Võ Lâm Ngũ Bá 71 - 80

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Giả Kim Dung

Võ Lâm Ngũ Bá

Hồi 71

Tiếng Tranh trong cốc vắng

Đoàn Cẩm trong vô tình phát giác được phương pháp ấy để trị quái vật, tinh thần phấn khởi vô cùng, lúc luyện võ cùng sư phụ, Ngọc Động Chân Nhân đã dạy cho chàng một pho quyền pháp gọi là Bát Long Thiên Chưởng.

Pho chưởng pháp ấy đi theo thức bát môn "bát quái" , bề ngoài nhìn vào, chỉ thấy nhãy cao rùn thấp phiêu phiêu bất định nhưng kỳ thật tấn thối đều y theo bộ pháp bát quái để công kích đối phương tràn qua lộn lại, khiến đối phương rối loạn tâm trí chẳng biết đâu mà đón đở, vừa thấy trước mặt thoắt cái đã biến ra sau lưng, lợi hại phi thường.

Đoàn Cẩm đem pho Bát Quái Phiên Long Chưởng ra sử dụng, lấy phía dưới của quái vật làm mục phiêu tấn công, thỉnh thoảng thối lui, khi Đông lúc Tây, thoắt tả thoắt hữu, chụp được giây trống trải, là lập tức giơ tay chộp lấy đuôi quái vật, dùng sức vung mạnh, quăng ngay mãnh thú té nhào mèo xuống đất.

Và quả nhiên có hiệu nghiệm ngay, quái thú tuy da cứng như đá, dao thường chẳng lủng, nhưng vì thân hình lo lớn, mà phàm những thú vật thân to lớn, sự nhậm lẹ tránh né không được linh biến lắm.

Đoàn Cẩm cứ thỉnh thoảng nhấc nó lên cao và quật mạnh xuống đất.

Quái thú liên tiếp bị quật lộn mèo năm sáu phen, cảm thấy châu thân rêm nhức khắp cùng thì tánh hung hăng càng bộc phát, hả chiếc họng lớn như máu, gầm lên rùng rợn chụp nhầu đến đối phương bất kể chết sống.

Đoàn Cẩm mắt lanh tay lẹ, thoăn thoắt theo bộ pháp Bát Quái Liên Phong Chưởng, trước sau chẳng hề cùng quái thú ngay mặt đấu nhau, mà cứ lòn ra phía sau đuôi của nghiệt súc để tấn công.

Tránh né nhau hơn ba bốn mươi bận, chàng chợt thấy phía bụng dưới của quái vật nơi vị trí "hạ âm" có một khoảng da trắng hếu bằng miệng chén lớn chẳng có lông lá gì cả.

Chàng là một người tuyệt đỉnh thông minh liền biết ngay nơi khoảng da trắng ấy là một chỗ yếu hại duy nhất trong châu thân của quái vật, trong đầu chàng bỗng loé lên một tia sáng, lập tức thâu nhanh thế quyền nhãy dứ đến trước mặt quái thú, hoa quyền đánh vút vào đầu nó.

Quái thú liên tiếp xoay vòng bao nhiêu lượt không sao cản được địch thủ, thú tánh đang nổi điên.

Vừa thấy bóng kẻ thù trước mặt đâu dễ bỏ qua, sừng lông gầm đầu cụng mạnh vào phía đối thủ .

Đoàn Cẩm lần này chẳng thèm tránh né bị quái thú cụng mình té ngửa trên mặt đất đánh "đụi !" một tiếng, chờ cho quái thú cất cao hai vó trước định bổ xuống người chàng.

Đoàn Cẩm lẹ làng lăn tròn một vòng dụng ngay thân pháp Diệp Để Tạng Hoa (dưới lá dấu hoa) rụt người lại rồi thoắt cái nhãy chồm dậy, bất thình lình giương hai cánh tay sắt nguội ra, chộp lấy cần cổ của quái thú.

Quái thú ngỡ Đoàn Cẩm dùng sức mạnh của đôi tay để siết cổ mình, không khỏi sợ hãi, vội bương chân thối lui ra sau, nào ngờ thế vừa rồi chỉ là một thế đánh dứ, hai tay chàng nhanh nhẹn biến chiêu, đập mạnh lên mặt đất, thân hình bay vụt trở lên, song cước đồng tung lên một lượt đá bùng vào khoảng da trắng nơi hạ âm của mãnh thú chẳng chút sai lệch, quái thú liền rống lên một tiếng như xé rách cả rừng cây dãy dụa mấy cái dưới đất bốn vó chỏng ngược lên trời và tắt thở luôn, miếng da bụng cũng bị đá phủng một lỗ lớn máu ri rỉ chảy ra, nhuộm đỏ cả một khoảng cỏ xanh non.

Bọn binh sĩ Nam Chiến Quốc thấy vị Tiểu vương gia của mình giết chết được quái thú ấy, mừng rỡ nhãy nhót tung hô vạn tuế dậy cả núi rừng.

Đoàn Lão Hoàng Gia gạt mồ hôi lạnh trên trán, thở phào một hồi dài khoan khoái, vì từ nãy giờ ông lo lắng cho sinh mạng đứa con yêu duy nhất suýt muốn nín thở đứng tim.

Đoàn Cẩm sau khi giết chết được mảnh thú, mặt chẳng đổi sắc tinh thần vẫn ung dung trở về đoàn người thỉnh an với phụ vương của mình. Đoàn Lão Hoàng Gia lo lắng hỏi thăm.

Đoàn Cẩm cúi đầu cung kính thưa :

- Tâu phụ vương, Thần nhi không thấy mệt mà chỉ cảm thấy thống khoái vì được đấu một trận sướng tay thôi !

Mọi người nghe nói đều chắc lưỡi suýt soa khen lấy thần lực của Thái tử thành Đại Lý.

Đoàn Lão Hoàng Gia liền bãi cuộc đi săn, truyền lịnh binh sĩ khiêng quái thú trở về thành, bá quan văn võ không một ai biết tên thú ấy gọi là chi.

Cuối cùng có một vị học giả cao niên biết được tên thú ấy gọi là Mạc, một trong những loại kỳ lân, sức lực không những rất hung mãnh mà còn có thể nhai cả ngũ kim làm vật nuôi thân, bất luận là tay săn nhà nghề thế nào, gặp nó là vong mạng không còn.

Loại thú ấy ngoài sự nuốt nhai sắt vàng ra còn một đặc điểm lạ kỳ là trời sanh một lớp lông nhung có thể cự đương bất kỳ loài binh khí sắc bén gì, nước lửa không xâm phạm được lớp da ấy là một vật kỳ bửu khó gặp trong thế gian.

Đoàn Lão Hoàng Gia thầm mừng cho sự may mắn của quốc gia, liền dặn dò thợ khéo cẩn thận lột da thú chế tạo thành vào bộ khôi giáp làm vật báu trấn quốc .

Đoàn Cẩm liền xin lớp da mềm trên bụng của thú để may chiếc áo lót làm vật kỹ niệm kỳ công đầu tiên của mình.

Sau lần giết được quái thú ấy, oai danh của Đoàn Cẩm rúng động khắp cõi Nam hoang, biên dân mấy tỉnh Tây Nam mỗi lần đề cập đến Đoàn Cẩm đều sợ hãi kính phục như vị thần linh của mình.

Nhưng chí hướng của Đoàn Cẩm khác với người thường, cảm thấy tay mình được danh thần dũng khắp miền Tây Nam, chưa ai xứng là địch thủ, nhưng rốt cuộc vẫn chưa thực sự chường mặt giữa giang hồ võ lâm, cũng chưa chính thức giao tay với kẻ địch nào, đâu có xứng danh liệt vào hạng anh hùng nhứt thế .

Do đấy chàng đã tỏ ý viễn du Trung Thổ một phen làm một vài chuyện oanh liệt kinh thiên động địa để dương danh vạn cổ. Nhưng khổ nỗi thể chế của Nam Chiến rất khác biệt dị đời, phàm là một Thế tử của Quốc vương thật quyết không thể ra khỏi thành Đại Lý ngoài trăm dặm, nếu ai tự ý bỏ đi là kể như bất kính với thần linh trời đất tất bị họa bất trắc lâm thân.

Cho nên Đoàn Cẩm có hùng khí giao du Trung Nguyên nhưng vì luật quy của hoàng tộc không thể mở miệng ra lời, đành tạm thời chôn chặt vào tim, chỉ mong sao Ngọc Động Chân Nhân, đúng thời gian ba năm trở lại, sẽ cậy nhờ sư phụ đề nghị lời thỉnh nguyện ấy với phụ vương, chuẩn y cho chàng theo sư phụ ngoạn du khắp núi rộng sông dài để lịch lãm thêm phần kiến thức.

Thấm thoát thời gian, ba năm trôi nhanh như nước chảy qua cầu nhưng vẫn chưa thấy sư phụ Ngọc Động Chân Nhân trở bước vân du về miền Đại Lý.

Đoàn Cẩm ngày đêm khắc khoải chờ trông.

Giữa một đêm trăng tròn nọ, Đoàn Cẩm một mình ngồi hóng mát dưới giàn hoa nơi trước điện, nhìn bóng nguyệt lung linh muôn sao vằng vặc lòng buồn mênh mông, đang lúc ngẩn ngơ xuất thần, chợt nghe ngói trên mái điện có tiếng động thật khẽ, rồi một bóng người như oan hồn lăn rơi trở xuống.

Đoàn Cẩm trong lúc thất thần giật thót mình, đến lúc định thần nhìn kỹ, từ cuống họng bỗng buột miệng kêu lên một tiếng "ối cha !" kinh ngạc !

Vì người vừa lăn xuống không ai khác là vị ân sư Ngọc Động Chân Nhân đã cách biệt ba năm dài.

Nhưng vị Ngọc Động Chân Nhân sau ba năm cách này không còn là vị đạo trưởng nghi dung phong tuấn phiêu phưởng như thần tiên giáng phàm, mà là một lão nhân mình mẩy dơ dáy, áo quần rách bươm, tóc tai rối bời, nói hơi nặng lời một chút thì thật chẳng khác một lão ăn mày bao nhiêu.

Ngoài ra sắc mặt của ông trắng bệch như tờ giấy, hai mắt mất thần, trên tay còn lẩy bẩy một thanh kiếm báu. Ông vừa từ trên mái ngói buông mình xuống đất, thân hình lảo đảo chệnh choạng hai lượt, rồi không gượng được "bộp !" một tiếng té ngồi trên mặt đất, thanh bảo kiếm chỏi mạnh xuống gạch rắn kêu "cong !" một tiếng, sao lửa bắn tung toé bốn phía.

Đoàn Cẩm cả kinh, vội tung mình nhãy ra trước, một tay đở xốc Ngọc Động Chân Nhân dậy, hỏi dồn dập :

- Lão sư, làm sao lại đến nỗi này ?

Ngọc Động Chân Nhân rên lên một tiếng và nói :

- Đồ nhi, bồng... bồng thầy... đem vào trong !..

Đoàn Cẩm liền bồng xốc ông lên, định lên tiếng gọi thị vệ.

Ngọc Động Chân Nhân lắc đầu lia lịa như ra dấu bảo chàng đừng thanh trương cho ai hay.

Đoàn Cẩm đành vâng theo lời bồng thầy vào biệt điện.

Ngọc Động Chân Nhân vừa đặt lưng lên giường hai mắt đã nhắm nghiền lại, sắc mặt lộ vẽ đau đớn cực cùng nói lắp bắp chẳng thành lời :

- Con.. vạch tay áo bên phải thầy lên, dùng dao chích lấy máu độc trên miệng vết thương... máu bầm dùm thầy... khéo coi chừng... đừng đụng... đụng vào chất độc... mau đi...

Đoàn Cẩm không thể ngờ vị sư phụ ba năm trời không gặp mặt, lại trở về cung điện tiều tụy dở sống dở chết như thế, trong lòng nghi hoặc chẳng cùng nhưng vì cứu mạng người là tối cần nên chẳng thì giờ đâu để hỏi han.

Trước tiên liền xé rách tay áo bên phải của Chân Nhân, thấy phía sau vai của sư phụ nổi lên một khoảng thịt sưng phù lớn bằng miệng cốc, nơi chính giữa vết thương có hai lỗ thương tích nhỏ như hạt gạo nước vàng không ngớt rịn ra ngoài.

Đoàn Cẩm ngầm than thở trong lòng , rõ ràng là vết thương do rắn, rết độc cắn phải.

Ngọc Động Chân Nhân là người tinh thông võ thuật tại sao lại để cho rắn rết cắn phải được ?

Chàng dùng lưỡi dao găm cắt lấy một mảnh vải trên vạt áo mình, vò lại cho mềm, đè lấy vòng ngoài khoảng sưng sau đấy cẩn thận rạch nhè nhẹ chỗ miệng vết thương, máu đen từ bên trong phún ra đen ngòm như mực tanh hôi nặc nồng.

Chàng dùng giẻ sạch lau lấy chất máu độc, một miếng giẻ không đủ, chàng lại cắt thêm một chéo áo khác, chậm liên tiếp mấy lần, hai miếng giẻ đều thấm ướt cả máu đen, nơi cứng bầm mới thấy xệp xuống chảy ra chất máu đỏ hồng.

Trong lúc lau chất máu độc, Đoàn Cẩm hết sức cẩn thận kỹ lưỡng, không cho đầu ngón tay mình dính phải chất máu độc, tuy vậy sau khi quăng xong hai mảnh vải nọ, đầu ngón tay và hổ khẩu của chàng cũng cảm thấy hơi ngứa tê như bị kiến cắn.

Tinh thần của Ngọc Động Chân Nhân khi ấy mới có phần khôi phục lại nhưng giọng nói vẫn còn mệt nhọc nặng nề, phều phào bảo chàng :

- Con móc túi áo trắng của thầy lấy chiếc lọ con bằng ngọc ra, một nửa rắc lên vết thương, một nửa hòa với linh dương nhũ giác, chất ấy chỉ ở trong hoàng cung của con mới có thôi, quậy cho đều đem đến cho thầy uống, mới mong giải được tính mạng già này.

Đoàn Cẩm nhất nhất y theo, thét thị vệ vào Thái y thất đem "linh dương nhũ giác" đến lập tức, đoạn hòa vào chất thuốc trong lọ ngọc, hai tay dâng lên cho Ngọc Động Chân Nhân uống.

Độ một buổi sau, vẻ đau đớn trên mặt Chân Nhân mới giảm phần nào, ông thở phào một hơi dài và than :

- Nguy hiểm vô cùng ! Thiếu chút nữa là bỏ mạng trên Mãng Thương Sơn chẳng còn !

Đoàn Cẩm nghe ba tiếng "Mãng Thương Sơn" , trong đầu lùng bùng như tiếng sấm, ngạc nhiên vô cùng vì Mãng Thương Sơn ở trung bộ tỉnh Vân

Nam, cách xa thành Đại Lý trên sáu trăm dặm, chẳng lẽ sư phụ chạy một hơi trên sáu trăm dặm từ Mãng Thương Sơn đến đây hay sao ?

Chẳng dằn không được lòng thắc mắc bèn hỏi :

- Sư phụ ngộ hiểm trên Mãng Thương Sơn lận ư ? Nhưng sao phải chạy đến đây ?

Ngọc Động Chân Nhân lại thở phào và đáp :

- Còn tại sao, nếu chẳng vì nghiệp chướng của ngươi ! Chuyện dài dòng lắm !

Đoạn bèn đem sự ngộ hiểm của mình, thuật sơ lược cho Đoàn Cẩm hiểu.

Thì ra Ngọc Động Chân Nhân cùng Đại sư huynh là Ngọc Hư Tử và Nhị sư huynh là Ngọc Tiêu Tiên đều là nhân vật chưởng môn của Nhạn Môn Phái, một số người quen miệng gọi ba vị là Nhạn Môn Tam Ngọc.

Ngọc Hư Tử luyện trên núi Kê Công sơn, Ngọc Tiêu Tiên thì ngao du khắp sông hồ, tông tích bất định. Chỉ có Ngọc Động Chân Nhân thường qua lại trên miền Tây Nam, thường nhúng tay hành hiệp lấy cứu dân độ thế làm tôn chỉ. Là một vị đạo cao đức dày, đời sống đạm bạc không hề dính dấp đến chuyện oán thù trong võ lâm.

Lần này thu nhận Đoàn Cẩm làm môn hạ, chẳng qua vì thấy chàng là một bậc kỳ tài, căn cốt thiên phú, nên mới có ý định luyện cho Đoàn Cẩm trở nên một hòn ngọc quí chốn võ lâm.

Sau bảy năm trời lưu lại truyền thụ ngoại công phu cho Đoàn Cẩm, bèn tự cáo biệt Đoàn Lão Hoàng Gia vân du khắp miền Trung Thổ, định ba năm sau sẽ trở lại thành Đại Lý xem tài nghệ của Đoàn Cẩm thành tựu ra sao, rồi sẽ truyền thụ thêm môn công phu tuyệt kỹ cho chàng.

Gần đến ngày hạn cũ, Ngọc Động Chân nhân từ Thanh Thành Sơn khởi trình định bụng một tháng sau sẽ đến thành Đại Lý, khi đi ngang qua giữa miền Vân Nam, đến khu vực Mãng Thương Sơn thì trời đã xế bóng về Tây, khói chiều cũng sắp tắt trên mấy nếp nhà tranh ven gành núi vắng.

Giả Kim Dung

Võ Lâm Ngũ Bá

Hồi 72

Thâm cốc giấu Bửu Kinh

Ngọc Động Chân Nhân lầm lủi băng qua một đoạn u cốc hoang vu, bỗng nghe từ xa vọng lại trong hơi gió có tiếng nhạc ai tấu "tình tang !".

Chân Nhân là người sành âm điệu, nghe tiếng nhạc vẳng đưa biết rõ có người đang tấu đàn tranh, mà loại tranh cầm là một trong những nhạc khí thời cổ khó học hơn cả tì bà, nếu chẳng phải là bậc tài hoa khó mà học cho tinh thuần nhạc vận .

Ngọc Động Chân Nhân thầm nghĩ nơi Mãng Thiên Sơn tuyệt địa này chẳng một kẻ nào dám bén mãng đến , ông đã băng đèo vượt núi hơn hai ngày trời, chẳng gặp một bóng người, cho đến dân Mèo Mán cũng không có nốt, tại sao lại có vị cao nhân nào ở giữa chốn nước độc này gảy đàn tranh một cách ung dung đến thế ?

Lòng hiếu kỳ thúc giục, muốn xem cho rõ tận tường, ông bèn lắng tai nhận định tiếng đàn, phát giác được giọng tranh xuất phát từ dưới đáy cốc, giữa một khoảng rừng rậm rì kia .

Ngọc Động Chân Nhân vì muốn tránh khỏi quấy rầy tinh thần của người gẩy đàn, phá mất nhã hứng của đối phương, nên rón rén bước chân xuyên thẳng vào rừng, quanh co theo tàn cây bụi rậm hơn mười trượng xa, chợt cảm thấy phía trước mặt quang đảng, sáng sủa lạ thường.

Té ra nơi đây là một khoảng đất trống trải độ vài mẫu vuông, chính giữa khoảng đất trống có một tấm bàn thạch, rộng độ mười trượng.

Có một vị đang ngồi xếp bằng trên tấm bàn thạch ấy, hình dáng kỳ lạ vô cùng, mình mặc một chiếc áo nửa tăng nửa tục, tóc trên đầu quấn tròn thành một cục to xù, xem bộ dáng thì trán vồ mũi quập, hai mắt sâu hóm vào trong, râu rồng tua tủa bõ quanh hàm, da dẻ màu đồng cổ, hai chân để trên ngồi theo lối tĩnh tọa, trong lòng ôm một chiếc đàn tranh bằng sắt, tay hữu uyển chuyển, buông bắt giây tơ, vang lên những tiếng tình tang, dưới tấm bàn thạch lúc nhúc vô số giống vật lẫn lộn nửa xám nửa xanh .

Ngọc Động Chân Nhân định nhãn nhìn kỷ, không khỏi râu tóc đều dựng đứng lên.

Té ra dưới phiến đá chỗ quái nhân ngồi kia, lúc nhúc hàng trăm con rắn độc dài ngắn không đều, kỳ hình quái trạng, đủ các màu sắc.

Đám rắn độc ấy con nào cũng khoanh tròn mình lại đầu ngóc lên cao nghệu, hướng vào chỗ quái nhân ngồi.

Giọng thanh tưng lên một tiếng, bầy rắn cũng lắc lư một cái, lại có mấy con rắn to đầu bạnh ra, dẹp lép như cái mặt trăng, chiếc bụng dán xuống mặt đất như cọng lát khô, say sưa theo tiếng đàn tranh lắc lư, múa máy vặn vẹo mình mẩy trông rất buồn cười.

Trừ mấy trăm con rắn to ấy ra, từ trong các bụi rậm bải hoang giữa rừng, bốn hướng tám phương kéo ra không biết cơ man nào là độc xà đủ cả màu sắc, hình trạng ngoằn ngoèo bò đến bên tấm bàn thạch khoanh tròn từng cục, cử chỉ không khác bầy rắn trước .

Ngọc Động Chân Nhân thấy thế, trong lòng ngầm suýt xoa khen phục, vì theo sự nghe thấy của ông, trên đời không thiếu gì kẻ có tài dậy rắn, bao năm qua lại biên cảnh Tây Nam mấy tỉnh, cũng từng phen du lịch qua bên Miến Điện, thấy những vị tăng nhân khổ hạnh miền Tây Trúc dùng một ống tiêu để lên miệng thổi, khiến cho một con mãng xà và trăn nữa, lắc lư, nhãy múa theo nhịp tiêu, vặn vẹo uốn khúc theo ý sai khiến.

Song công cụ để huấn luyện của họ, phải là một ống tiêu và hơn nữa chỉ cẩn thận sai khiến được những con rắn đã được dạy dỗ thuần thục mà thôi.

Còn vị trung niên quái nhân này, phương pháp khiển rắn thật là khác biệt .

Với một cây đàn tranh bằng sắt đơn giản lại có thể dẫn dụ hàng trăm, hàng ngàn con rắn ở khắp kẹt rừng xó núi, đều kéo ra ngoài, bản lãnh khiển rắn của hắn thật là thế gian hãn hữu.

Vị quái khách trung niên ấy tấu một hơi mấy khúc nhạc tranh, bao nhiêu rắn lớn nhỏ trong rừng đều lủ lượt kéo ra theo hướng tiếng đàn.

Trong khoảnh khắc nơi chỗ phiến đá hắn ngồi, trước sau phải trái, bốn bên tám phía, sau chỗ ngồi lấy ra hai chiếc giỏ tre để trên phiến đá, rồi thình lình năm ngón tay thoăn thoắt búng lên cung đàn, tiếng tranh lại tính tình tang tang vang lên gấp rút như thác đổ mưa dồn, mười phần khích động, mường tượng như tiếng sát phạt ngựa hí người reo rập rờn chết chóc.

Bầy rắn đang uốn éo múa may bỗng ùn ùn bò lên, ngẫng đầu cụp đuôi bò gần đến nơi giỏ tre của quái nhân.

Ngọc Động Chân nhân lúc ấy mới để mắt nhìn kỷ, thấy rõ đám độc xà ấy, con nào hai miệng cũng phùng lên, mường tượng như trong miệng có ngậm vật gì vậy.

Bọn chúng bò đến nơi chiếc giỏ tre liền há miệng nhả ra từng vật tròn tròn vào giỏ.

Ngọc Động Chân Nhân khi ấy mới vỡ lẽ, vật tròn mà bầy rắn phun trong miệng ra chính là những trứng của chúng.

Gã trung niên quái khách này dùng tiếng tranh để dụ bầy rắn với dụng ý thu gom trứng rắn đem về ?

Vốn trứng rắn không phải là vật hiếm có, mỗi năm giữa mùa xuân hạ, nơi rừng sâu, núi hiểm hay trong đám cỏ hang đất đều vẫn thường gặp cả ổ lớn hàng chục trứng trở lên .

Nhưng vị trung niên quái khách này không nệ công khó dùng tiếng đàn để mê hoặc bầy rắn hàng ngàn con, bắt chúng tự động nhả trứng ra thật là chuyện lạ trong đời, nếu không thấy tận mắt khó mà tin được, chẳng hiểu hắn làm thế với dụng ý gì ?

Hắn ta tuy mặt mày có vẽ nho nhã, nhưng trên người phảng phất một khí phái tà đạo bàng môn, với kiến thức quảng bác của ông chưa hề nghe ai nhắc nhở đến nhân vật hành động kỳ quặc đến thế.

Trong khi Ngọc Động Chân Nhân miệt mài trong sự trầm tư, thì bên kia động tác nhả trứng của bầy rắn cũng cực kỳ nhanh chóng.

Một con vừa nhả xong được trứng rắn của mình, dường như trút đi một trọng trách, luồn qua bên người quái khách quăng mình bỏ đi như bay vào rừng, con này vừa xong, con kia liền nối tiếp theo đuôi, chờ đến phiên mình cũng như đồng loại đi trước.

Không đầy một giờ đồng hồ, trong giỏ tre đã đầy ăm ắp đủ loại trứng rắn, hàng ngàn con rắn lúc nãy cũng bò đi sạch bách chẳng còn.

Quái khách nhìn thấy chiếc giỏ tre của mình đã vun đầy trứng rắn, mới ngừng ngay tiếng đàn, ngẫng đầu lên trời cười ha hả đắc ý.

Ngọc Động Chân Nhân không dằn được, bèn từ sau bụi cây hiện ra.

Gã trung niên quái khách thấy có người lạ, ban đầu thần sắc hơi ngạc

nhiên, khoảnh khắc đổi sang vẻ nham hiểm, cất giọng nói chát chúa khó nghe như tiếng cú kêu, hỏi lớn :

- Đạo hữu phương nào, quá bước ngang nơi đây, bèo mây gặp gỡ, sao

chẳng bước đến đàm đạo đôi câu cho phỉ dạ kẻ hào khách vậy.

Lời nói nghe qua hòa ái đơn giản, kỳ thật nội ý thâm hiểm cơ mưu.

Quái khách nọ đã dùng phương pháp nội gia trường âm công phu, do từ dưới đan điền phát ra ngoài, hai câu đầu tiếng nhỏ và trong, uyển chuyển như tơ trời lất phất khoảng không, khi rõ khi không, hai câu nói giữa cao dần và xa dần tựa như người từ trên mây nói vọng xuống, câu nói sau cùng, âm ba sang sảng như tiếng chuông, lại mường tượng như sấm trời bạo phát, làm cho màng nhĩ của Ngọc Động Chân Nhân bị chấn động suýt lủng đi vậy.

Ngọc Động Chân Nhân biết rõ quái khách định thị oai với mình. Nhưng

Chân Nhân là một vị đạo gia đức độ, tu hạnh cao thâm, nên không chấp nhất đến thái độ xấc xược của đối phương vừa rồi, lại còn chắp tay thi lễ và nói :

- Vô Lượng Thọ Phật, đạo danh của bần đạo là Ngọc Động, vì có chuyện đến phương Nam, qua ngang chốn này, ngẫu nhiên nghe được nhạc khúc thanh trong, ngờ là có cao nhân qui ẩn sơn lâm, nào ngờ tình cờ gặp được các hạ trổ tuyệt kỹ khiển dụ bầy độc xà, để thu nhặt trứng rắn trong vô ý kinh động đến các hạ mong các hạ bỏ qua cho.

Lời của Ngọc Động Chân Nhân mười phần hòa hạ, có thể nói là không

khêu không chọc, cũng chẳng hài tội người ta.

Nào ngờ quái khách không ai khác lạ, mà chính là một ma đầu danh lừng Tây Vực, không những tánh tình quái dị mà độ lượng rất hẹp hòi, nghe hai câu sau cùng của Ngọc Động Chân Nhân liền khẽ biến sắc mặt .

Vì rằng ban đầu Ngọc Động Chân Nhân bảo là nghe tiếng đàn tranh

tưởng là nơi đây có ẩn cao nhân đạo hạnh nên có ý đến bái kiến, chẳng ngờ sau lúc thấy mặt hoàn toàn chẳng phải và theo lời nói ấy chẳng lẽ mình chẳng là cao nhân sao ? Gã quái khách này từ miền Tây Vực đến đây, lòng đầy cao ngạo, danh tiếng Nhạn Môn Tam Ngọc vang lừng miền Trung Thổ, gã không những chẳng biết đến bao giờ mà trái lại còn lầm tưởng đối phương chẳng coi mình vào đâu, khóe miệng khẽ nhếch nụ cười ngạo mạn và nói :

- Đạo trưởng rất tán thưởng diệu kỹ khiển rắn của tôi chăng ? Cam thất lễ đấy chẳng qua là thuật mọn tổ truyền để dạy trùng mối của Bạch Đà Sơn chúng tôi.

Ngọc Động Chân Nhân nghe ba tiếng Bạch Đà Sơn không khỏi giật thót mình. Ông chợt nhớ lại mấy năm về trước, Ngọc Hư sư huynh của mình có nhắc nhở là nơi Bạch Đà Sơn ở miền Tây Vực, biên giới Tân Cương, từ bao năm nay, ẩn cư một ma đầu lợi hại họ Âu Dương tánh tình cổ quái võ công tự lập thành một phái, trong núi sâu xây cất cung thất tráng lệ huy hoàng, thâu nạp vô số nam nữ tì nô, tích tụ không thiếu ngọc ngà vàng bạc nơi hoang cốc hưởng đủ mọi khoái lạc của thế nhân vua chúa.

Gã ma đầu họ Âu Dương này rất thiện nghề nuôi dạy độc xà ác mãng, từ trên thân thể của độc xà, lãnh ngộ không ít võ công kỳ độc, chế luyện nọc độc của bách xà, chế tạo vô số ám khí tuyệt độc.

Chẳng ngờ y lại có thể đến Vân Nam, thật là một chuyện lạ lùng !

Ngọc Động Chân Nhân liền chắp tay ôn tồn nói :

- Té ra các hạ là Bạch Đà Sơn Chủ Âu Dương Liệt ở Tây Vực, cam thất kính !

Quái khách cười nhạt đáp :

- Nói quá lời, Âu Dương Liệt là gia huynh, còn tại hạ Âu Dương Phong. Gia huynh tạ thế đã hai năm nay chức Sơn Chủ truyền lại cho tại hạ chưởng quản.

Nguyên lai, cha của anh em Âu Dương Liệt là một tội phạm của Tống

triều, bị đày đến Tân Cương sung quân, lấy vợ người Hồi sanh ra hai anh em Âu Dương Phong, nên tuy hai người thuộc về giòng Hán nhưng phân nửa có máu huyết của người Hồi.

Anh em Âu Dương Phong lớn lên vì tánh tình quen thói cường hung,

không chịu nổi nếp sống thanh khổ mới gia nhập vào giới hướng mạ

thảo khấu, chuyên việc cướp của đốt nhà.

Trong một lần đi ăn hàng, anh em Âu Dương Liệt vô tình cướp đoạt nhầm một số lễ vật gả công chúa của vua Hồi. Hồi Vương cả giận liền phái đại đội binh mã đến tiểu trừ.

Anh em Âu Dương Liệt phải dắt nhau vào núi sâu để trốn tránh sự truy tầm của quan quân.

Chẳng ngờ qua cơn biến thì lạc cả lối về.

Hai anh em cố sức tìm kiếm phương hướng nhưng ròng rả bảy tám ngày trời, lương thực bên mình đã cạn mà vẫn chưa tìm thấy lối cũ.

Hai anh em phải ăn cây, củ cỏ, cùng săn bắn chim muông để đở dạ.

Nhưng khổ nỗi lúc ấy vào tiết cuối thu mà Thiên Sơn là một dãy núi

trùng điệp, ngoằn ngoèo trên ba ngàn dặm, mõm núi lúp xúp, mút tầm như biển cả, quanh năm tuyết phủ trắng xóa, huống hồ cuối thu tiết trời trở lạnh, tuyết rơi lác đác, khí lạnh thấu xương, cỏ cây bị che lấp dưới sâu, cho đến điểu thú cũng vào hang ẩn tích, chẳng thấy tăm hơi.

Hai anh em Âu Dương Liệt chẳng còn gì để mong đở lòng, thật chẳng khác nào hảm vào nơi tuyệt địa, hai người núp trong một động đá hoang tịch vừa đói, trơ mắt mà nhìn cái chết từ từ kéo đến.

Âu Dương Liệt là người có huyết tính can đảm, bèn bảo em :

- Này Phong đệ, tuổi anh lớn hơn em mười tuổi, sống hơn em trên thế gian đã nhiều, chết không còn ức hiếp gì nữa. Em còn trẻ sức mạnh, hà cớ phải chết một lượt với anh quá vô lối như thế.

Hay là em cởi áo da trên người anh mặc thêm vào người, lấy tất cả lương thực còn lại của phần anh, bò ra khỏi sơn động tìm đường đào sanh vậy !

Âu Dương Phong chưa kịp đáp lời thì từ cửa động có tiếng xào xạc liên tiếp, rồi từ bên ngoài bò vào một vật dài trắng long lanh như tuyết.

Âu Dương Phong vội quay lại nhìn, mừng rỡ buột miệng kêu lên :

- Đại ca, bạch xà, bạch xà kìa ! Chúng ta có vật đở lòng rồi.

Vật vừa bò vào quả đúng là một con rắn trắng như bạc dài độ tám tấc, lớn cỡ ngón tay.

Vốn ra trong động giá tuyết, trong núi bao nhiêu rắn rết, côn trùng đều tìm chỗ ẩn mình để đánh một giấc đông miên. Con rắn trắng này lại có thể hoạt động trong giữa tiết đông. Kể ra cũng là một chuyện lạ kỳ.

Âu Dương Liệt liền bảo :

- Phong đệ, mặc là rắn trắng hay rắn đen, tóm cho được nó để ăn, cố kéo dài sinh mạng.

Âu Dương Phong gật đầu tán đồng, rút ngọn dao bén nơi lưng ra, đập

mạnh sống dao vào mình quái vật. Đấy là một sự khôn ngoan của gã, vì gã biết rõ loài rắn chịu đựng rất bền, nếu dùng lưỡi dao chặt ra làm đôi, nó có thể với hai khúc mình bị chặt đứt bõ trốn đi hai nơi, một chút chẳng khéo còn có thể bị nó cắn phản trở lại chết mà không kịp trối.

Nên Âu Dương Phong cố tình dùng sống dao đập lên mình rắn. Nó sẽ nổi điên mà phải mình cất cổ lên để mổ, Âu Dương Phong chỉ đợi có thế, lẹ làng buông rơi thanh đao, tay trái lẹ như chớp quảy tròn một cái phía dưới mang con rắn. Đồng thời gót chân cũng lẹ làng đạp lấy phía dưới đuôi rắn, và như vậy con bạch xà đành trơ mình vận cứng xương sống mà chịu, không sao vùng vẫy hay cắn mổ gì được nữa, chỉ kêu khè khè lè chiếc lưỡi nhọn đỏ như máu trông rất dễ sợ.

Anh em Âu Dương Phong thấy con bạch xà ấy, mình trắng như tuyết, chỉ nơi phía dưới bụng từ đầu chí đuôi có năm lằn sọc đỏ như sợi tơ máu .

Âu Dương Liệt thất thanh kêu lên :

- Úy chao ! Quả là con Thiên Sơn Bạch Long đấy.

Thì ra loài rắn Bạch Long là danh sản quý giá của núi Thiên Sơn, kỳ thật chỉ là một loài rắn có màu trắng khác thường hơn đồng loại, mật của nó gọi là Bạch Long Đảm quý giá vô ngần, dùng vào y dược có thể cải tử hồi sinh, các vua chúa cõi Trung Nguyên trước nay thường bắt buộc chư hầu miền Tây Vực hằng năm cung hiến Bạch Long Đảm, đủ thấy nó là một vật quí báu hiếm hoi vô cùng !

Song vì Bạch Long không phải dễ tìm như loại rắn tầm thường. Sự hoạt động của nó cũng khác hẳn đồng loại, vì những giống rắn thông thường đến mùa đông đều chui rúc trong các hang hốc kín đáo để ngủ giấc đông miên, còn Bạch Long ở Thiên Sơn thì trái lại tới mùa đông tuyết giá mới ra khỏi ổ tìm thực vật. Thử nghĩ trừ những kẽ tham lợi liều mạng ra còn ai chịu mạo hiểm tính mạng, lặn lội trong mưa tuyết cắt da để vào tuyệt địa Thiên Sơn tìm Bạch Long bao giờ ?

Hai anh em họ Âu trong lúc thúc thủ chờ chết chẳng ngờ vô tình bắt được một con Bạch Long xà, kể ra phúc quả còn dài.

Âu Dương Liệt liền bảo Âu Dương Phong :

- Phong đệ, anh em ta số mạng còn dài nên gặp con Bạch Long xà này, chúng ta mau mổ mật của nó ra, có thể đở đói trừ lạnh, sau đấy ta ăn thịt và huyết nó thì không còn sợ khí trời lạnh lẻo nữa, đấy là trời thương tình ban cho anh em ta đó, em mau ra tay đi.

Âu Dương Phong nhờ lời nói của anh thức tỉnh ngay, lập tức một tay nắm chặt lấy cổ rắn, tay kia móc thanh dao găm sắc bén bên người ra nhắm ngay bụng rắn vạch một đường dài, nơi chỗ da rách liền lòi quả mật rắn ra, mỗi người nuốt một nửa.

Sau đấy cắt đôi thân rắn ra, mỗi người chia nhau nửa phần vừa mút lấy máu, vừa nhai ngấu nghiến thịt sống của rắn rất ngon lành.

Hai anh em họ Âu ăn xong con Bạch Long Xà, độ một thời gian sau bữa cơm cảm thấy từ đan điền xông lên một luồng khí nóng, chạy luồn khắp châu thân, tinh thần bỗng chốc phát triển lạ thường, chân tay ấm áp trở lại , bên ngoài động gió tuyết ngất trời cũng chẳng biết lạnh là gì.

Âu Dương Phong cả mừng nói :

- Đại ca, chúng ta có cơ hội sống sót rồi, mau ra khỏi động tìm đường trở về.

Hai người đội tuyết băng ra khỏi sơn động, thẳng về phía trước , lúc ấy bọn họ không còn cảm thấy lạnh bao nhiêu, mặc cho gió tuyết quật vào da mặt, trong cơ thể vẫn ấm áp như đang ở bên cạnh lò sưởi đỏ, đi suốt một ngày một đêm vẫn không thấy đói.

Trong mưa tuyết lờ mờ, Âu Dương Phong phát giác phía trước mặt có một cốc núi thâm u.

Phàm những thâm cốc trong núi đều là nơi tránh gió rét mưa tuyết rất tốt.

Hai anh em bèn rảo chân về phía thâm cốc, quả nhiên không ngoài ý

liệu hai người vừa vào được thâm cốc, cảm thấy khí lạnh, gió tuyết đã giảm đi phần nào.

Dưới gốc cây, cỏ vẫn còn rậm rì xanh um khác hẳn với bên ngoài cốc.

Âu Dương Phong mừng rỡ nói :

- Đại ca, chúng ta sắp đến chỗ có người ở rồi !

Âu Dương Liệt liền đảo mắt nhìn khắp đáy cốc, thấy nơi phía dưới đèo núi xa xa, hiện ra hai mái nhà tranh, hai anh em đều mừng rỡ, hướng về phía có nhà ở lầm lủi đi tới.

Tới nơi thấy nhà không đèn đóm gì cả, tối mù mù như căn nhà hoang, hai cánh cửa tre khép hờ chứ không đóng chặt.

Âu Dương Liệt tánh khí hung bạo, chẳng chút nể nang, lấy tay đẩy mạnh cửa phên tre, "bùng !" một tiếng, từ bên trong phên cửa ào ra một luồng âm phong, chạm với khí trời bên ngoài, nhẹ lên một tiếng, khí

lạnh xói buốt vào da thịt, khiến hai người đều nổi da gà lên cùng mình.

Hai anh em họ Âu Dương giật mình kinh hãi vội nhãy tót sang hai phía, rút đao cầm tay để phòng có vật gì quái dị từ trong nhà ra chăng ?

Nhưng qua một hồi, bên trong nhà vẫn tối mù vắng hoe, chẳng nghe động tĩnh gì khác.

Âu Dương Phong bạo gan, lấy đá lửa bùi nhùi ra, bật lửa đốt lên soi rõ mọi vật trong nhà, hai anh em Âu Dương Phong mặc dù gan dạ bằng trời, cũng không khỏi kinh sợ đến tóc râu dựng ngược lên.

Bên trong gian lều tranh ấy có để một chiếc bàn vuông vức, trên bàn

chất đầy từng đống sách da dê, bụi bậm bám đầy, phía sau chiếc bàn là một chiếc giường củ, trên giường có một đạo nhân ốm khổ khắc đang ngồi xếp bằng tĩnh tọa, tựa như một tượng người phơi khô, chẳng phải là người, mắt thụt vào bên trong, dường như bị móc đi cặp mắt nhãn, giống như cái sọ người bọc da bên ngoài, nửa người nửa quỷ.

Âu Dương Liệt cố lấy hết can đảm hỏi :

- Tên đạo nhân rừng rú kia ở đâu thế ! Làm gì ẩn núp trong lều tranh

này, ngươi đi ra đây ngay hoặc may đại gia còn châm chế cho phần nào, bằng không thì máu ông sẽ chảy lập tức .

Réo gọi luôn hai ba hiệp, đạo nhân kia vẫn ngồi yên bất động.

Âu Dương Phong liền lượm một viên đá, nhắm ngay giường cỏ chọi liền,

"bộp !" một tiếng khô khan, viên đá trúng phóc ngay giường, thế mà gã đạo sĩ vẫn trơ trơ không chút phản ứng.

Khi ấy Âu Dương Phong la lên :

- Đại ca gã đạo nhân ấy chết cứng rồi mà !

Âu Dương Liệt nhãy tuốt vào trong, thấy đạo nhân ấy quả đã chết từ lâu

rồi, mình mẩy khô rắn lại như đá, mọi đồ vật trong nhà đều hư mục cả.

Theo đó mà đoán thì đạo nhân ấy chết chẳng biết là bao lâu rồi nhưng không hiểu vì sao, thi hài không thúi rửa lại khô rắn như một tượng đá ?

Lương khô bên giường đã ẩm ướt mục hư vừa đụng tay vào đã nát lên thành bụi vụn, đồ đạc dụng cụ cũng mục rệu, trừ đống giấy da trên là còn khá một chút.

Âu Dương Liệt thuận tay cầm lấy một tấm sách da dê lên xem, thấy trên da dê viết đầy chữ Hán, bèn kêu em :

- Phong đệ, em xem coi là sách gì đây đọc cho ngu huynh nghe thử !

Âu Dương Phong bẻ vài thanh tre trên vách, làm thành một cây đuốc, cầm tấm da dê đến bên ngọn lửa, xem thấy thanh thứ nhất đề bốn chữ khái tự : "Ngũ Độc Kỳ Kinh".

Bên trong cuốn sách toàn là phương pháp và khẩu quyết luyện công, lít nhít dày đặc có chữ, có cả đồ hình lăng nhăng rối mắt, sau cùng có một trang riêng biệt kẹp vào qua quyển vở nội dung như sau :

- Bần đạo là Ngũ Độc Chân Nhân Khương Thái Hư sanh tại phía hữu sông Triết, bình sanh ngưỡng mộ học thuyết của Huỳnh Thạch Công, Lão Tử, nghe đồn Bạch Đà Sơn miền Tây Vực có chân tiên nên không ngại vạn dậm lộ trình đến đây, nào ngờ tới nơi chẳng thấy một người , ban sơ ngở là tiên nhân lánh mặt chẳng chịu gặp nên cố lưu lại nơi cùng cốc này lấy lương khô nước suối qua ngày, tình cờ trong thạch huyệt khám phá được Ngũ Độc Kỳ Kinh này, mở ra đọc thử, mừng rỡ như điên, quên ăn mất ngủ, dốc sức nghiên cứu hơn ba năm trời mới nghiền ngẫm thông suốt, hạ sơn nhiễu thế, giết người vô số , đến tuổi về gìa, mấy năm gần đây, trong mộng thường thấy năm quỉ vô thường tóc xõa máu me đầy người khóc than đòi mạng.

Ô hô ! Một chút nghĩ lầm, gây thành sai lớn , muốn vứt bõ Ngũ Độc Kỳ Kinh nhưng chưa được, muốn hủy bõ độc kinh dạ lại chẳng đành, nên uống mật công rừng tự tận, hậu thế ngẫu gặp thi hài kẻ bạc số, xin hỏa táng tấm xác tan lẫn kinh độc, đừng để lại di hại thế nhân, công đức thật là vô lượng !

Thái Hư tuyệt bút !

Âu Dương Liệt rị mọ từng chữ đọc hết tấm huyết thư, mới rõ được đôi chút.

Vị đạo trưởng chết trên giường kia là Khuơng Thái Hư, uống mật công hủy mình, căn lều tranh này dựng lên giữa nơi cùng âm khí bế, do đấy mà thi hài qua mấy mươi năm vẫn không rữa nát.

Âu Dương Phong cầm lấy quyển Ngũ Độc Kỳ Kinh lật qua mấy trang, bất thần vỗ bàn la lên :

- Này đại ca ! Bổn chân kinh này có chỗ dụng lớn lắm đấy, nói không chừng...

Câu sau cùng chưa nói hết, bỗng "rắc rắc !" mấy tiếng vang lên, chiếc bàn rệu mục kia bị sức cái đập tay của Âu Dương Phong liền sập ngay xuống đất, gảy ba gảy năm từng miếng, những tấm sách da dê rơi đầy trên mặt đất, vừa vặn từ bên ngoài phên cửa một cơn gió trốt thổi lên, hốt hơn mấy mươi trang da dê bay ra khỏi cửa.

Âu Dương Liệt tru tréo lên to :

- Không xong gió trốt kỳ kinh bay đi rồi chạy theo lượm lại mau.

Hai anh em tuôn ra khỏi cửa vừa chạy vừa bò bốn chân tám tay quýnh

thu nhặt những tấm da dê rơi vãi trên mặt tuyết trắng, nhưng vì gió núi quá mạnh, hai anh em đã nhặt được bảy trang trở về còn năm trang nữa bị gió cuốn bay mất tung luôn.

Anh em Âu Dương Liệt dậm chân tiếc rẻ chắc lưỡi liên hồi, chính vì thế mà Tây Độc Âu Dương Phong tuy liệt danh trong hàng Ngũ Bá, nhưng là kẻ yếu nhất trong năm người, chỉ cậy vào những xà độc xà trùng, bàng môn ngoại thuật để chống đở với tài nghệ chân chính của Tứ bá thôi. Trận gió thổi năm tấm da dê ấy rất có quan hệ cho nhân vật trong Ngũ Bá sau này.

Hai anh em họ Âu sau khi nhặt nhanh xong các tấm da dê còn sót lại bèn đóng kín cửa phên, sau đó đem từng trang da dê kia lại thành một quyển, trừ năm tấm bị gió cuốn thiếu đi, bảy trang còn lại cũng tạm gọi là đầy đủ một bộ Ngũ Độc Kỳ Kinh.

Hai người thay phiên nhau đọc suốt từ đầu đến cuối quyển Kỳ Kinh một lượt, cảm thấy khá nhiều hứng thú, vì nội dung quyển kinh bao la vạn thuật công phu, từ luyện công đến luyện quyết, đủ cả nội gia ngoại trạng, phương thức tập luyện chỉ dẫn rất rành rẽ từng chi tiết, lại còn có cả cách thức nuôi rắn độc, huấn luyện mãng xà, cùng những pháp chế luyện độc dược, thậm chí những mật phương lạc thú giữa nam nữ nơi phòng the tẩm bổ hút tinh v.v. cũng đều ghi chú hết sức tận tường.

Hai anh em họ Âu như gặp được kỳ dị bảo trân, bắt đầu từ hôm đó, lưu lại luôn ở Bạch Đà sơn cốc để luyện môn độc công.

Đầu tiên hai người đem thi hài Ngũ Độc chân nhân hỏa táng sau núi, sau đấy rảo quanh khắp sơn cốc một lượt thấy nơi đây đất đai phì nhiêu, hoa trái thạch mậu, thú rừng dẫy đầy khả thể nuôi sống được hai người.

Âu Dương Liệt và Âu Dương Phong an lòng tạm trú trong lều tranh một mặt săn bắn trồng tỉa qua ngày, một mặt chuyên cần, nghiên cứu độc kinh, hai anh em vốn có căn bản võ thuật, thiên tánh sẵn độc như sài lang, luyện môn công phu bàng môn tả đạo ấy rất hợp với cơ bản, nên tấn bộ nhanh hơn người thường thập phần, trong vòng mười năm đã trở nên hai tay tuyệt kỹ kinh người.

Cách đấy vài năm sau, một vùng Tây Bắc bỗng xuất hiện hai tên đại đạo vô hình, lúc ẩn lúc hiện giữa vùng sa mạc Oa Bích giết người đoạt vật , còn hung tàn hơn cả bọn sơn lâm hướng mã, lúc đến như khi đi, hành tung bí mật khó lường, những lương dân bị giết hại cho đến thi hài cũng biệt tích luôn.

Đồng thời nơi Bạch Đà sơn cốc hoang liêu bỗng xuất hiện mấy tòa cung điện nguy nga như hoàng cung vua chúa, trong cung điện vô số nam nữ tì từ các nơi mua về cho đến những cô tóc vàng mắt xanh da trắng như ngọc từ xứ Âu Châu đem về bán cũng có, các sắc các giống mỹ nữ khắp xứ

gần như đủ cả trong tòa cung điện ấy.

Theo lời thương khách buôn bán trong Bạch Đà Sơn về thuật lại thì

chủ nhân của cung điện ấy xa hoa sung sướng còn hơn các bậc vương hầu, trân châu bảo thạch còn nhiều hơn cả sao trên trời, vàng bạc đầy dẫy kho phòng như núi, dường như không phải là cảnh giới của nhân gian mà đó là động đào thiên giới, còn Âu Dương Liệt vì sao mà chết và do đâu mà Âu Dương Phong lại lên kế vị chức Bạch Đà Sơn Chủ thì Ngọc Động Chân Nhân không sao hiểu nổi.

Ngọc Động Chân Nhân sau khi nghe Âu Dương Phong thổ lộ tên tuổi ra, biết hắn là một ma đầu trứ danh ở Tây Vực . Chân Nhân vốn chẳng muốn giao du với tà đạo nhưng lỡ cùng y gặp mặt chuyện trò khó thối thoát được, đành phải ngồi xuống cùng y qua loa vài lời cho khỏi mích lòng.

Hai người cùng ngồi đối diện nhau trên phiến đá cách xa nhau một

trượng.

Âu Dương Phong bèn lên tiếng :

- Ngu hạ lần này không ngại ngàn dặm xa xôi đến đất Miêu Cương, trừ sự thu nhặt trứng rắn đem về Bạch Đà Sơn ấp dưỡng ra còn muốn kết giao một số dị nhân ẩn tích mai danh nơi thâm sơn tuyệt lãnh, đạo trưởng xả thân đạo sĩ, đối với công phu thổ nạp hẳn là tinh thông lắm vậy.

Ngọc Động Chân Nhân rúng động trong lòng, cúi đầu chắp tay chậm

rãi đáp :

- Nào có như thế, bần đạo cũng chẳng qua được biết một vài phép thô thiển vỡ lòng thôi !

Âu Dương Phong bèn nói tiếp :

- Đạo trưởng không nên khiêm tốn, tại hạ đối với thuật nội công có ít nhiều nghiên cứu, chỉ hiềm thiếu cao nhân chỉ điểm, Hội Đốc hai mạch làm thế nào mới có thể tương thông với Khí Hải nơi đan điền, mong đạo trưởng ban lời chỉ giáo.

Hai câu nói bình thường thuận miệng thốt lời y, khiến Ngọc Động Chân Nhân không khỏi giật mình đánh thót, vì phàm luyện võ công phải biết luật nội ngoại ngũ hành.

Nội ngũ hành: tâm, can, tì, phế, thận .

Ngoại ngũ hành là : thân, tay, đầu, mắt, chân.

Nếu một người luyện tới mức nội, ngoại hành câu thông nhau thì bản lãnh có thể đổ ngã núi non, mỗi cái nhấc tay đở chân, hoặc cái chỉ cái xỉa của ngón tay cũng có thể giết người trong khoảnh khắc.

Âu Dương Phong lại hỏi cách câu thông hai mạch Hội Đốc với Khí Hải

ở Đan Điền, chính là câu thông với thận và bao tử hai tạng. Mà trong ngũ tạng thì Tì tạng thuộc Kim, Thận thuộc Thủy.

Trong hai hành Kim và Thủy có một lối câu vô hình của trời đất, là một chướng ngại khó câu thông nhất của các nội gia vận khí nội công.

Nếu như thông được cây cầu trời đất ấy, bản lãnh kể như đã tuyệt đỉnh cao thâm.

Hội chính là Hội Âm, Đốc là Đốc mạch, hai nơi huyệt đạo đó, đều ở thân người nơi cuối đường xương sống dưới mông. Hai huyệt đạo ấy nếu có thể câu thông với Khí Hải nơi phần bụng, bằng như là đem được chân khí chân kình nửa phần phía dưới thân thể vận tất cả vào hai cánh tay, chuyền ra bàn tay và mấy ngón thì những công phu nội gia như Mãng Ngưu Khí, Hỗn Nguyên Công cùng Kim Cang Chỉ hay Nhất Thiền Chỉ rất dễ luyện thành.

Ngọc Động Chân Nhân thành quả của nội công đã đạt được đến mức Lư Hỏa Thuần Thanh, đối với điểm võ học trọng yếu ấy làm gì chẳng thông suốt, nhưng vì thấy Âu Dương Phong cử chỉ lạ thường, lời ăn tiếng nói xấc xược, ngạo mạn không phải là người trong chính phái võ lâm.

Hơn nữa hai người bất quá chỉ mới gặp mặt lần đầu, đâu có thể đem

khẫu quyết nội công liên quan đến tính mạng võ gia mà tùy tiện cho người biết một cách bừa bãi được, nên Ngọc Đông Chân Nhân khẽ lắc đầu từ chối nói :

- Thật không phải với Âu Dương Sơn Chủ, vì nội công của bần đạo rất thô thiển, đâu đáng khoe tài chỉ dạy ai, cái gì gọi là Hội Đốc câu thông Đan Điền, bần đạo quả tù mù chẳng hiểu, mong Âu Dương Sơn Chủ chỉ giáo thêm cho bần đạo.

Âu Dương Phong hết sức bất mản, dùng giọng mũi "hừ !" một tiếng, tay áo trái phất trở ngoài mường tượng như dùng tay áo phủi bụi trên một phiến đá, kỳ thật đã kẹp theo một luồng cương khí hùng mạnh đẩy ập vào kẻ đối diện.

Nếu Ngọc Động Chân Nhân chẳng vận khí kình chống đở tất phải rớt

khói tấm thạch bàn. Ông vội trầm khí đan điền xuống hạ bàn thân, dùng phép Thiên Cân Trụy định thân hình vững như đá núi.

Chưởng lực của Âu Dương Phong đẩy tới toàn thân Ngọc Động Chân Nhân vẫn y nhiên bất động.

Âu Dương Phong bèn cười lên ha hả nói :

- Đạo hữu quả đúng là kẻ đại trí giả ngu, tài cao vờ ra dốt, song Âu Dương Phong này nhất ý cầu học nghề hay, do lòng chí thành chứ không ngoại ý, nếu đạo hữu chẳng tin lời, ngu hạ có một chút lễ vật gọi là...

Nói đến đây, bèn từ ở trong túi lôi ra một xâu minh châu màu sắc lung linh, quả là loài dạ minh châu giá đáng liên thành rực rỡ hào quang, xâu ngọc ước độ hai mươi viên , mỗi viên lớn bằng trái nhãn, chỉ cần được một viên, suốt đời cũng sung sướng ấm no .

Âu Dương Phong giơ cao xâu chuỗi ngọc và nói tiếp :

- Nếu đạo trưởng bằng lòng chỉ dạy Âu Dương Phong thì xâu minh châu này xin kính dưng đạo trưởng gọi là lễ tương kiến, còn mời đạo trưởng đến tận Bạch Đà Sơn Cốc cùng chung hưởng tiêu diêu lạc thú của nhân gian, đạo trưởng có thể cỡi bỏ lớp phong trần để thưởng thức thế giới thiên đàng của tệ xá.

Ngọc Động Chân Nhân thấy y ngang nhiên đem vật ngọc ngà trần tục để lung lạc mê hoặc mình, liền biến ngay sắc mặt, phủi áo đứng dậy nói :

- Lời của Sơn Chủ sai rồi, bần đạo là kẻ xuất gia cầu đạo, tuyệt bỏ lợi danh tham dục. Âu Dương Sơn Chủ lại dùng vật ô uế này để dẫn dụ kẻ xuất gia chẳng lẽ định phá hoại giới hạnh thanh tu của tôi sao ? Đạo chẳng đồng chẳng nên giao kiến, bần đạo xin tạ từ nơi đây !

Ngọc Động Chân Nhân nhìn thấy Âu Dương Phong là người hạ tiện vô cùng, lòng dạ lại lang độc hiểm ác, nên chẳng muốn lôi thôi buộc ràng với y thêm làm gì, bèn đứng dậy cáo biệt.

Âu Dương Phong thấy Ngọc Động Chân Nhân không bị mình lung lạc

được, bèn cười lên gian hiểm, xách cây đàn tranh đứng dậy, cất cười âm trầm nói :

- Đạo trưởng, rượu kính không uống đòi uống rượu phạt chăng ?

Ngọc Động Chân Nhân chưa kịp đáp lời, thì Âu Dương Phong, bỗng ngầm vận nội kình, bứt đứt giây vàng xỏ ngang chuỗi minh châu, vung tay rải một cái, hai mươi viên ngọc quí, thẳng băng một đường tựa như một chuỗi sao xẹt, lửa hoa bay vút ra, mỗi viên ngọc đều nhắm chuẩn yếu huyệt trên châu thân Ngọc Động Chân Nhân lao nhanh tới.

Chân Nhân tay trái đang phe phẩy, chợt thấy Âu Dương Phong đem ngọc quí thế cho thiết đạn bắn vào người mình theo tuyệt kỹ Mãn Thiên Sái Kim Tiền, trong lòng không khỏi nổi giận, tay áo cuốn lên một cái, phất trần bên tay phải đảo vung loang loáng, vù vù lên mấy tiếng, hai mươi mấy viên ngọc nhanh mạnh như những hòn đạn sắt kia đều bị ngọn phất trần của Chân Nhân cuốn gọn lại vận sức rũ một cái, từng viên ngọc quí rơi trên nặt đất vang lên những tiếng kêu nho nhỏ và nát biến như bột vụn.

Âu Dương Phong biết rõ công phu dùng phất trần để đánh bể những viên ngọc quí vừa rồi, Ngọc Động Chân Nhân vừa sử dụng tên là Ưng Lạc Quần Nha (ưng rơi giữa bầy quạ) là tuyệt kỹ tinh hoa trong Kim Cang nội gia công, tức thì đổi ngay sắc mặt tươi cười, vòng tay nói :

- Cam thất lễ , tại hạ nhất thời lóa mắt, không biết đạo trưởng là vị cao nhân, bụng đầy tuyệt kỹ nên múa rìu qua mắt thợ, thật hổ thẹn vô cùng, mong được tha thứ.

Ngọc Động Chân Nhân thấy y đã nói thế, không nỡ làm mất mặt đối phương, nên cũng ôn tồn cúi đầu đáp :

- Vô lượng thọ phật , Âu Dương Sơn Chủ quá lời thôi ! Xin tái kiến.

Ông vừa quay người bước đi, thình lình sau lưng nghe "vù !" một tiếng, rồi có một vật binh khí xé gió kẹp theo cả tiếng giây đồng ù ù rất lạ tai, nhắm ngay lưng mình quét xả tới.

Thật là một sự đột kích vừa nhanh vừa mạnh không thể lường trước được.

Ngọc Động Chân Nhân chẳng ngờ nổi Âu Dương Phong sâu hiểm độc ác đến thế, lửa giận ông bốc cao lên đầu, không còn vị nể gì được nữa. Ông lại biết rõ khí giới của Âu Dương Phong đang dùng đột kích mình chính là cây đàn tranh quái dị nọ, mà cây đàn tranh của y dùng thép ròng đúc

thành, giây huyền làm bằng gân nai thật già, có thể thay thế khí giới tấn công kẻ địch, ông dù muốn tránh cũng chẳng kịp nào.

Ngọc Động Chân Nhân chỉ còn cách quay phắt người lại, cánh tay phải gạt mạnh trở ra. Chân Nhân định bụng dùng nội lực Kim Cang Kình, lấy sống bàn tay bẻ cây thiết tranh của Âu Dương Phong, sau đấy trả lễ lại một đòn sát thủ, để y nếm mùi lợi hại.

Ngờ đâu cây thiết tranh của Âu Dương Phong lại tầm phỗng bên trong, đầu tranh có lưỡi gà, đầu lưỡi gà có gắn hai con rắn giả đúc bằng chất nhuyễn cang, thoa lên lớp sơn đen, in hệt như rắn thiệt, miệng rắn lại có hai chiếc nanh thép sắc bén tẩm luyện trong nọc rắn độc, có thể tự động nhả ra táp, y như rắn thật cắn phải vậy.

Ngọc Động Chân Nhân chẳng dè cây đàn tranh ấy lại dấu thứ ám khí độc giết người kia, cánh tay trái vừa chạm phải cây đàn, tức thì "vút ! vút !" hai tiếng xé rít không khí, từ trong cây đàn bỗng bắn ra hai vật lạ giống như đầu rắn chích vào phía sau bả vai một cái đau nhói, liền khi cảm thấy nơi chỗ bị chích vừa ngứa vừa tê.

Chân Nhân lập tức biết ngay là một phút vô ý bị trúng phải ám khí của tên ma đầu, lửa giận càng xung tim quát lên như sấm :

- Quân vô sỉ, bần đạo cùng mi liều mạng mới được !

Miệng quát tay đã vù ra chưởng quét tréo vào người Âu Dương Phong.

Âu Dương Phong thấy mình được thế, đắc ý cười lên như điên, nhãy lùi ra sau, nhanh như một cơn gió băng mình qua gộp đá chạy lủi vào rừng sâu.

Ngọc Động Chân Nhân căm hận cực cùng, tay phải vung mạnh đuôi phất trần quay ngược như mũi phiêu thương lao vun vút vào phía lưng của gã ma đầu .

Âu Dương Phong lẹ như cắt lủi tuốt vào rừng tràn về một phía, đuôi phất trần lao chẳng trúng, ghim sọc vào một thân cây rừng, cán phất trần lút sâu vào thân cây trên nửa thước .

Âu Dương Phong lỏn sâu vào rừng, cất cao giọng nói vọng lại :

- Lão thầy chùa mũi trâu còn định ăn thua với ta nữa sao, chỉ một giờ sau là mi mà mạng rồi đấy, liệu mà tìm chỗ chôn thây đi !

Ngọc Động Chân Nhân sực nghĩ lại cũng phải, mình đã trúng ám khí của đối phương nếu còn đuổi theo giao đấu dùng sức chạy nhãy thì lại càng mau chết. Vì nếu cùng đối phương giao tay, huyết mạch càng gia tốc để lưu chuyển khắp châu thân, độc khí vào tim phổi công phạt càng mau hơn, một giờ đồng hồ sau là ngã chết chẳng phương cứu chữa.

Ngọc Động Chân Nhân nghĩ thế bèn lớn tiếng quát mắng :

- Tặc tử, bần đạo cùng mi người dưng kẻ lạ, chẳng oán chẳng thù

người lại đang tâm hạ độc thủ ta như thế này, còn mặt mũi nào mà tự xưng tông sư miền Tây Vực, thật là quân tồi bại sài lang.

Âu Dương Phong từ bên trong rừng, cười lên khách khách nghe rất quái dị và nói :

- Tuy ta hạ độc thủ hại mi, nhưng trên người ta vẫn có thuốc chữa, nếu mi muốn còn mạng cũng dễ chỉ cần đưa ra yếu quyết, nội công thế nào để câu thông thận tì hai tạng, khai xuyên cây cầu Thiên Địa của bản thể, ta sẽ lập tức chữa ngươi hết độc ngay , còn có thể hóa địch thành bạn, chết sống hai lòng tự ý ngươi chọn lấy ! Khè...Khè !

Y càng cười, Ngọc Động Chân Nhân nghe lửa giận càng xông cao, cảm thấy nơi bộ phận ngứa ngáy của vết thương dần dần lan rộng ra xung quanh, sau bả vai nhức người như bị trăm ngàn con ong độc đang đốt cắn phải.

Ngọc Động Chân Nhân giọng căm hận nói :

- Âu Dương Phong, mi tưởng dùng thủ đoạn đê tiện hèn hạ ấy có thể bức bách ta phải khai yếu quyết nội công cho mi học sao ? Bần đạo dù chết chí vẫn không sờn, thà bỏ mạng chứ không thể chỉ dạy tên học trò đê tiện và vô sỉ như mi, hơn nữa ta vẫn có thuốc để giải độc được, mi đừng lầm.

Nói đoạn, quay người dùng thuật lục địa phi hành chạy vun vút ra khỏi sơn cốc, ròng rã một đêm hai ngày mới vào đến địa phận thành Đại Lý. Nhưng vì sức đã cùng lực kiệt để tranh thủ với độc tố đang lan dần trong cơ thể.

Tới bờ tường hoàng thành thì thần trí đã mê man dở hôn dở tỉnh, nên vừa gắng sức thoát khỏi rào tường đã từ trên mái ngói lăn rớt xuống đất, nhưng vẫn còn cố định được trí nhớ nhờ Đoàn Cẩm giúp mình chạy chữa vết thương.

Đoàn Cẩm sau khi nghe xong, giận đến tóc tai dựng ngược, hận không được tức thời đến Mãng Thương Sơn tìm Âu Dương Phong để trả hận.

Giả Kim Dung

Võ Lâm Ngũ Bá

Hồi 73

Theo thầy vân du

Bắt đầu từ ngày ấy Ngọc Động Chân Nhân lưu lại Đại Lý thành để dưỡng thương, ba tháng sau mới phục hồi công lực như cũ.

Một hôm Đoàn Hoàng Gia bèn hỏi Chân Nhân :

- Con tôi từ lúc được đạo tăng đào luyện võ nghệ thấm thoắt đã mười năm dư, chẳng hay bản lãnh của tiểu vương như thế nào ?

Ngọc Động Chân Nhân lắc đầu nói :

- Môn võ thuật thật là vô biên bất cùng. Sống đến già, học đến già cũng chưa biết đâu là đủ, điều tối cần phải tăng gia lịch lảm, vi hành đến mọi nơi để thu thập kinh nghiệm, mới có thể cùng người so kém hơn thua, hầu rút tỉa tinh hoa của võ thuật .

Nếu bệ hạ muốn cho điện hạ thành kẽ địch vạn nhân, ít nhất phải cùng bần đạo xông xáo giang hồ du lịch đôi ba năm mới được.

Chẳng hay Lão Hoàng Gia có thuận tình chăng ?

Đoàn Lão Hoàng Gia nghe xong mấy lời của Ngọc Động Chân Nhân, không khỏi lộ vẽ khó nghĩ, vì như đã nói trước , quy chế của vương triều họ Đoàn, từ quốc vương cho đến quý tộc không được ra khỏi khu vực Đại Lý thành ngoài trăm dặm, cho nên lời đề nghị của Ngọc Động Chân Nhân khiến Đoàn Lão Hoàng Gia ậm ừ cho qua chuyện chứ không đáp lời.

Ngọc Động Chân Nhân cũng hiểu rõ sự khổ tâm của ông ta nên không đề cập thêm nữa.

Nhưng bất ngờ đêm ấy, trong khi Chân Nhân dạy Đoàn Cẩm phương thức thổ nạp công phu.

Đoàn Cẩm thình lình tỏ ý với thầy :

- Bạch sư phụ, khi sáng sư phụ có xin với phụ hoàng định đưa con đi ngao du khắp nơi, để thu thập kinh nghiệm võ thuật trên giang hồ phải không ?

Ngọc Động Chân Nhân buồn rầu gật đầu.

Đoàn Cẩm lại nói tiếp :

- Sư phụ cũng hiểu rõ quy chế khắt khe của vương quốc họ Đoàn chẳng cho người trong tộc rời khỏi đế kinh quá bảy ngày, dù rằng cha đệ tử làm Hoàng đế trên ngôi chí tôn, cũng không sao phá lệ được mà dầu cho Phụ vương con thuận lời đi nữa các đại thần trong triều cũng lên tiếng phản đối ngay.

Ngọc Động Chân Nhân trầm ngâm giây lát rồi đáp :

- Nếu như lời đồ đệ nói, thì dù cho con học thêm hai mươi năm công phu nữa, thành quả cũng là bao.

Đoàn Cẩm nhìn quanh bốn phía khắp lượt đoạn kề miệng vào tai Ngọc Động nói nhỏ :

- Nếu vậy, con có thể lén trốn khỏi hoàng thành để cùng đi với sư phụ .

Ngọc Động Chân Nhân ngạc nhiên, nói :

- Con định cùng sư phụ trốn đi ư ? làm sao được, Phụ hoàng con chẳng trách phiền con sao ?

Đoàn Cẩm cười nói :

- Sao lại không được ? Phụ vương con chỉ có mình con là con duy nhất chẳng lẽ lại giết con sao. Vương chế triều đình không cho rời thành Đại Lý một cách minh bạch, chớ đâu có qui định chẳng cho đi lén bao giờ ?

Ngọc Động Chân Nhân không khỏi tức cười trước lời nói cưỡng lý trở trái làm mặt của tên đồ đệ mẩn tiệp thông minh .

Hai thầy trò phụ nhĩ xầm xì một lúc khá lâu, Đoàn Cẩm cứ gật đầu vâng dạ lia lịa.

Đoạn cả hai thầy trò Ngọc Động Chân Nhân mất tích một cách bí mật.

Rạng hôm sau, Đoàn Lão Hoàng Gia sau buổi lâm triều trở về nội điện, bỗng một thị thần hơ hãi chạy đến vập đầu tâu lia :

- Tâu bệ hạ,không xong rồi ! Thế tử đã tự ý trốn đi, chúng tôi tìm khắp hoàng cung cũng chẳng thấy .

Lão Hoàng Gia nghe con mất tích kinh hãi cực cùng, vội chạy vào tẩm điện, thì con mình đã đâu mất mà Ngọc Động Chân Nhân cũng biệt tăm, trong cung mọi vật niêm phong bất động, chỉ thiếu một số quần áo tùy thân cùng chút ít bạc vàng tế nhuyễn.

Đoàn lão Hoàng Gia dậm chân than :

- Khổ thật ! Vương nhi muốn cùng sư phụ con dấn bước giang hồ để luyện thêm tài nghệ cũng được đi, sao lại phải trốn . Thật là thiển kiến của con nít !

Một tên thị vệ quỳ xuống tâu :

- Muôn tâu thánh thượng, Điện hạ có để lại một bức thư nơi ngọc án.

Đoàn Lão Hoàng Gia vội bóc ra xem, nội dung như sau :

Phụ vương thọ giám !

Thần nhi theo sư phụ chen chân hải hồ, bốn biển là nhà giường đất, màn sương , kỳ hạn trở lại cố hương đúng ba mươi sáu lượt trăng tròn, đi không thỉnh cáo, thần nhi tự biết tội nghiệt, chỉ vì vương chế khắc khe , buộc lòng làm thế, cúi lạy Phụ vương bảo trọng mình rồng.

Thần nhi Đoàn Cẩm phục bút !

Đoàn Lão Hoàng Gia đọc xong, nước mắt rưng rưng, thở dài một tràng ảo nảo và lẩm bẩm như nói với mình :

- Con ơi ! Dại sao là dại, nếu muốn đi du lịch viễn phương hà tất phải làm thế, con cứ theo chí hướng bẩm rõ với cha, tất nhiên cha có cách an bài cho con, tội vạ gì phải lén lút trốn đi như thế !

Nói đoạn quay sang dặn dò thị vệ tả hữu :

- Các người không được đem chuyện Thế tử tự ý trốn đi khỏi hoàng thành, diện lộ ra người ngoài mà cứ nói là Thế tử mắc chứng bệnh lạ, cần phải ở riêng biệt cung ba năm, không cho ai vào thăm viếng cả. Nghe rõ chưa ?Nếu như tên nào thổ lộ ra ngoài xem chừng chiếc đầu trên cổ.

Nhưng lần ra đi này thời gian tuy kỳ hạn trong thư là ba năm, song vì Đoàn Cẩm mãi vui say theo chân thầy trên bước đường lữ thứ sông hồ, thấm thoắt xuân đi thu lại, sáu năm dài dằng dặc nhẹ như lá rơi song cửa.

Sau đó Đoàn Cẩm khắc khoải nhớ quê Nam, mới từ biệt thầy một mình một bóng trở về đất Tổ.

Cương giới của Nam Chiến Quốc gần như bao quát gần hết tây hộ Vân Nam luôn cả một góc phía Nam tỉnh Tứ Xuyên nên khi Đoàn Cẩm vào biên cảnh quê nhà, còn cách thành Đại Lý ba, bốn ngày đường, vì nóng lòng muốn biết tình hình vua cha sau thời gian cách biệt hơn sáu năm trời, liền tìm một lương dân hỏi thăm.

Đoàn Cẩm vì bình thường ít khi rời khỏi kinh thành, hơn nữa lại xa quê hương quá lâu, dung mạo đã biến đổi đi phần nào, đừng nói chi bình dân bá tánh mà cho đến cận thần trong triều đình cũng chưa chắc đã nhận ra chàng.

Do đấy gã dân quê ấy không làm sao nhận biết kẻ đối thoại trước mặt là Thế tử đương triều, bèn đem mọi tình hình biến cố trong Đại Lý thành thuật sơ lược cho chàng nghe.

Chẳng ngờ Đoàn Cẩm sau khi nghe xong, giật nẩy mình kinh sợ đến tay chân rụng rời, mồ hôi toát ra như tắm.

Thì ra Đoàn Cẩm từ khi trốn theo Ngọc Động Chân Nhân rời khỏi hoàng cung, Đoàn Lão Hoàng Gia bưng bít tin tức không cho các đại thần biết, chỉ phao tin con mình bị bịnh, không dè qua năm sau, tin Thái tử trốn đi bị thấu ra ngoài triều.

Các đại thần hội nhau vào cung thất chất vấn sự kiện Thái tử Đoàn Cẩm tự ý rời cung, yêu cầu Đoàn Lão Hoàng Gia phải gấp chiếu thị toàn quốc phế trừ Thái tử để lập người khác.

Vua họ Đoàn hết sức khổ lòng, cùng đại thần tranh luận một buổi, mới tạm thời gác lại chuyện phế lập đợi ba năm sau, nếu Đoàn Cẩm trở về vẫn còn thân phận chức vị Đông Cung, nhược bằng quá ba năm mà không về thì lúc ấy sẽ lập Thế Tử khác.

Đoàn Lão Hoàng Gia hết sức khó khăn khuyên lơn sự phẫn uất của các đại thần, dùng kế hoãn binh, hy vọng ba năm sau thế nào con mình cũng sẽ trở về, bao nhiêu việc rắc rối xảy ra sẽ giải quyết một cách êm đẹp.

Những buồn thay, ngày tháng thoi đưa ba năm thời gian loáng cái mắt đã qua rồi mà Đoàn Cẩm vẫn biệt vô âm tín, một số đại thần xôn xao bàn tán không ngớt, phần đông đều tưởng Thái tử không trở về theo thơ kỳ hẹn, có lẽ đã chết dọc đường. Chức vị Thế Tử không thể để trống vì Đoàn Lão Hoàng Gia tuổi hạc đã cao, vạn nhất giá băng về trời, thì ngôi lớn lấy ai kế tiếp ! Và Nam Chiến Quốc sẽ sa vào cảnh nổi loạn còn gì ?

Đoàn Lão Hoàng Gia không thể cưỡng lại ý kiến của triều thần, đành phải hạ chỉ phế bỏ Đoàn Cẩm, nhưng lại gặp phải một sự khó khăn khác vì Đoàn Lão Hoàng Gia trừ Đoàn Cẩm ra là con, không có hoàng tử nào khác thì lập ai làm kẻ thừa hành ngôi báu đây ?

Suốt ba tháng trời cân phân triều nghị, Đoàn Lão Hoàng Gia mới quyết định chọn con trai của em mình là Đoàn Chiêu làm Thái tử.

Cha của Đoàn Chiêu là Đoàn Tấn với Đoàn Lão Hoàng Gia là anh em ruột một cha khác mẹ, sớm đã có tham vọng cho con mình kế vị ngôi vua, giờ đây được Lão Hoàng Gia chọn con trai làm Thế Tử, thật là cơ hội tốt cho y biết mấy.

Đoàn Tấn là một người có dã tâm tham tàn lăm le lũng đoạn triều chính, thu tóm quyền hành vào một tay để đạt đến chức vụ Thái Thượng Hoàng mà từ bao lâu nay y khao khát.

Cho nên một năm sau, một năm con y được lập làm Thế Tử, Đoàn Tấn mượn danh can dự chánh sự.

Lần lượt tìm cách phế thải các vị đại thần trong triều, cất nhắc tâm phúc mình lên.

Ban đầu dùng kế hoạch thanh trừng từng người một, sau đấy sẽ tiến hành đến mưu lược soán vị kế ngôi.

Qua năm thứ hai, Đoàn Tấn chẳng biết từ đâu chiêu dụ được một gã tăng nhân cùng một tên đạo sĩ đến thành Đại Lý, rồi chẳng cần sự đồng ý của Đoàn Lão Hoàng Gia hay chăng tùy tiện phong cho gã hòa thượng chức Hộ Quốc Thiền Sư và tên đạo sĩ là Tử Quang chân nhân.

Gã hòa thượng ấy pháp danh là Ngộ Ứng là một tay khí công có hạng, thịt cứng như sắt đao thương chẳng phạm vào người, tự mình đặt cho cái hoa hiệu là Thạch La Hán.

Còn gã đạo sĩ tục tánh là Tốt, đạo hiệu là Diệu Chân, thiện dụng một cây phất trần bằng sắt, giang hồ quen gọi y là Thiết Phất Đạo Nhân .

Đoàn Tấn được thêm hai tên kiện tướng ấy như hổ thêm vây, triều thần còn vị nào dám chỉ trích hay dèm siểm Hoàng thúc Đoàn Tấn vài lời thì không tới ba ngày sau nhất định là chiếc sọ dừa trên cổ họ bị cắt mất một cách bí mật.

Một số người đồn đải là Thạch La hán và Thiết Phất Đạo Nhân, hai gã yêu đạo tay chân đắc lực của Đoàn Tấn kia đều có biệt tài phi thiềm tẩu bích lúc đến lúc đi không một tiếng động, cứ đến mỗi đêm là thi hành công phu dạ hành đến các tư dinh của triều thần lớn nhỏ để thám thính, hành thích, về phúc trình lại với hoàng thúc Đoàn Tấn.

Giả Kim Dung

Võ Lâm Ngũ Bá

Hồi 74

Hoàng Thành dậy sóng

Do đó, nhất cử nhất động của quan viên lớn nhỏ trong triều, Đoàn Tấn đều hiểu rõ như chỉ trên bàn tay. Những người nào có ý chống đối với Đoàn Tấn tất thế nào cũng chết vì hai tên yêu đạo ấy.

Do đấy Đại thần trong triều người nào cũng sợ hãi khiếp oai, thủ khẫu như bình, chẳng dám hó hé phạm đến Hoàng thúc nửa lời.

Đoàn Lão Hoàng Gia vô hình trung biến thành là một tượng phỗng bù nhìn, tha hồ cho Đoàn Tấn tác quái. Không những triều chánh bị bàn tay y lũng đoạn lộng quyền mà cho đến mọi sự trong cung vi cũng bị y xâm dự đến.

Có một lần y uống rượu say, trêu chọc một cung nữ, ả cung nữ ấy liền mách lại với Hoàng Hậu, qua ngày sau, ả cung nữ ấy bỗng biến mất tích một cách bí mật.

Độ ba hôm sau, thi thể của nàng nằm lõa lồ ngoài thành Đại Lý, nơi hạ thể máu me đầm đìa, chứng tỏ là bị hung thủ luân phiên nhau hảm hiếp đến chết.

Đại thần trong triều giả điếc, chẳng dám hó hé nửa tiếng.

Đoàn Lão Hoàng Gia thấy em mình mỗi chuyện mỗi đè ép mình quá mức, lúc ấy mới hối hận việc mình phế lập Thái tử thì đã muộn rồi.

Đoàn Lão Hoàng Gia phần vì buồn rầu các triều thần nhu nhược, khoanh tay mà nhìn non nước ngữa nghiêng, phần vì thương nhớ con mình, lần lần biến thành một chứng tâm bịnh, tinh thần hay hốt hoảng vô cớ.

Đoàn Tấn mới mượn cớ phao ngôn là Đoàn Lão Hoàng Gia long thể bất an, cần phải tịnh tâm nghỉ ngơi, mà Thái tử mới lập, tuổi hãy còn thơ, rồi tự mình kiêm lấy chức Nhiếp Chánh, thực hành mộng Hoàng Đế của mình.

Nam Chiến Quốc vốn ra rất phú cường, nhưng từ khi Đoàn Tấn đoạt vị lên ngôi không đầy hai năm, muôn dân than oán khốn khó nghèo nàn, dân chúng lưu ly khổ sở, nhưng bé cổ kêu chẳng thấu trời.

Đoàn Cẩm nghe xong tin tức ấy thật như sét đánh bên mày, đầu óc lùng bùng một lúc khá lâu mới định tỉnh tinh thần. Chẳng ngờ mình vừa rời quê hương sáu năm trời, Nam Chiến Quốc biến ra nông nỗi như thế !

Chàng cám ơn gã nông phu ấy xong, lòng sầu như lửa nung, đi suốt đêm ngày để mau về đến thành Đại Lý.

Không đầy hai ngày là đã đến bờ thành bên ngoài rồi.

Đoàn Cẩm định vào thẳng trong thành. Sực nghĩ lại một chuyện, thầm trách lấy mình :

- Ta ngốc thật ! Hoàng thúc sau khi độc chiếm triều chánh thế nào cũng chẳng đề phòng ngày trở lại của ta. Nếu thấy ta thì đâu dễ bỏ qua mà còn sai tâm phúc theo sát hại nữa là khác, ta đường hoàng vào thành Đại Lý thế này, có phải là tự đút đầu vào rọ chăng ? Bậy thật !

Nghĩ đoạn chàng chẳng vào mà quay trở lại hướng thành Tây, lên núi Điểm Thương sơn để tạm tránh tai mắt của Đoàn Tấn.

Phía Tây Đại Lý cảnh sắc đẹp như Đào Nguyên trên trần thế khí hậu bốn mùa êm mát tự xuân.

Đoàn Cẩm về đến Đại Lý thành vào tiết cuối xuân tháng ba, núi Điểm Thương khói sương liền giải, phản chiếu ánh hoàng hôn.

Như một giải lụa năm màu lửng lơ quanh sườn núi biếc, muôn hoa rực rỡ đủ màu, trà mi , đỗ quyên, hoa đào đỏ vàng chen sắc trắng, ô hợp thành một bức thảm linh động cả sắc lẫn hương.

Đoàn Cẩm mải mê nhìn cảnh vật, khắc khoải với tâm sự oằn nặng của mình, chợt nghe phía sau lưng có người sang sảng ngâm nga :

Cố quốc tam thiên lý

Thâm cung nhị thập niên

Nhứt thanh Hà mãn tử

Song lệ lạc quân tiền.

(Cổ quốc ba ngàn dặm

Cung sầu hai mươi năm

Một tiếng kêu con út

Lệ rơi nước mắt chàng).

Đấy là bài Đường thi mà Đoàn Cẩm thời nhỏ thường ngâm nga, chàng không khỏi giật thót mình, vội quay ra nhìn xem người vừa ngâm bài thi kia chính là một thư sinh áo vàng, ăn mặc theo lối nho sĩ, trán cao tai lớn mắt sao, tuổi không dưới ba mươi, phong nghi tuấn nhã, phong thái khác phàm.

Đoàn Cẩm vừa thấy mặt khách là trong lòng muốn kết giao ngay bèn tiến tới vòng tay thi lễ và nói :

- Nhân huynh nhã hứng lâng lâng, nên một mình thơ thẩn giữa hoang sơn, để ngâm thi định cảnh, giọng thơ sang sảng hào hùng khiến tiểu đệ khâm phục vô cùng.

Vị thư sinh áo vàng khẽ mỉm cười tự nhiên không đáp lại lời nói của Đoàn Cẩm, trái lại nói một cách bâng quơ :

- Đạo làm người tức là tâm, tâm tức là đạo, linh đài hễ thanh khiết, thị phi chẳng bợn lòng, còn gì dục niệm công danh phú quý nữa ?

Thế nhân cứ mải mê tranh quyết đoạt lợi, kỳ thật nháy mắt phồn hoa chỉ là Nam Kha giấc mộng, nếu biết trước được lẽ ấy có thể ngộ thành đại đạo rồi vậy.

Đoàn Cẩm thấy vị nho sinh áo vàng nói một cách lảng xẹt không đầu không đuôi như thế, không khỏi cười thầm trong bụng, hỏi thăm lai lịch tánh danh của chàng, thì chàng ta thình lình chỉ tay và nói :

- Tôn huynh nhìn kìa, bên kia phải chăng có người đang đi đến !

Đoàn Cẩm vội quay đầu về phía đường đi nhưng nào thấy bóng ai, chàng liền xoay lại định hỏi chàng thư sinh kia, thì lạ quá ! Trong khoảnh khắc nháy mắt ấy, chàng thư sinh nọ bỗng biến đâu mất.

Đoàn Cẩm hết sức kinh ngạc, vội dụi mắt mấy cái, mút mắt chỉ là núi đồi chập chùng, nào thấy bóng dáng chàng thư sinh đâu cả, nếu nói chàng thừa cơ bỏ đi, thì sao mới đó đã chẳng thấy ?

Nếu nói chàng có phép tàng hình lại càng vô lý hơn nữa !

Chẳng lẽ thư sinh nọ là ma quỷ hiện lên để trêu ghẹo mình sao ?

Đoàn Cẩm nghe mọc ốc cả thân thể , vội tung người chạy một hơi mấy dặm đường mới dừng bước lại .

Trời lúc ấy cũng đã tối dần, Đoàn Cẩm chờ cho màn đêm bao trùm khắp vũ trụ mới vào nội thành.

Nơi cửa thành quả nhiên có quân lính đứng gác, tra xét người đi đường.

Đoàn Cẩm thừa lúc tranh tối tranh sáng, quân canh đổi phiên nhau, trà trộn theo bá tánh vào thành, trời cũng vừa mới trở canh hai.

Đoàn Cẩm núp vào một xó tối, đợi đến sang canh ba mới ló mình ra, phi thân nhãy vụt lên nóc nhà dùng thuật phi hành đi thẳng đến hướng hoàng cung.

Chàng từ nhỏ đến lớn sinh trưởng trong hoàng cung, tất nhiên thông thuộc đường lối khắp nơi nên chỉ loáng mắt là đã đến đầu ngoài tường cung điện.

Khom người nhìn vào thấy không có ai, bèn tung mình nhãy vào một lùm hoa, nương theo đường mòn dùng thuật xà hành trườn tới, chợt thấy ánh đèn lấp loé, trên hành lang hiện ra một ngọn đèn lồng, người xách đèn là một cung nữ.

Đoàn Cẩm liền nhận ra ngay diện mạo của nàng cung nữ ấy, chờ cho cô ả đi đến gần, Đoàn Cẩm liền từ trong bụi hoa nhãy vụt ra đón lại và trầm tiếng quát :

- Đỗ Quyên , nhớ mặt ta chăng ? Định đi đâu đó ?

Ả cung nữ tên Đỗ Quyên nọ là một cung phi phục thị trong cung Hoàng hậu nên Đoàn Cẩm rất quen y.

Nàng chợt thấy từ trong lùm cây bỗng hiện ra một người, sợ đến hồn vía lên mây, đến lúc định thần nhìn kỹ càng hãi khiếp hơn nữa, run lẩy bẩy cơ hồ muốn buông rơi cả cây đèn xuống đất thất thanh kêu lên :

- Điện hạ ! Điện hạ về rồi, Điện hạ là quỉ hay là người .

Đoàn Cẩm tiến ra trước hai bước, nghiêm sắc mặt nói :

- Ta bất quá theo sư phụ du lịch xứ xa để tăng gia kiến thức vậy thôi chớ nào có chết đâu sao mi lại tưởng ta là quỷ ? Phụ vương ta đâu rồi ? Nói mau !

Đổ Quyên nghe xong mới yên tâm phần nào , nàng đưa mắt nhìn quanh bốn phía rồi mới đáp :

- Điện hạ về quá trễ rồi, Hoàng thượng từ ba năm trước...

Đoàn Cẩm nạt ngang :

- Mi khỏi nói ta cũng biết rồi, Phụ vương ta đã bị Hoàng thúc giam giữ một nơi kín đáo, vậy người ở nơi đâu mau đưa ta đi.

Đổ Quyên chậm rất đáp :

- Vâng ! Vâng ! Xin Điện hạ theo tiện nô !

Nàng bèn xách lồng đèn, dắt đi quanh qua quẹo lại hết mấy dãy hành lang, đến trước cử một tịnh thất, cung nữ ấy liền dừng bước và thình lình lớn tiếng :

- Điện hạ, Hoàng thượng ở bên trong, Điện hạ gặp người cần tĩnh tâm, đừng nói chuyện lớn kẻo người ngoài hay được, sẽ nguy cho Điện hạ và Hoàng thượng lắm đấy !

Đoàn Cẩm biết rõ tịnh xá này trước kia là Phật đường cũng là nơi Phụ vương chàng dùng để an trí mấy cung nữ gìa nua, chẳng ngờ ông lại phải giam mình vào nơi đây.

Chàng không khỏi chua xót trong lòng, vội khoát tay ra dấu bảo cung nữ :

- Ta biết rồi, mi đứng bên ngoài trông chừng giúp ta một chút, nghe chưa ?

Từ bên trong tịnh xá bỗng vang lên một giọng nói gìa nua :

- Ai ở bên ngoài nói chuyện gì thế ?

Đoàn Cẩm nghe rõ là tiếng của Phụ vương mình, không khỏi tim nhãy lên thình thịch, cảm động đến ứa nước mắt, tung mình nhãy tuốt ra song cửa, miệng hét lên nho nhỏ :

- Phụ vương, thần nhi bất hiếu hôm nay mới trở về thăm Phụ vương.

Chân chàng vừa chấm đất, chợt thấy trước mắt ánh sáng hoa lên, thì ra Phụ vương chàng đang cầm ngọn bạch lạp giơ trước mặt.

Dưới ánh sáng cây đèn sáp, chàng thấy khuôn mặt hiện giờ của Đoàn Lão Hoàng Gia, tuy đã sáu năm cách mặt nhưng cảm như đã gìa trên hai mươi năm, trán đầy vết nhăn, tóc đã trắng hết nửa mái đầu, thân hình ốm yếu hơn lúc trước nhiều.

Đoàn Cẩm hết sức đau đớn, vội quỳ xuống trước mặt Đoàn Lão Hoàng Gia, níu cứng vạt áo long bào của ông và không dằn được, khóc ồ lên.

Lão Hoàng Gia nước mắt cũng tầm tả , gượng gạt nước mắt nghẹn ngào bảo :

- Cẩm nhi, hiện giờ không phải là lúc cho phép cha con ta khóc nhau, thúc thúc của con độc chiếm vương quyền, trong triều đều là gian đảng cả, cho đến trong thâm cung cũng đều đầy dẫy tâm phúc của chúng, nếu bọn chúng hay con vào đây nhất định sẽ gia hại con, con nên tìm cách trốn đi.

Đoàn Cẩm vụt đứng phắt dậy, nghiến răng đáp :

- Tâu Phụ hoàng, không thể được, Phụ vương gặp phải cảnh hôm nay, đều tại thần nhi gây ra cả, thần nhi quyết sẽ tẩy sạch hận thù cho Phụ vương, con đi tìm Hoàng thúc ngay bây giờ !

Đoàn Lão Hoàng Gia vừa định lên tiếng can ngăn, bỗng ngoài tịnh thất có tiếng thét hốt hoảng "ối cha !"

Đúng là tiếng thét của ả cung nữ Đỗ Quyên, tiếp theo đấy là giọng ồ ồ của một người khác :

- Đỗ Quyên ! Canh ba nửa đêm, mi lấm lét đứng đây để làm gì ? Nói mau !

Đúng là tiếng nói của võ sĩ trong cung.

Lão Hoàng Gia sợ hãi đến tái trắng mặt, đẩy Đoàn Cẩm một cái.

Đoàn Cẩm nhìn quanh bốn phía thấy nơi giữa tẩm thất có treo một bức trướng, chàng lập tức thoắt người một cái lẹ như con hồ ly ẩn mình sau bức trướng.

Lúc ấy bên ngoài có tiếng Đỗ Quyên lập cập trả lời :

- Không có ! Tôi tôi... nghe Hoàng thượng đòi ăn sâm thang nên gọi tôi đến trú phòng thông báo đấy thôi !

- Mẹ kiếp nhà nó, nửa đêm gà gáy còn đòi uống sâm thang, ai tin lời quỷ quái của mi, mau cút đi không ?

Đỗ Quyên riu ríu dạ lên nho nhỏ rồi đi ngay.

Chẳng bao lâu sau, chiếc rèm tịnh thất được dở lên rồi có hai người võ sĩ khôi giáp đàng hoàng đi vào.

Hai tên võ sĩ ấy là giống người Nô Di, mày đậm mắt rô, lưng mang trường đao, hai gã tên là Kim Long và Hắc Hổ là hai tên giáp sĩ tâm phúc của Đoàn Tấn.

Kim Long tay bưng tráp thực phẩm Hắc Hổ cầm bình rượu vàng.

Lão Hoàng Gia thấy mặt bọn chúng như gặp phải hung thần, run lẩy bẩy hỏi :

- Bọn bây nửa đêm nửa hôm vào đây có chuyện gì ?

Kim Long cười nham hiểm tâu :

- Tâu Hoàng thượng, Hoàng thúc nghe nói Hoàng thượng suốt đêm tâm hồn ưu tư, không thể an giấc nên đặc sai tiểu thần đem một hồ bích Lục Tửu đến để Hoàng thượng giải sầu.

Hoàng thượng uống rượu này xong tâm thần sẽ êm ái lại thường chẳng còn nghĩ vơ vẩn nữa.

Lão Hoàng Gia biết ngay đó là bình độc tửu.

Không thể ngờ được em mình tàn nhẫn độc ác đến thế, đã tiếm lấy đại quyền lại còn muốn bức tử mình, kinh sợ đến mặt xám như tro chết nói lia lịa :

- Đâu có thể như thế ? Đâu có thể như thế ? Ngươi, ngươi mau kêu Hoàng thúc đến đây cho trẫm.

Hắc Hổ nói :

- Hoàng thượng, Hoàng thúc quyết là không thể đến rồi, Bệ hạ nên ngoan ngoãn uống đi để hoặc may bảo toàn được thi hài, bằng không hì hì...

Lão Hoàng Gia bỗng hét to :

- Cẩm nhi, hãy cứu Phụ vương !

Kim Long cười ha hả nói :

- Tâu Hoàng thượng, Điện Hạ đã chết lâu rồi, còn đâu mà gọi cho tốn công.

Y chưa kịp dứt lời bỗng nghe "vút !" một tiếng gió rít, lại cảm thấy sau gáy mình như bị một chiếc kềm sắt kẹp phải, hai tiếng "ối cha !" chưa kịp thoát ra lỗ miệng thì trên lưng bị đánh một quyền nghe "bình" một tiếng, như búa sắt đập lên mạnh mẽ dị thường, tuy có lớp áo sắt che chở bên ngoài nhưng cũng bị sức quyền xuyên vào trong đập mạnh lên sống lưng, khớp xương gảy lọi cho đến tim phổi cũng bị chấn nát.

Kim Long rống lên một tiếng đau đớn rồi nhào xuống chết tốt .

Thì ra Đoàn Cẩm thấy Hoàng thúc phái người đến bức tử cha mình, tình cha con thấm thiết đâu dễ làm ngơ, bèn từ sau bức trướng soạt bước nhãy vút tới dùng Đại Lực Ưng Chảo chộp lấy gáy Kim Long, tiếp theo đấy nện mạnh vào lưng y một ngọn Kim Cang Quyền, mà Kim Cang Quyền của Đoàn Cẩm có thể lở núi nát đá, thì da thịt của Kim Long làm sao chịu cho kham !

Hắc Hổ giật nẩy mình kinh hãi, vội xoay người lại rút thanh bội đao ra, nhưng động tác của Đoàn Cẩm nhanh hơn y nhiều, chân trái đã bay lên đá văng bình rượu bên tay trái y, chân phải tiếp theo với thế liên hườn thế pháp một tiếng bốp thật lớn, ngọn cước của Đoàn Cẩm đã xuyên lớp giáp hộ tâm, khiến y ngã ngược ra sau.

Song ly Hắc Hổ là một dũng sĩ hữu danh trong cung, tuy bị một cước nơi lồng ngực, vẫn còn nhịn được đau, phản kích lại một ngọn đao chém trả lại.

Đoàn Cẩm liền vung cánh tay sắt của mình ra gạt lưỡi đao trở ra, nhanh nhẹn lật tay chộp lấy sóng đao, dùng sức mạnh gạt một cái đã đoạt ngọn khí giới vào tay.

Hắc Hổ vừa bị tước khí giới, lập tức nhoài người theo thế Yến Tử Phiên Thân (chim én trở mình), tay trái vươn ra tức thì "soạt ! soạt !" từ tay trái bay ra ba mũi tụ tiễn, xẹt vút vào đối phương.

Đoàn Cẩm đâu xem trò trẻ con ấy ra gì, tay hữu khẽ nhấc lên, đã nắm gọn ba mủi tụ tiễn vào tay, tiếp theo đấy là một thế Ngũ Hổ Bảo Đầu (cọp đói ôm đầu) , rướn mình nhãy vù tới, quyền bên trái bay lên "bụp ! bụp !" hai tiếng, chiếc sọ dừa của Hắc Hổ nát ngướu thành một đống đậu hũ lầy nhầy, người y ngã vật ra đất.

Đoàn Lão Hoàng Gia thấy con mình cùng hai tên dũng sĩ hùm beo kia, quây quần nhau kịch liệt, người ông run rẩy như đang ở ngoài cơn gió tuyết, đến lúc thấy Đoàn Cẩm thần dũng vô song một quyền hai cước đã giết chết hai tên tâm phúc thị vệ của nghịch thần một cách dễ dàng không khỏi lòng gìa hớn hở.

Lão Hoàng Gia quên hẳn mình đang trong chỗ lãnh cung, lớn tiếng khen ngợi :

- Chết đáng lắm !

Đoàn Cẩm một chân lại bay lên đá hết hai xác chết vào một xó, vừa định lớn tiếng trả lời với Phụ vương, chợt nghe bên ngoài có tiếng chân bước lên gạch sỏi rào rào, từ xa đến gần.

Đoàn Cẩm liền hiểu ngay là lúc nãy mình triệt hạ hai tên thị vệ, vì tiếng vọng quá to đã náo động đến đám thị vệ bên ngoài.

Chàng liền quay lại nói với phụ vương :

- Phụ hoàng yên tâm ! Thần nhi bảo hộ phụ hoàng xông ra khỏi cấm cung.

Đoàn Lão Hoàng Gia run phát rét đáp :

- Vương nhi, làm sao được bây giờ trong cung cấm có trên mấy ngàn Ngự Lâm Quân đều là tâm phúc của Hoàng thúc con cả.

Đoàn Cẩm nghiến răng đáp :

- Mặc kệ mấy ngàn người, cha con ta chạy được tới đâu hay tới đó, ở đây cũng chết mà thôi !

Nói chưa dứt lời bên ngoài cửa tịnh cũng có tiếng gọi to :

- Lão Long, lão Hổ đâu rồi ! Công việc xong xuôi chưa, giết chết được lão gìa đáng ghét ấy chăng ?

Đoàn Cẩm lặng lẽ thổi phụt ngọn đèn trong cung, tay trái kẹp lấy cha gìa tay phải dựng hai xác chết dậy.

Vù vù hai chưởng, hai xác chết tựa như mọc chân, lao vút ra ngoài song cửa.

Bọn thị vệ bên ngoài xao động, hét tướng lên :

- Úy sao hai người đều chết cả rồi ! Bên trong có gian tế ! Anh em đâu, vào bắt gian tế cho mau !

Đoàn Cẩm quơ lấy một ghế bằng cây giáng thương, nhắm ngay nơi có tiếng nói thẳng tay vụt mạnh ra cửa sổ, tức thì "bộp ! bộp !" liên tiếp hai tiếng, hai thị vệ trong bọn bị trúng phải té ngữa trên đất, bọn thị vệ còn lại la hét náo động vang dậy cả lên.

Đoàn Cẩm cười lên một tràng dài, rồi cõng xốc Lão Hoàng Gia phi thân ra ngoài.

Chàng vừa xông ra khỏi tịnh cung liền thấy mười mấy tên võ sĩ tay lăm lăm khí giới từ phía cửa chạy ùa vào, bọn chúng nhìn thấy Thái tử Đoàn Cẩm đều không khỏi sững người ngạc nhiên vô cùng.

Đoàn Cẩm bình tĩnh đặt cha gìa xuống đất, đoạn hét lên một tiếng cực lớn và dùng chiến pháp Không Thủ Nhập Bách Nhẫn (tay không vào trăm đao) xông vào đám đông, chỉ không đầy ba, bốn hiệp đã đoạt được hai món khí giới cầm trên tay tới lui ngang dọc, chém phải tạt trái đánh thôi bọn võ sĩ ngã lăn chiêng lăn cù, kêu khổ liên miên, mạnh tên nào tên nấy ôm đầu lủi như chuột, về báo với đầu lảnh Ngự Lâm Quân của chúng.

Đoàn Cẩm thấy đám võ sĩ thua chạy vắt giò lên cổ, đắc ý cười vang ha hả.

Đoàn Lão Hoàng Gia không ngờ con mình lại thần dũng hơn người như thế, mừng lo lẫn lộn, không khỏi bừng lên hy vọng sống còn, cất giọng run run hỏi :

- Cẩm nhi, con nhắm có thể thoát ra ngoài không !

Đoàn Cẩm ứng tiếng đáp :

- Tâu Phụ vương, có gì chẳng được, bọn võ sĩ này đối với con chỉ là đồ bị thịt mà thôi.

Tuy bên ngoài chàng nói cứng như thế để an ủi cha già, chớ thật sự trong lòng lo âu khôn cùng, vì Đoàn Cẩm dư hiểu trong cũng có trên mấy ngàn Ngự Lâm Quân và vệ sĩ, một mình tất nhiên là không sợ, nhưng còn phải bảo vệ cả Phụ vương, đánh giết để thoát ra khỏi hang hùm, thật là đáng ngại vô cùng.

Nếu đối phương dùng cung tên loạn xạ, thì tánh mạng của cha gìa kể như kết liễu chẳng còn.

Chàng vừa kẹp Lão Hoàng Gia chạy được vài bước thì bốn phía sáng rỡ như ban ngày.

Bọn Ngự Lâm Quân và võ sĩ đã ùn ùn kéo đến, hét hò vang trời :

- Đừng để thích khách trốn khỏi !

Đoàn Cẩm thấy tình thế như vậy biết khó mà đột phá khỏi vòng vây, tầm mắt chàng chợt nhìn thấy, nơi xa xa về phía trái độ vài trượng ngoài, sừng sững một tòa Vọng Tinh Đài.

Tòa đài vọng sao ấy xây bằng đá cẩm thạch, trên đài có một sân đá rộng độ hai thước vuông, châu vi có một hàng lan can ước hai thước cao, sơn đỏ, đài cao độ hai trượng, chỉ có một hàng bực thềm bằng đá duy nhất thông lên trên đỉnh đài, nóc đài trống trải lộ thiên, bên trên để ba bốn chục đỉnh bằng đồng nặng ba bốn trăm cân gì đó, là nơi để quan Khâm Thiên Giám quan sát tinh tú, hầu đoán vận mệnh nước nhà. Đoàn Cẩm nhìn thấy tòa vọng sao xây bằng đá nọ, liền nảy sinh một chủ định. Chàng kẹp Đoàn Lão Hoàng Gia vào người, chạy bay đến dưới chân đài, tung mình nhãy phóc lên đỉnh đài nhẹ như tàu lá rơi.

Lúc ấy đó có vài mươi tên Ngự Lâm Quân xông vào vườn hoa rồi, chúng nhìn thấy một gã thiếu niên, kẹp nách Hoàng Đế nhãy vụt lên đài vọng tinh, liền thét vang lên, cử động binh khí ùn ùn kéo đến dưới đài, định theo bực thềm đá xông lên.

Nào ngờ Đoàn Cẩm đã sẵn định ý, lựa một chiếc đỉnh lớn nhất đỉnh đài, vận thần lực bê gần đến bên lan can, nhầm ngay bậc đá đẩy mạnh xuống, tức thì "ầm ! ầm !" như tiếng nói lở, mười mấy tên võ sĩ xông lên trước nhất, không kịp trở xuống, hứng trọn chiếc đỉnh như ngọn núi Thôi Sơn từ trên lăn ào xuống, tông vào người đè phải ruột bể bụng, chết lểnh nghểnh trên mặt đất.

Phương pháp xô đỉnh đè người của chàng quả nhiên có hiệu nghiệm, bao nhiêu Ngự Lâm Quân còn lại nhãy cỡn lên, không tên nào dám bén mãng tới gần nữa.

Đoàn Cẩm lại bê chiếc đỉnh thứ hai để bên lan can, đoạn lớn tiếng gọi :

- Bọn chúng bây nghe đây, ta là Thế tử Đoàn Cẩm, vì Hoàng thúc chuyên quyền khiến triều đình đầy tràn gian thần tặc đảng, sanh linh đồ thán khôn cùng, nên ta phụng lệnh ân sư Ngọc Động Chân Nhân trở về thăm viếng Phụ hoàng, cùng giải cứu bá tánh Nam Chiến Quốc khỏi cảnh điêu linh, bọn ngươi sao chẳng hiểu lẽ trời còn giúp kẻ gian làm quấy thế !

Lúc ấy bọn vệ sĩ trong cung đã nhìn thấy rõ mặt mày của Đoàn Cẩm, tên nào cũng ngần ngại chẳng dám tiến lên, vì thần dũng của Đoàn Cẩm đã vang đồn khắp toàn quốc đều biết, nội sự nhấc bổng chiếc đỉnh nặng ba bốn trăm cân thảy trở xuống một cách nhẹ nhàng vừa rồi cũng đủ chứng minh lời đồn đại từ bao lâu nay rồi. Tuy bọn chúng kéo đến đông nghẹt đến mấy trăm tên nhưng chỉ đứng nhìn chứ chẳng có tên nào dám đối thủ nữa.

Trong lúc đó thì Đoàn Tấn cũng tiếp được tin của vệ sĩ trong cung báo cáo Thái tử Đoàn Cẩm đã trở về, y giật bắn cả mình mẩy vội kéo Thế tử Đoàn Chiêu cùng hơn một ngàn tên Ngự Lâm Quân, ngoài ra còn có trên ba trăm tay cung thủ, kéo vội đến Vọng Tinh Đài.

Đầu tiên y ra lệnh cho đoàn Ngự Lâm Quân và đội cung thủ bao vây cẩn mật xung quanh đài, đoạn vênh váo đi đến bên Vọng Tinh Đài lớn tiếng gọi :

- Ai là điệt nhi Đoàn Cẩm, hãy ra đây nói chuyện.

Đoàn Lão Hoàng Gia nghe tiếng Đoàn Tấn giận đến răng nghiến ken két , vội gọi con :

- Cẩm nhi, thằng gian thần ấy đó đến rồi kia !

Đoàn Cẩm an ủi cha gìa :

- Phụ vương đừng vội , Phụ vương hãy núp kín sau chiếc đỉnh đồng, để con ra đối chất với tên gian tặc

Nói đoạn chàng từ phía sau lan can đứng dậy.

Vừa mới lú mặt ra ngoài thì có tiếng xé gió "vút vút !" một loạt tên từ phía dưới loạn xạ vào hướng trước mặt.

Đoàn Cẩm không chút sợ, ngang nhiên đứng sững trên đài, hai mươi mấy mũi tên rít trong không khí lao đến vun vút tha hồ trúng vào mặt vào người hay tứ chi.

Đoàn Cẩm như chẳng hay biết, bao nhiêu mũi tên vừa chạm đến thân thể chàng đều tự dưng rơi lả tả xuống đất, dường như bắn trúng vào bức tường bằng đá hay sắt vậy.

Đoàn Cẩm vẫn vô sự như không, bọn cung thủ không khỏi kinh hỏi sững sốt quên cả buông cung.

Khi ấy, Đoàn Cẩm mới quát mắng oai nghiêm chỉ ngay Đoàn Tấn và quát lớn :

- Ngươi như vậy mà xứng đáng làm chú ta sao, mở miệng kêu ta bằng cháu mà chẳng thẹn ư ? Ta chẳng qua theo sư phụ vân du giang hồ thế thôi, ngươi lại nỡ đem Phụ vương ta giam vào lãnh cung, đêm nay lại còn sai người đem độc tửu đến thuốc chết phụ thân ta ! Ngươi quả là một tên táng tận cả thiên lương !

Đoàn Tấn bừng bừng nổi giận, nạt lại :

- Ta sai người đến thuốc chết cha mi hồi nào ? Rõ ràng là ngậm máu phun người, mi đi suốt bảy tám năm trời chẳng trở về, nước nhà không thể một ngày vô chủ, tất nhiên phải lập Thế tử khác, mi khuya khoắt nửa đêm trà trộn vào cung ép bức

Thánh thượng tội ác tày trời, bay đâu, túm cổ tên súc sinh ấy cho ta !

Đoàn Tấn vừa ra lệnh, mấy trăm tên Ngự Lâm Quân và vệ sĩ trong cung, đồng cử động đao thương ồ ạt tiến lên Vọng Tinh Đài.

Nhưng vì Vọng Tinh Đài cao trên hai trượng, mà trong bọn chẳng có tên nào biết thuật khinh công, chỉ nương theo bậc gạch mà tiến lên xung sát.

Đoàn Cẩm gầm lên một tiếng cực lớn phi thân nhãy qua khỏi lan can, đáp nhẹ trên nửa đoạn bậc thang lên đài.

Hai tên Ngự Lâm Quân xông tới, Đoàn Cẩm đã nện cho mỗi gã một thoi, đánh rơi lông lốc trở xuống như trái dừa khô.

Bốn tên khác lại ào một lượt leo lên tấn công.

Đoàn Cẩm dùng Tảo Đường Thối một quét một móc, cả bốn tên cùng một lượt nhào trở xuống như đá bưng núi lở, liên tiếp mấy loạt xung quanh phòng của đoàn quân Ngự Lâm Quân tấn công lên đều bị Đoàn Cẩm trổ thần uy, chân quét tay đấm hoặc chộp gảy quăng nhầu.

Trong khoảnh khắc trên bảy tám mươi tên vệ sĩ đều bị chàng khi đấm, khi ném nhào trở xuống, té thôi gảy chân lọi tay bể đầu dập mặt rên khóc như ri.

Kỳ dư bao nhiêu vệ sĩ còn lại, thấy trên bực đá, nằm ngổn ngang những đồng bọn bị thương lăn lộn rên la, không khỏi ruột gan lạnh ngắt, chỉ đứng xa xa hò hét để hư trương thanh thế chứ chẳng dám tiến lên nữa.

Đoàn Tấn không ngờ Đoàn Cẩm sức mạnh như thế, mà Vọng Tinh Đài toàn bằng đá, muốn phóng hỏa cũng không được, bọn vệ sĩ lại không phải là đối thủ của Đoàn Cẩm.

Đang lúc giận chỉ hét như sấm, thì Thế tử Đoàn Chiêu bỗng nghĩ được một quỷ kế liền kề tai nói nhỏ với cha.

Đoàn Tấn đổi giận làm vui mừng gật đầu lia lịa, lập tức quay sang dặn dò mấy tên vệ sĩ bên cạnh đến Chiêu Dương cung cứ y theo kế hoạch mà thi hành.

Đoạn ngẫng đầu lên gọi lớn Đoàn Cẩm.

- Súc sinh, hãy bớt hung hăng, ta đã sai người đi bắt mẫu hậu của mi, trói trước đài nếu mi chẳng bó tay chịu trói, ta sẽ giết mẹ của mi trước làm gương.

Thủ đoạn bức chế ấy thật vô cùng lang độc.

Đoàn Cẩm vừa nghe không khỏi giật mình, mồ hôi ướt đẫm cả vầng trán.

Đoàn Lão Hoàng Gia núp sau chiếc đỉnh đồng cũng lạc giọng kêu lên :

- Chết mất con ơi ! Tên gian tặc định hại mẫu hậu của con nữa đấy .

Đoàn Cẩm lòng như lửa đốt, ruột gan rối bời, chàng chợt nhìn thấy con của Đoàn Tấn là Đoàn Chiêu đang đứng ở phía hữu của Vọng Tinh Đài, cách chỗ chàng đứng không đầy mười trượng.

Đoàn Cẩm sực nghĩ được một kế, chàng bèn nhãy vút trở lên đài, nhấc bổng chiếc đỉnh đồng ba bốn trăm cân kia lên, rồi cả người lẫn đỉnh, tung mình từ trên bực đá nhãy xẹt vào giữa đám đông, hét lên một tiếng rúng động cả cung điện, hai tay vung mạnh lao mạnh chiếc đỉnh nặng nề vào giữa đoàn Ngự Lâm Quân.

Bọn binh sĩ thấy chiếc đỉnh hơn bốn thước bề cao từ trên không úp chụp trở xuống đầu, bọn chúng sợ đến phân tiểu xón cả trong quần, kêu thét hải hùng chạy tán loạn khắp bốn phía.

Đoàn Cẩm thừa lúc bọn chúng thi nhau lủi đầu chạy như bầy chuột, đột nhiên, dùng thân tháp Thanh Đình Sao Thủy (chuồn chuồn xớt nước) lướt tới trước mặt Đoàn Chiêu.

Đoàn Chiêu trong lúc dương dương đắc ý đứng bên cạnh mấy tên giáp sĩ của mình, không ngờ Đoàn Cẩm dùng kế thanh Đông kích Tây nhãy đến trước mặt mình không khỏi tay chân luống cuống, chưa kịp mở miệng la lên thỡ lẹ như chớp đó cảm thấy cánh tay của mình bị Đoàn Cẩm khóa chặt. Vừa muốn vùng vẫy kêu cứu, Đoàn Cẩm đã sức mạnh như cọp xoay mình gọn gàng, nhấc thân hình Đoàn Chiêu giơ cao lên và hét vang :

- Tên nào muốn chết thì cứ việc tiến lên !

Bọn vố sĩ đều hốt hoảng vẹt sang hai phía.

Đoàn Cẩm cười nhạt một tiếng, kẹp Đoàn Chiêu vào nách rồi ngang nhiên lớn bước đi thẳng trở lại Vọng Tinh Đài.

Đoàn Tấn không sao ngờ được Đoàn Cẩm bắt cóc Đoàn Chiêu để khống chế mình, vừa thẹn vừa giận, hy vọng bắt Tiêu Hoàng hậu đem ra để làm cái bung xung buộc Đoàn Cẩm phải bó tay đầu hàng chẳng dè con mình quá khù khờ để cho Đoàn Cẩm túm cổ một cách dễ dàng, hai bên đều trở thành trong thế kẹt, ném chuột sợ vỡ đồ.

Đoàn Tấn tức tối như thể lửa nung gan phổi , đang lúc dậm chân chắt lưỡi hít hà, thì vệ sĩ đã đưa Tiêu Hoàng Hậu đến nơi.

Hoàng Hậu áo quần xốc xếch, tóc tai rối bời, gọi lên liền miệng :

- Con ta đâu rồi ? Con ta đâu rồi ?

Đoàn Tấn thấy bộ dạng Tiêu Hoàng Hậu tiều tụy như thế, trong đầu liền loé lên một tia sáng lớn tiếng gọi :

- Súc sinh, mi đừng tưởng bắt được con ta là dọa nạt được ta đâu. Ta có tất cả bảy người con, dù cho mi có giết chết Chiêu nhi, ta cũng còn lại sáu đứa, mà mi thì chỉ có một người mẹ duy nhất. Ta giết mẹ mi chết, mi sẽ ân hận suốt đời, mi thử nghĩ xem ai lời hơn ai ?

Đoàn Cẩm bắt Đoàn Chiêu lên Vọng Tinh Đài, trói quặt hai tay ra sau, để nằm dưới đất nhưng khi nhìn thấy một từ mẫu sau sáu năm trời cách biệt, hình dung vàng võ tiều tụy, bị mấy mươi tên vệ sĩ hùng hổ như lang sói giữ chặt và dẫn đến bên đài.

Đoàn Cẩm không khỏi vùng lên thiên tính mẫu tử thâm tình, chàng ngẫng đầu lên trời than dài .

- Thôi rồi, thôi rồi, ta làm liên lụy cả mẹ hiền của ta .

Than chưa dứt lời từ trong Ngự Lâm Quân vừa kéo đến. Nhảy vút ra hai cái bóng người một tăng một đạo, chính là hai gã Thạch La Hán và Thiết Phất Đạo Nhân, hai tên hộ trợ ở đắc lực nhất của Hoàng thúc Đoàn Tấn.

Một trong hai người cất tiếng hét vang :

- Bọn vô tài vô dụng này, có mau cút ngay không để cho anh em ta túm cổ thẳng tiểu tử kia xem nó có bao nhiêu bản lãnh, xứng đáng đối phó với thủ đoạn của Hộ Quốc Thiền sư ta cùng Tử Quang đạo hữu chăng ?

Nói đoạn Thạch La Hán gầm lên một tiếng để thị uy rồi hươi cây Thiết Thiền Trượng xông thẳng lên đài tấn công.

Thiết Phất Đạo Nhân cũng vũ lộng phất trần theo sát chân gã thầy chùa tiến lên.

Đoàn Cẩm thấy bộ pháp hai người như bay, biết rõ là hai tên kình địch, mẹ của chàng hiện giờ lọt vào tay gian thần khó thể tùy tiện làm hại con y là Đoàn Chiêu được.

Chàng chẳng chút chậm trễ nhấc bổng chiếc đỉnh thứ ba trên Vọng Tinh Đài đứng áng ngay bực đá.

Thạch La Hán dẫn đầu nhãy vút lên múa tít cây thiền trượng theo thế Thanh Long Bái Vĩ (rồng xanh quẫy đuôi), quét vút vào hạ tam bộ của đối phương.

Đoàn Cẩm vội dựng chiếc đỉnh đồng hất trở lại, "cong !" một tiếng chát chúa, hai món binh khí nặng chạm nhau, sao lửa văng đầy trời.

Thạch La Hán cảm thấy hai tay tê rần.

Đoàn Cẩm cũng không tránh khỏi hổ khẩu tay đau buốt như kim châm.

Đoàn Cẩm nổi xung quát to một tiếng hai tay nắm chặt hai chân đỉnh, chàng dựng chiếc đỉnh đồng mấy trăm cân kia sử dụng như tấm thuẫn bài, tấn công đối phương theo thế Vân Đoạn Tọa Sơn (mây vút núi nằm) trong pho Bát Quái Hỗn Nguyên Bài, quét mạnh ngang hông đối phương.

Thạch La Hán thấy chàng tuổi còn nhỏ nhưng mà vũ lộng chiếc đỉnh như gió thì không khỏi kinh hồn.

Cây thiết thiền trượng hất trở lên theo chiêu Tiềm Long Xuyên Tháp (rồng lặng qua tháp) gõ mạnh vào bụng đỉnh đồng đón lại , "kinh" "coong" hai tiếng ngân lên chát cả màng tai, thiền trượng và đỉnh đồng lại tông thẳng vào nhau, lửa sao lại bắn tung toé khắp bốn phía.

Đoàn Cẩm càng đánh càng hăng, vung chiếc đỉnh đồng nghe vù vù trong không khí, bổ thẳng xuống đỉnh đầu kẻ địch.

Thạch La Hán hai lần đở chiếc đỉnh, hai tay đã chấn động đến tê rần không sao dám đở nữa, nên vội dùng chân pháp Dao Từ Phân Thân (chiếc diều lật mình), từ trên bực đá uốn lưng nhãy vút xuống dưới.

Đoàn Cẩm đang định thừa thắng truy kích, thì Thiết Phất Đạo Nhân đã từ một gốc khác phi thân bay vút lên đài, hung hăng nhãy đến bên Đoàn Lão Hoàng Gia đang ẩn núp.

Đoàn Cẩm cả kinh, sợ Thiết Phất Đạo Nhân làm hại cha mình, sốt ruột gầm lên một tiếng như cọp, cả người lẫn đỉnh quay phắt trở lại đứng che mình trước mặt Đoàn Lão Hoàng Gia.

Thiết Phất Đạo Nhân định bụng dùng ngọn phất trần sắt đập bể sọ Đoàn Lão Hoàng Gia giúp Hoàng thúc Đoàn Tấn trừ trước hậu họa, sau đấy sẽ giúp tay Thạch La Hán vây đánh Đoàn Cẩm.

Chẳng dè Đoàn Cẩm đánh thục mạng mấy thế đỉnh khiến Thạch La Hán phải thối lui trở xuống, rồi lẹ như chớp nhãy trở lại che chở cho cha.

Thiết Phất Đạo Nhân thầm khiếp phục tài nghệ cao cường của đối phương, xỉa mạnh cây phất trần sắt ra trước quát lớn :

- Tiểu tử muốn chết !

Ngọn phất trần như một làn điện xẹt lao nhanh vào Kỳ Môn huyệt nơi trước ngực chàng.

Đoàn Cẩm nghiêng người tránh qua một bên , chiếc đỉnh trên tay đồng thời quét mạnh trở ra phản kích lại.

Nhưng chiêu số của cây phất trần trên tay Thiết Phất Đạo Nhân lanh lẹ quái dị vô cùng lại lẹ làng thoăn thoắt , thoạt tới thoạt lui, như cheo như vượn, ngọn phất trần trong khoảnh khắc tấn công ra bảy chiêu liên tiếp, điểm, chọt vào bảy nơi huyệt đạo ở trung và thượng bàn của Đoàn Cẩm.

Đoàn Cẩm vì chiếc đỉnh quá nặng nên xoay trở có phần chậm chạp , so bì với loại khí giới điểm huyệt có phần thất thế hơn nên liền gầm lên một tiếng như cọp, ném ngay chiếc đỉnh đồng xuống đất đánh "sầm" một tiếng, dùng hai tay quyền để chống đở với ngọn phất trần lợi hại của địch thủ.

Hai người nhãy tới tràn lui, lúc công lúc thủ loang loáng như điện chớp sao giăng, khoảnh khắc đã giao đấu nhau trên mười hiệp.

Thạch La Hán trong khi ấy kéo rốc đại đội Ngự Lâm Quân xông lên đài Vọng Tinh .

Đoàn Cẩm vì bận cầm cự với Thiết Phất Đạo Nhân vô phương bảo hộ cha già, chàng thầm than trong lòng :

- Không xong ! Hết cả rồi !

Trong lúc chàng định bó tay chịu hàng để khỏi liên hại đến cha mình, thì trên nửa chừng không vọng lại một tiếng hú lảnh lót vang rền, rồi một bóng vàng thoáng chẳng biết từ hướng nào đáp xuống.

Một vị áo vàng chỉ vung tay một chiêu đã dở hỏng Thạch La Hán lên khỏi mặt đất, rồi ném cả người lẫn trượng bay tuốt xuống dưới đài

Sự xuất hiện đột ngột ấy khiến mọi người kinh hãi không ít.

Đoàn Cẩm định thần nhìn kỹ, trong bụng mừng thầm, té ra người áo vàng không ai khác hơn là vị thư sinh trung niên mà chàng đã gặp trên Điểm Thương Sơn lúc ban chiều, và chờ trong lúc chàng đang trong cảnh thập phần nguy hiểm đột ngột hiện ra trợ giúp.

Đoàn Cẩm phấn khởi trong lòng, gọi lớn :

- Nhơn huynh, mau giúp tiểu đệ bảo hộ gia nghiêm.

Chưa kịp dứt lời thì vị thư sinh áo vàng ấy đã tóm thêm bảy tám tên thị vệ ném lăn quay xuống bực thềm đá, thủ pháp nhanh nhẹ , quả là một tay cao thủ tài nghệ tuyệt vời.

Kỳ dư bao nhiêu vệ sĩ còn lại đều kinh hồn thất đảm ùn ùn vừa lăn vừa bõ chạy nhào trở xuống đất để thoát thân.

Vị thư sinh áo vàng lúc ấy mới ngẫng đầu bảo Đoàn Cẩm :

- Này ! Tên mũi trâu cầm phất trần sắt kia để tôi đối phó cho, các hạ yên tâm xuống đài làm cỏ đám phản loạn kia đi.

Đoàn Cẩm gật đầu tràn mình về một phía.

Thư sinh áo vàng với hai bàn tay không vun vút trái phải hai bên, không đầy ba bốn hiệp, Thiết Phất Đạo Nhân đã thối lui lia lịa ra sau.

Đoàn Cẩm mừng rỡ trong lòng, biết mình đã may mắn được một tay trợ giúp đắc lực chuyển đổi cả thế cuộc, nên thừa cơ xuống đài cứu mẹ.

Nghĩ rồi chàng nhấc bổng chiếc đỉnh đồng nhún chân nhãy xuống dưới đài, lần này chàng không còn e ngại gì nữa, tung mình lướt đến bên Đoàn Tấn xông sát.

Đoàn Tấn hết sức kinh hãi.

Thạch La Hán vội vung cây thiền trượng lướt tới đón lại nạt to :

- Tiểu tử, mi muốn mẹ mi sống hay là chết ?

Đoàn Cẩm gầm lên như điên, đáp :

- Tên gian vương, nếu giết chết mẹ ta, Đoàn Cẩm này sẽ nghiền nát người nó ra trăm ngàn mảnh vụn để đền mạng cho mẹ ta, thằng giặc trọc chó chết nhà mi, dám trợ Trụ làm ác khó mà thoát khỏi cái chết.

Tiếng nói vừa dứt, chiếc đỉnh đồng trên tay Đoàn Cẩm cũng bổ xuống chiếc đầu trọc phếu của y.

Thạch La Hán tuy lúc nãy bị vị thư sinh áo vàng ném lộn mèo xuống đài nhưng vì y có tên là Thạch La Hán da thịt cứng như sắt nguội nên dù bị ném xuống rất mạnh cũng chẳng làm y bị thương được.

Y gầm một tiếng thật lớn múa tít cây thiền trượng theo thế Phong Ma Trượng, bóng trượng chập chờn bốn phương tám hướng áp được vây chặt Đoàn Cẩm vào giữa.

Đoàn Cẩm vẫn không nao núng, vung chiếc đỉnh đồng ba chân, rít gió nghe ào ào như cuồng phong bão tố, sử dụng một lối đánh lạ kỳ cả người lẫn đỉnh quyện thành một khối loanh quanh khi tới lúc lui như trò múa rối, xông bên Đông gạt bên Tây không đầy hai mươi thế đỉnh đã khiến Thạch La Hán từng bước, từng bước nhãy lui ra sau không kịp thở.

Đang lúc đấu nhau mùi mẫn trên đài bổng có tiếng thét lên rùng rợn, rồi có một bóng người lao vụt xuống như mũi tên.

Đoàn Cẩm trong cơn bất ngờ, giật nẩy mình vội hoành đỉnh đề phòng, đến lúc định thần nhìn kỹ, thì kẻ lao xuống chính là Thiết Phất Đạo Nhân, đỉnh đầu bị thủng một lỗ lớn, chất óc lẫn máu tươi phọt ra cả bên ngoài văng đầy cả mặt đất.

Đoàn Cẩm càng cảm thấy tinh thần phấn chấn thập phần.

Gã Thiết Phất Đạo Nhân vốn là một cao thủ trong phái Không Động. Ngọn phất trần, chiêu số biến hóa kỳ ảo dị thường có thể như Ngũ Hành Kiếm Thuật xung kích, lại có thể như phán quan bút đâm điểm tấn công vào các yếu huyệt đối phương, nếu luận về võ công thì y cao hơn Thạch La Hán gấp mấy lần, vốn ra không thể đại bại đến vong mạng một cách mau chóng như thế, nhưng vì hôm nay y gặp phải thư sinh áo vàng là một bậc kỳ nhân cái thế, bàn lãnh của chàng cao diệu không sao tưởng tượng nổi.

Khi chàng vừa ra tay giao đấu với Thiết Phất Đạo Nhân đã sử dụng một pho chưởng pháp rất kỳ lạ, tà áo vàng thư sinh của chàng phất phới dịu dàng , người chàng như chẳng có xương cốt , mềm mại tựa bông gòn , luồn qua lộn lại, quay mòng mòng xung quanh Thiết Phất Đạo Nhân, hai chân bám chặt theo Cửu Cung Bát Quái thoăn thoắt bay tới đáp lui như hai cái chày máy giả gạo vậy .

Pho quyền pháp của chàng nếu nói là Du Thân Bát Quái quyền thì không giống, mà liệt vào Cửu Cung Thần Hành chưởng cũng không phải nốt

Thiết Phất Đạo Nhân cảm thấy trước mắt ảo loạn bóng người chập chờn sau trước, mường tượng như có trên mười bóng áo vàng quây tròn xung quanh mình như bánh xe gió, làm lão ta nhức đầu hoa mắt, đừng nói môn sở trường là Thiết Phất đả huyệt pháp không thể sử dụng ra được mà cho đến công phu gạt đở cũng chẳng có .

Không đầy mười hiệp quần nhau, bả vai Thiết Phất Đạo Nhân đã liên tiếp trước sau lãnh trọn ba ngọn chưởng của đối phương.

Nhờ công lực thâm hậu, nên nơi chỗ trúng chưởng chỉ cảm thấy đau buốt như đốt vậy thôi và nếu Thiết Phất Đạo Nhân biết rõ cơ tấn thối, lùi trở xuống đài thì hoặc may tánh mạng được bảo toàn.

Chẳng ngờ lão ta bị phải mấy chưởng thẹn quá sinh khùng, một mặt vung tít ngọn phất trần bên tay hữu bảo vệ khắp châu thân, tay trái cũng loang loáng theo quyền thế Hắc Hổ của Không Động phái, chặt, chém, đở, gạt, phản kích với đối phương kịch liệt rồi bất thần, lảo đảo mạnh chiếc đuôi phất trần bắn ra một loạt kim vàng lóe mắt, bay vút vào đầu và mặt vị thư sinh áo vàng.

Ám khí của Thiết Phất Đạo Nhân vừa sử dụng kia gọi là Kim Phong Thần Châm, mũi châm nhỏ như lông trâu dấu trong cán phất trần bên trong có lò xo, lúc dùng chỉ cần bấm nhẹ lưỡi gà đảo lẹ cán phất trần trở lại, ba mươi mủi thần châm sẽ đồng loạt bay ra, khít khao như mưa bất, bắn vút vào đầu mặt, cùng các huyệt đạo yếu hại của đối phương.

Những mủi thần châm ấy được ngâm trong chất thuốc cực độc, mỗi khi trúng vào thân người lập tức ghim lút vào da thịt, mười hai giờ đồng hồ sau độc tố theo máu công lên quả tim, nạn nhân sẽ ngã ra chết không phương cứu chữa.

Thản hoặc vừa trúng phải độc châm, kịp thời dùng nội công phong bế mạch đạo, ngoài ra uống thuốc giải độc, rồi dùng đá nam châm hút mủi kim độc ra thì may thoát chết nhưng cũng không tránh khỏi suốt đời tàn phế.

Đấy là môn ám khí trấn sơn của phái Không Động, có danh là lang độc. Thiết Phất Đạo Nhân cũng ít khi dám khinh xuất đem ra dùng nhưng vì liên tiếp bị trúng phát mấy chưởng, khí vận bừng lên, bèn xuất kỳ bất ý bắn kim phong thần châm ra, định dồn đối phương vào tử địa để kết thúc trận đấu.

Nào ngờ kiến thức của vị thư sinh áo vàng rất quảng bác, vừa thấy từ cán phất trần của đối phương vung lên, bay tản ra những làn ánh sáng lấp lánh, lập tức hiểu ngay đối phương sẽ dùng loại ám khí gì rồi, không khỏi nổi giận xung thiên chàng vội tung mình dùng thế Độc Hạc Xông Tiêu (chiếc hạ tung mây) nhấc người lên khỏi mặt đất trên hai trượng),

tiếp theo đấy là một luồng chưởng phong cường mạnh đánh rơi tất cả những mủi độc châm rơi lả tả dưới đất, liền theo đấy, đạp chân vào khoảng không, uốn mình lượn thành nửa vòng tròn ở nửa lừng bay trở xuống, cánh tay trái bất thần vươn ra dài hơn một thước, chiếc bàn tay xòe ra như một thỏi sắt vỗ mạnh xuống đầu đối phương.

Thiết Phất Đạo Nhân nhìn thấy thủ pháp và thân pháp của vị thư sinh áo vàng sực tỉnh ngộ thất thanh la ó :

- Ôi cha ! Mi là môn hạ của Toàn Chân Giáo, đừng sử dụng Thôi Tâm chưởng pháp hai bần...

Lời chưa kịp dứt liền "bụp !" một tiếng, đỉnh đầu đã trúng phải một chưởng của vị thư sinh áo vàng rồi.

Thiết Phất Đạo Nhân cảm thấy khí huyết khắp châu thân, mường tượng như bị phải một luồng sức mạnh kỳ dị hút người trở lên đỉnh đầu đau đớn như dần, chưởng lực chưa trúng ngay mà sọ đầu đã nứt đôi, chất óc phọt ra ngoài, thét lên một tiếng hãi hùng rồi ngã vật xuống đất chết tốt.

Vị thư sinh áo vàng chỉ khẽ cúi người đã chộp lấy chân phải của đối phương, vụt mạnh ra ngoài, chiếc xác to lớn phốp pháp như hũ rượu của đạo sĩ , bay vun vút như tên lìa giây cung rơi bắn vào đám đông.

Thạch La Hán đang vũ lộng cây thiền trượng như mưa tuôn gió vờn, quần nhau với Đoàn Cẩm một mất một còn, chợt thấy thi hài của Thiết Phất Đạo Nhân từ trên Vọng Tinh Đài bay xẹt xuống, vừa giận vừa sợ.

Gầm lên một tiếng dử dội, rồi bỗ nhào đến thí mạng với Đoàn Cẩm. Cây thiền trượng trên tay liên tiếp ra ba thế theo chiêu số Vân Long Tam Hiện (rồng trên mây hiện ba lần) quét sả vào hông đến nách rồi phạt trở xuống hai chân đối phương, nhanh như điện xẹt sao băng.

Đoàn Cẩm trong cơn nguy cấp, sực nghĩ một mẹo, chàng ném mạnh đỉnh đồng vào đoàn người, hai cánh tay liên tiếp theo một giương một chộp "phịch !" một tiếng như tiếng trống.

Đoàn Cẩm lãnh trọn nơi hông một ngọn thiền trượng của Thạch La Hán nhưng nhờ ở lớp vảy cứng mọc trên da, nên không bị thương tổn đến tạng phủ, tay chàng nhanh nhẹn đoạt lấy đầu trượng kéo mạnh một cái.

Thạch La Hán cả người lẫn trượng, chúi nhủi vào lòng Đoàn Cẩm.

Cũng khá khen thân pháp của Thạch La Hán khéo léo nhanh nhẹn, trong lúc gã chúi vào người Đoàn Cẩm, đã kịp thời vung ra một quyền đảo mạnh vào ngực Đoàn Cẩm kêu "bùng" một tiếng.

Thế quyền của Thạch La Hán đánh ra sức mạnh đâu phải tầm thường, nhưng quả lạ kỳ .

Đoàn Cẩm như kẻ vô sự ,vận thần lực gạt mạnh ra ngoài một cái, cây thiền trượng bằng sắt đúc lớn cở miệng chén bị chàng bẻ gảy làm đôi không chút phí sức.

Thạch La Hán không ngờ Đoàn Cẩm có bản lãnh như thế, chịu đựng được một trượng lẫn một quyền của mình, mà người chàng vẫn chẳng bị chút tổn thương, thân hình chàng tựa như sắt đá chẳng bằng, đã thế còn bẽ gảy nổi thiền trượng của mình như trò chơi trẽ nít, không khỏi thất sắc kinh hãi đến đờ người.

Đoàn Cẩm nhãy vút tới sát bên y và quát lớn :

- Mi cũng nếm lại một trượng của ta !

Miệng quát, nửa khúc thiền trượng cũng theo tay quét vòng dưới chân địch nhân.

Thạch La Hán hốt hoảng tung người lên cao, chẳng dè Đoàn Cẩm dùng thế vừa rồi chỉ là thế hư, chờ cho gã trọc tung người nhãy lên, chàng bất thình lình vút ra một quyền đảo mạnh vào ngực gã theo thế Kim Cang Phục Hổ trong Kim Cang quyền pháp.

Thạch La Hán vì còn chới với trên khoảng không, vô phương tràn tránh gì được, cậy vào thân hình mình dày công khổ luyện ngoại công, đao thương chẳng phạm được , thầm ước lượng có thể hứng nổi lấy ngọn quyền của chàng, nên trân mình

chịu đòn.

"Bình !" một tiếng khá to, ngọn quyền của Đoàn Cẩm đấm đúng vào ngực của đối phương, không chút sai lệch mà Kim Cang quyền pháp do sức thần của Đoàn Cẩm sử dụng có thể xuyên cây vỡ đá, thử hỏi thân hình bằng xương thịt gồng luyện khí công của Thạch La Hán làm sao chịu đựng nổi ?

Y "hự !" lên một tiếng đau đớn, mửa phúng ra một ngụm máu tươi rồi ngã vật xuống đất tắt thở luôn, vì ngọn quyền vừa rồi của Đoàn Cẩm không những đánh gảy cả xương cốt nơi lồng ngực mà cho đến tim phổi của y cũng bị chấn bể nát nhừ trong lồng ngực .

Đang lúc Thạch La Hán và Thiết Phất Đạo Nhân đấu nhau chí mạng với đối phương thì Đoàn Tấn đương run run phát rét một chỗ, nhưng hắn vốn là một tiểu nhân quen thói đê tiện thấy tình thế bất lợi nghiêng hẳn về phía mình, lòng sát nhân nổi dậy, lập tức xông tới trước mặt Tiêu Hoàng hậu. Tay trái túm lấy xiêm y nơi lưng ngực bà, tay phải rút phắt ra một ngọn đao sáng quắc, định thích phủng lồng ngực của Tiêu Hoàng hậu.

Tiêu Hoàng hậu vốn là một khuê nữ nhu nhược yếu đuối, chẳng biết lúc ấy từ đâu dâng lên một luồng dũng khí, trừng mắt nhìn Đoàn Tấn quát lớn :

- Quân vô lương phản chúa kia, ta là Hoàng hậu của Nam Chiến Quốc lại là chị dâu mi, mi giết ta thử xem !

Đoàn Tấn bị sự chánh khí đảm lược của Tiêu Hoàng hậu làm y sờn lòng, ngọn dao găm trên tay từ từ buông xuôi trở xuống, quay đầu nhìn ra thấy Đoàn Cẩm tung hoành ngang dọc giữa đoàn Ngự Lâm Quân như vào chỗ không người.

Đoàn Tấn như được khơi thêm lửa hận thù, giá đao lần thứ hai, định đâm chết Tiêu Hoàng hậu bỗng nghe trên Vọng Tinh Đài có tiếng quát sang sảng :

- Ác tặc sát nhân kia, mi muốn tánh mạng con mi chết hay là sống ?

Đoàn Tấn rùng mình kinh hãi, vội đảo mắt nhìn kỹ, thấy gã thư sinh áo vàng đang nhấc bổng Đoàn Chiêu lên cao, hầm hừ như muốn quăng xuống đất vậy.

Vọng Tinh Đài lại cách mặt đất trên hai trượng cao, nếu Đoàn Chiêu bị ném xuống thì thịt xương gân cốt của đứa con trai y sẽ nát biến như xương ngay.

Đoàn Tấn tuy tâm tính như sài lang, cũng không thể không xót thương tính mạng của con trai mình, nên y vội hét lên :

- Khoan đã ! Đừng hại mạng con ta, ta bằng lòng trao đổi Tiêu Hoàng hậu trả lại cho bọn mi, để các ngươi an toàn rời khỏi Đại Lý thành.

Ngờ đâu tiếng cuối cùng của y vừa dứt, thì vị thư sinh áo vàng liền hú lên một tiếng thánh thót, trong như tiếng hạc réo từng không xông tận chín từng mây thẳm, đoạn chàng từ trên đài kẹp theo Đoàn Chiêu vào nách tung mình đáp nhẹ xuống.

Bọn Ngự Lâm Quân đồng la ó vang dậy, ùn ùn kéo đến bao vây chàng vào giữa.

Chàng thư sinh áo vàng chẳng chút nao lòng, cười nhạt một tiếng, xông vào giữa đoàn người , tay trái vẫn kẹp Đoàn Chiêu nơi nách, tay phải quay tròn vun vút đánh ra một pho quyền pháp thật cổ quái, mà xưa nay chưa hề thấy qua, khi chưởng lúc lại chỉ, biến sang chộp rồi lại đổi thành quyền biến hóa không sao lường được, tay quyền chàng đến chỗ nào là Ngự Lâm Quân như đám say rượu ngã đổ lổm nhổm dưới đất, mà đã té trở xuống là không sao ngóc đầu bò dậy được, chỉ nửa khoảnh khắc đã có bảy tám mươi tên nằm chỏng gọng dưới đất, rống lên như bò.

Đoàn Cẩm cất tiếng kêu gọi :

- Gian thần đã đến nước đường cùng, bọn ngươi còn định trợ Trụ vi ác được sao ? Mau buông khí giới đầu hàng mới mong bảo toàn mạng sống.

Bọn Ngự Lâm Quân tuy đều là tâm phúc của Đoàn Tấn nhưng phần đông cũng là vệ sĩ trong hoàng cung bị Đoàn Tấn lung lạc, đối với hành động hoán ngôi đoạt vị của Đoàn Tấn không mấy tán đồng, nhưng đứng trước thế lực như lang sói của quyền thần, chỉ đành nuốt hận mà phục tùng.

Giờ đây thấy Đoàn Cẩm trở về, trong lòng đã rung động phần nào, lại thấy hai tên yêu đạo tay chân đắc lực nhất của Đoàn Tấn đã bị giết chết, nên khi nghe Đoàn Cẩm lên tiếng gọi, hơn nửa số trong đoàn liền vứt binh khí, thối lui sang một phía.

Đoàn Tấn thấy thế lực của mình tan rả như băng tuyết trước nắng hè, trong cơn phẫn uất cực cùng điên tiết giơ cao ngọn thất thủ đao nhắm ngay ngực Tiêu Hoàng hậu nhắm mắt đâm nhầu.

Đoàn Cẩm vì cách quá xa muốn lướt đến cứu cũng không sao kịp nữa, kinh hoảng thét to lên :

- Ối cha !

Giữa lúc cái chết của Tiêu Hoàng hậu chỉ còn cách nhau đường tơ kẽ tóc, ngọn đao quái ác sắp chạm lên da ngực của bà thì đột nhiên một tiếng keng vang lên, ngọn đao trên tay Đoàn Tấn tự dưng sút khỏi tay rơi "xoảng !" xuống mặt đất.

Té ra, trong cơn thập phần nguy cấp ấy, vị thư sinh áo vàng thoắt bay mình lướt đến bên Đoàn Tấn, từ bàn tay chàng lẹ như chớp vung ra một vật bằng sắt bốn góc tròn dẹp như con cờ, lao ngay bạch môn nơi cánh cổ tay của Đoàn Tấn, tức thì y cảm thấy cánh tay cầm đao mềm nhũn ra, năm ngón tay rụng rời lưỡi dao rơi xuống đất.

Động tác của vị thư sinh áo vàng nhẹ như tia điện không bằng, con cờ ném ra vừa đánh rơi xong khí giới trên tay gian thần, liền ném ngay Đoàn Chiêu rơi xuống đất, tiếp theo đấy đã lướt nhanh ra phía trước chộp cứng cổ tay Đoàn Tấn miệng cũng đồng thời hét to :

- Nằm xuống !

Tiếng quát vừa dứt, thân hình của Đoàn Tấn cũng vừa té "bộp !" trên mặt đất.

Vị thư sinh áo vàng cũng chàng chút chậm trễ, một chân đạp lên ngực, khiến y không sao vùng vẫy được.

Mười mấy tên võ sĩ giữ Tiêu Hoàng Hậu thấy Đoàn Tấn té xuống đất, bèn ba chân bốn cẳng chạy tản ra bốn phía.

Thế tử Đoàn Chiêu tuy được vị thư sinh áo vàng bỏ nằm dưới đất, nhưng huyệt đạo đã bị chàng điểm phải chỉ trơ mắt nằm thẳng cẳng một chỗ chẳng có ma nào dám léo hánh đến trợ giúp cả.

Đoàn Cẩm chạy nhoài đến nơi ôm chặt lấy mẫu thân, cảm động đến nói chẳng thành lời.

Vị khách áo vàng bèn quay lại quát tháo bọn vệ sĩ :

- Hoàng thượng hiện ở trên Vọng Tinh Đài, bọn bây chẳng mau đến thĩnh người xuống đoái công chuộc tội, còn đợi lúc nào nữa ?

Lời nói của chàng cũng vừa phải lúc, vì khi ấy Đoàn Lão Hoàng Gia đã từ sau lan can Vọng Tinh Đài lững thững bước ra, đám Ngự Lâm Quân cùng thị vệ vội vã quỳ xuống phủ phục tung hố vạn tuế vang trời .

Đoàn Lão Hoàng Gia thấy đại loạn đã được bình định, vợ chồng ông chẳng hề hấn gì, cha con gian thần đã bị bắt sống, bao nhiêu Ngự Lâm Quân,

vệ sĩ trong cung đều cải tà quy chánh mới yên lòng chậm rãi xuống đài .

Đoàn Cẩm đầu tiên quát nạt tả hữu quân sĩ trói chặt cha con Đoàn Tấn lại, sau đấy mới cắt đặt một số Ngự Lâm Quân tiền hô hậu ủng Đoàn Lão Hoàng Gia, rầm rộ hớn hở mở rộng Kim Loan Điện.

Thái tử Đoàn Cẩm đã trở về người người tung hô như sấm động. Một số tâm phúc của gian thần thấy tình hình trước mắt, cũng liệu theo chiều gió, rập đầu phụ họa tung hô lớn hơn ai cả.

Đoàn Lão Hoàng Gia ngồi chễm chệ trên ngai vàng tuyên bố tất cả tội trạng chất chứa từ mấy năm nay của Đoàn Tấn cùng sự việc trong đêm định dùng độc tửu thí vua, đoạn hạ chiếu chỉ dắt cha con Đoàn Tấn ra khỏi ngọ môn, lăng trì xử tử gia tộc lớn nhỏ đều bị phát vãng vào núi sâu làm khổ dịch.

Nhân dân bá tính trong nước nghe Đoàn Cẩm trở về phục quốc, quét sạch gian thần, nhà nhà đều mừng rỡ, mở tiệc khánh hạ hết sức ngợi khen tài đức của Thái tử họ Đoàn.

Đoàn Cẩm sau khi bình định được nội loạn, thầm cảm kích ơn trọng của vị khách áo vàng, nếu chẳng có chàng giúp đở thì tính mạng cha mẹ của chàng đều bỏ thây nơi tay độc ác của Thạch La Hán và Thiết Phất Đạo Nhân rồi, nên chàng tìm ngay vị ân nhân đáng kính ấy để hỏi xem tên họ là chi, người ở môn phái nào vì sao đến thành Đại Lý, giúp đở mình diệt trừ phản loạn một cách kịp thời như vậy ?

Chẳng ngờ chàng hỏi khắp thị thần trong cung mọi người đều trả lời không thấy, vị thư sinh áo vàng đã đâu mất từ lúc nào.

Cuối cùng có một Ngự Lâm quân gìa đến đưa ra một tờ hoa tiên và nói :

- Tâu Điện hạ vị tướng công áo vàng ấy đã ra đi rồi, tiểu nhân đang đứng ở trước ngọ môn, thì vị tướng công đó từ trong cung bước ra, tay cầm phong thư giao cho tiểu nhân bảo là y gấp trở về Trung Thổ, không kịp đến từ tạ Điện hạ và nhờ tiểu nhân đem phong thư này giao cho Điện hạ.

Đoàn Cẩm kinh hãi, vội bóc thư ra xem, thấy loại giấy đúng là văn phòng tứ bửu trong cấm cung thường dùng, nét mực chưa ráo, bút pháp ngang tàng như rồng bay phụng múa, nội dung như sau :

"Đoàn Cẩm Điện hạ khãi giải :

Duyên bèo nước tương phùng, tình cờ gặp chuyện bất bình , giúp quí quốc diệt gian trừ ác , trách nhiệm của kẽ hành hiệp giang hồ , bất tất phải ân nghĩa thêm phiền , sư môn danh tánh của kẽ bềnh bồng rày đây mai đó , thẹn thùng chẳng muốn nhận ân , nên chẳng lưu lại làm gì , hữu duyên kỳ ngộ gặp lại sẽ có ngày, khẩn mong thương dân cần chánh chuyên luyện võ công, tiến đến ngôi vị anh hào trong rừng võ thuật !"

Phía dưới không ký tên chỉ lưu lại hai chữ Cửu Cửu là hàm ý : Trùng Cửu và Trùng Cửu tức là Tiết Trùng Dương vậy.

Trùng Dương vừa đi vừa ngẫm nghĩ đến hai chữ Cửu Cửu dụng ý sâu xa của mình cảm thấy đắc ý bỗng cười khan lên một tiếng.

Châu Bá Thông từ nãy giờ lầm lủi bước theo chân sư huynh vừa mệt vừa khát, thấy sư huynh nghiêm nghị tư lự chẳng dám lên tiếng thình lình nghe Trùng Dương bật cười khan như thế bèn liến thoắng hỏi :

- Sư huynh có chuyện chi vui mà cười khan lên quái gở như thế !

Trùng Dương như bừng tỉnh cơn mê, cười tủm tỉm đáp :

- Ta nhớ lại lúc Nam Đế còn làm Thái Tử Đoàn Cẩm.

Châu Bá Thông không đợi Trùng Dương hết lời liền "úy" lên một tiếng kinh hãi và ngắt lời :

- Ủa ! Sư huynh định dắt tiểu đệ du lịch thành Đại Lý chăng ?

Trùng Dương lẳng lặng gật đầu mà không đáp, hai anh em lại lầm lủi đi hơn buổi trời thì đã đến dưới chân núi Kiếm Các Sơn.

Châu Bá Thông khát quá không chịu nổi, nhìn thấy phía trước có một đường mòn dẫn đến thôn xóm ở xa xa, bèn mừng rỡ , tay chỉ miệng nói tía lia :

- Sư huynh, chúng ta đến chỗ ấy xin một ngụm nước đở khát đi !

Tánh của Trùng Dương và Châu Bá Thông khác biệt nhau xa lắc, vì tánh Châu Bá Thông thích động, ham ăn, lắm lời, còn Trùng Dương trái lại trầm tĩnh hòa hoãn, cho nên hai người tuy cùng đi chung một đường mà ít khi chuyện vãn nhau.

Nghe Châu Bá Thông nói thế, Trùng Dương đã hiểu ngay tánh ham ăn của hắn sắp nổi dậy, bèn chau mày trách cứ :

- Sư đệ, em dù sao cũng là một người tu luyện nội công, sáng sớm hôm nay đã lo bụng lương khô rồi sao lại đòi ăn nữa ?

Châu Bá Thông chu miệng đáp :

- Tôi đòi ăn hồi nào ? Sư huynh xem trời nắng như thế kia mà chúng ta leo núi hơn nửa ngày trời miệng khô khốc chẳng còn một miếng nước miếng, khát muốn bõ mẹ, tìm người xin chút nước uống cũng không đến nỗi phạm pháp đâu mà sư huynh hòng sợ .

Trùng Dương nghe Châu Bá Thông nói chằm bằm như thế, chỉ đành theo ý chàng, hai người đi theo đường mòn đi thẳng đến sơn thôn nọ.

Nào ngờ đến sơn thôn, Châu Bá Thông sực khám phá thôn xóm này có trên trăm nóc gia, nhưng mỗi nhà nào cũng đóng cửa kín mít, khắp làng im liền như tờ, người chẳng có mà cho đến chó gà cũng không thấy bóng một con.

Châu Bá Thông rất đỗi lạ lùng bèn nói :

- Bá tính nơi đây thật là cần mẫn, cho đến đàn bà con nít cũng ra đồng làm việc ráo trọi ?

Nhưng Trùng Dương là một người kiến thức sâu rộng, chàng thấy ngay tình hình không phải, vì người trong làng dù bất luận lên non đốn củi hay xuống ruộng cấy cày, quyết cũng không không thể nào đem cả con nít theo bao giờ .

Hơn nữa từ nãy giờ trên đường đi, cũng chẳng thấy một thửa ruộng nào.

Chàng hết sức hồ nghi trong lòng.

Châu Bá Thông bỗng vọt miệng nói :

- Sư huynh, mình cứ tưởng đến đây xin bậy một bụng nước cho đã khát, ai ngờ rủi vô cùng, mẹ nó cái làng quỷ này tìm đỏ cả mắt chàng thấy một người làm thuốc, đi thôi !

Trùng Dương lắc đầu, nói :

- Không ngu huynh ở lại chờ người trong thôn trở về .

Châu Bá Thông kinh hãi hỏi dồn :

- Sư huynh, bộ điên rồi sao ? Cả làng quỷ này chàng có một người sống còn ở lại đây làm chi thế ?

Trùng Dương đáp :

- Ta xem thôn này chẳng phải không có người vì xóm làng tề chỉnh khang trang, trong nhà đồ vật trật tự ngăn nắp, không có chút gì lôi thôi, chứng tỏ dân làng có chuyện cần tạm thời rời khỏi nhà mà thôi

Châu Bá Thông không dám cải lời sư huynh của mình, nên đành phải nên lòng chờ đợi.

Hai anh em đợi như thế hơn nửa ngày, Châu Bá Thông lầm bầm trách cứ luôn miệng. Y sốt ruột, đôi mắt láo lên hết nhìn xuôi đến nhìn ngược, nhắc nha nhắc nhỏm như khỉ ngồi trên gạch nung, thình lình nghe nơi cỗng làng có tiếng người xôn xao.

Trùng Dương đã luyện qua công phu Nhất Dương Chỉ vừa lắng tai nghe đã phân biệt được có trên một hai trăm dân làng trở về trong tiếng người xôn xao, còn kẹp theo cả tiếng khóc rấm rứt nữa.

Châu Bá Thông nhãy phắt dậy, rồi như một luồng gió hốt chạy tít ra cổng làng.

Trùng Dương vội cất tiếng lại :

- Sư đệ chớ nên gây họa !

Chàng cũng tức tốc sải chân đuổi theo, quả đúng như ý liệu. Hơn mấy trăm dân làng kéo thành một đoàn đi vào cỗng thôn, trai gái gìa trẻ đủ hạng, mỗi trên tay trên lưng đều mang ống trúc và lồng tre, tiếng khóc lúc nãy là của hai người con gái.

Thì ra có một tráng đinh bộ ba bốn mươi tuổi được hai tên tráng đinh khác khiễng trở về, chân phải của gã tráng niên nọ sưng vù lên như thân cây chuối, màu da tím bầm như mực, đau đớn đến nỗi da mặt chẳng còn chút máu.

Châu Bá Thông chẳng tị hiềm mình là người xa lạ, vội tiến ra trước nhanh nhẩu hỏi thăm một cách trịch thượng :

- Này ! Ê các người nãy giờ đi đâu ?Sao chẳng để một người nào ở lại trông nom làng mạc thế ? Còn chú này bị giống vật gì cắn phải mà đến nỗi như vậy ?

Trùng Dương chưa kịp mở lời, Châu Bá Thông đã nói hước một hơi, chàng thầm gật đầu tự nhủ :

- Không sai ! Châu Bá Thông bảo nạn nhân bị độc vật cắn phải, có thể như thế lắm dấy !

Gã thôn dân nọ thấy Châu Bá Thông là người xa lạ, không khỏi ngạc nhiên, trong bọn có hai tên tráng đinh lớn tiếng hỏi :

- Mi ở đâu đến đây ? Ai mượn mi lo chuyện bao đồng, cút mau !

Châu Bá Thông sầm nét mặt lại và cũng lớn tiếng đáp lại :

- Ta lo chuyện bao đồng thì sao ! Ta nhất định chẳng cút đi mi lại làm gì ta ?

Vài tên thôn phu lỗ mãng nổi nóng lên, hai tên thôn phu đứng gần, lách mình nhãy đến định vồ Châu Bá Thông, chàng chỉ khẽ tràn người sang bên, hai tay chộp lấy cổ áo của hai tên nọ, vung mạnh một cái, hai tên thôn dân tựa như trái cầu lông, văng ra xa bảy tám bước.

Đám dân làng liền la toáng lên.

Trùng Dương vội nhãy bay ra trước quát lớn :

- Sư đệ em lại sinh sự đánh lộn với người rồi, không được làm bậy !

Chàng tiến bước, đứng án ngữ trước mặt Châu Bá Thông đoạn đưa mắt nhìn xem vết thương bị thú độc cắn của gã đàn ông nọ, và nói tiếp :

- Các người sao chẳng mau tìm cách cứu chữa ! Nếu để diên trì e mạng sống người này khó cứu đó.

Đám dân làng thấy Trùng Dương vẽ người phương phi tiêu sái râu dài suông đột, nói năng hòa nhã hiền từ, khác hẳn với vẻ lấc cấc của Châu Bá Thông, lập tức có cảm tình ngay bèn đồng rập đáp :

- Thưa đạo trưởng, đây là anh Lưu Nhất Hổ của bổn trấn, theo bọn tôi vào rừng bắt rắn, ơ hờ bị rắn lục trúc cắn phải (loại rắn này hễ cắn phải người thì vô phương cứu chữa, trừ phi đốt đỏ một miếng sắt, áp lên vết thương cho chay chỗ thịt đó đi).

Châu Bá Thông nghe đến rùng mình rởn óc.

Trùng Dương lẳng lặng móc trong túi ra một lọ sành màu xanh mở nắp trút ra một viên thuốc màu đỏ như lửa, nhét vào miệng nạn nhân và gọi :

- Mau đem nước ra đây, cho y một hoàn thuốc vào bụng .

Viên thuốc vừa rồi chính là lúc Trùng Dương so tài với Âu Dương Phong trong buổi luận kiếm Hoa Sơn thấy Âu Dương Phong nuôi dưỡng Xà trận, và chuyên dùng nọc rắn để hại người, nên sau khi trở về Trung Sơn khổ tâm nghiên cứu chế luyện ra một loại thuốc lấy tên là Hạc Diêm Chu linh hoàn, chuyên giải trừ nọc độc của rắn rít, vì Hạc là khắc tinh của loài rắn, chuyện dùng hạc làm vật nuôi thân, nước miếng của nó rất hiệu nghiệm giải trừ nọc rắn.

Từ lúc chế xong đến nay đây là lần thứ nhất chàng đem ra thí nghiệm cứu người.

Vài người trong bọn dân làng, vội lấy nước thuốc đổ vào miệng Lưu Nhất Hổ để y nuốt trôi hoàn thuốc vào bụng.

Quả nhiên thuốc giải hiệu nghiệm như thần, Lưu Nhất Hổ vừa nuốt xong hoàn thuốc ấy, liền ụa lên một tiếng lớn, mửa ra chẳng ít chất đờm màu vàng đen tanh tưởi, vết sưng phồng nơi giò cũng lần lần sọp xuống, hai cô gái nọ mừng rỡ thôi khóc.

Châu Bá Thông thấy trên người một thôn dân có đeo cái ống tre, chàng vốn tánh rất rắn mắc, bết thình lình giơ tay phải ra giật lấy chiếc ống tre của gã nọ, miệng thì tía lia :

- Trong ống có vật chi thế, cho ta xem thử nào ?

Miệng bằng tay, tay bằng miệng, chàng đợi người đàn ông nọ cho phép hay không chàng đã lẹ tay rút nấp ống tre lên, bỗng thấy bóng xanh lao vút ra, đúng một con rắn lục tre xẹt vút đến vươn cổ nhe nanh, mổ phập tới trước mặt Châu Bá Thông nhanh như mủi tên xẹt.

Châu Bá Thông tuy nghịch ngợm, đất trời cũng chẳng kiêng nhưng lại rất sợ rắn, chàng hốt hoảng tru tréo to lên "ối mẹ ơi !" rồi quăng ngay cái ống tre,

Trùng Dương mắt lanh lẹ, nhanh hơn cả giơ hai ngón tay ra kẹp đúng vào cổ không cho mổ vào mặt sư đệ mình, rồi rẩy mạnh một cái, con rắn lục tre vừa rơi xuống đất, liền uốn mình phóng tuốt vào bụi cây mất dạng.

Trùng Dương trong lòng đã hiểu phần nào, liền hỏi đám dân rằng :

- Các vị kéo nhau hết vào núi, chỉ vì chuyện bất rắn độc đến đỗi một người bị rắn độc cần phải suýt nguy hại đến tính mệnh, các vị bắt rắn như thế có ích lợi gì !

Một thôn dân liền đáp :

- Đạo trưởng chắc có lẽ không hiểu, vì có người xuất tiền trọng thưởng cho chúng tôi bắt được rắn đấy ?

Lại có mấy tên khác lừ mắt ra ý bảo y đừng nói, thôn dân ấy liền hội ý ngay, nhưng đã lỡ thốt lời rồi, nuốt lại cũng không được .

Châu Bá Thông vỗ đùi đánh chách và nói :

- Lạ thật, lạ thật ! Có ai chịu ra tiền cho các ngươi bắt rắn , chả trách cho đến ruộng vườn các người cũng chẳng thèm canh tác.

Chẳng lôi thôi gì cả ! Ta hỏi các người kẻ mướn bất rắn ấy là ai, ra bao nhiêu tiền thưởng !

Lối hỏi xấc lấc của chàng, chẳng một thôn dân nào buồn trả lời.

Trùng Dương thấy bọn thôn dân lặng thinh không đáp, chàng bỗng chợt rùng mình nhớ lại trên đời kẻ thích nuôi vô số độc xà, ngoài Tây Độc Âu Dương Phong ra, còn ai khác hơn.

Song theo lời người giang hồ thuật lại thì Âu Dương Phong thiết lập nơi Bạch Đà Sơn một đầm rắn vĩ đại, nuôi hằng muôn hằng ngàn loại độc xà khác nhau, sao lại có thể từ ngàn dặm xa xôi đến đất Tứ Xuyên này dùng tiền bạc mê hoặc bọn ngu dân này liều mạng bắt rắn cho y, chuyện này thật nhiều chỗ không hợp lý, nhưng đám thôn dân cố tình giữ kín chẳng chịu nói ra thì chỉ còn có cách cưỡng bách bắt họ khai mà thôi.

Trùng Dương liền lừ mắt ra dấu cho sư đệ mình, mà Bá Thông khôn lanh quỷ quái khỏi chê vào đâu nổi, tiếp được chỉ thị bằng mắt của sư huynh mình liền hội ý ngay, tằng hắng rồi nói thật to :

- Ê Cái lũ chết bầm này sao chẳng chịu trả lời sự thật cho ta nghe, rắn độc là vật hại người, bọn bây xúm lại nhau bắt nhiều thế kia có phải định hại người chăng ? Mau mau khai sự thật ra, bằng không. Hừ ! Hừ ! Ông sẽ tịch thâu ống rắn, lồng rắn của các ngươi mang tấm vải kia đem hủy .

Giả Kim Dung

Võ Lâm Ngũ Bá

Hồi 75

Trêu Chọc Thiết Chưởng

Bọn thôn dân nghe Châu Bá Thông nói hăm he như thế đều cả kinh thất sắc, vì lúc nãy đã tận mắt nhìn thấy sơ qua bản lãnh ném người của Châu Bá Thông , hiểu rõ chàng ta hễ nói là làm , vạn nhất bị chàng thả hết rắn độc của mọi người bắt được ra thì thật là uổng công.

Bọn họ không khỏi bối rối nhìn nhau rồi lên tiếng lia lịa :

- Quan nhân đừng vội ra tay. Chúng tôi nói ngay. Chúng tôi nói ngay.

Một lão thôn dân sợ quá, bèn vội vàng tiếp lời :

- Thật chẳng dấu gì quan nhân, chúng tôi kéo nhau vào rừng bắt rắn hoàn toàn vì một món tiền thưởng lớn lao, cho nên dân làng chúng tôi bỏ cả việc rẫy bái mà theo nghề bắt rắn.

- Có người chịu bỏ tiền ra cho các người vào núi bắt rắn hử ? Họ cho được bao nhiêu, mà các ngươi dám liều mạng thế ?

Lão thôn dân đáp :

- Độ một tháng trước đây có một người đột ngột đến làng chúng tôi. Người ấy là một lão gìa sồn sồn, lùn tịt mặc áo vải vàng.

Ngừng một chút lão thôn dân gật đầu nói tiếp :

- Phải đấy. Lão lùn ấy mặt mũi chẳng có gì khác thường, chỉ có đôi mắt sáng lạ kỳ nhìn thấy phải phát sợ. Lão vừa đến làng đã lên giọng hỏi ngay trong làng có người nào biết bắt rắn không ?

Lão lùn ấy tự xưng là một vị lái buôn dược liệu, cần mua một số lượng khá nhiều độc xà để chế thuốc ngâm rượu, nên mướn chúng tôi bắt rắn cho y, giá của y mua rất cao mỗi con rắn độc còn sống trị giá là ba phân bạc, mười con là được ba lượng.

Còn nếu bắt được loại rắn độc đặc biệt thì gía cả còn cao hơn nữa .

Châu Bá Thông lại hỏi tiếp :

- Ngọn núi trước mặt nhiều rắn lắm phải không ? Các người dùng cách nào để bắt ?

Lão nông dân nói :

- Nói chung người đi bắt rắn, hầu hết dùng lưu hoàng chế thành thuốc trừ rắn. Lấy thuốc đó bôi vào tay để mà bắt rắn. Lưu hoàng là một chất độc hạng nhất đối với rắn, chúng nó gặp phải lập tức thân thể như tê dại mềm nhũn ra.

Song lão lùn mướn chúng tôi đến bắt rắn ấy, không bằng lòng dùng lưu hoàng, mà lại bảo chúng tôi phải dùng vật này. Đây ngài xem !

Vừa nói y vừa đưa tay lên.

Trùng Dương nhìn thấy đó là một cây trúc ngắn , trước đầu cây trúc có làm một cái vòng.

Lão nông dân nói tiếp :

- Cái ông lùn ấy dạy chúng tôi cái này để bắt rắn. Chỉ cần tìm đến hang rắn, bốn năm người cầm cái này vây ở miệng hang rồi lấy lá cây đun khói thổi vào hang cho rắn phải bò ra, lúc ấy vòng cổ rắn bỏ vào lồng tre.

Châu Bá Thống chu mỏ :

- Úi cha ! Như thế thì nguy hiểm lắm, sẩy một chút rắn cắn rồi sao ?

Lão nông dân thở dài :

- Cũng không còn cách nào hơn nữa ! "Người vì của mà chết, chim vì ăn mà vong" , trường hợp của Lưu nhị lão mà ngài mới cứu vừa rồi, là một cái gương cho chúng tôi .

Châu Bá Thông sa sầm mặt xuống :

- Bắt đầu từ nay, các người đừng có đi làm cái chuyện ghê rợn đó nữa nghe không . Cái tên đó nó muốn giết hết dân trông làng này đó. Các người ngu quá bị người ta lợi dụng chết đến cẳng rồi mà không biết ! Chu cha !

Mấy lời nói của Châu Bá Thông, làm cho đám nông dân lạ lùng buột miệng kêu lên .

Trùng Dương cũng cảm thấy anh chàng họ Châu nói chẳng e dè vừa muốn mở lời, thì Châu Bá Thông đã nhướng cặp mắt trắng dã lên nói :

- Tôi nói thế các anh không tin à ? Bây giờ tôi hỏi các anh một câu, vậy chớ người ta sống trên đời này, tiền bạc là cần, hay tính mạng là cần ?

Những người nông dân thấy Bá Thông nói giọng trẻ con quá cũng bật cười :

- Tất nhiên tính mạng là cần hơn rồi Nếu như không có tính mạng thì trăm vạn gia đình cũng chẳng dùng vào đâu được .

Châu Bá Thông hỉnh mũi :

- Các người biết như vậy, tốt lắm ! Nè cái lão lùn đó đã mang tiền đến mua lấy tính mạng của các ngươi đấy. Cứ suy nghĩ đi, bắt sống một con rắn độc hắn trả cho các người được mấy đồng tiền !

Hắn mua rắn để làm gì ? Làm thuốc để ngâm rượu à ? Các người biết thuốc và rượu đó bán bao nhiêu không ?

Các người vô núi bắt rắn hơn một tháng kiếm được mấy đồng tiền ? Bị rắn độc cắn chết bao nhiêu người ? Nói đi ! Thử coi ?

Thôn dân nghe Châu Bá Thông nói nột hồi lặng thinh suy nghĩ. Những lời lẽ của họ Châu thật là đúng lắm.

Dân trong làng tuy có kiếm chút ít tiền của lão lùn đó, nhưng mấy tháng nay đã có mấy người bị rắn cắn chết . Nếu cứ như vậy năm này qua tháng nọ, sẽ không biết phải chôn bao nhiêu mạng người thật là một điều dễ sợ !

Châu Bá Thông quan sát sắc diện, biết lời nói của mình đã đánh trúng vào tâm lý của họ. Chàng càng đắc ý nói thêm :

- Bọn ngươi thật là một đám người khờ dại, ta nói thật cho mà biết, cái tên lùn đó bảo các người bắt rắn độc cho hắn đem đi luyện phép yêu để giết người đấy.

Những lời nói bịa đặt trái tai đó, vậy mà các thôn dân lại tin rầm lên, vội vã hỏi dồn :

- Rắn độc lại có thể luyện được phép yêu sao ? Lão gia không đùa với chúng tôi đấy chứ ? Gớm cái thứ như vậy mà luyện thành phép yêu nhỉ ?

Châu Bá Thông lại làm ra vẽ thần bí :

- Ý ! Cho các nói biết nhé : Có giống dân ở miền núi, có một pháp thuật dị kỳ, pháp thuật đó, họ dùng rắn rít, bò cạp luyện thành.

Họ bỏ thứ đó vào vật ăn thức uống, người nhiểm phải là chết liền không kịp ngáp. Vậy nó không phải một thứ phép yêu sao ? Nó còn một cái lợi hại nữa là...

Chàng vừa nói tới đó, bỗng phía sau đám thôn dân có tiếng xôn xao :

- Đó, lão gìa lùn đến đó !

Trùng Dương nghe nói nghĩ thầm :

- Hừ ! Nói tới kẻ gian thì kẻ gian đến liền. Quả là đúng dịp may, để xem hắn là một nhân vật ra sao ?

Châu Bá không nhướng mắt :

- Hắn tới đấy à ? Này, các ngươi hãy lại lấy tiền đi. Mà lấy tiền chứ đừng bắt rắn cho hắn nữa đa.

Dám thôn dân dạ rân lên.

Quả nhiên ngược lại theo đường núi một gả xồn xồn lùn xịt, mặc chiếc áo xám vàng, tay phe phẩy chiếc quạt ba tiêu xâm xâm đi tới.

Hắn nhìn thấy Trùng Dương và Châu Bá Thông đứng lộn trong đám thôn dân thì hơi có ý ngạc nhiên. Nhưng lại tỏ ra vẻ bình thường, lắc lắc chiếc quạt hỏi với giọng người trên :

- Này, bữa nay việc bắt rắn ra sao ? Có thứ rắn độc đặc biệt không ?

Thôn dân nói :

- Lão gia chúng tôi bửa nay cộng chung là bắt rắn được mười bảy con. Toàn là rắn Thanh Trúc và rắn Ô Tiêu, chứ không có thứ rắn độc đặc biệt.

Lão lùn nghe nói, mặt có vẻ không bằng lòng :

- Hừ ! Không có rắn đỏ à ?

Mấy người thôn dân nói :

- Thứ rắn đó nguy hiểm lắm, nó cắn một cái thì tức khắc chết liền. Chúng tôi gặp nó cũng không dám bắt. Xin lão gia thứ mạng cho vậy !

Lão lùn hừ một tiếng :

- Đâu ? Đem lại đây coi .

Thôn dân lần lượt mang lồng tre lại.

Lão lùn với dáng điệu chậm rãi, rút trong lưng ra một cái túi vải, và mở từng cái nắp lồng, lập tức rắn độc phóng vọt ra ngoài.

Lão ta nhanh như cắt chỉa hai ngón tay kẹp lấy mình con rắn, rắn độc tức thì như mềm nhũn không cựa quậy gì cả. Cứ như vậy lão lượm hết bỏ vào trong túi.

Châu Bá Thông trố mắt nghĩ thầm :

- Tài ! Cách bắt rắn của lão này thật là thuần thục , thế mà tại sao hắn không tự đi bắt lấy mà lại biểu thôn dân ? Thật là kỳ hé !

Lão lùn bắt hết rắn xong cột túi lại, đoạn móc tiền ra :

- Được rồi ! Cho tiền đây !

Lão ta lấy ra một đỉnh rưỡi bạc tính chung quanh mười bảy con rắn, trao cho dám thôn dân và nói :

- Mấy hôm nay bắt rắn ít quá ! Các người phải ráng lên, bắt được nhiều con mới có được nhiều tiền chứ.

Một người thôn dân vụt nói :

- Lão gia ! Chúng tôi lo bắt rắn cho lão gia ruộng vườn trong thôn đều bị bỏ hoang tất cả, đã vậy mà có tám người lại còn bị rắn độc cắn chết. Tiền tuy rằng quý, nhưng mạng người lại còn quý hơn. Chúng tôi định từ hôm nay, không dám bắt rắn cho lão gia nữa .

Lão lùn bỗng sa sầm mặt lại :

- Tên nào xúi biểu trừng bắt rắn ? Nói mau !

Thôn dân không dè lão lùn hỏi như thế cho nên ấm ức không biết nói sao.

Lão lùn cười lạt :

- Hừ, ngươi tưởng ta chưa biết kẻ nào đã xúi dục các người à. Cái tên ấy quả là gan hùm. Lại đây ! Lại đây, ta sẽ cho cho ngươi xem sơ sơ cái này, và cũng nhân tiện cho cái tên đó biết bản lãnh của gia gia.

Hắn vừa nói vừa liếc xéo Trùng Dương và Bá Thông một cái, rồi thình lình đưa tay lên đập vào phiến đá to ở dựa vào mé đường.

Tay và đá vừa chạm vào nhau, doi lên một tiếng "bùng !" thật lớn, bột đá và lửa nháng tứ tung.

Các thôn dân nhìn kỹ, thấy đều le lưỡi lắc đầu.

Thì ra, lão lùn vừa đánh xuống một chưởng trên một phiến đá đã in rành nguyên một bàn tay, lún sâu vào quá năm phân.

Châu Bá Thông cao giọng :

- Hay ! Thật là kinh khủng, bản lãnh lợi hại của đậu hũ chưởng !

Lão lùn nghe Châu Bá Thông gọi chưởng pháp của mình là "đậu hũ chưởng" thì đùng đùng nổi giận bước tới quát lớn :

- Chết bầm ! Tại làm sao gọi là đậu hũ chưởng ? Hãy nói ra mau. Ngươi là kẻ lớn tài cao phải không ?

Châu Bá Thông cười hì hì :

- Không dám ! Không dám ! Đây chỉ là kẻ nhỏ, mà tài thì cũng là thấp quá đi thôi !

Lão lùn thì đối phương nói móc mình, khí giận càng nổi lên dử tợn :

- Tên chó chết ! Có phải ngươi là kẻ đã xúi dục họ đừng bắt rắn cho ta đó không ?

Châu Bá Thông vốn là một con người kỳ cục, đối diện với kẻ nào giận thì chàng lại càng cố chọc tức thêm.

Nghe lão lùn nói thế chàng ngữa mặt cười ha hả :

- Đúng vậy ! Chính ta đã bảo họ đấy ! Ngươi ỷ có mấy đồng bạc mục , nói là đi mua rắn nhưng thực thì đi mua mạng của con người. Ngươi có biết không , họ bắt rắn cho ngươi, trong vòng tháng nay đã chết mất tám người rồi đó. Ngươi có bảo bọc cho họ không ?

Lão lùn thực tức lên cực độ :

- Ta bảo bọc hay không bảo bọc thì lại mắc mớ gì đến ngươi ? Ngày nay không gió ngươi lại muốn làm cho có sóng. Lại đây ! Lại đây ! Chúng ta thử nhau chơi.

Vừa nói vừa đưa cả hai tay ngoắc lia ngoắc lịa Châu Bá Thông .

Trùng Dương lập tức bước xéo lên tới trước, vòng tay đối diện với lão lùn :

- Sư đệ của bần đạo, mạo phạm đến tôn giá vì từ trước nay y vốn có tính trẻ con đùa cợt xin tôn giá không nên lấy đó làm thật. Thiết chưởng của tôn giá vừa rồi bần đạo lấy làm khâm phục, ấy chẳng hay lệnh tôn sư là ai có thể cho biết được cùng chăng ?

Lão lùn nghe hỏi, thầm kinh hãi :

- Thiết chưởng công phu là một môn tuyệt kỹ võ lâm ít có người biết, thế mà đạo sĩ này mới nhìn qua đã biết thật quả lạ kỳ !

Lão ta bèn vội vàng hỏi lại :

- Đạo trưởng pháp hiệu là gì ? Xin cho được biết ?

Châu Bá Thông hớt nói :

- Sư huynh ta danh gọi là tổ sư gia ngón đậu hũ chưởng của ngươi đó, sư huynh ta không có xem ra cái cóc gì đâu !

Lão lùn cả giận quát to :

- Không xem ra cóc gì ! Được ta với ngươi hãy thử xem .

Vừa nói lão lùn vừa tung ra một chưởng.

Châu Bá Thông né qua một bên, cười khè :

- Châu Bá Thông không thích đụng chưởng vào kẻ vô danh tiểu tốt, hãy xưng tên ra đây .

Lão lùn gầm lên :

- Lão gia họ Cầu, thiên hạ tôn là Cầu Thiết Chưởng. Còn ngươi là họ Châu hả ? Hay lắm ! Ăn một chưởng rồi sẽ nói !

Dứt tiếng, nhắm Bá Thông đẩy ra một chưởng.

Châu Bá Thông nhãy lùi lại đàng sau bật cười ha hả.

Cầu Thiết Chưởng thấy họ Châu cười rất là cổ quái, lấy làm lạ dừng lại hét lên :

- Chết bầm ! Ngươi cười cái gì ?

Châu Bá Thông cười ngất :

- Lão gia cười cái chưởng pháp của ngươi thiết là luôn cả đậu hủ cũng không làm bể được mà tự xưng là thiết chưởng. Cái xấu hổ nhất trong thiên hạ chắc cũng chỉ cỡ đó mà thôi. Hà hà !

Cầu Thiết Chưởng giận ói mật xanh :

- Ngươi nói chưởng của ta là chưởng đậu hũ vậy thân thể của con người là đá chắc . Nếu ngươi chịu thử nổi một chưởng mà không ói máu ra thì mới hay chứ.

Trùng Dương biết ý của Châu Bá Thông, giá như bình thường, thì ông đã bước lên ngăn cản, nhưng trường hợp này thấy Cầu Thiết Chưởng lời lẽ quá hỗn láo kiêu căng, nghĩ rằng để cho sư đệ mình trừng trị hắn một phen âu cũng là việc hay. Bèn tảng lờ không nói.

Châu Bá Thống ứng tiếng đáp liền :

- Được lắm ! Ngươi đã đem cái đậu hũ chưởng của mình mà thổi phồng lên lợi hại, vậy thì lão gia đứng tại chỗ này chịu cho, ba chưởng của ngươi quả đập chết được lão gia, lão gia sẽ không bẩm báo với Diêm vương gì cả. Bằng như lão gia qua ba chưởng mà vẫn sống nhăn, thì hì hì ! Ngươi hãy chịu khó học cách thức của con rùa đen, mà bò lăn xuống núi, biết chưa ?

Cầu Thiết Chưởng như lửa cháy thêm dầu, rít lên :

- Cần gì ba chưởng, chỉ một chưởng cũng đủ kết liễu tính mệnh của mi rồi.

Châu Bá Thông ưỡn ngực :

- Thử xem !

Cầu Thiết Chưởng gầm lên một tiếng, tung thân nhãy tới vung cánh tay với trọn vẹn thiết chưởng công phu, nhắm đúng vào Hoa Cái huyệt ở giữa ngực của Châu Bá Thông đập tới, với công lực bẩy thành kình khí.

Châu Bá Thông không chút chi giao động, hé miệng rít đầy chân khí, vận xuất Thái Ất Thần công là một công phu niên đẳng của toàn thân sinh mạng.

Loại thần công này, một khi vận đầy chân khí, có thể làm cho các bộ phận trong thân thể mềm xốp như bông gòn, mà cũng có thể làm cho các bộ phận trong thân thể cứng như gang sắt.

Cầu Thiết Chưởng làm sao biết được.

Chưởng phong vừa ập tới, chợt thấy ngực của đối phương hóp sâu vào, mà nơi chịu chưởng thì như cái gối bông xốp xộp, da thịt Châu Bá Thông không bị hề hấn chút gì cả.

Cầu Thiết Chưởng kinh hoảng, vội vàng dụng sức thu hồi kình lực.

Bất ngờ, vừa mới triệt thu, chợt thấy da thịt đối phương thình lình bung ra như sợi dây cung trả lại, tiếp theo một loạt kình phong đùa ra như vũ bão .

Cầu Thiết Chưởng bị sức dội đẩy lùi ra xa năm sáu bước.

Châu Bá Thông ngữa mặt cười ngất :

- Họ Cầu ! Ta bảo chưởng của ngươi là chưởng đậu hũ, có đúng hay không ? Hãy mau bước tới cúi đầu gọi ta gia gia, ba tiếng ta sẽ miễn cho khỏi làm thân con rùa đen.

Cầu Thiết Chưởng quát lên :

- Bản lãnh khá lắm ! Nhưng hãy còn hai chưởng nữa. Đó là do ngươi giao ước. Đỡ này !

Vừa dứt tiếng, liền quăng mình tới, nhầm ngay mỏ ác của Châu Bá Thông phát ra một chưởng.

Châu Bá Thông nhích nhẹ đầu qua một bên, chưởng phong trúng ngay lên mỏm xương vai.

Song, bây giờ không phải mềm như bông nữa. Mà da thịt trái lại như có một lớp sắt bao bọc bên ngoài.

Chưởng lực của Cầu Thiết Chưởng vừa chạm đến, không một chút lay động.

Châu Bá Thông ngữa mặt cười sặc sụa.

Cầu Thiết Chưởng lui lại sau hậm hực :

- Họ Châu ! Đừng vội nghênh mặt !

Châu Bá Thông cười ha hả .

- Đậu hũ chưởng ! Tại sao lại không nghênh mặt ! Chớ mặt lão gia không phải ở đằng trước đây sao ?

Cầu Thiết Chưởng lý sự :

- Người đã giao ta ba chưởng, thế tại sao chưởng của ta vừa tới, người lại né đầu tránh đi, không dám chịu ? Lại còn dám xưng là anh hùng hảo hán nữa à ?

Giả Kim Dung

Võ Lâm Ngũ Bá

Hồi 76

Mua Rắn làm Rùa

Châu Bá Thông chỉ bằng lòng chịu đánh chứ đâu có giao ước việc chịu đánh trúng chỗ nào. Vả lại cũng đâu có giao rằng không được tránh né ! Chẳng qua Cầu Thiết Chưởng túng quá nói ngang mà thôi.

Đám thôn dân thấy dáng điệu hung hãn của họ Cầu thì đã reo hò hỗ trợ cho Châu Bá Thông, bây giờ thấy Thiết Chưởng bị bại luôn, mà còn tìm cách chống chế vô lý, bèn hè nhau vỗ tay chế giễu :

- A ! Ông tướng lùn hay quá ! Hay quá !

Thấy thôn dân ráp nhau chế nhạo mình, Cầu Thiết Chưởng nổi giận đùng đùng, nhãy phốc lên vung tay nhắm ngay ngực của một thôn dân đánh ào ra một chưởng.

Thiết chưởng công phu đã có sức nghiền đá vụn ra như phấn, nếu mà đánh trúng ngay vào mình của một người chỉ biết cày sâu cuốc bẩm thì kể như tính mệnh bay theo gió bụi.

Châu Bá Thông càng biết nguy hiểm đó hơn nữa, cả kinh dợm chân nhãy tới, trong lúc chàng định ra tay ứng cứu, thì bỗng nhiên...

Thủ chưởng của họ Cầu chưa kịp đụng đến ngực ngươi thôn dân, thình lình hắn ta rống lên một tiếng, văng ngược lại phía sau.

Nguyên vì lúc Cầu Thiết Chưởng vừa vung tay ra thì Trùng Dương đã lẹ làng nhãy tới, ông không dùng chưởng để đối kháng mà lại quây nhẹ cái phất trần đang cầm nơi tay qua một vòng.

Lập tức đã cuốn chặt vào cánh tay phải của Cầu Thiết Chưởng và nhanh như chớp vung ngược ra ngoài, Cầu Thiết Chưởng bị ném tung lên gần một trượng.

May nhờ hắn luyện tập công phu dồn xuống hạ thân chắc chắn nên hai chân vừa chạm đất, đã gượng thế đứng yên lại được không bị té nghiêng, họ Cầu bất giác mặt mày đỏ bừng vì xấu hổ.

Cầu Thiết Chưởng bị thêm một phen điêu đứng nữa, biết rằng Trùng Dương và Châu Bá Thông là hai tay cao thủ ít có trong võ lâm, cùng với họ tỷ thí cách nào nhất định mình cũng sẽ ở vào thế bại. Cái phương pháp duy nhất của kẻ bị thua thì trong ba mươi sáu chước, chỉ có chạy là hơn hết, nhưng hắn thấy rằng chạy như thế, lại có chỗ chưa được cam tâm.

Cầu Thiết Chưởng bèn ngó Châu Bá Thông, cười hung dử :

- Hai người dầu là kẻ có bản lãnh đấy ! Nhưng còn một chưởng hãy chưa đủ số, nếu ngươi dám đứng yên một chỗ chịu ta một chưởng thì Cầu mỗ này sẽ phục lăn sát đất mà rời khỏi nơi này.

Châu Bá Thông cười ha hả :

- Cũng được ! Ta đứng tại nơi đây chịu ngươi một chưởng. Nhưng, ta phải nói với sư huynh của ta vài câu đã.

Chàng bèn bước đến gần Trùng Dương kề tai nói nhỏ.

Chỉ thấy Trùng Dương cau mày, hạ giọng :

- Như thế sao nên ?

Châu Bá Thông cố nói :

- Sư huynh ! Tiểu đệ đã nói rồi, không thể nói lại nữa, xin sư huynh ráng cho mà.

Trùng Dương mỉm cười gật đầu.

Châu Bá Thông bèn bước ra nói lớn :

- Chú lùn, Châu lão gia sẽ đứng ở đây để chịu nhà ngươi một chưởng nữa. Nhưng có một điều này nếu như Châu lão gia không bị thương vì cái chưởng của ngươi thì hà hà... ngươi phải làm theo kiểu con rùa đen, bò đi đúng một trăm bước nghe không ?

Đám thôn dân nghe nói đều cười rộ.

Cầu Thiết Chưởng giận quá, không nói không rằng gì cả vận chín thành công lực vào thiết có chưởng nhắm ngay Thái dương đại huyệt của Bá Thông đánh tới.

Đầu là phần quan trọng của lục dương, một người dầu cho luyện tập võ công đến mức độ da thịt cứng như sắt đá đi nữa, nhưng bộ phận trên đầu vẫn là nơi mềm yếu. Mà chỗ yếu hiểm hơn hết lại là Thái Dương huyệt, đánh trúng vào nơi ấy không chết cũng trọng thương.

Cầu Thiết Chưởng nhắm vào trọng huyệt của Bá Thông quả là muốn hạ độc thủ cực kỳ hiểm ác.

Châu Bá Thông quả nhiên đứng sững không nhúc nhích, và chưởng phong của họ Cầu cũng quả nhiên đánh trúng vào huyệt đạo Thái Dương.

Lạ làm sao, chỉ nghe "bụp !" một cái, đám thôn dân kinh hoảng, tưởng rằng đầu của Bá Thông đã trúng chưởng nứt nẻ ra rồi.

Nhưng định thần nhìn kỹ, Châu Bá Thông vẫn y nhiên bất động, mà Cầu Thiết Chưởng đã quay đầu bõ chạy.

Nguyên vì trong khi họ Cầu xuất chưởng lẹ làng đánh vào yếu huyệt của Bá Thông thì Trùng Dương đã y theo kế hoạch sách định sẵn cũng lẹ làng sử dụng Nhất Dương Chỉ, chỉ khẽ nhích ngón tay hướng vào mạch môn nới cổ tay của hắn ta điểm tới.

Động tác lay khẽ non tay của Trùng Dương bị ống tay đạo bào che khuất, dầu cho ai tinh cách nào cũng không thể phát giác ra được.

Cầu Thiết Chưởng bất thình lình cảm thấy mạch môn tê điếng, thủ chưởng mềm nhũn rã rời, tuy đánh trúng ngay Thái Dương huyệt của Bá Thông, nhưng không có một chút kình lực nào cả, y như là gãi ngứa.

Bá Thông ngữa mặt cười ha hả.

Cầu Thiết Chưởng biết có chuyện mờ ám, nhưng lão ta không biết ngón Nhất Dương Chỉ mà lại cho rằng Châu Bá Thông dùng ám khí hoặc cục đạn hoặc cây kim gì đó rất nhỏ, ném đúng mạch môn làm cho chưởng phong của mình mất hẳn kình lực.

Song, vì không có chứng tích gì để tỏ rằng Bá Thông dùng ám khí, nên Cầu Thiết Chưởng không dám nói ra, sợ đối phương cười xấu hổ.

Nên lão ta đành ngậm miệng quay đầu bõ chạy.

Châu Bá Thông lớn tiếng kêu giật ngược :

- Ê ! Đậu hũ chưởng ! Lão gia đã nói mà không chịu tin, bây giờ lại vỗ đít bỏ chạy sao ? Không được đâu ! Hãy mau làm con rùa mà bò đủ một trăm bước cái đã, rồi Châu lão gia sẽ dung cho.

Cầu Thiết Chưởng nghe Bá Thông bảo mình làm con rùa bò thì cả giận hét to :

- Kẻ sĩ thì chết chứ không chịu nhục, Cầu mỗ này đầu có thể đứt, chân có thể gảy,chứ không thể làm việc đó được đâu. Ngươi đừng mong những chuyện điên rồ như vậy !

Châu Bá Thông giận dử thét lên :

- Người đã thua thì phải làm con rùa, không chịu ta bắt cũng phải làm.

Cầu Thiết Chưởng giận run :

- Nói xàm ! Ngươi đã ném ám khí đánh trúng mạch môn của ta, làm cho chưởng lực của ta không giúp cho người làm quỷ được, bây giờ còn rống họng nhiều chuyện nữa à ?

Châu Bá Thông cười ngất :

- Ngươi nói lão gia dùng ám khí hử ?

Cầu Thiết Chưởng bị hỏi cứng họng, nói :

- Ngươi gìa hàm không chịu nhận, vậy chớ tại làm sao chưởng phong của ta vừa đánh trúng thái dương ngươi bỗng cánh tay ta tê cứng lên,

chưởng lực không phát ra được nữa ?Vậy chẳng phải trong đó đã có chuyện kỳ cục hay sao !

Châu Bá Thông cười ngặt nghẽo :

- Đó là tại các chứng phong thấp của ngươi phát lên, rồi lại gán cho lão gia cái chuyện bậy bạ như vậy để cầu hòa. Không được, hãy làm rùa cho mau.

Cầu Thiết Chưởng nói dặt một :

- Không làm !

Châu Bá Thông gầm lên :

- Ngươi không chịu làm, thì Châu lão gia phải dạy cho ngươi một trận !

Dứt tiếng song chưởng ào ào, đập thẳng vào Cầu Thiết Chưởng.

Cầu Thiết Chưởng này về sau tức là Cầu Thiên Nhẫn, bang chủ của Thiết Chưởng Bang, lúc bây giờ lão ta chưa tiếp nhiệm bang chủ, nhưng đã nuôi trong lòng cái chí hướng luyện thành tuyệt kỹ võ công. Cho nên họ Cầu mới đến Tứ Xuyên này dùng tiền bạc dụ thôn dân bắt rắn, đễ luyện Độc Xà Thần Chưởng, một chưởng công kinh khiếp chưa từng có trong võ lâm, có thể trở thành vô địch trong thiên hạ xưng bá giang hồ.

Nào dè độc xà kiếm chưa đủ số, công phu cũng chưa bắt đầu luyện tập, thì gặp hai anh em Trùng Dương phá vỡ ý định của mình, thử hỏi làm sao nhịn được ! Lại thêm Châu Bá Thông

làm thói con nít, muốn bắt làm rùa, họ Cầu dể đâu chịu khuất phục.

Châu Bá Thông vừa xuất chiêu, Cầu Thiên Nhẫn đã gầm lên một tiếng, cánh tay trái duỗi thẳng bàn tay lật qua, dùng ngay thế Kim Kê Tiễn Dực, nhè nhẹ hứng lấy liên hoàn chưởng của Châu Bá Thông vừa đánh tới.

Trùng Dương nhìn thấy khen thầm :

- Hay ! Người này bản lãnh tuy không bằng những tay luận kiếm hoa sơn, nhưng lại mau lẹ và mạnh mẽ vô cùng, tài đó nếu được phát triển theo tháng năm ắt sẽ không khó trở thành tuyệt thế.

Hai chưởng liên hoàn đánh ra trớt tới. Châu Bá Thông lửa giận bừng bừng nhãy chồm tới đánh khỉa ba chiêu, trong phép tạp quyền.

Chiêu thứ nhất là Miên Lý Chàm của phái Võ Đang, thứ hai là Xuất Văn Thủ vốn của gia sư, và thứ ba là Thắng Quỹ Nhất Điêu Tiên đều được dùng theo thế liên hoàn nhanh như điện chớp.

Cầu Thiên Nhẫn lách bên trái né bên phải một cách chật vật khó khăn. Thầm nghĩ lạ lùng :

- Người này quyền học thâm diệu như thế, không biết y là môn đệ của phái nào ?

Châu Bá Thông vốn là kẻ tính tình kỳ cục, muốn che dấu môn phái của mình để cho kẻ địch không biết đâu mà rờ, bèn áp dụng Đóa Cương Quyền trong những tuyệt học của Thiếu Lâm, nhằm đối phương biến đổi công thế.

Quyền pháp này gồm có hai mươi sáu đường chiêu thuật đưa ra là luôn luôn công hãm ào ạt như sấm chớp mưa tuôn.

Cầu Thiên Nhẫn xem thấy cả kinh, vội vã giở Thông Bối quyền, một quyền thuật căn bản nội gia ra đối kháng.

Thông Bối Quyền còn có tên là Thông Tý Quyền vốn là một quyền pháp có rất sớm trên lịch sử võ học Trung Hoa, đã thịnh hành vào thời Xuân Thu Chiến Quốc.

Bởi vì lúc bấy giờ đánh giặc dùng chiến xa làm chính, khi chiến xa và chiến xa xáp cận với nhau, tức là lúc mà người với người phân tài cao thấp, lẽ tất nhiên quyền thuật được xem trọng yếu và Thông Bối Quyền cũng bắt đầu ra đời từ đó.

Sử dụng Thông Bối Quyền, Cầu Thiên Nhẫn đã đánh được hai mươi bẩy đường thì quyền pháp nhanh đến cực độ bóng cánh tay vun vút giao khớp quanh mình.

Châu Bá Thông cũng tuôn ra toàn bộ Đóa Cương Quyền cùng với họ Cầu bốn năm mươi hiệp không phân cao thấp .

Châu Bá Thông nôn nóng bồn chồn chàng cho rằng công lực họ Cầu chỉ có thế thôi, dằng dai mãi không đánh bại được đối phương.

Chàng ta nổi nóng hét lên một tiếng, đổi cách đánh, áp dụng Thái Ất Quyền một tuyệt kỹ của môn phái Toàn Chân, từng thức từng chiêu tấn công tới tấp như sóng dậy trường giang ào ào không dứt .

Cầu Thiên Nhẫn vừa thấy cả kinh la lớn :

- Dừng lại ! Có phải Toàn Chân Giáo đó không ?

Châu Bá Thông không chịu ngưng tay, vừa tấn công vừa chửi :

- Thằng giặc chết bầm ! Lão gia là Toàn Chân Giáo đó, rồi có làm sao không .

Nói vừa dứt, lại biến đổi luôn thế đánh, tả quyền hữu chưởng, quyền móc dưới be sườn chưởng đẩy vào giữa ngực, theo chiêu thế Tần Vương Thiên Thạch.

Cầu Thiên Nhẫn vốn đã sẵn khiếp cái tên Toàn Chân Giáo, chân tay lính quính, lật đật vận dụng cả đôi tay, tung ra thế Tả Thôi Hữu Đảo, ý muốn tách rời quyền cước của Bá Thông.

Nào ngờ Thái Ất Quyền là một lối đánh dây chuyền, chiêu thức liên tục thi nhau bay tới hoài không dứt.

Cầu Thiên Nhẫn vừa mới dang đôi tay ra, Châu Bá Thông liền khai triển song thủ, nhanh như chớp bắt chặt ngay cùi chỏ.

Bất ngờ cánh tay bị nắm, Cầu Thiên Nhẫn hoảng hồn, vội vàng uốn cong lưng xuống đang định đá móc ngược lên .

Châu Bá Thông bèn trở thế Lão Ai Chấn Y, vận trọn kình lực vào đôi tay, phi ngược ra ngoài đồng thời hét lớn :

- Đi này !

Tức thì, thân hình Cầu Thiên Nhẫn như một viên đạn ném ra, đầu dưới cẳng trên chúi nhủi theo dốc núi.

Đá cuội đá lồi, chơm chởm theo triền núi, nếu Cầu Thiên Nhẫn lăn lông lốc trên đó nhất định nếu không bị thương tích nặng nề, thì cũng phải trầy mình tét da rách thịt.

Nhưng, quả là bản lãnh khá cao, Cầu Thiên Nhẫn vừa chúi nhủi lập tức dùng ngay thế Thiên Cân Trụy hai cánh tay chống xuống, dỡ cả thân hình đáp lẹ lên mặt đất như một con chuồn chuồn lượn cánh đậu lên dốc núi.

Châu Bá Thông lại thét lên :

- Bò này .

Tiếp theo là chưởng lực bắn ra như xé gió.

Cầu Thiên Nhẫn chưa kịp lật mình trở lại thì kình lực đã xô tới ào ào, lão ta lập tức lách mình thật mạnh, nhãy nghiêng qua tránh né chưởng phong, nhưng phân nửa thân dưới đã bị kình khí đập vào, không thể gượng được, chói tay chói chân lảo đảo bò càn được năm sáu bước, y hệt một chú rùa đen.

Châu Bá Thông vỗ tay cười ha hả :

- Chúa rùa ! Ta đã bảo bò mà không chịu bây giờ mi thiệt là rùa đấy.

Đám thôn dân cũng không kìm được, xúm nhau cười rộ.

Cầu Thiên Nhẫn biết Châu Bá Thông là một nhân vật phái Toàn Chân nên khi chống được đứng lên, đã vội nhún chân nhãy vọt xuống dốc núi như một làn khói xám, nháy mắt, bóng người mất hút.

Châu Bá Thông day lại nói với thôn dân :

- Các ngươi có thấy rõ không ? Cái tên ấy bảo các người bắt rắn, quả thật là không có ý tốt. Hắn dùng mấy đồng tiền mua sinh mạng các ngươi. Bữa nay ta đã đánh đuổi nó chạy đi cũng không phải là cắt đứt nguồn lực của các người, bởi vì cày cấy vun trồng, đã đủ có cơm ăn, chuyện chi lại phải đem mạng của mình mà nhét vào miệng con rắn độc ?

Thôn dân nghe qua những lời của Châu Bá Thông lấy làm phải lắm, ai nấy thảy đều gật đầu vâng dạ. Họ lại còn ân cần mời hai anh em Trùng Dương vào trong thôn nghỉ ngơi, rạng ngày sau mới trang trọng tiễn chân .

Dọc đường Trùng Dương trách Châu Bá Thông :

- Sư đệ, lần này em đã tạo ra một kẻ địch nữa rồi. Bài học với Đông Hải Song Quỹ, sư đệ con chưa đủ khổ hay sao ?

Châu Bá Thông từ trước đến nay vốn tính trẻ con, lúc bây giờ có vẻ ngược lại, nhìn Trùng Dương thở dài :

- Sư huynh ! Anh thường nói tiểu đệ tính con nít, ưa đánh lộn, ưa gây họa đến đâu cũng kết oán gây thù. Kỳ thực thì lúc anh còn trong tuổi thiếu niên lại không có như vậy sao ? Chẳng lẽ chưa từng đánh nhau với bọn hòa thượng Thiếu Lâm ? Chưa từng đại náo Thiếu Lâm tự ?

Tóm lại có lúc tình thế nó buộc người ta phải đi đến việc đánh nhau thôi.

Trùng Dương bị chàng nói chận một hồi, trong lúc đó cũng không biết phải đáp lại làm sao.

Suốt ba ngày đường, vượt qua sạn đạo rồi đến bình nguyên đi riết thêm hai ngày nữa, thì vào đến thành đô.

Thành đô còn có tên là Dung thành, có người gọi là Cẩm Quan thành, phố chợ đối diện với Đại giang, khí hậu ôn hòa, dân cư đông đảo trù phú, vì thế mà chợ búa đường sá hết sức phồn thịnh.

Hơn nữa, lúc bấy giờ phía Nam, quân Kim thường hay vượt Trường Giang cướp bóc, hảm hiếp, những nhà tương đối giàu có trong giải Triết Giang, lần lượt di cư gần hết đến Tứ Xuyên, cho nên cảnh tượng thêm phần tấp nập.

Thành đô ngày nay phô bày sự náo nhiệt mà từ trước chưa từng có.

Đối với nơi đây, Trùng Dương đã khá quen thuộc, sau khi vào thành bèn thẳng đến trú ngụ một khách điếm gần lối Kim Phượng môn.

Châu Bá Thông bỗng thấy tửu hứng nổi lên, bèn nói với Trùng Dương :

- Sư huynh coi chơi vậy mà mình đi đã ngót tháng rồi. Bây giờ nghĩ lại bao tử thật khô khan quá. Sư huynh à, bữa nay tới đô thị, tiểu đệ muốn nhắm chút rượu, nhưng không biết sư huynh có thuận cho không ?

Trùng Dương là một người giới luật rất nghiêm đối với môn nhân đệ tử trong lúc luyện tập công phu, không bao giờ ông cho uống rượu.

Cho nên suốt năm ở Yên Hà động không có được một vò rượu nào mà Châu Bá Thông lại là một con sâu ghiền vì vậy cứ mỗi lúc có việc đi

xuống núi là mỗi lần chàng ta đều lén mò đến chân giải Tung Sơn mua rượu uống. Song vì thể diện của một vị sư thúc đứng trước bọn Khưu Xử Cơ làm cho chàng ta nuốt không ngon miệng.

Lần này theo trùng Dương một chuyến Nam du, lại gặp một trở ngại khác là trước mặt chưởng giáo sư huynh càng làm cho Châu Bá Thông không dám liếc tới bình rượu. Mãi cho đến khi vào đến Thành đô, đường phố dẫy đầy tửu quán chàng ta cứ ngó mấy bảng hiệu mà nuốt nước miếng ừng ực.

Và bây giờ thì không thể chịu nổi nữa đánh liều xin Trùng Dương bỏ lệnh cấm uống rượu một bửa cho đã thèm.

Không dè Trùng Dương nghe nói liền nghiêm nét mặt :

- Sư đệ, chúng ta là kẻ tu đạo, cần phải triệt để tuân theo giới luật về : tửu, sắc. Tục ngữ có câu rất đúng : "rượu là vật độc xoi gan ruột, sắc vì gươm đao xẻ thịt da". Hai chữ tửu sắc luôn luôn cấu kết nhau, người xưa thường nói "rượu làm mai cho sắc", quả là lý chí.

Vì thế mà những kẽ tu luyện, đức không thể thiếu. Phải giữ gìn từng ly từng tí, không được phép buông tuồng phóng túng.

Sư đệ vừa mới đến thị thành đã bị mùi rượu khơi động lòng thèm muốn, nếu như đặt chân vào chốn cung vàng điện ngọc, những thứ câu dẫn lòng người nhan nhãn khắp nơi, thì lúc bấy giờ sư đệ sẽ ra sao nữa ?

Những lời lẽ chân chính trang nghiêm đó, đã làm cho Châu Bá Thông nín lặng.

Chàng ta quả thật là không vui vẻ tí nào, thầm nghĩ mà bực dọc :

- Không cho uống thì thôi, lại cứ ca tụng riết cái thứ kinh đạo đức, thật chán phèo !

Tuy vậy , song vì vốn sợ sư huynh từ lúc nhỏ cho nên đành nín thinh không dám trả lời .

Sau khi bảo chủ quán dọn cơm chay cho hai anh em ăn xong.

Trùng Dương một mình vào phòng tĩnh tọa vận công, còn Châu Bá Thông thì bứt rứt không sao chịu được, bèn nói láo là đi đại tiện , rồi vọt tuốt ra ngoài .

Giả Kim Dung

Võ Lâm Ngũ Bá

Hồi 77

Hơi men dẫn họa

Ra tới ngoài đường Châu Bá Thông suy nghĩ :

- Sư huynh không cho mình uống rượu bây giờ anh ngồi định thần tập luyện, tại sao mình không biết lén trốn đi nốc một bửa cho đã. Chẳng lẽ ảnh là tiên thánh gì hay sao mà có thể đánh tay biết được ? Rõ thiệt là ngốc !

Nghĩ đến kế vẹn toàn Chu Bá Thông hít hít không khí nghe như có mùi rượu gần bên lỗ mũi.

Chàng ta bèn men theo đường, vừa đi vừa thò tay vào túi kiểm soát tiền bạc cẩn thận.

Vừa quẹo qua góc khách điếm, liền gặp một chiếc xe ngựa đưa khách đậu ở bên lề, Châu Bá Thông bèn nhãy phóc lên ngồi bật ngữa trên băng dựa :

- Ừ ! Khá quá ha ! Này, chỡ ta đến quán rượu mau lên !

Người đánh xe hỏi lại :

- Lão gia ở đây tửu lầu nhiều lắm chẳng hay lão gia muốn đến đâu ?

Châu Bá Thông cự nự :

- Hừ, đồ dốt đặc ! Chỗ nào danh tiếng nhất thì đưa tới còn hỏi lôi thôi !

Gã xa phu biết tay này là người xa mới đến, coi mòi có thể đập được nên làm thinh nẹt roi cho xe chạy về hướng Tây Mã Kiều.

Chạy riết đến Túy Tiên Lầu một tửu điếm đồ sộ nguy nga, ca nhạc vang vầy suốt bốn tầng lầu, bàn ghế hoa đăng sắp bày la liệt.

Gã xa phu bèn cho xe đỗ lại ngay giữa cửa.

Châu Bá Thông thấy tòa tửu lầu cao vọi, đèn đuốc ngời ngời, trong bụng thầm nghĩ :

- Chà ! Thật là sang trọng quá, với tửu điếm nơi này thì cái quán rượu ở chân núi Tung Sơn không ra cái cóc khô gì hết.

Tiếng ca tiếng nhạc dặt dìu, mùi rượu mùi thức nhắm bay nghe sực mũi.

Châu Bá Thông tuột xuống xe, sắp bước đi vô cửa.

Tên đánh xe nắm vạt áo chàng kéo lại :

- Lão gia, ngài quên cho tiền xe !

Châu Bá Thông quay lại, hơi lúng túng :

- Bao nhiêu ?

Gã xa phu nói tỉnh bơ :

- Dạ không bao nhiêu đâu, cho ba mươi đồng thôi.

Châu Bá Thông giật nảy mình , nghĩ bụng :

- Tiền thành thị sao mà mắc dử hé !

Thật ra thường lệ một cuốc xe như vậy chỉ khoảng trên dưới ba bốn đồng thôi , nhưng tên đánh xe biết ông khách nầy là người ở tỉnh xa, đúng là dịp cho hắn "xẻ bò tơ" một chuyến.

Cũng đáng đời cho kẻ không biết mà làm phách, chẳng chịu hỏi giá trước khi đi.

Châu Bá Thông nghĩ tức, song không biết làm sao, đành phải cắn răng trừng mắt móc hầu bao trả cho gã đánh xe ba chục đồng rồi quay qua bỏ đi luôn lên lầu tửu điếm Túy Tiên.

Học một bài học mấy chục bạc... chàng họ Châu cảm thấy khôn ra quá xá, cho nên sau khi chọn một bàn trống ngồi xuống, bèn lật bản thực đơn ra xem xét giá tiền từng món đàng hoàng rồi mới kêu năm cân rượu trắng, bốn đĩa đồ nhắm, bật ngữa trên ghế rót rượu nhâm nhi.

Vừa nhậu vừa ăn, vừa nghĩ đến món tiền xe ba mươi đồng, càng tức giận lẩm bẩm :

- Một lát nữa hổng thèm đi xe, hỏi thăm đường đi bộ thử coi tới không cho biết.

Cạn mấy tuần rượu, mà cái tiền cắt cổ vẫn còn ậm ực chưa trôi, chợt nghe kế bên giọng đàn tỳ bà réo rắt.

Châu Bá Thông day lại thì ra đó là hai cha con người hát dạo đang đi đến trước bàn mình.

Người cha tuổi không quá năm mươi, tay ôm chiếc đàn tỳ bà và đứa con gái độ mười tám, mười chín, mái tóc mây đen mướt được uốn cao theo chiếc lược đồi mồi phơi bày chiếc cổ trắng cao với bờ vai tròn vỉn.

Nhan sắc tuy không phải trên đời có một, song với khổ hình cân đối trong chiếc áo lụa màu xanh dợt mỏng manh, nổi bật một làn da trắng phau, điểm sơ một lớp phấn hồng và đôi mắt long lanh, đủ khiến khách ưa nhìn, tay mân mê cặp sanh, đứng nép sau lưng người cha đang vòng tay mời mọc :

- Lão gia, chúng tôi là kẻ lấy đàn ca độ nhật, xin kính hầu lão gia một khúc.

Men rượu lâng lâng với hơi người đẹp, Châu Bá Thông bàng hoàng gật đầu :

- À ! Té ra cô nương là một ca sĩ đấy à ? Chẳng hay nàng hát những khúc chi ?

Người con gái với vẻ thẹn thùng cố hữu, nghiêng mình đưa đôi tay ngà ngọc, trao cho khách cặp sanh bằng gỗ đàn hương.

Châu Bá Thông đón lấy, lật xem mặt sanh ghi đầy dẫy những tên khúc từ, chàng trả cặp sanh và bảo người con gái :

- Hãy hát khúc Biệt Quí Bình Dao.

Người con gái e dè ngồi ghé trên mép ghế, khẽ nhếch môi gõ nhẹ cặp sanh cất giọng châm trầm.

Lão gìa lướt phiếm tỳ bà khoan khoan trong vút.

Giọng đàn tiếng hát, trầm bổng nhặt khoan . Dưới ánh đèn bên chén rượu, bến Tầm Dương như sống dậy giữa Túy Tiên Lầu.

Suốt nửa tiếng đồng hồ khúc Biệt Quí Bình Dao mới dứt.

Châu Bá Thông vỗ tay tán thưởng :

- Hay ! Hay ! Thật là tiếng ngọc, lời châu đẹp hay quá cỡ.

Thật ra Châu Bá Thông vốn không phải là biết nhiều về âm nhạc, song nhờ không khí của tửu lâu và men rượu hơi tiếng tỳ bà với giọng ca người đẹp, đã làm cho chàng ta nổi hứng.

Lão gìa cung kính tươi cười :

- Lão gia thật là một nhà thưởng thức phẩm bình tế nhị. Xin lão gia hãy chọn cho khúc khác.

Đang lúc quá hứng và cho rằng khúc hát cũng chỉ là mấy đồng, Châu Bá Thông bèn lựa bài Kích Cổ Mạ Tào một khúc hát dựa vào câu chuyện Di Chính Bình đánh trống mắng Tào Tháo dưới triều nhà Hán.

Người con gái bèn gõ sanh trỗi giọng.

Khúc Biệt Quí Bình Dao khi nãy trầm trầm hòa hoãn bao nhiêu thì trái lại trong Kích Cổ Mạ Tào, giọng điệu đổi thay hùng hồn dồn dập, âm ba khẳng khái cao vút dị thường, lại thêm gần nửa tiếng đồng hồ nữa khúc ca mới dứt.

Châu Bá Thông coi lại rượu và thức ăn cũng gần cạn sạch, bèn bưng chén nốt đợt cuối cùng, đánh khà một tiếng :

- Hay lắm ! Thôi, hãy ngưng đi. Hai khúc hát vừa rồi, tính bao nhiều tiền ?

Lão gìa vẻ cười tươi tràn đầy lên mặt :

- Đa tạ khách nhân ! Xin cho hai trăm đồng thôi ạ !

Nghe ba tiếng "hai trăm đồng", Châu Bá Thông nhãy nhổm, men rượu bay tan mất hết , trừng mắt hỏi gặng :

- Hai trăm đồng ? Cái gì mà dử vậy ?

Lão gìa mồm cười, lật mặt sanh chìa ra tới trước.

Té ra, có hai chữ nhỏ rí khắc bằng đầu ruồi khắc rõ ràng tám chữ : Toàn khúc một trăm, tiểu khúc năm đồng.

Châu Bá Thông hỏi :

- Làm sao gọi là toàn khúc ? Còn làm sao gọi là tiểu khúc ?

Lão gìa nói :

- Toàn khúc nghĩa là hát hết một bài từ đầu chí cuối còn tiểu khúc tức là một đoạn ngắn trong bài đó . Chẳng hạn vừa rồi khách quan bảo hát Biệt Quí Bình Dao chứ nếu bảo chỉ hát Mang Ấn Chinh Tây hoặc Khổ Thủ Hàn Dao thì lại là giá tiền của tiểu khúc.

Châu Bá Thông chửi thầm :

- Mẹ ! Cái tụi lưu manh Tứ Xuyên này mọi việc đều muốn xẻ da lóc thịt người ta, thật mình không dè lại mắc bẫy chúng.

Dân Tứ Xuyên có một câu tục ngữ :

"Trên trời có chim chín đầu, dưới mặt địa cầu có kẽ Tứ Xuyên".

Nó có ý nghĩa là trong thiên hạ chỉ có người Tứ Xuyên ưa nói nhất, và là người lời lẽ hoạt bát, khôn ngoan nhất.

Hơn phân nửa người Tứ Xuyên có óc tự cao và bài ngoại. Nếu là người ở tỉnh khác đến Tứ Xuyên, mà xử sự đến một mực trung hậu thật thà thì nhất định sẽ bị họ liền. Đó là một thói quen tự nhiên của họ.

Bữa nay Châu Bá Thông, đụng tên đánh xe và hai cha con người hát dạo, cũng chỉ là một cái lệ nho nhỏ vậy thôi.

Nhưng đối với Châu Bá Thông bây giờ thật là vô cùng rối rắm, trong túi có đúng ba trăm đồng, thằng đánh xe ngựa mắc dịch nuốt hết ba chục, còn hai trăm bảy, kêu rượu và thức nhắm tính phỏng đã quá hai trăm, nếu bây giờ trả tiền đàn hát, thì lấy đâu mà thanh toán mâm rượu thịt đã quất sạch rồi đây .

Thấy Châu Bá Thông thộn người ra. Lão gìa đánh đàn cố làm ra vẻ tươi cười :

- Lão gia, ngài là một vị phú gia hào phóng, tiểu nữ hát hơn một tiếng đồng hồ, hai trăm đồng tiền kể cũng không phải là quá đáng, xin ngài ban cho.

Châu Bá Thông đập tay xuống bàn, lớn tiếng :

- Bộ ngươi nói ta là nai tơ đây hả ?

Lão gìa làm bộ ngạc nhiên :

- Chúng tôi đi hát có quy chế đàng hoàng đâu có thể xem khách như nai tơ được. Không tin, lão gia cứ hỏi nhà chức trách ở đây thì biết.

Châu Bá Thông đổ quạu :

- Đồ lẻo ! Cái bọn lưu manh Tứ Xuyên của chúng bây chuyên môn lừa phỉnh người ta. Hai trăm đồng hả ? Xí ! Một xu thế nào cũng không đưa nữa, thử coi ngươi có nuốt sống được lão gia không ?

- Loạn rồi, loạn rồi ! Nghe hát mà không chịu trả tiền, ở đây là nơi có quan có luật, không phải muốn quịt ai cũng được đâu nhé.

Lao gìa vừa nói mấy câu, bỗng có tên hán tử đồng bọn hát thuê tràn xuống, la ó lên :

- Tra lão Tam, kẻ nào nghe hát không trả tiền đâu !

Lão gìa chỉ Châu Bá Thông :

- Đây ! Tên vô loại này đây !

Châu Bá Thông nghe lão gìa gọi mình là vô loại, nổi xung đứng dậy cung tay định xán một chưởng, nhưng kịp thời nghĩ lại, mình là kẻ tinh thông võ nghệ mỗi nhích tay nhích chân là đủ kết liễu tính mạng con người, huống chỉ đánh một lão già, lại càng mất mặt anh hùng hơn nữa.

Suy nghĩ thấy điều bất tiện, bèn vội vàng ngồi xuống nốc cạn hai chén lớn để dằn cơn giận dử và bật ngữa trên ghế cười lạt, không thèm nói mà cũng không thèm ngó tới đối phương.

Lão gìa đánh đàn thấy thái độ của Châu Bá Thông, càng làm cho lão ta tức giận đổ lửa.

- Đồ ăn cướp ! Ngươi trả hay không trả nói đi !

Châu Bá Thông lạnh lùng :

- Không trả rồi có sao không ? Ngươi ăn thịt được ta à ?

Và chàng ta day vô quán, thản nhiên :

- Tiểu nhị tính tiền.

Tiểu nhị chạy lại tính hết thảy hai trăm mười lăm đồng.

Châu Bá Thông xỉa tiền đứng dậy.

Đồng bọn hắc đạo thấy Châu Bá Thông không chịu trả tiền, liền hè nhau la ó :

- Tên lưu manh nghe hát không trả tiền, mau kéo nó lại !

Vừa la vừa xúm nhau giật áo Châu Bá Thông.

Châu Bá Thông cười ha hả :

- Muốn đánh ta phải không ! Hay lắm !

Lão gia uống rượu xong, đang định tìm người đấm bóp đây ?

Xúm lại ! Phải đấm tử tế nhé ! Thằng nào không đánh là con chó.

Trong đám hát dạo có một gã thanh niên giận quá cung tay thoi vô mặt Bá Thông một cái.

Châu Bá Thông chầm chậm phất nhẹ tay áo rộng.

Tên thanh niên ấy tay chưa đụng tới mình Châu Bá Thông đã lảo đảo thối lui té bò trên mặt đất.

Bọn họ hốt hoảng la lên :

- Ối ối ! Tên này có phép yêu. Tên này có phép yêu !

Châu Bá Thông tính đùa cợt của trẻ nít lại nổi lên, cười ha hả :

- Lão gia có phép yêu đấy. Tên nào đụng tới chân lông của lão gia thì lập tức rơi đầu.

Và nhận thấy bên cửa sổ có để một chậu bông lớn, Châu Bá Thông làm cho bọn họ hết hồn chơi, bèn xòe bàn tay khẽ quạt về phía đó một cái, chưởng phong ùa tới hất chậu bông văng xuống đất bể tan như cám.

Chúng nhân cả kinh không dám xông vô, luôn cả bọn tiểu nhị cũng run cầm cập.

Đám hát dạo dang ra chung quanh, lấy tay chỉ chỏ, chửi Châu Bá Thông là đồ yêu đồ quỷ ran trời ran đất.

Châu Bá Thông thấy bộ dạng của họ bắt tức cười, đang định giở trò trêu ghẹo nữa, chợt nghe sau lưng nổi lên một giọng trầm trầm :

- Sư đệ !

Châu Bá Thông day lại, thấy chưởng giáo sư huynh đang vẹt người bước tới.

Chàng ta hốt hoảng, trống ngực đập lên thình thịch, luống cuống nói không ra tiếng :

- Sư huynh ? Anh... anh... làm sao đến đây ?

Nguyên vì Trùng Dương ngồi ở trong phòng tỉnh tọa vận công một lát, không thấy Châu Bá Thông trở vào trong lòng ngờ vực nghĩ thầm :

- Lạ, Châu sư đệ lúc nãy nói đi đại tiện sao lâu quá không thấy trở về vậy cà. Chẳng lẽ...

Ông bỗng sực nhớ việc xin đi uống rượu, chợt giật mình thầm nghĩ thế nào hắn cũng lén đi rồi, bèn lật đật đứng dậy bước ra.

Đối với Châu Bá thông, Trùng Dương có rất nhiều kỳ vọng, ông mong sẽ vì phái Toàn Chân mà đem Nhất Dương Chỉ, một môn học bí truyền, và Thiên Oa Bắc Đẩu trận, một trận đồ tuyệt nghệ của bản môn mà truyền thụ cặn kẽ cho người sư đệ của mình, để làm rạng rỡ tông phái.

Cho nên không muốn chàng vì bị rượu mà tiêm nhiễm những thói hư tật xấu, những cái thường tình trong thiên hạ.

Không dè Châu Bá Thông không nghe lời lén trốn đi chơi làm cho Trùng Dương vừa giận vừa buồn, bèn bỏ việc luyện công, vội vã ra khỏi khách điếm, đi riết ra đại lộ.

Đối với Thành đô, Trùng Dương là một người rất quen đường thuộc lối, biết rằng địa phương này rất nhiều quán rượu, nhưng Châu Bá Thông mới đến nơi đây chưa biết được nhiều, nhất định sẽ phải đến nơi náo nhiệt nhất. Bèn nhắm hướng Tứ Mã Kiều đi tới.

Tứ Mã Kiều là nơi trú ngụ của Tư Mã Tương Như thuở trước. Vốn là bậc phong lưu văn vật, thuở xuân sanh đã lại Thành đô gẩy khúc Phượng Cầu Hoàng rung động Trác Văn Quân.

Người đời đã lấy đó truyền thành giai thoại.

Về sau, hai vợ chồng Tương Như lại mở một quán rượu tại Tứ Mã Kiều do Trác Văn Quân đích thân đứng bán, mở đầu cho nơi này một không khí tài tử văn chương, vì thế mà từ đó trở đi, dọc giải Tứ Mã Kiều những người có óc kinh doanh buôn bán không hẹn mà cũng dựng lên rất nhiều tửu quán.

Trùng Dương vừa đến Túy Tiên lầu chợt thấy thiên hạ bu quanh trước cửa dòm xem náo nhiệt.

Bên trong thì lắm tiếng ồn ào, biết rằng đã có chuyện xảy ra, bèn vội vàng vẹt người bước vào đúng vừa lúc Châu Bá Thông ấu đả với bọn người hát dạo.

Châu Bá Thông tuy lỗ mãng kỳ khôi nhưng rất sợ sư huynh, nên khi thấy Trùng Dương là anh ta tỉnh hẳn.

Trùng Dương bước tới cười gằn :

- Sao đệ cao hứng dử a ? Đã uống rượu say rồi lại còn đánh lộn nữa chứ ?

- Không đánh lộn. Tiểu đệ không có say rượu mà cũng không có đánh lộn nữa.

- Không đánh lộn. Vậy chớ người ta vây sư đệ lại chi vậy ?

Châu Bá Thông bào chữa :

- Sư huynh, cái đó... cái đó... là họ ăn gian tiền của đệ đấy.

Rồi chàng bèn đem hết việc tên đánh xe ngựa "xẻ" và việc cha con người hát dạo đòi tiền thuật lại cho sư huynh nghe, nhưng còn khúc sau, khúc làm ma làm quỷ với thiên hạ thì anh ta dấu tuốt.

Trùng Dương nghe kể chuyện, vừa giận vừa tức cười, bèn móc túi lấy một xâu tiền ước độ hơn hai trăm chìa về phía lão gìa hát dạo :

- Đừng có mà om sòm, lấy tiền đi đi.

Lão gìa đánh đàn cười ra mặt, thò tay định lấy.

Trùng Dương thấy bọn tham lam, cả giận nói :

- Này, đi đi !

Vừa nói vừa ném xâu tiền lên bàn, chỉ nghe tiếng khua rổn rẻng, xâu tiền đã xuyên lủng mặt bàn, đổ văng tung tóe trên mặt đất, bọn người vây quanh xem thấy thế há hốc mồm kinh hoảng !

Trùng Dương nắm tay áo Bá Thông kéo đi :

- Sư đệ chúng ta đi thôi !

Bọn hát dạo gian xảo không dám hò hét gì hết để cho hai người ngang nhiên bước ra khỏi quán, chỉ biết lấy mắt trừng trừng ngó theo cho tới khi mất hút.

Về tới khách điếm, Trùng Dương vào phòng ngồi xuống, lúc bấy giờ hơi giận lộ đầy sắc mặt :

- Sư đệ ! Hãy nói cho biết, quy củ của Toàn Chân Giáo, sư đệ hôm nay đã phạm vào điều giới luật nào ?

Châu Bá Thông từ bao nhiêu năm nay ở cận Trùng Dương, chưa thấy lúc nào sư huynh mình giận dử như vậy, chàng chỉ còn có nước quỳ bừa trên mặt đất cúi đầu.

Trùng Dương trầm giọng chậm rãi từng tiếng :

- Sư đệ, ngăn cấm việc uống rượu, không phải ta có ý tước đoạt luôn cả một chút ưa thích duy nhất trong đời của sư đệ.

Nhưng, người xưa còn nói : "Việc ăn uống muốn được đức độ hòa nhã, thì tửu lượng không được lạm dụng", mà việc uống rượu của sư đệ thì lại không có lúc ngưng, không có nơi giới hạn, vì vậy ta mới không bằng lòng. Sư đệ cứ nghĩ lại, vừa rồi cũng chỉ vì uống rượu, mà làm một việc xấu trước đám đông người. Một con người dầu có bị rượu say, cũng không thể nào mất đi bản tính của con người được, nếu như sư đệ hành hung rất dễ dàng gây án mạng đến lúc đó, tội của sư đệ há chẳng thêm nhiều, oan nghiệt tạo ra há chẳng chồng chất nặng nề hơn nữa hay sao ?

Những lời đạo nghĩa nghiêm trang ấy đã làm cho Bá Thông cúi đầu câm lặng không dám hé môi.

Đang lúc Trùng Dương đang cố tìm mọi cách dạy dỗ em mình, thì bỗng nghe ngoài cửa điếm có tiếng ồn ào la hét, trong đó có một giọng nói hung hăng :

- Thằng nhỏ kia ! Mi muốn sống hay muốn chết ! Cái tên đạo sĩ ấy ở phòng nào ? Nói mau lên ?

Tiếp theo là giọng nói của người làm công trong khách điếm :

- Dạ thưa gia gia, tiểu nhân xin dẫn đường đây. Người đạo sĩ ấy họ Vương ngụ ở trong phòng đó.

Toàn Chân Giáo Chủ nghe bước chân rầm rập bên ngoài với tiếng ồn ào lộn xộn, thì biết kế đến không phải một, mà ít nhất cũng ba bốn chục người, ông bèn lập tức quát bảo Bá Thông :

- Đứng dậy !

Châu Bá Thông vội vã đứng lên, hai anh em cùng bước ra ngoài.

Vừa ra khỏi cửa, thì thấy một bọn người đã tràn tới tấp nập.

Họ toàn là những thanh niên mạnh khỏe, vận áo ngắn, độ hơn ba mươi người, kẻ cầm đao thương người cầm côn bỗng, hùng hùng hổ hổ xông tới.

Dẫn đầu một tên đại hán, mặt bóng như đồng đen, mày rô mắt lộ, vận quần áo màu huyền, tay cầm hai thanh sắt lớn.

Bọn hán tử vừa ngó thấy anh em Trùng Dương liền rập nói lên :

- Đó tên đứng sau là kẻ đã lừa lão Tra Tam nghe hát không trả tiền đó. Còn đạo sĩ kia là sư huynh của hắn cũng là kẻ đã lấy tiền liệng thủng mặt bàn trong tửu quán đó.

Tên đại hán mặc áo màu huyền liếc xéo hai anh em Trùng Dương đoạn khẽ hất hàm :

- Hai người anh em kia. Các người quá giang thuyền nào đến đây vậy ?

Nguyên tên đại hán này là kẽ xưng bá tại Thành đô, tên gọi Đơn Chí Hồng biệt hiệu Hắc Ban Báo, đôi tay khỏe như trâu nước, vốn là kẽ xuất thân trong chốn lục lâm. Sau cấu kết với bọn bán muối lậu, làm giàu. Bấy giờ mới bỏ nghề, tậu được trang viện to lớn ở Thành đô.

Hắn ta dựa vào thế lực hắc đạo tạo lập phái Bào Ca thế lực bao trùm toàn giới thương thuyền, khách thuyền xuôi ngược Xuyên Tây bầu hắn ta làm thủ lãnh.

Bào Ca là một tổ chức sống trong của xã hội Tứ Xuyên, nguyên ủy của nó vốn đã rất lâu đời. Từ triều đại nhà Đường, dọc dài các đại giang Tứ Xuyên, Trùng Khánh xuất hiện một hội bán công khai, thật ra đầu tiên cũng chỉ là một ổ chuyên buôn muối lậu, kết dây kết cách mà thành. Sau lần lần số người gia nhập càng đông thu hút gồm cả các hạng người phức tạp. Lâu dần biến thành Bào Ca hội.

Bào Ca hội thành phần rộng rải to lớn bao gồm cả xa, chuyển vận tải đường bộ, khách điếm tửu lầu, cho đến các giới thượng lưu sinh hoạt y khoa bói tướng hầu hết đều có chân không sót .

Họ chịu sự sai khiến và bảo bọc của bọn thủ lãnh Bào Ca và lẽ tự nhiên mồ hôi nước mắt đổ ra hằng ngày cũng phải dè xẻn để cung cấp

cho bọn cầm đầu.

Kể cả các giới thượng lưu cũng đều phải cung dâng như thế. Song cũng để bù đắp lại, mỗi khi có kẻ dử hành hung, thì lãnh tụ Bào Ca đứng ra gánh chuyện bất bình. Vì lẽ đó mà việc tốn hao phủ phụng họ cũng không tiếc mấy.

Châu Bá Thông tại Túy Tiên lầu gây sự, làm cho cha con Tra lão Tam oán hận, đem chuyện thưa lại với Hắc Ban Báo Đơn Chí Hồng, gã này nổi nóng dẫn tay chân bộ hạ, thanh thế hùng dũng tìm đến chỗ ngụ của hai anh em Châu Bá Thông để mà vấn tội.

Giả Kim Dung

Võ Lâm Ngũ Bá

Hồi 78

Lực Khiếp Quần Hùng

Đơn Chí Hồng mở bằng câu hỏi lóng của Bào Ca hội.

Trùng Dương chưa kịp trả lời, thì Châu Bá Thông đã chưởi tưới hột sen :

- Đồ chó chết ! Lão gia do đường sạn đạo Xuyên Bắc đến đây không có quá giang xuồng ghe gì hết ? Cút ngay đi cho rồi.

Câu nói của Châu Bá Thông, đã phạm vào đại kỵ của Bào Ca hội, làm cho Đơn Chí Hồng giận dử :

- Ngươi là đồ hèn mạt, đi lừa bịp kẻ hát thuê nghèo khổ, nếu không cho các ngươi điều lợi hại, các ngươi sẽ không biết Hắc Ban Báo là nhân vật như thế nào.

Chưa kịp dứt lời, Châu Bá Thông đã thóc tới xáng cho Đơn Chí Hồng hai bốp tai, làm Con Beo đốm đen tá hỏa tam tinh, mắt văng đom đóm:

- Cùng trong lúc Đơn Chí Hồng bị đánh, Trùng Dương vùng hét lên tung mình nhãy tới.

Nhưng không phải tiếp sức tấn công, trái lại ông kéo tay Châu Bá Thông trở về và cũng xáng cho chàng ta hai tát.

Không phải đùa chơi, mà quả hai tát tai của Trùng Dương làm cho Châu Bá Thông cảm thấy đầy trời chớp nhoáng, xính vính té ngồi xuống đất.

Việc xảy ra ngoài ý liệu của Châu Bá Thông, luôn cả Đơn Chí Hồng cũng không biết trời đất ra sao, đồng bọn của Hắc Ban Báo nhìn nhau ngớ ngẩn.

Trùng Dương ngó Châu Bá Thông mắng lớn :

- Nghiệt súc ! Sáng nay đã phạm giới luật bản môn, bây giờ tại còn dám đánh người, quả thật tội chưa hết lại chồng thêm tội nữa. Hãy cút về phòng ngay. Không được chường mặt ra nữa, nghe chưa ?

Châu Bá Thông không dám co cường, cúi mặt lủi thủi về phòng.

Sau khi nạt lui Châu Bá Thông, Trùng Dương mới quay qua Đơn Chí Hồng, cúi đầu thi lễ :

- Vô lượng thọ Phật ! Sư đệ của bần đạo tuy đã lớn, nhưng tính tình hãy còn quá trẻ con, vừa rồi đã đắc tội với lão huynh, xin lão huynh hãy thứ cho.

Đơn Chí Hồng lúc ấy thật là khóc cười lở dở, bởi vì từ trước đến nay y vốn là thủ lãnh Bào Ca hội tại Thành đô, bao nhiêu năm nay không một kẻ nào dám to gan làm điều thất lễ, không ngờ bữa nay mới ló đầu gánh việc cho hai cha con Tra Tam, đã bị hai bạt tai đổ lửa.

Hắc Ban Báo sửa soạn gây chuyện với Trùng Dương, nhưng vừa mới ngẫng đầu, chợt bắt gặp luồng nhãn tuyến như điện chớp của vị Toàn Chân Giáo Chủ xuyên qua, bất giác họ Đơn trong bụng nghe phát run lên.

Nguyên vì Trùng Dương là một con người tư thái uy nghi, nhãn quang của ông lạnh lẽo như ánh điện xanh rờn, một dáng cách không giận dử mà trang nghiêm khiến cho người đối diện dễ sinh sợ sệt.

Đơn Chí Hồng chợt hiểu rằng gã sư đệ của ông ta thủ pháp như thế, tính tình lại kỳ khôi ương ngạnh, mà rồi bị mấy tát tai im thin thít, không dám hó hé một lời, thì đủ biết bản lãnh của ông ta đến bực nào rồi.

Gã Hắc Ban Báo đâu còn có dũng khí nào dám cùng với Trùng Dương động thủ ?

Song, cứ như vậy mà chịu thua luôn thì bẽ mặt quá, nên Đơn Chí Hồng cố tỏ ra giận dử :

- Sư đệ của ông hành vi vô lại, lừa gạt đến người ca hát nghèo nàn, chúng ta là người tai mắt, quyết không để cho kẻ lạ mặt đến đây khinh lờn được, ông hãy kêu hắn ra đây cúi đầu xin lỗi chúng ta thì mới có thể dung thứ tội lỗi của hắn được.

Đơn Chí Hồng nói như thế cho rằng mình đã nhân nhượng quá rồi. Hai cái tát tai, đã không đánh lại, đối với một người đường đường lãnh tụ Bào Ca xử sự như vậy thật là một việc tày trời.

Nào ngờ Trùng Dương nghe nói, ngữa mặt cười hả hả.

Chúng nhân quá đổi ngạc nhiên.

Đơn Chí Hồng thấy phong thái của Trùng Dương hàm ẩn tinh thần ngạo nghễ, làm cho gã bừng bừng nổi giận chực muốn buông lời xỉ mạ.

Nhưng vị Giáo Chủ Toàn Chân Giáo chợt nín cười :

- Các người thật quá coi rẻ những kẻ ở tỉnh lạ của chúng tôi ! Ba chục đồng một cuốc xe, hai trăm bạc nghe một khúc hát, thật quả là khi chúng tôi như một chú nai tơ rồi.

Đơn Chí Hồng đỏ mặt, hắn biết cha con lão họ Tra đã lừa gạt khách lạ tỉnh xa, làm vậy là không phải. Nhưng đã đến mức này đã lâm vào thế "lỡ trèo lưng cọp", đã đâm lao thì dầu muốn hay không cũng phải theo lao.

Hắc Ban Báo bèn cười rống lên một tiếng :

- Thế mà sư đệ của ông không bằng lòng nhận tội à ?

Trùng Dương với vẻ mặt lạnh lùng :

- Có cái gì mà phải nhận tội hay không nhận tội ? Hãy tự xét mình rồi thiên hạ mới xét sau. Nếu quả như bọn họ không lừa phỉnh người khác tỉnh, thì có đâu mang lấy chuyện phiền hà . Vả lại cha con của lão họ Tra, nào đã bị ai lường gạt ?

Đơn Chí Hồng hơi giận xông lên cực điểm, vung tay đập mạnh vào vách tường đánh binh lên một tiếng chát chúa, bức tường dày đã bị vỡ một lỗ to.

Thi triển công phu đập thủng bức tường, họ Đơn đã tự cho rằng không ai sánh kịp, hắn đâu ngờ đối với Trùng Dương, cái thứ công lực vụn vặt ấy nào có nghĩa lý gì.

Vị chưởng giáo Toàn Chân lại cười ré lên ha hả, đưa mũi chân dí dí trên nền đá.

Khủng khiếp làm sao, nền đá lâu đời cứng rắn như gang sắt, bỗng mềm nhũn như nền đất ướt, bị bàn chân của Trùng Dương ấn sâu hơn năm tấc, nơi dấu chân ấy, đá bị nghiện ra như bụi.

Đơn Chí Hồng kinh hãi quá mức, vội vã vòng tay :

- Đạo trưởng võ công thần diệu, tiểu đệ khâm phục vô cùng ! Song trước giờ Ngọ hôm nay, xin đạo trưởng hãy khoan lìa khỏi nơi này vì tiểu đệ còn muốn cùng đạo trưởng dẫn kiến thêm mấy vị bằng hữu nữa.

Dứt lời không đợi Trùng Dương hồi đáp, người thủ lãnh Bào Ca vòng tay lại vái chào, đồng thời xoay mình ra hiệu cho bọn tay chân bộ hạ :

- Đi thôi !

Cả bọn rập lên một tiếng ùn ùn kéo nhau đi hết.

Sau khi dùng thinh uy lui bọn Bào Ca hội, Trùng Dương trở vào phòng, thấy Châu Bá Thông vẫn còn ngay ngắn quỳ y như cũ.

Ông không thèm ngó tới, điềm nhiên lên ngồi luyện công phu.

Hai tiếng đồng hồ sau, vừa đúng lúc mặt trời đứng bóng.

Châu Bá Thông chịu không thấu nữa, kêu :

- Sư huynh ! Nếu anh còn giận, thì hãy đem tiểu đệ mà chặt quách cặp giò đi, để lấy đó làm tội sống.

Trùng Dương lúc bấy giờ mới từ từ mở mắt :

- Sư đệ trong thời gian qua, anh lao tâm mệt trí khuyên em giới tửu đã bao nhiêu lần rồi ?

Châu Bá Thông đáp :

- Bao nhiêu thì tiểu đệ nhớ không rõ có lẽ độ hơn trăm lần. Sư huynh hơn trăm bận khuyên răn mà tiểu đệ vẫn còn phá giới, tiểu đệ phải tự mình vả lấy miệng mình hơn trăm cái mới được.

Trùng Dương nghe lời lẽ của Bá Thông trẻ con như vậy, tuy không cười ra tiếng, nhưng cơn giận cũng đã tiêu tan, ông bèn dịu giọng :

- Tốt lắm ! Tốt lắm ! Thôi đứng dậy đi ! Từ nay về sau không được tái phạm nữa nghe ?

Châu Bá Thông vừa mới đứng dậy, chợt nghe có tiếng gõ cửa phòng.

Chàng bước lại mở cửa thấy tên làm công của khách sạn đứng ở bên ngoài, bộ tướng không yên hơ hải :

- Đạo trưởng ! Có người đưa thiệp mời ngài.

Châu Bá Thông ngạc nhiên :

- Lạ không ! Sư huynh đệ chúng ta đâu có quen lớn gì với ai ở đây đâu, sao lại có thiệp mời đi uống rượu ? Chẳng lẽ...

Trùng Dương nạt Châu Bá Thông :

- Đừng có tưởng xàm !

Và ông day sang bảo tên hầu phòng :

- Được rồi ! Ngươi bảo họ mang thiệp mời đến đây !

Tên hầu phòng dạ dạ lui ra.

Giây lát từ ngoài cửa đi vào hai tên hán tử ăn vận theo kẻ phục dịch, tên đi đầu bưng một cái hộp mạ vàng chói lọi, bên trong để tấm thiệp mời, tên đi sau khệ nệ mang một cái mâm to sơn đỏ, trên mâm đặt sẵn một con gà quay vàng hực, bên cạnh để một con dao nhỏ sắt thép long lanh.

Châu Bá Thông vừa dòm vừa suýt soa tỏ vẻ lạ lùng.

Trùng Dương bước tới liếc qua, trước hết chào hai tên hán tử :

- Thật quá phiền nhị vị !

Và ông tiếp lấy chiếc hộp mạ vàng mở ra liền thấy một tấm thiệp màu hồng, trên đó bốn chữ Long, Hổ, Vân, Long, được kẻ nét vàng rực rỡ.

Ngoài ra không thấy ký tên.

Trùng Dương bật cười hà hà, cầm lấy thanh dao nhỏ, phạt ngang cổ con gà quay, chiếc đầu gà rớt xuống mâm kêu "cộc !" một tiếng khô khan.

Hai tên hán tử có hơi biến sắc nhưng vẫn tươi cười :

- Vương chân nhân ! Đà Chủ chúng tôi đúng trưa nay có mở tiệc rượu mừng. Lời chỉ có thế thôi, quyết không có điều chi thôi thúc.

Vị Giáo Chủ Toàn Chân cũng đáp lời gọn lỏn :

- Hay lắm !

Hai tên hán tử liếc nhau một cái, rồi bưng mâm bưng hộp buôn bả ra về.

Châu Bá Thông ngơ ngác hỏi Trùng Dương :

- Sư huynh ! Vừa rồi anh chặt đầu con gà quay của họ, như vậy là có ý gì ?

- Đó là nghi lễ mời khách của Bào Ca hội !

Châu Bá Thông càng ngạc nhiên hơn nữa :

- Sư huynh, Bào Ca là cái gì ? Là một nhân vật danh vọng ở Thành đô này à !

Trùng Dương cười ngất.

Đoạn ông đem lai lịch Bào Ca hội kể lại cho Châu Bá Thông nghe và kết luận :

- Gã đánh xe và hai cha con người hát dạo mà sư đệ đã gặp qua hôm nay, đều là người trong Bào Ca hội, cho nên thủ lãnh Bào Ca hội nói sư đệ khi dễ bọn họ, hắn mới ra mặt.

Châu Bá Thông nói hớt :

- Rồi vì thấy không thể đánh nổi tiểu đệ, nên hắn mới thỉnh bọn chủ não trong hội tìm cách gây sự với sư huynh đó chứ gì ?

Trùng Dương gật đầu :

- Đúng vậy !

Và ông bèn đem tất cả quy củ của Bào Ca hội nói hết cho Châu Bá Thông nghe.

Một khi mời một người ngoài hội, mà người ấy là một nhân vật có hạng trong chốn võ lâm thì thủ lãnh Bào Ca hội cho hai tên bộ hạ trang trọng mang hộp Hiệp Nghĩa thiếp và một con gà quay, đưa đến tận nơi gọi là giao lễ.

Lễ tiết này có thể gọi là thiện ý, mà cũng có thể gọi là ác ý .

Nguyên vì bên cạnh con gà có để sẵn một thanh đao, biểu thị ý nghĩa giao tiếp về võ học.

Một mặt tỏ ý bằng lòng cùng đối phương kết làm bằng hữu, một mặt khác sẽ trái lại, là cừu nhân.

Nếu như đối phương muốn nên bằng hữu thì cầm đao cắt một đùi gà, bằng như kẻ được mời tỏ ra con người gan mật, tài nghệ cao cường không từ chối việc ra mắt bằng võ lực thì không cần nói dài dòng cứ việc chặt ngang đầu gà là đối phương đã rõ.

Trùng Dương là chưởng môn Toàn Chân Giáo đương nhiên không thể nào ưng chịu cúi đầu trước Bào Ca hội, cho nên hành động chặt đầu gà kia tiếp lễ, và để giữ vững danh phận của mình.

Châu Bá Thông nghe rõ đầu đuôi bèn hỏi Trùng Dương :

- Sư huynh, nếu như ngày mai anh đến ước hội thì tiểu đệ sẽ làm chi ?

- À ! Sư đệ ở khách điếm.

Châu Bá Thông chẳng nói chẳng rằng chi cả, đứng lên thu xếp hành trang.

Trùng Dương lấy làm lạ :

- Sư đệ ! Định dọn hành lý đi đâu vậy ?

Châu Bá Thông trả lời châm bầm :

- Sư huynh đã coi tiểu đệ như một tên đầy tớ, cái này cũng không cho, cái kia cũng không cho, vậy thì tiểu đệ còn theo sư huynh làm gì nữa ! Tốt hơn hết trở về Tung Sơn cái cho rồi.

Trùng Dương biết hắn ta lại nổi tính trẻ con, đành phải dịu giọng :

- Thôi, được rồi ! Ngày mai sẽ cho sư đệ đi theo, song sư đệ phải tuân theo lời anh dặn.

Châu Bá Thông mừng rỡ :

- Điều chi, sư huynh cứ dặn đi ?

- Ngày mai đi với anh, cấm sư đệ không được cùng với người gây gổ đánh đập lộn xộn nhé ! Bất cứ việc gì, khi nào anh bảo sẽ làm, nhớ không ?

Châu Bá Thông cười hì hì :

- Dễ ợt ! Tiểu đệ sẽ làm đúng theo lời dặn của sư huynh .

Rạng ngày sau, tảng sáng, Châu Bá Thông đã thức dậy chuẩn bị.

Mãi cho đến mặt trời đứng bóng, cũng không thấy người của Bào Ca hội phái đến.

Châu Bá Thông ngồi đứng không yên, cứ ra vô dòm chừng.

Bỗng nghe Trùng Dương gọi .

- Sư đệ, đã đến giờ rồi, chúng ta đi thôi !

Châu Bá Thông ngơ ngác :

- Họ chưa cho người đến rước mình biết lối nào mà đi ?

Trùng Dương bật cười :

- Họ không đến rước thì mình cứ tự tìm đường mà đến chớ sao !

Ra khỏi khách điếm, Trùng Dương chợt thấy trên vách tường bên kia hè phố, ai đã vẽ sẵn một con gà trống. Con gà này vẽ bằng than, mà nét thì nguệch ngoạc như trẻ con học vẽ.

Trùng Dương thấy con gà vẽ quay đầu về phía trái bèn dẫn Bá Thông đi theo phía đó, không chút do dự.

Châu Bá Thông bây giờ chợt hiểu ra ràng bọn Bào Ca hội đã ghi ám hiệu bằng con gà trống, cho nên sư huynh mình đi theo hướng đó.

Đi được một đổi, đụng góc quẹo lại thấy tường có vẻ một con gà trống nữa. Con này, đầu day qua mé phải.

Trùng Dương bèn dẫn Bá Thông đi theo ngã đó.

Cứ như vậy đi độ bốn năm ngã rẽ thì tuyệt nhiên không thấy ám hiệu nữa.

Trùng Dương nhìn quanh chợt thấy dưới chân tường trước mặt, có một cây chổi cùn, đầu dựng xiên qua phía Đông Nam, bèn lập tức dẫn

Châu Bá Thông noi theo đường đó.

Châu Bá Thông lại một bận ngơ ngác nữa .

Quả nhiên, không ngoài ý liệu, vừa mới đi thêm được ba bốn chục bước, bỗng có hai tên hán tử áo ngắn ở trước mặt đi lại, vòng tay :

- Gia chủ ở tại đây, xin mời đạo trưởng .

Và lập tức quay mình hướng dẫn hai anh em Trùng Dương đi vào một con đường nhỏ.

Con đường vừa hẹp vừa dài, cuối ngõ sừng sững một tòa nhà cổ, cửa nẻo tứ bề đóng im thin thít.

Hai tên hán tử dẫn đường bước lên thềm đá gõ nhẹ ba tiếng, hai cánh cửa lớn khua lên và mở quát ra.

Một tên hán tử sắc mặt trầm trầm, hung hãn bước ra vái chào :

- Đạo trưởng đã tới ! Gia chủ xin thỉnh nhập !

Trùng Dương nhận ra nơi đây nằm về góc thành Tây gọi là Lựu Hoa Đôn, nhưng con đường hẹp này thì không biết tên là đường gì.

Ông và Châu Bá Thông ngang nhiên bước vào.

Qua khỏi đại môn, là đến một gian nhà mát nhỏ, bốn bên cổ thụ um tùm, tàng cây bóng che tịch mịch.

Sau khuôn nhà mát, là một tòa đại sãnh năm gian.

Bên trong, bọn hán tử gồm đủ hạng cao, lùn mập, ốm, phân thành thế Tam Sơn Ngũ Nhạc, ngồi đầy dẫy cả gian đại sãnh.

Vừa thấy Trùng Dương bước vào, cả bọn ùn ùn đứng dậy rập lên :

- Vương đạo trưởng gía lâm !

Trùng Dương liếc mắt nhìn qua một lượt thấy mé Đông đại sãnh sắp bày hương án, trên đó có năm chiếc lư đồng, chói lọi giăng hàng chữ nhất chỉnh tề.

Mỗi chiếc lư hương cắm một lá cờ tam giác, đó là tên năm xứ : Bồ, Đà, Mân, Lạc và Gia Lăng.

Trùng Dương sực nhớ đã có nghe Bào Ca hội ở Tứ Xuyên từ trước đến nay phân làm năm phái Đông, Tây, Nam, Bắc và Trung ương.

Trung ương phái là Bồ Giang, Đông phái là Gia Lăng, Giang Nam phái là Lạc Giang, Bắc phái là Mân Giang, các phái tương giao nhưng không thành hệ thống.

Trùng Dương nhìn qua bên phải của hương án, ở đây năm chiếc ghế dựa sơn màu đỏ, ngồi trên đó năm người lãnh tụ của năm phái Bào Ca hội.

Năm người thủ lãnh của năm phái Bào Ca hình dáng thật là quái dị, mỗi người một vẽ khác nhau.

Lãnh tụ phái Mân Giang là người gầy ốm ăn mặc xốc xếch, đầu tóc chôm bôm, tuổi khoảng năm mươi, mũi quắm như mỏ diều hâu, đôi mắt như cú vọ, da dẻ đen cháy láng bóng.

Hai cánh tay gân guốc nổi lên như giây leo, năm ngón xương xẩu như năm móng thú. Sau lưng mang xề xệ một chiếc hồ lô bằng sắt.

Người này tên là Hề Di, biệt hiệu Thiết Hồ Lô, võ khí chuyên dùng là chiếc hồ lô sắt, danh trấn lưỡng xuyên, giang hồ dậy tiếng. Đã hạ không biết bao nhiêu anh hùng hảo hán võ lâm, đang ngồi trên chiếc ghế thứ nhất trong Bào Ca hội.

Thứ hai, phái Đà Giang, không biết tại sao thủ lãnh Đơn Chí Hồng lại vắng mặt, thay vào đó Phó thủ lãnh Ân Văn Thiên, biệt hiệu Táng Môn Thần. Mặt vàng như nghệ, tròng mắt trắng dã, nhìn vào như chiếc thây ma, thân hình ốm cao lêu khêu như cây tre miễu. Tinh luyện ba mươi sáu đường hắc sát, tiếng tăm lừng lẫy võ lâm. Người này trong tay cầm cặp Thiết hồ đào , đưa lại khua nghe lăng căng.

Thủ lãnh Gia Lăng Giang, một lão gìa đầu sói vừa mập vừa lùn, râu tóc hoa râm, da mặt hồng hào, tên là Tra Hùng biệt hiệu là Thiết Thích Vị, mặc áo ngắn màu xám, đang ngồi bập bập phì phà với chiếc ống điếu dài thậm thượt như là một lão nông dân.

Tuy dáng sắc quê mùa phục phịch, mà võ công thâm hậu vô cùng, chuyên dùng chiếc ống điếu bằng ngón Hàn Yên điểm huyệt pháp, chấn động võ lâm.

Võ Phan An Du Hiệu, chưởng môn phái Lạc Giang, khoảng trên dưới ba mươi tuổi. Là một người đàn ông tuấn tú, mặt trắng môi hồng, đầu chít khăn tiêu diêu, vận áo bào xanh tay cầm chiếc quạt, dung quang rực rỡ như thư sinh.

Giống như chiếc ống điếu của Tra Hùng, nang quạt của Du Hiệu đúc bằng gang sắt, một loại binh khí lạ lùng.

Trong năm phái Bào Ca, Lạc Giang nhân số đông đảo nhất, mà đất đai rộng lớn hơn tất cả các nơi, đồng thời lợi điểm về hàng hải, đã khiến nơi đây thành chỗ tập trung.

Địa thế và dân số đó đủ thấy kẻ thống lãnh phái Lạc Giang phải là một cao thủ hàng đầu của Bào Ca hội.

Lãnh tụ Bồ Giang phái là một gã trung niên bụng phệ tên Tần Lăng, vốn thương gia xuất thân. Giang hồ quen gọi biệt hiệu Thiết Toán Bàn , vì y dùng chiếc bàn toán sắt làm binh khí.

Tóm lại, ngũ lộ thủ lãnh Bào Ca, hoàn toàn tập trung trong tòa nhà cổ, có thể nói đây là lần tụ hội cực kỳ quan trọng của Bào Ca hội từ trước đến nay.

Trùng Dương từ từ bước tới vòng tay, sang sảng :

- Chư vị thơ gọi bần đạo, không biết có điều chi dạy bảo ?

Những kẻ cầm đầu Bào Ca hội, phô trương thanh thế, nghĩ rằng trước tiên sẽ làm cho đối phương nếu không khiếp đảm, thì ít ra cũng phải kiêng dè.

Không ngờ khi đụng mặt, Trùng Dương vẫn ngang nhiên khinh khi như không, trừ Võ Phan An Du Hiệu, còn hết thảy đều bực tức.

Thiết Hồ Lô Hề Di, thủ lãnh Mân Giang, ngó Trùng Dương, cười lạt :

- Vương đạo trưởng danh hiệu là chi ? Quí địa tu trì tọa lạc tại đâu ?

- Bần đạo tiện danh là Trùng Dương, lều cỏ dựng ở Yên Hà động, được quý vị hạ cố gọi đến đây hội kiến, thật hôm nay là một cơ vinh hạnh trong đời.

Năm vị thủ lĩnh Bào Ca không hẹn mà cùng đứng lên tái mặt.

Châu Bá Thông thấy dáng điệu của họ bắt tức cười, thầm nghĩ :

- Sư huynh ta từ khi Hoa Sơn luận kiếm, chiếm quán quân trong chốn võ lâm, cả Nam Đế, Bắc Cái, Đông Tà, Tây Độc còn phải bị loại, sá gì cái bọn láu cá của chúng bây ? Đừng có chộn rộn mà khổ !

Táng Môn Thần Ân Văn Thiên hỏi lớn :

- Đạo trưởng có phải là Giáo Chủ Toàn Chân Giáo đã chiếm ngôi Thiên hạ đệ nhất võ công tại Hoa Sơn luận kiếm đó chăng ?

Trùng Dương chậm rãi đáp nói :

- Chuyện ấy quả có như vậy. Song danh hiệu Thiên hạ đệ nhất võ công thật bần đạo thẹn mà không dám nhận, chẳng qua các bằng hữu thương tình mà gọi thế thôi.

Thấy Trùng Dương thái độ ung dung, quả không hổ danh tôn sư của phái võ thuật đang lừng danh trong thiên hạ.

Các lãnh tụ Bào Ca lượng sức mình, không thể cùng đối phương qua được hiệp đầu, nếu mạo hiểm giao tranh chắc chỉ sẽ rước lấy thảm bại.

Nhưng trong tình thế lỡ làng, họ khẽ liếc nhau, chưa biết phải đối phó ra sao ?

Thần Toán Tử Tần Lảng vụt cười lanh lảnh :

- Đạo trưởng thật quả danh bất hư truyền, cái bang hội nhỏ nhít của chúng tôi trong chốn giang hồ chắc chắn là không thể nào có trong đôi nhãn quan biễu hiện bản lãnh phi phàm của vị đại tôn sư. Hà hà...

Biết đối phương ám chỉ mình chặt đầu gà, cự tuyệt sự kết giao, Trùng Dương bắt cười thầm và thản nhiên trả miếng :

- Chư vị nói thế e quá đáng đi chăng ? Thật ra đối với quý hội, anh em bần đạo đã dành nhiều ý tốt.

Day qua Bá Thông, vị chưởng giáo Toàn Chân nói tiếp :

- Tệ sư đệ của bần đạo đây từ xa mới đến dã được người của quý hội mời tiếp ba mươi đồng một cuốc xe, hai trăm đồng nghe vài tiểu khúc.

Chúng tôi là kẻ xuất gia xem phú quý như phù vân với số tiền nho nhỏ ấy kể chẳng có chi. Song chắc người của quý hội không khỏi xem chúng tôi như một chú cừu non. Âu cũng là cách dạy khách của người quân tử.

Trong khi vừa nói đến đó, Châu Bá Thông vụt tiếp theo :

- Quả là thúi hoắc !

Lời lẽ nhẹ nhàng châm chọc của Trùng Dương, đã làm cho các lãnh tụ Bào Ca đỏ mặt lên vì nhục nhã, tiếp theo bốn tiếng của Châu Bá Thông, làm cho mặt họ từ đỏ bỗng xống màu tái ngắt, giận run.

Thiết Hồ Lô trầm giọng :

- Vị tôn huynh họ Châu này là sư đệ của Chưởng giáo chân nhân, võ công chắc cũng tương đương mức đó. Chúng tôi là bọn thô lậu quê mùa, nhưng cũng xin với châu huynh lãnh giáo .

Châu Bá Thông thấy bọn họ hầm hầm muốn ăn thua với mình, thật là một việc chàng ta đang muốn mà chưa được.

Song vì nhớ tới điều kiện đã giao chịu với sư huynh nên do dự ngó chừng ông anh nghiêm khắc .

Trùng Dương nạt Châu Bá Thông mà giống như là nạt luôn cả bọn Bào Ca :

- Sư đệ ! Cấm không được với người đấu khẫu và càng không được với người động thủ, nghe chưa !

Và day qua các lãnh tụ Bào Ca :

- Chư vị thách thức làm chi ! Tệ sư đệ vốn người có lỗi, hôm qua đây lại đắc tội với người anh em của quý hội, dám đâu cùng chư vị tranh tài .

Thiết Toán Bàn cười lạt :

- Thế thì, có lẽ Vương đạo trưởng muốn chỉ giáo chúng tôi chăng ?

Trùng Dương mỉm cười :

- Đâu dám ! Bần đạo cùng với chư vị ngày xưa vốn không cừu oán ? Ngày nay lại chẳng thù hận thì nói chi đến chuyện can qua ? Tới mức đối văn, thì kể cũng quá rồi, đâu dám cùng nhau tỷ võ ?

Năm vị thủ lãnh Bào Ca cùng nói :

- Như thế nào thì gọi là đấu văn, đạo trưởng cứ tự tiện nêu lên ?

Trùng Dương cười ha hả :

- Tống Đại khai quốc hoàng đế Triệu Khuôn Dẫn, sau khi thống nhất sơn hà, có bày ra một trò vui gọi là Chén rượu tuyển binh, trong cuộc hội kiến của chúng ta, ngại chi lại chẳng mở ra trò ấy ?

Năm vị lãnh tụ Bào Ca lạ lùng hỏi lại :

- Thế nào gọi là Chén rượu tuyển binh ?

Trùng Dương nhìn quanh khắp sãnh :

- Trong lúc bất ngờ, rượu chưa có, thôi hãy thế trà vậy ?

Vừa nói, ông vừa bước lên cầm lấy bình rót đầy ba chén.

Quần hùng của hội Bào Ca còn đang ngơ ngác.

Trùng Dương đã bưng hai chén trà để lên hai bên chót vai, và một chén đặt ngang lần búi tóc trên đỉnh đầu, sau đó, chân phải đứng yên, chân trái đưa ra quây suốt một vòng, sàn gạch trong sãnh đường lún sâu thành một vòng tròn, bề trực kính có hơn một trượng !

Bọn cao thủ Bào Ca, thấy công lực xuất phát từ mũi chân của chưởng giáo Toàn Chân, bấy giờ nhìn nhau kinh hãi .

Sau khi vẽ xong vòng, Trùng Dương đứng ngay chính giữa mỉm cười :

- Bây giờ bần đạo đứng trong vòng này, hầu tiếp cùng quý vị một ít môn quyền thuật . Chư vị cứ từng người hay là cũng một lượt dạy cho cũng tốt. Lẽ tất nhiên bần đạo sẽ với hai bàn tay không bồi tiếp .

Nếu như cử khai chiêu thế, một chung trà đổ xuống kể như đã bị thua và nếu như đã bị thua, và nếu như bị lăn ra khỏi vòng, cũng coi là bại cuộc.

So tài với nhau bằng cách này quyết không hiểm nguy đến tính mạng, đối với chư vị càng không mảy may thương thế nào cả, không biết quí vị có bằng lòng cách đấu này không ?

Nghe qua cách thức giao đấu của Trùng Dương, quần hùng Bào Ca hội vừa kinh ngạc vừa tức

Giả Kim Dung

Võ Lâm Ngũ Bá

Hồi 79

Đại náo Bào Ca Hội

Nguyên vì Trùng Dương bày ra cách đấu đó, ngoài mặt nói có tính cách vui chơi, kỳ thực, hàm ẩn một sự coi thường đấu thủ.

Để trên mình ba chén trà trong khi giao đấu, giới hạn cử bộ trong phạm vi nhỏ hẹp của vòng tròn, càng tăng thêm lòng chẳng chút e dè sợ sệt trước những kẻ uy trấn Tứ Xuyên.

Hình thức giao đấu đó, đã nói rõ ra rằng không cần phải dùng tuyệt kỹ cũng đủ đánh lại đối phương.

Quần hùng của Bào Ca đưa mắt nhìn nhau hầm hầm tự ái.

Thiết Thích Vị Tra Hùng người thủ lãnh Gia Lăng, gõ ống điếu bước lên :

- Vương Chân Nhân đã nhìn chúng tôi bằng một cái trò như thế ấy, vậy Tra mỗ này xin lãnh giáo trước tiên.

Châu Bá Thông thấy cái ống điếu của Tra Hùng từ đầu đến cuối toàn bằng thép cứng biết đó là loại binh khí chuyên dùng điểm huyệt.

Dùng một cái ống điếu nho nhỏ như vậy làm vũ khí, người sử dụng quyết không phải hạng tầm thường. Sư huynh chọn đấu pháp như thế đó,

không biết có thắng hắn hay chăng ?

Trùng Dương nhìn Thiết Thích Vị mỉm cười :

- Tra lão tiên sinh sẵn sàng chỉ giáo thật là điều hân hạnh cho bần đạo biết bao. Song chẳng hay ngoài Tra lão tiên sinh ra, còn có vị nào nữa hay không ?

Thiết Thích Vị Tra Hùng cười lạt :

- Vương Chân Nhân một mình ta cũng quá đủ rồi, cần chi thêm nữa.

Trùng Dương cười lớn :

- Tốt lắm ! Xin mời !

Tra Hùng nói như hét :

- Xin khiêm lễ .

Vừa dứt tiếng, chiếc ống điếu quật qua như điện chớp, nhắm ngay Huyết Trở huyệt của Trùng Dương điểm tới.

Vị Giáo Chủ Toàn Chân không chút chi bối rối, thình lình trầm mạnh đôi vai, lật ngược bàn tay nhằm khoảng giữa chiếc ống điếu của Tra Hùng đẩy ra một chưởng.

Thiết Thích Vị chợt thấy một luồng kình lực vút làm cho chiếc ống điếu của mình quật lệch một bên, biết mình đã đi trên đà nguy hiểm, vội vàng triệu hồi công thế, rút nhanh chiếc ống điếu trở về.

Không ngờ Trùng Dương tay phải vừa tung ra, tay trái đã như một làn chớp xéo ngang thắt lưng của Tra Hùng. Giáo Chủ Toàn Chân vừa quát lên một tiếng "đi", thân hình của Tra Hùng đã bay ngược hơn tám thước.

Quần hùng Bào Ca hội thấy Tra Hùng mới vừa nhập cuộc, đã bị đối phương đánh văng một cách dễ dàng, cả bọn thảy đều sững sờ trố mắt.

Quả xứng đáng với danh hiệu, Thiết Thích Vị Tra Hùng tuy bị đánh lui nhưng thân pháp vẫn vững vàng không loạn. Vừa bị bắn tung ra, cả tay chân liền xoay kéo một vòng, để cho mông đít vừa chấm đất, lập tức dùng thế Kim Thiền Bí Lãng nhãy vọt trở qua sát sau lưng Trùng Dương và nhanh như cắt, chiếc ống điếu đã chĩa mạnh vào Chí Đường huyệt của Toàn Chân Giáo Chủ.

Chiếc ống điếu của Tra Hùng chẳng những chỉ sử dụng chiêu số trong Phán quan bút điểm huyệt mà còn án theo đường kiếm ngũ hành, cho nên đầu ống điếu vừa xuyên qua, thì cổ tay vừa lật lại liên tiếp quét trọn ba đường.

Chiêu thức tung ra không những nhằm quật trúng vào hai cẳng Trùng Dương, mà là muốn bức cho đối phương phải nhãy vọt lên làm cho ba chén trà bị nghiêng phải đổ.

Không ngờ thân pháp của Trùng Dương biến hóa vô cùng, lúc đầu ống điếu của Tra Hùng đâm tới huyệt đạo, ông vẫn bình tĩnh đứng yên một chỗ chờ cho đối phương biến thế, thân mình mới khẽ nhõng lên, xoay hẳn một vòng, làm cho chiếc ống điếu của Tra Hùng quét trật vào khoảnh trống.

Thiết Thích Vị đánh hụt một chiêu, biết đã lâm vào hiểm họa, buột miệng la lên một tiếng "không xong" và vừa muốn hoành thân thối hậu, thì Trùng Dương đã quật nhẹ cánh tay theo thế Beo Vàng Vươn Móng nằm chặt cổ tay của đối thủ, bấm đúng mạch môn.

Tra Hùng bỗng thấy tê rần phân nửa thân người, cánh tay như bị bại xụi, chiếc ống điếu rớt lăn xuống đất.

Thiết Thích Vị thẹn thùng đỏ mặt cúi đầu.

Phàm những người đấu võ, nếu như binh khí của mình bị kẻ địch đánh rơi thì một cái nhục không có gì bằng.

Tra Hùng thủ lãnh một bang phái, được coi là một nhân vật có tiếng tăm, bị đối phương đánh bại hai lần, chỉ còn có cách cắn răng nuốt thẹn, nhãy lui ra một bước kêu lên :

- Vương Chân Nhân, quả nhiên bản lãnh siêu phàm, Tra mỗ này xin cam chịu dưới tay !

Táng Môn Thần Ân Văn Thiên, thủ lãnh Đà Giang phái, không thể dằn cơn giận dử vung cặp Thiết hồ đào vọt người bước tới :

- Vương Chân Nhân ! Ta xin lãnh giáo.

Ân Văn Thiên là một người hùng có tiếng miệt Xuyên Nam, trong giới lục lâm đã nổi danh rất sớm, cặp Thiết hồ đào trong tay với chiêu số lạ lùng.

Nhưng so với Tra Hùng về kinh nghiệm và võ công, cả hai mặt Ân Văn Thiên làm sao qua được.

Cho nên khi thấy họ Ân hùng hổ khởi công, quần hùng Bào Ca hội đã cho rằng gã không biết lượng sức mình.

Trùng Dương chưa đáp lời thì Ân Văn Thiên đã quay qua nói với Võ Phan An Du Hiệu :

- Du lão đệ, luận về bản lãnh thì chúng ta những không làm sao sánh được với Vương Chân Nhân dầu có luyện tập thêm trăm năm nữa cũng không theo kịp. Nếu chúng ta cùng hợp lực, làm đổ của Vương Chân Nhân một chén trà, thì chắc cũng chẳng xấu chi. Bằng lòng chứ ?

Châu Bá Thông mắng thầm :

- Đồ chó chết ! Nó nói luyện thêm một trăm năm nữa chưa bằng sư huynh ta. Cho nó luyện trọn đời luôn cũng chưa chắc đã ra gì. Nó kéo hai đứa định đánh rớt chung trà ? Hứ !

Cóc khô !

Ân Văn Thiên và Du Hiệu quả thật là một cập bài trùng hồi thửa còn hoành hành dọc ngang trên những dòng sông Hồ Bắc.

Võ Phan An Du Hiệu vốn có phong cách văn nhân, vóc dáng như một chàng công tử, cho nên thuở đó thường hay giả dạng khách thương, quá giang thương thuyền để làm nội ứng.

Vì lẽ đó mà hai người một văn một võ, tâm đầu ý hiệp cùng một lượt đi đánh cướp thương thuyền và cùng một lượt nhãy vô Bào Ca hội.

Ân Văn Thiên hy vọng cùng với Võ Phan An hiệp lại trước sau công kích họa may có thể lật được Trùng Dương, cho nên mới gọi ra một lượt.

Vị Giáo Chủ Toàn Chân cười ha hả :

- Đầu lãnh Đà Giang muốn hai người hợp sức tấn công ư ? Thế cũng hay, nhưng giá mà năm vị cùng ùa ra một lượt thì có lẽ lại càng hay hơn nữa.

Táng Môn Thần cười lạt :

- Vương Chân Nhân hãy nói ít một chút, để chừa chỗ về sau. Hai cũng quá đủ, cần chi phải đến năm.

Võ Phan An Du Hiệu phe phẩy chiếc quạt cốt sắt khoan thai bước tới nói :

- Lời nói của Ân huynh rất phải, tục ngữ có nói : "Dược với bạn hay hơn học thầy giỏi", huống chi Vương Chân Nhân lại là đệ nhất tôn sư trong thiên hạ, nếu chúng ta có ngã dưới tay người, kể không có gì quá đáng. Hà !

Hà !

Vừa dứt lời người thủ lãnh khôi ngô của phái Lạc Giang đã tung thân lướt tới, phát lên một quạt, ngọn phiến phong bay thẳng tới chén trà trên đỉnh đầu vị Giáo Chủ Toàn Chân.

Du Hiệu nghĩ rằng việc đột kích thình lình của mình trong lúc Trùng Dương bất ý nhất định chung trà sẽ bị văng ngay.

Không ngờ họ Vương là một nhân vật phi thường, chỉ thấy ống tay áo của ông phất nhẹ lên một cái, Thái Ất Thần Công mềm như tơ lụa, nặng như thái sơn đã hất cả quạt lẫn người Võ Phan An xa gần hai trượng, té ngữa nằm dài trên mặt đất.

Thừa lúc Trùng Dương vừa xuất chiêu, Ân Văn Thiên vung mạnh cánh tay, cặp Thiết hồ đào bay ra, phát lên tiếng kêu nghe rổn rảng.

Nguyên vì cặp Thiết hồ đào có cột sợi dây xích nhỏ bằng nửa ngón tay , dài hơn một trưng, nhưng vì Ân Văn thiên quấn trong cổ tay áo rộng nên bình thường không ai thấy được, chỉ khi nào tấn công mới vụt tháo tung ra.

Thiết hồ đào bay như sao xẹt, dụng ý của Ân Vân Thiên là đánh văng chén trà trên vai của Trùng Dương.

Bất ngờ vừa bay tới cánh tay áo rộng của vị Giáo Chủ Toàn Chân đã phất ngược ra sau nghe "xoảng" lên một tiếng, hai trái hồ đào như đụng vào vách sắt, dội ngược lại đầu chủ nhân của nó.

Ân Văn Thiên hoảng hốt vội vàng hụp xuống, hai trái đào sắt sớt ngang qua đầu tóc họ Ân đau điếng.

Quả là đào ông lại đập đầu ông.

Ám khí của mình va lại đầu mình.

Táng Môn Thần bèn gục đầu xấu hổ.

Một cánh tay áo phất tới giật lui đánh bại cả hai người , lại là hai người đầu lãnh.

Châu Bá Thông đứng kế bên không còn nín được ngữa mặt cười ha hả.

Quần hùng Bào Ca hội thấy Trùng Dương trong cái nhụch tay đã hạ luôn ba người đầu não Tứ Xuyên, bất giác đưa mắt nhìn nhau sửng sốt.

Công lực của Giáo Chủ Toàn Chân như vậy dầu cho bao nhiêu người có mặt nơi đây cùng một lượt đứng lên, cũng không đủ sức đương đầu.

Nhưng, cứ như thế mà chịu thua, thì thanh danh của Bào Ca hội há chẳng trôi theo sông nước.

Thấy thái độ lừng khừng của đám thủ lãnh Bào Ca hội, Trùng Dương bỗng bật cười :

- Chư vị đã gửi thiệp mời bần đạo đến đây chẳng lẽ để tình trạng đầu voi đuôi chuột như vậy coi sao được ?

Cũng không cần giữ mặt với nhau làm chi nữa, năm vị cứ cùng một lượt xông lên có phải hơn không ?

Bất cứ món khí giới nào, kể cả báu kiếm quí vị cứ tự tiện dùng, miễn sao hất đổ được chén trà hoặc làm sao cho chân bần đạo phải trệt ra vòng thì kể như phần thắng sẽ về tay quí vì chứ có chi đâu mà sợ.

Thiết Hồ Lô Hề Di được dịp thét lên :

- Các bằng hữu, Vương Chân Nhân đã nói thế, chúng ta đừng phụ lòng người.

Câu nói ch

ưa dứt Thiết Toán Bàn Tần Lãng thủ lãnh phái Bồ Giang cùng vọt xéo lên trên vung chiếc bàn toán sắt, quật thẳng ngang lưng của Trùng Dương.

Bàn toán là một dụng cụ kế toán không nằm trong các bộ môn binh khí. Nhưng bàn toán của Tần Lãng lại đúc toàn sắt thép, đao kiếm tầm thường không làm chi nó được.

Tấn Lãng vốn là môn hạ của Hồng Lạc Công phái Thương Châu, xuất thân hắn đã đem Hỗn nguyên bài pháp biến đụng vào thiết toán bàn, pha lẫn lộn các đường Bản Phủ, làm thành ba mươi sáu thủ thiết toán bàn công suất cực kỳ ảo. Trong lúc huy động, con toán chạy qua chạy lại không ngừng, tiếng vang loạn đã điếc tai rền óc.

Ngoài phần vi diệu của chiêu số, sự di động tạo thành âm hưởng của con toán còn có tác dụng khủng bố tinh thần đối phương .

Thiết toán bàn xử xuất tuyệt chiêu Vận Trù Ốc Toán, công thế nhắm vào Mạng Môn huyệt của Trùng Dương.

Nghe tiếng động sau lưng, biết đối phương phát động công thế, vị Giáo Chủ Toàn Chân không chút chì vội vả, ba chung trà vẫn y mức thăng bằng chỉ nhẹ xoay mình qua một cách bình tĩnh mà cực kỳ khéo léo, chiếc bàn toán sắt của Tần Lãng đã vụt vào khoảnh trống không.

Cách tránh né tinh diệu đó là thân pháp Thiên Oai Bắc Đẩu.

Thiên Oai Bắc Đẩu là một tuyệt kỹ của phái Toàn Chân, nó là một loại vị trí chiếc pháp, mà Trùng Dương đã thọ truyền di huấn của Thanh Hư Tản Nhân, rèn luyện từng nước bước vô cùng trơn nhuận.

Trùng Dương vẽ một vòng tròn diện tích không hơn một trượng để giới hạn vị trí xê dịch trong khi giao đấu, mới nhìn qua y như là việc làm sơ suất, kỳ thật ông đã đem Thiên Oai Bắc Đẩu Trận thu hẹp lại trong một vòng nho nhỏ.

Nội trong vòng tròn nhỏ ấy đủ thừa chỗ trống cho những binh khí kỳ lạ của các cao thủ Bào Ca đánh hụt.

Du Hiệu vung cây quạt sắt, ngoài việc phát xuất phiến phong đánh thẳng vào thất quan trên mặt của địch nhân, phân tán tinh thần của đối phương ra, còn có thể biến thành những ngọn đồi trùng trùng lớp lớp như đường côn bổng.

Nếu sử dụng Phán Quan Bút điểm sẽ liên công vào hai mươi bốn đại huyệt của đối phương một lúc.

Một bên, chiếc Thiết Hồ Lô của Hề Dị tung vẩy ngụy chiêu, đầu nhỏ của hồ lô có thể đâm vào huyệt đạo. Đầu bằng của đít bầu, lại sử dụng như một tấm bia đở ngăn chiêu thức của kẻ địch.

Du Hiệu vươn quạt nhắm vào Thần Đình huyệt xéo bên góc trán, chiếc hố lô Hề Dị đập thẳng ngay tử huyệt ở cạnh hông. Cả hai kẻ trước người sau, ồ ạt tấn công vị Toàn Chân Giáo Chủ.

Bất luận Trùng Dương muốn né tránh bên nào cũng đều khó thoát, bằng như dùng một thủ pháp khác để phá thế đối phương, tất nhiên ba chung trà sẽ dễ dàng đổ rơi xuống đất.

Châu Bá Thông thấy rõ tình thế hiểm nguy đó, buột miệng kêu lên :

- Thật rõ ràng sư huynh đã tự kéo kén trói mình !

Tiếng Châu Bá Thông chứa dứt thì thân hình Trùng Dương đã bắn vọt thẳng đứng trên hai trượng, binh khí của Tần Lãng và Hề Dị quơ vụt vào không khí.

Từ giữa lưng chừng, vị Giáo Chủ Toàn Chân xoay mình nhè nhẹ như cánh diều lượn gió, đáp ngay xuống đất. Ba chén trà mặt nước vẫn không chao.

Thiết Thích Vị Tra Hùng huơ chiếc ống điếu, Táng Môn Thần Ân Văn Thiên vung Thiết hồ đào song song áp lại xoắn chặt Trùng Dương khi mới đáp xuống giữa vòng.

Muốn giải hai chiêu đó, đối với vị Giáo Chủ Toàn Chân, sự thật không phải là chuyện khó, khó ở chỗ là trên mình mang ba chén trà không được quyền làm đổ nước. Giữ người thì đổ trà, giữ trà không đổ thì dễ chi xoay trở .

Đột nhiên Trùng Dương hừ lên một tiếng, rùn lưng xuống vận nội lực bắn ba chung trà vọt tuốt lên không như ba viên đạn.

Trong khoảnh khắc đó , ống tay áo phất lên một vòng phát xuất Thái Ất Thần Công, kình lực cuồn cuộn dậy lên, năm vị cao thủ Bào Ca bị bứt văng ra ngoài một trượng.

Tuy quạt lui đối thủ, nhưng ba chén trà còn lơ lửng trên không.

Châu Bá Thông trợn mắt há miệng hoang mang.

Không ngờ, sau khi đẩy lùi năm ta kiệt tuyệt Tứ Xuyên vị Chưởng giáo Toàn Chân vụt ngữa mặt lên không hút mạnh vào không khí, ba chén trà như có bàn tay vô hình điều khiển, tự động sắp thành hình tam giác, miệng thẳng lên trên, đáy ngay xuống dưới, không chút chi chênh lệch.

Trùng Dương đưa tay phất nhẹ ba chén trà từ từ rơi đúng về vị trí cũ trên mình, nửa nhễu trà không lọt ra ngoài miệng chén.

Năm vị Đà chủ Bào Ca nhìn thấy thân pháp của Trùng Dương, trong lòng vô cùng khâm phục. Nhưng đồng thời hét rập lên một tiếng, năm người chia ra năm hướng, lại xông tới tấn công.

Thay vì dùng chiếc hồ lô sắt, lần này Hề Dị vận công phu lực quật chưởng vào thẳng mạng môn.

Táng Môn Thần Ân Văn Thiên tung Hắc sát chưởng đánh vào tử huyệt hai đạo âm nhu chưởng pháp ào ào ập tới Trùng Dương.

Nếu đổi lài một người bản lãnh bình thường, tránh được đàng trước cũng bị ở đàng sau, trúng một trong hai chưởng cũng đều vong mạng.

Trùng Dương lúc bấy giờ không nhãy lên cao, không tràng mình tránh né, lại rùn chân thấp xuống xử xuất Đà Loa công thế, chỉ thấy trong nháy mắt, thân hình đã lệch ra ngoài hai làn chưởng ảnh.

Chưởng phong của Hề Dị và Hắc Sát Thủ của Ân Văn Thiên cơ hồ đâm thẳng vào nhau.

Hai người không hẹn mà cũng sững sờ khứng lại.

Trùng Dương trở mình tung đôi chân lên.

Bình ! Bình !

Hai tiếng nằng nặng vang lên, Hề Dị và Ân Văn Thiên bị đá bổng ra ngoài.

Bên trái, Hề Dị nhủi nhủi như heo ủi đất, mé bên này Ân Văn Thiên lộn cổ xuống sân nhỗng đít lên trời.

Võ Phan An Du Hiệu, Thiết Thích Vị Tra Hùng, Thiết Toán Bàn Tần Lãng, ba người tuy là những kẻ coi trời đất bằng vung, thị thiên hạ giang hồ như không có, nhưng gặp Trùng Dương thì như trẻ nít đứng trước người lớn tuổi, ngoài mặt hung hăng mà trong lòng đã bắt đầu gượng gạo cầu may.

Lúc bấy giờ năm vị thủ lãnh Bào Ca rập thét lên khẫu hiệu, cùng một lúc tung thế liên hoàn, người dùng quyền cước, người rút binh khí, hùng hổ bủa vây, như chụp xung quanh Trùng Dương một chiếc nôm kình lực.

Vị Giáo Chủ Toàn Chân vẫn với những bước Thiên Oai Bắc Đẩu phải trái dọc ngang, trước sau tề chỉnh.

Năm vị Đà chủ Bào Ca tuy đã sử dụng tận lực bình sinh bản lãnh, quần luôn cả mẩy chục hồi mệt lả mồ hôi, vẫn không sao thủ thắng.

Trong cái vòng tròn diện tích không ngoài một trượng, Trùng Dương ung dung công thủ, dáng sắc tự nhiên như một mình dượt thảo đường quyền. Ba chén trà như để yên trên mặt ghế .

Châu Bá Thông hốc mỏ đứng dòm, hít hà chắc lưỡi liên hồi .

Thình lình, chưởng giáo Toàn phân hú dài một tiếng, thanh âm như muốn xoi thủng tòa nhà cổ, lật nghiêng bàn tay đoạt phứt cây quạt sắt của Võ Phan An, tiếp theo đó quạt ngược ra một cái , ngay chiếc bàn toán sắt của họ Tần.

Cái quạt ngược của Trùng Dương, như sức của cái chày đồng đập trúng vào bàn toán của Tần Lãng đánh "cổn" lên một hồi, chiếc bàn Toán sắt chẻ đôi, con toán loong coong rớt vảy đầy trên đất.

Châu Bá Thông ôm bụng cười sặc sụa :

- Bàn toán sắt cũng bể ! Con toán sắt cũng rơi. Hà ! Hà !

Binh khí bị hủy, quá đỗi thẹn thùng, lại nghe tiếng cười chế nhạo, Tần Lãng nổi xung bao nhiêu giận tức dồn cả lên cánh tay, tung mình nhãy tới giáng xuống đầu Châu Bá Thông như chớp.

Chưa được lệnh của sư huynh, không dám đánh trả lại, lật đật nhãy tránh một bên la lớn :

- Sư huynh anh đập bàn toán của hắn, hắn lại đánh tôi ! Tiểu đệ có nên động thủ hay chưa nói mau ?

Trùng Dương luôn luôn làm một việc gì ít chú tâm đến việc khác, nhất là đang cố ý bức lui sức công hảm bốn bên, mà công phu đi bộ Thiên Oai Bắc Đẩu lại tối kỵ việc phân tán tinh thần, phương chi lui tới trong một cái vòng nho nhỏ, sẩy một ly một tý là hỏng cả thanh danh.

Vì thế mà không nghe được tiếng gọi của Châu Bá Thông, mà dù có nghe đi nữa chắc ông cũng chẳng đáp lời.

Hoàn cảnh của Châu Bá Thông lúc đó thật là khổ sở, vừa phải tội quỳ gần trọn nửa ngày trong khách điếm, bây giờ không được lệnh không dám giao đấu mà khổ nỗi cũng không nhịn cười được, chọc tức thiên hạ dẫn họa vào mình.

Tần Lãng vận xuất Bát Tiên Mê Tông quyền ào ào như gió như mưa, bốn phương tám hướng tấn công Châu Bá Thông tới tấp.

Cứ theo công lực của Châu Bá Thông mà nói nếu chàng muốn đánh ngã Tần Lãng thì không phải khó. Song vì giữ lời răn dạy của sư huynh không dám ra tay, chỉ còn cách bắt chước Trùng Dương, áp dụng Thiên Oai Bắc Đẩu để mà tránh né.

Tần Lãng đang dốc hết cái thẹn, cái tức loạn đả đối phương, chợt một luồng gió cứ cuốn quanh mình như trốt, rồi thì mắt bỗng hoa lên, trước sau tả hữu của mình, đều có bóng của Châu Bá Thông xoay chuyển, bất giác tay chân lính quýnh đầu óc hoang mang.

Cùng lúc đó từ bên trong hậu sãnh chính thủ lãnh Đà Giang Hắc Ban Báo Đơn Chí Hồng sồng sộc ngay ra, tay xách cây đao răng cưa lớn bản.

Nhìn thấy trong vũ sãnh, Trùng Dương đang vũ lộng thắn uy, bốn người bạn của mình thì mồ hôi vã ra như tắm.

Bên góc Châu Bá Thông xoắn tròn theo Tần Lãng, người thủ lãnh Bồ Giang cũng đang xính vính.

Vừa thấy mặt Châu Bá Thông, nhớ lại mấy cái tát tai hôm qua nơi khách điếm. Hắc Ban Báo Đơn Chí Hồng đùng đùng nổi giận, rống bên một tiếng vung chiếc đao răng cưa, nhắm sau lưng Châu Bá Thông bổ xuống một chiêu Hoành Giang Tiệt Đầu.

Liếc thấy trận của mình tăng thêm kẻ địch, Châu Bá Thông vội vàng kêu lớn :

- Sư huynh, sư huynh ! Lại thêm một thằng ăn trộm thúi đánh đệ nữa đây nè . Anh có chịu cho tôi đánh lại hay không ? Trả lời mau đi ? Nó đánh quá đây nè .

Gặp lúc say sưa với Thiên Oai Bắc Đẩu, Trùng Dương im lìm không nghe thấy tiếng kêu.

Đơn Chí Hồng ngó thấy Châu Bá Thông chỉ độc một việc tránh né, chứ không hề đánh lại, lấy làm lạ nghĩ thầm :

- Hừ , cái thằng này bộ điên rồi chăng ? Sao lại cứ réo sư huynh chứ không chịu đánh hả ?

Vừa suy nghĩ vừa sử suất Ngũ Hổ đoạn môn đao pháp, đâm, chặt chém, phạt từng chiêu từng chiêu dử tợn, công hãm Châu Bá Thông.

Châu Bá Thông rợn lên, thầm nghĩ :

- Mẹ ! Ngày nay mình theo sư huynh đến đây mục đích là đánh lộn, mà ảnh thì sớm giờ đã được giãn tay giãn chân, còn mình thì ảnh lại không cho đụng đến mấy thằng chết bằm này ! Sự đời sao lại có thể như vậy, như thế được ?

Châu Bá Thông sau này có cái biệt hiệu là Lão Ngoan Đồng, chỉ tính tình kỳ cục như con trẻ, bản tính rắn mất dị hợm đó phát xuất ngay từ khi còn mới biết bò.

Cho nên trong khi Đơn Chí Hồng và Tần Lãng tấn công tới tấp, chợt như sực nhớ nói thầm :

- Quả là ngu hết sức. Sư huynh dặn đừng đánh với người chớ đâu có dặn đừng đánh ảnh. Cứ đập đại ảnh vài chiêu, cho không cho sẽ biết ngay chớ gì !

Nghĩ thế không còn do dự nữa bèn phóng mình lên thi triển Thanh Long xuất động, một tuyệt chiêu trong Thái Ất quyền nhắm ngang lưng của Trùng Dương đập tới.

Trùng Dương đang cùng thủ lãnh Bào Ca quần đấu, công lực có thừa, y như người lớn giỡn cùng đám trẻ, chợt nghe từ phía sau lưng một luồng đại lực xé gió xẹt tới bên mình.

Một luồng đại lực cương mãnh dị thường, phải do từ cánh tay một cao thủ võ lâm mới có, ít ra cũng cở Tây Độc Âu Dương Phong, Nam Đế Đoàn Hoàng Gia.

Cho rằng cường địch đã đến, vị Giáo Chủ Toàn Chân lập tức rút tay về đẩy mạnh ra sau, theo chiêu thức Bài Vân Thủ của Toàn Chân giáo, đón ngay chưởng lực ào tới sau lưng.

Nhưng trong khoảnh khắc đề kháng khẫn trương đó , ba chung trà bị lơi sức hút , cuồn cuộn rơi xuống đất bể nát tan từng mảnh vụn.

Trùng Dương quay lại quát to :

- Ai !

Châu Bá Thông bị chưởng lực của Trùng Dương đẩy lui mấy bước, hoảng hốt kêu lên :

- Sư huynh ! Tiểu đệ đây !

Sáu đầu lãnh Bào Ca thấy tình hình cũng vội vã thu chiêu.

Trùng Dương không thể tưởng tượng kẻ khuấy rối đánh rớt chén trà của mình lại là Châu Bá Thông, bất giác tức giận hét lên :

- Sư đệ ngươi điên rồi à ? sao lại đánh luôn cả ta như thế ?

Châu Bá Thông rún vai chu mỏ :

- Sư huynh, tiểu đệ không có ý đánh anh, cú vừa rồi chẳng qua là vạn bất đắc dĩ đó thôi !

Trùng Dương kinh ngạc :

- Vạn bất đắc dĩ à ?

Châu Bá Thông kể lể :

- Sư huynh, vừa rồi anh cùng mấy tên Bào Ca, Bào Cá gì đó giao đấu, cái tên láo cá gọi là đồng ý toán ban, thiết toán bàn gì đó, bị đại ca đập nát lúc lắc của hắn, tiểu đệ sợ nó không thấy kêu nó dùm cho nó biết là bể rồi, vậy mà nó hổng biết ơn, còn nhãy tới đánh tiểu đệ.

Nhân vì lúc đi sư huynh có dặn nếu không có lệnh thì không được đánh, cho nên tiểu đệ chỉ có nước tránh né hoài, không ngờ cái tên chó chết bị đệ cho ăn mấy cái tát tai ở khách điếm ngày hôm qua không biết từ xó hóc nào lại đâm xầm hùa ra bu lại tiểu đệ, lấy hai đánh một.

Tiểu đệ đã kêu sư huynh xin phép mấy lần mà sư huynh cứ làm thinh, không lẽ lại cứ cúi đầu đưa lưng cho chúng đập, chỉ có cách phải dùng chưởng lực hất mấy cái chén trên vai anh rớt xuống, để mà nói cho anh biết vậy thôi .

Sư huynh, anh dặn đừng đánh người, chứ đâu có dặn đừng đánh anh ?

Vậy thì kể như tiểu đệ không có phạm gì hết.

Trùng Dương thấy Châu Bá Thông nhăn mày nhíu mặt nói ngược nói xuôi như vậy thật là lỡ khóc lỡ cười chỉ còn cách nhìn sư đệ nghiêm trang :

- Ba chén trà trên đầu trên vai của ta là vật giao hẹn, thắng bại điều đó do ta tự nói ! Bây giờ sư đệ đánh rớt, thì cũng kể như đã thua rồi Thôi hãy đi.

Châu Bá Thông nghe nói, lật đật la lên :

- Sư huynh không phải vậy ! Anh không có thua bởi tay của sáu cái tên vô danh này ! Vì bọn nó chưa có động được đến cái lông chân của anh. Nếu anh không tin thì chỉ cần...

Vừa nói tới đó Châu Bá Thông đã nhãy thóc tới trước mặt Tra Hùng.

Tra Hùng giao đấu nãy giờ quá mệt đang móc hầu bao lấy thuốc nhồi vào ống điếu xẹt đá lửa lên.

Vừa mới châm châm kê vô miệng chưa kịp hút, bất phòng Châu Bá Thông nhãy ập tới hét lên :

- Đón chiêu !

Tiếp theo, chưởng phong xé gió ào ào bay tới.

Tra Hùng hoảng hốt, quặt chiếc ống điếu trở qua theo thế Bạch Kê Tráo Dực, nhắm Linh huyệt đài của Châu Bá Thông điểm tới.

Châu Bá Thông thừa lúc đối phương vội vàng lính quýnh, chuẩn đà búng ra một cước, đá Tra Hùng văng tuốt ra xa.

Trùng Dương nạt lớn :

- Sư đệ ! Ngươi lại đánh người à !

Giả Kim Dung

Võ Lâm Ngũ Bá

Hồi 80

Trí đoạt cống lễ

Nghe sư huynh thét mắng Châu Bá Thông hoảng hốt nhãy lùi trở lại, đưa tay tát vào mặt mình ba cái thật mạnh, mặt mũi đớ lơ.

Trùng Dương ngó thấy tức cười :

- Thôi ! Được rồi ! Cho sư đệ trổ tài với họ đấy.

Câu nói của Trùng Dương vừa dứt, Châu Bá Thông như cọp đói gặp mồi gầm lên một tiếng nhảy phốc tới giữa đám Bào Ca hội.

Quần hùng Bào Ca vừa thấy thủ pháp tước đoạt chiếc ống điếu của Thiết Thích Vị Tra Hùng, ai nấy đều kinh hoảng không dè nhân vật Toàn Chân Giáo bản lãnh lợi hại như thế.

Nên khi Châu Bá Thông nhãy tới, tinh thần đề kháng hoàn toàn tan rã, la lên một tiếng, tản dạt ra hai bên.

Châu Bá Thông không nói nửa lời, vung cánh tay ra chộp đúng cổ áo của Hắc Ban Báo Đơn Chí Hồng, quát mắng :

- Đồ chết bầm !

Rồi nhấc bổng họ Đơn ném tuốt ra xa.

Một tiếng "bịch" khô khan như tiếng quăng bao cát, cả cây đao răng cưa và khối thịt của Hắc Ban Báo lăn tròn lông lốc.

Những tay danh thủ Tứ Xuyên còn lại, bét bét ra cửa dông luôn một nước.

Châu Bá Thông dợm cẳng rượt theo.

Trùng Dương vội vàng gọi lại :

- Sư đệ ! Hãy để cho họ chạy !

Châu Bá Thông dừng lại, vị Giáo Chủ Toàn Chân dắt tay người sư đệ, ngang nhiên ra cửa.

Các nhân vật Bào Ca hội bị thần uy của Giáo Chủ Toàn Chân chế phục, lén lén rút đi mất hết không còn lấy nửa bóng người.

Trùng Dương ngữa mặt cả cười, cùng với Châu Bá Thông thẳng về khách điếm.

Lần đến Tứ Xuyên này, vị chưởng giáo của Toàn Chân đã làm cho năm đầu lãnh Bào Ca khiếp đảm, uy danh lan khắp đó đây, một lần nữa sau cuộc luận kiếm Hoa Sơn người lãnh đạo Toàn Chân Giáo đã làm cho giang hồ nể mặt.

Sáng ngày sau, hai anh em họ Vương rời khỏi Thành đô, chọn đường tiến xuống Vân Nam.

Bọn Khưu Xử Cơ bảy người ở lại giữ Yên Hà động, sau khi sư phụ và sư thúc đi rồi, bầu không khí ở động Yên Hà thật là vắng vẻ, ngoài việc luyện kiếm vận công, không có việc gì khác cả. Cứ như thế hơn một tháng trời qua.

Một hôm, nhân lúc nhàn rỗi Khưu Xử Cơ, Mã Ngọc vầy cuộc đấu cờ, suốt nửa ngày trời mới nghỉ.

Khưu Xử Cơ bỗng nghĩ đến một việc bèn hỏi :

- Sư huynh, từ lúc chúng ta lên núi luyện công đến nay, không biết đã mấy năm rồi nhỉ !

Mã Ngọc ngạc nhiên :

- Sư đệ sao mà mau quên thế ? Qua bảy năm rồi còn gì nữa !

- Sư huynh, chúng ta cần phải xuống núi, dạo trước đệ nghe sư phụ nói sau khi khảo sát võ của mình rồi mới cho hạ sơn, nhưng không biết cách khảo sát của sư phụ ra sao ?

Mã Ngọc trầm ngâm :

- Sư đệ, sư đệ có nghe cách thức khảo sát môn đồ của Thiếu Lâm tự hay chăng ?

- Sao không ! Nghe người ta nói rằng, chưởng giáo phương trượng chùa Thiếu Lâm thiết lập La Hán Đường, chế ra mười tám vị La Hán bằng cây, số vị La Hán bằng cây này có đặt cơ quan trong ruột. Chỉ cần ấn vào nút máy, La Hán cây tự di động tập kích người khác. Mỗi người đệ tử Thiếu Lâm, sau khi thành tài, cần phải vượt qua được mười tám vị La Hán giả này mới có thể dấn bước giang hồ.

Mã Ngọc cười ngất :

- Trật !

Khưu Xử Cơ lấy làm lạ :

- Sư huynh, ai ai cũng bảo như vậy, mà không đúng sao nhỉ ?

- Cứ nghĩ lại xem dùng một La Hán để đo lường võ nghệ người khác là không được rồi.

Người cây là chết, người thật là sống, lấy giả thử thật, như thế là thông sao ? Cứ cho là người máy có thể cử động tay chân đi, nhưng sức lực ra sao ? Tất cả những việc đó, đều đặt thành nghi vấn.

Tóm lại, nếu quả như vậy thì không thể kể là đã luyện thành tài, không thể lấy đó mà đoán xem bản lãnh.

Khưu Xử Cơ suy nghĩ gật gù :

- Phải ! Đúng ! Như vậy không thể luyện được thực tài. Sư huynh, thế nhưng anh hỏi tôi việc đó là có ý chi chăng ?

Mã Ngọc mỉm cười :

- Sư phụ là một bậc cao nhân , tự nhiên người sẽ có phương pháp để đo lường công phu học tập của chúng ta. Ta đoán thế nào người cũng sẽ cho ta làm những chuyện thật khó khăn, bằng vào kết quả minh chứng đó định tài bộ.

Chàng còn định nói thêm, thì bỗng có một người đâm sầm chạy đến.

- Sư huynh ! Có...

Vừa nói đến tiếng có bỗng nhiên như nghẹn thở nói không được nữa.

Mã Ngọc nhìn thấy người đó là Đàm Xứ Đoan, thần sắc đã biến đổi. Chàng vội vàng đở người sư đệ vỗ vào Đại Thôi huyệt ở sau cần cổ và Khí Hải huyệt ở sau lưng, đoạn bảo :

- Sư đệ cứ thong thả, đừng quá sợ sệt.

Khưu Xử Cơ vội hỏi :

- Sư đệ gì đó ? Có kẻ địch tới à ?

Chàng tưởng đâu Tây Độc Âu Dương Phong lại mò đến về vụ Cửu Âm Chân Kinh.

Đàm Xứ Đoan lắc đầu :

- Không phải kẻ địch, mà là bọn người tải vàng bạc gấm lụa đi qua.

Mã Ngọc tỏ vẻ ngạc nhiên :

- Đàm sư đệ, chúng ta là kẻ xuất gia hành hiệp, chớ không phải như bọn đại sơn vương, họ tải vàng bạc đi ngang mặc kệ họ, cớ gì chúng ta mà phải nói ?

Đàm Xứ Đoan trố mắt :

- Sao lại không can cớ ? Đó là cống lễ mà hàng năm nhà Tống của chúng ta phải dâng sang Kim Quốc đó.

Khưu Xử Cơ và Mã Ngọc nghe nói thảy đều biến sắc.

Nguyên vì lịch sử Trung Hoa, từ đời nhà Hán đến đời Đường, các nước dọc vùng Tây Vực đến Nam Dương, đều tôn xưng Trung Quốc là thiên Triều, hàng năm nạp Cống Chỉ cho đến đời Tống thì trái lại, chẳng những ngoại quốc không còn triều bái nữa, mà hàng năm còn phải đem vàng bạc lụa là tiến cống nước người.

Bắt đầu từ Chân Tông hoàng đế, triều đại thứ ba của đời nhà Tống, đã phải triều phục Liêu Quốc ở Bắc phương. Dân tộc này còn gọi là Khiết Đan nữa.

Hàng năm lễ cống bạc ròng mười vạn nén, lụa tốt mười vạn cây, phải cho đủ số.

Tương truyền rằng tình trạng đó kéo dài ngót trăm năm, mãi đến đời Hoàng Đế Huy Tông khi quân Kim diệt nước Liêu mới dứt.

Sau khi diệt được Liêu, Kim quốc đổ binh xuống miền Nam xâm phạm Trung Nguyên bắt nhị vị Tống Hoàng đưa về phương Bắc. Nhà Tống di đô về Nam, thiên an Giang tả.

Tống Can Tông một vị vua bạc nhược, nghe lời dèm xiểm của đám gian thần Tần Cối làm cho thế nước bại suy và sau khi hãm hại Nhạc Phi, một bề tôi rường cột trung dõng song toàn đã hòa nghị với nước Kim vào năm thứ mười một đời Thiệu Hưng nhà Tống.

Đối với nước Kim, triều đình Tống đã hạ mình tự xưng Phiên Quốc tự đặt mình là một nước chư hầu lệ thuộc mỗi năm lễ cống vàng bạc là phải tăng gấp đôi, so với hồi tấn kiến nước Liêu.

Tống triều tấn cống Kim bang, tài vật rút từ mồ hôi nước mắt của chúng dân các tỉnh Giang Nam, trong khi đó trăm họ lầm than đói rách.

Cho nên triều đại đó, phàm những người có chí khí, đề cập hai tiếng cống lễ đều cảm thấy là một việc vô cùng nhục nhã.

Mã Ngọc và Khưu Xử Cơ biến sắc cũng vì hai tiếng đó.

Khưu Xử Cơ thở dài :

- Đêm tối trầm trầm, kẻ sĩ lui về ở ẩn. Hừ ! Cống lễ, cống lễ ! Thật là sỉ nhục quốc gia.

Mã Ngọc nghĩ ra một việc, day qua hỏi Đàm Xứ Đoan :

- Này sư đệ đến đây chỉ nói cho biết việc ấy thôi chứ ?

Đàm Xứ Đoan cúi đầu không đáp.

Khưu Xử Cơ nghiến răng :

- Tôi hiểu rồi ! Đàm sư đệ, chúng ta lập tức xuống núi đoạt lấy cống lễ đó.

Đàm Xử Đoan vụt ngẫng đầu lên cặp mắt long lanh sáng rực.

Mã Ngọc nghe nói hoảng kinh :

- Cướp đoạt cống lễ à ? Chúng ta là kẻ xuất gia thanh tịnh trụ trì, đâu có thể hành động theo bọn lục lâm cường đạo ? Nếu sư phụ ta biết được việc làm trái ngược ấy, liệu người sẽ xử trí ra sao ?

Khưu Xử Cơ cười lạt :

- Đại sư huynh, tuy chúng ta là kẻ xuất gia, nhưng bất cứ một kẻ tu từ ở nơi môn phái nào, cũng đâu có thể vượt khỏi ngoài nhân thế. Cống lễ đó là máu huyết của dân tộc ta mà vì nhà vua họ Triệu bất tài, mới đem cống biếu ngoại bang để cho cá nhân mình được giàu sang yên ổn ngồi trên ngôi báu, với dã tâm "sống chết mặc bây".

Hừ ! Chúng ta có nên đoạt nó hay không ?

Mã Ngọc gục gật thở dài :

- Sư đệ nói đúng lắm ! Song vì sư phụ đã căn dặn chúng ta rằng, tài nghệ chưa thành, xuống núi bây giờ là gây họa. Cho nên, đừng nói đến việc chúng ta chưa chắc thành công, mà như công việc làm được theo ý muốn, cũng sẽ bị thầy khiển trách.

Khưu Xử Cơ lắc đầu :

- Sư phụ cũng là con người trung cang nghĩa khí, đối với chuyện lê dân đau khổ, quốc phá gia vong này quyết chắc người không bao giờ trách cứ chúng ta. Phương chi đoạt thu tài vật cống lễ này ta sẽ phân phát lại cho những người nghèo đói đang quằn quại rên siết, góp phần cứu trợ mạng sống cho số đông người, thì tại sao lại chẳng làm ?

Và chàng day qua hỏi Đàm Xứ Đoan :

- Ấy vậy cống lễ này quân Kim có đông không ? Và viên tướng lãnh nào đốc lãnh ?

- Tất cả cống vật đều vận chuyển bằng xe, trên dưới độ hơn một nghìn quân Kim hộ tống.

Còn cái tên tướng cầm đầu, thì là một thằng cha tóc đỏ mặt xanh, tay cầm cây lang nha bỗng, có cái tên dài sọc là Hoàng Nhan Thất Luật, Thất Niêm gì đó, đầu nó đội cái mão vàng giống như một vị Bình Chương vậy.

Khưu Xử Cơ nóng nảy :

- Được rồi, sư đệ hãy ra trước núi gọi Lưu sư huynh, Vương, Hảo sư đệ và Tôn sư muội vào đây mau lên !

Thấy bộ dạng Khưu Xử Cơ, Mã Ngọc vừa giận vừa tức cười :

- Sư đệ, Kim binh hơn một ngàn chúng ta chỉ có bảy, lấy sức bảy người, đi cướp đoạt đồ vật trong tay cả ngàn người, đã là một việc khó.

Huống chi vàng bạc lụa là ít nhất cũng một trăm cổ xe, dầu cho chúng ta có ba đầu sáu tay chưa chắc đã đoạt được.

Khưu Xử Cơ phớt tỉnh :

- Đại sư huynh, anh là một người quá thận trọng, thận trọng đến mức độ không cả quyết ! Anh hãy xem tiểu đệ sắp đặt đây !

Giây phút, Đàm Xứ Đoan đã mời Lưu Xử Huyền, Hảo Đại Thông, Vương Xứ Nhất và Tôn Bất Nhị tề tựu đến.

Khưu Xử Cơ bèn đem việc mình tính đoạt cống lễ nói lại, cả bọn bốn người đều vỗ tay tán thưởng :

- Hay lắm, hay lắm ! Chúng ta hãy nghe Khưu sư huynh sắp xếp.

Mã Ngọc vụt đứng dậy :

- Ta dù sao cũng là một người lớn trong hàng đệ tử, không thể làm trái môn quy. Các sư đệ muốn làm gì cứ làm, đừng tính ta vào trong đó.

Dứt lời họ Mã đứng dậy đi luôn một nước.

Hảo Đại Thông ngó theo Mã Ngọc, chực lên tiếng gọi nhưng Khưu Xử Cơ đã khoát tay :

- Thôi, mặc anh ấy ! Chúng ta sáu người một ý là được rồi !

Chàng liền đem kế hoạch dự định của mình nói rõ cho mọi người nghe, cả bọn vui vẻ tán đồng :

- Hay lắm ! Kế hay lắm !

- Đã là kế hay, thì chúng ta hành động liền không nên chậm trễ.

Các đệ tử Toàn Chân Giáo bèn chia nhau xuống núi.

Dưới chân núi Tung Sơn về phía Đông, có một cái chợ nho nhỏ, gọi là Bôn Ngọ Trấn.

Nơi đây, độ năm ngàn nóc gia, song lại nằm đúng vào cái trục giao thông bởi một con đường cái.

Con đường nầy, thường thường dùng vào việc vận chuyển lương thảo, quân cụ của quan binh.

Sáng sớm ngày hôm ấy bỗng nhiên tiếng người tiếng ngựa vang lên tận xa xa. Rồi thì cát bụi tung tên, dẫn đến mấy mười tên quân kỵ, tất cả đều là Kim binh.

Vừa đến đầu thị trấn, họ tung mình xuống ngựa chia dọc theo đường, hướng vào các xó dân cư ra lệnh :

- Tất cả đều phải đóng cửa lại ! Có đồ vật quan trọng tải ngang qua, kẻ nào lén hé cửa dòm, lập tức đứt đầu ! Nghe đây ! Nghe đây !

Đó là thói quen của quân Kim.

Bất luận tải lương thảo ra mặt trận hoặc từ phương Nam vận chuyển vàng bạc lụa là trở về theo đường quyết không cho người Tống dòm ngó.

Từ trước đến nay dân cư Bôn Ngọ trấn nghe Kim binh truyền rao như thế, nhà nhà đều đóng chặt cửa không một ai dám ló đầu ra. Dọc dài theo thị trấn, một bầu không khí lặng im phăng phắc.

Thấy dân cư đã đóng cửa xong, Kim binh liền dàn ra hai cánh, tuốt gươm khỏi vỏ rầm rập tiến qua thị trấn, như sắp sửa lâm trận.

Cứ theo tình thế lúc bấy giờ, Kim Tống đã nghị hòa, thì việc vận chuyển như thế, tại sao quân Kim lại làm ra quan trọng.

Nguyên vì sau khi nhà Tống lui xuống miền Nam, di đô về Giang Tả, một giải Hoàng Hà Nam Bắc, không thiếu chi những người sẵn bầu nhiệt huyết, không chịu cam lòng thần phục ngoại bang, không bằng lòng để cho quân Kim tàn sát thống trị, họ đã lần lần nổi dậy lập thành những đội nghĩa quân trong dân chúng, nhất là các vùng thôn dã, đánh phá quân Kim ở trong các địa phương.

Công việc của họ là cướp đoạt, đốt phá lương thảo, đánh giết quan lại tướng tá của nhà Kim, cổ khuyến dân chúng không giao dịch nạp lương đóng thuế cho bọn chúng .

Tình hình đó mạnh nhất ở các tỉnh Hà Bắc, Sơn Đông, vì lẽ ấy mà việc áp vận của quân Kim phòng bị hết sức cẩn mật.

Sau khi bố trí xong xuôi, họ xua quân tiến tới, cả khoảng đường dài, bắt đầu thị trấn bụi cát mịt mù, tiếng xe khua vang dội đinh hai điếc óc.

Hơn một trăm cỗ xe tới, như một con rắn dài uốn khúc gầm thét dậy trời.

Cùng lúc ấy từ Bôn Ngọ Trấn đi ra ba gã đàn ông mù mắt, quần áo xốc xếch, đầu vấn khăn sùm sụp. Mỗi người cầm một chiếc gậy tre mò mẫm dò đường.

Quân Kim thấy ba người mù thinh không dẫn đến, lấy làm lạ nạt lên :

- Ủa ! Ba cái thằng đui này, sao lại dám ngang qua chỗ đại quân vận lộ như vậy ? Bọn ngươi không biết à ? Đi trở lại, mau lên !

Ba người mù ấy lại chẳng chịu đi, cứ đứng ngay ở đầu đường vào thị trấn, lải nhải nói chuyện với nhau.

Đoàn quân đi đầu của Kim binh trờ tới thấy ba người ấy không chịu lui vào trấn, lo sợ bị quan trên quở phạt, nổi nóng nạt nộ um sùm.

Trong số ấy có một tên lỗ mãng nhất hùng hổ dang tay xô bọn người mù, miệng thì chửi ó lên :

- Đồ đui ! Đi trở lại mau lên !

Không ngờ tay y vừa đẩy trúng vào người đui thì thân thể người này bỗng mềm nhũn sốp sọp như bao bông gòn.

Tên quân Kim lấy làm lạ định rút tay về, bỗng nhiên một hấp lực vô hình hút chặt tay y lại, không làm sao giật ra được.

Rồi thình lình, thân hình tên mù lại

phình ra như chiếc bong bóng thổi hơi, tên quân Kim bị một sức mạnh bắn vọt ra xa hơn mười bước .

Quân Kim hoảng hốt dừng lại. Hai tên quân Kim đứng gần nhất rút phắt đại đao nhắm người mù đứng giữa xả xuống.

Hai người mù hai chân không hẹn, cũng một lúc cất bổng chiếc gậy tre, điểm ngay vào Khí Du huyệt của hai tên quân vừa chém tới.

Hai tên lính Kim rập lên một tiếng la bài hải, buông đao ngã trên mặt đất.

Liền khi ấy, một tên tướng Kim dẫn đạo quân đầu, đã giục ngựa lướt tới. Tướng này tên Trương Sĩ Lương, vốn là người Hán đầu phục binh Kim, chôn vùi lương tâm nối giáo cho kẻ địch, hà hiếp đáp dân chúng từ lâu.

Thấy ba tên mù dáng dấp khả nghi chỉ nhấc tay đã đánh ngã ba tên binh sĩ của mình, bất giác nổi giận đùng đùng quát lớn :

- Quân phản tặc ! Bắt nó cho ta !

Tiếng quát vừa dứt, gã họ Trương liền ôm mặt lăn xuống ngựa.

Nguyên ba người mù đó là Khưu Xử Cơ, Đàm Xứ Đoan, và Lưu Xử Huyền giả dạng theo kế hoạch đánh cướp quân Kim.

Thấy Trương Sĩ Lương đã theo kẻ thù lại gọi ngược đồng bào là giặc, Khưu Xử Cơ máu giận sôi lên, vung cây gậy trút vút ngay vào họng gã.

Cây gậy trúc xé gió bay tới như một ngọn thương cắm ngay vào miệng Trương Sĩ Lương, xuyên tuốt qua hậu não, ngã xuống óc văng tung tóe.

Quân Kim thấy chủ tướng mình bị giết, khiếp đảm tản ra, hàng ngũ rối loạn xà ngầu.

Càng kinh hoàng hơn nữa là ba người mù vụt mở mắt ra, hét lên một tiếng, từ trong chiếc áo lùng thùng rách rưới mỗi người rút ra một thanh trường kiếm, ánh thép loang loáng vung lên như gió cuốn mây bay chặt quân Kim như đốn chuối.

Quân Kim tuy hung hăng nhưng làm sao cự lại ba tay kiếm Toàn Chân.

Chỉ thấy kiếm quang cuồn cuộn như ba chiếc mống dài đảo lộn, ánh sáng bay đến đâu, quân Kim rạp ngã ra nơi đó, thân lăn lộn máu thịt văng tứ tung.

Chủ tướng quân binh, Hoàng Nhan Thất Luật nghe báo có người chận giết binh lính, phùng râu trợn mắt hét vang như sấm.

Tên tướng lãnh quân Kim bèn thót lên lưng con Hoàng Phiêu Mã, hươi cây Lang Nha Bổng tiến lên tới trước.

Khưu Xử Cơ ngẫng mặt thấy một tên tướng Kim mặt xanh tóc đỏ, ngồi trên lưng ngựa xông tới bèn gọi lớn :

- Sư đệ ! Đánh giặc phải bắt tên tướng trước, ai trói thằng phiên cẩu đó, công trạng kể gấp đôi.

Lưu, Đàm song kiệt vung lên từ bên phải tiến qua, liền bị mấy mươi binh Kim cản lại.

Mấy chục tên quân này toàn là giáp sĩ chuyên việc hộ tống đoàn xe chuyển vận, sức mạnh phi thường.

Lưu Xử Huyền và Đàm Xứ Đoan bị chúng vây vào chính giữa.

Chờ cho một tên quân Kim nào giá đại đao chém xuống, chàng bèn lách mình qua, tay phải dùng kiếm chận đao, tay trái thộp vào ngực gã quát lên một tiếng :

- Bay !

Thân hình tên lính đó tức thì như một trái khí cầu bắn tung lên đâm sầm tới trước đầu ngựa của Hoàng Nhan Thất Luật.

Tên tướng mặt xanh hoảng hốt, cử Lang Nha Bổng đở lên.

Một tiếng bịt khô khan, tên quân Kim vừa rơi xuống thì cả Lang Nha Bổng đập văng tạt một bên.

Trong chớp mắt Khưu Xử Cơ khẽ nhún mình tung chân nhãy tới.

Vừa đúng lúc sáu tên Kim binh cử đao ập lại, chàng bèn dùng chân nhấn mạnh trên đầu một tên, óc phụp bể ra ngã lăn xuống đất.

Nương theo đà của cái nhấn đó, Khưu Xử Cơ như một cánh chim lộng gió lao vút qua hơn năm trượng ập thẳng đến đầu ngựa của Hoàng Nhan Thất Luật.

Tên tướng mặt xanh thấy kẻ địch như một vị tướng trên trời giáng xuống, làm luống cuống nhưng cũng kịp thời vung Lang Nha Bổng quất ngang lưng địch thủ.

Cây Lang Nha Bổng vừa mới đưa lên, Khưu Xử Cơ đã xà xuống tới, tay trái chàng nắm chặt đầu cây Lang Nha Bổng, tay phải vung trường kiếm, đâm thẳng vào yết hầu con ngựa địch.

Con chiến mã ré lên một tiếng hai chân trước dạt ra quỵ xuống, ném Hoàng Nhan Thất Luật lộn mèo tới trước.

Khưu Xử Cơ đút lẹ thanh kiếm vào vỏ, tay trái giật mạnh cả Lang Nha Bổng.

Hoàng Nhan Thất Luật mất đà chúi nhủi về phía bên chàng.

Khưu Xử Cơ lẹ tay chụp ngay đai lưng tên tướng mặt xanh, giở bổng lên không vận khí đan liền hét lớn :

- Bọn giặc Kim ! Chủ tướng của bây đây !

Cùng lúc ấy, ngót toàn quân Kim, bốn phương tám hướng ào tới làm thành mấy chục vòng vây bao chặt ba cao đồ Toàn Chân vào giữa, cho rằng đối phương tháp cánh cũng không thoát được.

Nào ngờ Khưu Xử Cơ đã "tiên phát chế nhân" bắt chủ tướng dơ thẳng lên cao như cọp vờn xác chó, bọn chúng hoảng kinh từ từ lùi tản ra xa.

Có một số giáp binh ỷ mạnh, liều mạng múa đao lướt tới.

Khưu Xử Cơ nắm Hoàng Nhan Thất Luật vung vùn vụt ra trước mặt, bọn chúng mất hồn vía, chạy ùa tán loạn.

Đàm Xứ Đoan, Lưu Xử Huyền từ nãy giờ bị quân Kim vây chặt, chợt thấy Khưu Xử Cơ bắt được viên chủ tướng địch quân, hai người cả mừng huy động hai thanh trường kiếm phát cỏ đám Kim binh, giết đến gần bên sư huynh của mình.

Khưu Xử Cơ quét cặp mắt vào đám quân Kim quát lớn :

- Chúng bây có tiếc mạng chủ tướng của chúng bây không ? Nếu tiếc thì đứng im lại nghe mệnh lệnh của ta.

Chàng vận đan điền phát ra khí quản cho nên giọng nói vang rền như sấm bất cứ một tên quân Kim binh xa gần cũng đều nghe thấy rõ ràng, trong tình thế đang hỗn loạn đó, chúng hoảng kinh im phăng phắc, để nghe chàng ra lệnh.

Khưu Xử Cơ thấy binh Kim đứng im, bèn ném mạnh Hoàng Nhan Thất Luật xuống đất quát lớn :

- Thằng chó Kim ! Ngày nay ngươi rơi vào tay ta, ta hỏi phải trả lời mau, trọng tiền hay trọng mạng ?

Hoàng Nhan Thất Luật bị Khưu Xử Cơ quật xuống rêm mình rêm mẩy, nghe như xương cốt nát tan, hồn vía bay tận mây xanh, kể như không thấy vợ con chi nữa.

Tên tướng Kim này, lúc thường tuy làm hùm làm hổ, nhưng căn bản vẫn là một phường tham sống sợ chết, nên khi Khưu Xử Cơ hỏi bèn lập cập trả lời :

- Hảo hán gia gia, mạt tướng trọng sinh mạng lắm lắm !

Khưu Xử Cơ mỉm cười :

- Tốt ! Đã vậy ngươi hãy bảo binh lính của ngươi đem hết vàng bạc lụa là, tới đây không được thiếu sót nghe chưa !

Hoàng Nhan Thất Luật dòm quanh bốn phía thấy đối phương ngoài ba người ra không thấy có thêm một tên đồng bọn, trong lòng hắn lấy làm khó chịu, lại thêm ý tưởng của họ thiệt quả bằng trời, tài vật của mình áp vật không phải là vật tầm thường, mà là cống lễ của Tống triều hiến nạp hai chục vạn lượng bạc hai chục vạn cây lụa tốt mà đối phương chỉ có ba người sáu tay thôi làm sao họ có thể mang đi được.

Khưu Xử Cơ đoán được tâm lý do dự của tên tướng mặt xanh.

Chàng bèn cười lạt :

- Thằng chó Kim kia, ngươi nghĩ chúng ta có ba người, không vận chuyển tài vật được à ? Ha ha ! Lẽ tất nhiên ta có cánh ! Bây giờ ta hỏi ngươi có bằng lòng giao nạp hay không ?

Hoàng Nhan Thất Luật nghĩ rằng ba tên này vận chuyển hơn một trăm xe, ba tháng cũng chưa xong. Dù ta có bằng lòng đối phương cũng chẳng bay đi đâu mà sợ, hắn bèn gật đầu :

- Hảo hán, ngài đã thích của ấy thì cứ việc mang đi !

Khưu Xử Cơ cười lên ha hả :

- Như vậy mới thật là người thức thời ! Tốt lắm !

Vậy bây giờ người hãy ra lệnh cho tất cả quân lính của ngươi đẩy hết xe về hướng Đông Nam. Dọc đường, không được tiết lộ phong thanh kêu gọi la lối gì cả. Đẩy một khoảng hơn hai mươi dặm, đến bờ sông Vy Thủy, sẽ có đồng bạn ta tiếp đón ! Biết chưa ?

Hoàng Nhan Thất Luật nghe nói hoảng hồn trong bụng kêu khổ liên miên, không ngờ đối phương còn có đồng đảng nữa.

Chẳng qua sinh mạng mình bây giờ nằm trong tay họ, Hoàng Nhan Thất Luật không dám không nghe theo, bèn lập tức lồm cồm ngồi dậy.

Khưu Xử Cơ lấy mũi kiếm chỉa ngang vô lưng hắn.

Dưới mũi kiếm uy hiếp đó, Hoàng Nhan Thất Luật chỉ còn có nước ra lệnh cho quân lính lên ngựa đẩy xe theo con đường Khưu Xử Cơ chỉ định.

Đoàn quân vận tải của binh Kim lại uy phong lẫm liệt chỉnh tề hàng ngũ lên đường.

Dọc đường xuyên qua bao nhiêu thôn trang , Khưu Xử Cơ đều buộc Hoàng Nhan Thất Luật cho lính vào bắt tráng đinh theo phụ lực. Mỗi thôn như vậy, ngoài một trăm người.

Không quá nửa ngày, toàn đội áp vận đông lên thêm mấy trăm người, thanh thế mỗi ngày một lớn thêm ra.

Hoàng Nhan Thất Luật càng cảm thấy lạ lùng, không đoán nổi dụng ý của Khưu Xử Cơ.

Vy Thủy là con sông nhánh của Hoàng Hà, ven bờ địa thế bằng phẳng, mặt sông rộng lớn mênh mông, Khưu Xử Cơ bức bách quân Kim đẩy riết đến đó.

Lúc bấy giờ đã có sẵn bốn người đứng ở bên bờ, ba nam một nữ.

Đó là Mã Ngọc, Vương Xứ Nhất, Hảo Đại Thông và Tôn Bất Nhị.

Thấy Mã Ngọc Cũng đến đó không biết từ bao giờ, Khưu Xử Cơ bèn bước lên diện kiến sư huynh.

Dọc theo ven sông lại sắp sẵn ba mươi mấy chiếc ghe chài, Hoàng Nhan Thất Luật liếc xem tái mặt.

Hắn nghĩ rằng nếu họ khiêng hàng hóa xuống thuyền chở đi thì không làm sao biết được tung tích ở đâu mà tìm kiếm.

Nguyên bọn ba người của Vương Xứ Nhất theo lời dặn trước của Khưu Xử Cơ đến Vy Thủy. Họ giả làm lái cây ở miền Nam đến mướn một số ghe chài để chở hàng hóa.

Họ ăn mặc theo lối thương nhân sang trọng lại bỏ ra thật nhiều tiền, bọn thuyền chủ không nghi ngờ chi cả bèn neo thuyền dọc theo bờ sông chờ đợi.

Khưu Xử Cơ thấy thuyền ghe đã sẵn sàng liền bảo Hoàng Nhan Thất Luật :

- Đến nơi rồi , song ngươi còn phải ra một lệnh nữa. Hãy bảo thủ hạ của ngươi mang tất cả đao thương kiếm kích, cung tên ném xuống sông mau lên !

Thật là một cái lệnh mà Hoàng Nhan Thất Luật không bao giờ nghĩ tới, hắn ta hoảng hốt kêu lên :

- Hảo hán ! Ngài đã lấy hết số vàng, gấm vóc rồi, xin để lại cho binh khí !

Khưu Xử Cơ không trả lời đẩy mạnh mũi kiếm lủng giáp tên tướng Kim và quát lớn :

- Không phải chỉ cống lễ không mà đủ, cả lũ người làm ma nhà Hán nữa ! Ngươi có chịu nghe lệnh của ta không ?

Hoàng Nhan Thất Luật nghe be sườn mình đau nhói vì mũi kiếm, hồn phi phách tán lật đật kêu xin :

- Mạt tướng tuân mệnh ! Tuân mệnh !

Tên tướng mặt xanh run rẩy truyền lệnh, quân sĩ y theo lời của Khưu Xử Cơ.

Kim binh tuy có vẻ căm hờn song không dám trái lệnh.

Lưu Xử Huyền, Đàm Xứ Đoan, Vương Xứ Nhất và Hảo Đại Thông xông vào đám binh lính lột hết khí giới to nhỏ dài ngắn ném xuống sông.

Khưu Xử Cơ lúc bây giờ bèn truyền cho bọn lính tay không đó vận chuyển tài vật xuống hết dưới thuyền.

Gần nửa ngày mới hoàn tất công việc.

Khưu Xử Cơ chờ cho chúng khuân đến cỗ xe cuối cùng mới tặng một đá vô bàn tọa của lên tướng mặt xanh và quát lớn :

- Gửi sinh mạng ngươi lại đó ít lâu, hãy mang quân cút ngay. Đồ chết bầm.

Hoàng Nhan Thất Luật bị một đá như trời giáng lăn tròn gần cả trượng, bò càng bò niễng, đứng lên nhăn nhó như khỉ ăn phải ớt.

Bây giờ trong tay không có một tấc sắt, muốn trở mặt cũng không làm sao được. Tên tướng quân lui thủi kéo quân đi tuốt.

Sau khi quân Kim đi rồi, Khưu Xử Cơ bèn bảo các thôn đinh đã bắt theo phụ dọc đường, lên tất cả trên thuyền.

Mấy trăm thôn đinh nghe Khưu Xử Cơ ra lệnh, hết thảy đều ùn ùn kéo róc xuống thuyền căng buồm cho thuyền xuống thẳng hạ lưu.

Ngoài mười dặm đường sông, Khưu Xử Cơ lựa một chỗ mà hai bên bờ hoang vắng cho thuyền cặp lại và ra lệnh cho khuân hết tài vật lên bờ.

Xong xuôi đâu đó Khưu Xử Cơ bèn tập họp thôn đinh lại nói với họ bằng một giọng trang nghiêm :

- Xin tất cả hãy nghe đây, Kim binh tàn ác thống trị Trung Nguyên chúng ta đã mười mấy năm rồi, trăm họ lầm than cơ cực. Thế mà nhà vua họ Triệu chỉ biết đến cái chức Hoàng đế bình an của mình không hề nghĩ đến giang san gấm vóc, cứu dân cứu nước, chỉ lo vinh thân phì gia, mà không nghĩ đến giống nòi đang quằn quại.

Đã vậy còn vắt mồ hôi máu huyết của lương dân một giải Giang Nam làm lễ cống cho lủ quân Kim cẩu trệ.

Nói đến đây Khưu Xử Cơ cầm lòng không được hai hàng nước mắt trào tuôn.

Chàng nghẹn ngào nói tiếp :

- Tôi sắp đặt kế này, cướp lại cống lễ của Tống triều phân phát lại cho chư vị, vậy chư vị cố sức đem đi hết. Chỉ có điều cần phải nói rõ, số tài vật này là xương máu của bá tánh của phương Nam, chúng ta không thể hưởng trọn một mình mà cần phải chia ra cho dân ở các vùng phụ cận.

Chia được nhiều ra chừng nào, việc làm của chúng ta càng được tốt đẹp chừng ấy.

Số chủ thuyền và tất cả thôn đinh nghe Khưu Xử Cơ nói vô cùng cảm động rập lên :

- Đúng, đúng ! Chúng ta hãy gọi dân nghèo đến mang đi. Tất cả đều chia nhau đi thông báo cho các thôn lạ chung quanh.

Trong giây phút, họ ùn ùn kéo tới có mấy ngàn người.

Khưu Xử Cơ bèn áng theo nhân khẫu mà chia đều ra hết.

Làm được việc phải, trong lòng hết sức vui sướng, Khưu Xử Cơ nhìn chư huynh đệ nói to :

- Mấy chục năm nay, Khưu Xử Cơ này chỉ sống trọn cho một ngày đấy thôi !

Các môn đệ Toàn Chân giáo vỗ tay cười vang dậy.

Đàm Xứ Đoan nói :

- Nếu cống nạp cho Kim Quốc mà mỗi năm đều được như vậy cả, thì hay biết chừng nào.

Vương Xứ Nhất nói :

- Chúng ta làm việc này mà còn quên một việc khá quan trọng.

- Chuyện chi ?

Vương Xứ Nhất ngó Khưu Xử Cơ :

- Sư huynh, chẳng lẽ anh quên rằng sau khi mất cống lễ, quân Kim thẹn quá sẽ tìm cách trả thù. Và sự khó khăn ấy sẽ trút lên cho bá tánh vùng phụ cận ?

- À ! Chuyện này nguy hiểm lắm đấy .

Lưu Xử Huyền ngẫm nghĩ giây lâu :

- Sư huynh, vấn đề này đáng phải suy xét kỹ, chúng ta không thể trong một lúc bỗng chợt mà để lụy cho lê dân.

Khu Xử Cơ quả quyết :

- Đúng rồi ! Tạm thời chúng ta không trở về Tung Sơn, mà phải cấp tốc đến Biện Kinh dò xem bọn Kim đối phó với việc này ra sao, rồi tùy đó chúng ta xử trí.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro