vo nhat

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Tác giả

Kim Lân, tên thật là Nguyễn Văn Tài, sinh năm 1920. Quê quán: Phù Lưu, Từ Sơn, Hà Bắc. Sở trường về truyện ngắn. Thế giới nghệ thuật của ông là xóm làng quê với người dân cày Việt Nam. Viết rất hay về những thú chơi dân dã đồng quê như chọi gà, thả diều, nuôi bồ câu, chơi núi non bộ,... mà ông gọi là thú "phong lưu đồng ruộng".

Tác phẩm, 2 tập truyện ngắn: "Nên vợ nên chồng" (1955) và "Con chó xấu xí" (1962).

Xuất xứ

"Vợ nhặt" có tiền thân là truyện "Xóm ngụ cư" - viết ngay sau Cách mạng tháng Tám. Bản thảo chưa in, 1954 viết lại.

Chủ đề

Qua câu chuyện anh cu Tràng nhặt được vợ, tác giả nói lên niềm cảm thông và trân trọng hạnh phúc muộn mằn và niềm hy vọng về một sự đổi đời của người nông dân năm đói Ất Dậu.

Tóm tắt

Cụ Tràng ở xóm ngụ cư, làm nghề kéo xe bò chở thuê. Đã nhiều tuổi, thô kệch, có tính vừa đi vừa nói lảm nhảm như kẻ dở hơi. Bà cụ Tứ mẹ hắn nghèo khổ. Hai mẹ con ở trong một mái nhà tranh vắng teo, rúm ró. Trận đói kinh khủng đang diễn ra, người chết đói như ngả rạ. Một lần kéo xe thóc Liên đoàn lên tỉnh, hắn hò một câu vượt dốc rất tình. Một cô gái ton ton chạy lại đẩy xe cho Tràng, liếc mắt cười tít. Lần thứ hai, Tráng gặp lại thị, trông khác hẳn, thị gầy sọp hẳn đi, áo quần tả tơi như tổ đỉa. Một vài câu trách móc, mời chào, thị ăn một chập 4 bát bánh đúc do Tráng đãi. Mua một cái thúng và 2 hào dầu, Tráng dẫn thị về nhà ra mắt mẹ. Xóm ngụ cư ngạc nhiên khi thấy một người đàn bà xa lạ đi theo Tráng họ bàn tán, có phần lo ngại. Trong nhá nhem tối, bà cụ Tứ gặp và nói chuyện với nàng dâu mới. Lần đầu nhà Tráng có dầu thắp đèn... Tiếng ai hờ khóc người chết đói ngoài xóm lọt vào. Sáng hôm sau, bà mẹ chồng và nàng dâu mới quét dọn trong nhà ngoài sân. Bữa cơm - cháo cám - đón nàng dâu mới. Bà cụ Tứ vừa ăn vừa kể chuyện làm ăn, gia cảnh với con dâu, nói toàn chuyện vui, toàn chuyện sung sướng sau này. Lại một buổi sáng. Tiếng trống thúc thuế dồn dập. Quạ đen bay vù như mây đen. Thị nói về chuyện Việt Minh phá kho thóc Nhật. Tráng nhớ lại lá cờ đỏ bay phấp phới hôm nào...

Người và cảnh được nói đến trong truyện

1. Cảnh

Xóm ngụ cư một buổi chiều tàn và một buổi sáng.

Ngã tư xóm chợ về chiều càng xác xơ, heo hút. Gió từ đồng thổi vào ngăn ngắt. Dãy phố úp súp, tối om, không một ánh đèn. Dưới gốc đa, gốc gạo, bóng những người đói đi lại dật dờ, lặng lẽ như những bóng ma. Tiếng quạ kêu từng hồi thê thiết. Mùi đống rấm khép lẹt tử khí. Tiếng hờ khóc tỉ tê của ai có người thân mới chết đói...

Cái đói đã tràn đến xóm ngụ cư. Khắp các lều chợ, người đói xanh xám như những bóng ma nằm ngổn ngang. Sáng nào cũng có ba bốn cái thây nằm còng queo bên đường. Mùi ẩm thối của rác, mùi gây xác chết vẩn lên.

Buổi sáng sau ngày Tráng có vợ, tiếng trống thúc thuế dồn dập. Quạ lượn vòng trên nền trời như đám mây đen. Đó là những nét vẽ rất điển hình làm hiện lên cảnh chết đói vô cùng thê thảm của xóm thôn Việt Nam cuối năm 1944, đầu năm 1945.

2. Nhân vật

a- Tràng: đã lớn tuổi, nhà nghèo, thô kệch, dân ngụ cư, kéo xe bò thuê. Chỉ một câu hò ỡm ờ, 4 bát bánh đúc, 2 hào dầu, mua một cái thúng mà nhặt được vợ. Tràng vỗ vào túi tiền, nói một câu bồi: "Rích bố cu!" Thổ lộ với thị: "làm đếch gì có vợ?". Khoe hai hào dầu mới. Vươn cổ thổi tắt ngọn đèn. Cười khì khì... Đó là những nét vẽ hóm hỉnh về anh cu Tràng. Khi nhặt được vợ, Tràng rất lo trước nạn đói biết có nuôi nổi mình không lại còn đèo bòng, nhưng hắn đã chặc lưỡi một cái: "Chặc, kệ!". Sáng hôm sau nhặt được vợ, Tràng thấy cái gì cũng "thay đổi mới mẻ khác lạ". Trong lòng hắn tràn ngập "một nguồn vui sướng phấn chấn". Hắn nghĩ tới bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này. Hắn ăn cháo cám, thần mắt nhớ lại lá cờ đỏ và đoàn người đói đi phá kho thóc Nhật mà hắn mới gặp hôm nào. Với Tràng, hạnh phúc muộn mằn đến bất ngờ, lòng anh chứa chan hy vọng về một sự đổi đời.

b- Bà cụ Tứ: Già nua. Goá bụa. Nghèo khổ. Chỉ có một mụn con trai thì thô kệch. Lo chết đói. Bà hiền lành, phúc hậu khi nói chuyện với nàng dâu. Bà tủi thân về phận nghèo hèn của hai mẹ con. Rất thương con và thương nàng dâu mới. Lo xa về cái đói, nhưng vẫn tin tưởng: "Ai giàu ba họ, ai khó ba đời..." Bữa cháo cám mà bà nói toàn chuyện vui mai sau. Nước mắt bà chảy ra vì vui, vì lo buồn, vì con bà đã "có vợ được". Bà cùng con dâu thu dọn nhà cửa, vườn tược... một sự đổi đời hé lộ đầy hạnh phúc. Không còn "bủng beo u ám", mặt bà đổi "rạng rỡ hẳn lên"... Bà cụ Tứ là hiện thân của lòng mẹ.

c- Vợ của Tràng

Không quê quán. Không người thân thương. Không tên tuổi. Sắp chết đói: áo quần tả tơi như tổ đỉa, gầy sọp hẳn đi, trên khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt. Giữa trận đói, chẳng có cheo cưới gì, chị đã thành vợ nhặt của Tràng. Thật chua chát, "Cái giá" của người con gái chỉ có 4 bát bánh đúc, 2 hào dầu, một cái thúng. Bữa cơm đầu tiên thị ăn ở nhà chồng là bát cháo cám! Nỗi đau khổ, tủi nhục của thị cũng là của nhân dân ta một thời mà hơn 2 triệu đồng bào ta đã chết đói. Trở thành vợ Tràng, thị thay đổi hẳn "hiền hậu đúng mực"...

Kết luận

Chất liệu cuộc sống được tái hiện một cách chân thực cảm động. Tình huống truyện là nét đặc sắc trong nghệ thuật kể chuyện của Kim Lân. Truyện giàu tính nhân bản. Sau bóng tối của người dân cày lầm than là một rạng đông về hạnh phúc và ấm no đang dần đến. Cách suy nghĩ và tình thương của lòng mẹ là những nét vẽ cảm động, đặc sắc nhất của truyện ngắn "Vợ nhặt" này. "Vợ nhặt" còn có giá trị hiện thực sâu sắc: tố cáo tội ác của Pháp Nhật vơ vét thóc lúa của nhân dân ta, thủ phạm gây ra nạn đói khủng khiếp năm Ất Dậu 1945, làm hơn 2 triệu đồng bào ta bị chết đói./.

Đề bài

Phân tính tâm nhân vật bà cụ Tứ trong chuyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân.

Bài giải chi tiết | Viết cách giải khác của bạn

BÀI LÀM

Cái cò mà đi ăn đêm

Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao...

(Ca dao Việt Nam)

Sẽ chẳng bao giờ ta quên cánh cò bay mải mê chấp chới...cách cò trắng gầy guộc suy tư lặng lẽ như cuộc đời người mẹ. Người mẹ việt nam hiền lành, nhẫn nhục thương con va giầu lòng nhân ái. Chẳng biết từ bao giờ hình ảnh người mẹ đã trở thành một đề tài khá quen thuộc trong thi đàn văn học Việt Nam, đặc biệt là thời kỳ 1945-1975. Giữa những năm "đói mòn đói mỏi" ấy nếu như cái đói đã làm con người ta mất đi nhân tính vui với "một bữa no", "một cái móng giò" thì đây vẫn còn những người mẹ giầu lòng nhân hậu săn sàng đánh đổi sự sống của mình để cưa mang kể khác. Có đọc Vợ nhặt của Kin Lân ta mới thấu hiểu thé nào là lòng mẹ. Vâng, "Lòng mẹ bao la như biển thái bình dat dào".

Truyện được mở đầu bằng một tình huông khà độc đáo. Vào một buổi chiều "Tối sầm lại vì đói khát" giữa những năm tháng "người chết như ngả rạ" ấy. Chàng lại dắt về giới thiệu một "nàng dâu". Cả cái xóm ngụ đang bị cái đói làm mờ cả măt ấy bỗng xôn xao hẳn lên: Người thở người thì "khẽ thì thầm" người "bỗng lại cười lên cùng cục" và họ cùng nín lặng. Cái khống khí ảm đạm ấy đi theo tràng và người đàn bà nọ đến tận nhà. Buổi lễ ra mắt hêt sức kỳ quặc và hết sức bất ngờ. Không bất ngờ làm sao được khi mọi chuyện lại xảy ra một cách chóng váng như thế, dẫu bà cụ Tứ có thương con đến mấy lòng cũng không khỏi ngạc nhiên. Tràng nhắc đi nhắc lại mấy lần: "Kìa nhà tôi nó chào u". Nhưng bà cụ vẫn không hiểu. "Bà lão băn khoăn ngồi xuống giường. Ô hay, thế là thế nào nhỉ?". Chỉ đến khi Tràng nhắc lại "Nhà tôi nó mới về làm bạn với tôi đấy u ạ." thì bà lão mới vỡ lẽ. Ra là thế. Đọc đến đây tự dưng tôi lại nhớ đến bà mẹ trong Một đám cưới (Nam Cao), bà mẹ ấy trong đám cưới của con mình dù là một đám cưới nghèo đã hoạt bát và nhanh nhẹn biết bao. Giá trong hoàn cảnh khác có lẽ mẹ Tứ cũng vui mừng và hớn hở như ai, làm cha làm mẹ có ai lại không mong con cái yên bề gia thất có cháu để ẵm bồng, nhưng qua cái giọng ngập ngừng đứt quãng của Tràng hình như phần nào ta cũng nhận ra cái xót xa đến tội nghiệp. Tràng không ngờ. Bà lão càng không ngờ. Ai có thể ngờ rằng Tràng sẽ cưới vợ đúng hơn là nhặt vợ trong lúc này đâu. "Bà lão cúi đầu nín lặng. Bà lão hiểu rồi.". Trong cái khoảnh khắc lặng im ấy có đến hàng trăm hàng nghìn nỗi lo toan giữa lòng mẹ. "Lòng người mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu ra biết bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán vừa tiếc thương cho số kiếp đứa con mình". Chính giữa lúc này chấp nhận "nàng dâu" là mẹ Tứ đồng tình với cái khó cái khổ cái đói đang de doạ tính mạng của gia đình bà. Cuộc đời mà ai có thể biết được ngày mai sẽ còn ai sẽ mất ai trong những năm tháng đói khổ này. Cắhc hẳn bà nghĩ lung lắm. Ta chợt nhớ đến bà lão trong Một bữa no, cái đói làm người ta mất hết nhân cách mất cả tính người. Ở đấy mẹ Tứ có thể từ chối thẳng thừng "nàng dâu" mà anh con trai đã nhặt được. Tình cảnh này, có ai trách bà đâu. Nhưng... làm sao bà cụ có thể hành động như thế một khi bà nghĩ đến cái được vợ của con và cái mất của người kia thì người ta theo không về ở với con mình. Bà mẹ quê hiền lành. Làm sao bà có thể chối từ khi người đàn bà đáng thương kia cũng đang đói khổ như bà. Tục ngữ có câu: "Thương người như thể thương thân". Phải rồi, bà đã khổ và đã hiểu thế nào là đói khổ thì lẽ nào... Nhiều khi cái khổ, cái đói lại giúp người ta xích đến gần nhau hơn! Hình như sự đồng cảnh là một động lực thúc đẩy người ta hiểu và thông cảm nhau hơn.

Bà lão đã khóc, "trong đôi mắt kèm nhèm của bà rũ xuống hai dòng nước mắt". Có thể nói đoạn anỳ Kim Lân đã trở thành một nàh quay phim tài ba. Từ từ trong cận cảnh hiện lên đôi mắt hằn dấu chân chim một thời vất vả của mẹ Tứ và trên khoé mắt nứt nẻ ấy rịn ra một giọt nước mắt khô héo. Nước mắt của người già. Nguyễn Khuyến đã viết:

Tuổi già hạt lệ như sương

Hơi đâu ép lấy hai dòng chứa chan.

Năm tháng qua đi, những nhọc nằhn, lo toan, vất vả đã vắt kiệt sức mẹ. Mẹ không khóc được nữa "nước mắt người già chảy ngược vào trong tim". Vâng, mẹ già rồi nước mắt của mẹ chỉ đủ làm thành hai dòng lăn chậm trên khuôn mặt già nua nhân hậu ấy thôi. Bà khóc cho niềm vui và khcó cho cả nỗi buồn. Đấy là nước mắt của người mẹ! "May ra mà qua khỏi được cái tôi đoạn này thì thằng con bà cũng có vợ, nó yên bề nó, chẳng may ông giời bắt chết cũng phải chịu chứ biết thế nào mà lo hết được". Bà lão nghĩ thế nên bà quyết định. "Ừ thôi tuỳ các con". - Đọc đến đây ta như cùng Tràng "thở phào một cái ngực nhẹ hẳn đi". Tất cả những gì của thực tại của đói rét ngoài kia vụt biến đi phút chốc, chỉ con đây cái khung cảnh ấm áp của gia đình. Bà lão vui, vui lắm chứ, bà nói với nàng dâu mới với cái giọng ngân nga như hát " Nhà ta thì nghèo...ai khó ba đời". Người già hay cả nghĩ, lắm lo xa, bà lão chợt : "Nghĩ đến ông lão, đến đứa con út", "đến cuộc đời cực khổ dằng dặc của mình mà lo lắng" đời chúng nó liệu có hơn bố mẹ trước kia không? Người xưa nói đúng, bao giờ lòng mẹ cũng bao la, cũng "dạt dào" như "nước trong nguồn chảy ra". Giữa lúc đói nghèo lại phải "đèo bòng" thêm một miệng ăn mẹ Tứ nghĩ về nàng dâu mới không phải ở cảm giác của một người biết ơn, mà tràn đầy tình yêu thương. Người mẹ nghèo nhân hậu ấy càng thấu hiểu cảnh ngộ xót xa của nàng dâu mới càng thương chị ta hơn. Tâm trạng bà cụ buồn vui lẫn lộn. Giữa cái "tao đoạn" này niêm vui càng trông càng tội nghiệp. Đọc đến đây tôi cứ hình dung cái cảnh con chim sơn ca đang bị giam hãm trong lồng. HÌnh như niềm vui của mẹ Tứ ở đây cũng trở nên héo hon, như không thể thoát ra khỏi nỗi ám ảnh của sự buôồ tủi, xót thương của cái không khí thời đại lúc bấy giờ. Nhưng với tấm lòng của người mẹ, bà vẫn gượng làm vui "cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên. Bà lão săm sắn thu dọn, quét tước nhà cửa", "vừa ăn vừa kể chuyện làm ăn", "nói toàn chuyện vui, toàn hcuyện sung sướng ngày sau". Tất cả như vẽ ra trước mắt chúng ta khung cảnh đầm ấm, hoà thuận của một gia đình, bình thường nhưng lại rất bất bình thường trong những tháng năm 1945. Tác giả đã khéo giấu đi cái không khí ảm đạm thê lương ngày thường chăng? Theo tôi thì không. Chính lòng mẹ đang vun vén cho hạnh phúc mới của con đấy. Dù chẳng trọn vẹn nhưng cũng phần nào gieo vào lòng đôi vợ chồng trẻ niềm tin vào ngày mai. Một ngày mai tươi sáng hơn đang chờ họ. Mẹ nghĩ thế và chắc chắn sẽ là như thế! Chính tình thương của mẹ đã mang đến hạnh phúc cho Tràng , đem lại lối thoát cho vợ Tràng và tất yếu tình thương ấy sẽ mãi mãi nâng đỡ họ.

Đề bài | Bài giải | ý kiến bạn đọc

Đề bài

Phân tích nhân vật Tràng trong tác phẩm Vợ nhặt của Kim Lân.

Bài giải chi tiết | Viết cách giải khác của bạn

Gợi ý làm bài:

Tràng là nhân vật chính trong Vợ nhặt. Câu chuyện ở đây là câu chuyện của chính anh. Đề yêu cầu phân tích nhân vật, có nghĩa là phân tích toàn diện một con người tron văn học, từ lai lịch, diện mạo cho đến ngôn ngữ, hành động, tâm trạng... Tuy nhiện, anh Tràng là một người lao động rất bình thường, thân phận thấp kém nên khác với bà cụ Tứ, anh ít có những suy nghĩ bên trong. Khi phân tích, tập trung vào mấy điểm:

1.Lai lịch, ngoại hình:

- Tràng là một gã trai nghèo khổ, dân cư ngụ, làm nghề đẩy xe bò thuê, nuôi mẹ già. Dân cư ngụ là nhưng người vốn từ nơi khác đến. Vì thế, dân cư ngụ không có ruộng đất, những thứ vô cùng quan trọng đối với người nôn dân thời xưa. Đã vậy, họ còn bị phân biệt đối xử, thường phải ở nơi bìa làng, hoặc ở chỗ hẻo lánh. Nhà cửa của anh ta, cái được gọi là "nhà" thì luôn vắng teo đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi cỏ dại. Hơn nữa, vì là dân ngụ cư, Tràng bị coi khinh, chẳng mấy ai thèm nói chuyện, trừ lũ trẻ hay chọc ghẹo khi anh ta đi làm về.

- Tràng có ngoại hình xấu xí, thô kệch. Mỗi buổi chiều về, hắn bước ngật ngưỡng trên con đuờng khẳng khiu luồn qua cái xóm chợ của những người ngụ cư vào bên trong bến. Hắn vừa đi vừa tủm tỉm cười, hai con mắt nhỏ tí, gà gà đắm vào bóng chiều, hai bên quai hàm bạnh ra, rung rung làm cho cái bộ mặt thô kệch của hắn lúc nào cũng nhấp nhỉnh những ý nghĩ vừa lý thú vừa dữ tợn... Còn đầu của Tràng thì cạo trọc nhẵn, cái lưng to rộng như lưng gấu, ngay cả cái cuời cũng lạ, cứ phải ngửa mặt lên cười hềnh hệnh.

2.Tính cách:

- Tràng là người vô tư, nông cạn.

+Tràng là người hầu như không biết tính toán, không ý thức hết hoàn cảnh của mình. Anh ta thích chơi với trẻ con và chẳng khác chúng là mấy. Mỗi lần Tràng đi làm về, trẻ con trong xóm cứ thấy cái thân hình to lớn, vập vạp của hắn dốc chợ đi xuống là ùa ra vây lấy hắn, reo cười váng lên. Rồi chúng, đứa túm đằng trước, đứa túm đằng sau, đứa cù, đứa kéo, đứa lôi chân không cho đi. Khi ấy, Tràng chỉ ngửa mặt lên cười hềnh hệch. Anh với lũ trẻ con như anh em, bè bạn và cái xóm ngụ cư ấy mỗi chiều lại xôn xao lên được một chút.

+Ngay cả chuyện quan trong như lấy vợ, Tràng cũng chỉ quyết định trong chốc lát. Đó là lần gò lưng kéo cái xe thóc vào dốc tỉnh, Tràng hò một câu chơi cho đỡ nhọc. Chủ tâm của anh ta là vui đùa. Thế rồi, một người đàn bà đang đói bám lấy để được ăn bánh, Tràng cũng vui vẻ chấp nhận. Lần thứ hai, cô ta tới ăn vạ, Tràng chấp nhậ đưa về nhà để thành... vợ chồng! Thật, xưa nay chưa có ai quyết định việc lấy vợ nhanh chóng như Tràng!

- Tràng là người đàn ông nhân hậu phóng khoáng.

+Thật ra, ban đầu Tràng không chủ tâm tìm vợ. Thấy người đàn bà đói, anh cho ăn. Khi thấy thị quyết theo mình thì Tràng vui vẻ chấp nhận. Tràng lấy vợ trước hết vì lòng thương đối với một con người đói khát hơn mình.

+Khi người phụ nữ chấp nhận làm vợ, Tràng đã có ý thức chăm sóc: Hôm ấy hắn đưa thị vào chợ tỉnh bỏ tiền ra mua cho thị cái thúng con đựng vài thứ lặt vặt và ra hàng cơm đánh một bữa no nê... Anh còn mua 2 hào dầu thắp để vợ mới vợ miếc cũng phải cho nó sáng sủa một tí.

+Lấy nhau chẳng phải vì tình, lại "nhặt vợ" một cách dễ dàng, nhưng không vì thế mà Tràng coi thường người vợ của mình. Anh muốn làm cho người ấy được vui (khoe mua dầu về thắp sáng), có lúc muốn thân mật nhưng không dám suồng sã. Tràng trân trọng, nâng niu hạnh phúc mà mình có được: Trong lúc Tràng như quên hết những cảnh sống ê chề, tăm tối hằng ngày, quên cả đói khát ghê gớm đang đe doạ, quên cả những tháng ngày trước mặt. Trong lòng hắn bây giờ chỉ còn tình nghĩa giữa hắn với người đàn bà đi bên. Một cái gì mới mẻ, lạ lắm, chưa từng thấy ở người đàn ông nghò khổ ấy, nó ôm ấp mơn man khắp da thịt Tràng, tựa hồ như có bàn tay vuốt ve nhẹ trên sống lưng.

- Sau khi lấy vợ, Tràng trở thành một người sống có trách nhiệm.

+Anh ngoan ngoãn với mẹ, tránh gợi niềm tủi hờn ở người khác. Đặc biệt, đối với Tràng, có vợ là bước sang một quãng đời khác: Sáng hôm sau, mặt trời lên bằng con sào, Tràng mới trở dậy. Trong người êm ái lửng lơ như người vừa trong mơ đi ra.

+Từ một anh phu xe cục mịch, chỉ biết việc trước mắt, sống vô tư, Tràng đã là người quan tâm đến những chuyện ngoài xã hội và khao khát sự đổi đời. Khi tiếng trống thúc thuế ngoài đình vang lên vội vã, dồn dập, Tràng đã thần mặt ra nghĩ ngợi, đây là điều hiếm có đối với Tràng xưa nay. Trong ý nghĩ cua anh lại vụt hiện ra cảnh những người nghèo đói ầm ầm keo nhau đi trên đê Sốp để cướp kho thóc của Nhật và đằng trước là lá cờ đỏ to lắm. Tràng nhớ tới cảnh ấy và lòng ân hận, tiếc rẻ và trong óc vẫn thấy đám người đói và lá cờ bay phấp phới... Tràng đã mở đầu cho câu chuyện Vợ nhặt bằng những bước ngật ngưỡng trên con đường khẳng khiu luồn qua cái xóm chợ của những người ngụ cư vào buổi chiều chạng vạng mặt người và cũng chính anh đã kết thúc câu chuyện ấy vào buổi sớm mai với một hình ảnh mới lạ về đoàn người nghèo đói vùng lên dưới bóng lá cờ đỏ bay phất phới.

3.Số phận:

- Cuộc đời của Tràng tiêu biểu cho số phận của người dân nghèo trước cách mạng tháng Tám. Khi chưa có nạn đói thì nghèo đến nỗi không lấy nổi vợ (con trai lão Hạc trong tác phẩm cùng tên Nam Cao cũng vì nghèo không lấy vợ, phẫn chí mà bỏ đi làm mộ phu), trong nạn đói lại lấy vợ, niềm hạnh phúc đan xen với bất hạnh.

- Cuộc đời của những người như Tràng nếu không có một sự thay đổi mang tính đột biến của cả xã hội sẽ sống mãi trong sự tăm tối, đói khát. Ở Tràng, tuy chưa có được sự thay đổi đó, nhưng cuộc sống đã bắt đầu hé mở cho anh một hướng đi. Đó là con đường đến với cách mạng một cách tự nhiên và tất yếu mà những người như Tràng sẽ đi và trong thực tế lịch sử, người nông dân Việt Nam đã đi.

4.Nghệ thuật xây dựng nhân vật của nhà văn

- Kim Lân đã khắc hoạ nhân vật Tràng với đầy đủ diện mạo, ngôn ngữ, hành động, đặc biệt là diễn biến tâm trạng của Tràng bằng ngòi bút sắc sảo. Anh chàng phu xe cục mịch nhưng có một đời sống tâm lý sống động, khi hãnh diện cái mặt vênh vênh tự đắc với mình bởi vừa mới nhặt được vợ, lúc lật đật chạy theo người đàn bà, như người xấu hổ chạy trốn, hay lúng túng, tay nọ xoa xoa vào vai kia, cũng có khi lòng quên hết những cảnh sống ê chề, tăm tối hằng ngày, chie còn tình nghĩa. Anh thô kệch nhưng không sỗ sàng, trái lại biết ngượng ngiụ, biết sợ, nhất là biết lo nghĩ cho cuộc sống về sau.

- Qua nhận vật Tràng, không những nhà văn phản ánh một mặt trận đen tối trong hiện thực xã hội trước năm 1945 cùng số phận của người dân nghèo mà còn phát hiện vẻ đẹp tâm hồn cua họ. Kim Lân đã tiếp nối những trang viết giàu chất nhân bản về người lao động bình thường của những nhà văn trước đó như Ngô Tất Tố, Thạch Lam, Nam Cao...

Phân tích vẻ đẹp của tình người và niềm hi vọng vào cuộc sống ở các nhân vật: Tràng, người vợ nhặt, bà cụ Tứ trong truyện ngắn Vợ Nhặt( Kim Lân).

Bài giải chi tiết | Viết cách giải khác của bạn

Nạn đói khủng khiếp và dữ dội năm 1945 đã hằn in trong tâm trí Kim - một nhà văn hiện thực có thể xem là con đẻ của đồng ruộng, một con người một lòng đi về với "thuần hậu phong thuỷ" ấy.Ngay sau Cách mạng, ông đã bắt tay ngay vào viết tác phẩm Xóm ngụ cư khi hoà bình lặp lại (1954), nỗi trăn trở tiếp tục thôi thúc ông viết tiếp thiên truyện ấy. Và cuối cùng, truyện ngắn Vợ Nhặt ra đời. Trong lần này, Kim Lân đã thật sự đem vào thiên truyện của mình một khám phá mới, một điểm sáng soi chiếu toàn tác phẩm. Đó là vẻ đẹp của tình người và niềm hi vọng vào cuộc sống của những người nông dân nghèo tiêu biểu như Tràng, người vợ Nhặt và bà cụ Tứ. Thiên truyện thể hiện rất thành công khả năng dựng truyện, dẫn truyện và đặc sắc nhất là Kim Lân đã có công khám phá ra diễn biến tâm lý thật bất ngờ.

Trong một lần phát biểu, Kim Lân đã từng nói "Khi viết về nạn đói người ta thường viết về sự khốn cùng và bi thảm.Khi viết về con người năm đói người ta hay nghĩ đến những con người chỉ nghĩ đến cái chết. Tôi muốn viết một truyện ngắn nhưng những con người ấy không nghĩ đến cái chết mà vẫn hướng tới cuộc sống, vẫn hi vọng, vẫn tin tưởng vào tương lại.Họ vẫn muốn sống, sống cho ra con người". Đó chính là tình người và niềm hi vọng về cuộc sống về tương lai của những con người đang kề cận với cái chết. Bằng cách dẫn truyện, xây dựng lên tình huống "nhặt vợ" tài tình kết hợp với khả năng phân tích diễn biến tâm lý nhân vật thật tinh tế và sử dụng thành công ngôn ngữ nông dân, ngôn ngữ dung dị, đời thường nhưng có sự chọn lọc kĩ lưỡng, nhà văn đã tái hiện lại trước mắt chúng ta một không gian đói thật thảm hải ,thê lương. Trong đó ngổn ngang những kẻ sống người chết, những bón ma vật vờ, lặng lẽ giữa tiếng khóc hờ và tiếng gào thét gửi gắm trong không gian tối đen như mực ấy những mầm sống đang cố vươn đến tương lai, những tình cảm chân thành, yêu thương bình dị nhưng rất đỗi cao quý ấy và nhà văn đã để những số phận như anh Tràng, người vợ nhặt và bà cụ Tứ được thăng hoa trước ngọn cờ đỏ phấp phới cùng đám người đói phá kho thóc của Nhật ở cuối thiên truyện.

Có thể nói rằng Kim Lân đã thực sự xuất sắc khi dựng lên tình huống "nhặt vợ" của anh cu Tràng. Tình huống ấy là cánh của khép mở để nhân vật bộc lộ nét đẹp trong tâm hồn mình. Dường như trong đói khổ người ta dễ đối xử tàn nhẫn với nhau khi miếng ăn của một người chưa đủ thì làm sao có thể đèo bồng thêm người này người kia. Trong tình huống ấy, người dễ cấu xé nhau, dễ ích kỉ hơn là vị tha và người ra rất dễ đối xử tàn nhẫn, làm cho nhau đau khổ. Nhưng nhà văn Kim Lân lại khám phá ra một điều ngược lại ở các nhân vật anh cu Tràng, người vợ nhặt và bà cụ Tứ. Chúng ta từng kinh hãi trước "xác người chết đói ngập đầy đường", "người lớn xanh xám như những bóng ma", trước "không khí vẩn lên mùi hôi của rác rưởi và mùi gây của xác người", từng ớn lạnh trước "tiếng quạ kêu gào thảm thiết" ấy nhưng lạ thay chúng ta thật không thể cầm lòng xúc động trước nghĩa cử cao đẹp mà bình thường, dung dị ấy của Tràng, bà cụ Tứ và của người vợ Tràng nữa. Một thanh niên của cái xóm ngụ cư ấy như Tràng, một con người - thân xác vạm vỡ, lực lưỡng ấy dường như ngờ nghệch thô kệch và xấu xí ấy lại chứa đựng biết bao nghĩa tình cao đẹp. "Cái đói đã tràn vào xóm tự lúc nào", vậy mà Tràng vẫn đèo bòng thêm một cô vợ trong khi anh không biết cuọc đời phía trước mình ra sao. Tràng đã thật liều lĩnh. Và ngay cô vợ Tràng cũng thế. Hai cái liều ấy gặp nhau kết tụ lại thành một gia đình. Điều ấy thật éo le và xót thương vô cùng. Và dường như lúc ấy trong con người của Tràng kia đã bật lên niềm sống, một khát vọng yêu thương chân thành. Và dường như hắn đang ngầm chứa một ao ước thiết thực về sự đầm ấm của tình cảm vợ chồng, của hạnh phúc lứa đôi. Hành động của Tràng dù vô tình, không có chủ đích, chỉ tầm phơ tầm phào cho vui nhưng điều ấy khong hề mở cho ta thấy tình cảm của một con người biết yêu thương, cưu mang, đùm bọc những người đồng cảnh ngộ. Như một lẽ đương nhiên, Tràng đã rất ngỡ ngàng, hắn đã "sờ sợ", "ngờ ngợ", "ngỡ ngàng" như không phải nhưng chính tình cảm vợ chồng ấy lại củng cố và nhen nhóm ngọn lửa yêu thương và sống có trách nhiệm với gia đình trong hắn. Tình nghĩa vợ chồng ấm áp ấy dường như làm cho Tràng thay đổi hẳn tâm tình. Từ một anh chàng ngờ nghệch, thô lỗ, cọc cằn, Tràng đã sớm thay đổi trở thành một người chồng thật sự khi đón nhận hạnh phúc gia đình. Hạnh phúc ấy dường như một cái gì đó "ôm ấp, mơn man khắp da thịt Tràng tựa hồ như có một bàn tay vuốt nhẹ sống lưng".Tình yêu , hạnh phúc ấy khiến "trong một lúc Tràng dường như quên hết tất cả, quên cả đói rét đang đeo đuổi, quên cả những tháng ngày qua". Và Tràng đã trở dậy. Hắn có những thay đổi rất bất ngờ nhưng rất hợp logíc. Những thay đổi ấy không có gì khác ngoài tâm hồn đôn hâu, chất phác và giàu tình yêu thương hay sao? Trong con người của Tràng khi trở dậy sau khi chào đón hạnh phúc ấy thật khác lạ. Tràng không là anh Tràng ngày trước nữa mà giờ đây đã là một người con có hiếu, một người chồng đầy trách nhiệm dù chỉ trong ý nghĩ. Thấy mẹ chồng nàng dâu quét tước nhà cửa, hắn đã bừng bừng thèm múôn một cảnh gia đình hạnh phúc. "Hắn thấy yêu thương căn nhà của hắn đến lạ lùng", "hắn thấymình có trách nhiệm hơn với vợ con sau này". Hắn cũng xăm xắn ra sân dọn dẹp nhà cửa. Hành động cử chỉ ấy của Tràng đâu chỉ là câu chuyện bình thường mà đó là sự chuyển biến lớn. Chính tình yêu của người vợ, tình mẹ con hoà thuận ấy đã nhen nhóm trong hắn ước vọng về hạnh phúc, niềm tin vào cuộc sống sẽ thay đổi khi hắn nghĩ đến đám người đsoi và lá cờ đỏ bay phấp phới. Rồi số phận, cuộc đời hắn, của vợ hắn và cả người mẹ của hắn nữa sẽ thay đổi. Hắn tin thế.

Nạn đói ấy không thể ngăn cản được ánh sáng của tình người . Đêm tố íây rồi sẽ qua đi để đón chờ ánh sáng cuộc sống tự dong đang ở phía trước sức mạn của thời đại. Một lần nữa, Kim Lân không ngần ngại hạnh phúc, niềm tin ấy trong các nhân vật của mình. Người vợ nhặt làm thay đổi cuộc sống của xóm ngụ cư nghèo nèn, tăm tối ấy, đã làm cho những khuôn mặt hốc hác, u tối của mọi người rạng rỡ hẳn lên. Từ con người chao chát chỏng lọn đến cô vợ hiền thục, đảm đang là một quá trình biến đổi. Điều gì làm thị biến đổi như thế? Đó chính là tình người, là tình thương yêu. Thị tuy theo khôgn Tràng về chỉ qua bốn bát bánh đúc và hai câu nói tầm phơ tầm phào cảu Tràng nhưng chúng ta không khinh miệt thị. Nếu có trách thì chỉ có thể hướng vào xã hội thực dân phong kếin đã bóp nghẹt quyền sống của con người. Thị xuất hiện không tên tủoi, không quê quán, trong tư thế "vân vê tà áo rách bợt bạt", điệu bộ trông thật thảm ahị nhưng chính con người ấy lại gieo mầm sống cho Tràng, làm biến đổi tất cả, từ không khí xóm ngụ cư đến không khí gia đình. Thị đã đem đến một luồng sinh khí mới, sinh khí ấy chỉ có được trong con người thị dung chứa một niềm tin, một ước vọng cao cả vào sự sống vào tương lai. Thị được miêu tả khá ít song đó lại là nhân vật không thể thiếu cho tác phẩm. Thiếu thị, Tràng vẫn chỉ là anh cu Tràng ngày xưa, bà cụ Tứ vẫn lặng thầm trong đau khổ, cùng cực. Kim Lân cũng thật thành công khi xây dựng nhân vật này để góp thêm tiếng lòng ca ngợi sức sống của vẻ đẹp tình người, niềm tin vào cuộc đời phía trước trong những ngày con người đói khổ ấy. Và thật ngạc nhiên, khi nói về ước vọng ở tương lại, niềm tin vào hạnh phúc , vào cuộc đời người ta dễ nghĩ đến tuổi trẻ như Tràng và người vợ nhưng Kim Lân lại khám phá ra một nét đẹp độc đáo vô cùng : tình cảm, ước vọng ở cuộc đời lại được tập trung miêu tả khá kĩ ở nhân vật bà cụ Tứ. Đến nhân vật này, Kim Lân tỏ rõ bút pháp m iêu tả tâm lý nhân vật. BÀ cụ Tứ đến giữa câu chuyện mới xuất hiện nhưng nếu thiếu đi nhân vật này, tác phẩm sẽ không có chiều sâu nhân bản. Đặt nhân vật bà cụ Tức vào trong tác phẩm, Kim Lân đã cho chúng ta tấhy rõ hơn ánh sáng cảu tình người trong nạn đói. Bao giờ cũng thế, các nhà văn múôn nhân vật nổi bật cá tính của mình thường đặt nhân vật ấy vào tình thế căng thẳng. Ở đso dĩ nhiên phải có sự đấu tranh không ngừng không những giữa các nhân vật mà độc đáo hơn là ngay trong chính nội tâm của mỗi nhân vật ấy. BÀ cụ Tứ là một điển hình. Việc Tràng lấy vợ đã gây một chấn động lớn trong tâm thức ngươờ mẹ nghèo vốn thương con ấy. Bà ngạc nhiên ngỡ ngàng trước sự xuất hiệ cua rmột người đàn bà trong nhà mình mà lâu nay và có lẽ chưa bao giờ bà nghĩ đến. Hết ngỡ ngàng, ngạc nhiên bà cụ đã "cúi đầu nín lặng". Cử chỉ, hành động ấy chất chứa bao tâm trạng. Đó là sự đan xen lẫn lộn giữa nỗi tủi cực, nỗi lo và niềm vui nỗi buồn cứ hoà lâẫ vào nhau khiến bà thật căng thẳng. Sau khi thấu hiểu mọi điều bà nhìn cô con dâu đang "vân vê tà áo rách bợt bạt" mà lòng đầy xót thương. Bà thiết nghĩ "người ta có gặp bước khó khăn này, người ta mới lấy đến con mình, mà con mình mới có vợ". Và thật xúc động, bà cụ đã nói , chỉ một câu thôi nhưng sâu xa và có ý nghĩa vô cùng "Thôi , chúng máy đã phải duyên phải kiếp với nhau thì u cũng mừng lòng".

Đói khổ đang vây lấy gia đình bà, cuộc sống của bà sẽ ra sao khi mình đang ngấp nghé trước vực thẳm của cái chết. Nhưng trong tâm thức người mẹ nghèo ấy, đói khổ không phải là một vật cản lớn. Đói rét thật nhưng trong lòng bà cụ vẫn sáng lên tấm lòng yêu thương chân thành. Bà thương con, thương dâu và thương cho chính bản thân mình. Bà cụ Tứ từ những nỗi lo, nỗi tủi cực về gia cảnh vẫn không ngừng bùng cháy lên ngọn lửa của tình người. Bà đang giang tay đón nhận đứa con dâu lòng đầy thương xót, trong tủi cực nhưng vẫn ngầm chứa một sức sống thật mãnh liệt. Chính ở ngươờ mẹ nghèo khổ ấy, ngọn lửa của tình người, tình thương yêu nhân loại bùng cháy mạnh mẽ nhất. Trong bóng tối của đói nghèo đang hùng hổ vây quanh, bà lão vẫn gieo vào lòng những con mình niềm tin về cuộc sống. Bà nhắc đến việc Tràng nên chuẩn bị một cái phên nuôi gà, rồi vịêc sinh con đẻ cái, bà lão nói toàn chuyện vui trong bữa cơm ngày đói thật thảm ahị. Bà đã đón nhận hạnh phúc của các con để tự sưởi ấm lòng mình. Đặc biệt chi tiết nồi cám ở cuối thiên truyện thể hiện khá rõ ánh sáng của tình người. Nồi chè cám nghẹn ứ cổ và đắng chát ấy lại là món quà của một tấm lòng đôn hậu chất chứa yêu thương. Bà lão "lễ mễ" bưng nồi chề và vui vẻ giới thiệu "Chè khoán đấy. Ngon đáo để cơ". Ở đây nụ cười đan xen lẫn ngước mắt. Bữa cơm gia đình ngày đói ở cúôi thiên truyện không khỏi làm chạnh lòng chúng ta, một nỗi xót thương cay đắng cho số phận của họ song cũng dung chứa một sự cảm phục lớn lao ở những con người bình thường mà đáng quý.

Kim Lân bằng nghệ thuật viết văn già dặn, vững vàng đã đem đến một chủ đề mới trong đề tài về nạn đói. Nhà văn đã khẳng định ánh sáng của tình người thật thành công ở ba nhân vật. Điều làm chúng ta trân trọng nhất chính là vẻ đẹp của tình người và niềm hi vọng vào cuộc sống một cách mạnh mẽ nhất ở nhưng thân phận đói nghèo, thảm hại kia. Ba nhân vật :Tràng, vợ Tràng và bà cụ Tứ cùng những tình cảm, lẽ sống cao đẹp của họ chính là những điếm áng mà Kim Lân từng trăn trở trong thời gian dài để thể hiện sao cho độc đáo một đề tài tâm lý nhân vật, khả năng dựng truyện và dẫn truyện của Kim Lân - một nhà văn được đánh giá là viết ít nhưng tác phẩm nào cũng có giá trị là vì lẽ đó.

"Cái đẹp cứu vớt con người" (Đôxtôiepki). Vâng Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân thể hiện rõ sức mạnh kì diệu ấy. Ánh sáng của tình người, lòng tin yêu vào cuộc sống là con nguồn mạch giúp Kim Lân hoàn thành tác phẩm. Ông đã có đóng góp cho văn học Việt Nam nói chung, về đề tài nạn đsoi nói riêng một quan niệm mới về lòng người và tình người. Đọc xong thiên truyện, dấu nhấn mạnh mẽ nhất trong tâm hồn người đọc chính là điểm sáng tuyệt vời nhất.

Bài giải của bạn: nguyenbahuy89 07:48:58 Ngày 25-05-2008

Trong các nhà văn viết về nông thôn, người đọc dể dàng nhận thấy nổi bật lên là ngòi bút Kim Lân. Là cây bút truyện ngắn vững vàng, ông đã viết về cuộc sống và con người nông thôn bằng tình cảm, tâm hồn của một nhà văn chân chất , vốn là đứa con của đồng ruộng. Ngòi bút ấy hấp dẫn chúng ta trước hết là tính nhân bản sâu sắc ngay cả khi con người phải sống trong cảnh khốn cùng nhất, đói khổ tối tăm đến đâu vẫn phải vượt lên trên tất cả để sống, để hy vọng. Đó chính là khát khao chính đáng, là vẻ đẹp bất diệt của cội nguồn nhân bản con người. Trong nạn đói khủng khiếp 1945 Kim Lân đã nhìn thấy ở họ "những con người đói-họ không nghĩ đến cái chết, mà vẫn nghĩ đến cái sống". Cái nhìn ấy chứa đựng một triết lý sống lạc quan sâu sắc của con người trong cuộc sống , mà ở đây lại là những con người lao động cùng khổ đang đứng trước bờ vực của cái chết. Cùng sống, cùng đói, cùng ăn cháo cám như họ , nhà văn không chỉ hiểu mà còn tin yêu họ tin vào cái sức sống bất diệt của họ. Từ niềm tin đáng quý ấy "Vợ Nhặt" đã ra đời. "Vợ Nhặt" là bức tranh toàn cảnh về cuộc sống, suy nghĩ, nghị lực của những con người ấy trong nạn đói 1945.

Trong nạn đói kinh hoàng ấy bao người dân phải sống trong cảnh cơ cực. Ăn còn không đủ no nói gì đến cái mặc. Cảnh ngộ bi đát, những số phận đáng thương ấy đang đứng trên bờ vực thẳm của cái chết. Xung quanh họ đâu đâu cũng thấy thần chết đang rình rập và mỗi giây mỗi phút trôi qua lại có biết bao người chết vì đói. Cái chết len lỏi vào cuộc sống của họ rõ rệt qua từng ngày . "Người chết như ngả rạ, không khí vẩn lên mùi gây của xác người, mùi đốt đống rấm ở những nhà có người chết theo gió thoảng vào khét lẹt" và "tiếng hờ khóc tỉ tê lúc to, lúc nhỏ giữa đêm khuya"....Tưởng như tử thần có thể dắt họ đi bất cứ khi nào.

Thế nhưng giữa cái cảnh ngộ tang thương ấy những con người kia tuyệt nhiên không nghĩ đến cái chết, mà trong suy nghĩ cũa họ chỉ tồn tại chữ sống mà thôi. Dường như có một sức mạnh nào đó giữ họ lại với cuộc sống này. Tìm mọi cách để có thể sống, có thể tồn tại trong trận đói lịch sử này. Trận đói mà đến "năm 2000 khi nhắc lại con cháu chúng ta cũng không khỏi rùng mình". Kim Lân đã diễn tả điều đó một cách chân thực qua từng nhân vật của truyện bằng ngòi bút nhân đạo sâu sắc và tấm lòng cảm thông của người cùng cảnh ngộ.

Bà cụ Tứ - người mẹ nông dân nghèo đã trải qua một cuộc đời cực khổ dài dằng dặc, bước đi đã "lọng khọng", đôi mắt đã "kèm nhèm", bà đã ở cái tuối gần đất xa trời vậy mà những ngày đói khủng khiếp bà vẫn hướng về cuộc sống tươi đẹp cho dù niềm hy vọng ấy thật mỏng manh. Trong buổi tối khi gặp "nàng dâu mới" tuy "biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được trong cơn đói khát này hay không?" nhưng bà vẫn vui vẻ và hy vọng "ừ thì thôi các con đã phải duyên phải kiếp với nhau u cũng mừng lòng"... "Rồi ra may mà ông giời cho khá. Biết thế nào được hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời? Có ra thì rồi con cái chúng mày về sau". Một niềm tin thật giản dị, đó là niềm tin vào cuộc sống của những người lao động ngay trong những cảnh ngộ khốn cùng và bi đát nhất. Một niềm tin như thế thật đáng trân trọng bởi không những nó cho con người thêm nghị lực để vươn lên mà còn mà còn mang ý nghĩa nhân bản sâu sắc: nói lên sức sống bất diệt của con người. Niềm tin như một ngọn gió nhẹ nhàng thổi vào cuộc sống của những con người ấy, giúp họ vơi đi nỗi đau, vượt qua khó khăn.

Sáng hôm sau một niềm vui mới len nhè nhẹ khiến bà "nhẹ nhõm tươi tỉnh hẳn lên". Trong nạn đói năm ấy, con trai bà cưới vợ có lẽ là một điều "xa xỉ". Nhưng trong suy nghĩ của bà không tồn tại hai chữ đó. Có thêm người là có thêm hy vọng. Nhiều hy vọng nhỏ để góp lại thành một nỗi khát khao lớn cho dù trong nhà thiếu cái ăn cái mặc vẫn không ngừng hy vọng. Còn sống là còn khát khao được sống. "Bà dậy sớm xăm xắn thu dọn quét tước nhà cửa, giẫy những búi cỏ mọc nham nhở trong vườn. Bữa cơm ngày đói thật thảm hại nhưng bà nói toàn những chuyện vui, những chuyện sung sướng về sau này". Người mẹ nghèo ấy vẫn nghĩ đến "cái sống" ngay bên bờ vực của cái chết. Hình ảnh đàn gà con sinh sôi nảy nở như tượng trưng cái sức sống kỳ diệu của những người lao động. Người đọc không khỏi xúc động trước nồi "cháo cám" mà bà nấu cho con trai và con dâu. Trong tận cùng của sự thảm hại "cháo cám" có một cái tên mới: "chè khoán" thật lạc quan biết mấy, Bà vẫn tươi cười đon đả múc cho hai đứa con. Thế nhưng thấp thoáng đâu đó trong nụ cười ấy vẫn tồn tại một nỗi hờn tủi. Với tấm lòng thương yêu chân thực và một tâm hồn yêu cuộc sống đến kỳ lạ của người mẹ đã tiếp thêm sức mạnh cho hai đứa con tội nghiệp.

Ở nhân vật Tràng "cái sống" không chỉ là tìm cách kiếm cái ăn cái mặc nuôi mẹ, nuôi bản thân qua những ngày đói khó mà còn mang ý nghĩa hạnh phúc : xây dựng tổ ấm gia đình . "Cái sống" ở đây đồng nhất với niếm hạnh phúc và do đó nó là cái sống cao đẹp hơn cái sống đơn thuần chỉ là để chống đói. Kim Lân đã nói về "Vợ Nhặt": "Điều đáng nói nhất là trong cái đói con người vẫn nghĩ đến những điều sung sướng nên người ta mới lấy nhau". Vì vậy, tuy Tràng "chợn" nghĩ "thóc gạo này đến thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không lại còn đèo bồng" nhưng niềm khát khao hạnh phúc gia đình đã vượt lên trên tất cả khiến anh "chậc, kệ!" và thế là giữa trận đói kinh hoàng ấy, một mái ấm đơn sơ đã ra đời. Niềm vui có vợ của Tràng được Kim Lân diễn tả rất thực và rất sinh động qua việc anh dẫn vợ về với "vẻ mặt phớn phở khác thường" với "nụ cười tủm tỉm một mình và đôi mắt sáng lên lấp lánh". Cuộc sống gia đình khiến Tràng trở thành một con người khác. Anh cảm thấy dạt dào hạnh phúc khi đã có một tổ ấm gia đình và anh đã nghĩ đến tổ ấm ấy bằng lòng yêu thương và tinh thần trách nhiệm: "bây giờ hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này". Lúc này đây niềm hạnh phúc tưởng chừng như bình dị của một con người lại làm trỗi dậy bản năng sống, bản năng cần phải trưởng thành hơn nữa . Đoạn văn chứa đựng tình cảm nhân đạo của Kim Lân đã nói rõ nhân vật đang hướng về một cuộc sống mà anh khao khát: cuộc sống vợ chồng trong tổ ấm gia đình. Kết truyện Tràng nghĩ về "lá cờ đỏ sao vàng" thực sự là tín hiệu mới mẻ về một sự đổi thay xã hội rất lớn lao, có ý nghĩa quyết định với sự đổi thay của mỗi số phận con người. Một cuộc sống tràn đầy hạnh phúc tràn đầy niềm hy vọng đối lập với thực tế khốn cùng, một màu đen u ám của nạn đói. Hai hình ảnh hoàn toàn không có điểm chung. Hy vọng trong cái thực tế ấy có lẽ là viển vông, nhưng chính niềm tin và hy vọng đã cho họ nghị lực để sống, để vượt qua khó khăn, để có ngày mai tươi sáng hơn.

Ba nhân vật chính của truyện, chúng ta dễ dàng nhận thấy người vợ mà Tràng "nhặt" do không có tên. Tác giả gọi người "Vợ nhặt" là "thị". Một người đàn bà tội nghiệp, không nơi nương tựa, không gia đình, đói khát, cùng đường tới mức liều lĩnh và trơ trẽn, chỉ với bốn bát bánh đúc đã đồng ý làm vợ Tràng. Việc thị "theo không" về làm vợ Tràng trong hoàn cảnh đói kém lúc bấy giờ mang ý nghĩa hướng về cái sống rất rõ: vừa là cái sống theo ý nghĩa chống đói, vừa là cái sống trong hạnh phúc gia đình. Về nhà chồng, trở thành "nàng dâu mới" thị như đã đổi khác "rõ ràng là người đàn bà hiền hậu đúng mực không còn vẻ gì chao chát chỏng lỏn như mấy lần Tràng gặp ở tỉnh". Chị dậy sớm cùng mẹ chồng dọn dẹp thu xếp nhà cửa. Có phải vì nghĩ đến cuộc sống gia đình, đến trách nhiệm làm vợ, làm dâu mà chị đổi khác như vậy? Cuộc sống gia đình mới đã thổi vào chị một làn gió sự sống . Cái tăm tối, cái đói khát bị xua đi, sự tốt đẹp trở lại với con người.

Bên cạnh ba nhân vật trung tâm, một hình ảnh mờ nhạt cũng góp phần vào hy vọng về "cái sống" đó là những người dân xóm ngụ cư. Những con người lặng lẽ âm thầm trong bóng tối đang bị đè nặng xuống vực thẳm của trận đói khủng khiếp bỗng như xôn xao, bừng lên trong khoảng khắc của buổi chiều khi Tràng dẫn vợ về: "những khuôn mặt hốc hác, u tối của họ bỗng dưng rạng rỡ hẳn lên. Có cái gì lạ lùng và tươi mát thổi vào cuộc sống đói khát, tăm tối ấy của họ". Những ánh mắt sáng lên, những tiếng cười vui vẻ, những lời thì thầm bàn tán có phải đó chính là biểu hiện của việc hướng về một cuộc sống khác? Họ vui khi Tràng có vợ. Niềm vui ấy nói lên họ đang nghĩ đến "cái sống", đang nghĩ về một cuộc sống tốt đẹp hơn ngay trong lúc họ đang phải sống đói khổ, cùng quẫn nhất.

"Vợ Nhặt" - những con người đói , đã không nghĩ đến cái chết, mà vẫn nghĩ đến cái sống. Điều này đã làm nên giá trị nhân bản sâu sắc của tác phẩm và cho ta thấy nét đẹp của tâm hồn nhân hậu và sức sống bất diệt của những người nông dân lao động trong những ngày khủng khiếp nhất của trận đói 1945. Cảnh đời cũ vẫn là tối tăm, ngột ngạt, nhưng nhân vật của Kim Lân đã có được niềm tin và hy vọng vào cuộc sống. Và chắc chắn cuộc đời họ sẽ được đổi khác, hình ảnh cuối cùng của tác phẩm "lá cờ đỏ bay phấp phới" thể hiện niềm tin đó.

Đề bài | Bài giải | ý kiến bạn đọc

Đề bài

Phân tích nhân vật vợ Tràng trong chuyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân.

Bài giải chi tiết | Viết cách giải khác của bạn

Phân tích đề:

- Tác phẩm Vợ nhặt xoay quanh câu chuyện của ba người trong một gia đình ngụ cư. Điều lạ là một người làm nên chính cái tên của truyện lại không có tên, không biết tuổi. Đó chính là vợ Tràng. Ba người, mỗi người một vẻ. Sự hấp dẫn của nhân vật nữ này phải chăng là từ một người trong cõi mù mịt, không đâu vào đâu trở thành một nàng dâu hiền thục của bà cụ Tứ?

- Khi phân tích, tập trung vào lai lịch, ngoại hình, đặc biệt là tính cách nhân vật. Khi nhân vật không có tên, hay không rõ lai lịch không phải là không có gì để nói. Không có tênm hay không rõ lai lịch cũng là cách thức nhà văn giới thiệu với bạn đọc, thể hiện một quan niệm nghệ thuật của mình. Người phụ nữ ấy chỉ là một trong số hàng ngàn, hàng vạn thân phận phụ nữ cùng thời. Do đó, người ấy rất rễ bị lãng quên, ít ai chú ý tới nhưng với nhà văn đó là một số phận không thể bỏ qua, một số phận gây nhức nhối, trăn trở. Ít phân tích nội tâm nhân vật, với người phụ nữ này, Kim Lân lại chú trọng về tính cách. Nếu bà cụ Tứ, thế giới nội tâm luôn biến đổi thì vợ Tràng, tính cách cũng biến đổi, gần như đối lập. Sự biến đổi đó có thể gọi là sự trở về của tính cách, phẩm giá vốn có ở chị. Khi phân tích phải hết sức chú trọng tới sự biến đổi đó.

Dàn ý chi tiết:

1.Lai lịch, ngoại hình:

- Vợ Tràng là người đàn bà không rõ lai lịch, không có gia đình, không có nhà cửa. Cô ta thậm chí không có tên và khi xuất hiện lúc được gọi là thị, là cô ả, lúc là người đàn bà. Chỉ có bà cụ Tứ xem vợ Tràng là nàng dâu, con dâu, là con và được Tràng gọi là nhà tôi mà thôi. Trước khi về nhà bà cụ Tứ, cô ta cùng với mấy chị con gái ngồi vêu ra ở cửa nhà kho thóc Liên đoàn chờ nhặt hạt rơi, hạt vãi, hay ai có công việc gì gọi đến thì làm. Trong nạn đói hồi ấy, thân phận con người thật rẻ rúng. Đâu phải vợ Tràng mới là người không tên, không tuổi, còn biết bao chị gái như thế.

- Vợ Tràng xuất hiện với một chân dung thảm thương. Lần đầu tiên Tràng trông thấy, thị mới chỉ gầy yếu xanh xao (ngồi vêu trước cửa kho thóc), nhưng gặp lần hai, anh ta không nhận ra. Vì đói rách mà chỉ hôm, áo quần rách thị tả tơi như tổ đỉa, gày sọp hẳn đi, trên cái mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt. Chả trách anh cu Tràng không nhận ra thị là phải.

2.Tính cách:

- Khi mới gặp Tràng:

+Thị là người đanh đá, táo bạo tới mức trở nên trơ trẽn. Nghe anh chàng phu xe hò một câu cho đỡ nhọc (Muốn ăn cơm trắng mấy giò này / Lại đây mà đẩy xe bò với anh nì), thị đã cong cớn bám lấy rồi vùng đứng dậy, ton ton chạy lại đẩy xe cho Tràng. Gặp lần thứ hai, khi Tràng vừa trả hàng xong, thị đâu xầm xầm chạy đến. Thị đứng trước mặt mà sưng sỉa nói: Điêu! Người thế mà điêu! Khi thấy anh Tràng có vẻ dễ bắt choẹt, thị tiếp tục cong cớn. Thấy có miếng ăn, hai con mắt trũng hoáy của thị tức thì sáng lên rồi thị ngồi sà xuống, ăn thật. Thị cắm đầu ăn một chạp bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì. Ăn xong, thị cầm dọc đôi đũa quệt ngang miệng mà thở.

+Phải chăng đấy là tính cách cốn có của người đàn bà này? Không, từ đầu đến lúc theo Tràng về nhà, người phụ nữ ấy hành động hoàn toàn theo bản năng của mình. Thị làm tất cả chỉ để được... ăn!

- Khi đã chấp nhận làm vợ Tràng:

+Trên con đuờng trở về nhà của Tràng, thị thay đổi hẳn. Trong khi Tràng mặt có một vẻ gì phớn phở khác thường, hay tủm tỉm cười một mình và hai mắt thì sáng lên lấp lánh, thì thị lại đi sau hắn chừng ba bốn chục thước, cắp cái thúng con, cái nón tàng nghiêng nghiêng che khuất đi nửa mặt. Thị có vẻ rón rén, e thẹn. Rõ ràng so với người đàn bà mới ban trưa, bây giờ thị đã là người khác. Ban trưa, lúc ở ngoài chợ, thị sấn sổ, cong cớn để được ăn, còn bây giờ, thị đang về nàh chồng (ai mà chẳng e thẹn!). Vả lại, thị bắt đầu ý thức về thân phận mình, là người vợ theo không. Té ra, thị chẳng có chút quyền uy nào, kể cả quyền lựa chọn và đành chấp nhận số phận khi đã đến bước đường cùng.

+Song, dù cố đấm ăn xôi đi nữa, thị vẫn là người có ý thức về giá trị của bản thân. Trên đường về nhà chồng, khi anh Tràng lấy làm thích thú trước cảnh lũ trẻ con chọc ghẹo, thì thị có vẻ khó chịu lắm, đôi lông mày nhíu lại, đưa ta y lên xóc lại tà áo. Trẻ con nghịch ngợm chọc ghẹo còn được, đằng này đến người lớn cũng tò mò, thị càng ngượng ngiụ, chân nọ diíucả vào chân kia. Anh Tràng đến là vô tư, cứ lấy vợ vậy làm thích thú. Thị càu nhàu trong miệng và lầm lũi đi đến nỗi nhầm đường. Thị mong sớm đến nhà "chồng" để tránh sự dòm ngó của mọi người.

+Về nhà của Tràng, thị càng khác hơn. Người đàn bà ấy có cái tò mò của nàng dâu mới. Thị đảo mắt nhìn chung quanh. Quả là nghèo quá. Thị nén mộ tiếng thở dài. Anh Tràng muốn vợ mình được tự nhiện, cứ giục ngồi, nhưng thị chỉ dám ngồi mớm xuống mép giường. Khi bà cụ Tứ về, người đần bà ấy chủ động chào bà bằng u. Trước mặt người mẹ chồng, thị càng rụt rè, vẫn đứng nguyên chỗ cũ, khẽ nhúc nhích. Chính thái đọ ấy cùng hoàn cảnh của thị đã khiến bà cụ Tứ, trái với sự dò xét thông thường của những người mẹ chồng đối với nàng dâu, nhìn thị lòng đầy thương xót. Bà nhanh chóng chấp nhận thị là dâu dù chỉ mấy phút trước đó cả hai đều hoàn toàn xa lạ.

+Sáng hôm sau, thị đã trở thành người vợ đảm đang. Cùng với bà cụ Tứ, thị thức dậy sớm, lo dọn dẹp nhà cửa, quét tước sân vườn sạch sẽ. Người vô tâm như anh Tràng vẫn nhận ra sự thay đổi kỳ lạ ở thị: Tràng nom thị hôm nay khác lắm, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu đúng mực không có vẻ gì chao chát chỏng lỏn như mấy lần gặp ngoài tỉnh. Không những thế, thị còn tỏ ra là người biết tu chí làm ăn. Khi thị hỏi bà cụ Tứ về tiếng trống ồn ã ngoài đình và biết đó là tiếng trống thúc thuế, thị đã khẽ thở dài. Rồi chính thị là người đầu tiên kể cho cả nhà nghe chuyện trên mạn Thái Nguyên, Bắc Giang người ta không chịu đóng thuế nữa mà đi phá kho thóc Nhật, chia cho người đói. Câu chuyện ấy khiến Tràng ân hận và tiếc rẻ khi nhớ lại mình đã từng có dịp làm như thế mà chẳng làm. Ai biết rồi đây, để chăm lo cho cuộc sống gia đình của mình, người phụ nữ này có khi cả gan hơn cả anh cu Tràng! Bữa cơm nghèo buổi sáng hôm ấy, thị cũng như bà cụ Tứ và anh Tràng đều thấy một nỗi tủi hờn len vào tâm trí mình khi phải cố nuốt những miếng cám đắng chát và nghẹn bứ trong cổ. Song, thị cũng như hai mẹ con Tràng, đều cố tránh nhìn mặt nhau, đều không muốn làm người khác phải buồn đau hơn. Phải ý nhị lắm, phải tinh tế đến nhường nào mới có thái độ ứng xử đầy chất nhân bản như thế!

=>Hoá ra cái đanh đá, trở trẽn trước kia ở người đàn bà Tràng lấy làm vợ chẳng qua là do đói khát mà ra. Khi được sống trong tình thương, trong mái ấm gia đình, người đàn bà ấy đã sống với bản chất tốt đẹp của mình, của một người phụ nữ Việt Nam.

3.Số phận:

- Vợ Tràng tiêu biểu cho số phận những người phụ nữ trong nạn đói 1945: nghèo đói, bị rẻ rúng.

- Khi người đàn bà ấy may mắn được sống trong tình người, trong mái ấm gia đình mặc dù cuộc sống còn nhiều đe doạ của sự đói khát, thì những phẩm chất tốt đẹp đã sống lại.

4.Nghệ thuật xây dựng nhân vật:

- Kim Lân đã khắc hoạ nhân vật người phụ nữ rất điêu luyện. Nhà văn không tập trung miêu tả tâm lý nhân vật để giữ vẻ xa lạ, phù hợp với hoàn cảnh của thị, một người vợ nhặt (khác với nhân vật Tràng được miêu tả tâm lý hết sức tỉ mỉ).

- Tác giả lại chú trọng khắc hoạ hành động, cử chỉ, nét mặt của nhân vật để người đọc tự hiểu tâm trạng của người phụ nữ. Chẳng hạn, chi tiết thị lấy nón che mặt diễn tả tâm trạng xấu hổ vì biết mình là người phụ nữ theo không về nhà chồng; hoặc thị nén một tiếng thở dài khi đảo mắt nhìn chung quanh căn nhà của Tràng; hay chi tiết thị đón lấy bát cháo cám, đưa mắt nhìn, hai con mắt thị tối lại rồi điềm nhiên và vào miệng là thái độ chấp nhận số phận khi đến bước đường cùng... Nhiều chi tiết nho nhỏ, vụn vặt như thế nhưng đã nói được khá rõ về tâm tư, tình cảm của một con người.

5.Kết luận:

- Xây dựng nhân vật vợ Tràng, nhà văn đã gián tiếp tố cáo một xã hội đẫ đẩy con người đến sự rẻ rúng, tha hoá về nhân phẩm chẳng qua vì sự đói khát. Thế nhưng, trong cảnh ngộ của mình bi đát, con người vẫn luôn vươn tới sự sống, hướng tới tương lai và ở một hoàn cảnh nhân đạo hơn, phẩm giá con người đã sống dậy.

- Ba nhân vật chính trong Vợ nhặt đã được nhà văn xây dựng theo cách thức khác nhau. Chính sự khác nhau đó đã góp phần tạo nên giá trị đọc đáo của tác phẩm. Ba nhân vật trở thành ba mảng đời của một xã hội tối tăm, đói khát và cũng từ đó ánh lên tia sáng của chủ nghĩa nhân đạo cao cả.

Bài giải của bạn: nttn21290 17:05:40 Ngày 24-12-2007

1.Người "vợ nhặt" trong tác phẩm là một con số không tròn trĩnh: không tên tuổi, không quê hương, không quá khứ. Từ đầu đến cuối tác phẩm chỉ được gọi là ả ("mấy cô gái lại cứ đẩy vai cô ả này ra"), thị ("thị cong cớn..."), người đàn bà ("người đàn bà đi sau hắn...")... Quá khứ mà chị ta có cũng chỉ là một lần chọc ghẹo với Tràng "thị liếc mắt cười tít".

Chân dung chị ta hiện ngay ra từ đầu là những nét không mấy dễ nhìn. Đó là hình ảnh của một người đàn bà gầy vêu vao, ngực gầy lép, khuôn mặt lưỡi cày xám xịt, cong quần áo thì rách như tổ đỉa.

Chị ta hiện ra trước mắt mọi người với điệu bộ còn xa mới gọi là dịu dàng. Đàn bà gì mà "sầm sập chạy tới", "sưng sỉa nói", "đứng cong cớn trước mặt hắn"...

Đã thế, chị ta cũng thuộc loại ăn nói chỏng lỏn, ghê gớm, mở miệng thì "bỏ bố", "sợ gì"...

Và trên hết, chị ta là một người đang đói. Đói đến mức quên cả ý tứ, sĩ diện tối thiểu của một người con gái.

2. Thế nhưng tất cả những nét đanh đá, chỏng lỏn, chao chát ấy chỉ là cái vẻ bề ngoài mà chị ta phô ra để chống chọi với đời. Còn con người thật của chị ta, khi đi với Tràng mới hiện lên đầy đủ.

Người đàn bà cong cớn ấy, ngay từ khi theo Tràng về nhà đã khác. Cứ như không phải là người đàn bà đanh đá, chao chát nữa mà là một con người khác, một cô dâu ngoan ngoãn dễ thương đang về nhà chồng.

Khi bước vào nhà Tràng, người đàn bà ấy "ngồi mớm ở mép giường hai tay khư khư ôm cái thúng, mặt bất thần", cái thế ngồi rất rụt rè và chông chênh. Đó cũng là cái tâm trạng ngổn ngang trăm mối của lòng người.

Nhưng có lẽ nét đẹp của người đàn bà ấy, thực sự hiện ra rõ nhất là sau buổi gặp gỡ với bà cụ Tứ và buổi sáng hôm sau của cuộc đời làm vợ.

Một chi tiết khiến người đọc không thể quên ở người "vợ nhặt" là chi tiết chị bưng lấy bát chè cám mà người mẹ chồng đưa cho. Hai con mắt chị "tối lạ" nhưng ngay lúc đó chị "điềm nhiên vào miệng". Đây là một chi tiết đắt giá. Chị đã không nỡ làm mất đi niềm vui tội nghiệp của người mẹ già nua kia. Hóa ra người "vợ nhặt" vô danh ấy lại không vô nghĩa. Bóng dáng của chị hiện ra tuy không lộng lẫy nhưng gợi lên một sự ấm áp. Chị mang đến một làm gió tươi mát cho cuộc sống tối tăm bên bờ cái chết.

Phân tích tâm trạng nhân vật bà cụ Tứ trong tác phẩm Vợ nhặt của Kim Lân

Bài giải chi tiết | Viết cách giải khác của bạn

Phân tích đề:

- Bà cụ Tứ là nhân vật khá đặc biệt trong tác phẩm Vợ nhặt. Thành công của Kim Lân là xây dựng một nhân vật sống với tâm trạng là chính. Cần lưu ý: đề yêu cầu phân tích tâm trạng nhân vật chứ không phải phân tích nhân vật. Nếu phân tích nhân vật đơn thuần, người viết chú ý tới diện mạo, ngôn ngữ, hành động, tính cách... của nhân vật, thì phân tích tâm trạng nhân vật lại tập trung vào diễn biến đời sống bên trong của nhân vật.

- Khi phân tích tâm trạng bà cụ Tứ, người viết cần dõi theo tâm trạng của bà từ lúc bước vào nhà, nhìn thấy người lạ cho đến khi thừa nhận người ấy là con dâu mình và chăm lo cho hạnh phúc của đôi vợ chồng trẻ. Có thể chia "tâm trạng" ấy thành những chặng nhỏ. Ứng với mỗi chặng là một cung bậc tình cảm cùng sự suy nghĩ nổi trội. Sự phân chia ấy chỉ nhằm mục đích dễ tìm hiểu, phân tích, bởi tâm trạng của một con người là một thể thống nhất. Tâm trạng ấy có khi thể hiện thành lời nói, hành động bên ngoài, nhưng phần nhiều ở bà cụ Tứ là những suy nghĩ bên trong.

Bài làm:

Truyện ngắn Vợ nhặt được Kim Lân sáng tác sau Cách mạng tháng Tám, nhưng bối cảnh của tác phẩm là nạn đói khủng khiếp năm một chín bốn lăm.

Đặt câu chuyện trong bóng tối của thời sự đói khát và chết chóc ấy, nhà văn đã thể hiện cảm động tấm lòng yêu thương, đùm bọc lẫn nhau và niềm khao khát hạnh phúc của những người nghèo khổ. Vẻ đẹp nhân bản ấy được tác giả phát hiện và tập trung xây dựng thành công ở nhân vật bà cụ Tứ, mẹ của anh Tràng, người đã "nhặt" vợ.

Bà cụ Tứ là người mẹ nghèo khổ thương con như muôn ngàn người mẹ Viện Nam khác. Nhưng người mẹ ấy được đặt trong một tình cảnh hết sức éo le. Đó là việc Tràng, con trai của bà, giữa lúc nạn đói hoành hành lại lấy vợ. Nhưng dường như chính nghịch cảnh này càng làm nổi rõ ánh sáng tâm hồn ở người mẹ đáng thương.

Trong tác phẩm, bà cụ Tứ chỉ xuất hiện từ giữa truyện, lúc anh Tràng đưa vợ về, song từ đấy, dù rất ít nói, bà vẫn là người thu hutd nhiều nấht tâm trí của người đọc. Bởi trong lòng người mrj ấy, cảm trăm mối tơ vò, chuyện nay, chuyện xưa đan xen lẫn lộn, niềm vui, nỗi buồn, sự cay đắng tủi cực lẫn xót thương vây lấy.

1.Bà cụ Tứ về nhà

Như thường lệ, buổi chiều ấy trời sẩm tối, bà cụ Tứ về nhà. Chưa thất người, nhưng anh Tràng biết là mẹ, bởi ngoài đầu ngõ có tiếng người húng hắng ho. Từ ngoài rặng tre, bà lọng khọng đo vào. Tính bà vẫn thế, vừa đi vừa lẩm bẩm tính toán gì trong miệng. Nhưng hôm nay khác, thấy mẹ, Tràng reo lên như một đứa trẻ và gọi ới vào trong nhà: U đã về đấy! Anh con trai lật đật chạy ra đón mẹ từ ngoài cổng và trách sao bà về muộn. Ồ, hẳn có chuyện gì rồi, mọi bữa anh cu Tràng đâu có thế. Mà còn gọi ới vào trong nữa. Trong nhà nào có ai. Lâu nay, khi ông lão và đứa con gái út lần lượt ra đi, nhà chỉ còn mỗi hai mẹ con. Bà nhấp nháy hai con mắt nhìn Tràng, chậm hỏi: Có việc gì thế vậy? Anh cu Tràng chưa chịu nói, giục bà vào nhà.

Bà cụ Tứ phấp phỏng bước vào theo con vào nhà. Phấp phỏng vì ling tính cho bà biết trong nhà hẳn xảy ra chuyện gì. Mà quả đúng như vậy. Mới đến giữa sân, bà đứng sững lại và càng ngạc nhiên hơn. Trong nhà bà có người, lại là đàn bà. Người đàn bà nào ở trong ấy nhỉ? Bà chưa gặp, bà không quen bao giờ. Người ấy lại đướng ngay đầu giường thằng con mình thế kia? Sao lại chào mình bằng u?.. Ai thế nhỉ? Hàng loạt câu hỏi đặt ra trong đầu bà lão. Hay bà già rồi, trông gà hoá cuốc. Bà lão hấp háy cặp mắt cho đỡ nhoèn vì tự dưng bà lão thấy mắt mình nhoèn ra thì phải.. Không phải bà trông gà hoá cuốc, không phải mắt bà nhoèn. Đúng là có người rồi. Bà lão nhìn kỹ người đàn bà lần nữa, vẫn chưa nhận ra người nào. Bà lão quay lại nhìn con tỏ ý không hiểu.

Cái anh cu Tràng hôm nay thật lạ. Tự dưnng khách sáo với mẹ, cứ buộc bà lão phải ngồi lên giường lên chiếc ghế chĩnh chệnh rồi mới nói. Bà lập cập bước vào. Cái người đàn bà lạ ấy tưởng mẹ Tràng già cả, điếc lác lên cất tiếng chào đến lần thứ hai. Hoá ra, bà không điếc, bà mải băn khoăn vì người đàn bà ấy chào bà bằng u. Bà vẫn chưa hiểu vì sao lại thế. Đến khi anh Tràng nói: Nhà tôi nó mới về làm bạn với tôi u ạ! Thì bà hiểu rất nhanh. Đột ngột quá! Bà cúi đầu nín lặng. Bà không chỉ hiểu chừng ấy. Trong lòng người mẹ nghèo ấy còn hiểu ra biết bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán vừa xót thương cho số kiếp của đứa con mình. Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái mở mặt sau này. Còn con mình thì... Chỉ nghĩ đó, bà đã thấy biết bao lo lắng, xót thương. Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai dòng nước mắt... Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không?

2.Bà cụ Tứ với đôi vợ chồng son:

Vợ chồng anh cu Tràng nào biết nỗi lòng bà cụ Tứ. Trông cảnh của chúng, bà khẽ thở dài rồi nhìn đăm đăm vào người đàn bà mà từ giờ phút này đã là con dâu. Bà nhìn thị và bà nghĩ: Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có được vợ... Nghĩ thế, bà càng cay đắng cho thân phận của mình. Bà là mẹ, bà đã chẳng lo được gì cho con... May ra mà qua được cái tao đoạn này thì thằng con bà cũng có vợ, nó yên bề nó, chẳng may ra ông giời bắt chết cũng phải chịu chứ biết thế nào mà la cho hết được? Trong cái khổ, có cái may. Bà khẽ dặng hắng một tiếng, nhẹ nhàng nói với "nàng dâu mới": một khi các con đã phải duyên phải kiếp với nhau, bà cũng mừng lòng.

Bà cụ Tứ còn dặn dò đôi vợ chồng trẻ: Nhà ta nghèom liệu mà bảo nhau làm ăn. Khi anh Tràng bước dài ra sân, bà động viên nàng dâu: Rồi may ra ông giời cho khá... Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời? Rồi ra thì con cái chúng mày về sau.

Nói với con dâu là thế, nhưng lòng bà cụ Tứ thật ngổn ngang. Bà đăm đăm nhìn ra sông. Bóng tối trùm lấy hai con mắt. Mùi đốt đống rấm ở những nhà có người chết theo gió thoảng vào két lẹt. Bà lão thở dài ra một hơi. Bà lão nghĩ đến ông lão, nghĩ đến đứa con gái út. Bà lão nghĩ đến cuộc đời cực khổ dài dằng dặc của mình. Vợ chồng chúng nó lấy nhau, cuộc đời chúng nó liệu có hơn bố mẹ trước kia không? Những câu hỏi lại bám lấy trong đầu bà. Bà lão nhìn người đàn bà, lòng đầy xót thương. Bà nói với con dâu, lẽ ra đám cưới phải làm được dăm ba mâm, nhưng nhà mình nghèo quá. Chắc cuũngchả ai người ta chấp nhặt, chỉ mong vợ chồng hoà thuận là bà mừng. Nhưng lúc đói to thế này mà chúng mày lấy nhau thì bà thương quá.

Ôi biết bao là buồn, vui, vay đắng, tủi cực cùng sự lo lắng, thương xót đang tràn ngập trong lòng người mẹ nghèo khổ. Bà cụ nghẹn lời không nói được nữa. Bà không khóc mà nước mắt cứ chảy xuống ròng ròng. Nhưng bà đâu muốn để cho đôi vợ chồng son biết bà đang buồn. Khi anh cụ Tràng đánh liềm đốt đèn, bà lão vội vàng lau nước mắt ngửng lên. Bà chủ động nói vui: Có đèn à? Ừ thắp lên một tí cho sáng sủa... Dầu bây giờ đắt gớm lên mà ạ. Nói thế, rồi bà lão đứng dậy uể oải sang giường bên kia nằm. Bà đem cả cái tâm trạng ngổn ngang sang chiếc giường cũ kỹ!

3.Bà cụ Tứ sau đêm tân hôn của con trai:

Đêm hôm ấy, dẫu những tiếng khóc hờ ngoài xóm có lọt vào cái nhà rúm ró, nhưng đôi vợ chồng son hẳn ngủ rất ngon. Anh cu Tràng thật "hư", khi, mặt trời lên bằng con sào, mới trở dậy, người êm ái lửng lơ như người từ trong mơ đi ra. Nàng dâu mới có vẻ "biết điều", dậy sớm hơn, quét lại sân. Chỉ có bà lão, chắc đêm qua không ngủ được. Đầu hôm, bà nghĩ tới việc kiếm lấy ít nứa về đan cái phên ngăn căn nhà ra. Chưa biết chừng nửa khuya bà đã dậy. Khi anh cu Tràng thức dậy, xung quanh đã thay đổi mới mẻ, khác lạ. Nhà cửa, sân vườn đều được quét sạch sẽ gọn gàng... Hai cái ang nước vẫn để khô ong ở dưới góc ổi đã kín nước đầy ăm ắp. Đống rác mùn tung hoàn ngay lối đi đã hót sạch. Bà cụ Tứ đang lúi húi giẫy những bụi cỏ dại mọc nham nhở ngoài vườn.

Thấy con trai đã dậy, bà cụ Tứ vội giục nàng dâu đi dọn cơm ăn chẳng muộn. Sáng nay, lòng bà nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường, cái mặt bủng beo u ám của và rạng rỡ hẳn lên. Bà lão xăm xắn thu dọn, quét tước nhà cửa. Bà và cả đôi vợ chồng Tràng, hình như ai nấy đều có ý nghĩ rằng thu xếp nhà cửa cho quang quẻ, nề nếp thì cuộc đời có thể khác đi, làm ăn có cơ khấm khá hơn.

Bữa cơm sáng hôm nay cũng là bữa cơm ngày đói trông thật thảm hại. Nhưng có điều lạ là hôm nay, bạ cụ vừa ăn vừa kể chuyện làm ăn, gia cảnh với con dâu. Bà nói toàn chuyện vui, chuyện sung sướng về sau này. Bà bàn tính với nàng dâu khi nào có tiền mua lấy đôi gà, rồi ngoảnh đi ngoảng lại chẳng mấy chốc có một đàn gà cho mà xem. Vì thế chưa bao giờ trong nhà này mẹ conm lại đầm ấm, hoà hợp đến thế. Khi niêu cháo lõng bõng, mỗi người được có lưng nửa bát đã hết nhẵn, bà lão lật đật chạy xuống bếp, lễ mễ bưng ra một cái nồi khói bốc lên nghi ngút. Đấy là nồi cám, mỗi khi đưa vào miệng, đắng chát và nghẹn bứ trong cổ, nhưng bà lão cho mọi người mà miệng tươi cười, đon đả nói, gọi là "chè khoán" và khen ngon đáo để. Bà không muốn bữa ăn đang vui bỗng ngừng lại. Thực ra, lòng đau lắm. Cả một nỗi tủi hờn đang len vào tâm trí bà.

Khi ngoài đình bỗng dội lên một hồi trống, dồn dập, vội vã khiến đàn quạ trên những cây gạo cao chót vót ngoài bãi chợt hốt hoảng bay vù lên, lượn thành từng đám bay vẩn trên nền trời như những đám mây đen, bà cụ Tú giải thích cho nàng dâu biết đấy là tiếng trống thúc giục thuế. Đói khát như thế này, vẫn phải đóng thuế, làm sao mà sống qua ngày được. Bà ngoảnh vội ra ngoài vì không dám để con dâu thấy bà khóc. Mà đó lại là những giọt nứoc mắt khóc bởi cái tương lai mờ mịt, xanh xám của các con bà!

Bà cụ Tứ xuất hiện trong Vợ nhặt của Kim Lân có một đêm và non buổi sáng hôm sau. Chừng ấy thời gian vừa đủ cho một người ngủ dậy muôn. Nhưng đối với người mẹ nghèo khổ kia, quả là rất dài. Chừng ấy thời gian, song ở bà, có biết bao buồn vui, mừng tủi, cay đắng, âu lo, lẫn hy vọng. Người mẹ ấy đã sống trọn tất cả đời sống bên trong của một người con. Và, vì thế, dù thời gian mải miết trôi đi, hình tượng bà lão đáng thương đó vẫn hết sức sống động bởi đây là nhân chứng của một thời hãi hùng, cũng là biểu trưng cho trái tim, phẩm giá của một người mẹ!

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#religion