Vì sao phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng?

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

1. Đảng kiên định nguyên tắc lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với Quân đội 

Thực tế lịch sử đã chứng minh, trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, quân đội của triều đình nhà Nguyễn cũng như các lực lượng vũ trang của nhân dân (điển hình là đội quân do Hoàng Hoa Thám lãnh đạo) có tinh thần chiến đấu kiên cường nhưng cuối cùng đều chịu thất bại trước đội quân xâm lược nhà nghề của thực dân Pháp. Chỉ có sự lãnh đạo của Đảng thì Quân đội nhân dân Việt Nam mới có mục tiêu chiến đấu, đường lối xây dựng, nghệ thuật quân sự đúng đắn và sức mạnh lập nên những chiến công lừng lẫy, cùng nhân dân cả nước làm cuộc tổng khởi nghĩa Tháng Tám thành công; tiếp đó là làm nòng cốt cho lực lượng toàn dân tộc đánh thắng cuộc chiến tranh xâm lược lần thứ hai của thực dân Pháp (1945-1954) và cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ (1954-1975), hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc. Từ sau năm 1975 đến nay, Quân đội ta tiếp tục hoàn thành thắng lợi vẻ vang nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, giữ vững hòa bình, ổn định, tạo môi trường thuận lợi cho Đảng lãnh đạo nhân dân tiến hành công cuộc đổi mới, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Giai đoạn cách mạng hiện nay, quán triệt tư duy mới của Đảng về bảo vệ Tổ quốc, Quân đội ta là lực lượng chính trị đặc biệt có nhiệm vụ làm nòng cốt cho toàn dân chiến đấu, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc; bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và nền văn hoá; giữ vững ổn định chính trị và môi trường hòa bình, phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. 

Mặt khác, hoạt động của quân đội là hoạt động có tính chất đặc thù quân sự, lao động của cán bộ, chiến sĩ quân đội ta là lao động đặc biệt, thường xuyên diễn ra trong điều kiện khó khăn, gian khổ, ác liệt, phức tạp; đòi hỏi mỗi cán bộ, chiến sĩ phải có sự kiên định vững vàng về chính trị tư tưởng, linh hoạt nhận thức đúng đối tác và đối tượng tác chiến, thường xuyên nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, có ý chí quyết tâm cao thực hiện mệnh lệnh của người chỉ huy, có kỷ luật tự giác và nghiêm minh, tinh thần quả cảm hi sinh, biết đặt lợi ích của Đảng, của dân tộc và hạnh phúc của nhân dân lên trên hết. Quân đội ta hoàn thành các nhiệm vụ của Đảng và nhân dân giao phó sẽ góp phần quan trọng xây dựng nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Quân đội tồn tại, trưởng thành vững mạnh sẽ là điều kiện căn bản để giữ vững độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo đảm kịp thời ngăn chặn và đẩy lùi âm mưu xâm lược của các thế lực thù địch, bảo đảm đất nước phát triển ổn định trong môi trường hòa bình. Quân đội ta chỉ có thể tồn tại, phát triển và hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng. Quân đội luôn tuyệt đối phục tùng sự lãnh đạo của Đảng. Dứt khoát Đảng Cộng sản Việt Nam không nhường quyền, hoặc phân quyền lãnh đạo Quân đội cho một lực lượng chính trị hay một cá nhân nào khác. 

Đây là bài học sâu sắc rút ra từ thực tiễn cách mạng Việt Nam và cách mạng xã hội chủ nghĩa của các nước trên thế giới, đó cũng là nguyên nhân quan trọng hàng đầu, là nguyên tắc cơ bản và niềm tin gửi gắm quân đội của nhân dân vào Đảng, xuyên suốt quá trình hình thành, phát triển, chiến thắng của Quân đội ta. 
Sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội được thực hiện trực tiếp không thông qua một khâu trung gian, một tổ chức trung gian nào, nhằm đảm bảo cho Đảng nắm chắc quân đội trong mọi tình huống. Đó là sự lựa chọn đúng đắn, là niềm tin của nhân dân gửi gắm vào Đảng. Để thực hiện tốt vai trò của mình, Đảng xác định lãnh đạo toàn diện quân đội, trên mọi lĩnh vực hoạt động, mọi mặt công tác, mọi nhiệm vụ, mọi lực lượng, mọi đơn vị quân đội. 

Ở đâu có tổ chức và hoạt động của Quân đội thì ở đó có sự lãnh đạo của Đảng. Sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với quân đội tập trung thống nhất vào Ban Chấp hành Trung ương mà thường xuyên, trực tiếp là Bộ Chính trị, Ban Bí thư. Đảng lãnh đạo quân đội bằng cơ chế và phương thức thích hợp, đồng thời luôn coi trọng hoàn thiện cơ chế lãnh đạo cho phù hợp với sự phát triển của tình hình xây dựng và chiến đấu của quân đội trong mỗi giai đoạn cách mạng. 

Đảng lãnh đạo quân đội bằng đường lối chính trị, quân sự, thông qua hệ thống tổ chức đảng, hệ thống chỉ huy, hệ thống cơ quan chính trị và đội ngũ cán bộ, đảng viên. Trong điều kiện mới hiện nay, để thực hiện kiên định nguyên tắc Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với Quân đội, đập tan âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, trước hết Đảng cần quan tâm xây dựng Đảng bộ Quân đội trong sạch vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức; nâng cao năng lực lãnh đạo toàn diện và sức chiến đấu của các tổ chức đảng, nhất là các tổ chức cơ sở đảng trong Quân đội; Thường xuyên tăng cường hiệu quả công tác đảng, công tác chính trị, đẩy mạnh giáo dục chủ nghĩa Mác Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối quân sự, quốc phòng của Đảng trong toàn quân; giáo dục bản chất, truyền thống cách mạng của Đảng, của Quân đội; tiếp tục giáo dục, quán triệt Nghị quyết số 51/NQ-TW (20/7/2005) của Bộ Chính trị về việc tiếp tục hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng, thực hiện chế độ một người chỉ huy gắn với thực hiện chế độ chính ủy, chính trị viên trong Quân đội nhân dân Việt Nam; chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ trong quân đội; chú trọng chăm lo xây dựng cán bộ chủ trì các cấp về bản lĩnh chính trị, trình độ năng lực lãnh đạo, chỉ huy, quản lý đơn vị, đề cao phẩm chất đạo đức cách mạng để họ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới. Thường xuyên xây dựng tinh thần đoàn kết, phát huy dân chủ cơ sở trong các tổ chức đảng, trong đội ngũ cán bộ, đảng viên ở mỗi đơn vị, nhằm tạo nên sự thống nhất cao về mục tiêu lý tưởng xã hội chủ nghĩa, hết lòng, hết sức phụng sự tổ quốc, phục vụ nhân dân trong toàn quân. Giáo dục, cảm hóa, giác ngộ cách mạng cho mọi công dân Việt Nam dù xuất thân từ thành phần giai cấp, dân tộc, tôn giáo nào khi được vinh dự đứng trong hàng ngũ quân đội thực hiện nghĩa vụ quân sự, thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. 

Ngót 25 năm qua, bộ mặt đất nước và đời sống nhân dân đã thay đổi nhiều, thế và lực của cách mạng không ngừng tăng lên, càng làm cho công cuộc đổi mới hình thành như một thời kỳ lịch sử đặc biệt của dân tộc ta, càng cổ vũ Đảng và nhân dân ta tiếp tục đổi mới mạnh mẽ hơn nữa, nhiều hơn nữa. "Đổi mới hay là chết" - một khẩu hiệu nổi tiếng lúc ban đầu, nay vẫn luôn luôn nuôi dưỡng ý tưởng đẹp đẽ, khoa học và cách mạng đó của Đảng và nhân dân ta. Mọi sự vật luôn vận động và biến đổi không ngừng, ngày nay khoa học và công nghệ lại tiến lên như vũ bão, tình hình thế giới sôi động và diễn biến khôn lường, thì đổi mới càng như quy luật tồn tại và tiến bộ của chúng ta.

Chúng ta phải đổi mới nhiều nhận thức quan trọng, đổi mới những hình thức tổ chức, đổi mới cả cách làm, sao cho có hiệu quả chính trị, kinh tế - xã hội cao nhất. Và, ngay từ những ngày đầu của công cuộc đổi mới, Đảng ta đã nhấn mạnh định hướng cuối cùng là có được chủ nghĩa xã hội thực tế, chủ nghĩa xã hội đầy đủ. Kịp thời rút kinh nghiệm từ những thất bại của cải tổ ở Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu, Nghị quyết của Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VI (tháng 3-1989) đã sáng suốt chỉ ra rằng chúng ta đổi mới có nguyên tắc.

Thực tiễn 25 năm đổi mới cho thấy phải luôn luôn tỉnh táo tránh cả hai khuynh hướng trái ngược nhau: một mặt là chệch hướng, mặt khác là bảo thủ, trì trệ. Tình hình đó càng đòi hỏi sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng ta. Thực tiễn cho thấy, không có Đảng Cộng sản Việt Nam thì không có công cuộc đổi mới, không có sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam thì không có được công cuộc đổi mới theo định hướng đúng đắn. Càng đổi mới, càng đổi mới sâu rộng thì càng cần tăng cường vai trò, chức năng lãnh đạo của Đảng như Hiến pháp đã quy định. Không thể đổi mới thành công nếu không có sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng. Bản lĩnh, nghị lực và những kinh nghiệm dày dạn của Đảng ta non một thế kỷ phải được thể hiện trong sự nghiệp lãnh đạo công cuộc đổi mới. Thời gian cũng cho thấy các thế lực thù địch chủ nghĩa xã hội không ngừng đả kích và xuyên tạc Đảng Cộng sản Việt Nam. Và, các thế lực thù địch càng đả kích, xuyên tạc, thì chúng ta càng cần nâng cao vai trò và năng lực lãnh đạo của Đảng đối với công cuộc đổi mới. Đương nhiên chúng ta cần quán triệt điều mà chính Cương lĩnh của Đảng cũng đã đề ra: Đảng ta phải tự đổi mới, tự chỉnh đốn, để xứng đáng với trọng trách lãnh đạo công cuộc đổi mới.

Trong quá trình xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội chúng ta đã nhận thức sâu sắc rằng, xây dựng kinh tế là nhiệm vụ trung tâm. Do vậy trong quá trình đổi mới Đảng và nhân dân ta đã dồn trí tuệ và công sức đáng kể vào đổi mới kinh tế. Nét nổi bật của đổi mới kinh tế là chúng ta kiên quyết và liên tục thay thế cơ chế tập trung quan liêu bao cấp bằng cơ chế thị trường. Chúng ta đã chứng kiến tác dụng tích cực của cơ chế thị trường, thúc đẩy phát triển kinh tế, cải thiện đời sống nhân dân. Tuy nhiên, nói đến thị trường là nói đến sự giao thoa các hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế, nói đến sự giao thoa giữa sản xuất và phân phối - lưu thông, nói đến quan hệ tài chính - tiền tệ, quan hệ cung cầu, nói đến quan hệ kinh tế giữa các vùng miền của đất nước và quan hệ giữa kinh tế nội địa với kinh tế thế giới, nói đến vai trò của Nhà nước. Thị trường, nếu để tự nó thì luôn luôn là điều kiện làm phân hóa giàu - nghèo, cách biệt thành thị - nông thôn, miền xuôi - miền núi, làm sâu sắc thêm những mâu thuẫn xã hội. Thị trường, nếu để tự nó thì luôn luôn tự phát dẫn theo con đường tư bản chủ nghĩa. Vì tất cả những lẽ đó, chúng ta nhận thức rằng càng thực hiện cơ chế thị trường thì càng cần tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước. Đây là công việc vô cùng mới mẻ trong sự nghiệp lãnh đạo của Đảng. Chủ trương xây dựng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã là điều quan trọng, song điều quan trọng hơn là phải tổ chức thực hiện thắng lợi chủ trương đó. Đảng ta đã từng lãnh đạo đầy mưu lược giành được thắng lợi vĩ đại trên chiến trường trong các cuộc kháng chiến trước đây, nay cũng phải đủ tài trí, phẩm chất, chiến lược, sách lược để giành thắng lợi không kém vang dội trên thương trường. Như thế Đảng phải tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu trong điều kiện mới, trước thử thách mới, không phải đối phó với "đạn bọc đồng" mà là "đạn bọc đường", vô cùng gay gắt, quyết liệt, phức tạp, đòi hỏi bản lĩnh, trí tuệ và đạo đức rất cao trong cuộc đọ sức không khói súng.

2- Theo cơ chế thị trường thì tất yếu phải hội nhập quốc tế, trước hết là hội nhập kinh tế quốc tế. Chúng ta hội nhập nhưng không hòa tan, hơn nữa lại càng phải giữ vững độc lập tự chủ. Chúng ta tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, tham khảo kinh nghiệm phong phú của các quốc gia, các dân tộc, coi trọng tranh thủ ngoại lực, nhưng không ỷ lại vào bên ngoài, trái lại phải phát huy nội lực là chính, nêu cao ý thức dân tộc tự cường. Chúng ta phải xây dựng nền kinh tế dân tộc, nền văn hóa dân tộc, nền giáo dục dân tộc, nền quốc phòng toàn dân, dĩ nhiên tất cả theo hướng tiên tiến, hiện đại. Không sản xuất hàng Việt thì khẩu hiệu "Người Việt dùng hàng Việt" cũng vô nghĩa. Muốn vậy phải đẩy mạnh sản xuất, trước hết phải xây dựng và phát triển nền công nghiệp tư liệu sản xuất, đặc biệt cơ khí chế tạo, sau nữa coi trọng công nghệ thông tin, điện tử, năng lượng mới, vật liệu mới, hóa chất và kể cả công nghiệp tiêu dùng...; như thế thì mới có được nền kinh tế dân tộc tự chủ tự cường.

Mọi thời đại, mọi quốc gia, bao giờ lợi ích dân tộc cũng nổi lên hàng đầu. Mọi giai cấp, mọi tầng lớp cũng được hình thành trong từng quốc gia, dân tộc, cho nên trước hết họ có ý thức dân tộc. Giai cấp công nhân, do điều kiện sản xuất và sinh hoạt của mình, có khả năng kết hợp đúng đắn tinh thần dân tộc và tinh thần quốc tế. Chính vì thế mà chỉ có Đảng Cộng sản Việt Nam, đảng tiền phong của giai cấp công nhân mới có khả năng tổ chức lãnh đạo việc xây dựng xã hội mới vừa tiên tiến vừa đậm đà bản sắc dân tộc Việt Nam. Điều đó đồng thời đòi hỏi Đảng Cộng sản Việt Nam phải nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu mới, có nội dung và hình thức lãnh đạo mới, khác với thời kỳ chiến tranh.

3- Để tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu, điều cơ bản quyết định là phải tiếp tục giữ vững và phát huy bản chất giai cấp của Đảng. Các đảng chính trị đều phản ánh ý chí, nguyện vọng, lợi ích cơ bản của một giai cấp, tầng lớp nhất định. Trên thế giới và ở nước ta đã từng có các đảng của tư sản, đảng của nông dân, đảng của công nhân, đảng của trí thức,... Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng của giai cấp công nhân. Nói như vậy không có nghĩa là chỉ công nhân mới vào Đảng, lịch sử Đảng từ ngày ra đời cho đến nay đã chứng minh người vào đảng không chỉ công nhân mà còn là nông dân, trí thức, thợ thủ công, người buôn bán, thậm chí cá biệt có cả tư sản, địa chủ mà số ít người này thời cách mạng dân tộc dân chủ hoàn toàn đồng tình với lý tưởng của giai cấp công nhân và tự nguyện chiến đấu dưới ngọn cờ của giai cấp công nhân. Và, đương nhiên chúng ta cũng hiểu công nhân ngày nay khác với công nhân đầu thế kỷ 20, càng khác với công nhân thế kỷ 19, thậm chí khác với cả công nhân giữa và cuối thế kỷ 20. Chúng ta cũng đã có thời gian để kiểm nghiệm rằng giai cấp công nhân không chỉ vì nghèo khổ mà có tính cách mạng, điều quan trọng nhất là giai cấp công nhân tiêu biểu cho phương thức sản xuất mới - phương thức sản xuất công nghiệp, lao động tập thể trong dây chuyền và kỷ luật chặt chẽ, nhờ đó mà có tính cách mạng nhất. Chỉ có lợi ích của giai cấp công nhân mới tiêu biểu được cho lợi ích của toàn thể nhân dân lao động và lợi ích của toàn dân tộc. Để phản ánh trực tiếp lợi ích của giai cấp công nhân thì cũng phải tăng cường thành phần công nhân trong Đảng, trong đội ngũ cán bộ chủ chốt của Đảng, Nhà nước và các đoàn thể nhân dân, như Nghị quyết Đại hội IX, Đại hội X đề ra.

Nói bản chất giai cấp công nhân của Đảng không chỉ để cho đúng lý luận, mà điều quan trọng còn là thể hiện trong thực tiễn xây dựng Đảng, trong hành động của Đảng. Bản chất giai cấp công nhân của Đảng không trừu tượng, nó được thể hiện trước hết ở hệ tư tưởng của Đảng là chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, ở lý tưởng và mục tiêu của Đảng là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, cuối cùng là chủ nghĩa cộng sản, lý tưởng và mục tiêu đó phải được cụ thể hóa từng bước thành đường lối và chính sách cơ bản của Đảng trong việc lãnh đạo nhà nước và toàn xã hội. Bản chất giai cấp công nhân của Đảng còn phải được thể hiện ở tổ chức của Đảng, trước hết là quy định và thực hiện những nguyên tắc cơ bản về tổ chức và sinh hoạt Đảng, được thể hiện ở trình độ tư tưởng và phẩm chất đạo đức của đảng viên... Phai nhạt hoặc đánh mất bản chất giai cấp của Đảng thì đồng nghĩa với phai nhạt hoặc đánh mất lý tưởng cách mạng của Đảng, phai nhạt hoặc đánh mất vai trò tiên phong của Đảng đối với giai cấp công nhân, đối với nhân dân lao động và dân tộc.

4- Vững vàng bản chất giai cấp công nhân, Đảng chắc chắn có đủ tư thế, tư cách và tất yếu lãnh đạo toàn diện đất nước, xã hội ta. Đảng lãnh đạo toàn diện đất nước, xã hội cũng không ngoài lợi ích của nhân dân, của dân tộc. Mặc cho các thế lực thù địch ra sức xuyên tạc rằng Đảng Cộng sản Việt Nam "độc tài toàn trị", Đảng ta càng vươn lên làm tốt nhiệm vụ lãnh đạo toàn diện, không trừ lĩnh vực nào, từ chính trị đến kinh tế, văn hóa, xã hội, quân sự, từ đối nội đến đối ngoại, từ nhà nước cho đến các đoàn thể nhân dân. Đảng phải lãnh đạo việc xây dựng và tổ chức thực hiện các chiến lược kế hoạch kinh tế - xã hội, xây dựng và tổ chức thực hiện công tác cán bộ... Đảng lãnh đạo tất cả, không trừ mặt nào. Đối với lực lượng vũ trang, Đảng ta có trách nhiệm lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt.

Trong bối cảnh cuộc đấu tranh phức tạp hiện nay, Đảng ta ra sức nâng cao trách nhiệm và năng lực lãnh đạo việc xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Nền dân chủ và nhà nước pháp quyền là hai mặt thống nhất của chế độ xã hội chủ nghĩa của chúng ta. Trên thế giới này không ở đâu có nền dân chủ chung chung phi giai cấp cả. Nền dân chủ của phương Tây phục vụ cho các tập đoàn tư bản, theo đó, chính lợi ích của các tập đoàn tư bản chi phối các quyết định của Nhà nước, chính các tập đoàn tư bản đứng đằng sau các nghị viện và các chính phủ tư sản. Trái lại, nền dân chủ của ta là nền dân chủ của đa số, đường lối của Đảng và mọi chính sách, pháp luật của Nhà nước đều phải phản ánh ý chí, nguyện vọng của đa số nhân dân. Những ai chống lại pháp luật của Nhà nước Việt Nam thì đều bị nền dân chủ của ta trừng trị để bảo đảm thực sự đó là nền dân chủ của đa số. Và, như vậy chỉ có thể có nền dân chủ theo lợi ích của đa số, theo quyết định của đa số, cũng như chỉ có được nhà nước pháp quyền mà mọi quyền lực thuộc về nhân dân, một khi có đảng cộng sản lãnh đạo, bởi vì Đảng mang bản chất giai cấp công nhân, lợi ích của giai cấp công nhân là đại biểu lợi ích của nhân dân lao động và toàn dân tộc. Các thế lực thù địch cùng những kẻ xấu thường rêu rao rằng nguồn gốc mất dân chủ do có đảng cộng sản áp đặt lãnh đạo. Đó là lối nói ngược đời, đổi trắng thay đen. Phải vạch trần những lời vu cáo, xuyên tạc đó. Phải thẳng thắn chỉ ra rằng không có đảng cộng sản lãnh đạo thì không có nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, không có đảng cộng sản lãnh đạo thì không có nhà nước của dân, do dân, vì dân.

5- Dĩ nhiên, trong công cuộc đổi mới, từ lâu Đảng ta cũng đã tự xác định là Đảng phải đổi mới phương thức lãnh đạo, trước hết đối với Nhà nước. Đảng tự nhận thức rằng trong điều kiện một đảng cầm quyền thì càng cần có phương thức lãnh đạo thật dân chủ. Đảng lãnh đạo bằng cách đề ra cương lĩnh, đường lối, chủ trương, chính sách lớn, bằng tuyên truyền thuyết phục nhân dân, bằng tính tiên phong gương mẫu của đảng viên và bằng kiểm tra thường xuyên cán bộ, đảng viên, trước hết đối với cán bộ, đảng viên có chức, có quyền. Đảng ta không có lợi ích gì khác ngoài lợi ích của nhân dân, cho nên Đảng hoàn toàn cần thiết và có thể thu hút nhân dân tham gia xây dựng Đảng. Nhân dân tham gia ý kiến xây dựng đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, giám sát các đảng viên và cả các tổ chức của Đảng, đặc biệt là về mặt chính trị và đạo đức. Nhân dân có thể tham gia vào cả công tác cán bộ. Các đảng cộng sản hoạt động vì nhân dân và từ nhân dân mà ra, cho nên tổ chức nhân dân tham gia xây dựng Đảng là một đặc sắc, khác bản chất với các đảng tư sản. Tuy nhiên, kinh nghiệm 25 năm qua của thời kỳ đổi mới cho thấy phải cố gắng đúc kết, tìm tòi những cơ chế, những biện pháp thiết thực, hữu hiệu, tránh hình thức trong việc phát động, cổ vũ nhân dân tham gia xây dựng Đảng. Nhân dân tham gia xây dựng Đảng trực tiếp hoặc thông qua đại diện là Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân các cấp, thông qua đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp.

6- Từ Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII (tháng 6-1992) đã xác định xây dựng kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt. Chúng ta phải xây dựng Đảng trên cả ba mặt: chính trị, tư tưởng, tổ chức. Nói chính trị, trước hết là đường lối đúng đắn, mang tính khoa học và cách mạng. Nói tư tưởng trước hết là thế giới quan khoa học và nhân sinh quan cách mạng, trong đó có vấn đề đạo đức của đảng viên mà nhân dân ta đang hết sức quan tâm. Nói tổ chức, trước hết là thực hiện các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt của Đảng, là bộ máy từ trên xuống dưới, ngang dọc của Đảng, là đoàn kết nội bộ, thường xuyên tự phê bình và phê bình.

Có thể nói, việc xây dựng Đảng trong các thời kỳ kháng chiến cứu nước của chúng ta đã hết sức thành công, cả về ba mặt chính trị, tư tưởng, tổ chức, làm cho Đảng ta và nhân dân ta có sức chiến đấu vô cùng mạnh mẽ, muôn người như một, đưa sự nghiệp cách mạng đến thắng lợi vĩ đại. Đảng tin dân, dân tin Đảng. Từ khi bước vào thời kỳ đổi mới chúng ta có nhiều cơ hội mới, nhiều thành tựu mới đồng thời có nhiều thách thức mới. Trong điều kiện thực hiện cơ chế thị trường và hội nhập quốc tế, có nhiều vấn đề mới, phức tạp đặt ra. Công tác xây dựng Đảng cũng đã có nhiều đổi mới, những cố gắng và tiến bộ mới. Tuy nhiên đang có nhiều vấn đề bức xúc đặt ra cả về ba mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức. Làm sao để có một đường lối, chính sách đúng đắn vừa tích cực đổi mới, sáng tạo, lại vừa giữ vững những nguyên tắc cơ bản Mác xít - Lê-ninnít, giữ vững con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội? Làm sao vừa có tư duy mới lại vừa giữ vững nền tảng thế giới quan khoa học Mát xít? Làm sao vừa đổi mới tổ chức lại vừa giữ vững bản chất giai cấp của Đảng? Đó đang là những vấn đề thời sự nóng hổi. Chẳng hạn, chính sách cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước làm sao cho đúng cổ phần hóa xã hội chủ nghĩa; phát triển nhiều thành phần kinh tế song làm sao vẫn từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội? Không làm đúng đắn thì sẽ gây phân hóa tư tưởng trong đảng và nhân dân, làm giảm niềm tin, lỏng lẻo về tổ chức, cuối cùng suy yếu Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa.

Nói chính trị, tư tưởng hay tổ chức thì cuối cùng vẫn là con người. Cái quyết định nhất của xây dựng Đảng, của sự nghiệp lãnh đạo của Đảng vẫn là cán bộ. Chính cán bộ là người soạn thảo cương lĩnh, đường lối, chủ trương, chính sách. Chính cán bộ là người tổ chức thực hiện. Chính cán bộ là người thể hiện phẩm chất tư tưởng, đạo đức để có sức hút và lòng tin cậy của nhân dân. Trong đội ngũ cán bộ thì người đứng đầu các cấp, các ngành, các tổ chức, là quyết định nhất. Có thể nói trong các thời kỳ cách mạng trước đây công tác cán bộ của Đảng ta đã thành công to lớn, góp phần xứng đáng vào các thắng lợi vĩ đại của dân tộc. Ngày nay, đội ngũ cán bộ bên cạnh những ưu điểm mới, những năng lực mới thì cũng nảy sinh nhiều vấn đề bức xúc, đáng lo ngại. Một bộ phận không nhỏ cán bộ thoái hóa về chính trị, tư tưởng. Tinh thần đấu tranh tư tưởng, tự phê bình và phê bình phai nhạt, giảm sút so với các thời kỳ trước. Một bộ phận không nhỏ cán bộ thoái hóa về đạo đức, lối sống. Tình trạng tham nhũng, lãng phí chủ yếu trong cán bộ có chức, có quyền rất nghiêm trọng, làm suy yếu niềm tin của nhân dân đối với Đảng, đối với chế độ, cho nên có nguy cơ chuyển hóa thành vấn đề chính trị không thể xem thường.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro