Vu tru

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Bí ẩn về chất đen trong vũ trụ

Mặc dù hiện hữu trong 90% không gian vũ trụ nhưng chất đen vẫn còn là một bí ẩn trong suốt 30 năm nay. Vera Rubin, người đã tiên đoán về sự tồn tại của chất đen vào năm 1975 hiện không thể kiên nhẫn nữa. Người phụ nữ đi tiên phong trong ngành thiên văn học này đã 80 tuổi...

Hàng nghìn nhà nghiên cứu không thể ngồi yên một chỗ sau thành công trong những bước đi đầu tiên của « LHC » (Large Hadron Collider) - máy gia tốc hạt nhân của CERN (Tổ chức nghiên cứu hạt nhân châu Âu). Họ tranh luận về "hạt proton" khổng lồ này mong thúc đẩy nhanh quá trình nghiên cứu. Đặc biệt là những người đã tìm cách giải đáp một trong những câu đố bí ẩn nhất của thiên văn học từ 3 thập kỉ nay, đó là bản chất của chất đen. Chất đen bao trùm toàn vũ trụ, thậm chí xâm nhập vào cả cơ thể của chúng ta song lại gây nản lòng mọi ý định nghiên cứu. Điều đó có thể khiến cho bất cứ nhà thiên văn học nào phát điên.

Vera Rubin là một trong những nữ thiên văn học đầu tiên khám phá ra sự tồn tại của chất đen vào giữa những năm 70. Dù gương mặt đã mang nhiều nếp nhăn nhưng não của Vera Rubin vẫn là một bộ máy đáng gờm. Ở tuổi 80 bà vẫn không để cho đầu óc mình nghỉ ngơi. Bà từng nhận được rất nhiều phần thưởng và hiện vẫn làm việc tại Viện Khoa học công nghệ Carnegie của Washington. Khi mới 14 tuổi, bà đã có thể tự làm được chiếc kính viễn vọng đầu tiên cho mình. Năm 22 tuổi, khi vừa sinh con được một tháng, bà đã viết bài cho mục xã luận với giả thiết rằng thế giới quay quanh một trục. Bà còn khẳng định thiên hà không tồn tại ngẫu nhiên trong vũ trụ mà kết tụ lại với nhau thành từng mảng. Bà phải mất 15 năm mới được mọi người công nhận giả thuyết trên.

Ngay từ nhỏ Vera Rubin đã rất say mê với sự chuyển động của các ngôi sao; tới những năm 70, khi Kent Ford phát minh ra quang phổ ký khuếch đại ánh sáng của các vì sao thì bà đã dùng quang phổ kí để đo vận tốc quay của thiên hà. Ngạc nhiên tột độ, bà khẳng định phần bên ngoài thiên hà quay nhanh như ở tâm. Bà tiếp tục quan sát và đi đến kết luận tất cả các thiên hà đều chuyển động giống nhau. Tuy nhiên, điều đó trái với định luật vạn vật hấp dẫn của Newton, theo đó khi khoảng cách tăng lên, lực hấp dẫn sẽ giảm xuống kéo theo vận tốc quay cũng giảm dần. Để tìm ra một đáp án thích đáng cho bí ẩn của thiên hà này, Vera đã phải nhờ đến vật chất đen. Bà hình dung rằng mỗi thiên hà nằm ở tâm một khối các hạt vô hình có khối lượng nặng gấp 10 lần. Như vậy, tất cả các ngôi sao dù ở cách xa nhau nhưng vẫn ở trong cùng một cấu trúc rộng lớn, vì thế chúng gần như chịu tác dụng của cùng một lực hút. Đó là lời giải thích về vận tốc quay bằng nhau của các ngôi sao trong cùng một thiên hà.

Năm 1975, các công trình nghiên cứu của nữ thiên văn học người Mỹ rất được quan tâm và chẳng bao lâu sau giới khoa học đã phải công nhận những lý thuyết của bà trước hàng loạt bằng chứng xác đáng. Năm 2000 tiến sĩ người Pháp Yannick Mellier đã lập một sơ đồ về chất đen. Rubin đã thành công nhưng bà vẫn không quên tôn vinh nhà thiên văn học Fritz Zwicky, người đầu tiên đề cập tới chất đen trong những năm 30. Khi đó, vấn đề này không được mấy ai xem xét một cách nghiêm túc.

Đâu là bản chất của thứ vật chất kì lạ vốn không phát quang cũng không phát ra sóng điện từ nhưng lại có khối lượng tương đối lớn này? Một cuộc săn tìm chất đen với quy mô lớn nhanh chóng được thực hiện, huy động đông đảo các nhà khoa học nghiên cứu về thiên văn học và vật lí phân tử. Vera Rubin nói: « Năm 1980, tôi đã từng phát biểu rằng sau 10 năm nữa các nhà vật lí học phân tử sẽ trả lời chúng ta». Vậy mà 30 năm sau, bức màn bí ẩn vẫn chưa được vén lên.

Các nhà vật lí đã bắt đầu công cuộc nghiên cứu từ vật chất thông thường và cho rằng loại chất đen vô hình này có thể là những khối vật chất thông thường dày đặc nhưng phát ra thứ ánh sáng quá yếu nên không thể nhìn thấy được. Những khối vật chất này được thể hiện bằng hình ảnh các ngôi sao nhỏ (nâu hoặc trắng), những lỗ tối và các ngôi sao kiểu neutron. Người ta bắt đầu đếm các thiên thể đó nhưng con số cuối cùng lại khiến họ thất vọng. Những thiên thể này chỉ chiếm 10% trong khối đen.

Những hạt lạ

Tương tự như vậy, khối khí lơ lửng trong những khoảng trống giữa các vì sao có khối lượng quá nhẹ. Hi vọng cuối cùng: đó là chuyển động của các hạt lạ được hình thành từ một vật chất hoàn toàn không giống như nguyên tử. Có đến hàng loạt các loại hạt lạ. Để vật chất hoá chất đen, người ta nghĩ ngay đến hạt neutrino bởi neutrino tương tác yếu với các nguyên tử thông thường. Nhưng neutrino lại ở cách xa nhau. Rồi lần lượt các hạt khác được nghiên cứu nhưng cuối cùng cũng bị loại bỏ. Hiện nay, hạt khổng lồ tương tác yếu « WIMP » (weakly interacting massive particules) đang được chú ý đến. Rất nhiều nhóm nghiên cứu trên thế giới đang theo đuổi loại hạt này. Vì không thể nghĩ đến việc quan sát trực tiếp « WIMP » nên các nhà nghiên cứu thử tiến hành nghiên cứu xem chúng có phát sáng và nhiệt độ có tăng lên không khi tương tác với một nguyên tử thông thường. Để làm được điều đó, các nhà nghiên cứu phải thật cẩn trọng nhằm không gây ảnh hưởng gì. Uỷ ban năng lượng hạt nhân Pháp cũng lắp đặt một phòng thí nghiệm trong hầm Modane để tiếp tục công trình có tên Edelweiss. Các « bẫy » để phát hiện « WIMP » cũng được đặt dưới nước, thậm chí dưới các vỏ băng. Hiện tại, công việc nghiên cứu dường như vẫn chưa mang lại kết quả gì. Các nhà nghiên cứu hầu như chưa tìm ra bằng chứng nào xác thực để làm sáng tỏ vấn đề.

Nhà nghiên cứu người Mĩ Jonathan Feng thuộc Đại học California tại Irving có ý tưởng sử dụng những máy gia tốc hạt để tạo ra chất đen, đặc biệt là máy gia tốc LHC của CERN. Khi va chạm mạnh vào hạt proton để gây nổ, máy gia tốc này được xem là tái tạo các điều kiện ban đầu để gây nổ và từ đó phun ra các chất trong đó có chất đen. Đó là một ý tưởng không tồi. Nhưng cũng không thể vội vàng, phải đợi nhiều năm nữa mới có thể có kết quả cụ thể. Tuy nhiên, thành công không thể chắc chắn 100%. Một số nhà vật lí cho rằng các hạt được nghiên cứu có thể ẩn trong bí mật của vũ trụ và thậm chí ở cả các nơi khác. Chũng ta hãy chờ xem!

Xem xét lại định luật Newton

Nghiên cứu thêm về thiên hà, hai nhà vật lí thiên văn Jean Michel Alimi và André Fuzfa lớn tiếng khẳng định rằng những hạt được cho là chất đen không tuân theo định luật vạn vật hấp dẫn của Newton. Đúng là tà thuyết ! Nhưng Jean Michel Alimi, Giám đốc phòng thí nghiệm vũ trụ thuộc đài thiên văn Meudon và André Fuzfa thuộc Đại học Namur lại không bận tâm đến điều đó. Họ cho rằng thuyết « AWE » (abnormally weighthing energy-trọng lượng bất thường) có thể giải thích sự phát triển của vũ trụ mà không cần đến năng lượng đen, một bí ẩn khác của ngành thiên văn học. Nếu họ có lí thì đây có thể sẽ là một thảm hoạ thực sự.

Một giả thiết khác còn không tưởng hơn: nếu chất đen không tồn tại ! Và nếu như Vera Rubin đã đi sai đường thì sao? Nên nhớ rằng bà đã khám phá ra chất đen và những quan sát của bà rất ăn khớp với định luật vạn vật hấp dẫn của Newton. Hai nhà vật lí thiên văn người Israen, Mordehai Milgrom và Jacob Bekenstein tin chắc như đinh đóng cột rằng đơn giản chỉ cần xem lại định luật của Newton về vật chất thông thường. Với khoảng cách lớn, lực hấp dẫn có thể giảm ít hơn như định luật Newton khẳng định. Và vì vậy, sẽ là bình thường nếu các ngôi sao phía ngoài quay nhanh. Nhưng thuyết động lực học Newton bổ xung- « MOND » (modifed Newtonian dynamics) của họ vẫn đang bị phản đối vì không phù hợp với các quan sát thiên văn khác.

Ở tuổi 80, Vera vẫn tham gia tích cực vào tất cả các mặt trận lí thuyết trên. Tuy nhiên, bà rất muốn được biết đáp số trước khi rời xa thế giới này. Trong lúc chờ đợi, bà vẫn tiếp tục công trình nghiên cứu của mình về chuyển động của các ngôi sao.

Theo VieTimes

Bí Ẩn - Phần 1: Lỗ Hổng Thời Gian

Những năm gần đây, giới học giả chuyên nghiên cứu bí ẩn siêu nhiên ở châu Âu và Mỹ xôn xao bàn tán về các hiện tượng có liên quan đến "lỗ hổng thời gian" và sự mất tích - tái hiện một cách thần bí. Người ta cố gắng vận dụng mọi kiến thức để giải thích được những hiện tượng này.

Ngày 14/4/1912, con tàu thủy siêu cấp Titanic trong chuyến đi đầu tiên đã gặp nạn do va phải băng, khiến 1.500 người mất tích. Vậy mà vào giữa năm 1990 và 1991, tại khu vực gần núi băng Bắc Đại Tây Dương, người ta đã phát hiện và cứu sống hai nhân vật đã biến mất cùng con tàu Titanic gần 80 năm về trước.

Sự trở về của Wenni Kate

Ngày 24/9/1990, con tàu Foshogen đang đi trên vùng biển bắc Đại Tây Dương. Thuyền trưởng Karl đột nhiên phát hiện một bóng người từ vách núi. Qua kính viễn vọng, ông nhìn rõ một phụ nữ đang dùng tay ra hiệu cấp cứu. Người phụ nữ này mặc trang phục quý tộc Anh thời kỳ đầu thế kỷ 20, toàn thân ướt sũng và rét run cầm cập. Khi được cứu lên tàu, trả lời câu hỏi của thủy thủ, cô nói: "Tôi tên là Wenni Kate, 29 tuổi, một hành khách trên con tàu Titanic. Khi tàu đắm, một con sóng lớn đánh giạt tôi lên núi băng này, thật may mắn là các ngài đã kịp cứu giúp". Nghe câu trả lời đó, mọi người đều cảm thấy hết sức kỳ lạ, không hiểu chuyện gì đã xảy ra và họ nghĩ rằng có lẽ do sốt cao, cô gái này đã nói nhảm.

Kate được đưa đến bệnh viện để kiểm tra. Sức khỏe của cô không có gì đáng ngại ngoài việc cô quá sợ hãi do bị lạc nhiều ngày, thần kinh cũng không có dấu hiệu rối loạn.

Các xét nghiệm về máu, tóc, cho thấy cô khoảng chừng 30 tuổi. Vậy là nảy sinh một vấn đề khó tin đến kinh người: chẳng lẽ Kate từ năm 1912 đến nay, trải qua gần 80 năm mà không hề già đi chút nào? Thẩm tra, đối chiếu với bản danh sách hành khách trên tàu Titanic, người ta nhận thấy mọi nội dung đều trùng khớp với những gì Kate đang nói. Trong khi mọi người đang tranh luận thì sự việc thứ hai xảy ra.

Sự trở về của thuyền trưởng Smith

Ngày 9/8/1991, một tổ khảo sát khoa học hải dương trong khi khảo sát tại khu vực phía tây nam cách một núi băng Bắc Đại Tây Dương chừng 387 km, đã phát hiện và cứu sống một người đàn ông 60 tuổi. Lúc đó người đàn ông này đang ngồi bình thản bên rìa nước. Ông ta mặc bộ quần áo màu trắng, khá gọn gàng, rít sâu điếu thuốc và rút điếu thứ hai, mắt nhìn về phía biển khơi, mặt lộ vẻ dạn dày sương gió. Không ai có thể nghĩ rằng đó chính là thuyền trưởng danh tiếng Smith của con tàu Titanic.

Nhà hải dương học nổi tiếng, tiến sĩ Marwen Iderlan, sau khi cứu được Smith đã phát biểu trước báo chí rằng không thể có sự việc nào đáng kinh ngạc hơn. Người đàn ông này không thể là tên lừa đảo, ông ta đích thực là thuyền trưởng của con tàu Titanic, người cuối cùng cùng với con tàu chìm xuống biển. Khó tin hơn nữa là Smith đến nay đã 140 tuổi nhưng trên thực tế mới chỉ là một ông già 60. Khi được cứu, ông một mực khẳng định rằng hôm đó là ngày 15/9/1912.

Sau khi được cứu, ông được đưa đến Viện tâm thần Oslo (Nauy) để chữa trị. Nhà tâm lý học Jale Halant đã tiến hành hàng loạt thử nghiệm và kết quả là Smith hoàn toàn bình thường. Ngày 18/9/1991, trong một đoạn tin vắn, Halant khẳng định người được cứu đích xác là thuyền trưởng Smith vì ngay việc đối chiếu vân tay cũng đã cho thấy điều đó.

Sự việc cần được giải thích rõ ràng. Một số cơ quan hải dương Âu - Mỹ cho rằng thuyền trưởng Smith và hành khách Kate đã bị rơi vào "hiện tượng mất tích - tái hiện xuyên thời gian". Theo đó, một số chuyên gia phán đoán có khả năng trên biển vẫn còn một số hành khách Titanic sống sót đang chờ được cứu giúp, vì trong lịch sử cũng đã có không ít trường hợp mất tích - tái hiện một cách thần bí.

Sự mất tích của 25 lính hải quân Mỹ

Theo hồ sơ của Bộ Hải quân Mỹ, trong chiến dịch Thái Bình Dương thời kỳ chiến tranh thế giới thứ 2, chiến hạm Indiana Bolis của Mỹ bị tàu ngầm của Nhật đánh chìm. Lúc đó, hải quân Mỹ đã thu được tín hiệu cấp cứu của 25 binh lính và sĩ quan rời khỏi chiến hạm bằng thuyền cứu hộ. Nhưng sau nhiều lần tìm kiếm, 25 quân nhân kia vẫn bặt vô âm tín. Cuối cùng, nhà chức trách đành phải tuyên bố họ đã mất tích. Nhưng một ngày tháng 7/1991, một đội thuyền đánh cá của Philippines trên hải phận Sibis, phía nam quần đảo Philippines, đột nhiên phát hiện một chiếc thuyền cứu sinh, trên thuyền có 25 binh lính đang trong tâm trạng hoảng loạn, dù cơ thể vẫn còn cường tráng.

Phát hiện này làm cho các nhà chức trách Mỹ vô cùng kinh ngạc. Điều khó hiểu hơn cả là chiến hạm Indiana Bolis bị đánh chìm từ năm 1945, và mãi 46 năm sau đó, người ta mới thấy họ, nhưng họ không hề thay đổi so với trước kia, thậm chí cả râu, tóc... cũng không dài thêm chút nào. 25 người một mực khẳng định họ chỉ lênh đênh trên biển một ngày đêm. 46 năm tương đương với một ngày, điều gì đã xảy ra? Nhà thiên văn học, tiến sĩ Semesijians cho rằng, có khả năng họ đã bị rơi vào "lỗ hổng của thời gian", mấy chục năm sau mới xuất hiện trở lại và hoàn toàn không biết mình đang ở thời điểm nào.

800 lính Anh mất tích trong mây

Trong Đại chiến Thế giới lần thứ nhất, vào ngày 21/8/1915, hơn 800 lính thuộc Trung đoàn Norfolk 5 của quân đội Anh được lệnh cơ động lên một ngọn núi cao thuộc vùng Dardanelles, Thổ Nhĩ Kỳ. Theo lời kể của các nhân chứng, có một đám mây lớn bay sà xuống và bao phủ lên đoàn quân, lúc đó đang tiến vào thung lũng. Đội quân càng lên cao thì càng chìm dần vào trong khối mây mờ.

Khi người cuối cùng khuất hẳn, cả khối mây đã bốc lên cao và biến mất, người ta không thấy bất kỳ người lính nào bước ra khỏi đám mây đã bay đi đó. Từng ngọn cây, bụi rậm trên đỉnh núi đều có thể nhìn rõ, nhưng một đội quân hơn 800 người đã mất tích hoàn toàn. Khi đó, 22 người lính của New Zealand cũng đang tập cùng trận địa với đội quân này, trên một ngọn đồi nhỏ khác cách đó khoảng 600 m. Họ đã tận mắt chứng kiến cảnh tượng bí hiểm trên.

Có giả thuyết cho rằng toàn bộ đội quân đã bị lực lượng đặc nhiệm của Thổ Nhĩ Kỳ bắt làm tù binh. Tuy nhiên, sau chiến tranh, phía Thổ Nhĩ Kỳ kiên quyết khẳng định rằng họ chưa từng nhìn thấy đội quân này. 800 người lính đã bị mất tích không nằm trong danh sách những lính Anh bị tử trận, đồng thời cũng không có trong danh sách tù binh chiến tranh được Thổ Nhĩ Kỳ trao trả sau khi chiến tranh kết thúc.

Ở Trung Quốc, năm 1945, một đoàn tàu chở hàng trăm khách từ Quảng Đông đi Thượng Hải đã biến mất khỏi hành trình khi gần đến ga cuối, không để lại bất kỳ một dấu tích nhỏ nào.

Quan điểm của các học giả

Một số người cho rằng "lỗ hổng thời gian" thực chất là "thế giới phản vật chất" đang tồn tại trong vũ trụ. Họ dựa vào công thức tổng năng lượng vật chất của Einstein, theo đó tổng năng lượng vật chất có hai trị là chính và phụ. Vậy khi trị phụ xuất hiện, chúng ta cần phải làm thế nào? Nhận thức nó ra sao? Một số học giả liền đưa nó vào mối liên hệ với "thế giới phản vật chất". Trước mắt, chúng ta mới hiểu biết được chưa đầy một nửa vũ trụ chúng ta đang sống, là phạm vi thế giới vật chất, còn nửa kia là một hệ thống tạo thành từ phản vật chất.

Hai bộ phận này tiếp cận với nhau dưới tác động qua lại của lực hấp dẫn. Khi tiếp cận đến một mức độ nhất định, tác dụng "đổ vỡ" do thế giới vật chất và phản vật chất sinh ra sẽ tạo ra một nguồn năng lượng vô cùng lớn, tạo thành một áp lực tách đôi hai hệ thống. Theo đó, có thể thấy rằng mất tích chính là hiện tượng phát sinh khi hai hệ thống vật chất và phản vật chất tiếp cận ở mức độ cao nhất, sinh ra năng lượng tạo nên áp lực phân tách. Khi hiện tượng "đổ vỡ" kết thúc, trường lực hấp dẫn trở lại trạng thái ban đầu, hiện tượng tái hiện xảy ra.

Trong cuộc tranh cãi giữa các nhà khoa học, nhiều giả thuyết khác cũng được đưa ra. Một trong số đó là thuyết Thời gian đứng lại. Thế giới vật chất sau khi tiến vào "lỗ hổng thời gian" đồng nghĩa với việc mất tích, và từ đó đi ra cũng có nghĩa là được tái hiện. Như vậy, "lỗ hổng thời gian" và trái đất không cùng một hệ thống, và thời gian trong "lỗ hổng" là tương đối tĩnh. Do đó dù có mất tích 3-5 hay vài chục năm đi nữa, người ta sẽ không có gì thay đổi so với lúc ban đầu.

Giả thuyết thứ hai được đưa ra là thuyết Thời gian ngược, cho rằng thời gian trong "lỗ hổng thời gian" là quay ngược so với bình thường. Người mất tích sau khi rơi vào đó có khả năng sẽ quay ngược về quá khứ. Tuy nhiên, khi thời gian quay ngược một lần nữa, người này lại được đưa trở về thời điểm họ bị mất tích, kết quả là xảy ra hiện tượng tái hiện thần bí.

Trong thuyết thứ ba Đóng cửa thời gian, "lỗ hổng thời gian" là hiện tượng tồn tại khách quan trong thế giới vật chất, không nhìn thấy và cũng không thể sờ thấy. Đối với thế giới vật chất mà con người đang tồn tại, nó vừa đóng lại vừa mở. Thỉnh thoảng khi nó mở ra một lần, kết quả là xuất hiện hiện tượng mất tích. Mở thêm một lần nữa, người mất tích tái hiện.

Trước mắt, quanh vấn đề "lỗ hổng thời gian" vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau, chưa có một học thuyết nào có sức thuyết phục vì chưa đưa ra được những chứng cứ xác thực. Hiện tượng "mất tích - tái hiện" vẫn còn là bí ẩn đang chờ con người khám phá.

Bài 1: Bí ẩn về những chiếc "que bay"

Bạn hãy thử tưởng tượng về những vật có kích thước từ 5cm cho tới 3m, có một vài cánh nhỏ dọc theo thân và bay lượn trên không trung với vận tốc không thể hình dung nổi? Đó không phải là chim, là máy bay hay bất cứ một loài côn trùng nào khác. Những hình thù bay bí ẩn này vẫn được gọi là "que bay" (flying rod). Rất có khả năng, chúng bay đến từ vũ trụ, cũng có thể chúng là một dạng sự sống nào đó trên trái đất mà khoa học vẫn chưa được biết đến.

Những phát hiện đầu tiên

Hiện tượng về những chiếc "que bay" bắt đầu được biết đến vào ngày 5-3-1994. Anh em nhà Escamillo, Jose và Manuel đã ghi được một đoạn phim dài 16 phút về một UFO (vật thể bay không xác định) trên bầu trời bang New-Mexico. Đó là một vật thể kỳ lạ có hình dài đang lao trên trời với vận tốc không thể tin nổi. Tuy nhiên, phát hiện ra nó lại là chuyên gia UFO học Clifford Stone, người được anh em nhà Escamillo (cũng là những chuyên gia UFO học với 30 năm kinh nghiệm) mang đến cho cuộn phim để nghiên cứu. Còn thuật ngữ "que bay" lại thuộc về tác giả Manuel - người gọi như vậy lần đầu tiên về vật thể bí ẩn này. Thông thường, các "que bay" có hình dáng dài, tương tự một điếu thuốc với những cánh nhỏ dọc theo thân. Theo giả thuyết, chúng dịch chuyển được là nhờ những cái cánh này và kích thước có thể từ vài cm cho tới 5m.

Chẳng bao lâu sau phát hiện đầu tiên này, các bằng chứng về sự tồn tại của các "que bay" bắt đầu xuất hiện trên khắp thế giới - từ Anh, Canada, Nhật cho tới Mexico. Chúng còn được phát hiện trong những cảnh phim thời sự từ Hàn Quốc, trong những băng hình cũ của quân đội... Những vật thể kỳ lạ này còn tình cờ được ghi nhận trong một cuốn phim tài liệu của hãng "National Geographic" - trong một số cảnh phim còn nhận thấy rõ một "que bay" xuất hiện từ phía dưới mặt nước biển và lao lên bầu trời. Người ta còn nhìn thấy rõ nước đã rẽ ra khi vật thể này bay lên. Có lẽ "que bay" này đã được quay một cách hoàn toàn tình cờ bởi không thể ghi nhận chúng bằng mắt thường với tốc độ bay không thể tin được như vậy.

Những giả thuyết về "que bay"

Vậy "que bay" thực chất là gì? Hiện đang tồn tại vô số những giả thuyết về điều này. Những người có xu hướng tìm tòi sự can thiệp của người ngoài hành tinh thì cho rằng, "que bay" là các robot do thám của một nền văn minh ngoài trái đất. Ví dụ "UFO Magazine", tạp chí rất có uy tín trong lĩnh vực nghiên cứu các hiện tượng dị thường, từng cho đăng tải một bài báo với nhan đề "Que bay - công cụ theo dõi từ các thế giới khác?". Minh chứng cho giả thuyết này chính là những bức ảnh "que bay" được chụp từ trên quỹ đạo gần trái đất bởi các camera tàu con thoi của NASA. Còn phải kể đến những đặc tính kỳ lạ của que bay, như tốc độ mà chúng có thể di chuyển trên không trung. Khó có thể cho rằng, những sinh vật cấu thành từ xương thịt như các cư dân trên trái đất lại có khả năng thực hiện được những hành vi như vậy.

Tuy vậy, phần lớn các nhà nghiên cứu đều cho rằng, "que bay" là một dạng sự sống trên trái đất mà chúng ta chưa được biết đến. Về chuyện chúng ta chưa từng bắt gặp chúng từ trước năm 1994 có thể giải thích một cách đơn giản: chúng không thể nhìn thấy được bằng mắt thường. Xem xét kỹ các băng hình, nhiều nhà nghiên cứu đã đi đến một kết luận đầy ngạc nhiên: có khả năng những vật thể này có trí tuệ. Nhiều đoạn phim cho thấy các "que bay" rất uyển chuyển trong việc tránh các chướng ngại vật, cho dù đang bay với tốc độ rất cao. Nhiều quan sát khác cho thấy "que bay" tập hợp thành cả nhóm, chứng tỏ chúng không xa lạ với cuộc sống bầy đàn.

Những nghi vấn về hiện tượng "que bay"

Liên quan đến bất cứ một hiện tượng bất thường nào đều tồn tại vô số nghi vấn. Về lĩnh vực này, "que bay" luôn được xếp ở hàng đầu. Sau khi nghiên cứu kỹ lưỡng các đoạn phim ghi lại hình ảnh "que bay", người ta phát hiện gần một nửa trong số đó chưa thể khẳng định được tính xác thực. Một trong những nguyên nhân chính dẫn đến các "que bay" giả chính là lỗi của phim, cũng có khi là do những loài côn trùng thông thường nhất. Đã có nhiều trường hợp côn trùng bay với tốc độ lớn qua ống kính camera có thể gây ra những ngộ nhận kiểu này, như một con chuồn chuồn chẳng hạn.

Một nhà nghiên cứu "que bay" người Mexico đã nhanh chóng nổi danh vì thành tích ghi nhận được rất nhiều vật thể bay kỳ lạ này mà... không cần bước ra khỏi nhà. Phương pháp của ông thực ra rất đơn giản: ngồi xem truyền hình và ghi lại các chương trình, sau đó nghiên cứu kỹ những đoạn băng này ở chế độ quay chậm. Kết quả ông ta đã phát hiện ra rất nhiều bằng chứng về sự tồn tại của các "que bay" tại khắp nơi trên trái đất chúng ta - từ Mexico cho tới Hàn quốc. Cho tới giờ, các chuyên gia vẫn chỉ biết giơ tay thừa nhận và họ vẫn chưa có một khái niệm chính xác về thực chất của những "que bay" xuất hiện trên vô số đoạn phim. Dù thế nào thì các "que bay" vẫn đang tồn tại xung quanh chúng ta và con người chưa có được một công cụ cảm nhận cần thiết để phát hiện ra chúng.

Bài 2: Phẫu thuật không dao mổ!

Thông tin về những "nhà phẫu thuật không dao mổ thần bí" (thường được gọi là các healer - theo tiếng Anh là người chữa bệnh) tại Philippines đã gây xôn xao từ cả vài chục năm nay và cho đến nay vẫn chưa có ai đưa ra được lời giải thích chính xác về mặt khoa học.

Một dạng thôi miên?

Những hình ảnh phẫu thuật của Fiorentino Rino

Vấn đề của những tranh luận này xuất phát ở chỗ, các healer ở Philippines có khả năng tiến hành những ca phẫu thuật phức tạp nhất mà không hề dùng đến bất kỳ một thứ gì khác ngoài... đôi tay.

Khi trong một trạng thái xuất thần (tương tự như một dạng thiền), họ chỉ cần dùng những ngón tay có thể dễ dàng rạch da thịt người bệnh, đưa tay sâu vào trong cơ thể, kéo ra cơ quan bị bệnh hay một khối u nào đó (một cuộc phẫu thuật như vậy chỉ khoảng từ 1 đến 10 phút), trong khi máu của bệnh nhân chảy ra rất nhiều.

Tuy nhiên, khi healer kết thúc phẫu thuật, rút tay ra khỏi vết thương, trên cơ thể bệnh nhân lại hầu như không phát hiện một chút dấu vết nào, thậm chí ngay cả một vết sẹo nhỏ. Bản thân người được phẫu thuật không hề cảm thấy đau, ngoại trừ những "cảm giác nhức buốt kỳ lạ" ở vùng da đang tiến hành phẫu thuật.

Các healer (hiện ước tính có tới vài trăm người) sinh sống chủ yếu ở phía Bắc Philippines, xung quanh thành phố Bagio. Những chuyện kỳ lạ xung quanh thành phố này cũng có khá nhiều: Mỗi khi có con tàu nào cập bến tại đây, các thiết bị lắp đặt trên đó đều rung lên bần bật. Điều tương tự này cũng xảy ra đối với các máy bay trực thăng, dẫn đến quy định cấm chúng bay xung quanh thành phố.

Có một giả thuyết cho rằng, trong khu vực hòn đảo này tồn tại một trường năng lượng rất mạnh nào đó. Điều đó giải thích vì sao các healer rất hiếm khi có khả năng phẫu thuật tại một nơi nào đó ngoài khu vực phía Bắc Luson và họ hầu như không có chút khả năng đặc biệt nào khi đi ra nước ngoài.

Tổng thư ký Melvin Salvior của "Hiệp hội các healer Philippines" giải thích: "Trong thời gian phẫu thuật, healer sẽ rơi vào trạng thái thôi miên rất sâu, tương tự một dạng thiền định của các nhà yoga Ấn Độ".

Những lý giải

Mối nghi ngờ chính của nhiều người là ở chỗ làm sao các healer có thể phẫu thuật mà không cần dao? Có một lời giải thích tương tự hình ảnh con người thò tay xuống nước và rút lên, mặt nước liền lại mà không để lại dấu vết. Khi phẫu thuật trong trạng thái thiền định, healer có thể đã rơi vào một chiều không gian khác, một phần cơ thể của bệnh nhân đang được chữa trị cũng tương tự như vậy. Thật ra, việc đó từ lâu không còn là chuyện quá lạ lẫm - các nhà sư, các nhà yoga Ấn Độ hay các phù thủy châu Phi cũng làm được như vậy.

Một giả thuyết cho rằng, khả năng thôi miên sâu của healer giúp tạo ra một trường sinh học đặc biệt, tập trung tại các đầu ngón tay và hoạt động tương tự nguyên lý của tia laser chia cắt các lớp mô.

Còn theo một giáo sư y khoa Thụy Sĩ, healer mang một năng lượng đặc biệt, có thể truyền nó vào cơ thể người bệnh. Năng lượng này như một sóng vô tuyến tới được các khối u, "mở" chúng ra và đưa chúng ra ngoài lên lòng bàn tay của healer. Người được phẫu thuật không cảm thấy đau vì vết cắt do các ngón tay không chạm tới phần đầu dây thần kinh, còn bản thân việc phát xạ năng lượng sẽ giúp "khử trùng" cho đôi tay của healer. Ngay khi phẫu thuật kết thúc và trường sinh học biến mất, các tế bào mô sẽ trở lại trạng thái trước đây và ngay lập tức khép lại.

Không chữa bệnh cho kẻ xấu

Healer Fiorentino Rino

Healer nổi tiếng đầu tiên của Philippines chính là Eleuturio Terte (sau khi chữa khỏi cho một viên sĩ quan Mỹ đang hấp hối). Một lần khác, ngay trước mắt một hội đồng chẩn bệnh của Thụy Sĩ, healer này ấn tay thẳng vào mắt một bệnh nhân trong khi anh ta không hề cảm thấy đau đớn.

Ông ta nhanh chóng làm lành các vết loét và lấy ra phần thủy tinh thể bị đục. Tiến sĩ Steller, chuyên gia vật lý của Trường Đại học tổng hợp Dortmund, đã viết cả một tác phẩm về Terte, trong đó ghi nhận đã tiến hành hàng trăm phép phân tích và nghiên cứu về "những ca phẫu thuật không dao mổ".

Cũng theo giáo sư này, các healer của Philippines có thể phẫu thuật bằng tay trần mà không cần thôi miên bệnh nhân, không cần gây mê hay gây tê, không bị đau và không hề bị nhiễm trùng. Đây cũng là luận điểm của bác sĩ người Nhật Isamu Kumura, người đã trực tiếp nghiên cứu máu lấy từ một loạt cuộc phẫu thuật của Terte và xác định đó chính là máu của bệnh nhân. Terte chết vào năm 1979 khi đã 80 tuổi trong một hoàn cảnh khá nghèo túng.

Cựu Tổng thống Philippines Ferdinand Marcos (bị lật đổ vào năm 1986) cũng thường xuyên phải nhờ đến sự giúp đỡ của một healer riêng là Emilio Lemes. Sau khi chạy ra nước ngoài, ông ta từng nhiều lần yêu cầu chính quyền mới cho phép Lemes tới chỗ mình nhưng bị từ chối. Chỉ 3 năm sau, Marcos chết ở tuổi 72.

Còn nhiều nhân vật nổi tiếng khác như cố Tổng thống Mỹ Ronald Reagan và cựu Thủ tướng Anh Margaret Thatcher (77 tuổi) đã từng được chữa trị bởi những healer tốt nhất qua lời giới thiệu của Marcos. Một healer nổi tiếng khác là Fiorentino Rino cho biết, nhiều healer đã từng khước từ việc chữa bệnh cho viên tướng Mỹ Geremy Stenson, một kẻ "nổi danh" vì những vụ sát hại các nông dân vô tội trong chiến tranh Việt Nam.

"Họ đã nói thẳng ông là một người xấu xa. Thượng đế không muốn cho ông sống nữa. Stenson đã phàn nàn về điều này lên cả chính phủ, cảnh sát và đại sứ quán nhưng không ai có thể giúp được ông ta. Kết quả là một năm sau, ông ta chết" - Rino đã kể lại như vậy.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#mrlee