Chương 8: Công thành Cổ Loa

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Vào ngày cuối cùng quân Đà công thành Cổ Loa, ta được ông Trời giao việc hô mưa gọi gió, làm cho chí khí vang rền, thúc đẩy nhuệ khí binh tướng. Đây đã là lần thứ hai Đà công thành Cổ Loa, lần thứ nhất là trước khi cho Trọng Thủy và Mỵ Châu gặp mặt. Và lúc này nhìn điệu bộ Trọng Thủy chỉ huy chiến trận, ta đồ rằng hắn nắm chắc phần thắng trong lần này.

Chẳng hiểu cớ gì Nhà Trời giao phó nhiệm vụ gây mưa bão cho ta, ngay trong khi hai bên giao chiến. Ta hóa thành con sóng kình cự nhất. Mỗi lần vung tay xô tới là lớp lớp sóng con ồ ạt đổ đi, tựa một tòa thủy thành vừa gãy đổ. Mỗi lần vút bay lên trời, ta kéo theo một cột sóng trào, như thể nối liền đất trời làm một. Một cái quắc mắt, ta khiển nước trên trời đổ xuống như trăm ngọn thác đổ. Khua tay múa chân là thế, nhưng mặc nhiên ta không thể can dự vào cuộc chiến.

Trên đất liền, ngàn vạn binh sĩ dốc lòng cho cuộc chiến, từng tấc đất như gắn liền với máu thịt, tráng khí ngút ngàn tựa long trời lở đất.

Chỉ mới một năm mà Trọng Thủy đã thành công lấy được bản đồ Loa Thành, cùng với các vị trí hiểm yếu phòng thủ của Âu Lạc. Triệu Đà và Trọng Thủy đã dùng mưu hèn kế bẩn để tham chiến. Âu người thông minh, tài giỏi, mưu lược ở thời kỳ chiến quốc, hẳn được đánh giá qua sự cơ trí bành trướng lãnh thổ và tham vọng quyền lực.

Trong một khắc làm vơi mưa bão, bỗng nhiên ta nhớ đến người bạn kia. Ta phóng tầm mắt lên bờ, dáo dát kiếm. Nếu Phượng Minh vẫn giữ được năng lực thuở trước, nàng có thể cảm nhận binh biến trong phạm vi trăm dặm, qua đó dự đoán được hướng tiến công của quân giặc. Song ta quên bẵng mất, nơi này là chiến trận, Phượng Minh dẫu gì cũng là mỵ nương, lại còn thân người phàm, gái đã có chồng, làm sao mà góp mặt ở đây cho được. Ai ngờ chỉ lát sau, Phượng Minh bị một đoàn binh lính lôi xồng xộc ra cạnh bờ bể.

Nhác thấy bóng ta, Phượng Minh liều mình mà thét:

"Cứu Mỵ Châu, gắng giữ thân nàng toàn vẹn!"

Mãi sau này ta mới biết, khi ấy Phượng Minh đã hóa phép để khi đầu lìa khỏi cổ, cả thân thể Mỵ Châu đều biến thành ngọc thạch. Phượng Minh nghĩ rằng ta sẽ tìm thấy đầu Mỵ Châu giữa bể, hồi sinh cho Mỵ Châu.

Phượng Minh đã tính toán kỹ lưỡng như thể ta chắc chắn sẽ đồng ý lời cậy nhờ của nàng vậy. Lúc này, ta chỉ đứng yên trên đầu ngọn sóng, nơi bọt bể trắng xóa văng tới tấp, lưỡi sóng không nề hà táp vào đầu, vào mặt. Ta giương cặp mắt buồn bã nhìn về phía Phượng Minh.

Thoạt tiên, Phượng Minh tần ngần khó hiểu vì ta mãi đứng như trời trồng. Khắc sau, mi tâm giãn ra, nàng cười khẩy, phần mỉa mai, phần tràn trề thất vọng. Nàng dùng hết sức bình sinh, vằng ra khỏi bọn lính. Lính vây một dặm xung quanh dù dùng hết sức cũng không ai áp chế được nàng.

Phượng Minh vùng dậy, chạy đi ngay tắp lự, ta dõi mắt theo mà chẳng rõ nàng đi đâu. Ta biết nàng đủ khả năng bảo vệ bản thân, nhưng giặc có bản đồ, lại có nỏ Liên Châu, thế giặc hùng mạnh, muốn giữ cả cái đất này hiển nhiên là việc không thể. Việc của ta hãy còn chưa xong, ta không thể bỏ bê mà chạy theo giữ chân Phượng Minh được. Ta không buồn giấu nét ưu sầu hiển hiện, mong sao tình cảm nhân thế không làm nàng mụ mị đầu óc.

Chưa được bao lâu, ta cảm nhận được chuyển động kì lạ ở vùng núi Tản Viên. Đoán biết cơ sự không ai khác ngoài Phượng Minh gây ra mà chuyện ta cũng hoàn thành, ta bèn lách người đến xem thử nàng đã làm gì.

Càng đến gần, ta càng cảm nhận được thần khí ngùn ngụt tỏa ra vây hãm toàn bộ vùng núi. Đá núi lần lượt lăn rồi rơi xuống ầm ầm. Dưới tác động của thần khí, núi này nối núi nọ bị đẩy đi, lấp đường cũ, tạo đường mới. Hóa ra Phượng Minh huy động toàn bộ sức mạnh của mình cùng với các thần giữ núi để dời núi che lấp đoạn đường nhà vua tháo rút. Quân địch muốn lần ra dấu vết là điều không thể. Trông thấy cảnh tượng này, ta thảng thốt không yên, tự ý dời non lấp bể là phạm luật trời, khó lòng dung thứ.

Sợ sự việc vượt ngoài tầm kiểm soát, ta cưỡi mây đến đỉnh Tản Viên, cố mà tìm cho được Sơn Tinh. Thế nhưng lượn bao nhiêu vòng, ta cũng tìm không ra tên ấy. Hỏi ra mới biết, Sơn Tinh lại bận việc lên trời. Giờ đây, chỉ có Sơn Tinh ngăn được Phượng Minh nhưng lại vắng mặt, ta huơ tay loạn cào cào cả lên.

Bẵng đi một lúc, khi định thần, ta nhắm mắt lại, dùng sức mạnh phóng đi quan sát bối cảnh cuộc chiến đã diễn ra. Lạc tướng Cao Dật lúc này đã dẫn binh đi ứng chiến. An Dương Vương thoát khỏi tay giặc và rút quân bằng đường bể. Nhà vua dẫn theo mỵ nương Mỵ Châu chạy, chúng binh tướng chia nhau ra đánh lạc hướng giặc, phân tán lực lượng âm thầm hộ tống để bảo đảm an toàn cho vua.

Ta nhìn thấy Mỵ Châu, song lại không giống Mỵ Châu mà ta từng thấy trong cung. Cử chỉ của Mỵ Châu cho ta biết một điều, nàng không chịu nổi sự phản bội của Trọng Thủy, đầu óc ngây dại đi, cơ hồ không nhận biết được thế cục nữa. An Dương Vương xoa đầu con gái, những vết nhăn trên cơ mặt co rúm, xô vào nhau.

Men theo vết thời gian mà lần về, trước khi xảy ra chiến loạn, Trọng Thủy tặng Mỵ Châu một chiếc áo lông ngỗng, dặn nàng rải lông ngỗng dẫn đường, để dễ bề tìm thấy nhau. Mỵ Châu vẫn khắc ghi lời hứa tìm nhau giữa chiến loạn, mong Trọng Thủy lần theo tìm thấy mình.

Thoắt cái, ngựa chiến của An Dương Vương lao nhanh như xé gió, xé toạc cả những cảnh tượng cũ. Ngựa ngài đi tới đâu, Phượng Minh dời núi lấp đường tới đó. Thế mà cũng không kịp thoát khỏi gọng kìm quân địch chỉ vì dấu vết mà Mỵ Châu để lại.

An Dương Vương phi ngựa tới bờ bể đất Dạ Sơn, Cao Xá, phủ Diễn Châu. Đường cùng, không có thuyền qua. Phượng Minh định bụng dùng núi đồi lấp bể sâu, mở đường bộ cho An Dương Vương. Nhìn thấu ý định ấy, ta trỏ tay về phía Dạ Sơn, sóng dữ phun trào cuồn cuộn.

Phượng Minh ngửa mặt lên trời, ra chiều hậm hực, tiếp tục vung tay xoay chiều những quả núi khác hòng cản phá quân giặc.

Ánh mắt An Dương Vương ánh lên nỗi đau điếng, bất lực của người làm vua, ân hận tột cùng vì đang tâm đẩy nhân dân vào khốn cảnh. Nhà vua giương tầm mắt trông những con sóng trào. Lúc này ngài mới nhớ đến thần Kim Quy, hô vang:

"Trời hại ta! Sứ Thanh Giang, ngài ở đâu?!"

Từ dưới bể, sóng bắt đầu có biến chuyển, từ gờn gợn chuyển thành từng luồng rồi dần trở thành cuồn cuộn, thần Kim Quy rẽ sóng nổi lên, quả quyết kêu rằng:

"Kẻ ngồi sau lưng ngài chính là giặc!"

An Dương Vương ngoái đầu trông lại nhìn thấy Mỵ Châu vẫn đang rải áo lông ngỗng dẫn đường cho Trọng Thủy. Vầng trán ngài gằn nổi gân xanh, đôi mắt thâm sâu hừng hực lửa giận, tay lăm lăm siết chặt thanh gươm nhọn hoắt. Gươm vung lên cao, áo lông ngỗng cũng theo chiều bay lên. An Dương Vương chưa nguôi cơn thịnh nộ, ngài nhằm vào chiếc áo trắng muốt mà chém. Lông đính trên áo bay loạn tứ tung, bị cắt ra manh mún dưới lưỡi gươm của nhà vua.

Bấy giờ, tròng mắt Mỵ Châu dường như có thần trở lại. Nàng giương mắt nhìn bầu trời vời vợi mà đen kịt nhuốm màu tang tóc. Khói lửa chiến tranh bao trùm đất trời Âu Lạc.

Tia ý thức cuối cùng ùa về trong tiếng thét dữ dội của tâm trí. Khóe môi Mỵ Châu bất giác run cầm cập. Cái run rẩy truyền dọc sóng lưng rồi đến bao trùm toàn bộ con người. Từng giọt nước mắt của người thiếu nữ khổ sở ứa ra. Nàng biết mình không thể giải thích gì thêm cho hành động dẫn đường địch của mình. Nàng nhíu mày nghiến răng, khóa chặt nắm đấm. Trông điệu bộ như thể hễ trông thấy kẻ thù, nàng sẽ bổ tới mà ăn gan uống máu.

Đoạn, Mỵ Châu vội xuống ngựa, quỳ xuống trước mặt An Dương Vương, hai tay chắp trên gối, mắt nàng kiên định nhìn thẳng về phía trước mà rằng:

"Mỵ Châu phận gái, nếu có lòng phản nghịch mưu hại cha, chết đi sẽ biến thành cát bụi. Nếu một lòng trung hiếu mà bị người lừa dối, chết đi biến thành châu ngọc, trôi về hầu cha!"

Từng lời của Mỵ Châu như cứa vào từng khúc ruột người cha. Nghe xong, An Dương Vương ngửa mặt lên trời đầy uất nghẹn. Với cương vị là đấng quân vương một nước trách nhiệm của ngài không chỉ là với con mà là với cả dân tộc, ngài không cách nào tha cho "giặc". Họa chăng ngài tha thứ, thì nhân dân Âu Lạc đang rơi vào máu lửa, ai sẽ tha cho nàng đây? Quả là một bi kịch!

Như thể có năng lực nghe được tiếng lòng của An Dương Vương, Mỵ Châu nhìn vào đôi mắt thăm thẳm của cha, lời nói dịu dàng mang theo dư vị chát nghẹn:

"Po thẩu ơi. Từ ngày gặp Trọng Thủy, con đã không còn đường sống!"

Mặt nhà vua càng lúc càng nhăn nhúm, cố nén những giọt nước mắt sâu vào lòng:

"Châu! Po thẩu thương con...!"

An Dương Vương dứt khoát vung gươm. Lưỡi gươm sắc nhọn quét cứa vào cổ nàng làm máu nóng phun ra, văng vào vách núi, cũng cứa vào trái tim của bậc làm cha tự tay giết chết con mình. An Dương Vương chết lặng, buông gươm, dõi mắt nhìn theo dòng máu Mỵ Châu trôi hòa vào dòng nước bể.

Ta thở dài não nuột. Thế là quốc khí Âu Lạc đã tận. Cho dù những đấng bề trên muốn thoi thóp bấu víu sự sống cũng bất khả. Thần linh quở phạt, không che chở cho dân nước nữa. Chỉ mong một mảnh hồn thiêng của nước Nam lưu lại ngàn đời, chờ thời cơ đến lại vùng lên phục quốc.

Thần Kim Quy đưa An Dương Vương lên lưng, cùng với sừng tê bảy tấc, rẽ nước dẫn ngài xuống bể.

Các tướng sĩ còn lại sau khi An Dương Vương xuống bể đều quỳ xuống, những giọt nước mắt lăn dài thể hiện nỗi xót thương cho nước nhà và sự tự trách khi không thể hoàn thành trách nhiệm bảo vệ biên cương, không thể bảo vệ được nhân dân Âu Lạc. Họ đặt đao lên cổ, đồng loạt tự vẫn tỏ rõ lòng trung thành, sống thờ vua, thác cũng thờ vua.

***

Cho đến khi Phượng Minh quay lại, mọi chuyện đã rồi, không còn đường cứu vãn. Binh lính Nam Việt ồ ạt vào thành, cướp giết nhân dân tàn bạo. Bấy giờ, Phượng Minh mới lờ mờ nhận ra hậu quả dời non lấp bể nàng để lại. Dân nước lầm than bởi giáo gươm khát máu, lại tan nhà nát cửa bởi thiên tai, làm sao mà sống nổi?

Bỗng chốc, mây đen cuồn cuộn xô đến, giữa những tầng mây xuất hiện những vết rạn phát ra hào quang, đó là lính trời đem chiếu hạch tội của ông Trời đến. Từng lời lẽ lính trời vạch ra về tội trạng của Phượng Minh như sét đánh thẳng vào đầu óc:

Thứ nhất, đầu thai làm rối loạn sinh tử người trần.

Thứ hai, tự ý huy động sơn tướng, xáo trộn thiên nhiên, đảo loạn trời đất.

Thứ ba, tàn hại sinh linh.

Thứ tư, khi dời núi đã mở đường cho oán linh yêu thú trong lòng núi và dưới lòng đất có thể tại ngoại hoành hành.

Phạt: vá lối oán linh, nung thần hồn cho chuyển thành ba hồn bảy vía lưu lạc vào chốn luân hồi.

Lính trời truyền xong ý của ông Trời liền phất tay tạo ra một cái lồng lớn bện bằng thừng trời, đè vai Phượng Minh. Từ dải mây ngũ sắc muôn dặm, xích sắt tuôn xuống, nóng đỏ tựa vừa nung trong lò bát quái, gông chặt lấy chân tay nàng. Phượng Minh nén đau, tóc tai rũ rượi gồng mình chịu phạt. Song chỉ được một đoạn, Phượng Minh bỗng dưng gằn giọng:

"Nay, ta chỉ dùng tài hèn sức mọn của mình, những mong nước Nam chuyển xoay được tình thế, nhân dân không rơi vào cảnh nước mất nhà tan mà lầm than khổ sở đến ngàn năm sau!"

Mỗi lời nói ra, xích sắt lại cháy đỏ lên thêm, thít chặt vào da thịt nàng.

Ta trông thấy mà rợn người xót dạ. Không thể bàng quan được nữa, ta quỳ chắn trước Phượng Minh. Chen ngang lời Phượng Minh sắp nói, ta chắp tay vái trời:

"Nếu lời khấn thệ trước đây còn có nghĩa, xin để Triều Dương đi theo con gái của Tản Viên Sơn Thánh cùng hóa giải oán nghiệp."

Chẳng thấy hồi đáp gì, ta định bụng khấn thêm lần nữa, khấn tới chừng nào được thỏa nguyện thì mới thôi.

"Khi xưa đèn trời đổ xuống, nàng thương dân chúng không tiếc thân mình. Nay dời núi lấp bể, chống giặc ngoại xâm âu cũng vì sốt ruột cho con dân mà nghĩ cạn. Khẩn xin đức bề trên luận tấm lòng mà nương trách phạt!"

Bẵng đi một lúc, ta nghe tiếng từ trên trời vọng lại, trong tiếng vang còn phảng phất ý cười:

"Thế thì ngươi tự liệu mà làm, giám sát người có tội đền tội. Đến khi nghiệp chướng tiêu tán lại luận tiếp."

Tiếng vang vừa dứt thì lính trời cũng tản đi, lồng giam tan biến, xích sắt cũng tan theo. Phượng Minh bất lực nhìn ta, ngã nhoài xuống đất. Ta nhanh chóng chạy đến đỡ lấy đầu Phượng Minh.

Xét tội thì tội tày đình nhất khi dời núi là mở ra thông đạo. Nếu là linh hồn tốt đẹp, họ trở về cốt yếu để gặp và giúp đỡ người thân, người tình, nếu là ác linh thì tác oai tác quái gây hại cho nhân gian. Đôi lúc còn gặp phải trường hợp trớ trêu là quay về rồi trót yêu người còn sống tạo thành mối duyên âm oan nghiệt. Như thế là không phải đạo trời nên không thể dung thứ.

Một tay đỡ đầu Phượng Minh, một tay ta vung lên, gửi tạm thần lực của nàng vào một cây hoa ban mọc ngay triền núi. Ta cật lực thi pháp, để hoa ban chuyển dời đến lối thông đạo, chặn ngay lối ra để ma quỷ không thể thoát. Bày trận xong, Phượng Minh rã rượi. Nàng rít chút hơi tàn gật đầu ý cảm ơn ta. Khi nhịp thở đứt đoạn rồi dứt hẳn, Phượng Minh lịm đi.

Thực ra khi lính trời tới hạch tội, Sơn Thánh cũng đã đến, nhưng trông ngài có vẻ sững sờ rồi bất lực. Ngài không lên tiếng, cũng không ra mặt nói đỡ cho Phượng Minh lời nào. Mãi đến khi mây đen tan, lính về trời, thân vàng của Sơn Thánh mới tiến dần tới chỗ con gái. Sơn Thánh nhìn bộ dạng tả tơi của Phượng Minh, môi mím chặt, khóe mắt xếch lên, trông tổng thể khuôn mặt vằn vện đến khó chịu.

Mặc kệ Sơn Thánh, ta ôm xác Phượng Minh nhảy xuống bể. Nào ngờ lúc xác nàng vừa chạm đến mặt bể, thân nàng cũng tan ra, hòa vào màn bọt bể. Trắng xóa, rách bươm. Thân xác tiêu tan, chỉ còn lại linh hồn bị đọa vào vòng luân hồi, chẳng biết khi nào mới đền hết tội.

Mải nhìn theo từng đóa bọt bể xòe ra, đến khi nhìn lại thì trên tay ta chỉ còn lại một cánh hoa ban, không biết rơi xuống tự bao giờ. Ta ngờ ngợ nhưng rồi vô thức mỉm cười cảm tạ lời gợi ý của ơn trên.

Hoa ban năm cánh, nàng sẽ trải qua năm kiếptruân chuyên ở trên đời...


Po thẩu: Tiếng gọi cha trong tiếng Tày.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro