bã chia tay Khâu Cửu Sư. Còn đáp án vừa hay ngược lại, ngươi muốn biết nguyên nhân chân chính không?".

Ô Tử Hư vẫn ngồi dưới đất, đáp: "Ta đương nhiên muốn biết bí mật trong lòng Bách Thuần nàng".

Bách Thuần lui về sau, ngồi lọt trong một cái ghế dài tựa sát tường, nhíu mày mắng: "Còn không đứng lên, ngồi dưới đất còn ra thể thống gì?".

Ô Tử Hư lắc lư đứng lên, bước chân loạng choạng đi đến ngồi xuống cái ghế tựa cách Bách Thuần một cái bàn nhỏ, thần sắc đau khổ nói: "Bách Thuần hình như đã quên là ai làm ta ngã xuống đất rồi?".

Bách Thuần nhún nhún bả vai, nói: "Ta tịnh không có đá trúng ngươi, là ngươi tự ngã xuống đất".

Ô Tử Hư gật đầu nói: "Thật tình đúng là ta tự ngã, nhưng lại là do một cước của nàng dẫn đến, Bách Thuần phải bồi thường ta thế nào đây, một nụ hôn chẳng hạn".

Bách Thuần mắng: "Ngươi thật ra muốn biết hay không?".

Ô Tử Hư vội đáp: "Biết cái gì? À! Phải rồi! Đương nhiên là muốn biết".

Bách Thuần nhắm đôi mắt đẹp lại, say sưa nói: "Bởi vì ta thích Ngũ Độn Đạo".

Ô Tử Hư thất thanh: "Cái gì?".

Bách Thuần vẫn không mở mắt, nhẩn nha nói: "Có gì mà kinh ngạc như thế. Dạng nam tử hán ta ưa thích nhất phải trí dũng song toàn, gan lớn trùm trời. Ngũ Độn Đạo tung hoành thiên hạ, chưa từng có ai làm khó được hắn, thần long thấy đầu không thấy đuôi, giả như bản lãnh tán tỉnh của hắn bằng được nửa bổn sự trộm bảo, đã là một nhân tình hết sức tuyệt vời. Ta hiểu rõ tính cách của mình, thấy được Ngũ Độn Đạo chân chính, nhất định sẽ không kìm lòng nổi, hiến thân cho hắn".

Ô Tử Hư không có lời đáp.

Bách Thuần mở to mắt, đôi đồng tử đen láy nhìn qua hắn, thấy thần sắc ngưng trọng trên mặt hắn, kinh ngạc hỏi: "Ngươi sao rồi?".

Ô Tử Hư mắt nhìn mũi, giọng quan tâm: "Ta nói không ra lời, là vì ta quá cảm động. Thật không dám giấu, Ài! Ta cũng không nhẫn tâm gạt Bách Thuần, sự thực thì ta chính là Ngũ Độn Đạo, người Bách Thuần thích chính là ta".

Bách Thuần hời hợt hỏi: "Ngươi rốt cuộc phạm chuyện gì, động đến cả hai nhân vật lợi hại nhất của Đại Hà Minh dù truy đến chân trời góc biển cũng thề phải bắt được ngươi?".

Ô Tử Hư thừ người kinh ngạc.

Bách Thuần không còn hứng thú nhìn hắn, ánh mắt nhìn lên bức "Cổ chiến xa nữ thần", cười khổ nói: "Ngươi rốt cuộc là ai? Ta hồ đồ mất rồi".

Ô Tử Hư hậm hực nói: "Ta nói mình không phải là Ngũ Độn Đạo, nàng không chịu tin. Đến khi ta thừa nhận mình là Ngũ Độn Đạo, nàng lại khịt mũi coi thường. Bách Thuần nàng nói ta xem, ta nên nhận là ai?".

Bách Thuần lắc lắc đầu, than: "Ta là vì ngươi mà nghĩ, ngươi thật không hiểu lòng người tốt. Chỉ cần ngươi có biện pháp chứng minh ngươi là Ngũ Độn Đạo, ta có lẽ có biện pháp giúp ngươi thoát khỏi kiếp nạn này, bằng không ngươi nhất định sẽ chết".

Ô Tử Hư chán nản nói: "Ta thật không hiểu nàng, vì sao nhất định cho rằng ta là Ngũ Độn Đạo?".

Bách Thuần thản nhiên đáp: "Đạo lý rất đơn giản, bởi vì nếu Nguyễn Tu Chân nhận định ngươi là Ngũ Độn Đạo, khẳng định có đạo lý của huynh ấy. Ở một dải Giang Nam, ai cũng biết Nguyễn Tu Chân chưa từng có phán đoán sai lầm".

Ô Tử Hư trầm mặc phút chốc, hỏi: "Bách Thuần phải chăng bị thất tình?".

Bách Thuần thân kiều khẽ run, nhìn chăm chăm hắn, hai mắt tràn đầy thần sắc kỳ dị, hỏi: "Ngươi bằng vào gì mà đoán như thế?".

Ô Tử Hư đáp: "Bách Thuần không phải nói buồn bã chia tay với Khâu Cửu Sư sao, đương nhiên là cãi nhau đến mất vui, đem giận dữ trút lên đầu ta".

Bách Thuần khẽ lắc đầu, biểu thị không đồng ý, nhẹ nhàng nói: "Nhưng ngươi sao biết ta có hảo cảm với Khâu Cửu Sư? Chưa nhìn thấy huynh ấy, cớ sao có thể nói ta thất tình? Trừ phi ngươi là tên tiểu tử bán mật rắn đó".

Ô Tử Hư thong thả đáp: "Ta không hiểu nàng đang nói gì. Chỉ biết nàng mỗi lần đề cập đến ba chữ Khâu Cửu Sư, đều có chút giận dữ. Hận càng nhiều, yêu càng sâu, không phải thất tình cớ gì lại hận chứ?".

Bách Thuần nghe đến ngây ngốc, thu hồi ánh mắt, đôi mắt đẹp lộ ra thần sắc thê lương, u oán và cam chịu, tiếp đó tựa vào ghế, rèm mi run run, một giọt lệ châu óng ánh từ khóe mắt trái lăn trên má ngọc, ngưng đọng chốc lát rồi rơi xuống thấm vào vạt áo.

Ô Tử Hư chấn động hô: "Bách Thuần!".

Sau một hồi lâu, Bách Thuần lại mở mắt ra, hung dữ trừng trừng nhìn hắn, mắng: "Thương tâm một chút cũng không được sao? Ngươi yên tâm đi, ta sống trên đời là muốn tìm sự vui vẻ, không phải tìm thống khổ. Tất cả đều là quá khứ rồi".

Ô Tử Hư lần này là thật sự không nói ra lời.

Lúc này Chu Bàn Tử đến, thấy hai người đang ở cùng, không chút kinh ngạc, vui vẻ nói: "Con gái ngoan của ta, mỹ nhân ảo thuật đến rồi!".

Bách Thuần đầu óc hồ đồ hỏi: "Cái gì mà mỹ nhân ảo thuật?".

Chu Bàn Tử hưng phấn đáp: "Là người nhận lời mời đến biểu diễn ảo thuật, thật không tưởng được lại là nữ tử trẻ tuổi thiên kiều bách mị, còn là mỹ nhân hiếm thấy gần như có thể so sánh với con gái ngoan của ta. Chu Bàn Tử ta tôn kính nhất là mỹ nữ, đợi ta mời nàng ấy đến biểu diễn cho con gái ngoan xem, phương diện kỹ nghệ có chút thành tựu là được, cho dù ảo thuật nàng ấy bình thường, bằng vào sự mỹ lệ của nàng cũng có thể bù đắp được. Con gái ngoan hiểu chưa?".

Bách Thuần nhíu mày hỏi: "Sao có thể chứ?".

Chu Bàn Tử giọng đương nhiên: "Có gì không được chứ". Quay sang Ô Tử Hư nói: "Thời gian không còn nhiều nữa, lúc nào thì Lang tiên sinh cần kích thích hứng vẽ".

Ô Tử Hư vui vẻ đáp: "Kích thích hứng vẽ có rất nhiều cách, xem mỹ nhân biểu diễn ảo thuật cũng là một cách, xin Chu gia lập tức mời mỹ nữ đó đến, để ta đại khai nhãn giới".

Bách Thuần và Chu Bàn Tử thở dài, bó tay với hắn.

Mưa lớn tan đi, nắng vàng tỏa lấp.

Khâu Cửu Sư và Nguyễn Tu Chân ngồi ở tiểu đình, Khâu Cửu Sư hỏi: "Ngươi thấy thế nào?".

Nguyễn Tu Chân trầm ngâm đáp: "Rất khó một lời nói tận. Lời của Tiền Thế Thần thật thật giả giả, cần phải phân tích kỹ lưỡng mới có thể phân được thật giả".

Khâu Cửu Sư khẽ cười nói: "Lập lời thề độc nếu còn chưa tin, bọn ta có thể bức hắn ói ra một nửa gia tài để biểu lộ thành ý, lúc đó sự câu kết giữa bọn ta và hắn biến thành thiết chứng như sơn, lấy hết nước Đại Giang cũng không rửa sạch hiềm nghi, sao cho phép hắn nuốt lời được".

Nguyễn Tu Chân gật đầu nói: "Lời của ngươi cũng có thể coi là một đề nghị tốt, dưới tình huống như thế đủ để kéo Tiền Thế Thần xuống vũng bùn, khiến hắn khó mà thoát thân. Bất quá tình huống hiện tại tịnh không giống thế, ngươi đã quên mất đại địch vô hình của bọn ta".

Khâu Cửu Sư đau đầu nói: "Chuyện này cũng có quan hệ nữa sao?".

Nguyễn Tu Chân đáp: "Ở trong bố cục mệnh vận này, mỗi một người, mỗi sự kiện, đều là một mắt xích trong đó, móc nối đan cài vào nhau, ảnh hưởng lẫn nhau, chỉ cần bất kỳ một mắt xích nào bị lệch, lập tức có thể phá vỡ cục thế, đây là lý giải từ đầu của bọn ta. Hiện tại tuy bị dẫn dắt vào mê cung, đầu óc trở nên quay cuồng, tinh thần sa sút không phân biệt được gì, thế nhưng điểm sáng này cần phải giữ vững, như thế bọn ta còn có đường thắng".

Khâu Cửu Sư bội phục nói: "Đầu óc ngươi phải chăng khác với người thường, bằng không làm sao có thể dưới tình thế phức tạp hiện nay, vẫn suy nghĩ rõ ràng như thế".

Nguyễn Tu Chân cười khẽ nói: "Đây là sự khiêu chiến trước giờ chưa từng có, bọn ta cần phải đối diện và khắc phục. Từ lúc 'tam quỷ tề động', ta sớm đã có tâm lý chuẩn bị, ấp ủ tâm trạng sẽ ác đấu cùng quỷ thần, ứng phó chuyện này khiến ta cảm thấy thú vị tràn trề, trận chiến này thành bại khó đoán. Ngươi, ta tuy quan tâm đến thắng lợi cuối cùng, nhưng lúc chiến đấu cần phải vứt bỏ sinh tử thành bại, mới có cơ hội đạt được mục tiêu".

Khâu Cửu Sư phấn khởi tinh thần, hỏi: "Bọn ta nên làm gì?".

Nguyễn Tu Chân đáp: "Đầu tiên là thái độ đối với Tiền Thế Thần, ngày nào gã vẫn chưa tham gia đại nghiệp của bọn ta, vẫn phải xem gã là địch nhân. Tiền Thế Thần chắc chắn có chuyện với Phụng công công và Quý Nhiếp Đề, nhưng không phải như lời gã là Phụng công công mưu đoạt gia sản gã. Muốn vu khống gã cấu kết bọn ta, cần phải dưới tình huống bọn ta phất cờ khởi nghĩa tố cáo mới có tác dụng. Một ngày bọn ta vẫn an phận giữ mình, tội danh cấu kết phản tặc không thể thành lập".

Khâu Cửu Sư đồng ý thốt: "Có đạo lý".

Nguyễn Tu Chân tiếp tục phân tích nói: "Tiền Thế Thần là đại thần nắm binh quyền ở địa phương, nếu như Phụng công công muốn lật đổ gã, tuyệt không thể nói lung tung, sự tình chỉ hạn chế giữa lão và Quý Nhiếp Đề, Tiền Thế Thần dù có người của gã ở kinh sư, làm thế nào biết được chuyện cơ mật như thế? Ta còn cho rằng Phụng công công không thể ngu xuẩn như vậy, đã biết Đại Hà Minh bọn ta lúc nào cũng có thể rục rịch cất đầu, lại đi đối phó với quyền thần địa phương trước, chỉ khiến dân tâm dao động, kiến tạo tình thế có lợi nhất cho bọn ta phất cờ khởi nghĩa, là chuyện kẻ trí không bao giờ làm".

Khâu Cửu Sư nhíu mày nói: "Lý do Tiền Thế Thần tìm đến bọn ta đích xác là không thuyết phục, vậy thì gã vì sao làm như thế? E rằng bọn ta phải nắm được Quý Nhiếp Đề mới có đáp án".

Nguyễn Tu Chân nói: "Một ngày bọn ta chưa bắt được Ngũ Độn Đạo, người chủ sự vẫn không phải là ngươi hoặc ta, mà là Đại long đầu, vì thế bọn ta tuyệt không thể dễ dàng vọng động".

Ngưng rồi tiếp: "Việc khẩn cấp trước mắt của bọn ta, là phải nắm rõ nguyên nhân Tiền Thế Thần đột nhiên mưu phản, chỉ có nắm được ngọn nguồn trong đó, bọn ta mới có thể quyết định hướng đi, bằng không lúc thời cơ chưa chín mùi hấp tấp khởi nghĩa, sẽ phản tác dụng".

Khâu Cửu Sư hỏi: "Bọn ta có biện pháp gì không?".

Hai mắt Nguyễn Tu Chân bừng sáng trí tuệ, đáp: "Nhân vật quan trọng là Cô Nguyệt Minh. Ta có một cảm giác, Cô Nguyệt Minh là nhắm vào Tiền Thế Thần mà đến, ngươi nghĩ xem! Cô Nguyệt Minh vừa đến Lạc Dương, Tiền Thế Thần liền đến cảnh cáo bọn ta, kích động bọn ta. Vì thế chỉ cần biết rõ tâm ý của Cô Nguyệt Minh, bọn ta có thể đưa ra phán đoán chính xác".

Khâu Cửu Sư hỏi: "Làm sao có thể biết rõ tâm ý của y?".

Nguyễn Tu Chân đáp: "Ta có một phương pháp rất gọn gàng, bất quá ngươi lại phải chịu mạo hiểm rất lớn, đó là kiến tạo cơ hội cho Cô Nguyệt Minh, xem y liệu có động thủ giết ngươi hay không".

Khâu Cửu Sư bật cười nói: "Mặc y là Cô Nguyệt Minh hay là Minh Nguyệt Cô, ta căn bản không sợ y. Đúng! Đây là phương pháp gọn gàng nhất, nếu y không có hứng thú với ta, điều đó đã chứng minh Tiền Thế Thần nói chuyện gian dối".

Nguyễn Tu Chân điềm đạm hỏi: "Giả như Quý Nhiếp Đề đúng như lời Tiền Thế Thần âm thầm điều động binh mã, bọn ta nên có phản ứng thế nào?".

Khâu Cửu Sư lộ ra thần sắc vô cùng tự tin, ung dung nói: "Phương diện này giao ta phụ trách, ta sẽ bí mật động viên, đánh phủ đầu Quý Nhiếp Đề, chỉ cần thủ tiêu Quý Nhiếp Đề, Phụng công công sẽ biến thành lão hổ không răng, không cần phải sợ lão".

Nguyễn Tu Chân cười khổ nói: "Đó chính là tình huống ta sợ nhất, hy vọng phát sinh sau khi đã bắt được Ngũ Độn Đạo, bằng không Đại long đầu sẽ thành mối lo của bọn ta, khiến bọn ta không thể ở trạng thái nghênh chiến tốt nhất. Ta sẽ đem tình hình này, báo cáo tỉ mỉ với Đại long đầu, hy vọng Đại long đầu không có hiểu lầm, khiến bọn ta không cách nào toàn lực ứng phó".

Khâu Cửu Sư vươn người đứng dậy, còn lười nhác vặn eo.

Nguyễn Tu Chân nói: "Nhớ cẩn thận! Ngàn vạn lần không nên khinh địch, Cô Nguyệt Minh tuyệt không phải là kẻ chỉ có hư danh".

Khâu Cửu Sư ung dung nói: "Gặp địch chủ quan là đại kỵ binh gia, Khâu Cửu Sư ta không phạm sai lầm ngu xuẩn đó đâu".

Tiền Thế Thần quay về Bố chính sứ ti phủ, được thủ hạ thông báo, lập tức đến thạch thất gặp Qua Mặc.

Ngồi xuống đất đối diện Qua Mặc, Tiền Thế Thần biến sắc la lên: "Sư huynh không phải thụ thương chứ!".

Sắc mặt Qua Mặc trắng bạch hơi không bình thường, hai mắt thoáng qua sát cơ mãnh liệt, khó chịu đáp: "Có thể nói như thế".

Tiền Thế Thần không tin hỏi: "Cô Nguyệt Minh lại có thể đả thương huynh?".

Qua Mặc cười khổ đáp: "Tình huống chân chính tịnh không phải như ngươi tưởng tượng, bất quá Cô Nguyệt Minh đúng là kiếm thủ siêu trác thiên sinh dị bẩm. Lần này ta đã dùng toàn lực, đoan chắc thành công, khi y từ Hồng Diệp Lâu quay về Quân Sơn Uyển đến Tương Quân Kiều thì bị ta bày bố trận Thái Ất kỳ môn độn giáp, bức y vào tử môn, lại dùng Lục giáp phi linh phù, thúc giục chúng linh, sai khiến bách thần, làm cho tâm thần mê hoặc, tiếp đó dùng thần nỏ bắn, nhưng vẫn bị y với linh đài trong sáng, phối hợp chiến lược xảo diệu phá vỡ, khiến ta việc sắp thành lại hỏng".

Tiền Thế Thần tái mặt, nói không ra lời.

Qua Mặc nói: "Tam kỳ bát môn trận pháp không còn tác dụng, bất đắc dĩ ta đành thi triển Tỏa Hồn Thuật tổn hao tâm lực nhất, nào biết y lại có Hộ thân phù, một dị vật như là Xá lợi tử, xuất kỳ bất ý phá vỡ Tỏa Hồn Thuật của ta, khiến ta thụ thương. Ta mất đi pháp thuật, y liền khí thế tăng vọt, không còn chịu bất kỳ phù lệnh cấm chế nào, ta chỉ đành trá thương nhảy xuống nước, muốn dụ y đuổi theo, nào biết người này tài trí không dưới kiếm thuật của y, lại nhìn ra kế dụ địch của ta, khiến ta uổng công trở về".

Sắc mặt Tiền Thế Thần càng biến thành khó coi, nói: "Lần này há không phải là trộm gà không xong còn mất gạo, khiến tình hình của bọn ta hoàn toàn bại lộ".

Qua Mặc hừ lạnh nói: "Từ khi bắt đầu vạch kế hoạch đoạt lấy Sở hạp, Thế Thần phải biết mình đang làm gì. Còn nhớ khi đó ta từng hỏi ngươi, đây là con đường chỉ có một hướng không thể quay đầu, đã bước chân lên thì chỉ có kiên trì đi tiếp, lúc đó ngươi trả lời ta thế nào?".

Tiền Thế Thần cười khổ đáp: "Đệ không phải hối hận, mà là sự tình đến quá đột ngột, đệ có chút không tiếp thụ được".

Qua Mặc điềm đạm nói: "Ta lẻ loi một mình, nói đi là đi, nhưng Thế Thần lại không thể không nghĩ cho gia tộc, tài sản. Chỉ có ta có tư cách thối lui, mà không phải Thế Thần ngươi".

Tiền Thế Thần thê thảm nói: "Đệ hiểu".

Qua Mặc trầm giọng nói: "Chỉ cần ngươi không lùi lại, ta sẽ cùng ngươi kiên trì đi tới, đối với Qua Mặc ta mà nói, trong thiên hạ không có chuyện gì không làm được. Thắng lợi cuối cùng sẽ thuộc về bọn ta".

Tiền Thế Thần ngớ ngẩn thốt: "Thắng lợi cuối cùng?".

Qua Mặc gật đầu nói: "Thắng lợi cuối cùng tịnh không phải lật đổ triều đình, mà là tìm được Sở hạp, khi đó mọi vấn đề đều có thể giải quyết dễ dàng. Khi ta đả tọa, ẩn ước cảm thấy Sở hạp thất tung mười năm trong một thời gian ngắn nữa sẽ trùng hiện nhân gian. Ta đã mất cơ hội một lần, lần này tuyệt không thể giẫm lên vết xe đổ nữa".

Tiền Thế Thần cảm động hỏi: "Sư huynh vì sao chịu bất chấp tất cả giúp Thế Thần như vậy chứ?".

Khóe miệng Qua Mặc lộ ra nét cười đầy thâm ý, đáp: "Ta vô thân vô cố, chỉ có một sư đệ ngươi, không giúp ngươi thì giúp ai đây? Ta cần phải diện bích ba ngày để hồi phục sức lực. Chuyện khác không cần sư huynh dạy ngươi, ngươi cũng biết nên làm thế nào chứ!".

Hồi 26: Ảo Thuật Mỹ Nhân

Vô Song Nữ khoác trường bào đen rộng thùng thình, đứng ở khoảng sân rộng rãi ngoài cổng chính Tình Trúc Các, đợi Chu Bàn Tử và Bách Thuần ra cổng xem nàng biểu diễn ảo thuật.

Trường bào này của nàng rất quý, gọi là "Hắc Long Biến", dưới sự chỉ đạo hết lòng của "Tạp Sái Vương" An Giới, tự tay nàng may lấy, từ hơn trăm loại vật liệu khác nhau chuyên tâm phối hợp mà thành, nhìn lướt qua thì giống như một cái áo, nhưng sự thực thì phân ra trong ngoài nhiều lớp, số lớp trong đó được gấp xảo diệu, do nàng dùng thủ pháp khéo léo sắp xếp, phối hợp với ánh sáng ảo thuật, có thể biến hóa vô cùng. Bất luận trong tay áo hay trong áo, đều có giấu công cụ hỏa khí biểu diễn tạp kỹ của nàng, khiến nàng giống như biến thành người biểu diễn ảo thuật có pháp lực vô biên.

Mái tóc xinh đẹp của nàng xõa xuống hai bờ vai, tóc đen da trắng, áo dài phết đất, nàng chỉ cần bộc lộ vẻ mỹ lệ như thế đã khiến nam nhân say đắm, chịu khuất phục trước nàng.

Nàng chịu đến Hồng Diệp Lâu biểu diễn, đương nhiên không phải vì thù lao, mà là vì Cô Nguyệt Minh. Nàng từng cùng Cô Nguyệt Minh giao thủ qua, biết rõ trình độ của Cô Nguyệt Minh, muốn dưới tình huống y đã phòng bị ám sát y, cơ hội thành công rất thấp. Vì thế khi nàng thấy Cô Nguyệt Minh đặt trên bàn thiệp mời dự yến mười năm thành lập Hồng Diệp Lâu, bất giác không kìm được vui mừng.

Nếu như có thể ở dưới tình huống hiến nghệ biểu diễn như thế, nàng có thể thi triển hết sở trường, bày bố cục thế ám sát tinh vi nhất, vào lúc Cô Nguyệt Minh lơ là nhất, đoạt lấy mạng y.

Thân thể to béo của Chu Bàn Tử xuất hiện đầu tiên trên bậc cấp cổng, theo sau là Diễm Nương và một nữ nhân toàn thân vận kình trang, hiển hiện hết phong thái uyển chuyển của mỹ nữ xuất sắc. Tiếp nữa là một nam tử nho sinh hoa diện.

Vô Song Nữ nhìn thấy tâm thần chấn động, hai tay vội vung lên, ống tay áo dài rộng lập tức che khuất gương mặt nàng, chỉ lộ ra đôi mắt to tròn, khiến người không thấy được sự dao động trong lòng nàng.

Người này không phải chính là Ngũ Độn Đạo trong bảng treo thưởng sao?

Sự thật thì nam tử trước mặt và Ngũ Độn Đạo trong bảng treo thưởng, nhiều nhất chỉ có một, hai phần giống nhau, thần khí càng khác xa, thế nhưng nàng lại có thể mới nhìn đã nhận ra hắn.

Ngày đó nàng ở bến đò nhìn thấy bảng treo thưởng, trong lòng có cảm giác hết sức cổ quái, giống như nhìn thấy một người hết sức quen thuộc, được người ta vẽ chân dung, giữa những nét giống và không giống, nàng hầu như có thể chỉ ra chỗ nào vẽ chưa tốt, mặt nào cần chỉnh sửa.

Hiện tại thấy "Người thật", nàng vừa nhìn đã nhận ra hắn.

Nàng khẳng định trước giờ chưa từng gặp hắn, loại cảm giác đó cổ quái quỷ dị cực điểm.

Ngũ Độn Đạo lại trốn vào Hồng Diệp Lâu, thật khiến người ta khó hiểu.

Vô Song Nữ trấn tĩnh tâm thần, dùng mũi chân đạp vỡ quả cầu khói bố trí trên mặt đất, khói năm màu lập tức từ dưới trường bào tỏa ra, nhanh chóng bao bọc nàng trong màn khói mờ ảo.

"Ầm!".

Ánh sáng trắng cường liệt bùng lên trên đầu nàng, lập tức chiếu sáng khuôn viên ba trượng, phản chiếu lên khói màu biến thành muôn màu muôn vẻ, xán lạn chói lói.

Bọn bốn người Chu Bàn Tử đều lộ ra thần sắc say mê, đứng tại bậc cấp, ai nấy tập trung quan sát nàng biểu diễn kỹ nghệ.

Hắc Long Biến của Vô Song Nữ rung lên, không còn nhìn thấy người, tiếp đó ống tay áo tung bay, ở trong màn khói biến hóa vô số hình thái, mỗi một động tác đều có cảm giác đẹp đến cực điểm. Chỗ động nhân nhất chính là trường bào vốn bình thường không có gì đặc sắc, đến giờ lại không thể dùng bất kỳ ngôn ngữ nào để hình dung, giống như ma quỷ hồi sinh, thiên thái vạn trạng trong màn quang vụ, cuồng phi loạn vũ, phản chiếu đủ sắc màu, trong ống tay áo đột nhiên bay ra hai dải lụa màu, trong màn khói giao kết tạo thành đồ án bất đồng, hết sức sống động, khiến người ta bùng phát ảo giác, thần mê ý loạn.

Biểu diễn xảy ra bất ngờ, tất cả phút chốc lại yên tĩnh. Vô Song Nữ khôi phục trạng thái như trước, dùng tay áo che mặt, chỉ lộ đôi mắt.

Nhưng sự yên tĩnh chỉ duy trì được trong chớp mắt, khói màu biến thành khói đen, ánh sáng bên trên thu lại, hắc ám trong sát na chiếm cứ không gian vốn rực rỡ khói màu, tiếp đó lửa đỏ bắn vọt lên trời, chiếu hồng khắp sân. Khói đen tan dần, Hắc Long Biến trở lại bình thường, rơi xuống đất.

Vô Song Nữ hiện thân xa hơn trượng ở phía sau, đang ôm quyền thi lễ với bốn người.

Ô Tử Hư vỗ tay hoan hô đầu tiên, chúng nhân không ai không vỗ đến đỏ tay.

Chu Bàn Tử bước xuống bậc cấp, cười ha hả nói: "Ảo thuật tuyệt kỹ của Song Song, xuất sắc tuyệt luân, giúp người ta đại khai nhãn giới. Tiệc mừng mười năm của bọn ta, được Song Song góp sức, thì càng tận thiện tận mỹ".

Bách Thuần thấy Ô Tử Hư vẫn mặt mũi hớn hở, bộ dáng háo sắc nhìn chằm chằm cô nương người ta, say sưa vỗ tay, không nhịn được dùng khuỷu tay hích mạnh vào tay hắn, đau đến mức hắn phải buông tay xuống, bây giờ mới nói: "Song Song muội tử thật tuyệt vời, tập hợp cả ảo thuật vũ đạo vào người, cho dù danh gia ảo thuật ở kinh sư, so với muội tử vẫn còn thua xa. Muội tử đối với thù lao đãi ngộ của Hồng Diệp Lâu bọn ta, có đề nghị gì khác hay không?".

Vô Song Nữ bước nhanh lên mấy bước, nhặt Hắc Long Biến từ mặt đất lên, nhẹ nhàng gấp lại, đáp: "Không có vấn đề. Nhưng lần này ta chỉ là nhân dịp du ngoạn Động Đình Hồ thuận đường qua Lạc Dương, nhất thời động tâm trước cuộc vui, chuẩn bị không đủ, vì thế cần phải vào trong thành mua mấy thứ, chế tác yên hoa hỏa khí dùng biểu diễn, hy vọng quý lâu có thể cấp cho phòng xá u tĩnh không người để ta sử dụng".

Bách Thuần nhìn qua Diễm Nương, Diễm Nương mới đầu lộ vẻ khó khăn, nhưng liền linh hoạt nói: "Thiền Dực có thể đến ở tạm chỗ ta, Vũ Trúc Các trống đem cấp cho Song Song cô nương sử dụng".

Chu Bàn Tử vui mừng nói: "Cứ làm như thế. Hồng Diệp Lâu bọn ta khẳng định vận may đang đến, cao thủ hàng đầu mọi ngành mọi nghề đều không hẹn mà tập trung ở đây. Con gái ngoan của ta còn có gì muốn nói không?".

Đáp lời hắn không phải là Bách Thuần, mà là Ô Tử Hư hai mắt sáng rỡ, động tác hoạt kê vung tay nói: "Ngu sinh có lời muốn nói".

Vô Song Nữ cười thầm, tên tiểu tử này lại biết giả thần giả quỷ, đợi lúc ta vạch trần thân phận ngươi, xem ngươi còn có thể dương dương đắc ý như thế không? Hờ hững nói: "Vị này là...".

Diễm Nương liếc mắt nhìn hắn ngụ ý không cần hắn lên tiếng, nói: "Vị này là bậc thầy vẽ chân dung đến từ kinh sư - Lang Canh tiên sinh. Đi thôi! Để nô gia dẫn Song Song cô nương đi xem chỗ ở coi thử có thể làm cô nương hài lòng không".

Ô Tử Hư cự nự: "Ta còn chưa có cơ hội nói".

Bách Thuần nhíu mày nhìn hắn hỏi: "Ngươi có gì muốn nói?".

Ô Tử Hư kề sát tai nàng, thì thầm: "Bách Thuần ghen rồi". Tiếp đó lui nhanh về sau như tránh rắn độc, nói: "Lang Canh ta ngoại trừ tài vẽ, còn học qua cách chế hỏa khí, Song Song cô nương nếu có chỗ cần đến ta, xin cứ thoải mái phân phó".

Bách Thuần không vui nói: "Ngươi vẽ cho tốt rồi hãy nói".

Ngay khi quay mặt qua Vô Song Nữ, thanh âm chuyển thành dịu dàng, nói: "Muội tử trước tiên nghỉ ngơi cho khỏe, đại nương sẽ thu xếp mọi thứ cho nàng, ngày mai bọn ta hẹn gặp nhau, thương lượng chi tiết biểu diễn trong buổi tiệc".

Chu Bàn Tử cười khà khà nói: "Cứ làm như thế".

Cô Nguyệt Minh ở giữa phòng lặng lẽ ngồi đối diện bàn, Bạch Lộ Vũ đặt cạnh thiếp mời màu vàng chữ đỏ, Uyển kiếm đựng trong túi da đặt ở phía khác.

Nói chuyện với Ô Tử Hư khiến y cảm thấy hết sức chấn động, đến hiện tại vẫn chưa phai. Ngược lại trận chiến với Qua Mặc, y một điểm cũng không để trong lòng.

Nếu sự suy đoán của Nguyễn Tu Chân đúng với sự thực, y hiện tại đang từng bước từng bước thâm nhập vào bố cục mệnh vận đó. Từ khi tiếp nhận nhiệm vụ tầm bảo của Phụng công công, sự lựa chọn của y càng lúc càng ít, y có thể không quan tâm đến sinh mạng bản thân, nhưng không thể không quan tâm đến an nguy của Hoa Mộng phu nhân. Bất luận là Ký Thiện hay là Phụng công công, y dám bảo đảm bọn chúng không thể làm hại nàng, bằng không bọn chúng sẽ vĩnh viễn không có được Sở hạp, còn điều kiện tiên quyết, là y cần phải tìm được Sở hạp.

Ngũ Độn Đạo vốn hoàn toàn không có dính líu gì với y, thế nhưng một bức vẽ đã liên hệ bọn họ lại, còn hết sức vi diệu, vượt khỏi lẽ thường.

Tất cả đều chỉ đến Vân Mộng Trạch.

Chủ tể trong cõi U minh của tất cả lực lượng thần bí này, rốt cuộc có phải là thần linh thủ hộ cổ thành không? Hay là lệ quỷ oan hồn trong trận chiến tấn công và phòng thủ cổ thành hơn ngàn năm trước còn lưu lại? Làm như thế là có mục đích gì?

Hay là lực lượng thần bí đó sớm để hiện thân, chính là cổ chiến xa nữ thần mà Ô Tử Hư vẽ, nữ thần của Vân Mộng Trạch.

Y thật muốn lập tức đến Hồng Diệp Lâu, xem xem có thể từ bức vẽ đó tìm được thêm gợi ý gì hay không.

Tiếng gõ cửa vang lên.

Cô Nguyệt Minh hô: "Cửa không có cài then".

"Kẹt!".

Cửa lớn bị đẩy ra, một nam tử trẻ tuổi khôi ngô anh tuấn bước vào, cười chào Cô Nguyệt Minh, nói: "Cô huynh không phải có thói quen không thắp đèn chứ?".

Cô Nguyệt Minh quan sát y một chốc, hờ hững nói: "Thì ra là Khâu Cửu Sư. Mời ngồi! Đây không phải là thói quen, mà là một thú vui, ta thích bóng đêm".

Khâu Cửu Sư đến đối diện y kéo một cái ghế ngồi xuống, ánh mắt trước tiên nhìn đến Bạch Lộ Vũ của y, sau đó nhìn sang tấm thiếp, kinh ngạc nói: "Cô huynh cũng tham gia loại yến hội đông người nhiệt náo này à! Thật làm ta ngạc nhiên".

Cô Nguyệt Minh nhíu mày nói: "Khâu huynh thật ra là đến tìm ta động thủ? Hay là muốn tán gẫu với ta mấy câu đây?".

Ánh mắt Khâu Cửu Sư dời đến túi da, hết sức hứng thú hỏi: "Cô huynh làm thế nào đoán được ta ngầm có sát cơ?".

Cô Nguyệt Minh nhún vai đáp: "Từ lúc huynh bước vào cửa đã ở trạng thái tập trung cao độ, từng bước chân đều có tính toán, nhưng lại không phải muốn đến ám sát, tìm cơ hội công kích, ngược lại tựa như sợ ta đột kích huynh, vì sao có bộ dạng như thế?".

Khâu Cửu Sư cười khổ nói: "Chẳng trách Tu Chân xem trọng huynh như thế, lại căn dặn kỹ càng ta ngàn vạn lần không nên khinh thường huynh, Cô Nguyệt Minh đúng là Cô Nguyệt Minh, ta là lần đầu có cảm giác khó chịu bị người nhìn thấu. Cô huynh quan sát rất chuẩn, ta sau khi vào cửa luôn ở trạng thái đề phòng, bởi vì bọn ta từ một kênh nhận được tin, Cô huynh lần này xuống phương Nam, danh là truy bắt khâm phạm, thực lại là muốn đến giết Khâu Cửu Sư ta. Đối với Vô Tình kiếm thủ Cô Nguyệt Minh vang danh thiên hạ, ta sao dám lơ là?".

Cô Nguyệt Minh lạnh nhạt hỏi: "Tin tức của Khâu huynh, có phải đến từ Tiền Thế Thần hay không?".

Khâu Cửu Sư trầm ngâm một lát, hỏi: "Ta có thể không trả lời được không?".

Cô Nguyệt Minh không chút để tâm đáp: "Không có quan hệ. Lần này ta vượt đường xa đến, đích xác là truy bắt khâm phạm, vấn đề nằm ở chỗ ai là khâm phạm chân chính? Tiền Thế Thân là người tự thân khó giữ, cho nên mượn thế lực các người vượt qua vũng nước đục này. Đương nhiên, nếu các người làm cho Quý Nhiếp Đề có thể thừa cơ, hắn sẽ không chút do dự tiêu diệt các người".

Khâu Cửu Sư ngạc nhiên nói: "Cô huynh sao có thể đột nhiên phá vỡ tác phong chuyện mình mình làm của bản thân, không những chịu giải thích tình hình bản thân, còn nói thẳng không nghi kỵ".

Cô Nguyệt Minh bình tĩnh nói: "Đây là cách ta biểu thị sự áy náy, muốn dùng tin tức cơ mật này bồi thường cho các người".

Khâu Cửu Sư không hiểu thốt: "Áy náy? Ta không hiểu".

Cô Nguyệt Minh nói: "Ta từng bảo đảm với Nguyễn tiên sinh không can thiệp vào chuyện giữa các người và Ngũ Độn Đạo, hiện tại ta phải nuốt lời thu hồi sự bảo đảm đó, vì thế lòng thấy áy náy, chuyện là như thế".

Hai mắt Khâu Cửu Sư sáng rực, trầm giọng nói: "Cô huynh biết bọn ta và Ngũ Độn Đạo ở thế bất lưỡng lập, chuyện có liên quan đến hắn thì không thể nhường nhịn được".

Cô Nguyệt Minh hời hợt nói: "Khi ta quyết định làm một chuyện gì, chưa từng quan tâm đến suy nghĩ của người khác".

Khâu Cửu Sư than: "Sao lại khổ như thế? Bọn ta tuyệt không muốn Cô huynh trở thành địch nhân của bọn ta".

Cô Nguyệt Minh điềm đạm nói: "Phiền Khâu huynh nói với Nguyễn tiên sinh, hiện tại ta đã bắt đầu tin, bọn ta đang hãm thân vào cục thế mệnh vận do một bàn tay vô hình bố trí, dưới tình huống thân bất do kỷ, lựa chọn của bọn ta chỉ có một, đó là tuân theo lựa chọn mà bàn tay vô hình đó an bài cho bọn ta, nói cách khác là bọn ta căn bản không có lựa chọn. Nói thẳng ra, ta cảm thấy tình huống trước mắt vừa đáng sợ vừa hứng thú, cho ta cảm thụ chưa từng có. Ta đến lúc này vẫn không biết được nên áp dụng lập trường và thái độ nào đối với chuyện của Ngũ Độn Đạo, chỉ biết không còn do ta lựa chọn, chỉ xem mệnh vận dẫn ta đi theo phương hướng nào. Cũng như các người không có lựa chọn khác trong chuyện của Ngũ Độn Đạo, ta ẩn ước cảm thấy ta đang từng bước hướng đến tình huống đồng nhất".

Khâu Cửu Sư nghe đến ngẩn người, đột nhiên lại than: "Ta thật hy vọng có thể hạ quyết tâm bức Cô huynh quyết chiến sinh tử, lại không thể vào lúc này xem Cô huynh như địch nhân, hy vọng tình huống không phát triển theo hướng đó".

Lại nhíu mày hỏi: "Vì sao chỉ trong nửa ngày, Cô huynh lại có biến đổi lớn như thế?".

Cô Nguyệt Minh kiên quyết nói: "Chuyện này thứ cho Cô mỗ không thể trả lời".

Khâu Cửu Sư đứng dậy, cười khẽ nói: "Khâu Cửu Sư ta không còn gì để nói. Cô huynh nói đúng, bọn ta đang hãm thân trong mê cục, không có ai biết được kết quả cuối cùng thế nào. Cáo từ!".

Nói dứt quay đầu đi liền.

Cô Nguyệt Minh than thầm, y thực sự không muốn làm địch nhân của Khâu Cửu Sư, thế nhưng trực giác y lại cảm thấy, trận chiến với Khâu Cửu Sư không thể tránh khỏi.

Khâu Cửu Sư có phải là người có khả năng giết mình không?

Ô Tử Hư nằm trên giường, trong lòng nổi sóng, cũng biết có chút sợ hãi tiến vào giấc mộng, nhưng đây là chỗ hắn không thể làm chủ được bản thân.

Đêm nay thành tích của hắn thật đáng tự hào, một mạch hoàn thành hai bức họa mỹ nhân, tình cảnh trong đó tựa như yêu kiều nhu mì, sắc mê người say, may mắn hơn là hắn vẫn có thể giữ được một chút tỉnh táo không mê muội, biết được bản thân tuyệt không thể vượt ranh giới, bằng không sẽ mất đi hứng thú đối với mỹ nữ, mất đi động lực vẽ, không hoàn thành được bát mỹ đồ, không thể giao dịch cùng Tiền Thế Thần, còn chịu rơi vào tay Đại Hà Minh, mất đi tất cả.

Bản thân hắn minh bạch trong lòng, bát mỹ đồ đã biến thành một mục tiêu khác cần phải hoàn thành ngoài hành động bán ngọc, chuyện này là vì sinh mệnh và thái độ chịu trách nhiệm của bản thân. Hồng Diệp Lâu do Chu Bàn Tử, Bách Thuần, Diễm Nương, thậm chí Thiền Dực và mấy người làm mẫu, ai nấy đều kỳ vọng vào hắn, hợp lại tạo thành một cỗ lực lượng thúc giục không thể kháng cự, thêm vào động lực sáng tác của bản thân, hắn không thể bỏ dở công việc giữa chừng, cho dù biết rõ ngày hoàn thành bát mỹ đồ cũng là lúc hắn mất đi tấm bùa hộ thân.

Còn nữ lang ảo thuật gọi là Song Song, lực hấp dẫn của nàng đối với hắn không dưới Bách Thuần, mỹ nữ xuất sắc giống như Bách Thuần, đã là bình sinh khó gặp. Mỹ nữ hiếm có như thế, lại một lúc gặp được hai người, đúng là khó tin.

Chẳng lẽ khổ nạn của bản thân cuối cùng đã qua, đến lúc vận may tìm đến? Hắn luôn truy tầm một thứ cảm giác, liệu có thể từ một trong bọn họ có được hay không? Hắn kỳ vọng thời khắc khảo nghiệm đó sẽ đến, đó là sau khi cùng 'nàng' qua đêm xuân, là thỏa mãn và luyến tiếc. Lại sợ thời khắc đó đến, sợ thất vọng lần nữa.

Cho dù ở thanh lâu tận tình hưởng lạc, lúc mơ mơ màng màng, sâu trong lòng hắn vẫn là thống khổ và trống rỗng, cảm giác đó bất kỳ hoan lạc nào cũng không thể đạt đến, cũng là thiếu hụt lớn nhất trong đời hắn.

Hắn nghĩ đến Cô Nguyệt Minh, từ Cô Nguyệt Minh liên tưởng đến Cổ chiến xa mỹ nữ do tự tay mình vẽ, không hiểu vì sao Cô Nguyệt Minh khi quan sát bức tranh nhìn thấy dị tượng, bản thân mình là kẻ sáng tạo ra lại không phát hiện gì.

Cổ chiến xa nữ thần xuất hiện trong đầu hắn, càng lúc càng rõ, dần dần chiếm lấy tâm thần hắn.

Trong mơ mơ hồ hồ, hắn lại đạp chân đầu tường sơn thành, tất cả tựa như dĩ nhiên như thế, phảng phất đây mới là nơi hắn ở, là gia viên của hắn.

Hắn không gặp người nào, đột nhiên bước chân lệch khỏi con đường đá trên tường thành, phía trước xuất hiện một tòa kiến trúc giống như thần miếu, trước miếu có một quảng trường, sắc trời đột nhiên chuyển tối, một vầng trăng tròn xuất hiện trên đầu, sân đá quảng trường dưới ánh trăng lấp lánh sáng, có cảm giác không chân thật.

Thiên địa vắng lặng vô thanh, chỉ có tiếng bước chân hắn vọng vọng trong không trung.

Hắn mất tự chủ đi về phía cổng chính thần miếu, trên cổng chính có một tấm bảng bằng đá, khắc bốn chữ lớn, kỳ quái là làm thế nào cũng không nhìn rõ, không thể nhận ra là chữ gì.

Phía sau đột nhiên truyền lại tiếng thở dài của nữ tử, Ô Tử Hư chấn động tâm thần, quay người ngóng nhìn.

Thiên không biến thành sâu thẳm bao la, vầng trăng biến mất không còn tung tích, không gian đen tối u ám tràn ngập. Ở nơi xa nhất trong quảng trường, xuất hiện một đoàn quang mang, sâu trong luồng sáng hỗn độn, ẩn ước thấy bóng ảnh nữ tử yểu điệu động nhân, từ trên người nàng phát ra từng đợt sáng chói mắt, khoách tán ra vô tận trong hắc ám.

Quảng trường biến mất, chỉ còn không gian hắc ám vô cùng tận, bóng ảnh yểu điệu mỹ lệ đó bừng cháy ánh sáng và nhiệt lượng, đang chầm chậm trôi về phía hắn, tình cảnh quỷ dị động nhân. Ô Tử Hư dùng hết sức nhìn, vẫn không thể thấy rõ diện mạo nữ tử, muốn tiến lên nhìn cho rõ hơn, nhưng đã mất đi sức di chuyển.

Thanh âm nữ tử vang lên trong lòng hắn: "Gọi tên của ta! Gọi tên của ta!".

Ô Tử Hư sinh ra kích động muốn điên cuồng hét lên, thế nhưng câu nói dâng lên đến miệng làm sao cũng không thể phát ra, trong lòng tràn ngập bức xúc và bi thương.

Hét lớn một tiếng, giật mình tỉnh lại.

Ô Tử Hư từ trên giường bật ngồi dậy, tất cả vẫn như trước.

Ngoài cửa sổ mường tượng có tiếng nước vỗ bờ vọng vọng, tiếng côn trùng kêu, còn có tiếng ếch nhái xướng ca hùng hồn, hết đợt này đến đợt khác, tựa như vĩnh viễn không ngừng.

Lúc này mới phát hiện mặt mình đầy lệ.

Hắn chưa từng có cảm giác thất lạc và thống khổ như thế.

Vô Song Nữ đứng trên một hòn đá lớn bên hồ ngoài Vũ Trúc Các, gió từ hồ thổi đến, luồn qua tay áo nàng lất phất, tựa như có thể cưỡi gió mà đi.

Vào lúc mà nàng mang thân cữu mai táng trong Vân Mộng Trạch, nàng cảm thấy hy vọng của nàng cũng đã chôn vùi ở đó.

Nàng có một cảm giác, cha đã chết rồi, chết trong trường tai kiếp phát sinh ở Vân Mộng Trạch mười năm trước, bằng không ông nhất định nghĩ cách tìm mẹ con nàng. Nàng tin chắc là như thế.

Sau khi giết Cô Nguyệt Minh, nàng sẽ trở lại Vân Mộng Trạch, trước tiên bái tế thân cữu, sau đó vào ngày mười bốn tháng bảy lùng tìm cổ thành, bất luận có thể tìm được cổ thành hay không, ở thời khắc cuối cùng của ngày đó nàng sẽ phục độc hoàn mang theo người tự tận, điểm khác nhau chỉ là ở trong thành hay ngoài thành mà thôi.

Không ai có thể hiểu nàng, bao gồm cả An Giới. Bởi vì người ngoài rất khó hiểu tình cảm của nàng đối với cha và mẹ. Nhìn mẹ ở trước mặt mình càng ngày càng ốm, sự uất ức ăn mòn tinh thần và thân thể mẹ, lòng nàng tan nát, nếu không thể chứng minh nàng không có nhìn lầm cha, sống tiếp cũng không có ý nghĩa gì.

Tiếng bước chân vang ở phía sau.

Vô Song Nữ không quay đầu, nàng căn bản không muốn nói chuyện với ai.

Thiền Dực đến đằng sau nàng, nói: "Đại tiểu thư sai nô tỳ đến xem Song Song cô nương, nếu cô nương còn chưa ngủ, mời cô nương đến Tình Trúc Các nói chuyện với tiểu thư".

Vô Song Nữ lắc đầu hỏi: "Không phải đã nói là ngày mai sao?".

Thiền Dực hạ thấp giọng nói: "Dáng vẻ đại tiểu thư tâm sự trùng trùng, Song Song cô nương, coi như Thiền Dực cầu xin cô được không? Đại tiểu thư rất tán thưởng cô".

Vô Song Nữ nhíu mày nói: "Đích thực quá trễ rồi".

Thiền Dực nói: "Không mất quá nhiều thời gian của Song Song cô nương đâu. Sự thực thì đại tiểu thư sớm đoán Song Song cô nương sẽ cự tuyệt đến gặp nàng, vì thế bảo Thiền Dực nói với cô nương, nếu cô không chịu đến chỗ nàng, nàng sẽ qua đây".

Vô Song Nữ quay người lại, bình tĩnh nói: "Bách Thuần quả nhiên danh bất hư truyền".

Ô Tử Hư ôm đầu ngồi ở bình đài đối diện hồ, ngực như có tảng đá ngàn cân đè lên, hô hấp không được, sự thống khổ khiến người ta như nghẹt thở đang giày vò hắn.

Nàng thật ra muốn mình gọi nàng làm gì chứ?

Nàng là ai?

Tên nàng là gì?

Một chuỗi vấn đề trong đầu hắn hình thành một vòng xoáy không đáy, cuốn hắn vào nó, khiến hắn mất đi sức kiềm chế.

Vào lúc này, một điểm sáng xuất hiện trên mặt hồ xa xa, lướt xéo qua mặt hồ, di chuyển đến góc tây bắc bờ đối diện, gợn nên trùng trùng vòng sóng, trên thuyền có hai người.

Ô Tử Hư chăm chú nhìn một hồi, vì có mục tiêu mới, tâm tình thư thái một chút.

Thuyền nhỏ lúc này đã đến giữa Quải Biều Trì, Ô Tử Hư bằng nhãn lực hơn người, nhận ra đó là nữ tử tên Song Song và Thiền Dực. Lòng nghĩ ngoại trừ Cổ chiến xa nữ thần, đối với bản thân có lực hấp dẫn nhất là hai mỹ nữ, tối nay chắc có ước hội.

Hiện tại bản thân đã không vui vẻ, càng sợ phải ngủ, sao không đi tham dự nhiệt náo? Tình huống xấu nhất cùng lắm là bị bọn họ liên thủ tống ra khỏi cửa mà thôi.

Hồi 27: Vi Tình Sở Khốn

Khâu Cửu Sư về đến Bát Trận Viên, Nguyễn Tu Chân ở thư phòng đang soạn thư trình báo Hoàng Phủ Thiên Hùng, Khâu Cửu Sư đến thư phòng gặp gã, sau khi ngồi xuống thuật lại tình huống đi gặp Cô Nguyệt Minh.

Đến khi Khâu Cửu Sư nói dứt, Nguyễn Tu Chân vừa hay cũng viết xong, đặt bút nói: "Cô Nguyệt Minh hôm nay đã gặp Ngũ Độn Đạo".

Khâu Cửu Sư ngạc nhiên hỏi: "Gặp Ngũ Độn Đạo?".

Nguyễn Tu Chân gật đầu đáp: "Chính xác mà nói, y là gặp tên tự xưng là Họa Tiên Lang Canh. Cô Nguyệt Minh sau khi nói chuyện với ta, đi đến Hồng Diệp Lâu, do Chu Bàn Tử chào đón y, còn tự thân đưa y đến Phong Trúc Các. Cô Nguyệt Minh lưu lại Phong Trúc Các hơn nửa canh giờ, còn y nói chuyện gì với Lang Canh, chỉ có hai người bọn họ biết".

Khâu Cửu Sư nhíu mày nói: "Cô Nguyệt Minh và Ngũ Độn Đạo là hai người ở thế bất lưỡng lập, có gì hay để nói chuyện chứ".

Nguyễn Tu Chân nói: "Chính là buổi nói chuyện với Ngũ Độn Đạo đã cải biến lời hứa không nhúng tay vào chuyện bọn ta của Cô Nguyệt Minh. Với tính cách cô độc của Cô Nguyệt Minh, cho dù biết rõ Lang Canh là Ngũ Độn Đạo giả mạo, cũng không đi gặp Ngũ Độn Đạo, từ đó có thể thấy giữa y và Ngũ Độn Đạo, đã phát sinh tình huống mà bọn ta còn chưa biết được".

Lại than: "Sự tình phát triển càng lúc càng khúc chiết ly kỳ, vượt ngoài ý liệu của con người. Cô Nguyệt Minh chắc chắn không phải người dễ dàng làm trái lời hứa, bất quá chiêu này của y chơi thật đẹp mắt, cho dù vẫn là nói không giữ lời, nhưng cũng khiến ta trong lòng thoải mái, không nỡ trách y".

Khâu Cửu Sư nhấn mạnh: "Y là một người rất đặc biệt, ta tin lời của y".

Nguyễn Tu Chân trầm ngâm nói: "Câu nói 'Vấn đề nằm ở chỗ ai là khâm phạm' của y, đặc biệt đánh trúng yếu điểm, mà Tiền Thế Thần chính vì trở thành khâm phạm, vì thế xúi bẩy bọn ta, hy vọng bọn ta cử binh khởi nghĩa, Tiền Thế Thần liền có thể thừa nước đục thả câu, cũng chỉ có một lý do đó, mới phù hợp với tác phong nhất quán của Tiền Thế Thần. Gã là kẻ chỉ nghĩ cho mình, mặc kệ sống chết của lão bách tính".

Khâu Cửu Sư không hiểu hỏi: "Tiền Thế Thần sao đột nhiên biến thành khâm phạm? Được! Gã lại dám lợi dụng bọn ta, ta sẽ khiến gã ăn không ngon ngủ không yên".

Nguyễn Tu Chân nói: "Biết cũng tốt, không biết cũng tốt. Khởi nghĩa của bọn ta, là chuyện sớm hay muộn, chỉ thuộc vấn đề thời gian. Hiện tại bọn ta đã từ chỗ Cô Nguyệt Minh có được một tin tình báo quý giá, có thể lợi dụng ngược lại Tiền Thế Thần để mang lại lợi ích cho mình, đối với đại nghiệp của bọn ta là có lợi vô hại".

Khâu Cửu Sư gật đầu nói: "Đúng! Lạc Dương thành là địa bàn của Tiền Thế Thần, muốn tróc nã Ngũ Độn Đạo, cho dù không cần dựa vào lực lượng của Tiền Thế Thần, cũng không thể đắc tội với gã".

Nguyễn Tu Chân khẽ cười nói: "Bất luận bọn ta đắc tội Tiền Thế Thần thế nào, gã chỉ có thể nuốt giận câm lặng, còn phải cố sức phối hợp bọn ta đối phó Ngũ Độn Đạo, bởi vì bọn ta đã thành cứu tinh duy nhất của gã".

Khâu Cửu Sư than: "Thế nhưng Cô Nguyệt Minh nói rõ sẽ đứng về phía Ngũ Độn Đạo, khiến sự tình càng thêm rắc rối, thật muốn bất chấp tất cả tiêu diệt Cô Nguyệt Minh, rồi xông vào Hồng Diệp Lâu bắt sống Ngũ Độn Đạo".

Nguyễn Tu Chân nói: "Không phải đến lúc bất đắc dĩ, bọn ta tuyệt không thể động thủ với Cô Nguyệt Minh. Cô Nguyệt Minh nổi tiếng thủ đoạn độc ác, dưới kiếm không lưu người, một khi trở thành cừu địch, sẽ không còn chỗ để cứu vãn. Cửu Sư ngươi không thể học theo cái dũng của kẻ thất phu, đưa thân vào chỗ hiểm quyết chiến cùng y. Ta và ngươi tuyệt không phải vì thắng bại vinh nhục của cá nhân, mà là vì đại nghiệp tương lai của bọn ta".

Khâu Cửu Sư cười khổ tiếp: "Nói thẳng ra, tuy y không chút khách khí, nhưng ta vẫn không thể sinh ác cảm với y. Thế nhưng nếu y bảo hộ Ngũ Độn Đạo, trận chiến giữa ta và y không thể tránh khỏi".

Nguyễn Tu Chân lộ ra thần sắc suy tư, nói: "Rốt cuộc là chuyện gì khiến Cô Nguyệt Minh cảm thấy không còn lựa chọn, thậm chí không ngại đối kháng với bọn ta?".

Khâu Cửu Sư nói: "Cô Nguyệt Minh nói rõ cho đến lúc này, vẫn không rõ bản thân sẽ có lập trường và thái độ nào trong chuyện Ngũ Độn Đạo, cần xem tình huống phát triển, chỉ là những lời này làm cho người ta khó hiểu".

Nguyễn Tu Chân tiếp: "Khẳng định có liên quan đến nhiệm vụ xuống phương Nam lần này của Cô Nguyệt Minh, càng có quan hệ trực tiếp đến việc Phu Mãnh và Tiết Đình Hao đột nhiên biến thành khâm phạm mười năm trước. Chính vì Cô Nguyệt Minh biết nhiều chuyện hơn so với bọn ta, vì thế ta chỉ nói vài câu, y liền minh bạch đang hãm thân vào trong vòng bố cục mệnh vận, càng cảm thấy không có lựa chọn khác. Cô Nguyệt Minh đúng là một kẻ không tầm thường".

Lại nói: "Đối với Ngũ Độn Đạo, bọn ta cần phải công chính xử lý, không có chứng cứ thì không thể cưỡng bức bắt người, bằng không làm sao đối diện với Bách Thuần".

Khâu Cửu Sư cười khổ cam chịu.

Nguyễn Tu Chân nói: "Càng biết thêm chút nào, đối với việc phá vỡ bố cục càng có lợi. Cô Nguyệt Minh vừa đến Lạc Dương, lập tức đi gặp Bách Thuần, Bách Thuần lại ở Tình Trúc Các tiếp y, có thể biết giữa hai người có quan hệ mật thiết. Cô Nguyệt Minh gặp Bách Thuần, ngày hôm sau liền đi thăm dò Ngũ Độn Đạo, trong đó chắc có mối liên quan nào đó, vì thế chỉ cần Bách Thuần chịu nói ra, có thể giúp bọn ta hiểu thêm một bước đối với nhiệm vụ Cô Nguyệt Minh đang phụ trách".

Khâu Cửu Sư chán nản nói: "Ta và Bách Thuần xong rồi, không có mặt mũi đi tìm nàng nói chuyện".

Nguyễn Tu Chân đồng tình: "Muốn thành đại sự, hy sinh cá nhân là điều khó tránh. Nguyên nhân Tiền Thế Thần bắt đầu thay đổi là thế nào? Gã chắc chắn biết rõ nguyên nhân chân chính Cô Nguyệt Minh xuống nam, nếu gã đã che giấu, đã biểu thị gã không có thành ý hợp tác. Bọn ta không có lựa chọn khác, Cô Nguyệt Minh cũng không có lựa chọn khác, mà xem ra Ngũ Độn Đạo cũng thế, chẳng lẽ Tiền Thế Thần có thể có lựa chọn không giống sao?".

Bách Thuần phát giác 'Cổ chiến xa nữ thần' của Lang Canh có hiệu dụng kỳ dị đối với nàng. Sau khi buồn bã chia tay Khâu Cửu Sư, tâm tình nàng rất xấu. Tên háo sắc đó nói đúng, nàng tuy minh bạch chỗ khó xử trong lòng Khâu Cửu Sư, nhưng vẫn không thể không hận hắn, hận hắn đã lựa chọn không mắc nợ nàng. Bức bối đó chính là sự phẫn uất trong lòng, nhưng lại không thể nói ra lời, chỉ biết tất cả ao ước và hy vọng, theo sự bày tỏ của Khâu Cửu Sư ở Ban Trúc Lâu, đã một đi không trở lại. Mạch suy nghĩ của nàng bị đảo loạn, không biết nên nghĩ gì hay làm gì mới có thể giúp bản thân thoải mái.

Suốt hai mươi năm qua, nàng sống trong không gian thanh lâu, người thân cận nhất là sư phụ và sư tỷ, đối với nàng đều hết sức quan tâm. Đối với thế giới bên ngoài, tuy không đến mức không biết gì, nhưng suy cho cùng vẫn là cách một bức tường cao an toàn, người và chuyện ở ngoài tường đối với nàng chỉ có thể có ảnh hưởng vòng vo và gián tiếp.

Sự xuất hiện của Khâu Cửu Sư, giống như dòng thác đổ vào nội tâm bình tĩnh của nàng, nàng tuy bị lay động bởi dáng vẻ tuấn tú và khí khái anh hùng của Khâu Cửu Sư, nhưng chỉ là sức hấp dẫn lẫn nhau giữa nam và nữ. Đến khi Khâu Cửu Sư sai hẹn, nàng bắt đầu phát giác hắn không hề giống với bọn nam tử mà nàng đã từng tiếp xúc.

Khâu Cửu Sư không giống bọn họ, khiến người ta khó mà hiểu được, trong hắn có một loại mị lực thần kỳ mỹ diệu khó mà phân biệt. Rõ ràng là dám làm dám chịu, không sợ hãi gì, lại giống như ẩn ước có lời khó nói. Sau ánh mắt sáng rỡ ẩn giấu sự mâu thuẫn và cam chịu, phân vân giữa lựa chọn tư tình nữ nhi hay là đại nghiệp nam nhi, cấu thành tình cảnh bi tráng của một thiết hán nhu tình như hắn.

Bách Thuần biết bản thân đã bị mê đắm.

Khi Khâu Cửu Sư vào lúc gió mưa tàn phá, ở Ban Trúc Lâu thổ lộ tâm sự với nàng, bức tường vô hình luôn bảo vệ nàng đã sụp đổ, thế giới bên ngoài cuối cùng đã ảnh hưởng trực tiếp đến nàng, xộc vào trong lòng nàng.

Vào thời khắc nàng ly khai Ban Trúc Lâu, nàng có cảm giác đứt từng khúc ruột, tư vị đó nàng chưa từng cảm thụ, cũng giúp nàng biết bản thân đã yêu Khâu Cửu Sư. Nàng bảo Thiền Dực đi kêu tên háo sắc Lang Canh đến gặp mình, không phải muốn tìm hắn xả giận, mà là nàng trong lúc không còn cách nào, hy vọng có thể chứng thật hắn đích xác là Họa Tiên, hay là do Ngũ Độn Đạo giả mạo.

Trước khi gặp Lang Canh, nàng ngồi ở trong sảnh đường, bất giác mất tự chủ nhìn vào "Cổ chiến xa nữ thần", chuyện kỳ diệu đã phát sinh, một cảm giác thân thiết khó tả khoách tán ở trong lòng nàng, giống như xuất hiện một tia sáng rực rỡ trong đất trời đen tối, nữ thần trong tranh tựa như thông qua một phương thức không thể hình dung, đem sự ấm áp đổ vào trong tâm cảnh đã biến thành băng giá của nàng, mang đến hy vọng tràn trề, khiến nàng cảm thấy tình yêu giữa nàng và Khâu Cửu Sư vẫn chưa kết thúc.

Sở dĩ nàng trong đêm mời Song Song đến gặp mắt, là có nguyên nhân, còn có quan hệ đến Lang Canh. Nàng muốn trực tiếp hỏi Song Song.

Thanh âm của Thiền Dực từ ngoài sân truyền vào: "Đại tiểu thư! Song Song cô nương đến rồi".

Bách Thuần thu thập cảm xúc, ra bậc cấp ngoài của nghênh tiếp.

Ô Tử Hư đến bến thuyền nhỏ ngoài Phong Trúc Các, nhảy lên một con thuyền nhỏ, đang muốn chèo đi, đột nhiên lại do dự. Hai cô nương người ta gặp nhau, mình lại vác cái bản mặt dày làm khách không mời mà đến, có phải quá mạo muội không?

Hôm nay hắn nói với Song Song nguyện làm trợ thủ cho nàng, không phải là lời nói đùa mà thật ra hắn đã suy nghĩ tường tận.

Làm sao tiếp xúc Tiền Thế Thần, hắn đã có một kế hoạch hoàn chỉnh, còn có thể làm được hay không lại là một chuyện khác. Thế nhưng làm sao chạy khỏi Lạc Dương thành thì hắn vẫn chưa có định kế. Nhưng giả như có thể từ chỗ ảo thuật mỹ nữ lấy được một lượng lớn mê chướng hỏa khí, tự nhiên khả năng thoát thân sẽ được gia tăng lên rất nhiều. Vì thế cùng với mỹ nữ này kiến lập quan hệ mật thiết, hiểu rõ hơn về nàng, khẳng định đối với việc này sẽ có giúp đỡ".

Nghĩ đến đây, Ô Tử Hư dứt khoát chèo đi.

Vô Song Nữ mặt không biểu tình bước lên bậc cấp.

Bách Thuần trước tiên nói với Thiền Dực: "Mấy ngày này làm phiền tiểu Thiền nhiều rồi, tối nay nghỉ sớm một chút đi! Song Song muội tử giao cho ta phụ trách".

Thiền Dực tuân mệnh ly khai.

Vô Song Nữ đi đến bên cạnh Bách Thuần, ngừng bước hỏi: "Đại tiểu thư tìm ta đến, có gì chỉ giáo không?".

Bách Thuần thấy thần thái cự tuyệt người ngoài ngàn dặm của nàng, lòng nghĩ nếu nàng và Lang Canh mỗi bên trao đổi một nửa tính cách, hai người có lẽ biến thành "bình thường". Đưa tay kéo lấy khuỷu tay Vô Song Nữ, cười nói: "Muội tử chắc không phải muốn ta đứng ngoài cửa nói chuyện chứ? Bọn ta vào trong hãy nói!".

Vô Song Nữ còn biết làm gì, chẳng lẽ đẩy Bách Thuần ra, rồi phất áo bỏ đi. Chỉ đành không tình nguyện theo nàng tiến vào sảnh đường.

Bách Thuần nhẹ nhàng hỏi: "Thần tình muội tử lạnh nhạt, phải chăng không được vui?".

Vô Song Nữ thầm thở dài, đang định lên tiếng thì ánh mắt nhìn đến bức "Cổ chiến xa nữ thần" treo trên tường, đột nhiên sắc mặt tái nhợt, đôi môi mấp máy, thân kiều run rẩy.

Bách Thuần ngạc nhiên hỏi: "Muội tử sao thế?".

Lời còn chưa dứt, hai mắt Vô Song Nữ trợn lên, lập tức ngã về sau, Bách Thuần thất kinh hồn vía, đưa tay đỡ lấy hông nàng, gọi: "Muội tử! Muội tử!".

Vô Song Nữ đã hôn mê, toàn nhờ Bách Thuần nâng đỡ, không đến nỗi ngã xuống đất.

Bách Thuần đỡ nàng đến một cái ghế dài bên phía kia đặt nàng tựa vào đấy, đang định tìm dầu thoa thì Vô Song Nữ thở ra một hơi, hồi phục tri giác.

Bách Thuần thấy trong cặp mắt mở một nửa của nàng lộ ra thần sắc chấn động kinh hãi, mồ hôi lạnh theo tóc mai chảy xuống, sự kinh dị trong lòng thực khó mà hình dung. Bức vẽ kiệt tác này của Lang Canh, đích xác có ma lực khác thường, đã có thể khiến kiếm thủ lãnh khốc vô tình không thể di dời ánh mắt, đến giờ lại có thể làm cho nữ tử giống như không quan tâm đến bất cứ chuyện gì sinh ra phản ứng cường liệt đến hôn mê.

Vô Song Nữ đã có thể bằng vào sức lực bản thân ngồi vững, thế nhưng ý thức giống như bị đoạt mất, trong cặp mắt xinh đẹp đang dần mở to toàn là thần sắc mù mờ.

Bách Thuần một tay đặt lên vai nàng, tay kia nắm lấy khuỷu tay nàng, hô lên: "Song Song muội tử, đã tốt hơn chưa?".

Sau một hồi lâu, gương mặt Vô Song Nữ đã có chút hồng hào, tiếp đó thở ra một hơi, nhìn qua Bách Thuần, hai mắt bắn ra quang mang lạnh lẽo, giống như nhìn thấy một người xa lạ.

Bách Thuần bị nàng nhìn đến phát hãi trong lòng, nói: "Là ta! Là Bách Thuần! Muội tử vừa mới bị hôn mê".

Vô Song Nữ giống như nhớ lại gì đó, ánh mắt nhìn xung quanh tìm kiếm, cuối cùng dừng trên ảnh nữ thần, hai mắt tràn ngập sắc thái mê hoặc, chầm chậm lắc đầu nói: "Ta không sao". Nói rồi giãy người một cái.

Bách Thuần biết điều thu hồi hai tay, hỏi: "Thân thể muội tử có khó chịu không?".

Vô Song Nữ khẽ cúi đầu tránh ánh mắt của nàng, đáp: "Ta không sao". Lại ngắm bức ảnh nữ thần, thấp giọng nói: "Có lẽ mấy hôm nay ngày đêm bôn ba, quá sức chịu đựng thôi!".

Bách Thuần biết nàng nói không thật lòng, càng có chút khó hiểu tính cách của Vô Song Nữ, biết có trực tiếp hỏi nàng cũng không thể có được đáp án. Nói lảng đi: "Bức họa này thật cổ quái, không những có thể khiến người ta nhìn hoài không chán, còn có thể làm cho người ta say mê, ta mỗi lần nhìn, trong lòng đều có cảm giác kỳ quái".

Vô Song Nữ im lặng phút chốc, khẽ hỏi: "Có cảm giác gì?".

Bách Thuần giỏi đoán ý người, biết Vô Song Nữ muốn hiểu rõ cảm thụ ngắm tranh của nàng, rồi đem so với cảm thụ của bản thân, liền đáp: "Rất khó diễn tả! Lúc cô nhìn nàng ấy, nàng ấy cũng như nhìn lại cô, ta tuy không biết nàng ấy, nàng ấy lại giống như là người thân cận ta, hiểu ta, minh bạch ta, còn có thể khiến ta trở nên vui vẻ, đối với sự việc tuyệt vọng cảm thấy còn có sinh cơ và hy vọng".

Vô Song Nữ khẽ gục gặc, biểu thị minh bạch.

Bách Thuần nói: "Còn có một người, đối diện với bức tranh này cũng không cầm lòng được, đáng tiếc huynh ấy không nói ra cảm thụ trong lòng, vì huynh ấy cũng giống như muội tử, không thích lộ tâm sự với người khác.

Vô Song Nữ hồi phục vẻ bình thường, ánh mắt nhìn lên bức tranh đối diện, lạnh lùng hỏi: "Người đó là ai?".

Bách Thuần đáp: "Đó là người chuyên bắt tặc lãnh thưởng của Hoàng thượng gọi là Cô Nguyệt Minh. Muội tử có nghe nói chưa? Huynh ấy vừa từ kinh sư đến Lạc Dương, người này nổi tiếng thủ đoạn độc ác, lãnh khốc vô tình, bất quá chỉ như thế khi đối đầu với kẻ tặc trên cáo thị treo thưởng. Sự thực thì huynh ấy là người có nguyên tắc, chưa từng giết ai ngoài cáo thị truy nã".

Vô Song Nữ từ nhỏ đã biết cách ẩn giấu ý nghĩ trong lòng, tuy nghe tên Cô Nguyệt Minh, biểu hiện vẫn không có thái độ khác thường nào, nhưng tận đáy lòng sóng thù trào dâng cuồng mãnh. Thân cữu nàng chính là người đứng đầu cáo thị truy nã, bị Cô Nguyệt Minh bức phục độc, lúc này nàng càng khẳng định Cô Nguyệt Minh là hung thủ giết thân cữu nàng.

Vô Song Nữ bình tình lại, nếu là tình huống như bình thường, mấy câu này nàng sẽ không hỏi. Tiếp: "Đại tiểu thư gọi ta đến có chuyện gì không?".

Bách Thuần thấy nàng vẫn nhìn chăm chú nữ thần trong tranh, thăm dò: "Muội tử đối với việc vì sao có bức tranh này treo ở đó, không cảm thấy hiếu kỳ sao?".

Vô Song Nữ rúng động trong lòng, biết Bách Thuần đã đánh trúng chỗ yếu hại của mình, việc phát sinh giữa lúc hôn mê và tỉnh lại vừa rồi, chấn động đối với nàng đến lúc này vẫn là có tăng không giảm. Đề xuất của Bách Thuần, là chuyện hiện giờ nàng muốn biết nhất, vượt lên tất cả.

Ô Tử Hư im lặng khua mái chèo, con thuyền nhỏ lướt đi trên mặt hồ yên tĩnh.

Tâm thần của hắn đang trôi nổi trong tòa sơn thành kỳ dị đó.

Ngẫu nhiên nằm mộng, bất luận mộng cảnh kỳ dị thế nào, hắn cũng không để tâm. Thế nhưng tình huống hiện tại đích thực khác thường, từ khi gặp Cổ chiến xa nữ thần, mộng không những dồn dập, còn không chút mơ hồ, mỗi giấc mộng đều trở lại trong tòa sơn thành không bóng người đó. Giấc mộng vừa rồi lại càng mãnh liệt, bóng ảnh mỹ lệ đó, lúc này nhớ lại, có phần quen mắt, nếu như chính là mỹ nữ trên Cổ chiến xa đó, rất có khả năng đúng là đã gặp lệ quỷ, bị nó quấn lấy.

Nghĩ đến có lẽ như thế, trong lòng hắn lại không chút sợ hãi, chỉ cần nàng không biến thành bộ xương khô, vĩnh viễn bảo trì vẻ mỹ lệ, bị nàng quấn lấy cũng không có gì lớn chuyện. Tốt nhất có thể giống như Vu Sơn thần nữ, tối tối nhập mộng, vậy hắn về sau không cần tiếp tục đến thanh lâu, chỉ cần nhắm mắt ngủ là được.

Nhưng tình huống tịnh không phải đơn giản như thế, đêm qua vẽ chân dung Liên Ảnh, mắt sinh ra ảo giác thì nên giải thích thế nào đây.

Nàng rốt cuộc tên là gì? Hắn phải chăng cần biết? Nàng vì sao muốn hắn gọi tên nàng? Gọi tên nàng có thể có hậu quả thế nào?

Ô Tử Hư rùng mình một cái.

Người xưa truyền rằng, tháng bảy là tháng quỷ, là thời gian Quỷ môn quan mở cổng, lệ quỷ oan hồn kéo hết ra, đến dương gian tìm kẻ chết thay. Ô Tử Hư hắn phải chăng là một mục tiêu bị chọn trúng, chỉ cần gọi tên của nàng thì hồn phách sẽ bị bắt mất? Còn nhiều người như thế, vì sao cứ chọn trúng Ô Tử Hư hắn. Chẳng lẽ bản thân dương thọ đã hết, đường đời đã tận?".

Thuyền cặp bờ hồ.

Bách Thuần thấy Vô Song Nữ cắn môi, không chịu nói chuyện, hỏi dò: "Muội tử vừa rồi đã phát sinh chuyện gì?".

Vô Song Nữ đáp: "Ta cái gì cũng không thấy được".

Bách Thuần lòng nghĩ nàng đã không thích nói, cũng không quen nói bừa, mình không hỏi nàng thấy cái gì, chỉ hỏi nàng phát sinh chuyện gì, nàng lại trả lời mình như thế, khẳng định là mắt thấy dị tượng. Những chuyện thế này thì không thể cưỡng bức, nhẹ giọng nói: "Bức vẽ này là do vị Lang Canh tiên sinh mà muội tử đã gặp vẽ, nữ tử trong tranh xuất hiện trong một giấc mộng của hắn, tịnh không phải là người thật".

Vô Song Nữ thân kiều khẽ run, nhìn qua nàng, sau một lúc khẽ cúi đầu nói: "Nếu như đại tiểu thư không có phân phó khác, ta muốn quay về nghỉ ngơi, ngày mai ta còn phải đi mua vật liệu".

Bách Thuần nói: "Ta muốn hỏi chuyện của muội tử, vẫn là có liên quan đến Lang tiên sinh".

Vô Song Nữ nhíu mày nói: "Ta không quen hắn, đại tiểu thư hỏi nhầm người rồi".

Bách Thuần hỏi: "Vì sao lúc muội tử thấy Lang tiên sinh, hai mắt lại sáng lên?".

Vô Song Nữ cảm thấy rất lúng túng, chỉ hận không thể nói ra sự thật, có chút bối rối đáp: "Không phải là chuyện đó. Ài!".

Bách Thuần vô cùng tinh ranh, nhân thế tiến tới, khẽ cười nói: "Khác tính hấp dẫn lẫn nhau, là chuyện thường của con người, muội tử không nên cảm thấy xấu hổ. Bọn ta đều là nữ nhi mà!".

Vô Song Nữ giận nói: "Ta chỉ là kỳ quái sao có nhiều người đến như thế, hoàn toàn không có nghĩ chuyện khác. Ta không bao giờ động tâm với bất kỳ nam nhân nào".

Bách Thuần ngạc nhiên hỏi: "Muội tử không phải về phương diện này chịu sự đả kích chứ? Bằng không sao có thế có suy nghĩ cổ quái như thế".

Một thanh âm từ ngoài cửa truyền vào, giải vây cho Vô Song Nữ: "Ngu sinh Lang Canh, cầu kiến Bách Thuần tiểu thư".

Bách Thuần và Vô Song Nữ cô nhìn ta, ta nhìn cô, đều không nghĩ được đột nhiên đến một người khách không mời như thế.

Cô Nguyệt Minh men theo đại nhai, đi về hướng Hồng Diệp Lâu. Trên đường đèn sáng rực rỡ, hành nhân xa mã tới lui không ngớt, khiến y nhớ đến đường phố hoa lệ ở kinh thành. Thế nhưng lòng y lại không chút cải biến, bất luận có bao nhiêu người đi trên đường, y vẫn cảm thấy chỉ có một mình y cô độc cất bước, sự cô tịch lạnh lẽo trong lòng y khác rất xa tình cảnh ồn ào nhiệt náo của thế giới bên ngoài.

Y từng nói với Hoa Mộng phu nhân chiến tranh là cơn ác mộng khủng khiếp nhất của y từ khi hiểu sự đời đến nay, hời hợt nói một câu như thế, thật không đủ hình dung cơn ác mộng mà y đã trải qua.

Ác mộng quấy rối y hơn mười năm, tịnh không phải là những chuyện vụn vặt, mà chân thật có máu có thịt, có lúc khiến y hoài nghi thế giới trong mộng không những là chân thật, còn đời người ngược lại chỉ là một giấc mộng dài.

Y nhớ mỗi tình cảnh trong mộng: Chiến sĩ bị cắt yết hầu, phụ nữ, trẻ em, người già ngã trong vũng máu, mẹ vì con trai chết mà gào khóc kêu la. Từng trường từng trường huyết chiến, từng trường từng trường đồ sát. Nỗi thống khổ nhất của y chính là cảm thấy tất cả đều do y mà ra. Chém giết không ngừng tiến hành cả ngày lẫn đêm, y ở trong mộng hoàn toàn không có năng lực ngăn trở.

Phụng công công nói sai rồi.

Y minh bạch sống không bằng chết là chuyện thế nào hơn bất kỳ ai. Mỗi khi tỉnh mộng, y đều cảm thấy sự thống khổ và áy náy cắn xé tâm hồn. Y luôn truy cầu cơ hội bị giết, nhiệm vụ càng nguy hiểm y càng hoan nghênh, chỉ hận cho đến giờ này, người có thể đẩy y vào chỗ chết còn chưa xuất hiện.

Đêm nay y đến Hồng Diệp Lâu, là muốn xem lại bức họa tượng đó, sau đó y sẽ đi tìm Tiền Thế Thần, đặt Bạch Lộ Vũ lên cái cổ gã, bức gã nói ra chân tướng sự tình năm đó.

Nữ thần Vân Mộng Trạch đã tác động lên một thứ cảm xúc chôn kín trong lòng y, cảm xúc đó hiện đã được giải phóng, khiến y càng khát vọng đón cái chết đến với mình.

Hồi 28: Vân Mộng Nữ Thần

Ô Tử Hư nghênh ngang bước vào, thấy hai nữ nhân trừng mắt nhìn hắn, thần sắc không thiện, hiển nhiên không hoan nghênh hắn, thầm kêu hỏng bét. Bước đến đối diện bọn họ, hắn mới suy xét nguyên nhân chân chính khiến mình đến nơi này, cái gì mà không dám ngủ, tìm cơ hội tiếp cận ảo thuật mỹ nữ, toàn là lý do không thuyết phục.

Lúc này cả bản thân hắn cũng trở nên hồ đồ, vì sao muốn đến nơi này mạo phạm giai nhân chứ? Chẳng lẽ lại là bị quỷ mê?

Bách Thuần không vui nói: "Nữ nhi bọn ta đang tâm sự, Lang tiên sinh nếu không có chuyện gì đặc biệt, mời lập tức quay về Phong Trúc Các, nghỉ ngơi cho tốt, chớ để ngày mai không có tinh thần vẽ tranh".

Ô Tử Hư biết Bách Thuần đã tức giận thật sự, liền nhìn qua Vô Song Nữ ngồi kề vai với nàng, nữ nhân này cũng đang nhìn hắn với ánh mắt gây hấn, khóe miệng lộ chút thần sắc khinh thường, biết muốn từ nơi nàng hạ thủ giải khốn, chẳng khác nào là chặt cây tìm cá, vội thủ tiêu ý niệm đó.

Chỉ hận nhất thời vẫn chưa tìm được lý do 'lưu lại', chỉ đành thuận miệng nói bừa, tranh thủ thêm chút thời gian suy nghĩ, nói: "Liệu có phải khi ta hoàn thành bảy bức mỹ nhân đồ khiến đại tiểu thư hài lòng, chỉ cần ta triệu đại tiểu thư đến nơi nào, đại tiểu thư lập tức đến nơi đó, bất luận đại tiểu thư đang làm chuyện gì, hay là đang vui vẻ với bất kỳ ai?".

Bách Thuần tức giận hỏi: "Ngươi đến đây là vì hỏi mấy câu này sao?".

Ô Tử Hư cười khẽ nói: "Đại tiểu thư cho ta một đáp án chắc chắn, sau đó ta sẽ nói nguyên nhân lúc này ta đến viếng thăm Tình Trúc Các".

Lại nói với Vô Song Nữ: "Song Song cô nương có thể làm chứng cho bọn ta".

Bách Thuần không cách nào gây khó được hắn, gật đầu nói: "Được! Nếu ngươi có thể trong ba ngày vẽ xong bốn bức tranh, hai ngày kế tiếp, chỉ cần có lệnh triệu của Lang tiên sinh, Bách Thuần sẽ lập tức theo mệnh, thế nào? Dám đáp ứng không?".

Ô Tử Hư vui vẻ nói: "Cứ quyết định như thế".

Bách Thuần lạnh lùng thốt: "Bây giờ có thể cút đi chưa?".

Ô Tử Hư nói: "Còn một chuyện nữa, làm xong lập tức cút liền".

Không đợi Bách Thuần lên tiếng, quay sang chỉ bức "Cổ chiến xa nữ thần" trên vách, nói: "Ta là đến vẽ mắt cho rồng, đề tự cho bức tranh này, như thế nó mới có thể lưu truyền thiên thu vạn thế".

Bách Thuần còn biết nói gì, không muốn hắn đem bức vẽ đã chiếm cảm tình của mình đi, tuy biết là hắn mượn cớ nói trong lúc cấp bách, nhưng rất khó cự tuyệt yêu cầu hợp tình hợp lý của hắn. Tên háo sắc này chắc là thấy Song Song ngồi thuyền đến đây, nổi lòng hưu dạ vượn, mượn cớ đến thân cận Song Song.

Vô Song Nữ lạnh nhạt hỏi: "Lang tiên sinh muốn đề thế nào đây? Có thể nói trước nghe thử hay không?".

Bách Thuần bừng tỉnh trong lòng, biết nàng là muốn biết thêm một chút về việc của bức tranh.

Ô Tử Hư thấy Vô Song Nữ có "phản ứng". Lập tức lộ vẻ hớn hở, tâm hồn lơ lửng trên không, buột miệng thốt: "Vân Mộng nữ thần thì thế nào?".

Vô Song Nữ và Bách Thuần đồng thời thất thanh: "Cái gì?". Kế tiếp cô nhìn ta, ta nhìn cô, đều không hiểu đối phương vì sao có phản ứng giống mình.

Nhất thời ba người không nói gì với nhau.

Không khí cực kỳ cổ quái.

Ô Tử Hư hồi phục đầu tiên, hai tay mở ra nói: "Vân Mộng nữ thần! Tên không đủ đẹp sao? Có vấn đề gì à? Thật có thi ý mà!".

Vô Song Nữ không thể khống chế sắc mặt chuyển thành trắng bạch, khẽ cúi đầu. Sau khi thân cữu đưa nàng đến Bách Hí đoàn, nàng nghiến răng khổ luyện kỹ nghệ, ý chí kiên trì mạnh mẽ, so với người khác thì càng dũng cảm, kiên cường. Thế nhưng trải qua việc hôn mê khác thường khi nãy, tình cảnh trong lòng nàng đã không còn phân minh rõ ràng như trước. Câu "Vân Mộng nữ thần" của Ngũ Độn Đạo, đã khuấy động sóng gió trong lòng nàng, ảo giác và hiện thực kết hợp cùng nhau, làm cho nàng dù quen với việc ẩn giấu tâm sự, cũng nhịn không được thất thanh kinh hô, lộ ra mặt yếu đuối trong nàng. Lúc này nàng tâm loạn thần mê, bất quá cho dù có thiên ngôn vạn ngôn, muốn hỏi minh bạch vấn đề, lại biết tuyệt không nên đề xuất, bởi vì sẽ tiết lộ nội tình của nàng.

Bách Thuần nhìn Ô Tử Hư, hỏi: "Vân Mộng phải chăng chỉ Vân Mộng Trạch, địa phương này cùng người trong tranh có liên hệ gì?".

Ô Tử Hư hoàn toàn không minh bạch vì sao hai nữ nhân này có phản ứng mạnh như thế, đặc biệt là Song Song, sắc mặt kịch biến, gần như tắc tiếng không nói nên lời. May mà hắn giỏi nhất là tùy cơ ứng biến, hai mắt đảo lộn, nói: "Đương nhiên có quan hệ trực tiếp, bằng không sao có thể gọi như thế. Khà! Mời nghe ta giải thích tường tận đây. Trước khi đến Lạc Dương, ta từng đi chu du hồ, đường qua Quân Sơn Đảo, thắng địa như thế, sao chịu bỏ qua, liền lên núi du lãm, đến Nhị Phi Mộ ở chân núi đông bái tế Tương mỹ nhân. Vừa rồi ta linh cơ xao động, nghĩ đến mỹ nhân trong tranh, rất nhiều khả năng là nhị phi đến nhập mộng. Hắc! Vân Mộng Trạch là cổ danh của Động Đình Hồ, gọi nàng là Vân Mộng nữ thần, càng có cổ ý. Hai vị mỹ nhân cho ta một vài ý kiến, tên gọi này liệu có phải rất thích hợp hay không".

Bách Thuần nhìn thần tình biến hóa của hắn, biết hắn ăn nói lung tung, thế nhưng vì nàng từng lập thệ, đáp ứng Tiền Thế Thần không tiết lộ chuyện có liên quan đến Vân Mộng, tuy trực giác cảm thấy tên háo sắc này nói có liên quan với tiểu Vân Mộng, nhưng không thể chỉ ra hắn đang hồ ngôn loạn ngữ, trong nhất thời nói không ra lời.

Cô Nguyệt Minh quen đường bước vào cổng Tình Trúc Các. Y đã lấy lý do biết đường, cự tuyệt kiến nghị phái tỳ nữ dẫn dẫn đường của Chu Bàn Tử, một mình đi gặp Bách Thuần.

Lầu chính Tình Trúc Các đèn sáng rỡ, ẩn ẩn truyền lại thanh âm nam tử đang nói, ẩn ước nhận ra người nói là Ô Tử Hư, lúc muốn nghe rõ Ô Tử Hư đang nói gì thì bên trong đột nhiên im lặng.

Cô Nguyệt Minh bước lên bậc cấp, hai tay chấp lại, thong thả bước qua cửa vào trong.

Ba cặp mắt tựa như sáu mũi tên bắn đến y, trong đó có một cặp mắt bừng lên sáng cơ hận ý mãnh liệt rồi nhanh chóng biến mất.

Cô Nguyệt Minh từ khi trở thành người truy bắt tặc đạo bị truy nã chuyên dùng của Hoàng thượng, biến thành cây đinh trong mắt bọn hắc đạo, bị bọn chúng hận đến xương tủy, bất cứ lúc nào cũng sống giữa ranh giới sống và chết, vì thế tác phong hành sự không giống người thường, lần này y dùng thủ pháp thám xét bất ngờ, liền xuất hiện trước mắt đối tượng khảo thí, từ người đầu tiên trong đó cũng là người có phản ứng trực tiếp nhất, phán đoán chân ý trong lòng đối tượng, từ đó phân biệt địch bạn.

Bách Thuần giọng bất ngờ hô: "Khách quý đến lầu, thật không nghĩ Cô đại ca sẽ đến".

Ánh mắt Cô Nguyệt Minh nhìn sang Vô Song Nữ, vừa nhìn qua đã từ đường nét xinh đẹp nửa phần mặt dưới nhận ra là nữ lang ở bến đò, cái miệng nhỏ dường như nói với y một câu mà y không thể nhớ được, đã thành ấn tượng sâu sắc y suốt đời khó quên.

Y luôn có cảm giác gương mặt nàng rất đẹp, nhưng khi thấy toàn bộ gương mặt nàng, vẫn không kiềm được sự tán thưởng trong lòng. Hấp dẫn nhất chính là đôi mắt thần bí thâm thúy của nàng, trong đó dường như ẩn tàng vô số bí mật đang chờ khai phá.

Đối với Cô Nguyệt Minh mà nói, cảm xúc này chưa từng có qua, cho dù là mỹ nữ xuất sắc như Bách Thuần, y cũng có thể xem như bình thường, không hề sinh ra cảm xúc hứng phấn. Nhưng nữ lang này lại giống như một hòn lửa hừng hực trong thế giới băng tuyết lạnh lẽo của y, khiến y cảm thấy ấm áp trong lòng.

Nữ lang sau khi thu lại cừu hận trong mắt, khẽ cúi đầu nhằm che giấu sự chấn kinh trong lòng.

Ô Tử Hư thì thần tình có chút lúng túng, lại có chút kinh sợ bất an, hướng đến y cười nói: "Cô huynh khỏe chứ!".

Bách Thuần ngừng lại, ánh mắt lấp lánh nhìn sang Ô Tử Hư, rõ ràng vì thần thái giống như mới quen biết của Ô Tử Hư đối với Cô Nguyệt Minh mà cảm thấy nghi ngờ.

Trong sát na, Cô Nguyệt Minh đã nắm được tình thế vi diệu giữa bốn người, chỉ cần một câu nói của y, xương sống xuyên suốt của cả mối quan hệ này sẽ lập tức gãy đổ, không thể phục hồi.

Lòng chuyển động, Cô Nguyệt Minh hướng Ô Tử Hư nhíu mày nói: "Tên háo sắc ngươi tính xấu không đổi, ở kinh sư thế nào, đến Lạc Dương vẫn y thế ấy".

Lại quay sang nói với Bách Thuần: "Bách Thuần không nên trách hắn, hắn mà không háo sắc thì cũng vẽ chẳng ra gì cả".

Mấy câu này đã giải vây cho Ô Tử Hư, còn gián tiếp giải thích thần thái lúng túng của hắn, là vì sợ Cô Nguyệt Minh chọc phá hắn.

Bách Thuần hơi ngạc nhiên, rõ ràng vì Cô Nguyệt Minh nói khác với những gì nàng nghĩ, nhất thời không thể hiểu được.

Ô Tử Hư vứt được tảng đá trong lòng, lập tức phấn khởi lên, lập tức ra vẻ nói: "Nguyệt Minh hiểu ta nhất, khà! Hiểu ta nhất".

Ánh mắt Cô Nguyệt Minh dừng trên người Vô Song Nữ, thần tình ra vẻ không quen biết, nói: "Vị cô nương này...".

Bách Thuần quay đầu nhìn Vô Song Nữ, nói: "Song Song muội tử cũng giống Lang tiên sinh, là thân phận khách khanh ở Hồng Diệp Lâu bọn muội, sẽ biểu diễn ảo thuật trong yến tiệc kỷ niệm mười năm, muội tử rất giỏi về phương diện đó, không thẹn với bốn chữ 'vô cùng tuyệt diệu'".

Vô Song Nữ lại nhìn Cô Nguyệt Minh, thần sắc bình tĩnh, nói: "Thỉnh Cô tiên sinh chỉ giáo".

Cô Nguyệt Minh liền chắc chắc nữ nhân tự xưng là Song Song này chính là cô nương đã hiểu lầm mình.

Nàng sở dĩ đến Lạc Dương, mục đích chỉ có một, đó là giết mình để báo cừu cho Tiết Đình Hao, bởi vì cho rằng Cô Nguyệt Minh y đã bức tử Tiết Đình Hao.

Kế hoạch ban đầu của nàng là bày bố cục diện giết y ở Quân Sơn Uyển, sau khi nhìn thấy tấm thiếp mời dự yến của Hồng Diệp Lâu y bỏ trên bàn liền cải biến chủ ý, cảm thấy ở khung cảnh không gian trong tiệc, có thể bằng ảo thuật chế tạo hình thế có lợi hơn để ám sát y, lập tức đến Hồng Diệp Lâu làm chuyên gia biểu diễn ảo thuật.

Phát hiện này khiến y cảm thấy vô cùng kích thích, lập tức tràn trề hứng thú.

Có thể chết trong tay mỹ nhân này, xem ra tốt hơn là chết trong tay người khác.

Đây phải chăng là vận mệnh, từ thời khắc mới gặp nàng, y đã cảm thấy bản thân và nàng có sự liên hệ không bình thường, mối liên hệ này phải chăng là sự chú định y sẽ chết trong tay nàng?

Y vốn tính khi gặp lại nàng, sẽ giải thích rõ ràng nguyên nhân Tiết Đình Hao tự tận cho nàng, giải tỏa hiểu lầm, thế nhưng hiện tại lại có chút không muốn làm như thế.

Ài! Trừ phi bản thân nhất ý tìm chết, bằng không dưới sự giới bị cao độ của Cô Nguyệt Minh y, ai có bản lãnh giết y? Y đương nhiên không thể để người giết, cho dù không muốn sống nữa, cũng phải tìm được Sở hạp trước, bảo đảm cho Hoa Mộng phu nhân, mới có thể có suy nghĩ khác.

Bất quá y thật sự muốn hưởng thụ cảm giác có cơ hội bị giết, đó cũng là phương cách duy nhất khiến y thể nghiệm hứng thú chân thực của sinh mệnh.

Mấy ý nghĩ đó xẹt qua đầu y như điện quang hỏa thạch, y nghe bản thân trả lời: "Mong ở buổi tiệc được thưởng thức biểu diễn của Song Song cô nương".

Bách Thuần ngây ngốc, cặp mắt đẹp hiện lên thần sắc không hiểu, nhìn chăm chú Cô Nguyệt Minh.

Đôi mắt Vô Song Nữ sáng lên, đứng dậy nói: "Nơi này chắc không còn chuyện của ta, ta muốn quay về Vũ Trúc Các nghỉ ngơi".

Nói dứt không đợi Bách Thuần đáp ứng, tự mình bước ra cửa bỏ đi.

Ba người sáu con mắt nhìn theo bóng ảnh uyển chuyển của nàng biến mất ngoài cửa, mỗi người đều có cảm giác khác thường.

Bách Thuần thầm nghĩ chẳng lẽ Cô Nguyệt Minh luôn cô độc vô tình, lại động tâm với cô gái đó?

Ô Tử Hư thì đang nghĩ, luận sức hấp dẫn, Song Song thực không dưới Bách Thuần, nếu y phải chọn giữa hai nàng, sẽ là vấn đề vô cùng nan giải.

Cô Nguyệt Minh thì sinh ra xung động muốn đuổi theo nàng giải thích tất cả, không phải lấy lòng nàng, chỉ hy vọng nàng không tiếp tục sống trong cừu hận, tâm cảnh có thể hồi phục sự thanh thản.

Bách Thuần thở nhẹ một hơi, gọi: "Cô đại ca!".

Cô Nguyệt Minh thần sắc bình tĩnh nhìn nàng, nói: "Bách Thuần nhất định là kỳ quái vì sao ta đột nhiên đến thăm, nhưng chớ nên thấy lạ, ta chỉ là muốn thưởng thức lại bức tranh xuất sắc nhất trong đời của lão Lang, không có chuyện gì khác".

Ô Tử Hư thần sắc sáng bừng, hiển hiện vui sướng vì gặp được người tri âm, sự thực lại là hy vọng Cô Nguyệt Minh có thể nhìn ra kỳ tích, cười hà hà nói: "Mời Nguyệt Minh!".

Cô Nguyệt Minh đi đến cạnh Ô Tử Hư, định thần nhìn bức tranh.

Ô Tử Hư chuyển thân, đứng ngang hàng với Cô Nguyệt Minh, không phải nhìn tranh, mà là chú ý thần tình biến hóa của Cô Nguyệt Minh.

Bách Thuần như có suy tư nhìn sau lưng hai người, sau đó lùi lại, đến ghế dài ngồi xuống, ánh mắt lại không thể rời khỏi bọn họ.

Đêm mát như nước.

Ngoài các truyền vào bản hợp tấu của côn trùng, hoa cỏ trong sân tỏa ra hương thơm trong lành, ánh trăng lóng lánh chiếu qua song, trong sảnh không khí yên tĩnh bình hòa.

Trong lòng Bách Thuần dâng lên cảm giác kỳ dị.

Tình cảnh trước mắt, tựa như mỗi thời khắc đang chứng kiến đều đã từng thấy, ấn tượng còn hết sức sâu sắc. Lại biết đây chắc chắn là một ảo giác, hai người bọn họ là lần đầu gặp nhau ở Tình Trúc Các.

Ô Tử Hư kiên nhẫn chờ một hồi lâu, đến lúc nhịn không được đành lên tiếng: "Thế nào?".

Câu này rơi vào tai Bách Thuần, còn cho rằng Ô Tử Hư muốn nghe bình luận của Cô Nguyệt Minh, Cô Nguyệt Minh lại hiểu hắn muốn hỏi mỹ nữ trong tranh phải chăng giống như lần đầu y nhìn bức tranh này, có biến hóa sống lại hay không.

Cô Nguyệt Minh không có biểu thị gì, thở ra một hơi, nói: "Ta phải đi rồi!".

Ô Tử Hư còn cho rằng y có lời riêng muốn nói với mình, vội nói: "Ta cũng phải đi rồi! Để ta đưa Cô huynh một đoạn".

Bách Thuần đứng lên, vui vẻ nói: "Ta cũng đưa Cô đại ca một đoạn".

Cô Nguyệt Minh chầm chậm chuyển thân, hờ hững nói: "Ai cũng không cần đưa ta, ta thích đi một mình".

Nói dứt bước đi về phía cổng lớn.

Ô Tử Hư nhìn theo sau lưng Cô Nguyệt Minh, lại nhìn Bách Thuần đang bĩu môi, đột nhiên như tỉnh mộng gào lớn: "Cô huynh! Cô huynh!", đuổi theo ra cổng lớn.

Vô Song Nữ khua nhẹ mái chèo, con thuyền ly khai bờ hồ.

Cho đến lúc này, nàng vẫn chưa có thể bình tĩnh lại, gặp mặt cừu nhân giết thân cữu chỉ là một nguyên nhân. May mà Cô Nguyệt Minh không nhận ra nàng, bằng không đại kế báo cừu đã như nước trôi về đông.

Bắt đầu từ một đêm mười năm trước, sinh mệnh của nàng đã không còn thuộc quyền sở hữu của nàng. Danh dự và thanh bạch của cha, trở thành gánh nặng trầm trọng nhất của nàng, là lý do duy nhất để nàng sống. Chỉ có sự thanh bạch của cha, nàng mới có thể đối diện với mẹ trên trời, từ đó buông bỏ gánh nặng không thể gánh vác này.

Cái chết của thân cữu, khiến tất cả hy vọng của nàng tiêu tan, chỉ có cừu hận mới có thể giúp nàng chống đỡ đến giờ.

Thế nhưng vừa rồi trong sát na thoáng thấy Vân Mộng nữ thần, chuyện không thể ngờ nhất đã phát sinh. Trời đất đột nhiên xoay chuyển, khi nàng 'tỉnh' lại, nàng không phải ở trong Tình Trúc Các, mà là đứng trên đầu thành một tòa sơn thành, nhìn xuống đồi núi bình nguyên mênh mông bên dưới, một con sông vắt ngang ở xa xa.

Mặt trăng còn chưa lên, trời đêm ôn như như nước, gió núi nhè nhẹ thổi qua.

Đột nhiên nàng cảm thấy bên mình có biến, kinh hãi nhìn qua, nữ thần trong tranh đã sống lại, đang oai nghiêm đứng cách nàng hơn nửa trượng trên đầu tường, chăm chú lên bầu trời đêm, mái tóc dài bay phất phới sau lưng, giống như hỏa diễm hừng hực.

Vô Song Nữ há miệng muốn hỏi nàng là ai, nhưng không thể phát ra bất kỳ thanh âm nào. Nàng như ở đó, lại như không ở đó. Giống như thân rơi vào mộng vực, mộng do tâm sinh, nhưng mộng lại quay đầu khống chế tâm.

Nữ thần tựa như chú ý đến sự tồn tại của nàng, quay đầu nhìn nàng, cặp mắt nữ thần giống như bảo thạch phát ra dị mang nhiếp người.

Một sự thống khổ tê tâm liệt phế tràn ngập trong lòng Vô Song Nữ, tiếp đó trời đất quay cuồng, lúc người tỉnh lại, đã quay về thế giới hiện thực ở Tình Trúc Các.

Nếu tên Ngũ Độn Đạo háo sắc đó không có đặt tên cho mỹ nữ trong bức tranh là Vân Mộng nữ thần, cho dù ảo tượng chân thật như thế, dẫn dắt cảm giác thâm sâu nhất trong nàng, nàng vẫn có thể giải thích việc bản thân đột nhiên hôn mê.

Nhưng khi Ngũ Độn Đạo nói ra bốn chữ Vân Mộng nữ thần, phảng phất như một luồng sét đánh thẳng vào trong tâm khảm nàng, kinh động lòng nàng, triệt để đả phá mạch suy nghĩ mà nàng còn chưa kịp suy xét. Thế giới trong nàng bị lật lộn lên, không thể tiếp tục, cũng vĩnh viễn không có khả năng hồi phục nguyên trạng.

Vân Mộng nữ thần, đó là nữ thần của Vân Mộng Trạch, là nữ thần mỹ lệ sai khiến cổ thành ẩn tàng trong nhân thế ngàn năm qua.

Bản thân và nữ thần có quan hệ gì đây?

Tìm kiếm đáp án chỉ có một biện pháp, đó là bức Ngũ Độn Đạo thổ lộ chân tướng.

Hồi 29: Can Đảm Tương Chiếu

Cô Nguyệt Minh sau khi bỏ đi, đến thẳng bờ hồ.

Ba tòa kiến trúc hùng vĩ và trì đài ở sau nó đèn sáng rực rỡ nằm bên mặt phải lâu chính Hồng Diệp Lâu, một dải gần bờ hồ được chiếu sáng như ban ngày. Mười tám lâu thủy tạ cạnh hồ, mặt quay ra ngoài hồ, toàn bộ đều sáng đèn, tiếng sáo tiếng đàn réo rắt thánh thót trong không gian quang đãng trên mặt hồ. Y vẫn cảm thấy vô cùng cô độc.

Ô Tử Hư đuổi đến sau y, thấp giọng nói: "Ta rất cảm tạ huynh, nhưng càng không hiểu huynh. Cô huynh không phải đã nói không thể chứng thật ta là Lang Canh sao?".

Cô Nguyệt Minh đáp: "Chuyện đó không có gì khác biệt, Nguyễn Tu Chân và Khâu Cửu Sư nhận định ngươi là Ngũ Độn Đạo, ta nói cái gì thì cũng không có khác biệt".

Ô Tử Hư thở dài, lại khẩn trương hỏi: "Cô huynh vừa rồi xem tranh, vẫn có cảm ứng như lần trước chứ?".

Cô Nguyệt Minh hờ hững đáp: "Có thì thế nào? Không có thì sao? Ô huynh nên tốn nhiều tâm tư để bảo vệ mạng sống, như thế mới là kẻ thức thời".

Ô Tử Hư vui vẻ nói: "Trong tình huống không có khả năng tạo nên có khả năng, luôn là mục tiêu làm người của ta. Hiện tại tuy ta vẫn chưa tìm được phương pháp thoát thân, nhưng lại vô cùng hưởng thụ cảnh ngộ này".

Cô Nguyệt Minh lần đầu cảm thấy quan hệ với người khác được kéo gần lại một chút, điều y truy cầu chính là sự kích thích và nguy hiểm ở ranh giới sinh tử, cùng với sự truy cầu của Ô Tử Hư có nhiều chỗ tương đồng, nhưng chỗ hài hước đó là bọn họ một người là quan, một người là tặc.

Cô Nguyệt Minh nhíu mày nói: "Ta thật không hiểu ngươi, biết rõ đối với ngươi mà nói, Lạc Dương là địa phương nguy hiểm nhất trong thiên hạ, còn trốn vào nơi tuyệt địa Hồng Diệp Lâu này, rốt cuộc là vì cái gì chứ?".

Ô Tử Hư đáp: "Bất luận là ai hỏi ta, ta đều không trả lời thật. Thế nhưng riêng đối với Cô huynh, ta không biết làm sao không thể nói bậy được. Sự tình là thế này, trong tay ta có một bảo vật, lại chỉ có ở trong Hồng Diệp Lâu mới có cơ hội tiếp xúc người mua, chỉ cần có thể đem bảo vật này bán lấy tiền, ta có thể có được một lượng lớn của cải đủ cung cấp cho ta cuộc sống hoang phí nhiều năm. Không giấu gì huynh, ta đã quen cuộc sống hưởng thụ, không thể tiếp tục thời gian nghèo đói khốn khổ, lại không thể ở trong tình hình lộn xộn này trộm bảo vật khác, mà có trộm được cũng không thể bán, như thế sẽ bại lộ hành tung. Vì thế đem bảo vật hiện nay trong tay bán ra, đã thành hy vọng duy nhất của ta".

Cô Nguyệt Minh không bằng lòng nói: "Tình huống hiện tại của ngươi được bao nhiêu phần tốt? Ngươi không những bại lộ hành tung, còn bị địch nhân bao vậy trùng trùng. Khâu Cửu Sư phối hợp cùng Nguyễn Tu Chân, rất có khả năng là tổ hợp mạnh mẽ nhất trong thiên hạ, ngươi chỉ còn cách đưa đầu cho bọn họ". Y vẫn cho rằng bảo vật mà Ô Tử Hư nói, là vật hắn đã trộm trước đây, không có quan tâm.

Ô Tử Hư chán nản nói: "Cô huynh là người ngoài cuộc tỉnh táo, ta là trong cuộc u mê, cục thế này khẳng định là quỷ cục. Ta nghĩ thông rồi, chỉ hận tối nay mới nghĩ thông, hối hận cũng đã muộn".

Cô Nguyệt Minh trong lòng máy động, hỏi: "Ngươi nghĩ thông cái gì rồi?".

Ô Tử Hư đáp: "Từ khi ta lỡ tay giết chết con trai bảo bối của Hoàng Phủ Thiên Hùng, ta luôn bị quỷ mê, còn bị dụ vào vùng đầm lầy mà huynh gọi là Vân Mộng Trạch, gặp mặt mỹ lệ lệ quỷ ta vừa mới chính thức đặt tên là Vân Mộng nữ thần, huynh nên hiểu ta nói 'gặp mặt' là có ý gì. Từ thời khắc đó, Vân Mộng nữ thần luôn theo bên cạnh ta, khiến ta mơ thấy quái mộng, còn là nằm mộng giữa ban ngày ban mặt nữa chứ. A! Không! Phải nói là hơn nửa đêm nằm mộng, mỗi lần đều trở về một địa phương giống nhau. Ài! Bà thím ta ơi, sợ rằng dương thọ ta đã tận, vì thế mới bị Vân Mộng nữ thần đùa giỡn trong lòng bàn tay như thế".

Chợt ngưng rồi tiếp: "Còn có một chứng cứ khác có thể chứng thực ta là bị quỷ mê, đây cũng là tình cảnh của những người bị quỷ mê, đó là bị quỷ dụ hoặc, mong muốn ở cùng với nữ quỷ, phát giác nàng có lực hấp dẫn vô cùng, có mất đi cái mạng nhỏ cũng không có gì lớn lao. Nếu ta có thể chạy khỏi Lạc Dương, ta sẽ đi tìm hòa thượng hay đạo sĩ có pháp lực tống khứ ác quỷ khỏi người ta. Ài! Câu không nên nói cũng đã nói rồi, bất quá tâm ý của ta sao giấu được nàng chứ? Nàng tuyệt không cho ta có cơ hội thoát thân. Ta chắc chắn đi đời rồi".

Cô Nguyệt Minh trầm giọng hỏi: "Ở trong mộng, ngươi đến chỗ nào?".

Ô Tử Hư thật thà đáp: "Là một tòa thành trì cổ quái".

Cô Nguyệt Minh quay người nhanh như gió, hai mắt thần quang sáng rực, hét nhỏ: "Miêu tả tỉ mỉ hơn cho ta nghe".

Ô Tử Hư bị phản ứng mãnh liệt của y làm cho giật mình, một hồi sau định thần lại, nói: "Thành đó xây ở trên núi, theo thế núi phân thành mấy tầng, chỗ cao nhất là một tòa thần điện, có lúc toàn thành không có một người, có lúc thì xác chết khắp nơi, toàn thành chìm trong bầu không khí chết chóc ôn dịch".

Cô Nguyệt Minh lạnh lẽo hỏi: "Ngươi thấy cảnh trí ngoài thành không?".

Ô Tử Hư đáp: "Cảnh tượng sâu sắc nhất là từ thành lâu nhìn xuống phía dưới, nhìn thấy đồi núi thảo nguyên bao la, xa xa có một con sông, thật sự rất cổ quái".

Cô Nguyệt Minh vẫn nhìn hắn, nhãn thần không chút động đậy, Ô Tử Hư cảm giác tâm thần của hắn tịnh không ở nơi này.

Ô Tử Hư không nhịn được hỏi: "Cô huynh đã nghe qua tòa sơn thành này chưa?".

Cô Nguyệt Minh thở ra một hơi dài, hai mắt hồi phục sự linh hoạt, đáp: "Tối nay phát sinh chuyện gì, vì sao Ô huynh có thể đột nhiên nghĩ đến bản thân đã bị lệ quỷ theo ám?".

Ô Tử Hư đáp: "Tối nay ta lại nằm mộng, cũng là tòa sơn thành đó, ta đến thành tường cao nhất trong thành, men theo một con đường đá không biết thế nào lại đi đến một quảng trường, nhìn thấy một kiến trúc giống như một tòa thần điện đứng sừng sững, trên cổng điện có một tấm bảng vuông, có khắc bốn chữ, nhưng thế nào cũng không nhìn rõ được".

Cô Nguyệt Minh nghe kể rợn da đầu, dựng tóc gáy, hỏi: "Tiếp đó sao?".

Ô Tử Hư hãy còn kinh hãi nói: "Sau đó ta nhìn thấy Vân Mộng nữ thần".

Cô Nguyệt Minh ngây ngốc chăm chăm nhìn hắn.

Ô Tử Hư cười khổ nói: "Sự thực thì ta không thấy được nàng, nhìn được chỉ là một đoàn quang ảnh mỹ lệ sáng ngời, Vân Mộng nữ thần xuất hiện trong vầng sáng đó, xung quanh là hắc ám vô cùng vô tận, nàng tựa như có như không, ta thì không thể cử động, tiếp đó ta nghe nàng nói với ta, lập lại hai lần, đó là muốn ta gọi tên nàng. Ài! Việc phát triển đến tình cảnh như thế vẫn không tỉnh ngộ sao? Nàng đang câu hồn phách ta, chỉ cần ta gọi ra tên nàng, tiểu mệnh của ta liền chấm dứt. Ta thật không muốn chết, ta còn chưa sống đủ, chí ít vẫn chưa tìm được nữ nhân có thể khiến ta dốc lòng, chết như thế thật không đáng".

Cô Nguyệt Minh hỏi: "Ngươi có ngồi thuyền quay về hay không?".

Ô Tử Hư gật đầu đồng ý.

Cô Nguyệt Minh nói: "Bọn ta lên thuyền nói tiếp".

Bách Thuần ngồi một mình trong sảnh, nhìn Vân Mộng nữ thần treo trên bức tường đối diện.

Vân Mộng Trạch liệu có phải là tiểu Vân Mộng mà Tiền Thế Thần nói hay không? Vân Mộng thành còn ở nơi đó sao? Thật kỳ quái! Với địa vị, quyền lực của Tiền Thế Thần, vì sao nói đến cố sự phát sinh ở cổ đại lại ngập ngừng ấp úng, muốn nói lại ngưng, giống như có cố kỵ gì vậy, còn muốn mình lập thệ, không được tiết lộ. Nguyên nhân ở chỗ nào?

Đột nhiên Bách Thuần cảm thấy xúc động mãnh liệt, muốn nghe nửa phần sau cố sự này, đồng thời thầm hạ quyết tâm, không để Tiền Thế Thần úp úp mở mở khiến nàng không thể nắm được tình huống xác thực của Vân Mộng thành năm đó.

Nghĩ đến đây, nàng đi vào thư phòng nằm bên trong, từ khi biết Tiền Thế Thần đến giờ, nàng là lần đầu chủ động mời gã đến Hồng Diệp Lâu. Nàng biết Tiền Thế Thần nhìn thấy mật hàm viết bằng loại giấy đặc biệt của nàng, bất luận gã bận rộn việc công thế nào, cũng sẽ vứt bỏ tất cả, đến Thư Hương Tạ gặp nàng.

Ô Tử Hư và Cô Nguyệt Minh chia nhau ngồi hai đầu thuyền, Ô Tử Hư phụ trách chèo thuyền. Chiếc thuyền rời bờ đi đến giữa hồ.

Cô Nguyệt Minh trầm ngâm phút chốc, tựa như muốn sắp xếp suy nghĩ, nói: "Ngươi ở trong hoàn cảnh nào hạ sát Hoàng Phủ Anh?".

Ô Tử Hư đáp: "Nói chính xác, ta chỉ là gián tiếp giết chết hắn. Khi đó ta ở đổ quán gặp được một người đẹp đổ thuật rất lợi hại, con người ta đánh bạc ra đánh bạc, tán gái ra tán gái, lúc đánh bạc tuyệt không nhường nữ nhân, thế nhưng tối đó lại giống như tiền thế oan nghiệt, ta và nàng tựa như củi khô gặp lửa đỏ, một khi bùng phát thì không thể thu thập. Không nhịn được trước là nàng, ở bên tai ta thì thầm, hẹn ta đến khuê phòng của nàng, sau đó đi trước một bước. Ta đang đánh đến thiên hôn địa ám, đầu óc không được tỉnh táo như bình thường. Khi đó chỉ cần tỉnh táo một chút, nhất định có thể đoán được nàng lén lút như thế là vì có cố kỵ. Ài! Không phải là việc tỉnh hay không tỉnh, mà là ta khi đó căn bản bị quỷ mê, chỉ cho rằng là diễm phúc đến, hoàn toàn không ngờ lại là đào hoa kiếp".

Cô Nguyệt Minh hỏi: "Nàng ta có phải là nữ nhân của Hoàng Phủ Anh không?".

Ô Tử Hư cười khổ nói: "Chính là như thế. Ta lúc đó vừa hay thua còn một lượng bạc, chỉ đành thu tay rời đổ trường, theo địa chỉ người đẹp đó thủ thỉ bên tai mà tới, lúc Hoàng Phủ Anh và hơn mười tên tùy tùng phá cửa vào phòng, bọn ta vẫn đang uống rượu ca hát trong phòng, ta khi đó vô cùng thất kinh, nhảy lui về sau, nữ nhân đó cũng chạy về hướng ta, bị Hoàng Phủ Anh đuổi theo một đao đâm vào sau lưng nàng, việc này nằm ngoài ý liệu của ta, cho rằng Hoàng Phủ Anh chỉ có thể tìm ta tính toán, không ngờ hắn độc ác giết nàng. Nhìn gương mặt thống khổ biến dạng của nàng trước lúc chết, trong lòng ta bừng lên lửa giận chưa từng có, toàn lực ném cái chén vẫn còn cầm trên tay vào Hoàng Phủ Anh, đáy chén trúng mi tâm của hắn, Hoàng Phủ Anh lập tức ngất xỉu, ngã về phía trước, vừa khéo nữ nhân đó quay người lại, bị Hoàng Phủ Anh ngã đến từ đằng sau, Hoàng Phủ Anh vừa ngã vào người nàng, mà đao của hắn vẫn còn cắm trên lưng nữ nhân đó, hậu quả thế nào không cần ta phải nói tiếp nữa!".

Cô Nguyệt Minh gật đầu nói: "Cú ném này của ngươi đã đem tất cả người và việc liên kết với nhau".

Ô Tử Hư hỏi: "Cô huynh đang nói gì? Ta không hiểu".

Hai mắt Cô Nguyệt Minh sáng lấp lánh, ngửa mặt ngắm đêm đen, thở ra một hơi nói: "Ta và Ô huynh gặp nhau ở Hồng Diệp Lâu, tịnh không phải là ngẫu nhiên, Ô huynh minh bạch không?".

Ô Tử Hư lộ ra biểu tình chấn kinh trên mặt, chỉ chỉ bản thân, lại chỉ chỉ Cô Nguyệt Minh, trong mắt bắn ra thần sắc dò hỏi.

Cô Nguyệt Minh gật đầu nói: "Đó là như thế. Ngươi ở trong cục, ta cũng ở trong cục, thậm chí mỗi người tiếp xúc gần đây nhất với bọn ta, bao gồm Bách Thuần và cô nương gọi là Song Song, đều hãm thân trong bố cục này. Ta nghĩ bố cục lớn như thế, đã vượt khỏi năng lực của lệ quỷ, chí ít bọn ta chưa từng nghe quỷ cố sự như thế. Đúng không?".

Ô Tử Hư ngập ngừng hỏi: "Nếu không phải lệ quỷ, thì là gì chứ?".

Cô Nguyệt Minh trầm giọng nói: "Đó là Vân Mộng nữ thần sống ở cổ thành trong Vân Mộng Trạch, nàng không những là tiên linh chủ tể của Vân Mộng Trạch, pháp lực của nàng còn có thể vượt khỏi Vân Mộng Trạch, ảnh hưởng đến bất kỳ người hay việc gì trong thiên hạ".

Ô Tử Hư mơ mơ hồ hồ hỏi: "Khoan đã! Cái gì cổ thành, Cô huynh đang nói cái gì vậy?".

Cô Nguyệt Minh đáp: "Bởi vì liên quan đến bí mật nhậm mệnh của thân phụ ta, ta chỉ có thể nói đại khái cho ngươi nghe".

Ô Tử Hư gật đầu biểu thị đã hiểu.

Cô Nguyệt Minh định thần chăm chú nhìn hắn một hồi, nói: "Dựa vào truyền thuyết cổ xưa, ở phía nam Động Đình, trong khu đầm lầy mặt đông Tương Thủy, còn sót lại tàn tích một tòa cổ thành của Sở quốc ở thời đại Chiến Quốc. Người biết cổ thành rất hiếm, chỉ giới hạn trong di dân nước Sở cổ, đem bí mật này truyền từ đời này sang đời khác, bọn họ tin rằng trong thành có tàng chứa khoáng thế kỳ trân, bất quá gia tộc này tuy không ngừng có người đi tầm bảo, nhưng đáng tiếc bóng dáng một phần của cổ thành cũng không nhìn thấy, còn kẻ tầm bảo giống như trúng phải độc chú, không ai có kết cục tốt, cổ thành tựa như có thần linh thủ hộ".

Ô Tử Hư nghe kể hít vào một luồng khí lạnh, gần như răng đánh lập cập, kinh hãi nói: "Là khoáng thế kỳ trân gì mà lợi hại như thế? Cô huynh phải chăng chỉ Vân Mộng nữ thần ta gặp, chính là thần linh thủ hộ cổ thành, thế nhưng ta không những không có tâm mưu đoạt bảo vật trong thành, thậm chí căn bản không biết được sự tồn tại của cổ thành, ta không có phạm nàng, nàng vì sao lại phạm ta?".

Cô Nguyệt Minh nói: "Chỉ mong ta biết được. Còn vật gì cất giữ trong thành thì ta cũng không biết. Nói trắng ra, ta luôn không tin quỷ quỷ thần thần gì gì đó, thậm chí cổ thành giống như tên của các hạ, là không có thật. Bất quá suy nghĩ của ta đã triệt để cải biến, bảo vật trong cổ thành là việc hết sức chính xác, mà trông nom cổ thành chính là Vân Mộng nữ thần đã hiển lộ pháp tướng với ngươi, từ đó ngươi đã vẽ thành tranh".

Ô Tử Hư cảm thấy tay chân phát lạnh, thân thể trống rỗng phiêu linh, tim như quên đập.

Cô Nguyệt Minh cười khổ nói: "Nếu như ta lần đầu thấy chân dung của nàng, giống như tình huống không chút dị dạng vừa rồi, ta đã không thể đi gặp Ô huynh. Vì thế ta nói cùng Ô huynh tương ngộ ở Hồng Diệp Lâu tịnh không phải ngẫu nhiên".

Ô Tử Hư nói: "Ta cũng sắp bị Cô huynh dọa cho vỡ mật".

Cô Nguyệt Minh không hiểu nói: "Ngươi không phải lúc ở đổ trường thắng liền bảy ván, sớm có cảm giác này sao? Vừa rồi cũng là ngươi nói với ta bị quỷ mê hoặc, hiện tại lại làm vẻ sợ hãi như thế".

Ô Tử Hư cười thảm nói: "Nghĩ cứ nghĩ. Gần đây ta thích nhất là suy nghĩ lung tung, nhưng nghĩ thì nghĩ như thế, nội tâm rốt cuộc vẫn có một tia nghi vấn, hoài nghi tất cả chỉ là bản thân đang suy nghĩ vớ vẩn, nghi vấn đó trở thành một sinh cơ để ta bấu víu. Hiện tại huynh lại hủy đi hy vọng cuối cùng của ta, bởi vì ta thật sự tìm không được sự thật có thể phản bác huynh. Ài! Ta và Vân Mộng nữ thần trước kia không oán, gần đây không cừu, nàng vì sao tìm đến ta?".

Cô Nguyệt Minh trong lòng hiện lên hoa dung của Vô Song Nữ, than: "Ngươi sao biết không có ân oán với nàng chứ?".

Ô Tử Hư ngạc nhiên hỏi: "Ta và nàng sao có thể có ân oán?".

Cô Nguyệt Minh bình tĩnh nói: "Oan nghiệp từ tiền thế thì thế nào?".

Ô Tử Hư toàn thân rúng động, hai mắt bắn ra thần sắc kỳ dị, mù mờ nói: "Tiền thế! Mẹ ta ơi! Lần này là chết chắc rồi".

Cô Nguyệt Minh than: "Vừa hay ngược lại, Vân Mộng nữ thần không những không phải là khắc tinh chú định trong vận mệnh ngươi, còn là hy vọng duy nhất trong hoàn cảnh hiện nay của ngươi. Đây là suy nghĩ của ta, cũng là suy nghĩ của Nguyễn Tu Chân".

Ô Tử Hư vô cùng ngạc nhiên hỏi: "Nguyễn Tu Chân lại biết được chuyện này?".

Cô Nguyệt Minh đáp: "Giờ ngọ hôm nay trước khi ta đến gặp ngươi, đã gặp Nguyễn Tu Chân, người này không thẹn nổi danh trí giả, từ việc đại thắng đổ trường của ngươi, không có chứng cứ nào vẫn suy đoán được có một lực lượng thần bí dẫn dắt sự phát triển của cả sự kiện, lực lượng này luôn đứng về phía ngươi, còn mục đích cuối cùng của nó thì chỉ có bản thân nó biết rõ".

Ô Tử Hư nhìn ngang nhìn dọc, cười khổ nói: "Bị huynh nói đến sởn cả tóc gáy, không biết nên sợ hay nên hoan hỷ nữa. Bề ngoài thì nó đích xác đang giúp đỡ ta, sự thật thì lại dồn ta vào chỗ chết. Hiện tại phương pháp duy nhất chạy khỏi Lạc Dương của ta, đó là bắt đầu từ Hồng Diệp Lâu, đánh xông ra khỏi thành. Cô huynh nói một câu công đạo xem! Nó đang giúp ta hay đang hại ta?".

Cô Nguyệt Minh không có quan tâm đến lời của hắn, tự mình trầm ngâm, nói: "Địa phương trong mộng và chỗ trong ảo giác của Ô huynh, có thể chính là tòa thần bí cổ thành trong Vân Mộng Trạch năm đó còn chưa bị phá hủy, con sông ngoài thành là Vô Chung Hà Ô huynh đã qua".

Ô Tử Hư không thể khống chế cơn rùng mình, run giọng nói: "Tam hồn thất phách của ta, sợ rằng có một nửa đã bị nó dẫn đến cổ thành rồi. Cô huynh nói đúng, tiền thế ta nhất định là thiếu nó cái gì đó, hiện tại nó là đến đòi nợ. Không đúng! Nó phải là lệ quỷ tinh linh thuộc thời đại Chiến Quốc, chuyện đã phát sinh hơn một ngàn năm trước, sao có thể liên quan đến người sau một ngàn năm như ta chứ?".

Cô Nguyệt Minh không bằng lòng hỏi: "Ô huynh sao biết kiếp trước của ngươi không phải ở trong thời kỳ đó?".

Ô Tử Hư mặt tái mét vô cùng khó coi.

Cô Nguyệt Minh hiểu được tâm tình của hắn, im lặng không nói.

Trong trời đêm ôn nhu, cao lầu thủy tạ, đình đài lầu cát của Hồng Diệp Lâu, hòa cùng Quải Biều Trì thành một thể thống nhất. Không có Quải Biều Trì, Hồng Diệp Lâu sẽ không có khí chất thoát tục cách xa chốn bụi trần. Không có Hồng Diệp Lâu, Quải Biều Trì cũng sẽ không thể có sự phồn hoa của văn hóa kinh doanh.

Bên bờ cổ thụ um tùm, lầu đài đình tạ lúc ẩn lúc hiện, nước chảy bên cầu, đường quanh co u tĩnh, sương khói lởn vởn, gió nhẹ vờn rèm, đàn ca êm ái, tựa như là tiên giới ở nhân gian.

Ô Tử Hư thu lại mái chèo, để con thuyền nhỏ ở giữa hồ bập bềnh trôi nổi.

Cô Nguyệt Minh trầm tư suy nghĩ.

Buổi tối đặc biệt này, rất có thể là một đêm quan trọng nhất trong đời y, bất cứ phán đoán nào y đưa ra, mỗi một câu nói ra, đều có thể mang đến hậu quả hoàn toàn không giống nhau. Từ trước đến giờ, y luôn bằng vào trực giác quyết đoán kịp thời, loại trực giác này là từ kinh nghiệm đã trải qua mà bồi dưỡng thành, đó giống như Ô Tử Hư có thể nhìn qua nắm được đặc tính và khí chất của đối tượng sẽ vẽ, bản thân y đối với địch thủ cũng vừa nhìn là hiểu thấu, nhìn rõ được bản lãnh nông sâu của đối phương.

Thế nhưng thói quen này đã cũ, ở tình thế trước mắt tịnh không phù hợp.

Đầu tiên, y không phải không có gì vướng bận như trước, vô cùng hứng thú đối với tử vong. Vì để bảo vệ Hoa Mộng phu nhân, y cần phải đoạt được Sở hạp, đây là mục tiêu của y, cũng là chọn lựa duy nhất. Chỉ cần nhận thức như thế, đủ để y biết bản thân đã "Nhập cục".

Y cũng không thể dựa vào trực giác hoặc ấn tượng đầu tiên để đưa ra phán đoán, mà cần phải suy xét toàn cục, suy xét tất cả nhân tố hữu hình hoặc vô hình, thậm chí sức ảnh hưởng của quỷ thần, mới có khả năng đạt thành mục tiêu.

Điểm quan trọng nhất đêm nay, là thái độ của y đối với đại đạo trước mặt, sẽ chọn hay bỏ. Một phán đoán sai lầm, trả giá bằng tính mạng bản thân thì chẳng có gì nghiêm trọng, nhưng nếu thêm tính mạng của Hoa Mộng phu nhân thì là hậu quả y không thể gánh nổi.

Trong mơ hồ, y cảm thấy Ô Tử Hư là nhân vật quan trọng trong việc y có thể đoạt được Sở hạp hay không, suy nghĩ này dẫn dắt thái độ đối xử với Ô Tử Hư của y.

Thanh âm của Ô Tử Hư truyền vào trong tai y: "Nói như thế, ta ở trong mộng không phải quay về kiếp trước sao?".

Cô Nguyệt Minh hít sâu một hơi, nói: "Ô huynh có cảm giác như thế không? Vân Mộng nữ thần đang mượn mộng cảnh và ảo tượng, vẽ lại sự tình phát sinh ở cổ thành ngàn năm trước cho Ô huynh, tuy mỗi đoạn ngắn đều là những mẫu vụn, nhưng liên kết với nhau, nói không chừng sẽ là một cố sự hoàn chỉnh".

Ô Tử Hư lắc đầu nói: "Không có đạo lý, nàng đã thần thông quảng đại như thế, pháp lực không có giới hạn, muốn ta biết một sự kiện, rất có thể hoàn hoàn chỉnh chỉnh một lần mở ra cho ta thấy, không cần ấp a ấp úng, muốn nói lại thôi".

Cô Nguyệt Minh bình tĩnh nói: "Nàng tuyệt không phải thần thông quảng đại như thế".

Ô Tử Hư thoáng ngạc nhiên.

Cô Nguyệt Minh nói: "Nguyễn Tu Chân từng thâm nhập điều tra đối với việc ngươi ở đổ quán thắng liền bảy ván, kết luận là người đánh bạc với ngươi đều có tình cảnh bị quỷ mê hoặc, đánh không xong ngược lại còn thua hết sức hồ đồ. Từ đó có thể biết Vân Mộng nữ thần chỉ có thể thông qua ảnh hưởng tâm thần của người khác, thao túng sự phát triển của người và việc trong hiện thực. Còn lực ảnh hưởng của nàng đối với người sống là có hạn, người bị ảnh hưởng vẫn có tự do ý chí, có thể có phản kháng với nàng, thậm chí phản kích, đây là một trường kịch đấu giữa người và thần linh. Hươu chết về tay ai, còn chưa biết được".

Ô Tử Hư nói: "Cô huynh càng nói càng huyền ảo, tất cả những gì Cô huynh nói, liệu có phải chỉ là nghi ngờ tâm sinh quỷ ám không?".

Cô Nguyệt Minh trầm giọng nói: "Ô huynh không cần lãng phí thời gian, ngươi so với bất kỳ ai càng phải minh bạch lời của ta. Vân Mộng nữ thần đang dùng năng lực và phương thức của nàng, gợi lên ký ức tiền thế của Ô huynh. Từ thời khắc Ô huynh ngộ sát Hoàng Phủ Anh, Vân Mộng nữ thần bắt đầu triển khai kế hoạch rộng lớn mạnh mẽ của nàng, tất cả những người gián tiếp hoặc trực tiếp cuốn vào chuyện này, đều bị hãm trong bố cục của nàng. Ta, ngươi, Bách Thuần, Song Song, Khâu Cửu Sư, Nguyễn Tu Chân, Tiền Thế Thần, Qua Mặc, Quý Nhiếp Đề, thậm chí Phụng công công, sư tỷ của Bách Thuần là Hoa Mộng phu nhân, thủ hạ số một của Phụng công công là thái giám Ký Thiện, thậm chí đương kim thiên tử, đều không thể ở ngoài. Cục thế mệnh vận này có thể ảnh hưởng đến sự phát triển hình thế thiên hạ".

Lại giải thích thân phận của bọn người Qua Mặc, Quý Nhiếp Đề.

Ô Tử Hư nghe đến trợn mắt há miệng, mãi một hồi sau mới nói: "Cô huynh lần này là lần thứ nhì nói chuyện này có liên quan với Song Song, nhưng ta thật nghĩ không ra chuyện này có quan hệ gì với nàng".

Cô Nguyệt Minh hờ hững nói: "Ngươi sẽ được minh bạch nhanh thôi".

Ô Tử Hư ủ rũ nói: "Ta há không phải trở thành kẻ bị hại lớn nhất sao? Bất luận tương lai tình thế phát triển thế nào, ta cuối cùng cũng phải thành vật phẩm hy sinh thôi".

Cô Nguyệt Minh nói: "Thật như thế sao? Vân Mộng nữ thần muốn hại ngươi, có thể uổng phí công phu gợi lại hồi ức tiền thế của ngươi sao? Ngươi suy nghĩ kỹ xem, nàng hại ngươi thì dễ, muốn giúp ngươi lại tuyệt không dễ dàng. Nàng giống như bọn ta có thể phạm sai lầm, giúp ngươi ở đổ quán thắng liền liền, đã lộ ra sơ hở, giúp Nguyễn Tu Chân đoán ra sự tồn tại của nàng, càng tin tưởng không sai ngươi chính là Ngũ Độn Đạo, bằng không Nguyễn Tu Chân và Khâu Cửu Sư vẫn mặc nàng thao túng. Theo tình thế hiện thời, ngươi có mọc cánh cũng khó mà bay thoát".

Ô Tử Hư cười khổ hỏi: "Ta nên cảm kích nàng hay là hận nàng đây?".

Cô Nguyệt Minh đáp: "Rồi có một ngày ngươi sẽ biết rõ".

Ô Tử Hư u ám trong lòng, nói: "Cô huynh vì sao đột nhiên đối tốt với ta như thế? Ta chưa từng có bằng hữu, nhưng lại cảm thấy Cô huynh là bằng hữu chân chính của ta".

Cô Nguyệt Minh thản nhiên đáp: "Ta vốn là người đặt việc công lên hàng đầu, đối với người hay vật đều không có sinh ra cảm tình, thế nhưng ta phát giác bản thân đang trong quá trình thay đổi. Nói đơn giản, mục tiêu của ta là muốn tìm bảo vật chưa biết ở trong cổ thành, mục tiêu của ngươi là đem bán báu vật ở trong người, sau đó tẩu thoát mất dạng, mai danh ẩn tính, nhắm tránh khỏi báo phục của Hoàng Phủ Thiên Hùng. Mới nhìn ta và ngươi là đạo bất đồng không ngồi cùng nhau, sự thực thì nữ thần trong Vân Mộng Trạch lại thông qua một bức tranh liên hệ bọn ta lại với nhau. Ô huynh có thể có liên tưởng gì không?".

Ô Tử Hư hỏi: "Bảo vật trong cổ thành, đối với Cô huynh rất quan trọng phải không?".

Cô Nguyệt Minh gật đầu đáp: "Tuyệt không nghi ngờ, nhưng thứ cho ta không thể nói rõ nguồn cơn".

Ô Tử Hư nói: "Cô huynh nổi tiếng là người vô tình, ta lại vừa hay tương phản, rất dễ động chân tình, chỉ là đến đi đều nhanh. Cô huynh trượng nghĩa giúp đỡ, khiến ta hết sức cảm động. Để ta nói với Cô huynh một bí mật, ta là người thiên sinh đối với bảo vật có xúc giác mẫn tiệp. Mỗi lần tiến vào phú gia đại trạch, ta có thể tự nhiên cảm ứng được bảo vật có giá trị nhất giấu ở nơi nào. Cảm giác đó hết sức cổ quái, càng tiếp cận bảo vật, tim ta đập càng nhanh, đây là chuyện không thể giải thích, thật tình là như thế, vì vậy ta trộm vật chưa từng bị thất thủ".

Cô Nguyệt Minh kinh ngạc nói: "Ô huynh đúng là kỳ nhân".

Ô Tử Hư nói: "Ta là kỳ nhân, Cô huynh không phải cũng là kỳ nhân sao? Ta thấy bản lãnh truy tặc của huynh chẳng khác nào bản lãnh trộm bảo của ta, may mà huynh không bắt tên tặc này. Khà! Không nói lạc đề nữa, ta đáp ứng Cô huynh, chỉ cần ta có thể chạy khỏi Lạc Dương, ta sẽ theo huynh đến Vân Mộng Trạch, bằng vào xúc giác đối với dị bảo của ta, tìm ra tòa cổ thành đó, đây là lời hứa của ta đối với Cô huynh".

Cô Nguyệt Minh nói: "Ngươi không còn sợ ta hại ngươi à!".

Ô Tử Hư ung dung nói: "Sợ hãi có tác dụng gì. Một mục đích khác của ta, là muốn đến địa phương lực lượng Vân Mộng nữ thần mạnh nhất, cùng nàng giải quyết dứt điểm. Thần cũng tốt! Quỷ cũng tốt! Chạy trốn không phải là biện pháp, ngày đêm nơm nớp lo sợ, không biết chủ ý nào là của mình đề ra, chủ ý nào là của nàng đề ra, làm người còn có lạc thú gì chứ? Không ai hy vọng biến thành con rối cho người khác giựt dây thao túng hết".

Tiếp đến hai mắt sáng lên, tiếp: "Cả đời ta luôn tìm kiếm một nữ nhân có thể khiến ta không thể rời xa nàng, chỉ cần Vân Mộng nữ thần xuất hiện trước mắt ta, ta bất kể đó là ảo giác hay là hiện thực, ta sẽ nhảy đến ôm lấy nàng, xem nàng có phản ứng gì, chỉ cần nàng không biến thành một bộ xương khô là được".

Cô Nguyệt Minh ngưng thần nhìn kỹ hắn, lòng nghĩ đây mới là chân chính diện mục của Ngũ Độn Đạo, là bản sắc đại đạo của hắn.

Ô Tử Hư hưng phấn nói: "Tưởng tượng đã đủ kích thích. Huynh không cần lo cho ta, cũng không cần xuất thủ giúp ta. Hiện tại ta đột nhiên cảm thụ được tư vị chưa từng có, cảm giác mới mẻ sung mãn động nhân. Ta tin tưởng bản thân không những có thể bán đi bảo bối trong tay trở thành tài phú giàu có, còn có thể chạy khỏi Lạc Dương thành. Ta sống hai mươi mấy năm, sinh mệnh chưa từng muôn màu muôn vẻ thế này".

Cô Nguyệt Minh hoài nghi hỏi: "Nữ thần của ngươi có phải đang ảnh hưởng ngươi, kích khởi đấu chí của ngươi hay không?".

Ô Tử Hư đáp: "Khả năng này rất lớn, nàng chắc luôn đứng về phía ta. Gì cũng tốt, ta là người vĩnh viễn không chịu bỏ cuộc, chỉ cần có một tia cơ hội có thể sống tiếp, ta sẽ không bỏ qua chút sinh cơ đó".

Lại nói: "Sự phát triển của tương lai, ai cũng không thể dự liệu. Không bằng bọn ta ước định một địa phương gặp mặt, tốt nhất là trong Vân Mộng Trạch, cho dù bọn ta mất đi liên lạc, cũng có thể lần nữa bắt tay, triển khai công cuộc cổ thành tầm bảo của bọn ta".

Cô Nguyệt Minh nhíu mày nói: "Thế nhưng ta đến lúc này, vẫn không thể xác định bảo vật còn ở trong cổ thành. Chuyện này xác thật một lời khó tận".

Ô Tử Hư giống như biến thành một người khác, nói: "Huynh nên có tín tâm đối với nữ thần của ta. Không! Nên có tín tâm đối với nữ thần của bọn ta, nàng đã có thể đùa giỡn, hý lộng với bao nhiêu anh hùng hào kiệt như thế, đương nhiên có biện pháp bảo vệ bảo vật, lưu nó cho người có duyên mà nàng chọn. Còn người đó có thể là huynh, có thể là ta. Nếu như là của tiểu đệ, ta sẽ hai tay dâng cho Cô huynh, ta tuyệt không nuốt lời. Cô huynh có thể hoàn toàn tín nhiệm ta".

Cô Nguyệt Minh trầm ngâm chốc lát, nói ra phương vị Tương Phi Từ ở trong Vân Mộng Trạch.

Hai người đều là lão giang hồ, còn định ra ám kí và thủ pháp thông tin để tránh mất liên lạc.

Ô Tử Hư khua mái chèo, chiếc thuyền rùng rình quay hướng lâu chính chạy đi, cười nói: "Lần này đúng là tiễn Cô huynh một đoạn rồi".

Hồi 30: Nhất Bại Đồ Địa

Kinh thành.

Canh hai.

Ký Thiện đặt chân vào đại cung giám phủ, có cảm giác rất bất thường. Trước nửa đêm từ trong ổ lăn đi gặp Phụng công công, là chuyện bình thường không phải ngoại lệ, Phụng công công là loại người cứ máy động trong tâm là lập tức đem suy nghĩ đó ra thực hành, không thèm quan tâm lúc đó là giờ nào. Bất quá gần bốn, năm năm nay, vì tuổi tác đã cao nên cũng ít khi vào lúc canh ba nửa đêm tìm người đi làm việc cho lão.

Tuổi tác Phụng công công thế nào, không ai biết được, không ai đàm luận, trong hoàng cung hay thậm chí cả kinh thành, tuổi của Phụng công công biến thành một điều cấm kỵ, ai dám công nhiên đàm luận, không thể có kết thúc tốt đẹp gì.

Đại cung giám phủ tất cả như thường, không có tăng cường giới bị, sân vườn đèn tắt âm u, chỉ có Trường Thọ cung rực rỡ sáng đèn.

Ký Thiện ở cửa lớn tháo bỏ bội kiếm, giao cho lính canh cửa, tiến vào sảnh đường rộng lớn hoa lệ của Trường Thọ cung.

Phụng công công ngồi bên cái bàn tròn lớn đặt giữa sảnh, tay cầm ống tẩu dài bằng vàng, đang nuốt mây nhả khói, thần thái an nhàn tự tại, tròng mắt ẩn dưới mí mắt chớp chớp tinh quang. Ký Thiện rất hiểu lão vừa nhìn qua đã biết tâm tình lão đang khoan khoái, chỉ không biết thoải mái vì chuyện gì?

Phụng công công nhìn qua y, vui vẻ nói: "Ngồi, đến đây! Đến ngồi đối diện ta".

Ký Thiện cảm thấy quả tim nhảy mạnh mấy cái, lúc này mới miễn cưỡng đè nén cảm giác bất an trong lòng xuống, trước tiên chào hỏi thỉnh an, sau đó nhẹ nhàng kéo ghế ngồi xuống đối diện lão.

Trên mặt bàn trước mặt Phụng công công, bày ra một bức tín hàm đã mở, hai bên dùng thư trấn đè giữ, chất giấy rất mỏng, viết chi chít những chữ cực nhỏ, không có thượng hạ khoản, thuộc dạng phi cáp truyền thư.

Phụng công công thấy ánh mặt của y dừng ở chỗ tín hàm, khẽ cười nói: "Đây là thư của Nhiếp Đề ở Động Đình Hồ báo về cho ta, bức thư này ta đã chờ đủ mười năm, mãi hôm nay mới đến được tay ta. Khà! Cô Nguyệt Minh thật không phụ kỳ vọng của ta, vừa xuất mã đã lập kỳ công, phá được huyết án phát sinh mười năm trước".

Kỷ Thiên giật thót trong lòng, huyết án phát sinh mười năm trước ở Vân Mộng Trạch, y tuy là kẻ hiểu rõ tình hình, còn chấp hành mệnh lệnh của Phụng công công bắt cả nhà Phu Mãnh, thế nhưng Phụng công công tịnh không nói bí mật Sở hạp cho y biết, chỉ nói Phu Mãnh chiếm đoạt bảo vật của Hoàng thượng làm của riêng, cho nên bản thân tuyệt không phải là đối tượng tốt để Phụng công công đàm luận chuyện này, nhưng Phụng công công đêm khuya tìm y đến nói chuyện, mở đầu đã nói về chuyện này, càng hiện rõ chỗ dị thường của sự tình.

Thư của Quý Nhiếp Đề viết cái gì? Chẳng lẽ Cô Nguyệt Minh đã tìm được Sở hạp, y thật sự rất muốn biết.

Phụng công công "lít rít lít rít" hút sâu mấy hơi, chầm chầm nhả ra, giọng thỏa mãn: "Ta đã bao nhiêu năm không rời kinh vậy?".

Ký Thiện nghĩ một lát, đáp: "Đại công công hơn mười năm chưa từng rời kinh thành". Lòng chùng xuống, nếu Phụng công công quyết định đi xa, lão kêu y đến là để an bài sau khi rời kinh là hợp tình hợp lý.

Đồng thời kinh ngạc trong lòng, nội dung của bức thư này chắc chắn vô cùng khác lạ, bằng không sao có thể khiến Phụng công công khởi giá viễn hành. Nhưng càng nghĩ càng không thông có chuyện gì không thể giao cho Quý Nhiếp Đề xử lý.

Nếu như Phụng công công thực sự ly khai kinh thành, thì đây là một cơ hội tốt ngàn năm khó kiếm cho Hoàng thượng và y. Y đã sắp xếp nhiều năm, giả như hai người lợi hại nhất trong phe cánh Phụng công công đều không có ở kinh thành, Ký Thiện dám đảm bảo khi bọn chúng quay về, kinh thành đã không còn là kinh thành mà bọn chúng từng quen thuộc.

Phụng công công lắc lắc đầu, thở ra một hơi, khoan thai hỏi: "Tiểu Thiện năm nay bao nhiêu tuổi?".

Ký Thiện cung kính đáp: "Tiểu Thiện còn hai tháng nữa là đủ ba mươi tám tuổi".

Phụng công công khẽ gục gặc, nói: "Sớm mai ta phải ly khai kinh sư, đi một chuyến đến Động Đình Hồ, việc ở nơi này, sẽ giao cho tiểu Thiện thu xếp giúp ta. Tiểu Thiện phải tận tâm tận lực phục dịch Hoàng thượng, ngàn vạn lần chớ để Hoàng thượng không vui lòng. Chuyện trong cung hoàn toàn giao cho ngươi xử lý".

Ký Thiện liền cúi đầu xuống để tránh bị Phụng công công nhìn thấy vẻ vui mừng trong mắt y, lớn tiếng nhận lệnh.

Phụng công công lại hít vào một ngụm khói, nhắm mắt hồi lâu rồi nhả ra, thần thái bay bổng nói: "Tuổi tác người ta càng lớn, đối với cùng một sự kiện có thể sinh ra ý nghĩ hoàn toàn bất đồng. Khi ta ở tuổi như tiểu Thiện, nhìn sự tình gì cũng thấy đơn giản, mọi chuyện chỉ từ lập trường cá nhân mà suy nghĩ, thích ra vẻ anh hùng, mới nhìn tựa như dám làm dám chịu, không sợ hy sinh, thật tình lại là đem sinh mạng bản thân ra chơi đùa, làm xằng làm bậy, thiếu suy nghĩ cặn kẽ, bỏ gốc lấy ngọn, còn không bằng án binh bất động. Ở vị trí của bọn ta, tuyệt không thể khinh suất được, bởi vì liên quan không chỉ cá nhân, còn có thể làm dao động toàn cục".

Ký Thiện hoàn toàn không hiểu hàm nghĩa đằng sau mấy lời này của Phụng công công, nhưng Phụng công công đương nhiên không phải dạng người thích nói lời thừa, ý vui trong lòng lập tức không cánh mà bay, liền gật đầu nói: "Đa tạ đại công công dạy bảo, tiểu Thiện nhất định ghi nhớ trong lòng".

Phụng công công đặt ống tẩu xuống, hỏi: "Hoàng thượng gần đây tựa hồ tâm tình rất vui, tiểu Thiện biết là nguyên nhân gì không?".

Ký Thiện rung động trong lòng, đáp: "Tiểu Thiện không biết".

Y sớm cùng Hoàng thượng có mật nghị, bề ngoài không để lộ manh mối, nào biết vẫn không giấu nổi lão hồ ly gian giảo Phụng công công.

Lão hồ ly này thật quá lợi hại.

Phụng công công than: "Đây là chuyện tốt chứ không phải chuyện xấu, Hoàng thượng long tâm thoải mái là chuyện vui vẻ nhất đối với mấy tên nô tài bọn ta. Đúng không?".

Ký Thiện không ngớt gật đầu, đáp: "Đúng! Đúng!".

Phụng công công đột nhiên hỏi: "Ngươi nhận thấy con người Nguyệt Minh thế nào?".

Ký Thiện thầm thở nhẹ một hơi, chỉ cần lão không tiếp tục truy vấn việc của Hoàng thượng là được. Đáp: "Nguyệt Minh là một người rất đặc biệt, tâm tư cẩn mật, kiếm pháp lợi hại, tuyệt nhất là y trung thành cẩn cẩn với đại công công, chưa từng khiến đại công công thất vọng".

Phụng công công liền nói: "Nguyệt Minh đúng là chưa từng khiến ta thất vọng, nhưng chưa thể khẳng định được có trung thành cẩn cẩn với ta hay không. Khà! Một con người không sợ chết, sao có thể trung thành với bất kỳ ai được. Loại người như Nguyệt Minh, ta hiểu y nhất, y chỉ có thể trung thành với một người, người đó chính là bản thân y".

Ký Thiện ngạc nhiên không nói.

Ánh mắt Phụng công công nhìn ra đêm đen ngoài cửa sổ, trầm giọng nói: "Trước khi đem nhiệm vụ này giao cho y, ta đã tốn rất nhiều công phu tìm hiểu Cô Nguyệt Minh, điều tra sinh hoạt ăn uống của y, xem y qua lại với người nào, nghiên cứu mỗi lần hành động của y. Tiểu Thiện chí ít nói đúng một điểm, Nguyệt Minh là người rất đặc biệt, ở trong mắt của ta gần như là người không có bất cứ sơ hở nào, bất quá lại không phải hoàn toàn không có chỗ hở. Cũng chứng minh cho dù là người cô độc nhất, cũng cần có đối tượng để tâm sự".

Ký Thiện trực giác cảm thấy lão đang nói đến Hoa Mộng phu nhân, thầm kêu hỏng bét. Nguyên nhân y sợ hãi, không phải do Phụng công công đề cập đến Hoa Mộng phu nhân, mà vì bản thân hoàn toàn không biết được Phụng công công đang âm thầm điều tra Cô Nguyệt Minh, những việc này vốn phải do Ký Thiện y đi xử lý.

Phụng công công lại cầm ống tẩu lên, nhưng không châm lửa, ngưng thần chăm chú nhìn y hỏi: "Tiểu Thiện có biết ta vì sao không sợ cực khổ trên đường, muốn viễn hành Nam phương không?".

Lòng bàn tay Ký Thiện túa mồ hôi, bề ngoài ra vẻ điềm nhiên như không, đáp: "Tiểu Thiện thật sự không minh bạch, không có đại công công ở bên cạnh, Hoàng thượng sẽ rất không quen".

Phụng công công vẫn thong dong nói: "Bọn ta giết lầm người rồi".

Ký Thiện ngây ngốc hỏi: "Giết lầm người?".

Hai mắt Phụng công công sáng lên, dị mang lấp lóa, vui vẻ nói: "Bọn ta giết lầm người nhà của Phu Mãnh, Phu Mãnh chỉ là kẻ bị hại, hại hắn chính là Tiền Thế Thần gan lớn hơn trời, lần này ta đến Nam phương, chính là xem lá gan Tiền Thế Thần lớn đến mức nào, thu hồi từ hắn vật mà ông trời ban thưởng cho ta".

Ký Thiện lắc đầu nói: "Tiểu Thiện không hiểu".

Thân thể lòm khòm của Phụng công công đột ngột vươn thẳng lên, hai đầu vai bung ra như cánh chim, thần thái vô cùng uy mãnh, ngẩng đầu cười lớn nói: "Tiểu Thiện sao có thể không hiểu, ngươi phải hiểu ta đang nói gì hơn bất cứ ai chứ?".

Ký Thiện biến sắc, ngầm giới bị.

Phụng công công nói: "So với ta, đạo hạnh của tiểu Thiện còn cách xa lắm, chỉ cần ngươi chịu án binh bất động, đợi ta trăm tuổi chầu trời, cuối cùng có một ngày có thể ngồi lên vị trí của ta, tiểu Thiện quá ra vẻ anh hùng rồi".

Ký Thiện cố nốt nỗ lực cuối cùng nói: "Công công hiểu lầm rồi".

Hai mắt Phụng công công sát cơ đại thịnh, nói: "Tiểu Thiện có biết người bán đứng ngươi là ai không, người đó chính là Hoàng thượng, minh bạch chưa?".

Nói đến câu cuối cùng, Phụng công công từ trên ghế bắn vọt lên, chân điểm lên mặt bàn, tẩu thuốc bằng vàng bổ vào trán Ký Thiện, thân thủ linh hoạt, kình đạo đầy đủ, tốc độ cực nhanh, là điều mà Ký Thiện chưa từng nghĩ qua.

Hồi 31: Thần Tiên Khả Tiếp

Ký Thiện ngả người ra sau, cả người lẫn ghế bổ nhào dưới đất, hai viên thiết đạn tử từ ống tay áo bắn vọt ra, lần lượt nhằm vào diện môn và ngực Phụng công công, kế đó lăn tròn sang một bên, linh hoạt như mèo, quả không hổ là thái giám thân thủ cao minh nhất dưới trướng Phụng công công.

Phụng công công có vẻ như muốn đột nhiên xuất thủ, thu thập y để yên tâm Nam hạ, song y biết rất rõ, cả kinh thành này đã nằm trong sự khống chế tuyệt đối của lão, một chút tự do và quyền lực cuối cùng còn sót lại của Hoàng thượng cũng bị lão thái giám này đoạt mất, chỉ cần bắt sống được y, lão sẽ bức được y khai ra những người đồng mưu khác, trảm thảo trừ căn.

Phụng công công chẳng buồn để mắt, cây Hoàng kim can trong tay nâng lên hạ xuống, đánh bật hai viên thiết đạn tử bắn về phía mình, thần thái ung dung không tốn chút sức lực ấy khiến Ký Thiện trước giờ vẫn không dám đánh giá thấp lão càng thêm lạnh hết cả người. So về khí thế, y đã hoàn toàn bị Phụng công công áp đảo.

Ký Thiện vừa bật người đứng dậy, Phụng công công đã nhảy phốc tới trước, Hoàng kim can đập thẳng xuống mặt y.

Hai tên hộ vệ chạy vào.

Phụng công công quát lớn: "Không kẻ nào được tiến vào, xéo ra!".

"Đang!".

Hai chiếc Hộ tý thò ra khỏi ống tay áo, giao nhau chặn cây Hoàng kim can của Phụng công công lại.

Lão thái giám cười lên ha hả: "Hay thật! Trong ống tay áo ngươi còn đồ chơi gì nữa không?".

Nói thì thong dong, nhưng tay lão thì không hề chậm trễ, chỉ trong nháy mắt đã nhấc Hoàng kim can lên rồi đập xuống, cứ vậy liên tiếp mười mấy lần, mỗi một cú đập đều nặng tựa ngàn cân, mỗi lần chỉ nhấc lên chừng một lóng tay, mỗi lần đều đập đúng vào nơi hai chiếc Hộ tý giao nhau, tốc độ cực nhanh, lực đạo nặng đến mức khiến người ta có cảm giác cánh tay Phụng công công không phải của người sống, mà là do một cỗ máy hết sức tinh vi phát động.

Ký Thiện không còn sự lựa chọn nào khác, chỉ có thể ngạnh tiếp đến cùng.

Võ công Phụng công công đã cao đến độ kinh thế hãi tục, vượt quá cực hạn về thể năng của nhân loại, nhưng điều khiến người ta cảm thấy kỳ lạ nhất chính là lão chỉ là một lão già không còn bao nhiêu thọ hạn nữa.

Tiếng kim loại chạm nhau vang lên liên miên bất tuyệt, thoạt nghe như một tiếng ngâm vang, nhưng sự thực lại do hơn mười tiếng động chát chúa hợp thành.

Đến cú đập thứ mười ba thì hổ khẩu Ký Thiện đã vỡ nát, mắt tai mũi miệng bắt đầu rỉ máu.

"Bình!".

Phụng công công tung chân phải lên, một cước nhanh như thiểm điện đá vào tiểu phúc Ký Thiện, cả người y lập tức bay lên khỏi mặt đất, bắn vào chiếc thái sư ỷ kê sát tường, làm chân ghế gãy nát, sống lưng Ký Thiện đập mạnh vào tường, rồi trượt bịch xuống đất, trông thảm hại vô cùng.

"Đang, đang!" Hai chiếc Hộ tý tuột khỏi tay rơi xuống đất.

Phụng công công không thừa thế truy kích, tả thủ lấy chút sợi thuốc trong túi ra, nhét vào đầu tẩu, kế đó lấy hỏa thạch ra đánh lửa, nhàn nhã hít vào một hơi.

"Ọe!".

Ký Thiện phun ra một ngụm máu tươi, gương mặt mất dần sắc máu, nhìn như lệ quỷ, hai mắt gườm gườm nhìn Phụng công công.

Phụng công công giơ một ngón tay cái lên với y, từ từ phả khói rồi tán thưởng: "Quả không hổ là người do ta dạy dỗ, trên người ngươi có phải mặc Lục Đinh Thần Giáp được Hoàng thượng ban cho không? Hoàng thượng đối với ngươi cũng không tệ lắm, năm đó Trấn Viễn vương hiến bảo giáp này lên, Hoàng thượng đã lén giữ lại, còn tưởng rằng ta không biết nữa chứ. Hoàng thượng thật ngốc, chuyện của người làm sao mà qua mắt nổi ta? Người thật không hiểu ta chút nào cả, thứ đồ chơi vớ vẩn này người thích giấu đi để tự an ủi bản thân, ta can thiệp làm gì? Huống hồ Huyền Vũ Tiên Giáp cao hơn mấy bậc đã ở trên người ta rồi. Nói thật cho ngươi biết, vừa rồi ta cũng rất muốn để tiểu Thiện ngươi đá cho một cước, xem ta có không chịu nổi mà phun cả máu tươi ra giống ngươi không. Hà! Có điều ta già quá, không thích đem sinh mạng ra làm trò đùa như thời trẻ nữa rồi!".

Ký Thiện thở dốc, song mục ánh lên cừu hận sâu sắc, trầm giọng nói: "Đại công công tưởng rằng mình cái gì cũng biết, cái gì cũng hiểu sao? Để ta cho ông biết, ông nhìn lầm ta rồi, không phải ta không nhẫn nhịn được, khả năng nhẫn nại của ta tốt hơn bất cứ ai, bởi vì ta có một tâm nguyện, chính là chính mắt nhìn ông chết ngắc ra. Để hết thọ hạn mà chết thì tiện cho ông quá rồi".

Phụng công công chẳng hề nổi giận, ngạc nhiên thốt: "Thì ra ngươi vì tư cừu, đến đây! Để xem có phải lại thêm một câu chuyện phục cừu ly kỳ khúc chiết hay không?".

Ký Thiện vẫn ngồi dựa lưng vào tường, nhìn như có vẻ đã mất khả năng phản kháng, miễn cưỡng rặn ra một nụ cười: "Một ngày ta còn chưa chết, đại công công vẫn chưa nắm chắc được phần thắng trong tay".

Phụng công công lập tức nhận ra có điều không ổn, hét lớn một tiếng, nhảy bổ về phía Ký Thiện ngồi cách đó hơn hai trượng.

Tiếng "lách cách" vang lên, hai mũi cương châm từ gót giày Ký Thiện xạ ra, nhằm vào cổ họng và tiểu phúc lão thái giám già, thế lao hung mãnh phi thường. Phụng công công võ công cao cường, song cũng không dám giở lại chiêu cũ, dùng Hoàng kim can cản lại, mà lập tức chuyển thế, lướt sang bên phải Ký Thiện. Cương châm bắn vào khoảng không.

Ký Thiện cười lớn: "Để ta cho đại công công xem trong tay áo ta còn thứ gì nữa". Lời còn chưa dứt, lại có tiếng "lách cách", một chiếc móc câu từ bên trong bắn vọt ra phía trái, "phách" một tiếng, đã móc vào mép cửa sổ bên đó, thủ pháp tinh diệu khiến người ta không thể không tán thưởng, có thể thấy Ký Thiện đã khổ công tập luyện rất nhiều.

Phụng công công gầm lên một tiếng, xoay người như cơn lốc, cây Hoàng kim can rời tay lao vút đi.

Tiếng "cách cách" lần nữa vang lên, Ký Thiện như con rối bị kéo vụt về phía cửa sổ.

"Bình!".

Cây Hoàng kim can kích trúng chỗ tường Ký Thiện vừa dựa lưng vào.

Ký Thiện được kéo đến cạnh cửa sổ, liền bắn vọt lên, lộn một vòng lao ra bên ngoài.

Phụng công công đuổi ra tới nơi thì đã không thấy bóng y đâu nữa, ngoài vườn tối om vang lên tiếng "lách cách" của máy móc, có lẽ chính là Ký Thiện đang sử dụng dây móc để đào thoát.

Song mục Phụng công công sáng rực lên, rồi đột nhiên bật cười nói: "Đào tẩu thì có tác dụng gì chứ? Kinh thành này tuy lớn, nhưng không còn nơi nào cho ngươi dung thân nữa rồi. Hảo tiểu tử!".

Cô Nguyệt Minh rời khỏi Hồng Diệp Lâu.

Lúc này y đã hoàn toàn không còn hứng thú đi tìm Tiền Thế Thần tính sổ nữa, mà sự thực thì cũng đã quá muộn rồi, bán dạ tam canh đi gõ cửa lớn Bố chính sứ ti phủ thì hình như cũng không được ổn cho lắm.

Y chìm đắm trong một xúc cảm kỳ dị, sinh mệnh của y cũng đã thay đổi, không còn ảm đạm như xưa nữa. Xúc cảm này là do minh ngộ của y với chính bản thân mình mà ra.

Y không còn là Cô Nguyệt Minh lúc rời khỏi kinh thành nữa.

Từ sau lần gặp gỡ bất ngờ với nữ nhi của Phu Mãnh ở bến đò, y bắt đầu thay đổi, quá trình thay đổi đó diễn ra cực kỳ chậm rãi. Cho tới khi Cô Nguyệt Minh y nhìn thấy chân dung của Vân Mộng nữ thần trong Tình Trúc Các của Bách Thuần, thế giới của y đột nhiên trở nên rộng mở, y tiến vào một vùng đất thần bí xưa nay chưa từng được tiếp xúc, thế giới của quỷ thần.

Bên trong Sở hạp rốt cuộc có đại bí mật kinh thiên động địa gì? Sao phải khiến Vân Mộng nữ thần thần thông quảng đại hộ vệ nó?

Cô Nguyệt Minh thật sự rất muốn biết, cảm xúc này xưa nay y chưa từng có bao giờ.

Y đã động tâm rồi.

Thế gian này cuối cùng đã xuất hiện sự vật khiến y phải động tâm.

Trong đầu y hiện lên hoa dung của Vô Song Nữ, câu nói mà nữ lang này nói với y, liệu có phải là đã nói từ kiếp trước? Tiền thế của y, có phải là cùng thời với Ô Tử Hư, hơn nữa cũng phát sinh ở bên trong Vân Mộng Trạch?

Trước đây, y chưa bao giờ nghĩ đến vấn đề kiếp trước kiếp này, chưa bao giờ để tâm đến thuyết luân hồi, nhưng giờ đây lại không thể không suy tư về vấn đề này một cách sâu sắc.

Giả thiết y, Ô Tử Hư và nữ lang tự xưng Vô Song Nữ kia, tiền thế của cả ba người đều trải qua ở Cổ thành bên trong Vân Mộng Trạch, kiếp này lại như thế, vậy bọn họ luân hồi chuyển sinh có phải là chuyện ngẫu nhiên tình cờ, hay là do một lực lượng nào đó trong bóng tối khéo léo an bài. Nếu lực lượng này chính là tinh linh xinh đẹp ẩn sâu bên trong Cổ thành kia, vậy thì cả sự kiện này thật khiến người ta phải suy nghĩ.

Đúng như Tiết Đình Hao đã nói, có nhân ắt có quả. Nếu nhân của tiền thế biến thành quả của kiếp này, vậy thì những vướng mắc không thể giải thích của bọn họ, có lẽ bắt nguồn từ chuyện xảy ra trong Cổ thành năm đó.

Hơn ngàn năm trước, trong Cổ thành rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì? Đó đã là quá khứ không thể vãn hồi, Vân Mộng nữ thần dùng pháp lực vô biên của mình khiến bọn họ trùng ngộ ở kiếp này, sau đó bị cuốn vào những chuyện liên quan tới Cổ thành theo nhiều cách khác nhau, nhưng làm vậy thì có ích lợi gì chứ?

Cô Nguyệt Minh càng nghĩ càng thấy ly kỳ, mê man trong bóng tối âm u không nhìn rõ cả ngón tay giơ lên trước mắt, không thể nào hiểu rõ được mình đang ở chốn nào.

Tương Quân Kiều hiện ra phía trước.

Chính là cảm giác hãm thân vào mê trận, không thể nào tìm thấy lối ra này đã khiến y cảm nhận được lạc thú, cảm nhận được kích thích và mới mẻ. Đến giờ khắc này, Cô Nguyệt Minh đã hoàn toàn hiểu được tâm thái vừa kinh lại vừa hỷ đó của Ô Tử Hư.

Y thật sự kỳ vọng Ô Tử Hư có thể dựa vào dị năng đặc thù của mình, dẫn y đến Cổ thành, không chỉ vì Sở hạp, vì dị bảo không biết tên trong Sở hạp, mà còn vì chân tướng của tất cả những chuyện này nữa.

Sinh mệnh y chưa bao giờ trở nên thú vị như lúc này.

Ô Tử Hư buộc chiếc thuyền nhỏ lại, lên bờ, đi về phía hậu viện của Phong Trúc Các.

Lời Cô Nguyệt Minh khiến hắn có cảm giác như vén được màn sương mù, đồng thời cũng khiến hắn cảm nhận được mình và tòa cổ thành trong Vân Mộng Trạch mà Cô Nguyệt Minh nói tới kia có quan hệ rất vi diệu, nhưng điều đó lại khiến hắn chìm đắm vào một màn sương mù còn dày đặc hơn gấp bội phần.

Đột nhiên, hắn khát vọng được chìm vào giấc mộng, chỉ có trong mộng, nữ thần của hắn mới có thể "tiếp xúc" với hắn, dẫn đạo cho hắn.

Nghĩ đến xuất thần, hắn đã đẩy cửa đi vào sảnh đường.

Dị biến đột nhiên phát sinh.

Một đạo hắc ảnh từ trên cao vụt xuống, hai chân liên hoàn đá vào mặt hắn, kình lực mạnh mẽ, tốc độ càng không để hắn có thời gian suy tính.

Ô Tử Hư giật mình sực tỉnh, không kịp nghĩ ngợi gì, vội vàng ngửa người ra sau, hậu chẩm chỉ cách mặt đất chưa đầy một thước, khả năng ứng biến mẫn tiệp đến kinh người.

Kẻ tập kích song cước đá vào khoảng không, không ngờ cứ thế lộn một vòng, nhào về phía sau hắn, thân thủ linh hoạt khiến người ta phải le lưỡi.

Ô Tử Hư không nghĩ ngợi nhiều, còn chưa bật thẳng người lại đã lăn sang một bên.

Ánh lửa lóe lên.

Kẻ tập kích hắn bước lại, tay xòe ra phía trước, chưởng tâm rực cháy một ngọn lửa đỏ hồng, trông như lửa chảy lên từ lòng bàn tay nàng vậy, cảnh tượng ngụy dị phi thường.

Ô Tử Hư ủ rũ ngồi dậy, nhìn nữ chủ nhân xinh đẹp của ngọn lửa, định nói mà chẳng biết nói gì.

Vô Song Nữ đi tới trước mặt nàng, đôi mắt thanh tú sáng lấp lánh nhìn hắn đang ngồi dưới đất chẳng thèm đứng dậy, nhẹ giọng nói: "Ngũ Độn Đạo!".

Ô Tử Hư cười khổ: "Cớ sao phải khổ vậy? Ta và cô nương không oán cũng chẳng cừu, tại sao phải vạch trần ta làm gì? Cô nương không biết tiểu đệ đã thầm ái mộ nàng hay sao?".

Vô Song Nữ thản nhiên nói: "Ngậm cái miệng trơn tuột của ngươi lại. Ai thèm lật mặt ngươi chứ? Chỉ cần ngươi ngoan ngoãn hợp tác, ta hỏi gì, ngươi trả lời đó, sau này ngươi cứ đi đường cái quan của ngươi, ta cứ đi độc mộc kiều của ta, ai thèm quản chuyện của ngươi cơ chứ".

Ô Tử Hư mừng rỡ nói: "Thì ra chỉ là vậy, xin cô nương cứ hỏi, tiểu đệ đây biết gì sẽ nói, nói là sẽ nói hết".

Ánh sáng thu nhỏ dần, từ từ biến mất, đại sảnh lại chìm trong bóng tối.

Vô Song Nữ ngồi xếp bằng xuống trước mặt hắn.

Ô Tử Hư không hiểu hỏi: "Nếu là Bách Thuần cô nương xuất thủ thử ta thế này thì là chuyện hết sức đương nhiên. Nhưng cô nương vừa mới tới, đối với tình hình ở đây chỉ hiểu được phần nào, sao có thể xác định được ta là ai chứ? Nếu ta đúng là Lang Canh, hai cước vừa rồi của cô nương chắc chắn là đã lấy đi cái mạng nhỏ này của ta rồi. Nhưng cô nương quả tình là đã toàn lực xuất thủ, căn bản không có gì gọi là cước hạ lưu tình, rốt cuộc là sao vậy?".

Vô Song Nữ bình tĩnh nói: "Là ta hỏi ngươi đáp hay là ngươi hỏi ta đáp đây?".

Ô Tử Hư đành giơ tay đầu hàng: "Cô nương hỏi đi!".

Vô Song Nữ nói: "Bức tranh ngươi tặng Bách Thuần là từ đâu mà có?".

Ô Tử Hư nhớ lại lời Cô Nguyệt Minh nói, trong lòng lập tức dâng lên một cảm giác kỳ dị, lẽ nào nữ nhân trước mắt mình chính là một phần tử trong ván cờ vận mệnh này? Nghĩ đoạn, hắn bèn nói: "Sự tình là như vậy, cũng giống như cô nương biểu diễn ảo thuật vậy, ta cũng muốn mãi nghệ với mấy người bọn Bách Thuần cô nương, nên đã vẽ bức Vân Mộng nữ thần đồ. Bách Thuần còn lấy bức tranh này treo lên sảnh đường. Nếu không tin, cô nương có thể hỏi lại nàng ấy".

Kế đó hắn lại thấp giọng hỏi: "Cô nương nhìn bức tranh đó có cảm giác gì đặc biệt không?".

Vô Song Nữ lạnh lùng hỏi: "Nữ nhân trong tranh là ai? Đừng có giở trò cũ đó ra nữa, bằng không ta sẽ lập tức vạch trần thân phận của ngươi đấy".

Ô Tử Hư thở dài: "Ta không thể không nói dối, là vì lúc đó ta muốn giấu Bách Thuần. Những điều đó hoàn toàn đều là sự thật, chỉ là địa điểm có thay đổi một chút, hơn nữa đến giờ ta cũng chưa rõ đó là thật hay là mộng nữa, sự tình này ly kỳ cổ quái đến cực điểm. Ta thật sự không gạt cô nương đâu".

Tiếp đó hắn lại nói: "Ta hợp tác như vậy, không biết cô nương có thể giúp ta một việc khác không?".

Vô Song Nữ giận dữ quát: "Câm miệng!".

Ô Tử Hư chỉ cười khổ mà không nói gì.

Hơi thở Vô Song Nữ bỗng nhiên trở nên gấp gáp, một hồi sau mới khôi phục bình tĩnh: "Xảy ra ở đâu?".

Ô Tử Hư chăm chú nhìn nàng, lợi dụng một chút ánh trăng ánh sao lọt qua cửa sổ, quan sát phản ứng trong mắt Vô Song Nữ, trầm giọng nói: "Vân Mộng Trạch! Vân Mộng Trạch ở phía nam Động Đình, phía Tây sông Tương".

Vô Song Nữ không còn khống chế được bản thân, thân hình kiều mị run lên một chặp, nói không nên lời.

Ô Tử Hư thầm thở dài. Cô Nguyệt Minh nói thật không sai, tất cả bọn họ đều nằm trong sự bày bố của Vân Mộng nữ thần, càng lúc càng lún sâu, không thể nào thoát ra nổi. Nghĩ đoạn, hắn bèn nhổm người ra phía trước, thành khẩn nói: "Cô nương hãy kể lại tình hình lúc xem tranh cho ta nghe, có lẽ ta sẽ có một lời giải thích tương đối rõ ràng, đảm bảo rằng cô nương chắc không thể nào ngờ trên đời này lại có chuyện lạ như vậy".

Vô Song Nữ nói: "Có phải ngươi đã ếm bùa lên bức tranh ấy?".

Ô Tử Hư giơ hai tay lên nói: "Ta căn bản không biết yêu pháp, lại càng không biết niệm chú. Hà! Cô nương tin ta đi có được không? Nói cho ta đi! Lúc cô nương xem tranh, nữ thần có phải giống như sống lại bước ra khỏi đó đúng không?".

Vô Song Nữ quả quyết nói: "Chẳng xảy ra cái gì cả. Ngươi ngồi đó không được cử động, không được nói gì. Chuyện bọn ta nói đêm nay, ngươi không được để lộ với bất cứ ai, bằng không ngươi biết hậu quả thế nào rồi đấy".

Nói xong liền ngửa người ra sau, thân thể mềm mại như không xương, cứ vậy đập tay xuống đất, đảo ngươi về phía sau, ra đến giữa đại sảnh thì giơ tay lên trời.

Ô Tử Hư giờ mới nhận ra có một sợi trường tiên thả từ trên xà nhà xuống, chẳng trách nàng có thể nhảy từ trên xuống tập kích hắn như thế. Nhìn nàng nắm lấy cán roi, khẽ rung nhẹ một cái sợi trường tiên đã rơi xuống, rồi quấn vào lưng một cách thuần thục, đang định rời khỏi, hắn vội trầm giọng hỏi: "Nữ thần trong tranh có khả năng đến từ tòa Cổ thành trong Vân Mộng Trạch".

Vô Song Nữ giật bắn mình, song mục sáng rực lên, quay lại nhìn hắn.

Ô Tử Hư vẫn ngồi trên mặt đất, giơ tay biểu thị đầu hàng khuất phục.

Vô Song Nữ do dự giây lát, rồi nghiến răng lao ra cửa.

Vô Song Nữ ngồi bên mép giường, cảm giác vô cùng mệt mỏi.

Rời khỏi Bách Hí Đoàn, bước lên con đường tìm kiếm chân tướng sự thật, nàng mới biết đây là một con đường không có lối về. Nhục thể nàng cố nhiên là vô cùng mệt mỏi, song trái tim lại càng mệt hơn gấp bội phần.

Cảnh tượng nhìn thấy khi hôn mê ở Tình Trúc Các đã làm lung lay tâm trí kiên định bất di của nàng, khiến nàng mất đi phương hướng. Sự thực thì sau khi chôn thân cữu, nàng đã bắt đầu có cảm giác hoang mang không biết mình đang làm gì đó rồi.

Nàng không hiểu nổi bản thân mình, đã tới Vân Mộng Trạch, tại sao không lập tức đi tìm Cổ thành, nhưng rồi lại rời khỏi đó như để tránh nạn, đến Lạc Dương tìm Cô Nguyệt Minh tính nợ. Nàng sợ đàn sói hoang hoành hành trong thủy trạch, hay là sợ tòa Cổ thành ấy?

Ngũ Độn Đạo nói đúng, nữ nhân trong tranh đích thực đã sống lại, xuất hiện trong thần trí đã hôn mê của nàng.

Hắn dựa vào cái gì mà đoán được?

Trước khi nàng rời khỏi đó, Ngũ Độn Đạo đã cố ý nhắc đến Cổ thành. Lúc đó nàng quá chấn động, cảm giác bất an như bị hắn nhìn thấu, giờ hồi tưởng lại, chắc hắn cũng không biết được thân phận thực sự của nàng, nhưng lại như đã biết nàng và Cổ thành kia nhất định có quan hệ gì đó vậy. Còn nguyên nhân tại sao Ngũ Độn Đạo lại biết rõ chuyện của Cổ thành thì thật sự nàng nghĩ mãi mà cũng không thể nào hiểu nổi.

Trước khi tiếp xúc với Ngũ Độn Đạo, nàng chưa từng nghĩ đến hắn là người như vậy, hoàn toàn không trầm tĩnh, lạnh lùng, thần bí và cao thâm khó dò như trong tưởng tượng của nàng, ngược lại, còn là một tên ngoan đồng không chịu an phận, suốt ngày rong ruổi khắp nơi tìm lạc thú, lúc nào cũng muốn tìm thứ gì đó trên người nàng vậy.

Có điều nàng chẳng có chút hiếu kỳ gì với bản thân Ngũ Độn Đạo cả, sự thực thì sau cái đêm thay đổi cả vận mệnh của nàng đó, Vô Song Nữ nàng chẳng còn hứng thú với bất cứ người nào nữa cả.

Cuộc sống mòn mỏi trốn chạy này đã khiến nàng mệt mỏi lắm rồi, huống hồ giờ cả lý do duy nhất để sống nàng cũng không còn nữa.

Lúc Hoa Mộng phu nhân bước vào đại sảnh, Phụng công công đang ngồi bên chiếc bàn tròn kê giữa nhà, tay vuốt ve một thứ đồ cổ gì đó, tựa như vô cùng yêu thích vậy. Vừa thấy Hoa Mộng phu nhân, lão liền nhẹ nhàng cất thứ đó vào lòng, hân hoan nói: "Phu nhân mời ngồi!".

Trong sảnh không thấy bóng vệ sĩ, Nhạc Kỳ đích thân kéo ghế cho Hoa Mộng phu nhân, chờ nàng ngồi xuống rồi đứng ra phía sau.

Đối diện với nhân vật đáng sợ trong tay khống chế cả thiên hạ này, Hoa Mộng phu nhân giờ chỉ mong trong miệng mình có một hoàn độc dược kiến huyết phong hầu, cắn vỡ một cái là lập tức độc phát thân vong.

Phụng công công nheo nheo cặp mắt vốn đã híp tịt như hai sợi chỉ của mình lại, khiến người đối diện càng không thể nhìn thấy nhãn châu của lão đâu. Chỉ thấy lão chăm chú dò xét Hoa Mộng phu nhân, rồi mỉm cười nói: "Tinh thần phu nhân xem ra rất tốt, thật là hiếm có!".

Hoa Mộng phu nhân chẳng còn hứng thú nghĩ xem Phụng công công có hàm ý gì, chỉ biết đó chẳng phải là lời tốt đẹp gì cho cam, mà chiêu lợi hại nhất của nàng, đối với Phụng công công cũng như Ký Thiện đều hoàn toàn không dùng được, đành miễn cưỡng cố nén nỗi sợ trong lòng xuống: "Cũng nhờ hồng phúc của công công cả!".

Phụng công công lắc đầu thở dài: "Không phải hồng phúc của ta, mà là hồng phúc của Nguyệt Minh. Phu nhân chớ nên bất an, Nguyệt Minh là đứa trẻ mà ta sủng ái nhất, ta cũng biết tất cả những điều phu nhân làm, đều là vì Nguyệt Minh cả, đối với chuyện này ta chỉ hoan hỷ chứ không hề tức giận gì hết".

Hoa Mộng phu nhân nghe mà tóc gáy đều dựng hết cả lên, lạnh toát sống lưng, Phụng công công là kẻ tiếu lý tàng đao, kinh thành này ai ai cũng biết, lão càng tỏ ra vui vẻ, thì lại càng nguy hiểm. Chỉ hận nàng là cá nằm trên thớt, lại là người không thể chịu khổ, lão muốn hỏi gì, chắc chắn nàng sẽ thực thà hồi đáp cho qua chuyện vậy.

Phụng công công ung dung nói: "Phu nhân không cần phải sợ, hôm nay ta đến thăm phu phân hoàn toàn không có ác ý gì cả, chỉ là muốn mời phu nhân theo ta viễn du một chuyến. Ta già rồi, sợ đường xa tịch mịch, nếu được người như phu nhân bầu bạn, hành trình sẽ vui vẻ thoải mái hơn rất nhiều".

Hoa Mộng phu nhân ngạc nhiên thốt: "Theo đại công công đi đâu vậy?".

Phụng công công từ từ mở mắt, nhìn lên phía trên, trong mắt ánh lên vẻ kỳ vọng và khát khao cuồng nhiệt, tâm trí hướng về nơi xa xăm: "Động Đình Hồ sóng nước mênh mông, ba đào vạn khoảnh, Bắc thông Vu hiệp, Nam tới Tiêu Tương, nơi đó hẳn là vô cùng thú vị".

Kế đó lão lại ngâm: "Ba Lăng nhất vọng Động Đình thu, nhật kiến cô phong thủy thượng phù. Văn đạo thần tiên bất khả tiếp, tâm tùy hồ thủy cộng du du".

Hoa Mộng phu nhân thầm giật mình, lập tức hiểu ra. Phụng công công muốn áp giải mình đến Vân Mộng Trạch, đương nhiên không đơn giản chỉ là bầu bạn trên đường, mà muốn dùng mình để ép Cô Nguyệt Minh khuất phục. Nhưng đồng thời nàng cũng cảm thấy nghi hoặc khó hiểu, bên phía Cô Nguyệt Minh rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì mà có thể khiến Phụng công công phải di giá Nam hạ như thế?

Thanh âm của lão thái giám truyền vào tai nàng: "Phu nhân có muốn cùng ta đi thưởng thức Động Đình Hồ thú vị thế nào không?".

Hoa Mộng phu nhân nghe thấy mình đáp: "Tất cả cứ theo ý của đại công công đi!".

Hồi 32: Cảm giác về nhà

Ô Tử Hư tỉnh lại, tinh thần sung mãn mười phần, nhưng cũng không giấu nổi sự thất vọng trong lòng, bởi cả rắm hắn cũng không đánh một cái, nói gì đến mơ với mộng. Nheo mắt nhìn mặt trời ngoài cửa sổ, giờ cũng đã đến ba con sào rồi.

Hắn chợt có cảm giác lười nhác chẳng muốn làm gì, thậm chí cũng không muốn ra khỏi giường, đây là hiện tượng đã nhiều năm nay chưa từng xuất hiện. Mấy năm gần đây, một là hắn tỉnh lại trong tình trạng ngây ngất sau cơn say, hai là vội vội vàng vàng thúc giục bản thân đi thực hiện kế hoạch trộm báu, chưa từng được hưởng thụ cuộc sống thư nhàn thoải mái vậy bao giờ. Có điều cảm giác thả lỏng nhất thời này chỉ là giả tượng, sự thực thì hắn đang ở trong khốn cảnh nguy cơ tứ bề, chỉ sơ thất một chút là lập tức sẽ gặp phải kết cục bi thảm đáng sợ nhất.

Hắn nghĩ tới Vô Song Nữ, có phải nàng ta đã đủ hết những nguyên liệu cần thiết, đang ở Vũ Trúc Các chế luyện pháp bảo ảo thuật? Chỉ cần xin được của nàng tầm mười trái yên vụ đạn, dựa vào thân thủ của hắn, cho dù là Khâu Cửu Sư chặn đường, hắn cũng có thể dựa vào khói mù mà thoát thân.

Nghĩ tới đây, cả người hắn liền tràn đầy sức sống, tung mình bật dậy khỏi giường.

Nếu hắn đến Vũ Trúc Các thăm dò, không biết liệu có bị nàng đánh đuổi ra ngoài hay không, có điều nhìn dáng vẻ tức giận của nàng, cũng là một thứ lạc thú. Da mặt của hắn lúc đối diện với mỹ nhân là dày nhất, không hề có vấn đề ngại ngùng hay không ngại ngùng gì cả.

Văn không được thì dụng võ, đương nhiên không phải là động đao động kiếm, mà là trở lại nghề cũ, giở thủ đoạn trộm lấy của nàng. Giờ hắn cần phải đến Vũ Trúc Các nghiên cứu tình hình, bằng không đường đường một Ngũ Độn Đạo mà cả bảo vật để đâu cũng không rõ, thì thật đúng là trò cười cho cả thiên hạ.

Giọng nói của Thiền Dực bên dưới vang lên: "Sâu lười! Mau xéo dậy tắm rửa ăn sáng đi!".

Ô Tử Hư lấy làm kỳ quái, tiểu nữ tử này bề ngoài thì vẫn hung hăng dữ tợn, nhưng thực ra ngữ điệu đã cải thiện rất nhiều, còn lộ ra vẻ thân thiết nữa, lẽ nào nàng ta đã không kềm chế được mà yêu hắn?

Nghĩ tới đây, Ô Tử Hư vội vàng xuống nhà.

Lạc Dương thành.

Thư trai trong Bố chính sứ ti phủ.

Tiền Thế Thần cầm tờ hoa tiên Bách Thuần viết cho mình, đọc đi đọc lại không dưới mười lần, tâm tình phức tạp. Nếu đổi lại là lúc khác, ắt hẳn gã đã tâm hoa nở rộ, chỉ tiếc rằng ước hội Bách Thuần chủ động hẹn gặp mà gã luôn chờ đợi từ khi quen biết nàng tới nay lại đến vào đúng lúc không thích hợp nhất. Hơn nữa, gã cũng biết lần hẹn gặp này, Bách Thuần có mục đích riêng.

Hai ngày nay gã khẳng định không thể phân thân.

Chẳng những gã phải lần lượt gặp từng tướng lãnh, tranh thủ sự ủng hộ của họ, mà còn phải phái người giỏi ăn nói đến các khu vực mình quản hạt thuyết phục những quan tướng địa phương nắm giữ thực quyền. Gã đương nhiên đã có cả một mớ lý do đường hoàng, nói cho cùng vẫn là lấy lợi hại ra thuyết phục, thậm chí là nói đã nhận được mật chỉ của Hoàng thượng, phải trừ đi Phụng công công họa quốc hại dân, kế đó chỉ ra gã được Đại Hà Minh toàn lực ủng hộ. Riêng phần liệt kê tội trạng của Phụng công công thì là dễ nhất, hoàn toàn chẳng khó khăn gì cả.

Quan trọng hơn cả là phải đưa người nhà đến một nơi an toàn, cách xa Lạc Dương, lại phải nhờ người có giao tình thâm hậu bảo vệ. Chuyện này nhất quyết phải mượn bóng tối yểm hộ, thực hiện một cách bí mật, nếu không ắt sẽ gây ra hoảng loạn, thế nên không có mấy ngày thời gian thì tuyệt đối không thể xong được.

Gã chuẩn bị phái người tới báo cho Bách Thuần, hai ngày sau gã sẽ tới Thư Hương Tạ ước hội.

Lúc này có thủ hạ chạy vào báo, Khâu Cửu Sư xin cầu kiến.

Ô Tử Hư ngồi ăn uống nhồm nhoàm, không ngớt khen ngợi: "Đây là món gì vậy? Ăn thật ngon miệng, hương thơm vị thuần, mát ruột thông họng, dư vị còn mãi không tan".

Thiền Dực ngồi đối diện với hắn trả lời: "Đây gọi là bánh vừng thơm, là đại nương đích thân làm cho ngươi đấy, nghe đại nương bảo đây là món điểm tâm ở quê hương Cán Giang của người, công thức thật không đơn giản đâu".

Ô Tử Hư gật đầu: "Đúng là không đơn giản, ta nhận ra mùi vị của bột gạo nếp, bột mì, vừng, đường trắng và dầu trà. Muốn làm được thứ bánh này ít nhất cũng phải tốn mấy ngày thời gian đó, chỉ riêng rửa sạch gạo nếp, phơi khô, sao nóng, nghiền thành bột đã mất hai ngày rồi, còn phải sàng bột, chia ra, hấp lên, làm lạnh, cắt miếng, nướng lại, mất thời gian lắm".

Thiền Dực ngạc nhiên thốt: "Không ngờ Lang tiên sinh lại hiểu biết về bánh điểm tâm đến vậy?".

Ô Tử Hư mắng thầm bản thân, thật không biết giữ mồm, đắc ý quên cả hoàn cảnh, rồi chính hắn cũng thấy kỳ quái, không hiểu tại sao lại sơ hốt đến nỗi lộ ra mình tinh thông trù nghệ. Sau đó, hắn chợt sức tỉnh, nghĩ ra được đạo lý bên trong.

Hắn đã coi Hồng Diệp Lâu là "nhà" rồi.

Từ nhỏ hắn đã không có cảm giác "nhà", từ khi rời "nhà" ra đi, lưu lãng chân trời góc biển, hắn lại càng không muốn ở nguyên một chỗ, cũng không có người nào, chuyện gì lưu hắn lại được. Không ngờ ở trong nghịch cảnh tuyệt đối này, hắn lại có cảm giác lưu luyến kỳ dị với Hồng Diệp Lâu, Thiền Dực giống như một muội tử, Diễm Nương như trưởng bối, còn đích thân xuống bếp làm đồ ăn ngon cho hắn, khiến hắn cảm nhận được sự thân thiết như đang ở nhà, hoàn toàn thả lỏng bản thân.

Cảm xúc này hắnchưa từng có bao giờ.

Ô Tử Hư chợt nhớ đến tình cảnh vừa rồi mình lười nhác nằm trên giường không muốn dậy.

Hắn nói: "Ta phải đích thân đi cám ơn đại nương".

Thiền Dực tỏ ra hữu hảo lạ thường, nhoẻn miệng cười đáp: "Phương pháp tốt nhất để cảm ơn người, chính là vẽ tranh, Lang tiên sinh có hiểu không?".

Ô Tử Hư thấy trong lòng nóng bừng lên, buột miệng thốt: "Ta sẽ không khiến đại nương thất vọng".

Lời ra đến miệng hắn mới hối hận. Phải biết rằng giao dịch của hắn và Tiền Thế Thần vẫn còn chưa biết thành bại thế nào, một khi thất bại, hắn sẽ lập tức đào tẩu, nào đâu còn thời gian rảnh rỗi mà hoàn thành tâm nguyện cho Diễm đại nương.

Thiền Dực cả mừng: "Đại nương nhất định sẽ vui lắm đó, ta chưa bao giờ thấy người mong mỏi như vậy cả".

Ô Tử Hư là loại người một lời đáng giá ngàn vàng, nói ra rồi là không bao giờ rút lại, bèn thầm nhủ chỉ cần mình còn một hơi thở, nhất định sẽ thực hiện lời hứa. Kế đó, hắn lại hỏi: "Thiền đại tỷ có muốn một bức tranh của riêng mình không?".

Hai má Thiền Dực lập tức đỏ hồng, cúi đầu đáp: "Họa nghệ của Lang tiên sinh xuất thần nhập hóa, ai mà không muốn sở hữu một bức tranh do chính tay Lang tiên sinh vẽ cơ chứ?".

Ô Tử Hư thấy Thiền Dực vui vẻ như vậy, trong lòng cũng thấy khoan khoái không kèm. Từ xưa đến nay, hắn đều là một kẻ như vậy, mỗi lần trong túi có nhiều ngân lượng, là liền lấy ra làm người khác vui vẻ. Tác phong hào sảng vung tiền như vãi trấu của hắn, chính là bắt nguồn từ tính cách này. Chỉ có như vậy, hắn mới có được sự thỏa mãn và khoái lạc ngắn ngủi trong đời.

Ô Tử Hư không nén nổi tò mò hỏi: "Thiền đại tỷ sao lại đến Hồng Diệp Lâu làm công vậy?".

Thiền Dực đáp: "Có thể tới Hồng Diệp Lâu làm việc cho Bàn gia là phúc khí của ta. Lang tiên sinh ngàn vạn lần đừng nghĩ Bàn gia là kẻ chỉ biết hám lợi, sự thực ông ấy là người tâm địa rất tốt, xưa nay chưa bao giờ quở trách bọn ta, không cưỡng ép bọn ta làm bất cứ chuyện gì, mà chỉ che chở cho bọn ta thôi. Các cô nương làm ở đây, chỉ cần chăm chỉ hai ba năm là có thể chuộc thân, sau đó Bàn gia chỉ giữ lại một chút tiền, kỳ dư đều là của họ hết, muốn đi lúc nào cũng được".

Ô Tử Hư lập tức thay đổi cách nhìn về Chu Bàn Tử, thầm như Hồng Diệp Lâu rất có thể là thanh lâu có đạo nghĩa nhất trong thiên hạ này. Nghĩ đoạn, hắn hỏi tiếp: "Thiền đại tỷ thì sao?".

Thiền Dực ngượng ngùng trả lời: "Mười ba tuổi ta đã bán thân vào Hồng Diệp Lâu, mới đầu cả ngày chỉ biết khóc lóc ỉ ôi, Bàn gia thấy ta đáng thương, nên đã cho ta làm tỳ nữ. Ta thật sự rất cảm kích ông ấy".

Ô Tử Hư hỏi: "Thiền đại tỷ kiếm đủ chưa vậy?".

Thiền Dực có vẻ giận, trách móc: "Ngươi nói đi đâu vậy?".

Ô Tử Hư áy náy nói: "Là ta nói lỡ lời. Thiền đại tỷ có dự tính gì cho tương lai không?".

Thiền Dực vui vẻ đáp: "Sau yến tiệc mười năm, ta sẽ về quê, sống một cuộc sống mới".

Ô Tử Hư ngạc nhiên: "Bàn gia chịu để Thiền đại tỷ đi sao?".

Thiền Dực nói: "Làm sao có vấn đề chứ? Là ông ấy muốn ta hồi hương mà. Bàn gia nói Lạc Dương giờ này rất không ổn định, về quê an toàn hơn".

Rồi nàng lại cúi đầu nói: "Nếu ta có thể mang theo bức họa của Lang tiên sinh về quê, mỗi lần xem tranh, ta sẽ nhớ đến tiên sinh đó".

Trong lòng Ô Tử Hư như có một dòng nước ấm chảy qua, rồi hắn lại sợ mình không giữ được cái mạng nhỏ này, không thể hoàn thành tâm nguyện cho nàng, nhất thời không nói được gì.

Thiền Dực hạ thấp giọng nói: "Tiên sinh là một người tốt".

Ô Tử Hư không hiểu, gãi đầu gãi tai hỏi: "Tại sao ta đột nhiên lại biến thành một người tốt vậy? Thiền đại tỷ không phải vẫn mắng chửi ta suốt đó sao?".

Thiền Dực ngượng ngùng đáp: "Đại tiểu thư nói tiên sinh chỉ làm bộ háo sắc thôi, sự thực thì là người rất biết giữ quy tắc, người còn nói... ôi! Tiên sinh phải cẩn thận đó! Ta thật hy vọng có thể giúp đỡ ngài phần nào!".

Ô Tử Hư thầm kêu khổ trong lòng, xem ra thân phận Ngũ Độn Đạo của hắn đã là chuyện cả người qua đường cũng biết rồi. Đồng thời, tâm cơ máy động, bèn nói: "Thiền đại tỷ có thể giúp ta một việc nhỏ không?".

Thiền Dực lộ ra thần sắc kiên định: "Chỉ cần tiên sinh nói ra được, nhất định ta sẽ làm được".

Ô Tử Hư chợt có cảm giác buông lỏng, thầm nhủ sự việc này thành bại thế nào đã không còn nằm trong tầm khống chế của hắn nữa, mà chỉ còn biết hành sự theo ý chỉ của Vân Mộng nữ thần, nếu nàng muốn Ngũ Độn Đạo hắn phải chết, thì hắn cũng đành nhận mệnh mà thôi.

Cô Nguyệt Minh ngồi một mình trong sảnh đường, nguyên một canh giờ không cử động, tựa như một bức tượng không còn sinh mệnh vậy.

Đây là thói quen từ xưa của y, có thể ngồi cả ngày, đầu óc không suy nghĩ gì hết, đó cũng là một bản lãnh đặc thù của y, tâm vô tạp niệm lẩn mình trong bóng tối, đợi chờ vật săn xuất hiện.

Cô Nguyệt Minh là thợ săn thiên bẩm, một khi đã định được mục tiêu thì quyết không bỏ cuộc, y có thể ngày đêm không ngủ truy đuổi, cho đến khi vật săn lọt vào tay mình mới thôi.

Có điều hôm nay đầu óc y dường như không còn chịu khống chế nữa, sau khi tỉnh lại cứ tiếp tục suy nghĩ về những điều đang nghĩ đêm qua.

Y vẫn nghĩ về vấn đề kiếp trước kiếp này, một tảng đá ném xuống nước làm dềnh lên ngàn đợt sóng, không ngừng mở rộng trong đầu y, lan đến những phần tối tăm thần bí nhất.

Vân Mộng thành bị đại quân Sở vương bao vây tám năm ròng, có thể tưởng tượng ra trận chiến đó khốc liệt nhường nào, mạng người như cỏ rác, cả hai bên công thủ đều không sung sướng gì.

Cô Nguyệt Minh y chán ghét chiến tranh, liệu cố phải bắt nguồn từ trận chiến tám năm đó? Cơn ác mộng không ngừng của kiếp này, liệu có phải là tàn dư của tiền thế, khiến y phải chịu giày vò?

Cô Nguyệt Minh đột nhiên quát lớn: "Ai?".

"Là ta!".

Một người từ cửa sau lướt vào đại sảnh, ngồi xuống đối diện với y, không ngờ chính là Quý Nhiếp Đề, thủ lãnh của thành vệ.

Thần tình y có vẻ nghiêm túc, song mục lấp lánh hữu thần, dường như đang không được vui, mở trợn trừng trừng nhìn Cô Nguyệt Minh.

Cô Nguyệt Minh cũng nhìn lại y, gương mặt không lộ chút cảm xúc.

Quý Nhiếp Đề trầm giọng nói: "Cô Nguyệt Minh, ngươi quả thực quá đáng lắm rồi. Lần trước chuyện Tiết Đình Hao, ta đã nhịn ngươi. Lần này đã nói trước là không được tiết lộ phong thanh gì cho Tiền Thế Thần, nhưng ngươi cứ muốn đi dọa hắn một phen, đây là ý gì chứ?

Song mục Cô Nguyệt Minh sáng rực lên sát cơ, nhìn thẳng vào Quý Nhiếp Đề, ngữ khí lạnh khốc như không hề có chút xúc cảm của con người: "Quý đại nhân tốt nhất nên kiểm điểm lại thái độ nói chuyện với ta đi, trong thiên hạ này chỉ có hai người đủ tư cách nói kiểu ấy với Cô Nguyệt Minh này, một là Hoàng thượng, người thứ hai là Phụng công công".

Quý Nhiếp Đề đã quen với tác phong hành sự và con người Cô Nguyệt Minh, biết rõ chỉ cần một lời không hợp ắt sẽ thành cục diện đối đầu, lập tức bình tĩnh trở lại, gật đầu nói: "Được! Ta sẽ khách khí hơn. Bọn ta động thủ, chỉ khiến Tiền Thế Thần được lợi mà thôi. Có điều Nguyệt Minh cũng không thể trách ta động khí, ngươi hành động như vậy đích thực là đã đả thảo kinh xà, mấy ngày nay Tiền Thế Thần không những lén lút gặp mặt Khâu Cửu Sư mà còn bí mật đưa cả nhà tới Lĩnh Nam, điều này có lợi gì cho bọn ta chứ? Đối với Nguyệt Minh ngươi cũng có lợi gì chứ?".

Cô nguyệt Minh thản nhiên nói: "Bọn ta xuất hiện bất đồng tất cả đều vì mục tiêu khác nhau, Quý đại nhân lại càng rời xa mục tiêu mà Phụng công công đã đặt ra trước đó, chính là tìm kiếm Sở hạp".

Quý Nhiếp Đề đanh mặt lại, rõ ràng là vô cùng tức giận: "Bọn ta chỉ có một bất đồng, chính là ta nhìn vào toàn cục, còn trong mắt ngươi thì chỉ có một món đồ. Để ta nói cho ngươi biết, Tiền Thế Thần không phải hạng tầm thường đâu, hai kẻ Khâu, Nguyễn lại càng khó dây vào, nếu ngươi chỉ có cái dũng của kẻ thất phu, chẳng những làm loạn cả hành động, mà cả cái mạng của ngươi cũng mất nốt đó".

Cô Nguyệt Minh trừng mắt nhìn y một hồi, sau đó ung dung đáp: "Trả lời ta, Phu Mãnh có phải từng là bằng hữu tốt nhất của Quý đại nhân không?".

Song mục Quý Nhiếp Đề sáng rực lên như điện, chầm chậm hỏi: "Tin tức này từ đâu mà có?".

Cô Nguyệt Minh hờ hững nói: "Đương nhiên là không phải từ chỗ Phụng công công, người căn bản không hề biết chuyện này. Vấn đề này Quý đại nhân muốn trả lời thì trả lời, không thì cũng chẳng quan hệ gì".

Quý Nhiếp Đề đưa mắt nhìn ra cửa sổ, bình tĩnh nói: "Nếu ngươi không phải Cô Nguyệt Minh, giờ này chắc đã thân một nơi đầu một nẻo rồi. Ta thật sự không muốn xung đột với Nguyệt Minh chút nào, coi như ta đã làm ngươi giận đi, là ta nặng lời quá. Ta muốn hỏi ngươi một câu thôi, bọn ta vẫn có thể tiếp tục hợp tác đấy chứ?".

Cô Nguyệt Minh nói: "Ta đã từng nói với Phụng công công, nếu muốn tìm được Sở hạp, chỉ có thể dựa vào phương pháp của ta mà thôi. Quý đại nhân hiểu không? Không người nào có thể can thiệp vào chuyện của ta, bao gồm cả Hoàng thượng lẫn Phụng công công".

Quý Nhiếp Đề gật đầu: "Đa tạ Nguyệt Minh thẳng thắn như vậy, không biết đối với chuyện tìm thấy Sở hạp, ngươi đã có tâm đắc gì rồi?".

Cô Nguyệt Minh gật đầu: "Sở hạp vẫn nằm trong Cổ thành".

Quý Nhiếp Đề ngạc nhiên nhìn y, hỏi: "Nguyệt Minh sao có thể khẳng định chắc chắn như thế?".

Cô Nguyệt Minh nói: "Bởi vì lúc này Qua Mặc đang ở Lạc Dương, hơn nữa còn phục kích ta ở Tương Quân Kiều nữa".

Quý Nhiếp Đề trầm ngâm: "Ta không hiểu. Qua Mặc ở đây thì sao chứ?".

Cô Nguyệt Minh bình tĩnh giải thích: "Đạo lý rất đơn giản, sự tình phải truy về huyết án Vân Mộng Trạch mười năm về trước. Quý đại nhân chắc là hiểu rõ Phu Mãnh là người thế nào, y đích thực đã có được Sở hạp, còn phái Tiết Đình Hao đến Vô Chung Hà báo cho Tiền Thế Thần, nếu Phu Mãnh có lòng chiếm riêng bảo vật, chắc chắn y sẽ phía một người khác đi, chứ không phải là người có quan hệ thân thiết với y như Tiết Đình Hao, bởi làm vậy chẳng khác nào dồn họ Tiết vào chỗ chết cả".

Quý Nhiếp Đề nói: "Tiết Đình Hao là nhất lưu hảo thủ, kinh nghiệm phong phú, lại lạc đường trong thời khắc quan trọng vậy, nói ra liệu có ai tin không?".

Cô Nguyệt Minh điềm đạm: "Nếu có thêm nhân tố quỷ thần, những chuyện không thể cũng sẽ thành có thể".

Quý Nhiếp Đề nói: "Nguyệt Minh muốn nói Tiết Đình Hao bị quỷ mê hoặc?".

Cô Nguyệt Minh không trực tiếp trả lời y, chỉ nói: "Huyết án Vân Mộng Trạch là một tỷ dụ thành công cho chuyện người hữu tâm đối phó kẻ vô tâm, nhưng không phải hoàn toàn thành công, mà là việc sắp xong thì lại hỏng.

Quý Nhiếp Đề bình tĩnh trở lại: "Nguyệt Minh có thể nói rõ hơn không?".

Cô Nguyệt Minh nói: "Âm mưu đối phó với Tầm bảo đoàn là do Qua Mặc nghĩ ra, người này y thuật cao minh, thủ đoạn dùng dược vật lại càng thiên hạ vô song, phàm cao thủ dụng dược đều biết dụng độc. Qua Mặc là năng thủ dụng độc, điều này thì không ai có thể nghi ngờ. có điều Phu Mãnh cũng không phải hạng tầm thường, dù Qua Mặc cực kỳ cao minh, song muốn độc sát được y cũng là chuyện gần như không thể được. Nhưng nếu có Tiền Thế Thần phối hợp, cộng với hoàn cảnh đặc biệt ở Vân Mộng Trạch, chuyện không có khả năng sẽ biến thành có khả năng thôi".

Quý Nhiếp Đề giật mình: "Hỗn độc?".

"Hỗn độc" là một thủ đoạn của các thủ dùng độc, phối hợp hai loại dược vật không có độc tính lại thành kịch độc, cực kỳ khó khăn.

Cô Nguyệt Minh nói tiếp: "Qua Mặc và Tiền Thế Thần những tưởng đã chắc mẩm mười mươi, lấy được Sở hạp, sau đó khiến thi thể Phu Mãnh mất tích, tạo ra bằng chứng giả vu cho Phu Mãnh tội mang bảo vật bỏ trốn, như vậy bọn y có thể đẩy hết trách nhiệm đi rồi".

Quý Nhiếp Đề trầm giọng: "Làm sao biết được kế hoạch của bọn chúng không hoàn thành thành công? Biết đâu Sở hạp đã nằm trong tay chúng rồi thì sao?".

Cô Nguyệt Minh thở dài: "Quý đại nhân và ta không chỉ bất dồng về ý kiến, mà cả về lòng tin cũng bất đồng nữa. Nếu Sở hạp đã bị người ta lấy đi, vậy tinh linh bảo vệ Cổ thành tại sao vẫn còn ở đó?".

Quý Nhiếp Đề ngạc nhiên không nói gì, nhìn nét mặt y thì không phải là không đồng ý với những gì Cô Nguyệt Minh nói, chỉ là thoại bất đầu cơ nên không có gì để nói mà thôi.

Cô Nguyệt Minh lại nói tiếp: "Phu Mãnh rốt cuộc vẫn là Phu Mãnh, tuy y cũng trúng phải ám toán của Qua Mặc như đám thủ hạ, nhưng vẫn còn lực hoàn kích, hơn nữa còn mang được Sở hạp đột vây đào tẩu".

Ngữ khí Quý Nhiếp Đề không giấu nổi vẻ khinh miệt: "Hắn chạy đi đâu chứ?".

Cô Nguyệt Minh ung dung đáp: "Chạy về Cổ thành, vì vậy Qua Mặc không thể đuổi kịp được y, bởi Cổ thành và Qua Mặc đều biến mất cả rồi. Phu Mãnh về thành thì độc phát thân vong. Nếu giờ bọn ta vào trong đó, chắc sẽ phát hiện xương cốt y đang đeo Sở hạp trên lưng cũng nên".

Quý Nhiếp Đề lộ vẻ trầm ngâm suy tư.

Cô Nguyệt Minh nói tiếp: "Ta là kẻ không tin vào sự tồn tại của quỷ thần, nhưng loại ngoan cố hồ đồ như ta mà cũng không khuất phục trước sự thật. Tiết Đình Hao đã chứng thực sự tồn tại của Cổ thành và Sở hạp, vậy rốt cuộc Cổ thành nằm ở đâu chứ? Tại sao bọn ta nhiều lần cho người vào Vân Mộng Trạch tìm kiếm mà vẫn không thấy dấu tích? Chỉ có một cách giải thích duy nhất, đúng không?".

Ngưng một chút rồi y lại nói tiếp: "Có thể Tiết Đình Hao nói dối, nhưng vậy thì Quý đại nhân hãy cho ta biết, chắc là ngài rõ hơn ta, Tiết Đình Hao là người như vậy sao? Huống hồ bọn họ căn bản không biết bên trong Sở hạp là thứ gì cơ mà?".

Quý Nhiếp Đề nói: "Giấy không gói được lửa, Tiền Thế Thần tại sao lại ngu xuẩn như vậy? Hắn biết bên trong Sở hạp là cái gì hay sao?".

Cô Nguyệt Minh lắc đầu: "Quý đại nhân nói sai rồi, Tiền Thế Thần chẳng những không ngu xuẩn, mà còn cực kỳ thông minh. Có lẽ là gã chỉ đủ đảm lượng, còn kẻ thông minh là Qua Mặc, độc kế của chúng vốn là không chút sơ hở, nhưng người tính không bằng trời tính, bọn gã không tính đến mà cũng không thể nào tính đến thần linh bên trong Cổ thành, nên mới thất bại khi chỉ còn một bước nữa là thành công. Tiền Thế Thần vốn là nhà sưu tập lớn nhất phương Nam, có hiểu biết rất sâu sắc với các cổ vật, lại là người đất Sở cũ, biết đến Cổ thành và Sở hạp cũng không có gì là ly kỳ cả. Nếu để ta nghiêm hình bức cung, ta khẳng định có thể moi được từ gã xem bên trong Sở hạp là thứ gì và cả phương pháp khai mở nó nữa. Quý đại nhân có tin không?".

Quý Nhiếp Đề lại không nói được câu nào.

Cô Nguyệt Minh mỉm cười tiếp tục: "Ta là người ngoài cuộc tỉnh, Quý đại nhân là người trong cuộc mê. Quý đại nhân bị chôn chân trong cục diện này là vì ngài căn bản không tin vào quỷ thần, không tin vào sự tồn tại của Cổ thành, chỉ tính toán đến tình huống hiện thực, chỉ nghĩ đến làm sao trừ được Đại Hà Minh tận gốc rễ, vì thế nên mới bỏ qua những điều khác".

Quý Nhiếp Đề thở hắt ra một hơi: "Thần linh trong Cổ thành tại sao lại để Phu Mãnh mang Sở hạp đi?".

Cô Nguyệt Minh bình tĩnh nói: "Phu Mãnh có mang Sở hạp đi sao?".

Quý Nhiếp Đề lấy làm ngạc nhiên.

Cô Nguyệt Minh giải thích: "Bởi vì Sở hạp vẫn chưa lọt vào tay Qua Mặc, nên y mới nhiều lần động thủ với ta, điều này chứng tỏ y vẫn chưa nguôi chuyện tìm kiếm Sở hạp. Qua Mặc không phải là hạng bình thường, mà là yêu nhân biết thuật đồng tà, y có thể cảm ứng được một số chuyện mà người thường không thể cảm thấy, như là Cổ thành sắp mở chẳng hạn".

Quý Nhiếp Đề trầm giọng: "Mười bốn tháng bảy năm nay?".

Cô Nguyệt Minh nói: "Tiền Thế Thần không đáng sợ, Quý đại nhân chỉ cố kỵ Đại Hà minh. Đại Hà minh giờ đang toàn lực đối phó với Ngũ Độn Đạo, không có thời gian nhàn rỗi mà quan tâm chuyện khác đâu. Bọn ta muốn thu thập Tiền Thế Thần cũng không vội gấp gáp làm gì. Giờ chuyện quan trọng nhất, chính là phải vào Cổ Thành ngày mười bốn tháng bảy, lấy được Sở hạp, đây là nhiệm vụ Phụng công công giao cho ta. Phụng công công từng đích thân đáp ứng sẽ để ta làm chuyện này theo cách của mình. Cách của ta chính là đơn độc hành sự, Qua Mặc đó để ta thu thập, giữa bọn ta chỉ có thể hợp tác như vậy mà thôi".

Quý Nhiếp Đề trầm mặc một lúc, cuối cùng gật đầu đáp: "Ta có thể tạm thời đáp ứng yêu cầu của Nguyệt Minh, nhưng cuối cùng vẫn phải chờ Đại công công quyết định. Ta đã phi cáp truyền thư mọi chuyện cho Đại công công rồi, mấy ngày sau là sẽ có hồi âm thôi".

Rồi y nói tiếp: "Ngyệt Minh sao không vạch trần Lang Canh là Ngũ Độn Đạo?" Cô Nguyệt Minh không hề để ý đến sự 'thần thông quảng đại' này của Quý Nhiếp Đề, y mà không nắm rõ mọi chuyện xảy ra trong Lạc Dương thành này mới là chuyện lạ: "Vạch trần hắn thì có lợi gì cho bọn ta đâu?".

Quý Nhiếp Đề đứng dậy, cười khổ nói: "Nguyệt Minh đúng là một người rất khó ở cạnh, có điều cũng không thể không thừa nhận cách nhìn của ngươi rất độc đáo. Giờ chỉ còn ít ngày nữa là đến mười bốn tháng bảy, bọn ta có thể tạm thời ẩn nhẫn, chờ Đại công công hồi âm rồi mới quyết định xử lý chuyện này thế nào được không?".

Cô Nguyệt Minh trầm giọng: "Cứ làm vậy đi!".

Hoa Mộng phu nhân ngồi trong thuyền phòng, đầu óc trống rỗng.

Mười tám con thuyền lớn khởi trình giương buồm ra khơi từ trước khi trời sáng, đến khi lục địa phía sau biến thành một dải vàng mỏng như sợi chỉ thì chuyển hướng rẽ về phương Nam. Tuy nàng không hiểu việc quân, nhưng cũng biết đây là cách thức bí mật nhất, đến khi thuyền đội bất ngờ tiến vào Đại giang, địch nhân mà Phụng công công muốn đối phó ắt hẳn sẽ trở tay không kịp, lúc ấy hối hận thì đã quá muộn.

Hoa Mộng phu nhân không rõ thuyền đội này có bao nhiêu chiến sĩ, chỉ biết số lượng chắc chắn phải tính bằng ngàn, chỉ nhìn họ hành động nhanh gọn, nhịp nhàng và hiệu quả thế nào, cũng biết tất cả đều là quân tinh nhuệ được huấn luyện hết sức nghiêm ngặt.

Phụng công công đối với nàng rất khách khí, phái tới hai nữ tỳ khỏe mạnh phục thị nàng, gian phòng của nàng chẳng những ở trên soái thuyền, mà còn sát ngay cạnh phòng của lão. Có điều nàng không còn kỳ vọng gì với tương lai, kết cục bản thân thế nào nàng cũng rất rõ, cả Cô Nguyệt Minh rồi cũng khó thoát khỏi cái chết. Sự tình chẳng những liên quan tới Sở hạp thần bí, mà còn can thiệp cả tới cuộc đấu ác liệt giữa Hoàng thượng, Ký Thiện và Phụng công công. Loại người biết rõ mọi sự tình nhưng vĩnh viễn không cúi đầu trước Phụng công công như Cô Nguyệt Minh, tuyệt đối không có cơ hội sống sót.

Nàng chính là vật bồi táng của y.

Nàng đã viết lại hai bức thư gửi cho Cô Nguyệt Minh ở Lạc Dương ngay trước mặt Phụng công công, không dám do dự chút nào để khỏi chịu nỗi khổ da thịt. Vấn đề là giờ nàng không rõ tình hình Ký Thiện thế nào, chiếu lý thì Ký Thiện đã lọt vào tay Phụng công công, nếu Ký Thiện đã khai ra tất cả, mà nàng còn có ý giấu giếm thì thật đúng là một chuyện vô cùng ngu xuẩn.

Cô Nguyệt Minh đã từng nói, bất luận là người kiên cường thế nào mà bị cực hình tàn khốc bức cung thì rồi cũng đến điểm sụp đổ, chỉ là sớm hay muộn mà thôi. Nực cười là chính vì nàng luôn nhớ những lời này, vậy nên không hề trải qua bất kỳ giằng xé nào trong nội tâm đã bán đứng luôn y, khiến cho Phụng công công không thể không giết chết họ Cô. Nhưng nàng không hề hối hận, bởi nàng không có lựa chọn nào khác, đồng thời nàng cũng biết Cô Nguyệt Minh sẽ không trách nàng. Chỉ là giờ đây nàng không thể kềm chế mà thấy hận chính bản thân mình, cảm giác căm ghét chính bản thân mình, mà không biết phải làm sao.

Tiếng bước chân vang lên.

Thanh âm Nhạc Kỳ cất lên bên ngoài tiểu sảnh chỉ cách nội thất của nàng có một tấm màn: "Các ngươi ra ngoài cho ta!".

Hai bộc phụ liền tuân mệnh rời khỏi.

Nhạc Kỳ vén rèm bước vào, mỉm cười nói: "Phu nhân khỏe chứ!".

Hoa Mộng phu nhân không trả lời y.

Nhạc Kỳ ngồi xuống cạnh nàng, thở hắt ra một tiếng rồi nói: "Hình như sóng gió không ảnh hưởng gì tới phu nhân cả, Đại công công có thể yên tâm rồi".

Hoa Mộng phu nhân thở dài, gã Nhạc Kỳ này còn giống một con người, không như Phụng công công, tưởng như đã thành lão yêu tinh, khiến người ta không thể nào hiểu được lão đang tính toán gì.

Nhạc Kỳ nhìn nàng: "Tại sao phu nhân không lên giường nghỉ ngơi? Bọn ta còn phải đi mấy ngày trên biển nữa đó!".

Hoa Mộng phu nhân tâm ý nguội lạnh đáp: "Nếu Phó thống lãnh không còn chuyện gì, thiếp thân muốn được ở một mình".

Nhạc Kỳ gật đầu: "Ta phụng mệnh Đại công công tới xem tình hình phu nhân thế nào. Nói thẳng ra, công việc của ta là thẩm tra lại tin tức".

Hoa Mộng phu nhân chau mày: "Nhạc đại nhân nói chuyện thật cổ quái, công việc của ngài và ta thì liên quan gì tới nhau?".

Nhạc Kỳ chậm rãi đáp: "Nhìn bề ngoài thì đúng là không có quan hệ gì, nhưng nếu phu nhân biết hai phong thư phu nhân chép ra là do ta kiểm tra nội dung thật giả, có lẽ phu nhân sẽ nghĩ khác đó".

Hoa Mộng phu nhân nghe mà không khỏi lạnh người, tựa như đang rơi vào cơn ác mộng. Nhục thể của nàng cố nhiên đã mất đi quyền tự chủ, nhưng sự giày vò kinh khủng nhất chính là dằn vặt về tinh thần. Chỉ cần gã nam nhân hôm qua vẫn còn không có chút can hệ gì này nói một câu thôi, nàng sẽ lập tức vạn kiếp bất phục.

Nhạc Kỳ nói: "Phu nhân có thể yên tâm, ta đã báo lên Đại công công phán đoán của mình, những điều phu nhân thổ lộ có lẽ đều là sự thực".

Hoa Mộng phu nhân thầm thở phào nhẹ nhõm: "Nhạc đại nhân còn gì muốn nói nữa không?".

Nhạc Kỳ mỉm cười: "Đại công công lo lắng nhất là phu nhân tự tìm cái chết. Nhìn bề ngoài thì phu nhân có thể không phải là loại người ấy, nhưng theo kinh nghiệm của ta, có rất nhiều chuyện nhìn bề ngoài thì không thể nhìn ra được, tính cách tiềm tàng bên trong chứ không lộ ra ngoài cho người khác thấy. Đây chính là mục đích mà ta đến gặp phu nhân".

Hoa mộng phu nhân chỉ biết cười khổ.

Nhạc Kỳ chăm chú nhìn nàng, rồi tiếp lời: "Bất kể một người bề ngoài trầm tĩnh thế nào, trấn định ung dung ra sao, thì rốt cục vẫn để lộ ra cảm giác trong lòng ở một điểm nào đó, chẳng hạn như sắc mặt, sự thay đổi của ánh mắt...".

Hoa Mộng phu nhân mệt mỏi nói: "Vậy tình hình thiếp thân thế nào?".

Nhạc Kỳ nói: "Lúc này phu nhân đã mất đi tất cả hy vọng, chẳng những không có kỳ vọng gì ở tương lai, mà còn mất đi cả đấu chí, tình hình vô cùng tệ hại".

Hoa Mọng phu nhân ngạc nhiên nhìn y.

Nhạc Kỳ tránh né ánh mắt của nàng, hờ hững như không nói: "Ta muốn khuyên phu nhân một câu, cho dù ở hoàn cảnh tuyệt vọng nhất cũng ngàn vạn lần đừng mất đi hy vọng. Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên, có những chuyện con người không thể nào dự đoán trước được, bất kể đó là ai".

Hoa Mộng phu nhân lấy làm ngạc nhiên: "Những lời này Đại công công bảo Nhạc đại nhân nói với thiếp thân sao?".

Nhạc Kỳ đứng dậy, mỉm cười cáo từ: "Không làm phiền phu nhân nữa! Phu nhân nghỉ ngơi đi!".

Nói đoạn y liền quay người đi ra mà không trả lời câu hỏi của nàng.

Nhìn rèm châu buông xuống, Hoa Mộng phu nhân chợt dâng lên một cảm giác kỳ dị, tựa như thấy được một điểm sáng trong bóng đêm mênh mông.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro