1 Môi trường vĩ mô
Các yếu tố của môi trường vĩ mô ảnh hưởng đến ngân hàng thường là các
yếu tố chủ yếu sau đây:26
1.1 Môi trường kinh tế
Tăng trưởng kinh tế
Các năm gần đây, kinh tế thế giới luôn luôn tăng tr ưởng, đặc biệt năm
2006 đạt mức tăng trưởng trên 5%. Trong năm 2007, kinh tế thế giới tăng trưởng
chậm lại, có dấu hiệu khủng hoảng lương thực, tài chính; giá vàng, xăng dầu và
các nguyên liệu cơ bản khác tăng đột biến . Đến tháng 9 năm 2008 đã hiện rõ các
khủng hoảng về tài chính và chính phủ các nước cũng đã có biện pháp khắc
phục, giá một số nguyên nhiên liệu giảm xuống.
Nhưng thời gian qua cũng là thời kỳ đánh dấu nhiều thành công của Việt
Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế, trong đó nỗi bật nhất là sự kiện Việt Nam đã
tổ chức thành công Hội nghị APEC lần thứ 14, chính thức trở thành thành viên
thứ 150 của WTO, Hoa Kỳ thông qua Qu y chế thương mại bình thường vĩnh
viễn (PNTR) với Việt Nam. Mặc khác, tốc độ tăng trưởng GDP ngày càng cao.
Năm 1999, do ảnh hưởng cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ châu Á tốc
độ tăng trưởng GDP của Việt Nam đã giảm xuống còn 4,9%. Tuy nhiên đến năm
2000, nền kinh tế đã phục hồi nhanh chóng, tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 6,79%
và liên tục tăng trong các năm tiếp theo.
Khi nền kinh tế tăng trưởng, các doanh nghiệp có nhu cầu về vốn để đầu
tư trang thiết bị hiện đại phục vụ cho việc mở rộng và phát triển hoạt động sản
xuất kinh doanh, việc đầu tư không chỉ dừng lại ở phạm vi quốc gia mà còn
xuyên quốc gia...làm phát sinh mạnh mẽ các nhu cầu dịch vụ đòi hỏi ngân hàng
cung cấp từ dịch vụ thanh toán, bảo lãnh, thuê mua đến chuyển đổi ngoại tệ....27
Chính vì thế, khi nền kinh tế tăng trưởng thì nhu cầu về dịch vụ ngân hàng cũng
tăng theo.
Hoạt động xuất nhập khẩu
Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu tăng liên tục qua các năm như: Xuất khẩu
năm 2005 là 32.447 triệu USD, năm 2006 là 39.826 triệu USD, năm 2007 là
48.561 triệu USD. Nhập khẩu năm 2005 là 36.761 triệu USD, năm 2006 44.891
triệu USD, năm 2007 62.682 triệu USD. Hoạt động xuất khẩu tăng lên làm nảy
sinh nhu cầu dịch vụ ngân hàng như: chiết khấu bộ chứng từ, chuyển đổi ngoại
tệ, vay vốn để sản xuất....
Hoạt động đầu tư
Trong những năm gần đây, việc thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước đã
có những chuyển biến tích cực. Chính phủ đã từng bước cải thiện môi trường
đầu tư, tại điều kiện thuận lợi cho hoạt động của doanh nghiệp. Nhờ đó, vốn đầu
tư toàn xã hội đã có sự gia tăng đáng kể. Nhiều thị trường xuất nhập khẩu mới28
mở ra như thị trường Mỹ, đã trở thành một trong những đối tác thương mại lớn
của Việt Nam.
Tổng vốn đầu tư toàn xã hội năm 2006 đạt 393,5 ngàn tỷ đồng. Trong ba
khu vực kinh tế phân theo thành phần sở hữu thì khu vực có vốn đầu tư nước
ngoài tăng nhanh nhất, 2006 tăng 12,41% so với 2005. Nguồn vốn thuộc khu vực
kinh tế ngoài quốc doanh năm 2006 cũng tăng 3,7% so với 2005. Trong khi đó,
vốn đầu tư ở khu vực kinh tế nhà nuớc giảm 5,6% so với năm 2005. Đây là một
tín hiệu tốt cho thấy nền kinh tế nước ta với sự ổn định chính trị, hành lang pháp
lý được cải thiện ngày càng thông thoáng đang thực sự là điểm đến đầu tư an
toàn và hấp dẫn đối với nhà đầu tư nước ngoài.
.1.2 Môi trường văn hoá, xã hội
Quy mô dân số và cơ cấu dân số
Quy mô dân số cả nước năm 2006 ước tính 84.110 nghìn người, tăng
1,19% so với năm 2005. Cơ cấu dân số có sự thay đổi theo hướng gia tăng dân
thành thị do tốc độ đô thị hoá những năm gần đây rất nhanh , cơ cấu dân thành thị tăng đều qua các
năm. Nếu như trong năm 2002 dân thành thị chỉ chiếm 25,11% tổng số dân cả
nước, đến năm 2006 tăng lên 27,10% và dự báo dân số vào năm 2020 khoảng
90.000 nghìn người, trong đó tỷ lệ dân thành thị chiếm khoảng 35%-50%.29
Quy mô dân số và cơ cấu dân số có ảnh hưởng không nhỏ đến tiềm năng
nhu cầu sử dụng dịch vụ ngân hàng. Việt Nam là nước đang phát triển, người
dân vẫn chưa có thói quen sử dụng dịch vụ ngân hàng, đặc biệt là ở nông thôn.
Chính vì thế khi quy mô dân số tăng và cơ cấu dân số dịch chuyển theo hướng
gia tăng dân thành thị sẽ làm cho nhu cầu sử dụng dịch vụ ngân hàng cũng tăng
theo.
Thu nhập của người dân
Thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam tăng lên, mức sống tăng nên
người dân có tích luỹ sẽ xuất hiện nhu cầu đầu tư các khoản thu nhập của mình
để sinh lời, cũng như nhu cầu vay để tiêu dùng trước. Tất cả họ phải tìm đến thị
trường dịch vụ tài chính từ tư vấn đến kênh đầu tư, quản lý danh mục đầu tư, đầu
tư hộ, môi giới, quản lý ngân quỹ, bảo hiểm... Từ đó nhu cầu về các dịch vụ tài
chính ngân hàng sẽ tăng mạnh.
Những năm gần đây, sự ổn định kinh ntế vĩ mô và tăng trưởng kinh tế của
nước ta làm cho GDP bình quân đầu người và GDP bình quân một lao động
hàng năm tăng liên tục. Cụ thể năm 2006, GDP/người ước tính khoảng 11.578
nghìn đồng, tăng gấp hai lần so với năm 2001 và GDP/lao động ước tính khoảng
22.419 nghìn đồng, cũng tăng gấp hai lần so với năm 2001.
Việc GDP/người và GDP/lao động tăng là một trong những chỉ báo quan
trọng phản ánh mức sống và thu nhập của người dân được nâng cao. Khi đời
sống xã hội được nâng cao sẽ tạo điều kiện phát triển lĩnh vực tài chính ngân
hàng.
Cơ cấu tổng phương tiện thanh toán
Thói quen sử dụng tiền mặt trong thanh toán của người dân tuy có cải
thiện nhưng chưa nhiều.30
Về cơ cấu, thanh toán qua hệ thống ngân hàng chiếm tỷ trọng lớn trong
tổng phương tiện thanh toán và có xu hướng tăng dần qua các năm từ 77,4% năm
2002 tăng khoảng 85,4% năm 2006. Ngược lại, tỷ trọng tiền mặt 2006 tiếp tục
giảm so với các năm trước đó. Điều này cho thấy cơ cấu tổng phương tiện thanh
toán toàn xã hội được cải thiện theo hướng giảm dần tỷ lệ tiền mặt trong nền
kinh tế, đồng thời cũng phản ánh ngày càng mở rộng và phát triển các hình thức
thanh toán không dùng tiền mặt trong dân cư của hệ thống ngân hàng như thẻ
ATM đã góp phần làm giảm khối lượng tiền mặt trong thanh toán. Nhưng thị
trường này chưa phát triển nhiều, chủ yếu mới chỉ tập trung ở phân khúc thị
trường công chức nhà nước, nhân viên văn phòng, công nhân một số doanh
nghiệp lớn. Tính đến cuối năm 2006, số thẻ nội địa phát h ành là 4.298.875 thẻ,
tăng 70% so với năm 2005, số thẻ quốc tế phát hành 242.531 thẻ, tăng 80% so
với năm 2005 với gần 60 thương hiệu, 16 ngân hàng phát hành và hơn 20 ngân
hàng làm đại lý thanh toán. Tổng số máy ATM trong toàn hệ thống các ngân
hàng hiện có là 2.782 máy, tăng 60% so với năm 2005; máy POS có 11.282 máy,
tăng 8% so với 2005( Nguồn: báo cáo Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam - nhiệm kỳ
III). Điều này cho thấy cơ sở hạ tầng thanh toán còn ít, khả năng thuyết phục
người dân còn hạn chế. So với dân số Việt Nam năm 2006 ước tính 84.110 nghìn31
người thì số lượng thẻ phát
hành đến thời điểm này còn khá khiếm tốn, thị trường còn rất nhiều tiềm năng
chưa khai thác.
Giáo dục và đào tạo
Bên cạnh đó, ngành giáo dục và đào tạo cũng phát triển mạnh. Ngoài hệ
thống các trường công lập, hệ thống các trường dân lập ngày càng nhiều, hiện ở
các trường hầu như đều có các ngành đào tạo nguồn nhân lực cho ngân hàng.
Hiệp hội ngân hàng và Trung tâm đào tạo ngân hàng cũng thường xuyên mở các
khóa huấn luyện nhằm giúp cho các nhân viên của các ngân hàng thương mại
cập nhật kiến thức thường xuyên.
2.2.1.3 Môi trường pháp luật, Chính phủ và chính trị
Chính trị
Nhìn chung tình hình chính tr ị xã hội của Việt Nam rất ổn định. Việt Nam
được tổ chức quốc tế thừa nhận là có nền chính trị ổn định nhất khu vực Châu Á.
Hành lang pháp lý cho hoạt động ngân hàng
Khung pháp lý cho hoạt động ngân hàng từng bước được cải thiện để đáp
ứng nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế, nâng cao hiệu quả h oạt động tiền tệ ngân
hàng, cụ thể là Luật Ngân hàng Nhà nước và Luật các tổ chức tín dụng đã được
bổ sung và sửa đổi trong năm 2003 và 2004. Những sửa đổi này nhằm xây dựng
hệ thống ngân hàng hiện đại, phù hợp hơn với thông lệ và chuẩn mực quốc tế,
giảm thiểu sự can thiệp của cơ quan quản lý vào hoạt động của các ngân hàng.
Khung pháp lý không ngừng hoàn thiện và đổi mới theo hướng nới lỏng kiểm
soát dịch vụ ngân hàng và thị trường tài chính như Luật Công cụ chuyển nhượng
số 49/2005/QH11 được Quốc hội ban hành 29/11/2005, Luật chứng khoán số
70/2006/QH11 được Quốc hội ban hành 29/06/2006, Luật Giao dịch điện tử số
51/2005/QH11 được Quốc hội ban hành 29/11/2005...
Quản lý và điều hành chính sách tiền tệ
Trong việc quản lý và điều hành, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã thành32
công trong việc điều hành chính sách tiền tệ, ổn định giá trị đồng tiền, thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế, đảm bảo sự ổn định và phát triển của hệ thống ngân hàng.
Các công cụ của chính sách tiền tệ được sử dụng là các công cụ gián tiếp như
nghiệp vụ thị trường mở, hoán đổi ngọai tệ đã thay thế cho các công cụ mang
tính chất hành chính. Lãi suất dần dần được tự do hóa, tỷ giá được chuyển đổi từ
chế độ tỷ giá cố định sang chế độ tỷ giá linh hoạt có điều tiết dựa tr ên cơ sở thị
trường. Cơ chế về quản lý ngoại hối, tín dụng, hoạt động thanh toán ngày càng
linh hoạt, thông thoáng hơn, nâng cao tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các
ngân hàng.
.1.4 Môi trường công nghệ
Công nghệ thông tin (CNTT) tại Việt Nam đang phát triển với tốc độ
nhanh. Các ứng dụng của CNTT vào đời sống và hoạt động kinh doanh trở nên
phổ biến: các trang Web giới thiệu sản phẩm, giao dịch qua thư điện tử, đường
truyền dữ liệu ADSL...33
Hệ thống ngân hàng Việt Nam trong những năm gần đây rất tích cực đầu
tư vào công nghệ: hệ thống chuyển tiền điện tử li ên ngân hàng cho phép thanh
toán tiền cho người nhận trong vài giây, hệ thống ATM cho phép phục vụ tự
động 24/24, hệ thống SWIFT thanh toán to àn cầu, đấu thầu tín phiếu kho bạc...
Có thể nói trình độ công nghệ của ngân hàng thuộc nhóm cao cấp và hiện đại
nhất của nền kinh tế. Hiện nay các thao tác, công đoạn nghiệp vụ được xử lý trên
máy vi tính, việc xử lý trên mạng đã được thực hiện ở hầu hết các ngân hàng,
nhiều nghiệp vụ được xử lý trực tuyến có tính hiện đại hoá .
Ứng dụng thông tin trong quản lý của NHNN cũng đã thực hiện ngày
càng phát triển như việc các NHTM gửi báo cáo hàng ngày, tháng, năm cho
NHNN bằng việc truyền file dữ liệu thay cho báo cáo bằng văn bản như trước,
hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng do NHNN chủ trì hiện nay đã có 71
ngân hàng tham gia với hơn 300 chi nhánh.
Tuy nhiên khả năng cung ứng trong đời sống vẫn còn hạn chế không thể
thoát khỏi môi trường công nghệ chung ở trình độ thấp của cả nền kinh tế.
.2 Môi trường vi mô
Môi trường vi mô bao gồm các yếu tố trong ng ành, ngoại cảnh đối với
ngân hàng nhưng quyết định tính chất và mức độ cạnh tranh của ngân hàng, gồm
5 yếu tố:
.2.1 Đối thủ cạnh tranh
Tại Việt Nam, hệ thống ngân hàng có nhiều bước tiến vượt bậc về quy
mô, mạng lưới hoạt động, công nghệ, vốn...hiệu quả v à chất lượng hoạt động
được cải thiện đáng kể. Với chủ trương phát triển thị trường tài chính tiền tệ của
Chính phủ, ngành ngân hàng luôn được tạo điều kiện để tự thân phát triển và tiếp
cận với trình độ hiện đại của thế giới.
Nhà nước tiếp tục cổ phần hoá các ngân h àng thương mại quốc doanh.
Các NHTMCP không ngừng tăng cường quy mô và năng lực hoạt động của
mình bằng cách phát hành thêm cổ phiếu, niêm yết trên thị ttrường chứng khoán,34
kêu gọi cổ đông nước ngoài để vừa thu hút vốn vừa tranh thủ tiếp cận công nghệ,
trình độ quản lý...
Tình hình cạnh tranh trong hệ thống ngân hàng ngày càng khắc nghiệt hơn
nhưng hiện nay chủ yếu vẫn là cạnh tranh bằng lãi suất và mạng lưới. Tương
quan lợi thế giữa khối ngân hàng thương mại quốc doanh và ngoài quốc doanh
dần được rút ngắn, thể hiện qua sự vươn lên của một số ngân hàng cổ phần và
sự có mặt ngày càng nhiều chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam. Hệ
thống ngân hàng chịu sự cạnh tranh gay gắt từ các định chế t ài chính khác: công
ty tài chính, quỹ đầu tư, quỹ hỗ trợ phát triển, công ty bảo hiểm....
Căn cứ vào tính chất sở hữu, hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam
tính đến tháng 08 năm 2008 đã có 5 ngân hàng thương mại Nhà nước với tổng
cộng 4.000 chi nhánh, 2 ngân hàng chính sách với hàng trăm chi nhánh, 6 ngân
hàng liên doanh, 36 ngân hàng cổ phần, 44 chi nhánh ngân hàng nước ngòai, 1
quỹ tín dụng nhân dân Trung ương với hơn 30 chi nhánh trải hơn 25 tỉnh, thành
phố và 998 quỹ tín dụng nhân dân cơ sở cấp phường, xã.
Với những con số này, các chi nhánh, phòng giao dịch và điểm dịch vụ
ngân hàng đã thật sự "phủ sóng" đến tận các bản làng, thôn xóm.
.2.2 Khách hàng
Khách hàng là một phần quan trọng của ngân hàng, khách hàng trung
thành là một lợi thế cho ngân hàng. Sự trung thành của khách hàng được tạo
dựng bởi sự thoả mãn những nhu cầu của khách hàng và mong muốn làm tốt
hơn. Vì vậy ngân hàng phải có chiến lược khách hàng mềm dẻo trong phong
cách phục vụ mà vẫn đảm bảo lợi nhuận cho mình. Như trong giai đoạn căng
thẳng về tỷ giá, ngân hàng có thể đưa ra tỷ giá cạnh tranh so với các ngân hàng
khác, nhưng bù lại phí dịch vụ thanh toán có thể cao hơn một chút cũng làm cho
khách hàng được thoả mãn.
Khách hàng hiện tại có nhiều lựa chọn ngân hàng phục vụ mình, bởi các
ngân hàng thương mại tiếp thị sản phẩm tận nhà, phục vụ 24/24 và việc chuyển
sang mua hàng của ngân hàng khác không gây tốn kém gì. Mặc khác, mỗi ngân
hàng có chiến lược chăm sóc khách hàng đem lại lợi nhuận cho họ rất chu đáo.
Vì vậy để tìm kiếm khách hàng, BIDV phải nỗ lực tiếp thị khách hàng mới,
tránh tập trung vào một khách hàng lớn để phân tán rủi ro và giảm quyền lực
thương lượng của họ trong việc có khả năng ép giá các dịch vụ ngân hàng.
.2.3 Nhà cung cấp
Nguồn nguyên vật liệu, thiết bị của ngân hàng chủ yếu là máy vi tính,
phần mềm về hoạt động ngân hàng, giấy in, poster quảng cáo, vật liệu văn phòng36
phẩm....nên ngân hàng sẽ không phải chịu áp lực từ phía các nh à cung cấp này
bởi các sản phẩm này có rất nhiều nhà cung cấp trong và ngoài nước luôn chào
bán với giá và chất lượng dịch vụ cạnh tranh nhau.
Hiện nay các ngân hàng đang chịu áp lực về nguồn lao động, bởi ngân
hàng mới thành lập rất nhiều trong khi đó việc đào tạo nguồn nhân lực lại không
đáp ứng kịp. BIDV là NHTMQD chế độ tiền lương theo quy định của Nhà
nước nên khó giữ người giỏi. Các NHTMCP luôn dùng chính sách tiền lương
cao để thu hút người giỏi từ NHTMQD, họ là những người tốt nghiệp đại học
chính quy, được đào tạo bài bản trong môi trường của BIDV và có kinh nghiệm
trong nghiệp vụ. Việc giữ nhân tài đã khó, việc tuyển dụng còn khó hơn.
Ngoài ra, vốn là nguồn quan trọng cho hoạt động ngân hàng. Vì vậy, tổ
chức/cá nhân gửi tiền là nhà cung cấp vốn rất quan trọng. Trong điều kiện cạnh
tranh về lãi suất như hiện nay, BIDV BSG khó theo kịp lãi suất của các
NHTMCP. Để có nguồn vốn hoạt động, BIDV phải nâng cao chất lượng
phục vụ, phát huy tối đa uy tín thương hiệu mới thu hút và giữ chân được người
gửi tiền.
.2.4 Đối thủ tiềm ẩn
Trên thế giới, các ngân hàng đang đi sâu vào phát triển lĩnh vực dịch vụ
công nghệ cao, cung ứng tối đa tiện ích cho khách h àng; mở rộng thị trường sang
các nước khác thông qua việc mở chi nhánh v à sáp nhập với ngân hàng ở nước
sở tại. Giai đoạn 2007-2011 mang đặc điểm nỗi bật là tiến trình hội nhập quốc tế
của Việt Nam sẽ trở nên sâu rộng hơn. Việc hội nhập kinh tế quốc tế sẽ có ảnh
hưởng sâu sắc đến các doanh nghiệp, các ngân hàng, các nhà quản lý, các tầng
lớp người lao động và hầu như ảnh hưởng đến mọi mặt của đời sống kinh tế xã
hội. Tuy nhiên khi gia nhập WTO, Việt Nam sẽ tăng nhu cầu về dịch vụ ngân
hàng, đặc biệt là dịch vụ ngân hàng quốc tế.
Trong nước, các công ty có vốn lớn cũng muốn đầu tư vào lĩnh vực ngân
hàng bằng cách liên kết với hai hay nhiều công ty lớn khác, như TienPhongBank37
được thành lập bởi Công ty cổ phần phát triển đầu tư công nghệ FPT, Công ty
thông tin di động VMS, Tổng công ty tái bảo hiểm Quốc gia Vinera.
.2.5 Sản phẩm thay thế
Sức ép của sản phẩm thay thế làm hạn chế tiềm năng lợi nhuận của ngân
hàng do bị chia sẻ thị phần, làm cho ngân hàng tụt lại với các thị trường nhỏ bé.
Ngành bảo hiểm đưa ra nhiều sản phẩm bảo hiểm như bảo hiểm nhân thọ,
an sinh...phí đóng bảo hiểm hàng tháng trong nhiều năm, người được bảo hiểm
có thể rút lại tiền đã đóng và được hưởng lãi suất trên số tiền mình đã đóng.
Hình thức này giống như sản phẩm tiết kiệm của ngân hàng, nếu ngân hàng
không có chiến lược trong hoạt động huy động vốn thì rất dễ bị bảo hiểm chiếm
mất thị phần của mình vì khách hàng vừa được bảo hiểm vừa được hưởng lãi
suất trên tiền gửi trong thời gian họ tham gia bảo hiểm.
Ngày nay đã có thị trường chứng khoán, doanh nghiệp có thể phát h ành cổ
phiếu để huy động vốn cho hoạt động kinh doanh của mình làm hạn chế hoạt
động tín dụng của ngân hàng.
Trên thị trường chợ đen cũng có các sản phẩm, dịch vụ giống ngân hàng
như nhận tiền gửi, cho vay, chuyển tiền với thủ tục đơn giản, gần gũi với người
lao động, trình độ thấp, ngại giao dịch giấy tờ với ngân h àng đang diễn ra. Nó đã
chiếm một thị phần không nhỏ của ngân h àng. Tuy nhiên, thị trường này cũng có
nhiều tiêu cực như vỡ nợ do lừa đảo huy động với lãi suất cao, cho vay nặng
lãi...
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro