viec lan phan1

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Ngô Tất Tố

Việc Làng

Phóng sự

Dao cầu thuyền tán (Trích)

1. Tôi còn sống vì không uống thuốc ...

Hôm sau bệnh tôi đã khỏi, mới đến thăm bạn thì anh Xuân vẫn cứ bồ hôi ướt đầm, chân tay vật vã không lúc nào yên. ông bà hơi sợ, lại cho mời ông lang đến. Theo lệ, cụ lang ra bộ trầm tĩnh nắm vào cổ tay bệnh nhân, rồi bảo nhà chủ:

-Mạch cậu ta đã bớt nhiều lắm rồi đấy, còn cái bồ hôi thì không ngại gì, tôi cho uống một thang "Ngọc bình phong" là khỏi. Ngài lại ngoảnh vào mặt tôi và tiếp:

-Chắc là thầy cũng không biết thuốc "Ngọc bình phong" là thuốc cầm bồ hôi rất diệu. Nó chỉ có ba vị hoàng kỳ, phòng phong, cam thảo mà thôi, nhưng hay lắm, hay vì hoàng kỳ dùng với phòng phong:

Thánh nhân dạy rằng:

"Hoàng kỳ úy phòng phong, đắc phòng phong kỳ lực dũ đại" nghĩa là hoàng kỳ thì sợ phòng phong, mà được phòng phong thì sức nó càng lớn. Thầy tính tôi có nhớ sách không? Nếu làm thuốc mà không nhớ sách thì giết người ta đấy".Rồi cụ lang mới sai lấy giấy kê đơn. Bấy giờ tôi cũng phục sách, tin rằng anh Xuân uống thang thuốc ấy sẽ khỏi. Chẳng ngờ anh ta rủi quá, không chịu theo sách mà ốm thành ra thuốc tuy cắt vào sách mà bệnh vẫn không chuyển, bồ hôi vẫn ra, nước vẫn khát, lưỡi sắp đổi ra màu đen và khô như ngói. Cái lo của cha mẹ cũng theo cái bệnh của con mà tăng lên, ông bà bàn nhau đổi tay, sai người mời thầy lang khác.

Thăm bệnh, thăm mạch xong rồi cụ lang này phải giữ đúng "luật" thầy lang, mắng luôn cụ lang trước không biết làm thuốc, bệnh là bệnh âm hư mà dám dùng những tứ tô, phòng phong, láo quá. Rồi cụ kê cho một cái đơn cụ gọi là bài lục vị, cụ dặn ba thang thì khỏi. Người nhà theo đúng lời cụ. Uống hết thang thứ nhất, chẳng biết thuốc trúng bệnh hay anh Xuân đã hết bồ hôi mà không thấy bồ hôi nữa, nước cũng đỡ khát nhưng lưỡi lại đen thêm, và cả ngày nằm lá bì không cựa. Đến thang thứ hai thì các chứng cũ vẫn nguyên, lại phát thêm chứng đầy, nhưng người nhà vẫn tưởng là bớt. Uống thang thứ ba thì bụng phát trướng, trước còn bí tiểu tiện, sau rồi bí cả đại tiện. Bấy giờ ông bà đã rối như canh hẹ, mới thải cụ lang ấy, đồng thời rước hai cụ lang khác. Cái lệ cụ lang đến sau vẫn phải công kích cụ lang chữa trước là cố nhiên rồi. Hai cụ này cũng không đồng ý kiến với nhau. Cụ thứ nhất bảo bệnh nhân mạch trầm vi, đó là hỏa suy, dương hư, theo như sách Phùng thị đã dạy, phải dùng Bát vị xung sâm, mà phải có quế thật tốt mới được.

Cụ thứ hai nói cả hai tay mạch đều khẩn thực, nó là nhiệt tà uất kết, phải hạ mới khỏi. ấy mưới rầy, cùng một cái phập phồng ở mạch máu, mà một cụ gọi là trầm vi một cụ gọi là khẩn thực, chính cái tay của người có bệnh lại không biết cãi, thì biết nghe ai bây giờ. Thế nhưng hai cụ vẫn cứ cãi nhau, cụ thứ hai bảo uống sâm quế thì chết, cụ thứ nhất bảo hạ thì không gỡ được. Rút cục, cụ thứ nhất thắng, vì đã nói đến sách Phùng thị, thứ sách mà nhà chủ nói là môn vương đạo. Vả lại, thuốc có sâm quế, nhiều vị trọng, khiến cho người nhà dễ tin. Uống một thang, chỉ thấy hai mắt đỏ ngầu, còn các chứng vẫn đâu đóng đấy. Uống một thang nữa, đại tiện vẫn bí như trước, lại thêm được chứng nói mê nói sảng, hơi thở cực to và mau. ông bà lúc này mới tin lời cụ lang thứ hai hôm nọ nói phải, lật đật sai người đi rước cụ đến. Đắc thế, cụ mắng chủ nhà, cụ mắng các bạn đồng nghiệp, tưởng như khí tức sắp bốc lên tận mây xanh. Nhà chủ nằn nì mãi, cụ mới hơi dịu nét mặt và rung đùi nói mát:

-Tôi kệ bài tiểu thừa khí mà dùng năm đồng phác tiêu, ba đồng đại hoàng, ông bà có bằng lòng không? Nhà chủ lúc ấy chỉ một mực nâng cụ lên bậc cứu dân độ thế mà xin cụ cứu cho con mình, chứ còn dám nói gì nữa. Thuốc sắc rồi, anh Xuân không còn đủ sức mà húp, người ta phải lấy thìa mà đổ vào miệng cho anh. Hay lắm:

Thuốc đi khỏi họng độ ba tiếng đồng hồ, bụng anh Xuân thấy réo ầm ầm, rồi thì đại tiện cứ ra, trướng bớt, thở bớt.

Nhưng từ đó thì anh hóa ra người trống tràng, đại tiện cứ tự do mà chảy ra nhiều. Cụ lang xoay xỏa hết ba thang thuốc, mà cái quái vật ấy không nể mặt cụ, nó cứ luôn luôn tìm đường đi ra. Anh Xuân thì da thịt đã tiêu tan đi hết, trong bụng lại thấy đau. ông bà hồn vía chẳng còn, không biết lấy thuốc đâu cho con. Nhân có người bạn đọc cái quảng cáo của dược phòng nọ, thấy nói ông chủ dược phòng giỏi lắm, chứng gì cũng chữa được hết, ông bà tức tốc cho mời đến ngay. Nắn cổ tay, sờ bụng, thấy nói đau bụng, ông chủ dược phòng bảo luôn là đau dạ dày phòng tích, không cần phải uống thuốc chén, chỉ dùng vài chục ve thuốc chữa dạ dày của mình là khỏi. ông bà nóng ruột, thấy nói sao thì vơ lấy vậy, sai ngay tôi đến dược phòng ấy mua 20 ve một lúc.

Tôi ngờ quá, trước khi cho anh Xuân uống, tôi hãy nếm thử, thấy nó mằn mặn như vị thuốc muối bicarbonate de soude, chua chua như vị sơn trà, thơm thơm như vị mạch nha, ngòn ngọt như vị cam thảo, thả vào nước thì nó vàng lòe như sắc hoàng liên. Anh uống hết ba ve, bệnh tình vẫn không giảm chút nào, nghĩa là đại tiện mãi không cầm được, mà người thì cực kỳ suy nhược. Lại vì một cái quảng cáo khác, ông bà cho mời một ông chủ y quán khác cứu cho con mình. ông này cả quyết là không việc gì, chỉ uống một liều thuốc viên là khỏi, nhưng thuốc đắt lắm, một đồng hai viên, một liều năm viên. Con như thế ai còn tiếc tiền, một đồng một viên chứ 10 đồng một viên, ông bà cũng lấy. Lấy thuốc về, tôi lại nhấm thử, thì toàn là xái thuốc phiện, anh Xuân uống hết năm viên thì đại tiện cầm hẳn, nhưng bụng lại trướng lên bằng cái trống. Thế rồi sau một ngày nữa bạn tôi tắt nghỉ. Thương hại thay! Tôi với bạn cùng chung một bệnh, kẻ không uống thuốc thì khỏi, một kẻ từng trải năm sáu ông lang, tống vào bụng bao nhiêu thứ thuốc thì phải bỏ cha bỏ mẹ mà đi...

Ai giết anh Xuân? Hẳn là những ông "cứu thế độ dân" ấy. Cái chết của anh Xuân đã định cho tôi một câu kết luận về bọn "dao cầu thuyền tán" hiện thời. Tôi kết luận rằng: vô số ông chủ của vô số "dao cầu thuyền tán" kia, họ chỉ cần có người ốm để bán thuốc, chứ họ không cần chữa bệnh, trái lại họ lại có tài làm cho bệnh lớn ra. Ai uống thuốc của họ mà khỏi, chỉ là sự ngẫu nhiên. Thế nhưng làm sao họ vẫn sống, sống một cách phát đạt? Trong lúc kinh tế khủng hoảng này, buôn bán nghề gì cũng bị thua lỗ, duá có những kẻ mở hàng thuốc thì đều "tấy" cả, "tấy" một cách không ai ngờ. Một kẻ kiết xác đóng vai ông lang trong vài năm, đã thấy họ có tiền mua nhà, mua đất, tậu ô tô, dấn vốn có hàng nghìn hàng vạn. Thì ra họ dùng toàn ngón "bịp", bịp bằng quảng cáo nói một cách vô liêm sỉ, bịp bằng cửa hàng đồ sộ, bịp bằng lọ thuốc, hộp thuốc chế theo kiểu Tây, bịp bằng lời nói khôn khéo quáến rũ người bệnh. Mỗi lần họ bịp, ấy là mỗi mạng người chết. Chung quanh lưỡi dao cầu, bánh xe thuyền tán của họ, "đống xương vô tội đã cao bằng đầu..."

II. Chữa khoán hết các bệnh

Trên tòa nhà hai tầng sừng sững đứng trước đám cây xanh mát, một lá cờ vải lớn bằng cánh buồm thuyền thoi phất phơ phô cái dấu hiệu đặc biệt với khách qua đường. Rồi, một tấm biển đứng hình chữ "nhật" chắn ngang trên mái ngói, rồi một tấm biển gập hình chữ "nhân" úp đứng trên mái hiên, rồi một bức màn trắng kín những chữ căng ngang trước cửa như một bức nghi môn. Trước cửa, hai cái tủ kính bày những hình ảnh kỳ dị, khiến cho ai đã qua đó, đều phải dừng lại mà nhìn. Phía trong, trên cái giá sơn son, một bộ lộ bộ ngăn cách đường ra lối vào, sắc đồng sáng choang của những thứ gươm, chùy, mâu, kích như muốn khoe vẻ quý phái của chủ nhà.

Chạy theo bức tường dài, hai lớp tủ đứng bóng lộn mùi quang dầu. ạ thuốc, hộp thuốc, lọ thuốc, chai thuốc, mỗi thứ có hàng mấy trăm cái. Bấy nhiêu sự góp lại thành một hiệu thuốc, xin tạm gọi là "Hiệu thuốc ông Trăng", một cửa hàng thuốc đã tốn công làm quảng cáo nhất ở Hà thành. Ngoài những việc quảng cáo trên báo, trong sách, hàng ngày lại có một người ôm đống quảng cáo bằng cái bồ, chăm chỉ rút từng tờ mà ấn vào tay, hoặc quẳng vào xe những người qua lại. ông chủ hiệu ấy, đố ai đoán được là hạng người gì. Quần Tây, đôi kính trắng gọng vàng quanh năm làm diềm cho bộ mặt gồ ghề và cái nước da đen xạm. Trên bàn giấy, luôn luôn thấy cái điếu ống vắt vẻo cây tre rễ trúc chừng hai thước tây. Khi đi, khi đứng, khi ngồi, nếu là tiết mùa hè, không khi nào không có hai đứa đầy tớ vác đôi quạt lông chạy theo mà phẩy phẩy cho ông chủ nhà của họ thành ra một người quý phái. Trông những sự trang hoàng trong cửa hàng và ngắm cái cách cư xử của chủ hiệu, người ta có thể đồ chừng sự ăn tiêu của nhà ấy mỗi tháng không dưới ba trăm đồng. ấy là chưa kể cái vốn để chế hoặc mua thuốc. Ba trăm đồng một tháng, sự ăn tiêu ấy phải là một nhà cự phú mới có thể đương nổi. Mà cự phú thật, hắn mới cự phú trong vài năm nay. Những người đã hơi biết hắn, đều phải ngạc nhiên cho sự phát đạt lạ lùng của hắn. Phải. Trước đây khoảng 10 năm, chủ nhân hiệu thuốc "ông Trăng" còn là một kẻ lang thang và dốt nát. Ngoài chữ quốc ngữ là thứ chữ mà trẻ con cũng đều đọc được, vị chủ nhân hiệu ấy không biết thứ chữ gì khác. Một người tư cách như vậy, ai ngờ có ngày trở nên một thầy thuốc, xin tạm gọi là thầy thuốc, chủ trương một cửa hàng thuốc rất to. Thoạt kỳ thủy, hắn chỉ là kẻ buôn thuốc, không phải là buôn thuốc cái như những người gánh bồ, nghĩa là hắn mua vài thứ thuốc ghẻ, thuốc lở ở nhà quê, đem ra Hà Nội gửi bán tại các cửa hàng sách. Gặp dịp may mắn, cuộc thương mại ấy đã làm cho hắn đủ tiền thuê chỗ kê cái ghế vải mà nằm ở đất phồn hoa.

Tình cờ tại một phố kia, có viên quan lớn vì đi làm quan, muốn tìm một người cẩn thận, cho ở nhà trong để trông nom và lau quét dùm những căn nhà ngoài. Nhờ được người quen giới thiệu, ông chủ cái ghế vải đã thành người coi nhà cho ông quan to. Lợi dụng cơ hội, hắn mới đăng luôn lên báo mấy dòng, rao rằng:

"Cần người đại lý bán thuốc, ai muốn điều đình xin đến nhà ấy nhà nọ mà hỏi". Bấy giờ thiên hạ hãy còn nhiều người khờ hớ hơn bây giờ, cho nên quảng cáo đăng được vài ngày thì đã có người ở tỉnh khác đến xin làm đại lý. Chủ nhân tiếp khách ở nhà ngoài của viên quan kia, và đòi án quỹ một số là hai trăm đồng. Trông thấy ghế, sập, lư, đỉnh và các đồ bài trí trong nhà, khách tin chủ là người phú quý. Với cái cửa nhà lộng lẫy, số tiền 200 đồng, nếu đem án quỹ, chưa thấm vào đâu, chắc không bao giờ sứt mẻ một đồng nào được. Nghĩ vậy, khách nhận lời chủ, cách vài ngày thì đệ số bạc kia đến. Trong lưng đã sẵn đồng tiền, một mặt hắn đi mua thuốc ở hiệu khách mà thay chai, thay hộp, dán lá nhãn của mình vào, rồi gửi đi cho đại lý, một mặt thuê nhà, đóng tủ mở một cửa hàng thuốc con con lấy thương tiêu là hiệu "ông Trăng". Thế là ông "lang thang" đã nhảy lên địa vị ông "lang băm". Ngôi tuy đổi mà tư cách vẫn còn nguyên như cũ, ông chủ hiệu thuốc ấy vẫn không biết mặt biết tên một vị thuốc nào. Nghề làm thuốc của hắn chỉ cốt ở sự thay hình đổi dạng. Nghĩa là mua thuốc của các hiệu khách đem về, thuốc viên thì tán thành bột, thuốc bột thì nặn thành viên, hoặc là viên lớn xẻ thành viên nhỏ, viên nhỏ hợp làm viên lớn, rồi nhồi vào hộp vào chai mà bán. Đồng thời việc quảng cáo trên báo, hắn vẫn hết sức tiến hành, vừa nói khoác bạt mạng cho các thuốc ở cửa hàng mình, vừa quáến rũ lấy đại lý bán thuốc ở các tỉnh nhỏ. Nhờ về sự quảng cáo "không biết thẹn" đó mà thuốc, tuy không chữa khỏi bệnh vẫn bán được, người các tỉnh xin làm đại lý vẫn mỗi ngày một thêm.

Cái cửa hàng con con vụt trở thành một cửa hiệu nguy nga, rực rỡ. "Mỗi người phải lừa một lần là tôi giàu rồi". ấy là lời cố cùng mà cũng là câu xưng tội của chủ nhân nhà thuốc "ông Trăng" đã đáp lại câu hỏi hiểm hóc của mấy người quen biết. Có thế thực, một người đến mua thuốc là có một món tiền lời, một người xin làm đại lý là có một số tiền ký quỹ, 25 triệu con rồng cháu tiên chưa phải ai cũng khôn ngoan, người mua thuốc, người làm đại lý chưa bao giờ hết. Lừa bằng cách ấy chưa đủ, ông chủ hiệu ấy lại phải nghĩ thêm cách khác. Trong lúc xã hội "thầy lang" hãy còn lộn xộn, những người có bệnh phần nhiều không biết lấy thuốc của ông thầy nào, người ta sợ rằng "tật mang mà tiền vẫn mất". Đoán thấy chỗ yếu của số đông người, chủ hiệu "ông Trăng" mới lập cái kế "chữa khoán". Phong, lao, cổ, lại, bốn chứng đó, các sách Tàu đều cho là bệnh bất trị, cho đến các nhà y học âu tây cũng chưa tìm được cách chữa chắc chắn. Vậy mà chủ hiệu "ông Trăng" dám nhận chữa khoán hết thảy. "Chữa khoán bệnh lao" "Chữa khoán bệnh hủi"... bức màn trắng treo trên cửa hiệu, luôn luôn nêu mấy dòng thật lớn như thế, và nói rõ rằng "nếu không khỏi không lấy tiền", bệnh nào cũng vậy. Tưởng là thực, kẻ có bệnh theo nhau mà đến, nhiều nhất là người mắc bệnh lao. Lúc này tư cách chủ hiệu đã tiến hơn trước, nghĩa là hắn đã đọc qua vài cuốn sách thuốc quốc ngữ, nhớ được ít tên thuốc và tên mạch để làm sáo mà tiếp con bệnh. Cũng hỏi chứng, cũng xem mạch, cũng giở sách thuốc nói quàng nói xiên, rồi tùy từng mặt mà nặn tiền, có thể nặn được đến đâu thì hắn nặn đến đấy. Nhưng vô luận bệnh gì, hắn đều bắt đặt một nửa tiền, tính theo cái giá đã khoán. Ngó những lộ bộ, quạt lông, điếu ống xe dài thườn thượt, kẻ có bệnh cố nhiên không ai dám trả rẻ tiền. Nhưng trong khi đặt một nửa tiền, người ta cũng đành bắt ông chủ viết cho cái giấy. Bạn đọc thử nghĩ giấy ấy viết ra sao? "Một bên là ông X chủ hiệu "ông Trăng", một bên là ông Y, người có bệnh lao ở Phố P đã bằng lòng với nhau những điều sau này:

"ông Y xin thuê khoán cho ông X chữa bệnh lao của mình, và thuận trả ông X một số là 100 đồng. Nay đã đặt trước 50 đồng, khi nào khỏi bệnh sẽ trả nốt 50 đồng nữa. ông X nhận của ông Y 50 đồng, phải chữa cho ông Y thật khỏi. Nếu không khỏi thì ông X phải trả lại cho ông Y số tiền đặt trước ấy. Nếu ông Y nửa chừng bỏ dở thì số tiền đặt trước ấy, ông X không phải trả lại". Giấy là vậy, còn thuốc thế nào? Thiên môn, mạch môn, khoản đông, tử uyển, một mớ vị thuốc nhuận phế đó, hắn luyện thành viên, hắn nấu thành cao, đưa mãi cho người ta uống. Thuốc như vậy, đời nào mà chữa cho được bệnh lao! Bệnh không khỏi, kẻ ốm đem giấy đến hiệu, đòi lại số tiền đã đặt. Chủ hiệu chỉ phải đáp lại một câu:

-Trong giấy đã nói "nếu uống thuốc nửa chừng bỏ dở" thì "tôi không phải trả lại số tiền đặt ấy" kia mà. Bây giờ tôi còn đương chữa mà ông đã thôi, ấy là ông bỏ dở, không thể đòi tiền tôi được. Thì ra trong giấy không nói cái "hạn chữa khỏi" là bao nhiêu ngày, giả như theo thuốc đến mấy chục năm, khi thôi, cũng vẫn là người bỏ dở. ấy đó, hắn gạt người ta cốt ở chỗ đó! Song điều đó chỉ gạt được người nhà quê, chớ Hà Nội thì ít kẻ mắc. Nhưng các thầy "lang băm" đều là thánh sư nghề lừa gạt, họ đã có nhiều cách khác để gạt người Hà Nội.

III. Thầy lang Thỏ Đực

Phải, người ấy gọi là "Thỏ Đực" thì đúng. Trông cái hình dáng, có thể bảo hắn là một anh kép già ở xóm cô đầu, nếu hắn không đi giày ban. Nhưng ngắm đến bộ miệng thì lại có thể tưởng hắn là một con thỏ, vì cái miệng ấy nó chum chúm như mõm con thỏ, mà tự môi trên đến môi dưới, rồi thì ngoài mép quanh cằm, đâu cũng nhẵn thín, không bén một sợi râu nào. Trước đây, khoảng ba chục năm, hắn chỉ là một chàng học trò dở ở vùng xuôi, chữ Hán cũng biết ít nhiều, chữ Pháp không thuộc một tiếng. Làng nhà hắn cũng như làng Xạ La ở Hà Đông, vô luận người nào, biết chữ hay không biết chữ, đều thuộc võ vẽ một ít bài thuốc, nhớ lõm bõm vài câu sách thuốc. Xách dao cầu đi phương khác, họ đều có thể bịp người mà kiếm ăn. Nhờ về phong thổ đó, hắn đủ tư cách như mọi trai làng, nhân khi túng đường sinh nhai mới sắm dao cầu tủ thuốc, kéo lên ngã tư nọ ở ngoài Hà thành, mở cửa hàng thuốc, vì không thể gọi là cửa hàng gì. Kỳ thực, trong hàng của hắn chỉ có mấy thứ thuốc bột chữa sâu răng, thuốc cao chữa mụn nhọt và vài chục vị vừa thuốc Bắc vừa thuốc Nam, đựng trong một cái tủ mốc. Gọi là hàng thuốc, cũng xấu hổ cho hai tiếng ấy. Lúc ấy, vùng đó, răng đã ít người đau, nhọt lại ít kẻ bị, thuốc ế, mạng nhện bắt đầu quấn vào dao cầu, những người gần quanh thấy cái cảnh đói khát của hắn, đã phải động lòng thương hại. Tình cờ gần đó có vị đại thần lên cái hậu bối, dùng đã nhiều thứ thuốc lắm mà vẫn không khỏi. Một hôm, người nhà bàn nhau:

-Hay thử gọi lang "Thỏ Đực" vào đây xem hắn có chữa được không? Nghe nói nhà hắn có bán thuốc cao, hoặc giả nó là môn thuốc gia truyền thì chắc có hiệu. Bàn vậy mà thôi, thực ra người ta cũng không thèm gọi. Bởi vì đối với nhà vị đại thần đó, anh lang "Thỏ Đực" chỉ là mảnh chĩnh vứt ngoài bờ tre chứ có giá gì. Chẳng ngờ lời bàn ấy bị một viên tri huyện là cháu vị đại thần kia nghe tiếng và tin là thực. Rồi từ ngày mai trở đi, gặp ai hỏi thăm bệnh tình của viên đại thần, viên tri huyện đều nói rằng ngài dùng thuốc của thầy lang "Thỏ Đực". Danh giá của con "Thỏ Đực" đã tăng lên nhiều. May sao cách vài chục ngày, vị đại thần ấy khỏi bệnh. Khỏi là nhờ thuốc của người khác, chứ người ta không dính tý thuốc nào của "Thỏ Đực lương y". Thế nhưng "Thỏ Đực" là kẻ gian ngoan, đi đâu cũng phô rằng mình đã chữa được vị đại thần ấy. Cũng vì có mấy câu nói của viên tri huyện, thành ra trong đám phủ huyện, nhiều người tin rằng vị đại thần kia quả có dùng thuốc của thầy lang này.

Thế là mọi người đua theo, trong nhà động có người nào mọc mụn, phải gai, họ liền cho lấy thuốc của hắn. Phúc làm sao, hắn chữa luôn được vài bệnh, tiếng tăm đồn đi, khách lấy thuốc càng ngày càng đông, do đó đã có dấn vốn kha khá. Bấy giờ hắn mới sắm sửa đồ đạc, dọn luôn lên đất Hà thành. Từ đó, hắn mới giở ngón bịp ra. Khác với các chủ dược phòng, y quán, hắn chỉ quảng cáo bằng miệng, không hề quảng cáo bằng giấy hay báo. Ngồi với một người hơi biết chữ Hán, thì hắn giở luôn thi phú câu đối ra đọc, toàn là thơ cũ, phú cũ, câu đối cũ của các đại gia mà hắn đã học thuộc lòng, nhưng hắn vẫn nói là của mình làm ra. Ngồi với một người có bệnh hoặc nhà có người bị bệnh thì hắn đọc luôn sách thuốc hàng tràng. Cũng là những đoạn hắn học thuộc lòng, nó không dính dáng gì đến cái bệnh mà hắn sắp chữa hay đương chữa. Thơ phú cho đến sách thuốc của hắn nhớ được, quanh quẩn độ hơn 10 bài chứ không nhiều gì, nếu ai chú ý mà nghe, sẽ thấy lần nào hắn cũng chỉ đọc có mấy bài ấy. Thế nhưng, những người không biết thì ai cũng tưởng là hắn thông lắm. Đến việc chữa bệnh, hắn lòe thiên hạ lại càng bợm hơn. "Hôm qua tôi đi thăm bệnh cho quan Thượng tỉnh nọ, hôm kia đi kê đơn cho quan Tuần kia, ngày nay có bà án hay bà Phủ nọ đón đến thăm mạch mà chưa đi được". Mở đầu câu chuyện nói với con bệnh đại để hắn vẫn dùng cái sáo ấy. Có khi hắn còn can đảm mà nói tràn rằng:

"Chính vua nước Lào có bệnh, đốc tờ nói chữa không khỏi, cũng phải vời mình sang chữa". Rồi thì người Tây, người Tàu, người ấn Độ, các thứ người ở Đông Dương đều bị hắn vơ làm người đã uống thuốc của hắn, người nào bệnh cũng nặng và cũng khỏi cả. Kỳ thực Tây, Tàu, ấn Độ, có ai dùng thuốc của hắn bao giờ. Đáng tức cười nữa, là mỗi khi cất miệng tiếp khách, ấy là hắn công kích thuốc Tây. Hắn khoe những bệnh đốc tờ bỏ, không chữa được, hắn chữa chỉ hai thang thuốc là khỏi, hắn nói chánh phủ đã biết cái tài làm thuốc của hắn, đã cấp cho hắn cái bằng đốc tờ về nghề thuốc Tàu. Bởi thế, hắn mới muốn được người ta gọi quan Đốc, ai không gọi thế thì hắn thịu cái mặt ra. Với những ngón bịp như vậy, kẻ nông nổi ai mà không mắc? Huống chi cái lối làm thuốc của hắn lại cũng là một lối bịp.

Nói cho phải, hắn cũng có đọc vài đoạn sách thuốc, chứ không đến nỗi dốt đặc. Nhưng hắn đọc để thuộc lòng, đọc để lấy khách, không phải đọc để mà hiểu. Những vị thuốc mà hắn hay dùng ấy là sâm, hoài, linh, biển và bài lục vị. Trong tập đơn thuốc của hắn đã kê, không thấy cái nào không có bốn vị thuốc đó, hoặc dùng xen với bài lục vị hoặc dùng lẫn với các vị khác. Sâm, hoài, linh, biển hay thuốc lục vị, hắn tưởng cũng như cơm tẻ, uống vào trúng bệnh thì khỏi, không trúng cũng không đến nỗi chết ai, vì vậy bệnh gì hắn cũng dùng đến. Quả có thế thực, những vị thuốc ấy, dù là trái bệnh, cũng không phát lên kịch liệt. Bởi vậy người ta mới phục hắn làm thuốc theo lối vương đạo. Họ không hiểu rằng: đã gọi là thuốc, có thể khỏi bệnh thì có thể giết người. Chỉ vì sâm, hoài, linh, biển, nó giết người ta một cách từ từ, cho nên người ta không biết. Bao nhiêu người theo hắn hàng trăm thang thuốc, chết vẫn hoàn chết, cái họa "sâm, hoài, linh, biển" là vậy. Chết cũng mặc, khoét được tiền, hắn cứ việc khoét. Đúng như lời bà phán Phước đã nói, ai đã uống thuốc, hắn cũng phán cho mua những vị trọng, và bắt phải mua của mình. Thậm chí hắn còn mua sâm giả của bọn Cao Lá bán rao, rồi đưa cho vợ bán lại cho những người quen thuộc chồng, cái đó mới tinh quái chứ!

Tóm lại, ngón bịp của thầy lang "Thỏ Đực" còn giỏi hơn ngón bịp của thầy lang khác nhiều lắm. Bịp bằng hoành phi câu đối chói lọi trong nhà, bịp bằng lời nói mềm mỏng ngọt ngào như mẹ dầu dỗ khách, bịp bằng cách khoe quan nọ quan kia uống thuốc của mình, bịp bằng lối dùng thuốc không thưởng, không phạt, bịp bằng phép bán những vị trọng cho con bệnh hoặc bắt con bệnh uống những tễ thuốc ba bốn chục đồng. Trong đất văn vật nghìn năm biết bao kẻ bị hắn bịp cho đến chết mà vẫn không tỉnh ngộ.

Tuệ Nhỡn Công Dân số ... 20-11-1935

Làm no hay Cái ăn trong những ngày nước ngập

Qua những rặng tre bị ngâm đã lâu, cành lá úa rực, xiêu đổ, chiếc thuyền nan của chúng tôi phải len lỏi, chỗ thì phải cúi đầu để chui qua những cây sắn đổ, chỗ thì phải đè một cành cây cổ thụ xuống nước, chỗ thì phải gạt những trà rào trôi nhấp nhô trên mặt nước đỏ ngầu và phải đẩy cong con sào mới vượt được cụm bèo tây ứ lại. Chiếc thuyền mỗi chốc chòng chành làm cho tôi lảo đảo, nhưng cái ý muốn mục kích cảnh điêu linh cùng khổ của dân lụt đã làm cho tôi quên cả nhọc nhằn. Một vùng nước mông mênh bát ngát, bao nhiêu những nhà tranh vách đất chỉ còn trông thấy những mái úp sập sè hình như những quần đảo ẩn hiện chập chùng theo làn nước bạc mà rập rờn như phao. Những thuyền nan, những mảng chuối nhấp nhô chen chúc tựa lá tre dưới những rặng cây lả lướt. Đàng xa kia, trên những gò, đống mấp mô thấy lố nhố những sừng trâu cong vắt; con đứng, con nằm, thỉnh thoảng lại nghe tiếng rống lên như báo cho chủ biết nỗi thèm rơm đói cỏ của nó Người ta bảo trận vỡ đê Đồn Vàng nước to hơn năm Quý Tị. Thằng bé chở thuyền cho tôi ngoảnh lên hỏi:

-Cậu định đi đâu? Tôi thẫn thờ đáp:

-Đi đâu cũng được! Thuyền qua một rặng trúc, nhìn vào bên trong thấy có ba gian nhà tranh xiêu lật lại đằng sau. Trước nhà, biệt ra một khu vuông vắn như một cái ao, tôi đoán chừng đó là cái sân. Trước sân đóng bốn cái cọc tre, trên bắc cái chõng, chiếc rổ đeo lủng lẳng một bên, chiếc sào vó ghệch lên thành chõng. Phía dưới là một cái mảng ghép bằng bốn cây chuối. Từ cái chõng đi vào trong nhà, có một cái cầu tre vắt ngang. Một người đàn ông, vóc rạc hom hem, đầu trọc tếu, ngồi thu hình trong chiếc áo bành tô rách mướp, nét mặt đăm đăm nhìn xuống tăm nước đục lờ. Tôi hỏi:

-Nhà ai đây?

-Đây là nhà bác ba Tụy.

-Rẽ vào chơi đã. Thằng bé khom lưng lái mũi thuyền vào trước sân, len qua những cụm bèo tây đóng chuồng trong những chiếc vành nong kìm bằng chiếc nạnh tre có những bè muống, bè ngổ, bè dừa quấn quýt xung quanh. Bác Tụy trông thấy tôi, vồn vã hỏi:

-Kìa ông Ký đã về chơi đây ư? Các ông ở tỉnh về được dịp bơi thuyền chở mảng thế này thì thích lắm nhỉ. Mời ông lên đây, cái chõng này còn chắc chắn, ông ngồi chơi xem tôi kéo vó cho vui. Tôi ghé thuyền sát cái mảng chuối, rồi bước lên. Bác khúm núm với cái điếu cày treo trên cọc, mời tôi hút thuốc, tôi không biết hút. Bác bèn lấy thuốc giắt trên kẽ tai, đặt vào nõ điếu, thổi cái mồi rơm, rụi than vào điếu, rúc một hơi thật dài, cái điếu rít lên như tiếng chim sẻ, một làn khói xanh từ miệng bác đưa lên khét lẹt, những cái xương sườn theo nhịp thở mà vươn lên rụt xuống trước cái bộ ngực gầy nhom. Mấy đứa trẻ lau nhau, nghe tiếng người lạ chen chúc nhau thò cổ ra trước mái tranh mà nhìn. Những cái bộ mặt gầy còm hốc hác ấy như thiếp một màu vàng lợt, làm nổi những cặp mắt trõm lờ đờ, đần độn. Tôi đưa đà hỏi:

-Thế nào, bác kéo cá có được khá không, cho tôi mua một bữa nào, có con nào to không? Ngồi kéo vó giữa sân cũng thú nhỉ. Câu nói của tôi như nhắc bác chưa cất vó. Bác nhoẻn mép nhìn tôi, rồi vui vẻ pha trò, gạn bán mẻ vó bác sắp cất. Nói rồi khom lưng, bãi càng, kẹp đầu sào xuống dưới háng, hai tay giương thang, cất vó lên, giọt nước theo bốn gọng thánh thót chạy xuống, dưới lòng vó thấy hơi động, dần dần lên khỏi mặt nước, mấy cặp mắt nhìn cả vào, thấy mẻ vó được hai con cua kềnh và bốn con giếc con. Bác vơ vó vào để bắt, ngoảnh lại hỏi tôi:

-ông trả cháu bao nhiêu?

-Độ một hào chứ mấy! Bác cười khanh khách và nói:

-Nếu thế thì nhà cháu phong lưu chán! Bác nói rồi ngoái tay với cái giỏ bỏ vào. Tôi điểm một câu chúc của phường hội tát:

"Sí sốc một chốc đầy giỏ" rồi nhổm lên nhìn vào trong giỏ thì mới có độ một vốc tay tép mại, hai con ốc nhồi và một mẻ vó bác mới bỏ vào sau. Bác khôi hài:

-Thế là nhà cháu đã được một niêu hai tay bưng rồi đấy ông ạ! Thoảng tiếng trẻ con trong mái tranh đưa ra:

-Bố ơi, bố làm bánh đa cho con ăn. Tôi ngạc nhiên hỏi:

-Bác lại có cả nghề làm bánh đa nữa ư? Bác ngặt nghẽo cười:

-Vâng, bánh đa nhà cháu là thứ bánh đa mới chế, chưa ai biết làm cơ. ông ngồi đây, cháu làm cho ông xem. Bác nói rồi chui vào trong nhà, một lát đem ra một nắm đất sét trắng, một cái mê rổ, một cái khăn vuông. Bác dúng cả khăn lẫn đất xuống nước cho ướt, rồi đặt lên chõng, căng thẳng chiếc khăn vuông, phiết một lần đất lên thật mỏng, đoạn đặt vào mê rổ, lại chui vào nhà, thổi lửa nướng. Chỉ trong chớp mắt, bác đã bưng ra, trông trong mê rổ thấy một lượt đất khô cong, lũ con bác kéo nhau ra xúm xít chung quanh rổ. Bác mời tôi thử nếm bánh đa bác mới chế, tôi ngẩn người chưa hiểu bác nói thật hay bỡn, thì bác tách ra một miếng bỏ vào miệng, nhai giòn khau kháu, lũ con bác cũng xô nhau bẻ lấy mà ăn một cách ngon lành. Bác bảo:

-Đấy là thứ quà vặt của các cháu, nếu ông biết thứ ăn thay cơm của nhà cháu thì cháu xin đưa ra để ông xem. Bác nói rồi chui vào lấy ra một cái nồi đất to chìa cho tôi xem, và đố tôi biết là cái gì. Tôi thấy bác gạt một lần tép vụn ở trên, dưới lộ ra một lớp đen đen, xếp từng miếng mỏng như miếng bánh dầy. Nhìn gần lại, thì thoáng ngửi một mùi nằng nặng, khăn khẳn, như mùi thối tai. Tôi nín thở, lắc đầu xin chịu để bác giảng cho tôi nghe thức ăn quái gở ấy. Bác đắc chí cười rũ ra bảo tôi:

Cũng đất đấy! Người ta bảo chết thì ăn đất, nhưng chính nhà cháu sống về đất đấy ông ạ! Món này là một thứ cơm nắm của nhà cháu, làm công trình hơn một tí. Mới đầu là lấy đất sét trắng về, vật đi vật lại như ta nặn đầu rau, rồi thái từng miếng mỏng như ta thái bánh dầy, đặt vào mủng, mẹt đem phơi khô. Khi dùng nó thì phải có nõn sắn lót thật dầy xuống đáy nồi, rồi mỗi lượt đất lại một lượt cá tép, rồi cho vài duộc tương. Bắc lên đun thì tra thêm tí nước cho khỏi khê, cứ nhỏ lửa đun mãi cho tương cạn cá chín, những cái béo của tương của cá ngấm vào đất sét đỏ như miếng hồng tầu thế là được. Tôi hỏi:

-ăn như thế mùi mẽ ra làm sao? Bác bảo:

-Nó quanh quánh như ta nhai miếng bánh dày, lại đậm vì có tương có cá đưa đi, không phải ăn đồ ngoài.

-Thế ăn vào có thấy gì không?

-Việc quái gì! Nó chỉ phải cái nặng bụng hơn các thứ rau cỏ khác. Lần đầu cháu ăn rặt đất thì thấy tanh tanh và chán lắm, ăn vào rồi hôm sau thấy mền mệt, chắc là không có béo bổ gì, cho nên cháu nghĩ ra cách om với cá thì ăn ra chiều dễ chịu hơn. Tôi hỏi:

-Ai bảo bác rằng đất sét ăn được? Bác nói:

-Nào có ai bảo đâu, cũng là một cách ăn liều của cháu. Hôm nước vào đã già nửa tháng, trong nhà hết ăn, mẹ cháu phải ra tỉnh kiếm việc làm. Bữa sáng hôm ấy chỉ có mấy củ khoai lang đủ cho cháu ăn thôi, cháu đành nhịn đói, để anh em nó trông nhau ở nhà, một mình chở mảng ra cái ao trước cửa đình để lặn xuống đánh củ súng. Lặn ngụp mãi chưa dò thấy cụm củ súng nào cả, mà lòng không dạ đói, lặn mãi mệt quá. Cháu cố lặn một hơi thật dài, mò mãi chẳng thấy gì, bèn xắn vội nắm đất sét ngoi lên. Thấy chất đất vừa dẻo, vừa trắng, ngửi thấy tanh tanh, nhân lúc đói ngoạm chơi một miếng, nhai rồi nuốt đi, không thấy gì, ăn hết nắm đất, thấy đỡ cồn cào. Cháu liền bỏ cả củ súng, hãy xắn mấy cục đất đem về đã. Đương lềnh bềnh trên mảng chuối trở về, bỗng thấy mập mờ cái vó trôi, cháu mừng quá đuổi theo vớt được cả vó lẫn gọng là cái vó này đây. Cả nhà cháu mới ăn đất được dăm hôm nay, các cháu cũng chịu khó ăn cả, nhưng mới đầu chưa biết cách chế biến, ăn chóng chán lắm, cách om đất với cá này nhờ có cái vó nên cháu mới nghĩ ra. Tuy vậy, cũng cần phải đổi bữa luôn.

-Đổi bữa bằng gì? Bác chỉ tay ra mấy đám trước sân:

kìa ngổ dừa, bèo tây, còn cụm rau muống là của quí nhất, hiếm nhất, cháu còn đương gây chưa dám ăn đến, vì chưa biết bao giờ nước ra khỏi làng. Trong những thứ rau ấy thì ngổ với dừa dễ ăn hơn, nhưng sợ ăn mãi nó cụt đi, cháu phải ăn độn thêm bèo tây.

-Bác làm thế nào mà ăn?

-Muối dưa cụm sen kia, vặt lá vặt rễ, chỉ để cái vú, phơi hơi tái đi rồi muối như ta muối dưa cải, lấy vỉ nén cho chặt. Giá không có muối mặn thì ăn nó chẳng khác gì nhai cái ngọn mía nhạt, mà lại lăn tăn ngứa! Thứ ấy là thứ đồ ăn, ăn kèm với cháo cám thì ngon tuyệt! Đã nửa tháng nay, cả nhà cháu không biết một hột cơm, hột gạo là gì cả, mà cám cũng ít có, vì chỉ hôm nào kéo cá được một vài con to, bán được dăm ba xu thì mới dám mua cám ăn, cám là thứ quý nhất, chỉ ăn cho có hơi gạo đó mà thôi, chứ ăn nó thì lấy đâu. Một hôm, cháu nghĩ buồn cười quá ông ạ. Đong được cám về, thằng bé lớn nhà cháu lấy nồi đổ nước lên đun, lóng cóng thế nào nồi vỡ, không đun được nữa. Cháu bèn vớt cám ra, nắm lại một nắm, ngoài trát một lần đất sét bỏ vào bếp nung. Thế mà ăn ngon hơn bánh khảo phục linh đấy ông ạ. Giá được rặt cám mà ăn thì còn nói gì nữa, khốn nỗi họ lại pha mùn cưa vào cho được nhiều lãi, thì ăn chẳng còn lý thú gì cả, chỉ thấy ráp sì thôi. Tôi chợt trông thấy cây cau, cây nào cũng cụt cả, vội hỏi:

-Sao cau cụt cả thế kia? Bác nói:

-Nó cũng đã chui vào mồm cả rồi đấy.

-Cau mà cũng ăn được ư?

-ông tính cái gì vào lửa mà chẳng ăn được. ôi chà, nghĩ cái nguồn cơn ăn cổ cau mà sợ. Lần đầu, cháu chặt một cái, bóc hết bẹ xanh rồi thái như thái măng phơi, cứ thế luộc rồi đem ra ăn: ăn rồi, bố con rạo rực nằm mất một ngày, chân tay cứ rời rã ra, bọt mép phèo ra, bụng vẫn tỉnh mà không sao cựa được, sau hỏi ra mới biết phải luộc bỏ nước đi, ngâm hết nửa ngày nữa mới ăn được. ăn hết cau rồi, thấy làng nước họ đua nhau đi tìm củ chuối để ăn, cháu cũng vớ được vài cái đem về bung. ăn nó có phần mát ruột mà chắc dạ hơn ăn bèo tây, rau ngổ, hơn cả ăn đất sét, đất sét phải cái nặng, làm rỗng cả ruột ra, về sau ăn cái gì cũng mãi mới no!

Nhưng củ chuối đâu mà ăn được hàng tháng trên mặt nước, chỉ được ít lâu là nó thối nhũn ra thì còn ăn gì được nữa. Cháu cứ ăn liều mà nhiều cái cả làng phải bắt chước cháu. Cháu còn nhớ một năm trời không làm lụt, nhưng phải năm đói kém quá, làng nước nhao cả lên. Mẹ cháu năm ấy lại vừa ở cữ, thành ra lúng túng với nhau, chẳng đi làm đâu được, ở làng chẳng ai mướn làm gì cả, cháu chỉ nghĩ cách ăn trừ bữa cái ni lại ăn trừ bữa cái kia. Lần đầu cháu đi qua nền Văn chỉ thấy một đám cải rừng, xanh tốt lắm, cháu nhấm thấy thơm thơm, liền hái một chét đem về ăn thử, thế mà luộc chấm tương ăn thú lạ; nhà cháu ăn ba bốn ngày làng nước mới biết thì chẳng còn gì cả. Cháu lại xoay ra tìm cách khác xem ra lợn ăn được cái gì thì người ăn được cái ấy. Một lần cháu ăn liều mà ngon. Đương mùa nhãn, cháu thấy ở chợ người ta vứt rất nhiều hột, cháu mới quét lấy được trên lưng thúng đem về. Lấy dao gọt hết vỏ đen đi, đổ vào ngâm một đêm cho hết chát, rồi tra vào nồi, bung như ta bung ngô, thế mà đem ra ăn cứ bùi nghìn nghịt như hạt sen, đã ngon lại chắc dạ; thế là cháu cứ tìm đi các chợ, để nhặt hết hạt nhãn đem về tích lại một gánh, vợ chồng ăn uống no nê mà chẳng ai biết cách ăn của cháu thế nào. Rồi sau họ biết, họ đặt vè để chế cháu, cho nên làng ta bây giờ đã có câu Nói dối thằng Trà, ăn ma thằng Tụy. ông tính thế có tức không, mình có ăn cắp ăn trộm của ai đâu, không có, ăn xằng ăn bậy cho qua ngày đoạn tháng, họ cũng chế, họ bảo là ăn ma ăn mãnh. Cháu thấy họ chế; tức mình giấu biệt những cách ăn độn ăn lót của nhà cháu cho bõ ghét. Cháu còn nhiều cách ăn giản tiện mà ngon, cháu chế biến cũng khéo, cho nên họ lo đói, cháu chẳng biết đói là cái gì, chỉ có ngon hay không mà thôi, làm thế nào cháu cũng có cái ăn, không chịu đói bao giờ. ông tính con sâu con bọ, con giun con dế nó còn chẳng lo đói huống nữa là mình, phải thế không ông?

-Phải, sống qua trong nạn đói mà vẫn giữ được lòng ngay thẳng, thật thà thì còn gì quý hóa bằng. Giá bác tài nấu nướng thế mà ra Hà Nội mở hiệu thì... Bác phá lên cười, rồi tiếp câu nói của tôi:

-Thì... cho chó nó ăn!... ông nhỉ? ánh nắng chiếu xiên qua nan chõng, chiếu xuống làn nước đỏ ngầu, gặp trận gió rung rinh trên mặt nước thành những đàn rắn ngoằn ngoèo. Một tảng vỏ mít lềnh bềnh trôi vào gọng vó, bác Tụy chỉ tay mà bảo:

-Kìa, tảng vỏ mít kia đã cứu sống vợ chồng con cái nhà cháu ba ngày đấy ông ạ! Nói đoạn, lấy sào kều ngửi, lắc đầu:

-Hỏng, thối cả. Vứt tõm xuống nước rồi kể tiếp:

-Thằng bé lớn nhà cháu năm nay lên tám. ấy chính năm đẻ nó thì gặp trận đói to, vì hai năm mất mùa liền, nhân dân lại xao xuáến về dịch lệ. Nhà cháu quanh năm ăn độn, ăn lót, ăn thường, nhưng bu cháu mới đẻ, nếu cho ăn xằng xịt vào thì sợ ốm đau khổ cả mẹ lẫn con, cho nên dù sao cháu cũng cố kiếm cho mẹ cháu mỗi bữa một niêu cơm riêng để lấy sữa cho con bú, còn cháu thì ăn thế nào cũng được. Gặp nạn đói mới biết cái khổ của hạng sức dài vai rộng như chúng cháu, đi xin không ai cho, làm mướn không ai thuê, thế mà lại lâm vào cảnh vợ mọn con thơ thì lại càng khổ nữa! Hôm ấy trong nhà chỉ còn đủ gạo để thổi bữa sáng cho mẹ cháu, còn cháu thì có hai bát ngô bung. ăn xong, cháu vác thuổng, bủa sang chợ, đón công xem ai mượn đánh gốc bổ củi thì cháu làm.

Ngồi từ sáng tới non trưa, chẳng ai hỏi tới, chợ thì vãn, bụng thì đói, mà chắc mẹ con nhà cháu cũng đang mong chờ bữa. Cái nông nỗi mong chờ vơ vẩn làm cho cháu nóng ruột bội phần. Tần ngần ngồi bên đống vỏ mít, ruồi nhặng bậu đen ngòm, cháu nghĩ cách ăn tranh chúng nó, bèn ngả nón bốc đem về, đổ vào rổ sề đem ra ao rửa sạch, gọt hết gai đi, rồi thái cả sơ lẫn cùi, cho vào nồi đun thật dừ. Tra mắm muối cho vừa vặn. Còn mấy chục bát hột tìm trong đống vỏ vẫn định luộc riêng, rồi nấu cháo cho bu cháu ăn, nhưng nó thấy cháu nhường nhịn chẳng đành lòng, nên cùng ăn cả. Cháu bèn giã cả hột cho vào thành một thứ canh vừa bùi vừa ngọt, ăn thú quá! Một điều sung sướng nữa là ăn vào, sáng hôm sau hai bầu sữa của bu cháu thẳng căng, thằng cháu bú no nê, không cằn nhằn như mấy bữa trước. Thế là mấy hôm sau cháu cứ việc đi chợ khuân vỏ mít về làm bữa, ăn rồi lại kỳ cạch thái phơi bỏ lọ, thứ thì lựa rặt cùi để kho ăn với cơm. Nhưng mà mít nó là giống có mùa, không thể trông vào đấy mà ăn mãi được. Cháu nghĩ ngay ra cách ăn bã đậu.

-Bã đậu chắc ăn chóng chán lắm thì phải, vì tôi ngửi mùi nó ngang ngang khó chịu lắm, nhất là khi nó đã ôi.

-Làm cho không có mùi ngang ngang, mà không bao giờ ôi được mới tài chứ! Cháu tìm ra cách ăn được, nhất định bí truyền, thành ra các tướng cũng bắt chước cháu ăn, rồi bỏ cả đấy ông ạ!

-Làm cách nào mà ăn?

-Khó gì đâu! Chỉ có mẹo một tý thì bã đậu đã thành một thứ xôi vò thượng hảo hạng! Mới đầu hãy tãi ra cái nia, phơi trong râm, nhưng đừng để cho ruồi nhặng đậu vào, thỉnh thoảng lấy đũa cả đánh đi đánh lại cho rời ra rồi cho vào chõ đồ, rắc thìa muối cho đậm, hơi bốc lên là bạt hết mùi chua, mùi ngái mà ông bảo là ngang ngang, muốn kỹ đem đồ hai lượt thì tốt lắm. ăn bã đậu béo người, tuy mất tiền mua nhưng cũng rẻ, cứ bốn bố con nhà cháu, một ngày chỉ hai xu bã đậu là no phính!

-Mỗi năm bác phải ăn độn lót thế độ mấy tháng?

-Quanh năm ấy ông ạ! Có chăng chỉ những ngày giỗ tết thì dù túng kiết thế nào cũng cố dành dụm kiếm lưng cơm quả trứng, thoi vàng nén hương cho tinh sạch. Những ngày ấy mới là ngày ăn uống sang trọng của nhà cháu, tưởng ăn một bữa hết hai hào chỉ, giá cứ quanh năm ăn thế thì núi cũng phải lở, ông nhỉ?

-Nhưng ăn rồi lại kiếm ra thì sợ gì ?

-Kiếm như chúng cháu nghĩ mà buồn! Chỉ mong một ngày được ba xu với hai bữa cơm no cũng còn khó thay, ấy bu cháu ra tỉnh chuyến này nếu ở được mỗi tháng một đồng kia đấy, nhưng mà... Thoáng một vẻ buồn hiện trên nét mặt bác, tôi mỉm cười nói giỡn:

-Thôi lại nhớ mẹ đĩ rồi! Bác cũng gượng cười nói chữa:

-Không, giá cháu nhớ thì cháu đã chẳng bảo đi, nhưng cháu chỉ lo nước Hà Nội chóng ngay xương lắm! Đi làm đỡ nạn mấy tháng khi về lại quen đi, không gồng gánh nặng nhẹ được thì khổ, ấy cũng nhiều người thế đấy, rồi sau vợ chồng sinh chán nhau hoặc bỏ chồng theo những anh bồi bếp để ăn trắng mặc trơn, nhiều anh mất vợ vì thế đấy.

-Có "tâm" là lòng, "ý" là lòng chứ, ai cũng thế thì còn ai dám đi làm lụng gì nữa. Vả lại bác gái nhà bác bồ chề xốc xếch thế thì việc gì!... Bác nghe câu khuyên giải của tôi, nét mặt lại bình tĩnh như thường. Tôi bỗng nhắc bác:

-Kìa từ nãy tới giờ, mải nói chuyện mà quên cả cất vó? Dễ vợ chồng con sộp nó đem nhau vào ở cữ trong vó của bác rồi cũng nên! Bác khanh khách cười, tay nâng sào vó, khom lưng rút khung gọng vó, nước sóng sánh chuyển động chiếc bèo tây đang đủng đỉnh trôi xuôi. Mẻ vó suông! Bác khoan khoan cho vó xuống, tôi thẫn thờ nhìn ánh nước rập rờn trên bức vách.

Đạm Hiên Thời vụ số 24 -3-5-1938 và số 25 -6-5-1938

Việc làng

I Lớp người bị bỏ sót

Hôm ấy, một hôm về cuối mùa đông, cách đây độ hơn mười năm, trời xế chiều, tôi mới đến nhà cụ Thượng Lão Việt. Cái nhà mới lạ làm sao! Nó là một túp lều tranh lụp xụp, đầy cảnh thê thảm, nhưng lại có vẻ vui vẻ. ở gian bên này khách khứa tấp nập. Người ta cười cười nói nói sốt sắng đợi hơi thở cuối cùng của ông cụ già. Cụ Thượng nằm to vo trên chiếc giường tre trong gian bên kia. Mặt cụ ngoảnh vào bức vách. Lưng cụ uốn gù con tôm. Bức chăn dạ đỏ phủ trên mình đã hóa màu gạch non vừa vặn đậy kín từ vai đến gối. Cái đầu trắng xóa và đôi bít tất thủng gót đeo ở cổ chân đều bị để lộ ra ngoài. Cánh dại che ở trước cửa chỉ còn lơ thơ vài nan. Gió Bắc tự do đưa mãi hơi lạnh từ ngoài sân vào vách. Mấy cục củ tre nhóm trên đống trấu cạnh giường đã hết ngọn lửa, khói đang nghi ngút tỏa khắp nhà. Cụ Thượng từ từ mở hai bàn tay gầy guộc khoác nhau ở đằng sau gáy, nặng nhọc trở mình ra ngoài, chào tôi bằng hai con mắt cảm động khi tôi rón rén ghé vào giường cụ, và sẽ lên tiếng hỏi cụ.

Biết bao nhiêu sự hối hận rung động lòng tôi! Nó trách tôi đến thăm cụ muộn quá. Với cụ, tôi không phải là kẻ họ hàng thân thích, hay người cùng tỉnh cùng huyện. Sở dĩ biết nhau chỉ vì một chuyến tàu thủy chạy từ Hà Nội xuống Nam Định, chuyến tàu chở dân lều chõng lần cuối cùng. Bấy giờ tàu cạn ở trên cửa Luộc, phải dừng lại đó suốt hai ngày một đêm để chờ con nước. Trong lúc suốt ngày đêm lênh đênh ngồi trên mặt nước để nghe những tiếng "dì xế dì" và "xám xế xám" của bọn mạch nô đo nước, người ta dễ thân với nhau, nếu đã cùng nhau ăn cùng mâm và nằm cùng chiếu. Nhờ vậy tôi mới trở nên người bạn của cụ, dù tôi kém cụ hơn ba chục tuổi và không phải cùng làm một nghề với cụ. Cụ yêu tôi về tính hoạt động. Còn tôi thì tôi trọng cụ ở chỗ từng trải, chất phác, có can đảm, không câu nệ, luôn luôn nhìn đời bằng con mắt lạc quan, nhất là những lúc rung đùi mà cất chén rượu, cụ đã tỏ ra người có chí khí. Bấy giờ, cụ đương buôn than, thường lên Hà Nội mua hàng tải về Nam Định. Nhưng cụ cũng có biết chữ, chữ quốc ngữ đủ để đọc báo, chữ Hán thì có thể hiểu những cuốn Tam quốc chí hay là Chinh đông chinh tây. Sau mấy ngày tình cờ hội ngộ, chúng tôi biệt nhau khi tàu cập bến Nam Định. Từ đó, tuy không gặp nhau, nhưng mà hai bên vẫn có thư từ đi lại. Mỗi lần cụ đổi nghề này làm nghề khác, đều có viết giấy cho tôi. ân hận hơn hết là cái giấy mời tôi đến làng Lão Việt dự tiệc bảy mươi, cái tiệc người ta ăn vạ cụ về tội dám sống đến bảy chục tuổi để là "cụ thượng" làng ấy.

Lúc ấy, tôi đã định đi, rồi lại ngần ngại không đi. Thế rồi, ba năm sau, một bữa tôi nhận được một bức thư của cụ và tôi giật mình đánh thót, khi coi đến mấy dòng này:

"Tôi nay sắp sửa từ giã cái làng Lão Việt, từ giã hết thảy những yêu ghét trong khoảng bảy mươi năm trời. Gan ruột tôi đang bồn chồn không muốn ở lại một ngày nào nữa. Sở dĩ chưa nhắm mắt được là vì còn mớ tâm sự muốn ngỏ với ông. Nếu lần này mà không được gặp ông, thì cái tâm sự ấy, tôi đành đem xuống suối vàng để nói với lũ quỉ sứ..." Chao ôi! Một chữ bao nhiêu đau đớn! Có lẽ cụ đã viết bằng nước mắt. Còn một lẽ nào để tôi chậm sự lên đường trong vài giờ? Nhưng tôi hết sức ngạc nhiên khi thoạt bước đến trước cổng nhà cụ. Trong khu vườn xoan kề bên cổng, người ta đã buộc một con trâu kềnh. Theo cái giá rẻ hồi ấy, nó cũng đáng đến bốn chục bạc. Cạnh đó, một bó nứa khô, mấy chiếc đòn tre, lổng chổng dựa vào gốc xoan và mấy bó rơm tanh bành quẳng ở giữa vườn. Thoáng coi những vật liệu ấy, đủ thấy một cuộc vật trâu đang được dự bị tại đó.

Ngó vào trong cổng, một tòa rạp lớn nghênh ngang dựng ở ngoài sân, mái cót còn chưa lợp kín. Dưới rạp giường, phản, bàn ghế đã kê sẵn sàng. Nong bát, nong đĩa, chum đựng nước, cối giã giò, rồi nồi ba mươi... không biết mỗi thứ là bao nhiêu cái, la liệt bày khắp ngoài rạp. "Tội nghiệp! Cụ Thượng đã chết mất rồi! Con cháu đã đương sắp đồ làm ma đây rồi! Mình không được nói với cụ một câu nào, sao mà phụ phàng cụ thế?..." Với sự bùi ngùi ấy, tôi bỡ ngỡ bước vào trong sân. Mấy chục con mắt đổ dồn vào tôi. Không ai biết tôi là người nào hết. Bởi vì tôi đến nhà cụ, lần này là lần đầu. Sau khi tôi tự giới thiệu, một người đàn ông, độ bốn mươi tuổi, tươi cười bảo tôi:

-Rước ông vào chơi trong nhà! Ba bốn hôm nay hôm nào thầy tôi cũng nhắc đến ông. Thì ra người đó chính là con trai cụ Thượng. Lúc đó tôi mới biết cụ Thượng còn sống.

Đưa tôi vào đến cạnh giường cụ Thượng, người ấy chỉ kịp rót cho một chén trà nguội, rồi ông ta sấp ngửa chạy đi, coi bộ đương bận rộn lắm. Cụ Thượng tuy đương ốm nặng, nhưng nó chỉ là bệnh già, cũng như cái cây hết nhựa, chứ không có chứng gì khác. Vì vậy tinh thần vẫn còn tỉnh táo. Tuy đã xa nhau đến gần mười năm, mà khi thoạt nghe tiếng tôi, cụ liền nhận ngay ra tôi và cố quay mặt ra chỗ tôi ngồi! Cái mặt mới đáng sợ chứ! Nó sạm như ngả bùn, đôi mắt trũng hoáy, đôi má hóp lại, hai cái gò má dô lên, người ta có thể ngờ là một chiếc đầu lâu, nếu không có đôi con ngươi lóng lánh. "Sao mình không đi thăm cụ tự mấy tháng trước để đáp tấm lòng ân cần của cụ trong mấy năm xa nhau? Bây giờ đã đến thế này, cụ còn sức đâu mà kể với mình những điều cụ định kể? Thật là mình đã phạm một tội lớn! Chính mình đã làm cho cụ thấy Yy náy trước khi từ giã cõi đời!... Tôi đang phàn nàn với tôi như vậy thì cái bàn tay cẳng gà của cụ chờ choạng nắm lấy tay tôi. Rồi cụ cất giọng rên rên như sắp đứt hơi:

-Đáng lẽ tôi sẽ im lặng mà chết, không thể nói thêm câu nào, dù tôi vẫn muốn nói. Bởi vì luôn hai bữa nay người tôi đã hết khí lực, không đủ sức để đưa câu nói ở trong miệng ra. Không hiểu vì sao mới nghe tiếng ông, tự nhiên tôi thấy trong mình hơi mạnh hơn trước. Có lẽ bây giờ tôi đã có thể nói nhiều với ông. Ngừng lại giây lát, cụ tiếp:

-Tôi sẽ là người chết oan! ông nên nhớ cho như thế! Nghe đến câu ấy, tôi phải hết sức sửng sốt, nhưng vẫn cố giữ vẻ bình tĩnh. Cụ vẫn ngập ngừng cất từng tiếng một:

-Đời tôi thế nào, ông đã biết rõ. Nhiều lúc tôi vẫn tự phụ:

tuy không thông minh, nhưng không đến nỗi ngu đần. Nhất là tôi không lười biếng... Xen vào đó, một tiếng thở dài, rồi cụ lại nói đều đều:

-Thật vậy, từ thuở mười bảy tuổi đầu đến giờ, tôi không chơi không ngày nào, trừ ra những ngày đau ốm. Thôi thì cày sâu cuốc bẫm, buôn ngược bán xuôi, không quản ngại một việc gì cả. Có lúc đã lên mỏ Hích lăn lộn với đám phu mỏ... Những việc tôi làm, bất kỳ việc nào, tuy không phát đạt, nhưng không thất bại bao giờ, chẳng lãi nhiều thì lãi ít. Vậy mà suốt đời nghèo xác, nghèo xơ, ăn không đủ, mặc không đủ, cả nhà có một thằng con đành để nó dốt nát. ông bảo là vì cớ gì! Tiếng cười nói ở gian bên kia làm cụ im đi một lúc như để chờ câu trả lời của tôi. Lâu lâu cụ mới cắt nghĩa:

-ấy là bởi gánh việc làng. Cái làng Lão Việt nhà tôi có thể đại diện cho cả hương thôn già cỗi của nước Việt Nam. Vì nó là chỗ để chứa hủ tục. Bất kỳ hủ tục nào, làng tôi đều có đủ cả. Vì thế mà tôi suốt đời còm cọm, chỉ để đóng góp là vừa. Bây giờ tôi sắp nằm xuống, lại sắp để lại cho thằng con tôi một cái gánh nặng. Những sự linh đình ông thấy ở ngoài sân kia, sẽ là món nợ mà một đời nó chưa chắc trả hết... Đuôi con mắt cụ bỗng có một giọt nước rỏ xuống dưới chiếu, cụ cố nói cho ra giọng cứng:

-Hủ tục không phải là thứ thiên kinh, địa nghĩa, nó vẫn có thể thay đổi, nếu phái trí thức để ý đến sự khai hóa cho dân quê. "Nhưng vì chúng tôi là một lớp người bị bỏ sót trong lđá tre xanh, con mắt của phái trí thức ít khi ngó tới. Bởi vậy, những cái tục lệ quái gở, mọi rợ mới được tự do kế tiếp nhau, chồng chất lên vai chúng tôi. "Nhiều lúc tôi muốn hắt cái gánh nặng ấy đi, nhưng sức một mình không thể làm nổi, đành phải è cổ mà chịu.

"Một người chăm chỉ, cần kiệm, lao lực như tôi, chỉ vì một gánh tệ tục đè ép, đến nỗi suốt đời không ngóc đầu lên được, bây giờ sắp chết, gánh tục lệ ấy vẫn còn đè ép chưa tha, ông bảo có oan uổng không? "Vậy mà nó vẫn được coi như vị thần thiêng, không ai đả động đến nó. Lạ thay! "Tôi ước ao rằng:

sau khi tôi đã nhắm mắt, ông sẽ đem những tội ác của nó mà phơi ra bóng mặt trời"... Lúc này tiếng nói của cụ đã thấy nhỏ dần. Vì sợ cụ mệt, tôi tạm cáo từ để ra chỗ khác. Gần tối, tôi lại tới đó. Cụ vẫn ngoảnh mặt trở ra như có ý đợi tôi. Khi thấy tôi đến, cụ cố gắng sức đưa ra những tiếng thì thào và rời rạc:

-Một nước giống như một cái xe bò, lớp trí thức là người làm bò, lớp dân quê là người đẩy xe. Nếu kẻ đẩy còn bị những dây lệ buộc chặt hai chân, thì kẻ làm bò tài giỏi bậc nào cũng không thể kéo được cái xe bò lên dốc... Vì vậy... tôi chỉ mong mỏi các ông đưa mắt đến chỗ bẩn thỉu, tối tăm... trong lđá tre xanh". Hết câu đó, cụ bỗng trợn ngược hai mắt, đờm ở trong cổ kéo lên khè khè. Cả nhà nhớn nhác xúm lại. Cụ đã tắt thở. Cái lúc trong nhà im lặng bỏ tiền và gạo vào miệng người chết, thì ở ngoài vườn người ta cũng hò reo để vật con trâu. Từ lúc đưa đám tang cụ Thượng, lời cụ vẫn văng vẳng bên tai tôi. Sau mười năm lang thang nay đây mai đó, tới đâu tôi cũng thấy chứng cớ về sự từng trải và nỗi đau đớn của cụ. Cụ quả là người chết oan. Cho được an ủi vong hồn của cụ, tôi phải minh oan cho cụ và cho những người như cụ bằng thiên phóng sự này.

Một đám vào ngôi

nhà bác Cả Mão mọi ngày thường im phăng phắc, hôm nay bỗng nhiên linh đình như đám giỗ nhỏ. Dưới cầu ao, hai người đàn ông lực lưỡng đang châu đầu trên chiếc rổ thưa, tỉ mỉ nhổ từng sợi lông tơ cho một con gà trong rổ. Trên bờ ao, một con chó xồm bị trói bốn chân, nhe răng nằm trên vũng máu lênh láng. Cạnh nó, một nồi nước sôi khói bốc nghi ngút và bốn năm người, cũng hạng đàn ông lực lưỡng, kẻ cầm gáo múc nước, người cầm dao sắp sửa cạo lông. Từ cổng đến thềm, tấp nập những người đi lại. Tôi mới nhô vào đến sân, bác Cả lật đật chạy ra đón lên nhà trên với một bộ điệu vui vẻ. ở gian bên kia, độ bảy tám ông ngổn ngang nằm vây một chiếc khay đèn thuốc phiện. Với những cặp môi thâm xịt và dài vều, và những chiếc quần cháo lòng, áo ba-đờ-xuá rách lòi khố tải, các ông ấy như muốn bảo cho tôi biết đây toàn là hạng kỳ dịch kiêm tín đồ của đức chúa Phù dung. Dãy phản bên này, hai bàn tổ tôm kế nhau. Bàn trong vang những tiếng ăn, tiếng phỗng, bàn ngoài đương ỏm tỏi cãi nhau về sự đánh thấp đánh cao. Chủ nhân lễ phép mời tôi vào ngồi trong chiếc tràng kỷ kê ở gian giữa, đối mặt với tòa bàn thờ hương khói vắng tanh. Mấy ông trong bàn tổ tôm thi nhau nhìn tôi bằng nửa con mắt trông nghiêng, giữa khi vài ông ở bàn thuốc phiện lần lượt ngóc cổ như đàn rắn lửa. Rồi thì ai nấy lại cùng theo đuổi công việc của họ, người hút cứ hút, người đánh bài cứ đánh bài.

-ông có lòng đến đây mừng cho nhà cháu, thật là quý hóa! Xin mời ông xơi tạm chén nước. Bác Cả Mão đương một tay gãi tai, một tay bưng chén chè nụ đặt trước mặt tôi, bên bàn tổ tôm bỗng có tiếng gọi:

-Anh Cả đâu! Cho mượn hai đồng đánh thêm hội nữa. Đen quá, cả hội chẳng ù ván nào! Bằng một tiếng vâng đầy giọng thành tâm, bác Cả Mão nhanh nhẩu chạy xuống nhà dưới, để tôi ngồi đó với bác Hai Thìn, một người em ruột bác ấy. Thơ thẩn chưa biết nên nói chuyện gì, tôi có dịp nghĩ đến cái câu của bác Cả Mão mới nói. Với bác, tôi chỉ là người trọ học ở nhà láng giềng. Vì năng gặp bác, thành ra quen biết. Hôm nay là ngày "vào ngôi" cho thằng con bác mới đẻ được ba tháng nay, bác vẫn mến tôi nên cố mời tôi sang chơi. ở làng khác, vào ngôi chỉ là một lệ rất thường, người ta phí tổn độ vài ba chục, hay vài ba trăm quả cau là xong. Sao trong đám này lại có cỗ bàn linh đình, và sao ở trước mặt khách, ông chủ lại nói đến câu "mừng cho nhà cháu"? Hay là riêng với làng này, vào ngôi là một việc hỷ? Nếu vậy, có lẽ mình phải mất một món tiền mừng. óc tôi còn đương vẩn vơ, bác Cả Mão đã ở nhà dưới chạy lên. Cung kính trao hai đồng bạc cho một ông trong bàn tổ tôm, bác ấy tung tăng ra sân, khiến tôi không kịp nói chuyện. Dưới bếp, có tiếng dao thớt ký cốc, mùi xôi ngào ngạt đưa lên nhà trên. Một ông trong đám thuốc phiện dõng dạc cất cái giọng khàn khàn:

-Anh Cả đâu! Lên đây tôi bảo! Một tiếng dạ lớn, bác Cả Mão từ sân vào thềm, rồi khoanh tay đứng tựa vào cột:

-Bẩm cụ dạy gì con ạ?

-Trưa lắm rồi đấy! Liệu mà giục bảo chúng nó sắp đồ lễ mau lên! Rồi anh phải thân hành đến mời cụ Điền lại chơi, kẻo cụ lại ăn cơm nhà. Lại một tiếng dạ rất lễ phép, bác Cả rón rén lui ra. Tiện dịp, tôi bảo bác ngồi xuống chỗ tôi ngồi và móc ví lấy một đồng bạc mừng bác. Nhưng bác khăng khăng từ chối, nói rằng việc này không có lệ mừng. Ngoài thềm có tiếng lẻng kẻng. Một người xách chiếc mâm đồng sáng choang đặt lên cái bàn ở trước mặt tôi. Rồi một người khác để luôn thúng xôi vào đó. Bác Cả Mão núc hai bàn tay như thầy phù thủy bắt quyết và nói với tôi:

-Bên này chật quá, mời ông sang nhà chú cháu. ông nhạc tôi cũng ở bên ấy. May quá, tôi đang muốn tránh cái bầu không khí khó chịu. Nghe lời chủ nhân, tôi liền theo bác Hai Thìn đi luôn. Nhà này cũng thấy lố nhố những người, nhưng toàn là người tôi quen. Qua một tuần trà, bác Hai Thìn nhìn tôi và nói bằng giọng sung sướng:

-Anh tôi lo công việc này cho cháu tất cả cũng hết đến trăm rưỡi bạc. ấy là chúng tôi khôn khéo, xoay xở thì việc mới xong, người khác ở vào địa vị chúng tôi, dù có mấy trăm, vị tất đã lo nổi! Câu nói của bác khiến tôi hết sức ngạc nhiên:

-Sao nhà các ông hoang quá như vậy? Tôi thấy người ta "vào ngôi" cho con chỉ tốn độ vài đồng bạc là cùng! Bác Hai xua tay và nói bằng giọng thì thầm:

-Nào có phải hoang! ông tính ở đời ai muốn mất tiền! Đó là sự bất đắc dĩ. "Nói giấu gì ông, nhà tôi không phải gốc gác ở làng này. ông thân chúng tôi ở vùng Nam lên đây sinh cơ lập nghiệp, rồi mới đẻ ra anh tôi và tôi. Thế là tới ở làng này, nhà tôi mới ở có hai đời. Theo lệ nhà quê, những người ngụ cư ba đời mới được "thành tổ". Nghĩa là được ngang hàng với mọi người khác. "Làng này lại ngặt hơn nữa, từ xưa đến giờ họ không cho một người ngoài nào nhập bạ. Vì thế, anh tôi và tôi cũng như ông thân chúng tôi, đều không có ngôi ở đình. "Chắc ông cũng biết ở làng mà không có ngôi, thật là một sự nhục nhã. Những lúc tứ quý kỳ phúc, người ta thì phần ăn, phần gói, mình thì chẳng có miếng gì. Những lúc hội hè, đình đám, người ta rước cờ, rước quạt, mình chỉ đóng vai khiêng chiêng. Như thế cũng đã khổ rồi. Hơn nữa, lỡ có cha già mẹ héo, làng giáp có chôn cho đâu! Chính lúc ông thân bà thân chúng tôi qua đời, anh em tôi đều phải nhờ cậy hàng xóm khiêng giúp. Rồi khi xong việc, chúng tôi muốn theo mọi người nộp lệ cho làng con trâu, họ cũng không thèm nhận cho. Cái đó mới cực cho chứ!

-Người ta không nhận thì càng khỏi mất. Việc gì mà cực! Tôi mỉm cười và đáp một câu khôi hài như vậy. Bác Hai vẫn nói một cách thật thà:

-Thế được còn nói gì nữa! Anh em chúng tôi, trời cho trong nhà cũng đủ bát ăn, mỗi người cũng có được con trâu cày và dăm mẫu ruộng. Thế mà không thể nộp được lệ làng cho cha và mẹ, tức là tiếng xấu để đời... Mỗi khi nghĩ lại những nông nỗi ấy, anh tôi và tôi tức chết người đi được. Trước đây, chúng tôi đã cố luồn lọt mấy ông đàn anh, để xin nhập bạ, nhưng mà bấy giờ hãy còn cụ Bá, cụ ấy nghiệt lắm, nhất định bảo nhà tôi đến ở làng này chưa được ba đời, không thể nhận lời. Chúng tôi đành phải cắn răng mà chịu. Bởi vậy lần này anh tôi sinh được mụn cháu, lại may gặp lúc cụ Bá đã mất, chúng tôi phải cố vào ngôi cho nó.

-Nhưng mà các ông tiêu những món gì mà hết đến hơn trăm bạc? Bác Hai càng hạ giọng xuống, sau khi liếc mắt ngó qua những người chung quanh:

-ông bảo những công việc ấy, nói bằng miệng không được ư? Phải mất tiền cả đấy! Cụ chưởng lễ ba chục, ông chánh hội hai chục, cụ lý trưởng mười lăm đồng, ông phó lý và ông phó hội mỗi người mười hai đồng, thư ký, trưởng bạ, mỗi người mười đồng, hương trưởng, lý cựu, tộc biểu, trương tuần mỗi người năm đồng. Những số tiền ấy hết ngoài trăm đồng rồi. Lại còn ăn uống từ chiều hôm qua đến giờ...

-Nếu đã mất tiền cho họ thì thôi cái bữa ăn uống có được không? Bày vẽ làm gì cho tốn? Bác Hai lắc đầu:

-Không được ông ạ! ở chốn thôn quê, ăn uống là sự đầu tiên. Muốn gì thì gì, hễ không có ăn thì việc không thành. Lúc trước, anh tôi cũng nghĩ như ông, đã định chước sự ăn uống vì đã rắc tiền khắp mặt chức dịch. Nhưng ông chánh hội không nghe. ông ấy nói rằng thế nào cũng phải đấm miệng cho các bô lão, và bọn trai đinh bò bướu một bữa. Nếu không họ sẽ phá ngang, tất nhiên sẽ có cản trở. Trước mặt có người đi qua, bác Hai ngừng lại một lát chờ cho người ấy đi khỏi, rồi tiếp:

-Một bữa ăn này, ít ra anh tôi cũng phải tiêu đến năm, sáu chục đồng. Vì kiêng tiếng làm thịt lợn, sợ rằng làng nước cho là hứng mỡ, nên mới đi chợ mua thịt. Sự thực, mua thịt lại quá giết lợn. Sáng ngày đi lấy vừa lòng lợn vừa thịt lợn tất cả mười một đồng bạc, đáng lẽ cũng đủ chàn chát, nhưng cụ chưởng lễ thích ăn thịt cầy, nên ông lý trưởng bắt phải giết thêm con cầy. Chẳng nhẽ mời dân mời làng ăn uống trong nhà, ngoài đình lại không có gì. Bởi thế chúng tôi phải sửa cỗ xôi, con gà để ra lễ thờ. Bấy nhiêu món hết ngót hai chục rồi. Còn tiền rượu, tiền thuốc phiện, còn tiền cung đốn họ đánh tổ tôm. ông đã biết rõ, mọi khi làng tôi có ai dám đánh "góp một"? Lớn lắm chỉ "góp năm hào". Hôm nay vì tiền nhà chủ bỏ ra, được thì ăn, thua không phải trả, nên họ hò nhau đánh góp hai đồng. Rồi đấy ông xem, đến lúc đứng dậy, ai cũng thu hết, anh tôi đưa ra bao nhiêu mất hút bấy nhiêu, chẳng lấy lại được đồng nào hết... Lúc nãy tôi nói trăm rưỡi, còn là hà tiện, xong việc có lẽ hết hơn, chứ bấy nhiêu tiền không thể nào đủ. Bác Hai còn muốn nói nữa. Bên nhà bác Cả chợt nghe có tiếng ầm ầm, bác ấy lật đật xin lỗi đứng dậy:

-Mời ông ngồi chơi với các cụ tôi. Tôi phải chạy sang bên kia. Làng đã vào rồi! Tiếng ầm ầm bên nhà bác Cả mỗi lúc một to, trước còn cười nói, sau đến quát tháo, cuối cùng thì đến những tiếng mách tục mách qué. Lâu lâu cuộc xô xát lại dữ dội thêm, bác Hai Thìn hốt hoảng chạy về, vừa thở vừa nói:

-Khổ quá, mấy ông bô lão lại còn bẻ vành bẻ vẻ, nhất định nói rằng:

hương ước không có chỗ nào nói cho người ngoài vào ngôi. Cụ Điền hết sức giàn xếp không được. ông chánh hội và ông lý trưởng bảo anh tôi phải chồng hai chục đồng bạc -tiền ngay cốc cộc -để cúng vào nóc các lão, thì việc mới yên. Thôi thế cũng còn là may. Cuộc ăn uống kéo dài mãi đến gần tối, nhưng không xảy ra sự gì nữa. Cách ba bữa sau, bác Cả Mão sang nhà tôi trọ, dạm bán cho ông chủ nhà một mẫu hai ruộng, lấy trăm đồng bạc để trang công nợ. Vui vẻ bác khoe với tôi:

-Tất cả, tôi lo hết gần hai trăm. Của nhà có non một trăm, còn thì đều phải đi vay. Nhưng tôi cũng lấy làm hả. Từ nay trở đi, cháu đã

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#vieclang