volamnguba(1)

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

giả Kim Dung Thương Lan dịch

Hồi 1 Huyện Trần Lưu Thanh Hư chân nhân thu đồ đệ

Về cuối đời nhà Tống, tại tỉnh Hồ Nam, huyện Trần Lưu có một viên ngoại họ Vương tên là Ỷ Khuyên, thê thiếp đến tám người, nhưng rất hiếm hoi, chỉ người thiếp thứ năm tên là Thảo Hồng sinh được một trai đặt tên là Vương Tiêu Thu, năm đó được tám tuổi. Từ lúc mới sinh ra, Vương Tiêu Thu vẫn ốm o vàng vọt. Bao nhiêu thuốc hay thầy giỏi, Vương viên ngoại đều rước về chạy chữa cho Vương công tử, nhưng đâu vẫn hoàn đấy.

Một bữa kia, Vương Tiêu Thu ra hoa viên vừa leo lên cái đu chưa kịp nhún nhảy bỗng ngã lăn xuống đất bất tỉnh. A hoàn theo hầu cả sợ kêu réo om sòm, Tiêu Thu không cựa quậy chỉ nằm thở thoi thóp, a hoàn vội bồng công tử chạy vào nhà báo tin cho Vương viên ngoại. Tin đến như sét đánh, Vương viên ngoại thất kinh một mặt cho người đi mời thầy thuốc, một mặt tìm cách cứu tỉnh. Thảo Hồng ôm công tử lăn khóc thảm thiết. Trong nhà nhốn nháo cả lên. Một lát gia nhân mời thầy thuốc đến xem bệnh tiếp Tiêu Thu. Thầy lắc đầu, cho biết công tử đã quy tiên. Thế là tiếng khóc nổi lên ầm ỹ, vì hiếm hỏi chỉ được một mình công tử, Vương viên ngoại yêu quý mười phần.

Trước tình cảnh đó, viên ngoại cũng bứt râu bứt tóc than thở chẳng cùng cho là mình vô phúc. Viên ngoại sai người đi mua quan quách để mai táng cho Vương công tử và đi mời thầy chùa tới làm chay cầu cúng luôn ba ngày, tới ngày thứ ba sửa soạn chôn cất thì có một vị đạo nhân mặc áo màu xanh xin vào ra mắt viên ngoại. Trong lúc đang buồn rầu, viên ngoại đã toan từ chối không tiếp vì thấy vị đạo nhân kia xăm xăm đi vào, cực chẳng đã viên ngoại vội ra vái chào, rồi cất tiếng hỏi :

- Được biết đạo trưởng giáng lâm nhưng vì trong nhà đang lúc bối rối, nên không kịp nghênh tiếp, chẳng hay đạo trưởng có điều chi dạy bảo?

Đạo nhân chắp tay đáp lễ và nói :

- Mô Phật, bần tăng nhân vân du tới đây, nghe thấy quý trang có chuyện chẳng lành, nên muốn coi qua lệnh lang may ra có thể cứu được chăng?

Vừa lúc đó, gia nhân đang khiêng quan tài đi chôn, đạo nhân khoát tay bảo mang vào. Viên ngoại líu ríu theo sau. Đạo nhân sai lật nắp quan tài ra xem. Vừa thấy mặt Vương công tử.

Đạo nhân thốt lên hai tiếng :

- Lạ thật, lạ thật.

Vương viên ngoại và Thảo Hồng đều xúm lại coi. Lạ thay! Khác hẳn với lúc Vương công tử còn sống, lúc nào mặt cũng tái mét như không có một giọt máu nào, lúc này da mặt công tử hồng hào hai mắt nhắm nghiền như người say ngủ. Thảo Hồng thấy thế lăn vào ôm lấy con mà than khóc.

Đạo nhân vuốt râu nói :

- Còn cứu được! Còn cứu được!

Viện ngoại nghe nói thế vội chắp tay vái Đạo nhân, xin ra tay cứu mạng Công tử. Đạo nhân bế Công tử ra khỏi quan tài và nói với mọi người không được ồn ào huyên náo. Đặt Vương công tử nằm ngửa trên giường, dùng bàn tay xoa trên ngực, lại sai người đun một bát dấm đen mang tới.

Đạo nhân lấy trong mình ra một cái lọ con, dốc ra tay ba viên thuốc nhỏ, trên viên thuốc nhỏ có ba chữ vàng "Thiếu Dương đơn" thật tinh xảo, hòa tan trong bát dấm, đoạn mang ra xoa bóp khắp người. Tất cả mọi người đều hồi hộp theo dõi. Một lát sau, Vương công tử bỗng thở dài một cái, mở mắt bừng ra như người ngủ mê mới dậy, ngơ ngác nhìn mọi người rồi nói :

- Ô hay! Sao tôi lại ở đây?

Mọi người đều vui mừng reo to lên. Viên ngoại chạy tới bế Công tử lên tai, nghẹn ngào nói không ra tiếng. Thảo Hồng cũng ôm lấy Công tử, nước mắt hãy còn chảy trên má, lại vừa cười vừa nói Vương nhi ra đây với mẹ. Đạo nhân giơ tay ra hiệu cho mọi người hãy im lặng rồi hỏi Công tử :

- Chẳng hay trước lúc ra hoa viên, Công tử có ăn phải vật chi lạ không? Hãy nói thật cho ta nghe!

Vương công tử chớp chớp đôi mắt ngập ngừng nói :

- Có! Lúc tiểu điệt ra hoa viên thấy ở dưới cái thông nước có một cây nấm trắng toát, cháu nhổ chơi thấy ở trong thân cây chảy ra một chất nhựa trắng như sữa mùi thơm ngào ngạt. Tiểu điệt nếm thử một chút thấy ngon ngọt vô cùng nên cầm cả thân cây cho vào miệng mút mạnh một cái, chẳng dè cả thân cây nấm chui tuột vào cổ họng. Khi tiểu điệt ra tới cái đu mới leo lên thì mắt hoa mày choáng, nhà cửa quay tít, tiểu điệt ngã lăn xuống đất không còn biết gì nữa.

Đạo nhân nói :

- Lạ thật! Sao tại đây lại có loại nấm nầy? Đó là một thứ tinh hoa của nhân sâm tận ngoài Quan ngoại trong Trường Bạch sơn mà cũng rất hiếm. Nó tên gọi là Trùng Sâm, nó chỉ ra có 12 khắc, nếu không có duyên bao giờ được hưởng. Thứ sâm này có thể chữa được các bệnh lại thành trường sinh bất lão, giữ được nguyên khí và có thế luyện đến tột đỉnh công phu môn "Nhất Chỉ Dương Công tuyệt kỹ".

- Công tử dẫn ta ra xem coi tại sao nơi đây lại có quý vật này.

Tiêu Thu buông tay mẹ chạy trước ra hoa viên, Viên ngoại và Đạo nhân vội vàng đi theo.

- Thưa Đạo trưởng! Con đã nhổ cây nấm chỗ này. Tiêu Thu nói và chỉ xuống dưới thống nước ở góc hoa viên.

Viên ngoại kinh ngạc thốt lên :

- Chỗ này tôi vẫn đổ bã sâm mấy chục năm rồi!

Đạo nhân ngồi thụp xuống bóc một nắm đất dưới thống nước và lẩm bẩm :

- Lạ thật! Lạ thật! Không ngờ những bã sâm đổ ra đây đã lâu ngày biến thành một chất đặc biệt và nảy sinh ra thứ Sâm quí không khác gì Sâm tại Trường Bạch sơn.

- Nguyên lai sâm này là loại Vi Khuẩn Sâm do những loại vi trùng cực kỳ vi tế tạo ra. Âu cũng là phước đức của Trang chủ nên mới xui cho cháu bé tình cờ gặp được.

Vương viên ngoại mừng rỡ ôm con vào lòng và mời Đạo nhân cùng trở vô nhà vừa đi vừa kể :

- Thưa Đạo trưởng! Thật ra nhờ trời mà nhà chúng tôi đã mấy đời vì biết giá trị của Sâm là quí nên không ngại hàng năm hễ có dịp là cho người đi Quan ngoại mua những thứ Nhân Sâm Cát Lâm thật tốt để dùng.

Vào tới trong nhà, Vương viên ngoại nói tiếp :

- Kính thưa Đạo trưởng! Chẳng hay pháp danh Đạo trưởng là gì xin cho chúng tôi được biết?

Đạo nhân vuốt râu cười đáp :

- Tên thật của bần đạo là gì lâu ngày bần đạo cũng đã quên đi mất, có nhiều người thấy bần đạo nhàn du đây đó nên đặt cho đạo hiệu là Nhàn Tản Đạo nhân, nhưng có người thấy bần đạo hay mặc áo xanh nên gọi là Thanh Hư Tản Nhân cũng được. Nay bần đạo có một việc muốn yêu cầu với Viên ngoại!

Vương viên ngoại vội nói :

- Đạo trưởng cần việc chi cứ dạy bảo! Ơn Đạo trưởng cứu tử cho tiểu nhi thật lớn bằng trời bể.

Thanh Hư đạo nhân mỉm cười nói :

- Bần đạo là kẻ xuất gia đầu Phật, không cần tới kim ngân châu báu.

Vương viên ngoại lại nói :

- Hay Đạo trưởng cần tu bổ lại ngôi chùa nào chăng?

Thanh Hư đạo nhân cũng lắc đầu cả cười :

- Bần đạo là kẻ phiêu du nay đây mai đó, không ở đâu nhất định nên không xây dựng đền chùa làm gì. Duy lệnh lang cùng bần đạo chắc có duyên từ trước nên khiến bần đạo đến đây, gặp đúng lúc lệnh lang mắc nạn. Bần đạo chỉ yêu cầu viên ngoại cho bần đạo thu lệnh lang làm đồ đệ. Sau này sẽ xuất gia theo đạo.

Viên ngoại nghe xong thì bối rối vô cùng, tự nghĩ mình hiếm hoi chỉ có Tiêu Thu là trai để nối dõi tông đường, nếu theo Đạo trưởng đi tu thì lấy ai là người phụng thừa nhan khói nên băn khoăn không biết phải trả lời làm sao. Thanh Hư chân nhân hình như biết ý lại vuốt râu mỉm cười nói :

- Viên ngoại không cần lo ngại, bần đạo sẽ ở lại đây dạy dỗ lệnh lang tới tuổi trưởng thành. Mà có phải xuất gia là tới lúc trung niên kia, mà hiện nay Viên ngoại hãy còn cường tráng. Từ nay tới lúc đó lo chi không có người thừa kế.

Viên ngoại nghe xong xiết đổi vui mừng không còn thắc mắc gì nữa, bèn chấp tay lạy đạo trưởng có lòng thương như thế thì phúc lớn cho họ Vương nhiều lắm. Nói xong, gọi Tiêu Thu ra bái sư phụ, lại sai gia nhân đem quan tài ra vườn sau thiêu hóa, một mặt sai người quét tướt dọn dẹp căn phòng ở ngoài hoa viên để Thanh Hư chân nhân tĩnh dưỡng.

Chọn ngày cát nhật, Vương Tiêu Thu quần áo chỉnh tề theo Vương viên ngoại đến ra mắt Thanh Hư chân nhân để làm lễ nhập đạo. Trong trai trang phòng đã thấy đèn nến sáng choang khói hương nghi ngút, trên bàn thờ có treo một bức chân dung vẻ một đạo nhân tóc bạc phơ, hàng râu năm chòm dài xuống gần tới rốn, mày thưa mắt sáng, thiên đình cao rộng, phảng phất như một vị thần tiên có đề mấy chữ "Toàn Chân tổ sư Hư chân nhân".

Thanh Hư chân nhân ra đón Vương viên ngoại và dẫn Vương công tử vào làm lễ nhập môn. Sau vài câu đàm đạo, Vương viên ngoại cáo biệt Chân nhân để Vương công tử ở lại trai phòng bước ra ngoài. Chân nhân gọi Tiêu Thu tới tĩnh tọa trước trai đàn rồi nói :

- Đồ đệ! Từ nay trở đi con là môn đồ của giáo phái Toàn Chân, dần dần thầy sẽ cho con biết nguồn gốc của giáo tông, để thầy đặt cho con pháp danh. Con vì chết sống lại ta đặt cho con là Trùng Dương. Ngoài ra, con còn có duyên ăn được trùng sâm nên đỡ được hàng hai ba chục năm tu luyện nên thầy cũng mừng cho con. Con may mắn ăn được trùng sâm đủ sức để luyện môn Nhất Dương chỉ công. Bây giờ ta chỉ hóa cho con cách vận khí Đan điền, thu hút âm dương nhị khí để biến thành Thiên Nhân hợp nhất.

Vương Trùng Dương chỉ biết vâng vâng dạ dạ tuân theo.

Thanh Hư chân nhân bắt Vương Trùng Dương ngồi tham thiền nhập định.

Ngồi được một lát, Trùng Dương nghe tiếng chim kêu hót ở ngoài hoa viên thì tự nghĩ :

- Chà! Giờ này mà ở ngoài đó, ta sẽ bắt mấy tên gia nhân leo lên lấy tổ chim và nhốt mấy con chim này vào lòng thì hay biết bao.

Vừa nghĩ tới đó bỗng thấy Thanh Hư chân nhân quày tay sang dùng ngón tay điểm vào huyệt sau gáy. Vương Trùng Dương thấy người tê buốt như điện giật toàn thân, bủn rủn thì kêu lên một tiếng :

- Chao ôi!

Thanh Hư chân nhân nghiêm nghị nhìn Trùng Dương rồi nói :

- Con đã là người tu đạo sao lại còn nghĩ đến điều quấy, chim muông cầm thú cũng là do trời đất sinh ra, không được giam cầm hay sát hại.

Trùng Dương giật mình kinh ngạc, không dè mình mới chỉ nghĩ như vậy mà sư phụ đã biết rồi, vội vàng chắp tay nói :

- Xin sư phụ tha tội, đệ tử không dám nghĩ quấy nữa.

Thanh Hư chân nhân gật đầu đưa tay giải huyệt. Trùng Dương lại ngồi nghiêm chỉnh nhập định. Được gần một khắc, Trùng Dương ngửi thấy được mùi thơm ngào ngạt của thứ hoa Trương Quế bay tới thì trong lòng vui thích tự nghĩ :

- Chắc là hoa mới nở, nay ta ra hoa viên hái ít bông đem về cắm vào bình thì còn gì thích hơn.

Vừa nghĩ tới đó bỗng thấy người tê buốt như kim châm, Trùng Dương hoảng sợ mở mắt ra nhìn. Chân nhân lại nghiêm khắc nhìn Trùng Dương nói :

- Đồ đệ ngươi lại muốn đi hái hoa cắm vào bình phải không?

Trùng Dương càng kinh sợ trả lời :

- Tại sao sư phụ lại biết được?

Thanh Hư chân nhân lại nói :

- Từ nay những ý nghĩ thầm kín của ngươi ta có thể biết được. Những bông hoa đều là hưởng thụ khí thiêng của trời đất, tuy có nở rồi cũng có tàn, nhưng nếu ngươi hái đi thì hoa kia càng sớm tàn úa, trái với lẽ thiên nhiên của tạo hóa, mắc vào vòng nghiệp chướng sao thoát khỏi sa vào địa ngục. Kẻ tu hành không nên nghĩ điều quấy, con nên tĩnh tâm bỏ hết tà niệm thì mới có thể thành chánh quả.

Tuổi còn thơ ấu, Trùng Dương đâu có hiểu hết những lời lẽ cao siêu đó, nhưng những lúc vừa nghĩ tới điều quấy đều bị Thanh Hư chân nhân điểm vào yếu huyệt đau đớn quá chừng thì sợ hãi, cố gắng không dám nghĩ đến điều gì nữa.

Tâm hồn phiêu phiêu, mơ mơ màng màng, phút chốc hoàng hôn đã ngã bóng.

Trùng Dương thấy trong người mệt mỏi, toan mở miệng nói thì Thanh Hư chân nhân như đã biết rồi, quay sang vỗ nhẹ vào vai Trùng Dương. Trùng Dương thiếp đi không biết gì nữa.

Sáng sớm hôm sau, Trùng Dương vừa giật mình thức tĩnh, nhìn sang bên cạnh, thấy Chân nhân hai mắt nhắm nghiền ngồi tĩnh tọa, nửa mặt dường như có đám mây đen bao bọc lại có tiếng vo vo như bầy ong vỡ tổ. Vương Trùng Dương hết sức kinh ngạc, định thần nhìn kỹ thì ra đó là một đám muỗi đen kịt bay chung quanh Thanh Hư đạo nhân, lại thấy ở mũi đạo nhân thở ra hai luồng khí trắng bay lượn chung quanh. Đàn muỗi hình như bị hai làn khói trắng bao bọc không bay được ra ngoài.

Trùng Dương thảng thốt kêu to :

- Sư phụ! Sư phụ! Sao lạ quá vậy?

Thanh Hư đạo nhân bỗng thở dài, hai luồng khí trắng tắt ngấm. Tất cả đám muỗi đều sa xuống chân cạnh đạo nhân dày đến hai tấc. Thanh Hư đạo nhân mở choàng mắt ra chẳng nói chẳng rằng, đứng lên lấy một đãy vải dùng phất trần quét hết đống muỗi vào trong đãy rồi mới quay lại nói với Trùng Dương :

- Đây là một tuyệt kỹ công phu của Toàn Chân phái. Không chỉ để sát hại giống muỗi này mà còn có thể hạ sát địch thủ được.

Trùng Dương lè lưỡi nói :

- Như vậy thì đệ tử có lẽ phải học tới trăm năm mới có thể thi thố được.

Thanh Hư đạo nhân nói :

- Trên đời người ít ai sống được trăm tuổi thì đâu phải học tới trăm năm. Muốn có bản lĩnh như ta đâu có phải khó, ngươi cứ bình tâm tập luyện theo lời ta chỉ bảo thì sau này sẽ rõ.

Trùng Dương nghe theo lời thầy dạy an định tâm thần, tĩnh tâm luyện tập.

Thấm thoát đã được nửa năm, công phu vận khí Đan điền của Trùng Dương tiến bộ trông thấy. Thanh Hư đạo nhân mừng rỡ vô cùng, vì với một người căn bản tầm thường luyện tới mười năm chưa chắc đã theo kịp. Được một năm, Trùng Dương đang vận khí Đan điền, bỗng thấy như chân hỏa bốc lên khỏi cung nê hoàn chạy vòng ra sau lưng, chạy tới đâu biết đến đó thì cả kinh vội thưa lại cho sư phụ rõ.

Thanh Hư chân nhân kinh ngạc mừng rỡ vô cùng, không dè nhờ ăn được trùng sâm nên Vương Trùng Dương luyện tập quá ư tấn tới vượt bực, thật là thế gian hi hữu. Lại càng hết sức điểm hóa cho Trùng Dương.

Quang âm thấm thoát như vó ngựa qua cửa sổ, chẳng mấy chốc đã mười năm. Vương Trùng Dương nay đã thành một thanh niên cường tráng, tướng mạo đẹp đẽ khác hẳn thời thơ ấu. Một ngày kia, đạo nhân nói với Trùng Dương :

- Đến nay về nội lực của con đã khá cao siêu, nhưng về võ công của Toàn Chân giáo từ hai đời trước tổ sư ta có ghi chép lại để trên núi Trùng Sơn thuộc tỉnh Triết Giang huyện Phong Viên. Để ta đi chép lại mang về đây cho con tập luyện.

Cũng đã mười năm rồi, ta cũng muốn đi vân du một chuyến nhân thể thăm bạn bè.

Ba năm nữa ta sẽ trở lại, con cứ theo phương pháp của ta mà tập luyện không được xao lảng.

Vương Trùng Dương lưu luyến chẳng muốn rời nên muốn xin theo sư phụ để vân du các nơi. Thanh Hư đạo nhân gạt đi và nói :

- Công phu của con hãy chưa đến nơi tuyệt kỹ, con không thể bỏ lỡ một chút thì giờ. Con cứ yên tâm tập luyện, khi nào đến đúng thời giờ thì ta sẽ cho con đi.

Vương viên ngoại nghe tin đạo nhân muốn rời trang trại đi vân du nơi khác, biết giữ không được nên thu xếp hành trang cùng lương khô đem dâng cho Thanh Hư đạo nhân. Lúc chia tay, Vương Trùng Dương xiết bao quyến luyến, ngập ngừng chẳng muốn rời tay, Thanh Hư đạo nhân mỉm cười khoát tay từ biệt hẹn ngày tái ngộ. Lúc đó Vương viên ngoại lại sinh thêm được hai trai tên là Vương Tiêu Minh và Vương Tiêu Lương, lại lấy thêm một người thiếp thứ chín họ Từ tên là Vân Thôi, dung nhan đẹp đẽ, viên ngoại yêu quí hết lòng đã được hai năm.

Một ngày kia có một người thanh niên tới nới tự xưng là họ Từ tên Anh, bào đệ của Từ Vân Thôi từ quê nhà tới thăm ra mắt viên ngoại.

Vương viên ngoại thấy Từ Anh là người nói năng lanh lẹ, lại biết chữ nghĩa, nhân dịp trong trại thiếu một người trông nom sổ sách, mà Từ Anh lại chưa lập gia đình nên lưu giữ Từ Anh để trông nom nhà cửa.

Từ Anh vui vẻ nhận lời. Mới làm được một tháng trời, khắp huyện Trần Lưu ai ai cũng biết và quen gọi là Từ nhị gia.

Vương Trùng Dương thấy Từ Anh có vẻ giảo quyệt nên không lấy làm ưa lắm, nhưng vì không để ý đến việc đời nên cũng chẳng nói ra làm chi, hàng ngày ở trong trai phòng tĩnh tâm tu luyện.

Từ Anh tới Vương gia trại được sáu tháng thì Từ Vân Thôi báo tin cho Vương viên ngoại biết là nàng mang thai.

Viên ngoại xiết bao vui mừng bèn cho gia nhân soạn một căn nhà ở ngoài hoa viên để cho Từ Vân Thôi tới an dưỡng, tránh sự huyên náo ồn ào.

Căn phòng của Từ Vân Thôi chỉ cách trai phòng của Vương Trùng Dương chừng một lần tên bắn, ngăn cách bởi một bức tường cao và một vườn hoa nhỏ.

Một buổi tối kia Vương Trùng Dương đang tham thiền nhập định, bỗng nghe những tiếng thì thào như ở bên tai. Vương Trùng Dương lắng tai nghe, từ ngày tập luyện môn tĩnh tọa của Toàn Chân giáo, tai mắt của Vương Trùng Dương thật là tinh tường, nếu chú ý thì có thể nghe được tiếng muỗi bay ở cách xa mười trượng, nên tiếng nói thì thào ở bên kia hoa viên đã lọt vào tai của Vương Trùng Dương.

Vương Trùng Dương không dằn được tính tò mò vùng đứng lên đi ra ngoài hoa viên, đi đến bên bức tường ngăn cách căn phòng của Từ Vân Thôi thì Vương Trùng Dương nghe rõ thấy tiếng đàn ông nói nhỏ :

- Thôi muội thử nghĩ xem mưu kế của ta có hay không, nhiều lắm là ba tháng nữa lão quỷ họ Vương sẽ không còn ở trên thế gian này.

Vương Trùng Dương giật mình kinh ngạc vì rõ đó là tiếng của Từ Anh. Muốn biết rõ sự thật Trùng Dương quyết qua phòng của Từ Vân Thôi xem cho tường hư thực.

Ngăn cách hoa viên bởi bức tường cao hơn năm thước, Vương Trùng Dương giơ tay nhảy lên bám vào tường để leo sang bên kia. Không dè vừa nhún mình nhảy lên, thân hình của Trùng Dương bỗng bay lên như một con chim hết sức nhẹ nhàng.

Vương Trùng Dương hết sức kinh ngạc, bèn buông mình rơi xuống đất, tuyệt nhiên không nghe một tiếng động. Lúc đó Trùng Dương mới biết khinh công mình đã thập phần tinh diệu.

Trùng Dương rón rét đi đến bên phòng của Từ Vân Thôi nhìn qua khe cửa sổ, thốt nhiên Vương Trùng Dương đỏ mặt.

Ở trong phòng, trên chiếc giường nệm ấm, tấm màn che nửa buông, nửa vắt.

Từ Vân Thôi đầu tóc bù rối, áo chẳng cài khuy để nửa thân mình lồ lộ, dưới ánh bạch lạp, nửa tỏ nửa mờ, nước da trắng muốt như trứng gà bóc, đôi nhủ hoa no tròn căng đầy nhựa sống theo hơi thở phập phồng nhô lên nhô xuống như hai hòn bồng đảo, với khuôn mặt trái xoan, đôi mày lá liễu, dung mạo của Từ Vân Thôi đẹp như một bức tranh tố nữ. Còn người đàn ông kia chẳng ai xa lạ chính là Từ Anh đang ôm ấp nâng niu. Lại nghe Từ Anh nói :

- Nếu ta không hạ độc thủ giết chết lão quỷ già đó đi, chỉ đi lại lén lút với nhau như thế này thế nào cũng có ngày bị bại lộ. Gần nửa năm nay đã giữ sổ sách cũng đã bớt được một số tiền gần ba ngàn lạng, ta thừa dịp này mang nhau đi nơi khác kết làm vợ chồng còn hơn là Thôi muội cứ phải ôm ấp cái lão già khụ đó sao.

Từ Vân Thôi véo mạnh vào người Từ Anh rồi nói :

- Thôi thôi thiếp chẳng muốn nghe gì cả, chàng không thấy lão già đó chiều chuộng thiếp hết sức hay sao. Những nữ trang lão ta sắm cho thiếp còn hơn số bạc của chàng rất nhiều. Để thủng thẳng rồi sao hãy tính!

Từ Anh lại nói khẽ :

- Này! Ta nói thật cho muội biết: ta có một số anh em kết nghĩa tụ hợp ở Lão Qua Sơn trại. Đàm trại chủ ngoại hiệu là Ngọc Diện Na Tra chuyên giết người cướp của, ta đã hẹn với chúng vào nửa đêm ngày rằm tới đây ta sẽ làm nội ứng cho chúng đến đây cướp phá trang trại, thế nào cũng chia được vài chục vạn lạng vàng. Lúc đó chúng ta sẽ cao chạy xa bay xây dựng hạnh phúc lâu dài chẳng thú hơn sao.

Từ Vân Thôi nghe qua cả kinh, nét mặt biến sắc nói :

- Chàng lại có thể nhẫn tâm đến thế hay sao?

Từ Anh lại nói :

- Thôi thôi việc đâu còn có đó để ta lo liệu, xuân tiêu một khắc ngàn vàng.

Lúc này ta cứ hưởng thụ đã.

Vừa nói Từ Anh vừa kéo chiếc màn xuống, thổi tắt ngọn bạch lạp, chỉ có tiếng cười rúc rít của hai tên giang phu dâm phụ.

Vương Trùng Dương thấy tình hình như vậy vừa xấu hổ vừa tức giận ra khỏi hoa viên nhảy qua tường vào phòng ngồi suy nghĩ. Không biết là mình phải báo quan biết hay là thuật lại cho viên ngoại nghe, lòng phân vân không quyết, càng nghĩ càng giận giơ tay đập xuống bàn một cái, bỗng nghe đánh bốp một tiếng, cái bàn làm bằng gỗ Đào hoa đã in hẳn năm vết ngón tay của Vương Trùng Dương sâu xuống như một đóa hoa mai.

Vương Trùng Dương hết sức kinh ngạc, không ngờ nội công của mình cao siêu đến thế. Mười năm trời tập luyện, chẳng bao giờ chàng nghe sư phụ nói đến và cũng chẳng cho Vương Trùng Dương thử sức nên chàng cũng chẳng hiểu ra sao như người mơ ngủ. Muốn biết rõ hơn, Vương Trùng Dương bèn ra hoa viên để thử sức.

Thấy ngọn giả sơn cao bằng đầu người đặt ở giữa hoa viên, Vương Trùng Dương vận động nội công đá nhẹ một cái, chỉ nghe "bùng" một tiếng, hòn giả sơn tan ra làm nhiều mảnh, bụi bay mù mịt.

Trùng Dương mắt thấy những sự lạ ngoài sức tưởng tượng, còn đang ngẩn người ra mà suy nghĩ, lại nghe thấy tiếng nói của đôi gian phu dâm phụ khiến cho Trùng Dương đột nhiên nổi giận, tự nghĩ sau cuộc mây mưa tên Từ Anh thế nào cũng trở về an nghỉ, chi bằng ta ở đây thưởng cho nó một quyền để diệt trừ quân tàn ác bất lương đó đi.

Mới nghĩ đến đây Vương Trùng Dương đã thấy trong lòng hồi hộp lo sợ, vì bẩm chất chỉ là một kẻ thư sinh. Ngay từ hồi nhỏ đã được sư phụ dạy bảo không hề nghĩ đến sự giới sát, chỉ mới nghỉ như thế mà trong lòng đã ăn năn hối hận.

Nhưng Vương Trùng Dương lại tự nghĩ: "Nếu ta không giết quân súc sanh đó thì nó cũng nghĩ kế để hãm hại phụ thân ta, những tên lòng lang dạ sói đó không thể kể là người được".

Nghĩ như thế Trùng Dương tăng thêm mười phần hăng hái bèn quyết định ra tay, nhún mình nhảy qua tường sang bên hoa viên đứng đợi.

Quả nhiên một lúc sau, một bóng đen từ trong phòng Từ Vân Thôi đi ra.

Trùng Dương định thần nhìn kỹ thì đúng là Từ Anh đang bước vội vã ra cửa hoa viên, không chậm trễ, Trùng Dương vội phóng mình đuổi theo. Quá sức ngạc nhiên, Trùng Dương thấy thân thể nhẹ nhàng hình như chân không chấm đất.

Chỉ chớp mắt một cái đã tới sau lưng Từ Anh không một tiếng động. Trùng Dương giơ tay định đánh vào đầu Từ Anh, tay vừa đánh xuống chưa tới người Từ Anh thì đã thấy họ Từ ngã sấp xuống nằm im không động đậy.

Vương Trùng Dương hết sức kinh ngạc không hiểu vì sao, cúi xuống nhìn, dưới ánh trăng mờ, Từ Anh thất khiếu đều chảy máu đã trở thành cái xác không hồn. Vương Trùng Dương lấy làm kỳ quái tự nghĩ có lẽ đây là thần nhân trợ giúp giết kẻ bất lương.

Vương Trùng Dương không chút chậm trễ quay trở về trai phòng ngồi tĩnh tọa, nhưng tâm thần không được ổn định, phảng phất mơ màng đến những chuyện vừa qua càng thêm quái lạ.

Sáng hôm sau, người quét hoa viên tới gần chỗ giả sơn bỗng thấy thi thể của Từ Anh thì hoảng sợ kêu la ầm ĩ, mọi người đổ xô cả lại chẳng hiểu tại sao.

Vương viên ngoại nghe tin như sét đánh ngang tai vội vã tới xem và cho người đi báo quan cho người đến khám nghiệm. Trong nhà cửa ngõ vẫn đóng kín, không hề mất mát vật gì, toàn thân của Từ Anh lại không có một vết thương tích thì mọi người đều cho là Từ Anh nửa đêm ra hoa viên bị trúng gió độc mà chết.

Sau khi khám nghiệm, lệnh quan cho lệnh chôn cất. Thường ngày Từ Anh khéo léo che đậy, kính trên nhường dưới khiến cho ai ai cũng thương tiếc một người hiền lành mà trời đoản mệnh.

Vương viên ngoại cho gia nhân mua quan quách mai táng rất trọng thể. Như thế mọi người ai ai cũng đinh ninh là Từ Anh bị gió độc mà chết, chỉ có Trùng Dương là biết rõ chuyện ám muội nhưng cũng không dè là Toàn Chân công phu lợi hại, giết người không vết tích và chỉ có Từ Vân Thôi là đau đớn âm thầm và nghi ngờ cái chết của Từ Anh là do một tay bí mật nào ám hại.

Qua ngày sau đúng vào đêm rằm, đã quá nửa đêm, Vương Trùng Dương đang ngồi tĩnh tọa tại trai phòng, bỗng nghe một tiếng kêu thảm thiết từ đàng sau hoa viên đưa lại. Rõ ràng là tiếng của người canh gác trang trại họ Vương đã giúp việc cho Vương viên ngoại hơn hai mươi năm rồi.

Vương Trùng Dương cả kinh, khoác vội chiếc áo lên người ra khỏi trai phòng, bỗng lại nghe thấy tiếng kêu :

- Cướp! Cướp!

Tiếp theo tiếng cười ha hả, một đám người hơn hai mươi người bịt mặt, tay cầm gươm đao sáng ngời xuất hiện trên mặt tường nhảy xuống như một đàn chim, chạy thẳng tới phòng của Vương viên ngoại nghỉ.

Bọn chúng có vẻ đã thành thạo đường đi nước bước ở trong trại nên khi tới nơi, chúng chia ra: bốn tên trấn giữ cửa trước, bốn tên giữ cửa sau, còn lại sáu bảy tên chạy tới phòng ngủ của lũ gia nhân quát lớn :

- Chúng bây không được náo động, nếu tên nào kêu la một tiếng ta sẽ cho một đao đứt làm hai đoạn. Lão gia đến đây chỉ cướp tiền bạc.

Những tên gia nhân khiếp sợ không ai dám cục cựa. Bỗng ở cửa trước một cái rầm, cửa đã mở toang, liên tiếp chín tên chạy ùa vào. Người đi đầu cao lớn mặt mũi trắng trẻo tức là Lão Qua sơn trại chủ Ngọc Diện Na Tra Đàm Thiên Chân, trên tay cầm một đôi phủ sáng quắc. Theo sau là hai tên phó trại chủ, một tên mặt đen, vừa mập vừa lùn tay cầm đôi búa lớn tên là Soái Lý Đạt Âu Hải, còn người thứ hai là Thiết Diện Kim Cương Trịnh Hùng cũng sử dụng cây thiết côn, mặt đỏ như quả táo chín đi theo sau, còn lại tất cả đều bịt mặt.

Giang hồ hắc đạo đã có qui luật, những người trại chủ đều vào cửa trước không đột nhập cửa sau và không bao giờ bịt mặt. Ba người đi thẳng vào trang trại, Ngọc Diện Na Tra Đàm Thiên Chân lớn tiếng quát to :

- Vương Ỷ Khuyên ở đâu mau mau ra đây cho ta gặp mặt.

Vương Trùng Dương vừa ở trai phòng bước ra, thấy xa xa gươm đao sáng quắc bèn rảo bước tới nơi. Mới đi được bỗng một tên cướp nhảy ra vung đao lên chận lại quát to :

- Tiểu tử! Định đi đâu? Hãy quay lại kẻo mất mạng.

Vừa nói chưa dứt lời bỗng thấy Vương Trùng Dương hiện ra trước mặt không một tiếng động. Vương Trùng Dương chỉ tay vào mặt Ngọc Diện Na Tra nói :

- Bọn cường khấu biết điều hãy ra khỏi nơi đây!

Vương Trùng Dương chẳng nói chẳng rằng, giơ tay định đánh ra một quyền, tay quyền chưa tới nơi, tên cướp đã buông đao té ngửa chết không kịp la. Vương Trùng Dương nhắm thẳng bọn cướp chạy tới. Đứng ở xa, Ngọc Diện Na Tra thấy một bóng đen thoăn thoắt chạy lại thì quát lũ bộ hạ :

- Tên nào canh gác ở dưới đó sao lại cho người chạy ra?

Ngọc Diện Na Tra thấy Trùng Dương là một thiếu niên thư sinh, tay không chạy tới nói như vậy vừa ngạc nhiên vừa buồn cười, vung đôi phủ lên quay lại hỏi những tên bộ hạ :

- Tên thư sinh này đối với gia đình họ Vương như thế nào?

Một tên lâu la thưa :

- Tiểu tử này chính là con của Vương viên ngoại đó.

Ngọc Diện Na Tra cả mừng nói :

- Nếu thế thì càng hay! Bọn bây bắt trói lại cho ta.

Nguyên bọn cướp ở Lão Qua sơn trại cũng biết huyện Trần Lưu là một huyện lớn quân sĩ rất đông, nếu công khai đến cướp thì sẽ gặp sự cản trở của quân binh, được Từ Anh ước nguyện làm nội ứng nên bọn cướp âm thầm xâm nhập vào trong huyện.

Khi tới nơi nghe tin Từ Anh trúng gió chết rồi, đã xuất quân không lẽ quay về, cực chẳng đã bọn cướp phải công khai cướp trang trại, ý chỉ muốn cướp ít tài vật rồi sẽ rút lui.

Nay thấy Vương Trùng Dương là con viên ngoại là một gã thư sinh thiếu niên, định bắt lấy đem về sơn trại cho chuộc lấy mười vạn lạng bạc cũng đủ lắm, nên hô quân bất trói.

Hai tên thủ hạ nghe lệnh hăm hở vác dao chạy ra. Vương Trùng Dương giơ tay ra ngăn lại, chỉ nghe hai tiếng "binh, binh", hai tên lâu la không kịp kêu lên một tiếng, hai thân hình như hai trái cầu tung bắn ra xa mấy thước, hộc máu chết tươi. Ngọc Diện Na Tra giật mình kinh ngạc, không ngờ một tên thư sinh mà võ nghệ lại cao cường như thế liền quát lên :

- Súc sinh không được làm dữ!

Nói xong vung đôi phủ nhằm Vương Trùng Dương chém tới. Vương Trùng Dương mười năm chỉ ngồi tĩnh tọa luyện tập nội, ngoại công phu của Toàn Chân phái, chưa hề luyện đến võ công cũng như chưa từng giao đấu cùng ai bao giờ, nay thấy đôi phủ của Ngọc Diện Na Tra loang loáng chém tới thì giật mình cả sợ, quay lưng định bỏ chạy.

Nhưng không kịp, đôi phủ đánh trúng vào lưng chỉ thấy "soạt" một tiếng, cả một mảnh áo sau lưng rách toan. Đôi phủ trúng vào lưng Trùng Dương bật ngược trở lại.

Kinh ngạc hết sức, Ngọc Diện Na Tra lại vung đôi phủ lên thành thế "Lực Bích Hoa Sơn" nhằm mặt Vương Trùng Dương bổ tới.

Vương Trùng Dương lúng túng không biết chống đỡ cách nào thì đôi phủ đã trúng mặt. Mọi người đều rùng mình kinh hãi, vì đôi phủ đó trúng vào đá cũng phải tan, sức mạnh kể cũng có ngàn cân lượng.

Nhưng lạ thay, đôi phủ lại cũng bị bật văng trở lại như bị một sức mạnh vô hình cản trở, chính Vương Trùng Dương cũng không biết vì cớ gì. Ngọc Diện Na Tra tức giận quát to lên một tiếng, vung búa chém luôn bảy tám nhát vào người Vương Trùng Dương, nhát nào cũng trúng người, nhưng chỉ thấy quần áo Vương Trùng Dương tan nát như bươm bướm mà người vẫn chẳng hề hấn gì. Hai tay của Ngọc Diện Na Tra tê buốt.

Đàm Thiên Chân cả sợ tự nghĩ :

- Lạ thật! Tên thư sinh này mới giơ tay đã làm chết người, nội ngoại công phu quá ư lợi hại. Ta chém trúng nó mười mấy búa, người thường đã bị nát như tương vậy mà nó vẫn không hề hấn gì, cũng không thấy nó chống đỡ. Thật là kỳ lạ.

Trên bước giang hồ, Đàm Thiên Chân chưa hề thấy một sự việc lạ lùng như thế, vừa tức vừa sợ, quay lại gọi hai tên phó trại chủ :

- Âu nhị đệ, Trình tam đệ! Hãy tới cả đây, thử xem ta thử tấn công một lượt xem sao.

Soái Lý Đạt Âu Hải, Thiết Diện Kim Cương Trình Hùng, một người múa đôi búa, một người vung thiết côn cùng nhắm Vương Trùng Dương đánh tới.

Vương Trùng Dương thấy cả ba người cùng xông tới liền quay mình bỏ chạy.

Đàm Thiên Chân quát lớn :

- Tiểu tử! Mi định chạy đi đâu?

Vừa quát, Đàm Thiên Chân vừa vung búa đuổi theo. Chỉ thoáng một cái, Vương Trùng Dương đã chạy cách xa tới ba bốn chục bộ, bỗng có hai tên cướp trong bóng tối vung búa ra chận đường.

Không kịp suy nghĩ, Vương Trùng Dương giơ tay lên đánh một cái, chỉ nghe thấy tiếng "bốp" một cái, hai tên lâu la bắn tung ra xa đến bảy tám thước, đầu óc vỡ tan, trông thật ghê sợ.

Vương công tử mắt thấy hai tên lâu la bị mình đánh có một quyền mà chết một cách thảm khốc như thế thì như người chợt tỉnh nghĩ :

- Chắc đây là công phu của Toàn Chân phái, hay ta thử đối đầu bọn chúng xem sao?

Nghĩ đến đây, Vương Trùng Dương không chạy nữa dừng chân đứng đợi bọn cướp.

Ngọc Diện Na Tra vừa đuổi tới nơi quát to lên một tiếng dùng thế "Thiên Vương Thác Tháp" nhằm đầu Vương Trùng Dương bổ xuống.

Vương Trùng Dương không đỡ, nhắm Ngọc Diện Na Tra đánh ra một quyền, một luồng gió mạnh bay ra, Ngọc Diện Na Tra thất kinh vội ngã người ra sau lăn sát xuống đất tránh, nhưng vẫn bị luồng gió nóng như lửa tạt vào hai vai và lưng rát như bị phỏng.

Không còn hồn vía, Ngọc Diện Na Tra dùng phép "Cá Chép Vượt Đăng" quật chân xuống đất tung mình đứng dậy.

Soái Lý Đạt Âu Hải không biết lợi hại vung đôi búa nhắm thẳng Vương Trùng Dương đánh tới.

Vương Trùng Dương lập tức vung tay nhằm vai Âu Hải tống ra một quyền, Âu Hải vội nghiêng mình định tránh nhưng không kịp, chỉ nghe thấy "bốp" một tiếng, cả một miếng thịt lớn ở bả vai bay rớt ra ngoài cổng trang, xương trơ ra gãy vụn.

Âu Hải chỉ kêu lên một tiếng, ngã xuống đất giãy đành đạch như con cá lóc bị đập đầu nằm im không cựa quậy.

Thiết Diện Kim Cương cả sợ, nhảy vội sang bên trái Vương Trùng Dương dùng thanh côn sắt thành thế "Ô Long Chiêm Địa" tận lực bình sanh quất mạnh côn sắt vào hai chân Vương Trùng Dương.

Trình Hùng đinh ninh với thế võ này, Trùng Dương không thể nào tránh khỏi.

Không ngờ, Trùng Dương hơi cúi xuống, một tay đỡ ngọn thiết côn, cây con sắt đánh trúng tay Vương Trùng Dương bật trở lại, cong veo như chiếc cung, tay kia Trùng Dương nhắm thẳng mặt của Thiết Diện Kim Cương đánh ra một chưởng, chỉ nghe bốp một tiếng, mặt Thiết Diện Kim Cương vỡ làm mấy mảnh, óc phọt ra tung tóe ngã ngửa ra sau. Vương Trùng Dương đá bồi thêm một cái nữa, xác Trình Hùng bật văng ra xa như một quả cầu.

Khi ấy, Ngọc Diện Na Tra móc trong bọc ra ba cái Trúc Diệp Phiêu nhắm thẳng Vương Trùng Dương phóng tới.

Tài nghệ phóng phi tiêu của Đàm trại chủ thật là kỳ tuyệt, một ngọn nhắm vào mặt, một ngọn nhằm vào ngực, một ngọn vào bụng phóng tới như ba lằn điện xẹt, ba ngọn phiêu ném trúng Trùng Dương nhưng đều rơi xuống đất.

Bọn lâu la bên ngoài nhất tề reo lên một tiếng, kẻ gươm người giáo ào vô một lượt nhắm Vương Trùng Dương chém tới tấp.

Vương công tử chẳng chút sợ hãi, tay trái đánh ra một quyền, tay phải phóng ra một chưởng, đứa thì vỡ đầu, đứa thì gãy tay nằm dồn thành đống la liệt khắp nơi.

Ngọc Diện Na Tra lại rút luôn sáu ngọn Trúc Diệp Phiêu nhắm người Vương Trùng Dương phóng tới. Những ngọn phiêu phóng tới người Vương Trùng Dương đều lả tả rơi xuống đất như những chiếc lá rụng.

Lúc đó quân tuần canh đi ngang qua, biết trong nhà Vương viên ngoại có cướp, đốt đuốc sáng chưng kéo vào tiếp ứng.

Ngọc Diện Na Tra Đàm Thiên Chân thấy tình hình như vậy biết việc không xong bèn hô bọn lâu la tìm đường tháo chạy. Ngọc Diện Na Tra cúi xuống ôm xốc Soái Lý Đạt lên vai chạy ra khỏi trang trại.

Bọn lâu la những kẻ còn sống hay bị thương nhẹ lũ lượt chạy theo. Quân tuần phòng vào đến trang trại thì bọn cướp đã tháo chạy tất cả, để lại trên mặt đất một số tử thi nằm la liệt.

Vương Trùng Dương không ngờ mình tay không đánh đuổi được bọn cướp thì lấy làm vui thích cười lên một tiếng.

Mọi người kinh ngạc vô cùng; không ngờ một người văn nhân nhược chất, tướng mạo thư sinh như Vương công tử tay không một lúc đánh chết hơn mười tên cướp.

Những tử thi còn nằm la liệt trên mặt đất mà mọi người vẫn còn bán tín bán nghi.

Nhưng những tên gia nhân trông thấy rõ ràng kể lại cho mọi người nghe. Lúc đó ai cũng khiếp sợ lắc đầu le lưỡi và thán phục Vương Trùng Dương vô cùng.

Vương viên ngoại nghe thấy bọn cướp đã đi khỏi và quân lính tuần phòng đã tới mới dám mở cửa bước ra.

Mọi người cười nói ồn ào thuật lại chiến công của Vương công tử cho viên ngoại nghe. Bọn gia nhân và quân lính thu dọn những tử thi và khí giới của bọn cướp vất ngổn ngang trên mặt đất.

Người thiếp thứ chín của Vương viên ngoại lúc đó mới nghi quyết là Vương Trùng Dương biết rõ việc mình và Từ Anh tư thông và cái chết của Từ Anh là do Vương công tử hạ sát.

Càng nghĩ càng xấu hổ và sợ hãi nên dùng giải lụa đào treo cổ lên sà nhà tự tử.

Uổng thay cho một kiếp hồng nhan và cũng đáng đời cho một con dâm phụ!

Ngày hôm sau, huyện quan cho mời Vương công tử lên để lấy khẩu cung và còn làm tờ bẩm lên Thượng Ty đầu đuôi tự sự.

Huyện quan còn hết lời khen ngợi bản lĩnh cao cường của Vương công tử.

Vương Trùng Dương từ ngày tay không đánh chết bọn cướp tiếng tăm vang dội khắp huyện Trần Lưu và các nơi phụ cận.

Các giới võ lâm và các thanh niên yêu chuộng võ nghệ tới tấp đến nơi xin vào yết kiến. Vương Trùng Dương tính thích yên tịnh, không quen giao thiệp nên dặn gia nhân từ chối, nói rằng Vương công tử về quê ngoại vắng mặt không tiếp một ai.

Đến lúc đó Vương Trùng Dương mới biết sự lợi hại của môn phái Toàn Chân.

Hơn mười năm tĩnh tọa, luyện tập nội ngoại công phu khiến cho da thịt vừa mềm vừa cứng, có thể chống lại với gươm đao sắc bén, chỉ dùng sức gió mà đánh chết được người, đá tan được hòn giả sơn.

Thật ra, Trùng Dương cũng không biết rằng vì tình cờ ăn được Trùng Sâm, chết đi ba ngày rồi lại sống lại, làm cho trọc khí trong người đã bài tiết ra ngoài, hỗn hợp được Thiên Nhân lưỡng khí hợp nhất. Bởi vậy chỉ luyện tập chút ít công phu mà kết quả gia tăng gấp bội.

Một tháng sau, vào một buổi trăng thanh gió mát, Vương Trùng Dương ra hoa viên dạo xem phong cảnh.

Ánh trăng vằng vặc xuyên qua kẽ lá in xuống đất như những đám sao sa.

Một cơn gió thoảng qua đưa mùi thơm ngào ngạt của muôn hoa mới nở khiến cho trong người nhẹ nhàng thơi thới, bỗng Vương Trùng Dương giật mình vì thoáng thấy một bóng đen xuất hiện cách chừng năm thước không một tiếng động nào.

Trùng Dương cả sợ, định thần nhìn kỹ thì ra là Thanh Hư chân nhân không biết từ đâu mới đến.

Vương Trùng Dương cả mừng, tiến đến trước mặt vòng hai tay làm lễ rồi nói :

- Không biết sư phụ giáng lâm nên đệ tử không ra nghênh tiếp.

Thanh Hư chân nhân cười nhạt một cái lạnh lùng rồi nói :

- Ngươi hãy theo ta vào trai phòng, ta có chuyện cần nói.

Thấy nét mặt sư phụ không vui, Vương Trùng Dương trong lòng lo sợ không biết có chuyện gì, ríu ríu theo sau theo Thanh Hư chân nhân trở lại trai phòng.

Vào đến nơi, Thanh Hư chân nhân ngồi trên cái đôn, nghiêm sắc mặt hỏi Vương Trùng Dương :

- Ta nghe đồn cách đây một tháng con đã đánh chết mười bốn tên cướp, việc đó có hay không?

Vương Trùng Dương liền đáp :

- Thưa sư phụ đúng thế! Con không hiểu sao hôm đó con lại hùng dũng đến như thế. Con đã đả thương ba tên trại chủ và mười bốn tên cướp.

Thanh Hư chân nhân biến sắc quát lớn :

- Tiểu tử! Thật là uổng công ta dạy bảo. Có phải ta truyền dạy công phu Toàn Chân cho ngươi tàn hại sinh linh đâu. Bởi thế cho nên ta không bao giờ nói cho mi biết là mi có bản lãnh là muốn tránh những cuộc đấu tranh sát phạt xưa nay của những phái trong võ lâm tiêu diệt lẫn nhau là để tranh giành ngôi vị, tự ái hảo huyền.

- Như mi mới có một chút công phu luyện tập mà một lúc đánh chết mười bốn người, nếu ngươi có thêm một chút công phu nữa thì khi tức giận mi có thể hạ sát tới một trăm bốn mươi người có phải chăng?

Từ ngày theo thầy học đạo, Vương Trùng Dương chưa bao giờ thấy sư phụ tức giận như vậy nên cả sợ vội vàng quỳ xuống đất tạ tội và thưa rằng :

- Kính thưa sư phụ! Vì sự việc xảy ra bất ngờ, đệ tử chỉ muốn tự vệ không dè lỡ tay đánh chết người xin sư phụ tha cho, từ nay đệ tử không dám tái phạm!

Thanh Hư chân nhân lại nói :

- Công phu của ngươi hiện nay so với các phái võ lâm còn kém xa, nếu hôm trước đây gặp một tay cao thủ, thì ngươi không chết cũng trở thành tàn phế. Theo ngươi hãy lập tức đi theo ta.

Vương Trùng Dương cả sợ hỏi :

- Sư phụ đưa đệ tử đi đâu? Phụ thân đệ tử tuổi nay cũng đã cao như ngọn đèn treo trước gió, đệ tử ra đi không được phụng dưỡng e trái đạo làm con.

Thanh Hư chân nhân mắng rằng :

- Xưa kia Đức Phật Tổ còn bỏ vợ, lìa con xa mùi tục lụy mới tu hành đắc đạo. Cỏi hồng trần này đây bất quá cũng chỉ mấy chục năm trời, ngươi hãy theo ta tĩnh tâm tu luyện để có thể trở thành trường sinh bất lão. Mười năm trời đăng đẳng ta khổ công điểm hóa cho ngươi là muốn ngươi trở thành giáo chủ của Toàn Chân phái. Sau này ngươi sẽ thành thiên hạ đệ nhất võ lâm, giúp đỡ nhân dân thoát khỏi sự bất công áp bức mới không hổ thẹn là một đấng trượng phu đầu đội trời chân đạp đất.

Vương Trùng Dương thốt nhiên tỉnh ngộ, cúi đầu bái tạ xin đi. Để tránh những phút biệt ly sầu thảm, Vương Trùng Dương viết lại mấy lời từ giã song thân, đại ý nói là :

- Theo thầy học đạo, khi nào thành tài sẽ trở về. Xin đừng quá thương tiếc mà hao tổn mình vàng.

Giữa lúc đêm khuya, hai thầy trò rời bỏ trang trại như hai chiếc bóng, tung mình qua bức tường cao dùng thuật khinh công lao mình vun vút đi như bay như biến, chân như không chấm đất nhắm thẳng Triết Giang đi tới.

Hai thầy trò Vương Trùng Dương ngày đêm dong ruổi không biết đã đi được bao nhiêu đường bộ.

Một đêm kia, lợi dụng đêm khuya thanh vắng, khí trời mát mẻ, hai thầy trò Vương Trùng Dương trổ tuyệt kỹ công phu dùng thuật "Ngự phong" lao mình đi như tên bắn. Trời sắp bình minh, ở phía Đông mặt trời sắp mọc, chiếu lên không trung một màu đỏ lợt như quét tan màn đêm đang bao phủ khắp mọi nơi. Đàn chim ríu rít gọi đàn hòa lẫn với tiếng lá cây xào xạc thành một bản đàn tuyệt diệu.

Hai thầy trò Vương Trùng Dương vừa đi tới một chân núi cao ngất thì trời sáng rõ. Vương Trùng Dương cất tiếng hỏi :

- Thưa sư phụ! Đây là quả núi nào vậy?

Thanh Hư chân nhân trả lời :

- Đây là Trung Ngọc Tung Sơn!

Vương Trùng Dương lại hỏi :

- Thưa sư phụ! Có phải ngày xưa Đức Đạt Ma Tổ Sư đã kiến thiết ngôi chùa Thiếu Lâm tự ở trên ngọn núi Tung Sơn này để đào tạo môn đồ phái Toàn Chân hiện nay phải không?

Thanh Hư chân nhân mỉm cười nói :

- Đồ đệ đọc ở sách nào vậy? Đạt Ma Tổ Sư là người ở Nam Triều Lưỡng Võ đến Trung Quốc vào đời Ngụy Thái Hòa niên giám, tới đây kiến thiết xây dụng Thiếu Lâm tự và tổ chức thành phái Thiếu Lâm, đối với phái Toàn Chân không có liên quan gì cả. Nguồn gốc của phái Toàn Chân là do Côn Luân phân ra, đến đời nhà Đường Trình Quan niên giám, vị Tổ sư Lý Đạo Tử thành lập Toàn Chân phái. Để tới ngọn núi Tung Sơn, đệ tử sẽ rõ.

Vương Trùng Dương không dám hỏi nữa, theo sư phụ dùng thuật đề khí tung mình như con chim lao thẳng lên ngọn núi. Vì đã được huấn luyện môn "Tọa công" của phái Toàn Chân nên toàn thân nhẹ nhàng, hai chân Vương Trùng Dương chỉ lướt trên mặt cỏ, tuyệt nhiên không phát ra một tiếng động.

Lên được tới ngọn núi và tới Thái Thất Sơn Hạ là nơi thâm sâu của ngọn Tung Sơn. Khí núi tỏa mù mịt, mây trắng bay lơ lửng trên ngọn núi như sát với chân trời. Cây cối rậm rạp um tùm, trùng trùng điệp điệp.

Từ thuở ấu thơ, Vương Trùng Dương vẫn ở nơi đô thị, đến nay mới thấy được cảnh hùng vĩ của núi rừng thì trong lòng rất vui thích, định nhỡn nhìn khắp tứ phía không thấy có một căn nhà nào.

Vương Trùng Dương tự nghĩ :

- Không biết hai thầy trò sẽ ở vào đâu?

Thanh Hư chân nhân vẫn cứ thoăn thoắt bước đi sâu mãi vào trong rừng.

Khi tới một khu rừng toàn cây Tùng Bách lâu đời, thân cây to lớn hai người ôm không xuể, cao ngất đến hơn trăm thước, cành lá rậm rạp um tùm che kín không lọt qua một chút ánh sáng nào.

Hàng trăm con chim đang đậu trên cây thấy người sợ hãi vỗ cánh bay rào rào, tiếng chim kêu ríu rít. Xa xa tiếng vượn hú từng hồi vẳng lại như phá tan cảnh tịch mịch của núi rừng.

Thanh Hư chân nhân chỉ tay và nói :

- Chúng ta ở đây để tu luyện!

Vương Trùng Dương nhìn thấy có một cây cổ thụ như có ai đẵn gãy lìa ở trên, chỉ còn một khúc dưới từ đất lên cao hai thước, trên mặt bằng phẳng nhẵn nhụi như có nhiều ngồi ở đó luôn luôn. Thanh Hư chân nhân lại nói :

- Ta ở đây tập luyện "Tọa công", đồ đệ thử nhìn xem coi có gì lạ không?

Vương Trùng Dương chú mục nhìn kỹ chung quanh, thấy ở trên mặt thân cây nhẵn bóng nhưng có một chỗ thấp sâu hơn ba tấc thì thốt nhiên hiểu rõ và tự nghĩ :

- Không dè đạo lực của sư phụ ta cao thâm đến như thế!

Nghĩ tới đó Vương Trùng Dương cất tiếng trả lời :

- Thưa sư phụ! Có phải chỗ lún sâu thế kia là do công phu của môn phái Toàn Chân tạo ra không?

Thanh Hư chân nhân gật đầu có vẻ hài lòng :

- Con thật là thông minh, cái cây này ta đã ngồi tĩnh tọa trong ba năm liền đó. Trước kia thân cây cao hơn bốn thước, ta vận nội công ngồi như thế cho đến khi thân cây sát xuống đất mới thành công mỹ mãn. Trong rừng sâu ta còn năm chỗ ngồi nữa, chỗ nào ta cũng ngồi ba năm.

Vương Trùng Dương giật mình tự nghĩ :

- Thầy ta chỉ luyện nội công trong sơn cốc này cũng đã hết mười tám năm, như vậy thì võ công của thầy ta làm sao không cao siêu được.

Nghĩ tới đây, Vương Trùng Dương lại cất tiếng hỏi Chân nhân rằng :

- Kính thưa sư phụ! Tại sao sư phụ lại phải ngồi đây tập luyện? Con thấy ở đây chim muôn nhiều quá, lúc nào cũng kêu hót vang lừng làm sao mà tĩnh tâm được?

Thanh Hư chân nhân trả lời :

- Cũng nhờ có tiếng chim hót véo von nên sự luyện tập môn Toàn Chân mới có nhiều hiệu quả. Sau này con sẽ rõ. Bây giờ con hãy thử thi thố nội công toàn lực đánh vào cây làm chỗ ngồi cho ta xem.

Vương Trùng Dương giật mình tự nghĩ :

- Trước kia ta tay không đánh bọn cướp có một phần nhờ nội công, nhưng thân người đâu phải như cây, ta đâu có thể làm được.

Ngặt vì lời thầy truyền dạy đâu dám không tuân, cực chẳng đã Vương Trùng Dương phải vận động chân khí, vận hết sức nhằm thân cây thông đánh thẳng ra một quyền, chỉ nghe một tiếng "bùng", thân cây bị lõm vào một miếng to bằng cái chậu, vỏ cây tước ra một mảng khá lớn trơ thân trắng toát, lá rụng rào rào làm cho muôn chim ở trên thân cây hoảng sợ vỗ cánh tung bay tán loạn, tiếng kêu ríu rít gây ra một cảnh huyên náo vô cùng.

Thanh Hư chân nhân cất tiếng cười ha hả :

- Ta bảo mi đánh gãy để làm thành một chỗ ngồi, chứ đâu có biểu mi làm một cái lỗ cho chim ở đâu.

Vương Trùng Dương xấu hổ đỏ mặt, chắp tay tạ tội :

- Đồ đệ công phu còn non nớt, xin sư phụ rộng thứ cho.

Thanh Hư chân nhân biến sắc quát lớn :

- Nói láo! Công ta dạy dỗ mười năm, có lẽ nào môn phái Toàn Chân hèn kém thế sao? Nếu mi biết dùng "Phách Không chưởng" hòa lẫn với "Thiên Cân chưởng" sao chẳng thành công? Phái Thiếu Lâm có môn "Bát Bộ thần bổng" uy lực cũng chỉ đến thế là cùng. Tuyệt gia nội công của mi đã khá lắm rồi, mi thử làm lại cho ta coi.

Vương Trùng Dương tự nghĩ :

- Ta bỏ quyền dùng chưởng, may ra có được chăng?

Nghĩ đoạn đứng lui ra xa thân cây 5 bộ, vận khí đơn điền, tập trung "Thiên Nhân Lưỡng Khí" hòa hợp, dùng tay trái đánh ra một chưởng.

Khiếp thay cho nội lực phi thường! Chỉ thấy một luồng nóng bỏng từ tay đánh ra, nghe "soạt" một tiếng, thân cây như có một lưỡi rìu sắt bén chém ngang, sâu vào hơn bốn tấc.

Vương Trùng Dương rút tay trái vào, tay phải đánh ra một chưởng nữa, lại một tiếng "soẹt" khô khan nổi lên, bên phải thân cây cũng bị như dao chém sâu vào một nhát.

Vương Trùng Dương thối lui thêm năm bộ, dùng luôn hai tay đánh tiếp luôn "song chưởng", một tiếng rầm dữ dội như long trời lở đất.

Cây cổ thụ lâu đời như bị sét đánh gãy ngang đổ xuống, những cành cây kêu răng rắt, lá rụng ào ào.

Vương Trùng Dương không dè chưởng lực mình ghê gớm như vậy thì ngẩn người ra mà nhìn không nói được tiếng nào. Thanh Hư chân nhân cất tiếng cười ha hả nói :

- Hay lắm! Hay lắm! Ngươi đã biết sử dụng hòa hợp Cương, Nhu. Cương thì không được lâu, mà Nhu thì không được giữ mình, lại còn có thể là gặp Cương thì tất phải gãy mà gặp Nhu thì chỉ lướt đi. Vừa rồi ngươi chỉ dùng Cương không đánh vào thân sức vì chạm mạnh mà chỉ có bễ thành từng lỗ như tổ ong, nhưng thân cây vẫn đứng vững. Nay ngươi đã biết dùng Nhu kéo khẽ, dùng Cương chém mạnh tức nhiên thân cây phải đổ. Như vậy là ngươi biết sử dụng Cương, Nhu đúng lúc, ắt phải thành công.

Được sư phụ giảng giải một hồi và tiếp theo lời khen ngợi, Vương Trùng Dương phấn khởi và sung sướng trong lòng, kính cẩn nghe lời thầy dạy bảo. Thanh Hư chân nhân lại nói :

- Tuy vậy! Về công phu tập luyện của con mới qua được bước đầu, còn phải khổ công nhiều nữa mới đến chỗ toàn mỹ.

Nói xong, Thanh Hư chân nhân chỉ cách ngồi tĩnh tọa trên cây gãy theo cách tập luyện của Toàn Chân phái, hô hấp điều hòa để nhập định, tụ họp nguyên khí ở huyệt "Tam Thai", vận khí lực lượng thân thể đưa ra, hít vào thở ra đều có phép tắc, giờ phút nhất định.

Bắt đầu từ ngày ấy, Vương Trùng Dương tĩnh tọa trên thân cây cùng sư phụ luyện tập và được sư phụ cho biết hang núi này là hang "Bách Cầm".

Ở phía Nam chân núi Thái Thất có một nơi hẻo lánh không người qua lại, cảnh vật thật là quạnh hiu.

Chỉ có tiếng gió thổi lá reo vi vút như bản nhạc bất tận, có lúc dồn dập mãnh liệt, có khi chậm rãi đều đều, hòa lẫn với hàng trăm tiếng chim kêu ríu rít, thỉnh thoảng chen vào tiếng hót cao vút của loài chim sơn ca nên cũng bớt phần tịch mịch.

Nhưng khi mặt trời đã lặn, màn đêm buông xuống, cảnh núi rừng lúc đó mới thật là âm u ghê gợn, chỉ thấy một màu đen kịt, bốn bề im lặng như tờ, lâu lâu chỉ thấy vài con vạc đi ăn đêm cất tiếng kêu rời rạc buồn tênh.

Ở trên chỗ ngồi của hai thầy trò Vương Trùng Dương, chỉ toàn là lá cây rậm rạp, chen kín vào nhau không sợ gió mưa lọt tới.

Thầy trò an tâm ngồi tập luyện võ công. Cứ cách vài ngày, Thanh Hư chân nhân lại xuống núi đến thị trấn, mua lương thực đem về.

Thanh Hư chân nhân công phu đã đến mức cao siêu có thể tịch cốc, chỉ ăn một ít trái cây trong rừng và uống chút nước lạnh. Còn Vương Trùng Dương công phu luyện tập hãy còn non kém nên phải dùng đến thức ăn như người thường.

Dần dần về sau chàng cũng bớt đi, do đó có khi hàng tháng Thanh Hư chân nhân mới đi xuống núi.

Lúc đầu Vương Trùng Dương lấy làm khó chịu với tiếng chim kêu nhưng lâu dần quen đi, nhận ra tiếng hót của giống chim cũng có lúc Cương lúc Nhu.

Những điệu bộ bay lượn và những lúc nhào mình bắt mồi cũng như khi hai con chim chọi nhau lúc ngang lúc dọc.

Có con bỗng nhiên bay vút lên cao rồi lao mình thẳng xuống như lằn tên bay nhằm con chim ưng bổ xuống đã khiến cho Vương Trùng Dương suy nhận ra nhiều môn võ công lợi hại.

- Bắt lấy nó, bắt lấy nó! Lần này quyết không cho nó chạy thoát.

Tiếng quát, tiếng chạy cách xa hàng một dặm đường mà chàng nghe rõ mồn một. Đó là kết quả của mười tám năm luyện tập. Chàng không dằn được tính tò mò, Vương Trùng Dương tra kiếm vào võ, ra khỏi cửa hang nhắm nơi phát sinh tiếng nói, dùng thuật khinh công lao mình như tên bắn.

Gần đến nơi, Vương Trùng Dương tung vút người nhảy lên ngọn cây định thần nhìn kỹ. Chưa đầy một phút, chàng nhìn thấy một thiếu niên trạc độ mười ba, mười bốn tuổi, thân hình gầy ốm xanh xao, khắp mình đầy thương tích, quần áo rách tả tơi, phóng mình chạy như bay. Đằng sau có một đám đông ước độ hơn bốn chục người miền sơn cước, cả thợ săn lẫn thợ cấy, kẻ cầm đinh ba người cầm gậy mộc, reo hò ầm ĩ, ra vẻ có ý định quyết đánh chết chàng thiếu niên đó mới thôi.

Lại có một số người vừa đuổi vừa ném gạch đá theo như mưa.

Nhưng chàng thiếu niên cũng không có vẻ gì sợ hãi, vừa tránh né những viên đá chết người đó, vừa nhặt đá ném lại. Những viên đá ném ra không viên nào trượt, thế nào cũng có một người trúng hòn đá ấy.

Bị trúng đá tuy không gây thành thương tích nhưng bọn người đuổi theo ấy càng thêm tức bực, nhảy cỡn lên tưởng chừng như sụp đất.

Chàng thiếu niên chạy tới chỗ Vương Trùng Dương còn cách xa chừng ba, vừa cúi xuống nhặt thêm đá, không dè một sợi dây thòng lọng của một người thợ săn ném vút ra. Nghệ thuật ném dây của người thợ săn thật là tinh diệu nên chàng thiếu niên ấy đã bị sợi dây quấn chặt lấy thân người.

Hoảng kinh, chàng thiếu niên chưa kịp đứng dậy thì người thợ săn đã kéo mạnh một cái, thân hình chàng lăn lông lốc như một quả cầu.

Cố hết sức giãy giụa, nhưng càng giãy bao nhiêu thì nút dây thòng lọng lại càng thêm thắt chặt bấy nhiêu. Cả bọn theo sau đều reo to lên sung sướng :

- Tiểu tử! Mi chạy đâu cho thoát.

Bỗng có hai người thợ săn cầm đinh ba chạy lại quát lớn :

- Mấy bác hãy tránh ra để tôi đâm gẫy hai chân nó cho nó hết chạy, sau đó hẳn đêm về trị tội.

Nói dứt lời hai người thợ săn nhắm thẳng ngay đùi chàng thiếu niên phóng hai mũi đinh ba tới. Hết đường chống đỡ, chàng thiếu niên thét lên một tiếng nhắm mắt chờ chết.

Vương Trùng Dương đứng ở trên cao nhìn thấy rõ ràng, nếu thiếu niên kia bị hai mũi đinh ba này đâm xuống thì không chết cũng tàn tật suốt đời. Động lòng trắc ẩn, không kịp suy tính Vương Trùng Dương quát lớn :

- Xin các ngày hãy dừng tay!

Vừa quát dứt lời, Vương Trùng Dương chao mình từ trên cao xuống nhanh như chim cắt, thành "Kình Điểu Xuyên Vân". Chân chưa chấm đất, chàng đưa tay gạt khẽ một cái, hai cây đinh ba chỉ còn cách chàng thiếu niên trong gang tấc bỗng gãy thành hai đoạn, hai người thợ săn hai tay tê chồn ngã lộn ra phía sau.

Vương Trùng Dương vội chắp tay xin lỗi :

- Xin nhị vị lượng thứ, trong lúc bất cập nên trót xúc phạm đến hai ngày.

Chẳng hay chàng thiếu niên này mắc tội chi mà đáng chịu hình phạt thảm khốc như vậy?

Bọn người đi săn không cần phân biệt phải trái quát lớn :

- Súc sinh! Mi ở nơi đâu lại mà dám che chở cho thằng chó chết này?

Nói đoạn họ không cho Vương Trùng Dương kịp nói năng câu nào, bọn chúng đã dùng đinh ba gậy gộc nhắm người chàng đánh xuống tới tấp như mưa.

Cách đây hơn chục năm trời, Vương Trùng Dương tay không đã đánh chết mười bốn tên cướp đã bị sư phụ rất nhiều ngày nên hôm nay không dám khinh suất, chỉ vận dụng nội công gồng mình lên hứng chịu.

Mấy tiếng lốp bốp nổi lên, những binh khí gậy gộc đánh vào đều bị bật văng trở lại. Kẻ nào dùng sức quá mạnh thì đinh ba bồ cào đều gẫy ra làm mấy khúc bật văng lên cao và người thì ngã lên trên mặt đất.

Mọi người hết sức kinh ngạc, nhưng bọn người dân Sơn cước này bản tính hung hăng đâu đã chịu thua. Bọn chúng ra hiệu cho nhau nhất tề xông lại quyết dùng đông người để hạ cho kỳ được Vương Trùng Dương.

Họ xông vào ào ào như nước vỡ bờ. Vương Trùng Dương giơ tay phẩy nhẹ một cái, một luồng gió mạnh thổi lên như một sức mạnh vô hình đẩy bắn bọn người Sơn cước ngã dồn thành một đống.

Bây giờ họ mới thất kinh, nhiều người sợ quá mặt mày tái mét, run rẩy, trợn tròn cả con mắt la lớn lên rằng :

- Nguy to rồi, chắc nó có yêu thuật.

Trong khi đó, thừa cơ lúc mọi người không ai để ý, cậu bé tự tháo được dây trói, nhặt lấy một cây đinh ba định nhảy xổ vào đám đông đang bị té, hành hung.

Vương Trùng Dương nhìn thấy, lấy tay vẫy lại và nói :

- Này cậu nhỏ kia, không được gây sự nữa.

Chàng thiếu niên như con hổ điên lồng lộn định chồm tới, lạ thay sau tiếng quát của Vương Trùng Dương, cậu thấy như có một sức mạnh vô hình lôi kéo cậu trở lại.

Lúc bấy giờ, Vương Trùng Dương mới chắp tay thi lễ với bọn người Sơn cước và chàng đổi nét mặt với bọn họ tươi cười nói :

- Thưa quí vị! Chẳng hay cậu bé này đã làm điều chi xúc phạm đến nỗi các ông định giết chết nó, một đứa trẻ thơ miệng còn hôi sữa?

- Tôi nhân qua đây, quả thật không có họ hàng thân thiết gì với nó nhưng sợ các ông trong lúc nóng giận ra tay đánh chết nó thì cũng tội nghiệp nên tới định khuyên giải. Không dè các ông đánh cả tôi nên tôi phải đành chống đỡ, trót làm gãy những cây đinh ba và bồ cào của các ông, tôi xin bồi hoàn lại đầy đủ.

Bọn người sơn cước chưa kịp nói gì thì cậu bé đã kêu lên :

- Thưa thiếu gia, bọn này đều là những quân gian ác. Từ khi tôi mở mắt chào đời đã bị chúng ức hiếp, đối xử rất tàn nhẫn. Xin thiếu gia giúp tôi cho chúng nó vài gậy cho bõ ghét.

Mặc dầu cậu thiếu niên nọ mình đầy những thương tích mà nó vẫn không có vẻ gì sợ hãi, đôi mắt long lanh sáng quắc, nhìn mọi người bằng cặp mắt căm hờn không có một giọt nước mắt nào cả.

Vương Trùng Dương gạt đi và nói :

- Thôi, không được nói bậy.

Bọn người sơn cước thấy chàng ăn nói lễ độ, y phục và cốt cách có vẻ một thư sinh nên họ cũng bớt hung hăng và quay ra bàn tán với nhau một hồi rồi họ cử một người lớn tuổi thay mặt ra nói với Vương Trùng Dương :

- Thưa tiên sinh, vì ngày ở xa nên không biết chuyện. Thằng Cẩu nhi này nó phá phách xóm làng, làm hại mùa màng của chúng tôi quá lắm. Nó còn sống ngày nào là chúng tôi khổ sở ngày ấy, không thể nào an cư lập nghiệp được.

Ông ta vừa nói đến đây thì thiếu niên kia có vẻ thích chí cười lên sằng sặc, vênh váo bộ mặt, chẩu mỏ nói :

- Đâu phải ta vô cớ phá phách các người. Ta nói thật, không những ta phá phách các người như vậy đâu, thế nào cũng có ngày ta sẽ đốt hết nhà của chúng mày đi thì ta mới hả giận.

Nói xong, cậu bé vung tay cái đinh ba đang cầm sẵn trên tay sấn sổ toan tiến lên đánh nhau với bọn người sơn cước. Vương Trùng Dương đưa tay ngăn lại, hỏi rõ đầu đuôi như sau :

Nguyên do thiếu niên này họ Châu, mẹ của cậu là con của một nhà nông dân nghèo ở dưới chân núi Tùng Sơn.

Tuổi còn trẻ mà đã góa chồng. Chồng chết được một năm thì nàng bỗng có thai, dân xóm sống tại đây cho bà là người hư thân mất nết, làm hại đến thuần phong mỹ tục, xấu hổ lây đến xóm làng nên nhiều người bàn nhau đánh chết bà đi.

Nhưng, có mấy vị phụ lão trong làng không cho chỉ hạ lệnh trục xuất nàng ra khỏi xóm.

Gia đình của mẹ cậu bé Châu rất thương con nhưng cho mẹ cậu là một người dâm đãng làm bại hoại gia phong nên cũng không thèm nhìn nhận.

Mẹ của cậu bé họ Châu thấy dân làng xua đuổi không cho nàng phân trần thì vừa tủi thân vừa xấu hổ, đi ra khỏi làng đến một khu rừng vắng vẻ treo cổ toan tự tử.

May có một bà tiều phu đi đốn củi ngang cứu thoát, hết sức an ủi lại đem về nhà cho ở, hết lòng cưu mang che chở. Đến ngày mãn nguyệt khai hoa, sinh ra một đứa con trai lấy họ Châu của người chồng cũ đặt cho nó.

Phần thì thiếu thốn cực nhọc, phần vì quá buồn rầu khổ sở nên chỉ mấy tháng sau mẹ cậu lâm bịnh nặng từ trần.

Trước khi nhắm mắt mới kể cho lão bà tiều phu biết rõ là bị một người họ Dạ hiếp dâm mà có thai và yêu cầu bà lão nuôi đứa bé làm phước.

Bà lão tiều phu cũng góa chồng không có con, thấy cậu bé họ Châu cũng kháu khỉnh thì vui vẻ nhận nuôi coi như con ruột. Trong xóm họ gọi cậu bé là Cẩu nhi sau dần thành quen đi.

Khi Cẩu nhi được chín tuổi, bà lão cũng từ trần. Tứ cố vô thân, Cẩu nhi ngày ngày theo người lớn vào rừng đốn củi đổi lấy cơm ăn. Những ngày mưa rét thì cậu đến những nhà ở trong xóm làm giúp hay là quét tước để kiếm cơm ăn qua ngày.

Những người trong xóm đều là những người cổ hủ, ghét mẹ cậu là ngươi lẳng lơ dâm đãng, không chịu thủ tiết thờ chồng nên ghét lây đến Cẩu nhi. Mọi người đều nhiếc mắng, chửi rủa, đối xử thật là tàn nhẫn.

Tuy còn ít tuổi, nhưng dân làng hiếp đáp, chửi bới thì Châu Cẩu Nhi đã căm tức trong lòng mà không dám nói ra. Nó tìm cách phá hoại ngầm. Nó rất lỳ không biết sợ hãi là gì cả.

Ở trong xóm không bao lâu người ta phát giác ra là lúa ruộng không biết bị con vật gì tới phá hư hỏng rất nhiều. Chia phiên canh gác thì không bắt được.

Tiếp sau đó, heo bị què, gà, vịt bị chết. Mới đầu thì họ cho là súc vật bị bệnh, nhưng sau họ thấy gà, vịt hình như bị đánh mà chết càng ngày càng nhiều.

Để ý dò la, biết chắc chắn là do tay Châu Cẩu Nhi gây chuyện thì mọi người đều tức giận, bắt trói Cẩu Nhi đánh cho một trận thật đau và đuổi ra khỏi xóm không cho ở nữa.

Châu Cẩu Nhi lại càng căm tức, đêm đêm trở về xóm phá hoại. Có lúc cậu vặt trụi cả một vườn rau cải vất la liệt trên mặt đất, có khi cắt cả một đám lúa non.

Lần này thì dân trong xóm giận lắm, quyết rình bắt cho được Châu Cẩu Nhi và quyết tâm đánh chết.

Nhưng cậu bé quái ác khi nào chịu để cho bặt được dễ dàng như vậy. Lúc nào trong xóm có đề phòng thì nó không đến, cứ nhè những ngày mưa gió rét mướt, không ai dám ra đường thì nó lại lần về phá xóm làng.

Những cái bẫy săn thú gài ở trong rừng, nó gỡ ra bẻ gãy tất cả vất la liệt trên mặt đất. Dân trong xóm tụ lại thành một đoàn kéo nhau vào trong rừng tìm kiếm Cẩu Nhi quyết cậu đi cho bõ ghét, nhưng dễ gì bắt được cậu bé tinh quái đó.

Hàng năm trời như vậy, cậu bé Châu Cẩu Nhi làm cho cả xóm phải mất ăn mất ngủ. Bẵng đi một dạo không thấy nó đâu nữa, người ta bàn tán cho rằng vì thiếu ăn thiếu mặc cho nên nó đã chết trong rừng sâu, có người cho rằng nó bị ác thú ăn thịt, nhưng dầu sao họ cũng thấy dễ chịu, ăn ngon ngủ kỹ, không phải chia nhau canh gác như xưa nữa.

Thấm thoát đã được ba năm, mọi người đã lãng quên không còn ai nhắc đến Châu Cẩu Nhi nữa thì bỗng nhiên lại thấy lúa mạ ngoài đồng lại bị phá phách ghê gớm hớn trước. Không phải thú vật làm mà rõ là do con người tạo ra, vì mạ non, rau cải bị nhổ bật cả rễ vất ngổn ngang trên mặt đất.

Người trong xóm nhốn nháo cả lên và nghi quyết Châu Cẩu Nhi chứ không còn ai vào đấy nữa. Họ bèn họp nhau lại bàn mưu kế quyết bắt cho kỳ được Châu Cẩu Nhi mới thôi. Họ chia nhau ra mai phục xung quanh ruộng suốt đêm ngày.

Vào một đêm trời tối đen, lại thêm có một trận mưa lớn, mọi người kiên nhẫn núp đợi. Trời gần sáng mà cũng chẳng thấy gì, nhiều người chán nản định trở về thì đột nhiên thấy Châu Cẩu Nhi tay cầm cái cuốc ở trên núi đi xuống. Nhìn trước nhìn sau không thấy gì lạ, cậu bé lầm lũi đi vào trong ruộng giơ cao cái cuốc lên đào. Lúc ấy mọi người mới hò reo ầm ỉ đổ xô nhau ra vây bắt. Châu Cẩu Nhi biết mắc vào bẫy của xóm làng liền vất bỏ cái cuốc cắm đầu bỏ chạy. Dân làng đâu chịu bỏ.

Họ hô nhau đuổi theo, Châu Cẩu Nhi thoăn thoắt cắm đầu chạy trốn. Khi đến gần hang Bách Cầm thì bị dây thòng lọng của bọn người săn bắt thú rừng tung dây bắt được, nếu không có Vương Trùng Dương cứu thoát ắt đã bị dân làng giết chết rồi.

Vương Trùng Dương nghe hết đầu đuôi câu chuyện bèn quay lại nhìn Châu Cẩu Nhi nói rằng :

- Nếu người ta đã không ưa mày thì mày đi nơi khác, sao lại phá phách mùa màng giết hại gia súc như thế này có khác chi phường đạo tặc.

Rồi chàng quay lại ôn tồn nói với dân làng rằng :

- Thưa liệt vị! Thằng nhỏ này vì không có người dạy bảo nên vì tức giận làm liều, nếu bây giờ liệt vị có giết nó đi thì sự cũng đã lỡ rồi. Nay tôi xin đề nghị với các ông, tôi thay mặt nó mà thường sự thiệt hại cho các ông và xin các ông tha tội cho nó. Tôi xin bảo lãnh và khuyên bảo, quyết không để cho nó đến phá hoại các ông nữa.

Nói xong Vương Trùng Dương lấy trong bọc ra một nén vàng đưa cho dân làng. Mọi người bàn tán xôn xao, sau đó người đại diện cho dân làng mới nói :

- Thiếu hiệp đã có lời bảo chúng tôi xin tuân theo. Chỉ mong sao thiếu hiệp mang thằng nhỏ này đi nơi khác để cho chúng tôi yên ổn làm ăn là đủ rồi. Chúng tôi đâu dám lãnh tiền bồi thường của thiếu hiệp.

Vương Trùng Dương tươi cười nói :

- Không sao! Xin liệt vị hãy nhận số tiền này để tu bổ lại những nơi bị phá phách. Sự thiệt hại của liệt vị do thằng bé này gây ra cũng không ít. Tôi xin góp một ít để đền bù thay cho thằng Cẩu Nhi này mà thôi.

Nói xong, chàng cứ ấn nén vàng vào trong tay người đại diện của dân làng.

Thấy từ chối không được, người đó bèn nhận nén vàng và vòng tay tạ ơn Vương Trùng Dương và nói :

- Cung kính bất như tuân mạng. Chúng tôi cứ từ chối hóa ra phụ lòng tốt của thiếu hiệp. Vậy, tôi xin nhận về để giúp đỡ những gia đình bị thiệt hại. Lúc nào thiếu hiệp có qua tệ thôn xin ghé vào chơi cho chúng tôi được thừa tiếp thì thật là hân hạnh cho chúng tôi biết mấy.

Nói xong, người đó lại chỉ tay vào mặt Châu Cẩu Nhi mắng rằng :

- Tiểu tử! Mày còn nhỏ tuổi mà đã rắn mắt phá phách gây thiệt hại cho mọi người. Phúc nhà mày lớn lắm nên mới gặp thiếu gia đây ra tay nghĩa hiệp, nếu không chắc mày sẽ không còn tính mạng.

Cẩu Nhi chẳng những đã không tỏ vẻ gì sợ hãi lại còn châu mỏ "sì" lên một cái.

Sợ lại gây ra sự phẫn nộ của mọi người, Vương Trùng Dương bèn gạt cậu bé ra đàng sau rồi quay ra vái chào mọi người nói :

- Thôi xin liệt vị đừng chấp. Vì nó còn nhỏ chưa biết gì, hãy nể mặt tôi mà tha cho nó.

Mọi người thấy Vương Trùng Dương nói năng lễ độ, lại thấy chàng đã bỏ ra một nén vàng để bồi thường thiệt hại. Dân làng nghèo khổ chưa được thấy số vàng nhiều như thế bao giờ, nên họ bảo nhau không thèm gây sự nữa và từ giã Vương Trùng Dương kéo nhau trở về làng.

Đợi cho bọn họ đi khuất, lúc đó cậu bé mới tới trước mặt Vương Trùng Dương quì xuống, cúi đầu lạy tạ và nói :

- May nhờ có thiếu hiệp ra tay giải cứu, nếu không ắt tính mạng của tôi không còn. Ân nhân thật là người tốt quá, từ nhỏ đến giờ tôi mới được gặp.

Hồi nãy tuy bị trận đòn rất đau nhưng nó không khóc, bây giờ hai hàng lệ chảy dài trên gò má nó.

Vương Trùng Dương cúi xuống kéo nó đứng lên và nói :

- Thôi! Thôi! Khỏi cần lạy lục làm gì. Mày bị người ta đánh có bị thương không?

Châu Cẩu Nhi bỗng lau ngay nước mắt nhoẻn miệng cười có vẻ thích chí lắm, nó lắc lắc cái đầu và nói :

- Họ đã đánh trúng cái nào đâu, những vết sướt và quần áo bị rách nát chẳng qua là vì lúc chạy vội vàng vướng phải gai gốc và bị vấp té ở trong rừng đấy chứ. Chẳng những thế, tôi còn chọi đá trúng mấy người hươu cả trán, nếu tôi không mãi cúi xuống nhặt đá thì khi nào họ bắt được tôi. Bọn họ đều là những người tàn ác, để đêm nay tôi lẻn về phóng hỏa đốt nhà chúng đi cho bõ ghét.

Vương Trùng Dương lắc đầu khuyên nhủ :

- Trong làng cũng có kẻ tốt người xấu, kẻ hiền người ác, chứ đâu phải ai ai cũng đều là người xấu. Mấy năm nay mày phá hoại mùa màng như vậy là quá đáng lắm, bảo sao người ta không thù ghét. Từ nay trở đi mày hãy theo ta, nghe lời ta dặn bảo không được làm những điều độc ác như thế nữa.

Châu Cẩu Nhi gật đầu tuân theo. Vương Trùng Dương liền dẫn Cẩu Nhi về hang Bách Cầm. Vừa lên đến nơi đã thấy Thanh Hư chân nhân nét mặt giận dữ, quát hỏi :

- Sao mi không chuyên cần tập luyện lại bỏ đi chơi?

Vương Trùng Dương sợ hãi, lập tức đem đầu đuôi câu chuyện kể lại cho sư phụ nghe.

Vừa lúc đó thì Châu Cẩu Nhi cũng vừa trèo lên đến nơi, nó trông thấy Thanh Hư chân nhân thì vội vàng chắp tay cúi chào ra mắt. Thanh Hư chân nhân chăm chú nhìn nó một lúc, bỗng lấy tay để lên bả vai Cẩu Nhi đẩy khẽ một cái, thằng bé ngã lăn lóc ra xa đến hơn một trượng, nhưng nó đã đứng ngay dậy, tỏ ra hết sức ngạc nhiên không biết vì lẽ gì. Vương Trùng Dương cũng giật mình kinh sợ kêu lên một tiếng.

Thanh Hư chân nhân thốt nhiên cười ha hả lên, có vẻ vui thích lắm. Cười xong mới vuốt râu và nói :

- Tốt lắm! Tốt lắm! Có thể dùng được.

Nói xong, Thanh Hư chân nhân nghiêm nét mặt nhìn Cẩu Nhi hỏi :

- Này! Mi phải nói thật cho ta biết, có phải mấy năm vừa qua mi đã ở trên núi Tùng Sơn, trong chùa "Thiếu Lâm" chuyên việc gánh nước có phải không?

Châu Cẩu Nhi trợn tròn hai con mắt, hết sức ngạc nhiên tự nghĩ :

- Có lẽ vị đạo nhân này có phép thuật hay sao mà biết rõ việc gánh nước của ta trong chùa.

Nghĩ như vậy rồi, Châu Cẩu Nhi gật đầu đáp :

- Thưa đạo nhân đúng như thế! Chẳng hay vì sao đạo nhân lại biết rõ ràng như vậy?

Thanh Hư chân nhân mỉm cười đáp :

- Ta thấy mi vừa té đã đứng dậy được ngay, thân hình và tư thế của mi đúng là môn đồ của phái "Thiếu Lâm". Chắc mấy năm trước đây mi bị dân làng lùng bắt quá không có chỗ trốn nên mới chạy đến Thiên Thất sơn nương nhờ ở "Thiếu Lâm tự". Ở đó họ bắt mi hàng ngày phải ra công gánh nước, có đúng không?

Châu Cẩu Nhi lại thêm kinh ngạc, cúi xuống lạy và đáp :

- Đạo nhân phải là một người thần tiên mới biết rõ như thế. Thật là đúng quá. Ba năm về trước, con bị dân làng lùng bắt ráo riết, nên mới chạy vào núi. Tới chùa Thiếu Lâm, phần vì đói, phần vì mệt nên con ngồi nghỉ ở trước của chùa. Lúc ấy có một vị hòa thượng đi ra bắt gặp, hỏi rõ căn nguyên rồi cho con vào ở trong bếp. Bắt đầu từ đấy con ở đó gánh nước. Hai thùng nước rất nặng, con cũng ráng hết sức chịu đựng được ba năm, đến nay vì không chịu nỗi nữa nên con mới trốn đi.

Vương Trùng Dương lúc đó mới biết rõ nguyên nhân sự vắng mặt ba năm của Châu Cẩu Nhi. Thanh Hư chân nhân lắc đầu vừa cười vừa nói :

- Đó là vì mày không biết rõ. Đôi thùng nước ở trong có để sắt nặng dần lên. Ấy là luyện tập võ công đấy.

- Như thế thì mày nay đã có căn bản rồi. Nay ta muốn thu mày làm đồ đệ, mày có bằng lòng không?

Châu Cẩu Nhi mừng rỡ vô cùng, cúi xuống vập đầu lạy tạ Thanh Hư chân nhân. Xong rồi quay sang lạy tạ Vương Trùng Dương gọi là sư huynh.

Thanh Hư chân nhân hỏi :

- Đồ đệ! Chẳng hay tên con là gì?

Châu Cẩu Nhi đáp :

- Mọi người ai ai cũng gọi con là Châu Cẩu Nhi. Xin sư phụ cứ gọi con là Cẩu Nhi là được rồi.

Thanh Hư chân nhân phì cười nói :

- Không được! Cẩu Nhi là tên một con thú vật, để ta đặt lại pháp danh cho đồ đệ.

Thanh Hư chân nhân suy nghĩ một chút rồi đáp :

- Đồ đệ không có anh em lại có duyên gặp ta, vậy từ nay ta đổi tên con lại gọi là Châu Bá Thông.

Châu Cẩu Nhi hết sức vui mừng cúi đầu lạy tạ ơn và từ đó không dùng tên Cẩu Nhi nữa.

Lúc bấy giờ họ Vương hơn ba mươi tuổi, lớn hơn Bá Thông mười sáu tuổi.

Thanh Hư chân nhân dẫn hai người về hang Bách Cầm và Vương Trùng Dương bắt đầu truyền dạy môn phái Toàn Chân.

Thời gian thấm thoát đã được ba năm. Thanh Hư chân nhân gọi Vương Trùng Dương lại và nói :

- Đồ đệ từ khi rời khỏi huyện Trần Lưu đến nay đã được mười lăm năm trời, ta cũng đã mang hết công phu của phái Toàn Chân truyền dạy cho con, lòng ta chỉ ước nguyện sau này con sẽ trở thành một cao đồ của phái Toàn Chân. Con là đồ đệ thứ nhất của ta, sau này con có bổn phận và trách nhiệm làm Giáo Chủ của phái Toàn Chân. Đến nay con xa nhà đã quá lâu. Vậy mai ta cho con trở về thăm gia đình.

Vương Trùng Dương xa nhà cũng đã khá lâu tránh sao cho khỏi tưởng nhớ tới song thân. Nhưng đã lâu ngày sống gần sư phụ và sư đệ, nay phải chia tay thì không sao tránh khỏi sự ngậm ngùi luyến tiếc.

Châu Bá Thông nghe thấy vậy thì òa lên khóc như muốn giữ Vương Trùng Dương ở lại.

Thanh Hư chân nhân nghiêm sắc mặt nói :

- Không được! Sư huynh con xa nhà đã quá lâu rồi, phải để anh con về kẻo lỗi đạo làm con. Sau khi về thăm nhà sư huynh con sẽ trở lại đây chứ có bỏ đi mất đâu mà con khóc lóc.

Đạo nhân quay lại nhìn Vương Trùng Dương :

- Con về thăm nhà, ba năm nữa con phải đến Tùng Sơn này một lần để cho ta rõ tình hình mọi việc.

Vương Trùng Dương nhất nhất vâng theo lời thầy dạy.

Sáng hôm sau, mặt trời chưa mọc, màn đêm còn bao phủ khắp nơi nơi, Trùng Dương đã thu xếp xong hành trang chuẩn bị sẵn sàng để lên đường. Thanh Hư chân nhân căn dặn đồ đệ mọi điều cần thiết.

Trùng Dương nhất nhất tuân theo, rồi lạy sụp sư phụ giã từ xuống núi nhắm thẳng huyện Trần Lưu dong ruổi, không cho Châu Bá Thông hay biết.

Vương Trùng Dương xuống tới núi liền theo con đường đi Đằng Phong để trở về huyện Trần Lưu, chàng tự nghĩ :

- Thế nào ta cũng đi ngang qua Thiếu Thất Phong, nhân thể nay ta cũng nên qua xem cho biết Thiếu Lâm tự.

Đã mấy năm qua, Trùng Dương vẫn canh cánh bên lòng là vì thấy sư phụ chàng có vẻ thờ ơ với phái Thiếu Lâm. Không những thế, trong lúc luyện tập võ nghệ cho hai sư huynh, đệ chàng vẫn thường hay chỉ trích cách đào tạo môn đồ của phái Thiếu Lâm không được thận trọng và tiến bộ rất chậm, khiến cho chàng càng náo nức muốn đến tận nơi cho tường hư thực.

Bởi thế, chàng nhất quyết phải ghé vào Thiếu Lâm tự cho thỏa tính tò mò.

Từ núi Thái Thất đến núi Thiếu Thất chỉ cách có một ngọn núi. Đi chẳng bao lâu đã thấy xa xa có mấy ngọn Thanh Thạch tháp nhô lên, chung quanh có mấy ngôi chùa cổ, rêu xanh bao phủ ở dưới những cành cây cổ thụ, cành lá xum xuê.

Trùng Dương đoán thầm :

- Chắc đây là Thiên hạ đệ nhất danh môn Thiếu Lâm tự, những cây tháp Thanh Thạch là nơi chôn cất các hài cốt của các vị cao tăng trong phái Thiếu Lâm sau khi đã viên tịch.

Xem tiếp hồi 2 - 3 Thạch Phi Xà, hạ nhục Thiếu Lâm tự

giả Kim Dung Thương Lan dịch

Hồi 2 - 3 Thạch Phi Xà, hạ nhục Thiếu Lâm tự

Trùng Dương đã quyết chí vào thăm Thiếu Lâm tự nên thay vì đi xuống núi, chàng lại nhắm thẳng ngọn núi leo lên. Gần tới Thiếu Lâm tự, bỗng chàng nghe thấy hình như có người đốn củi ở gần đây, chàng ngạc nhiên tự nghĩ :

- Lạ thật, đây là chốn thâm nghiêm, sao lại có kẻ cả gan tới đây mà đốn củi, ta phải tới nơi xem cho biết.

Nghĩ đoạn, chàng dùng thuật khinh công tung mình nhảy lên cây, thoắt chuyển qua cây này sang cây khác nhẹ nhàng như con vượn tuyệt nhiên không nghe qua một tiếng động.

Khi tới nơi, ở trên cao nhìn xuống, Trùng Dương bỗng mỉm nụ cười, thì ra không phải là họ đốn củi mà là đang luyện công.

Chàng thấy hai thanh niên trạc tuổi 24, 25 mặc áo võ sinh, chân mang giày buộc rất chắc chắn, mặt mày xanh lét, hình dáng ốm o, đứng dưới gốc một cây cổ thụ, một tả một hữu đang dùng cạnh bàn tay đánh mạnh vào thân cây như người đốn củi. Chàng tự nghĩ :

- Chắc là họ đang luyện môn Thiết Thủ.

Hai chàng thanh niên chẳng nói chẳng rằng cứ dùng bàn tay chém mạnh vào thân cây liên tiếp, những tiếng lốp bốp đều đều nổi lên, da cây vỡ ra, trơ thân cây trắng toát.

Thì ra tiếng đốn cây là như thế, coi tuổi của hai ngươi mà bản lĩnh như vậy thì công phụ luyện tập của họ không phải là ít.

Hai thanh niên liên tiếp chém vào thân cây mấy chục nhát, mặt đã đỏ bừng, hơi thở chẳng điều hòa. Thanh niên đứng bên phía trái mặt vàng như nghệ ngừng tay lau mồ hôi chảy trên trán vừa lau vừa nói :

- Chết rồi! Lần trước chúng ta bao tay bằng một lớp vải một lớp sắt tập luôn chín tháng mới chém nổi cây. Đến bây giờ tay không ta đã luyện luôn ba tháng trời mà thân cây vẫn chẳng hề hấn gì. Còn có năm ngày nữa Đạt Ma Trưởng Lão đến xét võ công chắc thế nào chúng ta cũng bị quở phạt.

Chàng mặt đen có vẻ buồn rầu thở dài một tiếng chẳng nói năng gì, bỗng ở trong rừng có tiếng cười ha hả, tiếng cười có vẻ ngạo nghễ vang lên.

Hai chàng thanh niên giật mình quay lại chỉ thấy một vị hòa thượng mặc áo cà sa màu đen, tai to, mặt lớn, đôi mắt sáng quắc dáng người hùng dũng, ngang lưng thắt một cái dây lưng màu xanh mang theo một đôi Uyên Ương Thiết Đảm, từ trong rừng bước ra.

Hai thanh niên kia thấy vị hòa thượng này thì có vẻ sợ hãi, chẳng khác gì con chuột thấy con mèo, cả hai người thối lui lại mấy bước cùng cung kính cúi đầu chào.

Vị hòa thượng nọ tỏ ra rất kiêu ngạo hừ lên một tiếng, nghiêm nghị nhìn hai người nói :

- Chư Đại, Chư Nhị, hai đứa chúng mày đến đây thụ võ sư tổ đã được ba năm mà sao tài nghệ vẫn kém cỏi như thế?

Hai gã họ Chư cuống quýt cúi đầu nói :

- Thật là chúng tôi ngu quá, nên cũng hết sức tập luyện mà không sao thành công được, kính mong đại sư chỉ giáo thêm cho.

Hòa thượng nọ cười to lẹn một tiếng có vẻ thích thú lắm, dương dương tự đắc nói :

- Hai ngươi hãy lui xa ra, để bản sư thi thố một chút tài mọn cho mà xem.

Hai người họ Chư tránh xa gốc cây mấy thước. Vị hòa thượng kia bèn xăn tay áo, vận nội công bắp thịt nổi lên cuồn cuộn, nhắm thân cây phóng ra một quyền, chỉ nghe một tiếng "Bình" thân cây vỡ ra một mảnh khá lớn bằng cái chậu sâu vào tới hai ba tấc, hai anh em họ Chư lắc đầu le lưỡi quá ư khiếp sợ cho thần lực của hòa thượng.

Vị hòa thượng vừa dùng "Thần công Đại Lực Thiên Cang" của Thiếu Lâm đó, họ Ấn tên Quang cai quản La Hán đường trong Thiếu Lâm tự, sau khi biểu diễn võ công được hai anh em họ Chư hết sức khen ngợi lấy làm vừa ý lắm nói to :

- Đó là ta chi mới ra oai một phần nào thôi, chứ Thiếu Lâm tự mà có những tên đồ đệ ngu ngốc như các ngươi thì thật là uổng cả danh tiếng.

Vừa nói tới đó đã nghe thấy tiếng cười khanh khách tiếp theo đó một giọng nói vang lên :

- Không phải những người này ngu, là chỉ là có người dạy tầm thường thôi!

Tiếng nói chẳng phải của ai xa lạ, chính là Trùng Dương, nguyên chàng vẫn ở trên cao trông xuống nhất cử nhất động của mọi người chàng đều thấy rõ. Khi trông thấy Ấn Quang hòa thượng dùng thần công Đại Lực Thiên Cang thi thố, tài nghệ chỉ bằng lúc mới tới Tùng Sơn, vậy mà đã dương dương tự đắc, coi trời bằng vung, không chịu chỉ bảo đồ đệ tới nơi tới chốn, chỉ dùng những lời mắng chiếc nhục mạ, thì dằn lòng không nổi buột miệng nói to lên như thế.

Đang cơn hứng chí không dè bị người chế nhạo, Ấn Quang hòa thượng cả giận quát to :

- Súc sinh nào to gan lớn mật dám tới đây buông lời hỗn láo, để bản sư dạy cho một bài học.

Quát xong ngước mắt nhìn lên chỗ phát ra tiếng nói đó, thì đã thấy một chàng bạch diện thư sinh xuất hiện ngay trước mặt. Thấy vẻ người nho nhã, không ai ngờ dám buông lời xúc phạm đến thế, Ấn Quang chỉ vào mặt chàng thét lớn :

- Mi ở môn phái nào mà ta chưa biết, chẳng hay thầy mi tên là gì, nếu là người quen biết thì may ra ta còn nể mặt tha cho lời nói lếu láo vừa rồi, nếu không ta quyết không cho ngươi toàn tính mạng.

Trùng Dương thấy Ấn Quang buông toàn những lời vô lễ, trong lòng đã sớm nổi giận nhưng chàng cố nén cười lên một tiếng trả lời :

- Đại sư hỏi tên họ của sư phụ tiểu sinh à? Tiếc thay, tại hạ không thể nào nói cho đại sư biết được.

Ấn Quang hòa thượng nghe nói cả giận không thèm nói câu nào nữa rút ngay đôi "Uyên Ương Thiết Đởm" nhắm ngay giữa mặt Trùng Dương công tới.

Thứ Uyên Ương Thiết Đởm này là một võ khí rất lợi hại của phái Thiếu Lâm không phải là võ khí mà cũng không phải là ám khí, nó làm bằng sắt, ở giữa rỗng, phóng ra nhanh như tên bắn, có thể xa được mười trượng người nội công cao cường có thể sử dụng một cách hư hư thực thực khiến đối phương không biết đường nào mà tránh.

Nhưng Vương Trùng Dương tập luyện nội công phái "Toàn Chân" đã đến thời kỳ siêu việt, tai mắt đều hơn người, thấy Ấn Quang hòa thượng dùng Uyên Ương Thiết Đởm đánh ra, chàng đã biết rồi.

Chiếc thứ nhất bay ra trước lại hóa đến sau, còn chiếc đánh sau lại tới trước, khi đôi Uyên Ương Thiết Đởm còn cách xa chàng bảy, tám thước cái thứ nhất bỗng chìm xuống, cái thứ hai lao vút tới ngay như một luồng gió mãnh liệt bay tới, nhắm sang hai Thái Dương huyệt của chàng mà đâm thẳng vào.

Trùng Dương đã phòng bị sẵn, đợi chiếc Thiết Đởm Uyên Ương thứ hai bay tới tận nơi mới cùng thế "Cắt Mai chỉ" giơ tay bắt gọn vào lòng bàn tay, còn chiếc thứ nhất đang chìm ở dưới bỗng nhiên quay ngang ra lộn phắt lên như có một bàn tay vô hình điều khiển nhắm ngay Quan Nguyên huyệt của Vương Trùng Dương, chàng lại đưa tay mặt ra bắt lấy rồi ném trả lại cho Ấn Quang hòa thượng và nói :

- Đây ta trả lại cho ngươi.

Vừa nói dứt lời đôi Thiết Đởm Uyên Ương đã bay vụt ra sức mạnh kinh hồn chỉ nghe đanh vút một cái đã lao thẳng vào người Ấn Quang lẹ như chớp nhoáng.

Không còn hồn vía, Ấn Quang vội lẫn ngay vào gốc cây tránh thoát.

Đôi Thiết Đởm Uyên Ương trúng vào thân cây vỡ một mảnh khá lớn.

Đó là Trùng Dương đã biến ở thế kiếm "Thần Long Bái Vĩ" mà ra, hai anh em họ Chư vỗ tay cổ võ.

Ấn Quang cả giận thét lớn một tiếng, nhảy vọt tới sát Trùng Dương vung tay dùng quyền bổng cực kỳ lợi hại của Thiếu Lâm là La Hán quyền, quyết hạ họ Vương cho kỳ được mới nghe.

Chỉ thấy một trận cuồng phong phát ra nhắm thẳng mặt Trùng Dương bay tới, sức mạnh có thể xô thành, bạt núi.

Nhận thấy chưa chi mà Ấn Quang đã hạ độc thủ, Trùng Dương cả giận, định ra tay đối phó nhưng chợt nghĩ lại :

- Nếu ta ở trước cửa Thiếu Lâm tự mà đánh với Ấn Quang theo luật lệ của giới giang hồ mình có một lỗi rất lớn, chẳng khác chi mình đi miệt thị một phái võ hữu danh trong giới võ lâm, hai nữa mình mới ra khỏi Tung Sơn đã gây thù kết oán với Thiếu Lâm thì tránh sao khỏi sự quở mắng của sư phụ.

Nghĩ vậy nên chàng cố nhẫn nhịn vội dùng thế Đảo Kỳ Long, một chiêu thức đặc dị trong Võ Đang Trường Quyền, chỉ khẽ lắc mình đã tránh thoát.

Quyền phong của Ấn Quang thật quá ư lợi hại, đánh trượt Trùng Dương trúng vào một thân cây chỉ nghe đánh rầm một tiếng, thân cây vỡ một mảnh to, lá rụng rào rào. Ấn Quang định thần nhìn kỹ thấy Trùng Dương bỏ chạy đã khá xa.

Ấn Quang đâu biết chàng vì không muốn gây sự nên mới bỏ đi, lại tưởng chàng sợ võ công của mình mà bỏ chạy nên không chịu bỏ, phóng mình đuổi theo quát lớn :

- Bần tăng đã biết người là cao thủ phái Võ Đang nên mới dùng lời miệt thị bản môn, ngươi hãy dừng lại cùng ta giao đấu vài trăm hiệp cho rõ tài cao thấp.

Trùng Dương vì không muốn đấu với y nên quay lại đáp :

- Tại hạ chịu thua, đại sư đã là người tu hành sao hãy còn hiếu sát lắm vậy.

Nói xong, chàng quay đầu bỏ đi thì Ấn Quang đã dùng ngay thế Kim Cương Đảng Táng nhằm bả vai chàng công tới.

Chàng đứng nguyên không tránh, ngón tay của Ấn Quang trúng vào bả vai chàng, y cảm thấy tay mình như đánh vào đống bông gòn mềm nhũn thì kinh ngạc vô cùng, vội kéo tay về, thì Trùng Dương đã bỏ chạy xa đến ngoài hai trượng.

Khi nào Ấn Quang chịu bỏ, y dùng khinh công phóng mình nhanh như gió đuổi theo.

Gần tới Trùng Dương, Ấn Quang dùng luôn thế "Ngũ Đinh Dục Thạch" nhắm ngay đỉnh đầu chàng bổ tới.

Thoáng nghe hơi gió, Trùng Dương biết lão ác tăng đánh trộm, nên chàng chỉ hơi nhoài mình lên một chút, đã tránh khỏi độc thế của y.

Đánh trượt đối thủ, Ấn Quang lảo đảo suýt ngã, rất may cho y vì cũng là tay võ thuật cao cường, khinh công cũng vào hạng khá, nên lấy lại ngay được thăng bằng, chẳng những thế lại còn tung người lên cao sử dụng thế Bạch Hạc Đạp Tuyết dùng cả hai gót chân đánh xuống lưng Trùng Dương sức mạnh có hàng ngàn cân lực, hai gót chân của Ấn Quang có thể đập tan được đá, đánh gãy được cây.

Không dè Trùng Dương đã luyện tập võ công tới bực thượng thừa, muốn cương thì cương, muốn nhu thì nhu, chàng muốn làm cho Ấn Quang khiếp sợ một phen nân chẳng những không cần né tránh lại còn giơ lưng ra hứng đỡ hai gót chân của y.

Đinh ninh phen này thế nào Trùng Dương không dập mật thì cũng gãy lưng, không dè hai gót chân đánh xuống như trúng phải một tấm sắt, dội ngược trở lại tê buốt hai bàn chân ngã lộn xuống đất không còn hồn vía, Ấn Quang vội quật chân xuống thành thế "Cá Chép Vượt Đăng" vùng đứng lên trợn trò nhia mắt nhìn Trùng Dương bằng nét mặt vừa căm hờn vừa sợ hãi.

Trên chốn giang hồ đã đụng độ rất nhiều cao thủ, nhưng chưa bao giờ Ấn Quang gặp phải một tay ghê gớm như vậy, chưa kịp có phản ứng gì thì đã thấy Trùng Dương cất tiếng cười ha hả :

- Lão sư đùa giỡn cũng đã nhiều rồi, tại hạ xin đáp lễ.

Vừa nói dứt lời, chàng dùng tay áo phẩy nhẹ một cái, tức thì phát ra một trận cuồng phong dữ dội.

Ấn Quang cả kinh vội vận nội công toàn thân cứng như thép nguội xuống tấn để chống đỡ luồng gió ác liệt này, thế mà vẫn bị gió đánh vào người rát như phải bỏng, văng đi xa hơn một trượng, cây cối chung quanh rào rào răng rắc như bị một trận bão lớn.

Nhờ Trùng Dương không muốn quyết liệt nên chỉ dùng có ba thành công lực, nếu không thì Ấn Quang còn gì là tính mạng.

Khi lão tăng đứng dậy được thì chỉ còn nghe tiếng cười ha hả vang lên, cùng tiếng giã từ hẹn ngày tái ngộ từ đằng xa đưa lại và thấy tháp thoáng tà áo thư sinh.

Chỉ chớp mắt đã không thấy đâu nữa, vừa sợ vừa tức lại thêm xấu hổ, Ấn Quang lủi thủi trở về chùa thuật lại cho mọi người cùng nghe và tả kỹ hình dung của Trùng Dương cho mọi người ghi nhớ, sau này còn gây ra biết bao nhiêu chuyện rắc rối khác.

Còn Trùng Dương ra khỏi Tùng Sơn tự nghĩ :

- Thiếu Lâm tự tuy danh tiếng đã lâu mà võ công không người truyền lối, đã bị thoái hóa quá nhiều.

Nên chàng không muốn đến Thiếu Lâm nữa. Trước hết chàng đến huyện Đăng Phong, rồi đến Khai Phong, từ Đông vào Tề, Lỗ, dạo chơi khắp các tỉnh Bắc phương suốt ba năm trường, rồi mới trở lại Tùng Sơn theo đúng lời căn dặn của Thanh Hư chân nhân.

Sau khi làm lễ vấn an, Trùng Dương đem những điều mắt thấy tai nghe thuật lại cho sư phụ biết, Thanh Hư chân nhân rất lấy làm vui lòng.

Còn Châu Bá Thông gặp lại sư huynh vui mừng hớn hở, hỏi hết chuyện này sang chuyện kia, không lúc nào rời Trùng Dương ra một bước.

Thấm thoát đã hơn ba tháng Vương Trùng Dương ở lại núi Bách Cầm, chàng lại thu xếp hành trang để sửa soạn đến các tỉnh phía Nam du lịch. Trước ngày chia tay, đêm hôm đó anh em trò chuyện to nhỏ, lưu luyến chẳng cùng, bỗng Châu Bá Thông như sực nhớ ra điều gì, vội cất tiếng hỏi :

- Sư huynh, ba năm về trước, lúc sư huynh mới hạ sơn, sư huynh có giao đấu với một hòa thượng của phái Thiếu Lâm, đúng không?

Vương Trùng Dương kinh ngạc hỏi :

- Tại sao sư đệ lại biết?

Châu Bá Thông lại nói :

- Sư phụ còn chưa nói cho anh nghe hay sao? Lúc anh mới hạ sơn được mười ngày thì có hai vị hòa thượng tới đây, tự giới thiệu là người cai trị kinh đường của Thiếu Lâm tự, muốn gặp mặt sư phụ, tiểu đệ dẫn hai vị hòa thượng đó gặp thầy, tiểu đệ nghe thấy một người hỏi sư phụ: "Mấy năm nay có người nào của phái Võ Đang, hình dung thư sinh mà võ thuật rất cao cường không?" Và họ cho biết vì có một vị thủ tọa La Hán đường cũng bị chàng thư sinh đó đánh. Tuy thầy biết chắc là sư huynh rồi nhưng thầy không nói, chẳng hay lúc đó sư huynh dùng thế võ gì mà hạ được lão hòa thượng thủ tọa La Hán đường là người rất có danh trong Thiếu Lâm tự vậy?

Lúc đó Châu Bá Thông đã 17 tuổi, nhưng tính vẫn ham chơi và hiếu động.

Vương Trùng Dương nghiêm nghị nói :

- Sư đệ, mình học võ không phải để ỷ tài tranh đấu hơn thua, mục đích là để cứu người hèn yếu bị hà hiếp, giúp nước phò nguy, định an xã tắc, bữa đó phải giao đấu với người của Thiếu Lâm tự là sự vạn bất đắc dĩ mà thôi, sao lại có thể lấy đó làm vinh hạnh được?

Châu Bá Thông nghe lời sư huynh giảng dạy thì hết sức kính trọng, nên không dám hỏi thêm gì nữa.

Sáng sớm hôm sau Vương Trùng Dương lạy từ sư phụ, giã biệt sư đệ, vai mang khăn gói sửa soạn lên đường. Thanh Hư chân nhân bảo chàng rằng :

- Con nên từ phía nam Thái Thất sơn mà xuống, không nên đi về lối Thiếu Thất sơn.

Hiểu rõ ý thầy, Trùng Dương tuân theo, cúi đầu bái tạ thầy.

Châu Bá Thông đi theo tiễn đưa đã được một quãng đường khá xa, hai ba lần Trùng Dương nhắc nhủ bảo về, cực chẳng đã Châu Bá Thông đành gạt nước mắt chia tay.

Vương Trùng Dương trong lòng cũng biết bao nhiêu cảm động ngậm ngùi hẹn câu tái ngộ. Châu Bá Thông đứng lại nom theo sư huynh cho đến khi khuất dạng trong đám cấy mới quay trở lại về núi.

Vương Trùng Dương tuân theo lời dặn của sư phụ nhắm thẳng phía nam Thái Thất sơn đi mãi.

Khi tới một cái cầu đá dài hơn trăm trượng đi thẳng xuống núi, Trùng Dương bèn dùng thật phi hành chân không chạm đất người nhẹ như tên lao mình đi vùn vụt, mới tới cửa cầu bỗng thấy một người nhảy vụt tới trước mặt ngăn lại.

Trùng Dương giật mình đình bộ định nhỡn nhìn kỹ thì nhận ra là một vị hòa thượng hao hao giống Ấn Quang mà ba năm về trước đã có lần chàng gặp gỡ.

Chàng chưa hiểu ra sao thì đã thấy vị hòa thượng đó cất tiếng rổn rảng nói lớn :

- A di đà Phật, bần tăng là Ấn Trần, xin hỏi thí chủ có phải là người cao đồ của phái Võ Đang đấy không?

Lúc bấy giờ Trùng Dương đã hiểu đến tám chín phần, và chàng đề quyết đây là người của Thiếu Lâm tự đến để trả hận.

Bây giờ Trùng Dương mới để ý nhìn vị hòa thượng này. Khác hẳn với Ấn Quang, Ấn Trần hòa thượng mình mặc cà sa màu xám, tay cầm cây phất trần, mày thưa mắt sáng, dáng người hùng vĩ mới thoáng trông qua chàng cũng nhận ngay thấy đây là một người có bản lãnh cao cường.

Biết thế nào cũng có chuyện chẳng hay xảy ra, nhưng Trùng Dương không hề một chút gì sợ hãi, chàng bình tĩnh chắp tay thi lễ :

- Thưa lão sư, tại hạ họ Vương tên Nhàn, chỉ học được một chút thuật phi hành để đi đây đi đó chư không phải đồ đệ của phái Võ Đang. Hôm nay nhân đến Tùng Sơn thăm bạn, lúc ra về sợ bị trời tối, nên phải dùng thuật phi hành xin lão sư chớ cười.

Ấn Trần và Ấn Quang đều là người trông coi La Hán đường, La Hán đường của Thiếu Lâm tự gồm có mười tám vị La Hán bằng gỗ, ở trong đặt máy móc rất là tinh xảo, nguyên là của Đạt Ma sư tổ chế tạo cốt ý để thử môn đồ, nếu người nào muốn hạ sơn phải đi qua La Hán đường thoát khỏi mười tám vị La Hán thì mới được xuống núi.

Những đại sư cai quản La Hán đường gồm có bốn người, đều là những tay bản lĩnh cao cường, đã dày công tập luyện.

Khi ấy Ấn Trần hòa thượng cất tiếng cười ha hả :

- Thí chủ chớ nên khiêm nhượng, xin mời thí chủ hãy quá bộ tới tệ am để cho chúng tôi được thừa tiếp.

Nói dứt lời, Ấn Trần dùng cây phất trần nhẹ một cái nhằm tay mặt Trùng Dương điểm tới.

Tuy chỉ một đòn giáo đầu, Ấn Trần không dùng hết sức nhưng uy lực cũng ghê gớm, người tầm thường bị đánh trúng cũng phải văng ra xa hàng mấy trượng.

Trùng Dương nhún mình xuống. Nửa thân trên hơi di chuyển và dùng thế "Di Bổ Hoàn Ảnh" giống hệt thế "Thoát Y Hoàn Ảnh" của Võ Đang né mình sang một bên, tránh thoát.

Ấn Trần đại sư thấy quất không trúng thì cả giận, vung cây phấn trần dùng luôn thế Thanh Long Cuốn Vĩ đánh tới, cây phất trần chẳng khác chi con rồng quẫy đuôi, uốn khúc vùn vụt bao phủ khắp mình Trùng Dương.

Trùng Dương vẫn đứng im, người không lay động, hai mắt sáng như sao theo rõi cây phất trần của đại sư.

Cây phất trần đảo lộn, hư hư thực thực, chỉ chờ đôi phương sơ hở là đánh xuống. Bỗng nghe thấy đại sư quát lên một tiếng cực to đinh tai nhức óc, cây phất trần đang quay tít bỗng nhiên ngừng lại, nhằm yếu huyệt "Nê Hoàn" của Vương Trùng Dương điểm tới, lẹ hơn tên bắn, sức mạnh kể có mấy trăm cân lực, nếu trúng thế này dù người cao cường đến đâu cũng không khỏi mang hại.

Vương Trùng Dương cười khà một tiếng, chàng đã quày tay lẹ như chim cắt bắt mồi nắm được cây phất trần trong tay. Cây phất trần này làm bằng đuôi ngựa, lẫn mấy sợi tơ vàng, bền bỉ vô cùng.

Ấn Trần hòa thượng sử dụng cây phất trần này đã mấy chục năm trời, đã hạ không biết bao nhiêu anh hùng hảo hán trong thiên hạ. Không ngờ họ Vương bắt được trong tay, khẽ ấn một cái, cây phất trần đã gãy làm đôi đoạn.

Vừa trong lúc đó Ấn Trần cũng muốn dùng sức mạnh kéo về, nên mất đà lảo đảo suýt ngã, cũng may là nhờ có bản lĩnh cao cường, nên đại sư dùng nửa cây phất trần còn lại ở tay điểm vào hòn đá mà đứng vững.

Vừa tức vừa sợ, mồ hôi toát ra lăn tăn trên trán, Ấn Trần hòa thượng gượng cười nói :

- Quả nhiên Vương thí chủ bản lãnh thật cao siêu, bản sư xin bái phục.

Nói dứt lời, hòa thượng chắp tay nhằm Trùng Dương xá một cái. Một luồng gió lốc từ trong tay áo Ấn Trần đại sư bay ra, Trùng Dương thoáng thấy thế hiểu ngay là vị tăng này dùng "Phản Phong chưởng pháp" bèn xòe bàn tay phóng ra một chưởng ngăn lại nghe "bùng" một tiếng. Hai luồng chưởng pháp chạm vào nhau gây nên một sức mạnh kinh người, cây cối hai bên gẫy rụng ào ào, bụi bay mù mịt.

Ấn Trần đại sư bị sức mạnh của Bích Không chưởng dội lại bật văng ra sau đến hơn 10 bộ ngã ngời xuống đất.

Trùng Dương dùng luôn thế "Thần Điêu Quá Hải" nhún mình nhảy vọt qua người Ấn Trần, vút mình lao đi như tên bắn, đại sư không kịp phản ứng, đành ngước mắt căm hờn trông theo, nghe xa xa có tiếng vẳng lại :

- Xin thất lễ hẹn ngày sau tái ngộ.

Trùng Dương đã chạy một hơi gần hết cây cầu xuống đến chân núi, bỗng thấy bốn vị hòa thượng từ phía sau hòn đá nhảy ra chắn ngang cây cầu, đều là tăng nhân trong Thiếu Lâm tự. Bốn vị đều chắp tay trước ngực đồng nói :

- Mô Phật, thí chủ xin ngừng chân, bản tự Phương trượng xin có lời mời thí chủ quá bộ tới bản tự cho chúng tôi được nghinh tiếp.

Vương Trùng Dương thấy bốn vị hòa thượng đều mặc áo cà sa màu xám, râu mày trắng như tuyết, sau vai đều mang võ khí thì tự nhủ :

- Đây là những tay cao thủ trong Thiếu Lâm tự.

Nên chẳng dám coi thường, vội vàng chắp tay cúi đầu thi lễ rồi nói :

- Kính chào các vị đại sư, chẳng hay tiểu sinh có điều gì thất thố, mà đại sư đón đường triệt lối, muốn bắt tiểu sinh đi đâu?

Một vị hòa thượng đáp lời :

- A di đà Phật, Phật môn đệ tử không dám nói dối, ba năm trước đây thí chủ đã qua cửa thiền môn chỉ giáo cho một môn đồ, nên nay bản tự Phương trượng thỉnh cầu thí chủ tới La Hán đường để tỏ lòng ngưỡng mộ của bản môn.

Trùng Dương thốt nhiên tỉnh ngộ nghĩ thầm :

- "Chắc lúc về Tùng Sơn bái kiến sư phụ, đã bị Thiếu Lâm tự phát giác hành động, họ cũng rất kiên tâm cho người theo dõi mấy tháng trời đợi mình hạ sơn mới ra cản trở, nếu không đi là mang tiếng hèn nhát, bất nhược, thử tới xem sao rồi sẽ liệu bề đối phó."

Nghĩ đoạn chàng bèn cúi đầu nói :

- Mô Phật, tiểu sinh là một kẻ vô danh tiểu tốt, không ngờ lại được đại môn có lòng chiếu cố, chư vị đại sư đã cho đòi, lẽ nào dám chẳng nghe theo. Vậy xin chư vị đại sư dẫn đường, tiểu sinh xin theo gót.

Bốn vị hòa thượng đồng thanh đáp :

- A di đà Phật.

Rồi cùng quay trở lại đi trước dẫn đường, bỗng thấy Ấn Trần hòa thượng áo cà sa xốc xếch, mặt giận hầm hầm, tay cầm nửa cây phất trần gãy, đằng xa đuổi theo tới nơi, gườm gườm nhìn Trùng Dương như muốn ăn tươi nuốt sống, rồi phóng mình dùng thuật phi hành lao đi như tên bắn.

Vương Trùng Dương liếc mắt trông thấy không lộ một chút sợ hãi, điềm nhiên đi theo.

Lúc đó bốn vị tăng nhân mới dùng thuật phi hành để đi cho nhanh, không rời nửa bước, Trùng Dương dùng thuật Thảo Thượng Phi lướt mình đi theo, thân hình như chỉ lướt trên mặt cỏ.

Chưa đến giờ Thìn đã đến núi Thiếu Thất, tới trước cửa Thiếu Lâm tự, bỗng thấy cửa giữa màu đỏ mở rộng, trong chùa chạy ra tám hòa thượng còn trẻ tuổi tay cầm khí giới giàn sang hai bên chào nói :

- Vương đại hiệp giáng lâm, bổn tự vinh hạnh vô cùng xin mời vào.

Vương Trùng Dương điềm nhiên như không, quay sang hai bên vái chào đáp lễ rồi theo bốn vị tăng nhân cùng vào bái kiến Phương trượng.

Đi qua một khoảng sân rộng, tới một đại điện nguy nga cao ngất, trên cửa có một tấm bảng đề bốn đại tự "Đại Hùng bửu điện" sơn son thếp vàng chữ kiểu đại thể rất đẹp. Trước điện có những bậc, xây toàn bằng đá trắng, có tám vị hòa thượng tuổi trẻ, áo cà sa mới sạch, tay cầm lò hương và mõ, hai bên bửu điện trồng những cây Trắc diệp nhỏ.

Tới trước cửa điện, bỗng thấy bốn vị lão hòa thượng dừng bước, một vị nói :

- Vương thí chủ, La Hán đường ở phía trái, xin mời thí chủ cứ tự tiện đi vào một mình.

Trùng Dương thản nhiên cúi chào bốn vị hòa thượng rồi rã sang tay trái, đi thẳng theo lời dặn của lão tăng nhân, được một quãng thì đến đến một con đường hẻm, tuy ban ngày mà vẫn tối om.

Trước đường hẻm có treo một tấm màn bằng vải màu, vải dài có mấy trượng. Chàng biết ngay chỗ này là La Hán đường, đã từng nghe sư đệ Châu Bá Thông nói, những môn đồ nào muốn hạ sơn phải thoát qua La Hán Trận, gồm mười tám vị La Hán mộc nhân thay nhau tấn công mà người không bị dấu vết, tới tham bái Tam Bửu Phật Ấn, Đại Hùng bửu điện rồi mới ra khỏi Thiếu Lâm tự hạ sơn hành hiệp được.

Tới đây Trùng Dương nghĩ thầm "Đây là họ muốn thử thách, nhiều môn đồ của phái Thiếu Lâm đã đi thoát khỏi La Hán trận, lí nào ta lại không đủ bản lĩnh như họ hay sao."

Nghĩ đoạn, chàng đi thẳng vào La Hán đường, định thần chú ý tai mắt rất tinh tường, một tiếng động dù nhỏ đến đâu cũng đều lọt vào tai chàng cả. Chàng vừa bước tới La Hán đường, chân mới bước lên một viên gạch, tấm màn hồng bỗng từ từ kéo sang hai bên.

Ở trong là một La Hán bằng gồ gần giống hệt người thật, mặt sơn đen tối, to lớn hơn người, tay trái đưa ra chân mặt giơ lên như thế "Hoành Thân Đả Hổ" và tiếp theo là "Đăng Sơn Đoạt Hổ", hai thế võ này đều là lấy ở trong bài La Hán phục hổ quyền, một bài võ danh tiếng của phái Thiếu Lâm, rất mãnh liệt nhằm mặt va bụng của Trùng Dương đánh tới.

Không chút hoang mang Trùng Dương dùng luôn thề "Thủy Tụ Vân Lưu" của Toàn Chân phái đã tránh được cả hai thế của mộc nhân La Hán, thuận tay chàng dùng luôn thế "Chim Điêu Bắt Mồi" nắm chặt lấy chân và tay của mộc nhân La Hán, thế là hết cựa quậy.

Ở trong La Hán đường lại thấy xông ra hai mộc nhân La Hán nữa, chúng dùng thế "Chân Đàm" của Thiếu Lâm nhằm hạ bộ Trùng Dương công tới.

Không để cho hai mộc nhân tới gần, Trùng Dương đã vận động nội lực nâng bỗng mộc nhân đang nắm giữ trong tay lên.

Mộc nhân này to lớn hết sức, bên trong lại đặt máy móc cơ quan nặng đến mấy trăm cân, nhưng thần lực của Trùng Dương quả là đáng nể.

Chàng nâng bỗng mộc nhân lên coi nhẹ hết sức, nhắm thẳng hai mộc nhân đang lao thẳng tới quăng ra, chỉ nghe đánh rầm một tiếng, cả ba mộc nhân đã chồng lên nhau, vì là người bằng máy, tự di động, ba mộc nhân chân đá tay đấm vào nhau nghe bôm bốp, múa may quay cuồng trong thật là ngộ nghĩnh, buồn cười.

Trùng Dương đánh ngã ba mộc nhân La Hán rồi tự nghĩ những người bằng gỗ này có gì là đáng sợ, lại thấy sau màn nhung liên tiếp bốn mộc nhân nữa xông ra.

Chàng muốn biểu dương thần lực cho phái Thiếu Lâm biết qua sự lợi hai, nên không chờ cho những mộc nhân kia xông ra tới nơi đã giơ tay cùng "Đại Lực thần công" phóng ra một cái, ghê thay cho sức chưởng, chỉ thấy một luồng gió thổi ra ào ào, cả bốn La Hán mộc nhân đều đổ dồn thành một đống tay chân múa máy lung tung, gạch lát trong La Hán đường bị sức mạnh của những mộc nhân La Hán đánh xuống vỡ tan, bụi bay mù mịt, tiếng rầm rầm huyên náo nổi lên.

Chỉ trong chớp mắt, Trùng Dương đã hạ một lúc bảy mộc nhân La Hán của Thiếu Lâm tự, rồi liên tiếp hai vị mộc nhân nữa xông ra, có người tay không, có người mang võ khí, lại có cả mộc nhân phun ra những ám khí ở trong mồm thật là lợi hại, nhưng với ai kia chứ đối với Vương Trùng Dương, một tay đệ nhất cao thủ của phái Toàn Chân thì có ra gì.

Chỉ một loáng mắt, chàng dùng một môn tuyệt kỹ của phái Toàn Chân là "Thủy Tụ Vân Lưu" mang ra đối phó đã làm cho hai mộc nhân trở thành vô dụng, nằm la liệt dưới đất.

Vương Trùng Dương thấy tình hình như vậy thì tức cười, cất tiếng ha hả cười vang.

Bỗng nhiên thấy La Hán đường sáng lên rực rỡ, chàng im tiếng cười quay lại thấy ở ngoài cửa La Hán đường đèn đuốc sáng choang, một số tăng nhân đông đảo đi sau một vị lão hòa thượng.

Vị hòa thượng này râu trắng như cước, hai chòm lông mày dài rũ xuống như che đôi nhỡn quang sáng như điện, nét mặt trang nghiêm tay cầm cây Cửu hoàn trượng, vị này chính là Trưởng giáo chủ tên gọi Tôn Trụ thiền sư.

Đứng sau thiền sư có năm vị cao tăng mặc áo sà ca vàng. Năm vị hòa thượng này đều giữ một địa vị rất cao trong Thiếu Lâm tự.

Vị thứ nhất là giám tự Pháp Thắng thiền sư, thứ hai là tri khách Bản Duyên hòa thượng, thứ ba là hòa thượng hộ pháp kiêm cai trị Hình đường Ngộ Thiện đại sư, thứ tư là tàng kinh lâu Pháp Hoàng đại sư, thứ năm là đạt ma viện tổng giáo tập Huệ Không đại sư.

Năm vị này trong Thiếu Lâm tự thường gọi là Ngũ lão.

Vương Trùng Dương thấy các vị cao tăng lần lượt tiến vào La Hán đường, theo sau lại còn hơn hai chục vị hòa thượng khác nữa, toàn là những tay bản lĩnh ở Thiếu Lâm.

Các vị cao tăng vào tới La Hán đường thấy 18 mộc nhân La Hán bị đánh đổ lỏng chỏng, la liệt khắp mặt đất thì mọi người đều có vẻ tức giận.

Trùng Dương mặt không biến sắc, điềm nhiên chắp tay vái chào Tôn Trụ thiền sư và kính cẩn thưa rằng :

- Tiểu sinh nhân đi qua cầu đá, vinh hạnh được quí tự mời tới. Nào ngờ vào tới La Hán đường bị 18 vị mộc nhân đả kích, bất đắc dĩ phải tự vệ, không ngờ võ công của tiểu sinh còn quá ư kém cỏi, nên làm hư hết những mộc nhân La Hán, xin Phương trượng rộng lòng tha thứ cho.

Mấy câu nói của chàng thật khiêm tốn và tế nhị, trước hết tự nói vì võ công quá dở nên đã làm hư La Hán mộc nhân, thứ nữa là do môn đồ Thiếu Lâm tự mời tới chứ không phải tự tiện xông vào.

Tuy vậy chàng vừa dứt lời thì mọi người đều có vẻ giận dữ mở mồm toan nói, Tôn Trụ thiền sư đã lạnh lùng nói :

- Vương thí chủ thuộc môn phái nào, tôn sư tên đạo pháp là chi mà bản lĩnh cao cường như thế? Thí chủ làm hư hết 18 vị mộc nhân của bản tự, xin thí chủ cho bần tăng được biết quý tính cao danh?

Trùng Dương vội cúi đầu thối lui hai bước rồi nói :

- Tiểu sinh họ Vương tên Nhàn người tỉnh Hà Nam, học lóm được vài ba miếng võ công, không thể nói là môn phái nào, vì tiểu sinh đi ngao du thiên hạ nên cũng học nhiều thầy, mỗi thầy một thế. Do đó, không dám quyết ai là sư phụ, kính xin đại sư tha lỗi cho. Hôm nay tiểu sinh được diện kiến các vị cao tăng của Thiếu Lâm tự thật là một điều vinh hạnh, giờ đây, tiểu sinh xin phép cáo từ vì còn nhiều việc gấp phải làm, xin chư vị thứ lỗi...

Chàng nói tới đó cúi đầu bái tạ, quay ngoắt mình toan bỏ đi ra khỏi La Hán đường, bỗng thấy viên đạt ma tổng giáo tập Huệ Không đại sư nhún mình như bay chặn ngay trước mặt và nói :

- Vương thí chủ hãy dừng chân.

Trùng Dương bèn dừng bước ôn tồn lễ phép :

- Việc này chẳng phải do tiểu sinh cố tình gây ra, nay trót lỡ tay làm hư hại mộc nhân của quí tự, nếu đại sư muốn bắt thường tiểu sinh thì cũng phải cho tiểu sinh rời khỏi chốn thiền môn, tiểu sinh mới có thể lấy tiền đền được.

Huệ Không quắc mắt quát to :

- Vương thí chủ, người tự thị võ công cao cường, làm hư hết mộc nhân La Hán của bản tự, như thế là có ý coi rẻ Thiếu Lâm tự không người đối thủ, bần tăng tuy bất tài nhưng cũng mong lãnh giáo vài đường quyền pháp.

Vừa nói dứt lời, Huệ Không không để cho Trùng Dương kịp phân trần, vung hai tay dụng thế "Bách Bộ thần quyền" nhằm chàng đánh tới.

Trùng Dương mỉm cười không cần tránh né, đưa mình ra chịu. Hai tay quyền của Huệ Không đánh ra sức mạnh vô cùng đám vào núi, núi lở, vào đá, đá tan, vậy mà trúng vào người Trùng Dương, hòa thượng cảm thấy như mình đánh vào một khối bông gòn mềm nhũn, hoàn toàn không có một phản ứng gì.

Cả giận, Huệ Không đánh liên tiếp hai quyền cực kỳ mạnh mẽ đều trúng vào người Trùng Dương mà chàng vẫn đứng im không hề lay động, Huệ Không vừa tức vừa quát hỏi :

- Ngươi dùng võ thuật hay yêu thuật thế?

Lúc đó Trùng Dương mới cười ha hả đáp lời :

- Ấy là tiểu sinh dùng Âm Dương chi đạo, Âm mềm, Dương cứng nó chỉ là một môn nội công tầm thường, sao đại sư lại gọi là yêu thuật?

Huệ Không càng giận dữ nói :

- Thí chủ đã tự cho là mình có bản lĩnh, tại sao ta tấn công liên tiếp mấy đường quyền, mà không dám công khai đối địch?

Trùng Dương lại mỉm cười nói :

- Trước mặt cao tăng, tiểu sinh nào dám vô lễ.

Tôn Trụ thiền sư thầm khen ngợi trong lòng, chàng tuổi nhỏ tài cao mà lại không hiểu môn đồ của phái nào. Do đó thiền sư rất cần biết võ công của chàng nên vuốt râu cười nói :

- Vương thí chủ không nên khiêm nhượng mà từ chối, hãy thử giao đấu với tổng giáo tập của bản tự coi thế nào.

Trùng Dương đáp :

- Có lời chỉ dạy của đại sư, tiểu sinh đâu dám chối từ, kính mong đại sư chỉ giáo thêm cho.

Nói tới đây chàng quay lại Huệ Không nói tiếp :

- Hồi nãy đại sư dùng thế "Bách Bộ thần quyền" chẳng hay cách xa trăm bước, qua một lớp da bò, đại sư có thể làm tắt cây đèn cầy được không?

Huệ Không nghe chàng hỏi vậy thì thất kinh vội nói :

- Bách Bộ thần quyền của bản môn chỉ có thể đánh xa năm chục bước, qua ba lần giấy làm tắt đèn cầy mà thôi.

Trùng Dương nói :

- Nếu vậy Bách Bộ thần quyền của đại sư mới đạt được đến hai thành công lực mà thôi.

Huệ Không cả giận nói :

- Bất luận là mấy phần, Vương thí chủ cứ thử xem.

Vừa nói dứt lời, Huệ Không đã nhắm thẳng ngực Trùng Dương phóng ra một chiêu Bách Bộ thần quyền.

Trùng Dương vội nói :

- Xin thất lễ, thất lễ.

Vừa nói chàng vừa đánh ra một chưởng, hai chưởng giao nhau phát ra một tiếng "đùng", Trùng Dương vẫn điềm nhiên đứng yên mặt không biến sắc, còn Huệ Không thối lui tới 10 bước, mặt đỏ phừng phừng vì xấu hổ.

Tôn Trụ thiền sư thấy Trùng Dương chưa đầy 30 tuổi mà nội lực lại quá cao siêu như thế thật là đáng ngạc nhiên. Theo thiền sư biết thì phái Võ Đang không có một môn đồ nào võ công lợi hại đến như vậy.

Tuy nhiên, mắt thấy rõ ràng Trùng Dương dùng võ công của Võ Đang mà lại không thể xác định được chàng có phải môn hạ Võ Đang hay không.

Tôn Trụ thiền sư đang ngẫm nghĩ, thì Huệ Không bị Trùng Dương hạ nhục như vậy chịu không nổi, quát to lên một tiếng nhảy vọt tới sát Trùng Dương, nhắm đầu chàng đánh xuống.

Tôn Trụ thiền sư cả sợ quát to :

- Huệ Không, dừng lại.

Nhưng không kịp, tay quyền của Huệ Không vừa đánh xuống, Trùng Dương đã tránh thoát được và bắt lấy người y giơ cao lên qua khỏi đỉnh đầu vận sức ném ra, thân hình Huệ Không bay lên cao rồi lao thẳng ra ngoài cửa La Hán đường trông thật vô cùng khủng khiếp.

Dù cho bản lĩnh thế nào cũng có thể bị nội thương, may thay Pháp Thắng thiền sư trông thấy nhún mình nhảy vọt theo, ôm gọn Huệ Không vào lòng như con chim cắt bắt mồi, cứu y khỏi bị rơi xuống đất.

Mọi người hết sức ngạc nhiên, không dè Huệ Không bản lĩnh cao cường như vậy mà mới giáp đấu với thanh niên tuổi chưa quá 30 này, chưa được một hiệp đã bị hạ ngay.

Đó cũng là vì Huệ Không dùng thế "Thiết Sơn Đỗ Hải", một thế võ cực kỳ lợi hại của Thiếu Lâm, đinh ninh thế nào cũng hạ được Trùng Dương để rửa nhục, không dè thân pháp của chàng thật là kỳ diệu, chỉ trong nháy mắt đã lẫn ngay lại sau lưng hòa thượng, vì ỷ y tự đắc nên bị chàng đánh bị dễ dàng.

Càng nghĩ càng hận, Huệ Không định xông vào quyết cùng Trùng Dương giao đấu một còn một mất, nhưng Tôn Trụ thiền sư đã nói :

- Huệ Không mau lên thoái hạ trước Đại Hùng bửu điện và nhận lấy sự trừng phạt.

Luật lệ của Thiếu Lâm tự rất nghiêm khắc, Huệ Không bị bại, ít nhất phải cách chức đạt ma tổng giáo tập, nên Huệ Không nghe lời Phương trượng phán quyết thì không dám chậm trễ cúi đầu tuân theo lời dạy ra khỏi La Hán đường.

Tôn Trụ thiền sư quay lại nói với cai trị Hình đường Ngộ Thiện đại sư :

- Ngộ Thiện, Vương thí chủ bản lĩnh rất cao cường, ngươi có giao đấu thì phải dè dặt, chớ có coi thưởng mà làm giảm danh môn phái.

Ngộ Thiện cúi đầu kính cẩn :

- Xin tuân lời chỉ dạy.

Nói xong ông bước ra chắp tay vào ngực nhìn Trùng Dương nói :

- Mô phật, bần tăng tuân lời Phương trượng ra đây xin lĩnh giáo Vương thí chủ một ít võ công, bần tăng xin dùng thứ khí giới "Long đầu Nguyệt Nha sản" này để tỷ thí cùng Vương thí chủ.

Nói dứt lời, Ngộ Thiện hòa thượng rút cây binh khí đó ra cầm ở tay.

Cây "Long đầu Nguyệt Nha sản" là một thứ võ khí khá đặc biệt của phái Thiếu Lâm chế tạo ra, dài chưa đầy một trượng, đầu sản hình bán nguyệt, trên nặng dưới nhẹ rất khó sử dụng, phải là một người có bản lĩnh rất cao mới có thể sử dụng nổi.

Trùng Dương thấy Ngộ Thiện hòa thượng cầm binh khí ra thách đấu thì chàng cất tiếng cười vang :

- Đại sư muốn tôi dùng đến võ khí chăng, tiếc rằng tôi tới đây để bái kiến thiền môn, không có ý gây sự nên chẳng mang theo võ khí.

Ngộ Thiện hòa thượng cũng tươi cười đáp lại :

- Việc đó không có gì là đáng ngại, bản tự là nơi huấn luyện võ thuật nên sẵn có đủ mười tám môn binh khí, Vương thí chủ muốn sử dụng thứ võ khí nào? Bần tăng xin cho người mang ra.

Trùng Dương lại cười đáp :

- Đại sư cao quí quá chú ý tới võ khí như vậy. Người có võ công đâu cần tới các thứ đó, phàm đã gọi là có bản lãnh cao cường, có thể ném hoa giết giặc, hái lá đánh người, cần gì phải có khí giới. Tiểu sinh tuy bất tài, nhưng chưa hề phải sử dụng võ khí bao giờ, xin đại sư cứ tự nhiên, tiểu sinh xin lãnh giáo.

Lời nói vừa nhún nhường vừa kiêu ngạo, khiến cho Ngộ Thiện hòa thượng nén giận không được quát lớn :

- Bần tăng chưa có bản lĩnh cao siêu, còn võ công của thí chủ chắc đã tới kỳ tuyệt diệu rồi. Xin hãy coi đây.

Vừa nói dứt lời, liền vung cây Long đầu Nguyệt Nha sản dùng thế "Độc Long Giác Hải" nhắm giữa ngực Trùng Dương đâm tới, Ngộ Thiện hòa thượng yên trí Trùng Dương kiêu ngạo, tay không, dám chống với binh khí của mình, thì thế nào cũng bị hạ, dầu cho họ Vương bản lĩnh có cao siêu đến bực nào.

Không dè chỉ thấy Vương Trùng Dương nhảy lùi xuống mấy bước tránh cây Sản của Ngộ Thiện hòa thượng và nghe đánh "Soạt" một tiếng, họ Vương đã rút chiết đai lưng bằng vải vung tít lên, mềm mại như con rắn trắng, uốn éo bay lượn bao bọc khắp chung quanh người, phát ra tiếng kêu như lụa xé

Ngộ Thiện hòa thượng cất tiếng cười khanh khách :

- Hay lắm! Hay lắm! Bản lĩnh cao siêu của thí chủ thuộc phái Võ Đang khiến cho bần tăng càng muốn lĩnh giáo.

Nói dứt lời. Ngộ Thiện hòa thượng vũ lộng thần oai, dùng luôn hai thế võ tối độc là "Kim Kê Trác Túc" và "Vi Đà Phụng Chữ" nhắm cổ họng và cạnh sườn của Vương Trùng Dương đánh tới, sức nhanh như gió. Thấy các vị hòa thượng ở phái Thiếu Lâm cứ luôn mồm bảo mình ở trong phái Võ Đang, Trùng Dương bất giác cười thầm, không cần gì cải chính.

Lại thấy Ngộ Thiện hòa thượng sử dụng hai thế võ ác độc giết người đó, thì chàng chẳng dám coi thường, điều động chiếc đai vải gạt luôn cây Long đầu Nguyệt Nha sản bật văng trở lại, đồng thời lại nhắm toàn yếu huyệt của Ngộ Thiện hòa thượng tấn công liên tiếp.

Cái đai vải của chàng lúc đó không khác gì một chiếc roi mềm nhưng sức mạnh cũng vô cùng ghê gớm, quật vào đá, thì đá cũng tan, đập vào núi, núi cũng lỡ, phát ra một luồng gió mạnh, kêu rít lên trong không khí

Quyết tâm hạ đối phương, để giữ thanh danh cho môn phái, Ngộ Thiện hòa thượng liền sử dụng sáu mươi bốn thế võ Đang Ma Sản, tấn công tới tắp vào người Trùng Dương.

Tả một ngọn, hữu một ngọn, thượng hạ bốn bề công kích, sầm sập như trời đổ mưa, vi vút như cuồng phong, mãnh liệt như Độc Long xuất động, uốn lượn như mãng xà uốn khúc, lúc trước, lúc sau, khi tả, khi hữu không xê xích khỏi Trùng Dương trong gang tấc.

Cây "Long đầu Nguyệt Nha sản" ở trong tay Ngộ Thiện hòa thượng sử dụng, lúc đó đã biến thành một đạo hào quang lại nhấp nhoáng nhanh như chớp, bao kín khắp người họ Vương khí thế thật là khủng khiếp.

Vương Trùng Dương từ lúc tuân lời thầy hạ sơn, chưa kề phải sử dụng công phu đối địch với một đối thủ nào tài nghệ đến bực thượng thừa như vậy, nên lúc đó chàng cũng lấy làm thích chí, hiển lộng võ công vào chiếc đai lưng cũng phát ra một đạo bạch quang trắng toát uốn éo, bay lượn chẳng khác chi Tiên nữ sắc hoa, luồn qua, luồn lại hòa hợp với cây Nguyệt Nha sản, lúc thì đỡ, lúc thì gạt phát ra những tiếng phần phật, lại nhắm những yếu huyệt ở tai và mắt của Ngộ Thiện hòa thượng mà quất tới.

Phút chốc hai bên đã giao chiến được đến bốn chục hiệp vẫn bất phân thắng bại. Ngộ Thiện hòa thượng đã bắt đầu nóng ruột bồn chồn tức giận, vì tự nghĩ dầu sao mình cũng là đệ nhị cao thủ của Thiếu Lâm ngũ lão, danh tiếng vang lộng khắp giới võ lâm.

Cây Nguyệt Nha sản đã rèn luyện mấy chục năm trời, chưa có mấy ai xứng danh đối thủ, có ngờ đâu ngày hôm nay gặp một tên thư sinh vô danh tiểu tốt, trong giới giang hồ chưa ai biết mặt biết tên, dám ngang nhiên dùng chiếc đai lưng đối địch lại, không hề lùi sút một ly thì coi danh Thiếu Lâm ngũ lão còn gì nữa.

Câu chuyện hôm nay nếu để lọt ra ngoài sao cho khỏi bị thiên hạ đàm tiếu chê cười.

Càng nghĩ, càng tức, Ngộ Thiện hòa thượng vận dụng hết công phu tuyệt kỹ, sử dụng triệt để bài Đảng Ma Sản, như gió cuốn mây bay, lại hỗn hợp thêm bài côn "Hàng Long Phục Hổ" vào cây Nguyệt Nha sản.

Dưới ánh sáng lửa bập bùng, lúc tỏ, lúc mờ, tiếng gió rít lên trong không khí nghe rùng rợn ghê người tỏa ra ánh sáng lấp lánh như những làn chớp giật.

Trận đánh trở nên kinh hồn bạt vía đối thủ chỉ sơ sẩy trong gang tấc cũng không còn tính mạng.

Mọi người nín thở chăm chú theo dõi trận đấu. Khi ấy hình như Vương Trùng Dương không chịu nổi sức khuynh đảo ngọn Sản của Ngộ Thiện hòa thượng nên lùi dần vào chân tường La Hán đường.

Tất cả các vị hòa thượng trong chùa Thiếu Lâm, tuy trong bụng hết sức vui mừng, nhưng cũng không dám reo hò cổ vũ, sợ phạm vào quy tắc của môn phái.

Ngay cả hòa thượng chủ trì cũng cho là Trùng Dương không chịu nổi với công phu trác tuyệt của Đệ nhị Cao Thủ trong Ngũ Lão của phái Thiếu Lâm.

Nhưng thấy chàng là một thanh niên tuổi trẻ mà nghiễm nhiên chiến đấu được từng ấy hiệp cũng đã chứng tỏ là có một võ công tuyệt diệu trên đời hiếm có, nếu không có sự rèn luyện chu đáo và công phu luyện tập chân truyền thì không thể chịu được tới ba hiệp chớ đừng nói là tới hơn ba mươi hiệp.

Thiền sư là người có độ lượng, lại thương tài Trùng Dương nên không muốn chàng bị sát hại, toan cất tiếng khuyên Ngộ Thiện hòa thượng nới tay một chút thì không ngờ...

Ngộ Thiện hòa thượng quát lên một tiếng cực lớn, rung cây Long đầu Nguyệt Nha sản thành thế "Đạt Ma Triều Hải" phát vào ngang lưng Trùng Dương lẹ hơn chớp nháng.

Mọi người chung quanh thấy cây Sản của Ngộ Thiện hòa thượng sử dụng quá sức mau lẹ và dũng mãnh kinh hồn thì đinh ninh phen này dầu cho chàng thanh niên họ Vương kia có tài giỏi tới đâu đi nửa, cũng không sao thoát khỏi tử thần, nên đã có một vài người đã không giữ nổi bình tĩnh thốt lên một tiếng "Trời" nhưng ai nấy hết sức ngạc nhiên vì không ai có thể ngờ nổi.

Lúc đó cây Sản của Ngộ Thiện hòa thượng chỉ còn cách người Vương Trùng Dương một đường tơ kẽ tóc thì chàng đã đưa tay ra nắm lấy đầu cây Sản một cách hết sức nhẹ nhàng.

Sức mạnh của cây Sản có tới hàng mấy trăm căn lực không đè vào tay chàng coi như không, Trùng Dương ấn đầu cây Sản xuống đất, tay kia quất luôn cái đai lưng nhằm giữa ngực Ngộ Thiện hòa thượng chỉ thấy đánh vào một cái.

Ngộ Thiện hòa thượng tay còn đang rút cây Sản ra, thấy chiếc đai lưng bay vụt tới biết tránh không kịp nên Hòa thượng chuyển hết thần lực gồng mình ra hứng chịu không dè sức mạnh chiếc đai quá ư dũng mãnh, Ngộ Thiện hòa thượng bị đánh trúng ngực thấy rát như phải bỏng, đau nhói tới tâm can.

Nhờ họ Vương chỉ dùng một phần nội lực vì bản tâm của chàng không muốn gây thù kết oán nếu không chắc Ngộ Thiện hòa thượng không còn tính mạng.

Ngộ Thiện hòa thượng không bao giờ có thể ngờ chàng thanh niên họ Vương này bản lĩnh lại quá cao siêu như thế, bất giác giật nẩy mình, buông lỏng bàn tay.

Cây Nguyệt Nha sản đã bị Trùng Dương giật mất, nhưng chàng là người tử tế, thấy Ngộ Thiện hòa thượng là một cao thủ trong phái Thiếu Lâm có địa vị rất lớn trong võ giới, không thể để mất thể diện nhiều quá, nên chiếc đai lưng của chàng chỉ đánh phớt vào người Ngộ Thiện hòa thượng nhanh hơn chớp nhoáng, và chàng đã thu ngay chiếc đai lưng về, và khi mới giựt được cây Sản trong tay hòa thượng chàng đã trao trả lại lập tức.

Việc đó xảy ra nhanh không thể tưởng được, tất cả các vị hòa thượng trong chùa không đủ bản lĩnh cao siêu nên không trông thấy.

Chỉ riêng có vị Trưởng giáo là Tôn Trụ thiền sư và mấy vị trong Ngũ lão nhìn thấy mà thôi.

Vừa kinh ngạc vừa phẫn nộ, Ngộ Thiện hòa thượng không phân biệt trái phải, dùng một thế tối độc là Vân Huy Tam Vũ nhằm thẳng Vương Trùng Dương đánh tới ba miếng liên tiếp biến ảo không lường, chỉ thấy phát ra một luồng gió mạnh như cuồng phong tất cả những ngọn bạch lạp và đuốc ở trong La Hán đường bị sức gió của cây sản phát ra chập chờn như muốn tắt đủ hiểu sức mạnh ghê gớm đến thế nào.

Vương Trùng Dương không dè Ngộ Thiện hòa thượng không chịu phục thiện, đã được mình nương tay không quyết tâm nhục hạ, lại lấy đó làm căm mà dùng thế võ tối độc định hạ sát mình.

Bất giác, họ Vương cười lên một tiếng lớn, dùng khinh công tuyệt kỹ tung mình nhảy lên trên không, lẹ như con chim cắt tránh thoát, lúc trao xuống chàng đã vung rít cái đai lưng dùng thế "Kim Xà Hí Lãn" nhằm thẳng đầu Ngộ Thiện hòa thượng đánh tới.

Thế võ này là do cách sử dụng roi mềm biến chế ra, kho nào đã sự dụng thế võ từ trên cao lao mình xuống thấp là một sự rất nguy hiểm ngay trong kiếm thuật cũng chỉ có một thế "Kỷ Kích Bách Viên" trong bài "Việt Nữ Kiếm" mà thôi, nhưng cũng ít có người dám sử dụng.

Bởi thế cho nên Ngộ Thiện hòa thượng thấy Trùng Dương từ trên cao lao vụt xuống như con rắn thì hòa thượng cả mừng không một chút chậm trễ vùng ngay cây Sản lên dùng thế "Kiên Đảng Nhật Nguyệt" đánh thốc trở lên.

Ngờ đâu cây Nguyệt Nha sản vừa chạm vào chiếc đai lưng của họ Vương, Ngộ Thiện hòa thượng cảm thấy như tay mình đánh vào một khối sắt năng hàng mấy nghìn cân, bai hổ khẩu tê buốt, cây Sản không đủ sức chống chọi đã chúc đầu xuống đất.

Vừa lúc ấy bàn chân của Trùng Dương ở trên cao lao tới dậm ngay vào đầu cây Nguyệt Nha sản, chỉ nghe thấy đánh xoảng một tiếng cây Nguyệt Nha sản đã xuyên qua hai phiến đá lát sân ở La Hán đường cắm sâu xuống đất.

Trùng Dương thối lui lại mấy bước cung kính chắp tay cúi đầu thưa :

- Được đại sư rộng lượng nương tay, tiểu sinh xin bái phục.

Ngộ Thiện hòa thượng thẹn đỏ mặt, vận động nội công rút cây Nha nguyệt sản về, chỉ nghe thấy hai tiếng "lốp bốp" vang lên.

Hai miếng đá xanh bị Nguyệt Nha sản cắm ngập đã tan ra làm mấy mảnh bụi bay mù mịt.

Tất cả các vị hòa thượng đứng coi hết thảy đều lắc đầu lè lưỡi khiếp phục thay cho bản lĩnh của chàng thanh niên họ Vương và cũng không ai đoán được chàng là một nhân vật ở phái nào mà võ công lại cao cường đến như thế

Ngộ Thiện hòa thượng liệng cây Nguyệt Nha sản xuống sàn La Hán đường đánh xoảng một cái, thở dài nói to :

- Hết rồi, hết rồi, thật là uổng công cho bần tăng mấy chục năm trời vang danh trên giới võ lâm, không dè ngày nay bị thất bại bởi một tay kẻ hậu sinh, đâu còn xứng đáng nhận lãnh chức Hình đường Giám Sự nữa.

Nói xong Ngộ Thiện hòa thượng cúi đầu tạ tội với Tôn Trụ thiền sư và lủi thủi đi đến Đại Hùng bửu điện.

Tôn Trụ thiền sư không dè chàng thanh niên họ Vương có tài võ cong tuyệt kỹ đến như vậy, một lúc hạ luôn hai vị cao đồ trong Ngũ Lão của Thiếu Lâm tự thì trong lòng cũng lấy làm lạ lùng.

Tuy là một vị chủ trì ở trong chùa đã từ lâu không can thiệp đến việc hồng trần nhưng thấy môn phái của mình bị hạ như thế, dẫu sao cũng chạm vào lòng tự ái lão thiền sư đã đinh tự mình ra tay giải quyết để cứu vãn lại thanh danh của môn phái, thì Giám Tự Pháp Thắng đại sư đứng ở sau lưng thiền sư bước ra chắp tay cúi đầu nói :

- Xin Phương trượng cho tôi ra lĩnh giáo Vương thí chủ, để được biết bản lĩnh của họ Vương cao siêu tới bực nào.

Tôn Trụ thiền sư thấy Pháp Thắng chịu ra giao đấu thì trong lòng cũng hơi yên vì bản lãnh của Pháp Thắng còn cao hơn Ngộ Thiện hòa thượng một bực, và lại tự nghĩ rằng :

- Dù cho bản lĩnh của họ Vương có cao cường tới đâu chăng nữa nhưng với số tuổi tác còn trẻ thì dù cho họ Vương có tập luyện võ công từ nhỏ cũng còn kém Pháp Thắng đại sư mấy chục năm rèn luyện.

Nên lấy làm bằng lòng gật đầu nói :

- Được lắm, sự đệ hãy thử giao đấu xem sao.

Pháp Thắng đại sư chấp tay vào ngực nói với Trùng Dương :

- Mô Phật, không dè Vương thí chủ tuổi trẻ mà tài cao, khiến cho bần tăng nầy lấy làm hâm mộ, tuy tự lượng bất tài nhưng cũng xin ra lĩnh giáo thí chủ vài miếng chưởng pháp.

Trùng Dương thấy Pháp Thắng đại sư râu mày trắng như tuyết, dáng điệu nghiêm trang, mắt sáng như điện, da đỏ hồng hào, thì biết là một vị sư đắc đạo cao tăng tự nghĩ :

- Bản tâm ta chẳng phải đến đây gây sự, nhưng vì bắt buộc phải tự vệ không dè một lúc chàng đã hạ hai vị cao đồ trong Thiếu Lâm tự, như thế thật là cũng quá lắm rồi.

Nên chàng cũng vội vàng vòng tay cúi đầu cung kính thưa :

- Dám bẩm Đại sư, tiểu sinh tài lực có là bao nhiêu, nhờ được sự nương tay của liệt vị đại đức nên không bị uổng mạng là may lắm, đâu còn dám cùng đại sư công khai giao đấu.

Pháp Thắng đại sư nghiêm nét mặt nói :

- Mô Phật, xin thí chủ chớ quá khiêm nhượng hãy cho bần tăng lãnh giáo vài ngón quyền cước.

Bất đắc dĩ, Trùng Dương đành phải thủ thế và nói :

- Tiểu sinh đã hết lòng từ chối mà đại sư quyết chẳng nghe theo, buộc lòng tiểu sinh phải tự bảo vệ, xin đại sư thứ cho tội phạm thượng.

Pháp Thắng đại sư ngắm nhìn tư thế của Trùng Dương đứng thì lấy làm ngờ vực vô cùng, phái Thiếu Lâm hay Võ Đang phái cũng vậy đều dùng Võ Đang trường quyền, vả lại xưa nay phái võ nào cũng dùng thế "Cao Tứ Bình" hay là "Đảo Kỳ Long".

Nhưng thanh niên họ Vương không thủ như vậy, mà lại đứng bất đinh bất bát, hai tay thu lại đưa lên ngang ức chẳng giống phái Võ Đang cũng không ra Thái Cực, Pháp Thắng đại sư ngắm nghía một phút bỗng cất tiếng hỏi :

- Vương thí chủ, chẳng hay thí chủ thuộc môn phái nào, theo con mắt nhận xét của lão tăng thì quyết thí chủ chẳng phải môn đồ của phái Võ Đang. Chẳng hay kỳ tôn là ai, xin cho bần tăng được rõ.

Trùng Dương trong lòng rất thầm phục Pháp Thắng đại sư nhận xét rất tinh tế. Nhưng không muốn nói rõ môn phái của mình ra theo như lời căn dặn của sự phụ, nên chàng mỉm cười thưa :

- Quả thật tiểu sinh chẳng học riêng một môn phái nào nên chẳng dám để quyết vị nào là sự phụ, xin đại sư miễn chấp. Vả chăng từ đầu tới cuối tiểu sinh vẫn nói là không phải phái Võ Đang nhưng liệt vị cứ để quyết cho tiểu sinh là môn đồ của phái võ đó, thật tình tiểu sinh chẳng phải là môn đồ của danh sự nào cả.

Thấy Trùng Dương khăng khăng, nhất quyết không nói rõ mình ở môn phái nào thì Pháp Thắng đại sư đỏ bừng mặt cả giận nói :

- Được nếu thí chủ không chịu nói, thì chỉ giao đấu chừng ba hiệp bần tăng cũng có thể đoán được thì chủ ở môn phái nào.

Nói dứt lời Pháp Thắng đại sư dùng thế "Thần Long Bố Thủ" một miếng võ trong bài "Thiếu Lâm thần quyền" nhắm ngay giữa ngực Trùng Dương phóng ra một chưởng, một trận cuồng phong theo chưởng pháp bay ra, sức mạnh như vũ bão.

Trùng Dương vội nhảy lùi lại sau mấy bước, cong mình vái chao, người cúi rạp xuống gần mặt đấy đồng thời phất hai tay áo nhắm trung lộ Pháp Thắng đại sư phóng tới, chỉ nghe thấy hai tiếng vù vù cản bật chưởng phong của đại sư trở lại.

Pháp Thắng đại sư thấy chàng xuất lộ lạ lùng như vậy, lập tức làm cong năm ngón tay lại như móng chim ó xuất luôn thế "Thiếu Lâm Ó Trảo Công" giơ tay muốn chộp luôn lấy tay áo của họ Vương.

Không dè họ Vương thân pháp lanh lẹ khôn cùng, chỉ thấy chàng quay ngắt mình một cái, tay trái quay một vòng tròn ở trên đầu, đồng thời tay áo mặt bỗng vút nhanh như tên bắn nhằm mặt đại sư phất tới.

Trông tuy nhẹ nhàng nhưng chưởng phong thật là ghê gớm, phát ra một luồng gió nóng bỏng. Pháp Thắng đại sư giật mình cả sợ vội dùng thế "Thiết Bản Kiều" hạ bán thân không cử động, thượng bán thân ngã rạp về đằng sau, nhường cho chưởng pháp của họ Vương bay qua, bỗng thấy Vương Trùng Dương đã quay tít người đi, lưng hướng về Pháp Thắng đại sư.

Pháp Thắng đại sư càng hết sức kinh ngạc đã mấy chục năm trời huấn luyện võ công, đã từng giao đấu rất nhiều mà đại sư chưa hề thấy ai xuất thỉ lạ lùng như thế, bèn vội dùng một thế "Kim Pháp Thám Trảo" đánh thẳng ra, bỗng thấy đánh ào một cái, một trận cuồng phong tự trong tay áo của Trùng Dương từ trên bay tới, lại từ dưới bay lên như hai con rắn độc cuốn vào hai bên ức.

Thế võ lạ lùng này, Pháp Thắng đại sư chẳng bao giờ nghĩ tới, tự nghĩ mình đã tập luyện nội công luôn mấy chục năm trời, có thể nói là đã tới trình độ cao thâm dù cho có trúng tay áo phất này cũng chẳng nhằm gì bèn đưa luôn hai tay chụp lấy.

Nào ngờ, chỉ nghe thấy hai tiếng "phật, phật" hai tay đại sư đã bị tay áo đánh trúng, Pháp Thắng đại sư thấy nơi bị đánh tê buốt, thì hoảng nhiên giật mình tỉnh ngộ, chỉ một ly nữa, họ Vương đánh trúng huyệt đạo đại sư thì thật là nguy hiểm. Tuy vậy Pháp Thắng đại sư cũng thấy người choáng váng lao đao suýt ngã.

Trùng Dương đã dùng luôn thế "Kim Lý Xuyên Ba" lao mình vọt ra ngoài và nói :

- Đã ngoài ba hiệp lão thiền sư có thể nhận ra tiểu sinh ở phái nào chăng?

Pháp Thắng đại sư thấy hồ nãy mình có nói lớn lối là sẽ đoán được chàng thanh niên họ Vương này ở trong phái võ nào trong ba hiệp, không ngờ đã chẳng rõ ở môn phái chi, lại ỷ y mình võ công thượng thặng không thèm né tránh tự đưa người đỡ hai tay áo phất của chàng suýt nữa thì còn chi là danh dự (Thực ra Trùng Dương dùng thế võ đó chính là thế "Thủy Tụ Lưu Vân" của Toàn Chân phái nhưng chàng giấu hai tay ở trong tay áo, đồng thời lại hơi chế biến khác đi một chút nên Pháp Thắng đại sư có học cao biết rộng tới đâu cũng không làm sao đoán nổi).

Đại sư nén giận không nổi quát lớn :

- Tiểu tử vô lễ dám trêu ghẹo cả bần tăng.

Vừa nói dứt lời Pháp Thắng đại sư vận dụng công phu dùng "Thiếu Lâm trường quyền" đánh ra một chưởng chỉ nghe thấy tiếng gió nổi lên một hơi nóng ngùn ngụt. Chưởng phong đánh ra có một sức nóng và phát ra như một trận cuồng phong thì biết rằng bản lĩnh của đại sư đã tới kỳ thâm hậu tuyệt kỹ nên chẳng dám coi thường nữa, vội tọa rạp người xuống tránh, đồng thời cũng vũ lộng thần lực sử dụng bài "Thái Ất quyền pháp" của phái Toàn Chân ra đối địch, trông nào khác cho con rắn nước hơi dưới biển, lã lướt như nhánh liễu nghiêng mình trước gió biến ảo khôn lường.

Tôn Trụ thiền sư ở ngoài quan sát, trông thấy rõ ràng bèn nói to :

- Vương thí chủ, té ra ngươi là môn đồ của phái Toàn Chân.

Tôn Trụ thiền sư thật không hổ danh là Trưởng giáo Phương trượng của Thiếu Lâm tự chỉ mới thấy Vương Trùng Dương sử dụng một phần bí pháp của phái Toàn Chân đã hiểu rõ ngay.

Thiền sư nói chưa dứt lời, bỗng nhiên thấy ở cửa chùa vang lên mấy tiếng chuông, Tôn Trụ thiền sư ngạc nhiên chẳng biết có chuyện gì, đã thấy có bốn vị hòa thượng chạy vào thưa lớn :

- Thưa Phương trượng ở ngoài thiền môn có một vị tự xưng là Thanh Hư chân nhân xin vào yết kiến, xin Phương trượng định đoạt.

Thanh Hư chân nhân ẩn cư tại Thái Thất Sơn trong hang "Bách Cầm" cách Thiếu Lâm tự chỉ có một ngọn núi, dĩ nhiên Tôn Trụ thiền sư đều biết rõ, nhưng Thanh Hư chân nhân ngày ngày thường đi du lịch khắp mọi nơi tuyệt nhiên không hề đến Thiếu Thất Sơn và cũng không hề giao du với hòa thượng trong Thiếu Lâm tự, nên mọi người ai cũng tưởng ông ta là một tu sĩ tầm thường chứ có dè đây ông ta chính là Chưởng môn phái Toàn Chân.

Tôn Trụ thiền sư nghe báo như vậy còn đang lấy làm ngạc nhiên phân vân chưa biết quyết định thì Trùng Dương nghe tiếng vội nhảy vọt ra ngoài và nói lớn :

- Xin đại sư hãy ngừng tay, sự phụ tôi đã tới đó.

Chàng vừa thốt xong câu nói thì toàn thể môn đồ của Thiếu Lâm tự đều giật mình kinh ngạc không ngờ người đạo sĩ của Thái Thất Sơn là Thanh Hư chân nhân ngày thường chẳng ai thấy ông luyện tập võ nghệ bao giờ nay thốt nhiên thấy ông có một đồ đệ còn tuổi trẻ mà công phu đã quá cao siêu.

Lúc đó Pháp Thắng đại sư đã mang hết tài lực bình sinh quyết áp đảo kỳ được Trùng Dương nào ngờ liên tiếp đến mấy chục hiệp vẫn bất phân thắng bại.

Tuy thấy Trùng Dương đã nhảy ra khỏi vòng chiến và kêu xin ngừng tay, nhưng trong lúc tức giận Pháp Thắng đại sư không nghe tung mình đuổi theo quát to :

- Dù cho sư phụ mi tới đây cũng không sao, ta phải quyết cho mi một vài quyền để trị tội mi đã cả gan phạm thượng.

Vừa nói dứt lời, Pháp Thắng đại sư quay tít tay quyền phóng một lúc luôn bốn chưởng, đinh ninh phen này dẫu cho họ Vương bản lĩnh có cao siêu đến đâu, cũng không sao thoát khỏi, chỉ thấy một luồng gió lốc bay ra, bụi bay mù mịt, nhằm khắp bốn phía Trùng Dương công kích mãnh liệt.

Không dè bản lĩnh của Trùng Dương đã tới kỳ tuyệt diệu, thân pháp chàng nhanh nhẹn biến ảo vô lường chỉ thấy chàng thoăn thoắt tránh đông né tây. Chẳng những đã tránh khỏi sự tấn công dữ dội của Pháp Thắng đại sư mà chàng còn sử dụng một thế võ tuyệt kỹ là "Cắt Mai chỉ", đã điểm vào mạch môn hai tay của Pháp Thắng đại sư, vì không có dã tâm gây thù oán cho nên Trùng Dương không vận dụng hết toàn lực chỉ điểm nhẹ mà thôi.

Tuy nhiên hai mạch môn ở cách tay của đại sư của in hằn lên ngón tay đỏ như huyết và sưng vù lên, Pháp Thắng đại sư cả giận vung tay toan xông vào đánh nữa. Tôn Trụ thiền sư giơ tay ra hiệu ngăn lại và nói :

- Thôi hãy ngừng ta, nay đích thân sự phụ của Vương thí chủ tới đây thì ta dễ giải quyết.

Nói đoạn, thiền sư lại quay ra nói với mấy vị hòa thượng gác cửa rằng :

- Các ngươi hãy ra mời vị đạo trưởng đó vào Đại Hùng bảo điện, chúng ta sẽ ra đó nghênh tiếp.

Nói xong, Tôn Trụ thiền sư đưa tay ra hiện cho tất cả các môn đồ theo thiền sư ra Đại Hùng bảo điện, Vương Trùng Dương cũng nối gót theo sau.

Ra tới nơi đã thấy Thanh Hư chân nhân ở đó đợi rồi, hai bên đều chắp tay thi lễ, Trùng Dương vội cúi đầu làm lễ sư phụ đoạn đi ra đằng sau Thanh Hư chân nhân khoanh tay đứng hầu. Thanh Hư chân nhân khoan thai nghiêm chỉnh hỏi rằng :

- Kính thưa lão Phương trượng, tiểu đồ ba năm mới về Tùng Sơn một lần, chẳng hay đã có điều cho xúc phạm tới quí tự, mà bị người của quí tự chặn đường đón lối bắt ép tới đây để trừng phạt đó là vì cớ gì, xin lão Phương trượng chỉ bảo cho bần tăng đặng rõ.

Tôn Trụ thiền sư thấy Thanh Hư chân nhân đôi mắt sáng quắc, tiếng nói sang sảng, hai huyệt thái dương nổi cao thì biết không phải tu sĩ tầm thường, mà người đồ đệ của ông ta một lúc đã hạ cả ba môn đồ cao thủ của mình, nếu nay mình nhất đán cố chấp chưa chắc đã mang được phầm thắng lợi mà còn mang tiếng với võ lâm các giới, nên Thiền sư ôn tồn trả lời :

- Môn đồ của bần tăng thật là lỗ mãng không dè Vương thí chủ là cao đồ của Đạo trưởng nên trót xúc phạm nhưng cũng chưa có điều chi đáng tiếc xảy ra.

Thanh Hư chân nhân thấy Tôn Trụ thiền sư râu tóc bạc phơ, mà thân hình còn quắc thước, tiếng rổn rảng tỏ ra là một người có nội lực, công phu rất cao thâm, lại thấy Thiền sư nói năng lễ độ thì đem lòng ngưỡng mộ vội chấp tay vái dài rồi nói :

- Thật ra lỗi tại tiểu đồ, hậu sinh chưa biết oai danh của quí tự, nên đã mạo muội xúc phạm, cũng mong lão Phương trượng nể mặt bần đạo mà lượng thứ cho tiểu đồ.

Nói xong, Thanh Hư chân nhân quay lại trách quở Trùng Dương :

- Cũng may, các vị Thiền sư nương tay, nếu không thì thật uổng công ta dạy bảo.

Quở mắng xong, Thanh Hư chân nhân bắt Trùng Dương tạ tội với Tôn Trụ thiền sư. Tuân theo lời dạy của sư phụ Trùng Dương bước ra cúi đầu tạ tội với lão Phương trượng.

Tôn Trụ thiền sư nghe Thanh Hư chân nhân quở phạt đồ đệ và dùng lời lẽ khiêm nhường, thì cũng thấy hơi thẹn trong lòng gượng cười nói :

- Đây một phần lớn cũng do sự lỗ mãng của lũ tiểu tăng bản sự gây ra. Quý cao đồ có một bản lĩnh phi thường, thật là hậu sinh khả úy. Hôm nay bần tăng cũng có chút việc cần, không tiện lưu giữ Đạo trưởng, xin hẹn bữa khác. Đạo trưởng có đi qua xin ghé bản tự đàm đạo nhau nhiều hơn.

Thanh Hư chân nhân nghe nói biết ý Tôn Trụ thiền sư không muốn tiếp mình nên chắp tay cáo từ lão Phương trượng đáp lễ và sai tri khách tiễn hai thầy trò ra khỏi chùa.

Thanh Hư chân nhân và Trùng Dương đi khỏi chùa được hơn mười dặm, đến lúc không trông thấy bóng Thiếu Lâm tự đâu nữa, lúc đó Thanh Hư chân nhân mới hỏi Trùng Dương đầu đuôi câu chuyện, chàng vội kể lại cho Thanh Hư chân nhân nghe, nào là khi mới xuống núi gặp Âu Trần hòa thượng đón đường và một số hòa thượng ép buộc phải tới Thiếu Lâm tự, rồi chàng đánh ngã mười tám vị La Hán Mộc Nhân ra sao đồng thời hạ ba vị trong Ngũ lão của Thiếu Lâm tự thế nào, như dùng thần công bại Huệ Không, đại lưng phá Ngộ Thiện, chưởng pháp ghẹo Pháp Thắng thiền sư, nhất nhất kể hết cho Thanh Hư chân nhân nghe.

Thanh Hư chân nhân tươi nét mặt nói :

- Ta không ngờ võ công của con chóng tiến bộ như vậy, thực thầy cũng không ngờ Con hãy đi đến các tỉnh phía Nam xem xét, ba năm nữa con trở về thầy sẽ truyền thụ cho con môn "Nhất Dương chỉ" là môn tuyệt kỹ của phái Toàn Chân. Lúc đó, con có thể trở thành thiên hạ đệ nhất danh.

Trùng Dương ý muốn hòi thầy xem tại sao gọi là Nhất Dương chỉ, nhưng tự nghĩ ba năm nữa sư phụ sẽ truyền dạy cho mình. Lúc đó cũng chưa muộn, nên chàng bèn lạy tạ, từ biệt thầy, nhắm phía Nam thẳng tiến. Thanh Hư chân nhân cũng quay về hang Bách Cầm.

Lần này, Trùng Dương đi từ Bắc sang Nam. Thoạt tiên, chàng đi từ tỉnh Hà Nam tới Hồ Quang, du lãm những thắng cảnh danh tiếng như "Nam Nhạc Hành Sơn" rồi lại từ Hồ Nam vào Bách Nguyệt dào khắp các tỉnh: Xuyên, Điền, Quế... xem xét nhân tình, ngao du thắng cảnh Thấm thoát đã được ba năm, chàng lập tức quay về Tùng Sơn theo lời căn dặn của sư phụ, thẳng đường vào hang Bách Cầm để bái kiến Thanh Hư chân nhân, chàng bỗng thấy Châu Bá Thông từ trong hang bước ra, nước mắt đầm đìa, vừa đi vừa khóc...

Trùng Dương giật mình kinh hãi, vội chậm lại hỏi cho biết vì sao khóc lóc như vậy...

Xem tiếp hồi 4 Bể thạch động khổ luyện "Nhất Dương chỉ"

giả Kim Dung Thương Lan dịch

Hồi 4 Bể thạch động khổ luyện "Nhất Dương chỉ"

Vương Trùng Dương thấy Châu Bá Thông vừa đi vừa khóc thì trong lòng xiết bao kinh sợ. Chàng lo lắng hồi hộp, e có chuyện chẳng lành cho sư phụ, nên vội gọi Bá Thông giật giọng hỏi dồn :

- Sao vậy sư đệ! Có chuyện chẳng lành xảy ra mà em khóc lóc như thế?

Châu Bá Thông thấy Trùng Dương đón hỏi thì lại òa lên khóc rấm rứt, tức tửi rồi nói :

- Sư huynh ơi sư phụ đã đuổi tiểu đệ đi rồi!

Trùng Dương nghe xong thở dài một tiếng cực to như trút bỏ gánh nặng.

Chàng cả cười :

- Tại sao em lại bị sư phụ đuổi đi, chắc có làm điều gì phạm đến quy luật, nên thầy mới nóng giận. Thôi để ngu huynh vào xin thầy cho, hiền đệ hãy ở đây, đợi một lát xem sao.

Nói dứt lời Trùng Dương vào thẳng hang Bách Cầm vấn an sư phụ. Chàng thấy Thanh Hư chân nhân ngồi dưới gốc cây mặt đầy sắc giận, vội vàng sụp lạy.

Gặp mặt chàng Thanh Hư chân nhân đổi giận làm vui cho phép đứng dậy và hỏi :

- Trùng Dương con đã trở về đấy ư, may lắm...

Trùng Dương kính cẩn đứng dậy chắp tay thưa qua tự sự về ba năm trời du ngoạn các tỉnh phía nam, sau hết, mới tới gặp Châu Bá Thông vừa đi vừa khóc ở cửa hang...

Thanh Hư chân nhân nghe xong liền nói :

- Thằng súc sinh đó tính nết ngang ngược không thể dung dưỡng cho nó được. Nó sẽ làm hư danh môn phái của Toàn Chân mà thôi.

Trùng Dương cả sợ vội thưa :

- Chẳng hay Chu đệ của con làm điều chi mà để đến nỗi sư phụ tức giận đến như thế?

Thanh Hư chân nhân nghe hỏi nổi nóng :

- Thực là quá lắm! Thực là quá lắm! Càng nói ra càng thêm tức giận!...

Nguyên do... Châu Bá Thông nay đã hơn hai mươi tuổi mà tính nết vẫn nghịch ngợm.

Từ ngày theo Thanh Hư chân nhân ở trong hang động Bách Cầm rèn luyện võ công, và được nghe chuyện Trùng Dương hạ ba cao thủ Thiếu Lâm tự thì thích chí lắm. Bá Thông có ý muốn sang tỷ thí võ nghệ cho biết tài cao thấp với môn đồ Thiếu Lâm. Thanh Hư chân nhân biết ý hết lời khuyên dạy, Châu Bá Thông sợ thầy chẳng dám làm điều gì. Gần ba năm trôi qua không dè Châu Bá Thông đã gây sự chẳng lành cho hai môn phái.

Căm giận các môn đồ của phái Thiếu Lâm từ lâu, là những ngày gánh nước tại chùa, Bá Thông vẫn hậm hực trong lòng, gặp dịp may là Thanh Hư chân nhân xuống núi mua lương thực, dặn Bá Thông ở trong hang dọn dẹp. Châu Bá Thông đợi thầy đi khỏi mới tự nghĩ, nhân dịp này ta sang Thiếu Lâm tự quấy phá một phen và không xưng danh tánh thì ai biết đó vào đâu.

Nghĩ đoạn, Bá Thông lấy phân và nước tiểu tìm lá to gói vào một gói, đi thẳng tới trước cửa Thiếu Lâm tự. Đến chỗ thạch bia có đề mấy chữ "Từ Quan Phổ Chiếu", họ Chu mới tung mình nhảy lên một cành cây, cột gói nước tiểu và phân ở trên cao rồi vòng sợi dây xuống gốc cây, ngồi ở đó đợi.

Một lúc sau, có hai vị hòa thượng trong Thiếu Lâm tự gánh hai thùng rau cải qua, Bá Thông cầm hai hòn đá nhỏ nhắm đầu hai vị hòa thượng ném tới, những môn đồ của phái Thiếu Lâm người nào võ nghệ cũng cao cường, nên vừa thoáng nghe tiếng gió thổi biết là có ám khí cúi đầu xuống tránh. Lúc ngửng đầu lên thấy Bá Thông ngồi dưới gốc cây cười sằng sặc thì cả giận rút đòn gánh quát lớn :

- Súc sinh, thật là to gan, lớn mật, dám tới đây mà vuốt râu hùm.

Nói xong, hai hòa thượng đều múa đòn gánh chạy lại toan đánh.

Bá Thông lại ném tiếp luôn hai hòn đá nữa, hai người vội vàng cúi đầu xuống tránh, vừa đứng đúng ở gốc cây ngay dưới nước tiểu và phân.

Chỉ chờ có thế, chàng thiếu niên họ Chu giật mạnh cái dây, gói phân và nước tiểu vỡ tung tóe vào đầu và mình hai hòa thượng, không bao giờ có thể ngờ được, hai hòa thượng thét to lên một tiếng, vung đòn gánh nhằm Bá Thông đánh tới tấp.

Nghe đến đây, Trùng Dương không ngờ sư đệ của mình lại tinh nghịch đến thế, nhịn không được thốt nhiên bật tiếng cười, Thanh Hư chân nhân cả giận nói :

- Con lại còn cười à, thằng súc sinh làm ác như thế, nhục mạ hai vị hòa thượng. Họ đâu có chịu để yên.

Nói rồi, Thanh Hư chân nhân lại kể tiếp :

- Hai hòa thượng khi không bị một thằng tiểu tử nghịch quái ác, khắp người toàn phân và nước tiểu thối chịu không được, lồng lộn như con thú dữ, la hét om sòm nhằm người Bá Thông vụt ngang vụt dọc như mưa, không một chút nương tay.

Bá Thông bản tâm không định giao đấu với họ nên hết sức né tránh, vừa tránh vừa chạy miệng lại còn cười khúc khích. Khi nào chịu bỏ, hai hòa thượng quyết đuổi bắt cho kỳ được và trị một trận nên thân mới nghe. Bá Thông dùng thuật phi hành chạy từ núi này qua núi nọ, từ Thiếu Thất sơn.

Lúc này ở dưới chân núi có bốn hòa thượng, cũng ở trong Thiếu Lâm tự đang đốn củi, thấy tình hình như vậy, bất cần phải trái đồng ùa nhau chận đánh.

Bá Thông vẫn nhởn nhơ như không, liệng mình nhanh nhẹn như con én, thoăn thoắt khắp cành cây này sang cây khác, đu mình như con vượn, vun vút chạy đi, mồm cười ha hả. Sáu vị hòa thượng càng rượt càng tức, vừa đuổi vừa la vang rầm cả một khu rừng.

Vừa lúc đó Thanh Hư chân nhân về tới nơi, trông thấy tình hình như vậy thì biết ngay là do Bá Thông gây sự nên quát to lên.

Bá Thông tự nhiên thấy thầy mình xuất hiện, thì không còn hồn vía lính quýnh lăn mình từ trên cao xuống dưới đèo...

Trùng Dương nghe nói tới đó, thì vội lên tiếng :

- Thưa sư phụ, chẳng hay Chu đệ lăn xuống có bị thương không?

- Ta chẳng cần biết rằng nó bị thương hay không nhưng sáu vị hòa thượng thấy ta đều ngừng lại, mang đầu đuôi câu chuyện kể lại cho ta nghe và hỏi xem có phải Bá Thông là đồ đệ của chúng ta hay không? Ta đành phải nói: "Nó không phải là đồ đệ mà chỉ là một tên gia nô mà thôi", đồng thời ta cũng phải xin lỗi họ và hứa sẽ trừng trị tên súc sinh ấy một cách xứng đáng, họ mới bớt giận trở về nhưng dầu sao cũng không thể nào tránh được sự xích mích sau này.

Sau đó, Thanh Hư chân nhân trở về tới hang Bách Cầm cát tiếng gọi Bá Thông. Nhưng không thấy họ Chu đâu cả vì nó cũng biết rằng lúc đó đương lúc Thanh Hư chân nhân nóng giận thể nào cũng bị quở phạt.

Bá Thông ẩn trốn một chỗ. Sáng sớm hôm sau, Bá Thông hai tay cầm những trái khế chỉ rón rén đi vào dâng lên sư phụ để tạ tội. Thanh Hư tức giận đánh luôn hai cái tát. Bá Thông không dám tránh né, hai bên má sưng vù lên, đoạn Thanh Hư chân nhân đuổi Bá Thông ra khỏi hang Bách Cầm không cho ở lại nữa.

Trùng Dương cúi đầu nhìn xuống đất quả nhiên có mấy trái khế bị vỡ nát tung tóe dưới đất, còn mấy trái nữa cắm sâu vào thân cây, thì chàng biết sư phụ tức giận đến thế nào.

Chàng vội quỳ xuống thưa :

- Xin sư phụ bớt nóng giận, Bá Thông vì tính nết hãy còn trẻ con ưa tinh nghịch, chứ không có tâm địa xấu. xin tha cho một lần, bắt ở trong hang một năm không cho rời khỏi ra ngoài, coi tính nết có thay đổi không rồi sẽ quyết định.

Thanh Hư chân nhân lúc đó cũng bớt giận nên gật đầu.

Trùng Dương đứng lên ra ngoài cửa hang thấy Bá Thông hãy còn khóc thút thít, chàng bước gần tới nơi vỗ vai nói :

- Thôi thôi! Nín đi, sư phụ đã tha tội cho sư đệ, mau mau vào tạ tội thầy, nhớ lần sau không tinh nghịch như thế nữa.

Bá Thông nghe thấy sư huynh nói: Sư phụ đã tha tội cho mình, thì vui mừng hết sức lau khô hai hàng nước mắt nhoẻn ngay một nụ cười hấp tấp, toan chạy vào thì Vương Trùng Dương giữ lại nói :

- Tuy vậy, sư phụ mới chỉ biết tha tội cho sư đệ thôi. Còn sự trục xuất ra khỏi môn phái, sư phụ chưa thu hồi mệnh lệnh, và phạt giam em một năm trong hang Bách Cầm để xét tính nết và hành vi sư đệ có chịu biến cải hay không, rồi sau mới quyết định. Sư đệ phải liệu, nếu không sư phụ nổi nóng lên, thì ngu huynh cũng đành chịu.

Nghe xong Bá Thông cả sợ lại òa lên khóc, nước mắt như mưa. Trùng Dương thấy tình hình như vậy cũng thương hại nói :

- Thôi hãy nín đi vào xem sư phụ dạy bảo ra sao đã.

Bá Thông đành lau nước mắt riu ríu theo Trùng Dương vào hang cúi lạy sư phụ xin tha tội. Thanh Hư chân nhân trách móc mấy câu, rồi quay lại nói với Trùng Dương :

- Lần này, thầy sẽ truyền cho con môn "Nhất Dương chỉ công". Một môn tuyệt kỹ của Toàn Chân phái, mà con có biết Nhất Dương chỉ công là gì không?

Trùng Dương vội thưa rằng :

- Đệ tử ngu dốt, nhưng không biết môn võ công này có giống như môn Nhất Chỉ thiền công hay là "Kim Cương chỉ công" của các môn phái khác không?

Thanh Hư chân nhân lắc đầu nói :

- Không phải, không phải, môn "Nhất Dương chỉ công" của Toàn Chân phái chúng ta khác hẳn với môn "Nhất Chỉ thiền công" và "Kim Cương chỉ công" nhiều lắm. Hai môn võ công kể trên, chỉ chú trọng về ngoại công thôi, môn Nhất Chỉ thiền công huấn luyện tới cao siêu đặt bảy quả trứng gà dưới đất, xếp liên tiếp nhau, chỉ dùng một ngón tay điểm vào quả thứ nhất thì sáu quả trứng kia cũng bể nát.

Trên võ lâm mọi người đều cho là tuyệt kỹ, nhưng thật ra giống như "Thiết Sa chưởng công" đáng vào đá vỡ tan như bột. Còn "Kim Cương chỉ công" thì có thể phá được "Kim Chung Chảo" và "Thiết Bố Sam". Chỉ lực có thể xuyên qua sắt, thủng qua đá, nhưng gặp một người nội công cao siêu làm cho bắp thịt biến cương thành nhu, tùy theo ý muốn thì "Kim Cương chỉ công" cũng thành vô dụng, duy chỉ có "Nhất Dương chỉ" của phái Toàn Chân thực là đoạt thiên địa, tạo hóa chi miên, uy lực rất lớn, hai thứ chỉ công ở trên so sánh thế nào được. Nhưng muốn luyện được "Nhất Dương chỉ" phải là một người có nội lực siêu phàm mới có thể thành tài được.

Thanh Hư chân nhân lại nói tiếp :

- "Nhất Dương chỉ công" hoàn toàn phải dùng khí của dương cương. Tức là dùng khí "Nguyên Nhân" và khí "Đan Điền" của con người tập trung vào đầu ngón tay, để cấu tạo thành. Nếu đã xuất thủ bất cứ địch nhân nội công có cao siêu đến đâu chăng nữa mà bị "Nhất Dương chỉ công" điểm phải thì mấy chục năm rèn luyện võ công đành bị phế bỏ hết cả.

Trùng Dương nghe qua thốt nhiên tỉnh ngộ bèn thưa với sư phụ :

- Như vậy môn Nhất Dương chỉ công này chỉ có hiệu quả khi điểm vào thân thể con người ta mà thôi có phải không? Dám thưa sư phụ...

Câu hỏi của Trùng Dương thật là đã thấu đáo rất nhiều vì đối với những người bản lãnh đã cao siêu nhất thủ, nhất động của đối phương đều biết trước, một quyền đưa ra, một thế cước đánh tới. Họ đều biết hư hay thực. Như vậy đối với một người bản lĩnh đã tới trình độ đó thì dễ gì tới gần họ để mà điểm ngón tay vào người.

Thanh Hư chân nhân nghe Trùng Dương nói như vậy thì có vẻ hài lòng tươi cười nói :

- Như thế là con đã thấu đáo được một phần nào môn "Nhất Dương chỉ công" là một môn võ công tuyệt diệu, nếu luyện tập được tới mức cao siêu ở trong vòng bảy thước có thể điểm trúng địch nhân, khiến cho kẻ địch vô phương chống đỡ, nhưng mỗi lần phải sử dụng tới môn "Nhất Dương chỉ công" này người sử dụng phải tiêu hao rất nhiều sinh lực, phải tĩnh dưỡng nhiều ngày mới có thể phục hồi nguyên khí.

- Bởi thế nếu không sự gì hết sức nguy hiểm, không thể sơ khoáng mà dụng tới, sau này nếu con có luyện thành công phải lưu ý.

Vương Trùng Dương lẳng lặng nghe lời thầy dạy một cách chú ý.

Kể từ ngày đó Thanh Hư chân nhân bắt đầu mang cách luyện tập môn Nhất Dương chỉ công truyền dạy cho Trùng Dương cách rèn luyện. Thứ võ công này là toàn sử dụng thứ Dương Cương Chí Kinh. Bất cứ lúc nào cũng phải vận dụng từ ngón tay phát ra.

Trước tiên, Thanh Hư chân nhân bắt đầu dạy cho chàng biết cách Vận Khí Thổ Nạp, cách "Vận Khí Thổ Nạp" của Toàn Chân phái, Vương Trùng Dương cũng đã khổ công rèn luyện nhiều năm rồi, nhưng lần này còn khó khăn hơn nhiều, phải làm sao cho Thiên, Địa, Nhân tam khí điều hành thành một uy lực thì "Nhất Dương chỉ" mới có thể hoàn toàn. Thanh Hư chân nhân bắt Trùng Dương vào sâu trong thạch động.

Động ở một chỗ thật kín đáo, chỉ còn dư lại một chỗ ngồi thật hẹp, lại dùng một tảng đá lớn che cửa hang lại. Lúc Châu Bá Thông mang đá che cửa hang thì cậu tự nghĩ :

- "Đây đâu có phải là luyện nội công, nói là tĩnh tọa thì đúng hơn".

Trùng Dương ngồi ở tận cùng hang đá kín đáo, mới đầu cảm thấy rất khó chịu, vì chẳng những hang đá đã hẹp lại ở sâu vào trong, thiếu hẳn khí trời và ánh sáng, nay lại còn lấy đá che đi nữa thì làm gì còn đủ dưỡng khí. Nếu người thường, ngồi độ nửa ngày bị ngộp thở mà chết.

Trùng Dương hết sức tuân theo lời chỉ dẫn của thầy, thở hít hô hấp, điều hòa có hạn định. Tuy vậy, nếu cứ đóng kín cửa hang như thế thì nhất định không sao chịu nổi.

Cũng may mỗi ngày. Châu Bá Thông lại mở cửa hang hai lần mang thức ăn vào cho Trùng Dương, lúc đó mới có những trận gió thổi tới mang theo không khí trong sạch ở ngoài vào và thổi bớt những uế trọc ở trong ra. Nhờ vậy sự hô hấp của Trùng Dương mới được khoan khoái một phần.

Liên tiếp như thế được bảy ngày, sang đến ngày thứ tám thì sự ăn uống của Trùng Dương bớt đi chỉ còn có một và sự di chuyển cửa hang cũng bớt đi một phần.

Đến lúc đó, Trùng Dương đã quen cái không khí và không cảm thấy khó chịu như lúc mới. Tuy rằng sự ăn uống giảm bớt nhưng Trùng Dương cảm thấy tinh thần rất sung túc.

Quang âm thấm thoắt ngày tháng như thoi đưa, chẳng mấy chốc đã được ba tháng trời, Trùng Dương chịu khổ cực tập luyện trong hang đá. Chàng bỗng nhiên thấy có một cảm giác rất kỳ dị, tuy ở trong hang đen tối như mực, nhưng Trùng Dương nhìn cảnh vật xung quanh thấy rõ ràng như ban ngày, có thể trông thấy hột cát dưới đất, đồng thời Phương Thôn Linh Đài, mười phần minh định, hai tai rất thính, mỗi một nhịp thở đều nghe rõ mồn một. Trùng Dương tự biết "Nội đơn" của mình đã luyện thành.

Chàng ở trong hang đá liền sáu tháng. Sáu tháng trời khổ luyện trong hang chẳng khác chi một vị hòa thượng khổ hạnh tĩnh tọa.

Từ lúc một ngày ăn một bữa, rồi dần tới hai ngày ăn một bữa, cho đến ba ngày ăn một bữa, đôi mắt và hai tai thật là linh thính. Có thể trông rõ những sự xê dịch của loài côn trùng, nghe muỗi bay ở tận đằng xa.

Lúc đó Trùng Dương tự biết môn "Nhất Dương chỉ công" của mình đã qua đợt thứ nhất.

Chàng liền ngồi xếp bằng tĩnh tọa, giơ ngón giữa và ngón tay trỏ nhằm giữa tảng đá phóng thẳng ra nghe một tiếng đánh "Toẹt" tấm đá đó đã di chuyển đi hai tấc.

Trùng Dương hết sức kinh ngạc tự nghĩ không dè mình mới dùng lần thứ nhất mà đã ghê gớm như vậy, bèn định thử lại một lần nữa xem sao, ngờ đâu những khí dương cương không tập trung được nữa. Chàng vội vận dụng nội công, vận khí thổ nạp liên tiếp thử mấy lần đều không có hiệu quả.

Chàng giật mình kinh hãi nhưng kịp tỉnh ngộ vì dùng "Nhất Dương chỉ công" trước tiên, trong lòng không được lo lắng gì và mỗi lần sử dụng phải rèn luyện lại ít ngày mới thu hồi được nguyên khí. Trùng Dương nghĩ tới đó thì xếp bằng tĩnh tọa hô hấp điều hòa thu hồi nguyên lực.

Hai ngày sau, Linh đài đã dần dần minh tinh, Trùng Dương mới vận dụng "Nhất Dương chỉ" đâm thẳng vào tảng đá, lần này uy lực vô cùng ghê gớm tảng đá đã bắn bắn xa tới bốn tấc.

Trùng Dương mừng quá muốn la lên, bỗng thấy hoa mày chóng mặt, muốn té ra ngất xỉu. Chàng cả kinh vội tụ lại nguyên khí, nhắm mắt định thần, hồi lâu mới hôi tỉnh, sực nhớ lại sư phụ đã căn dặn mỗi lần vận dụng "Nhất Dương chỉ công" là rất tốn kém nguyên thần phải nghỉ ngơi mấy ngày mới hoàn chân khí.

Trùng Dương vội tĩnh tọa, vận dụng lại nguyên khí trong toàn thân để cho lưu thông khắp cơ thể. Được một ngày một đêm, chàng đang ngồi tọa bỗng thoáng nghe thấy chân người nhè nhẹ bước tới, chàng chú ý lắng tai nghe thì nhận ngay ra tiếng bước chân của sư phụ. Chàng nghe rõ chân nhân nói :

- Trùng Dương thật là thiên địa kỳ tài trên đời hiếm có. Ta tưởng ít nhất nó phải khổ luyện hàng năm trời thì mới có thể thi được môn "Nhất Dương chỉ công", không dè mới có sáu tháng mà đã luyện được tới đợt thứ hai. Như thế chỉ ba tháng nữa nó có thể ra khỏi hang đá.

Trùng Dương nghe đến đây bỗng thấy tảng đá lại di chuyển che lấp cửa hang như trước, lại nghe thấy Châu Bá Thông hỏi :

- Thưa sư phụ, Vương sư huynh con đã bao ngày vất vả luyện tập môn Nhất Dương chỉ công, nay mới làm di chuyển được có sáu tấc mà sư phụ lại lấp đi, khiến cho sư huynh con phải mất bao nhiêu công lực nữa.

Nghe tiếng cười ha hả của chân nhân cắt ngang :

- Con biết gì? Không đến ba tháng nữa, sư huynh của con có thể làm cho tảng đá này đổ xuống đất. Tới lúc đó là "Đại công" đã thành rồi.

Trùng Dương nghe thấy tiếng chân hai sư đồ trở ra ngoài.

Nhớ lại lời sư phụ đã nói chỉ ba tháng sau mình đã thành công môn "Nhất Dương chỉ công" thì trong lòng biết bao vui mừng, phấn khởi.

Qua sai ngày sau, Trùng Dương lại ra tay thử một lần nữa, sau khi vận dụng "Nhất Dương chỉ công" chàng đâm thẳng váo phiến đá, nghe đánh soẹt một tiếng, phiến đá to lớn đã di chuyển sáu, bảy tấc mà hai lần trước chàng phải sử dụng đến hai lần mới được như thế, thì biết rằng công lực của mình đã tiến gấp đôi.

Như thế, cứ cách hai ngày Vương Trùng Dương lại sử dụng "Nhất Dương chỉ" một lần.

Một tháng sau, chàng đã có thể di chuyển tảng đá đi được chừng một thước, nhưng mỗi lần chàng di chuyển tảng đá thì Thanh Hư chân nhân lại mang tảng đá đặt về chỗ cũ.

Đến tháng thứ ba, Trùng Dương vận dụng "Nhất Dương chỉ" nhằm thẳng tảng đá đâm tới một tiếng đánh "Rầm" như trời long đất lở (ở trong hang thành ra tiếng vọng rất xa, cứ thấy rầm rầm như tiếng sấm vang rền, lên đến mấy phút) tảng đá đã đổ bắn sang bên. Thanh Hư chân nhân vui vẻ cất tiếng cười ha hả :

- Hay lắm! Hay lắm! Nhất Dương chỉ công con đã luyện thành.

Xem tiếp hồi 5 Đến Tây Sơn gặp đại hội ăn mày

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro