volamngubaZTS (54-64)

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Võ Lâm Ngũ Bá - Hồi 54 : Khói Lửa Phủ Hoa Sơn

Hoàng Dược Sư liên tiếp tấn công ra mấy chiêu Phách Không chưởng vẫn không di động được chiếc hộp Chân Kinh ra khỏi vị trí một phân hào nào, y không khỏi đỏ mặt tía tai, trong cơn nóng tính thuận chân đạp lên vị trí bát quái bước chân thoăn thoắt

khi tả lúc hữu, sử dụng liên tiếp chưởng pháp Phách Không, từng chưởng một chắc chắn như trái núi đẩy mạnh ra quét rà trên mặt đất mọi người ức thay chiếc hộp như mọc rể trên đá, chẳng chịu xê dịch đi đâu cả.

Hoàng Dược Sư tung một hơi trên mấy mươi "Phách không", rốt cuộc chỉ là công cốc, chỉ tốn hơi mệt sức mà chẳng ra tích sự gì, lúc ấy con người Đào Hoa Đào Chủ tâm tính cuồng ngạo bất khuất kia mới chịu nhìn nhận và khâm phục tuyệt học Nhất Dương Chỉ của Toàn Chân Giáo Chủ quả là công phu toàn bích của võ lâm, tài nghệ của y vẫn còn thua xa lắm.

Nên Hoàng Dược Sư lập tức thâu ngay tay chường, nhãy ra khỏi vòng đấu rồi cười lên ha hả và nói :

- Thần công tuyệt kỹ, phục lắm rồi !

Phục lắm rồi !

Trùng Dương sau một lần hiển lộng thêm kình lực Nhất Dương Chỉ, cảm thấy mỏi mệt vô cùng, chàng cố gượng cười và nói :

- Hoàng Đảo Chủ đã thưởng thức qua , còn Thất huynh và Đoàn huynh có ý muốn thử sức thêm nữa không ?

Đến Hoa Sơn luận kiếm lần này, trong Tứ Bá, trừ Âu Dương Phong là kẻ đối đầu duy nhứt của Trùng Dương đã bị loại ra thì có Hoàng Dược Sư, nhưng giờ đây y đã thật lòng khâm phục Trùng Dương rồi, còn Đoàn Hoàng Gia và Hồng Thất Công thì sẵn lòng kính phục Trùng Dương từ lâu.

Hai người đến tham dự cuộc đại hội này chẳng qua vì lời mời của Trùng Dương chứ chẳng có ý tranh đoạt Chân Kinh. Nên khi nghe Trùng Dương nói thế hai người lắc đầu mỉm cười và đồng đáp :

- Đâu lại có chuyện thế ! Chúng tôi đối với tài nghệ tuyệt kỹ của Vương huynh tự hỗ thầm mình chẳng bằng, nào còn dám bêu xấu trước mặt thánh nhân nữa ! Quyển Chân Kinh kia kể ra hoàn toàn thuộc về sở hữu của Vương Chân Nhân, nay một cách danh chánh ngôn thuận chẳng còn ai tranh tròn gì khác. Và chức Thiên Hạ Nhất Bá võ lâm cũng xứng đáng để tôn tặng Vương huynh lắm vậy !

Bốn người lần này liên tiếp so tài nhau bảy ngày bảy đêm, mỗi người lần lượt đấu nhau trên mười trận, Trùng Dương nhờ ở Nhất Dương Chỉ công phu bảo tồn được Cửu Âm Chân Kinh đến phút cuối cùng, còn danh dự được ngôi vị Nhất Bá Võ Lâm trong thiên hạ.

Bọn họ đều là nhân vật thoát tục, khoáng đạt hào hùng, thắng được chẳng kiêu, bị bại cũng chẳng lấy đó làm thù, chân chính khâm phục tài nghệ giữa nhau.

Hoàng Dược Sư nắm lấy bàn tay của Trùng Dương tỏ ý khâm phục của mình, y bỗng cảm thấy bàn tay của Trùng Dương lạnh như băng, không khỏi giật mình kinh hãi, vội đưa mắt quan sát sắc diện của chàng, rồi hốt hoảng lên tiếng :

- Không xong Vương Chân Nhân vì vận sức quá nhiều khiến tinh lực hư thoát ra ngoài, nhưng không sao tiểu đệ có mang thuốc bổ theo mình đây !

Nói đoạn, y lẹ làng móc trong người ra một chiếc túi lụa nhỏ, trong túi lóc nhóc nhưng viên thuốc lớn nhỏ như hột bắp, thân mật trao vào tay Trùng Dương và nói :

- Vương huynh, đây là những viên thuốc mà tiểu đệ đã dùng những mật tinh anh của trăm thứ hoa chế thành Cửu Hoa Ngọc Lộ hoàn này, tuy không phải là thánh dược nhưng cũng có thể trùng hồi nguyên khí, xin Vương huynh phục vài viên cho mau hồi sức lực.

Trùng Dương gượng cười đáp :

- Hoàng huynh thật là người lấy gan ruột để đối đải bạn bè !

Nói xong, chàng chẳng chút nghi ngại, ngước cổ lên, trút tất cả Cửu Hoa Ngọc Lộ Hoàn trong túi lụa kia vào miệng và nuốt hết.

Bốn người cung kính vái nhau một vái để kết tình thân mật xong, liền ngồi ngay xuống đất.

Đoàn Hoàng Gia nói :

- Chúng ta suýt chút nữa là quên mất Âu Dương huynh, cũng nên mời y đến đây để mọi người cỡi bỏ thù hằn, đổi thành tình bằng hữu giữa nhau vậy !

Hồng Thất Công mau mắn đứng dậy hưởng ứng :

- Phải đấy ! Để tôi đi gọi lão độc vật lên một thể.

Vừa dứt tiếng lão ăn mày đã nhãy phóc một cái mất dạng.

Một thời gian sau, Hồng Thất Công hỗn hển trở về, lắc đầu lia lịa đáp :

- Cái gã Âu Dương Phong thật là đồ chẳng có khí lượng chút nào, y sau khi bị thất bại lẳng lặng rút lui đi mất, tới ba con trùng thúi của y cũng được lùa đi từ lúc nào sạch bách chẳng còn một mống !

Trùng Dương nghe Âu Dương Phong đi không khỏi nét mặt sầm lại.

Đoàn Hoàng Gia lắc đầu than thở :

- Gã ấy tuy lòng dạ lang độc nhưng thực ra cũng là một kỳ tài của võ lâm, chỉ đáng tiếc không chịu học theo nẻo phải, bằng không cũng là một đóa hoa quí trên miền Tây Vực, kể ra cũng uổng thay !

Bốn người bịn rịn nhau trên đỉnh núi Hoa Sơn đến sáng hôm thứ tám,mới chịu phân tay trở về.

Lúc sắp cáo biệt, Đoàn Hoàng Gia nắm tay Trùng Dương dặn dò :

- Vương chưởng môn, từ nay đến mười năm sau, nếu tôn giá có du chơi miền Nam, xin ghé Đại Lý viếng thăm tệ quốc, tiểu vương tuy quê mùa, nhưng cũng có thể tận tình chủ khách được.

Trùng Dương cười xòa đáp :

- Nhớ lại năm xưa bình loạn trong cung, đến nay đã trên mười năm rồi, đời người như kiếp phù du, ngẫm lại chẳng còn bao lâu nữa, cảm thịnh tình mời mọc, bần đạo quyết thế nào cũng vân du một chuyến đến đất Nam, lúc ấy ta sẽ lại gặp nhau vậy .

Hoàng Dược Sư cũng khách sáo, cũng thỉnh mời Trùng Dương đến Đào Hoa Đảo chơi thêm một phen nữa.

Chỉ có Hồng Thất Công xoa tay cười ha hả và nói :

- Vương Chân Nhân, Đoàn Hoàng Gia là vua của một nước, Hoàng huynh là một vị chúa đảo ngoài biển, hai người đều là bực sang giàu, có dinh gia cơ nghiệp, chỉ có lão ăn mày nầy nghèo xơ kiết xác chiếu đất màn trời, bốn bể là nhà, còn nơi nào mà mời Vương huynh được, chẳng lẽ mời ông đi ăn cơm thừa canh cặn của thiên hạ sao ?

Chỉ còn cách là lão ăn mày lết đít đến ăn chực ở núi Tung Sơn là phải hơn ?

Mọi người đều cười xòa lên một trận rồi mới chịu phân tay.

Qua trận so tài trên danh Hoa Sơn vừa rồi, Trùng Dương đã xem Âu Dương Phong là mối đại họa cho võ lâm sau này nên sau khi trở về Tung Sơn chàng ngầm suy nghĩ để tìm phương pháp khống chế y.

Riêng Hoàng Dược Sư từ lúc đại hội Hoa Sơn luận kiếm trở về, dọc đường cử khắc khoải về quyển Cửu Âm Chân Kinh không thể về tay mình trong bụng dàu dàu không vui. Chàng quyết định về đến đảo Đào Hoa là bế môn khổ luyện võ học đúng mười năm, sẽ trở lại Trung Nguyên tìm một cơ hội, tổ chức giống như hội Hoa Sơn vừa qua để cùng Trùng Dương tái quyết một phen sống mái.

Lủi thủi dặm trường ngày đi đêm nghỉ, không đầy một tháng là đã từ miền cát vàng hiu quanh ở Tần Trung trở về đến Giang Nam phong quanh thịnh mậu.

Lúc Ngũ Bá họp nhau trên Hoa Sơn thì thời tiết vào độ tàn đông cuối tháng chạp, mà khi Hoàng Dược Sư trở về đến Giang Nam là đã bước qua lúc mùa Xuân tháng hai, hoa thơm hồng tím, cỏ mượt bờ đường.

Hoàng Dược Sư tuy tánh tình cao ngạo, nhưng là một người phóng khoáng thanh cao, từ nhỏ đã giữ giới đạo gia, kinh luân dù đầy bụng anh tài, song chẳng thích mùi công danh phú quý, dấn thân theo phường ô trọc quan liêu. Chỉ ưa thú lâm tuyền, cam thân theo lối sống ngao du hồ hải, lấ mai hạc làm bạn tri tâm, một mình ẩn cư trên hòn đảo Đào Hoa, tự gây dựng thành một võ phái biệt lập.

Hận vì sư trưởng chết quá sớm, thiếu người chỉ điểm trui rèn, bản lĩnh dù tinh thông tuyệt thế nhưng vẫn không thể đạt đến mức độ thượng thặng vô địch.

Lần này đến dự hội Hoa Sơn luận kiếm tưởng đâu có thể đoạt được kinh quí võ lâm đem về đảo Đào Hoa để nghiên cứu tinh tường thêm bản lĩnh. Nào ngờ tài nghệ Trùng Dương quá siêu việt, không những được ngôi vị Thiên Hạ Đệ Nhất Bá mà cho đến quyển Cửu Âm Chân Kinh cũng về tay Trùng Dương cất giữ.

Hoàng Dược Sư buồn ý trở lại phương Nam, khi đi ngang qua trấn Ô Kiều nằm trong khu vực Ngũ Hồ thấy chợ búa tiêu điều, vườn hoang khói lạnh, biết rõ đấy là thành tích cướp đoạt của đoàn quân Kim xâm lược để lại. Trong lòng đang lúc muôn vàn cảm khái, chợt thấy từ trong vòng thành thị trấn, bá tánh lũ năm lũ bảy, bồng bế con thơ, gồng gánh nồi niêu, người nào mặt mày cũng ủ rũ tiều tụy, dắt díu nhau ra khỏi thành, xem tình hình dường như sắp sửa thiên cư nơi khác.

Một vài gia đình dời đi nơi khác thì là chuyện thường chẳng có gì đáng nói nhưng đàng này cả mấy trăm người cùng thiên cư một lượt, tất nhiên là có chuyện quan trọng xảy ra cho mọi người.

Vả lại, dân quê vốn quen tánh an phận lạc cư ít khi chịu rời xa quê xứ, nếu chẳng có biến cố hệ trọng xảy ra, dễ gì không duyên không cớ lại chịu xa lìa mảnh đất thân yêu của họ !

Hoàng Dược Sư rất phân vân nghi ngại, liền đón đường mọi người lại và hỏi :

- Xin các vị nhín chút thời gian cho tôi hỏi thăm một chút, tại sao các vị toàn một thôn trấn lại thiên cư tất cả, chẳng hay định dọn đến đâu vậy ?

Một cụ già tóc râu bạc phếu thấy Hoàng Dược Sư ăn mặc theo lối văn nhân tu sĩ, bèn thở dài một tiếng và nói :

- Tướng công là người đọc sách, đâu có hiểu được bao nhiêu tình tệ đã xảy ra gần đây. Chúng tôi bị cọp dử bức bách đến đổi không thể ẩn thân, chỉ dành dọn đi nơi khác tha phương cầu thực đấy thôi.

Hoàng Dược Sư kinh ngạc hỏi :

- Sao lại có cọp dử ? Nơi đây thuộc về khu vực Thái Hồ, mênh mông sóng nước, chứ đâu phải núi cao rừng rậm, làm gì lại có cọp hại các vị đến phải lìa quê bỏ xứ được ?

Cụ gìa nói chuyện với Hoàng Dược Sư lúc nãy ngồi ghế trên chiếc cảng xe cây, bên cạnh cụ có một đứa bé trai độ bảy tám tuổi rất kháu khỉnh mắt sáng mày thanh, hớt lời cụ gìa đáp :

- Tướng công, không phải loại hổ dử ở núi sâu hại chúng tôi mà chính Ngũ Hổ ở trong Thái Hồ kìa.

Vài người lớn đứng bên cạnh cậu bé, sợ hãi, lên tiếng mắng át :

- Con nít, con nôi chẳng biết lợi hại, dại mồm nói bậy không nên !

Hoàng Dược Sư tươi cười đáp :

- Thái Hồ Ngũ Hổ à ! Tôi biết rồi, chắc là những hảo hán trong Thái Hồ đấy chứ gì ?

Cụ gìa lúc nãy liền lên tiếng :

- Tướng công hiểu được là đủ rồi xin cho chúng tôi đi kẻo trễ vì trời đã tối, nếu để Ngũ Hổ dắt quân từ trong hồ ra sát hại thì chúng tôi chẳng còn mạng đấy.

Hoàng Dược Sư cười ha hả nói :

- Loại thủy khấu lắt nhắt ấy có đáng gì mà sợ đến thế ? Các vị khỏi cần dọn nhà đi nơi nào, tôi sẽ giúp quí vị chế ngự quân cường đạo ấy cho !

Mọi người nhìn thấy Hoàng Dược Sư bộ vó nho sinh mà dám ăn nói lớn lối như thế, đều kinh ngạc sững sờ trố mắt nhìn chàng như nhìn một kỳ quan trong thiên hạ và xầm xì lẫn nhau :

- Tên học trò khùng này đúng là đang nổi cơn điên, gã chẳng biết sự lợi hại của Ngũ Hổ Đại Vương khắp khu vực Thái Hồ này chăng ?

Hoàng Dược Sư cười nhạt và bảo mọi nói :

- Ngũ Hổ Đại Vương là cái quái gì mà quí vị quá sợ như thế ? Các người chẳng tin bản lãnh của tôi có thể bảo hộ các người được sao ? Hãy xem đây !

Nói đoạn chàng chỉ tay về phía một cây Ô Bá cách đấy không xa. Ngọn cổ thụ Ô Bá ấy bề kính trên nửa thước, thân cây cao trên hai trượng mọc sừng sững bên đường.

Hoàng Dược Sư nhấc chưởng trái lên và quát lớn như sấm :

- Ngã này !

Miệng quát, tay đã ngầm vận sức mạnh của Phách Không Chưởng chậm chậm đẩy ra "ầm !" một tiếng đổ vang tai đinh ốc, tức thì cây cổ thụ liền ngã xuống bên vệ đường gốc rể cũng đều bị bật lên khỏi mặt đất, cát bay văng tua tủa khắp nơi, cành lá đổ xuống rào rào như mưa trút.

Đám người ấy thấy Hoàng Dược Sư đứng cách gốc cổ thụ trên một trượng xa, mà chỉ một chưởng nhẹ nhàng, xô ngã được thân cây to lớn như thế, đến gốc rể cũng bị nhổ lên khỏi mặt đất, mọi người đều khiếp đảm sững sờ đứng trơ ra đấy.

Hoàng Dược Sư lại ung dung lên tiếng :

- Các người đã thấy rõ chưa ? Liệu tôi có đủ sức bảo vệ các người không ?

Trong đám người nỗi lên tiếng xầm xì bàn tán rồi từ trong đám đông có vài vị khá tuổi bước ra vòng tay vái Hoàng Dược Sư một vái sát đất và nói :

- Tiên sinh quả là một vĩ nhân, tài năng siêu thế, chúng tôi có mắt mà chẳng nhìn thấy Thái sơn , vậy quí danh là chi ?

Hoàng Dược Sư cười nhạt đáp :

- Tôi họ Hoàng, tên thì đã quên mất rồi, các vị cũng chẳng cần biết làm gì ? Tôi giúp quí vị san bằng bất công, đôi phó với đám Ngũ Hổ ở Thái Hồ là được rồi.

Nhóm người ấy liền thuật cho Hoàng Dược Sư rõ mọi việc.

Thì ra Ô Kiều, thị trấn này thuộc về vùng cai trị của huyện Nghi Hưng nằm cách xa Thái Hồ không đầy năm dặm. Trong trấn có một ngàn nóc gia, sinh hoạt cũng khá thịnh vượng, từ khi nhà Tống vượt sông Thiên Đô về miền Nam. Ô Kiều trấn liên tiếp hai phen trải qua cuộc xâm lược cướp bóc của đoàn quân Kim, dân cư hơn chín phần mười đều vong gia bại sản, cho đến mười năm sau mới dần dần khôi phục được phần nào sinh lực cũ, nhưng nhân khẫu đã giảm bớt so với thuở trước chỉ còn độ phân nửa mà thôi.

Nhưng từ nửa năm nay, nơi Động Đình sơn phía Đông của Thái Hồ bỗng nổi lên một dám thủy khấu. Nghe đồn đám thủy khấu ấy là dư đảng cướp sông của Trường Giang Bang, chẳng hiểu vì sao lại di cư đến miền Thái Hồ này, sát nhập dám đầu trộm đuôi cướp ở vùng Thái Hồ về một mối, chuyên việc cướp của đốt nhà, giết người đoạt vật, cầm đầu bọn chúng là Bạch Các Hổ Thường Thông, đầu lĩnh thứ hai Huỳnh Diện Hổ Tang Nhân, thứ ba Xích Mao Hổ Hoắc Cang Thương, thứ tư Diện Hổ Tiêu Tín, đầu lĩnh thứ năm là một nữ tặc tên Yêu Chỉ Hổ Tử Tú Anh, vốn là vợ của đại đầu lĩnh Thường Thông.

Ngũ Hổ lúc mới đến chiếm cứ Thái Hồ, ban đầu bất quá chỉ bắt đám ngư dân xung quanh phải đóng góp tiền bạc cho chúng.

Những đám dân chài chất phát sinh sống ven bờ hồ kia vì sống nơi hẻo lánh xa chốn quan quyền bé cổ kêu chẳng thấu tai trời, nên đành thắt lưng buộc bụng, cung dâng cá thịt cho chúng để yên ổn làm ăn.

Nhưng lòng tham của bọn Ngũ Hổ thật vô đáy, thấy quan phủ không làm gì được mình, càng lúc chúng càng ngang dọc thêm hơn, ngang nhiên khủng bố công khai nhân dân khắp năm thị trấn nằm ven hồ, bắt buộc bá tánh cư ngụ tại các nơi Ô Kiều, Ngư Thanh, Bạch Xa, Xích Phong và Hồng Hoa, năm trấn ấy ngoài ra còn phải cống hiến cho chúng mỗi năm năm chục tên tráng nam và năm chục nàng thiếu nữ. Tráng nam thì chúng dùng làm nô dịch trong các thủy trại, còn thiếu nữ thì chúng dùng để hành lạc thỏa dâm.

Ngũ Hổ còn ra kỳ hẹn trong vòng ba hôm phải trả lời , hăm dọa không cho báo cáo với phủ quan, nếu dân ở thi trấn nào dám cãi lịnh báo quan, hoặc giả nhờ binh triều bảo hộ thì bọn cướp sẽ đến tàn sát làm cỏ hết toàn trấn chẳng nương tay.

Tin ấy vừa đưa ra bá tánh cư ngụ ven bờ Thái Hồ đều kinh hoàng thất sắc. Vì năm thị trấn ấy vốn có một vài lực lượng tự vệ, nhưng có quá ít, sánh với võ lực hùng hậu của bọn thủy khấu thì chẳng khác châu chấu đá xe. Nên Hương Lý trong Thanh Ngư trấn lập tức báo với phủ quan xin binh tiếp viện.

Phủ Nghi Hưng liền phái đến ba trăm quân binh đến giữ gìn thôn trấn. Ngờ đâu không đầy ba ngày, họa lớn đã xảy ra.

Giữa một đêm tối trời gió to, trong trấn Thanh Ngư bỗng nổi lên năm sáu ngọn lửa cao ngất trong khoảng khắc lửa cháy lan tràn khắp nơi, trật tự trong trấn bị xáo trộn dử dội. Từ trong ánh lửa một đại đội thủy khấu tràn ra như thác lũ gặp ai giết nấy, tiếng kêu khóc rền trời.

Quan binh đốn trú nơi trấn vội kéo ra cự địch, nhưng dám thủy khấu đông như kiến cỏ trên năm sáu trăm người, lực lượng gấp đôi quan binh hơn nữa tên nào cũng gan dạ thiện chiến, chém giết như điên, gặp nhà là phóng hỏa đốt liền còn đám quân binh chỉ là dân bị thịt, chỉ quen thói hống hách đồng bào, gặp giặc đã run lên như cầy sấy, thử hỏi làm sao chống cự cho lại.

Nên chẳng đầy một giờ sau, toàn thị trần đều biến thành biển lửa, thây người ngổn ngang như núi, máu chảy thành sông.

Cho đến sáng hôm sau kiểm điểm lại thì Thanh Ngư trấn chỉ còn là một bãi than hồng ! Dân số mười phần hết hơn tám chín.

Chỉ một đêm ngắn ngủi mà tang tóc phủ trùm thê thảm đến thế.

Võ Lâm Ngũ Bá - Hồi 55 : Bên Hồ Hổ Dữ

Sau thảm kịch đốt phá thị trấn Thanh Ngư vừa rồi, danh tiếng hung ác của Ngũ Hổ nơi Thái Hồ vang dậy khắp gần xa.

Nghi Hưng phủ sau cơn thất bại nặng nề đâu dễ bỏ qua, liền phái một viên Thống Chế thống lãnh một ngàn quân binh vào hồ để tảo trừ Ngũ Hổ.

Nhưng đám thủy khấu Thái Hồ chẳng chút nao núng, chia quân mai phục sẵn mọi nơi hiểm yếu chờ cho đám quân binh đi sâu vào vòng vây lập tức dưới đáy hồ nhô lên vô số thủy quỷ.

Thủy quỷ chính là một số đồng đảng bọn cướp rành nghề lội lặn, bám vào đục thủng đáy thuyền của quan binh.

Nước hồ theo lỗ hổng tràn vào thuyền như thác trào.

Đám quân binh không thiện về môn thủy chiến, thấy thuyền bị thủng đáy sắp chìm đã hốt hoảng quýnh quíu chân tay, đâu còn lòng dạ chiến đấu nữa . Thêm vào dọc theo bờ hồ, trong đám lau sậy um tùm, những họng thạch pháo khạc ra từng loạt đá cát tro vôi, đồng thời đoàn quân thủy khấu mai phục cung nỏ, cũng bắn tên ra như mưa bấc, tập kích vào hai bên hông của đoàn quan binh, khiến cho quan binh lớp chết lớp rơi xuống hồ mười phần hết bảy tám.

Tiếp theo đấy, gã Đại đầu lãnh là Bạch Các Hổ Thường Thông hợp với Nhị đầu lãnh Huỳnh Diện Hổ Tang Nhân, thân hành cỡi chiếc thuyền nhẹ xung phong ra đánh giết đám quân binh còn lại.

Vị Thống Chế cầm đầu đám quân binh, chống cự không tới ba hiệp là bị Thường Thông một đao chém rơi xuống nước.

Đoàn quan binh như rắn mất đầu, hoảng hốt tranh nhau tìm đường tẩu thoát, nhưng kẹt vào giữa vòng vây trùng điệp. Không một tên nào chạy thoát được, rốt cuộc đều bị giặc, lớp giết, lớp bắt sống, chẳng chừa một móng.

Không đầy một ngày trời mà trên một ngàn binh đều bị bọn cướp tiêu diệt.

Sau cuộc thất bại nặng nề nầy, Nghi Hưng Phủ không còn dám bén mảng vào vùng Thái Hồ để tấn công bọn cướp nữa.

Thái Hồ Ngũ Hổ được thế càng hung hăng, ra tối hậu thơ cho dân chúng trong trấn Ô Kiều và bốn trấn khác, hạn định nội đêm nay phải cống dâng gái trai cùng tài vật tới bên hồ, bằng trái lịnh chúng sẽ đạp xóm làng thành bình địa, gà chó chẳng chừa.

Chỉ đáng tội cho đám bá tánh bốn trấn còn lại, qua cơn khói lửa binh đao đã xơ xác nghèo nàn còn tiền bạc đâu nữa mà dâng ?

Thêm vào bọn cướp nhất định một số nam nô nữ tì, mà kẻ làm cha mẹ trên đời có ai lại đành lòng dứt bỏ con mình, để đưa cho cường địch được.

Thế lực bọn cướp hung hăng hoành hành, quan binh chánh quyền lại bất lực, nên đám bá tánh chỉ còn có cách đào vong lưu linh khổ sở.

Hoàng Dược Sư nghe bọn họ thuật lại xong, máu nóng dâng tràn, khí hùng sôi động nhưng tính tình chàng rất cổ quái, trong lòng dù đã giận cực cùng, mà trái tai thay, chàng lại buông tiếng cười ha hả như xé ruột, đoạn bảo :

- Hay quá đi mất ! Chả trách bọn thủy khấu hung hăng như thế ! Té ra bọn chúng còn có mấy tên đầu sỏ chỉ huy, các vị hãy yên lòng trở về thôn trấn !

Trong vòng ba ngày, tôi sẽ túm trọn ổ cái mà quí vị gọi là "Thái Hồ Ngũ Hổ" , và sẽ đem về đây treo sống trên ngọn cây cảo mặt mình cho quí vị banh da xẻ thịt nó ra cho hả tức.

Mọi người nghe Hoàng Dược Sư nói một cách quả quyết như thế, và lại thấy chàng tay không mà có thể đứng xa nhổ được cây lớn, nên cũng tin tưởng phần nào !

Họ đồng "ồ !" lên một tiếng khâm phục rồi rầm rộ kẻ đẩy xe gánh gồng, kéo nhau trở vào thị trấn Ô Kiều;

Hoàng Dược Sư cũng theo chân cụ già và cậu bé lúc nãy về nhà tạm trú đôi ngày.

Cụ già ấy rên Võ Trọng Thuấn, là một nho sĩ ở đất Ô Kiều, mọi người thấy cụ ta đức độ tài ba nên kính mến, phục tùng theo bực trưởng lão trong làng.

Hoàng Dược Sư cũng là người đọc sách nên một gìa một trẻ, câu chuyện lại qua rất ý hợp tâm đầu.

Qua sự chuyện trò Hoàng Dược Sư biết đứa bé kháu khỉnh, thông minh linh lợi kia tên Võ Hồng Quang năm nay mới vừa chín tuổi đầu.

Hoàng Dược Sư lần đến Hoa Sơn đầu tiên, thâu nhận đồ đệ là Khúc Thắng tức Khúc Linh Thông. Chàng thấy đưa bé Võ Hồng Quang, tuổi tuy còn bé mà bạo dạn chững chạc, trong lòng rất yếu mến, có ý muốn thâu nhận cậu bé làm đồ đệ, định bụng sau khi khắc phục được Ngũ Hổ Thái Hồ sẽ bàn đến chuyện ấy.

Đêm ấy Hoàng Dược Sư lưu ngụ tại nhà Võ Trọng Thuấn, sau khi dùng cơm tối lót dạ xong, bèn đứng dậy cười và nói với Võ Trọng Thuấn :

- Bây giờ tôi phải đi bắt sống Ngũ Hổ, ông nên cho mọi người hay, cứ yên tâm ngủ kỹ, mọi việc tôi lo liệu hộ cho.

Võ Trọng Thuấn tuy môi vâng dạ bên ngoài, nhưng trong lòng áy náy không yên.

Hoàng Dược Sư thấy vậy khẽ mĩm cười, thoắt một cái đã tung mình vào bóng đêm mất dạng.

Lờ mờ trong bóng đêm, đối diện với bờ hồ, xa xa là ngọn núi Kim Đà và Mạc Lý, một chiếc bờ đê phẳng tắp với hai hàng cây Công Tôn âm u, trong bụng Hoàng Dược Sư đã sẵn mưu thần. Chàng nhãy phóc lên ngọn cây Công Tôn, rảo mắt nhìn soát khắp ba mặt hồ.

Vì theo như lời Võ Trọng Thuấn nói thì hôm nay là kỳ hạn cuối cùng của bọn với trấn Ô Kiều yêu sách giao tráng nam, thiếu nữ cùng tài vật đóng góp cho chúng.

Bọn Ngũ Hổ Thái Hồ vì uy tín của đảng, đêm nay tất thế nào cũng phái người lại, bất luận là bá tánh trong thị trấn đào vong hay không, chúng cũng giở thủ đoạn đốt phá cửa nhà của dân chúng để thị uy với bá tánh nơi trấn khác. Nên Hoàng Dược Sư mới tương kế tựu kế, núp kín trên ngọn cây để đợi chờ.

Lúc chàng đến bờ hồ thì đã canh hai, vầng trăng từ mỏm núi đã nhô dần lên đỉnh đầu trời trở sang canh ba, trên mặt hồ sóng nước tí tấp bao la bỗng nhô lên một đội tiểu thuyền, đầu đuôi nối tiếp nhau có trên ba mươi chiếc, loại thon nhỏ ấy chẳng có mui, trên mỗi thuyền nhỏ chen chúc ngồi ít nhất là bảy tám người, nói một cách rõ ràng hơn là đoàn thuyền ấy chở có trên ba trăm người !

Quả đúng như sự ước đoán của Hoàng Dược Sư, bọn thủy khấu đã huy động đại đội binh tướng định kéo lên bờ trổ tài cướp đoạt.

Chàng nín hơi chờ đợi, nhìn thấy đội tiểu thuyền ấy đã có chiếc cặp lên bờ hồ. Chàng tự nhủ là đã đến lúc biểu lộng thân pháp của mình, liền nhô mình lên khỏi ngọn cây, sử dụng Phách Không Chưởng lực, hai tay đẩy mạnh về phía bờ hồ.

Đêm ấy, chỉ có gió nhẹ lai rai, mặt nước trên hồ vốn phẳng lặng như gương, nhưng khi thần lực Phách Không Chưởng vừa bay ra tức thì "ầm !" một tiếng như sấm bủa mặt hồ, chưởng phong xoáy vào lòng hồ tạo thành một con trốt nước vĩ đại, sống nước dâng cao, ào ạt như cuồng phong biển động.

Bốn chiếc tiểu thuyền đang bơi gần bên xoáy nước bị cuốn lật nhào, trên mười tên thủy khấu trong thuyền chìm lỉm trong đáy nước.

Một biến cố bất ngờ và kỳ lạ ngoài sức tưởng tượng của đám cướp hồ, trật tự của đoàn thuyền nhất thời bị xáo trộn.

Cũng may là bọn cướp vừa bị chìm xuống, tên nào cũng tinh thông thủy tánh, vả lại gần bờ, nước không sâu lắm, chỉ một chốc sau là chúng đã lổm ngổm nổi lên, nhưng gươm , đao, cung tên, đều rớt mất dưới nước, quần áo lại ướt nhem, trông rất tiều tụy mười phần.

Hoàng Dược Sư núp trên ngọn cây thấy bọn cướp hoảng khiếp dồn cục nhau một chỗ không khỏi thích ý, buồn cười trong lòng.

Chàng vẫn im lìm chẳng lên tiếng, chờ cho bọn cướp đã lập lại phần nào trật tự cho đội ngũ, bơi thuyền cập sát bờ hồ. Chàng lại chầm chậm hai tay vạch vào khoảng không một vòng tròn , áp dụng Phách Không Chưởng lần nữa để phá bầy thủy khấu.

Lần này chàng dùng sức hơi mạnh, nên Phách Không Chưởng vừa phát ra liền kêu "ầm !" một tiếng cực kỳ chát chúa, lùng bùng lỗ tai.

Mặt hồ lập tức bị nứt đôi ra thành một xoáy nước, đường kính rộng độ ba trượng, ngọn sóng bủa cao như một bức tường nước vĩ đại, lại thêm bốn chiếc tiểu thuyền bị cuốn vào xoáy nước chìm lỉm.

Bọn cướp trên thuyền rớt lõm bõm xuống hồ, khiến bọn chúng kinh hoàng kêu lên ơi ới vang động khắp đêm sâu !

Thuyền giặc chưa cập bến, đã trước sau liên tiếp chìm hết tám chiếc, tuy không có người chết đuối nhưng bọn cướp đã có nhiều đứa thất đảm kinh hồn.

Trong bọn có một tên thủy khấu da mặt sần sùi có lát, dáng chừng như là một đầu mục, oang oang la lên :

- Không xong ! Hôm nay chúng ta đã xâm phạm đến vị thần của hồ này rồi, nếu không sao lại có việc huyền hoặc như thế, bên bờ hồ bỗng nhiên cuộn sóng lớn, nhận chìm thuyền chúng ta luôn hai lượt vậy ?

Lúc thuyền chỉ huy của thủy khấu cũng vừa đến, trên đầu thuyền có một gã mặt đầy vết sẹo đang đứng quan sát tình hình, đúng là Thường Diện Hổ Tiêu Tín, một trong Ngũ Hổ của Thái Hồ.

Gã trỏ miệng vào khoang thuyền ra lịnh :

- Hoắc lão tam ! Mau đứng dậy ra đây, đốt giấy tiền vàng bạc để dâng thần. Có lẽ Thần Hồ nổi giận ra uy đấy !

Tiêu Tín nói dứt lời, từ trong khoang thuyền liền bước ra một người, thân hình vạm vở cao lớn. Tên đại hán hình dạng rất quái dị, râu tóc đều hoe đỏ, bên râu lại có một bệt son đỏ thấm, mắt cọp, mũi ưng, mới nhìn qua cũng biết là một ma tinh giết người chẳng gớm tay, sau lưng đeo một thanh đao Ngũ Lâm dày cộm. Gã trợn mắt trắng sát nhìn lên bờ và cất tiếng ồm ồm :

- Bây đâu, đem giấy vàng bạc ra đây !

Gã vừa rồi chính là đầu lĩnh thứ ba của Ngũ Hổ Thái Hồ, tên Xích Mao Hổ Hoắc Cang.

Hai tên thủy khấu nghe chủ soái kêu vội dạ lên một tiếng, chui vào khoang thuyền, đem ra hai bó giấy vàng bạc treo nơi đầu thuyền rồi nổi lửa đốt lên để tống quái, còn trịnh trọng đốt thêm một giây pháo lớn.

Hoàng Dược Sư thấy bọn thủy khấu mê tín dị đoan sì sụp lễ bái suýt bật cười thành tiếng, nhưng chàng cố dằn lại, chờ cho tiếng nổ dứt, lại dùng song chưởng vào khoảng không, phát ra một sức mạnh Phách Không Chưởng, vạc đôi mặt hồ, nhận chìm thêm hai tiểu thuyền của đám cướp.

Hai tên đầu lĩnh Thuờng Diện Hổ và Xích Mao Hổ, liền hiểu ngay sự tình, chúng cả giận quát to lên :

- Tên tiểu tử man rợ nào dám đến đây vuốt râu hùm, giở trò ám toán hèn hạ thế ?

Miệng chưa dứt lời, hai tay trước sau mò vào túi da cá rút ra mười hai ngọn phi tiêu, lẹ làng phóng trở ra theo lối liên chu thủ pháp, tấn công về phía hàng cây Công Tôn nơi Hoàng Dược Sư đang núp.

Nào ngờ mười hai mũi phi tiêu vừa phát ra chưa bao xa thì trên đầu ngọn cây liền nhô lên một bóng người nhẹ nhàng phất tay ra, và lạ thay mười hai ngọn phi tiêu của Xích Mao Hổ và Thường Diện Hổ tự động quay đầu trở mũi bay trở lại thuyền giặc, liền " phập ! phập" ghim nhào hết sáu bẩy tên đồng bọn trên thuyền.

Ky dư nhiều mũi không trúng ai, bay cắm sâu vào ván thuyền lút hơn mấy mươi phân.

Đoàn thủy khấu thất sắc nhìn nhau, tiếp theo đấy có tiếng nhẹ nhàng như tiếng lá rụng, bóng xanh của Hoàng Dược Sư đã thấp thoáng hiện lên trên thuyền.

Bọn cướp kinh hãi kêu lên :

- Chu choa ! Thần hồ gia gia đã hiển thánh kia kìa !

Thương Diệu Hổ quát to :

- Không phải thần thánh đâu ! Này thằng kia mi là dân xứ nào to gan lớn mật dám đến đây chống đối với Ngũ Hổ Thái Hồ chứ ?

Hoàng Dược Sư cười gằn đáp :

- Đám cẩu tặc mù quáng kia ! Cậy vào đâu mà dám xưng danh Ngũ Hổ, thứ loài chuột nhắt nhà bây dù liệt vào hàng mèo cũng chưa xứng nữa là khác ? Khôn hồn hãy mau quay trở lại núp kín vào ổ, đặt chân lên đất Ô Kiều là chết cả lũ đấy !

Thường Diện, Xích Mao, hai hổ đều cả giận đồng quát lên :

- Đồ tồi ! Mi dùng tà pháp nhận chìm thuyền của chúng ta .

Chưa nói dứt lời, Đào Hoa đảo chủ đã tung mình nhãy lên đầu thuyền, thân pháp nhanh chóng không sao so sánh được.

Thường Diện Hổ nghênh thanh Ngư lân đao, Xích Mao Hổ hờm sẵn cây kích Đồng giãn, định đón đối phương lại.

Nhưng Đào Hoa đảo chủ đâu phải là nhân vật tầm thường như chúng, bóng xanh thoắt một cái trước mắt, binh khí trên tay đã bị đoạt đi từ lúc nào, "kình" "coong" hai tiếng vang lên, một đôi đao và một đôi giãn đã bị Hoàng Dược Sư bẻ thành sáu khúc, rơi loảng xoảng trên khoang thuyền, tiếp theo đấy chúng cảm thấy nơi eo lưng nhói buốt một cái, mỗi tên trúng phải hai chỉ của đối phương điểm vào yếu huyệt khiến thân hình mềm nhũn ra như một khối bùn, không còn sức lực gì cả té nhào trên thuyền .

Hoàng Dược Sư hai tay túm lấy gáy hai người như chim ưng chộp chuột, giở hỏng lên cao, chẳng chút phí sức bao nhiêu.

Đồng bọn còn lại không khỏi giật mình kinh hoảng, nhất tề vũ lộng khí giới đến cứu chủ tướng.

Đào Hoa đảo chủ vung hai người quay tròn một vòng và quát lớn :

- Chúng bây đứa nào to gan thì lên đây, ta giết chết hai thằng khốn này tức khắc.

Bọn cướp quả nhiên hoảng sợ, không một tên nào dám tiến lên.

Hoàng Dược Sư ném mạnh hai người xuống sàn thuyền rồi cười nhạt bảo :

- Hai thằng vô dụng chó chết, chúng bây mà cũng dám ra tay với ta, dù chúng bây có khổ luyện thêm một trăm năm nữa cũng chẳng làm gì được. Ta muốn lấy mạng bây như lấy đồ trong túi, nhưng ta không thích giết một hai đứa mà muốn cả bọn chúng bây từ thằng giặc con cho đến lão đầu lỉnh, kéo một lượt đến đây để ta giết cho đã tay. Ta hứa với đám cẩu tặc chúng bây là : Một chẳng cần đao kiếm, hai chẳng dụng ám khí, ba chẳng thèm ra tay mà làm cho chúng bay chết hết nghe rõ chưa ?

Tiếng nói của Hoàng Dược Sư tuy không lớn lắm, nhưng chàng áp dụng môn "Truyền thanh nhập mật" dùng nội công phát ra, nên tất cả trên mấy mươi chiếc thuyền lớn nhỏ trên mặt hồ, bất luận cách xa hay ở gần đều nghe rất rõ ràng là Hoàng Dược Sư định làm cỏ toàn thể bọn chúng mà chẳng dùng đến đao thương ám khí cũng chẳng ra tay đánh đá, thật là chuyện lạ ngàn năm, chẳng lẽ gã áo xanh họ Hoàng kia là thánh sống hay sao ?

Nhưng sự việc xảy ra trước mắt quá rõ ràng, chỉ nháy mắt mà gã họ Hoàng đã hạ hai tên đầu lĩnh của chúng một cách dễ dàng , dù không tin cũng phải tin, tên nào tên nấy mặt mày xám xanh như tro, ngẩn ngơ như tượng chết.

Hoàng Dược Sư nói xong liền "hừm !" một tiếng oai dũng giơ chân đá vào mông hai tên giặc chúa té lộn mèo trở vào khoang thuyền đánh "phịch" hai tiếng rất lớn.

Và kỳ lạ thay cái đá của Đào Hoa đảo chủ vừa rồi Thường Diện, Xích Mao hai Hổ cảm thấy huyệt đạo được giải tỏa, tay chân cử động trở lại như thường.

Hoàng Dược Sư sau khi giải huyệt cho hai người xong liền tung mình nhãy vút lên bờ, thoăn thoắt vài cái nhún mình đã biến mất vào bóng đêm !

Xích Mao Hổ, Thương Diện Hổ vừa giận vừa sợ, vội ra lịnh cho đồng đảng quay thuyền trở về sào huyệt.

Hoàng Dược Sư về đến trấn Ô Kiều thì trời đã mới điểm canh tư, chàng lặng lẽ chui vào nhà Võ Trọng Thuấn tìm chỗ nghỉ ngơi.

Sáng hôm sau, cư dân trong trấn, thấy bọn cướp Ngũ Hổ, quả đúng như lời hứa của vị khách họ Hoàng chẳng dám kéo đến Ô Kiều để cướp phá. Ai nấy đều ngạc nhiên họp nhau bàn luận xôn xao, thì Hoàng Dược Sư từ trong nhà cụ gìa họ Võ ung dung bước ra, tươi cười chào hỏi mọi người và nói :

- Các vị hương thôn, đêm qua ngủ yên đấy chứ ? Quí vị cố gắng làm sao gom góp tất cả sào tre phơi áo quần của mọi người trong trấn, độ chừng năm trăm cây là vừa đủ, có thể trọn nhật hôm nay gom đủ số ấy chăng ?

Mọi người hết sức ngạc nhiên liền lên tiếng hỏi Hoàng Dược Sư :

- Hoàng tướng công, ông cần sào tre để làm gì ? Sào tre đâu có thể làm vũ khí được ?

Đào Hoa đảo chủ cười ha hả đáp :

- Các người toàn là ếch ngồi đáy giếng, làm sao hiểu được những sự việc cao siêu trong thiên hạ. Cứ nghe theo lời tôi, đi gom góp cho đủ số càng mau càng tốt, đúng năm trăm cây không dư không thiếu, bảo với các người chỉ năm trăm cây sào tre vô tội ấy mà đắc dụng còn hơn cả thiên binh vạn mã của triều đình .

Mọi người ai nấy nửa tin nửa nghi, nhưng cũng vội vàng đôn đáo kiếm đủ số đem giao cho Hoàng Dược Sư.

Chàng bèn lựa chọn năm mươi tên tráng đinh trong số người đó, nhờ họ chia nhau vác đống sào tre ra ngoài trấn.

Hoàng Dược Sư dắt năm mươi tên tráng dân ấy ra ngoại ô của trấn Ô Kiều đến một nơi trống trải liền bảo mọi người dừng lại.

Đầu tiên chàng vạch lên mặt đất những dấu ngang dọc không đều nhau, sau đấy chàng thân hành ra một mình cắm thẳng đứng năm trăm sào tre trên những dấu vạch ấy.

Khoảng cách của những cây sào không đều nhau, dày thưa bất nhất, khi thì một thước, lúc thì hai thước.

Không đầy nửa giờ sau, trên khoảng đất trống ấy tua tủa những ngọn sào tre dựng lên, đứng xa nhìn vào, dày mịt như một bức tường tre.

Đám cư dân trong trấn ngơ ngác nhìn nhau, chẳng hiểu vị khách họ Hoàng gàn gàn ương ương định giở trò quái lạ gì ?

Sào tre cắm xong xuôi, Hoàng Dược Sư xoa tay cười lớn và nói :

- Xong rồi ! Mọi người hãy trở về trấn, buôn bán làm ăn như thường, không còn lo âu gì nữa !

Ai nấy đều khó mà tin được sào tre lại có thể ngăn giặc. Nhưng đã liều thì ba bảy cũng liều yên được lúc nào mừng lúc ấy.

Hoàng Dược Sư chờ mọi người kéo nhau ra về liền lấy trong tay áo ra thanh ngọc tiêu, rồi ngồi xếp bằng tròn dưới đất chờ đợi mọi việc sắp xảy ra .

Xích Mao Hổ và Thường Diện Hổ hai đầu lãnh của đám thủy khấu Thái Hồ sau khi bị Hoàng Dược Sư nổ cho một trận, sợ hãi lủi thủi kéo nhau trở về sào huyệt nơi Động Đình sơn.

Đại đầu lĩnh là Bạch Các Hổ Thường Thông cùng vợ là Từ Tú Anh đã được tin phi pháo của đám do thám, không khỏi kinh hãi, vội gọi Nhị đầu lĩnh Huỳnh Diện Hổ Tang Nhân đến Trung Nghĩa đường để nghị sự.

Mọi người bước vào nhìn thấy Xích, Thường hai Hổ mặt mày tiều tụy xơ xác, còn thảm thương hơn là gà nòi bại trận, ngồi cú rủ một đống nơi Trung Nghĩa Đường.

Bạch Các Hổ Thường Thông ngạc nhiên hỏi :

- Nhị vị hiền đệ sao 1ại tệ đến thế, để cho một tên tiểu tốt vô danh hại đến nông nỗi như thế sao ?

Xích, Thường hai cọp, uất ức ứa nước mắt thuật lại mọi việc đã trải qua cho mọi người nghe.

Huỳnh Diện Hổ Tang Nhân cả kinh la lên :

- Tài ba đến đổi có thể dùng Phách Không Chưởng làm cho mặt hồ nỗi sóng lớn thì chúng ta làm sao chống nổi, hay là bỏ quách tòa thủy trại này trốn đến nơi khác, đừng nên làm ăn nơi Thái Hồ này nữa !

Yên Chi Hổ Từ Tú Anh bực mình đáp :

- Lão nhị, ngươi điên rồi sao ? Sự nghiệp trên Động Đình Sơn này của chúng ta đâu phải một sớm một chiều mà dựng thành được, chỉ vì một tên vô danh tiểu tốt, mà đành hủy phế tất cả hay sao ? Nếu chuyện này loan dần ra thì anh hùng hảo hán trong thiên hạ cười chúng ta đến rụng răng mất !

Võ Lâm Ngũ Bá - Hồi 55 : Sào tre bắt cướp

Thương Diện Hổ bèn lên tiếng :

- Đại ca, theo ý của đệ suy đoán thì tên đạo sĩ chúa ấy không cậy vào một môn võ học đơn độc mà nhất định là có tà thuật. Nếu chẳng thế thì gã làm sao lại dám nói chẳng cần dùng đao thương khí giới lại có thể lấy sanh mạng toàn anh em chúng ta ? Vừa rồi y dùng chưởng đánh trên mặt hồ, nhận chìm thuyền đĩnh của bọn mình, chẳng hiểu có phải là pháp thuật hay chăng ?

Thường Thông như bàng hoàng sực tỉnh, gật đầu đáp lia :

- Phải ! Phải ! Chúng ta nên tìm phương pháp phá tà thuật bàng môn là có thể đối phó tên đạo chúa ấy ngay.

Nếu luận về võ công, ta không tin là tất cả hai ngàn anh em của thủy trại chúng ta lại chẳng thắng nổi một mình y sao ? Đâu có dễ dàng rơi nhào trong tay y được ?

Nói xong liền phân phát thủ hạ, giết vài con chó đen, dùng túi da đựng lấy máu chó rồi chuẩn bị thêm một số vật nhơ uế của đàn bà. Sau đấy điểm tất cả nhân mã trong toàn trại, kéo rốc trên hai ngàn tặc nhân, chúng chia nhau ngồi trên hai trăm chiếc tiểu thuyền tiến về phía trấn Ô Kiều.

Bọn cướp khởi hành vào lúc rạng đông, thuyền cặp bờ hồ thì đã giữa trưa.

Bạch Các Hổ Thường Thông hạ lịnh cho đồng đảng hùng hổ kéo nhau lên bờ, sắp thành đội ngũ tề chỉnh, chẳng gặp một sự cản trở nào. Hiu hiu tự đắc, rần rộ kéo nhau vào thị trấn.

Một thời gian sau thì đoàn quân cướp đã đến bên ngoài thị trấn, bỗng bọn chúng chợt thấy trên khoảng đất trống ở ngoại ô thành Ô Kiều, cắm đầy những ngọn sào tre tua tủa chọc thẳng nền trời, lại có một nho sĩ áo xanh xếp bằng tròn ngồi bình tĩnh

phía trong rừng sào tre ấy.

Thương Diện, Xích Mao hai hổ vừa trông thấy dạng người ấy liền tru tréo la to :

- Chu choa ? Tên đạo sĩ chúa kia quả to gan lớn mật, y dám ngang nhiên ngồi một mình nơi đây để đón chờ chúng ta.

Bạch Các Hổ Thường Thông quát lớn :

- Tên mắc dịch này chàng hiểu định giở thói quỉ gì nữa ? Đằng ta đâu, mau xông tới, bầm nát nó như tương cho ta !

Bọn cướp hò hét xông lên, đao thương sáng ngời định tiến tới tấn công.

Thương Diện Hổ vội ngăn lại và nói :

- Khoan đã, gã dùng thứ sào tre ấy để ngăn trở chúng ta, sợ e là yêu thuật gì đấy ?

Thường Thông liền tỉnh ngộ ngay bèn la lên :

- Phải đấy ! Tên yêu đạo chắc định giở tà thuật, mau đem máu chó, đồ dơ ra đây !

Mấy tên lâu la tay xách túi da đựng máu chó vội tiến lên, mở ngay miệng túi, rải máu chó khắp khoảng đất trống để trừ tà thuật, lại có tên đáng buồn cười hơn nữa, dùng ngọn thương bêu đồ dơ của phụ nữ, reo hò luôn miệng, phân ra bốn phía tấn công vào rừng sào tre.

Rừng sào tre của Hoàng Dược Sư bày bố kia vốn là kỳ môn bát trận, ngũ hành sanh khắc, cùng với sự bố trí trận đồ trên Đào Hoa đảo chẳng khác nhau mấy.

Chàng nhìn thấy bọn cướp ngu dốt đem thuật số kỳ môn bát trận của mình liệt vào hàng yêu pháp, tưới máu chó, quăng đồ dơ tạo thành một cảnh tượng hỗn loạn, trông rất buồn cười.

Nhưng chàng vẫn ngồi yên nơi đấy, ung dung tự tại chờ cho bọn cướp tiến sâu vào trận, lập tức trận đồ diễn thành một màn hài kịch thú vị hiếm có.

Thì ra Thương Diện Hổ, Xích Mao Hổ thống lãnh trên hai trăm tên cướp, đầu tiên xung trong vào rừng sào tre.

Nào ngờ vừa mới chui vô, miệng đã kêu khổ liên miên. Vì những sào tre ấy, khi đứng bên ngoài nhìn vào, thấy thưa thớt trống trải, xuyên qua chẳng mấy khó khăn, nhưng khi đã bước chân vào trận, thì môn hộ điệp trùng muôn lối, khắp nơi trước mắt đều là sào tre khít rịt, mường tượng như lọt vào tấm lưới tre khổng lồ.

Bất luận bọn chúng, luồn sang Tây, len qua Đông, chui tới bò lui, rừng sào tre phảng phất như mênh mông chẳng dứt, càng lúc càng nhiều, mấy trăm tên cướp loanh quanh trong rừng tre, chạm mặt, đụng đầu mãi nhau mà vẫn trước sau không có thể thoát ra được, tựa như bầy cá dại vào lờ, lội tới lội lui, rốt cuộc vẫn lẩn quẩn trong vòng lờ, không phương lội nổi ra ngoài.

Bọn chúng biết chuyện chẳng lành, càng quýnh quít cả lên, đám giặc cướp ngu dốt ấy làm gì biết kỳ môn bát trận ra sao ?

Cứ đinh ninh Hoàng Dược Sư thi thố pháp thuật, mà đại phàm môn học kỳ môn bát trận này hễ càng rối trí lại càng hoa mắt hơn thêm.

Người trong vòng trận, mê tâm hoa mắt đã đành chí như Bạch Các Hổ Thường Thông cùng một số người đứng bên ngoài trận, thấy đồng bọn của mình sau khi vào thì kỳ bí thay nơi miếng đất trống trước rừng sào tre, bỗng mù mù mịt mịt như bị mây mù bao phủ khắp khoảng rừng tre và trong đám mây mờ kia bóng người thấp thoáng lui tới lăng xăng.

Thường Thông và đám thủ hạ không khỏi kinh hãi la lên :

- Không xong yêu thuật ! Yêu thuật !

Trong lúc mọi người kêu la om sòm cả lên thì Hoàng Dược Sư từ trong trận rừng trúc ung dung bước ra, kê ống ngọc tiêu vào miệng, thổi lên khúc "Thiên Ma Vũ Khúc".

Tiếng tiêu vừa thoát ra, tiếng huyên náo lập tức im bặt, người thì mắc kẹt trong vòng trận, lẫn người đứng nhìn bên ngoài, tên nào cũng im chân xuôi tay nghển cổ lắng nghe giọng tiêu trầm bổng.

Tiếng tiêu càng lúc càng du dương thúc giục người nghe càng như say mê thoát tục, bao nhiêu ý niệm ác hung hoàn toàn bị giọng tiêu hoán cải sạch trơn, trên mặt mọi người hiện ra nụ cười lương hậu.

Độ giây lâu sau mỗi tên cướp như không còn tự chủ được, tên nào cũng hoa chân múa tay nhãy loạn xị cả lên.

Ban đầu thì vỗ tay đánh nhịp, nhưng tiếng tiêu quái ác càng lúc càng dìu dặt lại càng mau, chân tay của bọn thủy khấu như bị giọng tiêu lôi cuốn, múa may quay cuồng, cười lên sằng sặc, mỗi lúc múa nhãy lại nhanh thêm, không còn ra nhịp điệu bộ pháp gì cả, rồi lăn quay nhau dưới đất, lật lên lộn xuống, gồng mình uốn lưng, làm đủ trò kỳ lạ như lối vũ man rợ của dân mọi ở tận rừng sâu, có kẻ không chịu nổi với giọng tiêu quá kích thích, chúng rú lên những tiếng rùng rợn, hoặc nắm cả tóc mình giựt bừng bực hay cười rống lên như bị cù lét, xé toạt cả áo quần trên bản thân, đứng bên ngoài nhìn vào, ta có thể mường tượng như đang lạc vào thế giới cuồng loạn của người điên.

Điệu Thiên Ma Vũ Khúc của Hoàng Dược Sư vừa tấu, lợi hại phi thường. Thật là nhạc khúc có ma lực câu hồn hiếp phách có thể khiến cho người mê tâm loạn trí, mất cả tánh thường. Lúc ở Hoa Sơn luận kiếm, Xà trận của Âu Dương Phong còn bị tiếng tiêu chàng tấu lên đến phải quay múa đi loạn cơ hồ tan bầy rắn, huống chi đám thủy khấu phàm tục kia ?

Nên khi giọng tiêu của chàng mới trỗi lên nửa khúc của nhạc điệu Thiên Ma Vũ Khúc, là bọn cướp đã nổi cơn phong điên, nhãy cỡn, múa loạn cả lên suốt mấy giờ đồng hồ không nghỉ. Tên nào tên nấy mệt đến há hốc mồm ra mà thở, cho đến sức mòn lực kiệt, mới nằm ngay đơ trên mặt đất, chân tay không còn đủ sức để mà giở lên.

Hoàng Dược Sư nhìn thấy bao nhiêu đồng đảng của bọn Ngũ Hổ Thái Hồ, đều nằm la liệt trong, ngoài rừng tre chàng mới ngừng tiếng tiêu lại, cất tiếng cười ha hả, rồi từ trong Kỳ Môn Bát Trận lững thững bước ra, rảo bước trở về thị trấn, bảo bá tánh trong chợ rằng :

- Bao nhiêu tên cướp đều bị tôi cầm chân cả rồi, chúng nó đang nằm đợi trói tại nơi đám sào tre mà các vị đã thấy tôi cắm lúc nãy đấy. Các vị mau đem dây thừng ra trói bọn chúng đem về đây.

Bá tánh trong Ô Kiều từ sau khi Hoàng Dược Sư mượn năm trăm cây sào tre, bày thành trận pháp, tuy vẫn mua bán làm ăn như thường. Nhưng người nào cũng phập phồng áy náy chẳng yên. Bọn họ không làm sao tin được với năm trăm cây sào tre tầm thường lại có thể ngăn chống được đám giặc cướp hung hăng.

Nên khi đoàn thủy khấu la hét vang trời kéo đến bên ngoài thị trấn, dân cư trong thành sợ quýnh đến phân tiểu bắn vọt ra trong quần, nhưng chỉ thoáng một chút sau tiếng chém giết bỗng ngưng bặt, rồi bên ngoài thị trấn lại vẳng vang tiếng tiêu thâm trầm nảo nuột, dần dần cao vút, khích động như thiên binh vạn mã dập dồn bóng câu.

Mọi người đang phân vân kinh ngạc thì một chốc sau Hoàng Dược Sư ung dung trở về bảo là bọn cướp hoàn toàn xuôi tay chịu trói.

Ai nấy nửa tin, nửa nghi, liền phái vài người can đảm nhất trong đám, ra bên ngoài quan sát sự thật thế nào ?

Một lát sau bọn họ trở về báo cáo cho mọi người biết, nơi đám rừng sào tre lúc nãy, quả đúng như lời vị khách họ Hoàng vừa nói, bọn cướp nằm ngổn ngang khắp nơi, khí giới la liệt cùng đất, chẳng tên nào buồn cầm đến.

Bá tánh nghe nói mừng như trút được gánh nặng ngàn cân, gánh dây vác thừng, hăm hở kéo nhau tới trận địa .

Hoàng Dược Sư trước tiên bước thẳng vào trận, nhổ ngay tất cả sào tre lên, triệt tám Kỳ Môn Bát Trận, sau đấy mới ra lịnh mọi người trói bọn cướp thành xâu dắt về chợ .

Buồn cười cho đám đồ đảng năm cọp Thái Hồ vì bị tiếng tiêu lôi cuốn, nhãy múa quá độ tên nào cũng bị tinh lực hư thoát ra ngoài, kiệt sức mềm nhũn như bún thiu, tha hồ cho mọi người trói buộc, không còn đủ sức mà vật mình ngồi dậy đừng nói chí là vùng vẫy.

Hoàng Dược Sư nhờ mọi người trong trấn, thiết lập một chỗ ngồi nơi khoảng sân trống nơi giữa chợ, dẫn đám người Ngũ Hổ Thái Hồ cùng tất cả đầu mục lớn nhỏ của bọn cướp tập trung nơi đấy. Còn chàng cùng Võ Trọng Thuấn và vài vị hương lão trong trấn bắt ghế ngồi vào giữa sân, đón sau mọi người dắt tên đầu lĩnh của dám thủy khấu đến.

Bạch Các Hồ Thường Thông cùng bốn anh em bị xô xấp trước mặt Hoàng Dược Sư, năm người đưa mắt lườm nhìn Hoàng Dược Sư chớ chẳng chịu quì xuống.

Hoàng Dược Sư "hừ !" nhạt một tiếng và nói :

- Quân cướp chó kia, ta hứa là không thèm dùng khí giới, chẳng động đến quyền cước tay chân mà có thể sanh cầm bọn bây như trở bàn tay. Lời hứa ấy chẳng chút sai ngoa, bọn bây đã sáng mắt chưa ?

Thường Thông quắc nhìn Hoàng Dược Sư rồi ngoảnh đầu chỗ khác chẳng đáp.

Hoàng Dược Sư lại lên tiếng :

- Sao Bọn ngươi chưa chịu phục đấy à ?

Yên Chi Hổ Tử Tứ Anh bỗng mắng to :

- Chẳng biết liêm sĩ ! Mi bất quá chỉ cậy một chút pháp thuật tồi ấy mà sanh cầm được chúng ta, đâu phải mi dùng võ công chân chánh mà đánh ngã bọn ta đâu ? Dù có đem chúng ta giết chết vị tất đã phục mi ?

Hoàng Dược Sư cười to lên và nói :

- Bọn chúng bây ngu xuẩn đến đáng tội ? Ngu quá là ngu !

Cười xong chàng liền sầm ngay nét mặt bảo :

- Với những đầu óc ngu độn như heo của chúng bây, dù rằng ta cố tốn công giải nghĩa cũng chỉ tốn nước miếng mà thôi ! Chúng bây tưởng là ta dùng pháp thuật thật sao ?

Bạch Các Hổ Thường Thông không chút suy nghĩ đáp ngay :

- Người có tâm hảo hớn cứ thả chúng ta ra, ngươi và ta cứ một đấu một, kẻ đao người thương hay ta quyền người cước, lấy chân bản lãnh để đấu chọi nhau quyết định hơn thua. Nếu quả như chúng ta không địch lại ngươi, lúc ấy dù chết anh em ta cũng chẳng dám oán !

Hoàng Dược Sư cười ha hả nói :

- Lấy một chọi một ! Hừm ! Loại nhãi méo như chúng bây đâu có xứng ta ra tay ?

Ông quay sang bảo tráng đinh đang đứng hầu hai bên, ra lịnh :

- Cứ mở giây trói thả năm tên cẩu tặc ấy ra !

Mọi người không khỏi giật mình kinh hãi, cho đến Ngũ Hổ Thái Hồ cũng không kém ngạc nhiên, quên cả mừng rỡ.

Hoàng Dược Sư lại lên tiếng :

- Ta dùng kỳ môn thuật số bắt sống bọn mi. Nhưng bọn mi đần độn như heo hầm, có biết là Khỗng Minh trận đồ đâu, nên cứ đinh ninh là ta dùng pháp thuật ! Ta khoan hồng đại độ đến cùng, thả năm anh em bọn mi ra tự do, giao trả cả binh khí đàng hoàng, chấp tất năm người cùng đấu tranh một mình ta. Như vậy chết cũng mát lòng phải không ?

Võ Trọng Thuấn ngồi phía dưới Hoàng Dược Sư hoang mang lên tiếng hỏi :

- Hoàng tướng công, như... như...như cái bọn ma đầu này chẳng nên cởi trói cho chúng, vì thả chúng nó khác nào thả hổ về rừng, di họa vô cùng cho lương dân. Kẻ quân tử là trọng đức hành thiện nhưng khi trừ ác phải trừ cho sạch.

Y còn định tràng giang đại hải để lý thuyết thêm, thì Hoàng Dược Sư đã cười to gạt ngang :

- Những phường giá áo túi cơm này. Hoàng mỗ tuy bất tài cũng chẳng xem chúng thấm vào đâu ! Dẫu cho năm đứa cùng một lượt tiến thì tôi chỉ cần độc một bàn tay, cũng đủ sức cho chúng lăn quay trở xuống đất, năm tên bị thịt ấy làm sao thoát khỏi kẽ bàn tay của họ Hoàng nầy được.

Bọn Thái Hồ năm cọp, nghe Hoàng Dược Sư nói thế, giận đến chân lông dựng đứng, tay chân như muốn run lên.

Nhân dân Ô Kiều trấn, nghe Hoàng Dược Sư xài xể bọn chớp tồi tệ như thế không nhịn được đồng cười to lên. Mọi người đều tin tưởng ở bản lĩnh Hoàng Dược Sư.

Bạch Các Hổ Thường Thông vừa được tự do liền nhãy dựng lên quát lớn :

- Họ Hoàng kia ngươi hứa là chỉ một cánh tay để đánh bại chúng ta năm người lời ấy nói thật hay là chơi ?

Hoàng Dược Sư cười nhạt đáp :

- Đại trượng phu nói ra là phải làm, đâu có lý nói xong lại nuốt lời được chứ ! Cứ việc ra tay đi !

Chàng quay sang bảo tráng đinh trong trấn :

- Hãy đem khí giới ra giao trả bọn chúng !

Đám tráng đinh dạ lên một tiếng quay nhau chạy đi, một chốc sau đã vác năm món khí giới của Thái Hồ Ngũ Hổ vứt xuống trước mặt năm con hổ.

Bạch Các Hổ Thường Thông sử dụng một đôi "Điểm cang lang nha hổ" , hình dáng cổ quái như một cặp nồi chơm chởm răng sói bằng gang phía bên trên.

Huỳnh Diện Hổ Tang Nhân thì cây gậy đuôi beo ba ngấn tên là "Báo vi tam tiệt bổng".

Xích Mao Hổ dùng cây đao có vân vảy cá, sống dày cộm gọi là "Ngư lân đao".

Thương Diện Hổ lăm le cây Nga Mi Thích.

Riêng khí giới của mụ cọp cái Yên Chi Hổ Tử Tú Anh thì rất đặc biệt, tay trái cầm cây đồng chùy "Thất tinh vận hoa biện", tay phải múa may một mặt thuẩn bài bằng đồng, hình dáng như trái tim người, trên mặt thuẩn lại tua tủa chín cái móc nằm ngược, sáng láng nhọn lểu.

Hoàng Dược Sư đối với những món binh khí kỳ quái của đám Ngũ Hổ, chẳng buồn để mắt đến, lại còn cười khinh thị và bảo :

- Cứ việc cầm khí giới ra tay cho rồi ! Đừng diên trì một thời gian nào nữa, ta chưa có hột cơm nào vào bụng cả !

Võ Lâm Ngũ Bá - Hồi 56 : Thuyền trôi Gái sắc

Thái Hồ Ngũ Hổ thấy Hoàng Dược Sư tỏ vẻ "Mục hạ vô nhơn", giận đến tím gan muốn nổ ra ngoài lồng ngực.

Yên Chi Hổ Tử Tú Anh tánh nóng như lửa, múa tít khí giới trong tay, đồng thời mở miệng quát mắng :

- Xông đến cho rồi, thử xem thằng nào hạ thằng nào cho biết !

Hoàng Dược Sư chẳng thèm trả lời, lại quay sang bảo đứa bé Võ Hồng Quang đang đứng bên cạnh :

- Này cháu ngoan ? Đem sợi dây lại cho ta !

Mọi người chưa hiểu ra sao.

Nhưng Võ Hồng Quang rất khôn ngoan lanh lợi, cậu đã hiểu Hoàng Dược Sư định làm gì rồi, nên cười hịch hạc, mau chân đi lượm sợi dây trói bọn cướp lúc nãy đưa đến.

Hoàng Dược Sư khoanh tay phải ra sau lưng và bảo :

- Giúp ta cột cánh tay nầy .

Ai nấy mới hiểu là Hoàng Dược Sư giữ đúng lời cam kết, chỉ dùng một tay để đấu với năm cọp của Thường Thông, mọi người không khỏi ngạc nhiên đến há hốc mồm ra.

Cậu bé Hồng Quang tánh ý vẫn còn con nít vừa cười khúc khích vừa trói quặt cánh tay Hoàng Dược Sư dính vào sau lưng của chàng.

Chờ đâu đó xong xuôi, Hoàng Dược Sư liền nhãy rời khỏi chỗ ngồi, quát lớn :

- Năm người chúng bây tha hồ một lượt xông đến đây tấn công ta mà không được làm hại người bên ngoài. Nếu bọn bây giận cá chém thớt, giận lấy bá tánh vô tội đương xem kia thì... Hừm ! Hừm ! Lúc ấy đừng trách ta ra tay độc ác ?

Xích Mao Hổ Hoắc Đại Cang và Thương Diện Hổ Tiêu Tín, đã bị

Hoàng Dược Sư hạ rồi một keo nên biết rõ kẻ thù địch trước mặt võ công cao diệu khó thể lường được.

Chờ Hoàng Dược Sư dứt lời, lẳng lặng rút phăng thanh Ngư Lân Đao chém xả vào hông đánh chéo qua lưng Hoàng Dược Sư theo thế "Nhạn dực trì tiển" (Chim nhạn chuyển cánh), làn đao xé rít không khí kêu vù một tiếng.

Tiêu Tín thấy Xích Mao Hổ đã ra tay, y cũng thâu thập can đảm , cặp Nga Mi Thích phân thành hai phía tả hữu tấn công vào hai hông của Hoàng Dược Sư nhanh như cắt.

Hai người bất thần phát động thế công, tưởng như thế đã mau lắm rồi, nào ngờ bóng xanh trước mắt thấp thoáng hoa lên, tiếp theo đấy là tiếng hú lảnh lót.

Hoàng Dược Sư đã từ trong kẽ hở của khí giới hai người, uyển chuyển lẹ làng như một con rắn nước luồn tuốt ra ngoài xa cách đấy dư hai trượng.

Yên Chi Hổ Tử Tú Anh lập tức quát to một tiếng :

- Tặc tử chạy đi đâu !

Miệng quát tay phải thuẫn bài đã vung lên, đồng thời đồng trùy bên tay trái cũng đập trở xuống đánh vút vào người Hoàng Dược Sư lẹ như cơn gió lốc.

Nhị hổ bỗng hoảng hốt la to :

- Tẩu tẩu coi chừng phía sau lưng !

Nhưng Hoàng Dược Sư đã nhanh như một bóng ma, vút một cái đã vượt đến phía hậu của Yên Chi Hổ lẹ vươn cánh tay trái chộp được mớ tóc mây phía sau ót của mụ cọp cái giựt mạnh một cái.

Tức thì "bộp !" một tiếng, Tử Tú Anh đã nhào lộn mèo xuống đất, văng xa khỏi đấy hai trượng, quần áo dính đầy cát đất, hai món binh khí cũng văng ra hai nơi xa lắc ngoài bảy tám bước.

Bạch Các Hổ thấy vợ mình bị nhục đến thế, nổi giận bốc ngất trời xanh, quên cả sợ hải lúc ban đầu, phi thân nhãy vút đến, hai cái chùy "Điểm can lang nha tọa" phân ra hai phía tấn công vào hai huyệt Phong Thị và Kiên Dụ của đối phương, hai trái chùy "Điểm can tang nha tọa" ấy hình dáng nhọn như cây bút lớn có thể vừa sử dụng như khí giới lại điểm huyệt như ngọn bút lông lợi hại rất mực.

Trong mấy năm ngang dọc giang hồ làm tên cướp biển, Bạch Các Hổ Thường Thông đã nhờ đôi chùy cổ quái ấy hạ ngã tất cả đám thủy khấu trên khắp sông hồ.

Nhưng hôm nay xui xẻo gặp phải Đào Hoa đảo chủ, tỷ như hòn đá bên cạnh ngọn Thái Sơn, hai cặp tạ cũ ấy vừa đâm thốc vào lưng của Hoàng Dược Sư. Chàng không những chẳng thèm đở tránh mà trái lại lại còn ưởn lưng ra hứng đòn.

Thật là một quái tượng ngoài ý liệu của Bạch Các Hổ, cặp tạ đánh trúng vào lưng của đối phương kêu "phịch !" lên một tiếng, nhưng y liền cảm thấy nơi đầu ngọn tạ chạm vào da thịt đối phương như đánh lên phải một vật trơn tuột lờn nhờn như chất dầu, bay trợt ra phía ngoài, suýt chút nữa là vuột cả binh khí đang cầm nơi tay.

Hoàng Dược Sư thoắt một cái đã qua người trở lại, tay trái lẹ như chớp đớp vào mặt Thường Thông một bạt tai tá hỏa tam tinh.

Vừa vặn cây gậy ba ngấn của Nhị Hổ Tang Nhân quét vòng dưới chân tấn công tới.

Hoàng Dược Sư nhẹ nhàng nhấc chân tung mình lên cao, nhường cho ngọn gậy quét qua rồi sử dụng ngay ngọn cước Tảo Diệp Thố, vung chân đá vào ngấn giữa của cây gậy đuôi beo, khiến Tang Nhân cả người lẫn gậy bay là là ra khỏi vòng đấu hơn bảy tám bước, té phịch trên mặt đất như thiên lôi rớt xuống .

Hoàng Dược Sư liên tiếp trong khoảnh khắc hạ luôn năm cọp, chỉ với một cánh tay trái còn cánh tay phải vẫn y nhiên bị buộc chặt sau lưng bất động.

Năm tên đầu lĩnh Ngũ Hổ lớp ngóp bò dậy, hùng hổ xông trở lại tấn công, quyết một mất một còn với Hoàng Dược Sư để rửa hận.

Tang Nhân, Đại Cang, Tiêu Tín múa tít khí giới lăn xả vào đâm chém như cọp điên.

Thường Thông cũng vung tròn đôi lang nha tọa tung mình nhãy đến, Ngũ Hổ với năm loại binh khí khác nhau trên tay bao chặt Hoàng Dược Sư vào giữa, tấn công tới tấp như mưa rào.

Hoàng Dược Sư cười lên ha hả, tung mình thoăn thoắt giữa bóng binh khí, tay trái chọt một cái thì đoạt thanh dao dày cộm của Xích Mao Hổ, chân hữu như làn sao xẹt, bung trở ra đá Thương Diện Hổ lộn nhào ra khỏi trận.

Tuy đoạt được khí giới của Hoắc Đại Cang nhưng Hoàng Dược Sư chẳng thèm đem ra đở gạt. Chàng cười một tiếng ném mạnh thanh đao lên trời, tiếp theo đấy dùng ngón tay búng nhẹ vào hướng cây đao đang còn lưng chừng ở khoảng không.

Tức thì ngọn đao tựa như mũi tên lìa ná xẹt đi vun vút, lao nhanh về phía Bạch Các Hổ.

Thường Thông hốt hoảng vội vung cây lang nha tỏa định gạt văng mũi đao của Hoàng Dược Sư bắn tới kia.

Nào ngờ Hoàng Dược Sư đã áp dụng Thiền Chỉ thần công, nên thế mạnh của ngọn đao bằng như một mũi tên bo cây cứng "ba thạch" bắn ra sức lao đi như hòn núi đổ nghiêng.

Nên vừa nghe "kinh" "coong" hai tiếng chát chúa , Thường Thông tuy gạt được ngọn đao rơi xuống đất, nhưng hai cánh tay đã tê chồn nhức nhối, hổ khẩu tay đau buốt như kim chích phải, mũi đao lướt qua sát cánh tay cắt đứt miếng lớp áo bên ngoài.

Bạch Các Hổ kinh sợ đến mồ hôi tuôn ướt trán.

Đào Hoa đảo chủ một tay nghênh địch, qua mấy chiêu đầu tay đã làm bọn Ngũ Hổ Thái Hồ, thất điên bát đảo, té bò lổm ngồm, theo lý bọn chúng nên nhận thua mới phải.

Nhưng năm cọp miền Thái Hồ là một bọn vong mạng, quen thói liều lĩnh, tánh nết hung hăng dử tợn, tuy bị té u đầu sứt trán vẫn hùng hổ xông đến quyết hơn thua .

Hoàng Dược Sư cả giận quát lên như sấm :

- Quân giặc chó, cho chúng bây nếm đủ mùi làm chó rồi, giờ đây ta không còn nương tay nữa đâu !

Tiếng quát chưa dứt, bóng xanh đã thoắt một cái như trận gió nhãy sát đến bên Thường Thông.

Bạch Các Hổ ớn lạnh cả sống lưng không dám vung đôi tạ lang nha ra chống đối, mà định rùn thấp xuống dùng "Địa đàn công" để lăn thoát đi nơi khác.

Nhưng thủ pháp của Hoàng Dược Sư nhanh không thể tả, lẹ như chớp tay trái vung ra, chưởng thế tuy nhẹ nhàng phiêu phưỡng chẳng chút dùng sức, kỳ thật khi nhấc tay ra chưởng đã khéo léo ngầm vận sức mạnh, chiếc đầu lâu của Bạch Các Hổ lẫn cả một khúc cổ, bị chặt ngọt xớt như đao tiện, máu tươi như suối trào, vọt phún lên trời.

Tang Nhân thấy đại đầu lĩnh vong mạng, hồn phi phách tán ném phăng hai ngọn Nga Mi Thích định chuồn ra ngoài trận, nhưng y vừa sắp nhãy vút ra khỏi vòng đấu, thì Hoàng Dược Sư nhanh trong nháy mắt phi thân đến nơi vươn tay trái ra chộp cứng lấy áo đối phương, tung bổng lên trời, thân hình của Tang Nhân như một quả khí cầu, bay lộn trên ba trượng cao mới rớt trở xuống đất đánh thịch một tiếng như trái mít rụng.

Thế ném của Hoàng Dược Sư rất xảo diệu, nên khi Tang Nhân rơi xuống đất, đầu trước chân sau chỉ kịp rống lên một tiếng hãi hùng là xương sọ bể nát, óc phọt đầy trên mà đất, trông thật rùng rợn.

Trong Ngũ Hổ Thái Hồ lợi hại nhất là Thường Thông thứ nhì là Tang Nhân, nhưng chỉ vỏn vẹn chẳng tới hai hiệp đã bỏ mạng vì tay của Hoàng Dược Sư.

Ba cọp còn lại là Thương Diện Xích Mao và cả cọp cái Tử Tú Anh, sợ đến gan ruột chạy tuột xuống chân, không hẹn, đồng hè thi nhau chạy trốn.

Nhưng Hoàng Dược Sư đâu dễ buông tha, vừa quăng xong Tang Nhân là đã nhãy bay tới, tay trái một chưởng, vỗ trúng thiên linh cái Xích Mao Hổ, xương đầu y nát, té bịch trên mặt đất, dãy dụa mấy cái đã theo chân đồng bọn chu du xuống địa phủ.

Chân trái của Hoàng Dược Sư cũng đồng thời đưa lên, vít một đá vào hông Tiêu Tín, khiến nội tạng của y hoàn toàn bể nát, thế là trước sau bốn hổ đều chết dưới bản lĩnh quán tuyệt của Hoàng Dược Sư.

Trong Ngũ Hổ chỉ còn sót một hổ cái Tử Tú Anh, tuy bản tánh hung hăng, nhưng trước cái chết khủng khiếp của chồng và ba vị đại đầu lĩnh khiến mụ ta xác chẳng còn hồn, mặt mày tái mét như kẻ chết đuối !

Mụ cố cắn răng mím môi vung ngọn chùy "Cửu Diệp Liên Hoa" liệng ra, tức thì từ những cánh hoa sen trên đồng trùng liền quay tròn chuyển động bay vút ra năm mũi ám khí, tấn công vào ngũ quan thất khiếu của Hoàng Dược Sư.

Ngọn đồng trùng, Cửu Diệp Liên Hoa của Yên Chi Hồ, bên trong ruột trống phỗng dùng để giấu năm mủi tên nhỏ bằng gang, tẩm thuốc độc cực mạnh, gặp máu là hít cứng chẳng rời.

Lúc chẳng dùng đến thì để yên trong lòng trái chúng, nếu khi gặp phải cường địch chỉ cần buông ngay cán chùy, chín cánh hoa nơi đầu chùy lập tức chuyển động và bung ra, những mũi tên độc từ bên trong tự động bay vút ra ngoài.

Môn công phu đồng chùy kẹp ám khí ấy, mười phần ám độc lợi hại. Yên Chi Hổ đã dùng tuyệt kỷ ấy sát hại vô số hảo hán trên chốn giang hồ, nhưng y thị dùng món ám khí âm tổn ấy để hại mạng Hoàng Dược Sư, có khác nào là dã tràng xe cát !

Khi tên độc vừa bay thoát ra ngoài, Hoàng Dược Sư nhẹ nhàng phất tay áo xanh lập tức có một luồng cương khí bay tới đẩy bật những mui phi độc châm quay mũi bay trở lại và lạ lùng thay năm mũi tên độc ấy như năm con rắn linh động bay đúng tai, mắt, mủi họng của Yên Chi Hồ khiến nàng rú lên một tiếng thảm thiết rồi té nhào trên mặt đất.

Kể ra ả nữ tặc ấy cũng khá hào hùng vừa ngã nhào xuống mặt đất y thị liền giơ ngọn đồng chùy lên tự bổ vào đầu mình liền hai cái "bộp ! bộp !", tử tiết theo chồng để tránh nhục nhã.

Hoàng Dược Sư hạ luôn một hơi Ngũ Hổ xong, mặt chẳng đổi sắc, tay phải vung một cái giựt đứt tất cả dây trói và gọi lớn :

- Kéo những tử thi này ra phía ngoài, đào đất chôn cho khuất mắt !

Mọi người thấy Hoàng Dược Sư, chỉ nhẹ nhàng nhấc tay giơ chân có mấy lượt mà giết tan bầy cọp dử trong Thái Hồ dễ dàng còn hơn người ta xắt rau lạng thịt, người nào cũng khiếp đảm kinh hồn, ghê sợ cho bản lĩnh quá sức cao diệu của vị khách áo xanh lạ lùng kia.

Võ Hồng Quang tuy còn bé nhưng khôn ngoan bạo dạn khác thường, vội chạy ra chỉ huy mấy người tráng đinh dùng chiếu bó thân bọn cướp đem ra mai táng bên ngoài bãi tha ma.

Mấy vị hương lão liền cung kính vòng tay hỏi Hoàng Dược Sư :

- Dám hỏi Hoàng ân công còn mấy tên giặc kia thì sao ?

Hoàng Dược Sư bực dọc khoát tay bảo :

- Đám cẩu tặc ấy đâu đáng cho ta ra tay trừng trị. Đem giải tất cả lên quan trị tội được rồi !

Mọi người vâng dạ chẳng dám trái lời.

Hoàng Dược Sư trở về nhà Võ Trọng Thuấn, một lát sau Võ Hồng Quang cũng về đến nơi chạy ù vào tìm Hoàng Dược Sư báo cáo :

- Thưa Hoàng lão gia, năm tử thi của Thái Hồ Ngũ Hổ đã chôn cất xong xuôi rồi !

Hoàng Dược Sư mỉm cười, lấy tay xoa đầu Hồng Quang và nói :

- Cháu giỏi lắm, thông minh lắm, ta nhận cháu làm đồ đệ đem đến một nơi đẹp đẽ tuyển tập võ nghệ chịu không ?

Hồng Quang chưa tỏ ý khẩn cầu, được Hoàng Dược Sư gải đúng chỗ ngứa của mình, mừng rỡ ra mặt, vội quì ngay xuống vập đầu xuống đất vái lấy vái để .

Võ Trọng Thuấn đứng cạnh thấy Hoàng Dược Sư chịu nhận cháu mình làm đồ đệ, sung sướng cười lên ha hả, nói :

- Hoàng tướng công định thâu nhận cháu tôi làm môn hạ thật sao ? Vậy không biết lão ân công luyện công phu thuộc về môn phái nào, và động phủ ở nơi đâu ?

Hoàng Dược Sư chỉ cười mà không đáp, lại quay hỏi Hồng Quang :

- Này con, nơi đây con có làm gì không ? Có thiếu vật gì của ai chăng ?

Hồng Quang lắc đầu đáp :

- Thưa sư phụ, không có !

Hoàng Dược Sư gật đầu đáp :

- Thế thì được lắm, bây giờ chúng ta nên khởi hành là vừa !

Võ Trọng Thuấn nói :

- Hoàng lão sư, ông...ông...

Đào Hoa đảo chủ liền quàng tay phải cặp gọn Võ Hồng Quang vào nách rồi thoắt một cái đã nhãy qua khỏi mấy căn nhà, thấp thoáng lúc nhãy lúc đáp thêm mấy lượt nữa, tông tích chàng đã biến mất vào rừng cây um tùm !

Võ Trọng Thuấn lòng đau như cắt vì thương nhớ cháu thơ.

Bá tánh trong trấn Ô Kiều dụm năm dụm ba kề tai phụ nhĩ, mọi người đều cho Hoàng Dược Sư là thần tiên giáng phàm để cứu nguy cho nhân dân thôn ấp.

Đào Hoa đảo chủ sau khi cắp Võ Hồng Quang vào nách, liền phi

thân vun vút lìa khỏi Ô Kiều trấn.

Chỉ trong một ngày một đêm đã vượt trên tám trăm dặm lộ trình.

Bước vào miền duyên hải của khu vực Triết Đông.

Hoàng Dược Sư mới để Võ Hồng Quang xuống đất rồi nói :

- Đến chỗ địa đầu rồi !

Võ Hồng Quang nhìn ra biển cả xanh ngát, bàng hoàng hỏi :

- Thưa sư phụ, nhà của sư phụ trên biển cả này phải chăng ?

Hoàng Dược Sư gật đầu đáp :

- Đúng ! Nhà của ta trên một hải đảo giữa biển Đông, con đứng chờ ở đây, đợi sư phụ kiếm thuyền, thầy trò ta cùng quá giang.

Võ Hồng Quang liền ngồi xổm trên mỏm đá dựa bờ biển.

Hoàng Dược Sư men theo bờ biển đi ngược lên độ ba bốn dặm thì bỗng nhìn thấy trên một biển nhấp nhô một thuyền nan mỏng manh không chèo không lái, trôi xuôi theo giòng hải lưu.

Hoàng Dược Sư lẩm bẩm tự nhủ lấy mình :

- Nơi đây sao lại có chiếc thuyền lạc lõng vô chủ như thế ? Lạ thật !

Chàng ước định chiếc thuyền ấy cách xa bờ biển không xa liền ngầm vận cương khí, hai tay cung lại thành hình bán nguyệt, đưa thẳng ra ngoài rồi từ từ cuốn trở vào lòng.

Hoàng Dược Sư với cách thức vừa rồi chính đã dùng thần công của Phách Không Chưởng, tức thì chiếc thuyền đang trôi băng theo chiều nước, bỗng xoay tròn một chỗ đoạn từ từ theo tiềm lực của vòng tay Hoàng Dược Sư, nhích dần vào bờ như bị một sức hút vô hình giữ phải vậy.

Hoàng Dược Sư đưa mắt nhìn vào khoang thuyền, bất giác giật mình đánh thót như bị điện giựt.

Thì ra trong chiếc thuyền nan ấy có một thiếu nữ áo hồng đang nằm thiêm thiếp, tuổi độ mười bảy hay mười bốn gì đó, mặt úp xuống khoang thuyền nên không thấy rõ dung nhan nàng ra sao.

Hoàng Dược Sư cau mày nghĩ ngợi, đoạn quay đầu kêu Võ Hồng Quang :

- Hồng Nhi, lại đây mau .

Hồng Quang liền nhãy khỏi mỏm đá, chạy bay đến nơi Hoàng Dược Sư đang đứng, cậu lõ mắt nhìn vào chiếc thuyền, thất thanh la lên :

- Ủa ! Sao trong thuyền lại có một cô gái đang nằm, nàng là người nào vậy ?

Hoàng Dược Sư nói :

- Con xuống bồng nàng ấy lên bờ đi !

Võ Hồng Quang giật mình hỏi :

- Thưa sư phụ, con làm sao ẵm nàng lên được ? Vì ông con ở nhà thường răn dạy, nam nữ thọ thọ bất thân, đệ tử thật không dám vượt lễ nghi đâu !

Hoàng Dược Sư nghiêm sắc mặt đáp :

- Nói xàm, cái gì nam nữ thọ thọ bất thân, thầy rất ghét lối đạo đức giả ấy, một con người chỉ cần tâm địa quang minh, hà tất câu thúc theo lối lễ nghĩa trống rỗng ấy ?

Võ Hồng Quang nghe sư phụ nói thế, không dám cãi lý, chỉ đành bước xuống be thuyền ẵm xốc nàng thiếu nữ ấy lên bờ, thấy nàng ta sắc diện tái trắng, nơi gáy có một vết thương sâu, vết máu chưa khô, trên tay cũng bị thương tích, nói chẳng ra hơi. Tình cảnh xem ra cô rất tiều tụy khổ sở, nhưng mắt mũi cân xứng, môi tím má hồng, chứng tỏ một sắc đẹp kiều diễm hơn người.

Hoàng Dược Sư nhìn thấy dung mạo của thiếu nữ đang bất tỉnh kia, không hiểu vì sao, trống ngực nhãy lên phập phồng khác thường.

Võ Hồng Quang để thiếu nữ nằm nhẹ xuống đất và nói :

- Sư phụ nàng thiếu nữ này có phần kỳ bí lắm, tại sao một mình nàng chơ vơ trên thuyền ! Trên người lại bị thương, mà thuyền thì không có buồm có chèo, tự dưng lại trôi đến nơi đây được chứ ?

Hoàng Dược Sư chẳng bận đáp lời, thò tay vào túi móc ra một bình nhỏ bằng ngọc trong bình đựng đầy ngãi nhung, chàng bèn cẩn thận lấy ra một cọng ngãi nhỏ tí như sợi tơ nhung, đánh lửa đốt lên kê vào mũi thiếu nữ, sức mạnh của hương thơm ngãi nhung quả kỳ diệu, nàng thiếu nữ liền hách xì lên mấy cái, rồi từ từ mở mắt ra .

Nhưng kể cũng lạ, thiếu nữ tuy tỉnh hẳn, mắt đà mở lên trao tráo mà hơi thở yếu nhẹ như tơ, đôi môi anh đào mấp máy không ngớt, nhưng nói chẳng ra lời.

Võ Hồng Quang bèn nói :

- Sư phụ, chúng ta đã cứu nàng tĩnh dậy rồi nhưng cô ta không nói chuyện được, chắc không xong quá ?

Hoàng Dược Sư nghiệm giọng đáp :

- Nói bá láp ! Thiếu nữ này chỉ không nói chuyện được, chứ không bị thương, xem tình cảnh của nàng thì ít nhất ba ngày rồi chẳng ăn uống được vật gì, nên quá đói mà nói chẳng thành tiếng.

Hồng nhi con giúp cô ta tìm vài món ăn uống đở lòng đi.

Võ Hồng Quang ngần ngừ và nói :

- Bờ biển hoang liêu, nhà cửa chẳng có, tìm đâu cho ra thức ăn uống

Hoàng Dược Sư sầm mặt lại đáp :

- Bảo ngươi tìm chút thức ăn uống, ngươi lại nầy nọ kia khác đủ chuyện, cho đến một sự cỏn con mà làm chẳng xong còn xứng đáng làm đồ đệ ta được chăng ? Về nhà đi cho rảnh mắt ta !

Hồng Quang quýnh quít tay chân dạ liền :

- Vâng ! Vâng ! Thưa sư phụ, con xin làm ngay !

Nói xong cậu bé ngoắc mình chạy cong một hồi, trong lòng thầm nghĩ :

- Vị sư phụ này tánh tình lạ thường lại hay tị hiềm giận dỗi không đâu, tuy mình đã bái nhận người làm thầy, nhưng e khó mà làm học trò ông ta được !

Võ Hồng Quang chạy ù một hồi bảy tám dặm đường, thấy phía trước mặt có hơi khói bay lên.

Võ Hồng Quang ngầm kêu lên mừng rỡ :

- Xấu hổ thật ! Phía trước có khói tất có người ở, mà có người ở là chắc hẳn phải có thức ăn uống cho sư phụ rồi . Mình cứ một hai từ chối chẳng chịu đi, xấu hổ thật !

Hồng Quang nhanh thêm bước chân, nhắm phía có làn khói tỏa chạy tới, quả như y diệu, phía trước hiện ra hai căn nhà tranh, khói trắng từ đỉnh nhà bốc lên nghi ngút chứng tỏ là bên trong có người đang nấu nướng gì đó.

Hồng Quang cau mày lẩm bẩm một mình :

- Xem bề thế của căn nhà tranh này, chủ gia nhất định là một nông dân, người trong nhà nấu cơm có lẽ để đem lên ruộng ăn, ta làm cách nào mà xin cho được đây !

Lầm bầm đến đây cậu bé sực nhớ trong túi còn chút ít bạc vụn,mừng rỡ kêu lên :

- À ! Có rồi, tiền còn qua mặt được thánh thần, ta dại gì mà dùng tiền mua lại phần cơm của họ ! Ư hứ !

Nghĩ xong, cậu bèn vuốt lại nếp áo sửa bộ nhu mì bước vào ngạch cửa của nông gia ấy và lớn tiếng chào hỏi hết sức lễ phép :

- Thưa chú, thưa thím !

Cậu bé liên tiếp gọi lớn mấy tiếng, bên trong mới có một người đàn bà quê mùa bước ra đầu rối áo thôi, thấy Hồng Quang là một đứa trẻ bèn hỏi :

- Ủa ! Cậu nhỏ kia, từ đâu đến vậy ! Xem ra cậu chẳng phải là người của bổn thôn, làm gì mà đứng trước cửa nhà tôi kêu om sòm lên vậy ?

Hồng Quang vội móc bạc ra trao tận tay thiếu phụ quê mùa và nói :

- Thưa thím, trong bếp thím hiện có sẵn cơm canh nấu rồi, thím vui lòng nhường lại cho, tôi có người bạn đang...

Cậu bé chưa nói dứt lời, thiếu phụ quê mùa đã lắc đầu lia lịa trả bạc lại và nói :

- Không được đâu, cơm này tôi để đem lên ruộng cho chồng tôi ,

không thể bán cho cậu em được , cậu em đi nơi khác vậy, phía trước cách đây mười dặm đường có một quán cơm vào đó mua tiện hơn !

Nói xong y thị đầu chẳng thèm quay lại ngoe nguẩy đi vào một nước.

Hồng Quang bị thất vọng tưng hửng đứng trơ một chỗ nửa khóc nửa cười.

Mụ nhà quê chẳng chịu nhường phần cơm nước lại cho mình lại bảo đến quán cơm cách đây mười dặm mua, nhưng cậu bé đã chạy một đổi đường dài bảy tám dặm, đã lết bết hai chân, đâu còn sức mà chạy thêm mười dặm nữa. Vả lại bận đi bận về trên chục dặm đường !

Nhưng Hồng Quang vốn là một đứa bé thông minh, cậu ta nháy mắt mấy cái đã suy nghĩ ra được một kế vỗ tay mừng rỡ nói lấy mình :

- Ai bảo bà thấy tiền chẳng thèm, tôi sẽ có cách cho bà biết tay.

Hồng Quang nói xong, liền cúi đầu chui ra phía sau nhà ngó quanh bốn phía chẳng thấy ai, liền đánh đu lên cửa ghé mắt nhìn vào, quả nhiên không ngoài ý liệu, nơi đây là một gian nhà bếp nhỏ và thiếu phụ lúc nãy đang bới cơm múc canh, để vào một chiếc giỏ tre.

Hồng Quang chọn hai cục đá to bằng nắm tay, khẽ với tay nhắm ngay ơ canh đang sôi quăng vào đánh bỏm một tiếng, nước canh trong ơ văng tung toe bắn cả vào mặt thiếu phụ, khiến y thị tá hỏa tam tinh, thất thanh kêu lên như bọng :

- Ái cha !

Y lại quay mắng chửi toáng lên :

- Đồ tiểu yêu chết tử chết tuyệt này dám ghẹo đến cả gái xề này !

Y thị giận đến thở lên hồ hào, rút bên lò ra thanh đũa bằng sắt, tuôn ra khói cửa nhà bếp, miệng láp dáp chửi như mắc thằng bố, chân lẹp bẹp như con vịt xiêm, đuổi thẳng ra khỏi nhà, nhưng chẳng thấy bóng ai.

Hồng Quang thấy thiếu phụ đã trúng kế mình, trong bụng tức cười thầm, hai tay đẩy cửa xong lịch sang bên nhãy tót vào trú phòng, một tay xách gọn giỏ đồ ăn, thuận tay còn rút một mớ củi đang cháy đỏ trong lò rãi đầy trước cửa nhà bếp đoạn ta to lên :

- Không xong ! Có trộm ! Mau bắt trộm bớ người ta !

Thiếu phụ quê mùa kia, một trăm phần cũng không ngờ Võ Hồng Quang gạt gẫm mình, cứ ngỡ trẻ hàng xóm nghịch ngợm, quăng đá vào nhà, vừa đưa lại lọt ngay cả canh, văng lên phỏng cả đầu cổ mình, không khỏi nổi giận xung thiên định chạy thẳng ra ngoài chộp đầu đứa bé nghịch ngợm dần cho một trận .

Nào ngờ vừa chạy ra khỏi cửa nghe trong nhà bếp của mình có tiếng kêu trộm inh ỏi, hốt hoảng chẳng cùng, vội hấp tấp chạy bay trở về .

Ngờ đâu mới chạy về đến cửa đạp phải những tàn lửa của những khúc củi đang cháy đau quá nhãy lên choi chói, ôm lấy bàn chân xuýt xoa rên to :

- Ái cha ! Ái cha !

Hồng Quang thừa lúc thiếu phụ ngồi xổm dưới rên rỉ như bọng, liền xách chiếc giỏ đựng cơm canh chạy dông một hơi mất .

Hồng Quang dùng kế đoạt được giỏ cơm canh của thiếu phụ, mừng rỡ chạy bay trở lại biển, thấy Hoàng Dược Sư đã đở thiếu nữ lúc nãy lên ghềnh đá, lại bảo nàng ngồi xếp bằng, dựa mình vào lòng mình.

Hoàng Dược Sư thấy Võ Hồng Quang xách giỏ đồ ăn chạy trở về , trên mặt không khỏi lộ vẻ tươi cười.

Hồng Quang chạy một hơi đến trước mặt sư phụ, mới đặt giỏ đồ ăn xuống và nói :

- Thưa sư phụ !

Hoàng Dược Sư khoát tay bảo :

- Khỏi thuật lại, thấy dạng của con, thầy đã dư biết giỏ cơm canh này nếu chẳng phải trộm thì cũng là giựt mà đem về đây.

Nhưng không sao ! Đệ tử Đào Hoa đảo của chúng ta, chỉ trọng thực danh mà không câu nệ tiểu tiết, trộm cũng được mà giựt cũng xong chỉ cần đừng sát nhân hại mạng là đủ rồi, mau đem đến đây .

Võ Hồng Quang đinh ninh là ít nhất sư phụ cũng quở trách vài lời, nào ngờ sự việc lại trái hẳn, sư phụ còn tỏ ý khen tặng khích lệ nữa là khác !

Hoàng Dược Sư nói xong liền mở nắp giỏ tre ra, thấy bên trong là một tô canh cải trắng nấu đậu hũ, cùng một thố cơm tấm trắng, hơi còn nóng nghi ngút.

Võ Lâm Ngũ Bá - Hồi 57 : Nghĩa nặng tình sâu

Hoàng Dược Sư liền chan canh vào cơm, thổi cho nguội nhúm từ nhúm nhỏ đút vào miệng thiếu nữ.

Nàng con gái vì quá đói quên cả vết thương trên cổ, ăn một loáng đã vơi hết nửa phần cơm canh trong giỏ, nước da trắng tái mới có chút sinh khí phơn phớt đỏ trở lại, nàng lờ đờ bất lực mở mắt ra rồi khóc và kêu lên :

- Mẹ ơi !

Hoàng Dược Sư thót giật mình thầm nghĩ :

- Té ra nàng còn cả cha mẹ, nhưng chẳng hiểu tại sao lại một thân một bóng trôi dạt trên biển cải mà trên cổ lại bị thương, chẳng hiểu do nguyên nhân nào gây ra ?

Chàng bèn dịu dàng hỏi :

- Tiểu cô nương, cô tỉnh lại đi, nơi đây là bờ biển, cha mẹ cô ở đâu ? Tại sao cô phải ra nông nổi này ? Có thể cho tôi biết được chăng ?

Thiếu nữ nghe Hoàng Dược Sư hỏi văng vẳng bên tai, thần trí có phần khôi phục trở lại, nàng mở mắt nhìn thấy có một vị thư sinh trung niên anh tuấn, phong cách tiêu sái cùng một chú bé mặt mũi sáng sủa đứng gần bên mình, nàng bỗng khóc ồ lên và nói :

- Quân cường đạo ác nhân thất đức kia đã giết chết cha mẹ tôi rồi !

Nói xong khóc lên tức tưởi rất bi thương.

Hoàng Dược Sư thầm kinh hãi, té ra cha mẹ nàng đã bị cường đạo sát hại, chàng tình cờ gặp phải chuyện bất bình này, không thể bỏ qua mà chẳng can thiệp, nhưng nàng cứ khóc lóc mãi biết làm cách nào đây ?

Võ Hồng Quang vọt miệng nói :

- Sư phụ, nơi đây chẳng phải là chỗ nói chuyện, thầy trò ta nên dìu nàng tìm một nơi nào có nhà cửa nghỉ ngơi, đợi lúc nàng bình phục hẳn tính chuyện sau !

Hoàng Dược Sư khẽ gật đầu tán đồng :

- Có lý ! Thầy quên mất vết thương trên cổ của nàng !

Nói đoạn chàng móc ra một hoàn thuốc kim thương, đắp vào vết thương trên cổ nàng, sau đấy bảo Võ Hồng Quang :

- Đồ đệ hãy cùng nàng vào bờ, tìm nơi nào có nhà cửa dân cư tạm cho nàng nghỉ ngơi đôi ngày.

Hồng Quang trù trừ đáp :

- Cái ấy, cái ấy...khó quá vì cô ta là con gái !

Hoàng Dược Sư sầm mặt lại quát :

- Người lại giở giọng cũ rồi ! Lễ giáo đâu phải áp dụng cho hạng chúng ta ! Một con người chỉ cần tâm địa quang minh, cần gì phải khư khư theo lối cổ hủ nam nữ thọ thọ bất thân rỗng tuếch ấy !

Võ Hồng Quang thấy sư phụ sắp nổi giận hoảng hốt líu lưỡi dạ luôn miệng, vội khom người xuống xốc thiếu nữ lên lưng cõng nàng trở lại hướng có nhà cửa mà cậu đã trộm thức ăn lúc nãy, khoảng khắc sau là đã đến nơi cũ.

Thật là oan gia gặp gỡ giữa đường, thiếu phụ quê mùa mà lúc nãy đã bị Hồng Quang dùng kế "điệu hổ ly sơn" để trộm giỏ cơm canh lúc nãy vừa qua lại xách lại giỏ tre lủng lẳng từ phía trước mắt đi lại, chợt thấy tên tiểu yêu Võ Hồng Quang, nàng lập tức la bài hãi lên khiến những tráng phu đang cày cấy gần đó bỏ cả công việc chạy ùa đến độ bảy, tám người, đồng lên tiếng hỏi :

- Gì thế , mụ Tế Nhị ? Mụ la lối ai đấy ?

Thiếu phụ xỉa tay vào mặt Hồng Quang và đáp :

- Mau lại đập thằng tiểu yêu này ! Nó dám trộm cơm canh của tôi, còn dùng than lửa đốt phỏng chân tôi, bây giờ lại lấm la lấm lét trở lại đây, định ăn cắp thêm gì nữa đấy. Mau tóm cổ đừng để nó chạy thoát !

Những nông phu ấy đều là những người thật thà thô lỗ, nghe mụ Tế Nhị nói thế, đều nổi giận la hét lên inh ỏi, kẻ cuốc người xuổng định sấn tới , có vài tên nông phu lanh mắt la to :

- Khoan đã, thằng tiểu yêu ấy sau lưng có cõng một cô gái, chắc là bắt cóc con nhà ai chứ chẳng sai, tóm cổ nó trước rồi sẽ nói chuyện sau !

Mọi người định tiến tới bao vây Hồng Quang vào giữa.

Hoàng Dược Sư liền sấn bước ra trước và nói :

- Các vị hương thân không nên động thủ !

Mấy tên nông phu thấy Hoàng Dược Sư ăn mặc theo lối học trò, mà Tống Trào rất quí kẻ đọc sách, trọng văn khinh võ nên bọn chúng chẳng dám mạo muội thất lễ đành buông xuôi cuốc xuống chờ ý kiến của chàng.

Hoàng Dược Sư mới ung dung tiếp lời :

- Đứa nhỏ đó là học trò của tôi, chư vị có điều gì cứ đem ra thảo luận, chứ chẳng được vô lễ với đồ đệ tôi .

Thiếu phụ nghe Hoàng Dược Sư nói thế, nổi giận cành hông tác sắc mắng to :

- Gã học trò hôi hám kia khéo dạy đứa học trò làm giặc mà còn giở giọng bênh vực nữa.

Hoàng Dược Sư chẳng đáp chẳng rằng, cười nhạt một tiếng tay phải giơ lẹ lên như chớp "bốp ! chát" , vả vào quai hàm thiếu phụ hai cái như trời giáng, khiến thiếu phụ trẹo cả quai hàm sang bên, đau thấu trời xanh đất đỏ.

Không sao mở miệng chưởi được, mụ chỉ rống lên từng hồi, như heo bị chọc tiết.

Mấy tên nông dân thấy Hoàng Dược Sư bỗng dưng ra tay đánh người, giận không nhịn được, la hét vang rần, kẻ phản người cuốc nhất tề giáng xuống đầu đối phương.

Hoàng Dược Sư bình tĩnh như không, khẽ nhắc một cánh tay lên, chẳng hiểu chàng dùng thủ pháp gì mà đoạt một hơi bảy tám nông khí của đối phương vào tay, đoạn chàng phất nhẹ tay áo trở ra, mấy tên nông phu cả người lẫn khí giới, văng ra bảy tám bước, té lổm ngổm trên mặt đất.

Mấy tên nông phu vừa giận vừa sợ, lồm cồm ngồi chờ vậy, ráng gân cổ la lên :

- Không xong ! Có quân cướp giết người, bớ bà con ! Có cướp ! Có cướp !

Hoàng Dược Sư lặng thinh tung người đến sát bên họ, tên nào hả họng la làng, chàng cứ theo phép trừng trị, vả trẹo quai hàm tên ấy, khiến bọn chúng đau đớn quá đỗi, lăn lộn dưới đất như trâu điên.

Những nông dân đang cầy cấy gần đấy, nghe tiếng vội bỏ việc đồng áng tụ tập thành đoàn, chỉ trong chốc lát kéo đến trên một trăm tên.

Hồng Quang cả kinh nói :

- Sư phụ, bọn họ đông người quá, thầy trò ta quả bất địch chúng, chi bằng nhanh chân trở về lối cũ để thoát thân !

Hoàng Dược Sư cười nhạt luôn miệng, ngang nhiên chẳng sợ hãi. Chàng chờ cho đám nông phu kéo đến cách xa độ hai ba trượng, liền chấp hai tay lại như xá, mường tượng như vái chào ra mắt bọn chúng, nhưng kỳ thật chàng chẳng phải hạ mình thủ lễ với họ, mà chính chàng đem sức mạnh Phách Không Chưởng ra áp dụng, khí thế tuy chậm rải từ tốn nhưng sức mạnh thật vô cùng.

Những tên nông phu đi hàng đầu độ ba bốn mươi tên bị sức đẩy của Phách Không Chưởng thi nhau té lộn mèo trở ra sau, "lộp ! bộp !" như tàu chuối rụng, người trước đè người sau kẻ té trên đè kẻ té dưới, khiến bọn chúng kêu lên ôi ối náo loạn cả nột vùng.

Hoàng Dược Sư cất giọng oai nghiêm hét lớn :

- Tên nào không sợ té bưu đầu khỏi cổ thì cứ việc tiến tới thử xem ?

Đám người ô hợp tráng nông kia, tên nào cũng ngán bị té đau, chẳng dám tiến tới chỉ đứng ở xa xa vây lấy thầy trò Hoàng Dược Sư.

Chàng lại cười nhạt bảo :

- Các người cứ một hai vu oan cho thầy trò ta là giặc. Nhưng thầy trò ta trộm cắp vật gì của các người, các người nói cho ta lẹ đi !

Đám nông phu thấy diện mạo Hoàng Dược Sư thần uy lẫm lẫm: mắt sáng mày dài, bọn chúng đều giương cặp mắt đớ lưỡi không sao đáp trôi.

Đào Hoa đảo chủ cười khẫy một tiếng, lại nói tiếp :

- Một chó sủa bậy, trăm chó hùa theo, chúng ta đường đường chính chính như thế này, mà là đạo tặc được sao ?

Những tên đại tặc hung ác nhất trong thiên hạ, tên nào cũng ngôi cao phẩm trọng, ngồi chễm chệ giữa triều ca, hút máu dân đen, đoạt vợ người lành, dù nói ra chưa chắc các ngươi đã hiểu ! Bây giờ bọn ngươi phải nói rõ lý do tại sao cho ta là đạo tặc, nếu nói không thông ta vả rụng hàm hạ của mỗi người cho biết tay.

Đám nông dân vừa mới nếm qua bản lĩnh lợi hại của họ Hoàng, biết rằng chàng đã nói là làm, tên nào cũng kinh tâm run mật, cuối cùng có một tên nông phu bạo dạn nhất trong bọt đứng ra lên tiếng :

- Ông thì không phải là giặc, nhưng đồ đệ của ông lại đi trộm cơm canh của mụ Tế Nhị .

Hoàng Dược Sư cười to đáp :

- Quả thế, đồ đệ của ta trộm cơm canh của các người, không phải vì quá đói bụng mà làm thế, mà hoàn toàn vì cứu sống mạng người. Ban đầu nó đưa bạc ra mua hẳn hòi, nhưng các người lại làm hiểm chẳng chịu bán cho nó, có khác nào bức bách nó phải trộm cho kỳ được ?

Bọn ngươi lại chẳng suy nghĩ cho rõ thiệt hơn đen trắng lại a phù vác cuốc xuổng đánh kẻ có lòng nhân, thử hỏi ai mới là giặc !

Chàng dùng lời ngay ý chánh nói một hơi, nông phu câm mồm không sao đáp được, bọn họ một mặt nể sợ bản lĩnh tuyệt vời của Hoàng Dược Sư, mà còn nơm nớp lo âu chàng nổi nóng bất tử, đưa bọn họ đến cửa quan trị tội phạm thượng kẻ sĩ, thì khốn cả lũ.

Hoàng Dược Sư biết bọn chúng đã sợ, không khỏi cười nhạt luôn mấy tiếng, rảo chân đến chỗ những tên bị vả trẹo quai hàm, đở xốc họ dậy , mỗi tên được chàng tặng thêm hai bạt tay lốp bốp, sửa cho quai hàm trở về vị trí cũ, tức thì bao nhiêu đau đớn phút chốc tiêu tan, tên nào tên nấy xưng tạ luôn miệng.

Mọi người thấy thủ pháp của Hoàng Dược Sư thần diệu như thế, đều nô nức khen lạ kỳ, bọn chúng sau trận đòn ấy đều kính phục Hoàng Dược Sư như thiên thần chẳng còn dám mạo phạm nữa !

Hoàng Dược Sư quay ra sau bảo Hồng Quang :

- Đồ đệ lại đây với thầy !

Hồng Quang thấy sư phụ mình đã chế phục được đám nông dân mới hết sợ, bạo gan tiến lên.

Hoàng Dược Sư lấy tay chỉ vào thiếu nữ và nói với mọi người :

- Cô gái ấy từ trong sào huyệt bọn cướp trốn thoát ra ngoài, chúng ta mới cứu sống nàng và đem lên đây, nàng vẫn còn bị thương nặng ! Tục ngữ có câu : Cứu một mạng người, còn hơn xây chín phù đồ.

Chúng tôi định mượn địa phương của quí vị để cứu mạng nàng. Còn như tên học trò tôi có lỡ trộm cơm của Tế Nhị Nương, tôi xin tạ lỗi quí vị về chuyện ấy, buổi cơm ấy giá đáng bao nhiều tiền, tôi xin bồi thường cho quí vị có được chăng ?

Chàng nói lên như thế, càng làm cho dám nông phu thêm phần kính trọng, nên đồng rập lên tiếng trả lời :

- Được lắm ! Được lắm ! Lúc nãy chúng tôi lỡ nóng mạo phạm đến tướng công hải hà chi lượng, hỉ xả cho chúng tôi vậy.

Mọi người đều ùn ùn đi trước, dẫn đường cho thầy trò của Hoàng Dược Sư về thôn trang mình.

Hồng Quang lẹ mồm nhạy miệng hỏi thăm người trong thôn biết rõ nơi đây là Thanh Vận thôn, ước độ trên một trăm nóc gia chuyên nghề nông vụ làm kế sinh nhai. Vị trí của thôn nằm dưới chân núi cách xa bờ biển độ bảy dặm, trong thôn đại đa số chỉ có hai họ Tề, Vu.

Nơi đây cách huyện thị rất xa, nếp sống thanh bình không nhiễm thói điêu ngoa của phồn hoa đô hội, ngày làm đêm nghỉ, thong dong tự tại như thú sống khoái lạc của đào nguyên, an vui hòa lạc như thiên đàng trên nhân thế, đang lúc vui theo câu chuyện, đoàn người về đến cổng thôn mà không hay.

Hoàng Dược Sư bèn tạm trú tại nhà của một nông dân tên Võ Nhuận.

Nơi đây có phần rộng rãi, hơn nữa lại có nữ tì.

Hoàng Dược Sư đưa thiếu nữ an trí xong xuôi, mới gia tâm băng bó vết thương cho nàng, thuốc thang thoa phết bận rộn hơn một buổi trời, thiếu nữ mới hoàn toàn tỉnh táo hẳn.

Nhưng vì vết thương trên cổ nàng vẫn còn đau đớn lắm, không thể nói chuyện nhiều được vài câu.

Hoàng Dược Sư chỉ còn cách để nàng tịnh dưỡng thêm đôi ngày nữa ?

Cho đến ba hôm sau, vết thương nơi cổ mới kéo da non và sắp lành.

Nàng mới từ từ thuật lại hoạn nạn đã trải qua, khiến Hồng Quang đứng bên nghe lỏm, phải nghiến răng châu mày liền hồi.

Thì ra thiếu nữ ấy họ Phùng, khuê danh Hương Điệp người tỉnh Triết Giang, con nhà lễ giáo gia phong, cha tên Phùng Lai một vị nho sĩ hữu danh nơi đất Triết sớm dấn thân đường hoạn lộ, thi được trúng chức Tiến Sĩ .

Nhưng vì không quen được cảnh thối tha dơ dáy trên chốn quan trường, không chịu hạ thấp phẩm giá theo lũ ruồi nhặng hôi tanh, nên treo ấn từ quan lui về thú sàng dã .

Tiến sĩ Phùng Lai này tánh khí thanh cao, ghét nịnh như kẻ thù. Tại phòng khách nơi nhà, ông tạc lên bốn bức tượng bằng đất của bốn tên gian tên đương triều là Trà Kinh, Đồng Quán, Trương Bang Xương, Tần Cối.

Mỗi ngày sáng sớm thức dậy, sau khi súc miệng rửa mặt xong xuôi, chuyện làm thứ nhứt của Phùng Lai là đến phòng khách mắng chưởi bốn tượng đất gian thần một hơi.

Nào Trà Kinh, Đồng Quán lộng quyền hại nước, Trương Bang Xương mãi quốc cầu vinh, dắt giặc vào nhà, Tần Cối tư thông Kim Bang, hại mạng Nhạc Phi, mắng chưởi cho đến khi hơi giận xông lên đầu, lại dùng roi quất túi bụi vào bốn tượng đất.

Nhưng vì tượng làm bằng đất nung chín, đâu có thể chịu đựng được sự đánh đập nặng tay, không tới năm ba ngày sau là sứt đầu gảy cổ, lại lui cui nắn tượng khác để đánh đập nữa, sở dĩ thế mà một số người kêu lén ông là Phùng Khải Tử (tên Phùng khật khùng).

Vợ con trong nhà dù hết sức khuyên ngăn, nhưng ông vẫn giữ y tật cũ, cuối cùng chán nản đành để cho ông tha hồ nắn tượng theo như ý muốn.

Năm họ Phùng ba chục tuổi, thì vợ là Tần thị sanh được một mụn con gái, vì ngày lâm bồn nằm mộng thấy có một con bướm có hoa điểm tròn bay xà vào lòng nên mới đặt cho con gái tên là Phùng Hương Điệp.

Hương Điệp càng lớn, càng tỏ ra thông minh hơn người, năm tuổi làm văn, bảy tuổi đã biết làm thơ, liếc mắt nhìn sơ, đã thuộc được mười giòng nghiễm nhiên là một nữ tấn sĩ không chức phẩm.

Phùng Lai thấy con gái mình thông minh tuyệt đỉnh như thế, hết sức vui lòng, thường bảo vợ :

- Điệp nhi thông minh như thế, thật là hoa quí trong nữ giới, đáng tiếc là hễ thông minh có dư, thì phúc hậu chẳng đủ, e cho con phải hồng nhan bạc mệnh, không được thọ tuổi trời lắm !

Quả đúng như lời tiên tri của Phùng Lai, Hương Điệp đến tuổi mười sáu, đã gặp phải thảm họa tày trời.

Nguyên vì Tri Phủ nơi đất ấy là Ngõa Tế Dân xuất thân vốn môn hạ Tần Cối, tánh tham vô độ. Từ lúc nắm chức Tri Phủ, hoành hành, tác oai tác phúc khắp địa phương, cai trị tham tài đoạt vật, xén bớt của công hối mại của tư, vơ vét thỏa thích theo túi tham không đáy, tiếng oán của lương dân kêu thấu lừng trời, nên dân chúng lén đặt cho y cái ngoại hiệu là "Ngõa lóc da".

Ngõa Tri Phủ sanh một quí tử tên Ngõa Hy Thuấn, bẩm tánh hành vi còn hơn cha một bực. Hư hỏng cực cùng, suốt ngày lân la tửu điếm trà đình du thủ du thực, đi rong các đường phố tìm gái đẹp cưỡng hiếp.

Bá tánh trong thành thấy mặt y ở xa xa là đã lẩn trốn, để tránh việc gây họa vào thân. Mọi người đều đặt cho y cái tên là Hoa Thái Tếu.

Như vậy, đủ thấy y ham dâm háo sắc đến bực nào !

Một hôm Hy Thuấn, dắt theo vài tên cận vệ lang sói rong chơi ngoài đường phố , tình cờ đi ngang qua cửa nhà Phùng Lai , thấy trước cửa có chiếc kiệu xanh ngừng lại rồi trong kiệu bước ra một thiếu nữ thiên kiều bá mị, sắc thần như Hằng Nga, tuổi cũng vừa độ trăng tròn, có một nữ tì gìa phò đưa thẳng vào bên trong.

Ngõa Hy Thuấn sững sờ đến phách lạc hồn xiêu cho đến khi cánh cửa đóng sầm lại, y mới giật mình sực tỉnh, nháy mắt nhăn răng nói với thủ hạ :

- Thật là một tuyệt thế giai nhân ?

Đám thủ hạ thấy chủ mình tỏ vẻ mê một như thế, bèn hỏi :

- Triết gia, nàng thiếu nữ ấy nhạp nhãn chăng ?

Hy Thuấn xuýt xoa nói :

- Hạp quá rồi ! Chỉ tiếc cô ta là một khuê nữ gia phong không phải hạng liệu ngỏ hoa tường, làm sao mà lọt vào tay.

Một tên ác nô biệt danh là "Thại Tô Tần " cười đáp :

- Con gái nhà lành thì hết cách rồi sao ? Thiếu gia dù có thích mặt trăng trên trời, đại lão gia túng ráng mà cắt mặt trăng xuống cho thiếu gia vừa ý nữa là khác ?

Hy Thuấn được gã bộ hạ nịnh bợ, khoái trá đến từng sợi chân lông cũng thấy hơi mát, tuoi tắn tươi cười nói :

- Phải rồi, nuôi binh hàng ngày dùng trong một buổi, bọn bây tìm mưu cho ta toại nguyện xem nào !

Thại Tô Tần đáp :

- Nếu thiếu gia thích ý, thì chuyện này tiểu nhân sẽ bảo lãnh giúp thiếu gia đến toại nguyện mời kỳ thôi.

Bàn tán xong, cả bọn kéo nhau trở phủ.

Nửa ngày sau Thại Tô Tận từ bên ngoài trở về cười hì hì bước vào cửa thư phòng của Hy Thuấn và nói :

- Thiếu gia ơi, có đường rồi ! Tên thiếu nữ ấy là Hương Điệp, năm nay mới mười sáu tuổi còn trinh chưa chồng, con gái của quan Tiến sĩ Phùng Lai !

Ngõa Hy Thuấn hỏi :

- Hả ? Con của lão "Phùng Khải Tử" ấy à ? Chuyện này không nên đâu ?

Thái Tô Tần đáp :

- Phùng Khải Tử thì sao ! Tục ngữ có câu : Chẳng sợ quan nhưng phủ sợ làng ! Thiếu gia là con của quan Tri Phủ sở tại, họ Phùng dù to gan mấy cũng phải nể nang. Thiếu gia chỉ cần nói rõ với lão gia, bảo chắc là thành công như trở bàn tay, nàng tiên yêu kiều như mộng kia sớm muộn gì chẳng mặc tình thiếu gia ôm hương ấp ngọc .

Ngõa Hy Thuấn ngẫm nghĩ cũng phải, liền đem y muốn mình thuật lại cho cha rõ.

Ngõa Tri Phủ vốn tánh chìu con, trăm sự đều nghe theo, tuy biết Phùng Lai là hạng danh sĩ khí khái, chẳng ham quyền quí nhưng chuyện con mình cưới vợ là một điều đại sự đáng mừng, đâu có gì quá đáng mà chẳng y theo.

Nên hắn phái một viên Thư lại đến nhà họ Phùng mời Phùng Lai đến phủ có chuyên cần kíp.

Phùng Lai hết sức ngạc nhiên vì bao lâu nay chẳng hề giao kết với quan phủ, hà cớ gì Ngõa Tri Phủ lại cho mời mình đến đàm đạo chuyện trọng yếu ?

Ông vốn từ lâu khinh thị Ngõa Tri Phủ là hạng tham quan ô lại quen thói chắt bóp máu mũ lương dân. Nhưng vì đối phương đã có thành ý mời mọc, nên không thể chẳng đi.

Nên buổi chiều hôm ấy, ông buộc lòng đến dinh quan phủ.

Quả nhiên Ngõa Tri Phủ rất ân cần tiếp rước, trà nước xong xuôi bèn mở lời muốn kết thân với nhà họ Phùng.

Phùng Lai nghe xong biến sắc mặt, phất tay áo, đứng ngay dậy đáp :

- Ô hô ! Sao có thể như thế được, họ Phùng nhà tôi cùng gia thế đại nhân sang hèn cách nhau rất xa, tệ nữ vụng về yếu đuối, đâu thể xứng với tư cách của công tử phủ quan ? Chuyện ấy xin phủ quan chớ trách vãn sanh sao chẳng tuân mệnh !

Ngõa Tri Phủ không thể ngờ là Phùng Lai chẳng chút vị nể mình, ngang nhiên từ chối quyết liệt như tát nước vào mặt mình. Nhưng vì hôn sự của cậu quí tử đành phải nén lòng cười giả lả :

- Huynh đài sao còn câu chấp quá ! Bổn quan trọng vọng huynh đài đạo đức văn chương thanh cao, khí tiết, danh rền sĩ lâm. Nên mới...

Phùng Lai chẳng đợi lão ta dứt lời, liền

khoát tay nói :

- Đại nhân không cần nhiều lời, Phùng mỗ nầy là hạng người nào ?

Trong nhà tôi tạc những tượng ai ? Đại nhân là môn hạ của vị nào ? Không cần nói rõ chúng ta cũng điều hiểu rồi !

Nói đoạn cười lên ha hả như điên rồi đứng dậy phủi áo rời ngay phủ đường .

Lời nói ấy tuy nghe chẳng có gì nặng nề, nhưng đã làm cho Ngõa Tri Phủ giận đỏ mặt tía tai, thẹn thùng ngồi cứng một chỗ, không sao nên tiếng được.

Tri Phủ Ngõa Tế Dân là môn hạ của Tần Cối , được đến đây trấn nhậm, hoàn toàn cậy nhờ vào thế lực của Tần Thừa Tướng.

Trong nhà Phùng Lai đã tạc tượng đất Tần Cối để đánh đập sỉ vả, nói một cách rõ hơn là nhất định Phùng Lai không sao ưa được môn hạ của Tần Cối !

Lời của Phùng Lai vừa thốt ra, chẳng khác nào vít bãi bùn dơ lên tô đầy mặt Ngõa Tri Phủ, nặng nề cay cú còn hơn lời chửi rủa.

Ngõa Tri Phủ tức nghẹn giây lâu mới hết, quay sang quát đám thủ hạ nha trảo đang đứng hầu hai bên :

- Đồ vô dụng, còn đứng đực ra đó làm gì ! Mau kêu Diêm Giáp Ty lại đây, nói ta có việc cần thương nghị.

Bọn hữu dạ vâng, chạy bay ra khỏi sãnh đường.

Diêm Giáp Ty mà Ngõa Tri Phủ vừa nhắc đến vốn họ Diêm tên Văn Đạo, là một tay túc trí đa mưu, nhờ tánh tình gian trá, khéo nịnh bợ, nên Ngõa Tri Phủ mới liệt vào hàng tâm phúc để hỏi mưu vấn kế.

Diêm Giáp Ty nghe lịnh Tri Phủ gọi, vội đến sãnh đường luồn lưng uốn gối cười nịnh bợ hỏi :

- Đại lão gia hôm nay có chuyện chi cần đến tài hèn của vãn sanh chăng ?

Ngõa Tri Phủ đáp :

- Chính thế, ta đang mắc phải chuyện khá rắc rối .

Y bèn đem chuyện con trai mình muốn cưới con gái của Phùng Lai làm vợ, và y đã mời Phùng Lai đến cầu thân, và tên Phùng Khai Tử từ chối và xúc phạm y ra sao, nhất nhất thuật lại cho Diêm Giáp Ty nghe hết, cuối cùng nói tiếp :

- Văn Đạo, ngươi làm cách nào cho đứa con gái của gã Phùng khật khùng kia rơi vào tay chúng ta, để trả cái nhục này bổn quan sẽ hậu tạ công lao ngươi !

Diêm Giáp Ty rùn vai, cười nói :

- Sao đại nhân lại nói thế ! Vãn sanh nhờ ơn đại nhân cất nhắc cho chức vị này, lý ra phải vì chủ, chia lo xẻ buồn, đâu dám mong mỏi tưởng thưởng công lao ! Chẳng qua, hôm nay vừa mới tiếp được thư nơi quê nhà gởi đến, nhắn là gia mẫu gần đây vì gìa yếu nên hay bịnh...

Ngõa Tri Phủ chẳng đợi Diêm Giáp Ty nói thêm, lập tức trám miệng y lại. bảo :

- Thôi, khỏi cà kê dài dòng, ta cho mi trước ba trăm lượng bạc sau khi thành công mọi việc, sẽ thưởng thêm ba trăm nữa, đủ chăng ?

Diêm Giáp Ty cười híp mắt, đáp lia :

- Đa tạ ơn sâu của đại nhân ! Gã họ Phùng kia quen tánh tự cao cuồng ngạo, đối với hạng người ấy mềm với họ không được ! Vãn sanh có một diệu kế gọi là "Dụi chão dưới lửa" , cam đoan sẽ hiệu nghiệm như thần.

Nói xong y khẽ rỉ tai nói nhỏ với Ngõa Tri Phủ một hồi.

Ngõa Tri Phủ vỗ tay khen dốt :

- Kế ấy tuy có phần ác độc tổn đức, nhưng nếu chẳng làm thế, thì chẳng thỏa được lòng con ta, mặc, mặc !

Cứ y theo thế ấy mà làm !

Võ Lâm Ngũ Bá - Hồi 58 : Hồng nhan bạc mạng

Phùng Lai sau khi rời khỏi phụ môn, trong bụng vẫn còn tức ấm ách, vừa đặt chân đến ngưỡng cửa nhà mình, ông đã mở miệng mắng hoảng lên :

- Đồ quan ôn, sanh loài con dịch lại còn đèo bồng con gái quí nhà ta !

Tần phu nhân đang ngồi phòng trong, nghe thấy hết sức lạ lùng, xô cửa bước ra hỏi :

- Ông chẳng phải vừa mới ở dinh phủ quan về đây chăng? Sao lại nổi giận như thế ?

Phùng Lai hầm hầm đem chuyện quan phủ họ Ngõa định cưới con gái cưng của mình cho thằng con trai chó chết của y ra sao, nhất nhất thuật lại cho vợ nghe.

Thuật xong vỗ bàn mắng lớn :

- Thà là ta đem con gái cưng ra cho cá nuốt, còn hơn là đưa cho thằng chó Hỏa Thái Tuế làm vợ.

Ngày mai kêu thợ khéo đến nắn thêm một hình thằng Ngõa Tế Dân để ta đánh cho hả giận !

Tần phu nhân chẳng khỏi kinh sợ trong lòng, tuy là một phụ nữ phòng the, nhưng cũng hiểu rành đường đời lợi hại.

Ngoã Tri Phủ là một tên ô quan lòng dạ hiểm ác, chồng mình đã dám công nhiên hài tội hạ nhục y như thế, tên tặc quan ấy tất nhiên đâu chịu nhịn thua. Y là một Thái thú uy quyền khắp một cõi, muốn hãm hại một lương dân áo rách thật thà dễ như thọc bàn tay vào túi.

Tần phu nhân bèn đem ý nghĩ lo ngại kia thỏ thẻ biện bạch cho chồng hiểu. Nào ngờ càng khiến Phùng Lai càng nổi giận thêm hơn, quát mắng rùm trời :

- Nói nhảm ! Vương pháp tuy trọng, nhưng không thể làm tội một kẻ vô can, ta bình sanh chưa hề làm việc sai phép. Ta Phùng Lai, đầu đội trời chân đạp đất, trong trắng sạch ngần, kẻ nào đâu đến hại ta ? Bà là đàn bà thiển kiến biết gì !

Tần phu nhân biết tánh chồng cương trực nóng nảy, chẳng dám nói chuyện chi xảy ra, vẫn thản nhiên uống rượu ngâm thi, dương dương tự toại.

Nào ngờ sáng hôm sau, đại họa bỗng giáng vào nhà .

Nguyên là lão gia bộc của nhà họ Phùng, mỗi sáng đều thức dậy sớm để mở cửa sau quét trong ngoài từ lâu đã thành lệ .

Sáng hôm nay, lão cũng theo lệ cũ mở cửa quét nhà, nhưng khi cánh cửa vừa mở "két" một tiếng, bên ngoài liền nghe một tiếng "bộp !" thật lớn, rồi một chiếc bao vải màu xanh tự dưng từ đâu rớt ngay vào nhà.

Lão gia bộc kinh hãi, vội đảo mắt nhìn ra ngoài cổng, thì thấy nơi góc đt ờng đầu nhà, có một bóng người thoáng chạy như bay vào ngỏ hẻm mất dạng.

Lão gia bộc nổi tánh háo kỳ, liền mở bọc ra xem, bất giác kinh ngạc đến trợn mắt há mồm !

Vì trong bao vải ấy bọc đầy vàng bạc cháu báu, lại còn có mấy viên ngọc quí giá đáng liên thành chẳng đổi, mỗi viên ngọc quí ấy lớn bằng hột nhãn trở lên, lão gia bộc quính líu cả chân tay vội đóng chặt cửa, xách bao vải bửu vật vào trong nhà trình lại chủ nhân.

Phùng Lai không đợi cho lão bộc nói hết, vội xua tay bảo :

- Của phi nghĩa, chẳng nên rờ tay đến, đem vào đây làm gì ? Mau đem quăng ra ngoài cửa ngõ cho rồi !

Tần phu nhân từ trong khuê phòng bước ra tranh cản :

- Không được ! Tài vật này trời thương tình ban cho gia đình ta, sao lại chẳng cất lấy ! Ông điên rồi sao ?

Phùng Lai cả giận quát lớn :

- Mi mới là đồ điên ! Phùng Lai này chưa hề thọ một đồng một chữ của bất nghĩa . Thành Phúc ! Mi có mau đem ra cửa ngõ quăng đi không ?

Thành Phúc là tên tộc của lão gia bộc, trong lúc hai vợ chồng đang cãi cọ thì từ ngoài cửa bỗng có tiếng gõ cửa dồn dập thình thình như tiếng trống chầu.

Phùng Lai hết sức ngạc nhiên liền lên tiếng hỏi :

- Ai gõ cửa vậy ?

Lão gia bộc vội chạy ra mở cửa, tức thì từ bên ngoài ùn ùn xông vào bảy tám tên công sai hùng hổ như bầy ong vỡ tổ.

Lão gia bộc giật mình kinh hãi hỏi :

- Các vị lão gia !

Nói chưa kịp dứt câu, thì tên công sai dẫn đầu đã phi chân trái lên, đá lão gia bộc té lộn mèo dưới đất, kỳ dư những tên bộ khoái còn lại ồ ạt xông vào khách đường, thấy trên chiếc ghế nhỏ còn để bao ngọc ngà châu báu lúc nãy.

Một tên bổ khoái liền la to :

- Hay cho quân trộm cắp, tang vật còn để nơi đây !

Hai tên bổ khoái khác chẳng đợi đương sự biện bạch, móc chiếc giây sắt ra, "lắc cắt !" hai tiếng, đã khóa chặc cần cổ của Phùng Lai lại, rồi dùng sức lôi mạnh ông ra ngoài.

Phùng Lai rán gân cổ tru tréo lên :

- Phản rồi ! Loạn rồi ! Ta là một kẻ đọc sách, minh bạch vô can, bọn nha trảo công môn chúng bây dám vu oan người hiền lương !

Ông vừa mở miệng kêu lên liền bị bốp, "chát !" mấy tiếng, trên má luôn một hơi ba bốn vả, tối tăm cả mày mặt .

Phùng Lai tuy là một danh sĩ giữ đúng lề lối thanh cao của kẻ sĩ. Nhưng tục ngữ có câu : "Tú tài gặp quan binh, có lý cũng khó biện minh !". Nên ông vừa khai khẩu biện bạch, đã bị bọn chúng chân đạp tay kéo xển ra khỏi nhà, giải về cửa phủ.

Tần thị kêu trời liền miệng, cả nhà xúm nhau than khóc.

Phùng Lai bị đám bổ khoái hung hăng

kéo lê như bay trên mặt đất, xô đầu chúi nhủi về công môn.

Ngõa Tri Phủ lúc ấy đã thăng đường mặt lạnh như sắt, bên dưới hai hàng nha trảo lang sói, trang nghiêm như cảnh thập điện Diêm Vương.

Phùng Lai tuy giận mắt nổ đom đóm, vẫn giữ vẻ trầm tỉnh, thẳng gối chẳng chịu quỳ .

Ngõa Tri Phủ đập mạnh thanh Kinh đường mộc xuống án đánh rầm một tiếng, cất giọng oai nhiêm phán :

- Phùng Lai, mi tự xưng là kẻ hàn sĩ đạo đức, tánh giữ thanh cao, tại sao lại cấu kết với bọn cướp bể, cất dấu của gian ? Bao châu ngọc này là tài vật của nhà viên ngoại họ Hồ bên Ninh Ba Phủ, bị bọn thủy khấu cướp bóc cách đây một tháng.

Án ấy đến nay còn treo chưa khám phá được. Tại sao tang vật của họ lại lọt vào nhà mi, phải cung khai sự thật để tránh khỏi mình tra tấn đến da nát thịt rơi !

Phùng Lai hiểu ngay là tên Tri Phủ này vì sự cầu thân không thành, thẹn quá thành giận, mới vu oan giá họa cho ông, định bắt buộc cung chiêu thành án để khép tội nên không khỏi tức giận, ưỡn ngực la to :

- Bẩm đại nhân nên xét lại, gia thế của vãn sanh tuy không giàu, nhưng cũng đủ lành áo no cơm, lý đâu có chuyện cướp của tư thông với hải tặc được ?

Phùng gia tôi suốt ba đời giữ lấy nề nếp nho gia sĩ khí, trai không hề phạm pháp, gái chẳng biết lăng loàn. Làm gì lại sanh chuyện thông đồng với bọn giặc bể một cách vô lý như thế ?

Hơn nữa bảo ngọc ngà châu báu kia là sáng sớm hôm nay lão gia bộc nhà tôi thấy rõ có người ném vào, biết đâu lại chẳng có kẻ thù vơ, oán chạ định hãm hại gia đình tôi.

Ngõa Tri Phủ làm mặt giận dử quát lên :

- Câm miệng ! Mi bảo là thanh bạch vô can, sao lại sanh chuyện oán thù với kẻ khác, rõ ràng là một sự mâu thuẫn, mi đội lốt học trò nhưng bộ vó ăn cướp, vô ác bất tác, hừm ! Bây đâu, căn nọc nó ra đánh hai mươi hèo, thử xem nó còn giữ mồm lẻo mép nữa không ?

Ngõa Tri Phủ quyết tâm hành hạ Phùng Lai cho bỏ ghét nên rút trong ống lịnh ra cây lịnh tăm đầu đỏ bằng tre, ném phăng xuống đất, mỗi cây tăm thế lịnh là năm hèo, bốn cây tăm vừa đúng hai chục hèo chẵn chòi.

Bọn sai dịch được lịnh lập tức căn nọc Phùng Lai nằm dài trên trên đất trước công đường, lột áo quan ông ra nện đủ hai mươi roi vào mông.

Tội nghiệp cho Phùng Lai dù sao cũng là một thư sinh ốm yếu, sức không trói chặt gà, làm sao chịu đựng nổi sự đánh đập tàn nhẫn, hai chục roi đã làm da nứt thịt bầm, ngất xỉu mấy lượt !

Chờ đánh xong đủ hai chục hèo, Tri Phủ lại quát lớn :

- Đem nước lạnh đến, phun cho nó tỉnh lại xem nó chịu cung khai hay là không ?

Một tên sai dịch liền túm tóc Phùng Lai dựng ông dậy, hất luôn một hơi mấy chén nước vào mặt ông.

Phùng Lai từ từ mở mắt.

Ngõa Tri Phủ cất giọng sang sảng quát :

- Họ Phùng kia, chứng cớ tang tích đã hẳn hòi, bổn quan không muốn mi còn chối quanh, hãy cung chiêu cho mau, tên nào đã đến đánh cắp nhà họ Hồ ?

Phùng Lai nghiến răng nói lên như hét :

- Ngõa Tế Dân, thằng Tri Phủ tham nhũng của địa phương này .

Ngõa Tri Phủ bị Phùng Lai chưởi mình là kẻ cướp tham quan, giận đến lửa cháy cả ngũ tạng, đập án quát tháo như sấm động :

- Đánh thêm chục hèo nữa !

Bọn sai dịch được lịnh là làm liền, vật ngay Phùng Lai trở xuống đất kẻ kìm chân, người dằn cổ, vừa đánh thêm bảy tám hèo thì Phùng Lai đã ngất xỉu như trước.

Tên sai dịch liền ngừng tay chẳng dám đánh tiếp.

Ngõa Tri Phủ giận dử mắng to :

- Đồ tồi, sao không đánh nữa ?

Tên sai dịch liền thưa :

- Bẩm đại quan, phạm nhân thân thể yếu đuối, nếu đánh tiếp sợ chẳng chịu nổi đâu !

Ngõa Tri Phủ nham nghĩ cũng phải, nếu đánh tiếp đủ số hai chục hèo, thì Phùng Lai tánh mạng sẽ ô hô ! Tuy đánh chết một tên dân cũng chẳng tội vạ gì đáng ngại, nhưng sẽ lỡ dở kế hoạch của y. Nên y chỉ đành hầm hầm nén tức nói :

- Cái thằng này cứng cổ lắm ! Lại không thể chịu đòn nhiều ! Bọn bây đem nó tống giam vào ngục, mai rồi sẽ hay.

Phùng Lai bị tống vào ngục thất, cả buổi sau mới dần dần tỉnh lại, thân để đau nhừ như bị cắt ra từng mảnh, vừa mở mắt là ông đã lớn tiếng mắng chửi Ngõa Tri Phủ chẳng tiếc lời .

Ngục tốt canh gác bên ngoài tảng lờ như chẳng hay biết, Phùng Lai chưởi đã một trận đến khi mòn hơi kiệt sức, không còn chưởi được nữa mới chịu thôi.

Ngục tốt mang cơm nước vào.

Phùng Lai đem cơm lẫn bát ném phăng xuống đất và mắng :

- Ta Phùng Lai đầu đội trời chân đạp đất thà chết đói chứ không ăn cơm của thằng quan ấy.

Phàm những tên giám quan ngục tốt. đều quen thói ngang ngược húng hiếp kẻ tội tù, thấy Phùng Lai dám ném cơm quăng chén xuống đất không khỏi tức giận căm gan, vừa định kéo Phùng Lai ra dần cho một trận hả hơi, thì từ bên ngoài cửa thiết lao có tiếng người hô to :

- Quan Diêm Giáp Ty đến .

Hai tên ngục tốt nghe Diêm Giáp Ty đến ngục, chẳng dám ra tay.

Giáp Ty Diêm Văn Đạo vào ngục thấy cơm canh rơi vải đầy đất, lập tức quát mắng bọn ngục tốt vang rần :

- Loại cơm thô cá hẩm này mà dám đem dâng cho Phùng tướng công sao, mau cút đi không ? Nếu còn lần quẩn nơi đây, ta chặt đứt giò chó mi ra !

Ngục tốt không ngờ Diêm Giáp Ty trở lại mắng mỏ mình, chẳng hiểu ất giáp tại sao chỉ đành ậm ực trong cổ họng riu ríu bước ra bên ngoài.

Phùng Lai với Diêm Giáp Ty đã biết mặt nhau, thấy y tươi cười bước vào phía sau lại có tên ngục quan bưng một mâm cơm canh thịnh soạn bước theo.

Phùng Lai chưa hết ngạc nhiên.

Diêm Giáp Ty đã ân cần chào hỏi, và nói :

- Phùng huynh lúc nãy nơi công đường, bị hành hạ quá nhiều ! Nơi đây tiểu đệ có làm một tô sâm thang, Phùng huynh hớp bậy vài ngụm cho mau phục hồi lực .

Phùng Lai ngẫng đầu ngó lên xà nhà ngục, cứng cỏi đáp :

- Diêm Giáp Ty, món sâm thang này của ông đem lại, hay là lão cẩu quan giả lòng từ bi đem đến cho tôi ?

Diêm Giáp Ty tươi cười nói :

- Phùng huynh đã hiểu lầm rồi ! Tri phủ đại nhân hôm nay trước công đường dùng khổ hình đánh Phùng huynh chẳng qua là một sự bất đắc dĩ, chuyện này có nhiều ẩn tình khúc tiết, Phùng huynh hãy uống một chút đỉnh sâm thang đi rồi sẽ nói chuyện sau !

Phùng Lai cười nhạt nói :

- Cầu thân không thành, vu hại người lành là kẻ cướp, cái đó gọi là có nhiều ẩn tình khúc triết ! Hừ ! Phùng Lai ta thà chịu chết đừng nói chi tô sâm thang này, mà cho đến ngọc thủy hay cam lồ ta cũng chẳng thèm uống ?

Diêm Văn Đạo nghiêm sắc mặt đáp :

- Phùng huynh là người đọc sách chắc biết câu "Thức thời vụ mới là người tuấn kiệt". Cái đó tiểu đệ không cần cắt nghĩa chắc Phùng huynh cũng dư biết ! Nhưng Phùng huynh có nghĩ đến chỗ Phùng huynh quá can cường như vậy là bất hiếu chăng !

Phùng Lai cả giận đáp :

- Nói bá láp ? Ta vì thủ nghĩa mà chết sao lại có dính líu đến chữ hiếu được chứ !

Diêm Giáp Ty cười ha hả một hơi dài rồi nói :

- Trong ba điều bất hiếu, không con nối dõi lửa hương là đứng đầu mà Phùng huynh chỉ có một đứa con gái, chẳng có con trai, tỷ như huynh cang cường cho đến chết, thì hương lửa giòng họ Phùng sẽ tuyệt tự mất, lấy ai giỗ quảy cho tông đường đây ! Có phải là một điều bất hiếu trọng đại chăng ?

Lời nói vừa rồi đánh trúng vào tâm sự của Phùng Lai khiến ông động lòng thầm nghĩ :

- Lời nói của y không phải là không có lý. Nếu như ta bị chết trong tay thằng cẩu quan họ Ngõa thì con gái ta chưa chắc đã thoát khỏi bàn tay gian ác của bọn chúng ! Không được, ta cần phải tìm phương kế khác !

Thấy Phùng Lai trầm ngâm mãi không lên tiếng, Diêm Giáp Ty tưởng đâu lời nói của mình đã lung lạc được đối phương, y bèn nói tiếp :

- Kỳ thật thì Ngõa đại nhân chẳng có ác ý với Phùng huynh, nếu Phùng huynh chịu gã lệnh ái cho Ngõa công tử của quan Tri Phủ thì thật là loan phụng hòa đôi, châu liền ngọc hiệp, một đôi giai ngẫu đồng lứa xứng duyên, Phùng huynh còn câu chấp nỗi gì !

Con người đâu thể giữ mãi một mực là thành nhân, phàm sự phải tòng quyền, Phùng huynh là một người thông minh, nên suy nghĩ lợi hại cho tinh tường không cần tiểu đệ phải lép mép nhiều lời !

Phùng Lai cúi đầu suy nghĩ giây lâu rồi bỗng hỏi :

- Ngõa Tri Phủ phái ông đến đây, chẳng lẽ để nói với tôi như thế sao ? Có điều gì cứ nói thẳng ra cho tôi biết !

Diêm Giáp Ty khẽ rùn vai mỉm cười hai tay nâng chén sâm thang dâng đến trước mặt Phùng Lai và cười nói :

- Phùng huynh, nên uống ít hớp đi !

Phùng Lai chuyển ý như thần :

- Cũng được, uống bậy vài hớp xem y nói thế nào cho biết !

Ông bèn tiếp lấy chén sâm nốc một hơi cạn chén.

Diêm Văn Đạo mới lên tiếng :

- Ý kiến của Ngõa đại nhân rất đơn giản, chỉ cần Phùng huynh ưng chịu hôn sự thì dù việc bằng trời cũng giải quyết một cách dễ dàng, lịnh ái sau này sẽ làm vợ của công tử tôi, biết đâu chẳng nhờ vinh dự của chồng được phẩm cấp này nọ, rỡ mặt với xóm làng. Phùng huynh nửa đời người còn lại, cũng đở phải lo vất vả áo cơm, Chuyện kết thân như vậy mà chẳng chấp nhận để hóa hung thành kiết, thật tiểu đệ lấy làm tức cho đại huynh lắm vậy .

Phùng Lai trầm tư một lúc, mới đáp :

- Chuyện này rất trọng đại, nhất thời không sao quyết định được, tối đêm mai tôi xin trả lời dứt khoát được chăng ?

Diêm Cáp Ty cười ha hả đáp :

- Không sao, tiểu đệ đêm mai y hẹn đến viếng đại huynh lần nữa. Mời đại huynh dùng cơm rượu đở lòng.

Ngục quan liền giở mâm cơm ra, bên trong có vài món đồ ăn khá tươm tất cùng một bình mỹ tửu.

Diêm Giáp Ty quay ra ngoài quát bảo hai tên ngục tốt lúc nãy :

- Bọn bây phải hết lòng hầu hạ Phùng tướng công, không được biếng nhác, nghe ta dặn chưa !

Hai tên ngục tốt lúc nãy oai phong hùng dũng bao nhiêu, giờ đây nghe thượng lịnh bảo mình phải phục dịch lại tội phạm, trên mặt ngượng ngịu khôn cùng, nhưng phải đành vâng dạ theo lịnh.

Phùng Lai không chút khách sáo ăn uống no say, Phùng Lai nằm suốt đêm trong ngục lăn lộn không hề chợp mắt, suy tới nghĩ lui để tìm mưu đối phó lại với kế hoạch mềm cứng liên phương của Ngõa Tri Phủ, gần sáng ông mới nghiến răng lẩm bẩm :

- Suốt một đời ta giữ tín làm đầu nhưng chuyện đã đáo đầu, ta không thể chẳng ngộ biến tùng quyền ! Được lắm, như thế ấy vậy !

Qua chiều hôm sau, Diêm Giáp Ty quả y hẹn đến nơi, y còn dắt theo một người Thông phán của phủ đường tên Phi Vân Hải, cũng là tên tâm phúc của Ngõa Tri Phủ.

Phùng Lai đối với hai tên vô lại này có thể nói là ghét tận xương tủy nhưng cố dằn lòng tử tế, bên ngoài khỏi lộ mưu sâu nên vờ tươi cười đứng dậy thi lễ với hai người .

Giáp Ty khách sáo vài câu mở đầu rồi nói với Phùng Lai :

- Phùng huynh, qua một đêm suy nghĩ chắc chắn đã có phần nào so đo hơn thiệt rồi hẳn !

Phùng Lai gật đầu đáp :

- Chuyện đã nước này tôi không nhận cũng không xong ! Song le, Ngõa đại nhân phải chấp nhận ba điều kiện của tôi, nếu thiếu một điều thì Phùng mỗ này thà chết chớ công dám vâng lời !

Diêm Giáp Ty dè dặt hỏi ba điều kiện ấy ra sao ?

Phùng Lại nói rằng :

- Điều kiện thứ nhứt : Hương Điệp vào làm dâu họ Ngõa phải đúng lễ chánh thất, chứ không được coi như hàng thê thiếp.

Điều kiện thứ hai : nếu Hương Điệp sanh được đứa con trai đầu lòng, phải về phần họ Phùng để nối dây lửa hương cho giòng họ Phùng !

Điều thứ ba : vì bị đánh đập giam cầm, sức khỏe, sinh lực bị tổn hao rất nhiều, cần phải được tịnh dưỡng một thời gian ít nhất là một tháng, mới lo liệu hôn lễ được.

Ba chuyện ấy Ngoa Trí Phủ bằng lòng thì xúc tiến cuộc hôn nhơn, bằng không thì đừng nói thêm điều gì vô ích.

Diêm Giáp Ty kéo Phi Thông phán vào một góc nhà phụ nhĩ một lúc khá lâu, cả hai đồng ý điều kiện thứ nhứt thứ nhì không khó, nhưng điều kiện thứ ba phải hoãn lại thời gian một tháng mới thành thân, cần phải hỏi lại ý kiến chủ nhân chớ không thể tự quyết định được .

Hai người dư hiểu, Phùng Lai vì thất thế nên mới ưng thuận sự cầu thân của Ngõa Tri Phủ, vạn nhất nếu ông ta dùng kế hoãn binh tạm mượn thời gian một tháng ấy để thi hành kế Kim Tiền thoát xác thì hai người sẽ bị quở trách.

Phi Thông phán bèn nói nhỏ với Diêm Giáp Ty :

- Tên Phùng Khải Tử này can cường lắm, nếu chẳng chấp thuận lời y thì hôn sự kia e khó thành tựu, thời hạn một tháng cũng chẳng bao lâu chúng ta cứ cho nhưng rình rập theo dõi hành tung y, với một tên học trò trói gà không chặt như y, gẫm lại cũng chẵng chấp cánh mà bay cho khỏi, ta cũng nên rộng lòng mà chấp nhận cho rồi !

Diêm Giáp Ty gật đầu tán đồng, đoạn quay sang trả lời Phùng Lai :

- Phùng huynh, ba điều kiện của huynh, Ngõa đại nhân có thể thuận được, ông cứ an lòng ở lại đây một buổi, nhất định sẽ có tin hay trở lại !

Nói xong, hai người dắt nhau quày quả trở về phủ đường.

Võ Lâm Ngũ Bá - Hồi 59 : Mưu thoát hang hùm

Ngõa Tri Phủ nghe Diêm, Phi tường thuật lại ba điều giao kết của Phùng Lai, điểm thứ nhất và thứ hai chẳng có ý gì khác, nhưng qua điểm thứ ba, đôi lông mày gà của y liền nhíu lại, hừ giọng mũi một tiếng và nói :

- Tên học trò khùng ấy muốn một tháng sau mới đưa con gái về nhà chồng ? Văn Đạo ngươi xem y có phải định dùng kế hoãn binh không ?

Diêm Giáp Ty liền đem ý kiến của Phi Thông phán ra nói lại, Ngõa Tri Phủ gật đầu nói :

- Hay lắm, Văn Hải ngày mai thả tên học trò khùng ấy trở về, ngươi cũng chịu khó dọn đến nhà y ở một tháng, chờ đến khi đám cưới xong xuôi sẽ trở về, như vậy không còn sợ y dùng thủ đoạn Kim Thiền thoát xác nữa phải không ?

Phi Thông phán gật đầu tán thành lia lịa :

- Phải, phải ! Vãn sinh xin vì đại nhân mà hết sức mình !

Sáng hôm sau, Phùng Lai được lệnh tạm tha cho trở về, lại còn được phủ quan cấp cho một chiếc xe, có Thông phán họ Phi cùng theo chân bầu bạn đồng về nơi nhà họ Phùng.

Tần phu nhân cùng con gái là Điệp, thấy Phùng Lai được tha, mừng ngoài ý muốn, níu Phùng Lai cảm động khóc ròng.

Phùng Lai cũng nước mắt lã chã, nhưng ngại có Phi Thông phán ở bên cạnh, chẳng dám nói năng chuyện gì.

Phi Thông phán hiu hiu tự đắc, chẳng chút kiêng dè, chỉ huy dám dưới tay, ngang nhiên thu dọn cho y một căn phòng, y có đem theo hai tên tùy tùng mẫn cán, ba thầy trò chiếm lấy căn phòng rộng nhất trong nhà họ phùng.

Không nói ra chớ ai cũng dư hiểu là để giám thị động tịnh của cả nhà họ Phùng.

Phùng Lai chỉ đến lúc tối về phòng riêng, mới đem mọi sự thuật cho vợ nghe.

Tần Thị rơi nước mắt nói :

- Nếu như thế thì đứa con gái như hoa như ngọc của ta, đành phải gả cho đứa con trai của tên cẩu quan ấy sao ? Điệp nhi từ nhỏ đến lớn, được ông rèn luyện khí tiết. Nó thì tự ao ước mình được như nhân vật trong "Liệt nữ truyện", sợ e vụ này thà nó chết chứ chẳng bằng lòng !

Phùng Lai thở dài đáp :

- Không ưng thuận làm sao được ?

Thằng cẩu quan sẽ đánh tôi chết mà thôi, Điệp nhi cũng khó thoát khỏi bàn tay độc ác của cha con nó, cho nên tôi giả vờ thuận lòng để thoát về đây , kế của tôi là...

Ông bèn kề tai phu nhân nói nhỏ một hồi.

Tần phu nhân mặt hơi đỏ bừng, khẽ lắc đầu nói :

- Như vậy sao được, và nguy hiểm quá !

Phùng Lai nghiêm sắc mặt đáp :

- Bà theo tôi đọc sách cũng nhiều, trong binh pháp có chỗ luận về cách : Trí nơi tử địa mà tìm lấy lối sống, bà không biết sao ?

Khi xưa Huỳnh Cái dùng khổ nhục kế chịu cho Châu Du đánh mấy mươi trượng vào đít, đến nỗi máu rơi thịt chảy, nhờ đấy Tào Tháo tín nhiệm, sau lại mới đốt được liên hoàn thuyền kiên cố của họ Tào ! Bà quên rồi hay sao ?

Tần phu nhân nghe chồng thuyết phục một hơi dài mới chịu theo kế.

Cách bốn hôm sau, Phùng Lai cùng Tần thị bổng gây gỗ nhau dử dội, từ phòng trong đến sảnh đường.

Tần phu nhân tóc tai rối bù, khóc tức tưởi , chưởi rủa Phùng Lai là tên chồng bất lương, sao chẳng chết bờ chết bụi cho rảnh mắt .

Phùng Lai cả giận cung tay xén áo túm đầu đấm đá, túi bụi.

Hai vợ chồng xâu nhau một cục, cấu xé nhau thình thịch.

Phi Thông phán vội chạy tới khuyên giải hai người.

Tần phu nhân khóc kể bệu bạo :

- Đồ quân vô lương tâm, thấy con gái được làm dâu quan Tri Phủ là đã đắc ý quên tình, sáu mươi tuổi gìa gần cúp bình thiết rồi còn đòi nạp thiếp lấy hầu, không biết nhục sao ?

Phùng Lai xỉa xói mắng vợ :

- Bất hiếu hữu tam, vô hậu vi đại, ai biểu cái bụng bà chẳng biết sanh cho tôi một thằng con trai làm chi ! Thời xưa đàn bà không sanh con trai cho chồng bị liệt vào trong bảy điều bị trục xuất khỏi nhà, ta nghĩ tình tào khang chi thê không đuổi bà ra khỏi cửa, mà chỉ nạp một nàng hầu, mà còn dám nổi hung nữa sao ?

Ông lại quay sang phân trần với gã Thông phán :

- Phi huynh ! Anh thử nghĩ xem Tri Phủ đại nhân trọng vọng tôi, mới chịu cưới con gái tôi về làm dâu nhà người thì dù tôi có nạp thêm một nàng tiểu thiếp để an hưởng chút đỉnh sung sướng lúc tuổi già có bậy hay là không ?

Phi Thông phán bọt xui cả hai đàng :

- Phải ! Phải ! Tần tẩu cũng nên ưng thuận theo lòng anh ấy cho êm thắm cửa nhà .

Tần Thị thà chết chứ chẳng chịu cho chồng lấy thêm vợ bé . Bà nhẩy đổng lên mắng chưởi om sòm.

Phùng Lai càng nổi giận quát lớn :

- Mụ đàn bà hư này quá quắt lắm rồi ! Phúc Toàn đâu, tống cổ mụ ra khỏi nhà cho ta, bảo mụ về nhà cha mẹ mà ở !

Ông gọi liên tiếp mấy tiếng, sai cắt lão gia bộc phải lập tức thu thập quần áo của Tần Thị, mướn xe đưa nàng cho khuất mắt ông.

Tần thị nổi xung đáp :

- Đi thì đi, cần gì đến ông xô đuổi, mụ gái xề này chống mắt xem đồ gìa dịch ông rước thứ quân mèo đàng chó điếm nào cho biết !

Hai vợ chồng xích mích đã đến giai đoạn quyết liệt không phương khuyên lơn được.

Tần thị khóc tức tưởi bước lên xe, rời khỏi nhà họ Phùng miệng không ngớt nguyền rủa chồng vô lương thất đức.

Phùng Lai sau khi vợ đi khỏi, gương mặt ông nặng sình sịch như treo đá, phân bua với Phi Thông phán :

- Phi huynh đừng cười tiểu đệ gặp phải bà vợ như sư tử Hà Đông !

Phi Thông phán vội đáp :

- Sao lại nói thế ! Chuyện vợ chồng xích mích nhau có ai tránh khỏi được, đây rồi năm ba ngày phu nhân cũng đổi ý trở về chứ gì !

Phùng Lai gượng cười nói :

- Chút nữa tiểu đệ quên mất, hôm nay là ngày sanh kỵ của gia mẫu, chúng ta nhấp bậy đôi ba chén rượu tiêu sầu.

Phi Thông phán tuy rất tinh tế, nhưng không sao nhìn thấu được thâm ý của Phùng Lai, tưởng đâu vì chuyện vợ chồng cơm không lành canh không ngọt lúc nãy, Phùng Lai buồn rầu nên mượn rượu giải khuây, y lại là một con người xu thời, thấy Phùng Lai sẽ là sui gia của Ngõa Tri Phủ, mình cũng nên kết giao với y để có phương nhờ cậy sau này, nên cười giả lả nói :

- Xin tuân lịnh ! Uống rượu ngâm thi cũng là một điều khoái lạc trên đời.

Phùng Lai lập tức sai lão gia bộc ra ngoài mua rượu.

Phi Thông phán vội can :

- Phùng huynh, rượu ngoài chợ không ngon đâu. Tiểu đệ có mang theo hai bình Hoa điêu tửu, Phùng huynh khỏi đi mua tốn công mà uống chẳng mấy hứng !

Thì ra Phi Thông phán tiểu tâm cẩn thận, tuy ở tại nhà họ Phùng, nhưng ăn uống mỗi vật đều do nhà mình xách lại chứ chẳng hề ăn cơm của nhà Phùng Lai nấu nướng.

Phùng Lai bất đắc dĩ phải đành nghe theo.

Rượu miền Thiệu Hưng có tiếng khắp Trung Hoa, nào là Nữ Trình, Trần Thiệu, Hoa Điêu, Trúc Diệp v.. v.... đều là những lọai rượu nổi danh khắp giới tửu đồ.

Phùng Lai cùng Phi Thông phán chén chú chén anh, chỉ trong chốc lát đã cạn mất một bình.

Phùng Lai quay sang bảo lão gia bộc đang hầu bên cạnh :

- Phúc Toàn , rượu Hoa Điêu uống lạnh có phần hơi lạt, ngươi đem hâm nóng chút đi !

Phúc Toàn vâng lịnh đem bình rượu ra sau bếp hâm lại, khoảnh khắc bưng bình rượu lên hơi nghi ngút trở vào.

Phùng Lai rót đầy một cốc nâng hai tay trao cho Phi Thông phán mời mọc :

- Phi huynh hãy uống cạn ly này với tiểu đệ.

Phi Thông phán tiếp lấy cốc rượu nốc cạn một hơi.

Phùng Lai cũng bưng ly rượu mình lên, vừa chấm môi liền vờ xảy tay cho ly rượu rớt xuống, rượu văng ướt cả mặt đất,

Phi Thông phán bỗng biến sắc mặt nhãy dựng lên khỏi ghế.

- Hay cho ngươi !

Nhưng chưa kịp hết lời, y tự nhiên líu cả lưỡi, rồi ngã nhào xuống đất kêu bộp một tiếng, máu từ mũi, miệng, tai, mắt trào ra, dãy dụa mấy cái là hồn vía lìa khỏi xác.

Phi Thông phán vừa ngã xuống đất, lão gia bộc Phúc Toàn lật đật bước vào.

Phùng Lai liền hỏi Phúc Toàn, còn hai tên kia xong chưa ?

Ông định ám chỉ hai tên thuộc hạ theo hầu Phi Thông phán mấy ngày nay.

Phúc Toàn hội ý gật đầu, cười đáp :

- Còn gì nữa, theo hầu chủ dưới âm ty rồi !

Thì ra tất cả mọi việc xảy ra, đều là một tấn tuồng diễn ra rất khéo léo đúng kế hoạch của Phùng Lai sắp bày.

Ông mượn cớ nạp thêm nàng hầu, rồi cùng vợ gây gổ, để đưa vợ con đi trước, đem theo tất cả đồ tế nhuyễn trong nhà.

Ba ngày trước đây Phùng Lai đã sớm sai lão gia bộc đi mua một lạng Hạc Đỉnh Hồng, một loại thuốc độc có tiếng, chỉ bỏ một chút ít vào rượu là có thể giết người trong nháy mắt.

Ông vịnh cớ buồn tình vợ con, lấy rượu cùng Phi Thông phán đối ẩm để giải sầu, uống được vài tuần, tìm cách chê rượu lạt, bắt Phúc Toàn đi hâm nóng, cho lão gia bộc bỏ thuốc độc vào rượu, mặc cho Phi Thông phán thông minh tế nhị đến bực nào, kết cuộc cũng không sao tránh khỏi diệu kế của Phùng Lai.

Riêng hai tên tùy tùng của Phi thông phán, thì sau khi Phúc Toàn đã bõ độc dược vào rượu bưng lên cho chủ xong, lão bèn xào nấu hai món ăn khá tươm tất, cắp theo một bình rượu độc đem đến cho hai người nói là của chủ nhân gia thưởng, hai tên tin rằng thật bày ra ăn uống hỉ hả với nhau, cuối cùng rồi theo luôn chủ nhân xuống cỏi dưới, trọn phận tớ thầy !

Phùng Lai thấy kế hoạch đã hoàn thành mỹ mãn, thần sắc vẫn ung dung không đổi, sai cắt lão gia bộc khiêng ba xác chết của thầy trò Phi Thông phán đặt vào phòng riêng của họ, lau sạch máu trên mặt thi thể đoạn lấy mền đắp cho đàng hoàng.

Rất may là trong nhà trừ vợ con ra, chỉ có lão gia bộc Phúc Toàn và một nàng hầu gái, nhưng hai hôm trước nàng đã mượn cớ tiểu thư sắp xuất giá và cả gia đình sắp dọn vào phủ đệ ở, nên cho nàng nghĩ việc về quê , có thể nói là mọi mưu toan kín đáo thần quỷ khó lường.

Phùng Lai lại kêu con gái đến bảo :

- Hương Điệp, con cùng lão gia bộc Phúc Toàn đến thành Đông nơi thành Phúc Thái, tìm mẹ con đang ở chờ nơi đấy, cha có chuyện một chốc sau sẽ đến ngay ! Nghe chưa !

Hương Điệp nhất nhất vâng lời, cùng lão gia bộc ra khỏi nhà.

Phúc Toàn liền thuê một chiếc kiệu, đưa tiểu cô nương đến thành Đông gặp Tần phu nhân.

Ba người đợi chờ cho trời xế bóng, sương mù vương vất ngọn cây mới thấy từ xa một bóng người lẩn thẩn bước đến chấp tay sau đít, ngắm đất nhìn trời, thái độ thung dung như một thi nhân đang tìm hứng vận.

Lão gia bộc Phúc Toàn đứng trước cửa tiệm ngóng đợi, thấy dạng chủ nhân từ xa đi đến liền trở vào thông báo cho mẹ con Tần thị hay để thâu thập hành lý rời khách điếm, thừa lúc cửa thành Đông chưa đóng, thầy trò bốn người đề huề ra khỏi huyện Thiệu Hưng.

Vụ thảm sát ấy đến sáng hôm sau, Ngõa Tri Phủ đã phát giác được vì Ngõa Tri Phủ tuy phái Phi Thông phán đến trông chừng gia đình họ Phùng nhưng vẫn chưa an lòng nên mỗi sáng đều phái một tên công sai đến trước cửa nhà họ Phùng để dò xét động tịnh.

Tên công sai có phận sự canh phòng nhà họ Phùng sáng hôm ấy theo thường lệ đinh gõ cửa thì thấy cánh cửa khép hờ chứ không gài then như hàng nhật. Y ngạc nhiên bước thẳng vào trong, thấy nhà cửa vật dụng trống trơn chẳng thấy dạng một người.

Tên sai dịch biết chuyện chẳng hay liền lớn tiếng réo gọi Phi Thông phán nào ngờ kêu đến rát cuống họng, cũng không thấy ai ừ hữ gì, gã càng kinh ngạc hơn nữa, xông xáo mọi nơi tìm kiếm, khi bước vào một gian phòng rộng lớn, phát giác được thi thể của ba thầy trò Phi Thông phán nằm chết cứng trên giường, thân thể đầu cổ đều lành lặn chẳng có vết thương nhưng da dẻ tím bầm trông rất khủng khiếp.

Gã sai dịch hồn phi phách tán vội chạy ù ra khỏi cửa, chổng mông la hét như điên :

- Có quỉ, có quỉ bà con ơi !

Tiếng la bài hãi của y làm kinh động đến lâm lý xóm giềng, mọi người ùa vào gia cư họ Phùng, mới hay là ba thầy trò Phi Thông phán, đều bị trúng một loại thuốc cực độc mà chết và gia đình họ Phùng bốn người lại mất tích một cách bí mật !

Ngõa Tri Phủ nghe tin tức ấy, giận dử nhãy chồm lên, hét vang như sấm, một mặt ra lịnh đóng chặc cửa thành, khám xét mọi nơi, một mặt thảo trát gởi mọi nơi phải bắt giữ cha con họ Phùng giải về Thiệu Hưng quy án.

Nhưng mọi việc đã quá trễ vì gia đình họ Phùng đã đi khỏi thành từ chập tối đêm qua rồi !

Nhắc lại Phùng Lai sau khi hoàn thành mưu "Kim Thiền thoát xác" trốn khỏi bàn tay Tri phủ họ Ngõa, suốt đêm xe chẳng dừng bánh, trực chỉ đến sông Tào Nga, thuê một chiếc thuyền buồm ra cửa sông.

Nơi đây địa giới của huyện Huỳnh Nham, Phùng Lai đề phòng trát văn bắt phạm của Ngõa Tri Phủ đã gởi đến huyện Huỳnh Nham thì gia đình ông khó mà thoát khỏi huyện được.

Nên cùng gia đình tạm trốn tránh ở đó một đêm, rạng sáng hôm sau lật đật mướn một chiếc thuyền buồm lớn vượt đường biển trực chỉ đến tỉnh Giang Tô, định đến huyện Nam Thông, lên đường bộ đến nhà thầy học của mình là Triệu Nhiêu Sơn tạm trú.

Hôm ấy, trên mặt biển trời quang mây tạnh cảnh sắc nên thơ mát mắt vô cùng.

Phùng Lai dựa lưng vào mui thuyền, nhìn ra cảnh mênh mông không ranh giới của trời biển, lòng lâng lâng vui thú, bèn quay sang bảo vợ :

- Này phu nhân, chúng ta bị phải tên cẩu quan ấy hãm hại, phải lưu vong đất khách quê người nhưng bù lại ngắm được cảnh sắc bao la của vũ trụ cũng không đến đỗi thiệt thòi một chuyến lìa quê vậy ?

Tần phu nhân buồn bã mỉm cười không đáp.

Phùng Lai cảm thấy thi hứng dâng trào, vào trong khệ nệ bưng bình trà ra thay rượu thưởng cảnh ngâm thi.

Ông vừa nghĩ ra được một vế đối hay liền gọi cô gái cưng Hương Điệp ra, định bắt nàng đối lại, thình lình nghe chủ thuyền ủa lên một tiếng kinh hoàng và nói :

- Chết rồi ! Anh em của Đông Hải Vương sắp đến !

Phùng Lai nghe nhắc đến ba tiếng "Đông Hải Vương" đã rụng rời thất sắc, vội hỏi :

- Chủ thuyền ? Sao gọi là Đông Hải Vương, chúng ở đâu ?

Mấy gã thuyền phu chẳng buồn đáp lời, vội chạy ào sau thuyền giở ván lên lấy ra một cờ nhỏ xanh ba

góc.

Phùng Lai thấy lá cờ, tuyến một màu xanh lam có thêu một hình mặt trời bằng chỉ kim tuyến, lại thấy đám thủy thủ tay chân quýnh quít buộc cờ vào dây cột buồm.

Phùng Lai ngơ ngác chẳng hiểu bọn họ định làm gì ?

Cùng trong lúc ấy, từ cuối đường chân trời, hiện lên ba chiếc hải thuyền màu vàng óng ánh dưới tia sáng mặt trời, sấp thành hình chữ phẩm, lướt sóng phăng phăng chạy tới.

Đám thủy thủ trên thuyền họ Phùng vừa ấy dạng ba chiếc hải thuyền kia lừ lừ tiến gần, tên nào cũng nín thở run rẩy, thần sắc kinh mang còn hơn gặp phải cơn hiểm nguy của sóng to gió dử.

Phùng Lai thấy tình hình như thế cũng đã bối rối lây.

Hương Điệp cũng sợ hãi bàng hoàng kề tai nói nhỏ với cha :

- Thưa cha, chắc là thuyền của bọn cướp bóc rồi ! Chúng ta xui xẻo gặp phải hải tặc, kiết hung hai lẽ, chỉ còn biết phó mặc cho trời xanh.

Phùng Lai nghe hai tiếng "hải tặc" không khỏi giật mình đánh thót một cái !

Đông Hải Vương, té ra là vua của bọn cướp biển, chả trách bọn thủy thủ thấy dạng thuyền đến đã khiếp sợ kinh hoàng đến thế, chẳng hiểu bọn chúng thượng lá cờ xanh có thêu hình mặt trời lên cột buồm để làm gì ?

Tần thị nghe bọn cướp đến, sợ hãi ôm con gái, núp kín phía sau lái, trái lại Phùng Lai nổi cơn khùng của kẻ đọc sách lên, thầm nghĩ mình là một gã học trò khốn khó chạy nạn, có vật gì là quí giá mà sợ bọn cướp bốc lột.

Ngẩm nghĩ xong tinh thần tỉnh táo trở lại, trở vào khoang lục rương sách ra lấy một quyển truyện Xuân Thu, ngồi chễm chệ giữa thuyền ngâm nga đọc lớn, mặc cho sấm sét bủa giăng, búa rìu cận cổ vẫn tỏ ra không chút khiếp oai .

Trong khoảnh khắc ba chiếc thuyền to đã cận sát hải thuyền, không đầy hai mươi thước.

Đám thủy thủ trên thuyền họ Phùng bèn hạ buồm xả lái, để cho chiếc thuyền mặc tình trôi theo sóng nước như sẵn sàng chờ đợi một sự khám xét của đối phương.

Một trong ba chiếc thuyền to của bọn cướp chầm chậm tiến tới.

Tần thị trong khoang thuyền lén mắt nhìn ra, sợ đến run rên phát rét, miệng niệm kinh Quan Âm không ngớt, van vái Hoàng Thiên Hậu Thổ chẳng dứt lời.

Phùng Lai trái lại, vẫn thản nhiên đọc chuyện Xuân Thu như chẳng có gì xảy ra quanh mình.

Chàng khẽ liếc mắt nhìn xa thấy trên thuyền giặc lố nhố ba bốn mươi tên đại hán hầu quanh một gã đầu cọp mắt heo, râu rồng bó hàm, mặt đỏ, miệng sếch, bộ tướng dử dằn như Châu Xương thời Tam Quốc.

Gã cướp mặt đỏ nhìn lên lá cờ xanh trên cột buồm của thuyền đối phương rồi cất tiếng oang oang hỏi :

- Bọn ngươi đã nộp thuế hàng năm cho Đông Hải Vương chưa ? Trong thuyền có hàng nào bở không ! Hạng nào đó !

Phùng Lai khi đó mới chợt hiểu lá cờ xanh treo lủng lẳng trên cột buồm kia là biểu hiện của bọn cướp cho nhưng thuyền bè nào đã phục tùng và chịu nạp tiền bảo hộ cho chúng. Chàng hơi yên tâm phần nào. Nhưng khi nghe tên cướp quát hỏi trong thuyền có hạng người nào, thì không khỏi lo ngại thầm .

- Bẩm Nhị đại vương, lần này chúng tôi chở một vị học trò, y đưa vợ con từ Huỳnh Nham huyện vượt bể đến Nam Thông ở Giang Tô.

Lời y chưa dứt thì tướng cướp đầu đảng mặt đỏ quát vang :

- Mi chở thằng học trò à, tốt quá ! Anh em đâu nhẩy qua tóm cổ cả gia tiểu tên học trò ấy cho lão gia .

Bọn lâu la trên thuyền giặc, hung hăng như bảy hổ đói từ bên hông thuyền hạ xuống hai chiếc tam bản nhỏ, rồi bảy tám tên hải tặc nhãy xuống tam bản, bơi sang thuyền đối phương, nhanh nhẹn leo lên thuyền Phùng Lai như bẳy vượn, hùng hổ kéo nhau vào khoang thuyền.

Võ Lâm Ngũ Bá - Hồi 60 : Ổ giặc bị ép hôn

Phùng Lai ung dung rung đùi ngâm đọc Xuân Thu trong khoang thuyền.

Một tên hải tặc bước vào rồi chẳng cần phân biệt trắng đen vung tay đớp vào má Phùng Lai một bạt tai đánh "chát !" một tiếng rồi giật phăng cuốn sách Xuân Thu.

Phùng Lai tru tréo la lên :

- Mi tại sao lại ăn hiếp kẻ tư văn...

Chưa kịp dứt lời thì "bộp !" một tiếng nữa, bụng dưới bị tên cướp nện cho một đạp lộn nhào trên sàn thuyền.

Mấy tên cướp chia nhau phá cánh cửa nơi khoang sau, kéo lôi mẹ con Tần thị ra ngoài.

Bọn cướp thấy tiểu thư Hương Điệp sắc nước hương trời, cười lên hô hố :

- Tuyệt quá ! Hôm nay bắt được một con mái khá khúm, đem ả về nạp cho Tam Đại Vương, thế nào cũng được trọng thưởng .

Bọn cướp bể đã dọc ngang, hung hăng thành tánh còn biết gì thương hương tiếc ngọc, mặc cho mẹ con Tần thị khóc lóc kêu trời, năn nỉ lắm lời, chúng khoái trá cười lên hăng hắc, dùng giây trói thúc hai người lại lẫn cả Phùng Lai, kéo xển trên khoang thuyền, xô xuống tam bản chèo trở về thuyền mình.

Tướng cướp mặt đỏ lại quát lớn :

- Thuyền gia nghe đây, những hành trang cùng tiền bạc của tên học trò này, ta thưởng tất cho các ngươi, nhưng cấm ngặt các ngươi không được đến quan quyền báo cáo, nghe rõ chưa ?

Chủ thuyền cùng đám trạo phu sợ bọn hải tặc Đông Hải Vương còn hơn rắn rết, đâu dám chẳng tuân lời, chỉ còn cách riu ríu trương buồm rời hổ huyệt.

Bọn cướp biển đưa Phùng Lai và vợ con cùng lão gia bộc, tất cả bốn người thẳng xuống hầm.

Lại cắt đặt vài tên đứng bên ngoài canh phòng, mặc gia đình Phùng Lai khóc lóc thảm thương.

Chúng đem rượu ra ăn uống hò hét để tưởng thưởng công lao.

Tần thị bên dưới hầm thuyền ôm con khóc kể :

- Ác chi lắm trời ơi ! Thoát vừa khỏi lưới cẩu quan, mừng chưa kịp no, lại rơi vào tay quân cướp ác nhơn thất đức, sống sao cho được mà sống, con ơi là con !

Phùng Lai phất tay áo, giận dữ mắng vợ :

- Khóc cái gì ! Chết sống có mạng, phú quí tại trời, cao lắm là một đao đứt thành hai đoạn rồi thì thôi có gì mà than trời trách đất ? Đừng láo nháo mà náo loạn ý chí ta !

Thì ra, ông còn hy vọng gặp mặt tên cướp chúa, dùng lưỡi Tô Tần thuyết phục bọn chúng để thoát khỏi đại nạn.

Thuyền lướt sóng băng độ nửa ngày sau, trời vừa sẩm tối thì thuyền tiến sát một dãy cù lao, chập chùng mỏm đá nhọn lểu như chọc thủng nền trời xanh lơ dưới vầng trăng khuyết, vừa lên khỏi đáy nước.

Nơi đảo nầy không phải là một hoang đảo, nên dọc theo bờ biển, nhà cửa san sát đèn đóm sáng ngời như sao sa.

Té ra đây là sào huyệt của bọn Đông Hải Vương, tên là Hắc Phong Đảo, trên đảo tụ tập hơn mấy mươi tên hải tặc cùng gia đình của bọn chúng đều cư ngụ sinh sống trên đảo này.

Nguyên vì thời Nam Tống, quân Kim xâm lăng bờ cõi, chiến chinh liên miên không ngớt, khiến dân chúng cơ hàn khốn khó đến đường cùng, những trai tráng mạnh khõe đều lánh cư đến miền bể, tụ tập nhau trên đảo thành đoàn, lấy cướp bóc để làm việc mưu sinh qua cơn đói rách, cuối cùng quen nết trở thành nghề cướp chánh tông, thế ác qui tụ một ngày một lớn. Bang hải tặc Đông Hải Vương này, chính cũng trong trường hợp ấy mới vừa thành hình.

Trong Bang tổng cộng có ba vị Đại vương, đứng đầu là Thân Hải Trường Kình Trịnh Thiên Vân.

Đầu lĩnh thứ hai tên Cửu Đầu Ngân Ngao Võ Nguyên Khánh, gã thứ ba tục danh Bắc Vĩ Quy Đào Tông Kĩnh, mỗi Đại vương đều có riêng một bản lĩnh xuất sắc, nhờ đấy mới cầm đầu dám người lang sói kia được.

Bọn cướp Đông Hải Vương lúc trước do dám Tôn Phương Cô cầm đầu, sau vì Tôn Phương Cô được Toàn Chân Giáo Chủ Vương Trùng Dương điểm hóa tỉnh ngộ, dốc tóc nhập đạo, lấy hiệu là Tôn Bất Nhị, để lại cơ sở cho Trịnh Thiên Vân cai quản, trong vòng không đầy vài năm, số người nhập đảng càng đông, thuyền bè thêm nhiều mới trở thành bá chủ khắp bể Đông, tự xưng là Đông Hải Vương Bang.

Gia đình Phùng Lai rủi ro mạng vận xui khiến phải lọt vào tay đám giặc này, bị chúng giải về sao huyệt trên Hắc Phùng Đảo.

Tướng cướp mặt đỏ là Nhị đầu lãnh Cửu Đầu Ngân Ngao Võ Nguyên Khánh, sau khi cho thuyền cập bến, liền chỉ huy đám hải tặc cởi trói cho đám người Phùng Lai và giải thẳng lên bờ, đưa về đại trại.

Phùng Lai nhìn thấy nơi giữa đại trại có cấm phòng Trung Nghĩa Đường cực kỳ hoa lệ.

Võ Nguyên Khánh ngồi xuống một trong ba chiếc giao ỷ bọc bằng da cọp được bày giữa Trung Nghĩa Đường, rồi quay sang bảo tên tiểu đầu mục :

- Mau thỉnh Đại trại chủ và Tam trại chủ đến !

Khoảnh khắc sau, từ sau tấm bình phong bước ra hai gã đại hán vạm vỡ ớt dầu là đại đầu lĩnh Thôn Hải Trương Kình Trịnh Thiên Vân, mặt như giấy vàng, đầu cọp, hàm én, hiện lên nét oai vũ khí khái của con người có căn bản võ công, gã đi sau là đầu lĩnh thứ ba Bát Vỹ Quy Đào Tông Kĩnh, mặt đen, mày rậm, da đen như than hầm.

Võ Nguyên Khánh chờ hai người yên vị xong liền quát bảo một tên đầu mục đứng hầu gần đấy :

- Giải tên học trò khó ấy ra đây !

Phùng Lai thấy ba tên Đại Vương người nào cũng sát khí đằng đằng, lúc đầu hơi khiếp, nhưng sau nghĩ lại phúc họa đều bởi số mệnh dù sợ cũng chẳng ích gì, nên cố gượng lấy lại can đảm la lớn :

- Đại Vương sao chẳng trọng kẻ sĩ lại mặc tình hành hạ kẻ tư văn như vậy, làm sao mà thành đại sự nghiệp cho được ?

Ba vị Đại Vương thấy chàng ăn nói khùng khịu, lớn lối ngông cuồng đều cất tiếng cười lên ha hả .

Trịnh Thiên Vân ôm bụng cười một lúc khá lâu mới quay sang nói với Võ Nguyên Khánh :

- Nầy hiền đệ, không ngờ tên học trò khùng này lại có chút khí phách đấy !

Y hất hàm bảo Phùng Lai :

- Mi khai rõ tên họ cho lão gia nghe thử xem !

Phùng Lai đem tên họ mình xưng ra, vừa định đem chuyện mình bị tham quan Ngõa Tế Dân hãm hại, đến phải bỏ xứ lìa quê, thuật lại cho chúng biết thì Trịnh Thiên Vân đã xì một tiếng và quát :

- Câm mỏm ! Trên đời đáng ghét nhất là hạng đọc sách, như chúng ta gặp kẻ nào đọc sách thì nhất định giết chết chẳng hề dung mạng, để trừ hại cho thiên hạ !

Phùng Lai trợn mắt mạnh dạn đáp :

- Đại Vương, những lời của ngài chẳng có đạo lý gì hết !

Trình Thiên Vân cười nhạt nói :

- Đạo lý ư ? Có chứ, thử nhìn khắp thiên hạ từ xưa đến nay bao nhiêu kẻ quan lại mãi quốc gian manh, tàn hại dân lành, có tên nào chẳng phải là kẻ đọc sách xuất thân đâu ?

Như Lý Tư cũng là tên đọc sách, lại bày cho Tần Thủy Hoàng đốt sách chôn kẽ sĩ, vô đạo tàn ác, đấy là một tỷ dụ thứ nhất và gần đây bổn trào của chúng ta những tay gian thần : Trà Đồng Quán, Vương Bỗ, Trương Bang Xương, Tần Cối, loại trâu vầy, cọp xé ấy, tên nào chẳng Kinh luân đầy bụng, thế mà chúng chiếm được ngôi sang cả giữa triều đình, ngồi trên mồ hôi nước mắt của dân đen lại đang tâm phản bội tổ quốc sát hại trung lương, đưa nước nhà vào thảm họa của ngoại xâm, thì thử hỏi xem hạng người đọc sách có đáng chết hay không ?

Phùng Lai cười dài nói :

- Lời của Đại Vương sai nhiều quá Vãn sinh xin hỏi ngài một câu : Nhạc Nguyên Soái của tiên trào cả phá quân Kim, có phải là người đọc sách hay chăng ?

Lời nói của Phùng Lai bắt lại khiến ba tên cướp chúa cứng họng chẳng thể đáp cho suông.

Giây lâu sau Võ Nguyên Khánh mới lớn tiếng quát :

- Mốc xì ! Nhạc Võ Mục là một vị anh hùng hào kiệt trung nghĩa vô song đâu có phải là hạng người đọc sách mục như mi, đừng nói bá láp bắt quàng !

- Nếu Nhạc Võ Mục không phải là người đọc sách thì làm sao biết cách dụng binh thư như thần, mấy lần đại phá quân Kim được chớ ?

Nếu ông chẳng có danh tài thì làm sao viết được những bài văn từ "Mãn Hồng Hồng", "Ngũ Nhạc Minh" lưu loát hào hùng như thế ấy được ?

Chẳng lẽ anh hùng hào kiệt chỉ biết đánh nhau như điên chẳng cần dụng kế hay sao ?

Ba gã Đại Vương đều câm miệng như hến, không sao đáp cho trôi !

Bắc Vĩ Quy Đào Tông Kĩnh đưa mắt nhìn mẹ con Tần thị một cái, rồi chỉ tay về phía Hương Điệp hỏi Phùng Lai :

- Nàng con gái kia tên họ gì ? Là con gái ngươi phải không ?

Phùng Lai thầm rùng mình e sợ, chàng bèn đem chuyện gia đình bốn mạng người vì bị Ngõa Tri Phủ ép duyên đến phải bõ nhà lưu vong ra sao, nhất nhất thuật lại cho mọi người nghe.

Đào Tông Kĩnh nghe xong cười ha hả một hồi rồi nói :

- Thằng học trò khùng kia , như vậy mới đúng là câu "Hữu duyên thiên lý năng tương ngộ !" mi chẳng chịu gả con gái cưng cho con trai quan phủ , lại đưa nhau chạy trốn trên biển , lọt vào tay ta.

Vừa vặn ta chưa có vợ , có phải là duyên trời đặt để không ? Mi gả con gái cho ta vậy ! Gia đình ngươi hãy trú ngụ nơi Hắc Phong đảo này, cần chi phải đến Giang Nam tìm Bình Mã Chỉ Huy Sứ làm gì cho tốn công mà còn nguy hiểm đến tính mạng nữa là khác.

Vợ chồng Phùng Lai nghe xong , hai người đều nhìn nhau thất sắc kinh hoàng.

Vì hai vợ chồng chỉ có đứa con gái duy nhất ấy , thường hy vọng con gái mình mai sau tìm được người chồng văn thể phong lưu như Tư Mã Tương Như , hạng nhân vật xuất chúng như thế ấy mới thỏa lòng.

Ông thà chịu chết chớ chẳng gả con cho con trai Ngõa Tri Phủ cũng chính vì lẽ đó , ngờ đâu trăm phương ngàn kế thoát khỏi hang hùm, lại rơi vào hổ huyệt của đám cướp bể này ?

Cái gã Đại vương đen như cục than đá kia lại đèo bồng cưới con gái mình khiến Phùng Lai giận đến cơ hồ muốn ngất đi được , nhưng cố dằn cơn nóng đáp :

- Tiểu nữ tư chất yếu đuối dại khờ đâu dám trèo đèo chức cả , xin Đại vương miễn cho !

Đào Tông Kĩnh không thèm đáp mà lại quát nạt :

- Chẳng nói lôi thôi gì cả ! Bốn người bị ta bắt được , thì bổn Đại vương muốn thế nào phải y theo thế ấy , ai nói cùng mi cái gì chức cả chức bé , trèo đèo với chẳng trèo đèo ! Bây đâu ! Hãy chuẫn bị lễ động phòng , bày tiệc hiệp cẩn cho Tam lão gia !

Phùng Lai cả giận, trước mắt cảm thấy tối sầm ngã nhào xuống đất ngất mê mang tại chỗ !

Phùng Hương Điệp nghe tên cướp mặt đen định ép duyên mình làm vợ , giận thẹn mười phần , nàng vì hai tay bị trói quặt ra sau chẳng thể cựa quậy gì được , do một tên lâu la dẫn đi.

Trong lúc thẹn giận quá mức , nàng quên cả sợ hãi , rồi chẳng biết do đâu dâng lên một luồng dũng khí , thình lình nhe đôi hàm răng nhỏ rức như ngọn chuốc , táp mạnh vào cần cổ tên lâu la , khiến tên nọ đau quá rống lên một tiếng "ối cha !" buông cả mối dây đang giữ trong tay.

Phùng Hương Điệp thừa cơ hội lách mình vuột chạy , đâm sầm chiếc đầu vào cột đá nơi Trung Nghĩa Đường định tự sát.

Một tên đầu mục đứng gần bên chiếc trụ thấy thế , vội vàng vọt người ra trước, án cây cột, vung tay định ôm Hương Điệp lại, ngờ đâu chiếc đầu của Hương Điệp vừa vặn tông vào bụng dưới của gã, khiến gã không sao tự chủ được phải thối lùi ra sau , lưng đụng chạm mạnh vào trụ đá đau thấu trời xanh đất đỏ, kêu lên một tiếng "ái cha !" rồi té ngồi trên mặt đất.

Hương Điệp vì dùng sức quá mạnh, cũng không sao đứng vững được té chúi nhủi vào trong lòng của gã đầu mục kia.

Mọi người thấy cuộc diện biến đổi đột ngột không khỏi la hoảng lên động cả sảnh đường.

Tên tiểu đầu mục có lẽ vì sợ Hương Điệp liều mạng nữa nên ôm nàng chặc cứng.

Hương Điệp cố sức vùng vẫy để thoát ra, hai người quyện nhau thành một cặp lăn tròn trên mặt đất.

Đào Tông Kĩnh cười lên hiểm ác, đứng phắt dậy, mắt tóe hung quang rút phăng thanh ngư lân đao phía sau lưng ra kêu "xoảng !" một tiếng, đến sát chỗ hai người đang xà nẹo nhau rồi chẳng cần hỏi han, ánh đao lấp lóe vung lên, đánh "xoạc !" một cái, tức thì chiếc thủ cấp của tên đầu mục nọ, đã văng ra xa khỏi mình y trên bảy tám thước, máu bắn tung toé khắp nơi.

Phùng Hương Điệp rú lên một tiếng hãi hùng, rồi ngất xỉu tại chỗ !

Thì ra trong ba Đại Vương, Bác Vĩ Quy Đào Tông Kĩnh là một tên tham dâm hiếu sắc, tánh tình hết sức tàn nhẫn, hơi giận một chút là đã giết người, thậm chí hắn mổ bụng lóc da người sống là chuyện bình thường như cơm bữa. Y thấy tên tiểu đầu mục ôm cứng Phùng Hương Điệp lòng ghen không khỏi nổi dậy, bèn vung đao chém phăng thủ cấp tiểu đầu mục một cách oan uổng.

Hai tên đầu mục đứng bên cạnh thấy thế hoảng hốt la lên :

- Trời ơi !

Tiếng kêu không mấy gì quan hệ, nhưng vô tình đã làm Đào Tông Kĩnh càng nổi giận hơn thêm, y bèn xoay người lại quát hai tên đầu mục :

- Tam Đại Vương muốn chém đầu thằng nào là cứ chém, bọn mi dám mở miệng kêu la hả !

Hai tên đầu mục vội quì ngay xuống vập đầu vái như tế sao.

Đào Tông Kĩnh chẳng cần phân hơn thiệt cứ một đao là hớt phăng chiếc đầu mỗi tên, văng lông lốc trên mặt đất.

Tần thị và lão gia bộc Phúc Toàn thấy bọn giặc cướp hung tàn như thế hai người kinh khiếp rụng rời cả chân tay, xỉu nhào xuống đất.

Võ Lâm Ngũ Bá - Hồi 61 : Giết Cướp thoát thân

Thấy bốn người trong gia đình đều bất tỉnh mê man, Đào Tông Kĩnh phẹt một bãi nước miếng xuống đất nói :

- Toàn là đồ vô dụng, nhát như cheo !

Lại quay sang bảo tả hữu :

- Đem ba cái xác chết, vùi ngoài đồng trống lau quét máu me cho sạch sẽ, hai thằng gìa với mụ lão tống giam xuống hầm tối. Đêm nay dọn sẵn lễ mừng ta cùng mỹ nhân thành thân !

Trịnh, Võ hai người đối với việc Đào Tông Kĩnh giết người như đã quen mắt, chẳng tỏ chút gì lạ hay trách cứ, còn cười bảo :

- Hiền đệ nói gì lạ vậy ? Nếu đêm nay thành thân phải để cho ngu huynh cung hạ chớ !

Đào Tông Kĩnh hết sức cao hứng, sai cắt thủ hạ chuẩn bị mọi thứ.

Tuy trong sơn trại chẳng giăng hoa kết đèn nhưng đêm ấy cũng náo nhiệt vô cùng, nhộn nhàng và vang lên tiếng cười hô hố khả ố của bọn lâu la đầu mục.

Đêm mới vừa buông canh, Đào Tông Kĩnh mặc một chiếc áo tân lang do mười mấy tên đầu mục dắt hoa tươi theo hầu hí hửng đi đến lữ đường chờ đợi tân nương ra giao bái trời đất .

Nào ngờ y chờ cả buổi, trống ngũ âm trổi lên mấy lượt cũng chẳng thấy cô dâu bước ra.

Đào Tông Kĩnh đang hồ nghi phân vân thì từ ngoài vọng lại tiếng la hét vang trời, rồi có mấy tên tiểu cướp chạy đâm sầm vào hổn hển báo cáo :

- Đại vương, không xong rồi ! Tân nương chẳng biết từ đâu nhặt được chiếc kéo, thấy người là đâm túi bụi, đã có ba người bị nàng đâm trúng thương rồi !

Đào Tông Kĩnh cả giận hét to :

- Đâu có thể lộng như vậy được ! Con tiện tỳ này chẳng chịu ra bái lễ tơ hồng, dám liều lĩnh đến như thế ấy sao !

Y quên cả chiếc áo tân lang hoa lệ trên ngực , nhãy ba bước chạy đến tân phòng.

Quả như lời báo cáo, Phùng Hương Điệp nắm chặc một mũi kéo sáng loáng đang cùng hai mụ đàn bà có phận sự phù dâu cấu xé lăn lộn nhau trên mặt đất.

Đào Tông Kĩnh cơn điên nổi lên, chẳng hỏi ngọn ngành búng chân đá mỗi mụ phù dâu nhào hết về một phía.

Phùng Hương Điệp từ dưới đất lồm cồm ngồi dậy, chiếc áo tân nương đã rách be bét khắp nơi.

Đào Tông Kĩnh quát to :

- Nàng điên rồi sao ? Đêm nay ta cùng nàng giao bái trời đất để kết tình chồng vợ, sao nàng còn ở đây làm trò quỉ gì thế ?

Phùng Hương Điệp mặt phấn đổi màu xanh, lắng lặng chẳng đáp lời, thình lình giơ cao mủi kéo đâm thốc vào người Đào Tông Kĩnh !

Nhưng dù sao nàng chỉ là một cô gái yếu đuối, làm sao bì kịp với một gã sức vóc vạm vỡ lại tinh thông võ nghệ ?

Nên mũi kéo chưa chạm được vào làn áo của đối phương thì trên mặt đã "bốp !" một tiếng.

Hương Điệp hứng trọn vẹn một cái tát tai phũ phàng của tên cướp biển, xiểng niểng không sao gượng được té ngữa dưới đất !

Đào Tông Kĩnh định tiến lên túm lấy tóc nàng kéo dựng dậy nào ngờ Phùng Hương Điệp hả rộng đôi môi son táp nhầu vào bắp chuối non của y.

Đào Tông Kĩnh đau điếng nhãy dựng lên, chân còn lại bung ra một bước, đá nàng nhào trái trở ra sau.

Phùng Hương Điệp, chẳng thèm kêu rên, đứng phắt dậy, chộp lấy đồ vật trên bàn, ném liên tiếp vào mặt tên cướp, khiến kiếng, lược, bình, chun trà, tất cả vật dụng trong phòng thi nhau rớt bể nát.

Đào Tông Kĩnh cả giận, hét vang :

- Con tiện tỳ đáng ghét kia, mi tưởng là liều chết chứ không ưng thuận rồi Đào lão gia đây chịu thua mi sao ! Được lắm, để cho mi xót dạ đau lòng thử xem mi còn cưỡng lý đến bực nào cho biết !

Nói đoạn quay sang dặn nhỏ tên thủ hạ mấy câu.

Tên tiểu tặc liền gật đầu đi liền, khoảnh khắc sau trở lại còn dắt theo hai người một nam một nữ.

Phùng Hương Điệp thấy mặt hai người ấy, liền run rẩy biến sắc, té ra hai người bị trói dính vào chính là cha mẹ của nàng.

Đào Tông Kĩnh quát một tiếng ra lịnh, đám lâu la liền nắm đầu giây rút treo vợ chồng họ Phùng, treo tòn ten trên xà nhà, tựa như tuồng đánh đu một thứ.

Đào Tông Kĩnh khoái trá cười lên hô hố và quát :

- Con tiện tỳ, nếu mi chẳng chịu thành thân với ta, ta sẽ treo cha mẹ mi như thế và đánh cho thịt nát da rơi mới thôi, thử xem mi có đau lòng hay không ?

Y lại quát thủ hạ đem đến một ngọn roi đuôi cá đuôi gai chơm chởm.

Tên cướp chúa hung ác dị thường, vừa tiếp lấy ngọn roi đã vung "phắc !" một tiếng quất vào người Phùng Lai, khiến chiếc áo trên người ông bị rách xoạt một đường dài, máu tươi bắn ra lốm đốm trên mặt đất.

Phùng Lai đau đớn kêu thét lên như bị chọc tiết !

Đào Tông Kĩnh cười lên hăng hắc nghe rất khả ố, vung ngọn roi cá đuối kêu vun vút trong không khí định đánh vào mông Tần thị.

Phùng Hương Điệp hoảng hốt la to :

- Tôi chịu rồi ! Ông đừng đánh mẹ tôi !

Đào Tông Kĩnh thâu nhanh ngọn roi trở về cười sằng sặc bảo :

- Cưng ơi ! Cái đó gọi là "Rượu dâng không uống, uống rượu phạt, chưa thấy quan tài, lệ chưa rơi !" hì hì !

Y vẫy tay ra dấu cho bọn tiểu tốt thả vợ chồng Tần thị xuống đất .

Phùng Hương Điệp vội chạy đến ôm mẹ khóc ngất và nói :

- Má đừng trách con gái má bất hiếu !

Phùng Lai bị bọn cướp hành hạ hơn nửa ngày trời, lại lãnh thêm ngọn roi vào lưng thấu tim phổi, thở hổn hển bảo con gái :

- Điệp nhi...cha dù chết cũng chẳng hề gì , con phải giữ đừng cho thất tiết.

Phùng Hương Điệp lòng đau như xé quỳ trước mặt cha khóc đáp :

- Thưa cha con làm sao dám trái lời cha giáo huấn từ lâu, con... con xin lạy tạ ân cha mười sáu năm dưỡng dục cù lao !

Nói xong nàng cúi đầu phủ phục xuống đất khóc như mưa.

Phùng Lai hiểu rõ dụng ý của con gái mình, cười thảm não nói :

- Hay ! Hay ! Con có thể làm như vậy, cha dù dưới cửu tuyền cũng an lòng nhắm mắt ! Công mẹ con, công mười tháng cưu mang, con cũng nên lạy tạ ơn mẹ mới phải !

Hương Điệp khóc không thành tiếng.

Đào Tông Kĩnh đã đợi lâu không chịu được quát lớn :

- Mẹ mẹ cha cha cái đếch khô gì, có mau đổi áo tân nương ra ngoài bái đường cho mau hay không ?

Hương Điệp biết lần này mình ra tay, sẽ mãi không còn thấy mẹ cha, đau đớn vạn phần ruột mềm từng khúc, nhưng trước sự bức bách của tên dâm tặc, chỉ đành riu ríu đứng dậy, nước mắt trào dâng như suối, thê thảm nói :

- Cha mẹ nên thận trọng, con đi đây !

Tần thị nghe thấu thâm ý dặn dò của con gái, ôm chặt Hương Điệp vào lòng.

Đào Tông Kĩnh thấy gai mắt cả giận quát :

- Hai con chó gìa kia cứ mẹ mẹ cha cha với con gái, mãi làm cái trò khỉ khô gì thế ? Bộ định đưa ma hay sao ? Có mau buông tay hay không, nếu còn lôi thôi đừng trách lão gia chẳng vị tình cha vợ đấy !

Y lại quay sang hét ra lịnh bọn tiểu tốt :

- Đưa hai con chó gìa đáng ghét này ra khỏi nơi đây mau !

Tiếp theo đấy y quát tháo bọn tỳ nữ dắt tân nương ra sau thay đổi kiết phục !

Phùng Hương Điệp đã ôm sẵn ý định, nước mắt ráo hoảnh đôi ngươi ngời tia sáng lạ thường, bị bọn tỳ nữ kéo thẳng vào phòng, cài hoa thoa phấn rồi dắt đến lễ đường cùng Đào Tông Kĩnh giao bái Thiên Địa một lễ nghi hoàn tất trong tiếng sáo nhạc tưng bừng.

Đào Tông Kĩnh mặt mày hí hửng tưởng đâu đêm nay có thể cùng người đẹp vầy duyên cá nước !

Sau canh hai đêm ấy, Đào Tông Kĩnh nơi khách đường mọi người đổ rượu say mèm, chân nam đá chân xuôi trở về tân phòng.

Phùng Hương Điệp gầm đầu ngồi yên trên giường, hỹ nương ngồi kế bên khuyên nhủ.

Đào Tông Kĩnh vừa bước vào phòng lập tức khoát tay xua đuổi đám hỹ nương.

Đám hỹ nương biết rõ tánh hung ác của Câu Bác Vỹ Quy nên mạnh ai riu ríu nấy chuồn.

Đào Tông Kĩnh cười khẩy bảo Hương Điệp :

- Chúng ta là vợ chồng rồi còn gì nữa mà thẹn thùng ! Uống vài hiệp rượu cẩn với ta đi cưng !

Phùng Hương Điệp nghiến răng, gượng vẽ mặt vui vẻ đáp :

- Đại Vương đêm hôm nay tiện thiếp đã là người của Đại vương, nhưng thiếp có một điều yêu cầu Đại vương, chẳng hay Đại Vương thuận lòng chăng ?

Đào Tông Kĩnh hồ nghi nhìn khuôn mặt mỹ miều như hoa xuân, cười lên hô hố nói :

- Nương tử, có chuyện gì cứ nói ra chẳng ngại ?

Phùng Hương Điệp nói :

- Cha thiếp tuổi gìa hay bịnh, mẹ thiếp thể chất cũng yếu đuối dễ đau, hai người không thích ở trên hải đảo, Đại vương thương thiếp thật lòng xin ban cho người chút ân huệ, cấp cho chiếc thuyền con, bảo hai người lập tức rời khỏi nơi đây .

Đào Tông Kĩnh ngạc nhiên hỏi :

- Ủa ! Hai ông bà không chịu ở trên đảo thật sao ! Lưu lại trên Hắc Phong đảo này có phải tiện hơn không, khỏi sợ tên Ngõa Tri Phủ bắt bớ truy tầm gì hết .

Phùng Hương Điệp lắc đầu đáp :

- Không được, ông là người trói gà không chặt, bảo ông ở trong sào huyệt bọn cướp phỏng có ích lợi gì ! Ông cũng không thể giúp các ngươi đánh lộn giựt đồ chẳng lẽ ngồi không tọa hưởng hay sao, ông là người khí khái không chịu như thế đâu.

Đào Tông Kĩnh không chịu được sự lải nhải gạt ngang :

- Rồi, rồi ! Nếu ông không ưng ở nơi đây chúng chẳng cầm cọng làm gì, đêm tối như thế này, mai sẽ cấp thuyền cho ông bà đi ngay !

Phùng Hương Điệp lại nói :

- Hai ông bà muốn rời khỏi đêm nay chớ chẳng chịu nhìn con gái sa vào tay giặc. Đại Vương nên lập tức cấp thuyền đưa hai ông bà đi cho rồi !

Nếu như ngày thường, tất Đào Tông Kĩnh sẽ nghi ngờ nhưng vì đêm nay y cao hứng đến tuyệt độ, lại có hơi men chếch choáng nên chẳng chút suy nghĩ đắn đo gật đầu ưng thuận.

Rồi lập tức bảo hai người xuống thuyền đi là xong chuyện .

Y bèn gọi một tên lâu la dặn dò mấy câu, bảo phải chuẩn bị một chiếc thuyền đưa vợ chồng Phùng lão tiên sinh rời khỏi đảo.

Tên lâu la nhất nhất vâng lời theo lịnh.

Phùng Hương Điệp thấy cha mẹ mình đã thoát hiểm mới yên lòng, nàng mỉm cười cố tạo vẻ tươi cười cầm lấy bình rượu rót đầy dâng lên.

Đào Tông Kĩnh mừng rỡ cười híp mắt tay trên chân dưới làm đủ trò khả ố.

Phùng Hương Điệp một mực tránh né và nói :

- Đại Vương, thiếp là người của Đại Vương rồi vội làm gì, hãy uống thêm vài ly giao cẩn với thiếp đã chớ !

Đào Tông Kĩnh lè nhè đáp :

- Phải lắm ! Rượu say gối vế mỹ nhân êm mềm hương thoảng nản lòng trượng phu hè... hè.. ! Nương tử, rượu uống !

Phùng Hương Điệp liên tiếp rót bảy tám chén rượu ép Đào Tông Kĩnh uống cạn.

Đào Tông Kính nửa say men rượu, nửa say sóng tình, bị Hương Điệp chuốc rượu cho một hơi, say nằm dựa ngữa trên ghế thái sư, ngáy vang như sấm.

Phùng Hương Điệp khẽ lay gọi y .

- Đại vương !

Đào Tông Kĩnh lảm nhảm đáp vài tiếng rồi ngáy trở lại nhau rống, chứng tõ y đã say mèm như đất cục.

Hương Điệp cắn chặt hàm răng, cởi chiết mão phụng trên đầu, đi đến bên giường lôi dưới chiếu ra một chiếc kéo sáng loáng mà nàng đã ăn cắp được của bọn người hỷ nương lúc nãy và dấu sẵn nơi ấy !

Phùng Hương Điệp bậm môi giơ cao mũi kéo đâm lút cáng vào yết hầu của tên cướp.

Thì ra nàng từ thuở nhỏ được phụ thân dạy dỗ theo khí tiết thơ hương, trong đầu óc đầy dẫy những nhân vật nữ lưu trinh liệt như "Trinh nữ truyện", "Liệt nữ từ" v.v." Thường lấy nhân vật trong cốt truyện để tự răn lấy mình, nên đâu thể chịu thất thân với bọn cướp sát nhân.

Võ Lâm Ngũ Bá - Hồi 62 : Công Đường trị tham Quan

Chợt đến lúc nàng tĩnh dậy lần nữa thì thấy mình nằm trong tay của thầy trò Hoàng Dược Sư.

Hoàng Dược Sư nghe xong không khỏi "hừ !" giọng mũi một tiếng lạnh lùng và nói :

- Tham quan hại dân, cẩu tặc vô đạo, ác thú ăn người, thật là loài đáng ghét cả .

Võ Hồng Quang thấy Hoàng Dược Sư ánh mắt loé lãnh quang, cậu khẽ rùng mình khiếp sợ và hỏi :

- Thưa sư phụ, sư phụ tính thế nào về số phận của Phùng cô nương đây ?

Hoàng Dược Sư nghiêm giọng đáp :

- Việc của sư phụ, con không cần lo tới !

Võ Hồng Quang như đạp phải gai nhọn, im thin thít không dám hó hé thêm nửa lời .

Hoàng Dược Sư cười nhạt luôn miệng, chắp tay sau đít đi quanh nhà khắp mấy lượt mới ngẫng đầu bảo đám người trong làng :

- Các người nên săn sóc đàng hoàng cô nương này, tôi đến thăm Phủ Thiệu Hưng một chuyến !

Nói đoạn, móc trong túi ra một đĩnh bạc để lên mặt bàn đánh "cạch" một tiếng rồi gằn giọng :

- Các ngươi phải chăm sóc chu đáo, ta đi lần nầy độ ba hôm sẽ về, nếu các ngươi hầu hạ sơ xuất điều gì đừng mong mạng nào sống sót .

Nói xong bước ra cửa đi thẳng, chẳng hề quay đầu lại.

Đám nông dân trong Thanh Vân thôn, người người nhìn nhau ngơ ngác, chẳng hiểu vị nho sinh áo xanh kia tánh tình cổ quái như thế, có phải ông ta khật khùng chăng ?

Hoàng Dược Sư mang một bầu tức khí trong lòng, lướt vun vút trực chỉ đến Thiệu Hưng.

Từ thôn Thanh Vân đến phủ Thiệu Hưng lộ trình có trên một trăm hai mươi dặm, nhưng Hoàng Dược Sư dùng thuật khinh công trác tuyệt, nên không tới một ngày là đã vào thành Thiệu Hưng rồi.

Chàng vừa đến cửa thành, liền hỏi thăm nơi gia cư của họ Phùng, liên tiếp hỏi năm sáu người, ai nấy cũng lắc đầu quầy quậy không đáp, rồi rảo bước đi nhanh qua nơi khác như sợ hãi điều gì.

Hoàng Dược Sư bàng hoàng tĩnh ngộ, biết là nơi giữa đường cái hỏi thăm thì không một ai dám dừng lại trả lời vì sợ tai bay họa gởi vào thân !

Hoàng Dược Sư tinh ý bước vào một ngõ hẻm thấy phía trước mặt đi lại một người bán bánh dạo.

Chàng bèn tiến ra trước đón lại, vòng tay thi lễ và nói :

- Phiền tiên sinh cho tôi hỏi thăm nhà của Phùng Tiến sĩ ở về phía nào ?

Gã bán bánh dạo liếc nhìn sơ qua hình dáng của Hoàng Dược Sư, thấy chàng ăn mặc theo lối thư sinh, nghi biểu văn vẻ liền đáp :

- Ồ ! Tôn giá tìm họ Phùng có chuyện gì cần ? Tôn giá ở đâu ?

Hoàng Dược Sư tươi cười nói :

- Tôi là bạn cũ của người, từ Hàn Châu đến đây, không gặp mặt nhau đã lâu, đến thăm viếng vậy thôi !

Gã bán dạo lắc đầu khuyên ngăn :

- Tướng công đừng nên tìm là hay hơn ! Nhà ông ta vừa gặp phải họa tày trời, cả nhà chẳng hiểu trốn đi nơi nào biệt tích .

Hoàng Dược Sư vờ kinh hãi hỏi dồn :

- Ủa ! Nhà ông ấy gặp họa gì thế, hỏa tai chăng ? Hay bị cướp đánh phá !

Gã bán dạo thở dài, đáp :

- Còn ác độc hơn là bị cướp đánh phá nữa, tôi không nói được, nhà của y nơi hẻm Song Liễu phía hữu, căn thứ nhất, trước ngõ có trồng hai cây liễu to tướng, công tử cứ đến đó mà tìm.

Nói xong, đầu chẳng quay, vội vã cất gánh lên vai đi một nước.

Hoàng Dược Sư theo lời chỉ dẫn, tìm ngay được nhà họ Phùng, thấy cửa cái dùng hai thanh gỗ đóng lại, bên trên còn dán thêm dấu niêm phong của phủ quan.

Hoàng Dược Sư đã biết rõ lời Hương Điệp không phải là dối, chàng quyết dò la sự thật của Tri Phủ ra sao, nên trở ra phía chợ, tìm một trà quán nơi thị tứ ngồi nghỉ chân, cũng để thăm hỏi dân tình cho biết mọi sự .

Vừa kêu chế bình trà xong, thình lình thấy một thực khách có vẻ phú thương, uống xong chén trà liền đứng dậy đưa một vị ăn mặc theo lối vệ môn ra cửa và cười nói :

- Diêm Giáp Ty đại nhân, mong tái ngộ, thì Hoàng Dược Sư sực nhớ lại Phùng Hương Điệp có nhắc qua Ngõa Tri Phủ có một tên thủ hạ tâm phúc là Giáp Ty họ Diêm tên Văn Đạo, chuyên việc bày mưu lập kế, đưa đường dắt ngõ, đút nhét cửa sau cho Ngõa Tri Phủ, hãm hại chẳng biết bao nhiêu người. Nếu quả đúng là tên này chàng đâu dễ bỏ qua.

Đào Hoa đảo chủ hối hả gọi hầu bàn đến, chỉ về phía Diêm Giáp Ty và nói :

- Một quan tiền này trả bình trà kia, còn dư bao nhiêu thưởng cả cho mi, có phải người ấy là Diêm Giáp Ty, tên thật là Văn Đạo đấy chăng ? Ta có câu chuyện muốn nói với ông ấy !

Tên hầu bàn mừng rỡ cám ơn rối rít và nói :

- Vâng, Diêm Giáp Ty đại nhân đấy, ông là tay chân đắc lực nhất của Ngõa Tri Phủ, ai cũng đều biết và rất nể nang ổng !

Hoàng Dược Sư lập tức phóng ra khỏi cửa, không đầy hai mươi bước đã bắt kịp Diêm Giáp Ty.

Chàng liền gọi lớn :

- Giáp Ty ! Giáp Ty !

Diêm Giáp Ty nghe có người gọi mình, liền quay đầu lại nhìn, chợt thấy kim quang lấp loé, tiếp theo đấy mấy mũi kim vàng nhanh như làn chớp, bay vút vào yết hầu, y "ôi cha !" một tiếng yếu ớt, rồi ngã nhào trên đất chết tốt .

Đám bộ hành đi trên đường thấy Diêm Giáp Ty bỗng dưng ngã lăn trên mặt đất, tay chân co rút mấy cái rồi tắt hơi liền, ai nấy đều hoảng hốt la lên :

- Không xong l Diêm Giáp Ty bị trúng gió rồi, mau đến cứu ông ta .

Ngoài miệng vờ kêu la như thế, nhưng trong lòng ai cũng sắn dạ thù hằn, nên chẳng ai chịu thật lòng ra tay giúp.

Hoàng Dược Sư giết xong một tên gian đồ, trong bụng thống khoái vô cùng đi thẳng về phía phủ đường.

Thời Tống trào có lệ, nơi trước vệ môn mỗi phủ đường, đều treo một chiếc trống lớn gọi là "oan cổ" trống, bá tánh ai có gặp phải điều gì oan khúc, có quyền giống trống lên.

Tri Phủ hay Huyện quan nghe có người đánh trống, phải lập tức thăng đường để thẩm án.

Nên trước vệ môn của Ngõa Tri Phủ cũng thiết lập một mặt trống oan, song vì Ngõa Tế Dân vốn là một tham quan vọng pháp.

Bá tánh gặp phải oan khiên cũng không nơi mà đầu cáo, nếu lỡ chạm đến mặt trống, minh oan đâu chưa thấy, trái lại kẻ kích trống kêu oan đã bị một trận đòn thừa chết thiếu

sống, nên dù có oan ức tày trời, cũng ôm bụng mà chịu chứ không dám đầu cáo kêu van bao giờ.

Hoàng Dược Sư xăm xuôi đi đến trước mặt trống, rút dùi nện lên mặt trống liên hồi.

Một tên sai dịch liền chạy ra quát lớn :

- Tên học trò khùng kia từ đâu đến vậy ? Bộ chiếc trống kia để cho mi đánh loạn lên như thế sao ? Muốn ốm đòn không ?

Hoàng Dược Sư trừng mắt đáp :

- Mặt trống nầy dùng để khiếu nại, có chuyện oan ức không minh, được quyền đánh trống kêu oan. Tôi bị người ta mưu cướp của hại mạng, giết chết ba người, chẳng lẽ không được đánh trống minh oan hay sao ?

Tên sai dịch nghe có án mạng, không dám diên trì vội vàng báo cáo Ngõa Tri Phủ.

Quan phủ họ Ngõa lập tức thăng đường.

Tên sai dịch liền đưa Hoàng Dược Sư vào .

Đào Hoa đảo chủ đứng sựng chẳng chịu quỳ.

Ngõa Tri Phủ cả giận, vỗ thanh "kinh đường mộc" đánh rầm một tiếng và quát :

- Mi là ai ? Có oan tình gì mau khai ra. Tại sao thấy bổn quan chẳng chịu quỳ ?

Hoàng Dược Sư ngang nhiên đáp :

- Tôi có một người bạn, toàn thể gia đình chồng vợ con gái ba người đều bị hại mạng, xin đại nhân tra xét công minh dùm !

Ngõa Tri Phủ lại quát :

- Bạn mi tên gì họ gì ? Gia đình ba mạng người tại sao bị người sát hại, mau khai ngay, nếu nói dối nửa lời bổn quan sẽ đập gảy đôi chân chó của mi lập tức, biết chưa ?

Hoàng Dược Sư đáp :

- Bẩm đại nhân, bạn của tôi người ta hãm hại đến chết, nguyên nhân chỉ vì dưới gối có một ái nữ rất xinh, khiến một gã vô loại hư hỏng nhễu nước miếng thèm khát, gã vô lại ấy cậy ở chút ít thế lực của bổn địa, mới đem một số gian vật, quăng vào nhà

của bạn tôi, rồi vu oan giá họa cho bạn tôi là tư thông với hải tặc, bức bách gia đình của bạn tôi phải chết một cách oan ức.

Ngõa Tri Phủ càng nghe càng nhột lổ tai, vỗ án quát to :

- Đừng nói hồ đồ ! Bạn của mi tên gì ? Gã vô lại ấy là ai ?

Hoàng Dược Sư gằn mạnh từng tiếng đáp :

- Bạn của tôi họ Phùng tên Lai gã vô lại hại người là Ngõa Tế Dân hiện đương kim làm Tri Phủ Thiệu Hưng !

Lời chàng vừa thốt ra, tất cả sai dịch trên dưới phủ đường đều xôn xao dậy lên.

Ngõa Tri Phủ giận cực điểm, hét vang :

- Quân hỗn láo ! Tên này chắc điên rồi ! Bây đâu...

Tiếng nói chưa kịp dứt, chợt thấy bóng xanh thấp thoáng, hơi gió gần mặt.

Đào Hoa đảo chủ đã lướt sát bàn công án .

Ngõa Tri Phủ bỗng cảm thấy mình nhẹ phễu như trái khí cầu, chân bị nhấc cao khỏi mặt đất, lơ lửng ở nửa lưng trời, chân tay quều quào giữa không khí.

Thì ra Hoàng Dược Sư dùng thuật khinh công xảo diệu của mình, tung người nhãy bổ đến bên Ngõa Tri Phủ giương năm ngón tay ra như cái móc sắt xâu lấy cổ áo của Ngõa Tri Phủ, giở hỏng lên cao tựa hình chim ưng xớt gà, đoạn gót chân nhẹ điểm trên mặt án, nhãy thót lên cây xà ngang ở giữa công đường.

Cây xà ấy lớn độ một vòng tay, Hoàng Dược Sư phi thân vút mình một cái ngồi chễm chệ trên trần nhà, ấy mặt vẫn chộp cứng bâu áo, thòng Ngõa Tri Phủ tòn ten dưới cây xà ngang.

Ngõa Tri Phủ bị lơ lửng giữa khoảng không trời không đất, đong đưa như một chiếc đu.

Nóc của phủ đường rất cao ! Từ chỗ Ngõa Tri Phủ bị treo đung đưa còn cách mặt đất trên hai trượng, nếu Hoàng Dược Sư lỡ sút tay một cái thì Ngõa Tri Phủ sẽ từ trên rớt xuống, dù gan óc chẳng tan tành, xương cốt cũng phải gãy lìa từng khúc !

Ngõa Tri Phủ sợ điếng cả hồn, tru tréo kêu lên :

- Cứu mạng ! Mau cứu mạng !

Bọn sai dịch vệ binh nghe tiếng la thét của Ngõa Tri Phủ, ùn ùn xông vào, thấy Ngõa Tri Phủ bị xách tòn ten trên nóc trần cao, ai nấy trố mắt nhìn nhau lỡ khóc lỡ cười.

Cây xà ngang ấy cách mặt đất hai trượng cao, bất luận là người có bản lĩnh thế nào cũng không sao phi thân lên được. Nếu dùng cung tên bắn lên , sơ suất một chút bắn phải phủ quan lại càng hại hơn nữa , vì "ném chuột vỡ đồ".

Đám sai dịch vệ binh chỉ còn cách la dọa dẩm :

- Ê thằng kia ! Mi còn chưa thả Tri Phủ đại nhân xuống hay sao ? Mi muốn chết không đất chôn thây phải không ?

Hoàng Dược Sư ngồi vắt vẻo trên xà ngang , buông tiếng cười lạnh lùng không ngớt. Chàng đối với đám quan binh sai dịch kia đâu có kể vào đâu, mặc cho bọn chúng la hét đến mòn hơi khan cổ.

Hoàng Dược Sư mới lạnh lùng bảo :

- Ta chỉ cần buông tay là phủ quan của bọn mi sẽ từ trên cao rớt xuống như trái mít, chất đậu hủ trong óc y cũng phọt ra ngay , chúng bay từ nãy giờ "đánh rắm" đã chưa ?

Có mấy tên vệ binh làm tài khôn , từ trong phòng lấy ra một chiếc mền gấm , bốn đứa cầm bốn góc giăng ra thành một chiếc võng khổng lồ hứng phía dưới người của Ngõa Tri Phủ, đề phòng Hoàng Dược Sư rủi sút tay thì có chiếc mền hứng lấy , như vây tính mạng của ngõa Tri Phủ sẽ chẳng đến nỗi.

Hoàng Dược Sư cười khẩy một tiếng tay trái nắm chặt Ngõa Tri Phủ, tay phải phát ra Phách Không Chưởng, một phạt một cuốn, tức thì "bùng !" một tiếng, chiếc mền lẫn trên mười tên sai dịch đều bị ngã lổng chổng xuống đất, tên nào cũng u đầu sứt

trán, chúng hoảng hốt la lên một tiếng thất thanh rồi dạt lui ra sau, chẳng còn tên nào dám cầm mền hứng như trước nữa !

Hoàng Dược Sư hiển lộng thần công ấy xong, lại có tên làm tài khôn , ngỡ Hoàng Dược Sư không phải là người mà là Hồ Ly Tiên hóa thân.

(Bên Trung Hoa có câu tục ngữ là Bắc phương nhìn Hồ Ly, miền Nam lắm "quỉ quái". Nên người phương Bắc có một truyền thuyết rằng : nếu một con hồ ly nào sống được năm trăm năm, có thể tu luyện thành tiên biến thành hình người du hành trong nhân gian nên thỉnh thoảng có những chuyện cổ tích kỳ bí về Hồ Ly thành thành tiên chép ghi trong sách vở lưu truyền. Truyện Liêu Trai Chí Dị của tác giả Bô Lưu Niên cũng vịn vào những cổ tích trên mà viết ra vậy).

Bọn sai dịch cùng vệ binh ngỡ Hoàng Dược Sư là Hồ Ly Tiên giáng phàm bèn vội khiêng bàn hương án ra lên đèn đốt nhang, cùng hoa tươi bánh trái, thi nhau sì sụp lễ bái vái rang :

- Hồ Tiên gia gia, xin ngài đừng quở giận, chúng tôi từ bao lâu nay chẳng lập bài vị của ngài để thờ phượng, cúi lạy đại tiên xá tội, chúng tôi nguyện lễ thường mỗi đêm để tưởng niệm ân đức ngài. Nam mô Hồ tiên gia gia đại từ đại bi !

Hoàng Dược Sư thấy cử chỉ ngu dốt của bọn chúng giận không xong mà cười cũng chẳng được !

Chàng chợt hồi tâm nghĩ lại, người xưa mượn thần thánh để thuyết giáo, giờ đây bọn chúng lại lầm tưởng mình là Hồ tiên, tại sao mình chẳng lộng chân ra giả, đội lốt thần tiên để trêu phá chúng một trận cho bõ ghét.

Hoàng Dược Sư nghĩ xong liền cau mày quát lớn :

- Ngõa Tế Dân tham ác lộng quyền, hãm hại dân lành, tội đáng báo ứng phạt răn, chúng bây tên nào chưởng quản văn thư , mau đem văn phòng tứ bửu ra đây !

Mọi người thấy Hồ Tiên chịu khai khẩu, không dám cãi lời, vội kêu tên Thông phán chưởng quản ấn tín văn phòng đến nơi.

Tên Thông phán này tánh Văn tên Tứ Viễn là người kế nhậm Phi Thông phán nửa tháng trước đã chết do tay Phùng Lai đầu độc.

Gã Văn Thông phán ấy run rẩy đem bút mực giấy má tới phía dưới chân Ngõa Tri Phủ ngóng đầu hỏi :

- Bẩm đại tiên gia gia, chẳng hay ngài có điều chi dạy bảo ?

Hoàng Dược Sư nạt to :

- Ta muốn mi sao một tờ thú trạng ! Mi hãy ngồi chỗ công án, bên kia !

Văn Thông phán riu ríu đi đến bên công án ngồi ke ne ở một bàn chờ lịnh.

Hoàng Dược Sư cúi mặt xuống bảo Ngõa Tri Phủ :

- Họ Ngõa kia, mi phải đem chuyện hãm hại văn sĩ Phùng Lai ra sao, thuật rõ từ đầu chí đuôi cho tất cả công chúng nơi đây nghe. Cấm mi chẳng được dấu diếm nửa lời !

Còn tên Thông phán phải chép hết từng câu không được sơ sót nghe rõ chưa !

Ngõa Tri Phủ bị Hoàng Dược Sư treo tòn ten trên xà nhà, từ nãy giờ quá lâu đã choáng váng đầu óc tim nhãy ngực lòi, hơi thở ồ ề, lão vốn đã lớn tuổi, lại bị tửu sắc gậm mòn thân thể, nên đối với khổ hình ấy thử hỏi làm sao chịu cho kham ?

Lão tham quan hết lòng năn nỉ xin tha mạng, nhưng Hoàng Dược Sư tảng lờ như chẳng hề nghe thấy.

Lão lại nghe Hoàng Dược Sư nói như thế không khỏi trù trừ suy nghĩ .

Trước mặt giữa số đông công chúng bắt lão phải khẩu chiêu những hành vi tham tàn vong pháp tàn hại vô lương của lão ra, thật đã khó lòng lắm rồi ! Huống hồ còn bảo Văn Thông phán ghi chép thú trạng trên giấy trắng mực đen để thành bản án.

Vạn nhất đối phương đem thủ trạng ấy đến Lâm An đầu cáo với thượng ty hay triều đình thì chỉ còn nước làm quỉ không đầu.

Hoàng Dược Sư thấy Ngõa Tri Phủ dần dừ mãi chẳng chịu theo lời, chàng bèn ngầm vận cương khí công, Ngõa Tri Phủ liền cảm thấy năm ngón tay của đối phương tựa như năm đũa sắt nung đỏ lùi sâu vào da thịt nơi chiếc cổ ú nụ bụ thịt của mình.

Ngõa Tri Phủ đau đớn như bị lửa đốt kêu oái lên như gà mắc đẻ :

- Ối trời ơi ! Đau quá ! Tôi nói, tôi nói !

Hoàng Dược Sư mới chịu lơi tay buông lão ra, nhưng lại nắm chặt hai chân lão, khiến người lão thòng ngược thân hình trở xuống và đồng thời quát lớn :

- Nói mau ?

Ngõa Tri Phủ bất đắc dĩ đem sự việc con trai mình Ngõa Hy Thuấn thấy gái đẹp động lòng dâm, rồi việc lão phái Diêm Giáp Ty tới cầu thân bị từ khước, cùng việc bày mưu lập kế vu oan giá họa để bức bách Phùng Lai nhận hôn ra sao, mỗi mỗi khai rõ không sót một chi tiết.

Trên xà nhà Ngõa Tri Phủ nói câu nào bên dưới Văn Thông phán cứ y theo lời khai sao chép chẳng sót một câu, đến lúc Ngõa Tri Phủ dứt thì bản thú trạng đã chi chít trên ngàn chữ.

Hoàng Dược Sư lạnh lùng và lớn tiếng ra lịnh :

- Hay lắm ! Tờ trạng từ đã xong , đóng ấn phủ quan lên cho ta !

Ngõa Tri Phủ kêu khổ liên miên không ngớt miệng. Nhưng

Hoàng Dược Sư chẳng kể số đến, chậm rải chờ Văn Thông phán đóng ấn đề ngày tháng xong xuôi, liền quát to :

- Mi viết xong thú trạng rồi, lập tức xéo ra mau !

Gã Văn Thông phán như trút được gánh nặng ngàn cân vội lui ra khỏi công đường.

Hoàng Dược Sư bèn giơ tay vẫy một cái, tờ cáo trạng như bị sức hút kỳ lạ, cuộn bay lên cao rớt vào bàn tay của chàng.

Tuy vừa rồi Hoàng Dược Sư đã dùng tiên công Phiến Điệp Phi Thiên (chiếc lá bay trên trời) một tuyệt chiêu trong Lạc Anh Chưởng Pháp hoàn toàn vận khí công trong cơ thể để hút lấy tờ giấy bay trở lên.

Nhưng trong đôi mắt không hiểu về võ thuật của đám phàm phu kia, cứ ngỡ là pháp thuật tiên gia, chúng thêm kinh hồn táng đởm, càng tưởng Hoàng Dược Sư là Hồ tiên hóa thân.

Hoàng Dược Sư xếp gọn tờ thú trạng bỏ vào túi xong, liền ra lịnh bọn người đứng phía dưới :

- Mau gọi Ngõa Hy Thuấn và Diêm Giáp Ty ra đây ta bảo !

Mọi người không khỏi thất sắc cả kinh.

Hoàng Dược Sư bèn đong đưa thân hình của Ngõa Tri Phủ xích tới xích lui như chiếc đu và quát tiếp :

- Nếu bọn bây chẳng đi gọi. Ta ném Tri Phủ của bọn bây xuống đất dập nát óc ngay .

Bọn sai dịch sợ hãi suýt tiêu tiểu xón trong quần đồng thanh la lên :

- Diêm Giáp Ty lúc nãy trúng phong chết ở dọc đường, chỉ có tiểu gia gia ở nhà thôi .

Hoàng Dược Sư "hừm" một tiếng, lại nói :

- Mau gọi thằng khốn ấy đến đây, bằng không ta hiển lộ thần thông cho bọn ngươi chết hết chẳng còn một mống nghe rõ chưa !

Bọn sai dịch đành phải ba chân bốn cẳng đi tìm Ngõa Hy Thuấn, nhưng lúc ấy Ngõa Hy Thuấn đang bận đi rong bên ngoài để tìm hoa bẽ nhuỵ.

Mọi người đổ xô đi tìm kiếm khắp nơi. Gần nửa giờ đồng hồ sau, mới bắt gặp Hy Thuấn đang vùi đầu trong một gian nhà "Oa Xá Tử" (một loại thanh lâu kỷ viện dành riêng cho quan trường sĩ binh thời Tống trào) bèn gọi y về.

Hy Thuấn bị đám người xô vào trước công đường và bắt quỳ xuống nơi phía dưới chỗ xà nhà Hoàng Dược Sư đang ngồi.

Hoàng Dược Sư thấy đủ mặt hai cha con họ Ngõa liền hét lớn như sấm :

- Họ Ngõa kia, muốn chết hay là sống ?

Ngõa Tế Dân thở ồ ồ đáp :

- Bẩm đại tiên, tiểu quan đã biết lỗi mình, xin đại tiên mở lượng hiếu sinh tha cho cha con chúng tôi được toàn mạng .

Hoàng Dược Sư cười nhạt nói :

- Tội chết tha được, tội sống khó dung, bọn bây đâu !

Lúc này chàng trái lại là Tri Phủ của sở tại, sai hét bọn sai dịch vệ binh trong phủ chạy cong đuôi cả lên, vài tên sai dịch liền tiến ra trước vòng tay cung kính chờ đợi.

Hoàng Dược Sư lại nói :

- Bọn bây gom tất cả những thùng phân trong phủ đường, bất kỳ của bé lớn già trẻ gái trai, cho đến nước tiểu cũng đem tất đến đây cho mau, thiếu một thùng cũng chẳng được, nếu trái lời thì mạng chó chúng bây khó vẹn toàn.

Đám sai dịch đều ngạc nhiên ngơ ngác đưa mắt thầm hỏi lấy nhau, chẳng hiểu vị đại tiên gia này, cần gom những thùng phân kia để làm gì ? Một tòa công đường trang nghiêm tráng lệ như thế này, lại bày đầy nhưng thùng phân thúi thì còn ra trò trống gì ?

Đào Hoa đảo chủ thấy bọn chúng trù trừ chưa chịu đi, giận dữ quát :

- Lũ chết bầm kia ! Muốn sống hay chết ?

Tiếng quát chưa dứt, thoắt một cái, thân hình Hoàng Dược Sư nhẹ rơi trở xuống như một làn gió, giơ tay núm tóc nơi óc o của Ngõa Hy Thuấn, nhún chân bay vút trở lên chỗ cũ.

Hoàng Dược Sư là tông sư của một phái, võ công của chàng trác tuyệt khó lường. Lúc chàng phi thân hạ xuống đất, bàn tay vẫn nắm chặt Ngõa Tri Phủ chẳng buông, nói một cách dễ hiểu là thân hình lão Tri Phủ vẫn cùng một lượt bay theo nhất cử động của Hoàng Dược Sư.

Khi chộp đầu Ngõa Hy Thuấn xong, Hoàng Dược Sư nhún chân cắp cả hai cha con tên cẩu quan trở lên xà nhà, vì hai tay đều bận nắm lấy hai người, nên không thể dùng tay bíu vào xà nhà như lúc trước.

Mọi người đứng bên dưới thấy đỉnh đầu Hoàng Dược Sư sắp tông phải nóc nhà, thì đột nhiên chàng hả họng ra, dùng răng cắn lấy cây ruôi trên nóc nhà, mượn sức cắn của đôi hàm răng, treo giữ lấy trọng lượng của thân hình mình và hai cha con họ Ngõa.

Mọi người chưa hết sự kinh khiếp thán phục thì Hoàng Dược Sư đã nhanh như chớp vung ngược đôi chân móc vào tường nhà, buông ngược đầu trở xuống, chân trên đầu dưới hai tay vẫn y như cũ nắm chặt cha con họ Ngõa hai bên tả hữu rồi cao giọng quát lớn :

- Cha con họ Ngõa đã lọt vào tay ta ! Bọn ngươi muốn chết hay sống ! Nói mau !

Bọn sai dịch thấy Hoàng Dược Sư bay lên đáp xuống bắt người lẹ trong nháy mắt, đã run lên phát rét còn dám đâu diên trì ?

Cả bọn nhôn nháo chạy nhào vào trong phủ vệ, chỉ khoảng khắc sau hì hục khuân vát tất cả các thùng phân trong ngoài phủ vệ, để chật ních sân công đường, hơi thúi xông lên rất là khó chịu. Mọi người đều phải bưng mũi nín hơi.

Hoàng Dược Sư cười lên khanh khách, kê đầu hai cha con Tri Phủ cụng vào nhau đánh "bốp !" một tiếng !

Hai cha con Ngõa Tri Phủ cảm thấy trước mắt bắn hoa sao, rồi ngất xỉu như chết.

Mọi người chưa hết kinh hãi thì Hoàng Dược Sư đã nhãy vèo xuống mang theo cả hai cha con Ngõa Tri Phủ đứng uy nghi trên mặt công án.

Võ Lâm Ngũ Bá - Hồi 63 : Dùng Dơ trị ác

Cha con Ngõa Tri Phủ được chàng để nằm quay lơ trên mặt án tựa như hai con heo tế thần.

Hoàng Dược Sư lại dùng tay điểm vào "nhuyễn ma huyệt" của hai người đoạn trở tay một cái tức thì "bốp ! chát" hai tiếng vang lên, cha con họ Ngõa mỗi người mỗi nện cho một bạt tai, hàm hạ trếu qua một bên, miệng há ra tàng hoạc như hai chiếc càng cua.

Hoàng Dược Sư chẳng gớm mùi hôi thúi đang xông lên lợm giọng kia, xách lên một bình đầy phân đổ ừng ực vào hai lỗ miệng hai cha con của lão tham quan.

Đám công sai phủ vệ đứng xớ rớ bên ngoài, thấy Hoàng Dược Sư đổ nước phẫn dơ, tiểu thúi, cho chủ quan mình uống, không khỏi la lối rùm lên nhưng vừa rồi mục kích được pháp thuật thần thông của Hoàng Dược Sư, nên chẳng tên nào có gan để cứu chủ cả.

Ngõa tri phủ bị hớp phải mấy ngụm chất thúi liền tỉnh hẳn dậy, nhưng khổ nỗi huyệt đạo bị điểm, thân hình không sao động đậy, quai hàm bị trẹo, miệng ngậm lại cũng chẳng xong, nín hơi nhịn thở, mặc cho đối phương đổ vào mồm.

Lúc ấy cha con Ngõa Tri Phủ thật khổ sở trăm chiều, vừa tức vừa giận, dở sống dở chết, uất khí chận ngăn cơ hồ ngất đi thêm lần thứ hai nữa.

Hoàng Dược Sư thẳng tay chẳng chút nễ nang, cứ hết bình này lại xách thêm bình khác, những bình đựng phẩn ấy đủ cả chất phẩm của thê thiếp tì nô, sang hèn dù bất đồng nhưng mùi thủm chẳng kém nhau, hai cha con họ Ngõa nuốt xong một bình lại uống thêm một bình, thật là một món ăn bất hủ nhớ mãi chẳng quên, gồm đủ cả mùi vị từ cao lương mỹ tửu đến cá hẩm cá thiu, đều qui tụ trong chất nước vàng sền sệt nặng mùi ấy, khiến cha con gớm nhờm đến muốn mửa cả ruột gan tim phổi ra ngoài .

Song le ác hại thay, thân hình nằm ngửa chân tay tê cứng như xác chết, miệng lại bị hả lớn ra , muốn mửa cũng chẳng mửa được , nói tóm là cái lối hình phạt mở miệng lớn cho người đổ phân vào bụng, thật còn độc địa hơn là những độc hình kềm kẹp, lóc da, bẻ răng mà Ngõa Tri Phủ đã thường áp dụng khảo tra đám dân lành.

Đám bổ khoái sai dịch thấy Ngõa Tri Phủ đại nhân của mình cùng cậu công tử hách dịch kia bị Hoàng Dược Sư cho uống chất thúi như thế, trừ vài tên tâm phúc của họ Ngõa ra, kỳ dư tuy lặng im chẳng nói, chứ trong bụng hả hê vô cùng.

Sáu chục bình phẩn cũng chẳng ít gì, Hoàng Dược Sư đổ gần trọn giờ đồng hồ mới hết, hai cha con họ Ngõa bị sơi một bửa tiệc canh vàng no đến phát ách, bụng phình to lên như hai cái trống chầu.

Đổ xong bình phẩn cuối cùng, Hoàng Dược Sư ném phăng bình không xuống đất, rồi chùi một tay lên đầu gã Tri Phủ, mới cười nhạt bảo :

- Cha con ngươi hại bá tánh đã nhiều, gìa thì hút đầy bụng máu mủ của dân đen, nhỏ thì phè phỡn một bụng rượu thịt điếm đàng, nên cần phải uống chút phân tiểu để rửa ruột tốt lắm đấy !

Tờ cáo trạng này ta đem đến Lâm An, hôm nay gọi là một sự trừng phạt để răn dạy cha con mi, ta đi đây !

Hoàng Dược Sư quay lại nhìn khắp đám công sai một lượt rồi cười lớn lên và nói tiếp :

- Thống khoái, thống khoái ! Tất cả xê ra cho ta đi !

Lời chàng tuy không lớn, nhưng âm ba sang sảng oai nghi khiếp người, trên trăm công sai đều khiếp hãi, chen lấn nhau xô vẹt hai bên nhường đường cho chàng.

Hoàng Dược Sư cười lên ha hả, bước ra khỏi công đường nhìn thấy cổ trống minh oan treo ngoài cửa phủ, bèn hừm một tiếng và chua chát nói :

- Sài lang đang lúc thịnh hành, khắp trong triều ngoài nội còn treo cổ trống này làm gì ? Hủy nó đi cho rồi !

Nó đoạn nhấc tay một chưởng vào mặt trống một cái tức thì "tùng ! bung !" một tiếng lớn, cổ trống nát biến thành từng cây da rớt lả tả đầy đất.

Hoàng Dược Sư đầu không ngoảnh lại, đi luôn một hơi khỏi thành Thiệu Hưng, trong vòng một ngày đã về tới thôn Thanh Vân.

Kể ra lượt đi, lượt về trên hai trăm bốn chục dặm đường, Hoàng Dược Sư chỉ phí có hai ngày trời .

Về đến thôn Thanh Vân điều trước tiên là Hoàng Dược Sư vào thăm ngay Phùng Hương Điệp, thấy vết thương của nàng đã lành hẳn, tinh thần hoàn toàn khôi phục đủ đầy, chỉ tức một điều là vết thương nơi cổ để lại một vết sẹo đỏ hỏn trên chiếc cổ mịn như ngọc kia, khiến Hoàng Dược Sư thầm tiếc rẻ trong bụng, nhưng chẳng còn cách nào cứu vãn được vết sẹo nhăn mỹ thuật ấy được.

Chàng liền đem đầu đuôi chuyện đến huyện Thiệu Hưng thuật lại tất cả.

Võ Hồng Quang ôm bụng cười bò lăn tròn mặt đất.

Phùng Hương Điệp cũng mất đi vẻ buồn ủ rũ , môi hồng điểm lên nụ cười rạng rỡ như hoa xuân.

Hoàng Dược Sư thấy mỗi khi Hương Điệp mở miệng cười, nét đẹp của nàng còn lôi cuốn hơn tất cả những bức họa truyền thần tuyệt mỹ nhất trần đời, bao nhiêu minh họa trong vũ trụ như bị thu hút vào đôi bờ môi mọng đỏ gắn bó giữa đôi hàm răng đều đặn như ngọc trau.

Hoàng Dược Sư cảm thấy đê mê như vừa nhấp phải ngụm rượu đào, thầm nghĩ :

- Ngõa Tri Phủ tuy đáng ghét, nhưng chưa hề hại mạng cha mẹ nàng, đám giặc ở Hắc Phong Đảo trên Đông Hải mới là thủ phạm sát hại song thân của nàng. Nếu ta giúp nàng báo thù, nàng chắc còn vui lòng nữa ?

Chủ đã định, bèn quay lại bảo Võ Hồng Quang :

- Con ra ngoài hỏi thăm người làng, xem gần đây có ngư thuyền ai cho mướn không ! Nếu có, mướn cho thầy một chiếc để thầy đến Hắc Phong đảo báo thù giúp cô nương này.

Võ Hồng Quang tỏ vẻ kinh hãi đáp :

- Sư phụ đơn thân lướt biển đến sào huyệt hải tặc để trừng diệt chúng sao ? Theo đệ tử thấy thì nguy hiểm quá, hay là sư phụ...

Hoàng Dược Sư nổi giận quát :

- Ai bảo con đa quản đến sự việc của sư phụ, mau đi không .

Hồng Quang không dám cãi lời, đành riu ríu đi một nước.

Phùng Hương Điệp không ngờ Hoàng Dược Sư sốt sắng giúp mình báo thù cho cha mẹ, đôi mắt rưng rưng nhìn Hoàng Dược Sư hết sức cảm kích và nói :

- Tướng công, ngài định đem một thân mình để chống với bọn cường đạo ấy sao ? Theo tiện nữ nghĩ thì đừng nên mạo hiểm thái quá như thế, vạn nhất quả bất địch chúng, sa cơ trong tay chúng, có phải là làm cho lòng tiện nữ ân hận suốt đời chăng !

Nói xong trên khuôn mặt thơ ngây trinh bạch của nàng lộ vẻ rầu rỉ vạn phần.

Hương Điệp vốn gái sanh trưởng miền Giang Nam, từ xưa đến nay nam nữ đất ấy có tiếng là đẹp nhất trong nước, nên mới có tục ngữ là "Ngô Oa, Việt Nữ cùng Tô Hàn giai lệ". Thêm vào giọng nói dịu dàng, lời nói hàm ý tình tứ dễ thương nghe như mật rót vào tai.

Hoàng Dược Sư tuy tánh khí cao ngạo sắt đá nhưng dù sao cũng vẫn là thể chất của da thịt không khỏi rúng động cả tâm thân, nhẹ nắm lấy bàn tay mềm mại của người đẹp và nói :

- Cô nương xin đừng nói chi lời khách sáo, trừ gian diệt ác là bổn phận con nhà võ chúng tôi. Tại hạ không chỉ ở sự báo thù giúp cô nương, mà trừ được cho bá tánh khắp miền Đông Hải một mối hại lớn nữa kìa !

Hương Điệp bị Hoàng Dược Sư nắm chặt lấy bàn tay, ngây ngất ửng hồng đôi má, thẹn thùa nói chẳng nên câu, nhưng bàn tay vẫn để im trong lòng tay của chàng chớ không rút về.

Hoàng Dược vừa định mở lời, thì ngoài ngõ bỗng có tiếng lao xao.

Võ Hồng Quang cùng gã chủ nhà, cùng vài vị phụ lão đất Thanh Vân, xồng xộc kéo vào.

Hoàng Dược Sư vội buông tay cô ả ra, mặt phừng phừng như lửa đốt .

Song le mấy vị bô lão chẳng hề để ý đến mà đồng rập nói :

- Tướng công ! Ông định đơn thân một thuyền đến Hắc Phong Đảo chăng ! Chuyện ấy không nên đâu ! Bọn cường đạo lợi hại lắm, cho đến quan binh, tướng Triều cũng không dám phạm đến họ, nếu rủi ro có gì thật thân xác chẳng còn .

Hoàng Dược Sư lấy tay gạt ngang như chẳng muốn nghe thêm, đoạn nói :

- Thôi xin quí vị ! Chuyện ấy khỏi đề cập đến, tôi chỉ hỏi quí vị có thuyền bè gì chăng ? Dù quí vị có hay không tôi cũng nhất định đi đến Hắc Phong Đảo mà thôi !

Mọi người thấy Hoàng Dược Sư đã quả quyết như thế, đều ngẩn ngơ nhìn nhau, giây phút sau mới đáp :

- Quan nhân thật quyết đi, chúng tôi chẳng dám cản ngăn làm gì, thuyền thì có sẵn, nhưng ngặt nỗi...

Hoàng Dược Sư cười to ngắt lời :

- Ngặt nỗi gì ? Có phải muốn tôi đừng khai là mượn thuyền của thôn Thanh Vân, sợ e tôi chết trên Hắc Phong Đảo, bọn cướp sẽ giận lây đến quí vị, kéo đến đây làm cỏ ngũ thôn này phải không ?

Đám bô lão không thể ngờ là Hoàng Dược Sư thông minh như vậy, lời của mình chưa thoát ra khỏi miệng mà chàng đã hiểu rồi, không khỏi thán phục thầm.

Hoàng Dược Sư lại cười lớn và nói :

- Quí vị an tâm, Hoàng Dược Sư tôi nếu đến đảo Hắc Phong tổn thất một sợi lông chân trên người, thề không còn là anh hùng nữa. Tôi sẽ trừ tuyệt bọn cường nhân vạn ác ấy, để quí vị được lạc nghiệp an cư.

Lời nói của tôi không phải là lớn lối hợm mình đâu. Hồng Quang ! Thuyền ở nơi nào ?

Hồng Quang vội đáp :

- Thưa sư phụ, thuyền đã chuẩn bị xong đang đậu ở bến ! Sư phụ có cần con đi theo hay chăng ?

Hoàng Dược Sư lắc đầu bảo :

- Bản lĩnh con chưa luyện qua, đi theo đặng ăn cơm hay làm gì ? Ở nhà săn sóc Phùng cô nương cho ta !

Hồng Quang mỗi mỗi dạ vâng, Vu Nhậm và mấy vị bô lão thấy Hoàng Dược Sư khăng khăng quyết một, chẳng dám nói ra bàn vào lời nào. Vả lại lúc nãy họ vừa nghe người trên phủ về thuật lại, có một vị văn sinh họ Hoàng, đại náo phủ đường Thiệu Hưng, ép hai cha con Tri Phủ uống phân đầy bụng, mà mấy tên sai dịch chẳng dám làm gì hung phạm, nếu Hoàng Dược Sư chẳng có võ công hơn người thì làm sao ra vào phủ đường một cách thong dong như thế được ?

Nên họ chỉ đành theo chân đưa Hoàng Dược Sư đến bờ biển, nơi đây đã đậu sẵn ba chiếc thuyền cỡ trung, mỗi thuyền dài độ bốn thước có thể chở được ba người.

Hoàng Dược Sư chẳng chút đắn đo nhãy vút lên chiếc thuyền đậu chính giữa và nói :

- Xin cho tôi tạm mượn thuyền này, quí vị hãy về nghỉ ngơi, tạm đợi tin lành.

Hoàng Dược Sư một mình một chiếc thuyền nan, vượt sóng ra biển. Chàng cư ngụ trên Đào Hoa Đảo đã bao năm, đối với sóng gió thủy triều phương hướng hải lưu, thời tiết thay đổi cùng hình thế đảo vực trên Đông Hải, đều thuộc nằm lòng.

Chàng biết Hắc Phong là một đảo lớn trong dãy Tượng Sơn. Quần đảo cách đảo Đào Hoa của chàng độ bảy, tám dặm đường bể, bèn cho thuyền thuận theo ngọn gió Đông, nương theo giòng hải lưu ra sức chống chèo, một ngày một đêm sau, là thuyền đã đến một miền bể đầy dẩy đá ngầm.

Nơi đây rất nguy hiểm cho tàu bè đi bể, gành đá hiểm lổm chổm nhấp nhô như hàm răng sói giao nhau.

Hoàng Dược Sư dư hiểu đây là bãi Tượng Sơn Hoàng Tiểu một miền tử địa của vực tỉnh Triết Giang.

Nhưng chàng là tài cao gan lớn, kềm chặt lái lèo vượt băng qua hiểm địa, định đi tắt cho mau tới.

Thình lình lúc ấy trên đường chân trời trước mặt, bỗng hiện ra ba chiếc cột buồm của loại thuyền có mui lầu.

Hoàng Dược Sư nói thầm :

- Hay lắm ! Ta định tìm đến Hắc Phong đảo, thì bọn giặc đã đến nạp mình rồi !

Chàng ra sức chèo mạnh thêm mười mấy dậm, chiếc thuyền nan băng băng rẽ sóng lướt tới.

Một thời gian sau, hai thuyền đã xáp gần nhau, tên cướp dường như đã nhìn thấy chiếc thuyền của Hoàng Dược Sư, liền trên lầu canh phất cờ ra hiệu.

Đào Hoa đảo chủ dư hiểu đấy là tín hiệu của bọn cướp hỏi mình, chàng không ngớt cười thầm trong bụng, đối phương định đến đánh cướp thuyền chàng, không khác nào dẫn xác đem nạp miệng cọp, tự mình tìm lấy họa tử thần !

Hoàng Dược Sư lập tức buông chèo nhún chân một cái "ùm !" một tiếng nhãy xuống biển nhưng chẳng phải chàng lặn xuống mà thân hình chàng lại nửa chìm nửa nỗi, lờ đờ trên mặt biển.

Thì ra Hoàng Dược Sư sống lâu trên miền bể tập luyện lối đi lại trên nước, đã quen kỹ thuật lặn lội cực kỳ tinh vi, có thể lặn sâu đi dưới đáy nước

luôn cả mấy dặm đường xem nước xanh tường sóng như một đại lộ khang trang trên đất liền.

Chàng khi nãy vừa nhãy xuống nước, liền vận thuật khinh công cho nửa thân hình phía trên nổi phều trên mặt nước, phần chân thì ngập sâu dưới đáy biển rồi mượn khí kình của khinh công vận lên nửa phần thân trên, lại nhờ sức nổi của nước biển, lắc lư lều bều trên mặt nước tựa như chiếc bồn đang trôi vậy , định dọa cho bọn hải tặc trên thuyền phải khiếp vía một phen.

Chiếc thuyền ấy quả nhiên đúng là chiếc thuyền tuần la của bọn hải tặc Hắc Phong, bọn họ thấy trên mặt bể có một chiếc thuyền nhỏ đều xôn xao cả lên.

Nơi đây là miền thủy vực của Hắc Phong đảo, cách bờ đảo chỉ độ mười dặm, tất cả những thương thuyền vận tải hay ngư thuyền chài lưới, không hề dám xâm phạm đến đây, có thể nói mọi miền duyên hải phụ cận, nơi đây là khu cấm hải, nếu không phải thuyền bọn cướp tuyệt không ai dám léo hánh tới, bỗng nhiên lại xuất hiện một chiếc thuyền nan lạ, thử hỏi làm sao chúng chẳng lạ lùng ngạc nhiên được.

Đang lúc còn thắc mắc chưa định thì chuyện lạ tự nhiên xảy ra, người trên chiếc thuyền nhỏ bỗng nhãy ùm xuống biển, hai chân đạp trên mặt nước, lờ đờ cỡi sóng lướt tới, mường tượng như một sơn dân xăn quần lội ngang qua khe nước mà đi vậy, bảo họ làm gì mà không hãi khiếp kinh dị ?

Đầu mục của chiếc thuyền tuần nầy là Cẩm Mao Hổ Trịnh Nghĩa, cháu của Đại Trại Chủ Thốn Hải Trường Kình Trịnh thiên Vân, có chút ít bản lĩnh và sức lực, ngoài ra trên thuyền trên sáu mươi tên tặc đảng do y chỉ huy nữa.

Trịnh Nghĩa đang ngồi nhâm nhi trong khoang thuyền nghe bộ hạ thông báo có một quái nhân đi trên mặt nước tiến tới thuyền tuần, thì giật nẩy mình vội chạy ra đầu thuyền quan sát.

Võ Lâm Ngũ Bá - Hồi 64 : Ra biển tìm thù

Quả nhiên y tìm thấy có một trung niên văn sĩ, phẫm thái khoan hòa ung dung lướt trên mặt nước nhanh như ngựa tế. Trong loáng người ấy đã tiến sát cận be thuyền mình.

Trịnh Nghĩa không xiết kinh hãi chưa kịp mở lời thì Hoàng Dược Sư rướn mình thót một cái đã nhảy lên đầu thuyền.

Lúc này mọi người thấy rõ phân nửa phía dưới thân mình chìm trong nước nhưng khi chàng nhãy lên sàn thuyền thì trừ ra hai chân có vết ướt in trên ván thuyền ra, toàn thân từ trên tới dưới đều khô ráo không có một giọt nước nào, mường tượng như một người từ trên từng không bước xuống vậy, khiến bọn giặc trong thuyền kinh sợ la ó ỏm tỏi !

Cầm Mao Hồ Trịnh Nghĩa khá có nhãn lực, y thấy ngay bản lĩnh cao siêu vượt bực của họ Hoàng, vì phàm con nhà võ, khinh công luyện đến mức thân hình nhẹ như chiếc lá rơi, có thể nhãy lên lục bình để vượt qua sông, nhưng xa lắm cũng không thể quá chín hay mười trượng là cùng, trên chân ít nhất phải có một vật nổi như khúc cây hay mảnh gỗ mới mượn sức mà nổi trên mặt nước được.

Song le, Hoàng Dược Sư hoàn toàn không cần đến một vật gì có tính chất nổi, mà vẫn lướt trên luồng sóng lớn hơn mười trượng ngoài, nhãy lên thuyền giặc, môn công phu đặc kỳ ấy, không những chưa hề thấy qua, mà cho đến nghe cũng chưa nghe đồn bao giờ !

Trinh Nghĩa làm gan hét lớn :

- Mi là yêu quái ở đâu, dám đến trước mặt lão gia thi thố tà thuật ?

Hoàng Dược Sư lạnh lùng nói :

- Phải, ta mới vừa dùng yêu pháp đây ! Nghe đồn Đông Hải Vương gần đây làm ăn trên miền biển Triết Đông khá lắm, chuyến nào cũng gặp gió lớn rất phát tài.

Vản sanh là kẻ lạc đệ cùng nho nhã chẳng gạo ăn, nên muốn mượn Đông Hải Vương hai mươi vạn bạc, ngươi mau đưa ta đến Hắc Phong Đảo để lấy bạc !

- Đưa cái đếnh mẹ nhà mi chớ đưa ! Mi cậy cái thế lực gì mà dám đòi Đại trại chủ đến hai mươi vạn lượng bạc ? Có bản lĩnh gì hãy thi thố ra cho chúng ta thấy đi .

Lời hắn chưa kịp dứt thì Hoàng Dược Sư thoát một cái như biến, tiến sát đến nơi.

Trịnh Nghĩa cảm thấy trước mắt ảo loạn.

Tiếp theo đấy là hai tiếng "binh ! binh !" rồi có hai bóng người từ dưới ván thuyền tự nhiên tung bổng lên khỏi ngọn cột buồm như hai trái khí cầu căng hơi.

Thì ra Hoàng Dược Sư nghe đến câu thứ hai của Trịnh Nghĩa, liền thi thố môn võ công kỳ diệu của mình ra, áp dụng thuật "cầm nã ưng qua" (móng ưng chộp bắt) chỉ thoắt mình một cái, mỗi tay đã chộp cứng sau lưng một tên giặc biển tựa như ó xớt gà con, dở hỏng khỏi sàn thuyền, dùng sức dồi mạnh một cái, hai tên cướp bể thân hình bị dồi lên cao ba trượng bay vút hướng cột buồm, nếu rơi trở xuống ván thuyền chẳng tan xương nát thịt thì ít nhất cũng dập gan bễ phổi chẳng còn, ngược bằng rơi xuống biển thế nào cũng bị chấn động mê man, rối cũng chìm sâu dưới đáy nước.

Kể cũng may là hai tên hải tặc khá lanh tay lẹ chân, gấp mà không rối, với tay chộp được sợi giây buồm trên ngọn cột. Sợi thừng buồm ấy to bằng miệng chén, mà tài leo giây phăng thừng là một môn tuyệt kỷ nghề nghiệp của bọn cướp bể, hai gã hải tặc liền níu cứng sợi thừng tòn ten trên cao như hai con khỉ đột, mới khỏi rớt xuống thịt nát xương tan !

Nhưng vì trên ngọn cột buồm chót vót mấy trượng cao, muốn tuột trở xuống không phải là chuyện dễ, hơn nữa gió biển ù ù đong đưa qua lại thật nguy hiểm vạn phần.

Cẩm Mao Hồ thấy Hoàng Dược Sư tự tiện dồi bọn thủ hạ mình lên cao như vào chỗ không người, bất giác lửa giận bốc đồng, rút phăng thanh quỷ đầu đao sau lưng ra, dùng thức "Phách cuồng triều" (chém sóng dữ) chém xả vào lưng kẻ địch.

Hoàng Dược Sư đối với tài nghệ non kém ấy đâu xem ra gì ? Miệng "hừ ! " khan một tiếng. Ngón tay búng nhẹ nhàng lên sóng đao của tên giặc bể, môn công phu Đàn Chỉ Thần Công của Hoàng Dược Sư lúc ở Hoa Sơn luận kiếm, cao cường như Đoàn Hoàng Gia, Âu Dương Phong còn phải tránh lui ba bước, huống hồ với tài nghệ nhái tép như Trịnh Nghĩa làm sao đương cự nổi !

Một tiếng "coong !" thanh tao ngân lên, lưỡi đơn đao liền bật khỏi tay bay thẳng xuống biển đánh tòm một tiếng, hổ khẩu tay của Trịnh Nghĩa bị tét ra, máu tươi chảy xuống ròng ròng.

Trình Nghĩa như lửa cháy thêm dầu, khẽ rùn người rút ra một ngọn dao gâm sáng nhánh, nhãy bổ đến tấn công họ Hoàng.

Đào Hoa đảo chủ năm ngón tay giương ra, chộp nhẹ một cái, tay trái đã túm lấy cổ áo y, nhấc bổng lên cao, tay phải vỗ lên mông tên cướp một cái, miệng lại quát to :

- Đi này !

Trịnh Nghĩa lãnh trọn cái vả ấy vào đít văng đi băng băng bảy tám trượng xa "rầm !" một tiếng, lao đầu vào tấm vách ghe, vì lao quá mạnh, ván vách lại mỏng, cả bộ phận đầu tông qua vách ghe làm thủng một lỗ khá to, chiếc đầu lọt tuốt vào bên trong, nhưng từ vai trở xuống, lại mắc kẹt bên ngoài, tựa như tội phạm đeo gông, chới với tay chân như chim mắc bẫy, vùng vẫy mãi chẳng rút đầu ra được, vừa đau vừa nghẹt thở, y hốt hoảng kêu lên oai oái liên hồi.

Hoàng Dược Sư hiển lộng xong thần uy tuyệt kỹ ấy đã khiến bọn giặc bể khiếp vía kinh hồn, trước sau chỉ hai lần động thủ, ném dồi gã giặc văng tuốt lên trời, quăng tên đầu mục đầu xuyên qua ván thuyền, đấy là chỉ sơ sơ mấy hiệp, nếu như thật lòng ra tay thì bọn họ còn mong gì sống sót.

Tên nào tên nầy khiếp sợ run lên cầm cập, mặc cho hai tên trên cao, một tên dưới thấp la hét vang trời, bọn chúng chẳng một ai dám tiến ra trước.

Hoàng Dược Sư liên tiếp hừ nhạt mấy tiếng rồi cất giọng trầm lạnh nói :

- Tên nào chưa chịu phục, cứ việc đến đây quyết cơn thắng bại !

Bao nhiêu bọn giặc cỏ trên thuyền đều lấy mắt nhìn nhau, im thin thít chẳng hé răng một lời .

Đào Hoa đảo chủ cười khẩy và nói :

- Đồ chuột hùa vô dụng, bọn bây chẳng chịu đấu với ta thì ta tìm bọn bây mà xả hơi vậy !

Tiếng "vậy !" vừa dứt, bóng áo xanh đã thấp thoáng xông xáo vào đám bọn cướp, người chàng lướt đến đâu là tiếng "bốp ! bịch" vang lên theo đến đấy, trong khoảng khắc tất cả sáu mươi tên cướp trên thuyền đều bị Hoàng Dược Sư điểm huyệt chỏng vó quay lơ nằm ngổn ngang khắp sàn thuyền.

Thanh toán xong số tặc đảng trên thuyền, Hoàng Dược Sư hả hê cười dài một tiếng, đi đến vách thuyền, thấy Trịnh Nghĩa lúc lắc cái đầu giữa lỗ hổng, tay chân vùng vẫy bơi đạp lung tung vẫn không sao rút đầu ra được.

Hoàng Dược Sư tiến ra trước nhấc tay một chưởng "tắc ! tắc !" mấy tiếng, vách mui đã bị chưởng lực chàng chẻ ra làm mấy mảnh, Trịnh Nghĩa mới thoát ra được.

Y vừa định quỳ ngay dưới chân của Hoàng Dược Sư thì chàng đã quát lên như sấm :

- Mi cũng đi cho rồi !

Miệng quát, tay đã bấu cứng gã đầu mục, dồi mạnh lên trời.

Trịnh Nghĩa cùng chung số phận với hai gã thủ hạ trước, đằng vân giữa không trung.

Chẳng qua lần này Hoàng Dược Sư hơi có phần mạnh tay hơn lúc trước nên thân hình của Trịnh Nghĩa bị tung lên cao khỏi ngọn cột xa lắc.

Trịnh Nghĩa vội nhào người ở nửa không, níu cứng vào thanh cây ngang trên ngọn cột, tòn ten như quả chuông bị treo ngược mới tránh được họa nát xương.

Cẩm Mao Hổ liền với hai chân quặt vào chân cộc buồm định ôm lấy cột tuột xuống.

Chẳng dè Hoàng Dược Sư ngẫng mặt lên hét lớn :

- Thằng giặc ! Giỏi xuống đây, ta sẽ lấy mạng chó của mi ngay !

Trịnh Nghĩa cả sợ vội lật người ngồi vắt vẻo trên cột đôi ngay, chẳng dám tuột xuống .

Hoàng Dược Sư cười như mèo gừ trong cổ họng, đoạn chộp lấy bốn tên giặc biển dưới sàn thuyền dựng xốc dậy, giải huyệt cho bọn chúng và quát lớn ra lịnh :

- Khôn hồn mau trương buồm quay lại chở ta đến Hắc Phong Đảo lập tức .

Bốn tên ăn cướp đâu dám cãi lời run lên phát rét riu ríu bò dậy, kẻ lái người chèo lăng xăng, căn buồm so lèo nhắm hướng Hắc Phong Đảo trực chỉ, còn Hoàng Dược Sư oai phong lẫm lẫm đứng trước đầu thuyền nhìn bọn chúng lom lom như cọp chăn mồi.

Tình hình chiếc thuyền giặc lúc ấy thật đáng buồn cười, trên cột buồm thì lủng lẳng ba tên cướp lắc lư theo lượn sóng dồi, chực muốn rơi đầu xuống biển, trên sạp thuyền thì lổm chổm nằm ngữa nằm nghiêng trên năm mươi tên giặc biển, chỉ có bốn tên là cử động được nhưng cậu nào cũng mặt la mày lét sợ muốn đứng tim.

Không đầy thời gian một buổi cơm, thì Hắc Phong Đảo lồ lộ hiện ra trước mặt.

Bọn lâu la trên đảo có phận sự canh gác hải vọng đài thấy tình hình trên thuyền tuần thảm não như thế, biết ngay xảy ra chuyện chẳng lành vội vã phi báo với đại trại.

Hoàng Dược Sư tinh mắt thấy rõ mọi chuyện nhưng đâu thèm bận tâm để ý đến, mặc nhiên chỉ huy bốn tên giặc nhắm cho thuyền cập bờ, sau đấy mới quát bảo bọn chúng :

- Ta vốn có ý cắt cái đầu chó của chúng bây ra, nhưng thấy chúng bây ngoan ngoãn phục tùng nên tạm thời gởi lại trên cổ cho đó mau cút lên bờ bảo đại vương tiếp rước.

Bốn tên lâu la sợ đến hồn phi phách tán, vội nhãy lên bãi cát chạy thoát khỏi miệng cọp sớm lúc nào hay lúc nấy.

Lúc ấy trên bờ biển đã lố nhố một đoàn người từ xa đến gần, vì hai tên Đại Vương đã nghe bộ hạ thông báo tin tức nên rầm rộ kéo binh tôm tướng tép đến bờ biển đón lại.

Thốn Hải Trường Kình Trịnh Thiên Vân và Nhị trại chủ là Cửu Đầu Ngân Ngao Võ Nguyên Khánh, sau khi Tam trại chủ Đào Tông Kĩnh bị Phùng Hương Điệp đâm chết trong đêm động phòng và trốn đi.

Trịnh Thiên Văn giận dử nhãy lên choi choi giết chết ngay bốn tên đầu mục có phận sự canh phòng trong đêm ấy, lại còn ra lịnh xử đòn đám lâu la phụ trách phòng thủ, mỗi tên lãnh mười hèo đích đáng, sau đấy phái tất cả thuyền bè trên đảo phải cấp thời ra biển tìm Phùng Hương Điệp đem về đảo, xả thân làm muôn đoạn để trả thù Tam trại chủ.

Nhưng biển cả thênh thang, biết trôi dạt về hướng nào, liên tiếp tìm luôn bảy tám ngày trời , cũng chẳng thấy một chút tông tích, cho là Phùng Hương Điệp, một cô gái yếu đuối , đơn thân với chiếc thuyền con, trốn đâu cho được, mười phần đã lọt vào bụng cá hết mười.

Vừa mới ra lịnh đình chỉ công việc tìm kiếm lại thì nghe tin báo cáo có kẻ cướp đoạt thuyền của bổn đảo đang tiến gần Hắc Phong đảo.

Trịnh Thiên Vân, Võ Nguyên Khánh hai trại chủ bừng nổi giận, hét vang :

- Tên man rợ nào to gan đến thế ! Dám đến khiêu chiến với Hắc Phong Đảo ! Phải bầm nó ra từng mảnh vụn, để thiên hạ giang hồ thấy rõ thủ đoạn của Đông Hải Vương nầy !

Trịnh Thiên Vân cùng Võ Nguyên Khánh song song đến bờ biển, liền thấy ngay cảnh tượng bêu rếu trước mặt.

Trên đầu thuyền tuần của mình lủng lẳng ba người như xâu khô mực, trên sạp thuyền ngổn ngang đám lâu la như bầy heo bị trói, lại có một gã văn sĩ áo xanh đứng sững trước đầu thuyền, ngang nhiên ngạo mạn chẳng chút sợ hãi.

Võ Nguyên Khánh quen nết thô bạo, bèn lớn tiếng quát :

- Quân ở đâu thế ! Sao dám đến Hắc Phong đảo này hung hăng .

Hoàng Dược Sư thấy đoàn giặc đông như kiến vẫn chẳng chút sợ hãi cất tiếng sang sảng đáp :

- Xin liệt vị hảo hán vậy ! Hoàng mỗ hôm nay đến bái viếng quí trại, chẳng qua để xin chút tiền tiêu xài để tiêu ngặt, các vị đem ra hai mươi vạn lượng bạc làm lễ tương kiến Hoàng mỗ, hoặc may lấy mắt từ bi mà bỏ qua cho, bằng trái lại hôm nay họ Hoàng tôi đành đại khai sát giới vậy ?

Võ Nguyên Khánh giận chẳng chịu được, buộc miệng chửi thề :

- Cái đếch khô !

Nào ngờ tiếng chưởi vừa thoát ra khỏi miệng, môi chưa kịp ngậm lại thì trước mắt lẹ như chớp bay đến một vật, chẳng sai chẳng lệch, đập trúng ngay răng cửa của y "cộp" một tiếng làm rơi cả về răng của y xuống đất, mà đầu lưỡi lại còn lãnh thêm cả một vật lạ nữa.

Cửu Đài Ngân Ngao vội phun vật nọ ra xem thì thấy là một mũi kim vàng dài độ năm phân còn nhỏ hơn cả loại kim may áo thường, thế mà chỉ vung vai một cái lại có thể búng ra đánh rơi hàm răng cứng chắc của mình. Nếu dùng sức hơi mạnh sẽ xuyên vào mình kể như đi tuyệt !

Võ Nguyên Khánh tuy lỗ mãng hung bạo cũng tránh không khỏi thót ruột đứng tim.

Trịnh Thiên Vân đứng bên thấy vậy cũng kinh tâm táng đởm vì nếu đối phương chẳng có bản lĩnh chân chính, làm sao lại có thể đoạt được thuyền tuần, mà vượt biển đến đây ? Tuy dưới tay y có trên hai ngàn thủ hạ, nhưng hơn phân nửa số đã được phái đi đánh cướp trên khắp mặt biển, trên đảo chỉ còn lại độ trăm người, có bản lãnh kha khá thì chẳng còn mấy người. Hơn nữa Tam trại chủ Đào Tông Kĩnh đã chết lại càng thiếu mất đi một tay giúp sức đắc lực.

Trịnh Thiên Vân hơi chột ý liền gọi lớn :

- Trong bốn bể đều là anh em cả ! Nếu tôn giá muốn có bạc để chi dụng, chúng tôi sẽ niệm tình phái võ lâm, giang hồ đồng nghiệp, hoặc ít nhiều quyết không chịu hẹp bụng tôn giá, chẳng qua là các hạ đòi hai chục vạn lượng e rằng bức người thái quá.

"Thú cùng thì cắn bừa", tôn giá dù bản lảnh cao cường sợ e cũng quả bất địch chúng chăng ?

Lời vừa dứt, Hoàng Dược Sư đã tung mình, nhãy thóc một cái, đã lướt xa mấy trượng đáp nhẹ nhàng lên bải cát .

Bọn giặc liền reo hò tở mở, đao thương cử ra trước tua tủa sáng ngời.

Hoàng Dược Sư tưởng tượng như không nhìn thấy thế trận hào hùng của bọn giặc, ung dung xông vào đoàn người, tức thì có hai tên lổ mãng hung hãn nhứt trong bọn, chẳng nói chẳng rằng, hai ngọn đầu đao phân ra hai phía chém vục ngay đầu của Hoàng Dược Sư.

Đào Hoa đảo chủ với chiếc tay áo rộng xùng xình, chẳng thấy chàng nhấc tay, vương cánh thế nào mà hai ngọn đao của hai gã cướp văng bổng lên trời rồi người chúng cũng bị bật lùi ra sau hai trượng.

Bọn cướp tất cả đều kinh mang khiếp vía.

Lúc ấy trên bãi cát có hơn mấy trăm tên giặc, đao thương côn bổng lớp lớp như cánh rừng ma , nhưng Hoàng Dược Sư chẳng chút ngó ngàng tới, dửng dưng xông tưới vào rừng đao kiếm, bọn giặc không những chẳng dám động đến chàng một sợi lông chân mà trái lại đổ xô tránh vẹt hai bên để nhường đường.

Trịnh Thiên Vân và Võ Nguyên Khánh thấy không xong liền la lớn :

- Tôn giá cho biết đại danh ?

Hoàng Dược Sư lạnh lùng nói :

- Tên tuổi của ta, thử bọn bị thịt như mi đâu xứng để hạch hỏi ! Mau đem hai chục vạn lượng bạc ra đây cho ta .

Hoàng Dược Sư nói chưa dứt lời, thì bỗng ánh sáng lạnh loé mắt từ nơi tay của Nguyên Khánh bay ra mấy làn tơ bạc, xẹt thẳng vào người họ Hoàng !

Mấy đường tơ bạc ấy chính là độc môn ám khí của Võ Nguyên Khánh, tên là "Trung mạng thần đinh", cộng có bảy mủi, dùng thuần gang luyện thành, cả đinh dài độ một tấc.

Hình dáng rất lạ kỳ, đinh chia thành hai đoạn gập đôi lại, lúc chẳng dùng đến cất vào trong một chiếc vòng sắt. Chiếc vòng tựa như chiếc xuyến đeo tay của các phụ nữ, đeo dấu trong cườm tay, lúc dùng chỉ cần vung mạnh cánh tay, lò so tự nhiên bật ra, bảy mũi đinh sẽ từ trong tay áo bay ra lẹ như chớp, phân thành bảy phương vị khác nhau, bắn vào các chỗ yếu của đối phương, bàn tay cùng năm ngón chẳng động đậy mà ám khí đã bay ra rồi, nhanh chóng khó lường.

Những mũi đinh ấy được tẩm luyện trong một chất thuốc cực độc, gặp máu là bít cứng, lang độc mười phần.

Ngoài ra nó còn một đặc điểm nữa, là có thể bắn ra ở dưới nước xa được hai trượng, ghim trúng vào người địch như chơi, đủ thấy lực độ phóng ra mạnh dường nào !

Võ Nguyên Khánh dư hiểu là mình không sao đấu lại đối phương, bộ hạ trên đảo tuy đông, cũng chẳng làm được tích sự gì nên y mới xuất kỳ bất ý tung ra bảy mủi Truy Hồn Thần Đinh, mạo hiểm cầu may để thủ thắng.

Song le Đào Hoa đảo chủ đâu phải là nhân vật tầm thường, chàng nhẹ phất chiếc tay áo vào khoảng không một cái và quát :

- Đa tạ trại chủ hậu thưởng, nhưng thẹn chẳng dám nhận !

Từ tay áo bay ta một luồng cương khí đẩy bật bảy mũi Truy mạng thần đinh bay cắm vào bảy tên lâu la đứng cạnh đó chẳng lệch mủi nào.

Bảy tên cướp biển rú lên một tiếng "ối cha !" rồi ngã vật lộp bộp xuống đất lăng lộn rên la như bọng !

Võ Nguyên Khánh định ám toán người chẳng được, trái lại giết bộ hạ của mình, những mũi đinh độc ấy độc tánh rất mãnh liệt, những tên bị trúng đinh đau đớn la hét nghe thảm thương.

Hoàng Dược Sư trầm giọng thật lạnh lùng :

- Nhị trại chủ sử dụng ám khí khéo thật, nhưng tiếc vì những mủi ám khí ấy không có mắt, nên trở lại đâm lấy người nhà, mau đem thuốc ra cứu bọn họ kẻo chết oan rất uổng .

Võ Nguyên Khánh đỏ mặt tía tai, vội móc ra mấy gói giấy nhỏ, đưa cho hai thủ hạ đứng gần đấy :

- Khiêng bọn người bị thương về trại cứu chữa.

Hoàng Dược Sư lại nói tiếp :

- Nhị vị chủ trại nghĩ sao, với bản lĩnh như vậy, hai mươi vạn lượng bạc có đáng không ?

Trịnh Thiên Vân và Võ Nguyên Khánh vừa giận vừa sợ, dư hiểu là dù có động viên tận nhân mã trong trại cũng chẳng làm gì được Hoàng Dược Sư.

Trịnh Thiên Vân tròn mắt đảo lia, đã nghĩ một diệu kế liền cười giả lả nói :

- Tôn giá muốn hai mươi vạn lượng bạc có gì mà chẳng được, tiền tài nói trắng ra cũng đều là vật đánh cướp mà có lý đâu lại từ chối, để mất đi một dịp kết giao bằng hữu. Thỉnh tôn giá vào thảo trại uống với chúng tôi ba chén rượu nhạt rồi sẽ giao bạc sau !

Nói đoạn kín đáo lừ mắt ra dấu với Võ Nguyên Khánh.

Hoàng Dược Sư vốn là con người khôn ngoan minh mẫn, sớm đã biết lòng bọn cướp bên ngoài ngọt ngào khách sáo mà trong dạ đã sẵn kế gươm đao để ngầm hại chàng, nên cũng giả bộ cười đáp :

- Tốt tốt ! Trại chủ có lòng mời, Hoàng mỗ đâu dám chẳng vâng chúng ta cùng vào vậy .

Trịnh Thiên Vân hơi hổ thầm vội quay sang ra lệnh thủ hạ :

- Mau quét dọn Trung nghĩa đường sạch sẽ, bày tiệc rượu sẳn sàng.

Đám lâu la vâng mạng chạy như bay, hai gã chúa biển cũng cố dằn cơn phẫn uất dẫn Hoàng Dược Sư vào tòa thủy trại của mình.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#zts