vihung4

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Những cuộc phiêu lưu của Huckleberry Finn

Mark Twain

Nghiệp Khánh phỏng dịch

Nhà xuất bản Thanh Niên

Chương I

Băng cướp của Tom Sawyer

Các bạn sẽ không biết rõ lắm về tôi, nếu chưa đọc cuốn sách nhan đề là " Những cuộc phiêu lưu của Tom Sawyer ". Tác giả cuốn truyện ấy là Mark Twain. Phần lớn những điều ông viết trong sách là sự thật. Dì Polly, dì ruột của Tom, Mary và bà quả phụ Douglas là những nhân vật trong cuốn sách tôi vừa kể.

Cuốn sách ấy kết thúc như thế này: Tôm và tôi tìm được một số tiền mà các tên cướp đã giấu trong hang, chúng tôi trở nên giàu có. Chúng tôi được tất cả sáu nghìn đôla, toàn bằng vàng, chồng lên thành một đống to trông khủng khiếp lắm. Thế rồi ông thẩm phán Thatcher đem tất cả số vàng ấy cho vay để lấy lời. Chúng tôi mỗi đứa được một đôla mỗi ngày, cứ như thế suốt cả năm. Đối với một người, đó là số tiền quá lớn, không biết tiêu thế nào cho hết. Bà quả phụ Douglas đem tôi về nhà nuôi như con ruột, và bà nói rằng sẽ giúp tôi trở thành một con người văn minh. Nhưng tôi cảm thấy rất khó chịu vì phải sống trong ngôi nhà này suốt ngày suốt buổi, vì bà quả phụ có lối sống quá ư đạo mạo, và mực thước. Không thể chịu được nữa, tôi phải bỏ nhà trốn đi. Tôi phải mặc thứ quần áo cũ vào người rồi khăn gói lên đường, tối ngủ trong các thùng đựng đường, sống lại cuộc đời tự do thoải mái. Nhưng sau đó, Tom Sawyer tìm ra được tôi. Hắn nói cho tôi biết hắn đang tổ chức một băng cướp và cho phép tôi tham gia, nếu tôi chịu trở về với bà quả phụ, sống đàng hoàng như cũ. Thế là tôi trở về.

Bà quả phụ ôm lấy tôi mà khóc, gọi tôi là con cừu non lạc bầy đáng thương và nhiều tên khác nữa, nhưng chẳng có ý nghĩa gì là trách mắng cả. Thế rồi cuộc sống cũ lại tiếp diễn. Đến bữa ăn bà quả phụ rung một tiếng chuông thì mọi người phải đến phòng ăn ngay. Ngồi vào bàn ăn thì vẫn chưa được ăn ngay mà phải chờ bà cúi đầu xuống, lẩm bẩm điều gì đó, như phàn nàn về các thức ăn, mặc dù mọi thứ xem ra chẳng có gì đáng chê trách cả.

Sau bữa ăn tối, bà lấy sách ra, dạy cho tôi về thánh Moses và các bản thánh kinh. Tôi nóng lòng muốn tìm hiểu tất cả về ông ta, nhưng dần dần tôi biết được ra rằng ông ấy chết lâu lắm rồi, nên không còn quan tâm gì đến ông ấy nữa. Tôi thường không mấy tin tưởng về những người đã chết.

Tôi có thói quen hút thuốc, nhiều lần thèm quá tôi xin bà cho tôi hút vài hơi. Nhưng bà không cho, bảo rằng đó là thói quen xấu xa, bẩn thỉu mà từ nay tôi phải cố bỏ đi. Có những hạng người như thế đấy. Họ không hiểu biết về cái gì thì họ thường hay chê trách cái ấy. Bà quả phụ này cũng thế. Việc gì mà bà phải bận tầm về cái ông Moses chết từ đời nào, chẳng còn giúp ích gì được cho ai, chẳng có một chút ruột thịt máu mủ gì với bà. Trong khi ấy bà lại trách tôi về một việc thiết thực. Hơn nữa, bà đôi khi cũng dùng thứ thuốc hít.

Em gái bà, cô Watson một cô gái già mảnh khảnh, đeo kính, vừa đến ở chung với bà và bây giờ cô ấy tấn công tôi tới tấp với những cuốn sách tập đánh vần. Cô ấy quần tôi đến khổ sở, suốt cả tiếng đồng hồ, cho đến khi bà quả phụ bảo gương nhẹ đôi chút cô ấy mới chịu thôi. Tôi không thể nào chịu được nữa. Thế rồi cô bảo cho tôi biết những nơi nào cần tránh, nhưng tôi nói tôi lại thích những nơi ấy. Cô bảo tôi nói như thế là xấu xa lắm, cô chẳng bao giờ nói những điều như thế, dù trong bất cứ trường hợp nào. Cô sẽ mãi mãi sống làm sao để được đi đến nơi yên nghỉ tốt lành. Quả thật, tôi không màng nơi tốt lành mà cô sẽ đi tới, nên tôi nghĩ chẳng phải cố gắng làm gì. Nhưng tôi chẳng muốn nói ra cho thêm rắc rối vì cũng chẳng có lợi ích gì.

Thế rồi, cô Watson cứ tìm cách chê trách tôi mãi, khiến tôi cảm thấy mệt mỏi và cô đơn quá. Sau cùng, cô gọi những người đầy tớ de đen đến đọc kinh, rồi ai nấy đều đi ngủ. Tôi đi lên phòng tôi với cây đèn nến, rồi đặt nó lên bàn.

Tôi cố giữ im lặng lắng nghe . Từ phía dưới vọng lên một tiếng kêu khe khẽ: "meo meo". Mừng quá, tôi cũng trả lời hết sức khẽ: "meo meo", rồi tắt ngọn đèn đi, trèo qua cửa sổ, xuống mái nhà xép, rồi nhẹ nhàng trèo xuống đất. Tôi bò vào lùm cây thì quả đúng như thế, thằng Tom đang đứng chờ tôi ở đấy.

***

Chúng tôi rón rén đi dọc giữa các lùm cây đến cuối sân vười của nhà bà quả phụ. Khi đi ngang qua nhà bếp, tôi vấp phải rễ cây, phát ra một tiếng động. Cả hai chúng tôi liền nằm rạp xuống đất. Người đầy tớ da đen của cô Watson, tên là Jim đang ngồi ở cửa nhà bếp đứng phắt dậy, duỗi cổ ra lắng nghe một lúc rồi hỏi:

- Ai đó?

Tôm ra hiệu cho tôi, một thứ hiệu lệnh khe khẽ bằng miệng.

Chúng tôi bèn bò ra xa bằng cả hai tay hai chân. Khi đã xa được chừng ba thước. Tôm thì thầm với tôi, Ngỏ ý muốn trói Jim vào gốc cây cho vui. Nhưng tôi bảo như thế sẽ gây nên tiếng động đánh thức mọi người dậy, và người ta sẽ biết rằng tôi không có ở nhà. Rồi Tom lại nói rằng hắn không có đủ nến dùng, cần phải vào trong bếp lấy vài cây. Thế là chúng tôi lẻn vào nhà bếp, lấy ba cây nến, rồi đặt năm xu lên bàn để trả tiền. Riêng tôi thì nóng lòng muốn chuồn ngày đi, nhưng Tom thì không làm như vậy. Hắn còn muốn bò đến bên cạnh Jim để trêu anh chàng da đen này một lần. Tôi đành phải đứng chờ hắn khá lâu trong im lặng, cô đơn. Sau đó cả bọn chúng tôi tháo một chiếc xuồng nhỏ, đẩy xuôi dòng sông chừng một dặm rưỡi đến một chỗ đất lở bên sườn đồi, rồi tất cả đều lên bờ.

Tom bảo mọi người phải giữ bí mật, sau đó hắn chỉ cho chúng tôi một cái hang ăn sâu vào sườn đồi, ngay giữa những bụi cây rất dày. Chúng tôi thắp nến lên, rồi bò bằng cả tay lẫn chân. Đi được chừng 200 thước, hang bắt đầu mở rộng ra. Tom sờ soạng xung quanh rồi chui xuống phía dưới một vách đá ở một nơi không ai có thể ngờ rằng lại có một chiếc hang nhỏ khác có thể chui lọt qua. Chúng tôi đi dọc theo lôi đi hẹp, tiến đến một nơi rộng như một căn phòng, ẩm ướt, lạnh lẽo. Chúng tôi dừng lại. Tom bắt đầu lên tiếng:

- Bây giờ chúng ta khởi sự, lập một băng cướp, mệnh danh là "Băng cướp của Tom Swayer". Ai muốn ra nhập băng này đều phải thề và ghi tên mình bằng máu.

Mọi người đều ngõ ý tán thành. Tom liền rút ra một tờ giấy có

ghi sẵn lời thề, rồi đọc to lên. Lời thề ấy tuyên bố rằng mọi người phải tuyệt đối trung thành với tổ chức, không được tiết lộ bí mật. Nếu kẻ nào làm điều gì có thể nguy hại cho đồng đội của mình, thì bất kỳ ai trong băng, được giao nhiện vụ giết kẻ ấy và gia đình hắn, cũng phải thi hành triệt để, xong trách nhiệm còn vạch một chữ thập trên ngực họ để ghi dấu hiệu của băng. Không một kẻ nào không thuộc về băng chúng tôi mà có quyền sử dụng dấu hiệu ấy. Nếu bất tuân thì sẽ bị truy tố, và tái phạm sẽ bị giết. Còn kẻ nào gia nhập băng mà tiết lộ bí mật thì sẽ bị cắt cổ, xác hắn sẽ bị thiêu rụi, than tro sẽ đem rắc khắp nơi, tên hắn sẽ bị xoá bằng máu.

Có đứa đề nghị giết luôn cả gia đình đứa tiết lộ bí mật. Tom cho rằng đó là ý kiến rất hay. Nhưng thằng Ben lại thắc mắc:

- Thằng Huck không có gia đình, vậy sẽ giải quyết trường hợp

của hắn như thế nào?

- Nhưng mà nó có cha mà? - Tom trả lời

- Phải, hắn có cha, nhưng ai tìm ra được cha hắn. Hơn một năm

nay, người ta không thấy ông ta đâu nữa.

Tôi cũng nảy ra được một ý kiến là "cống hiến" cô Watson để cho chúng có thể giết khi cần. Tất cả đều nhao nhao lên:

- Được rồi! Cô ấy cũng đủ tư cách đấy. Huck, cho mày được kết nạp!

Sau đó chúng lấy một cái kim chích lấy máu ở ngón tay để ký, con tôi thì quệt một cái dấu gì đó trên tờ giấy. Thăng Ben lại hỏi:

- Công việc của băng chúng ta là thế nào?

- Chẳng có gì nhiều, chỉ cướp của giết người thôi. - Tom trả lời.

- Lúc nào cũng phải giết người hay sao?

Đó là cách hay nhất. Một số chuyên gia có thẩm quyền ở vấn đề

này có khi nghĩ khác, nhưng đa số cho rằng cách giết là hay nhất, chỉ nên để riêng ra một số người, đem về hang này giữ lại cho đến khi nào họ được chuộc...

- Chuộc? Là thế nào?

- Tao cũng không biết nhưng người ta vẫn làm như thế. Tao

thấy sách vở đã nói như vậy thì mình cứ phải làm.

- Nhưng nếu mình không biết thì làm thế nào được?

- Đằng nào thì chúng mình vẫn cứ phải làm. Tao đã nói là tất

cả các sách vở đều viết như vậy, chúng mày không nghe à. Chúng mày muốn làm khác với sách vở để rồi hỏng tất cả công chuyện hay sao?

- Được rồi, tuỳ mày. Nhưng tao vẫn cho rằng như thế là điên

rồ. Này, thế chúng mình cũng sẽ giết cả đàn bà hay sao?

- Không! Trong sách vở không ai nói như thế bao giờ. Mày phải

đưa họ về hang, phải tỏ ra lễ phép, lịch sự với họ. Thế rồi dần dần họ thương mày, họ yêu mày, rồi chẳng bao giờ đòi về nhà nữa.

Thằng bé Tommy Barnes bây giờ đang ngủ vùi. Khi mở mắt dậy, hắn khóc thét lên, cứ nằng nặc đòi về với mẹ chứ không làm kẻ cướp nữa.

Mọi người đều trêu hắn, gọi hắn là thằng bé khóc nhè, làm cho hắn nổi giận đùng đùng, đòi tiết lộ tất cả mọi bí mật. Nhưng Tom cho hắn năm xu để dỗ cho hắn nín, rồi giải tán phiên họp, hẹn với nhau rằng tuần sau sẽ họp lại để khởi sự đi cướp một vài thứ và giết một vài người.

Chúng tôi đồng ý sẽ họp lại để ấn định một ngày nào đó, càng sớm càng tốt. Tom được bầu làm trưởng băng, thằng Joe làm phó. Sau đó tất cả chúng tôi trở về nhà.

***

Sáng hôm sau, tôi phải trải qua một cuộc kiểm tra rất gay gắt của cô Watson vì bộ quần áo nhớp nhúa của tôi. Bà quả phụ thì không la rầy gì nhiều, chỉ đem quần áo tôi ra giặt cho sạch vết mỡ và đất sét. Trông vẻ mặt buồn bã của bà, tôi hơi hối hận, tự nhủ mình cần phải cư xử đàng hoàng một thời gian để làm vui lòng bà, nếu có thể được. Sau đó cô Watson đưa tôi vào trong phòng, rồi cô đọc kinh cầu nguyện, nhưng hình như cũng không có hiệu quả gì.

Đôi khi bà quả phụ gọi tên đến bên cạnh, rồi kể cho tôi nghe về Thượng Đế bằng một lối nói làm cho người nghe phải thèm. Nhưng đến ngày hôn sau, khi tôi gặp cô Watson thì tất cả những cảm tình ấy bị sụp đổ tan tành. Tôi nghĩ ra rằng có lẽ có hai thứ Thượng Đế, một là của bà quả phụ, một là của cô Watson. Một đứa nghèo khổ như tôi có nhiều cơ may được đến gần Thượng Đế của bà quả phụ hơn, còn Thượng Đế của cô Watson thì đừng có hy vọng gì.

Hơn một năm nay, tôi không gặp mặt cha tôi lần nào. Điều này làm tôi cảm thấy dễ chịu, vì cứ mỗi lần ông không say rượu, có sức khoẻ, là ông lại nện tôi một trận. Vì vậy, khi nào có mặt ông là tôi chạy trốn vào rừng. Mới đây, người ta tìm thấy xác ông bị chết chìm, cách thị trấn 12 dặm. Nói đúng hơn, người ta phỏng đoán rằng đó là xác cha tôi, vì người chết chìm ấy có vóc dáng cao lớn, quần áo rách rưới, tóc rất dài, giống như cha tôi vậy

Chúng tôi vẫn tiếp tục cuộc chơi trò ăn cướp. Chúng tôi thường từ bên trong rừng nhảy xổ ra tấn công những người chở heo, những bà đẩy xe rau ra chợ bán, nhưng chẳng bao giờ cho người nào vào cái hang cả. Tom Sawyer gọi các con lợn ấy là "thỏi vàng", rau quả là "đồ châu báu", sau đó chúng tôi trở về hang, mở hội nghị kiểm thành tích. Tôi thấy chúng tôi chẳng được lợi lộc gì thật sự trong các vụ ấy cả. Có lần tôi hỏi Tom tại sao không thấy kim cương, ngà voi...lái buôn... Thằng Tôm bảo rằng tôi quá ngu dốt, chưa hề đọc cuốn "Đông ki sốt" nên mới hỏi những câu ngớ ngẩn như thế. Hắn nói rằng những tay phù thuỷ cao cường đã biến vàng bạc, kim cương, quan lính thành heo, rau và con nít để đánh lừa chúng tôi thôi. Tôi bảo nếu như vậy mình cũng phải mời phù thuỷ đến chứ sợ gì. Tom liền mắng tôi là một thằng ngu xuẩn. Hắn nói:

- Lão phù thuỷ có thể gọi rất nhiều âm binh đến xé xác chúng

mày ra từng mảnh, chết không kịp ngáp, mày hiểu không? Chúng cao bằng cái cây và to lớn bằng ngôi nhà thờ.

- Thế thì mình cũng gọi âm binh lên tiêu diệt bọn chúng không

đượ hay sao?

- Mày làm thế nào mà gọi âm binh được?

- Tao không biết. Thế chúng gọi bằng cách nào?

- Chúng sờ sờ vào một cái đèn cũ làm bằng thiếc hay một cái

vòng sắt gì đó, thế là âm binh nhảy xổ đến, với sấm sét, chớp, khói, đủ mọi thứ và làm theo yêu cầu của phù thuỷ. " Nếu tao là một trong các âm binh ấy tao sẽ cho tên phù thuỷ đi chơi chỗ khác. Tội gì bỏ công việc đi hầu hạ hắn".

- Mày nói gì lạ vậy Huck. Nếu mày là âm binh thì bắt buộc mày

phải đến khi nào người ta sờ vào cây đèn, dù mày có muốn hay không.

- Trời! Tao cao như một cái cây, lớn bằng cái nhà thờ mà lại sợ

lão phù thuỷ à? Được rồi, tao sẽ đến, nhưng tao sẽ bắt thằng sờ vào cây đèn ấy phải trèo lên một cái cây cao nhất trong xứ.

- Mẹ kiếp! Nói chuyện với mày thì thà vạch đầu gối ra nói còn hơn Huck ạ. Dù nói bằng cách nào, mày cũng chẳng hiểu chút nào cả. Đúng là hạng ngu xuẩn hoàn toàn.

Chương II

Lời tiên tri của Jim

Ba, bốn tháng đã trôi qua, thời tiết đã sang hẳn mùa đông. Tôi đã đi đến trường học và có thể đọc, viết chút đỉnh.

Thoạt tiên, tôi ghét đến trường, nhưng rồi dần dần thấy mình cũng có thể chịu đựng được. Khi nào mệt mỏi quá thì trốn học đi chơi. Tôi cũng đã bắt đầu quen với lối sống của bà quả phụ, nên cảm thấy đỡ khó chịu hơn trước. Phải luôn ở trong nhà và ngủ trên giường nhiều khi cũng làm cho tôi ngột ngạt nhưng trước khi thời tiết lạnh bắt đầu, thỉnh thoảng tôi lại lén vào ngủ trong rừng, ấy là những lúc tôi cảm thấy vô cùng thoải mái. Tôi vẫn thích những lối sống cũ của tôi, nhưng dần dà cũng ưa lối sống mới, dẫu chỉ một chút ít thôi.

Một buổi sáng, tôi vô ý làm đổ lọ muối, lúc ăn sáng. Tôi vội vàng vớ lấy một nắm, ném qua vai trái để xả xui, nhưng cô Watson, lanh lẹ hơn, đã ngăn tôi lại. "Bỏ tay ra, Huck, lúc nào mày cũng làm bẩn tất cả mọi thứ". Tôi cảm thấy lo lắng về sự xui xẻo có thể xảy ra với mình.

Tôi đi xuống vườn trước nhà, bước lên bục gỗ để trèo qua hàng rào gỗ cao. Lúc đầu thì tôi không thấy gì, nhưng xem kĩ lại thì tôi nhận ra ngay. Có một dấu chữ thập ở gót giày bên trái làm bằng đinh to để đuổi ma quỷ.

Tôi cố đi thật nhanh đến nhà ông thẩm phán Thatcher. Trông thấy tôi, ông liền hỏi:

- Cháu đến lấy tiền lời, phải không?

- Không, cháu không tiêu đâu. Cháu cũng chẳng cần số tiền lời

ấy, cả sáu nghìn đô la kia nữa. Cháu muốn bác cầm lấy. Cháu muốn cho bác tất cả - cả sáu nghìn đô la lẫn tiền lời.

Ông thẩm phán có vẻ ngạc nhiên, không thể nào hiểu nổi. Ông nói:

- Cháu nói như thế là ý thế nào?

- Xin bác nhận lấy cho cháu và đừng hỏi thêm câu nào nữa cả,

nếu bác không buộc cháu phải nói dối.

Ông suy nghĩ một lát, rồi nói:

- Ồ, bác hiểu ra rồi. Cháu muốn bán tài sản của cháu cho bác

chứ không phải là cho không. Đúng thế chứ?

- Nói xong, ông viết gì đó trên giấy, đọc lại một lần nữa, rồi

bảo:

- Giấy này có ghi thêm một dòng chữ "Sẽ trả đủ tiền". Như thế

có nghĩa là bác đã mua lại của cháu và có trả tiền. Đây là một đô la trả cho cháu. Bây giờ cháu kí đi.

Tôi kí vào giấy rồi ra về.

Jim người nô lệ da đen của cô Watson, có một cuộn tóc to bằng

nắm tay, lấy ra từ cái dạ dày thứ tư của một con bò. Hắn thường dùng cuộn tóc ấy làm phù phép. Theo lời hắn nói, trong cuộn tóc ấy có thần linh, biết trước được tất cả mọi sự. Vì vậy, tối hôm ấy, tôi đến nói với hắn rằng cha tôi đã trở lại, vì tôi thấy vết giày của ông in trên tuyết. Tôi muốn nhờ hắn hỏi xem ông ta dự định làm gì và sẽ ở đây bao lâu nữa. Jim đặt đồng hào dưới cuộn tóc rồi quì xuống lắng nghe. Jim kể lại cho tôi như thế này:

"Cha cậu không biết ông ta sẽ làm gì. Lúc thì ông nói ông sẽ đi, lúc thì nói sẽ ở lại. Mặc kệ ông ta muốn làm gì thì làm. Hiện giờ đang có hai vị thiên thần bay nhảy xung quanh ông. Một vị thiên thần thì màu trắng và sáng sủa, vị kia thì đen đủi. Cậu cần phải cố gắng tránh xa sông nước và đừng có liều lĩnh.

Khi tôi thắp đèn lên, đi vào phòng đêm hôm ấy thì đã thấy cha tôi - bằng xương bằng thịt - đang ngồi lù lù ở đấy rồi!

Xưa nay, tôi vẫn sợ cha tôi vì ông hay đánh tôi dữ lắm. Bây giờ, tôi nghĩ rằng tôi cũng vẫn còn sợ. Nhưng chỉ trong một phút sau đó, tôi thấy tôi đã lầm. Thật ra, đó chỉ là một cơn giật mình lúc ban đầu, khi hơi thở tôi bị ngưng lại phút chốc vì quá bất ngờ, nhưng ngay sau đó, tôi không còn thấy sợ ông nữa, ông không đáng làm cho tôi phải lo lắng đến như thế.

Tôi đứng nhìn ông, còn ông cũng ngồi đó nhìn tôi, hơi ngả chiếc ghế về phía sau một chút. Tôi đặt cây nến xuống, để ý thấy cánh cửa sổ đã được kéo lên. Thì ra, cha tôi đã leo lên mái nhà xép, trèo qua cửa sổ để vào phòng tôi. Ông nhìn tôi từ đầu đến chân, rồi nói:

Chà, quần là áo lượt nữa chứ! Mày tưởng mày bây giờ quan trọng lắm phải không?

Có thể thế, mà cũng có thể không phải thế", tôi nói.

Ai cho phép mày dính dáng đến các trò điên rồ, nhảm nhí ấy hở? Ai xúi giục mày?

Bà quả phụ bảo con thế.

Bà quả phụ hả? Ai cho phép bà ấy chõ mũi vào công việc của người khác thế?

Chẳng ai bảo bà làm thế cả.

Ông ngồi lẩm bẩm một hồi rồi nói:

- Mày bây giờ ăn diện, thơm tho quá nhỉ. Nào là giường nệm,

gương soi mặt, thảm trải dưới chân, đủ thứ sang trọng, trong khi bố mày phải ngủ với lợn trong xưởng thuộc da. Tao chưa hề thấy đứa con nào như thế. Tao sẽ làm cho mày bỏ hết các thứ rởm đời ấy đi, rồi sẽ cho mày biết tay. À, như thế cũng chưa hết đâu - tao lại còn nghe người ta nói độ này mày giàu lắm kia mà. Đầu đuôi câu chuyện ấy thế nào, hở?

- Họ nói láo đấy, chứ chẳng có "đầu đuôi" gì hết.

- Con chỉ có một đôla để ...

- Tao không cần biết mày dùng để làm gì. Cứ lấy ra cho tao.

Ông cầm lấy đồng tiền, ghé răng cắn thử xem thật hay giả, rồi bảo sẽ đi xuống phố uống whisky, vì cả ngày hôm ấy chưa được giọt nào vào cổ.

Ngày hôm sau, cha tôi say khướt, đi đến nhà ông Thatcher hăm doạ để buộc ông phải đưa số tiền của tôi, nhưng không được. Cha tôi thề sẽ đưa ông Thatcher ra toà để lấy số tiền ấy.

Ông thẩm phán và bà quả phụ cũng làm đơn xin toà tách tôi ra khỏi cha tôi và cho phép một trong hai người được làm giám hộ cho tôi. Nhưng quan toà là một người mới đến, chưa rõ về cha tôi, nên tuyên bố rằng toà án không có quyền can thiệp để chia rẽ gia đình, không thể để cho đứa trẻ phải tách rời với cha ruột của nó.

Ông thẩm phán mới nhậm choc nói rằng ông đủ sức cải tạo được cha tôi. Ông bèn đưa cha tôi về nhà ông. Sau bữa ăn tối, ông nói với cha tôi về tác hại của việc nghiện rượu, khuyên phải giữ gìn sự tiết độ và nhiều điều khác nữa, khiến cho cha tôi mủi lòng khóc rưng rức. Cha tôi nói rằng ông đã dại dột không biết đến những điều ấy đến nỗi làm hư hỏng cả cuộc đời, nhưng từ nay ông hứa sẽ sống một cuộc đời mới, sẽ trở thành một người tốt, không còn làm cho ai phải hổ thẹn vì mình nữa. Thế rồi cha tôi kêu gọi sự giúp đỡ của ông thẩm phán, xin ông ta đừng có khinh rẻ ông mà tội nghiệp. Ông thẩm phán nói ông chỉ muốn ôm cha tôi mà hôn vì những lời lẽ hay ho ấy, thế rồi ông thẩm phán khóc, bà thẩm phán cũng khóc. Được thể, cha tôi lại nói thêm rằng ông là một kẻ luôn luôn bị người đời hiểu lầm. Ông thẩm phán nghe như vậy tin tưởng lắm. Cha tôi nói, điều mà người ta mong mỏi nhất trên cõi đời này là sự thông cảm lẫn nhau.

Tối hôm ấy, cha tôi thấy thèm rượu ghê gớm. Ông bèn trèo ra ngoài, đổi cái áo mới lấy một bình rượu rồi trèo về phòng, tha hồ nhậu nhẹt. Đến gần sáng ông say sưa bí tỉ, lại trèo ra một lần nữa, nhưng lần này thì ông lăn kềnh từ mái hiên xuống đất, gãy hai nơi trên cánh tay trái. Cho mãi đến sáng hôm sau người ta mới tìm thấy ông nằm ở ngoài hiên, suýt chết cứng vì rét. Khi mọi người vào xem căn phòng cha tôi vừa ngủ đêm qua thì ai nấy đều phải dọ dẫm từng bước mới đi được vì quá hỗn độn, bẩn thỉu.

Ông thẩm phán vô cùng thất vọng, nói rằng một người như cha tôi thì có lẽ chỉ có thể cải tạo được bằng một khẩu súng.

Chương III

Vật lộn với thần chết

Vừa mới đứng dậy đi lại được, cha tôi liền đến các toà án tìm ông thẩm phán Thatcher để đòi số tiền ấy, sau đó lại đi tìm tôi vì tôi không bỏ học. Một đôi lần ông bắt được tôi, quất tôi rõ đau, nhưng tôi vẫn cứ đi học như thường, nhiều khi lẩn tránh hay chạy thoát được. Trước đây thì tôi chẳng thích đi học mấy, nhưng bây giờ thì tôi phải đi học để trêu ngươi cha tôi. Cứ mỗi lần có tiền thì cha tôi lại nhậu nhẹt, mỗi lần nhậu nhẹt thì lại gây náo động khắp thị trấn, rồi cứ mỗi lần gây náo động lại là một lần bị nhốt. Ông thích hợp với lối sống như thế - chỉ có lối sống ấy mới đúng đường lối của ông.

Cha tôi cứ lởn vởn xung quanh nhà bà quả phụ, đến nỗi bà này phải doạ, nếu ông không chịu đi nơi khác, bà sẽ gây khó dễ cho ông. Thế là cha tôi nổi sùng lên, tuyên bố ông sẽ cho mọi người biết ai là chủ nhân thực sự của thằng Huck. Một hôm vào mùa xuân, ông rình bắt được tôi, đưa tôi đi ngược dòng sông chừng ba dặm trên một chiếc xuồng, rồi vượt sông sang đến bờ Illinois. Nơi này toàn là rừng rậm, không có nhà cửa nào, ngoài một căn chòi gỗ cũ kĩ.

Ông giữ tôi ở đấy suốt ngày đêm, không còn có cơ may nào trốn thoát. Chúng tôi sống trong căn chòi cũ kĩ ấy, nhưng cha tôi luôn luôn khoá cửa ra vào, đến đêm thì đặt chiếc chìa khoá ngay dưới đầu. Cha tôi có một khẩu súng, có lẽ đã ăn trộm được của ai. Nhờ đó, chúng tôi sống qua ngày bằng cách săn bắn và câu cá. Thỉnh thoảng, cha tôi nhốt tôi lại, rồi đi xuống phố, cách đó ba dặm, để đổi cá và thịt rừng lấy rượu whisky đem về nhậu nhẹt say sưa. Đã có lần, bà quả phụ biết được nơi tôi ở, liền cho người đến bắt tôi về, nhưng cha tôi đã dùng súng đuổi người này đi. Nhưng chẳng bao lâu sau đó, tôi bắt đầu quen với cuộc sống ở đây, nên cũng thấy thích.

Hơn hai tháng trời trôi qua, quần áo tôi rách rưới, bẩn thỉu hết cả. Tôi tự hỏi không hiểu vì sao mà trước đây tôi lại thích lối sống ở nhà bà quả phụ. Ở đấy, lúc nào cũng phải giặt quần áo sạch sẽ, ăn cơm bằng đĩa, chải tóc, ngủ trên giường, sáng dậy đúng giờ giấc, lúc nào cũng phải ôm lấy sách vở đến phát ngấy, lại còn bị cô Watson la rầy luôn mồm. Tôi không còn muốn trở lại nơi ấy nữa. Trước đây, tôi đã phải ngưng chửi thề, bởi vì bà quả phụ không thích thế. Bây giờ thì tôi tha hồ mà chửi thề vì cha tôi không hề phản đối. Nói chung thì cuộc sống trong rừng này cũng khá thú vị. Ông nói ông muốn chờ xem bà quả phụ đến bắt tôi như thế nào, lúc bấy giờ ông sẽ đưa tôi đi đến một nơi xa, cách đấy sáu, bảy dặm, không ai có thể tìm ra được. Họ sẽ chán nản, rồi phải bỏ cuộc. Điều này lại càng làm tôi lo lắng hơn nữa. Nhưng chỉ một phút sau, tôi trấn tĩnh lại ngay vì biết rằng tôi sẽ không ở đây cho đến lúc ấy đâu.

Ông bảo tôi ra ngoài xuồng để khiêng các thứ về nhà. Trên xuồng có một bao bột mì nặng hơn hai chục kí, một đùi thịt mỡ, thuốc súng, gần hai chục lít rượu whisky, một cuốn sách và giấy báo cũ dùng để làm đạn. Tôi vác một số về nhà, rồi trở lại ngồi ở mũi xuồng, suy nghĩ. Tôi dự tính, khi bỏ trốn tôi sẽ mang theo khẩu súng và ít cái cần câu, rồi chạy vào rừng. Tôi sẽ không ở cố định một chỗ mà sẽ đi hết nơi này đến nơi khác, phần lớn là đi ban đêm, sẽ săn bắn và bắt cá để sinh sống, rồi sẽ đi đến một nơi thật xa để làm sao cho cha tôi và cả bà quả phụ nữa không thể tìm ra được. Tôi sẽ cưa xong khúc gỗ để trốn đi ngay đêm hôm ấy, vào lúc cha tôi đã say mèm.

Tôi vác xong các thứ vào chòi thì trời cũng vừa tối. Trong khi tôi nấu cơm, cha tôi uống một vài hụm rượu cho ấm cổ rồi lại bắt đầu chửi rủa. Đêm qua ông đã say mèm ở ngoài phố, rồi ngủ lăn lóc trong các cống rãnh, nên bây giờ người ông lấm đầy bùn, trông thật thảm hại. Cứ mỗi lần men rượu bắt đầu ngấm, ông lại lên tiếng chửi rủa, thường là chửi chính phủ.

Cha tôi cứ uống, uống mãi, nằm lăn xuống đất, trằn trọc, rên rỉ. Tôi buồn ngủ quá, thiếp đi lúc nào không biết. Đột nhiên một tiếng thét hãi hùng làm tôi vụt đứng phắt dậy. Tôi thấy cha tôi đang điên cuồng chạy nhảy khắp nhà. Một lát sau, ông mệt lử người, ngã xuống. Bỗng cha tôi nhỏm người dậy, nghiêng đầu sang một bên lắng nghe:

- Cộp... cộp... cộp... Đúng rồi, thần chết đang đến đấy. Chúng

đến bắt tao đấy. Chúng ở đây rồi... Đừng có sờ vào người tôi... tay các ông lạnh quá! Hãy để cho kẻ khốn nạn này được yên thân!

Một lát sau, ông lại lăn ra, đứng thẳng dậy, nét mặt vô cùng dữ tợn. Ông nhìn thấy tôi, rồi đuổi tôi chạy khắp căn chòi, gọi tôi là Thần Chết, và doạ sẽ giết tôi, để tôi không còn có thể đến bắt ông nữa. Tôi liền van xin ông tha cho tôi, vì tôi chỉ là thằng Huck, chứ không phải là thần chết. Nhưng ông chỉ rít lên cười, gầm thét, chửi rủa, rồi lại rượt bắt tôi. Có lúc bí quá, tôi luồn dưới nách ông để chạy thì bị túm lấy áo, ngay giữa hai bả vai, tưởng thế là hết đời rồi, nhưng tôi giật ra được khỏi cái áo nhanh như chớp và thế là thoát. Cuối cùng, cha tôi mệt quá, ngã xuống, tựa lưng vào cánh cửa. Ông nói ông nằm nghỉ một lát rồi sẽ giết tôi. Sau khi ông đã ngủ say rồi, tôi liền đứng lên một chiếc ghế cũ thủng đáy, nhẹ nhàng lấy khẩu súng xuống không một tiếng động, lên đạn, rồi kê trên một cái thùng củ cải, hướng mũi súng về chỗ cha tôi đang nằm.

***

- Dậy đi! Mày định giở cái trò gì đấy?

Tôi mở mắt ra, nhìn xung quanh, không biết mình đang ở đâu.

- Mày định làm cái gì với khẩu súng này?

Tôi chắc ông không biết gì về việc làm của ông vừa rồi, nên bình

tĩnh trả lời:

- Có đứa muốn lẻn vào đây nên con ngồi rình hắn.

- Sao mày không đánh thức tao dậy?

- Có chứ, nhưng bố chẳng cựa quậy gì cả.

- Được rồi. Mày còn đứng lảm nhảm gì đấy nữa. Đi ra ngoài kia

xem có con cá nào mắc ở dưới dây câu đem vào đây làm bữa ăn sáng đi. Một phút nữa tao cũng sẽ ra.

Tôi nghĩ rằng đây là thời kì rất huy hoàng đối với tôi, nếu còn ở trên phố. Mùa nước dâng lên vào tháng sáu thường là thời kì may mắn nhất cho tôi. Lúc ấy, những khúc gỗ ngắn và những mảnh bè gỗ trôi lềnh bềnh trên sông, có khi hàng chục cây cùng một lúc. Tôi chỉ việc vớt các khúc gỗ ấy lên, đem bán cho các trại gỗ và trại cưa trên phố.

Tôi đi dọc theo bờ sông, một mắt thì canh chừng cha tôi, mắt kia nhìn xem các thứ trôi trên sông. Bỗng tôi thấy một chiếc xuồng nhỏ trôi đến, một chiếc xuồng khá đẹp, dài chừng bốn hay năm thước, trông giống như một con vịt đang bơi trên nước. Tôi để nguyên cả quần áo nhảy ùm xuống như một con nhái, rồi bơi thẳng đến chiếc xuồng.Tôi liền trèo lên xuồng, chèo vào bờ. Chắc hẳn, cha tôi được cái xuồng này thì mừng lắm vì nó trị giá có lẽ đến mười đôla. Nhưng khi tôi vào đến bờ thì cha tôi vẫn chưa đến. Tôi liền đưa chiếc xuồng vào một khe nước giống như một con lạch nhỏ hẹp, chằng chịt những cây leo và cành liễu rủ xuống. Bỗng tôi nảy ra một ý kiến: tôi sẽ giấu kĩ chiếc xuồng này, rồi, thay vì chạy vào rừng, tôi sẽ chèo xuống mạn đưới sông chừng năm mươi dặm, rồi cắm trại ở đấy. Như vậy tôi sẽ đỡ phải đi bộ vất vả.

Khi cha tôi lại gần, tôi cố đi thật nhanh, nhưng dường như bước không nổi nữa. Ông lên tiếng mắng tôi về sự chậm trễ, nhưng tôi nói dối rằng tôi vừa ngã xuống sông nên mới lâu như thế.

Vào lúc mười hai giờ trưa, chúng tôi lại đi ra ngoài, bước dọc theo bờ sông. Nước sông bây giờ lên khá nhanh. Củi gỗ trôi lềnh bềnh trên mặt nước. Bỗng tôi thấy chín cây gỗ lớn buộc lại với nhau đang trôi gần đến, hình như là một phần của một chiếc bè gỗ. Chúng tôi liền dùng xuồng chèo ra giữa dòng kéo các cây gỗ vào vào bờ. Sau đó, chúng tôi ăn cơm trưa. Nếu như một người khác thì chắc hẳn sẽ chờ cho hết ngày để vớt thêm nhiều gỗ nữa, nhưng cha tôi thì không thể. Đối với ông thì chín cây gỗ luôn một lúc đã là quá đủ để ông đem xuống phố bán. Vì thế, ông nhốt tôi lại trong căn chòi, khoá chặt cửa lại, rồi lấy xuồng chèo đi, kéo theo chiếc bè gỗ. Lúc bấy giờ là vào khoảng ba giờ rưỡi chiều, tôi chắc cha tôi sẽ không về kịp tối hôm ấy. Tôi chờ cho đến lúc cha tôi đã đi khá xa rồi mới bắt đầu cưa khúc gỗ đang làm dở.

Tôi đem bao bột mì đến nơi giấu chiếc xuồng của tôi, gạt các cành cây leo sang hai bên, rồi đặt xuống xuồng. Tiếp đó, tôi đem xuống xuồng những thứ cha tôi đã chở về hôm trước: đùi thịt, bình rượu whisky, cà phê, đường, thuốc súng, giấy lộn để làm đạn, xô nước và bầu đựng nước, gáo, chén thiếc, cái cưa cũ kĩ của tôi, hai chiếc mền, chảo nấu ăn, bình cà phê, cần câu, diêm và còn nhiều thứ khác nữa dù đáng giá hay không đáng giá bao nhiêu. Tôi muốn có một cái rìu, nhưng tất cả trong nhà chỉ có một chiếc đặt ở đống củi. Tôi để lại chiếc rìu ở đấy vì đã dự tính sẽ phải dùng nó sau này. Cuối cùng, tôi lấy khẩu súng đem đi, thế là xong.

Xung quanh chỗ giấu chiếc xuồng toàn là cỏ nên không để lại dấu vết gì, tôi đi vòng xung quanh quan sát, rồi đứng trên bờ nhìn xuống sông. Tất cả đều không có gì đáng lo ngại. Tôi liền lấy khẩu súng, đi vào rừng, định bắn ít chim. Nhưng tôi lại gặp một con lợn đi hoang, có lẽ vừa mới thoát khỏi một nông trại nào gần đó. Tôi lấy súng bắn con lợn ấy đem về.

Tôi dùng cái rìu phá tan hoang cánh cửa ra vào của căn chòi, rồi vác con lợn vào, đặt trên bàn. Sau đó, tôi dùng rìu cắt cổ nó, rồi đặt xuống đất cho máu chảy loang ra. Làm xong, tôi nhét đá đầy một cái bị cũ rồi kéo lê ra cửa, đi xuyên qua khu rừng đến bờ sông, rồi quăng xuống nước, mất dạng. Ai trông thấy như thế, chắc cũng phải nghĩ rằng có một vật gì đó bị kéo lê trên đất đến tận bờ sông. Giá như có thằng Tom Sawyer ở đây thì chắc là hắn sẽ thích cái trò này lắm và sẽ vẽ vời ra bao nhiêu những trò tưởng tượng.

Thế rồi tôi rứt một nhúm tóc của tôi, bôi máu trên cái rìu, cắm tóc tôi vào đấy, rồi vứt cái rìu vào góc nhà. Sau đó tôi ôm xác con lợn, áp vào ngực cho máu khỏi rơi xuống đất, rồi đem quăng nó xuống sông, cách căn chòi một quãng ở bên dưới. Như thế chưa hết, tôi chợt nghĩ ra một việc khác cần phải làm. Tôi liền vác bao bột mì và cái cưa ra khỏi xuồng đem về nhà, đặt cái bao vào chỗ cũ, rồi dùng cưa xẻ một lỗ nhỏ dưới đáy. Sau đó, tôi vác bao bột mì đi một quãng xa chừng một trăm thước xuyên qua bãi cỏ, giữa rừng liễu về phía đông căn chòi, đến một cái hồ cạn rộng đến năm dặm, toàn là lau sậy, và về mùa này, còn có cả vịt trời nữa. Có một con lạch chảy đến hồ cạn ấy, dài nhiều dặm, không biết dẫn đến tận nơi nào, nhưng chắc chắn không dẫn ra sông. Bột mì trong bao thủng vãi ra, làm thành một vệt nhỏ từ căn nhà đến hồ. Tôi cũng cố ý để rơi cục đá mài của cha tôi trên lối đi cho có vẻ là tình cờ đánh rớt xuống đó. Làm xong, tôi buộc bao bột mì lại bằng một sợi dây cho khỏi vương vãi thêm nữa, rồi vác bao và cưa về xuồng.

Tôi khá mệt mỏi, nên công việc đầu tiên là lăn ra ngủ cái đã. Khi thức dậy, phải hết một phút, tôi mới nhận ra mình đang ở đâu. Tôi ngồi nhỏm dậy, nhìn xung quanh, trong lòng hơi lo sợ. Trăng rất sáng, khiến tôi có thể đếm được số củi gỗ đen sì trôi một cách yên lặng giữa dòng sông, cách bờ hàng trăm thước. Tất cả cảnh vật đều yên lặng như tờ.

Chỉ một lát sau, tôi đã đến hòn đảo. Xuồng tôi lướt rất mau qua phía đầu hòn đảo vì ở đó dòng nước chảy nhanh. Đến một chỗ nước lặng, tôi cho xuồng ghé vào bờ đối diện với bờ Illinois, ở một chỗ đất lõm sâu vào mà tôi đã từng biết trước đây. Tôi phải rẽ các cành cây để tiến vào phía bên trong. Khi tôi đã buộc xuồng rồi thì đứng từ phía bên ngoài không ai có thể trông thấy nó đâu nữa.

Tôi trèo lên bờ, ngồi xuống một khúc gỗ, nhìn ra phía bờ sông.

Trời lúc bấy giờ chuyển sang màu sáng đục, tôi bước vào trong rừng, nằm xuống ngủ một giấc.

Chương IV

Cuộc gặp gỡ bất ngờ

Tôi thức dậy thì mặt trời đã lên cao. Tôi nằm thảnh thơi, khoan khoái, không còn muốn đứng dậy để nấu ăn bữa sáng. Chợt tôi nghe có tiếng nổ đánh bùm một cái từ phía xa trên sông. Tôi ngồi nhỏm dậy, chống cằm, lắng nghe. Lại thêm một tiếng nữa vang lên. Tôi chạy ra nhìn qua một kẽ lá. Một làn khói bốc lên ở phía xa trên mặt sông, ngang chỗ bến đò. Tiếp theo đó, một chiếc phà chở đầy người từ từ trôi xuống. Tôi đã hiểu ra chuyện gì rồi. "Bùm!". Một làn khói cuộn lên từ bên hông chiếc phà. Thì ra, họ đang bắn đại bác trên mặt sông để làm cho xác tôi nổi lên.

Tôi hơi đói bụng, nhưng vào lúc này thì không thể nào đốt lửa lên nấu thức ăn được, vì họ sẽ nhìn thấy khói. Tôi đành ngồi đấy xem khói súng và lắng nghe tiếng nổ. Tôi chợt nghĩ rằng người ta thường thả những chiếc bánh mì có nhét thuỷ ngân trong ấy để tìm xác chết. Những chiếc bánh mì này sẽ trôi đến chỗ nào có xác người chết đuối rồi dừng ngay ở đấy. Vì vậy, tôi phải ngồi canh chừng xem có chiếc bánh mì nào trôi đến gần chỗ tôi đứng để rồi sẽ tạo cho nó cơ hội làm tròn phận sự. Tôi chuyển sang phía bờ Illinois của hòn đảo để xem có cơ may bắt gặp được chiếc bánh mì nào như thế không. Quả thực, tôi không bị thất vọng. Có một chiếc bánh thật lớn trôi đến. Tôi lấy một cái que dài khều nó, nhưng bị trượt chân, chiếc bánh trôi ra xa. Cố nhiên, tôi đứng ở chỗ có luồng nước chảy sát vào bờ nhất - tôi biết khá rõ điều này. Chẳng mấy chốc, một chiếc bánh khác trôi đến gần. Lần này thì tôi thành công. Tôi tháo cái nút chặn ra, rũ cho rơi miếng thuỷ ngân nhỏ và mềm ở bên trong, rồi ghé răng cắn. Đó là thứ bánh mì làm ở hiệu bánh mà những người sang trọng thường ăn, chứ không phải loại bánh làm bằng bột ngô rẻ tiền như của chúng ta.

Trong suốt ba đêm ba ngày, cuộc sống vẫn diễn ra như vậy, không có gì thay đổi. Nhưng đến ngày hôm sau, tôi bắt đầu mở cuộc thám hiểm suốt hòn đảo.

Tôi cứ đi lang thang như thế trong các khu rừng rậm cho đến khi thấy mình đã đi đến gần cuối hòn đảo. Tôi có mang súng đi theo, nhưng chưa bắn một phát nào. Trong khi đi, tôi suýt dẫm phải một con rắn thật lớn, đang bò lướt trên cỏ và giữa các bụi hoa. Tôi đuổi theo, định cho nó một phát đạn. Tôi đang chạy thật nhanh, bỗng vấp phải một đống tro còn đang bốc khói.

Tim tôi đập nhanh như muốn vọt ra khỏi lồng ngực. Không dám nhìn thêm nữa, tôi liền khoá cò súng, rón rén quay trở lại, rồi chạy thật nhanh.

Về đến nơi cắm trại, tôi không hấp tấp, vội vã vì không còn bao nhiêu can đảm trong người nữa. Tôi liền đem tất cả đồ đạc xuống xuồng để không ai có thể trông thấy, dập tắt ngọn lửa, rắc tro tàn khắp nơi làm ra vẻ như đống lửa ấy đã có từ lâu lắm rồi, sau đó tôi trèo lên một ngọn cây.

Tôi ngồi trên cây chừng ba giờ đồng hồ, nhưng chẳng thấy gì cả. Tôi có cảm tưởng như đã nghe và thấy hàng trăm nghìn thứ, nhưng đó chỉ là tưởng tượng thôi.

Đến lúc trời tối, tôi cảm thấy đói bụng lắm. Vì thế, khi trời đã tối mịt, trước khi trăng lên, tôi lén chèo xuồng sang phía bờ Illinois, cách đó chừng một phần tư dặm, rồi lên bờ, đi vào rừng, đốt lửa nấu bữa cơm tối. Tôi dự định sẽ ngủ lại ở đấy suốt đêm, bỗng tôi nghe tiếng lóc cóc như tiếng chân ngựa tiến lại gần. Tôi lại đem tất cả mọi thứ về xuồng thật nhanh, rồi bò xuyên qua rừng để tìm hiểu xem cái gì, Chưa tiến lên xa bao nhiêu, tôi đã nghe có tiếng một người nói:

- Chúng mình nghỉ lại đây đi. Ngựa đã có vẻ mệt rồi đấy. Ta đi

tìm xung quanh xem có chỗ nào cắm trại được không?

Không còn chờ đợi gì nữa, tôi cố chèo hết sức khẽ trở về chỗ cũ,

nhưng lần này tôi ngủ hẳn trên xuồng. Một lát sau tôi thức giấc. Tôi liền chèo xuồng ra khỏi bờ một quãng ngắn rồi thả nó trôi xuống nơi có nhiều bóng tối.

Bỗng tôi bắt gặp một ánh lửa hiện ra ở xa xa xuyên qua lùm cây. Tôi tiến thẳng về phía ấy, rất chậm chạp và thận trọng. Đến gần tôi mới nhận ra một người đang nằm trên đất. Tôi cảm thấy bứt rứt khó chịu. Đầu người ấy kề bên ngọn lửa, trùm dưới một tấm chăn. Tôi ngồi xuống sau một bụi cây cách đó chừng hai thước, mắt dán chặt vào người đang nằm ở đấy. Bây giờ trời đã sáng. Đột nhiên, người ấy tung chăn, ngáp một cái rồi duỗi người ra. Trời ơi! Đó là thằng Jim, người giúp việc của cô Watson. Tôi mừng rỡ gọi: "Jim!" rồi nhảy ra ngoài.

Một lát sau, Jim hỏi:

- Này, Huck. Thế cái đứa bị giết trong căn chòi đó là ai vậy?

Tôi liền kể cho Jim nghe đầu đuôi câu chuyện. Hắn khen tôi là

thông minh tuyệt vời, bảo rầng thằng Tom Sawyer cũng chưa chắc đã hơn được. Đến lượt tôi hỏi lại hắn:

- Thế còn mày, tại sao lại đến đây, Jim? Mày đến bằng cách nào vậy?

- Có nhiều lí do. Nhưng cậu không được tiết lộ bí mật với ai thì

tớ mới nói.

- Tao thề là không bao giờ làm thế, Jim ạ.

- Tớ tin cậu... Tớ bỏ trốn.

- Trời!

- Cậu đã thề sẽ không nói với ai mà. Cậu nhớ đấy chứ, Huck.

- Như thế này này. Cái cô gái già - tức là cô Watson ấy mà -

cứ mắng mỏ, trách cứ tớ suốt ngày, đối xử với tớ quá tệ bạc, lại còn doạ sẽ đem bán tớ cho bọn ở vùng New Orleans. Tớ nhận thấy gần đây có một kẻ chuyên buôn bán nô lệ cứ lảng vảng ở đấy mãi. Tớ bắt đầu thấy lo lắng. Thế rồi một đêm nọ, tớ bò đến cánh cửa hé mở, nghe cô gái già nói với bà quả phụ rằng cô ta dự tính đem bán tớ cho New Orleans. Cô ta không muốn làm như thế, nhưng nếu bán tớ cô ta sẽ có được tám trăm đôla, một số tiền rất lớn và rất hấp dẫn. Tớ không chờ đợi nghe hết câu chuyện, tớ liền lẻn ra ngoài ngay lập tức.

Tớ chạy xuống đồi, định bụng ăn cắp một chiếc xuồng của ai đó đang đậu dọc theo bờ sông ở trên phố. Nhưng lúc bấy giờ đang còn có đông người, nên tớ nấp ở một xưởng đóng thùng đã đổ nát, chờ đợi cho mọi người tản mác đi hết. Tớ ở đấy suốt đêm, nhưng lúc nào cũng có người qua lại.

Thế rồi một lúc sau, tớ thấy có ánh đèn đang đi tới, vòng theo một mũi đất trên sông. Tớ bèn nhảy xuống nước, đẩy một khúc gỗ ra phía trước, cúi đầu xuống thật thấp, bơi ngược dòng sông cho đến khi chiếc bè tiến lại thật gần. Tớ bơi đến phía sau chiếc bè, túm lấy, rồi trèo lên những tấm ván đuôi bè. Những người đi bè đang xúm nhau quanh ngọn đèn ở giữa bè nên không ai để ý. Tớ dự trù rằng trước khi trời sáng tớ sẽ đi được hai mươi lăm dặm, lúc bấy giờ tớ sẽ bơi vào bờ, rồi chạy vào rừng ở phía Illinois.

Nhưng thật không may cho tớ. Khi mới đến đầu hòn đảo thì một người cầm chiếc đèn lồng đi lại phía sau. Không còn có thể chờ đợi lâu hơn nữa, tớ đành phải lén rời chiếc bè, bơi vào hòn đảo.

- Thế rồi từ lúc ấy đến bây giờ mày chẳng có thịt, bánh gì ăn cả à? Tại sao mày không bắt rùa đất ăn?

- Làm sao mà bắt chúng được? Mình đâu có dẫm lên chúng mà chụp lấy được?

- Ừ nhỉ, mày phải ở trong rừng suốt ngày, suốt buổi là lẽ tất nhiên rồi. Mày có nghe họ bắn đại bác không?

- Ồ, có chứ. Tớ biết họ đang lùng cậu. Họ đi ngang qua đây

này. Tớ nhìn thấy họ qua các bụi cây.

Rồi hắn lại nói tiếp:

- Nếu cậu có lông mọc ở cánh tay và ở ngực đó là điềm sắp giàu có. Những cái điềm như thế cũng có ích lợi bởi vì nó còn lâu mới xảy đến. Chẳng hạn như, nếu bây giờ cậu nghèo khổ, cậu sẽ không thất vọng đến nỗi phải tự tử, vì biết rằng một ngày kia thế nào mình cũng trở nên giàu có.

- Dẫu sao cũng chẳng hề gì. Một lúc nào đó mày sẽ giàu có trở

lại kia mà!

- Đúng thế. Cậu xem, bây giờ tớ có giàu không. Tớ làm chủ

được cả bản thân của tớ. Nó đáng giá tám trăm đôla kia.

Chương V

Ngôi nhà trôi sông

Tôi muốn đi tới xem một nơi ở giữa hòn đảo mà tôi đã trông thấy trong cuộc thám hiểm hôm trước. Cả hai đứa tôi lên đường, chẳng mấy chốc thì đến nơi ngay, vì hòn đảo chỉ dài khoảng ba dặm và rộng một phần tư dặm.

Đó là một ngọn đồi khá dài và dốc, cao chừng mười ba thước. Sườn đồi dốc và nhiều bụi rậm nên chúng tôi phải khá vất vả mới lên được đến đỉnh. Chúng tôi trèo khắp nơi xung quanh đó mới tìm ra được một cái hang rộng sâu trong đá, gần trên đỉnh, hướng về phía bờ Illinois. Cái hang ấy to bằng hai, ba căn buồng ghép lại với nhau, và cao đến nỗi thằng Jim có thể đứng thẳng người trong đó được.

Jim đề nghị tôi đậu chiếc xuồng ở một nơi gần đấy, rồi đưa tất cả đồ đạc lên cất trong hang, để khi nào có ai đến thì chúng tôi có thể chạy ngay đến xuồng chèo đi. Trừ phi họ có mang chó đi theo, ngoài ra họ không có cách nào tìm ra chúng tôi được.

Thế là chúng tôi trở lại chỗ xuồng đậu, chèo đến một chỗ ngang với cửa hang, rồi chở tất cả đồ đạc lên để trong đó. Sau đó, chúng tôi tìm một chỗ giấu kín chiếc xuồng trong bụi liễu rậm rạp. Chúng tôi gỡ một vài con cá ra khỏi lưỡi câu rồi thả cần câu xuống, sửa soạn nấu bữa cơm chiều.

Cửa hang khá rộng, đủ để lăn một cái thùng lớn vào trong ấy. Gần đó, có một khoảng đất nhỏ bằng phẳng hơi nhô ra phía ngoài, có thể dùng làm nơi đốt lửa rất tốt. Chúng tôi liền nhen bếp để nấu bữa cơm chiều.

Trong rừng sâu, khí hậu lúc nào cũng mát mẻ, dù cho mặt trời có cháy bỏng ở bên ngoài. Chúng tôi đi len lỏi giữa các lùm cây, đôi khi gặp phải những bụi cây leo dày đặc, chúng tôi phải lùi xuồng lại đi theo con đường khác. Trên các thân cây già đổ xuống, có rất nhiều thỏ, rắn và các con vật khác. Khi đảo ngập nước được hai ba ngày, những con vật ấy, ngoại trừ rắn và rùa, đói quá nên trở thành thuần thục. Chúng tôi có thể chèo thẳng đến, đặt tay lên người chúng, nếu muốn. Trên nóc hang chúng tôi, không thiếu gì các con vật ấy.

Một đêm, chúng tôi bắt được một phần của một chiếc bè gỗ, gồm năm tấm rất tốt, rộng khoảng bốn thước và dài chừng năm, sáu thước, nổi lên trên mặt nước chừng mười lăm, mười sáu phân, làm thành một cái sàn bằng phẳng, vững chắc.

Một đêm khác, trước khi trời sáng, chúng tôi đứng ở đầu hòn đảo nhìn ra bờ phía tây thì thấy một căn nhà gỗ trôi dạt đến. Đó là một ngôi nhà hai tầng bằng gỗ, nghiêng hẳn sang một bên, đang trôi theo dòng nước. Chúng tôi chèo ra, trèo lên qua chiếc cửa sổ tầng trên. Nhưng vì tối quá, không thấy gì, chúng tôi buộc xuồng vào đó, ngồi chờ cho đến lúc trời sáng.

Bình minh vừa ló dạng thì căn nhà đã trôi đến cuối hòn đảo. Nhìn qua cửa sổ, chúng tôi thấy một chiếc giường, một cái bàn, hai cái ghế và nhiều thứ khác ngổn ngang trên sàn, quần áo treo trên vách. Có một vật gì đó ở tận góc phòng, hình dáng như một người đàn ông đang nằm. Jim nói:

- Này, ông!

Vật ấy vẫn không động đậy. Tôi lại gọi một lần nữa. Jim nói:

- Không phải đang ngủ đâu. Người này chết rồi. Cậu đứng yên

ở đấy để tớ xem.

Hắn bước vào, cúi xuống nhìn một lúc rồi nói:

- Người chết! Lại trần truồng nữa. Bị bắn ở sau lưng. Chắc

người này chết đã hai ba ngày rồi. Vào đây, Huck, nhưng cậu chớ nhìn tận mặt, trông ghê lắm.

Chúng tôi lấy một cây đèn lồng bằng thiếc, một con dao không có cán, một con dao mới tinh đáng giá hai mươi lăm xu ở cửa hàng, một số nến làm bằng mỡ bò, một cây đèn, một cái bầu đựng nước, một chén thiếc, một tấm chăn cũ, một túi đựng kim, chỉ, khuy áo, sáp ong và các thứ lặt vặt, một chiếc rìu và đinh, một cái cần câu to bằng ngón tay út của tôi với ít lưỡi câu to còn mắc vào đó, một cuộn da dê, một sợi dây da buộc cổ chó, một móng ngựa bằng sắt, và nhiều lọ con đựng thuốc không có nhãn. Sắp sửa ra về thì Jim lại bắ gặp một cái lược sắt chải lông ngựa, một cái ác-sê đàn vĩ cầm và một chiếc chân gỗ. Kể chung tất cả mọi thứ thì chúng tôi đã thu về được một mẻ lớn.

***

Ít ngày sau, nước sông rút xuống. Việc đầu tiên của chúng tôi là dùng một con thỏ lột da làm mồi, móc vào một cái lưỡi câu thật to, thả xuống sông. Lần ấy, chúng tôi bắt được một con cá mèo to, to gần bằng người, dài gần hai thước, cân nặng chừng một trăm kí. Tất nhiên là chúng tôi không dám cầm lấy nó, vì nó có thể hất chúng tôi đến tận Illinois. Chúng tôi phải để nó ở đó, mặc nó vùng vẫy cho đến khi chìm nghỉm. Khi mổ ra, trong bụng nó có một cái khuy đồng, một cái cục hình tròn như quả bóng và nhiều thứ lặt vặt khác. Chúng tôi lấy rìu đập quả bóng ấy ra thì thấy bên trong có một cái lõi để cuốn chỉ, như thế cái lõi này chắc đã ở trong bụng cá lâu lắm nên mới đóng thành một lớp vỏ cứng như thế. Chưa hề có một con cá nào lớn như vậy ở trên sông Mississippi. Jim nói chưa hề thấy con cá nào lớn hơn thế.

Một buổi sáng, tôi cảm thấy trong người lừ đừ, cần phải cựa quậy đôi chút cho đỡ buồn chán. Tôi bàn với Jim rằng tôi muốn lẻn qua bên kia sông để dò la mọi việc xem sao. Sau khi suy nghĩ một lát, hắn đề nghị tôi mặc quần áo cũ vào người để hoá trang thành một đứa con gái. Đó là một ý kiến thật hay.

Sau khi trời tối, tôi chèo lên dọc theo bờ Illinois, rồi từ phía dưới bến đò tôi đi ngang qua đến thị trấn và thả cho trôi xuống cuối phố. Tôi buộc xuồng lại, trèo lên bờ. Có một ngọn đèn leo lét trong một căn chòi đã bỏ không từ lâu, không biết hiện nay ai đang ở. Tôi rón rén đến nhìn qua khung cửa sổ. Bên trong có một bà chừng bốn mươi tuổi đang ngồi khâu vá dưới một ngọn nến đặt trên bàn. Tôi không biết mặt bà ta. Bà hẳn phải là một người lạ mặt, vì trong vùng này không có ai mà tôi không biết mặt. Thật là may, vì tôi đang cảm thấy lo lắng, sợ rằng người ta sẽ nhận ra tiếng nói của tôi. Nhưng bà này có lẽ mới đến thị trấn này chừng hai ngày nên có thể nói cho tôi những điều tôi đang cần biết. Tôi gõ cửa.

***

- Vào trong này, cháu! Bà nói. Tôi bước vào nhà. - Cháu cứ tự nhiên, đừng sợ gì.

Bà nhìn tôi từ đầu đến chân với đôi mắt nhỏ và sáng, rồi hỏi:

- Tên cháu là gì?

- Cháu tên là Sarah Williams. - Đó là một cái tên con gái.

- Cháu từ đâu đến hay ở ngay trong vùng này?

- Dạ, cháu từ Hookerville đến. Cháu đi bộ đến đây nên mỏi mệt quá.

- Để bác lấy thứ gì cho cháu ăn tạm nhé.

- Dạ, thôi ạ. Cháu xin ngồi nghỉ một lát rồi đi.

Nhưng rồi dần dà, vui câu chuyện, bà kể đến việc cha tôi và vụ

án mạng. Đến chỗ này thì tôi sẵn lòng lắng nghe bà nói chuyện dông dài. Bà nói về vụ tôi và Tom Sawyer tìm ra được mười hai nghìn đôla, rồi cuối cùng bà đề cập đến chuyện tôi bị giết. Tôi nói:

- Ai giết thế ạ? Ở Hookerville, cháu nghe người ta nói đến

chuyện này nhiều lắm, nhưng không biết ai giết cả.

- Mọi người ở đây ai cũng muốn biết ai giết thằng Huck. Một số

người cho rằng chính cha hắn giết hắn.

- Không... à mà thật thế sao?

- Thoạt tiên thì người ta nghĩ thế. Suýt nữa thì lão bị đem ra

hỏi tội đấy. Nhưng rồi đến chiều thì người ta lại đổi ý kiến, cho rằng một thằng da đen bỏ trốn đã giết thằng Huck.

- Thằng da đen ấy bỏ trốn ngay đêm thằng Huck bị giết. Cho

nên người ta treo giải thưởng ba trăm đôla cho ai bắt được thằng da đen ấy, hai trăm đôla cho ai bắt được bố thằng Huck nữa. Cháu biết không, sáng hôm sau xảy ra vụ giết người ấy, lão ta đi xuống phố, tin cho mọi người biết, sau đó lão cùng đi với họ trên thuyền đi mò xác, rồi biến mất ngay sau đó. Người ta định đem lão đi quần hình 1 thì lão đã biến mất rồi. Thế rồi hôm sau đó, thằng da đen cũng trốn luôn. Người ta điều tra thì biết rằng thằng da đen vắng mặt lúc mười giờ đêm hôm xảy ra án mạng. Thế là người ta buộc tội hắn. Giữa lúc ấy thì lão già bố thằng Huck trở về, khóc lóc ầm ĩ, đòi ông thẩm phán Thatcher đưa cho lão tiền để lão đi tìm tên da đen khắp cả vùng Illinois.

Cách đây mấy ngày, bác nói chuyện với vợ chồng ông già bên cạnh nhà, tình cờ họ bảo rằng chưa có ai đặt chân lên hòn đảo Jackson ở bên kia bao giờ. Bác chẳng nói gì, cứ lẳng lặng suy nghĩ. Bác chắc chắn đã thấy có khói ở đầu hòn đảo, trước đó một hai ngày. Chắc thằng da đen đang trốn ở đó, cần phải sang bên ấy mà lùng thì mới bõ công tìm. Bác nghĩ thế. Nhưng rồi sau đó, lại không thấy khói nữa. Chắc nó đã trốn đi chỗ khác rồi. Dẫu sao thì chồng bác thế nào cũng đi đến đấy xem.

Rồi bà chủ nhà nói sang chuyện của vợ chồng bà. Nào là chuyện họ phải sống vất vả như thế nào, họ nghèo khổ như thế nào, nào chuyện chuột phá phách xem như là nhà của chúng vậy... Bà nói lúc nào cũng để sẵn một vật gì đó bên cạnh để ném chúng, khi nào bà ngồi một mình, nếu không chúng phá phách không chịu được. Bà cho tôi xem một khúc chì bẻ cong lại thành một cục, rồi khoe rằng bà thường ném rất trúng, nhưng mới đây bà ném bị sái cả cánh tay nên không biết bây giờ còn ném trúng được không. Nhưng bà cứ chờ đợi có dịp làm thử xem sao. Nói xong, bà ném thẳng vào một con chuột, nhưng chệch một quãng rất xa, rồi bà kêu oái lên một tiếng vì bị đau cánh tay. Bà bảo tôi ném thử con chuột khác. Tôi cầm lấy cục chì, ném ngay vào con chuột đầu tiên vừa mới ló ra.

- Coi chừng mấy con chuột nhé. Cháu để cục chì này sẵn sàng ở trên đùi.

Nói xong bà ném cục chì lên đùi tôi. Tôi vội vàng khép hai chân lại đỡ lấy cục chì. Tôi xin phép bà lên đường. Tôi tỏ ý lo ngạivới bà rằng có thể chồng bà khi trở về sẽ say khướt. Bà tiếp tục nói truyện: - Ông ấy chẳng bao giờ say rượu cả?

- Nhưng bây giờ cháu chẳng còn phải lo nữa. Cháu cứ tiếp tục

đi, sáng mai thì đến Goshen.

- Khoan đã. Để bác bới cho cháu thức ăn để đi đường.

Bà liền soạn thức ăn cho tôi đem theo, rồi nói:

- Khi con bò cái nằm thì nó nhổm dậy ở đâu nào trước? Cháu

trả lời ngay đi, đừng có suy nghĩ. Ở đầu nào trước?

- Ở phía đuôi trước.

- Thế còn con ngựa?

- Ở phía đầu trước.

- Rêu thường bám trên cây ở về phía nào?

- Phía bắc.

- Nếu mười lăm con bò cái đang gặm cỏ trên đồi thì bao nhiêu

con cùng hướng đầu về một phía?

- Tất cả mười lăm con.

- Thế thì bác biết cháu đã sống ở miền quê. Lần này thì không

đánh lừa bác nữa chứ. Tên thật của cháu là gì nào?

- George Peters ạ.

- Nhớ đấy nhé George. Đừng có quên để rồi lại nói tên là

Alexander trước khi đi, sau đó lại nói là George Alexander, lúc bị bác bắt nọn. Lần sau thì đừng chơi cái trò con gái với cái áo vải cũ kĩ ấy nữa nhé.

Tôi lên bờ sông đi chừng năm mươi thước, rồi quay trở lại, lẻn xuống nơi tôi đậu xuồng, cách ngôi nhà một quãng xa về phía dưới. Tôi nhảy xuống xuồng chèo đến nơi chúng tôi ở, chừng một dặm rưỡi ở phía dưới đó. Tôi liền lên bờ, lội qua lùm cây, chạy lên đỉnh đồi, rồi vào trong hang. Thằng Jim đang nằm ngủ say trên đất. Tôi đánh thức nó dậy, nói:

- Dậy vận động đi, Jim! Không được phí một giây phút nào nữa. Họ đang đi lùng chúng mình đấy.

Jim không hỏi thêm một lời nào, nhưng cứ xem cách hắn làm việc trong nửa giờ đồng hồ kế tiếp đó. Thì biết hắn đang sợ hãi đến thế nào rồi. Tất cả mọi đồ đạc của chúng tôi đều được chuyển xuống bè, sẵn sàng rời khỏi nơi ẩn giấu dưới bụi liễu. Chúng tôi dập tắt lửa trong hang, và không để ló ngọn nến ra khỏi cửa hang sau đó.

Tôi chèo xuồng ra khỏi bờ một quãng ngắn để nhìn xem động tĩnh thế nào. Nhưng nếu có chiếc thuyền nào đi ngang qua thì tôi cũng không thể nào nhận ra được vì trời chỉ có sao và bóng tối mờ mịt. Sau đó, chúng tôi đẩy chiếc bè ra, trườn theo dòng sông trong bóng tối ven bờ.

Chương VI

Tội lỗi trên tàu Walter Scott

Vào khoảng gần một giờ sáng, chúng tôi đã đi xa ở bên dưới hòn đảo, nhưng chiếc bè có vẻ chậm chạp quá. Giá như lúc bấy giờ có chiếc thuyền nào đi tới, chúng tôi chắc phải xuống chiếc xuồng, chèo về phía bờ Illinois, nhưng thật là may mắn, chẳng có chiếc thuyền nào xuất hiện cả. Chúng tôi chưa hề nghĩ đến việc đặt khẩu súng, cần câu hay các thức ăn xuống xuồng, vì đầu óc đang rối bù với bao nhiêu vấn đề. Để nguyên mọi thứ trên bè thì thật chẳng khôn ngoan chút nào.

Tôi nghĩ, nếu lúc bấy giờ có người đi lên hòn đảo để lùng chúng tôi thì chắc họ tìm thấy đống lửa tôi đã đốt lên, rồi sẽ ngồi rình ở gần đấy để chờ Jim trở về. Dù thế nào chăn nữa, họ cũng đã bị tôi đánh lạc hướng.

Khi vệt sáng ban ngày đầu tiên bắt đầu ló ra, chúng tôi buộc bè vào một cồn cát ở khúc quanh của bờ Illinois, lấy rìu chặt những cành cây bạch dương phủ lên bè, cho nó trông giống như một khoảng đất bị xói mòn bên bờ sông.

Khi trời bắt đầu tối, chúng tôi ló đầu ra khỏi lùm cây bạch dương, nhìn quanh quất. Không một bóng người nào xung quanh đó. Jim nậy một ít tấm ván trên sàn bè, dựng một cái lều để che mưa gió và giữ cho đồ đạc được khô ráo. Jim làm một cái sàn cho căn lều, nâng nó lên cao hơn mặt bè chừng ba mươi phân để cho chăn mền và đồ đạc của chúng tôi khỏi bị sóng của các tàu thuyền xô lên, làm cho ướt. Ngay giữa chòi, chúng tôi đắp một lớp đất dày chừng mười lăm phân, có đóng khung gỗ xung quanh, để đốt lửa khi trời mưa lạnh. Cái chòi sẽ che ngọn lửa cho người ta không trông thấy. Chúng tôi cũng làm thêm một cái chèo dự trữ phòng khi một chiếc bị gãy vì va phải một chướng ngại vật nào đó. Chúng tôi cũng gắn một chiếc nạng ngắn, treo chiếc đèn lồng cũ kĩ vào đấy làm hiệu cho những chiếc tàu thuỷ chạy xuôi dòng để khỏi bị đụng. Nhưng chúng tôi không cần phải làm hiệu cho những chiếc tàu chạy ngược dòng trừ phi chúng tôi đi vào một luồng nước chảy ngang qua sông.

Đêm thứ hai, chúng tôi đi liền bảy, tám tiếng đồng hồ trôi theo dòng nước với tốc độ trên bốn dặm một giờ. Chúng tôi bắt cá, nói chuyện với nhau, thỉnh thoảng lại nhảy xuống tắm cho đỡ buồn ngủ.

Bây giờ, cứ mỗi đêm, tôi lại chèo xuồng lẻn lên bờ vào lúc mười giờ đêm để đi xuống các làng nhỏ, mua mười hay mười lăm xu bột, thịt mỡ hay các thức ăn lặt vặt. Đôi khi tôi "nẫng nhẹ" một con gà không chịu nằm im trong chuồng.

Nhiều lúc, khi trời chưa sáng hẳn, tôi lên xuống các ruộng bắp, "mượn" một quả dưa hấu, một quả bí, quả bầu, bắp ngô hay các thứ đại loại như thế. Cha tôi vẫn thường nói mượn như thế không hại gì cả miễn là mình có ý định sẽ trả tiền lại cho người ta một lúc nào đó. Nhưng bà quả phụ thì cho đó là một lối ăn cắp trá hình, không người nào có tư cách lại làm như thế. Riêng thằng Jim thì cho rằng cả cha tôi lẫn bà quả phụ, mỗi người đều có một phần nào đúng trong đó.

Đêm thứ năm, chúng tôi đã đi quá thành phố St. Louis. Một cơn dông lớn, cùng với sấm chớp ầm ầm nổi lên vào lúc nửa đêm. Một trận mưa rào đổ ập xuống như trút nước. Chúng tôi thu mình trong chòi, mặc cho chiếc bè lướt trôi đi. Một tia chớp loé lên cho thấy trước mắt một con sông lớn thẳng tắp với những vách đá cao hai bên bờ.

- Nhìn đằng kia kìa", tôi la lên.

Trước mắt chúng tôi là xác một chiếc tàu thuỷ bị đâm vào một mỏm đá. Bè chúng tôi đang trôi về phía chiếc tàu ấy. Tia chớp loé lên cho thấy chiếc tàu rất rõ. Nó bị nghiêng hẳn sang một bên, một phần boong tàu còn nổi trên mặt nước, qua mỗi tia chớp, tôi trông thấy rõ ràng từng sợi dây cột ống khói, một chiếc ghế bên cạnh cái chuông, cả một chiếc mũ sụp vành đang treo trên lưng ghế.

Giữa đêm tối tăm, dông bão, chiếc tàu bị đắm nằm phơi xác một cách cô đơn, ảm đạm giữa dòng sông. Tôi liền nói với Jim:

- Chúng ta trèo lên trên ấy đi, Jim!

Thoạt tiên Jim ngăn tôi lại. Hắn nói:

- Tớ không còn muốn lục lọi các xác tàu, xác nhà hay bất cứ

thứ gì trôi trên sông nữa. Chúng mình đã tội lỗi rồi, "hãy để cho tội lỗi được ngủ yên", kinh thánh đã nói thế. Không chừng trên ấy lại có người canh gác nữa đấy.

- Canh cái con khỉ gì - tôi nói - Ai có dại gì mà liều mạng ngồi

canh ở phòng sĩ quan và phòng lái. Trong khi chiếc tàu có thể vỡ toang, bất cứ lúc nào giữa cảnh giông bão.

Jim cằn nhằn một chút, nhưng rồi cũng chịu nhượng bộ. Một tia chớp loé lên vừa đúng lúc. Chúng tôi tìm đến cái cần cẩu ở bên phải chiếc tàu, rồi bám chặt vào đấy.

Chúng tôi đến ngay trước cánh cửa đang mở của cabin thuyền trưởng. Nhìn qua hành lang của phòng sĩ quan, trời ơi! Tôi thấy có một ngọn đèn đang cháy, cùng lúc ấy có tiếng nói nho nhỏ từ xa vọng lại.

Jim thì thầm với tôi rằng hắn cảm thấy "lên ruột" quá, và bàn nên quay về đi thôi. Tôi đồng ý, định quay trở lại bè. Bỗng tôi nghe có tiếng rên rỉ:

- Tao van xin chúng mày tha cho tao. Tao sẽ không bao giờ tố

cáo đâu.

- Phải, mày sẽ không tố cáo. Nhưng chúng tao làm thế là để

bảo vệ quyền lợi của chúng tao, mày hiểu không?

- Tao không muốn bị bắn chết?

- Mày đáng tội chết, chính mày giết lão Hatfield bằng cách này.

Người nằm trên sàn vừa khóc vừa nói:

- Cứu tao với Bill, tao còn sống ngày nào, tao sẽ không quên ơn

mày đâu.

- Nhưng bây giờ mày định làm thế nào

- Packard hỏi lại.

- Có gì đâu. Mình cứ lặng lẽ thu dọn tất cả những thứ gì còn sót

lại trong cabin này, rồi chèo sang bên kia bờ, cất các thứ lặt vặt vào một nơi. Sau đó cứ ngồi mà chờ. Tao chắc chắn rằng chỉ một hai giờ nữa thôi, chiếc tàu này sẽ tan ra từng mảnh, rồi trôi xuống phía dưới sông. Hiểu không? Thằng ấy sẽ chết đuối. Không thể buộc tội cho ai nữa cả. Tao nghĩ rằng đó là cách giết hắn tốt nhất. Tao không muốn tự tay mình giết người, nếu còn có thể nghĩ ra được cách khác. Giết như thế không hay, không hợp với luân thường đạo lí. Tao nói có phải không?

- Đồng ý là mày nói phải. Nhưng lỡ chiếc tàu này nó không vỡ

ra và trôi đi thì sao?

- Thì cứ chờ hết hai giờ đã hẵng hay.

- Được rồi. Thôi mình đi nào.

Chúng ra khỏi phòng. Tôi cũng lẻn ra ngoài, rồi bò ra phía trước,

mồ hôi vã ra như tắm. Trời tối đen như mực. Tôi gọi khe khẽ "Jim!". Có tiếng trả lời, ngay bên khuỷu tay tôi, nghe như tiếng rên rỉ. Tôi liền nói:

- Đi nhanh, Jim. Không còn thì giờ nào để lởn vởn hay rên rỉ ở

đây nữa. Có một bọn giết người đang ở đằng kia. Nếu mình không tìm cho ra thuyền của chúng, rồi thả trôi sông, để chúng hết cách trốn thoát thì một đứa trong bọn chúng sẽ bị nguy khốn ở trong đấy. Nhưng nếu ta lấy được thuyền của chúng thì tất cả bọn sẽ bị khốn đốn. Cảnh sát trưởng sẽ đến bắt chúng. Nhanh đi. Tao sẽ lùng ở phía trái, mày lùng phía bên phải. Mày chuẩn bị chiếc bè rồi ...

- Trời! Bè à? Chẳng còn chiếc bè nào cả. Nó bị tuột dây, trôi đi

rồi. Chỉ còn chúng mình ở đây thôi.

***

Tôi thở hổn hển, tưởng chừng như ngất xỉu. Thế là chúng tôi bị kẹt trên xác tàu này cùng với bọn cướp! Chúng tôi nhất định phải tìm ra chiếc thuyền của chúng để dùng riêng cho hai đứa tôi. Nghĩ vậy, chúng tôi run rẩy đi xuống về phía bên phải của xác tàu. Không thấy bóng dáng một chiếc thuyền nào cả. Jim bảo rằng không có cách nào tiến xa hơn nữa vì hắn quá sợ hãi nên kiệt sức rồi. Nhưng tôi vẫn giục hắn cứ tiếp tục vì nếu ở lại trên tàu này thì thế nào cũng nguy. Thế là chúng tôi dọ dẫm tiến lên. Khi đến gần cửa hành lang tôi chợt thoáng thấy có một chiếc xuồng nhỏ neo ở đấy. Tôi mừng rỡ quá. Chỉ một giây đồng hồ nữa thôi là tôi có thể nhảy xuống xuồng. Nhưng ngay lúc ấy cánh cửa mở ra. Một cái đầu ló ra, cách tôi không đầy một thước. Tôi tưởng thế là hết đời rồi. Nhưng cái đầu ấy lại thụt vào. Có tiếng nói:

- Đừng ló cái đèn ấy ra, Bill.

Hắn ném một cái bị gì đó xuống xuồng, rồi nhảy xuống. Hắn nói

khẽ với tên đồng bọn:

- Xong rồi, chèo đi.

Tay tôi lúc bấy giờ yếu quá, tưởng như không còn bám vững vào

cánh cửa nữa. Nhưng Bill nói:

- Khoan đã... mày lục lọi kĩ trong người nó chưa?

- Chưa. Thế còn mày?

- Chưa. Hắn vẫn còn số tiền đã chia phần cho nó đấy.

- Thế thì mày đi lấy đi. Lấy các thứ vặt vãnh rồi để tiền lại thì

thật là uổng công.

Thế là cả hai đứa ra khỏi xuồng, đi vào trong xác tàu.

Cánh cửa tự động đóng lại đến rầm một tiếng, vì chiếc tàu đã bị

nghiêng sang một bên. Chỉ trong không đầy một giây đồng hồ, chúng tôi nhảy xuống xuồng, rút dao ra cắt tung sợi dây buộc, rồi đẩy xuồng đi.

Chiếc xuồng lướt nhanh và yên lặng ngang qua bánh chân vịt rồi ra khỏi đuôi tàu. Ít giây sau, chúng tôi đã đi xa xác tàu chừng một trăm thước. Bóng tối che phủ cả chiếc tàu, không còn trông thấy gì nữa. Thế là chúng tôi thoát nạn.

Thỉnh thoảng một tia chớp loé lên làm hiện ra một vật đen sì nổi lên ở phía trước. Chúng tôi cố sức chèo đến đó.

Đó là chiếc bè của chúng tôi. Thật không có gì sung sướng bằng lúc chúng tôi trèo lên lại chiếc bè ấy. Cùng lúc ấy, chúng tôi thấy một ánh đèn trên bờ bên phải ở mãi dưới xa. Xuồng chúng tôi lúc bấy giờ chở đầy đồ đạc mà bọn cướp đã lấy được trên tàu. Chúng tôi chuyển các đồ đạc từ xuồng lên bè, xếp thành một đống. Sau đó, tôi bảo Jim cứ tiếp tục cho bè trôi xuống, rồi khi nào đi được chừng hai dặm thì treo đèn lên, cứ để thắp sáng cho đến khi tôi trở lại. Dặn xong, tôi xuống xuồng, chèo đến nơi có ánh đèn. Sau cùng, tôi cũng tìm ra được một người đang ngủ trên các trụ cuốn dây thừng ở đầu mũi thuyền, gục đầu xuống giữa hai đầu gối. Tôi lấy tay lay vai người ấy vài ba cái, rồi bắt đầu lên tiếng khóc.

Ông ta giật mình tỉnh dậy, nhưng khi trông thấy tôi thì ông ngáp dài một cái, duỗi chân tay rồi nói:

- Có chuyện gì thế, bé con? Đừng có khóc thế!

Tôi nói:

- Bố cháu, mẹ cháu, em cháu và ...

Thế là tôi khóc oà lên. Ông nói:

- Thôi nín đi nào. Đừng có làm thế. Ai cũng phải gặp lúc khó

khăn cả, rồi mọi chuyện sẽ êm đẹp thôi. Họ gặp chuyện gì thế?

- Bác ơi! Họ đang gặp vô cùng khó khăn. Xin bác...

- Họ là ai?

- Bố cháu, mẹ cháu, em cháu và cô Hooker. Xin bác cho thuyền

đến đó để...

- Đến đó là nơi nào? Họ đang ở đâu?

- Chỗ chiếc tàu bị đắm ấy.

- Tàu nào bị đắm?

- Chỉ có một chiếc tàu bị đắm thôi mà.

- À, chiếc Walter Scott ấy à?

- Vâng ạ.

- Trời ơi! Họ đến đấy để làm gì?

- Họ không có chủ đích đến đấy để làm gì cả ạ.

- Cố nhiên rồi. Lạy chúa! Nếu họ không rời đi ngay thì chẳng

còn có cơ may nào sống được đâu. Tại sao lại lâm vào cảnh rắc rối như thế chứ?

- Có gì đâu ạ. Cô Hooker đi đến cái làng gì ở phía trên sông...

- Biết rồi, bến đò Booth chứ gì .

- Trời! Thật là rắc rối chưa từng thấy. Thế rồi tất cả mọi người

ấy làm thế nào?

- Chúng cháu kêu la nhưng sông rộng quá, chẳng ai nghe cả.

Thế rồi bố cháu bảo cần phải có một người bơi vào bờ để kêu cứu. Nhưng ai cũng bảo: "Nước lớn và đêm tối tăm như thế này, thì cứu thế nào được. Hãy đi tìm một chiếc thuyền máy ấy." Bác ơi! Nếu bác đi giúp cho thì..."

- Bác cũng muốn giúp lắm chứ. Nhưng mà biết làm thế nào bây

giờ. Ai chịu trả cho mọi phí tổn trong công việc này kia chứ. Thế cha cháu có...

- Tưởng gì chứ chuyện ấy thì được, bác ạ. Cô Hooker có nói

riêng với cháu là chú cô ấy, ông Hornback sẽ...

Thế hả? Ông Hornback là chú cô ấy à? Nói chưa hết câu, ông vội vã chạy đi tìm thêm một vài người bạn, họ cùng nhau lên xuồng máy đi cứu gia đình cô Hooker. Bỏ mặc tôi ở lại đó. Lát sau tôi được biết là chiếc tàu đã tan tành trước khi họ đến cứu. Tôi tiếp tục chèo nhanh xuôi dòng nước.

Một khoảng thời gian có vẻ rất lâu sau đó, tôi mới thấy chiếc đèn của Jim hiện ra, nhưng cứ mỗi lần nó xuất hiện thì tôi có cảm tưởng như nó ở xa tôi đến hàng nghìn dặm. Khi tôi đuổi kịp chiếc bè thì trời đã bắt đầu sáng lờ mờ ở phương đông. Chúng tôi đi vào một hòn đảo, giấu chiếc bè, thả chìm chiếc xuồng, rồi chui vào bên trong ngủ lăn ra như chết.

***

Đến khi tỉnh dậy, chúng tôi lôi các đồ vật của bọn cướp ra kiểm điểm. Những thứ đồ lặt vặt này gồm có giày ống, mền, quần áo và nhiều thứ khác đủ loại, rất nhiều sách, một cặp ống nhòm và ba hộp xì gà. Tôi kể lại cho Jim nghe những chuyện xảy ra trong chiếc tàu bị đắm và trên thuyền chở khách. Tôi gọi đó là những cuộc phiêu lưu mạo hiểm. Nhưng Jim bảo rằng hắn không muốn thấy những cuộc phiêu lưu mạo hiểm như thế nữa. Hắn nói rằng, trong khi tôi đi vào phòng sĩ quan thì hắn bò ra ngoài để trở về bè, nhưng không thấy chiếc bè đâu cả. Lúc bấy giờ hắn chết lặng người đi vì nghĩ rằng dù xoay xở thế nào chăng nữa hắn cũng "tiêu" rồi. Nếu không có người đến cứu thì hắn phải chết đuối, còn nếu được cứu thì người ta sẽ đưa hắn về nhà để lĩnh thưởng, cô Watson chắc chắn sẽ bán hắn cho một nơi nào đó ở miền Nam.

Chương VII

Gia đình Grange Tord

Chúng tôi dự đoán phải mất thêm ba đêm nữa mới đến Cairo, ở cuối bang Illinois, nơi có con sông Ohio chảy vào. Đó là nơi chúng tôi đang nhắm đi tới. Đến đấy chúng tôi sẽ bán chiếc bè, rồi lên tàu thuỷ đi đến bang Ohio, giữa các tiểu bang tự do, như thế sẽ không còn phải lo lắng gì nữa.

Đêm thứ 2, sương mù bắt đầu xuất hiện. Chúng tôi tìm đến một cồn cát để buộc bf vào đó, vì không có cách nào tiếp tục đi trên sông trong lúc có sương mù. Tôi chèo xuồng đi tới trước, mang theo sợi dây buộc bè, nhưng ở đấy chỉ có những bụi câynhỏ. Tôi tròng sợi dây vào một cây con trên dì bờ bị xói mòn, nhưng ngay lúc lúc ấy , một dòng nước chảy xiết cuốn chiếc bè trôi đi, đứt phăng luôn sợi dây và rễ cây. Sương mù phủ xuống dày đặc. Tôi vừa thất vọng vừa lo sợ, đứng yên không động đậy trong nửa phút đồng hồ. Chiếc bè đã mất hút, vì mắt tôi bấy giờ không nhìn thấy xa quá 20 thước. Tôi nhảy lên xuồng, chạy về phía đuôi, nắm lấy mái chèo để lui xuồng ra. Nhưng nó không di chuyển được chút nào, thì ra vì quá vội vã tôi đã quên không tháo dây buộc xuồng. Tôi đứng dậy, cố tháo sợi dây, nhưng tay tôi run quá, không làm gì được.

Khi ra đuợc khỏi bờ, tôi cố đuổi theo chiếc bè một cách gấp gáp và khó nhọc, xuống phía dưới cồn cát thì sương tuyết trắng dày đặc, không còn biết hướng nào mà đi nữa. Thế rồi từ phía xa xa dưới kia những tiếng hú cất lên. Tôi thả mái chèo và hú đáp lại. Tuy nhiên, sương mù dày đặc và xuồng tôi đi vào lạch nhỏ, giữa hai cồn cát. Tôi không biết mình đang ở đâu và cơn buồn ngủ ập xuống.

Đến khi tôi tỉnh dậy, tôi nhớ mọi việc một cách hết sức lờ mờ. Tôi có cảm tưởng như đang sống trong một giấy mơ. Tôi nhìn xuống phía xa dưới dòng sông thì thấy một chấm đen trên mặt nước. Tôi liền đuổi theo chấn đen ấy. Nhưng khi lại gần mới nhận ra chỉ là vài ba khúc gỗ ghép lại với nhau. Một chấm đen nhỏ khác xuất hiện, tôi lại đuổi theo. Rồi một chấm đen nữa lại hiện ra, nhưng lần này thì đúng là chiếc bè của chúng tôi.

Khi tôi chèo đến chiếc bè, Jim đang ngồi gục đầu dưới gối ngủ, cánh tay lủng lẳng trên mái chèo. Cái chèo thứ hai thì đã gãy, trên bè phủ đầy lá cây và rác rưởi. Chắc Jim đã phải trải qua những giờ phút gay go lắm.

Tôi buộc xuồng lại, đến nằm ngay trước mặt Jim, rồi vừa ngáp, duỗi tay ra phía hắn vừa nói:

- Này, Jim, tao ngủ đã lâu chưa? Sao mày không đánh thức tao

dậy?

- Trời! Cậu đấy hả, Huck? Cậu không chết... không bị trôi

sông...Cậu trở về thật đấy hả? Tớ mừng quá, không dám tin là có thật. Cho tớ nhìn cậu, sờ vào người cậu một cái, xem nào. Không! Cậu không chết . Cậu về thật rồi mà, không sứt mẻ gì cả, vẫn là anh bạn Huck cũ của tớ. Cám ơn trời!

- ơ kìa, mày làm gì thế hở Jim? Mày vừa mới uống rượu xong

hả?

- Uống rượu à? Thời gian đâu mà nghĩ đến rượu?

- Thế tại sao mày nói kỳ quặc như vậy?

- Tớ nói gì mà kỳ quặc?

- Mày nói tao như thể tao bỏ mày mà đi ấy!

- Nghe đây Huck. Trả lời tớ câu này: Có phải cậu đã cầm sợi

dây bè, đi xuồng ra để buộc vào cồn cát không?

- Đâu có! Còn cát nào? Tao chẳng thấy cồn cát nào cả.

- Không thấy cái nào à ? Thế có phải cái sợi dây tuột ra, rồi

chiếc bè trôi xuống dòng sông, còn cậu và chiếc xuồng ở lại phía sau trong sương mù, hay không?

- Sương mù nào? - Có lẽ mày đã nằm mơ thấy vậy.

- Phải. Tao đã nằm mơ! Ác mộng thực sự đấy Huck. Tớ thấy

cậu mất tích, tớ gào đến rát cả cổ họng. Khi tỉnh dậy, tớ thấy cậu trở về nguyên vẹn. Nước mắt trào ra, tớ muốn nhảy xuống hôn chân cậu. Vậy mà cậu lại nghĩ đến việc trêu tớ bằng cách nói láo là tớ nằm mơ.

Nói xong hắn từ từ đứng dậy đi vào trong chòi, không nói thêm một lời nào. Nhưng thế đã là quá đủ. Những câu nói ấy làm cho tôi thấy xấu hổ, thấy mình hèn kém quá, đến nỗi tôi có thể, ngay lúc bấy giờ, cúi xuống hôn chân hắn để rút lại lời nói của tôi.

Phải mất đến 15 phút sau đó, tôi mới lấy được đủ cam đảm để đến nói với một người da đen và tự hạ mình trước mặt hắn. Tôi đã làm việc ấy, và cả về sau đó nữa, tôi không bao giờ hối tiếc về việc làm này. Từ đó, tôi không bao giờ giở những trò bỉ ổi như thế để trêu hắn nữa. Nếu trước đó, tôi biết rằng lối trêu chọc của tôi khiếm hắn phải giận dữ đến như vậy, thì chắc hẳn tôi đã không làm như thế.

***

Chúng tôi trôi đến một khúc quanh rộng lớn của con sông. Trời ban đêm đầy mây và nóng nực. Con sông rất rộng hai bên bờ toàn cây to làm thành những bức tường dài, không bị gián đoạn, không có ánh đèn. Chúng tôi bàn về thành phố Cairo, tự hỏi, khi đến nơi, chúng tôi có nhận ra được thành phố ấy hay không. Tôi cho rằng sẽ khó mà nhận ra lắm vì nghe nói nơi ấy chỉ có chừng hơn chục nóc nhà, và nếu họ không thắp đèn lên thì không sao nhận ra được. Jim nói ở đấy có hai con sông lớn gặp nhau, nên rất dễ nhìn thấy. Nhưng tôi lại ngại rằng chúng tôi có thể sẽ đi quá chân một hòn đảo rồi lọt vào con sông cũ một lần nữa. Điều này khiếm chi Jim đâm ra lo sợ và tôi cũng thế. Vậy thì câu hỏi đặt ra là chúng tôi phải làm thế nào? Tôi đưa ý kiến là tôi sẽ chèo xuồng lên bờ khi nào thấy ngọn đèn dầu đầu tiên xuất hiện, rồi sẽ bịa ra rằng cha tôi đang đi đến sau trên một chiếc xà lan chở cát đá, nhưng vì mới bắt đầu vào nghề nên không biết còn các xa Cairo bao nhiêu dặm đường. Jim cho là một ý kiến hay. Sau đó, chúng tôi ngồi hút thuốc lá, chờ đợi.

Không có việc nào làm nữa, ngoài việc đưa mắt trông chừng thành phố Cairo, để khỏi đi quá xa mà không biết. Jim bảo hắn có thế khá chắc chắn sẽ trông thấy thành phố ấy, bởi vì ngay giờ phút hắn thấy được thành phố Cairo, hắn trở thành một con người tự do rồi, còn nếu để lỡ, hắn sẽ lại đi vào một vùng đất nô lệ, không còn mong gì được thấy tự do nữa. Chốc chốc hắn lại nhảy lên nói:

- Nó kia kìa.

Nhưng không phải. Đó chỉ là những ánh lửa ma trơi, hay là

những con đom đóm. Nó lại ngồi xuống, lại tiếp tục canh chừng. Jim nói người hắn run lên như một cơn sốt mỗi khi nghĩ rằng mình sắp sửa được tự do. Quả thực, tôi cũng thấy run người lên khi nghe hắn nói như vậy.

Một lát sau, một ánh đèn xuất hiện. Jim kêu to:

- Thoát nạn rồi! Chúng ta thoát nạn rồi. Huck ạ! Thành phố

Cairo kia rồi, tớ biết mà.

Tôi nói:

- Để tao lấy xuồng ra xem. Chắc không phải đâu

Jim lấy cái áo cũ của hắn đặt xuống lồng xuồng để tôi ngồi cho

êm, rồi đưa mái chèo với tôi. Khi xuồng tôi đã chèo ra, hắn nói với:

- Chẳng bao lâu nữa tớ sẽ tha hồ la hét vì sung sướng. Tớ sẽ

nói đó là nhờ thằng Huck. Tớ là người tự do, nếu không nhờ có Huck. Huck đã làm tất cả cho tớ. Thằng Jim này không bao giờ quên ơn cậu đâu, Huck ạ. Cậu là người bạn tốt nhất của tớ, là người bạn duy nhất của tớ bây giờ đây.

Tôi chèo xuồng ra xa, trong lòng nóng như lửa đốt, sẵn sàng đi

tố có thằng Jim. Nhưng câu nói của hắn vừa rồi làm cho tôi chưng hửng, tiêu tan hết cả nghị lực. Tôi chèo đi chậm chạp, tự hỏi mình đi như thế là điều đáng vui hay đáng buồn. Tiếng thằng Jim nói với theo:

- Thế là cậu đi xuống đó hộ cho tớ rồi đó, Huck ạ, cậu là người

da trắng duy nhất biết giữ lời hứa với thằng Jim này.

Tim tôi đau nhói. Nhưng tôi vẫn cương quyết tự nhủ tôi phải tố cáo, không thể nào trốn tránh được việc làm ấy. Nhưng ngay lúc bấy giờ, một chiếc xuồng khác đi tới, trên đó có hai người cầm súng. Họ và tôi đều dừng lại. Một người nói:

- Cái gì ở đằng kia đấy?

- Một chiếc bè nhỏ thôi ạ!

- Mày ở trên bè đó hả?

- Thưa các ông, vâng ạ!

- Có ai trên đó nữa không?

- Chỉ có một người thôi, thưa các ông.

- Đêm nay có năm thằng da đen bỏ trốn ở phía trên khúc

quanh của con sông. Thế người của mày là da đen hay da trắng?

- Da trắng!

- Để chúng tao xem tận mắt.

- Các ông đến được thì may quá. - Tôi nói.

- Cha cháu đang nằm trên chiếc bè. Các ông có thể nào kéo

chiếc bè của chúng cháu vào bờ, ở nơi có ngọn đèn ở phía trước đằng kia được không? Cha cháu bị ốm, cả mẹ và em gái Mary của cháu ở nhà cũng bị ốm như thế nữa.

- Trời! Chúng tao bận việc gấp, nhưng trong truờng hợp này có

lẽ phải giúp thôi. Mày cứ chèo đi, chúng tao sẽ theo.

Khi chèo được một hai cái, tôi nói:

- Cha cháu sẽ cảm ơn các ông lắm đấy. Cháu nhờ ai kéo cái bè

cho cháu họ cũng đều từ chối cả. Một mình cháu làm sao đưa bè vào bờ được.

- Như thế thì tệ quá nhỉ, mà lại kỳ quặc nữa chứ. Này, bé con,

thế bố mày đau bệnh gì thế?

- Dạ, đó là... đó là... nhưng mà không nặng lắm đâu ạ.

- Bé con này, mày nói láo. Bố mày bị bệnh gì? Nói thật ngay đi,

như thế thì hay cho mày hơn.

- Vâng, cháu xin nói thật... nhưng xin các ông đừng bỏ chúng

cháu. Đó là bệnh... bệnh... Thôi, thưa các ông , các ông cứ chèo phía trước, cháu sẽ đưa sợi dây bè cho các ông. Các ông không cần phải lại gần bè... Cháu van xin các ông.

- Lui đi, John, lui ngay đi! Một người hồi hộp nói. Họ lui xuồng

về phía sau. Đứng xa ra, bé con... Xê ra về phía bên này này... Mẹ kiếp! Gió không khéo lại thổi về phía chúng tao. Bố mày bị bệnh đậu mùa, mày biết rõ quá mà. Tại sao mày lại không nói ngay đi? Mày muốn nó lan ra khắp nơi hả?

- Dạ... nhưng mà, tôi lắp bắp nói, cháu nói với mọi người như

thế rồi, cho nên họ bỏ đi cả.

- Quả có thế thực. Chúng tao rất thương mày, nhưng chúng tao

không muốn bị lây cái bênh đậu mùa, màu hiểu không? Tao bảo mày cái này nhé. Mày đừng có tự ý vào bờ một mình, không khéo lại làm vỡ tan hoang tất cả mọi thứ. Mày cho bè trôi xuống chừng 20 dặm, đến một cái thị trấn ở bờ sông bên trái ấy. Mày sẽ đến đấy sau khi mặt trời mọc một lúc, rồi mày sẽ nhờ người ta giúp đỡ cho. Nói với họ là bố, mẹ và em mày chỉ bị nóng lạnh xoàng thôi. Đừng có ngu dại nữa, làm người ta đoán ra được mọi chuyện. Bây giờ, chúng tao sẽ giúp cho mày, nhưng phải xa khỏi nơi này 20 dặm, nghe không? Đừng có lên bờ chỗ có ánh đèn kia, vô ích - chỗ ấy chỉ có sân chứa cũi gỗ thôi. À này, tao nghĩ là cha mày nghèo, và phải nói rằng cha mày thật không may. Đây, tao bỏ 20 đôla trên tấm ván này. Khi nào trôi đến gần mày thì mày nhặt lấy. Chúng tao bỏ rơi mày thế này cũng ân hận lắm, nhưng không thể đùa với cái bênh đậu mùa quái ác ấy được đâu. Mày hiểu chứ?

- Khoan đã, Parker, người thứ hai nói, đây là 20 đôla cậu bỏ

trên tấm gỗ hộ cho tớ. Thôi, chào mày nhé, bé con. Cứ làm như ông Parker vừa bảo sẽ ổn cả thôi.

- Thôi được rồi, mày đi đi nhé. Nếu có thấy tên da đen nào bỏ

trốn thì nhờ người ta giúp bắt hộ nhé, sẽ có tiền thưởng đấy.

- Chào các ông! - Tôi nói, cháu không để tên da đen nào lọt qua tay cháu đâu, nếu có thể

Họ vừa ra đi khỏi, tôi nhảy ngay lên xuồng. Tôi đi vào trong chòi.

Jim không có ở đấy! Tôi gọi to:

- Jim!

- Tớ đây này, Huck. Họ đã xa chưa? Đừng có nói to lên thế!

Hắn đang ở dưới nước, ngay dưới mái chèo ở đuôi bè, mũi nhô ra khỏi mặt nước. Tôi bảo hắn rằng họ đã đi mất hút, hắn có thể trèo lên bè được rồi.

Hắn nói:

- Tớ nghe được tất cả câu chuyện, cho nên tớ mới trườn xuống

nước, định bụng sẽ bơi vào bờ nếu họ lên trên bè. Khi nào họ đi rồi, tớ sẽ bơi trở lại bè. Nhưng mà cậu đánh lừa được chúng. Cậu đã cứu tớ. Thằng Jim này sẽ không bao giờ quên điều ấy đâu.

Vào lúc rạng đông, chúng tôi buộc thuyền lại. Jim cẩn thận che giấu bè thật kỹ, rồi suốt ngày hôm ấy, hắn gói ghém các thứ thành từng bó, để sẵn sàng rời bè bất cứ lúc nào.

Đêm hôm ấy, vào khoảng 10 giờ chúng tôi thấy ánh đèn của một thị trấn hiện ra ở khúc quanh bên trái.

Tôi liền chèo thuyền ra để hỏi han. Đi được một chốc thì gặp người đàn ông đang chèo một chiếc xuồng nhỏ, có vẻ vội vã. Tôi chèo đến gần hỏi :

- Thưa ông, đây có phải là Cairo không?

- Cairo à? Không, mày điên rồi sao?

- Thế thì thị trấn này tên là gì ạ?

- Muốn biết thì cứ đi lên trên ấy mà hỏi. Nếu mày còn đứng

quấy rầy tao thêm nửa phút nữa, thì rồi đừng có trách.

Tôi chèo trở về bè. Jim tỏ ra thất vọng. Nhưng tôi bảo không hề gì, Cairo chắc sẽ là nơi kế tiếp. Hoặc chúng tôi đã vượt qua khỏi trong đêm có sương mù. Qua một thị trấn khác. Chúng tôi giấu xuồng và suốt ngày ngủ trong bụi cây bông để lấy sức. Chiều tối, hai chúng tôi quay lại lấy xuồng thì nó không cánh mà bay mất.

Chúng tôi đứng trên bè xác định vị trí để tìm nơi mua một chiếc xuồng khác thì bất thình lình một chiếc tàu thuỷ chạy thẳng về hướng chúng tôi, đâm sầm vào bè. Tôi và Jim rơi tõm xuống nước.

Tôi hối hả trồi lên thật nhanh vì đã hết mức chịu đựng. Tôi nhô lên mặt nước đến ngang nách, hỉ mũi cho sạch nước rồi thở dốc lên. Cố nhiên, có một đợt sóng lớn ầm ầm đổ xô đến. Máy tàu ngừng lại phút chốc rồi lại hoạt động trở lại, vì họ không bao giờ quam tâm đến người đi bè. Giờ đây, chiếc tàu đang sùng sục rẽ nước tiến ngược lên dòng sông rồi mất dạng sau màn đêm dày đặc, trong khi tiếng động của nó vẫn còn văng vửng.

Tôi gọi Jim thật to, đến hàng chục lần, nhưng không có tiếng trả lời. Tôi vớ lấy một tấm ván vừa chạm vào người tôi trong lúc đang bơi, rồi đẩy nó về phía trước, nhắm thẳng vào bờ. Nhưng tôi nhận ra rằng dòng nước trôi dạt về bờ bên trái, như thế là tôi đang vượt ngang sông. Vì vậy, tôi đổi hướng, thả trôi theo dòng nước.

Đó là một dòng nước trôi xiên ngang, sông dài chừng 2 dặm, cho nên tôi phải mất khá lâu thì giờ mới tới bờ. Tôi lên bờ an toàn. Vì không trông được xa, nên tôi phải mò mẫm dọc theo một khoảng đất gồ ghề, chừng một phần tư dặm hay hơn thế nữa, bất ngờ tôi gặp một ngôi nhà song lập kiểu xưa cũ, làm toàn bằng gỗ. Tôi sắp sửa chạy đi một nơi khác thì một đám chó nhảy xổ ra, sủa ẩm ĩ. Chỉ còn một cách là đứng yên tại chỗ, không dám tiến thêm một bước nào nữa.

***

Một phút sau ...

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#vihung4