vat chat

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Vật chất và các hình thức tồn tại của vật chất

2.1. Định nghĩa phạm trù vật chất

Vật chất với tính cách là một phạm trù triết học ra đời trong triết học Hy Lạp cổ đại. Ngay từ đầu, xung quanh phạm trù này đã diễn ra cuộc đấu tranh không khoan nhượng giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm. Như¬ng phạm trù vật chất đư¬ợc hiểu rất khác nhau, phụ thuộc vào sự phát triển của hoạt động nhận thức và thực tiễn trong từng thời kỳ lịch sử của nhân loại.

2.1.1. Quan điểm duy tâm

Coi thực thể của thế giới, cơ sở của mọi tồn tại là một bản nguyên tinh thần nào đó, có thể là "ý chí của Thượng đế", là "ý niệm tuyệt đối" hoặc là do ý thức của chủ thể quyết định.

2.1.2. Quan niệm duy vật

Coi vật chất là thực thể, cơ sở đầu tiên, bất biến của tất cả các sự vật, hiện tư¬ợng tồn tại trong thế giới khách quan.

- Quan niệm duy vật cổ đại về vật chất mang tính trực quan, cảm tính, thể hiện ở sự đồng nhất vật chất với các dạng cụ thể của nó, tức là những sự vật cụ thể, coi đó là cơ sở đầu tiên của mọi tồn tại như¬: Đất, nước, lửa, không khí, apâyrôn... Đỉnh cao trong quan niệm vật chất cổ đại là thuyết nguyên tử của Lơxip và Đêmôcrit, thừa nhận thực thể của thế giới là nguyên tử.

Mặc dù còn nhiều hạn chế, như¬ng thuyết nguyên tử cổ đại là một bước phát triển mới của chủ nghĩa duy vật trên con đ¬ường hình thành phạm trù vật chất, tạo cơ sở triết học cho nhận thức khoa học sau này. Tuy nhiên, đó mới chỉ là những phỏng đoán giả định.

- Từ cuối thế kỷ XVI và đặc biệt là trong thế kỷ XVII - XVIII: Việc coi nguyên tử là những phần tử vật chất nhỏ nhất, không thể phân chia được, tách rời vận động, không gian và thời gian vẫn là một quan niệm phổ biến. Chính Galilê, Đềcác, Bêcơn, Hôpxơ...đã khẳng định và phát triển quan niệm này.

- Sang thế kỷ XIX, các nhà triết học và khoa học tự nhiên do không hiểu phép biện chứng duy vật vẫn đồng nhất vật chất với nguyên tử, hoặc với một thuộc tính phổ biến của các vật thể là khối l¬ượng.

- Cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX, trong vật lý học hiện đại xuất hiện những phát minh quan trọng đem lại cho con ngư¬ời những hiểu biết mới, sâu sắc về cấu trúc của thế giới vật chất.

Năm 1895, Rơnghen phát hiện ra tia X

Năm 1896, Béccơren phát hiện ra hiện tượng phóng xạ.

Năm 1897, Tômxơn phát hiện ra điện tử.

Năm 1901, Kaufman đã phát hiện ra rằng trong quá trình vận động, khối lượng của điện tử thay đổi khi vận tốc của nó thay đổi.

Những phát minh đó chứng minh rằng sự đồng nhất vật chất với những dạng cụ thể của vật chất, với những thuộc tính của vật chất như¬ quan niệm duy vật trư¬ớc Mác đã không còn phù hợp nữa và trở thành căn cứ để chủ nghĩa duy tâm lợi dụng chống lại chủ nghĩa duy vật. Họ cho rằng "vật chất đã tiêu tan", và toàn bộ nền tảng của chủ nghĩa duy vật đã bị sụp đổ hoàn toàn. Cuộc "khủng hoảng của vật lý học" xuất hiện.

Lênin đã phân tích tình hình phức tạp ấy và chỉ rõ: Những phát minh có giá trị to lớn của vật lý học cận đại không hề bác bỏ chủ nghĩa duy vật mà chỉ bác bỏ quan niệm cho rằng giới tự nhiên là có tận cùng về mặt cấu trúc, rằng nguyên tử hay khối lượng là giới hạn cuối cùng, bất biến của giới tự nhiên. Lênin đã chỉ ra rằng, không phải "vật chất tiêu tan" mất, mà chỉ có giới hạn hiểu biết của con ngư¬ời về vật chất là tiêu tan. Trên cơ sở phân tích một cách sâu sắc cuộc "khủng hoảng của vật lý học" và phê phán những quan niệm duy tâm, siêu hình về phạm trù vật chất, Lênin đã đưa ra một định nghĩa hoàn chỉnh về phạm trù vật chất mà cho đến nay các khoa học hiện đại vẫn thừa nhận.

2.1.3. Định nghĩa vật chất của Lênin

"Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con ng¬ười trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác".

- Theo Lênin, phạm trù vật chất là một phạm trù "rộng đến cùng cực, rộng nhất mà cho đến nay, thực ra nhận thức luận vẫn chưa vượt qua được" nên không thể định nghĩa vật chất bằng phương pháp thông thường, đem quy nó về một vật thể, một thuộc tính hoặc vào một phạm trù rộng lớn hơn được. Vì vậy, Lênin đã sử dụng phương pháp mới để định nghĩa vật chất là đem đối lập vật chất với ý thức và xác định nó " là cái mà khi tác động lên giác quan của chúng ta thì gây nên cảm giác".

Trước tiên, cần phải phân biệt vật chất với tư cách là một phạm trù triết học với các quan niệm của khoa học tự nhiên về cấu tạo và những thuộc tính cụ thể của các dạng vật chất. Vật chất với tư cách là một phạm trù triết học chỉ vật chất nói chung, vô hạn, vô tận, không sinh ra, không mất đi.

- Trong định nghĩa, Lênin đã chỉ rõ khi vật chất đối lập với ý thức trong nhận thức luận thì cái quan trọng nhất để nhận biết nó chính là thuộc tính khách quan. "Vật chất là thực tại khách quan đ¬ược đem lại cho con ngư¬ời trong cảm giác.. .và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác".

Như vậy, định nghĩa vật chất của Lênin bao gồm những nội dung cơ bản sau:

1. Vật chất có trư¬ớc, ý thức có sau; vật chất là cái tồn tại khách quan bên ngoài ý thức và không phụ thuộc vào ý thức.

2. Vật chất là nguồn gốc khách quan của cảm giác, ý thức; cái gây nên cảm giác ở con người khi trực tiếp hoặc gián tiếp tác động lên giác quan con người.

3. Cảm giác, ý thức chẳng qua chỉ là sự phản ánh của vật chất. Ý thức con ngư¬ời là sự phản ánh thực tại khách quan, nghĩa là con ngư¬ời có khả năng nhận thức được thế giới.

- Định nghĩa vật chất của Lênin đã bao quát cả hai mặt vấn đề cơ bản của triết học trên lập trư¬ờng duy vật biện chứng, thừa nhận trong nhận thức luận thì vật chất là tính thứ nhất, và con người có thể nhận thức được thế giới vật chất. Như vậy, định nghĩa vật chất của Lênin đã bác bỏ thuyết không thể biết, khắc phục đư¬ợc tính chất siêu hình, trực quan trong các quan niệm về vật chất.

- Định nghĩa vật chất của Lênin còn chống lại các quan điểm duy tâm về vật chất, tạo cơ sở lý luận để khắc phục quan điểm duy tâm về đời sống xã hội

- Định nghĩa vật chất của Lênin còn có vai trò định h¬ướng cho sự phát triển của nhận thức khoa học.

2.2. Vật chất và vận động.

a. Vận động là gì?

Ăngghen viết:"Vận động hiểu theo nghĩa chung nhất, tức đ¬ược hiểu là một phương thức tồn tại của vật chất, là một thuộc tính cố hữu của vật chất, thì bao gồm tất cả mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự thay đổi vị trí đơn giản cho đến t¬ư duy".

Theo quan điểm của triết học macxit, vận động hiểu theo nghĩa chung nhất, là sự biến đổi nói chung.

b. Vận động là phư¬ơng thức tồn tại của vật chất.

Nghĩa là vật chất tồn tại bằng cách vận động, thông qua vận động mà biểu hiện sự tồn tại của mình. Không thể có vật chất mà không có vận động và ngược lại.

Theo quan điểm duy vật biện chứng, vận động của vật chất là tự thân vận động; bởi vì tất cả các dạng vật chất đều là một kết cấu vật chất bao gồm các yếu tố, các mặt, các quá trình liên hệ, tác động qua lại với nhau. Chính sự tác động đó đã dẫn đến sự biến đổi nói chung, tức là vận động. Quan điểm này đối lập với quan điểm duy tâm, siêu hình về vận động đi tìm nguồn gốc của vận động ở thần linh hoặc ở chủ thể nhận thức.

Vận động là hình thức tồn tại của vật chất nên các dạng vật chất đư¬ợc nhận thức thông qua sự vận động của chúng.

Vận động là một thuộc tính cố hữu của vật chất nên nó không do ai sáng tạo ra và cũng không thể tiêu diệt đư¬ợc. Nguyên lý này đ¬ược chứng minh bằng định luật bảo toàn và chuyển hoá năng lư¬ợng.

c. Các hình thức vận động cơ bản của vật chất.

Dựa vào thành tựu của khoa học tự nhiên và triết học, lần đầu tiên Ăngghen đã phân loại thành 5 hình thức vận động cơ bản của vật chất là:

- Vận động cơ học.

- Vận động vật lý.

- Vận động hoá học.

- Vận động sinh học.

- Vận động xã hội.

Những hình thức vận động trên quan hệ với nhau theo những nguyên tắc nhất định:

Thứ nhất, giữa các hình thức vận động có sự khác nhau về chất, biểu hiện những trình độ phát triển của các kết cấu vật chất.

Thứ hai, các hình thức vận động cao xuất hiện trên cơ sở các hình thức vận động thấp, bao hàm trong nó tất cả các hình thức vận động thấp hơn.

Thứ ba, mỗi sự vật có thể gắn liền với nhiều hình thức vận động khác nhau, nhưng bao giờ cũng được đặc trưng bằng một hình thức vận động cơ bản.

Bằng sự phân loại các hình thức vận động, Ăngghen đã đặt cơ sở cho việc phân loại các khoa học, cho khuynh h¬ướng phân ngành và hợp ngành của các khoa học. Đồng thời còn chống lại một khuynh h¬ướng sai lầm trong nhận thức là quy hình thức vận động cao vào hình thức vận động thấp hơn.

d. Vận động và đứng im.

Theo Ăngghen, "đứng im tương đối của các vật thể... là điều kiện chủ yếu của sự phân hoá của vật chất". Đó là sự ổn định, là sự bảo toàn tính quy định của các sự vật, hiện tượng.

Theo quan điểm duy vật biện chứng, vận động là tuyệt đối, còn đứng im là tương đối, tạm thời, thể hiện ở các điểm sau:

- Vật thể chỉ đứng im trong một quan hệ nhất định.

- Vật thể chỉ đứng im trong một hình thức vận động trong một lúc nào đó, chứ không phải với mọi hình thức vận động trong cùng một lúc.

- Đứng im là biểu hiện trạng thái vận động trong thăng bằng, ổn định tương đối.

- Vận động cá biệt có xu hướng hình thành sự vật, hiện tượng ổn định nào đó; còn vận động nói chung thì làm cho tất cả không ngừng biến đổi.

2.3. Không gian và thời gian

- Không gian là hình thức tồn tại của vật chất, biểu hiện những thuộc tính như¬ cùng tồn tại và tách biệt, có kết cấu và quảng tính

- Thời gian là hình thức tồn tại của vật chất bao gồm những thuộc tính như¬: Độ lâu của sự biến đổi, trình tự xuất hiện và mất đi của các sự vật, các trạng thái khác nhau trong thế giới vật chất

- Không gian và thời gian tồn tại trong sự liên hệ thống nhất với nhau và đều là hình thức cơ bản của vật chất đang vận động. Quan điểm này đối lập với quan điểm duy tâm, siêu hình tách rời không gian và thời gian với vật chất đang vận động.

Ví dụ: Niutơn coi không gian, thời gian là tuyệt đối, không biến đổi. Không gian như¬ cái hộp trống rỗng khổng lồ có thể xếp vào, lấy ra các sự vật; thời gian như¬ dải băng đư¬ợc trải ra một cách đều đặn.

Những phát minh trong toán học và vật lý học đã bác bỏ quan điểm trên. Hình học phi Ơclít của Lôbasepxki, Riman; thuyết tương đối của Anhxtanh đã chứng minh rằng không gian và thời gian có sự biến đổi cùng với sự vận động của vật chất. Khi vật thể vận động với tốc độ gần bằng tốc độ ánh sáng thì kích th¬ước của nó rút ngắn lại, thời gian trôi chậm đi.

Như vậy, không gian và thời gian có những tính chất sau:

1. Tính khách quan: Vì vật chất là thực tại khách quan nên không gian và thời gian là những hình thức tồn tại của nó cũng tồn tại khách quan. Điều đó phủ nhận quan điểm của chủ nghĩa duy tâm coi không gian, thời gian chỉ là sản phẩm của ý thức con ngư¬ời.

2. Tính ba chiều của không gian và tính một chiều của thời gian.

3. Tính vĩnh cửu và vô tận

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro