viet bac mrdam

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Phân tích đầy đủ bài Việt Bắc của Tố Hữu

VIỆT BẮC

Giới  thiệu: Việt Bắc  là  căn cứ địa cách mạng, quê hương cách mạng đầu

tiên của Việt Nam, gồm các tỉnh Cao - Bắc - Lạng - Thái - Tuyên - Hà, nơi gắn bó

tình nghĩa keo sơn của TW Đảng và chính phủ thời kì kháng chiến chống Pháp.

1. Hoàn cảnh sáng tác

7.1954 hiệp định Giơ-ne-vơ được kí kết, miềnBắc hoàn toàn giải phóng.

Tháng 10/1954, TW Đảng và Chính phủ rời VB  trở về HN. Nhân sự kiện

ấy TH sáng tác bài Việt Bắc.

Bài thơ có hai phần: phần đầu tái hiện những kỉ niệm cách mạng và kháng

chiến; phần hai gợi viễn cảnh tươi sáng, ca ngợi công ơn của Đảng của Bác Hồ.

SGK trích học phần đầu.

Bài thơ được kết cấu theo lối đối đáp trong ca dao trữ tình truyền thống.

PHÂN TÍCH

1. Hai mươi câu đầu

Phân tích đoạn thơ trích trong Việt Bắc của Tố Hữu:

"Mình về mình có nhớ ta (...) Tân trào, Hồng Thái, mái đình cây đa"

Bốn câu đầu là lời Việt Bắc tỏ bày với người cán bộ chiến sĩ khi chia tay: "Mình về mình có nhớ  ta/ Mười lăm năm ấy  thiết  tha mặn nồng /Mình về

mình có nhớ không /Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?"

Điệp  từ  "nhớ"  luyến  láy  trong cấu  trúc câu hỏi  tu  từ đồng dạng,  tràn đầy

thương nhớ. Cách xưng hô "mình - ta" mộc mạc, thân gần gợi  liên tưởng ca dao:

"Mình về ta chẳng cho về - Ta nắm vạt áo, ta đề bài thơ". "15 năm" là chi tiết thực

chỉ độ dài thời gian từ năm 1940 thời kháng Nhật và tiếp theo là phong trào Việt

Minh, đồng thời cũng là chi tiết gợi cảm - nói lên chiều dài gắn bó thương nhớ vô

vàn. Câu thơ mang dáng dấp một câu Kiều - Mười lăm năm bằng thời gian Kim -

Kiều xa cách  thương nhớ mong đợi hướng về nhau  (Những  là  rày ước mai ao  -

Mười  lăm năm  ấy biết bao nhiêu  tình). Cảm  xúc đậm đà chất dân gian, đậm đà

chất Kiều. Âm điệu ngọt ngào, giọng thơ nồng ấm, tình cảm do vậy dạt dào thiết

tha. Việt Bắc hỏi về: "Mình về mình có nhớ không - Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông

nhớ nguồn?". Câu hỏi chất chứa tình cảm lưu  luyến, bao hàm lời dặn dò kín đáo:

đừng quên cội nguồn Việt Bắc - cội nguồn cách mạng.

Bốn câu tiếp theo là nỗi lòng của người về:

"Tiếng ai  tha  thiết bên cồn/ Bâng khuâng  trong dạ, bồn chồn bước đi  /Áo

chàm đưa buổi phân li /Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay"

"Bâng khuâng, bồn chồn" là hai từ láy gợi cảm, diễn tả trạng thái tâm lí tình

cảm buồn vui, luyến tiếc, nhớ thương, chờ mong... lẫn lộn cùng một lúc. Mười lăm

năm Việt Bắc cưu mang người cán bộ chiến sĩ, mười lăm năm gian khổ có nhau,

mười lăm năm đầy những kỉ niệm chiến đấu, giờ phải chia tay rời xa để làm nhiệm

vụ mới về tiếp quản tại thủ đô Hà Nội (10-1954), biết mang theo điều gì, biết lưu

lại hình ảnh nào, tâm trạng của người về do vậy không tránh khỏi là nỗi niềm bâng

khuâng khó tả.

"Áo chàm đưa buổi phân li"  là một ẩn dụ, màu áo chàm, màu áo xanh đen

đặc trưng của người miền núi Việt Bắc - tác giả hướng nỗi nhớ Việt Bắc qua hình ảnh cụ  thể "áo chàm", chiếc áo, màu áo bình dị, đơn sơ, mộc mạc của vùng quê

nghèo thượng du đồi núi nhưng sâu nặng nghĩa tình, đã góp phần không nhỏ vào

sự nghiệp kháng chiến cứu nước.

Câu thơ "Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay..." đầy tính chất biểu cảm - biết

nói gì không phải không có điều để giải bày mà chính vì có quá nhiều điều muốn

nói không biết phải nói điều gì. Ba dấu chấm  lửng đặt cuối câu  là một dấu  lặng

trên khuôn nhạc để tình cảm ngân dài, sâu lắng...

12 câu tiếp theo kết thúc đoạn trích, là lời tâm tình của Việt Bắc:

"Mình  đi,  có  nhớ  những  ngày/ Mưa  nguồn  suối  lũ,  những mây  cùng mù

/Mình về, có nhớ chiến khu /Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?/ Mình về,

rừng núi nhớ ai/ Trám bùi để rụng măng mai để già/ Mình đi, có nhớ những nhà/

Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son/ Mình về, có nhớ núi non /Nhớ khi kháng Nhật,

thuở còn Việt Minh/ Mình đi, mình có nhớ mình/ Tân Trào, Hồng Thái, mái đình

cây đa"

Điệp từ "nhớ" lập đi lập lại nhiều sắc thái ý nghĩa: nhớ là nỗi nhớ, ghi nhớ,

nhắc nhở. Hàng loạt những câu hỏi tu từ bày tỏ tình cảm tha thiết đậm đà của Việt

Bắc. Tình  cảm  lưu  luyến  của người đưa  tiễn, gửi đi nỗi nhớ mong, gài  lại niềm

thương theo cách:

"Thuyền về có nhớ bến chăng

Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền"

Việt Bắc nhắc người cán bộ chiến sĩ đừng quên những năm tháng gian lao

vất vả, hoạt động chiến đấu trong điều kiện trang bị tiếp tế còn thô sơ, thiếu thốn.

"Mình về có nhớ chiến khu Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?" "Miếng cơm chấm muối"  là chi tiết thực, phản ánh cuộc sống kháng chiến

gian khổ. Và cách nói "mối thù nặng vai" nhằm cụ thể hóa nhiệm vụ chống  thực

dân cướp nước, đè nặng vai dân tộc ta.

Cảm xúc  thương nhớ xa vắng  thả vào không gian  rừng núi, gợi nỗi niềm

dào dạt:

"Mình về, rừng núi nhớ ai Trám bùi để rụng, măng mai để già"

Hình ảnh "Trám bùi để rụng, măng mai để già" gợi nỗi buồn thiếu vắng -

"Trám rụng - măng già" không ai thu hái. Nỗi ngùi nhớ bức bối như thúc vào lòng

kẻ ở lại.

Tiễn người về sau chiến thắng và chính trên cái nền của sự chiến thắng đó,

đã làm cho nỗi buồn nhớ  trở nên  trong sáng. Việt Bắc vẫn "một dạ khăng khăng

đợi thuyền", đồng thời nhắc nhở khéo léo tấm "lòng son" của người cán bộ chiến

sĩ. Xin đừng quên thời kỳ "kháng Nhật thuở còn Việt Minh", đừng quên cội nguồn

cách mạng, đừng quên để chăm  lo giữ gìn sự nghiệp cách mạng. "Mình đi, mình

có nhớ mình Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa"

Tóm lại, đoạn thơ trên là nỗi lòng thương nhớ, là lời tâm tình của Việt Bắc.

Đoạn  thơ  trên  tiêu biểu  sắc  thái phong  cách Tố Hữu, giọng điệu  thơ  ngọt  ngào

truyền cảm, mang đậm phong vị ca dao dân gian, đề cập đến con người và cuộc

sống kháng chiến. Thông qua hình tượng Việt Bắc, tác giả ca ngợi phẩm chất cách

mạng  cao  đẹp  của  quân  dân  ta,  khẳng  định  nghĩa  tình  thuỷ  chung  son  sắt  của

người cán bộ, chiến sĩ đối với Việt Bắc.

2. Đoạn 2: Tâm tình người ra đi

Khẳng định ân tình sắt son như nhất (4 câu đầu)

Ta với mình, mình với ta Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh

Mình đi mình lại nhớ mình

Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu.

- Ta  với mình/mình  với  ta":  ngắt  nhịp 3/3, mình  -  ta  lặp  lại xoắn xúyt >

quấn quýt, gắn bó, không thể chia cắt > Vận dụng sáng tạo ca dao (Mình với ta tuy

hai mà một/ Ta với mình tuy một mà hai) > mượn tình cảm lứa đôi để diễn tả tình

cảm cách mạng khăng khít bền chặt.

- Khẳng định:  lòng ta - sau trước - mặn mà- đinh ninh > nhịp 2/2/2/2, kết

hợp với 2 từ láy> là lời khẳng định chắc nịch 

- Mình đi mình lại nhớ mình:

• Chữ "lại":  thanh  trắc ở âm vực  trầm nhất > câu  trả  lời vừa  là  lời khẳng

định, vừa là một nguyện thề thiêng liêng với người ở lại, với chính mình.

• Gắn với câu hỏi "Mình đi mình có nhớ mình" > Sự vận dụng sáng tạo cấu

trúc  ca  dao  (Thuyền  về  có  nhớ  bến  chăng/  Bến  thì  một  dạ  khăng  khăng  đợi

thuyền): không chỉ có một vế đơn độc- vế hỏi vừa như nêu băn khoăn, vừa khẳng

định  lòng  thuỷ chung của bến đợi mà còn có vế đáp để nói rõ sự chung  thuỷ sắt

son của người ra đi.

- Cách so sánh, cách đo đếm đậm màu sắc dân gian: Nguồn bao nhiêu nước,

nghĩa  tình bấy nhiêu diễn  tả được nghĩa  tình cách mạng  là vô hạn  tận, như suối

nguồn không bao giờ vơi cạn > khẳng định lòng thủy chung son sắt với cách mạng,

với quê hương kháng chiến của người cán bộ vê xuôi.

   Hiện thực Việt Bắc trong hồi tưởng: -Khái quát: Sau khi khẳng định  tấm  lòng  trước sau như nhất, người  ra đi

nhớ về một Việt Bắc  ắp  đầy kỉ niệm. Hình ảnh  chiến  khu  càng  sống  động bao

nhiêu càng cho thấy nỗi nhớ, tình cảm kẻ đi với người ở tươi mới bấy nhiêu. Cảnh

sắc  thiên nhiên, cuộc sống sinh hoạt, kỉ niệm kháng chiến  lần  lượt hiện hình nổi

sắc.

Nhớ gì như nhớ người yêu

..................

Chày đêm nện cối đều đều suối xa

+ Nhớ cảnh Việt Bắc thanh bình:

Nhớ gì như nhớ người yêu

Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương

Nhớ từng bản khói cùng sương

Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.

Nhớ từng rừng nứa bờ tre

Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy.

- Hình  ảnh so sánh như nhớ người yêu  thể hiện sự gắn bó  tha  thiết  trong

tình  cảm. Cách  so  sánh  này mới  lạ  sáng  tạo,  chỉ  với  "như  nhớ  người  yêu" mà

người đọc có thể thấy hết được tình cảm của người ra đi.

- Hình ảnh gợi cảm đầy thi vị :bản khói cùng sương, bếp lửa, trăng lên đầu

núi,  rừng  nứa  bờ  tre, Ngòi Thia,  sông Đáy,  suối Lê  ...  gợi  nhớ  những  nét  nhớ

nhung tưởng như nhẹ nhàng mà lại hóa tha thiết, mãnh liệt. + Nhớ những ngày khó khăn gian khổ nhưng đậm đà tình nghĩa:

Ta đi ta nhớ những ngày

Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi...

Thương nhau chia củ sắn lùi

Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng

Tuy thiếu  thốn, gian khổ nhưng cảnh và người Việt Bắc đẹp và  tình nghĩa

chan hòa:

Hình ảnh tượng trưng: "Chia củ sắn lùi, bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng"

kết hợp với cách dùng  từ cùng nghĩa "chia, sẻ, cùng" diễn  tả được mối  tình cảm

"chia ngọt  sẻ  bùi"  giữa  nhân dân Việt Bắc  và  cán bộ  cách mạng. Biết  bao  tình

nghĩa  sâu  nặng  trong  "củ  sắn",  "bát  cơm",  "chăn  sui"... mà  người  cán  bộ  cách

mạng đã chịu ơn Việt Bắc. Đây là một hình ảnh đậm đà tình giai cấp.

+ Nhớ người mẹ Việt Bắc:

Nhớ người mẹ nắng cháy lưng.

Địu con lên rẫy, bẻ từng bắp ngô

Hình ảnh chọn  lọc: Người mẹ nắng cháy  lưng... gợi người đọc  liên  tưởng

đến sự tần tảo chắt chiu, cần cù lao động của bà mẹ chiến sĩ trong kháng chiến đã

đùm bọc, cưu mang chiến sĩ, cán bộ cách mạng. Đó  là hình ảnh tiêu biểu cho cái

đẹp, cái ân tình trong cuộc sống kháng chiến không thể phai nhòa trong kí ức của

người về xuôi .

+ Nhớ cảnh sinh hoạt cơ quan và những âm thanh quen thuộc: Nhớ sao lớp

học i tờ Đồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan

Nhớ sao ngày tháng cơ quan

Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo.

Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều

Chày đêm nện cối đều đều suối xa...

Đoạn  thơ còn dựng  lại những khung cảnh quen  thuộc với những hình ảnh

và âm thanh hết sức tiêu biểu cho sinh hoạt trong kháng chiến Việt Bắc. Câu thơ

đối ý mà nêu bật  tinh  thần  lạc quan yêu đời của cán bộ,  chiến  sĩ cách mạng dù

cuộc sống còn rất gian khổ, khó khăn :

"Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo"

Âm thanh "tiếng mõ rừng chiều" và "chày đêm nện cối đều đều suối xa" là

âm thanh đặc trưng của Việt Bắc, phản ánh sinh hoạt yên ả, bình dị nơi núi rừng,

gợi nhớ một thời đã qua.

3. Bức tranh tứ bình của Việt Bắc với bốn mùa Xuân - Hạ - Thu - Đông.

* Bức tranh tứ bình:

Ta về mình có nhớ ta

.... Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung

a. Đoạn này được xem là đặc sắc nhất Việt Bắc. 10 câu lục bát thu gọn cả

sắc màu 4 mùa, cả âm thanh cuộc sống, cả thiên nhiên con người Việt Bắc.

Ta về mình có nhớ ta Ta về ta nhớ những hoa cùng người

Tố Hữu  lựa chọn  thật đắt hình ảnh đối xứng : hoa  - người. Hoa  là vẻ đẹp

tinh  tuý nhất của  thiên nhiên, kết  tinh  từ hương đất sắc  trời,  tương xứng với con

người là hoa của đất. Bởi vậy đoạn thơ được cấu tạo: câu lục nói đến thiên nhiên,

câu bát nói tới con người. Nói đến hoa hiển hiện hình người, nói đến người lại lấp

lóa bóng hoa. Vẻ đẹp của thiên nhiên và con người hòa quyện với nhau  tỏa sáng

bức tranh thơ. Bốn cặp lục bát tạo thành bộ tứ bình đặc sắc.

b. Trước hết đó là nỗi nhớ mùa đông Việt Bắc - cái mùa đông thuở gặp gỡ

ban đầu, đến hôm nay vẫn sáng bừng trong kí ức.

Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi

Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng

Câu  thơ  truyền  thẳng đến người đọc cảm nhận về một màu xanh  lặng  lẽ,

trầm tĩnh của rừng già. Cái màu xanh ngằn ngặt đầy sức sống ngay giữa mùa đông

tháng giá. Cái màu xanh chứa chất bao sức mạnh bí ẩn "Nơi thiêng liêng rừng núi

hóa anh hùng". Màu xanh núi rừng Việt Bắc:

Rừng giăng thành lũy thép dày

Rừng che bộ đội rừng vây quân thù

Trên cái nền xanh ấy nở bừng bông hoa chuối đỏ  tươi,  thắp sáng cả cánh

rừng đại ngàn làm ấm cả không gian, ấm cả lòng người. Hai chữ "đỏ tươi" không

chỉ là từ ngữ chỉ sắc màu, mà chứa đựng cả một sự bừng thức, một khám phá ngỡ

ngàng, một rung động rất thi nhân.

Có  thể  thấy  cái màu đỏ  trong  câu  thơ Tố Hữu như  điểm  sáng hội  tụ sức

mạnh  tiềm  tàng chốn  rừng xanh đại ngàn,  lấp  lóa một niềm  tin  rất  thật,  rất đẹp. Trên  cái phông nền hùng vĩ và  thơ mộng  ấy, hình ảnh con người xuất hiện  thật

vững chãi,  tự  tin. Đó  là vẻ đẹp của con người  làm chủ núi rừng, đứng  trên đỉnh

trời cùng tỏa sáng với thiên nhiên, "Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng".

c. Cùng với sự chuyển mùa (mùa đông sang mùa xuân) là sự chuyển màu

trong bức tranh thơ: Màu xanh trầm tĩnh của rừng già chuyển sang màu trắng tinh

khôi của hoa mơ khi mùa xuân đến. Cả không gian sáng bừng  lên sắc  trắng của

rừng mơ lúc sang xuân.

Ngày xuân mơ nở trắng rừng

Trắng cả không gian "trắng rừng", trắng cả thời gian "ngày xuân". Hình ảnh

này khá quen thuộc trong thơ Tố Hữu, hình ảnh rừng mơ sắc trắng cũng đi vào tr-

ờng ca Theo chân Bác gợi tả mùa xuân rất đặc trưng của Việt Bắc:

Ôi sáng xuân nay xuân 41

Trắng rừng biên giới nở hoa mơ

Cái sắc trắng tinh khôi bừng nở mỗi độ xuân về làm ngơ ngẩn người ở, thẫn

thờ kẻ đi. Người đi không thể không nhớ sắc trắng hoa mơ nơi xuân rừng Việt Bắc,

và  lại  càng  không  thể không nhớ đến  con người Việt Bắc,  cần  cù  uyển  chuyển

trong vũ điệu nhịp nhàng của công việc lao động thầm lặng mà cần mẫn tài hoa:

Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang

Copyright Phandanhhieu, Bui Thi Xuan high School On thi TN THPT

Hai chữ "chuốt từng" gợi lên dáng vẻ cẩn trọng tài hoa, dường như bao yêu

thương đợi chờ mong ngóng đã gửi vào từng sợi nhớ, sợi thương kết nên vành nón.

Cảnh  thì mơ mộng,  tình  thì đợm nồng. Hai câu  thơ  lưu giữ  lại  cả khí xuân,  sắc

xuân, tình xuân vậy. Tài tình như thế thật hiếm thấy. d. Bức tranh thơ thứ 3 chuyển qua rừng phách - một loại cây rất thường gặp

ở Việt Bắc hơn bất cứ nơi đâu. Chọn phách cho cảnh hè là sự lựa chọn đặc sắc, bởi

trong rừng phách nghe tiếng ve ran, ngắm sắc phấn vàng giữa những hàng cây cao

vút, ta như cảm thấy sự hiện diện rõ rệt của mùa hè. Thơ viết mùa hè hay xưa nay

hiếm, nên ta càng thêm quí câu thơ của Tố Hữu:

Ve kêu rừng phách đổ vàng

Nhớ cô em gái hái măng một mình

Ở đây có sự chuyển đổi cảm giác rất  thú vị: Tiếng ve kêu  - ấn  tượng của

thính giác đã đem lại ấn tượng thị giác thật mạnh. Sự chuyển mùa được biểu hiện

qua sự chuyển màu trên thảo mộc cỏ cây: Những ngày cuối xuân, cả rừng phách

còn là màu xanh, những nụ hoa còn náu kín trong kẽ lá, khi tiếng ve đầu tiên của

mùa hè cất lên, những nụ hoa nhất tề đồng loạt trổ bông, đồng loạt tung phấn, cả

rừng phách  lai  láng sắc vàng. Chữ đổ được dùng  thật chính xác,  tinh  tế. Nó vừa

gợi sự biến chuyển mau lẹ của sắc màu, vừa diễn tả tài tình từng đợt mưa hoa rừng

phách khi có ngọn gió  thoảng qua, vừa  thể hiện chính xác khoảng khắc hè sang.

Tác giả  sử dụng  nghệ  thuật  âm  thanh  để  gọi dậy màu  sắc, dùng  không gian để

miêu tả thời gian. Bởi vậy cảnh thực mà vô cùng huyền ảo.

Trên  nền  cảnh  ấy,  hình  ảnh  cô  em  gái  hiện  lên  xiết  bao  thơ mộng,  lãng

mạn: "Cô em gái hái măng một mình" nghe ngọt ngào thân thơng trìu mến. Nhớ về

em,  là nhớ cả một không gian đầy hương sắc. Người em gái  trong công việc  lao

động hàng ngày giản dị: hái măng. Vẻ đẹp lãng mạn thơ mộng ấy còn được tô đậm

ở  hai  chữ  "một mình"  nghe  cứ  xao  xuyến  lạ,  như  bộc  lộ  thầm  kín  niềm mến

thương của tác giả. Nhớ về em, nhớ về một mùa hoa...

e. Khép lại bộ tứ bình là cảnh mùa thu. Đây là cảnh đêm thật phù hợp với

khúc hát giao duyên trong thời điểm chia tay giã bạn. Hình ảnh ánh trăng dọi qua

kẽ lá dệt lên mặt đất một thảm hoa trăng lung linh huyền ảo. Dưới ánh  trăng  thu,  tiếng hát ân  tình càng  làm cho cảnh  thêm ấm áp  tình

người. Đại từ phiếm chỉ "ai" đã gộp chung người hát đối đáp với mình làm một,

tạo một hòa âm  tâm hồn đầy bâng khuâng  lu  luyến giữa kẻ ở, ngời đi, giữa con

người và thiên nhiên.

g. Mỗi câu lục bát làm thành một bức tranh trong bộ tứ bình. Mỗi bức tranh

có vẻ đẹp  riêng hòa kết bên nhau  tạo  vẻ  đẹp  chung. Đó  là  sự  hài  hòa  giữa  âm

thanh, màu sắc... Tiếng ve của mùa hè, tiếng hát của đêm thu, màu xanh của rừng

già, sắc đỏ của hoa chuối, trắng tinh khôi của rừng mơ, vàng ửng của hoa phách...

Trên cái nền  thiên nhiên ấy, hình ảnh con người hiện  lên  thật bình dị,  thơ mộng

trong công việc lao động hàng ngày.

4. Việt Bắc đánh giặc, VB anh hùng

Phân tích đoạn thơ " Nhớ khi... Nhị Hà"

Thiên nhiên VB không chỉ được cảm nhận bởi vẻ đẹp của 4 mùa mà thiên

nhiên còn là một nhân tố đắc lực góp phần làm nên cuộc kháng chiến toàn thắng.

Câu thơ mở đầu gợi  lên một bối cảnh chiến tranh  tao  loạn " Nhớ khi giặc

đến giặc lùng". "Giặc đến" là thời điểm nguy kịch, "giặc lùng" là cảnh nguy biến,

hoảng  loạn,  tan  tác,  loạn  lạc. Câu  thơ  làm  ta  liên  tưởng  tới cảnh chạy  loạn  trong

thơ Nguyễn Đình Chiểu:

Bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy

Mất tổ đàn chim dáo dác bay

Hay cảnh tang thương trong thơ Hoàng Cầm:

Quê hương ta từ ngày khủng khiếp Giặc kéo lên ngùn ngụt lửa hung tàn

Ruộng ta khô

Nhà ta cháy

Chó ngộ một đàn

Lưỡi dài lê sắc máu

Kiệt cùng ngõ thẳm bờ hoang

Trước cảnh đau  thương ấy  rừng núi đã vào cuộc chiến đấu. Với  thủ pháp

nghệ thuật nhân hóa, TH đã dựng nên một rừng núi kiêu hùng cùng ta đánh giặc:

Rừng cây núi đá ta cùng đánh tây

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro