Vh67

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Chương VI

PHẬT GIÁO VÀ PHƯƠNG TÂY

Jean Francois : Tất cả các vấn đè mà chúng ta đã nêu ra, tất cả cái gì mà con đã trình bày về siêu hình, về trí thức, về vũ trụ luận Phật giáo, những âm hưởng của các công trình đồ sộ về triết lý, về siêu hình nói về thái độ đối với cuộc sống con người, tất cả những điều đó là trọng tâm thảo luận sôi nổi giữa các tín đồ Phật giáo. Với họ không phải là lịch sử triết học, lịch sử những tư tưởng mà triết lý mà siêu hình đương đại, y hệt như thời Socrate và Platon ở Athenes vào thế kỷ thứ 5 và thức 4 trước Thiên chúa. Những triết lý vẫn còn đó, nhưng không thể hiện theo cách thế như vậy. Gần đây ở Paris có xuất hiện một số triết gia ở quán cafe hội họp công khai và vào cửa tự do. Nhưng mức độ các cuộc thảo luận không đi quá các quầy hàng. Dù phương Tây thành công không chối cải được trong nhiều lãnh vực, trong nhiều địa hạt có phải chăng vì cái không khí trống rỗng thiếu những sự thảo luân nghiêm túc, mà Phật giáo đã đem lại một sự tò mò thích thú cho Tây phương. Và điều này làm Ba nghĩ đến một câu nói của Arnold Toynbee: "Một trong những sự kiện lý thú nhất của thế kỷ 20 là sự kiện Phật giáo đến với Tây phương"

Matthieu : Sự chú ý đó có nhiều nguyên nhân. Trước tiên nó đem đến cho những ai muốn đi theo con đường tâm linh, và chọn điều này làm lẽ sống động cùng với những phương tiện để thâm nhập vào sự minh triết đó. Kế đó và chắc chắn là điều quan trọng nhất, nó mở ra cho mọi tín đò hay cả những người bàng quan một viễn cảnh về sự khoan dung, sự cởi mở, sự vị tha và sự tự tin đồng thời nó cũng cho thấy đây là một khoa học tâm linh giúp con người tìm được sự bình an trong tâm hồn, đồng thời cũng giúp cho kẻ khác thăng hoa. Hơn nữa Phật giáo chỉ hiến dâng mà không hề áp đặt bất cứ điều gì, cũng không bao giờ tìm cách cải đạo kẻ khác. Phật giáo chỉ chủ trương chia xẻ cái nhìn và kinh nghiệm của mình mà thôi.

Jean Francois : Không có sự khuyến khích hay bắt buộc vào đạo nào chứ?

Matthieu : Ðức Ðại Lai Lạt Ma thườngnói: "Tôi không phải đến phương Tây để có thêm vài ba tín đồ Phật tử, nhưng là để chia xẻ kinh nghiệm một nền minh triết mà Phật giáo đã phát triển qua nhiều thế kỷ". Và ngài hay thêm vào đoạn cuối các bài giảng: "Nếu các ông thấy cái gì có ích trong những gì tôi trình bày thì xin quên nó đi". Và ngài thường bảo các Lạt Ma Tây Tạng hay du hành: "Các ông không nên quá ca ngợi Phật giáo, các ông chỉ cần chia xẻ kinh nghiệm giữa con người và con người mà thôi". Hơn nữa khi người ta cố gắng cải đạo cho một người nào, có thể là người ta cố gắng cải đạo cho một người nào, có thể là người ta thất bại và hơn nữa, vô tình người ta làm cho người tín đồ kia giảm đi lòng tin vào đạo của chính mình. Một cuộc vận động như vậy là nên tránh. Hay hơn hết là nên khuyến khích tín đồ các tôn giáo khác, thâm nhập sâu hơn vào đạo của mình. Vấn đề là làm cho mọi người đều thoải mái. Nhưng cũng không ngăn cấm những người thiết tha muốn gia nhập Phật giáo vì một thiên hướng nào đó. Nếu như vậy họ cần phải học hỏi và hành trì nghiêm túc để đi đến tận cùng con đường của mình giống như một người đào giếng phải cố gắng đào cho đến khi thấy nước. Luôn luôn cởi mở và khoan dung với các tôn giáo khác, tuy nhiên khi đã chọn con đường mình sẽ đi thì phải quyết tâm đi đến cùng. Thật là vô ích khi ra công đào 10 giếng, rồi bỏ dở giữa chừng mà không tìm thấy nước.

Vài trăm người Tây phương đã thực hiện việc nhập thất trong 3 năm, 3 tháng, 3 ngày theo truyền thống Tây Tạng. Trong 3 năm nhập thất đó, các hành giả cách ly với thế gian và hành thiền. Trong 3 năm đó mỗi ngày họ học 1 hoặc 2 giờ triết lý hoặc các bản văn Phật giáo về thiền định, đôi khi họ cũng học tiếng Tây Tạng. Thời gian còn lại, từ sáng sớm cho đến khi hoàng hôn xuống họ cố gắng thâm nhập những gì đã học vào con người của họ.

Jean Francois : Thâm nhập vào con người của họ. Con người nào?

Matthieu : Hãy nói rằng vào giòng tư tưởng của họ. Vấn đề là làm sao cho điều họ đã học không là lý thuyết suông. Ta đã đề cập đến các kỹ thuật nhằm thoát ra khỏi tư tưởng một khi chúng xuất hiện, để chúng không có thời gian để hình thành, phát triển và chiếm lĩnh tâm trí.

Jean Francois : Thoát ra hay là khép vào kỷ luật?

Matthieu : Chúng ta đã thấy phải làm thế nào để kiểm soát tư tưởng bằng cách dùng những tình cảm đối trị với những tình cảm tiêu cực (ví dụ lấy từ bi hoá giải hận thù), nhưng người ta có thể dùng một phương pháp có bản hơn là khi một tư tưởng xuất hiện hãy ngắm nhìn nó và nhận ngay rằng nó không chắc thật một chút nào cả. Ngay khi ta chú ý đến nó, nó liền tan rã như một sắc cầu vồng trong không gian. Ðó là điều mà ta gọi là giải thoát hay tháo gỡ một tư tưởng, không để cho mó khởi động một phản ứng dây chuyền. Những tư tưởng tan biến không để lại dấu vết, không được nối tiếp bởi lời nói hay hành động, thường là biểu hiện thông thường của một tình cảm như sân hận, ham muốn v.v...Dù trong trường hợp nào đi nữa, người ta cũng không còn bị đặt dưới cái ách của tư tưởng. Người ta trở nên giống như một kỵ sĩ lão luyện, ban đầu hơi khó khăn khi ngồi trên yên nhưng sau đó giống như các kỵ sĩ Tây Tạng có thể cúi xuống để nhặt một vật khi đang phi nhanh mà không ngã ngựa.

Jean Francois : Ở đây Ba muốn nói thêm một chút. Ba nhìn nhận rằng Phật giáo đã trình bày các kỷ luật cá nhân một cách mới mẻ cho Tây phương. Tuy nhiên, các kỷ luật ấy cũng không xa lạ gì với tdp. Trong các triết thuyết Tây phương, người ta phân biệt rất rõ ràng giữa các tư tưởng vô tổ chức và các tư tưởng có tổ chức. Người ta vẫn biết rằng một tư tưởng cô tổ chức sẽ kéo theo nhiều tư tưởng khác một cách ngẫu nhiên và mặt khác một tư tưởng có tổ chức sẽ được hứong dẫn, điều khiển, ví dụ như tư tưởng toán học hay các lập luận. Những người Tây phương là những nhà lý luận lớn. Từ Aristote đến Bertrand Roussel qua Leibniz, nghệ thuật dẫn đạo tư tưởng không để nó trở thành biến trình tư tưởng, luôn luôn là một kỷ luật được tuân theo qua các thời đại. Ðó cũng là mục tiêu chính của sự hình thành triết lý.

Matthieu : Ba tưởng rằng các nhà toán học không có những tình cảm sai lạc sao? Con cầu mong cho họ được như vậy. Dù sao, Phật giáo như cón đã nói, không có ý định khám phá ra điều gì mới lạ, nhưng trái với những truyền thống tâm linh và triết lý của thời đại chúng ta, Phật giáo đem các hiểu biết về lý thuyết ra thực hành một cách sống động và cương quyết. Chính cái khía cạnh thực hành có hiệu quả đó đã lôi kéo những người chú ý đến siêu hình học, nhưng không biết làm sao để áp dụng nó vào đời sống thường nhật.

Jean Francois : Phật giáo có thể dành cho mọi người không, cho dù là những người không thích sống ẩn cư hay sống trong các chùa chiền?

Matthieu : Ðó lại là một khía cạnh khác đáng chú ý. Không phải ai cũng có thể hay cũng muốn sống ẩn cư ba năm hay sống trong một tu viện vì lý do gia đình hay nghề nghiệp. Nhưng những phương pháp chuyển hoá tâm thức có thể được áp dụng từng giây phút trong cuộc sống giúp cho cả những người bình thường được lợi ích đáng kể. Phật giáo trước tiên là một khoa học tâm linh và có thể đáp ứng được rất nhiều vấn đề xã hội nhờ vào sự khoan dung, sự bất bạo động đối với chúng sinh và môi trường. Với mỗi người dù là tu sĩ hay không, đều có chung một con đường. Ở Châu Á, Phật giáo tiếp tục có một sức sống mãnh liệt. Những người lưu vong Tây Tạng đã xây cất lại những tu viện khi họ có thể làm được, dù rằng họ rất thiếu thốn. Các tu viện này tràn đầy tín đồ, và giữa 130 ngàn người lưu vong Tây Tạng ở Ấn Ðộ, có đến 1/10 lại tiếp tục sống trong các tu viện.

Jean Francois : Còn ở Tây phương thì sao?

Matthieu : Phật giáo gây nên một sự chú ý luôn luôn tăng cường dựa trên ý muốn một sự trao đổi, một sự cởi mở. Người ta không học hỏi để trở thành Phật tử, mà đôi khi để hiểu sâu hơn về đạo của mình, hay khám phá ra chân lý nội lực nhờ vào một vài phương pháp trong Phật giáo.

Jean Francois : Có phải Phật giáo là một đạo hổn hộp không? Có nghĩa là lấy ở học thuyết này một ít, học thuyết kia một ít. Ðạo hỗn hợp không phải là đạo có mức độ tư tưởng cao siêu nhất.

Matthieu : Chắc chắn là không phải. Ðức Ðại Lai Lạt Ma đã nhấn mạnh rằng không ích lợi gì đặt một cái đầu trâu trên thân một con cừu. Ðạo hỗn hợp màm mờ nhạt, làm mất bản sắc những truyền thống tâm linh mà mó muốn pha trộn. Con muỗn nói đến một vài kỹ thuật làm chủ tâm linh hay thiền định mà giá trị được công nhận tổng quát. Năm 1984, Ðức Ðại Lai Lạt Ma được mời một tuần lễ ở Anh quốc để chú giải về Phúc âm. Ban đầu ngài tự bảo: "Ta phải làm sao đây ta có bao giờ học phúc âm đâu? Ta có thể nói gì được từ nguyên tắc một vị Thường đế sáng tạo mà chúng ta không đặt ra trong Phật giáo. Ðiều này có vẻ khó giải quyết. Tuy nhiên ta cứ thử, tại sao không?" Và ngài đã chú giải một vài đoạn trong Phúc âm trước một cử toạ gồm có những tu sĩ và cả những người vô thần. Ðiều đáng ngạc nhiên là trong khi người đọc và chú giải kinh Thánh, những vị linh mục, những tu sĩ , những vị nữ tu đã cảm động bật khóc và có cảm giác như mới nghe những đoạn kinh ấy lần đầu. Vì sao thế? Vì Ðức Ðại Lai Lạt Ma nói về tình thương, về lòng bác ái và những lời nói của ngài là biểu hiện trực tiếp kinh nghiệm bản thân của ngài. Ngài đã sống đúng như những gì ngài đã nói. Người phương Tây rất cảm kích về khía cạnh sống động của truyền thống. Tạng thư về sự sống và cái chết của Soygal Rinpotché đã xuất bản đến một triệu ấn phẩm và dịch ra 26 thứ tiếng.

Jean Francois : Có phải là một cuốn sách xưa, một cuốn sách cổ điển?

Matthieu : Không phải, không phải là bản dịch cổ xưa "Tử thư Tây Tạng" giai đoạn chuyển tiếp sau khi chết. Cuốn "Tạng thư về sự sống và chết" là một sự giải thích đơn giản và trực tiếp về nền minh triết Tây Tạng với những giai thoại về những cuộc gặp gỡ của Soygal Rinpotché với các đạo sư nhưng thật ra đây là một quyển sách về sự sống: Phải sống cuộc đời minh như thế nào? Phải đối mặt với cái chết như thế nào? Làm thế nào để giúp đỡ những người hấp hối? Làm thế nào cho cuộc đời có một ý nghĩa? Và làm thế nào để một cái chết yên lành là điểm cao của một đời sống tốt.

Jean Francois : Cũng rất đáng chú ý khi những triết gia thế hệ mới ở Pháp, càng ngày để tâm đến Phật giáo. Ba hiện có trong tay quyển sách của Luc Ferry "Con người là thần linh hay là ý nghĩa của cuộc sống" là một tiểu luận rất hay xuất bản năm 1996 và đã thành công vang dội. Cuốn sách dựa vào quyển "Tạng thư sống và chết" và phát triển một vài tư tưởng Phật giáo mà tác giả đặc biệt chú ý. Tuy nhiên, ông ta cũng nêu lên một sự bất đồng căn bản khi nói rằng: "Tốt thôi. Một cuộc sống ẩn dật, trốn tránh cuộc đời...". Nhưng cho dù với rất nhiều lòng bác ái cho toàn thể nhân loại nhưng điều đó cũng không giải quyết được vấn đề Auschwits (dưới đời Ðức quốc xã) hay ở Bosnia (giữa người Albani và Nam tư). Con có gì để trả lời về sự bất đồng này.

Matthieu : Phải đánh tan một sự hiểu lầm mà người ta cũng tìm thấy ở Ðức giáo hoàng Jean Paul II. Trong quyển sách của mình "Ði vào hy vọng" ngài xác định rằng theo Phật giáo cần phải cắt đứt mọi liên lạc với thế giới bên ngoài và dần dần với sự thoát ly ấy chúng ta sẽ trở thành lạnh nhạt với tất cả mọi thứ trong cuộc đời. Ngài miêu tả Niết bàn như một sự vô cảm đối với thế gian. Những điều đó hoàn toàn trái ngược với Phật giáo, nhưng có thể tha thứ được vì người ta thiếu thông tin. Vì lẽ mục đích của Phật giáo là đạt tới một sự hiểu biết tối hậu về thế giới hiện tượng trong cũng như ngoài. Trốn tránh thực tại không giải quyết được gì. Niết bàn hoàn toàn trái ngược với sự vô cảm đối với thế gian, đời sống lại là tình thương và lòng bác ái với toàn thể chúng sinh. Một lòng nhân ái vô biên đến từ sự minh triết, từ sự nhận ra là ở mỗi chúng sinh đều có Phật tánh, và cái lòng nhân ái đó không hạn chế vào loại chúng sinh nào, như trường hợp tình yêu bình thường. Cái điều duy nhất mà ta phải cắt đứt đó là sự dính mắc ngây thơ và duy ngã vào những sự mê hoặc của dục lạc, của chiếm hữu, của quyền lực v.v...

Jean Francois : Jean Paul II cũng nghĩ rằng theo Phật giáo, việc xa rời các giác quan cũng là một mục tiêu cần phải đạt đến.

Matthieu :Mục đích là không còn phải kên thuộc vào giác quan và như vậy không còn đau khổ giống như con thieu thân lao vào ngọn lửa. Kẻ nào đã rời bỏ mọi dính mắc, có thể hưởng thụ vẻ đẹp tuyệt vời của thế gian, và còn thể trở lại đó để phát huy lòng từ ái vô biên mà không bị những tình cảm lệch lạc sai sử nữa.

Jean Francois : Ðức giáo hoàng khẳng định rằng theo Phật giáo sự giải thoát là giải thoát khỏi cái ác nhờ vào sự từ bỏ thế gian là nơi bắt nguồn cái ác.

Matthieu : Tất cả đều tuỳ thuộc ở chỗ ta hiểu thế nào là thế gian. Nếu đó là thế gian bị quy định, đau khổ cho những ai bị vô minh che lấp, thì có ai là không muốn giải thoát? Nhưng thế gian tự nó không xấu vì đối với một kẻ giác ngộ như Ðức Phật thì đó là một sự trong sáng vô biên, một sự hoàn mỹ không bao giờ hư hoại. Nhưng nói theo Jean Paul II rằng thần bí học Carmel bắt đầu khi tư tưởng Ðức Phật chấm dứt thì có vẻ hơi phiến diện đấy. Làm thế nào để thẩm xét từ bên ngoài, sự thâm sâu của giác ngộ nơi Ðức Phật. Kinh điển Phật giáo có ghi lại của Ðức Phật khi người chứng ngộ: "Chân lý mà ta nhận biết đó rất xâu xa, tĩnh lặng, không bị quy định, sáng ngời và ra ngoài mọi tạo tác của tâm thức". Ðiều này hoàn toàn khác hẳn một tư tưởng đơn thuần. Ðức giáo hoàng đã nhắc lại một tri kiến lỗi thời dựa trên bản dịch các văn bản Phật giáo vào thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20. Dựa trên những hiểu biết không đầy đủ, tác giả các bản dịch đó chỉ ghi lại sự chú tâm của Ðức Phật vào nỗi khổ là một sự tắt ngấm, trong khi đó là một sự tỉnh thức lợi cho mình và cho người. May mắn thay nhiều tín đồ Thiên chúa siêu việt như Thomas Merton, tu sĩ thời danh người Mỹ dòng Trappé ( khổ hạnh) mà các tác phẩm rất phổ biến ở Mỹ đã được giáo hoàng Jean 23 phái đi Á đông đã đánh giá rất cao Phật giáo. Thomas Merton đã chị khó nghiên cứu cốt tuỷ của Phật giáo. Sau một thời gian gần gũi các đạo sư Phật giáo, ông đã viết trong quyển "Nhật ký Á châu": "Chắc chắn rằng tôi sẽ hạnh phúc được biết thêm nhiều điều qua kinh nghiệm. Tôi nghĩ rằng Phật tử Tây Tạng là những người duy nhất cho đến nay đã tập hợp được một số đông tín đồ thành tựu được những đĩnh cao về thiền định".

Trong cuộc hội họp tôn giáo về Phúc âm mà con đã đề cập trước đây theo lời của cha Laurence Freeman, một con người gương mẫu trong đối thoại thì Ðức Ðại Lai Lạt Ma với sự cởi mở thường lệ đã nói: "Tôi nghĩ rằng giữa truyền thống Phật giáo và Công giáo có một sự hội tụ đặc biệt, và một tiềm năng phát huy hỗ tương do đối thoại nhất là trong địa hạt đạo đức, kinh nghiệm tâm linh cũng như lòng bác ái, tình thương, thiền định và sự tiến bộ trong khoan dung độ lượng. Tôi nghĩ rằng cuộc đối thoại đó có thể đi rất xâu xa và đạt đến một mức độ rất sâu sắc". Nhưng đồng thời cũng lưu ý thính giả về xu hướng một sự hỗn hợp thế gian rất đổi vô ích.

Jean Francois : Nói về tình yêu đồng loại, những tôn giáo lớn từ khởi tuỷ đã có hai đối tượng để thù ghét: những người dụ giáo và những kẻ cuồng tín. Và họ không ngần ngại tàn sát những hạng người này.

Matthieu : Theo Phật giáo, khinh rẽ những tôn giáo khác là một trọng tội, dù cho người ta có không đồng ý về vài quan niệm siêu hình.

Jean Francois : Ðôi khi người ta nghe nói: "Phật giáo có thể làm được gì trong việc đem lại hoà bình cho thế gian?" Ðó là một triết lý của sự cởi bỏ ràng buộc, và do đó người ta không còn quan tâm đến xã hội. Những tu sĩ sống biệt lập trong những rừng núi và cầu nguyện cho mọi người nhưng thực tế họ không làm gì được cho nhân loại, họ chỉ lo tu sửa để hoàn thiện bản thân của họ và như vậy thì có lợi ích gì cơ chứ?

Matthieu : Người tu nhập thất xa lánh thế gian để củng cố sức mạnh tâm linh ngõ hâu phục vụ kẻ khác hữu hiệu hơn. Con đường tâm linh bắt đầu bằng một sự chuyển hoá nội tâm, và một khi họ đã thành tựu điều này thì hành giả mới có thể góp sức hữu hiệu vào sự cải tạo xã hội.

Ðức Ðại Lai Lạt Ma nói rằng sự giải giới bên ngoài không thể thực hiện được trừ phi có cuộc giải giới trong lòng người. Nếu cá nhân không yêu hoà bình, thì xã hội là cộng đồng của những cá nhân ấy, cũng không thể yêu hoà bình được. Những ca nhân noi theo và nuôi dưỡng các ý tưởng Phật giáo không thể quan niệm nổi việc làm hại người khác. Một xã hội bao gồm đa số là Phật tử đích thực, không bao giờ khởi hấn chiến tranh.

Jean Francois : Vậy là mục tiêu của một nền hoà bình trường cửu chỉ có thể thực hiện được nhờ vào sự chuyển hoá cá nhân?

Matthieu : Ngược lại là điều không tưởng. Sự chuyển hoá cá nhân dĩ nhiên là phải bao gồm cả cấp lãnh đạo. Ðức Ðại Lai Lạt Ma luôn luôn nhấn mạnh đến sự kiện không thể chấp nhận được là các quốc gia Tây phương mãi lo luôn bán vũ khí mà quên rằng họ có thể bị bắn dtrở lại bằng chính các vũ khí đó. Không thể chấp nhận được là các quốc gia Tây phương tự cho mình là văn minh và có ý định thiết lập một nền hoà bình thế giới lại đi bán những dụng cụ giết người vì lý do thương mại. Cũng không nên quên rằng 90% các vũ khí bán ra cho các nước đang phát triển, xuất phát từ 5 thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an liên hiệp quốc. Thật là một biểu hiện đạo đức giả đối với các nước tự cho mình là vô địch trong việc bảo vệ hoà bình và dân chủ.

Khi buôn bán vũ khí như vậy, họ chỉ phát động thêm hiểm hoạ chiến tranh mà thôi. Các nhà máy của hãng Fiat chế tạo hàng loạt mìn sát thương, và bây giờ họ lại nghĩ đến việc chế tạo ra các loại mìn bằng chất dẻo để khỏi bị phát hiện. Và chắc là ông tổng giám đốc và các cổ đông hãng Fiat sẽ rất hài lòng về số đàn bà và trẻ con đã dẫm lên các quả mìn đó trong nhiều năm có chiến tranh. Và hãng Fiat lại có thủ lợi thêm nữa bằng cách bán chân tay giả cho những người sống sót. Lẽ ra các hãng đó chỉ nên bằng lòng với việc bán ôtô và máy tính mà thôi.

Jean Francois : Ba hoàn toàn đông ý. Thật là kinh khủng.

Matthieu : Bây giờ lại nói về môi trường. Ðức Ðại Lai Lạt Ma nói đến một sự bạo động không những đối với con người mà tất cả đối với thiên nhiên. Ở Bhoutan đánh cá và săn bắn bị hoàn toàn cấm chỉ, đó là một tấm gương tốt trong việc thực hiện các lý tưởng Phật giáo trong xã hội. Một quốc gia Phật giáo trong xã hội. Một quốc gia Phật giáo sẽ không ngần ngại ngăn cấm việc dùng các tấm lưới dài 40 cây số để bắt tất cả mọi loài cá, cả cá heo và tàn phá môi trường thủy sản. Tất cả những sự cuồng sát đó chẳng qua là vì lợi nhuận và vì con người tự cho mình la có quyền giết hại vô số động vât, đơn giản là vì mình có khả năng làm việc đó.

Jean Francois : Liên hiệp Âu châu đã cấm chỉ các loại lưới đó.

Matthieu : Nhưng Nhật bản và Ðài Loan tiếp tục tàn hại các đại dương.

Jean Francois : Trong tất cả những gì con vừa nói, có vài điều thuộc riêng về Phật giáo, một vài điều khác cũng đã được những người có thiện chí nêu lên. Các ý niệm thành lập một lực lượng đa quốc gia để kiểm soát những lực lượng những lực lượng quốc gia, đã là ý niệm của Liên hiệp quốc ngày nay và cũng là của Liên hiệp châu âu muốn xây dựng một thứ quân đội một thứ quân đội Âu châu gồm nhiều quốc gia. Lý tưởng đó luôn trở đi trở lại. Cũng như có những cuộc họp định kỳ về giải giới. Nhưng đi xa hơn là điều con đã lưu ý rằng không thể ngăn được các nhóm sắc tộc tàn sát lẫn nhau như ở Bosna, ngày nào người ta chưa chuyển hoá được con người, chưa biến từng co người thành bất bạo động. Nhưng ở đây thì các triết lý về sự cải tạo bản chất con người rất nhiều. Ba còn thể nói rằng tấ cả những nên minh triết những tôn giáo lớn đều có đề cập đến những khả năng đó. Và cho đến bây giờ là một sự thất bại hoàn toàn! Các ý niệm biến con người, từng cá nhân một, trở nên yêu chuộng hoà bình, để cho toàn thể nhân loại trở thành thù nghịch với bạo động, là một việc trên thực tế không thể thực hiện được. Ít ra là trong thế kỷ hiện nay, chúng ta không tiến bộ chút nào trên con đường này.

Matthieu : Ðúng vậy, nhưng mặt khác việc cải tạo từ bên ngoài bằng cách áp đặt lên những cá nhân cứng đầu, ngoan cố những luật lệ gắt gao, ngay cả một thể chế độc tài không những không thực hiện được, mà lại còn băng hoại ngay tại gốc rễ. Người ta có thể hà khăc một thời gian nào đó, nhưng sau đó những kẻ bị áp bức, luôn luôn bày tỏ sự bất bình và tìm cách thoát khỏi những kẻ áp bức bằng hoà bình hay bạo động. Họ sẽ tìm các tự võ trang và sử dụng vũ khí.

Jean Francois : Có thể chăng một thái độ như vậy được toàn thể nhân loại chấp nhận? Phật giáo luôn luôn ghê sợ phải dùng đến bạo lực để áp đặt quan điểm của mình, hay để tự bảo vệ. Ngược lại những tôn giáo lơn mà chúng ta đã biết thường qua lưng lại với lý tưởng của họ. Cơ đốc giáo cũng đặt nền tảng trên sự bất bạo động. Ðấng Christ đã chẳng nói: "Nếu ai tát má phải của người, hãy đưa nốt má trái ra và hãy thương yêu lẫn nhau". Mặc dù thế, nhà thờ đã dùng thời gian để tận diệt những kẻ không chịu cải đạo, cũng như những kẻ cuồng tín dám cả gan chống đối lại Ðức Giáo hoàng như vào thời Galileé khi nhà bác học này chủ trương trái đất xoay chung quanh mặt trời, trái với quan niệm toà thánh. Vì vậy cái khả năng con người làm trái lại với lý tưởng của họ, luôn luôn xuất hiện trong lịch sử. Ba tự hỏi điều này có giới hạn ảnh hưởng của Phật giáo đối với phương Tây hay không?

Matthieu : Cũng có thể là những người muốn tìm hiểu Phật giáo đã cố gắng đưa vào phương Tây những nguyên tắc khoan dung của Phật giáo, đã làm cho họ được nhiều cảm tình hơn. Dù sao đi nữa phải tự thanh tịnh lòng mình, giai giới nội tâm rồi đến sự bình an trong gia đình, trong làng mạc, rồi làn rộng ra cả quốc gia và ảnh hưởng vượt qua biên giới. Khi trình bày như vậy Ðức Ðại Lai Lạt Ma hy vọng giúp đỡ mọi người tìm lại đúng những truyền thống tâm linh của chính họ. Như vậy thái độ của chúng tôi không phải là của các nhà truyền giáo. Sự trở lại các hình thức tôn giáo cực đoan là do thiếu vắng các truyền thống tâm linh. Thái độ cực đoan trong tôn giáo là thếu khôn ngoan. Thiếu sáng suốt là vì ta phải hướng dẫn những người lầm lạc thay vì loại bỏ họ.

---o0o---

Chương VII

NGUỒN GỐC CỦA BẠO ÐỘNG

Jean Francois : Những điều chúng ta vừa đề cập đến một vấn đề siêu hình, vấn đề cái ác. Về vấn đề này, Ba muốn biết lập trường của Phật giáo, vì lẽ đặc trưng của các tôn giáo lớn cũng như của các nền triết học Tây phương là chấp nhận đặt vấn đề cái ác. Nghĩa là chấp nhận ý niệm có cái ác trong lòng mỗi con người. Ðây là một vấn đề siêu hình và đạo đức lớn, cũng là của các tôn giáo lớn và các triết lý lớn, cũng là của các tôn giáo lớn và các triết lý lớn, đặc biệt là trong Cơ đốc giáo mà ý niệm tội ác dính liền với ý niệm tội tổ tông. Và trong các triết thuyết lớn triết thuyết lớn, triết thuyết Descartes, Leibniz cái ác đặt ra một vấn đề đáng lo ngại cho các triết gia vốn là tín đồ Cơ đốc, và hệ thống triết lý của họ đặt nền tảng trên ý niệm một thượng đế toàn năng tiêu biểu cho trí huệ tuyệt đối và lòng nhân ái vô biên. Làm thế nào một Thượng đế như vậy lại cho phép cái ác xuất hiện và tồn tại? Ðó là một vấn đề đã đặt ra một rào cản không thể vượt qua cho các triết gia, cũng như cho các nhà thần học, và đã không được giải quyết thoả đáng trong bối cảnh siêu hình mà nó được đặt ra. Tất cả giải pháp mà người ta đã đề nghị để vượt qua sự mâu thuẫn đó đều không thoả đáng. Phật giáo nghĩ gì về cái ác sẵn có ở mỗi con người?

Matthieu : Không, trên căn bản cái ác không hiện hữu vì lẽ bản chất tối hậu của mọi chúng sinh là hoàn hảo. Sự hoàn hảo này vẫn nằm sâu trong lòng chúng ta và bị lấp che bởi vô minh sân hận và tham ái. Vấn đề cái ác thật khó giải quyết với những người xem sự sáng tạo như là công cụ của Thượng đế, và như vậy xem Thượng đế như phải chịu trách nhiệm về cái ác cũng như cái thiện. Theo Phật giáo, Phật tánh ở trong mọi chúng sinh giống như dầu ở trong hạt mè. Phật tánh có thể bị ngăn che, nhưng chỉ cần được phát hiện, được biểu lộ khi ta vén mở bức màn vô minh, và những tình cảm lệch lạc do vô minh gây nên. Những bức màn vô minh đó không thuộc Phật tánh, chúng chỉ ngăn che chứ không thuộc Phật tánh, chúng chỉ ngăn che chứ không mất Phật tánh đó. Tuy nhiên rất dễ dàng để đánh lạc hướng Phật tánh đó và rơi vào trong những tư tưởng nhị nguyên, tiêu cực biểu lộ bằng những tư tưởng nhị nguyên, tiêu cực biểu lộ bằng những lời nói và hành động mang lại đau khổ. Thật ra không có đối nghịch giữa cái thiện và cái ác, nó chỉ tuỳ theo cách chúng ta nhìn nhận sự vật. Nó chỉ là một thứ ảo giác. Cái sai không thật có và cũng và cũng không phải là yếu tố tạo thành cái đúng. Cái ác chỉ là một sự sai lầm, cũng như một sự sai lầm là do nhận định sai thực tế. Sự nhầm lẫn, sự thật tương đối trong đó chúng ta sống, là do một sự chia chẻ của sự thật vì lẽ chúng ta không nhìn thấy được uyên nguyên của sự vật và các hiện tượng. Cái ác chỉ có theo một hình thái ảo tưởng và khi chúng ta giác ngộ được Phật tánh, thì ta sẽ nhận ra sự sai lầm là không hề có.

Jean Francois : Như vậy không phải như bên Cơ đốc giáo con người không rơi vào tội Tổ tông.

Matthieu : Không hề có tội Tổ tông, mà chỉ là sự quên đi Phật tánh và khi quên đi Phật tánh thì có ta có người, với mọi sự thương ghét vị ngã đem lại đau khổ.

Jean Francois : Vậy thì những tình cảm tiêu cực từ đâu tới, nếu người ta bản nguyên là thiện.

Matthieu : Thật ra tình cảm và đau khổ không hề xảy ra vì lẽ không có gì là chắc thật, và khi người ta đạt đến giác ngộ, người ta như tỉnh dậy sau một cơn ác mộng. Vô minh không hề có. Một bậc giác ngộ như Ðức Phật xem vô minh của con người giống như là một người có thể đọc được tư tưởng của một kẻ đang ngủ sắp rơi vào ác mộng, và Ngài không bị nó lừa gạt.

Jean Francois : Thật dra tình cảm và đau khổ không hề xảy ra vì lẽ không có gì là chắc thật, và khi người ta đạt đến giác ngộ, người ta như tỉnh dậy sau một cơn ác mộng. Vô minh không hề có. Một bậc giác ngộ như Ðức Phật xem như vô minh của con người giống như là một người có thể đọc được tư tưởng của một kẻ đang ngủ sắp rơi vào ác mộng: Ngài biết bản chất của cơn ác mộng, và Ngài không bị nó lừa gạt.

Jean Francois : Nói hay đấy! Dù cái ác có không thật, nó cũng hành hạ chúng ta. Nếu mọi thứ bản nguyên là tốt thì cái ác từ đâu ra?

Matthieu : Ðúng là cái ác có biểu hiện, nhưng nó không thật có. Nếu người ta nhận lầm một sợi dây là con rắn, con rắn không có thật, chỉ do tưởng tượng ra và chỉ có trí huệ mới làm tan biến vô minh. Ta có thể rửa sạch một miếng vàng, chứ ta không thể làm trắng một hòn than được.

Jean Francois : Dù rằng cách trình bày không giống nhau trong Cơ đốc giáo và trong bộ môn siêu hình học cổ điển thế kỷ 17 và đầu thế kỷ 18, vấn đề cũng gần giống như nhau. Các triết gia Tây phương rất khó khi phải giải thích là một Thượng đế tràn đầy nhân ái lại có thể cho phép cái ác xuất hiện ở thế gian. Dù người ta có nói rằng cái ác chỉ là một ảo tưởng, điều này thật sự không thoả đáng.

Matthieu : Khi người ta chưa nhận ra bản chất thật sự của sự vật, thì người ta chỉ nhận biết được những biểu hiện của chúng. Thể nhị nguyên ta và người, đẹp và xấu, ưa và ghét, tạo nên một dây chuyền tình cảm lệch lạc. Vô minh xuất hiện như một tấm màn ngăn che khiến con người quên đi và hành động ngược lại với Phật tính vốn có. Cũng giống như một ảo ảnh thúc đẩy tâm làm hại tâm, làm hại chính bản thân mình và người.

Jean Francois :Vậy thì sao những tư tưởng tiêu cực, những mầm mống ác đó lại xuất hiện được. Nếu con người bản nguyên là thiện thì làm sao các ác lại có thể hiện diện được.

Matthieu : Nếu khi nhìn mặt trăng mà ta đè lên hai nhãn cầu ta sẽ thấy hai mặt trăng. Không ích gì để tìm hiểu ai hoặc cái gì đã làm ra mặt trăng thứ hai. Tuy nhiên hãy tưởng tượng một kẻ luôn đè lên mắt mình và như vậy hắn tin rằng có hai mặt trăng. Theo hắn đó là chân lý và hắn sẽ dựng lên đủ mọi lý thuyết về nguồn gốc và bản chất của mặt trăng thứ hai. Nhưng đối với kẻ bình thường thì vấn đề không bao giờ đặt ra, tuy vậy hắn cũng khó mà thuyết phục được kẻ kia nếu anh ta không ngưng lại việc đè lên mắt mình. Vô minh hay nguồn gốc của tội ác và đau khổ luôn luôn có khả năng muốn biểu hiện. Vô minh nằm ngay trong nhận thức nhưng không thuộc bản nguyên của nhận thức. Do đó khi đạt tới giác ngộ, thì thật ra không có điều gì xảy ra cả. Ðây là một vấn đề rất khó giải thích nói đơn giản hơn, vô minh là một sự hiểu lầm ngẫu nhiên đã tạo ra một chuổi ảo tưởng giống như một cơn ác mộng không làm kẻ đang ngủ say thay đổi vị trí, tuy nhiên hắn vẫn thấy hoảng sợ trong tâm. Và kẻ đã tỉnh giấc thì cũng không cần được giải thích là những điều hắn đã trãi qua đều là hư ảo.

Jean Francois : Nhưng những sị kiện không có thật đó vẫn làm hăn đau khổ như thường kia mà.

Matthieu : Ðúng vậy, dù là ở trong mộng con người vẫn cảm thấy đau khổ và cần phải thoát ra. Và như vậy biện minh cho các hành động vị tha, giúp đỡ kẻ khác và tìm học thiền định để giảm bớt hận thù và các nguyên nhân khác của đau khổ. Mà đau khổ thì xuất hiện theo luật nhân quả, là kết quả của nghiệp thân, khẩu, ý. Dù có đau khổ đến đâu thì Phật tính cũng không thay đổi. Vàng không bao giờ bị biến chất dù có bị chôn sâu vào lòng đất, và mặt trời vẫn chói sáng dù cho có bị mây che.

Jean Francois : Câu trả lời không làm Ba hài lòng chút nào. Nó tương tự như câu của Leibniz để giải thích sự mâu thuẩn trong một thế giới đẫy dẫy cái ác trong khi Ðấng sáng tạo ra thế giới ấy là hiện thân của lòng nhân ái. Người ta cố gắng giải thích sự xuất hiện của cái ác như là ngẫu phát chứ không do chính Thượng đế gây nên. Nhưng giữa hai điều phải chọn một: hoặc là Thượng đế toàn năng thì Ngài phải chịu trách nhiệm về cái ác, hoặc là Ngài không phải là Thượng đế.

Matthieu : Ðấy là một lập luận mà Phật giáo dùng để bác bỏ quan niệm một Thượng đế toàn năng.

Jean Francois : Leibniz, với một sức tưởng tượng siêu hình phong phú, đã dựng lên một lý thuyết thời danh về một thế giới hoàng kim mà Voltaire đã chế tiễu trong quyển Candide. Còn triết gia Manès thì khẳng định rằng có hai thế lực khác nhau và độc lập trong thế gian này, đó là cái thiện và cái ác, thuyết này đã bị Nhà thờ lên án, và kok được các triết hia khác như Kant công nhận. Ðây là một vấn đề siêu hình rất khó giải quyết thoả đáng. Dù sao thì Phật giáo khác Cơ đốc giáo ở chỗ không nhìn nhận có tội Tổ tông.

Matthieu : Thật ra cái gọi là tội lỗi không thật sự hiện hữu. Do đó không có hành động hay tư tưởng tiêu cực nào mà không có thể tẩy rửa, thanh lọc hay sửa đổi.

Jean Francois : Mặt khác thì Thượng đế không thể bị tố cáo là tác giả của cái ác vỉ Thượng đế không hiện hữu.

Matthieu : Chính chúng ta hoàn toàn chịu trách nhiệm về các nỗi đau khổ của chúng ta. Chúng ta thừa hưởng qua khứ và làm chủ tương lai. Hơn nữa điều quan trọng không phải là khía cạnh siêu hienh của cái ác và những đau khổ mà nó đem đến, mà chính là phương cách mà chúng ta khắc phục nó. Một ngày nọ, Ðức Phật cầm một nắm là trong tay và hỏi các đên tử: "Lá trong tay ta nhiều hay là trong rừng nhiều? "Các đệ tử trả lời rằng dĩ nhiên là lá trong rừng nhiều hơn. Ðức Phật đã nói tiếp: "Những điều ta biết như lá trong rừng nhưng ta đã không nói ra, vì có những điều không ích lợi cho việc chấm dứt đau khổ và đạt đến giác ngộ"

Jean Francois : Nếu con người bản nguyên là thiện thì làm sao giải thích về bạo lực trên thế gian này?

Matthieu : Ta có thể hiểu Phật tính như một trạng thái quân bình ở con người, và bạo lực là sự mất đi cái quân bình đó. Bằng chứng là bạo lực không nằm trong Phật tính vì lẽ nó đem lại đau khổ vừa cho người bị hại vừa cho kẻ hại người. Mơ ước sâu xa của con người là sống hạnh phúc. Và người ta đã chẳng nói, khi một con người nổi cơn thịnh nộ là hắn đã quên mất mình hoặc là hắn không còn là con người của hắn nữa. Làm hả lòng căm ghét bằng cách giết một con người không bao giờ đem lại một sự an bình, một sự thoải mái mà chỉ là một kẻ cảm giác khoái trá ngắn ngủi. Trái lại, kẻ sát nhân luôn bấn loạn, lo âu và đôi khi còn đưa đến việc tự sát nữa.

Người ta cũng có thể trở nên vô cảm với tội ác giống như các trẻ em Phi châu mà bọn lính đánh thuê đã buộc các em phải giết hại người thân để tiêu diệt ở các em mọi nguồn cảm xúc và biến các em thành những kẻ giết người không gớm tay. Người ta thường bảo các tên sát nhân chuyên nghiệp là chúng không còn một chút gì thuộc về con người. Ngược lại, có những kẻ thù không đội trời chung bỗng chốc hoà giải được với nhau và họ sẽ cảm thấy cùng vơi một sự nhẹ nhõm là một niềm phúc lạc lơn có lẽ đến từ Phật tính sẵn có của họ.

Jean Francois : Ba không quá lạc quan như con về sự hối tiếc của các tên đại sát nhân. Hitler đã tự vẫn vì thua trận không phải vì hắn hối tiếc những việc đã làm. Sự hối tiếc đưa đến tự sát của các tên giết người là rất là hãn hữu.

Matthieu : Không phải là sự hối tiếc, mà là sự đau khổ, sự mất hoàn toàn an tịnh nội tâm.

Jean Francois : Ba rất bi quan về việc tận diệt cái ác. Trái với Rouseau, Ba tin rằng con người vốn dĩ ác và chính xã hội mới biến nó thành thiện, nếu xã hội dựa vào luật pháp. Thỉnh thoảng có một vài mẫu xã hội khiến con người bớt đi cái ác. Vì sao? Vì cái ác là không hợp lý.

Matthieu : Con sẽ nói rằng trái với luật tự nhiên. Dù cho là các sự tranh chấp lãnh thổ, nguồn nước, mọi nguyên nhân gây ra xung đột trên thế giới đến từ ý niệm người ta làm hại tôi và rồi căm ghét và thù hận đi theo liền đó. Vậy là ta cần làm chủ tư tưởng của ta, để chúng không phát triển khiến ta phải hành động sai quấy. Cũng giống như ta phải dập tắt ngay ngọn lửa khi nó phát khởi, trước khi cả khu rừng bốc cháy.

Jean Francois : Nhưng làm sao cắt nghĩa được con người thích xa rời Phật tánh hơn là gần gũi nó.

Matthieu : Một ngạn ngữ Ðông phương có nói. "Với sự kiên nhẫn, thì vườn cây ăn trái sẽ biến thành mứt." Dù biết rằng cần rất nhiều thời gian, nhưng thật sự ta không có cách nào khác. Nếu đau khổ luôn xuất hiện, cách duy nhất để thoát khổ là cải tạo lại con người. Sự cải tạo sẽ lan rộng từ cá nhân đến gia đình, đến làng xã và đến xã hội. Ðiều này có thể thực hiện được nếu mỗi người biết cố gắng góp công sức, nếu tinh thần trách nhiệm đối với nhân loại được xiển dương rộng rãi.

---o0o---

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#goodyear