Việt sử toàn thư

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Phạm Văn Sơn Việt Sử Toàn Thư Từ Thượng Cổ Đến Hiện Đại

2 Việt Sử Toàn Thư

Phạm Văn Sơn

Mục Lục Lời giới thiệu Lời tác giả

Phần Thứ Nhất

Chương 1 - Khái luận về xã hội Việt Nam xưa và nay

1. Địa lý thiên nhiên -- 2. Người Việt Nam -- 3. Gốc tích.

Chương 2 - Đời sống thượng cổ của dân tộc Việt Nam

Chương 3 - Nhà Hồng Bàng (2879 - 258 tr. T. L.) 1. Truyền thuyết về nhà Hồng Bàng -- 2. Nước Văn Lang

Chương 4 - Nhà Thục (257 - 207 tr. T. L.)

Chương 5 - Xã hội Trung Hoa trong thời thượng cổ 1. Xã hội và văn hóa -- 2. Trật tự xã hội và gia đình -- 3. Việc quan

chế -- 4. Pháp chế  -- 5. Binh chế -- 6. Điền chế -- 7. Học chính -- 8. Khổng Tử -- 9. Lão Tử -- 10. Trang Tử -- 11.

Tuân Huống.

 Phần Thứ Hai  Bắc Thuộc Thời Đại

Chương 1 - Nhà Triệu (Bắc thuộc lần thứ I 207-111 tr. T. L.)  1. Chỗ rẽ của lịch sử Âu Lạc -- 2. Chính trị của Triệu Đà

-- 3. Nam Việt và Tây Hán -- 4. Xã hội Việt Nam dưới thời Triệu Đà -- 5. Những vua kế nghiệp Triệu Đà --- 6. Đế

quốc Việt Nam xụp đổ -- 7. Công tội của Thái Phó Lữ Gia (Phê bình của Ngô Thời Sĩ).

 Chương 2 - Nhà Tây Hán (Bắc thuộc lần II 111 tr. T. L. - 39 T. L.)  1. Đơn vị hành chánh trên đất Giao Chỉ -- 2. Bộ

máy cai trị ở đất Giao Châu.

 Chương 3 - Nhà Trưng (40 - 43) 1. Phần cờ nương tử -- 2. Nhà Đông Hán phục thù -- 3. Tính chất cách mạng của

cuộc khởi nghĩa năm Canh Tý.

Chương 4 - Bắc thuộc lần III (43 - 544 Đông Hán - Nam Bắc triều) Cuộc cải cách của Mã Viện trên đất Giao Châu 

Chương 5 - Người Việt Nam học chữ Tàu  1. Việc truyền bá Hán học -- 2. Ảnh hưởng Phật đồ với nền văn học của

chúng ta -- 3. Phật Giáo -- 4. Một điều sai lầm về Sĩ Nhiếp.

Chương 6 - Cuộc cách mạng phản Đế lần thứ hai của dân Giao Chỉ 1. Bà Triệu chống quân Đông Ngô -- 2. Lâm Ấp

quấy phá Giao Châu.

Chương 7 - Nhà Tiền Lý (544 - 602) 1. Lý Nam Đế (544 - 548) -- 2. Hậu Lý Nam Đế (571 - 602).

Chương 8 - Bắc thuộc lần IV (603 - 939)  1. Nhà Tùy đánh Lâm Ấp -- 2. Nhà Đường đối với An Nam -- 3. Mai Hắc

Đế khởi nghĩa (722) -- 4. Giặc Côn Lôn và Đồ Bà -- 5. Bố Cái Đại Vương -- 6. Cuộc xâm lăng Giao Châu của Nam

Chiếu --- 7. Sự thất bại của Nam Chiếu và sự nghiệp của Cao Biền.

 Chương 9 - Cuộc tranh đấu của dân tộc Việt Nam từ họ Khúc đến họ Ngô Trận thủy chiến đầu tiên của Việt Nam.

 Phần Thứ Ba  Việt Nam Trên Đường Độc Lập (939)

Chương 1 - Nhà Ngô (939 - 965)

Chương 2 - Nhà Đinh (968 - 980) 1. Đinh Tiên Hoàng -- 2. Đinh Phế Đế.

Chương 3 - Nhà Tiền Lê (980 - 1009) 1. Lê Hoàn đánh Tống -- 2. Việc ngoại giao -- 3. Việc đánh Chiêm Thành -- 4.

Sự mở mang trong nước -- 5. Cái án Lê Hoàn và Dương Hậu.

 Chương 4 - Các vua kế tiếp Lê Đại Hành I. Lê Trung Tông (1005)  II. Lê Ngọa Triều (1005 - 1009) 1. Việc ngoại giao

với Bắc Triều -- 2. Sự tàn ác của Ngọa Triều -- 3. Vụ âm mưu cướp ngôi nhà Tiền Lê.

Chương 5 - Nhà Hậu Lý (1010 - 1225) I. Lý Thái Tổ (1010 - 1028) II. Lý Thái Tông (1028 - 1054) 1. Việc chính trị --

2. Việc quân sự -- 3. Dẹp Chiêm Thành.  III. Lý Thánh Tông (1054 - 1072)  1. Việc mở mang Phật Giáo và Nho Giáo

-- 2. Đánh Chiêm Thành. IV. Lý Nhân Tông (1072 - 1127) 1. Vụ tranh dành quyền vị -- 2. Việc chính trị -- 3. Việc

đánh Tống -- 4. Cuộc phục thù của nhà Tống -- 5. Đánh Chiêm Thành. V. Lý Thần Tông (1128 - 1138) VI. Lý Anh

Tông (1138 - 1175) 1. Đỗ Anh Vũ và Tô Hiến Thành -- 2. Việc ngoại giao. VII. Lý Cao Tông (1176 - 1210) VIII. Lý

Huệ Tông (1211 - 1225) IX. Lý Chiêu Hoàng (1225)

Chương 6 - Khái niệm về Phật giáo và văn học dưới đời nhà Lý

Chương 7 - Nhà Trần (1225 - 1413) -- Nước Việt Nam dưới đời Trần Sơ I. Trần Thái Tông (1225 - 1258) 1. Tàn sát

họ Lý. -- 2. Việc đảo lộn nhân luân. -- 3. Việc đánh dẹp trong nước. -- 4. Những công cuộc cải cách. -- 5. Việc binh

chế và lực lượng quân đội dưới đời Trần - Sơ. -- 6. Kinh tế và xã hội. -- 7. Phong tục. -- 8. Văn hóa. -- 9. Cuộc chiến

tranh tự vệ thứ nhất của Việt Nam. II. Trần Thánh Tông (1258 - 1278) 1. Việc chính trị. -- 2. Việc ngoại giao với Mông

Cổ. III. Trần Nhân Tông (1279 - 1293) A- Mông Cổ gây hấn lần thứ hai 1.  Việc ngoại giao tan vỡ. -- 2 Huyết chiến

giữa Việt Nam và Mông Cổ. - Hội Nghị Bình Than (1282). - Hội Nghị Diên Hồng (1284). - Quân Nam rút theo kế

hoạch. - Hội nghị quân sự Vạn Kiếp. III Mông Cổ tấn công. - Mặt trận Đông Nam. - Cuộc tổng tấn công của Việt Nam.

Việt Nam thu phục Thăng Long. - Trận Tây Kết. - Trận Vạn Kiếp. B- Mông Cổ tấn công lần thứ hai (1287) I Trận Vân

Đồn. II Trận Bạch Đằng. III Việc truy kích Thoát Hoan. IV Cuộc giảng hòa. V Chiến pháp của Hưng Đạo Vương. IV.

Trần Anh Tông (1293 - 1314) Việc gả Huyền Trân cho Chế Mân V. Trần Minh Tông (1314 - 1329) VI. Trần Hiến

Tông (1329 - 1341) Giặc Ngưu Hống và giặc Lào VII. Trần Dụ Tông (1341 - 1369) 1. Việc chính trị. -- 2. Việc giao

thiệp với Trung Hoa. -- 3. Việc giao thiệp với Chiêm Thành. -- 4. Dụ Dương Nhật Lễ. VIII. Trần Nghệ Tông (1370 -

1372) Tiểu sử Hồ Quý Ly. IX. Trần Duệ Tông (1372 - 1377) X. Trần Phế Đế (1377 - 1388) 1.  Việc giao thiệp với nhà

Minh. -- 2. Chiêm Thành tấn công Thăng Long. -- 3. Âm mưu trừ Hồ Quý Ly thất bại. XI. Trần Thuận Tông (1388 -

1398) 1. Chế Bồng Nga tử trận. -- 2. Cuộc cách mạng của Hồ Quý Ly: Cải cách chính trị. Cải cách quân sự. Cải cách

kinh tế. Cải cách xã hội. Cải cách văn hóa. -- 3. Cuộc đảo chính Hồ Quý Ly.

Chương 8 - Nhà Hồ (1400 - 1407) I. Hồ Quý Ly (1400) II. Hồ Hán Thương (1400 - 1407) 1. Cuộc giao tranh giữa

nhà Hồ và nhà Minh. - Thành Đa Bang thất thủ. - Trận Mộc Phàm Giang. - Trận Hàm Tử Quan. - Nguyên nhân thất bại

của Hồ Quý Ly. -- 2. Hồ Quý Ly có làm mất nước không?

 Chương 9 - Bắc thuộc lần thứ năm -- Nhà Hậu Trần (1407 - 413) 1. Chính sách thống trị của nhà Minh. -- 2. Giản Định

Đế khởi nghĩa (1407 - 1409). -- 3. Trần Quý Khoách (1409 - 1413)

 Chương 10 - Nhà Hậu Lê. Lê Lợi chấm dứt chế độ Minh thuộc (1417 - 1427) 1. Giai đoạn đen tối. -- 2. Giai đoạn tươi

sáng. -- 3. Cuộc tổng phản công của giặc Minh (Mặt trận miền Bắc). -- 4. Trận Tuy Động. -- 5. Việt quân phong tỏa

Đông Đô. -- 6. Trận chi Lăng. -- 7. Quân Minh xin hòa giải. -- 8. Việc cầu phong. Nhà Hậu Lê (1428 - 1527) I. Lê

Thái Tổ (1428 - 1433) 1. Học chính. -- 2. Luật pháp. -- 3. Hành chánh. -- 4. Cải cách điền địa. -- 5. Binh chế. -- 6.

Việc giết công thần. II. Lê Thái Tông (1434 - 1442) Cái án Lê Chi Viên (1442) III. Lê Nhân Tông (1443 - 1459)  IV.

Lê Thánh Tông (1460 - 1497) 1. Việc chính trị. -- 2. Tổ chức hương thôn. -- 3. Việc đình. -- 4. Hành chính. -- 5. Quan

chế. -- 6. Thuế đinh. -- 7. Thuế điền thổ. -- 8. Nông nghiệp. -- 9. Luật pháp bảo vệ nhân quyền. -- 10. Quyền lợi xã hội.

-- 11. Tổ chức võ bị. -- 12. Võ công đời Hồng Đức. -- 13. Văn trị đời Hồng Đức. V. Lê Hiến Tông (1497 - 1504) VI.

Lê Túc Tông (1504 1505) VII. Lê Uy Mục (1505 - 1509) VIII. Lê Tương Dực (1510 - 1516) IX. Lê Chiêu Tông X.

Lê Cung Hoàng (1516 - 1527)

 Chương 11 - Nhà Mạc (1527 - 1667) Mạc Đăng Dung (1527 - 1529) 1. Tình trạng Việt Nam đầu thế kỷ XVI. -- 2.

Tiểu sử Mạc Đăng Dung. -- 3. Vụ Trần Thiêm Bình thứ hai. -- 4. Một cuộc chiến tranh tâm lý. -- 5.Vụ án Mạc Đăng

Dung.

Chương 12 - Loạn phong kiến Việt Nam. Nam Bắc triều (1527 - 1592) 1. Trịnh Kiểm và Nguyễn Kim. -- 2. Biến cố tại

Nam triều. -- 3. Thất bại của Bắc triều.

Chương 13 - Nước Việt Nam từ Bắc vào Nam (1674 - 1775) 1. Họ Trịnh làm chúa miền Bắc. -- 2. Họ Nguyễn xưng

hùng phương Nam.

Chương 14 - Trịnh - Nguyễn phân tranh (1627 - 1775) 1. Đại chiến lần thứ nhất (1627). -- 2. Đại chiến lần thứ hai

(1630) -- 3. Đại chiến lần thứ ba (1635). -- 4. Đại chiến lần thứ tư (1648). -- 5. Đại chiến lần thứ năm (1655) -- 6. Đại

chiến lần thứ sáu (1661) -- 7. Đại chiến lần thứ bảy (1672).

Chương 15 - Sự nghiệp hai họ Trịnh - Nguyễn

Chương 16 - Những vụ phiến loạn dưới đời  chúa Trịnh

Chương 17 - Các hoạt động của Nguyễn

Chương 18 - Các cuộc chiến tranh cuối cùng của hai họ Trịnh - Nguyễn (1774)

Chương 19 - Nhà Tây Sơn (1778 - 1802) 1. Tiểu sử nhà Tây Sơn. -- 2. Tây Sơn diệt Nguyễn tại Nam Việt. -- 3.

Nguyễn Huệ đuổi quân Xiêm. -- 4. Nguyễn Huệ đánh Thuận Hóa. -- 5. Nguyễn Huệ ra Thăng Long. -- 6. Chim Bằng

gẫy cánh. 

Chương 20 - Một võ công oanh liệt bậc nhất của Việt Nam cuối thế kỷ XVIII 1. Cái chết của Vũ Văn Nhậm. -- 2.

Chiến sự Việt-Thanh. -- 3. Cuộc giao thiệp giữa Tây Sơn và Thanh đình. -- 4. Chính trị của vua Quang Trung. -- 5. Vua

Chiêu Thống bị nhục trên đất Tàu. Những cuộc chiến tranh cuối cùng giữa Tây Sơn và Cựu Nguyễn  1. Nguyễn Vương

quật khởi. -- 2. Nguyễn Vương tấn công Qui Nhơn lần thứ nhất (1790). -- 3. Qui Nhơn thất thủ lần thứ hai và ba. -- 4.

Phú Xuân đổi chủ. -- 5. Nguyễn Vương ra Bắc Hà.

Chương 21 - Người Âu Châu sang Việt Nam 1. Việt Nam dưới con mắt người Pháp. -- 2. Đạo Thiên Chúa.

Chương 22 - Nhà Nguyễn (1802 - 1945) I. Gia Long (1802 - 1820) 1. Thế tổ xưng đế hiệu. -- 2. Bộ máy chính quyền

trung ương. -- 3. Các địa hạt hành chính lớn. -- 4. Binh chế. -- 5. Công vụ. -- 6. Việc học hành và luật pháp. -- 7. Việc

tài chính. -- 8. Việc ngoại giao với Pháp. -- 9. Việc ngoại giao với Trung Quốc. -- 10. Giao thiệp với Miên-Lào-Tiêm La.

-- 11. Bàn về loạn phong kiến ở Việt Nam. -- 12. Vài ý kiến về vua Gia Long. II. Thánh Tổ (1820 - 1840) 1. Hoàn thiên

bộ máy chính quyền. -- 2. Việc học hành thi cử. -- 3. Sách vở. -- 4. Những cuộc phiến loạn. -- 5. Việc ngoại giao với

Pháp. -- 6. Việc Ai Lao và Chân Lạp. -- 7.  Việc cấm đạo. -- 8. Bàn về Thánh Tổ. III. Hiến Tổ (1841 - 1847) 1. Cá

nhân của vua Hiến Tổ. -- 2. Việc Chân Lạp và Tiêm La. -- 3. Cuộc đánh phá đầu tiên của Pháp ở Việt Nam.

 Phần Thứ Tư  Việt Nam Mất Độc Lập Về Tay Pháp

Chương 1 - Dực Tông (1847 - 1883) 1. Vua Tự Đức và tình thế Việt Nam giữa thế kỷ XIX. -- 2. Việc ngoại giao và

cấm đạo. -- 3. Việc văn học và binh chế. -- 4. Những vụ phiến động trong nước.

Chương 2 - Người Pháp ra mặt xâm chiếm Việt Nam 1. Nguyên nhân của sự xâm lăng. -- 2. Đặc phái viên Pháp đến

Việt Nam. -- 3. Việt Nam mất ba tỉnh Đông Nam Kỳ. -- 4. Phản ứng của triều đình Huế. -- 5. Phong Trào kháng Pháp

ở Nam Kỳ. -- 6. Người Pháp chiếm nốt ba tỉnh miền Tây Nam Kỳ. -- 7. Những nghĩa sĩ miền Nam.

Chương 3 - Quân Pháp đánh Bắc Kỳ 1. Nguyên nhân việc người Pháp ra Bắc. -- 2. Pháp quân đánh Bắc Kỳ lần thứ I.

-- 3. Hòa ước năm Giáp Tuất (1874). -- 4. Hà thành thất thủ lần thứ hai. -- 5. Sự phế lập ở Huế. -- 6. Hòa ước năm Quí

Mùi (1883). -- 7. Hòa ước Thiên Tân lần thứ hai. -- 8. Hòa ước Patenôtre (1884).

Chương 4 - Tàn cuộc của phong kiến Việt Nam  1. Phong trào Cần Vương cứu quốc. -- 2. Phong trào Văn Thân kháng

Pháp. -- 3. Vua Thành Thái (1884 - 1907). -- 4. Vua Duy Tân (1907 - 1916). -- 5. Cuộc bảo hộ của nước Pháp.

Chương 5 - Những cuộc tranh thủ độc lập của Việt Nam từ 1928 - 1954 1. Xã hội Việt Nam dưới thời Pháp thuộc. --

2. Những cuộc tranh đấu của thế hệ trẻ tuổi. -- 3. Cuộc đảo chánh 9-3-1945. -- 4. Lá bài Bảo Đại và Hiệp Định Hạ

Long. -- 5. Cuộc chiến tranh Thực - Cộng (1945 - 1954). -- 6. Thỏa hiệp Genève. -- 7. Kết Luận 

Tài liệu tham khảo Ý kiến của văn gia trí thức về Việt Sử Toàn Thư

Phụ lục 1: Bảng đối chiếu các triều đại Việt Nam với triều đại Trung Hoa

Phụ lục 2: Thế Phả họ Nguyễn

Phụ lục 3: Thế Phả họ Trịnh  

9 Việt Sử Toàn Thư

Kính dâng hương hồn song thân đã sớm hun đúc cho con một tấm lòng thiết tha với đất nước để viết nên những trang sử

oai hùng của dân tộc.        Phạm Văn Sơn       

 Lời Giới Thiệu "Chim Việt làm tổ cành nam (Việt điểu sào nam chi)", một câu nói ngắn gọn nhưng hàm chứa một ý nghĩa

thật sâu: người Việt Nam không bao giờ quên được cội nguồn của mình!  Nhờ tinh thần đó mà trên trường quốc tế, dù

phải chịu một ngàn năm đô hộ giặc Tàu, một trăm năm nô lệ giặc Tây. Nhưng hiện nay, với chính sách hủy diệt văn hóa

truyền thống dân tộc trong nước, và sức lôi cuốn mãnh liệt của nền văn minh vật chất Âu Mỹ ngoài nước, dân tộc chúng

ta đang phải đối đầu với một hiểm họa diệt vong mới, có mức độ trầm trọng hơn tất cả các hiểm họa đã gặp phải trong

quá khứ. Chỉ có lòng yêu nước nồng nàn, phát xuất từ đáy lòng của mọi người Việt mới giúp chúng ta vượt qua được

hiểm họa này.  Chỉ có lòng yêu quê hương thiết tha mới là động cơ bắt chúng ta chung góp tâm trí vào việc bảo tồn và

phát huy nền văn hóa cao quý của cha ông để lại. Với mục tiêu duy nhất là nuôi dưỡng lòng yêu nước cần thiết trong lòng

mọi người Việt tại Nhật, sinh thành những tâm hồn thiết tha với quê hương, dân tộc, chúng tôi đã  mạn phép in lại 600 bộ

Việt Sử Toàn Thư này của Sử Gia Phạm Văn Sơn để phân phối trong cộng đồng người Việt tại Nhật. Với công trình

khảo cứu sâu rộng của Sử gia yêu nước Phạm Văn Sơn và tính chất khách quan, dân tộc, khoa học, phong phú, giản dị

... của bộ sách này, chúng tôi mong muốn mỗi gia đình Việt Nam tại Nhật sẽ có ít nhất  một bộ, lúc nào cũng có trong

nhà, để dễ dàng chỉ dạy con em về lịch sử hào hùng bất khuất của dân tộc Việt. Chúng tôi cũng chân thành cảm tạ Hiệp

Hội Liên Đới Người Tỵ Nạn Đông Dương đã yểm trợ toàn thể chi phí để in lại bộ sách này. Hiệp Hội Người Việt Tại

Nhật Bản Nhật Bản, 1983 Nam Nghệ Xã 

10 Việt Sử Toàn Thư

Cùng Bạn Đọc Thân Mến Từ mười hai năm nay, bước chân vào làng sử học, chúng tôi đã được hân hạnh giới thiệu các

bạn văn gia trí thức và học sinh một tổ tác phẩm nhỏ như Việt Nam Tranh Đấu Sử, Việt Nam Hiện Đại Sử Yếu, Vĩ

Tuyến 17, Việt Sử Tân Biên quyển I, II, III. Những cuốn sách này được tái bản nhiều lần và trước những sự đóng góp

của chúng tôi đối với văn hóa  nước nhà, các bạn đọc đã tỏ có nhiều cảm tình và tin cậy, do đó để tạ lòng tri kỷ bốn

phương hàng năm chúng tôi tiếp tục gửi đến tay các bạn những tác phẩm về sử học. Gần đây, Việt sử tân biên được các

bạn trí thức trong nước và ngoài nước đặc biệt lưu ý và tán thưởng trên các báo Bách Khoa, Thế Giới Tự Do, Tân Dân,

Chỉ Đạo, Ngôn Luận, Tự Do, v.v... nhưng bộ sử này còn tới 4 cuốn nữa mới hết, tức là phải xuất bản đều đặn luôn bốn

năm mới hoàn thành. Trong lúc này, nhiều bạn giáo sư và học sinh thường gửi thư đến chúng tôi yêu cầu nên gấp rút soạn

một cuốn Việt sử tân biên thâu hẹp gồm đủ chi tiết từ Thượng cổ thời đại đến hết thời Pháp thuộc để tiện dụng hơn trong

các trường học.  Theo ý các bạn, Việt Sử Tân Biên gồm 7 cuốn chỉ lợi ích nhiều cho các giáo sư sử địa, các văn gia trí

thức cần biên khảo rộng rãi và cho một số sinh viên nặng tình đặc biệt với sử học.  Quả vậy, chúng tôi đã đọc khá nhiều

sách, chuyện ký để viết một bộ sách có mục đích giúp các bạn kể trên khỏi mất nhiều thời giờ tìm tòi sử liệu và nghĩ ngợi

về sự bình giải, mặc dầu công việc của chúng tôi vẫn có thể còn nhiều khuyết điểm. Ngoài ra, từ trên 30 năm nay, tuy

trong các thư viện của chúng ta đã có một sách về lịch sử, nhưng các sách này vẫn còn mang nặng ảnh hưởng của tư

tưởng thời phong kiến, đế quốc.  Nếu cần tiến bộ, tất nhiên ta phải có những cuốn sử mới viết theo quan niệm rộng rãi và

tinh thần phóng khoáng của trào lưu dân chủ ngày nay cùng gồm thâu được nhiều điều mới lạ do sự khám phá hay sưu

tầm của các học giả cận đại, hiện đại. Hôm nay, Việt Sử Toàn Thư ra mắt các bạn.  Chúng tôi hy vọng tác phẩm này sẽ

hợp với nhu cầu của tình thế một phần nào, góp được ít nhiều công quả cần thiết cho sự phát triển và xây dựng văn học

của nước nhà trong giai đoạn mới của lịch sử.  Tuy nhiên do sử học nước nhà chưa hết phôi thai, ấu trĩ, sử liệu lại thất đắc

khá nhiều qua các quốc biến, sách này không khỏi có điều lỗi lầm, sơ sót.  Trong khi chờ đợi một hoàn thiện, chúng tôi

xin sẵn sàng chào đón sự uốn nắn và chỉ bảo của các bạn trí thức gần xa. Sài gòn ngày 14 tháng 3 năm Canh Tý - Phạm

Văn Sơn

11 Việt Sử Toàn Thư

(từ trang 11 đến trang 17 bị lặp phần mục lục nên tôi đã cắt bỏ đi [email protected])

18 Việt Sử Toàn Thư

 Phần 1 - Chương 1 Khái Luận Về Xã Hội Việt Nam Xưa và Nay   

- Địa lý thiên nhiên Việt Nam - Người Việt Nam - Gốc tích của người Việt Nam   

1- Địa Lý Thiên Nhiên Việt Nam .   

Việt Nam ngày nay là một nước trên bán đảo Đông Dương ở vào khoảng giữa Ấn Độ và Trung Hoa thuộc Châu Á

hướng về phía Nam. Bắc, Việt Nam giáp Trung Hoa (giáp giới ba tỉnh miền Nam Trung Quốc: Vân Nam, Quảng Đông

và Quảng Tây), Tây giáp Ai Lao, Cao Mên, Đông giáp bờ bể Nam Hải. Một đằng khác, ở Đông Nam Châu Á, bán đảo

Đông Dương trong đó có Việt Nam nhìn qua quần đảo Phi Luật Tân và duỗi chân về phía Nam như đạp xuống quần đảo

Mã Lai mà vị trí cùng mối liên hệ đối với bán đảo Đông Dương có thể ví với Địa Trung Hải ở Âu Châu. Nước Việt Nam

giống hình chữ S hẹp ở giữa, rộng hai đầu. Chiều cong vòng theo bờ biển bắt đầu từ vịnh Bắc Việt, lượn vào đến đầu

Trung Việt dần dần ưỡn ra, xuống đến Nam Việt thì chiều cong lại dần dần ăn vòng vào theo một đường rất êm dịu. Diện

tích rộng chừng 312.000 cây số vuông trong đó: Bắc Việt: 105.000 cây số vuông Trung Việt: 150.000 cây số vuông

Nam Việt: 57.000 cây số vuông Bắc Việt chia ra làm ba miền: Thượng du có nhiều rừng núi chạy vòng cánh cung theo

hình thể xứ Bắc, như chiếc quạt xòe ra từ nơi giáp miền Thượng Lào chạy sát các vùng biên giới Việt Hoa. Ngọn núi cao

nhất là Hoàng Liên Sơn (3.141 thước). Trung du là miền ở giữa trung châu và thượng du, sát các khu rừng núi. Trung

châu đáng chú ý vì có nhiều đồng bằng, sẵn ruộng đất để cầy cấy và sông ngòi thuận tiện cho mọi việc giao thông (sông

Hồng Hà phát nguyên từ Tây Tạng có nhiều chi nhánh tản mác khắp Trung Châu, sông thường không rộng lắm) - dân cư

rất đông đúc, thóc lúa, ngô, khoai có nhiều. Trung Việt là một giải đất hẹp, có giẫy Trường Sơn giống như cái xương sống

chạy dọc từ Bắc Việt vào Nam Việt, có thể ví là cái bình phong ngăn cách hai xứ Việt Lào, ở

đây ruộng đất hiếm hoi, khô khan, vì vị trí sát bể và núi nên sự sinh sống của dân chúng trông vào lâm sản và hải sản hay

ngư lợi (nghề đánh cá). Kinh tế nông nghiệp ở đây không được phong phú như ở miền Bắc Việt và Nam Việt có thể coi

là hai vựa thóc của Việt Nam. Nam Việt ở vào khúc dưới sông Cửu Long có sông Tiền Giang, Hậu Giang, Vàm Cỏ và

Đồng Nai chạy dài trên toàn cõi, lại có nhiều đất ruộng nên rất thịnh đạt về nông nghiệp. Nhân dân ở đây không đông đúc

mấy, tương đối với tổng số diện tích đất đai, vừa sống với biển, vừa sống với ruộng vườn nên không chật vật, vất vả như

dân Bắc Việt bị nạn nhân mãn từ bao nhiêu đời. (Mật độ dân cư trung bình lên tới 800 người trên một cây số vuông, có

chỗ lên tới 2.000 người, điều ít thấy ở một nơi nào trên thế giới ngày nay.) Việt Nam là một xứ thuộc nhiệt đới, nhưng khí

hậu có khác nhau từ Nam ra Bắc, thường nóng và ẩm thấp. Bắc Việt giáp giới Trung Quốc là một miền ôn đới, có bốn

mùa rõ rệt, mùa xuân đầm ấm, có nhiều ngày lất phất mưa, cũng có khi lạnh. Trong mùa này, cây cỏ mọc mạnh. Mùa hè

nóng bức, có khi rất oi ả, khó chịu, nhưng cũng là mùa để thảo mộc sinh sôi nảy nở, thuận tiện cho nông nghiệp. Các

bệnh dịch tả nhất là đối với con trẻ hay phát sinh trong vụ hè. Vào khoảng tháng sáu hay tháng bảy, thường có nước lớn

do những trận mưa rào như trút nước từ các vùng thượng du về đồng bằng dễ sinh ra nạn nước lụt, xưa kia hay phá vỡ

đê điều, gây nên nhiều sự thiệt hại về tài sản và tính mệnh cho dân chúng vùng Trung Châu. Cuộc chống chọi với nước lũ

hằng năm đe dọa đê điều, đáng kể là một công cuộc vĩ đại của dân tộc Việt Nam trải qua bao nhiêu thế kỷ trong khi

khoa học chưa được áp dụng. Đây là một cuộc chiến đấu giữa Người và Thiên Nhiên, có lẽ đã hun đúc cho dân tộc

chúng ta cái đức tính kiên nhẫn và một tinh thần chiến đấu đáng kể. Trái lại vì lụt mà ruộng đất thêm mầu mỡ, nhất là ở

đồng bằng sông Cửu Long. Mùa thu có những ngày nắng dịu nhưng về những ngày chót, đời sống của cỏ cây bắt đầu

ngưng trệ cho đến mùa đông thì rõ rệt là mùa thu, nắng hanh thường hay phát sinh các bệnh lặt vặt và gió bấc lạnh thổi

buốt kèm với mưa phùn, lại có những sự thay đổi thời tiết rất đột ngột, đang nóng đổi ngay ra lạnh. Từ cửa Hàn trở vào

Nam Việt khí hậu hình như riêng biệt. Ở đây có rõ rệt hai mùa mưa, nắng, nhất là ở Nam Việt, nghĩa là có 6 tháng nắng.

Trong một ngày có nhiều trận mưa rào đổ xuống trong chốc lát rồi trời lại nắng ráo như thường. Buổi tối thường có gió

mát. Ở địa phương này vấn đề thực phẩm, khí hậu và nông nghiệp chịu ảnh hưởng của biển rất nhiều.  Sống trên đất Việt

Nam, ngoài dân tộc Việt Nam còn có nhiều giống khác nữa tại các vùng sơn cước mà người Việt ngày nay gọi là các

đồng bào Thượng, vì trải qua bao nhiêu thế hệ đã cùng sinh sống với nhau tuy không trực tiếp nhiều, nhưng đã cùng chung

lưng đấu cật những biến cố lớn lao của lịch sử và không hề có sự mâu thuẫn gì về quyền lợi tinh thần hay vật chất. Ở miền

thượng du Bắc Việt có dân Thái, Thổ, Mường, Mán, Mèo, Nùng, Yao, Lô Lô...Ở các miền rừng núi Trung Việt có giống

Mọi và Chàm. Ở Nam Việt trong các vùng sơn lâm cũng có dân Mọi, Chàm, các thành thị có Chà Và, Hoa Kiều, cùng

người Thổ

nguồn gốc Cao Mên, lâu đời sinh sống ở đây vui vẻ êm ấm như người Việt và không bị một đố kỵ nào hết. Nhân dân

Việt Nam ở Bắc Việt có vào khoảng 9 triệu người, Trung Việt có độ 6 triệu, Nam Việt có chừng 5 triệu, đó là con số

ước lượng 30 năm về trước. Giờ đây có thể con số đó đã vượt quá rồi. Còn dân miền núi cũng tới trên dưới một triệu.

2- Người Việt Nam .

Người Việt Nam thuộc giống da vàng. Kẻ làm nghề lao động dầm mưa dãi nắng da ngăm ngăm đen. Người làm các nghề

nhàn nhã ít ra ngoài trời thì da trắng mầu ngà. Về chiều cao, người Việt Nam phần nhiều tầm thước (không cao không

thấp), nhỏ hơn người Tầu chút ít -- mặt phần nhiều xương xương, trán cao rộng, mắt đen và hơi xếch về phía bên, gò má

cao, mũi hơi tẹt, môi hơi dầy, răng to thường khểnh, râu thưa, tóc đen và nhiều, cắt ngắn. Dáng đi lanh lẹ, vẻ mặt lanh lợi,

thân hình mảnh dẻ nhưng cứng cát và vững chắc. Y phục của người đàn ông Việt Nam thường dài, rộng trong áo hẹp.

Người lao động vận quần áo ngắn, ở nơi tỉnh thành dùng mầu trắng, chốn thôn quê dùng mầu nâu hoặc đen, đi ra ngoài

thăm bè bạn, dự lễ nghi thường mặc thêm chiếc áo thâm dài quá gối. Ở chốn thôn quê thì thêm chiếc khăn đen hay quấn

ngang đầu làm cho vẻ mặt thêm phần nghiêm trang. Ngày nay, ở các thành thị, những người tân tiến như các công chức,

trí thức, sinh viên là những phần tử có tiếp xúc với văn hóa Tây phương thường vận Âu phục do lẽ thuận tiện và mỹ thuật.

Phụ nữ Việt Nam ở các đô thị Bắc Việt và Trung Việt thường mặc quần trắng hay đen, nhưng áo dài thì thay đổi nhiều

mầu, chít khăn đen, cuộn tròn ngang đầu. Ở thôn quê thì mặc váy, có yếm che ngực, lại cũng có nhiều người mặc quần

như đàn bà thành thị. Ở Nam Việt, đàn bà ưa mặc quần đen, áo ngắn và búi tóc. Người đàn bà Việt Nam có nhiều đức

tốt hơn là thói xấu. Phần lớn từ thành thị đến thôn quê, người đàn bà lo buôn bán, cầy cấy, biết tần tảo, chịu thương khó

và rất hy sinh cho chồng con. Sự kiện tốt đẹp nầy là do ảnh hưởng của giáo lý Khổng Mạnh đã đi sâu vào đời sống tinh

thần của dân tộc chúng ta từ ngót hai ngàn năm nay. Gần một thế kỷ trở về đây, Việt Nam lại xúc tiếp với Tây phương,

phụ nữ Việt Nam hấp thụ văn hóa Âu Mỹ đã tỏ ra có nhiều khả năng trên trường học vấn và đã có những sự tranh đấu

về quyền lợi gia đình, xã hội với nam giới. Bàn về các điều tốt xấu trong con người Việt Nam, ta thấy đồng bào ta thông

minh, nhớ dai, có óc nghệ thuật, khéo tay chân, giàu trực giác hơn là luận lý, ưa điều đạo đức, ham chuộng văn chương.

(Có người nói người Việt ta thích văn chương phù hoa hơn là thực học, thiết tưởng không đúng, chẳng qua chúng ta trong

mười thế kỷ mất độc lập, chịu ảnh hưởng văn hóa nô dịch nên không được hướng dẫn phải đường, phải lối mà thôi, chớ

không phải là ta không biết trọng thực học). Chúng ta lại còn đức tính lễ phép và biết ơn, chuộng hòa bình và giàu óc hy

sinh. Người lao động rất cần cù và nhẫn nại, có sức chịu đựng những việc nặng nhọc rất bền bỉ, nhất là các đồng bào

miền Bắc.

Người đi lính ra trận rất trọng kỷ luật và can đảm. Nói đến người lính đây tức là lớp nông dân của chúng ta trong vai trò

tranh đấu cho Tự do và Độc lập của xứ sở từ bốn ngàn năm lập quốc đến giờ rất đáng phục. Tinh thần dân tộc được như

vậy là nhờ ở hoàn cảnh kinh tế, địa lý, văn hóa và chính trị cấu tạo nên bởi: 1) Bắc giáp Trung Quốc, Nam giáp Chiêm

Thành là hai gọng kìm ghê gớm, luôn luôn xiết chặt vào dân tộc chúng ta. 2) Rừng núi Bắc Việt hoang vu và nhiều thú dữ.

3) Đồng bằng Bắc Việt hay bị lụt lội và hạn hán. 4) Miền duyên hải Trung Việt hay nổi giông tố. 5) Vì hai vụ gió mùa đổi

thay luân chuyển, khí hậu thường hay khô ráo và ẩm thấp. Đó là những yếu tố đã hun đúc cho chúng ta nhiều năng lực

tranh đấu, sức chịu đựng với thiên nhiên và các cường bang ngoại địch. Chúng ta cũng có nhiều tính xấu như các dân tộc

khác: Người dân trung lưu và hạ lưu hay nông nổi, háo danh, thích phô trương, mê cờ bạc, tin ma quỷ, sùng việc cúng bái,

không nhiệt tín tôn giáo nào cả, ham kiện cáo, tinh vặt và quỷ quyệt. Tiếng nói của người Việt có thể cho là đồng nhất,

mặc dầu có sự phân biệt Trung-Nam-Bắc, giọng nói hơi nặng nhẹ ở một vài nơi, nhưng người Việt đi đến đâu cũng hiểu

nhau. Tính tình, phong tục, tôn giáo cũng không có gì khác biệt lắm từ Nam ra Bắc. Xã hội Việt Nam gồm 4 giai cấp: Sĩ,

Nông, Công, Thương, cùng sống dưới chế độ phong kiến lâu đời, nhưng không có nhiều chia rẽ quá đáng như ở nhiều

dân tộc khác. Tóm lại, Việt Nam, nếu đem so sánh với nhiều dân tộc khác thì rõ rệt có rất nhiều đức tính thuần nhất nhờ

đó mà có đủ sức mạnh vật chất, tinh thần để giải quyết nhiều việc khó khăn nội ngoại, qua nhiều thế hệ. Tiếng nói của

người Việt có thể cho là đồng nhất vì mặc dầu có sự phân chia Trung-Nam-Bắc, giọng nói có hơi nặng nhẹ ít nhiều,

nhưng người Việt đi đến đâu cũng hiểu nhau. Tính tình, phong tục, tôn giáo cũng không có gì khác biệt từ Nam ra Bắc.

Đây là sự trình bày đại khái về vị trí, tính tình, phong tục của người Việt Nam. Chúng tôi xin nghiên cứu kỹ lưỡng thành

từng vấn đề ở những trang dưới đây tùy theo sự thuận tiện của việc biên khảo.

3- Gốc Tích Của Người Việt Nam.

Bàn về gốc tích dân tộc Việt Nam, những nhà làm sử của chúng ta và các học giả ngoại quốc thường không đồng ý kiến.

Nguyên do dân tộc Việt Nam là một dân tộc rất cố cựu, ra đời trong khi khoa học, nhân chủng học, địa dư học và sử

học chưa khai triển. Thêm vào đó, dân tộc Việt Nam từ bốn ngàn năm lập quốc, trải qua bao nhiêu

cuộc biến chuyển của Lịch sử, sống một cuộc đời bất định từ lưu vực sông Nhị Hà, sông Mã cho tới ngày nay mới ngừng

hẳn bên bờ biển Tiêm La. Nhiều nhà khảo cổ Pháp cho rằng người Việt Nam phát tích ở miền núi Tây Tạng cũng như

người Thái, qua các triều đại di cư dần xuống Bắc Việt, lần xuống phía Đông Nam và lập ra nước Việt Nam ngày nay.

Còn người Thái lần theo sông Cửu Long (Mêkong) tạo ra nước Tiêm La và Mên, Lào. Như vậy dân tộc Việt Nam là

một trong nhiều dân tộc đã do các miền Tây Bắc Trung Hoa là nguồn gốc. Đồng thời, một vài dân tộc khác ở các quần

đảo Đông Nam di cư lên như dân Mã Lai, dân Phù Nam, Chiêm Thành cũng tập hợp trên bán đảo Đông Dương. Có

thuyết cho rằng người Việt thuộc giống Anh-đô-nê-diêng (Indonésien) bị giống A-ri-ăng (Aryens) đánh bạt ra khỏi Ấn

Độ phải chạy qua bán đảo Hoa Ấn. Tới đây ta chia ra làm hai ngành, một ở lại bán đảo Hoa Ấn tiêu diệt đám thổ dân ở

đây là người Mê-la-nê-diêng (Mélanésien), một thiên xuống Nam Dương quần đảo -- Ở mạn Bắc, ta hòa giống với người

Mông Cổ, chịu ảnh hưởng văn minh Trung Quốc. Ở mạn Nam giống Anh-đô-nê-diêng hợp thành giống Cao Mên và

Chiêm Thành, chịu văn hóa Ấn Độ. Ngay ngành ở mạn Bắc cũng chia ra hai chi phái: một sinh tụ ở Trung Châu sông Nhị

Hà và các miền duyên hải, nhờ có đất cát phì nhiêu lại chịu nhiều cuộc biến chuyển lịch sử mà xúc tiếp được với văn hóa

Trung Quốc nên tiến bộ mau lẹ. Còn chi phái kia lần lên các vùng cao nguyên, sống với rừng núi -- chịu ảnh hưởng của

giống Thái ở lân cận tuy vẫn giữ được nền nếp cũ là các tổ chức và thể chế phong kiến. Các người Mường hiện cư trú tại

Hòa Bình và Nghệ An ngày nay là di duệ của chi phái này. Ông Léonard Aurousseau, căn cứ vào sách Tàu, cho rằng

người Việt Nam thuộc dòng dõi người nước Việt đời Xuân Thu tức là thuộc quyền Quốc vương Câu Tiễn thời đó (cuối

thế kỷ thứ 6 trước Công Lịch), đóng kinh đô ở thành Thiệu Hưng, tỉnh Chiết Giang ngày nay. Năm 333 trước Công

Lịch), nước Sở đánh bại nước Việt, người Việt chạy lùi thêm xuống miền Nam chia ra làm phái: 1) Đông Âu hay là Việt

Đông Hải thuộc miền Ôn Châu (phía Nam tỉnh Chiết Giang). 2) Mân Việt tụ tập tại Phúc Châu tức Phúc Kiến. 3) Nam

Việt thuộc Quảng Đông và phía Bắc Quảng Tây. 4) Lạc Việt hay là Tây Âu Lạc ở phía Nam Quảng Tây. Và miền Bắc

Việt của chúng ta bây giờ. Chúng ta thuộc thị tộc nào? Tác giả cuốn "Nguồn gốc dân tộc Việt Nam" như chúng tôi xét,

cũng không đứng ngoài thuyết này.    

Giao Chỉ và Việt Thường . 

Theo sự khảo cứu của ông Đào Duy Anh, ở đời thái cổ từ Nghiêu, Thuấn, Hạ, Thương trong lịch sử Trung Hoa, trong

khi người Hán tộc đương quanh quẩn ở lưu vực sông Hoàng Hà và sông Vị Thủy thì ở miền Nam trong khoảng lưu vực

sông Dương Tử, sông Hán và sông Hoài có những giống người văn hóa khác hẳn với văn hóa người

phương Bắc. Trong thư tịch của người Trung Hoa, bọn người đó gọi là Man Di sống ở bên các bờ sông, bờ biển, các

đầm hồ và trong các rừng hoang. Họ sinh hoạt bằng nghề chài lưới, săn bắn. Họ có tục đặc biệt là xâm mình và cắt tóc

ngắn; để giải thích phong tục đó người ta nói rằng người Man Di hằng ngày lặn lội dưới sông, biển thường bị giống Giao

Long làm hại nên xâm mình thành hình trạng Giao Long để Giao Long tưởng là vật cùng giống mà không giết hại. Từ đời

Nghiêu Thuấn, một dân tộc khai hóa rất sớm là người Giao Chỉ đã giao thiệp với người Hán tộc. Đem đối chiếu những

điều trong thư tịch thì Giao Chỉ ở về miền Hồ Nam ngày nay, gần hồ Động Đình và núi Nam Lĩnh. Người Hán tộc gọi

nhóm Man Di đó là Giao Chỉ. Ban đầu người Giao Chỉ xâm mình để thành hình trạng Giao Long rồi dần dần chính họ

phát sinh mối tin tưởng mình là đồng chủng của giống Giao Long. Quan niệm "Tô Tem" bắt nguồn từ chỗ này. Người Hán

thấy họ có hình trạng Giao Long, thờ Giao Long làm tổ nên gọi nơi họ ở là Giao Chỉ tức là miền đất của giống người Giao

Long. Một thuyết khác cho rằng người Giao Chỉ có tên này do hai ngón chân cái giao nhau. Theo hai Bác sĩ P. Huard và

Bigot trong Bulletin de la Société Médico-chirurgicale de l'Indochine quyển XV, số 5 tháng 5, năm 1937 trang 489-506,

dưới tiêu đề: "Les Giao Chỉ " thì việc người Giao Chỉ có hai ngón chân cái giao nhau không đáng coi là một điều đặc biệt,

tức là nhiều dân tộc khác ở Á Đông cũng có hình tích này. Bộ Từ Nguyên (quyển Tí, trang 141) chép: Theo nghĩa cũ bảo

hai ngón chân cái giao nhau là Giao Chỉ, nhưng xét đời cổ bên Hy Lạp có tiếng đối trụ, lân trụ để gọi loài người trên thế

giới (đối trụ là phía Nam phía Bắc đối nhau, lân trụ là phía Đông phía Tây liền nhau). Sở dĩ có tên Giao Chỉ là hợp với

nghĩa đối trụ vì dân tộc phương Bắc gọi dân tộc phương Nam đối nhau, không phải thực là chân người giao nhau. (Chữ

Giao Chỉ chép ở Sử Tầu trước nhất vào đời Thần Nông). -- Ngoài nghề đánh cá là nghề căn bản, người Giao Chỉ ở nơi

đầm lầy hay đất bồi đã biết trồng trọt và làm ruộng. Trong lúc này, ở khoảng giữa hồ Động Đình và hồ Phiên Dương từ

đời Nghiêu Thuấn đã có giống người Tam Miêu biết nghề canh nông rồi; và người Giao Chỉ đã ở trên một phần đất của

người tam Miêu. Căn cứ vào nghề đánh cá, nghề nông cùng chế độ vật tổ là đặc tính của xã hội thị tộc, người ta cho rằng

người Giao Chỉ bấy giờ ít nhất cũng là ở cuối đời đá cũ và đầu đá mới (đá đẽo với đá mài) tuy chưa tìm được di tích sinh

hoạt gì của họ ở dưới đất. Còn về thời Nghiêu Thuấn, những đồ làm ruộng toàn bằng đá cả, xét vào các di vật đào được

ở Ngưỡng Thiều tỉnh Hà Nam và ở lưu vực sông Hoàng Hà. Họ làm nhà bằng cây, bằng tre hay nứa, có lẽ như nhà sàn

của người thượng du ngày nay, trên các đầm hồ hay khe núi. (Theo thiên Vũ Cống ở miền đất châu Kinh có nhiều tre).

Sách xưa chép ở phía Nam đất Giao Chỉ, cuối đời Chu nước Việt Thường đã có phen thông sứ với Chu Thành vương và

có cống một con bạch trĩ. Nước Việt Thường xuất hiện có lẽ đã lâu lắm từ đầu đời nhà Chu ở trên địa bàn cũ của nước

Tam Miêu (ở giữa hồ Động Đình và hồ Phiên Dương), trung tâm điểm của nước ấy là xứ Việt Chương. Vua

Sở Hùng Cừ (thế kỷ thứ 9) phong cho con út là Chấp Tỳ ở đây. Nước Việt Thường bắt đầu suy từ khi có Sở thành lập ở

miền Hồ Nam, Hồ Bắc sau những cuộc lấn đất về phía Tây (của Việt Thường qua đến đời Hùng Cừ đất Việt Chương ở

miền hồ Phiên Dương thời hết). Người Việt Thường cũng sinh hoạt bằng nghề đánh cá như người Giao Chỉ, có lẽ cũng có

tục xâm mình nhưng họ thông thạo nghề nông hơn. Theo thiên Vũ Cống thì miền châu Kinh và châu Dương có những sản

vật như vàng, bạc, gỗ quý để làm nhà, các thứ trúc để làm nỏ, lông chim, da bò, ngà voi, da tê ngưu, vải gai v...v... Dân

Việt Thường còn biết chế đồ đồng đỏ. Trình độ kỹ thuật đã tới trình độ đá mới. Họ cũng sống theo chế độ thị tộc và cũng

có tín ngưỡng "Tô Tem" như người Giao Chỉ. Mối quan hệ giữa người Giao Chỉ và Việt Thường thế nào đến nay vẫn

chưa được rõ rệt chỉ biết rằng khi Việt Thường xuất hiện thì tên Giao Chỉ không còn nữa. Và địa bàn ức đoán của Việt

Thường choán một phần Đông Nam của Địa bàn ức đoán của người Giao Chỉ. Ngoài ra Việt Thường với Giao Chỉ đều

là người Man Di thuộc về Việt tộc là giống người đã sinh tụ ở khắp lưu vực sông Dương Tử, từ miền Vạn Huyện (đời

Chu là nước Quí Việt) tỉnh Tứ Xuyên ra tới biển, nghĩa là suốt châu Kinh, châu Dương trong Vũ Cống. Cứ những điều

chúng ta biết về đặc tính văn hóa thì Việt tộc vào thời đó có lẽ không thuộc ảnh hưởng chủng tộc Mông Gô Lích một

phần nào như người Hán, tuy chưa thể nói thấy tục xâm mình là tục đặc biệt của các dân tộc thuộc giống Anh-đô-nê-

diêng ở miền Nam và Tây Nam Á Châu, (từ người Miêu Tử, Lô Lô, Mán, Lái, Lê, Dao, Xa, Đản, Đông cho đến người

Dayak ở đảo Bornéo đều là di duệ của người Man Di). Đám người này, theo các nhà nhân chủng học chia ra hai giống

Tạng Miến (Tibéto-birman) và Anh-đô nê-diêng. Nhưng họ không khác biệt nhau mấy, ngay cả về đặc tính kỹ thuật.

Theo các nhà bác học Leroy, Gourhan về nhân loại học, người Anh-đô-nê-diêng và giống Tạng Miến gần nhau quá, nếu

có khác nhau thì sự khác biệt đó cũng hết sức mỏng manh, có lẽ vì sự pha trộn tức là sự lai giống. Hai đám dân tộc này

phải chăng đã sống gần gũi nhau nên có sự trạng này hay là đã cùng thoát thai ở một gốc? Và chúng tôi nghĩ rằng cái gốc

người ta đề cập đó có lẽ là Việt tộc. Các nhà tiền sử học và ngôn ngữ học phát biểu rằng suốt từ miền A-Xam ở phía

Bắc Ấn Độ trải qua Nam Bộ Trung Hoa xuống tới Nam Dương quần đảo có một thứ văn hóa hiện nay còn di tích trong

các dân tộc Anh-đô-nê-diêng. Chúng ta có thể ngờ rằng người Việt tộc xưa có lẽ là một nhánh của chủng tộc Anh-đô-

nê-diêng. Chủng tộc này trong thời thái cổ đã có mặt hầu khắp miền Đông Nam Á Châu.    

Bách Việt. 

 Căn cứ vào các sử sách của Tàu trong đời nhà Chu, ta thấy Bách Việt có mặt ở lưu vực sông Dương Tử rồi sau này tản

mác khắp miền Nam bộ Trung Hoa. Nói là Bách Việt, người ta căn cứ vào thuyết truyền kỳ về Lạc Long Quân kết

duyên cùng Bà Âu Cơ sinh ra trăm con trai. Sự thực, về thời thượng cổ giống Bách Việt có nhiều nhóm, nhiều bộ lạc sinh

sống rời rạc như các dân tộc thiểu số ngày nay tại miền Thượng du. Đến đời nhà Chu, các bộ lạc này đi dần đến chỗ

thống nhất do những biến thiên của Lịch sử,

các bộ lạc nhỏ dần bị các bộ lạc lớn kiêm tính và họp lại thành năm nhóm lớn sau đây đã đạt đến hình thức quốc gia là:

Đông Việt hay Đông Âu, Mân Việt, Nam Việt, Tây Việt hay Tây Âu và Lạc Việt. Sau này ba nhóm trên bị đồng hóa

theo Hán tộc, còn lại trên lịch sử đến ngày nay là nhóm Tây Âu và Lạc Việt. Vào thế kỷ thứ 9, một số thị tộc người Việt

ở Chiết Giang có lẽ có quan hệ với những phần tử Việt tộc ở Nam bộ Trung Hoa và đối với Lịch sử của chúng ta là người

Việt Nam ngày nay nữa. Họ lập thành nước Việt do một nhà quý tộc họ Mị thuộc về thị tộc Mị cùng họ với vua nước Sở.

Buổi đầu tiên trên bốn thế kỷ trước đời Câu Tiễn, nước Việt chỉ là một nước phụ dung của nước Ngô, một nước lớn ở

lưu vực sông Giang và sông Hoài. Cuối thế kỷ thứ 6 vua nước Ngô là Hạp Lư giận vua nước Việt là Doãn Thường

không theo mình đi đánh nước Sở nên đem binh đánh nước Việt, thắng Doãn Thường ở Tuy Lý (phủ Gia Hưng). Doãn

Thường chết, con là Câu Tiễn đem quân quyết tử trả thù giết được Hạp Lư. Cháu Hạp Lư là Phù Sai, cũng trả thù cho

ông, diệt được nước Việt. Sau này Câu Tiễn nhờ được bề tôi giỏi là Văn Chủng và Phạm Lãi khôi phục được nước Việt,

phá được Ngô, xưng bá miền Giang Hoài (năm 402). Ngôi bá chủ này, con cháu Câu Tiễn còn giữ được ba đời nữa, đến

đời thứ 4 thì thất bại ở Giang Đông. Bốn mươi tám năm sau đời Câu Tiễn thì nước Việt suy. Bốn mươi sáu năm sau nữa,

nước Việt bị Sở thôn tính. Trong lịch sử 600 năm của nước Việt, Câu Tiễn đã là người anh hùng làm nước Việt nhỏ bé

bán khai ở miền Giang Nam nổi lên thành một nước mạnh tung hoành non một thế kỷ ở một phương, mở rộng cương vực

choán một phần lớn tỉnh Chiết Giang về phía Nam, và một phần lớn tỉnh Giang Tây về phía Bắc, tuy miền Giang Tây chỉ là

phạm vi thế lực. Trạng thái sinh hoạt vật chất của nước Việt đại khái như sau đây: cũng như người nước Ngô, người Việt

vẫn sinh nhai bằng nghề đánh cá là nghề chính. Nông nghiệp của họ chưa phát đạt vì đất xấu, kỹ thuật canh tác còn thô

sơ, lại chưa biết dùng cầy bừa và trâu bò. Có lẽ người Việt chỉ trồng được lúa nếp ở trên các khoảng đất cao và ăn trọng

yếu là tôm cá, sò hến.  Về y phục, người Việt dệt bằng sợi gai hay đay, và biết dệt vải hoa như người Mường, Thổ là một

thứ sản phẩm rất được người Hán ham chuộng. Người Việt biết pha đồng và thiếc để làm binh khí. Người ta đào được ở

Chiết Giang những đồ đồng như đinh ba chân, đao, thương, dao găm, mũi giáo, chuông nhỏ, chuông lớn, nhất là thứ kiếm

đồng hai lưỡi là vật quý báu ở đời Xuân Thu. Họ sinh hoạt dưới nước nhiều hơn là ở trên cạn nên bơi lội rất giỏi, biết làm

các thứ thuyền nhỏ là Linh và thứ thuyền nhỏ dài là Đĩnh, thuyền lớn gọi là Tụ lự, thuyền có lầu tức là Lâu thuyền và thứ

thuyền có gắn mũi qua tức là Qua thuyền. Ba thứ thuyền sau là thuyền chiến. Các sách chép: người Việt rất sở trường về

thủy chiến (Điều này làm ta nhận thấy dân tộc Việt Nam quả có tài chiến đấu đặc biệt về mặt thủy trong các cuộc xung

đột với Trung quốc từ 20 thế kỷ nay). Về kiến trúc, hình như họ ở nhà sàn bằng tre và gỗ, tuy họ biết xây mộ và thành

bằng đá và gạch. Việt Tuyệt Thư chép: nước Việt có rất nhiều thành và lăng mộ, còn di tích đến đời Hậu Hán.

Về văn hóa, tinh thần của người Việt chúng ta chưa được nhiều tài liệu để xét đoán, về ngôn ngữ chẳng hạn. Ta chỉ biết

rằng tiếng nói của người Việt khác với tiếng nói của người Hán nhiều, thường một tiếng Việt phải phiên âm bằng hai ba

tiếng Hán. Về phong tục thì có tục xâm mình, cắt tóc là đặc tục của toàn thể Việt tộc. Họ còn tục khắc cánh tay để ăn

thề, khác với tục xâm mình có ý nghĩa "Tô Tem" . Họ thờ quỷ thần, tin điều họa phúc, chuộng phù pháp, thờ người chết

rất thành kính. Các nhà quý tộc xây mộ bằng đá và bằng gạch lớn, bỏ đồ binh khí bằng đá, đất hay đồng, vào áo quan để

người chết có các thức dùng. Xét các đồ đồng và đồ gốm khai quật được ở Chiết Giang, các nhà khảo cổ buộc các nghệ

thuật của các đồ ấy vào một nghệ thuật lớn gọi là nghệ thuật Đông Sơn, có nhiều đặc điểm tương tự với nghệ thuật đời

chiến quốc ở miền sông Hoài. Những đặc điểm ấy là hình trôn ốc cập đôi và hình giây bện. Ông Đào Duy Anh cho rằng

nghệ thuật ấy chính ở miền Ngô Việt lúc thịnh thời đã có rồi. Sau đó sự xúc tiếp với người Hán ở miền Bắc, nghệ thuật đó

có ảnh hưởng đến nghệ thuật Chu Mạt hay Chiến Quốc và do sự di cư của Việt Tộc xuống miền Nam thành nghệ thuật

Đông Sơn. Về tính tình, người Hán cho người Man Di (Việt) có tính khinh bạc, hiếu chiến, sắc sảo về việc binh, không sợ

chết. Việt Tuyệt Thư viết: Họ ở núi mà đi đường thủy lấy thuyền làm xe, lấy chèo làm ngựa, đến thì như gió thoảng, đi thì

khó đuổi theo. Sử ký chép: Vì dễ kiếm ăn, họ không lo xa, dành dụm, bon chen. Tóm lại người Hán có ý ghê sợ tinh thần

quật cường của Việt tộc, luôn luôn chống trả kịch liệt các cuộc xâm lăng của họ, ngoài ra người Việt lại thường hoài vọng

phát triển về miền Bắc nữa. Đáng chú ý là cái tinh thần bất úy tử của người Việt mà Câu Tiễn trong khi đánh Ngô, đã có

dịp phô trương. (Câu Tiễn sai quân đến trước quân Ngô khiêu chiến, la ó om sòm, rồi tự cắt cổ mà chết. Giữa khi quân

Ngô ngạc nhiên ngắm cái trò tự sát này, thì quân chủ lực của Việt ập đến). Về chính trị, nước Việt dưới đời Câu Tiễn đã

vượt qua chế độ bộ lạc và thành một quốc gia theo chế độ quân chủ phong kiến. Sau khi đánh được Ngô thì Việt vẫn

xưng thần với nhà Chu. Sau một trăm năm cường thịnh, nước Việt lại suy vi. Bao nhiêu chế độ kinh tế, chính trị phỏng

theo người Hán lại xụp đổ và người Việt lại trở về chế độ bộ lạc, một phần phiêu lưu về miền Lĩnh Nam, một phần bị

đồng hóa với người Hán tộc. Các nhóm khác là Đông Việt, Mân Việt và Nam Việt là thế nào, ngoài Ư Việt hay Vu Việt

mà di chủng hiện còn lưu trên lịch sử là dân tộc Việt Nam do những quan hệ xa gần? Các nhóm này có từ bao giờ, chưa

sử gia nào có thể trả lời một cách thỏa đáng, chỉ biết rằng họ đã có mặt ở các miền Nam bộ Trung Quốc đã lâu đời,

trước khi nhà Tần đem quân vượt núi Ngũ Lĩnh xuống chinh phục họ. Bấy giờ họ đã thành các quốc gia tuy tổ chức về

mọi phương diện chưa được quy củ lắm. Đây số phận của họ từ triều đại nhà Tần qua triều đại nhà Đông Hán! Năm 218,

năm đạo quân Tần gồm những người lưu vong, những rể thừa và lái buôn mở cuộc Nam chinh. Đạo quân thứ năm ngừng

lại trên sông Dư Can trong tỉnh Quảng Tây ở phía Nam hồ Phiên Dương phụ trách việc đánh Đông Việt và Mân Việt khi

đó còn là những quốc gia mới chớm nở. Hai nhóm này xưa kia thần phục Sở. Sau Trung Quốc rối loạn, họ nhân đó mà

giành lấy độc lập.

Đông Việt bấy giờ đóng ở trung tâm điểm miền Vĩnh Gia, thuộc Ôn Châu, tỉnh Chiết Giang về phía Nam Tâm Môn Loan.

Mân Việt ở trung tâm điểm Mân Huyện, thuộc Phúc Châu trong địa hạt Phúc Kiến ngày nay. Thế quân Tần bấy giờ đang

mạnh, việc bình định được Trung Nguyên với cái kết quả rực rỡ huy hoàng của nó khiến hai nhóm Đồng Việt và Mân

Việt khiếp sợ, nhờ vậy mà quân Tần thắng nhanh chóng, dễ dàng ngay trong năm đầu. Việc chinh phục xong, Tần hợp hai

nước lại làm một, đặt thành quận Mân Trung. Quốc Vương bản xứ hạ xuống làm quân trưởng (tù trưởng) để cai trị dân

như cũ. Đến ít năm sau Tần suy biến, Đông Việt và Mân Việt theo chư hầu đánh Tần rồi lại giúp Hán đánh Sở. Hán Cao

Đế năm thứ 5 (202) thưởng công cho tù trưởng Mân Việt là Vô Chu bằng tước Mân Việt vương. Đến Huệ Đế năm thứ 3

(192) chi lại đất Mân Trung cũ mà đặt thêm nước Đông Hải và cũng để đền đáp cho tù trưởng Đông Việt là Dao, Hán

phong cho tước Đông Hải vương, đóng đô ở miền Vĩnh Gia. Sau này Mân Việt và Đông Việt xung đột với nhau đã là cơ

hội rất tốt cho sự kiêm tính của nhà Hán. Buổi đầu hai nước nầy thần phục nhà Hán nhưng vẫn nuôi hoài vọng tiến về

phương Bắc nếu có dịp thuận tiện cho nên cả hai đã phụ lực cho Ngô Vương Tỵ và Hoài Nam vương trong việc phản

Hán. Nhà Hán e ngại Mân Việt hơn hết. Rồi Hán dụ được Đông Việt giết Tỵ mà quay về với mình. Con Tỵ là Tu Câu xin

Mân Việt đánh Đông Việt năm thứ ba đời Vũ Đế (138). Đông Việt thế nguy cầu cứu Hán nhưng khi tướng Hán là

Nghiêm Trợ xuất binh thì quân Mân Việt đã rút lui về Nam, vì trong nước có loạn; Nghiêm Trợ đến Đông Âu lấy danh

nghĩa cứu nạn đói liền dời một phần đông dân Đông Âu về Giang Hoài có ý rút bớt thực lực của Đông Âu để tránh hậu

họa sau nầy. Có lẽ một phần dân Đông Âu đã chống lại chính sách này nên theo vua di chuyển xuống miền Nam gần

Tuyên Sơn tỉnh Phúc Kiến. Năm thứ 6 hiệu Kiến Nguyên (135), Mân việt đem quân đánh Nam Việt. Nam Việt cũng cầu

cứu nhà Hán -- Vương Khôi được Hán Đế cử đi đánh Mân Việt cùng Hàn An Quốc một do đường Dự Chương, một do

đường Cối Kê, nhưng chưa tới cõi Mân thì Mân Việt vì nội loạn phải xin hàng.    

Nam Việt. 

  Nhóm Nam Việt cũng như Mân Việt và Đông Việt là một trong nhiều nhóm Việt tộc. Nó mang tên Nam Việt có lẽ tự

khi nó có mặt ở miền Nam bộ Trung Hoa cùng thời với các nhóm trên đây, rồi sau này dưới đời Tần, Triệu Đà chinh phục

được nhóm Nam Việt và Âu Lạc lập thành một đế quốc ở miền Đông Nam Á Châu và tự xưng Đế. Chính đạo quân thứ

tư trong năm đạo quân Tần đã ở phía Nam Dự Chương do đường Đại Du (nay là đèo Mai Lĩnh) tiến vào Quảng Đông là

lĩnh thổ của nhóm Nam Việt? Có lẽ đạo quân thứ 5 sau khi chiếm được Đông Việt và Mân Việt đã theo đường bể do

đèo Yết Dương tấn công vào Phiên Ngung (Quảng Châu ngày nay). Đạo thứ nhất, thứ nhì, thứ ba tiến vào phía Bắc

Quảng Tây và Tây Bắc Quảng Đông không gặp sức kháng chiến nào đáng kể. Nhưng ít lâu sau họ bị người Tây Âu

chống trả kịch liệt ở miền Quảng Tây, vì vấn đề tiếp tế khó khăn do đường xá xa xôi, vì do khí hậu quá độc nên luôn

trong ba năm đoàn quân viễn chinh của nhà Tần bị khốn đốn và hao mòn vô kể. (Xin coi việc kháng

chiến của Tây Âu ở đoạn dưới đây). Bị ngừng lại, nhà Tần thiết lập bộ máy cai trị ở các nơi đã chiếm được như ở Đông

Việt và Mân Việt -- Quảng Đông và Quảng Tây thành ra ba quận Nam Hải, Quế Lâm và Tượng Quận. Năm 214 việc

đặt Quận, huyện thành tựu, nhà Tần cử Nhâm Ngao làm Đô Úy quận Nam Hải và Triệu Đà làm Huyện Lệnh Long

Xuyên (Huyện thuộc Quận). Đến khi Trung Quốc có loạn, chư hầu nổi lên đánh đổ nhà Tần, nhà Hán ra đời thì Triệu Đà

xưng Đế ở Nam Việt, chiếm địa phương này làm của riêng trong một giai đoạn nhưng sau cũng thần phục nhà Hán. Sau

này Triệu Đà chết đi, các con cháu kế nghiệp bất tài, nhà Hán liền chiếm hẳn Nam Việt. Âu Lạc bấy giờ nằm trong phạm

vi ảnh hưởng của Nam Việt cũng nhào theo. Rồi Nam Việt cũng bị chia làm quận huyện. Tuy dân Nam Việt không bị

cưỡng bức di cư như Đông Việt và Mân Việt để đồng hóa với Hán tộc, nhưng từ đời nhà Tần họ ăn chung ở lộn với mấy

vạn quân Nam chinh và một vạn năm ngàn phụ nữ Hán mà Triệu Đà được nhà Tần cấp cho để giữ việc may vá cho quân

lính nên ngay từ thời Nam Việt còn thịnh đạt đã có sự pha trộn giữa hai dân tộc Hán Việt... Một điều đáng chú ý là sau

khi nước Việt bị diệt, nhiều nhóm tàn dân U Việt đã chạy xuống các miền Quảng Đông, Quảng Tây, Phúc Kiến tụ họp

với những người đồng tộc là Mân Việt và Đông Âu Đã di cư từ trước. Họ có trình độ văn hóa cao nên khi hợp với các thị

tộc chiếm đóng miền Nam trước họ thì họ đem đến đó một hình thức chính trị kinh tế cao hơn. Những nhà quý tộc của họ

họp thành những bộ lạc lớn mà tự xưng vương. Ngay từ khi họ còn sinh tụ tại miền Chiết Giang cho tới lúc họ tản mác

dần xuống miền Đông Nam Trung Quốc. Để có một nhận định rõ rệt về mối liên hệ giữa người Việt Nam chúng ta ngày

nay và các nhóm đồng tộc trên đây, chúng tôi xin trình bầy các đặc tính văn hóa của người Bách Việt sau khi đã nói về U

Việt cũng cùng về một vấn đề. Căn cứ vào những tài liệu rải rác ở các cổ sử như Sử ký. Hán Thư và nhất là tác phẩm

của Hoài Nam vương Lưu An là người Hán sơ sinh trưởng ở miền tiếp cận của Bách Việt thì biết rằng người Việt xưa kia

sống một cách rất đơn giản. Họ không có thành quách, thôn ấp. Họ ở trong các vùng rừng núi, bờ lau, khe suối. Họ rất

thạo thủy chiến, rất quen dùng thuyền, ở trên cạn ít mà ở dưới nước nhiều. Họ cắt tóc, xâm mình, đóng khố ngắn để tiện

bơi lội, tay áo cộc để tiện chèo thuyền. Ở đảo Hải Nam cũng là nơi thuộc địa bàn của người Bách Việt, theo sách Hán

Thư đàn ông cầy ruộng trồng lúa nếp, lúa tẻ, đay và gai. Đàn bà trồng dâu nuôi tầm. Có lẽ ở miền đồng bằng trong lưu

vực sông Tây Giang miền Quảng Đông và Quảng Tây người Bách Việt cũng làm ruộng theo kỹ thuật thô sơ như dân Hải

Nam vậy. Người Bách Việt đã biết nuôi gia súc như bò, dê, lợn, gà, chó. Họ có các sản vật quý giá như: sừng tê, ngà

voi, đồi mồi, trân châu, ngọc đỏ, bạc, đồng, trái cây (quả nhãn, quả vải) vải gai. Hẳn họ cũng biết kỹ thuật đồ đồng như

người Ngô Việt nhưng chắc không tinh bằng dân Ngô Việt. Họ ít giao thông bằng đường bộ nên không dùng ngựa. Họ

không giỏi thương mại nhưng vì có nhiều sản phẩm nên hay giao dịch với người Trung Quốc tại Quảng Đông, Hợp Phố,

Tư Văn và Phiên Ngung một thời đã trở nên nơi đô hội lớn.

Về kiến trúc họ chưa có gì đáng kể vì chỉ ở nhà sàn, nhà gác bằng tre và gỗ, vì ngay như thành trì để phòng ngừa quân

địch họ cũng không có như người nước Việt trong thời cường thịnh. Họ chỉ nhờ thế rừng núi hiểm trở để tự vệ thôi. Về

văn hóa tinh thần, họ cũng không khác người nước Việt mấy và người Hán cũng cho họ là khinh bạc và hiếu chiến. Họ

vẫn còn sống theo chế độ thị tộc. Có lẽ riêng nhóm Đông Âu và Mân Việt đã tiến bộ hơn và đã tiến qua chế độ gia tộc.

Về chính trị có lẽ họ ở giữa chế độ bộ lạc và phong kiến.    

Lạc Việt và Tây Âu. 

Theo tác giả "Nguồn Gốc Dân Tộc Việt Nam" tổ tiên trực tiếp của dân tộc Việt Nam là nhóm Lạc Việt sinh tụ ở miền

Trung Châu Bắc Việt và miền Bắc Trung Việt, nhưng nói một cách chuẩn đích rằng nhóm này đến chiếm đóng ở đây từ

bao giờ thì chúng ta chưa có câu trả lời dứt khoát, chỉ biết khi Triệu Đà cát cứ ở huyện Long Xuyên thuộc Nam Hải

(Quảng Đông) thì người Lạc Việt đã có mặt ở lưu vực sông Nhị Hà rồi. Ở đây họ đã tổ chức thành quốc gia tuy chưa ra

khỏi tình trạng bán khai, và ngự trị quốc gia Lạc Việt bấy giờ là họ Hồng Bàng. Căn cứ vào Từ Quảng (do Sử Ký Sách

Án Dẫn) người Mân Việt ở Phúc Kiến đều họ Lạc cả khiến ta ngờ rằng người Lạc Việt ở Việt Nam bây giờ với Lạc Việt

ở Phúc Kiến có mối liên hệ với nhau. Về Nhân loại học, ông Cl. Madrolle trong bài Le Tonkin ancian B.E.F.E.A.

XXXVII đã phát biểu ý kiến này rồi ức đoán ở Phúc Kiến có một nhóm Việt tộc làm nghề chài lưới, hàng hải đã dùng

thuyền gỗ hay mảng tre có buồm, hằng năm theo gió mùa, nhân gió bấc phiêu lưu theo dọc miền duyên hải rồi ghé vào

miền Trung Châu sông Nhị, sông Mã (Việt Nam). Nhóm này cũng đã có phen vượt biển xuống cả Nam Dương, rồi lại

nhân tiết gió nồm quay về căn cứ. Có thể một số đã ở lại Bắc Việt để sinh sống, vì ở đây đất cát có nhiều mầu mỡ, cho

tới khi dân Việt tại miền Đông Nam Trung Quốc bị Sở diệt liền kéo cả toàn thể bộ lạc xuống Bắc Việt. Hán Từ Quảng đã

căn cứ vào một số người họ Lạc còn sót lại ở đất Phúc Kiến nên nói rằng người Mân Việt họ Lạc. Tại sao có cái tên Lạc

Việt? Ông Đào Duy Anh cho rằng nhóm Lạc Việt ấy đã thường tự sánh mình với một giống chim hậu điểu cứ đến mùa

gió bấc lạnh lẽo cũng rời bờ biển Giang Nam với họ và tiến xuống miền Nam, đến khi mùa nóng trở về thì chim và người

cùng quay lại chốn cũ. Dần dần trong tâm lý của họ phát sinh ra quan niệm tô tem (giống chim Lạc là một giống chim hậu

điểu về loại ngỗng trời). Họ nhận giống chim Lạc là vật tổ rồi lấy tên của giống chim này đặt cho thị tộc của mình. Rồi họ

mang lông chim Lạc ở đầu và ở mình, lại trang sức thuyền của họ thành hình vật tổ, hoặc đeo khắp nơi trong thuyền những

huy hiệu vật tổ cốt để cầu một sự hộ vệ của vật tổ trong khi lăn lóc giữa sóng gió bể khơi. Ngày nay người ta thấy trên

mặt trống đồng Ngọc Lư có chạm các hình ảnh này. Các nhà khảo cổ Pháp như Goloubew và Finot cho rằng sự kiện

này do ý nghĩa "tô tem". Đây chỉ là một sự ức đoán căn cứ vào các di tích mà các nhà khảo cổ đã tìm thấy.

30 Việt Sử Toàn Thư

Lân cận với nhóm Lạc Việt là nhóm Tây Việt hay Tây Âu ở mé Đông Nam tỉnh Quảng Tây đã nằm trong chương trình

chinh phục Bách Việt của nhà Tần, trong khi quân Tần sẻ sông ngòi để chuyển vận binh lương xuống các vùng Quế Lâm,

Nam Hải, Tần diệt được Đông Âu và Mân Việt nhưng đã vấp phải sức kháng chiến của nhóm Tây Âu mặc dầu hạ được

tù trưởng là Địch Hu Tống. Sau này một mặt quân Tây Âu rút vào rừng sâu, một mặt, cứ đêm lại tiến ra đánh du kích giết

được Đồ Thư là quan Úy nhà Tần và làm hao mòn mấy chục vạn quân của Tần nữa. Cứ lời Lưu An, sau sự thất bại đau

đớn trên đây quân Tần rút về miền Bắc chiếm đóng ở phía Bắc sông Ly. Ảnh hưởng của Đế quốc Tần bấy giờ mới choán

được địa quận Quế Lâm tức Uất Lâm bây giờ và miền Nam Hải (tức là Quảng Đông và Quảng Tây) mà thôi. Ngày nay

người ta ngờ rằng người kế tiếp tù trưởng hay thái tử chết ở núi Bạch Lộc là một người con thứ của vua Thục mà sử chép

là Thục Phán (An Dương vương) đã có công chống Tần trên đây sau khi nước Thục (ở Tứ Xuyên) bị Tần diệt được (Sử

ký chép việc ấy vào năm thứ 5 đời Chu Thành vương tức năm 316); khi dư đảng chạy về phía Nam Lãnh náu mình ở đất

Diên Trì là đất của nước Sở cừu địch của Tần mới chiếm được. Rồi Phán cảm thấy đất dung thân chật hẹp nghèo nàn,

nên chiếm đất Tây Âu và Lạc Việt, theo lối con đường xe lửa Điền Việt ngày nay, qua Khúc Tịnh, Mộng Tự rồi theo

sông Hồng Hà chiếm Lạc Việt hợp Tây Âu và Lạc Việt vào làm một thành ra Âu Lạc sau này, lấy Cổ Loa làm kinh đô,

tự xưng hiệu là An Dương vương (Có lẽ muốn nhớ lại tên cố hương là Hoa Dương, tên miền đất Thục ở Tứ Xuyên). Việc

Thục Phán vào đất Việt có lẽ xẩy ra trước khi quân Tần đánh Tây Âu. Lúc này Tây Âu đã thuộc về Thục Phán. Đến ngày

nay, căn cứ vào thuyết của L. Aurousseau và tài liệu của Đào Duy Anh người ta gần như có thể quyết định rằng người

Việt Nam bây giờ tức là người Lạc Việt thuở xưa sinh tụ ở miền Nam bộ Trung Quốc, sau này trôi rạt xuống lưu vực

sông Nhị Hà. Các nhà khảo cổ gần đây đào sâu các tầng đất thấy hài cốt người Anh-đô-nê-diêng, Mê-la-nê-diêng ở

dưới, còn hài cốt người Lạc Việt hay Giao Chỉ ở trên nên cho rằng người Lạc việt đến lập cơ sở ở Bắc Việt chưa lâu lắm.

Lấy gì căn cứ để nói rằng chúng ta là một trong đám Bách Việt và các nhà sử học và cổ học đã dẫn chứng bằng những

hình dáng, tính tình, phong tục và các đặc tính văn hóa của người Việt là những tiêu chuẩn vững chắc nhất xưa nay về

nhân chủng học, để ấn định nguồn gốc và giòng giống của một dân tộc. Thuyết nói rằng người Việt chúng ta đến miền

Trung Châu sông Nhị và sông Mã chưa lâu lắm có thể đúng vì trên khu vực này giống người Anh-đô-nê-diêng đã đến

trước chúng ta. Họ do bán đảo Ấn Độ di cư tới và chiếm đóng những miền đồi núi giáp Trung Châu Bắc Việt (Phó Bình

Gia và làng Cườm ở Bắc Sơn. Hòa Bình, Chợ Gành) và miền Bắc Trung Việt (Đa Bút ở Thanh Hóa, Cầu Giát ở Nghệ

An). Nhà bác học Sylvain Lévy lấy kỹ thuật đồ đá trau tìm thấy ở suốt bán đảo Hoa Ấn mà cho rằng những thứ này đã

do người Anh-đô-nê-diêng đưa tới. Nhiều nơi còn có những đống vỏ sò, vỏ điệp được coi là di tích sinh hoạt của người

Anh-đô-nê-diêng có lẽ đã sống về nghề chài lưới ở ven sông và bên bờ biển. Người Lạc Việt mà chúng tôi đoán cũng là

giống Anh-đô-nê-diêng làm nghề chài lưới đã tiếp xúc với người Thổ Trước miền Bắc Việt Nam cùng phương thức sinh

hoạt tương tự rồi dần dần đồng hóa họ. Một phần của đám người Thổ Trước vì sự phát triển quá mạnh của người Lạc

Việt đã bị dồn lên đồi núi, còn để lại ngày nay những di tích như hài cốt và các đồ dùng trong đời sống hằng ngày của họ,

đã do các nhà địa chất học khai quật lên được. Khi còn ở Phúc Kiến, người Lạc Việt đã tiếp xúc với người Hán tộc

thuộc giống Mông-gô-lích từ lâu, lại tới khi qua Âu Lạc pha máu với người Anh-đô-nê-diêng là giống chiếm cứ địa bàn

ấy từ xưa, cho nên ta có thể nói rằng người Lạc Việt là một giống tạp chủng gồm nhiều yếu tố Anh-đô-nê-diêng và một

phần nào yếu tố Mông-gô-lích. Nữ sĩ Colani tìm được trong một cái hầm mộ làng Cườm (Bắc Sơn một cái đầu lâu gồm

cả tính chất Anh-đô-nê-diêng và Mông-gô-lích. Có lẽ là đầu của một người Lạc Việt nào lạc lõng vào trong đám Anh-

đô-nê-diêng bị dồn lên miền sơn cước. Truy cứu theo đặc tính sinh lý, ở nơi chúng ta, người ta cho rằng có sự pha máu

giữa giống Anh-đô-nê-diêng với giống Mông Cổ, nếu xét tầm vóc người Việt Nam cao độ 1 thước 58, chân tay khẳng

khiu, cái sọ tròn (chỉ xuất 82,8), môi hơi dầy, miệng hơi vẩu, mặt dẹt và hơi tròn, mắt có mí và hơi xếch, gò má cao, râu

thưa và cứng, da ngăm ngăm, ta không thể không nhận đấy là đặc tính sinh lý của người Mông Cổ. Sự pha trộn này đã

tạo thành con người Việt Nam có thể coi là một thực tế, nhưng qua các biến chuyển của lịch sử và do ảnh hưởng của thời

tiết, thổ ngơi, con người Việt Nam cũng chịu nhiều sự thay đổi và có nhiều sắc thái khác để trở nên riêng biệt... Đến Bắc

Việt sau khi đã làm chủ nhân sông lưu vực sông Nhị và sông Mã, hẳn người Lạc Việt vẫn tiếp tục nghề chài lưới nhưng

có lẽ chỉ một phần nào sống gần biển, ngoài ra dân Lạc Việt đã theo sinh hoạt định cư và lấy nghề nông làm căn bản do

đó sách Quảng Châu Ký chép về Giao Chỉ nói: vua là Lạc vương, dân là Lạc dân, ruộng là Lạc điền và Lạc dân đã biết

dùng nước thủy triều lên xuống để làm ruộng. Theo sách Hậu Hán Thư khi Lạc Việt đã thuộc về Hán mà dân Lạc Việt ở

Cửu Chân vẫn chưa biết cày bừa bằng trâu bò, có lẽ vì sự tiến hóa của dân Lạc Việt mới chỉ phát triển tới lưu vực sông

Nhị mà thôi chăng? Ở Trung Châu Bắc Việt người ta tìm thấy lưỡi cầy và lưỡi cuốc bằng đồng. Vì đồ dùng ở lưu vực

sông Nhị, sông Đáy, nhất là ở Đông Sơn trên bờ sông Mã, người ta tìm thấy đồ đá, đồ gốm và đồ đồng của người Lạc

Việt. Về những đồ đá, các nhà khảo cổ cho là thuộc về thời đại đồ đá mới còn sót lại. Đồ gốm đào được ở Đông Sơn

thuộc về hậu kỳ của thời đại đồ đá mới mà hình thức cùng kỹ thuật tương tự với các đồ đào được ở Chiết Giang. Người

ta cho rằng kỹ thuật này có lẽ do người Lạc Việt đem đến vì người Anh-đô-nê-diêng chưa tới một trình độ kỹ thuật cao

như vậy. Đồ đồng phần nhiều là binh khí, búa, rìu, mũi thương, mũi mác, dao găm, mũi tên, lưỡi qua giống hệt như các

thứ tìm được ở miền Giang Hoài và Chiết Giang của người Việt tộc. Song từ khi truyền đến Việt Nam thì kỹ thuật đồ

đồng của người Lạc Việt mà xuất xứ là miền Ngô Việt, có lẽ đã chịu ít nhiều ảnh hưởng của văn hóa Anh-đô-nê-diêng rồi

nhờ điều kiện sinh hoạt dễ dàng được phát đạt dần đến một trình độ khá cao. Cái trống đồng Ngọc Lư hiện giữ được ở

viện Quốc gia bảo tàng ở Hà Nội đã chứng tỏ lời chúng tôi nói đây. Và chính Mã Viện đã lấy ở đất Lạc Việt một cái

trống đồng loại này đem về nước, đúc tượng ngựa đồng. Theo Lâm Ấp Ký dẫn ở Thủy Kinh Chú: người Lạc Việt còn

đúc cả thuyền bằng đồng nữa. Xem các đồ đồng tìm được ở Đông Sơn người ta thấy

hình người có tóc búi sau gáy, có bịt một cái khăn ngang hai mối thắt lại thả dài xuống lưng. Ở mỗi tai có đeo một cái

vòng lớn. Hình như lưng có thắt một cái giây, ở sau lưng có một cái tua bỏ thõng xuống. Lại có một hình người khác, tai

cũng đeo vòng lớn, nhưng phần thân dưới mang một cái váy như váy Mọi ngày nay. Ở trước váy có thêm miếng lá phủ,

tóc thì búi cao lên đỉnh đầu, một nửa kết thành bím bỏ thõng xuống lưng. Búi tóc có bịt một cái khăn. Kiểu tóc và kiểu

khăn này giống hệt cách trang sức của người Dayak ngày nay. Hai hình người này cho ta phỏng đoán cách phục sức ngày

xưa của người Lạc Việt. Theo lời tâu của Tiết Tôn làm quan ở Giao Châu dưới đời Tam Quốc, người Lạc Việt bấy giờ

búi tóc và đi chân không. Người Lạc Việt có tục xâm mình, tin mình là con cháu Giao Long (truyền thuyết con Rồng cháu

Tiên) mà họ gọi là Lạc Long Quân. Họ tin tưởng quỷ thần, có tục chôn người chết, bỏ đồ binh khí bằng đá và bằng đồng

vào quan tài trước khi hạ xuống đất. Tôn giáo có tính cách nông nghiệp. Mỗi năm về mùa Xuân, họ mở hội cho trai gái tự

do vui đùa múa hát có ý nghĩa ghi dấu mùa Xuân và mở mùa Hạ, trai gái dùng trầu cau làm lễ cầu hôn. Trong những hội

hè ở các nơi, dân đã có tế lễ rất thành kính. Nhiều miền thượng du ngày nay, dân sơn cước cũng rất ham chuộng và vẫn

bảo tồn phong tục này. Về chế độ xã hội khi mới đến, dân Lạc Việt còn theo chế độ thị tộc như người thổ trước Anh-đô

-nê-diêng. Sau này nông nghiệp phát đạt, tiến đến chế độ gia tộc phụ hệ, còn ở những miền hẻo lánh, rừng núi chế độ thị

tộc vẫn còn tiếp tục. Hậu Hán Thư quyển 116 chép về văn hóa của người Lạc Việt như sau: "Người Giao Chỉ không

phân biệt trưởng ấu... Không biết lễ giá thú, chỉ theo dâm hiếu mà không biết tình cha con, không biết đạo vợ chồng,

nghĩa là không có tổ chức gia tộc theo chế độ phụ hệ, chế độ tôn pháp như Trung Quốc. Trong sớ của tiết Tôn ở đời

Tam Quốc (Tam Quốc Chí 9.53) có đoạn nói rằng khi mới thuộc Hán, người Giao Chỉ ở huyện Mê Linh, và Cửu Chân ở

huyện Đô Lương, hễ anh chết thì em lấy chị dâu, đó là di tích của chế độ mẫu hệ. Sau này xúc tiếp mỗi ngày một sâu với

văn hóa Bắc phương những phong tục dấu vết của thời man mọi này tiêu ma dần cho đến mất hẳn từ thời Tích Quang và

Nhâm Diên tức là thời Đông Hán. Trong cuốn Xã Hội Việt Nam ông Lương Đức Thiệp có nêu ra điểm này và trong

cuốn Les Grandes époques de l'Indochine, Bulletin de la S.E.M. du Tonkin, Tome XV -- No. 2 pp. 281-287, ông L.

Finot cũng có nói: Dân Văn Lang trước thế kỷ thứ 2 và thứ 3 còn sống ở trong trạng thái gia đình mẫu hệ (matriarcat) và

có tục đàn bà góa phải tái giá với anh em chồng (lévirat). Trạng thái này đổi dời lần lần do sự đồng hóa với Tàu để từ gia

tộc mẫu hệ biến thành gia tộc phụ quyền. Ông Nguyễn Văn Tố bác bỏ kịch liệt thuyết này cho rằng không có chế độ thị

tộc mẫu hệ vì họ Hồng Bàng từ vua Đế Minh đến Lộc Tục (Kinh Dương Vương) đã có việc hôn phối tức là không có

việc đàn bà chung chạ với nhiều người đàn ông, các con chỉ biết có mẹ, và cũng không có tục đàn bà góa phải tái giá với

anh em chồng. Chúng tôi thiết nghĩ chế độ mẫu hệ có thể xuất hiện với đời thái cổ ở bất cứ nơi nào khi người ta chưa có

văn minh, đạo đức. Lời phản đối của ông Nguyễn Văn Tố phải chăng vì lòng tự ái dân tộc chăng?

Về tổ chức chính trị, các thị tộc Lạc Việt còn là những bộ lạc đặt dưới quyền một tù trưởng và khi thị tộc Lạc Việt đến

Bắc Việt khuynh hướng tập trung bắt đầu rồi thành một chế độ phong kiến sơ sài. Tình trạng này khởi từ họ Hồng Bàng

nên sử chép bấy giờ có vua là Lạc Vương, dân gọi là Lạc dân, các cấp chỉ huy là Lạc hầu, Lạc tướng, Bố chính chia nhau

các thái ấp lớn nhỏ tùy theo địa vị của mỗi đẳng, cấp. Và cũng do việc phân chia đất đai nầy ta nhận thấy đời sống của

Lạc Việt khi đó đã là đời sống định cư từ các miền Cao nguyên cho tới các địa phương Trung Châu trên lưu vực sông

Nhị Hà và sông Mã. Chế độ phong kiến đó hiện nay còn ở các nơi người Mường trú ngụ cho ta một hình ảnh có thể phù

hợp với đời sống cổ xưa của dân ta kể từ họ Hồng Bàng... Trong khi xét về nguồn gốc của người Giao Chỉ, Đông Âu,

Mân Việt, Tây Âu và Lạc Việt chúng tôi đã trình bày các điểm tương đồng của các thị tộc trên đây với thị tộc Lạc Việt

chúng ta, và chúng tôi có cảm tưởng rằng: 1. Người Việt của chúng ta xuất hiện từ đời thượng cổ ở miền Bắc Nam bộ

Trung Hoa và dần dần tản mác xuống miền Bắc bán đảo Hoa Ấn. 2. Chủng tộc của chúng ta do các biến thiên của Lịch

Sử đã lẫn lộn với người Hán tộc mà yếu tố Mông Gô Lích là một yếu tố quan trọng trong dòng máu của họ. Chúng ta lại

hỗn hợp cả với giống Anh-đô-nê-diêng là một giống rải rác ở khắp Đông Nam Á Châu và đã đến bán đảo Hoa Ấn trước

chúng ta. 3. Người Lạc Việt chúng ta đã tiên phong phiêu lưu xuống Bắc Việt và miền Bắc Trung Việt trước áp lực của

người Hán tộc. Các chủng tộc ở Á Châu phát tích ở miền đại lục thường chỉ tiến về phía Nam theo đường biển gần như

một công lệ... 4. Người Việt chúng ta là những phần tử dũng cảm nhất có lẽ vì được hưởng nhiều đặc tính quý báu nhờ sự

pha máu với nhiều chủng tộc, nên đã đương đầu được với nhiều cuộc xâm lăng của Bắc phương mặc dầu đã phải trải qua

nhiều phút thăng trầm bi đát. Và cũng có thể nói rằng những cuộc hưng vong thê thảm này đã hun đúc cho dân tộc chúng

ta một tinh thần tranh đấu bền bỉ, để tồn tại đến ngày nay, oanh liệt dưới vòm trời Đông Nam Á.  

34 Việt Sử Toàn Thư

 Phần 1 - Chương 2  Đời Sống Thượng Cổ Của Dân Tộc Việt Nam.

 Đời sống vật chất của ông cha chúng ta trong thời cổ xưa dĩ nhiên là khó khăn, chật vật hết sức. Sử sách tới nay chưa có

sự kê cứu rõ rệt về vấn đề này vì đây là một vấn đề thuộc về thuở tiền sử và khuyết sử. Ta có thể căn cứ vào câu "Ăn

lông ở lỗ" để hình dung đại khái đời sống của người thượng cổ khi còn man dã. Dân tộc nào trên thế giới buổi nguyên thủy

đều cũng vậy. Họ đã sống như bầy thú, trú ngụ trong các hang hốc. Họ lấy lá che thân, làm lều, túp trên các cành cây. Ăn

thì ăn sống, nuốt thì nuốt tươi khi chưa biết dùng lửa. Hằng ngày rủ nhau săn bắn hoặc chài lưới, để tìm ra thực phẩm.

Cuộc sống luôn luôn phải di chuyển vì chưa tìm ra được nhiều khả năng kinh tế (khi chưa có nghề giồng cây, giồng lúa,

chế tạo các dụng cụ) và chống với Thiên Nhiên tàn bạo. Tâm hồn lúc nào cũng bị hoảng hốt vì mọi vật (động vật hay cả

bất động vật) đều có thể là thù nghịch của họ. Họ cảm thấy mình là những sinh vật nhỏ mọn, yếu đuối vật vờ giữa cái vũ

trụ mênh mông, bát ngát đầy huyền bí. Dòng thác đổ, cành cây rơi, cơn lốc thổi, tảng đá lăn, cơn sóng gầm, tiếng thú thét,

hết thảy đều là những thứ ngày đêm khủng bố, ám ảnh họ. Họ cho đấy là sự hờn giận của các hung thần. Không có ý

niệm về các hiện tượng trong trời đất và vạn vật, vả lại không có cách gì đối phó, thảng hoặc có đối phó thì cũng vẫn e sợ

nên họ phải tôn thờ mọi vật, bởi trong đầu óc người cổ xưa, mọi vật đều có linh hồn và linh cảm, có thể sinh họa hay tác

phúc. Vì vậy tục bái vật và thuyết đa thần đã chi phối họ rất mạnh mẽ. Với thuyết đa thần người ta tin có Thần Sấm Sét

(thần thiên lôi), Thần Mưa, Thần Gió, Thần Sông, Thần Đất, Thần Nước, Thần Núi v.v... có lẽ bởi các vị thần này có thể

có ảnh hưởng đến đời sống của họ. Với tục bái vật, người ta thờ cây đa, cây đề, ông bình vôi, hổ, rắn, cho rằng các thứ

đó đều có quan hệ mật thiết đến đời sống của mình, cai quản mình trực tiếp hay gián tiếp. Những phong tục và dị đoan đó

đến ngày nay cũng hãy còn lác đác ở các thôn quê Việt Nam, cũng như ở nhiều bộ lạc da đen (châu Phi, châu Mỹ hay

châu Á). Thời gian trôi qua, người cổ của chúng ta mỗi ngày một tiến rồi một ngày kia biết lặn lội trong những khoảng

ruộng bùn lầy, tưới những giọt mồ hôi xuống đất cứng để sinh sống. Bấy giờ chưa có gia súc, chưa có dụng cụ tinh xảo,

họ trần lực lấy sức tay chân tranh đấu với Thiên nhiên. Họ đẽo đá làm thành những lưỡi cuốc nhọn để sới đất khô và đập

cho nhỏ chờ lúc nước sông tràn vào ruộng, ruộng sẽ có bùn ngầu cho họ gieo giống. Họ biết tháo nước ra vào để khỏi

nạn úng thủy hay thiếu nước. Gần bể về mùa hanh, họ biết dùng mực nước thủy triều lên xuống ở các ngành sông để lấy

nước vào ruộng. Nhờ vậy ngay thời bấy giờ tại Trung châu Bắc Việt đẵ có nơi làm ruộng được cả hai mùa. Sau này sum

họp với người Tàu họ biết dùng lưỡi cày sắt và trâu bò.

Vào thời cổ miền Trung châu Bắc Việt đâu có ruộng lớn như ngày nay. Đầm lầy, gò đống còn rải rác khắp nơi vì chưa

khai thác, nhiều đồ nông nghiệp còn manh nha. Ngoài bờ biển và các cửa sông lau sậy cùng cây sú mọc đầy, rừng cây

um tùm ở các đồi núi. Người cổ ở thưa thớt tại các thung lũng và các miền ruộng hợp thành từng làng, từng xóm. Năm

bẩy chục nóc nhà tranh, vách đất quây tụ im lìm sau những lũy tre cao ngất. Ngoài làng là những cánh đồng, không có

đồn trại, thành thị, phố phường gì hết. Sông Nhị Hà bấy giờ là mạch máu chính nếu ta ví vùng Trung châu là cái thân. Con

sông nầy đã bồi đắp nên mảnh đồng bằng hằng năm, bằng những lớp phù sa trở qua các thác ghềnh từ miền núi Vân Nam

đem về nuôi nấng trang điểm đứa con nuông. Sóng bể Đông hãy còn rào rạt ở ngoài đồng bãi thuộc tỉnh Hải Dương,

Hưng Yên, Kiến An bây giờ. Hai chục thế kỷ qua, chỗ đất liền tiến rộng ra miền nước mặn được hàng trăm cây số mở

rộng Trung châu thêm được mấy tỉnh. (Đại để hai huyện Tiền Hải, Kim Sơn cách đây trên dưới 100 năm còn là vùng biển

rồi bỗng hiện lên nhiều làng mạc sầm uất như do một phép lạ). Đây là lời Lưu An về đời Hán đã am hiểu tình trạng dân

tộc chúng ta khi nền đô hộ của Bắc phương đã thành hình trên đất Giao chỉ. Ngay thuở đó, về chính trị dân ta đã lập

thành nước (do họ Hồng Bàng) theo thể chế phong kiến. Trong mỗi nóc nhà đã có chế độ gia tộc, gia trưởng. Ngoài làng

mạc có chế độ tù trưởng, lạc hầu, lạc tướng v.v... Sau này nhờ cuộc xúc tiếp với văn hóa Bắc phương, kỹ thuật canh tác

được cải thiện, sức người được sức trâu bò hỗ trợ, nông nghiệp trở nên phát đạt. Nhân khẩu bắt đầu tăng gia, trí não mỗi

ngày thêm cứng rắn trước Thiên Nhiên và vạn vật, đời sống hoạt động và dồi dào trông thấy. Những ngày mùa đông

tháng giá qua, xuân về đầm ấm, cây cỏ xanh tươi lại dưới ánh mặt trời, tinh thần của con người như bị kích thích do cái

vui, cái tươi, cái linh động của vạn vật. Người có cảm tưởng trong khoảng thời gian này vị chúa tể thế gian đến với họ, gần

gũi để thi ân, thi đức. Họ cũng vui theo cái vui của vạn vật. Họ khởi các công việc đồng áng nhưng ung dung thong thả rồi

mở hội hè đình đám để làm vui từ già đến trẻ. Trai gái hợp nhau xúng xính áo quần trên những ngọn đồi rộng hay bên các

lũy tre xanh, hoặc giữa nơi đình trung điếm sở, hoặc rún rẩy trên các cây đu, hoặc tung còn, đánh phết, hoặc cất lên nhũng

câu hát đúm để ca ngợi cái tuổi trẻ đầy hứa hẹn mơ mộng, hoặc hy vọng những chuyện lứa đôi đằm thắm, hoặc mừng

buổi thanh bình, thịnh trị. Đây là những điệu ca, những bài thơ mô tả cái đời sống mộc mạc, thuần phác hoàn toàn có tính

cách bình dân giữa những buổi sáng huy hoàng của ngày xuân hay giữa những đêm trăng trong, bên cạnh ngọn cỏ lá cây

qua những đôi mắt thắm của các cô thôn nữ luôn luôn mỉm cười để hé hàm răng đen nhức. Rồi sau tiết Xuân có những

cuộc vui công cộng, trai gái trưởng thành quen biết nhau, yêu nhau đính ước việc gia thất. Người con trai đem trầu cau

đến xin bố mẹ người con gái rồi mới được cưới. Đám cưới là một dịp làng xóm, hương thôn vui chơi ăn uống, nhai trầu

nói chuyện. Trầu cau là một món cần trong sự xã giao vậy. Về trầu cau có một chuyện cổ tích rất là cảm động lâm ly:

Vào thời thượng cổ hai anh em nhà họ Cao thương yêu một người con gái; Người anh lấy được cô gái đó khiến người em

đau đớn tuyệt vọng bỏ ra đi. Rồi người anh đi tìm em, vợ đi tìm chồng, rút cục ba người vì thương nhau trong cái nghĩa

anh em chồng vợ quá thiết tha mà chết cả. kẻ hóa ra hòn đá vôi, kẻ hóa ra cây cau, kẻ thành cây trầu quấn quít lấy nhau.

Người ta đem nhai quả cau và lá trầu cùng vôi (của hòn đá) thì thấy thành một chất đỏ tươi, vị đậm đà, phải chăng là cả

mối tình thương yêu chân thật, nồng thắm? Trai gái lấy nhau, bè bạn kết giao đều lấy miếng trầu gây tình thân mật, thật là

có ý nghĩa vô cùng. Về việc hôn nhân của người Việt chúng ta xưa kia thì lập gia đình chẳng phải là để cùng mưu cuộc

sống mà thôi. Hôn nhân còn có ý nghĩa vì người chết hay người sẽ chết nữa. Lấy nhau, người Việt có lẽ nghĩ trước hết

đến vấn đề sinh con đẻ cái để có người lo việc khói hương cho tổ tiên và cả cho mình sau này nữa. Không người kế tự,

đó là một sự đau đớn, nhục nhã hết sức cho người Việt, và đấy cũng là môt căn nguyên của chủ nghĩa đa thê ngoài ảnh

hưởng của chế độ phong kiến. Người Việt tin rằng người chết nhưng linh hồn còn phảng phất ở chốn nhân gian do sự

luyến tiếc con cháu, thì con cháu lo việc thờ cúng để tỏ lòng thương nhớ và cung kính người quá cố. Một lẽ nữa là sự

mong mỏi người chết phù hộ cho kẻ sống, mối tin tưởng ở hầu khắp các tầng lớp dân tộc chúng ta từ xưa đến nay. Người

chết, vào thời thượng cổ, xác còn phải quàn ở trong nhà. Người nhà đục gỗ làm áo quan, hàng ngày dâng cơm nước thờ

phụng như khi còn sống (phong tục này các đồng bào thiểu số nhất là dân Mường, Thổ vẫn còn giữ đến bây giờ). Lúc

đem chôn cũng phải chôn theo đồ ăn, thức đựng cho linh hồn khỏi phải thiếu thốn (tục đốt vàng mã đã do quan niệm này,

bây giờ gần mất hẳn). Trước khi Khổng Giáo tràn qua và có ảnh hưởng nhiều vào văn hóa của chúng ta, chúng ta còn tập

tục này nữa: nếu trong một nhà người anh chết đi thì người em út phải lấy chị dâu để cáng đáng mọi việc thay anh và trông

nom các cháu. Các nhà chép sử cho rằng tục này phát sinh vì lý do kinh tế, tức là không muốn người đàn bà trẻ tái giá

đem của cải và con cái của bên chồng đi. Phong tục này còn đến cuối đời Hán vẫn còn và có lẽ đã bị bãi bỏ trong thời

Nhậm Diên, Sĩ Nhiếp và Tích Quang là những người có nhiệm vụ du nhập văn hóa Trung Quốc vào đất này và thủ tiêu

những tập tục của dân bản thổ. Buổi nguyên thủy người Việt sống theo chế độ bộ lạc tức là sống trong tình trạng dã man.

Đời sống lại không có phong tục và đạo đức như trên đây đã nói rõ, và sự xúc tiếp giữa các bộ lạc đã xây dựng trên sức

mạnh tàn bạo. Các bộ lạc yếu phải tòng phục các bộ lạc mạnh, do đó chế độ phong kiến ra đời cho tới sau này họ Hồng

Bàng, một bộ lạc mạnh nhất xuất đầu lộ diện ngự trị tất cả các bộ lạc khác (xin coi dưới đây cội rễ của họ Hồng Bàng).

Về y phục, người thượng cổ khi chưa biết dệt vải, may áo đã sống trần truồng, rét mướt thì lấy lá hay vỏ cây che thân.

Sau này có nghề dệt mới biết đóng khố, quấn khăn, mặc quần áo. Người bình dân khi xưa lúc ở nhà chỉ đóng cái khố và

mặc cái áo ngắn. Đàn bà mặc thêm cái váy. Có lẽ từ giai đoạn người Việt biết đóng khố, biết làm nhà cửa, biết dùng đồ

kim khí là khi đã có tiếp xúc với các dị tộc, nhất là người Hán văn minh hơn họ. Tuy vậy y phục của họ rất là đơn giản do

xứ ta thuộc vùng nhiệt đới, nóng nhiều rét ít. Ngày nay người ta tìm thấy trên mặt các trống đồng, các tảng đá hình người

ở trên, đóng khố, đầu đội mũ bằng lông chim. Có thể đây là những di tích về hình ảnh người Việt Nam cổ. Còn khi người

Trung Hoa sang chinh phục chúng ta, bấy giờ sự ăn vận mới bắt đầu tề chỉnh và đồng thời nông nghiệp của ta trở nên thịnh

đạt. Ta biết búi tóc hay quấn khăn, mặc áo khép về tay phải hay mở ở giữa. Y phục của người Mường, Thổ ngày nay có

lẽ là y phục của ông cha chúng ta thuở xưa. Phần đông hạng bình dân cắt tóc ngắn để tiện làm lụng, chỉ có đàn bà và các

nhà quý phái mới để tóc dài cũng do ý muốn làm dáng và để phân biệt giai cấp. Họ bện tóc quấn quanh đầu hay búi thành

một búi tóc to ở sau gáy, ngoài bịt một chiếc khăn màu nhỏ để giữ cho chặt. Họ không biết đi giày, guốc. Giày, nón là sau

khi có người Tàu đem sang, ta mới có. Tính thích trang điểm, họ đeo đầy cổ và chân tay những vòng bằng đồng, xương

hổ phách hay đồi mồi. Đối với khách lạ, dân Việt rất tử tế ân cần. Họ ưa mời ăn uống, coi khách như người trong nhà. Lệ

tiếp khách bao giờ cũng có cơi trầu, chén nước, đôi bên vừa nói chuyện vừa ăn trầu. Cũng vì tính hay ăn trầu nên họ có

tục nhuộm răng. Điều này có lợi là răng được bền chặt thêm và nếu giữ gìn răng cứ đen nhánh mãi. Bàn về phong tục của

dân ta, chúng tôi phải nghĩ tới bài khảo luận về văn hóa Đông Dương (Les civilisations de l'Indochine) của ông G.

Coedès. Nhà khảo cổ này đã nhận thấy ở dân tộc chúng ta không phải chỉ có những phong tục thuần túy "Trung Quốc"

mà từ vua chúa đến dân thứ của ta hầu hết đều theo cả; ở nơi chúng ta còn có những phong tục trong gia đình, ngoài làng

mạc như những việc thờ thần ở đình, miếu khác hẳn Trung Quốc. Những phong tục này có trước khi người Tàu qua đây,

và tồn tại đến ngày nay mặc dầu ảnh hưởng của văn hóa Trung Quốc trên mảnh đất này khá mạnh. Ông Coedes ngờ rằng

trước khi văn học Trung Quốc du nhập vào đây (đầu thế kỷ thứ hai trước Thiên Chúa) người Việt Nam chúng ta đã chịu

ảnh hưởng của nền văn hóa Nam Á (Austro Asiatique) nên mới có những phong tục riêng biệt này. (Đáng chú ý có nhiều

phong tục của Tàu trên đất Việt mà chính người Tàu cận lai không còn giữ nữa). Nhận xét này được nhiều học giả hiện

đại cho là đúng vì văn hóa Ấn Độ đã đặt dấu vết và ảnh hưởng ở miền Nam Á (nói chung) và miền Nam Đông Dương

(nói riêng) trước khi người Trung Quốc có mặt ở Bắc Việt ít nhất trên một thế kỷ, tức là vào khoảng thế kỷ thứ nhất theo

Thiên chúa kỷ nguyên. Ngoài ra người Giao Chỉ đến Bắc Việt lại không phải là những người đầu tiên. Ông cha chúng ta đi

dần xuống đây xua đuổi người thổ trước là giống Anh-đô-nê-giêng, hợp chủng với những phần tử còn lại nên đã có những

phong tục khác Tàu đến nay đã thành những đặc điểm của chúng ta. Tóm lại, có thể rằng chúng ta đã có thâu nhập một

mớ phong tục thuộc văn hóa Nam Á nữa. Rồi văn hóa Trung Quốc hợp với một phần văn hóa Nam Á đã tạo nên nhiều

cá tính quốc gia của người Việt Nam chúng ta ngày nay.

38 Việt Sử Toàn Thư

 Phần 1 - Chương 3 Nhà Hồng Bàng (2879-258 trước tây lịch) 

- Truyền thuyết về nhà Hồng Bàng

- Nước Văn Lang của chúng ta. 

1- Truyền Thuyết Về Nhà Hồng Bàng:

Các nhà chép sử gọi dòng họ đầu tiên ngự trị giống Lạc Việt là Hồng Bàng thị. Trong Lịch Sử Xã Hội Việt Nam truy cứu

ở Từ Nguyên Hoàng Thúc Trâm giải thích ba chữ Hồng Bàng thị như sau: 1) Hồng Bàng là thứ tên chim nước to hơn con

nhạn cánh đen, bụng trắng, mầu tro, tính mạnh dạn. thính giác lanh lẹ. 2) Hồng theo ý nghĩa thông dụng là lớn. Tỉ dụ hồng

thủy (nước lớn). 3) Chim "Hồng" nói trong sách cổ thường chỉ về con "Hồng hộc" tức là con ngỗng trời. Nếu đi với

"Hoang" thì hồng hoang nghĩa là thái cổ. Bàng cũng theo Từ Nguyên tức là đầy, lớn, bác tạp không thuần túy. Thị theo

Thuyết Văn là gò, núi như Hoàng Đế ban đầu ở đất Hữu Hùng nên gọi là Hữu Hùng thị sau đến đời Hiên Viên chi ngưu

gọi là Hiên Viên thị. Như vậy chữ "thị" chỉ do chỗ đất mà được gọi tên là "thị". Không có nghĩa là họ mà là bộ tộc hay "thị

tộc" theo danh từ xã hội học ngày nay. Như vậy Hồng Bàng chỉ là một thị tộc do Kinh Dương Vương và Lạc Long Quân

lãnh đạo. Theo lời tục truyền thì vua Đế Minh cháu thứ ba đời vua Thần Nông đi tuần thú phương Nam đến miền núi Ngũ

Lĩnh thuộc núi Hồ Nam gặp một nàng tiên, lấy nhau rồi sinh ra Kinh Dương Vương đặt làm vua phương Nam. Sau nầy

Kinh Dương Vương lấy con gái Động Đình Quân là Long Nữ sinh ra Lạc Long Quân. Lạc Long Quân lấy Âu Cơ sinh ra

một bọc có trăm trứng nở ra 100 con trai, nửa theo mẹ lên núi, nửa theo cha xuống bể Nam Hải, vì mẹ là giống Tiên và

cha là giống Rồng do đó có giống Bách Việt rải rác khắp niền nam Trung Quốc (nước của Kinh Dương Vương lấy quốc

hiệu là Xích Quỷ gồm tỉnh Hồ Nam, Quảng Tây bây giờ). Người Việt ngày nay tự cho mình là con

Tiên cháu Rồng là do sự tích này. (Cũng như người Nhật tự xưng mình là con cháu của Thái Dương thần (Amatérasu),

người Tàu cho mình là con cháu Hoàng Đế, người Đức dưới chế độ Quốc Xã vừa qua tự cho mình là một giống người

thượng đẳng sinh ra để thống trị các dân tộc khác (theo thuyết Mein Kampt của Hitler đảng trưởng Quốc Xã). Các nhà

làm sử sách vì lòng ái quốc, trọng nòi giống mà tô điểm cho dân tộc của mình những điều tốt đẹp hoặc có ý muốn làm

phấn khởi tinh thần dân tộc. Lạc Long Quân phong cho con cả làm vua nước Văn Lang (quốc hiệu đầu tiên của nước ta)

xưng là Lạc Vương. Họ Hồng Bàng kể từ Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân và 18 đời Lạc Vương là những triều đại

trước hết. Những triều đại nầy theo ý chúng tôi và cũng dựa vào thuyết của Léonard Aurous seau, đã ra đời vào cuối đời

Xuân Thu (6 thế kỷ trước công lịch) bởi nếu cho rằng họ Hồng Bàng xuất hiện từ năm Nhâm Tuất (2897) đến năm Quý

Mão (258 trước Công Lịch) vừa đúng 2621 năm, thì mỗi triều vua trung bình 150 năm sau, chúng tôi e rằng có sự sai lầm

quá lớn. Bàn về danh hiệu của Kinh Dương Vương và Lạc Long Quân ta không thể quên chữ Kinh và Dương là đất

Dương, hai châu thuộc địa bàn của giống Giao Chỉ chúng ta. Với chữ Lạc Long Quân cũng vậy. Danh hiệu này chỉ có

nghĩa là vua của giống Lạc Long cũng như Kinh Dương Vương là vua miền Châu Kinh, châu Dương, Vân Nam Vương,

Hán Đế v.v... nó nhắc tên đất đai hay chủng tộc của các vua chúa, Lạc Long Quân lấy Âu Cơ tức là nàng con gái đất Âu.

Chữ Âu lại gặp trong chữ Âu Giang tên một con sông nước Việt (Chiết Giang) ngày nay vẫn còn tên ấy. Nó nhắc chữ Âu

Lạc, Âu Việt, Đông Âu, Tây Âu... Như trên đã nói, vào thế kỷ thứ 9 một số thị tộc Việt lập ra nước Việt do một nhà quý

tộc họ Mị cùng họ với vua nước Sở, do đó ta thấy các vua Sở lấy chữ Hùng làm hiệu thì 18 ông vua nhà Hồng Bàng cũng

làm theo các vua nước Sở, tỷ dụ: 1. Hùng Dịch (1122-1078 tr T.C) 2. Hùng Nghệ (1078 tr T.C) 3. Hùng Đán (1052 tr

T.C) 4. Hùng Thắng (1001 tr T.C) 5. Hùng Dương (946 tr T.C) 6. Hùng Cừ (887 tr T.C) 7. Hùng Chấp (877 tr T.C) 8.

Hùng Duyên (876 tr T.C) 9. Hùng Dõng (847-837 tr T.C)  Và 18 ông vua của nhà Hồng Bàng lấy hiệu như sau: 1. Kinh

Dương Vương (Lục Dục Vương).

40 Việt Sử Toàn Thư

2. Lạc Long Quân (Hùng Hiền Vương). 3. Hùng Lân (Hùng Quốc Vương). 4. Hùng Việt Vương 5. Hùng Hi Vương 6.

Hùng Huy Vương 7. Hùng Chiêu Vương 8. Hùng Vị Vương 9. Hùng Định Vương 10. Hùng Uy Vương 11. Hùng Trịnh

Vương 12. Hùng Vũ Vương 13. Hùng Việt Vương 14. Hùng Anh Vương 15. Hùng Triều Vương 16. Hùng Tạo Vương

17. Hùng Nghị Vương 18. Hùng Duệ Vương1.

 Còn nói theo cha một nửa xuống biển, một nửa theo mẹ lên núi, tức là một phần qui tụ ở miền sơn cước, một phần ở rải

rác vùng đồng bằng là ra tới bể là lưu vực sông Dương Tử với miền núi ở giẫy Nam Lĩnh. Dân tiến xuống bể được nhiều

điều kiện thuận tiện nên tiến bộ nhiều vì vậy đã sống vào trạng thái phụ hệ, còn đám người lên non chậm việc khai hóa nên

còn ở vào chế độ mẫu hệ. Đó là các dân dã man tỉnh Quí Châu, Vân Nam (ở Quí Châu có dân Miêu Tử. Ở Vân Nam có

dân Sâm Ly hay Xa Lý đến đời Nguyên mới bị chinh phục. Họ tương truyền đời Chu Thành vương có sai xứ triều cống

khi về được Chu Công Đán làm xe Chỉ Nam tiễn chân, cho nên họ có tên là Xạ Lý. Cũng có Bộ lạc tên là Lão Qua,

xưng là Việt Thường dưới đời Chu, bộ lạc nầy bị nhà Minh chinh phục. Tài liệu nầy ở cuốn Les babrbares du Yun nan

trong B.E.F.E.O. tome 8 1908). Nhưng một điều quan hệ khác cần phải xét lại là Việt tộc hay họ Hồng Bàng có phải

con cháu Thần Nông không và Thần Nông là người Hán tộc hay Việt tộc. Chúng tôi không đồng ý với các sử liệu Tàu

cho rằng Hồng Bàng là con cháu Thần Nông, điều mà nhiều người Việt chúng ta tin có thật vì quên rằng đấy chỉ là một

truyền thuyết.                                       

 [1 Có nơi chép Hùng Vương 18 là Hùng Tuấn Vương hiện nay còn ở làng Cổ Tích, phủ Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ (Bắc

phần). ]

Thần Nông đây thực ra chỉ có nghĩa là vị thần dạy nghề nông, ông tổ nghề Nông. Có lẽ người ta đã lầm Thần Nông của

ta với Thần Nông thị là dòng họ làm vua giống Hán sau Phục Hi thị (4480-4350 tr C.L.) Ta nhận thấy rằng truyền thuyết

trên đây dù sao cũng có phần nào sự thật. Ngày nay căn cứ vào các tài liệu của các nhà khảo cổ và sử học, ta có thể giải

thích như sau để hiểu rõ tình trạng dân tộc ta dưới thời Thái cổ rõ rệt hơn: Vào thế kỷ 30 trước C.L. dân Hán tộc sống

dọc sông Hoàng Hà. Tại Lưu vực sông Dương tử thì có dân bản thổ: bên bờ sông phía Bắc có dân Miêu và Man, bên bờ

phía Nam vùng Động Đình và Phiên Dương có dân Việt chúng ta ở rải rác đến núi Ngũ Lĩnh, các dân ở đây có trình độ

xã hội canh nông. Một nhà quí tộc dạy dân nghề khai khẩn ruộng đất, sau dân nhớ ơn thờ người ấy làm Thần Nông,

Miêu, Man tuy không cùng chung chủng tộc nhưng cùng ở dưới quyền một nhà quí tộc thuộc dòng dõi Thần Nông.

Người cháu ba đời của Thần Nông đi tuần thú về phương Nam đến Ngũ Lĩnh gặp một nàng con gái đẹp như tiên, ăn ở

cùng nhau xin được một đứa con trai đặt tên là Lộc Tục. Sau vua phong cho con trưởng làm vua dân Miêu và Man ở

phía Bắc sông Dương Tử và cho Lộc Tục làm vua dân Việt ở phương Nam, nghĩa là đất Kinh và Dương lấy quốc hiệu là

Xích Quỉ vào khoảng thế kỷ thứ XXIX trước C.L. Bấy giờ là thời đại phong kiến. Xích Quỉ chia ra ba nước (theo Vũ

Cống trong Kinh Thư). Trong ba nước ấy, vùng Động Đình là một, vua Kinh Dương Vương lấy con gái vua kế vùng

Động Đình là Long Nữ được một con trai tên là Sùng Lãm nối ngôi vua, xưng là Lạc Long Quân. Vua Lạc Long cưới

con gái vua một nước láng giềng đất Âu, nàng Âu Cơ đến đây ta gặp một thời kỳ khuyết sử. Sau nầy Hán tộc tràn xuống

phía Nam qua nước Sở thì nước Xích Quỉ có 100 nhà quí tộc đều xưng là dòng dõi của vua Lạc Long và Âu Cơ. (Ở đây

ta có thể loại bỏ việc Âu Cơ đẻ ra trăm con do một bọc nở ra 100 trứng là hiện tượng không từng thấy trong y học). Có

lẽ trong dịp áp lực của Bắc phương, có người mưu trí trong các nhà quí tộc đó đã nêu lên thuyết một trăm thị tộc cùng

máu mủ, một cha mẹ phải đoàn kết để tự vệ, như vậy chắc trước kia họ thường xung đột với nhau. Vào thế kỷ thứ 24

trước C.L trong ba nước kể trên có nước Việt thường kinh đô đóng ở phía Nam hồ Phiên Dương trở nên cường thịnh

làm bá chủ vùng Phiên Dương và Động Đình. Năm 1352 trước C.L. có sai sứ sang cống vua Đế Nghiêu một con rùa lớn

và năm 1109 tr. C.L. có cống cho vua Thành Vương nhà Chu. Trước thế kỷ XII tr. C.L., trong các quí tộc có người tên

là Hùng Dịch chinh phục được dân Miêu, Man miền sông Hán chảy vào sông Dương Tử, tổ chức thành một quốc gia,

Tàu gọi là Kinh Man, đóng đô ở Đan Dương gần thành Nghi Xương (Itchang) ngày nay. Đến đời vua Hùng Cừ đem binh

đánh lấy nước Đông và Dương Việt (nghĩa là người Việt đất Dương Tử. Việt Chương trước kia là Việt Thường, luôn dịp

nước Ngạc ở vào khoảng thành Vũ Xương (Ou T chang) thuộc tỉnh Hồ Bắc cũng bị kiêm tính nốt.

Rồi Hùng Cừ cho con trưởng là Khang ở đất Cú Đản, con thứ hai là Hồng ở đất Ngạc, con thứ ba là Chấp Tỳ làm vua

Việt Chương đó là nguyên nhân của chữ Hùng Vương trong truyền thuyết của ta. Dân Việt quen sống với cảnh thái bình,

bỏ lâu chinh chiến, không chống nổi quân Kinh Man nên phải thua. Vì dân số đông, nên dân Việt, một phần phải tiến lên

núi Nam Lĩnh và đa số đã tiến xuống Nam Hải rồi lại gặp nhau ở đất Quảng Đông và Quảng Tây sau gọi là Bách Việt

vậy. Từ vua Chấp Tỳ trở về sau lịch sử Việt Thường ra sau? Có lẽ có lúc thịnh, vào năm 581 trước C.L., con cháu Chấp

Tỳ có người làm vua Việt Thường xưng là Hùng Vương thứ nhất. Người Việt bấy giờ ở theo dọc bờ Nam Hải và Nam

ngạn sông Dương Tử cho đến hồ Động Đình, họ đều có xâm mình nên người Tàu gọi là Văn Lang. Bấy giờ nước Sở

trước kia ở Kinh Man trở nên cường thịnh và thạo văn hóa Hán Tộc bành trướng về phương nam trở nên nguy hiểm cho

nước Việt thường. Thế rồi một ông vua họ Hùng bèn thiên đô qua đất Thiệu Hưng tỉnh Chiết Giang đặt quốc hiệu là U

Việt. Đến đời vua Hùng Vương thứ VI mà người Tàu gọi là Câu Tiễn (496 tr. C.L.) Việt chiếm được Ngô trở thành

cường quốc, làm bá chủ một khoảng đất phía Bắc tiến đến gần tỉnh Sơn Đông phía Tây gồm Việt Thường phía Nam giáp

Hồ Tôn. Câu Tiễn mất, đế quốc chia cho con cháu. Một người con Câu Tiễn được làm vua đất Lạc Việt ở tận phía Nam

giáp Hồ Tôn xưng Hùng Vương thứ VII hoặc vì có lẽ là con trưởng, hoặc vì có ý dòm ngó các nước Việt ở phía Bắc nên

xưng như vậy để tỏ ý là chúa tể chính thức của dân Văn Lang. Đến đời vua Hùng Vương thứ XVIII, phía Bắc Lạc Việt

có nước Âu Việt. Vua nước nầy là Thục An Dương Vương cướp được Lạc Việt nhập hai nước làm một gọi là Âu Lạc.

Vì hai dân đều thuộc thị tộc Việt, ngôn ngữ cũng giống nhau nên con gái Hùng Vương thứ 18 gọi là Mị Nương, con gái

An Dương Vương tên là Mị Châu đều có chữ Mị cả. Ấy là bằng chứng dân Âu Lạc tuy là hai nước mà vẫn là người Văn

Lang, tức người Việt.

2- Nước Văn Lang.

 Bờ cõi của nước Văn Lang theo sử cũ gồm có 15 bộ: 1. Văn Lang: (Bạch Hạc, tỉnh Vĩnh Yên). 2. Châu Viên: (Sơn Tây

vùng núi Ba Vì). 3. Phước Lộc: (Miền đồng bằng). 4. Tân Hưng: (Hưng Hóa Tuyên Quang). 5. Vũ Định: (Thái Nguyên

và một phần đất của Hoa Nam). 6. Vũ Ninh: (Bắc Ninh). 7. Lục Hải: (Lạng Sơn và một phần Quảng Tây). 8. Ninh Hải:

(Quảng Yên và một phần Quảng Đông).

9. Dương Tuyền: (Hải Dương). 10. Giao Chỉ: (Hà Nội, Hưng Yên, Nam Định, Ninh Bình). 11. Cửu Chân: (Thanh Hóa).

12. Hoài Nam: (Nghệ An Hà Tĩnh). 13. Cửu Đức: (Lưu vực sông Đà, sông Mã). 14. Việt Thường: (Quảng Bình, Quảng

Trị) không phải là vị trí nguyên thủy. 15. Bình Văn: (?). Xét địa thế 15 bộ trên đây, ta thấy dưới đời những ông vua cuối

cùng Hồng Bàng (thời Chu Mạt) vị trí địa dư của nước Văn Lang đã lùi xuống Bắc Việt, và phía Nam của Văn Lang gồm

hai tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh ngày nay. Còn cương vực của nước Văn Lang phía Bắc giáp hồ Động Đình (tỉnh Hồ Nam),

phía Tây giáp Ba Thục (tỉnh Tứ Xuyên) phía nam giáp Hồ Tôn (Chiêm Thành), Phía Đông giáp Nam Hải, là cương vực

cổ xưa của toàn thể gia đình Bách Việt hay là của nước Xích Quỉ, mà chúng ta chỉ là một chi phái. trong đoạn bàn về

Bách Việt chúng tôi đã có dịp nói vào những thời khởi thủy dân Giao Chỉ sinh tụ ở Nam bộ Trung Quốc tại lưu vực sông

Dương Tử, rồi tổ tiên chúng ta di cư dần xuống lưu vực sông Nhị và sông Mã. Tới nơi cuối nầy, địa bàn của chúng ta quả

gồm có đúng 15 bộ đã kể trên. Sở dĩ có sự sai lầm mà ta thấy trong một vài cuốn sử chữ nho về vấn đề cương giới sau

nầy của nước Văn Lang là vì chữ Văn Lang (trong cái tên Văn Lang) với chữ Dạ (trong cái tên Dạ Lang) hơi giống nhau.

Dạ Lang đầu đời Hán là một nước Miêu Tử (Mèo) ở phía Nam Trung Quốc. Đây không phải là điều ức đoán bởi sách

chép nhầm thật. Quyển Thông Điển (Quyển 181 25b) chép: Phong Châu là nước Văn Lang đời xưa (Cỗ nầy viết chữ

lãng "lương" bên chữ nguyệt và cho rằng có sông Văn Lang). Nguyên Hòa Quân Huyện Chí (Quyển 38 tờ 9b) nói quả

quyết rằng Phong Châu là đất của Dạ Lang đời xưa. Thực thế, trong địa phận huyện Tân Xương bấy giờ có khe nước Dạ

Lang và đây là địa bàn của nước Miêu Tử. Nước nầy ăn qua một phần Quảng Tây và Quý châu, phía tây giáp La La (Lô

Lô) gọi là Điền ở phía Tây Vân Nam, phía Đông Hồ Vân Nam thuộc Quận Kiện Ví, khi lệ thuộc về Hán từ năm III trước

T.C. Sau quận ấy chia làm hai, phía Bắc là Kiện Ví phía Nam là Thương Ngô. Cuối đời Tiền Hán, quận Kiện Ví giáp

phía Bắc và phía Tây sông Dương Tử. Còn quận thương Ngô giáp phía Bắc quận Kiện Ví và phía Tây quận Tân Ninh là

nước Điền ngày xưa ở phía Đông Bắc Thương Ngô giáp quận Ngũ lãng, ở đấy có Hồ Động Đình. Tóm lại vì Dạ Lang và

Văn Lang đã lấn nhau, tất nhiên người ta phải lầm bờ cõi Dạ Lang là của Văn Lang. Về vấn đề nầy, Ô. Lê Chí Thiệp phát

biểu một ý kiến khác. Theo ông, trong thư tịch cũ của Trung Quốc không thấy nói tới tên Văn Lang, đến đời Thái Bình

ngự lãm nhà Đường mới nói. Văn Lang để gọi chung người Kinh Man (dân Sở) ở dọc sông Dương Tử, người Việt ở

Chiết Giang và người Lạc Việt là những người có vẽ mình, sau nầy sống ở Lưu Vực sông Dương Tử trôi dạt dân xuống

tới bờ biển Nam Hải, bởi vậy các cổ sử mới ghi bờ cõi Văn Lang: Bắc giáp Hồ Động Đình, Đông giáp Nam Hải, Nam

giáp Hồ Tôn (Chiêm Thành) v.v... Tên Văn Lang nầy được đặt ra do một quan niệm chủng tộc để phân biệt với giống

dân không vẽ mình chớ không phải là dân một nước.... Vậy nên kết luận rằng cương vực cũ của chúng ta khi còn là Giao

Chỉ gồm hồ Động Đình, biển Nam Hải, Tứ Xuyên và Hồ Tôn. Sau nầy dân ta di cư xuống Bắc Việt thì nước ta chỉ gồm

15 bộ kể ở trên, hoàn toàn trên đất Bắc Việt và vào tới Nghệ An. Đây là vị trí địa dư cuối cùng của ta sau cuộc Nam

chinh của nhà Tần và khi đế quốc Nam Việt của Triệu Đà thành lập. Ngoài ra ta còn thấy sử chép nước Văn Lang có 15

bộ. Trong đó có bộ Văn Lang, Giao Chỉ, Việt Thường là thế nào? phải chăng nhớ nguồn gốc của mình ngày xưa kia ở

miền Hoa Nam, nên dân gian giữ các tên đó để đặt quốc hiệu hay đặt tên cho các bộ ? Giai cấp phong kiến thời thượng

cổ của chúng ta như thế nào ? Theo Maspéro trong cuốn Royaume de Văn Lang BEEO trang 9, mỗi Lạc Tướng coi vài

làng xóm, thuộc quyền Lạc Hầu là chủ những đất đai rộng bằng một tỉnh hay vài huyện ngày nay. Cũng có khi một vị Lạc

Hầu đem chia bớt gia tài cho các con cháu và phong chúng làm Lạc Tướng. Công việc của các Lạc Hầu Lạc Tướng cai

trị nhân dân. Khi họ nhàn rỗi thường họp nhau săn bắn. Tính họ hoạt động và hiếu chiến nên hay xung đột với các dân

láng giềng. Ra trận họ mặc bộ áo giáp dầy dệt bằng lông chim hay bện bằng cỏ cây để tránh dấu tên hay mũi giáo; áo

giáp có hai mảnh che đằng trước và đằng sau, từ ngang lưng thõng đến bắp chân. Mình mặc áo ngắn chẽn để hở cổ và

hai cánh tay trạm hình sặc sỡ. Họ mang lá mộc (có chỗ gọi là lá chắn) hình vuông đan bằng tre trên mặt có kẻ hoa và vẽ

mặt người. Đầu họ cũng đội một thứ mũ cũng bằng lông chim thực dài kết cái hình dữ dội. Họ đeo cung lớn, mang giáo

dài và dao nhọn, luôn luôn bắn, phóng và đâm. Mũi tên có tẩm thuốc độc chạm vào da thịt dù chỉ sướt qua loa. thuốc

cũng ngấm vào và phải chết. (Theo Parmentier: trong cuốn Lestambors de bronze). Dân lo việc giồng lúa cho họ ăn, làm

nhà cho họ ở, cắt người phục dịch cho họ mà không được đòi công sá. Xét ra như vậy dân chỉ là một thứ tài sản của họ

mà thôi. Ngày nay các dân tộc thiểu số dưới chế độ quan Lang ở miền Bắc Việt có thể nói là hình ảnh hoàn toàn của chế

độ Lạc Hầu, Lạc Tướng thuở xưa. Các vị Lạc Hầu, Lạc Tướng tuy giữ quyền tự trị ở khu vực của mình nhưng cũng phải

theo về một vị tù trưởng giàu mạnh ở phía Tây Bắc Trung châu sát với Trung du gồm địa phận tỉnh Phú Thọ, Vĩnh Yên,

Sơn Tây ngày nay. Đây là một miền có nhiều thung lũng phì nhiêu, đồi đất tốt, dân đông đảo phát đạt hơn cả. Kinh đô của

Lạc Vương đóng ở Phong Châu (vào địa hạt huyện Bạch Hạc tỉnh Vĩnh Yên bây giờ). Họ nhà vua gọi Hồng Bàng. Lạc

Vương đặt quan chế như sau: tướng văn gọi là Lạc Hầu, tướng võ gọi là Lạc Tướng, các quan nhỏ gọi là Bồ chính. Con

vua gọi là quan Lang. Con gái gọi là Mị Nương. Các Lạc Hầu được đặt trên các Lạc Tướng và có thôn, ấp lớn hơn. Hết

thảy từ vua đến chúa đến các Lạc Hầu, Lạc Tướng điều có quyền thế tập.

Nước Văn Lang ra đời đã chịu cả uy thế của các vương triều Trung Quốc nên ngay buổi bấy giờ đã biết lập chính sách

ngoại giao. Về đời vua Nghiêu, nhà đường bên Trung Quốc, sứ thần Văn Lang đã có lần đem dâng con rùa lớn. Về đời

Chu Thành Vương (nhà Chu) có nói ở đoạn trên của sách nầy.

46 Việt Sử Toàn Thư

 Phần 1 - Chương 4 Nhà Thục (257-207 trước tây lịch) 

Sử chép Thục Vương Phán cướp nước Văn Lang cuối đời Hồng Bàng tức đời Lạc Vương thứ 18. Vấn đề nầy đã làm

nẩy nở nhiều mối dư luận khác nhau trong các nhà viết sử. Lệ thần Trần Trọng Kim cho rằng Thục Phán có lẽ là một họ

nào độc lập ở gần nước Văn Lang và căn cứ vào địa dư nếu Ba Thục (Tứ Xuyên) là xuất xứ của Thục Phán đối với Văn

Lang phải qua nhiều đường đất, núi sông cách trở, việc chinh phục Văn Lang như vậy ắt không có thể được. Vệ thạch

Đào Duy Anh nghĩ rằng, Thục Phán có thể là một người con trai của vua Thục ở Tứ Xuyên. Năm 316 là năm thứ năm đời

Chu Thành Vương, nước Thục bị nước Tần diệt, dân Thục chạy về phía Nam Lĩnh nương náu ở đất Diên Trì là đất của

nước Sở cừu địch của nhà Tần mới chiếm được. Phán thấy không đất dung thân chật hẹp liền từ miền Nam Lĩnh Vân

Nam, tiến xuống lưu vực sông Nhị Hà, thôn tính Tây Âu là Lạc Việt (nước Văn Lang) rồi lập lại nước Âu Lạc. Phải

chăng đây là lời giải thích đối với sự hoài nghi của tác giả Việt Nam Sử Lược. Lại một chỗ bất đồng nữa! Theo Đào Duy

Anh, việc chinh phục Văn Lang do Thục Phán đã xẩy ra trước đời nhà Tần nghĩa là đời nhà Chu khi đó dân tộc ta mang

tên là Lạc Việt. L. Aurousseau cho là Lạc Việt vong quốc từ năm 210 trước kỷ nguyên năm Tần Thủy Hoàng mất đến

năm 207 là năm Triệu Đà đang oanh liệt ở miền Nam Hải. Nhân lúc Trung Quốc rối loạn, một người con vua nước Thục

nào đó đã thừa cơ chiếm đất Tượng Quận của nhà Tần để dựng nước (Tượng Quận tức là Tây Âu gồm phủ Khai Viễn,

Thái Bình thuộc địa phận Quảng Tây, phủ Liêm và phủ Lôi, phủ Liêm thuộc địa phận Quảng Đông). L. Aurousseau đã

lầm vì cho rằng Tây Âu với Lạc Việt là một, ông bằng vào lời chú giải của cổ sử ở Tiền Hán Thư (K. 95) nói là Tây Âu

tức là Lạc Việt để giải thích chữ Tây Âu Lạc là nước Triệu Đà kiêm tính. Vì sử cổ không nói rõ rằng bấy giờ sở dĩ gọi là

Tây Âu Lạc là vì nhóm Tây Âu hay Tây Việt và nhóm Lạc Việt là hai nhóm trong Bách Việt ở miền Quảng Tây và Bắc

Việt ngày nay đã do An Dương Vương gồm làm một nước tức sử ta gọi là nước Âu Lạc.

Trên đây chúng tôi đã có dịp nói đến việc đánh Bách Việt của nhà Tần trong đó Thục Phán đã đóng một vai trò quan

trọng. Nay dẫn thêm ít tài liệu theo sách Hoài Nam Tử để hiểu cuộc tranh đấu giữa Thục Phán và vua nhà Tần trong cuộc

Nam Chinh của họ: Khoảng năm 221, giữa lúc toàn thịnh nhà Tần (năm 33) đời Tần Thủy Hoàng dùng bọn lưu vong, rể

thừa và lái buôn làm lính tiến xuống miền Nam là nơi sinh tụ của người Bách Việt. Việc này xảy ra khoảng năm 221-214

trước Tây Lịch. Quan Hiệu Úy là Đồ Thư đem quân lâu thuyền cùng tướng Sử Lộc đào sông vận lương đi sâu vào đất

Lĩnh Nam, chiếm đất Lục Dương, Quế Lâm (nay là huyện Minh Quý tỉnh Quảng Tây), Nam Hải (Quảng Đông ngày nay)

sau khi diệt được nhóm Đông Âu và Mân Việt. Đến lượt Tây Âu cũng bị cuộc xâm lăng của đạo quân viễn chinh Trung

Quốc. Tù trưởng Tây Âu là Dịch Hu Tống nhưng ở đây quân Tần vấp sức kháng chiến dẻo dai của Tây Âu. Người Việt

(Tây Âu) rút vào rừng sống cùng cầm thú, và cứ đêm tối lại đem quân ra tập kích quân Tần. Cuộc kháng chiến kéo dài

10 năm. Sau quân Tần chết rất nhiều. Đồ Thư bị hại, quân Tần hao tổn đến vài chục vạn, phần bị giết, phần thì không

chịu được lam sơn chướng khí. Tần triều đành ngừng lại và thiết lập bộ máy cai trị ở các miền đất đai đã lấy được lập ra

ba quận Nam Hải, Quế Lâm (Quảng Tây) Tượng Quận. Về Tượng Quận, Việt Nam Sử Lược chép là Bắc Việt2. Chúng

tôi không đồng ý vì Bắc Việt khi đó là Âu Lạc đã thành Tượng Quận thì sau nầy đâu có sự kiêm tính của Triệu Đà bằng

binh đao, chúng tôi cũng không thấy sách nào nói như Việt Nam Sử Lược rằng An Dương Vương đầu phục nhà Tần để

quyết định rằng vì sự thần phục nầy mà Âu Lạc biến thành Tượng Quận. Tóm lại ảnh hưởng của nhà Tần bấy giờ chỉ mới

đến địa phận Tây Âu là tỉnh Quảng Tây và miền Uất Lâm cùng Nam Hải. Sau đó Tần triều phái 50 vạn người tù đầy đến

chiếm đóng các nơi đã cướp được để bảo vệ bộ máy cai trị vừa mới thiết lập. Ai đã cầm đầu cuộc kháng chiến có hiệu

quả của Tây Âu? theo Quảng Châu Ký và Giao Châu Ngoại Vực Ký trong lúc tù trưởng bị hại, nhóm Tây Âu vô chủ thì

người Kiệt Tuấn được nhân dân Tây Âu cử ra là An Dương Vương nhà Thục, vào khoảng năm 219 đến năm 207. Thục

Phán đã nhân cơ hội nhà Tần suy, Quân Tần thất bại mà thâu phục nhóm Lạc Việt lập ra nước Âu Lạc. Trong việc chống

nhau với Tần, Thục Phán tỏ được một tinh thần dũng cảm phi thường. Có thể nói như vậy là vì lúc nầy Tần vừa gồm thâu

6 nước, nhất thống thiên hạ Trung Quốc dựng thành Vạn Lý bên trong dẹp được mọi phản lực của giai cấp phong kiến

có nền móng từ mấy ngàn năm, bên ngoài thuyết phục được các phiên bang ngang tàng hùng mạnh. So với sự tiến hóa

của giống Hán tộc bấy giờ thì quả thật các thị tộc Việt đáng gọi là "Man di". Vậy mà Thục Phán dám đem sức "Mọi"

chống với một đế quốc phú cường, hùng hậu thì cái tinh thần bất khuất ấy cũng là đáng phục. Lại nhân lúc nhà Tần lâm

vào thế biến, Thục Phán chinh phục Văn Lang dựng nên một quốc gia riêng một phương trời, Phán quả là một kẻ có óc

tự cường và biết lợi dụng thời cơ.                                       

[ 2 Theo Trúc Khê tiên sinh: Sử ta nói Tượng Quận nhà Tần là đất Bắc Kỳ. Trung Kỳ bây giờ song so sánh địa lý và dẫn

chứng với các sách thì Tượng Quận chính thuộc về một phần đất của Tỉnh Quảng Tây nước Tần ngày nay. Việt Nam Sử

Lược của Trần Trọng Kim nói Tượng Quận là đất Bắc Kỳ có thể không đúng. ]

Thục Phán chiếm được Văn Lang từ năm Giáp Thìn (257 trước Công Lịch). Xong việc chinh phục Phán xưng là An

Dương Vương lập kinh đô ở Phong Khê tức huyện Đông Anh tỉnh Phúc Yên bây giờ, và hai năm sau cho đắp thành Cổ

Loa (Tên thành là Cổ Loa vì xây cuốn nhiều vòng như hình trôn ốc, hiện nay còn dấu tích ở huyện Đông Anh và cái giếng

Trọng Thủy, thành nầy lại có tên là Tu Long. Người Đường gọi là thành Côn Luân vì thành ấy cao lắm, rộng nghìn

trượng). Thục Phán đã đem văn hóa quê hương mình là nước Thục du nhập vào đất Việt, thiết lập mọi quy mô chính trị

quân sự, dạy cho người Việt xây thành bằng đất, lấy tre làm cung nỏ, tên bịt đồng là hai kỹ thuật sở trường của người

Thục. Rồi nhờ địa thế hiểm trở của Tây Âu và Âu Lạc lắm rừng nhiều núi lại thêm tinh thần quật cường của người Việt,

Thục Phán đã lập nên sự nghiệp trên đây (đã nói trong việc đương đầu với làn sóng Nam tiến của giống Hán) . Dân tộc

Âu Lạc bước vào trường tranh đấu và được phát triển mọi khả năng có lẽ từ khi được Thục Phán lĩnh đạo, tiếc rằng

không có cuốn sử nào nói về sự nghiệp của Thục Vương. Sau nầy với Triệu Đà, một tướng có tài thao lược của Trung

Quốc hùng cứ miền Hoa Nam, tình thế của Âu Lạc không bao lâu phải đi sang chỗ rẽ. Rồi năm thứ 50 đời An Dương

Vương, Âu Lạc bị lọt qua tay họ Triệu và thành một nước phụ dung của đế quốc Nam Việt. Trong lúc nầy nhà Tần đã

đổ, Hán lên thay. Việc xâm chiếm Âu Lạc xẩy vào năm 180 sau khi Cao Hậu nhà Hán qua đời và lúc nầy Triệu Đà đã

xưng đế ở Nam Việt. Theo thuyết chính thống, An Dương Vương không thuộc về một thị tộc Việt nào hết, nhưng một vài

sử gia ngày nay cho là An Dương Vương là người ngoài cũng chưa có chứng cớ đầy đủ. Theo tác giả trong giai đoạn lịch

sử nầy. Hán tộc chưa có mặt miền Hoa Nam, Thục Phán có thể là một lĩnh tụ phong kiến cũng thuộc Việt tộc như nhiều

lãnh tụ khác trong đám con Hồng cháu Lạc. Miền Hoa Nam quá rộng lớn, sông núi cách trở nhiều, Việt tộc lại phân tán

khắp nơi mới có sự bỡ ngỡ nầy.    

Vịnh Bi Kịch Thành Loa Thành. 

 Loa trăm thước chẳng còn bền. Mống rùa ba tấc chẳng là thiêng. Nước nhà dấy mất tại người cả. Gió mưa gây dựng

công khó nhọc. Nam gồm Văn Lang, bắc Ba Thục. Dư đồ muôn dặm mở mang tới. Một tấm sơn hà một tấm vóc. Sẵn

sàng cơ nghiệp không biết giữ. Chiến đã không xong. hòa cũng ngộ. Biên phòng chểnh mảng, thù hận quên. Quanh quẩn

một lầm hai tại lỡ, Thân già đâu nới kẻ thù gia. Chồng nào thương vợ, con lìa cha. Giặc ngồi sau lưng nói chi nữa. Nước

ôi nhà ôi, biến Đại Nha !..   Dương Bá Trạc.    

  Cổ Loa Hoài Cảm.  

Thành quách còn mang tiếng Cổ Loa. Trải bao gió táp với mưa sa. Nỏ thiêng hờ hững giây oan buộc. Giếng ngọc vơi đầy

giọt lệ pha. Hoa cỏ vẫn cười ai bạc mệnh, Cung đình chưa sạch bụi phồn hoa. Hưng vong biết chửa người kim cổ ? Tiếng

cuốc năm canh bóng nguyệt tà.   Trần Tuấn Khải    

CHÚ THÍCH

1) Theo sử ký của Tư Mã Thiên là cuốn sử lâu đời hơn tất cả và đáng tin hơn hết, việc chinh phục Âu Lạc do Triệu Đà

vào năm 180 trước kỷ nguyên chớ không phải vào năm 207 như Việt Nam Sử Lược đã dẫn. tức là năm Giáp Ngọ như

sử ta. 2) Theo Đào Duy Anh "Nguồn Gốc Dân Tộc Việt Nam" Mân Việt mất vào khi quân Tần đánh Bách Việt chớ

không phải do Triệu Đà, sau nầy cùng thời với việc cướp nước Âu Lạc của An Dương Vương. 3) Thuyết nói rằng An

Dương Vương chưa chắc đã là người ngoài, căn cứ vào sách Quảng Châu Ký và Giao Châu Ngoại Vực Ký. Sách nầy

chép: Khoảng 221-214 Quân Tần đánh người Việt, giết được vua Tây Âu (tức Âu Lạc) gọi là Dịch Hu Tống. Coi đoạn

sách nầy thì ta có thể cho rằng trước khi có cuộc xâm lăng của nhà Tần đất Giao Chỉ đã gọi là Tây Âu. Vua Tây Âu là

Dịch Hu Tống bị giết có thể là vị Lạc Vương cuối cùng. Sau nầy dân Việt giữa lúc vô chủ và nguy biến đã cử người Kiệt

Tuấn đứng ra lĩnh đạo cuộc kháng chiến là An Dương Vương nhà Thục, vậy Thục Phán chẳng phải là người nước Thục ở

miền Tứ Xuyên. Còn cái tên Tây Âu hay Tây Âu Lạc hay Âu là do người Tầu đặt ra để gọi xứ ấy cho có sự phân biệt với

các rợ Việt khác.  

50 Việt Sử Toàn Thư

Phần 1 - Chương 5 Xã HộI Trung Hoa Trong Thời Thượng Cổ  -

 Các tổ chức chính trị, xã hội, văn hóa... dưới các triều đại Hạ - Ân - Chu.

- Các học thuyết cổ điển của Trung quốc (Khổng tử, Lão Tử, Trang Tử, v.v...) 

Để biết trình độ của dân tộc Việt Nam chúng ta vào thời thượng cổ thế nào, ta có thể lấy cái văn minh của Trung Quốc

cũng trong thời kỳ này làm mực thước để đo lường. Và cũng ở điểm này ta tìm hiểu ảnh hưởng của Trung Quốc bắt đầu

lan tràn sang đất Việt qua các biến thiên của Lịch Sử. Về chính trị, Trung Quốc khởi đầu tổ chức quốc gia và chính trị

bằng chế độ phong kiến khi người Hán còn là các bộ lạc dã man, lạc hậu rải rác khắp các nơi trên lãnh thổ Trung Hoa.

Trải qua thời kỳ man mọi và du mục, dân tộc Trung Quốc thượng cổ đã biết làm nhà cửa để ẩn náu, chế tạo ra dụng cụ

cần thiết, tìm ra mọi phương kế nông nghiệp, sáng lập ra chữ viết để phô diễn ý tưởng tâm tình, các công cuộc văn hóa,

chính trị, kinh tế bắt đầu thành hình, tiến triển và đi dần đến chỗ thống nhất. Trung Quốc rộng lớn mênh mông đã chia ra

nhiều địa phương. Mỗi địa phương có một lĩnh tụ cắt cử, và chịu uy quyền của một vị lãnh tụ lớn nhất mà họ tôn thờ là vị

Hoàng Đế hay Thiên Tử. Các lãnh tụ nhỏ giờ đó là các chư hầu phải chịu mệnh lệnh của Thiên Tử. Vào thời thái cổ chư

hầu có hàng ngàn nước. Đó là tình trạng dưới đời vua Đại Vũ nhà Hạ, nhưng đến vua Vũ Vương nhà Chu các chư hầu đã

bớt đi nhiều lắm nghĩa là chỉ còn độ 800 nước. Cho đến đời nhà Tần việc thống nhất được thực hiện sau bao nhiêu cuộc

nội chiến liên miên khiến dân chúng lầm than, điêu đứng hết chỗ nói. Cuộc nội chiến này bắt đầu từ đời Tam Đại (đời nhà

Hạ, nhà Ân và nhà Chu). Vũ Vương nhà Chu dẹp được Trụ Vương nhà Ân số chư hầu còn lại là 70 chia ra làm 5 bậc:

công, hầu, bá, tử, nam. (Xin coi việc ấn định quyền lợi và trách vụ của họ ở trang sau đây). 

1- Xã Hội Và Văn Hóa.

 Trung Quốc phát triển trước hết về nông nghiệp. Đến đời Hoàng Đế (2704 trước Thiên Chúa) nhân dân đã có đầy đủ

các thứ cho đời sống hàng ngày (các thứ ăn uống, mặc, ở, dụng cụ sinh sản) biết làm nghề nhuộm, phát minh thuyền bè,

xe cộ, chế tạo cung tên, chầy, cối, v.v...

Đời Hoàng Đế có đặt quan Đào Chánh để điều khiển việc làm đồ gốm, quan Mộc Chánh trông nom việc làm các đồ gỗ

để cung ứng mọi sự cần thiết xã hội. Hoàng Đế biết dùng đồ gỗ dể dựng nhà cửa. Vợ Ngài là Lão Tổ dạy dân chăn tầm,

ươm tơ. Từ đời Hoàng Đế trở về sau nền văn hóa Trung quốc cũng xuất hiện và tiến triển dần. Qua đời Đường Ngu

(2356 trước C.L.) áo quần có vẽ mầu nghĩa là từ sự cần che thân, người ta đã tiến đến sự trang điểm. Đời vua Hạ Vũ đã

có khoa trị thủy, có dây làm mực, có thước để đo. Mọi thứ bắt đầu lìa bỏ sự thô sơ để trở nên hoàn bị và có mỹ thuật.

Nghệ thuật kiến trúc phát đạt mạnh cho nên đời Hạ Khải có Điếu Đài Toàn, đời vua Hạ Kiệt có Khuynh Cung Dao Đài,

đời vua Thương Trụ có Lộc Đài tức là những cung điện nguy nga để yến tiệc chơi bời, chớ chẳng phải chỉ để che mưa gió

như thuở trước. Khi văn tự chưa phát minh, để ghi nhớ công việc người ta chỉ biết thắt nút. Đời Phục Hi đặt ra tám quẻ

Càn, Khôn, Tốn, Chấn, Khảm, Ly, Cấn, Đoài (bát quái) để chỉ Trời, đất, gió, sấm, nước, lửa, núi, đầm. Dần dần người

ta lấy dấu hiệu thay cho việc thắt nút. Tục truyền đời Hoàng Đế có Thương Hiệt dùng móng thú và dấu chân chim in trên

đất, cát để đặt ra văn tự. Văn tự dần dần lại theo lối tượng hình nghĩa là ghi chép hình ảnh của sự vật mà đặt thành chữ.

Cũng từ đời Hoàng Đế người ta dùng Giáp Tý để tính năm tháng và phát minh bói toán (bói cỏ thi). Xét như vậy, giống

Hán đã có một nền văn hóa khá cao 27 thế kỷ trước khi Thiên Chúa Giáng Sinh.

2- Trật Tự Xã Hội, Gia Đình.

 Giữ quyền chúa tể trong thiên hạ là Thiên Tử. Thiên Tử có địa vị độc tôn, vô thượng. Theo quan niệm Á Đông, Thiên Tử

thay Trời trị dân. Dưới Thiên Tử là các chư hầu được đặt theo cấp bậc: Công, Hầu, Bá, Tử, Nam và được lĩnh phần thái

ấp. Thiên Tử có ngàn dậm đất. Công, Hầu được trăm dậm. Bá được bảy chục dậm. Tử, Nam được năm chục dậm.

Thiên Tử có vạn cỗ xe, chư hầu được ngàn cỗ trở xuống. Có nhiều xe thì có nhiều binh vì xe dùng vào việc chiến tranh. Y

phục của vua, chúa cũng có sự phân biệt. Vua mặc áo màu vàng thêu rồng (hoàng bào) các chư hầu và các quan chức

dùng màu khác. Đến phi hậu cũng có sự ấn định rõ rệt: Thiên Tử có Đông Cung và Tây Cung và mười hai cung phi

(nhưng đến Tần Thủy Hoàng cung A Phòng đã chứa đến ba ngàn mỹ nữ). Chư hầu có chín người. Thiên Tử được riêng

quyền cúng tế trời đất và có những nhạc dùng cho lễ nghi triều trung của Thiên Tử. Các chư hầu hàng năm phải tiến cống

Thiên Tử nhân tài, mỹ nữ, báu vật. Mỗi khi Thiên Tử đi chinh phạt, chư hầu có bổn phận đi theo đánh giúp hay tiếp tế

binh lính, quân lương.

Dưới chư hầu có các quan đại phu cũng là những nhân vật quan trọng dưới chế độ phong kiến, họ cũng được hưởng

quyền thế tập được chia đất, nhưng sau này đại phu được lựa chọn trong đám người hiền vua biết đến hay có người tiến

dẫn. Gia đình của người Trung Quốc thời cổ cũng đã chịu một trật tự nghiêm minh. Ông nội hay người cha là chủ, phụ

trách việc khói hương, ra các mệnh lệnh cho mọi người theo. Kế tiếp ông hay cha là người con trưởng hay cháu trưởng

(đích tôn). Cha mất, quyền trong gia đình qua tay người con cả, dầu có mẹ hay chị lớn (quyền huynh thế phụ). Đây là một

nguyên tắc. Thường dân chia ra 4 giới: Sĩ, Nông, Công, Thương và không có giai cấp nô lệ như ở La Mã và ở nhiều xã

hội Âu Châu. Nhà Nông cũng được trọng như kẻ Sĩ nhưng Thương nhân thì bị khinh khi do đó có sự hạn chế mặc áo

đẹp, ở nhà lớn. Làm dân phải trung với Vua, vì Vua là tiêu biểu cao quý nhất cho quốc gia. Bất trung với Vua tức là phạm

tội phản quốc. Bất hiếu với Cha Mẹ, tội cũng lớn vào bậc nhất và phải trọng hình...    

Việc Quan Chế. 

 Nhà Hạ đặt chức tam công là ba chức lớn nhất triều đình -- cửu khanh, 27 đại phu và 81 nguyên sĩ. Nhà Ân đặt hai

quan tướng, sáu quan Thái: Thái Tể, Thái Tôn, Thái Sư, Thái Chúc, Thái Sĩ, Thái Bốc -- năm quan: tư đồ, tư mã, tư

không, tư sĩ, tư khấu -- sáu phủ: tư thể, tư mộc, tư thủy, tư thảo, tư khí, tư hỏa -- sáu công: thổ công, kim công, thạch

công, thủy công, thú công và thảo công. Đến nhà Chu có sự canh cải chút ít. Chu Công đặt ra sáu quan: thiên quan, địa

quan, xuân quan, hạ quan, thu quan, đông quan. Dưới quyền mỗi quan có 60 thuộc quan. Đứng đầu thiên quan là chức

Chủng Tể (sau này tức là chức Tể Tướng) coi tất cả mọi việc chính trị và lý tài trong nước và kiểm soát cả mọi việc trong

cung. Đứng đầu địa quan là chức Đại Tư Đồ trông nom các việc thương, việc nông, việc giáo dục và cảnh sát. Đứng đầu

xuân quan là chức Đại Tôn Bá coi việc tế, tự, triều, sính, hội đồng, v.v... Đứng đầu hạ quan là chức Đại Tư Mã coi việc

quân sự đánh dẹp, giữ trật tự trong nước. Đứng đầu thu quan gọi là Đại Tư khấu coi việc dân sự, kiện tụng. Đứng đầu

đông quan là Đại Tư Không, giữ việc khuyến khích công nghệ, nông nghiệp, thổ mộc. Trên sáu quan có tam công là: Thái

sư, thái phó, thái bảo và tam cô: thiếu sư, thiếu phó, thiếu bảo có nhiệm vụ trông coi, kiểm điểm, đặt để đường lối chính

trị trong nước và không dự việc hành chánh.    

Pháp Chế. 

 Đời thái cổ có 5 hình để trừng phạt các tội nặng nhất -- ngoài ra có tội phải xử trị bằng roi da và tội lưu. Qua đời Hạ,

Ân, Chu đặt thêm tội chặt chân, gọt đầu và tội đồ, và cuối đời nhà Chu vì sự biến loạn mỗi ngày một nhiều, nhà vua đặt

thêm tội bêu đầu, xé xác, lăng trì, mổ muối, v..v..    

Binh Chế. 

 Tới nay không có sách nào nói rõ về tổ chức quân sự đời nhà Hạ và nhà Ân. Dưới thời nhà Chu, người ta đặt 5 tên lính

là một ngũ -- 5 ngũ là một lượng -- bốn lượng (100 người) thành một tốt -- 5 tốt thành một lữ -- 5 lữ thành một sư -- 5

sư (12500) thành một quân. Quân có quan Mạnh Khanh làm Tướng. Sư có quan Trung Đại Phu làm Súy. Lữ có quan

Hạ Đại Phu cũng làm Súy. Tốt có quan Thượng Sĩ làm Trưởng. Lượng có quan Trung Sĩ làm Tư Mã. Thiên Tử có 6

quân. Chư hầu nào lớn có 3 quân. Chư hầu vừa có 2 quân. Chư hầu nhỏ có 1 quân. Để giúp việc quân sự được mạnh

mẽ, nhân dân phải tham gia vào các việc tổ chức sau đây: Nước chia ra làm nhiều tỉnh. Mỗi tỉnh có 8 nhà. Bốn tỉnh là một

ấp (32 nhà) Bốn ấp là một khấu (128 nhà) Bốn khấu là một điện (512 nhà) Mỗi điện phải chịu một cỗ binh xa, 4 con

ngựa, 12 con bò, 3 giáp sĩ, 72 người bộ tốt, 25 người làm việc khuân vác các đồ nặng (tức là dân công nô dịch chiến

trường). Tổng số là 100 người.    

Điền Chế. 

 Việc chia ruộng đất về đời thái cổ, đến nay chưa rõ ra thế nào, chỉ biết từ đời nhà Hạ triều đình chia 50 mẫu làm một

gian -- 10 gian là một Tổ. Cứ 10 nhà cấy một khoảng ruộng (?) và quân phân hoa lợi. Nhà nước thu thuế 1/10 tức là

cống xuất. Dưới triều Ân và Chu, nhà vua đặt phép tỉnh điền tức là chia đất ra làm 9 khu hình chữ tỉnh. Những khu ở

chung quanh là tư điền. Khu ở giữa là công điền. Mỗi tỉnh phải cho 8 nhà cầy cấy công điền rồi nộp hoa lợi cho Vua.

Dưới đời nhà Ân mỗi tỉnh có 630 mẫu. Mỗi nhà được 70 mẫu. Phép đánh thuế gọi là phép trợ. Qua đời nhà Chu, mỗi tỉnh

có 900 mẫu. Mỗi nhà được 100 mẫu. Phép đánh thuế gọi là phép triệt. Cứ xét như trên đây mỗi tỉnh có 8 nhà và mỗi nhà

được cầy cấy từ 70 mẫu đến 100 mẫu, ắt rằng dân số của mỗi nhà đây phải khá đông do nhiều gia đình tập hợp lại, trái

lại một gia đình thượng cổ có 5 hay 10 người làm thế nào mà khai khẩn được hàng 100 mẫu ruộng trong khi nông nghiệp

chưa mở mang, điền khí còn thô sơ. Ta còn có thể coi mỗi nhà ngày xưa ở Trung Quốc như một xóm lớn hay một làng

nhỏ ngày nay hoặc một họ mới hợp lý hóa được việc trên đây. Sử lại chép dưới đời nhà Chu có lệ cứ 20 tuổi thì được

chia cho 100 mẫu ruộng và số ruộng này được giữ tới 60 tuổi mới phải trả lại cho nhà Vua. Nhà nào có con thứ nhì gọi là

dư phu, đến 16 tuổi được lĩnh 25 mẫu ruộng. Nhờ có phép chia ruộng như vậy nên trong dân gian không có sự chênh

lệch quá đáng về tài sản. Theo thiển ý chúng tôi, sự ghi chép trên đây có sự sai lầm vì không thể nào từ đời nhà Ân đến

đời nhà Chu tình trạng đất đai lại có thể phân phối như vậy. Nhà Ân cấp cho mỗi nhà 70 mẫu, nhà Chu cấp cho 100 mẫu

rồi lại có thể cấp cho những trai tráng từ 20 tuổi mỗi người 100 mẫu . Như vậy số ruộng đất ở đâu ra mà cấp phát nhiều

thế và mỗi trai tráng 16 tuổi hay 20 tuổi đảm đương sao được từ 25 đến 100 mẫu? Đây là tài liệu trích trong Việt Nam

Sử Lược trang 34. Ngoài ra chúng ta cũng chưa từng thấy nói mẫu ruộng ngày xưa nhỏ hẹp hơn mẫu ruộng ngày nay, để

có thể tin một phần nào. Đến đời Chiến quốc, phép chia đất bỏ đi, dân gian được tự do cầy cấy tùy sức kể từ Lý Khôi

làm tướng nước Ngụy và Thương Uởng giữ chức tướng quốc nước Tàu.    

Học Chính. 

 Nhà Hạ lập nhà Đông Tự và Tây Tự cho hai cấp đại học và tiểu học. Nhà Ân đặt Hữu Học và Tả học cũng theo ý nghĩa

đó. Các nơi này còn là chỗ tập bắn, làm văn và dưỡng đường cho các người già cả. Nhà Chu lập nhà Tích Ung hoặc

Thành Quân làm trụ sở dạy học cho con cháu vua, quan và những người tuấn tú lựa ở các thôn xã. Ở các Châu, Đảng3,

thì đặt nhà tiểu học gọi là Tự và nhà Tường cho dân chúng. Bấy giờ việc học cũng hạn định về tuổi: từ 8 tuổi đến 14 tuổi

cho bậc Tiểu học, từ 15 đến 20 tuổi cho bậc Đại học. Chương trình Đại học gồm có: Lễ, nhạc, thi, thư. Chương trình

Tiểu học có: luân lý, đạo đức và cách ứng đối, v.v.. Văn minh, học thuật Trung Quốc từ đời nhà Chu đến đời Xuân Thu

đã tiến nhiều, xét qua các cơ cấu chính trị, kinh tế và xã hội trên đây nếu so với tình trạng của nhiều dân tộc khác bấy giờ.

Điều đáng chú ý hơn cả là những học thuyết, tư tưởng và giáo lý đã được đề xướng do mục đích cải tạo hoàn cảnh xã hội

Trung Quốc trong giai đoạn này hết sức nhiễu nhương vì nhiều cuộc biến loạn liên miên đã xảy ra giữa các phe nhóm

phong kiến và quý tộc trước vấn đề quyền vị và danh vọng. Dân chúng dĩ nhiên là nạn nhân truyền kiếp của tình thế tam

phân, ngũ liệt, của các vụ tranh vương đồ bá giữa vua chúa và các chư hầu.                                       

 [3 Cứ 500 nhà gọi là một Đảng, 12.500 nhà gọi là một Châu. ]

55 Việt Sử Toàn Thư

Những nhân vật khả kính đã ra đời trong thời kỳ này là Khổng Tử, Lão Tử và Trang Tử v.v.. Khổng, Lão đã xướng ra

hai đạo thuyết tuy khác nhau nhưng đều hướng vào chỗ lập lại trật tự xã hội và giải phóng con người ra khỏi vòng hệ lụy.

Nhiều học giả khác cũng góp phần trong cái lâu đài tư tưởng của Trung Quốc như Mặc Địch, Dương Chu, Thân Bất Hại,

Hàn Phi, Thi Giảo, Điền Biền, Quỷ Cốc, v.v... Mặc Địch chủ trương thuyết Kiêm Ái, Dương Chu lập ra thuyết "Vị Ngã",

Thân Bất Hại, Hàn Phi thuộc phái pháp gia đề xướng việc triệt để dùng luật pháp trị thiên hạ.... Qua nhiều thế hệ người

đời sau lưu tâm đến đạo thuyết của Khổng Phu Tử và của Lão Tử (tự là Lý Đạm) hơn cả.    

Khổng Tử. 

 Khổng Tử tên là Khưu, tự là Trọng Ni sinh năm 551 trước Công Lịch tức là năm 25 đời Tương Công nước Lỗ và Linh

Vương nhà Chu, ngày 27-8 ở huyện Khước Phụ nước Lỗ, mất năm 479, thọ được 72 tuổi. Ngài xuất thân hàn vi từng

làm Ủy Lại coi việc gạt thóc, giữ kho, sau này làm Tư Chức Lại trông nom việc nuôi bò dùng vào việc cúng tế. Đến khi

đạo đức của Ngài được người đương thời chú ý, có lần ngài đã giữ chức Tư Không nước Lỗ, nhưng không thi hành

được ý muốn cứu dân cứu đời, vãn hồi nhân tâm thế tục. Ngài bỏ đi chu du thiên hạ luôn 13 năm. Ngài từng đặt gót chân

ở Tống, Tề, Sở, Vệ, Tần, Thái vẫn không gặp được người tri kỷ. Đến năm 68 tuổi Ngài trở về cố hương (Lỗ) viết sách

dạy học, môn sinh có tới 3.000 người. Ngài đã lấy các quan thư của các thời trước chỉnh đốn thành Kinh Thi, lấy thi ca

lịch đại soạn thành Kinh Thư, định đính kính Lễ, kinh Nhạc và làm Kinh Xuân Thu để thuật lịch sử nước Lỗ. Tư tưởng

luân lý đạo đức của Ngài gồm ở mấy điểm: Nhân, hiếu, đễ, trung, thứ và lễ nhạc. Như vậy người ta trước hết phải sửa

mình để thành con người đạo đức. Có đạo đức là có tư cách, có nhân phẩm, đây là những yếu tố căn bản tạo nên giá trị

của con người, trong gia đình và xã hội. Mà muốn gây được cái đức, người ta phải theo đạo trời là "Nhân" nó bao gồm

cả vạn vật trong vũ trụ, nó là sự yêu thương mọi người như yêu thương chính mình vậy. Mạnh Tử sau này giải thích chữ

Nhân là "Lòng trắc ẩn, là mối đầu của đức Nhân" mà ta có thể nói cách khác: người có Nhân là người có lòng trắc ẩn.

Lòng Nhân đó theo Khổng Tử, trước hết phải đem áp dụng hằng ngày với cái xã hội quanh mình là gia đình, giữa những

người thân thiết là cha mẹ, anh em, chị em rồi mới ra đến ngoài. Đức Nhân ở đây phát sinh ra điều Hiếu và Đễ. Nó có

thiên hình vạn trạng để thích hợp với mọi người, mọi hoàn cảnh và gây nên những sự tốt lành. Với chữ "Trung" Khổng Tử

muốn rằng ta phải đem hết tấm lòng của ta đối với người khác (tận kỷ chi tâm) và thi hành chữ "thứ" thì phải xét khi ta làm

việc gì cho ai, ta có muốn người ta làm cho ta điều đó không, tức là phải tính lẽ hơn thiệt, lợi hại. Tóm lại, nếu ta làm điều

gì cho ai, ta phải xét thấy có lợi, thì hãy làm, cũng như ta làm cho ta vậy. Nếu có sự thiệt thòi cho người ta, ta phải tránh.

Khổng Tử hiểu chữ "Nhân" có nhiều bậc. Đạt được bậc cao nhất của chữ "Nhân" là bậc thánh tức là người siêu quần bạt

chúng. Dưới thánh nhân là Quân Tử tức là người có nhân cách, đạo đức, mô phạm để giữ địa vị dìu dắt dân chúng và làm

gương mẫu cho họ nữa. Tuy Khổng Tử chủ trương lấy "Đức" mà trị người, nhưng cũng nhận lễ phép là điều cần thiết.

Mục đích của lễ phép là giữ mối giềng cho quốc gia, giữ vẻ tôn nghiêm của vua, duy trì trật tự phân minh ngoài xã hội.

Ngài còn cho rằng Nhạc cũng phải có, để điều hòa tâm tình con người và chính trị làm bằng Lễ Nhạc là chính trị lý tưởng.

Về phương diện xử thế, Khổng Tử còn nêu ra đạo Trung Dung, Khổng Tử nói người quân tử trong khi xử đối việc đời

phải giữ lẽ triết trung, nghĩa là không thiên quá nhiều về một bề nào, không cực đoan, không thái quá, bất thiên bất ỷ, do

đó người ta tránh được những điều quá đáng bao giờ cũng có hại. Các nhà Nho của ta chịu ảnh hưởng của thuyết "Trung

Dung" thường khuyên kẻ hậu sinh trong mọi cuộc giao dịch trong ngoài nhớ câu: "Hồng thắm thì hồng chóng phai, thoang

thoảng hoa nhài mà lại thơm lâu..", quả thật là thiết thực như vậy. Một nho gia, ông Tổ Canh Trần Đình Sóc gần đây giải

thích Trung Dung một cách khoa học như sau:

"Ta đem thả một khối đặc xuống một thế loãng ví như thả một khúc gỗ xuống một cái hố sâu nước. Khúc gỗ bắt đầu

chìm: ta tưởng nó chìm tới đáy, nhưng không, nó chỉ chìm tới chừng nào để đạt tới quân bình giữa trọng lực dìm nó xuống

với sức nước đẩy nó lên. Hai bên đều nhau thì nó lơ lửng ở giữa. Ở đây là thế "Hòa" của khối đặc trong hoàn cảnh loãng

của nó. Chỗ nó đứng là vị trí an bài đắc kỳ sở ở thế quân bình. Ta nhận thấy ở khối đặc và thế loãng ấy có hai thế lực

chống nhau: một thế động và một thế phản động thừa trừ lẫn nhau mà sinh ra một thế thứ ba là thế "Hòa" hay là thế "quân

bình" nó đã dung hoà được hai phương diện mâu thuẫn, hai khuynh hướng đối lập của nó. Cùng một lý ấy ta suy rộng ra

thì thấy các vì tinh tú dun dẩy, hấp dẫn nhau vào đúng vị trí của thế quân bình nên vẫn luân chuyển mà không xô xát. Thời

tiết được thế quân bình thì vạn vật sinh thành nãy nở, v.v... cho nên người ta nhận lấy cái định luật này để noi theo và ứng

dụng vào cuộc đời mới mong thành công trong mọi việc..."

 Về chính trị (Khổng Tử còn là nhà chính trị nữa). Khổng Tử nêu lên thuyết chính danh, đó là một tư tưởng chủ yếu của

Ngài. Và nếu Khổng Tử có tư tưởng này là vì Ngài sinh ra giữa thời phong kiến, xã hội đang đảo lộn, trật tự đang ngửa

nghiêng, nhân tâm đang suy bại. Muốn chấm dứt cái thời đại vô kỷ cương đó, Ngài khuyên các vua chúa và thứ dân phải

xử sự cho hợp cái địa vị, cái danh nghĩa của mình, nghĩa là kẻ làm vua phải biết đạo và theo đúng đạo làm vua, kẻ làm tôi,

làm cha làm con cũng vậy, đừng ai xâm phạm đến địa vị quyền lợi của kẻ khác, trên dưới một lòng để đi đến chỗ thống

nhất cho quốc gia về mọi phương diện. Tóm lại, từ đấng vương giả dến dân chúng đều phải tuân theo tam cương ngũ

thường và liên đới trách nhiệm trước mọi cuộc thịnh suy của dân tộc, xã hội. Mọi điều khuyến cáo này xét ra được khảo

sát trong lệ tục nhà Chu trước khi xuất hiện trong Lễ Kinh và Nhạc Kinh mà Ngài đã biên soạn sau nhiều năm đi chu du

các nước. Họ Khổng khuyên vua chúa có đức độ trong cái nhiệm vụ thay trời trị dân (thừa thiên thụ mệnh) nhưng phải cố

kiêng dùng chế độ võ lực và chuyên chế. Họ Khổng lại tin rằng người ta sinh ra vốn có tính thiện (Nhân chi sơ, tính bản

thiện, tính tương cận, tập tương viễn) và sau này sinh ra gian ác là vì chịu ảnh hưởng xấu xa của những kẻ chung quanh.

Như vậy hình phạt để ngăn tội lỗi chỉ nên dùng một cách bất đắc dĩ mà thôi, ngoài ra nên lấy lễ nhạc để cảm hóa lòng

người là hơn. Nho Giáo cũng phản đối kịch liệt các hôn quân, bạo chúa nên trong Kinh Lễ có câu: Quân mệnh thuận tắc

thần hữu thuận mệnh, quân mệnh nghịch tắc thần nghịch mệnh. Rồi một nho giả đã từng viết: Vua là thuyền, dân là nước,

nước đỡ thuyền nhưng cũng có thể làm đắm được thuyền. Như vậy nho giáo rõ rệt đã có tinh thần dân chủ và cách mạng

ở trong và đã khuyên vua chúa hành động sao cho hợp lòng dân và ý trời. Nếu trái ý dân là vi thiên mệnh thì dân có quyền

chống lại. Tư tưởng này đã phát sinh ra ở một vài quan niệm chính là Người và Trời có mối tương quan hay là có hai trật

tự: trật tự thiên nhiên và trật tự nhân sinh mật thiết liên lạc với nhau, hòa hợp với nhau. Nếu so với các tư tưởng chính trị

cổ của các nước Âu Châu, Nho Giáo đặt quyền lợi của người dân trên quyền lợi của Vua chúa thì quả là tư tưởng Nho

Giáo cấp tiến hơn nhiều. Âu Châu thời xưa coi vua chỉ chịu trách nhiệm với Trời tức là Thượng Đế hay Thiên Chúa mà

thôi và dân không có quyền kiểm soát Vua chúa. Có điều đáng để ý là Nho Giáo không đề cập cách kiểm soát Vua chúa

hoặc quyền hành của họ do dân chúng trao cho để ngăn trừ những hành động chuyên chế và lạm dụng. Phải chăng phái trí

thức tức nho giả thời xưa không tin ở năng lực của Đại chúng nên chỉ biết kêu cái thiện tâm, thiện chí của các nhà cầm

quyền khiến ta phải nghĩ rằng Nho Giáo chỉ biết nêu cao tinh thần đạo đức mà thôi. Ngoài ra về chính trị Nho Giáo đã

thiếu hẳn một cái gì thực tế trong căn bản nên không đi tới một kết quả để vãn hồi ngay được nhân tâm, thế tục thuở ấy.

Cái quan niệm thật sự và triệt để dân chủ ngày nay là Chính phủ phải là của dân, phụng sự dân và tùy quyền dân (Tổng

Thống Abraham Lincoln) đã giải thích chính thể dân chủ ở Hợp Chủng Quốc ngày nay như vậy: The Government Of The

People and By The People).    

Lão Tử. 

 Bên cạnh Nho Giáo có Lão Giáo là một đạo giáo đã từng được nêu cao như một giáo thuyết khác ở Trung Quốc. Và

sau Lão Giáo có Phật Giáo ngoài Nho Giáo. Ba thứ đạo giáo này quan hệ vô cùng cho nền học thuật của Đông Phương,

vì vậy đã được ấn định vào các chương trình khoa cử sau này và về mặt thực hành các đạo giáo này đã được hoan

nghênh, cổ võ khắp nơi nhưng không gây ra những sự xung đột gắt gao như các tôn giáo khác ở nhiều dân tộc trên thế

giới. Vì vậy người ta gọi ba đạo giáo này là "Tam giáo đồng nguyên". Phải chăng Khổng Giáo cũng như Lão Giáo hay

Phật Giáo đều cũng phát sinh ở mục đích cứu dân, cứu đời, sửa chữa nhân tâm, triệt bỏ mọi tham ý, tà dục và nêu cao

tình ưu ái giữa Gia đình, Xã hội và Nhân loại để con người đi tới một tập thể có Hòa bình, Cơm áo, Tự do và Hạnh

phúc? Từ nguyên lý đến phương pháp, đến cứu cánh. Nho Phật Lão chỉ khác nhau ít nhiều ở mặt thực hành; chẳng hạn

Nho Giáo đi tìm chân lý trên con đường nhân sinh tương đối ở phạm vi nhập thế, mà Lão Trang hay Phật Giáo thì đưa ra

những điều cao siêu, huyền diệu ở phạm vi xuất thế, tựu trung cả ba đều mưu sự hòa vui cho nhân loại giải phóng con

người trên mọi phương diện. Dưới đây, chúng tôi xin trích bản khảo luận ngắn về thân thế và tư tưởng của Lão Tử vị lãnh

tụ của tư trào phương Nam trên 20 thế kỷ trước và cả ngày nay nữa. Lão Tử, là người nước Sở, họ là Lý, tên là Nhĩ tự

là Đạm. Không rõ ngày sinh và chết vào năm tháng nào, cứ Hồ Thích dẫn chứng thì đại ước thì Ngài sinh vào khoảng

năm 570 trước C.L., hơn Khổng Tử chừng 20 tuổi. Ngài từng làm quan Trụ Hạ Sử nước Chu, coi giữ kho sách nhà vua.

Ngài tuy làm quan song vẫn tu hành đạo đức, lấy sự tự ẩn vô danh làm chủ. Ở nước Chu lâu ngày, sau thấy nhà Chu suy

nhược không thể vãn hồi được bèn bỏ đi, rồi không rõ tung tích thế nào. Sách của Ngài làm ra, chỉ có một bộ Đạo Đức

Kinh thôi. Nhưng trái với Khổng Tử và Mạnh Tử chú trọng đến nhân nghĩa, lễ nhạc để cứu vãn tình thế đương thời, lập lại

trật tự xã hội, Lão Tử tuy cùng quan niệm như Khổng Tử có một trật tự thiên nhiên, nhưng trật tự ấy không có nghĩa bó

buộc người đời trong một khuôn khổ nào hết. Chính trị, đạo đức, giáo dục, học vấn đến cả Trời đều không là gì hết

(Thiên địa bất nhân) mà lại còn có hại là đàng khác. Lão Tử bài xích hết thảy các tiên vương, tiên thánh: Thần Nông,

Hoàng Đế, Nghiêu, Thuấn, Thang, Vũ... nên đã dám nói rằng: Làm loạn thiên hạ là ông Nghiêu, ông Thuấn. Làm đói thiên

hạ là Thần Nông (Loạn thiên hạ giả Nghiêu dữ Thuấn, cơ thiên hạ giả thần nông); chế độ chính trị nào cũng chỉ là những

phương cách bóc lột, đè nén dân chúng của một hay nhiều giai cấp xã hội. Lập ra nhiều phép tắc, luật lệ càng đưa dân

chúng đến chỗ nghèo nàn, khốn cực, gian ác, những phương pháp làm giàu càng đưa gia đình đến chỗ bại hoại, suy đốn.

Phủ nhận và bài xích hết thảy mọi qui mô và tổ chức đã sẳn có, Lão Tử nêu ra Vô Vi Chủ Nghĩa. Sách Đạo Đức Kinh

của Ngài khuyên người đời sống Hòa Hợp với thiên nhiên, tự cải hóa, cởi bỏ mọi điều dục vọng. Đứa trẻ sơ sinh là hình

ảnh của Thiên nhiên, của đời sống hồn nhiên thuở nguyên thủy. Một khi loài người và Tạo vật đã hòa hợp được với nhau,

nghĩa là đều vô tri, vô hám thì không còn sự tranh giành, xô xát thế giới sẽ có hòa bình, hạnh phúc. Lão Tử là tiên phong

cho tư tưởng đương thời, phàm chư tử bách gia đời sau, phần nhiều là gốc ở Lão học. Nội dung của Lão học đại khái

như sau đây:

1. Thiên Luận.

 Trước Lão Tử thì trong tư tưởng giới người ta đều cho trời là có ý chí và chủ tể hết thẩy. Đến đời Xuân Thu, Chiến quốc

là buổi chiến loạn liên miên, người ta đối với trời bèn sinh lòng hoài nghi, rồi đến oán vọng trách mạ. Lão Tử thuộc giòng

quí tộc, thấy chế độ phong kiến đương ở vào cảnh vỡ lở, lại có phẫn khái nhiều, cho nên ngài cho rằng: "Trời đất là bất

nhân, xem vạn vật như đồ chó rơm"4.

[ 4 Thiên địa bất nhân, dĩ vạn vật như sô cẩu. ]

Ngài đã không tin trời cho nên mới nêu ra một cái gọi là "Đạo" là cái "tự nhiên hỗn thành trước khi có trời đất, im lặng

quạnh quẽ, đứng một mình mà không đổi, chỗ nào cũng đi mà không mỏi, muôn vật trong vũ trụ đều gốc ở đó mà sinh

ra." 5 Tác dụng của Đạo là: "Đạo sinh một, một sinh hai, hai sinh ba, ba sinh vạn vật".6 Đạo chỉ là tự nhiên không có ý

chí, cho nên Ngài lại nói rằng: "Trời bắt chước đạo, đạo bắt chước tự nhiên"7. Hai chữ "tự nhiên" ấy là không thừa nhận

trời làm đấng chủ tể của muôn vật vậy.

2. Vô Vi Luận.

 Lão Tử đã trọng tự nhiên, cho rằng vạn vật đều có một cái đạo lý "độc lập nhi bất biến, chu hành bất đãi", là không cần

có trời làm chủ tể, cũng không cần đến người gây dựng sắp đặt. Do tư tưởng ấy rồi thành ra tư tưởng phóng nhiệm, tức là

lý thuyết Vô Vi. Nhân sinh triết học của Lão Tử là ở thuyết Vô Vi ấy. Ngài cho rằng người ta phải giữ lòng cho bao giờ

cũng thanh tĩnh, cái gì cũng để theo lẽ tự nhiên, đừng nên thiết đến cái gì cả "Thường có bỏ hết được cái lòng ham muốn

thì mới biết được chỗ huyền diệu của Đạo"8. Người đã giữ được đạo thì không ra khỏi cửa mà biết được cả muôn vật

trong thiên hạ, không dòm ra ngoài cửa sổ mà biết được cái đạo trời thống trị cả thế gian, người ta hễ muốn đi xa bao

nhiêu thì lại càng biết ít bấy nhiêu.9 Về việc học cũng vậy "càng học càng biết nhiều mối thì lại càng vô ích mà hại cho

mình, chứ đã đem tâm trí mà chú vào đạo thì cái biết càng ngày càng ít đi, càng ít mãi cho đến bực vô vi, tuy vô vi nhưng

mà không có cái gì là không có ảnh hưởng của mình".10 Về chính trị Lão Tử cũng theo nguyên lý vô vi cho rằng "không

làm gì mà dân tự hóa thành hay, cứ yên lặng mà dân tự ngay thẳng."11 Tuy nhiên, vô vi không phải là cứ ngồi yên không

hành động gì cả đâu, nhưng đã làm việc chính trị thì phải phòng ngừa từ trước, lo việc từ trước, từ lúc chưa có việc gì xẩy

ra thì mới được12. Ngài cho rằng: "Đạo lớn đã bỏ thì mới đặt ra nhân nghĩa; có kẻ trí tuệ thì mới có những điều gian ác

phản nghịch, vì cha con vợ chồng không hòa với nhau nên mới sinh ra hiếu tử, vì quốc gia biến loạn cho nên mới có trung

thần" 13, nghĩa là những điều ước thúc của luân lý, đạo đức đều là trái với đạo cả.                                       

 [5 Hữu vật hỗn thành, tiện thiên địa sinh tịch hề, liên hề, độc lập nhi bất cải, chu hành nhi bất đãi, khả dĩ vi thiên hạ mẫu.]

[6 Đạo sinh nhất, nhất sinh nhị, nhị sinh tam, tam sinh vạn vật. ]

[7 Thiên pháp đạo, đạo pháp tự nhiên. ]

[8 Thường vô dục dĩ quan kỳ diệu. ]

[9 Bất xuất hồ tri thiên đạo, bất khuy hữu kiến thiên đạo, kỳ xuất di viễn kỳ tri dĩ thiên. ]

[10 Vi học nhật ích, vi đạo nhật tổn, tổn chi hữu tổn, dĩ chí ư vô vi. Vô vi nhi vô bất vi. ]

[11 Vô vi nhi dân tự hóa. 12 Vi chư ư vị hữu, tri chí ư vi loạn.]

[ 13 Đại đạo phế, hữu nhân nghĩa, trí tuệ xuất, hữu đại ngụy, lục thân bất hòa, hữu hiếu tử, quốc gia hỗ loạn, hữu trung

thần ]

60 Việt Sử Toàn Thư

Những nhà chính trị biết theo đạo thì không cần lấy nhân nghĩa lễ trí mà dạy dân, chỉ cần khiến cho dân giữ lấy tính giản dị

chất phác mà theo tự nhiên. Cái xã hội lý tưởng của Lão Tử là "nước nhỏ ít người, không cần kỳ xảo, văn vật, không cần

đến binh mã, quân lính, không cần giao thông, không cần những đồ xa xỉ trang sức, miễn được ăn no, mặc ấm, ở yên, giữ

lấy phong tục dịu dàng hòa nhã."14 Nhưng quan niệm "thiên địa bất nhân", "thanh tĩnh vô vi", ấy rất hợp với tư tưởng yếm

thế ở xã hội đương thời cùng những ý thức tiêu cực và phẫn oán của giai cấp quý tộc phong kiến đương suy đốn.   

 Trang Tử. 

 Chủ nghĩa xuất thế của Trang Chu cũng theo chủ nghĩa vô vi của Lão Tử mà suy diễn ra. Song vô vi chủ nghĩa của Lão

Tử còn có hàm ý vị xử thế, chứ xuất thế chủ nghĩa của Trang Chu thì cho rằng: "Trời đất với ta cùng sinh, vạn vật với ta là

một", cho nên vô thủy vô chung, vô tiểu vô đại, vô yểu, vô thọ, vạn sự vạn vật đều là nhất tề. Nhân thế mà Trang Tử có

cái nhân sinh quan tự nhiên nhi thiên, hễ gặp lúc nào sống mà sống là hợp thời, gặp lúc nào chết mà chết là thuận cảnh"15.

Trang Tử nói: "Kẻ chân nhân ở đời xưa không biết ham sống, ghét chết. Đẻ ra cũng không mừng, chết đi cũng không

chống, thoát qua thoát lại, không quên lúc mới sinh, chết cũng để mặc kệ, sinh ra rồi thì thường tự đắc, có chết nữa cũng

là trở lại với trời, không cần dụng tâm mà vực đạo, không cần lấy sức người mà giúp trời, như thế gọi là chân nhân vậy"16

Tư tưởng Lão Trang quả là một thứ triết học cao siêu kỳ diệu khiến trí não người ta bay bổng lên lên những cảnh giới siêu

nhiên huyền diệu chứ không như tư tưởng của Nho Giáo chỉ giữ tinh thần người ta ở trong vòng thực tế tầm thường, ở

trong vòng lễ giáo chật hẹp. Bởi vậy tuy trong thời trung cổ và cận cổ, Nho Giáo độc tôn, mà những nhà nho học lỗi lạc

vẫn thường nghiên cứu học thuyết của Lão Trang mượn nó làm mối an ủi những nỗi khổ não ở đời. Tuy nhiên, cái ảnh

hưởng trực tiếp của Lão Trang ở trong tư tưởng giới nước ta không lấy gì làm quan trọng lắm, mà cái ảnh hưởng của Lão

Giáo bị Đạo giáo lợi dụng lại sâu xa, phổ cập vô cùng. Kể từ đời Tần Hán, Nho học được độc tôn thì học thuyết Lão

Trang suy dần. Đến khoảng 147-167 đời Hậu Hán, có Trương Đạo Lăng học được đạo trường sinh rồi lên ở núi Hộc

Minh Sơn ở đất Thục làm một bộ Đạo Thư 24 thiên để dẫn dụ nhân dân. Phàm ai nhập môn thì phải nộp năm đấu gạo

nên người ta gọi là "ngũ mễ đạo". Phép trị bệnh của đạo ấy là dùng nước bùa (phù thủy) cho người bệnh uống, hay là viết

tên họ người bệnh vào ba tờ giấy, một tờ dán ở trên núi, một tờ chôn ở dưới đất và một tờ ném chìm xuống nước.            

 [14 Tiểu quốc quả dân, sử hữu thập bách chí khí nhi bất dụng, sử dân trọng tử nhi bất viện tỷ. Tuy hữu chu xa, vô sở

thừa chi, tuy hữu binh giáp vô sở trần chi, sử dân phục kết thắng nhi dụng chi. Cam kỳ thực, mỹ kỳ phục, an kỳ cư, lạc

kỳ túc. Lân quốc tương vong, kê cầu chi thanh tường văn, đan chi Lão Tử bất tương vãng lai.]

 [ 15 Yêu thời nhi xử thuận. ]

 [16 Cô nhi chân nhân bất tri duyệt sinh, bất tri ố tử, kỳ xuất bất tố, kỳ nhập bất cử, tiêu nhiên nhi vãng, tiêu nhiên nhi lai

nhi dĩ hĩ. Bất vong kỳ sở thủy, bất cầu kỳ sở chung, thu nhi hĩ chi, vong nhi phục chi? Thi chi vi bất dĩ tâm ấp đạo, bất dĩ

nhân trợ thiên. Thi vị chân nhân. ]

 Con Lăng là Hoành, cháu là Lỗ, cũng tu đạo ở đấy. Đến con Lỗ là Trương Thịnh thì dời đến Long Hổ Sơn ở tỉnh Giang

Tây rồi đạo thống kế tục mãi mãi. Trương Đạo Lăng phụ hội thuyết thần quái của bọn phương sĩ đời Lưỡng Hán và lợi

dụng Hư Vô chủ nghĩa cùng Phá Hoại chủ nghĩa của Lão học để lung lạc những kẻ bất bình trong xã hội cho nên kết nạp

được rất nhiều tín đồ. Lại nhân văn thể của Lão Tử có vần dễ tụng, có nhiều chỗ mập mờ khó hiểu, hoặc những đoạn thư

"thiên võng khôi khôi, sơ nhi bất lậu" có vẻ thần bí, cho nên lại càng khiến người ta sợ hãi và mê tín thêm. Gia dĩ cuối đời

Hán sang đời Tần, học Hoàng Lão thịnh hành, những kẻ sùng bái học ấy, lấy điều siêu nhiên cao cả làm chủ, cho nên rất

lưu ý về phép trường sinh bất tử, vũ hóa đăng tiên. Từ đó Đạo giáo nghiễm nhiên thành phép tu tiên, đến đời Đông Tấn

có Cát Hồng qui định rất là chu đáo, rồi sinh ra vô số những phương thuật và mê tín khác. Qua đời nhà Đường các thi bá,

trí thức như Mạnh Hạo Nhiên, Tống Chi Văn, Vương Duy, Lý Kỳ, Trương Cửu Linh, Lạc Tân Vương, Lưu Vũ Tích, Lý

Thương Ẩn v..v.. rất tôn sùng các đạo sĩ. Tỉ dụ Kỳ Đạo Sĩ về quán Ngọc Thanh, Lý Kỳ có bài thơ sau đây: .... Đại đạo

bãn vô ngã Thanh xuân trường dữ quân Trung châu nga dĩ đáo Chí lý đắc nhi văn Minh chúa giáng hoàng ốc Thời nhân

khán bạch vân ..... Đại ý: Đạo lớn vốn là vô ngã (không có mình) xuân xanh theo mãi với ông, chỉ thoắt chốc về đến

Trung Châu, khiến chúng tôi đươc nghe những sâu sắc kỳ diệu của đạo. Đấng minh chúa từ nhà vàng xuống đón mời,

người đời trông mây trắng mà biết đạo sĩ đi về.  Đông Nhạc chân nhân Trương Luyện Sĩ  Cao tình nhã đạm thế gian hi.

Xem như vậy, người tu đạo ở đời Đường có đạo hạnh và đạo tâm thì được cảm tình của nhân dân thế nào. Dưới đời

Tống, địa vị của Đạo cũng rất tốt đẹp. Vua Tống Huy Tông tự xưng là giáo chủ Đạo Quân Hoàng Đế. Song từ Nam

Tống (1127-1279 Đạo giáo suy sụp dần, chia ra phái Nam, phái Bắc, mỗi phái truyền đạo theo một thuyết riêng, đó là

điều tai hại cho Đạo. Đến nhà Kim, nhà Nguyên vào chiếm Trung Ngyên, đạo giáo lại chia rẽ phen nữa, lần nầy thành ba

phái: một là Chân Đại Đạo Giáo do Lưu Đức Nhân triều Kim đứng ra, hai là Thái Nhất Giáo do người cháu đời thứ 36

của Trương Đạo Lăng là Trương Tông Diễn vâng lệnh vua Thế Tổ nhà Nguyên quản lĩnh Đạo giáo miền Giang Nam. Ba

là Thát

Nhất Tam Nguyên giáo do Tiêu Bảo Chân cũng dưới nhà Nguyên sáng lập. Dầu vậy, dưới đời Nguyên, đạo giáo có

nhiều phen thất bại: dưới đời Hiến Tông bị thế lực Phật Giáo lấn át -- dưới đời Thế Tổ lại có hồi bị cấm chế nữa. Mãi cho

đến đời vua Thái Tổ, nhà Minh, khoảng năm Hồng Vũ thứ 10 con cháu Trương Đạo Lăng (tức Trương thiền sư) mới

phục hồi được địa vị trước (1377) nhất là dưới triều Minh Thế Tông năm Gia Tĩnh (1522-1566) nhà vua rất tin dùng đạo

sĩ để học thuật trường sinh. Triệu Nguyên Tiết được phong làm Thái Nhất chân nhân thường nói chuyện cho vua nghe về

huyền lý của Đạo. Thiệu giải thích như sau: "Chân giáo chỉ thu vào trong một chữ tĩnh. Tĩnh sinh trí, trí sinh sáng, sáng sinh

yên. Động sinh mờ, mờ thì tối, tối thì loạn. Đấng thánh quân trị thiên hạ quý vô vi. Chính nho gia cũng vô vi. Khổng Tử có

nói: "Vô vi mà trí là vua Thuấn chăng! Nào có làm gì đâu, chỉ tự cung kính ngồi ngoảnh về phía Nam mà thôi". Sang đời

nhà Thanh, thế lực của đạo giáo dầu suy lạc và không được triều đình tôn trọng cho tới khi khoa học Tây Phương tràn

vào Trung Quốc như ánh sáng mặt trời soi vào đám sương mai mù mịt. Đạo giáo bị lung lay đến nền tảng vì những

phương thuật mê tín hơn nghìn năm để lại chống sao nổi những kỳ diệu của nền văn minh cơ giới rất đắc lực trong việc

phụng sự nhân sinh. Nhân dân dần dần hết tin đạo rồi Dân Quốc cách mệnh nổi lên với các tư tưởng cải cách, duy tân,

đạo giáo tan rã nhường không còn gì nữa. Thêm vào đó, chính phủ Quốc Dân đã ra nghiêm lệnh thủ tiêu Đạo giáo và phá

hủy cơ sở của nó là Long Hổ Sơn. Ngày nay hệ thống tư tưởng và luân lý nước Trung Quốc đang thay đổi mạnh do sự

hiện diện của chính phủ Cộng Sản Mao Trạch Đông, Phật Giáo và Nho Giáo ở Trung Quốc cũng đến lượt bị đào thải

trước trào lưu mới.    

Tuân Huấng. 

 Ngoài những nhà đạo đức, triết gia, khoa học, chính trị trên đây mà một số đáng coi là những ngôi sao sáng trên nền trời

văn minh, học thuật của Trung Quốc, người ta còn phải kể đến nhà đại tư tưởng và khoa học Tuân Huống cũng sinh vào

thời Chu mạt và ngay thời đó Tuân đã có rất nhiều ảnh hưởng đối với văn học giới nhất là về đời Tây Hán. Nhưng vào

thuở đó danh tiếng của ông không lẫy lừng như các bậc trên đây do ông không ưa tuyên truyền và phô trương. Có thể ví

ông như Kant ở Âu Châu đáng lẽ còn nức danh hơn Copercinus người đã tìm ra trái đất tròn, mà vẫn bị lu mờ tên tuổi.

Ông có trí thức rất uyên bác, những kiến giải rất tinh tế, những sáng tác đặc biệt, những nhận định rất sát với khoa học.

Trên 2.000 năm trước đây mà có một nhà khoa học như vậy kể cả ngay trên thế giới chớ chẳng riêng ở Trung Quốc cũng

còn là điều hãn hữu lắm thay. Ông cống hiến gì cho đời bây giờ? Tư tưởng của ông về triết lý và khoa học ra sao?

Thời đó tại phương Nam Trung Quốc, và ở nước Tề, theo sách của Tư Mã Thiên người ta rất "mê tín việc đồng bóng,

chuộng điềm quái gở", Tuân Tử (tức Tuân Huống) bài xích kịch liệt những việc cúng mặt trời, lạy mặt trăng, tin thần rắn

trên cây lớn, sợ sấm sét, sao sa cùng ma quỷ. Ông nhận rằng mưa gió không đáng sợ mà chỉ là những điều tự nhiên,

những hiện tượng rất thường trong trời đất; người ta phải khống chế thời tiết, ngự trị thiên nhiên, lợi dụng thiên nhiên trong

đời sống của mình để giải quyết mọi vấn đề xã hội, chính trị, nhân sinh. Nhà đại triết học Russel ngày nay nói: "kẻ thù địch

lớn của loài người, chính là loài người vậy." Còn Tuân Tử nói: Muốn làm xong chính trị của người (tức là dân chủ) phải

quét sạch những sự quái gở trong tâm hồn con người. Để tránh sự hỗn độn trong xã hội phải thi hành một chính sách

cương quyết và phải áp dụng lễ nhạc mềm mại để điều hòa cùng làm êm dịu việc trị dân, nhiên hậu nước mới có an lạc và

thái bình. Bàn về tính tình con người ông nói: "Những điều tự nhiên mà đến mà có là tính. Tính có ham ghét; mừng giận

thương vui gọi là tình. Những điều lựa chọn, đắn đo gọi là lo. Tính là sự thành tựu của trời. Tình là bản chất của tính; dục

là sự ứng dụng của tình. Cho rằng cái lòng dục có thể được mà đi kiếm nó, đó là cái tình ắt không tránh khỏi. Cho rằng

được mà làm, đó là do sự biết. Tính dục nếu không cần thiết phải dẹp bỏ hoặc đè nén bởi người ta còn biết lo lắng, suy

xét để thắng bớt nó. Nhân nghĩa đạo đức người ta sinh ra mới tập được. Tập các điều đạo đức phải theo phép dạy bảo

của các thánh hiền. Tập các điều lễ nghi phải do âm nhạc nung đúc. Thực lòng giữ điều nhân, điều nghĩa mới có thể khiến

xui được điều nhân nghĩa và biến điều nhân nghĩa đạo đức thành tính thứ hai của con người, do đó mới tránh được mọi sự

tương tàn, tương sát để đi tới thái bình". Lý luận của ông đều do phương pháp khoa học thực nghiệm không hoang đường

như Trang Chu (Trang Chu nói: Thiên hạ chẳng gì lớn hơn mảnh lông mùa thu. Núi Thái Sơn là nhỏ, chẳng gì thọ hơn đứa

con sảo thai. Bành Tổ là yểu). Tuân Tử nói: "Xưa nay vẫn chung một mực, loại không trái nhau, trước và sau vẫn cùng

một lẽ.." Thật là đúng với những quan niệm khoa học đời nay, căn cứ về luật nhân quả, trước những điều biến hóa của

vạn vật do những định luật bất di bất dịch chi phối, từ Đông qua Tây, từ kim tới cổ. Đại khái: ở Trung Hoa nước đến độ

"không" thì đóng giá. Ở Tây Phương nước đến độ "không" cũng phải như vậy. Ngàn năm về trước cho tới ngàn năm về

sau, định luật này không bao giờ thay đổi hay vượt ra ngoài lề lối trên đây. Ông ngược cả với Mặc Tử, Huệ Thi đã đưa ra

những điều lầm lạc (Mặc Tử nêu thuyết: Thánh nhân không tự yêu mình giết trộm cướp chớ chẳng giết người... Huệ Thi

nói: Núi với vực cũng bằng phẳng như nhau...) Ông tôn thờ Khổng Tử, nhưng sửa đổi mở mang thêm học thuyết của họ

Khổng. Ông theo chỗ "hư không lặng lẽ của Lão Trang, lựa góp sự cân nhắc lợi hại của họ Mặc, lấy sự "thành thật sáng

suốt" của Tử Tư, Mạnh Kha" rất chú trọng đến Lễ là khuôn phép ở bên ngoài. Theo ông con người không lễ thì không

sống, việc không lễ thì không thành, nước không lễ thì không yên... Lương Khải Siêu phê bình Tuân Tử là nhà triết học

theo "chủ nghĩa lễ trị!" Lễ trị tức là triết trung giữa hai thứ "Đức trị và Pháp trị" có thể nói là khuôn khổ của thuyết xã hội

dân chủ trên lịch sử thế giới ngày nay vậy.

Ngoài tư tưởng triết học, tư tưởng văn nghệ của ông như trên đây đã nói cũng gây nhiều ảnh hưởng cho văn học đời

Lưỡng Hán (Tây Hán và Đông Hán) sau này. Đối với 300 bài thi của văn học phương Bắc, ông nhận định rất rõ ràng.

Khi về già ở ẩn tại phương Nam, ông thưởng thức lối văn Sở từ âm điệu và khuôn khổ của nó. Sau này ông tổng hợp văn

nghệ hai miền Nam Bắc thành một thứ tân văn học đối với đời bấy giờ nó mở đường cho lối phú và thi nhạc phú đẹp đẽ

cho hai triều đại trên đây. Đến cả chế độ giáo dục bằng lối học kinh cũng chịu ảnh hưởng của ông nữa. Còn thiên Khuyến

Học của Tuân Tử bàn về các quy mô giáo dục, học chế, tư cách giáo sư ta thấy thật là hết sức sâu sắc, chu đáo. (Bài

này trích dịch trong một tạp chí Trung Hoa). 

65 Việt Sử Toàn Thư

 Phần 2 - Chương 1  Bắc Thuộc Thời Đại

Nhà Triệu

Bắc Thuộc Lần Thứ Nhất (207-111 trước Công lịch) 

1) Triệu Vũ vương  2) Triệu Văn vương 3) Triệu Minh vương  4) Triệu Ai vương 5) Triệu Dương vương.

  Theo các Việt sử chữ nho và quốc ngữ từ xưa đến nay, Bắc thuộc chia ra làm 5 thời kỳ, kể từ nhà Hán lấy Nam Việt

của con cháu Triệu Đà (111 trước C.L.) đến năm Khúc Tiên chúa gây nền tự chủ cho dân tộc chúng ta (906 sau C.L.).

Gần đây nhiều học giả xét lại vấn đề này cho rằng Bắc thuộc (lần thứ nhất) phải kể từ khi Triệu Đà chiếm nước Âu Lạc

(207 trước C.L.), chúng tôi cũng tán thành nhận định này là xác đáng vì Triệu Đà là một tướng nhà Tần, dòng dõi người

Trung Quốc xâm lăng nước ta để làm thuộc địa thì việc ngoại thuộc phải kể từ khi Triệu Đà đặt chân vào đất Việt. Đồng

thời, ta phải bỏ nhà Triệu ra ngoài cuốn sử nước nhà mới hợp lý. Trái lại, coi Bắc thuộc thời đại bắt đầu từ nhà Hán lấy

Đế quốc Nam Việt (111 trước C.L.) tức là đặt nhà Triệu vào một triều vua chính thống của dân tộc Việt Nam.   Chúng

tôi đề nghị chia Bắc thuộc ra làm 5 thời kỳ như sau này: -- Thời kỳ thứ nhất: Kể từ Triệu Đà thôn tính Âu Lạc (207 trước

C.L.) đến năm 111 trước Công Lịch con cháu nhà Triệu bị dứt. 

-- Thời kỳ thứ hai: Kể từ năm 111 trước C.L. nhà Tây Hán đặt nền đô hộ ở Giao chỉ đến năm 40 sau C.L. có cuộc cách

mạng giải phóng dân tộc do hai bà Trưng lĩnh đạo. Chúng ta được một thời kỳ độc lập tuy ngắn ngủi từ năm 40-43 sau

C.L..  -- Thời kỳ thứ ba: Kể từ năm 43 đến năm 544, nước ta bị lệ thuộc về nhiều vương triều Trung Quốc, bắt đầu là

nhà Đông Hán đến Nam Bắc Triều. Qua năm 544 nhà Tiền Lý ra đời đến thời Hậu Lý Nam Đế tan rã (602) là thời kỳ

tranh thủ và vận động độc lập.  -- Thời kỳ thứ tư: Kể từ 603 đến năm 906 nước ta thuộc về nhà Tùy, nhà Đường, sau

giai đoạn này có Khúc Thừa Dụ ba đời, Dương Diên Nghệ 14 năm, Kiều Công Tiễn 1 đời, Ngô Quyền 3 đời và một thời

12 sứ quân, cộng tất cả 62 năm rồi mới đến Đinh Tiên Hoàng nhất thống nước Nam, Từ đó người Việt Nam kế tiếp nhau

cai trị lấy nước Nam.  -- Thời kỳ thứ năm: Tức thời nhà Minh chiếm cứ nước ta (1407-1428). 

1- Chỗ Rẽ của Lịch Sử Âu Lạc.

 Trong khi Văn Lang biến thành Âu Lạc thì tấn bi kịch đẫm máu và nước mắt của xã hội Trung Quốc đã kéo dài trên 600

năm, dưới đời nhà Chu, từ từ hạ màn. Nhà Tần ra đời và nền thống nhất của dân Hán thành hình. Rồi triều đại Tần Thủy

Hoàng đã đánh dấu lịch sử nước Trung Hoa bằng một chế độ vô cùng tàn ác. Với chế độ này người ta thi hành một chính

thể tuyệt đối chuyên chế và bạo liệt: chôn học trò, đốt sách nho để ngu dân, để diệt trừ mầm loạn bên trong, xây Vạn Lý

về phương Bắc bằng "xương máu của hàng triệu sinh linh để đề phòng "ngoại họa", dựng cung A Phòng nhốt ba ngàn gái

đẹp để tận hưởng lạc thú nhân sinh, tung ra trên 50 vạn quân về phương nam mở rộng cương vực Hán Tộc..., tất cả mọi

sự việc nầy đều ngược với quyền lợi đại chúng nên binh hùng tướng mạnh, thành Vạn Lý sau này cũng chẳng bền vững

được bao lâu. Rồi nhà Tần đổ, nền phong kiến Trung Hoa lại một phen nữa tơi bời như tro bụi. Giữa lúc này trên nội địa,

Hán tộc lâm vào thế biến thì các quan lại ở biên cương cũng thay lòng đổi dạ.   Nhâm Ngao và Triệu Đà cát cứ bấy lâu ở

Nam Hải nghe có loạn Trần Thắng bên kia giải Nam Lĩnh liền nẩy ý muốn lập riêng một triều đình miền Nam và thôn tính

Âu Lạc nữa. Quý Tỵ năm thứ 50 (năm thứ hai đời Tần Nhị Thế) Nhâm Ngao khi gần chết đã khuyên Triệu Đà lợi dụng

thời cơ dựng nền tự chủ ở phương Nam. Chẳng bao lâu viên huyện lệnh Long Xuyên( thuộc quận Nam Hải) đã ngang

nhiên xưng vương, đổi hai quận Quế Lâm và Nam Hải ra nước Nam Việt, chưa phỉ chí, Triệu Đà còn nhìn sang Âu Lạc

nữa.   Theo Việt Nam Sử Lược trang 29 có nói khi Tần mở cuộc Nam chinh An Dương vương xin qui phục nhà Tần vì

thế nên Âu Lạc bị đổi ra Tượng Quận. Cuối trang này tác giả V.N.S.L. lại nói: "Năm thứ 50 đời vua An Dương vương

Triệu Đà đem quân sang đánh Âu Lạc..."  Theo chỗ suy cứu của chúng tôi qua các cổ sử và cả các tài liệu do các học giả

hiện đại sưu tầm chẳng thấy chỗ nào nói An Dương vương xin qui phục nhà Tần hết. Và xem ngay V.N.S.L. ta cũng thấy

điều không ổn, vì nếu An Dương vương đã qui phục nhà Tần thì Tượng Quận cũng như Quế Lâm và Nam Hải đã đặt

dưới quyền của bọn Nhâm Ngao, Triệu Đà rồi, đâu còn phải sau này cất quân đi đánh nữa. Phải chăng đây là một sự

mâu thuẫn của V.N.S.L.?  Hay đây chỉ là một sự thần phục về tinh thần chăng?  Cũng không, vì chẳng sách nào nói như

vậy. Tóm lại, ta chỉ có thể tin như trên đây sau cuộc chinh phục của nhà Tần, ảnh hưởng của Tần chưa ra khỏi đất Quế

Lâm và Nam Hải. Vì vậy khi Triệu Đà dựng xong nước Nam Việt mới lo kiêm tính cả Âu Lạc.   Trước khi xưng vương,

Triệu Đà truyền hịch đi các cửa ải Hoàng phố, Dương Sơn, Hoàng Hác nói rằng cuộc biến loạn đang xảy khắp nơi, triều

đình xa biên cương, hai quận Quế Lâm và Nam Hải cần phải tự chủ để đối phó với tình thế. Các quận huyện đều hưởng

ứng. Đà liền cho giết hết các quan lại của nhà Tần đã đặt ra và đưa tay chân của mình lên sau đó đem quân đi đánh Âu

Lạc.   Cuộc chinh phục Âu Lạc đến nay chưa có gì rõ rệt trong các sử sách. Có thuyết nói rằng buổi đầu Triệu Đà đánh

Âu Lạc bị thất bại sau xin kết làm thân gia với An Dương vương. Rồi sau này nhân An Dương Vương chểnh mảng việc

nước. Triệu Đà đem quân đánh úp. Âu Lạc mất, và do cuộc diệt vong của Âu Lạc mới nảy ra một thiên tình sử đầy máu

và nước mắt giữa Trọng Thủy, con trai Triệu Đà và Mỵ Châu, con gái An Dương Vương.   Dù sao ta đã thấy về thực tế

An Dương vương mất nước. Theo Tư Mã Thiên "Triệu Đà đem binh uy hiếp biên thùy và lấy của cải dụ dỗ hai xứ Mân

Việt và Tây Âu Lạc nên sai khiến được họ." Việc này xảy ra vào năm thứ 9 đời Hán Cao Đế. 

2- Chính Trị của Triệu Đà Trên Đất Giao Chỉ.

 Sau khi chinh phục được Âu Lạc, Triệu Đà không áp dụng chế độ phương Bắc, ý giả cho rằng dân Âu Lạc vốn khó cai

trị hơn dân Nam Việt (tại Quảng Đông và Quảng Tây). Đà chỉ chia Âu Lạc ra thành hai quận Giao Chỉ và Cửu Chân. Có

lẽ quận Giao Chỉ gồm hết địa phận Bắc Việt và một phần đất phía Nam tỉnh Quảng Tây nữa. Ở mỗi quận, Đà đặt một

quan Điển Sứ để coi việc chính trị, hành chính, một quan Tả tướng coi việc quân sự, còn các quý tộc bản xứ vẫn giữ

được thái ấp và trị dân như cũ. Con cháu của Thục Phán ở đất Tây Vu, trung tâm điểm Loa thành vẫn được xưng vương

(Tây Vu vương) và được biệt đãi hơn cả. Chế độ Triệu thuộc xét như vậy không có gì là quá khắt khe và không thay đổi

đời sống của dân tộc Lạc Việt là bao nhiêu về các phương diện. Chúng tôi nói như vậy không phải là vì căn cứ vào chỗ

Triệu Đà đóng kinh đô ở Phiên Ngung (Quảng Tây) và tập trung hết thảy các hoạt động chính trị, quân sự và kinh tế ở

đây, mà xét về chính trị của Giao Chỉ và Cửu Chân. Hai xứ này bây giờ về chế độ thực tế chỉ là hai xứ phụ dung của Đế

quốc Nam Việt ở dưới quyền họ Triệu, Giao Chỉ vẫn giữ được đầy đủ các cá tính quốc gia, tinh thần cố hữu của nó. Lại

nhân cuộc thay trò đổi cảnh hai xứ này được thêm sự mở mang kinh tế và chấn hưng nông nghiệp. Điều đó phải nhận là

có lợi cho dân bản địa. 

 Và tuy sử sách không nói nhiều về việc cai trị dưới thời Triệu Đà hay dở thế nào ở đất Giao Chỉ nhưng ta tin chắc rằng

họ Triệu đã đối đãi dân Giao Chỉ không khác gì với nhân dân hai quận Quế Lâm, Nam Hải. Họ Triệu coi Giao Chỉ và

Cửu Chân là giang sơn riêng của mình không như nhà Hán, nhà Đường trước và sau đó đã có sự phân biệt Trung Hoa

ngoại di và do sự phân biệt này các quan lại Tàu nhờ chỗ triều đình xa biên cương tha hồ vét đầy túi tham, vì vậy mà máu

và nước mắt của chúng ta đã đổ ra rất nhiều. Trái lại Đà muốn các đất đai của Đế Quốc Nam Việt mạnh và tiến bộ để sự

nghiệp của ông ở phương Nam được vững vàng và lâu bền. 

3- Nam Việt và Tây Hán.

 Nam Việt lúc bấy giờ đã mạnh về quân sự, về chính trị Nam Việt cũng thiết lập được mọi qui mô, khiến Hán triều phải

thắc mắc. Điều này rất dễ hiểu vì Triệu Đà không những là một nhà tướng có tài mà lại còn là một nhà chính trị khôn

ngoan sâu sắc, nếu so sánh ông với những người đồng thời tại Trung Quốc, có lẽ ông cũng không thua kém ai. (Xem cách

ứng đối, tiến thoái sau này giữa ông với Lục giả, phái viên của Hán triều cử sang Nam việt). Ông lo mở mang Nam Việt

mục đích không chịu lệ thuộc về Trung Quốc, gây cơ sở riêng có đủ tính cách độc lập giữa lúc Lưu Bang bên Tàu đánh

đổ nhà Tần dựng nên nhà Tây Hán. Nhân tâm Trung Quốc hướng cả vào họ Lưu như một cứu tinh vì đã từ lâu họ bị ngột

ngạt trong cái không khí "bạo Tần". Lần này với người anh hùng đất Bái nền thống nhất lĩnh thổ và sự thống nhất nhân tâm

mới có hiệu lực thật sự, do đó Triệu Đà 13 năm sau đành chịu xưng thần với Hán chúa.   Năm Ất Tị (196 trước Công

Lịch ) Hán Cao Tổ phái Lục Giả sang chiêu dụ phương Nam. Nhà Triệu bấy giờ đã ra đời được 12 năm rồi và nhà Hán

cũng được 11 năm. Trong cuộc gặp gỡ Hán sứ đã có một giai thoại như sau: Triệu ngồi thản nhiên khi sứ Hán tới. Lục

Giả vốn là tay chính khách ngoại giao rất có tài nhưng trước thái độ kiêu căng của họ Triệu, ông vẫn bình tĩnh. Ông nói:

"Nhà Vua hẳn rõ Hán đế bây giờ đã bình định được toàn cõi Trung nguyên, thế lực ra sao không phải bàn. Mồ mả và bà

con thân thích của nhà Vua ở cả châu Chân Định, nay nhà Vua không chịu thụ phong, không tiếp sứ, cái hại trước mắt

hẳn nhà Vua cũng trông thấy..." Vũ vương thấy lời sứ giả quyết liệt tuy cách diễn tả điều lợi hại vẫn mềm dẻo liền niềm nở

bước xuống tiếp sứ cười mà nói rằng: "Tiếc thay ta không khởi nghiệp ở Trung Quốc!".   Do cử chỉ này ta hiểu Triệu Đà

bấy giờ trong thâm tâm cũng thấy rằng dù sao Hán vẫn mạnh hơn Nam Việt. Hán chỉ cần sự thần phục của phương Nam

để Trung Quốc có một uy thế về tinh thần đối với các ngoại biên mà thôi. Thực ra Hán cũng chẳng mong đòi hỏi và bó

buộc gì hơn, Hán vừa gây dựng sự nghiệp, thế còn đang hăng, chống lại Hán chỉ có hại, huống hồ Nam Việt so với Hán

triều vẫn có thể thua cả lượng lẫn phẩm.   Cuộc bang giao Hán Việt êm đẹp được một thời, đến năm Mậu Ngọ (185

trước C.L. ) Hán Cao Tổ qua đời, triều chính nhà Hán trải qua một cuộc khủng hoảng. Vợ Cao Tổ là Lã Hậu cướp ngôi

của Huệ Đế. Chính sự ngửa nghiêng Lã Hậu nghe lời dèm pha bãi bỏ việc thông sứ với Vũ vương lại còn ra lệnh cấm

người Hán không được buôn bán đồ vàng, đồ sắt và các dụng cụ canh nông với dân Nam Việt. Tóm lại mọi việc giao

dịch về chính trị và kinh tế đều đoạn tuyệt hết. 

 Vũ Vương lấy làm bất bình, ngờ Trường Sa vương thêu dệt điều kia nọ với Lã Hậu, một mặt tự xưng là Nam Việt Hoàng

Đế (Mậu Ngọ năm 25 tức năm 5 đời Hán Cao Hậu), để tỏ ý đứng ra ngoài vòng lệ thuộc của Hán triều, một mặt cất

quân đánh vào quận Tràng sa là khu vực cai trị của Tràng Sa vương (Quận Tràng Sa ở vào địa hạt Hồ Nam bây giờ,

chắc là nơi giáp giới của đất Nam Việt ).   Phản ứng đó kích thích Hán triều khá mạnh nên hai năm sau là năm Canh Thân,

Cao Hậu phái Long Lân hầu Chu Táo đem quân qua Nam Việt trả thù. Thủy thổ phương Nam không thích hợp với Hán

quân, nên họ ốm đau, chết hại rất nhiều. Về chiến sự quân Hán cũng không tiến được bước nào đáng kể. Kịp tới Cao

Hậu mất (năm 180 trước C.L.) Hán triều xét việc Nam chinh không lợi liền ra lệnh bãi binh. Vũ Vương bấy giờ nhất thống

phương Nam, sau vụ này uy danh càng lừng lẫy. Họ Triệu từ đó đàng hoàng dùng mọi nghi thức Hoàng Đế nhường như

sánh đôi với Hán Đế ở Trung Quốc.  Họ Lã mất, Hán Văn Đế lên ngôi, cuộc bang giao Bắc Nam lại tiếp tục. Sự thần

phục của Đế Quốc Nam Việt thuở đó rất quan hệ cho uy tín của các vương triều Trung Quốc, dường như vương triều

nào không có Nam Việt trong vòng lệ thuộc của mình thì vương triều đó không rõ rệt là chúa tể bốn phương, mặc dầu

"Thiên Triều Trung Quốc" vẫn coi khinh dân tộc miền Nam là "Nam man" cũng như đã gọi giống người bên kia Vạn Lý

trường thành là Hung Nô hay "Phiên Ngung" hoặc "Rợ Hồ". Sự miệt thị đó đã tỏ rõ cái tính kiêu ngạo của vương triều

Trung Quốc tuy ngay trong thời đó và sau này, lịch sử từng chứng dẫn nhiều phen, vương triều Trung Quốc đã thất cơ lỡ

vận và điêu đứng vì bọn "man di mọi rợ" đó: Mông cổ chiếm Trung Hoa, Mãn Thanh vào làm vua Trung Quốc, Lý

Thường Kiệt nhập Tống, Trần Hưng Đạo bại nguyên, Nùng Trí Cao đánh chiếm Hoa Nam V..V....   Hán triều lại phái

Lục Giả sang Nam Việt và biết rằng xứ này dưới quyền điều khiển của một danh tướng xưa kia của Trung Quốc luôn

mấy chục năm đã càng ngày càng mạnh, huống hồ vàng thau đã có phen thử lửa, vậy áp dụng một giải pháp chính trị có

lợi hơn là một giải pháp quân sự.   Rồi Lục Giả mang một bức thơ có những lời lẽ rất nhũn nhặn, nhờ vậy mà đôi bên Hán

Việt lại nối tiếp cuộc hoà hiếu. 

4- Xã Hội Việt Nam Dưới Thời Triệu Đà.

 Triệu Vũ Vương mất năm Giáp Thìn (137 trước C.L.) làm vua được 70 năm, thọ 121 tuổi. Sự nghiệp của Vũ Vương thế

nào, tới nay Lịch Sử không có biên chép rõ rệt lắm, ngay cả sự nghiệp của các Vua đời Hồng Bàng.   Ta chỉ biết đại khái

rằng dưới thời Triệu Đà, mọi tổ chức chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa của Nam Việt đều rập theo đúng khuôn khổ của

Trung Quốc.   Với Triệu Đà ta thấy xã hội Việt Nam bắt đầu tiến do sự phát triển về nông nghiệp nhờ sự cải thiện của

nghệ thuật canh tác trước đây còn quá thô sơ (nghề săn bắn, chài lưới bấy giờ vẫn còn thịnh). Họ Triệu nhập cảng lưỡi

cầy sắt để thay cho lưỡi cuốc bằng đá trau, cho dùng trâu bò thay vào sức người, đem gia súc từ Tàu qua để mở mang

việc chăn nuôi, nhờ vậy mà sinh sản lượng tăng gia gấp bội ; sự phát triển về văn hóa, chính trị, quân sự cũng do cái bản

lĩnh hơn người của họ Triệu đã thúc đẩy dân tộc Việt Nam lên một bước đáng kể, nếu ta nhớ rằng dưới đời Hồng Bàng

người Việt Nam vẫn chưa thoát ly hẳn tình trạng bán khai, mọi điều còn ở trình độ rất thấp kém trước khi nước ta nội

thuộc về phương Bắc.   Sự tiến hóa về các phương diện trên đây tuy còn ít ỏi nhưng cũng đã làm nảy nở ít nhiều ý thức

quốc gia của người Việt, nhất là sau những cuộc xô xát bằng quân sự và ngoại giao với Hán triều trong thời Lã Hậu cầm

quyền. Ý thức quốc gia đó qua các triều đại sau càng thêm mạnh do những cuộc đảo lộn chính trị ở Trung Quốc và trên

đất Việt. Ý thức quốc gia còn nảy nở trong những giai đoạn người Việt độc lập, tự chủ và tự cường nữa. Tóm lại, ta có

thể nhìn nhận người cắm cái mốc đầu tiên trên đường tiến hóa của chúng ta là tướng Triệu Đà. Còn nói rằng dân Việt có

nên biết ơn sự nghiệp của Triệu Đà hay không thì ta thấy rằng họ Triệu đã mang hết tài năng thi thố trên đất Việt chỉ do

một chủ trương kiến tạo một giang sơn giàu mạnh cho mình và cho con cháu chớ họ Triệu đâu có ý phụng sự một dị tộc. 

5- Những Vua Kế Nghiệp Triệu Đà.

 Với những trang trên đây, ta thấy Triệu Đà khôn ngoan, tài giỏi thế nào, điều này không ai chối cãi, nhưng đến đời con

cháu tiếc thay lại quá đớn hèn. Ta than cho họ Triệu đã dầy công xây dựng một đế quốc có uy thế tại phương Nam, được

Trung Quốc kiêng nể, biệt xử thì ta lại không khỏi buồn cho dân tộc chúng ta vừa bộc khởi được một giai đoạn lại bị

Trung Quốc nhân sự bất lực của con cháu Triệu Đà mà đè bẹp ngay xuống.   Vũ Vương truyền ngôi cho cháu đích tôn là

Hồ, con trai Trọng Thủy và Mỵ Châu tức là Triệu Văn vương, tại vị được 12 năm. Văn Vương tính tình nhu nhược, tài

năng thấp kém lên ngôi được hai năm thì bị quân Mân Việt (Phúc Kiến) xâm lăng miền biên cương. Vì không đủ sức

chống chọi được với quân Mân Việt, Văn Vương liền phái người sang cầu cứu Hán triều, Hàn An Quốc và Vương Khôi

được lệnh Hán Đế đem quân đánh Mân Việt. Quân Mân Việt khiếp uy Hán triều sinh nội phản, giết quốc vương lấy đầu

dâng nộp. Nam Việt tránh được cái họa Mân Việt thì lại lần đi vào một mối nguy khác, nghĩa là do sự lộn xộn giữa Nam

Việt và Mân Việt, nhà Hán hiểu rằng con cháu Triệu Đà bất lực liền nghĩ ngay đến việc chiếm nốt mảnh đất phương Nam

để mở rộng cương vực Đế Quốc. Ta có thể tin rằng Hán triều khi đó chắc là mạnh lắm nên quân Hán chưa tới Mân Việt

thì bên trong hàng ngũ quân Mân đã có sự rối loạn và sau đó có cuộc nội phản. Sau vụ Mân Việt bấy giờ chẳng mất đất

đai thì cũng ít nhất phải xưng thần, tức là lệ thuộc về Hán, Hán Đế liền tính chiếm nốt Nam Việt, xét cơ hội lúc bấy giờ vô

cùng thuận tiện. Khi Triệu Đà còn sống Hán Đế có bao giờ dám nghĩ tới việc này.   Giải quyết xong vấn đề Mân Việt,

Hán Đế phái luôn người Trang Trợ sang dụ Triệu Văn Vương vào chầu. Ai mà không nhớ cái lối vua chư hầu vào chầu

Thiên Tử thời Xuân Thu chiến quốc! Thời đó là một thời đại loạn, vua chẳng ra vua (thời Đông Chu khi sắp tàn) tôi chẳng

ra tôi, trật tự xã hội đảo điên, mạnh được yếu thua, lớn hiếp bé, cho nên có tục tới chầu hầu Thiên tử ( phong tục này chỉ

áp dụng cho bọn nhược tiểu) nhà vua không đến chầu thì phải cho con đi thay thế để tỏ lòng trung tín, đó là không kể

chuyện xưng thần nạp cống hàng năm theo thường lệ. Người làm con tin có khi bị giữ lại 5 hay 10 năm không được quay

về xứ sở, trừ dịp may có cuộc biến cố ở chính quốc. Lệ đó đến đời Hán vẫn còn truyền lại ; Hán Đế đòi Triệu Văn

Vương sang chầu xem Nam Việt có phản ứng gì chăng và nếu không có phản ứng tức là Nam Việt chịu hoàn toàn lệ

thuộc vào Trung Quốc. Triệu Văn Vương ươn hèn, nhu nhược tất nhiên không dám trái ý "Thiên triều" còn quần thần của

nhà vua khi đó rất là lúng túng. Người ta nhớ lại Triệu Vũ Vương lúc còn sống đã nói: "Thờ nhà Hán cho đủ lệ, chớ nên

sang chầu vì sang chầu ít có cơ về". Nghĩa là đối với Hán phải xử theo lối "kính nhi viễn chi".   Cực chẳng đã, Văn Vương

phái Thái tử Anh Tề đi thay. Anh Tề ở luôn tại đất Hán 10 năm có thừa, trong khi đó Hán triều tha hồ làm mưa nắng với

triều đình Nam Việt. Năm Bính thìn tức năm 125 trước Công lịch, Văn Vương mất, Anh Tề mới được quay về quê

hương để nối ngôi. 

6- Đế Quốc Nam Việt Sụp Đổ.

 Mười năm sống trên đất Hán, Anh Tề có dan díu với một cô gái điếm ở đất Hàm Đan tức là Cù Thị. Sau này, Anh Tề

trở nên Triệu Minh Vương, Cù Thị cũng theo về Nam Việt. Minh Vương cũng chỉ ở ngôi được 12 năm thì thở hơi cuối

cùng năm Mậu thìn (113 trước C.L.). Con là Thái tử Hưng lên thay thế giữa buổi ấu niên. Cù Thị được tôn làm thái hậu

đóng vai chỉ đạo cho Triệu Ai Vương.   Hán triều lúc này rất chăm chú đến nội tình Nam Việt, dĩ nhiên vì Nam Việt là

miếng mồi ngon, thịt béo. Cơ hội tốt đã đến bởi Ai Vương đã kém, con cũng lại chẳng hơn gì cha, cháu lại đang ở trong

vòng thơ dại. Thảm hại hơn nữa, chính sự Nam Việt lại có người đàn bà chen vào, triều thần lại thiếu kẻ xuất sắc. Hán

triều nghĩ ngay đến việc lấy hẳn Nam Việt. Lần này việc thôn tính có thể chắc chắn và dễ dàng hơn, không phải cần đến

binh đao. Cũng năm Mậu Thìn ấy, Hán Đế phái sứ giả An Thiếu Quý sang Nam Việt dụ Ai Vương sang chầu, bọn Chung

quân biện sĩ, làm chức Gián nghị Đại phu sang tuyên cáo lời dụ ấy. Theo kế hoạch bọn Ngụy thần làm dũng sĩ phụ tá để

quyết định; Vệ úy Lộ Bác Đức đem binh đóng ở đồn Quế Dương đợi hiệu lệnh của sứ giả, giữ nhiệm vụ hậu tập. Quân

đội tiên phong do Hàn Thiên Thu và Cù Nhạc (em Cù thị) điều khiển, tiến vào cõi Nam Việt đánh phá các ấp nhỏ cách

thành Phiên Ngung 40 dặm...  Tóm lại, mưu của Hán triều là đem vua Nam Việt và thái hậu ra khỏi bờ cõi, rồi chiêu hàng

triều đình Nam Việt, nếu không xong thì quân đội sẳn sàng tập công ngay tức khắc. Việc đánh phá của Hàn Thiên Thu có

ý tiên báo triều đình Nam Việt chính sách của Hán Đế, nếu Nam Việt không chịu khuất phục.   An Thiếu Quý là nhân vật

thế nào, và có quan trọng chăng? Y là tình nhân của Cù thị thuở trước khi Cù thị còn là kỷ nữ. Y xin lãnh sứ mạng đó, do

hai mục đích công và tư. Rồi những việc gì phải đến đã đến: Hằng ngày y ra vào cung cấm tư thông với Cù thị không kể

là điều ngang tai chướng mắt người Nam Việt. Y lại xúi mẹ con Ai Vương đem Nam Việt dâng nhà Hán, việc này được

mẹ con Ai Vương hưởng ứng. 

 Nhưng một người đã không chịu cái trò "Về Hán" ấy, là Thái phó Lữ Gia. Ông là một kẻ huân thần của họ Triệu, làm

quan trải 3 đời vua, con cháu tới 70 người dự chính. Ông khuyên can mẹ con Ai Vương nhiều lần không chuyển liền

truyền hịch đi khắp nơi tố cáo nhân dân ý định dâng nước của Cù thị và Ai Vương, cùng mưu mô sâu độc của triều Hán.

Liền ngay đó, ông họp đại thần đem cấm binh vào trừ An Thiếu Quý và mẹ con Cù thị, trong khi bọn này sửa soạn lên

đường....Ông lập con trưởng Minh Vương là Hoàng tử Kiến Đức, con bà Thuật Dương dòng dõi Việt, lên làm vua tức là

Dương Vương. Cuộc đảo chánh vừa xong, thì ngoài biên giới quân Hán Việt đã chạm trán nhau, Hàn Thiên Thu tử trận.

Lữ Gia cho gói cờ Tiết của sứ giả trả về nhà Hán, và viết thơ nói khéo để tạ tội, mặt khác ông chia quân đóng giữ các nơi

hiểm yếu.  Mùa đông năm Canh Ngọ (111 trước T.C.) Phục Ba tướng quân, Lộ bác Đức và Dương Bộc đem 9.000

binh chia làm 5 đạo, ồ ạt kéo sang Nam Việt. Lộ Bác Đức dùng đường Dự Chương đi xuống Hoành Phố. Qua thuyền

Tướng quân là Nghiêm và Hạ Lại Tướng quân là Giáp, ra Linh Lang vượt Ly Thủy đến Thương Ngô, Tri Nghĩa Hầu là

Quí lấy quân Dạ Lang qua sông Trường kha cùng vây đánh Phiên Ngung.  Hán quân trước hết hãm đường Tầm Thiếp

thuộc Quảng Đông, phá Bến Đá của Lữ Gia, cướp được thuyền thóc của Nam Việt. Bác Đức đem tội nhân ở Ba Thục

hơn 1000 tiến sau, trong khi Dương Bộc vây kín mặt Đông Nam kinh đô Nam Việt. Bác Đức tới phong tỏa mặt Tây

Bắc. Trong lúc này Triều đình Nam Việt hết sức chống đỡ, sau địch quân phá được thành và phóng hoả khắp nơi, thành

mất dân phải ra hàng. Thương Ngô vương Triệu Quang cùng họ với vua Nam Việt và quan Giám ở Quế Lâm là Cư Ông

cũng xin giải giáp. Mấy đạo quân Hán của Hạ Lại, Qua Thuyền và quân Dạ Lang của Tri Nghĩa Hầu chưa tới, Nam Việt

đã mất. Vua Kiến Đức bỏ chạy ra bể xuống thuyền đi về phiá Tây. Hiệu Uý Tư Mã là Tô Hoàng đuổi theo bắt được

Kiến Đức. Việt Lang, Đỗ Kế bắt được Lữ Gia. Nam Việt phút chốc tan tành, vua tôi bị giết, năm đó là năm 111 trước

Công lịch. Vì cuộc bại trận này, Nam Việt rơi vào vòng nô lệ của Trung Quốc và bị đổi ra làm Giao Chỉ Bộ, chia ra 9

quận trực thuộc quyền cai trị của quan lại Trung Quốc. (Theo ch. Patris, Dương Vương và mẹ bị chết trong cung cấm khi

Hán quân hãm thành).   Nhiều nhà viết sử hay phê bình nhân vật Lịch sử đã từng lên tiếng kết án hoặc mạt sát Cù Thị,

cho rằng mẹ con Cù Hậu đã đưa lại cho người Việt cái họa mất nước. Ý kiến đó thiết tưởng quá khắc khe, tuy Cù Hậu

không hẳn là vô tội đối với người Việt. Theo giáo lý Khổng Mạnh, Cù Hậu phải thờ chồng nuôi con để kế nghiệp tiên tổ.

Về phương diện xã hội, địa vị của thị lại vô cùng quan hệ vì là kẻ phụ đạo cho thiếu quân. Nếu triều đình Nam Việt chẳng

thừa nhận cái ưu thế tuyệt đối của Cù Thị, Cù Thị đâu có thể dự vào quốc chính. Chỉ hiềm người đàn bà này đầu óc quá

tầm thường nên không ý thức được cái địa vị cao quí của mình, chỉ biết nghe theo tiếng gọi của ái tình. Ngoài ra, thị tưởng

một cách đơn giản rằng mình là người Hán, nay có cơ hội đem nước Việt sáp nhập vào đất Hán là làm được một việc ái

quốc huống hồ việc này lại còn do áp lực của tình nhân nữa. Xét cho phải, việc tồn vong của Nam Việt bấy giờ là do thời

thế và chỉ nên quy trách nhiệm vào đám người lãnh đạo Nam Việt mà thôi. 

 Chúng ta ai mà không thấy từ Triệu Văn vương, Minh Vương, Ai Vương đến Dương Vương thực lực Nam Việt mỗi

ngày một kém, do chính sự suy bại dần, nhân tài không có. Sự yếu hèn đó là hậu quả của mấy tiền triều liên tiếp. Triều

đình Hán mỗi ngày một mạnh thì trái lại hùng khí phương Nam lại sút kém dần. Tể tướng Lữ Gia và đám triều thần dưới

đời Dương Vương, lòng trung quân ái quốc có lẽ có thừa nhưng tài kinh bang tế thế quả đã thiếu sót. Con thuyền mục nát

ấy tất nhiên phải tan tành trước cơn gió dữ. Nếu quy tội lỗi cho người đàn bà goá vô hạnh và đứa trẻ thơ ngây chẳng hóa

những ông mũ cao áo dài của luôn mấy triều không có trách nhiệm gì chăng? Đấy là ý kiến riêng của chúng tôi, nhưng để

so sánh hai quan niệm cổ kim trước các biến chuyển của lịch sử, chúng tôi xin dành ít lời phê bình cho cụ Cử Dương Bá

Trạc và sử thần Ngô thời Sĩ qua các dòng dưới đây:

Nước nào cũng có sử,  Chuyện xưa ghi chép đều hoang đường,  Nước ta có nước từ bao giờ? Họ vua đầu hết là Hồng

Bàng. Truyền rằng vua lấy bà Âu Cơ,  Con vua Thủy Tề là nghĩa gì? Con rồng cháu tiên đẻ trăm trứng,  Biển non hai ngả

chia đường đi, Nước mình lúc ấy chưa có sử,  Người sau thuật lại lắm chỗ kỳ,  Thần quyền thời đại tư tưởng thế,  Càng

nói ma quỉ càng không nghĩ. Cho hay tiền nhân thương nước nhỉ! Nói quí người mình trong quốc thể? Như người Nhật kể

giống Thiên Hoàng,  Như người Tàu khoe giống Hoàng đế.  Bấy giờ chia nước mười năm khu.  Phong châu một xứ là

kinh đô. Nam giáp Hồ tôn, tây Ba thục,  Đông biển, Bắc đến Động Đình hồ.  Cứ trong bản đồ thật không sai,  Nước ta

rầy giáp Quảng đông, tây,  Xưa là một nước tưởng cũng phải,  Bờ cõi ba phần nay mất hai.  Thục phán, Triệu Đà hai vua

sau,  Người ở Âu Lạc, người Phiên Ngung,  Hợp với nước mình xáp làm một,  Dựng thành nước lớn trên địa cầu, Phải

chăng giang sơn có hào kiệt,  Tấc vàng tấc đất đừng cho Tàu.  Sau gồm Chiêm Thành lấy Chân Lạp,  Vẫy vùng biển Á

nhường ai đâu,  Tiếc thay con cháu hai nhà này,  Giấy người lửa người đốt đang tay,  Người thì yêu con, kẻ mê vợ, 

Nước đã gần mất còn chưa hay, Nỏ rùa thành ốc, khéo bày đặt,  Cho hay Thục Phán người huyền hoặc,  Giữ gìn thành

quách nhờ binh oai,  Trấn áp nhơn tâm mượn thần thuật,  Ông cha thì thế! con cháu ngu. Vô phúc đẻ phải nàng Mỵ Châu,

 Nặng tình gối đệm, nhẹ xã tắc,  Hớ hênh đem nước cho quân thù. Triệu Đà người Bắc sang làm vua, Khai hóa người

mình công cũng to, Lễ giáo phong tục của Trung Quốc, Du nhập Nam thổ từ bấy giờ. Tội với nước mình cũng nhà Triệu, 

Vua hiền không có, nước liền yếu.  Kết cuộc, Minh vương lấy vợ Tàu. Đem cả non sông làm quà biếu. Quân gì bán

nước, hư là hư! Lịch sử nước mình từ đây nhớ. Về sau Đinh, Lê lập quốc lại, Đất nước còn có như bây giờ.

7. Bàn về công tội của Thái phó Lữ Gia, Ngô Thời Sĩ viết: 

"... Lữ Gia cầm quyền một nước, nắm giữ việc binh từ trong đến ngoài Cung phủ, đâu chẳng thuộc quan Chủng tể, Giả sử

Lữ Gia là một kẻ sánh suốt, canh phòng cẩn mật, khám xét gắt gao: những lời ở sứ quán không lọt được vào cung, nhưng

hạng đằng tần không được vượt ra khỏi cửa, rồi hậu lễ để tiếp sứ giả, nhún lời để đáp vua Hán, bề ngoài tỏ lòng kính thờ

nước lớn, bề trong làm vững công cuộc phòng bị để chống cuộc chinh phục của nhà Hán, khiến họ biết trong nước có

người tài thì dù họ có muốn ngốn nuốt đi nữa tự khắc cũng phải đổi đường toan tính. Mà từ đó mối binh tranh cũng đến

phải ngừng.   "Vậy mà Lữ Gia để cho Cù Hậu và Thiếu Quý gặp nhau, bêu chuyện dâm ô ra khắp trong nước, cùng nhau

làm thành cái mưu phụ thuộc vào nhà Hán. Lại trùng trình ngày tháng, biểu qua thư lại, đợi đến khi họ đã sửa soạn hành

trang mới có thư cản ngăn, tiệc rượu không lành mới tính việc nổi loạn! Kịp lúc quân Hán đã kéo vào bờ cõi, không còn

biết xoay mưu tính chước ra sao, bèn thí vua giết hậu để đi gấp đến bước diệt vong! Đâu lại có hạng người lo nước như

vậy mà mong làm nên công chuyện được?  "Vậy thấy cái cuồng của Cù Hậu và cái ngu của Lữ Gia mà biết cuộc bại vong

của họ Triệu đã gây nền, xây móng ngay từ lúc Anh Tề lấy vợ và phong tước rồi ".   Nhưng đến một chỗ khác, sử thần

Ngô Thời Sĩ nhường nới tay đối với Lữ Gia và thể lượng cho cái khổ tiết của khách cô trung ấy: 

".....Lữ Gia là thế thần họ Triệu, đương lúc chúa thơ ấu, nước nguy nghi, đối với nước lớn không biết lấy lễ để thờ, toan

tính cái chước giữ nước mình cho bền vững thì phương lược lại lầm lỡ, bên trong gây nên cái mưu của Cù Hậu, bên ngoài

chọc giận vua Hán, rồi không lượng sức, tự làm cho chóng bại vong! Phiên Ngung không giữ được, rồi thế như đất lở

không sao cứu nổi đến nỗi mất hết cả phần đất nước cũ của vua An Dương trước, khiến cho cái khu vực mà Hoà Trọng

đã dựng ấy cũng thuộc về người Tàu từ Hán đến Đường hàng 5, 6 trăm năm!  "Truy nguyên đến cái vạ ban đầu thì Lữ

Gia không tránh khỏi tội vậy. Nhưng đó đều là những việc " đã rồi ". Gia riêng không lấy ấn tín nhà Hán làm vinh, giữ

vững cái thuyết cho nội phụ là không tiện, không thể bảo là không trí.   "Giết Thiếu Quý, diệt Thiên Thu, gói trả sứ tiết nhà

Hán, dàn quân giữ mọi nơi hiểm yếu, rửa sạch cái tức giận cho tiên quân ở nơi suối vàng ; không thể bảo là không dũng.  

"Bỏ một vua nay lại lập một vua khác, chỉ biết có con cháu Võ Đế, xã tắc họ Triệu, liều sống chết để giữ lấy, chứ không

nghĩ đến chuyện khác ; không thể bảo là không trung.  "Quân tử bàn người nên lấy từng đốt một. Đến như bỏ hiểm yếu

làm mất nước, đành rằng Gia vẫn đắc tội với nhà Triệu. Nhưng từ nhà Triệu đến nay (triều Lê, đời Ngô thời Sĩ ) chưa bao

giờ có thể thu trọn được cả đất Ngũ Lĩnh, nhìn thẳng tận mặt để tranh với Trung nguyên thì là chuyện còn phải đợi đến

những tay thánh hiền, hào kiệt ở sau này, cũng không đủ cho đó là tội của Lữ Gia được (Trích dịch theo nguyên văn chữ

Hán trong Đại Việt Sử Ký, ngoại thuộc Triệu Ký ).  

76 Việt Sử Toàn Thư

 Phần 2 - Chương 2 Nhà Tây Hán Bắc Thuộc Lần Thứ Hai (111 trước Công lịch - 39 sau Công lich) 

- Đơn vị Hành chính trên đất Giao Chỉ

- Bộ máy chánh quyền của Tây Hán 

1- Những Khu Vực Hành Chính Trên Đất Giao Chỉ Dưới Đời Tây Hán.

 Đế quốc Nam Việt mất thì ở bên Giao Chỉ các quan lại của nhà Triệu cùng các Lạc hầu Lạc tướng cũng mất tinh thần xin

đầu hàng tuy Hán quân chưa vào cõi. Hai quan điểm sứ Giao Chỉ và Cửu Chân, nghe lời dụ của quan Giám quận Quế

Lâm là Cư Ông, cũng đến dinh Lộ Bác Đức xin quy phục và nộp sổ dinh của dân Âu Lạc bấy giờ có 40 vạn. Một điều

đáng chú ý, tại đất bản bộ của An Dương Vương là đất Tây Vu mà trung tâm điểm là Loa Thành, khi nghe thấy con cháu

họ Triệu suy vong, các quý tộc địa phương toan thừa cơ hội để quật khởi. Tả tướng Hoàng Đồng do nhà Triệu đặt ở

Giao Chỉ đàn áp ngay cuộc mưu toan cách mạng này. Đối với Nam Việt và Giao Chỉ (nước phụ dung của đế quốc Nam

Việt) nhà Tây Hán lập thành các quận như sau: 1) Nam Hải 2) Hợp Phố vào địa hạt Quảng Đông 3) Uất Lâm 4) Thương

Ngô gồm đất đai tỉnh Quảng Tây 5) Giao Chỉ 6) Cửu Chân  7) Nhật Nam gồm Bắc Việt và mấy tỉnh Trung Việt 8) Châu

Nhai 9) Đạm Nhĩ tức là Đảo Hải Nam.

Theo Hán Thư Địa Lý Chí, Giao Chỉ gồm 92.440 nhà, 746.217 người, có 10 huyện là Liên Lâu, An Định, và Câu Lâu,

Mê Linh, Khu Lương, Bác Đại, Tây Vu, Long Biên và Châu Diên. Mỗi huyện là một thái ấp của quý tộc cũ. Xét vị trí của

10 huyện trên đây, ta thấy rằng đại khái địa bàn của Giao Chỉ là vùng Trung du và Hạ du Bắc Việt, khoảng giữa lưu vực

sông Nhị Hà và sông Thái Bình. Trị sở quận Giao Chỉ bấy giờ là thành Mê Linh nay là làng Hạ Lôi, tỉnh Phúc Yên. (Sử cũ

gọi là Châu Phong, trung tâm điểm của các Lạc vương xưa). Còn Tây Âu xưa kia An Dương vương đã hợp nhất với Văn

Lang. Có lẽ nhà Hán đã đem xáp nhập vào với quận Quất Lâm ở Quảng Tây. Cửu Chân gồm 35.743 nhà 166.013

người 7 huyện: Tư Phố, Cư Phong, Đô Lung (Đô Lương ngày nay chăng ?), Dư Phát, Hàm Hoan, Võ Thiết (xưa là Võ

Công) đại khái tương đương với miền Thanh Hóa lưu vực sông Mã, sông Chu và miền Nghệ Tĩnh. Trị sở miền Cửu Chân

có thể gọi là Tư Phố tức là làng Đông Sơn gần Hàm Rồng, mà 25 năm trước đây nhà Bác Cổ Viễn Đông đã khai quật

được nhiều di tích về thời đại đồ đồng. Quận Cửu Chân từ trước đến bây giờ thuộc địa bàn của người Lạc Việt.     

Nhật Nam.

 Quận Nhật Nam đến đời Tây Hán mới có, ở phỉa Nam Cửu Chân, phạm vi của nó kể từ phía Nam Đèo Ngang đến

miền Nam đèo Hải Vân tức là vào khoảng giữa Trung Việt bây giờ. Quận này gồm có 15.460 nhà, 69.485 người, có 5

huyện là Chu Ngô, Ty Cảnh, Lộ Dung, Tây Quyền và Tượng Lâm. Trị sở, theo sự suy đoán của Đào Duy Anh, ở Tây

Quyền tức là nơi Chiêm Thành sau này dựng thành Khu Túc để giữ biên giới của họ về phía Bắc. Địa điểm này giáp sông

Gianh, tỉnh Quảng Bình, mà di tích thành Hời vẫn còn đến bây giờ. Dân ở đây là các bộ lạc thuộc giống Anh-đô-nê-diêng

sống tại các nơi rừng rậm hay theo dọc sông biển. Di duệ của họ là những người Mọi, nhưng trên bờ sông Gianh bấy giời

đã xuất hiện một số người Lạc Việt ở đây rồi, căn cứ vào các đồ đồng đào được ở đây giống hệt đồ đồng đào được ở

Đông Sơn.

2- Bộ Máy Cai Trị Của Giao Chỉ Dưới Thời Tây Hán.

Nhà Tây Hán để nguyện vẹn bộ máy cai trị của Giao Chỉ đã do nhà Triệu thiết lập. Xin nhắc rằng nhà Triệu xưa kia cũng

tôn trọng tình trạng và chế độ của dân bản địa nên ta đã có thể coi dù thay thầy đổi chủ dân Lạc Việt ta vẫn giữ được nề

nếp xưa về chính trị cũng như phong tục, bởi vậy một vài học giả ngày nay cho rằng trên thực tế nước ta đã là một nước

phụ dung dưới đời nhà Triệu. Nhà Tây Hán vẫn dùng hai quan Điển Sứ của nhà Triệu, và họ được đổi sang chức mới là

Thái Thú. Trên các Thái Thú có quan Thứ Sử tất nhiên là người Trung Quốc. Các Lạc hầu, Lạc tướng dưới quyền Thái

Thú coi việc trị dân như cũ. Họ vẫn giữ quyền thế tập và chỉ phải mỗi năm nộp thuế cống cho Thái Thú, các Lạc dân vẫn

làm ruộng nộp lúc cho các Lạc hầu, Lạc tướng như dân Mường, Thổ, đối với các quan Lang ngày nay. Họ có bổn phận

phục dịch vào các việc xây thành, đắp đường, dựng lâu đài, doanh trại. Bên cạnh quan Thái Thú có một võ quan chức

Đô Úy, chỉ huy một số quân đồn trú để giữ trật tự. Tóm lại, nhà Tây Hán trong 119 năm đô hộ đối với dân Lạc Việt buổi

đầu bằng một chính sách tương đối tự do và nhân nhượng, nhưng sau khi Vương Mãng thoái vị, nhà Hán trung hưng đối

với các châu quận xa có sự thây đổi do mục đích kiểm soát ráo riết các miền ngoại biên. Trước kia, quan Thử sử (như

chức Thủ Hiến, hay Toàn quyền thời Pháp thuộc) cứ tháng 8 bắt đầu đi kinh lý, rồi đến đầu năm sau về Kinh trình bày

mọi việc. Như vậy vị Thứ sử không ở nhất định tại châu trị. Đến đời Trung Hưng, các Thứ sử không được dời châu trị,

dù có tang cha mẹ. Sự ngặt nghèo này gián tiếp cho ta biết trong thời Tây Hán, mầm cách mạng của dân ta thường hay

nẩy nở làm cho Bắc Triều phải ngày đêm thắc mắc, nên buộc các Thứ Sử phải luôn luôn có mặt tại trị sở để đối phó với

tình thế, đề phòng sự bất trắc, và thi hành những luật lệ khắc nghiệt. Cơ cấu hành chính thời đó đã thiết lập như sau đây:

Thứ sử có các Lạc viên tức là Tòng sự sử giúp việc. Dưới là quan Thái thú có một viên Quận thừa thay mặt Thái thú khi

có nhiều việc. Chung quanh Thái thú có các Duyên sử chia ra các Tào tức là các phòng giấy. Tỉ dụ Công tào sử lựa chọn

người có công lao để tuyển dụng. Mỗi Tài có 1 số Thư tá (thư ký) chuyên việc giấy tờ, bẩm báo. Các quan lại cấp trên

giúp việc Thức sử và Thái thú là người Trung Quốc còn từ Duyên sử và Thư tá thì không nhất định phải là người Trung

Quốc, tức là người bản xứ cũng được dùng đến, miễn có văn tự. Trước cơ cấu chính trị và hành chính trên đây, ta nhận

thấy tuy nhà Tây Hán có đạt ra nhiều phép tắc để ràng buộc dân chúng bản thổ, quân đội thường trú lúc nào cũng có mặt

đẻ đề phòng mầm loạn, nhưng việc cai trị trực tiếp nhân dân vẫn ở trong tay quý tộc ta. Và chỉ có quý tộc bản thổ mới có

đủ uy lực tinh thần và vật chất để cai trị nhân dân, khi đó còn sống lẻ tẻ từng đoàn thể theo hệ thống phong kiến. Vì vậy,

nhà Hán không thể bãi bỏ cái vai trò của quý tộc Giao Chỉ, mặc dầu bao giờ cũng nghi ngờ, e ngại. Có điều khiến ta phải

suy nghĩ là chế độ Lạc hầu, Lạc tướng thời bấy giờ rõ rệt giống chế độ phong kiến thời Trung Cổ ở Âu Châu sau này, các

công, hầu, bá, tử, đã sống nhởn nhơ trên mồ hôi nước mắt đám nông nô. Duy tình trạng quý tộc và dân chúng Giao Chỉ

thuở đó có sự đặc biệt là họ cùng bị áp chế mỗi giới một cách. Do chỗ đồng thuyền đồng điệu này, sau trên một thế kỷ

đau khổ, họ đã hợp sức với nhau để đánh đuổi kẻ thù chung. Viên Thứ sử đầu tiên trên đất Việt là Thạch Đái, đóng ở

Lũng khê (thuộc phủ Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh bây giờ), không thiện mà cũng không ác. Trong một thời gian, việc giao

dịch giữa Giao Chỉ bộ với nhà Tây Hán không thấy sử sách ghi chép mấy. Mãi đến năm Kỷ Sửu tức là năm Khiến Võ

thứ năm, đời vua Hán Quang Vũ (nhà Đông Hán), mới thấy có chuyện Thứ sử Giao Châu là Đặng Nhượng cho sứ đem

công vật về Trung Quốc. Trong thời Vương Mãng cướp ngôi nhà Hán, các quan cai trị Trung Quốc tại Giao Chỉ bộ

không chịu thần phục (Đặng Nhượng, Tích Quang, Đỗ Mục...). Cuộc bang giao giữa Hán triều và Giao Chỉ bộ đứt đoạn

hẳn. Sau này vua Quang Vũ trung hưng mới có sứ bộ Giao Chỉ đi lại. Đáng chú ý, một số quan lại, trí thức Trung Quốc

lánh nạn chính trị chạy qua lưu trú ở Giao Chỉ đã góp một phần đáng kể trong việc mở mang văn hóa ở đây. Và lương

quan của nhà Tây Hán có một vài người như Tích Quang và Nhậm Diên (không phải là Nhâm Diên), Thái thú Giao Chỉ,

Cửu Chân đã tỏ được lòng chân chính với người Việt trong những năm đầu của Công lịch là lúc xảy ra cuộc đô hộ được

ít lâu. Tích Quang sang bên ta từ đời vua Bình Vương (Tây Hán) vào khoảng năm thứ hai, thứ ba và Nhậm Diên từ năm

Kiến Võ nhà Đông Hán. Họ khai hóa cho nhân dân, nhờ vậy dân mới được hiểu biết các điều lễ nghĩa, luân thường, đạo

lý. Họ khuyến khích nông nghiệp bằng cách chỉ bảo trồng trọt canh tác, khẩn hoang dể tăng gia sản xuất. Trước kia, dân

Giao Chỉ quen sinh sống bằng nghề săn bắn, chài lưới. Họ dạy việc lễ nghi, hiếu hỷ đặt thành quy tắc, và đáng chú ý học

thực hành cả lòng nhân đạo bắt đầu ngay từ họ là những nhà cầm quyền (các lại thuộc phải san sẻ một phần lương bổng

của mình để cấp đỡ dân chúng trong việc lấy vợ, lấy chồng). Do điểm này, ta hiểu nhân dân Giao Chỉ bấy giời túng quẫn

như thế nào. Và ta nên nhớ rằng các công cuộc Nhậm Diện và Tích Quang chỉ là sự tiếp tục sự nghiệp của tướng Triệu

Đà thuở trước. Tiếc rằng Nhậm Diện chỉ cai trị quận Cửu Chân có 4 năm rồi phải đổi đi nơi khác. (Dân ta nhớ ơn ông

nên làm đền thờ và lấy tên ông để đặt cho con, có lẽ theo ý họ, nhờ có công mà có dòng có giống?). Sau này chế độ Tây

Hán mỗi ngày một khe khắt do chính sách trực trị được thi hành triệt để, quý tộc và sĩ dân Giao Chỉ không chịu được sự

bóc lột và tàn ác của đế quốc nên phải vùng dậy cùng nhau tranh đấu, chống kẻ xâm lăng. 

80 Việt Sử Toàn Thư

 Phần 2 - Chương 3 Nhà Trưng (40-43 sau Công lịch)

Cuộc Cách Mạng Giải Phóng Dân Tộc Đầu Tiên Của Việt Nam  - Hai Bà Trưng đuổi Tô Định - Cuộc phục thù của nhà

Đông Hán - Tính chất Cách mạng của cuộc khởi nghĩa - Những cuộc cải cách của Mã Viện 

1- Phất Cờ Nương Tử.

 Như ta đã thấy nhà Triệu bị đứt vào năm 111 trước Công lịch rồi nhà Tiền Hán đô hộ nước ta150 năm. Trong khoảng

thời gian này, tuy Nam Việt bị đổi ra Giao Chỉ bộ và sáp nhập vào lãnh thổ Trung Quốc, nhưng dân chúng ở đây được

hưởng thể chế một nước "phụ dung" nghĩa là quý tộc bản xứ vẫn trực tiếp cai trị nhân dân. Mỗi quận có một quan Thái

thú chịu quyền quan Thứ sử là người điều khiển tối cao của Bộ. Ngoài chức Thái thú còn chức quan lệnh để trông nom

hành chính ở cấp huyện thường là người Tàu bổ sang. Xét ra hành chính Giao Chỉ bộ không khác gì nền hành chính ở các

địa phương khác tại lục địa Trung Quốc nhưng có điều kiện là các Lạc hầu, Lạc tướng của chúng ta vẫn được tại vị

nguyên vẹn dầu phải lệ thuộc vào bộ máy chính quyền của người Tàu như trên đã nói. Nhưng đến đầu thế kỷ thứ nhất

(Công lịch) nhà Tiền Hán suy kém dần rồi Vương Mãng cướp ngôi nhà Hán từ năm thứ 9 đến năm thứ 26 Giao Chỉ bộ

xa triều đình nên không còn liên lạc gì với chính quốc. Nhiều văn thần võ tướng của Hán triều sang tỵ nạn ở nước ra để

được yên ổn rồi bọn người di cư này được thay thế dần đám quan lại bản xứ. Họ lại chiếm cả một số ruộng đất ở đây

dựa vào thế họ là người của "Thiên triều". Bị xâm lăng về quyền hành, lại bị đẽo gọt cả về kinh tế, quý tộc cũng như nhân

dân Giao Chỉ rất lấy làm căm phẫn và thấy đời sống bị đe dọa. Lại ngay bấy giờ (Giáp Ngọ (34) năm Kiến Vũ thứ 10)

Tô Định sang làm Thái thú ở quận bóc lột nhân dân quá tệ, dân Việt đến nước không còn chịu đựng được hơn nữa.

Họ tuyệt vọng rồi Giao Chỉ bộ trở thành một đống thuốc súng chỉ đợi người ta ném xuống một chiếc qua diêm là bùng nổ.

Đấy là nguyên nhân gần nhất. Nguyên nhân xa hơn nữa trước khi Tô Định đến Giao Chỉ bộ, dân Việt đã quá nghèo khổ

rồi đến nỗi đầu thế kỷ thứ nhất, nghĩa là trước đó trên 30 năm, Tích Quang và Nhậm Diên17 hai lương lại của Trung

Quốc phải hô hào các lại thuộc bớt tiền lương giúp dân bản địa lấy vợ lấy chồng. Tích Quang cũng như Nhậm Diên nhân

dịp này du nhập văn hóa Trung Quốc vào đất Việt bằng cách dạy dân về lễ nghĩa và nghề canh tác, nhờ vậy mới có đủ

thóc gạo ăn thì dư hiểu hơn 150 năm sống trong cảnh nô lệ, dân Việt đã lụn bại cả về tinh thần lẫn vật chất. Họ ở yên

trong bấy lâu là vì trước đây Tích Quang, Nhậm Diện đã dùng nhiều thủ đoạn khôn khéo xoa dịu nỗi dau khổ của họ

phần nào. Nhưng đây chỉ là những hạt mưa hiếm hoi trong một cánh đồng bị hạn hán lâu ngày. Sự kiện này chỉ trì hoãn

được cuộc nổi loạn nhất thời mà thôi. Hai lương lại này đi rồi, Tô Định dến Giao Chỉ đã áp dụng một chế độ bạo ngược

tham tàn. Một phần cũng tại từ thời Trung hưng (Vương Mãng Đổ, nhà Đông Hán ra đời), chính sách ngoại biên bắt đầu

cứng rắn, nhiều luật lệ ngặt nghèo được đặt ra và các Thứ sử phải ở luôn phủ trị không được đi về như trước để phòng

loạn. Đây là những việc đã khêu ngọn lửa oán hờn của nhân dân Nam Việt. Bấy giờ quý tộc ở Mê Linh, làng Hạ Lôi, tổng

Yên Lãng, tỉnh Phú Yên, có nhà Lạc tướng dòng dõi Lạc vương có nhiều uy danh nhất. Con gái là Trưng Chắc rất dũng

cảm kết hôn cùng con trai Lạc tướng Chu Diên là Đặng Thi Sách bấy giờ đang làm quan lệnh tại địa hạt này18. Đặng Thi

Sách cũng là một nhân vật anh hùng, khí khái, đã cùng Trưng Chắc nên duyên chồng vợ vì đôi bên cùng yêu dân thương

nước như nhau, cùng có đầu óc bài Hán. Vợ chồng họ Đặng đã âm mưu cùng mẹ (mẹ bà Trưng) là bà Man Thiện cháu

ngoại Lạc Vương góa chồng từ sớm, để lật đổ chế độ Hán thuộc. Tình ý của gia đình cách mạng này đã lọt vào mắt của

bọn thống trị nên Tô Định thi hành gấp nhiều biện pháp để ràng buộc và bắt bớ các nhà Cách mạng người Việt mà vợ

chồng Thi Sách được coi là nguy hiểm nhất. Xin nhớ thêm rằng bên cạnh vợ chồng Thi Sách còn Trưng Nhị cũng là một

chiến sĩ rất hăng hái. Sau lời hiệu triệu bí mật của Thi Sách và Trưng Chắc, quý tộc và hào kiệt cùng nhân dân khắp nơi

đều hưởng ứng chẳng khác chi thời kháng chiến chống quân Tần xưa kia. Bắt đầu là các đồng chí ở Đông Sàng(?), Liên

Chiểu, Phù Xá (Phúc Yên) đem nữ binh đến giúp. Quân số mới có 2.000 sau được quân của các bộ lạc, các huyện,

châu, quận gần xa nổi lên ủng hộ đông tới hàng vạn.                                       

 [17 Tích Quang đến Giao Chỉ vào đầu thế kỷ thứ nhất năm thứ ba hay là thứ ba đời vua Bình Vương nhà Tây Hán.

Nhậm Diên làm Thái thú quận Cửu Chân từ năm Kiến Vũ nhà Đông Hán. Cả hai chỉ ở nước ta khoảng 4 hay 5 năm mà

thôi.]

 [18 Chu Diên thuộc phủ Vĩnh Tương trước thuộc về Sơn Tây sau thuộc về tỉnh Vĩnh Yên.]

Cuộc tổ chức võ trang chống Hán còn ở trong vòng âm thầm, bí mật thì Tô Định cho quân đến bắt vợ chồng ông Đặng

Thi Sách. Thế chẳng đừng, cờ Mê Linh liền phất lên công khai nhưng Thi Sách chưa chuẩn bị đầy đủ nên bị tử trận. Việc

rất không may này không làm nản lòng hai vị nữ chiến sĩ; Bà Trưng vội thay chồng cầm quyền đại tướng xông ra trước

quân thù sau khi thiếp lập xong đại bản doanh ở Nam Nguyên (Hát Môn). Quân Cách mạng đánh thẳng vào Liên lâu

thành (theo Maspéro và C. Patris phủ trị của Giao Chỉ bộ bấy giờ đang ở phía Nam tỉnh Hà Đông, bên bờ sông Nhuệ gọi

là thành Liên lâu). Tương truyền khi xuất trận hai Bà cưỡi voi, mặc áo giáp vàng, che lọng vàng, trang sức rất lộng lẫy,

tinh thần không vì việc tang tóc mà suy giảm19.  Quân Hán bấy giờ phần nhiều là quân Bắc, vóc người to lớn khí giới lại

sắc bén, giáp trụ đầy đủ, tiến lui có phương pháp và kỷ luật, tướng tá của họ thông thạo chiến thuật, chiến lược. Quân

Việt thì ô hợp, vũ khí thô sơ, thiếu thốn lại kém rèn luyện ít kinh nghiệm chiến trường. Tuy vậy khi hai quân gặp nhau,

quân Việt nhờ có lòng căm thù bốc mạnh như gió bão nên đánh rất hăng, quân Hán khắp nơi phải bỏ chạy. Chẳng bao

lâu, các quận Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố và toàn bộ Giao Chỉ thuộc quyền kiểm soát của quân Cách Mạng. Núi

sông của Lạc Việt lại trở về tay chủ cũ sau khi Tô Định và lũ bộ hạ chạy tháo thân về Nam Hải20. Dẹp yên quân Hán

thâu được 5621 thành hai Bà xưng vương đóng đô tại quê nhà là Mê Linh. Nền độc lập được thâu hồi từ năm Canh Tí

đến tháng hai năm Quí Mão (40-43 sau C.L.). Các quy mô lập quốc chưa kiệp thành hình và có điều đáng kể, hiệu lệnh

cũng chưa thấu được các châu, quận xa vì đường giao thông khó khăn. Trên thực tế uy quyền của hai Bà chỉ thi thố được

trong nội địa Mê Linh và Chu Diên, nhiều nhất là trong thành ấp, quận Giao Chỉ và Cửu Chân mà thôi22.

2- Cuộc Phục Thù Của Nhà Đông Hán.

 Trong giai đoạn có cuộc cách mạng nổi lên ở Giao Chỉ, nhà Đông Hán cũng đang mắc míu vào nhiều vụ lộn xộn bên

Trung Quốc nên chưa đối phó ngay được với nhà Trưng. Họ mới chỉ ra lệnh cho các quận miền Nam dự bị xe cộ, thuyền

bè, binh sĩ, bắc cầu, đắp đường cùng dự trữ lương thực.                                       

 [19 Quân sĩ tỏ vẻ ngạc nhiên. Hai Bà giải thích rằng việc nước là hệ trọng, không thể vì nỗi đau buồn riêng mà hủy bỏ

dung nhan khiến thần thí kém đi. Trái lại, phải phấn khởi quân sắc y phục rực rỡ để quân địch bị xúc động mới dễ thắng.]

[ 20 Tô Định bỏ chạy. Thứ sử lúc này ở Liên lâu thành với họ Tô cũng tháo lui một lúc bởi bấy giờ nước ta chia ra làm 2

quận: Giao Chỉ và Cửu Chân. Thứ sử đóng tại Giao Chỉ nên cùng ở một nơi với Thái thú.]

[ 21 Tô Định bỏ chạy. Thứ sử lúc này ở Liên lâu thành với họ Tô cũng tháo lui một lúc bởi bấy giờ nước ta chia ra làm 2

quận: Giao Chỉ và Cửu Chân. Thứ sử đóng tại Giao Chỉ nên cùng ở một nơi với Thái thú.]

[ 22 Miền Hợp Phố và Nhật Nam bấy giờ không có quan hệ trực tiếp với Mê Linh vì cách quá xa. ]

Tháng 12 năm 17 hiệu Kiến Võ (tháng 1 năm 42) Hán triều cử Mã Viện là một lão tướng hữu danh 70 tuổi, vừa đàn áp

xong cuộc quật khởi của Lý Quảng ở Hoãn Thành (An Huy) trở về. Mã Viện được phong chức Phục Ba tướng quân cầm

đầu cuộc viễn chinh. Phụ tá của Mã có Lưu Long và Đoàn Chí. Họ Đoàn phụ trách về thủy quân. Các tướng Hán mang

hơn một vạn binh sĩ lấy ở các quận Tràng Sa, Quế Dương, Linh Lăng và Thương Ngô. Tháng 9 năm 17 hiệu Kiến Võ

(năm 42 sau C.L.); họ lấy thêm 12.000 ở các quận thuộc về bộ Giao Chỉ, (chắc là ở các địa hạt thuộc Nam Quảng Tây

chưa chịu ảnh hưởng của nhà Trưng). Bộ binh của Hán từ Hồ Nam tiến xuống Quảng Tây và Quảng Đông tập trung với

thủy quân của Đoàn Chí ở Hợp Phố. Đoàn Chí đến đây chưa bao lâu thì bị bệnh và chết. Vua Hán ra lệnh cho Mã Viện

theo đường thủy mà tiến vào. Họ Mã phải đi tắt qua Quảng Yên rồi do sông Thái Bình mà xâm nhập vào nội địa của dân

ta23. Quân lâu thuyền (thuyền chiến có lầu) lục tục đi theo do sông Bạch Đằng. Ở những miền Hán quân đi qua bấy giờ

không sự kháng cự nào đáng kể, có lẽ các bộ lạc chưa kịp tổ chức kháng chiến hoặc không chịu mệnh lệnh của Mê Linh.

Theo Ch. Patris các tù trưởng đã kếp hợp với hai Bà chỉ do mục đích đả phá chế độ trung ương tập quyền của nhà Hán

không lẽ họ lại tự ý khuất phục hai Bà dù sao cũng chỉ là một trong các nhóm tù trưởng ở xứ Giao Chỉ như họ bấy giờ mà

thôi ... Hình như thấy việc đi sâu vào nội địa của nhà Trưng là điều bất lợi, quân Đông Hán lại rút ra hoặc bị đánh bật ra,

rồi họ về đóng ở Lãng Bạc gần Tiên Du Sơn, thuộc tỉnh Bắc Ninh ngày nay. Theo H. Maspéro, Lãng Bạc đây không phải

Hồ Tây bây giờ mà là một địa điểm ở sát hai con sông chảy về phía Nam Giao Chỉ, giữa thành Cổ Loa ở phía Tây và

Long Uyên ở phía Đông. Giáo sư H. Maspéro dựa vào sách Thủy Kinh Chú. Tới đây khí hậu ác độc của phương Nam

đã làm cho binh sĩ Đông Hán tật bệnh nhiều, nào nước lụt, nào mưa nhiều, nắng hạ bốc lên như lửa đốt, trên trời diều hâu

đang bay bỗng rớt xuống mà chết. Chính Mã Viện lúc này cũng thấy ngao ngán cho cái ấn phong hầu và cái quyền đại

tướng của mình. Nhưng nghĩ đến sứ mạng quận vương trao cho rất là trịnh trọng. Mã phải gắng. Rồi một trận lớn đã diễn

ra tại Lãng Bạc do sự tấn công của Việt quân tự Tây Vu (hay Tây Lý) kéo đến (vào tháng 3 năm 18, hiệu Kiến Vũ tức là

tháng 4 năm 43). Trưng Vương đại bại rút về Cẩm Khê (theo Cương Mục). Cẩm Khê thuộc phủ Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh

Yên. Theo chúng tôi ở bên sông Thao, tỉnh Phú Thọ 10 cây số về phía Bắc có huyện Cẩm Khê, trước mặt có nước, sau

rừng rậm có núi cao, có thể Trưng Vương đã cố lợi dụng địa điểm quân sự này chăng? Ngay tại làng Hiền Quan trông

sang tỉnh lỵ Phú Thọ có một ngôi đền lớn thờ một vị nữ tướng của nhà Trưng, điều này cũng đáng cho ta suy nghĩ.            

[ 23 Theo Nguyễn Văn Tố, Mã Viện dùng đường biển quan vùng Ô Hứa (Lạng Sơn) men theo một bên là núi, một bên là

nhánh Bắc sông Thái Bình để tránh các đầm lầy bởi thuở đó nước thủy triều còn vào đến Trung châu ngày nay. ]

Theo Hậu Hán Thư, Lưu Long phá được nghĩa quân, bắt được Trưng Nhị nhưng Mã Viện Truyện cũng trong sách ấy

chép rằng tự Mã Viện đuổi được quân của nhà Trưng đến Cẩm Khê và đánh tan được nghĩa binh. Tháng Giêng năm sau,

Mã Viện chém được Trưng Chắc và Trưng Nhị rồi gởi đầu về Lạc Vương báo tiệp. Theo sử ta và theo thần tích làng Hạ

Lôi chỉ có Trưng Nhị tử trận, còn Trưng Trắc thì lên núi Hi Sơn rồi hóa. Dã sử của ta nói hai Bà tự trầm ở Hát Giang.

Nay ở bãi Đồng Nhân gần Hà Nội có đền thờ hai Bà hàng năm đến 6 tháng 2 thì có hội và quốc tế. Sau cuộc đại thắng

này Mã Viện tiến vào Cửu Chân với hai ngàn chiếc thuyền và hai vạn quân trừ nốt được thủ túc của Trưng Vương là bọn

Đô Dương từ huyện Võ Công đến huyện Cư Phong, chém được hơn hai ngày thủ cấp.

3- Tính Chất Cách Mạng Của Cuộc Khởi Nghĩa Năm Canh Tý.

 Cuộc chống đối một Đế quốc xâm lăng hay thống trị để giải ách cho nhân dân và để thoát ly nô lệ phải được gọi là cuộc

Cách mạng. Sử ta trước đây chưa quen với danh thừ mới này còn các nhà chép sử vào thời Pháp thuộc cũng e dè là điều

ta đã hiểu nên chỉ gọi cuộc chống đối của hai Bà Trưng là cuộc khởi nghĩa. Cuộc Cách mạng năm Canh Tý ngày nay

được quan niệm là một đấu tranh do thị tộc mẫu hệ lĩnh đạo, do quý tộc chỉ huy và do nhân dân tích cự tham gia, hưởng

ứng. Nó biểu thị được thinh thần bất khuất của ông cha người Việt chúng ta đã luôn luôn coi Tự do, Độc lập là lẽ sống

duy nhất từ thuở còn quy tụ ở lưu vực sông Dương Tử xuống đến phần đất cuối cùng của Hoa Nam ngày nay. Cuộc

Cách mạng trên đây đã thành công mau lẹ buổi đầu nhờ sự đoàn kết giữa các bộ lạc không cam khuất thân làm tôi tớ

người ngoài. Về sự thất bại của nó. Theo ô. Bùi Quang Tung, giảng sư tại trường Văn Khoa đại học: "Nhà nước tự chủ

do Trưng Vương xây dựng với sự tập hợp của các bộ lạc trong ấy về kinh tế thì quan hệ sản xuất thị tộc còn nặng về

chính trị thì xu hướng phân tán tự lập còn mạnh, chưa có cơ sở nào tổ chức vững chắc nên trước sự phản công mạnh mẽ

của Hán quân là lực lượng quân sự của một quốc gia hùng cường, thì nó không thể duy trì nổi. Vì thế mà sự thất bại cũng

mau chóng và dễ dàng ..." Lương Đức Thiệp trong Việt Nam Tiến Hóa Sử nói: "Một xã hội không thống nhất như xã hội

phong kiến đâu có thể gây được sức đoàn kết lâu dài, huống chi xã hội nông nghiệp lại không phải là chỗ tựa vững bền

cho xã hội thị tộc mẫu hệ sinh tồn. Ngay những mâu thuẫn nội tại này cũng đủ làm cho sự nghiệp của hai Bà phải nghiêng

ngửa, huống chi hai Bà còn phải đương đầu với những lực lượng binh bị có tổ chức nữa, nên khi Mã Viện đem quân sang

chinh phạt, hai Bà đương không nổi đều bị hại. Đám quân ô hợp tự tan rã. Bọn quý tộc phần thì bỏ trốn, phần thì đầu

hàng..." Về nguyên nhân phát sinh ra cuộc Cách mạng năm Canh Tý, một số sử cũ của ta đã vô tình cho rằng động lực

thúc đẩy nó là một cuộc báo phục của cá nhân bà Trưng. Tỉ dụ Đại Nam Quốc Sử Diễn Ca có câu: Bà Trưng quê ở

Châu phong Giận người tham bạo thù chồng chẳng quên.

Chị em nặng một lời nguyền, Phất cờ nương tử thay quyền tướng quân v.v... rồi từ Việt Nam sử lược, Việt Nam văn hóa

sử cương, Khâm định Việt sử v.v... cũng không có sự trình bầy rõ rệt tính cách của cuộc Cách mạng này khiến hậu sinh

chúng ta có thể lầm rằng bà Trưng đã vì thù nhà hơn vì hận nước. Nhưng nhiều sách sử của Trung Quốc lại nhắc đến việc

hai Bà phân minh hơn. Hậu Hán Thư viết: Người đàn bà ở Giao Chỉ tên là Trưng Chắc với em là Trưng Nhì làm phản

"Chú: Trưng Trắc là con gái Lạc tướng ở Mê Linh, vợ người huyện Chu Diên tên là Thi Sách rất hùng dũng". Thái thú

Giao Chỉ là Tô Định lấy pháp luật mà ràng buộc. Chắc oán giận nên làm phản. Việt Kiều Thư, Annam Chí Nguyên cũng

xác nhận như trên, sau này giáo sư Maspéro cũng cho rằng: dân tộc Lạc Việt bấy giờ oán ghét Tô Định lắm. Họ đã sắp

đặt âm mưu chống Hán và người đứng đầu là Thi Sách. Như vậy ta hiểu rằng Thi Sách không bị giết thì cuộc Cách mạng

vẫn bùng nổ chỉ khác việc Tô Định giết Thi Sách đã thúc đẩy cuộc Cách mạng tiến gấp mà thôi. Ngoài ra ta nên nhớ rằng

nếu lòng người không chán ghét Tô Định và chế độ cay nghiệt của nhà Đông Hán, người ta có thể vì cuộc báo thù của

một cá nhân mà nổi lên như sóng cồn chống quân thống trị chăng? Dân Giao Chỉ, Cửu Chân đã vậy, còn dân Nhật Nam,

Hợp Phố là những dân ở xa ảnh hưởng của quý tộc Giao Chỉ thì sao? Tóm lại, khi mà toàn dân nổi lên tranh đấu thì cuộc

tranh đấu phải là vì chính nghĩa chớ không bao giờ vì quyền lợi của một cá nhân, dầu cá nhân đó có nhiều uy vọng đến

đâu ! Do những lý kể trên, ta có thể kết luận việc chống Hán năm Canh Tý bắt nguồn ở ý định lật đổ chế độ Hán thuộc

và do lòng ham sống tự do của giống dòng Hồng Lạc vậy. 

86 Việt Sử Toàn Thư

 Phần 2 - Chương 4 Bắc Thuộc Lần Thứ Ba (Từ Đông Hán đến Nam Bắc triều)  (43-544)

1- Cuộc Cải Cách của Mã Viện tại Giao Châu.

 Nhà Trưng bị diệt rồi, Mã Viện thấy cần phải thiết lập một chế độ chặt chẽ để kìm hãm tinh thần quật cường của dân

Giao Chỉ, đồng thời để thanh toán bằng uy quyền và võ lực những yếu tố bảo thủ còn ngăn trở ít nhiều chính sách đồng

của Trung Quốc. Thực ra những yếu tố bảo thủ này còn non nớt do từ đời Hồng Bàng đến nhà Thục, nhà Triệu cho tới

thời nhà Trưng mở nước, dân Lạc Việt ta chưa ra khỏi tình trạng sơ khai. Nền văn hóa cố hữu của chúng ta dù sao cũng

chỉ là một sự chớm nở đang tràn đầy sinh khí. Mã Viện đã thắng một cách dễ dàng, nhất là lúc này dân Giao Chỉ vừa bại

trận, tinh thần đang bị tê liệt hẳn, trước một chính sách hoàn toàn dựa vào sắt máu. Mã Viện đi kinh lý khắp mọi nơi từ

Giao Chỉ đến Cửu Chân đặt đồn ải, thành trì để phòng ngự cuộc dấy loạn. Chỗ nào có cư dân đông đúc, Mã Viện đặt

quân, huyện rồi dùng người Trung Quốc điều động guồng máy cai trị. Nơi nào rộng quá thì xẻ ra cho nhỏ đi để tiện việc

kiểm soát. Chỗ nào có thể mở mang việc canh tác, Mã Viện cho đào sông khai ngòi. Về luật pháp, Mã Viện xin Hán

triều ban bố một chế độ riêng biệt giữa người Việt và Hán, tất nhiên để câu thúc dân bản địa gắt gao hơn. (Hán Hậu Thư

quyển 44). Với chế độ này, giai cấp phong kiến và quý tộc Giao Chỉ mất hết uy quyền và ảnh hưởng mà Bắc phương đã

nhận rõ là rất nguy hiểm cho việc đô hộ, do kinh nghiệm ở những việc đã xảy ra tức là từ nay Giao Chỉ bộ phải chịu chế

độ trực trị. Về phương diện kinh tế, xã hội, Mã Viện cũng du nhập vào xứ này mọi phương thức của Trung Quốc. Kết

quả của cuộc thay đổi cảnh này bi đát như thế nào? Chúng tôi nói cuộc cải cách Mã Viện là điều bi đát bởi chúng tôi nghĩ

rằng nó đã thủ tiêu một phần quan trọng cái tinh thần cố hữu của người Lạc Việt, là một cái gì quý nhất cho một dân tộc

tuy rằng sau này cũng có sự bù trừ một phần nào. Theo Đào Duy Anh, về phương diện nhân chủng, buổi đầu người Lạc

Việt có lẽ còn mang rất ít yếu tố Mông-gô-lích, rồi trải qua hai thế kỷ thuộc nhà Triệu và nhà Tây Hán do sự hỗn hợp

Việt Hán, yếu tố này tăng lên, nhưng yếu tố Anh-đô-nê-diêng vẫn còn giữ phần chủ yếu. Sau này với Mã Viện và cuộc

đô hộ trên một ngàn năm, sự tạp chủng với người Hán lại mạnh mẽ và ráo riết hơn lên, vì vậy sự thay đổi trong con người

Lạc Việt càng rộng lớn hơn. Chứng cớ là cái mặt của người đàn bà Việt đào được ở Đông Sơn dưới đời Tống, sau thời

kỳ Bắc thuộc, đã có nhiều nét Mông-gô-lích, duy cái sọ là còn dấu tích Anh-đô-nê-diêng mà thôi. Tuy vậy tính tình,

phong tục, chế độ của người Việt Nam nhất là người bình dân dưới các đời Trần, Lê vẫn còn giữ được một phần nào đặc

biệt hay cố hữu, nếu so với dân Trung Quốc về phương diện này. Đến nay ta có thể nói rằng dù cuộc đồng hóa trong thời

Bắc thuộc đã đi sâu, bén rộng vào cơ cấu chủng tộc và văn hóa của người Lạc Việt, nhưng qua thời kỳ nô lệ Trung

Quốc, người Việt đã lấy tư cách Lạc Việt, dung hòa những yếu tố chủng tộc và văn hóa của người Hán tộc và một ít yếu

tố của các giống khác để thành một nhân cách riêng. Nhân cách này đã được cấu tạo và đào luyện trong các cuộc tranh

đấu đầy gian lao, đau khổ giữa những ngày nhục nhã và vinh quang qua 10 thế kỷ. Một điều đáng kể sau khi hỗn chủng

và đồng hóa với người Hán, cái gốc Lạc Việt chia làm hai chi phái: Một chi phái ở đồng bằng, do sự sinh hoạt và giao

thông dễ dàng đã chịu khá nhiều ảnh hưởng của Hán tộc. Một chi phái tản mác lên các miền Thượng du ít xúc tiếp với

người Hán nên còn giữ được nhiều yếu tố Lạc Việt thuần túy hơn. Đó là những người Mường mà một số đồng bào chúng

ta ngày nay còn ngộ nhận là dị tộc. Về văn hóa Lạc Việt, từ cuộc cải cách Mã Viện, ta còn thấy có sự biến đổi (về kỹ

thuật) do những đồ cổ tích đào được ở Đông Sơn, trọng yếu nhất là đồ đồng mà nhà khảo cổ học Goloubew đặt vào thế

kỷ thứ nhất thức là thời kỳ Mã Viện làm mưa nắng ở đây. Những đồ đồng này chia ra làm 3 bộ: bố thứ nhất là những

trống đồng, lưỡi búa, lưỡi rìu, mũi mác, mũi tên, gươm hai lưỡi, dao găm có hình người cùng một số đồ trang sức thuần

túy Lạc Việt, nhất là cái trống đồng Ngọc Lư. Bộ thứ hai là cái bình kiểu biển hồ, cái gương kiểu nhà Hán, những đồng

tiền ngũ thù do người Trung Hoa đem đến. Bộ thứ ba là những đồ mà về mặt kỹ thuật đã chịu ảnh hưởng của Trung

Quốc, đại khái cái bình lớn có vết khuôn những miếng giáp đồng, những dao găm, những đồ nửa đồng nửa sắt. Để kết

luận, ta nhận thấy vài ảnh hưởng của Trung Quốc giữa thế kỷ thứ nhất về mọi phương diện chưa đậm đà lắm, nhưng sau

này do cuộc đô hộ của nhà Đông Hán tiếp tới hơn 10 thế kỷ Bắc thuộc, ảnh hưởng của Hán tộc càng ngày càng mạnh

nên những đồ dùng đào được ở Đông Sơn về đời Tống chỉ còn là đồ gốm của người Trung Hoa, đồ đồng của người Lạc

Việt không thấy dấu vết nữa, chắc là mai một từ thuở đó. Sự trạng này đã giúp luận cứ cho Maspéro đề kết rằng chính

Mã Viện là người đầu tiên đã dùng bạo lực cưỡng gian văn hóa Lạc Việt tức là văn hóa Trung Quốc đi sâu xa vào đời

sống của xã hội chúng ta từ cuộc tái chiếm Giao Chỉ của nhà Đông Hán. Mã Viện chết đi, người Trung Quốc ở thị trấn

Đông Hưng24 có dựng đền và đúc tượng để thờ, ý chừng họ muốn thị oai với dân Việt. Một nhân vật vô danh đi qua có

đề bài thơ dưới đây:  Trèo non vượt bể biết bao trùng!  Một trận Hồ Tây chút vẫy vùng  Quắc thước khoe chi mình tóc

trắng,  Cân đai đọ với khách quần hồng! Gièm chê luống những đầy xe ngọc.  Công cáo ra chi dựng tượng đồng?  Ai đó

chép công, ta chép oán  Công riêng ai đó, oán ta chung. 

[ 24 Thị trấn Đông Hưng của Tàu trông sang Moncay của ta chỉ cách con sông hẹp và cái cầu sắt. ]

Một bài Vịnh hai Bà cũng một tác giả khuyết tên tuổi: Một bụng em cùng chị,  Hai vai nước với nhà.  Thành Mê khi đế

bá,  Sông Cấm lúc phong ba.  Ngựa sắt mờ non Vệ,  Cờ lau mở động Hoa.  Ngàn năm bia đá tạc,  Công đức nhớ Hai

Bà 

89 Việt Sử Toàn Thư

 Phần 2 - Chương 5 Người Việt Nam Học Chữ Tàu 

- Việc truyền bá Hán học - Ảnh hưởng của Phật Đồ với nền văn học cũ của chúng ta - Một vài điều sai lầm về Sĩ Nhiếp 

1- Việc Truyền Bá Hán Học.

 Hồi Hán thuộc, người Việt Nam học chữ Hán, cũng thi cử, cũng đỗ đạt. Có thể nói rằng tính hiếu học của người Việt là

một điều đặc biệt, ai ai cũng thán phục. Đối với cái gì gọi là văn minh tư tưởng cho đến cả tôn giáo, người Việt rất hoan

nghênh chỉ trừ chính sách đô hộ, thực dân, đế quốc thì ở vào tình thế nào người Việt cũng chống lại. Có tiếng trong đám

người theo đuổi Hán học thuở xưa là: Lý Tiến, người Cao Hưng, đất Giao Chỉ, do tài học đã giữ được chức Thái Sử,

khoảng niên hiệu Trung Bình đời Hán Linh Đế (183-189). Lý Cầm người Giao Châu làm túc vệ trong triều Hán (205

trước T.C-219) sau giữ chức Tư Lệ Hiệu Úy. Hai ông này đã tranh đấu để các người trí thức Giao Châu được trọng

dụng vào các địa vị ngang hàng với người Tàu. Trương Trọng, người Hợp Phố có tài biện bác và nhanh trí khôn cũng làm

một chức hầu cận vua Hán, sau làm Thái Thú Kim Thành đã biết giữ gìn thể diện quốc gia trong khi ứng đối với vua Hán.

(Vua Hán một hôm có hỏi: Dân Nhật Nam đều hướng về phương Bắc, chầu mặt trời phải không? Trương Trọng trả lời:

tên quận cũng có nơi gọi là Vân Trung hoặc Kim Thành, nhưng sự thật có thế đâu. Quận Nhật Nam mặt trời cũng mọc ở

đằng Đông... còn chỗ ở của quan cũng tùy tiện về phương hướng hoặc Đông hoặc Tây, hoặc Nam hay Bắc... chớ không

nhất định về phía nào). Tinh Thiều cũng là một nhà văn học thuở nhà Lương (505-543) cai trị Giao Châu. Ông không

thèm nhận chức Quảng Dương Môn Lang do Sài Tiến thượng thư triều Lương đề nghị. Ông lui về quê hương rồi giúp

Ông Lý Bôn (Lý Bí) năm 544 đánh đuổi Thái Sử Tiêu Tư lập ra nước Vạn Xuân. Khương Công Phụ đậu tiến sĩ dưới đời

Đường Đức Tông (789-804) làm quan đến chức Bình Chương (An Nam Chí Nguyên) Chúng tôi giới thiệu đây mấy nhà

khoa mục và văn học thời Bắc thuộc để các bạn hiểu sự truyền bá văn học của Sĩ Nhiếp. Nhậm Diên, Tích Quang đã tạo

nên những đệ tử sau này đến bực nào. Nhưng chắc chắn muốn học đến trình độ cao cả thì học sinh người Việt phải sang

tận Trung Quốc mới thành đạt lớn được. Dầu sao ta cũng có thể nói rằng được ăn học đầy đủ, khả năng của trí thức Giao

Chỉ chẳng kém gì trí thức Trung Quốc. Chứng cớ là nhiều người Việt đã từng giữ chức Thái Thú, Thái Sử và Tiết Độ Sứ,

do chính người Tàu đặt ra thì rõ người Giao Châu đã làm cho các vương triều Trung Quốc kiêng nể e ngại là phải. Và Lý

Tiến, Lý Cầm dâng thư lên vua Hán để đòi được đãi ngang với người Hán đã chỉ căn cứ vào thực tại của những trí thức

Giao Chỉ bấy giờ. Ngoài ra, ta lại nhớ rằng các nhà trí thức trên đây đã dự một phần quan trọng trong việc truyền bá Hán

học. Thân thế và sự nghiệp của họ cũng là một điều đã có ảnh hưởng cho phong trào Hán học dưới thời Hán thuộc rất

nhiều. Có người cho rằng bọn người này chỉ là tay sai cho các đế quốc đời bấy giờ thì dù sao mọi hoạt động của họ cũng

không đáng kể. Xét lời phê bình quá nghiệt ngã và quá câu chấp, vì ta nên nhìn nhận ảnh hưởng của họ nếu quả họ đã gây

được một ảnh hưởng nào khả quan; vả chăng trong khi chưa đủ sức chống lại kẻ mạnh thì phải học đòi cái tài giỏi của kẻ

mạnh đâu có phải là chuyện vô ích. Còn việc khôi phục độc lập, mưu đồ phú cường phải chờ thời, tùy thế, chẳng hơn cứ

đóng cửa, ngồi nhà cứ ôm lấy sự u tối sao? Mà thái độ cố chấp tiêu cực có phải là một lợi khí, một phương tiện tranh đấu

bao giờ đâu!

 2- Ảnh Hưởng Của Phật Đồ Với Nền Văn Học Của Chúng Ta.

 Đạo Phật lan vào đất Việt qua đường Ấn Độ Dương, và do các nhà cai trị Trung Quốc. Tôn giáo này, du nhập vào xứ

sở chúng ta trong thời Bắc thuộc qua ba thời kỳ: A) Từ đầu thế kỷ III đến thế kỷ VI. Ban đầu, Khang Tăng Hội (Sogdien

Seng Houei -- 280), thứ đến Khương Lương Lâu Chí (Indoscythe Kaliyanaruci -- 255 hoặc 256) rồi tới các thầy tu Ấn

Độ Ma La Kỳ Vực (Ksudra -- 294) là những nhà truyền giáo Phật Giáo trước nhất. Sau là Mâu Bắc (Meou Po), người

Tàu, vì nghiên cứu Phật Giáo mà tới Bắc Việt. B) Sư Ti Ni Da Lưu Chi (Vinitaruci) từ năm 580 Bắc Việt giảng dạy tại

chùa Dâu về Thiền Tông và lập một tông phái ở Bắc Ninh lấy danh hiệu là xứ đó. C) Vô Ngôn Thông (họ Trịnh) sang trú

ở chùa Kiến Sơ, làng Phù Đổng, huyện Tiêu Du, tỉnh Bắc Ninh hồi tháng 9 năm Đường Nguyên Hòa thứ 15 (820) tu theo

lối "Bích Quan" của Đạt Ma (Bodhi dharma) và lập ở chùa đó một thiền tông mới. Các Phật Đồ kể trên đây trong khi

truyền giáo đã gián tiếp giúp rất nhiều cho nền văn học của chúng ta buổi đầu tiên suốt 700 năm. Rồi sau Vô Ngôn

Thông, nhiều tăng ni ra đời. Bọn người này đã phải dùng Hán học làm cái chìa khóa để mở cửa Phật và khi giảng dạy kinh

kệ, nếu không thâm thúy về Hán học đâu có thể cắt nghĩa được về các điều mầu nhiệm, xa xôi của Phật Giáo. Ta còn nên

nhớ rằng dưới triều Đường có bốn vị cao tăng (Vô Ngãi tu ở chùa Thiên Tỉnh, hạt Cửu Châu, Phụng Đình, Duy Giám...)

đã sang cả bên Trung Quốc giảng kinh trong cung nhà vua và khi già mới trở về nước. Ngoài ra, tăng giới Việt Nam sau

thời Bắc thuộc cũng sản xuất được nhiều vị khác nữa dự vào văn học và chính giới, đóng những vai trò rất quan trọng.

Chúng tôi xin kể ở những trang sau. Để kết luận, vấn đề văn học thời Bắc thuộc chúng ta có thể tóm tắt nhờ việc người

Trung Hoa đặt chủ quyền trên đất Giao Chỉ, Hán học đã ảnh hưởng lớn lao đến đời sống dân tộc và quốc gia của chúng

ta. Dân ta trở nên một quốc gia văn hiến, có nhiều thuần phong mỹ tục. Đó là một điều lợi ích vĩ đại chẳng nên chối cãi.

Đem sự đau khổ dưới ách thống trị của ngoại bang mà đổi lấy một nền văn hóa sáng sủa tốt đẹp, người Việt thức thời

chúng ta hẳn không phàn nàn, đã đành rằng người Việt học chữ Hán chỉ biết đại khái về văn tử từ chương mà thôi, chớ

chưa thật đã đi sâu vào cõi học thuật và tư tưởng của Trung Quốc, huống hồ vào đời Tần Thủy Hoàng các việc đốt sách

Nho, chôn học trò (246- 208 tr. C.L.) tất nhiên sách vở đưa sang đây không đầy đủ được. Người Việt xưa kia hẳn chỉ

bước tới cái bậc từ chương mà thôi nhưng trong giới văn học bấy giờ cũng có nhiều người tỏ ra thông minh lỗi lạc chẳng

kém gì các danh sĩ Trung Quốc, cứ xem việc xướng họa và ngoại giao dưới đời Lê Đại Hành với Bắc triều sau này đủ rõ.

Và sử chép rằng vì bài thơ tiễn sứ (tiễn Lý Giác) mà Giao Chỉ là một nước mới mẻ, non nớt đã nổi tiếng là văn hiến đối

với người Tống.

3- Phật Giáo.

 Ngoài ảnh hưởng của Phật Đồ đối với văn học sơ khai thuở ấy, ta còn nên tìm hiểu qua một vài nét chính của tôn giáo

này và sự phát triển của nó trên đất Trung Quốc trước khi qua Việt Nam. Phật Giáo do đức Thích Ca Mâu Ni xướng

lên, chủ trương giải thoát con người ra khỏi điều khổ não là: sinh, lão, bệnh, tử. Ngoài bốn điều này đã do Tạo Hóa gây

nên trong khi cấu tạo con người cũng như khi xây dựng vũ trụ. Tạo hóa còn đặt ra những định luật khắc khe là có sinh

phải có diệt, có hình hài thì phải chịu sự hủy hoại, suy vong, lại còn bao nhiêu điều đau khổ khác phát sinh bởi lòng dục.

Lòng dục của con người là những sự ham mê danh lợi, phú quí, sắc đẹp... nó là những nghiệp báo, những căn nguyên của

mọi sự đe dọa, trụy lạc. Đạo Phật quan niệm rằng muốn tránh được các điều nghiệp báo, oan gia thì cởi bỏ lòng dục, thi

hành việc thiện ích cho đời, cho đồng loại, cho muôn vật. Những hành động có thiên lương ở kiếp này sẽ ảnh hưởng tốt

đẹp cho kiếp sau. Đó là luật nhân quả. Trái lại, nếu con người cứ đắm chìm trong dục vọng sẽ phải luẩn quẩn mãi mãi

trong vòng luân hồi. Ngoài ra, cắt bỏ được lòng dục đầy tội lỗi không những người ta tránh được các điều hệ lụy của kiếp

này mà còn được hưởng thụ nhiều về kiếp sau hay sẽ được lên cõi Niết Bàn và thành Phật. Khi đó sẽ không còn vấn đề

sinh diệt nữa. Không tham danh lợi khỏi ưu phiền, Niệm chí từ bi dứt nghiệp duyên, Vớt kẻ trầm luân nơi khổ ải, Noi

theo tôn chỉ hội quần tiên. Phê bình đạo Phật về phương diện thực hành người ta cho rằng đối với cuộc cạnh tranh và đời

thực tế nhất là trong kỷ nguyên nguyên tử này, chủ trương nhập thế và xuất thế của Phật Giáo không thích hợp với nhân

sinh, thế sự. Loài người lúc này chỉ tôn thờ sức mạnh, không có triết lý nào hơn là sức mạnh và quyền lợi thì một tôn giáo

xây dựng trên căn bản đạo đức thuần túy không thể nào giải quyết được mọi vấn đề hạnh phúc và hòa bình trên thế giới.

Ít nhất mọi dân tộc trên thế giới cùng chấp thuận một quan niệm tôn giáo và hòa bình theo Phật Giáo thì mới có kết quả

được.

Cội rễ của đạo Phật là đạo Bà La Môn (Brahmane) nhưng tôn chỉ của đạo Phật lại chống với đạo này rồi hai tôn giáo đã

mâu thuẫn nhau trong một khoảng thời gian khá dài. Sau ba bốn thế kỷ, đức Thích Ca mất đi rồi, đạo Phật mới hưng khởi

ở Ấn Độ. Đức Thích Ca Mâu Ni, thủy tổ của Phật Giáo đã áp dụng lý thuyết của Ngài trước hết (sau cái quan niệm: đời

là sông mê, bể khổ...), Ngài thuộc dòng vương tộc ở Ấn Độ, có vợ có con. Ngài đã bỏ lầu son gác tía đi tìm đạo, mục

đích dìu dắt người đời ra khỏi cảnh trầm luân đày đọa. Theo đạo phái miền Bắc Ấn Độ, Ngài sinh năm 1028 (trước Thiên

Chúa) vào đời Chu Chiêu vương. Đạo phái miền Nam cho rằng Ngài sinh khoảng 624. Nhưng theo các nhà bác học

ngày nay thì Ngài đồng thời với Khổng Phu Tử nghĩa là Ngài xuất thế vào năm 558 hay 520. Đời vua Hán Vũ Đế (140-

86 trước CL), quân nhà Hán đánh hung nô lấy được tượng kim nhân và thấy người Hung Nô thắp nhang thờ phật, đến

đời vua Ai Đế là Công lịch năm thứ hai, vua Hán cho Tần Cảnh Hiến sang xứ rợ Nhục Chi học truyền khẩu các kinh

phật. Người ta thấy tôn giáo này có nhiều tốt đẹp và cũng muốn vãn hồi nhân tâm, thế tục nên nhập cảng Phật Giáo vào

Trung Quốc. Có thể vãn hồi nhân tâm thế tục không phải chỉ là phục hưng tinh thần đạo đức trong đám dân chúng mà

còn ở cả trong giai cấp phong kiến, quí tộc từ ngàn năm trước đã vì cuộc tranh giành quyền vị mà gây nên bao nhiêu cuộc

đảo lộn xã hội, thảm cảnh máu đổ thịt rơi. Các nhà chính trị xưa hoặc nay đều thường nhìn các tôn giáo vào điểm này

trước hết, còn những người thường chỉ lưu ý vào triết lý và luân lý của nó. Rồi Phật Giáo mỗi ngày một đi rộng trên đất

Tàu qua các triều đại. Vua Minh Đế nhà Đông Hán phái Ban Siêu đi sứ các nước Tây Vực, Hán sử báo cáo tình hình

Phật Giáo thịnh hành ở đây nên sau đó nhà vua cử Thái Am sang Tây Trúc mời các thầy tăng Ấn Độ về nước để thuyết

giáo tại Trung Quốc. Thái Am mang về được 42 chương kinh. Đến đời Tam Quốc mới có người giữ việc truyền bá đạo

Phật. Việc sưu tầm kinh kệ càng ngày càng mạnh rồi các kinh kệ được dịch ra chữ Tàu để phổ biến khắp dân gian. Đến

đời nhà Đường (630) nhà sư Huyền Trang (tục gọi là Đường Tam Tạng) cũng qua Ấn Độ với sứ mạng là khảo cứu Phật

Giáo và đem về Tàu được 650 bộ kinh. Bốn mươi hai năm sau, dưới đời Đường Cao Tông, ông Nghĩa Tĩnh rước về

được 400 bộ nữa.

4- Một Vài Điều Sai Lầm Về Sĩ Nhiếp.

 Chép thân thế và sự nghiệp của Sĩ Nhiếp, một lương lại có tiếng thời Bắc thuộc, trọng nhậm ở nước ta giữ buổi loạn ly,

nhiều nhà chép sử đã đề cao một cách quá đáng vị quan cai trị này: người ta tôn Sĩ Nhiếp lên bậc Vương; có người tặng

Sĩ Nhiếp một sự nghiệp vĩ đại hơn nữa: "Nam Bang Học Tổ". Người ta còn gọi thời Sĩ Nhiếp cai trị đất Giao Chỉ là một

Kỷ: "Sĩ Vương Kỷ"! Chúng tôi không phủ nhận sự nghiệp đáng kể của Sĩ Nhiếp trong suốt nửa thế kỷ cai trị ở nước ta,

nhưng chúng tôi muốn đính chính những điều gì không được xác thực, bằng những dòng dưới đây: Năm Quí Mùi (203),

là năm thứ ba đời vua Hán Đế, Sĩ Nhiếp bấy giờ làm Thái Thú cùng với Thái Sử Trương Tân xin Hán Đế đổi Giao Chỉ ra

Giao Châu. Lúc này Trung Quốc giặc cướp nổi lên lung tung, ở Giao Châu cuộc rối loạn cũng nhóm lác đác ở nhiều nơi.

Sĩ Nhiếp đã khéo léo trong việc cai trị, hợp anh em trong nhà, chia nhau giữ các châu quận, nên lại khôi phục trật tự ở

Giao Châu. Ngoài ra, ông khôn ngoan đối với Hán triều (ông vẫn giữ lễ tiến cống) nên được phong làm An Viễn Tướng

Quân Long Độ Đình Hầu. Sau này, nhà Đông Hán đổ, Trung Quốc lâm vào thành thế chân vạc do sự tranh giành ảnh

hưởng của ba nhà: Bắc Ngụy, Tây Thục và Đông Ngô, thì Giao Châu nằm trong khu vực Đông Ngô, Sĩ Nhiếp liền theo

Đông Ngô. Ông vẫn giữ được mọi quyền hành như Hán triều xưa kia. Tính ra tuy không là Thái Sử nhưng ông đã làm

được một sự nghiệp đáng kể ở Giao Châu suốt 40 năm ròng. Chính trị của ông rất khéo léo ở chỗ ông biết an dân, trọng

đãi trí thức, được toàn thể nhân dân ủng hộ và tôn sùng nên địa vị mới bền vững được lâu dài như vậy. Còn đối với các

Vương triều Trung Quốc, gió chiều nào ông che chiều ấy. Về việc người ta xưng ông là học tổ Nam Bang, đó là theo

trong lệnh chỉ của Trịnh Tạc (1657-1682) và của Trịnh Sâm (1767-1782) chép trong quyển Sĩ Vương Sự Tích trang

đầu, bản sao của trường Bác Cổ số A 426 tờ 41b và 46a -- Trong bia đá làng Tam Á và làng Lung Khê phủ Thuận

Thành, tỉnh Bắc Ninh, ông Nguyễn Hoán, đỗ Thám Hoa, khoa Kỷ Dậu (1659) cũng ghi như vậy. Sự thực trong chính sử

không thấy chép Sĩ Nhiếp đem chữ Nho sang Việt Nam, ngoài câu: "Nước ta thông thi thư, tập lễ nhạc, gọi là văn hiến

bắt đầu từ Sĩ Vương" bởi văn hóa Trung Quốc nhập cảng vào Giao Châu đã có từ ba thế kỷ trước khi có Sĩ Nhiếp. Tới

khi Sĩ Nhiếp cầm quyền ở nước ta người Giao Châu đã có một số đỗ Hiếu Liêm và Mậu Tài rồi. Có chỗ tôn thời Sĩ

Nhiếp là thờ Sĩ Vương Kỷ, có lẽ sử thần giận trong khoảng 100 năm quan lại Tàu không có người chính thống trong sạch,

nay gặp một nhân quan như Sĩ Nhiếp, dân được yên vui hơn 40 năm cho nên đã tôn Sĩ Nhiếp là Vương. Sĩ Nhiếp tuy có

tiếng là quan cai trị cả 7 quận nhưng thực ra ông chưa hề nắm được toàn cõi Giao Châu bao giờ. Trong đời Sĩ Nhiếp,

chính Trương Tân mới là người được vua Hán Hiến Đế phong làm Thái Sử Giao Châu. Ta nên nhớ châu cai trị quận. Còn

về ảnh hưởng thì lấy sự công bằng Đào Hoàng bốn đời, Đỗ Viện ba đời làm Thái Sử, độc quyền cả Giao Châu còn nhiều

ơn ích hơn Sĩ Nhiếp. So sánh với các lương lại kể trên đã lấy việc lễ nghi, điều nhân nghĩa dạy cho dân Giao Chỉ và Cửu

Chân để người ta biết đạo vợ chồng, nghĩa cha con, tình thầy trò, bằng hữu biết thương yêu kính mến nhau, sự nghiệp của

Sĩ Nhiếp chưa dễ đã hơn, vậy mà họ chưa được chép riêng ra một kỷ. Còn điều Sĩ Nhiếp được gọi là Sĩ Vương, là do

triều Trần phong ông làm Đại Vương theo lệ phong tặng bách thần, sau Ngô Sĩ Liêm dưới đời Lê đã nhân tước Đại

Vương mà chép là Sĩ Vương. Dù sao chúng ta cũng phải nhận rằng việc tôn kính Sĩ Nhiếp như thế cũng có một vài phần

đích đáng, do ông đã dựng chính sách nhân nghĩa đối với dân ta xưa kia. Còn chuyện ông đã đem chữ Nho sang dạy ta

đầu tiên thì không có bằng chứng. Đây là ý kiến của Ứng Hòe Nguyễn Văn Tố.  

94 Việt Sử Toàn Thư

Phần 2 - Chương 6 Cuộc Cách Mạng Giải Phóng Dân Tộc Thứ Hai Của Dân Giao Chỉ  

- Bà Triệu chống nhau với Đông Ngô - Lâm Ấp quấy phá Giao Châu 

1- Bà Triệu Chống Nhau Với Đông Ngô.

 Thời cuộc của các vương triều Trung Quốc bấy giờ luôn luôn có ảnh hưởng đến Giao Châu. Trên đây đã nói nhà Đông

Hán đổ thì Trung Quốc chia ra làm ba nước Bắc Ngụy, Tây Thục và Đông Ngô, Giao Châu thuộc vào khu vực của nhà

Đông Ngô. Tuy rằng Sĩ Nhiếp lúc sinh thời rất khôn ngoan, chịu lệ thuộc vào Ngô chủ nhưng tình thế Giao Châu dưới

con mắt người Đông Ngô chỉ có thể coi là chuyện tạm thời, bởi khi đó chính quyền của Đông Ngô chưa được củng cố

đầy đủ. Khi thế của Đông Ngô hầu vững thì triều đình Đông Ngô không chịu để kéo dài chế độ tự trị của Giao Châu

nữa. Đông Ngô cũng muốn đặt một chế độ trực trị tại đây vì xét có lợi hơn hoặc dễ nắm chặt dân bị trị hơn. Lúc này, Sĩ

Nhiếp đã qua đời (năm Bính Ngọ, 226 sau Công Lịch), con là Sĩ Huy tự động lên thay quyền Thái Thú. Đông Ngô liền

xếp đặt lại mọi việc. Về đất đai, Đông Ngô chia đất giao Châu từ Hợp Phố về Bắc đặt tên là Quảng Châu, cử Lữ Đại

làm Thái Sử. Từ Hợp Phố vào Nam là Giao Châu, đặt Đái Lương làm Thái Sử. Còn quận Giao Chỉ về miền Bắc Việt

bấy giờ phái Trần Thì làm Thái Thú thay con cháu Sĩ Nhiếp. Như vậy quan niệm và chính trị Đông Ngô không khác gì

Đông Hán trước đó. Thật là một cuộc thay đổi lớn lao và đột ngột. Sĩ Huy chống lại sự thay đổi đó, nhưng thấy binh lực

của Lữ Đại mạnh nhiều, sau năm anh em Sĩ Huy phải thuận theo lời chiêu dụ. Lữ Đại liền bắt chém hết anh em Sĩ Huy và

đưa đầu về Đông Ngô. Quảng Châu và Giao Châu sáp nhập, Trong lúc này quận Cửu Chân cũng rối ren. Lữ Đại lại một

phen nữa đem quân đánh dẹp giết hại hàng vạn người rồi phái các chức Tòng Sử Sự tới tuyên truyền đức hóa của vua

Ngô. Các nước Lâm Ấp, Phù Nam, đều cho sứ sang cống, Ngô chủ phong thêm cho y chức Trấn Nam Tướng Quân.

Dưới chế độ của Hán triều, dân Giao Chỉ đã đau khổ lầm than. Cuộc thay đổi mới này với Đông Ngô cũng không cải

thiện được đời sống của Giao Chỉ phần nào. Tóm lại chế độ trực trị của Trung Quốc bao giờ cũng tàn ác, do sự tham

bạo vô lái của các quan lại Tàu, vì vậy lửa loạn lại âm ỉ trong tâm hồn người Giao Chỉ. Năm Mậu Thìn (248), tức là năm

thứ 11 nhà Đông Ngô, khi Lục Dận sang làm Thái Sử Giao Châu, non sông Việt Nam lại sản xuất một vị nữ kiệt, rồi một

phen nữa, ngọn cờ nương tử được phất lên tại quận Cửu Chân theo gương hai chị em bà Trưng trước đó hai thế kỷ. Lần

này, người khởi cuộc cách mạng năm Mậu Thìn cũng là một phụ nữ sinh trưởng tại huyện Nông Cống (thuộc tỉnh Thanh

Hóa) mới trên 20 xuân xanh tên Triệu Thị Trinh, cũng thuộc giòng quý tộc, và chưa có chồng (có sách chép là Triệu

Nguyên). Người Tàu căm hận đặt tên là Triệu Ẩu. Chữ Ẩu có nghĩa là "mụ". Bà Triệu (người Việt tôn là Bà để tỏ lòng

sùng kính hơn), trong cuộc cách mạng Mậu Thìn đã biểu dương sự phẫn uất của quý tộc và dân chúng Giao Châu, mặc

dầu lực lượng của mình đối với quân xâm lăng rõ rệt quá sút kém. Bà mồ côi cha mẹ từ thuở nhỏ nên phải ở với anh là

Triệu Quốc Đạt. Bà gặp người chị dâu cay nghiệt và tầm thường nên không chịu được tính tình hiên ngang khác người của

bà. Quả vậy, cô gái thơ ấy có một thể chất cương cường, một tinh thần bất khuất ngay cả nam nhi cũng ít sánh kịp. Có lẽ

vì các dị tính đó mà bà Triệu đã giết chị dâu để khỏi có sự cản trở trên con đường tranh đấu của mình cho dân, cho nước.

Không những bà có chí khí anh hùng, bà lại có sức mạnh và mưu lược nên hàng ngàn chiến sĩ đã xin theo chiến đấu dưới

cờ và cùng vào rừng núi để rèn binh luyện võ. Buổi đầu, ông Triệu Quốc Đạt không tán thành công cuộc của bà và lấy

những lời lẽ thông thường để khuyên can, nhưng sau ông chịu theo ý kiến của em gái, xét cuộc đấu tranh dù thành hay bại

cũng là điều hữu ích. Bà Triệu trong cuộc luận với anh, đã để lại sau này trong lịch sử những lời khảng khái bất hủ: "Tôi

muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp đường sóng dữ, chém cá tràng kình ở biển Đông, quét sạch bờ cõi để cứu dân ra khỏi nơi

đắm đuối, chứ không thèm bắt chước người đời cúi đầu khom lưng làm tì thiếp cho người ta". Triệu Quốc Đại cùng em

khởi binh đánh quận Cửu Chân. Trong chiến trận, bà tỏ ra can đảm phi thường nên được tôn làm chủ tướng. Bà mặc áo

giáp vàng, cỡi voi xông ra trước quân địch như đi vào chỗ không người. Tiếng "Nhụy Kiều Tướng Quân" một thời đã

vang lừng cõi Giao Châu và từng làm khiếp đảm quân Ngô trong sáu tháng. Sau cuộc chiến đấu vì quân ít, thế cô nên bất

lợi dần, Bà lui binh đến xã Bồ Điền (ngày nay đổi tên là Phủ Diễn thuộc huyện Mỹ Hòa, Thanh Hóa) rồi tự tử. Để kỷ

công người nữ chiến sĩ đã hy sinh vì nền Tự Do của dân tộc, vua Nam Đế nhà Tiền Lý cho dựng miếu thờ và phong là

"Bật Chính Anh Liệt Hùng Tài Trinh Nhất Phu Nhân" Cuộc cách mạng Mậu Thìn (248) bị dập tắt thì 16 năm sau (năm

Giáp Thân 264) đất đai Giao Châu lại chịu thêm một cuộc phân chia khác. Nhà Ngô hợp đất Nam Hải và Uất Lâm lại

thành Quảng Châu, đặt châu trị ở Phiên Ngung. Hợp Phố, Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam thành Giao Châu, châu trị

đóng ở Long Biên. Xét như vậy đất Nam Việt của Bà Triệu xưa kia do cuộc phân chia này thành Giao Châu và Quảng

Châu bấy giờ. Việc này có tính cách tập trung để tiện việc cai trị. Trung Quốc từ khi có cuộc tam phân Bắc Ngụy, Tây

Thục và Đông Ngô, lại mở màn cho nhiều cuộc biến loạn liên miên. Sau nhà Tấn phá được nhà Ngụy rồi đem binh chiếm

Giao Châu. Nhà Ngô phái tướng Đào Hoàng sang dành lại. Sau đó, Đào Hoàng được phong thành Giao Châu mục cho

đến năm 280, Ngô mất thì Đào Hoàng đem Giao Châu nộp cho nhà Tấn. Họ Đào được giữ nguyên địa vị.

Cuộc tập trung đất đai trên đây của nhà Đông Ngô để dễ điều khiển guồng máy cai trị không đạt được mục đích. Bọn

quan lại Trung Quốc trước tình trạng đại loạn, loạn từ chính quốc sang tới thuộc quốc, tất nhiên thấy địa vị của mình luôn

luôn bất trắc, nên chỉ lo vơ vét cho đầy túi tham, huống hồ từ bao nhiêu lâu họ bị nhiễm cái bệnh phong kiến hay sinh

trưởng ở cái huyết thống phong kiến sẵn chất tham tàn. Còn dân Giao Châu từ hai cuộc cách mạng Trưng Triệu bắt đầu

đứng trước cái đà đã mở, hoàn cảnh chính trị khắc khe lại luôn luôn thúc bách nên họ không sao ngừng đấu tranh. Đến

đời nhà Tấn lại không có sự thay đổi tốt đẹp nào, lại tệ hơn là khác. Tấn dựng được cơ nghiệp xong trên đất Trung Hoa

liền phong cho bà con thân thuộc trấn giữ các nơi để làm vây cánh. Bọn này tranh nhau quyền lợi đem quân đánh phá lẫn

nhau, chính họ đã thác sinh ra một phần lớn sự biến loạn ngoài những hành động nhũng lạm. Từ Ngô qua Tấn, dân Giao

Châu thường nổi lên giết bọn Thái Thú. Trong nước mấy khi có sự yên ổn hẳn.    

Bà Triệu.

 Cao một trượng, cả một vừng,  Bỏ tóc ngang lưng, vú chấm sừng, Họp chúng rừng xanh oai náo nức, Cỡi đầu voi trắng,

tiếng vang lừng, Mác dài trỏ vẫy tan đàn giặc, Ngôi cả lăm le học họ Trưng, Ví có anh hùng duyên định mấy,  Thời chi

Đông Hán dám lung lăng.  Vô danh (Thơ đời Hồng Đức)

2- Lâm Ấp Quấy Phá Giao Châu.  

  Trên đây chúng ta thấy dưới đời nhà Tấn dân Giao Châu có phần cơ cực hơn bao giờ hết. Họ bị lôi cuốn vào cuộc đánh

phá lẫn nhau của thân vương khi đó giữ quyền ở các phiên trấn, ngoài cái nạn bóc lột đã từ lâu thành một sự trạng thường

xuyên. Sự đói khổ trong nhân gian cũng là một mầm biến loạn nữa. Thêm vào đó là sự quấy nhiễu của nước Lâm Ấp. Vị

trí của nước này bắt đầu từ tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị vào đến lục tỉnh Nam Việt ngày nay. Người ta phỏng đoán cội rễ

người Lâm Ấp thuộc giống Mã Lai, theo văn minh Ấn Độ và giống Mã Lai tức giống Anh Đô Nê Dieng (Indonesien) xưa

kia bị giống Aryens đánh bật ra khỏi Ấn Độ rồi lan tràn sang bán đảo Hoa Ấn. Họ đồng hóa với giống Cao Miên và

giống Chiêm Thành trong khi một chi phái của họ hợp với giống Mông Cổ làm thành dân tộc Việt Nam hấp thụ văn minh

Trung Quốc. Văn hóa của Lâm Ấp là văn hóa của Ấn Độ. Người Lâm Ấp đã hùng cường kể từ đệ nhị thế kỷ. Họ

thường đem quân quấy nhiễu địa phận Nhật Nam là một địa phận giáp giới. Khi dân Giao Chỉ ta còn thuộc nhà Đông

Hán, tại địa điểm này có quan cai trị Tàu trọng nhậm để phòng sự đánh phá của Lâm Ấp. Qua các triều đại sau như đời

Tam Quốc, đời Đông Tấn sự rối loạn ở Nhật Nam luôn luôn tiếp diễn. Năm Quý Sửu (353) dưới đời vua Mục Đế nhà

Đông Tấn thái tử Giao Châu là Nguyên Phu đánh vua Lâm Ấp, phá được 50 đồn lũy thì năm 399 Lâm Ấp cướp được

hai quận Nhật Nam và Cửu Chân rồi định tràn tới Giao Châu. Thái thú Giao Châu là Đỗ Viện ngăn được và lấy lại cả hai

châu đã mất, sau được phong là Giao Châu Thái Sử. Từ năm Quý Sửu (413) đến năm Canh Thân (420) cứ luôn luôn có

cuộc xung đột giữa Lâm Ấp và Giao Châu, nhưng từ năm Canh Thân, Giao Châu đại thắng chém giết người Lâm Ấp vô

cùng tàn hại, sự quấy rối của Lâm Ấp mới tạm yên ít lâu và hàng năm Lâm Ấp phải cống hiến voi, vàng bạc, đồ mồi v.v...

Dưới thời Nam Bắc Triều (420-588), khi Tấn đổ, nhà Tống hưng khởi ở phương Nam và Ngụy thâu được Lương, Yên,

Hạ lập nên Nam Bắc Triều. Trung Quốc lại trở về với cái cảnh tam phân ngũ liệt gần như dưới đời Đông Chu: một lực

lượng cát cứ miền Hoa Bắc, một lực lượng cát cứ miền Hoa Nam. Các ngai vàng luôn luôn thay đổi. Do vị trí của nó,

Giao Châu thuộc về Nam Triều. Lâm Ấp muốn nhân cơ hội biến loạn ở Trung Quốc cho sứ sang điều đình với Tống

Triều cho "bao thầu" đất Giao Châu, nhưng đề nghị của họ không được chấp thuận. Trái lại năm 468 tháng ba, mùa hạ,

triều Tống cử Đàn Hòa Chi sang làm Thái Sử Giao Châu và cầm tướng lệnh đi đánh Lâm Ấp. Vua Lâm Ấp là Phạm

Dương Mại hoảng sợ xin trả lại các người dân Nhật Nam bị Lâm Ấp bắt trước đây và xin nạp một vạn lạng vàng và mười

vạn lạng bạc để tạ tội.  Đàn Hòa Chi dâng biểu về Tàu xin ý kiến; trong khi này nội bộ Lâm Ấp kẻ chủ hòa, kẻ chủ chiến

nên sứ giả đến nói chuyện của người Tống bị giữ lại. Tức thì quân Tống hãm ngay thành Khu Lật. Tướng Lâm Ấp giữ

thành này là Phù Long bị giết. Phạm Dương Mại ở tình thế chẳng đặng đừng, phải đứng ra chống Tống cứu thành cũng bị

bại rồi mang vợ con đi trốn. Quân Tống vào thành tha hồ vơ vét vàng bạc. Sử không ghi rằng sau cuộc thắng trận này nhà

Tống có lập nền đô hộ Lâm Ấp không, có lẽ họ đã cho Lâm Ấp đầu hàng và hàng năm nộp cống. 

98 Việt Sử Toàn Thư

 Phần 2 - Chương 7 Nhà Tiền Lý (544-602)  

1) Lý Nam Đế  2) Triệu Việt Vương 3) Hậu Lý Nam Đế 

1- Lý Nam Đế (544-548)

  Năm Kỷ Mùi (479) bên Trung Quốc nhà Tống mất ngôi, nhà Tề lên thay rồi 22 năm sau Tề bị Lương đánh đổ. Bọn

quan cai trị Tàu cũng quen thói như những bọn trước là nhân cuộc biến loạn bên chính quốc mà tranh quyền lợi ở các biên

cương và mưu sự độc lập lối địa phương tự trị. Bấy giờ Thứ Sử Tiêu Tư cai trị đất Giao Châu cũng đi theo vết xe đổ của

bọn Tô Định, Lục Dận, Lữ Đại: nhân dân Giao Châu thấy ngột ngạt vì cái không khí nội biến, ngoại xâm (vì sự quấy phá

của Lâm Ấp) liền chụp cơ hội chính quyền của bọn thống trị nghiêng ngửa liền hưởng ứng theo tiếng gọi của ông Lý Bôn

(còn tên khác là Lý Bí) người huyện Thái Bình thuộc Phong Chuy, tức là Sơn Tây ngày nay, ông vốn cội rễ là người Tàu.

Tổ tiên ông chạy loạn dưới đời Tây Hán qua Giao Châu đến ông là 7 đời nên có tính tình hoàn toàn như người bản địa.

Ông có đủ tài văn võ, đã có thời làm quan với nhà Lương, sau bất đắc chí liền cùng nghĩa sĩ bốn phương họp nhau đánh

đuổi Tiêu Tư. Việc khởi nghĩa nhằm năm Tân Dậu (54) tức năm Đại Đồng thứ 7 đời Lương Vũ Đế. Bấy giờ ông coi quận

Cửu Đức, liên kết được vài châu, các hào kiệt đều hưởng ứng. Tại Chu Diên có tù trưởng Triệu Túc đem quân theo

trước nhứt. Tháng chạp năm Nhâm Tuất (542) nhà Lương sai Lư Tử Hùng là Thứ Sử châu Tân và Tôn Quýnh Thứ Sử

châu Giao sang đánh. Bọn này dùng dằng không muốn tiến quân. Tiêu Tư làm sớ về triều Lương vu tấu bọn Hùng, Quýnh

giao thông với người ngoài cõi, nên hai người này bị tử tội. Lúc này Lý Bôn đã chiếm thành Long Biên được 3 năm (năm

Quý Hợi 543). Tháng 4 năm ấy vua Lâm Ấp là Luật Đà La Bát Na (Rudravarman I) vào cướp phá quận Nhật Nam

(quận Nhật Nam còn được nhà Lương gọi là Đức Châu) Lý Bôn sai Phạm Tu đem quân đi đánh dẹp, Phạm Tu thắng

trận ở Cửu Đức. Vua Lâm Ấp bỏ chạy. Năm Giáp Tí (544) Lý Bôn tự xưng là Nam Việt Đế lấy niên hiệu là Thiên Đức,

ngang với nhà Lương là năm thứ 10 hiệu Đại Đồng, và lấy quốc hiệu là Vạn Xuân sau khi đuổi hẳn được Tiêu Tư. Ông

thiết lập triều đình, cho Triệu Túc làm thái phó, Tinh Thiều làm tướng văn, Phạm Tu làm tướng võ. Cũng năm ấy, nhà

Lương phái Tả Vệ tướng quân là Lan Khâm sang đánh Nam Việt Đế, Lan Khâm mới vượt khỏi Ngũ Lĩnh đã bị bệnh và

chết. (Đại Việt Sử Ký quyển 5 tờ 2 a b). Tháng 6 năm Ất Sửu (545) là năm thứ hai hiệu Thiên Đức, nhà Lương cử

Dương Siêu (Việt Nam Sử Lược chép là Dương Phiêu) làm Thứ Sử Giao Châu, Trần Bá Tiêu (sau là cao tổ nhà Trần

bên Tàu) làm Tư Mã và hạ lệnh cho Thái Sử Châu Định là Tiêu Bột hợp quân với Dương Siêu cùng đánh. Ông Lý Bôn

đem ba vạn quân chống nhau với quân Lương ở Chu Diên bị thua, chạy tới sông Tô Lịch lại bại trận lớn hơn nữa, sau phải

rút về Gia Ninh (phủ Yên Lãng, tỉnh Phúc Yên). Tháng giêng năm Bính Dần (546) quân Lương vây hãm thành và chiếm

được vào ngày 25-2-546. Lý Nam Đế chạy thoát được về vùng Tân Xương (tỉnh Sơn Tây). Đến tháng 8, Lý Nam Đế

đem hai vạn quân ra đóng ở hồ Điền Triệt (nay là huyện Lập Thạch tỉnh Vĩnh Yên) chế tạo thuyền bè định phản công. Tại

đây quân Trần Bá Tiên lại thắng trận lớn nữa vì Lý Nam Đế không kịp phòng bị. Ngài lại rút về Tân Xương (có chỗ chép

là Tân Hưng) để chấn chỉnh lại quân đội sau giao lại binh quyền cho Tả Tướng quân Triệu Quang Phục (Đại Việt Sử Ký,

quyển 5 tờ 3 và Toàn Thư quyển 4 tờ 16 b 17 a). Từ năm 547 miền đồng bằng Bắc Việt và Bắc Trung Việt lại lệ thuộc

về Tàu. Anh Lý Nam Đế là Lý Thiên Bảo cố đánh được Đức Châu (Nghệ An, Hà Tĩnh ngày nay) nhưng không bao lâu

lại bại trận tại Ái Châu, phải đào tẩu.

2- Triệu Việt Vương.

 Triệu Quang Phục là con Thái Phó Triệu Túc: hai cha con ông theo Lý Nam Đế đã lâu, vừa là tướng có tài, vừa là người

trung thần nên được lãnh sứ mạng đó; thấy quân Tàu còn mạnh, Triệu rút quân về Dạ Trạch là nơi đồng lầy, chung quanh

sẵn rừng núi (thuộc tỉnh Hưng Yên bây giờ). Ông thiết lập doanh trại ở bên trong rất là bí mật, hiểm trở rồi cứ đêm tối

dùng thuyền độc mộc đem thủy quân ra đánh cướp được lương thực về nuôi quân đội. Lối du kích chiến này ông là người

thực hành đầu tiên đã mang lại nhiều thắng lợi, nên Trần Bá Tiên mặc dầu binh hùng tướng mạnh đánh mãi không xong.

Năm Mậu Thìn (548) Lý Nam Đế mất. Năm sau Triệu lên thay xưng là Việt Vương, nhưng lương thực hao mòn dần.

Tình thế giữa đôi bên vẫn nhùng nhằng, chẳng ngã ngũ bề nào thì nhờ dịp bên Trung Quốc có loạn Hầu Cảnh, Trần Bá

Tiên phải triệu về để tùy tướng là Dương Sản ở lại trông nom việc quân. Triệu thừa dịp tấn công quân Tàu rồi lấy lại thành

Long Biên. Về phía quân Tàu được yên thì Triệu Việt Vương lại phải đối phó với Lý Phật Tử. Nguyên Lý phật Tử là

người họ của Lý Thiên Bảo, Thiên Bảo là anh họ của Lý Bôn khi ông Lý Bôn thất thế thì cả bọn chạy vào quận Cửu

Chân rồi bị quân Lương đuổi phải bôn tẩu qua xứ Lào, đến đóng ở Dạ Lăng xưng là Đào Lăng Vương lấy quốc hiệu là

Dạ Lăng. Lý Thiên Bảo mất (năm thứ 7 đời Triệu Việt Vương) không con nên giao binh quyền lại cho Lý Phật Tử. Năm

Đinh Sửu (557) Lý Phật Tử đem quân về tranh giành địa vị với Triệu Việt Vương nhưng đánh mấy trận đều không có kết

quả liền xin Việt Vương chia đất giảng hòa. Việt Vương nghĩ tình cố chủ và thương hại trăm họ bấy lâu đau khổ vì chiến

tranh ưng lời đề nghị của Lý Phật Tử. Địa giới của Việt Vương kể từ Long Biên ra bãi Quần Thần làng Thượng Cát,

huyện Từ Liêm. Còn Lý Phật Tử đóng tại Ô Diên (tức làng Đại Mỗ huyện Từ Liêm trở về xuôi). Triệu Việt Vương còn

gả con gái là Cảo Nương cho Phật Tử để mưu cuộc hòa hiếu lâu dài, không ngờ Phật Tử vẫn giữ manh tâm trước. Năm

Tân Mão (521) Phật Tử xuất quân đánh bất thình lình vào Long Biên. Triệu Việt Vương xuất kỳ bất ý phải chạy đến sông

Đại Nha (huyện Đại An, tỉnh Nam Định) thì nhảy xuống tự vẫn.

3- Hậu Lý Nam Đế (571-602)

Hạ được Triệu Việt Vương, Lý Phật Tử xưng Đế Hiệu (tức là Hậu Lý Nam Đế) cắt Lý Đại Quyền giữ thành Long Biên,

Lý Phổ Đĩnh giữ Ô Diên, kinh đô dời về Phong Châu (thuộc huyện Bạch Hạc, tỉnh Vĩnh Yên). Chính quyền như vậy đã

được thống nhất, công cuộc của ông không thành tựu lâu dài vì chính sự bên Trung Quốc lại được ổn định. Nhà Tùy đánh

đổ được nhà Lương thâu gồm được cả Nam Bắc, đến năm Nhâm Tuất (602) phái Lưu Phương đem 27 doanh sang đánh

Hậu Lý Nam Đế. Xét không kháng cự nổi quân nhà Tùy, Lý Phật Tử chịu nghe lời dụ và kéo cờ hàng. Giao Châu lại lệ

thuộc về Trung Quốc thêm một giai đoạn nữa (giai đoạn này kéo dài 336 năm).

101 Việt Sử Toàn Thư

 Phần 2 - Chương 8 Bắc Thuộc Lần Thứ Tư (603 - 939) 

- Nhà Tùy và nhà Đường đối với Lâm Ấp và Giao Chỉ - Mai Hắc Đế và Bố Cái Đại Vương - Cuộc Xâm Lăng của Nam

Chiếu - Sự nghiệp của Cao Biền 

1- Nhà Tùy Đánh Lâm Ấp.  

 Nhà Tùy mất năm Mậu Dần (618) sau 28 năm ở ngôi. Vương triều này không để lại gì trên lịch sử Việt Nam vì quá ngắn

ngủi nhưng sử chép rằng năm Nhâm Tuất (602) khi nhà Hậu Lý Nam Đế hết thời (Ất Sửu - 605) tướng nhà Tùy là Lưu

Phương được lệnh đem quân đánh Lâm Ấp vì nghe nói nước này có nhiều vàng bạc và quý vật. Lâm Ấp lúc này cũng khá

mạnh. Quốc Vương là Phạm Phàm Chi, nghe tin quân Tùy tới bèn sửa soạn chống đỡ. Hai quân buổi đầu gặp nhau ở

sông Đồ Lê (?). Quân Tùy vượt qua sông đánh quân tiền đạo của Lâm Ấp. Đại binh của Lâm Ấp đến cứu với một số voi

trận (Việt Nam dưới đời nhà Trưng đã biết sử dụng tượng binh). Lưu Phương liền bầy mẹo, đào hố phủ cỏ lên rồi nhử

đối phương tới. Quân Tùy vờ bại trận chạy, tượng binh Lâm Ấp đuổi theo sa hết xuống hố. Tức thì quân Tùy trở lại phản

công kịch liệt, cung nỏ bắn tên bay qua như mưa cũng làm cho một phần tượng binh phải kinh sợ tháo lui giày xéo lên

quân Lâm Ấp chết hại nhiều. Trận đánh tiếp diễn luôn 8 ngày đêm sau đó quân Tùy mới tiến được vào thủ đô Lâm Ấp.

Vua Lâm Ấp bấy giờ đã cùng hoàng gia rút khỏi kinh thành. Quân Tùy vào cướp phá rồi rút về sau khi quốc vương xin

tiếp tục cuộc hòa hiếu và tiến cống như cũ. Đến đời Đường Thái Tông vào năm Trinh Quan, vua Lâm Ấp là Phạm Đầu

Lê chết đi, con là Phạm Trấn Long nối ngôi bị giết, người con của bà cô là Chư Cát Địa được tôn lập. Chư Cát Địa đổi

quốc hiệu ra Hoàn Vương Quốc nhưng nước này vẫn quen thói quấy nhiễu Giao Châu. Đã có phen họ chiếm được Châu

Hoan, Châu Ái (tức là hai tỉnh Thanh Nghệ của ta).

Hai thế kỷ sau vào năm Mậu Tí (808), Đô Hộ Trương Chu lại đem quân đánh vào Hoàn Vương Quốc rất tai hại khiến họ

phải lui xuống phía Nam (hai vùng Nam Ngãi bây giờ). Lại một lần nữa do sự thất bại, quốc hiệu Lâm Ấp đổi ra Chiêm

Thành cho tới ngày nay.

2- Nhà Đường Đối Với Việt Nam.

 Năm Mậu Dần (618), nhà Tùy mất sau 28 năm thống trị, nhà Đường lên thay. Ba năm sau, vua Cao Tổ phái Khâu Hòa

làm đại tổng quản sang cai trị Giao Châu. Việc phái một võ tướng qua Giao Châu cho ta hiểu rằng nhà Đường đã áp dụng

một chế độ quân phiệt đối với chúng ta. Họ rút kinh nghiệm ở dĩ vãng giữa Giao Châu với các vương triều Trung Quốc

trước nên đề phòng cẩn mật mọi sự bất trắc bằng một chính sách hoàn toàn võ lực, chính sách này tất nhiên phải dùng

đến nhiều luật lệ khe khắt, thời nào cũng vậy và ở đây, ta thấy nhà Đường đã rất am hiểu vấn đề Giao Châu. Năm Kỷ

Mão (679), Giao Châu đổi ra An Nam đô hộ phủ đưới đời Đường Cao Tông, chia ra 12 châu, 59 huyện. Nhiều tỉnh bên

Trung Quốc cũng lâm vào cuộc cải cách này. (Nước ta đeo cái tên An Nam từ thưở đó.) Mười hai châu như sau:  1)

Giao Châu có 8 huyện (Hà Nội, Nam Định, v.v.)  2) Lục Châu có 3 huyện (Quảng Yên, Lạng Sơn)  3) Phúc Lộc Châu

có 3 huyện (Sơn Tây)  4) Phong Châu có 3 huyện (Sơn Tây)  5) Thăng Châu có 3 huyện  6) Trường Châu có 3 huyện 

7) Chi Châu có 7 huyện  8) Võ Nga Châu có 7 huyện  9) Võ An Châu có 2 huyện  10) Ái Châu có 6 huyện (Thanh

Hóa)  11) Hoan Châu có 4 huyện (Nghệ An)  12) Diễn Châu có 7 huyện (Nghệ An). Còn một châu nữa ở phía Tây Bắc

Giao Châu, hẳn là vùng thượng du Bắc Việt bây giờ, có dân Mường, Mán trú ngụ, gọi là Man Châu (có 3 huyện), hàng

năm phải tiến cống nhà Đường và chịu một một chế độ riêng biệt.

3- Mai Hắc Đế Khởi Nghĩa (722)

Dưới bàn tay sắt của nhà Đường, phương Nam có được yên trị hay không? Ta có thể nói rằng không. Từ khi nhà Đường

lên ngôi là năm Mậu Dần (618) đến năm Nhâm Tuất (907) tức là trong vòng ba thế kỷ, phương Nam luôn luôn rối loạn,

khi ở địa hạt này, khi ở khu vực khác, tuy không to tát. Đến năm thứ 10 dưới đời Đường Huyền Tông (sau hơn một trăm

năm) Mai Thúc Loan, người Hoan Châu thuộc huyện Thiên Lộc (hay Can Lộc, Hà Tĩnh) phất cờ cách mạng. Ông rất

khoẻ mạnh, to lớn mặt đen xì, thấy nhân dân quằn quại dưới ách tham tàn của bọn quan lại nhà Đường, liền hô hào trăm

họ đứng dậy chống quân xâm lược. Ông được các nơi hưởng ứng nhiệt liệt. Việc đầu tiên của ông là chiếm lấy một nơi để

làm căn cứ tại Hoan Châu thuộc huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An, xây thành đắp lũy, tự xưng là hoàng đế và được mệnh

danh là Hắc Đế. Ông liên kết ngay với Lâm Ấp và Chân Lạp để có hậu thuẫn và rộng đường lui tới, càng làm cho nhà

Đường thêm lo ngại. Nhà Đường phái quân do Dương Tư Húc điều khiển, sang hợp với Đô Hộ Quang Sở Khách đánh

Mai Hắc Đế. Hắc Đế không cầm cự nổi phải bỏ chạy và ít lâu bị bệnh mà mất. Theo Đông Tùng trong Minh Tân Tạp Chí

số 48, nghĩa quân chạy tới sườn núi Hùng Sơn tục gọi là Rú Đụn, bên bờ Lam Giang sau một trận ác chiến cuối cùng. Mai

Hắc Đế đã vì nước hy sinh một cách vô cùng anh dũng. Nay ở núi Vệ Sơn, huyện Nam Đường, tỉnh Nghệ An còn có di

tích thành cũ của vua Hắc Đế và còn đền thờ Ngài ở xã Đức Nậm, huyện Nam Đường (Nam Đường nay đổi tên là Nam

Đàn), kiến trúc rất huy hoàng.

 4- Giặc Côn Lôn Và Đồ Bà.

 Năm Đinh Vị (767), là năm Đại Lịch thứ hai đời vua Đại Tông nhà Đường, giặc bể là quân Côn Lôn và Đồ Bà vào cướp

phá Giao Châu, vây hãm phủ trị. Kinh Lược Sứ là Trương Bá Nghi cùng với Đô Úy Cao Chính Bình họp nhau trừ được

quân giặc bể. Sau này Trương Bá Nghi cho đắp La Thành để đề phòng mọi cuộc biến loạn. La Thành có từ bấy giờ.

5- Bố Cái Đại Vương.

 Việc đánh dẹp yên, năm Tân Vị (791) Cao Chính Bình được cử giữ chức Đô Hô Giao Châu. Y cai trị dân rất tàn ác,

lòng người oán giận vô cùng. Tại quận Đường Lâm thuộc huyện Phúc Thọ, tỉnh Sơn Tây, Phùng Hưng vận động dân

chúng đánh phá phủ trị khiến Cao Chính Bình lo sợ mà chết. Quân Giao Châu chiếm được La Thành và phủ trị nhưng

mấy tháng sau Phùng Hưng bị bệnh qua đời, nhân dân nhớ ơn ông lập đền thờ và gọi ông là Bố Cái Đại Vương. Bằng

danh từ này, dân tỏ ý quý ông như cha mẹ đối với con cái. Con ông là Phùng An được nhân dân tôn lên để kế nghiệp.

Nhà Đường lại đem quân sang dẹp, cử Triệu Xương làm Đô Hộ, Phùng An yếu thế đành phải hàng.

6- Cuộc Xâm Lăng Giao Châu Của Nam Chiếu.

 Giao Châu đau khổ về cuộc thống trị của nhà Đường cũng như của các tiền triều Trung Quốc như trên đã nói; Giao

Châu còn bị Lâm Ấp luôn luôn cướp phá, đó là cái nạn thứ hai. Khi nhà Đường sắp mất, Giao Châu lại bị cuộc xâm lược

của Nam Chiếu, đó là cái nạn thứ ba. Nam Chiếu là nước nào và ở đâu? Phía Tây Bắc Giao Châu thuộc miền tây tỉnh

Vân Nam, có một xứ mà dân là người Thái xưa kia, chia làm 6 chiếu tức là thuộc 6 tù trưởng (chiếu đối với dân Thái tức

là vua) địa phương quản trị; Mông Huề, Việt Thác, Lãng Khung, Đằng Đạm, Thi Lãng và Mông Xá. Sáu chiếu này đã

cùng thần phục nhà Đường. Mông Xá ở phía Nam đối với các chiếu trên kia và giáp địa phận Giao Châu. Đó là Nam

Chiếu. Dân Nam Chiếu đã từng sống nhiều phen oanh liệt và quật cường. Dưới đời Ngô Tôn Quyền (thời Tam Quốc) họ

đã biết tìm những nơi sông ngòi, núi non hiểm trở như Hà Hoa, Quế Chữ, Vọng Cái, Hoành Sơn, Trường Sa, Hải Ngạn,

Lỗ Lôi, Ô Tôn, thuộc Hoa Nam để tụ hợp. Ngoài ra họ còn giao dịch mật thiết với nước Tây Bà Dạ để lấy vây cánh. Có

sách chép họ là con cháu của Triệu Vũ Đế và quan thái phó Lữ Gia bị các tướng nhà Hán là Lộ Bác Đức và Dương Bộc

đánh xiêu bạt đến các xứ trên đây. Dưới đời Tấn (265-316), họ lại hợp lực với bọn thổ tù lân cận là Triệu Công Lý chiếm

cứ châu Quỳ, châu Diên đặt làm lộ Da La, lấy châu Cầm, châu Hoan làm lộ Lâm An, cùng nhau cai trị. Họ lập thành trì ở

xã Cao Xá, thuộc đất Diễn Châu, phía đông giáp bể, phía tây giáp Tây Bà Dạ, phía nam giáp núi Hoành Sơn rồi tự xưng

vương. Đời Đông Tấn (317-420) Tào Nhĩ được cử đi đánh, nhiều phen đuổi được Nam Chiếu ra tận bể, nhưng quân

Nam Chiếu rất khôn ngoan, biết trốn tránh sức mạnh, biết áp dụng chiến thuật co dãn và tiêu hao. Quân Tấn không chịu

được thủy thổ, đau ốm chết hại nhiều, phải rút lui. Nam Chiếu lại trở về hoành hành như cũ. Khoảng năm Khai Nguyên

(713-741) đời vua Đường Huyền Tông, Bì La Cáp là vua Nam Chiếu có chí lớn, đút lót Tiết Độ Sứ đạo Kiêm Nam là

Vương Dục, xin thống nhất và quản lĩnh cả 6 chiếu và lấy cớ rằng 5 chiếu kia suy nhược không đứng vững nổi. Đường

triều, theo lời đề nghị của Vương Dục chấp thuận cho việc thống nhất này và đặt tên cho 6 chiếu hợp nhất là Qui Nghĩa.

Việc thống nhất thực hiện xong, Nam Chiếu trở nên một quốc gia cường thịnh xuất quân đánh phá các dân tộc lân cận.

Trước nhất là nước Thổ Phồn (sau này là Tây Tạng) bị Nam Chiếu xâm lăng. Thắng trận này, Nam Chiếu dời đô đến

thành Thái Hòa để có một vị trí vững vàng hơn. Sau này, Nam Chiếu tự đặt thêm một tên khác là Đại Lý và thành một

mối lo ở biên cương cho Trung Quốc. Năm Tân Tỵ, Đường Thiên Bảo thứ 9 (750), quân Nam Chiếu vây thành Côn

Minh (quận Vân Nam) cướp được hai châu Tiêu Châu và Riêu gồm tất cả đến 32 xứ. Nam Chiếu biết lợi dụng rừng núi,

nhử quân Đường vào sâu rồi vây hãm và tấn công. Tiết Độ Sứ ở Kiêm Nam là Trọng Thông rồi tới Tiết Độ Sứ Đường

Quốc Trung hai lần huy động 28 vạn quân đánh nhau với Nam Chiếu đều bị thua rất thảm hại. Năm Đường Trình Nguyên

thứ 16 (800) An Phủ Sứ Vân Nam là Vi Cao đánh quân Nam Chiếu thua ở Thiết Kiều, phủ Lệ Giang. Năm Bính Dần

(846) Nam Chiếu tràn qua Giao Châu nhưng Kinh Lược Sứ là Bùi Nguyên Dụ đánh đuổi được. Sau đó, đến Vương

Thức thay Bùi Nguyên Dụ biết cách cai trị nên mọi mầm loạn đều tắt. Đến năm Canh Thìn (860), Lý Hộ sang làm Đô Hộ

thì Nam Chiếu đã mạnh thêm nhiều lắm. Con Phong Hưu (vua Nam Chiếu) là Tư Long tự xưng đế và đặt quốc hiệu là

Đại Mông, sau lại đổi ra Đại Lễ. Tư Long lo tăng cường ráo riết về quân sự, động viên thanh niên từ 15 tuổi để đưa vào

quân ngũ. Rồi một việc đã xẩy ra dẫn đường cho quân Nam Chiếu bước thêm lần nữa vào đất Giao Châu. Nguyên Lý

Hộ ỷ thế mạnh của "thiên triều" giết người tù trưởng của dân Mường là Đỗ Thủ Trừng khiến toàn thể dân Mường bất

mãn. Dân Mường vốn có liên lạc với Nam Chiếu, muốn báo thù nhưng không đủ sức liền vạch đường chỉ nẻo và xui giục

quân Nam Chiếu xâm lược Giao Châu. Tháng 11 năm ấy, Thành Đô Hộ bị thất thủ, Lý Hộ và Giám Quận bỏ chạy về Vũ

Châu. Tháng Giêng năm sau Đường triều phải cho Vương Khoan đem quân Ung Châu và các miền lân cận sang cứu

viện. Quân Nam Chiếu lại rút về, nhưng hai năm sau họ lại lần đến. Tướng Đường là Thái Tập đem ba vạn quân sang đối

phó, Nam Chiếu lại lui binh. Sau này Tiết Độ Sứ Lĩnh Nam là Thái Kinh sợ Thái Tập lập được công to, mật tấu về triều

đình rằng tình hình Giao Châu đã ổn định không cần phải để quân đội ở lại. Vua Đường liền rút đoàn quân viễn chinh về,

Thái Tập muốn để lại 5.000 binh cũng không được. Hiểu được sự lục đục kể trên, năm Quý Mùi tức một năm sau Nam

Chiếu mở cuộc tấn công mãnh liệt hơn bao giờ hết, bằng số 50.000 quân tràn như nước lũ vào Giao Châu, chiếm được

phủ thành. Thái Tập thế cô phải tự sát. Tướng Đường là Nguyên Duy Đức đem 400 quân Kinh Nam đến cứu cũng thua,

chạy ra đến bờ sông thì bí lối vì không có thuyền bè. Y liền hô hào quân sĩ quay lại, liều sống mái với quân Nam Chiếu vì

thế nào cũng chết. Cuộc phản công này hại được hai ngàn binh sĩ Nam Chiếu nhưng đến đêm Nguyên Duy Đức kiệt lực,

bị tướng Nam Chiếu vây đánh và giết được cả bọn. Thắng trận hoàn toàn, quân Nam Chiếu vào phủ thành sát hại tới 15

vạn nhân mạng. Giao Châu lọt vào tay Nam Chiếu, vua Nam Chiếu là Mông Thế Long cử Dương Tư Tấn trấn thủ Giao

Châu với 2 vạn quân, và đặt Đoàn Tú Thiên làm Tiết Độ Sứ. Trong câu chuyện này, ta thấy rõ vì sự đố kỵ nhau của bọn

văn võ tướng nhà Đường mà Giao Châu lâm vào cuộc binh lửa vô cùng tàn hại. Nhưng vẫn chưa hết! Mất Giao Châu,

tạm thời nhà Đường thiên An Nam Đô Hộ Phủ về Hải Môn (?) rồi triệu tập quân các đạo về Lĩnh Nam, lo việc thuyền bè

và lương thực. Mùa thu năm sau (864), Cao Biền được lệnh xuất quân.

7- Cuộc Thất Bại Của Quân Nam Chiếu Và Sự Nghiệp Của Cao Biền.

 Năm Ất Dậu (865), Cao Biền được nhà Đường cử làm tướng hợp cùng Giám Quận là Lý Duy Chu đem quân sang đóng

ở Hải Môn (?) để giải quyết vấn đề Nam Chiếu, Cao Biền sinh ở cửa tướng lại là tay văn học uyên thâm, dẫn 5.000 quân

làm tiền đạo và ước cùng Lý Duy Chu điều động quân hậu viện tiến sau. Lý Duy Chu không muốn Cao Biền thành công,

biết rằng Cao Biền giầu mưu lược, có tài quân sự, tất sẽ thắng trận, và Nam Chiếu tuy đông nhưng man mọi và ô hợp,

chiến đấu lại không có phương pháp. Y chỉ còn cách không đem quân tiếp viện để Cao Biền hao mòn dần thực lực mà

thất bại bại chăng. Cao Biền cất quân đi rồi, Lý Duy Chu vẫn cứ đóng nguyên vẹn tại chỗ. Giám Quận nhà Đường là

Trần Sắc lại phái thêm một đạo quân 7.000 người nữa, do tướng Vi Trọng Tể lĩnh đạo, sang tăng cường cho đoàn quân

viễn chinh của Cao Biền. Bấy giờ Cao Biền mới xuất trận, thắng được Nam Chiếu mấy kỳ, (năm 866 hồi tháng 6) và cho

báo tiếp về Trung Quốc. Hồi tháng 9, năm thứ 6 hiệu Hàm Thông (865) Cao Biền đánh lén 5 vạn quân Nam Chiếu lúc

đang gặt hái ở Phong Châu (Vĩnh Yên) giết được một số quân Nam Chiếu và cướp được thóc lúa đem về nuôi quân lính.

Ta nhận thấy Cao Biền khôn ngoan ở chỗ không đánh mạnh ngay vì chưa có tiếp tế và chưa đầy đủ lực lượng. Việc đánh

Phong Châu trước đó chỉ do vấn đề cần lương thực. Và khi có tiếp viện hẳn hoi (quân của Vi Trọng Tể đến) Cao Biền

mới thực sự lâm chiến. Biết tình thế khó khăn, vào khoảng tháng 4 năm 866, Tư Long thăng cho Đoàn Tú Thiên làm Tiết

Độ Sứ đất Thiên Xiển (kinh đô riêng của Nam Chiếu ở phía tây bắc Giao Châu) cho Dương Thấp Tư (An Nam Chí

Nguyên chép là Dương Tư Tấn) đến giúp Tú Thiên giữ Giao Châu, cho Phạm Nê Ta làm Đô Thống Phủ Đô Hộ. Nay

Vân Nam còn thành Phủ Ta ở huyện La Thư. Tin báo thắng trận của họ Cao đến Hải Môn thì bị Lý Duy Chu chận lại.

Triều đình Trung Quốc lâu không thấy tăm hơi của bọn Cao Biền liền cho hỏi Lý, thì Lý nói dối rằng Cao Biền không chịu

xuất trận và vẫn án binh bất động ở Phong Châu. Thực ra, Cao Biền đã phá được quân Nam Chiếu là bọn Trương

Thuyên, Lý Ta và Long Man, hàng được hơn 1 vạn quân, nhờ được ba lũy ở Ba Phong và đang vây hãm quân Nam

Chiếu ở La Thành quá 10 hôm rồi. Cuộc đắc thắng chỉ còn là vấn đề thời gian thì vua Đường Ý Tông phái Vương Án

Quyền và Lý Duy Chu tới thay. Họ Cao trước khi về kinh đã mật phái tiểu hiệu Tăng Cổn về Trung Quốc trình bày tin

tức thắng trận và mọi sự hãm hại của Lý. Rồi sau khi giao binh quyền cho Vi Trọng Tể, Cao Biền cùng 100 thủ túc lên

đường. Khi Vua Đường hiểu rõ manh mối, Cao Biền lại được thăng chức Kiểm Hiệu Công Bộ Thượng Thư và được

quay gót về Giao Châu tiếp tục việc đánh dẹp. Trong lúc này, bọn Vương Án Quyền, Lý Duy Chu mới đánh thành.

Vương Án Quyền nhút nhát, việc gì cũng tùy ở Duy Chu. Còn Duy Chu thì tham lam, tàn ác, tướng tá không phục, nhờ

vậy quân Nam Chiếu giải được hai lần vây, trốn được quá nửa. Đến khi Cao Biền trở lại, hạ được thành, bại được

Dương Thấp Tư, chém được bọn Tú Thiến, Nê Ta, Nạc Mi và Chu Cổ Đạo là Thổ Mán đã làm hướng đạo cho Nam

Chiếu, cùng giết được 3 vạn quân Nam Chiếu. Cao Biền lại đánh phá 2 động Thổ Mán đã theo Nam Chiếu và giết tù

trưởng. Thổ Mán quy phục một vạn bẩy nghìn người. Mùa Đông tháng 11 năm ấy, Vua Đường ban chiếu đặt Tĩnh Hải

Quận ở Châu Giao, cho Cao Biền làm Tiết Độ Sứ kiêm Hành Doanh Chiêu Thảo Sứ các đạo. Từ Lý Hộ tham nhũng,

độc ác, quân Man khởi loạn gần 10 năm đến bấy giờ mới yên và "An Nam Đô Hộ Phủ" đổi thành Tĩnh Hải Quận bắt đầu

từ đấy. Xét ra, Giao Châu bị nạn Nam Chiếu ròng rã 10 năm vô cùng tàn hại. Từ đó Cao Biền phục hồi được uy tín cho

nhà Đường và ở lại làm Tiết Độ Sứ Giao Châu. Theo tu viện trưởng A. Launay, Hội Truyền Giáo Ngoại Quốc, tác giả

"Histoire ancienne at moderne de l'AnNam" trang 34, sau khi bại trận vài năm, Nam Chiếu lại lợi dụng cơ hội Trung Quốc

có loạn để dấy quân: Vua Đường phải điều đình gả công chúa cho Vua Nam Chiếu. Theo lời khuyên của Cao Biền, nhà

Vua đánh thuốc độc giết chết 3 đặc phái viên sang đón công chúa là linh hồn của Nam Chiếu. Do đó nước này tê liệt và

nhà Đường giữ được Giao Châu thêm một thời gian. Cao Biền thi hành những công cuộc gì ở đây? Ông ta đã làm tất cả

những việc của một võ tướng và một văn quan có tài. Trước hết ông ta khởi việc xây thành đắp lũy ở các nơi biên cảnh

để đề phòng giặc giã, do đó ông vội cho đắp ngay lại thành Đại La bên bờ sông Tô Lịch. Thành này bề mặt dài hơn

1.982 trượng, cao 2 trượng linh 6 thước. Bên ngoài thành có một con đê chạy theo để bao bọc lấy thành. Đê dài hơn

2.125 trượng linh 8 thước, cao 1 trượng rưỡi, dầy 2 trượng. Trong thành có tới 40 vạn nóc nhà (?) Sự sống của nhân dân

rất là sầm uất. Ông lại khai phá các ghềnh thác để mở rộng đường thủy cho các thuyền bè buôn bán đi lại. Về mặt cai trị

ông cũng có một chính sách rõ rệt tránh được mọi điều nhũng lạm của bọn thừa hành nên ông đã gây được thiện cảm giữa

ông và dân chúng cho nên ông được tôn là Cao Vương. Ông lập các sở thuế để có tiền chi dụng. Sau này người ta cho

rằng người Việt Nam phải đóng sưu thuế từ thuở Cao Biền làm Tiết Độ Sứ ở Giao Châu. Điều đó không hẳn thế. Có lẽ

rằng với Cao Biền Giao Châu chịu một chế độ thuế khóa phân minh thì phải hơn, còn trong thời các tiền triều vì không có

hẳn một chính sách thu nạp rõ rệt nên sự đóng góp của dân phần lớn chỉ vào cái túi tham nhũng không đáy của bọn quan

lại Trung Quốc. Năm Ất Vị (875) vua Đường đổi Cao Biền đi làm Tiết Độ Sứ tại Tây Xuyên (Tứ Xuyên) và ưng thuận

lời đề nghị của Cao Biền cho Cao Tầm (cháu Cao Biền) thay thế chú ở phương Nam. Chẳng bao lâu nước Tàu lại loạn

và cái cảnh tam phân ngũ liệt lại tái diễn. Cũng như mọi lần, cuộc thay đổi chính sự bên Trung Quốc là một dịp tinh thần

quốc gia Việt Nam được thức tỉnh.  

108 Việt Sử Toàn Thư

Phần 2 - Chương 9 Cuộc Tranh Đấu Của Dân Tộc Việt Nam Từ Họ Khúc Đến Họ Ngô.

  Trận Thủy Chiến Đầu Tiên Của Việt Nam.

 Nhà Đường mất ngôi năm Đinh Mão (907) và kế tiếp nhà Đường là đời Ngũ Quý. Nước Tàu lại một phen chia năm sẻ

bẩy như biết bao lần trước. Nếu trước thời Đông Hán có loạn Tam Quốc (Ngô, Ngụy, Thục tranh hùng), thì giờ đây là

Hậu Lương, Hậu Đường, Hậu Tấn, Hậu Hán, Hậu Chu gây cuộc biến loạn để nắm cái ngôi chúa tể Trung Quốc. Đó là

bọn Ngũ Quý hay là đời Ngũ Quý, Ngũ Đại, chẳng nhà nào mạnh hẳn và được lâu bền. Mỗi nhà đứng vững được năm

ba năm rồi bị đào thải. Dân Trung Hoa bị lửa loạn bùng cháy liên miên trên nửa thế kỷ. Dân Giao Châu tất nhiên không

bỏ lỡ cơ hội. Khi Đường triều bắt đầu nghiêng đổ, uy quyền trung ương không thấu mạnh ra ngoài bờ cõi thì một người

dân Giao Châu là ông Khúc Thừa Dụ quê ở Hồng Châu (thuộc địa hạt Ninh Giang, tỉnh Hải Dương) đứng lên chiếm đoạt

lấy guồng máy chính quyền ở đây. Ông vốn là một nhà hào phú, phóng túng, đạo đức nên nhân dân kính phục. Nhà

Đường (năm 906) rất khôn ngoan liền cử ông lên làm Tiết Độ Sứ (sau phong thêm làm Đồng Bình Chương Sự) thay

Tăng Cổn bỏ thành trốn về Tàu để yên dân. Sự thực, nếu nhà Đường được vững vàng yên tĩnh như thuở nào, người ta

đâu có dại phó thác vận mệnh một thuộc quốc vào tay một người bản xứ, nhất là người đó lại được nhân tâm nhiệt liệt

quy phục, và có tinh thần độc lập. Chẳng qua thế chẳng đừng và là một cách hòa hoãn với nghịch cảnh mà người ta phải

đẩy con thuyền chính trị thuận theo chiều gió. Năm sau Đường bị diệt hẳn đến nhà Hậu Lương kế tiếp, người ta cũng để ý

ngay vấn đề Giao Châu - Lưu An được phong làm Nam Bình Vương kiêm Quảng Châu Tiết Độ Sứ với dự định đem

quân đội sang Giao Châu một khi có cơ hội thuận tiện. Ông Khúc Thừa Dụ ở địa vị chưa được một năm thì qua đời trao

lại cho con là Khúc Hạo cái sứ mạng nặng nề của ông là tiếp tục giữ gìn đất nước và chống xâm lăng. Khúc Hạo là một

người kế nghiệp rất xứng đáng và là một nhà chính trị có tài. Ông sửa sang nền hành chính, đặt các quan lại thế vào bọn

tay sai của ngoại quốc trước đây, mở mang các phủ, châu, xã, sửa soạn đường lối giao thông, chia nước ra thành từng

xứ, lộ, phủ đặt chức lệnh trưởng và tá lệnh trưởng, biên tên làng, quận và làm sổ hộ tịch. Việc thuế má được chia đều,

chính trị khoan nhân giản dị, dân nhờ ơn ông "mà sống lại" (Khâm Định Việt Sử Tiền Biên). Do tình trạng Giao Châu

được thịnh đạt nên quân nhà Lương mặc dầu có ý định tái chiếm xứ này nhưng vẫn chưa dám bước chân vào biên giới

của chúng ta. Trong lúc này ông Khúc Hạo phái con là Khúc Thừa Mỹ sang Quảng Châu, bề ngoài là đi việc sứ bộ

nhưng bề trong là dò xét tình ý và thực lực của họ Lưu. Sự phục tòng nhà Lương bấy giờ chỉ là về hình thức mà thôi.

Lưu An đóng phủ trị ở Quảng Châu được 4 năm thì mất. Em là Lưu Cung được lên thay nhưng sau có điều bất mãn với

triều Lương (Hậu Lương) Lưu Cung tuyên bố biệt lập và xưng đế, lấy quốc hiệu là Đại Việt. Sau này (năm Đinh Sửu

917) Lưu Cung lại đổi quốc hiệu ra Nam Hán. Năm Đinh Sửu (917) ông Khúc Hạo mất. Nhà Lương giao chức Tiết Độ

Sứ cho Khúc Thừa Mỹ là con ông. Trong giai đoạn này ta nhận xét nhà Lương không mạnh nên phải chịu để người Giao

Châu giữ đất Giao Châu và khoanh tay nhìn sự biệt lập của dòng họ Lưu trên mảnh đất miền Nam Trung Quốc. Theo

Trần Trọng Kim, Nam Hán thấy Giao Châu giao hảo với nhà Lương có ý bất bình, sau Nam Hán đem quân sang đánh

Khúc Thừa Mỹ. Thiết tưởng đây không phải là một cớ vững chắc. Việc xâm lăng của Nam Hán vào Giao Châu chỉ do ý

muốn gồm thâu Giao Châu vào lĩnh thổ của mình nghĩa là do ý chí đế quốc chớ đâu có phải do một chuyện hờn giận về

tình cảm. Năm Quí Mùi (923) quân Nam Hán thắng trận. Khúc Thừa Mỹ bị bắt, sau được thả về. Bàn về sự nghiệp của

ba đời họ Khúc tiên Chúa, trung Chúa và hậu Chúa, sử thần Ngô Sĩ Liên cho rằng nước Nam ta nẩy mầm tự trị từ ba đời

họ Khúc tuy chưa xưng Đế, xưng Vương. Mọi công cuộc cải cách chính trị của họ Khúc đã tỏ được sự trưởng thành về

chính trị của chúng ta và đáng làm gương cho đời sau. Từ bấy giờ trở đi đến họ Đinh nhất thống nước Đại Cồ Việt hơn 60

năm nay (906 - 967) dân Nam thoát vòng lao lung của người Tàu... Lời bàn ấy xét ra rất đích đáng. Tướng Nam Hán là

Lý Khắc Chính được ở lại chiếm đóng Giao Châu, Lý Tiến giữ chức thứ sử, nhưng chính quyền của Nam Hán cũng

không được lâu bền. Tám năm sau (931) một kiện tướng của Khúc Hạo xưa kia là Dương Đình Nghệ lại huy động được

dân chúng đuổi được bọn Lý Khắc Chính và Lý Tiến rồi lên thay vào chức Tiết Độ Sứ. Nam Hán không có một phản

ứng nào đối với việc này, có lẽ rằng họ cũng kính nể lực lượng của Giao Châu chăng? Sáu năm qua đang êm đẹp, đời

sống của Giao Châu như nước thuận dòng thì xẩy ra cuộc chính biến giữa người Giao Châu với nhau: Dương Đình Nghệ

bị nha tướng là Kiểu Công Tiễn giết và cướp lấy quyền, nhưng rồi đến lượt Kiểu Công Tiễn cũng bị ngã trong khi tấp tễnh

bước lên cái địa vị chúa tể Giao Châu. Y bị Ngô Quyền là tướng của Dương Đình Nghệ cử binh đánh phá để báo thù

cho chủ và nhạc phụ. Nguyên họ Ngô là một người tài ba, lỗi lạc, lại có lòng trung thành nên Dương Đình Nghệ yêu quý

nên đem con gái gả cho. Ông quê quán ở Đường Lâm (thuộc tỉnh Sơn Tây) cùng một quê hương với nhà ái quốc Phùng

Hưng xưa kia. Dương Đình Nghệ lúc sinh thời đã giao ông đảm nhiệm chức trấn thủ Ái Châu là một địa hạt quan trọng

hồi đó, vừa về chính trị và quân sự bởi cần đề phòng quân Lâm Ấp. Kiểu Công Tiễn thua trận liền cho người sang cầu

cứu nhà Nam Hán. Do nơi Kiểu Công Tiễn phái người sang cầu cứu và bầy tỏ cuộc chính biến ở Giao Châu, vua tôi nhà

Nam Hán liền chụp ngay cơ hội này mà họ chờ đợi từ lâu. Họ hiểu rằng mỗi khi Giao Châu được người lĩnh đạo có tài, có

đức thì lực lượng Giao Châu chóng trở nên mạnh và đáng sợ vì sức đoàn kết của dân tộc đã chặt chẽ và nguyện vọng tự

do, độc lập luôn luôn nung nấu lòng người. Cho nên mỗi khi muốn chinh phục nước Nam, các triều đại Bắc phương rất là

thận trọng. Ta hẳn nhớ sự giao dịch giữa nhà Hán và Triệu Đà xưa kia là cả một sự kiêng nể với những lý do đích đáng

của nó. Nhưng khi họ Triệu qua đời, những kẻ thừa kế ươn hèn thì "thiên triều" lại áp dụng ngay cái chính sách kẻ cả.

Tóm lại người phương Bắc tuy hơn chúng ta về phương diện văn hóa nhưng vẫn phải e dè cái tinh thần quốc gia của

chúng ta mà họ biết là khả kính. Nam Hán đối với chúng ta cũng vậy, nhất là địa phận Quảng Châu của họ lại sát nách

chúng ta. (Xin nhớ rằng đến thời đó người Việt chúng ta đã chuyển dịch xuống miền lưu vực sông Hồng Hà, miền Bắc

Việt bây giờ chứ không còn gồm ba tỉnh miền Hoa Nam như dưới thời Triệu Đà.) Họ hiểu chúng ta hơn hẳn nhà Lương

nhất là sau khi Dương Đình Nghệ đã đuổi văn thần, võ tướng của họ ra khỏi Giao Châu năm Tân Mão (931). Lần thứ hai

này Nam Hán qua Giao Châu là một cuộc hành binh lớn lao, có thể nói họ đã xuất toàn lực của họ bởi không phải chỉ có

những võ tướng lên đường mà còn cả thái tử Hoằng Tháo, con vua Nam Hán góp sức. Hoằng Tháo đem hậu quân đi tiếp

viện. Khi quân kỳ của Nam Hán phất phới bay gần sông Bạch Đằng thì Kiểu Công Tiễn đã bại trận và bị giết. Vấn đề nội

địch đã giải quyết xong, họ Ngô liền nghĩ ngay ra một kế là hạ Nam Hán bằng cuộc thủy chiến có nhiều hy vọng thắng lợi

hơn là địa chiến. Nhà tướng này truyền hịch cho quân dân đề phòng xâm lăng mọi mặt và bề khác cho người cắm cọc gỗ

nhọn đầu bọc sắt ở lòng sông Bạch Đằng trong khi nước triều lên đợi nước thủy triều xuống mới mở cuộc phản công. Giai

đoạn đầu, quân Nam Hán và quân Giao Châu xô sát với nhau trên mặt sông. Dĩ nhiên quân Giao Châu đánh cầm chừng

rồi bỏ chạy chờ nước rút xuống. Kế này thành công. Khi nước rút, thuyền của đại quân Nam Hán bị cọc đâm thủng nát

và đổ vỡ không sao tiến thoái được. Quân Giao Châu liền quay lại theo chiến lược đã định và cuộc phản công đáng kể là

khốc liệt hết sức. Quá nửa lực lượng Nam Hán bị tiêu diệt. Thái tử Hoằng Tháo bị bắt sống và bị đem về giết đi. Sau khi

dòng máu Nam Hán lai láng trên con sông Bạch, một ít tàn quân chạy thoát về Phiên Ngung, mộng đế quốc của phương

Bắc sau cuộc chiến thắng của Ngô Quyền lại một phen nữa tan ra mây khói. 

111 Việt Sử Toàn Thư

 Phần 3 - Chương 1 Việt Nam Trên Đường Độc Lập (939 sau C.L)

1) Tiền Ngô Vương  2) Dương Tam Kha  3) Hậu Ngô Vương  4) Thập Nhị Sứ Quân.

  Nhà Ngô ra đời năm Kỷ Hợi (939) sau khi đã làm nhiều việc lớn lao hiển hách: bên trong dẹp được nghịch thần, bên

ngoài đuổi bọn cường địch và chấm dứt cái nạn vong quốc đầy tủi nhục dài trên 11 thế kỷ (1146 năm). Nói rằng nhà

Ngô đã có công lớn trong việc mở đường dọn lối cho các triều đại tự chủ sau này là Đinh, Lê, Lý, Trần tưởng không phải

là ngoa vậy. Ngô Quyền xưng vương và thành Cổ Loa (Phúc Yên) lại một phen nữa thành kinh đô cho một triều đại.

Ngô Vương tổ chức triều nghi đặt các phẩm tước, định việc phục sắc, chỉnh đốn mọi việc chính trị quy mô đế vương kể

đã đầy đủ. Ông muốn gây một sự nghiệp lâu dài nhưng tiếc rằng số mệnh quá ngắn ngủi. Ông ở ngôi đựơc 6 năm và qua

đời năm Giáp Thìn (944), thọ được 47 tuổi. Ngô Vương trước khi chết ký thác việc lập tự cho Dương Tam Kha là em

vợ (Dương Hậu, con gái Dương Đình Nghệ). Họ Dương đáng lẽ phải tôn phù Ngô Xương Ngập theo lời di chúc nhưng

lợi dụng cơ hội. tự đặt mình lên ngôi xưng là Bình Vương (945 950). Ngô Xương Ngập biết rằng ở bên cạnh Dương Tam

Kha có thể nguy đến tính mạng, liền bỏ trốn sang Nam Sách (Hải Dương) và được Phạm Lệnh Công ở làng Trà Hương,

huyện Kim Thành giúp đỡ. Tam Kha sai quân đuổi bắt vì e hậu họa, nhưng Ngô Xương Ngập được họ Phạm dấu trong

núi. Ngô Xương Ngập còn một người em là Ngô Xương Văn, Dương Tam Kha nuôi làm con nuôi. Sau này tại Sơn Tây

có loạn (ở hai thôn Thái Bình) Ngô Xương Văn và các tướng Dương Cát Lợi và Đỗ Cảnh Thạc được cử đi đánh dẹp.

Thời bấy giờ từ sĩ phu đến dân chúng không ai phục Tam Kha nên "nổi lên như ong" chiếm các huyện ấp. Nhận thấy lòng

người chống lại họ Dương, các tướng cùng Ngô Xương Văn lợi dụng quân lực trong tay trở lại kinh sư gây cuộc đảo

chánh. Dương Tam Kha bị bắt. Ngô Xương Văn lên ngôi xưng là Nam Tấn Vương. Nghĩ tình cậu cháu, Xương Văn

không nỡ làm tội Tam Kha, chỉ giáng xuống làm Trương Dương công và cấp cho thái ấp để hưởng lộc. Bấy giờ ở gần

nước ta, Nam Hán đang cường thịnh. Nam Tấn Vương xin lệ thuộc và Hán chúa Lưu Thanh phong Ngô Vương làm Tĩnh

Hải Tiết Độ Sứ Kiêm Đô Hộ (Khâm Định Việt Sử quyển 5 tờ 25a và b). Nạn Dương Tam Kha trừ xong, Ngô Xương

Văn cho người đi tìm anh ở Trà Hương về cùng chia ngôi vị. Ngô Xương Ngập xưng là Thiên Sách Vương. Sử gọi là

Hậu Ngô Vương. Sau ít lâu, Thiên Sách Vương ỷ mình là trưởng nắm hết quyền chính, nhưng đến năm Giáp Dần thì mất.

Việc chính trị dưới thời Hậu Ngô Vương mỗi ngày một suy kém. Nam Tấn Vương cũng không tỏ gì là xuất sắc. Trong

nước vẫn xảy ra biến loạn ở nhiều nơi. Lên ngôi vừa xong tức là ngay năm thứ nhứt, Xương Văn đem quân đi đánh Đinh

Bộ Lĩnh ở Hoa Lư không thâu lượm được kết quả nào đáng kể. Sau này Nam Tấn Vương đi dẹp Chu Thái, thũ lĩnh loạn

quân ở hai thôn Thái Bình (thuộc Sơn Tây), vì khinh địch và bất cẩn bị trúng tên chết ngay tại Đại Bản Doanh. Xét ra

Nam Tấn Vương ở ngôi được 15 năm (950-965), không có người kế tự. Con Thiên Sách Vương là Ngô Xương Xí lên

thay nhưng cũng không hơn gì cha và chú nên các giai cấp quí tộc, phong kiến không phục rồi nạn Thập Nhị Sứ Quân

bùng ra. Ngô Xương Xí đóng ở đất Bình Kiều bấy giờ cũng chỉ là một trong 12 sứ quân mà thôi. Thời Thập Nhị Sứ Quân

ở nước ta là một thời đại loạn, là một cuộc tranh giành xâu xé vì quyền lợi giữa các lực lượng địa phương luôn 22 năm

ròng. Nguyên nhân xa xôi của loạn 12 sứ quân: Nếu chúng ta theo dõi lịch sử, ta thấy rằng loạn sứ quân không phải một

ngày mà có. Hoàn cảnh xã hội Giao Châu trong thời Bắc thuộc luôn luôn thay đổi, thăng trầm với cảnh hưng vong của

Trung Quốc. Quan lại Trung Quốc và các đẳng cấp quý tộc mới kế tiếp các giai cấp phong kiến thuần túy Giao Châu

trước, đến giờ phút đó luôn luôn nghĩ đến sự tự tạo cho mình một địa vị để đề phòng tình thế bất trắc, hoặc trông chờ

những cơ hội thuận tiện để tranh vương đồ bá. Đầu thế kỷ thứ 10, nhà Đường sắp đổ đã gây nên trạng thái tâm lý này.

Qua đời Ngũ Quý, tâm lý Giao Châu càng bị xúc động thêm. Rồi họ Khúc, họ Dương, họ Ngô dấy nghiệp. Trong khi xây

dựng cơ đồ các họ trên đây không thể không lấy các phần tử phong kiến làm vây cánh, vì vậy mầm phong kiến nảy nở

càng thêm xanh tốt. Sau này nhà Ngô đã thiết lập hẳn một vương triều để thống nhất đất đai và chính trị, quyền hành của

phong kiến bị thu hẹp dần và mối mâu thuẩn bắt đầu phát động. Trong thời họ Khúc, họ Dương và Ngô cầm quyền,

phong kiến nằm yên ngủ kỹ, không dám cựa quậy, vì các vị lãnh đạo quốc gia bấy giờ được nhân dân hoàn toàn cảm

phục. Họ Khúc nổi tiếng về đức độ và lòng ái quốc. Họ Dương, họ Ngô là những anh hùng giải phóng dân tộc. Dân

chúng đâu có chịu vì những kẻ mưu đồ quyền lợi riêng tư để chống lại với các thũ lĩnh uy danh sáng ngời đó. Các quý tộc

biết vậy nên đã không dám đi ngược với lòng dân. Nhưng khi Ngô qua đời Dương Tam Kha phụ lời ủy ký, mối biến loạn

đã có sẵn nay mới có cơ hội để bột phát. Ngay từ lúc Dương Tam Kha tiếm vị của cháu, tại hai thôn Thái Bình thuộc Sơn

Tây đã náo động, rồi cuộc biến loạn lan tràn khắp mọi nơi trước sự bất tài của anh em Ngô Xương Văn và con cháu.

Mối loạn đó tất nhiên ta thấy rõ đã do các lĩnh tụ 12 địa phương rải rác trên toàn cõi Giao Châu gây ra. Họ đều thuộc

đẳng cấp quý tộc tất cả. Mười hai sứ quân dưới thời Hậu Ngô Vương là: 1) Ngô Xương Xí (nay là làng Bình Kiều, phủ

Khoái Châu, Hưng Yên). 2) Đỗ Cảnh Thạc giữ Đỗ Động Giang (huyện Thanh Oai, Hà Đông). 3) Trần Lãm xưng Trần

Minh Công giữ Bố Hải Khẩu (tỉnh Thái Bình) 4) Kiều Công Hãn xưng là Kiều Tam Chế giữ Phong Châu (huyện Bạch

Hạc tỉnh Vĩnh Yên). 5) Nguyễn Khoan xưng là Nguyễn Thái Bình giữ Tam Đái (phủ Vĩnh Tường tỉnh Vĩnh Yên). 6) Ngô

Nhật Khánh xưng là Ngô Lãm Công giữ Đường Lâm (Phúc Thọ - Sơn Tây). 7) Lý Khuê xưng Lý Lãng Công giữ Siêu

Loại (phủ Thuận Thành tỉnh Bắc Ninh). 8) Nguyễn Thủ Tiệp xưng là Nguyễn Lịnh Công giữ Tiên Du (Bắc Ninh). 9) Lữ

Dương xưng là Lữ Tá Công giữ Tế Giang (Vân Giang Bắc Ninh). 10) Nguyễn Siêu xưng là Nguyễn Hữu Công giữ Tây

Phủ Liệt (Thanh Trì Hà Đông). 11) Kiều Thuận xưng Kiều Lịnh Công giữ Hồi Hồ (Cẩm Khê tỉnh Phú Thọ). 12) Phạm

Bạch Hổ xưng là Phạm Phòng Át giữ Đằng Châu (Hưng Yên). Dân chúng Giao Châu đối với vấn đề sứ quân thế nào?

Lẽ tất nhiên họ không tán thành phong trào qua phân, nó là căn bệnh thường xuyên của phong kiến. Họ đã thấy mọi sự

đau khổ đều do nơi phong kiến mà ra. Sau thời Bắc thuộc, kinh tế nông nghiệp đã phát đạt, dân số tăng lên rất nhiều, lĩnh

thổ quốc gia toàn vẹn, người dân chỉ muốn an cư lạc nghiệp. Do xu hướng thống nhất chính trị và ham chuộng hòa bình

dân chúng đã ủng hộ ông Đinh Bộ Lĩnh, người động Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình lên nắm chính quyền. Loạn Thập nhị Sứ

Quân khởi đầu từ năm 945 đến 967 cáo chung. Họ Đinh đánh dẹp xong thì quốc gia Việt Nam trở nên lành mạnh.    

Phê Bình 12 Sứ Quân. 

 Gần đây có nhà làm sử chữ nho bình phẩm mười hai sứ quân như sau:  "Xem cuộc đời 12 sứ quân tranh nhau thì biết

nghĩa hợp quần là khó nhưng cũng biết cái trí não dân tộc ta về hồi ấy đã đến trình độ tiến hóa. Lúc ấy hai vua Ngô tuy

mất, Xương Xí là dòng dõi Thiên Hoàng, cũng như Đông Chu quân nhà Chu, Hoài Dương vương nhà Hán, nếu các thổ

hào cùng nhau phục tòng hợp hơn mười bọn nhỏ làm một bọn lớn, tôn Ngô Xương Xí làm thiên hạ cộng chủ để nối dòng

họ Ngô, mà các bộ sứ quân thời tự trị lấy trong bộ mình, khi quốc gia vô sự thời áo xiêm ngọc bạch như Tần Tấn liên

hoàn. Khi quốc gia hữu sự thời môi hở răng lạnh, giữ gìn nhau như Ngu, Quắc kết nghĩa, thế thì Hợp Chủng Quốc ở Bắc

Mỹ lợi kiên và hai mươi nhăm liên bang ở Nhật Nhĩ Man há chẳng xuất hiện vào nước ta về thế kỷ thứ 12 rồi ư?

Lại không làm thế, sớm chuông trống, tối giáo mác, mạnh ăn thịt yếu, rút cục bị tiêu ma cả ở dưới ngọn cờ bông lau, há

chẳng phải là cái tội quần học bất minh" (không rõ nghĩa hợp quần). Nhưng mà còn có chỗ đáng khen, vì trước hồi ấy

mỗi khi gặp một phen biến loạn thì người nước phần nhiều dựa thế người Tàu như Đỗ Hoàng Văn đương khi có bệnh mà

gắng đi xe sang nhà Tống. Lý Thúc Hiến đi đường tắt để chầu nhà Tề là mượn thế lực người ngoài để bắt nạt đồng loại,

thật đáng bỉ. Lúc bấy giờ các sứ quân mỗi người xưng hùng xưng bá một phương, có Nam Hán là một nhà khôn ngoan,

muốn mở rộng đất đai, ở ngay kế nách, thế mà chưa hề nghe có người nào phải nhờ thế lực người ngoài để hại đồng loại

vì rằng cái trình độ dân trí của ta bấy giờ đã khá cao cho nên tuy có cái lòng "cá lớn nuốt cá con -- giống mạnh ăn thịt

giống yếu" mà ai cũng biết "cõng rắn cắn gà nhà", "Rước voi về giầy mồ" là không hay. Sau này Đinh Tiên Hoàng cả xưng

Vạn Thắng thì thế lực không chống nổi, nhưng vẫn là người Nam làm vua nước Nam, tưởng 12 sứ quân có linh thiêng

cũng ngậm cười ở nơi chín suối (Đại Việt Sử Ký cải lương A 1146, quyển 1 tờ 63-66b). Về 12 sứ quân đời bấy giờ có

câu ca dao như sau này: Của đời muôn sự của chung, Hơn nhau một tiếng anh hùng mà thôi ... 

115 Việt Sử Toàn Thư

 Phần 3 - Chương 2 Nhà Đinh (968-980)

I. Đinh Tiên Hoàng 1) Tổ chức nội bộ  2) Ngoại giao với Tống 3) Binh chế    4) Chính trị II. Đinh Phế Đế.

1- Đinh Tiên Hoàng (968-980)

Đinh Tiên Hoàng tức Đinh Bộ Lĩnh, ra đời vừa đúng giữa khi lịch sử Việt Nam đang trải một giai đoạn hắc ám trên 30

năm, kể từ khi Dương Tam Kha thoán nghịch đến loạn 12 sứ quân, dân chúng lầm than không kể xiết. Thời thế đó đã cấu

tạo nên con người hào kiệt để chấm dứt cảnh cốt nhục tương tàn và theo gót Trưng, Triệu, Lý, Mai, Ngô v.v... họ Đinh

đã đặt thêm viên đá cho nền độc lập và thống nhất của nước nhà. Đinh Bộ Lĩnh là con Ông Đinh Công Trứ, giữ chức

Thứ Sử Hoan Châu về đời Dương Đình Nghệ và Ngô Vương Quyền. Cha mất sớm, ông theo mẹ về quê sống cuộc đời

hoàn toàn thảo dã gần như mất hết dấu vết quý tộc thuở trước. Nhưng, ngay từ khi còn thơ ấu Ông đã có những cử chỉ

và khí phách khác người. Ngày thường chơi với các bạn ở ngoài đồng bãi là những trẻ chăn trâu bò, bắt chúng phải

khoanh tay làm kiệu, Ông ngồi lên trên để cho chúng rước đi chơi. Ông lại sai chúng lấy bông lau làm cờ và bày thế trận

đánh nhau. Các trẻ trong địa phương đều tôn Ông làm đàn anh. Tới tuổi trưởng thành, uy tín của Bộ Lĩnh mỗi ngày một

vang dội, dân trong vùng theo rất nhiều. Do tính tình ngang tàng, Ông và người chú bất hòa với nhau nên Ông phải rời bỏ

quê hương, cùng con trai là Đinh Liễn sang Bố Hải Khẩu (thuộc phủ Kiến Xương, tỉnh Thái Bình) theo sứ quân Trần

Minh Công. Từ đó trở đi, Bộ Lĩnh tiến dần trên con đường sự nghiệp. Thấy Ông chí khí hiên ngang, cử chỉ đĩnh đạc, diện

mạo khôi ngô, họ Trần yêu mến và cho dự phần quan trọng trong việc điều khiển binh đội. Ông được họ Trần trao cho

binh quyền trước khi mất. Sau đó Ông chuyển quân đội về quê nhà (Hoa Lư) là nơi Ông đã đặt nhiều ảnh hưởng lúc thiếu

thời, chiêu mộ thêm hào kiệt và binh lính. Lực lượng của Ông mỗi ngày một mạnh. Năm Tân Hợi (951), anh em Nam Tấn

Vương đã có lần xuất quân đến đánh mà không được25. Nhà Ngô mất, họ Đinh đánh bại được sứ quân Phạm Phòng Át,

phá được Đỗ Cảnh Thạc (huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Đông) rồi dần dần tiêu diệt được hết các lĩnh tụ địa phương sau một

năm ròng. Cuộc chiến thắng của họ Đinh thật rực rỡ và đã quyết định tình thế thời bấy giờ vì những hào kiệt của Giao

Châu hầu hết đều có mặt dưới cờ của Đinh Bộ Lĩnh (Giao Châu thất hùng: Đinh Bộ Lĩnh, Đinh Liễn, Lê Hoàn, Đinh Điền,

Nguyễn Bặc, Phạm Hạp, Phạm Cự Lạng) Sau những chiến công oanh liệt liên tiếp ông được dân chúng tôn làm Vạn

Thắng Vương.    

Tổ Chức Nội Bộ. 

 Năm Mậu Thìn (968), Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi Hoàng Đến, xưng là Đinh Tiên Hoàng Đế, đặt quốc hiệu là Đại Cồ Việt

(nước Việt lớn), niên hiệu là Thái Bình nguyên niên, đóng đô ở Hoa Lư, xây cung điện, định triều nghi. Quần thần tôn

Ngài là Đại Thắng Minh Hoàng Đế. Đáng chú ý Tiên Hoàng Đế đã lưu tâm nhiều đến việc quân sự, vì thời đó là thời loạn,

việc võ cần được mở mang nhiều, huống hồ nạn xâm lăng của Bắc phương đời nào cũng rình mò ngoài cổng ngõ của

chúng ta. Những công thần và đại thần thuở đó đều là những tướng lĩnh: Nguyễn Bặc được phong làm Định Quốc Công,

Lê Hoàn làm Thập Đạo Tướng Quân, Đinh Liễn (con cả Tiên Hoàng Đế) làm Nam Việt Vương. Năm Canh Ngọ, (970)

là năm đầu tiên niên hiệu Thái Bình, Tiên Hoàng Đế đặt 5 ngôi Hoàng Hậu: Đan Gia, Trịnh Minh, Kiểu Quốc, Cù Quốc

và Ca Ông. (Về việc này, sử thần Lê Văn Hưu chê rằng: Đinh Tiên Hoàng là người không biết cổ học mà bầy tôi bấy giờ

không ai sửa chữa lại, đến nỗi mê đắm, thiên tư lập 5 ngôi Hoàng Hậu ngang nhau. Sau Lê, Lý phần nhiều bắt chước,

chính là do Tiên Hoàng khởi xướng...). Tiên Hoàng vừa khởi đế nghiệp ở Việt Nam thì Triệu Khuông Dẫn cũng lập ra nhà

Tống bên Trung Quốc, và luôn ngay khi đó, nhà Tống phái Đại Tướng Phan Mỹ sang đánh Lưu Thành, chúa nhà Nam

Hán, vì đã chống cự mệnh lệnh.

[25 Trong khi Đinh Bộ Lĩnh cát cứ ở Hoa Lư động, hai vua Ngô khởi binh đánh, Bộ Lĩnh sợ sai con là Đinh Liễn đến làm

con tin xin hoãn binh. Khi Đinh Liễn đến hai vua Ngô bắt giam rồi xuất chinh. Đôi bên đánh nhau hơn một tháng không

thắng bại, sau hai vua Ngô bèn sai trói Đinh Liễn đem treo ở trên cầu rồi cho người sang bảo Đinh Bộ Lĩnh rằng: nếu

không hàng sẽ giết Liễn, Bộ Lĩnh nổi giận nói rằng: người đại trượng phu cốt ở công danh sự nghiệp chứ đâu có bắt

chước đàn bà con trẻ. Nói rồi sai 10 người cầm nỏ chỉa vào Liễn toan bắn. Hai vua Ngô thất kinh nói: Ta sở dĩ treo con

hắn là buộc lòng hắn phải theo. Nay hắn tàn nhẫn như thế thì giết cũng vô ích. Rồi không giết Liễn mà thu quân về. (Khâm

Định Việt Sử, 9,5 tờ 24a,b) ]  

Việc Ngoại Giao Với Nhà Tống. 

 Đinh Tiên Hoàng xét thực lực của mình chưa mạnh, quốc gia vừa thành hình nếu bị Tống triều đánh phá tất có sự bất lợi

nên sai sứ sang thông hiếu. Lần thứ nhất, Tiên Hoàng cử sứ bộ qua Bắc triều, vào tháng giêng năm 970. Lần thứ hai, năm

thứ ba hiệu Thái Bình nguyên niên, Nam Việt Vương Đinh Liễn sang biếu Tống triều đồ phương vật. Năm sau nữa (972)

sau khi Nam Việt Vương trở về, nhà Tống sang sách phong Tiên Hoàng làm "Giao Chỉ Quận Vương", Đinh Liễn làm

"Kiểm Hiệu Thái Sư Tĩnh Hải Quận Tiết Độ Sứ An Nam Đô Hộ".

Binh Chế.

 Việc ngoại giao yên ổn, Tiên Hoàng liền lo mọi vấn đề nội trị. Ngài tổ chức quân đội làm 5 cấp: Đạo, Quân, Lữ, Tốt,

Ngũ. Mỗi Đạo có 10 Quân, Quân có 10 Lữ, Lữ có 10 Tốt, Tốt có 10 Ngũ, mỗi Ngũ có 10 người. Như vậy là mỗi Đạo

có 10 vạn người. Tổng số quân đội của nhà Đinh có tới 1 triệu người. Sử gia Trần Trọng Kim cho rằng bấy giờ nước ta

còn nhỏ, dân ta còn thưa thớt, làm gì có đủ thực lực để nuôi nổi 1 triệu quân. Nhưng, bàn về binh chế của nhà Đinh, Ứng

Hoè Nguyễn Văn Tố, trong báo Tri Tân, phát biểu rằng điều đó có thực do quân đội bấy giờ chia ra làm 2 hạng: một

hạng là quân đội thường trực hay hiện dịch, một hạng là trừ bị, luân chuyển nhau trong 1 thời hạn nhất định để phụng sự

dưới cờ, tức là mãn kỳ quân dịch, quân sĩ lại trở thành nông dân. Theo đó, quân số nhà Đinh có thể lên tới một triệu.   

Chính Trị. 

 Về chính trị, Tiên Hoàng Đế ban hành nhiều luật lệ rất khắt khe. Ngài đặt vạc dầu ở trước điện, nuôi hổ báo trong vườn,

dựng cột đồng nung đỏ để trừng trị những kẻ gian ác và phản bội. Nhờ có hình luật nghiêm khắc này, nền an ninh quốc

gia được vãn hồi. Đạo Phật từ 6 thế kỷ trước đã có mặt ở nước ta, bấy giờ cũng khá phát đạt. Tiên Hoàng rất trọng dụng

các Thiền sư vì họ có học lực uyên bác và Ngài cho lập ngạch tăng thống. Sư Khuông Việt đã được Ngài phong làm

Quốc Sư. Đinh Tiên Hoàng tuy khởi nghiệp trên mình ngựa, học hành ít ỏi, nhưng về phương diện nội trị và ngoại giao, ta

thấy họ Đinh không phải chỉ có tài đánh Đông, dẹp Bắc. Luật lệ nghiêm khắc bao nhiêu chứng tỏ tình thế bấy giờ hỗn

loạn bấy nhiêu, vì vậy việc dùng kỷ luật thép chỉ là do nhu cầu thời đại. Quả vậy, ta hãy coi thượng tầng xã hội là quý tộc,

là phong kiến thì luôn luôn có chuyện tranh giành và phiến động ở các địa phương, lòng dân lại hết sức hoang mang, mạnh

đâu theo đấy, thật chẳng khác gì xã hội Trung Quốc bên kia miền Ngũ Lĩnh. Như thế, vạc dầu và hổ báo của Đinh Tiên

Hoàng chỉ có mục đích khuất phục những kẻ phản nghịch hơn là để đối phó với dân chúng, nếu ta nhìn sát vào nội tình

nước ta trước và sau đó. Và ta nên thừa nhận mọi sự khe khắt của hình luật triều Đinh đều chỉ lấy sự yên ấm của nhân

dân làm mục đích. Điều này, họ Đinh đã thực hiện luôn 12 năm ròng khi cầm vận mệnh dân tộc cho đến lúc quá cố, đối

với dân chúng cũng như đối với giai cấp quý tộc.  Họ Đinh mất, ngay khi mồ tiên chúa chưa xanh ngọn cỏ thì cuộc khủng

hoảng chính trị đã xảy ngay giữa triều đình, nhiều biến cố tai hại đã sinh ra truy nguyên cũng do một vài điều thất sách của

Tiên Hoàng.   

Việc biến cố thứ nhất của triều Đinh: 

 Năm Thái Bình thứ 9 (978), họ Đinh bỏ trưởng lập ấu. Thiếu tử là Hạng Lang được phong làm Thái Tử, (tất vì bà Hoàng

Hậu đẻ ra Hạng Lang được sủng ái nhất nên họ Đinh bất chấp cả lệ thường) con thứ là Đinh Tuệ làm Vệ Vương, còn

Đinh Liễn là con cả theo cha từ lúc hàn vi, lập nhiều chiến công, từng chịu nhiều vất vả trong việc đi sứ, nay bị bỏ nên

Liễn giận lắm ngầm sai người giết Hạng Lang. Mùa xuân năm 979 đã đánh dấu cảnh cốt nhục tương tàn này.   

Việc biến cố thứ hai:

Cận thần Đỗ Thích đã lẻn vào cung giết được Tiên Hoàng và Nam Việt Vương Liễn luôn trong một đêm, khi hai cha con

cùng say rượu nằm ngủ ngoài sân. Đỗ Thích bị bắt và bị làm tội. Vệ Vương Đinh Tuệ được tôn lên ngôi ngay nhưng mới

có sáu tuổi.26 Kể từ bấy giờ (979), nhà Đinh coi như sụp đổ sau 12 năm nắm chính quyền. Tiên Hoàng thọ được 56

tuổi.

2- Đinh Phế Đế.

 Vệ Vương Đinh Tuệ lên ngôi vào tháng 10 - 979. Mẹ là Dương Thái Hậu lâm triều dùng Nguyễn Bặc, Đinh Điền, Lê

Hoàn làm phụ chính. Lê Hoàn xưa chuyên giữ việc binh nhung, được lòng Thái Hậu và lại cùng Thái Hậu tư thông nên tự

do ra vào nơi cung cấm và có ý lộng quyền. Bọn Bặc, Điền là tôi trung của tiền triều không chịu được những điều ngang

chướng và ý định cướp ngôi của họ Lê nên âm mưu chống lại Đại Nam Quốc Sử Diễn Ca viết: ... Nối sau Thiếu Đế thơ

ngây, Lê Hoàn nhiếp chính từ rày dọc ngang. Tiếm xưng là phó quốc vương, Ra vào cùng ả họ Dương chung tình. Hai vị

trọng thần này cùng Phạm Hạp là bộ tướng cũ của vua Đinh ngầm rút về Ái Châu khởi binh đánh Lê Hoàn nhưng thất bại

và bị giết hết (Phạm Hạp và Đinh Điền bị bắt sống đem về xử tử ở kinh đô Hoa Lư). Sự lộn xộn này bị bọn quan lại nhà

Tống ngoài biên trông thấy, Tống triều liền lợi dụng ngay cơ hội cử đại quân do Hầu Nhân Bảo, Tôn Toàn Hưng, Trần

Khâm Tố, Lưu Trừng, Gia Thực, dẫn qua nước ta. Hầu Nhân Bảo được lĩnh chức Giao Châu Chuyển Vận Sứ, và theo

kế hoạch của nhà Tống, việc Nam chinh thành công thì thiết lập ngay việc đô hộ. Lê Hoàn cử Phạm Cự Lượng làm Đại

tướng. Trước khi Phạm Cự Lượng xuất quân, họ Phạm tuyên bố: "Hiện thời Vua còn nhỏ dại, tướng sĩ đi đánh giặc lấy ai

là người biết để thưởng phạt cho minh, chi bằng ta nên tôn ông Lê Hoàn lên làm vua rồi hãy xuất quân". Quân sĩ đều tán

thành.                                       

[26 Theo dã sử, Đỗ Thích một hôm nằm trên cầu mơ thấy một vì sao sa vào miệng cho là điềm thần dị báo trước hồng

vận, bèn nảy ra cuồng vọng giết vua Tiên Hoàng và con trưởng là Nam Việt Vương để tiếm ngôi. ]

Thái Hậu bèn cho đem áo hoàng bào ở trong cung ra, tự tay khoác vào mình Lê Hoàn. Đinh Tuệ phải giáng xuống làm

Vệ Vương. Đời sau cho rằng đây là cả một cuộc dàn cảnh giữa các nhân vật chính thời đó: Dương Hậu, Lê Hoàn và

Phạm Cự Lượng. 

120 Việt Sử Toàn Thư

 Phần 3 - Chương 3  Nhà Tiền Lê  - Lê Hoàn đánh Tống - Việc ngoại giao - Sự nghiệp của Tiền Lê 

1- Lê Hoàn Đánh Tống.

 Lê Hoàn lên ngôi xưng là Đại Hành Hoàng Đế, lấy niên hiệu là Thiên Phúc (980-988) Hưng Thống (989-993) và Ứng

Thiên (994-1005). Ông sinh ở xã Ninh Thái, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam. Vừa lên ngôi xong, ông hiểu manh tâm của

Bắc triều liền mở ngay cuộc ngoại giao để lựa xem tình ý. Ông sai sứ mang thư sang Tống nói dối là của Đinh Tuệ xin

phong, không ngoài mục đích hòa hoãn với kẻ mạnh. Tống triều không những đã không nghe còn trách Lê Hoàn dám

xưng đế, và nói: nhà Đinh nối tiếp nhau đã 3 đời rồi, vậy phong cho Đinh Tuệ làm Thống Soái, Lê Hoàn làm phó. Nếu vì

nhỏ tuổi không làm nổi chức vụ thì Lê Hoàn phải đưa mẹ con Đinh Tuệ sang chầu Bắc Triều rồi sẽ được phong quan

tước.27 Biết nhà Tống có ý lừa gạt, Lê Hoàn liền sửa soạn việc quân. Quân Tống sang đất Việt có 2 đường: đường bộ là

Lạng Sơn, đường thủy do sông Bạch Đằng. Tháng ba năm Tân Tỵ (981), Hầu Nhân Bảo và Tôn Toàn Hưng dẫn lục

quân và bọn Lưu Trừng dẫn thủy quân, do hai nẻo trên tiến vào nội địa Giao Chỉ. Lê Đại Hành đem binh thuyền giữ mặt

thủy ở Bạch Đằng Giang. Hai bên xô xát. Quân Tống thế mạnh, quân ta phải lui. Hầu Nhân Bảo đến Chi Lăng (thuộc Ôn

Châu Lạng Sơn). Lê Đại Hành lập kế trá hàng dụ Tống tướng đến chỗ hiểm. Hầu Nhân Bảo bị bắt và bị chém. Quân

Tống bị thiệt hại quá nửa và hai bộ tướng của họ Hầu cũng bị bắt làm tù binh còn lại bao nhiêu đều tan vỡ hết. Lưu Trừng

giữ thủy quân nghe tin mất vía liền rút lui. Riêng có một chạm trán tại Lạng Sơn, Lê Hoàn thắng Tống một cách oanh liệt,

kể cũng là một vinh dự lớn cho dân tộc chúng ta.28.                                       

 [27 Ý của triều Tống đòi mẹ con Đinh Tuệ sang chầu không ngoài mục đích nắm giữ lấy dòng chính thống rồi diệt Lê

Hoàn sau. Dân Mất dòng chính thống thì đế quốc xâm lăng mới tránh được chướng ngại vật lớn nhất là chính nghĩa. ]

2- Việc Ngoại Giao Dưới Đời Tiền Lê (980-1005)

 Quân xâm lăng đã xa bờ cõi, nhưng Lê Hoàn hiểu rằng dù sao lực lượng của nhà Tống vẫn mạnh hơn lực lượng của

mình, chước cầu hòa vẫn là thượng sách. Năm 982, Lê Hoàn sai sứ sang Bắc triều đem trả 2 viên tướng của Tống bị bắt

làm tù binh ở Chi Lăng (Lạng Sơn) trước đây là Quách Quân Biện và Triệu Phụng Huấn, và báo tin đánh được Chiêm

Thành cùng xin chịu lễ tiến cống. Bấy giờ, Tống đang lo vào cuộc quấy phá miền Bắc của quân Khiết Đan (Hung Nô) nên

hoàn cảnh trở nên rất thuận tiện cho Giao Châu. Tống triều phong cho Lê Đại Hành chức Tiết Độ Sứ. Nhưng theo

Nguyễn Tường Phượng, sau khi nhận được chế sách, Lê Đại Hành mới đem trả lại 2 viên bộ tướng kể trên. Mới nghe, ta

tưởng như nhà chép sử đã xuyên tạc sự thật để nâng cao phong thể quốc gia, nhưng quả vua Tiền Lê đã có những cử chỉ

rất hiên ngang đó với Bắc quốc. Ta xem cách Ngài tiếp sứ sau này thì rõ (Có nên khen Ngài vừa mới dựng nước, quốc

gia tuy chưa hùng mạnh lắm mà đã lưu tâm ngay đến vấn đề quốc thể chăng?). Năm 985, (Thiên Phúc thứ 6), có sứ Tàu

qua, khi về Lê Đại Hành đưa rùa vàng, ngà voi sang biếu để xin lĩnh tiết trấn. Tháng 10 năm sau, Bắc triều phái chức Tả

Cổ Khuyết là Lý Nhược Chuyết và Quốc tử giám bác sĩ là Lý Giác mang chế sách sang phong cho Lê Hoàn "Kim sử

quang lộc Đại phu, kiểm hiệu Thái Úy An Nam Đô hộ Tĩnh Hải Tiết Độ Sứ, Kinh Triệu Quân Khai Quốc Hầu". Trong

chế sách, Bắc triều có nhắc lại vài trang lịch sử giữa Trung Quốc và phương Nam. "Sĩ Nhiếp là người thông minh khai

hóa cho dân tộc đất Việt được yên ổn. Triệu Úy Đà là người kính thuận theo chiếu chỉ của nhà Hán mà không trái, vỗ về

dân di lạc để tỏ rõ đức hóa của Trung triều". Các việc giao dịch giữa Giao Châu với Bắc triều dưới đời Tống có thể tóm

tắt như sau: Cùng năm 986, có Lý Giác sang sứ nước ta, vua Lê Đại Hành sai Ngô Quốc Ấn đem phương vật sang biếu

nhà Tống và nói có người Chiêm là Bồ La Át đem họ hàng hơn trăm người sang xin nội phụ. Tháng 10 năm ấy, nhà Tống

ban chế sách phong Lê Hoàn làm chức "Kiểm hiệu Thái bảo, An Nam Đô hộ sung Tĩnh Hải quận Tiết độ sứ Giao Châu

Quản Nội Quán Sát Xử Trí Đẳng sứ, Phong Kinh Triệu Quân hầu".                                       

 [28 Sau việc đánh Tống, giữ yên bờ cõi Đại Việt, các quần thần dân lên Lê Hoàn tôn hiệu là "Minh càn ứng vận thần vũ

thăng bình chí nhân, Quảng hiếu Hoàng Đế" -- Khâm Định Việt Sử 9.1 tờ 18a. ]

Đến năm thứ nhất hiệu Đoan Củng (988), Lê Hoàn được gia phong "Kiểm Hiệu Thái Úy Đô hộ bộ". Viên Ngoại Lang là

Ngụy Tường, Trức sứ quân là Lý Bộ đem chế sách tiến phong. Năm 990, Vua Tống sai Tả Chính Ngôn là Tống Cảo,

Hữu Chính Ngôn là Vương Thế Tắc đem chế sách phong cho vua Lê Đại Hành "Đặc Tiến" là chức quan đặt từ đời nhà

Hán. Các chư hầu, vương, công, tướng quân, người công cao đức trọng, triều đình kính phục mới được ngôi này. Sau khi

Tống Cảo trở về, Lê Hoàn sai Đào Cân đem phương vật sang biếu. Việc này vào tháng hai năm Tân Mão (991). Năm

993, vua Tống cho Vương Thế Tắc và Lý Cư Giản đem chiếu sách phong Lê Hoàn làm "Tỉnh hải quận Tiết Độ sứ Giao

Chỉ Quận Vương". Bấy giờ, Hoàn sai sứ sang cống và gửi tờ biểu của Đinh Tuệ nhường ngôi. Vì nhà Tống bại trận nên

vua Tống không dám hạch sách lôi thôi như trước. Năm 994, Lê Hoàn sai Nha hiệu Phi Sùng Đức sang biếu quý vật.

Năm 995, Lê Hoàn lại cho cống phương vật nữa nhưng cũng năm này, Lê Hoàn cậy có rừng rậm núi cao, địa thế hiểm

trở thả bọn dân ở biên cương sang ăn cướp các vùng lân cận đất Tàu. Chuyển Vận Sứ ở Quảng Tây là Trương Quan và

chức Binh Mã Giám Ấp ở trấn Như Hồng (thuộc Khâm Châu) là Vệ Chiêu Mỹ dâng sớ tấu về triều rằng Giao Chỉ có

hơn trăm thuyền chiến vào cướp trấn, hiếp dân, tước đoạt kho tàng rồi bỏ đi. Mùa hè năm ấy, Tô Mậu của ta đem 5.000

hương binh vào lấn Châu Ung, nhưng bị chức Đô Tuần Kiểm là Dương Văn Kiệt đánh đuổi được. Nhà Tống cũng lờ đi

vì không muốn có việc động binh. Trước đây ở Trào Dương (nay là Quảng Yên) có bọn Văn Dũng làm loạn giết người

trốn sang trấn Như Tích ở Khâm Châu. Trấn Trướng là Hoàng Lệnh Đức chứa bọn ấy. Trấn tướng của Giao Chỉ ở Trào

Dương là Hoàng Thành Nhã đuổi bắt, Lệnh Đức không trả. Khi Trần Nghiêu Tẩn đến thay bọn Trương Quan liền đem

giao lại hết thẩy là 113 người vừa nam phụ lão ấu. Lê Hoàn sai sứ sang cảm tạ và bắt được 27 người Đản (dân chài)

không hiểu tiếng Tàu đem nộp cho chức Chuyển Vận Sứ Quảng Tây nói là giặc bể xin trả lại. Cùng năm ấy, Lý Nhược

Chuyết đem chiếu thư và đai ngọc sang phong cho Lê Hoàn. Họ Lê thong thả bảo Nhược Chuyết: "Ngày xưa cướp ở

Như Hồng là giặc bể ở ngoài cõi, Hoàng đế đã biết không phải là quân Giao Châu chưa? Giả sử phải quân Giao Châu thì

trước đánh Phiên Ngung, sau đánh Mân Việt, há chỉ trấn Như Hồng mà thôi!" (thật là luận điệu hào hùng của kẻ chiến

thắng). Đến năm Đinh Dậu (997) Tống Thái Tông mất. Chân Tông lên ngôi. Lê Hoàn lại được gia phong Nam Bình

Vương. Năm ấy quân Chiêm quấy rối ngoài biên, Lê Hoàn đánh đuổi được lại đem phương vật sang biếu nhà Tống và

gửi tờ biểu thuật chuyện dẹp Chiêm Thành, nhưng kết luận rằng việc thắng trận là nhờ "đức hóa của Triều đình".

Vua Tống ưu đãi sứ giả và ban cho đai ngọc cùng ngựa và áo giáp (Khâm Định Việt Sử, Quyển 1 tờ 33a). Đến năm

Giáp Thìn (1004) Lê Hoàn sai Hành Quận Vương là Minh Để xưng Nhiếp Hoan Châu Thứ sử sang chầu vua Tống. Vua

Tống vời vào tiền điện, yên ủi hỏi han, ban cho rất hậu rồi phong Minh Để làm Kim Tự Vinh Lộc đại phu, Kiểm hiệu thái

úy Hoan Châu thứ sử. Tóm lại vua Đại Hành về mặt ngoại giao đã nâng cao được địa vị nước nhà vì bên trong đã gây nổi

được an ninh, trật tự, bên ngoài biết dùng sức mạnh để làm Trung Quốc phải kiêng nể. Nếu không làm nổi việc trị loạn và

trị bình thì đâu có thể nhìn thẳng mặt người Hán tộc.

3- Việc Đánh Chiêm Thành.

 Năm 981, Lê Đại Hành sai Từ Mục và Ngô Tử Cảnh sang sứ Chiêm Thành, người Chiêm đã cự tuyệt lại bắt giam sứ

giả, Lê Đại Hành tức giận, nên sau khi đã yên ổn với Bắc triều (982) liền huy động quân đội mở cuộc Nam chinh. Quân

Chiêm đại bại, tướng Chiêm là Tỳ My Thuế chết tại trận, quân Chiêm bị bắt làm tù binh rất nhiều cùng 100 cung nữ

Chiêm và một nhà sư Thiên Trúc. Vàng bạc, châu báu bị tịch thu không kể xiết. Năm 989, Dương Tiến Lộc là quản giác

vâng mệnh đi thu thuế châu Hoan và châu Ái, dụ dân hai châu làm loạn và liên lạc với Chiêm Thành; Lê Đại Hành đem

quân đi đánh bắt được Dương Tấn Lộc giết chết cùng một số đông dân ở địa hạt này. Năm Giáp Ngọ (994), vua Chiêm

sai Chế Đông sang dân phương vật. Lê Đại Hành trách Chiêm vô lễ; vua Chiêm lo sợ liền sai cháu là Chế Cai sang chầu.

4- Việc Mở Mang Trong Nước.

 Sau khi bờ cõi trong ngoài yên ổn, Lê Đại Hành nghĩ đến việc đúc tiền. Trước thời Tiền Lê, dân chỉ lấy đồ đạc, vật liệu

đổi chác cho nhau, có thứ tiền bên Tàu đem sang nhưng chưa lưu thông, nên mọi việc công, tư đều không tiện. Năm 984,

vua Lê Đại Hành cho đúc tiền Thiên Phúc (Khâm Định Việt Sử, quyển 2 - tờ 1-20a). Năm 986, Lê Đại Hành chọn

những người khoẻ mạnh sung vào quân túc vệ gọi là thân quân, có khắc ở trán ba chữ "Thiên tử quân". Năm Giáp Thân

(984), Đại Hành cho dựng điện Bách Bảo Thiên Tuế ở núi Đại Văn trong thành Hoa Lư (nay là núi Trường Yên). Năm

1002, Lê Đại Hành tăng cường quân sự, tổ chức các đội, các ngũ, chia tướng hiệu làm 2 ban. Cùng năm ấy, định lại luật

pháp để trị dân, mở mang nông nghiệp, khuyên dân cày ruộng tịch điền, đổi 10 đạo làm lộ, phủ và châu; đào cảng (ngòi,

kinh) và sai Ngô Tử Yên đem 3 vạn quân mở đường đi bộ từ bể Nam giới đến châu Đại Lý.

Trước công cuộc bành trướng đất đai để giải quyết nạn nhân mãn ở đồng bằng sông Nhị, và bảo vệ nền nội an của quốc

gia mà dân Chiêm Thành hay phạm đến, ta phải tán thưởng cái công lao và sáng kiến của nhà Tiền Lê vậy (Khâm Định

Việt Sử, quyển 2 - tờ 20a). Vua Lê Đại Hành mất năm Ất Tỵ (1005), làm vua được 24 năm, thọ được 65 tuổi. Tiếc rằng

sau khi Ngài qua đời, mọi việc đang mở mang bị ngừng lại.   

Cái Án Lê Hoàn và Dương Hậu. 

 Bàn về Lê Hoàn cũng như xét công, luận tội nhiều nhân vật khác trên Lịch sử sau này (Lý Công Uẩn, Trần Thủ Độ, Mạc

Đăng Dung, v.v...) các sử nho hay nêu ra cái án giết Vua, thoán quốc, lộng thần, theo tư tưởng và chủ nghĩa tôn quân của

thời phong kiến. Sự thật, quả Lê Hoàn cùng bè đảng là Phạm Cự Lượng và Dương Hậu, đã đồng tình với nhau phế bỏ

Đinh Tuệ, một ông vua nhỏ tuổi nhất của dân tộc Việt Nam bấy giờ mới lên sáu. Họ đã làm một cuộc đảo chánh giữa lúc

chính tình nước ta do cái chết bất thình lình của vua Đinh và con cả của Ngài là Nam Việt Vương Liễn đang đi vào chỗ bế

tắc: vua còn quá thơ ấu, các đại thần tướng lĩnh mỗi người một bụng một dạ. Bên ngoài nhà Tống đã lợi dụng cơ hội này

để đem quân xâm lăng vào cõi như thói thường của các vương triều Trung Quốc trước và sau. Chính việc xâm lăng này

đã thành một động lực nó thúc đẩy các triều đình đang khủng hoảng này phải dứt khoát trong vấn đề lập vị nguyên thủ:

Vua nhỏ thì việc nước phải vào tay các đại thần, và các đại thần trong giai đoạn nền độc lập của quốc gia còn non nớt thì

làm sao đã có ngay sự nhất trí được. Tất nhiên mạnh ai, người nấy làm, chia rẽ nhiều sớm muộn phải thành loạn, cuộc

biến động chỉ là vấn đề đầu hôm, sớm mai mà thôi. Lê Hoàn đã mạnh dạn bước ra lĩnh trách nhiệm với quốc dân và Lịch

sử. Việc phải đến đã đến. Nó là một nhu cầu của thời thế, nó là một sự kiện tất nhiên của Lịch sử. Rồi Thái hậu họ

Dương đã khoác hoàng bào lên cho Thập Đạo tướng quân họ Lê trước sự hoan hô nhiệt liệt của số đông triều thần. Sau

đó Lê Hoàn đã mang quân ra đọ tài, thử sức với đám binh sĩ viễn chinh của nhà Tống, lập nên một triều đại được Bắc

phương kính nể, được quốc dân hoan nghinh. Chính việc chiến thắng hết sức vẻ vang này đã gỡ cho Lê Hoàn khá nhiều

về cái tội cướp ngôi, lấy Hậu. Nói cách khác, cuộc chiến thắng của họ Lê đã làm mờ cái án trên đây mà các sử thần đời

xua đã buộc cho ông. Ngày nay chúng ta nghĩ khác: Trên bình diện quốc gia chính quyền không thể ở trong tay một trẻ

nhỏ, một người đàn bà xưa nay chỉ có quanh quẩn ở chốn buồng the. Ai tài giỏi thì cứ việc ra lĩnh đạo việc nước, miễn

đảm đương nỗi sứ mạng. Vai trò nguyên thủ của quốc gia chẳng là địa vị độc quyền của một dòng họ nào hết. Như vậy

việc âm mưu cướp ngôi nhà Đinh không thành vấn đề, đến cả cái án Dương Hậu cũng chẳng là một điều đáng để quốc

dân thắc mắc. Trái lại người ta có thể khen Dương thị có mắt tinh đời, biết lẽ tới lui, nếu cố chấp biết đâu một cuộc đảo

chính sẽ chẳng xảy ra với một phương pháp khốc liệt thì Hoàng gia sẽ khó lòng thoát được chuyện đổ máu và nhiều nhân

vật quan trọng đời bấy giờ cũng sẽ là những nạn nhân bi thảm. Bề tôi lấy vợ vua, đối với quan niệm đạo thời xưa tất nhiên

là có tội, nhưng ở đời phải biết lẽ kinh quyền mới khỏi lỡ nhiều sự việc. Tóm lại, những biến cố xảy ra từ trong hoàng

cung của vua Đinh ra đến biên thùy Hoa Việt được kết thúc một ách êm đẹp thì nhà làm sử thiết tưởng chẳng nên rườm

lời kia khác.   

126 Việt Sử Toàn Thư

 Phần 3 - Chương 4 Các Vua Kế Tiếp Lê Đại Hành I. Lê Trung Tông II. Lê Ngọa Triều  - Việc ngoại giao với Bắc Triều

- Sự tàn ác của Long Đĩnh - Vụ âm mưu cướp ngôi nhà Tiền Lê 

1- Lê Trung Tông.

 Năm 1005 Lê Hoàn qua đời và vua Đại Hành đã lầm như nhà Đinh là bỏ trưởng lập ấu (lấy con thứ ba là Long Việt lên

làm thái tử, đáng lẽ địa vị này thuộc về Ngân Tích). Lúc này Long Đĩnh là con thứ năm cũng xin được tôn lập. Xét ra các

ông hoàng, ai nấy đều muốn giành ngai vàng cho mình cả, nhưng khi vua Đại Hành còn sống, không ai dám có thái độ gì

chống đối. Rồi mùa xuân năm Giáp Thìn (1004) Long Việt được tấn phong, đến tháng 3 năm Ất Tý (1005) thì vua Đại

Hành qua đời. Đông Thành Vương Ngân Tích, Trung Quốc Vương Long Kính, Khai Minh Vương Long Đĩnh nổi loạn

luôn 8 tháng ròng, đến mùa đông tháng 10 năm ấy Long Việt mới thực sự lên ngôi. Ngân Tích bỏ trốn rồi bị người ở

Thạch Hà giết. Long Việt bước lên ngai vàng chưa quá ba ngày thì Long Đĩnh thuê người trèo tường vào cung hạ sát, sau

đó lên ngôi xưng là Khai Thiên Ứng Vận Thánh Văn, Thần Vũ, Tắc Thiên Sùng Đạo Đại Thắng Minh Quang Hiếu Hoàng

đế. Sau Long Việt được truy đặt tên Thụy là Trung Tông Hoàng đế. Long Việt bị ám sát, cung đình rối loạn và bị khủng

khiếp khiến các quân quan phải bỏ chạy hết, duy có Lý Công Uẩn là Điện tiền quan ở lại ôm thây ông vua xấu số mà

khóc. Vua Trung Tông mất bấy giờ mới 23 tuổi. Long Đĩnh khen Công Uẩn là người có nghĩa nên thăng làm Tứ Xương

quân Phó Chỉ huy sứ. 

2- Lê Ngọa Triều (1005-1009)

Long Đĩnh lên ngôi, trong lúc này Ngũ Bắc vương là Long Ngân, Trung Quốc vương là Long Kính chiếm cứ trại Phù Lan

thuộc xã Phù Vệ, huyện Đường Hào, tỉnh Hải Dương chống lại. Long Đĩnh phải đem quân đi dẹp. Bên ngoài lại có giặc

Cử Long vào cướp phá ở huyện Cẩm Thủy thuộc Thanh Hóa. Long Đĩnh ngự vào Ái Châu. Việc bình định có kết qủa.

Sang năm sau (Bính Ngọ) 1006 là năm Ứng Thiên (vẫn theo niên hiệu của Lê Đại Hành) Long Đĩnh lập con là Xạ làm

Khai Phong vương, con nuôi là Thiệu Ly làm Sở vương, Thiệu Hưng làm Hán vương. Long Đĩnh vì quá hoang dâm, tửu

sắc bị mắc bệnh trĩ phải nằm mà coi triều. Người đời bấy giờ gọi là "Ngọa Triều đế". Tuy vậy Long Đĩnh cũng muốn làm

nhiều việc mới: sửa đổi quan chế văn vũ, tăng đạo và triều phục hết thảy bắt chước kiểu mẫu của nhà Tống. Theo triều

phục của nhà Tống thì mũ có ba hạng: 1) Mũ tiên hiền là phẩm phục các quan nhất, nhị phẩm. 2) Mũ điêu thuyền là phẩm

phục các quan tam phẩm ở các ty, các Ngự sử đài và chức ngũ phẩm ở hai sảnh. 3) Mũ giai sai là phẩm phục tử tứ phẩm

đến lục phẩm. Còn phục sức từ công khanh trở lênmặc áo mầu tía, ngũ phẩm mặc áo mầu đỏ, thất phẩm trở lên mặc áo

mầu lục, cửu phẩm trở lên mặc áo mầu xanh.   

Việc Ngoại Giao Với Bắc Triều . 

Long Đĩnh cử em là Long Xưởng với Chưởng thư ký là Hoàng Thanh Nhã đem bạch tê sang cống nhà Tống và xin 9 kinh

(3 bộ sách Tàu: tôn làm kinh thuyết thứ nhất, xếp chữ Lệ, Nghi Lễ, Lễ Ký, Tả truyện, Công Dương, Cốc Lương, Dịch,

Thi và Thư làm 9 kinh thuyết thứ hai, xếp Dịch, Thi, Thư, Lễ, Xuân Thu, Hiếu Kinh, Luận Ngữ, Mạnh Tử và Chu Lễ làm

9 kinh. Chín Kinh của ta xin của Tàu có lẽ là kinh thuyết thứ 2) và kinh Đại Tạng (kinh phật chữ Phạn gọi là Xripitaka)

vua Tống ưng thuận. Vua Long Đĩnh xin dùng áo giáp, mũ trụ có giát vàng và thông thương với Ung Châu. Các điều này

cũng được như ý, duy về việc buôn bán đổi chác, vua Tống chỉ cho thi hành ở các chợ Châu Liêm và trấn Thư Hồng, có

lẽ e dè sự đi lại của người Giao Châu quá sâu trong nội địa của họ chăng? Năm Đinh Ngọ (1006) nghe nước ta rối loạn

sau khi Lê Hoàn mất, vua Tống sai Lang Sách là tri châu và Thiệu Việp là Điện Biên An phủ sứ sang kinh lý Giao Châu.

Bọn này trở về tâu rằng các con Nam Bình Vương Lê Hoàn chia bè đảng, lập thành trại, sách mỗi người chiếm cứ mỗi

nơi, nhân dân lo sợ, xin đem quân sang đánh dẹp. Vua Tống trả lời: "Họ Lê thường sai con sang chầu, nơi góc bể yên ổn,

không bỏ lòng trung thuận, nay nghe Nam Bình vương mất, chưa có lễ điếu, lại đánh người trong khi có tang, đấng vương

giả không làm những việc như thế". Rồi vua Tống phái Lang Sách đem thư sang phủ dụ các con Lê Hoàn không nên cốt

nhục tương tàn.

Ngay sau đó, bọn Thiệp Việp lại đem bản đồ thủy lục từ châu Ung đến Giao Châu, trình lên vua Tống để đề nghị Nam

chinh. Vua Tống cũng không thuận (cử chỉ này thật là ít có ở những vương triều Trung Quốc). Tháng 8 năm sau là năm

Đinh Tỵ (1007) nhà Tống sang sách phong cho Long Đĩnh làm Giao Chỉ Quận Vương, lĩnh chức Tiết Độ Sứ ở Tĩnh Hải

quận, cho tên là Chí Trung. Tháng 6 vua Tống cho đúc ấn Giao Chỉ quận vương do chức chuyển vận sứ Quảng Tây đem

sang. Nguyên xưa Bắc Triều phong cho Giao Châu chỉ có Tiết Việt (Tiết là thẻ tre khắc tên họ và chức tước sứ giả, Việt

là lưỡi vót, vua giao cho võ tướng đi đánh giặc nơi xa có quyền thay vua sinh sát để làm uy), chứ chưa có phong vương.

Nay Tống Chân Tông cho rằng Giao Châu là nơi biên viễn cần có "ấn mệnh của triều đình" mới trấn phục được nhân dân.

Sự Tàn Ác Của Lê Long Đĩnh . 

Long Đĩnh là một ông vua nổi tiếng hiếu sát trong lịch sử nước ta. Hễ làm thịt các gia súc như trâu, bò, dê, gà, lợn bao giờ

cũng tự tay chọc tiết rồi mới giao cho nhà bếp. Kết tội tử hình ai thì Long Đĩnh tìm ra những cách nào tàn ác hơn hết như

sai lấy rơm quấn vào tội nhân rồi châm lửa đốt. Kẻ xấu số gần chết, Long Đĩnh cho phường chèo người Tàu như Liêu

Thư Tâm cầm dao cắt những mối rơm để tội nhân không chết được ngay.  Long Đĩnh lấy làm thú lắm. Khi đi đánh dẹp,

bắt được giặc, Long Đĩnh đem ra bờ sông sai người làm thủy lao nhốt tù vào đấy để nước thủy triều dâng lên làm cho họ

chết sặc, hoặc có khi bắt họ leo cây rồi cho người đẵn gốc. Năm 1008 đi dẹp Man Động, Long Đĩnh bắt được quân

Mán sai người đánh. Quân Mán đau quá kêu gào và thường phạm vào tên húy của Đại Hành. Long Đĩnh lấy làm thích ý

do lòng oán vua Lê Đại Hành đã không muốn cho mình nối ngôi trước đây. Có lần Long Đĩnh đem nhốt phạm nhân vào

một cái quây rồi chất củi xung quanh để đốt. Nghe Ninh Giang có nhiều rắn, Long Đĩnh bắt trói người vào cạnh thuyền rồi

cho thuyền bơi qua bơi lại để cho rắn cắn chết. Lại có khi Long Đĩnh cho róc mía trên đầu nhà sư (nạn nhân thuở đó là

Quách Ngang) , giả lỡ tay hạ dao vào đầu cho chảy máu. Trong những buổi chầu, hễ các quan có điều gì nói thì có tên hề

đứng bên pha trò hay nhại để làm rối các việc tấu đối. Triều đình bấy giờ là một cái sân khấu, không hơn không kém.

Long Đĩnh làm vua được 4 năm, đổi niên hiệu là Cảnh Thụy (1005 1009) qua năm sau thì mất, thọ 24 tuổi và làm vua

vừa đúng được 4 năm. 

3- Vụ Âm Mưu Cướp Ngôi Nhà Tiền Lê. 

 Vua Long Đĩnh nằm xuống, con còn nhỏ. Triều đại của Long Đĩnh như ta thấy do sự tàn ác đã làm mất lòng dân chúng

rất nhiều tuy Long Đĩnh trong 4 năm ở ngôi cũng đã làm được một vài việc đáng kể (dẹp giặc Cử Long, ngoại giao với

Bắc triều,...) Đáng chú ý một điều là người dân Việt của chúng ta vốn rất không ưa việc chém giết một cách độc ác, dã

man và bao giờ cũng có phản ứng rất mãnh liệt đối với những chính sách tàn bạo dầu theo hình thức nào. Huống hồ vua

Long Đĩnh trong 4 năm trị vì chưa hề thi ân, thi đức đối với nhân dân. Lịch sử sau này còn dẫn chứng cho lời nói trên đây

khi các vua chúa quá coi thường sinh mệnh của nhân dân trong lúc cầm quyền. Triều đình nhà Tiền Lê trong giờ phút

Long Đĩnh tạ thế bắt đầu sinh biến. Việc phải đến dã đến. Trong triều bấy giờ Lý Công Uẩn giữ chức Điện tiền chỉ huy sứ

là người có tư cách và năng lực hơn cả. Ông có tư chất thông minh, thọ giáo nhà sư Vạn Hạnh từ thuở nhỏ, lại thêm đức

tính khẳng khái và có chí lớn. Vạn Hạnh là nhân vật thế nào? Đạo Phật du nhập vào Việt Nam từ đệ tam thế kỷ và mỗi

ngày một thịnh đạt. Các sư nhờ chỗ uyên thâm Hán học đã được các vua chúa trọng dụng và có rất nhiều ảnh hưởng đối

với dân chúng. Hai vị sư đầu tiên tham gia chính sự giúp vua Đinh và Tiền Lê là Khuông Việt và Ngô Chân Lưu. Người

thứ ba là sư Vạn Hạnh bấy giờ cũng nổi danh chẳng kém và có lẽ sư đã hiểu rõ thời cuộc, thấu đáo việc tương lai nên

muốn chấm dứt triều đại Lê Long Đĩnh (nhất là Long Đĩnh lại ngược đãi cả tăng giới) cho hợp với nguyện vọng của nhân

dân và canh cải lại xã hội đang đi tới chỗ rối loạn. Một hôm trời mưa to, sét dánh ngã một cây bông lớn ở làng Diên Hồng

là nơi quê quán của Lý Công Uẩn, ở vỏ cây lộ ra một bài sấm như sau: Gốc cây trăng trắng Vỏ cây xanh xanh Hoa đao

một ngã Thập bát tử thành Đông A nhập địa Cây khác lại xanh Cung Chấn vầng nhật Cung Đoài ẩn tinh Khoảng sáu bảy

năm Thiên hạ thái bình Vạn Hạnh nói riêng với Công Uẩn: "Hoa đao mộc là chữ Lê, Thập bát tử là chữ Lý, Đông A là họ

Trần, Nhập địa là phương Bắc sang xâm lấn. Cây khác lại xanh là họ Lê sống lại, đó là nói họ Lê mạt, họ Lý nổi lên, sau

sáu bẩy năm sau thiên hạ lại thái bình". Lại còn chuyện một bữa vua Ngoạ triều ăn trái khế thấy hột lý trong ruột nhớ đến

lời sấm liền cho người tìm những ai họ Lý để giết mà quên Lý Công Uẩn ở ngay cạnh nách. Trong hai chuyện kể trên, vai

chủ động dĩ nhiên không ai khác hơn là sư Vạn Hạnh đã làm ra lời sấm và ngầm cho tuyên truyền trong dân gian, cả

chuyện vua Long Đĩnh ăn phải trái khế có hột lý. Mục đích của Vạn Hạnh là lợi dụng lòng mê tín dị đoan của dân chúng

và của các người có học vấn đương thời nhưng đầu óc còn tin chuyện quỷ thần, trời đất thuở ấy. Nhà sư thật đã khéo

lung lạc nhân tâm và dọn đường cho học trò của mình bước lên ngôi cửu ngũ. Ta lại nên chú ý một điều nữa là các tác

dụng chính trị trên đây đã thi hành ngay khi vua Ngọa triều còn tại vị. Nếu vua Ngọa triều không yểu vong tất cũng vẫn sẽ

xẩy ra một cuộc giết vua cướp ngôi chớ chẳng không. May mà Ngọa triều chết sớm nên Công Uẩn đã không phải thi

hành việc thoán đoạt bằng sắt máu như Mạc Đăng Dung và Hồ Quý Ly bốn năm thế kỷ sau. Người thứ ba đồng lõa

trong vụ âm mưu chính trị này là Đào Cam Mộc. Sử chép họ Đào khuyên Công Uẩn: "Hồi trước đức vua tối tăm bạc ác,

trời chán ghét ngài mà con ngài thì còn nhỏ tuổi chưa thể đảm đương buổi đa nạn này, dân chúng đang khao khát chân

chúa ra đời như đại hạn mong mưa. Vậy Thân vệ nên thừa cơ hội cương quyết theo dấu vua Thang, vua Võ. Xem việc

của họ Lê (chỉ việc vua Lê Đại Hành cướp ngôi nhà Đinh) trước đây cũng là chính đáng, thuận lòng trời và lòng dân, sao

lại khư khư giữ cái tiết mọn? ..." Đến hôm sau, Cam Mộc lại nói: "Lời sấm đã rõ ràng, người trong nước ai cũng tin họ Lý

sẽ chổi dậy, việc đổi họa ra phúc cho đất nước chỉ ở đầu hôm sớm mai, Thân Vệ còn ngại ngùng gì nữa?" Công Uẩn xiêu

lòng nói: "Ý ông cũng như ý sư Vạn Hạnh nhưng phải làm thế nào cho được êm ấm trong ngoài?" Thân Vệ công bình,

khoan thứ, hẳn là dân vui lòng theo. Hiện nay nhân dân đói khổ, ta dùng ân đức vỗ về ắt sẽ thành công. Sau việc bàn

soạn này Đào Cam Mộc liền họp ngay trăm quan tuyên bố cuộc đảo chính. Việc đảo chính thành tựu một phần vì quân

đội trong tay họ Lý, một phần vì Lý Công Uẩn quả có xứng đáng hơn ai hết trong thời bấy giờ. Ngoài ra Đào Cam Mộc

cùng Lý Công Uẩn trước đó đã có sẵn vây cánh mạnh trong đám triều thần. Những người này cũng mong có cơ hôị thay

thầy đổi chủ để bước cao trên bậc thang phú quý. Chính Đào Cam Mộc đã tuyên ngôn trắng trợn như sau: "Nay ức triệu

khác lòng, thần dân lìa đức nếu không thừa dịp tôn ngài Thân Vệ lên ngôi, rủi có quốc biến thì chúng ta đâu còn giữ được

địa vị!" Nếu ta để ý, ta thấy sau cuộc thoán đoạt, Lý Công Uẩn lên làm vua, Vạn Hạnh làm Quốc sư, Đào Cam Mộc

được làm phò mã và phong hầu thì có thể tin rằng sư Vạn Hạnh là người chủ trương thay đổi thời thế thuở ấy. Đào Cam

Mộc là kẻ thi hành và sửa soạn cuộc đảo chính. Còn Lý Công Uẩn có lẽ chỉ là kẻ thụ động trong vụ này. Ngay khi Long

Đĩnh hạ sát Long Việt (vua Trung Tông) trong lúc các triều thần hoảng hốt bỏ chạy hết, ông là người duy nhất dám ở lại

ôm thây vua mà khóc thì đủ hiểu con người giàu thiện lương ấy không có manh tâm cướp ngôi của nhà Tiền Lê. Nhưng

sau này Ngọa triều mất, con còn nhỏ, cơ hội thuận tiện ấy mới tạo nên một lý do, một sức mạnh nó thúc đẩy ông rời bỏ

chữ Trung, chứ việc sấm ký mà sư Vạn Hạnh đưa ra để sửa soạn việc thoán đoạt chưa nên coi là điều đã quyết định ở

nơi ông để tranh vương đồ bá.   

131 Việt Sử Toàn Thư

Phần 3 - Chương 5 Nhà Hậu Lý (1010-1225) 

1) Lý Thái Tổ (1010-1028)     2) Lý Thái Tông (1028-1054) 3) Lý Thánh Tông(1054-1072)    4) Lý Nhân Tông

(1072-1127) 5) Lý Thần Tông(1128-1138)    6) Lý Anh Tông (1138-1175) 7) Lý Cao Tông(1176-1210)    8) Lý Huệ

Tông(1211-1225) 9) Lý Chiêu Hoàng (1224-1225) 

I. Vua Lý Thái Tổ. 

 Nhà Tiền Lê cáo chung sau 29 năm ở ngôi. Ta nhớ nhà Đinh, nhà Ngô, hai vương triều đầu tiên Việt Nam chỉ dài khoảng

20 năm. Tại sao có tình trạng này? Rồi khi nhà Lý lên đảm nhiệm sứ mệnh lịch sử đối với dân tộc Việt Nam, đây là một

triều đại đáng kể về đủ phương diện vì nó thọ được trên hai thế kỷ và ta thấy nền tảng của chính thể quân chủ bắt đầu

vững chắc. Đặt câu hỏi trên đây trước khi xét các sự kiện lịch sử về đời nhà Lý là để tìm hiểu sự phôi thai của xã hội Việt

Nam. Chúng ta hẳn còn nhớ tình trạng nước ta dưới thời Bắc thuộc dài 1146 năm. Trong giai đoạn này dân Việt hấp thụ

và lĩnh hội văn minh Trung Quốc nhờ đó chúng ta đã phát triển được nhiều khả năng dân tộc. Nhưng trong khoảng trên

10 thế kỷ chúng ta vẫn loanh quanh trong cái bệnh thiếu thời. Đáng lẽ chúng ta tiến bộ sớm sủa hơn nữa, nhưng những

biến cố chính trị luôn luôn xẩy đến, khi thì ở ngoài biên đưa vào, khi thì phát xuất ngay trong nội bộ quốc gia ta đã ngăn

trở chúng ta rất nhiều. Về phía các vương triều đầu tiên cũng bị cái bệnh kể trên bởi giai cấp lãnh đạo và phong kiến nằm

trong nội bộ chỉ đoàn kết ở những trường hợp đặc biệt mà thôi, vì xâm lăng là cái nạn chung. Xong việc nó lại trở về với

cái căn bệnh nguyên thủy hay có tật là phức tạp và chia rẽ. Ông vua bấy giờ chưa là hiện thân của nền dân chủ, chưa đi

đến mức có uy quyền thần thánh tuyệt đối, chưa trấn ngự nhân tâm nhứt là những người quanh mình vì thế Kiều Công

Tiễn giết Dương Đình Nghệ, Dương Tam Kha bất tuân lời ủy ký của Ngô Quyền, là Sứ quân chống lại vương quyền của

nhà Hậu Ngô, Lê Hoàn mưu mô lật đổ nhà Đinh bằng những tổ chức và âm mưu khôn ngoan khéo léo. Lại nữa, trong

giai đoạn nhà Ngô, nhà Đinh cầm vận mệnh của dân tộc Việt Nam, giai đoạn này là giai đoạn quá độ. Các lực lượng

phong kiến và cát cứ vẫn còn đầy rẫy ở khắp mọi nơi, mỗi lực lượng nắm một phần kinh tế địa phương. Nông nghiệp tuy

phát đạt nhưng chưa lan tràn khắp trong xứ vì luôn luôn có những biến cố chính trị ngăn trở. Các dân cư sơn cước vẫn

sống theo nền kinh tế cổ thời (săn bắn, trồng trọt, hái lượm) hầu không có mối liên quan gì với các dân miền đồng bằng.

Vậy nếu ta hợp các yếu tố chính trị, kinh tế thời bây giờ vào với nhau, ta thấy giai đoạn lịch sử này đã bị mầm loạn ngự trị,

nó chỉ chờ có cơ hội thuận tiện là bùng lên. Những vương triều đầu tiên chưa được ràng buộc vào một nền tảng vững bền,

hay chưa có thực lực nào đáng kể. Nó còn phải kiêng nể ít nhiều các chính quyền địa phương gần như tự trị, nó bồng

bềnh như nhà xây trên cát nên luôn luôn bị sụp đổ, huống hồ các người kế vị các tiên đế lại bất tài, bất lực hay thiếu đạo

đức, càng như thúc đẩy xã hội Việt Nam vào những cuộc đảo lộn liên miên. Đến Lý triều tình trạng quá độ này chấm dứt.

Từ Lý Thái Tổ đến triều đình đã rút được nhiều kinh nghiệm chính trị của các tiền triều. Người ta đã hòa hoãn được các

mâu thuẫn nội tại. Các lực lượng phong kiến yếu dần. Vương triều có dần thêm nhiều uy thế. Sức bành trướng của dân

tộc ở miền Trung Châu tiến mạnh. Kết quả tốt đẹp này đều do các phương pháp tổ chức kinh tế, chính trị, xã hội đúng lề

lối, nguyên tắc. Lại tới các triều đại sau này đã nhờ ở các khuôn nếp do Lý triều tạo ra nên đưa dân tộc chúng ta mỗi

ngày đi một xa trên con đường tiến hóa. Đó là điều thiết yếu cho mọi sự tiến triển của xã hội ... Lý Công Uẩn, vua Thái

Tổ nhà Lý đã có một tiểu sử khá ly kỳ bí mật. Người ta chỉ biết ông là người làng Cổ Pháp, thuộc về huyện Đông Ngạn,

phủ Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Người ta không biết cha ông là ai. Tục truyền mẹ ông là Phạm Thị đi chơi chùa Tiêu Sơn

(thuộc phủ Từ Sơn) nằm mộng gặp gỡ thần nhân rồi thụ thai đẻ ra ông. (Đối với thời khoa học ngày nay, điều này không

thể tin được). Khi ông lên ba, mẹ ông đem ông cho làm con nuôi nhà sư Lý Khánh Vân trụ trì chùa Cổ Pháp, do đó ông

được đặt tên là Lý Công Uẩn. Xét vậy ta có thể hiểu buổi thiếu thời ông đã sống một cuộc đời bình dân và khổ hạnh. Đến

tuổi trưởng thành ông vào phụng sự nhà Tiền Lê ở Hoa Lư lên dần tới chức Tả Thân Vệ Điện Tiền Chỉ Huy Sứ giữa lúc

nhà Lê đến buổi suy vong. Trong thời kỳ còn làm quan với nhà Tiền Lê ông đã tỏ ra là người có tài năng và đức độ nên

được mọi người quý mến. Khi vua Ngọa triều mất, Đào Cam Mộc và sư Vạn Hạnh lập mưu đưa ông lên ngôi. Lúc đó

ông đã 35 tuổi. Lý Thái Tổ lên làm vua vội mở mang, canh cải ngay nhiều việc: Ông dời kinh đô về La Thành, xét Hoa Lư

quá chật hẹp. Sau khi dời đến kinh đô mới, Lý Công Uẩn đổi thành Hoa Lư làm phủ Trưởng Yên (tức là Yên Khánh, tỉnh

Ninh Bình bây giờ) đổi châu Cổ Pháp làm phủ Thiên Đức (huyện Đông Ngạn, tỉnh Bắc Ninh ngày nay) đổi sông Bắc

Giang làm sông Thiên Đức và con sông nầy chảy về sông Lục Đầu vốn là một chi lưu của sông Nhị Hà đi qua huyện

Đông Ngạn và Quế Dương. Việc triều nghi, quan lại cũng định lại. Nông nghiệp được chấn hưng và khuếch trương do đó

có việc đấp đê Cơ Xá để tránh thủy tai hàng năm làm hại mùa màng và gây sự thiệt hại cho quốc gia. Lý Công Uẩn cũng

rất săn sóc đến việc văn học. Ông cho lập nhà Văn Miếu để tôn sùng Nho học và mở khoa thi Tam Giáo (Khổng giáo,

Phật giáo, Lão giáo). Vì nhà vua xuất thân ở cửa Phật nên Phật giáo kể từ nhà Lý rất được trọng đãi và khuyến khích.

Ông cho sưu tầm kinh Tam Tạng để truyền bá đạo Phật trong dân gian. Luật pháp cũng được quy định. Ngài xuất hai vạn

quan tiền để dựng 8 ngôi chùa ở trong phủ Thiên Đức, và tại Thăng Long lập chùa Thiên Ngự, chùa Vạn Tuế, cung Thái

Thanh. Ngoài thành Thăng Long ngài cho xây chùa Thắng Nghiêm, Thiên Vương, Cẩm Y, Long Hưng, Thánh Thổ, Thiên

Quang, Thiên Đức. Ở các địa hạt khác các chùa bị đổ nát đều được tu bổ. Tháng chạp năm thứ nhất hiệu Thuận Thiên

(1010) cung Thúy Hoa dựng xong, có lễ khánh thành và ban chiếu đại xá. Mọi việc thuế má đều được miễn trong ba

năm. Dân chúng vì thiếu thuế mà phải lẩn trốn và siêu bạt đều được trở về sinh quán làm ăn. (Xét việc này ta thấy dân

chúng bấy giờ cơ khổ nhiều lắm). Một số phạm nhân dưới đời Lê Ngọa Triều cũng được phóng thích và cho đủ quần áo,

thuốc men để trở về xứ sở. Lý Thái Tổ chia nước ra làm 24 lộ (cùng năm ấy) Hoan Châu và Ái Châu đổi làm Trại, thêm

vào đó một trại mới ở phía Nam Châu Hoan gọi là trại Định Phiên. Năm thứ 7 hiệu Thuận Thiên (1016) trong nước được

mùa, vua Lý Thái Tổ lại tha thuế 3 năm nữa, năm thứ 9 tức là 2 năm sau lại có việc tha thuế ruộng một lần nữa. Về binh

chế, năm thứ mười sáu hiệu Thuận Thiên, Lý Thái Tổ định ngạch lính có từng giáp. Mỗi giáp có 15 người, có một Quản

giáp đứng đầu. Có nhiều ngạch Quản giáp được đặt ra và chức Hỏa đầu được đổi ra chức chính thủ. Theo Lê Quý Đôn

trong Kiến Văn Lục chức Hỏa đầu cũng như chức Đội trưởng nhà Hậu Lê (1428-1789) sau này. Phái bộ ngoại giao đầu

tiên của nhà Lý đã do Viên ngoại lang Lương Nhâm Văn và Lê Tài Văn cầm đầu sau khi vua Thái Tổ lên ngôi (1010).

Các đình thần triều Tống có ý không tán thành việc Lý thay Lê nhưng vua Tống vẫn ưng thuận. Tháng chạp năm ấy

(1010) sứ Tống đem sắc phong cho Lý Thái Tổ làm Giao Chỉ Quận Vương. Ta thấy từ Đinh, Lê, nhà Tống bắt đầu

phong cho các vua ta chức Kiểm Hiệu Thái Úy, qua chức Tiết Độ, Đô Hộ rồi mới đến Quận Vương. Nay vua Lý Thái

Tổ được phong Quận Vương ngay, dĩ nhiên là do dân ta đã được Bắc triều khi đó kiêng nể hơn bao giờ hết thảy. Năm

sau tháng tư Viên ngoại lang Lý Nhân Nghĩa và Đào Khánh Vân đi kỳ sứ bộ thứ hai đem phương vật sang biếu vua

Tống. Khánh Vân xong việc trốn ở Tàu không về nước. Người Tàu bắt trả vua Lý. Khánh Vân bị đánh chết. Năm thứ ba

(1012) tháng chạp, Thái bảo Đào Thác Phụ và Viên ngoại lang Ngô Nhưỡng lại qua Tàu thông hiếu.

Năm Thuận Thiên thứ năm (1014) Man tướng ở Hạc Thác (cũng là Nam Chiếu) là Dương Trưởng Huê và Đoàn Kinh

đem 20 vạn quân vào cướp đất nước ta ở thượng du đặt doanh trại gọi là trại Ngũ Hoa. Viên Châu Mục ở châu Bình

Lâm (tức huyện Quảng Nguyên tỉnh Cao Bằng ngày nay) tâu về triều. Dực Thánh vương được cử đi chinh phạt, thắng

trận giết được hàng vạn quân giặc và bắt được rất nhiều người ngựa. Bình định xong miền Thượng du, vua Thái Tổ cho

Viên ngoại lang là Phùng Châu và Lý Thác đem một trăm ngựa bắt được của quân Man sang biếu nhà Tống. Năm thứ

bảy hiệu Thuận Thiên (1016) vua Tống sai sứ sang gia phong cho Lý chức Nam Bình vương. Năm Mậu Ngọ tháng sáu

(1018) sứ bộ của ta là Viên ngoại lang Lý Đạo Thành và Phạm Hạc sang Tống xin kinh Tam Tạng (chữ Phạn gọi là

Tripitaka). Tháng 9 năm Canh Thân (1020) sứ bộ mới về; Tăng Thống là Phi Trí được lệnh sang Quảng Tây đón kinh về

để tại nhà Đại Hưng là kho chứa Kinh. Năm Tân Dậu (1021) Viên ngoại lang Nguyên Khoan Thái, Nguyễn Thủ Cương

sang Tống dựng kinh tạng, nhà chứa kinh kiểu bát giác. Tóm lại việc giao dịch Lý Tống thuở bấy giờ rất là êm đẹp và có

được vậy vua Thái Tổ mới có đủ thì giờ để đánh dẹp các mối loạn trong nước ở các miền sơn cước và man động thời nào

cũng xảy ra. Thái Tổ tự làm tướng đem quân đi tiễu phạt (Khâm Định Việt Sử q.2 tờ 13a). Rợ Cử Long cậy có địa thế

rừng núi hiểm trở đã từng dấy động trước đây dưới thời Lê Đại Hành đến năm 1011 lại nổi lên. Vua Thái Tổ bắt được

bọn thủ lĩnh. Từ đó rợ Cử Long mới bị diệt. Năm Nhâm Tý (1013) Thái Tổ lại xuất chinh đánh dẹp các quân phản nghịch

ở Diễn Châu, quân Màn Hạc Thái, có sự đồng lõa của Châu Mục Hà Trắc Tuấn, Tháng 2 năm Ất Mão, Hà Trắc Tuấn

lại chiếm các châu Vi Long (tức là Chiêm Hóa bây giờ), Đô Kim, huyện Hàm Yên tỉnh Tuyên Quang, Thường Tân

(không rõ ở đâu) Bình Nguyên (tức châu Vị Xuyên, thuộc tỉnh Tuyên Quang bây giờ). Dực Thánh vương và Vũ Đức

vương đi đánh bắt được Hà Trắc Tuấn đem về kinh làm tội. Tháng chạp năm Canh Thân (1020) Lý Thái Tổ sai Khai

Thiên vương và Đào Thác Phụ đi đánh Chiêm Thành ở trại Bố Chính (thuộc Quảng Bình gồm ba huyện Bình Chính, Minh

Chính và Bố Trạch) chém được tướng Chiêm là Bồ Linh. Quân Chiêm đại bại. Năm 1022 Mán Đại Nguyên Lịch (ở

khoảnh giữa trại Như Hồng và trấn Trào Dương) quấy nhiễu. Dực Thành vương đi dẹp vượt sang đất Tống đốt cả kho

tàng rồi về. Năm 1024 Khai Thiên vương Phật Mã và Khai Quốc vương Bồ đi đánh châu Phong và châu Đô Kim. Năm

1026 tháng 10 Khai Thiên vương đi đánh Diễn Châu. Năm 1027 Phật Mã đi đánh châu Thất Nguyên (tức Thất Khê bây

giờ). Đông Chinh vương tiễu phạt châu Văn Uyên thuộc tỉnh Lạng Sơn.

135 Việt Sử Toàn Thư

Xét trên đây, dưới thời vua Lý Thái Tổ tuy không có những võ công lớn lao nhưng những việc đánh dẹp kể cũng khá

nhiều. Vì hiểu tình trạng nước ta mấy triều trước luôn luôn có việc nhiễu loạn nên đến lượt Ngài cầm vận mệnh dân tộc,

Ngài sửa soạn và tổ chức ráo riết việc quân. Các hoàng tử đều phải luyện tập quân cơ, các hoàng thân quốc thích được

phép tuyển mộ binh đội nên đã giúp một phần quan trọng vào việc an ninh và uy thế quốc gia thuở đó. Tóm lại chính sách

của vua Thái Tổ là thương dân, yêu nước giao hảo với Bắc triều, gây thực lực cho quốc gia từ trong ra đến ngoài. Chính

sách này đã thành công trong 19 năm Ngài ở tại ngôi. Vua Thái Tổ mất năm Thiên Thành (1028) thọ 55 tuổi. Trong thời

vua Thái Tổ nước ở xa như Chân Lạp tức Cao Mên bấy giờ có 4 lần sang cống (Khâm Định Việt Sử quyển 2 tờ 15a)   

II. Lý Thái Tông (1028-1054) 

1) Việc chính trị   2) Việc quân sự 3) Dẹp Chiêm Thành. 

  Vua Lý Thái Tổ vừa nằm xuống thì Lý Triều là nơi xẩy ra cuộc tranh giành vương vị giữa bốn vị hoàng tử. Theo ý Lý

Thái Tổ thì Thái Tử Phật Mã được lên ngôi nhưng mấy anh em là Võ Đức vương, Dực Thánh vương và Đông Chinh

vương không chịu. Ai cũng muốn ngôi cửu ngũ vể phần mình, rồi sẵn quân đội riêng các ông hoàng đem quân vây thành.

Thật là một cuộc đại náo kinh thành thời bấy giờ. Trong các triều thần có bọn Lý Nhân Nghĩa bàn cùng thái tử không còn

chước nào hơn nữa là dùng giải pháp võ lực để quyết định tình thế. Mặt trận đã dàn xong, về phía thái tử, Võ vệ tướng

quân Lê Phụng Hiểu rút gươm chỉ Võ Đức vương và bảo: "Các người dòm ngó ngôi cao, khi dễ tự quân, trên quên ơn

tiên đế, dưới trái nghĩa quân thần, vậy Phụng Hiểu xin dâng nhát gươm nầy". Nói dứt lời Phụng Hiểu xông vào chém Võ

Đức vương. Dực Thánh vương và Đông Chinh vương khiếp uy bỏ chạy. Việc loạn chấm dứt. Thái tử lên ngôi tức là vua

Thái Tông. Còn lại Đông Chinh vương và Dực Thánh vương xin về chịu tội. Vua Thái Tông nghĩ tình cốt nhục tha tội cho

cả hai người và cho khôi phục chức vị như cũ. Nhưng vì còn thắc mắc về tâm thuật của những người chung quanh, từ các

thân vương đến các bề tôi, từ đây vua Thái Tông buộc các quan hằng năm thi hành lễ tuyên thệ tại đền Đồng Cổ (xã Yên

Thái, giáp Tây Hồ, cạnh thành Hà nội ngày nay): "Làm con phải hiếu, làm tôi phải trung, ai bất hiếu bất trung xin quỷ thần

làm tội". Ai mà không tới làm lễ tuyên thệ phải phạt 50 trượng.  

1- Việc Chính Trị.

 Thái Tông là một ông vua thông minh, rất am hiểu việc quân sự và chính trị. Ngài rất lưu tâm về mọi vấn đề dân sự  vì lòng thương dân. Gặp những năm mất mùa hay có nhiều bịnh dịch, ngài xá thuế cho dân hàng hai ba năm. Về luật pháp

ngài cũng sửa đổi lại cho bớt sự gắt gao (ta hẳn nhớ luật pháp của mấy tiền triều có bề quá nghiệt ngã). Đại khái ngài đặt

cách tra hỏi phạm nhân, xác định các trường hợp giảm khinh cho các người già hay vị thành niên và cho lấy tiền để chuộc

tội nếu không phạm vào thập ác. Ngài đặt niên hiệu là Minh Đạo (1042) trong khi ban bố các chính sách nhân đạo của

Ngài. Với hai chữ Minh Đạo, hẳn ngài muốn tỏ lòng thương dân, thương nước và lo sửa sang đức độ của nền quân chủ

coi trăm họ như con. Năm sau ngài ra lệnh bãi bỏ tục mua hoàng nam để làm tôi tớ (hoàng nam là người từ 18 tuổi trở

lên). Ngài cho đúc tiền Minh Đạo để tiện việc buôn bán trong dân gian và Ngài đặt ra nhà trạm để chạy công văn, chia

đường quan lộ ra từng cung cho thuận tiện mọi việc giao thông. Trông cung Thái Tông đặt hậu và phi 13 người, ngự nữ

18 người, nhạc kỹ 100 người. Các cung nữ ngoài việc hầu hạ phải tập nghề dệt vóc gấm.   

2- Việc Quân Sự. 

Dưới thời vua Thái Tông cũng có nhiều việc đánh dẹp vì sự rối loạn vẫn còn là một tình trạng thường trực từ các thời

trước, ngoại trừ phái phong kiến đã bắt đầu vào dần khuôn khổ. Điều thất sách là nhà vua không đặt các quan Triết trấn

hay Trấn thủ ở các miền sơn cước hay các miền lân cận thượng du nên quyền cai trị và binh bị đều giao hết cho các Châu

mục hay Tù trưởng, do đó quyền hành của những người này rộng quá, họ dễ sinh phản nghịch. Vua Thái Tông luôn luôn

phải thân chinh đi đánh dẹp. Năm Mậu Dần (1038) người Nùng ở Quảng Nguyên (Lạng Sơn) thường hay nổi loạn. Đây

là một thời đáng kể oanh liệt nhất của người Nùng. Lĩnh tụ của họ là Nùng Tồn Phúc người đất Tương Can, thuộc độn

hay châu Thạch An, cát cứ tại châu Đảng Ro gồm Cao Bằng và Lạng Sơn bây giờ. Vây cánh của Phúc là Nùng Tồn Lộc

(em ruột Phúc) thủ lĩnh châu Vũ Lạc (thuộc Cao Bằng, Lạng Sơn). Tất cả các đất đai trên đây hợp thành châu Quảng

Nguyên về đời nhà Lý. Sau này Tồn Phúc giết cả hai em để chiếm hết ảnh hưởng vật chất và tinh thần tại Quảng Nguyên

rồi xưng là Chiêu Thánh hoàng đế, phong cho vợ làm Minh Đức hoàng hậu, con là Nùng Trí Thông làm Nam Nha đại

vương rồi đổi châu Quảng Nguyên làm nước Tràng Sinh. Họ Nùng lại sửa sang bờ cõi, binh bị và xây thành trì, đồn ải

cùng tuyệt giao với Lý (tức là không xưng thần nạp cống) từ năm 1038. Hồi tháng giêng năm sau (1039), Hà Văn Trinh là

thủ lĩnh Tây Nông (tức huyện Tư Nông ngày nay thuộc tỉnh Thái Nguyên), làm báo cáo về triều Lý. Năm Kỷ Mão

(1039) vua Thái Tông phải thân đi đánh. Nùng Tồn Phúc và con là Nùng Trí Thông bị bắt đem về kinh xử tội còn vợ và

một con trai nữa là Nùng Trí Cao chạy thoát. Nùng Trí Cao cũng là một kẻ có tài và có tinh thần quật cường nên hai năm

sau lại lập được quân đội cùng mẹ trở về chiếm châu Đảng Ro, sát châu Quảng Nguyên, đạt nơi này là Đại Lịch quốc.

Nhà Lý lại thêm một phen khó nhọc và đến lượt Nùng Trí Cao bị bắt nhưng vua Thái Tông nghĩ đã giết cha và anh Trí

Cao rồi không nỡ hại Trí Cao nữa, cho trở về làm Quảng Nguyên Mục, sau gia phong hàm Thái Bảo. Năm Mậu Tí

(1048) Nùng Trí Cao lại làm phản, tự xưng phen nữa là Nhân Huệ hoàng đế lấy quốc hiệu là Đại Nam. Quan Thái Úy

của triều Lý là Quách Thịnh Dật đem quân lên đánh không có kết quả. Nùng Trí Cao tính chuyện nương dựa vào Tống

triều và xin phụ thuộc. Tống triều không thuận. Kể ra họ Nùng cũng rất khôn ngoan trong ý định lợi dụng sự mâu thuẫn

giữa Bắc phương và Nam phương đả có từ ngàn năm trước để xây dựng cho "quốc gia Nùng" một địa vị trung gian ở

giữa hai lực lượng. Còn Tống triều không chấp thuận lời thỉnh cầu của họ Nùng hẳn là thấy từ nhà Ngô dấy nghiệp qua tới

mấy triều đại sau dân phương Nam đã thành một khối chặt chẽ, đã tiến hóa và có một thực lực đáng kiêng nể, việc thừa

nhận quốc gia Nùng có thể phát sinh ra sự thù oán với Lý triều không khỏi là điều bất lợi. Vào khoảng tháng 10 năm

1052 quân Nùng hãm Tân Châu và Ung Châu, chiếm được 8 châu (Các châu: Hoành, Quí, Cung, Tàm, Đằng, Ngô,

Khang, Đoan) thuộc Quảng Đông và Quảng Tây làm cho Tống triều phải xúc động. Vua nhà Tống toan nhờ nhà Lý đánh

dẹp hộ nhưng tướng nhà Tống là Địch Thanh can ngăn lấy lẽ có một mình Trí Cao mà lực lượng lưỡng Quảng không thể

chế ngự được phải nhờ ngoại quốc thanh trừ sẽ là một điều quốc sỉ. Việc này còn có ảnh hưởng khác không kém phần tai

hại là sẽ sinh mối biến loạn khác nữa hoặc trong nội bộ của Tống triều, hoặc ở ngoài biên. Vua Tống cho là phải rồi cử

bọn Dư Tĩnh và Tôn Miện đem quân đi đánh Trí Cao. Bọn này làm không nổi việc, vua Tống và triều đình càng thêm lo.

Trước sự lúng túng của Tống triều, Nùng Trí Cao dâng biểu xin phong làm Tiết Độ Sứ châu Ung và châu Quý. Vậy mà

vua Tống đã ưng thuận cho êm. Lại một phen nữa Địch Thanh phản đối và tình nguyện xin đi đánh. Ông được phong làm

Quảng Nam Tuyên phủ sứ. Bấy giờ quân của Dư Tĩnh và Tôn Miện đang đóng ở Liễu Châu, địa hạt Tân Châu thuộc

Quảng Tây. Tháng chạp năm 1052 quân Địch Thanh đến Quảng Nam hợp với quân của bọn Dư Tĩnh, Tôn Miện. Dịch

Thanh hạ lệnh bất động để xem xét tình thế và định kế hoạch. Trong lúc này quan Kiểm hạt Quảng Tây là Trần Thự

không tuân tướng lệnh cứ đem quân đi đánh Trí Cao và bị bại. Địch Thanh đem chém Trần Thự và cho quân nghỉ 10

ngày. Trí Cao thắng trận nhiều lần sinh khinh địch và không lo đề phòng bất ngờ bị Địch Thanh tấn công tại cửa Côn Lôn

(thuộc Phủ Nam Ninh). Trong khi chiến cuộc đang diễn hành, Địch Thanh dùng quân kỵ đánh vào hai bên sườn quân Trí

Cao. Bọn tướng tá Nùng là Hoàng sư mật Nùng Kiên Trung chết tới 157 người, còn quân bị hại tới hàng vạn và tan vỡ

hết. Trí Cao thả lữa đốt thành rồi chạy trốn qua sông Hợp Giang sang nước Đại Lý (thuộc Vân Nam) bị người Đại Lý bắt

được chém đầu đem nộp cho nhà Tống. Theo Đại Nam dật sự, Nguyễn Văn Tố nói: hai năm sau Dư Tĩnh được phong

làm Kinh Chế Quảng Tây có nhiệm vụ đi bắt Trí Cao. Dư Tĩnh phái Tiêu Chú là Đô Giám qua đường Đặc Ma đi tìm họ

Nùng và dư đảng chỉ có bắt được mẹ Trí Cao, em là Trí Quang, con là Kê Tông và Kê Phụng; lại cử người sang Đại Lý

theo dõi Trí Cao đem về kinh sư. Thân nhân của Trí Cao sau cũng bị giết hết. Từ đó tại biên giới Hoa Việt không có sự

quấy nhiễu của người Nùng nữa.   

3- Dẹp Chiêm Thành. 

 Nhà Lý dấy nghiệp đã được 10 năm, dân Chiêm nhân dịp bên Giao Châu thay đổi ngôi vua liền bỏ việc tiến cống và

thông sứ. Hơn thế nữa, quân Chiêm lại còn luôn luôn quấy nhiễu các vùng duyên hải của chúng ta. Năm Giáp Thân

(1044) sau khi sửa soạn được binh thuyền, lương thực vua Lý Thái Tông ngự giá đánh Chiêm Thành. Hai quân gặp nhau

ở phía Nam sông Ngũ Bồ. Quân Giao Châu đánh tràn sang, khí thế hăng hái quá quân Chiêm bỏ chạy, 5000 quân Chiêm

và 30 con voi bị bắt. Ngay khi đó trong nội bộ của Chiêm xảy ra việc bội phản: tướng Chiêm là Quách Gia Dĩ hạ sát

quốc vương Xạ Đẩu rồi xin hàng. Thắng trận, quân ta chém giết dân Chiêm rất nhiều, vua Thái Tông phải thiết quân luật

mới dứt được cuộc tàn sát này. Thái Tông tiến đến thành Phật Thệ bấy giờ là quốc đô của Chiêm Thành (thuộc làng

Nguyệt Biều, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên) bắt được vương phi Mị Ê và một số cung nữ Chàm đem về nước.

Thuyền ngự về tới hạt Hà Nam, Thái Tông đòi Mị Ê sang chầu nhưng tuyệt vọng về tình nhà nỗi nước, người đẹp của dân

Hời đã quấn chiên lăn xuống sông tự vẫn. Ngày nay bên bờ sông Châu Giang, cạnh tỉnh lỵ dân chúng địa phương có dựng

một ngôi đền để thờ tiết phụ đó. Số 5000 người bị bắt về Giao Châu sau được triều đình nhà Lý cấp ruộng đất để lập ấp

sinh sống.    

III. Lý Thánh Tông (1054-1072) 

- Việc mở mang Phật giáo và Nho giáo - Vua Lý Thánh Tông đánh Chiêm Thành. 

  Kế nghiệp vua Thái Tông là thái tử Nhật Tông, tức vua Thánh Tông lấy niên hiệu lần đầu là Long Thụy Thái Bình (1054

-1058) đặt quốc hiệu là Đại Việt. Nước ta ngót một trăm năm đến bây giờ vẫn gọi là Đại Cồ Việt. Vua Thái Tông nổi

tiếng là một vị anh quân và có nhiều đức độ. Chính trị của ngài lấy sự thương dân như con làm căn bản. Tháng tư năm

Bính Thân (1056) ngài ban chiếu khuyên dân làm ruộng. Tháng tám năm Kỷ Hợi (1059) ngài cho chế triều phục. Các

quan phải đội khăn bịt đầu, đi hài có bí tất vào chầu cho có vẻ trang nghiêm. Ngài lập điện Thủy Tinh, điện Thiên Quang.

Quan chức thì có chức Phụ quốc Thái Úy, Gián nghị đại phu, Tả hữu lang trung viên ngoại lang, Khu mật sứ, Kim ngô,

Lĩnh binh. Triều đại của ngài kể ra đến bấy giờ là văn vật hơn cả và tiến dần đến chỗ vẻ vang. (Khâm định Việt sử 9.3 tờ

23b). Tháng tư năm Canh Tuất (1070) trời làm đại hạn, ngài cho lấy tiền của và thóc trong kho chẩn cấp cho dân (Khâm

định Việt sử 9.5 tờ 29). Ngài đặt ra tiền dưỡng liêm để tránh sự sa ngã cho quan lại. Năm Đinh Mùi (1067) ngài cho

Nguyễn Trọng Hòa và Đặng Thê Tư làm Đô hộ phủ sĩ sư, đổi 10 người thủ gia làm lại án ngục. Ngài ban cho Trọng Hòa

và Thế Tư mỗi năm mỗi người 50 quan tiền và 100 bó thóc, cá và muối tùy tiện đủ dùng. Mỗi người ngục lại mỗi năm

được 20 quan tiền và 100 bó thóc để nuôi tính trong sạch cho các hình quan). Về việc dưỡng liêm, Ngô Ngọ Phong, tức

Ngô Thời Sĩ nói: Dưới đời nhà Lý các quan trong ngoài đều không có cấp bổng. Quan trong thì thỉnh thoảng được ban

thưởng. Quan ngoài được dân mỗi địa phương tùy tiện đặt người thu những thuế điền thổ, bờ, đập mà cung cấp. Quan

phải dạy dân cày cấy, thả cá để cùng hưởng lợi. Đến bấy giờ bình quan mới có lương bổng. Đối với các phạm nhân, ngài

cũng mở lượng khoan hồng, cho ăn mặc đầy đủ. Năm Tân Hợi (1071) ngài định lệ chuộc tội bằng tiền tùy theo nặng nhẹ.

Về vấn đề này (năm 1028 - 1054) trong đời vua Lý Thái Tông đã lập thành lệ, vua Thánh Tông sau này chỉ sửa đổi lại

mà thôi. Về võ bị, tuy nước được thái bình, ngài cũng rất lưu ý đến. Năm Kỷ Hợi (1059) ngài định các hiệu quân là: Ngũ

Long, Võ Thắng, Long Đức, Thần Điện, Bổng Thánh, Bảo Thắng, Hùng Lược và Vạn Tiệp. Bốn bộ hợp lại thành 100

đội. Mỗi đội có lính kỵ mã và lính bắn đá. Do sự bổ xung này số cấm quân đến đời vua Thánh Tông gần tăng gấp đôi;

còn thứ binh sĩ để giữ an ninh, trật tự trong nước và đề phòng xâm lăng không có nhất định. Người dân đến tuổi phải đi

lính một thời gian ngắn và có lẽ như dưới đời nhà Đinh, họ được luân phiên để vừa làm bổn phận với Nhà nước, vừa làm

việc với gia đình, tức là vừa là lính vừa là nông dân. Việc này gọi là "đi phen". Trong khi đi phen, họ đóng ở các phủ,

huyện, châu để phòng khi động dụng. Hạng lính này dĩ nhiên nhiều hơn lính cấm vệ, nhưng tập luyện ít ỏi hơn. Ngoài ra

quân lính đều có khắc trên trán ba chữ "Thiên Tử Quân" như dưới đời Tiền Lê. Binh chế nhà Lý nổi tiếng đời bấy giờ

khiến nhà Tống phải bắt chước. Chúng tôi tiếc rằng không thấy có sử liệu nói nhiều về các tổ chức quân sự dưới triều vua

Thánh Tông để bày tỏ đầy đủ hơn, chỉ biết theo Vân Đài Loại Ngữ của Lê Quý Đôn, quyển IV, tờ 42a,: Thái Diên

Khánh là quan nhà Tống làm Tri châu ở Hoạt Châu (một châu của Tàu ở gần biên giới ta) có dâng lên vua Tống Thần

Tông (1068 - 1085) cuốn An nam hành quân pháp bắt được của nhà Lý. Trong sách này có ghi chép việc tổ chức binh

đội như sau đây, và chúng tôi ngờ rằng việc tăng cường binh đội này đã phát xuất dưới hai triều TháiTông và Thánh Tông

đã có nhiều đặc biệt nên binh đội của ta đã khá mạnh khiến Trung Quốc phải chú ý: Chính binh là các đơn vị sử dụng

cung tên và kỵ mã do 9 phủ tướng thống xuất. Các đơn vị này có 100 đội. Mỗi đội có 4 bộ: tả, hữu, tiền, hậu. - Quân trú

chiến tức là quân đội vừa đóng giữ vừa chiến đấu tại chỗ. - Quân thác chiến dùng vào cuộc tấn công và lưu động (Mỗi

tướng đều có kỵ binh và vũ khí như nhau). - Phiên binh thì đặt từng đội riêng để đề phòng sự bất chắc. (Đây là hạng lính

gìa yếu để giữ thành).

140 Việt Sử Toàn Thư

Do tài liệu này ta thấy binh chế đời Lý có một đặc sắc nhất là biết sử dụng kỵ binh nó có giá trị hay không thì coi cuộc

phạt Tống bình Chiêm liên tiếp sau này đủ rõ. Ngoài ra nhà Tống phải bắt chước nhà Lý về binh chế thì càng có thể tin

binh chế của chúng ta thuở đó đã khá hoàn bị. Tóm lại vào hạ bán thế kỷ thứ XI nước ta đã khá mạnh về quân sự tại

Đông Nam Á châu.   

1- Việc Mở Mang Phật Giáo và Nho Giáo.  

Vua Thánh Tông làm vua được hai tháng, năm Ất Vị (1055) tháng giêng ngài cho sửa các miếu trong Đại nội. Mùa đông

năm Đinh Dậu (1058) ngài cho sửa cửa Tường Phù (tức là cửa Đông thành Thăng Long) dựng lên từ năm thứ nhất hiệu

Thuận Thiên (1010). Tháng tám năm Canh Tý (1060) ngài cho làm Hành cung ở bên cạnh Dâm Đậm hồ (Tây Hồ) để

thỉnh thoảng ngự ra xem đánh cá. Tháng chín năm Bính Ngọ (1066) ngài sai Lang tướng Quách Mậu dựng một cái tháp ở

núi Tiên Du (Bắc Ninh). Năm Canh Tuất (1070) ngài cho dựng điện Tử Thần. Tháng giêng năm Tân Hợi (1071) ngài viết

chữ Phật vào tấm bia dài một trượng 6 thước ở chùa Tiên Du. Tháng tám năm Canh Tuất (1070), hiệu Thần Vũ thứ hai,

ngài cho xây miếu thờ Khổng Tử là ông tổ đạo Nho tại phía Nam thành Thăng Long (Hà Nội) cho tô tượng Chu Công,

Khổng Tử và tượng tứ phối (bốn vị phối hưởng là Nhan Tử, Tăng Tử, Tử Tư và Mạnh Tử) vẽ tượng Thất Thập Nhị

Hiền (72 người học trò giỏi của đức Khổng). Xét ra việc xây dựng văn miếu và đúc tượng này là lần đầu tiên có ở nước

ta. Để cổ súy Nho giáo được mãnh liệt, xuân thu nhị kỳ triều đình cho cúng tế Khổng Tử và chư hiền rất long trọng. Nhà

vua lấy ngày thượng đình tế ở Văn miếu. Các quan theo ngày trung đình tế ở Văn chỉ hàng tỉnh. Dân vào ngày hạ đình tế ở

Văn chỉ hàng xã. Văn miếu lại còn là nơi học tập của các hoàng tử. Theo sự nhận xét của chúng tôi thì nhà Lý mở nước

năm 1010, sáu mươi năm sau mới có việc tôn thờ Khổng Tử và sùng bái chư hiền. Như vậy đạo Nho đã đi sau đạo Phật,

nhưng bắt đầu có đà tiến triển từ bấy giờ. Một việc cứng cõi về ngoại giao dưới đời Lý Thánh Tông: mùa xuân năm Canh

Tí (1060) chức Mục ở Lang Châu (Lạng Sơn) là Thân Thiệu Thái đuổi theo bắt những quân trốn tránh sang cõi Tống, bắt

được chức chỉ huy sứ của nhà Tống là Dương Bảo Tài và sĩ tốt, trâu ngựa đem về. Đến tháng bảy, quân Tống sang xâm

lấn không được, bèn sai Lại Bộ thị lang là Dữ Tĩnh đến châu Ung mở cuộc hội nghị với nhà Lý. Vua Lý sai Phi Gia Hữu

đi dự. Dư Tĩnh tặng cho Gia Hữu rất hậu và đưa thư xin trả lại Bảo Tài, vua ta không chịu (Đại Việt Sử Ký Toàn Thư

2.3 tờ 25b).   

2- Vua Lý Thánh Tông Đánh Chiêm Thành. 

 Từ khi nước ta giành được độc lập (thế kỷ thứ X) việc đánh Chiêm Thành đã là một việc thường xuyên. Như ta biết, dân

Chiêm quen cậy hùng mạnh hay quấy nhiễu nước ta từ thế kỷ thứ hai dưới đời vua Hòa Đế (102 sau C.L.) nhà Đông

Hán. Chiêm quốc dưới con mắt của các vua chúa ta là một cái nhọt bọc rất khó trị và nguy hiểm, nên từ nhà Tiền Lê đã

quan niệm rằng không đánh Chiêm thì Chiêm cũng đánh mình, rồi từ đây, triều đại nào hầu yên nội bộ đều mang quân

Nam chinh.

Xin lược qua việc đánh Chiêm đả khởi từ đời Tiền Lê, qua nhà Đinh là triều đại vừa thực hiện xong nền thống nhất thì

Ngô Nhật Khánh là một trong 12 sứ quân bị bại chạy qua Chiêm Thành xui Chiêm đem quân tấn công vào đất Việt.

Năm Kỷ Mão (979) hơn một ngàn chiếc thuyền Chiêm tiến đến cửa Đại An tức là cửa sông Đáy thuộc hải phận Ninh

Bình - Nam Định chẳng may bị bão đánh chìm. Nhật Khánh cùng một phần lớn quân Chiêm làm mồi cho cá. Quân Chiêm

không bị đánh mà tan, đáng tiếc cho kinh đô Hoa Lư mất cơ hội ghi một vài chiến công oanh liệt của giống nòi Việt Nam

vào lịch sử. Đến Lê Hoàn lên ngôi, sứ giả Đại Việt là Từ Mục và Ngô Tử Canh sang giao hiếu bị Chiêm giữ lại. Vua Tiền

Lê nổi giận, rồi thành trì, tông miếu của vua Chiêm một phen bị san phẳng, đồng thời một số con dân Chiêm phải theo

ngọn cờ chiến thắng về làm lưu dân dùng vào việc khẩn hoang ở các đồn điền của ta. Đó là cuộc Nam chinh đầu tiên của

chúng ta và cũng là dịp đầu tiên dân Chiêm Thành kiệt hiệt, phú cường từ đầu Tây lịch kỷ nguyên biết mùi chiến bại với

Việt tộc. Vua Thái Tông nhà Lý lên ngôi, Chiêm Thành chịu xưng thần nộp cống, rồi Chiêm bị nội loạn, con cháu vua

Chiêm giành nhau địa vị nên Nam Thùy của ta bớt được sự quấy đảo trong một thời gian. Nhưng sau ít lâu, Chiêm bỏ

cống luôn 16 năm và lại tiếp tục gây rối ở ven biển của ta. Năm 1044, vua Thái Tông thân chinh vào Chiêm quốc, giết

chúa Sạ Đẩu, bắt 30 con voi, 5000 dân và giết gần ba vạn người không kể số cung nhân, nhạc nữ đem về nước. Dĩ nhiên

Chiêm lại hàng, nhưng sự hành phục của Chiêm bao giờ cũng ngắn ngủi, bởi họ là một dân tộc có óc quật cường rất mạnh

và chí phục thù rất bền bỉ ! Năm 1065 - 1069, Chiêm bỏ cống, vua Thánh Tông nối nghiệp phụ vương lại đem quân Nam

Chinh. Nhưng một vài sử gia cho rằng tới giai đoạn lịch sử này cuộc bình Chiêm chẳng phải riêng vì việc đoạn tuyệt giao

hiếu, mà vì Đại Việt bắt đầu thi hành chính sách đế quốc, dựa vào chỗ Chiêm có tinh thần bất khuất đối với Đại Việt và

lại lén lút thần phục nhà Tống. Cùng một nhịp với các vua kế tiếp sau này, ta thấy dân tộc Việt Nam cố gắng cựa quậy

chẳng những về miền Nam lại còn lo bành trướng cả về phương Bắc. (xin coi bài nói về chánh sách Bắc thùy của nhà Lý

dưới đây). Từ Chiêm vương Chế Cũ (Rudravarman III) được vua Tống nâng đỡ, ban cho ngựa trắng và cho phép mua

lúa ở Quảng Châu, Chiêm không tiếp tục nạp cống nữa. Mọi hành động của Chiêm đều lọt hết vào con mắt của dân Việt

một cách khiêu khích. Cũng lúc này (1068) vua Lý Thánh Tông sửa soạn thêm chiến thuyền (việc giao thông từ thành

Phật Thệ tới Giao Chỉ bằng đường núi theo lời sứ Chiêm tâu với vua Tống phải mất 40 ngày. Vua Tiền Lê trước đây có

đào tân cảng và sửa chữa đường sá. Nhưng xem vậy, dùng thủy đạo vẫn dễ dàng cho việc chuyển quân hơn). Lực lượng

quân sự của Lý triều có chừng 5 vạn, Lý Thường Kiệt được làm Đại tướng đi tiên phong, em Thường Kiệt là Thường

Hiến giữ chức Tán kỵ Vũ úy. Mỗi chiến hạm chở 250 tên quân và lương thực, tất cả có 200 chiếc. Ở triều bấy giờ có _

Lan Thái Phi và Thái sư Lý Đạo Thành trông coi việc nước. Bảy ngày sau khi rời khỏi Thăng Long các đạo quân Việt đã

có mặt ở Nghệ An, ba ngày sau tới cử Nam giới, phía Nam núi Hồng Lĩnh (Hà Tĩnh), hải phận Chiêm Thành từ đó đã

hiện ra trước mắt. (Sử chép ngày Canh Thân tới Nam giới, rồng nổi lên ở đầu thuyền Kim Phượng như lúc xuất chinh, Lý

triều vốn tin nhiều dị đoan cho là điềm tốt. Điểm này có tính cách hoang đường. Có lẽ sử thần bịa đặt ra để tô điểm cho

bản triều thuở đó). Năm ngày sau quân ta đến cửa Nhật Lệ là nơi tập trung của thủy quân Chiêm, bởi Chiêm có những

giẫy núi "xương sườn" cao ngất ngăn cản đường bộ từ Giao Chỉ vào cõi Chiêm. Ngoài núi Hoành Sơn ở Cực Bắc, có núi

Hải Vân ở phía Nam Thuận Hóa, núi Đại Lãnh ở phía Nam Phú Yên, giữa các giẫy núi này có đồng bằng của dân Chiêm.

Hình như sự giao thông của dân Chiêm từ nơi này qua nơi khác cũng bằng đường thủy và về phương diện quân sự,

Chiêm chỉ cần giữ mặt biển hơn cả vì tin tưởng vào các đèo núi là những bức tường thành thiên nhiên. Tại Nhật Lệ, thủy

quân Chiêm xông ra cản đường. Tướng của ta là Hoảng Kiệt đánh tan rồi quân ta thẳng tiến về phía Nam không bị ngăn

trở, mục đích của ta là tiến thẳng tới thành Phật Thệ phá kinh đô và bắt Quốc Vương. Bốn ngày sau nữa ta đến cửa Tư

Dung nay gọi là Tư Hiền là cửa sông vào các phá và sông thuộc Quy Nhơn ta mất ba ngày nữa, tính tất cả là 26 ngày từ

Thăng Long đến đấy. Thành Phật Thệ (sau gọi là Chà Bàn mà ta thường chép lẫn ra là Đồ Bàn) ở vào địa phận tỉnh Bình

Định ngày nay, ba phía Tây-Nam-Bắc có núi che chở, phía Đông giáp bể. Thủy quân của ta đổ bộ ở đây. Tướng Chiêm

là Bố Bì Đà La giàn trận trên bờ sông Tu Mao chặn đánh. Quân ta xông lên giết được Bố Bì Đà La và rất nhiều binh sĩ.

(Trận này được lịch sử gọi là trận Tu Mao). Lý Thường Kiệt vượt được sông Tu Mao, lại qua hai con sông nữa mới tới

kinh đô Chiêm. Đang đêm nghe tin quân của mình bại trận ở Tu Mao, Chế Củ mang vợ con chạy trốn. Dân trong thành

thấy quân Đại Việt đến đều ra hàng. Lý Thường Kiệt đem quân truy tầm theo phía Nam. Tháng tư quân ta tiến đến biên

giới Chân Lạp, qua các vùng Phan Rang, Phan Thiết ngày nay mà Chàm gọi là Pandurango. Vua Chiêm vốn có cựu thù

với Chân Lạp nên hết đường chạy phải ra hàng, kết quả Chế Củ và năm vạn quân bị cầm tù. Cuộc đuổi bắt vua Chiêm

mất ngót một tháng. Người có công trong cuộc đại thắng này là Lý Thường Kiệt. Tháng 5 vua ra lệnh sửa soạn lên

đường. Ngày 19 tháng 6 Quý Tỵ, thuyền về đến cửa Tư Minh, có lẽ là Tư Dung. Ngày 17 tháng 7 Tân Dậu, đạo quân

Nam chinh về tới Thăng Long. Cuộc đón rước rất là long trọng. Các quan hữu tư sắp đặt binh lính nghiêm trang, nghi vệ

rực rỡ. Vua lên bộ ngự trên báu xa (xe nạm ngọc) quân thần cưỡi ngựa theo sau. Vua Chiêm mình mặc áo vải trắng, đầu

đội mũ làm bằng cây gai, tay bị trói sau lưng do 5 tên lính Vũ đô dắt. Quyến thuộc đi sau cũng bị trói. Chế Củ xin dâng 3

châu Bố Chính, Ma Linh và Địa Lý để chuộc tội được tha về. Đáng chú ý từ Lê Đại Hành đến Lý Thánh Tông tuy có

việc đánh Chiêm nhưng chỉ là việc bắt người lấy của nhưng chưa hề có việc bành trướng đất đai. Và nói đến vấn đề mở

mang bờ cõi, ta nên để ý đến Lý Thường Kiệt là người rất ráo riết về ý chí này hơn hết, có lẽ bấy giờ (dưới đời Lý) nguồn

sống ở miền đồng bằng Bắc Việt bắt đầu đã thiếu hụt.

Công cuộc này tới các triều đại sau được theo đuổi thế nào, những trang dưới đây sẽ nói đầy đủ hơn.   

IV.  Lý Nhân Tông (1072 - 1127) 

1) Vụ tranh giành quyền vị 2) Việc chính trị 3) Việc đánh Tống 4) Lý đánh  Chiêm Thành   

1- Một Vụ Tranh Giành Quyền Vị Đời vua Nhân Tông đáng kể là một triều đại rất lớn vì dưới đời Nhân Tông văn trị, võ

công rất là hiển hách. Ngoài ra triều đại này đã ghi trong lịch sử hai chiến công hết sức oanh liệt là đánh Tống và bình

Chiêm. Vua Nhân Tông tức thái tử Càn Đức lên ngôi lúc 7 tuổi. Quan thái sư là Lý Đạo Thành làm phụ chính, nhưng bên

trong mẹ là _ Lan Thái phi và Dương Thái hậu buông mành nghe việc triều chính. _ Lan thái phi là một nhân vật đặc biệt

của thời đại bên cạnh Lý Đạo Thành và Lý Thường Kiệt, hai vị tướng văn, võ có uy tín và thao lược nhất thời bấy giờ. Bà

đã đóng một vai trò chính trị rất đáng kể dưới đời Lý Nhân Tông. Thân thế của bà thế nào? Vua Lý Thánh Tông (1054

1072) bấy giờ đã 40 tuổi mà chưa có con trai lấy làm lo lắng nên hay đi cầu tự ở các đình chùa danh tiếng. Một hôm ngài

ngự giá về chùa làng Thổ Lội cho phép dân chúng tự do chiêm bái long nhan. Dân chúng già trẻ, trai gái nô nức đi xem

nhà vua như nước chảy. Trong khi đạo ngự đi qua, một cô gái cứ bình tĩnh hái dâu bên đường và dựa mình vào bụi cỏ

lan. Nhà vua ngạc nhiên liền đòi đến hầu thì thấy cô gái đó tuy quê mùa nhưng có nhan sắc đoan trang, cử chỉ lại đường

hoàng, nói năng thanh nhã, ngài liền vời về cung. Thiếu nữ ấy là Yến cô nương, tục danh là cô Cám, thôn nữ làng Thổ Lội

(sau đổi là Siêu Loại, rồi lại đổi ra Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh). Về cung nhà vua cử một nữ giáo viên dạy Yến cô nương

học tập. Nhờ sự thông minh chẳng bao lâu Yến cô nương lầu thông kinh sử và được phong làm _ Lan phu nhân (lấy tên

cung _ Lan là nơi phu nhân luyện tập văn bài, lại có ý là người con gái tựa bụi lan). Rồi phu nhân sinh ra Hoàng tử, đặt tên

là Càn Đức từ đó được phong làm Thái Phi. Theo thần tích làng Siêu Loại thì khi vua Thánh Tông đi quân thứ Chiêm

Thành, ở nhà bà Dương hậu biết _ Lan phu nhân có thai sợ sau này mất địa vị nên hư truyền rằng mình cũng tắt kinh. Khi

_ Lan phu nhân sinh con trai thì Dương hậu chiếm đứa con trai đó và giam _ Lan phu nhân vào lãnh cung nói rằng _ Lan

sanh ra quái thai. Đứa con trai đó tức là thái tử Càn Đức và lên bảy tuổi thì vua Thánh Tông băng hà. Càn Đức được lên

ngôi tức là vua Nhân Tông. Việc này vỡ lỡ ra. Nguyên phi bấy giờ được tôn là Hoàng thái phi liền báo thù xưa, giết

Dương hậu và chôn sống 72 người cung nữ đã a tòng với Dương hậu trong việc hãm hại Thái phi thuở trước. Sau việc tàn

ác kể trên, khi trở về già, _ Lan Thái phi quá hối hận nên rất sùng đạo Phật, làm rất nhiều điều thiện, như việc xuất tiền

kho để chuộc con gái nhà nghèo bị cầm bán, rồi cho gả chồng vào những nơi tử tế, chẩn cấp cho dân chúng khi bị tai trời

ách nước, làm tới 70 ngôi chùa trong vùng Kinh Bắc (Bắc Ninh) và thi hành nhiều nhân chánh. Xét về chính trị _ Lan thái

phi đã làm giám quốc rất đắc lực cho việc trị dân trong khi chồng đi viễn chinh (theo giáo sư Hoàng Lê trong tuần báo

Đời Mới số 20 thì Dương hậu coi triều khi vua Thánh Tông đi quân thứ. Theo Tri Tân thì có cả bà Nguyên Phi tức _ Lan

phu nhân đã buông rèm nghe việc triều chính trong giai đoạn này. Có thể tin chắc _ Lan Nguyên Phi đã được sủng ái ngay

buổi đầu nên được dự chính sự vì bà là người thông minh, quảng bác. Theo Việt Nam Sử Lược chỉ có bà Nguyên Phi mà

thôi. Điều chắc chắn là sau khi vua Nhân Tông lên cầm quyền, _ Lan Thái Phi hoàn toàn trực tiếp tham gia quốc sự. Bà

có công dạy dỗ con để thành một vị anh quân. Nước nhà bấy giờ được yên trị, việc học hành thi cử được mở mang. Việc

đánh Tống, bình Chiêm là những việc trọng đại cũng có thể do sự thẩm xét và quyết định của bà bên cạnh thiếu quân.

Điều này rõ rệt vì vua Nhân Tông lên ngôi năm 1072 nhưng mấy năm sau thì Lý Đạo Thành đi trấn thủ Nghệ An, không

còn làm phụ chính nữa vì chính kiến bất đồng về việc đánh Tống bình Chiêm đã xảy ra năm 1075 1078 với Lý Thường

Kiệt và các đại thần; do đó chúng tôi nghĩ rằng _ Lan Thái phi đã từng đóng một vai trò quan trọng trong mọi việc chính

trị đời bấy giờ. Vậy xét công các đại thần thuở ấy mà không nhắc nhở đến bà tưởng cũng là một điều bất công. Lại xin nói

thêm rằng _ Lan Thái phi xuất thân ở chỗ thảo dã, cơm rau áo vải, nhờ sự may mắn bước vào chốn hoàng cung, ăn học ít

năm rồi trở nên một nhà chính trị lỗi lạc thì ta phải công nhận rằng phụ nữ Việt Nam sau các bà Trưng, Triệu đều luôn

luôn biểu dương được tinh hoa của nòi giống chẳng kém gì tu mi nam tử.   

2- Việc Chính Trị . 

Triều đại Lý Nhân Tông rất hoạt động. Việc đánh dẹp tuy nhiều, nhưng những việc chính trị cũng không bị ngưng trệ. Đời

bấy giờ mới khởi đầu việc đắp đê Cơ Xá để giữ kinh thành và tránh cho dân nạn ngập lụt hàng năm rất tai hại cho mùa

màng. Năm Ất Mão 1075 hiệu Thái Ninh thứ tư, đời vua Lý Nhân Tông, bắt đầu có các kỳ thi tam trường tức là thi ba

bậc khác nhau để tuyển nhân tài ra giúp nước, (những người thông nghĩa sách minh kinh). Đây là kỳ thi đầu tiên ở nước

ta, chọn được 10 người. Lê Văn Thịnh đỗ đầu được vào hầu vua học; sau này Lê Văn Thịnh làm đến Thái sư, rồi bị đầy

lên Thao Giang (Phú Thọ) vị bị ngờ có ý phản nghịch. Khoa cử nước ta có từ thuở đó.

145 Việt Sử Toàn Thư

Năm Bính Thìn (1076) tháng tư, hiệu Anh Vũ chiến thắng, Nhân Tông đặt nhà Quốc Tử giám để kén chọn các nhân tài

cho hai ngành văn võ. Năm Đinh Tỵ (1077) tháng hai, hiệu Anh Vũ chiến htắng thứ hai, có kỳ thi lại viên, hình luật để lấy

người vào làm quan. Năm Bính Dần (1086) tháng tám, hiệu Quang Hựu thứ hai, vua tuyển người vào Hàn Lâm Viện

(Mạc Hiển Tích là người xã Long Động, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương đỗ đầu được bổ vào Hàn Lâm Viện học sĩ).

Năm Đinh Sửu (1097) hiệu Hội Phong thứ 6, Lý Nhân Tông xuống chiếu làm sách hội điển là cuốn sách kiểm soát so

sánh các điều lệ trong điển cũ, chép lại rồi cho thi hành. Vì Nho học bắt đầu được sùng thượng nên mới có các việc mở

mang trên đây, cũng là nhờ thời đó có nhiều người hiền lương hết lòng lo lắng quyền lợi của nhân dân. Đáng kể Thái sư Lý

Đạo Thành trước hết là gương mẫu cho sự đoan chính và tận tâm phục vụ với quốc gia. Cứ xét việc bình Chiêm phá

Tống thì hiểu nhân tài thời đó rất là đáng kính. Năm Kỷ Tị (1089) quan chế định thành các cấp bậc sau đây: Văn ban có:

- Đại thần: Thái sư, Thái phó, Thái úy, Thiếu sư, Thiếu phó, Thiếu úy. - Dưới đại thần: Thượng thư, Tả Hữu Tham tri, Tả

Hữu Gián nghị đại phu, Trung thư thị lang, Bộ thị lang v.v... Võ ban có: - Đô thống, Nguyên súy, Tổng quản khu mật sứ,

Khu mật tả hữu sứ, Kim Ngô thượng tướng, Đại tướng, Đô tướng, Chủ vệ tướng quân v.v... Văn quan ở các tỉnh có:

Quan cai trị: Tri phủ, Phán phủ ở các châu quận, Tri châu. Võ quan có: chư lộ trấn trại quan.   

3- Việc Đánh Tống. 

 Đến đời vua Tống Thần tông (1068 1078) Vương An Thạch là một đại chính tri gia có ý cải tổ rất nhiều về chính sự của

Trung Quốc và mở rộng đế quốc. Họ Vương đặt: 1) Phép thanh miêu lấy tiền của nhà nước cho nông dân vay khi lúa còn

xanh. Dân có lúa sẽ trả lại số tiền được vay và trả lãi theo quốc lệ (?). 2) Phép miễn dịch: Ai phải việc sưu dịch thì được

nộp tiền để nhà nước lấy tiền thuê người khác làm thay cho mình.

3) Phép thị dịch: Đặt sở buôn bán ở chốn kinh sư để tiêu thụ các thứ hàng hóa của dân bị ế đọng. Nhà nước đứng lên

thu, đem bán và cấp vốn hay cho vay vốn rồi dân theo quốc lệ mà trả. 4) Phép bảo giáp để tăng cường quân sự, họ

Vương chia 10 nhà lập thành một Bảo. Năm trăm nhà hợp thành một Đô Bảo. Mỗi Bảo có hai người chỉ huy và dạy dân

luyện tập quân sự. 5) Phép bảo mã có quân lính nhiều cũng phải có nhiều ngựa. Vương giao ngựa cho các Bảo nuôi. Nếu

ngựa chết thì liệu theo giá mà bồi thường hay mua ngựa khác thay vào. Vương An Thạch rất chú ý đến phương Nam và

muốn lập công to ở ngoài biên, tâu lên vua Tống rằng: Giao Chỉ vừa đánh Chiêm Thành bị thất bại, quân không còn nổi

một vạn, có thể lấy quân Ung Châu sang chiếm Giao Chỉ. Tri châu Tiêu Phú ở Phiên Ngu (Ung Châu) trông thấy rõ sở

vọng này của Tống triều đã có lần dân sớ về triều xin đánh Đại Việt (bấy giờ nhà Lý lấy quốc hiệu là Đại Việt) kẻo sau có

đại họa. Rồi  Tiêu Chú bị lỗi phải huyền chức . Khi họ Vương lên cầm quyền, Tiêu Chú được phục chức vì là người am

hiểu mọi vấn đề Đại Việt đang nằm trong cái dự án xâm lăng của Vương tể tướng. Dự án ấy không riêng lo khuếch

trương về phương Nam mà còn mở rộng cương vực cho Trung Nguyên về phương Bắc nữa (đánh Liêu và Hạ). Nhưng

khi Tống để ý đến thái độ của Lý triều thì thấy Lý có vẻ ngang ngạnh nên sinh nghi. Sự thật Lý triều đã nhân cuộc dánh

phá của Nùng Trí Cao năm 1054 mà bành trướng ngầm lĩnh thổ của mình bằng cách xui dục biên dân lấn đất và sinh sự.

Trong một thời gian khá dài. Tống triều nén giận, giữ tình hòa hảo nhưng vẫn đợi dịp thuận tiện để xâm lăng Đại Việt mà

từ lâu Tống coi như miếng mồi béo. Mười năm qua Tống triều đẵ ở trong thái độ chờ đợi đó. Tiêu Chú sau khi được

phục hồi liền tới Quế Châu giao dịch với các tù trưởng từ đạo Đặc Ma đến châu Điền Đống được hiểu lúc này Lý triều

thắng Chiêm Thành, bờ cõi mở rộng về phương Nam, dân sinh quốc kế rất thịnh đạt. Tiêu Chú có ý trù trừ. Nhưng đến

năm 1072 vua Thánh Tông qua đời, Dương Hậu và _ Lan Thái phi giành nhau quyền vị. Vua Nhân Tông là thái tử Càn

Đức mới 7 tuổi; trong triều hai đại thần văn võ là Lý Đạo Thành và Lý Thường Kiệt chính kiến bất đồng. Tống triều tưởng

như cơ hội đã đến, nhưng khi hỏi Tiêu chú thì Tiêu Chú vẫn không giám tán thành cuộc Nam chinh (Tiêu Chú xuất thân là

một tiến sĩ, làm việc có tính cẩn trọng, có tinh thần trách nhiệm). Trái lại, Binh bộ Thị lang Thẩm Khởi lại rất sốt sắng đánh

Đại Việt. Vua Tống liền phái Thẩm Khởi thay Tiêu Chú lo việc xuất quân. Việc thứ nhất của Thẩm Khởi là đặt các doanh

trại, sửa đường tiếp tế. Việc thứ hai là động viên 52 động thuộc Ung Châu sung công các thuyền chở muối để tập thủy

chiến. Sợ Đại Việt biết, y cấm hẳn mọi việc buôn bán, giao dịch giữa các biên dân Việt Hoa. Nhân dân Trung Quốc ta

thán vô cùng từ các miền Tây Bắc Quảng Châu đến Ung Châu. Việc thứ ba của Thẩm Khởi là dụ dỗ các tù trưởng lệ

thuộc về Lý triều theo Tống được Lưu Kỷ ở Quảng Nguyên, Nùng Thiện Mỹ ở Ân Tình thuộc BắcCạn, giáp Thất Khê

hưởng ứng. Theo Nguyễn Văn Tố, họ Thẩm chứa chấp Nùng Thiện Mỹ và việc này đã đến tai người Việt.

Công việc đang tiến thì tháng ba năm 1074, Chuyển vận sứ Quảng Tây tỏ ý phản đối Thẩm Khởi về các hoạt  động kể

trên. Thêm nữa, Thẩm Khởi đã lầm lỗi trong nhiều việc nên bị đổi đi Đàm Châu và chính Vương An Thạch cũng không tin

rằng Thẩm giải quyết nổi vấn đề Đại Việt. Ngoài ra, lúc này Tống đang mắc míu vào chuyện binh đao với Liêu, Hạ chưa

ngã ngũ bề nào, việc đánh Đại Việt phải ngừng lại. Lý triều lên tiếng đòi Nùng Thiện Mỹ, thủ lĩnh châu Ân Tình và 700

thuộc hạ để sửa trị. Tống triều không chịu và về phần Tống còn chiêu dụ cả Trí Hội là con Nùng Trí Cao ở châu Quy

Hóa và hạ lệnh cho Ty kinh lược Quảng Tây mộ các dân đinh các khê động làm thanh viện cho Trí Hội. Cuộc xung đột

hầu đã được hoàn toàn quyết định. Lý triều xét đánh trước có lợi hơn và tính rằng quân Tống có vào Đại Việt tất phải qua

Ung Châu, đó là đường bộ. Còn về đường thủy, Tống phải qua các cửa bể Khâm và Liêm. Lý Thường Kiệt liền tập

trung thủy quân Đại Việt ở Đồ Sơn (vịnh Hạ Long) theo lối sau các núi đá mà tiến vào Khâm Châu; còn đánh Ung châu

(Nam Ninh) lục quân của Lý cũng chia nhiều đường: a) Từ Quảng Nguyên theo bờ sông Tả tiến đánh trại Thái Bình. b)

Từ hai châu Tô, Mậu vượt núi qua Lộc Châu, Cổ Vạn, Tư Lăng, Thượng Tứ. c) Từ châu Quảng Lăng tiến qua Thái

Bình, Bằng Tường, Tư Minh và trại Vĩnh Bình. Đại quân đi đường này. Theo kế hoạch, nếu thủy  quân chiếm được Khâm

Châu thì tiến thẳng lên Ung châu. Đề phòng Tống xâm nhập vào nội địa của mình, quân Đại Việt đóng ở nhiều căn cứ

theo dọc đường biên giới, các địa điểm cổng ngõ. Đại khái quân hạ du của Lý thì đóng ở Vĩnh An và thượng du thì theo

dọc biên thùy từ các châu Quảng Nguyên, Quảng lăng, Tô Mậu. Tổng số quân Đại Việt có từ 6 đến 10 vạn. Cuộc tấn

công khai diễn như thế nào? Lý Thường Kiệt đem thủy quân đánh vào căn cứ quân sự của Tống ở ven bờ bể Quảng

Đông. Cùng một lúc Tôn Đản phụ trách lục quân chia ba đường kể trên đánh vào Quảng Tây, quấy rối các trại Hoành

Sơn, Thái Bình, Vĩnh Bình, Cổ Vạn trên tiền tuyến của Ung Châu. Hàng rào này bị đổ mặc dầu quân Tống xuất toàn lực

cứu cấp nhau và chống đỡ các miền Tây và Tây Nam. Nhiều chúa trại bị tử trận (chúa trại Hoành Sơn, Vĩnh bình, Thái

Bình v.v...) Mặt Đông Nam thiếu sự phòng bị. Quân Tống bị đánh bất ngờ ở địa điểm này và tất nhiên quân Đại Việt phải

dánh mạnh vào đây hơn hết. Về phía Khâm Châu và Liêm Châu quân Lý cũng tiến ào ạt như gió bão rồi tiến thẳng lên

Ung Châu không gặp một sức kháng cự nào đáng kể. Chỉ có 7 ngày quân Đại Việt đã có mặt ở chung thành Ung Châu.

Ngày 10 tháng chạp, Tôn Đản kéo thẳng một đại đội đến Ung Châu. Đại quân ở Liêm và Khâm cùng tiến nhằm phía Bắc

tức là hai đạo quân đã đổ bộ ở Khâm Châu và Liêm Châu. Cánh quân chiếm được Khâm Châu tiến lên Ung Châu29.

Cánh chiếm được Liêm Châu tiến sang miền Đông Bắc chiếm châu Bạch. Nửa tháng sau Ty kinh lược Quảng Tây mới

hay tin về cuộc biến cố này để thông báo về triều. Vua tôi nhà Tống hết sức bối rối. Rồi nhiều nơi khác bị mất lại được

cáo cấp về, Tống triều lại càng hoang mang thêm, sau đó có lệnh của Tống Thần tông cho Quảng Châu, Quảng Tây phải

cố thủ ở các nơi hiểm yếu nhất, vận- chuyển tiền, vải, lương thực để khỏi lọt vào tay Lý quân, cách chức Lưu di, cử

Thạch Giám thay coi Quế Châu và đưa viện binh tới các thị trấn đang bị uy hiếp. Trong lúc này các đạo quân thủy bộ của

Lý kể trên đây còn có nhiệm vụ chẹn đường các đoàn quân tiếp ứng của Tống từ phía Đông lại. Ngày 10 tháng chạp

(18.1.1076) đại quân nhà Lý cũng tới thành Ung và vây chặt lấy thành này. Tướng giữ thành là Tô Giàm (Việt Nam sử

lược chép là Tô Đam) giỏi cả về quân sự lẫn chính trị, thấy thế quân Đại Việt mạnh nên đã áp dụng triệt để chính sách cố

thủ để chờ viện quân, tính chỉ hai tuần lễ có thể đến nơi. Tô đem hết công nhu (tiền công) phát hết cho dân khích lệ mọi

người vững lòng, kiên trí. Kẻ nào bỏ trốn phải tội theo quân lệnh (Địch Tích là một nhân viên dưới trướng của họ Tô bị

chém trong trường hợp này). Tô phao đồn viện quân không còn xa thành là bao nhiêu. Nếu không có sự khôn ngoan

khéo léo này, có lẽ quân dân trong thành Ung đã đào tẩu hết. Lúc này Lưu Di tướng giữ Quế Châu nghe tin thành Ung bị

nguy liền phái Trương Thủ Tiết đem quân đi cứu. Đạo quân này không dám tiến thẳng đến Ung châu, đi vòng theo đường

Quí Châu tới Tân Châu rồi nghe ngóng. Thành Ung mỗi ngày mỗi giờ thêm nguy ngập. Vòng vây của Nam quân cứ thắt

chặt dần. Sau Trương Thủ Tiết bất đắc dĩ phải tiến. Đoàn quân này đến phía Đông Bắc huyện Tuyên Hóa cách Ung Châu

40 cây số thì bị Lý quân chẹn đánh. Quân Tống đại bại. Thủ Tiết bỏ mạng. Việc này vào ngày 4 tháng giêng năm Bính

Thìn. Ngày 23 tháng giêng năm Bính Thìn (1.3.1076), Ung Châu bắt dầu nao núng. Quân Đại Việt dùng kế thổ công và

hỏa công30 lọt được vào. Tô Giàm còn cố gắng cùng bọn tàn quân chiến đấu đến phút cuối cùng. Khi đã kiệt sức Tô

cho 36 thân nhân tự sát rồi tự thiêu mà chết. Dân trong thành không chịu hàng và bị Lý quân giết hết. Xét trong việc đánh

Liêm Châu, Khâm Châu và Ung châu, quân dân Trung Quốc bị hại vào khoảng 7 vạn người, và có trên 200 người bị bắt

đem về Đại Việt cùng nhiều của cải nữa. Việc đánh Ung Châu trước sau mất hơn một tháng. Quân Đại Việt cũng có phần

mệt mỏi. Lý Thường Kiệt hạ lệnh rút binh vì mục đích của Lý triều bấy giờ chỉ có ý đánh một đòn tinh thần vào Tống triều

để phá chương trình xâm lăng của Tống triều mà thôi.                                       

[29 Từ Khâm Châu lên Ung Châu đường dài khoảng 120 cây số.]

[ 30 kế thổ công là cho đất vào bao rồi xếp bao cao thành đống làm thang leo vào thành; Hoả công là bắn tên nhựa có

lửa cháy vào thành, biết rằng trong thành đang bị khô cạn. ]

Một điều đáng chú ý: việc đánh Tống của Lý triều rất sáng suốt bởi nếu không tránh được cuộc xung đột thì nên lợi dụng

sự bất ngờ mà đánh trước là hơn. Tháng ba năm Bính Thìn (1076) quân Lý rút ra khỏi đất Tống vì cần đề phòng sự phục

thù của Tống triều có thể đánh lén vào hậu phương của mình.   

4- Cuộc Phục Thù Của Nhà Tống. 

 Việc Lý triều đánh phá ba châu Khâm, Ung, Liêm khiến Tống giận hết sức. Tháng hai năm Bính Thìn (1076) quân Tống

lên đường Nam chinh. Triệu Tiết là Thiên chưởng các đại chế được cử làm Chiệu thảo sứ, Quách Quỳ làm phó đem 9

tướng hợp với quân Chiêm Thành, Chân Lạp chia đường đánh vào nước ta. Cuộc gặp gỡ đầu tiên giữa Lý Tống đã xẩy

ra bên bờ sông Như Nguyệt, tức là khúc dưới sông Cầu thuộc tỉnh Bắc Ninh bây giờ. Tống thua trận này chết hại hơn

1000 người. Quách Quỳ tiến về phía sông Nhị Hà và sông Khúc Táo thuộc địa hạt Nam Định cũng bị quân Lý Thường

Kiệt án ngữ. Quân Tống dùng gỗ làm máy bắn đá sang như mưa. Thủy quân của ta bị hại khá nhiều, mấy ngàn binh lính

tử trận, thuyền thủng nát một số lớn. Khí thế quân Tống rất mạnh. Và dưới quyền điều khiển của Thường Kiệt, Nam quân

cũng chiến đấu hăng hái. Để phấn khởi tinh thần quân đội, Lý Thường Kiệt đã áp dụng một thuật tâm lý là làm bốn câu

thơ, cho người lén vào đền Trương Hát bên sông thét ra: Nam quốc sơn hà Nam đế cư Tiệt nhiên định phân tại thiên thư

Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm Nhữ đảng hành khan thủ bại hư Có ý rằng: Đất nước của người Nam phải do người Nam

(vua nước Nam) cai trị. Điều đó đã do ý trời định. Kẻ nghịch kia dám xâm phạm đất ta, chỉ là mua lấy sự thất bại mà thôi.

Bốn câu thơ này làm phấn khởi tinh thần kháng chiến và quân Tống bị chặn đứng không sao tiến được. Những đoàn quân

của Chiêm Thành và Chân Lạp cũng bị cản đường nên không giúp được quân Tống. Thế của đôi bên không phân thắng

bại. Lý triều e đánh lâu không lợi vì nước ta quân ít của hiếm, theo đuổi một cuộc trường chiến át phải hao tổn nhiều mà

cuộc hành quân lúc này của Bắc triều chi do vấn đề sĩ diện hơn là do ý chí xâm lược. Lý triều liền cử sứ bộ sang điều đình

hoãn chiến. Thật là đúng điều mong mỏi của Tống triều, nay lại được gặp dịp thuận tiện bởi quân Tống lúc này bị hại quá

nửa vừa do chiến tranh và cũng do chỗ bất phục thủy thổ. Quân số của họ trước đây là 8 vạn. Tống triều chấp thuận

ngay lời thương nghị của nhà Lý rồi rút binh nhưng khi trở về họ chiếm giữ mấy châu Quảng Nguyên (ngày nay là Quảng

Uyên thuộc tỉnh Cao Bằng), Tư Lang (tức Thượng Lang và Hạ Lang cũng thuộc Cao Bằng), châu Tô Mậu (giữa hai tỉnh

Cao Bằng và Lạng Sơn) và huyện Quảng Lang (tức Ôn Châu thuộc Lạng Sơn).

150 Việt Sử Toàn Thư

Năm Mậu Ngọ (1078) vua Lý Nhân Tông mở cuộc giao hảo với Bắc triều. Sứ thần Đại Việt là Đào Tôn Nguyên đưa 5

con voi đã thuần sang cống vua Tống và đòi lại những châu, huyện ở miền Cao Bằng (quân Tống chiếm được đất đai

miền này đổi tên Quảng Nguyên ra là Thuận Châu đặt 3000 quân để giữ). Tống triều ưng thuận với điều kiện là Lý triều

phải trả lại cho Tống những người dân các châu Khâm, Liêm, Ung do Lý quân bắt trong năm Ấ Mão (1075). Tất cả 221

người31. Trước khi cho bọn này về, Lý triều cho thích vào trán con trai từ 15 tuổi trở lên ba chữ "Thiên tử binh", đàn ông

từ 20 tuổi trở lên thích chữ "Đầu Nam Triều" và vào cánh tay trái đàn bà con gái hai chữ "Quan Khách". Sau khi quân

Tống rút khỏi Quảng Nguyên, vì châu này có mỏ vàng, người Tống tiếc của có làm hai câu thơ sau đây:   Nhân tham Giao

Chỉ tượng   Khước thất Quảng Nguyên kim. Mùa hạ năm Giáp Tý (1084) Lý triều lại phái Binh bộ Thị lang Lê Văn Thịnh

(vị thủ tuyển khoa thi đầu tiên của nước ta) sang yêu cầu Tống triều phân chia lại địa giới và trả nốt mấy huyện Tống còn

giữ lại. Viết đến đây chúng tôi có cảm tưởng rằng việc ngoại giao của nhà  lý bấy giờ rất là khéo léo và rất sành về mặt

tâm lý. Lý triều đã áp dụng chính sách đòi dần để tình thế giữa hai nước vừa xung đột với nhau bớt găng. Nếu yêu sách

quá nhiều trong một buổi có thể Tống sẽ không chịu vì như thế sẽ mất thể diện. Lý triều tiến dần, quả nhiên việc thương

thuyết đem lại được đầy đủ kết quả như ý muốn. Vấn đề phân chia địa giới đối với thời bấy giờ đáng kể là một việc quan

trong vì đến đời Lý, cương thổ Việt Nam chỉ mới rõ rệt về phương Nam vào khoảng Thanh Hoá, cách biệt với đất Chàm

do dẫy Hoành Sơn, và về phương Bắc từ Cao Bằng sang Đông. Địa phận Đông Khê so sánh với ngày xưa không khác

lắm. Từ nơi này ra biển, Bắc ngạn sông Kỳ Cùng thuộc về Tống gồm có châu Tây Bình, Lộc Châu và huyện Thanh Viễn

rồi tới chỗ gần bể, lĩnh thổ Việt Nam còn ăn vào tới tỉnh Quảng Đông đến gần vịnh Khâm Châu. Các cư dân tại Cao

Bằng gồm Mán, Nùng, Thổ, Mường không thuộc hẳn về bên nào. Biên giới về phiá này, tới vùng Bảo Lạc và Yên Báy

ngày nay có thể nói bấy giờ chưa có ảnh hưởng của Lý triều. (Đây là theo lời bàn của Hoàng Xuân Hãn  tác giả cuốn Lý

Thường Kiệt quyển thượng). Theo ý chúng tôi thì trái lại, tức là Lý triều đã đạt được một phần nào ảnh hưởng phần nào

tới các cư dân thượng du ở địa hạt Cao Bằng. Tỉ dụ như họ Nùng oanh liệt bậc nhất trong đám tù trưởng Thượng du, tuy

hùng cứ miền Quảng Nguyên (Cao Bằng) đã chẳng có thời quy phục Lý triều đó sao? Ngoài ra các vùng Hải Ninh,

Móng Cáy đến Khâm Châu từ huyện Quảng Lang đến Ôn Châu ở phía Nam tỉnh Lạng Sơn đến Ung Châu (Nam Định)

hai bên Lý Tống cùng kiểm soát, còn về phía Tây các bộ lạc gần như hoàn toàn độc lập. Còn người Việt dưới đời Lý thì

tập trung hết ở Trung Châu cho tới Thanh Hoá. Địa thế của Việt Nam hồi đó như ôm đất Ung Châu và do biên giới Lý

Tống chưa được phân định rõ rệt nên hay có những  cuộc rắc rối giữa hai nước và cũng do Lý - Tống đều có óc quật

cường, khuynh loát như nhau.                                      

 [31 Bọn dân bị bắt làm tù binh được trở về Tàu năm 1079. ]  

5- Việc đánh Chiêm Thành. 

 Năm 1075 tức là năm Ất Mão trước khi có việc đánh Tống, Lý Thường Kiệt đã xuất quân đánh Chiêm Thành, vì Chiêm

luôn luôn quấy rối bờ cõi Đại Việt. Lần này chưa thành công, nhưng Lý Thuờng Kiệt đã vẽ được đồ bản ba châu Địa Lý,

Ma Linh và Bố Chính do Chế Củ nhường cho chúng ta năm Kỷ Dậu(1069) dưới thời vua Thánh Tông. Ở đấy Lý triều đã

di dân sang để khai khẩn làm ăn. Việc này có hai mục đích: 1) Giải quyết vấn đề nhân mãn do mật độ nhân dân ở miền

Trung Châu bắt đầu lên cao. 2) Chiếm đóng ba châu này để đặt ảnh hưởng chánh trị của Đại Việt, thực hiện chủ quyền

của dân tộc chúng ta trên các địa hạt Chiêm đã nhượng. Năm Quý Mùi (1103) Lý Giác làm phản ở Diễn Châu (Nghệ

An) Lý Thường Kiệt lại thân hành đi dẹp, Lý Giác thua chạy qua Chiêm Thành dụ Chiêm vương Chế Ma Na đem quân

đánh lấy lại ba châu trên đấy. Quân Chiêm đại bại và xin tôn trọng tình trạng cũ. Từ khi việc bình Chiêm có kết quả, các

nước ở phía Nam đều xin thần phục và tiến cống nước ta rất chu đáo. Tháng sáu năm thứ 5 hiệu Long Phù (1105) Lý

Thường Kiệt mất. Vua Lý Nhân Tông ban chiếu truy tặng chức Nhập Nội Đô Tri Kiểm hiệu Thái úy Bình chương Quân

quốc Trọng sự, Việt Quốc Công, được thực ấp vạn hộ. Lý Thường Kiệt trước sau thờ ba đời vua đều được trọng dụng

và mến yêu không ai bằng. Sau khi ông mất, dân bản phường (phường Thái Hoà, huyện Thọ Xương) thờ làm thần, được

các triều sau nầy phong tặng. Về việc dân Đại Việt đem quân đánh phá miền Hoa Nam là một việc vẻ vang nhất trong lịch

sử của chúng ta nên có câu phong dao dưới đây:   Nực cười châu chấu đá xe   Tưởng rằng chấu ngã ai dè xe nghiêng.   

V.  Lý Thần Tông (1128 - 1138)  

Vua Lý Nhân Tông mất vào ngày Đinh Mão tháng chạp năm Đinh Mùi tức 15 tháng giêng năm 1128 không có người kế

tự. Ngày Ất Dậu (2.2.1128) triều thần lập con nuôi của ngài là Dương Hoán lên ngôi. Dương Hoán là con Hoàng đệ

Sùng Hiền Hầu sinh năm Bính Thân (1116) thông minh, tuấn tú trước đã được vua Nhân tông đem vào cung làm con

nuôi. Tháng 10 năm Đinh Dậu (1117) Dương Hoán được sách lập làm hoàng tử; và lên ngôi năm đó mới 11 tuổi.

Năm Ất Dậu vua Thần Tông ngự tại điện Thiên An coi chầu rồi xuống chiếu cho quần thần trừ phục (bỏ khăn tang) và dự

vào việc cung nữ lên hỏa đàn tuẫn táng theo vua Nhân Tông. (Xét việc Dương Hậu và 72 cung nhân chết theo Lý Thánh

Tông có người có người cho rằng ta đã theo phong tục Tàu và cả phong tục Ấn Độ, Mã Lai (Indonésien) nữa. Xưa Tần

Mục Công chết vào thế kỷ thứ 13 trước C.L. ba con của họ Tử Xa phải chết theo; Tần Thủy Hoàng chết, phong tục này

cũng được thi hành, ở nước ta có lẽ việc tuẫn táng các vợ vua và cung nhân chỉ hti hành ở dưới triều Lý Thánh tông và

Thần Tông mà thôi, bởi sau này không thấy phong tục đó được liên tiếp áp dụng) Mồng một tháng giêng năm Mậu Thân

1128, vua Thần Tông đổi niên hiệu là Thiên Thuận, đại xá thiên hạ, trả lại ruộng đất cho dân đã bị lấy làm công điền.

Những người bị tịch thâu làm điền nhi được về hết. Sáu quân được thay phiên về làm ruộng, lại có việc ngự kinh diên tức

là vua học. Cùng năm ấy (1128) Thần Tông thả những tội nhân ở phủ Đô Hộ từ tội biếm (đi đầy, bị giáng) tội truất (cũng

như bị giáng) trở xuống 130 người (Khâm Định Việt Sử quyển 4, tờ 21a). Năm sau là năm thứ hai hiệu Thiên Thuận

(1129) trời đại hạn vua đích thân cầu đảo không nghiệm. Sau vua xuống chiếu tha những tội nhân vì e có việc oan, lạm

trong thiên hạ. Đầu tháng tư được mưa. Tháng 9 năm sau lại mưa quá nhiều. Nhà vua lại thả tất cả tù ở phủ Đô Hộ cũng

do ý làm việc ân đức để tránh thiên tai cho nhân dân. Tháng 10 năm thứ 3 hiệu Thiên Thuận (Canh Tuất 1130) sứ nhà

Tống sang phong vua Thần Tông làm Giao Chỉ Quận Vương. Hai năm sau sứ Tàu lại sang gia phong cho Thần Tông làm

Nam Bình Vương. Tháng giêng năm thứ nhất hiệu Thiên Thuận (1128) ngày Giáp Dần nước Chân Lạp (Cao Miên) đem

2 vạn binh vào cướp ở bộ Ba Đậu, châu Nghệ An. Vua phái Nhập Nội Thái phó là Lý Công Bình đem tướng sĩ và người

Nghệ An đi đánh. Ngày Quí Hợi tháng hai, Lý Công Bình thắng trận bắt được chủ súy và sĩ tốt Chân Lạp. Tháng ba Lý

Công Bình đem quân về kinh và dâng nộp 169 tù binh. Tháng 8 cùng năm, người Chân Lạp lại vào cướp phá ở làng Đỗ

Gia, châu Nghệ An có hơn 700 chiến thuyền. Nguyễn Hà Viêm ở phủ Thanh Hoá và Dương Ổ ở châu Nghệ An được

lệnh đi đánh, Chân Lạp lại thua. Tháng 3 năm thứ ba hiệu Thiên Thuận, Chiêm Thành cử Ung Ma, Ung Câu đến xin nội

phụ. Tháng 8 năm thứ 5 hiệu Thiên Thuận (1132) Chân Lạp và Chiêm Thành vào cướp châu Nghệ An. Thần Tông cho

Dương Anh Nhị làm Thái úy đem quân Thanh Nghệ đi tiểu trừ được đắc thắng. Sau đó Chân Lạp và Chiêm Thành đều

lại cống. Hai năm sau Chân Lạp lại đến cướp châu Nghệ An. Lý Công Bình lại đánh dẹp được. Vua Thần Tông ở ngôi

được 10 năm thì qua đời thọ 23 tuổi.   

 VI.  Lý Anh Tông (1138 - 1175)  - Đỗ Anh Vũ và Tô Hiến Thành - Việc ngoại giao   

1- Đỗ Anh Vũ và Tô Hiến Thành .Vua Anh Tông tức là Thái tử Thiên Tộ mới lên ba khi vua Thần tông qua đời. Thái hậu

là Lê thị cầm quyền nhiếp chính. Vì Thái hậu tư thông với Đỗ Anh Vũ là một cận thần nên mọi việc triều chính đều do một

tay Anh Vũ quyết đoán. Anh Vũ từ đó ra vào cung cấm và trở nên lộng quyền, coi rẻ các đình thần. Không khí triều trung

ngày một nặng nề rồi sinh rối loạn: bọn các quan Vũ Đại, Nguyễn Dương, Nguyễn Quốc, Dương Tự Minh bàn nhau trừ

Anh Vũ nhưng việc thất bại, đèu bị giết hại cả. May trong hàng đại thần còn lại các người có uy tín như Tô Hiến Thành,

Hoàng Nghĩa Hiền, Lý Công Tín nên Đỗ Anh Vũ không dám đi xa hơn nữa. Thời vua Anh Tông không có việc trọng đại

xẩy ra và được tương đối bình yên là nhờ có đại thần họ Tô có tài chính trị và biết điều khiển việc quân sự. Binh chế triều

Lý Anh Tông có thể gọi là thịnh đạt vì ông Tô Hiến Thành biết chọn người làm tướng, biết luyện tập quân đội, nên giặc dã

các nơi đều dẹp được cả, đáng kể hơn cả là các bọn giặc Thân Lợi, Ngưu Hồng và giặc Lào quấy rối nhiều nơi sau khi

vua Anh Tông lên ngôi được hai năm. Thân Lợi tự xưng là con riêng của vua Nhân Tông có phen đã xuất gia sau họp

được một bọn lưu manh trên 1000 người tại Thái Nguyên, tự xưng vương và phong chức tước. Triều đình phải tốn rất

nhiều công phu. Năm Tân Dậu (1141) Anh Vũ cầm quân đuổi được Thân Lợi tại phủ Phú Lương khi quân Thân Lợi về

vây phủ lỵ. Thân Lợi chạy lên Lạng Sơn bị quân của ông Tô Hiến Thành đuổi theo bắt được đem về kinh trị tội. Nhờ lập

được nhiều công trạng vua Anh Tông phong ông Tô làm Thái úy coi cả việc văn lẫn việc võ. Tô Hiến Thành cũng lo cả

việc khai hóa dân trí, mở mang Nho học, xây dựng miếu thờ đức Khổng Tử ở phía Nam thành Thăng Long. Năm Ất Dậu

(1165) hiệu Chính Long Bảo ứng năm thứ 3 có mở khoa thi học sinh. Năm Tân Mão và năm Nhâm Thìn (1171 1172)

vua Anh tông vi hành khắp mọi nơi trong nước để xem xét sự sinh sống của dân chúng và địa thế sông núi, đường lối giao

thông xa gần, sau ngài cho người làm quyển địa đồ nước nhà, tiếc rằng ngày nay cuốn sách này bị mất tích. Năm Ất Mùi

(1175) do nhiều công trạng lớn lao nữa, ông Tô Hiến Thành được gia phong chức Thái phó Bình chương Quân quốc

Trọng sự và thêm vương tước.   

2- Việc Ngoại Giao. 

 Năm Giáp Thân (1164) nhà Tống đổi Giao Chỉ quận làm An Nam quốc, phong cho vua Anh Tông làm An Nam quốc

vương. Hẳn chúng ta ai nấy đều nhớ rằng xưa kia người Tàu đặt tên nước ta là Giao Chỉ quận, sau đổi là Giao Châu (do

đề nghị của Trương Tân và Sĩ Nhiếp dưới đời Hán Hiến Đế năm thứ ba tức năm Quí Mùi (203) sau đến Đường triều lại

có sự thay tên nữa: Đường gọi ta là An Nam đô hộ phủ. Đến đời nhà Đinh, nền tự chủ thành hình, vua Đinh Tiên Hoàng

khởi nghiệp xong liền đặt lại quốc hiệu là Đại Cồ Việt. Ba chữ Đại Cồ Việt ngụ ý rằng nước ta là một nước lớn và mạnh

bởi chữ Đại Cồ, còn chữ Việt là để ghi danh tín của dân tộc chúng ta là người Việt. Đến vua Thánh Tông nhà Lý thấy chữ

Đại Cồ không được văn vẻ nên đổi ra là Đại Việt dễ nghe hơn và vẫn giữ được ý nghĩa cũ (một nhà sử học cho rằng căn

cứ vào chữ Đại Cồ Việt ta có thể hiểu thời đó trình độ văn tự nước ta còn kém cỏi quá. Điều này rất đúng vì trải qua 3

triều Ngô, Đinh, Lê vua quan đều là võ tướng. Nhưng trong các sắc phong Bắc triều vẫn giữ hai chữ Giao Chỉ đến bấy

giờ mới đổi ra An Nam. Sử gia Trần Trọng Kim nói: Nước ta thành nước An Nam khởi đầu từ đấy. Theo chúng tôi dưới

thời Bắc thuộc (nhà Đường) nước ta chỉ đuợc coi là một "phủ" và tiếng "An Nam" đã có từ bấy giờ rồi, duy có điều khác

là sau nầy nhà Tống thấy dân tộc ta đã cứng cát, mạnh mẽ và có đủ quy mô một quốc gia độc lập nên Tống triều lúc đó

phải nhận nước ta là một nước (do đó hoàng đế nhà Tống mới phong cho vua ta là An Nam quốc vương). Trước kia với

Lê Đại Hành và mấy triều vua sau nhà Lý, Bắc triều vẫn phong các vua ta là Giao Chỉ quận vương hay Nam Bình vương

(vua Lê Đại Hành, vua Lý Thái Tổ, vua Lý Nhân Tông).32 Các triều vua thời đó không đòi cải chính chẳng ngoài ý

không muốn gây mâu thuẫn vô ích với Bắc triều miễn họ đừng xâm phạm đến chủ quyền nước ta. Năm Ất Mùi (1175)

vua Anh Tông đau. Ngài ủy ông Tô Hiến Thành lập thái tử Long Cán lên làm vua rồi ngài mất sau khi ở ngôi được 37

năm, thọ 40 tuổi đúng.   

VII.  Lý Cao Tông (1176 - 1210)  

Thái tử Long Cán lên ngôi mới 3 tuổi theo di chúc của tiên đế. Bà Chiêu Linh Thái hậu trái lại muốn lập Long Xưởng lên

làm vua. Long Xưởng đáng lẽ được giữ ngôi cửu ngũ vì đã được phong làm thái tử nhưng trước đây phạm tội nên bị

truất. Tô Hiến Thành bấy giờ là một vị đại thần và trung thần cương quyết thi hành lời ủy thác của tiên đế không ham vàng

bạc của Thái hậu đem đút lót. Năm Kỷ Hợi (1179) ông mất và trước khi gần chết ông cử Gián Nghị đại phu Trần Trung

Tá thay mình nhưng sau này triều đình đã trái ý ông, cử Đỗ Yên Di làm phụ chính và Lý Kinh Tu làm đế sư. Bà Chiêu

Linh Thái hậu tuy vẫn nuôi ý lập Long Xưởng nhưng trong triều còn nhiều người đứng đắn nên việc mưu toan phế lập

không thi hành nổi.                                

 [32 Với chữ "Giao Chỉ" người Tàu còn quan niệm ta vẫn ở trong vòng lệ thuộc của họ. ]

155 Việt Sử Toàn Thư

Lý Cao Tông lớn lên thiếu hết đức tính cao cả của một ông vua, chỉ ham chơi bời săn bắn, xây dựng cung điện khiến nhân

dân phải phục dịch khổ sở. Ngoài ra lại còn những việc mua quan, bán tước, hà hiếp nhũng lạm để lấy tiền tiêu vào các

chuyện xa xỉ. Năm Trinh Phù thứ 9 (1184) miền Đông có cuộc nổi loạn của dân các trại Tư và Mông. Năm thứ 10 có

cuộc nổi loạn của dân Mán trại Viêm. Năm Thiên tư Gia thụy thứ 7 (1192) có cuộc nổi loạn của người giáp Cổ Hoàng ở

Thanh Hoá. Chiêm Thành cũng luôn luôn cướp phá. Vua quan tỏ ra bất lực và không ai lo việc nước. Các lương thần già

yếu chết dần hoặc bị bọn gian nịnh lấn áp, cho tới năm Bính Thìn (1208) tại Nghệ An, Phạm Du nổi lên, chiêu nạp bọn

vong mạng mưu đồ đại sự. Quan Phụng Ngự là Phạm Bỉnh Gi được phái đi đánh dẹp, thắng được quân nghịch, tịch thu

của cải và đốt phá hết doanh trại cùng cơ sở của chúng. Biết trong triều chỉ còn những tham quan, ô lại, Phạm Du cho

người về kinh mang vàng bạc đút lót vu cho Bỉnh Gi đã làm những điều hung bạo, giết hại lương dân, Phạm Du lại còn xin

về triều khiếu oan. Vua Cao Tông ưng thuận đồng thời cho triệu Bỉnh Gi về kinh giam lại. Thấy chủ tướng lập được công

mà mắc tội, bộ hạ của Bỉnh Gi phẫn uất đem quân vây hãm kinh sư. Cầm đầu quân sĩ của Bỉnh Gi là Quách Bốc. Mục

đích của họ là phá thành cứu chủ tướng. Trước việc biến động này vua Cao Tông cho giết luôn Bỉnh Gi rồi cùng thái tử

Sam bỏ kinh thành chạy lên sông Thao (Phú Thọ). Sau thái tử Sam chạy về Hải Ấp vào nương náu ở nhà Trần Lý người

làng Tức Mặc, huyện Mỹ Lộc, phủ Xuân Trường tỉnh Nam Định. Trần Lý là một nhà hào phú ở đây khởi nghiệp bằng

nghề đánh cá và có uy thế tại địa phương. Họ Trần thấy trong nước biến loạn, có ý lo toan việc lớn nên thu thập những kẻ

đã đi đánh cướp nhiều nơi. Được thái tử về trú ngụ ở nhà mình, Trần rất lấy làm mừng rỡ. Thái tử thấy Trần thị con gái

Trần Lý có nhan sắc bèn lấy làm vợ rồi phong cho Trần Lý tước Minh Tự, cậu Trần thị là Tô Trung Từ người làng Lưu

Xá làm Điện Tiền chỉ huy sứ. Thanh thế của họ Trần nhân đấy nổi lên rồi họ đem quân về dẹp loạn ở kinh sư. Loạn quân

thất bại, họ Trần cho người lên Qui Hoá (Phú Thọ) rước Cao Tông trở về cung. Sau Cao Tông cho quân về đón Thái tử

ở Lưu Xá. Vua Cao Tông sau năm biến loạn thì mất vào tháng 10 năm Canh Ngọ (1210), trị vì được 35 năm, thọ 38

tuổi. Nhà Lý từ đời Cao Tông bắt đầu suy yếu rõ rệt.   

VIII.  Lý Huệ Tông (1211 - 1225) 

Thái Tử Sam trở về kinh đô lên ngôi tức là Huệ Tông, Trần Thị được phong là Nguyên Phi. Lúc này Trần Lý bị giặc

cướp giết nhưng con thứ là Tự Khánh vẫn nắm giữ được binh quyền. Huệ Tông phong cho Tự Khánh làm Trung Tín

Hầu, cậu Tự Khánh là Tô Trung Tử làm Thái Úy Thuận Lưu Bá, Trần Thừa làm Nội Thị Phán Thử. Huệ Tông là một ông

vua nhu nhược luôn bệnh hoạn, lại không am hiểu chính trị, mọi việc trong triều đều giao cho anh em chú bác họ Trần

quyết định. Vì vậy ảnh hưởng của họ Trần trong triều mỗi ngày một lớn khiến bà Thái Hậu sinh nghi. Năm Quí Dậu

(1213) bà Thái Hậu thường dày vò Trần Thị luôn. Tự Khánh đem quân đến kinh đô xin rước vua đi. Vua cũng ngờ Tự

Khánh làm phản rồi giáng Trần Thị xuống làm Ngự Nữ. Tự Khánh thân đến xin lỗi. Vua và Thái Hậu bỏ đi Lạng Sơn để

đề phòng sự bất trắc. Lần nữa Tự Khánh đến xin rước vua, vua lại đưa Thái Hậu di cư sang huyện Bình Hợp. Sau này

Thái Hậu lại đòi vua bỏ Trần Thị, Huệ Tông không nghe.  Thái Hậu định bỏ thuốc độc cho Trần Thị, Huệ Tông phải san

xẻ bữa cơm của mình cho Trần Thị và không xa Trần Thị một bước. Sau này Thái Hậu bức bách quá, Huệ Tông và Trần

Thị lẻn trốn Thái Hậu về trú ở nhà tướng quân Lê Mịch ở huyện Yên Duyên rồi cho tìm Tự Khánh vào chầu. Từ đấy thế

lực họ Trần lại mạnh hơn trước. Năm Kiến Gia thứ 6 Trần Thị được phong làm Thuận Trinh Phu Nhân, sau được tôn làm

hoàng hậu. Tự Khánh làm Thái Úy Phụ Chính cùng Phan Lân tổ chức quân sự luyện tập quân đội, sửa sang võ bị. Tháng

Chạp năm Quý Mùi (1223) Tự Khánh mất, Trần Thừa đặc cách thăng Phụ Quốc Thái Úy và em họ Trần Hậu là Trần

Thủ Độ được lĩnh chức Điện Tiền Chỉ Huy Sứ, một địa vị quan trọng bậc nhất thời bấy giờ. Huệ Tông thường ốm đau,

điên dại, rượu say liên miên suốt ngày. Trần Thủ Độ xét định mọi việc triều chính. Ngôi sao của Thủ Độ mỗi ngày một

thêm sáng. Vương quyền của họ Lý mỗi ngày một lu mờ, nhất là Trần Thủ Độ dụ được Huệ Tông khoác áo hòa thượng

vào tụng kinh, niệm kệ trong chùa Chân Giáo. Huệ Tông chỉ sinh được hai gái. Người chị là Thuận Thiên Công Chúa đã

gả cho Trần Liễu, con trưởng của Trần Thừa. Em là Chiêu Thánh Công Chúa (tên chính là Phật Kim) mới lên 7 tuổi,

được Huệ Tông yêu dấu hết sức. Tháng 10 năm Giáp Thân, Huệ Tông truyền ngôi cho Chiêu Thánh Công Chúa.   

IX.  Lý Chiêu Hoàng (1225)   

Chiêu Thánh Công Chúa lên ngôi, tức là Lý Chiêu Hoàng. Quyền hành của nhà Lý giờ phút này nằm gọn trong tay Trần

Thủ Độ, vì Huệ Tông bị gạt hẳn ra ngoài chính quyền. Chiêu Hoàng là gái thơ ngây bấy giờ không còn là điều đáng kể

cho thời cuộc nữa. Chương trình đem họ Trần thay họ Lý đã thi hành được một phần quan trọng; nay chỉ còn lấy hẳn cái

ngai vàng của họ Lý là xong. Thủ Độ vốn đã tư thông với Thái Hậu Trần Thị liền bày cách cho con các quan vào cung

hầu Chiêu Hoàng. Đó là dịp mở lối cho Trần Cảnh là con Trần Thừa vào nội điện làm chức Chính Thủ, một vị quan mới

lên 8 tuổi, nhỏ nhất triều đình bấy giờ. Trần Hậu làm nội công nên Thủ Độ tính đến đâu xong đến đó. Tháng Chạp năm Ất

Dậu (1225) Trần Hậu và Thủ Độ đứng ra làm chủ hôn cho Chiêu Hoàng lấy Trần Cảnh, rồi chiếu hạ giá do tay Thủ Độ

ban bố ra. Ngày 21 tháng 10 năm Ất Dậu (1225) Trần Cảnh lên ngôi sau khi bản tuyên ngôn của hoàng triều bay ra khắp

thiên hạ. Các quan lớn nhỏ đều tỏ lòng công phẫn nhưng vì thế lực họ Trần quá mạnh nên họ đành thúc thủ. Quần chúng

lưu luyến tiền triều trong dịp này có lời khẩu chiếm dưới đây:   Trống chùa ai đánh thùng thùng   Của chung ai khéo vẫy

vùng nên riêng.    

158 Việt Sử Toàn Thư

 Phần 3 - Chương 6  Khái Luận Về Phật Giáo và Văn Học Dưới Đời Nhà Lý. 

  Nhà Lý cầm vận mệnh dân tộc Việt Nam trong 216 năm nối tiếp nhau 9 đời, sự nghiệp đáng kể là vĩ đại. Từ Khúc Hạo

dấy nghiệp đến Dương Đình Nghệ, Kiều Công Tiễn, Ngô Quyền, Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành, nền tự chủ của dân tộc

Việt Nam mới thành hình nên mọi quy mô chính trị, kinh tế, quân sự, văn hóa còn phôi thai, ấu trĩ. Nhưng đến Lý triều đời

sống của dân tộc ta bành trướng mỗi ngày một mạnh. Nền tảng đã vững chắc, các vương triều sau đã thúc đẩy dân tộc đi

khá xa trên con đường tiến hóa. Chúng tôi xin kể đây những công việc mở mang Phật Giáo và văn hóa của Lý triều để

các bạn đọc có một ý niệm tổng quát về một giai- đoạn trưởng thành của nước nhà trước đây ngót 10 thế kỷ. A) Ai ai

cũng hiểu rằng Lý Thái Tổ xuất thân ở chốn khói hương, rồi từ chỗ Phật Đài Ngài bước lên sân khấu chính trị. Việc trước

nhất của Ngài là mở mang và đặc biệt ưu đãi đạo Phật. Ngài bỏ ra 2 vạn quan tiền để dựng 8 ngôi chùa ở phủ Thiên Đức

thuộc tỉnh Bắc Ninh, là trú quán xưa kia của Ngài. Trong và ngoài thành Thăng Long lần lượt nổi lên 9 ngôi chùa (trong 2

ngoài 7) không kể là chùa Chân Giáo mà Ngài thường mời sư đến tụng niệm. Ngài phái Nguyễn Đạo Thành sang Tống

xin kinh Tam Tạng. Ngài lại đặt phục sắc cho tăng đạo, độ cho chư tăng trong nước. Các triều đại sau vẫn tiếp tục việc

tôn sùng Phật Giáo. Vua Thái Tông cho lập chùa Diên Hựu (tức chùa Một Cột) ở thôn Thanh Hảo. Chùa này theo một

lối kiến trúc đặc biệt là xây trên một chiếc cột lớn ở giữa một chiếc hồ nhỏ luôn luôn có nước bên cạnh sở Canh Nông và

vườn Bách Thảo Hà Nội. Nhưng chùa này đã bị phá hủy trước việc thay đổi chính quyền tại Bắc Việt cuối năm 1954.

Vua Thánh Tông xây tháp Bảo Thiên cao 12 tầng, tốn 12000 cân đồng để đúc một chiếc chuông lớn (Hồng Chung). Vua

Nhân Tông lại xúc tiến phong trào Phật Giáo mạnh hơn nữa. Ngài đã cho dựng riêng về phần Ngài hơn 100 ngôi chùa

khắp trong nước, ở những nơi danh lam thắng cảnh, và chia làm ba hạng đại, trung, tiểu. Ngài cho đất ruộng tam bảo để

nuôi sư, lấy hoa lợi cung ứng vào việc đèn nhang. Ngài phong cho ông Khô Đầu là một vị cao tăng đời bấy giờ chức

Quốc Sư. Mỗi khi có việc quan hệ, Ngài thường lui tới để bàn hỏi. Xem trên đây chúng ta cảm thấy hai nhà Đinh, Lê mới

chỉ có nghiêng về Thích Đạo, nhưng với Lý triều không khí Phật Giáo đã tràn ngập từ cung điện ra tới dân dã. Rồi cái

không khí thiền môn lan cả vào khu vực văn học nữa.

Vua Nhân Tông đặt ra phép thi tam trường để kén những người minh kinh, bác học. Những ai là nho sĩ đều phải nghiên

cứu và đi sâu vào Phật học trước khi bước ra hoạn lộ. Năm 1070 vua Thánh Tông đã lập Văn Miếu ở thành Thăng Long

(tức Giám ở bên thành Hà Nội bây giờ) để thờ đức Khổng Tử và các tiên hiền, vì nhà vua, ngoài Phật Giáo cũng rất tôn

sùng Nho Giáo. Tất nhiên về thuở đó, ai đã lo khai hóa dân trí đều phải mở mang, cổ động cho Nho Giáo là căn bản của

nền văn học bấy giờ. Phật Giáo và Nho Giáo đần dần đã chen vai thích cánh với nhau. Lão Giáo cũng xuất hiện và giành

phần ảnh hưởng cho nên đến năm 1311 dưới trời Việt Nam, Nho - Phật - Lão đã thành thế "ba chân vạc" nhưng không

có sự xung đột giữa các giáo thuyết này. Điều kể trên đã được minh chứng do chương trình khoa cử dưới đời vua Lý

Anh Tông. Ngay từ bấy giờ, người ta đã gọi là thi tam giáo, nghĩa là những nhân tài của ba giới đều được bản triều trọng

dụng ngang nhau (đến đời Lê Thánh Tông thì Nho Giáo có ảnh hưởng nhiều hơn cả, và Phật, Lão dường như đã đứng

ngừng lại). Văn học đời Lý đến đời vua Thái Tông nhập cảng được một thứ mới lạ. Đó là môn ca và điệu múa Chiêm

Thành. Nguyên năm 1044 vua Lý Thái Tông đi đánh Chiêm Thành thắng trận trở về đem được một số cung nhân Chiêm

là những kỹ nữ chuyên ca điệu Tây Thiên Khúc. Các cung nhân Việt Nam ít lâu sau cũng được học tập điệu múa và lời ca

đó. Tháng 8 năm Chương Thánh Gia Khánh (1060) vua Lý Thánh Tông cho truyền bá khúc nhạc và âm điệu theo nhịp

gõ, nhịp trống của Chiêm Thành cho nhạc công hát theo. Với thời gian khúc ca Chiêm Thành bị Việt hóa tuy vẫn đứng

riêng một lối, giữ nguyên vẹn bản sắc. Năm Trinh Phù thứ 17 (1193) Lý Cao Tông sai nhạc công chế khúc nhạc gọi là

Chiêm Thành Âm. Đến nay lời ca thế nào không thấy có ghi chép chỉ thấy sử nói rằng khúc nhạc này ai oán, não nùng,

khiến người nghe phải ngậm ngùi sa lệ. Điệu Nam Ai, Nam Bình mà người Huế của chúng ta hay ca có lẽ đã thoát thai ở

khúc nhạc Chiêm Thành.33 Những tác phẩm văn học dưới Lý Triều cũng sản xuất khá nhiều. Năm 1027 đời Lý Thái Tổ

năm thứ 17 có soạn được cuốn "Hoàng Triều Ngọc Điệp" là một bộ sách chép các mệnh lệnh, từ cáo và niên phả của

hoàng gia. Năm 1412 vua Lý Thánh Tông sai quan Trung Thư lựa theo thời thế và dân trí đặt ra bộ "Hình Thư" chia ra

từng môn, từng loại, từng điều và từng khoản. Khoảng năm Thiên Thành (1028 1033) đời Lý Thái Tông có cuốn " Bí

Thư " định rõ các thẻ lệ truất trác trong ngạch quan lại. Năm 1148 vua Lý Anh Tông muốn biết dân tình đau khổ thế nào

và đường lối gần xa trong nước bèn đi tuần thủy bộ rồi cho vẽ thế núi, sông, đồng, bãi, ghi chép phong  cảnh và phẩm

vật. Vì vậy có cuốn "Nam Bắc phiên giới địa đồ" ra đời, và việc trị dân cũng canh cải được nhiều điều đáng kể.                

 [33 Theo ý chúng tôi, khúc ca Chiêm Thành đầy ai oán là vì mối hờn bại trận nhiều phen với người Việt và trước đây với

người Hán. ]

Ngoài các cuốn sách trên đây ta còn thấy những bài minh ký, khắc vào chuông đồng, bia đá rất mạnh mẽ, cứng cáp. B)

Về Việt văn không thấy sử sách ghi chép gì, nhưng đã thấy lối ca trù phôi thai từ đời nhà Lý. Tháng 8 năm Thuận Thiên

thứ 16 đời Lý Thái Tổ (1025) con nhà xướng ca gọi là quản giáp, sau này kêu là đào nương, do đó một cô gái họ Đào

đã nổi danh thuở đó. Như vậy ta có thể chắc rằng lối hát Ả đào xuất hiện từ triều Lý và bài hát đã do các văn nhân đời

bấy giờ đặt ra để tiêu khiển một cách thanh tao. Tiếc rằng những bài hát Ả đào đến nay cũng thất tán, ta không còn để

làm sử liệu. Thêm vào lối hát Ả đào có lối văn "lục bát và lục bát gián thất" cũng là một đặc điểm của văn chương Việt

Nam. Bấy giờ lại xuất hiện cả những câu ca dao. Đại khái mấy câu dưới đây được người ta coi thuộc về triều Lý: "Đem

chuông đi đánh nước người  Chẳng kêu cũng đánh vài hồi lấy danh" là câu khen Lý Thường Kiệt đem quân đánh ba châu

Khâm, Liêm, Ung của Tàu. "Mở mang34, mang chạy lên rừng, Ta hay mang chạy ta đừng mở mang" Câu này có ý chế

nhạo Lý Thái Tông thả Nùng Trí Cao về rừng. Ngoài ra quốc văn đời Lý không thấy chiếu thêm ánh sáng nào nữa. Phải

chăng vì thuở đó người ta mê say đạo Phật, nên chỉ nghiên cứu các môn cao thâm, huyền diệu của ngoại giới mà thôi?

Đến đời vua Lý Thái Tông lối hát xướng dần dần thịnh hành. Năm Kiến Phù Hữu Đạo thứ 3 (1041), 100 người nhạc kỹ

được tuyển vào cung đủ rõ bấy giờ đã có nhiều người làm nghề xướng ca. Và nghề hát xướng bấy giờ tuy chẳng là động

lực chính của quốc văn nhưng ít nhất nó cũng đã dọn đường cho lối thi, phú, nôm từ đời Trần đến các triều đại sau này.

Để kết luận chúng ta có thể công nhận vào đời Lý văn học bắt đầu khả quan. Tính cách văn chương bấy giờ có vẻ điềm

đạm, ung dung, phóng khoáng và hùng mạnh do ảnh hưởng một thời gian độc lập khá dài và cũng do nhiều giai đoạn

thắng cường lân, bại ngoại địch. Thêm vào đó là cái không khí thiền môn bởi Phật giáo bấy giờ phát đạt nhất, Nho giáo và

thi cử chưa thịnh. Có điều đáng chú ý là các nhà văn học thường là những vị cao tăng hoặc bị ảnh hưởng của Phật Giáo

nên ưa đứng ngoài vòng gió bụi. Tóm lại văn học đời Lý đượm hai màu sắc: màu sắc quốc gia và màu sắc Phật Giáo.

Thật là một trạng thái hết sức đặc biệt.                                        

[ 34 Mang là con hươu, con hoãng ]  

161 Việt Sử Toàn Thư

Phần 3 - Chương 7 Nhà Trần (1225-1413) Nước Việt Nam Dưới Đời Trần Sơ.

  Nhà Tiền Trần. 

 Trần Thái Tông (1225-1258)   Trần Thánh Tông (1258-1278) Trần Nhân Tông (1279-1293)  Trần Anh Tông (1293-

1314) Trần Minh Tông (1314-1329)   Trần Hiến Tông (1329-1341) Trần Dụ Tông (1341-1369)   Trần Nghệ Tông

(1370-1372) Trần Duệ Tông (1372-1377)   Trần Phế Đế (1377-1388) Trần Thuận Tông (1388-1398)   

 Nhà Hậu Trần.

 Giản Định Đế (1407-1409)   Trần Quý Khoách (1409-1413)  I. Trần Thái Tông (1225-1258)

1- Tàn Sát Họ Lý.  

Lý Huệ Tông và Chiêu Hoàng tuy bị gạt ra ngoài lề sân khấu chính trị thuở đó và mặc dầu Trần Cảnh đã lên ngôi. Thủ Độ

vẫn còn thắc mắc. Muốn cho địa vị của dòng họ mình hoàn toàn vững chắc, Thủ Độ liền lo tiêu diệt hết thảy dòng giống

của nhà Lý. Trần Thái Tông mới lên 8 tuổi nên giờ đây Thủ Độ đóng vai chúa tể trong nước với chức Thái Sư Thống

quốc Hành quân chinh Thảo sứ. Mặc dầu xuất thân không phải là kẻ có căn bản học thức uyên bác, nhưng Thủ Độ thông

minh lỗi lạc phi thường, Thủ Độ lại có tính rất cương quyết để làm những việc tàn ác kinh thiên động địa nếu cần. Một

hôm Thủ Độ đi qua chùa Chân Giáo thấy Huệ Tông đang ngồi nhổ cỏ liền nói một câu: "nhổ cỏ phải nhổ cả rễ cái của nó

đi!"

Huệ Tông liền đứng dậy đáp: "Nhà ngươi nói thế ta đủ hiểu lắm rồi". Sau mấy hôm Thủ Độ cho mời Huệ Tông. Huệ Tông

biết ý liền vào nhà trong thắt cổ. Thủ Độ được tin đem các quan triều thần vào tế khóc rồi đem hỏa táng và chôn tại tháp

Bảo Quang. Năm Nhâm Thìn (1232) trong dịp các tông thất nhà Lý làm lễ tế tiên hậu nhà Lý ở thôn Thái Đường (làng

Hòa Lâm, huyện Đông Ngàn, tỉnh Bắc Ninh) Thủ Độ cho đào hầm làm nhà lá ở trên. Khi các tông thất nhà Lý vào lễ,

Thủ Độ cho đánh sập cả xuống hố. Thủ Độ cho chôn sống hết. Sau đó nhân ông tổ họ Trần tên là Lý, Thủ Độ hạ lệnh

trong nước ai họ Lý đều phải cả ra họ Nguyễn, mục đích xóa hẳn họ Lý trong ký ức của dân chúng và hậu thế.   

2- Đảo Lộn Nhân Luân. 

 Chiêu Thánh lấy Trần Thái Tông 12 năm vẫn không có con, Thủ Độ liền bắt Thái Tông bỏ, giáng xuống làm công chúa

rồi đem chị bà Chiêu Thánh tức là vợ Trần Liễu vào cung làm hoàng hậu vì bà này đang có mang ba tháng do ý muốn giữ

vững cái ngai vàng vừa cướp được. Thủ Độ xa hơn nữa nên xướng thuyết: Trai gái họ Trần lấy lẫn nhau. Rồi Thủ Độ thi

hành ý tưởng này trước nhất, bằng sự kết duyên với Thái hậu Trần Thị, vợ Lý Huệ Tông, chị họ của Thủ Độ khi đó đã

giáng xuống làm Thiên Cực công chúa. Đây là một việc loạn luân từ cổ đến kim chưa hề có, nhưng nó có một cái lợi chắc

chắn (tương đối) là tránh được cái nạn thoán nghịch của ngoại thích. Trần Liễu uất ức không chịu được đem quân làm

loạn nhưng không nổi, rồi nhân khi Thái Tông ngự thuyền đi chơi, Trần Liễu giả làm người đánh cá lén đến thuyền ngự tạ

tội. Hai anh em ôm nhau mà khóc. Thủ Độ rút gươm định chém Trần Liễu. Vua Thái Tông hết sức cản ngăn mới xong.

Sau Thái Tông cắt đất Yên Phụ, Yên Dương, Yên Sơn, Yên Bằng (thuộc Đông Triều, phủ Kinh Môn, tỉnh Hải Dương)

làm thái ấp cho Trần Liễu và phong làm An Sinh vương. Về phần vua Thái Tông đối với sự áp chế của Trần Thủ Độ cũng

đau khổ. Một đêm ngài bỏ kinh thành trốn đi ở chùa Phù Vân, trên núi Yên Tử (huyện Yên Hưng, tỉnh Quảng Yên). Thủ

Độ đem các quan đi đón về triều, Thái Tông không chịu về tuyên bố rằng mình còn ít tuổi không kham được việc lớn và

yêu cầu triều đình tìm người xứng đáng thay Ngài. Thủ Độ liền bảo các quan: Hoàng thượng ở đâu thì triều đình ở đó rồi

truyền lo liệu xây dựng cung điện. Thượng Tọa chùa Phú Vân phải vào kêu nài Thái Tông mới chịu xa giá về kinh.   

3- Việc Đánh Dẹp Trong Nước. 

 Việc họ Trần cướp ngai vàng của họ Lý, giết tróc con cháu nhà Lý, thay bậc đổi ngôi một dòng họ đã trị vì 216 năm và

đã làm nhiều công ơn cho đất nước, đảo lôn nhân luân phong hóa không khỏi gây nên một cuộc khủng hoảng chính trị lớn

trong giai đoạn đầu tiên. Sĩ phu trong nước có một phản ứng khá mạnh và ở các nơi dân dã cũng có nhiều sự xôn xao.

Rồi nhiều cuộc phiến loạn đã bùng ra. Nhưng phải công bằng mà nhận rằng nhân tâm bắt đầu rối ren kể từ mấy ông vua

bất lực cuối cùng của họ Lý, (đời vua Cao Tông trở đi). Giặc cướp nổi lên bốn phương. Tại Quốc Oai thuộc tỉnh Sơn

Tây có quân Mường, tại Hồng Châu có Đoàn Thượng chiếm đất Đường Hào, ở Bắc Giang có Nguyễn Nộn. Cả hai đều

là cựu thần của nhà Lý cũng xưng vương chống lại tân triều, hùng cứ mỗi người một nơi và thu hút được một phần đáng

kể nhân tâm trong nước; nên thế lực của họ đã làm cho Trần triều phải lo lắng. Thủ Độ đem quân dẹp bọn Mường xong

liền mở cuộc giảnh hòa chia đất cho Đoàn Thượng và Nguyễn Nộn. Tất nhiên đây chỉ là một giải pháp tạm thời trong khi

Thủ Độ xét chưa nên hoặc chưa thể lấy võ lực để đàn áp hai vị thủ lĩnh đối lập hoặc lúc ấy tình thế chưa được thuận tiện.

Chúng ta có thể tin như vậy vì con người dám cương quyết chống quân Mông Cổ sau này lại nắm phần toàn thắng như

Trần Thủ Độ và con cháu họ Trần có hùng tài đảm lược đâu có thể cùng đứng chung mãi một cõi với Đoàn Thượng và

Nguyễn Nộn. Hoặc giả Thủ Độ e dè cái tiêu bài chính nghĩa "Phù Lý diệt Trần" của hai người này đang có hiệu lực thao

túng nhân tâm thì việc chia đất giảng hòa cũng là một kế sách đánh đổ cái chiêu bài trên đây của hai họ Đoàn, Nguyễn?

Năm Mậu Tí (1228) giữa Đoàn Thượng và Nguyễn Nộn có sự xung đột. Nguyễn Nộn đánh bại Đoàn Thượng chiếm đất

Đườn Hào nhưng mấy tháng sau Nguyễn Nộn vắn số, thế là cái đinh cắm vào mắt họ Trần tự nhiên rớt xuống. Việc thống

nhất và an ninh mấy tháng sau lại được như trước. Trừ được mọi mối loạn, Thủ Độ cũng theo tục nhà Lý hằng năm có

cuộc hội thề tại đền Đông Cổ vào ngày mùng 3 tháng 4.   

4- Những Công Cuộc Cải Cách. 

 Năm Nhâm Dần (1242) muốn thi hành chính sách cận dân và thân dân, nhà vua và các quan phải cần tiếp xúc luôn luôn

với đại chúng và phải sống một đời sống hoàn toàn như họ; Thủ Độ nghĩ vậy liền tổ chức mỗi làng thành một nước nhỏ để

tiện việc cai trị. Ở mỗi làng có quan của nhà vua bổ về cai trị, nên có công đường để làm việc. Vì thế làng nào cũng thể

theo Công quán bên Tàu xây dựng một nóc đình. Đình phải lập bên các lộ chia ra đoản đình (5 dậm có một cái) và tràng

đình (10 dậm có một cái) cùng một kiểu hình vuông, nóc có 4 mái uốn cong, góc kiến thiết chắc chắn, tường gạch mái

ngói, các người dân sở tại cắt ra phục dịch. Những khi vua quan hay quý khách vãng lai hoặc lưu trú, người trông nom là

đình trưởng có phận sự canh phòng ngăn ngừa trộm cướp, lo liệu việc ăn uống dầu đèn. Để đền bù vào công khó nhọc,

đình trưởng được quyền sai phái, trừng trị dân đình trong vòng 10 dậm, cầy ruộng công hay hưởng lương bổng và phẩm

trật. Thủ Độ chia nước Nam làm 12 lộ (tỉnh). Mỗi lộ có nhiều xã. Các quan tứ ngũ phẩm trở lên xung chức Đại tư xã, ngũ

phẩm trở xuống xung chức Tiểu tư xã có nhiệm vụ luôn luôn trực tiếp với dân chúng. (Chức này có thể ví như tri phủ, tri

huyện bấy giờ). Các quan Đại, Tiểu tư xã đều ở dưới quyền Chánh phó An phủ sứ. Mỗi xã có xã quan cai trị là xã chánh

hay xã giám (lý, phó trưởng hay xã ủy hiện thời). Để kiểm tra dân số toàn quốc, Trần Thủ Độ đặt ra sổ trướng tịch mà đời

Lý đã làm. Phàm mỗi làng có bao nhiêu người đi làm quan văn, võ, thư lại, lính tráng, hoàng nam, lung lão, tàn tật, người

đến ngụ cư hay xiêu bạt tới làng. Dân gian phân ra từng hạng con trai từ 18 tuổi thuộc tiểu hoàng nam, từ 20 tuổi thuộc

đại hoàng nam, người từ 60 tuổi thì vào lão hạng hết thẩy đều vào danh sách trong sổ trướng tịch. Phép này thi hành từ

năm 1228 do vua Thái Tông sai quan vào Thanh Hóa làm lại sổ trướng tịch. Sổ trướng tịch lại còn một công dụng bậc

nhất trong những dịp mở mang quân sự hoặc tổng động viên dân chúng khi có xâm lăng ngoài việc kiểm soát nhân dân về

mặt chính trị và thuế khóa ở mỗi Lộ. Mười hai lộ dưới đời nhà Trần là: Thiên Trường, Long Hưng, Quốc Oai, Bắc Giang,

Hải Đông, Trường Yên, Kiến Xương, Hồng Khoát, Thanh Hóa, Hoàng Giang và Diễn Châu. Trừ các lộ ra còn có một

số phủ, châu, trấn ở ngoài khu vực Trung Châu như Tân Bình, Nghệ An, Thái Nguyên và Lạng Giang (Lạng Sơn). Ở các

nơi biên viễn thì có Trại. Đơn vị dưới cùng là xã và sách (sách tức là thôn theo Cương Mục, tưởng phải nên giải thích rõ

sách là làng Mọi thì đúng hơn do trình độ tiến hóa còn thấp kém). Chính thể dưới đời Trần có tính cách phong kiến triệt

để. Đứng đầu thang giai cấp trong xã hội là Thiên Tử. Dưới là các vương hầu, quan lại rồi đến thứ dân. Cùng tốt là nô, tì

và hoành. Hoành là hạng người bị tội đồ, bị liệt làm nô lệ. Khi Thái Tử đã có năng lực làm việc thì được vua cha nhường

ngôi. Vua cha lên làm Thượng hoàng. Đây là một sự khôn ngoan vì Thái Tử cần phải trải qua một giai đoạn tập sự việc

quân quốc cho quen, nhưng Thượng hoàng vẫn đóng vai thẩm định hay quyết định những việc trọng đại. Còn một điều lợi

nữa là việc nhường ngôi khi vua cha còn sống tránh được sự tranh giành giữa các hoàng tử thường đã sinh ra nhiều mối

loạn rất là tai hại. Thượng hoàng gọi vua con là quan gia. Nhân dân gọi vua là quốc gia. Tước phong thì có Đại vương,

Vương, Quốc công, Công và Hầu... phần nhiều là các tông thất. Thái ấp thì có An phụ, An dương, An sinh, An bang.

Việc quan chế nước ta qua đời Trần cũng sửa đổi lại. Văn võ đại thần có: Tam Công, Tam Thiếu, Thái Úy, Tư Mã, Tư

Đồ, Tư Không. Tể Tướng thì có Tả hữu tướng quốc, Thủ tướng, Tham tri.Văn giai nội chức các bộ thì có: Thượng thư,

Thị lang, Lang trung, Viên ngoại, Ngự sử v.v... Ngoại chức (quan các lộ) có An phủ sứ, Tri phủ, Thông phán, Thiêm

phán v.v... Võ giai nội chức có: Phiêu kỵ thượng tướng quân, Cấm vệ thượng tướng quân, Kim ngô đại tướng quân, Võ

vệ đại tướng quân, Phó đô tướng quân v.v... Ngoại chức có: Kinh lược sứ, Phòng ngự sứ, Thủ ngự sứ, Quan sát sứ, Đô

hộ, Đô thống, Tổng quản v.v... Việc thăng chức theo niên hạn sau đây: Mười năm lên một hàm, Mười lăm năm lên một

chức. Đáng chú ý một điều là về đời Trần quan lại rất nhiều, nhưng vua quan rất thân mật với nhau. Những lúc có tiệc vui,

uống rượu xong vua quan dắt tay nhau múa hát, nằm ngủ chung giường gác chân lên nhau không giữ lễ phép như các đời

sau.

165 Việt Sử Toàn Thư

Người có quan tước mà con cháu được thừa ấm thì con cháu mới được làm quan. Người giàu có mà không có quan tước

thì đời ấy qua đời khác cứ phải làm lính. Chế độ này (con nhà lính không bao giờ được vào sĩ đồ) tồn tại mãi đến đời Đế

Hiển (1377-1388).   

5. Việc Binh Chế và Lực Lượng Quân Đội Đời Trần Sơ. 

 Nhà Trần để lại trong sử sách chẳng những của nước nhà mà của Thế giới nữa, một chiến công vô cùng oanh liệt đầu thế

kỷ thứ 13, vậy tổ chức quân sự của Trần triều thế nào ta cần phải tìm hiểu rõ rệt. Theo Toàn Thư quyển 5, Cương Mục

quyển 6, tháng ba năm Kỷ Hợi (1245) có việc tuyển trai tráng làm binh lính chia làm ba hạng: thượng, trung, hạ. Tháng hai

năm Bính Ngọ (1246) chọn người cho vào quân Tứ Thiên, quân Tứ Thánh, quân Tứ Thần, các quân này đều là Túc vệ

binh gồm quân Thiên thuộc, quânThánh đức và quân Thần sách. Chữ Tứ (4) chắc là mỗi quân chia ra 4 vệ. Vệ là thế nào

sử cũ không chép rõ. Tháng hai năm Tân Sửu (1247) triều đình lấy người khỏe mạnh và biết võ nghệ sung vào Thượng

đô túc vệ. Tại các lộ Thiên Trường (nay là phủ Xuân Trường thuộc Nam Định, quê hương họ Trần) và Long Hưng có lập

quân Nội thiên thuộc, quân Thiên Cương, quân Chương Thánh, quân Củng thần. Các lộ Hồng (nay là Hải Dương), Khoái

(Hưng Yên) có lập quân Tả Thánh đức và Hữu Thánh đức bằng trai tráng địa phương. Các lộ Trường Yên (nay thuộc

Ninh Bình) Kiến Xương (nay thuộc Thái Bình), đặt làm quân Thánh Đức, quân Thần Sách. Còn thì sung làm quân Cấm

Vệ chia ra ba bậc nhập vào đội trạo nhi (thủy quân). Tháng hai năm Tân Dậu (1261) có việc tuyển binh ở các lộ. Người

khỏe cho làm lính, còn thì sung vào làm sắc dịch ở các sảnh, viên, cục và làm đội tuyển phong ở các lộ, phủ, huyện

(Cương mục quyển 7, tờ 1b). Tháng tám, năm Đinh Mão (1267) quân lính chia ra như sau: Quân có 30 Đô. Mỗi Đô có

80 người tuyển trong họ tông thất lấy người hiểu binh pháp, võ nghệ chỉ huy. Lại có quân Tứ Xương là những lính chuyên

canh gác bốn cửa thành thay đổi nhau. Thứ quân này đối với các quân trên kia không quan hệ bằng. Các ngạch quân chia

làm thân quân, du quân và vương hầu gia đồng. Thân quân có: 1) Thánh dực đô. 2) Thần dực đô. 3) Long dực đô. 4) Hổ

dực đô. 5) Phụng nha quan chức lang. (Từ đây trở lên đều có tả hữu có nghĩa là bốn Đô và mỗI Lang đều có tả hữu. Ví

dụ: Tả thánh dực đô, hữu thánh dực đô v.v...) Du quân có: 1) Thiết lâm đô. 2) Thiết hạm đô. 3) Hùng hổ đô. 4) Vũ an

đô. Vương hầu gia đồng có: 1) Toàn hầu đô. 2) Dược đông đô. 3) Sơn liêu đô v.v... Số lượng quân nhà Trần lúc thường

không có tới 10 vạn, nhưng khoảng niên hiệu Thiệu Bảo (1279-1284) vì có cuộc chiến tranh tự vệ nên quân số lên tới hai

mươi vạn (200000). Đây là số quân động viên ở các lộ Đông, Nam. Quân Thanh Nghệ chưa hề tuyển dụng đến.35 Binh

phục thời bấy giờ thế nào không thấy sử chép chỉ biết rằng quân sĩ đương thời đều có đội nón, căn cứ vào đạo quân của

Trần Khánh Dư ở Vân Đồn có đội nón Ma lôi. Đáng chú ý một điều là trong thời nhà Trần các vương hầu được phép mộ

dân gian làm lính nên năm Quý Mùi (1283) các vương Quốc Hiến, Quốc Tảng ... đã huy động các dân Bằng Hà (thuộc

tỉnh Hải Dương), Na Sầm (thuộc Lạng Sơn), An Sinh, Long Nhãn (đời Lê đổi là Phượng Nhãn) đến họp ở Vạn Kiếp.

Đứng đầu bộ chỉ huy là "Tiết chế" cũng chức như Tổng tư lệnh ngày này, toàn quyền điều động thủy lục chư quân. Cấp

tướng chỉ huy các Quân và Đô phải là người trong họ Trần và tinh thông võ nghệm chiến lược. Các tướng quân thì có

Phiêu kỵ tướng quân là chức riêng phong cho các hoàng tử. Kỷ luật rất nghiêm: Kẻ nào đào ngũ sẽ phải chặt ngón chân.

Nếu tái phạm kẻ đó sẽ bị voi giày. Về tuế bổng chỉ có quân túc vệ được hưởng, còn quân các đạo khác thì khi yên ổn

chia phiên về làm ruộng cho đỡ tốn công quỹ.   

6- Kinh Tế và Xã Hội. 

 Kinh tế dưới đời nhà Trần vẫn là kinh tế nông nghiệp và ngư nghiệp làm căn bản. Từ Trần Thái Tông đến Trần Nhân

Tông suốt 70 năm mọi việc mở mang đều nhằm vào nông nghiệp và ngư nghiệp và dân gian không bị đói khổ. Nhưng đến

tháng tám năm Canh Dần hiệu Trùng Hưng thứ sáu đời vua Nhân Tông có xẩy ra nạn đói to. Ba thưng gạo giá một quan

tiền. Dân chúng cực quá phải bán ruộng đất và con cái cho người ta làm nô tì. Giá mỗi người chỉ có một quan (Toàn thư

quyển 5, tờ 59b; Cương mục quyển 8, tờ 16b). Tình trạng này đã do ba phen loạn ly gây nên, mọi việc cầy cấy đều bị

ngừng trệ. Để khai khẩn và làm lợi công quỹ những người bị tội đồ phải liệt làm "cảo điền hoành" tức là nô lệ hay tù nhân

dùng vào việc cầy cấy ruộng công của Nhà nước (xã Nhật Tảo xưa kia là Cao Xã). Mỗi người phải phụ trách ba mẫu

mỗi năm nộp ba trăm thưng thóc. Nhân dân hàng năm phải nộp tiền "thân dịch", quà tết tháng giêng và tháng bảy thì dùng

sam cá lẫn gạo.                               

 [35 Theo ý chúng tôi nhà Trần có dự bị tổng động viên nhưng chưa hề làm việc này cho nên Trần Nhân Tông đã có câu: 

Cối kê cưu sự, quân tư ký,  Hoan, Diễn do tồn thập vạn binh.   

 nghĩa là Câu Tiễn xưa kia thua Ngô còn lại năm ngàn giáp, thuẫn trú đầu ở Cối Kê, thế mà sau còn khôi phục được giang

sơn, tiêu diệt được địch quốc, huống hồ ta còn mười vạn quân Thanh Nghệ chưa gọi tới. ]

Theo Annam Chí Lược "Nông, thương bất trưng lương thuế "không phải nộp thuế" để nhân dân bớt khổ nhưng có lẽ chỉ

trong lúc nước nhà vô sự chăng, chứ từ hồi có loạn Mông Cổ do mấy cuộc chiến tranh tự vệ nếu Trần triều không thu

thuế các ruộng công tư thì lấy gì mà tiêu dùng và nuôi binh đội. Sử chép: Thuế thân căn cứ vào ruộng đất mà đánh (có lẽ

đây là tiền thân dịch đã nói ở trên?). Người vô sản được miễn. Người có một hay hai mẫu phải nộp một quan tiền. Người

có ba hay bốn mẫu phải nộp hai quan. Người có năm mẫu trở lên phải ba quan. Thuế điền nộp bằng thóc, theo tỷ lệ: mỗi

mẫu phải nộp 100 thăng thóc. Thăng là đơn vị đong lường ngày xưa, mười hợp là một thăng. Mỗi thăng bằng 316 tấc

khối tức là 10305688 công thăng. Lối đong lường của xưa kia bắt chước người Tàu. Ruộng công có hai thứ, mỗi thứ

phân làm ba hạng. A- Một thứ gọi là quốc khố: hạng nhất mỗi mẫu đánh thuế 6 thạch 80 thăng thóc, hạng nhì mỗi mẫu 4

thạch, hạng ba mỗi mẫu 3 thạch. B- Một thứ gọi là thác điền: hạng nhất mỗi mẫu đánh thuế một thạch thóc; hạng nhì ba

mẫu lấy một thạch; hạng ba bốn mẫu lấy một thạch. Ruộng ao của công dân thì mỗi mẫu lấy ba thăng thóc thuế. Ruộng

muối thì phải nộp tiền. Ngoài các thứ thuế trọng yếu trên đây, còn có các thứ thuế lặt vặt đánh vào trầu cau, hoa quả, tôm

cá. Nhà Trần cho đúc vàng bạc thành phân, lượng để tiện việc chi tiêu và có dấu hiệu của hoàng triều. Nộp thuế cho nhà

vua bằng tiền thì mỗi tiền là 70 đồng. Tiền này gọi là "thượng cung tiền". Dân tiêu với nhau thì một tiền ăn 69 đồng. Tiền

này gọi là "tỉnh mạch tiền". Bàn đến nông nghiệp dưới đời Trần chúng ta đã thấy có sự mở mang và tiến bộ mỗi ngày một

rõ rệt, vì vậy sau này có chiến tranh ba phen với Mông Cổ nước ta mới có nổi thực lực can bản để đương đầu với một đế

quốc thuở đó đã hùng cường tột bực trên Thế giới. Đáng chú ý ở chỗ nhà Trần huy động ráo riết các quân dân ở hai bên

bờ sông Hồng Hà chăm nom cẩn thận việc đê. Con đê chạy dọc theo sông Hồng Hà bấy giờ gọi là Đỉnh nhĩ đê do hai

quan Hà đê Chánh phó sứ, trông coi và cho đắp rộng thêm ra. Nếu nơi nào bị thiệt hại vì đê đắp lấn vào ruộng đất thì

triều đình chiếu theo giá ruộng đất bồi thường cho chủ ruộng đất chỗ đó. Về công nghiệp sinh hoạt hay thương nghiệp sinh

hoạt chúng ta thấy hai ngành này hảy còn manh nha. Thương nghiệp bấy giờ mới nhóm ở các miền duyên giang hay duyên

hải nhờ ở sự giao thông tiện lợi. Về công nghệ, ta nên hiểu thuở đó mới chỉ có thủ công mà thôi, nghĩa là mới có chế độ

tiểu công nghệ hay công nghệ gia đình như ta thấy các nghề này còn tồn tại tới ngày nay ở nhiều làng mạc tại xứ Bắc. Chế

độ bán sức lao động của các thợ thuyền trong các xưởng máy dĩ nhiên ngày nay mới có. Nhà Trần bảo vệ nhiệt liệt chế

độ tư hữu của dân gian. Việc dân bán công điền làm tư điền, việc trộm, cắp bị trừng phạt rất ngặt, kẻ phạm tội lần thứ ba

sẽ bị giết. Năm Giáp Dần (1254) Nhà nước bán ruộng quan (ruộng công) cho dân. Mỗi "diện" tức mỗi mẫu là năm quan

tiền. Sau đó ruộng quan điền thành tư điền vĩnh viễn. Theo trên đây, chúng ta biết dưới Trần triều chế độ phong kiến rất là

thịnh đạt. Dân chúng các hạng bần dân không được nâng đỡ nên chế độ gia nô gia đồn, mua bán nô lệ mà tiền triều (Lý

triều) đã hủy bỏ, nay lại tái sinh. Do chế độ này xảy ra nhiều việc bán vợ đợ con: tỉ dụ, kẻ mắc nợ có thể bị chủ nợ tự ý

giam cầm cho tới khi nào trả sạch vốn mới được phóng thích. Nếu không trả được nợ thì phải đợ mình cho chủ nợ tức là

xin làm nô lệ để chuộc nợ.36 

 [36 Nguyên văn "Cùng dân bất cập giá hứa diện túc ư nhân". ]

(Toàn Thư quyển 5 tờ 3, Cương Mục quyển 6 tờ 4b). Những kẻ vô sản vào làm nô (tớ trai) tì (tớ gái) cho các nhà vương

hầu, công chúa, đế cơ (vợ lẽ của vua). Công việc của họ là khai khẩn ruộng đất, xây dựng điền trang (các vương hầu nhà

Trần có "trang" bắt đầu từ tháng 10 năm Bính Dần 1266 theo Toàn Thư quyển 5 tờ 30b). Tuy vậy họ được lấy vợ, lấy

chồng và sinh sống ở các nơi họ cầy cấy. Họ đã khai thác được rất nhiều ruộng đất ở miền nước mặn do cách đắp đê

ngăn nước biển tràn vào các bãi. Sau hai ba năm nơi này thuần thục và thành ruộng để trồng lúa như các vùng ở sâu trong

đất. Tình trạng này kéo dài hơn một trăm năm sau nữa, kể từ năm Bính Dần (1266) đến năm Quang Thái thứ 10 (1397)

là đời Trần Thuận Tông. Một tính cách phong kiến nữa dưới Trần triều là chế độ tập ấm, nghĩa là nhà nào có quan tước,

các con cháu được thừa ấm rồi sau ra làm quan. Người giàu có nhưng không có quan tước thì cứ tiếp nhau đời này qua

đời khác làm binh lính (Chế độ này kéo dài đến đời Đế Hiển 1377-1388) do đó lòng dân chúng có sự phẫn uất diễn tả

trong câu ca tục ngữ: "con vua thì lại làm vua - con sãi ở chùa lại quét lá đa". Hàng năm triều đình cho xã quan khai báo

nhân khẩu gọi là "dân số" và nhờ ở sổ sách của triều Trần ta biết có từng này hạng người trong xã hội đời bấy giờ:  Văn vũ

quan giai (quan chánh văn võ)  Tùng quan (quan lại phó phụ)  Quân nhân, tạp, lưu, hoàng nam (trai tráng)  Lung lão (hạng

người tàn tật)  Phụ tịch (người ngụ cư)  Phiêu tán, vô sản nhân (những người xiêu bạt) v.v...   

7- Phong Tục. 

  Phong tục của dân Việt Nam vào triều đại nhà Trần tức đầu thế kỷ thứ mười ba còn rất thuần phác. Không khí Phật

giáo cũng như dưới triều Lý, bao trùm từ triều đình đến dân gian. Khắp các nơi đều có cảnh an cư lạc nghiệp. Nho giáo

đã thấm nhuần vào đại chúng. Tới 30 Tết dân đốt pháo (ống lệnh đặt ở đầu cổng hay ngõ) và sửa soạn cổ bàn để cúng

bái tổ tiên. Mồng 5 Tết trong cung vua có ban tiệc khai hạ. Từ quan đến dân, ai ai cũng đi lễ chùa, viếng các phong cảnh,

các vườn hoa, đền đài. Tháng hai người ta dựng xuân đài. Phường chèo ca múa trên đài mua vui cho dân chúng, ngoài ra

lại còn có những cuộc đấu võ, đánh vật lấy giải thưởng, chọi gà và đá cầu. (Quả cầu lớn bằng nắm tay trẻ em khi kết

bằng vải, khi kết bằng gấm tung qua tung lại. Bên đối thủ không bắt được là thua). An nam chí lược. Đúng ngày lập xuân,

vua cắt người tông trưởng cầm roi vụt vào con trâu đất (thổ ngưu), sau việc này nhà Vua và bách quan vào nội điện ăn

yến. Cử chỉ này chỉ có mục đích khuyến Nông. Ngày mồng ba tháng ba, dân ta cũng theo Tàu ăn Tết "Hàn thực" (làm

bánh trôi để biếu nhau) rất là rộn rịp. Mồng 4 tháng 4 là ngày hội thề ở đền Đồng Cổ (Ngày này cũng được coi như một

ngày vui công cộng). Dân gian rủ nhau đi xem đông như nước chảy. Ngày mồng 5 tháng 5 dân ăn Tết Đoan Ngọ (Tết nầy

ta cũng bắt chước Tàu). Nhà Vua cho làm chòi ở giữa sông coi thi bơi thuyền. Việc cưới xin thường hay chọn vào tháng

xuân để làm lễ vấn danh (người mối và nhà trai đem trầu cau có khi dẫn cả tiền và vàng cùng quần áo đến nhà gái. Theo

Cương Mục quyển 6 tờ 34a. Khi Trần Quốc Tuấn lấy Thiên Thành công chúa, mẹ ngài là Thụy Bà công chúa phải nộp

đến 10 mâm vàng làm sính lễ). Các nhà trọng Thi Thư lễ nghĩa thì không để ý đến các đồ sính lễ này, nghĩa là ưa sự đơn

giản miễn có sự tốt đẹp về tinh thần. Do đó ta có câu: Giá thú bất luận tài. Còn ở những người nghèo dĩ nhiên việc hôn

nhân rất giản tiện. Nếu có dẫn tiền cưới thì đem đến nhà gái một trăm. Nếu đôi bên cùng nghèo thì một ít trầu cau chia

cho bà con trong họ và dân làng là đủ hợp thức hóa việc vợ chồng. Hằng năm mồng 1 tháng 10 có tết "cơm mới" hoặc

"xôi mới" từ vua quan đến dân chúng đều có sự cúng tế tổ tiên. Vua và các quan đi thăm ruộng, gặt lúa, săn bắn để mua

vui (An nam chí lược quyển 1 tờ 12a). Y phục đời bấy giờ như sau đây: vương hầu và thứ dân thường mặc áo cổ tròn

(viên lĩnh) quần thâm (huyền thường) hay lượt trắng (bạch là) thắt lưng lụa (hoàn khố). Giày dép ưng làm bằng da. Vương

hầu vào chầu vua (tư yết) được miễn không phải đội khăn, đó là do tình thân. Thứ dân không được đến hầu gần (An nam

chí lược quyển 14, tờ 5a). Đồ mặc thường của vua thì quý mầu trắng. Dân không được dùng mầu này duy phụ nữ không

bị cấm. Con gái bị tuyển vào cung được lập làm thứ phi rồi nhưng muốn trở về nhà mình cũng được. Về hình phạt của

Trần triều xét ra nghiêm ngặt hơn Lý triều. Sử chép năm Giáp Thìn (1244) vua Thái Tông sửa lại luật pháp. Theo Phan

Huy Chú trong "Lịch triều hiến chương" thì dưới đời Trần những kẻ phạm tội trộm cắp bị thích vào trán hai chữ "phạm

đạo" và phải bồi thường 9/10 giá trị đồ vật đã lấy. Kẻ nào không bồi thường được sẽ bị tịch thu vợ con. Vào trường hợp

tái phạm, sẽ bị chặt chân tay hay bị voi giày. Tái phạm đến lần thứ ba sẽ bị giết. Đàn bà có chồng phạm tội ngoại tình, sẽ

bị xử làm tì (đầy tớ gái) cho chồng và chồng có quyền đem đợ hay bán.   

8- Văn Hóa . 

Cùng một nhịp với các ngành chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa đầu đời Trần cũng được đà tiến triển. Đáng chú ý là chữ

Nôm được xuất hiện và đắc dụng là nhờ đời Trần có sáng kiến, có tinh thần độc lập, tự lập, nên xu hướng văn Nôm mới

có dịp bành trướng sau nghìn năm học nhờ viết mướn của Trung Quốc. Tiếng Việt được dùng làm thi ca, khúc ngâm. Hàn

Thuyên quê ở huyện Thanh Lâm tỉnh Hải Dương là người rất giỏi thơ phú Nôm. Toàn Thư quyển 5, tờ 41 chép rằng dưới

triền Trần Nhân Tông, Thuyên làm Hình bộ thượng thư có cá sấu đến sông Lô giết hại dân chúng. Vua sai Thuyên làm

văn ném xuống sông. Cá sấu tự rời đi nơi khác. Vua cho việc này giống chuyện Hàn Dũ đời Đường liền đổi họ Nguyễn ra

họ Hàn do mục đích khen thưởng nhân tài. Nước ta dùng quốc ngữ trong thi phú bắt đầu từ đó. Nói vậy không phải là

nhà Trần đã triệt để dùng chữ Nôm. Các chiếu chỉ của nhà Vua vẫn còn biết bằng chữ Hán. Mỗi khi lệnh vua ban bố ra

ngoài, ty Hành khiển phải giảng cả âm lẫn nghĩa ra tiếng Việt cho dân hiểu (phàm thư) và dự biết mọi việc triều đình định

làm. Tóm lại chữ Hán vẫn được dùng vào các công văn, từ lệnh, biểu chương, sớ tấu. Chữ Nôm được địa vị đặc biệt hẳn

hoi là về sau này với nhà Nguyễn Tây Sơn cuối thế kỷ thứ 18, nhưng trong khi chữ Nôm phát triển mạnh để đi tới chỗ đại

chúng, một số nho gia trung thành với Hán tự vẫn còn luyến tiếc và đã bài xích nó kịch liệt. Để tỏ sự tiến triển của văn hóa

đời Trần, trong mục phong tục cuốn An nam chí lược có kể đến các khúc hát: Nam Thiên Nhạc, Ngọc Lâu Xuân, Đạp

thanh du, Mộng du tiên, Canh lậu trường và nhiều thi ca tiếng Việt. Văn hóa đời Trần cũng dành cho Sử ký một địa vị

quan trọng hay nói cách khác nhà Trần là một triều đại trước nhất của chúng ta đã nghĩ đến việc biên soạn cuốn quốc sử,

điều rất đáng tiếc là các tiền triều nhất là nhà Lý cầm quyền ở nước ta trên hai thế kỷ có quá đầy đủ điều kiện mà không

lo liệu đến vấn đề này. Trần Tấn giữ chức Tả tàng thăng Hàn trưởng làm được cuốn Việt chí tức Việt Sử sau này được

Lê Văn Hưu sửa lại tức bộ Đại Việt Sử Ký chép từ đời Triệu Vũ Đế đến Lý Chiêu Hoàng gồm 30 quyển. Nhà Trần xuất

hiện trên sân khấu chính trị Việt Nam được 2 năm thì mở khoa thi, mục đích khuếch trương văn học và chiêu mộ nhân tài.

Năm 1227 khoa thi tam giáo được mở (Nho, Lão, Thích) rồi liên tiếp các triều vua sau việc khoa cử mở đều lấy tam khôi

(Trạng Nguyên, Thám Hoa, Bảng Nhỡn) và thiết lập cả Quốc học viện, Quốc tử viện, Giảng vũ đường là những nơi đào

luyện anh tài. Có nên nói rằng ngay trong thời Trần Sơ, Hán văn đã lên tới một trình độ khá cao và theo với trình độ của

văn học tinh thần dân tộc cũng trở nên mỗi ngày một thêm kiện cường không? Các thư, biểu và văn kiện ngoại giao với

Mông Cổ tuy có sự nhũn nhặn nhưng ý kiến vẫn đanh thép. Lời văn thì gọn gàng, đại khái tờ biểu năm Bính Dần (1266)

Trần triều xin nhà Nguyên miễn việc gửi các Nho sinh (tú tài), các thợ thuyền và các kỹ thuật gia. Tờ Thư năm Tân Mùi

(1271) gửi cho Trung Thư sảnh nhà Nguyên biện bạch vì sao không lạy chiếu thư và không biếu voi Nguyên chủ (xin coi

các trang dưới đây sẽ thấy các công văn ngoại giao và bài hịch của Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn trước khi chống

Nguyên). Nhà Trần lại cho nghiên cứu và học tập cả tiếng Mán, tiếng Thổ, tiếng Phiên. Các người đương thời như Trần

Quang Khải, Trần Nhật Duật rất thông hiểu các thứ tiếng này. Tôn giáo được tôn sùng nhất là đạo Phật, đạo này giữ địa

vị đặc biệt ưu đãi, dĩ nhiên việc này phải do các nhà cầm quyền thử thời mà đáng kể là vua Thái Tông và Nhân Tông

trước hết. Vua Thái Tông là tác giả kinh Khóa Hư. Vua Nhân Tông soạn được nhiều câu kệ trong tập Trần triều thượng

sĩ ngũ lục, bao hàm những tư tưởng nhân từ, bác ái, giác tha, độ tha rất mạnh. Những người cầm đầu dân tộc có tư tưởng

xả thân cứu thế và cúc cung tận tụy, coi cái chết là siêu thoát, là "thành nhân" (theo lời Hoa Bằng) thì tinh thần tranh đấu dĩ

nhiên rất cao và phải có, không là điều đáng lạ. Ngoài ra có lẽ tôn giáo đã có ảnh hưởng rất nhiều đến trí não các vua nhà

Trần, cho nên từ cung cấm, triều đường ra tới ngoài dân đã có rõ rệt một sự gần gũi, và thân mật thành thực trong những

khi thái bình thịnh trị cũng như khi gặp nạn ngoại xâm. Đại để tháng giêng năm Mậu Thìn (1268) vua Thái Tông và các

vương hầu trong họ Tông thất tan chầu cùng vào nội điện và nhà Lan đình ăn uống vui vẻ.37 Đêm tối cùng nhau đặt gối

dài, chăn rộng, liền giường ngủ chung để tỏ tình thân ái. Khi đại yến, các quan uống rượu xong rồi dắt tay nhau mà múa

hát. Đối với chúng nhân, câu "Dân vi quý" của Mạnh Tử được thi hành triệt để nên khi chống Mông Cổ mới có hội nghị

Diên Hồng. Như vậy chính sách dân chủ hay chính thể lập hiến có thể nói là đã thực hiện ở nước ta từ thế kỷ 13 trong

thực tế, tuy về hình thức chưa có sự rõ rệt như ngày nay ở một ít nước tân tiến. Nói như vậy chúng ta có thể nghĩ rằng

chế độ phong kiến dưới đời Trần chặt chẽ hay gắt gao chỉ là do ý muốn củng cố địa vị của một giòng họ hơn là có ý thống

trị nhân dân với bàn tay sắt. Kết quả của cuộc chống Mông Cổ ba phen đã chứng minh một cách hùng biện cái trạng thái

"quân dân nhất trí" và tinh thần hữu ái trong dân tộc lên cao tột bực ở nước ta dưới đời Trần. Trạng thái ấy lại càng rõ rệt

giữa khi chống Nguyên, ngay cả dân Mán (ở trại Quy Hóa năm Đinh Tị 1257) và nhiều hào trưởng tự động (trường hợp

Hà Bổng, Nguyễn Khả Lập và NguyễN Truyền) đem dân binh tập kích quân giặc khi quân địch vào sâu nội địa, thủ đô bị

phá. Tài chiến trận và huy động mọi lực lượng quốc gia của Hưng Đạo vương tất nhiên là đã đến chỗ tuyệt kỹ, nhưng một

phần lớn sự tham gia kháng chiến đã do tinh thần đoàn kết của dân tộc qua các tầng lớp nhân dân. Tinh thần đoàn kết

không nói ai cũng hiểu phát nguyên ở chỗ tương thân tương ái mà triều Trần đã gây dựng được một cách khôn khéo

nhưng không kém phần chân thành ở bên trong.                                       

 [37 Vua Trần Thánh Tông thường nói cùng anh em bà con trong họ: "chỗ đồng bào máu mủ, lo thì cùng lo, vui thì cùng

vui". ]   

172 Việt Sử Toàn Thư

Cuộc Chiến Tranh Tự Vệ Vô Cùng Anh Dũng Của Việt Nam

- Mông Cổ là giống người thế nào? - Thành tích chiến đấu của quân Mông Cổ - Cuộc xâm lăng thứ nhất của quân Mông

Cổ

1- Mông Cổ Là Giống Người Thế Nào?   

Để hiểu công cuộc chống xâm lăng của dân tộc chúng ta khắc khổ, gian lao và phải hy sinh đến bậc nào cho tới cái kết

quả của nó có đáng gọi là rực rỡ oanh liệt bậc nhất suốt thế kỷ XIII - không phải riêng trong lịch sử Việt Nam mà cả

trong lịch sử thế giới thuở đó - chúng tôi thấy cần phải trình bày qua nguồn gốc và những chiến công anh dũng phi thường

của người Mông Cổ. Dân số Mông Cổ có gần 3 triệu, đa số là dân du mục. Nhà cửa của họ là những túp lều quây tròn

bằng da thú trên nóc có lỗ thông hơi. Thực phẩm của họ gồm có sữa, thịt cừu, pho mát. Những người nghèo ăn cả đến

xác những thú vật chết từ lâu. Người Mông Cổ không thích làm việc, mỗi năm làm việc chừng một tháng mà thôi. Y phục

thường bằng da thú và lông cừu. Từ đời Đường (618-904) ở khoảng thượng lưu Hắc long giang (Amour) suốt một giải

Tây Bắc tỉnh Hắc long giang rải rác về phía Bắc Xa. Thần Hàn thuộc miền Bắc nước Trung Hoa, diện tích vào khoảng 3

triệu cây số vuông giống người này đã sinh trưởng trong trạng thái các bộ lạc kiếm ăn bằng nghề chài lưới, săn bắn như

nhiều dân tộc khác về cổ thời. Và tương đối với các dân tộc Á Châu bấy giờ, họ là đám người hậu tiến nhất. Họ rất hung

tợn và hiếu chiến, có tài đặc biệt là bắn cung, cưỡi ngựa nên tổ chức kỵ binh của họ có thể nói là rất lợi hại. Họ sắp đặt

cơ nào đội ấy rất có thứ tự, sành việc tổ chức và huấn luyện quân đội giầu mưu chước, kinh nghiệm và chuyển vận binh sĩ

hết sức mau lẹ. Đối với kẻ địch, họ áp dụng nguyên tắc: hàng thì đãi có độ lượng, chống thì tàn sát tới ngọn cỏ lá cây. Đối

với cấp trên, họ hoàn toàn phục tùng, chỉ biết có một thứ luật: luật của lĩnh tụ. Được lệnh tiến, dù tiến để mà chết. Như

vậy thì nghề chinh chiến của họ lại hơn cả các dân tộc tiền tiến đời bấy giờ. Đó là một điều trái ngược hẳn. Tổ tiên của họ

là giống Hung Nô. Tài nguyên của họ là những bầy súc vật mà họ đưa chăn nuôi ở những miền đồng cỏ xa xôi. Đời sống

họ rất cực khổ vất vả vì khi nóng thì nóng, thiêu đốt cả cỏ cây, giết hại cả súc vật (38 độ 2) khi lạnh thì buốt đến xương

tủy, người và vật chịu không nổi (45 độ 5 dưới 0 độ). Họ không biết nghề nông, không biết viết chữ, rất tin tưởng khoa

phù thủy. Phật giáo được coi gần như là tôn giáo chính của Mông Cổ. Họ theo đạo Phật nhưng không hiểu nổi triết lý của

Phật giáo nên chỉ là những kẻ mê tín không hơn không kém. Binh chế của Mông Cổ tổ chức như sau đây: 1) Bộ trong

gồm các quân Túc vệ.

2) Bộ ngoài là các quân Trấn thủ. Quân túc vệ chia làm quân Khiếp tiết, theo tiếng Mông Cổ có ý nghĩa là những kẻ

được nhiều ân sủng của Thiên tử, tức là thân binh của nhà vua và quân các vệ: Tả, hữu, trung, tiền, hậu và Đường Ngột

vệ, Quý Xích vệ, Vũ vệ; Tả , Hữu, Đô úy vệ v.v... Quân các vệ thì Thân quân chỉ huy sứ cầm đầu cùng với các quân

Trấn thủ đều thuộc quyền Khu mật viện. Quân Khiếp tiết và các vệ tuy đều là quân Túc vệ hợp lại gọi là thân quân nhưng

nhiệm vụ khác nhau: Khiếp tiết dùng vào việc bảo vệ Thiên tử, là thân quân trong các thân quân. Quân túc vệ chuyên việc

giữ hoàng thành, kinh sư, phòng thủ việc doanh thiện và việc đồn điền v.v... Đội quân này cũng có khi dùng vào việc viễn

chinh. Quân Trấn thủ: các bộ thì lập Vạn hộ phủ, các huyện thì lập Thiên hộ sở đều thuộc Khu mật viện, tùy chỗ quan

trọng, hiểm yếu mà chia đi chiếm đóng. Đại khái các nơi biên cương then chốt thì có thân vương, tông thất cầm quyền. Tỷ

dụ: Hà Lạc và Sơn Đông thì có quân bản tộc Mông Cổ trấn thủ. Từ Giang, Hoài trở xuống Nam Hải có Hán binh và

quân tân phụ là những quân lính người Trung Quốc được tuyển mộ sau khi diệt được nhà Kim. Lối đánh của Mông Cổ là

khi lâm trận, đạo kỵ binh lưu động của họ tiến nhanh như chớp nhoáng rồi biến mất để lại xuất hiện ngay liền đó sau lưng

địch khiến đối phương bị điên đảo, trở mình không kịp, bị rối loạn cả chiến lược, chiến thuật.   

2- Thành Tích Chiến Đấu Của Quân Mông Cổ.  

 Đây những thành tích vĩ đại của Đế quốc Mông Cổ! Năm 1206, Thiết Mộc Chân sau này tự hiệu là Thành Cát Tư Hãn

(Gengis Khan) tức năm thứ hai đời Lý Cao Tông, năm Trị Bình Long Ứng, đã đánh bại quân đội Thổ Nhĩ Kỳ vì đã muốn

giành nhau đất Mông Cổ với ông ta. Sau đó chúa Mông Cổ quay binh về Trung Quốc. Lúc này Trung Quốc chia làm ba

khu vực thuộc quyền ba vương triều: Hoa Bắc do nhà Kim dòng dõi Mãn Châu chiếm giữ, kinh đô đóng ở Bắc Kinh;

Hoa Nam thuộc nhà Tống, kinh độ tọa lạc ở Hàng Châu, Tây Bắc nằm dưới quyền nước Tây Hạ. Cuộc chiến tranh ở

đây vô cùng khốc liệt: Mông Cổ phải mất hai năm mới vượt được Vạn Lý Trường Thành và năm 1213, Mông Cổ vào

phong tảo Bắc Kinh. Năm 1215 thành này bị thất thủ, lửa cháy ngất trời luôn một tháng không ngớt. Chín năm sau du

khách qua vùng này còn thấy đầy dấu tích của hoang tàn và các đống xương khô của muôn ngàn tử sĩ. Thắng Kim xong,

Thành Cát Tư Hãn quay sang Tây phương tấn công Tân Cương và Ba Tư. Cuộc viễn chinh kéo dài 5 năm. Chiếm được

đâu, Mông Cổ giết chóc, phá hủy sạch tới đó, thực hiện đúng câu: "Nơi nào ngựa Mông Cổ đi qua, cỏ cây cũng hết

sống" của chúa Attila bảy thế kỷ trước cũng dòng giống Mông Cổ (Pháp gọi là Les Huns).

Tại Hung Gia Lợi, giáo chủ và giai cấp phong kiến xung đột với nhau vừa tạm yên thì Mông Cổ như trận cuồng phong ào

tới. Vua Bela tử trận năm 1241 ở Pest. Từ Breslau đến Cracovie máu người Hung chảy như nước suối. Mông Cổ hoành

hành xong liền bỏ ra đi, sau khi 500 ngàn quân dân Hung chết không còn một mống. Đầu thế kỷ thứ XIII, Hồi quốc đang

thịnh đạt và là đế quốc khá lớn gồm Ba Tư, Tiểu Á Tế Á và Cận Đông, bề ngang kéo dài từ Ấn Độ đến Bagdad, dọc từ

bời biển Aral tới vịnh Ba Tư. Mông Cổ tới, bốn chục vạn binh của Mohamed tan tành và kinh đô cũng ra tro bụi. Đế

quốc Hồi tan vỡ từ thuở ấy. Tháng chạp năm 1237 tới tháng năm 1238 bốn phần năm lĩnh thổ Nga Xô cũng lọt vào tay

Mông Cổ. Các quốc gia Tây Âu nghe tin này cũng vô cùng khủng khiếp coi như ngày tận thế đã tới. Giáo hoàng Innocent

IV và vua thánh Louis nước Pháp cử người sang cầu hòa với Mông Cổ. Về phía Á Đông, trong khoảng thời gian đánh

Đông dẹp Tây thì mùa Thu năm 1226, Tây Hạ cũng bị lâm vào cảnh núi xương sông máu với đoàn quân kiêu hùng của

Thành Cát Tư Hãn trong hạ tuần tháng 8 năm sau, Tây Hạ đầu hàng và bị sáp nhập vào đế quốc Mông Cổ từ đó. Trong

khi chinh phục Tây Hạ thì chúa Mông Cổ mất, con là A Loa Đài (Ogotai) lên thay tức là Nguyên Thái Tông. Nguyên

Thái Tông không sống lâu (3 năm sau) Nguyên Định Tông kế nghiệp cũng yểu vong. Ngôi vua truyền sang chi khác. Em

con nhà chú là Mông Kha (Mong ké) được tôn lập, tức là Nguyên Hiến Tông. Hiến Tông phái hai em là Hạt Lô

(Houlagen) đi kinh lý Ba Tư và Hốt Tất Liệt xuống đánh nhà Nam Tống. Trong khi Mông Tống đánh nhau thì Hiến Tông

qua đời. Hốt Tất Liệt trở về lên xưng là Nguyên Thế Tổ, lấy quốc hiệu là Nguyên. Xong việc này, Hốt Tất Liệt lại tiếp tục

Nam chinh và diệt được nhà Tống. Trung Quốc giờ phút này hoàn toàn mất về nhà Nguyên. Tới năm 1280, nhà Nguyên

hoàn thành sự nghiệp đế quốc. Xét ra về diện tích đế quốc này gần già nửa phần thế giới làm chủ được 40 quốc gia từ Á

qua Âu. Thật là một đế quốc lớn nhất từ khi có loài người và lịch sử. Thành tích của Mông Cổ làm mờ cả sự nghiệp của

Á Lịch Sơn và Nã Phá Luân trước và sau.   

3- Cuộc Xâm Lăng Thứ Nhất Của Mông Cổ.  

 Khi Mông Kha còn sống, Hốt Tất Liệt đem quân sang đánh Tống có sai một đạo quân đi đánh nước Đại Lý (thuộc tỉnh

Vân Nam) tướng Mông Cổ là Ngột Lương Hợp Thai (Wouleangotai) sai sứ sang bảo vua Trần Thái Tông thần phục về

Mông Cổ. Vua và dân Việt Nam đã có những cử chỉ gì? Trần Thái Tông không những phản đối yêu sách của Mông Cổ

lại còn giam sứ Mông Cổ lại. Biết rằng Mông Cổ thế nào cũng có phản ứng. Thái Tông liền phái Trần Quốc Tuấn động

binh trấn giữ các nơi về miền Bắc là nơi cổng ngõ của chúng ta đối với Trung Quốc (năm Đinh Tị 1257).

175 Việt Sử Toàn Thư

Mông Cổ theo đường Vân Nam tiến xuống sông Thao, Hưng Hóa và Thăng Long. Quân số của họ có 2000 ấy là chưa

kể đạo quân của Á Châu là con vua Nguyên đi hậu tập và tiếp viện. Ngoài ra đạo quân Ô Lạp Cáp Đạt tức là Ngột

Lương Hợp Thai tiến sang nội địa Việt Nam định vào đánh phá thành Thăng Long. Cuộc gặp gỡ của hai quân có lẽ đã

xảy ra trên một quãng sông Thao, hoặc tại Hưng Hóa hoặc từ Hưng Hóa về tới Sơn Tây. Chỗ này sử không chép rõ, chỉ

biết rằng đối với ta quân Mông Cổ khi đó rất mạnh. Trần Quốc Tuấn chống không nổi phải lui về Sơn Tây. Vua Thái

Tông cũng ngự giá thân chinh rồi cùng thoái lui về đóng ở sông Cầu. Ở nơi đây quân ta núng thế lại bị dồn về Đông Bộ

Đầu (phía Đông sông Nhị Hà thuộc địa hạt huyện Thượng Phúc). Tình thế lại bi quan thêm, vua Thái Tông phải bỏ thành

Thăng Long về giữ ở sông Thiên Mạc (huyện Đông An tỉnh Hưng Yên). Thành Thăng Long bỏ ngỏ. Quân Mông Cổ vào

thấy ba người sứ của họ còn bị trói giam ở trong ngục. Khi cởi trói thì một người chết, chúng giận hết sức, liền tàn sát hết

cả nhân dân trong thành không trừ người già và con trẻ. Một sự xúc động tràn ngập tâm hồn đa số nhân vật của Trần

triều. Vua Thái Tông ngự thuyền đi hỏi ý kiến Thái Úy Trần Nhật Hiệu. Trần Nhật Hiệu cầm sào vạch xuống nước chữ

"Nhập Tống". Đến lượt Thái sư Trần Thủ Độ. Thái Tông thấy cả một sự cương quyết. - Đầu tôi chưa rơi xuống đất thì

xin bệ hạ đừng lo! Đó là câu trả lời của Thủ Độ và ta phải nhận rằng lời khẳng khải này đã quyết định chiến tình thuở ấy

và cả vận mệnh cùng danh dự dân tộc chúng ta nữa. (Nhất ngôn hưng quốc, nhất ngôn táng quốc là vậy). Được ít lâu

quân Mông Cổ mỏi mệt vì không chịu được thủy thổ. Quân ta dò xét được tình trạng này mới mở cuộc tấn công. Thái

Tông tiến quân lên đánh giặc ở Đông Bộ đầu. Giặc chạy lên trại Qui Hóa bị thổ dân ở đây chận đánh rất là điêu đứng.

Tinh thần của giặc bị khủng hoảng vì thấy khí thế của Nam quân mạnh mẽ và đã chiến thắng họ ở nhiều nơi. Giặc lại do

đường cũ theo dọc sông Thao rút về Tàu, tinh thần mỏi mệt không còn sức đánh nhau và cướp phá dân gian nữa. Dân

gian gọi chúng là giặc Phật. Mùa xuân năm Mậu Ngọ (1258) vua Thái Tông nhường ngôi cho con là Thái tử Trần Khoán

(Việt Nam Sử Lược chép là Hoảng) lấy hiệu là Thánh Tông. Ngài lên làm Thái Thượng Hoàng để cùng trông coi việc

nước. Thái Tông trị vì được 33 năm, làm Thái Thượng Hoàng được 19 năm thì mất, thọ 60 tuổi.   

II. Trần Thánh Tông (1258 - 1278) - Việc mở mang chính trị - Việc ngoại giao với Mông Cổ

1- Việc Chính Trị.  

 Vua Thánh Tông lên ngôi xong liền đổi niên hiệu là Thiệu Long. Ngài là một ông vua nhân hậu, hòa ái đối với mọi người

từ trong ra đến ngoài. Ngài quan niệm "thiên hạ là của ông cha để lại (!) anh em cùng hưởng" do đó trong nội cung khi ăn

uống vui đùa không có phân tôn ti, trật tự. Ngài ở ngôi 21 năm, nước nhà được yên trị. Việc học được mở mang. Hoàng

đệ là Trần Ích Tắc có tiếng là người trí thức trong nước được cử ra mở học đường để rèn luyện nhân tài cho quốc gia.

Mạc Đĩnh Chi là danh nho nước ta sau này cũng do trường của Hoàng triều lập ra. Ngài lại cho Lê Văn Hưu tiếp tục biên

soạn sách sử ký. Họ Lê làm được bộ Đại Việt sử gồm 30 quyển, chép các việc từ đời nhà Triệu đến đời Lý Mạt. Việc

biên tập của bộ sử này bắt đầu từ đời vua Thái Tông đến năm Nhâm Thân (1272) đời Thánh Tông mới xong. Vua Thánh

Tông còn khuyến khích các vương hầu họp các dân nghèo để khẩn hoang. Các điền trang có kể từ bấy giờ.   

2- Việc Ngoại Giao Với Mông Cổ.  

 Mông Cổ tuy thua nhưng vẫn không dứt ý muốn chinh phục nước ta. Trong giai đoạn này họ đã hạ được nhà Tống tức

thôn tính được toàn bộ Trung Quốc, ít lâu sau cho sứ sang đòi vua nước ta sang chầu Bắc Kinh (là kinh đô của Nguyên

chủ bấy giờ). Annam Chí Lược (quyển 4) và Toàn Thư (quyển 5) dựa vào tài liệu Nguyên Sử (quyển 9) về đoạn này viết:

 Mùa hạ năm Mậu Ngọ (1258) Mông Cổ sai Nột Loạt Đan sang dụ vua Trần Thánh Tông như sau: "Xưa ta sai sứ sang

thông hiếu, các ngươi mê man không tỉnh nên năm ngoái ta phải xuất quân (1257). Quốc chủ các ngươi (!) phải chạy dài

nơi đồng nội, ta lại sai hai sứ giả đi chiêu an cho về nước (hai sứ giả này đều bị ta giam giữ ở trong ngục, đến khi thả ra thì

một người chết) các ngươi lại dám trói cả sứ giả của ta. "Nay ta đặc biệt sai người đến mở lòng dụ bảo: Nếu các ngươi

thề xin một lòng nội phụ thì quốc chủ phải thân hành sang đây. Ví bằng vẫn còn không chịu thì cứ bảo rõ cho ta biết". Vua

Trần Thánh Tông hỏi: "Nếu tiểu quốc thành tâm thờ đại quốc thì được đối đãi thế nào?" Theo Việt Nam Sử Lược vua

Thái Tông sai Lê Phụ Trần sang sứ xin ba năm tiến cống một lần. Tình thế đôi bên dĩ nhiên phải gay go vì Mông Cổ ỷ vào

sức mạnh có thừa, mà Trần triều thì giầu tin tưởng vào tinh thần anh dũng và nhất trí của dân tộc, huống hồ quân Nam

vừa thắng quân Bắc. Việc giao hiếu vẫn chưa được xác định. Mông Cổ sai sứ sang yêu sách hết điều này đến điều nọ,

vua ta cứ lần lữa không chịu nhất là việc sang chầu Nguyên chủ, sau câu chuyện ngã ngũ ở chỗ nước Nam chỉ chịu sứ tiến

cống ba năm một lần mà thôi, kể từ năm Quý Hợi (1263). Điều kiện của việc tiến cống là: 1) Nộp nho sĩ, thầy thuốc, các

người thông âm dương bói toán - thủ công mỗi hạng 3 người (kỹ thuật gia). 2) Về đồ vật phải nộp sừng tê, ngà voi, đồi

mồi, vàng bạc, chu sa, dầu tô hợp, quang hương, đàn hương, trầm hương, trân châu, bông trắng, đĩa, chén và các vật lạ.

Thật là cả một sự khôn ngoan! Mông Cổ đòi các nhân vật cốt để biết về mỗi ngành dân trí của người Nam tiến đến bậc

nào. Sau đó họ muốn tìm hiểu nước ta có những sản vật gì quý báu. Họ nghiên cứu các điều này để tùy tiện thi hành dần

chương trình xâm lăng và bóc lột của họ. Mông Cổ đặt quan Đạt Lỗ Hoa Xích tức là quan Chưởng Ấn để giám trị các

châu quận của nước Nam trong khi chưa cướp được hẳn chính quyền của vương triều bản xứ. Vua chúa nhà Trần cũng

hiểu rõ cái manh tâm của Nguyên chủ nên chịu nhận quan Đạt Lỗ Hoa Xích của họ trong khi cần hòa hoãn tình thế. Trong

giai đoạn hòa hiếu khá dài này, Trần triều lợi dụng yếu tố thời gian để tập binh luyện mã, xây dựng cho cuộc tranh đấu

một nền tảng vững chắc trên thực tế, biết rằng sớm muộn cuộc xâm lăng của Bắc phương cũng lại tái diễn. Sự nhận xét

đó đã căn cứ vào chỗ người Mông Cổ đã tung hoành từ Á qua Âu, làm bá chủ hai phần ba thế giới có lẽ nào chịu đấu dịu

mãi với một nhược tiểu dân tộc phương Nam nhất là dân tộc này xưa kia đã nằm dưới quyền thống trị của giống Hán mà

họ vừa mới khắc phục được. Cuộc áp bức bằng quân lực năm Đinh Tị (1257) đã không thành công, nhưng trên 20 năm

Mông Cổ được Trần triều thần phục, chịu nhận quan Giám Trị nên Mông Cổ nghĩ cứ lấy uy thế mà lấn dần, kết cục vẫn

đi tới được kết quả mong muốn thì cần gì phải dùng binh đao, huống hồ binh đao đã rõ rệt vô hiệu lực. Con tính của họ

như vậy cũng hợp lý lắm. Trái lại họ không ngờ rằng Trần triều hay dân tộc Việt nam thuở đó đã chỉ quan niệm việc thần

phục nhà Nguyên là một kế sách hòa hoãn với kẻ mạnh, một chiến lược lùi để tiến trong khi thực lực chưa sung mãn. Quả

vậy, dưới triều Lý dân tộc Việt Nam độc lập trên hai thế kỷ, sau cuộc thắng trận của Lý Thường Kiệt, gươm đao lâu

ngày không mó đến. Qua tới các vua Cao Tông, Huệ Tông, tổ chức kinh tế quân sự, xã hội lại sao nhãng, Trần triều mới

bột khởi, đâu đã đủ sức chịu nổi một cuộc trường chiến với một dân tộc hùng cường nhất Thế giới bấy giờ. Cái chước lùi

để tiến của Trần triều rõ rệt là một thủ đoạn rất khôn ngoan của các nhà chính trị đời bấy giờ. Trần Thủ Độ và Trần Quốc

Tuấn là hai linh hồn của cuộc kháng chiến, là cột trụ của cuộc chống Nguyên quả đã nhìn thời cuộc rất sát và đã nhọc

lòng xây dựng lực lượng dân tộc về ba điểm trên đây. Ba điểm này nếu không phát triển đều thì chỉ còn nước cúi đầu

nghe lệnh của kẻ mạnh. Rồi việc binh chế của Trần triều tổ chức và canh cải như thế nào trên đây chúng đã rõ. Cuộc xô

xát giữa đôi bên ra sao?

Ba năm sau tức là năm Bính Dần (1266) thế ngoại giao bắt đầu gay go giữa đôi bên cùng một nhịp. Năm đó sứ Mông

Cổ qua Việt Nam. Trần Thánh Tông yêu cầu bãi bỏ việc đòi nho sĩ, thầy bói và các thợ khéo. Tháng chạp phái đoàn

Dương An Dưỡng và Vũ Hoàn đưa sang Nguyên triều ba tờ biểu xin bãi bỏ các vấn đề này: Tờ thứ nhất nói về việc cống

phương vật. Tờ thứ hai nói về việc tuyển cống nhân tài. Riêng tờ thứ ba xin cứ để Nột Loát Đan làm "Đạt Lỗ Cát Tề" ở

nước Nam. (Đạt Lỗ Cát Tề tức là Đạt Lỗ Hoa Xích theo Mông Cổ nghĩa là quan trưởng giữ quyền hành chính và quân

sự. Hồi đó lực lượng của ta chưa dồi dào nên phải tạm nhận khoản này). Mông Cổ bằng lòng nhưng khoảng tháng 10

năm sau (Đinh Mão tức 1267), Nguyên chủ lại đưa ra những điều kiện nặng nề gồm 6 việc dưới đây: 1) Quân trưởng

phải sang chầu. 2) Phải gửi con em nhà vua sang làm con tin 3) Biên số dân 4) Nộp phú thuế 5) Chịu quân dịch 6) Đặt

quan Đạt Lỗ Cát Tề như cũ. Các điều yêu sách của Mông Cổ trước sau đều bị khước từ khéo léo, bề ngoài có sự nhũn

nhặn mà bề trong có sự cứng rắn, rút cục vẫn đưa Mông Cổ đến chỗ bất mãn. 1) Tháng một năm Đinh Mão (1267)

Mông Cổ đòi trao trả hai tên lái buôn người Hồi hoạt để xét hỏi về việc Tây Vực. Trần triều trả lời: "một người là Y Tôn

chết đã lâu, một người là Bà Bà sau cũng vì ốm đã chết rồi". 2) Đối với việc yêu sách nộp voi, ta thoái thác: ".. Cứ theo

Hòa Lâm, Cát Nhã, Bệ hạ (chỉ vua Nguyên) muốn cần dùng vài con voi lớn, những giống thú ấy mình mẩy xù xụ to lắm,

đi chậm chạp không bằng ngựa của thượng quốc, xin sẽ dâng cống chuyến sau..." 3) Tháng một năm Canh Ngọ (1270)

Mông Cổ bắt bẻ vua Trần Thánh Tông tiếp chiếu không chịu lạy, không đãi sứ theo lễ vương nhân. Vua Trần Thánh

Tông trả lời qua Trung thư sảnh nhà Nguyên: "Bản quốc được thiên triều phong vương tước há không phải là vương nhân

sao? Sứ giả của Thiên triều lại xưng mình là "vương nhân" đứng ngang với bản quốc thì e làm nhục phong thể triều đình,

huống chi bản quốc trước đã tiếp chiếu chỉ bảo cứ để nguyên tục cũ. (Tháng chạp năm Canh Thân (1260) Mông Cổ do

chính sách mềm dẻo đã đưa chiếu thư nói: Đối với quan liêu sĩ thứ trong nước phàm mũ áo, điển lễ, phong tục nhất nhất

cứ để nguyên vẹn...) Hễ khi tiếp được chiếu lệnh thì để yên nơi chính diện, còn mình lui lánh ở chỗ nhà riêng, đólà điển lễ

cũ của bản quốc!

"Còn việc đòi voi như có nói trong tờ Dụ gởi sang trước đây, bản quốc sợ trái Ý chỉ nên cứ nấn ná chưa dám thưa thực

duyên cớ: Quản voi không nỡ lìa nhà thì sai đi là một chuyện khó. "Tờ dụ lại đòi nho sĩ, thầy thuốc và thợ thuyền. Nhưng

khi bồi thần là lũ Lê Trọng Đà vào bệ kiến, tấc gang gần bóng sáng oai nghiêm không thấy ban chiếu dụ bảo gì cả. Huống

chi năm Trung Thống thứ tư đã được miễn rồi. Nay lại nói đến xiết bao sợ hãi lạ lùng! Vậy xin Các hạ nghĩ lại cho..."

Năm Tân Mùi (1271) Hốt Tất Liệt cho sứ qua dụ vua Thánh Tông sang chầu. Vua Thánh Tông cáo bệnh không đi. Năm

sau vua Nguyên cho sứ sang tìm cột đồng Mã Viện. Trần triều đáp: cột đồng ấy lâu ngày mất rồi. Năm Ất Hợi (1275)

các cạnh góc ngoại giao của nước ta đưa ra dần. Tháng giêng năm ấy (1275) vua Thánh Tông gửi sang Mông Cổ bài

biểu sau đây: "Dẫu được ba năm một lần cống, sứ bộ qua lại đổi thay đi về mệt nhọc chưa được ngày nào nghỉ ngơi. Đến

như Đạt Lỗ Cát Tề do thiền triều cử sang nước tôi thì lúc về há chịu về không? Huống chi kẻ được sang đây làm gì cũng

cậy thế, việc gì lớn nhỏ cũng lấn lướt đè nén nước nhỏ này. Ngài là Thiên Tử dẫu sáng suốt ngang mặt trời, mặt trăng

nhưng đâu dễ soi tới đáy chậu úp? "Vả Đạt Lỗ Cát Tề chỉ đáng thi hành với những nước "xấu xí nhỏ mọn" nơi mọi rợ ở

biên giới, lẽ nào tôi đã được liệt phong vào bậc vương, đứng làm phên dậu một phương mà lại còn lập Đạt Lỗ Cát Tề cai

quản thì há chẳng bị các nước chư hầu cười ư? Vì sợ mà phải cống, sao bằng trong lòng vui phục mà tự cống? (Dịch theo

nguyên văn chữ Hán). Theo Trần Trọng Kim về khoản này, vua Thánh Tông xin đổi Đạt Lỗ Cát Tề làm chức Dẫn Tiến

Sứ nghĩa là coi việc kiểm điểm đồ tiến cống, như vậy không có quyền gì nữa đối với nước ta. Vua Nguyên không chịu và

biết rằng dựng mưu không xong lại xoay về giải pháp võ lực. Họ cho quan lại ở biên giới thăm dò địa thế nước ta, và về

phần nước ta cũng có sự phòng bị. Năm Đinh Sửu (1277) Thái Thượng Hoàng mất ở Thiên Trường phủ (làng Tức Mặc).

Năm sau vua Thánh Tông nhường ngôi cho Thái Tử Khâm rồi trở về ở Thiên Trường. Thánh Tông trị vì được 21 năm,

làm Thái Thượng Hoàng được 13 năm, thọ 51 tuổi.   

180 Việt Sử Toàn Thư

III.  Trần Nhân Tông (1279 - 1293) Mông Cổ Gây Hấn Lần Thứ Hai - Việc ngoại giao tan vỡ - Quyết chiến giữa Việt

Nam và Mông Cổ - Mông Cổ tấn công trên các mặt trận   

1- Việc Ngoại Giao Tan Vỡ.  

 Thái Tử Trần Khâm thay vua Thánh Tông lên ngôi tức là Trần Nhân Tông. Guồng máy chính trị và quân sự thuở đó vẫn

quay đều nhờ ở Thái Thượng Hoàng và các quan triều thần nhiều người có tài trí. Trong nước tinh thần dân tộc vẫn được

nhất trí. Mọi vấn đề dân sinh được ổn định và sinh lực quốc gia mỗi ngày một dồi dào do đó chúng ta mới có thể chống

đỡ được ngoại xâm hai phen nữa sau này còn đáng sợ hơn cuộc gây hấn lần thứ nhất vào năm Đinh Tị (1257). Ngoài sự

Mông Cổ luôn luôn qua lại hạch sách dưới đời vua Nhân Tông, giặc Lào thường sang quấy nhiễu ở các miền lân cận. Sau

này yên hẳn với Mông Cổ vua Nhân Tông đã có phen ngự giá đi đánh Lào (1290). Như trên đã nói, sau chín năm nhịn

nhục từ 1266 đến 1275 dân tộc chúng ta đã bắt đầu có thực lực thì Trần triều bắt đầu tấn công Mông Cổ mỗi ngày một

mạnh thêm về mặt ngoại giao. Yêu sách của họ bị khước từ hầu hết. Chúng ta đã dùng nhiều "lý sự " trong các biểu

chương gửi qua triều Nguyên, gần như để chọc giận họ, tuy nhiên liều thuốc đắng ấy vẫn có bọc đường. Về văn học, dân

ta bấy giờ cũng tấn tới nhiều, cứ xem bài hịch của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn và nhiều thi văn của Trần Quang

Khải, Phạm Ngũ Lão v.v... sau này trong cuộc chống Nguyên thì rõ. Những nhà văn học của chúng ta lĩnh hội được khá

nhiều tinh hoa của văn học Trung Quốc nên trong thi văn lời lẽ chải chuốt, tinh thần cứng rắn. Chữ Nôm ra đời, thơ Hàn

luật rất thịnh hành (kể từ Hàn Thuyên, thơ Nôm thịnh phát nên gọi là thơ Hàn luật vì Thuyên đã đặt ra khuôn phép, luật lệ

hoặc có nhiều sáng kiến về môn này) tuy công văn, tờ sức vẫn còn dùng chữ Hán. Năm Quí Tị (1293) vua Nhân Tông

truyền ngôi cho Thái Tử Thuyên rồi về nghỉ ở Thiên Trường là nơi yên dưỡng của các vua chúa họ Trần bấy giờ. Vua

Nhân Tông trị vì được 14 năm, nhường ngôi được 13 năm, thọ được 51 tuổi. Tháng chạp năm Mậu Dần (1278) Mông

Cổ cử bọn Sài Xuân (có sách phiên âm lầm là Sài Thung) sang hạch hỏi về 6 khoản đã đưa ra hồi tháng 10 năm Đinh

Mão (1267) mà nhà Trần chưa tuân theo.

Sài Xuân có thái độ kiêu ngạo, Trần triều thì có thái độ cứng rắn nên cuộc gặp gỡ không đi tới một kết quả nào tốt đẹp.

Nhất là về khoản vua nước ta phải sang chầu vua nhà Nguyên thì nhà Trần từ chối hẳn. Tháng một năm Kỷ Mão (1279)

sứ ta là Trịnh Quốc Toản sang Tầu bị giữ lại tại nhà hội đồng. Bọn Sài Xuân bốn người cùng một sứ giả của ta là Đỗ

Quốc Kế đem chiếu sang dụ lần nữa: Nếu nhà vua không sang chầu được, phải đúc người vàng thay thân mình, lấy hai

hạt ngọc trai làm hai con mắt, ngoài ra phải tuyển nho sĩ, phương kỹ, tử đệ thợ thuyền mỗi hạng hai người để thay nhân

dân. Bằng không chỉ có chiến tranh mới giải quyết được vấn đề. Năm Canh Thìn (1280) vua Trần Nhân Tông cử chú họ

là Trần Di Ái (tức Trần Ái), Lê Tuân và Lê Mục sang thay mình. Nguyên chủ không chịu lại lập Di Ái làm An Nam Quốc

Vương, đổi nước ta là An nam Tuyên úy ty, đặt quan liêu sang giám trị các châu, huyện (Tân Tị 1281). Năm Nhâm Ngọ

(1282) Sài Xuân làm An nam Tuyên úy sứ đô nguyên súy đem 1000 quân hộ tống Di Ái về nước đưa chiếu thư dụ mọi

người trong tông tộc nhà Trần và quan lại trong nước. Cuộc ngoại giao từ đấy tan vỡ. Trần triều cương quyết lấy gươm

đao chống lại Mông Cổ. Quân đội được lệnh đánh bọn Sài Xuân ở gần Nam Quan. Sài Xuân bị bắn mù một mắt chạy

trốn về Tàu, cái triều đình bù nhìn kể từ Di Ái trở xuống đều bị bắt và phải tội đồ, sung làm lính. Tháng bảy năm sau (năm

Quí Mùi 1283) vua Trần Nhân Tông lại đưa thư sang đòi sứ giả của ta bị Nguyên giữ lại mấy năm trước (Trịnh Quốc

Toản và vị quan họ Phạm tước Minh Tự, qua Bắc Triều từ năm Kỷ Mão 1279). Mông Cổ nhượng bộ. Tháng mười năm

ấy, sứ Nguyên Đào Bỉnh Trực đem tỉ thư (quốc thư có đóng dấu ngọc tỉ) sang dụ ta giúp binh lương và cho mượn đường

để đánh Chiêm Thành. Sự thật đấy chỉ là mưu mô để tấn công vào nước ta một cách bất ngờ. Trần triều vẫn tiếp tục

chước ngoại giao vì việc binh đao đối với ta chỉ là chuyện vạn bất đắc dĩ. Trung lương Đại phu Đinh Khắc Thiệu và Trung

đại phu Nguyễn Đạo Học đem phương vật theo sứ Nguyên là Triệu Chử sang giao thiệp với Mông Cổ. Trung phụng đại

phu Phạm Chí Thành và Triều thỉnh lang Đỗ Bảo Trực đến Sảnh thu xếp mọi việc và đưa thư do vua Trần Thánh Tông

đứng lên, cho chức Bình Chương để từ chối việc nài ép ta giúp binh lương kể trên.  

2- Huyết Chiến Giữa Việt Nam và Mông Cổ.  

 Từ khi Sài Xuân bị thương chạy về, thái độ Trần triều mỗi ngày thêm cứng rắn khiến Nguyên chủ hết sức giận dữ. Việc

mượn đường và giúp lương đi đánh Chiêm Thành lại bị khước từ khéo léo đã quyết định cuộc xâm lăng thứ hai của Mông

Cổ. Tháng tám năm Nhâm Ngọ (1282) niên hiệu Thiệu Bảo thứ tư đời vua Trần Nhân Tông, biên thần giữ Lạng Sơn là

Lương Uất sai ruổi ngựa trạm về báo: Nguyên chủ sai con là Thoát Hoan phong làm Trấn Nam vương cùng Hữu thừa

Toa Đô, Tả thừa Lưu Thâm, Tham chính A Lý và Ô Mã Nhi lót miệng bằng việc đi đánh Chiêm Thành, đòi ta cho mượn

đường, góp quân lính, cùng lương thảo (tháng 10 năm Nhâm Ngọ).  

Hội Nghị Bình Than. 

 Tháng 10 năm Nhâm Ngọ (1282) Trần triều trước tình thế cấp bách và nghiêm trọng, triệu tập các vương hầu và bá

quan văn võ bên sông Bình Than (thuộc huyện Quế Dương, tỉnh Bắc Ninh, chỗ sông Đuống nối với sông Thái Bình). Nơi

họp có tính cách bí mật vì cần tránh tai mắt của bọn gián điệp đối phương. Hội nghị này là hội nghị để thăm dò ý kiến của

các vương hầu, tướng lĩnh. Các quan có người bàn không nên nghịch ý Mông Cổ nghĩa là cho mượn đường và giúp

lương. Có người bàn nên đem quý vật sang cống để cầu hoãn binh. Duy chỉ có Trần Quốc Tuấn và Trần Khánh Dư chủ

chiến và xin đem quân giữ các nơi hiểm yếu. Xin nhắc Nhân Huệ vương Trần Khánh Dư là tay tướng tài trước đó đã

được khen thưởng trong cuộc kháng Nguyên năm Đinh Tị (1257) sau phạm tội bị lột chức ra làm nghề bán than ở Chí

Linh, Hải Dương. Lúc này ông lại được mời ra dự bàn và giữ chức Phó đô tướng quân. Một chuyện đáng chú ý trong

cuộc hội nghị tại Bình Than là Hoài Văn Hầu Trần Quốc Toản cũng dự vào số người theo hầu vua nhưng vì ít tuổi nên

không được dự bàn. Quốc Toản lấy làm bực tức tay cầm quả cam bóp nát lúc nào không biết. Khi trở về Quốc Toản

họp gia nô được hơn 1000 người, tự sắm chiến thuyền kéo cờ đánh giặc. Cuộc chiến đấu đã quyết định vào tháng 10

năm sau (Quí Mùi 1283), sau đó Trần Nhân Tông thân chinh đốc xuất các vương hầu huy động toàn thể quân đội thủy

lục được tất cả 20 vạn mở cuộc tập trận. Trần Quốc Tuấn được tấn phong làm Quốc công Tiết chế thống lĩnh lực lượng

quân sự toàn quốc, tung ra lời hịch đầu tiên kêu gọi tinh thần ái quốc và kỷ luật của các tướng sĩ vào tháng 8 năm sau

(Giáp Thân 1284). Rồi một cuộc duyệt quân vĩ đại đã khai diễn tại Đông Bộ Đầu tức là bến Đông Tân, trên sông Cái nay

gọi là Hồng Hà (thuộc huyện Thượng Phúc tỉnh Hà Đông). Rồi quân đội của ta chia đóng các nơi cổ họng và then chốt

của các miền biên giới, chẳng hạn: Lạng Sơn và đường thủy bộ từ Vân Nam vượt qua Lào Kay, Phú Thọ đổ xuống. Miền

Hải Dương thì bến Vạn Kiếp cũng có sự phòng ngự. Miền trong là Thanh Nghệ xét địch quân có thể đổ bộ ở đây để tiến

ra Bắc v.v... Đây là mấy con đường chính. Quả nhiên Nguyên quân sau này đã dùng cả mấy đường kể trên.38                 

 [38 Việc phân phối trách nhiệm quân vụ như sau đây: - Trần Bình Trọng đóng đồn trên sông Bình Than. - Trần Khánh

Dư giữ mặt Vân Đồn (Quảng Yên) - Trần Hưng Đạo đóng đại quân ở Vạn Kiếp (Hải Dương) để tiếp sức cho cả hai mặt

thủy bộ đi khắp nơi. ]

Việc binh tiến mạnh nhưng việc ngoại giao vẫn tiếp tục để hòa hoãn tình thế và nghiên cứu thái độ của địch. Sứ ta là Trần

Phủ lên đường tới Hành sảnh Kinh Hồ bên Nguyên hồi tháng một, tháng chạp (Giáp Thân -1284) xin hoãn binh.   

Hội Nghị Diên Hồng.  

 Cuộc xâm lăng thứ hai của Mông Cổ mở vào ngày 21 tháng chạp năm Giáp Thân (1284) tức là ngày quân Mông Cổ

thực sự xuất thân toàn bộ qua giày đạp nước ta. Lần này họ huy động tới 50 vạn binh sĩ đặt dưới quyền các danh tướng

như: Tả Thừa Lý Hằng, Bình Chương A Thích, Bình Chương A Lý Hải Nha, Tổng chỉ huy của Mông Cổ là Thái Tử

Thoát Hoan. Phụ tá của Thoát Hoan có hai Thượng tướng Ô Mã Nhi và Toa Đô. Các lực lượng của quân Nguyên bấy

giờ đều hội tại Hồ Quảng chia làm hai đạo: Lục quân tiến vào Lạng Sơn do Thoát Hoan điều động, Thủy quân xuất phát

tự Quảng Châu theo Toa Đô vượt biển tới Chiêm Thành. Đáng để ý một điều là vấn đề tấn công vào Việt Nam của

Mông Cổ đã quyết định từ năm Nhâm Ngọ (1282) sau khi Sài Xuân bị bắn mù mắt chạy về mà hai năm sau quân

Nguyên mới thực hiện. Họ chậm động binh là vì Trần triều khéo trì hoãn bằng ngoại giao để có đủ thì giờ lo liệu mọi vấn

đề quân sự chăng? Hoặc về phần Mông Cổ, họ phải tích cực chuẩn bị vì biết dân Việt ta là một dân tộc có một quá khứ

anh dũng? Khi nghe tin đại quân Mông Cổ họp ở Hồ Quảng sắp sang, vua Nhân Tông còn cố gắng điều đình một phen

nữa nhưng thất bại. Tháng chạp năm Giáp Thân (1284) Thượng Hoàng (vua Thánh Tông) cho triệu các bô lão tới điện

Diên Hồng để trưng cầu dân ý cùng hỏi mưu chước. Các bô lão đều đồng thanh xin đánh. Thế là qua hai hội nghị, toàn

quốc đã nhất trí kháng địch. Quân bản bộ của Thoát Hoan đến cửa Nam Quan thì ngừng lại. Thoát Hoan phái Bá Tổng

A Lý mang thư qua nói: "Bản súy chỉ nhờ đường Nam Quốc qua đánh Chiêm Thành, chứ không có bụng gì đâu mà ngại.

Nên mở cửa cho bản súy đi và đến đâu chỉ nhờ giúp ít nhiều lương thảo, khi phá xong Chiêm Thành sẽ có trọng tạ.

Nhược bằng kháng cự thiên binh, bản súy sẽ không dong tình, bờ cõi sẽ tan hoang, lúc đó có hối cũng đã muộn". Hưng

Đạo Vương Trần Quốc Tuấn nổi giận đuổi sứ Nguyên, chia quân chẹn ngay hai địa điểm cổng ngõ là Khả Li và Lộc

Châu thuộc Lạng Sơn. Cuộc tiến binh của nhà Nguyên gồm có: 1) Tây đạo là cánh quân do bốn Vạn hộ Ly La Hợp Đáp

Nhi (dựa vào tài liệu An Nam Chí Lược nhưng chưa rõ tên một hay hai người) Chiêu Thảo A Thâm do huyện Khưu Ôn

(thuộc Lạng Sơn) đột nhập vào đất Việt. 2) Đông đạo do bọn Khiếp Tiết Tản Lược Nhi, Vạn Hộ Lý Bang Hiến vượt núi

Khưu Cấp (An Nam Chí Lược chép là Cấp Lĩnh, Cương Mục chú thích là phố Kỳ Lừa thuộc Ôn Châu tỉnh Lạng Sơn)

tràn sang. Đại binh của Thoát Hoan nối theo.

3) Quân của Toa Đô tiến vào Chiêm Thành do thủy đạo (trên đã nói). Xem đường tiến quân của Mông Cổ thì mặt trận

phía Bắc quan trọng hơn cả. Đại quân của Trần Hưng Đạo Vương phải hoạt động kịch liệt ở đây. Giặc không tiến được ở

núi Khưu Cấp phải qua ải Khả Lợi (hay Khả Lý) kéo xuống. Cánh quân Đông đạo của Tản Lược Nhi lúc này vượt được

ải Khả Lợi liền tiến xuống ải Nữ Nhi. Tại chốn này gián điệp của ta là Đỗ Vĩ bị chúng bắt được và chém chết. Hưng Đạo

Vương chống nhau với Thoát Hoan ở ải Nội Bàng, ngày 27 tháng chạp năm Giáp Thân (1284). Thế giặc mạnh quá, ngài

phải chạy về đóng ở Vạn Kiếp để chuẩn bị cuộc phản công và truy kích vào khoảng mùa hè năm sau (Ất Dậu 1285).

Thủy quân của ngài đóng ở Bái Tân (Bái Tân là thượng lưu sông Lục Nam). Còn Thượng tướng Trần Quang Khải đóng

quân ở Nghệ An đề phòng quân Toa Đô. Viên đại tướng này phụ trách mặt trận Tây Nam. Chiến lược Mông Cổ bấy giờ

là dùng thế gọng kìm xiết chặt quân Nam vào giữa, và với số quân 50 vạn họ hy vọng phong tỏa Việt quân một cách dễ

dàng từ Nam ra Bắc.   

Quân Nam Rút Lui Theo Kế Hoạch.  

 Tại trận tuyến Lạng Sơn buổi đầu quân Nguyên bị ngừng lại do sự cản trở của Việt quân, sau hai ba trận không thắng

bại. Ít lâu sau Khả Lợi và Lộc Châu thất thủ, Việt quân phải rút về Chi Lăng. Hưng Đạo Vương cùng các gia tướng là Dã

Tượng và Yết Kiêu chuyển quân về Bái Tân để ra Vạn Kiếp xét không giữ nổi mặt trận Lạng Sơn lâu hơn nữa và đã thấy

bất lợi rõ rệt. Vua Nhân Tông được tin Hưng Đạo Vương lui quân khỏi Lạng Sơn liền xuống chiếc thuyền nhỏ ra Hải

Đông (tức là Hải Dương), triệu Hưng Đạo Vương đến. Nhân Tông nói: Thế giặc lớn như vậy chống với nó e dân sự sẽ

tàn hại hay là hàng chúng nó để cứu lấy dân?". Hưng Đạo Vương khảng khái trả lời: "Bệ hạ vì lòng thương dân mà nghĩ

như vậy nhưng Tôn Miếu và Xã tắc thì sao? Nếu Bệ hạ muốn hàng, xin hãy chém đầu tôi đi trước đã!". Nhà vua được lời

cương quyết và trung liệt ấy lại vững lòng. Ở các nơi hậu tuyến, từ kinh thành đến các miền thôn dã triều đình đã ra lệnh

"bỏ vườn không nhà trống". Nhiều nơi bị phá hủy sạch (theo Nguyên sử). Khắp các nơi đều treo bảng cấm hàng giặc:

"Phàm các quận, huyện trong nước, hễ giặc đến thì phải liều chết, cố đánh. Nếu sức địch không nổi thì cho phép trốn ẩn

vào rừng núi chớ không được hàng".   

Hội Nghị Quân Sự Ở Vạn Kiếp.  

 Hội nghị này được nhóm họp để chỉnh bị lại hàng ngũ sau những kinh nghiệm về địch ở mặt trận Lạng Sơn. Quân các lộ,

các xứ tập hợp lại và chiêu mộ thêm vẫn được đủ 20 vạn do các vương hầu đưa đến Vạn Kiếp để tùy quyền điều động

của Hưng Đạo Vương. Đây là các binh lính ở các xứ Bàng Hà, Na Sầm, Trà Hương, An Sinh, Long Nhãn và các lộ Hải

Đông, Vân Trà, Bà Điểm của Hưng Vũ Vương, Minh Hiền Vương Uất, Hưng Nhượng Vương Tảng và Hưng Trí Vương

Nghiễm. Trong các quân dân các lộ những người khỏe mạnh được lựa chọn làm tiên phong. Thế lực quân ta lại nổi to.

Đáng chú ý ngoài quân đội bấy giờ chỉ mới lấy ở các miền duyên hải và các lộ Đông Nam, còn quân đội từ Thanh Hóa

trở vào chưa phải tuyển đến. Ta nhận thấy Hưng Đạo Vương và Trần triều đã áp dụng một phương thức kháng Nguyên

rất khéo léo và bình tĩnh. Trần triều hiểu rằng quân số của Mông Cổ tới 50 vạn, nhưng ta không cần huy động một quân

số ngang với quân số của địch. Lý do thứ nhất là nước ta nhỏ, quân nhu, lương thực không đủ cung cấp cho một lực

lượng quân sự quá rộng lớn. Lý do thứ hai ta thi hành một cuộc trường kỳ kháng chiến thì không cần động binh quá nhiều

ngay. Trong cuộc trường chiến này, Nam quân hết sức tránh cuộc xung đột với địch nơi nào địch xuất phát nhiều năng lực

và quân số. Ta chỉ tấn công địch ở nơi nào địch quân cô, thế yếy, hoàn cảnh bất lợi và có thể chiến thắng được chắc chắn

và dễ dàng. Phương lược nầy có khoa học hay không ta coi những kết quả mà Trần triều thâu hoạch được ở dưới đây sẽ

hiểu. Nhận thức rõ ràng chiến pháp và tình thế của địch, Hưng Đạo Vương cho lưu hành luôn lúc đó cuốn Binh thư yếu

lược do Ngài soạn ra để các tướng sĩ áp dụng ngay trong các cuộc giao tranh. Nguyên tắc của cuốn Binh thư yếu lược

đó đại khái như trên đây tất nhiên còn nhiều chi tiết nữa rất tinh vi và thực tế. Ngài lại đưa ra một bản hịch để hiệu triệu

tướng sĩ nhân dân chống nạn xâm lăng.

Bài hịch này đã được Cử nhân Nguyễn Văn Bình dịch ra theo thể thơ song thất lục bát dưới đây:

Xưa Kỷ Tín liều thân chịu chết, Cứu Hán Vương thoát khỏi Hoàng Dương. Do Vu cháu Sở Chiêu Vương, Giơ lưng đỡ

giáo tìm đường cứu vua. Kìa Dự Nhượng thuở xưa người Tấn, Từng nuốt than lận đận phục thù. Kìa Thân Khoát một Tể

phu, Chặt tay theo nạn với vua nước Tề. Quan nhỏ như Uất Trì, Kính Đức, Giúp Thái Tông khỏi bước trùng vi. Cảo

Khanh quan ở biên thùy, Già mồm chửi giặc không hề tiếc thân. Bậc nghĩa sĩ trung thần từ trước, Từng diệt thân cứu

nước có nhiều. Những người kia nếu chẳng liều, Chết xuông như đám nữ lưu xó nhà. Còn danh tiếng đâu mà chép lại,

Cùng kiền khôn truyền mãi không ngần. Các ngươi dòng dõi vũ thần, Xưa nay nào có hiểu văn nghĩa gì. Nghe câu chuyện

bán nghi bán tín, Sự muôn năm nhắc đến chi vay? Này ta hãy nói cho hay, Thử xem Tống, Thát truyện này ra sao?

Vương Công Kiên người nào thế vậy? Tướng Nguyễn Văn Lập ấy người nào? Điếu Ngư thằng bé tèo teo, Chống quân

Mông Cổ ồn ào trăm muôn. Khiến quân Tống thắng luôn mấy trận, Đến bây giờ dân vẫn hàm ân. Ngột Lang là tướng

đốc quân, Với tỳ tướng Xích là nhân phẩm nào? Ngoài muôn dặm quản bao nước độc, Trong mấy ngày phá rốc quân

Nam. Lòng vua Thát Đát đã cam, Đến nay lừng lẫy tiếng thơm nhường nào! Ta với ngươi sinh vào đời loạn, Vừa gặp cơn

vận hạn gian nan. Sứ Nguyên lai vãng bao lần, Mọi nơi đường sá muôn vàn nôn nao.  Triều đình bị cú diều soi mói, Tể

tướng thì lang sói rẻ khinh. Mượn oai Hốt Liệt tranh giành, Lấy bao của báu chưa đành lòng tham! Cậy thế chúa Vân

Nam nạt nã, Đòi bạc vàng hết cả kho ta. Thịt nuôi hùm đói mãi a? Sao cho thoát khỏi lo xa sau này? Ta đây những hàng

ngày quên bữa, Lúc đêm thâu ngồi dựa gối kiêu. Giọt châu tầm tã tuôn trào, Như nung gan sắt, như bào lòng son! Chí

những muốn moi gan lấy tiết, Lòng những toan xé thịt vằm da. Dù thân dầu với cỏ hoa, Dù là ngựa bọc thân đà cũng vui.

Các ngươi vốn là người môn thuộc, Được trông nom mọi việc binh cơ. Áo không, ta cởi áo cho, Cơm không, ta sẻ cơm

cho no lòng. Quan nhỏ thì ta phong chức cả, Lộc ít thì ta trả lương thêm. Đi sông, ta cấp cho thuyền, Đi đường, ta cũng

lệnh truyền ngựa đi. Cho cầm quân an nguy cùng lối, Cho nằm yên, vui nói cùng hàng. So Vương Kiên với Ngột Lang,

Đãi chư tỳ tướng, mọi đường kém chi. Nếu vua nhục, ngươi thì chẳng đoái, Mà nước nguy, ngươi lại làm ngơ. Đứng hầu

tướng giặc không dơ? Nghe ca thết sứ vẫn trơ tráo ngồi. Khi gà chọi, khi thời cờ bạc, Cuộc vui chơi gỡ gạc đủ trò.

Ruộng vườn mưu sự ấm no, Vợ con vui thú riêng cho một mình. Ham lập nghiệp quên tình nhà, nước, Mải đi săn, nhác

việc ngăn, ngừa. Rượu chè hôm sớm say sưa, Hát hay đàn ngọt sớm trưa thỏa lòng. Đúng lúc có quân Mông Thát tới,

Cựa gà không chọc nổi áo da. Những nghề cờ bạc tinh ma, Phải đâu kế hoạch của nhà cầm quân? Ruộng nương nào đủ

phần chuộc mạng? Vợ con nào đủ cáng quân nhu? Của đâu chuộc được đầu thù? Chó săn đâu đủ sức khua giặc trời.

Rượu ngon khó làm mồi bả giặc, Hát hay không làm điếc tai thù. Bấy giờ chẳng sót lắm ru? Vua tôi ta bị trói gô một đàn!

Tước ấp ta bị tan nát cả Bổng lộc ngươi cũng chẳng còn gì. Gia đình ta bị đuổi đi, Vợ ngươi cũng đến khi nhục nhằn.

Tông xã ta, địch quân xéo dí, Phần mộ ngươi cũng bị quật lên. Đời ta khổ nhục liên miên, Cái tên nhơ nhuốc lưu truyền

mãi sau! Nhà các ngươi cũng đều mang tiếng,  Không khỏi làm những tướng bị thua, Các ngươi đang lúc bấy giờ, Muốn

mong vui thích như xưa được nào? Lời ta nhủ thấp cao ngươi nhớ, Phải coi nằm trên lửa là nguy. Kiềng canh đưa cũng

thổi xùy, Luyện quân sĩ tốt tập nghề đao cung. Khiến ai nấy nức lòng mạnh mẽ, Sức Bàng Mông, Hậu Nghệ cũng ham.

Bêu đầu Hốt Liệt cho cam, Phơi luôn thịt chúa Vân Nam bên đường. Tước ấp ta chăn thường ấm chỗ, Bổng lộc ngươi

hưởng có trọn đời. Gia đình ta được yên vui, Vợ con ngươi cũng no đời trăm năm. Tông miếu ta nghìn năm hương lửa, Tổ

tiên ngươi muôn thuở cương thường. Ta đây phỉ chí bồng tang, Các ngươi dường cũng vẻ vang vô cùng. Huy hiệu ta tôn

sùng mãi mãi, Tính danh ngươi ghi nhớ sử xanh. Bấy giờ vui thú linh đình, Các ngươi dầu muốn buồn tênh được nào? Này

binh pháp soạn theo đời trước, Là "Binh thư yếu lược" ban ra. Các ngươi theo đúng sách ta, Ấy là thần, chủ một nhà từ

xưa. Nếu bỏ sách thờ ơ lời dạy, Ấy kẻ thù đã mấy đời nay. Tại sao mà lại thế vầy? Là thù không đội trời này được chung.

Nếu các ngươi lòng không biết hổ, Không coi điều "sát Lỗ" là cần. Lại không vâng dạy luyện quân, Ấy là quay giáo, bó

thân ra hàng. Giặc yên rồi còn mang tiếng mãi, Mặt mũi nào đứng với cao dầy? Muốn ngươi hiểu rõ lòng đây, Vậy nên

thảo bức hịch này cho nghe.    

3- Mông Cổ Tấn Công Trên Các Mặt Trận.  

 Ngày mồng 6 tháng giêng năm Ất Dậu (1285) Ô Mã Nhi dẫn quân đánh vào căn cứ của ta ở Vạn Kiếp và núi Phả Lại.

Quân ta thua chạy. Chiến trường cách Vạn Kiếp 10 dậm. Phòng tuyến mạn Đông Bắc của chúng ta bị đổ, quân Mông

Cổ từ Lạng Sơn chuyển xuống và từ miền bể kéo vào như gió bão.

Ngày mồng 9 tháng giêng, một trận đại chiến đã khai diễn ở Bài Than (theo An nam chí lược, nay không rõ Bài Than ở

đâu. Hoàng Thúc Trâm cho có lẽ làng Bình Than, huyện Quế Dương, tỉnh Bắc Ninh). Vua Trần thân đốc chiến trong trận

này và dàn một số quân tới 10 vạn. Ngày 12 tháng giêng, giặc đến Kinh Bắc (Bắc Ninh) tàn phá các vùng Võ Ninh, Gia

Lâm, Đông Ngạn rồi đóng tại Đông Bộ Đầu trong khi đại quân của nhà Trần dựng trại ở mé Nam ngạn sông Cái (Nhị

Hà) để án ngữ. Tại đây giặc bắt được quân ta thấy trên cánh tay có chữ Sát Thát cả giận giết hại rất nhiều. Tính ra từ bến

Vạn Kiếp giặc tiến đến gần sát thành Thăng Long chỉ có một tuần lễ, đủ hiểu thế giặc rất mạnh, huống hồ giặc Mông Cổ

vốn quen áp dụng lối đánh nhanh như chớp nhoáng mặc dầu quân ta kháng cự cũng ráo riết. Để đối phó với quân ta đóng

giữ ở phía Nam ngạn sông Nhị Hà, Thoát Hoan cho đại bác bắn tới tấp. Quân ta bỏ chạy. Mông Cổ bắc cầu phao

chuyển quân qua sông rồi kéo tới tận chân thành Thăng Long hạ trại. Chiến thuyền của chúng ta bị lọt vào tay giặc.

Nguyên súy Ô Mã Nhi, Chiêu thảo Nạp Hải và Trấn thủ Tôn Lâm Đức cho phá hủy hết. Trong dịp này Trần triều cử Đỗ

Khắc Chung đi sứ để dò hư thực của giặc. Quân giặc đem chữ Sát Thát ra truy vấn. Ô Mã Nhi nói: Đại quân từ xa tới

đây, nước ngươi sao không trở giáo, cùng nhau đến yết kiến, lại dám nghịch mệnh ta. Châu châu đá xe rồi đây sẽ ra sao?"

Khắc Chung trả lời: "Hiền tướng không theo cái chước của Hàn Tín đi bình nước Yên, đóng quân ở đầu biên giới trước

hãy đem thư. Nếu không thấy thông hiếu thì mới là lỗi chứ? Nay lại bức bách nhau, muông túng thì cắn, chim cùng thì mổ,

huống chi con người! Mã Nhi dọa: "Đại quân mượn đường đi đánh Chiêm Thành, Quốc vương nếu đến yết kiến thì bờ

cõi được yên, một mảy tóc ta cũng không phạm. Nếu cứ mê man không tỉnh thì chỉ trong chốc lát núi sông sẽ thành đất

bằng, vua tôi sẽ ra cỏ mục..." Khắc Chung đối đáp cứng cát không chịu khuất. Khi về đến trại bên ta vào giờ Mão ngày

13 tháng giêng. Giặc đuổi theo đánh nhau với quân ta (Toàn thư quyển 5, tờ 45b-46b, Cương Mục quyển 7, tờ 33a-

34b). Ngày 13 tháng giêng, vua Trần giữ sông Cái không nổi phải rút lui theo dọc sông về phía Nam dựng lũy bằng gỗ

chống lại. Vua Trần lại cho Nguyễn Hiệu đi xin hòa. Thoát Hoan không nghe rồi cho bắc cầu phao tiến qua sông vào

thành. Thành Thăng Long thất thủ. Quân Nguyên mở tiệc tại hoàng cung, một đạo đuổi theo quân Việt (Cương Mục

quyển 7 tờ 35a).   

Mặt Trận Đông Nam.  

 Hưng Đạo Vương chuyển quân chủ lực về Thiên Trường rồi rước xa giá đi Hải Dương. Thượng tướng Thái sư Trần

Quang Khải lĩnh nhiệm vụ chặn Toa Đô tại Nghệ An. Trần Bình Trọng ở lại giữ Thiên Trườn, Chương Hiến hầu Trần Kiệt

cùng bọn Lê Tắc và vài vạn quân giữ Thanh Hóa. Tại trận tuyến này giặc cũng rất mạnh.

190 Việt Sử Toàn Thư

Bên hàng ngũ Mông Cổ có Đại Vương Giảo Kỳ, Hữu thừa Toa Đô, Tả thừa Đường Cổ Đời, Chính Hắc Đính từ Chiêm

Thành tiến quân ra phủ Bố Chính (Quảng Bình ngày nay), Ô Mã Nhi ở ngoài bể đánh vào hợp thành hai lực lượng thủy

bộ uy hiếp mặt trận Đông Nam. Tình thế quân ta ở đây rất là điêu đứng. Có điều đáng chú ý là từ Chiêm Thành ra tới

Nghệ An, quân đội của Chiêm và của ta gần như có sự đoàn kết để cùng chống Mông Cổ. Cuộc đoàn kết này là lần thứ

nhất và cũng là lần cuối cùng trong lịch sử Việt - Chiêm. Được ít ngày tại Nghệ An, Trần Quang Khải không chống nổi áp

lực thủy bộ của giặc phải lùi ra mạn ngoài. Ngày mồng một tháng hai năm Ất Dậu (1285) bọn Trần Kiện, Lê Tắc cùng gia

quyến và quân bản bộ hàng giặc. Ngày mồng 2 tháng hai, Giảo Kỳ phá quân ta ở bên kinh Vệ Bố (thuộc Thanh Hóa) sau

khi quân kỵ của họ lội được qua kinh. Tướng của ta là Đinh Xa và Nguyễn Tất Dũng tử trận. Ngày mồng 3 tháng hai,

Thoát Hoan đánh được đạo quân của vua Trần ở Đại Hoàng giang. Bọn Văn Nghĩa hầu Trần Tú Viên và Văn Chiêu hầu

Trần Văn Lộng đem cả nhà đi theo giặc. Ngày mồng 6 tháng hai, Giảo Kỳ thống xuất bọn Trần Kiện đánh quân ta ở bến

đò Phú Tân. Ở đây quân của ta do Trần Quang Khải ở Nghệ An rút ra cũng tan vỡ, bị giặc chém mất hơn một nghìn

người. Để hòa hoãn trong khi tình thế quá cấp bách và đen tối, vua Trần Nhân Tông sai Trung Hiếu hầu Trần Dương và

quan hầu cận Đào Kiện đưa quốc muội là An Tư công chúa cho Thoát Hoan. Thoát Hoan phái Thiên hộ họ Ngải đến

nói: - Đã xin hòa thì chính nhà vua phải tới thương nghị. Vua Trần không nghe một là vì e giặc có mưu gian hai là chỉ cốt

hoãn binh nhất thời mà thôi. Bảo Nghĩa vương Trần Bình Trọng đóng ở Thiên Trường, ngày 21 tháng giêng năm Ất Dậu

(1285) nghe thấy giặc đến bãi Than Mạc (tức Thiên Mạc ở bên sông Cái thuộc Hưng Yên) liền đem binh ra đánh bị giặc

vây bắt được. Ông tuyệt thực và nhất định chết. Thoát Hoan biết ông là một danh tướng muốn trọng dụng nên hết sức vỗ

về. Thoát Hoan hỏi ông: Có muốn làm Vương đất Bắc không? Ông quắc mắt quát: Ta thà làm quỉ nước Nam, chứ không

thèm làm Vương đất Bắc. Ta bị bắt thì chỉ có chết, đừng hỏi lôi thôi!" Thoát Hoan biết không thể đánh đổ lòng trung liệt

của ông đành cho đem chém. Tin này tới Trần triều ai nấy đều động lòng thương tiếc. Mồng 9 tháng ba, bọn Giảo Kỳ và

Đường Cổ Đới đem chu sư (thuyền chiến) đuổi theo, bổ vây ráo riết ở cửa Tam Trĩ suýt bắt được hai vua Trần lúc này

đã dùng thuyền nhỏ do tướng Nguyễn Cường hộ vệ chạy lên phía nguồn Tam Trĩ (Đây là xã Tam Trĩ, châu Tiên Yên, tỉnh

Quảng Yên) còn thuyền ngự bơi ra miền Ngọc Sơn thuộc châu Vạn Ninh tỉnh Quảng Yên có ý đánh lừa giặc. Quân

Nguyên do thám biết thuyền ra Ngọc Sơn là thuyền giả liền đuổi theo đường sông Tam Trĩ. Hưng Đạo Vương phải hộ vệ

hai vua lên bộ đến làng Thủy Chú rồi lại tìm đường ra sông Nam Triệu (tức Bạch Đằng Giang thuộc Hải Dương) vượt qua

cửa bể Đại Bàng (thuộc huyện Nghi Dương) rồi vào Thanh Hóa. Trong cuộc rượt theo hai vua Trần, giặc bắt được vàng

lụa và một số thanh niên nam nữ tông thất nhà Trần. Ngày 15 tháng ba, bọn Chiêu Quốc vương Trần Ích Tắc (con thứ

của vua Trần Thái Tông, vẫn ngầm có ý cướp ngôi, từng viết thư bí mật giao thông với giặc Nguyên do khách buôn ở

Vân Đồn chuyển giao, yêu cầu Nguyên chủ đem quân sang. Sau này Mông Cổ bại trận, Tắc xấu hổ ở lại đất Nguyên rồi

chết ở bên đó) cùng lũ Phạm Cự Địa, Lê Diễm và Trịnh Long đem gia quyến đi hàng giặc39.

 [39 Trong khi Ô Mã Nhi ngoài bể tiến vào để hợp lực với Toa Đô ở Nghệ An đánh ra, Trần Quang Khải phải bỏ mặt

trận Nghệ An. Trấn thủ Nghệ An là thân vương Trần Kiện đem cả nhà ra hàng Toa Đô và được đưa về Yên Kinh. Hưng

Đạo Vương cho người đi đường tắt đuổi bắt Trần Kiện đến Lạng Sơn thì bị quan quân đuổi kịp bắn chết. Người nhà là

Lê Tắc cướp được thây đem chôn ở gò Ôn Khâu (Lạng Sơn) rồi trốn qua đất Nguyên. Sau Lê Tắc ở Tầu viết bộ sử An

Nam Chí Lược hiện giờ còn ở bên Tàu và Nhật. Quyển sử này có luận điệu hoàn toàn Việt gian. Đáng tiếc y cũng như

Trần Ích Tắc là những danh nho đời bấy giờ. ]

Toa Đô thắng trận dễ dàng từ Nghệ An ra Thanh Hóa mở cuộc chiêu an ở đây. Từ vùng Thanh Nghệ ra suốt khắp các

miền Trung Châu và dọc vịnh Bắc Việt thế giặc rất to, chỗ nào đồn ải của quân Nguyên cũng san sát. Thành Thăng Long

cùng các trọng trấn đều có cờ Mông Cổ bay phấp phới. Do sự tàn phá của giặc, tình cảnh các miền thôn quê của ta xơ

xác, tiêu điều không bút nào tả xiết. Vua tôi nhà Trần đêm ngày lo sợ, duy một người vẫn vững tinh thần chiến đấu, vẫn tin

tưởng ở tương lai, đó là Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn. Rồi con người sắt đá ấy đã biết truyền cái hùng khí không

phải của một đại tướng mà của cả dân tộc Việt Nam vào đám ba quân, giữa lúc ngọn cờ đang ngơ ngác.   

Cuộc Tổng Phản Công Của Việt Nam.  

 Từ tháng tư khí hậu của miền Bắc Việt trở nên gay gắt dưới ánh nắng sém da bỏng thịt, lại có những trận mưa bất thường

đổ xuống phát tiết những khí độc nặng nền, oi ả khiến quân giặc ốm đau tật bệnh chết hại rất nhiều. Quân ta mặc dầu có

nhiều phen đụng chạm với giặc nhưng theo thượng lệnh không được ham chiến, nhất là thế giặc đang rất mạnh và sung

mãn về đủ phương diện. Chiến sự diễn hành từ cuối năm Thân đến bấy giờ đã ngót năm tháng. Nhờ những sự lui quân có

trật tự, có phương pháp theo một kế hoạch đã nghiên cứu kỹ càng, quân chủ lực của chúng ta vẫn được nguyên vẹn.

Dưới sức nóng "cháy mây hun đá" cuộc phản công bắt đầu. Về phía Nguyên quân, Toa Đoa và Ô Mã Nhi điều khiển hai

đội thủy lục phụ trách mặt trận miền Nam, trèo non lặn suối, vượt bao nhiêu chặng đường gập gềnh từ châu Ô châu Lý

(Thuận Hóa ngày nay) qua Hoan Châu (Nghệ An) ra tới Ái Châu (Thanh Hóa) vô cùng gian lao vất vả. Giai đoạn đầu

như trên đã nói, Trần Quang Khải phải rút khỏi chiến tuyến Nghệ An chuyển quân ra các mạn ngoài, chiếm đóng các nơi

hiểm yếu nhưng tại đây từ cuối tháng 4 năm Ất Dậu hai bên dằng co và cũng có khi lui, khi tiến. Toa Đô đánh mãi không

xong, lương thực cạn dần liền cùng Ô Mã Nhi xuống thuyền vượt bể ra Bắc. Đến đây ta thấy ở mặt trận miền Nam của

Nguyên quân bắt đầu nao núng vì đại quân của Toa Đô không thể từ Thanh Hóa bằng đường bộ tiến ra Bắc hợp với

Thoát Hoan. Quân của Trần Quang Khải giữ vững cứ điểm, giặc phải dùng thủy đạo. Tin này được cấp báo lên vua

Nhân Tông. Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật được cử làm tướng, Hoài Văn Hầu Trần Quốc Toản làm phó cùng tướng

quân Nguyễn Khoái đem 5 vạn quân đón bọn Toa Đô ở Tây Kết. Riêng Trần Nhật Duật chờ giặc ở bến Hàm Tử thuộc

huyện Đông An, tỉnh Hưng Yên và tại một vài địa phương ở Hải Dương xét quân Nguyên phải đổ bộ. Vì hiểu rõ tình

trạng quân Nguyên mỏi mệt, cạn lương thực, ốm đau nhiều do lam sơn chướng khí quân ta đánh rất hăng. Trong hàng ngũ

của ta lại có bọn Triệu Trung tướng nhà Tống lánh nạn sang đây xin tòng chinh, mặc áo đeo cung như ở bên nước họ xưa

kia càng làm cho địch hoảng sợ tưởng nhà Tống đã khôi phục được nước Tàu cho quân sang hỗ trợ nước Nam. Giặc

thua to, bị giết rất nhiều. Toa Đô mang tàn binh chạy ra đóng ở cửa bể Thiên Trường. Hai vua Trần và Hưng Đạo Vương

lúc này đang đóng bộ tham mưu tại Thanh Hóa. Trần Nhật Duật báo tin thắng trận. Hưng Đạo Vương bàn nên lợi dụng

tinh thần đang hăng hái của quân sĩ và sự túng quẫn của địch, đánh mạnh vào Thăng Long. Mặt trận miền Nam tạm yên vì

Nguyên quân bỏ ra Bắc hết, Thượng tướng Trần Quang Khải từ Nghệ An ra xin và được phụ trách việc khôi phục kinh

thành. Trần Nhật Duật được lệnh chận đường liên lạc giữa Toa Đô với Thoát Hoan. Ngày mồng 3 tháng năm, hai vua

Trần thắng trận ở phủ Trường Yên (Ninh Bình) giết được rất nhiều quân giặc.   

Quân Ta Thu Phục Được Thăng Long. 

 Lúc này lục quân của Thoát Hoan đóng ở thành Thăng Long. Thủy quân tụ tập tại bến Chương Dương (xã Chương

Dương, huyện Thượng Phúc tỉnh Hà Đông). Cuộc bại trận của Toa Đô vẫn chưa đến tai Thoát Hoan và về phần Toa Đô

cũng không liên lạc gì của Đại bản doanh Mông Cổ. Trần Quang Khải, Trần Quốc Tuấn và Phạm Ngũ Lão cùng Trần

Thông, Nguyễn Khả Lập và Nguyễn Truyền hợp quân các lộ từ Thanh Hóa vượt biển vòng ra đánh thủy quân Mông Cổ

ở đây. Thế quân ta hăng quá, địch phải bỏ chạy. Quân ta đổ bộ đuổi quân Nguyên về tới thành Thăng Long (tính đường

đi thẳng từ Thường Tín tới Hà Nội là trên 20 cây số) trong lúc này quân ta đã chia làm hai cánh: một đánh vào mặt trước,

một đánh vào mặt sau. Cuộc bố trí và hành binh được mau lẹ nhờ chỗ Chương Dương với Thăng Long không xa nhau là

bao nhiêu. Thoát Hoan thấy thủy quân của mình thua, chạy tới liền đem quan bản bộ ra trợ chiến. Quân ta càng đánh càng

hăng, quân Nguyên phải bỏ thành vượt qua sông Nhị Hà chạy sang đóng ở Kinh Bắc (Bắc Ninh). Việc khắc phục thành

Thăng Long tức là việc thắng trận Chương Dương đã xảy ra vào thượng tuần tháng 5 năm ấy. Hai vua Trần trở về kinh

đô ngày mồng 6 tháng sáu (theo Hoàng Thúc Trâm trong cuốn Trần Hưng Đạo). Trần Quang Khải dẫn quân vào thành,

mở tiệc khao thưởng quân sĩ rất vui vẻ. Giữa tiệc rượu, Quang Khải cao hứng ngâm bài tứ nguyệt dưới đây: Đoạt sáo

Chương Dương độ Cầm Hồ Hàm Tử quan Thái bình nghi nỗ lực Vạn cổ thử giang san. Dịch nôm: Chương Dương cướp

giáo giặc Hàm Tử bắt quân Hồ Thái bình nên gắng sức Non nước ấy ngàn thu Được tin thắng trận ngoài Thăng Long,

Thượng Hoàng và Nhân Tông cất binh mã ra đóng ở Trường Yên (Ninh Bình).   

Trận Tây Kết. 

 Trong giai đoạn thứ hai của chiến tranh quân Toa Đô sau khi đã bại trận ở Hàm Tử quan chạy về Thiên Trường, thế mỗi

ngày một quẫn và xa quân đội của Thoát Hoan tới 200 dặm. Việc trao đổi tin tức bị quân ta kiểm soát ráo riết nên hai

cánh quân Nam Bắc của Mông Cổ bị gián đoạn liên lạc. Ngày 17 tháng 5, Toa Đô dùng đường thủy tiến ra Thiên Mạc

mục đích hội quân với Thoát Hoan để tiếp ứng cho nhau và mở một mặt trận mới, không ngờ Thoát Hoan đã chạy qua

Kinh Bắc. Đến đây Toa Đô thấy quân nhà Trần đóng khắp mọi nơi không sao tiến được phải lùi về Tây Kết (một làng ở

gần bờ sông Hồng Hà, ngày nay không còn dấu tích, có lẽ vì chỗ này bị nạn sông lở chăng!) Sau hai trận đại thắng ở

Chương Dương và Hàm Tử thấy lòng quân phấn chấn, Hưng Đạo Vương hạ lệnh phong tỏa các đường giao thông gắt

gao hơn bao giờ hết. Trần Nhật Duật, Trần Quang Khải đảm nhận việc này. Còn Ngài thì tự lĩnh đại quân đánh thẳng vào

lực lượng của Toa Đô trước. Chiến thuật của Ngài ở đây là vừa tấn công địch dùng vừa dùng kế phục kích để dồn bắt

chủ tướng. Trong giai đoạn này, sức quân ta trội rõ rệt, quân Nguyên không chống nổi phải bỏ cuộc thủy chiến chạy lên

bộ tính thoát ra biển, nhưng tới sau một dẫy núi thì bị quân ta bao vây. Tại đây, Toa Đô trúng tên tử trận. Giặc chết và bị

thương rất nhiều. Đầu Toa Đô bị cắt đưa về nộp vua Trần Nhân Tông. Trận Tây Kết xẩy ra ngày 20 tháng 5, Ô Mã Nhi

và  Vạn hộ Lưu Khuê đem tàn quân tất tưởi trốn vào Thanh Hóa, sau bị đuổi sát quá phải xuống một chiếc thuyền nhỏ

mới thoát được về Tàu. Hai vua Trần rượt theo chỉ còn bắt được hơn năm vạn binh sĩ. Cũng trong hôm ấy, tại bến Đại

Mang, Tổng quản Mông Cổ là Trương Hiến ra hàng. Thuyền chiến và khí giới của địch thu được rất nhiều.

Khi thủ cấp Toa Đô được đệ trình lên vua Nhân Tông, nhà vua ngậm ngùi nói: Làm bầy tôi nên như người này! Rồi ngài

cởi áo ngự phủ vào đầu Toa Đô và cho quan làm lễ mai táng tử tế. Đây là một cử chỉ tỏ sự tôn trọng một dũng tướng hết

lòng vì Chúa, có ý khuyến khích mọi người. Vài hôm sau, đầu Toa Đô được bí mật tẩm dầu đem bêu để trưng uy thế của

quân đội và thúc dục ba quân hoàn tất cuộc chiến thắng. (Toàn thư quyển 5, tờ 49b-50a).    

Trận Vạn Kiếp. 

 Quân Nguyên, trong giai đoạn này, liên tiếp thua trận ở khắp mọi nơi, phần không chịu được bệnh tật do mùa hè phát ra.

Thoát Hoan sinh chán nản và quyết định lui binh, nhất là được tin có hai thượng tướng Toa Đô và Ô Mã Nhi, một đã tử

trận và một đã chạy thẳng về Tàu. Bên Trần triều dò xét được tình trạng này, liền chia quân đón các ngả xét địch phải rút

binh qua. Tới đây, việc tấn công quân Nguyên hoàn toàn bằng chiến thuật phục kích và truy kích. Dĩ nhiên địch chỉ có hai

đường: đường thủy thì phải rút ra bến Vạn Kiếp rồi theo đường bể mà về. Đường bộ địch phải lần theo đường rừng núi

về châu Tư Minh. Lúc này, địch từ Kinh Bắc đã chạy qua Bắc giang. Hưng Đạo Vương truyền Nguyễn Khoái, Phạm

Ngũ Lão dẫn 3 vạn quân phục trong rừng sậy bên sông Vạn Kiếp. Hai con của Ngài là Hưng Võ Vương Nghiễn và

Hưng Hiếu Vương Uy, dẫn 3 vạn quân từ Hải Dương tiến ra Quảng Yên đề phòng địch rút lui qua lối này về châu Tư

Minh. Còn Ngài đem đại quân đuổi theo bọn Thoát Hoan đóng ở Bắc giang đang chạy ra bến Vạn Kiếp. Ở đây phục

binh của ta ùa ra. Địch mất hẳn một nửa quân đội, một phần làm mồi cho cá. Lý Hằng đi đoạn hậu, cố hộ vệ Thoát Hoan

chạy về châu Tư Minh (Quảng Tây), bị trúng tên thuốc độc vào đầu gối bên tả, chết ngay tại trận. Bên ta thiệt một tướng

là Trần Thiều (Theo Toàn thư quyển 5 và An Nam Chí Lược quyển 4). Thoát Hoan, A Bát Xích, Phàn Tiếp cố đánh

tháo thân giữa một hoàn cảnh vô cùng nguy ngập. Tỳ tướng là Lý Quán thu nhặt được 5 vạn tàn binh, dấu Thoát Hoan

vào một chiếc ống đồng để lên xe bắt quân ra sức kéo chạy. Sắp tới biên giới châu Tư Minh, họ lại gặp phải bộ đội của

Hưng Võ Vương Nghiễn và Hưng Hiếu Vương Uy. Lý Quán tử trận, chỉ còn có Thoát Hoan, A Bát Xích và Phàn Tiếp

chạy thoát được về Tàu. Cuộc xâm lăng của Mông Cổ kỳ thứ hai này lại thất bại thảm thương, thật không ai có thể tưởng

tượng được. Năm chục vạn quân và hàng ngàn dũng tướng mới ngày nào hùng hổ tiến qua biên giới của ta mạnh như sóng

vỗ bờ, rút cuộc một phần lớn đã bỏ xương trên đất Việt, tiêu ma hoàn toàn danh dự của đoàn quân không hề biết đến

nhục chiến bại từ Á qua Âu đầu thế kỷ thứ XIII.    

195 Việt Sử Toàn Thư

Cuộc Tấn Công Của Mông Cổ Lần Thứ Ba.  

  Bọn Thoát Hoan và đám tàn binh trở về Tàu đem tin bại trận lại cho Nguyên chủ. Nguyên chủ giận lắm, muốn chém hết

bọn tướng lĩnh Nam chinh, các đình thần cản ngăn mãi mới thôi. Bấy giờ, tại triều Nguyên có việc đem quân đi đánh Nhật

Bản. Nguyên chủ liền đình ngay việc này lại để dốc toàn lực chuẩn bị cuộc phục thù. Nguyên triều truyền lệnh động binh ở

ba tỉnh Giang Hoài, Giang Tây, Hồ Quảng, luyện tập ráo riết, định đến tháng tám thì theo đường châu Khâm, châu Liêm

sang nước ta. Quan tỉnh Hồ Nam là Tuyên Kha dâng cớ can, lấy lý do quân sĩ vừa đi trận xa trở về còn ốm đau mệt nhọc

nhiều, phải nghỉ ngơi ít lâu rồi hãy định việc xuất chinh. Vua Nguyên nghe lời cho hoãn lại vài tháng, Trần Ích Tắc theo

Thoát Hoan về Tàu được ra ở tại Ngạc Châu. Tin quân Nguyên sửa soạn cuộc phục thù đến tai vua Trần Nhân Tông

(tháng 6 năm Bính Tuất 1286). Nhà vua hỏi Hưng Đạo Vương: "Thế giặc lần này hẳn lớn hơn trước vì chúng cần báo cái

thù bại trận, ta nên đối phó với chúng bằng cách nào? Hưng Đạo Vương tâu: "Nước ta thái bình đã lâu, nhân dân không

biết đến việc binh cho nên khi quân Nguyên năm trước vào lấn cướp còn có kẻ trốn tránh, có kẻ hàng giặc. Nay nhờ oai

linh của Tổ tông và thần võ của Bệ hạ, quân giặc đều bị quét sạch. Nay nếu chúng lại kéo sang thì nhân dân và binh sĩ của

ta đã quen việc chiến trận, trái lại giặc từ xa đến phần thì mỏi mệt, phần thì chột dạ vì cuộc bại vong của bọn Toa Đô, Lý

Hằng, Lý Quán, chắc không còn đầu óc để chiến đấu. Như vậy tôi tin rằng thế nào cũng phá được giặc và lần này chắc là

nhàn hơn trước". Sau cuộc thảo luận, các vương hầu, tông thất được lệnh điều bát quân đội, kiểm soát quân số và chế tạo

võ khí, chiến thuyền vào tháng 10 năm Bính Tuất (1286). Mùa xuân, tháng hai năm Đinh Hợi (1287), Thoát Hoan làm

Đại Nguyên súy, A Bát Xích làm Hành tỉnh Tả thừa, Áo Lỗ Xích làm Bình chương Chính sự, Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp làm

Tham tri Chính sự dẫn 30 vạn quân sang ta gồm có Mông Cổ quân, Hán quân là quân lính tuyển ở Bắc Bộ Trung quốc

sau khi nhà Nguyên đã diệt được nước Kim, Vân Nam binh là lính tuyển ở Vân Nam và quân của ba tỉnh Giang Tây,

Giang Hoài, Hồ Quảng cùng Lê binh ở bốn châu ngoài bể là: Nhai, Quỳnh, Đạm, Vạn, thuộc tỉnh Quảng Đông, riêng Lê

binh có 1 vạn 5 ngàn người, vốn là dân duyên hải rất thạo thủy chiến. Chuyến này, nhà Nguyên lót miệng bằng việc đưa

Trần Ích Tắc về làm vua nước Nam. (Theo Hoàng Thúc Trâm trong cuốn "Trần Hưng Đạo", Mông Cổ xuất binh từ

mồng 3 tháng 9 năm Đinh Hợi (1287), khởi hành từ Hồ Bắc). Ngày 28 tháng 10, quân Nguyên đến Lai Tân chia ra từng

đạo:

- Đại quân của Thoát Hoan đi đường Khâm Châu, Liêm Châu đến châu Tư Minh. Bọn Trương Ngọc, Lưu Khuê dẫn vài

vạn quân, năm trăm thuyền chiến, bảy mươi thuyền vận tải, chuyên chở lương thực khí giới. Từ Khâm Châu tiến phát. -

Trịnh Bằng Phi, Áo Lỗ Xích, mỗi người dẫn một vạn quân đi đường bộ. - Ô Mã Nhi và Phàn Tiếp lĩnh thủy quân dùng

đường biển vào nước ta. - Vạn Hộ Trương Văn Hổ tải 17 vạn thạch lương theo đường bể. Tin tức từ biên thùy tới tấp

báo về Thăng Long. Các quan xin tuyển thêm binh, Hưng Đạo Vương bình tĩnh nói: "Quân cốt giỏi chớ không cốt nhiều.

Bồ Kiên có trăm vạn quân mà ích lợi gì đâu!" Ngài phân phối quân đội đi các nơi như sau: - Trần Nhật Duật, Nguyễn

Khoái, đem 3 vạn quân đón giặc ở Lạng Sơn. - Trần Quốc Toản, Lê Phụ Trần, đem 3 vạn quân giữ Nghệ An. - Quân

của ngài đóng ở Quảng Yên trên ngọn Phú Sơn. (Ba lần có cuộc kháng Nguyên, đại quân của Hưng Đạo Vương đều

đóng ở Vạn Kiếp tức là địa phương Quảng yên, để tiện việc điều động quân đội đi các nơi. Căn cứ này có thể coi như

trung tâm điểm của quân lực Việt Nam, rất thuận tiện về giao thông thủy bộ). - Tại biên thùy Việt Hoa đối chiếu với châu

Tư Minh, Hưng Đạo Vương cho đặt ba đồn: Sa, Từ, Trúc, biết rằng lục quân của Thoát Hoan thế nào cũng xâm nhập

địa phận cổng ngõ này. - Tại sông Đại Than (Hải Dương) quân Nam cũng có đề phòng. Cuộc va chạm giữa hai quân xảy

ra ngày 11 tháng một, đoàn chiến thuyền của Nguyên tới Vạn Ninh (Móng Cáy). Tướng ta là Nhân Đức hầu Trần Đa mai

phục ở Lạng Sơn (một núi giáp miền Móng Cáy) định đánh chèn phía sau giặc. Giặc biết được tin này, ngay đêm ấy xuất

toàn đội vây quân ta. Gần sáng, quân ta bị đánh lui. Vài trăm quân bị chết đuối và thuyền bị bắt vài chục chiếc. Ô Mã Nhi

thừa thắng tiến nhanh, không nhìn lại thuyền lương theo sau chưa kịp, vì vậy đoàn hộ tống bị nghẽn. Lục quân của Nguyên

đến Lộc Châu ngày 23 tháng một năm Đinh Hợi (1287), lại chia ra như sau: - Hữu thừa Trịnh Bằng Phi và Tham chính

Xách La Đáp Nhi do ải Chi Lăng kéo xuống. - Thoát Hoan dẫn đại quân do ải Khả Lợi tràn vào, sau đạo binh tiên

phong của A Bát Xích. - Hữu thừa Ai Lỗ từ Vân Nam tiến quân đến Tam Đái giang. Ngày 24 tháng 1 năm ấy. Cấm

quân của ta giữ cửa Linh Kinh. Hưng Đức hầu Quán thắng trận ở đây bằng tên thuốc độc: giặc chết và bị thương rất

nhiều phải lui đóng ở cửa Vũ Cao.

Ngày 28, Phán thử thượng vị Nhân Đức hầu Tuyên dẫn thủy quân đánh quân Nguyên ở eo Dạ Mỗ. Giặc chết đuối ở đây

khá nhiều. Bốn mươi tên giặc, thuyền, ngựa, chiến cụ tịch thu được đều đem dâng lên vua Trần (Toàn thư quyển 5, tờ 51

a-b). Mồng 3 tháng chạp, quân Mông Cổ đến Tứ Thập Nguyên. Lúc này vì thuyền lương của giặc bị nghẽn, Thoát Hoan

phải sai Ô Mã Nhi đốc thúc quân lính cướp bóc dân gian để dùng. Ngày 16, Minh Tự Nguyễn Thức chỉ huy Thánh Dực

Dũng nghĩa quân kéo đến hợp với Hưng Đạo Vương để giữ cửa biển Đại Than (thuộc Gia Bình, tỉnh Bắc Nam lưu thông

được ra biển). Trong những ngày đầu, cũng như lần trước, quân Mông Cổ rất mạnh và hăng hái, quân ta phải lui về Vạn

Kiếp. Thoát Hoan chiếm núi Phả Lại và Chí Linh, rồi phái Trịnh Bằng Phi đem 2 vạn binh tấn công vào Vạn Kiếp. Mặt

khác, Thoát Hoan cử Ô Mã Nhi và A Bát Xích dẫn một cánh quân từ sông Lục Đầu đánh xuống sông Hồng Hà, mục

đích chiếm kinh thành Thăng Long. Ngày 23 tháng chạp, quân của Tham Chính Phàn Tiếp theo Thoát Hoan đánh Bắc

giang. Quân ta ngăn sông chống giữ không lại. Thủy quân Mông Cổ vào được sông Cái, quân ta rút lui. Mặt trận miền

Đông hoàn toàn do địch kiểm soát. Giờ đây, giặc tiến vào các vùng đồng bằng. Ngày 28 tháng chạp, bọn phản quốc Lê

Tắc cũng theo gót giặc Mông Cổ quay sang nhưng đi sau vì phải lưu lạc ở châu Tư Minh. Lê Tắc dẫn bọn Sảnh đô sự

Hầu Sư Đạt, Vạn hộ họ Đạt, Thiên hộ họ Tiêu đem 5000 binh từ châu Từ Minh lục tục tiến theo đại quân Thoát Hoan.

Chúng phá ải Nội Bàng (thuộc Lạng Sơn) tiến chiếm sông Bằng (thuộc địa phận Cao Bằng) ngảnh lưng về phía nước ta

mà bày trận. Quân ta chống trả mãnh liệt: tên thuốc độc bắn như mưa, lửa cháy ngất trời. Đến canh năm, giặc thua và tan

vỡ. Hầu Sư Đạt tử trận. Quân địch bị lạc đường và bị vây hãm. Lê Tắc dẫn các tướng Nguyên chạy vì hắn thuộc đường.

Con Trần Ích Tắc là Trần Dục lên 9 tuổi được hắn cắp trên mình ngựa. Bấy giờ, quân còn độ 60 tên, bọn Tắc liều chết

chạy được về Tàu, suýt chết nhiều lần. Mỗi ngày họ phải chạy đến vài trăm dậm, từ nửa đêm đến mờ sáng mới về tới ải

Châu Chiên là đất nhà Nguyên. Ngày 29 tháng chạp, A Bát Xích theo dọc bờ phía Đông sông Cái phá cửa Hàm Tử.

Vua Trần lui giữ ải Hải Thị nhưng rồi cũng bị đánh lui. Ngày 30 tháng chạp, trước khi mở mặt trận đồng bằng, Thoát

Hoan sai Hữu thừa Trịnh Bằng Phi, Tả thừa A Lý và Lưu Giang đem hai vạn quân đánh Vạn Kiếp lấy làm căn cứ. Ở đây

lực lượng của đại quân Hưng Đạo Vương đã rút gần hết để về giữ Thanh Long. Giặc đắp rào lũy bằng cây gỗ ở hai núi

Phả Lại và Chí Linh, đặt đồn ải và chứa lương thực. Hai làng Bàng Hà và Bà Điểm hàng giặc. Trong lúc này, A Bát Xích

và Ô Mã Nhi đang hợp binh vượt sông Cái tiến vào Thăng Long. Hưng Đạo Vương chống trả kịch liệt, trong khi đó xa

giá tạm lánh về Hà Nam. Ô Mã Nhi đuổi gấp hai vua Trần, Thượng Hoàng và Nhân Tông xuống thuyền chạy ra bể đi

vào Thanh Hóa. Theo không kịp, Ô Mã Nhi đem quân quay lại phủ Long Hưng, biết ở đây có Chiêu Lăng là lăng tổ nhà

Trần, cho khai quật nhưng không xâm phạm đến tử cung (quan tài nhà vua làm bằng gỗ tử, gọi là tử cung) rồi do đường

biển, Ô Mã Nhi đi đón thuyền lương của Trương Văn Hổ. Mồng 4 tháng giêng năm Mậu Tí (1288), Thoát Hoan lui về

căn cứ ở Bắc Giang và Hải Dương (Vạn Kiếp - Chí Linh- Phả Lại) sau cuộc tấn công vô hiệu vào Thăng Long. Hưng

Đạo Vương tiến quân và đặt doanh trại trông thẳng về chiến thuyền của giặc. Thấy quân Nguyên rút, hai vua Trần lại ra

Bắc. Mồng 8 tháng giêng địch thua lớn ở cửa Đại Bàng (huyện Nghi Dương tỉnh Hải Dương). Địch chết đuối rất nhiều, ta

bắt được 300 tiểu thuyền.    

Trận Vân Đồn. 

 Mặt trận đồng bằng không đem lại những kết quả mong muốn, lương thực lại sắp cạn, thuyền lương do Trương Văn Hổ

áp tải vẫn chưa thấy đâu, Thoát Hoan liền hạ lệnh cho Ô Mã Nhi cấp tốc đi tìm. Ô Mã Nhi tiến ra tới Vân Đồn thì gặp

phải sự cản trở của Nhân Huệ vương Trần Khánh Dư. Vì tình thế lương thực nguy kịch đến nơi, Ô Mã Nhi phải cố đánh.

Quân của Trần Khánh Dư bị bại, thuyền quân Nguyên vì vậy được thẳng tiến ra bể. Nghe thủy quân Vân Đồn bị bại,

Thượng Hoàng cho đòi Khánh Dư về trị tội. Khi sứ đến, Khánh Dư đang tính cuộc phục thù, đoán rằng Ô Mã Nhi đi rồi

tất thuyền lương phải tới sau, Khánh Dư xin hoãn vài hôm để lấy công chuộc tội. Quả nhiên, ngày 11 tháng giêng năm

Mậu Tí (1288), thuyền lương của Văn Hổ tới. Lúc này gặp được Trương Văn Hổ, Ô Mã Nhi quay trở về giữ việc dẹp

đường. Ô Mã Nhi nghi quân ở Vân Đồn vừa bại ắt không còn gì khó khăn, cứ việc ruổi thẳng. Khánh Dư lặng lẽ để Ô

Mã Nhi đi qua, cho thuyền lương từ từ tiến vào cửa Lục (Lục Thủy Dương là cửa biển gần Hòn Gay ở Đông Nam huyện

Hoành Bồ tỉnh Quảng Yên). Tại đây thuyền lương mắc cạn. Quân ta phục sẵn ùa ra đánh, thuyền của địch bị đắm gần

hết. Ta tịch thu và phá được rất nhiều quân lương khí giới của họ. Riêng Trương Văn Hổ chạy thoát về Quỳnh Châu

(Quảng Đông) bằng một chiếc thuyền nhỏ40. Khánh Dư đưa tin thắng trận và việc cướp phá được thuyền lương của giặc

về báo tiệp được xá tội. Thượng Hoàng bàn với Hưng Đạo Vương thả một số tù binh về để Thoát Hoan và binh sĩ Mông

tuyệt vọng. Đây là một đòn rất nặng đánh vào tinh thần của địch. Đúng như lời xét đoán, quân Nguyên nghe nói lương

thảo khí giới bị phá hủy, ai nấy đều xôn xao và muốn trở về hết. Ý chí chiến đấu của họ sụp đổ trông thấy. Còn Ô Mã

Nhi ở Ải Vân Đồn trở về, chờ mãi không thấy thuyền lưong liền đánh phá ở trại An Hưng rồi đóng giữ Vạn Kiếp.            

 [40 Theo Cương Mục quyển 8, tờ 4a - 5b, thì thuyền lương của giặc bị cướp phá ở cửa Lục. Còn Toàn Thư quyển 5, tờ

54a-b nói Trương Văn Hổ bị bại ở Bạch Đằng. ]    

Trận Bạch Đằng. 

 Trần triều đến giờ phút này đã hiểu rõ ưu thế của mình và sự cùng quẫn của giặc. Sau trận cửa Lục, giặc thiếu ăn, đêm

đến lại bị đột kích phá đồn. Quân giặc thiếu ăn, thiếu ngủ, không còn thiết gì nữa ngoài việc chia nhau đi cướp bóc dân

chúng. Thần Nở tổng quản là Giải Nhược Ngu bàn với Thoát Hoan: "Quân ta ở đây thành trì không có, khí trời nóng nực,

các chỗ hiểm yếu đều mất, kho tàng cạn sạch, chi bằng hãy rút quân về rồi sẽ liệu kế khác". Thoát Hoan thấy quân ta

mạnh cũng nản nói: "Đất thì nóng nực, khí trời ẩm thấp, lương thiếu quân mệt..." Tướng hiệu trong thủy quân bàn nên phá

hủy thuyền bè rồi cùng nhau kéo bộ mà về. Thoát Hoan toan nghe nhưng tả hữu cản ngăn nên việc này bỏ đi. Sau đó Ô

Mã Nhi, Phàn Tiếp được lệnh dẫn thủy quân theo đường Bạch Đằng giang, còn Trịnh Bằng Phi và Trương Quán làm hậu

tập để hộ vệ cho y chạy theo đường bộ. Trong lúc giặc lúng túng thì quân ta được Hưng Đạo Vương phân phối đi mai

phục các ngả. Mặt bộ, ngài cho đào các hầm hố đánh bẫy ngựa, quân phục kích, truy kích có nhiệm vụ cắt đường, phá

cầu cống ở những lối giặc phải chạy qua. Mặt thủy, ngài cho đóng các cọc sắt ở thượng lưu sông Bạch Đằng trên phủ bè

cỏ để đợi giặc (kế này được dùng đầu tiên do quân Ngô Quyền phá quân Nam Hán) Nguyễn Khoái phục binh ở đây chờ

nước thủy triều lên thì ra khiêu chiến, dụ giặc qua chỗ đóng cọc, chờ khi nước thủy triều rút quay lại phản công. Phạm

Ngũ Lão và Nguyễn Chế Nghĩa phục kích ở cửa ải Nội Bàng (thuộc Lạng Sơn). Việc bố trí xong, Hưng Đạo Vương hô

quân sĩ trỏ xuống Hóa Giang cùng thề: "Trận này không phá được giặc thề không trở lại khúc sông này nữa!" Sau lời

quyết liệt này, quân ta kéo thẳng tới sông Bạch Đằng. Ngày mồng 7 tháng ba, chu sư Mông Cổ rút đến Chúc Động.

Quân ta đổ ra công kích bị tướng giặc Lưu Khuê đánh lui bắt được của ta 20 chiếc thuyền. Ngày hôm sau Ô Mã Nhi

cùng tới nơi. Hai bên xô xát. Quân ta giả thua bỏ chạy. Giặc tung hết lực lượng đuổi theo. Bấy giờ, con nước rút xuống

mau chóng. Nguyễn Khoái nhử giặc đi khỏi chỗ đóng cọc một quãng xa, rồi quay thuyền trở lại đánh kịch liệt. Quân của

Hưng Đạo Vương tiếp đến. Giặc thấy ta mạnh quá rút lui tới khúc sông có cọc. Thuyền giặc mắc cọc chìm đắm hết.

Trước thế nguy cập, Ô Mã Nhi phải cầm đầu toán tinh binh, ra nghênh chiến. Ngay lúc này, hai vua Trần cũng đến tung

quân ngũ doanh ra bốn mặt. Ô Mã Nhi thấy nguy liền thu nhặt binh thuyền định chạy nhưng không kịp. Quân Nguyên

chết vô kể, mặt sông đỏ ngầu máu giặc. Bốn trăm thuyền của địch bị ta tịch thu. Nội minh tự Đỗ Hành bắt được Ô Mã

Nhi, Phàn Tiếp và Tích Lệ Cơ Ngọc đem đến dâng Trần Thánh Tông. Ngài cho cùng ngồi, ôn tồn nói chuyện, niềm nở

rót rượu mời uống. (Toàn thư quyển 5, tờ 54b).    

Việc Truy Kích Thoát Hoan. 

 Thoát Hoan nghe tin thủy quân tan vỡ hết, vội cùng bọn Trịnh Bằng Phi, A Bát Xích, Áo Lỗ Xích, Trương Quán và

Trương Ngọc dùng đường bộ cấp tốc tháo lui. Đến cửa Nội Bàng, Phạm Ngũ Lão đổ ra đánh. Vạn hộ Trương Quán với

ba nghìn quân cố sống chết đánh để mở lối cho Thoát Hoan qua cửa ải. Trong dịp này, Trương Quán tử trận. Giặc nghe

nói quân ta đông như kiến từ ải Nữ Nhi đến núi Khưu Cấp và Đằng Giang trên một trăm dặm, càng hoảng sợ. Phía sau

lại có quân đội đuổi theo. Thoát Hoan vội vàng sai A Bát Xích, Trương Ngọc mở đường, còn Áo Lỗ Xích đi đoạn hậu.

Quân ta chiếm đóng trên núi cao bắn tên thuốc độc xuống như mưa rào. Trương Ngọc và A Bát Xích chết tại trận, xác

tướng sĩ bên Nguyên chết ngổn ngang, chất thành đống. Trịnh Bằng Phi hết lòng hộ vệ Thoát Hoan lại nhờ Châu mục

châu Tư Minh là Hoàng Kiện dẫn đi đường tắt, Thoát Hoan mới thoát về được tới châu Tư Minh. Áo Lỗ Xích nhặt nhạnh

được ít tàn quân cũng về được tới Yên Kinh ít ngày sau. Quân ta toàn thắng, Hưng Đạo Vương hội các tướng rước xa

giá về kinh sư. Tới Long Hưng, bọn tướng Nguyên là Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp, Tích Lệ, Cơ Ngọc, Sầm Đoan... phải vào lễ

hiến phù ở Chiêu Lăng. Nhận thấy giang san sau ngày giông tố lại được vui tươi, Thượng Hoàng có làm hai câu thơ để

làm kỷ niệm: Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã Sơn hà thiên cổ điện Kim âu dịch nôm: Xã tắc hai phen bon ngựa đá, Non

sông muôn thuở vững âu vàng.     

Cuộc Giảng Hòa. 

  Nhà Nguyên dù thua trận luôn ba phen liền trong khoảng 30 năm, nhưng uy thế trong ngoài còn mạnh lắm. Đối với họ,

dù sao nước ta cũng chỉ là một tiểu quốc; chiến tranh liên miên chỉ hại cho nguyên khí dân tộc. Tránh voi không xấu mặt,

Trần triều nghĩ vậy nên tháng 10 năm Mậu Tí (1288), sai quan Đỗ Thiên Thu sang sứ xin cống hiến như trước. Nhà

Nguyên tuy rất căm giận vì cái nhục bại trận, nhưng cũng đã nản về cuộc xâm lược nước Nam nên đành chấp thuận cuộc

thông hiếu. Nhưng trong cuộc giao thiệp mấy năm sau chiến tranh, Nguyên chủ vẫn có ý buộc ta một điều là vua Trần

phải sanh chầu rồi phái Thượng thư Trương Lập Đạo qua An Nam về việc này. Vua Nhân Tông lấy cớ đang có tang

không đi và sai quan là Nguyễn Đại Pháp thay mặt xin khất sang năm sẽ tuân lệnh. Năm sau, nhà Nguyên không thấy vua

Trần sang, lại cử Lễ bộ Thượng thư Lương Tằng sang giục. Nhân Tông cũng không đi, lại sai Đào Tử Kỳ đưa đồ vật

sang cống. Nguyên triều giận lắm, giam Đào Tử Kỳ ở Giang Lăng rồi cử Lưu Quốc Kiệt và các tướng sửa soạn binh

lương. Trần Ích Tắc được đi theo và sẽ hội ở Tràng Sa. Giữa lúc này Nguyên Thế Tổ (Hốt Tất Liệt) mất. Nguyên Thánh

Tông lên ngôi bãi việc binh và sứ giả An Nam được thả về. Từ đó nhà Nguyên không gây sự với nước ta nữa.

Tháng hai năm Kỷ Sửu, niên hiệu Trung Hưng thứ năm (1289) Trần triều cử Tòng Nghĩa Lang Nguyễn Thịnh trao trả tù

binh Tích Lệ Cơ Ngọc được về trước. Phàn Tiếp phải bệnh chết được hỏa táng. Hai vợ lớn nhỏ được cấp ngựa đem nắm

tro tàn của hắn về nước. Các đầu mục khác cũng được lên đường. Duy Ô Mã Nhi, trong mấy chuyến qua đây có nhiều

hành động hung tàn, bạo ngược khiến người nước ta ai nấy đều vô cùng ta thán. Chẳng những y cướp của, giết người, đốt

pha làng mạc, y còn khai quật cả lăng tẩm của vua Trần Thái Tông ở Long Hưng (nay ở làng Thái Dương, huyện Hưng

Nhân tỉnh Thái Bình). Nhưng nói cho phải, việc phá phách này giữa người cùng giống còn thường xảy ra huống hồ giữa

hai địch quốc; y còn cố lùng bắt hết sức ráo riết vua Trần Nhân Tông và Thượng Hoàng. Trong Quốc thư hồi tháng 10

năm Mậu Tí (1288), vua Nhân Tông đã bộc lộ lòng hờn giận viên tướng này với Nguyên chủ. Nhân Tông viết: "Tham

chính nói với người bắn tín cho tôi biết rằng "ngươi (chỉ vua Nhân Tông) lên trời thì ta (Ô Mã Nhi) cũng lên trời, ngươi

trốn xuống nước thì ta cũng lội xuống nước ngươi trốn lên núi thì ta cũng trèo lên núi. Rồi trăm khoanh hủy nhục, không

sao nói siết!" (Nam sử tạp biên, quyển 2 tờ 19b - 20a). Sau đó, Nhân Tông theo mật kế của Hưng Đạo Vương hạ lệnh

kết liễu đời viên tướng đại ác đó. "Hại người, người hại". Nội thủ gia Hoàng Tá Tôn được cử tiễn Ô Mã Nhi về đường bể

nhưng ngầm sai một vài thủy thủ có biệt tài lội nước đang đêm đục thuyền: Ô Mã Nhi chết đuối. Việc này khiến cuộc giao

thiệp giữa Nguyên và ta một thời rất gay go. Tháng ba năm Kỷ Sửu (1289) vua Trần phải gửi cho vua Chí Nguyên bên

Mông Cổ một bức thơ để biện bạch. Sau nhà Nguyên cũng đành bỏ việc này không căn vặn nữa (Cương Mục quyển 8,

tờ 11a-b). Tháng tư năm Kỷ Sửu (1289) tức là sáu năm chiến tranh Trần triều đem các công tội của các vương hầu

tướng lĩnh và dân thứ ra xét xử theo nguyên tắc dưới đây: - Các vương hầu lập được công trạng đều được tăng trật, các

tướng sĩ khác họ nếu có công to được đổi quốc tính (nhập vào họ nhà vua). Nguyễn Khoái được phong tước hầu, ăn lộc

một làng (làng Khoái Lộ tức phủ Khoái Châu bây giờ). Phạm Ngũ Lão được phong Quản Thánh dực quân. Các tù

trưởng Mán, Mường có công cũng được phong hầu. Triều đình lại cho vẽ tranh các tướng trên đây để treo trong gác

công thần và ghi lý lịch cùng công lao của họ vào một cuốn sách gọi là Trung hưng thực lục. Còn với những kẻ hàng giặc,

làm tay sai cho giặc có bằng cớ rõ rệt thì xử tử hay phạt lưu (trường hợp bọn Trần Kiện, Trần Văn Lộng tuy đã chết, con

cháu phải đổi ra họ Mai. Trần Ích Tắc vì tình cận thân nên nhà vua không nỡ tước họ nhưng phải gọi là Ả Trần, nghĩa là

nhút nhát như đàn bà). Ngoài ra khi giặc Nguyên thua chạy, quân ta có bắt được một tráp biểu hàng của các quan. Xét ra

khi quân Nguyên đang mạnh, quan lại nhiều kẻ hai lòng đã làm giấy tờ giao thông với giặc. Thượng Hoàng mở lượng

khoan hồng cho đốt cả tráp đi. Các quân dân cũng được tha thứ, duy dân hai làng Băng Hà và Bà Điểm phải đồ làm lính

mãi mãi (Trường hợp hai làng này nặng nề bởi họ đã vì mối tử thù của họ Lý mà theo giặc).

Xong việc định công luận tội, Thượng Hoàng về phủ Thiên Trường và mất vào tháng 5 năm Canh Dần (1290). Vua Nhân

Tông sai sứ sang Tàu cáo tang và xin phong.     

Chiến Pháp Của Trần Hưng Đạo. 

 Chúng tôi xin kể lại vài nguyên tắc tổng quát trong chiến pháp của Hưng Đạo Vương mà chúng ta không những thấy nó

sâu sắc về mặt chiến thuật, chiến lược còn có giá trị đặc biệt cả về chính trị nữa. Với Hưng Đạo Vương, nghệ thuật đánh

giặc là một chuyện, người làm tướng còn phải là nhà chính trị lỗi lạc. Và chính trị phải dựa vào chính sách thân dân cùng

tinh thần dân chủ. Ngày 20 tháng tám năm Canh Tí (1300) Hưng Đạo Vương mất. Trước khi lâm chung, vua Anh Tông

đến bên giường bệnh của ngài vừa để thăm viếng, vừa có ý vấn kế. Vua Anh Tông hỏi: "Rủi khi Đại Vương khuất núi đi

rồi, giặc Bắc lại sang, thì đối phó như thế nào?" Ngài đáp: xưa Triệu Vũ Đế lập quốc, vua Hán cất quân sang đánh. Triệu

Vũ Đế cho dân đốt phá sạch quang đồng nội không để quân địch cướp bóc lương thảo rồi đem đại binh ra châu Liêm,

châu Khâm, đánh Tràng Sa, dùng đoản binh đánh úp như sau: đó là một thời. (Hưng Đạo Vương lầm ở chỗ này: Triệu Đà

đóng đô ở Phiên Ngung, đem binh đánh thẳng Tràng Sa, có lẽ Ngài nghĩ rằng Vũ Vương đóng đô ở nước ta). "Đời Đinh,

đời Lê lựa dùng được người hiền lương. Bấy giờ bên Bắc đang mỏi mệt, suy yếu, còn bên Nam thì mới mẻ hùng cường,

trên dưới đồng một ý, lòng dân không chia rẽ đắp thành Bình Lỗ mà phá được Tống; đó là một thời. "Nhà Lý dựng

nghiệp, quân Tống nhòm ngó bời cõi, Lý triều dùng Lý Thường Kiệt đánh Khâm Liêm, tiến đến Mai Lĩnh: đó là có thế

làm được. "Trước đây Toa Đô, Ô Mã Nhi vây ta bốn mặt. Chúng ta vua tôi đồng tâm, anh em hòa thuận, cả nước hợp

sức chúng mới bị bắt: đó là lòng trời xui nên. "Đại khái kẻ kia cậy trường trận, ta có đoản binh: lấy đoản chế trường, đó là

thói thường của binh pháp. Quân địch ầm ầm tràn đến như lửa, như gió, thế ấy dễ trị. Nếu nó dùng chước tầm ăn lá dâu,

không cần mau thắng, không cướp bóc lương dân thì ta phải lựa dùng lương tướng, xem tình hình mà liệu quyền biến như

đánh cờ vậy. Nhưng phải tùy từng lúc mà chiến đấu cốt có binh tướng thân tín như tình cha con thì mới dùng được. Và

phải nới lỏng sức dân để làm cái chước rễ sâu gốc vững. Đó là phương sách giữ nước hay hơn cả (Toàn thư quyển 6, tờ

8b-9b; Cương Mục quyển 8, tờ 31a-32a). Coi qua mấy nguyên tắc trên, ta thấy Hưng Đạo Vương đã nghiên cứu rất kỹ

lịch sử chiến tranh từ thượng cổ giữa Bắc phương và chúng ta. Những cuộc kháng chiến bằng lối dĩ đoản chế trường đã

áp dụng nhiều lần kể từ Tây Âu Việt chống quân Tần, Triệu Vũ Đế đánh Hán, Triệu Quang Phục tập kích quân Lương ở

Dạ Trạch v.v... Trong các cuộc chiến tranh này các danh tướng trên đây đã khéo xử dụng các đặc điểm và ưu điểm địa

phương nên thâu lượm được mọi thắng lợi. Các danh tướng đời sau này cũng có nhiều người làm nên sự nghiệp rực rỡ

trong cuộc chống xâm lăng không mấy ai bỏ qua các phương pháp hiệu lực đó.     

IV.  Trần Anh Tông (1293-1314) 

Nhà Trần kể từ vua Thái Tông đến Anh Tông là một giai đoạn cường thịnh nhất. Vua thời đáng liệt vào hạnh Thánh, bề

tôi vào bậc Thần nên đã lập được những sự nghiệp bất hủ trong sử xanh. Sử gia Trần Trọng Kim chia đời Trần làm ba

thời kỳ để đánh dấu tính cách đặc biệt của mỗi thời kỳ thật là xác đáng. a) Thời kỳ thứ nhất là thời kỳ hết sức oanh liệt và

có nhiều việc khó khăn. b) Thời kỳ thứ hai là thời kỳ thái bình yên trị tuy thỉnh thoảng cũng có các cuộc phiến động ở nơi

biên viễn. c) Thời kỳ thứ ba là thời kỳ họ Trần xuống dốc dần để tới chỗ cáo chung sứ mệnh Lịch sử. Thay vua Nhân

Tông là Thái Tử Trần Thuyên tức vua Anh Tông. Anh Tông khác với các tiên đế ở chỗ tính tình phóng túng và tuy ra cầm

vận mệnh quốc gia giữa lúc trẻ tuổi, nhưng nhà vua có điểm khả quan là có tinh thần cấp tiến, biết bài trừ các điều dị

đoan hủ bại. Có những đêm Ngài lẻn ra ngoài hoàng cung để chơi phiếm, một đôi khi bị kẻ vô lại phạm đến. Ngài lại hay

uống rượu. Một hôm Thượng Hoàng Nhân Tông từ Thiên Trường về kinh. Các quan đều có mặt ở nơi đón tiếp, duy chỉ

thiếu có nhà vua. Lúc này Ngài đang say nằm ngủ không ai dám đánh thức. Thượng Hoàng giận lắm liền truyền xa giá lập

tức trở về Thiên Trường và hạ lệnh cho các quan phải về đấy để bàn việc. Anh Tông tỉnh giấc biết tin sợ quá vội vàng

chạy theo. Ra khỏi cung Ngài gặp Đoàn Nhữ Hài Khi đó còn là một học trò Ngài mượn Nhữ Hài làm ngay bài biểu tạ tội

rồi cùng Nhữ Hài ngày đêm về tới Thiên Trường. Thượng Hoàng xem biểu xong quở trách một hồi rồi tha tội cho Anh

Tông. Trở về kinh, Đoàn Nhữ Hài được phong làm Ngự Sử trung tán và từ đấy vua Anh Tông không uống rượu nữa.

Theo cổ tục các vua An Nam đều lấy chàm vẽ rồng vào đùi. Vua Anh Tông không chịu theo phong tục đó. Thượng

Hoàng có lần dục nhà Vua: "Người nước ta vẫn vẽ mình để nhớ lấy gốc, nhà vua phải theo tục ấy mới được". Bề ngoài

vua Anh Tông vâng lệnh nhưng rồi Thượng Hoàng bận việc quên đi, Ngài cũng lờ luôn không cho vẽ nữa. Từ đấy về sau

các vua chúa của ta cho việc bãi bỏ cổ tục vẽ mình của vua Anh Tông là hợp lý nên phong tục này không còn nữa. Vua

Anh Tông đau nặng, Hoàng Hậu cho mời thầy tăng cầu đảo làm lễ xem việc sinh tử của Ngài. Nhà vua cự tuyệt nói:

"Thầy tăng đã chết đâu mà biết được việc chết". Vua Anh Tông ham vẽ. Ngài làm được tập Thủy Vân tùy bút, khi sắp

mất Ngài cho đốt đi. Tóm lại vua Anh Tông là một ông vua có hiếu và thông minh, nhờ vậy việc triều đình thời đó được

tốt đẹp. Phép nước được nghiêm trang, việc văn học mở rộng, dân chúng được no yên, thật là một thời thịnh đạt. Các đại

thần đều là những người trung chính như Trương Hán Siêu, Phạm Ngũ Lão, Mạc Đĩnh Chi, Nguyễn Trung Ngạn ... Dưới

đời Anh Tông mấy việc quan trọng đã xẩy ra: Thượng Tướng Trần Quang Khải, người anh hùng trong trận Chương

Dương mất năm Giáp Ngọ (1294). Hưng Đạo Vương tạ thế ngày 20-8 năm Canh Tý (1300). Về phía Tây Nam, nước ta

bị giặc Lào thường hay sang quấy nhiễu ở hai địa phận lân cận là Thanh Hóa và Nghệ An. Vua Anh Tông mấy lần tự đem

quân đi đánh dẹp. Quân Lào rút về nhưng lợi dụng được thế rừng núi hiểm trở, ẩn nấp dễ dàng nên luôn xuất hiện, quan

quân về thì họ lại sang cướp phá mặc dầu có lần họ bị giết hại rất nhiều. Sau đến Phạm Ngũ Lão xuất binh, Thanh-Nghệ

mới được yên ổn trở lại. Với Chiêm Thành, từ khi nhà Trần dấy nghiệp không có động dụng đến binh đao. Vua Nhân

Tông sau khi đánh dẹp giặc Lào trở về liền đi tu tại chùa Võ Lâm (chùa này lấy tên làng Võ Lâm là nơi dựng chùa thuộc

phủ Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình) sau về Yên Tử Sơn (Quảng Yên). Năm Tân Sửu (1301) Ngài qua Chiêm Thành du lịch

gặp Chiêm Vương và Chế Mân. Ngài hứa gả Huyền Trân công chúa. Sau khi ngài trở về, Chế Mân cho sứ mang vàng

bạc và các quý vật sang cống cùng xin cưới. Triều đình nhiều người không tán thành cuộc tình duyên Việt-Chiêm này.

Chế Mân phải dâng hai Châu Ô và Lý (Địa Lý và Bố Chính) để làm lễ cưới, bấy giờ vua Anh Tông và triều đình mới

quyết định. Tháng 6 năm Bính Ngọ (1306) Huyền Trân lên đường. Năm sau Trần triều thu nhận hai châu này đặt tên mới

là Hóa Châu và Thuận Châu, Đoàn Nhữ Hài được cử vào việc thiết lập guồng máy cai trị ở đây. Huyền Trân công chúa

cùng Chế Mân xum họp chưa được một năm thì Chế Mân tạ thế. Theo tục Chiêm Thành, vua mất, các phi hậu phải lên

đàn hỏa chết theo. Anh Tông được tin liền phái Trần Khắc Chung mượn tiếng sang viếng thăm rồi lập kế đưa được

Huyền Trân về nước. Việc này có lẽ đã gây mối bất bình trong lòng người Chiêm nên Chế Chí lên kế nghiệp Chế Mân ít

lâu thì có sự bãi bỏ lời giao ước cũ. Rồi người Chiêm đã dùng võ lực cướp lại đất đai dùng làm lễ cưới Huyền Trân công

chúa khi xưa. Trần triều phản ứng liền: vua Anh Tông cùng Huệ Võ Vương Trần Quốc Chân và Nhân Huệ Vương Trần

Khánh Dư kéo ba đạo quân tới đất Chiêm. Nước Chiêm thua trận, quốc vương bị bắt đem về An Nam. Vua Anh Tông

cử em Chế Chí là Chế Đà A Bà lên thay. Chế Chí bị giam lỏng ở Gia Lâm và được phong làm Hiếu Thuận Vương chẳng

bao lất thì mất. Vua cho hỏa táng và từ đó mối thù Việt-Chiêm càng ngày càng lớn. Năm Mậu Thân (1308) Nhân Tông

mất ở chùa Yên Tử. Sáu năm sau Anh Tông lên làm Thái Thượng Hoàng về nghỉ ngơi ở Thiên Trường, đến năm Canh

Thân (1320) thì qua đời. Thái Tử Mạnh lên ngôi năm Giáp Dần (1314). Vua Anh Tông trị vì được 21 năm thọ 54 tuổi.    

Việc Gả Huyền Trân Công Chúa Cho Chiêm Vương. 

Về việc gả Huyền Trân công chúa cho Chế Mân tới khi người đẹp trở về đất Việt, các thi nhân và văn gia đời sau đã viết

nên nhiều giai thoại. Các giai thoại này rất được truyền tụng. Xin kể ra đây một bài Đường luật của Hoàng Thái Xuyên về

cuộc bang giao Việt-Chiêm thuở ấy:

Đổi chác xưa nay khéo nực cười, Vốn đà chẳng mất lại thêm lời. Hai châu Ô Lý vuông nghìn dặm, Một gái Huyền Trân

đáng mấy mươi. Lòng đỏ khen ai lo việc nước, Môi son phải giống mãi trên đời. Châu đi rồi lại châu về đó. Ngơ ngẩn

nhìn nhau một lũ Hời. và cũng do nguồn cảm hứng này, bài ca Nam Bình ra đời đến nay còn du dương giữa cung đàn nhịp

phách bên bờ sông Hương. Tác giả đã dùng lối văn tự sự tả nỗi lòng bi đát của nàng rất là tế nhị. Nước non ngàn dậm ra

đi, mối tình chi. Mượn màu son phấn, đền nợ Ô-Ly, Đắng cay vì, đương độ xuân thì Số lao đao hay là nợ duyên gì? Má

hồng da tuyết, quyết liều như hoa tàn trăng khuyết, Vàng lộn với chì, Khúc ly tao cớ sao mà mường tượng Nghê thường!

Thấy chim hồng nhạn bay đi, tình tha thiết. Bóng dương hoa quỳ Nhắn một lời Mân quân, nay chuyện mà như nguyện,

Đặng vài phân, vì lợi cho dân, Tình đem lại mà cân. Đắng cay trăm phần ... Ngoài ra thời nhân có câu ca dao rất chua

chát, thương xót cảnh "ngọc lầm cát bụi, vàng lộn với chì": Tiếc thay cây quế giữa rừng Để cho thằng Mán thằng Mường

nó leo.

Về việc vua Nhân Tông Thượng Hoàng và triều đình của Ngài quyết định gả Huyền Trân cho Chế Mân, ta thấy rõ rệt

việc hôn nhân này đã vì lý do chính trị hơn là bởi Trần triều muốn lấy hai châu Ô, Lý để mở rộng cương thổ nước ta. Khi

Thượng Hoàng hứa gả Huyền Trân thì chỉ là vấn đề thắt chặt tình thân thiện Việt-Chiêm, đâu có đả động đến việc đem ả

thuyền quyên đổi lấy hai châu Địa Lý và Bố Chính? Sự thực vua Nhân Tông thấy Chiêm Thành cho đến thời đó là một

dân tộc hiếu chiến và cũng hùng cường. Không kể từ đầu thế kỷ thứ nhất họ từng đem quân quấy nhiễu nước ta. Trong

hai lần chót quân Mông Cổ xâm lăng Việt Nam, một lần Chiêm a tòng với Mông Cổ đánh thốc vào hậu tuyến của quân

ta, một lần Chiêm Thành hợp với ta chống lại Toa Đô, vậy Chiêm có thể là một điều lợi hay hại. Gả công chúa cho Chiêm

Vương, vua chúa nhà Đông A không ngoài ý dùng Chiêm làm phên dậu và bớt thêm một kẻ địch luôn luôn rình ở kẽ nách

không phải là không nguy hiểm. Đó là chính sách Nam Thùy. Nhà Lý trước đây muốn bành trướng về Tả Giang đã gả

nhiều công chúa cho các Châu Mục ở thượng du Bắc Việt, Trần triều gả Huyền Trân lại được làm mẫu quốc Chiêm

Thành thì lại càng nên lắm. Còn chuyện đòi hai châu Ô-Lý chỉ là nhân dịp tốt để mở rộng cương vực chớ không phải là

vấn đề chính. Duy việc Trần Khắc Chung lập mưu đưa Huyền Trân trở về nước sau khi Chiêm Vương qua đời, muốn sao

ta cũng phải nhận là một việc bất tín với Chiêm Thành thì phản ứng của nước Chiêm là lẽ dĩ nhiên và chính đáng. Chỉ tiếc

cho họ vì hèn yếu nên phản ứng đó chỉ đưa thêm lại sự bất lợi. Còn về thi ca trong dịp này ta nhận thấy dân tộc ta đối với

Chiêm quốc có một sự kiêu hãnh rõ rệt, một sự kiêu hãnh thường có giữa kẻ lớn đối với kẻ nhỏ, cũng như thái độ của

Bắc triều đối với các tiểu quốc, chẳng vậy trong các bài thi ca trên đây đã có những câu: "Ngơ ngẩn nhìn nhau một lũ Hời"

... "Vàng lộn với chì" ... "Để cho thằng Mán thằng Mường nó leo ... Đã mất người mất của lại còn bị khinh bỉ, người

Chiêm vì được nghe lời ca dao hay các bài thơ, bài ca trên đây không khỏi có sự buồn tủi. Còn người Việt đã thắng một

canh bạc không lương thiện lắm lại còn ra bộ não nùng xót xa... Cuộc bang giao Việt-Chiêm trong giai đoạn này quả là

một thiên bi hài kịch. Duy có một người để nói một điều gì, đó là Huyền Trân công chúa bởi nàng đã là một nạn nhân của

một tấn tuồng chính trị.   

V.  Trần Minh Tông (1314-1329) 

Thái Tử Mạnh lên ngôi lấy hiệu là Minh Tông. Với Minh Tông hùng khí của họ Đông A không còn nữa, từ năm Đại

Khánh (1314) đến năm Đại Trị (1358) là năm Minh Tông qua đời. Trong khoảng thời gian này các danh thần như Trương

Hán Siêu, Nguyễn Trung Ngạn cũng lần lượt mất cả. Sự tiến bộ của dân tộc ngưng hẳn lại, không có một việc gì mở

mang đặc sắc, vua quan chỉ lo hưởng cuộc thái bình của tiền nhân để lại. Tuy vậy, khi Minh Tông ở ngôi, nước còn được

yên ổn và chưa đáng bi quan lắm. Về phía Bắc mặc dầu có một vài sự lôi thôi trong việc phân chia địa giới với Trung

Quốc nhưng sau cũng đi đến chỗ ổn thỏa. Về phía Nam từ ngày Chế Chí bỏ xương trên đất Đại Việt, người Chiêm rất

căm giận thường có những cuộc quấy rối ở các nơi kế cận của ta. Năm Mậu Ngọ (1318) đại quân của Huệ Vũ Vương

Trần Quốc Chân và tướng quân Phạm Ngũ Lão tấn công vào đất Hời. Chiêm Vương Chế Năng bại trận bỏ thành chạy

trốn. Việc chính trị không có gì mới lạ hay đặc biệt, duy năm Ất Mão (13150 triều đình cấm mọi việc tranh tụng trong dân

chúng cùng họ. Năm sau có việc xét định lại cấp bậc các quan văn võ. Năm Quí Hợi (1323) có mở khoa thi Thái Học

Sinh (Người trúng khoa thi này ngang với chức tiến sĩ các triều sau). Cùng năm ấy triều đình chính thức cấm binh sĩ vẽ

mình, từ đấy về sau tục này bị bãi bỏ hẳn. Một việc không hay xẩy ra dưới đời vua Minh Tông, đó là chuyện giết oan Huệ

Võ Vương Trần Quốc Chân, một lão tướng từng lập được nhiều chiến công từ thời kháng Nguyên cho đến các vụ chinh

phạt Chiêm Thành sau này. Trần Quốc Chân là thân sinh của Hoàng Hậu. Hoàng Hậu lâu không sinh hoàng nam. Triều

thần bấy giờ chia ra làm nhiều phe. Phe muốn làm giảm bớt thế lực của Huệ Vũ Vương xin lập hoàng tử Vượng con bà

phi lên làm Thái Tử do Văn Hiến Hầu Trần Khắc Chung cầm đầu. Phe Huệ Võ Vương xin chờ Hoàng Hậu có thai rồi

mới bàn đến việc lập ngôi thái tử. Để hạ địch thủ, phe Văn Hiến Hầu dùng một độc kế: mua chuộc tên Trần Nhạc đày tớ

của Huệ Võ Vương bằng 100 lạng vàng. Trần Nhạc tố cáo Huệ Võ Vương mưu phản. Kết quả, Huệ Võ Vương bị đem

giam vào chùa Tư Phúc. Được Minh Tông nghe, Trần Khắc Chung đề nghị cấm luôn việc tiếp tế cơm nước cho Huệ Võ

Vương, có ý để Huệ Võ Vương chết đói lấy cớ rằng bắt hổ thì dễ tha hổ thì khó. Hoàng hậu đến thăm cha, biết mưu gian

của bọn Trần Khắc Chung mặc áo ướt vào ngục rồi cởi áo này cho cha vắt lấy nước uống. Vị lão tướng uống xong rồi

chết. Sau này vì chuyện ghen tuông với vợ lẽ, vợ cả Trần Nhạc đi tố cáo mưu gian kể trên, bấy giờ triều đình và dân gian

mới hiểu nỗi oan của người quá cố. Bình luận về Minh Tông, sử thần trước đây cho Ngài là một ông vua nhân hậu,

thương dân yêu nước nhưng thiếu sự sáng suốt nên đã mắc vào nhiều việc sai lầm lớn lao và cũng do đó triều Trần đi gấp

tới chỗ suy vong.

Minh Tông ở ngôi đến năm Ất Tị (1329) thì Thái Tử Vượng thay Ngài, để Ngài lên làm Thái Thượng Hoàng theo thủ tục.

209 Việt Sử Toàn Thư

VI.  Trần Hiến Tông (1329-1341) 

Vua Hiến Tông lên làm vua mới 10 tuổi và ở ngôi 13 năm. Có thể coi triều đại của Hiến Tông gần như không có gì đáng

kể trên thực tế, vì mọi việc định đoạt đều ở tay Minh Tông Thượng Hoàng cả. Trong giai đoạn này xẩy ra hai việc xâm

phạm bờ cõi:    

Giặc Ngưu Hống và Giặc Lào. 

 Vua Hiến Tông lên ngôi chưa được bao lâu thì dân Mường Ngưu Hống ở mạn sông Đà nổi loạn. Thượng Hoàng đem

quân đi đánh dẹp. Người Ngưu Hống ở trại Chiêm Chiêu đưa thư đến trá hàng, bề khác đạo quân của triều đình từ

Thanh Hóa tiến ra bị chúng phục kích ở giữa đường rừng núi nên đạo quân này phải thua chạy. Sau đại quân đánh dữ dội

nhiều nơi, thanh lừng lẫy, giặc Ngưu Hống phải rút cả vào các vùng lâm lũng. Giặc tuy thua nhưng vẫn không trừ dứt

được. Sau này đến năm Đinh Sửu (1337) Hưng Hiếu Vương chém được tù trưởng của họ ở trại Trịnh Kỳ, giặc Ngưu

Hống mới chịu yên hẳn. Giữa khi quân Ngưu Hống quấy rối miền sông Đà thì giặc Lào cũng phá phác ở mạn Thanh

Nghệ. Năm Giáp Tuất (1384) Minh Tông Thượng Hoàng lại phải xuất chinh. Ông Nguyễn Trung Ngạn làm Phát Vận Sứ

được cử vào Thanh Hóa trước để lo vấn đề lương thực còn đại quân tiến sau. Uy thế nhà Trần còn mạnh nên khi đại

quân vào tới Kiềm Châu (thuộc huyện Tương dương, Nghệ An) giặc bỏ chạy hết. Ông Nguyễn Trung Ngạn được cử làm

bài bia trên núi để kỷ niệm chiến công. Bài bia này chữ to bằng bàn tay khắc sâu một tấc đến nay vẫn còn và dịch nôm ra

như sau: "Chương Nghiêu Văn Triết Thái Thượng Hoàng và vua thứ sáu đời nhà Trần, nước Hoàng Việt chịu mệnh trời

nhất thống cõi trung hạ, trong đất ngoài bể đâu cũng thần phục. Nước Ai Lao nhỏ mọn kia dám ngạnh vương hóa; cuối

mùa thu năm Ất Hợi, vua thân đem sáu quân đi tuần cõi Tây, thế tử nước Chiêm Thành, nước Chân Lạp, nước Tiêm La

và tù trưởng các đạo Quì, Cầm, Xa, Lạc, tù trưởng rợ Bồn Man mới phụ và các bộ Mán Thanh Xa đều mang phương

vật tranh nhau đón rước. Chỉ có tên nghịch Bổng cứ giữ mê tối, sợ phải tội chưa lại chầu ngay. Cuối mùa đông vua đóng

quân ở cánh đồng Cự, thuộc châu Mật sai các tướng và quân rợ Mọi vào tận nước, nghịch Bổng theo gió chạy trốn. Vua

mới xuống chiếu lui quân. Bấy giờ là ngày tháng chạp nhuận năm Ất Hợi niên hiệu Khai Hữu thứ 7, khắc vào đá". Cứ như

lời bia, việc dẹp giặc Lào bấy giờ có vẻ hống hách lắm, nhưng sự thực đại quân chưa ra khỏi đất loạn, tình trạng lại rối

ren như cũ. Còn nói các thế tử Chân Lạp, Tiêm La, v.v... qua chầu cũng chỉ do cách hành văn trang trọng trong một bài

bia ký mà thôi. Thuở đó ảnh hưởng của dân tộc chúng ta chưa lan tới hai nước này. Qua năm sau, Thượng Hoàng lại đem

quân đi đánh giặc Lào vì giặc lại sang cướp phá ở ấp Nam Nhung (thuộc huyện Tương Dương, tỉnh Nghệ An). Kinh

Lược Sứ tỉnh Nghệ An Đoàn Nhữ Hài được cử làm đô đốc chư quân có ý khinh thị quân giặc nên kém sự đề phòng.

Quân của ông qua sông Tiết La thuộc ấp Nam Nhung thì bị sương mù. Quân phục binh của giặc ùa ra đánh ta trong ta

bất ngờ; quan quân chạy xuống sông chết đuối rất nhiều. Chủ tướng họ Đoàn cũng bị vùi xác dưới nước. Xét ra từ vua

Anh Tông đến Nhân Tông sau này tới Minh Tông, cứ năm ba năm lại một lần, các vùng biên cảnh Tây Nam nước ta bị

giặc Lào nhũng nhiễu. Giặc Lào chỉ cướp phá các miền này và không dám đi xa hơn vì không đủ lực lượng như Chiêm

Thành, ngoài ra giặc biết rằng lìa khỏi miền rừng núi chúng mất lợi thế và sẽ bị tiêu diệt. Quan quân của ta đánh Lào chỉ

cốt ngăn ngừa sự phá phách của chúng chớ không có ý định chiếm đất do một lẽ rất dễ hiểu: xứ Lào nhiều lam sơn

chướng khí, đường đi toàn qua các nơi sơn cước gập ghềnh khó khăn cho việc tiếp vận. Giặc Lào vì vậy không bao giờ

trừ tiệt được và qua nhiều triều đại đã làm cho các vua quan của ta hao người tốn của không phải là ít. Nếu như các vua

ta có ý mở mang về Tây Nam thì rừng núi Chiêm Thành còn chế ngự được huống hồ xứ Lào. Có điều này làm cho chúng

ta ngày nay phải ngạc nhiên hay khó hiểu là các triều đại xưa luôn luôn bị nạn phá phách ở các vùng biên giới vậy mà

không thiết lập những cơ cấu phòng thủ vững vàng ở các nơi này. Phải chi chúng ta có những bộ đội trú phòng đứng đắn,

mạnh mẽ và có các viên tổng binh hay trấn thủ chuyên môn về biên viễn thì đâu đến nỗi các vua phải luôn luôn xuất chinh,

binh tướng phải mỏi gối chồn chân trên những quảng đường sơn xuyên ngàn dậm. Kìa như các châu Địa Lý, Bố Chính,

Chiêm nhường cho ta nay co đi, mai dằng lại thì đủ rõ. Bởi vấn đề này thuở đó không được đặt ra, chính quyền của các

vương triều lại chỉ thu hẹp ở miền Trung Châu Bắc Việt, nên chúng ta chẳng phải chỉ bị cái nạn hao tổn tiền tài, sinh mạng

vì các việc động binh mà vua chúa, tướng súy lại còn có khi tiêu ma cả danh dự của dân tộc bên sườn núi các hạt Thuận

Châu, Hóa Châu nữa (trường hợp Đoàn Nhữ Hài, vua Duệ Tông chẳng hạn). Thiết lập các bộ đội trú phòng là một sự

tổn phí cho công quỹ của triều đình chăng? Theo thiển ý điều này chẳng đúng. Từ Thanh Nghệ qua Thuận Hóa thiếu gì

đất mới rừng hoang để khai khẩn, các vùng duyên hải lại là những kho ngư lợi vô tận. Chứng cớ sau này có cuộc Trịnh

Nguyễn phân tranh, nạn nhân mãn ở vùng Trung Châu sông Nhị bành trướng, tiền nhân của ta mới nghĩ đến mọi vấn đề

phương Nam và đã áp dụng mọi biện pháp thích nghi. Việc này đã đưa lại những kết quả thế nào chúng ta đã thấy và

đứng trước các kết quả tốt đẹp (kết quả của cuộc Nam Tiến) ta càng tiếc các tiền triều không lo tính sớm các vấn đề

phương Nam mà vấn đề biên cảnh tất nhiên phải giải quyết cùng một nhịp để đến nỗi thế kỷ này qua thế kỷ khác dân tộc

phải chịu bao nhiêu vất vả, nhọc nhằng do sự quấy phá của giặc... Một việc đáng chú ý ngay từ đời Minh Tông đến Hiến

Tông đã có nạn đói khổ trong dân chúng. Các nhà cầm quyền không thi hành được điều gì tốt đẹp về kinh tế và xã hội

tuy có việc phát thuốc Hồng Ngọc Sương Hoàn trị bách bệnh cho nhân dân, cấp tiền gạo cho người nghèo, lập Tào

Thương tức kho thóc thu của dân để dùng vào việc phát chẩn năm Khai Hựu thứ 8 (1336), theo lời đề nghị của Nguyễn

Trung Ngạn. Hiến Tông làm vua đến năm Tân Tị (1341) thì mất, ở ngôi được 13 năm, thọ được 23 tuổi.    

VII.  Trần Dụ Tông (1341 - 1369)  - Việc chính trị - Việc giao thiệp với nước Tàu - Việc giao thiệp với Chiêm Thành -

Việc Dương Nhật Lễ.

  Vua Hiến Tông không có người kế tự. Minh Tông Thượng Hoàng cử người em tên là Hạo lên thay tức là vua Dụ Tông.

Trong khoảng các năm Thiệu Phong (1341-1357), Thượng Hoàng còn sống vẫn còn cầm cương nẩy mực cho triều đình,

việc dân nước chưa đến nỗi quá đồi tệ. Dầu vậy mấy năm mất mùa đã xẩy ra khiến dân tình đã đau khổ lại đau khổ thêm

nữa. Triều đình không có cơ cấu hay tổ chức nào có hiệu lực để đề phòng tai nạn cho nhân dân, bởi vậy lâm đến việc

thủy tai, hạn hán dân chúng không còn trông cậy vào đâu hết. Sinh lực quốc gia mòn mỏi dần. Từ năm Đại Trị (1358),

Thượng Hoàng qua đời, các lương thần như tướng Trương Hán Siêu, Nguyễn Trung Ngạn cũng chết đi, Trần triều bắt

đầu xuống dốc rõ rệt. Nạn gian thần lan rộng chốn cung đình, việc triều chính đổ nát không ai tha thiết. Một người cố cứu

vãn tình thế, gây lại kỷ cương trật tự là ông Chu Văn An, một đại nho và một danh thần còn sót lại đã dân sớ xin chém

bẩy tên quyền thần nhưng không được nhà vua chấp thuận. Ông liền cáo quan về ẩn dật ở núi Chí Linh. Bài sớ thất trảm

của ông đáng kể là di tích của sĩ khí, sĩ phong thuở ấy.

1- Việc Chính Trị.

 Vua Dụ Tông ham rượu chè ăn chơi, dâm dật, xây cung điện, đào hồ, đắp núi. Triều đường là một cái sòng bạc công

khai, quán rượu thường xuyên, hay một sân khấu ngày đêm náo nhiệt. Nguyên khi đánh được giặc Nguyên có bắt được

một tên hát bội là Lý Nguyên Cát. Tên này được ở lại nước ta làm trùm dạy múa hát. Từ đấy ta có nghề hát bội và nghề

này chẳng bao lâu lan tràn khắp nước ta. Các vương hầu công chúa phải đặt các vở tuồng để giúp vui, vua quan thi nhau

rượu chè be bét. Người nào uống nổi trăm thăng được thưởng hai trật. Các nhà giàu ở Đình Bảng (Bắc Ninh) và Nga

Đình (Sơn Tây) được mời vào kinh dự cuộc đen đỏ. Có tiếng bạc tới 300 đồng vàng. Hơn nữa người ta còn xâm phạm

vào quyền lợi kinh tế của nhân dân. Các quan hầu của vua chúa chiếm cả bãi sông Tô Lịch là đất giồng rau của dân

nghèo. Nơi này từ đấy mang tên là phường Vườn Rau. Cung nhân cũng làm quạt đem bán lấy lợi. Các quan chức cũng

đổ xô chiếm hết nguồn sống của đại chúng gây nên một tình thế xã hội rất eo hẹp quẫn bách. Các hiền tài ngao ngán

không ai chịu xuất đầu lộ diện. Cái hậu quả của nền chính trị bại hoại này đã phát sinh ra nhiều mối loạn trong nước: Ngô

Bệ dấy loạn ở mạn Hải Dương, các đám giặc cỏ khác cũng nổi lên ở nhiều nơi cướp phá dân chúng. Nạn đói kém, rối ren

liên miên năm này qua năm nọ, gần như một tình trạng thường xuyên báo hiệu ngày tàn của một triều đại. Nội tình quốc

gia thê thảm đến thế thật là hết chỗ nói.   

2- Việc Giao Thiệp Với Nước Tàu.

 Trong giai đoạn này bên Trung Quốc nhà Nguyên cũng suy vong. Bọn Trần Hữu Lượng, Trương Sĩ Thành, Chu Nguyên

Chương khởi binh lật đổ nhà Nguyên. Chu dấy nghiệp ở đất Từ Châu (tỉnh An Huy) cướp được thành Kim Lăng và mười

lăm năm sau nhà Nguyên bị dứt hẳn. Năm Mậu Thân (1368) Chu Nguyên Chương tức Minh Thái Tổ thống nhất thiên hạ

Trung Quốc, dựng nên nhà Minh. Vì phải lo sửa sang và chỉnh đốn nhiều việc nên Minh triều chưa kịp có một ý định thôn

tính nước ta ngoài chuyện phái sứ sang dụ. Lễ Bộ Thị Lang Đào Văn Đích được cử đi tiến công. Đó là một sự may mắn

đặc biệt. Ví như lúc này Trần triều phải đương đầu với một cuộc xâm lăng của Bắc phương, kết quả sẽ như thế nào ta

không cần phải tưởng tượng.   

3- Việc Giao Thiệp Với Chiêm Thành.

 Trong thời kỳ nước ta bạc nhược Chiêm Vương Chế A Nam qua đời. Con là Chế Mộ và rể là Bồ Đề tranh nhau ngôi

vua. Dân Chiêm theo Bồ Đề. Năm Nhâm Thìn (1352), Chế Mộ chạy sang Đại Việt yêu cầu giúp đỡ. Năm sau (Quý Tị,

1353) vua Dụ Tông cho quân đưa Chế Mộ về nước. Quan quân tới Cổ Lũy (thuộc Quảng Nghĩa) thì bị quân của Bồ Đề

đánh bại phải bỏ chạy. Chế Mộ thất vọng chẳng bao lâu thì chết. Từ đấy Chiêm khinh thường thực lực của ta nên hay

đem quân quấy phá biên giới. Năm Đinh Vị (1367), đoàn quân viễn chinh của Trần triều do Trần Thế Hưng và Đỗ Tử

Bình lĩnh đạo qua Chiêm Thành bị quân Chiêm phục kích. Chiêm bắt được Trần Thế Hưng, còn Đỗ Tử Bình phải lui

quân. (Đỗ Tử Bình là tay đại nịnh thần dưới triều Dụ Tông). Trong khoảng 13 năm hai lần thua trận, nước ta mất hết

phong thể và uy tín từ trong ra tới ngoài. Vua tôi vẫn ham chơi không hề lo đến việc khôi phục và hoán cải tình thế. Trái

lại lúc này dân Chiêm trở nên mạnh dưới chính sự sáng suốt của Chế Bồng Nga là một ông vua anh hùng, có tài chiến

trận, giỏi việc trị nước. Năm Mậu Thân (1368) người Chiêm đời ta trả lại đất Hóa Châu (tức Châu Địa Lý, Bố Chính và

Ma Linh mất về ta dưới đời Lý năm 1103). Một mặt họ xúc tiến chính trị nội bộ, một mặt họ thao luyện gắt gao binh đội.

Quân Chiêm phải chịu tập tành ngày đêm cho quen với sự khó nhọc. Họ đặc biệt lợi dụng ưu thế tượng trận, nghĩa là

dùng voi để mở đường cho cuộc tấn công. Nếu tấn công không lợi thì họ là dùng voi để đoạn hậu tức là ngăn lối tiến của

đối phương. Chiến pháp này có hiệu quả tốt đẹp nên sau này mấy phen người Chiêm tha hồ kéo nhau đến làm mưa nắng

trên bờ cõi Việt Nam.     

4- Việc Dương Nhật Lễ.

 Năm Kỷ Dậu (1369), Dụ Tông qua đời vì dâm dật quá nên không con. Triều đình định lập Cung Định Vương Phủ là anh

vua Dụ Tông lên làm vua, bị bà Huệ Từ Thái Hậu phản đối nhất định lập con nuôi của Cung Túc Vương là Dương Nhật

Lễ (Thế là bỏ họ Trần mà lập họ khác). Trước đây có người phường tuồng Dương Khương, diễn trò "Quả đào tiên" cho

vợ thủ vai Tây Vương Mẫu. Vợ Dương Khương bấy giờ đang có mang hai tháng khéo điểm phấn son nên rất ưa nhìn.

Cung Túc Vương Dục là con vua Minh Tông mê quá liền cướp lấy làm vợ đẻ ra Nhật Lễ. Dụ Tông mất đi để di chiếu cho

Nhật Lễ nối ngôi. (Có lẽ Dụ Tông mê cậu bé như mê mẹ!). Nhật Lễ lên làm vua được ngót hai năm (1369-1370) cũng

dâm dật, cũng yến ẩm suốt đem ngày, lại có ý đổi lại họ cũ là họ Dương, giết Thái Hậu và Cung Tĩnh vương Trác. Cung

Định vương Phủ và Cung Tuyên vương Kính cùng các tông thất phải chạy ra ngoài đem quân về giết được Nhật Lễ (theo

Việt Nam Sử Lược Cung Định vương Phủ sợ bị hại vì tính khí nhu nhược lại không có ý cạnh tranh nên bỏ trốn lên mạn

Đà Giang). Sau cuộc rối ren này Cung Định vương Phủ về làm vua tức là Nghệ Tông     

VIII. Trần Nghệ Tông (1370-1372) 

Trong khi Nghệ Tông lên làm vua thì mẹ Nhật Lễ trốn qua Chiêm dụ quân Chiêm về phá thành Thăng Long. Nội tình của

Trần triều thế nào đều lọt cả vào tai mắt người Chiêm. Từ trước tới nay Chế Bồng Nga chỉ đợi một cơ hội thuận tiện là

kéo đại quân vào đất Việt Cơ hội đó đã có người cáo tỏ, quân Chiêm liền dùng thủy đạo đột nhập cửa Đại An, kéo qua

sông Hoàng Giang rồi tiến thẳng vào thủ đô Thăng Long. Sức cản trở của quân ta rất là yếu vì bao năm không ai luyện

binh tập mã, việc canh phòng lại biếng nhác nên giặc như đi vào chỗ không người. Chúng đốt phá cung điện, cướp sạch

bạc vàng châu báu, bắt đàn bà, con gái đem về nước. Giữa lúc kinh thành đổ nát tơi bời, vua Nghệ Tông lánh mình sang

làng Đông Ngạn (nay là Đình Bảng, tỉnh Bắc Ninh). Trước cảnh thảm bại này người dân Việt nhớ lại cái quá khứ oanh liệt

của các tiền triều bao nhiêu (kể từ nhà Lý) càng chán nản phẫn uất với tình trạng hiện tại thuở ấy bấy nhiêu. Cảnh thảm bại

đó dĩ nhiên đưa lại cho mọi tầng lớp nhân dân một ý muốn chung là sự thay đổi hoàn toàn tình trạng xã hội Việt Nam trên

các địa điểm để tìm một lối thoát. Điều kiện chủ quan (tình hình nội tại) và điều kiện khách quan (việc xâm nhập của giặc

Chiêm ở ngoài vào) sẵn sàng dọn đường cho sự thay đổi đó. Từ đây xã hội Việt Nam đi dần sang con đường rẽ của Lịch

sử, dù muốn hay không, và cái động lực mạnh nhất đã làm xụp đổ Trần triều -- một dòng họ ngự trị dân tộc Việt Nam

suốt 175 năm -- đó là sự đồi bại của nền kinh tế trong nước. Quả vậy, từ đời vua Thái Tông đến cuối thế kỷ thứ XIII xã

hội Việt Nam được no cơm, ấm áo, nhân dân được sống vui vẻ, đầy đủ nên giặc Mông Cổ ba phen vào cõi ta đã đánh

bật họ ra một cách oanh liệt. Lời hịch của Hưng Đạo Vương đã nhắc đến thú cờ bạc, đàn hát, chọi gà, thú săn bắn, thú

ruộng vườn đủ rõ đời sống của nhân dân bấy giờ quả có tốt đẹp. Trái lại từ đời Dụ Tông vua quan bất tài, bất lực, lại ăn

chơi đàng điếm, xa xỉ, giai cấp phong kiến đốn mạt đến nỗi đẽo gọt cả quyền lợi lặt vặt của dân chúng. Bên ngoài giặc

Chiêm hàng năm sang đánh phá, cướp của giết người, càng làm cho cái ngai vàng của họ Trần thêm nghiêng ngữa và nhân

dân điêu đứng thêm. Tình trạng này không thể tránh được một cuộc đảo lộn chẳng do họ này thì cũng do họ khác. Giữa

triều đường bấy giờ Hồ Quý Ly có tài ba trội hơn mọi người tất nhiên được tin dùng, lại thêm địa vị của ông là Hoàng thân

quốc thích nữa. Rồi ông bước lên sân khấu chính trị nước nhà giữa một thời thế vô cùng phức tạp: Tầng lớp lãnh đạo thì

chỉ nhìn vào quyền lợi, địa vị riêng tư, sau này đối với ngoại không phân biệt được đâu là thù, là bạn, lẽ thuận lẽ nghịch,

dân chúng thì đói khổ, mất hết tin tưởng vào các nhà cầm quyền, như con thuyền không lái, bồng bềnh ngoài khơi như

chẳng còn biết đến bờ bến. Thật là não nề, thật là bi đát!    

215 Việt Sử Toàn Thư

Tiểu Sử Của Hồ Quý Ly. 

 Dòng họ Hồ đối với lịch sử Việt Nam chỉ mới nổi tiếng từ khi có Hồ Quý Ly xuất đầu lộ diện. Ông Chu Thiên, có lẽ là

sử gia nghiên cứu về họ Hồ kỹ càng nhất phát biểu một ý kiến ngờ vực về lý lịch của họ Hồ mà Khâm Định Việt Sử

Thông Giám (Cương Mục quyển 10) đã nêu ra bởi thiếu tài liệu xác thực để chứng nghiệm, phần có thể lý lịch của họ Hồ

đã bị xuyên tạc do những kỳ thị hẹp hòi của các nhà làm sử trước: Theo Khâm Định Việt Sử, Hồ Quý Ly là cháu bốn đời

của Hồ Liêm. Ông tổ của họ Hồ là Hồ Hưng Dật người tỉnh Chiết Giang bên Tàu về đời Ngũ Quý (907-959), trôi dạt

sang Việt Nam, làm quan và lập ấp ở làng Bèo Đột phủ Diễn Châu (nay thuộc huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An). Đến đời

Hồ Liêm những người họ Hồ dời qua làng Đại Lai thuộc tỉnh Thanh Hóa. Quý Ly làm con nuôi Lê Huấn vì vậy đổi họ là

Lê Quý Ly. Như vậy đến nay chưa tìm được một căn cứ nào rõ rệt để hiểu biết sự di truyền về sinh lý của dòng máu đã

kết tinh thành những đức tính lỗi lạc và cương quyết của nhà chính trị đó. Quý Ly sau này chiếm được ngôi của nhà Trần

lấy lại họ cũ (Hồ), đổi tên nước là Đại Ngu tuyên bố rằng họ Hồ thuộc dòng dõi vua Nghiêu Thuấn ngày xưa. Quý Ly có

là người Tàu hay không, ta không cần biết, nhưng điều rõ rệt là Quý Ly đáng kể là một nhân vật lịch sử không tầm

thường. Lại xét các người chung quanh Quý Ly bên nội cũng như bên ngoại đều rất thông minh, xuất chúng. Tỉ dụ Gia Từ

Hoàng Hậu (em họ Quý Ly, vợ vua Duệ Tông. Sử chép: Vua Duệ Tông đi đánh Chiêm không trở về, bà gọt đầu đi tu.

Vua Nghệ Tông lập con bà lên ngôi (Đế Nghiễn) Bà cố xin bãi việc này không được, sụt sùi khóc nói với những người

chung quanh: "Con ta ít phúc không gánh nổi việc lớn lại đến mang họa vào mình mà thôi. Tiên quân ta xa vắng cõi trần, ta

chỉ muốn chết theo, nữa là phải ở lại nhìn con mình lâm vào cảnh bi thảm..." Quả nhiên sau này Đế Nghiễn bị hại.41 Sách

Nam Ông Mộng Lục của Lê Trừng (tức là Hồ Nguyên Trừng con cả Hồ Quý Ly) in trong tập Hàm Phân Lâu Bí Cấp

xuất bản ở bên Tàu chép bà tổ Hồ Quý Ly là con Nguyên Thánh Huấn, một nhà văn học trứ danh dưới đời Trần Thánh

Tông và Nhân Tông. Tháng chạp năm Bão Phũ thứ hai (1274), Nguyên Thánh Huấn được cùng Nguyễn Sĩ Cố làm Nội

Thị Học Sĩ đọc sách với thái tử Khâm (tức Nhân Tông) dưới quyền phụ giáo của thiếu sư Lê Phụ Trần, sau làm đến chức

Trung Thư Thị Lang nổi tiếng văn thơ, được người đời bấy giờ gọi là Nam Phương Thi Tổ. Quý Ly lại có hai cô lấy vua

Minh Tông là con gái của quan Thái Y Phán Phạm Công Bân rất giỏi nghề thuốc và công minh chính trực. Tóm lại, những

căn cứ cận lai cho ta biết Hồ Quý Ly đã sinh ra ở những dòng máu cao quý và những yếu tố này đủ tạo nên Quý Ly

thành một nhân vật lịch sử có những cá tính hết sức đặt biệt.                                          

[ 41 Có sách chép là Đế Hiển]

IX.  Trần Duệ Tông (1372-1377) 

Năm Nhâm Tí (1372) vua Nghệ Tông truyền ngôi cho Thái Tử Kính lên làm Thái Thượng Hoàng. Thái Tử Kính tức là

vua Duệ Tông lấy Lê Thị làm Hoàng Hậu (Lê Thị là em họ Lê Quý Ly). Duệ Tông không nhu nhược như Nghệ Tông

nhưng việc triều chính vẫn do Thượng Hoàng quyết đoán. Thuở ấy Chiêm Thành thường đem quân sang quấy nhiễu. Vua

Duệ Tông liền cho huy động binh mã mở cuộc Nam Chinh. Ngài hạ chiếu luyện tập quân đội, sửa soạn chiến thuyền, đặt

thêm quân hiệu, Quý Ly được cử làm Tham Mưu quân sự. Hoan Châu được đổi làm Nghệ An, Diễn Châu làm Diễn

Châu Lộ, Lâm Bình Phủ làm Tây Bình Phủ. Dân chúng được lệnh sửa sang đường từ Thanh Hóa vào đến huyện Hà Hòa

(tức huyện Kỳ Anh ngày nay). Năm Bính Thìn (1376) quân Chiêm lại sang phá Hóa Châu. Mặc dầu đình thần cản ngăn,

Duệ Tông quyết định cử binh đi chinh phạt. Quân dân Thanh Hóa, Nghệ An phải tải 5 vạn thạch lương vào Hóa Châu và

trước khi đoàn quân Nam Chinh lên đường có mở một cuộc duyệt binh tại Bạch Hạc dưới quyền chủ tọa của Thượng

Hoàng. Cuộc chiến tranh này đáng lẽ không có vì tuy thỉnh thoảng có sự quấy nhiễu nhưng Chiêm Thành vẫn còn e ngại

lực lượng của dân Việt. Ngay bấy giờ dưới quyền Chế Bồng Nga mặc dầu Chiêm hùng mạnh hơn bao giờ hết Chiêm vẫn

phải tiến cống Trần triều. Năm ấy họ Chế đem cống 15 mâm vàng. Trấn Thủ Hóa Châu là Đỗ Tử Bình (một tên đại gian

nịnh) lấy đi rồi dâng sớ về triều xin cử đại binh đi đánh Chiêm để trừng phạt về tội vô lễ. Lời sớ của Đỗ Tử Bình đã quyết

định cuộc chiến tranh mà nhà Trần đã chuẩn bị. Quý Ly vận tải lương thực đến cửa bể Di Luân (thuộc huyện Bình Chính,

Quảng Bình) và tự lĩnh 12 vạn quân thủy bộ cùng tiến. Binh đội ngừng lại tại cửa Nhật Lệ (làng Đồng Hới, huyện Phước

Lộc, Quảng Bình) một tháng để luyện tập. Năm sau là năm Đinh Tỵ (1377), quân Việt tiến vào cửa Thị Nại (Qui Nhơn)

phá được đồn Thạch Kiều, động Kỳ Mang rồi tiến đến trước thành Đồ Bàn. Chế Bồng Nga lập kế trá hàng cho nói dối

rằng toàn thể quân Chiêm đã rút hết, thành bỏ không. Đại Tướng Đỗ Lễ can Duệ Tông đừng đem quân vào thành. Duệ

Tông không nghe rồi quân ta tiến vào chiếm thành liền bị bao vây đánh bốn mặt. Mặc dầu quân ta đông đảo nhưng địch

bố trí sẵn, nắm trước được thế hiểm nên ta thua to. Duệ Tông tử trận, binh đội tổn hại mười phần đến bảy tám. Đỗ Tử

Bình điều khiển hậu quân không dám tiếp cứu. Quý Ly cũng bỏ chạy. Sau trận này Đỗ Tử Bình bị giáng xuống làm lính. 

217 Việt Sử Toàn Thư

X.  Trần Phế Đế (1377-1388)  - Việc giao thiệp với nhà Minh - Chiêm Thành phá Thăng Long - Âm mưu trừ Quý Ly

thất bại.

  Duệ Tông mất rồi, Thượng Hoàng Nghệ Tông lập con của Duệ Tông là Nghiễn (Hiển) lên nối ngôi, tức là vua Phế Đế.

Tình thế nước ta lúc này thật đáng buồn: nhân dân thì đói khổ, triều đình thì nhút nhát, quân đội thì suy nhược, mỗi lần giặc

Chiêm đến là mỗi lần cuộc khủng hoảng tinh thần lan tràn khắp nước. Nhà vua phải đem của đi chôn dấu ở núi Kiện Khê

huyện Thanh Liêm (Hà Nam) các quan khoanh tay nhìn thời cuộc. Trông vào đâu? Triều đình không còn tin đến binh lực

của mình phải cầu cứu đến lũ tăng nhân là bọn Đại Nạn thiền sư để chống nhau với giặc Chiêm (Trách gì sau này thầy

chùa Phạm Sư Ôn chẳng nổi loạn!) Việc bảo vệ đất nước đã bất lực rõ rệt, người dân đã cực khổ lầm than lại còn bị

chồng chất thuế má nặng nề lên đầu lên cổ. Để cứu cái tình trạng tài chính nguy ngập vì công khố sạch trơn cả gạo thóc,

tiền bạc lưu hành trong dân chúng cũng cạn sạch, Đỗ Tử Bình đề nghị bắt mỗi xuất đinh bất kể còn sống hay đã chết mỗi

năm phải đóng ba quan tiền thuế (Thuế thân sinh ra từ đấy). Dĩ nhiên vô kế khả thi, triều đình phải chấp thuận. Tóm lại,

bộ máy cai trị bị tê liệt, nền kinh tế thương mại bị ngưng trệ, lực lượng quốc gia tan rã, vận mệnh dân tộc rất là nguy khốn.

Đây là một thời vô trách nhiệm, vô trật tự. Đẵng cấp phong kiến, quan liêu đến lúc suy vi mà giai cấp nho sĩ, trí thức cũng

tỏ ra ươn hèn, đáng lẽ họ phải đóng trọn vẹn vai phù nguy, cứu khổ, vẫn đắm mình trong cái vũng từ chương, cử nghiệp,

họ không nhìn thấy sự nguy khốn của xứ sở. Rồi đây ta sẽ nhận thấy cái thái độ bị động và ngu tối ấy đã đưa nước Việt

đến đâu...     

1- Việc Giao Thiệp Với Nhà Minh.

 Trước năm Giáp Tí (1384) nhà Minh đã yên vị trên toàn cõi Trung Quốc bắt đầu dòm ngó nước ta. Họ thường cho sứ

bộ qua lại nay yêu sách thứ này, mai đòi hỏi thứ kia không ngoài mục đích sửa soạn việc xâm lăng là điều thường lệ của

các đế quốc Bắc phương từ trước đến giờ. Năm Giáp Tí, nhà Minh đòi ta nộp 5.000 thạch lương cung cấp cho binh đội

của họ tại Vân Nam. Năm sau ta lại phải đưa sang Kim Lăng 20 tăng nhân, gỗ quý và lương thảo. Triều đình nhất nhất

tuân theo, không hề bàn luận đến cái nạn mất nước sờ sờ trước mắt.

Một hôm Thượng Hoàng Nghệ Tông đến thăm nhà chí sĩ Trần Nguyên Đán. Nguyên Đán là một vị tông thất vào bậc cố

lão, thấy quốc chính rã rời rút về ở ẩn. Trong khi bàn việc nước, Nguyên Đán tâu: "Xin Bệ hạ thờ nhà Minh như cha, coi

Chiêm Thành như con, quốc gia mới có thể yên ổn mà hạ thần có chết cũng được ngậm cười nơi suối vàng..." (!) Thấy

Quý Ly giữ ưu thế trong triều, Nguyên Đán kết thông gia với Quý Ly để san sẻ miếng đỉnh chung. Qua lời nói và việc làm

của Trần Nguyên Đán ta thấy rõ cái tinh thần bạc nhược của giai cấp lĩnh đạo đời Trần mạt. Không còn ai tính chuyện

khôi phục tình thế, tập hợp lại mọi lực lượng quốc gia để giữ vững bờ cõi, mà chỉ có những ý tưởng thoái bại cùng cầu an

và chỉ tính chuyện cong lưng vái lạy người ngoài để kéo dài cái kiếp sống thừa.     

2- Chiêm Thành Đả Phá Thăng Long.

 Năm Đinh Tỵ (1377) vua Duệ Tông ngã gục trước thành Đồ Bàn, Việt quân đại bại. Việc này làm tổn hại vô cùng uy thế

của nước ta. Thắng được quân ta tại nội địa, người Chiêm không bỏ lỡ cơ hội ta đang suy bĩ, ngay tháng sau đem đại

quân ra đánh Thăng Long. Triều đình cho quân giữ cửa Đại An (Hưng Yên). Giặc dò biết liền vượt qua cửa Thần Phù

(sông Chính Đại, huyện Yên Mô, Ninh Bình) rồi cứ thế rầm rộ tiến vào Thăng Long. Quân ta không giữ nổi; giặc thỏa chí

cướp phá. Tháng 5 năm Mậu Ngọ (1378) quân Chiêm lại tấn công Nghệ An, theo sông Đại Hoàng vào đánh kinh thành

lần nữa. Năm Canh Thân (1380) họ lại quấy nhiễu hai tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An. Nghệ Tông cử Lê Quý Ly lĩnh thủy

quân và Đỗ Tử Bình42 dẫn lục quân vào chặn đánh quân Chiêm đang hoành hành ở đây. (Ngu Giang, huyện Hoằng Hóa

thuộc Thanh Hóa) Lê Quý Ly giữ vững được phòng tuyến và đuổi được giặc. Năm Nhâm Tuất (1382) Quý Ly cùng

tướng Đa Phương lại xuất quân đối phó với quân Chiêm tại Thanh Hóa. Quân nhà Trần giữ bến Thần Đầu (Ninh Bình).

Quân Chiêm không có đường tiến sâu vào đất ta như mọi lần, rồi bị đuổi ra khỏi đất Nghệ An. Sau trận Ngu Giang và

Thần Đầu, quân thế của ta bắt đầu vững cho nên ngay năm sau Thượng Hoàng lại cử Quý Ly đi chinh phạt Chiêm Thành.

Cuộc xuất binh này bất lợi. Thủy quân vào tới cửa Nương Loan (bây giờ là huyện Kỳ Anh tỉnh Hà Tĩnh) thì bị bão. Nhiều

chiến thuyền bị đánh vỡ và đắm. Quân ta lại phải rút về. Việc này vào tháng giêng, thì tháng sáu cùng năm Chế Bồng Nga

lại cử binh Bắc tiến, theo đường núi sấn vào đóng ở Quảng Oai. Tướng của ta là Mật Ôn giữ châu Tam Kỳ thuộc hạt

Quốc Oai (Sơn Tây) bị Chiêm bắt mất. Địa điểm quan trọng này lọt vào tay giặc, Thượng Hoàng cùng Đế Nghiễn phải

chạy sang Đông Ngạn (Bắc Ninh) giao việc giữ Kinh Thành cho tướng quân Đa Phương, tình cảnh thật là thảm hại.          

[ 42 Đỗ Tử Bình lại được phục chức cũ ]    

3- Âm Mưu Trừ Quý Ly Thất Bại.

 Tháng 8 năm Mậu Thìn, (Xương Phù thứ mười hai 1388), nhân có sao chổi hiện ở phương Tây, Đế Nghiễn đã lâu khó

chịu về việc Thượng Hoàng tin dùng Quý Ly bàn với quan Thái Úy Thúc Ngạc (là con Thượng Hoàng Nghệ Tông, anh

họ của Đế Nghiễn) và bọn Ngự Sử đại phu Lê Á Phụ, tướng quân Nguyễn Khoái, Nguyễn Văn Nghê, Nguyễn Khá,

Nguyễn Bát Sách, Lê Lạc, học sinh Lưu Thường ... mưu trừ Quý Ly. Vương Nhữ Mai chầu học trong cung để lộ tin này

ra ngoài. Quý Ly hoảng sợ bàn với thủ túc là Nguyễn Đa Phương và Phạm Cự Luận. Đa Phương khuyên Quý Ly chạy ra

ngoài núi Đại Lai (huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa) để lánh mình đã. Cự Luận nói: - Một khi đã ra ngoài thì khó bề sống

sót! Quý Ly càng luống cuống nói: - Hay là ta tự tận còn hơn để lọt vào tay người! Cự Luận tiếp: - Năm trước nhà vua

đã giết Quang Phục Đại Vương Húc (con Thượng Hoàng Nghệ Tông) Thượng Hoàng hẳn còn căm, nay vua lại nghe lũ

tiểu nhân sát hại công thần. Đại nhân nên vào ngay, tâu bày lợi hại rằng: Xưa nay chưa có ai bán con nuôi cháu. Chỉ có

chuyện bán cháu nuôi con, đó là lời ca dao từ xưa đến nay. Xong việc thì xin lập Chiêu Định là tiện hơn cả (Chiêu Định

tên là Ngang con vua Nghệ Tông). Quý Ly nghe theo vào mật tấu Thượng Hoàng và được như ý. Mấy hôm sau Nghệ

Tông nói thác là sắp tuần du ngoài An Sinh (Hải Dương) sai vời Đế Nghiễn vào. Đế Nghiễn tới, Nghệ Tông truyền giam

vào chùa Từ Phúc. Sau Thượng Hoàng xuống chiếu như sau: "Trước kia Duệ Tông đi đánh Chiêm không trở về, dùng

con nối ngôi cha là theo dạo xưa nay. Nhưng quan gia từ khi lên ngôi chưa hết tính trẻ con, giữ đức thông thường, thân

với lũ tiểu nhân Lê Á Phụ, Lê Dữ Nghị mưu hãm công thần làm lung lay xã tắc nên giáng xuống làm Minh Đức Đại

Vương. Mà nước nhà không thể không vua, vậy rước Chiêu Định Vương Ngang nối mối lớn. Bá cáo trong ngoài đều cho

nghe biết". Lúc giải Đế Nghiễn đi, bọn Nguyễn Khoái, Lê Lạc và đồng bọn muốn đem quân vào cướp vua, nhưng Đế

Nghiễn viết hai chữ "giải giáp" và khuyên mọi người đừng trái mệnh Thượng Hoàng. Một lúc sau Đế Nghiễn bị đem

xuống phủ Thái Đường thắt cổ chết. Bọn Nguyễn Khoái bị đày ra ngoài biên ải. Ngoài ra những kẻ dự cuộc âm mưu,

nhất là các tôn thất như Trần Nguyên Diệu (em ruột Đế Nghiễn), Trần Nguyên Đĩnh (con anh ruột của Nghệ Tông là

Cung Tĩnh Vương Trác) và Thiếu Bảo Trần Tông (Nguyên viện trưởng Lạc Kha thư viện ở cung Bảo Hà trên núi Phật

Tích Bắc Ninh) đều bỏ chạy qua Chiêm Thành rồi đem quân về đánh lại. Tại Hoàng Giang bọn này bị Trần Khát Chân

đánh bại. Nguyên Diệu bị giết, Nguyên Đĩnh, Trần Tông bị Quý Ly hạ lệnh bắt, liền đâm đầu xuống bể, còn dư đảng là

Trần Thiêm Bình chạy qua Lào (Luang Prabang) sau này dẫn đường cho quân Minh sang chinh phục nước ta.

220 Việt Sử Toàn Thư

Còn một nhân vật trong phe phản động khó diệt trừ hơn cả là Thúc Ngạc bởi Thúc Ngạc là con vua Nghệ Tông. Quý Ly

phải áp dụng một phương pháp khéo léo hơn. Trước khi Đế Nghiễn bị bỏ, Quý Ly vờ nói xin đề nghị Thúc Ngạc lên

thay. Thúc Ngạc không nhận, nhân đó Quý Ly tâu với Nghệ Tông: - Quan Thái Úy (tức Thúc Ngạc) từ ngôi vua là người

có đức lớn xin gia phong cho xứng. Nghệ Tông liền phong cho Thúc Ngạc làm Trang Định Vương. Ngạc nghe chuyện,

biết quỷ kế của Quý Ly lấy làm sợ hãi. Quỷ kế đó là nâng cao kẻ địch để tỏ sự công bằng vì quyền lợi quốc gia rồi sau

này sẽ hạch tội sẽ không có vẻ là vì tư thù. Quả vậy sau này Ngạc bị Quý Ly dèm pha luôn, liền bỏ trốn ra Vạn Ninh

(Hải Ninh thuộc Móng Cáy). Quý Ly xin Thượng Hoàng cho Ninh Vệ tướng quân Nguyễn Nhân Liệt đuổi theo triệu về,

Quý Ly ngầm sai Nhân Liệt đánh chết Ngạc rồi về man tấu Ngạc kháng mệnh và đánh sứ giả nên bị chúng giết chết.

Nghệ Tông giận lắm, truy giáng Ngạc xuống làm Man Vương.    

XI.  Trần Thuận Tông (1388-1398)  - Chế Bồng Nga tử trận - Cuộc cách mạng của Hồ Quý Ly.

  Đế Nghiễn chết rồi, Thượng Hoàng lập con út của mình là Chiêu Đình Vương lên ngôi tức là vua Thuận Tông. Lúc này

các phần tử trọng yếu trong triều và ngoài quân đội đều ngã cả về Quý Ly hoặc hết thảy đều là tay chân của họ Hồ. Giặc

dã nổi lên khắp nơi. Tại Thanh Hóa Nguyễn Thành tự xưng là Linh Đức Đại Vương tung hoành ở miền Lương Giang.

Nguyễn Kị xưng Lỗ Vương chiếm cứ Nông Cống. Đáng chú ý hơn cả là bọn Phạm Sư Ôn, một tăng nhân lĩnh đạo đám

thầy chùa chiêu tập được vài vạn quân vô lại nổi lên ở Quốc Oai (Sơn Tây), tháng chạp năm Kỷ Tị, hiệu Quang Thái thứ

hai (1389) Phạm Sư Ôn có nhiều pháp thuật tiếm xưng Hoàng Đế phong Nguyễn Mai, Nguyễn Khả Hành làm Hành

Khiển (tể tướng) chia quân ra làm ba vệ: vệ quân Thần Kỳ, vệ Dũng Đấu và Vô Hạn đem quân hùng hổ tấn công vào

kinh đô. Việc loạn của Phạm Sư Ôn lúc đầu rất có thanh thế và đã nhằm vào lúc vô cùng nghiêm trọng, nghĩa là giặc

Chiêm đang uy hiếp quân ta ở Hoàng Giang gần sát kinh thành. Nghệ Tông Thượng Hoàng và Thuận Tông phải lánh mình

sang Bắc Giang. Sư Ôn vào đóng ở kinh đô trong ba ngày sau lại lui về Nộn Châu (thuộc Quốc Oai). Đối phó với quân

Chiêm, Đô Tướng Trần Khát Chân đang xuất toàn lực chống đỡ mặt trận Hoàng Giang, vậy mà phải theo lệnh Quý Ly

chia một phần binh đội do Tả Thánh Dực tướng quân Hoàng Phụng Thế cầm đầu do sông Miệt Giang (khúc sông nối

Hoàng Giang và Hát Giang) về dẹp Phạm Sư Ôn giữa lúc họ Hoàng đang cầm cự với tướng Chiêm là La Khải. Phụng

Thế khai lòng sông cho tuyền tiến lên đánh úp được quân giặc. Bị đánh và bao vây bất ngờ Sư Ôn, Khả Hành và Nguyễn

Mại bị bắt rồi bị giết cả. Cuộc nổi loạn này cáo chung thì cái oai quyền của nhà chùa đối với dân chúng và các nhà cầm

quyền cũng không còn mảy may nào nữa.   

1- Chế Bồng Nga Tử Trận. 

 Trên đây đã có nói vụ loạn Phạm Sư Ôn nổ bùng ra đồng thời với việc quân Chiêm tấn công vào nước ta từ Thanh Hóa

trở ra. Giai đoạn đầu quân Chiêm giữ được ưu thế. Quân của Quý Ly đóng ở Cổ Võ đóng cọc ngăn sông, giữ được 20

ngày. Giặc giả vờ rút quân nhưng bên trong thì cho thi hành kế phục binh. Quý Ly đem hết quân thủy bộ đuổi theo bị giặc

ùa ra đánh phá, giết được quân ta rất nhiều. Quý Ly chạy về Kinh, tì tướng là Nguyễn Đa Phương và Phạm Khả Vĩnh ở

lại chống nhau với quân Chiêm ở Ngu Giang nhưng thấy thế giặc mạnh giả tảng dàn thuyền chiến để đánh nhưng đến đêm

rủ nhau rút lui hết. Qua tháng một, giặc lại uy hiếp ở mạn Hoàng Giang. Đô tướng quân Trần Khát Chân được cử đi

chống nhau với giặc. Vua tôi cùng khóc giữa lúc quân tiến lên đường. Khát Chân đến Hoàng Giang không tìm được căn

cứ thuận tiện liền xuống đóng ở Hải Triều (thuộc địa phận Hưng Nhân tỉnh Thái Bình). Tháng giêng năm Canh Ngọ

(1390) Chế Bồng Nga dẫn hơn 100 chiến thuyền tiến lại gần địa điểm của ta để dò xét trận thế. Một tên đầy tớ của họ

Chế vì bị tội, trốn sang bên ta chỉ rõ thuyền của Chế đang đứng thị sát. Khát Chân liền tập trung hỏa lực bắn vào thuyền

của Chế Bồng Nga. Chiêm Vương trúng đạn bị chết, quân ta ùa ra đánh. Quân Chiêm bỏ chạy hết. Đầu Chế Bồng Nga

được cắt đem về dâng vua. Thượng Hoàng tự ví mình như Hán Cao Tổ thay đầu Hạng Vũ. (!) Tướng Chiêm La Khải

đem xác Chế Bồng Nga hỏa táng rồi thu quân về nước chiếm ngôi vua. Hai người con của Chế Bồng Nga chạy sang

hàng nhà Trần được phong tước hầu. Tháng chạp năm Giáp Tuất (1394) Thượng Hoàng Nghệ Tông qua đời, tính ra

Ngài trị vị được 3 năm, làm Thượng Hoàng 27 năm, thọ 74 tuổi. Phê bình Nghệ Tông tác giả Việt Nam Sử Lược viết:

"Nghệ Tông là một ông vua rất tầm thường: chí khí đã không có, trí lực cũng kém hèn, để cho kẻ gian thần lừa đảo, giết

hại cả con cháu họ hàng, xa bỏ kẻ trung thần, nghĩa sĩ; cứ yêu dùng một Quý Ly cho nhiều quyền thế đến nỗi làm xiêu đổ

cơ nghiệp nhà Trần. Dầu rằng đến khi vận nước đã suy, không có điều này cũng có điều nọ tựa hồ người đã già không

phải bệnh nọ thì cũng mắc bệnh kia, nhưng cứ sự thực mà xét thì cũng vì vua Nghệ Tông cho nên cơ nghiệp nhà Trần mới

mất về tay Quý Ly, mà cũng vì sự rối loạn ấy cho nên giặc Minh mới có cớ mà sang cướp phá nước Nam trong 20 năm

trời". Lời phê bình này chỉ căn cứ vào những việc đã xảy ra theo điều tai nghe mắt thấy và có thể áp dụng vào trường hợp

của bất cứ một ông vua nào khi một vương triều đến lúc suy mạt; đại khái mấy ông vua cuối cùng của nhà Lý, cũng như

mấy vị hoàng đế chót của nhà Trần cho tới sau này con cháu của vua Lê Thái Tổ đều cũng vì những chỗ bất tài, bất lực

mà mất ngôi. Định luật của lịch sử cũng như công lệ của Tạo Vật không ra ngoài nguyên tắc "Ưu thắng liệt bại", như vậy

thiết tưởng việc phê bình những ông vua bất lực không khỏi là làm một sự nhàm thường vô vị. Một vấn đề cần phải suy

xét là cơ cấu của nền quân chủ Việt Nam về phương diện tổ chức và điều hành cùng mọi ảnh hưởng và mối tương quan

của nó với đời sống của nhân dân qua lịch trình tiến hóa của dân tộc, chúng tôi sẽ xin bàn tới trong những trang dưới đây

rồi do đó chúng ta sẽ thấy vì sao những ông vua cuối cùng của hầu hết các vương triều đã là nạn nhân của các chuyện đa

đoan, bi thảm.

223 Việt Sử Toàn Thư

2- Cuộc Cách Mạng Của Hồ Quý Ly.

 Hồ Quý Ly xuất thân chỉ là Chỉ Hậu Chánh Trưởng, một chức quan hầu trong cung điện, tháng 5 năm Tân Hợi (Thiệu

Khánh thứ hai - 1371) dưới đời Nghệ Tông. Bước tiến trên hoạn lộ của họ Hồ đã nhanh như gió, chẳng bao lâu Quý Ly

được thăng tới chức Đại Sứ Khu Mật và được kết duyên với em gái vua là Huy Ninh Công Chúa, vợ góa của tông thất

Trần Nhân Vinh. Tháng chín năm ấy Quý Ly được cử đi vỗ yên dân Nghệ An và được gia phong Trung Tuyên Quốc

Thượng Hầu. Tháng giêng năm Ất Mão (Long Khánh thứ ba - 1375) Duệ Tông cử Quý Ly kiêm chức Tham Mưu quân

sự được toàn quyền định đoạt các việc quân và xếp đặt các thứ vị về võ, chỉ huy từ các tông thất trở xuống. Năm Bính

Thìn (1376) tháng chạp, cùng Duệ Tông đi đánh Chiêm, Quý Ly đảm nhận việc đôn đốc lộ Nghệ An, phủ Tân Bình, các

châu Thuận, Hóa, vận lương thực cho quân đội đến cửa bể Di Luân (thuộc Quảng Bình). Tháng giêng năm Kỷ Mùi (năm

Xương Phù thứ ba - 1379) dưới đời vua Đế Nghiễn (Hiễn) Quý Ly thăng chức Tư Không kiêm Khu Mật Đại Sứ. Tháng

hai năm Canh Thân (1380) Chiêm Thành cướp phá mấy tỉnh đường trong, Quý Ly lĩnh thủy quân, Đổ Tử Bình lĩnh lục

quân đi dẹp. Quý Ly đại thắng quân Chiêm ở Ngu Giang (phân lưu sông Mã nay thuộc phủ Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa).

Đỗ Tử Bình cáo ốm trả binh quyền. Quý Ly giữ luôn cả lục quân với danh hiệu Đô Thống Chế đạo Hải Tây. Tháng ba

năm Đinh Mão (1387), Quý Ly thăng chức Đồng Bình Chương Sự (tể tướng) được Nghệ Tông ban cho cờ kiếm đề hai

câu: "Văn võ toàn tài, quân thần đồng đức". Tháng hai năm Giáp Tuất (năm Quang Thái thứ bảy - 1394) dưới đời vua

Thuận Tông, Thượng Hoàng Nghệ Tông cho vẽ tranh Tứ Phụ ca tụng Quý Ly (Tranh Tứ Phụ vẽ bốn người hiền đời xưa

có tài đức giúp vua giúp nước là Chu Công giúp vua Thành Vương nhà Chu, Hoắc Quang giúp vua Chiêu Đế nhà Hán,

Gia Cát Lượng giúp vua Hậu Chúa nhà Thục Hán, và Tô Hiến Thành giúp vua Cao Tông nhà Lý). Tháng hai năm Ất Hợi

(Quang Thái thứ tám - 1395) đời Thuận Tông, Quý Ly lên chức cao hơn hết trong triều đình là Nhập Nội Phụ Chính Thái

Sư Bình Chương Quân Quốc Trọng Sự, tước Tuyên Trung Vệ Quốc Đại Vương. Tháng ba năm Mậu Dần (Quang Thái

thứ mười một - 1398) Quý Ly tự xưng là Khâm Đức Hưng Liệt Đại Vương Quốc Tổ Nhiếp Chính. Xét cái niên biểu

trên đây, Quý Ly tiến nhanh không thể nói được và cũng không hề bao giờ bị giáng trong 27 năm, được Nghệ Tông và

các vua nhà Trần trọng dụng mặc dầu gặp nhiều lực lượng phản động rất mạnh mấy phen định lật nhào họ Hồ trên cái

thang danh vọng.

Ta hãy kiểm điểm những công việc Quý Ly đã làm để có một ý niệm xác đáng về nhà chính trị đó.   

Cải Cách Chính Trị.  

 Họ Hồ vừa bước chân vào trường chính trị đã để ý ngay tới việc cải cách quốc gia trên mọi địa điểm. Có xét kỹ chương

trình cải cách của họ Hồ từ 1374, mới hiểu tình trạng nước ta vô cùng khó khăn và nguy quẫn vào cuối thế kỷ thứ XIV.

Và cũng nhân đó ta mới thấy họ Hồ trong 27 năm quyền khuynh thiên hạ đã không hẳn được ngồi yên để hưởng công

danh phú quý. Sự thật họ Hồ đã làm việc rất nhiều và có thiện chí đưa nước nhà đến chỗ hùng mạnh; nhất là họ Hồ có

con mắt tinh đời trước cái nạn cường lân, ngoại địch khi đó đang đe dọa trước mắt. Chỉ tiếc rằng trong 27 năm họ Hồ

cầm chính quyền gặp nhiều trở lực nên các việc cải cách đã có nhiều phen bị ngưng trệ và sau khi lên ngôi tuy nhà Hồ vẫn

xúc tiến các cuộc cách mạng quốc gia nhưng chưa được bao năm thì bị sụp đổ. Đối với xã hội Việt Nam, một xã hội

hoàn toàn nông nghiệp, xã thôn là nền tảng. Chế độ và tổ chức xã thôn xuất hiện từ đời Trần có đầy đủ nguyên tắc dân

chủ vì xã thôn có những quy lệ riêng do các phong tục, tập quán được nhân dân tôn trọng, cấu tạo. Nó là ý dân ở từng

địa phương một Nó đã gây nên một chế độ tiểu quốc gia trong một quốc gia và đã xây dựng được nền tự trị của nó về

kinh tế, chính trị cũng như văn hóa. Câu "phép vua thua lệ làng" đủ tỏ cái uy tín của xã thôn đối với nhân dân Việt Nam,

cũng như đối với các nha đương đạo, nhất là các xã thôn (đại tiểu, tư xã, đại tư xã, tiểu tư xã) lại do các quan từ lục

phẩm trở lên là những người có học cầm cương nẩy mực. Xã thôn có nhiều uy quyền nên đã phát triển được mọi sáng

kiến mà vì đó nhiều tục lệ của xã thôn được các nhà đương đạo mặc nhiên công nhận. Nhưng từ đời Nghệ Tông chế độ

xã thôn cũng vì hoàn cảnh chung đời bấy giờ mà sinh ra nhiều sự đồi tệ. Quý Ly bỏ các ty xã, đặt chức quản giáp cũ thay

thế, để việc cai trị bớt tính cách phân quyền và tránh cho nhân dân nhiều điều phiền phức. Vừa lên chức Khu Mật Đại

Sứ, Quý Ly đã đi kinh lý toàn hạt Nghệ An xem xét tình dân, rồi tháng 8 năm sau xin chiếu bắt các lộ làm sổ trướng tịch.

Tháng tư năm Đinh Sửu (Quang Thái thứ 10 - 1397) triều Thuận Tông, Quý Ly đổi các lộ ra trấn: - Thanh Hóa đổi ra

Thanh Đô trấn. - Quốc Oai đổi ra Quảng Oai trấn. - Đà Giang đổi ra Thiên Hưng trấn. - Nghệ An đổi ra Tân An trấn. -

Trường An đổi ra Thiên Quan trấn. - Diễn Châu đổi ra Vọng Giang trấn. - Lạng Sơn phủ đổi ra Lạng Sơn trấn.

- Tân Bình phủ đổi ra Tân Bình trấn. Cai trị các trấn vẫn là các An Phủ Chánh Phó Sứ. Phủ đặt chánh phó Trấn Phủ Sứ.

Châu đặt Thông Phán, Thiêm Phán; Huyện đặt Lệnh Úy, Chủ Bạ. Lộ coi phủ, phủ coi châu, châu coi huyện. Lộ nào cũng

phải lập sổ sách về việc đinh, điền, tiền, thóc, kiện tụng. Cuối năm phải đệ trình về Kinh để xét lại. Tháng ba năm Canh

Thìn (Kiến Tân thứ ba - 1400) đời Thiếu Đế (lúc này họ Hồ đã thay họ Trần) Quý Ly đặt chức Liêm Phòng Sứ ở mỗi lộ

để bí mật kiểm soát hành vi của các quan lại và dân tình không khác gì chức thanh tra chính trị và hành chính ngày nay.

(Nhân đây cần phải nhắc rằng Quý Ly rất nghiêm đối với những kẻ vi phạm luật pháp và thượng lệnh. Tỷ dụ: Trong trận

Ngu Giang, Quý Ly phái Thần Vũ tướng quân Nguyễn Kim Ngao, Thị Vệ tướng quân Đỗ Dã Kha tiến đánh giặc Chiêm.

Kim Ngao thấy giặc mạnh quay thuyền trở lại. Tức thì Quý Ly cho chém đầu Kim Ngao để nghiêm quân luật trước sĩ tốt.

Trận ấy quân ta thắng Chế Bồng Nga và từ đó Quý Ly chiếm cả quyền Thống Chế Binh Vụ của Đỗ Tử Bình). Trước

năm Bính Tí (1396) theo đề nghị của Vương Như Chu, Quý Ly cho chỉnh đốn lại phẩm phục của các quan: Về áo: Nhất

phẩm mặc áo tím Nhị phẩm mặc áo đỏ tươi Tam phẩm mặc áo hồng Tứ phẩm mặc áo lục Ngũ, lục, thất phẩm mặc áo

sắc biếc Bát, cửu phẩm mặc áo sắc xanh Về mũ: Các quan văn từ lục phẩm trở lên đội mũ Cao Sơn. Võ từ lục phẩm lên

đội mũ Triết Sung. Tông thất đội mũ Phương Thắng đen. Chức cao mà không có tước phong đội mũ Giốc Đinh. Thất

phẩm đội mũ Thái Cổ. Tòng Thất phẩm đội mũ Tân Hoa; Vương Hầu đội mũ Viên Du, Ngự Sử Đài đội mũ Khước Phi

(chưa khảo rõ được hình thức các thứ mũ). Do chỗ cải cách nầy ta hiểu về phẩm phục trước đời Quý Ly chưa có thứ tự.

Việc này tuy không quan trọng nhưng tỏ rằng Quý Ly không những chỉ lo các việc lớn mà còn nghĩ đến cả việc nhỏ.   

Cải Cách Quân Sự.  

 Ngay từ tháng 8 năm Quý Sửu (Long Khánh nguyên niên - 1374), Quý Ly đã cho sửa đổi lại việc quân, đóng nhiều

chiến thuyền và tuyển mộ trai tráng chia làm ba hạng sung vào quân dịch. Để tránh việc ẩn lậu, Quý Ly cho làm sổ hộ tịch

ghi tên những người từ 2 tuổi trở lên. Số người có thể động viên (từ 15 tuổi đến 60) hơn gấp mấy phần lúc trước.

Cũng ngày này năm sau đặt thêm quân hiệu: trước kia quân Túc Vệ chia ra làm bốn Thiên, bốn Thánh, bốn Thần nay đặt

thêm các quân Uy Tiệp, Bảo Tiệp, Long Dực, Thần Dực, Điện Hậu phân biệt bằng các mầu sắc trên trán như sau: Quân

Túc Vệ trán vẽ đen, quân mới tuyển trán nhuộm tím. Thanh Hóa, Nghệ An, Tân Bình, Thuận Hóa đặt quân hiệu riêng.

Tháng giêng năm Mậu Ngọ (Xương Phù thứ hai - 1378) những người khoẻ mạnh, am hiểu võ nghệ được lựa làm Vệ sĩ

giám đốc việc quân. Trần Ngoạn được cử làm quản quân Thiên Đình, Bùi Hấp quản quân Thiên Uy, Hoàng Phụng Thế

quản quân Thánh Dực, Trần Thế Đăng quản quân Thần Dực, Bùi Bá Ngang quản quân Thần Sách, Nguyễn Kim Ngao

quản quân Thần Vũ, Trần Trung Hiếu quản quân Bảo Tiệp, Trần Bang quản quân Thị Vệ, Nguyễn Tiểu Luật quản quân

Thiên Trường, Nguyễn Bát Sách quản quân Thiết Sang, Nguyễn Văn Nghê quản quân Thiết Giáp, Nguyễn Hộ Lê quản

quân Thiết Liêm, Nguyễn Khánh Dư quản quân Thiết Hộ, Trần Quốc Hưng quản quân Ô Đồ. Quý Ly lại đặt thêm chức

Đô Đốc, Đô Hộ, Đô Thống, Tổng Quản, Thái Thú bên cạch các Anh Phủ Chánh Phó Sứ các lộ, các phủ. Hồi đó con

trai Hồ Quý Ly là Hồ Hán Thương lĩnh chức Đông Đô Đô Hộ Phủ; Thái Bảo Trần Nguyên Hãng lĩnh Bắc Giang Đô

Thống Phủ; Trần Nguyên Trữ lĩnh Tam Giang Đô Thống phủ, Thiếu Bảo Vương Nhữ Chu coi mọi việc quân dân Thiên

Trường phủ; Hành Khiển, Hà Đức Lân kiêm Thái Thú Tân An phủ. Dưới đời Hồ Hán Thương, Nam Bắc phân ra làm 12

vệ. Đông Tây phân làm 8 vệ. Mỗi vệ có 18 đội. Mỗi đội có 18 người. Đại quân có 30 đội. Trung quân có 20 đội. Mỗi

doanh có 15 đội. Mỗi đoàn có 10 đội. Còn những Cấm vệ thì chỉ có 5 đội do một đại tướng thống lĩnh. Tổng số quân đời

bấy giờ có chừng 10 vạn. Về thủy quân để đề phòng các ngã sông và các cửa bể. Quý Ly hạ lệnh cho các địa phương

đóng cọc gỗ để chặn đường tiến của giặc và cho sửa lại các chiến thuyền theo lối mới gọi là thuyền Cổ Lâu, thứ thuyền

lớn đóng bằng sắt ở trên có sàn đi, ở dưới cứ hai người chèo cho chống một dầm, rất tiện việc chiến đấu (1405-1406).

Đặt ra bốn kho quân khí tức là xưởng công binh, tuyển các thợ giỏi để chế tạo khí giới. Đáng để ý, Quý Ly rất lưu tâm từ

lâu đến việc mở mang quân đội để bành trướng thế lực của mình và để đề phòng việc ngoại xâm. Quý Ly hiểu rõ nhà

Minh thế nào cũng có dịp động binh qua đất Việt dù chính sách ngoại giao của Trần triều thuở đó rất mềm dẻo. Tới khi

nắm được hết quyền hành trong tay (1400) Quý Ly thiết lập ráo riết chế độ quân sự khắp nước, biết rằng việc bang giao

với Minh triều, sớm muộn sẽ đứt đoạn, chẳng vậy ông thường tỏ lòng thắc mắc với quần thần: "Làm thế nào có nổi trăm

vạn quân để chống nhau với giặc Bắc?" Xét các cuộc va chạm với Chàm dưới toàn thịnh của họ, ta phải công bằng mà

nhận rằng năm Canh Thân (Xương Phù thứ tư - 1380), Chế Bồng Nga phải bỏ chạy, và năm Canh Ngọ (Quang Thái thứ

ba - 1390) họ Chế phải bỏ mạng trên dòng Hoàng Giang là nhờ ở sự cải cách binh bị và quân kỷ sắt thép của họ Hồ.    

Cải Cách Kinh Tế.  

 Các nhà trí thức khảo duyệt hành động của các nhân vật lịch sử đều nhận rằng những cải cách kinh tế và văn hóa của Hồ

Quý Ly là một điều xuất sắc đặc biệt nhất từ xưa đến nay. Lời khen ngợi đó có đúng chăng? Thuở đó nhà chính trị họ Hồ

đã đứng trước một xã hội Việt Nam đầy đói khổ, một chính phủ với kho tàng rỗng tuếch, cuộc khủng hoảng tinh thần và

vật chất lan tràn từ triều đường ra tới các nơi dân dã. Bằng cách gì nhà chính trị đó xoay đổi lại thời cục? Để cứu nạn đói,

vì nạn đói sinh ra loạn ly, chính sách quyên thóc được thi hành. Ai có thóc cúng cho Nhà nước thì được phong tước tùy

theo chỗ hằng tâm, hằng sản nhiều ít. Năm Kỷ Mão (Long Khánh thứ ba - 1370) có Chiếu bắt buộc các nhà giàu ở các

Lộ phải nộp thóc cho Nhà nước đổi lấy tước phẩm. Để tập trung các tài nguyên quốc gia vào tay chính phủ, Quý Ly cho

phát hành tiền giấy vào năm Đinh Sửu (1397) điều chưa hề có ở nước ta từ thượng cổ đến bấy giờ. Tiền giấy tiện lợi cho

việc lưu thông và việc thương mại thế nào ai nấy đều biết và ta cũng nên nhớ rằng các tư gia thuở xưa sợ loạn ly hay có

thói tích trữ và chôn dấu tiền bạc. Việc đó rất có ảnh hưởng cho nền kinh tế quốc gia đối với bất cứ thời nào. Tiền giấy

có 7 hạng: - Giấy vẽ rêu bể ăn: 10 đồng tiền - Giấy vẽ sóng nước ăn: 30 đồng tiền - Giấy vẽ đám mây ăn: 1 tiền - Giấy vẽ

con rùa ăn: 2 tiền - Giấy vẽ con lân ăn: 3 tiền - Giấy vẽ con phượng ăn: 5 tiền - Giấy vẽ con rồng ăn: 1 quan Ai làm tiền

giấy giả phải tội tử hình, tịch thu tài sản. Ai có một quan tiền thực được đổi lấy một quan hai tiền giấy. Tiền đồng phải đem

nộp kho đổi lấy tiền giấy. Người nào dấu diếm và mang tiêu sẽ phải tội như người làm tiền giấy giả vậy. Đồng thời với việc

phát hành tiền giấy, Quý Ly ban hành các đồ đo lường (cân, thước, đấu, thưng) để dân gian có độ mực nhất định trong

việc buôn bán. Chức Giám Thị được đặt ra để kiểm soát việc buôn bán và các điều luật thương mại, cấm nhân dân tự ý

tăng giá hàng và đóng cửa hàng, mục đích tránh nạn đầu cơ, tích trữ và giữ giá trị cho tiền giấy của Nhà nước. Năm

Nhâm Thìn (1401), có lập ra một thứ thuế đánh vào các thuyền buôn. Thuyền buôn chia ra làm ba hạng: hạng nhất phải

nộp mỗi chiếc 5 quan, hạng nhì 4 quan, hạng ba 3 quan. Việc buôn bán hồi đó bắt đầu phát đạt mặc dầu dân chúng vẫn

chuyên về nông nghiệp. Năm Mậu Dần (1398) Quý Ly hạ lệnh đo đạt lại ruộng đất, hạn cho các quan lại địa phương phải

chu tất việc này trong 5 năm vì nhiều ruộng đất có sự ẩn lậu. Các quan lộ, phủ, châu, huyện phải sức cho các điền chủ

khai rõ số ruộng đất mình có rồi biên họ tên vào một cái thẻ cắm trên thửa ruộng. Một Hội đồng gồm các quan địa

phương thân hành đến tận nơi kiểm soát và đo lại rồi lập thành điền bạ. Thửa ruộng nào không có người khai sẽ lấy làm

công điền (Việc này tiếc thay chưa làm xong thì nhà Hồ đã mất). Do việc đạc điền, Nhà nước thâu được thêm tiền thuế

và có thêm một số ruộng công để chẩn cấp cho dân nghèo.   

 Cải Cách Xã Hội.   

 Trong chương trình cải cách xã hội, Quý Ly còn đi mạnh hơn nữa. Đó là việc phân chia lại điền địa vào năm Đinh Sửu

(1397), là năm Quý Ly đã leo lên tới bực chót của cái thang danh vọng. Xét ra, nếu Quý Ly không nắm được ưu thế

tuyệt đối về quyền hành thì khó lòng mà thi hành được sáng kiến này. Có lẽ ông đã nhận thấy chế độ tư hữu tài sản của

Trần triều bành trướng quá mạnh đang ảnh hưởng tai hại cho đời sống của dân tộc, do nhân khẩu mỗi ngày tăng gia một

nhiều thêm, không có cách gì dẹp yên các mầm loạn hơn là cách hạn chế tư sản để cứu vãn cơm áo của đại chúng. Họ

Trần trước đây đã khai sinh ra chế độ Nô, Tỳ, Hoành, là một chế độ nông nô dùng vào việc đắp đê, ngăn nước mặn

ngoài biển để mở ruộng lập thành trang trại. Những trang trại đó đã vì mồ hôi nước mắt của dân nghèo mà có thì nay trả

lại cho dân nghèo để họ có kế sinh nhai. Nay theo tân sách, trừ các bậc đại vương và trưởng Công chúa, không ai được

cấy quá 10 mẫu ruộng. Số ruộng thừa phải nộp cho Nhà nước. Ngoài ra, ai có tội hay bị giáng truất đều được lấy ruộng

để chuộc tội, đủ hiểu chính sách cải cách điền địa được áp dụng mọi phương tiện thích nghi và rất rộng rãi. Đi đôi với việc

trên, việc sưu thuế cũng được sửa đổi lại. Mỗi mẫu tư điền theo chế độ cũ (thuế đinh có từ đời Trần) phải nộp 3 thăng

thóc. Mỗi mẫu dân nộp từ 7 quan đến 9 quan. Thuế đinh mỗi xuất nhất luật phải nộp 3 quan (theo đề nghị của Đỗ Tử

Bình được thi hành từ năm Mậu Ngọ, Xương Phù thứ hai - 1378) Năm Nhâm Ngọ (1402), họ Hồ định lại: ruộng tư điền

mỗi mẫu phải nộp 5 thưng. Ruộng dâu chia làm 3 hạng: hạng nhất đóng 5 quan, hạng nhì 4 quan, hạng ba 3 quan. Thuế

thân tùy theo hoàn cảnh riêng của mỗi người. Hạng vô sản và cô nhi, quả phụ được miễn. Hạng có 5 sào, phải nộp 5 tiền

giấy. Hạng có từ 6 sào đến 1 mẫu, phải nộp 1 quan tiền giấy. Hạng có 1 mẫu 1 sào đến 1 mẫu 5 sào, nộp 1 quan 5 tiền

giấy. Hạng có 1 mẫu 6 sào đến 2 mẫu phải nộp 2 quan tiền giấy. Hạng có 2 mẫu 1 sào đến 2 mẫu 5 sào phải nộp 2 quan

6 tiền giấy. Hạng có 2 mẫu 6 sào trở lên nộp 3 quan tiền giấy. Riêng việc sửa đổi về sưu thuế này không có lợi mấy cho

dân, trái lại dân chúng phải đóng góp nặng hơn trước. Theo chế độ cũ đã thi hành đến năm Mậu Ngọ (1378), thuế thân

vẫn tính theo số ruộng: ai có một hai mẫu ruộng mỗi năm phải đóng 1 quan tiền. Ai có ba bốn mẫu phải đóng 2 quan. Ai

có 5 mẫu trở lên phải đóng 3 quan. Nhưng tổng quát mà nói chế độ mới vẫn có lợi cho dân hơn chế độ cũ. Có lẽ từ năm

Mậu Ngọ (1378) đến năm Nhâm Ngọ (1402), việc áp dụng đề nghị của Đỗ Tử Bình đã gây nhiều ác cảm trong dân

chúng nên Quý Ly có ý cải cách để thu phục lại nhân tâm.

Cùng theo một đường lối với việc cải cách điền địa, Quý Ly hạn chế cả việc dùng dân nghèo làm nô lệ. Ông đã không

dung việc lạm quyền của giai cấp phong kiến, quý tộc, quan liêu, chia tay nhau tài sản quốc gia, lẽ tất nhiên ông phải bài

trừ nốt việc bóc lột sức lao động của đám dân cùng đường, lỡ bước trở nên tôi mọi. Xưa kia, các vương tôn, tông thất

được thu dụng rất nhiều đầy tớ, nay mỗi nhà quý tộc chỉ được một số tùy theo phẩm trật. Số thừa phải trả lại cho Nhà

nước. Đầy tớ được phân biệt bằng các dấu trên trán: - Đầy tớ của Nhà nước vẽ hỏa châu. Đầy tớ của Công Chúa vẽ

dương đương. Đầy tớ của nhà đại vương có một khoanh đỏ. Đầy tớ của các quan nhất, nhị phẩm có một khoanh đen. Từ

tam phẩm trở xuống có 2 khoanh đen. Việc hạn nô này còn có một ý định sâu sắc về chính trị nữa là giảm bớt thế lực của

các quý tộc trung thành với họ Trần hay là đám tông thất có quyền lợi sinh tử với vương triều. Cứu vãn vấn đề dân sinh và

nạn nhân mãn ở Trung Châu sông Nhị bấy giờ đang rất nguy ngập bằng cách chia lại ruộng đất, họ Hồ có lẽ chưa thỏa ý,

vì cung nhường chưa đủ cho cầu, nên họ Hồ lại di chuyển những dân cùng vào làm ăn các miền đất đai mà chúa Chiêm là

Ba Đích Lại thua trận năm Nhâm Ngọ (1402), phải dâng cho nước ta: (đất Chiêm Động và Cổ Lũy). Quý Ly chia hai nơi

này ra làm 4 châu: Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa, đặt lộ Thăng-Hoa để chi phối bốn châu. Chỗ giáp giới đất Chiêm thì đặt ra

trấn Tân Ninh. Nguyễn Cảnh Chân được làm An Phủ Sứ lộ Thăng Hoa. Dân nghèo được tổ chức thành đoàn như quân

đội, đưa cả vợ con đi theo, chia nhau chiếm hữu các nơi đất mới để khẩn hoang và lập nghiệp. Họ phải thích ở trên cánh

tay tên châu mình trú ngụ. Vấn đề trâu bò cũng được giải quyết: Ai nộp cho Nhà Nước trâu bò để cấp cho di dân đều

được ban phẩm tước. Năm Quý Mùi (1403), Quý Ly lập Quảng Tế Thự (tức là bệnh viện của chính phủ ngày nay) để

chữa bệnh cho mọi người. Nguyễn Đại Năng là một thầy chuyên môn về khoa châm cứu được cử ra trông nom. Để giải

quyết nạn đói sau những vụ giặc giã, lụt lội, hạn hán, Quý Ly cho lập ở mỗi lộ một kho thóc gọi là kho Thương Bình (theo

kiểu kho của quan lại Tư Nông đời Hán Tuyên Đế, 73-49 trước Công Lịch), lấy tiền công mua thóc lúa lúc giá hạ rồi bán

rẻ cho dân lúc khó khăn hoặc đem chẩn cứu cho dân cùng. Hơn nữa, triều đình còn sức các lộ quan kiểm điểm số thóc

của các đại điền chủ rồi đứng ra bán cho dân, dĩ nhiên Nhà nước định một giá hợp với hoàn cảnh của các người túng

thiếu. Ngoài ra, ở các miền bể, triều đình cho đắp đê ngăn cản nước mặn để lấy thêm ruộng đất cho dân và khai thác các

bến, các sông vùng Thanh Hóa, Nghệ An cho sự chuyên chở, buôn bán thêm phần thuận tiện.   

Cải Cách Văn Hóa.  

 Nho Giáo và tư tưởng của các hiền giả Trung Quốc từ Lý qua Trần được dân ta hết sức suy tôn. Chữ Nho giữ một ưu

thế đặc biệt trong văn học và các giấy tờ hành chánh. Chữ Nôm dưới đời Trần mới chỉ được dùng trong các thi ca mà

thôi. Cờ đến tay, Quý Ly vốn có tinh thần cải cách và óc độc lập, tự tin liền đề cao vai trò của văn chương quốc âm và

dám lật nhào cả những lý thuyết bất khả xâm phạm qua bao nhiêu thế kỷ của các thánh hiền Trung Quốc. Năm Đinh Mão

(Xương Phù thứ mười một, 1387), được Thượng Hoàng Nghệ Tông ban cờ kiếm, Quý Ly làm một bài thơ Nôm để tạ

ơn. Năm Kỷ Hợi, Quang Thái thứ mười tám - 1394, Quý Ly dịch thiên Vô Dật trong Kinh Thi là thiên chép lời của Chu

Công ra quốc âm để dạy vua Thuận Tông. Năm Đinh Sửu (1396), Quý Ly dịch xong pho Kinh Thi dạy các nữ quan, hậu

phi và cung nữ. Ông bỏ bài tựa của Chu Hy ở đầu sách rồi đề bài tựa của mình, đại ý nói sách ấy dịch và giải thích theo ý

kiến riêng của ông. Ông lại soạn ra sách Minh Đạo (đề sáng tỏ đạo Nho) dâng lên Nghệ Tông năm Nhâm Thân (Quang

Thái thứ năm 1392), đáng kể là một cuốn sách phê bình triết học đầu tiên ở nước ta sau này, gồm 14 thiên khen Chu

Công hơn Khổng Tử, tôn Chu Công làm bậc tiên thánh, Khổng Tử làm Tiên Sư và nêu 4 chỗ đáng ngờ: a) Khổng Tử

đến chơi nhà nàng Nam Tử. b) Khổng Tử hết lương ở nước Trần. c) và d) Công Sơn Phất Nhiễu, Phất Bạt với Khổng

Tử, Khổng Tử muốn đi. Cũng trong sách này, Quý Ly kết tội Hàn Dũ, một danh sĩ đời Đường, đã bài Phật rất kịch liệt là

"Đạo Nho" (nhà nho ăn trộm) và cho rằng các hiền giả đời Tống (như Chu Mậu Phúc hiệu Liêm Khê, Trình Hiếu, Trình

Di, Dương Thì, Lý Duyên Niên, La Trọng Tố, Chu Tử (tức Chu Hy hiệu Hối Am) có học rộng nhưng tài thường, không

có tinh thần thực tế, chỉ chuyên nghề cắp lột văn chương tư tưởng. Ông Chu Thiên cho rằng chiếc roi mà họ Hồ đã quật

vào mặt các nhà hiền giả kể trên có điều oan uổng vì họ Hồ quá thiên về thực hành mà quên mất điều trọng là hoàn cảnh

thực tại chi phối các hiền giả đó. Muốn sao, ta cũng phục họ Hồ có một tinh thần độc lập, chịu suy xét, dám tự tin, dám

hoài nghi, không a dua hót bậy, nịnh sằng như đám nho sĩ trước và sau đấy chẳng riêng gì ở Việt Nam. Nếu trong tư

tưởng giới của ta hay của Trung Quốc có nhiều nhân vật lỗi lạc như họ Hồ, có lẽ văn minh, học thuật Á Đông còn rạng rỡ

hơn nữa. Năm Đinh Sửu (1387), Quý Ly cũng sửa đổi việc học hành. Ông lại bỏ lối kén nhân tài bằng khoa cử mà bằng

lối tuyển cử. Họ Hồ đặt ra ngạch học quan, xét việc học chỉ có tổ chức ở kinh thành, mà ở các châu, huyện thì hoàn toàn

thiếu sót. Ông sức cho các lộ Sơn Nam, Kinh Bắc, Hải Đông, mỗi phủ, châu, phải đặt một viên học quan lo việc giáo

hoán thanh niên. Nhà nước trích hoa lợi ruộng công cung cấp một phần vào việc học hành, đèn sách, một phần làm lễ sóc

theo tỉ lệ: phủ, châu lớn 15 mẫu, phủ, châu vừa 12 mẫu, phủ, châu nhỏ 10 mẫu.

Các lộ quan phải liên lạc mật thiết với các học quan để xúc tiến việc giáo dục. Mỗi năm phải kén người giỏi tiến Kinh để

vua thân ra bài thi và tuyển lựa làm quan. Nhưng đến năm 1397, tức năm Quang Thái thứ 9, có lẽ việc tuyển cử không

thuận tiện nên Quý Ly đành trở lại lối thi cử dưới đây. Trước đó việc thi không có định thể, nay Quý Ly định làm tứ

trường văn thể mà bỏ phép Ám Tả: trường đệ nhất làm bài Kinh Nghĩa có đủ mấy đoạn: phá đề, tiếp ngu, tiểu giảng,

nguyên đề, đại giảng, triết kết, hạn từ 500 chữ trở lên. Trường đệ nhị có thơ phú (một bài thơ Đường Luật, một bài phú

cổ thể) cũng từ 500 chữ trở lên. Trường đệ tam ra chiếu, chế, biểu (chiếu dùng thể văn đời Hán, chế biểu dùng lối văn tứ

lục đời Đường). Trường đệ tứ thi văn sách, hỏi kinh sử hay thời vụ, hạn 1000 chữ trở lên. Ngoài ra, cứ thi Hương năm

trước thì thi Hội năm sau. Các thí sinh trúng tuyển còn phải qua một kỳ văn sách nữa do chính nhà vua ra đầu đề để định

trên dưới. Đến năm Giáp Thân (1040), là khi nhà Hồ đã ra đời, việc thi lại sửa đổi nữa. Họ Hồ đặt thêm một trường nữa

để thi viết và làm toán pháp. Đó là kỳ chung kết. Những người đã đỗ Hương Thí, sang năm phải qua bộ Lễ thi lại, có đỗ

mới được tuyển dụng rồi năm sau nữa mới thi Hội. Vượt được kỳ thi này mới được là Thái Học Sinh. Những người đỗ

Hương Thi được miễn phu phen, tạp dịch, năm sau phải thi lại ở bộ Lễ nếu trúng tuyển được bổ chức quan nhỏ. Việc cải

cách về thi cử này, có lẻ đã phỏng theo lề lối của nhà Nguyên... Đứng trước những việc cải cách trên đây, ai đọc sử hay

nghiên cứu Lịch sử nước nhà đều nhận thấy Hồ Quý Ly là một nhân vật có kỳ tài, có óc thông minh thực tế phi thường,

có đức tính cương quyết và nhẫn nại. Trên khắp mọi địa hạt, không những ông có nhiều sáng kiến, ông lại có một tinh

thần cấp tiến mạnh mẽ, hướng về đại chúng nó làm ông xa hẳn những người đương thời, nhất là giới quý tộc, phong kiến

đã vì những việc cải cách trên đây mà căn thù ông kịch liệt.      

Cuộc Đảo Chính của Hồ Quý Ly. 

 Tháng giêng năm Đinh Sửu (Quang Thái thứ mười 1397) Quý Ly cho khởi công việc xây thành Tây Đô ở động Yên Tôn

(nay còn dấu vết ở huyện Vĩnh Lộc, tục gọi là Tây Giai), lập miếu xã, mở mang phố phường rồi thiên cả triều đình vào

kinh đô mới. Các dân hạt Từ Liêm, Nam Sách phải vận tải gạch, ngói, gỗ, lạt, đến Tây Đô. Việc thiên đô này cần cho sự

thoán đoạt được dễ dàng, có lẽ vì Tây Đô địa thế hiểm trở, tiện đường hành quân lui tới theo dọc Trường Sơn hoặc muốn

dễ xa dư luận sĩ phu Bắc Hà lòng còn quyến luyến họ cũ, lại có thể dễ đề phòng họa xâm lăng của nhà Minh nữa bởi

Thăng Long ở giữa đồng bằng không lợi cho cuộc kháng chiến với giặc mạnh. Ngay tháng 10 năm ấy, nhân vua Thuận

Tông ngự giá yết lăng ở An Sinh (Đông Triều), Quý Ly cho lệnh dong thuyền thẳng vào sông Đại Lai. Giờ đó làm thế nào

cho việc thay bậc đổi ngôi được êm dịu, nhất là lời thề cùng vua Nghệ Tông tháng tư năm Giáp Tuất (1394) còn văng

vẳng43. Quý Ly liền lợi dụng đạo sĩ Nguyễn Khánh vào cung thuyết vua Thuận Tông nên đi tu tiên để lánh việc đời đầy hệ

lụy. Vua Thuận Tông nghe theo, truyền ngôi cho Hoàng Thái Tử Án, sau lời Chiếu ban hành vào tháng ba năm Mậu Dần

(1398) đại ý như sau: "Trẫm sớm hâm mộ trận gió huyền, không có lòng ở chốn nhà vàng, đức bạc mà giữ ngôi cao, khó

lòng kham nổi. Huống chi bệnh tim thường cứ phát luôn có phương hại đến tông xã và chính trị. Lời thề buổi trước, quỷ

thần đều đã nghe thấy nên nay nhường ngôi để nối lâu dài nền lớn. Hoàng Thái Tử Án lên ngôi vua, có Phụ Chính Thái Sư

Lê Quý Ly lấy địa vị Quốc tổ nhiếp chính. Trẫm tư làm Thái Thượng Nguyên Quân Hoàng Đế, ăn chay ở cung Bảo

Thanh, cho thỏa lời nguyền thuở trước". Thái Tử Án bấy giờ mới lên ba. Rồi Thuận Tông cũng không ra ở cung Bảo

Thanh nữa, ngài dời ra ở Ngọc Thanh Quan, thuộc huyện Đông Triều, tỉnh Hải Dương. Tháng tư năm sau (1399) nội tẩm

học sinh là Nguyễn Cẩn được Quý Ly sai ra giết. Thấy Nguyễn Cẩn có cử chỉ khác thường, Thuận Tông chột dạ hỏi:

- Mày ra chầu ta có ý định gì? Nguyễn Cẩn không nỡ nói ra điều y phải làm và cũng không đành lòng ra tay. Quý Ly liền

đưa thư ra cho Cẩn nói: "Nguyên Quân không chết, mày sẽ chết thay", Cẩn phải dâng thuốc độc. Thuận Tông uống cũng

vẫn không chết. Sau đến Xạ Kỵ tướng quân Phạm Khả Vĩnh đến thắt cổ Thuận Tông mới xong. Nhà Trần đến đây là hết,

sau 175 năm ở ngôi với 12 đời vua.                                          

 [43 Nghệ Tông vào năm tháng cuối cùng cũng có ý lo Quý Ly cướp ngôi, sai thợ vẽ tranh tứ phụ tỏ ý ca ngợi và mong

Quý Ly giúp dòng họ mình như Chu Công, Hoắc Quang, Gia Cát Lượng và Tô Hiến Thành. Tháng tư năm Quang Thái

thứ bảy, lễ hội thề xong, Nghệ Tông bảo Quý Ly: Bình Chương là họ thân, việc lớn nhỏ của nước nhà đều được ủy hết.

Nay nước đang suy nhược, trẫm  lại già yếu nếu quan gia có thể giúp được thì giúp, bằng tầm thường ngu tối thì Khanh tự

làm lấy! Quý Ly cỡi mũ, dập đầu khóc tạ, chỉ lên trời thề: - Hạ thần không hết lòng giúp vua giúp nước xin trời chu đất

diệt!... Xin bệ hạ soi xét lòng thần, chớ quá lo xa vậy! ]

hết phần 1 (1/2)

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro