Vén màn văn minh tiền sử

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Dấu chân tiền sử

I.1 Dấu chân tiền sử

Dấu chân tiền sử trên khối hóa thạch bọ ba thùy

[Chanhkien.org] Thuyết Tiến hóa hiện tại đang bị thách thức khi các nhà khảo cổ hàng đầu thế giới có được những phát hiện mang tính đột phá căn bản. Các nhà khảo cổ chuyên nghiệp và nghiệp dư đang tiến bước, và sau đó đưa ra những nghi ngờ về Thuyết Tiến hóa đã được công nhận rộng rãi. Những dấu vết và các khối hóa thạch người của các thời đại địa chất xa xưa đã được phát hiện trên toàn thế giới, và điều này có thể cách mạng hóa các lý thuyết hiện đại về sự tiến hóa của loài người. Những khám phá như vậy thu hút việc xem xét lại các học thuyết liên quan đến lịch sử phát triển của loài người.

William J. Meister, một người Mỹ, là người thu thập hóa thạch nghiệp dư đầy khao khát, và đã tiến hành một khám phá kinh ngạc vào ngày 01 tháng Sáu năm 1968. Tại Antelope Springs, khoảng 43 dặm về phía Tây Bắc của Delta, tiểu bang Utah, một nơi giàu hóa thạch, Meister đã tìm thấy một tảng đá lớn với một vết chân người. Vết chân này, tuy nhiên, có vẻ như được tạo ra bởi một chiếc dép (xăng đan). Chiếc dép đo được 10 inch (khoảng 26 cm) chiều dài, lòng bàn chân rộng 3 inch (hay 8,9 cm) và gót chân có chiều rộng 3 inch (hay 7,6 cm). Gót chân có vẻ xấp xỉ 1/8 chiều dày (hay 1,7 cm). Ngạc nhiên thay, ông cũng tìm thấy Tam diệp trùng (bọ ba thùy) ngay trong dấu chân ấy.

Xin lưu ý rằng Tam diệp trùng (bọ ba thùy) là một loài sinh vật biển nhỏ, tồn tại trong khoảng từ 260 đến 600 triệu năm trước, và điều này là một dấu hiệu cho thấy khám phá này có giá trị đối với nguồn gốc của cuộc sống con người thời tiền sử. Phát hiện này rất có thể sẽ bác bỏ Thuyết Tiến hóa đang thịnh hành ngày nay.

So sánh khám phá này với giày dép của thời kỳ hiện nay, chúng ta có thể nhận thức được rằng một nền văn minh nào đó đã từng tồn tại khoảng 600 triệu năm trước, và nó phải có một độ phức tạp nhất định. Các hàm ý thực sự của phát hiện này chắc chắn là khó hiểu. Chẳng phải là các nhà sử học hiện đại nên cân nhắc lại Thuyết Tiến hóa hiện nay hay sao? Chẳng phải là những khám phá như vậy cho thấy một con đường khác của sự phát triển nhân loại hay sao?

Năm 1968, khối hóa thạch với dấu vết giày bên trên một Tam diệp trùng (bọ ba thùy), sinh vật tồn tại từ 600-260 triệu năm trước đã được khám phá bởi chuyên gia hóa thạch nghiệp dư Meister. (Ảnh được đăng với sự cho phép của Henry Johnson)

Trên thực tế, những mối nghi ngờ đã tồn tại trong Thuyết Tiến hóa hiện đại trong suốt thế kỷ 19. Tạp chí Khoa học Mỹ, trong các báo cáo ở tập 5 có đăng nhiều dấu chân hóa thạch được bảo quản rất đẹp, những dấu chân đã được phát hiện bên bờ sông Mississippi của St Louis, trong một khu vực giàu đá vôi, bởi một nhà thám hiểm người Pháp. Các nhà thám hiểm đã báo cáo rằng mỗi dấu chân hiện rõ các đường cong cơ thịt của lòng bàn chân con người. Những khám phá bổ sung được cung cấp trong tài liệu ở tập 7 (trang 364-367, 1885) của Tạp chí Nghiên cứu Di tích Văn hóa Cổ của Hoa Kỳ. Trên cùng bờ sông Mississippi, một dấu chân sâu 1 foot và dài 2 feet, có lẽ được tạo thành bởi một cuộn giấy, cũng đã được tìm thấy. Tất cả những phát hiện này đã được xác định niên đại bằng các kỹ thuật phân rã phóng xạ (tiếp theo 1885 – Sách đã dẫn) và được khám phá là có niên đại xấp xỉ 345 triệu năm. Những khám phá nhân chủng học như vậy đã mạnh mẽ đề xuất rằng cuộc sống con người đã có lâu hơn so với điều mà Thuyết Tiến hóa ngày nay chỉ ra. Hơn nữa, những phát hiện đó cho thấy rằng những nền văn minh loài người tương đương – hoặc tiến bộ hơn – xã hội ngày nay đã từng tồn tại hơn 100 triệu năm trước.

Các khám phá khảo cổ đáng kinh ngạc khác đã được báo cáo ở Mỹ. Năm 1927, một nhà địa chất học nghiệp dư đã tìm thấy, trong đá vôi thuộc kỷ Triat tại hẻm núi Fisher thuộc tiểu bang Nevada, một vết in của chiếc giày hóa thạch, ngạc nhiên thay, cũng có một gót chân bị gãy rời ra hoàn toàn. Phương pháp xác định niên đại bằng phóng xạ các-bon cho thấy nó có tuổi khoảng 225 triệu năm. Thật bất ngờ, khi di chỉ gần đây được xem xét lại thông qua kỹ thuật chụp ảnh qua kính hiển vi đã cho thấy phần da trên chân đế đã được khâu vào nhờ hai hàng len, chính xác là cách nhau 1/3 inch. Một kỹ thuật làm giày như vậy đã không hề tồn tại vào năm 1927. Hub Samuel, giám đốc danh dự Bảo tàng Khảo cổ tại Oakland, California, đã tuyên bố trong một quan điểm về phát hiện này rằng “Người thời đại hiện nay (năm 1927) trên trái đất còn chưa thể làm ra loại giày này. Việc nhìn vào loại chứng cứ này cho thấy rằng tại thời điểm mà được cho là của những động vật chân đốt còn chưa được khai hóa, từ hàng triệu năm trước, những người có trí thông minh cao dường như đã từng tồn tại … … ”

Hình ảnh phóng lớn của dấu vết giày với một Tam diệp trùng ở góc trên bên trái (Ảnh được đăng với sự cho phép của bảo tàng Creation Evidence)

Hai Tao, một chuyên gia hóa thạch nổi tiếng của Trung Quốc, đã tìm thấy một hóa thạch trông như một dấu giày của con người tại Núi Đỏ ở thành phố Urumqi, thuộc tỉnh Tân Cương, Trung Quốc. Hóa thạch này được xác định có niên đại khoảng 270 triệu năm về trước. Chiếc giày có chiều dài khoảng 26 cm, lớn hơn ở phần ngón chân và hẹp hơn ở phần gót chân. Một dấu vết in đường may gấp đôi cũng có thể quan sát được. Phía bên trái của giày in rõ ràng hơn phía bên phải, và độ sâu của vết in có vẻ nông ở giữa và sâu hơn về hai đoạn cuối, cho ấn tượng về một vết in của chiếc giày trái. Khi vết giày này được so sánh với một cái khác được tìm thấy tại hẻm núi Fisher ở Mỹ, nó đã được gọi là “huyền thoại Opatz” của Tân Cương (cho thấy rằng di chỉ này không phù hợp với thời kỳ địa chất). Giả thuyết của Hai Tao được trình bày trong Tạp chí Khoa học Địa chất (Journal of Geographic Science) rằng “huyền thoại Opatz” là một hiện tượng cho lý do để tin tưởng vào một đợt di trú lớn trong khoảng thời gian đó.

Cùng với những khám phá về dấu chân người có niên đại vài trăm triệu năm, cho đến những khám phá về cuộn giấy cổ xưa, cũng như các hóa thạch dấu chân khủng long, nhiều vết chân và vết giày hơn nữa đã được phát hiện trong những năm 1970 tại Thung lũng Carrizo ở Tây Bắc Oklahoma. Những dấu tích này xuất hiện trong cả sự hình thành Morrison lẫn đá sa thạch Dakota, chúng có niên đại khoảng 155 đến 100 triệu năm tuổi. Những dấu giày này được xác định rõ ràng hơn, và cho thấy người đeo chúng có kích thước cao hơn mức bình thường, với vết in trung bình dài 20 inch và 8 inch xương bánh chè. Những dấu chân trần bị ăn mòn một ít, nhưng cho thấy bằng chứng của dải áp lực xác định. Một số rất gần với dấu vết khủng long.

Nhưng những dấu chân không đúng chỗ cũng được tìm thấy tại các khu vực khác. Nhà nhân chủng học người Mỹ “, quyển IX (1896), trang 66, mô tả các phát hiện của một dấu vết con người hoàn hảo in trong đá khoảng 4 dặm về phía Bắc của Parkersburg, ở bờ Tây Virginia của sông Ohio. Dấu tích dài 14 1/2 inch và được in vào trong một tảng đá lớn. Mặc dù vài đặc điểm đã được đưa ra, một chuyên gia đã tính toán từ loại đá được mô tả, từ vị trí của nó trên bờ sông, và thấy rằng dấu tích phải có ít nhất 150 triệu năm tuổi, theo cách xác định niên đại địa chất hiện đại. Những dấu vết người khổng lồ như vậy cũng được tìm thấy trong các nơi khác. Dấu chân dài 14 inch đã được tìm thấy ở Virginia. Vết tích người khổng lồ với mỗi dấu chân dài khoảng 35 inch đã được tìm thấy trong đá sa thạch ở Kansas. Kích thước của những dấu chân này lớn hơn nhiều so với dấu chân của con người ngày nay, và tất cả các dấu chân đều có 1 triệu năm tuổi.

Với những phát hiện về các dấu chân này, đã là đủ để đặt dấu hỏi cho toàn bộ Thuyết Tiến hóa của Darwin, và cách mạng hóa các quan điểm hiện thời về lịch sử sinh học. Thậm chí còn đáng ngạc nhiên hơn nữa, đó là các nhà khoa học đã khám phá ra các di chỉ với hơn vài trăm triệu năm tuổi, những thứ đã tiết lộ công nghệ tiên tiến và nền văn minh của nhân loại vào thời điểm đó.

Trong chương kế tiếp, chúng tôi sẽ giới thiệu một số phát hiện khảo cổ học của các công nghệ cổ đại.

Công nghệ nung chảy và các hoạt động khai mỏ tiền sử

I.2 Công nghệ nung chảy và các hoạt động khai mỏ thời tiền sử:

Chiếc bình kim loại 100.000 năm tuổi

Vào tháng 6 năm 1851, Tạp chí Scientific American (quyển 7, trang 298-299), đã đăng một bài viết từ đoạn sao lục ở Boston, trong đó công bố về hai phần của một chiếc bình kim loại được tìm thấy sau khi cho nổ một khối đá cứng tại Meeting House Hill ở Dorchester, Massachusetts. Khi hai phần của chiếc bình được ghép lại, nó tạo thành một chiếc bình hình chuông có chiều cao khoảng 4 ½ inch, 6 ½ inch ở đáy, 2 ½ inch trên đỉnh, và dày khoảng 1/8 inch. Phần vỏ kim loại của bình được cấu tạo bởi thứ hợp kim giữa kẽm và một phần lớn của bạc. Trên vỏ bình có sáu bó hoa khảm bằng bạc tinh khiết, và xung quanh phần bên dưới là môt cành nho hoặc vòng hoa cũng được khảm bằng bạc. Công việc chế tác, khắc, và khảm một cách tinh xảo này đã được thực hiện bởi một vài nghệ nhân không tên tuổi. Và điều đặc biệt là nó đã được tìm thấy dưới một khối đá lớn (một dạng đá trầm tích) ở độ sâu 15 feet dưới mặt đất. Niên đại được ước tính là khoảng 100.000 năm tuổi. Chiếc bình này đã được chuyển từ viện bảo tàng này sang viện bảo tàng khác để trưng bày, và cuối cùng thật không may, nó đã bị biến mất.

[Giá đỡ nến?]

Tạp chí Scientific American vào tháng 6 năm 1851 đã công bố một bài báo về chiếc bình kim loại được tìm thấy dưới một khối đá cứng tại Meeting House Hill, Dorchester, Massachussets. Khối đá bao bọc chiếc bình được ước tính khoảng 100.000 năm tuổi.

Một chiếc bu-gi điện có từ 500.000 năm trước?

Vào ngày 13 tháng 2 năm 1961, ba nhà khảo cổ học – Mike Mikesell, Wallace Lance, và Virginia Maxey – đã thu thập đá hốc tinh ở một địa điểm cách phía đông-nam Olancha, California khoảng 12 dặm. Đá hốc tinh (Geode – đá từ núi lửa) là một loại đá dạng cầu rỗng ruột với cấu trúc dạng tinh thể. Trong ngày đặc biệt đó, khi đang tìm kiếm tại dãy núi Coso, họ đã tìm thấy một hòn đá nằm ngay gần đỉnh núi có độ cao khoảng 4.300 feet so với mực nước biển và 340 feet trên đáy hồ Owens. Họ nhặt nó lên và cứ nghĩ rằng đó là một loại đá hốc tinh, nhưng sau đó họ phát hiện ra rằng không phải, bởi vì nó mang dấu vết của vỏ hóa thạch.

Ngày hôm sau, khi Mikesell cắt một nửa hòn đá đó ra, ông gần như đã phá hỏng viên kim cương 10 inch khi cưa nó, hòn đá không hề có cấu trúc tinh thể mà là một thứ gì đó thật bất ngờ. Bên trong đó là một loại thiết bị cơ khí gì đó. Bên dưới lớp đất sét cứng ngoài cùng, sỏi và hóa thạch là một lớp hình lục giác được cấu tạo bằng gỗ mềm dạng mã não hoặc thạch anh. Một lớp vỏ cứng bao quanh lõi hình trụ, có đường kính khoảng ¾ inch, được làm từ gốm hoặc sứ đặc màu trắng. Ở trung tâm của lõi trụ là thanh kim loại rộng khoảng 2 mm, sáng bóng và có mạ đồng. Thanh trụ này, các nhà địa chất đã phát hiện ra rằng đó là một dạng có từ tính, và sau rất nhiều năm bị phơi ngoài không khí, nhưng nó không hề có dấu hiệu của sự oxy-hóa. Đồng thời, bao quanh ống trụ bằng men sứ là những chiếc vòng đồng đã bị ăn mòn. Bị gắn sâu vào trong đá, ngoài chiếc ống trụ kia, còn có thêm hai mẫu vật nữa giống như là một chiếc đinh và một chiếc máy giặt.

Các nhà địa chất đã gửi những gì họ tìm thấy tới Hội Charles Fort, nơi chuyên nghiên cứu những điều khác thường. Hội này đã dùng tia-X chiếu vào vật thể hình trụ kia để nghiên cứu các hóa thạch trong đó, và phát hiện ra những chứng cứ để xác nhận rằng đó thực sự là một thiết bị cơ khí. Tia-X đã cho thấy thanh kim loại bên trong kia đã bị ăn mòn ở một đầu, nhưng đầu còn lại có thể được làm từ một thứ vật chất dạng kim loại xoắn. Tóm lại, “đồ tạo tác ở Coso” được tin là một phần của thứ gì đó giống một chiếc máy cơ khí. Phần trục bằng sứ và kim loại được tạo hình cẩn thận này, với những thành phần được làm bằng đồng, gợi ý rằng nó là một dạng thiết bị điện nào đó. So sánh với những thiết bị hiện đại, các nhà nghiên cứu cho rằng nó rất giống một dạng bu-gi đánh lửa. Tuy nhiên, phần đường cong bằng kim loại thì không giống với bất cứ loại bu-gi nào hiện nay. Một nhà địa chất chuyên nghiệp đã kiểm tra mẫu đá trong thiết bị và thấy rằng nó có niên đại vào khoảng 500.000 năm tuổi.

Chiếc đinh sắt gẫy hơn 1 triệu năm tuổi

Tờ Illinois Springfield Republican đưa tin vào năm 1851: Một doanh nhân tên là Hiram de Witt đã mua lại một mảnh thạch anh chứa vàng có kích thước khoảng bằng bàn tay của một người đàn ông sau chuyến đi tới California, và trong khi cho người bạn xem mảnh đá, nó đã bị trượt từ tay của ông và rơi xuống sàn nhà. Khi đó, ở giữa của miếng thạch anh để lộ ra là một chiếc đinh gẫy, có kích thước của đồng 6 penny, đã bị ăn mòn nhẹ, nhưng hoàn toàn thẳng và có một chiếc đầu đinh hoàn hảo. Miếng thạch anh này có niên đại hơn 1 triệu năm tuổi.

Chiếc đinh vít kim loại hơn 21 triệu năm tuổi

Năm 1865, một chiếc đinh vít kim loại dài 2 inch đã được tìm thấy trong một mẫu khoáng vật được khai quật từ các mỏ vàng ở thành phố Treasure, Neveda. Chiếc đinh vít đã bị oxy-hóa từ lâu nhưng vẫn giữ nguyên được hình dạng – đặc biệt là hình dạng các đường xoắn của nó – có thể nhìn rất rõ từ mẫu khoáng vật. Mẫu vật này được ước tính có niên đại khoảng 21 triệu năm tuổi.

Chiếc móng nhân tạo hơn 40 triệu năm tuổi

Năm 1844, Ngài David Brewster đã gửi một báo cáo tới Hiệp hội Tiến bộ Khoa học Anh quốc, và gây ra một chấn động trong giới khoa học. Một chiếc móng, rõ ràng là nhân tạo, đã được tìm thấy với một nửa bị gắn sâu vào một khối đá sa thạch được khai thác từ khu mỏ Kindgoodie gần Inchyra, miền Bắc nước Anh. Nó đã bị ăn mòn rất nhiều, nhưng dù sao vẫn nhận dạng được. Miếng sa thạch này được xác định có niên đại ít nhất 40 triệu năm tuổi.

Một sợi dây chuyền vàng được tìm thấy trong đống than đá hơn 300 triệu năm tuổi

Vào ngày 9 tháng 6 năm 1891, bà S.W.Culp tại Morrisonvile, Illinois, khi đang xúc than cho vào bếp lò thì một cục than lớn vỡ thành hai mảnh và một sợi dây chuyền vàng ở chính giữa đã rơi ra. Sợi dây chuyền dài khoảng 10 inch, làm bằng vàng 8 carat và nặng cỡ 8 đồng xu penny, được mô tả giống như một dạng “đồ cổ tinh xảo”. Vào ngày 11 tháng 6, thời báo Morrisonvile Times loan tin các nhà điều tra đã chứng minh rằng sợi dây chuyền không chỉ đơn giản là tình cờ rơi vào than. Một phần của than đã bám vào sợi dây chuyền, trong khi phần bị tách rời khỏi nó vẫn mang dấu ấn của chỗ mà sợi dây chuyền đã bị bọc. Tờ báo chỉ nói: “Đây là một thứ dành cho những sinh viên thuộc ngành khảo cổ học, những người muốn bị mệt đầu bởi sự cấu thành địa chất của Trái đất, và luôn tò mò về những điều cổ xưa”. Trong trường hợp này, vật “gây tò mò” bị “rơi ra” từ một viên than đá có từ Kỷ Pennsylvanian – và nó đã có hơn 300 triệu năm tuổi.

Chiếc nồi sắt ở trong một khúc than có từ 300 tới 325 triệu năm tuổi

Một khám phá tương tự đã xảy ra tại Oklahoma. Vào năm 1912, hai nhân viên của Nhà máy điện Thành phố Thomas, Oklahoma, khi đang xúc than cho vào lò, đã sử dụng nhiên liệu được khai thác gần Wilberton. Có một khúc than quá lớn và không thể cầm được, cho nên hai người thợ đã dùng búa để đập nó ra. Khi khúc than vừa bị vỡ, hai người thợ đã nhìn thấy một chiếc nồi sắt trong đó. Khi chiếc nồi rơi ra từ khúc than, khuôn của nồi có thể nhìn thấy từ các mảnh của khúc than. Vài chuyên gia sau đó đã kiểm tra than bao quanh nồi, và xác định rằng nó đã được hình thành từ 300 tới 325 triệu năm trước.

Vào năm 1912, hai nhân viên của Nhà máy điện Thành phố Thomas, Oklahoma đã phát hiện ra một chiếc nồi sắt nằm bên trong một khúc than có niên đại từ 300 tới 325 triệu năm tuổi.

(Ảnh chụp bởi: Viện Bảo tàng Bằng chứng Tạo hóa)

Quả cầu kim loại 2,8 tỉ năm tuổi

Những người thợ mỏ tại Klerksdorp ở Nam Phi đã tìm thấy vài trăm quả cầu kim loại ở trong cùng một tầng vỏ trái đất, với niên đại ước tính tới 2,8 tỉ năm tuổi. Những quả cầu này được khắc các rãnh rất mịn, mà các chuyên gia kết luận rằng chúng không thể được hình thành từ một quá trình tự nhiên.

Các quả cầu kim loại giống như thế này đã được tìm thấy ở Nam Phi, trong cùng môt tầng vỏ trái đất, với niên đại ước tính tới 2,8 tỉ năm tuổi (Ảnh chụp bởi Roelf Marx)

Hoạt động khai mỏ và luyện kim thời tiền sử

Sau đây là một vài khám phá mà các nhà khảo cổ học cho phép chúng ta hiểu thêm về nền văn minh tiền sử. Những khám phá này như là những cánh cửa sổ nhìn vào quá khứ, cho phép chúng ta quan sát được hoạt động khai mỏ, tinh chế kim loại, và tạo ra các sản phẩm thủ công mỹ nghệ của người tiền sử.

Năm 1968, Tiến sĩ Koriun Megurtchian người Liên Xô cũ đã khai quật được một di tích, được cho là nhà máy luyện kim cỡ lớn lâu đời nhất trên thế giới, tại địa điểm có tên là Medzamor ở nước cộng hòa Armenia (thuộc Liên Xô cũ). Hơn 4.500 năm trước, những người tiền sử vô danh làm việc tại đó đã có hơn 200 lò nung để sản xuất các loại dụng cụ như lọ, dao, mũi giáo, nhẫn, vòng đeo tay, và một số vật dụng khác. Các thợ thủ công ở Medzamor đeo khẩu trang và đi găng tay khi họ lao động, và những bộ quần áo chuyên dụng của họ được làm bằng đồng, chì, kẽm, sắt, vàng, thiếc, măng-gan và mười bốn loại hợp kim đồng khác. Các lò nung cũng sản xuất một loại sơn kim loại, gạch men và thủy tinh. Các tổ chức khoa học từ Liên Xô, Hoa Kỳ, Anh, Pháp và Đức đã xác nhận rằng một số chiếc kẹp làm bằng thép cao cấp đã được lấy từ các lớp địa chất từ trước thiên niên kỷ thứ I trước Công nguyên.

Vào tháng 7 năm 1969, trên tờ Science et Vie, một phóng viên người Pháp tên là Jean Vidal đã bày tỏ niềm tin rằng những phát hiện này đã chỉ ra một giai đoạn phát triển công nghệ không được biết tới. “Medzamor” ông viết, “đã được thành lập bởi những người xuất chúng của các nền văn minh trước đây. Họ sở hữu những kiến thức có được từ thời xa xưa mà chúng ta không biết tới, và xứng đáng được gọi là ‘khoa học’ và ‘công nghiệp’.”

Ngoài ra, các nhà khảo cổ học người Mỹ đã phát hiện ra những mỏ đồng thời tiền sử tại Isle Royale ở phía bắc Michigan. Thậm chí cả những người thổ dân da đỏ có tổ tiên sống trong vùng đó từ nhiều thế kỷ trước cũng không biết về sự tồn tại của những mỏ này. Những khu mỏ đó đã chứng minh rằng các hoạt động khai mỏ thời tiền sử đã từng tạo ra hàng nghìn tấn đồng, nhưng các nhà khảo cổ học đã không tìm thấy bất kỳ dấu vết định cư lâu dài nào gần các khu mỏ.

Khám phá kỳ lạ nhất là mỏ than Lion tại tiểu bang Utah. Năm 1953, những người thợ mỏ bất ngờ phát hiện ra một đường hầm trong mỏ mà họ chưa từng biết tới. Than trong hầm mỏ đã bị oxy-hóa và mất hết giá trị thương mại – bằng chứng cho thấy hoạt động khai thác mỏ trước đó đã từng được tiến hành trong khu vực này. Vào tháng 8 năm 1953, hai học giả thuộc Khoa Kỹ sư và Nhân chủng học Cổ đại tại Đại học Utah đã điều tra khu mỏ, và tuyên bố rằng những người thổ dân da đỏ ở đây chưa bao giờ sử dụng than. Cả hai mỏ, mỏ đồng tại Isle Royale và mỏ than tại Lion đã chứng minh rằng các thợ mỏ tiền sử đã phát triển các công nghệ khai thác và vận chuyển than tới những nơi xa xôi. [Ban biên tập đã không tìm thấy bằng chứng độc lập xác nhận sự tồn tại của hai mỏ này].

Có một khu vực của các hoạt động khai thác mỏ tiền sử mà các nhà địa chất và nhân chủng học đã cực kỳ quan tâm, nó được phát hiện trong các vỉa đá tại mỏ Pioch Farrus ở Pháp. Từ năm 1786 tới 1788, mỏ đá đã cung cấp một lượng lớn đá vôi để xây dựng lại một tòa nhà Tư Pháp ở địa phương. Thông thường, các thợ mỏ sẽ tìm thấy một lớp bùn nằm giữa các lớp đá. Khi những người thợ mỏ đào đến lớp thứ 11 của đá, tiếp cận độ sâu 12 tới 15 mét dưới lòng đất, thì một lớp bùn đã xuất hiện. Nhưng khi làm sạch lớp bùn này, thì họ đã rất ngạc nhiên khi phát hiện ra các cọc còn lại của những cột đá và những mảnh vỡ, cho thấy rằng đá này đã được cắt và khai thác thác từ trước đó. Đào sâu hơn, họ đã choáng váng khi phát hiện ra tiền xu, tay cầm bằng gỗ của một chiếc búa sắt đã hóa thạch, và các công cụ bằng gỗ khác đã hóa đá. Cuối cùng, họ phát hiện ra một tấm ván đã hóa đá và bị vỡ thành từng mảnh. Sau khi các mảnh vỡ được ghép lại với nhau, nó đã thể hiện chính xác loại ván đã được sử dụng bởi các thợ mỏ; hơn thế nữa, loại ván này chính xác là giống với loại ván đang được sử dụng ngày nay.

Đã có rất nhiều khám phá tương tự trong các khu mỏ tiền sử, và rất nhiều di tích bí ẩn khác đã được khai quật. Nó không chỉ làm dấy lên sự tò mò của con người, mà còn gửi một thông điệp quan trọng tới những nhà khảo cổ học – đây là lúc để đẩy nguồn gốc của nền văn minh nhân loại về một thời kỳ vô cùng xa xưa.

I-3 Hoạt động hàng không của người tiền sử:

[Chanhkien.org]

Con người ngày nay nghĩ rằng một người Ý tên là Galileo đã phát minh ra chiếc kính viễn vọng đầu tiên có thể hoạt động được từ khoảng ba trăm năm trước, dựa trên các phiên bản thế kỷ 16, được sản xuất bởi những người sản xuất thấu kính Hà Lan, từ đó đặt nền móng cho các hoạt động thiên văn học hiện đại. Những thấu kính thô sơ từ sớm hơn nhiều đã được tìm thấy tại đảo Crete và vùng Tiểu Á, có niên đại từ năm 2.000 TCN. Những thấu kính hình bầu dục rất tốt, có niên đại tới 1.000 năm tuổi đã được tìm thấy tại một địa điểm của người Viking trên đảo Gotland, có thể chúng được làm bởi những thợ thủ công Byzantine hoặc Đông Âu. Các nhà văn La Mã, Pliny và Seneca đã đề cập tới các thấu kính được sử dụng bởi những thợ chạm khắc. Câu hỏi thực tế là tại sao, từ khi thấu kính được sử dụng thường xuyên để nhóm lửa, phóng to vật thể nhỏ, thậm chí dùng cho kính đeo mắt, và loài người quan tâm đến quan sát các hiện tượng thiên văn hoặc ngắm nhìn bầu trời, thật lâu dài như vậy để tạo ra một kính thiên văn có thể dùng được. Một phát hiện khảo cổ đã cung cấp bằng chứng để tin rằng có lẽ người Châu Âu không phải là những người đầu tiên sản xuất chúng. Viện bảo tàng ICA ở Peru có một tảng đá khắc hình người với niên đại ít nhất 500 năm trước. Điều đáng chú ý của hòn đá khắc đó là hình mô tả một người đang khảo sát bầu trời với một ống kính thiên văn trong tay. Ngoài ra, còn có một thiên thể trong hình khắc, có thể là một ngôi sao chổi với cái đuôi của nó, thứ mà có vẻ như người đàn ông đang quan sát. Một khám phá độc nhất như vậy đã làm lung lay niềm tin hiện đương đại rằng người Châu Âu đã phát minh ra kính viễn vọng vào thế kỷ 16.

Một tảng đá ở Viện bảo tàng tư nhân của Tiến sĩ Javier Cabrera tại Peru với hình khắc, trong đó một người đàn ông quan sát bầu trời với một kính thiên văn, thứ thường được tin là được phát minh bởi những nhà sản xuất kính đeo mắt Hà Lan. (Ảnh tặng của labyrinthina.com)

Tiến sĩ Javier Cabrera ở Peru đã thu thập nhiều loại đá khắc như vậy. Ngoài thiên văn học, những đề tài của các bức tranh trên đá của ông bao gồm cấy ghép nội tạng, truyền máu, và săn khủng long, trong số nhiều thứ khác. Rất khó khăn để xác định tuổi của những miếng đá này. Một cuốn lịch sử niên đại của Tây Ban Nha từng đề cập rằng những miếng đá như vậy đã được tìm thấy trong các ngôi mộ cổ của Đế chế Inca. Từ đó, người ta suy luận rằng những tảng đá chứa thông tin thiên văn học có ít nhất 500 năm tuổi. Nói một cách lô-gíc, những tảng đá miêu tả các sinh vật như loài khủng long có thể là cổ hơn rất nhiều so với niềm tin ban đầu.

Nếu thực sự đó là một kính thiên văn đã được khắc trên tảng đá tại Viện bảo tàng ICA, và các thiết bị đó đã được phổ biến trên toàn cầu, thì điều này có thể giúp các nhà khoa học để hiểu lý do tại sao Dogon, một bộ lạc ở châu Phi, đã phát triển những kiến thức thiên văn học tiên tiến như vậy. Bộ lạc Dogon sống ở khúc quanh lớn của sông Niger tại miền nam Mali, miền tây Châu Phi. Họ sống một cuộc sống chủ yếu là nông thôn và du mục. Không có ngôn ngữ viết, họ truyền đạt kiến thức bằng miệng từ thế hệ này sang thế hệ khác. Trong học thuyết tôn giáo của họ, mà đã được truyền lại trong hơn 400 năm, các nhà thiên văn học đã gọi một ngôi sao là Sirius B, một ngôi sao đồng hành của Sirius, đã được mô tả chính xác. Điều này làm ngạc nhiên những nhà thiên văn học hiện đại.

Sirius B là rất mờ nhạt và vô hình trước mắt của con người. Dựa trên các quan sát ghi lại được bằng cách sử dụng thiết bị hiện đại, các nhà thiên văn đã phát hiện ra Sirius B trong thế kỷ 19. Những người Dogon được cho là đã không hề sở hữu bất kỳ thiết bị công nghệ hiện đại nào, nhưng từ thế hệ này qua thế hệ khác, họ đã truyền lại những truyền thuyết về Sirius, trong đó bao gồm việc đề cập đến hệ thống Sirius gồm hai ngôi sao. Theo truyền thuyết, ngôi sao nhỏ là rất nặng, và nó quay quanh ngôi sao Sirius theo một quỹ đạo hình elip. Một số người cao tuổi Dogon có thể vẽ quỹ đạo của hai ngôi sao trên mặt đất, và chúng khá tương tự như kết quả tính toán của các nhà thiên văn học hiện đại. Ví dụ này có thể chỉ ra rằng những người Dogon cổ đại đã giữ lại kiến thức của thiên văn học từ rất lâu.

Các mẫu chạm khắc đá ở Peru, giống như các kiến thức thiên văn của người Dogon, hé lộ về kiến thức và kỹ thuật huyền bí mà các nền văn minh trước đây sở hữu. Khoa học hiện đại chỉ có thể khám phá lại kiến thức thu được từ trước đó. Hãy nhìn vào một vài phương thức bay mà người cổ đại đã biết.

Sử dụng máy bay

Các sách Trung Quốc cổ đại ghi lại rằng trong thời Xuân Thu (770-475 TCN), Lỗ Ban đã tạo ra máy bay. Điều này dẫn đến việc Lỗ Ban được công nhận là cha đẻ của tất cả các nghề thủ công. Cuốn Mozi·Luwen viết: “Lỗ Ban cắt tre và gỗ, và làm một con chim bằng gỗ. Nó ở lại trên bầu trời trong vòng ba ngày.” Lỗ Ban cũng đã làm một chiếc diều gỗ lớn để do thám quân địch trong một cuộc chiến tranh. Cuốn Hongshu viết: “Lỗ Ban đã làm một chiếc diều gỗ để do thám các thành phố ở nước Tống.” Bên cạnh đó, Lỗ Ban đã làm một chiếc máy bay chở khách. Theo cuốn Youyang Zazu [Một bộ sưu tập các bài viết từ Youyang] trong thời nhà Đường, Lỗ Ban có một lần làm việc ở một nơi rất xa quê mình. Ông nhớ vợ mình rất nhiều, vì vậy ông đã làm một con chim bằng gỗ. Sau khi được thiết kế lại nhiều lần, chiếc diều làm bằng gỗ đã có thể bay được. Lỗ Ban trở về nhà bằng chiếc diều để gặp vợ và trở lại làm việc vào ngày hôm sau.

Cũng có một ví dụ thú vị ở phương Tây liên quan đến một con chim bằng gỗ. Năm 1898, nhà khảo cổ Pháp Lauret đã đào được một con chim bằng gỗ từ một ngôi mộ cổ Ai Cập ở Saqqara. Nó có niên đại khoảng năm 200 TCN. Bởi vì người dân không có khái niệm ‘bay’ vào thời gian đó, nó đã được gọi là “chim gỗ” và bị bỏ mặc hơn 70 năm trong một Viện bảo tàng ở Cairo. Vào năm 1969, Messiha Khalil, một bác sỹ Ai Cập, người thích làm những mô hình, đã tình cờ thấy được nó. Con chim gỗ này gợi nhớ cho Messiha về những kinh nghiệm ban đầu khi làm các mô hình máy bay của ông. Ông nghĩ rằng nó là không hẳn là một con chim, vì nó không có móng vuốt, không có lông, và không có lông đuôi ngang. Đáng ngạc nhiên, đuôi của nó là thẳng đứng, và nó có phần cánh ngang, đủ điều kiện để nó là một mô hình máy bay. Ông đã làm một bản sao. Mặc dù ông không biết làm thế nào người Ai Cập cổ đại làm cho nó bay, khi ông thử ném các mô hình, ông thấy nó có thể lướt nhẹ. Các thí nghiệm khác cho thấy nó không chỉ có thể lướt nhẹ, mà còn có thể bay như chiếc tàu lượn.

“Chim gỗ” được tìm thấy trong ngôi mộ cổ Ai Cập, hiện đang được trưng bày ở Viện bảo tàng Cairo (Ảnh: Dawoud Khalil Messiha)

Sau đó, các nhà khoa học đã khám phá ra rằng mô hình này rất giống với tàu lượn hiện đại, thứ có thể tùy ý bay trong không khí. Với một động cơ nhỏ, chúng có thể bay ở tốc độ 45-65 dặm/giờ (hoặc 72-105 km/giờ), và thậm chí có thể mang lượng đáng kể hàng hóa. Bởi vì những thợ thủ công Ai Cập cổ đại thường làm các mô hình trước khi xây dựng những đối tượng thực tế, có thể là loại chim bằng gỗ đã từng được sử dụng để vận chuyển, giống như chiếc diều gỗ mà Lỗ Ban đã làm.

Những nghiên cứu hiện đại về máy bay bắt đầu khoảng 200 năm trước. Năm 1903, sau khi anh em nhà Wright hoàn thành chuyến bay có người lái đầu tiên, các lý thuyết hàng không bắt đầu được xây dựng. Tuy nhiên, Lỗ Ban và người Ai Cập cổ đại dường như đã biết cách sử dụng các lý thuyết như vậy từ một thời gian rất lâu trước đây. Điều này đưa ra lý do để xem xét lại lịch sử phát triển văn hoá mà con người hiện đại bây giờ tin vào. Có thể là người cổ đại đã biết nhiều điều hơn người so với người hiện đại tưởng.

Chiếm lĩnh bầu trời

Một khám phá khác thậm chí còn đáng kinh ngạc hơn. Nó chỉ ra rằng lãnh thổ của người xưa có thể đã vượt quá bầu trời, và có thể có ngay cả vươn đến không gian bên ngoài.

Năm 1959, Hoa Kỳ đã nhận được thành công hình ảnh đầu tiên của Trái đất từ một vệ tinh nhân tạo đặt ngoài không gian. Nó không hoàn hảo, nhưng đây là lần đầu tiên con người quan sát Trái đất mà chúng ta sống từ khoảng cách rộng lớn [17.000 dặm]. Kể từ đó, có rất nhiều nghiên cứu khoa học liên quan đến kỹ thuật chụp ảnh bằng vệ tinh. Trong số đó, một bức ảnh địa lý thật sự đáng ngạc nhiên.

Các nhà khoa học đã cài đặt một máy ảnh trên tàu không gian, và nó có thể chụp ảnh thành phố Cairo từ ngoài không gian. Những bức ảnh chụp được cho thấy các cảnh tượng đáng kinh ngạc. Vì ống kính của máy ảnh tập trung vào Cairo, tất cả mọi thứ trong một khu vực lấy trung tâm là Cairo với đường kính 5.000 dặm được trông thấy rất rõ ràng. Tuy nhiên, những thứ bên ngoài 5.000 dặm trở nên mờ đi. Điều này là do Trái đất là hình cầu, các lục địa và vùng đồng bằng bắt đầu mờ và bị bẻ cong khi cách xa trung tâm. Ví dụ, lục địa Nam Mỹ bị dài ra ở trong hình. Các nguyên tắc tương tự cũng áp dụng cho hình ảnh được chụp bởi các phi hành gia từ Mặt trăng. Tuy nhiên, khi các nhà khoa học so sánh các hình ảnh vệ tinh với một bản đồ Thổ Nhĩ Kỳ cổ đại, họ ngạc nhiên khi thấy sự tương đồng rõ rệt. Các dãy núi trên Nam Cực bị bao phủ bởi băng và tuyết trong hàng trăm năm, và không được vẽ lên bản đồ cho đến năm 1952 bởi các nhà khoa học sử dụng máy dò bằng âm thanh. Tuy nhiên, chúng xuất hiện trên một bản đồ cổ thuộc Đô đốc Piri Reis, một tư lệnh Hải quân Thổ Nhĩ Kỳ. Ngoài ra, các bản đồ chính xác ghi lại các chu tuyến, kinh độ và vĩ độ cho cả lục địa Châu Mỹ và Châu Phi. Trớ trêu thay, tấm bản đồ này đã được làm vào thế kỷ 16 dựa trên các tấm bản đồ còn cổ xưa hơn.

Một tấm bản đồ thế kỷ 16 của Đô đốc Piri Reis, chỉ huy hải quân Thổ Nhĩ Kỳ. Ông đã ghép nhiều tấm bản đồ cổ với nhau. Nó rất giống với hình ảnh vệ tinh hiện đại.

Bản đồ mô phỏng được đặt tâm điểm tại Cairo. (Ảnh tặng của Adventures Unlimited Press)

Khám phá kinh ngạc này đã khiến nhiều nhà khoa học bị sốc. Sau những nghiên cứu bổ sung, họ đã đưa ra các kết luận sau đây: 1) Tấm bản đồ này được tạo thành bằng cách ghép 6 bản đồ cổ vào với nhau. 2) Tất cả bản đồ cổ đại đã sử dụng cùng một kỹ thuật đòi hỏi kiến thức về hình học phẳng. 3) Những tấm bản đồ cổ được đặt tâm điểm tại Cairo. Khá là rõ ràng là các tấm bản đồ của Đô đốc Piri Reis đòi hỏi công nghệ tiên tiến giống như ngày nay. Tuy nhiên, trước thế kỷ 16, loài người chỉ có thể làm chủ được các kỹ thuật định vị theo thiên văn, và bầu trời rõ ràng nằm ngoài khả năng của họ. Người cổ đại đã sử dụng công nghệ gì để làm ra các tấm bản đồ chính xác như vậy? Có thể họ đã từng đã bay trên bầu trời?

I. Những tàn tích dưới đáy đại dương thách thức quan điểm về lịch sử loài người:

[Chanhkien.org]

Những nghiên cứu đã cho thấy hiện nay các nhà khoa học ước tính rằng trái đất đã được hình thành từ 4,6 tỷ năm trước. Các loài linh trưởng tiền-hominid đã không xuất hiện cho đến Kỷ Pleistocene, kỳ thứ tư của đại Tân Sinh (kỷ thứ ba), là thời kỳ Băng Hà, vào khoảng 1,8 triệu năm trước. Dựa trên các nghiên cứu hóa thạch, một số nhà khoa học tin rằng các hoạt động xã hội và văn hóa đã không xuất hiện cho đến thời kỳ Holocen, khoảng 12.000 năm trước, trong thời gian suy tàn và kết thúc của của kỷ Băng Hà cuối cùng. Vì thế, trong thời gian 7.000 năm tiếp theo, các nền văn hóa đã không phát triển nhiều và vẫn còn ở trong thời kỳ Đồ Đá. Những bản ghi chép về chữ viết và các ký hiệu đầu tiên xuất hiện khoảng 5.000 năm trước. Thời kỳ trước thời gian đó được gọi là thời kỳ Tiền Sử.

Tuy nhiên, trước sự bối rối của các nhà khoa học, ngày càng có nhiều di tích tiền sử được phát hiện dưới đáy đại dương đang thách thức quan điểm này. Những kiến trúc sư của các di tích dưới đáy biển không chỉ có kỹ năng xây dựng khéo léo và nghệ thuật tinh xảo, mà còn cho thấy những dấu hiệu của một văn minh tiên tiến. Hơn nữa, họ biết ngôn ngữ viết và đã có thể xây dựng các kim tự tháp. Công nghệ hiện tại cho thấy rằng khu vực này đã nằm trên mực nước biển 10.000 năm trước hoặc lâu hơn nữa. Như vậy hiển nhiên rằng nền văn minh tiên tiến đã tồn tại trong suốt thời tiền sử, rất lâu trước thời kỳ Đồ Đá Mới. Vì các nguyên nhân không rõ, các nền văn minh này đã biến mất và để lại các tàn tích dưới đáy biển. Dưới đây là một số bằng chứng cho thấy sự tồn tại của chúng.

Thành phố chìm dưới đáy đại dương —Những tàn tích xung quanh hòn đảo Yonaguni ở Nhật Bản

Ở mũi phía nam của đảo Yonaguni trong quần đảo Ryukyu, khoảng nửa thế kỷ trước, các thợ lặn đã tìm thấy những tàn tích của các công trình xây dựng nhân tạo ngay trong đại dương. Địa điểm bao gồm một cấu trúc hình vuông được phủ bởi san hô, một bậc thềm khổng lồ với những gờ và góc, giống như những con phố, cầu thang, và một tòa nhà hình vòm. Người ta có thể nói rằng những tàn tích trông giống như một bệ thờ trong thành phố cổ. Nó bao phủ khoảng 200 mét từ Tây sang Đông, và khoảng 140 mét từ Bắc tới Nam. Điểm cao nhất của nó vào khoảng 26 mét.

(Bên trên) Các kiến trúc đổ nát: một cầu thang ở góc bên phải nằm dưới đáy đại dương tại đảo Yonaguni thuộc quần đảo Ryukyu.

Giáo sư Masaaki Kimura đã cung cấp bức ảnh.

(Bên dưới) Bậc thềm khổng lồ với những bậc thang của tàn tích dưới đáy biển tại đảo Yonaguni.

Giáo sư Masaaki Kimura đã cung cấp bức ảnh.

Năm 1986, những thợ lặn địa phương đã đặt tên thành phố dưới nước này là “Khu lặn của tàn tích dưới đáy biển.” Nó đã thu hút rất nhiều sự chú ý khi các phương tiện truyền thông tường thuật về nó. Ngay sau khám phá này, Đại học Ryukyu đã thành lập một “Đội thăm dò khảo cổ dưới đáy biển” (UAET), và bắt tay vào một dự án nghiên cứu dài 8 năm. Dưới biển phía đông nam (của) hòn đảo Shihuan và trong những vùng lân cận, nhiều di tích đã được phát hiện, gồm một công trình làm bằng đá, một cấu trúc giống như hang được bao quanh bởi những chiếc cột, một bức tượng đầu người, một cấu trúc vòm, và những bức tượng hình rùa. Khám phá đáng ngạc nhiên nhất là “Chữ tượng hình”, được khắc vào một bức tường đá và đã được để lại bởi một nền văn minh cổ, được cho là một nền văn hóa nhân loại rất tiến bộ.

Nếu nhìn từ phía trên, có những con phố và nông trại nằm xung quanh các tàn tích. Khu vực tàn tích rộng nhất dài 100 mét và cao 25 mét, được xây dựng từ những tảng đá khổng lồ. Theo nhóm thăm dò UAET của Đại học Ryukyu, một mô hình máy tính đã cho thấy, nơi có thể có một bệ thờ của một ngôi đền, chính là nơi mà người cổ đại tụ họp và tổ chức các nghi lễ thờ phượng. Có hai cái hang với những chiếc cột hình bán nguyệt nằm ở phía Bắc của ngôi đền. Các nhà khảo cổ tin rằng chúng là một nơi để tắm rửa trước một nghi lễ. Có một cổng hình vòm ở phía Đông của đền thờ, nơi có hai tảng đá khổng lồ gối lên nhau. Phần đỉnh cho thấy những lỗ nhân tạo hình chữ nhật nằm bên trong những phiến đá. Có lẽ, những phiến đá đã được tạo hình bằng máy móc và được sử dụng như là những viên đá nền của thành phố.

Ngoài ra, dưới đại dương, xung quanh “Lishenyan” nổi tiếng nằm ở phía đông nam đảo Yonaguni, một bức tượng đầu người cao vài feet đã được phát hiện. Những đường nét trên mặt người vẫn có thể được nhận thấy rất rõ ràng. Sau đó, ở gần bức tượng đầu người khổng lồ, các nhóm chữ tượng hình đã được tìm thấy. Điều này chỉ ra rằng những người xây dựng các tàn tích dưới đáy biển này thuộc về một nền văn minh rất tiến bộ.

(Bên trên) Bức tượng đầu người cao vài feet nằm ở phía đông nam đảo Yonaguni.

Giáo sư Masaaki Kimura đã cung cấp bức ảnh.

(Bên dưới) Nhóm chữ tượng hình được phát hiện từ những tàn tích dưới đáy biển.

Giáo sư Masaaki Kimura đã cung cấp bức ảnh.

Masaaki Kimura là một giáo sư địa chất tại Đại học Ryukyu. Ông đã tuyên bố trong một cuộc phỏng vấn vào tháng 9 năm 1999 rằng người ta có thể thấy rõ ràng chúng là các công trình nhân tạo. Có những đường phố, cầu thang vuông góc với lỗ tròn trong phiến đá mà dường như đã được thiết kế để chèn cột đá, v.v.. Việc phát hiện ra bức tượng đầu người và những chữ tượng hình đã tạo ra sức thuyết phục đặc biệt rằng các tàn tích dưới đáy biển tại phía nam đảo Yonaguni bắt nguồn từ một nền văn minh tiền sử.

Kim tự tháp kỳ lạ dưới đáy biển

Ngoài những phát hiện ở phía Nam đảo Yonaguni, các khám phá quan trọng đã được thực hiện ở phía Tây của đảo. Năm 1990, các thợ lặn đã tìm thấy một kim tự tháp khổng lồ được xây dựng từ các khối đá. Kim tự tháp này rộng 183 mét, và cao 27,43 mét. Nó được xây dựng từ các phiến đá hình chữ nhật, và có 5 lớp. Cũng có một số nhỏ các công trình xây dựng gần đó tương tự như kim tự tháp khổng lồ. Những kim tự tháp mi-ni này bao gồm các lớp đá, có chiều rộng khoảng 10 mét và chiều cao khoảng 2 mét.

Các nhà địa chất học của Trường Đại học Ryukyu tham gia vào nghiên cứu này đã kết luận rằng đây là một công trình nhân tạo, và không có nguồn gốc tự nhiên. Nếu không, phải có một đống đá từ hiện tượng xói mòn, chứ không phải chỉ có một viên đá duy nhất được tìm thấy. Hơn nữa, có những dấu tích còn lại giống như những con phố xung quanh kim tự tháp, cũng chỉ ra rằng điều này không phải là một sản phẩm tự nhiên. Thợ lặn địa chất học từ Đại học Boston ở Hoa Kỳ nhận thấy rằng các cầu thang khổng lồ đã được xây dựng từ một loạt các lớp đá cao 1 mét, giống như bậc thang kim tự tháp. Mặc dù người ta có thể đưa ra giả thuyết rằng một cấu trúc như vậy đã được hình thành do đá bị phá vỡ bởi sự xói mòn trong nước, nhưng những đoạn cầu thang sắc nét như vậy chưa bao giờ được tìm thấy xuất phát từ một quá trình tự nhiên. Các nhà khảo cổ học tại Đại học London tin rằng những người xây dựng đó phải có được trình độ ít nhất là trên các nền văn minh cổ đại như Lưỡng Hà và sông Ấn.

Theo một giáo sư địa chất học tại Đại học Tokyo, khu vực đó đã chìm xuống đáy biển khoảng 10.000 năm trước, có nghĩa là, vào cuối kỷ Băng Hà. Tuy nhiên, dựa trên sự hiểu biết của khoa học hiện đại, con người vẫn còn nguyên thủy, và săn bắn động vật để ăn vào thời đó. Chắc là họ đã không có khả năng xây dựng những kiến trúc hình kim tự tháp như vậy. Một số người tin rằng nó đã được tạo ra bởi một số nền văn minh chưa được biết đến. Người ta có thể tự hỏi liệu một nền văn minh tiến bộ và thịnh vượng như vậy đã thực sự tồn tại hay không. Những tàn tích dưới đáy biển này liệu có phải chỉ tồn tại ở Nhật Bản không? Câu trả lời là Không.

Bức tường thành cổ Hujing dưới đáy biển ở Bành Hồ, Đài Loan

Theo những bản ghi chép trong các Văn thư lưu trữ huyện Bành Hồ cổ, trong đó viết, “Nếu ta nhìn từ trên cao ở Hujing, một đoạn dài của tường thành dưới đáy biển có thể được nhìn thấy. Nó thường được gọi là “Bể nước sâu Hujing”. Năm 1982, các thợ lặn chuyên nghiệp đã tìm thấy vị trí chính xác của thành phố Hujing bị chìm dưới đáy biển.

Tường thành cổ này có hình chữ thập. La bàn đo được rằng nó nằm chính xác ở vị trí hướng Bắc-Nam, và hướng Đông-Tây ở góc vuông. Bức tường thành được xây dựng chủ yếu bằng đá ba-dan và có rong biển trên bề mặt của nó. Nó có kích thước khoảng 160 mét từ Tây sang Đông, và khoảng 180 mét từ Bắc sang Nam. Nó dày khoảng 1,5 mét trên đỉnh và 2,5 mét tại đáy. Một số phần là không trơn nhẵn do xói mòn; tuy nhiên, các mạch ghép nối giữa những tảng đá thì rất khít. Ở phía Bắc có một cấu trúc dạng đĩa tròn. Đường kính của bức tường thành bên ngoài là khoảng 20 mét, với một bức tường bên trong khoảng 15 mét.

Vào thời điểm đó, một số người nghĩ rằng thành phố bị chìm thật sự là một phần mở rộng của Hujing xuống đáy biển. Tuy nhiên, nghiên cứu của các nhà địa chất cho thấy rằng nếu bức tường được hình thành từ các khối đá tự nhiên, thì nó phải liền mạch và có duy nhất một khối. Mặt khác, nếu nó đã được con người tạo ra, thì nó phải có các phần riêng biệt. Hơn nữa, nếu tường thành rất dài và thẳng, thì rất có khả năng nó đã được con người tạo ra. Cụ thể là, những tảng đá đều có cùng kích thước, với những góc vuông, và khoảng trống giữa các tảng đá được lấp kín. Ngoài ra, những chỗ rỗng trên bức tường có hình chữ thập, với mạch ghép phẳng và trơn tru. Điều này hoàn toàn phù hợp với các tiêu chuẩn xây dựng hiện nay.

Graham Hancock, một nhà văn người Anh, đã được công nhận trên toàn thế giới với những cuốn sách của ông, chẳng hạn như Fingerprints of the Gods (Dấu tay của các vị Thần). Trong tháng 8 năm 2001, ông và vợ ông đã tham gia với các nhà nghiên cứu Trung Quốc và Nhật Bản để khám phá khu vực này. Ông giải thích rằng những viên đá từ thành phố bị chìm dưới đáy biển rõ ràng là khác với cấu trúc bằng đá tự nhiên, khiến chúng nhiều khả năng là có nguồn gốc nhân tạo. Ông nói một cách tự tin: “Thiên nhiên không tạo ra những cấu trúc như vậy, trái ngược với những kiến trúc nhân tạo, nơi mà sự chú ý lớn được dồn vào những chi tiết như vậy.” Rõ ràng là, các khối đá của thành phố bị chìm dưới đáy biển Hujing đã được định vị chính xác theo phương Bắc-Nam, và Đông-Tây. Ngoài ra, các khối đá này có bề mặt rất phẳng và mịn. Chúng được xếp rất khít với nhau đến nỗi chỉ một con dao mỏng mới có thể đi vào giữa các mối nối. Quan điểm của Hancock là điều này đã được con người tạo ra, và không thể là một sản phẩm của tự nhiên.

Hancock cũng cho rằng, hiện có một mô hình chủ lưu được thiết lập trong xã hội con người. Tuy nhiên, mô hình chủ lưu này không thể giải thích các khám phá khảo cổ gần đây. Liệu những công trình kiến trúc ngày nay và các kiến trúc tiền sử là có mối liên hệ với nhau? Trên thực tế, lịch sử hiện thời không thể lý giải được những văn minh cổ đã biến mất. Đây là gợi ý cho chúng tôi biết về họ. Nói cách khác, rất có thể những phát hiện này, chẳng hạn như thành phố dưới đáy biển Hujing và những phát hiện tương tự, có chứa đựng các bằng chứng bị che đậy của những nền văn minh loài người trong quá khứ.

Tàn tích trong Tam giác Bermuda và các công trình kiến trúc dưới đáy biển ở Bahamas

Năm 1958, một số nhà khoa học Mỹ đã tìm thấy những cấu trúc kỳ lạ trong quá trình nghiên cứu đáy biển xung quanh đảo Bahamas. Những công trình này có các họa tiết hình học cụ thể, trải dài ra cho đến một vài dặm. Mười năm sau, những bức tường đá khổng lồ, 400-500 feet chiều dài, đã được tìm thấy ở ngay gần đó. Các phần mở rộng đã hình thành một góc vuông chính xác với những bức tường chính. Bức tường bao gồm các khối đá khổng lồ với kích thước hơn 1 foot vuông. Sau đó, những bậc thềm phức tạp hơn, đường giao thông, bến cảng, cầu, và những thứ tương tự như vậy đã được xác định. Toàn bộ di tích được bố trí như một bến cảng.

Ngoài ra, các nhà khoa học châu Âu đã tìm thấy, trong quá trình nghiên cứu đáy biển Tam giác Bermuda, một kim tự tháp khổng lồ dưới nước chưa được biết đến. Kim tự tháp có cạnh là 300 mét, và 200 mét chiều cao. Có hai lỗ trống khổng lồ trong kim tự tháp, rõ ràng là nhân tạo. Nước biển cuộn qua hai cái lỗ trống khổng lồ này, tạo thành một xoáy nước khổng lồ và do đó tạo ra một xoáy nước gần đó. Điều đó cũng làm cho bề mặt nước vẩn đục. Rất khó để đánh giá kim tự tháp này được xây dựng khi nào. Nó đã được xây dựng từ hàng chục ngàn năm trước khi đất bị chìm xuống biển.

Sự tồn tại của những nền văn minh tiền sử

Trái đất đã không giống như thế này ngay từ lúc khởi đầu của nó. Nó đã trải qua vô số các thay đổi lớp vỏ, núi lửa, lũ lụt, thời kỳ băng hà, v.v.. Trái đất như nó hiện diện bây giờ đã chứng kiên vô số thay đổi. Chúng ta hãy lấy “Vùng đất cổ gần mặt nước” như một ví dụ. Nơi này sâu 2.600 mét, và chỉ cách Vịnh Nhật Bản 90 km. Tuy nhiên, 67-25 triệu năm trước đây, nó ở trên cao của Thái Bình Dương, khoảng chừng 120 km về phía đông quần đảo Nhật Bản. Vì vậy, không khó khăn để hình dung rằng nếu nền văn minh này đã tồn tại trong thời tiền sử, các thảm họa tự nhiên và sự tái sắp xếp địa chất đã thay đổi cảnh quan, và chỉ còn lại rất ít dấu tích được mãi mãi lưu giữ dưới đáy biển.

Nền văn minh Mu huyền thoại

Vào cuối thế kỷ 19, Đại tá người Anh James Churchward đã làm nhiệm vụ đóng quân ở Ấn Độ. Ông ta khá may mắn khi có được chữ khắc Naccal từ một tu viện trưởng của một ngôi đền Hin-đu. Đó là một ngôn ngữ rất khó hiểu. Sau nhiều cố gắng, Churchward và một thầy tu nổi tiếng đã giải mã lịch sử của một nền văn minh tiền sử vĩ đại. Năm 1926, Churchward đã xuất bản một cuốn sách, The Lost Continent (Lục địa đã mất) nói về nền văn minh Mu.

Vị trí của lục địa Mu

Theo chữ khắc, Lục địa Mu nằm ở Thái Bình Dương. Mu là một nền văn minh vĩ đại và thịnh vượng, trong đó có văn học, nghệ thuật, kỹ năng nghề thủ công tiên tiến, và cũng đã phát triển máy móc. Con người vào thời gian đó có kỹ năng xây dựng tuyệt vời, và đã có thể xây dựng các tòa nhà khổng lồ, kim tự tháp, tượng đài bằng đá, lâu đài, và đường xá. Những con đường lát đá gọn gàng và sạch sẽ, và những kênh đào đã được tìm thấy tại thủ đô và tất cả các thành phố lớn khác. Tất cả các bức tường đều chói lọi và được trang trí bằng vàng. Mọi người sống một cuộc sống xa hoa. Những cư dân trên Lục địa Mu là những hoa tiêu rất giỏi đi biển. Người ta cho rằng họ đã đi du hành qua tất cả các đại dương. Họ thậm chí còn phát triển một đế chế thực dân hùng mạnh. Vào lúc đó, Lục địa Mu được gọi là “đỉnh cao của văn hóa thế giới.”

Tuy nhiên, Lục địa Mu thịnh vượng đã biến mất. Nó đã bị chìm xuống đáy đại dương sau một thảm họa bất ngờ. Bi kịch khủng khiếp bắt đầu với một đợt phun trào núi lửa mãnh liệt, theo sau là những trận động đất và các cơn bão mạnh. Mọi thứ xảy ra cùng một lúc. Dung nham núi lửa phun ra ngoài, đi kèm với các trận động đất mạnh. Đất dâng cuồn cuộn như sóng biển, lửa và khói mù mịt che kín cả bầu trời. Tất cả mọi thứ sụp đổ như đồ chơi, và ngay lập tức bị bao phủ bởi dung nham và nước biển. Không có cảnh báo từ trước, toàn bộ Lục địa Mu đã chìm xuống đáy Thái Bình Dương.

Người ta có thể nghĩ rằng câu chuyện này là một huyền thoại. Tuy nhiên, nhìn từ góc độ khác, người ta có thể thấy khả năng của một nền văn minh loài người từng hiện hữu.

Những di tích dưới đáy biển cung cấp bằng chứng rõ ràng về sự tồn tại của các nền văn minh tiền sử. Tuy nhiên, rất khó để tìm ra những khám phá này trong các sách giáo khoa. Các nhà khảo cổ học và sử gia hiện đại không muốn thách thức kiến thức lịch sử hiện tại, vì điều đó có thể không tương thích với các lý thuyết hiện hành. Tuy nhiên, chúng tôi tin rằng chỉ là vấn đề thời gian để những nhà nhân chủng học và sử gia thay đổi các khái niệm mà họ có, và để chấp nhận những sự thật lịch sử.

Những phát hiện khảo cổ đủ để thay đổi sách giáo khoa hiện đại

[Chanhkien.org] “Vén bức màn văn minh tiền sử” là một cuốn sách về văn hóa tiền sử, một phần trong tủ sách được xuất bản bởi Chánh Kiến Net.

Nhìn lại những khám phá khảo cổ được đề cập trong cuốn sách này, chúng ta không thể không tự hỏi – tại sao những ý kiến được trình bày trong các phát hiện này lại khác biệt rất lớn với quan điểm hiện tại, thậm chí xung khắc với nội dung trong sách giáo khoa chúng ta đang học? Tôi nhớ rằng sách giáo khoa của chúng ta tuyên bố rằng lịch sử nền văn minh nhân loại không quá 10.000 năm. Nếu sự phát triển của văn minh nhân loại thực sự như những gì sách giáo khoa nói, thì chúng ta giải thích thế nào với các công cụ kim loại và những di chỉ khác của văn minh nhân loại mà đã có từ hàng triệu năm trước?

Các câu hỏi đặt ra từ những phát hiện khảo cổ này cung cấp cho chúng ta một cơ hội để nghiên cứu lại, và xem xét lại tính chính xác của sự phát triển lịch sử loài người. Thật không may, đa số các nhà khoa học lại không trân quý cơ hội này. Thay vào đó, họ không thể đột phá, đơn giản bởi vì các phát hiện này trái ngược với học thuyết mà họ rao giảng. Tại sao? Có lẽ chính là bởi vì chúng thách thức cả mô hình về thuyết tiến hóa. Các lý thuyết và học thuyết được phát triển từ mô hình thuyết tiến hóa đã tồn tại trong hơn 100 năm qua, và có ảnh hưởng sâu sắc đến sự phát triển của khoa học và xã hội hiện đại. Nhiều nhà khoa học đã bị bẫy trong những học thuyết đó và không thể nghĩ được gì ngoài cái khung này. Những quan niệm ấy đã khiến họ lờ đi những khám phá không nằm trong sự mô tả của thuyết tiến hóa, và họ hoàn toàn phản đối những khám phá này.

Năm 1880, nhà địa chất J. D. Whitney đến từ California, Hoa Kỳ đã cho xuất bản một bài báo dài, trong đó mô tả các công cụ được tìm thấy trong những mỏ vàng tại California. Những công cụ này bao gồm vài mũi giáo, bát đá và chày đá. Chúng được tìm thấy trong một lớp đá núi nửa chưa từng được động tới, nằm sâu dưới mỏ vàng. Các nhà địa chất đã xác nhận rằng những lớp đá này có thể đã được hình thành từ 9 đến 55 triệu năm trước. Tuy nhiên, ông Holmes, một thành viên của Viện Smithsonian, đồng thời là một bình luận viên nổi tiếng của kênh Khám phá California Thế kỷ 19, đã bình luận: “Có lẽ, nếu giáo sư đã hoàn toàn hiểu được lịch sử tiến hóa của nhân loại như con người ngày nay, ông dường như đã chần chừ trong việc công bố các kết luận cho thấy con người đã tồn tại ở Bắc Mỹ thời tiền sử, cho dù các phát hiện của ông thật là thú vị.” Nói cách khác, nếu sự thật được khám phá không phù hợp với các quan niệm phổ biến hiện nay, bất kể bằng chứng là thuyết phục như thế nào, chúng sẽ vẫn bị bài xích và không được chấp nhận bởi dòng khoa học chủ lưu. Những khám phá khảo cổ quan trọng này có thể chỉ được trình bày như những phát hiện “ngầm”, chứ không thể được đi sâu và trình bày trước công chúng.

Ngoài việc bác bỏ những bằng chứng thách thức học thuyết thống trị hiện tại, cũng có những trường hợp mà bằng chứng giả được “phát minh” ra để bảo vệ các học thuyết đương đại trong lĩnh vực khoa học. Trong số đó, nổi tiếng nhất là vụ lừa đảo Piltdown Man. Đầu thế kỷ 20, một nhà sưu tập nghiệp dư, Charles Dawson, phát hiện thấy một số sọ người ở Piltdown. Không lâu sau, các nhà khoa học Arthur Smith Woodward đến từ Bảo tàng Anh quốc và Pierre Teilhard de Chardin đã tham gia vào nỗ lực khảo cổ này. Họ đã tìm thấy một xương hàm vượn Orangutan và vài mẫu hóa thạch động vật có vú cổ đại. Dawson và Woodward nghĩ rằng nếu họ ghép cái sọ người với xương hàm Orangutan, họ sẽ tạo ra một hóa thạch người nguyên thủy có vào đầu kỷ Pleistocene hay cuối kỷ Pliocene, và sự nhào nặn này sẽ là một bằng chứng mạnh mẽ chứng thực thuyết tiến hóa. Họ lập tức công bố phát hiện Piltdown Man cho giới khoa học. Tuy nhiên, 40 năm sau, J. S. Weiner, K. P. Oakley và các nhà khoa học Anh khác đã vạch trần vụ lừa đảo này. Vụ việc được thao túng bởi những người rất quen thuộc với công nghệ khoa học chuyên nghiệp hiện đại. Hãy nhìn qua những cái tên cừ khôi sau: Arthur Smith Woodward từ Bảo tàng Anh quốc, Arthur Keith từ Bảo tàng Hunter cùng các nhà vật lý Đại học Hoàng gia. William Sollas đến từ Viện Địa chất Cambridge, nhà giải phẫu học nổi tiếng Eliot Smith, Dawson và Pierre Teilhard de Chardin. Đây đều là những chuyên gia rất được trọng vọng! Sau khi vạch trần vụ lừa đảo, Weiner nói: “Nếu người Piltdown không tồn tại (một người theo thuyết Đác-uyn có thể từng nói), ‘chúng tôi đã phát minh ra anh ta’. Nếu một mắt xích bị thiếu được tìm thấy, nó chắc chắn minh chứng rằng con người không tiến hóa từ tổ tiên giống loài vượn hiện đại, và nếu mắt xích bị thiếu được tìm thấy tại Anh, thì sẽ tốt hơn nhiều…”

Sự xuất hiện những vụ lừa đảo tương tự đã hoàn toàn cho thấy rằng xuất phát từ thái độ nghiên cứu lệnh lạc, một số nhà khoa học đã đánh mất những phẩm chất đáng kính trọng nhất là về sự chính trực và trung thực, và sẽ tìm mọi cách bù đắp những lỗ hổng trong các học thuyết hiện tại chỉ để duy trì hay đạt được chỗ đứng trong cộng đồng khoa học của họ. Nếu các nhà khoa học có thể xem xét mọi bằng chứng với thái độ khách quan và chính trực, những nghiên cứu như vậy sẽ tiết lộ bộ mặt thật của lịch sử. Thực ra, các quan niệm mới sẽ tự nhiên được trân trọng khi được chấp nhận. Thuyết tiến hóa đã phải đối mặt với một tình huống tương tự khi nó lần đần tiên ra mắt công chúng; sự khác biệt duy nhất là nó được nghiên cứu sâu hơn sau này. Tuy nhiên, cơ sở cho nghiên cứu về thuyết tiến hóa có thể đã được thay đổi nếu không có những người giấu giếm và bài xích các trường hợp có thể bác bỏ thuyết tiến hóa. Những người này không xem xét mọi bằng chứng một cách khách quan; thay vào đó, họ cố ý lọc ra những bằng chứng mâu thuẫn với thuyết tiến hóa. Tuy nhiên, khi chúng ta khảo sát và so sánh nhiều phát hiện khảo cổ, chúng có thể chỉ ra sự hạn chế của các học thuyết hiện đại về sự phát triển của loài người. Nếu chúng ta có thể liên hệ những phát hiện khảo cổ này, bao gồm dấu chân người, di chỉ những sinh vật cổ, các nền văn minh tiền sử với tôn giáo và lịch sử, thì chúng có thể giúp chúng ta xây dựng một đường hướng khác về sự phát triển nhân loại.

Lấy ví dụ, trong kinh Phật, Phật Thích Ca Mâu Ni nói rằng Ông đã đắc Đạo từ hàng ức kiếp về trước, tức là những người tu luyện cổ đại cho rằng sự tồn tại của con người (hay ít nhất là những người tu Đạo) có lịch sử lên tới hàng trăm triệu năm. Tuyên bố này phù hợp với phát hiện về bọ ba thùy. Tất nhiên, kết luận này cần phải được nghiên cứu thêm, nhưng nó nhắc nhở chúng ta rằng nếu chúng ta sẵn sàng thay đổi các thái độ và quan niệm của mình, một con đường rộng lớn hơn sẽ mở ra trước mắt chúng ta, và nghiên cứu này là tuyệt đối đáng để bỏ thời gian và công sức! Nếu con người không tiến hóa từ vượn, nếu những di tích tiền sử có từ hàng chục triệu năm trước này đã thực sự đã được lưu lại bởi con người từ các chu kỳ khác nhau, thì những nghiên cứu của chúng ta về các phát hiện này có thể giúp chúng ta giải mã lịch sử về con người tiền sử đã phát triển như thế nào, đạt đỉnh điểm và đi tới hủy diệt ra sao. Điều này không chỉ giúp chúng ta hiểu thêm về chính mình, mà còn giúp đưa chúng ta tới một tương lai tươi sáng.

 Dầu mỏ và Thuyết Tiến hóa

[Chanhkien.org] Giá dầu vẫn không ngừng tăng lên. Con người đang tự hỏi không biết còn bao nhiêu năm nữa, dầu mỏ trên trái đất sẽ bị khai thác và sử dụng hết bởi hàng trăm triệu chiếc ô tô và hàng ngàn chiếc máy bay trên thế giới. Ví dụ, mỗi chiếc Boeing 747 phải sử dụng ít nhất 85 tấn Anh dầu mỗi lần cất cánh, và chiếc máy bay phản lực siêu âm Concorde cần 96 tấn Anh dầu. Ngày nay, ô tô chạy bằng điện đã bắt đầu được sử dụng, nhưng chúng ta vẫn chưa có những chiếc máy bay chạy bằng điện nào có thể bay trên bầu trời. Càng ngày trên thế giới lượng tiêu thụ dầu mỏ càng tăng với tốc độ đáng kinh ngạc. Năm 1996, toàn thế giới tiêu thụ mỗi ngày 70 triệu thùng dầu. Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC) ước tính rằng vào năm 2020, con người trên thế giới sẽ sử dụng 100 triệu thùng dầu mỗi ngày (mỗi thùng chứa được với 159 lít hoặc 42 ga-lông).

Không những vậy, OPEC còn ước tính rằng, dựa trên những khối lượng đã khai thác từ các giếng dầu, các nước OPEC còn trữ lượng dầu đủ dùng cho 80 năm tới, và các nước không thuộc OPEC là thêm khoảng 20 năm nữa. Có vẻ như vẫn còn rất nhiều, mặc dù lượng tiêu thụ đã rất lớn.

Những nước có trữ lượng dầu mỏ lớn nhất, như được xác nhận bởi OPEC, là Ả Rập Xê-út với 261,4 tỉ thùng dầu mỗi năm (tương đương 29 tỉ tấn Anh); Iraq, 112 tỉ thùng (12,4 tỉ tấn Anh); Các tiểu Vương quốc Ả Rập Thống nhất, có 97,8 tỉ thùng (10,8 tỉ tấn Anh); Kuwait, có 96,5 tỉ thùng (10,8 tỉ tấn Anh), và Iran, 92,6 tỉ thùng (10,3 tỉ tấn Anh). Những con số này chưa bao gồm dầu dự trữ tại các quốc gia không thuộc OPEC, như là Mỹ, Nga, và Trung Quốc.

Ngày nay, các nhà khoa học tin rằng dầu mỏ được tạo ra khi những động vật và thực vật thời tiền sử bị phân hủy dưới nhiệt độ và áp suất cực cao. Tuy nhiên, họ chưa tìm ra được có bao nhiêu chu kỳ hủy diệt hàng loạt các sinh vật tiền sử đủ để tạo ra trữ lượng dầu mỏ lớn như hiện nay đã tìm được. Liệu có phải đó chỉ đơn thuần là kết quả của sự phân hủy của các động vật sống?

Chúng ta đều biết rằng 70% cơ thể người (hoặc động vật) là nước, như vậy chỉ có 30% là bị phân rã sau khi chết. Theo các giả thuyết gần đây, thì chỉ có một cách dầu mỏ được hình thành, đó là dưới nhiệt độ và áp suất cực kỳ lớn ở trong lòng trái đất. Dân số trên toàn thế giới hiện nay là khoảng 7 tỉ người. Giả sử mỗi người nặng 70 kilogram. Nếu bạn tính thêm cả số lượng các động vật (kể cả các động vật hoang dã), thì không quá khó để có thế tính ra toàn dân số trên thế giới sẽ tạo ra được khoảng 300 triệu tấn dầu thô. Tuy nhiên, các số liệu của OPEC đã chỉ ra rằng toàn thế giới tiêu thụ khoảng 2,9 tỉ tấn Anh dầu mỗi năm. Có nghĩa là, 300 triệu tấn chỉ đủ dùng trong một tháng rưỡi với mức tiêu thụ như hiện nay. Một số người có thể lập luận rằng lý do dự trữ dầu trên trái đất nhiều là vì các cơ thể của động vật thời tiền sử rất lớn và số lượng của chúng rất nhiều. Nhưng dù khủng long có to lớn đến đâu, thì số lượng của chúng trên thế giới cũng là hữu hạn. Có một số loài khủng long ăn thịt và một số loài ăn thực vật. Về sau các loài phần lớn là ăn thực vật. Chúng ta có thể ước tính số lượng thực vật trên thế giới bằng cách tính số lượng than đá tìm thấy trên thế giới. Từ đó chúng ta có thể dựa vào máy tính để tính ra bao nhiêu con khủng long đã sống trên trái đất. Người ta có thể dễ dàng thấy rằng có một sự khác biệt lớn giữa khối lượng dự trữ dầu mỏ trên trái đất và số lượng động vật đã từng sống trên trái đất.

Thêm vào đó, để tạo ra một số lượng dầu mỏ khổng lồ như vậy, trong điều kiện nhiệt độ và áp suất cực cao, một lượng lớn các động vật phải chết trong cùng một thời điểm. Thật khó để hội đủ ba điều kiện trong cùng một thời điểm. Theo một học thuyết mới, đã được một số người trong giới khoa học chấp nhận, đó là 65 triệu năm trước đây, đã có một thiên thạch đã va vào trái đất và tạo ra một thảm họa tiêu diệt toàn bộ loài khủng long thời bấy giờ. Và sẽ cần bao nhiêu thảm họa như vậy đủ để tạo ra lượng dầu mỏ như ngày hôm nay? Từ một góc độ khác, tuổi của trái đất tính tới ngày nay khoảng 4,6 tỉ năm. Nếu thực sự đã xảy ra thảm họa như vậy thường xuyên, thì tổ tiên của loài người đã không còn cơ hội để trải qua quá trình tiến hóa!

Như vậy, sự thật về nguồn gốc cuộc sống của chúng ta là gì?

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro