Vu hiệp quan sơn 3

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

CHƯƠNG 48: BÓNG MA TRONG BỨC HỌA CỔ

Tôn Cửu gia lật xem Quan Sơn quật tàng lục, từ đó biết được toàn bộ kiến trúc trong núi Quan Tài này đều dùng gỗ thương cổ thụ làm nguyên liệu, chuyện này có liên quan đến bố cục phong thủy âm dương trạch của thôn Địa Tiên.

Gỗ thương là một loại hung mộc, mùa đông lạnh, mùa hè nóng, nếu dùng làm quan quách thì người chết liệm bên trong dẫu chôn xuống đất rồi cũng không được yên nghỉ. Cây này đa phần mọc ở chốn thâm sơn cùng cốc, trong gỗ có khí âm, loại hỗn nguyên trạch bao gồm cả âm trạch lân dương trạch không thể thiếu thứ này được. Vì muốn Bàn Cổ thần mạch trong núi Quan Tài khôi phục nguyên trạng, Phong Soái Cổ đã sai người chặt một lượng gỗ thương lớn, phỏng theo nguyên dạng của cổ trấn Thanh Khê mà xây dựng dương trạch ở đây.

Thôn Địa Tiên dù là dương trạch, nhưng nếu xét ký theo đạo phong thủy, thì lại thuộc loại âm trạch. Người chết thường có trâu ngựa xe kiệu người hầu bằng giấy bồi tống táng, ngoài ra còn có cả nhà cửa cung điện bằng giấy, tất cả đều đem đốt cho người chết hưởng dụng ở chốn âm tào. Thôn trang dưới lòng đất này cũng có ngụ ý ấy, chuyên dùng để vong linh của những người tuẫn táng theo Phong Soái Cổ cư ngụ, lại vì u linh maquỷ không có hình thể huyết nhục, nên gọi là ảnh trạch.

Thôn Địa Tiên sở dĩ kỵ lửa là bởi Cửu Tử Kinh Lăng giáp bên ngoài núi Quan Tài. Thứ này có tính chất lánh âm gần dương, nếu dương khí trong núi quá đậm, Cửu Tử Kinh Lăng giáp kín mít như kén tằm bên ngoài sẽ đâm xuyên qua vách đá lan tới thôn trang. Quan Sơn thái bảo dùng gỗ thương cổ thụ làm vật liệu xây dựng, chính là để khiến Kinh Lăng giáp kia không thể tiếp cận địa mạch trong núi.

Lúc này không có thời gian để nói kỹ, nhưng ý của Tôn Cửu gia tôi cũng hiểu được tám chín phần, vô số điểm lạ trong núi Quan Tài đều báo trước rằng nơi này sắp xảy ra một phen kịch biến nghiêng trời lệch đất. Nguyên do bên trong, chỉ sợ vẫn là do chúng tôi xâm nhập núi Quan Tài gây nên. Nói đến lửa, vừa nãy đốt một ngọn nến nhỏ có lẽ cũng chẳng đáng gì, chí mạng nhất là chúng tôi đã không cất kỹ tấm gương cổ Quy Khư kia đi. Gương đồng, bùa đồng đều được long hỏa ở Nam Hải tôi luyện, long khí trong tấm gương cổ tuy sắp tiêu tan hết, nhưng dẫu sao vẫn là khí của long hỏa, cuối cùng vẫn khiến cho Kinh Lăng giáp chui qua vách đá, đồng thời xua đuổi một lượng lớn sâu quan tài trong các kẽ đá tràn ra ngoài.

Shirey Dương nói: “Không có lửa chắc chắn sẽ bị lũ sâu quan tài kia vây chặt, không thoát thân nổi đâu. Thôn Địa Tiên mặc dù kỵ lửa, nhưng mộ đạo trong âm trạch bên dưới lại có cả ám khí bắn tên lửa, chắc là trong huyệt mộ có thể đốt lửa phòng thân, chúng ta mau cầm đuốc lánh vào trong mộ thì hơn.”

Cả bọn đều đồng thanh khen phải, lấy hết mọi thứ có thể bắt lửa trong lầu Quan Sơn Tàng Cốt mang theo, rồi lập tức lao xuống bên dưới tìm kiếm lối vào âm trạch. Lối thông giữa âm trạch và dương trạch ưong mỗi tòa kiến trúc đều khác nhau, trong miếu Pháo thần là ở gần khám thờ, trong nhà dân thì có căn ở dưới bếp, có căn ở dưới gầm giường, đại khái đều tuân theo lý thuyết Bát trạch minh kính. Trước đây từng gặp mấy lần nên tôi đã nhìn thấu được sự ảo diệu bên trong, cái thứ Bát trạch minh kính kia đương nhiên không làm khó nổi Mô Kim hiệu úy, chỉ thoáng sau đã dẫn theo mọi người tìm được mộ đạo trong từ đường họ Phong.

Bọn tôi cậy sàn nhà lên, liền cảm thấy âm phong bên ùa lên rợn cả người. Lúc này, đã có rất nhiều sâu quan tài tràn vào qua khe cửa ra vào và cửa sổ, cả bọn không ai dám chần chừ chêm nữa, cuống cuồng chạy xuống mộ đạo, rồi bít kín lối ra vào. Chỉ trong khoảnh khắc ngắn ngủi ấy đã có mấy con sâu quan tài bám theo vào mộ cổ, đều bị chúng tôi dùng xẻng công binh đập chết ngay tại chỗ.

Shirley Dương và Út đốt hai cây đuốc, núi Quan Tài tuy nằm sâu trong lòng đất, nhưng lại là một chốn có kỳ mạch thần long tương thông, trên tường có rất nhiều khe rãnh, không khí lưu thông, tuy rằng hít thở có đôi chút khó khăn, ánh lửa cúng ảm đạm đi phần nào, nhưng chỉ cẩn ngọn lửa không tắt thì cũng không đến nỗi phải đeo mặt nạ phòng độc. Tôi không dám lơ là cảnh giác, nhắc nhở cả bọn đều phải đeo mặt nạ phòng độc trước ngực để có thể sử dụng bất cứ lúc nào.

Nhà cửa trong thôn Địa Tiên đều là âm trạch và dương trạch chồng lên nhau, bên trên là nhà ở, bên dưói là mộ thất. Trong bảo tàng mộ cổ này, các loại quan quách hiếm thấy, có thi châu ngọc, vật tùy táng các đời thứ nào cũng có, tát cả đểu trở thành một phần của phong thủy Bàn Cổ ở thôn Địa Tiên.

Mộ thất nằm bên dưới lầu Tàng Cốt là một ngôi mộ thời Xuân Thu Chiến Quốc, kết cấu mộ thất chủ yếu bằng gỗ và đồng, bốn mặt vách đều là Ô mộc đen như mực, bên trong chất đầy sách thẻ tre, và vô số các loại binh khí cổ xưa như kiếm, giáo giáp, thuẫn... tất cả đều đã han gỉ đến độ không thể sử dụng. Chính giữa mộ thất là một cỗ quan tài bằng đồng xanh hình hổ chầu, quan quách bằng đồng nằm bên trong lò nấu thủy ngân, chỉ có hai đầu lộ ra bên ngoài. Trong lò chứa đầy thủy ngân, nếu kẻ trộm mộ phá vở vách lò, thủy ngân sẽ lập tức trào ra, cũng không có gì hiếm lạ.

Dưới ánh đuốc, tôi đưa mắt quan sát xung quanh, chỉ thấy ngôi mộ cổ thời Chiến Quốc này không kiên cố lắm, dẫu sao thì niên đại cũng xa xưa quá rồi, những phần bằng gỗ đa phần đã mục nát hết, không thể ở lại nơi này quá lâu, vội gọi Tuyền béo cùng đi nạy cửa mộ cho cả bọn cướp đường chạy ra. Chẳng ngờ gỗ ô mộc mặc dù đã mục nát, nhưng vẫn vừa dày vừa chắc, bọn tôi đành phải dốc sức dùng xẻng công binh vẹt từng lớp một.

Đang khi lòng như lửa đốt, mồ hôi vã ra như tắm, tôi chợt nghe Shirley Dương phía sau kêu lên “không ổn”, vội ngoảnh đầu lại nhìn, chỉ thấy trong các khe hở trên tường mộ dường như có dòng suối cuồn cuộn chảy, vô số sâu quan tài ùn ùn bò ra. Sâu quan tài trong mộ cổ không phải thứ tầm thường. Ở nhiều vùng quê, cũng có loại sâu quan tài được gọi là sâu bói quẻ, trên mình tiết ra chất dịch chua, bò đến đâu là ăn mòn tới đó. Loại sâu quan tài ở nơi chôn người này còn lợi hại hơn, hễ bị chúng cắn phải, da thịt sẽ lập tức thối rữa, trước là ngứa ngáy khó chịu, sau là chảy máu mưng mủ, có thể lan đến tận xương.

Giáo sư Tôn nhặt một cây đuốc lên, ghé vào cây đuốc Shirley Dương đang cầm để châm lửa, cộng thêm một cây đuốc Út cầm, ba cây đuốc vung lên như sao băng xua lũ sâu quan tài đang ùn ùn kéo đến lùi ra xa. Những cây đuốc này đều được quấn mấy lớp băng vải, lại đổ thêm một ít chất đốt dạng nén, thời gian cháy không hề ngắn, khốn nỗi âm khí trong mộ cổ quá nặng nề, ngọn lửa không bốc lên được, có những con sâu quan tài chỉ biết cắm đầu cắm cổ lao tới không sợ lửa, đều bị cây đuốc trên tay ba người thiêu chết, càng lúc só sâu bị đốt chết càng nhiều, mùi hôi thối nồng nặc dần lan tỏa trong không gian.

Mộ thất của ngôi mộ cổ thời Chiến Quốc này được xây bằng những khối gỗ vuông lớn, cả súc gỗ lớn được chuyển từ mộ về đây, đã sinh ra không ít mối mọt, giòi bọ, bình thường lũ giòi đều im lìm trốn trong các khe rãnh, lúc này bị lũ sâu quan tài chui vào làm kinh động, cũng nhung nhúc cựa quậy thân thể trì độn của mình chạy ra khỏi những hang hốc trong khe tường.

Lũ giòi bọ sống trong mộ thất ấy, có một số đã nhờ âm khí trong mộ mà sinh ra biến dị, thân thể quái dị to như ngón tay người kêu lên những tiếng chít chít, âm thanh quằn quại chúng phát ra sau khi bị lũ sâu quan tài cắn xé nghe như tiếng trẻ sơ sinh khóc lóc nỉ non, bên trong mộ cổ tối tăm lạnh lẽo khiến người ta nghe mà kinh hồn táng đởm, dây thần kinh căng ra như muốn đứt tung, cánh tay cầm đuốc và xẻng công binh cũng bắt đầu run rẩy.

Tưởng như đã không thể cầm cự lâu hơn được nữa, cũng may Shirley Dương lâm nguy không loạn, trong cái khó vẫn ló cái khôn, rút ngay thanh bảo kiếm của Phong Soái Cổ trên lưng tôi ra, xông lên hai bước, vung kiếm đâm vào miệng quách hình hổ chầu, kích hoạt cơ quan trong lò, lập tức có mấy dòng thủy ngân theo đó chảy ra, nhấn chìm toàn bộ lũ sâu quan tài và giòi bọ xung quanh quan quách.

Thanh bảo kiếm này có lẽ chính là vũ khí năm xưa Phong Soái Cổ dùng để đâm chết Ô Dương vương trong núi Quan Tài, tôi lấy thanh kiếm này từ lầu Quan Sơn Tàng Cốt, vốn có ý dùng nó đối phó với địa tiên Phong Soái Cổ, nhưng bị Shirley Dương lấy ra đâm vào quan quách hình hổ chầu, lúc này đã bị thủy ngân ngấm vào, không thể dùng được nữa.

Tôi cũng biết trong lúc nguy cấp khó có thể chu toàn mọi sự, tạm thời không có kế sách vẹn toàn, đành đi bước nào hay bước ấy vậy. Trong mộ thất đầy hơi thủy ngân, ngọn lửa càng lúc càng thêm yếu ớt, nhưng lũ sâu quan tài tràn vào cũng sợ hơi độc, ùn ùn rút chạy ra ngoài. Cả bọn đeo mặt nạ phòng độc lên, cùng bắt tay dỡ những cây gỗ mục chắn cửa ra, rồi phá vỡ cánh cửa đồng không còn nguyên vẹn, nối đuôi nhau chạy vào mộ đạo.

Những gian mộ thát tương đối độc lập đều có mộ đạo nối với nhau, chằng chịt đan xen như đường phố ngõ ngách, tường gạch vẫn tương đối kiên cố hoàn chỉnh, cũng không có âm khí nặng nề như trong mộ thất, ngọn đuốc trên tay lại bùng lên cháy bình thường. Cả bọn nhận định phương hướng, rồi nhân lúc chưa có nhiều sâu quan tài chui vào, nhanh chóng tiến về hướng có mộ Địa Tiên.

Địa mạch Bàn Cổ trong núi Quan Tài có hình dáng như một cái xác không đầu nằm ngửa, thôn Địa Tiên được xây dựa vào núi ở trước ngực xác cổ. Mộ Địa Tiên nằm trong khe sâu thì ở vùng bụng, mộ đạo quanh co chằng chịt, xung quanh mộ thất nằm san sát, tựa như đi mái không đến tận cùng.

Bọn chúng tôi chạy hùng hục một hồi mà vẫn không thấy tung tích mộ Địa Tiên đâu, Tuyền béo không nhịn được cất tiếng làu bàu: “Nhất à, cò phải cậu dẫn sai đường rổi không? Sao đi mãi vẫn không đến nơi vậy? Nguyên tắc của chúng ta xưa nay vẫn là bốc phét không tán láo, đi đường không đi xa cơ mà ?”

Út cũng bắt đầu thấm mệt, hỏi tôi còn phải đi bao lâu nữa, tôi đành lấy một câu của Shirley Dương từng nói trước đây ra ứng phó: “Mọi người chớ nên nhụt chí, chớ hỏi đường còn bao xa, mà hãy hỏi bản thân mình... có đủ lòng tin và dũng khí đi hết con đường này hay không, bất luận là đường bao xa.” Tuyền béo nói: “Nghỉ đi, đừng quên trái đất hình cầu không hỏi han đường sá chỉ biết cắm đầu cắm cổ đi thẳng, thế không phải đồ ngu thì là gì?”

Thực ra tôi cũng không chắc chắn lắm, bèn nói thẳng với cả bọn: “Mộ đạo này quanh co tăm tối, nói thật tôi cũng thấy hơi rối rồi, nhìn kim chỉ nam thì phương hướng của chúng ta không sai, nhưng cũng không chắc đã đi qua hay chưa nữa.” Mọi người thương lượng một lúc, quyết định giở Quan Sơn ngộ tiên đồ ra xem, xác định xem mình ở vị trí nào, bằng không cứ vòng đi vòng lại trong mộ cổ thế này cũng không phải là cách. Vậy là, cả bọn đốt thêm hai cây đuốc, dọn dẹp một khu vực an toàn trong mộ đạo, rồi lấy mấy bức tranh cổ trong ba lô, trải từng bức ra, định tìm bức có vẽ bản đồ âm trạch của thôn Địa Tiên.

Bức đầu tiên tôi mở ra là Quan Sơn ngộ tiên đồ bèn tiện tay đưa cho Tuyền béo cất đi, mở đến bức thứ hai, lại là Bỉnh chúc dạ hành đồ vẽ cảnh đoàn người vào mộ tuẫn táng. Tôi càng nôn nóng, mấy bức tranh rách Phong Soái Cổ tự tay vẽ này, chất giấy bổi giống hệt nhau, sau khi cuộn vào thì chẳng thể nào phân biệt được, đang định lấy bức thứ ba ra, chợt phát hiện Bỉnh chúc dạ hành đồ này, không giống như lúc chúng tôi nhìn thấy trong lắu Tàng Cốt nữa.

Tôi nhớ rất rõ ràng, trong Bỉnh chúc dạ hành đồ, có rất nhiều người đốt lửa, đi xuống một sơn động chôn ngọc bích, đồ đồng nằm sâu bên dưới tầng đất, nhưng giờ trong bức tranh cổ trước mắt lại có thêm một số thứ khác. Trong những đồ chứa để tế sơn, xuất hiện thêm rất nhiều bóng đen mơ hồ, nhìn kỹ giống như bóng ma dữ tợn hung ác, lại tựa hồ ác quỷ ở chốn m tào Địa phủ đang từ cõi u minh nhìn chằm chằm vào những sinh mạng đi vào mộ cổ tuẫn táng, khiến ngưòi ta thoạt xem đã nảy sinh cảm giác không rét mà run.

Shirley Dương và Tôn Cửu gia cũng không nhớ trong Bỉnh chúc dạ hành đồ từng có thứ này, hẳn là không thể nào cầm nhầm được, chẳng lẽ sau khi vào khu vực âm trạch, bức tranh liền xuất hiện dị tượng?

Shirley Dương đưa qua đưa lại ngọn đuốc trên tay, bóng ma trong Bỉnh chúc dạ hành đồ cũng theo đó thoắt ẩn thoắt hiện, bấy giờ cả bọn mới sực tỉnh ngộ: “Bức tranh này được vẽ bằng một loại mực đặc biệt, những hình ma bóng quỷ này chi hiện lên dưới ánh lửa mà thôi.”

Tôn Cửu gia hít sâu một hơi khí lạnh: “Động tiên cái gì chứ? Chẳng khác nào hang quỷ ổ ma, trong mộ Địa Tiên chắc chắn là có thứ gì khủng khiếp lắm, chỉ là... tại sao Phong Soái Cổ lại ẩn giấu thông tin này trong bức họa? Phải chăng ông ta muốn ám thị bí mật gì ? Người trong thôn Địa Tiên đều chết sạch cả rồi, ông ta làm vậy để cho ai xem chứ?”

CHƯƠNG 49: THẮP NẾN ĐI ĐÊM

Chúng tôi thấy trong bức Bỉnh chúc dạ hành đồ có dị tượng xuất hiện, người nào người nấy đều vừa kinh hãi vừa nghi hoặc. Giáo sư Tôn nói quả không sai, nhưng nghĩ xa hơn một chút, tuy rằng trong núi Quan Tài có lệ cấm lửa, nhưng những năm cuối triều Minh, chủ yếu vẫn phải nhờ vào đèn đuốc để lấy ánh sáng. Phong Soái Cổ đích thân vẽ mấy bức tranh này, treo trong lầu các tối tăm dưói lòng đắt, người ngoài không hiểu cấm kỵ, tự nhiên sẽ thắp đèn lên quan sát, từ đây có thể thấy rõ là ông ta cố ý đế lại cho người nào có cơ duyên tiến vào núi Quan Tài này trông thấy.

Trộm mộ xưa nay rất hiếm khi dùng đến nguổn sáng bằng khoáng vật, tuy rằng tương truyền thời xưa cũng có người từng dùng dạ minh châu trộm mộ, nhưng dạ minh châu cực kỳ trân quý, hạng bình thưòng sợ rằng cả đời không được thấy qua một lần, vả lại còn không thể thăm dò chất lượng không khí dưới lòng đất và phòng thân, vì vậy, đó chỉ là ngoại lệ trong giới trộm mộ, chứa bao giờ được lưu truyền phổ biến, đã chui xuống lòng đất đào mổ quật mả thì không thể rời xa ngọn đuốc được.

Phong Soái Cổ truyền lại cho hậu nhân nhà họ Phong bài “Quan Sơn chỉ mê phú”, chừa lại con đường bí mật mười hai năm xuất hiện một lần, để bọn họ sau này có cơ hội tiến vào mộ cổ, đây cũng là hành vi trái với lẽ thường, có lẽ người này hiểu đạo lý trong thiên hạ không có ngôi mộ nào là không bị đào bới trên thế gian chẳng có lăng mộ nào vĩnh viễn kiên cố, bí mật dù không bị bọn đổ đấu đào lên thì sớm muộn cũng bị phá hoại bởi sự thay đổi của núi non sông ngòi, bãi bể nương dâu.

Phong Soái Cồ bố trí như vậy, tâm cơ sâu dày thực khiến người ta ớn lạnh từ tận đáy lòng, huyền cơ của mộ có Địa Tiên không phải ở chứ “giấu”, mà nằm trong một chữ “rời”, khi người ngoài tiến vào núi Quan Tài, cũng chính là lúc địa tiên rời núi. Không chỉ hậu nhân nhà họ Phong là giáo sư Tôn, mà thậm chí cả mấy tên Mô Kim hiệu úy chúng tôi, đều chỉ là “quân cờ” bị ông ta điều khiển lợi dụng. Liều mạng tiến vào mộ cổ, chẳng qua là giúp Phong Soái Cổ tiếp tuyên dẫn thánh mà thôi. Biết rõ tiến vào minh điện ở phần bụng thi mạch ắt sẽ gặp phải điều bất trắc, nhưng tình thế bức ép, chúng tôi đành bước lên con đường của những người tuẫn táng thuở trước, từng bước từng bước đi xuống vực sâu, điểm khác biệt duy nhất chỉ là, chúng tôi biết rõ đây rất có thể là con đường chết, có đi mà chẳng có về.

Lúc này trong mộ đạo phía xa vẳng lại tiếng gặm nhấm gỗ mục, âm thanh mỗi lúc một gần, vô số sâu quan tài sau khi vào thôn Địa Tiên liền chui khắp mọi nơi, nhằm vào những chỗ có âm khí mà tiến, trong các mộ cổ có nhiểu quan đồng quách sắt, kín bưng không kẽ hở, nhưng cũng có một số quan quách gỗ không tránh khỏi bị chúng cắn xé cả quan lẫn xác bên trong.

Bọn chúng tôi lúc ở trong địa cung mộ cổ Ô Dương vương đã bị nhiễm phải không ít thi khí âm khí, tình trạng của giáo sư Tôn còn nghiêm trọng hơn, đến giờ tôi cũng chẳng rõ ông ta là người sống hay người chết nữa, thậm chí còn nghi ngờ lão có thể “thi biến” bất cứ lúc nào, vì vậy, lúc này cả bọn đều đã trở thành mục tiêu di động thư hút đám sâu quan tài ấy.

Kỳ thực, thi trùng và sâu quan tài tuy rất đáng sợ, song cũng không đến nỗi không có cách ngăn chặn, trước mắt thứ khiến người ta đau đầu nhất vẫn là Cửu Tử Kinh Lăng giáp một khi nó xuyên qua được vách núi Quan Tài, ắt hẳn sẽ nghiền nát cả thôn Địa Tiên và địa mạch hình xác chết không đầu này. Dưới cái tổ vỡ làm gì có quả trứng lành? Đến lúc ấy, dù là cổ thi trong âm trạch hay người sống trong mộ cổ, cũng đều ngọc đá cùng tan.

Tôi nhìn chằm chằm vào bức Quan Sơn tướng trạch đồ một hồi, trong đầu liên tiếp nảy ra mấy ý nghĩ, nhưng vẫn không có cách nào thoát thân, giờ thì không thể đổ cho tình thế đấu tranh giai cấp quá phức tạp, mà chỉ có thể trách đầu óc mình đã quá trì trệ mà thôi.

Shirley Dương nhắc nhở: “Đuốc của chúng ta sắp dùng hết rồi, không thể nán lại trong khu vực âm trạch khắp nơi đều có khe hở này quá lâu được.”

Tôi nghiến răng, thầm nhủ lần này không xông ra không xong, cùng lắm thì liều mạng chết chung. Đã có chuẩn bị tinh thần, tâm lý cũng vững chải hơn nhiều, tôi bèn nói với cả bọn: Thôn Địa Tiên và quần thể mộ cổ bên dưới đều nối liền với nhau, duy chỉ có mộ Địa Tiên ở phần bụng dãy núi hình xác người là tương đối độc lập. Nhìn bản đồ thì chúng ta đã ở cách mộ Địa Tiên không còn xa nữa, cứ làm theo kế hoạch ban đầu, mặc xác bên trong có thứ gì, chúng ta cũng phải mạo hiểm xông vào mộ thất, nghĩ cách tìm bằng được cái xác của Phong Soái Cổ, đem hỏa thiêu để tiệt trừ hậu hoạn.”

Tôn Cửu gia đờ đẫn cả người, bài “Quan Sơn chỉ mê phú” của phong Soái Có truyền lại, tựa như ma chú câu dẫn hồn phách,lừa gạt Phong Soái Kỳ và con cháu ông ta suốt mấy trăm năm đến giờ mới có người lờ mờ dự cảm được đây là một âm mưu. Giờ lão không còn chủ trương vào mộ Địa Tiên nữa, lại hối hận ban đầu không có kế hoạch chu toàn, lẽ ra nên ở bên ngoài trực tiếp dùng thuốc nổ đánh sập ngọn núi này cho xong.

Tuyền béo ngoác miệng ra mắng: “Tiên sứ cha nhà ông, đừng có nằm mơ giữa ban ngày, muốn đánh sập bao nhiêu núi cao ở khu hẻm núi Quan Tài này phải cần đến bao nhiêu thuốc nổ quân dụng ông biết không? Một lão phân tử trí thức thối thây như ông thì đi đâu kiếm được?” Dứt lòi liền đưa tay xóc Tôn Cửu gia đang ngổi xổm dưới đất dậy, vừa kéo lão ta đi về phía trước, vừa nói: “Tăng cường tính kỷ luật, đổ đấu đâu cũng được, có hiểu chưa hả? Tôn Cửu gia nhà ông cứ nghe theo chỉ thị tối cao của đại gia Tuyền béo với cậu Nhất đây là chắc chắn không sai, mau đi cho tôi.”

Tôi cũng vẫy tay gọi Shirley Dương và Út, cả bọn cầm đuốc đi dọc theo mộ đạo thẳng về phía trước, tham chiếu phương vị trong bản đồ, vòng qua một ngôi mộ Bắc Tống có quan tài treo bằng xích sắt là đến khu vực rìa ngoài âm trạch thôn Địa Tiên. Tới đây, trong tay chúng tôi chỉ còn lại đúng ba cây đuốc chưa tắt.

Trong túi đồ của chúng tôi vẫn còn một hộp chất đốt, thừa sức tăng mạnh thế lửa xua đuổi lũ sâu quan tài đang từ bốn phía ùn ùn đổ tới, nhưng tôi nghi ngờ khả năng trấn áp địa tiên Phong Soái Cổ của gương cổ Quy Khư, vẫn hy vọng để lại hộp chất đốt này làm chiêu sát thủ cuối cùng, vì vậy quyết không tùy tiện sử dụng, đành nghiến, răng liều mạng xông thẳng tới.

Nghĩ đoạn, tôi liền dẫn theo mấy người bọn Tuyền béo, Shirley Dương, cùng đẩy cánh cửa đá cũ nát chặn lỗ ra của đường ngắm, dùng mấy cây đuốc mở đường, bổ nhào ra ngoài. Không ngờ, tình huống ở phía sau thôn Địa Tiên lại hoàn toàn nằm ngoài những gì chúng tôi tiên liệu, hàng nghìn hàng vạn con sâu quan tài bị Cửu Tử Kinh Lăng giáp làm kinh động không hề bò đến phần bụng của rặng đồi núi hình xác người, nơi này vẫn còn nguyên bầu không khí tĩnh mịch lạ thưòng.

Tôi định thần lại, thấy triền núi bên ngoài thôn Địa Tiên có một bia đá lớn, bên trên khắc sáu chữ “Địa Tiên mộ Linh Tinh điện”, đồng thời còn chạm trổ hoa văn trang trí tinh cung hết sức tinh tế đẹp đẽ, tấm bia được đặt trên lưng linh thú bằng đá. Tôi muốn nhìn rõ tình hình phía trước, bèn leo lên đỉnh bia, từ trên cao phóng tầm mắt ra nhìn bốn phía xung quanh.

Chỉ thấy phần bụng của rặng núi hình xác người này có mấy khe nông hình cung, cứ cách tầm mười mấy bước lại có một tượng đồng một chân cao lớn khôi vĩ. Tượng đồng này đế mình trần, hình dạng bảy phần giống quỷ, ba phần giống người. Mặt mũi thảy đều dữ tợn đáng sợ, hai mắt trợn trừng, miệng không ngừng phun ra dương toại, chảy vào rãnh đá trong khe, tựa như những dòng sông máu màu đỏ sậm quanh co tuần hoàn, chặn hết lũ sâu quan tài tứ phía đổ về ở bên ngoài. Dương toại tuy thuộc loại khoáng chất lạnh, bản thân không có nhiệt lượng, song cũng đủ khiến lũ sâu quan tài vốn sợ ánh sáng không dám vượt qua ranh giới dù chỉ nửa bưóc.

Nằm giữa mấy dòng sông máu uốn khúc ấy, có một khe sâu hình thành do núi đá đứt gãy, trên vách đá có sạn đạo, hai bên có xây mấy cổng chào vắt vẻo giữa tầng không, mái cong uốn lượn nhấp nhô trập trùng, thoạt nhìn đã thấy khí tượng bất phàm. Mộ Địa Tiên vẽ trong Bỉnh chúc dạ hành đồ hẳn là nằm ở dưới đáy khe sâu này.

Tôi leo xuống dưới, gọi mọi người nhảy qua rãnh đá có dòng dương toại chảy qua. Cả bọn tạm thời thoát khỏi lũ sâu quan tài truy đuổi gắt gao phía sau, trong lòng cũng yên tâm phần nào, nhưng đi tới trước cổng chào, ngó mắt nhìn xuống khe sâu, chỉ thấy bên dưới tối tăm mù mịt, tĩnh lặng lạ thường, ai nấy đều có cảm giác chẳng lành, tựa như vừa thoát khỏi hang hổ lại rơi vào huyệt sói.

Út tuy rằng gan lớn hơn người, nhưng những chuyện cô gặp phải mấy ngày nay thảy đều hết sức kinh dị, nằm giữa lằn ranh sống chết, cũng khó tránh khỏi có chút ngơ ngẩn thất thần. Vả lại, truyền thuyết địa tiên Phong Soái Cổ lừa người sống vào mộ tuẫn táng sớm đã lưu truyền ở trấn Thanh Khê từ lâu, cô nhìn tuyến đường sạn đạo bằng đá xanh như con mãng xà khổng lổ ngoằn ngoèo uốn lượn chui vào sâu trong huyệt động, trong lòng càng thêm hoảng hốt.

Tôi đành cho cô một liều thuốc an thần, vừa dụi tắt ngọn đuốc, thay cục pin dự phòng cuối cùng cho đèn chiếu chiến thuật gắn trên mũ, vừa bảo cô rằng cái truyền thuyết địa tiên Phong Soái Cổ muốn rời núi độ người thành tiên ấy hoàn toàn không đáng tin cậy. Người này chết đã nhiều năm, thi thể không hóa thành cương thi thì củng mục rữa rồi, cùng lắm chỉ là cái xác ướp, làm gì có chuyện thành tiên được chứ? Cả đời tôi đây xông pha Nam Bắc, đã vào không ít mộ cổ, cũng chứa từng thấy lăng mộ nào có thi tiên; mà kể cả có rơi vào tình huống xấu nhất, lão địa chủ Phong Soái Cổ này thật sự bị thi biến, muốn rời núi hại người thì cũng khỏng thể thành công được, tôi tin rẳng lịch sử và nhân dân chắc chắn sẽ không cho phép sự việc thế này xảy ra.

Út khẽ gật đầu, tuy vẻ mặt cô căng thẳng quá độ song vẫn có thể đi theo đội ngũ. Tuyền béo nói: “Các đồng chí cứ yên tâm đi, tôi thấy nếu có chết thì cũng phải là bậc hiếu tử hiền tôn nhà họ Phong Tôn Cửu gia đây ngỏm trước, đến lúc đó còn phải kéo theo cả bọn Quan Sơn thái bảo trong mộ này xuống làm nệm đỡ lưng cho chúng ta, không quậy tung chúng lên thì quyết không thôi.”

Tôn Cửu gia lắc đầu đầy bất lực: “Đến nước này rồi, sao các cậu vẫn chỉ lo nói cho sướng cái miệng nhỉ?” Nói đoạn, lão ta lại quay sang tôi: “Cậu cũng đừng bốc phét quá đà, có phải vẫn còn giữ lại một ít chất đốt chuẩn bị thiêu xác cổ trong mộ không? Đến lúc ấy ngàn vạn lần chớ thấy minh khí đầy trong mộ mà không nỡ động thủ, cậu nhất định không được chùn tay do dự, nếu thi tiên trong mộ thoát ra khỏi núi Quan Tài thật thì phiền phức to đấy.”

Tôi đang định bảo: “Chuyện này chẳng cần ông phải dặn dò, tôi tự biết cân nhắc nặng nhẹ.” Bỗng nghe tầng nham thạch trên đỉnh đầu phát ra vô số âm thanh như xé vải, âm thanh kéo dài liên tục không dứt, làm chúng tôi đau cả màng nhĩ.

Mọi người bất giác ngẩng đầu nhìn lên, nhưng một là dưới lòng đất tối tăm, hai là trên không vẫn mù mịt sương đỏ, hoàn toàn không thể nhìn thấy tình hình trong tầng nham thạch, Út kinh hãi kêu lên: “Núi này sắp sập à?” Shirley Dương lắc đầu: “Không phải, núi Quan Tài hình dạng như chiếc quan tài đá không nắp, hình như Cửu Tử Kinh Lăng giáp trong vỏ núi bên trên sắp chui ra thì phải.”

Mặc dù gần nghìn năm nay chưa kẻ trộm mộ nào gặp phải Cửu Tử Kinh Lăng giáp, nhưng những lời đồn về sự lợi hại của vật này không phải không có. Loại thực vật hỗn hợp giữa gỉ đồng xanh và máu thịt sinh trưởng dưới lòng đất này tuyệt đối không phải thứ mà dăm ba người có thể ứng phó nổi. m thanh Cửu Tử Kinh Lăng giáp nhu động dịch chuyến bên trong tầng nham thạch lọt vào tai chúng tôi, tựa như tiếng rít gào của Tử Thần, mỗi khi nghe thấy một tràng những tiếng xé vải chói tai ấy, cả bọn đều như bị dội một chậu nước lạnh, bất giác đều rùng mình sợ hãi, cả người lạnh toát.

Bọn tôi lo Cửu Tử Kinh Lăng giáp có thể xuất hiện trong đám sương mù bất cứ lúc nào, không dám nấn ná quá lâu trên bể mặt rặng núi hình xác chết nữa, vội vàng bao trước bọc sau Tôn Cửu gia và Út đi giữa, men theo bậc thang khảm trên vách đá đi xuống dưới.

Phía trên Linh Tinh điện là khe sâu với hai vách đá sừng sững, vừa dốc vừa chật hẹp, bé mặt phẳng lì thẳng thớm như được đục đẽo, dưới ánh đèn chiếu, có thể thấy rõ ràng từng mạch nham thạch chạy trong địa tầng. Ở đó có chôn rất nhiều ngọc bích hình thù quái dị, màu sắc cổ xưa, có đỏ thẳm, có xanh lục, đều không phải vật của thời cận đại, nhưng đa phần đã chẳng còn nguyên vẹn. Theo như ghi chép trong Quan Sơn quật tàng lục, những đồ ngọc này đều là vật hiến tế trong núi Quan Tài từ thời kỳ văn hóa Vu Sở.

Tôi nhớ lại cảnh tượng trong bức họa, những người tuẫn táng chính là men theo con đường này vào mộ. Trong bức vách có chôn đồ ngọc kia, ẩn nấp rất nhiều bóng ma, nhưng khi tới đây rồi, vẫn chưa thấy được tình cảnh vẽ trong Bỉnh chúc dạ hành đồ. Những người còn lại hẳn cũng có ý nghĩ này, ai nấy đều cảm thấy sống lưng lành lạnh, tựa hồ phía sau có ác quỷ lẳng lặng bám theo, chốc chốc lại ngoảnh đâu nghiêng ngó, càng đi xuống sâu, cảm giác bất an lại càng thêm mãnh liệt.

Shirley Dương sực nhớ ra điều gì đó, liền nói với tôi: “Trong bức Bỉnh chúc dạ hành đồ ấy, tất cả mọi người đều cầm đèn lồng hoặc đuốc, vả lại chúng ta cũng phải thắp lửa lên mới nhìn thấy những bóng đen ẩn tàng trong bức họa, có lẽ điều này muốn ám chỉ ở trước Linh Tinh điện phải dựa vào ánh lửa mới có thể trông thấy một số thứ bình thường không nhìn thấy được.”

Trực giác cho tôi biết, trong tầng nham thạch ở Bàn Cổ thân mạch này, đích thực có chôn giấu thứ gì đó, rất có khả năng chính là những “bóng ma” được vẽ bên trong bức tranh kia. Vì không biết diện mạo chân thực của chúng là gì, nên khó lòng phán đoán lành dữ, nếu chúng tôi cứ tiếp tục đi sâu xuống nữa, bất cứ lúc nào cũng có thể gặp phải điều bất trắc. Bởi vậy, khi nghe Shirley Dương nhắc nhở, tôi dự định đốt một cây nén lên xem cho rõ ràng.

Dẫu sao thì thắp đèn chính là việc Mô Kim hiệu úy hay làm nhất, giờ cả bọn đã ở trong bụng núi, càng không phải e ngại điều gì nữa, tôi liền lấy ra nửa cây nến thắp lên, khum khum lòng bàn tay che ngọn lửa, vừa chậm rãi bước xuống bậc thang, vừa giơ nến lên soi vào vách đá bên cạnh.

Ánh lửa hắt lên vách đá, làm những mảnh đồ ngọc tàn khuyết ánh lên sắc màu mượt mà, nom thần bí đẹp đẽ hơn lúc ánh sáng nhàn nhạt của đèn chiéu chiến thuật rọi vào nhiéu. Tuyền béo trông thấy, lập tức nói lòng tham, không kìm được thò tay ra rờ mó, định nạy mấy miếng ngọc mang về làm kỷ niệm.

Tôn Cửu gia lo Tuyền béo lại rước lấy phiền toái, khốn nỗi lúc trước lão ta đã nhiều lần khuyên bảo nhưng đều bị Tuyền béo cưỡng từ đoạt lý làm cho tắc tị, nên đành đổi kiểu, thò tay ra ngăn cậu ta lại, nói: “Những đồ ngọc dùng làm tế phẩm này hết sức tà dị, Tuyền béo cậu đừng vì nhất thời nổi lòng tham mà lớ xớ chạm bừa vào chúng, phải đấu tranh phê bình và tự phê bình chứ!” Tuyền béo làm bộ vô tội nói: “Trên đời này chỉ sợ hai chữ nghiêm túc mà thôi, đại gia đây nạy mấy cục về nhà nghiêm túc nghiên cứu, để xem máy cái đồ ngọc này tà quái ở chỗ nào, chẳng lẽ như vậy cũng coi là có tư tâm hay sao?”

Tôn Cửu gia gặp phải loại người mồm mép tép nhảy như Tuyền béo, dù có lý lẽ cũng khó mà nói cho thông được. Tôi thấy lão ta có ý để tôi ra mặt nhấn mạnh nguyên tắc quan trọng “tăng cường kỷ luật”, bèn ngoảnh đầu đi vờ như không thấy, chỉ tập trung chú ý quan sát vách đá dưới ánh lửa, nhưng cũng chưa phát hiện ra hiện tượng gì dị thường.

Tôi lại đi xuống thêm mấy bước nữa, chợt nghe Tuyền béo và Tôn Cửu gia đang cãi nhau búa xua phía sau đột nhiên im bặt, ba người đi trước là tôi, Shirley Dương và Út vội vàng dừng bước, quay đầu lại xem tình hình phía sau. Chỉ thấy Tuyền béo và Tôn Cửu gia đang đờ người ra tại chỗ, sững sờ nhìn chằm chằm vào tầng nham thạch.

Tôi quay lại chỗ bậc thang cao hơn, đưa mắt nhìn theo ánh mắt hai ngưòi họ, thì ra Tuyền béo đã dùng xẻng công binh gõ vào miếng ngọc bích khảm trong vách, đất đá chỗ cái xẻng đập vào tróc ra rơi xuống, làm thứ bên trong lộ hẳn ra. Bên trong lớp đất đá là cả khối ngọc cổ chồng chất lên nhau thành tường, bên trong tường ngọc hình như có một đường nét mơ hồ trông như bóng quỷ. Tôi giơ nến lại gần xem thử, liền thấy cái bóng quỷ mơ hồ ấy bỗng trở nên rõ nét. Càng khiến người ta kinh hãi hơn là. nó dường như hữu hình mà vô chất, lại có thể di động trong bức vách, dưới ánh lửa bập bùng, bóng đen đột nhiên giơ tay giơ chân bò vé phía trước, nhìn bộ dạng như muốn từ trong bức tường bổ nhào ra. Chỉ thấy một luồng gió âm thổi xộc tới trước mặt cây nến tôi cầm trên tay lập lòe như sắp tắt đến nơi.

Tôi phát giác có âm phong thổi tới, vội vàng khum tay lại bảo vệ ngọn lửa sắp tắt. Ánh nến tuy bị che, nhưng đèn chiến thuật gắn trên mũ vẫn sáng. Dưới ánh sáng loang loáng, tôi và Tuyền béo đều nhìn thấy rất rõ ràng. Chỉ một thoáng ấy thôi, người nào người nấy đều dựng hết tóc gáy, mười vạn tám nghìn lỗ chân lông khắp toàn thân, không cái nào là không rịn mồ hôi.

CHƯƠNG 50: LINH TINH MÔN

Ở ngay trên bức vách do ngọc vỡ ép lại ấy, có một thứ đen sì như bóng ma đang bò ra ngoài, chợt thấy trước mắt lại hoa lên, chúng tôi còn chưa kịp chớp mắt, bóng ma trong tường ngọc đã ở ngay phía trước. Chỉ thấy một gương mặt đen đúa dữ tợn ngũ quan vặn vẹo vùng vãy thoát ra, gồ hẳn lên trước mặt ba người.

Tôi biết sự tình không ổn, đành mặc kệ ngọn nến trên tay, vội vàng nghiêng đầu né tránh. Sạn đạo khảm vào vách đá dựng đứng này vừa dốc vừa chật hẹp, khiến biên độ động tác của người ở bên trên không thể quá lớn, bằng không sẽ cắm đầu lao xuống khe sâu, hoặc va huých đẩy đồng bọn bên cạnh ngã xuống, vì vậy tuy tôi lách người né sang một bên, song cũng chi vừa khéo tránh được bóng ma đột nhiên từ trong tường ngọc bổ nhào tới.

Chùm sáng của đèn chiến thuật gắn trên mũ di chuyến loang loáng theo chuyển động của cơ thể tôi, trong khoảnh khắc đã mất đi tác dụng chiếu sáng. Tôi chỉ cảm giác như có một thứ đầy lông lướt sát qua mặt, làm má tôi nóng rát lên.

Lúc này Tuyền béo đã gầm lớn một tiếng, vung xẻng công binh đập tới. Mặt xẻng cuốn lên một cơn gió mạnh lướt qua đỉnh đầu tôi, đập thẳng vào bóng đen trong tường ngọc, một tiếng “choeng” đanh đúa vang lên, làm cổ tay cậu ta tê rần.

Tuyền béo ra tay tuy rất nhanh, song xẻng công binh lại không đánh trúng mục tiêu, bóng đen tựa hồ hữu hình mà vô chất ấy nhanh như một làn khói đen, “vèo” một cái đã chui vào khe hở giữa tầng đất và phiến ngọc.

Sạn đạo phía trên Linh Tinh môn của mộ Địa Tiên khôi phục sự tĩnh lặng chết chóc, chỉ còn lại hơi thở nặng nề và tiếng tim đập thình thịch của chúng tôi. Vết thương bị cào xước trên mặt tôi bây giờ mới rỉ máu.

Trải qua lần tiếp xúc ngắn ngủi này, tôi đã có thể xác định đây tuyệt đối không phải là ảo giác kiểu Đỗ tiên chỉ mê giống lúc trước. Trong vách đá vùi đầy ngọc cổ này, đích thực có thứ gì đó rất đáng sợ đang ấn trốn. Nó đã bị bùn đất phong kín mấy trăm năm, lại vẫn có thể di chuyển trong vách đá, cả đời này tôi chứa từng gặp qua chuyện nào như thế, lẽ nào đây chính là “bóng ma” được vẽ trong Bỉnh chúc dạ hành đồ hay sao ?

Shirley Dương và Út đứng khá xa, không nhìn rõ tình hình, nhưng Tôn Cửu gia thì thấy rõ mồn một. Lão ta thấp giọng nói: “Chắc chắn không phải bóng ma đâu. Đại đa số trường hợp vong hồn hay u linh đều là hiện tượng điện từ trường, không thể để lại vét thương như vậy trên mặt cậu được, thứ này nói không chừng chính là thi tiên trong núi Quan Tài mà năm xưa Phong Soái Cổ muốn tìm đó!”

Tôi vốn không tin có thi tiên gì cả, nhưng nếu loại trừ giả thiết này thì không có cách nào giải thích bóng ma trong tường ngọc kia rốt cuộc là thứ gì, ít nhất cũng có thể khẳng định nó không phải vật sống. Bất cứ thứ gì có sinh mệnh, cũng không thể nào bị phong kín trong bùn đất suốt mấy trăm năm mà vẫn hoạt động. Dẫu là cương thi thì cũng không thể biến hóa thế để chui vào khe đá được.

Shirey Dương nói với chúng tôi: “Trong sách và các bức họa địa tiên Phong Soái Cổ để lại đều tránh né không nói tới những chuyện ở Linh Tinh điện, Bỉnh chúc dạ hành đồ cũng chỉ vẽ con đường mộ đạo này, đến giờ chúng ta vẫn chưa biết bên trong mộ Địa Tiên rốt cuộc có thứ gì. Theo tôi, muốn biết rõ chân tướng, chỉ có cách vào trong huyệt mộ của Quan Sơn thái bảo mà tiến hành điều tra thôi.”

Giáo sư Tôn gật đầu nói: “Đằng nào chúng ta cũng không thoát khỏi núi Quan Tài được rổi, khu vực sạn đạo gắn tường ngọc này lại có thi tiên xuất hiện, càng không phải chỗ yên ổn. Không làm thì thôi, đã làm thì làm cho trót, phải vào trong phá hủy hết quan quách minh khí của Phong Soái Cổ đi mới được. Nhưng tôi vẫn lo hành động của chúng ta sớm đã nằm trong dự liệu của địa tiên, nhỡ đâu chúng ta tiến vào Linh Tinh điện chính là mở lối cho nó thoát ra thì sao?”

Tôi e ngại thi tiên ẩn trốn trong tường ngọc có thể sẽ thình lình từ chỗ nào đó chui ra tấn công, bèn khuyên Tôn Cửu gia chớ nên do dự nữa, tuy rằng trang bị của chúng ta có hạn, nhưng đừng quên, trên đời này vẫn còn một thứ trang bị quan trọng nhất... chính là tinh thần, chỉ cần mang theo niềm tin tất thắng, thì không khó khăn gì là không thể khắc phục. Nói đoạn, tôi liền kéo lão ta tiếp tục đi xuống sạn đạo dưới lòng đất. Vì pháo sáng đã dùng hết, không thể thăm dò được độ nông sâu của hang động trong lòng núi này, chúng tôi đành cứ thế lần mò đi xuống.

Lần này cả bọn đều tăng cường cảnh giác, không dám tùy tiện chạm vào lớp bùn đất chôn ngọc bích ở hai bên. Đi sâu xuống thêm chút nữa, chúng tôi phát hiện ngọc cổ ở bên cạnh và dưới chân càng nhiều hơn, giữa hai vách đá toàn những hang hốc ngọc thạch nông sâu khác nhau, bên trong chất đầy quan tài nhỏ, đa số đều bị hủy hoại, không có cái nào hoàn chỉnh cả. Có vẻ như, lòng núi Bàn Cổ thần mạch này là một khối ngọc nguyên liệu khổng lồ, tất cả tường ngọc, vách ngọc đều khai thác ở đây. Sau đó, khối ngọc này lại được con người đục đẽo đào khoét thành một hang động bằng ngọc.

Nếu nhìn từ góc độ hình thế phong thủy, dải núi Bàn Cổ thần mạch nằm ngửa trong núi Quan Tài này có hoài thai ngọc tủy, lại giống như dùng kim thủy ngưng luyện thành ngọc đơn trong bụng, có thể nói chính là kết tinh của khí ngũ hành trong trời đất. Đây là kỳ quan của thiên địa tạo hóa, không thể xét đoán theo lẽ thường, vì yậy trong núi có thứ gì cũng không nên coi là lạ.

Tôi thầm kinh ngạc, trong lòng nghĩ đến chuyện địa tiên Phong Soái Cổ đang ở ngay cuối sạn đạo, cũng không biết kẻ này còn sống hay đã chết? Ông ta thật sự đã siêu thoát thành tiên trong Bàn Cổ thần mạch này ư? Chỉ bằng vào mấy người chúng tôi, liệu có thể đối phó được không ? Nghĩ tới đây, tôi bất giác đưa tay rờ rờ tấm gương cổ Quy Khư giấu trong ngực áo, thầm tính toán không thể hoàn toàn tin vào thuyết gương có bằng đồng xanh có thể trấn áp cương thi mà dồn hết hy vọng vào gương đồng được, đến lúc ấy vẫn dùng chất đốt thì hơn.

Lúc này, chúng tôi đã có thể cảm nhận thấy mình sắp đi tới cuối sạn đạo, phạm vi chiếu sáng của đèn chiếu và đèn pin mắt sói đã vươn tới mặt đất phía bên dưới. Hang động này nhìn tư mé bên trông giống như một cái bình cổ dài, bên trên tuy chật hẹp, nhưng xuổng đáy lại phát hiện ra nó hết sức rộng rãi, là một không gian hoàn toàn khác.

Hang động ối om như mực, đến nỗi giơ tay không thấy ngón, không khí chứa nhiều tạp chất, đèn chiếu gắn trên mũ cùng lắm chỉ chiếu được tầm bốn năm mét, căn bản không thể trông thấy Linh Tinh điện nằm ở vị trí nào, khổ nỗi, chúng tôi lại không còn pháo sáng chiếu sáng phạm vi rộng, đành lần dò đi bừa như thầy bói xem voi vậy. Tôi bỗng nhớ ra Út từng nói có mang theo Chim Ngói Lửa của Phong Oa sơn, bèn hỏi cô xem có thể ném ra mấy cái để mọi người nhìn rõ địa hình xung quanh đây không.

Út vội lục tìm trong ba lô, cuối cùng móc ra một ống tre, nói: "Chỉ có một cái này thôi, nhiều hơn thì không có đâu." Tôi liền bảo, đừng tiếc làm gì, thép tốt dùng làm lưỡi đao, rượu ngon bày lên quốc yến, giờ trước mắt tối như hũ nút, chính là lúc nó phát huy tác dụng tốt nhất, cứ đốt lên đi.

Chim Ngói Lửa là một ỉoại hỏa tién bắn ra bằng lò xo, có rẫt nhiểu tác dụng, không chỉ dùng để tấn công kẻ địch, mà còn có thế sử dụng như tín hiệu liên lạc, vả lại độ sáng cũng rất cao, có thể coi như một loại đạn chiếu sáng thời xưa. Đây là ám khí được các bậc tiền bối của Phong Oa sơn sáng tạo ra từ những năm cuối thời Nam Tống.

Út cầm Chim Ngói Lửa trên tay, món đồ này do đích thân ông Lý làm ra, nghe nói uy lực rất lớn, trước đây cô chưa sử dụng bao giờ, cũng không biết có tác dụng hay không, chỉ mong các vị tổ sư của Phong Oa sơn hiển linh, đừng để xảy ra chuyện gì ngoài ý muốn. Cô hỏi mượn tôi cái bật lửa, rồi châm ngòi.

Tôi thấy Út chuẩn bị bắn Chim Ngói Lửa, liền bảo những người còn lại tránh sang bên cạnh. Cả bọn đang định hành động, chợt nghe vách đá bên trên vẳng xuống tiếng rầm rầm như núi lở, vài khối đá lớn lăn xuống, từng mảng bụi đất cũng ao ào rơi theo.

Út bị tiếng đá rơi bên trên làm giật mình, dẫu sao cũng là lần đầu cô tham gia đổ đấu, áp lực tâm lý khá lớn, lúc ngẩng đầu lên nhìn liền quên mất Chim Ngói Lửa trong tay đã châm ngòi, đến khi nghe dây dẫn cháy xèo xèo mới sực nhớ ra. Cô chỉ kịp kêu lên một tiếng kinh hãi, cuống cuồng giơ cao ống tre trong tay. Chim Ngói Lửa sử dụng ngòi cháy nhanh, lúc này lò xo đã bật ra, trong tiếng rít gió rợn người, ám khí bị nén trong ống tre lập tức lao vút lên không trung trong quầng lửa chói sáng.

Chim Ngói Lửa xòe rộng đôi cánh dài hơn nửa mét lao vút lên không trung, phát ra tiếng rít kéo dài, ánh lửa hình quạt lập tức rạch toang bóng đêm tăm tối dưới lòng đất, ghim vào một bậc đá sạn đạo bốc cháy phừng phừng.

Con Chim Ngói Lửa này mới được chế tạo gần đây, nhưng kỹ thuật của Phong Oa sơn sớm đã lạc hậu, vẫn giữ nguyên phương thức chế tạo thủ công từ nghìn năm trước, phối chế hỏa dược và nguyên liệu theo phương pháp dân gian, không thể sánh với pháo sáng hiện đại được. Thứ này không thể phát sáng lâu, ngọn lửa chói mắt kia chỉ trong thoáng chốc đã bắt đầu ảm đạm đi.

Nhưng nhờ chút ánh sáng đó, tôi vẫn lờ mờ trông thấy cảnh tượng đáng sợ trên cao. Sơn thể bên trên núi Quan Tài bị Cửu Tử Kinh Lăng giáp xâm thực nghiêm trọng, từng khối nham thạch vỡ ra rơi xuống. Trong đó, vài khối rơi vào phần bụng của Bàn Cổ thần mạch, lăn xuống khe sâu. Vì khối đá quá lớn, khe nứt lại chật hẹp, nên chúng đều bị kẹt ở giữa tường ngọc và sạn đạo, không rơi thẳng xuống hang động bên dưới. Nhưng đất đá không ngừng rơi xuống đã làm lớp đất ở hai bên vách chấn động bong tróc ra không ít, từng mảng tường ngọc và quan tài đá đều lộ cả ra ngoài, những bóng ma mơ hồ thoắt ẩn thoắt hiện giữa bức tường, cơ hồ muổn tiến về phía hang động bên dưới. Thi tiên trong mộ cổ quả nhiên không chi một mà có nhiều vô kể, nhất thời khiến chúng tôi trợn mắt há hốc mồm ra nhìn.

Lúc này, ánh sáng từ Chim Ngói Lửa đang dần lụi tắt, đá vụn và bùn đắt rơi xuống che phủ, lập tức nuốt chửng nó trong bóng tối mênh mông. Bụi cát rơi rào rào xuống đầu cả bọn, chúng tôi không kịp né tránh, bị khói bụi làm cho ho sặc sụa, chỉ sợ có khối đá lớn nào đập trúng, đành vội cuống cuồng chui vào sâu trong hang động.

Tôi đưa tay gạt lớp bụi cát rơi xuống mũ bảo hộ leo núi, thấy những người còn lại cũng lấm lem đầy mặt trông nhếch nhác vô cùng. Mới rồi, mọi người đều đã trông thấy tình huóng bên trên, trong lòng ai nấy đều như có tảng đá nghìn cân đè nặng, mộ Địa Tiên này chỉ sợ không có chỗ nào an toàn cả, đã tới đây rồi, phải giải quyết thế nào đây?

Lúc bắn Chim Ngói Lửa ra, Út bị lực phản chấn của thuốc nổ đẩy cho ngã ngồi dưới đất, thấy sâu trong hang có mấy con quái thú đen sì, khi ánh lửa lóe lên cũng nhìn không rõ lắm, chỉ thấy từa tựa thú đá trấn lăng ở trước cửa mộ, tìm được chúng là có thể phán đoán ra phương vị của cửa mộ. Vậy là, cô liền dẫn chúng tôi lần mò trong bóng tối, quả nhiên trong một góc cách đó không xa, chúng tôi trông thấy một con thú bằng sắt màu đen, mình có vảy, đầu có sừng.

Tôn Cửu gia nói, đây chắc là Thiết kỳ lân được ghi chép trong sách sử, là một loại thiết bị chiếu sáng trong địa cung hoàng nhưng không biết trong bụng Thiết kỳ lân có còn nhiên liệu hay không, cũng không biết cách sử dụng nó như thế nào.

Tôi cũng biết con Thiết kỳ lân này còn gọi là Kỳ lân tỏa long đăng, các loại đèn thắp trong mộ có đa phần đều có nét tương đồng, đều là các kiểu nến trường sinh, đèn vạn niên cõi u minh. Việc thắp sáng loại đèn kỳ lân này không làm khó được đám Mô Kim hiệu úy chuyên nghề đổ đấu như bọn tôi. Nghĩ đoạn, tôi bèn lần mò tới trước mặt con Thiết kỳ lân, tìm vòng mũi của nó, dùng sức kéo mạnh ra phía ngoài. Chỉ nghe trong bụng con thú sắt phát ra mấy tiếng “cách cách”, ngọn lửa hừng hực bắt đắu bốc lên từ những khe hở trên vảy giáp của Thiết kỳ lân.

Bốn chân của Kỳ lân tỏa long đăng chôn chặt dưới đất, có rãnh đổ dầu thông nhau, ngọn lửa vừa bốc lên, xung quanh liên liên tiếp có những con Thiết kỳ lân khác cháy bùng. Không ngờ có tới mấy chục con nằm rải rác trong hang động, làm cả không gian sáng bừng. Nhưng những chiếc Kỳ lân tỏa long đăng ở trước cửa Linh Tinh điện này không phải tầm thường, ngọn lửa bùng lên không phải do dầu mỡ, mà là lân hỏa xanh lét lạnh lẽo, ánh sáng hắt lên khiến hang động ngầm dưới đất tựa như một ổ quỷ.

Dưới ánh sáng của ngọn lửa, chỉ thấy sâu bên trong hang động có một khung cửa lớn, hai cánh cửa mộ đóng chặt, bên trên gắn rất nhiều đinh đồng, hàng dọc chín hàng ngang mười, xếp thành số linh tinh diệu tú của minh điện, mà chỉ có các bậc ẩn sĩ phương ngoại mới biết sử dụng. Trước cửa có hai hàng tượng đất, đều là tượng Hoàng Cân lực sĩ, tượng nào tượng nấy mặt mũi dữ tợn, im lìm bảo vệ bí mật ẩn giấu ở nơi sâu kín nhất trong thôn Địa Tiên này.

Tôi thấy Tôn Cửu gia đứng bên cạnh sắc mặt tái nhợt, nhìn chằm chằm Linh Tinh môn lẩm bẩm một mình, cũng không biết lão ta đang nói gì, thầm nhủ “họa hổ họa bì nan họa cốt, tri nhân tri diện bất tri tâm”, không thể không đề phòng ông ta có hành động dị thường gì, dẫu sao lão già này cũng ấn giấu quá nhiều bí mật, có trời mới biết lão nói ra câu nào là thật, câu nào là giả.

Tuyền béo cất tiếng thúc giục: “Nhất à, đi mau lên, chúng ta bị bám đuôi rồi.” Tồi nghe lời này, biết ngay có chuyện chẳng lành, vội ngẩng đâu nhìn lên, chỉ thấy trong ánh lửa ma lập lòc, có vô số thi tiên thấp thoáng đang vùng vẫy bò ra khỏi vách đá, tràn xuống Linh Tinh điện ở dưới đáy khe sâu. Ánh sáng lân tinh chiếu lên người chúng, cơ hổ hoàn toàn bị những bóng ma đen tựa như sương mù ấy nuốt chửng, ánh sáng trong hang động phía trước địa cung lại ảm đạm đi lần nữa.

Tôi thấy phen này đã không còn đường chạy, thậm chí cả thời gian dừng lại thở lấy hơi cũng không có, bất giác rủa thầm trong bụng, sư cha nhà nó, bọn thi tiên ẩn tàng trong lòng đất này rốt cuộc là gì vậy? Trên đời sao lại tồn tại những thứ thế này? Tình cảnh trước mắt đáng sợ tới mức ngay cả trong cơn ác mộng cũng chưa ai từng thấy, vậy mà bọn tôi lại đụng phải trong mộ cổ Địa Tiên.

Tôi tự nhủ, hảo hán không chịu thiệt trước mắt, câu này không phải chân lý mà là thường thức căn bản nhất, bèn nói với mọi người: “Vào mộ tìm địa tiên Phong Soái Cổ quan trọng hơn, đừng ở ngoài này dây dưa với bọn chúng làm gì.” Dứt lời bèn gọi bốn người kia chạy về phía Linh Tinh môn.

Năm người chúng tôi biết rõ chuyện này liên quan đến tính mạng, không ai dám lơ là sơ sẩy, vội chạy đén trước cửa dốc hết sức đẩy cánh cửa đá kia ra. Linh Tinh môn được điêu khắc từ hóa thạch của thiết thụ nghìn năm, vô cùng kiên cố nặng nề, nhưng không đổ thêm đồng hoặc chì gia cố, cả bọn dồn hết sức lực, rốt cuộc cũng khiến cánh cửa đá hé ra một khe hẹp, bên trong âm khí trùng trùng, tuy rằng tối om như mực nhưng cũng may không kích hoạt cơ quan mai phục gì.

Tôi thấy khe cửa tuy hẹp, nhưng cũng có thể lách người chui vào, bèn cùng với Tuyển béo đẩy Út và hai người còn lại vào trong, sau đó mới nín thở hóp bụng chen vào. Tuyền béo vừa vào trong lập tức đẩy ngược cửa đá đóng lại, vừa đẩy vừa kêu lên: “Tôi bảo này các đông chí, các đông chí mau phát huy tinh thần hữu ái giai cấp, cả bọn đến đây giúp một tay đi chứ!”

Tôi ngăn cậu ta lại, lắc đắu nói: “Đừng tốn sức làm gì, cửa đá này không thể ngăn được bọn khốn ngoài kia đâu, mau rút vào bên trong đi!”

CHƯƠNG 51: BIA CÁO TẾ

Tôi bảo cả bọn: “Chúng ta cứ vào trong mộ trước đã, dọcđường tùy cơ ứng biến.” Nói đoạn, liền lia đèn một vòng, định xem cho rõ quy mô bố cục của mộ Địa Tiên trước, sau đó mới đưa ra biện pháp xử lý.

Chỉ thấy mộ đạo phía sau Linh Tinh môn được xây từ gạch thời Minh, bên trên là trần kiểu vòm. Trong núi Quan Tài có hai loại mộ cổ, một loại thuộc về thời kỳ văn hóa Vu Sở, loại kia là kiến trúc thôn Địa Tiên vào cuối thời Minh. Linh Tinh điện là địa cung được xây vào giai đoạn Minh mạt, quy mô không thể hùng vĩ to lớn như mộ Ô Dương vương, người ở trong mộ đạo chật hẹp chỉ giơ tay lên là chạm vào trần vòm phía trên.

Trên hai bên tường gạch của mộ đạo gắn một hàng dài những đế đèn đã khô kiệt dầu, trong góc tường phía sau cửa mộ có vài mảnh ngói nằm rải rác. Tôi thấy, trước mắt cũng chỉ còn một con đường này để đi, trong mộ đạo không có chỗ nào có thể dựa dẫm, khó mà quần đảo với kẻ địch, lòng lại càng thêm nôn nóng, bèn quyết định liều mình tiến vào trong.

Đang định gọi mọi người xuất phát, tôi chợt thấy Tôn Cửu gia đứng trước bức tường, đưa tay lên nhổ đế đèn, cử chỉ hết sức kỳ dị. Tim tôi lập tức trầm xuống, lão già này cả đời nhẫn nhục chịu khổ, tâm cơ sâu hiểm khôn lường, tuyệt đối không phải hạng tử tế gì. Lão ta nhổ đế đèn ra khỏi tường, đương nhiên không phải định học theo anh hùng Lôi Phong làm chuyện tốt rồi, chẳng lẽ muốn khởi động cơ quan, cất một mẻ lưới bắt gọn tất cả chúng tôi hay sao?

Nghĩ tới đây, trong tôi bất giác dâng lên một ngọn lửa không tên, lập tức bước tới tóm cổ áo lão ta gặng hỏi: “Ông lại muốn giở trò gì nữa đây?” Tuyền béo đứng phía sau nói, lão già này chắc chắn định nhân lúc chúng ta không phòng bị, lén lút chuyển động cơ quan để di dời minh khí đi chỗ khác đấy. Mau khai ra, minh khí trong thôn đâu hết cả rồi ?”

Shirley Dương ấn cánh tay đang tóm cổ Tôn Cửu gia của tôi xuống, cất tiếng hỏi: “Giáo sư, ông muốn làm gì vậy?” Gương mặt Tôn Cửu gia đầy vẻ lo lắng, lãot nói: “Trong đĩa đèn toàn là chất cao còn lại sau khi dương toại bay hơi, thứ này cũng giống máu chó mực hay thiên quy, đều là vật bất tường, bôi len khe cửa nói không chừng có thể ngăn chặn được lũ thi tiên." Vừa nói, lão ta vừa lấy mỡ cao màu đen trong đĩa đèn ra bôi lên cửa đá.

Út ngạc nhiên nói: “Giáo sư ơi, thứ này không chạm vào được đâu, nghe nói đàn ông mà dụng vào thiên quy, hay đàn bà chạm phải máu chó mực, đều phải nhảy qua chậu lửa mới hết vận xúi quẩy đấy”

Tôn Cửu gia nói: “Lửa cháy đến tận lông mày rồi, còn lo sao được những chuyện ấy, mau giúp tôi một tay đi "

Tôi không tin luận điệu mê tín của cô bé nhà quê sống trong núi sâu như Út, nhưng đối với lời giáo sư Tôn cũng bán tín bán nghi. Mặc dù có nghe nói thiên quy là máu kinh của phụ nữ, cùng với máu chó mực đều là vật để phá yêu pháp nhưng chưa bao giờ nghe nói chất cao còn sót lại sau khi dương toại bay hơi lại có tác dụng trừ cả cả.

Dân đổ đấu mò vàng xưa nay vẫn kính quỷ thần nhi viễn chi, chuyện trong cõi u minh không ai có thể nói cho rõ ràng được, ở chốn quỷ quái gặp phải ma quỷ lại càng không có gì lạ nhưng thực tình xưa nay chưa từng có chuyện kẻ trộm mộ lại gặp tiên. Cái thứ bùn nhão mốc meo này có tác dụng thật không? Đã có mấy bài học trước đó, tôi không thể không đề phòng lão già này được.

Lúc này, trong lòng tôi chợt nảy ra ý định giết người, có ý muốn làm thịt giáosư Tôn ở đây luôn. Bên trong mộ Địa Tiên chỗ nào củng đầy rẫy hung hiểm, người này lại có yêu thuật, cứ dẫn theo bên mình thực quá nguy hiểm. Phán đoán theo kinh nghiệm của tôi, những chuyện Tôn Cửu gia nói lúc trước hẳn có thể tin được mấy phần, nhưng còn chuyện lão ta bảo mình đã chết từ trước khi vào trong khu mộ cổ này, giờ lại nói muội than trong đĩa đèn có thể ngăn cản thi tiên tiến vào, thực khiến người ta không biết đâu mà lần. Tôi không đoán nổi lão ta rốt cuộc muốn giở trò gì, nếu như uy hiếp tới tính mạng của những người còn lại, tôi đây sẽ tuyệt đối không chùn tay với lão.

Nhưng tôi lại lập tức đè nén ý nghĩ này xuống, dẫu sao thì đầu người cũng không phải rau cải, rau cải cắt đi rồi vẫn có thể mọc lên nữa, nhưng đầu người đã rơi xuống thì không thể lắp lại được. Đời này Tôn Cửu gia sống đã chẳng dễ dàng gì, tôi không thể chỉ dựa vào một ý niệm nhất thời mà quyết định sự sống chết của người khác như thế. Trong thời điểm này, cần nhất là lý trí và trấn tĩnh. Kế đó, tôi lại nghĩ Tôn Cửu gia cũng là người xuất thân thế gia, được truyền thụ cho một vài bản lĩnh của tổ tiên, nói không chừng tôi lại là ếch ngồi đáy giếng, ít gặp nên cho là lạ cũng nên.

Tôn Cửu gia không biết trong một cái chớp mắt áy, trong đầu tôi đã diễn ra một trận đấu tranh tư tưởng dữ dội, chỉ rối rít thúc giục mọi người giúp một tay. Shirley Dương và Út đều lấy Nga My thích ra, cạo cặn dầu hôi trong đế đèn gắn trên tường vào cửa mộ.

Tôn Cửu gia bận rộn một phen, thấy khe cửa mộ đã bít xong xuôi, tường gạch lại có khắc phù chú trấn tà, không lo bọn thi tiên kia xuyên tường chui vào, bấy giờ mới thở phào nhẹ nhòm, lại móc thêm một ít cặn dầu trông như đất khô ấy bỏ vào binh nước chuẩn bị đối phó vói Phong Soái Cổ. Lão ta thấy tôi và Tuyền béo từ đầu chí cuối vẫn xuôi tay đứng nhìn, liền bất mãn nói: “Hai người các cậu có phải vẫn không tin tưởng tôi không? Trong Quan Sơn quật tàng lục có ghi lại thuật này, không tin thì tự đi mà xem.”

Tôi thấy bên ngoài mộ quả nhiên không còn động tĩnh gì nữa, bấy giờ mói hơi tin tưởng, nhưng ngoài miệng vẫn nói: “Tín nhiệm giống như một món tiền vậy, có điều, Tôn Cửu gia nhà ông đã bội chi từ đời nào rồi, còn nợ thêm một khoản lớn nữa.”

Tôn Cửu gia hừ lạnh một tiếng: “Tuy nói là tôi kéo các cậu xuống vũng nước đục này, nhưng đám Mô Kim hiệu úy các cậu có dám nói mình không có chút tư tâm tạp niệm nào hay không?”

Câu này của lão ta đúng là đã khiến tôi tắc tị, ít nhất tôi và Tuyền béo ngoài ý định tìm kim đan cứu ngưòi, cũng có ý đồ với những món minh khí quý báu trong thôn Địa Tiên. Tôi không muốn lẳng nhằng dằng dai chuyện này nữa, có lấy cớ gì cúng vô nghĩa, bèn nói với lão ta: “Giờ cả bọn đã ngồi chung một con thuyền, nói nhiều cũng vô ích, những mắc míu giữa chúng ta khi nào thu phục xong địa tiên Phong Soái Cổ hãy giải quyết cũng chưa muộn.” Giáo sư Tôn nghe vậy liền gật đầu: “Coi như cậu cũng hiểu đại cuộc, dùng người thì không nghi ngờ, đã nghi ngờ thì đừng dùng người, toàn bộ bí mật của tôi đều đã thổ lộ hết rồi, các cậu còn không tin tưởng tôi tức là các cậu sai. Hành vi của địa tiên Phong Soái Cổ đến quỷ thần cũng khó đoán, muốn đổ đấu mộ ông ta, cần phải hết sức đề phòng mới được”

Tôi cũng biết nói thì nói vậy, nhưng đám người bọn tôi thế đơn lực mỏng, làm sao mà đề phòng đây? Mộ Địa Tiên trong núi Quan Tài này quả tình hết sức khó nhằn, nào là Cửu Tử Kinh Lăng giáp tầng tầng lớp lớp bủa vây bên ngoài, lũ sâu quan tài lúc nhúc hàng vạn con, cùng bọn thi tiên thoắt ẩn thoắt hiện trong hang động, chỉ một thứ thôi cũng đủ khiến người ta lo nghĩ đến nát óc ra rồi. Trước mắt, bọn chúng tôi mốn giữ mình còn khó, chuyện lớn tiếng đòi thu phục địa tiên Phong Soái Cổ, sợ rằng chỉ là cách nghĩ một chiều của chúng tôi mà thôi.

Có điều, tình cảnh chúng tôi đang phải đối mặt, chính là đi thuyền ngược dòng nước, không tiến ắt phải lùi, các nhân tố nội tại lẫn ngoại tại đều bức bách chúng tôi không thể không đi vào nơi sâu nhất bên trong Linh Tinh điện, chẳng những vậy, gần như còn không cho chúng tôi cơ hội nghỉ ngơi dọc đường nữa. Cả bọn đành cổ nén cảm giác băn khoăn trong lòng xuống, đi qua mộ đạo chật hẹp, tận cùng là một cánh cửa hình vòm, mở ra một hang động thiên nhiên, hết sức ấm thấp, mùi máu tanh thoang thoảng ùa vào mũi. Có một cầu thang bằng gỗ sam hóa thạch vừa dài vừa rộng sừng sững ngay sau cánh cửa, thoạt trông như thang trời, tuy trong bóng tối không nhìn tháy điện đường bên trên, nhưng chỉ nhìn kích cỡ của cầu thang này cũng biết quy mô ắt hẳn không thể nào nhỏ được.

Tôi bảo cả bọn, nom tình hình chắc hẳn Linh Tinh điện ở cuối cầu thang đá này rồi, hãy chuẩn bị hàng họ trước cả đi nhưng không ai được manh động, tất cả phải nghe theo hiệu lệnh của tôi. Nói đoạn, tôi liền lấy tấm gương cổ Quy Khư trong bọc ra, thắt một cái nút chữ thập, buộc tấm gương trước ngực như kính hộ tâm, gỡ bỏ niêm phong hộp dầu duy nhất còn lại nhét vào trong túi.

Trên người Tuyền béo có nỏ liên châu và xẻng công binh, ngoài ra còn một sợi dây thừng leo núi tạm dùng làm dây trói xác, ba người còn lại cũng lần lượt lấy vũ khí cầm sẵn trên tay, sau đó nhấc chân bước lên cầu thang. Dưới ánh sáng đèn pha, có thể trông thấy gỗ sam cổ hóa thạch trông như ngọc, óng ánh bóng sáng, đường vân đẹp đẽ lạ thường, khi ánh sáng chiếu vào, liền hiện lên sóng bạc cuồn cuộn tựa như ánh trăng chiếu xuống mặt nước.

Tuyền béo nhìn mà xuýt xoa mãi, còn quay sang hỏi chúng tôi: “Nhiều năm nay chúng ta cũng coi như đi nhiều biết nhiều, chui vào không ít mộ cổ sơn lăng, không ngờ đến đây mới biết thế nào gọi là mở rộng tầm mắt. Lão địa chủ Phong Soái Cổ này liệu được mấy cân mấy lạng mà xây nên cái Linh Tinh bảo điện hùng vĩ tráng lệ nhường này nhỉ? Chỉ riêng bậc thang này thôi, tùy tiện cậy một mẩu đem đi đổi, cũng được cái tivi màu rồi.”

Tôi cũng hết sức kinh ngạc, quay sang đáp lời Tuyền béo: wHóa thạch gỗ sam thì ở núi Côn Luân cũng có, nhưng mảnh lớn nhất tôi trông thấy chỉ to bằng bàn tay thôi. Lạ một điều là, Linh Tinh môn không lớn lắm, trông như cái miếu Thổ Địa, so với mộ phần của vương công quý tộc bình thường thời Minh thì cũng không khác nhiều, sao trong nội điện lại tráng lệ chừng này nhỉ?”

Shirley Dương nói: “Trên bề mặt hóa thạch có khắc rất nhiều chữ triện cổ, có thể đây là di tích từ thời Ô Dương vương, chứ không phải do Quan Sơn thái bảo xây dựng.”

Lúc này, Tôn Cửu gia cũng phát hiện ra những ký hiệu cổ xưa trên bậc thang đá, bèn dừng lại xem xét, cơ hồ đã nhìn ra được sự ảo diệu bên trong, cứ gật đầu lia lịa, rồi lại leo thêm một bước, quan sát những chữ triện cổ khắc trên bề mặt bậc thang khác.

Tôi hỏi lão ta những ký hiệu quái quỷ này có nghĩa gì, chẳng lẽ là Long cốt thiên thư chắc? Tôn Cửu gia đáp: “Cả ngày cậu chỉ nghĩ đến quẻ đồ Chu Thiên, thực là bỏ gốc tìm ngọn. Văn tự cổ so với quẻ số còn thâm ảo hơn nhiều, lịch sử văn minh của chúng ta được tiếp nối đời đời, há chẳng phải đều nhờ vào mấy con chữ các vị lão tổ tông tạo ra hay sao? Bất luận cậu truyền kinh giảng đạo, hay tề gia trị quốc bình thiên hạ, có thứ nào mà không dùng đến nó đâu? Trước đây, cứ có lãnh đạo nói công tác nghiên cứu văn tự cổ của tôi không có ý nghĩa, thật đúng là nhãn quang thiển cận.”

Tôi nghe mà phát ngấy cả lên, lão này khỏng xem giờ là thời điểm nào, mà còn nói những thứ dở dở ương ương này? Đang định giục lão ta mau chóng vào trong đào mộ, thì Tôn Cửu gia lại nói: “Đừng gấp, những ký hiệu cổ trên hóa thạch gỗ sam có đại này không phải tầm thường, đích thực là di tích từ thời kỳ Ô Dương vương, sự thật về Di Sơn Vu Lăng vương đều được ghi lại ở đây cả đấy.”

Tôn Cửu gia nói, bậc thang làm từ gỗ sam hóa thạch này hẳn đã có từ rất lâu rồi, theo nội dung ghi lại bằng chữ triện cổ, thì dường như đây là một bia cáo tế chôn bên trong Bàn Cổ thần mạch. Ô Dương vương, Di Sơn Vu Lăng vương, và cả chuyện núi khơi sông, đều là truyền thuyết cổ xưa được hậu thế lưu truyền trong dân gian, không thể tin hoàn toàn. Kỳ thật thân phận thực sự của vị vương không đầu kia, là một Vu vương thời kỳ văn hóa Vu Sở. Đất Ba Thục chịu ảnh hưởng rất sâu của văn hóa Vu Sở, lại tự thành một hệ thống riêng, không có danh xưng quân vương, những bậc đại vu cũng tương đương với quốc chủ nắm trong tay chính quyền và quân đội, Thục vương Khai Minh thị cuối thời nhà Chu chính là hậu duệ của họ.

Hang ngọc trong Bàn Cổ thi mạch chính là đất phát nguyên của văn hóa Vu Tà, Chiêm Tinh..., nơi này thế núi như xác chết, suối ngầm như máu tuôn, là mạch báu phong thủy độc nhất vô nhị trên đời. Tiếc rằng, sinh khí của địa mạch trong núi Quan Tài sớm đã khô kiệt từ thời Vu Lăng vương, chỉ còn lại quan tài treo và ngọc bích rải khắp núi đồi thung lũng, cùng những di tích nghìn năm như bia cáo tế, điện mai táng trong hang động này.

Vì bia cáo tế bằng gỗ sam hóa thạch này quá lớn, số chứ triện khắc bên trên nhiéu không đếm xiết, giáo sư Tôn cũng không có cách nào nhận mặt hết từng chữ một, đành xem một phần rất nhỏ, rồi kết hợp với những gì đã biết để suy đoán ra một số thông tin. Có khả năng Quan Sơn thái bảo Phong Soái Cổ dốc hết tâm tư tạo ra thôn Địa Tiên với cả âm trạch dương trạch, chính là đế thần mạch Bàn Cổ này phục sinh. Di tích cổ trong hang động cũng được ông ta cải tạo thành Linh Tinh điện hòng giúp mình thoát thai hoán cốt. Tôn Cửu gia khẳng định, nếu thu thập thêm manh mối, rất có thể chúng tôi sẽ tìm được bí mật hóa tiên của Phong Soái Cổ, bởi ông ta phát hiện văn tự khắc trên bia cáo tế, cứ nhắc đi nhắc lại rằng trong Bàn Cổ mạch có “linh vật” xuất hiện trong chốn u minh, rất khả năng chính là thi tiên mà Phong Soái Cổ phát hiện năm xưa.

Nhưng nguồn sáng của chúng tôi có hạn, không thế duy trì quá lâu, mộ cổ lại chẳng phải ể tản bộ, làm gì có chuyện chậm rãi tìm kiếm, cả bọn đành bỏ qua những bia văn bảng chữ triện cổ khiến người ta mắt hoa đầu váng ấy, tiếp tục đi hết các bậc thang dài tìm kiếm quan quách của địa tiên. Chẳng ngờ, khi lên tới chỗ cao, ngước mắt nhìn lên trên, ai nấy đều giật mình sửng sốt, lửa lòng nguội đi quá nửa, không ai có thể ngờ Linh Tinh điện lại như vậy, thế này thì thần tiên cũng không tìm được Phong Soái Cổ ở nơi nào.

Ở cuối cầu thang bằng gỗ sam hóa thạch, không phải minh điện vói mái cong đấu củng, mà là bốn bức vách ngọc hình thành trong tự nhiên, sừng sững như một cung điện lớn, giữa vách cường có một khung cửa, bên trong là từng mảng từng mảng mộ thất quần táng hình thành bởi nham thạch màu nâu xám, quy mô hẳn cũng tương đương với thôn Địa Tiên.

Quần thể trụ nham thạch tựa như những căn phòng này là kỳ quan thiên nhiên dưới lòng đất ở núi Quan Tài, hình thế cao thấp trập trùng, chằng chịt rối rắm, giống như một khu dân cư đổ nát bị bốn bức tường thành bằng ngọc thạch ngăn trở, hoàn toàn cách biệt với thế giới bên ngoài, chỉ có một khung cửa duy nhất nối liền với bia cáo tế. Có lẽ, tên Linh Tinh điện cũng bắt nguồn từ đây.

Địa cung Linh Tinh điện nằm trong tầng ngọc tủy ở phần bụng của rặng núi hình xác người, giữa một hang ngọc khổng lồ trong Bàn Cổ mạch, tựa như một cái hộp ngọc giấu trong xác người bị khoét rỗng ruột. Loại địa mạo này thường gặp ở chốn thâm sơn cùng cốc, có chút tương tự đá bazan trên hải đảo, vùng núi Trụ Tử ở huyện Lục Hợp tỉnh Giang Tô cũng có địa hình rất giống nơi này. Có lẽ, hẻm núi Quan Tài này từ hàng trăm triệu năm trước đã trải qua nhiều biến hóa, sau nhiều phen bãi bể nương dâu, mới xuất hiện tầng nham thạch kỳ dị như vậy bên trong lòng núi.

Nhưng theo tôi được biết, loại nham thạch dưới lòng đất này có thể hình thành do nước biển xâm thực, lại càng có thể do địa khí phong thủy bào mòn mà nên. Trong tròi đất vốn có hai khí âm dương, từ trong hỗn độn hóa thành ngũ hành, khí ngũ hành “ở trên trời là tượng, ở dưới đất là hình”, sự kỳ diệu của tạo hóa thực khiến người thường khó mà tưởng tượng nổi.

CHƯƠNG 52:MỘT PHẦN VẠN

Chúng tôi tiến vào cửa, thoáng nhìn qua ở phạm vi gần, chỉ thấy bên trong có đầy đủ phòng ốc đường sá, giữa các trụ nham thạch có vô số khe hở, được coi như những mộ thất thiên nhiên, cơ hồ mỗi huyệt động ấy đều có một cái xác ngồi xếp bằng, toàn bộ đều mặc áo mũ thời Minh, già trẻ gái trai đều có, trên tay ai cũng nâng một ngọn đèn đã tắt lụi từ lâu.

Bọn tôi đứng ở chố cao nhất của bia cáo tế, phạm vi chiếu sáng của đèn pha và đèn pin mang theo nhiều lắm cũng chỉ khoảng hai ba chục mét, tính riêng khu vực tầm mắt có thể vươn tới này, đã có mấy chục mộ thất trong huyệt động rồi. Xa xa, là những ánh lửa ma trơi lập lòe bất định tựa sao trời, dựa trên số lượng và quy mô của những đốm lửa này mà suy thì trong thi mạch Bàn Cổ này thực không biết còn bao nhiêu huyệt động tương tự như vậy nữa.

Tôn Cửu gia liên tiếp xem qua máy chỗ mộ thất, gương mặt lộ vẻ khó xử, nói vói chúng tôi: “Khu mộ cổ này tuy nằm dưới lòng đất, nhưng mộ thất lại nằm trong khe đá, hơn nữa thi cốt bên trong đều không có quan quách khâm liệm, không hợp lẽ thường chút nào. Các cô các cậu xem, trong lòng người chết đều ôm một ngọn đèn, chắc là để dẫn đường cho vong linh ở chốn m tào Địa phủ, hẳn những người này dù bị chôn sống ở đây, vẫn mong ngóng địa tiên đắc đạo rồi sẽ gọi linh hồn bọn họ ở âm phủ lên, mượn hình hài vẫn chưa mục rữa trong núi Quan Tài này đế thành tiên đấy”

Shirley Dương nói: “Địa tiên Phong Soái Cổ mê hoặc hàng vạn người vào núi bồi táng, khu vực này lại giống như một rừng huyệt mộ, chí ít cũng phải có mấy vạn mộ thất sắp xếp không theo quy luật nào cả, phỏng chừng đều không có khác biệt gì lớn, nếu Phong Soái Cổ ẩn nấp trong này, thử hỏi ai mà tìm được ông ta chứ?"

Tôn Cửu gia lắc đầu: “Không tìm được cũng phải tìm thôi. Khi màn sương máu chạm đất, Phong Soái Cổ sẽ dẫn quần tiên rời núi, chuyện này thoạt nghe có vẻ hoang đường khó tin, nhưng Phong Soái Cổ là bậc kỳ nhân mưu lược hơn người, hiểu được lẽ âm dương, thấu được cơ quỷ thần, nếu ông ta đã tính toán sau khi chết rồi vẫn nhập thế độ người, vậy ắt hẳn sẽ gây ra tai họa lớn cho thế gian.”

Tôi vặn hỏi Tôn Cửu gia: “Phong Soái Cổ tốt xấu gì cũng là tổ tiên nhà họ Phong của ông, sao ông cứ trước một câu tai vạ, sau một câu họa hại, một mực nhận định ông ta thành tiên rồi sẽ đi hại người ? Ngộ nhớ ông ta có lòng bác ái như chúa Jesus kia thì sao, thể chẳng phải chuyến này chúng ta công toi à?”

Tôn Cửu gia nói: “Thằng trẻ ranh nhà cậu đừng nói bậy, có ai muốn làm chuyện khi sư diệt tổ đâu chứ? chi vì trong các truyền thuyết tu luyện thành tiên của Trung Quốc cổ đại chỉ có thi tiên là đáng sợ nhất. Những kẻ ngu ngốc tầm thường uống đan dược đa phần đều bị ma xui quỷ khiến, một lòng cầu mong sau khi chết được vũ hóa thành tiên, nhưng những kẻ ấy chết rồi chẳng qua cũng chỉ tự mình hại mình mà thôi. Có điều thi tiên chỉ những người sau khi chết đi, âm hồn không tan, thi thể không rữa, trải qua vô số kiếp nạn trong cõi u linh âm hồn lại một lần nữa nhập xác thành tiên, tạo nên sát kiếp, người chết trong tay càng nhiều thì đạo hạnh càng cao. Những tà pháp luyện thi thành tiên này tuyệt đối không phải chính đạo, vì vậy năm xưa Phong Soái Kỳ mới vì chuyện này mà trở mặt thành thù với Phong Soái Cổ, để lại mối oán hận tích tụ suốt mấy trăm năm.”

Trừ Út vẫn hết sức tin phục lời của Tôn Cửu gia, ba người còn lại chúng tôi đều chẳng coi vào đâu, nhưng nói đi cũng phải nói lại, tình hình bên ngoài Linh Tinh điện thế nào cả bọn đều tận mắt chứng kiến rổi, còn vể thứ sinh vật có thể di chuyển trong vách tường ấy là gì thì không ai trong chúng tôi có thể nói rõ được. Có trời mới biết có phải Phong Soái Cổ thật sự nắm giữ được bí mật gì, có thể khiến ông ta mượn xác hoàn hồn hay không? Ngộ nhỡ thật sự ứng với lời tiên đoán của người này, để thi tiên rời núi, ắt hẳn sẽ có nhiều sinh linh vô tội bị hại.

Hồi tưởng lại tâm cơ Phong Soái Cổ lợi hại nhường nào, cả bọn đều cảm thấy dù thật hay giả, cũng phải nghĩ cách tìm ra thây cốt ông ta để tuyệt trừ hậu họa, nhưng muốn trong thời gian ngắn tìm được thi thể Phong Soái Cổ giữa hàng nghìn hàng vạn huyệt mộ thế này, há phải chuyện dễ dàng hay sao?

Tôn Cửu gia giục tôi: “Hồ Bát Nhất, cậu có bí thuật Mô Kim, có thể nói là tuyệt học hàng đầu trong giới đổ đấu, cậu mau nghĩ cách gì đó đi chứ.” Nhưng nói xong lão ta lại lộ vẻ lo âu, địa tiên Phong Soái Cổ không chỉ tinh thông kỳ môn dị thuật, mà còn mưu tính sâu xa, tâm cơ sâu không thể lường, mấy trăm năm sau vẫn còn khiến người ta kinh sợ tự đáy lòng. Ông ta để lại “Quan Sơn chỉ mê phú”, chính là muốn lợi dụng ý diệt trừ thi tiên của hậu nhân, dụ dỗ họ vào núi Quan Tài, lợi dụng dương khí của người sống kích hoạt màn sương máu giáng xuống. Con cháu của chi mạch Phong Soái Kỳ suốt trăm năm nay đã bỏ ra không biết bao nhiêu tâm huyết và tính mạng, kỳ thực đều bị địa tiên lợi dụng, cũng không dám chắc khi chúng tôi tìm thấy di hài của Phong Soái Cổ, ngược lại giúp ông ta thành sự hay không? Vạn nhất khéo quá hóa vụng thì hậu quả thực khó mà tưởng tượng nổi.

Tôi bảo Tôn Cửu gia: “Hai mặt lý lẽ ông đều nói cả rồi, tôi chẳng có gì để nói nữa, đằng nào đã vào trong mộ Địa Tiên giờ có hối hận cũng muộn rồi. Theo tôi thấy, chúng ta cứ tận hết sức mình rồi nghe mệnh trời thôi, nghĩ cách tìm ra mộ thất của Phong Soái Cổ trước rồi tính toán tiếp, lúc này cần phải phấn chấn tinh thần, quyết tâm đi đến cùng mới được, đừng nghĩ ngợi nhiều quá làm gì.”

Mấy người còn lại đều cảm thấy tôi nói có lý, giờ đây núi Quan Tài đã bị Cửu Tử Kinh Lăng giáp vây khốn, dù muốn trốn có mọc cánh cũng khó thoát, trước mắt chỉ còn cách hành sự theo trực giác mà thôi. Còn chuyện quần tiên ở thôn Địa Tiên cuối cùng có thể thấy lại ánh mặt trời như dự tính của Phong Soái Cổ hay không, thì đành để lại cho ông trời già kia quyết định vậy.

Tuy rằng chúng tôi đã quyết bất chấp tất cả tìm kiếm Địa tiên Phong Soái Cổ, hủy hoại thi thể ông ta để diệt trừ hậu họa nhưng nơi đây vô số mộ thất cao thấp lô nhô thế này, muốn tìm được mộ địa tiên thực sự còn khó hơn lên trời, hoàn toàn không biét bắt tay từ đâu. Cả bọn vô kế khả thi, đành tiến vào khu huyệt động, lần dò từng bước, chầm chậm tìm kiếm vào bên trong.

Tuyền béo ra vẻ ta đây, nói với tôi: “Nhất à, tôi có tuyệt chiêu này, chúng ta đã làm thì làm cho trót, châm một mói lửa thiêu rụi hết đống huyệt mộ này đi, lão địa chủ Phong Soái Cổ ấy có ẩn trốn sâu đến mấy cũng không thoát được kế hỏa công của chúng ta, kế này gọi là hỏa thiêu doanh trại.”

Tôi lắc đầu: “Tư lệnh Tuyền béo này, tôi thấy hồi trước cậu thông minh, giờ lại hóa ra hồ đồ rồi. Nơi này hơi ẩm nặng nề, nhiều khe nứt còn có nước đỏ như máu rỉ ra, không thể cháy thành ngọn lửa lớn được đâu, dẫu dùng dầu hỏa thì mỗi lần cũng chỉ hủy diệt được một thi thể trong một mộ thất thôi, muốn thiêu đốt cả nghìn vạn huyệt mộ ở đây trừ phi ném bom Napal vào. Bom Napal có thể đốt được cả đá tảng, muốn thiêu rụi núi Quan Tài này cũng chẳng khó khăn gì, nhưng hiện giờ trang bị của chúng ta còn kém cả đám dân phòng, tiên sư nhà cậu đừng có nghĩ ngợi lung tung nữa.”

Lúc này, mặt đất dưới chân chợt truyền lên một đợt chấn động, tựa như núi lay đất lở. Cả bọn kêu lên một tiếng, cuống cuồng nhảy vào huyệt động bên cạnh, chỉ thấy các thi thể bên trong mộ thất cũng đung đưa lắc lư theo. Khu mộ này có lẽ nằm ngay bên dưới thôn Địa Tiên, tầng ngọc thạch bên trên phát ra âm thanh vỡ vụn, nếu đợt rung động vừa rồi tạo ra khe nứt giữa hang động ngọc thạch và thôn Địa Tiên, ắt sẽ có hàng đàn sâu quan tài tràn vào trong này ngay lập tức.

Tôi ngẩng đầu lên quan sát, nhưng chỉ thấy tối như hũ nút, hoàn toàn không nhìn thấy gì, nhưng nghe động tĩnh cũng đủ biết đã xảy ra chuyện lớn. Đợt chấn động vừa rồi không phải địa chấn, mà là Cửu Tử Kinh Lăng giáp càng lúc càng siết chặt lấy núi Quan Tài, chỉ thêm một hai lần chấn động nữa, Bàn Cổ thi mạch sợ rằng sẽ bị nó nghiần nát. Mắt thấy đợt sóng này chưa qua, đợt sóng khác lại tới, cả bọn càng thêm nôn nóng bất an, dù tìm được xác Địa tiên Phong Soái Cổ, chỉ e cũng khó thoát khỏi sự truy đuổi của tử thần, nếu không phải bị chôn sống dưới ngọn núi cao nghìn mét, thì cũng bị Cửu Tử Kinh Lăng giáp kia hút sạch máu tủy mà chết.

Sau khi cơn rung dộng qua đi, Shirley Dương đến bên cạnh tôi nói: “Cứ tìm như vậy cũng không phải cách, một là ngồn sáng còn lại có hạn,sau khi hết pin thì phải đốt nến thắp sang. Hai là Cửu Tử Kinh Lăng giáp xung quanh bất cứ lúc nào cũng có thể xuyên phá tầng nham thạch chui vào trong núi, thời gian dành cho chúng ta có lẽ không còn nhiều nữa. Anh xem trên những khối nham thạch này đều có ký hiệu tinh tú thời cổ, nói không chừng lại có liên quan đến sự sắp xếp của sao trời, anh hiểu bí thuật phong thủy thiên tinh, sao không bắt tay từ đây, thử nghĩ xem có cách gì đột phá không.”

Tôi bảo, không phải anh không nóng lòng, ký hiệu tinh tú trong mộ thất anh cũng nhìn thấy rồi, nhưng phạm vi chiếu sáng của chúng ta có hạn, mà việc quan sát sao trời không như tìm kiếm địa mạch, không nhìn được toàn thể thì đừng nói gì đến chuyện sử dụng bí thuật phong thủy thiên tinh để phân kim định huyệt, dẫu biết rõ Phong Soái Cổ rất có thể ẩn náu ở vị trí Tư Đẩu trong tinh đồ, song anh cũng chẳng thể làm gì được.

Kỳ thực, vẫn còn một nỗi khó tôi không nói rõ cùng cô, bí thuật phong thủy thiên tinh là nội dung thâm ảo nhất trong thuật Phân kim định huyệt, tôi mới biết được một chút kiến thức nửa vời, còn xa mới đạt đến trình độ thông hiểu vận dụng, lần đó đi sa mạc Tân Cương tìm kiếm thành cổ Tinh Tuyệt chẳng qua chỉ là mèo mù vớ chuột chết, chứ chẳng phải nhờ tôi tinh thông bí thuật phong thủy thiên tinh gì cả. Chuyện này bấy lâu nay tôi vẫn ngại không dám nói với Shirley Dương.

Tôn Cửu gia đưa ra ý kiến: “Đằng nào cũng phải mò kim đáy biển, chi bằng chia ra hành sự, cả bọn chia nhau ra tìm, có khi lại nhanh hơn cũng không chừng.”

Tôi trầm ngâm giây lát, nhủ thầm trong bụng: “Trên người Tôn Cửu gia có dấu hiệu thi biến, tuyệt đối không thể để lão ta rời khỏi tầm quan sát dược, Tử trạng của những người bồi tángt Phong Soái Cổ này đều cực kỳ quái dị, nói không chừng bất cứ lúc nào cũng có thể xuất hiện tình huống bất ngờ; vả lại Út không có kinh nghiệm đổ đấu, cũng không thể để cô bé đi một mình, mọi người mà phân tán ra, trong bóng tối rất khó tiếp ứng cho nhau, dẫu tìm được mộ thất của Phong Soái Cổ, e rằng cũng chẳng có cách nào ứng phó, nhưng cứ tụ tập lại thì không thể mở rộng phạm vi tìm kiếm, phải làm sao mới ổn đây?”

Lúc này, cũng ko biết là do cơn nghiện thuốc nói lên hay thần kinh căng thẳng quá lâu, đầu óc tôi tựa như một đống tương nhão, chỉ muốn châm điếu thuốc lá cho tinh thần tỉnh táo, vừa cho tay vào túi liền chạm phải tấm gương cổ Quy Khư buộc trước ngực, một ý nghĩ chợt lóe lên: “Sao lại quên mất vật này chứ?” Tôi quên cả lấy thuốc lá, vội tháo tấm gương xuống, nếu muốn tìm ra mộ thất của Phong Soái Cổ giữa hàng vạn ngôi mộ ở nơi đây thì không thể không nhờ vào tấm gương cổ này được. Đây là phép cổ, gọi là Quan bàn biện cục.

Lúc này tôi không kịp giải thích cho những người kia, chỉ bảo bọn họ theo sát sau lưng tôi, rồi thắp luôn một cây nến bằng mỡ giao nhân đặt lên mặt gương. Bên trong mộ có âm khí nặng nề, ánh nền cũng u ám ảm đạm. Mặt sau của gương cổ Quy Khư có mấy trăm mấu đổng, vừa hợp với số Chu Thiên, ánh nến ảm đậm chiếu lên mặt sau gương, liền thấy long khí còn sót lại bên trong ẩn hiện chập chờn, sinh khí trong chất đồng mờ mịt tựa có tựa không, hồ như một vệt băng vụn dưới ánh tà dương, bất cứ lúc nào cũng có thể tan biến.

Thuật thắp nến hỏi gương này là một phép cổ đến độ gần như trở thành truyền thuyết trong Thập lục tự m dương Phong thủy bí thuật, bởi lẽ đồng dưới đáy biển rất hiếm hoi nên cừ xưa đã cực ít người thực sự dùng qua biện pháp này. Cách này không phải bốc quẻ bói toán, mà là vận dụng lý thuyết phong thủy để phân kim định huyệt trong địa mạch. Một long mạch không phải chỗ nào cũng là đất đại cát đại lợi, mà kim huyệt tàng phong tụ thủy có thể chỉ nhỏ như đồng tiền vậy thôi, song toàn bộ hình thế của địa mạch đều khởi phát từ đó mà ra, tìm kiếm nơi giếng vàng huyệt ngọc này chính là tinh túy của thuật Phân kim định huyệt. Néu như địa mạch mà Tầm long quyết tìm được là một đường hay một mặt phẳng, thì thuật Phân kim định huyệt lại chuyên dùng để xác định một điểm cụ thể nào đó trên đường hoặc mặt phẳng ấy.

Long khí trong gương cổ Quy Khư sắp sửa tiêu tán hết, thời gian vô cùng quý giá, tôi vừa quan sát sự thay đổi của chất đồng trên mặt sau tấm gương, vừa rảo nhanh bước chân. Nhìn khắp đâu đâu củng có ký hiệu tinh tú, chứng tỏ nơi này được bố trí dựa theo vị trí của sao trời, với bản lĩnh của Phong Soái Cổ, chắc chắn ông ta sẽ chiếm lấy vị trí tinh chủ trong khu vực lăng mộ này làm chốn táng thân sau khi chết.

Tôi lấy tấm gương cổ Quy Khư ra làm la bàn dò khí, dựa theo sự thay đổi của bóng nến trong gương mà vòng vèo trên đường phố tạo thành bởi những đống nham thạch, cuối cùng cũng khóa được mục tiêu vào một triền dốc cheo leo. Lúc này chút hải khí cuối cùng còn sót lại bên trong gương đồng rốt cuộc cũng tiêu hao hết, tấm gương được long hỏa ở Nam Hải tôi luyện chỉ trong chớp mắt đã mất đi linh hồn, trở thành một món cổ vật tầm thường.

Tim tôi đập thình thịch, thầm nhủ mình may mắn. Trên dải nham thạch trước mắt có bốn gian mộ thất, một trong số đó là nơi phát nguyên của thi khí vô cùng vô tận trong địa mạch Bàn Cổ, thảng như địa tiên Phong Soái Cổ đúng là bậc cao nhân có thế nhìn thấu cơ trời, ông ta nhất định sẽ náu mình ở đây đợi độ hóa thành tiên. Nghĩ đoạn, tôi bèn bảo cả bọn cầm sẵn vũ khí trên tay, toan tiến vào trong tìm kiếm.

Tôn Cửu gia thấy hải khí trong gương đồng đã cạn, sắc mặt lại càng thêm khó coi, lo lắng nói: “Phen này toi rồi, lúc trước còn trông chờ vào gương cổ trấn thi trừ tà, giờ thì hay ho rồi, gương đồng Quy Khư đã hoàn toàn mất đi hồn phách, không biết còn trấn áp cương thi được nữa hay không.”

Tôi không để tâm chuyện này cho lắm, thầm nghĩ xưa có câu không bỏ con săn sắt thì làm sao bắt được cá rô, từ lúc tiến vào khu vực hẻm núi Quan Tài, ngoài cái “xác sống” Tôn Cửu gia này ra, chưa thấy hiện tượng thi biến nào cả, vả lại nếu đúng như lời của chính lão ta, rằng lão ta đã chết từ lâu rồi, vậy thì tại sao lại hoàn toàn không có phản ứng gì trước tấm gương? Nếu Tôn Cửu gia không nói dối, vậy e rằng thuyết nói gương cổ Quy Khư có thế trấn áp cương thi chỉ là bịa tạc mà thôi, giữ nó lại đến phút cuối cũng chẳng ý nghĩa gì, dù sao trên người tôi vẫn còn một hộp chất đốt dự phòng, chỉ cần Phong Soái Cổ vẫn còn hình hài xác thịt trong mộ thất thì chẳng lo không đốt được lão ra tro.

Tuyền béo cũng nói: “Tôn Lão Cửu này đúng là một kẻ đáng thương, chắc bị thù hận và tư tưởng mê tín tích lũy mấy thế kỷ nay làm cho phát điên rồi, đợi lát nữa phải cho ông mở mang tầm mắt, xưa có Trương Thiết Sinh nộp giấy trắng mà đô đại học, nay có Tuyền béo và Hổ Bát Nhất tay không đấu địa tiên. Đừng tưởng có khoa học kỹ thuật với học hàm học vị là đảm trách được tất nhé, một thân đảm lược của chúng anh đây không phải cứ đọc sách là học được đâu.” Nói đoạn, cậu ta vẫy tay với cả bọn: “Đồng chí nào có đầu óc và lòng can đảm thì đừng bần thần ở đó nữa, theo tôi xông lên đi.” Tôn Cửu gia đưa tay cản Tuyền béo lại, bảo chúng tôi: “Đừng nóng, vẫn còn một pháp bảo có thể dùng cứu mạng trong thời khắc mấu chốt. Có nghe nói đến thừng trói tiên bao giờ chưa?”

CHƯƠNG 53: THỪNG TRÓI TIÊN

G

iáo sư Tôn nói, muốn đào quan quách của địa tiên lên cần phải tính toán vẹn toàn, một khi gương cổ Quy Khư không có tác dụng, thì phải trông vào dầu hỏa thiêu đốt, nhưng ngộ nhỡ thi thể Phong Soái Cổ bị thi tiên ám vào thật, mấy người chúng ta e khó mà đối phó nổi, vì vậy cần chuẩn bị cho tình huống xấu nhất, nếu mang theo thừng trói tiên thì sẽ nắm chắc thêm mấy phần.

Tôi biết Mô Kim hiệu úy khi đổ đấu thường dùng thừng trói xác, ấy là một sợi dây thừng, hai đầu thắt nút có thể nới ra nới vào được, một đầu buộc trước ngực kẻ trộm mộ, đầu kia ngoắc vào cổ xác chết, sau đó dựng xác chết ngồi dậy, dùng hai tay mò minh khí bới áo liệm, đổ đấu nhanh nhẹn gọn gàng.

Nhưng thừng trói tiên là loại dùng để trói xác sống, cương thi, cũng chỉ là một sợi dây thừng, nhưng lại có đến mười sáu nút thắt, nới thắt dễ dàng, khi tung ra thì như thiên la địa võng, dẫu Đại La kim tiên cũng không tránh nổi. Có điều, không có bí quyết thì không thể nào thắt nổi chừng ấy nút thắt, Mô Kim hiệu úy truyền đến đời chúng tôi đã có rất nhiều môn tuyệt học bị thất truyền, vì vậy, tôi cũng chỉ mới nghe danh mà thôi.

Tôn Cửu gia nói: “Vốn tôi cũng chẳng trông mong gì ở cậu, lúc trước tôi thấy cái túi da dê bách bảo đeo ở thắt lưng cô bé Út này có chín nút thắt bảy nút móc, người bình thường tuyệt đối không thể kết ra được, mới đem chuyện thừng trói thây ra hỏi thử, hóa ra ở Phong Oa sơn quả nhiên có ngón nghề này, nhưng không gọi là thừng trói tiên, mà là thừng buộc ám khí.”

Từ xưa đã có cách nói, “bảy mươi hai nghề một trăm linh tám núi”, trong những ngành nghề truyền thống này, dường như nghệ nhân của mỗi ngành mỗi nghề đều có tuyệt học, giữa nghề nọ với nghề kia cũng có sự dung hợp suốt thông, chẳng hạn như thú đoạn dùng cơ quan di hình hoán vật trong phép ảo thuật của Nguyệt Lượng môn, đa phần là bắt nguồn từ Phong Oa sơn. Vì vậy, việc dây thừng trói tiên trong ngành đổ đấu được diễn hóa từ thừng buộc ám khí cũng chẳng có gì lạ.

Từ lúc vào núi đến giờ, trải qua vô số gian nan nguy hiểm, tôi đã dần dần tin phục tay nghề của Út, lập tức tập hợp tất cả dây thừng leo núi còn lại của mọi người, giao cho Út thắt nút. Tôn Cửu gia đem thứ cao đặc đen ngòm tanh tưởi trong bình nước ra phết lên trên, bất luận Phong Soái Cổ trong mộ kia có thi biến hay đã hóa thành tiên, chỉ cần nhắm đúng cơ hội trói chặt lão ta lại, dẫu lão có mọc cánh cũng khó mà thoát được.

Tôi tuy không mê tín đến mức nghiêm trọng như Tôn Cửu gia, nhưng trong lòng cũng hiểu rất rõ, chọi nhau với địa tiên Phong Soái Cổ trong núi Quan Tài là hành vi vô cùng hung hiểm, có thêm một thủ đoạn phòng thân, cũng bằng như thêm cho mình một con đường sống, đương nhiên không thể thờ ơ. Thấy mọi người chuẩn bị xong xuôi đâu đấy, tôi bèn lách người đi xem xét mấy mộ thất trong mảng nham thạch phía trước.

Chỉ thấy trên mảng nham thạch này có khắc ký hiệu của các sao tà Hối, Huyết, Huyền, Vong. Kỳ thực, trên trời vốn không có những tinh tú yêu dị này, chúng chỉ tồn tại trong truyền thuyết của thuật phong thủy thiên tinh cổ xưa mà thôi. Tương truyền, tà tinh phủ xuống, vệt mờ che lu ánh trăng, là điềm xác chất thành núi máu chảy thành sông. Những hình khắc tinh tú bất tường cổ xưa này, khiến khu huyệt mộ vốn đã lạnh lẽo âm u càng thêm rợn người, ai nấy đều lờ mờ cảm giác sự việc trước mắt hẳn sẽ cực kỳ khó đối phó.

Nhờ giải đọc bia cáo tế và lật xem ghi chép của Phong Soái Cổ để lại, chúng tôi có thể đoán định, thời xưa, khu vực hẻm núi Quan Tài này rất thịnh hành những thuật phù thủy chiêm tinh, Bàn Cổ mạch trong núi Quan Tài vốn là đất tế tử của các thầy mo, đồng thời cũng là nơi cất giấu đổ tế. Phong Soái Cổ đã xây âm trạch trong núi, lợi dụng bí thuật phong thủy hòng khôi phục linh khí địa mạch, khiến thi tiên đã biến mất máấy nghìn năm xuất hiện trở lại, độ hóa toàn bộ người chết ở thôn Địa Tiên thành tiên. Trong Linh Tinh điện, ít nhất cũng phải có hơn vạn huyệt mộ, nếu suy tính của ông ta thành sự thật, lũ cương thi bên trong cùng ùa ra thì thử hỏi ai ngăn cản nổi? Tôi suy trước tính sau, giờ chỉ đành gác chuyện sinh tử sang một bên, tìm được xác Phong Soái Cổ đem hủy đi, rồi triệt phá hoàn toàn sinh khí của địa mạch Bàn Cổ, may ra mới có cơ vãn ồi đại cục.

Năm người chúng tôi đảo qua mấy mộ thất xung quanh tìm kiếm một vòng, phát hiện hầu hết đều là một mộ một người, cũng không có quan quách minh khí gì cả, người chết tay nâng đế đèn đã cạn, mặt đeo một chiếc mặt nạ, bên trên vẽ phác mũi, mắt, miệng đều mở to. Trong bóng tối, ánh đèn pin chiếu vào khiến những tấm mặt nạ ấy thoạt trông đều hết sức cổ quái. Có điều, những mộ thất này đều thấp nhỏ chật hẹp, không giống như nơi chôn thân của địa tiên Phong Soái Cổ.

Shirley Dương phát hiện phía sau xác chết trong mộ thất không lấy gì làm nổi bật lắm có một khe hở hình tam giác,soi đèn vào thấy sâu bên trong dường như còn có không gian khác. Tôi bèn khom người chui vào trong ấy, đi qua một đoạn đường hẹp khoảng vài mét, liền gặp một thạch thất, rộng chừng hơn hai chục mét vuông, tường vách chỉnh tề, trên vách có bích họa, chính giữa là một cái quách bằng vàng ròng khảm lam ngọc, ánh vàng rực rỡ, hình dạng kỳ dị, có phần giống với vật ở vùng Tây Vực.

Tôi thầm nhủ, đây quá nửa là mộ thất chính rồi, bèn quay đầu lại gọi mấy người kia chui vào bên trong. Tuyền béo vừa vào liền quét đèn chiếu quanh một lượt, ánh mắt dừng lại trên cỗ quách vàng, thốt lên một tiếng kinh ngạc, không kìm được định bước tới động thủ. Tôn Cửu gia vội ngăn cậu ta lại, bảo đừng nóng vội, phải biết tiếp thu bài học kinh nghiệm chứ, cứ xem xét cho kỹ càng đã, tránh để lại rơi vào cạm bẫy của địa tiên bố trí.

Cả bọn ngổi xổm trong góc mộ thất, cẩn thận quan sát tình hình xung quanh. Tôi đi một vòng quanh căn phòng đi xem xét kỹ hơn, nhưng càng xem càng thấy kỳ lạ, chỉ thấy bức bích họa trên tường kia vẽ một khu rừng đào, cành lá sum suê, quả sai trĩu trịt, sương mù bảng lảng giăng giữa đào đỏ lá xanh. Bức bích họa này màu sắc đậm đà tươi tắn, nhìn gần tưởng như mình đang ở bên trong, xung quanh trước sau đều là rừng bát ngát.

Còn quan quách đúc bằng vàng ròng kia, nằm giữa vòng bao bọc của rừng đào kéo dài liên miên trên bốn vách, ngoài phần đáy không nhìn thấy ra, mấy mặt còn lại đều đúc rất nhiều nhân vật và chim cá hình dạng kỳ lạ, hai mắt khảm lam ngọc, trong bầu không khí lạnh lẽo tĩnh mịch tháp thoáng vẻ yêu dị lạ thường.

Phía sau thạch thất còn hai gian mộ thất nhỏ hơn, một trong hai gian này nối liền với lối vào nhập táng, bên trong có thuyền ngọc, chạm trổ hình long ly quy phượng, hàng chữ bên trên chính là “Linh Tinh điện Địa Tiên mộ”; gian còn lại thì bị cửa đá chắn mất, phỏng chừng bên trong là một hang chứa đồ bồi táng, có điều từ bên ngoài cũng không thể phán đoán trong ấy rốt cuộc cất giấu những món minh khí gì.

Tôi thấy bố cục bên trong mộ thất này quá đỗi kỳ dị, trước đây chưa thấy bao giờ, cũng hoàn toàn khác hẳn với mộ Địa Tiên trong tưởng tượng, không khỏi sinh lòng ngờ vực liệu bên trong cỗ quách bằng vàng kia có giấu xác Phong Soái Cổ thật hay không? Tuyền béo cũng lấy làm thắc mắc: “Sao tôi cứ có cảm giác như đến nông trường trồng đào vậy? Chẳng lẽ tổ tiên lão địa chủ này khởi nghiệp bằng nghề bán đào chắc? Cũng chỉ có cỗ quan quách này là đồ thật, còn dùng được chút.”

Shirley Dương nói, rừng đào trong bức bích họa này có mây lành bảng lảng bên trên, đằng xa còn có đình đài lầu các, giống như cảnh tượng trên Thiên giới, cũng có khả năng là một chốn thế ngoại đào viên.

Giáo sư Tôn nói với cô: “Cô nói trúng rồi đấy, bức bích họa này đích thực không phải vẽ cảnh ở nhân gian. Nghe nói, thuở sinh tiền Phong Soái Cổ nằm mơ cũng muốn làm thần tiên, trong mộ thất vẽ nguyên một rừng đào, là có ý ngầm ám chỉ mình năm xưa cũng từng là người đi dự hội. Nom cách bố trí ở đây, có thể khẳng định Địa Tiên nằm bên trong cỗ quách bằng vàng này rồi”.

Út thắc mắc với Tôn Cửu gia: “Năm xưa cũng từng là người đi dự hội là sao? Địa tiên mở hội gì à?” Giáo sư Tôn chưa kịp trả lời, Tuyền béo đã ra vẻ ta đây hiểu biết đáp: “Chắc chắn không phải đại hội đại biểu nhân dân rồi, tôi đoán chắc là đại hội của các đại biểu địa chủ, chương trình hội nghị toàn là cách thức bóc lột quần chúng nhân dân lao khổ thôi.”

Tôi vừa nghe Tôn Cửu gia nói, liền hiểu ngay ý lão ta. Thời xưa, những người mê tín cầu tiên đạo đều tự cho rằng kiếp trước mình từng tham dự hội Bàn Đào của Tây Vương Mẫu, người có thể tham dự hội này đều là thần tiên, vì vậy rất nhiều thuật sĩ giang hồ và người luyện đan đều tự xưng mình từng là tiên nhân năm đó dự hội Bàn Đào. Phong Soái Cổ bố trí mộ thất như vậy là ngầm có ý tự xứng mình là bậc chân tiên.

Tôn Cửu gia chẳng buồn nhìn Tuyền béo, hỏi tôi: “Đã tìm được quan quách của Phong Soái Cổ, nên bắt tay thế nào thì cậu sắp xếp đi thôi.”

Tôi nhìn thần sắc bốn người họ, biết cả bọn một là đang mệt mỏi ức chế, hai là căng thẳng quá độ, chỉ có tôi và Tuyền béo ít nhiều còn chút cảm giác hưng phấn của kẻ chỉ sợ thiên hạ không đủ loạn, nhưng đã đến thời khắc mấu chốt cuối cùng, nhất thiết phải phấn chấn tinh thần mà cầm cự. Nghĩ đoạn, tôi bèn nói: “Các đồng chí, tình trạng núi Quan Tài lúc này thế nào mọi người đều rất rõ cả rồi, tôi cũng không nói nhiều nữa, còn về việc mở cái quách bằng vàng này ra xong có bình an vô sự hay không, đây là một ý niệm thảm thương, tôi thấy nên sớm quăng nó vào Thái Bình Dương cho rồi. Đừng quên, phải đặt mình vào chỗ chết mới mong có đường sống, chỉ cần chúng ta giữ bình tĩnh, dốc hết ngón nghề của Mô Kim hiệu úy mà thăng quan phát tài, trên đời này chẳng có cái đấu nào ta không đổ được cả.

Chấn động dưới lòng đất núi Quan Tài lúc có lúc không, nhưng trận sau mạnh hơn trận trước, để tránh đêm dài lắm mộng, chúng tôi lập tức bắt tay chuẩn bị mở nắp quan. Tôi lấy ra một ngọn nến, đưa Tôn Cửu gia thắp ở góc Đông Nam của mộ thất.

Sở dĩ tôi bảo Tôn Cửu gia làm chuyện này, là vì tôi vẫn luôn có cảm giác trên người lão ta có hiện tượng thi biến, nhưng kỳ lạ là, ngọn nến Mô Kim hiệu úy dùng để suy đoán hung cát hoàn toàn không có phản ứng gì với Tôn Cửu gia, điều này chứng tỏ lão ta là người chứ không phải ma. Nhưng cơ thể người sống tuyệt không thể nào xuất hiện hiện tượng bị thi trùng cắn xé như thế được. Từ lúc vào địa cung của Ô Dương vương, tôi dường như cũng không cảm nhận được hơi người sống trên mình lão ta nữa. Chân tướng và hậu quả của việc này tuy rằng vẫn chưa hiển lộ ra, nhưng khả nảng uy hiếp tiềm tàng thì còn vượt xa địa tiên nằm trong cỗ quan quách bằng vàng ròng kia, không thể không phòng bị trước được.

Tôn Cửu gia theo lời thắp nén lên, ánh nến hắt lên mặt lão ta, sắc mặt xám xịt như xác chết, tròng mắt đục ngầu, khiến tôi nhìn mà lạnh hết cả người. Nhưng lúc trước lão ta đã thề độc, một mực khẳng định chính mình cũng không biết trên người rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì. May mà từ lúc vào miếu Pháo thần đến giờ, mọi hành vi của lão ta đều ở mức chấp nhận được, phỏng chừng những chuyện có thể khai cũng đã khai cả rồi. Nói theo cách của lão ta, mạng của năm người chúng tôi đều buộc chung một chỗ, không có lão ta, những người còn lại cũng chưa chắc có cơ hội thoát khỏi thôn Địa Tiên này. Mọi người tuy rằng phát giác con người này càng lúc càng trở nên đáng sợ, nhưng vẫn ráng nhẫn nhịn.

Mộ Địa Tiên là đất phát nguyên sinh khí của mạch Bàn Cổ, ngọn nến cháy lên không thấy có hiện tượng gì khác thường, tôi đưa mắt ra hiệu cho Shirley Dương, bảo cô dắt Út lùi về sau chốt giữ lối ra mộ thất, quan trọng nhất là ở phía sau chúng tôi cẩn thận quan sát nhất cử nhất động của Tôn Cửu gia, đừng để ôi và Tuyền béo đang mở quan tài thì dính phải độc thủ của lão ta.

Sau đó, tôi và Tuyền béo, Tôn Cửu gia cùng chụm đầu trước cỗ quan quách bằng vàng, cẩn thận tìm kiếm chỗ để động thủ. Trong quá trình trộm mộ, khai quan mò vàng vẫn luôn là mắt xích hung hiểm nhất, vì vậy cả Tuyền béo cũng hết sức dè dặt. Ban đầu, chúng tôi định tìm khe hở trên quách vàng, rồi dùng xẻng công binh bậy nắp quách lên, không ngờ ba người tìm khắp một vòng, phát hiện bốn phía cỗ quách hoàng kim chẳng có khe hở nào, mà mặt trên quách có hai cánh cửa chạm rồng, không khóa không đinh, chỉ vươn tay ra là mở được, không tốn chút công sức nào cả.

Tuy rằng đã lường trước khả năng huyệt mộ của địa tiên Phong Soái Cổ sẽ hoàn toàn khác biệt với các loại lăng mộ trứ danh khác, nhưng thấy quan quách mộ chủ theo kiểu có cũng như không này, chúng tôi vẫn không khỏi bất ngờ. Tôi không dám manh động trực tiếp mở nắp quách ra, bèn bò lên mặt quách, rọi đèn vào trong xem xét, phát hiện bên trong có ánh phản quang yếu ớt màu xanh nhạt, nhưng cách một lớp nắp bằng vàng dày nặng, căn bản không thể nhìn ra trong đó là một tầng quách nữa hay còn có gì, chỉ ngửi thấy mùi xác thối rữa lâu ngày bốc ra.

Tuyền béo thấy cả một cỗ quách bằng vàng ròng to tướng như thế, trong lòng hết sức cảm khái, chỉ hận không thể bê ngay lên máy bay mang về, đứng bên cạnh cứ không ngừng sờ mó cỗ quách. Cậu ta nôn nóng hỏi tôi: “Nhất à, bên trong quan tài có gì vậy?” Tôn Cửu gia cũng hỏi: “Địa Tiên có trong quan tài không?”

Tôi khinh khỉnh đáp: "Địa tiên cái mẹ gì, mùi như phô mai thối ấy, chắc đã rữa gần hết rồi. Xem ra chúng ta lo quá thôi, cái bánh tông Phong Soái Cổ đã rữa nát tới chừng này, chắc cũng chẳng thi biến được đâu.”

Tôn Cửu gia nói: “Nếu xác ông ta đã thối rữa ra rồi thì chắc chắn không thể luyện thành thi tiên được nữa, nhưng cũng chớ nên lơ là, mau lấy dầu ra đi.”

Tôi vẫn trông mong trong bụng cương thi bên trong có kim đơn, tuy rằng các dấu hiệu đều cho thấy, hy vọng này đã trở nên hết sức mong manh, nhưng tôi vẫn không muốn trực tiếp phóng hỏa, chỉ lấy hộp dầu đưa cho Tuyền béo, bảo cậu ta đợi tôi phát tín hiệu rõ ràng rồi hãy động thủ thiêu cháy thi thể địa tiên.

Tuyền béo ra vẻ ôm đồm nói: “Chuyện phóng hỏa này cậu cứ yên con nhà bà tâm đi, mau mau mở nắp quách ra, xem bên trong có thứ gì hiếm lạ hay không đã...”

Cậu ta mới nói được nửa câu, chợt nghe trong quan quách vẳng ra một tràng tiếng động cổ quái, tựa như có một thân thể nặng nề đang ở bên trong vùng vẫy cựa quậy, tôi vội trở mình lăn xuống khỏi nắp quách, Tôn Cửu gia và Tuyền béo cũng lùi về sau hai bước. Tôi đưa mắt nhìn về phía sau, Shirley Dương và Út cũng đều nghe thấy động tĩnh, Shirley Dương sợ tôi có chuyện gì, liền vung tay ném ô Kim Cang về phía này.

Tôi bắt lấy ô, thầm nhủ chẳng lẽ cái xác mục bên trong đang động đậy? Lại thấy cây nến ở góc mộ thất vẫn cháy, dường như mùi hôi thối nồng nặc trong không khí không hề ảnh hưởng gì đến nó. Có ngọn lửa chứng tỏ có dưỡng khí, vả lại trong mộ tạm thời không có nguy hiểm gì, thấy vậy, tôi liền ra hiệu cho Tuyền béo và Tôn Cửu gia, ba người đeo găng tay vào, lại một lần nữa tiến tới phía trước cỗ quách, dùng xẻng công binh khe khẽ khều cửa quách hé ra một khe hở.

CHƯƠNG 54: HỎA THIÊU

Tôi cảm giác trong quách đích thực có thứ gì đó đang động đậy, cánh cửa trên nắp quách tựa như bị níu chặt, không thể hoàn toàn mở ra bên ngoài được. Ở nơi quái quỷ như mộ thất này, tôi không dám lơ là qua quýt, lập tức bảo Tuyền béo chuẩn bị vũ khí, bắn cho nó vài mũi tên trước rồi tính sau. Tuyền béo cũng chẳng buồn nhìn rõ xem thứ bên trong quách vàng rốt cuộc là gì, đã nhấn nút nỏ liên châu, nhắm vào khe hở bắn liền một loạt tên.

Mấy chục mũi tên còn lại trong chớp mắt đã bắn hết vào trong quách, Tuyền béo tiện tay ném cái nỏ đi, nói: “Nhất định đã bắn cho nó thành con nhím rồi, mau mở quan tài ra xem nào.

Tôi biết loại nỏ này của Phong Oa sơn lực bắn rất mạnh, dù cho vật trong quan tài kia da dày thịt chắc thế nào, cũng không đỡ được đợt tên của Tuyền béo, bèn lập tức dổn sức nạy cánh cửa lật trên nắp quách vàng lên. Những tưởng có thể một phát thấy xác luôn, chẳng ngờ hai cánh cửa bị bậy chỉ hé ra một khe hở chưa bằng bàn tay rồi không sao nhúc nhích thêm nữa, bên trong tựa như bị thứ gì đó níu chặt, hơn nữa, lực cũng rất mạnh.

Tôn Cửu gia và Tuyền béo cũng lại giúp tôi nạy nắp quách, không ngờ ba người hợp sức cũng khỏng khiến nó nhúc nhích phân nào, ngược lại, khe hở giữa hai cánh cửa còn thu hẹp dần rồi khép chặt trở lại. Tôi vội nhét luôn Ô Kim Cang vào trong tránh để quách vàng hoàn toàn phong bế.

Tôi lấy làm quái lạ, đang định ghé vào khe hở nhìn xem bên trong rốt cuộc có gì, chợt nghe shirley Dương gọi: “Anh Nhất, anh mau xem ngọn nến kìa!” Tôi vội ngẩng đầu nhìn ngọn nến ở góc Đông Nam mộ thất, không hiểu từ lúc nào ngọn lửa đã biến thành một đốm lửa ma trơi xanh lét lạnh lẽo, bóng nến nửa hư nửa thực, làm cảnh tiên vẽ trên bức bích họa thoạt trông như chốn m tào Địa phủ. Tôn Cửu gia hồn xiêu phách lạc, suýt nữa nhũn người ngã lăn ra đất. Chỉ nghe lão ta kinh hãi kêu lên: “Không ổn, Phong Soái Cổ đã thành thi tiên thật rồi!”

Lão ta thét lên: “Nghìn vạn lần chớ để thi tiên chạy khỏi núi Quạn Tài, mau phóng hỏa đi!” Trong khoảnh khắc ấy, tôi thấy dưói ánh nến, gương mặt Tôn Cửu gia nổi đầy gân xanh, huyết quản căng phồng, nhưng bên trong lại chẳng có chút sắc máu, ngoại trừ việc chưa mọc lông mao do cương thi độc biến mà thành, thì đó rõ ràng là gương mặt dữ tợn của một cái xác sống.

Nhưng cũng hệt như tình hình lúc ở ngôi nhà trong thôn Địa Tiên, chỉ trong chớp mắt, thi khí đậm đặc trên mặt Tôn Cửu gia lại đột nhiên lặn đi, sắc mặt lập tức trở lại xám xịt như tro tàn.

Tôi thấy trong mộ thất có âm phong nổi lên, ánh nến chập chờn như ma trơi, tất cả các dấu hiệu đó đều dự báo trong cỗ quách vàng kia nếu không phải có ma thì cũng xảy ra thi biến. Bấy gờ, tôi chẳng hơi đâu chú ý đến Tôn Cửu gia nữa, vừa nắm chặt xẻng công binh dồn sức bậy nắp cỗ quách, đồng thời bảo tuyền béo nhanh chóng đổ dầu vào trong đốt xác, nhân lúc cục diện vẫn còn khống chế được, mau thiêu rụi hình hài của lão Phong Soái Cổ kia đi.

Tôi ngửi thấy mùi xác thối xộc lên mũi, thầm nhủ thi thể thối rữa nghiêm trọng như vậy chắc chắn không có nội đơn, mở quan khám xác cũng chẳng ý nghĩa gì, bèn ra sức xoay vặn Ô Kim Cang hòng mở rộng khe cửa trên mặt cỗ quách, đồng thời bảo Tuyền béo nhanh chóng ra tay phóng hỏa.

Tuyền béo cũng coi như gặp nguy không loạn, lập tức lấy hộp sắt đựng dầu hỏa ra, định đổ vào trong quách. Hộp dầu bằng sắt tây kín mít này dài và hẹp, phía trước có vòi phun miệng rất nhỏ, phải ép chặt vào mới khiến dầu bên trong chảy ra, trong lúc gấp gáp không khỏi khiến người ta có cảm giác quá chậm chạp.

Tuyền béo lấy làm sốt ruột, chỉ hận không thể dốc thẳng cả hộp dầu vào trong, chẳng ngờ nóng vội lại hỏng chuyện, cậu ta hơi vừa vung tay hơi quá trớn, cái hộp sắt liền vuột khỏi tay, rơi vào trong khe hở trên bề mặt quách vàng.

Tôi và Tôn Cửu gia đồng thanh kêu lên: “Hỏng bét!” Hộp dầu này là chiêu sát thủ cuối cùng của chúng tôi, sao có thể để rơi vào trong quách được? Tôi lập tức nảy ý định thò tay vào trong mò tìm, nhưng cái khe do xẻng công binh nạy ra quá hẹp, cánh tay không thể nào thọc vào được.

Lúc này, Tôn Cửu gia đứng bên cạnh cỗ quách chợt kéo tôi giật lùi ra sau, ba người lùi lại mấy bước, lưng dựa vào tường mộ thất. Bên trong quách vàng lặng im không một tiếng động, trong mộ thất ngoài tiếng thở nặng nề của chúng tôi, cũng chỉ còn ngọn nến xanh lét chập chờn.

Tôi không biết tại sao Tôn Cửu gia lại kéo tôi ra xa khỏi cỗ quách, đang định hỏi lão ta thì chợt nghe dưới lòng đất phát tiếng kim loại rung động, chấn động này làm tay chân chúng tôi đều hơi tê tê. Tôn Cửu gia nhìn chằm chằm vào cỗ quách vàng nói: “Không cần khai quan nữa, cậu xem, trong vách tường đã thấy huyết khí xuất hiện, thi tiên sắp xông ra mất rồi.”

Phong Soái Cổ từng viết rất rõ trong Quan Sơn quật tàng lục, khi sương máu nhập đất cũng chính là lúc quần tiên rời núi. Sinh khí trong địa mạch Bàn Cổ đã tiêu tan cả nghìn năm Quan Sơn thái bảo xây dựng thôn Địa Tiên gồm âm trạch và dương trạch chính là để khôi phục sinh khí trong thi mạch này. Năm đó, Phong Soái Cổ đào được trong núi một thi tiên đã rữa nát, sau khi chết, ông ta mang theo cả thi tiên vào mộ, đồng thời suy đoán khi sinh khí ở thôn Địa Tiên khôi phục, bản thân ông ta sẽ có thể hóa thành chân tiên, dẫn theo mấy vạn môn đồ phá quan tài xông ra khỏi mộ cổ.

Sương máu, chính là chỉ Cửu Tử Kinh Lăng giáp chôn xung quanh núi Quan Tài, loài thực vật do gỉ đồng biến dị sinh ra này có huyết khí cực kỳ nóng, hoàn toàn ngăn cách mộ cổ thôn Địa Tiên với thế giới bên ngoài. Giờ đây, Kinh Lăng giáp đã mất khống chế, đang thắt chặt vào núi Quan Tài, bất cứ lúc nào cũng có thể triệt để nghiền nát toàn bộ địa mạch Bàn Cổ này, từng tia huyết khí mong manh đã thấm vào Linh Tinh điện, ngọn nến thắp trong mộ thất bị ảnh hưởng của nó, nên mới chập chờn như vậy.

Nhưng Phong Soái Cổ là một bậc kỳ nhân tính toán sâu xa, thông hiểu phép suy đoán dựa vào âm dương ngũ hành, tại sao lúc còn sống ông ta lại nhận định khi Cửu Tử Kinh Lăng giáp vào núi, vô số xác chết trong mộ sẽ xuất sơn? chẳng lẽ người này không nghĩ đến khả năng Kinh Lảng giáp thắt chặt, làm toàn bộ núi Quan Tài tan tành, dưới cái tổ vỡ lấy đâu ra trứng lành? Núi Quan Tài tiêu rồi, mộ cổ cùng xác cổ bên trong cũng sẽ tiêu tùng theo, vả lại Bàn Cổ mạch nằm sâu dưới lòng đất, bên trên là núi cao nghìn thước, làm sao có chuyện quần tiên rời núi như ông ta nói được chứ?

Trừ phi trên đời này có thần tiên thật, bằng không tôi tuyệt đối không tin đám xác chết trong thôn Địa Tiên có thể rời khỏi lòng đất ra thế giới bên ngoài. Thấy Tôn Cửu gia đã nguội lòng, không còn hăng hái đòi khai quan đốt xác như lúc nãy nữa, tôi không nén được cơn giận, bảo lão ta: “Chuyện trong thôn Địa Tiên này vốn chẳng liên quan gì với chúng tôi cả, chính ông lôi kéo chúng tôi tới đây, sao đến nửa chừng ông lại quẳng gánh giữa đàng như thế ?”

Tuyền béo nói: “Nếu đã thấy quan tài, lý đâu lại không mở ra khua khoắng một phen, Tôn Cửu gia nhà ông không muốn làm thì tôi cũng chẳng cản, đừng vướng tay bận chân người khác là được, bây giờ tách nhóm ra cũng chưa muộn đâu.”

Chỉ mình Shirley Dương đang trấn thủ phía lối ra vào mộ thất là dường như còn hiểu được nỗi khổ của Tôn Cửu gia, cô nói với tôi: “Anh Nhất, giáo sư Tôn không giống kẻ sợ bóng sợ gió đâu, chắc ông ấy lo những suy đoán của Phong Soái Cổ đều là sự thật đấy thôi.”

Tôn Cửu gia chầm chậm gật đầu, ủ rũ nói với cả bọn: Nhà họ Phong sinh ra một kẻ bại hoại cặn bã, bao nhiêu đời nay chúng tôi đã liều mình hy sinh, chính là để trừ diệt mối họa hại Phong Soái Cổ này. Nhưng từ lúc chúng ta vào trong núi Quan Tài, tôi càng lúc càng có cảm giác nhất cử nhất động của chúng ta thảy đều bị Phong Soái Cổ dự đoán trúng, huyết khí Kinh Lăng giáp đã thấm vào mộ thất, Phong Soái Cổ nằm trong cỗ quách vàng ròng kia chắc chắn đã trở thành chân tiên, dù chúng ta có làm gì cũng muộn mất rồi.”

Út cũng bị những lời của Tôn Cửu gia làm cho hoảng sợ lo lắng nói: “Anh Nhất, nghe ông nuôi em nói, ở trong rừng sâu núi thẳm đúng là có thi tiên đấy, hễ nó ra khỏi núi, dân chúng quanh vùng đều phải mất mạng.”

Tôi đáp: “Anh chẳng tin mấy chuyện tà ma quỷ quái, chẳng có chuyện gì là được số mệnh định sẵn cả đâu, cương thi chết mấy trăm năm rồi làm sao thành tiên được? Giờ là thời đại nào rồi, mà còn vọng tưởng tu tiên với chẳng luyện đan? Dù hồi xưa thật sự tồn tại thứ mê tín mông muội này chăng nữa, thì bây giờ cũng không thể nào tái xuất được, vì bánh xe lịch sử không thể quay ngược, bất cứ kẻ nào có ý đồ quay về quá khứ, đi ngược dòng lịch sử, đều sẽ bị bánh xe lịch sử khổng lồ đó nghiền nát vụn.”

Tuyền béo vỗ đít nói: “Nếu thi tiên có thể bò ra khỏi núi Quan Tài thật, Tuyền béo tôi đây cũng vui lòng chia sẻ với lão câu cách ngôn bất hủ của chú Sam... vô tri là mẹ của mê tín.” Tôi không khỏi lấy làm kinh ngạc, xem ra trình độ của Tuyền béo dạo này cao hơn hẳn hồi trước, phạm vi trích dẫn đi vượt ra ngoài ba tác phẩm của Mao Trạch Đông trước khi thành lập nước và các trước tác của Mác Lê rồi, chỉ không ngờ cu cậu nhớ cái gì là thuận mồm phun ra cái ấy, chẳng hiểu nghe được ở đâu, tai này lọt sang tai kia, nhớ nhầm chú Balzac thành chú Sam.

Tôi thấy sương máu trong mộ mỗi lúc một nhiều, cũng chẳng hơi đâu mà hỏi tại sao dạo này học vấn của Tuyền béo khá lên như thế, muốn mở quan tài hủy xác chết rồi thoát khỏi núi Quan Tài, phải tranh thủ ra tay ngay bây giờ, trước mắt cần gạt hết những lo lắng băn khoăn ra khỏi đầu mới được. Có câu, đánh được một đấm thì khỏi bị trăm đấm, vào thời khắc quan trọng không thể không có hành động thực tế. Nghĩ đoạn, tôi vội gọi cả bọn cùng xông lên, cần phải bậy nắp quách vàng lên, lấy hộp dầu rơi trong đó ra mới có thể hỏa thiêu thi thể.

Cả mấy người cùng tới trước quách, hợp lực nạy hai cánh cửa của cái quách như cái khám thờ ấy ra, lần này chúng tôi dốc hết toàn lực, bỗng nghe “cách” một tiếng, nắp quách bật ra, cùng lúc đó, ánh sáng xanh lóe lên, một cái xác bên trong quách ngồi bật dậy. Thi thể này thân hình cao lớn, nếu đứng lên chắc phải cao hơn Tuyền béo chừng hai cái đầu, toàn thân bọc bên trong áo giáp ngọc có hoa văn hình rồng, cũng chính là áo ngọc tơ vàng mà người ta thường nói, những mảnh giáp ngọc bao kín toàn thân từ trên xuống dưới. Chiếc áo ngọc này có kết cấu hết sức tinh diệu, những chỗ đốt ngón tay đều dùng mảnh ngọc nhỏ ráp nối, có thể co ra duỗi vào một cách tự nhiên.

Lúc hạ táng, hai cánh tay của xác cổ trong áo ngọc này hình như mắc vào nắp quách, vừa bậy nắp lên, cái xác thối rữa mà không cương hóa cũng bị kéo theo, ngồi bật dậy trong cỗ quách vàng.

Cả bọn chúng tôi đang quây phía trước quách vàng, ánh sáng của mấy ngọn đèn cùng chiếu lên cái xác khoác giáp ngọc. Giữa những cột sáng loang loáng, chỉ thấy trên xác găm đầy mũi tên, đều do nỏ liên châu bắn ra lúc mới nậy cái nắp lên. Những vị trí trúng tên trên người đều có máu rỉ ra, riêng chỗ bị tên bắn trên đầu, mảnh ngọc vỡ ra, đé lộ sắc vàng bên trong, dường như đó là một cái đầu lâu bằng vàng ròng được gắn lên cổ thân thể không đầu.

Mấy người chứng tôi đều ngẩn ra: “Trong quan quách không phải địa tiên Phong Soái Cổ, mà là vị đại ế ti có thân không đầu, cũng chính là Ô Dương vương được miêu tả thành con lợn đen khơi dòng trong truyền thuyết hay sao? Tương truyền khi chết Ô Dương vương đã hóa chành thi tiên, nhưng theo bức Quan Sơn ngộ tiên đồ thì ông ta đã bị Phong Soái Cổ phân thây rồi, sao lại xuất hiện ở trong mộ Địa Tiên này chứ?”

Tôi phát hiện cái xác cổ mình khoác giáp ngọc của Ô Dương vương đang tỏa ra thi khí tanh nồng, móng tay vừa dài vừa cong, đã xuyên qua kẽ áo giáp thò ra ngoài, chết mà như sống, đây chính là dấu hiệu thi biến. Tôi vội hỏi Tôn Cửu gia: “Đây là Phong Soái Cổ hay là Ồ Dương vương vậy?”

Tôn Cửu gia há miệng trợn mắt, không nói được lời nào tôi đưa mắt liếc ngọn nến ở góc Đông Nam mộ thất, thấy ánh sáng xanh lét như ma trơi yếu ớt như sắp tắt đến nơi, tự biết cái xác cổ của Ô Dương vương này tuyệt đối không tầm thường, nói không chừng có thể bổ nhào tới vồ người cũng nên. Nghĩ đoạn, tôi vội bảo Út: “Mau ném dây thừng ra trói xác vào!”

Út nghe thấy tiếng gọi, liền vung tay ném thừng trói tiên ra, mấy tầng thòng lọng tựa như thiên la địa võng trói lấy Ô Dương vương, kéo dây ra sau một cái, cái xác cổ đã bị quấn thành một đòn bánh tét.

Tôi và Tuyền béo cũng giúp một tay, ba người dồn sức kéo dây trói, lôi thân thể nặng nề dị thường của Ô Dương vương ra khỏi quan quách, quăng xuống nền đất mộ thất. Cú va đập này khiến sương đen trong kẽ hở bộ giáp ngọc trên người xác cổ phun ra, cái đầu bằng vàng lộ ra dưới ánh đèn loang loáng và màn sương đen mù mịt, thoạt trông tựa hồ mắt sáng như đuốc, tình huống đáng sợ vô cùng.

Tôi hiểu rõ, thả hổ thì dễ bắt hổ mới khó, lúc này quyết không thể do dự chùn tay được, liền ra dấu cho Shirley Dương, không cần nói nhiều, cô lập tức hiểu được ý tôi, cúi người nhặt hộp dầu hỏa trong quách vàng lên, nhanh chóng chạy tới phun lên xác cổ của Ô Dương vương, Tôn Cửu gia đứng bên cạnh lập cập đánh diêm, đưa tay châm lửa.

Ngọn lửa “phụt” một tiếng bùng lên, lập tức bọc kín lấy Ô Dương vương trong bộ giáp ngọc. Thứ dầu hỏa được nén trong hộp sắt này uy lực không nhỏ, thời gian cháy khá dài. Tới đây, tảng đá trong lòng tôi rốt cuộc cũng rơi xuống, mặc xác nó là cương thi hay xác sống, gặp phải lửa cũng cháy rụi thành tro mà thôi. Ngoảnh đầu lại nhìn quách vàng, bên trong ngoài mấy mảnh ngọc và mũi tên thì không còn thứ gì khác, bên dưới nữa là bệ kê rồi. Mộ thất của địa tiên quy mô có hạn, Phong Soái Cổ không thể táng ở nơi nào khác nữa, nhưng tại sao thi thể ông ta lại biến thành Ô Dương vương ? Chuyện này quả khiến người ta khó lòng hiểu nổi. Trong mộ thất này không còn cái xác thứ hai, vì vậy chỉ có một khả năng duy nhất, cái xác gắn đầu lâu vàng này chính là địa tiên Phong Soái Cổ.

Tôi chỉ mong sự việc trong mộ Địa Tiên này kết thúc cho sớm, thầm suy đoán có lẽ Phong Soái Cổ muốn học theo thuật hóa tiên của Ô Dương vương, kết quả mới biến mình thành ra như vậy. Ý nghĩ quá phận muốn độ luyện thành tiên lúc sinh tiền của ông ta, trong nháy mắt nữa thôi sẽ bị ngọn lửa phừng phừng kia thiêu đốt thành tro bụi, rồi thằng cha này củng chỉ có thể theo đuổi “vĩnh sinh trong lửa đỏ” mà thôi.

Cả bọn bị ngọn lửa dồn ép, đều lùi cả về một góc mộ thất, Tuyền béo còn toan tính đợi khi lửa tắt sẽ chôm luôn cái đầu lâu bằng vàng ròng kia. Thứ ấy dẫu sao cũng dễ vận chuyển hơn cả cỗ quách bằng vàng, phen này vào núi đã tốn không ít công sức, không mang chút hàng ngon về làm “đồ lưu niệm” thì không ổn.

Tôi chẳng có tâm tứ để ý tới minh khí trong mộ Địa Tiên nữa, mắt thấy ngọn lửa đã nhấn chìm cái xác, bèn bắt đầu nghĩ cách làm sao thoát khỏi núi Quan Tài. Muốn thoát thân khỏi vòng vây trùng điệp của Cửu Tử Kinh Lăng giáp và lũ sâu quan tài, cơ hội thực hết sức mong manh, nhưng cũng chưa đến nỗi tuyệt hết đường sống. Nghĩ đoạn, tôi bèn bảo cả bọn: “Địa tiên sắp hóa thành tro bụi rồi, có phải chúng ta nên thảo luận xem làm sao tìm được lối thoát rời khỏi nơi này hay không?” Tôn Cửu gia dường như không dám tin hình hài cùa Phong Soái Cổ có thể bị hủy hoại dễ dàng như vậy, thế là xong rồi ư? Tôi nói, cũng may tôi hành sự nhanh nhạy, nếu để thi biến xảy ra thật, thì chỉ dựa vào thừng trói tiên chưa chắc đã trói được nó đâu, ngọn lửa của chúng ta mặc dù không sánh được với lò thiêu xác ở đài hỏa táng, nhưng cũng có thể coi như một quà bom Napal cỡ nhỏ rồi, Phong Soái Cổ chẳng qua chi là một cái xác rữa chứ có phải Kim Cương La Hán đầu đồng xương sắt đâu, hẳn khi cháy xong cùng lắm cũng chỉ còn chút cặn xương thôi.

Lòng đất dồn dập truyền đến hết trận địa chấn này đến trận địa chấn khác, tựa như một lá bùa đòi mạng bức ép chúng tôi phải nhanh chóng rời khỏi. Shirley Dương nói: “Chốn thị phi không nên ở lâu, nhân lúc Cửu Tử Kinh Lăng giáp còn chưa hủy hoại toàn bộ núi Quan Tài, chúng ta nhanh chóng rời khỏi Linh Tinh điện quỷ quái này thì hơn.”

Tôi gật đầu đồng ý, quay sang nói vói Tuyền béo đang thẫn thờ: “Cậu tiến bộ giùm tôi một chút có được không hả, núi xanh còn đó sợ gì thiếu củi đun, đừng nghĩ đến cục vàng ấy nữa, theo tôi rút khỏi đây...” Lời còn chưa dứt, Tôn Cửu gia đột nhiên vỗ vai tôi kêu lên: “Mau xem ngọn nến ở góc mộ thất kia!”

Mọi người nghe tiếng, đều đổ dồn ánh mắt về góc Đông Nam mộ thất, chỉ thấy ngọn nến đột nhiên tắt ngấm, chỉ còn lại một vệt khói xanh lờ lững bốc lên rồi tiêu tán không tăm tích. Người xưa dùng tám cửa để biểu thị tám phương vị, phía Đông Nam là phương vị nguy cơ xuất hiện, ngọn nến tắt phụt, chính là điềm đại họa tày trời đã đến ngay trước mắt.

Tôi lạnh cả người, song vẫn gắng gượng tự an ủi mình, nến tắt là vì huyết khí trong mộ thất quá đậm đặc, cộng với ngọn lửa bùng lên, hàm lượng ôxy trong không khí tự nhiên phải giảm xuống phần nào, đến thở còn thấy không được thoải mái, nên nến tắt cũng chẳng có gì to tát cả.

Nhưng sự việc ập xuống đầu, làm gì có chuyện chúng tôi nghĩ thế nào thì được thế ấy, nhìn khu vực đang bốc cháy, hình như sức nóng đã khiến gân cốt cái xác co rút lại, thi thể trong ngọn lửa phừng phừng đột nhiên ngồi bật dậy. Ngọn lửa hừng hực chừng như hoàn toàn không gây tổn hại gì cho nó, chỉ có tơ vàng nối liền những mảnh giáp ngọc với nhau là bị nhiệt độ cao làm tan chảy, hai tầng giáp ngọc lả tả bong ra, đồng thời, một cái đầu lâu bằng vàng mặt mũi hung tợn hiện lên trong ánh lửa.

Áo ngọc tơ vàng là cổ vật thời Tần Hán, tùy theo thân phận của quý tộc mà chia ra làm các loại tơ vàng, tơ bạc, tơ đồng, hầu hết các lăng tẩm sau thời Hán đều không dùng thứ này nữa. Không hiểu Quan Sơn thái bảo đào được vật này trong ngôi mộ thời Hán nào, không ngờ lại chịu được nước lửa. Những mảnh giáp ngọc tuy không bị tổn hại, nhưng ngọn lửa đá khiến tơ vàng đứt đoạn, cả bộ giáp ngọc hoa văn rồng tróc ra từ đầu tới chân như thể con trăn lột da, bấy giờ cái xác bên trong mới dần hiển lộ trước mắt chúng tôi.

CHƯƠNG 55: QUÁI VẬT

Cả bọn bị tình cảnh quỷ dị trong ngọn lửa làm dấy lên một nỗi sợ không thể hình dung, nhất thời đều ngẩn ra tại chỗ. Chỉ thấy trong ngọn lửa hừng hực cháy bằng thứ nhiên liệu nén những mảnh giáp ngọc trên người xác cổ lần lượt rơi xuống lả tả, thứ đầu tiên lộ ra là cái đầu lâu đúc bằng vàng ròng, gương mặt quái dị nhe răng bị ánh lửa hắt lên, trong hốc mắt hõm sâu tựa như có huyết quang đỏ sậm lấp lóa.

Những mảnh áo ngọc bong ra, phần thân bên dưới cái xác cũng bắt đầu lộ ra trong ngọn lửa, tôi vốn lấy làm lạ tại sao thi thể Phong Soái Cổ lại cao lón khôi vĩ như vậy, thật khác xa với hậu nhân Tôn Cửu gia của ông ta, chẳng lẽ là chồn vàng đẻ chuột cống, đòi sau không bằng đời trước ? Nhưng đến lúc này, tôi mới sực hiểu, cái xác này tuyệt đối không phải địa tiên Phong Soái Cổ, mà là ô Dương vương đã được mai táng trong phần đầu của thi mạch Bàn Cổ từ mấy nghìn năm trước.

Thì ra, cai xac cổ bọc trong giáp ngọc này không mặc áo liệm, mà hoàn toàn trần truồng, cơ thịt khắp người phù thũng, hầu như đã rữa nát, nhưng nhờ ánh lửa, vẫn co thể nhìn thấy những vết máu kéo dài trên thân thể, tựa hồ như bị phân thây rồi lại được người ta may lại. Tôi thầm nhủ: “Phiền phức rồi, dầu hỏa đã hết sạch, không ngờ lại chỉ đốt được một kẻ thế mạng, địa tiên Phong Soái Cổ không có ở trong mộ thất này thì có thể trốn ở đâu được nhỉ?

Tôi còn đang sửng sốt thì Shirley Dương đã nhìn ra một vài manh mối, thấp giọng nói: “Trong quách vàng không lý nào lại không có quan tài, áo giáp ngọc và thi thể Ô Dương vương này chính là hai tầng áo quan của địa tiên đấy.”

Shirley Dương vừa một lời bóc trần sự thật, kết quả đã ứng nghiệm luôn, chỉ tháy thân thể Ô Dương vứơng từ từ tan chảy, cái đầu lâu vàng cũng rơi xuống, quả nhiên chỉ là một cái bao da, bên trong đã bị khoét rỗng, nhưng không biết tại sao trong da thịt vấn còn huyết dịch. Giáp ngọc và lớp vỏ da bên ngoài lần lượt tróc xuống, bên trong da thịt Ô Dương vương lộ ra một gương mặt đàn ông râu tóc đen nhánh.

Người đàn ông bên trong quan tài da thịt Ô Dương vương tuy đã chết mấy trăm năm, nhưng râu tóc vẫn như lúc sống, anh phong nhuệ khí còn nguyên, đầu đội mủ ngọc, thân vận áo bào đen, tay nâng phất trần, toát lên một phong thái thần tiên thoát tục, song gương mặt lại bao phủ trong một tầng thi khí âm trầm dị thường, chứng tỏ lão tuyệt đối chẳng phải tiên gia, mà là một cương thi chết rồi không tan rữa.

Tôn Cửu gia đứng cạnh tôi trợn trừng hai mắt, tưởng như muốn rách cả khoé: “Đây chính là địa tiên... Phong Soái Cổ?” Lão ta tuy cực kỳ phẫn hận, nhưng trong giọng nói lại toát lên vẻ kinh khiếp tột cùng, tựa hồ không dám tưởng tượng tiếp sau sẽ xảy ra chuyện gì. Hiển nhiên, sau khi chết đi, uy thế của vị thủlĩnh Quan Sơn thái bảo cuối cùng này vẫn không hề giảm sút trong lòng người nhà họ Phong. Phen này, Phong Soái Cổ đã hiện thân, chỉ sợ thôn Địa Tiên trong núi Quan Tài sẽ có đại họa giáng xuống.

Tôi thấy Tôn Cửu gia sợ run cả người, định bụng bảo lão ta: “Cái vỏ da ô Dương vương đã cháy rụi. chỉ chốc nữa lão Phong Sóai Cổ kia cũng thành tro, còn lo cái quái gì nữa?”

Chẳng ngờ chuyện xảy ra tiếp sau đó. Khiến cái miệng mới há ra được nửa chừng của tôi không thốt nổi chữ nào. Thi thể địa tiên vừa xuất hiện, thi khí trong mộ thất đột nhiên trở nên đậm đặc, thế lửa lập tức yếu dần, mùi thối nồng nặc cơ hồ khiến người ta tắc thở ngất xỉu tại chỗ.Mọi người vội vàng đeo mặt nạ phòng độc lên, nhìn qua ô quan sát trên mặt nạ. thấy thế lửa đã giảm xuống đến cực hạn, cái xác chết mà không hóa của địa tiên vẫn hoàn toàn không chút suy suyển trong ngọn lửa. Nếu nói bộ áo bào đen Phong Soái Cổ mặc có thể cách nước cách lửa giống như áo Phong Vânnă xưa Mô Kim hiệu úy sử dụng thì cũng đành, nhưng quái lạ nhất là râu tóc Phong Soái Cổ cũng không hề bị tổn hại. Tôi thầm kinh ngạc, thế giới quan cũng bắt đầu dao động, tự nhủ: “Chẳng lẽ người này đã thành tiên, có thể vượt qua mọi quy luật vật lý, tu luyện đến mức thủy hỏa bất xâm rồi ? Nếu thế, muốn tiêu hủy hình hài lão Phong Soái Cổ e còn khó hơn lên trời, nói không chừng cuối cùng cả đám đều bị thi tiên độ hóa, ở lại dưới lòng đất này làm vật bồi táng cho nó cũng nên”.

Theo quan điểm của người xưa, những gì trái với lẽ thường đều là yêu. Cũng theo cách nói này, trên đời có yêu thì cũng có tiên, ranh giới giữa hai thứ chẳng qua chỉ mỏng như giấy dán cửa sổ, tiến một bước là tiên, lui một bước là yêu. Năm đó, trong động Bách Nhãn ở tận cùng thảo nguyên Nội Mông, tôi từng gặp phải hai con chồn lông vàng biết thuật đọc tâm, suýt nữa mất mạng vào tay chúng. Bọn chúng chính là yêu vật lâu ngày thành tinh, nhưng chỗ dị thường của lũ chồn vàng ấy chẳng qua chỉ là sống lâu ngày thành ra có thể nhìn thấu lòng người, chứ không phải là có tấm thân bất tử thủy hỏa bất xâm, dù là giống giảo hoạt tột cùng, rốt cuộc vẫn bị tôi và Tuyền béo làm thịt.

Nhiều năm nay tôi đi khắp nơi mò vàng đổ đấu, cũng cảm thấy sự vật tồn tại quá lâu sẽ lộ ra chút linh dị, nhưng tôi tuyệt đối không tin trên đời này có tiên gia thật sự, có lẽ thời xưa quả thực có thuật luyện đơn, nhưng mấy nghìn năm nay đã có ai tận mắt trông thấy chuyện vũ hỏa thăng thiên đâu? Từ thời Tần Tấn, trên đời đã có người chế ra các loại dan dược như Ngũ thạch tán, Hàn thực tán, không biết bao nhiêu người thông minh đã mất mạng vì những thứ này rồi.

Mới rồi, tôi thấy Phong Soái Cổ ở trong ngọn lửa mà không hề tổn hại một cọng tóc, vốn cũng hơi kinh hãi, nhưng trong lòng đã thầm hạ quyết tâm, nếu ông trời có mắt, dẫu cho trên thế gian này có tiên gia con bà nó thật, thì cũng không nên để loại người chuyên mê hoặc dụ dỗ người ta như lão già này làm tiên. Nếu lửa không thiêu đốt được cỗ cương thi này, vậy thì phải cho nó biết thế nào là loạn đao phân thây. Những ý nghĩ này vừa lóe lên trong đầu, tôi liền cầm ngay xẻng công binh vào cạy, vẫy vẫy ra hiệu cho những người sau lưng rồi nhao người xông lén, định dùng mặt xẻng làm lưỡi đao, chặt thằng cha địa tiên này thành tám mảnh.

Tôi vòng qua cỗ quách vàng, đi đầu tiến lại gần đống lửa, thế lửa bị thi khí áp đảo đã yếu hơn trước nhiều, thi thể địa tiên ngồi bất động trong đống lửa. Tôi bước lại, vì ngại mộ thất quá thấp, bèn vung xẻng quét ngang qua, mặt xẻng nhằm mặt địa tiên vỗ thẳng tới, không ngờ lại vỗ vào khoảng không.

Thì ra đúng lúc tôi vung xẻng lên, mộ cổ chợt rung chuyển dữ dội, mặt đất đột nhiên nứt toác ra, địa tiên Phong Soái Cổ và đống lửa dưới đất đều rơi cả xuống dưới, nếu không phải Shirley Dương nhanh tay nhanh mắt kéo tôi lại, thì tôi dùng sức quá mạnh, không thu thế kịp, thế nào cũng phải rơi xuống theo rồi.

Lúc này, mặt đất lõm xuống rất nghiêm trọng, sàn mộ thất tựa như toác ra thành một cái miệng đen ngòm, cỗ quách vàng sau lưng chúng tôi cũng lắc lư trượt xuống hố sâu. Tôi lách người né tránh cỗ quách, biết rằng Cửu Tử Kinh Lăng giáp sẽ nhanh chóng nghiền nát nơi này, không khỏi thầm nhủ, lẽ nào Phong Soái Cổ lại bị Kinh Lăng giáp phân thây thành nghìn vạn mảnh hay sao?

Tôi bất chấp Cửu Tử Kinh Lăng giáp có thể xuyên vào mộ thất bất cứ lúc nào, nhân lúc ánh lửa trong hố còn chưa tắt hẳn, vội vàng cúi người xuống nhìn vào bên trong, chỉ thấy bên dưới mộ thất của địa tiên là tầng nham thạch và ngọc tủy rất dày, nhưng địa tầng đã đứt gãy tạo thành một cái hố sâu không thầy đáy, bên trong toàn những gai đồng tua tủa, gai đồng dày đặc như vô số xúc tu của con hải quỳ, mỗi chiếc gai lại đầy vảy ngược nhọn hoắt.

Dầu lửa đang cháy cùng gạch mộ rơi lên trên Kinh Lăng giáp, vẫn tiếp tục cháy bùng bùng. Nhờ ánh lửa, có thể trông thấy Phong Soái Cổ cũng rơi xuống cách mặt sàn mộ thất không xa lắm, thi thể đã bị mấy chục nhánh Kinh Lăng giáp móc phải, trong đó có một mũi gai to như ngón tay đâm vào gáy, rồi lòi ra phía trước trán.

Cửu Tử Kinh Lăng giáp do đồ đồng xanh có từ thời tam đại hóa thành, là một loại vật khí bồi táng dùng bảo hộ mộ, vì thứ này đá tuyệt tích cả nghìn năm, nên hiểu biết của tôi về nó hết sức hữu hạn, chỉ biết hình như là giết chết nô lệ trong đồ đồng, bên trong trộn với rễ cỏ Cửu Tử Hoàn Hồn, bùn đất và máu thịt của xác chết nghiền nát ra, sau đó đem chôn gần lăng mộ vài năm, là có thể sinh ra một giống thực vật hút máu sống dưới lòng đất, bộ rễ chằng chịt của nó sắc bén vô cùng, có tính bọc âm theo dương, vì vậy nó sẽ không ngừng phát triển bao bọc xung quanh lăng mộ, gặp phải vật sống liền hút máu. Đồ đồng cổ thời Hạ Thương Chu cực kỳ hiếm gặp, vì vậy những mộ táng quy mô lớn có Kinh Lăng giáp bồi táng cũng không nhiều.

Đây là lần đầu tiên trong đời tôi trông thấy Cửu Tử Kinh Lăng giáp dưới lòng đất, nhưng có chết cũng không thể quên nổi tình cảnh ấy. Bị giới hạn bởi bộ rễ, nên những gai nhọn kia nhất thời khó đâm xuyên vào mộ cổ được, nhưng những mũi gai chi chít hiện lên dưới ánh lửa vẫn làm ai nây rợn cả người. Địa tiên Phong Soái Cổ bị mấy nhánh rễ đầy gai đâm xuyên qua, toàn thân máu chảy như suối, trong khoảnh khấc, thi thể đã bị hút sạch huyết tủy, chỉ còn lại cái vỏ rỗng không.

Cảnh tượng này chúng tôi đều nhìn tháy rõ mồn một, dẫu là kẻ lòng dạ nham hiểm độc ác chừng nào, tận mắt chứng kiến cảnh địa tiên bị gai đồng hút sạch huyết tủy, hẳn củng phải rùng mình khiếp sợ. Út không dám nhìn thêm nữa, lùi lại hai bước ngồi phịch xuống nền đất.

Tôi thấy thân thể Phong Soái Cổ vẫn chảy máu tươi không khác gì người sống, mới biết cảnh tượng miêu tả trong Quan Sơn ngộ tiên đồ không phải là giả, nhưng không hiểu sao ông ta có thể làm được như vậy. Chỉ có điều, người này tự xưng là bậc thần cơ diệu toán, mơ tưởng sau khi chết có thể thành tiên rời núi, nhưng dù lão có là thần tiên thật, sợ rằng cũng không ngờ mình lại có kết cục thế này. Giờ đây mọi chuyện đã kết thúc, tiếp sau đây, chúng tôi cần phải nhanh chóng nghĩ cách thoát khỏi núi Quan Tài, bằng không tất cả cũng sẽ bị Kinh Lăng giáp cho thủng lỗ chỗ giống như Phong Soái Cổ kia vậy.

Mắt thấy những vét nứt xuất hiện mỗi lúc một nhiều lan rộng ra khắp bốn phía như vết nứt trên mặt băng, không thể chần chừ thêm được nữa, tôi bèn tóm lấy Tôn Cửu gia đang nằm rạp xuống sàn thò cổ nhìn xuống bên dưới, định nhanh chóng chạy khỏi gian mộ thất này. Nhưng khi tay tôi vừa chạm vào cánh tay lão ta, bỗng phát hiện dưới hố sâu hun hút đầy những gai đồng chằng chịt kia xảy ra một sự việc còn khủng bố hơn bội phần.

Cái xác bị Kinh Lăng giáp đâm xuyên, đồng thời bị hút sạch huyết tủy của Phong Soái Cổ đột nhiên chầm chậm ngắng đầu lên. Những vảy ngược trên giáp đồng đã giật rơi một mảng cả xương cốt lẫn thịt trên đầu lâu, trước trán lộ ra một cái hốc đen ngòm, chỉ thấy địa tiên đột nhiên mở trừng mắt, hai con mắt tựa như hai hố đen sâu thẳm. Đột nhiên, cái đầu ngửa ra sau, miệng càng lúc càng ngoác lớn, vượt xa biên độ thông thường, hai hàm răng cơ hồ tách hẳn ra thành một góc trăm tám mươi độ.

Lúc này, ngọn lửa rơi xuống Kinh Lăng giáp đã cháy gần hết, khe nứt bên dưới mộ thất dần chìm vào bóng tối, trong vệt sáng cuối cùng còn sót lại, có thể trông thấy một cái bóng mờ mờ tựa hồ khắp thân mọc đầy lông mịn đang vùng vẫy bò ra khỏi miệng địa tiên Phong Soái Cổ. Trong chớp mắt, ngọn lửa tắt phụt, không sao nhìn thấy sự vật bên dưới được nữa.

Cả bọn gần như kinh hãi đến đờ người ra, nhưng vết nứt địa tầng mỗi lúc một nhiều, nếu còn nấn ná, chỉ e trong chốc lát, mộ thất sụt lún, chúng tôi cũng sẽ rơi xuống dưới theo. không nghĩ ngợi gì nhiều, vội kéo giật Tôn Cửu gia đã hồn xiêu phách tán ra phía sau, Shirley Dương cũng lôi Út dậy, cả bọn dùng tay ra dấu, để Tuyền béo dẫn đầu, nhanh chóng lùi lại chỗ địa tầng chưa bị nứt toác lún sụt.

Lúc này đường chúng tôi tới đây đã sụt hết, tường mộ nứt toác khắp nơi, mộ đạo cũng lún một mảng lớn. Tuyền béo cuống lên, dốc hết sức trâu ra nạy cánh cửa đá vào gian bồi táng, cũng may cánh cửa không bị bịt chặt, cũng không quá dày dặn kiên cố, cậu ta dồn hết sức lực cuối cùng cũng nạy ra được một khe hở vừa khéo chui lọt một người. Tôi thấy bốn bề đều là tuyệt lộ cũng chỉ đành đi bước nào hay bước ấy, bèn kéo giáo sư Tốn, cùng Tuyền béo lách vào gian phụ.

Từng đợt rung động như động đất không ngừng truyền vào cơ thể, tôi vội dựa lưng vào tường, lia ngọn đèn chiến thuật gắn trên mủ bảo hiểm leo núi một lượt từ trái sang phải, thấy mọi người đều đã vào cả, trong lòng mới yên tâm phần nào, rồi lại lập tức đưa mắt quan sát xung quanh. Gian thạch thất chật hẹp thấp tè này quả nhiên là mộ thất phụ chứa các loại minh khí, dưói đất chất đống sách vở và châu báu, nhìn đâu cũng thấy toàn thứ quý giá. Trong lúc cuống cuồng, tôi cũng không nhìn ra đống minh khí này có kỳ trân dị bảo gì hay kông, chi loáng thoáng thấy có cả xương cốt của các loại linh thú như hươu mai hoa, tiên hạc... Thạch thất này phủ bụi đã lâu, trong không khí rất nhiều tạp chất, vẫn không thể mạo hiểm gỡ mặt nạ phòng độc xuống được.

Trong ánh đèn mờ mịt, tôi phát hiện gian phụ này cũng bắt đầu nứt vỡ, tường mộ ở cuối phòng sụp xuống, lộ ra một bậc thang đá chật hẹp, hai đầu đều không thấy tận cùng, một bên chênh chếch thông lên phía trên. Điện Linh Tinh mộ Địa tiên nằm trong phần bụng của thi mạch Bàn Cổ, gồm vô số mộ thất hình thành trong tự nhiên phân bố cao thấp không đều, đa phần chỉ cách nhau một khối đá hoặc một bức tường, hiện giờ căn bản không thể phán đoán bậc thang này dẫn đến nơi nào. Chỉ là, Cửu Tử Kinh Lăng giáp lúc này đã nghiến nát địa tầng dù biết rõ Kinh Lãng giáp đã bọc lấy núi Quan Tài như kén tằm bốn phương tám hướng đều là tuyệt lộ, chúng tôi vẫn không thể không nhanh chóng chạy lên phía trên, cố gắng tranh thủ chút hy vọng sinh tồn mỏng manh đến độ gần như không tồn tại.

Tôi lập tức đưa tay chỉ lên, bảo mọi người đừng dừng lại, tiếp tục chạy lên bậc thang phía trước, lúc này, chúng tôi đã như nỏ mạnh hết đà, hai chân tê mỏi vô cùng. Tôi và Shirley Dương từng được huấn luyện trong quân đội, còn Tuyền béo thì trời sinh khỏe như vâm, thể chất rèn luyện sau nhiều năm tham gia lao động sản xuất ở Đại Hưng An Lĩnh cũng không phải trò đùa, nếu ngay cả chúng tôi cũng bắt đầu không cầm cự nổi thì hai người Tôn Cửu gia và Út càng khỏi phải nhắc. Cả bọn vừa kéo vừa đẩy lẫn nhau, không biết đã đi bao lâu trong bóng tối, khó khăn lắm mới leo lên được bậc thang cuối cùng. Đường hầm tới đây chia ra làm hai lối rẽ, phía trước vẫn còn không gian, nhưng bên trên bậc thang đá là một nắp đậy bằng sắt, hình như thông tới một mật thất nào đó.

Chấn động mãnh liệt xung quanh dần lắng xuống, bấy giờ chúng tôi mới dừng chân tạm thời nghi ngơi, đồng thời xác định lại phương hưóng xem mình đang ở nơi nào. Sau khi đối chiếu với bố cục trong Quan Sơn tướng trạch đồ, tôi phát hiện ra đường hầm bí mật này quanh co ngoằn ngoèo, không ngờ xuyên qua Linh Tinh điện, dựa vào địa thế ở trên cao của Linh Tinh điện, chạy qua hang ngọc trong lòng núi, cuối cùng nối liền với mộ cổ thời Chiến Quốc bên dưới lầu Quan Sơn Tàng Cốt ở thôn Địa Tiên. Gạch đá trong đường hầm bí mật này đều khắc kinh văn phù chú, lại chôn bí dược đuổi côn trùng, không thấy bóng dáng sâu quan tài, dường như đây là đường hầm bí mật được xây dựng riêng cho địa tiên Phong Soái Cổ để ông ta có thể ra vào mộ thất bất cứ lúc nào.

Trong Quan Sơn tướng trạch đồ có miêu tả rất chi tiết âm trạch và dương trạch trong thôn Địa Tiên, nhưng không vẽ Linh Tinh diện và con đường hầm bí mật này, chỉ đến khi mở nắp đậy bằng sắt ra, thấy mộ thất bên trên đầy hơi thủy ngân mù mịt, quách đồng hình hổ chầu vẫn nằm im lìm bên cạnh, bấy giờ cả bọn mới biết mình ở nơi nào... thì ra bên dưới bảo tàng mộ cổ này, vẫn còn ẩn giấu một đường hầm bí mật.

Lúc này, cả âm trạch lẫn dương trạch ở thôn Địa Tiên đều lúc nhúc đầy lũ sâu quan tài bị Kinh Lăng giáp xua ra khỏi nơi trú ẩn, chắc chắn không thể trở lại Quan Sơn Tàng Cốt lầu được nữa, mà Linh Tinh điện bên dưới cũng bị phá hoại rồi, chúng tôi nhất thời tiến thoái lưỡng nan, đành tiếp tục đi sâu vào đường hầm tối đen như mực. Tôi suy tính, đường hâm này đã thông tới mộ thất của Phong Soái Cổ, như vậy tầm quan trọng của nó hẳn không phải nói cũng biết, ở đầu bên kia nhất định cũng là một nơi cực kỳ bí mật, nếu trời xui đất khiến cho chúng tôi chạy vào đây, thì chẳng có lý nào lại không thăm dò tìm hiểu cả.

Cả bọn ai nấy đểu mệt mỏi kiệt sức, lại đeo mặt nạ phòng độc nên không thể nói chuyện, người nào cũng như chim sợ cành cong, chốc chốc lại ngoảnh đầu nhìn ra sau, chỉsợ lão địa tiên Phong Soái Cổ kia đuổi theo, chẳng ai buồn đoán xem đường hầm bí mật của thôn Địa Tiên này ẩn giấu bí mật gì nữa. Dưới ánh sáng mịt của đèn gắn trên mũ và đèn pin, chúng tôi lại chạy thêm chừng mấy chục bước trong đường hầm tối đen như mực.

Tuyền béo hình như vấp phải thứ gì đó, đột nhiên loạng choạng ngã bổ nhào. Cú ngã không hề nhẹ, suýt chút nữa làm cậu béo sưng mặt, mãi không bò dậy nổi. Đèn gắn trên mũ bảo hiểm trong hoàn cảnh tối tăm này không phát huy được mấy tác dụng, tôi cũng không nhìn rõ dưới đất có thứ gì, lo xảy ra chuyện bất trắc, vội đánh tay ra hiệu ba người còn lại đứng yên bất động.

Sau đấy, tôi cúi người xuống đỡ Tuyền béo dưới đất lên hai người vươn tay lần mò loạn xạ dưới đất một hồi, định bụng xem xem trong đường hầm này rốt cuộc có cái gì, là cục gạch hay xác chết. Cuối cùng, tôi rờ được một thứ tròn trùng trục, to cỡ đầu người, vừa cứng lại vừa nặng, bèn chiếu thẳng ngọn đèn vào xem cho kỹ. Trong chùm sáng loang loáng, không ngờ lại là một quả cầu sắt to tướng, còn nối với một sợi xích sắt rất to nữa. Tôi thầm giật mình, đây rõ ràng là hình cụ dùng để giam cầm phạm nhân, vừa to vừa nặng thế này, bên kia sợi xích rốt cuộc là khóa ngưòi hay thú vậy?

Tôi tiện tay kéo sợi xích sắt nặng nề ấy, định xem thử rốt cuộc nó gắn với thứ gì, nhưng dây xích vừa dài vừa nặng, cứ cách mấy mét lại có một khối sắt, lực kéo của tôi không hề làm nó nhúc nhích.

Lúc này, Shirley Dương ở phía sau đã thắp một ngọn nến, ánh nến soi sáng một khoảnh đường hầm không thấy điểm tận cùng. Cả bọn thấy ngọn lửa không có gì bất thường, liền lượt cởi mặt nạ phòng độc ra, không khí âm lạnh dưới lòng đất tức khắc khiến đầu óc người ta tỉnh táo hẳn lên.

Tuyền béo ngã cú ấy khá nặng, ngồi phệt xuống chân tường, không muốn nhúc nhích gì nữa, Tôn Cửu gia và Út cũng mệt đến nỗi thở không ra hơi, ngồi tại chỗ mà thở hồng hộc.

CHƯƠNG 56: KIẾP NẠN KHÓ THOÁT

Tôi thầm nghĩ: “Đám người này đúng là một nhóm ô hợp, chẳng giống người đi đổ đấu mò vàng chút nào, thực hệt như bọn du thủ du thực chuyên đi chơi gái ở phố Tây Đơn thành Bắc Kinh, trong đưòng hầm bí mật này hung cát khó lường, làm sao có thể nói dừng là dừng ngay được ?” Nhưng thấy thể lực bọn họ quả thực đã tiêu hao quá độ, tôi cũng đành để cả bọn nghỉ ngơi tại chỗ một lúc.

Tôi hỏi Shirley Dương, Cửu Tử Kinh Lăng giáp đã xé toang cả Linh Tinh điện ở dưới đáy núi Quan Tài, thiết tưởng tình hình xung quanh cũng chẳng hơn gì, ngọn núi Quan Tài ở sâu dưới lòng đất này liệu còn tồn tại được bao lâu nữa?

Shirley Dương đáp: “Em chịu không đoán được. Kinh Lăng giáp có thể nghiền nát nơi này bất cứ lúc nào, đến lúc ấy chắc chắn ngọc đá cùng nát, tai họa hủy diệt này có thể sẽ xảy ra. trong một giây nữa, cũng có lẽ còn kéo dài được khoảng một hai tiếng đồng hồ, nhưng thời gian còn lại của chúng ta nhất định không còn nhiều nữa đâu.”

Tôn Cửu gia dường như đã không còn để tâm đến chuyện sống chết nữa, chẳng hề quan tâm làm sao thoát khỏi núi Quan Tài, đột nhiên cất tiếng hỏi chúng tôi: “Các cô các cậu có nhìn rõ thứ chui từ trong thi thể địa tiên ra là gì không?”

Lúc ấy trong mộ thất nứt toác sụt lún, Phong Soái Cổ bị Cửu Từ Kinh Lăng giáp hút hết huyết tủy não tương trước khi ánh lửa dưới khe nứt tắt ngúm, cả bọn đã tận mắt chứng kiến một bóng đen từ trong miệng Phong Soái Cổ chui ra, cơ hồ toàn thân đều là lông mao, nhưng hình dáng cụ thể ra sao thìl không ai thấy rõ.

Chỉ là, có thể khẳng định một điều, thứ này không sợ nước lửa, ngay cả khi bị Cửu Tử Kinh Lăng giáp đâm xuyên qua thân thể vẫn có thể hành động tự nhiên, ngoại trừ Đại La kim tiên, liệu còn ai có thể ở giữa núi đao biến lửa mà không hề suy suyển một cọng tóc? Lẽ nào đấy là chân nguyên của Phong Soái Cổ, đã hóa thành tiên nhân thật hay sao ?

Út và Tôn Cửu gia đểu hết sức tin tưởng vào giả thuyết này, tôi và Tuyền béo tuy rằng không tin, nhưng lại không tìm được lý do nào để thuyết phục bản thân, duy chi có Shirley Dương là không biểu thị thái độ gì.

Trong năm người chúng tôi, Shirley Dương và Tôn Cửu gia có học vấn cao nhất, nhưng khốn nỗi hai người này một người theo thuyết hữu thần, người còn lại trong đầu toàn những tư tưởng mê tín truyền đời trong gia tộc, việc đến nước này, tôi đành phải để Shirley Dương và Tôn Cửu gia cố gắng khách quan hết mức, phân tích lại tình hình trong thôn Địa Tiên, để xem trên thế giới này rốt cuộc có thần tiên hay không.

Tôn Cửu gia thở dài nói: “Thế giới bao la, chuyện lạ gì mà không có, phàm chuyện gì cũng không có tuyệt đối. Thi thể Phong Soái Cổ gặp lửa không cháy, bị bao nhiêu gai đồng đâm vào vẫn có thể cử động, những hiện tượng sinh khắc vật lý giữa kim mộc thủy hỏa thổ hoàn toàn không có tác dụng gì với lão, điểu này chứng tỏ cái gì chứ? Chỉ có thể chứng tỏ rằng lão chính là thi tiên nằm ngoài vòng ngũ hành mà thôi.”

Shirley Dương lại có kiến giải khác: “Trên đời này chắc chắn có thần tồn tại, dù có thể chỉ tồn tại trong tín ngưỡng tinh thần, còn thi tiên có thực hay không thì... tôi nghĩ thi tiên, có thể chỉ là sự mô tả của người xưa đối với một hiện tượng siêu nhiên nào đó thôi. Thời Minh tuy chỉ cách chúng ta có mấy trăm năm, nhưng bấy giờ thế gian vẫn thịnh hành chuyện luyện đơn luyện dược hòng cầu trường sinh bất tử, có lẽ, Quan Sơn thái bảo đã phát hiện ra trong núi Quan Tài có thứ đặc biệt gì đó có thể khiến người ta sau khi chết không bị thối rữa, cũng không bị cương hóa, nên được gọi là thi tiên. Lấy một ví dụ nữa, hiện tượng gấu ăn trăng trong mắt người cổ đại, nay được người hiện đại gọi là nguyệt thực, nhưng dù là cổ hay kim, người ta đều cho rằng mình đã nắm bắt được sự bí ảo của hiện tượng thiên văn này, đây chính là hạn chế thời đại, kỳ thực, dù khoa học kỹ thuật hiện đại phát triển từng ngày, thì hiểu biết của con ngưòi về vũ trụ và thế giới vẫn hết sức nhỏ nhoi.”

Tôn Cửu gia nghe xong gật đầu nói: “Sự tồn tại của thi tiên, có lẽ đúng như cô Dương vừa nói, cũng tương tự với hiện tượng thần bí gấu ăn trăng trong mắt người cổ đại, có điều đến giờ chúng ta cũng chưa tìm hiểu được chân tướng của nó, mà rất có khả năng chúng ta mãi mãi sẽ không thể giải được câu đố xác cổ thành tiên này. Vả lại, vì những hành vi của Phong Soái Cổ, những thứ ấy giờ đây đích thực đã xuất hiện trong núi Quan Tài, nếu như thi tiên thoát khỏi thế giới dưới lòng đất này, sẽ gây nên mối họa hại lớn chừng nào cũng không ai biết được. Tóm lại, chúng ta vẫn phải nghĩ cách tiêu diệt nó triệt để trước khi nơi này hoàn toàn sụp đổ.”

Tuyền béo chõ miệng vào: “Nếu lão địa chủ ấy đã tu luyện đến mức thủy hỏa bất xâm thi chúng ta còn làm gì được nữa? Chắc cũng không thể mỗi người cắn lão một miếng chứ? Theo Tuyền béo tôi đây, vụ này không phải chúng ta không muốn làm, mà thực tình là làm không nổi, chi bằng cứ tùy tiện vơ vét ít minh khí, nhân lúc chân vẫn còn chạy được, cuốn gói chạy thẳng ra ngoài mới phải.”

Tôn Cửu gia hừ lạnh một tiếng, nói: “Thằng béo nhà cậu vẫn còn nằm mơ à? Cửu Tử Kinh Lăng giáp lợi hại thế nào cậu thấy rồi đấy, lúc trước tôi cũng đã nói đi nói lại, một khi núi Quan Tài này tiêu tùng thì chúng ta đừng hòng giữ được toàn thây, lại còn nghĩ đến chuyện thoát khỏi nơi đây hay sao? Chi bằng hãy nghe lấy câu này của tôi, đời người có giá trị hay không, không phải ở sinh mệnh dài hay ngắn, mà quyết định bởi những chuyện anh ta đã làm trong đời...”

Không đợi Tôn Cửu gia nói hết, Tuyền béo đã nổi sùng lên, ngoác miệng chửi: “Tổ sứ cha nhà ông, đánh rắm thối vừa vừa chứ, lão địa chủ ấy đốt cũng không cháy, có giỏi thì ông tự đi mà vác gạch vác dao ra chơi nhau với lão, tiên sư, đừng có lôi cả bọn vào làm nệm lót lưng. Tuyền béo này sống chết gì cũng phải thoát khỏi đây, giai cấp vô sản quang vinh chúng ta, có chết cũng không thể chết trong núi Quan Tài làm vật bồi táng cho bọn địa chủ được.”

Út thấy Tuyền béo và Tôn Cửu gia sắp đánh nhau tới nơi, vội vàng khuyên ngăn, nhưng cô làm sao khuyên nổi. Shirley Dương thấy vậy vội thúc tôi một cái vào lưng, tôi đang mải nghĩ xem làm sao khắc phục vô vàn khó khăn trước mắt, được cô nhắc nhở, lập tức định thần lại nói vởi cả bọn: “Nghỉ ngơi lại sức cả rồi phải không? Thôi đừng tập thể dục lưỡi nữa, nghe tôi nói đây, theo tôi, sự việc xảy ra trong núi Quan Tài đã vượt xa những gì chúng ta dự tính trước đây, địa hình thi mạch Bàn Cổ này còn phức tạp hơn cả mê cung, đến giờ tôi cũng chưa nghĩ ra cách thoát khỏi thôn Địa Tiên, còn chuyện diệt trừ thi tiên trong mộ cổ thì lại càng lực bất tòng tâm. Giờ đây, chúng ta cũng chi còn cách đi bước nào hay bước ấy thôi, trong đường hầm bí mật này, chắc hẳn cất giấu bí mật không thể nói cùng ai của Phong Soái Cổ, mọi người tạm nghỉ ngơi ở đây trước, sau đó sẽ tiếp tục men theo đưòng hầm này đi tới, xem xem có tìm thấy lối thoát nào hay không.”

Cuối cùng, tôi cũng thuyết phục được mấy người họ, đằng nào trong hoàn cảnh này cũng chẳng còn cách nào hơn, không ai nghĩ ra được cao chiêu diệu kế gì cả. Có thể nói, trước mắt chúng tôi không còn lựa chọn nào khác, cũng chỉ có con đường hầm bí mật này là tuyến đường cuối cùng, rốt cuộc là sinh hay là tử, cứ phải đem tính mạng năm con người ra đặt cược thì mới biết kết quả.

Đứng một chỗ rầu rĩ cũng chẳng ích gì, tục ngữ nói rất đúng, “hay ăn thì lăn vào bếp”, muốn thoát khỏi nơi này, có lẽ cũng chỉ còn cách bới ra bí mật thật sự ẩn giấu trong núi Quan Tài. Nhưng thời gian đang trôi từng phút từng giây, Cửu Tử Kinh Lăng giáp siết chặt lấy quả núi, sụt lún và địa chấn liên tiếp xảy ra, chúng tôi chỉ nghỉ ngơi qua loa vài phút rồi buộc phải vội vã đứng lên, tiếp tục men theo đường hầm bí mật đi vào sâu bên trong tìm kiếm.

Địa hình đoạn đường hầm này không theo quy tắc nào cả, có chỗ rộng rãi có nơi lại chật hẹp, cả bọn men theo đường hầm bí mật có dây xích sắt, lại đi tiếp khoảng mười mấy bước, phát ra một cái xác nẳm vắt ngang. Cỗ tử thi này hết sức quái dị, thoạt trông có vẻ là một lão già lúc sinh tiền rất gầy gò, tóc tai xõa xượi, y phục rách nát tả tơi, gần như lõa thể, trên lồng ngực để trần, từng dải xương sườn gồ hẳn lên.

Núi Quan Tài này là linh mạch tàng phong tụ thủy, vì vậy những xác chết trong thôn Địa Tiên thảy đều còn tươi như lúc sống, toàn bộ da thịt dung mạo vẫn giữ được hoàn hảo, tuyệt đối không biến thành xác khô. Nhưng cái xác trong đường hầm bí mật này không chỉ bị khóa vào xích sắt nặng nề, mà còn gầy gò khô đét tựa như quỷ đói, tay chân đều bị cùm chặt, không ngoài dự đoán của tôi lúc trước, đây có lẽ là một tù nhân bị nhốt ở trong mật đạo.

Tôi nhớ hồi trước từng xem qua một bộ phim tài liệu về Thế chiến II, trong phim có mấy cảnh người Do Thái bị Đức Quốc Xã nhốt trong trại tập trung, người nào người nấy đều gầy trơ xương, có thể nói là cảnh tượng hết sức thương tâm, thậm chí còn khiến người ta khó lòng tưởng tượng nổi... con người có thể vì thiếu dinh dưỡng lâu ngày mà thành ra bộ dạng đó. Vừa nhìn thấy cái xác của người tù trước mặt, tôi liền nhớ lại cảnh tượng trong bộ phim tài liệu chiến tranh ấy.

Có điều, tại sao Phong Soái Cổ lại dùng hình cụ nặng nề như vậy để xiểng một lão già gầy guộc vào đây ? Ngưòi tù bị nhốt trong thôn Địa Tiên này là ai?

Tuyền béo xưa nay thấy chuyện gì cũng không cho là lạ, liếc mắt nhìn qua một cái rồi nói: “Chuyện này ai xem qua Sherlock Holmes đều phân tích được thôi, chắc chắn là người phản đối Phong Soái Cổ, kết quả trúng phải độc thủ của lão địa chủ thối tha, bị nhốt trong chốn lòng đất quanh năm không ánh mặt trời này cho chết đói rồi”.

Shirley Dương và giáo sư Tôn đểu bảo không giống vì quần áo trên người tù nhân này hết sức cổ quái, không giống cách ăn mặc của dân chúng thời Minh, cũng không giống kiểu ăn mặc quái dị của Quan Sơn thái bảo, mà đã bị nhốt trong địa đạo bí mật thế này, tuyệt đối không phải người thường, nhưng họ cũng không có căn cứ nào để phán đoán thân phận của cái xác này cả.

Cả bọn lại nghi hoặc đi thêm mấy bước nữa, hóa ra là một gian phòng rộng rãi, bên trong còn có nhiều xiềng xích gông cùm hơn, xiềng khoảng hơn trăm cái xác nằm ngổn ngang, già trẻ gái trai đủ cả, người nào người nấy đều gầy trơ xương, hơn nữa còn có không ít thi thể đứt đầu hoặc thiếu chân thiếu tay, tử trạng thê thảm vô cùng. Trong phòng còn có mấy pho tượng thú bằng đồng xanh đứng xếp hàng, hẩu hết các xác chết đều bị khóa chặt xung quanh một bức tượng rùa đồng cao lớn cổ xưa.

Tôi như bị rơi vào giữa đám mây mù mờ mịt, trong thôn Địa Tiên ở núi Quan Tài sao lại có một nơi như vậy? Không giống mộ thất tuẫn táng, lại cũng không giống địa lao giam giữ tù nhân bình thường, nhưng mật thất này đã là tận cùng của đường hầm bí mật, chỉ có một lối ra vào duy nhất, phía trước không còn đường nào khác nữa rồi.

Những người còn lại cũng đều hoang mang bối rối, trước mắt chỉ có thế suy đoán rằng, những tù nhân bị nhốt trong mộ cổ Địa Tiên này không phải là nô lệ hay tội phạm bình thường. Shiriey Dương tinh mắt lại ti mỉ, đã nhanh chóng phát hiện ra trên thân thể tất cả những người chết này đều có một hình xăm từa tựa hình con lợn. Trong đó, có xác một lão già râu quai nón, nhìn phục sức và đầu tóc có thể thấy thân phận người này khác với những người còn lại, tôi bèn bước tới lật cái xác lên xem thử, quả nhiên phát hiện ra trong vạt áo có vài hàng chữ.

Tôn Cửu gia ngạc nhiên nói: “Chẳng lẽ có liên quan đến truyền thuyết Ô Dương vương ư? Vậy há chẳng phải chứng minh những người tù này không phải người trong thôn Địa Tiên, mà có lẽ là di dân còn sót lại từ thời kỳ Vu Sở, tại sao lại bị Phong Soái Cổ bắt về nhốt ở đây nhỉ?” Trong lúc nói chuyện, lão ta cũng nôn nóng nhích tới xcem xét những chữ viết trên vạt áo rách nát.

Tôi thắp một ngọn nến, cả bọn tập trung xem xét những chữ viết để lại, quả đúng như suy đoán của Tôn Cửu gia, thì ra những thi thể trong mật thất này vốn là một bộ tộc cổ xưa ở vùng hẻm núi Quan Tài, đời đời bảo vệ bí mật của núi Quan Tài. Khi Phong Soái Cổ kiến tạo thôn Địa Tiên, đã gặp phải những hậu duệ của Vu giả này, từng giết rất nhiều người của bọn họ, về sau biết được những người này nắm trong tay thuật chiêm tinh bốc quẻ của thời đại Vu Sở, bèn bí mật nhốt họ lại, ngày đêm dùng những hình phạt tàn khốc tra tấn giày vò, ép họ giúp lão ta suy diễn quẻ tượng.

Vì núi Quan Tài nằm sâu trong lòng đát này là đất tế tử từ thời kỳ Vu Sở, có chôn vô số quan tài nhỏ đựng cơ quan nội tạng người chết, trải qua nhiều năm, âm khí tích tụ, trong đống xác thối xương tàn đã sinh ra thi đơn. Phàm người chết mà chôn cùng với thi đơn, dẫu lúc nhập quan đã thối rữa cương hóa, sau khi chôn xuống đất trăm năm cũng sẽ dần dần tươi tắn lại, giống hệt như khi còn sống, vì vậy các thầy mo liền đào xác cổ lên để hiển lộ phép thuật của mình.

Nhưng sau này họ phát hiện ra, những cái xác chết mà không hóa ấy một khi rời khỏi lòng đất, liền làm dấy lên ôn dịch trên quy mô lớn, người và súc vật tử vong nhiều không kể xiết thuật phù thủy từ đó cũng suy vong. Vì vậy, sau khi Ô Dương vương qua đời, núi Quan Tài được coi như cấm địa, bình thường người dân bản địa thậm chí còn không dám tùy tiện nhắc đến.

Lúc Phong Soái Cổ đào trộm mộ cổ Ô Dương vương, phát hiện ra cái xác Ô Dương vương mất đầu vẫn còn tươi nguyên, hệt như lúc sống, liền động tà niệm, biết được trong núi có Bàn Cổ thần mạch, định dựa vào đó để độ luyện thành tiên. Ông ta cho rằng những chuyện xảy ra trước kia là do cổ nhân không tìm hiểu rõ sự tình, chẳng những không dùng được, mà ngược lại còn bị nó gây hại, vì vậy mới dốc hết tâm cơ năng lực ra kiến tạo nên mộ cổ thôn Địa Tiên.

Nhưng Phong Soái Cổ là người cực kỳ đa nghi, để khỏi sơ sẩy, ông ta đã cưỡng bách những hậu duệ của Vu giả thời xưa suy diễn quẻ tượng. Tổ tiên nhà họ Phong phát tích nhờ đào quan tài treo ở hẻm núi Quan Tài, trộm được rất nhiều long cốt ghi chép dị thuật xem tướng, bói toán, cũng từ đó học được chút bản lĩnh chiêm bốc, nhưng đều là sở học về sau, có rất nhiều chỗ thâm ảo không được truyền thụ, không thể tinh diệu quảng bác như hậu duệ còn sót lại của Ô Dương vương được.

Thuật chiêm tinh thời cổ đại không nhất thiết phải trực tiếp ngẩng đầu quan sát tinh tú trăng sao, mà cách chuẩn xác hơn là lợi dụng vật khí bằng đồng hoặc mai rùa để xem bói, vì người xưa cho rằng những đường vân trên mai rùa chính là phản ứng trực tiếp của điểm triệu sao trời. Khoa học hiện đại tuy phát triển, nhưng hiểu biết về lĩnh vực tinh thần của con người lại không bằng lý giải trực quan của ngựời xưa, khó mà giải thích được sự chuẩn xác của những lời tiên tri hay ám thị cổ. Kỳ thực, đó chính là chỗ kỳ diệu của thuật chiêm tinh đoán quẻ.

Phong Soái Cổ đào được ở Thiểm Tây mấy món đồ đồng có từ thời Tây Chu, đêu là thứ đồng dùng để suy diễn chiêm tinh, bèn đem giấu trong mật thất ở thôn Địa Tiên, đồng thời nhốt những tù nhân kia ở đây. Mới đầu, những Vu giả này vẫn không chịu phạm điều cấm kỵ của tổ tiên, nhưng về sau không chịu nổi cực hình tàn khốc, Phong Soái Cổ lại không ngừng giết người để bức ép, cuối cùng họ đành giúp ông ta bốc quẻ suy đoán.

Điểm triệu nhận được cho thấy, Cửu Tử Kinh Lăng giáp sẽ dần dần nuốt trọn núi Quan Tài, khi có kẻ trộm mộ tiến vào đổ đấu, quan quách của Địa Tiên sẽ chịu kiếp nạn rơi vào núi đao biển lửa. Từ xưa đến nay, tương truyền người nào muốn thành tiên đều phải trải qua một số kiếp nạn như thế, sau đó, khi thôn Địa Tiên bị hủy diệt, Phong Soái Cổ trở thành thi tiên sẽ dẫn theo toàn bộ những kẻ tuẫn táng cùng đám trộm mộ kia thoát khỏi núi Quan Tài. Thế rồi, thế gian sẽ máu chảy thành sông, thây chất thành núi, trong phép bói xưa, đây gọi là tượng “phá sơn xuất sát”.

CHƯƠNG 57: LỜI TIÊN TRI

Những hậu duệ còn sót lại của Ô Dương vương này, lúc sống đều hiểu rất rõ khi Phong Soái Cổ nhập táng, tất cả bọn họ sẽ bị giết người diệt khẩu, trước lúc hành hình, rất nhiều người đã giấu huyết thư vào trong vạt áo, để lại rất nhiều lời nguyền rủa độc ác, sau khi chết sẽ biến thành ác quỷ trở lại phục thù.

Chúng tôi liền tiếp giở xem mấy bức di thư và những lời nguyền rủa, càng xem càng thấy kinh hồn bở vía, những người này đã chết vào thời điểm Phong Soái Cổ nhập táng vài trăm năm trước, sợ rằng đến lúc chết họ cũng không biết quẻ bói mà mình dùng đồ đồng thời Tây Chu suy diễn tượng số ra ấy có ứng nghiệm hay không. Nhưng năm người chúng tôi thì không ai không rõ, những thiên cơ vi diệu ấy chắc chắn là thật, vả lại còn xảy ra ngay trên người chúng tôi nữa. Nếu chuyện thi tiên rời núi đã được định sẵn, vậy thì chúng tôi chính là một mắt xích quan trọng thúc đẩy chuyện này xảy ra, chẳng những vậy, dẫu chúng tôi có làm gì, thì những chuyện cần phải diễn ra ắt sẽ diễn ra. Đứng trước vận mệnh đã được định sẵn, con người chỉ như loài sâu kiến, hoàn toàn không có cửa vùng vẫy giẫy giụa.

Tuy rẳng xưa nay tôi vẫn không tin vào vận mệnh, nhưng kết hợp những sự việc gặp phải từ lúc vào núi đến giờ, rồi xem lại những hàng chữ thấm máu được viết từ mấy trăm năm trước, mọi thứ thảy đều ngấm ngầm ăn khớp với nhau, tôi như bị dội cho một chậu nước đá, hơi lạnh buốt thấu từ đầu đến chân, trong lòng chợt dâng lên một dự cảm chẳng lành. Lẽ nào, con người sống ở trên đời này, bất kể ăn gì uống gì, nói gì đi đâu, đều đã được định sẵn hay sao? Sống như vậy thì còn ý nghĩa gì nữa chứ?

Tôn Cửu gia còn có dự cảm này sớm hơn cả tôi, giờ đây thấy mọi thứ đã chắc như đinh đóng cột, lão ta thậm chí còn nảy ra ý định đập đầu vào tường tự vẫn cho xong. Đột nhiên, lão ta sực nhớ ra điều gì đó, vội chụp lấy cánh tay tôi lắc mạnh: “Không! Tuyệt đối không thể xảy ra! Tuyệt đối không thể để thi tiên rời núi. Tôi có một cách duy nhất này, chỉ cần chúng ta bây giờ... đều chết hết, sự việc đã định sẵn trong số mệnh sẽ vì thế mà thay đổi !”

Tôn Cửu gia nghiêm túc nhấn mạnh: “Từ khi xem Quan Sơn quật tàng lục của Phong Soái Cổ để lại trong lầu Tàng Cốt ở thôn Địa Tiên, tôi đã bắt đầu lo lắng chuyến này chúng ta vào núi Quan Tài trộm mộ là trúng phải kế của ông ta, suốt dọc đường liều chết quên mình, cuối cùng lại dẫn đến hậu quả đáng sợ thi tiên rời núi, giờ xem chừng quả đúng như thế rồi, việc đã đến nước này, muốn xoay chuyển đại họa sắp ập xuống, cả bọn chúng ta chỉ còn cách từ bỏ tính mạng của mình mà thôi."

Tổ tiên Tôn Cửu gia là Phong Soái Kỳ trở mặt thành thù với địa tiên Phong Soái Cổ, con cháu ông ta suốt mấy trăm năm ròng đã tìm đủ trăm phương nghìn kế hòng vào được núi Quan Tài, hủy diệt thi hài Phong Soái Cổ, mối thù tích tụ suốt bao đời nay đã thấm sâu vào cốt tủy Tôn Cửu gia, những người thân nhất của lão ta như cha và anh ruột cũng vì chuyện này mà phơi thây chốn hoang sơn dã lĩnh nhiều năm, giờ lại biết hậu duệ của chi mạch Phong Soái Kỳ chẳng qua chỉ là con cờ trong tay địa tiên Phong Soái Cổ, nỗi nhục nhã và phân hận này, lão ta càng khó mà nuốt trôi.

Bởi vậy, Tôn Cửu gia cảm thấy đâu cho cả bọn chúng tôi đều bỏ mạng trong núi Quan Tài, cũng không thể để bất cứ người chết nào trong thôn Địa Tiên rời khỏi đây, bằng không ôn dịch sẽ lan tràn khắp nơi, hậu quả không thể tưởng tượng.

Tôi và Tuyền béo mới nghe lão ta nói được nửa chừng đã thấy chối tai kinh khủng, dù chúng tôi có nghĩ quẩn đến mấy cũng không thể chỉ bằng vào mấy chuyện đó đã tự tìm cái chết, và lại kết quả mà những người chết này suy diễn cho Phong Soái Cổ hết sức khó hiểu mập mờ, sao có thể coi là thật được ? Chúng tôi tuyệt đối không tin vào vận mệnh, trên đời này không có việc gì được định sẵn từ trước cả.

Tôn Cửu gia hỏi tôi: “Cậu củng hiểu được một chút kỳ môn bát quái, hơn nữa từ xưa đã có câu ‘thuật số thần thông”, cậu thử tự vẫn lương tâm mình xem, có thật cậu không tin vào vận mệnh hay không?”

Tôi cười gằn nói: “Bao năm nay tôi đều dựa vào thứ này mà kiếm cơm, đương nhiên phải tin vào những kỳ thuật cổ xưa đó rồi. Tôi tự vẫn lòng mình, dám khẳng định rằng tôi có tin vào vận mệnh, vạn vật trên thế gian này đều là một chữ duyên, duyên chính là vận mệnh, chúng ta quen biết nhau, đến giờ chúng tôi lại bị ông lừa lên thuyền giặc của ông tìm đến thôn Địa Tiên này, đây có thể đều là vận mệnh.” Tôi ngưng lại một thoáng, rồi tiếp lời: “Nhưng vận mệnh mà tôi tin tưởng ấy, cũng có tiêu chuẩn của tôi, tiêu chuẩn chính là dựa vào nhu cầu của cá nhân tôi mà quyết định, phàm chuyện gì tôi có thể chấp nhận thì đó là vận mệnh chân chính; chỉ cần tôi không thể chấp nhận, thì đó là cứt chó con bà nhà nó.”

Tôn Cửu gia giận dữ nói: “Cậu rõ ràng đang cưỡng từ đoạt lý, mới đầu nếu không phải cậu tự cho ta đây thông minh, thì cũng không ép tôi dẫn các cậu vào núi Quan Tài, đã gây nên họa lớn thì phải can đảm gánh lấy trách nhiệm. Nếu chúng ta không chết, khi thôn Địa Tiên bắt đầu bị hủy diệt, cũng chính là lúc thi tiên rời núi, giờ chúng ta vẫn còn cơ hội thay đổi chuyện ấy. Sở dĩ tôi nói thẳng nói thật là vì không muốn hãm hại sau lưng các cậu, bằng không tôi hoàn toàn có thể ngấm ngầm kết liễu cả bốn người rồi. Tôi biết, cậu là người hiểu lý lẽ, cứ thử nghĩ kỹ mà xem, hiện giờ ngoại trừ cái chết, chúng ta đã không còn cách nào khác nữa rồi."

Tôi chẳng bụng dạ nào nhiều lời với lão già điên này nữa, đang định tìm sợi dây trói nghiến lão lại tránh để lão làm ra chuyện gì uy hiếp đến sinh mạng của cả bọn thì lại nghe Shirley Dương nói: “Giáo sư, ông cuống quá đâm ra hồ đồ rồi, ông hãy nghĩ kỹ lại xem, néu đúng là sự việc được số mệnh định sẵn sẽ xảy ra, mà chúng ta lại đang ở trong sự kiện ấy, thì bất luận chúng ta có dùng cách gì né tránh cũng không thể thay đổi được, bằng không thì không thể coi là số mệnh đã định rồi"

Tôn Cửu gia thoáng bần thần, rồi ngồi xổm xuống đất, vò đầu bứt tóc ngẫm nghĩ, quả như Shirley Dương vừa nói, những chuyện đã xảy ra trên thế gian này không bao giờ có khả năng thứ hai, nếu nói không có ngẫu nhiên, tất cả đều là tất nhiên, thì chỉ dựa vào sức lực cỏn con của mấy người chúng tôi tuyệt đối chẳng thể xoay chuyển được.

Trên thực tế, tôi cũng hết sức lo lắng trước kết quả suy diễn quẻ tượng của những tù nhân này, kinh nghiêm và trực giác cho tôi biết, sự việc thi tiên rời núi mười phần có đến tám chín là sẽ xảy ra.Thế nhưng, dù trong hoàn cảnh nào chăng nữa, tôi cũng nhất quyết không dễ dàng từ bỏ sinh mạng của mình, chưa đến thời khắc mấu chốt, tuyệt đối không thể tùy tiện nhắc đến hai chữ “hy sinh” được.

Tôi thấy Tôn Cửu gia nhất thời im lặng, bèn đưa mắt ra hiệu cho Tuyền béo, bảo cậu ta và Út phải để mắt đến lão già này, còn mình tiếp tục tìm kiếm đầu mối trong gian phòng đá. Nếu kết quả quẻ bói kia là thật, vậy chỉ cần chúng tôi không ra khỏi núi, tạm thời ở lại trong thạch thất bí mật này, thì sẽ không có nguy hiểm nào, bởi thế tôi quyết đánh liều một phen, không nhọc óc nghĩ đến những nguy cơ trùng trùng trong núi Quan Tài này nữa.

Việc cấp bách trước mắt là cần nghĩ cách tìm ra chứng cứ xác thực đại họa trong lời tiên đoán kia có thật sự xuất hiện hay không. Chẳng ngờ, không tìm thì thôi, vừa tìm kỹ trong gian phòng đá chứa đầy xác tù nhân, càng lúc càng có nhiều “chân tướng” lần lượt xuất hiện trước mắt chúng tôi.

Gian mật thất rộng rãi tăm tối này, là nơi hậu duệ của các thầy mo từ thời Ô Dương vương suy diễn quẻ tượng ra lời tiên tri, ở phía sau nhà giam còn giấu một đường hầm bí mật, cửa bị khóa chặt, không thể đi vào, chúng tôi đành chuyển qua xem xét điềm báo tiên tri trong mật thất. Đến giờ đã không cách nào đoán được Phong Soái Cổ làm sao có thể phán đoán những điềm báo tiên tri này là thật hay giả, nhưng lão ta là người tính toán sâu xa, người thường vốn không bì nổi, ắt phải có căn cứ thì mới khiến lão tin tưởng như vậy. Còn chúng tôi đến mấy trăm năm sau mới phát hiện ra những bí mật này, lại có thể đưa ra phán đoán đối với một số sự việc đã xảy ra, có thế thấy những lời tiên tri được suy diễn năm đó không có gì phải nghi ngờ về độ chuẩn xác cả.

Tôi và Shirley Dương lau đi lớp bụi xám xịt trên tưòng đá, phát hiện một số bức bích họa màu, có những ký hiệu trong môn tướng tinh thuật số, cũng có hình nhân vật núi sông, dường như khi ấy những người này sử dụng mai rùa và tượng thú bằng đồng xanh đế suy diễn tượng số, sau đó dựa theo quẻ tượng mà vẽ lại thành tranh.

Shirley Dương nói, những ký hiệu hình vẽ này hình như đại diện cho các sự kiện, khá giống với lời tiên tri ở núi Zhaklama.

Tôi bảo cô, chuyện này khác chứ, tuy tôi không biết vị tiên tri núi Zhaklama kia tiên đoán bằng cách nào, nhưng những gì chứng tôi trải qua khi ấy có thể chứng minh, đó đúng là suy đoán như thần. Nếu nói trên thế gian này thật sự tồn tại vận mệnh, vậy thì lời tiên đoán của vị tiên tri ấy chính là chứng cứ, dẫu cho lật đi lật lại thế nào, mọi sự việc cần phải xảy ra, đều xảy ra hệt như trong lời tiên đoán. Hành vi vẽ tranh của vị tiên tri đó, có lẽ khá giống với phù chiêm, một loại dị thuật thông linh thần bí cổ xưa.

Nhưng thứ xuất hiện trong gian nhà ngục này, lại là thuật suy diễn thâm ảo nhất của huyền học Trung Quốc. Bởi lẽ, từ xưa thuật chiêm tinh quan tượng đều là quan sát điểm triệu, tông chỉ không ngoài thiên nhân nhất thể, bầu trời và mặt đất xuất hiện những dấu hiệu khác nhau, chính là những dự báo cho các hiện tượng ở chốn nhân gian.

Phép suy diễn thiên tượng, điểm trời đều thuộc đạo quỷ thần trong quẻ cổ. Quỷ tức là quỹ tích vận hành của sự vật, tỷ dụ như sự di động của sao trời; còn thần là chỉ thời gian, chẳng hạn hai mươi bốn tiết khí hoặc mười hai canh giờ trong một ngày.

Lấy một ví dụ tương đối đơn giản, từ rất lâu về trước, người ca đã biết “ráng sớm đừng ra cửa, ráng chiều đi nghìn dặm”([31]), hay lại có câu “mây móc mưa dầm, mây táng ruộng tốt”, đây là người xưa thông qua việc quan sát ráng mây trên trời biến hóa thay đổi mà phán đoán nắng mưa, là cách dự báo thời tiết cổ xưa nhất. Bây giờ tất nhiên bảo đấy là khí tượng học, nhưng ngưòi xưa lại cho rằng họ chỉ thông qua những dấu hiệu khác nhau của bầu trời để đưa ra những dự đoán đơn giản và chuẩn xác mà thối. Khí tượng học hiện đại động một tí là nghiên cứu một loạt các số liệu tỷ như tầng mây, tốc độ gió, áp suất khí quyển..., nhưng còn không chuẩn bằng cổ nhân quan sát trăng sao mây trời để dự đoán thời tiết, vì vậy mấy chương trình dự báo thời tiết trên đài trên ti vi, tuy thoạt xem có vẻ chuyên nghiệp lắm, nhưng cơ bản không chuẩn xác, chẳng khác gì trẻ con đái bậy cả.

Quan trắc điểm trời của tinh tú còn phức tạp thần bí hơn dự báo thời tiết nhiều, tôi chỉ có nửa quyển Thập lục tự m dương Phong thủy bí thuật, mà nửa quyển này lại chỉ là tàn thư về phong thủy, tuy rằng nhiều năm nay vẫn không ngừng lĩnh ngộ, đào sâu nghiên cứu, nhưng đối với thuật chiêm bốc tinh tướng, tôi cũng mới là kẻ nhập môn mà thôi. Tôi chỉ biết môn này xưa nay vẫn “lấy số sinh tượng”, đám tù nhân trong nhà giam đá này chắc hẳn đều dùng phép cổ này để tính toán. Chẳng hạn, sao trời hiển thị ra điểm “đạo tinh phạm cung” thêm vào thiên can địa chi để tính toán suy diễn, sẽ có được một lời tiên tri kiểu như “giờ nào ngày nào tháng nào năm nào ắt có kẻ trộm mộ vào Linh Tinh điện, trộm lấy quan quách địa tiên” quá trình tính toán hết sức phức tạp, lại tốn rất nhiều thời gian. Hơn trăm cái xác tù nhân trong nhà lao đá này gầy gò trơ xương, có lẽ là do tinh lực thần trí tiêu hao quá độ gây ra, chứ chưa chắc đã vì đói khát.

Nghe nói, chỉ cần nắm được thuật vu bốc cổ xưa này, lại có đủ đồ đồng xanh cùng mai rùa, long cốt, vận dụng thích đáng ở địa điểm và thời gian riêng biệt, có thể nhận được gợi ý từ các điểm triệu, còn chuẩn xác hơn cả lời sấm truyền tiên tri, vì vậy, nhiều khi người ta muốn không tin vào số mệnh cũng không được. Cũng có thể, trong cõi u minh kia thật sự có một người nào đó âm thầm chủ trương, khống chế sự hưng vong biến hóa của vạn vật trên thế gian.

Trong những bức tranh tiên tri trên tường gian phòng đá, có miêu tả những kiếp nạn phá quan tài, lửa đốt, đao đâm... địa tiên Phong Soái Cổ sau khi trải qua những kiếp nạn này, thi thể sẽ thoát thai hoán cốt, hóa thành chân tiên. Tạm thời không nói đến việc trên đời có thân tiên thật hay không, ít nhất thì những cảnh bật nắp quan quách, dùng thừng trói tiên quấn xác, rồi tưới dầu châm lửa thiêu đốt, cuối cùng Phong Soái Cổ bị Cưu Tử Kinh Lăng giáp đâm xuyên thân thể, chúng tôi đều đã tận mắt chứng kiến.

Gợi ý cuối cùng, nằm trên trấn của gian phòng đá, nom từ tượng sổ và hình họa có thể thấy, địa tiên ngồi nghiêm ngắn trên Đạo tinh, cưỡi mây bay lên lưng chừng trời, bên dưới là thi thể của những người tuẫn táng trong thôn Địa Tiên, thây xác chất đống như núi, vô số người chết rời núi tỏa đi bốn phương tám hướng, bên dưới núi xác là một biển máu, cảnh tượng toát lên một vẻ khủng bố và tuyệt vọng, tựa như đã đến ngày tận thế vậy.

Tôn Cửu gia bị bức tranh trên đỉnh đầu làm cho sợ đến há hốc mồm, hồi lâu vẫn không ngậm miệng lại được, luôn miệng than: “Hết rồi, hết rồi, phen này đúng là hết rổi, Phong Soái Cổ luyện đạo sát sinh, người chết càng nhiều thì đạo hạnh của lão càng cao. Nếu bọn chúng ta chính là đạo tinh xuất hiện trong điềm triệu, cuối cùng thi tiên chắc chắn sẽ ám vào một người hoặc tất cả chúng ta, để thoát khỏi núi Quan Tài sao ? Sự việc đã định sẵn trong số mệnh... lẽ nào thật sự không có cách nào thay đổi hay sao?”

Lúc này, tâm tư tôi đang rối loạn, cũng chẳng biết nói gì, không trả lời câu hỏi của giáo sư Tôn, sự việc đã rõ rành rành trước mắt, dẫu chúng tôi có làm gì chăng nữa, tai họa trong bức tranh tiên tri kia cũng sẽ xuất hiện.

Shirley Dương thở dài nói: “Có một ví dụ thế này, có lẽ không thích hợp lắm, nhưng em cảm thấy đây chính là sức mạnh của vận mệnh. Thôn Địa Tiên được định sẵn sẽ xảy ra tai họa khủng khiếp, cũng giống như một bộ tiểu thuyết đã hoàn thành. Chúng ta là nhân vật trong câu chuyện ấy, nếu muốn dựa vào sức mình để thay đổi kết cục đã được tác giả viết xong, khả năng thành công... chỉ sợ còn không đến một phần tỉ đâu.”

Út thấy cả Shirley Dương cũng nói vậy, cho rằng phen này ắt sẽ chết tại đây, không thể gặp lại ông nuôi nữa, không khỏi cay cay sống mũi, nước mắt ngân ngấn, nhưng vẫn cố kiềm chế không cho rơi xuống.

Shirley Dương thấy thế liền an ủi: “Em đừng sợ, dù sống hay chết, chúng ta đều sẽ cùng đối mặt, vả lại... vả lại, chị luôn tin có sự tồn tại của Thượng đế, Thượng đế sẽ không để sự việc này xảy ra đâu.”

Chỉ có Tuyền béo là hoàn toàn không hiểu sắp xảy ra chuyện gì, cậu ta bới móc trong đống xác tù nhân một hồi, không phát hiện được món minh khí nào đáng tiền, lại thấy cả bọn mặt mũi nặng nề, bèn ngoác miệng ra nói: “Thượng đế làm gì rảnh vậy, nghe nói giờ ông ta đã chuyển Tổng bộ đến Beirut xem quân Mỹ đánh nhau rồi, lấy đâu ra thời gian để ý đến bọn cậu không quý bà không yêu như chúng ta chứ. Theo tối ấy à, chúng ta chẳng trông mong gì ở người khác được đâu, đành tự thương lấy thân thôi, chỉ cần nhắm chắc cơ hội, còn chạy được thì vẫn phải chạy, nghìn vạn lần chớ nên nghĩ quẩn.”

Tôi chợt nhớ ra một chuyện, bèn nói vói mọi người: “Không cần bi quan quá, mọi người thử nghĩ xem thôn Địa Tiên này hoàn toàn bị đè bên dưới một ngọn núi lớn, Cửu Tử Kinh Lăng giáp sớm muộn gì cũng nghiền nát toàn bộ, mọi thứ đều bị vùi sâu xuống lòng đất, chỉ xét riêng điểm này thôi, cảnh tượng cuối cùng trong bức tranh tiên tri kia cũng không thể xuất hiện rồi. Những người tù này bị Phong Soái Cổ hành hạ tàn khốc, biết đâu cuối cùng lại bịa tạc ra một lời tiên đoán cho xong chuyện, nếu thật là như vậy, chúng ta há chẳng phải là người nước Kỷ lo trời sập sao ?”

Tôi nói vậy chủ yếu muốn làm mọi người yên tâm, tuy rằng không thể nghĩ ra đám người chết trong mộ cổ này làm cách nào thoát khỏi núi Quan Tài, nhưng tôi biết chuyện này chắc chắn sẽ xuất hiện, vấn đề chỉ là sớm hay muộn mà thôi. Trong hoàn cảnh hiện tại, hoang mang sợ hãi căn bản không có ý nghĩa gì, cũng như Tuyền béo vừa nói vậy, ngoài bản thân ra, chúng tôi không thể trông mong vào bất cứ người nào khác.

Trong sự kiện dụ dỗ chúng tôi vào mộ cổ Ô Dương vương, Tôn Cửu gia tuy tỏ ra là kẻ đa mưu túc trí, nhưng thực té cả đời lão ta đều ẩn mình, ít khi lộ diện, bản thân cũng chẳng có kiến thức gì, chẳng qua là xuất kỳ bất ý, đến tôi cũng không đoán được bối cảnh của lão ta lại sâu xa đến thế. Nhưng đến lúc này, tâm thần lão ta sớm đá rối loạn, hoàn toàn không có chủ trương gì nữa, chỉ biết nghe theo sự sắp xếp của tôi.

Tôi thầm tính, trước mắt chỉ có thể nghĩ cách tránh kiếp nạn hủy diệt của núi Quan Tài. Nom tình hình này thì muốn trốn cũng không thể thoát nổi, đành cố thủ đợi xem biến hóa thế nào, sau đó quan sát tình thế phát triển ra sao rồi tính tiếp. Nghĩ đoạn bèn lập tức giở Quan Sơn tướng trạch đồ ra hỏi mọi người xem trong núi Quan Tài này nơi nào là kiên cố nhất, cần phải tìm một nơi ổn thỏa, tốt nhất là có thể tiến lui, tránh khỏi Cửu Tử Kinh Lăng giáp đang từ bốn phương tám hướng ép tới.

Tôn Cửu gia nói, nếu lời tiên tri là sự thật, chúng ta chạy tới đâu thì chỗ đó là an toàn, trước khi thi tiên rời núi, dù trời đất sụp đổ chúng ta cũng không thể chết được.

Tôi lắc đầu bảo, không thể nhìn nhận sự việc như thế được, kiếp họa cuối cùng trong bức tranh tiên tri có xảy ra hay không, tai họa ấy sẽ như thế nào, chưa tới lúc đó thì khống ai nói chắc được cả. Và lại, Đạo tinh chỉ có một ngôi, năm người chúng ta có phải đều ứng với ngôi sao ấy không? Hay là có một số người chết trong núi Quan Tài, một số người sẽ dẫn theo thi tiên rời núi? Những nhân tố không xác định còn quá nhiều, trước mắt việc chúng ta có thể làm chỉ là tận hết sức mình rồi nghe theo mệnh trời thôi vậy, có câu “mệnh là do trời định, việc là do người làm”, nguyên tắc đổ đấu mò vàng của chúng ta là “thà đi mười bước xa, hơn đi một bước hiểm”, phàm chuyện gì bản thân có thể làm được thì dốc hết toàn lực ra mà làm.

Mọi người đều cảm thấy tôi nói có lý, bèn chia nhau bày mưu tính kế, cuối cùng tham khảo ý kiến của Út và Tôn Cửu gia, nhất trí rằng nhà họ Phong ở thôn Địa Tiên là kiên cố nhất, vì bên dưới ngôi nhà chính, ngoài mộ thất ra hẳn còn có mấy hầm ngầm thông với trang viện ở trấn Thanh Khê, là nơi dành để giấu vàng bạc châu báu, hòng thoát khỏi họa binh dao khói lửa, vị trí đã được đánh dấu trong bản đồ, tuyệt đối kiên cố kín đáo, đám sâu quan tài xung quanh cũng không thể bò vào được.

Tôi thấy trong nhà lao đá này có nến và dầu thừa dùng để bói toán và chiếu sáng, thầm nghĩ vật này có tác dụng rất lớn, nhưng vẫn thiếu mộc chút chút, tôi nhíu mày, một ý nghĩ lóce lên trong đầu, bèn hướng vé phía những xác chết trong phòng vái một vái: “Các vị lão gia, theo lý mà nói, kẻ thù của kẻ thù chính là bạn, đừng xem chúng ta đến từ năm châu bốn biển mà lẩm, thực ra chúng ta có chung một kẻ tử địch đấy, vì vậy... chúng tôi gặp khó khăn, các vị cũng nên chi viện nhiệt tình, lát nữa có gì đắc tội, xin hãy rộng lượng bỏ quá cho. Muối nhiều thì mặn, nói nhiều đâm phiền, tôi không lải nhải với các vị đồng chí nữa, họ Hồ tôi nếu còn sống trở ra được, nhất định sẽ đốt nhiều giấy tiền vàng mã, cúng bái siêu độ cho các vị sớm ngày thoát khỏi cõi u minh, kiếp sau đầu thai đảm bảo đều có thể làm cán bộ lãnh đạo.”

Nói xong, tôi bảo mọi người lột máy bộ quần áo của các tù nhân, tìm mấy khúc chân bị đứt lìa vô chủ đã khô đét, tẩm dầu vào làm thành mấy cây đuốc đơn giản, chuẩn bị để lúc trở lại thôn Địa Tiên thì dùng xua đuổi bọn sâu quan tài, việc tiếp theo là tìm lối ra, trở lại thôn Địa Tiên. Cánh cửa phía sau nhà lao đá đã bị khóa chặt, nhưng Út có tay nghề phá khóa được chân truyền từ Phong Oa sơn, đối phó mấy cái khóa sắt vớ vẩn này chi là chuyện dễ như trở bàn tay.

Đẩy cửa sau gian nhà lao đá ra, chỉ thấy lại là một thông đạo có bậc thang dốc lên trên, dù sao thì càng đi lên lại càng gần thôn Địa Tiên, cả bọn cũng không còn tâm trí đâu mà nghĩ ngợi nhiều, lần lượt sắp hàng một chui vào, tiến lên phía trước. Cuối đường, có một cái nắp bị khóa, lại một lần nữa phá khóa, liền cảm thấy trước mắt sáng bừng, tôi định thần quan sát, thì ra đã đi một vòng, lại trở vể chỗ nứt ở phần bụng của Bàn Cổ thần mạch. Chỗ này cách phía sau thôn Địa Tiên không xa lắm, máng đá có dương toại chảy bên trong vẫn luân lưu tuần hoàn không dứt.

Địa chấn chưa ngớt, nhưng phòng ốc nhà cửa trong thôn vẫn kiên cố, không xuất hiện sụt lở quy mô lớn, lũ sâu quan tài bò lổm ngổm khắp nơi, có điều, chúng sợ dương toại nên không dám tiếp cận hang ngọc thông đến Linh Tinh điện này.

Tôi đánh tay ra hiệu cho những người trong đường hầm chui cả ra, đang chuển bị đốt đuốc xông vể phía trang viện nhà họ Phong, xung quanh chợt xảy ra tình huống bất ngờ.

Lũ sâu quan tài từ trên vách đá bò vào thôn Địa Tiên tựa như bị thứ gì đó rất khủng khiếp xua đuổi, ùn ùn lao về phía chúng tôi như những đợt nước triều đen nghịt, bọn chúng tựa hồ đã mất đi tập tính bình thường, phớt lờ cả dương toại bên trong máng đá, những con bò trước rơi xuống máng lập tức toi mạng, nhưng lũ sâu chết ấy chỉ trong thoáng chốc đã lấp đầy rãnh, những con khác vẫn lúc nhúc bò về phía này như điên dại.

Tôi thầm nhủ, nếu không phải lũ sâu quan tài này phát điên, thì là bọn chúng dự cảm được trong thôn Địa Tiên sắp sửa có thứ gì đó khủng khiếp gấp bội phần xuất hiện, không còn đường nào khác mới liều mình chạy vào trong hang ngọc trốn tránh. Trước tình huống này, mấy ngọn đuốc đã không còn tác dụng gì nữa, năm người chúng tôi còn không chạy cho mau, ắt sẽ bị bọn sâu quan tài kia gặm sống.

Tôi không khỏi kinh hãi, đang định bảo cả bọn nhanh chóng rút xuống đường hầm chạy trốn, không ngờ Tôn Cửu gia đã ở phía sau khóa luôn cánh cửa vào, hơn nữa còn trét đầy bùn đất vào lỗ khóa, muốn quay lại cũng không thể được nữa. Trong đầu nổ “ầm” một tiếng, tôi không sao kìm nén được lửa giận trong lòng, tóm lấy cổ áo lão ta quát lên: “Tôn Lão Cửu, con bà nhà ông điên thật rồi! Có tin tôi xé ông ra làm tám mảnh không!” .

Tôn Cửu gia thản nhiên như không, lạnh lùng nói: “Tôi chỉ muốn xem xem sự việc đã định sẵn trong số mệnh rốt cuộc có thể thay đổi hay không, nếu kiếp họa trong bức tranh tiên tri kia ắt sẽ xảy đến, thì lũ sâu quan tài đông đến mấy cũng không cắn chết chúng ta được; ngược lại, nếu chúng ta bị lũ sâu ấy cắn chết, người chết trong thôn Địa Tiên sẽ vĩnh viễn không có ngày thấy lại ánh mặt trời.

CHƯƠNG 58: NGỌN NÚI LỚN DI ĐỘNG

Lòng Tôn Cửu gia đầy thù hận, phàm những việc lão ta muốn làm, thì không tiếc hy sinh bất cứ thứ gì, tính mạng của bốn người tôi, Shirley Dương, Tuyền béo và Út, trong mắt lão ta cũng chỉ như cỏ rác, có thể sẵn sàng vứt bỏ không chút do dự. Hành vi của con người này đã không thể xét bằng lý lã thông thường nữa rồi.

Tuy tôi có lòng đề phòng Tôn Cửu gia, cũng luôn ngấm ngầm để ý nhất cử nhất động của lão, nhưng trong khoảnh khắc mới rồi, tôi bị hiện tượng bất thường trong thôn Địa Tiên thu hút sự chú ý, ai ngờ chỉ sểnh ra một thoáng đã bị lão ta chớp lấy thời cơ, triệt để cắt đứt đường lui của cả bọn.

Tôi chẳng hề muốn lấy mạng cả bọn ra kiểm nghiệm sức mạnh chân thực của vận mệnh, trong cơn thịnh nộ, bèn vung tay quật Tôn Cửu gia xuống đất. Nhưng lúc này lũ sâu quan tài đã từ trong thôn ùn ùn kéo đến như bầy ong vỡ tổ, tôi cũng chẳng còn tâm trí đâu để ý đến lão già điên ấy nữa, vội nháo nhác nhìn quanh, thấy phía sau có mấy chiếc cổng chào bằng đá bắc ngang qua hai bên khe sâu.

Tôi thầm tính, lúc này chạy về Linh Tinh điện qua lối trên vách đá cổ chắc chắn sẽ bị lũ sâu quây lại giữa đường, bèn giơ tay chỉ, bảo bọn Tuyền béo mau chóng trèo lên trên cổng chào.

Tôn Cửu gia dưới đất lòm còm bò dậy định ngăn cản cả bọn, Tuyền béo sớm đã ôm đầy một bụng tức, thấy thế liền rút xẻng công binh ra đập mạnh lên đầu lão ta một phát.

Tôn Cửu gia có đội mũ bảo hiểm leo núi, nhưng bị cái xẻng của Tuyền béo đập cho một cú rõ mạnh, lão ta không chiu nổi, trợn trừng hai mắt, ngã vật ra đất.

Tôi bảo, cứ để Tôn Cửu gia tự mình thay đổi vận mệnh đi, chúng ta mau chạy! Shirley Dương không nỡ bỏ mặc lão ta ở đó, liền bảo tôi: “Phải đưa cả ông ấy đi nữa!”, sau đó cùng Út nắm hai chân Tôn Cửu gia đang hôn mê bất tỉnh, ra sức kéo về phía cổng chào.

Tôi cũng hết cách, đành nghiến răng nghiến lợi cùng Tuyền béo giúp một tay nhấc bổng lão ta lên như khênh con lợn chết, chạy đến dưới chân cột cổng chào.

Lúc này, dương toại trong các rãnh đá hình tròn xung quanh đều đã bị xác lũ sâu quan tài lấp kín, ánh sáng quanh đó lập tức ảm đạm hẳn đi, trong bóng tối, tôi nhận thấy đã có khá nhiều sâu quan tài bò tới dưới chân, tuy bọn chúng đang hoảng loạn chạy trốn, không còn lòng dạ nào cắn xé người sống, nhưng khắp mình mẩy chúng đầy chất độc, bò tới đâu là khiến chỗ đó rữa nát, chỉ có cách tránh đi thật xa mới hòng thoát nạn.

Tôi bảo Tuyền béo cõng Tôn Cửu gia, cả bọn lục tục giẫm lên hình rồng cuộn trên chiếc cột để leo lên cao, chân trước vừa nhấc lên, bên dưới lập tức vang lên tiếng lạo xạo liên hồi. Tôi cúi đầu nhìn xuống, ánh đèn gắn trên mũ chiéu lên nền đất, chỉ thấy từng đàn sâu quan tài bò qua cột đá tựa như một đợt thủy triều đen, trong đám đó còn lẫn cả chuột đất, rùa đất, mọt, chồn đen, rắn độc và rất nhiều loài côn trùng kỳ quái tôi cũng không gọi được tên, tóm lại là những thứ hay sống trong môi trường tối tăm ẩm thấp chốn huyệt mộ.

Núi Quan Tài không phải vùng đất âm u tịch mịch như vẻ bề ngoài tuy bị Cửu Tử Kinh Lăng giáp vây kín, nhưng vì hoàn cảnh đặc thù, trong khu vực vây quanh bởi bốn vách đá tựa như bốn mảnh ván quan tài này, cũng có rất nhiều sinh vật đang sinh tồn hình thành nên một hệ sinh thái gần như khép kín, hoặc nói cách khác, những thứ này đều là thức ăn của Cửu Tử Kinh Lăng giáp. Lúc này, các sinh linh ở xung quanh thôn Địa Tiên đều như gặp phải đại nạn, thục mạng chạy về phía hang động dưới lòng đất sâu.

Dù là côn trùng hay động vật, mức độ mẫn cảm của chúng đối với tai họa đều vượt xa con người, xem tình hình này trong thôn Địa Tiên hẳn sắp có một trận đại kiếp nạn giáng xuống. Nhưng vách đá bên dưói dường như có bố trí dược vật lợi hại hơn, lũ sâu quan tài bò tới được đó đều lần lượt chết cứng, xác rơi lả tả xuống hang ngọc.

Chúng tôi bị vây khốn trên cổng chào, ôm lấy cột đá, mắt nhìn cảnh tượng như ngày tận thế, không ngăn được cơn rùng mình tự đáy lòng dâng lên, nhưng không ai biết tiếp sau đây sẽ xảy ra chuyện gì. Đang khi lúng túng, tôi bỗng thấy Tôn Cửu gia bị Tuyền béo kẹp dưới nách đột nhiên mở mắt tỉnh dậy.

Tôn Cửu gia phát hiện Tuyền béo đang kẹp lão ta vào nách leo lên cổng chào, lập tức đưa tay lần xuống chiếc Nga My thích đeo theo bên mình. Tôi ở bên cạnh nhìn rõ mồn một, thấy lão ta định hành hung, vội quát lên: “Con bà nhà ông muốn chết à!”

Tuyền béo cũng cảm thấy tình thế không ổn, gắt giọng chửi: Tổ cha ông, dám chơi bẩn với đại gia Tuyền béo này à, cho con rùa già nhà ông đi đời luôn!” Dứt lời liền buông Tôn Cửu gia ra, để lão ta rơi xuống trụ đá.

Mắt thấy Tôn Cửu gia sắp từ lưng chừng không rơi xuống vực sâu, Shirley Dương vội ném phi hổ trảo ra, đầu móc vừa khéo bập vào đai đeo ba lô của Tôn Cửu gia, sợi xích bằng thép luyện căng ra, giữ cho lão ta lơ lửng giữa không trung.

Tôn Cửu gia được phi hổ trảo móc lại, thân hình không ngừng xoay mòng mòng bên dưới cổng chào, Shirley Dương gắng hết sức định kéo lão ta lên, nhưng phi hổ trảo dao động dữ dội khiến chỗ tiếp giáp giữa cột đá với tường đá phát ra tiếng “rắc rắc rắc”, nhất thời hiểm nguy cứ liên tục ập đến. Cổng chào đá này ít nhất cũng có mấy trăm năm lịch sử, sao chịu được rung lắc mạnh như vậy, nghe âm thanh và chấn động đủ biết nó có thể sập xuống bất cứ lúc nào.

Cổng đá không hề kiên cố, hơn nữa không gian trên hai cây cột và một cái xà bắc ngang chật hẹp dị thường, tôi đang bám bên trên không thể động cựa được gì, đành hét lên với Shirley Dương: “Mặc xác lão già ấy, dù bây giờ cứu lão, sớm muộn gì chúng ta cũng bị lão hại chết.”

Shirley Dương bị trọng lượng của Tôn Cửu gia kéo xuống, dần cảm thấy khó lòng chịu đựng, cũng không thể mở miệng nói chuyện được nữa, nhưng tôi nhìn ánh mắt cô, cũng hiểu rõ tính cách con người cô, đến chết cũng không chịu buông tay. Lúc này, lại thấy hai tay cô đã bị sợi xích của phi hổ trảo thít cho rách toác da thịt, máu tươi từng giọt chảy theo sợi xích xuống dưới, nhỏ lên mặt Tôn Cửu gia, trong lòng tôi hết sức lo lắng.

Tôn Cửu gia treo người lơ lửng giữa không trung, đưa tay lên vuốt máu tươi trên mặt, khản giọng nói lớn: “Cô Dương… cô buông tay đi, xem ra sự việc đã định sẵn trong số mệnh…tuyệt đối không thể thay đổi được, trước khi núi Quan Tài hủy diệt chúng ta đã định sẵn là sẽ bình an vô sự rồi.” Nói đoạn, lão ta liền rút Nga My thích ra cắt dây đeo ba lô, định giằng thoát khỏi cái móc của phi hổ trảo.

Tuyền béo chỉ mong Tôn Cửu gia mau mau chóng chóng ngã xuống khỏi cổng chào tan xương nát thịt, quên béng cả bệnh sợ độ cao của mình, bò bên trên không ngừng nhắc nhở, chỉ cho Tôn Cửu gia nên dùng dao cắt đứt chỗ nào để thực hiện được động tác rơi tự do có độ khó cao trong thời gian ngắn nhất.

Út không nỡ nhìn thảm kịch xảy ra, vừa mắng Tuyền béo chỉ giỏi quạt gió thổi lửa chẳng được ích gì, vừa khuyên giải Tôn Cửu gia chớ nên làm chuyện ngốc nghếch. Cô tuy có lòng giúp Shirley Dương một tay, nhưng lại rất sợ sâu quan tài, mới thấy vách đá bên dưới nhung nhúc toàn sâu bọ đã sợ đến tay chân mềm nhũn ra, nên củng chỉ lo lắng suông mà thôi.

Tình hình lúc này là bốn người người nọ bám người kia rạp mình trên cổng chào đá, trước nhất là Shirley Dương và Út, sau đấẫy là Tuyền béo, tôi ở mé ngoài cùng, muốn giúp Shirley Dương nhưng lại bị Út và Tuyền béo chắn mất, có thể nói là nước xa không cứu được lửa gần, có lòng mà không có sức, song mắt thấy hai tay Shirley Dương sắp bị sợi xích thít cho đứt lìa, tôi cũng không sao nhịn nổi nữa.

Tôi đành liều mạng bò qua người Tuyền béo và Út, nhích dần đến chỗ Shirley Dương, cúi người xuống tiếp lấy sợi xích bằng thép luyện của phi hổ trảo quấn vào tay. Tôi định kéo Tôn Cửu gia lên, nhưng một loạt hành động này đã gây ra rung động không nhỏ, tôi chì thấy cánh tay đau nhức khôn tả, chiếc cổng chào đá không ngừng run rẩy, lắc lư như muốn sập.

Tôn Cửu gia không đợi tôi kéo lên, đã tự mình cắt đứt dây ba lô bị phi hổ trảo móc vào, thân hình “vù” một tiếng rơi xuống khe nứt đen ngòm trong lòng núi.

Trong khoảnh khắc đó, lòng tôi như có mười mấy cái thùng nước treo lơ lửng, đụng một cái là nghiêng ngả sóng sánh không thể nói rõ được cảm giác như thế nào, vừa không thấy được giải thoát, mà tựa hồ cũng không thấy hụt hẫng, chỉ lờ mờ có cảm giác giáo sư Tôn rơi xuống vực sâu cũng chưa hẳn đã chết, huống hồ xét từ những dấu hiệu trên người lão ta, dường như từ lúc tiến vào địa cung trong mộ Ô Dương vương, lão đã như một cái xác sống biết đi rồi.

Ngoài ra, nếu lời tiên tri đám tù nhân trong mộ Địa tiên bốc quẻ suy đoán thật sự xuất hiện, Tôn Cửu gia sẽ không thể cứ vậy mà ngã tan xương nát thịt được, có lẽ chuyện lão ta rơi xuống khỏi cổng chào đá này cũng được định sẵn rồi cũng nên. Trước mắt, những gì chúng tôi biết được chỉ là một kết quả không xác định, vả lại, trong quá trình này, vẫn còn đầy những biến số và ẩn số chưa lộ diện.

Tôi hít sâu một hơi, ngẩng đầu lên nhìn ba người còn lại, thầy thần sắc ai nấy ngỡ ngàng như vừa đánh mất vật gì, có lẽ họ đều đang muốn hỏi: “Đại kiếp nạn cuối cùng trong lời tiên tri liệu có xảy ra hay không ?” Thế nhưng, ngoài thời gian đang không ngừng trôi kia, không ai có thể đưa ra một đáp án chân thực cả.

Lúc này, lũ sâu quan tài chạy khỏi thôn Địa Tiên đa phần đều đã chết trong khe sâu dẫn tới lối vào Linh Tinh điện, ngoài âm thanh kim loại ma sát chốc chốc lại truyền ra mỗi khi Cửu Tử Kinh Lăng giáp nhích động từ màn sương mù dày đặc trên đỉnh đầu, bốn phía đều tĩnh mịch như tờ, nhưng tôi hiểu rẫt rõ, không khí càng tĩnh lặng, càng dự báo một mối hiểm nguy hơn sắp ập đến, đây chính là khoảng lặng nặng nề trước khi cơn bão bùng phát.

Trong khoảnh khắc tôi mải suy nghĩ ấy, chợt nghe thấy một loạt những âm thanh bất tường từ xa vẳng tới. Địa hình núi Quan Tài này hẹp dài, chúng tôi đang ở phía trên khe nứt ở phần bụng Bàn Cổ thi mạch, còn thôn Địa Tiên được xây dựng ở phần lồng ngực, âm thanh ấy phát ra từ mạn trẻn của núi Quan Tài, cũng chính là phía cái cổ của địa mạch Bàn Cổ.

Cùng với âm thanh kỳ dị là những chấn động liên tiếp không ngớt, tôi thấy cổng chào đá sắp long ra tới nơi, vội cuống lên bảo ba người còn lại tụt xuống, cả bọn tái mặt nhìn nhau, không hiểu núi Quan Tài này sắp xảy ra chuyện gì? Nom động tĩnh, lẽ nào là trời long đất lở? Địa mạch đứt gãy gây ra địa chấn, hay là Cửu Tử Kinh Lăng giáp đã xoắn nát cả ngọn núi rồi ?

Tôi hoảng hốt tâm thần, lẩm bẩm: “Lại sắp sửa động đất lún sụt à? Thế này thì chúng ta sẽ vĩnh viễn bị vùi dưới lòng đất cùng núi Quan Tài này mất thôi...”

Tuyền béo nói: “Nhất này, tôi thấy xe còn chưa đổ thì chúng ta cứ đẩy tiếp thôi, mặc xác trong núi này có chuyện gì, chúng ta cứ chạy tiếp, chạy được người nào hay người đấy chứ.” Đúng lúc này, chợt nghe sau lưng có người cao giọng gọi chúng tôi, tôi vội quay ngoắt đầu lại, thấy bờ bên kia khe sâu có một bóng người, khoảng cách khá xa nên đèn không chiếu tới, nhưng nghe giọng thì chính là Tôn Cửu gia. Thì ra, vừa nãy lão ta rơi xuống dưới cổng chào, liền bị móc vào cột gỗ của sạn đạo giữa hai vách đá, chứ không rơi thẳng xuống hang ngọc ngã chết, nhưng lão ta cũng chỉ có thể bò lên từ phía đối diện.

Chuyện này không nằm ngoài dự liệu, tôi cũng không để ý đến lão ta, hiện giờ, tôi có cảm giác nên tránh người này càng xa càng tốt, nhưng nghe tiếng Tôn Cửu gia, hình như đang bảo với chúng tôi: “Chớ động đậy, đứng yên tại chỗ đợi tôi, cuối cùng tôi cũng biết chân tướng của lời tiên tri ấy rồi! Không phải động đất... không phải đang xảy ra động đất đâu...” Vừa hét ầm ĩ lão ta vừa bất chấp ngọn núi dang chấn động dữ dội, lại định trèo lên cổng chào đá vượt qua khe sâu.

Bốn người chúng tôi không tin lời Tôn Cửu gia nữa, ai biết được có phải lão ta lại muốn lấy mạng mọi người ra kiểm chứng lời tiên tri thật giả thế nào hay không. Tôi nói với Shiriey Dương: “Mặc kệ Tôn Cửu gia đi, lão ta đâu phải người sống như chúng ta, chắc hẳn là xác sống trong núi Quan Tài chạy ra rồi. Ngọn núi này sắp sập, chúng ta cứ đi đường chúng ta thôi.”

Sau đấy, tôi không để Shirỉey Dương phân bua, liền kéo cô đi trước, Tuyền béo và Út theo sau hỏi: “Chúng ta đi hướng nào vậy?” Tôi chỉ vào vách đá dựng đứng vươn cao như mảnh ván quan tài. Động đất sẽ làm ngọn núi khổng lồ đổ sụp xuống, núi Quan Tài hình dạng tựa như cỗ quan tài đá không nắp, nham thạch từ bên trên rơi xuống sẽ chôn vùi Bàn Cổ thần mạch, toàn bộ nơi này, họa may chỉ có bên dưới bốn vách đá ấy là tương đối an toàn.

Trong lúc cả ngọn núi đang chấn động và sụt lún dữ dội, không thể đi lại bình thường, chúng tôi đành bám vào bia đá, cột đá bên cạnh, nhoi lên hụp xuống chạy về phía vách đá. Vừa chạy qua máng dương toại vây quanh khe nứt, tôi chợt phát hiện Tôn Cửu gia cũng từ phía bên kia khe nứt đuổi tới nơi.

Tôn Cửu gia không đợi chúng tôi mở miệng, đã cướp lời nói: “Không phải động đất...” Lời lão ta còn chưa dứt, mặt đất cơ hồ bị giật mạnh một cái, ầm ầm nghiêng hẳn đi, cả bọn đứng không vững, đều ngã nghiêng ngã ngửa, chẳng những vậy, độ nghiêng càng lúc càng lớn dần, khiến chúng tôi không sao đứng lên nổi, chỉ có thể nằm rạp người dưới đất.

Lúc này, xung quanh tựa như trời long đất lở, núi Quan Tài toàn những tiếng ầm ầm trầm đục, chúng tôi lom khom dưới đất, ra sức bò về phía chân vách đá thẳng dứng, khó khăn lắm mới đến được phía dưới. Cả bọn tìm một động nham thạch từng chứa quan tài treo chui vào. Vách đá trong này rất dày, Cửu Tử Kinh Lăng giáp bên ngoài vẫn chưa thể xuyên vào trong, tạm thời có thể tránh được những khói đá nhỏ phía trên rơi xuống.

Tuyền béo thấy Tôn Cửu gia cũng bám đuôi theo sau, liền ngoác miệng chửi: “Còn muốn gạt đứa nào nữa, tình hình này đến thằng thiểu năng cũng nhận ra được, không phải động đất thì là cái gì ? Xem chừng, ít nhất cũng phải động đất cấp tám cấp chín chứ chẳng chơi.”

Tôi nói: “Tôi từng trải qua động đầt rồi, chắc không sai đâu, hẳn là Cửu Tử Kinh Lăng giáp phá hoại địa mạch và địa tầng gây ra chấn động, nhưng không thể đến cấp chín được, động đất cấp chín gần như là loại động đất mang tính hủy diệt rồi, khi ấy thì cả dãy núi này đều chìm xuống lòng đất ấy chứ.” Tôn Cửu gia dường như nôn nóng muốn nói gì đấy với chúng tôi, nhưng lão ta cứ thở hổn hển đứt hơi, nhất thời không thốt được tiếng nào, tôi lo lão ta lại gây ra hành động gì ngoài sức tưởng tượng, định kiếm dây trói lại, không ngờ mặt đất càng lúc càng nghiêng đi, bên trong vách đá lại rất tụ âm, chấn động đinh tai nhức óc dồn dập hết đợt này đến đợt khác, làm màng nhĩ chúng tôi như muốn rách toang ra, tiếng nói hoàn toàn bị nhấn chìm. Đá vụn không ngừng lăn qua hang động nơi chúng tôi ẩn mình, kèm theo không ít mành ngói vỡ.

Tôi thầm giật mình kinh hãi, ngọn núi nghiêng lệch ắt sẽ khiến nhà cửa phòng ốc trong thôn Địa Tiên đổ sụp, nếu giờ chúng tôi vẫn chưa rời khỏi cổng chào bắc trên hang ngọc dẫn tới Linh Tinh điện, hẳn đã bị gạch vỡ đá vụn trôi xuống chôn vùi. Vừa rồi, tôi đột nhiên nảy ra ý nghĩ chạy vào động chứa quan tài treo trên vách đá náu mình, đa phần là vì không muốn nghe lời Tôn Cửu gia đứng yên tại chỗ mà thôi, lẽ nao, đây đúng là số mệnh đã định sẵn?

Giả dụ trên đời này thực sự tồn tại thứ gọi là vận mệnh do ông trời định sẵn thì dường như tôi đã cảm nhận được sức mạnh trong bóng tối ngấm ngầm khống chế vận mệnh ấy. Trong kiếp nạn ở thôn Địa Tiên, bất kể hành động nào của chúng tôi, dù cố tình hay vô ý, đều không thể ngăn cản được tai họa cuối cùng xảy đến. Trong cõi vô hình, có một lực lượng thần bí người phàm không thế đoán biết đang khống chế tất thảy, mấy kẻ bị vây khốn trong núi Quan Tài như chúng tôi, chẳng qua chỉ là một hạt cát giữa bão cát sa mạc, hay một giọt nước giữa biển cả mênh mông, dù vùng vãy quyết liệt tới đâu cũng vĩnh viễn thân bất do kỷ.

Nhưng nom tình hình này, ngọn núi Quan Tài chỉ trong chốc lát sẽ bị chôn vùi dưới lòng đất, bên trên núi Quan Tài đều là những đỉnh núi chót vót trong khu vực hẻm núi Quan Tài, giống như từng mảng nhà chọc trời đè nặng phía trên, nếu địa chấn dữ dội, sẽ tạo thành sụt lún sụp đổ trên quy mô lớn hơn nữa, những ngọn núi cao nghìn thước kia sẽ vỡ toang từ trong ra ngoài, chỉ riêng đá vụn bùn đất rơi xuống cũng đủ nhấn chìm cả núi Quan Tài này rồi. Nếu đúng thế, sự việc vô số người chết ở thôn Địa Tiên đều thoát ra bên ngoài trong lời tiên tri, làm sao có thể xảy ra được ?

Tôn Cửu gia đột nhiên đứng dậy, tóm chặt lấy vai tôi, y muốn tôi nghe lão ta nói, nhưng tiếng ầm ầm trong núi liên miên không dứt, giữa cơn chấn động, tôi chỉ thấy miệng lão ta mấp máy, lại không biết thuật nhìn môi đoán ý, không thể hiểu được rốt cuộc lão ta muốn nói gì.

Tôn Cửu gia thấy nói không được, liền ra sức vung tay ra dấu, lúc này cả bọn tựa như đang ở trong một cái thùng xe không ngừng rung lắc dữ dội, trong bóng tối lại chỉ có mấy ngọn đèn gắn trên mũ vừa nhỏ vừa yếu, nhưng tôi vẫn nhanh chóng lĩnh hội được thông tin Tôn Cửu gia muốn truyền đạt. Sau một thoáng suy nghĩ, tôi bất giác giật bắn mình kinh hãi, tựa hồ cả hồn phách cũng run lên cùng với cơn địa chấn.

Tôi đoán Tôn Cửu gia có lẽ muốn nói: “Đây không phải động đất binh thường, mà là núi Quan Tài đang di động, nó sẽ không bị vùi dưới lòng đất, ngọn núi đầy xác chết và mộ cổ các triều đại này... sẽ nhanh chóng tiến vào sông Trường Giang.” Hiện tượng động đất xảy ra trong núi Quan Tài hết sức bất thường, không giống như động tĩnh do Cửu Tử Kinh Lăng giáp nghiến nát địa mạch và tầng nham thạch gây ra. Đồng thời, tình hình bị gai đồng của Kinh Lăng giáp chèn ép trong núi ngược lại cũng không còn mạnh mẽ như lúc trước nữa.

CHƯƠNG 59: HIỆN TƯỢNG SIÊU NHIÊN

Tuy tôi vẫn lờ mờ có cảm giác này, nhưng trước sau không đoán nổi rốt cuộc là chuyện gì xảy ra, chẳng lẽ lại là hiện tượng siêu nhiên mà Shirley Dương từng nhắc đến hồi trước? Cho tới khi Tôn Cửu gia đứng trước mặt khua tay múa chân một hồi, tôi mới bừng tỉnh ngộ... tai kiếp thực sự mà thôn Địa Tiên đang đối mặt, còn kinh khủng gấp bội động đất, núi lở.

Tôi không biết Tôn Cửu gia làm sao nghĩ ra được vấn đề này trong lúc núi lay đất lở hỗn loạn như vậy, chỉ có thể đoán được, lão ta muốn nói với chúng tôi rằng, địa chấn trong núi là do một trận hồng thủy gây nên.

Di tích cổ hẻm núi Quạn Tài ở khu vực Thanh Khê này có di chỉ của những mỏ khai thác muối quy mô lớn tích lũy suốt mấy nghìn năm, bên trong lỗ chỗ như tổ ong tổ kiến. Suốt mấy trăm năm trước, Cửu Từ Kinh Lăng giáp dưới lòng đất không ngừng sinh sôi phát triển, tầng nham thạch và bùn đất xung quanh núi Quan Tài bị nó đào bới, rất nhiều khu vực sớm đã rỗng không.

Thêm nữa, hẻm núi Quan Tài từ thời xưa đã lũ lụt tràn lan, lượng nước trong khe núi hết sức dồi dào, trong đợt sang chấn lớn nhất của ngày hôm nay, cũng chính là lúc lũ sâu quan tài trong thôn Địa Tiên bỏ chạy thục mạng, tầng nham thạch bị Cửu Tử Kinh Lăng giáp đâm xuyên vặn xoắn, cuối cùng cũng sụp đổ hoàn toàn, mấy mạch nước ngầm và một lượng lớn nước mưa tích lũy trong lòng núi tựa như những con rồng khổng lồ hung mãnh vụt xuất hiện, khí thế long trời lở đất, không ngừng từ phía trên núi Quan Tài ập xuống công kích cả ngọn núi.

Tầng nham thạch vây bủa quanh bên ngoài núi Quan Tài khắp nơi đều có hầm khai thác muối khoáng chằng chịt đan xen nhau, cũng có cả hang động thiên nhiên, giữa các hầm mỏ và hang động là một tầng ngăn cách vô cùng mỏng manh yếu ớt, không thể ngăn nổi cả ngọn núi Quan Tài bị dòng nước ngầm xối xả làm cho chuyển động.

Trong sức mạnh cuồng bạo như chẻ tre của tự nhiên vĩ đại, núi Quan Tài tựa hồ một cỗ quan tài nổi dập dềnh giữa cơn lủ lớn, bị dòng nước xiết đẩy đi, dọc đường nước chảy bèo trôi xuyên qua tầng đá yếu ớt, rất có thể sẽ bị dòng nước đẩy ra hẻm núi lớn bên ngoài, đồng thời, chỉ cần ngọn núi Quan Tài này đủ chắc chắn, cuối cùng thậm chí còn có thể chảy vào dòng Trường Giang.

Cửu Tử Kinh Lăng giáp không ngừng xâm thực địa mạch, khiến mạch nước ngầm đổi dòng, khiến núi Quan Tài chuyển động dưới tác động của dòng nước lũ xối xả, cả ngọn núi phá vỡ tầng tầng vách đá yếu ớt, tựa như năm xưa Ô Dương vương khơi dòng, xuyên qua mấy hang động, tới tận khi núi Quan Tài tiến vào hẻm núi mới hoàn toàn sụp đổ. Đây tựa như một lộ trình do Tử thần chỉ lối, trạm cuối tất nhiên là nơi kiếp nạn cuối cùng xảy ra. Nhưng núi Quan Tài này rốt cuộc sẽ mang thôn Địa Tiên di động được bao xa ? Không ai có thể đoán được khoảng cách này, chỉ biết mỗi khi quả núi di động một mét, chúng tôi lại tới gần Thần Chết thêm một mét.

Tôn Cửu gia tuy không thể miêu tả và giải thích một cách trực quan, nhưng tôi và Shirley Dương cũng không phải đầu đất, thấy lão ta nhắc tới dòng nước trong hẻm núi, liền như có ai đâm toạc lớp giấy bồi trên ô cửa sổ, mạch suy nghĩ rốt cuộc cũng xoay chuyển, những việc tiếp sau không cần phải nói nữa.

Thoạt tiên, chúng tôi đã đưa ra rất nhiều suy đoán về việc thi tiên trong thôn Địa Tiên rời núi, nhưng tính hiện thực của mọi khả năng đều không lớn lắm, gần như là chuyện không thể, duy chỉ không nghĩ đến việc ngọn núi Quan Tài này có thể di động. Theo truyền thuyết từ thời kỳ Ô Dương vương để lại, thi tiên trong Bàn Cổ thần mạch có thể ám vào thân thể người sống và người chết, sau khi chôn dưới lòng đất có thể khiến người chết không cương hóa, không thối rữa, nhưng một khi rời khỏi mảnh đất báu phong thủy này, người chết bị thi tiên ám vào sẽ khiến ôn dịch lan tràn, hại chết vô số người và súc vật. Nền văn hóa Vu Tà từng thịnh vượng một thời thuở ấy, chính vì bị thứ này liên lụy mà tàn phá tiêu vong.

Nhưng sau khi núi Quan Tài bị dòng nưóc ngầm cuồn cuộn cuốn ra khỏi lòng núi, có phải sẽ đúng như trong bức tranh tiên tri kia miêu tả... tất cả người chết trong thôn Địa Tiên sẽ tràn đi khắp bốn phương tám hướng, trời đất hoàn toàn biến thành núi thây biển máu ư? Lẽ nào hiện tượng “siêu nhiên” còn khó tin hơn việc cả trái núi đang di động ấy, thật sự sẽ xuất hiện trong hẻm núi Quan Tài ở vùng Vu Sơn này ?

Tôi biết, tất cả sự phát triển biến hóa của sự vật đều phải nhờ vào nguyên nhân nội tại và ngoại tại cùng thúc đẩy tạo thành, Quan Sơn thái bảo tinh thông thuật số, cách bố trí trong thôn Địa Tiên thật sự bí hiểm vô cùng, từ khi phá giải “Quan Sơn chỉ mê phú” đến lời tiên tri hiện tại, cơ hồ không có chuyện gì không thể xảy ra được nữa rồi.

Nghĩ tới đây, tôi không khỏi nổi giận trong lòng, thầm hạ quyết tâm, phen này dẫu có tan xương nát thịt cũng không thể để lũ thi tiên trong núi Quan Tài này thoát ra. Lão Phong Soái Cổ kia trăm phương ngàn kế muốn mình sau khi chết sẽ hóa thành tiên, điều này trong xã hội cổ đại cũng tạm chấp nhận được, nhưng rõ ràng lão còn hiềm người bồi táng theo mình vẫn chưa đủ, trong Sát Sinh đạo, dùng “sát kiếp” để độ người, chết bao nhiêu cũng chưa đủ... tính mạng người sống, chết một hai người thì đúng là nhìn mà kinh hãi, còn khi số lượng người chết lên đến trăm vạn, hai trăm vạn thì chẳng qua chỉ là một con số thống kê khiễn người ta đờ đẫn mà thôi.

Chết mấy trăm năm rổi vẫn còn muốn thi thể mình rời núi dùng sát kiếp độ người, suy nghĩ này chỉ kẻ điên rồ như địa tiên Phong Soái Cổ mới có, nhưng vừa khéo ứng với cách nói thiên tài đa số đều là những kẻ điên khùng, cũng không thể không thừa nhận, bố cục trong mộ cổ Địa Tiên này chỉ có hạng kỳ nhân tuyệt thế tính toán sâu xa như Phong Soái Cổ mới đủ khả năng khống chế mà thôi.

Năm người chúng tôi chen chúc trong một cái hốc bên dưới vách đá, chỗ này vốn dùng để quan tài treo, chật hẹp hơn mộ thất thông thường nhiều, những chấn động liên tiếp không ngừng khiến cả bọn không thể hành động gì được, tuy trong lòng nóng như lửa đốt, song cũng chỉ biết nghe theo mệnh trời.

Khổ sở cầm cự như thế một hồi, trên thực tế có thể cũng chẳng bao lâu, nhưng dù chỉ có mấy phút đồng hồ, chúng tôi cũng cảm thấy dài đằng đẵng như cả mấy thế kỷ. Núi Quan Tài và dòng nước xiết phía sau tựa hồ đã phá vỡ mấy tầng nham thạch chắn phía trước, những rung động tựa như địa chấn kia dần dần giảm bớt, chỉ còn tiếng nước ầm ầm vang dội bên tai.

Tôi vươn người ra khỏi huyệt động nhìn ngó chỉ thấy thôn Địa Tiên tối om như mực, cơ hồ núi Quan Tài vẫn chưa lên đến mặt đất. Lúc này, chợt thấy trên vách đá phát ra tiéng động cực kỳ chói tai, tựa như vò số mũi khoan kim loại đang cọ xát vào nham thạch với tốc độ cao, nhấn chìm cả tiếng nước chảy, nhất thời khiến cả bọn đau nhói hai tai. Chúng tôi vội bịt chặt tai, há miệng ra, cố gắng giảm bớt cảm giác đau đớn, nhưng âm thanh ấy tựa như hữu hình hữu chất, vẫn không ngừng từ bốn phương tám hướng xuyên vào tận óc.

Tôi vội bịt chặt tai lăn tròn dưới đất, lăn ra khỏi hốc đá, mấy người còn lại cũng lần lượt bò theo, người nào người náy sắc mặt xám xịt như chì, tựa hồ cả hồn phách đều bị tiếng kim loại kèn kẹt sắc bén kia nghiến nát, nhưng núi Quan Tài này có địa thế vừa dài vừa hẹp, bên trong đâu đâu cũng tụ âm, vì vậy sau khi ra khỏi hốc đá, tình hình cũng không khá lên chút nào.

Cũng may, âm thanh kin kít dày đặc này đến nhanh đi cũng cực nhanh, chỉ chốc lát sau, tiếng động đá từ sắc bén chuyển sang trầm đục, biến thành những âm “bựt bựt tưng tưng”, chấn động lần nữa xuất hiện trở lại.

Mọi người đều biết âm thanh vừa rồi là do Cửu Tử Kinh Lăng giáp phát ra, nghe hết sức đáng sợ, chỉ không biết là điềm báo điều gì sắp xảy đén, lúc này trong tai đã bớt ong ong đau nhức, hai người mặt đối mặt nói lớn tiếng đại khái cũng miễn cưỡng nghe được đối phương nói gì. Shiriey Dương chỉ vào bầu không tối đen như mực hỏi tôi: “m thanh vừa nãy... có phải Cửu Tử Kinh Lăng giáp chết rồi không?”

Tôi gật gật đầu, cũng có khả năng này, Cửu Tử Kinh Lăng giáp là loài thực vật hút máu sống dưới lòng đất, nghe nói rễ của nó đều mọc từ trong đồ đồng có từ thời Tam Đại, không thế rời khỏi địa mạch, bằng không Cửu Tử Kinh Lăng giáp sẽ lập tức khô kiệt mà chết. Núi Quan Tài bị dòng nước ngầm đẩy khỏi vị trí ban đầu, Kinh Lăng giáp quấn chặt lấy các vách núi tuy rằng mạnh mẽ, nhưng cũng không thể ngăn trở được xu thế di động của cả tòa núi, nghe những âm thanhấ, không khó tưởng tượng, chắc hẳn Cửu Tử Kinh Lăng giáp bị bứt lên khỏi đất mà chết rồi.

Tôn Cửu gia chõ miệng vào nói: “Những ân oán của chúng ta cứ tạm gác sang một bên đi, hiện giờ, núi Quan Tài coi như đã bị trốc cả gốc lên rồi, tiếp sau đây chắc chắn sẽ bị dòng lũ cuốn vào hẻm núi lớn, nếu muốn ngăn cản thi tiên rời khỏi mộ cổ, chúng ta có lẽ vẫn còn chút thời gian. Một khi để ngọn núi trôi vào hẻm núi, thì tất cả coi như xong...”

Tuyên béo không muốn nghe Tôn Cửu gia lải nhải, vung xẻng công binh lên định đập vào đầu lão ta phát nữa. Tôi vội ngăn cậu ta lại, không có lòng độ lượng với người khác thì khó thành đại sự, huống hồ dù phanh thây xé xác Tôn Cửu gia, kiếp nạn ắt hẳn sẽ xảy ra này cũng không thể tránh khỏi, việc cần kíp trước mắt là phải nghĩ cách thay đổi “vận mệnh” đã được định sẵn sẽ xuất hiện trong lời tiên tri kia.

Núi non run rẩy lắc lư khiến người ta khó lòng đứng vững, tôi đành bảo mọi người dựa vào vách đá, lòng chỉ muốn nhanh chóng nghĩ ra một đối sách, vô số ý nghĩ hiện lên trong đầu, bất luận là chạy trốn hay ngăn cản thôn Địa Tiên di chuyển vào hẻm núi, thì trước tiên cũng phải hiểu rõ được mình đang ở trong tình thế nào, biết mình biết người mới bách chiến bách thắng, hành động mù quáng chỉ dẫn đến hậu quả ngược lại mà thôi.

Tình thế lúc này, thật đúng là nằm mơ cũng không thể tưởng tượng nổi, sau khi tách ra khỏi đám đồ đồng có khởi nguồn của Cửu Tử Kinh Lăng giáp, núi Quan Tài bị dòng nước lũ xối đi, không ngừng ầm ầm trượt trong các hang động dưới lòng đất, cả quả núi chao đảo dập dềnh, bốn vách đá xung quanh cũng thật kiên cố, tạm thời không xuất hiện hiện tượng sụp đổ.

Những đoạn rễ chết khô của Cửu Tử Kinh Lăng giáp tựa như một lớp vỏ cứng bao bọc xung quanh núi Quan Tài, cũng di chuyển cùng với quả núi. Chiếc quan tài đá khổng lồ này tuy không có nắp đậy, nhưng lại được tấm lưới bằng đồng do Kinh Lăng giáp tạo thành che kín, đá vụn không rơi vào trong được, vì vậy hầu hết kiến trúc trong thôn Địa Tiên vẫn được bảo tồn hoàn hảo.

Nhưng muốn bước đi mấy bước trong khi xung quanh không ngừng tròng trành va đập dữ dội còn khó hơn lên trời, trước tình huống này, liệu còn cách nào nữa đây? Chợt nhớ lại ví dụ lúc trước của Shirley Dương, đại kiếp nạn sắp bùng phát ở thôn Địa Tiên tựa như kết cục đã hoàn thành của một cuốn tiểu thuyết, nhân vật trong câu chuyện tuyệt đối không thế thay đổi kết cục được định sẵn, tôi có cảm giác vận mệnh giống như một cái xiềng vô hình, mặc dù vô ảnh vô hình, nhưng lại không thể giằng ra, không thể đập vỡ, không thể hất bay, dù ta có gắng sức liều mạng thế nào chăng nữa, kết quả cũng không hề thay đổi.

Kết quả thôn Địa Tiên theo núi Quan Tài tiến vào hẻm núi lớn vẫn chưa phải đáng sợ nhất, đáng sợ là bản thân là người trong cuộc, biết rõ kết cục cuối cùng sẽ là một tai họa mang tính hủy diệt nhưng lại không cách nào vãn hồi. Tuy tôi biết, mọi chuyện đều phải nhìn thoáng ra, nhưng giờ cũng không khỏi dần dần cảm thấy bản thân mình yếu ớt nhỏ bé, càng lúc càng chìm sâu vào tuyệt vọng.

Đương lúc cả bọn bối rối chưa biết phải làm sao, núi Quan Tài đang rung lắc dữ dội đột nhiên chấn động mạnh, tuy không biết tình huống bên ngoài thế nào, nhưng dựa vào cảm giác thì hình như nó đã bị kẹt ở khu vực chật hẹp trong hang động dưới lòng đất.

Mấy người chúng tôi đều đầu váng mắt hoa, xương cốt khắp người rã rời cả ra, tim đập thình thịch như trống làng, khó khăn lắm núi Quan Tài mới dừng lại được, người nào người nấy đều như được ân xá, nằm rạp xuống đất không nhúc nhích nổi.

Nhưng cùng trong một cái chớp mắt ấy, trên đầu lại chợt vang lên tiếng rào rào loạn xạ. Thì ra, núi Quan Tài khựng lại nửa chừng, Cửu Tử Kinh Lăng giáp quấn bên trên bị tầng nham thạch dưới lòng đất ngăn trở, phía sau lại có dòng nước ngầm xối xả liên tục bất tận, trong tiếng gió âm vù vù, từng mảng rẻ cây lập tức bị đá núi cắt đứt lìa, từ trên không rơi xuống như mưa tên bão đạn.

Lúc này, trong núi tối om như mực, trong mấy mảnh rễ cây rơi xuống đầu tiên, có một đoạn to như lưỡi mâu vừa khéo sướt qua mặt tôi cắm xuống đất, ngoài ra còn một mũi gai bị gãy ghim vào ba lô sau lưng, mấy người còn lại cũng xém chút nữa bị đóng đinh xuống đất. Mượn ánh sáng của đèn chiếu gắn trên mũ, tôi trông rõ mồn một, đoạn rễ của Kinh Lăng giáp cắm trước mặt đã chết khô, nhưng những gai móc sắc bén vẫn còn nguyên vẹn, từ trên cao rơi xuống hoàn toàn có thể đâm xuyên qua người, tạo thành vết thương chí mạng.

Không đợi mọi người kịp định thần lại, trong nháy mắt, tiếng những chiếc rễ Cửu Tử Kinh Lăng giáp bị giằng xé đứt lìa bên trên đột nhiên trở nên dồn dập, lại thêm nhiều gai nhọn rơi xuống trong tiếng rít gió rợn người. Khi đứng giữa lằn ranh sống chết, con người luôn có thể kích phát sức mạnh tiềm ẩn bên trong, cả bọn vốn đã sức cùng lực kiệt, nhưng bản năng cầu sinh lại thúc đẩy sinh ra một luồng sức mạnh mới, chúng tôi vùng vẫy đứng dậy, liều mạng di chuyển về phía cái hốc vừa náu mình lúc nãy.

Tôn Cửu gia kêu lên: “Nấp cái gì? Đằng nào số mệnh đã định sẽ phải đưa thi tiên rời núi, giờ muốn chết cũng khó, trời sập xuống cũng không đè chết chúng ta được đâu...”

Lão ta còn chứa dứt câu, đột nhiên im bặt, tôi nhìn ba người còn lại, vốn cả bọn đều đã trốn vào bên dưới vách đá, nghe giọng Tôn Cửu gia có gì đó không ổn, vội ngoảnh đầu lại, chỉ thấy một mũi gai từ trên cao rơi xuống đã ghim lão ta xuống đất. Lão ta đang hoang mang nhìn chằm chằm vào mũi gai to tướng đâm xuyên cơ thể, tựa hồ không thể tin vào mắt mình.

Shirley Dương thấy Tôn Cửu gia bị mảnh rễ cây ghim xuống đất, liền chẳng nói chẳng rằng chạy ra khỏi hóc đá, định liều mạng cứu người.

Tôi thấy vậy, lo đến nỗi gân xanh trên trán giật giật không ngừng, vươn tay ra ngăn Shirley Dương lại, không ngờ bàn tay chụp vào khoảng không, vội vàng theo sát sau lưng cô, nhưng mới bước được hai bước, đã nghe Cửu Tử Kinh Lăng giáp bị đứt lìa bên trên không ngừng rơi xuống rào rào, tôi vội giương Ô Kim Cang che chắn, đánh bật một đám rẽ cây sắc nhọn ra xa.

CHƯƠNG 60: QUAN TÀI TREO

Lúc này, Shirley Dương đã nhổ đoạn rễ cây đâm xuyên đầu vai Tôn Cửu gia ra, trên đó toàn vảy ngược, vừa rút một cái, lập tức giật theo cả một mảng thịt lớn, máu tươi bắn tung tóe khắp mình mẩy mặt mũi chúng tôi, nhưng Tôn Cửu gia vẫn nhịn đau, không kêu lấy một tiếng.

Chúng tôi không đủ thời gian xem xét thương thế của Tôn Cửu gia, nhân lúc những mảnh Kinh Lăng giáp chưa tiếp tục rơi xuống đợt tiếp theo, vội gọi Tuyền béo và Út ra rìa hốc tiếp ứng, hai người vừa kéo vừa nâng, đưa Tôn Cửu gia vào trong hốc đá chứa quan tài treo.

Tuyền béo phẫn nộ: “Nhất ơi là Nhất, hai người chán sống rồi hả? Liều mạng vì lão Tôn này có... đáng không?”

Tôi tiện tay lau máu tươi trên mặt, đáp lấy lệ: “Vụ mua bán này đằng nào cũng coi như lỗ vốn rồi, ngại gì lỗ thêm một ít nữa, chỉ cần giữ được mạng, sau này sớm muộn sẽ gỡ lại, giờ cứ coi như cho vay nặng lãi đi.”

Shirley Dương lại nói: “Không đơn giản vậy đâu, tôi cứu giáo sư Tôn là vì đột nhiên nghĩ đến một điểm mù, sự việc đã được số mệnh định sẵn sẽ xảy ra ấy... có lẽ không phải như chúng ta tưởng tượng, tấc cả đều đã bị những tù nhân trong thạch laoở mộ Địa Tiên làm hiểu lầm rồi.”

Cửu Tử Kinh Lăng giáp quấn xung quanh núi Quan Tài tuy đá đứt rễ, nhưng những đoạn rễ quấn chặt trên vách đá vẫn không ngừng cọ xát vào nham thạch, khiến núi Quan Tài bị cản lại ở một chỗ hẹp trong hang động ngầm dưới đất, lúc này chấn động đã lắng xuống phần nào. Tôi nghe Shirley Dương nói thế, nhất thời cũng không hiểu lắm, vội lắc đầu mấy cái thật mạnh, vẫn cảm thấy trước mắt sao bay tá lả, bèn lơ mơ hỏi: “Chẳn lẽ lời tiên tri trong nhà lao đá ấy không phải là thật ?”

Shirley Dương nói, ít nhất những chuyện đã xảy ra đều ứng nghiệm rồi, nhưng những chuyện tiếp theo chưa chắc đã như chúng ta tưởng tượng lúc đầu. Bích họa trong địa lao được vẽ theo quẻ số tinh tượng, em nhớ hồi trước anh từng nói, vạn vật trên thế gian này đều từ só sinh ra tượng, trong bức tranh tiên tri cuối cùng, thi tiên ngồi trên đạo tinh rời khỏi núi...

Tôi gật đầu: “Đạo tinh ấy chắc là ứng lên đám người chúng ta, coi bộ chúng ta cũng là thân bất do kỷ, dù làm gì, cuối cùng cũng khiến thi tiên trong mộ cổ thoát ra khỏi núi.”

Shirley Dương lại nói tiếp, giáo sư Tôn nói, trước khi thi tiên rời núi, dù gặp nguy hiểm mấy chúng ta cũng không thể chết, nhưng anh có từng nghĩ, bức bích họa mang theo lời tiên tri kia tuy trừu tượng khó hiểu, nhưng đạo tinh chỉ có một, vả lại không thể phán đoán xem lúc rời núi là còn sống hay đã chết, có thể ngay cả khi chúng ta đều chết trong núi, thi tiên cũng có thể ám lên thi thể của một người trong bọn. Đương nhiên... trước khi thôn Địa Tiên tiến vào hẻm núi, mọi suy đoán đều không có căn cứ, ý của em là, chuyện này không thể phán đoán theo lẽ thường, chớ nên dùng ý nghĩ chủ quan mà suy đoán.

Tôi nghe Shirley Dương nói tới đây, đã hiểu được ý cô, việc không hẳn như Tôn Cửu gia nhận định, mà là trước khi rời khỏi núi Quan Tài này, chúng tôi có thể mất mạng bất cứ lúc nào dù cả bọn chết hết cũng không thể xoay chuyển càn khôn, thi tiên trong thôn Địa Tiên cuối cùng nhất định sẽ thoát ra ngoài, nhưng tình hình thực tế ra sao thì không đến thời khắc cuối cùng, vẫn không thể nào suy đoán được.

Lúc này, tôi không khỏi sinh nghi, bèn quay lại liếc Tôn Cửu gia một cái, chỉ thấy Út đang xử lý vết thương cho lão ta, bôi thuốc cầm máu tác dụng nhanh lên vết thương bị đâm xuyên trên vai, Tôn Cửu gia sắc mặt đờ đẫn, bị thương nặng như vậy mà dường như không hề thấy đau đớn.

Tôi đột nhiên nhớ ra, cử chỉ hành vi của Tôn Cửu gia thực không khác gì một cái xác sống, hơn nữa lão ta cũng không thể giải thích được tại sao trên người mình có thi khí bao bọc, lại có cả thi trùng xuất hiện, lẽ nào người này còn có âm mưu sâu xa gì nữa chăng? Có lẽ nào Tôn Cửu gia chính là thi tiên không? Hay lão ta đã bị Phong Soái Cổ ám lên mình rồi ?

Một loạt nghi vấn xoay chuyển trong óc tôi như đèn cù, nhanh chóng khuấy thành một vòng xoáy khổng lồ, càng nghĩ càng cảm thấy mình chìm đắm vào trong đó, không thể bứt ra được, mọi giả thiết đều trở nên phi logic, chỉ riêng sự tồn tại của một kẻ khắp người đầy dấu hiệu thi biến như giáo sư Tôn, cũng đã vượt xa phạm trù thường thức và năng lực lý giải của tôi rồi.

Tôn Cửu gia thấy tôi nhìn chằm chằm lão ta, liền kéo tôi một cái, nói: “Lúc trước tôi khóa cửa đường hầm bí mật lại, không phải muốn hại mọi người đâu. Nghe cô Dương nói, giờ tôi đã nghĩ thông rồi, năm người chúng ta dù sống hay chết cũng không thể thay đổi được kiếp nạn đã định sẽ bùng phát ở thôn Địa Tiên, hy vọng các cô các cậu đừng để trong lòng, phải biết... mọi chuyện tôi làm đều là nhìn việc không nhìn người, tôi xưa nay không hề có oán cừu gì với các cô các cậu, chỉ muốn dốc hết khả năng của mình, ngăn cản thi tiên thoát khỏi núi Quan Tài mà thôi.”

Tôi thấy Tôn Cửu gia tuy hành sự cực đoan quá khích, nhưng hẳn lão ta đã nói hết những gì có thể nói rói, cứ tiếp tục dằng dai nữa cũng chẳng ý nghĩa gì, bây giờ chỉ cần ngấm ngầm đề phòng, tìm cơ hội dụ rắn rời hang là được, bèn nói: “Đừng nói những luận điệu hoang đường này với tôi làm gì, tôi không hiểu cái quái gì là nhìn việc không nhìn người, việc đều do người làm ra cả, nhìn việc chính là nhìn người, có điều chuyện giữa chúng ta nhất thời không thể giải quyết gọn gàng được, họa lớn đang ở trước mắt, vẫn phải nghĩ cách thoát thân trước rồi hẵng hay”

Tôn Cửu gia thở dài một tiếng, nói: “Hồ Bát Nhất, cậu đúng là rộng lượng khoan dung với kẻ khác, đời này những gì tôi nợ các cậu sợ rằng không thể trả được, nếu Phong Học Vũ tôi còn có kiếp sau, dẫu làm trâu làm ngựa cũng phải báo đáp mọi người, nhưng núi Quan Tài này bị dòng nước lũ xối xả đẩy về phía hẻm núi lớn, chỉ mấy người chúng ta muốn ngăn cản khí thế trời long đất lở này, thật không khác gì châu chấu đá xe, tôi coi như đã nhìn thấu rồi, cánh tay không khỏe bằng cẳng chân, người không nên tranh với số mệnh, chúng ta cứ ở đây nhắm mắt chờ chết thôi.”

Tôi và Tuyền béo xưa nay là hạng người “không sợ Lý Quỳ hung, chỉ sợ Lưu Bị khóc”, Tôn Cửu gia đã nói đến nước này, đương nhiên cũng không tiện làm khó lão ta nữa, nhưng tôi không muốn ngồi một chỗ chờ chết. Núi Quan Tài tạm thời bị tầng nham thạch dưới lòng đất chặn lại, chứng tỏ tổ sư gia phù hộ, để cho đám Mô Kim hiệu úy chúng tôi một cơ hội sống sót, thiên cơ thần diệu, điềm trời khó hiểu, ai dám nói chắc được kiếp nạn cuối cùng có xảy ra hay không? Vạn nhất đám người thủ lĩnh cho Ô Dương vương kia tính sai, chúng tôi ngồi đây chờ chết há chằng phải đã đánh mất cơ hội tốt hay sao?

Tôi và Tuyền béo trao đổi qua một chút, quyết định trưng cầu ý kiến của Shirley Dương và Út trước, rốt cuộc nên mạo hiểm xông ra ngoài núi hay ở đây chờ chết? Vì đồng chí Lenin từng nói: từ kinh nghiệm của tất cả các cuộc vận động giải phóng cho thấy, thành bại của cách mạng luôn quyết định bởi mức độ tham gia của phụ nữ vào quá trình giải phóng.

Út không có ý kiến gì, nhưng đối diện với lựa chọn sống chết, đương nhiên cô muốn sống không muốn chết, còn Shirley Dương cũng cho rằng, việc là do người làm, những tù nhân trong thạch lao từng bị cực hình tàn khốc hành hạ, khi họ tính toán thiên cơ cho Phong Soái Cổ, có lẽ đã chôn xuống một mối họa ngầm. Tuy rằng khả năng này không lớn, nhưng không vào hang cọp, làm sao bắt được cọp con? Không đến thời khắc cuối cùng, không ai có thể đoán biết bất cứ điều gì.

Tôi thấy ngoài Tôn Cửu gia, ý kiến mọi người đều đã thống nhất, bèn quyết định tranh thủ thời cơ lúc ngọn núi dừng lại trong lòng đất, leo qua vách đá dựng đứng chạy khỏi núi Quan Tài. Lúc này, những đoạn rễ Cửu Tử Kinh Lăng giáp trên cao cũng đã thôi rơi xuống, đây chính là thời cơ tuyệt hảo để bắt đầu hành động. Tôi lập tức cùng Tuyền béo xốc Tôn Cửu gia không chịu đi đâu kia lên, lần lượt chui khỏi hốc đá ẩn mình, men theo đường điểu đạo ngoằn ngoèo đục trên vách đá, tiến lên cao.

Núi Quan Tài giống như một cỗ quan tài đá khổng lổ không nắp, trên bốn vách đá xung quanh có rất nhiều khe nứt và hang hốc chứa vô số quan tài treo, đại đa số là những quan tài nhỏ khâm liệm các cơ quan nội tạng của người xưa. Trên vách đá chằng chịt điểu đạo và sạn đạo, trong các khe đá mọc rất nhiều rêu mốc, mùi hôi thốc từ sâu bên trong xộc lên tận não. Nhìn từ xa, những thứ ấy tựa như hoa văn rồng bay phượng múa trên quan tài cổ, người đi bên trong, thực chỉ nhỏ bé như một con sâu quan tài bò trong các kẽ nối giữa mảnh ván quan tài mà thôi.

Thông đạo nối nhau trên vách đá dựng đứng ấy có một phần là sạn đạo cổ, dùng cọc gỗ đóng vào vách đá, bên trên đặt đá phiến, còn đa phần là điểu đạo khoét lõm vào các khe nứt. Những đoạn sạn đạo kết cấu cọc gỗ ván đá kia phần lớn đều đã hư hại trong trận động đất lúc nãy, chỉ còn lại vài chiếc cọc gỗ mục nát đột nhiên chìa ra, chúng tôi đành lần dò trong điểu đạo, vòng qua mấy hang động, quanh co đi lên phía trên.

Lần mò leo bám trong bóng tối đến giữa chừng, giơ đèn pin mắt sói rọi lên trên, tôi đã có thể thấy trên đỉnh đầu phủ một lớp Cửu Tử Kinh Lăng giáp chằng chịt, tuy đã có khá nhiều đoạn rễ đứt lìa vì va đập, nhưng đấy chỉ là một số đoạn nằm ở nhánh cuối, nhánh phụ, chủ thể Kinh Lăng giáp quấn quanh núi Quan Tài vẫn còn gần như hoàn hảo, gai nhọn chằng chịt, không có khe hở nào để chui ra.

Lúc trước, cả bọn vốn cho rằng Kinh Lăng giáp này đã rơi xuống quá nửa, nhân lúc núi Quan Tài còn chưa xông ra đến hẻm núi lớn, có thể thoát thân ra ngoài, không ngờ vẫn kín mít như bưng thế này, phen này, phỏng chừng kế hoạch leo núi thoát ra đành phải gác lại.

Cả bọn không biết làm sao, đứng trên chỗ cao này lâu chỉ sợ tuột chân rơi ngã, đành vòng đường cũ đi xuống, không ngờ trong Bàn Cổ thần mạch lại phun ra vô số nước ngầm đen như mực. Thì ra, khu vực dưới chân núi có nhiều khe nứt bị Kinh Lăng giáp xé toạc ra nhất, nước ngầm từ bốn phía hòa với dòng suối máu trong mạch núi, hóa thành những dòng nước đục cuồn cuộn, mực nước trong núi Quan Tài không ngừng dâng cao đã nhấn chìm gần một nửa thôn Địa Tiên, nhất thời, trong núi tanh thối nồng nặc.

Những ngôi mộ cổ bên dưới thôn Địa Tiên, cùng vô số thi thể trong Linh Tinh điện đều bị nước cuốn ra, nổi lên theo làn nước đen không ngừng dâng cao. Chúng tôi nhìn không rõ cảnh tượng phía xa, nhưng mặt nước trong tầm chiếu sáng của ngọn đèn gắn trên mũ lềnh phềnh đầy xác cổ và quan quách minh khí, tất cả đều đang xoay tròn trong xoáy nước. Tôi chợt thấy lạnh buốt cả cõi lòng, trước mắt chính là cảnh tượng biển máu núi thây, tình thế bây giờ đúng là tiến thoái lưỡng nan, lối thoát ra ngoài núi đều đã bị Cửu Tử Kinh Lăng giáp bít kín, còn trong núi, mực nước đang dâng lên với tốc độ chóng mặt, rơi xuống vùng nước mù mịt đầy thi khí kia cũng đừng hòng sống sót. Lâm vào chốn thiên la địa võng núi Quan Tài này, thật đúng là mọc cánh cũng khó thoát.

Đang khi chúng tôi còn bối rối chưa biết xoay xở ra sao, đột nhiên một âm thanh kinh thiên động địa vang lên, tựa như xé đồng bẻ sắt, tiếng cọ xát không ngớt vang lên trên đỉnh đầu, thì ra tầng tầng Cửu Tử Kinh Lăng giáp bao bọc xung quanh núi Quan Tài rốt cuộc cũng không chống nổi thế nước cuồn cuộn xung kích, song lại bị tầng nham thạch ở xung quanh cản trở, từng mảng từng mảng bong ra rơi xuống.

Cửu Tử Kinh Lăng giáp chằng chịt giăng mắc, gai móc quấn vào nhau, một phần rơi khỏi núi Quan Tài, cũng kéo theo cả những phần còn lại bóc ra khỏi khối núi.

Thể tích và trọng lượng của núi Quan Tài lập tức giảm bớt, bị dòng nước ngầm cuồn cuộn hung dữ xối vào, liền phá vỡ tầng nham thạch mong manh chắn đường, tiếp tục lắc lư chao đảo di chuyển về phía trước.

Lúc Cửu Tử Kinh Lăng giáp bị tróc ra, cả trái núi rung dộng dữ dội, chúng tôi ở bên trong khe hở trên vách đá, suýt chút nữa bị va đập hất xuống nước, sau đó là những chuyển động liên tiếp hết đợt này đến đợt khác tựa như dời non lấp bể, không cho người ta ngừng tại để lấy hơi, hang dộng trong lòng đất nghiêng ngả xiêu vẹo, núi Quan Tài cũng men theo địa thế ấy mà không ngừng chuyển động.

Chúng tôi trốn trong một mộ thất để quan tài treo chật hẹp trên vách đá, lục phủ ngủ tạng xóc lên xóc xuống theo cả khối núi, chỉ thấy đầu váng mắt hoa, tay chân thân thể đều mất cảm giác thăng bằng, đầu óc chỉ còn một mảng trống rỗng, hoàn toàn không biết mình đang ở chốn nao.

Không biết núi Quan Tài di chuyển trong lòng đất được bao xa, cuối cùng đột nhiên dừng sững lại, bên tai chỉ nghe tếng nước xối ầm ầm như sấm dậy, lại thấy phía trước có ánh sáng chói mắt, tôi còn tưởng là ảo giác, nhưng gió lạnh thốc vào mặt khiến tinh thần người ta tỉnh táo lại phần nào, định thần nhìn lại, mới phát hiện khối núi rỗng ruột này đã tiến vào đến khu vực hẻm núi Quan Tài rồi.

Giờ đang là mùa lũ, hẻm núi Quan Tài đầy những ngọn núi sừng sững, giữa những ngọn núi cao ngất, thế nước như rồng như hổ gào thét gầm rú. Dòng nước lũ dưới lòng đất phun thành một ngọn thác trên vách đá ngay phía trên dòng sông dưới đáy sơn cốc, núi Quan Tài trôi theo dòng nước, đầu phía trước đụng vào vách đá đối diện, đoạn sau mắc lại ở miệng thác, cứ vậy treo lơ lửng giữa từng không.

Thể tích núi Quan Tài tuy không nhỏ, nhưng ra đến hẻm núi lớn này lại trở nên nhỏ bé vô cùng, không thể so sánh với những ngọn núi đá sừng sững xung quanh, may mà hẻm núi dốc đứng chật hẹp mới khiến núi Quan Tài chưa rơi thẳng xuống dòng sông lớn bên dưới. Nhưng khối núi bị dòng nước xối, lại bị Cửu Tử Kinh Lăng giáp xâm thực cả mấy trăm năm, lúc này cả bốn vách đá “mặt quan tài” đều đã thủng lỗ chỗ, tổn hại nặng nề, giống như một cỗ quan tài treo mục nát nghìn năm, trần mình giữa cuồng phong bão tố, bất cứ lúc nào cũng có thể bị dòng nước xiết xối cho vỡ tan tành.

Lúc này, bên ngoài núi đang là ban ngày, chúng tôi ở trên vách đá vẫn chưa định thần lại, sờ đầu sờ chân thấy vẫn còn ở nguyên vị trí cũ, ai nấy đều thầm thấy mình may mắn, nhưng trong đầu vẫn mông lung hỗn loạn, chỉ còn một ý nghĩ duy nhất là mau chóng ròi khỏi nơi này, hoang mang ngơ ngác bò lên đỉnh vách đá nghiêng ngả nhìn ngó xung quanh, chỉ thấy trên đầu là một dải trời xanh ngắt, giữa hai vách đá cao nghìn thước sừng sững là mây trôi bồng bềnh, núi Quan Tài tựa như một cỗ quan tài treo lơ lửng ở giữa, dòng sông bên dưới nước chảy cuổn cuộn, thế nước sục sôi dữ dội.

Tôi nằm rạp người trên đỉnh vách đá ván quan tài, ngoảnh lại nhìn xuống khu vực bên trong núi Quan Tài, tư duy bị những trận rung lắc dữ dội làm cho tản mạn giờ mới tập trung lại được. Lúc này, thôn Địa Tiên xây trên địa mạch Bàn Cổ sớm đã sụp đổ, thần mạch Bàn Cổ cũng bị phá vỡ, nước máu tích ở đằng trước khối núi vẫn chưa bị dòng lũ xối hết. Vì khối núi bị nghiêng, đoạn trước của núi Quan Tài chóng vào vách núi dựng đứng phía đối diện, đoạn sau vẫn mắc ở miệng thác nơi dòng nước ngầm phun ra, dòng nước đục ngầu đen như mực đưa vô số xác chết trong các huyệt mộ dưới lòng đất lên mặt nước, đẩy về phía vách núi.

Thi thể những người tuẫn táng kia bị gió núi thổi vào lập tức sinh ra một tầng đốm đen, thấy vậy, tôi kinh hãi kêu lên: “Chết ròi, người chết trong chôn Địa Tiên sắp thi biến hóa thành ‘hắc hung’ rồi!”

Tôn Cửu gia kêu khổ không ngớt: “Đó không phải cương thi, cương thi một là không thể nghe tiếng gà gáy, hai là không thể thi biến giữa ban ngày, càng không thể không có quan quách, những thứ này đều là thi tiên do Phong Soái Cổ luyện hóa ra đấy!”

Trong truyên thuyết dân gian, cương thi hóa hung gọi là “sùng”, có thể vồ người hút tủy, bất luận là “phi cương” hay “hành cương” hễ đến khi gà gáy trời sáng sẽ lập tức đổ vật ra như khúc củi khô. Vả lại, cương thi nhất thiết phải ở trong quan tài mới thi biến, người chết trong Linh Tinh điện ngoài Phong Soái Cổ ra, đều không được khâm liệm trong quan quách, bao nhiêu thi thể như vậy đột nhiên xuất hiện đốm đen trong núi rõ ràng là hết sức bất bình thường, vì vậy Tôn Cửu gia mới cho rẳng bọn họ đều là thi tiên đã luyện ra được hình hài.

Lúc trước, mọi người còn tưởng trong mộ chỉ có một thi tiên là Phong Soái Cổ, không ngờ lại nhiều đến vậy, tận mắt chứng kiến đại kiếp nạn trong điểm trời đã xuất hiện, đám người chúng tôi coi như không còn cách nào vãn hồi được nữa rồi.

Tôn Cửu gia nói: “Thi tiên vẫn chưa hiện hình hoàn toàn, chúng ta mau đến gần xem rốt cuộc chúng là thứ gì, dù phài liều mạng... cũng phải hủy diệt hết chúng nó đi.”

Tuyền béo ở trên cao, lá gan đã nhỏ đi mất bảy phần vội nói: “Không phải Tuyền béo này không trượng nghĩa, nhưng bọn chết tiệt ấy nước lửa đều không làm gì được, chúng ta biết làm gì với chúng đây ? Theo tôi thì ai lo việc người nấy cho xong, Nhất ơi, chúng ta mau té thôi.”

Tôi nhìn ngó quanh quất, lập tức đưa ra quyết định, bảo cả bọn: “Núi Quan Tài này có thể vỡ tan tành bát cứ lúc nào, phía sau đang nằm trong dòng nước xối xả của ngọn thác, muốn rời khỏi đây chỉ có cách từ phía đầu quan tài bám vách đá leo lên thôi.” Nói xong, liền dẫn đầu men theo vách đá quan tài đi về phía đầu đang chống lên vách núi đối diện. Mấy người bọn Shirley Dương gọi nhau bám theo sau tôi.

Dưới dòng thác xối, núi Quan Tài không ngừng chấn động, mọi kiến trúc bằng đất đá ở nửa sau dang dần dần bị dòng nước cuốn vào khe núi, những thứ rơi vào dòng nước xiết bất luận lớn hay nhỏ, đều chỉ trong nháy mắt đã biến mất không còn tăm tích. Nửa sau núi Quan Tài chi còn lại cái vỏ không, mỗi giây mỗi phút trôi qua đều có khả năng sụp đổ rơi xuống, người ở bên trên, tựa như đang ở giữa dòng thiên hà nghiêng ngả, nguy hiểm tột cùng.

Chật vật mãi mới đến được chỗ đầu quan tài chống vào vách núi, núi Quan Tài cũng càng lúc càng tan rã sụp đổ nhanh hơn, thanh thế có thể nói là kinh hồn bạt vía, trăng sao biến sắc. Tôi thấy Tôn Cửu gia vẫn muốn leo xuống xem xét những cái xác mọc đốm đen khắp ngưòi kia, vội kéo lão ta lại. Núi Quan Tài chỉ trong giây lát nữa sẽ hoàn toàn sụp đổ rơi xuống dòng sông bên dưới, những thứ trong thôn Địa Tiên bất kể sống hay chết cũng đều bị nước sông cuốn đi, chúng tôi không cần phải phí công vô ích làm gì, thần cơ diệu toán của Phong Soái Cổ chỉ chớp mắt sẽ hoàn toàn tan thành bọt nước. Cũng may, chúng tôi không hoàn toàn tin vào điểm triệu trong lời tiên tri kia, giờ còn không bỏ chạy tháo thân, thì còn đợi đến khi nào?

Tôn Cửu gia vẫn không yên tâm, chẳng màng an nguy của bản thân, một mực muốn đích thân xem xét rõ ràng. Tôi vốn định mặc xác lão ta, nhưng rất nhiều chuyện vẫn còn dính dấp đến con người này, bèn bảo Shirley Dương dẫn theo Út leo lên điểu đạo đục trên vách đá, còn mình và Tuyền béo thì kéo Tôn Cửu gia bắt phải đi.

Leo bám trên vách núi tầm mười mấy mét, đoán rằng núi Quan Tài cũng đến lúc rơi xuống sông rồi, nhưng chúng tôi đều có cảm giác sự việc này quá đỗi kỳ quặc, không có vẻ gì sẽ kết thúc ở đây, lại thấy mây mù trong hẻm núi hơi là lạ, không kìm được ngoảnh đầu xem thử, không nhìn thì thôi, vừa quay lại nhìn, cả bọn đều bở vía.

Chỉ thấy, trên vách đá bên dưới chúng tôi, không ngờ lại bò đầy những xác chết gặp nước nổi lên ở thôn Địa Tiên, số lượng nhiều không kể xiết. Những người chết bồi táng theo Phong Soái Cổ ấy, người nào người nấy toàn thân mọc kín lông mao mốc meo. Lúc này, dưới đáy hẻm núi sương đen mù mịt, đống đổ nát còn sót lại của núi Quan Tài ẩn hiện trong màn sương dày đặc, tựa như một hang ma ổ quỷ nổi lên giữa cơn hồng thủy, tình cảnh thật chẳng khác nào “Phong Đô thành vừa mở, thả ra mười vạn ác quỷ” vậy.

CHƯƠNG 61: LONG THỊ

Tôi biết ngay có chuyện chẳng lành, tử thi trong thôn Địa Tiên đã chạy cả ra ngoài rồi. Điềm trời mà những người bảo vệ lăng mộ Ô Dương vương tính toán, đến cuối cùng quả nhiên đều ứng nghiệm, giờ có nói gì cũng đã muộn, sự việc đa được số mệnh định sẵn, rốt cuộc không ai thay đổi được.

Những cái xác bò ra từ núi Quan Tài cơ hồ đã phủ kín cả vách đá xanh sẫm, phóng mắt nhìn qua chỉ thấy một mảng đen kịt, cái xác cổ phần đầu vỡ toác làm đôi của địa tiên Phong Soái Cổ cũng xuất hiện trong đám xác chết, được một lũ tử thi tiền hô hậu ủng, càng lúc càng đến gần chỗ chúng tôi. Trong lúc hỗn loạn, cũng không nhìn rõ bọn chúng di chuyển thế nào, chỉ thấy trong chớp mắt đã đến sát dưới chân rồi.

Sự việc phát triển quá nhanh, không để người ta kịp suy xét tính toán, tôi vội tiếp tục dịch chuyển lên trên, chỉ mong tránh lão Phong Soái Cổ đã hóa thành thi tiên kia càng xa càng tốt, nhưng hai chân tựa như đổ đầy chì, tuy lòng nóng như lửa, nhưng bước chân trên điểu đạo dốc đứng lại hết sức khó khăn chậm chạp.

Tôn Cửu gia lòng đã nguội lạnh như tro tàn, trên vai bị thương, một cánh tay hoàn toàn không thể hoạt động, cả người ngã bổ xuống con đường chật hẹp trên vách đá, không muốn chạy nữa. Chỉ thấy, cái xác địa tiên Phong Soái Cổ như thạch sùng bò tường leo thẳng lên, cuốn theo một luồng sương đen, hôi thối dị thường, từ bên dưới lao lên nhằm thẳng vào thân thể lão ta.

Tôi không kịp ra tay cứu trợ, toàn thân lạnh toát, thầm nhủ phen này Tôn Cửu gia coi như xong đời, đang định chạy tháo mạng thì trước mắt lại xuất hiện một cảnh tượng không thể tin nổi. Thi tiên kia dường như không thấy Tôn Cửu gia, cứ thế lướt qua bên người lão ta, tiếp tục bò thẳng vào Tuyền béo ở cách nó xa hơn.

Tuyền béo hét ầm lên, lập tức quay đầu nhảy về phía một cỗ quan tài treo nằm chếch phía trên. Cậu ta cuống lên thì liều mạng, chẳng còn để ý cao thấp gì nữa, cỗ quan tài ấy giống như một cái đinh gỗ nhô ra khỏi vách đá, cú nhảy của Tuyền béo làm ván quan tài thủng một lỗ lớn, cọc gỗ chống đỡ bên dưới cũng gãy mất một cây, máy cây cọc còn lại không chịu nổi trọng lượng đè xuống, phát ra những tiếng “rắc rắc rắc”, tựa hồ sắp gãy đến nơi.

Tuyền béo nằm rạp người trên quan tài, nhất thời không dám nhổm lên, chỉ sợ hễ nhúc nhích cử động, cả người lẫn quan tài sẽ lập tức rơi xuống dòng sông cuộn sóng đục ngầu bên dưới. Cậu ta nhảy cú này, coi như đã đặt mình lên một hòn đảo trơ trọi, bốn phía xung quanh đều không còn chỗ trốn, chỉ mong tạm thời tránh thoát mối họa trước mắt rồi tính sau, chẳng ngờ "thi tiên” trên vách núi dựng đứng kia vẫn bám theo như hình với bóng, đuổi sát không buông.

Tôi ở bên cạnh nhìn thấy rõ mồn một, trong đầu chợt lóe lên một ý niệm, tại sao thi tiên Phong Soái Có lại bỏ gần tìm xa, vòng qua Tôn Cửu gia mà lao tới chỗ Tuyền béo như vậy? Chẳng lẽ Phong Soái Cổ chết rồi vẫn nhận ra được hậu duệ của nhà họ Phong Quan Sơn thái bảo hay sao? Chuyện khác thì tôi không rõ, nhưng đã làm nghề đổ đấu này tự nhiên không thể tách khỏi những thứ xác cổ, minh khí, quan quách, bao năm nay mưa dầm thấm đất, kiến thức của tôi cũng không thể nói là không nhiều, theo tôi được biết, phàm xác chết bật dậy vồ người,hiển nhiên là do bị dương khí của người sống hẫp dẫn, trong dân gian lẫn đạo giáo đều gọi đây là hiện tượng “long thị".

Trong truyền thuyết, mắt rồng chỉ có thể nhìn thấy những thứ có sinh mệnh, còn mắt cương thi hoàn toàn vô dụng, chỉ có thể dựa vào cảm ứng với dòng điện hay luồng khí truyền ra từ sinh vật hoặc vật môi giới, vì vậy trong dân gian mới có cách nói “long thị” này. Thi tiên Phong Soái Cổ vòng qua Tôn Cửu gia, chứng tỏ điều gì? Lẽ nào Tôn Cửu gia không phải “xác sống”, cũng không phải “người sống”, ngay cả linh hồn cũng không có, mà chỉ là một “cái bóng” trong mắt chúng tôi thôi ?

Tôn Cửu gia tâm tư thâm trầm, dường như đã hoàn toàn kế thừa được truyền thống hành sự bí ẩn dị thường của Quan Sơn thái bảo, trông thấy thi hài của cha anh mình ở hẻm núi Quan Tài, mà lão ta vẫn có thể không chút động lòng, lại hao phí gần hết một đời để lên kế hoạch vào thôn Địa Tiên trộm mộ hủy xác... những hành vi ấy người bình thường không dễ gì làm được, nhưng vẫn có thể xem là hợp tình hợp lý. Những hiện tượng bất thường thực sự ở Tôn Cửu gia, đều xuất hiện sau khi chúng tôi tiến vào mộ cổ Ô Dương vương.

Cũng chính trong địa cung từng mai táng Ô Dương vương những bí mật ẩn giấu của Tôn Cửu gia mới dần dần hé lộ, một học giả khảo cổ không ngờ lại sở hữu thuật yêu tà đã thất truyền từ lâu, mà đấy mới chỉ là “một góc của núi băng”. Tiếp đó, mọi người còn phát hiện ra, trên người lão ta xuất hiện thi trùng, tỏ ra vô cùng sợ hãi móng lừa đen, gần như là một cỗ xác sống biết đi, nhưng lão ta lại hoàn toàn không có phản ứng gì trước gương cổ Quy Khư, ngọn nến dùng để chiêm nghiệm hung cát dữ lành trong bí thuật Mô Kim cũng không có tác dụng với Tôn Cửu gia, tựa như người này không phải là gì cả, không phải ma, không phải người, càng không phải xác sống. Nếu loại trừ những khả năng này, vậy lão ta có thể là thứ gì chứ? Lão ta có hữu hình hữu chất, có máu có thịt, bước đi có bóng, lẽ nào người này mới là thi tiên thực sự trong núi Quan Tài hay sao?

Lúc trước, tôi cũng từng có suy đoán như vậy, nhưng không có bằng cớ xác nhận, vẫn muốn mang lão ta rời núi rồi điều tra kỹ lại sau, nhưng lúc này, lại thấy dị tượng xuất hiện trên người Tôn Cửu gia. Những tồn tại nẳm ngoài lẽ thường rất dễ khiến người ta sợ hãi, trong tiềm thức, tôi vốn chẳng hề tin vào những chuyện kỳ dị thế này, nhưng sự việc sờ sờ trước mắt, muốn không tin cũng không được, nghĩ tới đây, da đầu tôi chợt thấy tê rền rần như chạm phải điện.

Trong một thoáng ngắn ngủi như chớp lóe ấy, tôi cũng không thể nghĩ ngợi quá nhiều, rạp mình trên điểu đạo ngây ra một giây, đã thấy Tuyền béo rơi vào hoàn cảnh bị cô lập, tình thế nguy hiểm vô cùng, tôi lập tức gạt hết những ý nghĩ rối như tơ vò ấy ra khỏi đầu, cũng không buồn để ý đến Tôn Cửu gia nằm bất động kia nữa, vội vàng vẫy tay ra hiệu với shirley Dương đã leo lên chỗ cao hơn, bảo cô nhanh chóng cứu viện.

Vì phương pháp liên lạc của chúng tôi trước nay vẫn tương đối lạc hậu, gặp tình huống khoảng cách tương đối xa, về cơ bản đều dựa vào hò hét để gọi nhau, trao đổi thông tin chủ yếu bằng tay, nhưng ở với nhau lâu ngày thành ra ăn ý,chỉ cần một động tác tay đơn giản cũng có thể truyền đạt ý đồ. Shirley Dương ở bên trên nhoài người ra nhìn, lập tức hiểu ngay, cô cũng biết tình thế trước mắt như ngàn cân treo sợi tóc, hết sức nguy ngập, ném phi hổ trảo xuống đã không kịp. Cũng may, trong hẻm núi này đâu đâu cũng có quan tài treo, cô liền gọi út, hai người hợp sức đẩy một cỗ quan tài treo ở đằng trước xuống vách núi dựng đứng.

Tuyền béo thấy trên đầu có quan tài rơi xuống, vội vàng lách người né tránh, cỗ quan tài ấy “vù” một tiếng rơi xuống bên cạnh cậu ta, vừa hay đúng chỗ Phong Soái Cổ, lập tức đập trúng cái đầu bị vỡ toang từ phần miệng của ông ta, làm nó văng ra khỏi cổ, chỉ còn lại cái xác không đầu vẫn bám trên vách núi.

Shirley Dương định tranh thủ cơ hội này thả phi hổ trảo xuống tiếp ứng, nhưng lúc này lũ xác chết bò ra khỏi núi Quan Tài đã ùn ùn trào lên, hình thành thế hợp vây trên vách núi. Shirley Dương và Út đành không ngừng đẩy quan tài, ván đá, cọc gỗ xuống, nhưng gần chỗ bọn họ chỉ có ba bốn cỗ quan tài treo gãy nát, làm sao ngăn nổi đám tử thi ở thôn Địa Tiên rời núi.

Tôi biết rõ lúc này đã là cơ hội cuối cùng, liển bức hỏi Tôn Cửu gia: “Bây giờ lũ thi tiên trong núi Quan Tài đã chạy ra cả rồi, ông cũng phải nói xem rốt cuộc ông muốn làm cái gì, đừng để chúng tôi chết hóa thành một lũ ma hồ đồ chứ.”

Tôn Cửu gia ngơ ngẩn hoảng hốt, sắc mặt thâm trầm như nước, cũng không buồn nhìn tôi, chỉ đăm đăm nhìn cái xác không đầu của Phong Soái Cổ trên vách núi, thẫn thờ đáp: “Tôi muốn làm gì? Tôi muốn...” Lời còn chưa dứt, điểu đạo nơi chúng tôi đặt chân thình lình sụt lún, Tôn Cửu gia cũng biết chuyên chẳng lành, chỉ kịp kêu “ối chao” một tiếng, thân thể đã mất khống chế trên con đường đục lõm vào vách đá rộng chưa đầy một mét. Sự việc diễn ra quá đột ngột, tôi thậm chí còn không kịp phản ứng, đến khi hiểu ra thì lão ta dã trượt xuống khỏi vách núi cùng đám đá vụn, rơi thẳng xuống màn sương đen mù mịt trong núi Quan Tài, không còn thấy tăm tích đâu nữa.

Tôi vội cúi người xuống quan sát, không thấy Tôn Cửu gia ngã xuống chỗ nào, nhưng lại trông thấy từ cần cổ cái xác không đầu của Phong Soái Cổ, nhung nhúc bò ra một vật thể đen ngòm như mực, tựa hố đám lông đen mọc trên xác chết, vừa ngắn vừa nhỏ. Xác cổ nằm trong quan quách kín bưng nhiều năm, đột nhiên tiếp xúc với không khí lưu động bên ngoài, lớp da của thi thể sẽ nảy sinh biến hóa dữ dội, co rút khô héo trong chớp mắt, đồng thời mọc ra một lớp lông mao mốc meo, nhưng ngoại trừ Phong Soái Cổ ra thì các xác chết trong thôn Địa Tiên đều lồ lộ trong hang động ngầm suốt mấy trăm năm, chẳng hề có quan quách khâm liệm, vậy mà lại xuất hiện thi biến thế này, quả là hết sức bất thường.

Sương mù đen trong hẻm núi mỗi lúc một nhiều, vệt sáng trời khi có khi không trở nên ảm đạm lạ thường, nhưng lần này, khoảng cách giữa tôi và thi thể Phong Soái Cổ rất gần, nhìn thấy hết sức rõ ràng, vật chất màu đen ở bên trong xác chết chính là bóng ma” rất giống hình người mà chúng tôi từng trông thấy trong hang ngọc phía trước Linh Tinh điện. Trong bức Bỉnh chúc dạ hành đồ cũng ngầm miêu tả thứ vật chất màu đen như bóng ma này.

Bọn chúng tuồng như có thể hút chặt lên vách núi để di động nhanh chóng, tỏa ra một mùi xác thối kỳ dị, hình thái bên ngoài không cố định, hơn nữa còn không sợ nước lửa đao thương, xác chết bị thứ này bám vào có thể không thối rữa, không cương hóa, thậm chí cả máu thịt trong cơ thể cũng không hề biến chất. Thời kỳ Vu Tà, người ta coi nó là hoạt đan trấn thi, còn Quan Sơn thái bảo Phong Soái Cổ lại xem đấy là điềm báo thi hài hóa thành tiên.

Ngoài bức tranh do Phong Soái Cổ vẽ, cùng với các xác chết ở Linh Tinh điện và bên trong mộ thất, chắc tôi còn trông thấy vật này ở một số nơi khác nữa, hình như ở ngay trong núi Quan Tài, thậm chí là mộ cổ Ô Dương vương, và khu vực quan tài treo trong hẻm núi, chỉ có điều, ấn tượng ban đầu luôn giữ vai trò chủ đạo, tôi luôn cho rằng đấy là “thi tiên” do thứ gì đấy luyện hóa thành, mà quên mất vô số chi tiết sờ sờ trước mắt. Thứ vật chất màu đen này có lẽ là một loại cỏ rêu sống trong môi trường ẩm mốc tối tăm, hoặc nói cách khác, chính là rêu xác vẫn được đề cập đến trong đạo phong thủy.

Thuật phù thủy Vu Tà và thuật Quan Sơn chỉ mê mà nhà họ Phong nắm giữ, đều phát xuất từ phép phong thủy cổ, trong đó phong thủy thiên tinh chiếm tỷ trọng rất lớn. Những thứ này và thuật phong thủy âm dương được Mô Kim hiệu úy truyền đời trên thực tế đều là phân nhánh của quẻ cổ Chu Thiên, hoàn toàn có thể nói là đồng tông đồng nguyên, cùng một tông chỉ là trong vòng tạo hóa, trời và người hợp nhất, chỉ có điều phong thủy cổ thâm ảo khó hiểu hơn nhiều, có rất nhiểu lý luận không thiết thực, sau thời Hán đa phần đã không còn sử dụng nữa. Nhà họ Phong nhờ trộm mộ ở khu vực hẻm núi Quan Tài này mà học được dị thuật, nội dung vân là phép cổ từ thời Tam Đại, có rất nhiều điểm khác biệt so với thuật phong thủy của Hình thế tông mà tôi xưa nay vẫn tiếp xúc, vì vậy mạch suy nghĩ trong đầu tôi từ đầu tới giờ vẫn chứa hề chuyển ngoặt theo hướng này, giờ đây đột nhiên tỉnh ngộ ra, lập tức hiểu được bảy tám phần.

Hẻm núi Quan Tài có hàng nghìn hàng vạn cỗ quan tài treo khác nhau, mà thần mạch Bàn Cổ trong núi Quan Tài lại là đất cực âm tàng phong tụ khí, bên trong chôn vùi vô số quan tài nhỏ, những cơ quan nội tạng của xác chết ấy đặt trong núi nhiều năm sinh biến, mọc lên một lớp rêu màu xanh đen, có thể ký sinh lên người sống hoặc xác chết. Loại rêu thịt này chính là “hoạt đơn” mà các thầy mo thời kỳ Ô Dương vương dùng để giữ gìn dung nhan và chống thối rữa cho xác chết.

Về sau, các thấy phù thủy phát hiện vật này tuy có thể bảo tồn xác chết vạn năm không tiêu tan, nhưng lại không thể để nó rời khỏi núi Quan Tài, một khi rời khỏi đất tàng phong tụ khí, nó sẽ lợi dụng hình hài vật chủ mà sinh sôi nhanh chóng, sinh linh trên thế gian ắt sẽ gặp phải họa hại khôn lường, vì vậy trên bia cáo tế mới đề cập đến chuyện “đào đứt địa mạch, bít núi trấn áp”, núi Quan Tài trở thành cấm địa thời cổ đại.

Dị thuật Phong Soái Cổ học được, quá nửa xuất phát từ núi Quan Tài, thêm vào đó, ông ta lại mê muội với việc tham ngộ thiên cơ để chứng đại đạo, vì vậy mới sinh ra vọng tưởng “hoạt đơn” trong núi, ý đồ lợi dụng vật này để tu luyện thành tiên, bèn xây dựng mộ cổ thôn Địa Tiên hòng khôi phục long khí trong địa mạch. Thực ra, cũng không thể nói là Phong Soái Có tính toán sai lầm, đến giờ nhân quả tuần hoàn, tất cả đều xuất hiện đúng như sự tính toán và bố trí của ông ta thuở sinh tiền, nếu những “thi tiên” kia từ đây tản đi khắp nơi, thật không biết sẽ có bao nhiêu người sống bị bọn chúng độ hóa nữa?

Trong bộ sách Thập lục tự m dương Phong thủy bí thuật mà tôi thuộc như cháo chảy, quyển chữ “Vật” cũng có ghi chép về thứ rêu xác này, viết rằng “bên dưới mạch xấu không gì tốt lành, rêu xác lâu ngày sinh ra thịt, để lâu năm kết thành hình người, truy đuổi cắn nuốt dương khí của người sống, hễ rời khỏi mộ sẽ gây ra đại dịch trên thế gian”. Đó đều là vật hung sinh ra trong những chốn mồ hoang mộ cổ, xét từ góc độ nào đấy, chúng khá giống với Cửu Tử Kinh Lăng giáp bảo vệ lăng mộ, chỉ có điều, một cương một nhu, vả lại thứ rêu xác này gần như không có nhược điểm nào cả.

Trong hẻm núi Quan Tài, từ quan tài treo trên vách đá cho tới địa cung mộ cổ, chỗ nào cũng có rêu mốc thối rữa, nhưng tôi nhất thời bị che mắt, hiểu lầm rằng hẻm núi này là chốn đất báu phong thủy, nơi các bậc tiên hiền ẩn sĩ chôn xác, không hề nghĩ đến chuyện thi tiên trong truyền thuyết thì ra lại là thứ rêu mọc từ xác chết kia.

Trên vách núi dựng đứng, mặc dù tôi đã hiểu được chân tướng của thi tiên, nhưng cũng chẳng ích lợi gì, rêu xác ký sinh trên tử thi và truyền thuyết về thi tiên trong mộ Địa Tiên về cơ bản là một. Lúc này, thứ rêu xác màu đen trong thi thể của toàn bộ người chết trong thôn Địa Tiên đều đang nhung nhúc nhu động ra khỏi thân thể vật chủ, bám vào vách núi bò đi khắp tứ phía. Nếu để bọn chúng thoát ra khỏi hẻm núi này, ắt sẽ gây họa lớn cho nhân gian.

Tôi thấy lúc này có lấy cứng chọi cứng cũng vô ích, nhân lúc Shirley Dương đẩy quan tài xuống chọi rơi hai cái xác cổ bị rêu xác bám lên, vội vàng dịch người đến chỗ phía trên Tuyền béo, rồi cùng Shirley Dương và Út thả phi hổ trảo xuống, kéo cậu ta lên khỏi cỗ quan tài treo lung lay như sắp rụng đó. Tuyền béo vừa đánh một vòng qua cửa địa ngục, liền đưa tay lên quệt mồ hôi trên mặt, rối rít hỏi tôi: “Tôn Lão Cửu tèo rồi hả?”

Tôi gật gật đầu: “Chắc là rơi xuống sông bị nước cuốn đi rồi, cũng có thể rơi vào núi Quan Tài tan xương nát thịt, trước mắt không thể xác định, chỉ tiếc tôi vẫn còn một câu rất quan trọng chưa kịp nói với lão ta, phỏng chừng không còn cơ hội để nói nữa rồi.. ”

Shirley Dương và Út thấy Tôn Cửu gia không rõ tung tích, không khỏi buồn rầu, nhưng tố chất tâm lý của Shirley Dương rất tốt, lúc này vẫn giữ được bình tĩnh, cô hỏi tôi: “Anh Nhất, những thi thể trong thôn Địa Tiên hình như đều bị thứ sinh vật gì đó ký sinh, xem ra chúng ta không ngăn chặn chúng được đâu, giờ phải làm sao đây?”

Shirley Dương tâm cơ nhạy bén, phản ứng còn nhanh hơn, sau khi nhìn rõ diện mạo của thi tiên, quả nhiên đã có suy nghĩ giống tôi. Tuy cô không hiểu gì về phong thủy, nhưng cũng đã đoán ra ngay trên những cái xác ấy có vật ký sinh, có điều, nay chúng tôi đã rơi vào tuyệt cảnh, muốn sống sót thoát khỏi chỗ này còn khó, lấy đâu ra cách đối phó với đám rêu xác trong núi Quan Tài này chứ?

Núi Quan Tài nằm vắt ngang hẻm núi đã dần dần sụp đổ, nhưng âm khí trong lòng núi mãi không tan, sương đen cuồn cuộn tuôn ra tựa hồ vô cùng vô tận. Từng đợt từng đợt mây mù thoáng ẩn thoáng hiện, khiến ánh sáng trong hẻm núi càng lúc càng nhạt nhòa, trước tình thế ấy, tôi cũng chỉ biết lo lắng suông mà thôi. Nếu tiếp tục men theo điểu đạo sạn đạo lên trên, không biết lúc nào mới trèo qua được vách đá dựng đứng cao cả nghìn thước này, vả lại tâm lý và thân thể của cả bọn đều đã đạt tới cực hạn, chỉ sợ leo chưa được nửa chừng đã bị lũ rêu xác đang sinh sôi nhanh chóng kia bắt kịp lấy mạng.

Út thấy tôi trù trừ do dự, vội năn nỉ tôi chớ có ý định nhảy xuống nước thoát thân, cô không sợ trèo đèo vượt núi, chỉ mỗi tội không biết bơi, từ xưa đã có một nỗi sợ thâm căn cố đế với những dòng nước xiết.

Tôi bảo cô không cần lo lắng, tôi sẽ không bao giờ nghĩ đến chuyện chạy bằng đường thủy, trong hẻm núi này nước chảy rất xiết, dù người bơi giỏi đến mấy, nhảy xuống đó cũng chẳng sống nổi. Nhưng lòng tôi lúc này cũng đang như lửa đốt, lũ rêu xác ở xung quanh phỏng chừng chỉ mấy phút nữa sẽ áp sát tới, rơi vào cảnh ngộ khốn cùng này, trừ phi mọc cánh bay thẳng lên trời, bằng không làm sao có thể thoát khỏi đại nạn dây?

Tuyền béo ngó nghiêng xuống dưới, đoạn nói: “Đường thủy tuy nguy hiểm, nhưng dựa vào cặp giò của chúng ta mà chạy thì mười phần chết tám là cái chắc, trước mắt chỉ có cách học theo Tôn Lão Cửu, nhảy xuống nước lẩn vào Long cung mà thoát thân...”

Tôi hiểu Tuyển béo hơn ai hết, cậu ta là loại người chết đến đít vẫn còn cứng miệng, câu nói vừa rồi chắc chắn chỉ để mình thêm vững dạ mà thôi. Nhưng kẻ nói vô tâm, người nghe hữu ý, mấy lời này lọt vào tai tôi, đặc biệt là hai từ “Tôn Lão Cửu” và “Long cung”, bất giác một ý nghĩ lóe lên trong đầu...

Trên người Tôn Cửu gia có rất nhiều dấu hiệu khiến người ta khó lòng hiểu nổi, lão ta bám mình trên vách đá, không ngờ lại có thể tránh được rêu xác, khiến tôi khi ấy còn ngờ vực là thi tiên mở long nhãn, trong trạng thái “long thị” không thể nhìn thấy loại tồn tại không phải người, không phải ma như lão ta. Tuy tôi đã nghe nói đến truyền thuyết này từ rất lâu, nhưng cách nói “người không thấy gió, ma không thấy đất, cá không thấy nước, rồng không thấy mọi vật”, lại là từ miệng Trương Doanh Xuyên, đây cũng chính là chỗ bí ảo của gương cổ Quy Khư và hai miếng quẻ phù bằng đồng xanh.

CHƯƠNG 62: THIÊN NỘ

Mỗi khi tôi nhớ đến miếng quẻ phù bằng đồng xanh ấy, thảm trạng bị lôi hỏa thiêu đốt của Lão Dương Bì sau khi thi biến mười mấy năm trước lại hiện lên rõ mồn một như vừa mới hôm qua. Thứ rêu xác kia là do xác thối trong huyệt nhãn phong thủy chuyển hóa mà thành, nếu đã mở ra long thị, đương nhiên cũng thuộc một dạng thi biến, những thứ rêu thịt rêu xác này cực kỳ âm trầm thối nát, lửa thường không thể hủy diệt nó được, có lẽ mảnh long phù bằng đồng xanh trong túi tôi đây, mới là cơ hội duy nhất.

Ý niệm vừa lóe lên, tôi lập tức xé toác cái túi kín mang theo bên mình, lấy ra mảnh long phù đồng xanh, Tuyền béo ở bên cạnh hình như cũng sực hiểu ra ý đồ của tôi, vội kêu lên: “Không được đâu, vốn đã chẳng đổ đấu được món gì ra hồn, lại còn phải bù cả miếng quẻ phù vào nữa, tham ô lãng phí là tội lớn lắm, buôn bán lỗ vốn tuyệt đối không nên làm...”

Tôi biết miếng bùa bằng đồng này đối với chúng tôi có ý nghĩa không phải tầm thường, nhưng trong ba món đồ đồng xanh ở Quy Khư mà chúng tôi có được, hai món còn lại đã bị mất hết tính đồng, chỉ còn lại miếng long phù đứng đầu trong bốn miếng quẻ phù này, vả lại, nó còn được chôn trong động Bách Nhãn nhiều năm, hải khí ngấm vào trong đồng không tiêu tán, sau khi cân nhắc thiệt hơn, tôi thấy chỉ còn cách dằn lòng bỏ đi vật này mới có khả năng phá hủy hoàn toàn thôn Địa Tiên. Đồng thời, sinh tử của bốn người chúng tôi cũng đều do nó quyết định.

Nghĩ tới đây, tôi bèn nghiến răng, nhìn cái xác không đầu bên dưới đã đến gần trong gang tấc, vung tay ném long phù xuống. Hải khí bên trong chất đồng của long phù trải qua mấy nghìn năm vẫn chưa tan, chỉ thấy rêu xác bên trong hình hài người chết khi phun nuốt khí đen, đã cuốn lấy cả miếng long phù vào bên trong.

Gần như đồng thời, trong hẻm núi, mây đen đã che đầy trời, tối đến mức mặt đối mặt cũng không nhìn thấy đường nét hình dáng của người kia, một đợt sấm ì ùng vang lên trong màn mây mù mịt. Tôi biết, đây là điềm sấm sét sắp giáng xuống, vội vàng bảo mấy người kia nằm rạp xuống đất. Tôi chưa kịp cúi người né tránh, đã thấy một tia sét tựa như rồng uốn xẹt qua trước mắt, làm khoảng không gian giữa hai vách núi dựng đứng bừng lên một quấng sáng chói mắt, sấm vang sét giật ngay bên cạnh, tiếng nổ ầm ầm đinh tai nhức óc, khiến nghìn vạn cỗ quan tài trong hẻm núi đều nhất tề rung lên bần bật.

Những người canh giữ mộ cổ Ô Dương vương bị Quan Sơn thái bảo Phong Soái Cổ giam cầm, từng giúp ông ta suy đoán thiên cơ, cuối cùng ứng nghiệm như thần, núi Quan Tài đã bị cơn lũ cuốn từ lòng đất ra đến hẻm núi lớn bên ngoài, nẳm lơ lửng vắt ngang trên dòng sông cuốn cuộn gào thét, vô số thi tiên trong núi thừa cơ thoát ra ngoài, hoàn toàn ứng hợp với tượng “phá sơn xuất sát” miêu tả trong điềm trời.

Chúng tôi bị vây khốn trên vách đá trong hẻm núi, không còn đường thoát, trong lúc tuyệt vọng đã chụp được một cọng rơm cứu mạng. Nói không chừng, đồ đồng xanh ở Quy Khư lại cổ thể xoay chuyển càn khôn, mấy món quẻ phù, gương đồng ấy đều là bí khí phong thủy từ thời thượng cổ, ngoài tác dụng chiêm nghiệm phong thủy, quẻ tượng ra, hải khí ẩn giấu bên trong chát đồng cũng là thứ phi phàm.

Năm xưa, Láo Dương Bì mất mạng trên thảo nguyên Mông Cổ, trước lúc lâm chung đã lén lút nuốt quẻ phù vào bụng, khiến lũ hoàng bì tử đào huyệt trộm xác, lại thần xui quỷ khiến thế nào bị chúng tôi đào lên, cuối cùng thì bị sét đánh, thi thể Lão Dương Bì và con chồn lông vàng đến trộm quẻ phù đều bị lôi hỏa giáng trúng, cháy thành một đống than.

Đáng tiếc, người xưa đã khuất, tôi vĩnh viễn không thể biết được dụng ý thật sự của Lão Dương Bì nữa, nhiều năm sau đó, tôi lại từ chỗ lão Trần mù và Tôn Cửu gia ít nhiều nghe được chút thông tin, dựa vào đó suy đoán, có thể thấy năm xưa Lão Dương Bì quả thật có ý đồ quá phận. Từ xưa, lão đã nghe nói long phù không mắt là bí khí phong thủy, toan chiếm lấy làm của riêng sau khi chết hòng giúp con cháu đời sau được phát vượng, nên mới sắp xếp ra chuyện quái đản như khỏa thân chôn chổng đẩu xuống đất như thế. Chỉ là, lão không biết hành vi ấy rất dễ bị trời trừng phạt, cuối cùng phải nhận lấy kết cục “mưu mô vô dụng, quỷ kế thành không”

Trước khi tìm thấy di thể của trung đoàn trưởng Phong trong hẻm núi Quan Tài, tôi từng trông thấy trong quan tài treo trên vách đá có xác của một ẩn sĩ không bị thối rữa, cái xác ấy vẫn còn nguyên cả râu tóc, thần thái y như lúc sống, thoạt nhìn toát lên vẻ tiên phong đạo cốt, hoàn toàn không giống xác cổ nghìn năm, có lẽ là cương thi từ thời cổ đại còn lưu tồn đến ngày nay. Bấy giờ, tôi đang chuẩn bị sử dụng quẻ phù và gương cổ suy đoán phương vị của mộ cổ Địa Tiên ngay cạnh cỗ quan tài treo ấy, kết quả khiến gần đó giáng xuống một trận sấm sét ì ùng, làm cả bọn kinh hãi một phen.

Trải qua hai trường hợp như vậy, khiến tôi lờ mờ có cảm giác miếng long phù bằng đồng xanh này còn ẩn giấu rất nhiều bí mật, đây có thể là một miếng “lôi phù”. Kỳ thực, khi xác khô thi biến, trong xác có rất nhiều khí ác cực âm, gặp phải dương khí ở thế giới bên ngoài sẽ nảy sinh hiện tượng âm dương va chạm, lại được luồng khí hỗn độn mờ mịt bất minh trong đồ đồng xanh ở Quy Khư kia hấp dẫn, liền gây ra phóng điện ở tầng mây thấp, sản sinh sấm sét trong thời gian cực ngắn.

Người cổ đại tin vào câu chuyện thần thoại “ở trong Lôi trạch có Lôi thần, đầu rồng mình người, vỗ bụng thành sấm”, ngỡ rằng sấm sét lôi điện đánh người phá nhà là do trời cao nổi giận, trừng phạt con người. Đến thời Hán, người ta bắt đẩu dùng lý luận hai khí âm dương tác động lẫn nhau để giải thích hiện tượng sấm sét, đưa ra quan điểm “m dương kề nhau, cảm thành sấm, kích thành sét”, có nghĩa là, âm khí và dương khí tiếp xúc, phát sinh chấn động sẽ hình thành sấm, khi chấn động kịch liệt sẽ hình chành sét giáng xuống.

Mặc dù tôi cũng từng có ý nghĩ này, nhưng không thể xác định sự tình thực hư, lúc này đã rơi vào đường cùng, không còn phương cách nào khác nữa, khó khăn lắm tôi mới nghĩ ra được một cách, trong đầu chỉ còn ý nghĩ trời không tuyệt đường người, tâm trạng đâu mà xem xét nó có khả thi hay không, lập tức cắm miếng long phù nhắm vào đống rêu xác kia ném tới, vừa khéo rơi đúng vào cổ cái xác không đầu của Phong Soái Cổ.

Ai ngờ thi khí trong núi Quan Tài kia quá nặng nề, trong đạo phong thủy gọi là “phá sơn thấu huyệt, quần long kinh chập”, là điềm cực hung, lập tức khiến trong hẻm núi sâu này xuất hiện sấm sét. Sấm sét này không phát ra từ tầng mây trên cao, mà lại nảy sinh trong màn sương đen dưới đáy hẻm núi, chỗ tiếp giáp với mặt nước.

Thường có câu, “sấm đánh không kịp bưng tai”, sấm sét trong hẻm núi bảo đến là đến, trong tiếng sấm ì ùng lúc đấu, bốn bề vẫn còn tối như hũ nút, nhưng khi một tia chớp hình cành cây chĩa nhánh vạch ngang hẻm núi tựa như rồng thần thoạt hiện, ánh điện quang chói mắt lập tức chiếu sáng bừng cả vách đá lên.

Điểu đạo nơi chúng tôi náu mình cực kỳ dốc và chật hẹp, đa phần không rộng quá một thước, khi tia sét lướt qua bên cạnh, tôi còn chưa kịp rạp người né tránh, tranh thủ ánh sáng lóe lên trong chớp mắt ấy, có thể nhìn thấy bốn phía xung quanh đều phủ đầy rêu xác. Thi thể của vô số người chết trong thôn Địa Tiên hầu hết đều đã bị xé toạc hình hài, bên trong lộ ra từng mảng rêu xác đen kịt nhu động, hình thái thiên kỳ bách quái, nhầy nhụa máu tươi bám lên vách đá, chen chúc lúc nhúc bò lên cao.

Tia sét tựa như con rồng lướt qua bầu không kia lóc lên rồi vụt tắt, hẻm núi Quan Tài lại chìm vào màn sương đen mù mịt mênh mang, không gian trong hẻm núi từ tối tăm chuyển sáng rói lại chìm vào bóng đêm chỉ trong một cái chớp mắt, hai mắt tôi bị ánh chớp làm lóa, chưa kịp chớp chớp đã nghe tiếng sấm nổ ùng ùng, tiếng vang còn chứa dứt, dưới đáy khe núi tăm tối bỗng bùng lên vô số quả cầu lửa, tất cả đám rêu xác đều bị lôi hỏa giáng trúng, dường như mảng thi khí mù mịt như sương ở xung quanh cũng bùng cháy, thiêu đốt cả không khí.

Lôi hỏa lan ra cả hai vách núi ké bên núi Quan Tài, tựa một cơn lốc xoáy vừa nóng bỏng dị thường lại vừa lạnh buốt thấu xương cuốn lấy, tôi nằm mơ cũng không thể ngờ mình lại gây nên biến động lớn chừng này, chỉ thấy những mảng rêu xác lớn nhỏ xung quanh đều bị cầu lửa bao bọc, không ngừng vùng vẫy rơi khỏi vách đá dựng đứng, bèn vội vàng nằm rạp xuống né tránh. Lúc này, không biết có phải tai bị ong ong vì tiếng sấm hay không, mà tôi lại nghe thấy trong hẻm núi dường như toàn những tiếng gào rít thê thiết dị thường.

Trong lý luận thông thường của thuật phong thủy thanh ô, vẫn cho rằng lửa trên thế gian ngoài quỷ hỏa thần bí ra, còn ba loại lửa khác nữa, lần lượt là nhân hỏa, long hỏa và thiên hỏa. Long hỏa có thể cháy trong nước, nhân hỏa là thứ lửa bình thường khi đốt củi đốt than; còn thiên hỏa tức là lôi hỏa, hay còn gọi là hận thế hỏa, nếu đức hạnh của người đời suy đồi bại hoại, hoặc có hiện tượng vật già hóa tinh hóa quái, sẽ rất dễ bị lôi hỏa giáng xuống. Dân gian cho rằng, đó là Lôi thần mở mắt, chuyên tru diệt yêu tà gian ác, kỳ thực, đó chính là dị biến của “khí” trong bốn yếu tố phong thủy “hình, thế, lý, khí”. Dị biến dẫn đến thiên địa mất cân bằng, mới khiến trong tầng mây có lôi điện giao kích.

Trong không khí nồng nặc mùi ô zôn tanh tanh, cùng với mùi hôi thối khi đốt xác chết, làm chúng tôi cơ hồ tắc thở, Hai mắt tối sầm lại. Bốn người chúng tôi vội đeo mặt nạ phòng độc, nằm rạp người xuống không dám nhúc nhích, cũng may quần áo mặc trên người đều bằng chất vải chịu nước chịu lửa, lại thêm mặt nạ phòng độc ngăn cách hơi thở của người sống với bên ngoài nên mới may mắn thoát nạn, bằng không chỉ trong giây lát, cả bọn đã bị lôi hỏa thiêu chết trong hẻm núi Quan Tài này rồi.

Bốn người đều kinh hồn táng đởm, không biết đã bao lâu trôi qua, tôi nhìn qua lỗ quan sát của mặt nạ phòng độc, chỉ thấy màn sương thi khí bị lôi hỏa thiêu đốt dã tan hết, ánh mặt trời lại chiếu rọi xuống hẻm núi sâu, vô số muội than đen kịt bay khắp trời, vẫn còn một vài đốm lửa chưa tắt hẳn, Xem chừng kiếp nạn đã qua, bấy giờ tôi mới cởi bỏ mặt nạ phòng độc, một luồng gió núi lành lạnh ùa tới, tuy rằng mùi cháy khét nồng nặc trong không khí vẫn chưa tan hết, nhưng cảm giác bức bối khó chịu nơi lồng ngực đã lập tức bớt đi phần nhiều.

Mọi người trên vách đá đưa mắt nhìn quanh, chỉ thấy trong tầm mắt toàn những cảnh tượng ghê hồn khiếp vía, sau phen chết hụt, càng khiến người ta thổn thức không thôi. Thôn Địa Tiên trong núi Quan Tài bị lôi hỏa giáng xuống, mưu đồ phá sơn xuất sát của địa tiên Phong Soái Cổ tựa như băng chảy mây tan, trong khoảnh khắc đã thành tro bụi. Vệt nắng trên đỉnh hẻm núi lại hiển lộ, ngoài những vết tích cháy đầy vách đá, không còn xác chết nào nữa, chỉ có vô số mảng muội than đen kịt sót lại sau khi lôi hỏa thiêu đốt thi hài dập dờn phiêu đãng trong làn gió núi, như một trận tuyết đen giăng giăng khắp bầu trời trong hẻm núi.

Trong núi Quan Tài gác nghiêng lên hai vách núi đá, “ván quan tài” ở bốn phía xung quanh đã bắt đầu rạn nứt đổ vỡ, địa mạch Bàn Cổ và thôn Địa Tiên trong núi đều bị nước lửa hủy hoại sạch trơn, trong đống bùn nước nhầy nhão chỉ còn lại một đống gạch ngói tan hoang, ngọc thạch bên trong và nham thạch vỡ vụn, những khối đá, mảng ngói vỡ không ngừng rơi xuống dòng nước bên dưới.

Điều khiến người ta bất ngờ nhất là, thôn Địa Tiên quả nhiên đã ứng với điềm “phá sơn xuất sát”, sự việc đã định sẵn trong mệnh trời rốt cuộc vẫn xảy ra, đây là kết quả chân thực mà những người bảo vệ lăng mộ Ô Dương vương dùng quẻ cổ suy diễn cho Phong Soái Cổ, nhưng trong quẻ tượng này lại ẩn giấu lời nguyền ác độc của bọn họ.

Ngay cả bậc kỳ nhân có dị thuật thông thiên như Phong Soái Cổ cũng không phát giác được bên trong quẻ tượng này lại chôn giấu huyền cơ, những người bảo vệ lăng mộ bị Quan Sơn thái bảo dùng cực hình hành hạ ấy chỉ tính ra “phá sơn xuất sát” là điểm triệu cuối cùng của thiên tượng, nhưng lại giấu đi kết quả sẽ xuất hiện ngay sau đó, khiến thôn Địa Tiên mà Phong Soái Cổ dốc hết tâm cơ xây dựng cuối cùng bị hủy bởi lôi hỏa.

Trải qua những sự việc này, khiến chúng tôi không thể không tin, trong một cõi nào đó, đích thực có thiên ý sắp đặt. Kỳ thực, các bậc tiên hiền cổ đại sớm đã nói rõ đạo lý này: “U thâm vi diệu, ấy là cơ trời; tạo hóa biến dịch, ấy là lẽ trời; đem thiên lý ứng với người, ấy là phải; tiết lộ thiên cơ để mê hoặc người, trời ắt trừng phạt.”

Có thể dùng nguyên lý biến hóa của trời đất để chỉ dẫn cho mọi người, như vậy mới có thể sinh sôi không ngừng, khoan hậu bao dung; nhưng thiên cơ vi diệu sâu xa, phàm phu tục tử ở cõi thế tục không nên trộm ngó bí mật trong đó, bằng không ắt sẽ dẫn đến tai họa, hại mình hại người. Có lẽ thuật luyện đơn tu tiên, chưa chắc chỉ là kỳ thuật trong truyền thuyết, nhưng cần phải có tấm lòng phẳng lặng, không muốn không cầu, luyện tập lâu dài sẽ có thể cường gân kiện cốt, diên niên ích thọ. Tiếc rằng địa tiên Phong Soái Cổ kia vổn là kẻ tuyệt thế kỳ tài, nhưng lại mê muội với pháp môn cứu thế độ người, còn ấp ủ những ý nghĩ ngông cuồng trái phận, bức ép những người dân còn sót lại từ thời kỳ Ô Dương vương suy tính thiên cơ, ý đồ luyện ra thi tiên kết quả bị bọn họ lừa gạt đến nỗi tự châm lửa thiêu mình, nhân lấy kết cục tan thành tro bụi.

Hẻm núi Quan Tài này mây mưa vô thường, trời vừa mới quang, đột nhiên lại có mây mù tụ hợp, thoáng cái đã thấy mưa to như trút sầm sập đổ xuống, rửa hết những bụi tro bay lơ lửng trên không trung. Chúng tôi bị mưa xối cho toàn thân ướt sũng, lập tức cảm thấy xương cốt rã rời, ba vạn sáu nghìn lỗ chân lông từ trên xuống dưới thảy đều đau nhức, đành nán lại trong hốc đá đặt quan tài treo trên lưng chừng vách đá nghỉ ngơi cho lại sức.

Mọi người tuy mệt mỏi rã rời, nhưng cả bọn sống sót qua kiếp nạn, lại được nhìn thấy ánh mặt trời, mà thứ đặc sản “thi tiên” của núi Quan Tài cũng bị hủy diệt, ai nầy đều lấy làm vui mừng.

Tôi và Tuyền béo nhắc lại chuyện bị Tôn Cửu gia dụ đến núi Quan Tài đổ đấu, coi như một cú va vấp, cả chuyến đi này hoàn toàn bị người ta lợi dụng làm tay đấm. Trong địa mạch Bàn Cổ tuy có thi đơn, nhưng lại không phải thứ nội đơn có thể cứu mạng Đa Linh, hai thứ này hoàn toàn khác nhau; vả lại, cuối cùng Tôn Cửu gia vẫn không rõ tăm tích, muốn tìm lão ta hỏi tội cũng khó. Nhưng phen này có thể an toàn trở ra, không bị mất chân cụt tay, cũng coi như là tổ sư gia hiển linh, khí số của Mô Kim hiệu úy chúng tôi chưa tuyệt rồi.

Hai chúng tôi càng nói càng phẫn hận, nước bọt bắn tung tóe, những lời ác độc có thể nghĩ được đều tuôn ra hét một lượt, bây giờ thôn Địa Tiên đã không còn tồn tại nữa, nếu Tôn Cửu gia có mặt ở đây lúc này, không khéo chúng tôi ăn tươi nuốt sống lão ta tại chỗ cũng nên.

Út không hề biết chuyện đi Nam Hải mò ngọc, cũng không hiểu tại sao chúng tôi lại cáu tiết lên như thế, chỉ cảm thấy đi một vòng trong huyệt mộ của Phong Soái Cổ mà vẫn còn sống sót trở ra đã coi như niềm vui bất ngờ rồi, bèn lên tiếng hỏi rõ đều đuôi câu chuyện.

Tuyền béo lập tức gập ngón tay đếm ra mười tội lớn của Tôn Cửu gia, đến cả vấn đề tác phong năm xưa cũng tính vào, đương nhiên chuyện này chỉ là cậu ta nghe hơi nồi chõ thôi. Nghe nói, năm xưa khi Tôn Cửu gia vừa từ nông trường cải tạo lao động về, đã lợi dụng cơ hội tham gia công tác khảo cổ tại hiện trường lén lút quan hệ với nữ chủ nhà, kết quả bị nông dân trong thôn bắt được quả tang. Thời bấy giờ, đó là chuyện lớn tày đình, lão ta bị tẩn cho một trận tại chỗ, nếu không phải có các đồng nghiệp nói đỡ thì đã bị dân làng bắt trói giải đến công an rồi.

Về sau, tổ chức yêu cầu Tôn Cửu gia viết kiểm điểm, lão ta lại giảo biện nói rằng mình và người đàn bà nông thôn kia không hề có vấn đề về mặt tác phong. Sự việc lúc ấy hết sức đặc thù, vì bấy giờ ở nông thôn toàn nhà bằng gạch mộc, nhiều rận vô cùng, chúng nhảy lên khắp người, lão ta và bà chủ nhà ban đêm rảnh rỗi không có việc gì làm, bèn ngồi trên giường lột hết quần áo ra bắt rận cho nhau, ngoài ra không làm bất cứ điều gì khác. Thái độ của Tôn Cửu gia trước sự việc này cực kỳ ngoan cố, nhất quyết không chịu thừa nhận chân tướng, khai ra sự thật.

Tuyền béo còn nói, Tôn Cửu gia chính là loại người như vậy, len lỏi vào kẽ hở của công cuộc cải cách mở cửa, chấn hưng kinh tế, còn kiếm được cái học hàm giáo sư rởm, kỳ thực đằng sau lớp vỏ bọc ấy vẫn còn không biết bao nhiêu tội ác phản động chưa lộ ra, hạng người này lẽ ra phải xử bắn bảy tám chín mười lần mới thỏa lòng thỏa dạ được. Cậu ta vốn đã chướng mắt giáo sư Tôn từ trước, lúc này mồm mép trơn tuột, bịa tạc lung tung bao nhiêu tội ác xấu xa có thể tưởng tượng được đều áp cả lên người lão ta.

Tuyền béo càng nói càng chẳng ra sao, Shirley Dương và Út đều lắc đầu không tin. Shirley Dương nói: “Giáo sư Tôn không thể nào là gián điệp của Cục Tình báo Trung ương Mỹ được, nhưng ông ta là hậu duệ của Quan Sơn thái bảo, cũng không phải người làm công tác khảo cổ thông thường. Thân phận chuyên gia giải đọc long cốt, có lẽ đúng là một lớp ngụy trang của ông ta. Việc mà cả đời này ông ta muốn làm, e rằng chỉ có mỗi chuyện vào thôn Địa Tiên tìm Phong Soái Cổ thôi, tính cách kiên nhẫn tàn khốc cơ hồ đã đến mức biến thái, người bình thường căn bản không thể làm nổi, chuyện này hẳn bắt nguồn từ những gì ông ta phải trải qua trong quá khứ. Việc đã đến nước này rồi, các anh có hận ông ta mấy cũng vô dụng, nghe tôi khuyên một câu, tha được cho người ta thì hãy tha đi.”

Tôi nhắc lại lời Shirley Dương: “Tha được cho người ta thì tha, nhưng Tôn Cửu gia... lão ta có phải là người không? Trên người lão ta có dấu vết bị thi trùng cắn xé, vai bị Cửu Tử Kinh Lăng giáp xuyên qua mà vẫn như không, thi tiên căn bản không cảm giác được sự tồn tại của lão ta, thứ hư vô như cái bóng ấy, rốt cuộc là gì đây ?”

Bọn tôi vừa băng bó vết thương, vừa thấp giọng bàn luận những dấu hiệu khó thể tin nói xuất hiện trên người Tôn Cửu gia, nhưng trước sau vẫn không nắm được điểm mấu chốt, không ai nhìn thấu nổi bí mật của hậu duệ cuối cùng nhà họ Phong. Đang lúc chuyện trò, chợt thấy một cái bóng to tướng lướt qua vách đá sát bên, cả bọn thảy đều kinh ngạc, trong chớp mắt chỉ thấy vật thể ấy to đến lạ thường, trên người khoác áo bào đen, leo bám trên vách đá dựng đứng mà như đi trên đất bằng, bóng lưng lao vút qua màn sương mù nhanh nhẹn tuyệt luân, đến mức khiến người ta khó mà tưởng tượng nổi.

CHƯƠNG 63: NGƯỜI BẠN TRẦM LẶNG

Tôi thấy có thứ gì đó lướt qua trên vách núi, thân hình thoăn thoắt, nhanh không thua gì loài khỉ vượn, chỉ thấy trước mắt hoa lên một cái, thẩm nhủ chẳng lẽ là con khi Ba Sơn mà người nhà họ Phong thuần dưỡng, nhưng thể hình con khỉ Ba Sơn trong hầm phòng không Thanh Khê dường như không lớn đến vậy, chẳng lẽ trong núi Quan Tài vẫn còn sót lại “thi tiên” hay sao?

Đúng lúc này, cái bóng leo bám trên vách đá kia đột nhiên dừng lại ở chênh chếch chỗ chúng tôi, tôi vội dụi dụi mắt, định thần nhìn kỹ, lại càng thêm kinh ngạc bội phần. Bọn tôi đang ở giữa đoạn điểu đạo vừa chật vừa dốc, cách chúng tôi chừng vài chục mét, có mấy cây cọc gỗ đóng trên vách đá, dùng để đặt quan tài, con khỉ Ba Sơn đang cõng giáo sư Tôn trên lưng, dừng lại trên đó bất động trong mưa. Một người một khỉ, cứ thế ngoái đầu lại nhìn chằm chằm vào chúng tôi, nét mặt đơ ra như gỗ.

Tôi đoán, con khỉ Ba Sơn kia không theo bọn tôi vào hẻm núi Quan Tài, nhưng nó có linh tính, cứ quanh quẩn ở gần đây, cảm giác được dưới lòng đất có biến động lớn, liền một mạch vượt núi băng đèo chạy tới, đồng thời tìm được Tôn Cửu gia trong núi Quan Tài sắp bị hủy diệt, bèn cõng lão ta leo lên vách đá, đối mặt với chúng tôi lần nữa.

Tôi thấy Tôn Cửu gia buông thỏng một cánh tay, khắp người toàn bùn đen, gương mặt bị nước mưa xối vào trông nhợt nhạt hết sức, lão ta không cất tiếng, nhưng tôi có cảm giác, ông chỉ muốn xem xem chúng tôi có chuyện gì hay không, rồi sẽ lặn đi từ nay không gặp lại mọi người nữa.

Chúng tôi và Tôn Cửu gia cùng con khỉ Ba Sơn cứ nhìn nhau từ xa trên vách đá, mấy phút liền không ai thốt lên một lời, vách đá trong hẻm núi Quan Tài này dốc đứng, tôi muốn lại gần lão ta thêm một bước cũng không thể.

Chuyến này, chúng tôi nhặt được mấy cái mạng ở thôn Địa Tiên trở về, may mà mấy người đều không thương tổn gì, nghĩ lại những gì vừa trải qua, cảm giác như vừa gặp một cơn ác mộng, đối với những chuyện đã qua, tự nhiên cũng nhìn thoáng hơn rất nhiều, cảm thấy hành vi của Tôn Cửu gia về tình thì chấp nhận được, nhưng về lý thì khó tha, tuy tôi và Tuyền béo ngoài miệng nói dữ, nhưng thực tâm cũng chẳng muốn truy cứu lão ta gì nữa.

Lúc này, tận mắt trông thấy Tôn Cửu gia được con khỉ Ba Sơn kia cứu ra khỏi núi Quan Tài, tảng đá đè trong lòng rốt cuộc cũng rơi xuống. Chỉ thấy lão ta hình như muốn trốn đi thật xa, không biết bao giò mới gặp lại, tôi chợt nhớ ra còn một câu thoại vẫn chưa nói vói lão, bèn khum tay trước miệng, hét về phía lão ta trong màn mưa: “Tôn Cửu gia, món nợ giữa chúng ta còn chưa xong đâu, mong rằng ông trời phù hộ cho ông được bình an vô sự, ít nhất là cho đến khi ông chạm mặt tôi lần nữa.” Tôn Cửu gia nghe tôi nói thế cũng không biểu lộ gì, chỉ nhìn chằm chằm vào chúng tôi một lúc, gương mặt không còn chút sắc máu thoáng lướt qua một nụ cười lạnh lẽo khó nhận ra, đoạn lão ta khẽ vỗ lên vai con khỉ Ba Sơn một cái. Con khỉ hiểu ý, không buồn liếc nhìn chúng tôi thêm lần nào nữa, vươn cánh tay tung mình bám lên vách đá, nó cõng một người trên lưng mà vẫn có thể leo bám trên vách núi dựng đứng nghìn mét không hề khó khăn, nhổm lên hụp xuống mấy cái đã lên càng lúc càng cao, rồi biến mất trong màn mưa như trút.

Tôi và Tuyền béo vươn người thò ra khỏi điêu đạo, ngước nhìn lên vách đá phía trên, chỉ thấy mưa và sương mù mờ mịt, nào còn tăm tích của một người một khỉ ấy, trong lòng chợt thấy trống trải hoang mang, đành rụt người vào, tiếp tục ở lại trong hốc đá tránh mưa.

Lúc này, hẻm núi Quan Tài mứa gió tơi bời, chúng tôi không dám mạo hiểm leo bám lên vách đá ẩm ướt trơn tuột, đành kiên nhẫn đợi mưa lớn tạnh hẳn. Núi Quan Tài nằm vắt vẻo giữa hẻm núi đã hoàn toàn sụp đổ, vỡ thành vô số khối đá lớn, bị dòng thác cuốn xuống con sông bên dưới, giờ đang là mùa lũ, thế nước trong núi rất mạnh, các di tích như mộ Địa Tiên, Linh Tinh điện rơi xuống nước, lập tức bị nhấn chìm không thấy tăm hơi.

Cả bọn an một ít lương khô rồi ngồi bó gối, mỗi người đều có tâm sự riêng, trầm mặc không nói năng gì, sau phen lao lực, cơn buồn ngủ ập đến, bất giác, cả mấy người đều lần lượt thiếp đi.

Vùng đất Vu Sơn xưa nay vẫn nổi danh là chốn thâm u sớm mây chiều mưa, lúc tôi tỉnh giấc, cơn mưa trong núi vẫn chưa dừng, mãi đến sáng hôm sau, mây mới tan, mưa mới tạnh, có thể vượt núi băng đèo rời khỏi hẻm núi Quan Tài. Dọc đường, chúng tôi chỉ hái vài quả dại trong khu rừng gần đó lót dạ, uống chút nước suối giải khát. Chốn hoang sơn dã lãnh này chẳng có đường đi, lúc ở trên núi trông lộ trình có vẻ không xa lắm, nhưng khi băng rừng vượt suối, vẫn phải đi mất gần một ngày trời. Suốt cả chặng dường, bọn tôi không gặp bóng người nào, càng không thấy tung tích Tôn Cửu gia, cũng không biết lão ta vẫn còn nán lại trong hẻm núi hay đã chạy đến nơi nào nữa.

Tối hôm sau, chúng tôi mới đến dược cổ trấn Thanh Khê không một bóng người, vùng núi hiếm khi được ngày quang mây, không sương không khói, chỉ thấy những vì tinh tú lấp lánh trên bầu trời đêm, sông Ngân hiện lên rõ mồn một trước mắt. Vì cả bọn đều có vết thương trên mình, khó lòng ở lại lâu, trời vừa sáng, chúng tôi lại lập tức ra khỏi núi theo đường sạn đạo, trước tiên tới trạm y tế huyện Vu Sơn trị liệu, đồng thời thương lượng xem nên xử lý Tôn Cửu gia thế nào. Tuyền béo nói, lão họ Tôn này thật đáng căm hận, phải băm vẳm lão ra mới được, nhưng cũng chớ vội làm gì, hòa thượng chạy được thì chùa vẫn còn đó, khi nào về Bắc Kinh sẽ tới hốt ổ nhà lão, lên trời thì đuổi tới điện Lăng Tiêu, xuống biển thì truy tới cung Thủy Tinh, dù lão có là Kim Sí Đại Bàng bên cạnh Như Lai thì cũng phải đến Tây Thiên vặt trụi lông lão, không ăn được bữa Mãn Hán toàn tiệc ở quán Chính Dương Cư thì không xong.

Tôi lo nhất là Tôn Cửu gia còn có mưu đồ gì khác, trên người lão ta xảy ra rất nhiều hiện tượng kỳ quái khó lòng lý giải nổi, càng suy đoán lại càng cảm thấy lão ta không phải người bình thường, thảng như chúng tôi vô ý giúp kẻ xấu làm điều ác, thì tội này thật quá lớn, bất luận thế nào cũng phải nghĩ cách tìm bằng được lão ta.

Có điều, tôi cảm thấy biện pháp vé Bắc Kinh hốt ổ nhà Tôn Cửu gia của Tuyền béo cũng chẳng ý nghĩa gì, xét về thủ đoạn hành sự bí hiểm, Tôn Cửu gia này so với đám tổ tiên Đại Minh Quan Sơn thái bảo của mình tuyệt đối chỉ hơn chứ không kém. Nếu tôi đoán không sai, trước khi cùng chúng tôi xuất phát rời Bắc Kinh, lão ta đã hạ quyết tâm bỏ hết gia nghiệp, không trở lại đó nửa rồi.

Ngay trong ngày, tôi và Shirley Dương ở huyện lỵ gọi điện thoại đường dài về nhà giáo sư Trần ở Bắc Kinh, thử thăm dò chuyện của Tôn Cửu gia. Quả nhiên không sai, Tôn Cửu gia đã bàn giao công việc, viện cớ bệnh tật xin nghỉ hưu sớm về quê, cả gian nhà tập thể kia lão ta cũng trả lại nốt. Hiện giờ, người ở Bắc Kinh cũng chỉ biết có chừng đó thông tin.

Tôi thấy việc này không có kết quả, nghĩ nhiều cũng vô dụng, đành tạm gác lại một bên, tĩnh tâm bồi dưỡng sức khỏe. m khí trong mộ cổ Ô Dương vương và núi Quan Tài quá nặng nề, thân thể bốn người chúng tôi đều tích tụ không ít thi độc, đầu tiên là ho sù sụ không ngừng, hô hấp khó khăn, sau đấy còn thường nôn ra máu bầm, nán lại trong bệnh viện gần một tuần mà vẫn chưa khỏi hẳn.

Hôm ấy, trời vừa tối, tôi nằm trên giưòng bệnh truyền dịch, mơ mơ màng màng gặp phải một cơn ác mộng, tình cảnh trong mộng mờ mịt xa xăm, dường như tôi trở lại thôn Địa Tiên trong núi Quan Tài, đi vào gian chính của nhà cũ họ Phong, thấy trong nhà hương khói nghi ngút, trên tường treo một bức ảnh thờ, phía trước bày một bàn thờ, trên bàn có bảy đĩa tám bát đựng các món điểm tâm, hoa quả, cùng với ba cái đầu máu chảy ròng ròng của tam sinh trâu, dê, lợn, phướn trắng đong đưa phơ phất, rõ ràng là minh đường của người làm nghề sông nước.

Tôi bước tới trước ban thờ, định nhìn cho rõ xem người trong ảnh là ai. Dưới ánh nến vàng yọt trong nhà, tôi loáng thoáng nhận ra bóng dáng của một thiếu nữ con lai. Tôi thầm nhủ: “Đây không phải Đa Linh ư? Sao cô ấy lại chết... ai đưa linh vị của cô ấy về thờ trong thôn Địa Tiên thế này?” Đang kinh ngạc không hiểu chuyện gì, tôi chợt nghe trên bàn thờ vang lên tiếng ùng ục, như thể có con lợn đang vục mõm ăn nước gạo vậy.

Tôi vội cúi đầu nhìn thử, thấy cái đầu lợn bày trên bàn thờ không hiểu sao lại sống dậy, đang tham lam vơ vét các món điểm tâm hoa quả cúng trên bàn, máu và nước miếng văng tứ tung, trông hết sức hung tợn đáng sợ.

Tôi thấy thế lền nổi giận, trong lòng dấy lên một cảm giác chán ghét khó tả, lập tức vớ lấy cán cây phướn trước bàn thờ, chọc vào cái đầu lợn kia, chẳng ngờ cán phướn bằng giấy bồi mềm quá, hoàn toàn không dồn được sức vào. Bất giác, tôi cuống lên, trán đầy mồ hôi, đang nóng lòng, chợt cảm thấy vai mình bị ai đẩy đẩy mấy cái, lập tức giật mình tỉnh mộng.

Tôi trông thấy Shirley Dương và hai người kia đang ở bên cạnh đánh thức mình dậy mới biết vừa rồi chỉ là mơ, nhưng giấc mơ này thật hết sức kỳ quặc, vả lại còn vô cùng chân thực, khắp người tôi đã ướt sũng mồ hôi lạnh. Tôi thầm cảm thấy đây là giấc mộng chẳng lành, lòng vẫn hoảng hốt không yên.

Út tò mò hỏi tôi mơ thấy gì mà sợ đến nông nỗi này, gặp ác mộng thì phải lập tức nói ra, chỉ cần nói ra là không linh nữa.

Tuyền béo cũng lấy làm lạ: “Nhất này, lá gan cậu xưa nay đâu có nhỏ, cũng tại trên đời không có cây gậy đủ dài, chứ không cho cậu một cây gậy như thế, dám cậu cũng chọc một lỗ trên trời lắm, sao mới nằm mơ một giấc đã sợ thế này rổi?”

Tôi nói, mấy người đừng nói linh tinh, thường có câu nghĩ gì mơ nấy, giấc mơ không phải điềm báo cát hung phúc họa gì cả. Có lẽ tại gần đây tôi nghĩ ngợi quá nhiều về việc của Đa Linh, nên mới gặp cơn ác mộng không đầu không đuôi như thế thôi. Nói đoạn, tôi liền kể lại những gì trông thấy trong mơ cho họ nghe.

Cả bọn nghe xong đều có một dự cảm chẳng lành, chỉ sợ tính mạng Đa Linh phen này khó giữ. Tuy có lỗi với lời ủy thác trước lúc lâm chung của Nguyễn Hắc, nhưng chúng tôi đã tận lực, chung quy vẫn không tìm được nội đơn của xác cổ nghìn năm, Đa Linh rốt cuộc sống hay chết đành trông cả vào phúc phận của cô thôi.

Sau đấy, chúng tôi lại nói sang chuyện Đa Linh trúng phải tà thuật Giáng Đầu của chính cha ruột mình, thật đúng là tạo hóa trêu ngươi, ý trời khó đoán. Có điều, sự kiện ở Nam Hải nếu suy xét đến cùng, vẫn là trách nhiệm của Tôn Cửu gia. Suốt nhiều ngày gần đây, chúng tôi không hề có chút tin tức nào của con người này, cũng không biết lão ta đã lẩn đi đâu mất.

Tôi đoán, Tôn Cửu gia sẽ không rời khỏi khu vực Thanh Khê, dẫu sao đây cũng là nguyên quán của lão ta, thi thể cha và anh trai lão ta cũng ở cả nơi này, nên định khi nào thương thế hồi phục đôi phần, sẽ tiến vào hẻm núi Quan Tài tìm kiếm lão lần nữa.

Chúng tôi đang bàn tính làm cách nào để tìm Tôn Cửu gia, đột nhiên ngoài cửa sổ có ai ném vào một cái bọc, đó vật bên trong dường như cũng không nặng lắm, phát ra một tiếng “cạch” khe khẽ, rơi xuống đất. Tuyền béo lập tức đứng dậy ra ngoài xem, huyện lỵ này có hai khu vực cũ mới, bệnh viện nằm ở rìa khu thành cổ, nhân khẩu không tập trung đông đúc, lại đang giữa mùa hạ, không khí ẩm thấp oi bức, ban đêm tuy có đốt hương muỗi nhưng cửa sổ phòng bệnh vẫn mở ra cho mát, bên ngoài chỉ có mấy ngọn đèn đường lẻ loi chiếu sáng, không bóng người nào. Rốt cuộc, Tuyền béo đành đóng cửa sổ lại, đề phòng có chuyện gì ngoài ý muốn phát sinh.

Shirley Dương nhặt cái bọc lên, mở ra xem, thấy bên trong có mấy bó cỏ dại hình thù quái dị, ngoài ra còn một xấp giấy viết thư, miếng long phù không mắt bằng đồng xanh kia không ngờ cũng ở bên trong. Cô cầm lấy đưa cho tôi nói: “Chắc là Tôn Cửu gia bảo con khỉ Ba Sơn lẻn vào huyện lỵ đưa thư cho chúng ta. Anh xem trong thư viết gì vậy?”

Tôi nôn nóng xem cho rõ ràng, vội vàng mở thư ra, vừa xem vừa đọc lại cho ba người kia. Bức thư do Tôn Cửu gia tự tay viết, ký tên thật của lão ta là “Phong Học Vũ”, văn chương lưu loát dài dòng, đại để nói lão ta tự cảm thẩy hổ thẹn với mọi người, không còn mặt mũi nào đến gặp. Có điều, chuyện đổ đấu ở thôn Địa Tiên núi Quan Tài lần này, toàn nhờ vào Mô Kim hiệu úy tương trợ, tuy sau này có thể không còn gặp lại nhau nữa, nhưng có nhiều chuyện, lão ta không thể không nói cho rõ ràng.

Trong thư, Tôn Cửu gia nói đời này mình chưa bao giờ được thanh thản, trong lòng lúc nào củng đè nặng một trái núi lớn, hoàn cảnh xuất thân cùng vô số nguyên nhân nội tại và ngoại tại khác đã khiến lão ta không có nổi một người bạn để giải bày tâm sự, có thể tín nhiệm được, cũng chỉ có con khỉ Ba Sơn ẩn náu trong hẻm núi Quan Tài kia. Có điều, ông bạn già này của lão ta tuy tuyệt đối trung thành đáng tin cậy, lại rất có linh tính, nhưng dẫu sao cũng không thể nói được tiếng người, giống như một bộ phim của Rumani có nhân vật chính là chó săn vậy, nó vĩnh viễn chỉ là một “người bạn trầm lặng”.

Lâu dần lâu dần, Tôn Cửu gia liền hình thành nên tính cách âm trầm lạnh lùng, trong thế giới quan của lão ta, ngoài việc của nhà họ Phong, trong thiên hạ không còn đại sự nào đáng nói nữa. Vì ở bên ngoài mộ cổ Địa Tiên có Cửu Tử Kinh Lăng giáp mỗi mười hai năm chỉ có mấy ngày trong năm Tý là lúc Kinh Lăng giáp ngủ đông, người bên ngoài mới có cơ hội tiến vào núi Quan Tài. Vì vậv, con cháu của Phong Soái Kỳ đã nhiều lần bỏ lỡ thời cơ, trung đoàn trưởng Phong vì dọc đường nhiễm bệnh nên quá mất thời hạn, nhất thời lửa giận công tâm, khiến hai chân bị liệt, nên mới chất trước khóa Cửu Cung Ly Hổ.

Tôn Cửu gia thấy nhân khẩu trong nhà rơi rụng dần, nếu mùa hạ năm nav vẫn không thể tìm được lối vào thì e rằng cả đời này cũng không còn hy vọng nào nữa. Trải qua nhiểu năm bày mưu tính kế, sắp xếp chuẩn bị, cuối cùng lão ta cũng có được thiên thời, địa lợi, nhân hòa, kế hoạch tuy rất chu đáo cẩn mật, nhưng dẫu sao cũng không thể lường hết mọi chuyện, từ lúc bắt đầu tiến vào hẻm núi Quan Tài đã xảy ra rất nhiều chuyện lão ta không ngờ đến.

Vốn dĩ, Tôn Cửu gia đã thuộc làu “Quan Sơn chỉ mê phú” thật sự, chỉ là lo lắng đám Mô Kim hiệu úy chúng tôi sẽ bỏ rơi lão ta, vì vậy mới giấu giấu giếm giếm mãi, trước đó còn sắp xếp mấy tình huống, để mọi người tiếp tục với các thông tin rời rạc nửa thật nửa giả ở những địa điểm khác nhau, rồi thêm vào chút khổ nhục kế hòng đánh lừa dư luận, đến lúc mấu chốt mới tự mình lần lượt chỉ ra điểm quan trọng. Kỳ thực, trong bài “Quan Sơn chỉ mê phú” thật sự kia, đã bao hàm cách phá giải khóa Cửu Cung Ly Hổ rồi, trở ngại duy nhất chính là ghép lại những mảnh vỡ của tấm bản đồ phong thủy, nhưng lão ta không liệu trước được việc truyền nhân của Phong Oa sơn nửa đường gia nhập đội thám hiểm, rất nhiều kế hoạch đã sắp xếp từ đầu không thể không thay đổi, dẫn đến cục diện dần dần trở nên hỗn loạn không thể khống chế.

Điều khiến Tôn Cửu gia bất ngờ nhất là một loạt các sự vệc xảy ra ở cầu Hách Hồn do lũ chim yến tạo thành, lão ta vốn định lợi dụng lũ châu chấu giáp vàng mai phục trong hẻm núi để phân tán sự chú ý của mọi người, sau đó chỉ ra đường sống, từ chỗ thác hóa thạch tụt xuống cây xà gỗ để thoát thân.

Sở dĩ sắp xếp như vậy là vì sau khi xuống dưới hẻm núi, sẽ tiến vào địa cung Ô Dương vương, trước đó, lão ta cần làm một “thủ thuật” với thân thể mình. “Thủ thuật” này, thực ra là một “yêu thuật” từ xưa truyền lại, Quan Sơn thái bảo nhờ trộm mộ của ẩn sĩ thời cổ mà phát tích, phát hiện ra rất nhiều thuật phù thủy, tà pháp sớm đã thất truyền cả nghìn năm nay. Trong đó có một môn, là dùng kim châm bằng xương đâm vào não, tương truyền có thể khiến tam muội chân hỏa trong cơ thể tắt ngấm. Vì trên cơ thể người sống luôn có ba ngọn đèn, tượng trưng cho dương khí của người sống, độ sáng tối ba ngọn đèn này thể hiện sự hưng vong của vận khí, phẩm đức chủ nhân, mắt thường không thể nhìn thấy được, chỉ có ma quỷ và cương thi mới trông thấy. Đâm một cây kim bằng xương vào huyệt vị sau gáy, có thể làm tắt ba ngọn mệnh đăng này, lúc trộm mộ có thể tránh được chuyện gặp ma, hoặc có thi biến, nhưng một khi dùng thuật này, tuyệt đối không thể nói với người bên cạnh, chỉ có thể tự biết, một khi nói ra, sẽ lập tức hồn phi phách tán, lúc chết muốn làm ma cũng không xong.

Tà thuật này bắt nguồn từ đất Ba Thục cổ xưa, trên thực tế, đây chính là tiền thân của thuật châm cứu huyệt vị, trong các bức bích họa, nham họa lưu lại từ thời văn minh Vu Sở từng miêu tả rất kỹ lưỡng những trường hợp tương tự. Thầy phù thủy thi triển yêu thuật, người bị kim bằng xương đâm vào, sẽ như có quỷ thần nhập thể, lên núi đao xuống biển lửa hoàn toàn không cảm thấy đau đớn, vì huyệt vị mũi kim đâm vào chính là trung khu thần kinh kiểm soát cảm giác đau đớn, người cổ đại không hiểu sự kỳ ảo bên trong, bèn cho rằng đấy là tà thuật.

Nhưng ở trước Long môn nơi thác đá, sự việc đã phát triển đến mức Tôn Cửu gia không khống chế nổi nữa, lúc rơi xuống xà gỗ vắt ngang vách núi lão ta bị đập đầu, mũi kim vừa đâm vào gáy không biết biến đâu mất, có thể đã ngập lút vào trong đầu, cũng có thể trong lúc hỗn loạn đã bị rơi ra. Sau khi vào địa cung Ô Dương vương, lão ta phát hiện thần kinh của mình dần trở nên tê liệt, cơ thể bị thi trùng cắn xé mà hoàn toàn không có cảm giác gì, nhưng sự thể đã không còn cách nào vãn hồi, sợ rằng trong những năm còn lại, lão ta sẽ phải làm một cái xác sống không còn tri giác Chẳng những vậy, hễ căng thẳng kích động quá độ, lão ta lại cảm thấy mạch máu toàn thân căng phồng lên, phỏng chừng có thể vỡ mạch máu mà chết bất cứ lúc nào.

Tôn Cửu gia lòng dạ sắt đá, sự việc đã xảy ra rồi, đành chấp nhận số mệnh, cũng không lấy đó làm oán hận. Lão ta trời sinh tính tình lạnh nhạt, coi nhẹ cả mạng mình lẫn mạng người khác, có điều, bấy giờ lão ta cũng chỉ định đơn độc một mình tiến vào thôn Địa Tiên, dựa vào bí thuật làm tắt ba ngọn đèn sinh mệnh, lại có gương có Quy Khư trừ tà, chỉ cần tìm được mộ Địa Tiên, hẳn vẫn ứng phó được.

Chẳng ngờ ma xui quỷ khiến thế nào, những dấu hiệu thi biến trên người lão ta làm chúng tôi sinh nghi, khiến láo ta bại lộ thân phận sớm hơn dự định. Để kịp vào thôn Địa Tiên trước khi Cửu Tử Kinh Lăng giáp phong tỏa núi Quan Tài, dẫu biết rõ phen này có đi mà không có về, lão ta cũng đành giở ra kế hiểm, dụ cả bọn cùng tiến vào một lượt.

CHƯƠNG 64: CỬU TỬ HOÀN HỒN THẢO

Sự việc phát triển đến bước này, từ lâu đã vượt khỏi phạm vi dự tính mà Tôn Cửu gia có thể tưởng tượng được, lão ta càng không ngờ những hành vi của mình đều bị Phong Soái Cổ tính toán ra từ lúc còn sống, lòng không khỏi nguội lạnh như nắm tro tàn, cứ tưởng thi tiên trong mộ ắt hẳn sẽ thoát ra ngoài núi, gây nên một trận ôn dịch quy mô lớn. Bất kể trong tai kiếp đó có bao nhiêu người chết, tội nghiệt cuối cùng đều tính do lão ta gây nên, đến khi xuống suối vàng cũng hổ thẹn với liệt tổ liệt tông, tinh thần lão ta cơ hồ rơi vào trạng thái suy sụp.

Chẳng ngờ vào lúc cùng đường tận lối lại có bước ngoặt, đây có lẽ cũng chính là “ông trời có mắt”. Có câu “bọ ngựa bắt ve, sẻ vàng nấp sau”, không chỉ đám người vào núi đổ đấu chúng tôi, mà ngay cả địa tiên Phong Soái Cổ cũng bị ăn quả lừa của những người bảo vệ lăng mộ Ô Dương vương năm xưa, có thể nói, Quan Sơn thái bảo và Mô Kim hiệu úy đều không bì nổi với tâm kế sâu xa độc địa của những người bảo vệ bí mật núi Quan Tài kia, nghĩ lại thật khiến người ta dựng hết cả tóc gáy.

Điểm trời mà những người bị giam cầm ấy suy diễn ra trước lúc chết là núi Quan Tài sau khi rời khỏi lòng đất, cuối bùng bị lôi hỏa thiêu hủy, người chết trong thôn Địa Tiên đều bị thiêu rụi không còn cả tro than, cơ hồ tất cả những chuyện ấy đều đã được định sẵn trong cõi xa xăm rồi, mọi si tâm vọng tưởng của thế gian, chẳng qua chỉ là một màn mây khói lướt qua mắt mà thôi.

Tôn Cửu gia lúc đó ngã xuống khỏi vách đá, rơi vào đống người chết trong núi Quan Tài, trong bóng tối mờ mịt may mà không đụng phải tảng đá tan thây nát thịt, sau đó sấm sét nổi lên trong hẻm núi, thôn Địa Tiên chìm trong ngọn lửa. Tôn Cửu gia lúc này chẳng phải người cũng chẳng phải ma, tránh khỏi đợt sấm sét, lại được con khỉ Ba Sơn nghe tiếng mò đến cứu viện, đá băng qua vách núi dựng đứng đào tẩu giữa trời mưa như trút.

Sau đó, trong thư lại nhắc đến, gương cổ Quy Khư là vật báu cổ đại, không thể vì hải khí tiêu tán mà hỏng mất. Trong một khu nhà phía Tây thành Bắc Kinh có một cái giếng khô bỏ hoang, trong đó có giấu một số thứ, có thể dựa theo bản đồ trong thư để tìm đến đào lên, sau đó đem vật ấy phụ trợ với hình khắc ở mặt sau tấm gương đồng, nói không chừng có thể tìm được quẻ cổ Chu Thiên thất truyền đã lâu.

Tôn Cửu gia xuất thân thế gia, tuy rằng các ngón nghề của tổ tiên Đại Minh Quan Sơn thái bảo có mười phần, lão ta cũng chứa học hết một, nhưng từ nhỏ lão đã biết các loại chữ triện Trùng Ngư cổ, ký hiệu cổ, sau khi được phóng thích khỏi nông trường cải tạo lao động Quả Viên Câu, hồi phục công tác lại quanh năm nghiên cứu Long cốt thiên thư thời kỳ Hạ Thương Chu, tiếp xúc với rất nhiều bản khắc trên giáp cốt và đồ cổ đồng xanh. Có điều, tâm tư lão ta không đặt vào công việc, đồng thời không thể xử lý tốt quan hệ với những người xung quanh, nên thường xuyên bị một số nhân sĩ có quyền lực chèn ép, xưa nay chưa hề có cơ hội ngóc đầu.

Vì vậy mặc dù có được một số thành quả, nhưng Tôn Cửu gia đều lần lữa không báo lên cấp trên mà âm thầm giấu đi để nghiên cứu, ngày tháng tích lũy, quy mô nghiên cứu đã tương đối khả quan. Quẻ cổ Chu Thiên, chính là mấu chốt của âm dương, là quỹ tích của thiên địa, tuyệt đối không thể dựa vào máy quẻ đồ và chữ triện cổ vụn vặt mà dễ dàng phá giải toàn diện được.

Từ khi có được tấm gương cổ Quy Khư, Tôn Cửu gia phát hiện quẻ đồ trên mặt sau tấm gương này ảo diệu vô cùng, nếu có thời gian dông dài, kết hợp với thành quả nghiên cứu quẻ cổ Chu Thiên của lão, không chừng có thể khiến toàn quẻ Chu Thiên tuyệt tích đã lâu tái hiện lại trên thế gian.

Nhưng so với quẻ cổ Chu Thiên đã thất truyền cả nghìn năm, Tôn Cửu gia còn có việc quan trọng hơn cần làm. Thời cơ mười hai năm một lần đã tới, việc trong mộ cổ Địa Tiên đã vô cùng cấp bách, không cho phép lão ta hao phí thêm bảy tám năm thời gian nghiên cứu Thập lục tự thiên quẻ. Khi ấy, lão ta lại có ý định mang theo gương cổ vào trong mộ trấn áp thi tiên, nên đành đem hết tư liệu nghiên cứu và các quẻ đồ, quẻ tượng mình thu thập được chôn trong đường hầm dưới đáy giếng khô.

Năm 1971, cả nước Trung Quốc đều sôi sục chuẩn bị chiến tranh, đề phòng mất mùa, triển khai rộng rãi phong trào đào hầm sâu, trữ lương nhiều. Bấy giờ, Bắc Kinh cũng tiến hành mở rộng hệ thống công trình phòng thủ dưới đất, cái giếng khô giấu đồ ấy thông với một đoạn đường hầm đã bị bít kín bỏ hoang. Trong thư, Tôn Cửu gia có vẽ một bản đồ sơ lược, đánh dấu vị trí và các lối vào, lão ta hy vọng chúng tôi về Bắc Kinh có thể đào những thứ ấy lên, sau này có cơ duyên, họa may có nắm được toàn bộ quẻ cổ Chu Thiên, coi như là một sự bồi thưòng và báo đáp của lão ta.

Sau đó, lão ta lại viết, gửi kèm theo thư này còn có mấy món đồ, một là miếng long phù bằng đồng xanh bị thất lạc trong hẻm núi Quan Tài, mộ cổ thôn Địa Tiên bị lôi hỏa thiêu đốt, có lẽ vì hải khí trong miếng Long phù này quá thịnh, cũng có thể do hình thế phong thủy trong địa mạch Bàn Cổ ở núi Quan Tài biến động quá lớn, nhưng bất kể vì lý do gì, hai miếng bùa và một tấm gương cổ mang từ Bắc Kinh tới đây, rốt cuộc vẫn giữ được không tổn hại chút nào.

Ngoài ra, núi Quan Tài là chốn cấm địa tế tự của các thầy mo thời cổ đại, âm khí bên trong hết sức nặng nề, mộ cổ Ô Dương vương ở chỗ địa mạch hình đầu xác chết cũng thuộc loại này, tuy chúng tôi đã có mặt nạ phòng độc bảo hộ song vẫn khó thể chu toàn, những phần da lộ ra ngoài cũng có thể nhiễm phải khí độc thối rữa hủ hóa, vì vậy, trên người cả bọn sẽ lần lượt xuất hiện các đốm đen và vết tụ huyết, sau đó còn nôn máu, ho ra đờm đen, tuy không mất mạng, nhưng về lâu về dài vẫn sẽ để lại mầm bệnh khó dứt trong cơ thể.

Bởi thế, trong bao lão ta có gửi kèm mấy bó Cửu tử hoàn hồn thảo, tên khoa học gọi là Herba Selaginellac, vật này chuyên mọc ở nơi thâm sơn cùng cốc, khi không đủ dinh dưỡng và nước, nó sẽ khô quắt lại ở trạng thái chết giả, toàn bộ sự trao đổi chất trong tế bào đều ngừng lại, nhưng không lâu sau lại có thể hoàn hồn tái sinh, vì vậy mới gọi là Cửu tử hoàn hồn thảo, trong dân gian cũng hay gọi là “trường sinh bất tử thảo” hoặc “Thiên nhiên thảo”, dùng bên ngoài có thể thay thuốc cầm máu trị thương, uống vào có thể tiêu ứ trừ độc, hóa giải khí âm đã bám vào tận xương tủy. Tôn Cửu gia dặn chúng tôi đến tiệm thuốc trong huyện lỵ mua mấy vị thuổc Nam dùng để tiêu đờm giải độc như thịt cá sấu khô, đem mấy bó Trường sinh bất tử thảo đốt thành tro, rồi trộn lẫn liên tục uống trong ba ngày, có thể triệt để trừ hết mầm bệnh trong người. Trước đây, trên vách đá ở hẻm núi Quan Tài mọc rất nhiều loại cỏ này, đều là thứ chín rễ chín lá, không phải tầm thường, nhưng giờ thì không dễ gì gặp được nữa, mấy bó này tuy ít, nhưng cũng đủ cho năm sáu người dùng.

Cuối cùng, Tôn Cửu gia viết trong thư rằng: “Giờ nợ nần của chúng ta coi như đã dứt, tôi không còn lưu luyến gì với thế giới bên ngoài nữa, vả lại sau khi kim xương đâm vào não, thần hồn sẽ tan biến, chết rồi sợ rằng muốn làm ma cũng không được. Thời gian còn lại của tôi không nhiều, sau khi an táng di thể của cha và anh trai, tôi sẽ ở lại hẻm núi Quan Tài này chờ chết, không muốn gặp người ngoài nữa, khi các cô các cậu đọc được phong thư này, có thế xác tôi đã lạnh, được con khỉ Ba Sơn mai táng ở một nơi bí mật nào đó rồi. Khu vực hẻm núi Quan Tài này toàn núi cao chót vót, vách đá ngất ngưởng, dẫu có chôn vùi đại quân mấy chục vạn người cũng không có manh mối đâu mà tìm, vì vậy các cô các cậu khỏi uổng phí tâm sức vào núi tìm tôi nữa, cũng xin các cô các cậu chớ nên tiết lộ chuyện của tôi với bất cứ người nào khác.”

Chúng tôi đọc xong bức thư con khỉ Ba Sơn đưa tới, trong lòng bán tín bán nghi, từ lúc trải qua sự kiện thôn Địa Tiên, cách nhìn của mọi ngưòi đối với Tôn Cửu gia đã thay đổi hoàn toàn. Trước đây, chúng tôi cảm thấy con người này chẳng qua chỉ là một chuyên gia về văn tự cổ lắm tư tâm, tính tình gàn bướng ngang ngược, lại quá khích cực đoan bất cận nhân tình, nhưng sau khi sự việc xảy ra, nghĩ lại mới thấy Tôn Lão Cửu này chẳng những thân thế đặc thù, hơn nữa còn rất giỏi ẩn mình, là một nhân vật thông minh tuyệt đỉnh, đúng như câu “đại tượng vô hình, đại trí giả ngu”. Không biết có phải do di truyền từ tổ tiên Quan Sơn thái bảo nhà lão ta hay không mà tác phong hành sự của người này hoàn toàn không để lộ ra dấu vết gì, đến thần tiên cũng khó lòng đoán thấu được.

Chúng tôi tự phụ là người kiến thức quảng bác, lịch duyệt phi phàm, vậy mà đều bị Tôn Cửu gia này qua mặt, trước khi tiến vào núi Quan Tài, chẳng ai phá được lớp vỏ ngụy trang của lão ta. Thật đúng như trong cuốn Mặt dày tâm đen có viết “tâm đen mà vô sắc, mặt dày mà vô hình” thử hỏi người phàm mắt thịt làm sao nhìn thấu được chứ? Đây chính là chỗ cao minh của Tôn Cửu gia.

Nếu cứ như lão nông Hương Cảng Minh Thúc kia còn đỡ, bề ngoài có vẻ tinh minh giảo hoạt, nhưng cảnh giới quá thấp, còn chưa mở miệng, người ta biết lão là kẻ không đáng tin cậy, cứ thế thì ai còn tin lão? Phàm gặp chuyện gì, cũng đều không thể bị loại người như Minh Thúc che mắt. Tôi thấy, so với Tôn Cửu gia thâm tàng bất lộ kia, Tiểu Gia Cát Minh Thúc thật tình có thế coi như một người thực thà trung hậu.

Út vốn là người bản địa, nhận biết được tính chất của thảo dược, cô nói, loại Cửu tử hoàn hổn thảo mọc ở hẻm núi Quan Tài nay đã gần như tuyệt tích, có được mấy bó này là quý lắm rồi, đích thực có thể hóa giải chất độc trong cơ thể. Tôi vẫn chưa yên tâm, lại tìm một thầy lang Trung y già trong huyện lỵ, hỏi rõ vị chính vị phụ trong đơn thuốc cho chắc chắn, bấy giờ mới y theo cách của Tôn Cửu gia uống vào.

Chỉ vài ngày sau, sức khỏe cả bọn đều có chuyển biến tốt, khi bàn bạc đường đi nước bước sau này, mấy người đều cảm thấy vẫn nên nghĩ cách tìm Tôn Cửu gia. Nhưng hẻm núi Quan Tài địa thế hét sức phức tạp, địa hình hiểm trở thâm u, bên trong hẻm núi quanh năm mây mù bảng lảng, lại có vô số các loại quan tài treo, bên cạnh Tôn Cửu gia còn có con khỉ Ba Sơn kia giúp đỡ, chúng tôi ngoài sáng, lão ta trong tối, muốn tìm được người này thật không phải chuyện dễ dàng.

Chúng tôi vào núi tìm kiếm thêm lần nữa, quả nhiên không có kết quả, xét thấy căn bản không thể tìm được Tôn Cửu gia đang lẩn tránh trong hẻm núi một mình chờ chết, cả bọn lấy làm chán nản, đành chuẩn bị trở vể Bắc Kinh.

Trước khi rời đi, ăn xong bữa tối trong huyện lỵ, tôi và Tuyền béo bắt tay sắp xếp lại hành lý. Phen này vào núi tuy không tìm được nội đơn của cổ thi, nhưng cũng không phải không có thu hoạch, đầu tiên là mang ra được mấy bức họa trong thôn Địa Tiên, đều là bút tích thật của Quan Sơn thái bảo Phong Soái Cổ. Người này tuy không nổi danh bằng ngón nghề bút mực, nhưng mấy bức Quan Sơn tướng trạch đồ ấy đều thuộc loại thủ bút và để tài hiếm gặp, có thể đem nhờ Kiều Nhị gia ở Lưu Ly Xưởng định giá hộ.

Ngoài ra, còn có một cái hộp mạ vàng Tuyền béo vớ được trong âm trạch ở thôn Địa Tiên. Lúc đó, cả bọn trông thấy trong mộ cái xác nữ được trâu vàng cõng trên lưng, trong lòng ôm cái hộp này. Mộ thất ấy là do Quan Sơn thái bảo di chuyển từ bên ngoài vào trong thôn Địa Tiên, cơ quan trâu vàng cõng xác thiết kế cực kỳ xảo diệu, một khi trộm mộ xông vào gian chính sẽ kích hoạt chốt lẫy ẩn giấu bên trong trâu vàng, lập tức khiến con trâu húc lật tường mộ, đưa xác mộ chủ vào gian sau.

Chúng tôi chỉ có thể đoán mộ thất có trâu vàng này được xây vào thời Minh, nhưng không có cách xác định danh tính mộ chủ, lai lịch xuất thân thế nào, tại sao lại có ngôi mộ kết cấu tinh xảo nhường ấy.

Tuyền béo đã quen thói trộm chẳng về không, vớ được một món minh khí vào tay, nhưng sau đó gặp phải bao mối hiểm nguy, sớm đã quên béng chuyện này, lúc sắp dọn đồ đạc mới nhớ tới, vội vàng lấy ra định mở xem bên trong có gì.

Cái hộp mạ vàng này hết sức tinh xảo đẹp đẽ, mộ chủ lại là phụ nữ, vì vậy chúng tôi đoán bên trong chắc hẳn là các loại trang sức vàng bạc bồi táng, hoặc trân châu bảo thạch kiểu như xuyến ngọc chẳng hạn. Nom cơ quan trong mộ xảo diệu như thế, thân phận mộ chủ ắt hẳn cũng thuộc loại bất phàm, minh khí tùy thân đương nhiên phải cực kỳ quý trọng, lắc lắc thấy nằng nặng, nhưng cũng không có âm thanh gì. Tôi và Tuyền béo đều nôn nóng muốn xem cho thỏa, thấy cái hộp có khóa, không dám dùng biện pháp mạnh đế khỏi hủy hoại đồ vật đáng tiền bên trong, bèn nhờ Út giúp một tay.

Đợi Út mở xong cái khóa bạc, chúng tôi cùng ngó vào trong hộp, sau khi nhìn rõ vật bên trong, không khỏi nửa bất ngờ, nửa thất vọng. Bên trong cái hộp mạ vàng chẳng có nửa món vàng bạc châu báu gì, mà là máy quyển sách cũ dày cộp, giấy màu vàng sậm. Tôi lật ra xem thử, thấy không giống như điển tịch kinh quyển, trong sách toàn những hình vẽ ly kỳ cổ quái, lời chú giải quái gở khó hiểu, hệt như thiên thư (sách trời) vậy.

Thường có cầu “Thiên thư không chữ”, vì bên trong thiên thư thật sự toàn quẻ tượng quẻ đồ, thoạt nhìn đều là các ký hiệu thần bí như nòng nọc chim cá, không hề có lấy một chữ, nếu có chứ thì đều là sách giải quẻ của hậu thế sau này. Nhưng tôi dám khẳng định, mấy quyển sách dày bịch này, tuyệt đối không phải loại chu Dịch mà tôi thường hay tiếp xúc, xem kỹ lại, mới phát hiện chúng rất giống đồ phổ cấu tạo các loại cơ quan, ám khí thời cổ đại.

Có câu, khác nghề như khác núi, lần đầu tiên tôi trông thấy loại sách cổ này, cũng không dám tùy tiện xác định bừa bãi, may mà có Út đã học hết bản lĩnh của Phong Oa sơn ở đây, tôi bèn đưa cô xem kỹ xem có hiểu được mấy quyển sách này rốt cuộc ghi lại nội dung gì hay không.

Út lật mấy trang sách, cũng kinh ngạc ra mặt, bộ sách cổ này hình như chính là Vũ Hầu Tàng Binh đồ. Vũ Hầu Tàng Binh đồ tuy là hậu nhân mượn danh Gia Cát Vũ Hầu mà viết ra, xuất hiên sớm nhất vào khoảng thời Đường Tống, nhưng các loại cơ quan ám khí ghi chép bên trong đều ảo diệu tinh kỳ, so với trâu gỗ ngựa máy thời Tam Quốc trong truyền thuyết thì chỉ có hơn chứ chẳng kém gì.

Vũ Hầu Tàng Binh đồ là báu vật trấn sơn của Phong Oa sơn, có thể nói nó tương đương với Thập lục tự Ẩm dương Phong thủy bí thuật của Mô Kim hiệu úy, bao đời thợ thủ ông Phong Oa sơn đều coi tập bản vẽ này là tuyệt học đáy hòm, đáng tiếc là nó thất truyền đã lâu. Ông Lý, ông nuôi của Út, tuy rằng tay nghề tinh thâm, sản phẩm tinh xảo có thể dối gạt cả quỷ thần, nhưng thực ra cũng chưa học được ba bốn phần bản lĩnh trong Vũ Hầu Tàng Binh đồ.

Những ngón nghề tuyệt học này xưa nay đều là căn bản an thân lập nghiệp của các nhà, đại đa số sư phụ truyền cho đệ tử đều theo kiểu “mèo dạy hổ”, giữ lại bản lĩnh cứu mạng là trèo cây không truyền. Thêm nữa, lại còn những quy củ kiểu như “truyền nam không truyền nữ, truyền trưởng không truyền thứ”, khiến cho các môn tuyệt nghệ càng truyền càng ít dần, thường xuyên rơi vào tình trạng mấp mé thất truyền, thậm chí là đoạn tuyệt hương hỏa.

Gần một thế kỷ nay, các ngành khoa học kỹ thuật trên thế giới phát triển từng ngày, ngành nghề truyền thống của Trung Quốc khó tránh khỏi có chút “thổ tả”, những thứ xưa cũ bị mai một nghiêm trọng, đến giờ lại không thế kế thừa hoàn thiện những gì còn sót lại, mà vẫn tiếp tục đánh mất. Tay nghề ám khí của thợ thủ công Phong Oa sơn chính là một ví dụ, vì vậy Vũ Hầu Tàng Binh đồ đối với Út mà nói quả có hơi thâm thúy khó hiểu, cô căn bản không hiểu được bao nhiêu nội dung trong đó

Tuyền béo vừa thấy minh khí trong hộp mạ vàng hóa ra là máy quyển sách rách, lập tức mất hứng, chỉ giữ lại cái hộp, định mang ra Phan Gia Viên đẩy đi,r ồi hỏi tôi mấy quyển bản vẽ này xử lý thế nào.

Tôi bảo, thực ra Vũ Hầu Tàng Binh đồ không phải vật tầm thường, có điều người ngoài ngành xem không hiểu gì mà thôi. Có câu, mỗi vật đều có chủ nhân thích hợp, thứ này rơi vào tay người thường thì thật uổng phí của trời. Phen này chúng ta vào hẻm núi Quan Tài tìm thôn Địa Tiên, em Út đây đã giúp đỡ rất nhiều, chi bằng hãy tặng Vũ Hầu Tàng Binh đồ này cho ông chủ Lý, coi như trả món nợ ân tình, nói không chừng ông Lý còn biết được lai lịch xuất xứ của bộ sách này, chúng ta tiện thể mở mang kiến thức luôn.

Tuyền béo hân hoan đồng ý, cậu ta nói thứ này ở trong tay chúng ta cũng chẳng ích lợi gì, cầm đến tiệm tạp hóa của ông chủ Lý, có thể đổi lấy dăm ba cái Ô Kim Cang, dẫu sau này không đi đổ đấu nữa thì sang California cắm trên bãi cát bên bờ biển cũng có thể làm dù che nắng, nói không chừng còn có thể mở ra một trào lưu mới ở Mỹ, thậm chí trên toàn thế giới ấy chứ.

Trong lúc nói chuyên, Shirley Dương lại đến bàn bạc với tôi, trước mắt tính mạng Đa Linh đang nguy ngập trong sớm tối, nhưng bọn tôi lại toi công ở thôn Địa Tiên, chi bằng đi đường vòng về Hồ Nam một chuyến, tìm lão Trần mù xem bói xem thế nào. Năm xưa, lão là thủ lĩnh của phái Xả Lĩnh, kiến thức lịch duyệt bất phàm, cũng chỉ có cách nhờ lão giúp nghĩ xem còn biện pháp nào khác hay không.

Tôi thầm nghĩ, như vậy cũng tốt, lão Trần mù ấy từng thống lĩnh bọn đạo tặc ở mười ba tỉnh Nam Bắc, thực sự là một nhân vật “gọi gió được gió, hô mưa được mưa”, tới khi bắt đầu trộm mộ ở Bình Sơn vùng Tương Tây, không biết gặp phải thứ xúi quẩy gì hay đụng phải hung thần ở đâu, chẳng những không thể vùng lên lần nữa, ngược lại còn ngã dúi ngã dụi, cực kỳ không thuận, chưa qua được núi Già Long đã tổn hao rất nhiều nhân thủ, những người còn lại cũng ngỏm hết trong núi, chỉ còn mình lão may mắn thoát thân, nhưng mù mất đôi mắt, đành ẩn tích mai danh sống đến ngày hôm nay.

Nhưng lão Trần mù năm xưa thông thuộc “Lăng phổ”, thủ hạ tai mắt đông đảo, biết được rất nhiều thông tin về cổ mộ khắp nơi, đến cả mộ hoàng bì tử ở miền Đông Bắc hiếm người nào trong quan nội biết đến, lão cũng hiểu biết đôi phần. Hiện giờ, chúng tôi chi còn cách nhờ lão vắt óc nghĩ lại cho kỹ... xem trong mộ cổ mồ hoang nào còn có khả năng chôn thi đơn dị khí nữa không.

Lão hiện đang ở Tương m, từng là sào huyệt cũ của bọn đạo tặc Thường Thắng sơn, nghe lão Trần mù nói, theo lệ cũ, những đầu mối về mộ táng các triều đại ở các vùng miền, cùng sự việc tụ tập trộm mộ kiếm lợi, đều phải ghi lại tường tận vào sổ sách, nếu may mắn, nói không chừng có thể tìm thấy thông tin liên quan sót lại từ thời trước giải phóng, như vậy còn hơn chúng tôi cứ đâm bừa tìm bãi không có mục tiêu thế này nhiều.

Tuy rằng chuyện này chưa chắc đã khả thi, nhưng hiện tại không ai có phương pháp nào hay hơn, cả bọn bèn quyết định thẳng tiến Hồ Nam, không ngờ đúng lúc này, chúng tôi lại nhận được một tin tức chẳng lành, Đa Linh ở Mỹ đã qua đời.

CHƯƠNG 65: KIM ĐIỂM

Trong di chỉ Quy Khư ở vùng biển Vực Xoáy San Hô, chủ thuyền Nguyễn Hắc bất hạnh gặp nạn, trước lúc lâm chung, tôi từng chính miệng hứa với ông ta sẽ chăm sóc thật tốt cho Đa Linh và Cổ Thái, chẳng ngờ ma xui quỷ khiến thế nào, Đa Linh lại nhặt được cái đồng hồ vàng của tay thuyển trưởng cụt tay trên tàu Mariana, trúng phải tà thuật Giáng Đầu trên chiéc đồng hồ ấy. Chẳng những thế, sau này chúng tôi xác nhận được từ nhiều nguồn, vị thuyền trưởng người Pháp buôn lậu đồ cổ ở Nam Dương ấy, chính là người cha ruột đã mất tích trong chiến tranh Việt Nam của Đa Linh. Chuyện này không thể không nói là do ý trời khéo sắp, nhưng cũng lại là trời cao vô tình.

Chúng tôi đã tìm đủ mọi cách giữ lại tính mạng cho cô, nhưng thời gian lênh đênh trên biển quá lâu, lúc về đến đảo Miếu San Hô, chất độc đã ăn sâu vào cốt tủy, nếu không có tấm áo Phỉ Thúy kia khoác lên người, sợ rằng Đa Linh đã thối rữa mà chết từ lâu rồi. Thế nhưng, đến cuối cùng chúng tôi lại không tìm được nội đơn của xác cổ có thể cứu mạng Đa Linh, vẫn không thể giữ cô lại trên cõi dương gian này.

Sau khi biết được tin này từ bức điện báo của Răng Vàng, lòng tôi như thể bị chèn một tảng đá lớn, vừa tự trách, vừa hổ thẹn với linh hồn Nguyễn Hắc trên trời. Tuy cũng biết rằng sức người có hạn, một số việc có thể làm được, còn một số việc bất luận ra sao cũng không thể hoàn thành, nguyện vọng khởi tử hồi sinh đã trở thành bọt nước, nghĩ đến thế sự lạnh giá như băng, sực sự khiến người ta khó mà chấp nhận nổi.

Cả bọn than thở một hồi, đều nói đây là sinh tử do trời, sức người không thể cưỡng cầu, đã đến nước này cũng chẳng thể làm gì hơn, đành thay đổi kế hoạch, trở lại Mỹ tham gia đám tang của Đa Linh. Dân mò ngọc vùng Nam Hải tuân thủ truyền thống khá nghiêm ngặt, theo phong tục của họ, người sau khi chết, phải thả thuyền đưa Ngũ thánh ra biển thì thi ốt dân mò ngọc mới có thể nhập thổ vi an, ngoài ra còn phải lập đạo tràng trên đất liền và dưới nước, cúng tế ba ngày, siêu độ cho người chết sớm ngày thoát khỏi nỗi khổ luân hồi.

Chúng tôi đến tiệm tạp hóa trong thị trấn nhỏ vô danh kia, chào từ biệt ông chủ Lý. Ông Lý vội vàng đóng cửa tiệm, mời mọi người vào trong hỏi han rối rít: “Nom mọi người mặt ủ mày chau, hẳn là lần này vào núi làm việc không được thuận lợi lắm, thôi thì ngày rộng tháng dài, dẫu có chuyện gì khó khăn cũng không nên để mắc míu trong lòng.” Nói đoạn, ông lấy trong tủ ra hai chai rượu, định cùng tôi và Tuyền béo làm mấy chén.

Chúng tôi chối từ không đặng, đành cung kính tuân theo. Không ngờ ông chủ Lý này tuy tuổi tác đã cao nhưng tửu lượng không hề giảm sút, ba người làm hết nửa bình rượu lâu năm, liền mở máy nói tràng giang đại khải, tôi kế hết chuyện hẻm núi Quan Tài tìm nội đơn không thành cho ông nghe, rồi lấy tập Vũ Hầu Tàng Binh đồ tìm được trong mộ cổ thôn Địa Tiên ra.

Tôi bảo ông chủ Lý: “Có câu, vật về với chủ, bộ Vũ Hầu Tàng Binh đồ này tổng cộng tám quyển, căn bản chẳng dùng được gì trong công cuộc kiến thiết hiện đại hóa, ngoài những vị sư phụ tinh thông ngón nghề chế tạo cơ quan ám khí, có lẽ chẳng còn ai đọc hiểu được nó nữa đâu. Chỉ có ở trong tay ông đây, nó mới có thể phát huy ít nhiều tác dụng thôi.”

Ông chủ Lý nghe tôi nói vậy thì hết sức kinh ngạc vội vàng lấy đôi kính lão, không ngừng lật xem từng trang như thể vớ được món báu vật, vừa xem vừa lẩm bẩm nói: “Tổ sư gia hiển linh, đúng là tổ sư gia hiển linh rồi!” Tập bản vẽ này là bảo điển của các thợ thủ công thời xưa, dây cốt và ốc vít bát bảo xuất hiện sau này đều không so được với sự xảo diệu của các cơ quan mô tả trong đây. Hầu hết các nội dung trong tập sách này đều đã thất truyền nhiều năm, những tưởng rằng các tuyệt nghệ của Phong Oa sơn phải điêu tàn tuyệt tích, người thợ già như ông có nằm mơ cũng không ngờ lại có thể tìm được cả bộ Vũ Hầu Tàng Binh đồ trong mộ cổ, lập tức cảm ơn rối rít, rồi cất ngay tập sách đi.

Tôi hỏi ông chủ Lý tại sao Vũ Hầu Tàng Binh đồ lại xuất hiện trong mộ cổ thôn Địa Tiên, chẳng lẽ nữ mộ chủ được trâu vàng cõng trên lưng ấy cũng là nhân vật của Phong Oa sơn thời Minh hay sao?

Ông chủ Lý cũng là tay lão luyện giang hổ, bèn kể ra một số chuyện xưa tích cũ, gợi cho chúng tôi nghĩ tới một số đầu mối, suy đoán ra cái xác phụ nữ thời Minh ấy có thể là con cháu của kỳ nhân thuật số Lưu Bỉnh Trung, nhà họ Lưu sở trường Kỳ môn Độn giáp, còn tinh thông thuật bố trí cơ quan cạm bẫy. Tuy không phải là người trong Phong Oa sơn, nhưng nhà Họ Lưu có giao tình rất thâm hậu với các đời thủ lĩnh, trong nhà có giâu bộ bản vẽ cơ quan này cũng không có gì kỳ quái.

Nhà họ Lưu chuyên về thuật số và nhà họ Phong Quan Sơn thái bảo là quan đồng triều, vốỗn đã không hợp nhau, địa tiên Phong Soái Cổ nhăm nhe muốn đoạt lấy bản vẽ cơ quan ám khí của nhà họ Lưu, bèn ngấm ngầm trộm ngôi mộ trâu vàng cõng xác mang về. Có điều, Phong Soái Cổ tuy thần thông quảng đại, nhưng chỉ sở trường các ngón dị thuật tà môn, dù lấy được Vũ Hầu Tàng Binh đồ cũng khó lòng hiểu hết sự ảo diệu bên trong, vì vậy cơ quan Vũ Hầu Tàng Binh ở mộ có Ô Dương vương chỉ được cái vỏ bề ngoài, cuối cùng cũng không hoàn thành. Bộ sách này, cũng được an trí nguyên vẹn vào âm trạch trong thôn Địa Tiên cùng với các loại thi hài, minh khí Quan Sơn thái bảo trộm được.

Đương nhiên, đây chỉ là suy đoán của chúng tôi, sau khi núi Quan Tài sụp đổ, tình huống chân thực đã không thể nào khảo chứng nữa. Ba người cụng chén cụng ly, khi đã ngà ngà, mắt hoa tai đỏ thì bắt đầu dốc lòng dốc dạ, nói rất nhiều lời gan ruột. Tôi nói chuyện của Út với ông chủ Lý, bảo rằng học ngón nghề đổ đấu với tôi cũng chẳng ra gì, kỳ thực học xong rồi cũng chẳng có chỗ dùng, vả lại một khi đã làm cái nghề Mô Kim này, muốn thoát thân ra thì khó càng thêm khó.

Bản thân tôi chính là một ví dụ, nhớ năm xưa tôi và Tuyền béo đi Dã Nhân câu ở Đông Bắc, cũng chỉ muốn kiếm một khoản lớn giúp đỡ đám bạn bè nghèo khó chứ chẳng mơ mộng gì cao xa, nhưng từ khi chúng tôi lấy được một đôi ngọc hình con Ly trong mộ vị tướng quân nước Kim kia, những phiền phức không đầu không đuôi cũng bắt đầu tìm đến tận cửa, nhiều lần chịu tội, nhiều lần chịu khổ, có thể sống đến hôm nay mà không cụt tay què chân cũng không phải chuyện dễ. Khoảng thời gian ấy, trên người ai mà không thêm vài vết sẹo ? Cái mũi của Tuyền béo ở núi Côn Luân đã bị gọt mất một mẩu, phá cả tướng, cũng may chúng tôi tay chân nhanh nhẹn, lại được tổ sư gia phù hộ, nên mới có thể ba lần bốn lượt xông ra từ cửa m Tào. Út là cô gái lớn lên trong núi, học cái nghề đổ đấu mò vàng này, thật không ổn thỏa chút nào.

Nói tới dây, tôi ngoảnh đầu nhìn ra, thấy Shirley Dương và Út dang ở gian ngoài trò chuyện, không nghe được câu chuyện của chúng tôi, tôi lại hạ giọng nói với ông chủ Lý: “Phụ nữ ấy à, quan trọng là phải gả cho người tử tế. Chiến hữu hồi bộ đội của tôi nhiều lắm, quá nửa vẫn còn độc thân, nên chuyện này ông khỏi cần phải lo, cứ để đấy cho tôi. Mấy ngày trước tôi hỏi Út rồi, cô bé không muốn ra nước ngoài, nhưng rất muốn đến Bắc Kinh một chuyến. Tôi và Tuyền béo cũng có chút mặt mũi ở Phan Gia Viên và Lưu Ly Xưởng, có thể để cô đến làm trong tiệm đổ cổ của Kiều Nhị Gia, học nghề giám định cổ vật, sau đó gả cho một người đàn ông đáng tin cậy, sống trọn đời hỷ lạc bình an, ông cũng có thể đi theo hưởng phúc.”

Ông chủ Lý gật đầu nói: “Tôi nhìn người chưa bao giờ sai, ý cậu chuẩn quá đi rồi. Tôi đây có bệnh cũ trong người, sức khỏe ngày một yếu đi, nói không chừng mai kia lại xuôi tay về trời thôi, con bé Út này có được chỗ gửi thân yên ấm, tôi có chết cũng nhắm mắt được rồi.”

Sau đấy, ông chủ Lý lại nói, mới đầu khi thấy chúng tôi nhận ra được Ô Kim Cang, ông đã đoán chúng tôi đều là Mô Kim hiệu úy đeo bùa đổ đấu. Ông ta là người đi ra từ xã hội cũ, đương nhiên cũng biết bí thuật Mô Kim, đồng thời hết sức tin phục thuật phong thủy âm dương, định nhờ tôi giúp ông chọn một mảnh đất làm âm trạch sau khi chết.

Tôi bèn khuyên rằng, tôi không thể coi là tinh thông phong thủy, cũng chỉ biết chút da lông bên ngoài mà thôi, chẳng qua dựa vào tầm long quyết và thuật Phân kim định huyệt tổ truyền để kiếm miếng cơm ăn. Những gì nghe được thấy được trong đời, đích thực có rất nhiều chuyện can hệ đến phong thủy, nhưng đồng thời tôi cũng phát hiện, phong thủy không thể làm thay đổi hung cát họa phúc, nó chỉ là một môn địa lý sinh thái học mà thôi.

Để ông chủ Lý tin lời, tôi kể cho ông nghe câu chuyện năm xưa ông nội mình từng đích thân trải nghiêm. Trước Giải phóng, ông nội Hồ Quốc Hoa của tôi làm nghề đoán chữ, xem phong thủy, xem đất mưu sinh. Những ngành nghề dựa vào thuật số để giúp người chiêm bốc sự cát hung kiếm miếng cơm này vì có hàm lượng tri thức tương đối cao, nên thường được tôn xứng là Kim Điểm. Bản lĩnh của Hồ tiên sinh có được từ nửa quyển Thập lục tự m dương Phong thủy bí thuật, đều là chân tài thực học, con người lại tinh minh cẩn thận, nên giành được danh hiệu “Kim Điểm tiên sinh”, xét trong vùng thì gia nghiệp cũng vào hàng tương đối giàu có sung túc.

Kim Điểm Hồ tiên sinh mỗi ngày đều ngồi quán xem bói, giảng về mệnh lý, địa lý cho các loại người từ mọi miền Nam Bắc, một hôm trời mưa lát phất, trên phố người qua lại thưa thớt, buôn bán ế ẩm, các cửa tiệm đèu tháo đèn đóng cửa sớm. Hổ tiên sinh đang ngồi rỗi uống trà trong quán, chợt nghe trên phố có tiếng vó ngựa, người trên ngựa đi tới trước cửa tiệm bói, liền ghìm mạnh cương tung mình nhảy xuống, vội vội vàng vàng chạy vào bên trong.

Hồ tiên sinh vội đứng dậy nghênh đón, đồng thời đưa mắt quan sát người khách mới đến, chi thấy người đàn ông ấy chừng bốn năm mươi tuổi, thân hình cao lớn to khỏe, bộ dạng như một tay thổ hào có tiền có thế, hành sự thẳng thắn mạnh bạo thế này, có lẽ không phải phường giặc cướp, nhưng thần sắc ông ta u uất, nét mặt rầu rĩ như đón khách viếng đám ma, không biết có phải vì trong nhà có thân thích gì qua đời hay không nữa.

Hồ tiên sinh không dám thất lễ, liền mời người khách ngồi xuống, lễ độ rót trà, nói: “Quý khách đến thăm, không biết có chuyện gì chỉ giáo?”

Tay thổ hào ôm quyền nói: “Tiên sinh nổi danh Kim Điểm, bọn tôi nghe tiếng đã lâu, hôm nay đội mưa chạy tới, đương nhiên là không có chuyện không đến điện Tam Bảo, chẳng hay Hồ tiên sinh có hiểu đạo xem đất không vậy ?”

Hồ tiên sinh dựa vào nghề này để kiếm cơm nuôi gia đình, thấy khách là tay mơ, làm sao có thể nói là không hiểu, lập tức tự nâng giá lên nói: “Không phải kẻ hèn này nói ngoa, kẻ hèn năm xưa từng được kỳ ngộ, bái Thiên Nhật chân quân ở núi Nhạn Đãng làm thầy, học được rất nhiều bản lĩnh chân truyền, mấy thứ Trạch kinh, Táng kinh, Thanh Nang áo ngữ, Linh Thành tinh nghĩa, Thôi quan phát vi... không thứ nào không hiểu, không thứ nào không tinh thông, xem đất chọn nhà là nghề chính, đương nhiên khỏi cần phải nói.”

Tay thổ hào kia nghe thế cả mừng, bấy giờ mới nói rõ nguyên do. Thì ra, ông ta họ Mã, tên là Lục Hà, quê ở Đổng Lăng, sau này làm ăn nên chuyển đến sống ở gần hồ Động Đình, mấy năm gần đây, nhà họ Mã cậy thế hiếp người, trên tư thông quan phủ, dưới qua lại với bọn giặc cướp, lũng đoạn rất nhiều chuyện làm ăn ở địa phương. Tiền của nhiều, ông ta muốn xây một trang viên rộng lớn, bèn mời thầy phong thủy về xem đất, chọn trúng một mảnh đất đẹp, liền cưỡng đoạt chiếm lấy, rầm rộ xây dựng nhà cửa trang viện, bỏ ra rất nhiều tiền của, xa hoa vô cùng.

Mã Lục Hà cực kỳ tin vào phong thủy, ông ta chọn mảnh đất ấy cũng bởi nhìn trúng hình thế tiến bảo nạp tài của nó, mọi bố cục nhà ngang dãy dọc bên trong trang viện, dù lớn dù nhỏ đều mời thầy địa lý cao minh về chỉ điểm sắp xếp. Sau khi nhà mới xây xong, cả nhà già trẻ mừng rỡ dọn đến, chẳng ngờ vừa chuyển đến được vài hôm, Mã lão thái gia đã trượt chân trong vườn, chân tay già nua không chịu được va đập, được nửa ngày sau thì tắt thở.

Hỷ sự biến thành tang sự, chưa kịp chôn cất Mã lão thái gia thì con trai cả của Mã Lục Hà ở bên ngoài đã bị kẻ thù giết chết. Tóm lại, từ khi dọn vào nhà mới, trong nhà liên tiếp có người chết, tính cả người hầu kẻ hạ, cả nhà bảy mươi mấy nhân khẩu chưa đầy nửa năm, từ trong ra ngoài đã chết mất mười ba mạng.

Đặc biệt trước khi Mã lão thái gia chết, từng ngồi đánh mạt chược một mình trong sân giữa đêm hôm khuya khoắt, miệng còn lẩm bẩm tựa như ba cửa còn lại đều có một bóng ma ngồi chơi vậy, hành động kỳ dị này làm đàn bà con gái trong nhà sợ đến mặt cắt không còn hột máu, lão thái gia làm sao vậy? Chẳng lẽ bị ma nhập? Nhưng Mã lão thái gia thường ngày ở trong nhà rất gia trưởng độc đoán, nói một là một, hai là hai, mọi người tuy thắc mắc trong lòng, nhưng không ai dám nói thẳng ra. Không ngờ, mới vài ngày sau, ngưòi đã không bệnh không tật mà qua đời. Lúc tìm người đến khám nghiệm thi thể, thấy không trúng độc cũng không bệnh tật, tóm lại là chết không minh bạch, đến nay vẫn chưa có kết quả, giờ người nhà họ Mã nhớ lại chuyện này, vẫn cảm thấy lạnh hết sống lưng.

Nhưng nói ra cũng lạ, người chết càng nhiêu, việc làm ăn của họ Mã lại càng hưng vượng, tiền kiếm nhiều đến độ khiến người ta hoa mắt. Mã Lục Hà ham hố tiền tài phú quý, cắn răng chịu đựng không chịu chuyển nhà, có điều tài vận vượng thì vượng, nhưng trong nhà lại phải vạ lớn, trước mắt vẫn không ngừng có người lăn đùng ra chết, thật sự không thể chịu nổi nữa, ông ta đành tìm người về thay đổi phong thủy, nhưng đã mời hết các thầy địa lý trong vùng, vẫn không có kết quả gì Mã Lục Hà được người ta giới thiệu, biết trong thành có vị Kim Điểm Hồ tiên sinh giỏi xem đất, bèn thúc ngựa phi đến mời Hồ tiên sinh đi xem xem trang viện nhà họ Mã xây trên mảnh đất báu phong thủy kia rốt cuộc có điểm gì sai sót, mà lại thiệt hại nhân khẩu đến thế, nếu có kết quả, sẽ không tiếc vàng bạc tạ ơn.

Hồ tiên sinh nghe xong, cũng cảm thấy chuyện này không phải tầm thường, không ngờ lại chết nhiều người như vậy, hung địa nào mà lợi hại nhường ấy? Tính ông vốn cấn thận, chỉ sợ không phá giải được thì khó ăn khó nói với nhà họ Mã, đang định kiếm cớ chối từ, chợt thấy Mã Lục Hà lấy trong túi ra bốn thỏi vàng đặt trước mặt, bốn thỏi vàng lớn này chỉ là tiền đặt cọc, sau khi xong việc nhất định sẽ có thêm gấp mười lần thế này, gọi là chút lòng thành.

Hồ tiên sinh bị vàng làm cho hoa cả mắt, thầm nhủ: “Hình thế trang viện nhà họ Mã thế nào phải xem thử mới biết được, đây là tiền ta kiếm bằng bản lĩnh thật, có gì phải ngại? chẳng lẽ lại từ chối vụ làm ăn đã đưa đến tận cửa? Và lại, Mã Lục Hà này đội mưa mà đến, không thể phụ tấm lòng người ta được”. Nghĩ đoạn, ông bèn nhận tiền đặt cọc, thu dọn những món cần dùng, mang theo giấy vàng, chu sa, la bàn, đoản kiếm, đèn báo, dầu tây, phong đinh, xẻng mỏ vịt, hoa tiêu... toàn những khí cụ để “xem phong vọng thủy”, rồi thuê một cỗ xe lừa, theo Mã lão lục trở về xem đất.

Đến nhà họ Mã đã là đêm khuya, hai người ở ngoài ăn cơm uống rượu rồi trọ trong khách sạn, đợi qua ngày hôm sau, Mã Lục Hà mới đưa Hồ tiên sinh đi từ trong ra ngoài, nhìn hình đo đất. Trong Thập lục tự Am dương Phong thủy bí thuật mà Hồ tiên sinh được sư phụ truyền cho, có phép Bát trạch minh khí, chuyên dùng để phân biệt sự hung cát hưng suy của bố cục trạch viện, bao năm rồi chưa hề sai trật lần nào.

Sau khi vào nhà, Hồ tiên sinh lấy ra một tấm gương đồng nhỏ, rồi soi ánh mặt trời để xác định phương hướng góc độ. Thuật Mô Kim có từ thời Tam Quồc, thực tế phát nguyên từ thuật Thần Phù thời Tây Chu, bất luận tầm long điểm huyệt hay xem hình xét thế, xưa nay đều không dùng la bàn, dùng la bàn thì không phải là phép cổ.

Hồ tiên sinh theo Mã Lục Hà đi vào, qua nhà qua sân, xem cách bố trí trong các phòng, cảm thấy trật tự rõ ràng, tuy không đến mức cao minh, nhưng cũng coi là tạm được. Có điều, trật tự rõ ràng chỉ là một nhân tố, vẫn còn phải dựa vào phép Bát trạch minh kính tiếp tục tính toán, vì sách cổ có viết rằng: “Nơi ở, chính là căn cơ của người, lớn nhỏ khác nhau, âm dương mỗi khác, nếu không cầu toàn, thì dùng không đủ.”

Từ thời Tống, việc bày bố trong âm trạch và dương trạch đa phần đều theo phép Ngũ tính âm lợi, dựa vào âm đọc cùa họ để phân ra Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ, phối hợp với phương vị Ngũ hành Bát môn mà sắp xếp. Họ của Mã Lục Hà và nhà này không hề xung khắc, hơn nữa còn lợi tài hưng vượng, vì thế, nguyên nhân này cũng nhanh chóng bị Hồ tiên sinh loại trừ.

Sau đấy, lại luận tới lý thuyết Đạo gia, suy tính các chi tiết nhật nguyệt, càn khôn, nóng lạnh, thư hùng, ngày đêm, âm dương, chỉ thấy trang viên nhà họ Mã “lấy hình thế làm thân thể, giếng nước làm huyết mạch, lấy gạch ngói làm da thịt, lấy cây cỏ làm lông tóc, lấy môn hộ làm mũ đội ”, tất cả đều không có điểm nào không thích hợp cả.

Hồ tiên sinh lại đề nghị gặp mặt từng người trong trang viện họ Mã, cũng không phát hiện ra kẻ nào “hung thần ác sát cả. Đến lúc này, Hồ tiên sinh không khỏi toát mồ hôi, không hiểu nhà họ Mã gặp phải ma tà quỷ quái gì, vốn là nơi cát trạch cát địa, lại có tướng phú quý, sao trong nhà lại liên tiếp có người bạo bệnh mà chết như thế?

Xem hết bên trong trang viện mà không có thu hoạch gì, Hồ tiên sinh đành ra ngoài xem tiếp, phía sau trang viện nhà họ Mã có một triền núi, Hồ tiên sinh và Mã Lục Hà dẫn người lên đó, từ trên cao nhìn xống, chỉ thấy đúng là một mảnh đất báu phong thủy “sơn thanh thủy tú, rồng bay phượng múa”.

Mã Lục Hà thấy Kim Điểm Hồ tiên sinh mãi vẫn chưa nhìn ra được nguyên nhân, trong lòng càng thấp thỏm không yên, bèn hỏi ông đất này thế nào, rốt cuộc là hung hay cát. Hồ tiên sinh đành nói: “Rành rành là một mảnh đất báu phong thủy quý hóa vô cùng, nhưng tại sao...” đang nói giữa chừng, ông đột nhiên dừng lại, hít sầu một hơi khí lạnh, sắc mặt biến hẳn, kinh hãi thốt lên một tiếng: “Quả nhiên hung hiểm!”

CHƯƠNG 66: MŨ MA

Mã Lục Hà bị Hồ tiên sinh làm cho giật thót mình, biết rằng người này đã tìm được căn nguyên đụng chạm với hung sát trong nhà mình, vội hỏi: “Tiên sinh, sao lại nói vậy? Hung hiểm ở đâu?”

Hồ tiên sinh lau mồ hôi lạnh trên trán, đáp: “Nếu không phải tôi nhìn ra được, già trẻ gái trai nhà họ Mã đều phải xuống m Ty làm ma cả đấy.”

Mã Lục Hà nhất mực tin tưởng thuyết phong thủy, nghe thấy lời này, trong lòng lại càng kinh hãi bội phần: “Mảnh đất báu phong thủy nhà chúng tôi sao lại có vận hung hiểm thế chứ?”

Hồ tiên sinh chỉ xuống núi, nói với Mã Lục Hà: “Ông nhìn kỹ xem, ngọn núi cao phía Tây trang viện nhà họ Mã giống cái gì?” Mã Lục Hà nhìn theo hướng ngón tay, chỉ thấy mé sau nhà mình có một ngọn núi cao, cảnh sắc đẹp đẽ xanh um, bình thưòng nhìn cũng đã quen, cho là thường, không hề cảm thấy gì. Nhưng lúc này ngắm nghía kỹ càng, bất giác cũng kinh hoảng thốt thành tiếng: “Rõ ràng là một cái mũ, đây là... là mũ của phán quan trong kịch nói.”

Hồ tiên sinh nói: “Ngọn núi kia trên nhỏ dưới phình, vươn lên sừng sững như mũi dùi, thế núi lánh dương tìm âm, vừa khéo phủ trùm lên trang viện nhà họ Mã, hình thế này trong phong thủy có tên tục gọi là mũ ma, chẳng trách việc làm ăn trong nhà lại hưng vượng, tiền vào cuồn cuộn, vì đây chính là dường thu tiền âm của phán quan Sâm La điện. Khu nhà này của ông chỗ nào cũng tốt, xây dựng không chút vấn đề, hiềm nỗi lại nằm bên dưới mũ ma, há chẳng phải coi đây như âm trạch mộ phần hay sao? Thứ cho tôi nói thẳng, không đầy ba năm toàn gia nhà ông sẽ chết sạch, gà chó cũng chẳng còn đâu.”

Mã Lục Hà sợ đến hồn xiêu phách lạc, lập tức níu lấy Hồ tiên sinh khẩn cầu: “Tiên sinh nhất định phải cứu cả nhà tôi với, tốn bao nhiêu tiền cũng được, xin tiên sinh cứ nói.”

Hồ tiên sinh bèn an ủi: “Mã lão gia không cần phải lo sợ, chỉ cần bỏ căn nhà này đi, toàn gia nhà ông dọn đi chốn khác là được, giờ vẫn chưa muộn đâu.”

Mã Lục Hà không nỡ bỏ mảnh đất báu nạp tài này, liền đảo mắt van nài Hồ tiên sinh: “Xây khu nhà lớn như vậy tuy tốn kém không ít, nhưng cũng không có gì luyến tiếc cả, chỉ có điều cái “mũ ma” kia rõ ràng là mảnh đất báu phong thủy thu nạp tiền tài, sao có thể để uổng phí vậy được, cầu xin tiên sinh ban cho diệu pháp để nhà họ Mã tôi giữ được tài vận này.”

Sau đấy, Mã Lục Hà lại lấy ra mấy miếng vàng, nói cứng nói mềm, cầu Hồ tiên sinh ban cho kế sách. Hồ tiên sinh từ hồi theo thầy học nghề đã biết một câu ngạn ngữ cổ: “Núi sông mà biết nói, thầy phong thủy chết đói; thảo dược mà biết nói, y sứ không gạo ăn.” Không nên quá tin vào thuyết phong thủy, nhưng các bậc thánh hiền thời xưa cũng thường nói chuyện “thiên nhân tương ứng” có lúc địa lý núi sông dường như cũng có thể ảnh hưởng đến họa phúc cát hung, vì vậy Hồ tiên sinh cho rằng, đạo phong thủy không phải vô căn cứ, cũng thường nghĩ đến chuyện tìm cho mình một mảnh đất báu phong thủy, để đến khi trăm tuổi còn lưu lại phúc ấm cho con cháu đời sau.

Không cầm lòng được trước lời khẩn nài vật vã của Mã Lục Hà, Hồ tiên sinh đành đồng ý. Kỳ thực, muốn giữ lại mảnh đất tài lộc “mũ ma” này cũng không phải chuyện gì khó, chi cần đảo lộn âm dương là được, bỏ dương trạch đi, sau đó đưa mộ phần tổ tiên về mai táng ở đây, việc làm ăn của nhà họ Mã vẫn càng ngày càng phát đạt.

Mã Lục Hà mừng rỡ khôn xiết, luôn miệng tán dương Hồ tiên sinh quả không hổ là cao nhân Kim Điểm, ông ta đã mời hết cả các vị danh gia trong tỉnh, mà không ai nhìn ra được trang viện nhà họ Mã phạm phải hung sát gì, vậy mà Hồ tiên sinh mắt lửa ngươi vàng, vừa lên núi nhìn đã thấu được huyền cơ ngay, đúng là bản lĩnh thần tiên, gặp được cao nhân như thế, nhất định là khí số nhà họ Mã vẫn còn chưa tuyệt.

Đối với chuyện hưng vong của gia tộc, Mã Lục Hà không dám có chút sơ suất, lập tức mời Hồ tiên sinh ở lại nơi tốt nhất trong trấn, rồi phái người đến hầu hạ cơm ăn nước uống, đổng thời một mặt nhờ ông giúp chỉ ra huyệt đạo của địa mạch, mặt khác tiến hành dọn cả nhà đi nơi khác.

Đúng dịp Mã lão thái gia vừa qua đời được tròn năm, họ liền chọn ngày hoàng đạo, tập hợp người đào mộ lên, còn chuẩn bị đủ khí cụ của mặc sư([32])để phòng thi biến. Thời xưa, mọi người tương đối mê tín, những khi khai quật mộ có hoặc di chuyển mộ phần đều lo gặp phải thi biến, nên đều mang theo đầu mực của thợ mộc để khắc chế cương thi. Đầu mực và dây mực dùng để kẻ vạch đo đạc, trong dân gian phổ biến quan điểm là: “Dây mực thẳng, không thể bẻ cong dối lừa”, dây mực chỉ có thể kẻ đường thẳng, có thể nói là bảo vật của các mặc sư, dùng càng lâu càng quý báu. Dây mực là tượng trưng cho chính trực. Từ thời xa xưa. tà đã không thể thắng chính, các vật kiểu như dùi của thợ đá, thước, dây, búa, bào của thợ mộc, đều có tác dụng tương tự, có thể trấn áp các thứ yêu tà quái dị. Rường cột và các đồ gỗ trong nhà mà vô cớ cót két phát tiếng, đều bởi chưa cọ sạch dây mực, lâu ngày hóa thành tinh linh phát ra tiếng động. Đương nhiên đấy đều là truyền thuyết, cũng không có chứng cứ xác thực.

Ngoài ra, còn phải chuẩn bị một ít tiền đồng trước thời Thanh, sau khi quật nấm thấy quan tài, phải áp lên nắp quan mấy chục đồng tiền, bên ngoài chăng hai sợi dây. Làm vậy để phòng ngừa cái xác bật dậy phá quan tài. Tiền đồng đè quan cài còn gọi là “nghìn cân một đồng”, tương truyền, làm như vậy có thể ngăn cách thi thể với dương khí, ngoài ra còn có thuyết nói tiền đồng chính là tiền quan, đè cho cương thi không bật lên được. Các thuật sĩ còn cho rằng chữ trên tiền cổ chính là ấn quang, có thể phá yêu thuật lòe bịp. Truyền thuyết về ấn quan này có rất nhiều, tỷ như có thuyết nói, thời xưa có kẻ trộm, không cần móc túi vẫn có thể lấy tiền bạc từ ngoài xa ngàn dặm, vì vậy phàm các nhà giàu đều đặt một xâu tiền cổ hoặc nguyên bảo có ấn quan trong ngân khố, gọi là tiền “áp khố”, như vậy sẽ không bị trộm nữa. Vả lại, tiền cổ có ấn quan cũng có thể tránh tà, niên đại càng xưa càng tốt.

Theo phong tục mai táng của địa phương, lúc chuyển mộ dời quan cài cần chú ý “vạ miệng”, đây không phải chỉ tiếng lóng trong đạo lục lâm, mà mộ cổ là lãnh địa của người chết, người sống đến tìm ngưòi chết, cần phải kiếm lấy cái cớ cho mình yên tâm, vì vậy mới gượng ép thêm vào rất nhiều điều kỵ húy, “vạ miệng” tức là những cấm kỵ trong lời ăn tiếng nói, kỵ nhất là những từ kiểu như “chết, xác, âm, chạy, mồ, mả...” cho rằng những chữ này không được may mắn, trong lúc nói chuyện đều cố gắng tránh đi. Tuy vậy, hai chữ quan tài phát âm giống như quan tài trong thăng quan phát tài, vì vậy không cần tránh vạ miệng. Những quy củ nhà quê phức tạp này, Hồ tiên sinh trước giờ vẫn nắm rõ trong lòng bàn tay, chỉ điểm rõ ràng đâu ra đấy.

Vào đêm cuối cùng, theo quy củ, cần mời đạo sĩ đến niệm chú an ủi vong hồn, con cháu thắp hương dập đầu xong, mới khiêng quan tài ra, cắm phướn cắm đèn dẫn lối, để trâu vàng ngựa trắng kéo xe, đưa quan tài khâm liệm thi thể Mã lão thái gia đến mảnh đất “mũ ma” chôn cất lại.

Quan tài là trung tâm của việc mai táng, vì trong xã hội cũ, người người đều mê tín tin vào phong thủy, cho rằng đất có đất hung đất cát, sao có sao lành sao dữ, nếu tìm được một mảnh đất lành làm mộ tổ, chôn cất thi hài tổ tiên, con cháu đời sau có thể nhờ vào long khí phong thủy ấy mà phát tích. Gia tộc hưng vượng không ngoài việc làm quan, kiếm tiền, chính vì lẽ này mà quan tài đồng âm với quan tài trong thăng quan phát tài, nên việc chuyển dời mồ mả tổ tiên là hết sức quan trọng, nhà họ Mã lại có tiền có thế, kinh động đến nỗi dân chúng khắp vùng đều kéo về xem náo nhiệt, người đông như nước.

Trang viện về cơ bản đã bị phá dỡ, nơi chôn cũng đã chọn xong, nhưng để đề phòng long khí trong âm trạch chạy mất, trước khi đưa quan tài đến không được đào đất lên, đợi khi quan tài đến nơi, Mã Lục Hà lập tức lệnh cho người nhà bắt tay đào đất. Từ xưa, người ta đã chú trọng đào sâu chôn chặt, quan tài chôn càng sâu càng tốt, chỉ có mộ người nghèo mới đào hố nông, dăm bữa nửa tháng là bị chó hoang đào bới.

Nhà họ Mã tuy thừa tiền, nhưng dẫu sao cũng không phải quý tộc, thời Dân quốc cũng không còn ai xây dựng minh đường mộ thất dưới lòng đất nữa, nên chỉ đào một cái hố sâu để hạ táng mà thôi. Mười mấy người to khỏe thay phiên nhau đào bới, được một cái hố còn sâu hơn cả móng nhà, phỏng chừng cũng sắp xong thì đột nhiên đào được một khối đá.

Mọi người đều lấy làm kinh hãi, huyệt vị này là do Kim Điểm Hồ tiên sinh chỉ cho, sao bên dưới không phải đất lành, mà lại có nham thạch? Hồ tiên sinh ngồi bên cạnh trầm tĩnh quan sát, trong bụng cũng lấy làm lạ, thầm nhủ phen này đúng là thất sách, sao lại chọn đúng một cái huyệt đá thế này? Không khéo phen này mất mặt chứ chẳng chơi. Ông đang ngẫm nghĩ tìm cơ hội lẩn đi, chợt thấy sắc mặt Mã Lục Hà nặng trịch, sầm sì đi tới bên cạnh, bảo ông tới xem thử, tại sao trong huyệt mộ lại có nham thạch.

Kỳ thực, ý của Mã Lục Hà đã hết sức rõ ràng, nhà ông ta cũng dỡ rồi, mộ tổ cũng chuyển đi rồi, nhưng trong huyệt mới lại đào phải nham thạch, tự nhiên phải nghi ngờ Hồ tiên sinh là hạng giang hồ lừa đảo. Họ Mã này ỷ mình qua lại với quan phủ, hoành hành bá đạo đã quen, hại chết một vài dân thường cũng chẳng đáng gì, bây giờ đã định chôn sống luôn Hồ tiên sinh vào cái hố đó.

Hồ tiên sinh hối hận vô cùng, sớm biết thế này thì ban đầu đã không mở tiệm bói, xưng là Kim Điểm kim điếc gì, cứ ù lì chăn dê chăn bò cho nhà địa chủ còn hơn, giờ rơi vào tình cảnh này, tự mình tạo nghiệt thì không thể sống được, đành phải chịu mệnh thôi. Bị cả đám người dổn ép, ông đành ủ rũ tấp tểnh đi tới trước cái hố, trong đầu không ngừng xoay chuyên xem nên tán láo thế nào để bảo toàn tính mạng.

Nhưng nước đến chân mới nhảy, làm gì có cách nào đây? Đang không biết phải nói sao, chợt nghe mấy người phu đào huyệt xì xào ầm ĩ, nói rằng trên tảng đá đào được kia có chữ, hình như là một tấm bia đá. Mã Lục Hà vội kêu người đưa tấm bia ấy lên.

Người đông dễ làm việc, chỉ thoáng sau, tấm bia đá đã được đưa ra khỏi hố, mọi người phủi sạch bùn đất bên trên, chỉ thấy trên mặt bia khắc sáu chữ lớn. Bấy giờ, rất nhiểu người vây lại xem xét, ai biết đọc biết viết đều nhận ra được, lẩm bẩm đọc lên thành tiếng: “Ở thì chết, chôn thì phát.”

Mã Lục Hà gạt đám người ra xem đi xem lại mấy lượt, kinh hãi đến nỗi một hồi lâu không sao khép miệng lại được, quỳ sụp xuổng trước mặt Hồ tiên sinh dập đầu cảm tạ rối rít: “Tiên sinh đúng là thần tiên sống! Mã Lục Hà tôi hôm nay hoàn toàn tâm phục khẩu phục rồi!”

Hồ tiên sinh vốn tưởng rằng phen này bị chôn sống lấp hố rồi, không ngờ lại có kỳ ngộ như vậy. Nơi này xưa nay chưa từng có người xây nhà hay xây mộ, thứ chôn trong đất ắt là di vật từ thời cổ xưa, thật không ngờ lại ứng nghiệm đến thế. Ông cũng ngây ra hồi lầu mới định thần lại được, càng cảm thấy Thập lục tự m dương Phong thủy bí thuật nói đâu trúng đó, mấy thứ kỹ nghệ giang hồ vặt vãnh không thể nào so sánh được.

Khi ấy, người quây xung quanh xem đông nghìn nghịt, ai nấy đều coi Hồ tiên sinh như một vị “bán tiên”, cứ như tinh tú quây quanh vầng nguyệt vậy. Hồ tiên sinh cũng thấy lâng lâng, lòng mừng khôn tả, song bề ngoài vẫn không dám để lộ ra, chỉ tìm mấy câu xã giao ứng đáp, rồi chủ trì nghi thức hạ táng quan tài của Mã lão thái gia. Xong xuôi đâu đấy, ông nhận được rất nhiều tiền tài tạ lễ,

từ đó trở đi, danh tiếng Hồ tiên sinh vang xa, hễ nhắc đến Kim Điểm Hồ tiên sinh, người nào biết chuyện đều giơ ngón tay cái lên, khen một tiếng “thuật số như thần, tay vàng điểm chỉ” nhưng cây to gọi gió lớn, dần dần cũng có rất nhiều tên đạo tặc có ý đồ với nhà họ Hồ, muốn bắt ông đi giúp chúng tìm long mạch trộm mộ.

Hồ tiên sinh tự thổi phồng mình một thời gian, thấy hết đám trộm này đến đám giặc khác không ngừng tìm đến tận cửa, cũng không thể không thu liễm bớt, qua quýt được thì qua quýt, tránh được thì tránh, nhưng ông cũng biết tránh được mùng một không thoát khỏi hôm rằm, cứ ở lại trong thành xem bói xem đất, sớm muộn cũng rước lấy vạ lớn, cái đầu mình rơi xuống cũng không sao, nhưng vợ con trong nhà lấy ai nuôi sống đây?

Vậy là Hồ tiên sinh liền gói ghém hết vàng bạc châu báu, đưa cả nhà đi trốn. Ông vốn không phải người Hồ Nam, nói đi là đi luôn, không có gì vướng bận cả. Hai năm sau, gặp lúc thời cuộc khó khăn, trong nhà hơi túng thiếu, ông nhớ ra mình còn cái tráp chôn ở một nơi bí mật bên hồ Động Đình, đó là món tiền dùng khi khẩn cấp ông chuẩn bị từ lúc gia cảnh còn sung túc, dạo trước đi gấp quá nên không kịp mang theo. Nay cần dùng đến, Hồ tiên sinh bèn hóa trang thành thương khách trở về lấy tiền.

Hồ tiên sinh tính tình cẩn trọng, luôn né tránh tai mắt người khác, lại thông đường thuộc lối nên chẳng tốn mấy công sức đã dễ dàng lấy lại được tráp tiền, đang chuẩn bị mang tiền về nhà thì chợt nhớ ra Mã Lục Hà, thầm nhủ năm đó mình giúp người này lấy được địa mạch phát tài “mũ ma”, lúc này Mã gia chắc hẳn càng thêm hưng vượng, sao không tới đàm đạo một chuyến, biết đâu lại được thêm gì đó.

Nghĩ đoạn, ông quyết định vòng đường đến tìm gặp Mã Lục Hà, chẳng ngờ đến nơi liên đớ người ra, cả nhà họ Mã đều đã ngỏm củ tỏi, mộ phần của Mã lão thái gia cũng bị đào trộm. Hồ tiên sinh cảm thấy hết sức bất ngờ, trong lòng không khỏi thắc mắc: “Chẳng lẽ ta xem địa mạch không chuẩn, hại chết cả nhà Mã Lục Hà rồi?” Nhưng rồi ông lại nghĩ: “Không thể nào, bia đá thời cổ đào được trong huyệt mộ ấy, rõ ràng viết rằng “ở thì chết, chôn thì phát’, chứng tỏ người xưa sớm đã nhận ra mảnh đất báu phong thủy này, lại không phải có người động chân động tay vào, sao có thể sai được chứ?”

Hồ tiên sinh lấy làm nghi hoặc, chuyện này quan hệ đến tính mạng mấy chục con người của một gia tộc lớn, không hỏi thăm cho rõ thì về nhà cũng canh cánh không yên, bèn đi xung quanh dò hỏi, cuối cùng cũng biết được toàn bộ sự kiện. Kết quả càng khiến ông bất ngờ hơn gấp bội.

Thì ra, Mã Lục Hà chuyển dời âm trạch dương trạch xong, quả nhiên việc làm ăn càng thêm hứng vượng, thanh thế như mặt trời chính ngọ, tiền tài cuồn cuộn chảy vào kho. Nhưng trời có gió mưa bất trắc, một ngày nọ, giếng nước trong nhà bị người ta bỏ độc, một mạch chết mất mấy chục mạng người, tuy trong nhà vẫn có người, nhưng người chết quá nhiều, trong lúc vội vàng, đến cả quan tài cũng không kịp đặt mua.

Mã Lục Hà lớn tiếng mắng chửi Hồ tiên sinh là tên bịp bợm, cái mũ ma này vẫn chụp lên đầu người sống nhà họ Mã không gỡ ra được. Ông ta nổi giận đùng đùng dẫn người vào thành phá tiệm bói của Hồ tiên sinh, nhưng lúc đó cả nhà Hồ tiên sinh đã dọn đi đâu không biết.

Mã Lục Hà tìm khắp nơi không thấy, đành hậm hực trở về. Ông ta ngồi thuyền đi đường thủy, không ngờ dọc đường gặp một trận gió lớn, đánh chìm cả thuyền, cả đám người đều làm mồi cho tôm cá, không kẻ nào sống sót. Cả một gia tộc lớn cứ vậy mà chết sạch sẽ không còn một ai.

Thời bấy giờ đang buổi chiến loạn liên miên, mộ phần của Mã lão gia là mộ mới, bằng như một đống vàng bạc đặt lù lù trên mặt đất. Sau khi băng cướp lớn ở Tương m tan đàn xẻ nghé, có khá nhiều kẻ hoạt động đơn lẻ trong vùng. Một hôm, cả trăm người mang theo vũ khí chạy qua, trắng trợn đào ngôi mộ này lên, vơ vét sạch sẽ đồ bồi táng của Mã lão thái gia mang đi.

Bấy giờ, tục hậu táng đã suy tàn, nhưng vẫn thịnh hành lệ đặt tiền “áp khẩu” cho người chết, trong miệng ngậm bạc hoặc tiền đồng, mà nhà họ Mã lại tiền nhiều mạnh chi, trong quan tài quả cũng có một số món xa xỉ đắt tiển, y phục của xác chết không cần phải nói, chỉ riêng cái túi đựng thuốc bằng gấm đỏ, miệng túi nạm ngọc đã đáng mấy trăm đổng Đại Dương rồi. Cuối cùng, bọn trộm còn nhổ nốt mấy cái răng vàng trong miệng Mã lão thái gia rồi mới đập quan tài hủy xác, nghênh ngang rời đi, tình trạng thê thảm hết chỗ nói.

Về sau, lại có mấy toán trộm quy mô nhỏ hơn, cùng một số sơn dân quanh vùng đến lọc hố, huyệt mộ càng đào càng lớn, ở chỗ dạo trước chưa động thổ, lại lộ ra một tấm bia đá. Những người hiếu sự đều đó đến xem, thấy trên tấm bia mới khai quật được ấy, cũng có sáu chữ lớn: “Người ngay phát, kẻ gian chết.”

CHƯƠNG 67: SỔ GHI CHÉP

Chuyện này từng rộ lên một thời, người trong vùng đều xôn xao bàn tán, có người bảo Kim Điểm Hồ tiên sinh chỉ được cái hư danh, lừa Mã Lục Hà một mớ tiền to, lại chỉ cho ngưòi ta một cái hung huyệt, kết quả hại chết mấy chục mạng người nhà ông ta. Có lẽ bản thân Hồ tiên sinh cũng biết có chuyện xảy ra, nên mới dọn nhà trốn đi đâu không rõ.

Nhưng phần đông mọi người lại không nhìn nhận như vậy, mảnh đất “mũ ma” này trước sau đào được hai tám bia đá, chữ khắc bên trên hết sức rõ ràng! Nghĩ kỹ lại những câu “chôn thì phát, ở thì chết, người ngay phát, kẻ gian chết”, thì không phải Kim Điểm Hồ tiên sinh chi sai huyệt nhãn, mà là Mã Lục Hà táng tận lương tâm, bao năm nay minh tranh ám đấu, lại buôn bán thuốc giả, không biết đã hại chết bao nhiêu mạng người, mấy trăm dặm quanh đây thử hỏi có ai không hận hắn ta? Có thể thấy, không thể làm những việc trái lương tâm được. Đây là ông trời muốn trừng trị cả nhà hắn, đúng như câu, trời cao có mắt, mắt thần như điện, báo ứng không sai.

Hồ tiên sinh lại dò hỏi kỹ hơn, mọi người quả nhiên đều hận nhà Mã Lục Hà thấu xương, người này lừa gạt thân thích, hãm hại dân chúng, chứa chấp đạo tặc, chuyên làm những chuyện bịa đặt hãm hại, ăn không nói có, làm cho nơi này khốn khổ vô cùng, gà chó cũng không yên, có thể nói đã khiến cho trời giận người oán. Đại đa số dân chúng đối với chuyện cả nhà người này gặp họa đều vỗ tay khen hay, cho rằng đó là “người ác người sợ trời không sợ, người thiện người bạc trời không bạc; thiện ác đáo đầu đều có báo ứng, chẳng qua chỉ sớm hay muộn mà thôi”.

Còn hai mảnh bia đá đào được ở mộ tổ nhà Mã Lục Hà kia cũng rất có lai lịch, theo lời một hòa thượng già trong ngôi chùa địa phương, rất nhiều năm trước, đích thực từng có địa danh “núi Mũ Ma”, mảnh đất rộng dưới chân núi từng là nơi xây miếu thành hoàng. Những ngày lễ tết, người ta đều đốt tiền giấy cho người âm ở chỗ cửa núi. Tương truyền, bia đá chôn bên dưới ngôi miếu là để cảnh cáo hậu nhân... “âm địa không bằng tâm địa”, phong thủy long mạch có tốt đến mấy, củng không bằng tự mình tích đức, làm việc thiện.

Sau này, miếu thành hoàng bị hủy trong lửa chiến tranh, trải mấy trăm năm dời đổi, di tích cũ sớm đã không còn, không ngờ mảnh bia vỡ trong lòng đất đến nay vẫn còn, lại vì chuyện của nhà Mã Lục Hà mà thấy lại ánh mặt trời, để người đời biết được ý trời sâu thẳm, đạo trời khéo sắp.

Từ đó trở đi, Hồ tiên sinh cũng không dám vỗ ngực tự xưng tinh thông phong thủy địa lý gì gì nữa, rốt cuộc ông cũng hiểu được ý tứ trong những lời sư phụ nói năm xưa. Tại sao lại nói “thiên đạo không lời”? Chỉ vì ông trời không nói chuyện, nhưng cảm ứng của trời đất vẫn luôn ở trong lòng người, bất luận đắp mộ hay xây nhà, đều phải lấy tích đức làm gốc, đúng như câu “tâm là chủ khí, khí phù cho đức”, trời chưa chắc đã có lòng với người, nhưng tâm ý đức hạnh của người lại thường hay cảm ứng với trời cao.

Tôi kể chuyện này cho ông chủ Lý biết, để ông hiểu được đạo phong thủy là chỉ “lẽ thiên nhân cảm ứng, đạo tạo hóa biến dịch”, chứ không đơn giản chỉ là tìm mảnh đất đẹp để chôn cát, không nên mê tín quá. Từ xưa đến nay, bao nhiêu hoàng đế quân vương sau khi chết đều được chôn ở long mạch, nhưng cũng không thể ngăn được dòng chảy của lịch sử thay triều đổi đại.

Ông chủ Lý gật đầu nói: “Đèn không khêu không sáng, lời không nói không hiểu, tấm giấy bồi cửa sổ mỏng manh mà không chọc thì cả đời cũng không rách, hôm nay nghe cậu nói vậy, đích thực rất có lý...” Nói tới đây, ông chợt nhớ đến một chuyện, liền gọi Út vào dặn dò mấy câu, hình như bảo cô đi lấy thứ gì đó.

Út bới rương lục tủ trong phòng một lúc lâu, cuối cùng cũng lấy ra một cái tráp bằng gỗ đen, nắp không có khóa, mà luồn hai sợi dây thừng thắt chặt lại, ở chỗ thắt nút dùng xi niêm phong, phía trên còn có dấu ấn, bên trong nặng trịch, dường như đựng rất nhiều thứ.

Tôi và Tuyền béo đều hết sức tò mò, còn tưởng ông chủ Lý lại khoe với chúng tôi món bảo vật trấn sơn gì, bèn hỏi ông, trong tráp này đựng thứ kỳ môn ám khí gì vậy.

Ong chủ Lý lắc đầu nói: “Trong này đựng thứ gì tôi cũng không biết, thậm chí còn chưa từng mở ra xem, nhưng có lẽ các cậu biết được đôi chút đấy.”

Tôi càng ngạc nhiên hơn: “Đó của ông ông còn không biết, chúng tôi lại không thể nhìn xuyên thấu cái tráp, làm sao đoán được chứ?” Nói tới đây, một ý nghĩ chợt lóe lên trong óc, tôi vội hỏi: “Chẳng lẽ đây là đồ của Mô Kim hiệu úy?”

Ông chủ Lý đáp: “Đúng thế, lúc trước tôi thấy các cậu có thể nhận ra Ô Kim Cang là biết chắc chắn các cậu cùng nghề với người khách năm xưa đến đây đặt làm chiếc ô ấy rồi. Vì Ô Kim Cang này không phải vũ khí tầm thường, chỉ dùng đến khi đổ đấu mò vàng mà thôi. Năm đó, vị khách thương kia đến tiệm tôi đặt làm một chiéc Ô Kim Cang, đồng thời gửi lại cái tráp này dặn rằng lúc nào lấy ô sẽ mang cả đi, nhưng ông ta đi một mạch mấy chục năm không thấy bóng dáng, giờ tôi đã sắp xuống lỗ rồi, cũng chưa từng gặp lại ông ta.”

Nhắc tới đoạn chuyện xưa này, ông chủ Lý không khỏi cảm thán hồi lâu. Thời gian thấm thoắt thoi đưa, vật đổi sao dời, nay Phong Oa sơn đã từ Hà Bắc chuyển đến Tứ Xuyên, trải qua bao nhiêu năm, bao thứ mang theo mình đều đã mất hết, nhưng cái tráp này vẫn còn nguyên vẹn, ấy là vì năm xưa đã nhận lời người ta, thì phải giúp họ trông coi cho tốt.

Ông chủ Lý tự thấy mình tuổi tác đã cao, sợ rằng không thể giữ gìn vật này được nữa, liền giao tráp gỗ đen ấy lại cho chúng tôi. Dẫu sao, chúng tôi cũng là Mô Kim hiệu úy, còn hơn để sau khi ông chết, nó rơi vào tay người ngoài, còn bên trong rốt cuộc đựng những thứ gì, thì chẳng thể nào biết được.

Sau khi biết tin Đa Linh qua đời, tâm trạng tôi khá sa sút, thấy cái tráp gỗ này kiểu dáng cổ xưa, đoán rằng bên trong hẳn đựng các thứ quý trọng, bấy giờ hơi men đã xông lên tận đầu nên cũng chẳng gấp mở ra xem ngay. Bọn tôi uống đến tận khuya, say khướt mới nghỉ. Sáng sớm hôm sau, chúng tôi cám ơn ông chủ Lý, chào tạm biệt rồi lên đường về. Lần này, chúng tôi chia làm hai nhóm, Shirley Dương và Út đi Hồ Nam đón lão Trần mù, sau đấy sẽ vể Bắc Kinh tụ họp.

Dọc đường không ai nói chuyện gì, tôi và Tuyền béo về Bắc Kinh trước, Minh Thúc và Răng Vàng đã đợi sẵn từ lâu.

Minh Thúc không ngừng hỏi han chúng tôi đi đố đấu ở đâu, có mở hàng không, tôi không hé nửa chữ, chỉ bảo Tuyền béo và Răng Vàng dựa theo địa điểm Tôn Cửu gia mô tả trong thư, đào lấy tư liệu lão ta nghiên cứu chỉnh lý nhiều năm, nhưng không có đổ cổ hay văn vật gì, hai người họ đành ủ rũ gói đồ đạc trở về.

Tôi đặt cả mấy món đổ lấy được trong chuyến này lên bàn, đóng cửa lại, cùng Tuyền béo, Răng Vàng bàn tính xem nên xử lý thế nào. Tôn Cửu gia đã ở lại hẻm núi Quan Tài, đời này chắc đến chết cũng không chịu lộ diện nữa, tư liệu về quẻ cổ lão ta để lại đều là thật, chỉ có điều, muốn phá giải được toàn bộ quẻ cổ Chu Thiên, vẫn phải nhờ đến bậc đại hành gia như Trương Doanh Xuyên giúp đỡ, không phải việc một hai năm mà có kết quả ngay, vả lại, cũng không thể thiếu tấm gương cổ Quy Khư kia được.

Dạo trước, tôi cực kỳ hứng thú với quẻ chu Thiên hoàn chỉnh mười sáu chữ, nhưng trải qua rất nhiều sự việc, khiến tôi thầm cảm thấy thiên cơ quẻ tượng mê hoặc người ta không ít, năm xưa Trương Tam Gia hủy đi một nửa quyển Thập lục tự m dương Phong thủy bí thuật, rất có thế cũng liên quan đến chuyện này. Ngoài ra, từ trước tôi đã phát hiện Trương Doanh Xuyên là người đạm bạc, không màng danh lợi, hình như cũng không coi trọng toàn quẻ Chu Thiên cho lắm. Trương Doanh Xuyên tinh thông lý học, suy lẽ trời mà hiểu được chuyện người, tầm nhìn rất xa, có thể nhận ra rất nhiều đạo lý mà người thường không sao thấu hiểu. Anh đã thế, tôi mà bổ khuyết đầy đủ Thập lục tự m dương Phong thủy bí thuật cũng chưa hẳn là một chuyện tốt, huống hổ còn phải tốn rất nhiều tâm sức ngồi nghiền ngẫm, tính tôi làm sao ngồi yên một chỗ vậy được chứ?

Tôi tính toán trước sau, cuối cùng quyết định đem hết tư liệu nghiên cứu về quẻ cổ của Tôn Cửu gia chuyển giao cho Trương Doanh Xuyên. Còn gương cổ Quy Khư và long phù bằng đồng xanh đều có ý nghĩa phi phàm, đồ đồng xanh vớt ở Quy Khư lên đều là báu vật thượng cổ, ông chủ thuyền Nguyễn Hắc cùng ra biển với chúng tôi đã vì gương cổ Quy Khư mà chết, chiến hữu năm xưa Đinh Tư Điềm lại có nghìn vạn ối liên hệ vi diệu với mảnh bùa hình rồng kia, những thứ này không nên lọt vào tay bất cứ người nào khác, cứ đưa cho giáo sư Trần xử lý là ổn nhất.

Tuyền béo nâng cái tráp bằng gỗ đen ông chủ Lý đưa cho lên, hỏi tôi: “Nhất này, thứ này tính sao đây? Đã về đến Bắc Kinh rồi, cũng phải mở ra xem thử chứ, nom cái tráp này không nhẹ, lắc lên thấy bên trong lọc cà lọc cọc, có phải đĩnh vàng đĩnh bạc gì không nhỉ ?"

Từ đầu tôi vẫn cho rằng cái tráp này là vật của người khác, sao cũng không thể vì người ta không đến lấy mà mượn cớ chiếm làm của riêng được, nhưng cũng rất tò mò không biết trong tay tiên bối Mô Kim hiệu úy kia rốt cuộc có bảo bối gì. Trên thế gian này chỉ còn lại ba lá bùa Mô Kim chân chính, tôi và Shirley Dương, Tuyền béo mỗi người một lá. Hai lá trong đó do Liễu Trần trưởng lão ở chùa Vô Khổ năm xưa truyền lại, lá còn lại là Tuyền béo tìm được trong ngôi mộ cổ sau miếu Ngư Cốt.

Từ đây có thế thấy, người khách đặt chế tạo Ô Kim Cang ở chỗ ông chủ Lý, rất có khả năng chính là vị tiền bối chết trong hang nhện Long Lĩnh, nếu đúng thế thật, chắc chắn ông ta vĩnh viễn không thể quay lại lấy món đồ mình gửi nữa rồi.

Năm xưa, vị Ban Sơn đạo nhân cuối cùng là Gà Gô vì muốn tìm di tích Thông Thiên Đại Phật tự ở thành Hắc Thủy chôn vùi bên dưới dải cát vàng, đã bái Liễu Trần trưởng lão ở chùa Vô Khổ làm sư phụ, muốn học Tầm long quyết và thuật Phân kim định huyệt, chẳng ngờ Liễu Trần trưởng lão lại bất hạnh qua đời, không kịp truyền thụ cho ông Tầm long quyết. Lúc lâm chung, Liễu Trần trưởng lão từng để lại di ngôn dặn dò Gà Gô đến hai bên bờ sông Hoàng Hà tìm một vị Mô Kim hiệu úy khác.

Vị Mô Kim hiệu úy ấy thường cải trang thành khách thương, trên tay luôn cầm một cái bàn tính vàng, tuy Liễu Trần trưởng lão không nói rõ quan hệ của mình với người này, nhưng chắc chắn là bạn bè cộng tác trước đó của ông, giao tình không phải tầm thường, bằng không ông cũng chẳng nhắc đến người này với Gà Gô trong thời khắc cuối cùng của cuộc đời. Đáng tiếc, Liễu Trần trưởng lão không hề hay biết, Kim Toán Bàn sớm đã chết trong mê động Long Lĩnh từ lâu. Vả lại, Kim Toán Bàn hành sự ẩn mật, nếu không phải chúng tôi chạy ra từ mộ u linh thời Tây Chu, tình cờ chui vào hang nhện ở sâu hơn bên trong, sợ rằng chẳng ai biết được Mô Kim hiệu úy Kim Toán Bàn đã chôn thây trong đó.

Chuyện này tôi đã nghĩ đến từ trước, nhưng vẫn không dám xác nhận, bởi không thấy chiếc bàn tính bằng vàng ròng trong cả mộ u linh lẫn hang nhện. Thứ này vàng chóe, nhất định rất bắt mắt, vả lại còn là vật tùy thân quan trọng của Kim Toán Bàn, đương nhiên ông ta sẽ không tùy tiện để rời xa. Từ đây suy ra, chẳng lẽ ngoài chủ nhân đời trước của ba miếng bùa cổ ra, trên đời vẫn còn một vị Mô Kim hiệu úy thứ tư nữa chắc?

Nghĩ tới đây, tôi không kìm được, định mở tráp ra xem trước rồi tính tiếp, tương lai nếu thực sự có người tìm đến cửa đòi lĩnh lại, cứ trả hết đầy đủ mọi thứ cho người ta là được, chỉ xem qua một chút cũng chẳng thể hư hỏng thứ gì. Nghĩ đoạn, tôi liên động thủ cắt đứt sợi dây gân bò đã phủ bụi nhiều năm, vừa mở nắp tráp ra, liền thấy ánh vàng lóe lên chói mắt.

Cái tráp bằng gỗ đen này rất giống rương tiền chuyên đựng tiền bạc sổ sách của các thương gia thời xưa, bên trong là môt chiếc bàn tính vỡ vụn, khung giá, con tính đều đúc bằng vàng ròng, bên trên khắc rất nhiều ký hiệu nhỏ biểu thị thiên can địa chi, dạng thức cổ phác đẹp đẽ, không biết đã truyền qua bao đời.

Tôi thầm nhủ, thế này thì không sai vào đâu được, quả nhiên là vật của Kim Toán Bàn mà Liễu Trần trưởng lão quen biết, xem ra chúng tôi cũng có duyên với người này. Kế đó, chúng tôi lại xem xét mấy món còn lại trong tráp, đều là các cuốn sổ ghi chép, bên trong toàn các chi tiết mua vào bán ra, nhưng đọc kỹ hơn, lại phát hiện trong đó còn kèm theo rất nhiều thông tin, tôi lật lật mấy trang, dường như có chép lại cả những sự tích liên quan tới Thập lục tự m dương Phong thủy bí thuật nữa.

Tuy tôi định lần này lo liệu việc chôn cất cho Đa Linh ở Mỹ xong xuôi sẽ không làm nghề đổ đấu nữa, mà kết hôn rồi sống một cuộc đời bình lặng, nhưng bao nhiêu chuyện tôi trải qua những năm gần đây, cơ hồ đều có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến Thập lục tự m dương Phong thủy bí thuật, tất cả những người tôi quen biết, bao gồm cả Trương Doanh Xuyên hậu nhân của Trương Tam Gia, đều không giải thích được tại sao bộ kỳ thư phong thủy này chỉ còn nửa quyển, dẫu có kể ra được một số lý do, cũng đều khiến người ta khó lòng tin phục. Lúc này, gặp được cuốn sổ của Kim Toán Bàn, không ngờ lại ghi chép sự tích về nó, trong lòng tôi hết sức bất ngờ, càng nôn nóng muốn biết rõ sự tình, bèn đưa hết đồ đạc trong tráp cho Tuyền béo cất giữ, sau đó lấy cuổn sổ lật xem từng trang dưới ánh đèn.

Tôi đọc cả đêm không bỏ sót chữ nào, rốt cuộc cũng giải được mối nghi vấn chôn sâu trong lòng bao năm nay, lại nhớ tới những gì mình và bọn Tuyền béo từng trải qua, cũng không thể không khâm phục tầm nhìn và kiến thức sâu rộng của Trương Tam Liên Tử, người viết nên bộ Thập lục tự m dương Phong thủy bí thuật này, bình yên rút khỏi nơi đầu sóng ngọn gió là chuyện không phải ai củng làm được.

Mượn chuyện xưa để xét chuyện nay, khiến lòng tôi có chút cảm ngộ, quyết định sẽ dũng cảm thoái lui, cũng là để thực hiện lời hứa với Shirley Dương trước đây. Sau khi an táng Đa Linh, tôi sẽ cùng Shirley Dương, Tuyền béo rửa tay chậu vàng, từ nay gỡ bỏ bùa Mô Kim, đem số thanh đầu mò được ở Vực Xoáy San Hô bán đi lấy chút tiền vốn, rồi cùng bọn lão Trần mù, Minh Thúc, Răng Vàng, Cổ Thái ra nước ngoài hợp tác buôn bán làm ăn, cả đời không hỏi đến chuyện đổ đấu nữa.

Gặp những lúc rảnh rỗi thanh tĩnh, tôi sẽ xem lại những thứ của tiền bối Mô Kim hiệu úy năm xưa truyền lại, một là nửa quyển tàn thư Thập lục tự m dương Phong thủy bí thuật, rồi ba lá bùa Mô Kim mà tôi, Tuyền béo và Shirley Dương từng đeo. Tôi không biết liệu những món cổ vật này cùng có số mệnh hay không, nhưng khí số “hưng vong” của chúng từ rất lâu về trước, đã được sư phụ của Kim Toán Bàn là Trương Tam Liên Từ nắm rõ cả rồi.

Toàn bộ sự tích của các Mô Kim hiệu úy đương đại đến đây là hết, trong cuốn sổ của Kim Toán Bàn rốt cuộc đã ghi lại sự việc gì? Nguyên nhân thật sự khiến Thập lục tự m dương Phong thủy bí thuật trở thành tàn thư là gì ? Xin mời xem thêm ba chương ngoại truyện.

CHƯƠNG 68: RỬA TAY CHẬU VÀNG

Trương Tam Gia là bậc lão thành trong nghề trộm mộ cuối thời Thanh, ông một mình đeo ba lá bùa, người đời thường hay gọi là Trương Tam Liên Tử, tên thật không rõ là gì, dù thời trước nhậm chức ở núi Côn Luân, thân trong cửa quan, cũng chỉ dùng họ thật mà giấu đi tên.

Tên húy của Trương Tam Gia là gì, đến cả đệ tử con cháu trong nhà cũng đa phần không biết, tại sao lại thế ? Chỉ vì bình sinh những việc ông làm, thảy đều phạm vào cấm kỵ, trong hai đạo hắc bạch không ai không biết, cũng thuộc hàng có số có má trong chốn lục lâm.

Trước thời Dân quốc, Trung Quốc vẫn còn thuộc chế độ phong kiến, thảng như phạm phải tội lớn tày trời, có khả năng sẽ bị tru di cửu tộc, một người gây chuyện, thân thích bằng hữu của y đều bị liên lụy theo, vì vậy người trong giới lục lâm đều không dùng tên họ chân thực, mà chỉ gọi nhau bằng biệt hiệu, ngoại hiệu, dù một số người danh tiếng lẫy lừng khắp thiên hạ, đến lúc chết cũng chỉ để lại thế gian một biệt hiệu mà thôi.

Tuy Trương Tam Gia vướng vào không biết bao nhiêu vụ án, nhưng thời trẻ ông từng được hoàng đế Hàm phong phong thưởng, lại thành thạo sự đời, dùng các thứ cổ vật hiếm quý đổ đấu được kết giao vô số vương công đại thần, quan lại bổ khoái vốn không dám động đến ông, vì vậy mà môn hạ đệ tử rất đông, gia tài giàu không kế xiết, hào kiệt khắp ngũ hồ tứ hải đều muón kết giao cùng.

Một năm nọ, Trương Tam Gia nảy sinh ý định muốn thoái ẩn, ông hiểu được mệnh trời, chán ghét những chuyện cơm áo gạo tiền của thế gian, định quy ẩn chốn núi rừng, sống nốt quãng đời còn lại trong bình yên. Ông liền gửi thiếp mời rộng rãi, mời bạn bè ở khắp nơi đến nhà họ Trương ăn tiệc.

Đã lăn lộn trong hắc đạo thì không thể tách khỏi đám cường đạo Xả Lĩnh khống chế bảy tỉnh miển Nam sáu tỉnh miền Bắc, thời bấy giờ, quan và phỉ là một nhà, Trương Tam Gia tự nhiên cũng phải nhập bọn. Lần rửa tay chậu vàng công khai này, chính là để rút hương trên Thường Thắng sơn.

Khi đó, thế lực của cường đạo Xả Lĩnh đã suy vi, rất nhiều người không hề biết Trương Tam Gia chính là Mô Kim hiệu úy Trương Tam Liên Tử, thêm nữa, thân phận của thủ lĩnh cường đạo tuy tương đối cao, nhưng thanh danh còn xa mới bì kịp Trương Tam Gia, vì vậy hành vi này của ông, còn gây vang động hơn cả chuyện trùm cướp rời băng, có thể coi là một chuyện lớn trong giới lục lâm đương thời.

Những kẻ giang hồ lớp sau, có ai mà không muốn được mở rộng tầm mắt chứ? Đến ngày mười lăm tháng Sáu âm lịch, quả nhiên khách khứa chật nhà, tề tựu đông đủ. Những người đến đây, không ai không phải giang dương đại đạo, giặc cướp lục lâm, bàn ghế kê từ nhà chính ra đến cổng lớn, hai bên chái nhà cũng chật kín người, rất nhiều kẻ thân phận thấp đều phải đứng chứ chẳng có chỗ mà ngồi.

Sau khi sắp xong chỗ ngồi dựa theo thân phận, trước tiên là mở hương đường, bái lạy tổ sư Võ Thánh chân quân, rồi bắt đầu đại lễ. Kỳ thực, đây cũng chỉ là làm ra vẻ vậy thôi, nhưng tục lệ thì không thể miễn được, càng không ai dám sơ suất coi thường. Ngó nhìn trăng trên trời đã tròn, sao cũng lên đủ, người xướng lễ bèn mời thủ lĩnh Xả Lĩnh ra ngồi bên dưới thần vị trong nhà chính, phụ lễ hai bên khênh một lò hương tới, bên trong cắm mười chín cây hương lớn, ba trước, bốn sau, năm trái, sáu phải, một cây ở chính giữa.

Sau một hồi chiêng trống, giờ hành lễ đã đến, các nhân vật hắc đạo đến xem lễ lập tức im bặt như tờ. Lúc này, Trương Tam Gia bước ra, quỳ một chân trước mặt thủ lĩnh hành lễ. Thời bấy giờ, đạo lục lâm vào thì dễ, rút thì khó, người bình thường đều không dám rút hương, giặc cướp bình thường muốn rửa tay không làm nữa, trừ phi cha mẹ ruột hoặc vợ con xảy ra chuyện lớn, người chủ sự trong nhà không thể không trở về thì mới dám nhắc đến chuyện rửa tay chậu vàng. Sau đấy, thủ lĩnh phái người điều tra đích thực có chuyện như vậy, mới có thể cho y rút hương, bằng không giết chết không tha. Tuy Trương Tam Gia thân phận khác thường, nhưng vẫn không tránh khỏi những lễ tiết này, trước tiên phải trần thuật lý do rút hương trước mặt thủ lĩnh.

Trương Tam Gia bẩm rõ nguyên do muốn rút hương rời khỏi đảng cướp, không ngoài những câu như bệnh cũ quấn thân, lại có vợ con nheo nhóc vướng bận, khó thể làm những việc giết người cướp hàng được nữa, cúi mong tổ sư gia và thủ lĩnh giơ cao đánh khẽ, cho đệ tử được toàn thân rút lui!

Thủ lĩnh nghe xong vội đỡ Trương Tam Gia dậy, cười xòa nói: “Chúc mừng Tam ca rửa tay chậu vàng, dũng cảm thoái lui giữa dòng nước xiết là việc đáng quý vô cùng, Hắc bạch lưỡng đạo tren thế gian này, bên nào cũng là nước sôi lửa bỏng, có thể cầm cự đến ngày hôm nay cũng thật không dễ dàng gì, có câu rằng… gió mây thường đến hội, tụ tán chẳng có kỳ, rút hương rời bọn, nhưng nghĩa khí vẫn còn lưu.”

Vậy là Trương Tam Gia cùng thủ lĩnh bước tới trước ban thờ, đứng bên cạnh lò hương, miệng lầm bầm khấn: “Tinh tú đầy trời rải bốn phương, núi cao Thường Thắng ở chính giữa; lưu lãng giang hỗ mấy chục năm, nhiều phần nhờ các huynh đệ chiếu cố; hôm nay tiểu đệ phải rời đi, khẩn thỉnh các huynh đệ khoan dung; tiểu đệ về nuôi mẹ già, nhưng vẫn cùng các huynh đệ đồng mệnh tương liên; binh đến tướng đến, đệ truyền báo; có nước có lửa đệ thông tri; dưới có hoàng thổ trên có trời, đệ và các huynh chung một thuyền; chùy sắt vỡ răng miệng không khai, dao thép cắt gan tâm không đổi; tiểu đệ có sai một lời, ngũ lôi oanh đỉnh diệt toàn gia; xin chúc sao Khôi tụ kim quang, hương hỏa Thường Thắng át Côn Luân, thế thiên hành đạo mãi lưu truyền.”

Trong đạo lục lâm, bất kể ai rút hương, đều phải khấn bài này, nói nhà mình có mẹ già phải phụng dưỡng là lấy cớ “trăm việc thiện, hiếu đứng đầu”, dẫu có viện cớ bằng trời, củng không thể ngăn cản người tận hiếu đạo được. Tuy Trương Tam Gia từ nhỏ cô khổ, không cha không mẹ, nhưng vẫn phải khấn đúng nguyên văn, không thể sửa chữa mảy may, vả lại trong quá trình khẩn không thể sai sót một chữ, cũng không được dừng lại nửa chừng để ngẫm nghĩ, bằng không ắt bị coi là trong lòng hổ thẹn, ý đồ bất chính, đám đạo tặc xung quanh sẽ lập tức nhao lên loạn dao phân thây, băm kẻ tụng niệm kia thành tương thịt.

Toàn văn bài khấn tổng cộng có mười chín câu; khấn một câu lại nhổ một cây hương, khi Trương Tam Gia khấn xong, hương trong lò cũng đã nhổ hết. Lúc này, thủ lĩnh lập tức chắp tay ôm quyền chúc mừng: “Tam ca đi mạnh giỏi, khi nào nhớ nhà thì quay lại uống chén rượu.” Đến đây coi như xong lễ từ nay trở đi Trương Tam Gia không còn liên can gì đến những sự vụ của đạo lục lâm nữa. Mọi người xung quanh cùng bước lên chúc mừng, bên ngoài trang viện pháo nổ rầm trời, trống nhạc tưng bừng, người hầu kẻ hạ lập tức bày tiệc lên, nhất thời rượu thịt ê hề, ly chén chạm nhau, chủ khách đều vui vẻ.

Trong tiệc, đám cường đạo lục lâm đang chén chú chén anh, chợt có người đề nghị: “Hôm nay là ngày Trương Tam Gia nhổ hương rời đảng, các lộ hào kiệt đều tụ tập về đây, trên bàn toàn là rượu ngon thức hiếm, thật thống khoái vô cùng, hiềm nỗi không có thứ gì để đưa rượu, thế này gọi là chỉ sướng mà chưa vui, khó lòng tận hứng. Giới lục lâm chúng ta toàn bọn hán tử thô lỗ, tu mi trượng phu, cũng không thể học theo bọn vản nhân mặc khách chơi trò “hành tửu lệnh”, thế thì nên thế nào đây? Tiểu tử cả gan, xin được mời các vị cao nhân trong tiệc kể lại những sự đắc ý bình sinh của mình cho mọi người, hễ nói đến chỗ kỳ dị, vũ dũng, hay người thường không bì được, chúng ta lại uống một bát lớn để tán thưởng”.

Cả đám đều nhao nhao khen phải, Trương Tam Gia vốn là người thoải mái, ông hiểu rõ đám này muốn tranh thủ cơ hội nghe chuyện của mình năm xưa, đương khi cao hứng, sao có thể chối từ, bèn ngồi giữa bàn tiệc kể chuyện. Có điều, Trương Tam Gia đeo bùa Mô Kim là chuyện bí mật, không tiện thổ lộ trước chốn đông người, nên chỉ ngắt đầu bỏ đuôi, kể cho cả bọn nghe mấy sự việc kỳ hiểm mình từng trải trong đời.

Trương Tam Gia là hậu duệ danh môn, sau khi gia tộc suy vong, từ nhỏ đã phải lưu lạc nơi hẻo lánh, thời thiếu niên tham gia phá giải mấy vụ kỳ án, nhờ dẹp giặc ở Giang Nam mà thành danh, về sau làm quan, từng đánh trận với quân Thái Bình, đàn áp khởi nghĩa nông dân ở vùng An Huy, Giang Tô, đi theo Tả đại nhân trấn áp phiến loạn Tân Cương, cuộc đời nhiều lần qua lại chốn sa trường, tung hoành nơi chiến địa, kỳ ngộ nhiều không kể xiết.

Sự tích của Tam Gia, tùy tiện kể chuyện nào cũng đều là, “nói ra làm trăng sao lu mờ, cất tiếng khiến sông ngòi chảy ngược” làm cả bọn nghe như say như mê. Ông kể xong, lại dựa theo thân phận và lai lịch, lần lượt mời mấy vị tiền bối giảng giải sự tích của mình, đám cường đạo này tung hoành Nam Bắc, qua lại vạn dặm, ngoài giết người phóng hỏa ra còn làm không ít vụ đố đấu quy mô lớn. Trải nghiệm của bọn họ đều khiến người nghe rởn cả tóc gáy, người trong giới lục lâm lại rất thích khoe khoang những sự tích hào kiệt của mình, thật đúng là người nói mặt mày rạng rỡ, người nghe thần hồn điên đảo, trong tiệc không biết đã dốc cạn bao nhiêu vò rượu, mọi người say sưa sảng khoái, uống từ chập tối đến tận sáng hôm sau mới say khướt ra về.

Trương Tam Gia mất hơn một tháng mới thu xếp xong xuôi mọi việc ở hai giới hắc bạch, bấy giờ mới dẫn theo gia quyến trở vé quê cũ. Ông còn phải tháo bỏ bùa Mô Kim trước thần vị tổ sư, sau này không làm Mô Kim hiệu úy nữa.

Trên thế gian này chỉ còn lại ba lá bùa Mô Kim, là vật truyền từ đời này sang đời khác, theo lệ cổ, không đeo bùa không được đổ đấu. Trương Tam Gia có một trai một gái, ngoài ra còn bốn đệ tử. Trừ người con gái không tính, tổng cộng có năm sư huynh đệ. Nhà họ Trương đều là cao thủ phong thủy, đương thời người đủ tư cách đeo bùa này, không ngoài Trương Tam Gia và đám đệ tử của ông, nếu nói rộng hơn, thì cũng không đủ mười người.

Có điều, bùa Mô Kim chỉ có ba lá, rốt cuộc nên truyền cho ai cũng phải lao tâm khó tứ suy nghĩ một phen.

Bốn người đệ tử của Trương Tam Gia, người nào cũng có chỗ hơn người, một là Liễu Trần trưởng lão sau này xuất gia đi tu ở chùa Vô Khổ, năm ấy Liễu Trần trưởng lão vẫn chưa xuống tóc, nhưng không dùng tên thật trong giới lục lâm, không ai biết được danh tính tục gia của ông là gì. Người này từ nhỏ đã là một tên đại đạo có tài phi thiềm tẩu bích, biệt hiệu “Phi thiên thần châu”, chưa một lần thất thủ, khinh công leo trèo cực kỳ xuất chúng, Tầm long quyết và thuật Phân kim định huyệt đã học hết chân truyền của Trương Tam Gia. Liễu Trần tính nóng như lửa, thích quản chuyện bất bình trong thiên hạ, có lòng tế thế cứu nhân.

Một người nữa là Kim Toán Bàn, xuất thân trong nhà buôn bán, hiểu được các loại kỳ môn ám khí, con người tinh minh láu lỉnh, nhưng lại có một tấm lòng chính trực hiếm có, chỉ tội quá đỗi tự cao, không để người thường vào trong mắt, chiếc bàn tính bằng vàng ròng không bao giờ rời tay, trên hạt bàn tính và khung giá đều khắc chi chít các ký hiệu Thiên can Địa chi. Chiếc bàn tính này của y không dùng để tính, mà để suy diễn thuật số Ngũ hành, chiêm nghiệm phương vị bát môn. Kim Toán Bàn và Trương Tam Gia quen biết từ xưa, giao tình bất phàm, nửa là sư đồ, nửa là bạn bè.

Người thứ ba là m Dương Nhãn Tôn Quốc Phụ, vốn là con cháu thế gia, khi sinh ra đã có một đôi mắt âm dương, từ nhỏ đã “nhìn được quỷ thần”, vì vậy bị đuổi khỏi nhà, lưu lạc bốn phương, về sau Trương Tam Gia gặp phải, bèn thu làm đồ đệ. Người này trạch tâm nhân hậu, đầy bụng kinh luân, lại tương đối truyền thống thủ cựu, tuy học được một thân bản lĩnh nhưng không thích làm chuyện đổ đấu kiếm tiền, xưa nay chưa từng tham dự hành động tụ nghĩa chia tài nào trong giới lục lâm, vì vậy đi tới đâu cũng đều dùng chân danh thực tính.

Người nhỏ nhất, là đệ tử quan môn của Trương Tam Gia, có biệt hiệu Cối Xay Sắt, tu luyện ngạnh công Thập Tam Thái Bảo Hoành Luyện, từng làm thảo khấu, cũng từng tham gia khởi nghĩa nông dân, hồi trước đã giết người vô số, nhưng Trương Tam Gia nói tính khí của y rất giống với một người huynh đệ năm xưa của mình, lại xét thấy y thủ đoạn cao cường, làm người thành thực, mới thu vào làm môn hạ.

Hôm ấy, Trương Tam Gia gọi đệ tử và con cháu đến trước ban thờ, đặt ba lá bùa Mô Kim lên khay ngọc, nói với mọi người: “Chọn ngày không bằng gặp ngày, hôm nay ta sẽ truyền lại bùa Mô Kim. Trong thiên hạ không có bữa tiệc nào không tàn, dù lấy được bùa hay không lấy được bùa, kể từ hôm nay, các con sẽ phải tự lập môn hộ, dựa vào bản lĩnh của mình mà xông pha bên ngoài. Nhưng có một điều, kẻ nào học Tầm long quyết và thuật Phân kim định huyệt của Mô Kim hiệu úy mà không đeo bùa Mô Kim đi đổ đấu, một hai lần có lẽ còn may mắn nhặt được cái mạng về, nhưng đã phạm phải lệ cổ, sớm muộn cũng không tránh khỏi kiếp số, các con nếu không nghe lời này của sư phụ, tới khi đại họa giáng xuống đầu, chớ trách kẻ làm thầy này không nói rõ từ trước.”

Con cháu đệ tử đều biết Trương Tam Gia là nhân vật thông tuệ cái thế, lời đã nói ra không bao giờ sai, đương nhiên không dám không nghe, đều nhất loạt bước lên quỳ lạy, nói: “Ba lá bùa Mô Kim truyền cho ai, đều do sư phụ làm chủ, đệ tử không dám hai lời.”

Trương Tam Gia gật gật đầu, tuy kể cả con trai thì ông có năm đệ tử, song kỳ thực trong lòng sớm đă định đoạt sẽ truyền bùa Mô Kim cho ai rồi. Trước tiên, ông bảo con trai mình lùi ra bên ngoài. Thì ra, bí thuật Mô Kim này truyền thừa nghìn năm nội quy cực nhiều, bùa thật không truyền cho hậu nhân trong nhà chính là một trong số đó.

So với đám trộm mộ dân gian không có phép tắc gì, quy định này xuất phát từ việc đổ đấu trộm mộ kiếm lợi là hành vi cực kỳ tổn âm đức, mặc dù Mô Kim hiệu úy trộm mộ lấy báu vật hầu hết đều để tế thế cứu dân, nhưng những thứ châu báu ấy đa phần không phải phàm vật, một khi lộ diện trên đời, nhất định sẽ dân đến minh tranh ám đấu, truy đến tận cùng thì người đổ đấu đào mộ lấy báu vật ra cũng phải gánh tội nghiệt không nhỏ, bởi vậy mới có câu “làm một đời, nghỉ ba đời”. Tính từ đời con trai Trương Tam Gia, thì tới đời chắt của ông cũng không thể đeo bùa Mô Kim làm nghề đổ đấu, bằng không ắt sẽ bị trời phạt, đoạn tử tuyệt tôn, tan cửa nát nhà.

Cùng là người làm nghề trong xã hội cũ, nghề mổ lợn xưa cũng có cách nói như vậy. Ở phủ Tế Nam tỉnh Sơn Đông, đã có truyền thuyết đồ tể bị báo ứng, nhưng không phải chuyện đồn đại trong dân gian bình thường, mà rất đáng tin. Vì những nghề này đều là tổ tiên truyền xuống, chỉ truyền cho nam không truyền cho nữ, làm bao nhiêu đời đồ tể đều có ghi chép rất rõ ràng.

Phàm là đồ tể, cứ cách ba đời lại có một đời không thể làm đồ tể, tuy cũng phải học lấy tay nghề của đời cha ông, nhưng không thể tự lập môn hộ, giết mổ súc sinh. Nghe nói, quy tắc này là vì lo người sát sinh quá nhiều, sợ tuyệt hậu, nhưng nguyên nhân có phải vậy hay không đến giờ không ai nói rõ được. Tóm lại, cứ ba đời, ắt phải có một đời không thể giữ lấy nghiệp tổ, mà phải học nghề khác mưu sinh, đợi đến đời sau mới có thể tiếp tục làm đồ tể.

Nhà họ Mễ đời đời làm nghề giết mổ dê lợn, truyền đến đời “Mễ đồ tể” liền phạm vào đại kỵ, nghề giết mổ truyền đến đời y, theo lệ cũ vốn không thể động đến đao đồ tể nữa, nhưng y không hề để chuyện này trong lòng, vẫn cứ giết lợn mở tiệm thịt bình thường. Một hôm, trời còn chưa sáng Mễ đồ tể đã thức dậy để giết thịt một con lợn nái, một mình y vào phòng giết mổ thắp đèn, vật con lợn nái xuống đất, tiện tay lần mò mạch máu trên cổ, rút đao định chọc tiết luôn. Nào ngờ con lợn kia đột nhiên cất tiếng, nói bằng tiếng người: “Tôi lẽ ra đến mười lăm tháng Năm mới chết, hôm nay mới mười bốn, ngày giờ không đúng, sao ông dám giết tôi ”.

Gan kẻ làm đồ tể không phải người thường có thể sánh được, vả lại Mễ đồ tể dậy quá sớm, mắt mũi kèm nhèm, còn tưởng mình nghe lầm, lại nghe thấy lợn nói tiếng người, bèn chẳng nghĩ ngợi gì nhiều, vung đao chọc tiết luôn, mặc cho con lợn nái eng éc giãy giụa, cũng không buồn mảy may động lòng.

Nhưng đến ngày hôm sau, chính là mười lăm tháng Năm, Mễ đồ tể vẫn dậy sớm giết lợn, không ngờ hôm nay y càng mệt mỏi hơn, đến đèn cũng chẳng buồn thắp, đằng nào cũng đã quen tay, lần mò trong bóng tối vẫn làm được. Có điều, lần này không nghe thấy con lợn bị giết kia nói chuyện, lúc giết mổ cũng rất thuận lợi, tựa hồ không phí chút sức lực nào, đến lúc cạo lông, Mễ đồ tể vẫn còn thắc mắc: “ừm, lạ thật, con lợn bị chọc tiết hôm nay sao không thấy kêu la gì nhỉ ? Mà... mà chân lợn sao ít lông thế, trơn nhẵn bóng loáng, sờ cứ mềm mềm như chân gái ấy...”

Nghĩ tới đây, Mễ đồ tể giật mình sực tỉnh, nhận ra mình không hề vào phòng giết mổ mà đang ngồi trong nhà, trên giường dưới đất be bét máu tươi, trên tay y cầm một cái đùi đàn bà trắng toát như tuyết. Mỗ đồ tể lập tức ba hồn rời xác, bảy vía thăng thiên, không dám tin thảm cảnh trước mắt là thật, không ngờ trong lúc mộng du y đã coi vợ mình như con lợn, tự tay xẻ ra làm tám mảnh, máu tươi khắp nhà vẫn còn nóng hôi hổi. Kết quả, ngay ngày hôm ấy Mễ đồ tể treo cổ tự vẫn, trước lúc chết còn dùng máu tươi viết lên tường mấy chữ lớn: “Ngày giờ không đúng.”

Chuyện này nói là lời đồn đãi ở chốn thôn quê cũng tốt, mà là sự tích chân thực cũng được, tóm lại những kẻ dựa vào tay nghề kiếm cơm, đều thà tin là có, chớ ngờ là không, vì vậy Trương Tam Gia không muốn để con trai mình làm Mô Kim hiệu úy nữa. Như vậy, người có thể đeo bùa, chỉ còn lại bốn đệ tử của ông. Trong bốn người này, m Dương Nhãn Tôn Quốc Phụ là tú tài không đội mũ quan, căn bản không muốn làm nghề đổ đấu mà cam tâm tình nguyện làm một số việc tầm thường mưu sinh, hoặc mở trường dạy học, hoặc xem bói chọn đất, tìm nơi xây nhà xây mộ cho người ta, dù sao thì người này đa tài đa nghệ, không lo vô kế sinh nhai.

Trương Tam Gia thấy m Dương Nhãn tâm ý đã quyết, bèn lấy ra một cuốn sách, sách này tên gọi Thập lục tự m dương Phong thủy bí thuật, ghi chép lại tỉ mỉ tất cả sở học bình sinh của Trương Tam Gia.

Mô Kim bí thuật kỳ thực chính là một phân chi của Dịch, quẻ cổ Chu Thiên tổng cộng có mười sáu chữ, truyền tới hậu thế chỉ còn lại tám quẻ, tám quẻ này lại phân thành Tiên thiên bát quái và Hậu thiên bát quái. Tương truyền, Tiên thiên bát quái do Phục Hy đại đế có được từ hình vẽ trên mai rùa, Hậu thiên

bát quái là của Chu Văn Vương suy diễn, kỳ thực đều là do người đời sau nghĩ ra, trên thực tế, hai thứ này khác nhau không lớn, đều thuộc Thiên quẻ lấy “long” làm tượng, vì vậy Chu Dịch giải quẻ hẳn thuộc về Long quẻ. Trong các hào của Bát quái này, tuy có cả tượng hưng vong, nhưng xét kỹ ra, đều là số chấn hưng, vì vậy Kinh Dịch từ thiên mở đầu đến thiên kết thúc, đều nói về Càn nguyên thiên đạo.

Còn tám quẻ đã thất truyền từ thời Tây Chu kia, lại thuộc vẻ quẻ m, đa số đều lấy “phượng” làm tượng, người xưa cho rằng quẻ cổ quá chu toàn, đã phát hiện hết thảy mọi bí ẩn trong trời đất, như vậy ắt sẽ bị quỷ thần đố kỵ, dẫn đến việc chẳng lành, bèn hủy đi một nửa của mười sáu quẻ, từ đây không còn lưu tồn trên chế gian nữa.

CHƯƠNG 69: VẬT CỰC TẤT PHẢN

Trương Tam Gia từng trộm mộ cổ thời Tây Chu, từ đó tìm được quẻ tượng Chu Thiên đầy đủ, nên đã dùng quẻ cổ mười sáu chữ làm mồi dẫn, đưa thuật phong thủy âm dương vào trong, viết nên một cuốn Thập lục tự m dương Phong thủy bí thuật trong đó thuật âm dương và phong thủy mỗi bên chiếm một nửa, thiên m dương nói về chiêm đoán thuật số, lý lẽ của tạo hóa, còn thiên Phong thủy thì nói vể thuật thanh ô, đạo phong thủy... chỉ nửa quyển này đã bao hàm Tầm long quyết và thuật Phân kim định huyệt của Mô Kim hiệu úy, đổng thời tập hợp mọi tục lệ, quy chế mai táng của các triều đại ở Trung Quốc, có thể nói là “nghiên cứu mọi lẽ của trời đất, tự thành ngôn luận một nhà”.

Ở trước mặt bốn người đệ tử, Trương Tam Gia xé đi một nửa của Thập lục tự m dương Phong thủy bí thuật, chỉ để lại nửa quyển về bí thuật Phong thủy, còn phần bí thuật m dương thì bỏ vào chậu lửa đốt thành tro. Mấy người đều nghi hoặc khó hiểu, bèn xin sư phụ chỉ giáo tận tường, cuốn thiên thư này ảo diệu khôn cùng, tại sao lại hủy đi ? Từ nay trên đời há chẳng phải không còn quẻ cổ Chu Thiên nữa hay sao?.

Trương Tam Gia cười nói: “Đất ruộng cấy cày, đường thủy đi thuyền, đầu người không thể mọc ra cây trái, đây đều là đạo trời, hưng vong tạo hóa trên thế gian xưa nay đều đã có định số, nhưng mấy ai nhìn thấu được bí ẩn bên trong? Chi có thể nói rằng từ thuở hồng hoang đã thế, hoặc có tiên, tóm lại là người thế tục như chúng ta không nên biết. Thiên cơ này tuy thâm ảo vi diệu, nhưng lưu lại trên thế gian lại gây họa cho người không ít nên thiêu hủy đi mới là chính đạo.” Nói xong, ông đưa nửa quyển tàn thư còn lại cho m Dương Nhãn Tôn Quốc Phụ, dặn dò: “Bí thuật phong thủy của Mô Kim hiệu úy thâm diệu vô cùng, đã thăm dò hết ba đại long mạch từ Nam chí Bắc, lưu lại nửa quyển tàn thư này trên thế gian, tương lai biết đâu vẫn còn đất dụng võ, con phải giữ gìn cho tốt, chớ nên để thất lạc”.

m Dương Nhãn Tôn Quốc Phụ vội vàng quỳ lạy cảm tạ ân đức của sư phụ, nuốt nước mắt thu nhận cuốn tàn thư, từ đó rời khỏi sư môn đi xa. Cuối cùng, Trương Tam Gia nói với ba Bgười Liễu Trần, Kim Toán Bàn, Cối Xay Sắt, xem ra bùa Mô Kim sẽ rơi vào tay các con rồi. Hôm nay không phải ngày lành, đợi qua giờ Tý, bái lạy tổ sư gia xong, sẽ tiến hành nghi thức đeo bùa.

Đêm hôm đó, Trương Tam Gia dẫn ba đồ đệ ra nhà sau, bảo họ quỳ xuống, dập đầu, dâng hương trước tượng tổ sư Tào công, rồi truyền cho mỗi người một lá bùa Mô Kim.

Sau đấy, còn phải truyền quy tắc hành nghề, khí giới, và các chuyện xưa tích cũ. Trước tiên, Trương Tam Gia hỏi ba người bọn Kim Toán Bàn, có biết tại sao từ xa xưa nghể đố đấu đã tồn tại trên đời hay không?.

Ba sư huynh đệ Kim Toán Bàn cũng là hạng lăn lộn giang hồ đã lâu, kiến văn quảng bác, hiểu rõ tận tường các ngành các nghề, các tục lệ chốn thôn quê, nghe sư phụ hỏi vậy, liền lần lượt trả lời:

Trong thiên hạ có tam giáo cửu lưu, tam giáo là “Phật giáo, Đạo giáo, Nho giáo”, cửu lưu là chỉ chín giai tầng, trong đó lại phân ra thượng cửu lưu, trung cửu lưu và hạ cửu lưu. Trong tam giáo cửu lưu có rất nhiều ngành nghề mưu sinh, tổng cộng có khoảng hơn ba trăm sáu mươi ngành nghề.

Thượng cửu lưu, chính là, nhất lưu Phật tổ, nhị lưu tiên, tam lưu hoàng đế, tứ lưu quan, ngũ lưu viên ngoại, lục lưu thương, thất lưu cầm đồ, bát lưu thợ, cửu lưu nông phu, đây đều là những nghề nghiệp chính đáng. Trung cửu lưu là nơi tập trung khá nhiều các nghệ nhân thủ công, còn hạ cửu lưu, chính là hạng con hát, ca nhi, kỹ nữ.

Trong tam giáo cửu lưu diễn sinh ra mấy trăm nghề nghiệp, vốn không có nghề đổ đấu. Đổ đấu thuộc về tám nghề ngoài. Tám nghề ngoài, gồm có kim điếm, ăn mày, cướp đường, trộm cắp, đổ đấu, đi núi, dẫn lửa, gánh nước, gọi chung là “ngũ hành bát gia”. Kỳ thực, nếu xét kỹ, trong đây có mấy ngành nghề đều có thể coi là “nghề trộm cướp”, nhưng trong tám nghề ngoài lại tách ra để tính, chẳng hạn như cướp đường là cướp trắng trợn ngoài ánh sáng, vì vậy không thể gộp chung với hạng phi tặc trộm cướp trong bóng tối được.

Nghề đổ đấu, chiếm chữ “thổ” trong ngũ hành, theo lý cũng thuộc nghề trộm cướp, không khác gì cướp đường hay phi tặc, chỉ khác là làm chuyện trộm mộ mò vàng. Nói lên cao thì đổ đấu coi như cướp kẻ giàu chia người nghèo; nói xuống thấp thì là kiếm tiền của người chết, làm việc tổn hại âm đức, một cao một thấp, khác nhau một trời một vực.

Mô Kim hiệu úy đương nhiên không thể so với hạng trộm vặt, xưa nay đều chỉ trộm lấy các thứ kỳ trân dị báu cứu tế người cùng khổ, xứng với bốn chữ “trộm cũng có đạo”, thanh danh trên thế gian xưa nay rất tốt. Chì vì từ xưa người nghèo nhiều, người giàu ít, người giàu quá giàu, người nghèo quá nghèo, vì vậy mới có mấy nghề trộm cướp trong tám nghề ngoài, chuyên làm việc thay trời hành đạo.

Trương Tam Gia lắc đầu nói, các con nói nghề đổ đấu này là thế thiên hành đạo, nhưng lại hiểu lầm ý của hai chữ “thiên đạo” Mô Kim đổ đấu cũng không phải là như vậy. Người ở trên đời này có giàu có nghèo, giàu có cũng được, bần hàn cũng xong, đây đều là số mệnh đã định sẵn, cần gì đến đám cường đạo phi tặc thay trời hành đạo ? Đây chẳng qua chỉ là cái cớ để họ giết kẻ giàu sang cướp lấy tiền tài mà thôi.

Đổ đấu là việc trộm mồ quật mả người ta, tại sao lại có người lấy nó làm nghiệp mưu sinh? Chỉ vì các triều các đại đều coi trọng việc hậu táng, bất cứ sơn lăng mộ cổ nào, từ ngày khởi công xây dựng, đã tiêu phí không biết bao nhiêu máu và mồ hôi của dân chúng, không chỉ báu vật bồi táng nhiều không kể xiết mà còn phải giết người chôn sống tuẫn táng theo, cả những người thợ xây lăng cũng khó thoát họa diệt khẩu.

Phải biết, thiên đạo khoan dung, trời cao có đức hiếu sinh, dù mộ chủ ấy lúc sống là minh quân khai quốc hay bậc hiền tài cứu thế, chỉ cần lúc chết, làm việc mai táng quá đỗi xa xỉ, tất sẽ tổn hao phúc đức; thêm nữa, nơi xây mộ đa phần đều chọn đất báu phong thủy, chiếm lấy long mạch của thiên địa làm của riêng, cũng coi như phạm vào điều kỵ của quỷ thần, thiên đạo xưa nay đều không phù hộ cho hạng ấy.

Nghề đổ đấu này, chính là ứng vào thiên lý tuần hoàn, bất kể sơn lăng mồ mả chôn sâu giấu kỹ tới mức nào, sớm muộn “Cũng sẽ gặp họa đổ đấu, ăn miếng trả miếng, đây chính là nguyên tắc của lẽ trời. Vì vậy, đồ đấu mò vàng không đơn giản chỉ là đào trộm mộ cổ; cướp của người giàu chia cho kẻ nghèo, mà cũng ngầm hợp với lẽ hưng phế trong đại đạo.

Cũng như nước Đại Thanh này của chúng ta vậy, thời Khang Hy Càn Long tại vị, nước mạnh dân giàu thịnh thế nhường nào, vậy mà giờ đây thù trong giặc ngoài, ngổn ngang trăm mối, mắt thấy sắp diệt đến nơi rồi. Có câu, vật cực tất phản, có lúc hưng vượng tự nhiên cũng có khi suy vong, xét cho cùng, đều là một chữ “mệnh”.

Ba sư huynh đệ Kim Toán Bàn đều biết sư phụ Trương Tam Gia tài học bao la vạn tượng, không ngón nghề nào không tinh thông, còn sở trường chiêm bốc bói toán, đối với những lời này của ông chỉ thấy tựa hồ có thâm ý, nhưng nhất thời vẫn chưa thể hoàn toàn lĩnh ngộ, đành quỳ dưới đất cung kính lắng nghe.

Kế đó, Trương Tam Gia lại kể vế khởi nguyên của Mô Kim hiệu úy, cuối cùng nói tới các loại quy tắc, sự tích trong nghề. Ông nói, Mô Kim hiệu úy xưa nay không phân biệt sư đồ, ta truyền cho các con Tầm long quyết và thuật Phân kim định huyệt, đấy là thầy dạy cho trò, nhưng khi đeo bùa Mô Kim cùng đi đổ đấu thì không thể coi là thầy trò hay sư huynh đệ nữa, mà chỉ có thể coi là những kẻ đem tính mạng ra buộc chung với nhau, cũng chính là đồng bọn. Ba huynh đệ các con sau này ra ngoài đổ đấu, một là không thể phạm vào quy tắc của nghề, hai là không được tham luyến danh lợi, làm nhục thanh danh của Mô Kim hiệu úy; ba là phải chiếu cố lẫn nhau, chuyện lớn chuyện nhỏ đều phải thương lượng kỹ càng.

Sở dĩ dặn dò như vậy, là vì Trương Tam Gia rất hiểu mấy đệ tử này, mỗi người đều có sở trường sở đoản riêng. Liễu Trần từ nhỏ đã được tẩy cân hoán cốt, giỏi thuật khinh công, có thể phi thiềm tẩu bích, thủ đoạn Mô Kim lại càng cao cường, nhưng tâm tính từ bi, ra tay không cứng rắn, có phần quá rộng lượng khoan hòa, hành sự không thể quyết đoán kịp thời, đây là đại kỵ trong nghề trộm mộ.

Còn Cối Xay Sắt cũng có một thân bản lĩnh, gan lớn hơn trời, không sợ quỷ thần, luận giết người cướp hàng thì y là bậc hành gia, nhưng khí chất của kẻ làm giặc cướp quá nặng nề, tính tình hơi tí là bốc lên, làm việc tương đối cẩu thả, thực là một mối họa.

Kim Toán Bàn tinh thông dịch lý ngũ hành, là cao thủ trộm mộ, lại hiểu được các loại phương vật kỳ dị trên thế gian, tuy rằng tâm cơ nhanh nhạy, cẩn thận chu toàn, nhưng thân thủ lại không giỏi. Một thân công phu như Liễu Trần hay Cối Xay Sắt kia, không phải những kẻ nửa đường xuất gia như y có thể luyện ra được, muốn học nhảy cao, nhất thiết phải tắm trong chậu thuốc đun nóng từ năm ba tuổi, còn ngạnh công phu thì trễ nhất cũng phải bắt đầu luyện từ năm sáu tuổi. Kim Toán Bàn này xuất thân trong nhà thương lái, từ nhỏ đã sống trong nhung lụa, chưa từng khổ công luyện tập bao giờ.

Vì vậy, Trương Tam Gia mới bảo họ ba người kết thành đồng bọn, lấy sở trường bù cho sở đoản, chớ nên đơn độc hành sự. Sau đó, liền đem xẻng sắt, móng lừa đen, ô Kim Cang... nhất loạt truyền lại, để ba đồ đệ nhớ kỹ sáu chữ “hợp thì sống, chia thì chết”.

Sau khi Trương Tam Gia dặn dò hết những chuyện này, ba người bọn Kim Toán Bàn coi như đã là Mô Kim hiệu úy danh chính ngôn thuận, từ nay trở đi, ba người sẽ kết thành đồng bọn cùng đi đổ đấu. Sáng sớm hôm sau, Kim Toán Bàn dậy rất sớm, không rủ theo hai sư huynh đệ kia, mà một mình đến thỉnh an sư phụ.

Thì ra, Kim Toán Bàn vẫn luôn thắc mắc tại sao sư phụ lại hủy đi một nửa Thập lục tự m dương Phong thủy bí thuật, chỉ truyền cho m Dương Nhãn Tôn Quốc Phụ một quyển tàn thư, nên muốn hỏi rõ ràng trước khi rời núi. Vì chuyện này chắc chắn không đơn giản như Trương Tam Gia giải thích lúc đó.

Trương Tam Gia đang uống trà, nghe Kim Toán Bàn hỏi tới chuyện này, không trả lời ngay mà hỏi ngựợc lại xem Kim Toán Bàn nghĩ thế nào.

Kim Toán Bàn nửa đùa nửa thật nói, tính sư phụ thế nào, đệ tử hiểu quá rồi, xưa nay người nổi tiếng hào sảng, là bậc hào kiệt trong giới thảo mãng, ghét nhất là đám tiên sinh cổ lỗ giọng điệu chua cay, chắc hẳn tên m Dương Nhãn này không được sư phụ ưa thích, nên chỉ truyền cho hắn nửa quyển tàn thư, để hắn vể cả ngày ôm lấy quyển sách rách mà rầu rĩ, nghĩ vỡ đầu cũng không hiểu được sự ảo diệu trong nửa quyển còn lại.

Trương Tam Gia tính tình rộng rãi, quan hệ của ông với Kim Toán Bàn lại không phải tầm thường, nên cũng không có gì giấu giếm y, liền nói thẳng: “Kỳ thực, sư phụ cũng là kẻ rất cổ hủ gàn dở, chẳng qua xưa nay chưa bao giờ giảng đạo thuyết pháp đấy thôi. Nhưng nói thực, sư đệ m Dương Nhân Tôn Quốc Phụ này của con đích thực không thích hợp làm Mô Kim hiệu úy. Thập lục tự m dương phong thủy bí thuật là tâm huyết cả đời của ta, ngày ấy hủy đi một nửa, chỉ để lại nửa quyến tàn thư cho, cũng là hy vọng tuyệt nghệ của Mô Kim hiệu úy chúng ta không bị thất truyền từ đây.

Đạo lý bên trong, Trương Tam Gia đã nói từ trước, giờ lại giải thích kỹ càng. Căn nguyên của Mô Kim hiệu úy là Dịch, đạo sinh sinh biến hóa gọi là Dịch, vì vậy trong Dịch chỉ nói chuyện sinh, mà không nói chuyện khắc, vậy thế nào thì có thể “sinh”.

Sinh, một là chỉ sinh tồn, hai là chỉ hưng vượng. Trương Tam Gia từng thấy được quẻ cổ Chu Thiên trong mộ cổ thời Tây Chu, phát hiện cơ số ảo diệu khôn cùng, thêm vào đó, cả đời ông nhiều lần gặp kỳ ngộ, học được rất nhiều bản lĩnh, bèn kết hợp lại viết nên Thập lục tự m dương Phong thủy bí thuật; trình bày hết thảy lẽ âm dương, lý thuyết hình thế phong thủy trên đời vào trong đó, cũng có nghĩa là, thuật Mô Kim phát nguyên từ thời Hậu Hán, truyền đến đời Trương Tam Gia, đã đạt đến một đỉnh cao chưa từng có.

Nhưng quy luật phát triển của sự vật trong trời đất, là có lên ắt có xuống, có hưng ắt có vong, Trương Tam Gia thông hiểu quẻ cổ, đương nhiên hiểu rõ đạo lý này, cũng như vầng dương giữa trời, tỏa chiếu vạn vật, nhưng qua chính Ngọ, ánh dương sẽ càng lúc càng ảm đạm, dần dần khuất sau núi Tây; đến ngày mười lăm âm lịch, trăng tròn lơ lửng, nhưng tiếp đó sẽ từ từ khuyết dần.

Lý lẽ biến dịch của tạo hóa trong đạo trời, nói một cách đơn giản chính là vật cực tất phản, sự vật phát triển đến một giai đoạn nhất định, thì sẽ đi về một cực khác, vậy làm sao mới có thể khống chế sự suy thoái đây? Duy chỉ có cách duy trì trong trạng thái tàn khuyết mà thôi. Đây chính là nguyên nhân mà Trương Tam Gia hủy đi nửa quyển Thập lục tự m dương Phong thủy bí thuật.

Mô Kim bí thuật tuy bắt nguồn từ thời Hậu Hán, nhưng thật ra từ thời Chu đã có những khái niệm ban đầu, trải qua mấy nghìn năm được các đời Mô Kim hiệu úy từng bước hoàn thiện, trong thuật phong thủy cổ xưa dần dần dung hơp cả phong thủy thiên tinh, phong thủy thiền tông, Bát trạch minh kính, phong thủy Hình thế tông Giang Tây... sinh ra Tầm long quyết và thuật phân kim định huyệt là tập thành của các trường phái phong thủy.

Đến khi Thập lục tự m dương Phong thủy bí thuật xuất thế, lại càng bao la quảng bác, bao hàm cả quẻ cổ Chu Thiên, căn nguyên của bí thuật phong thủy, xét cứu vạn vật trong thiên địa, thực xứng với danh kỳ thuật quỷ thần khó đoán, không thể tiến thêm một bước nào nữa, đấy là điểm vật cực tất phản, từ nay trở đi, bí thuật Mô Kim chi có thể dần dần suy vi mà thôi.

Vì vậy, Trương Tam Gia hủy đi nửa quyển về bí thuật m dương, chỉ lưu lại cho đời sau nửa quyển Thập lục tự m dương Phong thủy bí thuật hòng giúp các Mô Kim hiệu úy sau này còn có cơ chấn hưng, tránh để từ sinh chuyển thành khắc, bị tạo hóa đố kỵ, đoạn tuyệt danh hiệu Mô Kim hiệu úy.

Trương Tam Liên Từ biết trộm mộ là nghề đem tính mạng ra liều, truyền nửa quyển Thập lục tự m dương Phong thủy bí thuật cho mấy người bọn Kim Toán Bàn đều không ổn, nên mới cố ý giữ cho m Dương Nhãn Tôn Quốc Phụ, để người này truyền lại bí thuật phong thủy của Mô Kim hiệu úy cho hậu thế, họa may tương lai còn có kì trùng hưng.

CHƯƠNG 70: KHỞI NGUYÊN

Kim Toán Bàn nghe xong lấy làm tâm phục khẩu phục, khen thầm Trương Tam Gia đã nhìn thấu được vạn vật trên đời. Ngày hôm ấy, y liền cùng Cối Xay Sắt và Liễu Trần cáo biệt sư tôn bắt đầu bước lên con đường Mô Kim hiệu úy.

Bấy giờ, đang là buổi loạn thế thay triều đổi đại, khắp nơi đều là thiên tai nhân họa, dân chúng phải chịu cảnh khốn đốn, ba người trước tiên lên Mang Sơn ở Hà Nam mở hàng, liên riếp trộm mấy ngôi mộ cổ, lấy những đó minh khí đáng tiền nhất ra bán đổi lấy tiền và lương thực cứu tế nạn dân. Mấy vụ làm ăn này của họ đều thuận buồm xuôi gió, từ đấy trở đi bắt đầu đi khắp Sơn Tây, Thiểm Tây, Hà Nam, Sơn Đồng, không biết đã đào trộm bao nhiêu sơn lăng mộ cổ.

Từ xưa đã có câu “Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên”, người sống ở đời, bất luận ngươi bôn ba nước lửa ra sao, cuối cùng thành công hay không, rốt cuộc vẫn đều do ý trời. Gặp phải vận tốt, thì thứ gì cũng mua bán được, việc làm ăn lên như diều gặp gió, không có mộ nào không trộm được; còn như phải lúc thời vận suy vi, thì cũng rút nhanh như nước thủy triều, đụng việc gì cũng lỗ vốn, phải đem cả tính mạng ra bù.

Thời vận có lúc lên lúc xuống, không thể khi nào cũng thuận lợi như thế được, có một năm nọ, đến lượt ba người bọn Kim Toán Bàn gặp vận rủi. Ba người nhắm được một ngôi mộ cổ ở gần Lạc Dương, bèn nai nịt vào núi, không may đụng phải một trận chiến, lũ bại binh tháo chạy khỏi chiến trường. Bại binh thế lớn, xua theo vô số nạn dân ùn ùn kéo đến tràn cả vào trong núi, khiến ba huynh đệ Kim Toán Bàn bị lạc nhau.

Liễu Trần và Cối Xay Sắt cứu một nhóm nạn dân, trốn vào mộ cổ trong rừng. Trong đám nạn dân ấy, có một phụ nữ mang thai chờ sinh, trong lúc hỗn loạn đã làm động đến thai khí, khiến đứa bé chui ra sớm. Chẳng ngờ, thai nhi này lại nằm ngược, mắt thấy sắp nguy đến nơi, một xác hai mạng nằm lại giữa chốn hoang sơn dã lãnh.

Liễu Trần xưa nay tâm địa nhân từ, làm sao nhẫn tâm nhìn người khác mất mạng trước mắt, ông nhìn ra trong cụm mộ cổ này có một ngôi mộ khí thế sâm nghiêm, bèn xem xét địa mạch, quan sát hình núi, đoán rằng trong mộ chắc chắn có suối Quan Tài, cũng chính là nguồn suối ở trong chỗ đặt quan tài dưới lòng đất... dân gian có thuyết cho rằng, đun sôi nước lấy ở suối Quan Tài có thể giúp sinh nở dễ dàng.

Liễu Trần và Cối Xay Sắt bàn bạc, nhất trí rằng cứu người khấn cấp, bèn nhanh chóng rút xẻng Toàn phong, đào bới như bay. Chỉ một nấm mộ đất, làm sao ngăn được hai cao thủ Mô Kim cùng đào bới, chỉ thoáng sau họ đã thấy nắp quan tài. Chẳng ngờ, trong quan tài của ngôi mộ nhà quê này lại ẩn giấu ám khí, hai người từng trải bao sóng to gió lớn, nay lại lật thuyền trong mương rạch, Cối Xay Sắt bị cơ quan đánh trúng tử huyệt, chết ngay tại chỗ.

Liễu Trần bây giờ mới nhớ ra, năm xưa khi hạ sơn, sư phụ từng dặn đi dặn lại... “hợp thì sống, phân thì chết”, giờ quả nhiên ứng nghiệm. Nếu như có Kim Toán Bàn ở đây, y tinh thông thuật số Ngũ hành Bát quái, chắc chắn có thể nhận ta trong quan tài có cơ quan, nhưng chỉ một ý nghĩ sai lầm đã gây thành họa lớn, giờ có hối hận cũng không kịp nữa rổi. Về sau, Kim Toán Bàn đến tìm hai người đồng bọn, thấy Cối Xay Sắt đã phơi xác tại trận, cũng tối sầm mặt mũi ngất đi, chỉ có thể nói là người không nên tranh với số mệnh. Hai người Liễu Trần và Kim Toán Bàn than thở một hồi, đoạn nuốt nước mắt hỏa thiêu thi thể Cối Xay Sắt, đem tro cốt bỏ vào bình sứ.

Liễu Trần và Kim Toán Bàn thương lượng, theo lời sư phụ : “hợp thì sống, phân thì chết” hai chúng ta từ nay nếu còn tiếp tục đi đổ đấu, chắc cũng không có kết quả tốt đẹp gì, xem ra không thể làm nghề này được nữa rồi.

Những năm này, Liễu Trần đã nhìn hết mọi nỗi khổ của dân gian, tự thấy bản lĩnh của mình có cao mấy cũng chẳng cứu tế nổi ức vạn thương sinh trong thiên hạ, biển khổ vô biên, quay đầu là bờ, ông định treo bùa Mô Kim, mang theo bình tro cốt của Cối Xay Sắt tới Giang Nam tìm ngôi chùa nào đấy xuất gia đi tu, ngày tháng sau này bầu bạn với thanh đăng cổ phật, sám hối những chuyện đã qua.

Kim Toán Bàn không muốn đi tu, lại không muốn tháo bùa, thầm nhủ, nếu không đổ đấu thì vẫn có thể theo nghề cũ, tiếp tục làm thương nhân buôn hàng kiếm lợi, kiếm được tiền cũng có thể phò nguy cứu khổ. Nghĩ đoạn, y bèn nói với Liễu Trần: “Một lá bèo trôi về biến lớn, nhân sinh hà xứ bất tương phùng. Hôm nay chúng ta từ biệt, sau này nhất định còn có ngày gặp lại, nếu huynh gặp phải phiền phức gì cần giúp đỡ, cứ đến đội thuyền Hoàng Hà tìm đệ.”

Sau khi từ biệt ở khu mộ cổ, Kim Toán Bàn quả nhiên chỉ hành nghề buôn bán ở lưu vực Hoàng Hà. Y vốn xuất thân trong nhà thương lái, chuyện buôn bán qua lại đã cực kỳ thành thạo, nhưng thiên tai liên miên bất tuyệt, việc làm ăn cũng không khá khẩm gì cho cam, huống hồ ăn trộm lâu ngày thành nghiện, vả lại trong thiên hạ này làm gì có nghề nào kiếm tiền nhanh bằng đổ đấu? Kim Toán Bàn cậy mình thông minh tuyệt đỉnh, lại chứng kiến Hoàng Hà lũ lụt tràn lan, người chết đói chết trôi khắp nơi, nên vẫn ngấm ngầm làm một vài vụ đổ đấu. Y hiểu đây là trò đem mạng ra đặt cược, nhưng không thể không làm, trong lòng cũng hơi hoang mang, vì vậy mỗi lần đều lên kế hoạch hết sức chu toàn, không chắc chắn vạn phần thì tuyệt đối không ra tay.

Có một năm, Kim Toán Bàn đi đánh hàng, ngồi thuyền xuống hạ du, bấy giờ gặp đúng lúc nước Hoàng Hà dâng cao, dòng chảy cuổn cuộn, Kim Toán Bàn đang ngồi trên boong nói chuyện phiếm với mấy khách thương, đột nhiên trời đất biến sắc, vầng dương trên không tựa như mất hồn, chỉ còn lại một cái bóng tái nhợt, kế đó cả mặt trời cũng không còn tăm tích, mấy đen từ khắp bốn phía đổ về, mặt sông nổi sương mù mờ mịt, còn kèm theo những hạt mưa to như hạt đậu và mưa đá đổ xuống.

Chủ thuyền kêu than không ngớt, thiên địa thất sắc, chứng tỏ con rồng già dưới thủy phủ kia bị kinh hãi, đây là điềm Hoàng Hà sắp dâng lũ, vội vàng cho thuyền chạy về phía bến cảng gần đó. Thuyền hàng đội cơn mưa sầm sập vừa dừng lại, nước lớn phía sau liền ập đến, chỉ thấy trên thượng du sóng lớn đục ngầu, thế nước tựa hồ nối liền với bầu không, chẳng thể nào phân biệt được đâu là nước lũ, đâu là trời là đất nữa. Mưa rào, mưa đá giữa cơn cuồng phong, quyện lấy bùn đất dưới đáy sông, rầm rập đổ xuống, cả thế giới như chìm vào một buổi hoàng hôn đen tối, thật đúng là “Hoàng Hà dâng lũ đất trời tối, ba đào hồng thủy cuồn cuộn trôi”.

Kim Toán Bàn thấy mưa lớn sầm sập, bốn phía càng lúc càng tối, biết rằng phen này gặp phải họa lớn, dù có bản lĩnh bằng trời cũng chẳng kháng cự nổi uy thế của dòng Hoàng Hà đang nổi giận. Y bỏ mặc hàng hóa chất đầy khoang, cùng mọi người nhảy xuống thuyền, co cẳng chạy lên chỗ cao. Trong đám người chạy nạn ấy, có mấy kẻ chậm chân, lập tức bị dòng nước đục ngầu cuốn đi mất, chết trong con nước, đến xác cũng chẳng tìm về được.

Khi xưa, Trương Tam Gia từng nói thân thủ của Kim Toán Bàn không ổn, nhưng còn phải xem là so sánh với ai, đem so với Liễu Trần và Cối Xay Sắt thì y kém hơn rất nhiều, nhưng dẫu sao cũng là tay lão luyện trong nghề mò vàng đổ đấu nhiểu năm, đem so với người bình thường, Kim Toán Bàn cũng có thể xếp vào hàng rất nhanh nhẹn. Bị con lũ đuổi dồn, Kim Toán Bàn chạy thục mạng trong mưa lớn, cuối cùng cũng lên được một ngọn đồi cao.

Kim Toán Bàn chạy lên được đồi cao, nằm rạp nhìn xuống dưới, chỉ thấy mây đen dần tan, bầu trời phía xa xa tựa như một mảng bùn đất màu vàng đen, bên trong ẩn hiện những tia sáng đỏ sẫm. Hoàng Hà đã nuốt trọn các thôn trang thuyền bè bên bờ với khí chế không gì cản nổi, những người và trâu bò dê lợn bị nướclớn cuốn đi vùng vẫy nổi trôi theo con sóng, tất cả đều trở thành thức ăn của lũ binh tôm tướng cá dưới thủy phủ. Người nào may mắn chạy lên được chỗ cao đều mặt mày xám xịt như chì không ngừng kêu cha gọi mẹ, nhưng mọi âm thanh trên thế gian, đều đã bị tiếng nước ầm ầm kia nhấn chìm, cảnh tượng thê thảm không tả xiết.

Trận lũ này đến cực nhanh, dòng sông đục ngầu suốt hai canh giờ mới lắng xuống, Kim Toán Bàn nhặt được cái mạng từ cõi chết trở về, tinh thần chưa kịp trấn định lại sau phen kinh hồn bạt vía, rờ lại đồ đạc trên người mới phát hiện chiếc ô Kim Cang sau lưng đã biến mất.

Khi ấy, Trương Tam Gia để cho bọn họ tổng cộng hai chiếc ô Kim Cang, một là cổ vật nghìn năm của Mô Kim hiệu úy truyền lại, chiếc này ở trong tay Liễu Trần. Chiếc ô Kim Toán Bàn mang theo bên mình là đồ chế tạo thời Minh, công nghệ và chất liệu đều giống hệt như chiếc ô cổ, cũng là một món khí giới phòng thân cực kỳ hiếm có. Chắc chắn trong lúc bỏ chạy tháo thân vừa nãy, y đã để rơi mất ô Kim Cang, giờ chắc hẳn đã bị nước cuốn đi rồi, làm sao tìm lại được, đành nghĩ cách tìm thợ giỏi làm một chiếc khác vậy.

Kim Toán Bàn chủ ý đã định, bèn men theo dốc núi đi xuống, định mua chút đồ ăn của dân trong vùng, nhưng sau cơn đại nạn, dân chết đói nằm la liệt khắp chốn, ruộng vườn nhà cửa mất quá nửa, dù có tiền cũng chẳng mua nổi cái ăn. Y đói cồn cào ruột gan, sắp ngã vật ra tới nơi thì trông thấy rất nhiểu người đi về phía bờ sông, nói là muốn xem Long vương gia. Kim Toán Bàn lấy làm lạ, bèn theo dòng người đi tới.

Vừa ra bờ sông, ngay cả Kim Toán Bàn kiến thức rộng rãi cũng không khỏi giật mình kinh hãi. Chỉ thấy, trên dốc chỗ dòng sông uốn khúc có một con cá lớn mắc cạn, vẫn chưa tắt thở, đầu cá còn lớn hơn ngôi nhà dân bình thường, những cái vảy lớn khắp người trông như lá thép, những chỗ không lấm bùn ánh lên sắc xanh đen, mắt cá trợn tròn, đầu đuôi quẫy loạn, cái miệng đen ngòm mở ra khép vào, tanh hôi không thể tả. Nhìn kích cỡ cái miệng ấy, sợ rằng cả nghìn cân đại hoàng cũng không đủ cho nó xơi một miếng.

Dân chúng trong vùng đều sợ nhũn người ra, run rẩy quỳ trước mặt con cá, thắp hương dập đầu không ngớt, khẩn cầu Long vương gia nguôi giận, mau về thủy phủ. Nhiều người bước lên đẩy, định đưa Long vương gia trở lại Hoàng Hà, nhưng cũng chỉ như bọ ngựa lay cột, không làm nó nhúc nhích chút nào cũng không đi đâu tìm được trâu ngựa tới kéo, cả bọn chỉ biết trơ mắt nhìn Long vương gia hít vào thì ít thở ra thì nhiều, cuối cùng trợn mắt chết bên bờ nước.

Kim Toán Bàn xem một lúc lâu, sau đó lại đến nghe ngóng chỗ dân chúng đang khấn lạy Long vương gia một hồi, tìm đường vào huyện thành ăn chút gì đó. Nghe người trong vùng nói trăm năm qua chứa gặp trận lũ nào thế này, tuy đến nhanh rút cũng rất nhanh, nhưng lại gây ra thiệt hại nặng nề, chẳng những thế Long vương gia ở thủy phủ Hoàng Hà còn chết trên bờ đây tuyệt đối không phải điềm lành, phía sau nhất định còn tai họa lớn hơn nữa. Hoàng Hà nước dâng, dìm chết không biết bao nhiêu người và súc vật, nơi này vốn là đất chó ăn đá gà ăn sỏi; trong vòng mười năm nguyên khí khó mà hồi phục, không biết còn bao nhiêu người nghèo phải chết đói nữa đây.

Kim Toán Bàn nghe được những lời này, bèn động lòng trắc ẩn, mắt thấy thiên tai vô tình làm hại lê dân trăm họ hai bên bờ sông, y thầm nhủ: “Sau trận đại họa này, chắc chắn người chết đói sẽ đầy đồng, giờ đây thế đạo suy bại, quan phủ bất tài, ngoài ta ra, còn ai chịu đứng ra lo liệu nữa đây?” Trong lòng có ý thu xếp lương thực cứu trợ, nhưng hàng hóa của y đã thất lạc trong dòng nước, mất cả tiền vốn, trên người tuy còn một chút tiền bạc, nhưng đối mặt với hàng nghìn hàng vạn dân gặp nạn thật chẳng khác nào muối bỏ biển. Y liền nảy ra ý định đổ đấu, tính toán sẽ làm một vụ thật lớn.

Kim Toán Bàn nhớ đến một sự kiện mấy năm trước, khi ấy y biết được từ miệng một vị khách thương, ở Long Lĩnh cách nơi này không xa, có một lăng mộ lớn thời Đường nằm trong khu vực dốc Xà Bàn quanh co hiểm trở, nếu có thể trộm được một hai món báu vật hoàng gia trong ấy thì không cần phải lo việc xoay xở tiền bạc nữa. Có điều, mặc dù y tinh thông Lăng phổ, nhưng lại không thể suy đoán ra được thời Đường có lăng mộ hoàng thất nào xây ở vùng này.

Y ở khách sạn nghe ngóng vài tin tức, thăm dò một số đầu mối, hỏi rõ đường đi tới Long Lĩnh rồi vào núi tìm mộ cổ, quả nhiên thấy hình thế trong núi bất phàm, tuy có vụn vặt tản mạn, nhưng không thể che giấu được khí tượng rồng bay phượng múa, theo lý phải là một nơi có lăng mộ hoàng gia. Có điều, gần đây có mấy thôn làng rải rác, thường có người chăn dê chăn bò lang thang quanh quẩn, muốn đào hang trộm dẫn xuống địa cung mộ cổ thì dễ, nhưng khó che giấu được tai mắt.

Kim Toán Bàn nghĩ ra một cách, lại trở về bờ sông Hoàng Hà, thấy thi thể con cá lớn vẫn nằm trên bờ sông, bèn nói với dân chúng rằng y nguyên xuất tiền xây miếu Long vương thờ phụng xác cá để cầu thần sông phù hộ nơi này được mưa thuận gió hòa, đồng thời bịa ra một cái cớ, để mọi người tin rằng miếu Ngư Cốt nhất định phải xây trong núi, bằng không sẽ lại xảy ra thủy tai lần nữa.

Xây miếu, đắp nhà, trồng hoa màu để che dấu vết tích đào trộm cổ mộ là thủ pháp thường dùng của Mô Kim hiệu úy, dân quê không hiểu sự tình, tự nhiên tin là thật. Khi ấy, Kim Toán Bàn xuất tiền, dân chúng ra sức, vận chuyển hài cốt con cá lớn vào trong núi, xây thành một ngôi miếu Long vương.

Tranh thủ khoảng thời gian xây miếu, Kim Toán Bàn cũng bắt tay chuẩn bị đổ đấu, dựa theo kinh nghiệm của y mà phán đoán, quy mô mộ cổ Long Lĩnh này không nhỏ, truyền thuyết của dân địa phương về ngôi mộ cổ này cực kỳ thần bí kỳ dị, hẳn cũng không phải chốn dễ đi. Không có ô Kim Cang hộ thân trong lòng Kim Toán Bàn cứ cảm thấy không được chắc chắn cho lắm, nhưng chiếc ô còn lại ở trong tay Liễu Trần, hai người ly biệt nhiều năm không hề liên lạc gì, chính y cũng không biết đồng bạn năm xưa giờ ở đâu, đành lên thuyền đi Bảo Định ở Hà Bắc, tìm danh gia “Ám khí Lý” đặt làm một chiếc mới.

“Ám khí Lý” là một trong các thủ lĩnh ở Phong Oa sơn, tay nghề xuất chúng, có thể chế tạo đủ loại khí giới, nhưng ông ta xem xong bản vẽ và cách chế tạo ô Kim Cang, cũng cảm thấy hết sức khó khăn, đáp rằng ô Kim Cang này không phải vật thường, một số nguyên vật liệu không dễ gì kiếm đủ, hơn nữa còn yêu cầu công nghệ và hỏa hầu hết sức phức tạp, ít nhất phải một năm mới làm xong.

Kim Toán Bàn đang vội đi trộm mộ cổ Long Lĩnh, không thể đợi được sáu tháng nửa năm, lại thêm nhiều năm trôi qua, lời dặn dò năm xưa của Trương Tam Gia đã phai nhạt dần trong tâm trí, y thầm nhủ, sau khi Cối Xay Sắt thiệt mạng, một mình ta từng nhiều lần trộm những mộ lớn, đều không hề sơ sẩy, chỉ cần lúc đổ đấu cẩn trọng một chút, với kiến thức của ta, dẫu có gặp cơ quan ám khí chắc cũng đủ ứng phó, không xảy ra sai sót gì lớn, làm sao mất mạng trong ấy được? Nhưng lúc này, cái bàn tính bằng vàng ròng xưa nay y vẫn mang theo không rời một bước bỗng nhiên nứt toác ra, những hạt tính bằng vàng rơi đầy đất. Cái bàn tính này là bảo vật gia truyền nhà y, vô duyên vô cớ bị hỏng, đương nhiên đau lòng hết sức. Y ngầm cảm nhận được, đây không phải điềm tốt lành gì, chợt nảy ra dự cảm Diêm vương muốn thu lấy cái mạng này của mình rồi.

Kim Toán Bàn thông minh một đời, mọi chuyện đều suy xét cặn kẽ, nhưng lần này quả là khách tang đến nhà, họa tinh ập xuống, như bị ma xui quỷ khiến, dù Quan m Bổ Tát hiển linh cũng không thể khuyên y quay đầu được. Y dứt khoát dằn lòng xuống, thầm nghĩ, là phúc thì không phải họa, là họa thì không tránh được, nếu đã đến số chết thì ở trong nhà đóng cửa ngồi một chỗ cũng không bệnh mà toi đời; nếu mạng vẫn chưa tuyệt, thì núi đao biển lửa cũng về được, toàn thân từ trên xuống dưới không tổn hại chút gì, run rẩy sợ hãi thắp hương cầu bồ tát, chi bằng cứ làm việc nên làm, rổi y lại nghĩ: “Thảng như trộm được châu báu trong mộ cổ Long Lĩnh, cứu tế nạn dân, tích đức hẳn cũng không ít, nếu như có thể hoàn thành được việc thiện lớn này, trong cõi u minh nhất định sẽ có quỷ thần tương trợ, nói không chừng còn tăng thêm tuổi thọ cũng nên”.

Y cảm thấy ngôi mộ cổ thời Đường ấy tuy lớn, nhưng có thể suy đoán ra được kết cấu địa hình bên trong, chắc chắn đơn thân độc mã cũng trộm được đồ quý bồi táng, nhưng cũng nghĩ tới khả năng mình gặp bất trắc trong mộ, vạn nhất có gì sơ sẩy, há chẳng phải sẽ lặng lẽ chết đi hay sao ? Trong quan niệm truyền thống, thanh danh thường quan trọng hơn cả tính mạng, đúng như câu “hổ chết để da, người ta chết để tiếng”, nên Kim Toán Bàn mới đem hết những chuyện từng trải trong đời viết vào cuốn sổ ghi nợ, kể cả chiếc bàn tính bằng vàng ròng bị hỏng cũng bỏ vào trong tráp niêm phong, tạm thời gửi lại ở chỗ “Ám khí Lý”, hẹn khi nào tới lấy ô Kim Cang sẽ mang đi một thể.

Hết

* * *

1. Một câu thành ngữ hiện đại, không rõ xuất xứ, vì được Mao Trạch Đông dẫn dụng trong một bài phát biểu ở hội nghị TW Đảng Cộng sản Trung Quốc mà trở nên thông dụng.

[2]. Tổ tiên của Chu Văn Vương.

[3]. Chu Nguyên là đô thành thời kỳ đầu của Tây Chu, dỉ chỉ ngày nay vẫn còn ở

huyện Phù Phong và huyện Kỳ Sơn tỉnh Thiểm Tây.

1. Câu trong bài Thủy điệu ca đầu của Tô Thức. Nguyên văn: “Cao xứ bất thắng hàn”, ý là người ở ngôi cao cũng không tránh khỏi lạnh lẽo.

[5]. Ý chỉ ba triều Hạ, Thương, Chu.

[6] Một loại bẫy mìn, thường có mồi (chiến lợi phẩm, con tin...) để dụ cho nạn nhân chạm vào chốt lẫy gây phát nổ.

1. Di chỉ kỉnh đô cuối đời Thương (nay ở gần thôn Tiểu Đồn An Dương tỉnh Hà Nam, Trung Quốc. Năm 1899 phát hiện chữ giáp cốt ở đây).

[8]. Sấm trong lòng bàn tay

[9] Một câu danh ngôn của Tưởng Gỉớỉ Thạch, nguyên văn là: Khỉ chưa đến thời khắc hoàn toàn tuyệt vọng vớỉ hòa bình, tuyệt không được từ bỏ hòa bình, khi chưa đến thời điểm mấu chốt phải hy sinh, tuyệt không thể tùy tiện nhắc đến hai chữ hy sinh.

2. Năm chỉến sĩ anh hùng của Bát Lộ quân trong kháng chiến chống Nhật, thà chết cũng không chịu đầu hàng, bị quân địch bao vây, đạn dược đã hết, họ liền ném đá cản bước quân địch, rồi hủy hết vũ khí, liều mình nhảy xuống vách núi. Khi nước Trung Quốc mới thành lập, sự tích anh hùng này được dựng thành phim, và đưa vào sách giáo khoa tiểu học.

[11] Thuyết Nhất nguyên duy vật được phát triển bởi Marx và Engels, cho rằng toàn bộ hiện thực khách quan (kẻ cả xã hội loài người) về bản chất là vật chất, ý thức chỉ là kết quà cùa sự phát triển và sự phản ánh của vật chất vận động.

[12] di cư theo một tuyến đường nhất định.

1. Chữ quan trong Quan Tài.

2. Chữ quan có nghĩa là nhìn, xem.

[15] • Mười sáu quẻ Chu Thiên hoàn chỉnh.

[16] Công cuộc xây dựng bốn hiện đại hóa của Trung Quốc bao gồm: hiện đại hóa công nghiệp, hiện đại hóa nông nghiệp, hiện đại hóa quân sự, hiện đại hóa khoa học kỹ thuật.

[17] Tiếng lóng giang hồ. Trong Thủy Hử, hồi 37, khi Tống Giang lần đầu gặp Trường Goành trên thuyền. Trương Hoành có hỏi Tống Giang và hai tên công sai áp giải là muốn ăn mì vằn thắn hay mì dao phay. Mì vằn thắn là cởi hết quần áo nhảy xuống sông tự tử, còn mì dao phay là mỗi người ăn một dao rồi ném xác xuống sông.

[18] Rổng nhảy qua vực

[19] Trong địa cung của lăng tầm bậc đế vương, thường có bệ đá kê quan tài bằng đá trắng, chính giữa là một lỗ hình chữ nhật, bên trong chứa đất vangfm đây là xẻng đất đầu tiên xúc lên lúc chọn nơi xây mộ. Hốc chứa đất ấy gọi là giếng vàng, là điểm mốc cơ bản của toàn bộ bố cục kiến trúc lăng tầm. Xung quanh và bên trong quan quách có bạch ngọc, hoặc trong miệng người chết ngậm ngọc thạch, gọi là táng ngọc. Sở dĩ làm như vậy, là vi người xưa cho rằng giếng vàng có thể nối liền âm dương, trao đổi sinh khí, còn táng ngọc có thể giữ cho thi thể không bị thối rữa. Thời Minh, Thanh, “giếng vàng táng ngọc” được coi là nghi thức mai táng cao cấp nhất.

1. Tiên ở trong bụng

1.Hai câu này nằm trong bài thơ Nhân dân giải phóng quân chiếm lĩnh Nam Kinh của Mao Trạch Đông. Chính xác mà nói, câu trước “Thiên nhược hữu tình thiên diệc lão" là một câu trong bài Kim đồng tiên nhân từ Hán ca của thi nhân Lý Hạ thời Đường, Mao Trạch Đông dẫn lại và thêm vào câu sau. Ý đại khái là: “Trời mà cũng có tình cảm thì trời cũng sẽ già đi, xu thế phát triển của thế gian chính là sự đổi thay”.

1.Một hình thức phê đấu thịnh hành thời kì đầu Cách mạng Văn hóa. Trong đại hội phê đấu, người bị phê đấu bị ấn chặt đầu, cổ, lưng xuống khiến thân trên và thân dưới tạo thành một góc 90 độ hoặc thậm chí hơn thế, đồng thời hai cánh tay vươn ngược ra phía sau hoạc sang hai bên, trông như cánh của máy bay phản lực, đầu chúi xuống đất, mông vểnh lên trời, trước ngực đeo tấm bảng đen.

1. Thị trấn nằm ở phía Đông Mông cổ, cách Ulan Bator 290km. Năm 1971, nhân vật số 2 của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, Lâm Bưu bỏ chạy sang Liên Xô, trên đường đã bị rơi máy bay tại thị trấn này.

1. Bát môn gồm có: Hưu môn, Sinh môn, Thương môn, Đỗ môn, Cảnh môn, Tử môn, Kinh môn và Khai môn. Tám cửa này là từ tám phương vị của Bát Quái mà ra. Đây là một trong những căn cứ dùng để suy đoán cát hung trong Kỳ Môn Độn Giáp.

1. Tức sách Xuân Thu.

1. Ý chỉ việc đăng cơ làm hoàng đế. Thời xưa coi phương Nam là chí tôn, còn phương Bắc tượng trưng cho thất bại, thần phục. Cung điện và chùa miếu đều xây theo hướng chính Nam, chỗ ngồi của bậc đế vương cũng là lưng hướng về phương Bắc, mặt hướng về phương Nam.

1. Quan này là chữ quan trong quan tài, còn chữ quan trong Quan Sơn thái bảo được Chu Nguyên Chương ngự phong là quan trong quan sát.

1 • Tranh vẽ cảnh đốt đuốc đỉ đêm

1. Nguyên văn: Điền viên tương vu, hồ bất quy. Đây là một câu trong bài Quy tiên lai từ cùa Đào Uyên Minh.

1.Michelangelo Antonioni, đạo diễn người Ý. Năm 1972, ông quay một bộ phim về Trung Quốc, trong đó có một vài cảnh bất nhã, và bị phản đối ở Trung Quốc.

1. Vào buổi sớm mùa xuân hoặc mùa hạ, không khí ở độ cao thấp ổn định, rất ít bụi, nếu có ráng mây rực rỡ chứng tỏ rằng trong không khí ở phía Đông có rất nhiều giọt nước tạo thành tầng mây, thời tiết xấu đang áp dần đến, đây chính là nguyên nhân “ráng sớm đừng ra cửa”; chập tối, vì được mặt trời chiếu sáng cả ngày, nhiệt độ tương đối cao, tỷ lệ nước ờ vùng không khí ở độ cao thấp thông thường không cao, nhưng vì sự đối lưu trở nên yếu, bụi bặm có thể sẽ tập trung một lượng lớn ở tầm thấp. Nếu xuất hiện ráng mây rực rỡ, thì chủ yếu là vì những hạt khô như bụi tán xạ ánh mặt trời tạo nên, điều này chứng tỏ không khí phía Tây tương đối khô. Theo quy luật khí lưu di chuyền từ Tây sang Đông, trong tương lai gần thời tiết bản địa sẽ không xấu đi.

1.Thợ mộc cao cấp, tương đương với kiến trúc sư.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro